Sấm sét trên Thái Bình Dương P4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Biển Corail

Không nên đánh nhau trong một vùng biển san hô. Các bên đối phương của năm 1942 nhờ đấy mà có kinh nghiệm trên. Những ngày 7 và 8 tháng 5 chỉ là những ngày đầy ngộ nhận, hỗn độn và lầm lỗi to lớn.Trong cái góc đó và vào thời kỳ này, những trò quỷ quái của thời tiết chắc chắn là đứng về phe Nhật Bản, bởi vì hạm đội của Takagi, người được Inoue giao cho quyền chỉ huy cuộc hành quân Mo-đánh Moresby-chuyển dịch dọc theo phía bắc Salomon, rồi đến tận quần đảo Louislade mà không lúc nào gió mùa ngừng mang phủ bên trên một lớp mây dày che chở. Hệ thống bố trí của Takagi gồm có 2 phần: một lực lượng đổ bộ được hộ tống bởi vài trung đoàn và một hàng không mẫu hạm nhẹ-chiếc Soho-và một lực lượng che chở gồm có hai mẫu hạm lớn nhất của hạm đội Nhật, chiếc Shokaku và chiếc Zuikaku mà sứ mạng là che chở từ xa và không quá tiến sâu vào cuộc hành quân đổ bộ dường như không có gì là khó khăn đặc biệt.Trong khi các dương vận hạm chở quân đổ bộ và các chiến hạm hộ tống tập họp tại quần đảo Shortland phía nam Bougainville, hai chiếc Shokaku và Zuikaku thì tuần tiễu phía đông Salomon. Chúng chỉ phải tiến vào biển Corail vào phút chót để nếu cần, giáng một đòn từng phạt làm gương cho những hải lực nào của đối phương dám mạo hiểm vào đấy.Phút chót nói đây là ngày 7 tháng 5, ngày mà các dương vận hạm chở quân đổ bộ được vài phi cơ của chiếc Soho che chở sẽ phải băng ngang qua quần đảo Shortland tại eo biển Jomard (Louiside) theo đường chéo phía bắc biển Corail.Lúc ấy Takagi không được biết một tí gì về vị trí của lực lượng đối phương. Do vậy, ông đưa đoàn công voa chở quân đổ bộ tiến vào biển Corail mà không có một chỉ dẫn nào khác hơn là một sự nghi ngại mơ hồ rằng nhóm phi cơ nhỏ bé đã từng tấn công Tulagi ngày 4 tháng 5 rất có thể là đã cất cánh từ một hàng không mẫu hạm nào đó. Gia dĩ đó là một viễn ảnh không làm ông sợ mà còn mong cho xảy ra là đằng khác. Theo tin tức tình báo mà ông biết thì hiện có ba mẫu hạm Mỹ trong vùng bắc Thái Bình Dương và một mẫu hạm ở phía Nam, ít có thể nào-ngoại trừ phải là một phù thuỷ-mà nó lại biết ngày và giờ của cuộc tấn công Port-Moresby. Takagi tin cậy vào các phi cơ thám thính Kanawishi có tầm hoạt động rất xa để được thông báo trước các sự xê dịch của đối phương.Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên... chiếc mẫu hạm Mỹ nói đây không phải là chiếc duy nhất và ngoài ra, vì bộ máy Magic, nó lại là một phù thuỷ.Bình minh ngày 7 tháng 5 năm 1942, tất cả đã được khởi động với một sự mau lẹ sấm sét. Phi vụ thám thính đầu tiên do chiếc Yorktown phóng lên đã khám phá lực lượng đổ bộ Nhật trong eo biển Jomark. Bốn phi đoàn lập tức cất cánh tấn công và chiếc mẫu hạm đáng thương Sôh của Nhật bị đánh bất ngờ trước khi kịp phóng các phi cơ của mình lên không trong không đầy 15 phút đã lãnh đủ 13 trái bom và 7 thuỷ lôi. Các phi đoàn Mỹ khi rút lui còn thấy nó chìm tỏng một chùm tia lửa khổng lồ. Khi ấy các dương vận hạm chở quân đổ bộ phân tán theo lệnh của người chỉ huy lực lượng hộ tống đang xét đoán không thể nào tiếp tục cuộc tấn công vào Port-Moresby vì thiếu sự che chở của không lực.Gần như cùng lúc đó một Kanawishi đang tuần thám báo hiệu trông thấy phía đông nam một mẫu hạm và một tuần dương hạm đang tìm cách thoát ra khỏi biển Corail. Lập ức Đô đốc Takagi ra lệnh cho các phi cơ thuộc hai mẫu hạm Shokaku và Zuikaku lúc ấy đang ở cách điểm chỉ định chừng 30 hải lý, cất cánh đuổi theo. Cuộc tấn công cũng diễn tiến với mức độ mãnh liệt như các phi công Mỹ đã làm với chiếc Soho và kết quả cũng rất thảm hại. Chiếc "mẫu hạm" bị tấn công phát hoả từ đầu đến đuôi và chìm lỉm sau một tiếng nổ kinh hồn... Những phi công oanh tạc sau cùng rất nóng nảy muốn tấn công mà chưa được may mắn ném bom, liền ùa đến chiếc "tuần dương hạm" đang toan tính một cách tuyệt vọng chạy trốn sau một màn khói. Nó bị bắt kịp và đến lượt bị đánh chìm ngay khiến cho các phi công chiến thắng không kịp ý thức được các lầm lẫn tai hại kế tiếp nhau: Chiếc tàu lớn có hình dáng khổng lồ mà họ cho là một hàng không mẫu hạm, không gì khác hơn là chiếc tàu dầu vô tội Neosho đã trút hết dầu cho các chiến hạm; riêng chiếc "tuần dương hạm" thì thật ra đấy là chiếc khu trục hạm Sima được giao nhiệm vụ hộ tống tàu dầu.Khi trở về mẫu hạm, các phi công Nhật được đón tiếp như thường lệ sau một đại chiến công và mãi nhiều giờ sau đó, khi đối chiếu các bằng chứng thu thập được, ban tham mưu của Takagi mới bắt đầu nghi ngờ sự thật được báo cáo.Trong thời gian này Đô đốc Nhật Bản được biết cuộc mạo hiểm ghê rợn đã xảy đến cho mẫu hạm Soho và lần này được thông báo tin tức chính xác hơn về lực lượng đặc nhiệm Mỹ nhờ một Kanawishi khác trông thấy rõ, ông liền ra lệnh cho tất cả oanh tạc cơ có sẵn cất cánh truy lùng.Chiều xuống đã lâu và những cơn mưa rào nhiệt đới lại bắt đầu. Một trận đụng độ hỗn loạn giữa các phi cơ đã xảy ra tại phía tây, trong đó các oanh tạc cơ cất cánh từ Rabaul đến cứu viện chiếc Soho khai hoả vào bất cứ chiến hạm nào vừa trông thấy, trong khi đó các pháo đài bay B-17 của Mac Arthur cũng làm như vậy.Trong tiìn trạng không thể nào tái lập trật tự ngay gữa cuộc thao diễn lực lượng ấy, Fletcher đã kêu các đoàn tuần tiễu của ông trở về để giữ cho lực lượng còn nguyên vẹn dành cho trận chiến quyết định mà ông tiên liệu sẽ xảy ra ngày mai.Vào khoảng 6 giờ chiều, tất cả phi cơ của chiếc Yorktown và chiếc Lexington đều đáp xuống mẫu hạm ngoại từ một. Đêm tối mịt. Mưa rào nối tiếp nhau. Các toán chuyên viên làm việc trên các sàn tàu trơn trượt. Trên boong những trinh sát viên ban đêm dò xét chân trời để kiếm chiếc phi cơ về trễ.Đột nhiên một ánh lửa chớp chớp trong mây. Đấy chỉ có thể là chiếc phi cơ đang được chờ đợi. Người ta thấy nó hạ dần xuống chiếc Lexington, và các đèn rọi được thắp sáng để đáp lại dấu hiệu nhận nhau.Vài giây sau, ha, ba, bốn, năm ánh sáng xuất hiện tiếp theo sau chiếc thứ nhất. Từ trên đài chỉ huy chiếc Lexington người ta thấy chúng bay thành hàng theo một tứ tự không chê vào đâu được. Một phi đoàn phi cơ Nhật sắp đáp xuống chiếc Yorktown! Sự xuất hiện này đã tạo ra sửng sốt đến nỗi khôg ai nổ súng... Phải đợi đến lúc chiếc phi cơ về trễ ý thức được mình bị rơi vo tổ ong vò vẽ nên xả một tràng đại liên, thì các giàn cao xạ DCA trên các chiến hạm mới quyết định khai hoả. Đoàn phi cơ của mẫu hạm Shokaku (vì quả thật là chính nó) biến mất trong đêm tối không cần biết chuyện gì xảy ra sau đó.Đấy là điểm chấm hết cho một ngày lừa phỉnh nhau. Trong cả ai bên đối thủ, thần kinh nghiệm của các phi công bị thử thách nặng nề.Đêm tối trôi qua, sau đó quả là một đêm canh chừng đụng trận. Giờ đây, mỗi người đều biết rằng hai lực lượng đặc nhiệm cách nhau rất gần và bình minh hôm sau sẽ xảy ra trận đánh quyết định. Số phi cơ của mỗi bên đối phương gần bằng nhau: vào khoảng 120 chiếc. Riêng về phẩm chất thì rõ rệt bên phía Nhật có ưu thế hơn: khu trục cơ Zéro trội hẳn loại Wildcat của Mỹ, các oanh tạc cơ đâm bổ có giá trị bằng nhau, nhưng các phi cơ phóng thuỷ lôi Nhật và nhất là các quả thuỷ lôi của họ thì rõ rệt vượt xa những chiếc TBD Devastotor của Mỹ.Bình minh ngày 8 tháng 5 năm 1942, các phi cơ tuần thám của 2 bên cất cánh cùng một lúc, các mẫu hạm Nhật ở phía Bắc nhờ thời tiết mưa gió nên được che chở tương đối. Chiếc Yorktown và chiếc Lexington chạy phía nam rất lộ liễu và bị khám phá trước tiên bởi một phi cơ của Shokaku nó báo động ngay lập tức.Vài phút sau một phi cơ của chiếc Yorktown nhờ một khoảng trời sáng, may mắn trông thấy hạm đội Nhật liền thông báo vị trí cho Đô đốc Fletcher, ông cho phi đoàn của mình cất cánh ngay.Quân Nhật đã tung phi cơ của họ để tấn công thế là hai đoàn phi cơ giao nhau trên không mà chẳng trông thấy nhau. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai hạm đội sắp đương đầu với nhau ngoài tầm mắt trông rõ không phả bằng hải pháo, mà bằng không lực của mình.Cuộc đọ sức không rõ ràng gì lắm, được ưu thế nhờ thời tiết, phi cơ Nhật cùng lúc tấn công vào cả hai chiếc Yorktown và Lexington. Chiếc thứ nhất lãnh hai trái bom, chiếc thứ hai, ba quả trong đó có một quả nổ dưới đáy tàu. Đã có lúc Fletcher tin là bại trận rồi vì chằng có tin tức gì về cuộc tấn công của đoàn phi cơ Mỹ. Do vậy ông vô cùng thoải má khi nghe qua loa phóng thanh giọng nói của một phi công thuộc chiếc Yorktown vốn đang la hét trong một trạng thái phấn khích vô bờ: "Mẫu hạm địch bốc cháy! Tôi đến thanh toán nó đây!". Sau đó ông phải chờ phi cơ của mình chở về mới biết được kết quả của trận chiến.Trong thực tế, vì bị mây cản trở, các phi đoàn Mỹ chỉ có thể tấn công một mẫu hạm Nhật mà thôi. Chiếc Shokaku vốn thật sự chỉ bị hai quả bom. Sàn đáp bị thổi bay đến nỗi không thể đón bất cứ chiếc phi cơ nào của nó được, nhưng chiếc Zuikaku thì hoàn toàn còn nguyên vẹn.Thấy chiếc Lexington dường như đã làm chủ được ngọn lửa và có thể chạy với tốc độ 25 gút, Fletcher ra lệnh cho hạm đội xuôi về phía Nam với tốc độ này. Ông đã bẻ gãy cuộc tấn công của địch, nên ông rời bỏ chiến trường, thì cũng là trong thế của kẻ thắng và trong sự hài lòng.Bên phía Nhật, căn cứ vào báo cáo của các phi công, Takagi ước tính rằng hai mẫu hạm Mỹ đã bị đánh chìm và ra lệnh cho hạm đội quay trở về Rabaul.Nói chung các Đô đốc của hai bên đều ca khúc khải hoàn và đấy là hậu quả bất ngờ của trận hải chiến theo một kiểu hoàn toàn mới lạ này.Không một vị Đô đốc nào lại có cái nhìn bao quát về trận đánh và không ai có thể can thiệp trong khi trận đánh đang diễn tiến. Do đó không ai ngạc nhiên khi thấy con số ước lượng của họ về mức thiệt hại của đối phương có đôi phần giàu tưởng tượng. Fletcher và Takagi nói chung đều đã đánh bóng mình, và chỉ có một cuộc phân tích chặt chẽ các báo cáo của họ, các ban tham mưu mới xác định được những nét chính của một chiến thuật chiến đấu ấu trĩ.Trong thực tế, Đô đốc khó mà làm cho thượng cấp của ông thừa nhận rằng ông đã mang về một chiến công lớn lao nếu một biến cố bất ngờ không xảy đến, để xác nhận một cách chậm trễ báo cáo khoác loác của các phi công Nhật. Chiều ngày 8 tháng 5, trong lúc các toán an ninh của chiếc Lexington tin rằng đã diệt được ngọn lửa, thì một tiếng nổ kinh hồn làm rung chuyển đáy tàu. Vì cách xếp đặt cũ các hầm chứa xăng, một hỗn hợp chất khí nổ đã lan tràn trong một hầm tàu mà các vách thép mỏng đang còn nóng bỏng. Lửa lại vùng cháy dữ dội hơn, mặc dầu các đội cứu hoả nỗ lực tối đa cũng không làm sao chế ngự được. Lập tức nhiều tiếng nổ và đám cháy khác bùng lên và chiếc Lexington đáng thương, bùng cháy như cây đuốc mất hẳn lá và dàn máy, bắt đầu trôi theo làn gió như một xác tàu hư. Đến 17 giờ hạm trưởng (Đại tá F.Sherman) ra lệnh bỏ tàu, và các tuần dương hạm, khu trục hạm do Fletcher phái đến cứu các người bị thương lên trước rồi với các thuỷ thủ lành mạnh sau. Các toán an ninh còn tiếp tục chiến đấu chống lửa cho đến khi hạm trưởng chắc chắn đã không bỏ người nào lại sau. Rồi ông lại cho họ di tản và là người sau chót rời chiếc sàn tàu nóng bỏng cùng với Đô đốc Fitch, bằng một chiếc thang dây. Đến 18 giờ 30 một tiếng nổ kinh hồn vang dội từ chiếc xác tàu: hầm chứa thuỷ lôi của phi cơ phóng thuỷ lôi phát nổ. Ngọn lửa chiếu sáng bầu trời bốc lên cao đến nỗi Đô đốc Fletcher phải ra lệnh cho một khu trục hạm dùng thuỷ lôi đánh chìm ngọn đuốc cháy rực ấy. Chiếc chiến hạm dũng cảm mà các đoàn thuỷ thủ thân mật gọi là "Lady Lex", và cho đến lúc ấy, một mình đã lập thành tích nhiều hơn tất cả các chiến hạm Mỹ cộng lại, chìm từ từ xuống biển và biến mất dưới một đám mây hơi nước đang dập tắt ngọn lửa của đám cháy.Hồi chung cục bi thảm của chiếc Lexington đã đập một đòn thẳng vào con tin Đô đốc Nimitz. Thành quả tuyệt vọng của Fletcher, ngăn chặn được cuộc xâm lăng của Nhật tại biển Corail, đã giúp ông lấy lại can đảm giữa các niềm lo âu mới đang tràn ngập tâm trí ông. Thật vậy máy Magic tiên báo rằng Yamamoto đang chuẩn bị một cuộc tấn công vĩ đại nhắm vào quần đảo Midway và phía tây quần đảo Aléoutiennets. Vì đã gửi chiếc Enterprise về phía Nam để hậu thuẫn cho lực lượng đặc nhiệm của Fletcher, tại Trân Châu Cảng, ông chỉ còn lại chiếc Hornet. Đây là một chiến hạm cực tốt vừa được mang ra sử dụng và được điều khiển một cách tài tình bởi Đại tá hạm trưởng Mitscher, một trong các phi công lỗi lạc nhất thuộc không lực hải quân, nhưng chưa bao giờ đụng trận. Như vậy không thể có vấn đề một mình ông đương đầu với cả hạm đội liên hợp. Thế mà Midway lại có thể bị tấn công ngày một ngày hai. Khi nào và bằng cách nào? Ông chẳng biết gì cả, nhưg điều ông chắc chắn là nếu quân Nhật đặt chân lên được các "quần đảo này vốn là đoạn cuối cùng của một dãy đảo nhỏ kéo dài thuộc quần đảo Hạ Uy Di, thì căn cứ Trân Châu Cảng quí báu vừa được xây dựng lại với biết bao khó nhọc sẽ thất thủ cũng mau lẹ như-nếu không phải là mau lẹ hơn-Hồng Kông và Tân Gia Ba.Tình thế nghiêm trọng đến nỗi ông phải lấy ngay lập tức quyết định chủ yếu. Để cho sự rủi ro thêm toàn vẹn, Đô đốc Halsey ngã bệnh phải đi nằm nhà thương sau chuyến đột kích Doolittle trở về. Ông triệu dụng Đô đốc Spruance (thay Halsey chỉ huy lực lượng đặc nhiệm) và Đại tá Mitschet, hạm trưởng chiếc Hornet. Tất cả đều đồng ý khẩn cấp yêu cầu Hoa Thịnh Đốn gửi tất cả không lực có sẵn đến tăng viện để phòng thủ các quần đảo và không để mất một phút gọi mẫu hạm Enterprise và nếu có thể chiếc Yorktown trở về. Đối với chiếc sau, tất cả còn lệ thuộc vào các chỗ hư hỏng chưa được xác định.Ít ra về phương diện này, tin tức giúp yên tâm mau lẹ. Máy tàu hoạt động bình thường và sàn tàu phi đạo có thể được sửa chữa tạm thời. Việc sửa chữa toàn diện sẽ được thực hiện tại Trân Châu Cảng trong vòng ba hay bốn tuần.Nimitz ra lệnh cho Fletcher trở về Trân Châu Cảng với tốc lực tối đa và báo cho hải quâ công xưởng biết trước chi tiết các sửa chữa cần thiết để cho công tác có thể bắt đầu ngay khi chiếc Yorktown cập bến. Phía Nam chỉ còn lại năm tuần dương hạm Mỹ và bộ phận hải quân Úc thuộc Đô đốc Grace của Anh... Mặc kệ biển Corail, mặc kệ Mac Arthur và quần đảo Salomon. Trong hoàn cảnh hiện tại, chính Midway là nơi cần cứu vãn.Đối với những người biết được bí mật, những ngày sắp đến sẽ trôi qua trong cơn sốt và trong nỗi âu lo. Magic không còn cung cấp thêm giữa về ý định của bộ chỉ huy tối cao Nhật Bản. Một tình trạng vô tuyến báo hiệu điềm xấu đã thay thế cho cảnh lắm lời thường lệ. Một sự im lặng tương tự như thế cũng đã xảy ra trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Than ôi, rất có thể là cuộc hành quân M1 đã khởi động rồi.

Midway-Một hạt cát trong Thái Bình Dương

Vừa dắt trung đội chạy như tập thể thao dọc theo bờ vịnh kín như chiếc hồ nước mặn, trung sĩ Price, tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến Mỹ, vừa nguyền rủa không ngừng.Bị hãm trên đảo san hô lố bịch hẻo lánh giữa Thái Bình Dương trong mùa xuân năm 1942 này, quả thật là ngu... Vả lại do lỗi của anh ta nữa chứ! Chính anh ta đã xin đổi đến Midway! Phải! Anh ta đã làm thế. Vì đã xem một số hình ảnh. Ngay trước khi chiến tranh bùng nổ... Chúng thật hấp dẫn, những tấm ảnh đó: căn cứ hải quân, bến thuỷ phi cơ, công ty Cable, các phi đạo của Pan American... Người ta đã đặt các thiếu nữ đứng trên thang máy bay. Những cô tiếp viên phi hành nổi bật lên nền trời xanh lơ khó tin. Thật là cả một trò lừa bịp!Giờ đây tất cả đều mới đặt chân đến, anh và các đồng đội. Mặc cho các hoạt động có vẻ khôi hài đang ào ạt diễn ra từ tháng 4, rõ rệt là không còn có thể làm gì để cứu vãn hòn đảo được nữa. Quân Nhật chỉ có việc đến, họ sẽ chớp lấy các đảo san hô, các "bông hoa của Thái Bình Dương", và hơn thế nữa, tất cả mọi người! Ít ra cũng là những gì còn lại của số người trên đảo... Bởi vì tự nhiên là phải đánh nhau rồi, nhất là các thuỷ quân lục chiến, để nêu gương, trong khi đó thâm tâm ai nấy đều nghĩ rằng làm như vậy là hoàn tòn ngu xuẩn...Đang nghĩ đến đó thì trung sĩ Price, vẫn chạy đều, vấp phải một ổ trứng hải âu: dẫm vỡ các trứng chim, chửi thề như bọng, ra hiệu cho trung đội dừng lại ngay giữa bãi phân chim và phóng tầm mắt nhìn phong cảnh chung quanh. Đột nhiên một bầy chim bay lên che kín bầu trời. Chúng ở đấy hàng ngàn con vừa bay lên khỏi các dải cát thuần một màu trắng đến nhức mắt. Những chiếc cánh rộng đủ giữ chúng trên không, con này sát cánh con kia, nhờ những cái đập cánh theo hình dấu mũ, nhịp theo những tiếng kêu sợ hãi.Một trong các tai ách của các đảo là bọn hải âu ấy. Chúng kêu rú suốt ngày đêm làm như để than khóc vì bị rủi ro mắc kẹt trên đảo Midway... Ban đêm, nếu thoát khỏi bị muỗi đốt, thì ta có thể tin chắc là sẽ bị khúc bi ca của chúng làm giật mình thức giấc. Trong khi đó dưới các hầm trú ẩn lợm giọng vì không khí ẩm thấp, thế nào cũng có một "chú lính mới" làm nổ súng hoặc một tay hoạt kê la lớn "Bọn lùn đấy!... để gây ra một đợt hoan hô toàn diện.Phải nói rằng, từ một tháng qua, thần kinh mọi người bị căng thẳng tột đọ. Không phải chỉ vì chưa bao giờ quân Nhật có vẻ ở gần như thế, nhưng trái lại quân Mỹ thì liên tục gửi cho họ cả một chuỗi tàu bè đổ lên bến tàu nhỏ bé Sand Island, vốn đã tràn ngập vật dụng, nào thép gai, nào đạn dược, súng phòng không, vật liệu thay thế đủ loại làm như để chịu đựng một cuộc bao vây bất tận. Hàng không đoàn trọn vẹn các phi cỡ lỗi thời đáp xuống phi đạo vừa mới làm xong trên đảo Eastern Island và vì các hăng ga đã đầy nhóc, người ta phải phân tán chúng ra ngoài các bãi phân chim. Ngoài ra, trong những ngày mới đây, một số đông khác thường gồm các sĩ quan cấp tướng đã đến thanh sát hệ thống phòng thủ và biểu dương với đội quân trú phòng một thái độ ân cần thân thiết đến mức phải rất ngây thơi mới không hiểu rằng ngày J không còn xa nữa...Chính trong viễn ảnh đó mà trung sĩ Price huấn luyện tân binh theo nhịp độ gấp đôi. Ý thức được trách nhiệm của mình anh chấm dứt sự nghỉ ngơi để đi sâu xuống hầm tiếp nối, sát bờ cát với tất cả hệ thống phòng thủ trên đảo. Phải làm cho các tân binh trẻ tuổi quen thuộc với hệ thống mê lộ phức tạp đó, một hệ thống hầm hố giúp cho toàn diện đội quân trú phòng luôn luôn ở trong tình trạng báo động và luôn luôn ở sẵn trong chiến hào.Bài học Trân Châu Cảng đã có ảnh hưởng. Ngoài các bồn chứa xăng lớn, các hăng ga của công ty hàng không PAA và ba phi đạo, tất cả những gì trên đảo Midway đều sống dưới hầm ẩn nấp.Khi chấm dứt buổi huấn luyện tân binh, trung sĩ Price trở về vị trí chiến đấu của mình, một căn hầm tối tăm dùng làm bộ chỉ huy đại đội. Tại đấy anh thấy ngổn ngang nhiều dụng cụ lạ lùng nơi đó có nhiều cuộn dây ló ra. Viên toán trưởng đặc trách chất nổ, một trong các bạn cũ của anh, đang làm việc để thiết trí một mạch điện phá hoại nhằm cho nổ tất cả các cơ sở khi những người lính phòng vệ cuối cùng bị quân Nhật tràn ngập. Vì anh ta đã được lệnh kín miệng để khỏi làm xao động tinh thần binh sĩ, anh ta tránh né tất cả câu hỏi. Tất nhiên là rất tò mò và ganh tị với các chuyên viên kỹ thuật, đột nhiên Price xen vào câu chuyện:-Cái trò máy móc của anh buồn cười thật. Một kiểu rada mới chăng? Bộ anh tính dùng điện giật chết bọn lùn à? Chỉ cách vận dụng một tí coi...Chuyện gì đã xay ra đúng ngay lúc đó. Không ai có đủ thì giờ để mở cuộc điều tra. Đấy cũng vẫn chỉ là một tiếng nổ kinh hồn làm rung chuyển toàn đảo. Bồn chứa xăng chính sẽ cung cấp xăng cho các vòi tiếp tế tại phi đạo vừa nô tung với tiếng động vĩ đại.Khi viên sĩ quan công binh đến báo cáo cho trung tá hải quân Simard, chỉ huy trưởng căn cứ, về sự bất cẩn đáng tiếc này, ông chờ đợi ít ra là cũng bị xử bắn. Hoàn toàn ngạc nhiên, ông thấy ông ta đang chuyện trò náo nhiệt với bạn đồng nghiệp Shannon, trung tá, chỉ huy trưởng thuỷ quân lục chiến và họ đang cụng ly Whisky với nhau. Khi ông ấp úng mấy lời xin lỗi, người ta đã ra hiệu, cắt ngang lời ông ngay:"Tất nhiên, tất nhiên... một vụ làm quấy nhỏ... Không thể nào chiên trứng mà không đập vỡ quả trúng... Dù sao vụ này cũng chứng tỏ được một điều, đó là cái hiệu tạp hoá phá hoại đáng ghét của anh tác động quá tốt!".Viên sĩ quan công binh can đảm được giải thích mau lẹ tại sao lại có thái độ nhân từ này: hai chàng vừa được công điện báo cho biết là vừa được thăng cấp bậc.Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc tấn công chắc sẽ xảy đến vào ngày mai... Thật vậy, 900.000 lít xăng dự trữ tại Sand Island vừa mới cháy hết thì ba phi đoàn Nhật tấn công vào Midway từ ba phía nhập lại.Trên chiếc Yamamoto, chiến hạm khổng lồ 70.000 tấn với chín đại bác 430 ly thách thức tất cả mọi chiến hạm, đang rẽ sóng, vị tư lệnh không thể nào bại trận của "hạm đội liên hợp", Đô đốc Yamamoto bình tĩnh đi lui tới trên boong tàu. Mũi chiếc thiết giáp hạm sáng chói trong ánh mặt trời hoàng hôn nhuộm một màu vàng hoa cúc như trên các đồ dùng vương giả. Trời tốt, có vẻ còn quá tốt là đằng khác, vì lực lượng vũ trang vĩ đại đi theo tàu ông chắc bị trông thấy từ trên cao khoảng một cách rất xa. Nhưng đấy là một viễn tưởng đã được tiên liệu và chẳng quan trọng gì. Không phải như tại Trân Châu Cảng, có vấn đề nghiền nát một hạm đội hùng mạnh, nhưng đây chỉ là vấn đề chiếm hai hòn đảo nhỏ gần như không có phòng thủ gì cả, vấn đề triệt hạ mũi giáo nhọn chĩa thẳng về phía Nhật nằm ngay đầu của dãy quần đảo san hô Hạ Uy Di. Con người đã từng, bằng một cái phẩy tay, hất văng quyền sở hữu của Đồng minh trên các đảo thuộc Thái Bình Dương, biết rõ có thể chiếm Midway khi nào ông muốn. Điều thú vị nhất đối với ông là việc kéo đuôi con sư tử để khiêu khích nó làm một phản ứng không phải lúc. Yamamoto như một con nhện nằm giữa chiếc lưới bủa giăng, hy vọng kéo số chiến hạm ít ỏi còn lại của hải quân Mỹ về phía hạm đội khổng lồ của mình. Phía bắc, ông đã phái hạm đội hàng không mẫu hạm của ông, chính hạm đội đã tấn công Trân Châu Cảng, do cùng vị tư lệnh Nagumo chỉ huy, trang bị cùng các phi công cũ. Hạm đội tiến dưới sự che chở của mây trời để khởi động cuộc oanh tạc ồ ạt xuống Midway vào ngày mai. Về phía đông nam, các dương vận hạm hướng thẳng về phía các đảo mục tiêu để đổ bộ quân xung kích lên bờ. Cách đấy hàng trăm dặm, hàng rào tàu ngầm và thuỷ phi cơ có tầm hoạt động xa đang rình rập phản ứng của hạm đội Mỹ. Chính lực lượng thiết giáp hạm của ông cũng đang trên đường săn đuổi con mồi.Tay cao cờ Yamamoto toan tính làm chuyện đội đá vá trời. Ông chỉ còn đợi tín hiệu vô tuyến báo cho biết đối phương đã rơi vào bẫy.Ông chẳng bao giờ nhận được tín hiệu ấy, bởi vì các cơ sở thuộc quyền đã phạm phải một lỗi lầm không thể tha thứ. Người ta đã chuyển một điện văn tối mật qua đường dây vô tuyến: lệnh cho hạm đội đổ bộ đang tập họp ở Saipan phải nhổ neo ngày 27 tháng 5 để đến tiếp hợp với các tuần dương hạm hộ tống thuộc hạm đội liên hợp tại một địa điểm mà toạ độ được xác định... Đó chính là điều mà chiếc máy Magic đang chờ đợi.Bộ tham mưu của Nimitz có thể suy ra, từ tin tức chủ yếu ấy, đại cương sự bố trí của Nhật. Giờ đây ông tin chắc rằng cuộc tấn công vào các đảo san hô sẽ xảy ra ngày 3 hay 4 tháng 6 năm 1942 dưới sự che chở của một cuộc vận dụng khổng lồ các hàng không mẫu hạm và chiến đấu hạm. Một cuộc đấu tranh với thời gian bắt đầu và số phận của chiến tranh lệ thuộc vào đó.Đến Trân Châu Cảng ngày 25 tháng 5, mẫu hạm Enterprise lập tức cùng với chiếc Hornet tách bến hướng đến Midway. Chiếc Yorktown đến nơi ngày 27, được các toán chuyên viên chăm sóc và như có phép lạ, đã được sửa tạm trong có ba ngày, mang hiệu kỳ của Đô đốc Fletcher, tư lệnh tối cao, và được hai tuần dương hạm nặng cùng sáu khu trục hạm hộ tống. Fletcher ấn định cùng với Spruance-vẫn ở trên chiếc Hornet-một điểm hẹn cách Midway 200 hải lý về phía đông bắc, tại đó cả hai lực lượng đặc nhiệm sẽ phải được tiếp tế.Các mệnh lệnh của Nimitz cho các Đô đốc rất mềm dẻo và rõ ràng:"Bố trí phía đông bắc Midway và giữ khoảng cách trong giới hạn ngoài tầm hoạt động của thám thính cơ thuộc hạm đội tấn công. Ngay khi các phi cơ thám thính của ta trên các đảo đã định được vị trí hạm đội địch, quí ông hãy ráng tấn công liên tục nhiều đợt để giảm thiểu sức mạnh của nó...Hãy áp dụng nguyên tắc rủi ro có tính toán và chỉ phô bày chiến hạm của mình ra trước sự đe doạ của một hải lực mạnh hơn, khi nào quí ông được đảm bảo có thể giáng cho địch các thiệt hại lớn hơn tổn thất phía mình".Spruance đã thêm vào các chỉ thị tổng quát đó một nhật lệnh cho các thuỷ thủ đoàn:"Ta đang chờ đợi một cuộc tấn công xâm chiếm Midway, lực lượng tấn công của địch có thể gồm nhiều chiến hạm đủ loại kể cả bốn hay năm mẫu hạm, nhiều dương vận hạm và các chiến hạm khác. Nếu địch vẫn không biết có sự hiện diện của các lực lượng đặc nhiệm chúng ta, ta có thể đánh thình lình vào hông các mẫu hạm địch, từ phía đông bắc Midway. Các cuộc hành quân mai hậu sẽ lệ thuộc vào kết quả của những cuộc tấn công này, của các tổn thất do các đơn vị trên đảo Midway gây ra cho địch, và cả các tin tức liên quan đến chuyển động của hạm đội địch. Một kết cục thích đáng sẽ là một phần thưởng lớn lao cho xứ sở chúng ta".Từ ngày 1 tháng 6, các thuỷ phi cơ thám thính PB-Y từ Midway đã bay tuần thám xa đến 600 hải lý phía tây các đảo. Tất cả các không đoàn đều tập hợp tại các phi đạo của San và Eastern Island-16 oanh tạc cơ đâm bổ của thuỷ quân lục chiến, 7 khu trục cơ Wildcat, 18 pháo đài bay B-17 và 4 oanh tạc cơ B-26 của lục quân-sẵn sàng nhào vào các hàng không mẫu hạm địch ngay hiệu lệnh báo động đầu tiên. Nếu gặp cơ may các mẫu hạm Nhật lầm lẫn phái hết cùng một lúc các phi cơ của họ bay đến tấn công Midway, rất có thể bằng cách hy sinh công cuộc phòng thủ các đảo, giáng chọ địch các thiệt hại đủ để họ phải e dè... Kế hoạch của Nimitz là như thế. Theo kế hoạch này, trung sĩ Price, đại tá Jimard và đại tá Shannon bị bỏ rơi mặc cho số phận hẩm hiu. Toàn thể đạo quân trú phòng trên đảo Midway đóng vai trò con mồi và cũng như con giòi của ngư phủ, nếu không bị cá ăn, thì cũng bị rỉa cho thủng không ít...Tin tức chính thức đầu tiên xác định hải lực Nhật đến gần được báo cho Midway chiều ngày 3 tháng 6. Một chiếc PB-Y có tầm hoạt động xa, lúc quay về vì đã đến giới hạn bán kính hoạt động, đã trông thấy hạm đội đổ bộ. Ngay khi có hiệu lệnh báo động, B-17 và Catalina cất cánh nhiều đợt kế tiếp và lao vào địa. Nhưng vì khoảng cách còn xa cho nên vài quả bom và thuỷ lôi ném xuống lúc hoàng hôn chẳng mang lại kết quả gì. Chỉ có phi vụ cuối cùng thực hiện ngay trong đêm tối là đánh trúng được một mục tiêu bằng thuỷ lôi vì một ngọn lửa lớn đã bùng lên soi sáng bầu trời cho đến rạng đông.Hôm sau, ngày 4 tháng 6 năm 1942, lúc 5 giờ, một Catalina lại ra hiệu báo động mới. Lần này chính các phi cơ địch bay đến Midway. Nhiều oanh tạc cơ của hải quân Nhật lập đội hình chặt chẽ và được nhiều khu trục cơ hộ tống. Hướng phi cơ địch bay đến dường như cho thấy rằng các hàng không mẫu hạm đã phóng chúng lên đang có mặt phía tây bắc các đảo, và tất cả phi cơ chiến đấu của Midway cất cánh bay đi tấn công. Than ôi chúng ra đi mà không có hộ tống, 7 khu trục cơ phải ở lại để chờ những kẻ tấn công.Hai đoàn phi cơ giao nhau trên không với khoảng cách rất xa, phi đoàn Nhật Bản, thuần nhất và được hộ tống kỹ, phi đoàn Mỹ tạp nhạp và không được hộ tống gì cả.Một giờ trôi qua, thời gian mà những binh sĩ phòng vệ các đảo chờ đợi quyết định của số phận thế nào cũng phải xảy đến..Đến 6 giờ 30, tiếng cao xạ DCA nổ ran như sấm, tiếp ngay sau đó là tiếng bom chát chúa. Tất cả các kiến trúc của Sand đều đổ sụp xuống trong ửa đỏ. Bầu trời tối sầm vì một lớp khói làm cản trở các khu trục cơ Mỹ theo dõi cuộc chiến đấu.Về phía mình, phi đoàn oanh tạc cơ của thuỷ quân lục chiến cũng khám phá thấy địch và bắt đầu tấn công vào các mẫu hạm Nhật, nhưng các khu trục cơ đáng sợ Zéro đã đâm vào chúng như những con diều hâu và bắn hạ gần hết.Hai giờ sau, vài chiếuc hiếm hoi còn sống sót sau cuộc tàn sát, hạ cánh xuống phi trường Eastern Island vừa được hấp tấp sửa sang lại. Chỉ huy trưởng đoàn quân trú phòng lập bảng kết toán cho buổi sáng. Nếu tổn thất của thuỷ quân lục chiến thấp một cách kỳ diệu: 16 chết và 28 bị thương, thì tổn thất của các phi công thật nặng: 50 người trong đó có 25 sĩ quan. Vài phi cơ hiếm hoi trở về được, bay nặng nề như có chì trong cánh. Hệ thống phòng không bị triệt tiêu. Sand và Eastern chỉ còn cách chờ chống quân đổ bộ của địch bằng gươm giáo của mình.Lúc đó không ai không thể nghĩ rằng hai hòn đảo vừa chịu đựng cuộc tấn công đầu tiên và cũng là cuộc tấn công cuối cùng của cuộc chiến tranh.Trên các hàng không mẫu hạm Nhật, các phi công khu trục lần lượt đáp xuống để lấy tiếp tế, được các thuỷ thủ đoàn tiếp đón trong tiếng hoan hô vang dậy. Mặc dầu đã quen với các chiến thắng dễ dàng, vụ hạ các phi cơ của Midway như kiểu bắn chim bồ câu đã kích thích họ quá mức và toàn diện mọi người đều hân hoan. Chỉ riêng Phó Đô đốc Nagumo là có đôi phần bối rối. Trên boong chiếc Akagi, ông đang thảo luận với các cấp thuộc quyền. Đó là một người nặng nề, hai hàng lông mày rất rậm, và hàng râu mép điểm hoa râm. Trái ngược hẳn với vị tư lệnh tối cao vốn là một con người lanh lẹn và nóng nảy, ông có một vẻ trầm tĩnh như lực sĩ thế vận hội và phản ánh những truyền thống của lực lượng hải quân kỳ cựu. Hơn nữa, chính ông lại không phải là một phi công và mặc dầu có kinh nghiệm dồi dào, một vài ảnh hưởng đã thoát khỏi sự hiểu biết của ông. Ông không muốn bị định vị sớm quá và thái độ quyết tâm mà các phi công Mỹ đã chứng tỏ đã gây ấn tượng sâu xa nơi ông. Do đó ông đã tỏ vẻ khó chịu phần nào khi viên không đoàn trưởng vừa chỉ huy cuộc oanh tạc các đảo đến báo hiệu cho ông rằng cần một đợt oanh tạc thứ hai để tiêu diệt hoàn toàn các cơ sở trên đảo Midway.Số chín mươi ba phi cơ trừ bị sẵn sàng cất cánh trên hai trong số các mẫu hạm của ông đều được gắn đầy bom đặc biệt và thuỷ lôi để tấn công hạm đội địch. Nếu phái chúng đi tấn công Midway, phải đưa chúng xuống hăng ga và thay đổi bom đạn.Nagumo ngần ngại không muốn lấy một quyết định vốn đe doạ phô bày hạm đội của ông ra trước một nguy cơ trầm trọng nhất: cơ nguy bị địch tấn công ngay giữa lúc di chuyển phi cơ. Nhưng các sĩ quan trẻ hiếu thắng của Bộ tham mưu đã có mặt ở đấy rồi, chung quanh ông, và áp lực ông bỏ qua những sợ hãi vô ích đến thế... Ông sợ bị coi là một kẻ nhút nhát và rốt cuộc phải nhượng bộ.Thời gian trôi và sự thiếu vắng mọi dấu hiệu báo động dường như đã làm cho những người lạc quan có lý. Khi việc thay bom gần như hoàn tất thì một hiệu lệnh vô tuyến được chuyển đến gây kinh hoàng trên khắp các sàn tàu. Hiệu lệnh phát xuất từ một thuỷ phi cơ thám sát đang tuần thám phía bắc Midway: "Thấy địch! Nhiều chiến hạm, có một mẫu hạm!". Lúc ấy là 8 giờ 30. Một giờ trước đó chắc tin ức này sẽ được tiếp đón trong không khí phấn khởi. Đó là cơ hội được chờ đợi từ lâu để thanh toán trọn hạm đội Mỹ. Trong khi giờ đây các phi cơ trừ bị còn nằm trong hăng ga đang được thay bom và đợt phi cơ tấn công Midway đầu tiên trên đường băng về cũng sắp xuất hiện để đáp xuống mẫu hạm.Đã có lúc Nagumo toan cho cá phi cơ trong tình trạng mới được thay bom lên và ra lệnh cất cánh tấn công địch, nhưng ông còn ngần ngại vài phút và để cơ hội trôi qua. Các phi cơ từ Midway trở về bắt đầu xuất hiện. Vài chiếc báo hiệu bị hư hỏng, nhiều chiếc khác cho biết sắp hết xăng. Quá chậm, phải để cho chúng hạ cánh.Ngọn lao đã phóng đi! Vài khu trục cơ cất cánh vôi vàng để bố trí bên trên đoàn phi cơ trở về. Các phi cơ này có trách nhiệm che chở cho một công tác cực kỳ nguy hiểm là sự tiếp nhận trên các mẫu hạm đang chứa đầy phi cơ trong hang ga ngay giữa cuộc chuyển dịch bom và thuỷ lôi. Công cuộc huấn luyện các thuỷ thủ đoàn kỹ đến nỗi tất cả các công việc ấy được thực hiện mà không gây ra một trở ngại nào. Và các công việc ấy ké dài không dưới một giờ... Khoảng thời gian trong đó lúc nào người ta cũng phải chờ đợi các chấm đen các phi cơ địch xuất hiện trên bầu trời.Đúng 9 giờ 30 chuyện không tránh được đã xảy đến. Một phi đoàn phóng thuỷ lôi tiến gần đến chiếc Akagi. Đấy là phi đoàn của chiếc Hornet được phóng lên không ngay khi các phi cơ thám thính Mỹ biết được vị trí của các mẫu hạm Nhật. Các phi cơ đáng thương ấy đã bay lạc rất lâu trước khi khám phá được mục tiêu trong lớp sương mù ban mai. Chúng đều cạn xăng, nhưng không kém phần quyết tâm tiếp tục lao vào chiếc soái hạm Nhật Bản để ít ra sự hy sinh của họ không hoàn toàn vô ích...Các khu trục cơ Zéro chờ sẵn ở đấy. Từ trên cao chúng bổ nhào xuống các phi cơ tấn công. Tất cả phi đoàn của chiếc Hornet đều bị bắn bốc cháy rơi xuống và các phi công đều bị tử trận ngoại trừ một người, chuẩn uý Gay, trong chiếc xuồng cao su cấp cứu như ngồi trong ghế hạng nhất, chứng kiến một quang cảnh dị thường nhất mà con người có thể nhìn ngắm được.Thật vậy, các phi cơ của mẫu hạm Hornet vừa chìm khuất xuống biển, hai phi đoàn phóng thuỷ lôi khác (của mẫu hạm Enterprise và Yorktown) tấn công chiếc Akagi theo thế gọng kềm trong khi một phi đoàn thứ ba phụ trách chiếc Hiryu. Cao xạ DCA vạch các đạn đạo đầy trời, các khu trục cơ bắn tung ra mọi hướng. Những ánh lửa đỏ rực bốc cháy trên biển cả giúp đếm được số lượng nạn nhân Mỹ. Tuy vậy cuộc tàn sát lần này không toàn vẹn vì các khu trục cơ Nhật có phần làm việc không xuể. Nhiều chiếc Zéro vì hết xăng, đã phải đáp xuống mẫu hạm đang khi đánh nhau. Không còn chiếc nào canh chừng từ trên cao nữa.Trên mẫu hạm Akagi, Nagumo vì vững tin rằng tất cả chiến hạm của ông đều không bị tổn thương nên ra lệnh tung phi cơ xung kích đến tấn công các mẫu hạm địch. Trên soái hạm, vài khu trục cơ trừ bị rồi vài oanh tạc cơ đang xếp hàng nối đuôi nhau. Các phi cơ Zéro đầu tiên bắt đầu cho quay động cơ hết tốc độ, được thuỷ thủ đoàn chào tiễn bằng tiếng hoan hô.. rồi thình lình một tiếng kèn vang dội. Nững trinh sát viên vừa la lớn: "Coi chừng oanh tạc cơ đâm bổ!.Bất ngờ hoàn toàn! Tiếng rít kinh hồn của phi cơ làm mọi người phải cúi rạp xuống, tiếp ngay sau đó là cả một loạt tiếng nổ thật sự. Ngọn lửa loé lên trên chiếc Akagi. Chiếc thang máy trung ương bị thổi bay và qua lỗ hổng toang hoác ấy khói cuồn cuộn bốc lên làm tê liệt các đội cứu hoả. Lửa tràn vào các hăng ga sắp đầy phi cơ phóng thuỷ lôi khiến chúng lần lượt nổ tung. Mẫu hạm Akagi, biến thành lò lửa, chỉ còn là một xác tàu trong chốc lát... Bị các sĩ quan thôi thúc, Nagumo chấp thuận để cho thuộc viên chuyển qua một tuần dương hạm. Có lẽ ông sẽ có thể nắm lại hạm đội?Than ôi! Một cái liếc nhìn trên mặt biển đã tước mất của ông ảo vọng ấy. Chiếc Kaga đã chịu đựng một cuộc tấn công còn hung dữ hơn. Nó chạy ngang dọc như một con thú bị đánh cho đến chết bởi vì máy tàu còn chạy được, nhưng bên dưới các cơ khí viên không còn nhận được mệnh lệnh nữa và phải vẫy vùng trong bóng tối. Cửa hầm bị chặn ngang và gió lại khêu thêm ngọn lửa. Các cầu tàu bị nung đỏ, từng chùm thuỷ thủ bị thiêu sống ghê rợn và rụng xuống biển. Riêng đối với những người dưới hầm tàu, không một ai có thể thoát ra khỏi lò lửa ấy.Xa hơn một chút, mặc dầu cũng bị trúng bom và thuỷ lôi, chiếc Soryu vẫn còn chiến đấu chống lửa, nhưng tất cả các phi cơ đều bị thiêu rụi. Hạm đội đầy kiêu hãnh của Nagumo chỉ còn lại mẫu hạm Hiryu đang mở hết tốc lực chạy về phía Bắc...Trên cầu tàu chiếc Yamamoto đang dẫn đầu hạm đội thiết giáp hạm cách đấy chừng ba trăm dặm vị Tư lệnh hạm đội liên hợp đang lâm vào tình trạng âu lo vô bờ bến. Ông nhận được cả một cơn mưa tin tức xấu, dồn dập đưa đến theo cùng với nhịp độ ăn bom của chiếc Akagi. Con người sắt thép, cho đến lúc đó chỉ biết có chiến thắng ấy, đột nhiên ngã quị. Theo một vài người hiếm hoi được chứng kiến quang cảnh thì hình như ông trở nên ngây ngô và không ai dám lại gần. Ông bước từng bước chậm rãi, gặm dần nắm cơm vắt mà lệ tràn khoé mắt... Khi ông tĩnh tâm trở lại, ấy là để tung hạm đội hùng mạnh của mình đến cứu các hàng không mẫu hạm. Nhưng khoảng cách xa đến nỗi chỉ sau vài giờ hải hành, ông từ bỏ ý định.Vả chăng, ông có thể làm gì bây giờ đây? Hy vọng cuối cùng của ông là mẫu hạm Hiryu, chiếc duy nhất còn nguyên vẹn, mà các phi cơ vừa đến tấn công chiếc Yorktown. Có lẽ nó đánh bại được hạm đội địch nếu, đúng như điều ông hy vọng, hạm đội ấy không còn mẫu hạm nào khác. Có thể là vị thần vạn năng che chở vương quốc đang đè nặng lên cán cân và rốt cuộc may mắn sẽ quay trở lại...Quả thật đã có lúc may mắn ngập nừng quay lại thật. Các oanh tạc cơ của mẫu hạm Hiryu đã đến tấn công chiếc Yorktown đúng lúc nó đang đón phi cơ trở về, và cùng một loạt tai biến vốn đã làm chìm chiếc Akagi đang tái diễn. Chiếc mẫu hạm Mỹ bốc cháy!Một giờ trôi qua trong sự chờ đợi tin tức đầy âu lo. Thế rồi niềm phấn khích ngự trị trên các cầu tàu chiếc Yamamoto đột ngột tắt ngấm. Không ai dám mang bản điện văn tuyệt vọng vừa được gửi đến: Hiryu bị hai đợt oanh tạc cơ tấn công đang bốc cháy từ trước ra sau... Nó đang chạy chậm chạp lên phía bắc và biến mất trong ánh hoàng hôn.Thế là hết. Tin thuỷ thủ đoàn chiếc Yorktown đang bị bốc cháy phải bỏ tàu đã không làm cho Đô đốc xao lãng khỏi dòng tư tưởng đen tối của ông. Là một trong những chiến lược sáng suốt hiếm hoi của Nhật, Yamamoto không hề có ảo tưởng. Ông ý thức được lầm lẫn chí mạng mà ông vừa chạm phải. Chính ông, một người suốt đời làm việc để cung ứng cho Nhật một hạm đội hàng không mẫu hạm đáng sợ nhất thế giới, nay đứng đây, bất lực, trên boong con quái vật khổng lồ 70.000 tấn này, mà trong hoàn cảnh hiện tại đã trở thành vô hại như một con rắn biển. Ông không còn dám áp dụng cho đến cùng các ý tưởng cách mạng của mình để làm biến thành một đống sắt vụn cả một đoàn thiết giáp hạm và đại bác khổng lồ vốn không còn chỗ đứng trong các cuộc chiến tranh hiện đại nữa.Không bao giờ ông khuyến cáo gây nên cuộc chiến tranh này, nhưng khi ông bị áp đặt bởi chiến tranh, ông đã hành động với tất cả nhiệt tình mà ông có thể có được. Ông biết rằng mình có sáu tháng để thắng hoặc là bại trận. Không bao giờ ông có thể thay thế bốn mẫu hạm này lẫn tinh hoa của các phi công đã biết mất cùng với chúng, trong khi mà người Mỹ thì lại đóng thêm tàu, thêm nữa và huấn luyện hàng ngàn tân binh.Đến đêm, Đô đốc Ysokoru Yamamoto rút lui vào phòng riêng, tự tay thảo lệnh rút quân toàn diện.Nhật Bản không phải là đã thua một trận đánh, mà là thua cả cuộc chiến tranh.Trong thời gian đó, tại Midway, trung sĩ Price và trung đội của anh rời bỏ những pháo đài không đáng kể. Đã từ nhiều giờ qua, họ dấn mình vào một cuộc đi đi, lại lại hùng tráng giữa các xà lan đậu trong căn cứ hải quâ và các phi đạo của phi trường Eastern. Họ lăn những thùng xăng, đẩy những xe goòng, khuân vác những "can" xăng. Họ phải tiếp tế nhiên liệu bằng mọi phương tiện bất ngờ cho các phi cơ vừa mới đến: các phi cơ của chiếc Yorktown đáng thương mà người ta mới được tin là đang chìm và của chiếc Enterprise vốn không thể trở về mẫu hạm sau khi thanh toán chiếc Hiryu. Những câu chuyện sôi nổi của các phi công mà họ phải giúp đưa ra khỏi phòng lái đã làm họ quên hết nhọc mệt của chính mình. Thất thểu, lấm đầy bùn, kiệt sức, bị khói của các đám cháy bôi đen từ đầu đến chân, họ dẫm lên bãi phân chim, tiếp tục các chuyến công tác mệt nhoài. Đối với tinh hoa của các đơn vị xung kích thuộc thuỷ quân lục chiến Mỹ, công tác của phu khuân vác ấy, thật chẳng lấy gì làm chói lọi cho lắm...Nhưng đấy, chiến tranh là như thế. Hôm qua, chính họ là các đơn vị anh hùng hy sinh, những chiến sĩ gác giặc ở tiền đồn sẵn sàng chịu đựng vố kinh khủng đầu tiên. Người ta phủ lên họ những săn sóc ân cần, người ta cho thăng cấp bậc, người ta còn tha thứ cả cho Price khi anh làm nổ cả bồn chứa xăng... Giờ đây thì chẳng còn là gì cả, những điều động chẳng quan trọng gì. Họ phải chạy chọt rầm rộ để đừng bị đối đãi như những binh sĩ tiền tuyến nữa mới được.Khi chiếc phi cơ cuối cùng đáp xuống sau khi cố gắng săn đuổi hạm đội Nhật đang rút lui, đại tá Shannon tập họp trung đoàn 3 thuỷ quân lục chiến và giải thích tầm quan trọng của chiến thắng đầy tuyệt vọng vừa mới được các hàng không mẫu hạm Mỹ mang về. Rồi để an ủi họ vì không có mặt trong hàng ngũ những vị anh hùng trong ngày lịch sử này, ông nói thêm trong không khí im lặng kỳ lạ của bầu trời lấp lánh đầy sao:"Hoà bình đã trở lại đây, tại Midway, nhưng đối với chúng ta, thuỷ quân lục chiến, chiến tranh mới chỉ bắt đầu!".Chắc ông không tin rằng mình đã nói đúng đến thế. Một tháng sau, trung đoàn 3 đổ bộ lên Guadalcanal.

Guadalcanal

Trạm thống khổ đầu tiên

Vào mùa hè năm 1942, khi các đài phát thanh trên toàn thế giới bắt đầu nói đến Guadalcanal, thì địa danh bí mật này đã làm mọi người vểnh tai nghe. Guadalcanal? Nó là cái gì nhỉ? Một "con kênh" nối liền hai nội hải chắc... Phải, nhưng là nội hải nào kia chứ? Đâu đó tại phía nam Thái Bình Dương chăng?... Phải vận dụng đến cuốn Grand Atlas mới khám phá thấy, mà khong phải là ít ngạc nhiên đâu, trong thực tế đó chỉ là một hòn đảo (gia dĩ lại được viết đúng theo chính tả là Guadalcanar) và hòn đảo này thuộc quần đảo Salomon, nằm giữa một số đảo khác mang những tên Tây Ban Nha cùng một âm điệu buồn buồn: Santa Cruz, San Cristobal, Malaita, Santa Isabel, những địa danh tương phản một cách buồn rầu với một loạt địa danh tươi vui của quần đảo Mariannes và Carolines từng làm cho địa đồ khu vực trung ương Thái Bình Dương thêm vui vẻ.Một khi đã vứt bỏ được sự mơ hồ về địa lý này, thì vẫn còn có một điểm mơ hồ khác cũng gây bối rối: Trời đất quỉ thần tại sao người ta lại sắp đánh nhau tại một nơi như thế?Câu giải thích chính thức, mãi lâu về sau mới được đưa ra, đã không làm mọi người thoả mãn lắm: Guadalcanal là một trong các đảo nằm xa nhất về phương bắc của quần đảo Salomon, dường như là có thể tạo thành một căn cứ xuất phát cho một mũi tấn công sắp đến của Nhật nhắm vào Tân Hébrides, nơi quân đội Mỹ vừa đưa quân đến đồn trú. Thoạt nhìn sự chọn lựa này có vẻ bất kỳ đến nỗi, quần chúng vốn khao khát cái gì hợp lý, nên mau lẹ chấm dứt sự chú ý đến góc trời cô liêu ấy.Trong thực tế, công chúng lầm to bởi vì trong chiến tranh, sự tình cờ thường đóng một vai trò lớn hơn là sự hợp lý.Viên tướng Nhật chiếm hữu quần đảo nhỏ Tulagi đối diện với, Guadalcanal, thấy quần đảo này hoàn toàn không thích đáng cho việc xây cất một phi trường, do đó theo sáng kiến riêng, ông đã phái các toán tuần thám lên các đảo kế cận để tìm kiếm một thế đất trống và dễ dọn dẹp hơn.Chính các cha sứ công giáo làng Visale bản xứ, nằm tận cùng phía tây bắc Guadalcanal gần mũi Espérance, đã thấy một trong các toán tuần thám ấy xuất hiện tại một khúc quanh con đường đất, chiều ngày 3 tháng 7 năm 1942. Một sĩ quan và chín binh sĩ đi theo đến gõ cửa nhà thờ. Được Cha bề trên tiếp đón rất lạnh nhạt, viên sĩ quan đòi gặp Đức cha Aubin, giám mục địa phận Salomon, mà ông ta biết là có mặt tại Visale.Vị giáo chủ, một người Pháp chừng 60 tuổi, từng sống tại quần đảo 37 năm, đã lịch sự phản đối sự xâm nhập của các quân nhân vào các trụ sở của giáo hội. Viên sĩ quan Nhật thông báo cho đức giám mục là y sẽ đưa Cha bề trên đến trại binh để giải quyết vấn đề liên quan đến một sự hợp tác tương lai và sẽ mang trả lại sau ba ngày. Rõ ràng là y cần nhân công bản xứ và sở cậy các nhà truyền giáo để tuyển người. Y đã giữ lời, nhưng trong chuyến viếng thăm thứ nhì, y lấy mất chiếc tàu của phái bộ truyền giáo, máy thu thanh, rương hòm của những người Âu châu và người Trung Hoa tỵ nạn, các tủ lạnh, nông cụ và cả các ống dòm...May cho các nhà truyền giáo, làng Visale, cũng như các làng khác trên bờ biển phía bắc đảo Guadalcanal kế cận mũi Espérance, nằm dựa lưng vào các mỏm núi đá hiểm trở trên các sườn núi thật dốc đứng. Chỉ cách đó chừng 30 cây số về phía đông nam bờ biển mới trở thành bằng phẳng và ngay hàng thẳng lối. Mặc dầu rất tiếc vì không đặt phi trường được gần các làng đông dân cư nhất, quân Nhật quyết định chọn cửa sông Lunga và chỉ để tại Visale một văn phòng tuyển mộ. Do đó Đức cha Aubin có thể tiếp tục quản giáo khu của mình và giúp đỡ các con chiên bổn đạo trong các cuộc thử thách đang dồn dập đổ đến.Guadalcanal có hình dáng như một con sâu dài 150 cây số mà chiếc lưng có ngấn là do hàng chục con sông đổ ra cửa biển. Nếu đảo Tulagi và các đảo kế cận có vẻ quyến rũ và đẹp như tiên cảnh bao nhiêu thì Guadalcanal lại ủ dột và khắc khổ bấy nhiêu. Một dãy trường sơn cao ngất chạy từ đầu đến cuối đảo. Trong đoạn chính giữa của dãy núi này nhiều ngọn đã vượt cao lên đến 2.500 thước. Nhìn từ ngoài khơi, hòn đảo xuất hiện như một khối màu lục và xanh biếc, phủ đầy các đám mây tích tụ nhiệt đới trắng nõn bám thường trực các chỏm núi. Viền quanh bờ biển là những dãy bọt trắng của những lượn sóng dài vỡ tan khi xô vào đỉnh các bãi san hô chìm khuất một nửa dưới lớp phù sa do các con sông mang xuống. Chính trên vùng bờ biển phù sa phía bắc này mới có loại cây cối độc nhất được trồng trọt: khoai lang ngọt, xoài, và nhất là dừa mà thân cây đạt đến kích thước khổng lồ. Khắp mọi nơi, núi đá chạy ra sát tận biển.Ngay từ các dãy núi đâm ngang ra đến biển là bắt đầu một khu vực rừng rậm thù nghịch, lầy lội, nằm giữa những cánh đồng lầy rồi dần dần nhường chỗ cho rừng già. Rừng quái gở khủng khiếp gồm toàn cây cối thậm cổ xưa mà cành lá đan vào nhau nhọn đến ngọn tạo thành một chiếc vòm màu xanh liên tục không bao giờ mặt trời có thể xuyên qua được. Một lớp cây leo khổng lồ, cây dứa hoang và cây đước đen, dày đặc rối bù, nẩy nở trong không khí nóng bức của một nhà kiếng thấm nước, nuôi dưỡng một lớp lá cây mục nát lầy lụa chỉ có côn trùng và loại thằn lằn sinh sống. Chính từ tấm bọt biển ướt đẫm mênh mông ấy, rỉ ra phía bờ biển vô số dòng suối con ngập nước và dần dần xói mòn mặt huyền vũ nham dưới lớp lá cây mục nát, sau đó họp lại thành sông chảy thẳng ra biển, cắt ngang bãi san hô bằng những đường trùng lệch lạc không đều.Trong phần chính giữa của bờ biển phía bắc nơi có những cửa sông lớn nhất, cánh đồng phù sa trải dài hàng 4 hay 5 cây số vào sâu bên trong. Chính tại đó, giữa hai con sông Lunga và Tenaru, những binh sĩ tuần thám Nhật đã chọn lựa thế đất thuận tiện. Nó sẽ trở thành địa bàn của những trận đánh khốc liệt nhất trong chiến tranh.Đoàn quân đóng tại Lunga từ những ngày đầu tháng 7 năm 1942, gồm chừng năm trăm thuỷ quân lục chiến, phần đông là tiền thám viên và các chuyên viên kỹ thuật. Họ có vài xe kéo chạy xích, xe rơ-moóc và xe ủi đất, một máy phát tin và một trạm rada còn thô lậu nhưng rốt cuộc cũng đã được hoàn thành. Nhân công bản xứ được tuyển mộ trong các làng làm việc chẳng có hứng thú gì dưới làn roi tàn bạo của các hạ sĩ quan Nhật. Địa điểm làm phi đạo đã được chọn lựa rất cẩn trọng và, được bóng dừa nguỵ trang, các chuyên viên ủi bằng phẳng có thể đẩy vệt đẩy vệt đất được ủi tiến về phía trước mà không sợ các phi cơ tuần thám của Mỹ, đôi khi lục lạo trong quần đảo Salomon, đánh hơi được chuyện gì đang được âm mưu bên dưới. Kể từ các cuộc hải chiến trong biển Corail, Tulagi vẫn còn như là một cây gai trong gót giày cua Đô đốc Ghormley. Trong các kế hoạch phản công mai hậu của ông, sự giải phóng hải cảng này là sứ mạng ưu tiên. Nhưng Mac Arthur, nay đã có trong tay hai sư đoàn Mỹ và sư đoàn 7 của Úc vừa từ Trung Đông hồi hương, thì lại cổ xuý một cuộc tấn công vào Rabaul. Ông muốn thực hiện càng sớm càng hay một cuộc đổ bộ lớn lao lên Tân Irlande và Tân-Angleterre, bước đầu tiên của cuộc tiến quân ngược lên phía Phi Luật Tân. Cuộc hành quân này đòi hỏi sự tham dự của tất cả các mẫu hạm cơ hữu và một sư đoàn thuỷ quân lục chiến được huấn luyện để đổ bộ bằng xe lội nước và tất nhiên là được trang bị các quân dụng thích nghi. Nói cách khác, Mac Arthur đòi hỏi toàn diện các lực lượng nằm trong tay Ghormley.Nimitz và King chính thức chống lại kế hoạch này trong khi nó lại được tướng Marshall và Bộ tham mưu lục quân ủng hộ nhưng không có gì là hứng thú lắm.Chính vì thế mà trận đánh đầu tiên tại quần đảo Salomon đã diễn ra gữa Auckland, Melbourne, Trân Châu Cảng và Ngũ đài giác với những với những phát súng điện văn, chỉ thị, hay các đặc sứ. Trận đấu tranh thật nóng bỏng. Mỗi người bảo vệ miếng bít tết của mình một cách bạo tợn. Ghormley muốn trước hết chiếm Tulagi rồi sau đó tiến ngược lên chiếm hết đảo này đến đảo khác. Mac Arthur muốn tấn công thẳng vào Rabaul. Tất nhiên là ông chấp thuận chiếm Tulagi khi đi ngang qua, nhưng đối với ông đó chỉ là một cuộc hành quân phụ thuộc nằm trong kế hoạch toàn diện của ông. Và, vì ông xét rằng sự thống nhất chỉ huy là điều không thể không có, nếu ông muốn thấy Ghormley được đặt thuộc quyền ông để thi hành kế hoạch.Cuộc thảo luận đã đến một khúc quanh hết sức gay gắt nên được đưa lên các thẩm quyền cao hơn. Để kết thúc, Đô đốc King đề nghị một giải pháp dung hoà: Cuộc tấn công Rabaul được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn đầu gồm có việc chiếm Tulagi (Đô đốc Ghormley sẽ phụ trách), giai đoạn hai sẽ được thực hiện song hành dọc theo một bên là quần đảo Salomon và bên kia là Tân Guinée (Mac Arthur sẽ nắm quyền chỉ huy). Ghormley được yêu cầu đi Melbourne để thuyết phục Mac Arthur chấp thuận kế hoạch này. Cuộc hội kiến diễn ra lạnh nhạt. Cả hai người đều giữ vững lập trường và chia tay nhau trong không khí xung đột gay go.Trong khi Hoa Thịnh Đốn ngần ngại không muốn đương đầu với vị anh hùng của Corregidor, một biến cố bất ngờ đã xảy đến thúc giục chấm dứt ngay cuộc khủng hoảng.Ngày 9 tháng 7-hai ngày sau cuộc hội kiến Ghormley-Mac Arthur-một thuỷ phi cơ PB-Y tuần thám trên phía nam quần đảo Salomon trong một cảnh trí thông thường là rất trống vắng, chợt thấy vài tàu vận tải nhỏ dọc theo bờ biển Guadalcanal. Viên phi công vội ẩn vào trong mây và khá vui sướng vì có thể đến gần mà không bị trông thấy. Nhiều xà lan đổ bộ vật liệu và hàng đoàn nhân công bản xứ tiến theo hàng dọc như bầy kiến vào bên trong. Vụ sử dụng nhân công này có ý nghĩa gì đây? Đã đến lúc cần biết rõ điều đó. Chiếc phi cơ đổi hướng trong mây và được điều khiển để chỉ ló ra trên dãy núi đâm ngang đầu tiên. Và thình lình qua một khoảng trời sáng, viên phi công chợt thấy bên dưới, nhiều xe ủi đang hoạt động dưới bóng dừa. Anh ta lay cánh tay người ngồi bên cạnh-một đại tá thuọc Bộ tham mưu của Mac Arthur-và dùng ngón tay chỉ tấm thảm xanh giờ đây đang diễn qua thật nhanh dưới cánh phi cơ bay nghiêng, anh hét vào tai viên đại tá: "Ông nhìn kia kìa! Chúng đang làm một phi đạo!"Nắm được tin tc chủ yếu này rồi, chiếc phi cơ lại bay lên cao và đổi hướng quay về phía tây để trở lại căn cứ.Vài giờ sau, khi bản điện văn mật mã của viên đại tá được gửi đến bản doanh Melbourne, không khí tại Bộ tham mưu hết sức sục sôi. Những kẻ độc miệng cho rằng phải mất cả tiếng đồng hồ mới khám phá ra điểm bí mật do các phi công chỉ định trên bản đồ cũ kỹ của Anh. Sau đó người ta lục lạo các huấn thị hải vụ và cuốn Guide Bleu về các vùng biển phía nam. Vì kết quả thu lượm được không có là bao, Mac Arthur cho tìm kiếm tất cả những người Anh tị nạn đã từng ở trong vùng này. Những lời khai mơ hồ của họ ít ra cũng phù hợp được ở một điểm: cửa sông Lunga là một cảnh trí man rợ do các đỉnh san hô cắt ngang và chung quanh bị bao bọc bởi một khu rừng rậm không thể nào đi xuyên vào được, nơi đó khí hậu thật dễ sợ. Tóm tắt, đó là địa điểm cuối cùng của trái đất mà một phi trường đang được xây cất. Vốn hay khinh thường các tin tức không báo, Mac Arthur tin lời các cư dân Anh hơn là bản điện văn của các phi công chiếc Catalina. Do đó ông ra lệnh thám sát một lần nữa để xác nhận tin này.Nhưng tin tức cũng đã được đưa đến Auckland, nơi mà Bộ tham mưu của Ghormley, vốn biết rõ địa hình khu vực quần đảo Salomon hơn, định ngay được vị trí cửa sông Lunga và cánh đồng phù sa chẳng khó khăn gì. Một điện văn được hoả tốc gửi về Hoa Thịnh Đốn, đề nghị thực hiện gấp cuộc hành quân chiếm Tulagi và bổ túc thêm bằng cuộc đổ bộ đột ngột lên Guadalcanal để chiếm hữu phi trường quí giá đang được xây cất ấy trước khi quân Nhật kịp sử dụng.Ngày 10 tháng 7 một công điện của Hoa Thịnh Đốn, gửi đồng thời cho Ghormley và cho Mac Arthur, ra lệnh "đổ bộ ngay lập tức lên Guadalcanal bất kể tổn thất để chiếm phi trường đang được hoàn thành". Lập tức Ghormley gửi một đại diện đến gặp Mac Arthur để yêu cầu ông tăng phái cho một phần trong số 50.000 quân Úc và Mỹ đang có sẵn tại Port Morsesby. Ông tướng từ chối thẳng từng. Ông sợ một cuộc tấn công mới trong khu vực này và nại rằng không chắc ông đủ quân số cần thiết để đẩy lui địch...Các biến cố xảy ra sau đó xác nhận sự lo sợ của ông là vững chắc. Một đoàn quân Nhật xuất phát từ Lae đã lên đường toan tính vượt qua đèo thuộc dãy núi Owen Stanley. Nếu thành công, họ sẽ đột ngột đánh úp Port Morsesby với sự yểm trợ của không quân và các đơn vị nhảy dù. Được báo trước cuộc điều động này, Mac Arthur tổ chức một cuộc phục kích rộng lớn trên triền phía Nam dãy núi để lợi dụng địa hình cực kỳ khó khăn hiểm trở hầu có thể đánh thình lình, và tiêu diệt trọn đoàn quân Nhật. Kế hoạch này đã thành công mỹ mãn. Quân Nhật, bị kiệt sức sau nhiều tuần lễ leo núi và gần như tất cả đều bị lâm bệnh nhiệt đới, hoàn toàn bị tàn sát trong các hẻm núi.Không một binh sĩ nào thoát thân được. Chiến công này làm tinh thần quân sĩ được nâng cao và xác nhận vĩnh viễn uy tín của Mac Arthur. Không còn ai nghĩ đến việc trách cứ ông từ chối không chịu gửi quân tăng viện cho Ghormley khiến ông này đành bằng lòng với các đoàn thuỷ quân lục chiến duy nhất để tấn công Tulagi và Guadalcanal.

Cuộc đổ bộ

Thoạt tiên ngày J của cuộc đổ bộ kép này được ấn định là 1 tháng 8 năm 1942, nhưng vì Sư đoàn 1 tlqc chỉ mới đến Wellington có mười lăm ngày và vì phải dự liệu hai cuộc hành quân bằng xe lội nước, nên Ghormley quyết định dời lại đến ngày 7 tháng 8.Ngay cả với sự trì hoãn này, hạn kỳ cũng quá ngắn. Mệnh lệnh giữ bí mật tuyệt đối đã được ban hành và tại Wellington không ai có lấy được một ý niệm cỏn con nào về điểm đến của Sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến cũng như của xe lội nước đang được chất đống trong kho. Lý do được đưa ra là một cuộc thực tập đổ bộ lớn lao sẽ được tổ chức tại đảo Koro trong quần đảo Fiji.Công việc đưa người và chiến cụ xuống tàu tại Wellington bắt đầu trong một không khí căng thẳng. Mùa đông đã đến. Mưa lạnh rơi tầm tã. Các phu bến tàu khuân vác các kiện hàng liên miên từ mộtt háng qua, nay từ chối không làm việc nữa. Chỉ huy trưởng căn cứ hải quâ Mỹ không có một thẩm quyền nào đối với các công nhân có chân trong các nghiệp đoàn này, phải kêu gọi thuỷ quân lục chiến đến thay thế họ. Hoặc vì bực dọc hoặc vì vụng về, chiến cụ không được chăm sóc nhẹ nhàng cần thiết. Những chiến binh ưu tú ấy không hề có một xu hướng nào đối với nghề khuân vác. Lập tức người ta thấy Coca Cola và thuốc lá từ các kiện hàng bằng giấy cactong, đổ tung téo thành sông trên bến tàu. Tin rằng họ sẽ tham dự một cuộc thực tập, thuỷ quân lục chiến sẽ đi đến đấy một cách cương quyết... Còn lâu, những người đáng thương ấy, mới nghi ngờ rằng trong vài tuần lễ nữa, kỷ niệm về cái kho tàng bị phung phí dễ dàng này sẽ ám ảnh họ qua những đêm không ngủ.Nhờ sự khuyến khích vui vẻ, hoặc trừng phạt, công cuộc chất hàng lên tàu hoàn tất dưới cơn mưa như thác, và các phu bến tàu bất đắc dĩ phải dồn đống vào giữa sân tàu trong bộ quân phục vĩnh viễn ướt nhẹp. Đoàn công voa mười ba hải vận hạm đặt dưới quyền chỉ huy của Đề đốc Turner, mà hiệu kỳ đươợ kéo lên chiến hạm chỉ huy, chiếc Mac-Cawley, nhổ neo rời Wellington ngày 31 tháng 7.Cái cớ của một cuộc thực tập không phải hoàn toàn láo. Thiếu tướng Vandegrift, tư lệnh Sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến, quả đã có khẩn cầu được chấp thuận cho ít ra cũng là một cuộc tổng dượt.Cuộc đổ bộ lên Koro còn lâu mới được coi như thành công. Tuy vậy nó giúp sửa chữa các lầm lỗi, chỉnh đốn lại hàng ngũ binh sĩ và nhất là để cho các tướng lĩnh tiếp xúc nhau, những người sẽ chịu trách nhiệm về cuộc phiêu lưu vĩ đại mà chưa bao giờ có cơ hội gặp gỡ bàn luận với nhau.Chính Đô đốc Fletcher, vẫn luôn luôn có mặt trên mẫu hạm Enterprise, là người chỉ huy toàn bộ cuộc hành quân. Lực lượng đặc nhiệm của ông được các mẫu hạm Saratoga và Wasp vừa mới từ Đại Tây Dương đến tăng cường. Bao quanh lực lượng mẫu hạm là sáu tuần dương hạm mà trong đó có hai chiếc của Úc. Đô đốc Anh Crutchley do Mac Arthur cho mượn cùng với hai tuần dương hạm Úc, được bổ nhiệm làm phụ tá cho Đô đốc Fletcher. Ngoài ra ông còn có lực lượng đổ bộ baằn xe lội nước đích danh do Đề đốc Turner chỉ huy và sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến do tướng Vandegrift làm tư lệnh.Ngày 7 tháng 8, lúc 9 giờ sáng, trong khi Fletcher và các mẫu hạm của ông đảm trách phần vụ che chở trên không, lực lượng đổ bộ chia làm hai toán cùng lúc đổ quân lên Tulagi và Guadalcanal.Khắp nơi địch quân bị hoàn toàn bất ngờ. Tại Tulagi, 3.500 thuỷ quân lục chiến Nhật, phân tán rất mỏng trên đảo, không có thì giờ để tập họp để chống lại 6.500 thuỷ quân lục chiến Mỹ. Ẩn vào các ngọn, họ cương quyết chống trả và phải mất 48 giờ quân Mỹ mới lôi họ ra khỏi các hang động trú ẩn được.Tại Guadalcanal, trái lại, phi trường đang được xây cất chỉ được phòng bởi vài trăm binh sĩ. Vandegrift đổ bộ cùng với 10.500 quân của ông lên phía đông sông Lunga mà không gặp một cuộc tấn chống cự nhỏ nào. Sáng ngày 8 tháng 8, ông điều động binh sĩ trên một mặt trận rộng lớn vượt qua hai con sông ngăn cách ông với mục tiêu, tiêu diệt các chốt phòng thủ trong đó quân Nhật dùng súng tự động bắn ra, và dễ dàng xâm nhập phi trường.Đến 16 giờ, thuỷ quân lục chiến Mỹ chiếm hữu được phi trường. Các công nhân đã biến mất không kịp phá huỷ gì cả. Tất cả dụng cụ đều được tìm lại còn nguyên vẹn ngoại trừ một xe ủi đất bị một trung sĩ cuồng tín cương quyết phá hoại bằng một chiếc vồ bọc sắt.Số quân trú phòng còn lại biến mất trong rừng rậm. Ngay tối hôm đó các tiểu đoàn công binh bắt tay vào việc để hoàn tất phi đạo vốn đã được quân Nhật khởi công rất tốt.Nhưng nỗ lực của quân nhu thì không theo kịp... Ngay trong ngày 7 tháng 8, vài oanh tạc cơ Nhật đã đến làm tán loạn các ghe buồm chở quân dụng. Chính những ghe này cũng được đóng rất tệ và các thuỷ quân lục chiến lại đóng vai trò phu khuân vác, thấy khó mà bốc dỡ hàng lên khỏi chúng. Các thùng vật liệu chất trên bãi như kim tự tháp, số người ít quá không sao di chuyển chúng hết được.Đến tối, Turner phải cho ngưng đổ bộ vật liệu để tránh khỏi tình trạng bị kẹt bến toàn diện. Hôm sau ngày 8 tháng 8, oanh tạc cơ Nhật từ Rabaul bay đến hàng loạt và mặc dầu số tổn thất lên cao, cuối cùng cũng tràn ngập được đoàn khu trục cơ của Fletcher. Nhịp độ bốc dỡ quân dụng khỏi các hải vận hạm chậm chạp hơn và đến tra thì tình thế cho thấy rõ ràng là thời gian một ngày không đủ để hoàn tất công việc.Mặc cho sự mệt mỏi của quân lính, Turner quyết định tiếp tục làm đêm. Ông muốn bằng mọi giá phải chấm dứt công việc trước bình minh hôm sau vì Fletcher đã báo cho ông biết rằng dự trữ xăng của ông gần cạn và phải mang lực lượng đặc nhiệm về Espiritu Santo để được tiếp tế.Đến 21 giờ, kết quả bốc dỡ dở tệ đến nỗi ông được báo cho biết rằng hơn một nửa quân dụng của Sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến còn nằm trên hải vận hạm và tàu chở hàng.Turner thấy mình bị đặt trước một thế tiến thoái lưỡng nan: hoặc là bỏ ơi thuỷ quân lục chiến với quân dụng rút xuống còn một nửa, hoặc là phơi bày toàn diện lực lượng đổ bộ cho địch quân phá huỷ hoàn toàn nếu, theo dự đoán của ông, hạm đội Nhật đã lên đường đến tấn công.Quyết định sẽ có hậu quả lớn lao đến nỗi ông phải cho mời Crutchley và tướng Vandegrift đến chiếc hải vận hạm Mac-Cawley được dùng làm chiến hạm chỉ huy. Crutchley trên chiếc Australia cùng với sáu tuần dương hạm đang tuần tiễu không xa mũi Espérance. Vừa nhận được hiệu lệnh của Turner, ông đến bỏ neo cạnh chiếc Mac-Cawley. Hai vị Đô đốc thảo luận tình hình trong khi chờ đợi Vandegrift vì phải cho người mò mẫm trong đêm tối tìm ông ta tại bộ chỉ huy sư đoàn giữa các hàng rào kẽm gai. Họ hoàn toàn đồng ý là khó có thể nào quân Nhật tấn công ngay trong đêm. Căn cứ Rabaul cách xa đến năm trăm sáu mươi lăm hải lý, tức là hai mươi giờ hải hành và các phi cơ không thám chẳng có báo hiệu trông thấy hải lựuc địch nào trong ngày cả (Ít ra họ cũng tin thế... thật ra từ sáng, một Catalina Úc đã thấy bảy tuần dương hạm Nhật ngoài khơi Bougainville nhưng tiếp theo những sơ sót không tha thứ được, tin tức chỉ được đưa đến Melbourne lúc 18 giờ, quá chậm không khai thác gì được nữa). Trái lại, địch có thể đến vào sáng ngày 9, được che chở bởi một lực lượng khu trục hùng mạnh và được oanh tạc cơ tại Bougainviille hộ tống. Nếu không có hậu thuẫn của các mẫu hạm của Fletcher, hy vọng chống lại một lực lượng như thế là vô ích. Giải pháp duy nhất là rút lui toàn diện các hải vận hạm vào bình minh hôm sau.Khi tướng Vandegrift đến, hai vị Đô đốc giải thích chi tiết các lý do bắt buộc họ phải chọn giải pháp bi đát này và hỏi ông ta liệu có thể cầm cự đến khi họ trở lại không. Vandegrift vốn là một tay đánh nhau kỳ cựu từng tham chiến tại Nicaragua, Mễ Tây Cơ và Trung Hoa. Đó là cả một tâm trí thực tiễn và hơn nữa ông lại ưa mạo hiểm. Ông trả lời được.Khi cuộc hội kiến gần kết thúc thì câu chuyện bị ngắt quãng bởi những tiếng súng nổ ồn ào ghê rợn. Ba sĩ quan hấp tấp trèo lên boong và cả một quang cảnh đầy sửng sốt đang chờ đợi họ: mặt biể chung quanh đảo Savo chiếu sáng rực và người ta thấy bóng các tuần dương hạm của Crutchley tách ra trong ánh sáng của các đám cháy. Tiếng súng khởi đi, tiếng đầu đạn nổ tung nối tiếp nhau luân lưu bất tận... Viễn ảnh mà các vị Đô đốc gạt bỏ một giờ trước đó vừa xảy ra: quân Nhật đang tấn công các tuần dương hạm đồng minh tại eo biển giữa mũi Esprérance và Tulagi.Sự may mắn đã từng từ chối trước Yamamoto nay dường như muốn chuộc lỗi. Khởi hành từ Rabaul ngay từ khi lệnh báo động đầu tiên, một hạm đội gồm có bảy tuần dương hạm, do Đô đốc Mikawa chỉ huy, đã tiến đến Guadalcanal bằng cách vòng qua Bougainville với hy vọng thoát khỏi tầm quan sát của phi cơ tuần thám. Thấy một chiếc Catalina xuất hiện, hạm đội khéo léo quay về phía bắc làm như để trở về Rabaul. Chiếc Catalina không theo dõi và trở về căn cứ. Ngay khi nguy hiểm đã qua, Mikawa lại đưa hạm đội lên đường và vì lẽ các cuộc tuần thám của Mỹ rất hiếm, đoàn tàu hải hành cho đến tối mà không gặp trở ngại nào cả. Đến 23 giờ, hạm đội trông thấy đảo Savo, giảm tốc độ để tránh cho các luồng sóng bạc trắng đằng sau chiến hạm khỏi lôi kéo sự chú ý của các trinh sát viên địch.Hòn đảo nguyên hoả diệm sơn Savo là một ổ bánh đường bệ vệ nổi lên ngay giữa Guadalcanal và Tulagi. Dường như tạo hoá đã dựng lên nó một cách rành rẽ để canh chừng, như một trụ điện báo ở bờ biển, sự đi lại trong eo biển phân cách mũi Espérance và quần đảo nhỏ bé kia.Hải đội của Crutch chia làm hai nhóm: chiếc Canberra và chiếc Chicago tuần tiễu giữa mũi Espérance và bánh đường; chiếc Vincennes, chiếc Quincy và chiếc Astoria tuần tiễu chậm phía đông bắc.Lúc một giờ sáng, chiếc soái hạm của Nhật Chokai vượt qua hai chiếc phóng ngư lôi hạm bố trí tại trạm chính mà không bị khám phá. Với sáu chiếc theo sau, nó tiến với tốc độ 12 gút về phía hai chiếc hạm đồng minh vừa được thấy bóng. Đúng 1 giờ 36 phút bốn chiếc tuần dương hạm dẫn đầu đồng loạt phóng thuỷ lôi vào chúng trong khi ba chiếc sau tách qua bên trái để vượt qua phía đông đảo Savo, nơi xuất hiện bóng nhiều chiến hạm khác. Vài giây sau, hải pháo của các tuần dương hạm Nhật phủ lên hai chiếc Canberra và Chicago một cơn mưa trái phá. Phát hoả và bị nước tràn vào qua hai lỗ thủng lớn, chiếc đầu bị thuỷ thủ đoàn bỏ mặc, trong khi chiếc thứ hai chạy trốn về phía tây. Hạm trưởng thình lình bị các tiếng nổ đánh thức chỉ còn nghĩ đến việc chạy trốn để cứu chiếc tàu, hoàn toàn quên mất rằng Crutchley tạm thời giao cho ông quyền chỉ huy hải đội.Trong thời gian đó, ba tuần dương hạm đoạn hậu của Mikawa len lỏi bằng cách chạy sát bờ đảo Savo cho đến lúc ngang với ba tuần dương hạm Mỹ khác. Đúng lúc các chiến hạm này cho gọi thuỷ thủ đoàn vào vị trí chiến đấu vì được vụ chạm súng trước và hoả châu báo động, thì đến lượt chúng cũng lãnh vô số đạn đại bác bắn ngay kế bên cạnh. Chiếc Quincy, bị chiếc thuỷ phi cơ bốc cháy soi sáng, lập ức lãnh hai thuỷ lôi. Chiếc Vincennes chung số phận tương tự. Riêng chiếc Astoria cố gắng trốn về đảo Savo lại bị lọt vào giữa hai nhóm tuần dương hạm Nhật và chịu một sự trừng phạt cũng nghiêm khắc như thế. Chắc chắn là nó đã bị hạ tại chỗ rồi nếu Đô đốc Mikawa, vì không thấy toàn diện các tuần dương hạm của mình trong cuộc chiến đấu rối loạn, không ra hiệu lệnh tập họp quá sớm về phía bắc đảo. Nhờ án treo đó mà chiếc Astoria có thể sống sót thêm mười giờ, nhưng mặc dầu thuỷ thủ đoàn rất cố gắng, nó cũng phải bị bỏ rơi.Khi Đô đốc Miakawa đã tập họp xong chiến hạm của mình, ông ngần ngại không biết phải làm gì tiếp. Trong trận đánh sấm sét chỉ kéo dài có 32 phút ấy, năm trong số sáu tuần dương hạm đồng minh bị đánh chìm hoặc vĩnh viễn bị loại ra khỏi vòng chiến. Như vậy ông có quyền thoả mãn rồi. Mặt khác, chiếc soái hạm Chokai nhào vào trong trận đánh hỗn loạn bất ngờ đã bị trúng một trái đạn phá làm huỷ diệt phòng bản đồ. Lại ra đi với tình trạng đui mù trong một eo biển nổi tiếng là nguy hiểm cho các cuộc hải trình, đối với ông là quá táo bạo. Đã hai giờ sáng rồi và các tuần dương hạm địch đang còn lẩn quẩn trong vùng kế cận. Nếu ông tiếp tục tiến tới Guadalcanal chắc chắn sáng sớm mai ông sẽ bị các phi cơ của mẫu hạm Mỹ, mà ông chẳng có gì để đối phó, tấn công ngay chóc. Vì vậy ông ra lệnh cho hạm đội theo mình và mở hết tốc độ trở về Rabaul, bở qua cơ hội hiếm có để tiêu diệt ngay các dương vận hạm của Turner và quân dụng quí báu đang chở trên tàu.Trong thời gian đó, trên chiếc Mac-Cawley, Turner chờ đợi báo cáo của Crutchley vốn đã ào ạt ra đi tiếp cứu hải đội trên chiếc Australia. Tin tức được đưa đến càng làm cho nỗi kinh hoàng của ông thêm toàn diện. Chiếc Canberra còn chiến đấu với ngọn lửa nhưng nó đang chìm dần. Chiếc Astoria cũng lâm tình trạng tương tự và đang tìm cách giạt vào bờ biển. Riêng chiếc Quincy và chiếc Vincennes thì hoàn toàn bị đánh chìm. Đấy là một tai biến trước nay chưa hề có. Trong sáu tuần dương hạm của hạm đội dưới quyền Crutchley chỉ còn lại một chiếc duy nhất, chiếc của ông, nhờ phép lạ được cứu thoát bởi vì nó không có mặt ở đấy lúc trận đánh xảy ra... Riêng phần chiếc Chicago thì biến mất. Về sau được biết rằng nó đã chế ngực được ngọn lửa nhưng bị loại khỏi vòng chiến và chạy thật chậm về Espiritu Santo. Hạm trưởng, ý thức được lầm lỗi mà mình đã phạm phải, đã tự sát.Trước Lunga, tiếng súng vang dội và ánh lửa của trận đánh đã gieo rắc hỗn loạn trên các hải vận hạm đang bốc dở hàng. Công việc thật sự không thể nào bắt đầu lại trước bình minh hôm sau.Turner, ngoài những khuyết điểm khác, còn có một khuyết điểm đôi khi rất tốt: ông cứng đầu như một con lừa. Ông đã hứa với Vandegrift là sẽ cho bốc xuống một nửa quân dụng. Ông giữ lời. Dây liên lạc vừa mới chớm nở giữa hai người vì thế lại càng thắt chặt thêm. Mặc dù lực lượng chuyển vận đổ bộ của ông có thể lâm vào tình trạng hiểm nguy vì các tuần dương hạm địch mà ông tin là còn nằm trong vùng kế cận và các phi cơ oanh tạc Nhật từ sáng sớm đã bắt đầu thả bom xuống đoàn hải vận hạm, Turner vẫn ra lệnh bắt tay vào việc trở lại. Lực lượng chuyển vận vẫn bỏ neo suốt buổi sáng hôm sau. Nó lãnh đạm nhận bom của Nhật, vốn chỉ may mắn gây ra rất ít nạn nhân. Đến quá trưa, Turner hài lòng được biết rằng phi trường sẽ có thể tiếp đón các khu trục cơ trong vòng 48 giờ nữa và các khu trục hạm chuyên chở các thùng xăng sắp khởi hành từ Espiritu Santo. Hơn một nửa quân dụng đã được đưa lên bờ và phần nào yên tâm với số phận của các thuỷ quân lục chiến mà ông sẽ để lại đằng sau mình, Turner cho kéo kỳ hiệu nhổ neo.Không được hải lực che chở đúng nghĩa của nó và chỉ với một nửa vũ khí, đạn dược và đồ tiếp tế đã tiên liệu, khu vực chiếm đóng của Mỹ trên đảo Guadalcanal sắp sửa lâm vào trường hợp một đội quân trú phòng bị bao vây.Vandegrift tập họp các sĩ quan và trình bày cho họ tình hình chung. Để kết luận ông nói thêm rằng tổ quốc đang chăm chú nhìn vào thuỷ quân lục chiến và Guadalcanal phải được giữ vững bằng bất cứ giá nào. Phi trường liền được đặt tên là Henderson Field tên của một không đoàn trưởng bị tử trận tại Midway. Tên gọi ấy sẽ có giá trị như một biểu tượng. Khi cuộc họp chấm dứt, các sĩ quan trở về đơn vị phấn khởi vì sự can đảm của ông tướng tư lệnh và các chỉ thị sáng suốt của ông. Ngay đêm đó, niềm phấn khích lan tràn khắp mọi cấp bậc: dầu cho có chuyện gì xảy ra chăng nữa, Guadalcanal cũng sẽ đứng vững.Ngay từ 15 tháng 8, Vandegrift báo hiệu cho Ghormley là Henderson Field đã có thể hoạt động được. Hôm sau các khu trục hạm chở đầy phuy xăng và nhớt đến trước Lunga Point. Ngày 20 tháng 8, 19 khu trục cơ F4F Grumman và 12 oanh tạc cơ đâm bổ SBD của thuỷ quân lục chiến đáp xuống phi trường. Một chu vi phòng thủ vững chắc đã được thiết lập bao chung quanh phi đạo trên mặt trận 10 cây số. Bất chấp ánh mặt trời gay gắt, mưa rào, và muỗi, những con người ấy, những người đã cáu kỉnh biết bao khi phải khuân vác các thùng chứa quân dụng, đã hoàn tất trong vòng mười ngày một công việc mà trong những lúc khác phải đòi hỏi đến hai tháng...Về phía quân Nhật, họ ra sức thắng quân Mỹ bằng tốc độ. Khinh thường một cách quá lố tầm quan trọng và nhất là giá trị các lực lượng của Vandegrift, tướng Hyakudate, tư lệnh lộ quân 17 tại Rabaul đã cho các hải vận hạm kiêm phóng ngư lôi đỉnh chở đến Guadalcanal bộ phận tiền phương của một lữ đoàn bộ binh. Một ngàn người đã đổ bộ lên đảo cách Henderson Field chừng 20 cây số về phía đông dưới quyền chỉ huy của đại tá Ichiki. Cuộc đổ bộ này được thực hiện ban đêm đã thoát khỏi tai mắt quân Mỹ, nhưng một toán tuần tiễu của Nhật lại bất cẩn tiến quá xa một cách lộ liễu. Ichiki quyết định tấn công ngay mà không chờ phần còn lại của lữ đoàn được đưa đến. Viên đại tá này vốn vừa từ các thuộc địa Hà lan tại Ấn Độ Dương đến, nơi ông từng biết các chiến thắng dễ dàng, tưởng tượng có thể đánh úp thuỷ quân lục chiến Mỹ trước khi họ kịp chạy vào chiến hào và đẩy họ ra biển chẳng khó khăn gì cả.Ngày 21 tháng 8, lúc 3 giờ sáng, ông tung quân xung phong vào dải cát chắn ngang trước cửa sông Ilu mà thủy triều rút xuống đã để lộ lên khỏi mựt biển. Ba trăm bộ binh vừa gào thét vừa nhào vào các cứ điểm phòng thủ của Mỹ, vài người còn cắm cả lưỡi lê vào đầu súng. Nhưng lập tức bị phản công bởi vũ khí tự động và pháo binh nhẹ, họ bị giết tại chỗ hoặc phải rút lui. Một giờ sau, Ichiki tấn công trở lại, lần này dựa vào hoả lực yểm trợ của pháo binh. Một cuộc đấu sức cực kỳ dữ dội xảy ra trên cửa sông, nhưng các pháo đội của Mỹ đặt trên các đỉnh đồi san hô phía tây con sông đã cho quân Nhật vào tròng và chặn đứng đà tấn công. Lúc đó Vandegrift phái ba trong các đại đội ưu tú nhất của ông tiến quân về nam để đánh bọc hậu lực lượng của Ichiki trước khi trời tối, các đại đội này đã được rừng rậm che khuất. Đến 9 giờ sáng, họ vượt qua sông trên một chiếc cầu dã chiến. Lệnh xung phong toàn diện được ban hành lúc 14 giờ dưới sự che chở của các phi cơ khu trục vừa mới đến Henderson Field hôm trước. Quân Nhật bị bao vây và bị quấy rối khắp mọi phía, đã kháng cự cực kỳ hung dữ, chứng tỏ lần đầu tiên, sức chịu đựng phi thường mà họ có thể biểu lộ trong các trận đánh phòng thủ. Đến 17 giờ, Ichiki toan tính một nỗ lực cuối cùng để phá vỡ chiếc thòng lọng đang siết chặt chung quanh quân đoàn của mình. Vô ích. Vài binh sĩ thoát chạy được dọc theo bờ biển đều bị liên thanh của các phi cơ bay sát mặt đất bắn gục.Khi các thuỷ quân lục chiến vượt qua các đống xác tiến vào doanh trại của Nhật, họ chỉ trông thấy còn có 130 người sống sót. Khi dở tấm ván che của một chiếc lều dã chiến dùng làm bộ chỉ huy lên, họ thấy một hình dáng màu trắng nằm sóng sượt trong một vũng máu. Đến phút chót, khoác chiếc Kimôn đại lễ vào người trên đó có ghim một mảnh giấy ghi lời xin lỗi Thiên hoàng, đại tá Ichiki đã dùng dao găm tự mổ bụng.Thế là xong cuộc xung phong đầu tiên của quân Nhật vào Henderson Field chấm dứt. Chiến công này đã làm cho thuỷ quân lục chiến Mỹ say sưa đôi phần, nhưng Vandegrift biết rằng đấy chỉ mới là một cuộc chạm trán sơ sơ. Ông được tổng hành dinh của tướng Mac Arthur, nay được đặt tại Brisbane, tiên báo rằng phần còn lại của lữ đoàn do tướng Kamaguchi chỉ huy sắp sửa ra khơi dưới sự yểm trợ của một hải lực hùng mạnh.

Anh hùng ca của thuỷ quân lục chiến

Các tin tức đáng lo ngại từ Melbourne chuyển đến cho Ghormley đã xuất phát từ một nguồn cung cấp vừa bất ngờ vừa phi chính thống, nguồn tin mà cho đến lúc ấy quân Mỹ chấp nhận với rất ít tin tưởng.Các nhà chức trách của Liên hiệp Anh và chính phủ Úc đã mô phỏng theo kiểu cơ quan tình báo Anh, tổ chức một màng lưới nhân viên tình báo gọi là "coast watchers" (trinh sát viên duyên hải) trên các đảo thuộc quyền tại phía nam Thái Bình Dương. Các nhân viên này được tuyển mộ hoặc trong số công chức của cơ quan hành chính, hoặc trong số các chủ đồn điền sống trên các đảo từ lâu. Phần đông đấy là những người bạo gan, biết rất rõ rừng sâu và rất quen thuộc với phong tục tập quán của dân bản xứ mà họ có thể giao tiếp bằng thổ ngữ. Họ đã được huấn luyện từ thời bình về các sứ mạng tình báo và mỗi người có một máy phát tin xách tay giúp họ có thể liên lạc được với Melbourne. Khi quân Nhật đến chiếm đảo, họ rút lui vào rừng với các hướng đạo viên bản xứ. Trên các đảo như Tân Bretagne, họ vẫn ẩn trốn trong rừng nhờ sự thông đồng của dân bản xứ. Tại Bongainville, viên chức Read rút lên phía bắc đảo, trong khi phía nam, chủ đồn điền Paul Mason, một người nhỏ thó chừng 40 tuổi mà dưới một vẻ bề ngoài hiền lành nhu nhược, ẩn giấu cả một ý chí và một tinh thần táo bạo khó tin, thì canh chừng các eo biển cho đến đảo Shortland. Cả hai người này sẽ vẫn giữ vững cứ điểm của mình cho đến khi lãnh thổ họ được giải phóng, bất chấp các thử thách tàn bạo, mà không hề được tưởng thưởng, được thăng cấp gì cả, và trong gần một năm trời đã liên tục cung cấp nhiều tin tức vô giá.Tại Tân Georgie, chính viên chức hành chính Tân Tây Lan, tên Đonal Kennedy phụ trách việc canh chừng địch. Sau vô số nghịch cảnh phải chịu đựng, ông đến ở trên bán đảo Ségi nằm về phía cực nam của đảo, tại đó ông sống trong một ngôi nhà xa hoa theo kiểu một nhân vật của Jack London. Không những chỉ thông báo cho Henderson Field các phi đoàn và hải lực địch đi qua, ông còn thu lượm các phi công bị bắn hạ và cùng với các cảm tử quân bản xứ luôn luôn làm cho các toán quân Nhật đi lùng kiếm phải chịu thất bại.Vào cuối tháng 8, được ông báo cho biết rằng hải quân Nhật đang thể hiện một mức hoạt động không ngừng gia tăng giữa Rabaul và Shortland, Ghormley ra lệnh cho Fletcher nhổ neo với các mẫu hạm Enterprise và Saratoga được hộ tống bởi một thiết giáp hạm (đây là chiếc North Carolina vừa mới được tách khỏi hạm đội Đại Tây Dương để đến tăng cường cho hạm đội của Ghormley), bốn thiết dương hạm và mười khu trục hạm.Về phía Nhật, Yamamoto phái Nagumo với các mẫu hạm Shokaku, Zuikaku và tiểu hạm Ryujo đến phía đông quần đảo Salomon để che chở tầm xa cuộc đổ bộ quân của tướng Kawaguchi.Hai lực lượng hải quân Nhật, Mỹ gặp nhau ngày 24 tháng 8 trong các điều kiện gần tương tự với trường hợp xảy ra trong biển Corail. Các phi đoàn Mỹ bay đến chiếc tiểu mẫu hạm Tyujo đi đầu, trong khi đó phi cơ của chiếc Zuikaku tấn công chiếc Enterprise và chiếc thiết giáp hạm North Carolina. Nhiều trận không chiến cực kỳ dữ dội đã nối tiếp nhau không ngừng suốt buổi sáng mà không quyết định được kết quả cuộc chiến. Chiếc Enterprise bị trúng ba quả bom, tay lái bị hư Riêng chiếc Ryujo thì bị chìm ngay đợt tấn công đầu tiên.Vào quá trưa, bầu trời phủ đầy mây và hai bên đối thủ tách rời nhau ra. Đến tối Fletcher quyết định dứt chiến và đưa chiến hạm của ông trở về Espiritu Santo.Cuộc đụng độ không có kết quả rõ rệt này một lần nữa lại được hai bên coi là chiến thắng của mình. Có lẽ đó là một chiến thắng của Mỹ thật nếu như chiếc Saratoga lại không bị trúng thuỷ lôi của một tàu ngầm Nhật khiến bị hư hại nặng trên đường về. Các cuộc giao đấu ấy gia dĩ lại không có ảnh hưởng gì đến tình hình tại Guadalcanal. Chúng không ngăn cản được lữ đoàn bộ binh của Kawaguchi đổ bộ trong đêm tối về phía đông nhờ các khu trục hạm đi đi lại lại.Lần này Vandegrift bị đe doạ bởi một lực lượng quan trọng khác hẳn với đoàn quân của Ichiki: hơn bảy ngàn người nay đã có mặt trên đảo và đang chuẩn bị một cuộc xung phong mới.Trong thời gian hai tuần lễ tiếp theo, hai bên đối thủ phân phối lực lượng, dự liệu cho cuộc chiến đấu. Vandegrift nhận thêm được hai trung đoàn tăng viện của sư đoàn 2 thuỷ quân lục chiến đang được thành lập và Kawaguchi tiếp đón các binh sĩ tiên phong của công binh và đã cực nhọc vạch được một con đường mòn khá rộng trong rừng rậm giúp bọc vòng chu vi phòng thủ của Mỹ về phía nam và nối tiếp được với các thuỷ quân lục chiến Nhật đang đóng tại phía tây sông Lunga từ đầu cuộc chiến. Ngày 12 tháng 9, ngay giữa đêm tối, tiếng súng vang động như sấm và ánh hoả châu đã đánh dấu phút khởi đầu của cuộc tấn công. Một giờ trước đó, áp dụng một phương pháp mà sau đó sẽ được hoàn thiện mỹ mãn, Kawaguchi đã biệt phái các toán "đánh trộm" chỉ võ trang bằng kiếm, xâm nhập vào phòng tuyến sau khi cắt cổ lính gác mà họ không kịp kêu một tiếng nào. Ngay từ khi bắt đầu hành động, nhiều kẽ hở thật sâu bị mở toang trên sườn phía nam của chu vi phòng thủ. Nhiều trận đụng độ khốc liệt đã xảy ra suốt đêm và, khi bình minh vừa ló dạng, hàng trăm oanh tạc cơ Nhật bay đến hết đợt này đến đợt khác dưới sự yểm trợ của vài khu trục cơ. Một cuộc trình diễn bi thảm bên trên các chiến binh, trong một bầu trời tối sẫm vì tiếng nổ và khói từ các phi cơ bị bắn hạ. Sau hai ngày đụng độ ác liệt, các tiểu đoàn của Kawaguchi đã bắt buộc quân Mỹ lùi lại một cây số trên cạnh sườn một đỉnh núi san hô tơi tả, song song với dòng sông Lunga, được quân Mỹ đặt cho tên "Bloody Ridge" (Đỉnh đồi máu). Nhiều cuộc xâm nhập đã xảy ra và bộ chỉ huy của Vandegrift suýt bị tiêu diệt... Kiệt sức vì ba mươi sáu giờ chiến đấu liên tục trong không khí nóng bức ngột ngạt của rừng già, thuỷ quân lục chiến Mỹ sắp sửa buông xuôi. Nhưng thái độ anh hùng của các sĩ quan và sự hiện diện liên tục của ông tướng tư lệnh tại điểm bị tấn công mạnh nhất đã nâng đỡ được tinh thần dũng cảm của binh sĩ. Về phía quân Nhật, họ bị những tổn thất kinh khủng. Thấy lực lượng của mình giảm dần, Kawaguchi từ bỏ việc theo đuổi cuộc tấn công và ra lệnh rút lui toàn diện.Trong tâm trí ông, đấy chỉ là một cuộc rút lui chiến lược. Trận đánh này đã cung ứng cho ông các bài học mà ông tìm kiếm. Ông đã hoàn thiện chiến thuật chiến đấu trong rừng rậm và đối với ông, chắc chắn ông sẽ chiến thắng ngay khi nhận được vài tiểu đoàn hiện đang bị thiếu hụt.Rủi thay cho ông ta, Turner, nhờ các mối giao thiệp cao cấp mà ông còn giữ được với Ngũ giác đài, đã nhận được trong thời gian ấy tăng viện về vũ khí, phi cơ và người. Ngày 18 tháng 9, một đoàn công voa đầu tiên với sáu hải vận hạm-trong đó có chiếc Mac Cawley táo bạo đổ bộ 4.000 người và 147 xe thiết giáp trên bờ biển Lunga dưới sự che chở của khu trục cơ và oanh tạc cơ đâm bổ. Thành công của chiến dịch sẽ toàn vẹn nếu chiếc mẫu hạm Wasp, mà Fletcher phái đến để tung các phi cơ lên trên Henderson Field, lúc quay về không bị rơi vào ổ phục kích của tàu ngầm Nhật, và bị thuỷ lôi của chúng đánh chìm.Bất chấp vụ què quặt mới xảy đến cho hạm đội che chở ấy, Turner tiếp tục một cách can đảm các chuyến đi về tiếp tế và đổ thêm lên bãi biển vài tiểu đoàn nữa.Vững mạnh nhờ ưư thế về số lượng, Vandegrift quyết định tấn công bãi biển đổ bộ của Nhật tại phía tây sông Lunga. Ông đã thất bại. Địa thế rất khó khăn. Hàng trăm thuỷ quân lục chiến suýt bị bao vây gữa hai con sông. Cuộc tấn công bị huỷ bỏ ngay cả trước khi bắt đầu.Kết quả của cuộc điều quân này là đưa quân Nhật lên đóng trên núi Austen, một ngọn đồi cao chung quanh bao phủ bởi một khu rừng già nổi danh là không thể xuyên qua được, từ đó họ chế ngự được vòng đai phòng thủ và có thể quan sát được tất cả hoạt động của Henderson Field.Đến đầu tháng 10 năm 1942, đội quân trú phòng của Vandegrift đã được nâng lên đến 19.500 người, quân số của Kawaguchi chỉ mới được là 12.000 người, nhưng các vị trí của ông thì không thể nào bị chiếm được và tạo thành các cc xuất phát tuyệt diệu. Ngoài ra, gần như hàng đêm ông nhận được tiếp viện nhờ các đoàn công voa nhỏ gồm có các khu trục hạm chuyển vận mà quân Mỹ đặt cho cái tên là "chuyến tốc hành Đông Kinh".Từ đó, trận đánh tại Henderson Field mang một hình thái khác. Tất cả mọi hoạt động của hải quân và không quân đều được tập trung vào phi trường này làm như nó là trung tâm điểm của trái đất. Một cuộc chạy đua bằng tốc độ được tung ra cho bên nào đến trước đổ được nhiều quân và chiến cụ nhiều nhất. Trong các trận đánh kéo dài bất tận đó, cả hai đối thủ đều sẽ chứng tỏ cùng can đảm như nhau cùng lì lợm như nhau và-cần phải nói điều này-cùng thiếu óc tưởng tượng như nhau. Thay vì tử tìm cách khác-chẳng hạn như xây dựng một phi trường cạnh đó-họ bám cứng ngắt ở đó như các con cừu đực húc đầ gài sừng vào nhau và không thể nào tách rời nhau ra được nữa...Đến giữa tháng 10, rốt cuộc hiểu rằng họ sẽ không bao giờ thắng được nếu chính họ không mang đến đại pháo và thiết giáp, quân Nhật quyết định phá huỷ các kho dự trữ xăng và các cơ sở tại Henderson Field bằng các cuộc hải pháo. Một lực lượng đặc nhiệm Nhật gồm nhiều thiết dương hạm và hai thiết giáp hạm được tập họp tại Shortland.Được Mason đảm lược báo trước, ông ta vẫn luôn luôn canh chừng địch bất chấp các thử thách Ghormley cũng vậy, phái các thiết dương hạm của mình đến xung quanh đảo Savo để chặn ngang eo biển. Nhiều cuộc đụng độ rối loạn xảy ra trong đêm tối trước mũi Espérance, nhưng chúng không ngăn cản được quân Nhật cày nát Henderson Field bằng các cuộc hải pháo vĩ đại từ các thiết dương hạm và thiết giáp hạm.Các cuộc pháo kích này đã đạt đến mức tột đỉnh trong đêm 15 rạng 16 tháng 10 năm 1942. Ánh mặt trời lên cao chiếu sáng một quang cảnh lăng nhục nhất. Những thuỷ quân lục chiến còn đang ngô ngô thất thểu vì những tiếng nổ của đạn pháo từ các chiến hạm và của những phuy xăng, khi bước ra khỏi hầm trú ẩn liền thấy bốn hạơc năm tàu chở hàng của Nhật đổ quân lên bãi như trong một cuộc thực tập. Không một khu trục cơ nào của Mỹ còn sót lại sau cuộc tận diệt có thể cất cánh, và viên sĩ quan chỉ huy trưởng căn cứ hò hét ầm ĩ: "Trời ơi! Các anh hãy đi tìm xăng đi, và lẹ lên!". Các binh sĩ phân tán khắp phi trường và chạy hụt hơi tìm kiếm các thùng xăng dự trữ được che giấu. họ tìm được vài thùng, rồi chuyển bằng ống cao su vào bình chứa của các pháo đài bay B-17 vừa từ Úc đến, tất cả đều ít nhiều bị hư hại vì cuộc hải pháo. Một giờ sau, các khu trục cơ đầu tiên cất cánh để che chờ cho các phi cơ vận tải chờ xăng được Turner hấp tấp phái đến. Buổi tối, một tàu ngầm đem đến thêm 30 tấn nữa. Nhờ đó Henderson Field lại được diên trì thêm một lần nữa, nhưng chưa bao giờ các quân nhân phòng thủ lại cảm thấy khốn khổ đến như thế. Cùng ngày hôm đó, Đô đốc Nimitz, vốn cam tâm chịu đựng thái độ dửng dưng của Bộ Quốc phòng từ trước đến nay, đã tóm tắt tình hình trong mấy dòng sau: "Đã có chứng cớ cho thấy chúng ta không có khả năng kiểm soát hải phận trong khu vực Guadalcanal nữa. Vì vậy chúng ta không thể tiếp tục tiếp tế cho các cứ điểm bạn với giá những hy sinh quá lớn lao tình hình không đến nỗi tuyệt vọng, nhưng đã quá đỗi hiểm nguy".Sự lượng giá rất đụng chạm này vốn của một người luôn luôn mềm dẻo như ông đã đem lại kết quả mong muốn. Đô đốc King, mặc dầu bị thu hút hoàn toàn vào mối ưu tư dành cho các đoàn công voa lớn lao tiến tới Bắc Phi vừa nhổ neo ra khơi, đã thông báo kịp thời cho Roosevelt. Tổng thống Mỹ lập tức gửi một điệp văn đầy đe doạ cho các thành viên uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng minh, truyền lệnh "tăng viện cho Guadalcanal, và làm mau...".Một loạt các biện pháp mạnh mẽ được áp dụng mà biện pháp đầu tiên-và chắc chắn là biện pháp ít thích nghi nhất là-một sự xáo trộn toàn diện bộ chỉ huy cao cấp. Đô đốc Halsey, với sức khoẻ đã khả quan, đến thay Ghormley. Đô đốc Kinkaid đến thế chỗ nhân vật đảm lược Fletcher người bị trách cứ là đã rút lui các mẫu hạm quá sớm trong đêm 8 tháng 8. Quả thật là một vụ thay đổi xà ích ngay khúc sông cạn...Nhiều biện pháp khác tiếp tục được áp dụng mang lại cho các chiến sĩ bảo vệ Henderson Field một sự tiếp cứu rõ rệt hơn. Một thiết giáp hạm mới 35.000 tấn, chiếc South Dakota vừa mới được trang bị một rừng cao xạ DCA, 6 tuần dương hạm, 90 oanh tạc cơ đâm bổ, 75 khu trục cơ của lục quân, 2 phi đoàn B-17, 24 tiềm thuỷ đỉnh, và một hải đoàn khinh tốc đỉnh, đấy là món quà mừng lên chức của vị tư lệnh mới.Vì bếit rằng sự bổ nhiệm vừa qua bắt nguồn ở danh tiếng hiếu chiến của ông, Halsey lập tức ra lệnh cho tất cả chiến hạm dưới quyền nhổ neo ra khơi.Về phía Nhật, Bộ tư lệnh cũng chịu đựng các thay đổi tương tự. Kawaguchi bị đặt dưới quyền Đại tướng Maruyama vừa đến cùng với quân tăng viện và Đô đốc Kondo, mặc dầu liên tục chiến đấu ngay từ đầu, đã thay thế Nagumo chỉ huy hạm đội hàng không mẫu hạm. Trong lúc Maruyama tung ra một đợt tấn công mới và cày nát Henderson Field từ trên cao đỉnh Austen, Lực lượng Đặc nhiệm của Kondo chạy xuống nam dọc theo phía đông quần đảo Salômn hy vọg gặp hạm đội Mỹ, mà theo các tin tức ông có được, thì chỉ còn lại có một mẫu hạm.Ít ra cùng là trên điểm này, dự đoán của ông quá lạc quan. Ngoài mẫu hạm Hornet, Halsey còn có chiếc Enterprise vừa được sửa chữa vội vàng, đã trở lại chiến tranh chiến đấu. Hai thiết giáp hạm, hai tuần dương hạm nặng và ba tuần dương hạm phòng không bổ huyết cho Lực lượng Đặc nhiệm của Hoa Kỳ như thế là được trang bị một hoả lực phòng không tập trung mạnh mẽ cho đến lúc ấy chưa bao giờ được thực hiện.Bình minh ngày 26 tháng 10 năm 1942, trong lúc mẫu hạm Enterprise và Hornet tiến ngược lên theo phía đông quần đảo Salomon đến ngang đảo Guadalcanal, một PB-Y Catalian báo hiệu thấy hạm đội địch. Bất chấp lực lượng chênh lệch, ông Tư lệnh hăng hái Halsey tung ra một hiệu lệnh rất đúng kiểu của ông: "Tấn công! Tấn công! Tôi lặp lại: Tấn công!". Mẫu hạm Enterprise vốn đã phóng lên một phi đoàn oanh tạc cơ tuần tiễu, liền chuyển cho nó mệnh lệnh tấn công này. Thấy chiếc tiểu mẫu hạm Zuiho đi đầu Lực lượng Đặc nhiệm Nhật, các oanh tạc cơ đâm bổ nhào vào và đánh chìm nó trong vài phút. Nhưng các phi đoàn của mẫu hạm Zuikaku và Shokaku đã lên đường. Chúng gặp các phi cơ của mẫu hạm Enterprise, và các khu trục cơ Zéro, ẩn nấp trong mây, đâm bổ từ 7000 thước xuống để tiêu diệt địch. Một nửa tổng số oanh tạc cơ Mỹ bị hạ. Những chiếc khác theo đuổi cuộc tấn công và đánh trúng chiếc Shokaku rồi tiếp đến lại các phi đoàn của chiếc Hornet bay đến oanh tạc.Trong thời gian đó các phi đoàn Nhật vượt qua mẫu hạm Enterprise vốn được một cơn mưa rào nhiệt đới thiên nhiên che chở. Thấy chiếc Hornet chúng đổ dòn đến tấn công bất chấp hàng rào phòng không kín mít của các giàn cao xạ trên những tuần dương hạm. Viên phi công một oanh tạc cơ bị bốc cháy điều khiển để phi cơ đâm vào sàn tàu mẫu hạm, trong lúc đó phi công một phi cơ phóng thuỷ lôi tấn công hụt, tự ý đâm sầm phi cơ xuống phi đạo của mẫu hạm, thế là họ đã khai mào cho chiến thuật tự sát ghê rợn, mà hai năm sau sẽ được tổng quá hoá một cách bi thảm. Bị cháy từ trước ra sau và không thể nào điều khiển được nữa, chiếc mẫu hạm đáng thương biến thành tấm bia cho các đợt phi cơ tiếp nối nhau và sau cùng bị thuỷ thủ đoàn bỏ lại. Sau đó ít lúc, nó chìm luôn. Đến lượt mẫu hạm Enterprise bị tấn công, nó nhận lãnh hai quả bom, mà một quả trúng thang máy nâng phi cơ và chỉ nhờ vào hoả lực của chiếc thiết giáp hạm South Dakota mới thoát khỏi tay những phi cơ tấn công. Về phía Nhật, Kondo cũng chịu đựng nhiều tổn thất. Mẫu hạm Shokaku lại bị trúng bom nữa và chiếc Ruyho bị đánh chìm và mang theo chừng 30 phi cơ cùng chừng ấy phi công. Khi được báo cáo là chiếc Hornet và chiếc Enterprise "bốc cháy", vị tư lệnh hạm đội Nhật quyết định không theo đuổi cuộc tấn công nữa. Đến 11 giờ sáng ngày một bản tin chiến thắng quá lạc quan của tướng Maruyama lại khiến ông nghĩ rằng việc chiếm Henderson Field chỉ còn là vấn đề thời gian. Ông liền tập họp hạm đội và trở về Rabaul tin rằng đã mang về một đại chiến công.Đấy là một chiến thắng theo kiểu Pyrrhus. Quân Nhật mất 100 phi cơ và 80 phi công phần đông không thể thay thế được vì họ là nhóm ưu tú nhất của không lực thuộc hải quân Nhâậ. Tình hình bên phía Mỹ cũng trầm trọng như thế. Ngoài việc mất chiếc Hornet và 75 phi cơ, những hư hỏng xảy đến cho chiếc Enterprise sắp khiến cho hạm đội của Halsey không còn lại hàng không mẫu hạm nào đúng vào lúc các đơn vị phòng thủ Henderson Field phải chịu đựng cuộc tấn công quy mô nhất trong trận chiến.Trong tình trạng không thể cung ứng cho Turner sự che chở bằng không quân cần thiết để thực hiện cuộc đổ bộ các lực lượng tăng viện và tiếp tế cho Guadalcanal vào ban ngày, Halsey ra lệnh cho ông phái các hải vận hạm đến ban đêm trước Lunga theo kiểu "chuyến tốc hành Đông Kinh".Không muốn tái diễn kinh nghiệm đáng buồn đêm 9 tháng 8 tại đảo Savo, Turner điều nghiên thật kỹ các biện pháp phải làm trước khi bắt đầu công tác nguy hiểm này. Trong tám ngày liền, ông phái các phi cơ B.17 và B25 từ Espiritu Santo đến oanh tạc các vị trí Nhật để tiêu diệt các ổ súng phòng thủ bãi biển và cho tập họp tất cả tuần dương và khu trục hạm để chặn ngang eo biển trong khi có cuộc đổ bộ. Ông còn yêu cầu cả Halsey cho biệt phái khi cần hai thiết giáp hạm thuộc quyền, chiếc South Dakât và chiếc Washington vừa mới đến. Ý tưởng sử dụng các đại chiến hạm như thế này rất cách mạng, được Halsey chấp thuận trên nguyên tắc.Kể từ 11 tháng 11 năm 1942, các hải vận hạm của Turner gần như đi lại hàng đêm và một thứ trò chơi cút bắt kỳ lạ đã xảy ra giữa các tuần dương hạm Mỹ đảm bảo sự che chở chung quanh đảo Savo và các tuần dương hạm cùng khu trục hạm của "chuyến tốc hành Đông Kinh" tìm cách vượt qua eo biển. Khi các cuộc đụng độ xảy ra, thường thường chính quân Nhật nắm thế chủ động bởi vì, mặc dầu có ưu thế lớn lao nhờ vài giàn rada tinh xảo mà quân Mỹ có trong tay, tình trạng thiếu huấn luyện cho các chuyên viên chưa cho phép quân Mỹ vượt trội hơn các trinh sát viên đêm của Nhật vốn có khả năng phi thường. Các chiến hạm Mỹ thường bị bất ngờ vì ánh lửa léo lên đột ngột do tiếng nổ của một thuỷ lôi Nhật và tiếp theo đó những ánh chớp rung chuyển của tiếng đại bác. Nhờ có số đông, chiến hạm Mỹ trả đũa bằng một màn hoả lực thường không chính xác nhưng cũng đủ nguy hiểm chết người khiến phải e dè. Cuộc mạo hiểm kết thúc bằng các trận đánh đối phương cận chiến tương tự lạ lùng với những trận chiến tại Lépante năm 1571. Điểm khác biệt duy nhất là chúng chỉ kéo dài có 30 hoặc 40 phút thay vì suốt ngày, nhưng cũng giống như tại Lépante, các bên đối thủ tản mác đi nơi khác mà không biết ai là kẻ thắng trận.Cuộc đụng độ bi tráng sau cùng thuộc loại này đã xảy ra đêm 14 rạng ngày 15 tháng 11 năm 1943 tại eo biển rất xấu giữa Savo và mũi Espérance. Hai đối thủ đã tung ra tất cả các lực lượng cơ hữu. Phía nhật thì thiết giáp hạm Kirishima, ba tuần dương và mười khu trục của Đô đốc Kondo, bên phía Mỹ thì hai thiết giáp hạm Washington và South Dakota do bốn khu trục hạm hộ tống - tất cả các tuần dương hạm của Mỹ đều bị đánh đắm hay bị hư hại nặng trong những lần đụng độ trước. Trận chiến khởi đầu rất tệ cho bên Mỹ vì vài khu trục hạm hộ tống đã bị áp đảo bởi ưu thế tuyệt đối về kỹ thuật cũng như về số lượng của khu trục hạm Nhật. Ngoài ra rủi ro còn muốn cho chiếc South Dakota bị hỏng điện nên không thể bắn được. Chính Đô đốc Lee, trên thiết giáp hạm Washington, là người đã cứu vãn tình thế. Vừa cho chiến hạm chạy lên ngang chỗ các khu trục hạm bị tàn sát và vừa ném bè cấp cứu xuống cho các thuỷ thủ đoàn đang vùng vẫy trong mặt nước đầy dầu cặn, ông khám phá qua máy rada các tuần dương hạm của Kondo và chiếc thiết giáp hạm Kirishima đang nhào đến Lunga để tiêu diệt phi trường Henderson Field. Biết rằng không bị địch trông thấy, ông để cho họ tiến đến gần còn 8.000 thước và, đúng 12 giờ đêm, ông ra lệnh khai hoả. 75 đạn pháo 480 ly, chỉ trong vài phút, rơi xuống thiết giáp hạm Nhật khiến nó biến ngay thành một xác tàu cháy đỏ rực, trong khi Đô đốc Kondo và các tuần dương hạm của ông phải mở hết tốc lực rút lui. Yamamoto không bao giờ tha thứ hành động chạy trốn này, và mặc dầu có một quá khứ sáng chói, ông ta cũng bị Yamamoto tước quyền tư lệnh ngay. Trong khi xảy ra các trận hải chiến ác liệt này, lực lượng thuỷ quân lục chiến của Vandegrift đã được tăng viện gần như toàn diện sư đoàn 2 và một sư đoàn bộ binh được thành lập vội vàng tại Tân-Calédonie và mang một danh xưng rất mỹ lệ: Americal Division (American Caledoian Division). Vandegrift đã mở lại cuộc tấn công dọc theo bờ biển hướng về con sông Manitaku và sắp vượt qua. Quân Nhật mưu toan thực hiện một cuộc đổ bộ lên phía đông của chu vi phòng thủ nơi mà Yamamoto ra lệnh phải lập một phi trường khác, nhưng họ đã bị thất bại đổ máu. Tiếp theo cuộc hành quân đắt giá này, quân Nhật tập trung về phía bắc và phía tây chu vi phòng thủ Mỹ, nơi đây họ còn có thể bám chắt ven biên nhờ cứ điểm kinh khủng trên đồi Austen.Tình trạng mất quân bình lực lượng ngày càng gia tăng. Bị báo động vì các tổn thất về chiến thuyền và nhất là phi cơ, Yamamoto đề nghị với Tojo bỏ Guadalcanal. Vừa mới từ bỏ kế hoạch đẩy Mac Arthur ra khỏi Tân-Guinée, để có thể tăng viện cho Guadalcanal quân đoàn của Maruyama, Tojo từ chối cuộc rút lui nhục nhã ấy.Yamamoto phải nhượng bộ, nhưng dường như, ngay từ lúc ấy, ông đã coi như canh bài đã bị thua, vì không bao gìơ ông còn tái diễn một cuộc hành quân qui mô nào để đánh Henderson Field nữa. "Chuyến tốc hành Đông Kinh" chót có tầm khá quan trọng đã vượt qua các eo biển ngày 30 tháng 11 trong một đêm trời tối đen như mực. Điểm đổ bộ được dự liệu là một bãi cát gần một vùng biển nhỏ đầy đá gọi là Tassafaronga. Đoàn công voa gồm có tám khu trục hạm không có tuần dương hạm nào hộ tống. Mặc dầu các cầu tàu chật ních quân lính, phuy xăng và thùng lương thực đạn dược tiếp liệu, các chiến hạm nhỏ này đã thực hiện một thành tích đẹp đẽ nhất trong cuộc chiến bằng cách phóng thuỷ lôi vào bốn tuần dương hạm Mỹ đến chặn đầu chúng. Một trong các tuần dương hạm bị đánh chìm, và ba chiếc khác bị hư hại nặng nề đến nỗi phải trở về Mỹ. Hành động sáng chói này nếu đã có thể giúp mang lại đôi chút thoải mái cho các đoàn quân Nhật Bản mệt nhoài và thiếu ăn, thì cũng là một hành động vô vọng chót.Từ đầu tháng 12 năm 1942, quân số của Mỹ trên đảo gia tăng đến 40.000 người; quân số của Nhật rớt xuống còn 25.000 trong tình trạng thể chất và tinh thần tệ hại. Đây là lúc thích nghi nhất để cho di tản Sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến vốn phải chịu dựng trong năm tháng liền những trận đánh hàng ngày trong các điều kiện vô nhân đạo. Những trường hợp mắc bệnh sốt rét, kiết lỵ và suy nhược thần kinh đã vọt tăng nguy hiểm. Đã đến lúc phải cho đơn vị vinh quang này nghỉ ngơi.Ngày 9 tháng 12, tướng Vandegrift bàn giao quyền chỉ huy lại cho tướng Patch, tư lệnh Sư đoàn Americal, và vĩnh viễn rời luôn Guadalcanal cùng với các bộ phận còn lại của Sư đoàn ông. Những người mới đến, hầu hết đều thuộc Lục quân, phải mất ít lâu mới làm quen được với rừng già Guadalcanal và khí hậu ghê rợn tại đấy. Cho đến cuối năm ấy, hai bên đối phương án binh chờ đợi, quân Nhật đành phải tiếp tế tằng tiện cho binh sĩ của họ bằng cách phái các tàu ngầm ban đêm chở đến một số thực phẩm, phuy xăng, phần quân Mỹ thì ngày nào cũng gửi dương vận hạm đến, dưới sự che chở của một lực lượng không quân khổng lồ.Trong tháng giêng năm 1943, cuộc tấn công đầu tiên vào cứ điểm đồi Austen đã chạm phải một hệ thống phòng thủ không thể vượt qua được. Không dám tiến quân trước khi vô hiệu hoá cứ điểm ấy, Patch chờ được tăng viện thêm người và vật liệu để bao vây ngọn đồi, do đó mặt trận trở nên ổn định.Về phía Halsey, ông đã rút ra bài học nhân các sự thất bại vừa qua. Nimitz, đã theo ý kiến của ông, viết một phúc trình cho rằng nguyên nhân của các thất bại ấy là sự huấn luyện đáng phàn nàn của các tuần dương hạm và khu trục hạm theo chiều hướng chỉ biết có sứ mạng hộ tống khiến cho chúng mất hết các ý tưởng tấn công. Sự ổn định tình hình tại Guadalcanal và sự biến dần các "chuyến tốc hành Đông Kinh" dường như cho thấy một chiều hướng mới trong chiến lược của Nhật, Halsey liền gọi các chiến hạm trở về phía nam để tập họp lại và huấn luyện chúng.Trong hai tuần đầu của tháng giêng, cuộc tấn công lên đồi Austen bị hoãn lại ngày này đến ngày khác vì lý do thiếu hụt chiến xa nhẹ và tình trạng bi đát của các phi đạo bị các con sông đầy bùn lầy cản trở. Tuy vâth ngày 18 tháng giêng, ba chiến xa nhẹ cũng tấn công lên sườn phía tây. Hai chiếc bị sa lầy nhưng chiếc thứ ba bò lên được đến đỉnh. Trong khi nó pháo và phía sau pháo đài Gifu, nơi dường như còn các binh sĩ khoẻ mạnh cuối cùng của Nhật rút vào ẩn nấp, các thông dịch viên Mỹ dùng loa phóng thanh thúc giục họ đầu hàng. Lời kêu gọi chẳng có kết quả gì. Một vài tù binh bị bắt khi được thẩm vấn đã cho rằng một số binh sĩ không mong gì hơn là được đầu hàng, nhưng họ sợ các sĩ quan và cũng chẳng còn sức đâu mà đi tới được nữa...Nhiều chiến xa đã tiếp nối được chiếc đầu tiên chạy đến tận pháo đài Gifu, sau hai ngày oanh tạc dữ dội, Patch ra lệnh thử tấn công. Một chiến xa chọc thủng được phòng tuyến và một cuộc cận chiến hung tàn xảy ra sau nó, trong hệ thống mê cung gồm hang hốc và các hầm trú ẩn che đậy bằng các thân cây. Đến 2 giờ sáng đêm 22 rạng 23 tháng giêng, chừng 100 binh sĩ Nhật nhảy ra khỏi chỗ ẩn nấp theo lệnh của thiếu tá Inagaki, chỉ huy trưởng cứ điểm, vừa ném lựu đạn vừa nổ súng tự động. Tất cả toán quân đều bị đốn ngã mau lẹ. Khi trời sáng, 85 xác chết nằm sóng sượt trước các hầm ẩn nấp trong đó hai đại đội bộ binh Mỹ rút vào để đẩy lùi cuộc phản công tự sát này. Trong số xác chết có Inagaki, một tiểu đoàn trưởng khác, tám đại uý và mười lăm trung uý. Khi tiến vào pháo đài, quân Mỹ chỉ tìm thấy những sinh vật ngơ ngẩn hình dáng chỉ còn lại bộ xương và những thương binh đang hấp hối. Vừa được báo tin, lập tức Patch cho tiến quân qua phía tây trên một mặt trận rộng lớn. Cuộc tiến quân qua các bờ sông dựng đứng giúp cho quân Nhạt tung ra nhiều trận đánh trì hoãn. Từ ngày 26 tháng giêng cho đến ngày 6 tháng 2 năm 1943, quân Mỹ tiến được mười lăm cây số, lần lượt vượt qua các bãi biển đầy xác tàu được dùng để đổ quân và vật liệu từ các "chuyến tốc hành Đông Kinh". Địch quân vừa đánh vừa rút lui, nhưng càng lúc họ phải bọ lại càng nhiều xe cộ và trọng pháo.Tại Henderson Field, mỗi ngày nghe tiếng súng rời xa hơn, bộ tham mưu của Patch bắt đầu tiếp đón các cuộc viếng thăm. Sau Đonal Kennedy, Halsey đã đến. Rồi do sự thiếu kín đáo, một đài phát thanh đã loan khắp căn cứ một sửng sốt: không những các Đô đốc Nitmitz và King được loan báo, mà cả Bộ trươởn Hải quân, Frank Knox cũng đã rời Washington đáp máy bay đến viếng thăm Guadalcanal! Rõ ràng là các nhân vật ấy muốn chứng kiến tận mắt chiến trường của các trận đánh đã từng gây cho họ biết bao lo âu đó. Họ cũng muốn thảo luận tại chỗ các bài học rút ra được từ trận chiến đắt giá này và để biết trong điều kiện nào có thể bắt đầu trận kế tiếp. Có lẽ họ cũng hy vọng chứng kiến cuộc bao vây và cuộc đầu hàng quân Nhật. Về điểm này, họ bị thất vọng. Cuộc tiến quân của Mỹ diễn tiến rất chậm chạp và tiếng súng như sấm động liên tục vẫn rung chuyển ngày đêm.Bình minh ngày 8 tháng 2, cường độ tác xạ pháo binh đột nhiên gia tăng. Tại nhiều nơi, địch quân tung ra nhiều cuộc phản công ác liệt đánh bất ngờ vào đạo quân của Patch. Đến tối, quân Mỹ vấp phải một hàng rào chống cự tàn khốc với nhiều cuộc cận chiến tương tự như trường hợp tại pháo đài Gifu. Rồi đến nửa đêm, trật tự lại được ổn định. Lúc trời sáng, một không khí bình an kỳ dị đột nhiên nối tiếp những tràng súng đạn liên miên mà từ sáu tháng nay vẫn chám phá các đêm thức trắng canh phòng của đạo quân tại phi trường Henderson. Binh sĩ vốn quen với tiếng động, nhảy ra khỏi hố cá nhân với một cảm tưởng khó chịu như bị bệnh. Mặt trời lên cao trên một cảnh rừng già bình yên, đang còn ngái ngủ trong sương sớm.Trên đảo không còn bóng dáng một quân sĩ Nhật nào nữa. Họ hoàn toàn biến mất như có phép lạ... "Chuyến tốc hành Đông Kinh" cuối cùng đã cặp vào làng Visale nay tại chỗ đức cha Aubin tiếp những người Nhật đầu tiên cách sáu tháng trước. Các hạm trưởng khu trục hạm Nhật đã thành công phi thường trong việc cặp tàu vào hải cảng tí hon, đưa lên tàu gần 10.000 người và ra đi trước khi trời sáng mà không hề làm cho quân Mỹ chú ý.Các tiền thám viên đầu tiên đến Visale trông thấy các kiến trúc của phái bộ truyền giáo bị cướp phá. Dân bản xứ chạy trốn vào rừng đã trở về từng nhóm nhỏ. Nhờ đó, quân Mỹ mới biết được rằng tất cả các tu sĩ đều rút lui được vào rừng sâu do các hướng đạo viên của các Coast Watchers hướng dẫn, ngoại trừ hai linh mục và một nữ tu sĩ bị bắn bỏ.Các sử gia Hoa Kỳ kể lại rằng những binh sĩ Nhật Bản kiêu dũng vốn đã đương đầu với một chống mười trước cuộc tiến quân của Patch được tiếp đón rất tệ bạc tại Rabaul, vì bị sa thải hết tại chỗ, "để tránh cho họ mối nhục phải trở về nước trong tư thế những người bại trận". Điều này khá đúng sự thật, vì sau những khổ đau mà họ phải chịu đựng, họ không còn có ích nữa và vì bộ tư lệnh Nhật muốn dấu công luận tin tức về cuộc thối lui nhục nhã này.Ta có thể tìm thấy trong các xứ khác nhiều tấm gương vô ơn bạc nghĩa cũng khó chịu như vậy. Chỉ nói đến Mỹ thôi, cũng không ai ngạc nhiên khi biết không có một vị Đô đốc nào tham dự ngay từ đầu "cuộc mạo hiểm ghê rợn ấy lại được tưởng thưởng xứng với công lao của họ. Sau khi bị tước quyền tư lệnh chỉ vì quá thận trọng, Fletcher chìm trong bóng tối cho đến khi hết chiến tranh, và Ghirmley thì không được giữ một chức vụ quan trọng nào khác. Khi cơn nguy hiểm vừa qua, ai cũng quên ngày những trách nhiệm ngàn cân từ rất lâu đè nặgn trên vai những người phòng vệ pháo đài cuối cùng.Chính ngay cả Vandegrift cũng vậy, mặc dầu được thăng lên trung tướng và được huy chương phủ đầy ngực, cũng không được sự tôn kính long trọng như ông xứng đáng được hưởng. Có lẽ người ta đã xét đoán rằng ông ta có đôi phần lăng nhục khi thú nhận rằng, nếu không có nhiệt tâm bất khuất của một ông thiếu tướng và một nhóm nhỏ thuỷ quân lục chiến, thì chiến thắng đã lọt vào tay quân địch từ lâu.

Cuộc phản công

Thanh toán Yamamoto

Ngay khi sự kháng cự của Nhật tại Guadalcanal sụp đổ, Mac Arthur cũng đã gửi đi bản tin về chiến thắng đầu tiên của ông: sau sáu tháng nỗ lực ông đã đuổi được quân Nhật ra khỏi hai cứ điểm tiền phương Gona và Buna nằm về phía cực nam của Tân-Guinée. Chiến công này rất xứng đáng bởi vì về phía đất liền, quân Nhật được che chở bởi một vùng rừng rậm cũng đáng sợ như tại Guadalcanal, và các sư đoàn Mỹ-Úc, vì không thể trông cậy vào sự yểm trợ nào của Hải quân chỉ có thể tiến quân nhờ các đợt thả quân dù tăng viện.Hãnh diện với thành quả này, Mac Arthur trơ lại làm áp lực để đòi hỏi mở màn giai đoạn thứ hai của cuộc tấn công vào Rabaul mà ông sẽ đảm trách nhiệm vụ chỉ huy tối cao. Nimitz liền nại cớ rằng vì hạm đội Thái Bình Dương của ông chỉ trong vòng ba tháng mà đã mất ba mẫu hạm, bảy tuần dương hạm và mười bốn khu trục hạm, nên không thể nào cùng một lúc đảm bảo sự yểm trợ bằng hải quân và không quân cho cả Tan-Guinée lẫn quần đảo Salomon.Uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng minh hậu thuẫn ý kiến này và quyết định giới hạn hoạt động của hai chiến trường vào các cuộc hành quân thuần tuý bằng không quân cho đến khi hạm đội của Halsey được tăng cường bởi các mẫu hạm đang được đóng, nghĩa là cho đến mùa thu.Bên kia phòng tuyến, nay được cụ thể hoá bằng quần đảo Bismarck (người Mỹ gọi là "Bismarck barrier"), Yamamoto cũng tu chỉnh lại các kế hoạch. Mục tiêu của ông thì luôn luôn vẫn như cũ: tiêu diệt hạm đội Mỹ trước khi nó kịp được thành lập lại. Không biết rằng ông bị lọt vào mưu chước của bộ máy Magic, ông gán cho thất bại tại Midway nguyên nhân vì ở quá xa các căn cứ khiến ông không thể nào che chở hạm đội bằng không lực lúc nguy hiểm xảy đến. Nhưng giờ đây, ông đã đóng vững chắc sau Bismarck Barrier, nếu như được vài mẫu hạm hiếm hoi của Mỹ còn chạy được về phía tổ ong vò vẽ Rabaul, thì ông có thể tham chiến trong những điều kiện tốt đẹp nhất. Hai mẫu hạm mới- chiếc Juyno và chiếc Hiyo-vừa đem ra sử dụng trong lúc bên phía Mỹ chỉ còn lại chiếc Enterprise và chiếc mẫu hạm xưa cũ Saratoga. Cần phải lợi dụng cấp kỳ vì cơ may đặc biệt này rất có thể không bao giờ xuất hiện một lần nữa.Kế hoạch của vị Đô đốc trứ danh liền được trình cho Tổng hành dinh Thiên hoàng và một lẫnn được chấp thuận, Yamamoto liền rời khỏi chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Musachi-sister ship của chiếc Yomoto-vừa mới được hạ thuỷ, để đặt bộ tư lệnh tại Rabaul.Đây là lần đầu tiên trong lịch mà một vị Tư lệnh hạm đội Nhật lại rời bỏ soái hạm để đặt bản doanh trên đất liền ngay giữa chiến trận, nghĩa là kế bên không lực của hải quân. Dường như trong tâm trí ông, cử chỉ này có một giá trị tượng trưng và bằng sự hiện diện của mình ngay giữa các phi công, ông muốn nhấn mạnh rằng chiến thắng từ nay sẽ lệ thuộc vào các phi công ấy.Vừa đến Rabaul, Yamamoto liền phân phối tất cả các không đoàn cơ hữu đến các căn cứ tại Salomon và tại Tân-Guinée kể cả phi đoàn trên các mẫu hạm tạm thời bị giải giới. Thật vậy, giai đoạn đầu của "kế hoạch A" gồm có việc làm cho đời sống tại căn cứ Mỹ khó chịu đựng nổi bằng các cuộc oanh tạc vĩ đại khiến cho hạm đội Mỹ phải đến can thiệp. Trước khi mở cuộc tấn công, vị Tổng tư lệnh tập họp các phi đoàn trưởng và thẳng thắn trình bày với họ tính cách trầm trọng của tình hình. "Chúng ta sẽ, ông nói, tung ra nhiều trận đánh gay go trên mặt biển và trên không trung. Kết quả của các trận đánh ấy và do đó kết cục của cuộc chiến, phần lớn lệ thuộc vào cung cách hành động mà các anh chứng tỏ trong các cuộc không chiến". Tất cả những người tham dự đều bị lời nói của ông ghi những ấn tượng sâu sắc. Giờ đây họ hiểu rằng một thất bại mới sẽ kéo theo những hậu quả như thế nào.Cuộc tấn công đầu tiên được tung ra ngày 8 tháng 4 năm 1943. 70 oanh tạc cơ và hưon 100 khu trục cơ cất cánh từ Buin (Bongainville) hướng về Tulagi và Henderson Field. Ba ngày sau, đến lượt các phi trường mà Mac Arthu đã vô cùng cực nhọc cho xây dựng trên triền phía bắc dãy trường sơn tại Tân-Guinée bị tấn công. Rồi ngày 14 tháng 4 Milne Bay và Morserby được 43 oanh tạc cơ do 130 khu trục cơ hộ tống đến viếng thăm.Trong giai đoạn đầu của "kế hoạch A" đó, Yamamoto thường đến viếng thăm các đơn vị không lực. Ông bước ra khỏi một oanh tạc cơ một cách bất chợt và tiến qua các vũng bùn lầy, với bộ quân phục kaki của không lực hải quân. Các phi hành đoàn tập họp trên phi trường, những người không bao giờ tưởng tượng ra ông trong hình dáng nào khác hơn là trong bộ quân phục trắng tinh tua tủa dây biểu chương, đã xúc động sâu xa khi thấy vị chỉ huy tối cao cũng chia sẻ những hiểm nguy giống như họ, chịu đựng cùng thời tiết xấu trong cùng bộ quân phục như họ. Tất cả những người ra đi chiến đấu đều cảm thấy ấm lòng.Khi cuộc oanh kích sau cùng chấm dứt, Đô đốc nghiên cứu báo cáo của các đơn vị trưởng. Kết quả dường như rất thuận lợi: 1 tuần dương, 2 khu trục và 25 hải vận hạm bị đánh chìm, 150 phi cơ bị hạ. Không phải là không nghi ngờ các sự ước lượng ấy quá lạc quan, ông giao hoàn lại các phi công về với các mẫu hạm của họ rồi bắt đầu một vòng thanh sát mới khắp các căn cứ trong vùng chiến đấu. Ông nhìn tương lại với sự yên tâm. Ông có trong tay bốn mẫu hạm nặng, hai mẫu hạm nhẹ tương trưng một tổng số 400 phi cơ, 190 phi cơ thuộc không đoàn 2 đặt căn cứ tại Kavieng (tân-Irlande) vfa tại Bum (Bougainuille) và 300 phi cơ của lục quân được phân phối trên các phi trường khác. Hải đoàn mẫu hạm thứ nhất do Phó Đô đốc Ozawa, người đã từng được tôn vinh tại Mã Lai, chỉ huy, hải đoàn thứ 2 do Phó Đô đốc Kusaka, một trong các phi công danh tiếng nhất của không lực hải quân. Với các thiết giáp hạm Yamato và Musachi hậu vệ và chừng mười lăm tuần dương hạm cùng bốn mươi khu trục hạm, hạm đội liên hợp vượt hẳn hạm đội của Halsey đến mức độ chiến thắng trong một cuộc đụng độ ctoàn diện là điều không thể còn nghi ngờ gì nữa. Tất cả vấn đề bây giờ là làm sao khiêu khích nó. Ngày 18 tháng 4 năm 1943, lúc 6 giờ sáng Đô đốc Yamamoto bước lên một oanh tạc cơ hai máy Mitsubishi với ba trong số các sĩ quan của ông. Đô đốc Ugaki, tham mưu trưởng của ông, bước lên chiếc thứ hai cùng loại. Cuộc viếng thăm đầu tiên của ông sẽ dành cho tướng Hyakudaté, tư lệnh Lộ quân 17, vừa rời khởi Rabaul để đến đặt bản doanh ở căn cứ tiền phương Buin tại Bougainville; nhưng ông đã dự liệu dừng chân trên hòn đảo nhro Ballale nơi đặt ban chỉ huy của hải đoàn mẫu hạm thứ hai. Các giới chức chỉ huy liên hệ đã báo trước bằng một công điện mã hoá ghi rõ giờ đến của các phi cơ.Sau khi cất cánh từ Rabaul và được chín khu trục cơ hộ tống, các oanh tạc cơ bay vòng miệng núi lửa bao quanh vịnh và hướng thẳng đến Bougainville. Các điều kiện phi hành đều rất tôt đẹp và các đỉnh núi xanh có sương mù bao phủ trên chóp đã bắt đầu hiện rõ. Đến 7 giờ 15 phút, các oanh tạc cơ bắt đầu giảm cao độ để tiến gần đến bờ biển và bay trên rừng rậm ở cao độ 600 thước trong khi các khu trục cơ vẫn giữ cao độ cũ. Đúng 7 giờ 30, tức là còn cách Ballade 15 phút bay, một trong các khu trục cơ hộ tống vừa trông thấy một toán phi cơ P.38 bay trên đầu, nên muốn báo hiệu cho Đô đốc càng sớm càng hay. Hành động này được các phi công oanh tạc cơ giải thích như là một sự thông báo cần hạ thấp xuống hầu đê trống xạ trường cho các khu trục cơ, và cả hai chiếc oanh tạc cơ đều chúi xuống thấp về phía rừng già. Nỗ lực điều động máy bay của họ vô ích. Nhờ có tốc độ cực lớn khi đâm bổ xuống các phi cơ P.38 bỏ xa dần các khu trục cơ Nhật và lao vào các oanh tạc cơ xả súng bắn ác liệt. Chiếc phi cơ của Đô đốc là chiếc bị trúng đạn đầu tiên và rơi tan tành xuống rừng già sau khi bốc cháy. Chiếc oanh tạc cơ thứ hai lái vòng ra biển cũng bị rượt kịp và bị bắn rơi xuống biển. Các phi cơ tuần thám bờ biển hấp tấp bay đến phía chiếc oanh tạc cơ đã chìm mất một nửa và kéo ra được Đô đốc Ugaki vốn bị thương rất nặng. Nhờ chỉ dẫn của các khu trục cơ, xác chiếc phi cơ của Yamamoto được đánh dấu và một đoàn quân thám sát vạch được một lối đi cho đến đó. Hai phần ba phi cơ bị cháy ra tro, nhưng chiếc ghế của Đô đốc bị văng ra xa khi phi cơ chạm đất. Xác ông có vẻ gần như nguyên vẹn và ông còn nắm chặt đuôi kiếm trong tay. Bốn sĩ quan tuỳ tùng của ông chỉ còn lại các mảnh vụn không nhận diện được. Viên bác sĩ khám nghiệm xác Đô đốc khám phá thấy các vết đạn trong đó có một viên trúng và tạo ra cái chết tức thời.Xác Yamamoto được đưa về Buin để hoả thiêu tại đấy. Tro tàn của người anh hùng Trân Châu Cảng được để trong một bình đựng di hài đặt trên một nấm mộ nhỏ kế cạnh bộ chỉ huy.Tin tức về tai hoạ này không thể nào giữ bí mật được lâu. Nó tạo ra một nỗi kinh hoàng vô bờ bến tại Nhật Bản. Dân chúng vốn bị giấu kín về cuộc thảm bại tại Midway, vốn luôn luôn coi Yamamoto như một vị tư lệnh không thể nào bị thua trận. Chắc chắn là niềm tin ấy không có gì sai lầm cả bởi vì sự thất bại này đã lệ thuộc vào một sự tình cờ có thể nói là kỳ diệu của các điều do máy Magic khám phá.Tại Hoa Kỳ, tin loan báo cái chết bị thảm của vị Tổng tư lệnh quân Nhật gây ra cả một cơn vui sướng bùng nổ thật sự. Rốt cuộc rồi Đáng toàn năng cũng đã trừng phạt kẻ có trách nhiệm về cuộc xâm lăng xảo trá tại Trân Châu Cảng! Đối với các lãnh tụ cao cấp của Hải quân, tin ấy không gây ngạc nhiên, vì một lần nữa bộ máy Magic lại đã hướng dẫn uy lực của công lý.Chiều ngày 17 tháng 4, Bộ trưởng Hải quân Frank Knox, đã được sở kiểm báo trình một điện văn đã được mở khoá, nhờ máy Magic, mặc khải tất cả chi tiết liên hệ đến chuyến thanh tra của vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp với giờ giấc hạ cánh và cất cánh. Sau khi tham khảo mau chóng với Đô đốc King, ông quyết định ra lệnh cho Halsey tổ chức một cuộc mai phục để loại trừ đối thủ nguy hiểm này. Buổi tối, một công điện tối mật được gửi đến cho đại uý Mitchell, không đoàn trưởng P.38 đặt căn cứ tại Henderson Field. Công điện ghi tất cả các tin tức về lộ trình và thành phần của đoàn phi cơ. Bình minh ngày 18, 16 chiếc P.38 cất cánh bay về phía Bougainville và đúng 7 giờ thì đến nơi. Phi đoàn bay vòng trên khu vực kế cận bờ biển bằng cách ẩn nấp trong mây ở cao độ rất lớn. Đúng 7 giờ 30, họ trông thấy các khu trục cơ hộ tống toàn phi cơ Nhật và mở cuộc tấn công. Chính đại uý Lanphier là người đuổi theo phi cơ của Yamamoto. Ông bắn một tràng dài vào động cơ bên phải từ phía sau và lập tức bay trốn khi thấy chiếc cánh phát hoả và tách ra khỏi phi cơ. Lần này bộ máy Magic tuyệt hảo đã vĩnh viễn khoá chặt số phận của nạn nhân.Hành động không có vẻ mã thượng tí nào. Cuộc phục kích tại Bogainville phảng phất khó chịu mùi vị của các cuộc thanh toán giữa bọn bất lương. Nhưng vết thương Trân Châu Cảng còn tươi rói và các nỗi khổ đau tại Guadalcanal cũng chưa dịu hẳn được. Vả chăng người ta có còn dừng lại mãi đó đâu! Nhiều trận đánh trên các đảo và chung quanh đảo đã trở nên vô cùng khốc liệt. Chẳng có một đồn trại nào và rất ít hoặc không có tù binh. Từ lâu chiến tranh tiềm thuỷ đỉnh đã là "không hạn chế" và từ lâu, các khu trục hạm Mỹ đã làm lơ khi chạy ngang qua các hàng lớp binh sĩ Nhật vùng vẫy trong mặt biển ngập đầy dầu máy. Quân Mỹ được khuyến khích bởi chính quân Nhật, vì họ không bao giờ dừng chiến hạm lại để cứu vớt đồng bào của họ. Chắc chắn là họ đã tuân phục một cách vô thức nguyên tắc dửng dưng với cái chết vốn rất thông thường tại Viễn Đông: bớt đi một tên lính Nhật là có thêm một hột gạo cho những người khác, phải không nào... Nhưng mặc dầu không thú nhận lộ liễu, Bộ tư lệnh tối cao Nhật cũng không có gì là không bằng lòng khi thấy nguyên tắc ấy được áp dụng trong mọi trường hợp. Điều mà họ thiếu thốn không phải là người, mà là vật liệu chiến tranh. Mất thì giờ và đặt chiến hạm vào tình trạng nguy hiểm trong một vụ cấp cứu là hành động không đáng được nghĩ đến đối với một binh sĩ Nhật rồi. Người Mỹ cũng thường áp dụng nguyên tắc này, nhưng chỉ khi nào bị nhu cầu bắt buộc. Mỗi khi có thể, họ cứu vớt những thuỷ thủ bị đắm tàu. Ngoài tất cả các vấn đề tình cảm, họ đã ước tính rằng tinh thần binh sĩ sẽ có thể được giữ vững trong một khung cảnh có tình liên đới toàn diện. Hơn nữa, họ là những người đầu tiên hiểu được rằng mạng sống của một phi công đánh giá bằng cả một tiểu đoàn bộ binh. Do đó nhiều khi họ đã không ngần ngại tổ chức cả một cuộc hành quân thu hồi thật sư với các thủy phi cơ và tiềm thủy đỉnh. Công cuộc tiếp cứu các phi hành đoàn bị hạ trong rừng rậm đã trở thành một trong các sứ mạng chính yếu của các Coast Watchers.Yamamoto không sớm hiểu được sự tái lượng gia đột ngột ấy về mạng sống con người vốn đã từng kéo theo ưu thế của không lực mặc dầu ông là người đầu tiên tạo ra nó. Sự bỏ rơi các phi công ưu tú của các mẫu hạm mặc cho số phận hẩm hiu của họ, trong lúc mà một tổ chức kết hợp có thể cứu vớt hàng trăm người, đã là một trong các nguyên nhân đưa đến sự suy tàn của hạm đội liên hợp. Đúng lúc Yamamoto ngã gục dưới làn đạn của Lanphier, không phải ông ta đã thiếu chiến hạm và phi cơ, mà chính là thiếu các phi công ưu tú. Và ông đã chẳng làm gì để chặn đứng một cơn trích huyết mới.Sự thờ ơ này lại càng đáng ngạc nhiên hơn khi mà các công binh xưởng của hải quân Nhật đang đổ ra các cố gắng lớn lao để hoàn thành các mẫu hạm Taiho, Unruyu và Chitose, và để biến thành một hàng không mẫu hạm không lổ, chiếc Shinano, thiết giáp hạm vĩ đại thứ ba đồng loại với chiếc Yamato, đang được đóng tại Yokosuka. Làm sao ông có thể hy vọng cấp cho chiến hạm ấy phi cơ và phi công, trong khi ông hy sinh họ bất kể tại các căn cứ đặt trên các đảo mà lại không có một nỗ lực song hành nào được thực hiện để thay thế họ?Người ta không thể không nghĩ rằng, tay cao cờ bất trị ấy đã tung không lực của ông ra để hoặc là sạch nợ hoặc là ăn gấp đôi, vì biết rằng trong trường hợp thất bại, xứ sở ông vĩnh viễn bị bại trận.Giá trị của giả thuyết này dường như đã được xác nhận bởi mối suy tư của vị tư lệnh cuối cùng của hạm đội liên hợp, người được quân Mỹ thẩm vấn sau chiến tranh về kế hoạch của vị tiền nhiệm, đã chỉ trả lời:-Yamamoto đã gặp may.Ông chết rất đúng lúc.

Trinh sát viên Coast Watchers

Cái chết của vị Tư lệnh hạm đội Nhật Bản đã gây ra một hậu quả bất ngờ: nó xác nhận với người Nhật sự bành trướng kịch liệt các hoạt động của những trinh sát viên Coast Watchers. Ít lâu nay họ đã dò tìm được vị trí phát tin của Read và của Mason tại Bougainville, nhưng họ nghĩ đó chỉ là việc đối phó với một vài người lẻ loi đơn độc, ẩn náu trong rừng, huấn luyện dân bản xứ để làm lợi cho đồng minh. Trong tình trạng mù tịt về sự hiện hữu của bộ máy Magic, đột nhiên họ có ý tưởng là một vụ khủng bố có thể đã xảy ra nhắm vào Yamamoto do một tổ chức bí mật có chi bộ khắp trên quần đảo Salomon. Ngay khi vừa đến Rabaul, người kế vị Yamamoto, Đô đốc Koga, liền cho lệnh các cấp chỉ huy quân trú phòng trên đảo phải dứt bỏ cho ông những kẻ lì lợm này.Nạn nhân đầu tiên của mẻ lưới là ông Mason đáng thương khiến ông ra phải rút lui vào khu rừng sâu nhất của Bougainville cùng với vài phi công được cứu thoát. Read và các tu sĩ cũng bị truy nã không thương tiếc. Nhiều biện pháp trừng trị liên hệ cũng lan tràn trên khắp quần đảo.Tại Tân-Géorgie các cuộc hành quân trừng phạt đã được tổ chức để toan tính đuổi Donald Kennedy ra khỏi chỗ trú ẩn trên bán đảo Ségi. Trước các dấu hiệu hoạt động gia tăng của quân Nhật chung quanh Munda, phía đảo này, Kennedy vừa mới yêu cầu Melbourne tăng viện. Đại tá Hải quân Feldt thuộc Hải quân Úc, người lãnh đạo tổ chức, vừa gửi đến cho ông thêm các trung uý Horton, Evans và Josselyn, để ông có thể phân phối đến các đảo lân cận Rendova, Kolombangara và Vella Lavella. Như thế ông ta hy vọng rằng con người táo bạo ấy, vốn đứng vững như một con nhện nằm giữa mành lưới của mình, có thể cung cấp tin tức về tất cả các hoạt động của Nhật trong khu vực.Trái với các đảo lân cận thuộc quần đảo Salomon, các bờ biển của đảo Tân-Géorgie bị đứt đoạn rất nhiều. Người ta nói rằng Thượng đế đã giỡn chơi bằng cách giáng cho nó mất lát búa; những mảnh vỡ nhỏ nằm rải rác chung quanh mảnh lớn nhất có hình dáng một con cá ngựa. Bên trên chiếc mõm của nó, trông iống như một con lật đật, đó là hòn đảo tròn trịa Kolombangra, bên dưới là Rendova, mắc vào nó như một quả lắc đồng hồ. Giữa hai đảo ấy là một số mảnh vụn mỏng: Arundel và Wana Wana. Về phía nam, nhiều vùng san hô ngầm kết chặt tại đó và hoàn toàn làm cho cái mê lộ này thêm phức tạp, chỉ có những ngư phủ bản xứ mới có thể đi lại trên các chiếc xuồng được giữ thăng bằng rất thanh lịch của họ. Chính nhờ thành luỹ đá ngầm che chở đó mfa Donald Kennedy chọn lựa bán đảo Ségi làm nơi ẩn trốn. Hoàn toàn không thể đến được bằng đường biển, nó lại còn được che chờ về phía đất liền bởi cánh rừng xốp nhất quần đảo, điều này không phải nói ngoa.Trước khi các phụ tá, mà người ta đã hứa với ông, đến Donald Kennedy phải đương đầu với các binh sĩ Nhật đang dùng những xà lan bản xứ để đổ bộ lên bờ biển. Các chiến binh bản xứ của ông tác xạ rất hữu hiệu, nhưng cuộc đụng độ khiến số đạn dược của ông bị hao huụ nhiều. Ông nóng lòng muốn số dự trữ phải được tái lập ngay vì thế ông yêu cầu gửi một phi cơ liên lạc đến.Vài ngày sau, ông được báo tin mừng: một Catalina đến! Chiếc thuỷ phi cơ lượn nhiều vòng trên vũng nước ở giữa đảo san hô, làm như nó không nhớ rõ lắm phải đáp nơi nào, rồi chắc chắn nhờ thấy các cử chỉ ra hiệu của dân bản xứ, nó bay là ngang dừa và đáp đọt cây tức khắc xuống mặt nước chẻ đôi mặt biển phẳng lặng như viên kim cương trên mũi dao cắt kiến. Sau đó, phi cơ chạy từ từ, chiếc mũi to lớn làm bốc hơi từng đám bọt ngũ sắc.Không một ai đứng trên bờ tại góc trời hẻo lánh này lại bằng lòng với tiếng động ồn ào như thế, nhưng tất cả mọi người đều chờ đợi người thông tin viên này đến với biết bao nhiêu là âu lo đến nỗi họ sắp thành vòng tròn trên bãi cát để giúp sức đẩy xuống nước một chiếc xuồng thằng bằng bản xứ. Đó là chiếc xuồng của vị tù trưởng nên sống mũi thuyền được khảm xà cừ. Chiếc xuồng cặp ngay vào sườn phi cơ và các tay chèo bám chặt vào cánh trong khi chờ đợi bốc dỡ các kiện hàng xuống. Thông thường đó là các thùng đạn, súng ống, thực phẩm đóng hộp và thuốc men quí gia như của trời cho, khiến có thể giúp phân phối mau lẹ sau đó cho các cứ điểm hẻo lánh trong rừng. Cửa phi cơ mở ra trong sự im lặng hoàn toàn nhưng quang cảnh diễn ra đã nhận chìm tất cả những người đứng xem vào một trạng thái kinh hoàng: thay vì các thùng, xách, họ thấy một nữ tu sĩ và hai người Trung Hoa bước xuống! Viên sĩ quan đi theo họ đóng cửa phi cơ và tiếng gầm của động cơ hoàn toàn làm mối hy vọng tiêu tan sụp đổ: chiếc Catalina lại ra đi...Vị lãnh chúa tại Ségi đã tiếp đón quan khách với một thái độ không hào hứng mấy. Viên sĩ quan nói chuyện với ông tên là Horton và là trung uý trừ bị thuộc Hải quân Úc mà Feldt gửi đến làm phụ tá cho ông. Anh giải thích lý do tại sao đã đến tay không: chiếc Catalina đổi hướng về Bougainville vì tình hình ở đây nguy ngập, trại của Masoan bị đánh thình lình và vài phi cồng được cứu thoát phải chạy trốn mãi tận trong rừng sâu, bị quân Nhật, nay đã kiểm soát toàn đảo, săn đuổi không ngừng. Tại điểm hẹn, chiếc Catalina chỉ thấy có 2 tu sĩ Trung Hoa và một nữ tu sĩ do các hướng đạo viên của Mason đưa đến. Sau khi chờ đợi các phi công Mỹ hơn một giờ, chính anh chịu trách nhiệm quyết định để lại cho toán quân của Mason toàn thể tiếp liệu dự tính sẽ đưa đến Ségi, vì hoàn cảnh của họ hết sức nguy nan.Mặc dầu mẹ bề trên với chiếc áo bằng sơ sống bị nhiều vết máu vấ bẩn phất phơ trên một thân thể chỉ còn xương da, đã gợi cho ông một niềm thương sâu xa. Kennedy cũng không thể không nghĩ rằng tốt hơn là người ta nên cho họ đến nơi khác. Tin tức do các tiền thám viên của ông mang về không làm ông yên tâm. Một toán 250 quân sĩ Nhật đã đổ bộ lên hải cảng nhỏ bé Viru, cách vùng biển san hô không đầy 30 cây số. Cuộc chiếm đóng đảo Tân-Géorgie nới rộng dần như vết dầu loang. Ông quyết định ngay đêm đó phái Horton đi thám sát rừng già chung quanh Munda để kiếm một vị trí quan sát thích hợp. Viên sĩ quan này nguyên là một viên chức hành chánh biết rất rõ vùng này. Anh ta xin sáu người và một máy phát tin. Chất đống tất cả xuống một chiếc xuồng và ra đi thực hiện sứ mạng hiểm nghèo.Đến đêm, chiếc xuồng của Horton tiến vào cùng biển san hô bao chung quanh Munda. Bầu trời hoàn toàn tối đen và chỉ có tiếng động mơ hồ lộn xộn đôi lúc làm xáo trộn không khí im lặng. Đột nhiên có tiếng động cơ. Mọi người đều nằm dán sát xuống mặt xuồng. Tiếng động đang xa rồi trở lại hai ba lần. Horton liều lĩnh ngước đầu lên nhìn... Một quang cảnh kỳ lạ bày ra trước mắt anh. Chiếc xuồng trôi lửng lơ và bây giờ đang ở rất gần vườn dừa ven bờ biển. Nhiều đèn phản chiếu máng trên thân cây chiếu sáng mặt đất trên đó nhiều xe ủi đất đi lại. Bên trên ánh sáng lờ mờ chiếu một cách yếu ớt vào những vòng cung của một chiếc lưới vĩ đại. Những cành lá dừa cao được dây nối lại với nhau đỡ các tấm lưới phủ đầy lá cây. Nhờ cách nguỵ trang tài tình này, quân Nhật đã dọn dẹp một phi trường mà không bị các phi cơ trinh sát trông thấy.Chiếc xuồng chạy trốn ngay lập tức. Giờ đây Horton đã biết phải làm gì. Anh phải tìm một địa điểm thích hợp để đặt vọng quan sát.Sau nhiều mưu toan vô ích, anh đành từ bỏ ý định đổ bộ lên bờ biển và rời xa cái tổ ong ồn ào mà chu vi được canh quá kỹ ấy. Theo lời khuyên của các hướng đạo viên địa phương, anh sẽ đến chiếm đảo Rendoua một thứ bánh đường bao phủ rừng gia, nổi lên trên một vụng biển san hô khác cáh Munda câu cây số. Chưa có một binh sĩ Nhật nào trên đảo và Horton có đủ thì giờ chọn lựa một vị trí quan sát được nguỵ trang kỹ. Khi mọi chuyện đều sẵn sàng, anh báo tin cho Kennedy và chờ đợi các biến cố.Nắm được tin tức quí báu này, Kennedy khẩn cấp yêu cầu gửi một chiếc Catalina đến để ông đi hội kiến với tướng Patch. Ông này hiểu ngay mối đe doạ kinh khủng do bởi một căn cứ không quân mới của Nhật nằm cách Henderson Field không đầy 300 cây số, và xin phép Halsey phái đến Ségi một đơn vị cảm tử thuỷ quân lục chiến và một đại đội Seabees1 (SEABEES: Tiểu đoàn công binh kiến tạo. Các chữ đầu C.B của Construction Batalion đọc tương tự với chữ Seabee (ong biển)) để thiết lập tại đấy một phi trường tạm thời. Danh tiếng của Donald Kennedy lớn đến nỗi Halsey chấp thuận ngay kế hoạch của Patch và vị lãnh chúa Ségi trở về bán đảo của mình trên một khu trục hạm với một đơn vị cảm tử thuỷ quân lục chiến. Tương lai thế là được đảo bảo ngay.

Những bước nhảy bọ chét

Khi hội nghị Trident được khai mạc tại Washington ngày 12 tháng 5 năm 1943, tình hình của đồng minh đều được cải thiện trên khắp tất cả các mặt trận. Tại Bắc Phi, đệ bát lộ quân của Anh đã đẩy Rommel lui về Lybia và lực lượng Pháp-Mỹ đã vượt qua biên giới Tunisie để đánh bọc hậu vào đoàn quân thiết giáp Đức. Tại Stalingrad, đạo quân của Von Paulus coi như đã bị tiêu diệt. Tại Miến Điện và Trung Hoa, các lực lượng của Wavell và của tướng Tưởng Giới Thạch được kết nối với nhau bằng một cầu không vận ngang qua Hi Mã Lạp Sơn, bắt đầu chuyển qua thế chủ động. Công cuộc sản xuất cho chiến tranh tại Hoa Kỳ được dự liệu theo một kế hoạch khổng lồ nguyên thuỷ, đã khởi đầu một cách chậm chạp, nhưng giờ đây đang ở mức độ năng suất tối đa và thừa sức cung cấp cho nhu cầu các đạo quân tham chiến tại Bắc Phi. Và vì sau cùng đã có quyết định cho dời cuộc đổ bộ lên các bờ biển Pháp lại sang năm 1944, nên đã có thể trích vài chiến hạm và vài phi cơ để tăng cường cho chiến trường Thái Bình Dương.Thứ mà Halsey thiếu thốn nhất là hàng không mẫu hạm. Vì lẽ không có mẫu hạm nào đang đóng có thể hoàn thành sẵn sàng trước mùa thu, nên tất cả các cuộc hành quân qui mô đều không thể tổ chức được cho đến lúc đó. Ngược lại, ông đã được cấp cho rất nhiều tàu đổ bộ kiểu mới: Landing Ships Tanks (L.S.T), Landing Craft Infantry (L.C.I) và Landing Craft Personal (L.C.P) v.v... được sản xuất sau khi rút kinh nghiệm tại Bắc Phi. Đó là các chiến hạm có cửa nghiêng hạ xuống nâng lên được, có thể tự làm mắc cạn trên bãi biển và lùi ra khỏi bãi biển bằng phương tiện riêng. Do đó, với các chiến hạm này có thể thực hiện các bước nhảy bọ chét ngắn từ đảo này đến đảo kia hay dọc theo bờ biẻn, với điều kiện được không quân che chở mạnh mẽ.Khẩn cấp nhất là đổ bộ lên Tân-Géorge để vô hiệu hoá phi trường Munda bắt đầu gây khó chịu. Kế hoạch hành quân đã được chấp thuận từ tháng giêng năm 1943 và ngày tấn công được ấn định là tháng 5. Nhưng, vì không có vấn đề bắt các sư đoàn mới chiến đấu tại Guadalcanal, chịu đựng thêm thử thách mới, cho nên phải đợi hai sư đoàn bộ binh, mới hấp tấp thành lập, được huấn luyện đầy đủ. Theo các tin tức do Horton cung cấp, Munda được bảo vệ bởi 10.000 quân Nhật đồn trú và, vùng bờ biển bao vây phải đổ bộ về phía đông ngay giữa rừng già trong các điều kiện khó khăn.Sau một công cuộc chuẩn bị cần mẫn, ngày tấn công bị hoãn nhiều lần được ấn định là ngày 1 tháng 7 năm 1943. Đô đốc Turner nhổ neo cùng với chiếc Mac Cawley theo sau 9 hải vận hạm, 12 khu trục vận tải và 20 L.S.T hoặc L.C.I. Hòn đảo nhỏ Rendova trên đó có sự hiện diện của Horton đã được quân Nhật di tản khỏi, do đó nó được chọn làm giai đoạn chuyển tiếp trước khi đổ bộ lên Tân-Géorgie. Các hướng đạo viên bản xứ của Horton phải hướng dẫn các chiến thuyền đầu tiên vượt qua lối vào vũng nước phẳng trong vùng biển san hô nhờ các dấu hiệu thích nghi. Công việc dường như không biểu hiện một khó khăn nào.Rủi thay, vào lúc bình minh ngày 1 tháng 7, khi các L.C.I đến trước vũng nước nhỏ phía bắc Rendova, nơi sẽ đổ quân, thì bị tiếng súng tiếp đón... Vì nghi ngờ Horton có mặt trên đảo quân Nhật phái 300 binh sĩ đến bắt, và chính họ đã khai hoả lúc trông thấy các chiến thuyền có dáng điệu khác thường.Mặc dầu bị trở ngại bất ngờ gieo rắc vài lộn xộn đó, Turner ra lệnh tiếp tục cuộc đổ bộ theo đúng thời biểu. Các tàu L.C.I và L.S.T chuồi lên bãi từ sáng sớm, hạ các cửa cầu tàu xuống bất kể hay dở, và đoàn chiến xa cùng bộ binh bắt đầu diễn hành dưới một hoả lực yểm trợ bắn chặn điếc tai làm cho những cây dừa đẹp nhất thế giới bị tiện ngang đầu.Đến 8 giờ, mọi việc dường như đều tốt đẹp. Nếu cuộc đổ bộ tiếp tục với nhịp độ này, Turner tính rằng ông có thể nhổ neo đoàn tàu trống rỗng vào lúc giữa trưa, vừa đúng lúc trước các phi cơ của Nhật từ Buin bay đến. Nhưng trung đoàn đầu tiên vừa mới đổ bộ xong, bầu trời bị mây che phủ một cách đáng ngại, và thình lình Rendova biến mất trong một cơn mưa như thác lũ. Ai chưa thấy mưa tại Rendova thì chưa biết được thế nào là mưa. Tất cả đều bị chìm ngập, tiêu tan, biến mất tăm; tiếng huyên náo của cuộc đổ bộ bị tiếng ào ào vĩ đại của những giọt mưa đè bẹp, chung quanh các chiến hạm, mặt biển dường như bị sôi sục và ta không thể trông thấy gì rõ cách khoảng 20 thước. Trên bờ, các binh sĩ đáng thương bị chôn chặt tại chỗ. Hàng dãy cam nhông chạy xuống cửa tàu bị sa lầy cho đến trục xe. Những người khuân vác vật liệu đổ bộ vứt tất cả dồn đống trên bãi cát trong một quang cảnh rối loạn hãi hùng...May thay tình trạng không kéo dài quá lâu. Các đám mây đen tan còn nhanh hơn khi tụ lại và bầu trời chiếu sáng lấp lánh trên khu rừng già ngập nước.Thời gian ngừng nghỉ này làm lợi cho các xạ thủ ưu tú của Nhật bám chặt trên đọt cây. Rồi đến phiên phi cơ thám thính đến bắn vài tràng đại liên. Những người bị thương rú lên, những binh sĩ khác chạy tán loạn đến ẩn giữa đống thùng vật liệu và các thân cây bị hạ nổi lều bều như các hòn đảo giữa một biển bùn lầy. Hơi nước bốc lên dưới ánh mặt trời soi chiếu vào một tình thế vốn đã rất rối loạn. Phải nhờ đến tất cả cường lực của một đại tá bị thương vì nhiều vết đạn chửi bới binh sĩ như sấm mới tái lập được trật tự.Cuộc đổ bộ tiếp tục, nhẩn nha, giữa vũng nước, nhưng đến 11 giờ một nửa hải vận hạm chưa được bốc dỡ. Mặc dầu bị đe doạ bị một cuộc oanh tạc cấp kỳ, Turner quyết định ở lại. Ông sở cậy vào sự che chở của không lực tại Henderson Field sắp đến. Quả thật chúng đến vừa lúc để đối phó với các khu trục cơ Zéro hộ tống đợt oanh tạc đầu tiên. Và lần này các điều kiện không còn tương tự như tại Guadalcanal nữa. Các khu trục cơ mới của Mỹ Hellcat và Corsair vượt hơn hẳn các đối thủ một cách rõ rệt và vì thế các oanh tạc cơ Nhật thả bom một cách cầu âu. Cuộc đổ bộ tiếp tục.Đến 16 giờ, tất cả hải vận hạm đều trống rỗng và Turner nhổ neo với chiếc Mac Cawley, lực lượng tàu đổ bộ theo sát bên. Tình hình tại Rendova ổn định, các trọng pháo sẵn sàng nã đạn về phía Munda. Turner không còn phải thấy hải cảng nhỏ bé mà các khinh tốc đỉnh của Guadalcanal vừa chạy vừa trú ẩn. Từ nay có lẽ chúng là các chiến hạm độc nhất lo đảm bảo công cuộc canh phòng các eo biển.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro