Sấm sét trên Thái Bình Dương P6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ozawa là một người nhỏ thó mảnh khảnh, nét thanh tú và dáng vóc sinh động. Cái nhìn của ông lọc qua hai hàng lông mi gấp nếp chiếu sáng rõ một khuôn mặt bất động. Một cảm tưởng về sự bình tĩnh không có gì lay chuyển được và về sự quyết tâm lạnh lùng, đã thoát ra từ nhân cách ông. Ông có thiên phú tạo niềm tin nơi kẻ thuộc quyền nhờ những tia sáng chói lọi từ nơi đức tự tin mãnh liệt của chính ông.Khi Ozawa được báo cho biết có sự hiện diện của các hải lực địch cách 50 hải lý về phía tây nam Saipan lúc 7 giờ sáng ngày 19 tháng 6 năm 1944, 246 phi cơ có tầm bán kính hoạt động lớn của hải đoàn 1 và 2 được lệnh cất cánh. Cuộc hành quân diễn tiến nhỏ trong một cuộc thực tập. Đến 8 giờ, hai mẫu hạm cư phi cơ cất cánh đổi hướng về phía nam để giữ khoảng cách. Mỗi người đưa mắt theo dõi đoàn phi cơ hùng hậ bay xa dần trong bầu trời xanh biếc. Toàn diện hạm đội lưu động đều phấn khởi vì niềm tin tuyệt đối vào sự thành công.Đột nhiên, đài chỉ huy của soái hạm được báo động bởi một phi cơ tuần thám đang bay sát mặt nước theo lối chữ chi kỳ lạ để tránh sự chú ý. Gần như lập tức các trinh sát viên báo hiệu có nhiều luồn sóng thuỷ lôi và chiếc phi cơ đâm thẳng góc xuống một trong các thuỷ lôi ấy rồi vỡ tan, cách soái hạm vài chục thước. Sự hy sinh anh hùng ấy dường như đã tránh cho chiếc Taiho khỏi bị đe doạ một chốc lát sau khi đột ngột chạy tréo sang một bên, nó lại tiếp tục hướng đi ban đầu. Vài giây sau, một tiếng nổ điếc tai làm rung chuyển chiếc chiến hạm: một thuỷ lôi thứ hai đã trúng đích! Cách sắp đặt các phòng ngăn dưới hầm tàu Taiho đã được nghiên cứu kỹ đến nỗi chiếc đại chiến hạm chịu đựng tiếng nổ như là một mũi kim chích vào da. Sau khi chậm lại một chút, nó trở lại tốc độ bình thường trong lúc các toán an ninh lo bít các chỗ nước tràn vào. Không có gì thay đổi kế hoạch khởi thuỷ. Chiếc Taiho chỉ chứng tỏ một điểm yếu và vừa hợp thức hoá danh tiếng "mẫu hạm không thể bị đánh chìm" của nó.Một niềm lo âu bắt đầu biểu hiện trên đài chỉ huy của soái hạm khi chẳng có tin tức gì về các đoàn phi cơ tấn công được chuyển đến sau hai giờ chờ đợi. Đến 10 giờ, Ozawa ra lệnh phóng đợt xung phong thứ hai, khoảng cách với địch quân giờ đây giảm xuống đủ để cho các phi cơ có bán kính hoạt động ngắn can thiệp vào. Ngay lúc đó, thang máy của chiếc Tahio lại bị hư làm chậm trễ giờ khởi hành của các phi cơ và mãi đến 12 giờ 30 chúng mới có thể cất cánh được. Vài phút sau, nhiều phi cơ Nhật, trong số đó nhiều chiếc dường bị như bị khó khăn, bay trên chiếc đại chiến hạm, để đáp xuống. Sự vận chuyển để tiếp nhận gần như tận, nhất là khi ai nấy rất nóng lòng muốn biết kết quả của trận đánh.Báo cáo của các phi công kiệt sức, mà phần đông phải được giúp đỡ mới bước ra khỏi phòng lái được, đã gieo rắc mối kinh hoàng trên đài chỉ huy của soái hạm. Đợt tấn công đầu tiên thoạt kỳ thuỷ đã gặp mây, rồi cả một đoàn phi cơ địch đông như bầy ong ẩn đằng sau, cách mục tiêu hơn 30 hải lý (35 cây số) chờ đợi chúng. Trong cuộc đụng độ rối loạn xảy ra sau đó, các phi cơ Nhật bị số đông phi cơ địch áp đảo. Đa số bị bắn hạ, nhưng vài chiếc chắc đã vượt được hàng rào phi cơ ngăn chặn của hạm đội Mỹ. Chắc chắn chúng đã có thể tấn công địch và đáp xuống Guam sau khi hết xăng vì người ta không thấy chúng trở lại nữa.Khi biết được các tin tức này, Ozawa đã do dự một lúc, rồi quyết định tung đợt cuối cùng 42 chiếc của hải đoàn số 1. Khi các phi cơ vừa cất cánh hết, một tiếng la lớn vang đến đài chỉ huy của mẫu hạm Taiho: chiếc Shokaku lúc đó đang chạy ngang hàng cách hai dặm, bị trúng đạn ở mạn hữu đang tuôn ra một làn mây khói. Tiếng động do một vụ nổ xa xa đã làm tiêu tan mọi nghi ngờ: đến lượt chiến hạm bị trúng thuỷ lôi!Trên mẫu hạm Shokaku, các toán an ninh quen thuộc với các hư hại trong khi đụng độ, đã dập tắt được ngọn lửa do tiếng nổ gây ra và sau một giờ chiến đấu, nguy cơ cháy xăng có vẻ đã đi qua.Trong lúc đó vài phi cơ của đợt hai bắt đầu đáp xuống chiếc Taiho. Thấy mẫu hạm Shokaku đã chế sự được các hư hỏng, Ozawa ra lệnh cho hai mẫu hạm tiến về phía đông để tiếp đón hai đoàn phi cơ cuối cùng sau khi chiến đấu trở về. Không một phi cơ nào của Mỹ đến tấn công hạm đội Nhật. Những hư hỏng duy nhất gây ra cho hạm đội cua rông đều do các tàu ngầm địch rủi ro gặp phải trên trục tiến quân. Mặc dầu các phi cơ trở về với nhịp độ rất yếu, ông có quyền nghĩ rằng quân Mỹ phải bị thiệt hại khá nặng nên phải rút lui về phía đông để khỏi bị thiệt hại thêm.Theo như các nhân chứng có mặt lúc đó thì vị Tư lệnh hạm đội lưu động số 1 "rạng rỡ lạc quan" trong lúc đột nhiên, cả một loạt tiếng gầm kéo dài làm vỡ tan sự im lặng, lúc đó là 15 giờ. Thoạt tiên ông cho đó là tiếng nổ của lựu đạn chống tiềm thuỷ đỉnh do các khu trục hạm vốn có nhiệm vụ săn đuổi liên tục tàu ngầm Mỹ tung ra. Nhưng khi thấy chiếc Shokaku, ảo tưởng biến mất. Nhiều cuộn khói bốc cao cho đến cột buồm và, hai phút sau, một tiếng nổ phát ra vang dội, phóng một chùm tia lửa lên cao. Rồi các cuộc khói đen quay cuồng do gió thổi tạt lên mặt biển trên hai luồng sóng sau chiến hạm. Mẫu hạm kỳ cựu của những trận đụng độ hùng tráng trên biển San hô và quần đảo Salomon lần này phải gục ngã vì cháy xăng.Ozawa vừa mới có thì giờ ra hiệu cho chiếc Zuikaku đến gần, 15 phút sau một tai nạn bi thảm đã làm đài chỉ huy soái hạm bối rối. Hơi xăng lan tràn dưới đáy hầm và từ các loa phóng thanh lệnh báo động được ban ra: "Nguy cơ cháy xăn". Tất cả các mạch điện đều bị cắt trong các ngăn bị đe doạ khiến gây ra một cảnh hỗn loạn. Thuỷ thủ đoàn trên chiếc Taiho không cùng có kkn như của chiếc Shokaku.Người chỉ huy an ninh, hoảng hồn vì tỷ lệ lớn lao các ngăn tàu mà hơi xăng tràn, liền ra lệnh mở hệ thống quạt để thông hơi đáy tàu. Mệnh lệnh điên rồ này cũng như một mồi lửa đưa xuống dưới một thùng thuốc súng. Đáy mẫu hạm đồng loạt biến thành một lò lửa thép và xô ngã các tường vách ngăn cách hầm tàu. Hầm máy bị lửa tràn ngập và tất cả các động cơ đều ngừng quay. Mẫu hạm nghiêng và nắt đầu chìm. Đô đốc Ozawa ra lệnh di tản và cùng với bộ tham mưu chuyển sang chiếc tuần dương hạm gần nhất. Vừa đặt chân lên đó, ông thấy mẫu hạm Taiho chúi xuống từ đằng sau và biến mất trong sự rung chuyển vĩ đại.Khi đêm xuống, bộ tham mưu của ông đặt tại các phòng ốc chật hẹp của tuần dương hạm Majuro, Ozawa tuyệt đối bình tĩnh soạn thảo các huấn lệnh cho hạm đội lưu động số 1. Ông đã bị những tổn thất nặng nề, nhưng ông còn lại một đại mẫu hạm, chiếc Zuikaku, chiến hạm luôn luôn may mắn, và toàn diện lực lượng mẫu hạm nhẹ. Ông chưa có con số chính xác các phi cơ được tiếp nhận trở lại, nhưng tính toán rằng những chiếc không trở về chắc đã xuống Guam hoặc Rota trong quần đảo Mariannes. Hơn nữa, các báo cáo của những phi công sống sót sau trận đánh đã nhấn mạnh đến bốn mẫu hạm nặng của Mỹ bị đánh chìm và một số lớn khu trục Hellcat bị bắn hạ.Do đó Ozawa suy tính rằng không có lý do gì không tiếp tục cuộc tấn công. Một điểm hẹn liền được ấn định với các tàu tiếp tế vào ngày mai, trong khi đó mệnh lệnh tiếp tục các cuộc không thám vào lúc bình minh được chuyển đến cho các mẫu hạm của hạm đội. Sau đó Đô đốc ra lệnh im lặng vô tuyến hoàn toàn cho tất cả các chiến hạm đang hành quân trong vùng.Đêm tối và những giờ đầu tiên của hôm sau trôi qua mà không có báo động mới, Ozawa kết luận rằng hạm đội Mỹ bị khó khăn phải rút về phía đông, nên quyết định đuổi theo.Mặc dầu những điều tiên liệu của Ozawa hoàn toàn sai lạc (các phi công của ông chỉ có làm hư hại được hai mẫu hạm và một thiết giáp hạm) thì không phải hạm đội Mỹ không tỏ ra kém phần ham chiến đấu. Không có một máy bay tuần thám ban đêm nào đến quấy rối sự yên tĩnh của các chiến hạm Nhật trong khi các thuỷ phi cơ thám sát của Nhật không ngừng quan sát từ xa mọi chuyển động của đối phương. Đối với Ozawa thật khó-nếu không phải là không thể nào tưởng tượng ra nguyên nhân của sự ngần ngại quá thận trọng này.Trong thực tế, có hai nguyên nhân: một mặt Đô đốc Sprannce, tổng tư lệnh quân lực xâm chiếm quần đảo Mariannes, đã ra lệnh cho Đô đốc Mitscher, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm mẫu hạm, đừng rời xa Saipan nơi đang diễn ra cuộc đổ bộ khó khăn; mặt khác, sự ngăn chặn các phi cơ Nhật (mà phi công Mỹ mệnh danh cho là một "cuộc bắn chim bồ câu" vì số lượng nạn nhân lớn quá) đã kéo theo một sự mệt mỏi không phải là ít, đến nỗi Mitscher phải gạt bỏ ý tưởng tung các phi công của mình vào một cuộc phiêu lưu mới.Mitscher là một phi công lão luyện có vô số giờ bay, và trái ngược với các đô đốc thường vốn hay có khuynh hướng sử dụng máy bay như là đạn đại bác mà không cần nghĩ đến chuyện gì có thể xảy ra cho chúng sau đó, ông chăm sóc tinh thần của các phi công, những chiến sĩ mà ông biết rằng ngày một ngày hai sắp đến sẽ quyết định chiến thắng hay chiến bại. Vì lẽ ông hoàn toàn không biết gì về tổn thất của địch do tàu ngầm gây ra, ông ngại một cuộc tấn công mới sẽ xảy ra ngày 20 tháng 6 và muốn đương đầu với đợt tấn công này với đầy đủ phương tiện của mình. Một buổi sáng nghỉ ngơi, theo ông, là vô cùng cần thiết và cũng không đòi hỏi-đáng lẽ ra ông phải làm-gia tăng thập bội các cuộc tuần thám để tìm lại vị trí hạm đội Nhật.Thế mà, trong buổi sáng đó, Ozawa đã nhận được một điện văn dài của Kasuka, Tư lệnh không lực tại quần đảo Mariannes, báo tin rằng 17 phi cơ sống sót sau cuộc "bắn chim bồ câu" hôm trước đã khẩn cấp đáp xuống Guam, hoàn toàn không thể cất cánh lại được nữa, và rằng các không đoàn của riêng ông vì bị thử thách quá nhiều bởi các cuộc oanh tạc ồ ạt của đối phương đến nỗi chỉ có thể mang lại cho ông một sự hỗ trợ yếu kém mà thôi. Khi biết được về định mệnh mới này, thái độ lạc quan của Ozawa đột ngột sụp đổ. Ông huỷ bỏ sự tiếp tế đã tiên liệu, và rút lui hạm đội lưu động của ông về Nhật Bản.Như thế là hai hạm đội đối nghịch xa dần nhau thay vì xáp lại gần nhau và mãi đến 16 giờ ngày 20 tháng 6 một phi cơ tuần thám của Mỹ mới báo hiệu được vị trí hạm đội Nhật Bản. Mặc dầu nhận được lệnh của Đô đốc Spruannce là "tấn công ngay khi có tin chính xác", Mitscher vẫn ngần ngại không muốn tung ra các không đoàn của mình để tấn công. Quyết định của ông sẽ rất trầm trọng: mặt trời đã hạ dần xuống chân trời và hạm đội Nhật đang ở vào vị trí xa nhất của bán kính hoạt động, điều này bắt buộc các phi cơ phải quay trở về lúc trời tối và bắt buộc tổ chức một cuộc tiếp đón phi cơ hết sức liều lĩnh. Nhưng cơ hội đánh bất ngờ và tiêu diệt hạm đội địch hết sức tốt đẹp. Do đó, rốt cuộc ông chấp nhận mạo hiểm.Các không đoàn Mỹ tổng cộng 216 phi cơ tấn công làm nhiều đợt từ 18 giờ 20 đến 19 giờ, nghĩa lúc mặt trời lặn. Hạm đội lưu động số 1 vẫn còn phân tán xa nhau, tạo thành nhiều mục tiêu dễ dàng, nhưng sau khi bay một chặng đường 450 cây số, các phi cơ của Mitscher chỉ vừa đủ xăng để thả bom hoặc phóng thuỷ lôi vào chiến hạm đầu tiên trông thấy, rồi quay lui ngay không để mất một giây.Tham chiến trong các điều kiện này, trận chiến hết sức mơ hồ rối loạn, các phi cơ khu trục của Ozawa mặc dầu số ít, nhưng đã chống cự rất hung dữ. Trong số bảy mẫu hạm của hạm đội lưu động, năm chiếc bị đánh trúng, nhưng chỉ một chiếc bị chìm (chiếc Hiyo) vì bị trúng nhiều bom và hai thuỷ lôi1 (Mà một quả lại do một tàu ngầm phóng đi). Tất cả chiến hạm khác có thể tiếp tục chạy về Okinawa và Nhật Bản. Hạm đội của Ozawa đã thoát khỏi cuộc tàn sát. Trong khi hạm đội lưu động số 1 lao vào bóng đêm, các phi cơ của Mitscher gặp rắc rối to trong khi tìm cách trở lại mẫu hạm của chúng. Mặt trăng lưỡi liềm chiếu sáng các cuộc tấn công sau cùng nay đã bị mây bao phủ cả chân trời che khuất và các phi công phải bay bằng dụng cụ phi hành trong bóng tối hoàn toàn. Các làn sóng vô tuyến bận rộn vì các tiếng gọi lo âu và các chỉ dẫn do chiến hạm phát đi bị chìm ngập trong một thứ tiếng lao xao không nghe rõ được.Lo âu khi chờ đợi phi cơ trở về, Mitscher đã áp dụng một quyết định chưa từng có trong các niên giám của các cuộc hải chiến. Ông ra lệnh cho tất cả các chiến hạm hướng các đèn rọi lên chiếu sáng bầu trời và cho chiếu sáng sàn đáp các mẫu hạm bằng tất cả mọi phương tiện kể cả đèn pha xe hơi. Sau đó ông tung các phi cơ săn giặc đêm bay lên đón đoàn phi cơ trở về để hướng dẫn chúng đáp xuống tổ ấm.Cuộc thao diễn nối tiếp sau đó trông thật ngoạn mục. Sáu mẫu hạm nặng và năm mẫu hạm nhẹ chạy trên hai trục dưới một vòm các chùm đèn chiếu sáng và hoả châu. Khi các phi cơ xuất hiện như những con đom đóm sáng bạc, các đèn ròi được tắt đi và các phi công có thể hạ xuống phía các sàn đáp được đèn xe hơi rọi sáng. Nhưng thần kinh căng thẳng quá cho nên mọi chuyện khó thể xẩy ra như trong một cuộc thực tập. Nhiều phi công không móc được dây hãm đà và đâm vào các rào cản, làm chậm trễ những chiếc theo sau; nhiều chiếc khác, hết xăng phải đáp trên biển; sau hết nhiều chiếc chìm luôn xuống nước vì nhiều lý do. Trong tổng số 216 phi cơ cất cánh lúc 16 giờ, chỉ có 116 là được thu hồi. Trong số 100 chiếc thì 20 chiếc bị quân Nhật bắn hạ, 80 bị mất vì tai nạn. Mitscher đã làm tất cả mọi chuyện, và các thuộc viên của ông cũng đã thực hiện chuyện phi thường để cứu các phi công lâm nạn. 101 người được vớt ngay trong đêm và 59 người được cứu khỏi các xuồng cao su hôm sau. Do đó, tổn thất về người chỉ lên đến con số rất thấp 49 bị giết hay mất tích.Riêng về phần thiệt hại của hạm đội thứ 5 thì không đáng kể: một trái bom đã rơi trên thiết giáp hạm South Dakota, một phi cơ-quyết tử đâm vào thiết giáp hạm Indiana, nhưng không có mẫu hạm nào bị đánh trúng.Quả thật là thiệt hại không bao nhiêu nếu so sánh với thảm bại mà hạm đội lưu động số 1 phải chịu đựng. Gần như tất cả chiến hạm đều bị hư hại, và trong tổng số 430 phi cơ lúc khởi hành, chỉ còn lại có 35 chiếc là còn có thể bay được.Ngay khi bỏ neo hạm đội, Ozawa gửi cho vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp một lá đơn từ chức diễn tả niềm hổ thẹn đã để cho cơ hội đưa Nhật Bản đến chiến thắng bị trôi qua một lần nữa. Ông tự gán cho sự thất bại của mình nguyên nhân đầu tiên là do sự kém cỏi của ông, nhưng đồng thời cũng là do tình trạng thiếu huấn luyện phi công. Tổng hành dinh Thiên hoàng từ chối không cho ông từ chức vì như thế là kéo theo sự từ chức của Toyoda. Hải quân Nhật Bản trong tình trạng bị săn đuổi không thể nào đủ sức chịu đựng sự thay đổi chức vụ Tổng tư lệnh lần thứ ba.

Tiến ngược lên phía Nhật Bản

Một sự chọn lựa khó khăn

Như một võ sĩ quyền anh bị hạ đo ván, vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp phải mất một thời gian lâu mới tĩnh trí lại được. Trong một nỗ lực tối thượng để ngăn chặn tiếng cồng bại trận, ông nghiên cứu tập họp các lực lượng của mình. Trong tình trạng hiện thời của hạm đội lưu động số 1, mọi hy vọng cứu vãn quần đảo Mariannes đều bị tiêu tán. Phải cần nhiều tháng trời mới có thể tái lập lại các phi đoàn cho những hàng không mẫu hạm và của các căn cứ trên đất liền tại Đài Loan và Phi Luật Tân. Trong khi chờ đợi phải tìm cách làm chậm lại đà tiến quân của Mỹ bằng cách chống cự kịch liệt tại các đảo còn chiếm đóng và sử dụng tối đa phi cơ và tàu ngầm nhưng không đưa bất cứ một chiến hạm nào còn lại vào vòng mạo hiểm.Chính vì vậy, trong bầu trời và trên một mặt biển trống vắng, mà các lực lượng của Đô đốc Spruannce có thể đổ bộ lên hết đảo này đến đảo kia từ Saipan cho đến Iwo-Jima. Tuy nhiên, mặc dầu có sự vắng mặt của tất cả những sự can thiệp từ bên ngoài, cuộc kháng cự của quân Nhật mau lẹ mang tính cách kịch liệt đến nỗi nhiều cuộc hành quân được dự liệu trong vài ngày đi phải kéo dài hàng tuần.Tại Saipan, nơi lực lượng chuyển vận thuỷ bộ của Đô đốc Turner đã đổ bộ dễ dàng trong ngày 15 tháng 6 năm 1944, sau một đợt chuẩn bị mãnh liệt bằng hải pháo và oanh tạc (8.000 người được đổ bộ trong vòng 20 phút) cuộc tiến quân của Mỹ bị chặn kẹt cứng ngay trên bãi biển. Các máy kéo bọc sắt chỉ có thể tiến lên được chừng 30 thước và phần nhiều đã bị các ổ đại bác được nguỵ trang tài tình bắn tan tành. Sau hai ngày chiến đấu mệt nhọc, thuỷ quân lục chiến của sư đoàn 2 bị thiệt mất 1.575 người, tử trận hoặc bị thương và bộ binh đến sau đó chỉ mở rộng đầu cầu được đôi chút. Thiếu tướng Holland Smith hiểu rằng Saipan sẽ là một Bétio thứ hai.Quả thế thật, nhưng cả Holland Smith lẫn Turner đều không phải chịu trách nhiệm, vì cả hai người đều được các phụ tá thay thế, tướng Harry Schmidt và Đô đốc Hill. Đối thủ đáng sợ của họ, tướng Seito, đã tổ chức trên các sườn của ngọn núi lửa Tapotchau một hệ thống rắc rối gồm các pháo đài, các hang động nối nhau bằng những đường hầm. Toàn bộ được nguỵ trang tài tình đến nỗi các cuộc oanh tạc và hải pháo đã hoàn toàn vô hiệu. Mỗi một hang hốc, mỗi một hầm hố phải bị tấn công bằng Bazoka và súng phun lửa, và phải mất 24 ngày với 77.000 quân Mỹ được 209 tàu chuyên chở đến chiến trường mới đánh bại được 20.000 quân trú phòng trên đảo.Ngày 7 tháng 7 năm 1944, các tiểu đoàn sau cùng của tướng Seito tung ra một đợt phản công đầy tuyệt vọng. Bốn ngàn binh sĩ và thường dân võ trang đủ loại vũ khí từ đại liên cho đến gậy tre có gắn mũi dao, nhô ra khỏi các hầm hố hò hét "Banzai"1 (Banzai: nghĩa thật sự là "ngàn kiếp sống". Được sử dụng hoặc để nói một câu chúc tụng-trong khi dự một tiệc rượu chẳng hạn-hoặc như một tiếng la tỏ tình yêu nước để huấn luyện binh sĩ khi xung phong) và "Hy sinh bảy kiếp để cứu tổ quốc!". Hai đại đội bị đụng trước tiên phải nhường bước cho làn sóng người và người ta lại phải gọi chính Sư đoàn 2 thuỷ quân lục chiến đến trám kẽ hở. Rồi sự can thiệp của pháo binh đã chấm dứt lò tàn sát bằng cách bắn như sấm sét sát ngay cạnh những kẻ sống sót sau cùng. Hôm sau chỉ còn binh sĩ lẻ tử ở phía bắc đảo. Bị quân Mỹ bao vây, vài trăm quân nhân và thường dân lúc đó từ trên đỉnh của bờ biển dốc đứng tại mũi Marti đều nhảy xuống vực tự sát. Xác của tướng Seito không thể nào được nhận ra giữa hàng ngàn xác chết chất thành đống trước các hầm hố hay bị cháy ra tro trong các hang động. Xác của Đô đốc Nagumo, người chiến thắng tại Trân Châu Cảng, tư lệnh hải quân và không lực thuộc hải quân tại quần đảo Mariannes, được tìm thấy trong đống đổ nát của các toà nhà dùng làm Bộ tư lệnh Hải quân. Ông không chịu để cho mang đi và tự bắn một viên đạn vào đầu.Mức độ kịch liệt của cuộc phòng thủ do Seito chỉ huy đã cho nếm trước mùi vị của những gì phải trả giá cho các cuộc chinh phục trong tương lai. Do đó các cuộc tấn công vào Tinian và Guam đều được một cơn hồng thuỷ toàn bom và đại pháo trút xuống trước. Tại Tinian, sự phá huỷ các cứ điểm phòng thủ kiên cố được dễ dàng nhờ nó nằm gần các bờ biển dốc đứng của Saipan, nơi đại pháo của Mỹ có thể bắn qua, và nhờ sự sử dụng một phương tiện tàn phá mới được mang ra thử lần đầu tiên tại đó: bom Napalm1 (Xăng chứa 6% tinh thể Napalm đông đặc) với hiệu quả làm bốc cháy cho thấy đã vượt hơn loại lân tinh nhiều. Hòn đảo được quét sạch trong chín ngày. Tám ngàn quân trú phòng bị tiêu diệt với giá năm trăm sinh mạng quân Mỹ.Ngày 2 tháng 8 đến lượt Guam chịu đựng cuộc xung phong của thuỷ quân lục chiến, được chuẩn bị trước bằng một cuộc hải pháo rùng rợn do chính tay một bậc thầy, Đô đốc Conolly, thực hiện. Hệ thống phòng thủ cũng có phương pháp như tại Tinian, và sự hăng say của binh sĩ Nhật rất hữu hiệu, nhưng ưu thế vĩ đại về số lượng của Mỹ đã áp đảo họ một cách mau lẹ.Ngày 10 tháng 8 năm 1944, công cuộc chiếm đóng các đảo chính trên quần đảo Mariannes chấm dứt. Quân Nhật tổn thất ở đấy mất 43.000 người, nhiều trăm phi cơ và một số lượng tương đương phi công bất khả thay thế. Ba tháng sau, các phi trường dự liệu dành cho các siêu pháo đài bay B-29 đã được thiết lập xong tại đấy. Chiến thắng dường như đang nằm trong tầm tay.Đấy chính là lúc mà sự tình cơ-loại sức mạnh thứ ba của chiến tranh ấy-lựa chọn để làm xáo trộn các kế hoạch của Đô đốc Nimitz.Ngày 26 tháng 7 năm 1944, trong lúc công cuộc chinh phục quần đảo Mariannes gần như chắc chắn rồi, Tổng thống Roosevelt đến Honolulu và cho triệu trụng Tướng Mac Arthur đến. Ông muốn đặt Mac Arthur đối diện với Nimitz và chấm dứt sự xung khắc giữa hai người. Theo ông đã đến lúc nhập chung ba chiến trường Thái Bình Dương (nam, tây nam và trung ương) vào làm một vì chiến trường đầu tiên không còn lý do nào để tồn tại nữa kể từ khi chiếm được Bougainville, và sau đó qui định những đường nét chính yếu của cuộc tiến quân về phía Nhật Bản.Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra tại Trân Châu Cảng trên chiếc tuần dương hạm Baltimore. Nimitz đã sử dụng trước một bản đồ Thái Bình Dương và giải thích với Tổng thống các lý do biện minh thuận lợi cho một mũi tấn công thẳng vào Nhật Bản, bằng cách tựa vào các tiểu quần đảo Bonins và Volcanos-đặc biệt và Iwo Jia là nơi mà ông đã oanh tạc xuống các phi trường. Các phi trường tại Saipan và tại Tinian sẽ được sửa sang lại để dùng làm căn cứ cho siêu pháo đài bay B-29. Các trung tâm kỹ nghệ và các hải cảng Nhật có thể bị oanh tạc từ mùa thu. Các không đoàn của hải quân Nhật không còn có thể được tái lập nữa và vài mẫu hạm còn chạy được không thể nào tiến ra khơi, thế thì tội gì mà lại nhọc sức chiếm hết đảo này đến đảo khác của các quần đảo phía nam, bởi vì quân trú phòng bị đói khát áp đảo rốt cuộc rồi cũng đến chết mà thôi? Khi Mac Arthur bước lên chiếc Baltimore, với một tuỳ viên duy nhất, mình khoác bộ quân phục tác chiến bằng ni-lông thoáng khí và đầu đội chiếc kết rộng vành, bị những cơn mưa nhiệt đói làm bạc màu, ông chào lại toán gác danh dự đang chào kính ông và tiến vào phòng khách của Đô đốc với cùng một dáng điệu của lực sĩ thế vận động như khi ông vượt qua các bãi biển theo các làn sóng quân sĩ xung phong. Ông bị khích động với nhiệt tâm chực bùng nổ của một tướng lãnh bị lưu đày không bao giờ được phép giải thích quan điểm và từ lâu phải đau khổ chịu đựng các sự chèn ép của Bộ Tổng tham mưu.Khi chỉ cho ông các cứ điểm sau cùng vừa chiếm được trên bản đồ, Tổng Thống hỏi ông để đánh tan không khí lạnh nhạt:-"Sao! Douglas, bây giờ chúng ta sẽ đi đâu đây?".Câu trả lời bật ra như một viên đạn:-"Đổ bộ lên Leyte chứ còn đâu nữa, thưa Tổng Thống, và từ đó tiến lên Lujon!".Rõ rệt là các thành công của Nimitz đã không làm cho ông đổi quan điểm. Ông luôn luôn tin tưởng sắt đá rằng điều mà ông gọi là "trục Tân-Guinée-Mindanao-Lujon-Đài Loan", là con đường duy nhất đưa đến Đông Kinh.Phần biện hộ của ông thật hùng hồn. Ông đã ám chỉ mơ hồ đến các trung đoàn thuỷ quân lục chiến quí báu hi sinh trên các đảo san hô và "cơ hội trôi quí" mới đây để dứt khoát tiêu diệt hạm đội liên hợp Nhật Bản. Rồi ông trở lại luận đề ưng ý nhất của ông: sự cam kết mà ông đã đưa ra khi rời Corregidor là sẽ "trở lại" Phi Luật Tân. Dựa trên lời hứa này, nhiều quân du kích đáng thương đã chiến đấu từ hơn hai năm qua trong các chiến khu Mindanao và Leyte. Danh dự của Mỹ quốc bị thử thách và nếu ông không chu toàn với lời hứa, thì sẽ không còn dân tộc Á châu nào tin tưởng vào lời ông nữa.Rõ rệt là bị xúc động bởi bài diễn thuyết của Mac Arthur mà giọng nói dần dần nhuốm về giọng điệu của một công tố trạng, phần thì bị một mệt mỏi vì chuyến hành trình, Roosevelt ngước mắt lên nhìn Đô đốc Nimitz với niềm hy vọng được ông ta cung cấp vài yếu tố để trả lời.Nhưng vô ích, Nimitz là một con người lạnh lùng và quá mực thước vốn rất ghét những hiệu quả của thuật hùng biện. Ông đã nói với Tổng thống những gì cần phải nói. Những luận cứ tình cảm mà người ta thôi thúc ông, không thuộc thẩm quyền ông. Ông im lặng. Ngoài ra ông Tướng còn lớn hơn ông năm tuổi, đã từng nắm giữ chức vụ tham mưu trưởng Lục quân trong khi đó ông chỉ là một Đề đốc đơn thuần. Lòng tôn kính mà ông vẫn chứng tỏ đối với hệ cấp quân đội bắt buộc ông phải lễ phép im lặng.Sự do dự này đã làm cho Tổng thống bực mình vì là một người cô độc do tật bệnh, Tổng Thống chỉ sống trong những xúc tiếp nhân bản và trí thông minh rộng lớn của ông chỉ tác dụng toàn diện với một kẻ đồng hành để có thể trả lời lại ông Tướng. Các luận cứ của Mac Arthur lại càng đập mạnh vào ông hơn vì ông đã thấy chúng được trình bày trên các cột báo của đảng Cộng Hoà. Từ ít lâu nay cả một chiến dịch được điều hợp rất khéo léo sử dụng các luận đề của ông Tướng để tạo nên biết bao lời châm chích chính sách của toà Bạch Ốc.Ông ngắt ngang cuộc hội kiên với thái độ hiền hậu thân thiết rất quen thuộc nơi ông và cho các thuộc viên rút lui sau khi xác định thêm rằng họ hoàn toàn đồng ý với nhau về nội dung, do đó họ phải chấm dứt sự bất đồng ý kiến.Khi trở về Hoa Thịnh Đốn; nhiều mối ưu tư khác đang chờ đợi ông. Tất cả mọi nỗ lực đều dồn về phía chuẩn bị cho Hội nghị liên đồng minh sẽ được khai mạc tại Québec vào đầu tháng 9 năm 1944 để điều hợp các cuộc hành quân trên khắp tất cả chiến trường với mục đích thu đạt nhanh hơn một chiến thắng dường như sắp sửa đến nơi rồi. Mối lo giải quyết cuộc xung đột Mac Arthur-Nimitz lại được để lại cho Uỷ ban tham mưu hỗn hợp; thế nhưng bị công việc trà ngập, Uỷ ban cũng bỏ quên luôn nội vụ. Trong suốt tháng 8, Nimitz được tự do tiếp tục các cuộc oanh tạc trên các quần đảo Bonins và Volcanos trong lúc Mac Arthur và Halsey gia tăng gấp dôi nỗ lực để vô hiệu hoá, bằng các cuộc oanh tạc, phía tây quần đảo Carolines trên đó các căn cứ hải quân kiên cố tại đảo Yap và Palaos đe doạ mạn sườn của mũi tiến quân về phía Mindanao.Tuy nhiên vào cuối tháng, Uỷ ban tham mưu hỗn hợp vì bị toà Bạch Ốc trách cứ chưa chịu giải quyết mau lẹ việc khó khăn, nên Đô đốc King quyết định nhập chung hai hải đoàn của Halsey và của Spruance làm một. Để tránh tình trạng thống thuộc gây khó chịu, ông quyết định rằng hai vị Đô đốc sẽ lần lượt luân phiên chỉ huy các lực lượng hải quân đang hoạt động. Khi một người đang tham chiến trên mặt biển thì người kia sẽ chuẩn bị kế hoạch tấn công sắp đến, tại bộ tham mưu ở Trân Châu Cảng, và kiểm soát việc sửa chữa cũng như huấn luyện các chiến hạm có mặt tại đấy. Hệ thống luân phiên chỉ huy được quyết định một cách tài tình như thế đã san bằng những khó khăn và cho thấy có tính cách vô cùng thực dụng. Các hải đoàn được mệnh danh là Lực lượng đặc nhiệm 38 (của Halsey) và Lực lượng đặc nhiệm 58 (Spruance). Bên trong, đó chẳng qua cũng chỉ là gồm cùng một số các các chiến hạm, vì các mẫu hạm của Mistcher là rường cột chủ yếu của cả hai Lực lượng đặc nhiệm, nhưng cứ mỗi lần thay đổi người chỉ huy thì danh hiệu của lực lượng cũng thay đổi theo1 (Người ta cũng còn gọi là hạm đội thứ 3 (Halsey) và hạm đội thứ năm (Spruance))Trong tháng 9 năm 1944, đúng lúc Hội nghị liên đồng minh sắp nhóm họp tại Québec, Uỷ ban tham mưu hỗn hợp chấp thuận kế hoạch tái chiếm quần đảo Phi Luật Tân do Mac Arthur thiết lập và Lực lượng đặc nhiệm 38 do Halsey chỉ huy nhổ neo tiến về phía nam.Kế hoạch dự liệu các cuộc đổ bộ tiên khởi lên các đảo phía tây quần đảo Carolines, tức là tiểu quần đảo Palaos và đảo Mindanao. Các mẫu hạm của Halsey có bổn phận chuẩn bị cho các cuộc đổ bộ bằng nhiều cuộc oanh tạc liên tục trong suốt một tuần lễ. Nhưng sau thời hạn này, vì thấy không hề gặp một phản ứng nào của không quân địch như đã dự liệu, Halsey suy tính rằng khu vực phía nam gần như đã bị vô hiệu hoá và như thế đổ bộ lên đó là chuyện vô ích. Ông gửi một điện văn cho Đô đốc King đề nghị thọc sâu thẳng vào Leyte, và vì lúc đó King đang có mặt tại Québec với Roosevelt, thủ tướng Anh, và tất cả các thành viên của Uỷ ban tham mưu hỗn hợp, đề nghị của Halsey được chấp thuận tại chỗ.Thật ra, Halsey hoàn toàn ý thức được nền tảng hợp lý của kế hoạch do Nimitz soạn thảo và không mong gì hơn là thấy Uỷ ban từ chối cuộc đổ bọ lên quần đảo Phi Luật Tân. Nhưng ông không muốn làm Mac Arthur thất vọng, một người mà ông có nhiều liên hệ móc nối, đặc biệt là một khuynh hướng tôn sùng cá nhân nào đó. Ngoài ra, ông cũng hy vọng sẽ tìm thấy cơ hội "đập tan hạm đội liên hợp" tại Phi Luật Tân.Những sự nhượng bộ hỗ tương liên tiếp ấy dần dần đã làm dịu không khí căng thẳng. Sự phân địch chức trưởng giữa Nimitz và Mac Arthur mơ hồ hơn bao giờ hết, nhưng sự đồng tình tốt đã được tái lập, không còn có những đụng chạm nghiêm trọng xảy ra trong thời gian có các cuộc hành quân nữa. Gia dĩ các cuộc hành quân cũng được giới hạn vào một số rất ít cho đến giữa tháng 10: oanh tạc các phi trường bằng phi cơ của các mẫu hạm và đổ bộ lên các đảo ít được phòng vệ. Sự kiện quan trọng đáng chú ý duy nhất trong chiến dịch một tháng này là sự kháng cự kỳ lạ của tiểu đảo Peleiu-đảo nằm xa nhất về phía nam quần đảo Palaos, sở dĩ có quyết định chinh phục đảo này là vì tầm quan trọng của các phi trường trên đó. 10.000 quân Nhật ẩn nấp trong các hang động và có chiến xa nhẹ đã làm cho chừng 5.000 thuỷ quân lục chiến và 15.0000 bộ binh Mỹ phải thất bại qua nhiều đợt tấn công suốt trong mấy tuần lễ liền. Công cuộc giải phóng toàn diện đảo chỉ hoàn tất trong tháng 11 nghĩa là quá trễ để cho các phi trường đó kịp được sử dụng cho cuộc hành quân đánh chiếm Phi Luật Tân. Cuộc chinh phục vô ích này đã phải trả một giá vượt các cuộc chinh phục Saipan... Riêng về nỗ lực đánh chiếm Phi Luật Tân thì phải trả giá mắc hơn nhưng với lợi ích lớn hơn.

Kế hoạch SHO

Trong khi các biến cố trên đây đang diễn tiến, dân chúng Nhật Bản đột nhiên ý thức được mức độ trầm trọng của tình hình. Sự thảm bại của hạm đội lưu động số 1 của Ozawa và cuộc xâm chiếm quần đảo Mariannes không còn có thể được che đậy nữa, và các chuyển động chính trị đã nối tiếp theo đó. Khi tin tức Saipan thất thủ được loan truyền, Tướng Tojo người đòi hỏi "danh dự được đứng ra phòng vệ đảo này", bị cưỡng bách từ chức. Để thay ông ta trong chức vụ Thủ tướng, Thiên hoàng chọn lựa vị Đô đốc già Suzuki, chiến sĩ kỳ cựu thời chiến tranh Nga-Nhật nổi tiếng là có tư tưởng ôn hoà. Chính phủ mới đã thực hiện các nỗ lực lớn lao để tăng gia tốc độ sản xuất phi cơ, chiến hạm và những đường biểu diễn năng suất kỹ nghệ chiến tranh bắt đầu nhích lên đôi chút.Nhưng thì giờ thiếu hụt. Hạm đội liên hợp trở thành chiến luỹ cuối cùng chống cự cuộc xâm chiếm quần đảo Nhật Bản, và sự khôn ngoan dường như buộc phải tập trung hạm đội vào Nội hải, đặt dưới sự che chở của Không quân trên đất liền, hầu có đủ thời gian cần thiết để tái trang bị phi cơ và phi công cho hạm đội. Khốn thay, giải pháp này lại không thể áp dụng được vì tình trạng thiếu dầu cặn tại chính quốc. Đô đốc Toyoda bị lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan: hoặc gửi các chiến hạm của ông xuống phía Nam, nơi chúng có thể tìm thấy dầu cặn cần thiết, nhưng lại không thể tiếp nhận cả đạn được lẫn phi cơ, hoặc giữ chúng lại trong Nội hải, nơi chúng có thể tiếp nhận vũ khí mới ra lò, nhưng lại không tìm đâu ra dầu cặn để nhổ neo ra khơi. Ông bèn chọn lựa một giải pháp trung dung: Tất cả các thiết giáp hạm và tuần dương hạm được gửi xuống phía Nam, chỉ một mình hạm đội lưu động số 1 còn gồm có một mẫu hạm nặng và ba mẫu hạm nhẹ là được tiếp tục giữ lại trong Nội hải.Sau khi tập họp được trong vùng biển Brunei, phía bắc Bornéo, hải đoàn thiết giáp hạm của Đô đốc Kurita dường như trở nên một lực lượng đáng sợ với bảy thiết giáp hạm-trong đó có hai chiếc khổng lồ Yamato và Musachi và 13 tuần dương hạm chạy nhanh, được võ trang hùng hậu. Nhưng hải đoàn này lại hoàn toàn lệ thuộc vào sự che chở của các không đoàn đặt căn cứ trên đất liền tại Đài Loan, Lujon, Leyte và Mindanao, mỗi khi nó tiến ra khỏi căn cứ tập trung.Kế hoạch của Toyoda-kế hoạch Sho-tiên liệu sự đột nhập lần lượt các chiến hạm của hải đoàn Kurita vào hải phận Phi Luật Tân để tiêu diệt đoàn quân đổ bộ của Mỹ khi họ tiến gần đến Leyte, bằng đại bác hạng nặng trên chiến hạm. Hải đoàn sẽ được chia làm hai đội, một hải đội sẽ chạy qua quần đảo Phi Luật Tân về phía bắc và ló ra khỏi eo biển San Bernardino trong lúc hải đội thứ hai tiến qua quần đảo theo ngõ phía Nam, mượn đường eo biển Surigao.Toyoda hy vọng rằng các không đoàn trên quần đảo Phi Luật Tân đủ sức che chở cho các thiết giáp hạm của ông và các không đoàn đặt căn cứ trên đảo Đài Loan sẽ giúp đỡ Ozawa khi ông ta đương đầu với các mẫu hạm Mỹ. Niềm hy vọng này rất mong manh vì lẽ sự tiêu hao liên tục mà các không đoàn phải gánh chịu trong các đợt oanh tạc tàn phá của không quân Mỹ. Trong hải đoàn của Kurita, nhiều lời phản đối đã được nêu lên nhằm chống lại ý định điên rồ là đưa "tinh hoa của hạm đội Nhật đến chỗ hy sinh" mà không có không lực che chở để tấn công vào lực lượng hải quân thuỷ bộ của Mỹ. Nhiều sĩ quan do các bản cử làm đại diện, đã đến trình bày những lo ngại với Đô đốc, trên thiết giáp hạm Musachi: "Chúng tôi không sợ chết, nhưng chúng tôi tâm niệm phải cứu vãn danh dự của Hải quân Nhật. Nếu thấy Hải quân bị hy sinh cho một nhiệm vụ nhục nhã như vậy, các Đô đốc Togo và Yamamoto sẽ khóc dưới nấm mồ của họ!" Kurita trả lời: "Tôi biết rằng nhiều người trong các anh không chấp nhận cuộc chiến đấu mà Tổng hành dinh Thiên hoàng chỉ định cho chúng ta, nhưng tình hình nghiêm trọng đến mức không một ai trong các anh có thể tưởng tượng được. Nếu hạm đội của chúng ta bất động trong khi dân tộc bị đe doạ tiêu diệt thi há chẳng đáng hổ thẹn lắm sao? Tổng hành dinh cho chúng ta một cơ may. Phải chấp nhận nó. Ai có thể quả quyết rằng không có cơ may nào để thay đổi chiều hướng chiến tranh bằng một trận chiến quyết định? Các anh cần phải nhớ rằng đôi khi phép lạ vẫn xảy ra!".Lúc ấy các sĩ quan có mặt đanh người lại trong cái đập gót chào và hoan hô Đô đốc với tiếng la rung chuyển "Banzai". Khi trở về tàu của mình, họ đã lặp lại cho tất cả mọi người những lời nói đầy hy vọng mà họ vừa nghe và công việc chuẩn bị liền được tiếp tục trong sự chờ đợi các đại biến cố được loan báo.Trong bản doanh đặt dưới hầm thuộc Viện Đại học Keio, Toyoda không có ảo tưởng nào về các thiếu sót của kế hoạch Sho. Sự yếu kém của không lực đặt căn cứ trên đất liền đã khiến ông ưu tư hơn bao giờ hết. Những phi công ưu tú nhất của không lực thuộc hải quân đã được tập họp tại Đài Loan, đặt dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Fukudomé1 (Đệ nhị Không lực). Ông cũng muốn thực hiện một nỗ lực tương tự để tăng cường cho đệ nhất không lực đồn trú tại Phi Luật Tân và giao quyền chỉ huy cho Phó Đô đốc Onishi.Tại Đông Kinh, Phó Đô đốc Takiri Onishi nắm giữ các chức vụ quan trọng của người chỉ huy ngành vật liệu cho không lực của hải quân trong Bộ Võ trang. Đấy là một phi công kỳ cựu luôn luôn có mặt để trám kẽ hở. Ông đã từng chiến đấu tại Trung Hoa trước khi trở thành cánh tay mặt của Đô đốc Yamamoto để cùng soạn thảo kế hoạch trứ danh nhằm tấn công vào Trân Châu Cảng. Sau đó ông đã chỉ huy một trong các không lực, mà trong tháng 12 năm 1941, đã quét sạch bầu trời Thái Bình Dương từ Phi Luật Tân cho đến các thuộc địa của Hoà Lan và đánh chìm hai thiết giáp hạm của Anh, chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse. Toyoda rất coi trọng ông; ông ta biết rằng sự chọn lựa của mình sẽ được nhất trí chấp thuận. Mặc dầu các chức vụ tại Đông Kinh rất quan trọng, Toyoda yêu cầu ông lên đường đi Manile ngay lập tức.

Đêm Mabalacat

Trưa ngày 17 tháng 10 năm 1944, một chiếc phi cơ dường như bị khó khăn đã đáp xuống phi trường Nichol's Field, gần Manile. Một người bước ra khỏi phi cơ, lưng còng xuống vì bộ y phục phi hành nặng nề và tiến đến trước hàng xe đang nhồi xóc chạy trên phi trường lỗ chỗ hố bom để tiếp đón. Đấy chính là Đô đốc Onishi, vừa từ Đông Kinh hấp tấp bay đến đảm nhận quyền chỉ huy đệ nhất không lực tại Phi Luật Tân.Cuộc hành trình thật bi thảm. Phi cơ phải tránh khỏi Đài Loan vì không quân Mỹ đang mở cuộc oanh tạc dữ dội tại đó. Phi cơ vừa đến được Manille thì cạn xăng.Một đoàn xe tuỳ tùng được sắp xếp và chạy về thành phố nơi đặt bộ tham mưu của Đệ nhất không lực. Chiếc xe dừng lại trước một biệt thự hào nhoáng chắc phải là rất oai vệ trong những ngày tươi đẹp của năm 1942, nhưng nay bị chìm ngập dưới con mưa như thác đổ và ẩn mình dưới mành lưới nguỵ trang, thoát ra một vẻ buồn tẻ vô hạn.Càng buồn tẻ hơn nữa là hình dáng của vị chủ nhân toà nhà, Đô đốc Teraoka vừa bị một mệnh lệnh của Thiên hoàng cách chức tư lệnh. Lễ bàn gian được theo nghi thức thường lệ tuy nhiên được thu ngắn lại vì các hung tin được đưa đến. Quân Mỹ đã đổ bộ lên Saloun ngay lối vào vịnh Leyte. Đệ II không lực đặt căn cứ tại Đài Loan từng tấn công các Lực lượng đặc nhiệm của Mỹ mà không thành công, đã tự mình đâm đầu vào chỗ bị tiêu diệt thật sự... Cuộc xâm chiếm Phi Luật Tân có thể đột ngột xảy đến ngày một ngày hai, Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp đã ra lệnh áp dụng kế hoạch Sho để phòng thủ quần đảo.Sự thành công của kế hoạch này lệ thuộc vào một sự che chở ồ ạt của không quân, thiếu nó, các thiết giáp hạm hùng mạnh của Đô đốc Ugaki sẽ lần lượt bị đánh chìm trước khi tấn công được đối phương. Nhưng tìm đâu ra sự che chở tối cần thiết ấy khi mà giờ đây tại Manille chỉ còn lại hơn 100 phi cơ có thể hoạt động được?Hai vị Đô đốc thảo luận rất lâu về tình hình. Tại Đài Loan, Đô đốc Fukudomé đã hoàn toàn bị thảm bại. Trong ba ngày oanh tạc, 18 mẫu hạm cơ hữu của hạm đội Mỹ đã tiêu diệt gần 500 phi cơ Nhật trên mặt đất hay trong các cuộc không chiến. Mặc dầu có các báo cáo lạc quan của các phi công, tổn thất của Mỹ dường như rất nhẹ và số lượng quá ít phi cơ còn lại tại Đài Loan chỉ có thể mang lại một sự hỗ trợ yếu ớt cho hạm đội lưu động khi nó phải chặn đầu Lực lượng đặc nhiệm vĩ đại của Mỹ.Tái diễn toan tính của Fukudomé với các phương tiện không đáng kể của Đệ nhất không lực sẽ là gánh lấy một thảm hoạ còn trầm trọng hơn nếu tham chiến theo các hình thức cổ điển. Vậy thì cần phải vận dụng đến chính các biện pháp cực đoan.Trong thời gian làm việc tại Đông Kinh, Onishi đã nghiên cứu mọi loại dự án nhằm khắc phục thế yếu của không lực Nhật Bản. Một trong các dự án ấy là sử dụng các "bom bay" được tiên liệu về mặt lý thuyết là sẽ do vô tuyến điều khiển, nhưng trong trường hợp khẩn cấp cũng có thể do một phi công tự sát điều khiển. Trước khi cho xúc tiến dự án được mệnh danh một cách nên thơ là "hoa anh đào" này, Onishi đã tham khảo các cấp chỉ huy cao cấp của hải quân và thảo luận với họ về "các ảnh hưởng tinh thần" có thể xảy ra sau đó. Ông hoàn toàn ngạc nhiên khi bắt gặp nơi những nhân vật này, những người mà ông tin rằng sẽ có thái độ cứng rắn và sự lãnh đạm toàn diện, một thái độ ngần ngại đầy cẩn trọng thuộc về ý thức còn đáng chú ý hơn thái độ của ông nữa. Tất nhiên là giáo điều về sự hy sinh không hề bị xét lại, nhưng ý tưởng chỉ định trước và chỉ định một cách lạnh lùng những phi công trẻ tuổi sẽ phải bắt buộc tự huỷ mình, ý tưởng ấy đánh thức nơi họ đôi chút ngại ngùng. Dự án "hoa anh đào" do đó đã chỉ được theo đuổi trong danh nghĩa rút kinh nghiệm, mà không được quan niệm có ưu tiên tuyệt đối không thể không có để thực hiện trong đoản kỳ.Khi Đô đốc Teraoka giải thích cho ông rõ chi tiết tình hình tương lai của hạm đội Nhật một khi tiến ra khỏi các eo biển tại Phi Luật Tân, Onishi đã tự trách mình đã tỏ ra yếu lòng một cách đáng khinh trong khi thảo luận dự án "hoa anh đào". Nếu ông có sẵn 400 hay 500 mẫu vật bay dễ thương ấy, thì hải quân đế quốc Mặt trời mọc đã có thể toan tính tiến ra với những cơ may thành công như hạm đội của tiền nhân được tung ra để tấn công đoàn thuyền của Kubilai Khan. Ngọn gió thần trứ danh-Kamikaze-ngày hôm đó đã càn quét đúng lúc các chiến thuyền của địch sẽ được thay thế một cách hữu hiệu hơn bởi các "đoá hoa anh đào".Onishi là một con người không bao giờ bỏ cuộc. Lúc cáo biệt Teraoka, quyết định của ông đã thành hình" ông sẽ thay thế các "Đoá hoa anh đào" bằng các phi cơ xưa cũ đang làm vướng bận các hăng ga trên các phi trường tại Phi Luật Tân, chất đầy bom và phái chúng đến đâm đầu xuống cầu tầu của chiến hạm địch. Ông bước xuống cầu thang của chỗ ở mới và ra lệnh đưa ông đến Mabalacat, bản doanh của bộ tham mưu phi đoàn 201.Mabalacat là một thị trấn bản xứ nhỏ hẹp chỉ có vài căn nhà kiểu tây phương. Căn lớn nhất được dùng làm tổng hành dinh của không lực thuộc hải quân. Khu vườn trông rất dễ thương, với những cây kiểu nhiệt đới xa hoa, nếu không có cơn mưa như thác đổ lên trên những bức mành rách bươm và nếu không có hai thùng phuy đựng đầy nước mưa rõ ràng là để dùng làm bể tắm cho những người chiếm ngụ. Riêng phần bên trong của ngôi nhà thì nó bày ra quang cảnh của một căn trại của những người lang thang: không có bàn ghế, nhiều giường xếp nhất đống sát vách tường, khắp nơi bừa bãi y phục phi hành, giày vớ, nón bay và khăn mặt.Trong những lúc khác, quang cảnh hỗn loạn này bày ra khi một Đề đốc đến, chắc đã gây ra một cơn biến động toàn diện rồi, nhưng hai hay ba sĩ quan cao cấp trực nhật tại Bộ tham mưu đang sốt vó bận khảo duyệt các điện văn và điện thoại để ra mệnh lệnh, không có thì giờ đâu mà lo lắng đến chuyện kẻ đến người đi nữa. Mãi đến lúc Onishi vượt qua người tuỳ phái đưa lối để bước ngang qua hành lang tầng lầu thứ nhất, thì một tiếng hô "nghiêm" phát ra trong cổ họng tắt nghẹn của một hạ sĩ quan mới làm mọi người trong nhà giật nẩy mình. Không đầy 20 phút sau, tất cả không đoàn trưởng đều có mặt trong phòng hội.Đô đốc dò xét vẻ mặt từng người dự hội với sự chăm chú kéo dài, rồi cất lời qua giọng nói chát tai:Tất cả các anh, ông nói, đều đã biết kế hoạch Sho đang được áp dụng. Nếu nó thất bại, tình thế của Nhật Bản sẽ rất bi thảm. Thế mà nó chỉ có thể thành công nếu các đại chiến hạm của hạm đội tiến lên dưới một chiếc dù không quân hùng mạnh che chở. Chiếc dù ấy, chúng ta không còn phương tiện để cung ứng nữa. Giải pháp duy nhất còn lại cho chúng ta ngăn cản-sẽ chỉ trong vài ngày thôi-không cho phi cơ địch cất cánh khỏi các mẫu hạm. Kết quả này chỉ có thể thu đạt được bằng cách gắn bom 250 kí lô lên các khu trục cơ và tất cả các phi cơ huấn luyện còn lại của chúng ta và phái các phi cơ này bay đến đâm xuống sàn tàu địch. Và, vừa nhắc lại hồi tưởng lịch sử, ông vừa nói thêm:-Ngọn gió từ các chong chóng phi cơ của các anh sẽ lại là ngọn thần phong Kamikaze và cũng như vào năm 1265, sẽ cứu hạm đội Nhật Bản khỏi bị tiêu diệt.Những lời nói ấy rơi vào trong sự im lặng giá băng. Không một sĩ quan nào hiện diện lại tỏ ra có một chút cho do dự nếu như Đô đốc yêu cầu họ hy sinh chính mạng sống của họ, nhưng họ biết rằng mạng sống hay cái chết của hàng trăm phi công trẻ tuổi sẽ lệ thuộc vào câu trả lời của họ. Tất cả yêu cầu được bàn định trong một căn nhà kế cận.Cuộc thảo luận rất ngắn ngủi. Ý tưởng được xổ tung. Nhiều sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc các không đoàn đã từng nghĩ đến phương tiện tuyệt vọng này. Trong các trận không chiến liên miên xảy ra bên trên các phi trường tại Phi Luật Tân, nhiều phi công vì hết đạn đã hạ các oanh tạc cơ Mỹ bằng cách lao vào cánh lái của chúng. Bốn ngày trước đó, Đô đốc Arima, chỉ huy trưởng không đoàn 26, trái với thông lệ, đã quyết định dẫn đầu đợt xung phong thứ hai tấn công vào một Lực lượng đặc nhiệm Mỹ đang tiến về phía Lujon. Lúc khởi hành, ông trình diện trước nhóm phi công, lột bỏ huy hiệu cấp bậc của mình và ngồi vào tay lái của chiếc phi cơ dẫn đầu rồi cất cánh ngay, theo sau ông là 80 khu trục cơ. Không ai còn gặp lại ông nữa. Kéo dài cuộc tấn công quá giới hạn dự trữ xăng, ông đã hoàn toàn tự ý lao mình xuống sàn một hàng không mẫu hạm.Sau khi gợi lại những gương sáng ấy, các không đoàn trưởng trở lại phòng họp. Onishi vẫn đợi họ tại đấy, ngồi tại chỗ, bất động như một tượng phật bằng đồng. Ông nhướng đôi mày rậm và liếc nhìn một vòng chung quanh.-Thưa Đô đốc, người chỉ huy thâm niên nhất lên tiếng, chúng tôi hoàn toàn đồng lòng với ông.Onishi chần chừ một lúc, rồi chỉ trả lời đơn giản "Tốt lắm!". Và ông bước mau ra khỏi căn phòng sợ rằng sẽ phản bội niềm xúc động đang làm ông đau thắt.Bây giờ các không đoàn trưởng chỉ còn có việc nói cho các thuộc viên biết quyết định của vị tư lệnh lực lượng. Biết rằng tinh thần đã được chuẩn bị, họ không hề nghi ngờ rằng quyết định ấy sẽ được chấp nhân không than vãn và số người tình nguyện sẽ tràn ngập. Nhưng cũng như Onishi đã làm, họ muốn được sự đồng tình về phương diện tinh thần của các sĩ quan. Vì từ lúc ấy mọi sự do dự đều không thể chấp nhận được, họ bèn dùng một công thức tam đoạn luân rất quen thuộc với những kẻ tài tử trước đa số tuyệt đối: "Anh thích chết bằng cách một chống mười mà không một tí hy vọng nào đạt được kết quả, hay là chết bằng cách mỗi người đánh chìm một mẫu hạm địch hơn?".Câu trả lời hoàn toàn nhất trí và chiến thuật Kamikaze được trưng cầu ý kiến trong mọt không khí phấn khởi điên cuồng.Bộ tham mưu của Đệ nhất không lực liền bắt tay vào việc soạn thảo các mệnh lệnh cần thiết cho sự thành lập "đơn vị Kamikaze". Đơn vị phải gồm có vài huấn luyện viên-tình nguyện chết như những người khác nhưng là một cái chết bị trì hoãn-có sứ mạng huấn luyện thật nhanh các sinh viên phi công đang thời kỳ thực tập, những người sẽ là chủ lực của đơn vị. Onishi chấp thuận các kỹ thuật vận dụng cực kỳ đơn giản bởi vì các phi công thành thạo rất hiếm có và phải được giữ lại để dẫn dắt đơn vị ra đi tấn công. Với một vài thay đổi để xích nhau thôi, chiến thuật gồm có lao xuống sát mặt nước trên chiến hạm mục tiêu bằng cách quay lưng về phía mặt trời, rồi hướng lên cao một chút và bay theo chữ chi để tránh đạn, sau đó đâm bổ xuống thật sâu vào phút chót.Những toán đầu tiên đã sẵn sàng vài ngày và, ngay từ ngày 22 tháng 10, một toán đã cất cánh để thử lửa. Sự rủi ro đã muốn rằng trời rất xấu. Bị quáng mắt vì những loạt mưa, các phi công không thấy các Lực lượng đặc nhiệm của địch đâu nên phải quay về. Ngày 23 tháng 10, tình hình khí tượng còn trầm trọng thêm, và sự thất bại tương tự lại tái diễn. Sự hổ thẹn và nỗi kinh hoàng càng lớn lao khi mà cứ một cuộc khởi hành là có một lễ nghi tiến đưa long trọng. Chính Đô đốc Onishi đích thân đến phi trường. Các phi công Kamikaze tập họp chung quanh ông, uống một chén Saké sau khi nâng ly chúc tụng Thiên hoàng. Sau đó họ khoác vào người biển hiệu của đơn vị: một chiếc khăn choàng rộng bằng lụa quấn chung quanh cổ. Rồi tay cầm lưỡi kiếm võ sĩ đạo, họ chạy về phía các phi cơ, Đô đốc chạy theo và đứng im trước chiếc phi cơ thứ nhất để chào từng người chạy qua, những anh hùng trẻ tuổi bay lao về phía thần chết.Ngày 24 tháng 10, các phi công Kamikaze được huấn luyện lại và một đội hình cổ điển gồm có những phi cơ tốt nhất do các phi công ưu tú của Đệ nhất không lực lái, đã được tung ra tấn công và đã khám phá thấy lực lượng địch ngoài khơi đảo Leyte.Đã đến lúc! Kể từ ngày 20 tháng 10, bên trong vịnh Leyte, 420 chiến hạm thuỷ bộ đủ mọi kiểu đã đổ bộ lên bờ hai sư đoàn bộ binh mà chẳng phải lo lắng gì cả. Ngày hôm đó, đến chiến trường lúc 10 giờ sáng trên chiếc tuần dương hạm Nashville, Mac Arthur đã dự kiến cuộc đổ bộ. Vài giờ sau, ông yêu cầu một chiếc Landing Craft đưa ông vào bờ. Ngay khu bụng chiếc tàu trượt ầm ĩ lên trên đá sạn của bãi biển San Pedro, ông Tướng bước xuống dọc theo chiếc cửa mở nghiêng xuống bãi, tất cả sĩ quan thuộc bộ tham mưu nối gót theo ông. Ông bước qua khoảng các mấy thước ngăn cách bãi cát, bằng cách lội xuống nước trong những lượn sóng nhỏ xanh biếc viền đầy bọt trắng. Khi đã đặt chân lên mặt cát khô, ông bắt đầu chạy trên bãi cát như một cậu bé tinh nghịch rốt cuộc thoát khỏi được lớp học để chạy nô đùa dưới ánh mặt trời. Thế rồi ông dừng lại đột ngột và quay về phía các sĩ quan ngơ ngẩn vẫn chạy theo cách ông một khoảng, ông la lớn với họ: Các anh tin hay không tin cũng mặc, chúng ta đã đến đấy rồi! "Và lần này, chúng ta sẽ ở lại!".

Trò chơi tàn sát

Bình minh ngày 25 tháng 10, hạm đội của Kurita vốn đã bị tiềm thuỷ đỉnh Mỹ tấn công bất ngờ đêm hôm trước và bị thiệt mất một tuần dương hạm, tiến về phía eo biển San Bernardino, từ đó nó sẽ phơi mình cho các cuộc tấn công của những mẫu hạm Mỹ đang canh phòng ngoài khơi vịnh Leyte. Cuộc tấn công của các phi cơ dưới quyền Onishi thật đáng ngưỡng mộ. Mặc dầu có sự hiện diện của vô số phi cơ khu trục Mỹ, một oanh tạc cơ đâm bổ của Nhật đã liệng được một trái bom trên mẫu hạm Princeton với sự chính xác đến mức nó xuyên qua nhiều hầm tàu và đâm ngang vào hầm chứa thuỷ lôi. Một tiếng nổ khủng khiếp làm chiếc mẫu hạm bắn tung thành từng mảnh và gây tổn thất nặng nề cho tuần dương hạm Birmingham đang tiến đến gần. Phi công Nhật tránh né được và bay về căn cứ theo mệnh lệnh thượng cấp, nhưng sự táo bạo điên rồ mà anh ta đã chứng tỏ khi thực hiện cuộc tấn công đã nhập vào tinh thần Kamikaze và đã chứng minh rằng ngọn gió mới giờ đây khích động toàn thể các phi công.Quân Mỹ trả đũa sấm sét. Tất cả phi cơ của năm mẫu hạm khác ào ạt tấn công các siêu thiết giáp hạm của Ugaki và mặc dầu có sự dũng cảm phi thường của vào khu trục cơ dưới quyền Onishi, họ đã đánh trúng được chiếc Musachi 17 trái bom và 19 thuỷ lôi. Dầu cho có chắc chắn bao nhiêu chăng nữa, chiếc soái hạm cũng không thể nào chịu nổi một lượng bom đạn như thế và nó chìm dần trong sóng biển. Như thế là chiếc siêu thiết giáp hạm, niềm kiêu hãnh của hạm đội Nhật, biến mất ngày hôm ấy mà không bao giờ bắn được một phát đại bác nào trong suốt cuộc chiến tranh.Các chiến hạm khác cũng bị trúng bom ít nhiều cho nên sau khi chuyển qua chiếc Yamato, Đô đốc Kurita ra lệnh cho hải đoàn quay lui để chờ đêm tối.Hành động này là một sự sai trật trầm trọng đối với kế hoạch Sho vì kế hoạch ấy dự liệu một cuộc tấn công đồng thời vào các chiến hạm đổ bộ do bởi hai hải đoàn dưới quyền Kurita, hải đoàn của Ugaki và hải đoàn của Nishimura. Hải đoàn sau đã tiến dọc theo bờ biển Mindanao để tiến vào eo biển Surigao lúc đêm tối; do đó nó đã đến vịnh Leyte trước các thiết giáp hạm khá lâu. Được thông báo khoảng cách chậm trễ này, Toyoda đành phải gửi cho tất cả một bản điện văn ngắn gọn sau: "Lao vào địch với tất cả lực lượng của quí ông".Nishimura lao vào tấn công trước. Lúc 2 giờ 30 sáng ngày 25 tháng 10, các khinh tốc đỉnh và khu trục của Đô đốc Kinkaid đang tuần hành trong eo biển Surigao đã phóng vào trục tiến quân vô số chùm thuỷ lôi mà một quả đã đánh chìm được thiết giáp hạm Fuso. Nishimura không vì thế mà không tiếp tục tiến. Người chiến sĩ kỳ cựu mà người ta đã lôi ra khỏi các quân trường tại chính quốc cùng các chiến hạm già nua ấy, đã muốn trút hết các với hầm đạn vào địch quân bằng mọi giá.Đến 3 giờ 30 sáng, những làn sóng dội ngược trở lại các giàn rada trên cột buồm các chiến hạm Nhật bắt đầu làm cho các mặt kính hiện lên những đốm sao báo hiệu các thiết giáp hạm Mỹ dưới quyền Kinkaid xuất hiện. Vài phút sau, những quả đạn đầu tiên được bắn đi và những vòng cung sáng chói của vô số đạn đạo "Tracers" đã chọc thủng bầu trời tối mịt. Các thiết giáp hạm Mỹ mà phần đông là những chiếc còn sống sót sau vụ Trân Châu Cảng, đã "chắn ngang hình chữ T" các thiết giáp hạm của Nishimura và tưới ngập đạn đại bác vào chúng theo đúng chiến thuật cổ điển đã được Đô đốc Togo sử dụng để chống hạm đội Nga tại eo biển Tsoushima.Đến 4 giờ, thiết giáp hạm Yamashiro, bốc cháy từ trước ra sau, mới chớm vận dụng để làm lạc hướng tác xạ của địch, nhưng đúng lúc đó bị trúng nhiều thuỷ lôi và biến mất trong một vùng lửa sáng loé. Tuần dương hạm Mogami cũng bị bốc cháy phải lẩn tránh cùng chiếc Shigura còn nguyên vẹn như nhờ có phép lạ. Vừa rút lui, hai tuần dương hạm lại gặp các tuần dương hạm của Đô đốc Shima chạy đến tiếp cứu. Các chiến hạm này sau khi phóng hết thuỷ lôi từ xa nhằm vào các tuần dương hạm địch, cũng quay đầu trở lại. Sự can thiệp của chúng đã quá chậm.Trước bình minh ngày quyết định ấy, thế là một trong các "mũi kìm" do kế hoạch Sho tiên liệu đã bị bẻ gãy. Nhưng đúng lúc đó, một biến cố bất ngờ xảy đến làm đảo ngược một tình thế đã quá sức tai hại, và nghiêng lợi thế cho quân Nhật. Các hải đoàn mẫu hạm của Halsey, được một phi cơ tuần thám báo tin có sự hiện diện của hạm đội lưu động số 1 thuộc quyền Ozawa về phía bắc Phi Luật Tân, liền nhận được lệnh rời khỏi vị trí canh gác để đến chặn đầu địch. Khi Đô đốc Kurita rốt cuộc cùng với hải đoàn của ông tiến ra khỏi eo biển San Bernardino, ông không thấy một chiến hạm nào của Mỹ và lợi dụng ngay phép lạ này, ông cho mở hết tốc độ lao về phía nam tấn công thẳng vào lực lượng đổ bộ. Lúc ấy các chiến hạm chuyển vận thuỷ bộ này chỉ được che chở bởi độc có các mẫu hạm hộ tống được dự liệu để yểm trợ cho quân đổ bộ. Khi Đô đốc Sprague, tư lệnh một trong các hải đội mẫu hạm hộ tống ấy được báo tin một hạm đội hùng mạnh đang tiến đến gần, ông phải mất ít lâu để xem có phải đó là tàu Nhật hay không. Tôn trọng lệnh im lặng vô tuyến, Halsey đã không thông báo sự ra đi của ông và tin tưởng là đã tránh khỏi được mọi bất ngờ. Khi ý thức hiểm nguy đang đe doạ, ông phân tán các chiến hạm theo một vòng cung rộng lớn và cho tất cả các phi cơ cất cánh đúng lúc các quả đại pháo đầu tiên của Kurita bắt đầu rơi từng chùm siết chặt chung quanh ông. Sáu mẫu hạm hộ tống đáng thương của Sprague, chỉ là những tàu vận tải được trang bị một sàn phi đạo, trở nên các tấm bia đỡ đạn không được phòng vệ trước các đại pháo hùng mạnh của các thiết giáp hạm Yamato, Kongo và Haruna. Chúng chạy về phía nam với tốc độ 17 gút, nhưng vì hạm đội địch chạy mau hơn 10 gút, chúng không có ảo tưởng gì nữa về chung cục của trận đánh. Chính lúc đó, một phép lạ mới đã xảy ra-lần này có lợi cho quân Mỹ. Sprague đã tung lên không gần 200 phi cơ và được chừng 50 phi cơ khác của các hải đội kế cận đến trợ chiến. Như một kẻ lấy trộm tổ ong bị bắt gặp đang hành sự, Kurita bị tấn công bởi những con ong vò vẽ hung dữ đổ dồn bom trên các chiến hạm của ông và càn quét các cầu tàu bằng các loạt đại liên. Hơn nữa những cơn mưa rào liên miên từ trên trời trút xuống đã che khuất mục tiêu, khiến ông tin là đang có chuyện với cả một hải lực mẫu hạm hùng hậu thật sự. Hải đoàn của ông đã bị cuộc tấn công đêm trước làm yếu đi nhiều, cho nên Kurita không dám săn đuổi các mẫu hạm Mỹ mà ông đã ước tính qua tốc độ thật sự của chúng. Sợ sẽ bị rơi vào một tổ ong vò vẽ mới, ông quay lui sau hai giờ theo đuổi và sau khi chỉ đánh đắm được một mẫu hạm hộ tống1 (Chiếc Gambier Bay) và một tuần dương hạm.Những nỗi khốn khổ của Sprague chưa phải là đã hết. Khi các quả đại pháo cuối cùng vừa rơi xuống thì nhiều phi cơ Nhật xuất hiện trên dãy núi thuộc đảo Samar. Người ta thấy chúng tiến tới theo một đội hình phân tán và thực hiện các động tác nhào lộn bất thường. Đấy là các phi cơ Kamikaze của Onishi, lần này thì thấy được hải đội mẫu hạm hộ tống địch, và cương quyết lao xuống, mỗi chiếc nhắm vào con mồi của mình. Không đầy một giờ, các mẫu hạm Santee, Saint Lo, Suwannee, Kitkum Bay và chiếc Kalinin Bay trông thấy nhiều phi cơ đủ loại bay lượn làm lạc hướng tác xạ của súng phòng không rồi đâm xuống vỡ tan trên sàn tàu. Phần đông các mẫu hạm hộ tống làm chủ được các đám cháy nhưng trên chiếc Saint Lo, bom và thuỷ lôi chứa trong hăng ga đã gây ra một tiếng nổ tai biến. Trận chiến chấm dứt theo cuộc quần ngựa ấy, cuộc quần ngựa đua đầu tiên của cả một loạt ghê gớm và lâu dài.Sprague đã cứu hải đội của ông thoát chết cơn tai biến, những tổn thất của buổi sáng hôm đó thật là nặng ngoài việc mất chiếc Saint Lo, 1.130 người đã bị giết và 913 bị thương nặng trên toàn thể các mẫu hạm hộ tống. Hơn nữa chiến thuật khủng khiếp của Nhật đã làm giao động tinh thần các thuỷ thủ đoàn. Tin tưởng có sự hiện diện của hải đoàn Halsey bên cạnh, Đô đốc Kinkaid quyết định gửi ba hải đội mẫu hạm hộ tống về Uliti để sửa chữa các chỗ bị hư hỏng.

Trận đánh cuối cùng của Ozawa

Trong khi trước vịnh Leyte xảy ra các biến động huyên náo ấy, Lực lượng đặc nhiệm 38 của Đô đốc Halsey đã theo đuổi sát hạm đội lưu động số 1 vốn đang tránh né ở phía bắc để lôi kéo các mẫu hạm Mỹ xa dần hải đoàn của Kurtita theo đúng kế hoạch Sho. Ozawa có bốn mẫu hạm tổng cộng 116 phi cơ, 2 thiết giáp hạm, chiếc Hynge và Ise, 4 tuần dương hạm nhẹ và 9 khu trục hạm. Mặc dầu ông chỉ có thể sở cậy vào một hậu thuẫn yếu ớt của phi cơ trên đảo Đài Loan, ông không ngần ngại tấn công Lực lượng đặc nhiệm của Halsey ngay khi phi cơ tuần thám lúc rạng đông báo hiệu lực lượng Mỹ đến gần. Khoảng cách còn xa và ưu thế đè bẹp của địch với 787 phi cơ trong đó có 402 khu trục cơ đã làm cho toan tính anh hùng này trở nên vô ích. Trong số 76 phi cơ tấn công vào nhóm đi đầu của các mẫu hạm thuộc quyền Mitscher, một vài chiếc bị hạ, chừng 20 chiếc bay đến Lujon và chỉ có 29 chiếc trở lại các mẫu hạm của chúng.Ozawa tạm thời rút lui rồi điều động để trở lại cách 200 dặm phía bắc Lujon lúc đêm đến. Chắc chắn là ông hy vọng rằng Kurita có thể tấn công trở lại vào rạng đông ngày 25 tháng 10, do đó ông tính rằng bổn phận của ông là phải ở lại đó như là một con mồi để cầm chân hạm đội thứ 3 của Mỹ.Thật kỳ dị, Halsey rơi vào cái bẫy mà chính ông thường giăng ra để nhử Yamamoto và Koga trong các cuộc đụng độ tại quần đảo Salomon và, tập họp bốn hải đoàn của mình trong đêm, ông tung chúng lên phía bắc theo đội hình rẻ quạt rộng lớn bỏ hạm đội đổ bộ của Kinkaid lại rất xa đằng sau. Bất chấp những lời kêu gọi khẩn cấp và liên tục của Kinkaid, ông từ chối trích bớt một thiết giáp hạm thuộc một hải đoàn thôi để đi tiếp cứu, mặc dầu ông có một ưu thế áp đảo và không hề cần đến những chiến hạm khổng lồ vướng bận này. Bị ám ảnh bởi lòng ham muốn "đập bể bụng vĩnh viễn" hạm đội lưu động, ông không muốn tách rời khỉ bất cứ chiến hạm nào của mình.Tảng sáng ngày 25 tháng 10, tất cả các mẫu hạm của Mitscher đều báo động, và đến 8 giờ, vì thấy được địch, 200 phi cơ cất cánh bay ùa đến các chiến hạm của Ozawa. Mẫu hạm Chitose bị trúng bom chìm ngay và mẫu hạm vinh quang Zuikaku bị trúng thuỷ lôi phải tách ra khỏi trục. Khi đợt phi cơ thứ hai và thứ ba bay đến, đội hình của chiến hạm Nhật bị hoàn toàn rối loạn. Ý thức được sự bất lực của các phi công cuối cùng còn lại, Ozawa đã gửi cho Onishi tất cả các phi cơ chiến đấu, chỉ giữ lại vài khu trục cơ. Những phi cơ cuối cùng này lần lượt bị hạ hết chiếc này đến chiếc khác; hạm đội lưu động lâm vào thế xuôi tay đưa mình chịu trận trước các đoàn của địch quân. Trò chơi tàn sát của Mitscher tiếp tục như trong một cuộc thực tập. Đến 14 giờ 15, mẫu hạm Zuikaku, lần lượt bị ba trái thuỷ lôi, nghiêng về một bên và chìm lỉm sau vài phút. Ozawa chuyển hiệu kỳ qua tuần dương hạm Oyodo và dẫn đầu hạm đội của ông chạy về phía bắc. Trong cuộc điều động này, ông mất luôn hai mẫu hạm chót là chiếc Chiyoda và chiếc Zuiho. Trong thời gian đầu hôm, phi cơ Mỹ ào ạt dồn về tấn công các thiết giáp hạm Ise và Hynge nhưng không có kết quả, thế rồi mất liên lạc với địch1 (Halsey không chịu gọi chúng về và đưa các lực lượng đặc nhiệm trở lại trước vịnh Leyte. Ông đã nhận được một điện văn hạ nhục của Nimitz như sau: "Lực lượng đặc nhiệm 38 đâu rồi? Cả thế guiơí đang tự hỏi như thế"). Vài chiến hạm còn sống sót đến tiếp hợp với chiếc Oyodo và cùng với nó, trở về được Nhật. Ozawa đã bị những tổn thất kinh khủng-ông không thể nào bị khác hơn được-nhưng là người duy nhất trong số các Đô đốc tham chiến trong kế hoạch Sho, ông đã thành công toàn diện trong sứ mạng đánh lạc hướng bằng cách nhử cho Halsey bỏ đi thật xa khỏi trận đánh chính yếu.Trong thời gian đó, về phía nam, hải đoàn của Kurita vốn đã để mất cơ hội trời cho để đánh chìm các mẫu hạm hộ tống và các hải vận hạm Mỹ bằng hải pháo, đã rút lui về phía tây ngang qua eo biển Bernardino. Lực lượng đặc nhiệm của Halsey rốt cuộc cũng được quyết định gửi đi lùng kiếm, nhưng vì quá cách xa nên không gây phiền phức gì cho hải đoàn Nhật. Đêm 25 rạng 26 trôi qua mà không có chuyện gì xảy ra cho nó. Kurita gửi một điệp văn cho các đô đốc Onishi và Fukudomé để báo rằng "cơ hội có vẻ tốt đẹp cho một toan tính lấy lại quyền làm chủ bầu trời". Một công điện cũng được Toyoda gửi đến yêu cầu ông "tái diễn cuộc tấn công nếu ông còn đủ sức làm như thế". Ông xét đoán rất đứng đắn là "không còn đủ sức nữa" và tiếp tục con đường tiến về phía tây. Thuộc cấp của ông đã phải chịu đựng từ ba ngày qua các cuộc tấn công liên tục của tiềm thuỷ đỉnh, khinh tốc đỉnh và phi cơ địch. Chính bản thân ông, sau đó cũng phải đồng ý rằng đã kiệt sức và chỉ còn có một ý tưởng: cứu vãn các chiến hạm sau cùng và tránh cho các thuỷ thủ đoàn dũng cảm của ông khỏi một cái chết vô ích.Đến 8 giờ 30 ngày 26 tháng 10, lúc hải đoàn Nhật chạy ngang quan Sibouyan, thì bị 30 chiến đấu cơ tấn công. Một tuần dương hạm trúng thuỷ lôi bị hư hại, và chiếc siêu thiết giáp hạm Yamato lãnh hai quả bom mà không hề hấn gì. Hai giờ sau, 30 oanh tạc cơ B-24 còn oanh tạc soái hạm nữa. Một quả bom nổ trước mũi, một quả khác mở ra bên tả mạn một lỗ hổng to tướng, nhưng nó vẫn tiếp tục rẽ sóng ngay giữa một rừng cột nước biển tung lên cao như những toà nhà mười tầng. Thiết giáp hạm Nagato, mặc dầu bị trúng bốn quả bom, vẫn theo sau lằn sóng rẽ đôi của chiếc Yamato. Hai chiến hạm để lại đằng sau một cái đuôi dầu cặn và mảnh vỡ rộng lớn nhưng vẫn đến được Brunei, có ba tuần dương hạm và tám khu trục chạy theo. Chúng đã trải qua 1.000 hải lý mà không giảm tốc độ mặc dầu bị nước tràn vào và bị nhiều hư hỏng. Sau biết bao nhiêu thảm bại đáng buồn, dầu sao đó cũng là một niềm an ủi. Tuy vậy là một niềm an ủi mong manh bởi vì từ nay chúng cứ đã cho thấy rằng các đại thiết giáp hạm, không có khả năng tự vệ chống lại phi cơ, sẽ không còn một hiệu dụng nào nữa như là một chiến hạm xung kích. Ngoài ra hạm đội của Ozawa đã bị mất tất cả hàng không mẫu hạm.

Cơn thịnh nộ Kamikaze

Trong các cuộc hải chiến tại Leyte, năm phi công do Onishi tung ra theo chiến thuật tấn công tự sát đã giáng cho hạm đội Mỹ nhiều tổn thất hơn cả 500 phi cơ mà Fukudomé đã hy sinh. Trước kết quả kỳ lạ này, tất cả các phi cơ có khả năng cất cánh đều được phân phối cho nhiều phi đội khác nhau và các phi công bắt đầu bổ chính các chiến thuật mới. Onishi tổ chức một cơ cấu dính liền gồm có nhiều huấn luyện viên. Các phi công Kamikaze được ở trong một khu doanh trại đặc biệt-những lều tre dựng sát mé nước đầy muỗi quấy phá-trong đó họ sống như thầy tu qua các buổi huấn luyện và các buổi suy nghiệm bộ luật Bushido. Vì họ quyết tâm trở lại căn cứ nếu hoàn cảnh không giúp họ trông rõ mục tiêu, một vài người đã sống như thế ít lâu trong những điều kiện phi nhân. Kể từ ngày 26 tháng 10 năm 1944, Onishi dùng các không đoàn trưởng của ông để quấy phá chiến hạm Mỹ chung quanh Leyte trong khi các hải vận hạm của Nhật lo tiếp tế nhân bóng đêm cho quân trú phòng trên đảo theo kiểu "chuyến tốc hành Đông Kinh".Ngày 29 tháng 10, 45.000 bộ binh Nhật và 10.000 tấn vũ khí và vật liệu đã được đổ bộ lên Ormoc, trên bờ đối diện và 100.000 binh sĩ của Mac Arthur bị mắc kẹt tại các vị trí của họ. Vì lẽ có chừng 350.000 quân Nhật được phân phối trên quần đảo Phi Luật Tân, viễn ảnh tương lai không lấy gì làm sáng sủa lắm cho quân Mỹ. Đô đốc Kinkaid kêu gọi các mẫu hạm của Mitscher đến oanh tạc trong hai ngày xuống phi trường Clark và Mabalacat. Phi cơ Kamikaze trả đũa khốc liệt. Chừng nửa tá phi cơ ấy vượt qua được hàng rào hoả lực phòng không để lao vào ba mẫu hạm và một thiết giáp hạm. Chiếc thiết giáp hạm thoát được trong gang tấc, nhưng các mẫu hạm Intrepid, Franklin và Belleau Wood không thể tránh né được các ngôi sao băng lao xuống nổ tan trên sàn phi đạo hay đài chỉ huy. Ngay đêm đó ba chiến hạm bị hư hại nặng này được đưa hoặc dắt về tận Uliti. Hôm sau Đô đốc Halsey ra lệnh rút lui toàn diện hạm đội thứ 3. Các thuỷ thủ đoàn đã chiến đấu liên miên từ ngày 6 tháng 10. Họ đã hớn hở tham dự các trận đánh trong những tuần lễ đầu, nhưng từ khi nổi cơn cuồng nộ Kamikaze thì tinh thần họ căng thẳng tột độ.Tin tức về sự thành công này đã gây tiếng vang mênh mông tại Nhật, tại đấy, một thứ điên cuồng bí ẩn xâm chiếm công luận. Mặc dầu quân Mỹ tiến đều, một niềm hy vọng mới phát sinh và được tuyên truyền phóng đại. Báo chí và đài phát thanh đã đi quá mức nồng nhiệt khi ca tụng "các cánh thiên thần lao xuống chiến hạm địch... Những than niên với cặp mắt sáng quắc đang mở đường cho vinh quang chiến thắng... Mỗi người cột một khăn quàng vào đầu, bạn bè nói lời vĩnh biệt với những người trưởng thành và bầu trời xung quanh họ từ từ sáng rực..." lời báo chí tại Đông Kinh.Hàng trăm người tình nguyện đến trình diện xin được thu vào đơn vị Kamikaze. Rủi thay, máy bay thiếu hụt và khi Onishi thực hiện một chuyến trở về Đông Kinh ngắn trong tháng 11, ông phải mất công lắm mới kiếm được 150 phi cơ. Chúng được các phi công tân tuyển, phần đông không có hơn 100 giờ bay, lái theo ông để đi Đài Loan. Ông để viên tham mưu trưởng lại đấy, đại tá Inoguchi, để thiết lập một trung tâm huấn luyện Kamikaze. Các khoá học kéo dài trong bảy ngày" hai ngày huấn luyện cất cánh với tối đa trọng lưựơng chuyên chở, hai ngày khác huấn luyện bay tập thể theo đội hình, ba ngày chót để học các chiến thuật tấn công khác nhau. Hai phương pháp thường được áp dụng nhiều nhất là đâm xuống 45 độ từ đằng sau mục tiêu sau một cuộc hạ thấp tiên quyết từ 7.000 xuống 1.000 thước, hoặc bay là sát mặt nước tiến đến cách mục tiêu 500 thước, rồi bay ngược trở lên và sau đó đâm thẳng góc xuống. Mỗi lần có thể tấn công bằng một cặp, hai phương pháp cùng đồng thời được áp dụng cho cùng một mục tiêu. Mỗi phi đội một khi đã được đào tạo xong sẽ đến tập họp tại Phi Luật Tân, từ đó sẽ được sáp nhập vào các đơn vị trên đảo Lujon hay đảo Cébu. Vài ngày sau, những kẻ mới học đạo được gửi vào chỗ chết và những người mới đến sẽ thế chỗ họ. Vài phi đoàn chính thống được Onishi giữ lại cũng đã làm chuyện phi thường để yểm trợ quân trú phòng tại Leyte.Đáp ứng một lời kêu gọi khẩn cấp của Kinkaid, Halsey gửi một trong các lực lượng đặc nhiệm của ông đến thực hiện một cuộc không tập mới xuống Cébu, Clark Field và Mabalacat, nhưng vì mẫu hạm mới Lexington bị hư hại nặng vì một phi cơ Kamikaze, cho nên kinh nghiệm đã không được tái diễn nữa. Tám ngày sau, một Lực lượng đặc nhiệm khác trở lại tấn công "chuyến tốc hành Đông Kinh" mới vốn vẫn tiếp tục tiếp tế cho Leyte. Một tuần dương hạm và ba hải vận hạm Nhật bị đánh chìm, nhưng các mẫu hạm Mỹ Intrpid, Cabot và Essex đều bị phi cơ Kamikaze làm hư hại. Lúc đó Halsey gửi cho Nimitz một điệp văn báo tin rằng "những cuộc tấn công đứt đoạn trên quần đảo Phi Luật Tân theo ông dường như không có lợi". Vị Tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương lúc ấy quyết định gọi Lực lượng đặc nhiệm 38 về nghỉ ngơi một thời gian.Vào đầu tháng 12, các phi trường tại Leyte rơi vào tay quân Mỹ và sau cùng đã được sửa chữa lại. Tướng Krueger, tư lệnh đệ lục lộ quân Mỹ có trong tay 183.000 quân nhưng ông đã bị tổn thất 2.250 tử trận và phải cho di tản nhiều ngàn binh sĩ bị thương hay bị các loại bệnh tật khác nhau-kiết lỵ, bệnh nhiệt đới, hay chân bị nhiễm độc năng do tình trạng dẫm đi liên tục trong bùn. Lúc đó ông yêu cầu Đô đốc Kinkaid chuẩn bị đâu đó sẵn sàng cho một cuộc đổ bộ lên Ormoc để cắt đứt cầu liên lạc cuối cùng mà từ đó tăng viện được đưa đến cho đối thủ đáng sợ của ông, tướng Suzuki. Lập tức tất cả các khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi, các khu trục hạm và chiến hạm thuỷ bộ của hạm đội thứ 7 được tập họp và ngày 12 tháng 12 năm 1944, cả một sư đoàn được đổ bộ lên Ormoc. Trước mối đe doạ này, 35.000 quân của Suzuki phải rút lui vào trong bán đảo San Isidro.Lúc ấy Mac Arthur quyết định coi đảo Leyte như đã được chinh phục xong và bắt đầu chuẩn bị xâm chiếm Lujon. Phía Nhật, Tướng Yamashita, tư lệnh binh đoàn Nhật Bản tại Phi Luật Tân, điện cho Suzuki là phải bỏ Leyte để tập trung về Lujon, "dầu phải tràn ngập nước mắt hối tiếc cho số phận 10.000 anh hùng phải bỏ lại để chiến đấu những trận cuối cùng mà không có một nguồn yểm trợ nào". 10.000 anh hùng này đã đáp ứng lời kêu gọi chân tình ấy và chứng tỏ là xứng đáng với những truyền thống cao cả nhất của quân lực Nhật Bản, bởi vì họ đã hăng say chiến đấu trong những điều kiện thể chất khốn khổ không thể tưởng tượng được mãi cho đến tháng 5 năm 1945!

Mac Arthur trở lại Manille

Kế hoạch của Mac Arthur là đổ bộ lên Lujon tại vịnh Lingayen như quân Nhật đã làm năm 1941, và cũng như họ thọc sâu vào Manille càng nhanh càng tốt. Trong sự vội vã muốn giải phóng các con tin Phi Luật Tân đang chết đói dần mòn trong các trại giam, ông ấn định ngày đổ bộ là 20 tháng 12 năm 1944. Đô đốc Kinkaid lưu ý ông rằng cần phải chiếm đảo Mindoro trước để có thể chuyển vận quân của Tướng Krueger từ Leyte đến Lingayen qua nội hải Soulou dưới sự che chở của không lực đặt căn cứ trên các phi trường thuộc đảo này. Ông Tướng nghe theo và cuộc đổ bộ lên Mindoro được ấn định là ngày 15 tháng 12, trong khi ngày đổ bộ lên Lujon được dời lại cho đến đầu tháng giêng năm 1945.Cuộc chuyển quân của Krueger từ Leyte đến Mindoro không gặp khó khăn vì Tướng Yamashita không tiên liệu được quả đấm móc này nên đã để cho tiểu đảo này gần như không được phòng thủ. Nhưng các chuyến tàu đi lại cần thiết để chuyển vận 200.000 người và một số vật liệu cồng kềnh vĩ đại đã kéo dài mất hai tuần, trong thời gian đó lực lượng thuỷ bộ của Đô đốc Kinkaid hàng ngày phải chịu đựng các cuộc xung phong của phi cơ Kamikaze.Tại Lujon và tại Cébu, bằng tất cả mọi thứ mưu chước, Onishi đã tăng cường được cho các đơn vị phi cơ tự sát bất chấp các cuộc oanh tạc liên tục. Các phi công được huấn luyện kỹ hơn số đầu tiên và sự tiến quân đến gần của địch đã khích động toàn thể đơn vị bằng một cơn mưa cuồng nộ quái gở. Về phía ông, Toyoda đã thực hiện một nỗ lực tối hậu để làm chậm đà tiến của Mỹ. Hai chiếc Oyodo và Ashigara-hai tuần dương hạm chót-đã được lệnh khởi hành dưới quyền Đô đốc Kimura để làm tê liệt hải đội vận chuyển quân xâm chiếm. Đại mẫu hạm Unryu, đang còn dở dang, cũng được lệnh nhổ neo đến Phi Luật Tân bằng cách chạy dọc theo bờ biển Nam Hải qua eo biển Đài Loan. Chính bờ biển này đã hoàn toàn bị Nhật chiếm đóng từ Thượng Hải cho đến Hà Nội để đề phòng các cuộc đổ bộ của Mỹ và mọi mưu toan tiếp tế bằng đường biển cho đạo quân của Tưởng Giới Thạch. Thời gian quân Mỹ bị mất đi trong cuộc đổ bộ lên Mindoro đã làm lợi cho Nhật.Kể từ 15 tháng 12 các đơn vị Kamikaze của Onishi tràn ngập các hải vận hạm và chiến hạm thuỷ bộ của Kinkaid. Năm L.S.T (Landing Ship Tank) và ba Liberty Ships bị đánh chìm và tuần dương hạm Nashville, mang hiệu kỳ của Đô đốc Strubble, bị hư hại nặng, 133 sĩ quan và thuỷ thủ trong đó có tham mưu trưởng của Strubble tử trận sau tiếng nổ của Kamikaze. Mối đe doạ trở nên trầm trọng. Mac Arthur liền ra lệnh cho đệ ngũ không lực gửi gấp 92 khu trục cơ và 13 B-25 đến Mindoro. Kinkaid phân phối các tiềm thuỷ đỉnh chung quanh quần đảo Phi Luật Tân và tập họp đến Mindoro nhiều hải đội khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi.Ngày 19 tháng 12, tiềm thuỷ đỉnh Redfish may mắn bắt gặp đại mẫu hạm Unryu lộ liễu tại eo biển Đài Loan, và phóng thuỷ lôi đánh chìm nó. Mối đe doạ trầm trọng nhất đã bị gạt bỏ. Ngày 25 tháng 12, khi hai tuần dương hạm của Kimura tiến vào vùng nội hải Soulou để tấn công lực lượng của Đô đốc Strubble, chúng bị tấn công bởi một đoàn phi công đông như ong và các khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi, đến nỗi phải quay trở lại và trở về Nhật Bản. Kinkaid đã thoát nguy và tự khen là đã chiếm Mindoro được.Giai đoạn tiếp theo tiến về Lingayen lại là một việc hoàn toàn khác. Đảo Lujon to lớn được phòng thủ bởi chừng 60.000 quân của Tướng Yamashita, số quân này được tăng cường mau lẹ bởi 10.000 thuỷ quân lục chiến của Đô đốc Ywabachi, tư lệnh căn cứ Manille. Onishi và Fukudomé chỉ huy những gì còn lại của đệ I và đệ II không lực, gần như gồm toàn Kamikaze. Toàn diện đạo quân chiếm đóng Lujon đều được vũ trang cùng mình và quyết định đánh đến chết không có ý tưởng rút lui.Lực lượng hải quân che chở của Mỹ, với sức mạnh 6 thiết giáp hạm, 6 tuần dương hạm, 12 mẫu hạm hộ tống và chừng 40 khu trục hạm, nhổ neo rời Leyte ngày 3 tháng giêng năm 1945 đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Oldendorf, tiến vào nội hải Soulou qua eo biển Surigao dưới sự che chở của một chiếc dù khu trục cơ hùng mạnh. Trong ngày đầu tiên, các phi cơ của Mỹ thành công trong việc làm tê liệt không cho Kamikaze cất cánh bằng cách oanh tạc các phi trường của chúng. Nhưng kể từ ngày 4 tháng giêng, Onishi tuôn vào hạm đội xâm chiếm một cuộc thao diễn liên tục. Một mẫu hạm hộ tống bị đánh chìm, một chiếc khác bị hư hại nặng cũng như hai tuần dương hạm và một khu trục hạm. Lực lượng hải quân che chở không vì thế mà từ bỏ tiếp tục hải trình đến vịnh Lingayen để oanh tạc hệ thống phòng thủ của Nhật. Cuộc oanh tạc và hải pháo này được dự liệu trong ba ngày trước khi lực lượng chuyển vận thuỷ bộ chuyển quân đến. Đó là ba ngày hoả ngục. Trưa ngày 6 tháng giêng, một trong các chiến hạm đầu tiên, chiếc thiết giáp hạm New Mexico khai hoả đồng loạt 12 khẩu đại pháo 355 ly nhắm vào hệ thống công sự phòng thủ của Nhật. Đứng trên cánh trái của đài chỉ huy, viên hạm trưởng quan sát cuộc tác xạ bằng ống dòm. Bên cạnh ông có trung tướng Herbert Lumsden, sĩ quan liên lạc đặc biệt của riêng Churchill cạnh Tướng Mac Arthur và phóng viên của tạp chí "Time". Đột nhiên một tiếng la vang lên từ spardeck (chiếc cầu trên boong tàu) và súng cao xạ bắt đầu khạc đạn điên cuồng. Các sĩ quan quay lại và bị chói mắt vì một ngọn lửa đỏ rực soi sáng những cuộn khói bốc ra từ các nòng súng sau khi viên đạn thoát ra. Trước khi họ kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì một tiếng bùng lên vang dội làm bay tung cánh trái của đài chỉ huy và tất cả những người đứng trên đó. Chiến hạm đột ngột chậm lại và tách ra khỏi trục tiến quân. Một Kamikaze vừa đâm xuống tan nát với một sự chính xác quái lại ngay trên đài chỉ huy. Hoàn toàn bất ngờ, vì chiếc phi cơ này vừa bị trông thấy trong đám mây khói bay chữ chi cầu may với một cánh đã bị lửa thiêu rụi ba phần tư. Chiếc thiết giáp hạm dập tắt được ngọn lửa nhưng 30 người-trong đó có hạm trưởng và khách của ông-đã bị giết và có 87 người bị thương.Vài phút sau, đến lượt khu trục hạm Walk bị bốn Kamikaze tấn công. Hai chiếc đầu hụt con mồi, nhưng chiếc thứ ba đâm bể tan trên cầu tàu gây ra một vụ cháy xăng tại đấy. Hạm trưởng và nhiều thuỷ thủ, biến thành những cây đuốc sống, đã chết vì vết cháy. Hai khu trục hạm khác bị hư hỏng cũng bằng cách đó và một tàu rà mìn bị đánh chìm. Mặt biển Lingayen phô bày một quang cảnh trước nay chưa từng có. Bầu trời hoàn toàn lặng gió. Khói súng cao xạ liên tục rất lâu tan. Bên trên, bầu trời phủ đầy những đốm trắng sau các tiếng nổ của đạn phòng không. Bên dưới, mặt biển dâng lên vì những chùm đạn đạo và nhiều đám khói dày đặc kéo lê sau các chiến hạm bị bốc cháy. Đôi lúc, mọt chiếc nấm đen khổng lồ bốc lên cao, chen lẫn những vạch lửa đỏ rực: một Kamikaze vừa đâm xuống nước.Thiết giáp hạm California, tuần dương hạm nhẹ Columbia, tuần dương hạm của Úc Australia-mà đây là lần thứ hai bị đánh trúng-lần lượt bị Kamikaze đâm tan nát trên sàn tày hay trên đài chỉ huy. Đến 17 giờ 30, sau một lúc yên tĩnh, tuần dương hạm nặng Louisville phủ đầy khói. Một Kamikaze đâm xuống sàn trước mũi, ngang với đài chỉ huy, Đề đốc Chandler, tư lệnh hải đội, bị thảm xăng bừng lửa phủ ập lên cầu tàu đốt cháy. Ngọn lửa thoát ra từ kẽ hở do trái bom nổ xoi thủng. Chiến hạm, tạm thời bị hư hỏng, rút lui khỏi vòng chiến. Tình thế rất nghiêm trọng. Chưa bao giờ kể từ các trận đánh hỗn loạn tại Guadalcanal, hạm đội Mỹ lại bị những tổn thất đến thế. Oldendorf lại càng lo lắng hơn khi mà hai lực lượng chuyển vận thuỷ bộ, các mẫu hạm hộ tống và chiếc tuần dương hạm Boise chở Mac Arthur và ban tham mưu của ông đã nhổ neo lên đường. Nhưng bóng đêm đổ xuống mà không có báo động mới nào và khi nhận được các báo cáo yên tâm do các hạm trưởng các chiến hạm bị hư hại gửi ông quyết đến, định chờ đến sáng để xem có nên từ bỏ cuộc hành quân hay không.Ngày 8 tháng giêng năm 1945 ít sôi động hơn. Vài tàu rà mìn bị đánh trúng và tự nhiên là bị tan nát bay tung từng mảnh, và tuần dương hạm Australia, rõ rệt là gặp rủi ro, lần lượt tiếp nhận chiếc phi cơ Kamikaze thứ ba rồi thứ tư. Nhưng chiếc chiến hạm mạnh mẽ của Úc sống thật dai, và khi đã thoát khỏi nguy hiểm, viên hạm trưởng chắc sẽ không ít kiêu hãnh vì kỷ lục lạ lùng này.Trong thời gian đó, lực lượng xâm chiếm chạy dọc theo bờ biển tây Lujon, tiến đều mà không hề bị một cuộc tấn công nào cả, bởi vì Onishi được biết tin có một Lực lượng đặc nhiệm gồm nhiều mẫu hạm đang bọc vòng phía bắc Phi Luật Tân, nên đã để dành phi cơ Kamikaze cho con mồi quan trọng ấy. Thật vậy, Đô đốc Halsey đã quyết định che chở cho cuộc đổ bộ của Mac Arthur bằng cách oanh tạc tất cả các phi trường tại Đài Loan và dọc theo bờ biển Nam Hải.Trước khi đến cùng biển Lingayen hai lực lượng chuyển vận thủy bộ của Đô đốc Kinkaid với các mẫu hạm hộ tống và các tuần dương hạm che chở cho chúng cũng bị một vài Kamikaze tấn công. Mẫu hạm Kinkum Bay và tuần dương hạm Boise chở Mac Arthur và bộ tham mưu của ông đều bị tấn công nhưng không bị chìm.Ngày 9 tháng giêng khi cuộc đổ bộ bắt đầu, tuần dương hạm Columbia bị chiếc Kamikaze thứ hai, nó thoát ra được mà không bị thiệt hại gì nhiều nhưng đã thêm 92 người tử trận vào một danh sách đã quá dài. Dầu cho hung tàn và gây mệt lử đến mấy, các mũi chích của bầy ong vò vẽ ấy cũng không thể nào làm chậm được nhịp đổ bộ lý do là vì cuộc chống cự trên bãi biển quá yếu. Mặc dầu có sự can thiệp quá chậm của nhiều khinh tốc đỉnh chứa đầy chất nổ bắt chước kiểu tàu M.A.S. của Ý, ban đêm lao vào các chiến hạm đổ quân, nhưng các hải vận hạm chở quân và chiến cụ đã có thể chuyển lên bờ tất cả binh sĩ và vật liệu rồi nhổ neo trước khi bình minh ngày 10 tháng giêng ló dạng. Mẫu hạm hộ tống Salamaua suýt bị một Kamikaze đánh chìm, đã kết thúc vận đen của những ngày khủng khiếp ấy.Trong khoảng thời gian đó, Onishi sử dụng tất cả phi cơ có trong tay để tấn công Lực lượng đặc nhiệm của Halsey và gây cho ông ta những tổn thất nặng nề: 201 phi cơ, 167 phi công, hai mẫu hạm bị hư-chiếc Langley và chiếc Tincoderoga-và một khu trục hạm biến thành cái xác tàu. Nhưng vì tất cả tài nguyên đã cạn, ông quyết định gửi đến Đài Loan, đặt dưới quyền của Fukudomé, 47 phi cơ tốt nhất còn lại. Chính ông, ở lại tại chỗ với 10 phi cơ cũ kỹ chỉ có thể cất cánh được với chừng 30 phi công không thể nào di tản được. Cũng như hạm trưởng một chiến hạm không muốn bỏ tàu, Onishi nghĩ rằng bổn phận của ông là ở lại với những người "hèn mọn" tại các phi trường thuộc Phi Luật Tân, những người trong hơn ba tháng liền đã đảm trách một công việc làm bạc bẽo, việc làm của các cơ khí viên đằng sau bối cảnh của thiên anh hùng ca Kamikaze. Sau khi thiết lập ban chỉ huy trong núi, với một nhiệt tâm bất khuất, ông điều động tổ chức cuộc bố phòng theo chiều sâu tại phi trường Clark với nhân viên của không lực thuộc hải quân được vũ trang bằng đại liên, súng cá nhân và lựu đạn.Khi công việc đang tiến hành tốt đẹp thì ông nhận được một công điện của Đô đốc Salomon nay là tư lệnh hải quân tại Manille, báo tin là ông phải cấp tốc trở về Nhật do lệnh của Tổng hành dinh Thiên hoàng. Phản ứng đầu tiên của Onishi là từ chối thi hành mệnh lệnh này. Phải có sự khẩn nài tha thiết của viên tham mưu trưởng của ông, đại tá Inoguchi, ông mới bằng lòng rời thuộc viên của mình. Kondo không để cho ông phải đòi hỏi giải thích nguyên nhân: "Tổng hành dinh Thiên hoàng đã chỉ định ông làm tư lệnh tất cả những gì còn lại của không lực thuộc hải quân tại Nhật Bản. Fukudomé sẽ gửi cho ông một phi cơ từ Đài Loan. Ông sẽ đi ngay khi phi cơ đáp xuống Clark.Onishi nhượng bộ Kondo nói tiếp: "Inoguchi phải tập họp các phi công ưu tú nhất và các cơ khí viên còn sống sót của Đệ I không lực. Nhiều phi cơ khác cũng sẽ đến kiếm họ"Vài giờ sau, Onishi và Inoguchi vẫy chào tất cả thuộc viên giữa các pháo đài và hang động mà họ vừa thiết lập. Sự thử thách còn đau đớn hơn nữa vì sự ra đi của những người được tuyển lựa này có thể tạo cho người ở lại một cảm nghĩ đào nhiệm. Hôm sau Onishi rời phi trường Clark. Khi đến Đài Loan, phi cơ của ông thoát khỏi một phi đoàn khu trục Mỹ trong gang tấc. Lúc Fukudomé đến đón ông tại phi trường và chúc mừng sự may mắn mà ông vừa trải qua, ông buồn bã gật đầu. Trăm lần ông thích cái chết hơn là cái thử thách đang chờ ông.Trong khi binh sĩ của Yamashita tổ chức kháng cự trong các dãy núi xanh om, trên đảo Lujon, đệ lục lộ quân của Tướng Mac Arthur đồn trú chung quanh Lingayen với sự chậm chạp huy hoàng vẫn thường chi phối các cuộc điều động các đại đơn vị. Cuộc kháng cự từng đợt của địch không đáng kể nhưng khung cảnh thiên nhiên của chiến trường và các sự phá hoại của quân Nhật đủ làm tê liệt đà tiến của chiến xa và thiết giáp. Mac Arthur dậm chân nóng nảy. Ông được báo tin rằng gần 3.000 người Phi Luật Tân và vài trăm người Mỹ bị nhốt trong các trại giam ở Manille đang chết đói dần mòn. Thấy rằng không thể nào sửa đổi lệnh di chuyển các sư đoàn bộ binh nặng nề được, ông cho gọi từ Leyte đến sư đoàn 1 khu trục hạm binh thân yêu của ông, sư đoàn mà ông sử dụng để đánh chiếm bất thần quần đảo Amiranté. Khi Tướng Oscar Griswold, tư lệnh sư đoàn, đến Lingayen, Mac Arthur nói với ông: "Hãy thọc sâu vào Manille! Bọc vòng bọn lùn, đẩy dồn bọn lùn lại, nhưng hãy thọc sâu vào Manille và giải phóng các con tin!".Sư đoàn 1 đổ bộ ngày 27 tháng giêng, và không có sự yểm trợ nào ngoài hai không đoàn thuỷ quân lục chiến, nó dấn mình vào con đường lồi lõm ngay hôm sau, bắc cầu qua những con sông nước lớn, vượt qua các đầm lầy. Coi thường các khẩu đại bác từ trên đồi cao bắn xuống, băng qua ruộng lúa để bọc vòng các ngã tư đường do quân Nhật chiếm giữ, trong ba ngày sư đoàn tiến xa 80 cây số. Ngày 3 tháng 2 năm 1945 lúc 18h 30, các chiến xa nhẹ của thiếu tướng Chase tiến vào Manille sau khi đẩy dồn các tiền đồn của quân trú phòng. Thiếu tướng thọc sâu bất định vào các con đường tối om và vắng ngắt của thành phố to lớn ấy, nhờ các hướng đạo viên và các chiến sĩ trong các chiến khu thu lượm dọc đường hướng dẫn. Chiến xa vượt qua con sông Pasig chảy ngang qua Manille trên chiếc cầu duy nhất còn lại nguyên vẹn và đột nhập vào tổng hành dinh đặt tại viện đại học San Thomaco, nơi các con tin bị nhốt. Bất ngờ vì cuộc tấn công sấm sét này, quân trú phòng trong viện đại học rút lui về nhiều dãy nhà khác nhau và hoả lực của họ càn quét các con đường kế cận. Chase ra lệnh bao vây khám nhà và gửi các đại biển đến gặp viên Đại tá Nhật, mà sau cuộc thảo luận kéo dài, bằng lòng phóng thích các con tin với điều kiện để cho ông thoát ra khỏi vòng vây cùng với binh sĩ mang theo vũ khí nhẹ. Thoả hiệp này được tôn trọng triệt để và đến bình minh hôm sau, 2.700 người Phi Luật Tân, 300 người Mỹ xanh xao ốm yếu và gần chết đói bước ra khỏi nhà giam, nơi họ bị nhốt suốt trong ba năm chết chóc.Cuộc ngưng bắn này chỉ là tạm thời. Trước khi bộ binh của đệ lục lộ quân đến, 20.000 quân Nhật có mặt trong thành phố Manille đã có thì giờ đào hào đắp luỹ. Nhiều trận đánh trên đường phố cũng khốc liệt như tại Stalingrad diễn ra trong hai tuần ngay giữa các đống đổ nát, giữa nhiều bức tường đổ sụp lẫn lộn với thép gai và trong một mùi hôi thối không chịu nổi của các xác chết bị ánh mặt trời nhiệt đới hấp nóng. Ngày 3 tháng 3 năm 1945, khi pháo đài cuối cùng của Nhật bị triệt hạ bằng lựu đạn và súng phun lửa, thành phố chỉ còn là một đống gạch vụn ngổn ngang. Khách sạn Manille Hotel là một trong các cao ốc còn đứng vững và Mac Arthur còn có thể leo lên để thăm lại căn nhà xa hoa trong cảnh điêu tàn của ông. Ông tìm thấy lại ở đây chiếc đàn dương cầm vỡ nát, vài cuốn sách và các tài liệu bị cháy đến ba phần tư nằm sóng sượt trên những mảnh vụn của thư viện riêng. Người ta đã đánh nhau tại đó mấy hôm trước, từ tầng lầu này đến tầng lầu khác.Tại Corregidor, sau khi được giải phóng nhờ một tiểu đoàn dù, ông vui sướng thấy lại được chiếc xe hơi Rolls xưa cũ được đánh bóng loáng và còn chạy được. Ông cho thượng quốc kỳ "sao và sọc" lên cột cờ của đồn binh trong khi cả một trung đoàn hát bản quốc ca. Sau vài phút nghi lễ tiếp đón, ông quay lại phía các binh sĩ tháp tùng và nói với họ: "Tạ ơn Chúa! Này các ông, chúng ta đến nơi rồi đấy!... Đoạn đường đã quá dài!...Không một người nào nghe ông lại có thể tưởng tượng được rằng công cuộc giải phóng toàn thể Phi Luật Tân sẽ còn đòi hỏi thêm năm tháng chiến đấu gay go nữa.

Vòng vây siết chặt

Iwo Jima, Okinawa

Sau cuộc đổ bộ lên Lingayen, hạm đội thứ 3 trở về Uliti, và Halsey trao quyền chỉ huy lại cho Đô đốc Spruance. Vài hôm sau hạm đội từ Saipan lại khởi hành để bắt đầu các cuộc hành quân tiến về phía Nhật Bản vốn đã bị chậm mất 4 tháng vì quả đấm móc Phi Luật Tân. Kế hoạch hành quân đã được bộ tham mưu của Nimitz và Spruance soạn thảo tỉ mỉ. Kế hoạch gồm có trước hết một cuộc đổ bộ lên tiểu đảo Iwo Jima nơi các phi trường có thể sửa sang lại cho các pháo đài bay sử dụng. Nằm giữa đường đi từ quần đảo Mariannes đến Nhật Bản, Iwo Jima sẽ là một phi trường tiếp cứu tương lai đối với các oanh tạc cơ gặp khó khăn, và là một phi trường đảm bảo sự nối tiếp các khu trục cơ cất cánh tại Saipan vốn không có tầm hoạt động đủ lớn để hộ tống từ đầu đến cuối các pháo đài bay B-29 trong các chuyến bay đến Nhật Bản và trở về. Căn cứ theo các tin tức không thám, Nimitz và Spruance ước tính rằng đảo này không được phòng thủ kỹ.Iwo Jima biểu tượng cho một tính cách đặc thù thuộc các đảo cùng loại: đặc tính bị xáo trộn từ đầu thế kỷ tiếp theo sau một cuộc động đất dữ dội dưới đáy biển. Nó là một khối không có hình thù gì rõ rệt gồm các phiến dung nham và tro hoả diệm sơn. Không có một mảnh đất nhỏ trồng trọt được, cho nên dân cư trên đảo chỉ là các phu mộ lưu huỳnh trước khi người Nhật nghĩ đến chuyện thiết lập các phi trường trên đó. Trên bản đồ, Iwo Jima mang hình dáng một chiếc đầu của con Tapir, đầu mút của chiếc vòi có tua là một miệng núi lửa vươn thẳng từ mặt biển lên. Dưới chân núi lửa hình nón này, eo đất chỉ rộng từ 5 đến 800 bước, rồi hai bờ biển dang xa nhau đến mức rộng nhất là 5 cây số trong phần tạo thành cái sọ của con Tapir. Chính trong vùng bằng phẳng nằm giữa miệng núi lửa và các dãy núi là nơi có phi trường lớn nhất, nằm sát kế bên một bãi biển thẳng tắp dài 3 cây số. Bãi biển này là một bãi đổ bộ lý tưởng nếu có bị phơi bày dưới làn đạn tác xạ của các đại bác được che giấu trên núi lửa về phía bắc. Các tác giả của kế hoạch xâm chiếm đảo đã bỏ qua điểm bất tiện lớn lao này bởi vì họ nghĩ rằng một hòn đảo nhỏ bé dường ấy sẽ có thể bị hải pháo của thiết giáp hạm cày nát đến mức độ không còn có "một thước đất nào mà không có một hố đạn nổ".Chính vì đã dựa trên niềm hy vọng này mà sau ba ngày oanh tạc dữ dội, hải lực thuỷ bộ Mỹ đã đồng thời đổ bộ sư đoàn 4 và 5 thuỷ quân lục chiến1 (Hai sư đoàn mới mẻ vừa được thành lập) trên suốt chiều dài của bãi biển. Ngày đầu tiên, mọi việc đều êm xuôi. Không có một phản ứng nào của địch và phi trường bị chiếm dễ dàng. Hy vọng đã được xác nhận rằng quân trú phòng bị nghiền nát ra bột. Nhưng giữa trưa hôm sau, các sườn núi đột nhiên nhiều ánh lửa nổi lên lốm đốm. Nhiều đại bác ló ra khỏi miệng hầm như những con chim báo giờ trên kiểu đồng hồ cũ rồi biến ngay lập tức. Một lưới đạn đại bác úp chụp lên đầu cầu quân đổ bộ, giết chết 570 thuỷ quân lục chiến và làm bị thương 1.700 người. Trận đánh Iwo Jima bắt đầu.Nó sẽ kéo dài trong bốn tuần lễ rùng rợn dưới những điều kiện còn tệ hại hơn cả tại Bétio, tại Guam và tại Peleliu, bởi vì tại đây các pháo đài không phải là hầm hố công sự thường bằng thân cây và bằng đá, mà chính là các hang động hùng tráng được sửa chữa lại giữa các khối dung nham, trong đó mùi hôi thối từ xác chết trộn lẫn với hơi lưu huỳnh và hơi nước trên mặt biển bị đè nặng bởi khói phun ra từ các ống khói của các mỏ lưu huỳnh. Tất cả các công sự đều thông thương với nhau bằng những hành lang. Nước, điện, không khí được dẫn vào trong đó bằng các đường ống ngầm dưới đất. Những chỗ ẩn nấp rộng rãi nhất được sửa sang thành bệnh xá, kho vật liệu hay trại lính.Tác giả của tổ chức phòng thủ kiểu mẫu này là trung tướng Kuribayashi, người mà đài phát thanh Đông Kinh đã nói-ít ra lần này cũng không quá đáng-rằng "bụng chứa đầy nhiệt tâm chiến đấu và biết rõ hòn đảo của ông đến nỗi có thể tìm thấy tất cả các hang chuột trên đó". Với 20.000 người và vài trăm công nhân Cao Ly, thiên tài của chiến thuật phòng thủ ất đã đương đầu trong suốt 36 ngày dưới một thảm bom như thác lũ và 60.000 thuỷ quân lục chiến Mỹ.Theo lời Đô đốc Nimitz, ông đã đạt đến "mức toàn thiện trong nghẹ thuật làm cho cường độ tác xạ của pháo binh tương xứng với kích thước của phi trường". Đây là lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu, ông đã ghi khắc vào tâm trí người Nhật mối ưu tư cho sự an toàn của chính bản thân họ; cùng với Shakespeare ông ước tính rằng "một người nhút nhát còn sống còn hơn là một vị anh hùng gục chết" bởi vì một người lẩn tránh một cách có ý thức là có thêm một chiến binh cho ngày mai. Nhưng số "người nhút nhát còn sống" của Kuribayashi không đủ để chặn đứng biển người quân Mỹ vốn đã thay thế luôn luôn các "anh hùng gục chết" bằng các quân đoàn mới, từ từ theo nhu cầu kể từ ngày 10 tháng 3 năm 1945, thuỷ quân lục chiến dưới quyền Tướng Schmidt đã xuyên vào phòng tuyến hỗn loạn của quân Nhật và chia cắt đội quân trú phòng kiệt sức thành từng mảnh vụn. Người ta đã không tìm thấy được xác của Tướng Kuribayashi trong mê cung hang động tại Iwo Jima mà phần lớn đã bị bít kín vĩnh viễn, tuy nhiên giấy tờ lượm được trong một hầm núp dường như cho thấy rằng ông đã tự tử. Các thông dịch viên Nhật của đoàn thuỷ quân lục chiến đã dịch một tài liệu mà họ cho là bản chúc thư của ông tướng, hay đúng hơn là thỉnh nguyện cuối cùng của ông xin Thiên hoàng xá tội, người mà trước đây ông đã chỉ huy đoàn quân danh dự để bảo vệ. Ông diễn tả "những lời xin lỗi hèn mọn nhất vì đã bị bắt buộc phải để cho một cứ điểm chiến lược quan trọng đến thế rơi vào tay quân thù" và trong tài liệu này ông đã có ám chỉ mơ hồ đến sự bại trận không thể tránh khói của Nhật Bản bằng cách khẩn cầu chủ nhân của ông "đừng bao giờ mất niềm tin nơi định mệnh vĩnh cửu của dân tộc", và hứa với Thiên hoàng là "sau khi chết sẽ hiện về giúp làm hồi sinh quân lực Thiên hoàng".Tài kháng cự sau cùng còn lại phía đông bắc của tiểu đảo đã có thể bị tiêu diệt dần dần nhờ nhiều chiến cụ đang còn được thí nghiệm "chiến xa phun lửa, xe ủi đất bọc thép". Ngày 26 tháng 3 năm 1945, thuỷ quân lục chiến của sư đoàn 5, mặc dầu thể xác và tinh thần mệt mỏi, đã có thể xuyên nhập vào đằng sau quân trú phòng vào trong các hầm hố và hang động. Nhưng 200 quân Nhật xâm nhập ngang qua các phòng tuyến, hôm đó mưu toán một đợt phản công. Họ bị tiêu diệt bởi các tiểu đoàn thu dọn chiến trường đi sau thuỷ quân lục chiến. Đấy là những cái giật mình hấp hối của quân phòng vệ Iwo Jima.Sự "diên trì" tại Iwo Jima đã giúp cho những người tổ chức cuộc tấn công kế tiếp có đầy đủ thì giờ hoàn thành kế hoạch hành quân. Kế hoạch này gồm có một đổ bộ 120.000 người lên đảo Okinawa rộng lớn nằm cách quần đảo Nhật Bản 300 hải lý về phía nam. Không một sư đoàn thuỷ quân lục chiến nào từng tham dự cuộc chinh phục trước đó sẽ lại được sử dụng trong cuộc đổ bộ này. Iwo Jima là một vụ thuần tuý của "thuỷ quân lục chiến". Okinawa sẽ chủ yếu là của "bộ binh", với sự vận dụng các đại đơn vị, sự sử dụng chiến xa và chiến tranh cơ động. Ngoài kích thước, địa hình của đảo này không có điểm nào có thể so sánh với Iwo Jima. Okinawa là một hòn đảo kéo dài (107 cây số trên 2 đến 5 cây số bề rộng), bờ biển viền xung quanh bị bào xoi, có vẻ bị bỏ rơi ngay giữa mặt biển, như là một miếng cuối cùng của trò chơi ghép hình mà không ai có thể ráp được vào mê cung của bờ biển đối diện.Bộ tham mưu của Đô đốc Turner hy vọng có thể đổ bộ thật nhanh chóng bốn sư đoàn của thiếu tướng Simon Bolivar Buckner. Với một hạm đội bành trướng hàng tuần, Spruance nay có 20 mẫu hạm1 (Trong đó có 4 của Anh, sau khi Đức đầu hàng, đã được đưa đến cùng với thiết giáp hạm King George V, để nhập đoàn với hạm đội Mỹ-mặc dầu không được yêu cầu), 8 thiết giáp hạm, 15 tuần dương hạm và vố số khu trục hạm, trong số này một vài chiếc được sửa sang lại thành "Pipqueta Radar" để đảm trách nhiệm vụ báo động phi cơ địch từ xa. Các phi đoạ của Tinian đã được nới rộng, các pháo đài bay B-29 của tướng Curtis Le May đã bắt đầu các cuộc không tập dò dẫm đầu tiên trên đất Nhật Bản và chuẩn bị cuộc oanh tạc ồ ạt vào các trung tâm kỹ nghệ. Các mẫu hạm của Mistcher cũng đã thực hiện các cuộc không tập trên những thành phố cận duyên. Do đó lực lượng khu trục cơ địch luôn luôn bị đặt trong tình trạng báo động, nên không thể nào hộ tống các oanh tạc cơ, lại càng ít có thể hy sinh hơn cho các cuộc tấn công tự sát. Gia dĩ, các phi cơ Kamikaze lại được chú ý vì sự vắng mặt tại Iwo Jima và ai cũng hy vọng là quân Nhật đã tung ra những con ma trời cuối cùng rồi.Trong tâm trí của Uỷ ban tham mưu hỗn hợp, lấy được Okinawa là đảm bảo được cuộc phong toả cuối cùng quần đảo Nhật Bản, giúp thiết lập các phi trường tiếp liên cho pháo đài bay B-29 đặt căn cứ trên lãnh thổ Trung Hoa và cung ứng một căn cứ xuất phát lý tưởng cho cuộc xâm chiếm cuối cùng toàn bộ quần đảo Nhật Bản. Do đó, đây là một cuộc hành quân tối quan trọng về mặt chiến lược, và chính phủ Hoa Kỳ không nề hà tổn thất. Hơn nữa chính phủ Hoa Kỳ còn bí mật nuôi dưỡng niềm hy vọng rằng một sự vận dụng lực lượng như thế nhằm vào các bờ biển, sẽ thúc giục đối phương chấp nhận "đầu hàng vô điều kiện" do Tổng Thống Roosevelt đòi hỏi, mà không cần phải đi đến chỗ đổ bộ lên chính lãnh thổ Nhật Bản.Hy vọng như thế quả là đã ru mình trong ảo tưởng. Từ lâu, Tổng hành dinh Thiên hoàng đã sợ một cuộc tấn công lên Okinawa, nên đã dồn vào đấy một đạo quân hơn 100.000 người, đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng Ushijima, một trong các sĩ quan sáng chói nhất của lục quân.Cuộc kháng cự lâu dài tại Iwo Jima đã giúp hoàn thiện hệ thống phòng tại Okinwa. Trong khi hạm đội Mỹ điều động để tiêu diệt chúng thì tất cả các phương tiện hải quân và không quân Nhật sẽ khởi động trên đảo này. Kế hoạch mang ám danh "Ten-Go" ấy trước hết dựa vào chiến thuật của "các cuộc tấn công đặc biệt". Hàng ngàn thanh niên được đào tạo cấp tốc thành hoa tiêu, rồi được huấn luyện các kỹ thuật Kamikaze dưới quyền lãnh đạo tối cao của Onishi. Tất cả các phi cơ còn bay được đều được tập trung trên các phi trường tại Kiou Siou. Các bom bay "Hoa anh đào", các khinh tốc đỉnh Shinio chứa đầy chất nổ và các thuỷ lôi do người lái Koiten đang được sản xuất ồ ạt, bổ túc cho bộ sưu tập vũ khí rùng rợn được đưa ra cho những người tình nguyện tìm cái chết chọn lựa.

Hoả thiêu Đông Kinh

Nhưng khi các chi tiết thi hành đang được chuẩn bị, một biến cố xuất hiện đột ngột đã làm thay đổi hoàn toàn không khí cho đến lúc đó tương đối yên tĩnh cho các hội nghị tại Tổng hành dinh Thiên hoàng. Ngày 9 tháng 3 năm 1943, một vụ hoả hoạn bề ngoài có vẻ là do tai nạn đã được loan báo giữa đêm khuya tại khu vực trung ương Đông Kinh, một pháo đài bay B-29 lợi dụng cơ hội đó đã hạ xuống thấp bằng cách ẩn mình trong đám khói. Đến 23 giờ 30, chiếc oanh tạc cơ này bị trông thấy và cao xạ D.C.A bắt đầu hoạt động, nhờ thế toàn thể thành phố lâm vào tình thế bị xác định với những tiêu mốc chính xác. Vài phút sau, các giàn rada báo hiệu cả một đoàn phi cơ vĩ đại đang tiến đến gần, và những trái bom đầu tiên bắt đầu rơi xuống Đông Kinh. Dân chúng ở khu vực công nhân Koto, một khu vực dường như bị đặc biệt nhắm đến, nghe những tiếng nổ chát tai rất khác lạ với tiếng động sắt ngọt của loại bom nổ, và cũng không có những ánh chớp rung chuyển soi sáng bầu trời đột ngột làm hiện ra những mái nhà kiểu Trung Hoa. Không có gì đáng lo lắm, chung qui các quả bom ấy... ít ra cũng rơi cách xa.Nhưng nửa giờ sau cuộc biểu diễn kỳ lạ đó, một ánh lửa đỏ rực bắt đầu bốc cao lên trên khu vực Koto. Bom vẫn tiếp tục rơi, ánh lửa lan rộng và dần dần đạt đến một cường độ quáng mắt. Cả khu ngoại ô đồng loạt bị hoả thiêu dưới hiệu quả của loại bom đốt cháy có hiệu lực ghê gớm1 (Đây là một loại bom Napalm trứ danh mà một trong các phụ tá của Tướng Le May, thiếu tá Powers, sau khi thấy hiệu quả tại Tainan, đã thuyết phục cấp chỉ huy của mình sử dụng trên các thành phố Nhật-Nay là Trung tướng Powers là tư lệnh lực lượng không quân chiến lược của Hoa Kỳ). Cho đến 3 giờ 30 sáng, các pháo đài bay B-29 liên tiếp bay đến trên thủ đô Nhật Bản với một cao độ mà cao xạ D.C.A. không làm phiền được. Những người dân đáng thương ở các khu vực ngoại ô lập tức thấy bị ngọn lửa bao vây, liền chạy ùa ra tứ phía hy vọng thoát khỏi sức nóng của lò lửa. Nhưng dường như gió vẫn luôn luôn quay cuồng, và luôn luôn hạ ngọn lửa úp chụp lên những kẻ chạy trốn đang chạy tháo lui để rồi đụng phải một biển người khác.Mặt trời lên cao chiếu sáng một quang cảnh rùng rợn. Những người ốm yếu, bệnh hoạn, già cả, trẻ con bị ngã trước tiên và bị dẫm chết. Những kẻ mạnh nhất chạy đến được bờ sông, kiệt sức nằm sõng sượt bên bờ, "như những con cá trong một cái hồ cạn nước". Ngọn lửa đã kéo theo một mức độ hấp thụ dưỡng khí đến nỗi không khí dưới mặt đất không thở nổi. Hiện tượng chết ngạt ấy cũng lan tràn trong nhà dân chúng, trong các giao thông hào và hầm trú ẩn. Một khi đã bị hạn chế, ngọn lửa vẫn tiếp tục cháy trong 4 ngày. Sau đó, những người sống sót còn mạnh khoẻ hiếm hoi tiến vào đống đổ nát để tìm thân nhân hay của cải. Rồi các toán hướng đạo sinh đổ đến để tôi ra hàng núi xác chết ít nhiều bị cháy thành than tràn ngập cả đường phố. Xác chết được kéo bằng móc cho đến các xe vận tải để chuyên chở đến lò thiêu xác được ứng biến thiết lập.Mặc dầu đã cho áp dụng các biện pháp đề phòng, nhưng cũng không thể nào giấu được bản kết toán hãi hùng với dân chúng tại các khu vực khác thuộc thủ đô. Hệ thống vận tải bị hỗn loạn, thực phẩm trở nên hiếm hoi, trên các đường phố tại Đông Kinh, nỗi kinh hoàng có thể đọc được trên khuôn mặt tất cả mọi người.Tổng hành dinh Thiên hoàng khi nhận được các báo cáo phòng thủ thụ động đầu tiên (hơn 60.000 chết, 48.000 bị thương, hàng chục ngàn nhà cửa bị thiêu huỷ) đã hiểu rằng loại bom lửa mới có thể giúp cho người Mỹ tận diệt dân Nhật trong các ngôi nhà bằng gỗ và bằng giấy của họ. Ngay khi Thủ tướng Nhật được báo tin, ông tiếp xúc với những nhà ngoại giao trung lập ngay lập tức để nhờ họ áp lực với các chính phủ đồng minh nhằm tiến tới thương thuyết hoà bình, nhưng ông cố ý không để cho họ tất cả các tổng bộ trưởng biết-đặc biệt là các bộ trưởng lục quân và hải quân. Thật vậy nếu ý tưởng về một nền hoà bình "nhục nhã" không hề được thoáng qua trong trí óc các lãnh tụ quân sự, thì ý tưởng về một cuộc đầu hàng không điều kiện lại càng không thể nào được họ nghĩ đến. Vả chằn sự phẫn nộ do cái tang ngày 9 tháng 3 gây ra chỉ làm cho nhiệt tâm của họ được củng cố thêm. Giờ đây cuộc hành quân Ten-Go mang một âm vang sâu xa hơn: nó sẽ là một "cuộc xung phong Banzai" đầu tiên mà toàn dân sẽ lao vào để làm cho địch quân phải thất vọng vì kết quả của chiến thắng và bắt địch quân phải trả quá mắc cho chiến thắng ấy.Các cuộc thảo luận cuối cùng tại Tổng hành di Thiên hoàng được khai diễn trong trạng thái tinh thần mới ấy. Một trong các câu hỏi đầu tiên được đặt ra là sự tham chiến của hạm đội: "Các chiến hạm sẽ làm gì trong lúc lục quân đang hy sinh trong các hang động tại Okinawa và các phi cơ Kamikaze đâm vỡ tan vào các mẫu hạm địch".Toyoda không dám trả lời: "Chúng tôi sẽ ở lại các hải cảng trong khi chờ đợi một cơ hội tốt đẹp hơn". Các tướng lĩnh gặp cơ hội thuận tiện để nói với ông rằng chính vì sự chờ đợi cơ hội tốt nhất này mà xứ sở bị đẩy đến vực thẳm. Do đó ông đành đề nghị một cuộc hành quân đánh lạc hướng với những gì còn lại của hạm đội Ozawa để lôi kéo một phần hải lực của Mỹ đang tập trung chung quanh Okinawa. Giải pháp này dường như cũng không đủ đối với đa số các sĩ quan hiện diện, do đó đã có quyết định phái toàn diện hạm đội vào một cuộc xung phong tự sát để tiêu diệt tất cả chiến hạm Mỹ nào thoát khỏi tay phi cơ Kamikaze.Một tuần lễ sau, những phi cơ thám sát hiếm hoi còn lại của Nhật còn bay trên hải phận báo hiệu thấy một hạm đội vĩ đại của địch bao phủ mặt biển đến ngút ngàn, đã rời Mariannes và dường như tiến về Okinawa. Cùng ngày hôm đó, quân Mỹ đã đặt đảo nào dưới một đợt oanh tạc và hải pháo nghiêm khắc vốn chỉ là sự khởi động của một cuộc hành quân tấn công.

Hồi chung cục của Hạm đội liên hợp

Ngày lễ Phục sinh 1 tháng 4 năm 1945, 1.200 chiến hạm đủ mọi cỡ của hạm đội Mỹ bố trí về phía tây nam đảo Okinawa trước các bãi biển đổ bộ. Trong nội buổi sáng, 50.000 quân đã được đổ lên bờ và có thể chiếm các phi trường kế cận Yontan và Kadena mà không gặp một sự chống đối nào cả. Đến 16 giờ các hải vận hạm chính đã có thể nhổ neo đi chở các đơn vị đổ bộ tiếp theo. Chúng bị ngạc nhiên khó chịu với các cuộc tấn công của hai phi cơ Kamikaze, mỗi chiếc đâm trúng một hải vận hạm. Đấy là biến cố duy nhất của ngày đầu tiên. Một sự im lặng hoàn toàn, giống như thế đã đánh dấu 4 ngày kế tiếp. Các đơn vị lần lượt được đổ bộ và bố trí trên phần phía nam đảo. Tướng Buckner đồn trú vững chắc quân sĩ của ông trên các cánh đồng rải rác vườn cây và vườn hoa trải dài từ đỉnh núi Kakazu bị pháo đài xưa cũ Shuri chế ngự, và eo đất rất chật hẹp Ishikawa, thắt chặt lại như một chiếc nịt ngực ngay đoạn giữa hòn đảo rộng lớn.Dư luận chung rất là lạc quan. Binh sĩ của lục quân trong tâm trí chờ đợi được thấy một cảnh trí lỗ chỗ hố bom đạn như cảnh mặt trăng, đã nói đùa với nhau và nói bóng gió rằng các câu chuyện về Iwo Jima do thuỷ quân lục chiến kể lại đều "đã quá phóng đại như thường lệ". Phần nguy hiểm nhất của một cuộc hành quân loại này là lúc đổ quân lên bờ, sự kiện đổ bộ thành công 200.000 người dường như là một triệu chứng tốt. Cuộc tấn công vào các đỉnh núi phía Nam đảo, các đỉnh Kazuka và Shuri, được ấn định vào ngày 9 tháng 4.Tuy nhiên trước bình minh ngày 6, trong khi các chiến hạm Mỹ chuẩn bị thực hiện cuộc hải pháo buổi sáng vào các cứ điểm của Nhật, thì tiếng nổ dòn của cao xạ D.C.A đã phá tan sự im lặng. Những chùm bom đã quấy rộn mặt biển im lặng. Lần này, không còn nghi ngờ gì nữa, địch quân đã phản ứng.Và phản ứng kinh khủng biết bao! Hai khu trục hạm đang tuần tiễu trước các đại chiến hạm đã hoàn toàn bị Kamikaze phá huỷ, những chiếc khu trục hạm làm mốc rađa có phận sự canh phòng không phận ngoài khơi,phải chịu đựng một trận đánh vô vọng với các phi cơ tự sát ào tới hết đợt này đến đợt khác không ngừng nghỉ. Chính cảnh địa ngục tại Lingayen đã được tái diễn với tầm mức rộng lớn hơn nhiều. Trong vài phút tất cả các khu trục cơ trên các mẫu hạm đều cất cánh và nhiều cuộc không chiến ác liệt diễn ra trên các khu trục hạm làm mốc rada để toan tính chặn đứng phi cơ Kamikaze. Những tiếng nổ của đạn phòng không làm bầu trời nổi đốm đen giống như những quả bong bóng của trẻ con, trong đó những cánh phi cơ Zéro tơi tả hay những thân phi cơ oanh tạc nặng nề nhào lộn theo hình chữ chi. Đa số các máy bay tấn công đã kéo theo sau những vệt khói. Thỉnh thoảng một phi cơ đâm xuống nước bùng cháy một thoáng rồi nổ tan và biến mất trong một xoáy nước đen ngòm. Đôi khi nhiều cuộn khói nặng nề đã bốc lên cao từ chính các chiến hạm. Đến 4 giờ chiều, cơn cuồng nộ dịu hẳn đột ngột cũng như khi bắt đầu. Số lượng các cuộc tấn công tự sát lên đến 355. Một số gần tương đương oanh tạc cơ tung ra các đợt tấn công cổ điển rất hữu hiệu, phi cơ săn giặc Mỹ hoạt động không xuể, gần như không có chiếc nào bị bắn hạn.Nếu tổn thất về phi cơ của Mỹ cực kỳ thấp, thì tình thế lại khác hẳn đối với hải lực: 6 khu trục hạm bị đánh chìm, 17 chiến hạm các kiểu bị thương tổn trong đó có 10 chiếc vĩnh viễn không còn sử dụng được nữa. Số tử thương là 466, số bị thương-phần đông là bị bỏng khó sống-lên đến 568.Trong lúc diễn ra loạt tấn công mệt nhoài ấy, hạm đội Nhật đã khởi hành cho chuyến ra đi tự sát, theo đúng kế hoạch Ten-Go. Quyết định dứt khoát đưa thiết giáp hạm Yamato, tuần dương hạm Yahagi và 8 khu trục hạm, tức là gần toàn diện hải lực tại chính quốc của Nhật, vào chỗ chết, đã được chuyển đến cho các giới chức liên hệ. Những người này cũng không ít ngạc nhiên khi biết rằng hải đội được cấu tạo như thế lại được giao cho Phó Đô đốc Ito, mặc dầu ông ta chưa bao giờ chỉ huy một trận hải chiến, mà suốt thời kỳ chiến tranh chỉ làm việc tại Bộ Tổng tham mưu. Sự kiện duy nhất này chứng tỏ rằng Tổng hành dinh Thiên hoàng không có một phút nào nghĩ đến một trận hải chiến thật sự sẽ xảy. Hiểu rằng một cuộc điều động ra đi trong các điều kiện như thế sẽ gây nên biết bao lời chỉ trích, Toyoda phái viên tham mưu trưởng của mình, Kusaka, đến thiết giáp hạm Yamato để hội họp với các sĩ quan cấp tướng của hạm đội. Những giới chức này sau khi biết rõ chuyện gì, yêu cầu một thời hạn để lấy ý kiến các hạm trưởng. Toàn thể đều nhất trí gạt bỏ ý tưởng một sứ mạng-tự sát kiểu này, không phải vì một sự hy sinh nhường ấy đã làm cho họ công phẫn, nhưng bởi vì nó không có một cơ may nào được bù trừ bởi sự phá huỷ một mục tiêu quan trọng. Trên chiếc tuần dương hạm Yahagi, Đề đốc Komura, tư lệnh hải lực nhẹ, triệu tập 6 đại tá và 3 trung tá hạm trưởng dưới quyền. Tham mưu trưởng của ông. Đại tá Hara, sẽ sống sót sau thảm cảnh, đã kể lại cho chúng ta mọi chi tiết về quang cảnh đã diễn ra trên chiến hạm của ông. Chúng ta ghi lại ở đây qua những nét chính:-"Các ông, Komura nói, tất cả các ông đều đã thấy kỳ hiệu được kéo lên chiếc Yamato ra lệnh cho chúng ta thực hiện hành quân Ten-Go. Cuộc hành quân này đơn thuần chỉ là một cuộc tự sát, và tôi đã nói điều đó với vị tham mưu trưởng của hạm đội liên hợp. Tôi được sự đồng ý của hai vị Đề đốc hiện diện. Phó Đô đốc Ito giữ im lặng khiến tôi không rõ ông nghĩ gì. Như các ông đã biết, tôi là tham mưu trưởng của Ozawa khi ông ta bị phái đi đóng vai trò nhử mồi trong vùng biển Phi Luật Tân. Tôi đã thấy một số lớn binh sĩ của ta bị giết chết. Tôi không chú ý đến số phận của bản thân tôi, nhưng tôi ghê tởm việc bắt thuỷ thủ đoàn của ta hy sinh trong một cuộc hành quân vô ích như vậy. Do đó tôi yêu cầu có một thời hạn để biết quan điểm của các ông".Một sự im lặng suy tư tràn ngập khiến không một ai dám khuấy động. Đột nhiên một trong các đại tá hạm trưởng cất lời:"Có phải Kusaka đến đây dùng sức mạnh bắt ta thi hành lệnh không?-Ông ta không nói đến mệnh lệnh, Komura trả lời. Không ai có thể ra lệnh cho người khác phải chết. Có thể là ông ta có mệnh lệnh ấy, nhưng ông ta không nhắc nhở đến. Ông ta chỉ đòi hỏi những đề nghị của các ông".Viên sĩ quan lại cất lời, giọng lạc hẳn đi: Tôi có mặt với Kurita tại Leyte. Cuộc hành quân ấy đã lố bịch rồi. Cuộc hành quân mà nay chúng ta được yêu cầu thi hành càng lố bịch hơn. Chúng ta sẽ chết tất cả và còn lại gì để phòng vệ chính quốc?".Lời thuyết minh này có hiệu lực làm mọi người hết cứng lỗi. Có những tiếng la "chúng tôi cũng nghĩ như ông ấy" Nhiều tiếng thì thầm tán đồng lan tràn. Cuộc hội nghị chuyển qua một khúc quanh kỳ dị. Đô đốc Komura vẫn im lặng, mắt lim dim. Hạm trưởng Hara, người rất có ảnh hưởng trong số các hạm trưởng khu trục hạm lên tiếng:"Giải pháp thông minh nhất theo ý tôi là thực hiện các cuộc hành quân biệt lập trên trục giao thông quá kéo dài của địch. Chiến hạm của tôi, chiếc Yahagi, có một rada và một máy Sonar mà rốt cuộc ta phải hãnh diện. Tôi sẽ tiêu diệt ít ra là một nửa tá chiến hạm trước khi bị khám phá. Thế còn hơn là giải pháo mà người ta đề nghị cho chúng ta vốn chỉ là đem trứng chọi đá".Lúc ấy nhiều hạm trưởng khác cũng đưa ra các đề nghị tương tự. Tất cả đều hãnh diện với chiến hạm của mình và tỏ ra nóng nảy vì ham muốn tung chúng vào trận đánh. Cái chết không quan trọng lắm đối với họ, nhưng với điều kiện là chết để phục vụ cho một cái gì, và họ biết các thuỷ thủ đoàn cũng bị khích động bởi cùng những ham muốn như họ. Một trong các hạm trưởng kết luận cuộc tiếp xúc bằng những lời được nói lên với nhiệt tình chan chứa:"Toàn diện chiến hạm Asashino của tôi đều được giương về trận đánh, Xin hãy cho nó một cơ may để phục vụ đắc lực cho tổ quốc!"Lúc đó, Komura cho dọn bữa ăn trưa. Không một ai đụng đến bữa ăn, các sĩ quan tiếp tục trao đổi quan điểm.Đúng 13 giờ, Đô đốc đi đến chiếc Yamato. Ông trở về lúc 15 giờ và mặt tái ngắt bước vào phòng khách nơi các sĩ quan chờ ông:"Tôi đã chấp nhận thi hành mệnh lệnh. Nó sẽ có hiệu lực lúc 15 giờ 30".Sau khi liếc mắt nhìn quanh, ông kể lại chuyện gì đã xảy ra:"Tôi đã trình bày quan điểm của các ông và nhấn mạnh rằng tôi cũng chia sẻ quan điẻm ấy. Kusaka và Ito chăm chú nghe tôi. Nhưng khi tôi dứt lời, Kusaka đã giải thích rằng đây là một cuộc điều động đánh hướng để tập trung các phi đoàn của những hàng không mẫu hạm địch trong lúc hàng trăm phi cơ Kamikaze tại Kiou-Siou tấn công vào các chiến hạm chở quân đổ bộ. Ông ta kết thúc bằng cách nói rằng kế hoạch không do ông vạch ra nhưng ông tin rằng đợt ra quân của chúng ta sẽ không kết thúc một cách vô ích như các lần trước. Và để trả lời câu hỏi của một vị Đô đốc, ông ta nói thêm rằng toàn thể xứ sở sẽ phẫn nộ nếu như chiếc Yamato vốn đã bị công khai mệnh danh "khách sạn nổi của những Đô đốc ngu xuẩn" vẫn còn nguyên vẹn khi chiến tranh chấm dứt, sau khi nghỉ ngơi trong 3 năm liền không hề bắn một phát đại bác. Lúc đó Đô đốc Ito phá vỡ sự im lặng đầy bối rối tiếp sau lời của Kusaka."Thưa các ông, ông ta bảo, chúng ta được cung ứng một cơ hội để chết một cách vinh dự. Một võ sĩ đạo luôn luôn sẵn sàng hy sinh đời sống của mình"."Câu nói nhắc nhở đến chân lý ấy đã chấm dứt cuộc thảo luận. Tất cả chúng tôi đều hứa thi hành mệnh lệnh".Komura cúi đầu xuống khi nói những lời này, như là để xin lỗi vì đã nhượng bộ áp lực của thượng cấp.Lúc ấy,đại diện mọi người,Hara lên tiếng, tin chắc là sẽ diễn tả đúng tư tưởng của họ:"Thưa Đô đốc, chúng tôi xin cám ơn ông đã trình bày ý tưởng của chúng tôi. Nhưng lệnh là lệnh. Chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình".Các sĩ quan nghiêng người tỏ dấu hiệu dồng quan điểm, và cáo biệt để trở về chiến hạm. Công cuộc chuẩn bị nhổ neo được thực hiện lập tức, rồi các bệnh binh được di tản cũng như các sinh viên sĩ quan đang thực tập và tất cả những nhân viên không cần thiết lắm. Nhiều người trong số này muốn ở lại trên chiến hạm, và phải dùng mệnh lệnh bắt buộc họ rời tàu. Đến tối, Komura triệu tập tất cả các hạm trưởng để ăn bữa cơm vĩnh biệt. Ông đã tìm thấy lại được thái độ nhã nhặng thường lệ và mời các thực khách uống rượu Saké thả giàn. Dạ tiệc diễn ra trong một bầu không khí siêu thực. Ai cũng tỏ ra vui sướng, nhưng sự đùa giỡn trong phòng ăn sĩ quan, những câu chuyện vui về chiến trận tạo nên những tràng cười và hoan hô. Sau khi các hạm trưởng khu trục hạm ra đi, đô đốc Komura và hạm trưởng Hara chấp thuận đến phòng ăn của sĩ quan cấp dưới thuộc chiến hạm Yahagi. Ở đấy cũng thế, rượu Saké chảy như thác cho đến 23 giờ, và đêm thức canh phòng chấm dứt trong một truyền thống thuần tuý Nhật Bản, ai nấy đều che dấu vẻ mệt nhọc và say sưa do sự tôn trọng một sự câu thúc có tính cách nghi lễ.Hôm sau ngày 6 tháng 4 năm 1945, lúc 16 giờ, siêu thiết giáp hạm Yamato, tuần dương hạm Yahagi và 8 khu trục hạm hộ tống của chúng nhổ neo rời Tokayama để thực hiện chuyến hải trình cuối cùng. Đô đốc Ito ra lệnh men theo bờ biển phía đông đảo Kiou Siou trong đêm tối. Đến 4 giờ sáng ngày 7, ông ra lệnh hướng về phía tây để lôi kéo càng xa càng tốt các phi cơ địch vốn sẽ không chậm trễ cất cánh săn đuổi.Chúng không chậm trễ thật. Lúc 11 giờ 30, một trong các trạm gác giặc trên đảo Amami báo hiệu "250 phi cơ địch, tiến về phía bắc". Đó là các phi cơ của Lực lượng đặc nhiệm 58 của Spruance đã từng được báo tin từ đêm hôm trước về sự xuất đầu lộ diện của hạm đội Nhật. Bốn mươi phút sau, các rada của chiếc Yamato thấy chúng xuất hiện trên mặt kính và Ito thông báo tin tức cho tất cả chiến hạm đồng thời ra lệnh dang va nhau và chạy hết tốc lực. Từ trên đài chỉ huy chiếc Yahagi, Komura và Hara thấy chiếc thiết giáp hạm danh tiếng, mà hải quân sùng bái "bằng một thứ niềm tin gần như tôn giáo", hơi hướng mũi lên trời nâng cao hai làn sóng vĩ đại hai bên sống mũi tàu. Trong cơn mưa phùn bay lất phất, nhìn thấy chiếc thiết giáp hạm thần tuý và hùng tráng ấy rẽ sóng với tốc độ 35 gút, quả là một quang cảnh khích lệ, mặc dầu tình thế đã đến lúc nghiêm trọng. Những người không được dự kiến cuộc tàn sát tại Leyte không thể tưởng tượng được rằng một chiến hạm khổng lồ như thế lại có thể gục ngã dưới sức tấn công của phi cơ. Nhưng Komura là người, đã trông thấy thiết giáp hạm Musachi bị đánh chìm, nên không hề nuôi ảo tưởng.Lúc 12 giờ 20 trưa, một cơn mưa rào bất chợt bao phủ các chiến hạm trong một màn sương lờ mờ. Không một phi cơ nào bị nhìn thấy mặc dầu các rada canh chừng không phận của chiếc Yawato vẫn có thể theo dõi chúng trên màn ảnh và ra lệnh hướng về phía chúng, tất cả các nòng đại pháo của thiết giáp hạm kể cả những khẩu đại bác khổng lồ 460 ly.Đột nhiên trinh sát viên của chiếc Yahagi la lớn: "Hai phi cơ tả mạn phía trước!" và lập tức tất cả súng phòng không của tất cả các chiến hạm bắt đầu nổ tứ phía. Không phải chỉ có 2 chiếc phi cơ bay ra khỏi các đám mây mà là 20 chiếc, 40 chiếc, 50 chiếc... Ngay sau đó, bom rơi xuống. Tuần dương hạm Yahagi và các khu trục hạm chạy chữ chi hỗn loạn để toan tránh bom, nhưng, nhưng các làn sóng thuỷ lôi màu lam đã xé mặt biển chung quanh các chiến hạm. Thỉnh thoảng một khu trục cơ đâm bổ xuống ngang các cột buồm và càn quét cầu tàu bằng đại liên.Đến 12 giờ 40, tức là 10 phút sau khi phi cơ địch đến, chiếc Yamato, bị trúng trái thuỷ lôi đầu tiên. Sáu phút sau đến lượt chiếc Yahagi lãnh một trái ngay hầm máy, giết chết tất cả các nhân viên tại đó. Chiếc chiến hạm chạy lang thang một lát trong khi hạm trưởng Hara gào thét các mệnh lệnh để nắm lại tay lái con tàu, không biết rằng chiến hạm của ông đã bị quả đạn duy nhất ấy làm cho vĩnh viễn bị tê liệt. Từ lúc đó nó trở thành tấm bia cho hơn 100 oanh tạc cơ đâm bổ.Từ trên đài chỉ huy, Komura và Hara làm khán giả dự kiến cuộc phòng vệ của các xạ thủ đại bác trên chiếc Yahagi. Thỉnh thoảng người ta nghe có tiếng rú lên vì vui sướng: một pháo thủ vừa thấy chiếc bia của mình bốc cháy và rơi xuống như một hòn đá. Những chùm bom siết chặt dần chung quanh chiếc chiến hạm bất động và những tiếng nổ đã làm rung chuyển thân tàu đến mức độ người ta có thể nghe những đầu đinh tán chạm lách cách vào thành tàu và ống khói như tiếng đạn ria chứa trong các trái phá. Thế rồi chuyện không tránh được đã đến. Một trái thuỷ lôi thứ hai phát nổ đã phá vỡ tung phía sau chiến hạm làm nhiều xác người rách bươm bắn lên trời. Ngay lúc đó một oanh tạc cơ đâm bổ đặt một quả bom ngay giữa pháo và tháp phía trước, xoi thủng sàn tàu bọc thép rồi rơi xuống nổ tung dưới đáy kế các hầm dầu. Nếu không có phản xạ tức thì của viên sĩ quan tác xạ cho mở ngay những "van" nhận chìm, thì chiếc Yahagi đã nổ tung cùng với thuỷ thủ đoàn. Thay vì như thế, nó đành chịu chúi mũi thêm một chút và khạc ra nhiều hơi nước, nhiều ngọn lửa hơn mà thôi.Bản án treo không kéo dài được lâu. Những tiếng nổ kế tiếp nhau theo một nhịp độ đến mức đứng trên đài chỉ huy, hạm trưởng không bao giờ thấy được cùng một lúc 1/4 chiến hạm. Khi khói tan dần, một lỗ thủng khổng lồ xuất hiện ngay nơi giàn đại pháo hoặc nơi sàn đặt ống phóng thuỷ lôi. Độ nghiêng của chiến hạm gia tăng không ngừng, nhưng đều đều, từ tốn, làm như chiếc chiến hạm muốn chết một cách đường bệ. Khi mặt cầu tàu chìm ngang mặt nước và sóng biển xô đến quét sạch các vũng máu, Đô đốc Komura gọi một trong các khu trục hạm cuối cùng còn chạy tốt đến gần để chuyển những người còn sống sót sang rồi tiến thẳng đến Okinawa. Khu trục hạm Isokasé mở hết tốc lực chạy đến gần xác chiếc Yahagi, nhưng khi còn cách 200 thước thì nó biến mất, cũng bị trúng thuỷ lôi-trong một đám mây khói. Thế là hết... Mặt biển bao phủ đầy đầu người đen ngòm. Những kẻ bị đắm tàu bám chặt vào các mảnh tàu vỡ hay mảnh xuồng cấp cứu, vùng vẫy trong một lớp dầu cặn dày, mà không có một tia hy vọng nào được vớt lên. Những người còn tĩnh trí quay đầu nhìn về phía chiếc Yamato vẫn còn tiếp tới ở xa xa cùng với những chùm bom và những tiếng nổ đi kèm. Tất cả những hy vọng và cuộc đời còn sót lại nơi họ đều hướng về chiếc bóng oai nghiêm đường bệ dường như đang thách thức với số phận ấy. Từ lâu vẫn đứng bên nhau, đột nhiên Komura và Hara không còn thấy nhau nữa mà chưa kịp nói một lời vĩnh biệt. Lớp dầu cặn dày đặc nay loang dần, Hara kiệt sức, chập chờn trên một mảnh tàu vỡ mà ông bá chặt vào, rồi thình lình một ánh sáng loé lên ở phía xa kéo ông ra khỏi cơn hôn mê. Ông nhắm mắt lại một lát và khi mở mắt trở lại, mặt biển trở nên trống vắng và yên tĩnh lạ kỳ. Một cột khói trắng khổng lồ bốc lên trời ngay tại chỗ chiếc Yamato hiện hữu trước đó. Những tiếng nổ kế tiếp nhau như sấm động đã làm những nỗi nghi ngờ cuối cùng tan biến: chiếc đại thiết giáp hạm vừa chìm xuống sóng biển.Khi bóng đêm sắp bao phủ bầu trời, những nạn nhân bị đắm tàu thuộc chiếc Yahagi dường như có nghe một tiếng động cơ đến gần. Vài phút sau, một chiếc canô thuộc một khu trục hạm lần lượt vớt hết người này đến người khác và đưa họ trở lại chiếc Hatsushimo chiến hạm độc nhất của hải lực Nhật Bản còn sót lại như có phép lạ. Chiếc khu trục hạm chở đầy người lấm lem dầu cặn được thuỷ thủ đoàn tẩy sạch và an ủi. Trong bệnh xá, Hara, nằm dài trên chiếc bàn mổ, quan sát viên bác sĩ đang chăm sóc các vết thương của mình. Ông không còn nhớ được gì cả. Không biết mình có bị một vết trầy trụa nào không!Cuộc sống lại tiếp diễn; ông vui sướng được biết rằng Komura cũng có mặt trên tàu với chừng mười sĩ quan của chiếc Yamato. Chính nhờ họ ông mới biết trường hợp tổn thất chiếc chiến hạm này.Ngay từ đầu, chiếc Yamato đã bị 1 thuỷ lôi và 2 quả bom đánh trúng. Điều đó không làm nó giảm tốc độ và đại bác phòng không của nó đã hạ mười phi cơ địch. Ba khắc sau, đợt tấn công thứ hai do Mitscher tung ra đã nhắm vào chiếc chiến hạm khổng lồ với mệnh lệnh dứt khoát là phải đánh chìm nó. Trong vòng nửa giờ đồng hồ, hơn 100 oanh tạc cơ đâm bổ và một số lượng phi cơ phóng thuỷ lôi tương đương từ khắp bốn phương trời ùa đến tấn công. Ba quả bom mới rơi trúng và mức tác xạ chậm lại vì các đám cháy càn quét cầu tàu cũng như các kiến trúc thượng tầng. Lúc ấy nhiều đợt phi cơ phóng thuỷ lôi bay đến để tiêu diệt nó. Chín thuỷ lôi trúng vào tả mạn và chiếc chiến hạm bị nghiêng ngay 30 độ. Từ lúc ấy thảm hoạ dồn dập xảy đến. Vài quả đạn 450 ly lăn ra khỏi phòng phân phối, rơi xuống các hầm tàu qua các vết thủng và phát nổ. Mọi nỗ lực để lấy lại sự kiểm soát con tàu đều vô ích, các tường chắn bị rung chuyển đành lần lượt đổ sụp.Khi mối đe doạ chìm tàu trở nên cấp kỳ, đô đốc Ito cho gọi lên cầu tàu vài sĩ quan hiếm hoi còn sống sót và nói lời vĩnh biệt. Ông phải bám vào thành lan can để khỏi ngã. Đề đốc Ariga, hạm trưởng phải giúp ông ta trèo lên sàn tàu gần như dựng thẳng đứng để trở vào đến phòng trực và tự khoá mình vào trong đó. Chính Ariga cũng đã nhờ một tuỳ viên cột chặt mình vào đường dốc của một hầm trú ẩn khi hải hành và chào các sĩ quan sau khi chúc họ may mắn. Vài giây sau cuộc chia tay cảm động ấy, nhóm sĩ quan bị một tiếng nổ trong lòng chiến hạm hất văng xuống biển và chiếc tàu đột ngột chìm luôn.Toàn diện nước Mỹ bừng bừng khích động khi nghe tin loan báo ông kẹ Nhật Bản bị đánh chìm. Số lượng 5 hoặc 6 phi cơ của Mitscher bị hạ, và chừng 20 chiếc bị cao xạ D.C.A của các chiến hạm Nhật bắn trúng có vẻ như là một phần cống hiến quá nhẹ cho chiến công này.Nhật Bản tiếp nhận tin tức ấy với niềm cay đắng đen tối. Lại một ảo vọng nữa bị sụp đổ tan tành sau biết bao ảo tưởng khác. Kết quả rõ rệt nhất của cuộc huỷ diệt lịch sử này là chặn đứng lại trong các hải quân công xưởng của Mỹ và Anh, công cuộc đóng 4 thiết giáp hạm từ 40.000 đến 50.000 tấn, mà các Đô đốc phe Đồng minh, rõ rệt là mù quáng, vẫn cứ khăng khăng đòi hỏi cho bằng được. Lần này chứng cớ rõ rệt cho thấy rằng kỷ nguyên của những "dreandoughts" (thiết giáp hạm) đã cáo chung và một trang sử của hải quân đã được lật qua.

Kế hoạch Manhattan

Cái chết của Roosevelt

Những ngày kế tiếp đã làm cho các trang sử lật qua với một nhịp độ mau đến nỗi câu chuyện chiếc thiết giáp hạm Yamato và cuộc kháng cự kịch liệt của quân Nhật tại Okinawa còn chiếm hàng đầu của tin tức thời sự nữa.Khi những bức ảnh chính thức về cuộc hội nghị của các quốc trưởng tại Yalta xuất hiện trên trang nhất của báo chí, thì những dáng nét bị tàn phá của Tổng thống Hoa Kỳ đã tương phản với khuôn mặt đỏ au của Churchill và khuôn mặt sắc sảo của nhà độc tài tại Mạc Tư Khoa đến nỗi cả dân tộc Mỹ đều thấy khó chịu như mắc một căn bệnh không định nghĩa được. Những bài diễn văn thường điểm một vài nét lạc quan vững chắc của ông giờ đây nhuốm màu sắc một chủ nghĩa thần bí, mà các cộng sự viên thân tín không thể nào hiểu nổi ý nghĩa. Khi lên tiếng nhân dịp lễ kỷ niệm Jefferson, bất ngờ ông nhấn mạnh đến sự kiện theo đó người tiền nhiệm siêu phàm của ông là một nhà "bác học" và trích dẫn các tài liệu viết về "tinh thần huynh đệ của khoa học và mối liên hệ vĩ đại giữa các dân tộc mà công cuộc tìm kiếm chân lý đã kết tạo nên".Vài ngày sau, ông phải đọc một bài diễn văn mới nhân dịp lễ nhậm chức nhiệm kỳ 4 của ông. Các bắp thịt mạnh mẽ trên đôi vai lực sĩ của ông chỉ có thể nâng đỡ ông đôi chút bề ngoài khi ông đứng dậy để nói với cử tọa. Ông lại chuyên tâm bắt đầu cùng một luận đề như trước."Chúng ta đang đứng trước, ông nói, một sự kiện chủ yếu: nếu nền văn mình phải sống sót, thì khoa học mà chúng ta phải được dạy dỗ là khoa học về những mối giao tiếp giữa con người, về tính cách khả hữu của sự làm việc trong hoà bình cho tất thảy mọi dân tộc".Câu nói đầy màu sắc triết lý của Wilson này đối với các cố vấn của ông thật bất ngờ vì họ chờ đợi ông nói đôi lời ám chỉ mạnh mẽ đến các chiến sĩ tại Okinawa và đến sự ghê rợn của những cuộc tấn công của các phi công Thần phong Kamikaze. Nhưng câu nói ấy đã thật sự làm cho một sống rất nhỏ các nhân vật hiện diện ngẩn ngơ, những người được chia xẻ với ông sự bí mật được giữ kỹ nhất của kỹ nghệ chiến tranh Hoa Kỳ. Họ thấy một cách hợp lý trong câu nói ấy có sự phản ánh niềm lo âu của ông trước một tin tức hấp dẫn vừa được thông báo cho ông và họ là những người được biết: sự thực hiện cấp kỳ một quả bom nguyên tử do một nhóm các nhà bác học thuộc đủ mọi quốc tịch cùng làm việc với nhau từ năm 1942 thực hiện. Tin tức này đã tạo ra hậu quả gấp đôi việc sáng chế một quả bom bởi vì không một ai còn chờ đợi nó nữa. Nhưng nó chỉ được thông báo cho một số tối thiểu các nhân vật cao cấp: Tổng trưởng chiến tranh Stimson, tướng Marshall, và đô đốc Leahy, tham mưu trưởng riêng của Tổng thống. Các cơ sở tình báo Mỹ đã từng chứng tỏ khéo léo "đập vỡ được các khoá mật mã" của lịch, quả thật lại còn thành công đáng chú ý hơn nữa trong việc che phủ một màn bí mật không có gì xuyên qua được chung quanh kế hoạch Mahattan, một kế hoạch sau bốn năm cố gắng có lúc phải ngã lòng, nay đã đạt được thành quả phi thường ấy. Những người có trách nhiệm trong cuộc đàm luận về sự bí mật này lại càng xứng đáng hơn nữa khi mà tự xúc tiến kế hoạch đã đòi hỏi những kinh phí lên đến nhiều triệu Mỹ kim và đòi hỏi sự tuyển mộ nhiều nhà máy vĩ đại dưới sự lãnh đạo của một Brain' Trust vô danh, và chính những người thuộc cơ cấu này cũng bị an trí trong một nơi ẩn dật cách xa nhà máy hàng trăm cây số. Sau một cuộc khởi hành mau lẹ sấm sét dựa trên một kế hoạch thuần tuý khoa học, nhóm Brain' Trust này đã giải quyết được phần lớn các bài toán làm thế nào để tách rời nhân nguyên tử. Nhiều nhà máy đồ sộ đã được dựng lên tại Oak Ridge trong tiểu bang Tennesse để tách rời những đồng vị của Uranium và đại xí nghiệp Du Pont de Nemours đã dùng các nhà máy của mình tại Chicago để chế tạo những cơ phận của quả bom tương lai.Nhưng hàng trăm bác học nhà tu trú ngụ tại Los Alamos thuộc tiểu bang Tân Mễ Tây Cơ, nơi họ nghiền ngẫm trong một khung cảnh đầy ứ giải Nobel, đều vấp phải một bài toán nghiêm trọng: làm sao thực hiện, dưới một khối lượng có thể chấp nhận được, phản ứng dây chuyền cần thiết cho sự giải phóng nguyên tử nặng. Chính giải đáp của bài toán này đã vừa được tìm thấy trong tháng 4 năm 1945 ấy. Trung tướng Groves, người đảm trách ngay từ đầu nhiệm vụ điều hợp và khích động các nỗ lực của những nhà bác học thuộc Kế hoạch Manhattan, đến báo tin cho Tổng trưởng Chiến tranh Stimson, ông này trình ngay cho Tổng thống. Tin đến quá trễ. Bá Linh đã bị bao vây chặt chẽ, Hitler1 (Đọc "Những trận đánh lịch sử của Hitler" Sông Kiên in lần thứ tư) đang hấp hối trong căn hầm tại dinh Tể tướng; riêng phần Nhật Bản thì các nhà tiên tri của Ngũ đài giác vẫn khẳng định không ngừng là đang lâm vào tuyệt địa.Theo sự ước tính của các nhà bác học, cần phải có một thời hạn 3 tháng mới thực hiện được một vụ nổ nguyên tử "có kích thước như thật" đầu tiên để thí nghiệm. Sau đó lại phải mất 1 tháng nữa để hoàn tất một kiểu bom do phi cơ mang được. Có rất nhiều cơ may cho thấy chính phủ Nhật bản sẽ đầu hàng trước nhật kỳ đó.Thành quả của kế hoạch Mahattan cũng đã tạo nên một biến cố có tầm ảnh hưởng mênh mông không ít, và chính có lẽ những suy tư về tương lai nhân loại đã gợi cho Tổng thống Roosevelt những ám chỉ dự trí về khoa học và về "sự sống còn của nền văn minh". Chúng ta sẽ không bao giờ được biết quyết định của ông như thế nào về lĩnh vực quân sự, bởi vì ngay từ ngày 10 tháng 4, tình trạng sức khoẻ buộc ông phải nghe lời bác sĩ, và phải từ bỏ những gánh nặng quyền chính để đi nghỉ ngơi vài tuần tại Warm Spring thuộc tiểu bang California. Ngày 12 tháng 4, lúc 17 giờ 25, có điện thoại mời Phó Tổng Thống Truman đến toà Bạch Ốc; Bà Roosevelt đang chờ ông ta tại đấy. Bà tiến lên và nhẹ nhàng đặt tay lên vai ông trong khi thấp giọng nói thì thầm: "Harry, Tổng Thống đã mất!".Ngày thứ sáu 13 tháng 4, tại Okinawa, trong lúc lực lượng hải quân thuỷ bộ đang điên cuồng tưới đại bác như sấm động để chặn đứng một đợt phản công hung tàn của Nhật trên một đỉnh núi mới vất vả chiếm được hôm trước, tất cả hiệu kỳ của mọi chiến hạm đều được kéo để tang.Tin về cái chết của Tổng thống Hiệp Chủng Quốc Mỹ được loan truyền tron đoàn quân của Tướng Buckner do đoàn quân tiếp viện đổ bộ vội vã để trám vào khoảng trống của phòng tuyến bị chọc thủng. Cơn mưa trút xuống không ngừng làm cho cảnh vật bị bom cày nát mang một vẻ ảm đạm. Hy vọng vào một cuộc tiến quân nhanh chóng thế là tiêu tan. Những đỉnh núi xếp theo bậc tại Okinawa được nối liền với nhau bằng một hệ thống hành lang ngầm mà các lối xuất nhập đều hoàn toàn vô hình. Khi quân Mỹ tiến tới, đột nhiên họ bị đánh úp bởi những đại bác đặt trên đường ray xuất hiện đột ngột đằng sau lưng, trên các triền núi mà họ vừa đi qua. Cả các cuộc không tập lẫn tác xạ ghê gớm của hải pháo đều không thể nào làm thương tổn được hệ thống phòng thủ kỳ dị này. Đoàn quân chinh phục của Buckner bị mắc kẹt trong phần giữa đảo trong một thời kỳ vô địch. Hung tin tại Okinawa bắt đầu đến tai các giới chức cao cấp của chính phủ tại Hoa Thịnh Đốn kể từ ngày 20 tháng 4, Tổng trưởng Chiến tranh Stimson, đã thiết lập bản tổng kê lực lượng của Nhật và nhận thấy rằng nếu hải quân và không quân Nhật gần như không còn hiện hữu nữa, thì tình trạng của lục quân Nhật lại khác hẳn. Hai triệu quân được phân phối trong các đạo quân trú phòng khác nhau trên quần đảo Nhật Bản; hai triệu khác trên lãnh thổ Trung Hoa và Cao Ly; cộng thêm 200.000 trong vùng Đông Nam Á; cộng thêm 500.000 trên các thuộc địa của Hoà Lan và Phi Luật Tân, vài trăm ngàn rải rác trên các quần đảo san hô trên Thái Bình Dương.Cuộc xâm chiếm dự tính lên quần đảo Nhật Bản với 1 đạo quân 6 triệu người đang được thành lập tại Hoa Kỳ và nỗ lực càn quét có hệ thống tất thảy các lãnh thổ bị chiếm đóng sẽ kéo theo những tổn thất khổng lồ mà căn cứ vào số tổn thất trước, các chuyên viên ước tính có thể lên đến 500.000 tử thương và 1.700.000 bị thương. Viên Bộ trưởng Hải quân trẻ tuổi và sáng chói, James Forestal, người thay thế Frank Konx cũng đã đích thân báo cho Tổng trưởng Chiến tranh mối lo âu thật sự của ông do cuộc tấn công của phi công Thần phong Kamikaze gây ra. Các mẫu hạm hạng nặng Wasp, Saratoga và Bunker Hill đã phải trở về Mỹ trong tình trạng thảm thương. Chiếc Franklin phát hoả lúc ngay đang cố gắng trở lại Guam, nhưng không có gì đảm bảo là nó sẽ không bị chìm dọc đường. Nhiều khu trục hạm quý báu đã biến mất cũng như nhiều hải vận hạm và chiến hạm đủ kiểu. Cơn xuất huyết không làm chết người nhưng tổn thất về nhân mạng thì rất nặng nề, tính theo tỷ lệ, số tổn thất sĩ quan lại càng nặng nề hơn nữa: nhiều Đô đốc, Đại tá Hải quân và sĩ quan tham mưu đã bị giết. Đấy là loại nhân sự khó thay thế.Quân Nhật sắp có ngay cả chục ngàn phi cơ đủ mọi loại bở vì các nhà máy của họ còn sản xuất mỗi tháng bài trăm chiếc. Nếu, như phải tiên liệu như thế, cơn cuồng nộ Kamikaze tăng gia thêm cường độ đi vào lúc thực hiện cuộc đổ bộ cuối cùng lên các đảo Kiou-Siou và Hondo, hạm đội Mỹ sẽ bị đặt dưới một sự thử thách cũng nghiêm trọng như sự thử thách phải chịu đựng từ đầu cuộc chiến.Nắm vững toàn bộ các tin tức này, Stimson đến toà Bạch Ốc để trình bày cho Tổng thống Truman có một nhãn quan tổng quát về tình hình.Vì các chức chưởng của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ đã không cho ông có quyền biết các bí mật quân sự, nên Truman đã không biết gì về kế hoạch Mahattan trước khi Tổng Thống qua đời; đúng hơn là ông chỉ được biết có kế hoạch đó và nó đã gây tốn kém nhiều triệu Mỹ kim. Stimson sợ sẽ làm tổn thương đến lòng tự ái của ông khi thú nhận sự giấu giếm vĩ đại này, và lòng vương vấn không ít lo ngại, ông bước vào căn phòng hình thuẫn nơi vẫn còn bừa bộn những mẫu hình chiến hạm và các kỷ niệm cá nhân của người vừa quá cố. Nhưng ngay những lời nói đầu tiên, Truman đã làm ông thấy dễ chịu:"Tôi không biết gì về kế hoạch này. Ông đã hành động rất đúng khi không nói gì với tôi về nó", ông vừa cười vừa nói. Sau khi chăm chúc đọc phúc trình do Stimson soạn thảo, ông ngước nhìn con người có cặp mắt ngây thơ ấy, con người mang đến cho ông một cách hết sức khiêm nhường, một tài liệu có thể làm thay đổi bộ mặt hoàn cầu. Giờ đây ông mới hiểu tại sao Roosevelt, dù với 70 tuổi trời và dù thường có những lập trường cục bộ, lại chịu đựng được những gì mà ông ta giữ lại liên quan đến trách nhiệm của những người được giao phó thuộc quân đội Mỹ. Không một lời nào là không để lộ một chút thông minh, và các kết luận, hoàn toàn vứt bỏ những câu kéo vô ích, nêu lên những quyết định phải lấy với một ý nghĩa sắc bén liên quan đến thực tại."Tôi hoàn toàn đồng ý với ông, Stimson ạ", ông nói. "Hãy ra lệnh cho tướng Groves để bắt tay vào việc hầu đốt cháy các giai đoạn chót. Một quả bom phải sẵn sàng để thử với kích thước như thật, trong thời hạn trước ba tháng, và ngay từ bây giờ phải chỉ định một uỷ ban gồm có những nhân vật tài ba nhất của giới khoa học và quân sự để quyết định khả năng sử dụng chất nổ mới".Stimson liền cáo lui ngay, để Tân Tổng Thống ở lại với vô vàn trách vụ đang chờ đợi ông. Hai người sẽ không gặp lại nhau trước vài tuần lễ nữa.Khi trở về Bộ Chiến tranh, Stimson gặp lại tướng Groves đang đi lòng vòng như con gấu bị nhốt trong chuồng trong lúc chờ đợi ông, mặc dầu ông ta nổi tiếng là người bình tĩnh lạ lùng. Vị chỉ huy của khu vực "Mahattan District" là một con người lực lưỡng cao 1m90. Mái tóc đen hơi dợn sóng và nước da ngăm ngăm của ông cho thấy ông có gốc tích xa xôi với người Tây Ban Nha. Ông có vẻ như là một chủ đồn điền cà phê hơn là một sĩ quan cấp Tướng thuộc binh chủng Công binh. Vẻ bề ngoài ấy hoàn toàn rất dễ gây lần lẫm và khi giao cho ông trách nhiệm xúc tiến kế hoạch Mahattan, Stimson đã chứng tỏ cũng sáng suốt khi đề nghị Eisenhower nắm quyền Tổng tư lệnh Quân đội Đồng minh tại Âu Châu. Groves đồng thời là nhà bác học và là nhà quân sự (chính nhờ tài năng kiến trúc của ông mà Mỹ quốc mới có toà Ngũ đài giác danh tiếng ngày nay). Ông có khá nhiều thẩm quyền để theo dõi công việc của các lý thuyết gia, khá thực tiễn và độc đoán để tập trung các nỗ lực của họ vào mục tiêu đã được qui định: sự thực hiện có tính cách thực dụng, "quả bom đặc biệt". Trong nhóm người phi trường gồm toàn những nhà bác học thượng đẳng về khoa học vật lý nguyên tử, chính Groves là người đã nhận ra nhà bác học trẻ tuổi Robert Oppenheimer thuộc Viện Californie tại đại học Berkeley, gần San Francisco.Robert Oppenheimer mới có 40 tuổi. Ông không được giải Nobel về Vật lý và tên tuổi ông mới chỉ được một nhóm nhỏ các nhà bác học biết đến. Nhưng dưới mắt ông Tướng, ông có 2 điều xứng đáng khó đo lường: ông ta là dân Mỹ chính cống-cha là một doanh gia Nữu ước gốc Đức đến định cư tại Mỹ lúc 17 tuổi-và có năng khiếu thuyết phục đặc biệt. Sự chọn lựa này sau đó phải chịu biết bao lời chỉ trích gay gắt, nhưng Groves hậu thuẫn cho người được ông che chở cho đến giai đoạn thực hiện sau cùng. Ông đã viết trong tập Hồi ký rằng: "Thành quả đã chứng tỏ tôi có lý. Không ai có thể làm điều mà con người ấy đã làm". Được thiên phú đến mức tuyệt đỉnh về điều mà các sinh viên gọi là môn "sex-appeal khoa học", Oppenheimer đã khuất phục thật sự những người nghe ông nhờ vóc dáng có duyên và giọng nói nồng nàn của ông. Ông là một trong những người duy nhất-nếu không phải là người duy nhất-ở trong khu ẩn dật Los Alamos có một niềm tin Tuyệt đối vào sự thành công của kế hoạch Mahattan. Tháng 7 năm 1943 khi ông nhận chức giám đốc phòng thí nghiệm Los Alamos, ông đã ấn định cuối năm sau là ngày nổ trái bom nguyên tử đầu tiên. Nếu hạn kỳ ấy không giữ được thì không phải là do ông. Vả chăng, sự tiên liệu của ông đã chỉ được thể hiện trước vài tháng.Cặp Groves-Oppenheimer có một điểm xứng đáng rất hiếm có là phối hợp được công việc của nhiều chuyên gia tham dự trong chương trình và giải quyết song hành nhiều vấn đề phức tạp do vấn đề sử dụng quả bom cho mục tiêu quân sự đến lúc đặt ra. Do đó, khi Stimson từ toà Bạch Ốc trở về với sự chấp thuận toàn diện của Tổng thống, thì Groves đã có thể loan báo với ông ta với đôi phần hãnh diện rằng các biện pháp cần thiết đã được áp dụng trong viễn ảnh được chấp thuận ấy và rằng các phi hành đoàn thuộc các pháo đài bay trang bị đặc biệt, đang được huấn luyện để ném quả bom.Chính trong tháng 9 năm 1944, khi được Oppenheimer thông báo là chắc chắn có một quả bom sử dụng plutonium có thể được thực hiện vào mùa xuân 1945, Groves đã quyết định ấn định hình dáng và thước của quả bom để có thể sửa đổi các pháo đài bay sẽ mang chúng đi. Đấy là một hành động tin tưởng kỳ diệu bởi vì nếu phương pháp mới, nhằm sản xuất gia tốc chất plutonium do bác sĩ Neddemayer đề xướng, đã hoàn tất, thì không một ai biết được phải trong bao lâu mới sản xuất được đủ số plutonium cần thiết. Riêng về phần nhà máy phân cách đồng vị có nhiệm vụ cung cấp U-235, thì nó vẫn chạy với sự chậm chạp đầy khôn ngoan. Một cuộc chạy đua giữa hai phương thức đã xảy ra, và Groves đã phải cho vẽ 2 kiểu bom: quả bom Fat-Man sẽ dùng plutonium và quả Thin-Man hay Little-Boy sẽ dùng U-235. Sau đó, ông yêu cầu Tướng Arnold, Tư lệnh Không quân, người được ông cho biết về kế hoạch, cung cấp 2 pháo đài bay B-29 để có thể sửa đổi nhân mục tiêu đó.

Chiếc Enola Gay và chiếc Great Artiste

Trong những ngày cuối cùng của tháng 12 năm 1944, một phi cơ vận tải đưa đến Tinian một viên Đại tá mà mặc dầu có vẻ còn niên thiếu, nhưng được các giới chức quân sự tiếp đón như là một nhân vật tối quan trọng. Quả thật ông có những thư giới thiệu và giấy phép do đích thân tướng Marshall ký để "dành dho Đại tá Tibbets mọi sự dễ dàng trong khi thăm viếng các cơ sở hải cảng và phi trường trên đảo". Đấy là một con người nhỏ con, vóc dáng trung bình, cặp mắt rất linh động làm rạng rỡ một khuôn mặt dễ thương. Mọi người đều cố hết sức để làm cho sứ mạng của ông được dễ dàng vì dường như đó là sứ mạng cải thiện các cơ sở hiện có. Riêng phần hiểu biết công cuộc canh tân ấy nhằm mục đích gì, thì bí mật. Đối với vấn đề này Đại tá Tibbes hoàn toàn câm lặng.Vài tuần sau, một toán công binh đến Tinian và bắt tay vào việc. Đến tháng 3 năm 1945, các phi đạo được nối dài, hải cảng được cung cấp những phương tiện bốc dỡ mạnh mẽ và nhiều dãy nhà được dựng lên trong một doanh trại đặc biệt nằm bên ngoài doanh trại của không quân. Khi các công tác vừa hoàn tất thì một phi đội B-29-phi đội Composite Wing 509-đáp xuống đảo. Chính Đại tá Tibbets là người chỉ huy phi đội. Các toán chuyên viên dưới đất đã đến từ hôm trước liền chiếm lấy các phi cơ, trong khi các sĩ quan, dù muốn dù không cũng phải vào ở trong các dãy trại chung quanh thép gai bao bọc.Hai trong số các siêu pháo đài bay của phi đội có một vẻ kỳ dị: tất cả vũ khí nặng đều biến mất cả, ngoại trừ những khẩu đại liên đằng đuôi. Các phi hành đoàn được nhiều nhân viên dân sự và vài sĩ quan có cấp bậc cao tháp tùng: 1 Hải quân Đại tá, một Hải quân trung tá và nhiều Thiếu tá Không quân. Số lượng lon đáng chú ý này đã tạo cho nhóm người mới đến một vẻ gì đặc biệt. Không thể nói rằng ở đó kỷ luật được buông thả, nhưng nó có dáng dấp khác hẳn. Nó gợi ra hình ảnh của kỷ luật trong một đội bóng bầu dục. Hai siêu pháo đài bay mang trên thân tàu những cái tên cũng đặc thù. Một chiếc tên là Enola Gay, tên mẫu thân của Đại tá Tibbets. Chiếc kia tên là Great Artiste, biệt danh của một trong các thành viên của phi hành đoàn, đại uý Kermit K.Beahan, rất nổi tiếng vì vẻ hào hoa và những thành quả tỏng lĩnh vực giao thiệp với phái yếu.Các phi vụ huấn luyện-luôn luôn do Tibbets chỉ huy-bắt đầu ngay hôm sau. Các pháo đài bay cất cánh từ 3 chiếc một và mỗi lần như thế chúng quần trên không chừng 10 giờ trước khi trở về căn cứ. Không một ai biết được các đội hình này thi hành những cuộc thực tập bí mật gì. Bí mật bao quanh các phi vụ ấy, lực lượng canh gác tuần phòng xung quanh phi cơ và sự phân cách rõ rệt mà các phi hành đoàn đó phải chịu đựng, đã kích thức cực điểm óc tòm mò của các phi công khác thuộc không lực 20. Thái độ dè dặt và có đôi phần kiểu cách của vài người trong số mới đến, đã mau lẹ trêu tức các tay kỳ cựu tại Tinian khiến họ bị gọi một cách chế giễu là "những chàng trai của chiến thắng", "những đứa con của vinh quang", và bị tặng cho những lời nhạo báng ít nhiều có tính cách xúc phạm. Sự xác định thái độ ghét bỏ ấy đã lan tràn nhanh chóng từ trên xuống dưới. Nhóm của Tibbets luôn luôn bị bạc đãi nhất trong phòng ăn sĩ quan và khi lĩnh các vật phẩm hàng tuần. Vì hơi nóng ngày càng ngột ngạt, đời sống trong các doanh trại trở nên cực kỳ khổ nhọc và vẻ giận dữ đã bộc lộ ra ngoài. Ngoài Tibbets, Hải quân Đại tá Parson và Thiếu tá Ferebee, không một ai hiểu được đây là vụ gì và tại sao hầm chứa bom của hai pháo đài bay lại bị sửa đổi và hầu hết vũ khí tự vệ đều bị tháo gỡ hết. Chỉ có những cuộc thực tập lẩn tránh bằng kỹ thuật bán-đâm bổ xuống ở tốc độ cao sau khi ném bom, và các dây nịt đặc biệt móc vào ghế ngồi, là cho phép phi hành đoàn nghĩ rằng một ngày nào đó họ sẽ sử dụng một vật nổ có sức mạnh lớn lao.Do đó họ rất vui sướng được biết một hải vận hạm vừa đổ bộ lên Tinian những quả bom khổng lồ mang tên hiệu rất rợi ý "quả bí đao Pumpkins". Họ nghĩ rằng đây là lúc chấm dứt cực hình chờ đợi! Sự chán nản thật là dữ dội khi những người phải đi ném loại bom Pumpkins một cách thận trọng trên những vùng không có dân chúng tại Nhật, khám phá ra rằng những quả bom to lớn ấy chỉ có đặc thù ở khối lượng còn hiệu quả thì dường như cũng giống với loại bom khác. Sự buồn bực bộc lộ đến mức Tibbets, Parson và Ferebee phải hé một góc màn bí mật và hứa với các bạn là những quả bom Pumpkins sẽ được thay thế ngay bằng các chiến cụ có một sức mạnh chưa từng thấy.Quả thật họ không phải chờ đợi lâu vì đúng vào lúc ấy, nhóm bác học Los Almos đang tập họp trong một đường hầm ngay giữa sa mạc trong khi chờ đợi cho nổ lần đầu tiên một quả bom plutonium. Tại đấy cũng vậy, chính các nhà bác học cũng đã gặp phải những nỗi thất vọng kịch liệt hơn cả các phi hành đoàn của Tibbets nữa. Cuộc thí nghiệm bị hoãn lại nhiều lần vì các lý do kỹ thuật hoặc thời tiết.Do đó chỉ có một số ít hiện diện trong đường hầm quan sát tại sa mạc Alamogordo ngày 15 tháng 7 năm 1945 lúc 5 giờ sáng khi Groves và Oppenheimer ra lệnh khai hoả chiến cụ to lớn đã từng được đưa lên một đài cao 100 thước từ hai ngày qua. Mặc dầu có mang kính, nhưng cũng hoàn toàn bị loá mắt bởi một tia chớp có sức chiếu sáng phi thường, các nhà bác học đều theo linh tính cúi mình xuống và bám chặt vào tường của căn hầm núp. Họ chờ đợi một làn song chấn động cực kỳ dữ dội và hoàn toàn ngạc nhiên khi chỉ nhận thấy một loạt gió tạt ôn hoà 50 giây sau khi bom nổ. Lúc ấy tất cả những người có mặt tại đấy để lộ thái độ cực kỳ khích động. Oppenheimer bị một cái vỗ vai đến suýt té ngửa. Có những cái bắt tay và những nụ hôm cảm động. Người ta nghe đại tá Parrell, phụ tá của Groves, thét lên oang oang: "Thưa quí ngài, chiến tranh đã chấm dứt!". Trong khi máy móc mật mã đập lách cách để báo tin thành công, Tổng Thống Truman đã lên đường đi Postdam, Groves liền ra lệnh cho khắp nơi thi hành các biện pháp được ông dự liệu trước từ nhiều tuần lễ. Phần lớn Uranium 235 của quả bom Little Boy được đưa đến San Francisco. Ngay sáng ngày 16, chết liệu ấy được chuyển lên chiếc tuần dương hạm Indianapolis, chiến hạm nhổ neo ngay với tốc độ 32 gút lên đường đi Tinian. Hai trong số các nhà bác học thuộc nhóm Los Alamos, các giáo sư Furman và Nolan cũng lên tàu, cải trang làm hai thuỷ thủ. Vì người ta cho họ huy hiệu xạ thủ đại bác, họ được bổ nhiệm đến một tháp pháo và phải hết sức vất vả để trả lời các sĩ quan lục vấn. Ngoài sự kiện này, cuộc hành trình không gặp chuyện gì lạ. Quả bom Little Boy được đưa lên hải cảng Tinian ngày 26 tháng 7. Cùng ngày hôm đó số lượng U-235 bổ túc cũng được hai phi cơ vận tải C-54 đưa đến. Viên chỉ huy trưởng không vận đã thốt ra những tiếng kêu công phẫn khi thấy phải động viên hai phi cơ khổng lồ để rồi mỗi chiếc chỉ mang hai cái hộp nhỏ, toàn thể chỉ nặng có 50 kilô, nhưng vì mệnh lệnh lại do chính tướng Arnold ký cho nên ông ta phải nhượng bộ.Tướng Spaatz vừa nhận quyền chỉ huy không lực chiến lược tại Thái Bình Dương cũng đích thân đến Tinian hai ngày trước quả bom Little Boy mang theo mệnh lệnh của Stimson, chỉ thị không đoàn Composite Group 509 "ném quả bom đặc biệt thứ nhất từ ngày 3 tháng 8 ngay cơ hội đầu tiên khi có thời tiết thuận lợi xuống một trong các mục tiêu: Hiroshima, Kokura, Niigaha hoặc Nagasaki".Thời hạn 8 ngày cách biệt ấy là để tạo cơ may cho quả bom Fat Man đang được nhồi nhét với tất cả những gì còn lại của plutonium có sẵn sau cuộc thí nghiệm ngày 15 tháng 7. Groves muốn rằng quả Fat Man được sử dụng trước bởi vì chỉ có nó mới được công nhận nhờ cuộc thí nghiệm, nhưng trong trường hợp có sự chậm trễ, quả Little Boy cũng có thể được ném trước.Kể từ ngày 3 tháng 8, chiếc siêu pháo đài bay Enola Gay do đại tá Tibbets lái, sẵn sàng cất cánh với quả bom Little Boy trong hầm bom. Hai siêu pháo đài bay khác sẽ phải hộ tống, để che chở khi gặp biến cố và để quan sát hiệu quả của trái bom. Tính cách khả hữu của một phản ứng địch rất thấp bởi vì không có một mục tiêu nào ghi trong mệnh lệnh lại bị oanh tạc từ nhiều tháng qua.Tối ngày 5 tháng 8, quả Fat Man vẫn chưa được đưa đến, và vì các tiên đoán thời tiết thì lại rất tốt, Tibbets tổ chức một cuộc "Briefing" chót cho phi hành đoàn. Sau cùng ông nói rõ sức mạnh kỳ lạ của quả bom này, một sức mạnh tương đương với 20.000 tấn chất nổ TNT, nhưng ông nói thêm rằng theo sự ước tính của các chuyên gia, các kỹ thuật vận dụng mà họ đã được huấn luyện thật sự có thể giúp đưa chiếc Enola Gay bay xa chừng 10 cây số lúc làn sóng chấn động lan đến chỗ phi cơ. Kiến trúc của chiếc máy bay lúc ấy chỉ phải chịu đựng các nỗ lực không quá một nửa trọng lượng giới hạn đã được tính trước (2g thay vì 4g). Sau khi nhắc lại một lần nữa các biện pháp phòng ngừa phải theo: mang kính đặc biệt, và các dây nịt an toàn thật chắc chắn, quay đầu về phía trong phi cơ, chỉ nhìn ra ngoài sau khi bom nổ và ghi chú cẩn thận những điều quan sát được, ông yêu cầu tất cả mọi người hết sức bình tĩnh và tin tưởng bằng cách chấp nhận phần còn bí ẩn của cuộc thí nghiệm này vốn là một cuộc thí nghiệm chưa hề xảy ra lần nào trong lịch sử nhân loại.Giọng nói nghiêm trang của Tibbets khi đọc bài diễn văn ngắn của ông tương phản hẳn với thái độ cười cợt thường lệ đến nỗi sự huyên náo thân hữu vẫn thường nối tiếp các cuộc hội họp loại này đã không xảy ra. Làm như đột nhiên họ ý thức được tầm nghiêm trọng của sứ mạng sắp phải chu toàn, các hoa tiêu rời nhau trong im lặng để trở về những chiếc giường khắc khổ như của các tu sĩ và cầu nguyện trong khi chờ đợi bình minh hôm sau.Lúc 0 giờ ngày 7 tháng 8, chiếc pháo đài bay có nhiệm vụ quan sát thời tiết trên mỗi mục tiêu, cất cánh rời Tinian. Đúng 3 giờ 45, chiếc Enola Gay có mặt tại đầu phi trường. Chiếc Great Artiste và pháo đài bay thứ ba theo sau. Tibbets đạp mạnh thắng, cho động cơ quay hết tốc lực, và những viên nham thạch nhỏ trên phi đạo Tinian bị gió thổi bắn tung như những viên đạn. Sau khi thử lại hai hoặc ba lần, Tibbets nới lỏng thắng và chiếc oanh tạc cơ to lớn tiến tới nặng nề trên các giàn bánh xe bẹp dí rồi dần dần gia tăng tốc độ. Đối với phần đông những người đã rành việc có dự kiến cuộc cất cánh lịch sử này, giờ phút đó thật là đầy âu lo. Nếu chiếc Enola Gay chở quá nặng vì xăng bị vỡ tan tại đầu kia của phi đạo với quả bom nguy hiểm Little Boy, thì không một ai có thể biết đúng tai biến nào sẽ xảy ra. Các nhà bác học đưa ra giả thuyết rằng, sự khởi động phản ứng dây chuyền là chuyện không thể xảy ra được, nguy cơ duy nhất phải gánh chịu là một vụ nổ có sức mạnh kém kéo theo những tia Uranium bị bắn tung. Chung qui cũng chỉ là một vụ lộn xộn nhỏ... chẳng có gì nguy cấp. Nhưng họ không có vẻ tin tưởng những gì khác hơn.Vì thế, khi chiếc Enola Gay với những ngọn đèn báo hiệu vị trí khuất dần tầm mắt, nhảy chồm lên hai lần nhẹ nhàng trước khi bốc lên không, một hơi thở dài khoan khoái thoát ra từ mọi lồng ngực. Các nhà bác học và các nhân vật quân sự trở lại phòng ăn và bàn luận huyên náo những cơ may thành công của cuộc thí nghiệm phi thường. Khó khăn đầu tiên đã được vượt qua.Thì giờ trôi qua, Nolan, Furman và 20 chuyên viên khác, những người đã o bế con ngựa tơ trước cuộc đua, giờ đây đang chờ đợi, với tâm trạng nóng nảy còn sôi động hơn cả những quân nhân, các tin tức liên quan đến phi vụ Enola Gay và hai pháo đài bay khác. Trên chiếc phi cơ định mệnh, trong thời gian đó mọi việc xảy ra y như trong một cuộc thực tập. Lúc bờ biển Nhật Bản hiện ra trước mắt, chiếc B-29 quan sát cơ báo hiệu: "Trời tốt trên Hiroshima, độ trông rõ tuyệt hảo". Hướng bay được điều chỉnh để tiến thẳng mục tiêu.Từ cao độ 10.000 thước1 (Cao độ đặc biệt này do Tibbets lựa chọn vì các lý do an toàn. Cao độ ấy đòi hỏi phải tháo bỏ tất cả các vũ khí). Nhật Bản hiện ra dưới mắt các hoa tiêu của phi hành đoàn như một trang sách địa dư mở rộng trên màu xanh của Thái Bình Dương. Mặc dầu họ rất quen thuộc, quang cảnh này mỗi lần lại đưa họ vào một thứ cảm giác ngây ngất thuộc về địa lý; thế giới xinh đẹp, quả đất tròn, cuộc đời thật tươi thắm. Nhưng điểm mà họ chưa bao giờ được thấy vì khu vực ấy bị cấm, chính là thành phố Hiroshima với kích thước thật sự, khác với hình ảnh lờ mờ khi nhìn ở ngoại biên. Tibbets để ra một lát nhìn cái bàn cờ ô vuông gồm nhà cửa kiểu Nhật với mái nhà màu xám, chung quanh có khu vườn tí hon bao bọc, như ông bám sát ngay vào các chỉ dẫn của Beahan, chiếc oanh tạc cơ đang cố giữ tiêu điểm trong thị trường dợn sóng của chiếc máy nhắm. Những người khác có một vài phút để chiêm ngưỡng sự bài trí bình dị của thành phố mênh mông này.Nhưng tiếng kèn báo động kêu vang ngay dưới các chiếc nón phi hành. Các động cơ mở cửa hầm bom bắt đầu chạy và dưới chiếc bụng mở rộng của chiếc Enola Gay những mái nhà của Hiroshima xuất hiện dưới ánh chớp mặt trời, gợi lên hình ảnh ngay hàng thẳng lối của mộ chí trong một nghĩa trang."Coi chừng! Bốn, ba, hai, một, zéro!", Little Boy được giải phóng khỏi gốc, nhào lăn xuống trong một tiếng động lớn của các cây sắt nhỏ, trong khi chiếc phi cơ trống rỗng bị chòm lên trước khi đổi hướng và chúi xuống mặt đất. Tất cả nhân viên phi hành đoàn của chiếc Enola Gay thở hổn hển một lát dưới áp lực dữ dội của các dây nịt, rồi như những người máy, một tia loé sáng không thể tưởng tượng làm loá mắt họ bất chấp mặt kính đen của cặp kính hình vòng cung bao kín mắt của những người thợ hàn. Tia chớp thoáng qua rất mau và khi áp lực của thắt lưng giảm bớt, họ kéo bức màn che chở nơi các cửa kính phi cơ, quang cảnh hùng vĩ nhất mà một con người có thể nhìn ngắm được đang diễn ra dưới mắt họ với sự chậm chạp huy hoàng. Trước hết, một quả cầu lửa sáng chói hơn cả mặt trận bốc lên cao đến độ chóng mặt trước khi loang ra thành một lò lửa đỏ rực. Rồi một cột khói trắng bốc lên trời như cái đuôi của một hoả tiễn nở ra bên trên lò lửa đỏ hồng để rồi ẩn dưới một vành hoa mênh mông.Còn mạnh hơn cả quang cảnh ảo mộng ấy, chiếc Enola Gay bị chấn động vì hai cái tát tàn bạo. Chiếc phi cơ bị rơi một lúc như hòn đá, rồi gượng lại được trong khi tất cả sườn tàu đều rung chuyển. Với một thái độ bình tĩnh tuyệt đối, Tibbets đưa phi cơ trở lại đường bay và la lớn trong máy vi ấm:"Này các bạn! Chúng ta vừa ném quả bom nguyên tử đầu tiên trong lịch sử!".Đến 15 giờ, nhẹ nhàng như một phi cơ kiểu Piper Cub, chiếc Enola Gay đáp xuống phi đạo Tinian. Một cuộc biểu dương đặc biệt của rất nhiều sao và lá sồi đang chờ nó trên phi trường. Tướng Spaatz tiến tới trước đại tá Tibbets lúc đó đang bình tĩnh bước xuống phi cơ sau lưng kéo lê các dây nịt được tháo lỏng. Ông ta gắn lên bộ áo phi hành chiếc huy chương "Distinguished Service Cross", trong khi một ban nhạc hoan nghênh đứng thành hàng dài, chào các nhân viên phi hành đoàn đang bước xuống từng người một, mang theo bản đồ và tài liệu. Tất cả rượu Whisky dự trữ của vị tư lệnh không lực chiến lược tại Thái Bình Dương đều được hy sinh trong những giờ tiếp theo đó cho cổ họng cháy khát của những con người đã tạo nên chiến thắng khó tin này.Tại Hiroshima, quả bom của Tibbets đã gây ra những sự tàn phá vượt khỏi sức tưởng tượng. Sau tiếng nổ kinh khủng làm cháy tiên trong nháy mắt 70.000 nhân mạng đang làm công việc thường nhật, một đoàn ma quỉ rùng rợn sắp hàng dọc đi lang thang vô định trong đám mây tro bụi bao phủ thành phố. Tất cả đều ngây ngô lạc thần nghĩ rằng một quả bom đã rơi đúng lên trên nhà mình. Họ chạy trốn khỏi nơi mà họ tưởng là tai biến đã xảy đến và hy vọng thấy được tiếp cứu ở địa điểm xa hơn. Nhưng khi dần dần tiến tới, họ chạm phải một hàng rào lửa hoặc những người chạy trốn khác theo chiều ngược lại. Những người còn giữ lại được cái nhìn bình thường đều phải kinh hãi lùi lại khi thấy những con quỉ mặt cháy bỏng mà "da tay đong đưa như những chiếc găng lộn ngược".Những đoàn tiếp cứu đầu tiên đến được ngoại ô thành phố khi các sĩ quan của căn cứ hải quân Kuro kế cận ý thức được tầm rộng lớn của thảm hoạ. Tin tức liền được chuyển về Đông Kinh nhưng tại đây nó đụng phải một thái độ nghi hoặc. Mãi đến 10 giờ đêm, một phóng viên của hãng thông tấn Domei mà ngôi biệt thự tại vùng ngoại ô không bị thiêu huỷ và là người có có can đảm đạp xe đạp đi xuyên qua thành phố, rốt cuộc mới có thể gửi một báo cáo cô đọng cho đài phát thanh.Suốt đêm, nhiều đoàn người từ các thành phố lân cận ùa đến các khu ngoại ô và nhiệm vụ cứu trợ siêu phàm bắt đầu. Khi nhận các báo cáo đầu tiên, các giới chức quân sự hoàn toàn bế tắc không đoán ra được bản chất sát đúng của thứ vũ khí đã rơi xuống Hiroshima. Các ý kiến nêu ra đều khác biệt nhau. Các tướng lĩnh nghĩ rằng đây, hoặc là loại bom hoả tiễn được ném thành chùm vĩ đại, hoặc là một loại mìn khổng lồ được các pháo đài bay còn lớn hơn loại B-29 thả dù xuống. Chỉ có hải quân là nghĩ rằng rất có thể đây là quả bom nguyên tử. Họ được khẩn cầu đừng làm lan truyền dư luận này, và nhiều mệnh lệnh đã được ban hành cho cơ quan kiểm duyệt để giảm thiệu hậu quả của thảm hoạ. Thủ tướng chính phủ Suzuki vốn đã bí mật thương thuyết hoà bình qua trung gian của Nga Sô, liền điện cho viên đại sứ Nhật Sato hoả tốc yêu cầu Molotov chấp thuận gửi giúp những đề nghị mới cho Hoa Kỳ. Những kỳ vọng của Nhật Bản lần này được giới hạn xin được thong thả rút các đạo quân trú phòng ở hải ngoại trở về, xin được tự giải giới mà không có sự chiếm đóng lãnh thổ Nhật Bản và xin tôn trọng quyền uy của Thiên hoàng. Molotov kéo dài các cuộc thương thuyết trong suốt ngày 8 tháng 8 mà không hé hai một lời nào với Hoa Kỳ. Staline đang chuẩn bị một lát dao găm đâm sau lưng: tuyên chiến với Nhật Bản. Ông ta hoàn toàn có lợi khi kéo dài sự xung đột.Trong thời gian đó một chiếc C-54 được trang bị đặc biệt, do hai phi cơ B-29 hộ tống, rốt cuộc đã chở đến Tinian những thành phần cấu tạo chót của quả bom Fat Man chứa đầy putonium cần thiết. Những cơ phận khác nhau của quả bom thứ hai được ráp vội vàng vì khí tượng còn rất tốt. Mục tiêu chọn lựa là hải cảng rộng lớn Kokura; nếu thời tiết tại đó hỏng, chiếc Great Artiste sẽ cố ném quả Fat Man xuống Nagasaki.Mối nguy hiểm do sự chuyển vận bằng phi cơ đã được Groves chấp nhận, không những chỉ vì để tranh thủ thời gian, nhưng còn vì ông thấy ít nguy hiểm hơn là sự chuyển vạn bằng đường biển để chở quả bom Little Boy. Thật vậy, tuần dương hạm Indianapolis, sau khi khởi hành khỏi Tinian, đã gặp phải số phận bi thảm. Trong lúc chạy về Phi Luật Tân một mình không hộ tống, nó bị trúng thuỷ lôi ngay trong đêm tối, ngày 29 tháng 7, của một tàu ngầm Nhật Bản. Một sự trùng nhập các hoàn cảnh đã làm cho thảm hoạ thêm trầm trọng. Những tín hiệu S.O.S của chiếc Indianapolis không được ai nghe, và sự bí mật bao quanh chuyến hải hành của nó được giữ cẩn thận đến nỗi không một ai lo lắng gì về sự mất tích của nó. 800 thuỷ thủ sống sót sau khi tàu bị chìm đã phải bám vào các bè hay cano cấp cứu trong suốt ba ngày liền. Gần 500 người trong số đó đã bị chết chìm khi những người tiếp cứu đến được nơi xảy ra thảm hoạ. Biết bao nhiêu là lầm lỗi và sơ xuất đã làm cho Tướng Groves phải rùng mình vì một sự ghê rợn phản hồi...Tối ngày 7 tháng 8, một trục trặc về vận hành đã được khám phá nơi một trong các động cơ của chiếc Great Artiste liền có quyết định đưa quả bom Fat Man vào hầm chứa của chiếc pháo đài bay Box Car vẫn được dùng làm trừ bị cho đến lúc đó. Tất cả phi hành đoàn của thiếu tá Sweeney chuyển qua chiếc Box Cả lúc này tạm thời được đổi lại tên là Great Artiste. Trong đêm 8 tháng 8, trong lúc tưởng đâu mọi chuyện êm đẹp cả, thì các cơ khí viên báo hiệu chiếc bơm xăng bị hư hỏng. Thiếu tá Ashowrth và phi công Sweeney đến gặp Đô đốc Purnell là người có trách nhiệm về an ninh. Sự hư hỏng chiếc bơm xăng làm giảm bớt 1/4 số xăng dự trữ. Sau những cuộc bàn cãi thật lâu và sau những ước tính chặt chẽ, Purnell tính rằng phải chấp nhận mạo hiểm bởi vì giai đoạn thời tiết tốt đẹp sắp chấm dứt. Hơn nữa Stimson đã nhấn mạnh qua một công điện rằng cần phải ném hai quả bom liên tiếp nhau để gia tăng xúc động tâm lý và để làm cho đối phương tin rằng có cả một kho dự trữ bom vô hạn.Phi hành đoàn của ba pháo đài bay được tập họp để nghe "Briefing" một lần chót vào lúc 3 giờ sáng. Vì lý do có một số lớn phi cơ Nhật trên đảo Kiou-Siou, cho nên một điểm hẹn được ấn định cho các khu trục cơ che chở tại Yakoshima. Nhiều khu trục hạm và tuần dương hạm cũng phải tuần tiễu theo đoạn đường bay qua của đoàn phi cơ.Lúc 3 giờ 45 ngày 9 tháng 8, chiếc phi cơ quan sát thời tiết báo hiệu độ trông rõ tại Kokura "chấp nhận được", chiếc Great Artiste mới, chở nặng, được thiếu tá đưa lên không vừa đúng, theo sau là hai chiếc B-29 quan sát cơ, và lên đường tiến về phía Yakoshima.Ngay khi khởi hành, đoàn phi cơ đã bay vào mây, kỹ thuật phi hành trở nên khó khăn và các phi cơ thường bay khuất tầm mắt của nhau. Nhiều tia chớp đáng lo ngại vạch lên bầu trời ở phía xa. Tuy vậy, đến rạng sáng, thời tiết khá hơn và các tin tức nhận được lúc 8 giờ báo hiệu rằng độ trông rõ tại Kokura là "thoả đáng". Nhưng khi bay đến bên trên Yakoshima, Sweenney thấy đằng sau mình chỉ có một pháo đài bay, chiếc thứ ba không thấy đâu cả. Sau 25 phút chờ đợi đầy lo âu, thiếu tá Sweeney quyết định tiếp tục hành trình. Đồng hồ trên phi cơ chỉ 9 giờ và phải còn bay qua 400 cây số nữa. Từ đây chiếc Great Artiste đã bị trễ mất 400 giờ so với thời biểu ấn định trong chương trình.Than ôi, những thất vọng ấy mới chỉ là bắt đầu. Khi đến Kokura, một cơn mưa phùn nhẹ làm nhãn quan tối sầm lại, Đại uý Beahan, chuyên viên thả bom không thể phân biệt rõ các điểm chuẩn. Chiếc Great Artiste bay qua bay lại trên thành phố, nắp hầm bom mở rộng, bom sẵn sàng và đã ba lần, Beahan không thể ra lệnh ném bom. Đến lần bay thứ ba ngang qua thành phố, hải quân trung tá Ashworth, chuyên viên gắn ngòi bom báo hiệu thấy khu trục cơ Nhật, rồi những cụm khói đen của đạn cao xạ phòng không D.C.A xuất hiện... Yếu tố bất ngờ đã mất, phải bỏ đi! Sweeney đổi hướng phi cơ và nhắm về phía Nagasaki. Nhưng mức dầu xăng hạ dần và độ trông rõ chỉ khá hơn trên Kokuru một chút. Sweeney, Ashworth và Beahan chỉ có vài phút để quyết định. Mặc dầu các mệnh lệnh giao cho họ không có tiên liệu kỹ thuật nhắm bằng rada, nhưng họ đồng ý với nhau rằng đấy là đường lối độc nhất còn lại phải áp dụng. Sau khi lấy một điểm chuẩn trên một đại lộ của thành phố, Sweeney nhìn vào các chỉ dẫn của rada để bay dọc theo thung lũng Urakani trên đó có điểm chuẩn được tiên liệu. Nhà cửa xây từng bậc trên các sườn đồi bắt đầu xuất hiện trong các khoảng không trống mấy. Hình ảnh lờ mờ của hải cảng vạch lên trên mặt kính rada và quả bom đã được ném đi... Có lẽ hơi quá sớm, nhưng còn hơn là không ném được khi phi cơ bay hết chiều ngang thành phố. Cuùn với tia chớp dữ dội giống như tại Hiroshima, cùng cây nấm như thế bốc lên cao và, trong khi chiếc Great Artiste vừa đổi hướng vừa đâm chúi xuống hết tốc độ, nó bị chấn động năm lần như bị một quả đấm khổng lồ giáng xuống. Làn sóng chấn động lần này bị dội lại và phóng đại thêm bởi các ngọn đồi.Khi yên tĩnh đã trở lại, phi hành đoàn quá kiệt sức đến nỗi không thể quan sát diễn tiến của quang cảnh. Thành phố và hải cảng Nagasaki hoàn toàn bị bao phủ bởi một thảm khói điểm những ánh lửa của các đám cháy. Chiếc pháo đài bay thứ hai bay vòng chung quanh cây nấm khổng lồ mà một khi bị phân tán liền mở lối cho một cột khói mới bốc thẳng lên trời và phản chiếu ánh sáng muôn màu. Sweeney không có thì giờ trì hoãn để ngắm nhìn quang cảnh ảo mộng ấy. Đồng hồ xăng chỉ rõ mức hạ thấp báo động. Không còn có thể có vấn đề trở về Tinian được nữa. Chính Okinawa là nơi phải cố gắng đáp chiếc Great Artiste xuống.Lúc ấy là 12 giờ 15, máy vô tuyến trên phi cơ gửi về Tinian điện văn qui ước: "Fat Man đã chu toàn nhiệm vụ". Một giờ sau, hòn đảo Okinawa dài ngoằn với những bờ biển uốn cong gồ ghề xuất hiện trong bầu trời xám ngắt. Nhân viên vô tuyến gọi đài kiểm soát phi trường Yontan. Không nhận được hồi âm, anh lập lại lời kêu hai phút một lần, nhưng than ôi, vẫn không có kết quả gì. Độ trông rõ vừa đủ để trông thấy những ngọn núi cao và pháo đài Shuri vốn là chiến trường trong cuộc chiến tranh trên Thái Bình Dương. Sweeney bắt đầu hạ xuống và thấy phi đạo ngay. Dường như nó quá bừa bộn với một số phi cơ ấy mà không có phép của đài kiểm soát là cả một sự nguy hiểm lớn lao, vì thế ông vẫn phải bay vòng trên Yontan và lập lại dấu hiệu báo nguy: "May Day! May Day!". Trước 14 giờ một chút, đồng hồ xăng chỉ số không, Sweeney ra lệnh bắn hoả tiến báo nguy và tiến vào vị trí đáp. Sau cùng một ánh đèn bật lên trên đài kiểm soát và phi đạo có vẻ được dẹp trống. Chiếc Great Artiste đáp xuống ngay. Phi cơ chạm mặt đất dữ dội. Sweeney phải đảo ngược chong chóng để thắng phi cơ và nó dừng lại đúng lúc ngay đầu phi đạo. Trong sự im lặng trở về, người ta nghe có ai thì thầm: "Tạ ơn chúa!". Thần kinh căng thẳng đến mức độ không ai nhúc nhích gì được.Một lát sau, cửa phi cơ mở và một đại uý nhô đầu vào khung phi cơ la lớn: "Trong đó bình yên không? Không có bị hãy tay chân gì chứ?". Rồi khi mọi sự đều tốt đẹp, ông ta nói một tràng: "Các anh có nghe đài phát thanh không? Người Nga đã tuyên chiến với Nhật và một phi cơ Mỹ đã ném một quả bom nguyên tử xuống Nagasaki!".Viên phi công của chiếc Great Artiste vốn là dân Ái Nhĩ Lan chính cống, làm như là giật mình trên ghế và trả lời viên đại uý: "Xuống Nagasaki! Ông khong đùa đấy chứ!".

Tro tàn thảm bại

Tại Đông Kinh quả bom rơi xuống Nagasaki đã biến tâm trạng bối rối của các nhà lãnh đạo Nhật thành ra tình trạng hỗn loạn hoàn toàn. Các nhân viên chính phủ họp thường trực tại phủ Thủ Tướng đã cho phổ biến các thông cáo đưa ra những lời kêu gọi thường mâu thuẫn nhau. Các nhật báo đầu tiên trong ngày 10 tháng 8 chạy những hàng tít lớn về bố cáo của Tổng trưởng Nội vụ: "Dân tộc Nhật Bản đã chuẩn bị cho tình trạng tệ hại nhất. Chúng ta phải thừa nhận rằng sự tệ hại đã đến. Chính phủ sẽ làm những gì có thể làm để cứu vãn Vương quốc và danh dự của dân tộc. Chính phủ chờ đợi nơi nhân dân vượt qua mọi khó khăn để giúp chính phủ tiếp tục nhiệm vụ". Nhưng trong ấn bản tiếp theo của các nhật báo thì chính một lời kêu gọi của tướng Anami, Tổng trưởng Chiến tranh, thế chỗ bố cáo trên: "Sự chọn lựa duy nhất của chúng ta là lãnh đạo cuộc chiến tranh thần thánh để bảo vệ tổ quốc, ngay cả khi chúng ta phải ăn cả rễ cây và cả khi chúng ta chỉ còn đồng ruộng để nằm.Nếu chúng ta tiếp tục chiến đấu với sự can đảm, chúng ta sẽ tìm thấy lại cái Sống trong cái Chết".Đến tối, Suzuki họp các nhân viên chính phủ và các tham mưu trưởng Lục quân và Hải quân để thông báo cho họ kết quả thất bại của các cuộc thương thuyết. Ông loan báo với họ rằng, Thiên hoàng có ý định chuyển đến các Quốc Trưởng đồng minh sự chấp thuận trên nguyên tắc các điều kiện của họ ngay khi nào Ngài nhận được sự xác nhận chính thức là họ từ chối những đề nghị sau chót của Nhật. Phiên họp hết sức sóng gió. Tướng Anami phẫn nộ quyết liệt chống đối. "Lục quân, ông nói, sẽ không bao giờ chấp nhận một sự nhục nhã như vậy!". Bộ trưởng Hải quân thì ít cuồng nhiệt hơn, nhưng ông cũng phát biểu ý kiến tương tự. Các cấp chỉ huy quân sự thì giữ im lặng. Điểm duy nhất mà tất cả mọi người đều đồng ý là sẽ không đưa ra một sáng kiến hành động nào trước khi nhận được sự xác định từ chối chính thức của đồng minh.Tình trạng hỗn tạp ngự trị tại Potsdam và tình trạng tắc nghẽn của các đường liên lạc vô tuyến đã làm cho tài liệu này đến trễ mất ba ngày tang tóc. Dân chúng Nhật Bản vốn đã bị yếu kém vì thiếu thực phẩm và bị mất tinh thần vì các cuộc oanh tạc, nên chỉ theo dõi biến cố với sự nhận nhục thụ động. Tổ chức cực đoan Kempi Tai, mà Tojo vẫn còn điều khiển hoạt động, tuyên cáo tử chiến, nhưng quần chúng còn có những lo âu khác hơn là nghe các nhà hùng biện. Những thanh niên được đưa vào các đơn vị Kamikaze bắt đầu đào ngũ. Nhiều người trong số đó đã bị bắt buộc gia nhập và sự tình nguyện của họ chỉ là thuần tuý hình thức.Nhiều cuộc ẩu đả đã xảy ra giữa những tay tổ cứng đầu và những kẻ mềm yếu.Đây là lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu, những quân nhân công khai thúc nhận sự mệt mỏi của họ. Sự nhất trí quốc gia đang tan rã dần.Sáng ngày 13 tháng 8, sự từ chối tàn bạo các đề nghị của Nhật được đưa đến Đông Kinh. Thủ tướng Suzuki và Ngoại trưởng Togo hấp tấp đến Hoàng cung, Thiên hoàng tiếp họ ngay và với vẻ lạnh lùng bề ngoài, lắng nghe lời loan báo tin tức tai biến ấy. Ông tin cho Suzuki rõ ý định triệu tập một hội đồng đặc biệt vào ngày mai.Ngày 14 tháng 8 lúc 8 giờ, những binh sĩ phòng vệ Hoàng cung dùng xe gắn máy chạy ồ ạt qua các đường phố để mang đến các nhân viên chính phủ, và các tướng lĩnh thuộc Tổng hành dinh Thiên hoàng thư mời họp long trọng.Vì lý do giờ họp-10 giờ-quá gấp nên họ được miễn mặc trào phục. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản đã xảy ra những sự xáo trộn như thế đối với hiến pháp cũng như đối với nghi thức.Khi đến Hoàng cung, các nhân vật cao cấp được đưa vào một phòng khách dưới hầm sâu qua một hàng rào quân danh dự và binh sĩ vũ trang. Thiên hoàng tiến vào phòng hội và phác một cử chỉ nghi lễ ngắn gọn thường lệ. Thủ tướng Suzuki đọc ngay một phúc trình trong đó ông trình bày các biến cố của những ngày vừa qua và các lý do đã khiến ông đề nghị chấp nhận đơn thuần tối hậu thư của đồng minh.Đến lượt tham mưu trưởng Lục quân và Hải quân tiếp lời, cả hai đều ước tính rằng lực lượng mà họ đang nắm trong tay còn có thể chiến đấu và còn có thể chống trả cả một cuộc đổ bộ xâm chiếm lãnh thổ. Tổng trưởng Bộ Chiến tranh Anami, mà sự xúc động đã bộc lộ cực điểm, đã bác bỏ một cách cuồng nhiệt sự chấp nhận những điều kiện nhục nhã "sẽ làm cho cả bản thân Thiên hoàng lâm nguy".Nét mặt tái ngắt biểu lộ tình trạng thần kinh căng thẳng tột độ, Hiro Hito đưa mắt nhìn khắp lượt những người dự hội và đến lượt ông lên tiếng trong một không khí lạnh lẽ đầy tử khí: "Nếu không còn ai có ý kiến gì để phát biểu, trẫm sẽ diễn tả ý kiến của trẫm. Trẫm yêu cầu các khanh chấp nhận nó. Trẫm thấy chỉ có một lối thoát cho Nhật Bản. Chính vì lý do đó mà Trẫm chấp thuận đề nghị của Đồng minh!".Một sự dao động khó tả lan khắp hội trường.Nước mắt rào rụa trên các nét mặt. Những lời than vãn dâng cao âm thầm. Đột ngột phá vỡ nghi thức, tướng Anami khóc nức nở quì mọp xuống chân Thiên hoàng."Anami, đừng khóc", Hiro Hito nói với ông ta. "Nếu Trẫm đi đến quyết định này, chính là do sau khi suy nghĩ lâu dài"Khi sự xúc động lắng dịu đôi chút, nhà vua loan báo với hội đồng rằng ông sẽ đích thân nói với dân chúng qua một bài diễn văn sẽ được truyền thanh vào ngày mai. Còn hơn cả sự chấp nhận bại trận nữa, lời tuyên bố này đã làm cho các nhân vật cao cấp ngẩn ngơ thật sự. Nếu Đấng Chí Tôn vốn tượng trưng cho sự vĩ đại của Đế quốc và nhân cách hoá linh tiền nhân vẫn phò trợ cho sự vĩnh phúc của Người lại chấp nhận bước xuống ngai vàng để cho những thần dân hèn mọn nhất được nghe giọng nói uy nghiêm, thì chính bức màn của hai ngàn năm lịch sử đã rơi xuống.Vào cuối ngày định mệnh đó, một số sĩ quan cao cấp Bộ Tổng tham mưu Lục quân nhóm họp tại trụ sở của Kempi Tai. Nhiều người trong số đó được sự hậu thuẫn của một vài tổng trưởng để lật đổ chính phủ Suzuki. Đến 1 giờ sáng ngày 15 tháng 8, họ đến bản doanh của chỉ huy trưởng quân danh dự phòng vệ hoàng cung, tướng Takeshi Mori và yêu cầu công theo họ. Takeshi Mori từ chối bằng cách nại ra lòng tận tuỵ của ông đối với bản thân Thiên hoàng. Lập tức ông bị hạ bằng một lát kiếm. Tất cả các sĩ quan của đoàn quân danh dự đều bị nhốt trong một phòng của Hoàng cung bởi những người chủ mưu và những cán bộ cuồng tín của tổ chức Kempi Tai. Viên Đại tá thâm niên nhất chiếm lấy khuôn dấu của Tướng Mori và thảo ngay một huấn thị ra lệnh đóng cửa Hoàng cung và gia tăng gấp đôi số lính canh. Trung tướng Hasunuma, tuỳ viên riêng của Thiên hoàng và tất cả các giới chức cao cấp ở trong Hoàng cung đều bị quản thúc tại nhà. Chỉ có viên tổng quản lý hoàng cung và quan chưởng ấn riêng của Thiên hoàng là thoát được mẻ lưới táo bạo này.Quả thật một tình trạng rắc rối khó giải quyết đã xảy ra từ đầu hôm giúp cho hai viên chức cao cấp thoát ra khỏi Hoàng cung sau khi cho áp dụng các biện pháp cần thiết để có thể tiếp tục thi hành mệnh lệnh của Thiên hoàng. Thật vậy, từ lúc 4 giờ chiều, họ vẫn còn ở kín dưới hầm của Hoàng cung với viên giám đốc Thông tin và ba viên chức thuộc đài phát thanh để hoàn tất việc ghi âm vào một đĩa hát lời tuyên bố của Thiên hoàng. Đĩa hát này sẽ được phát thanh vào 8 giờ sáng mai, những viên chức ấy phải mang nó đi ngay từ đầu hôm. Nhưng những tin đồn đáng lo ngại bắt đầu lan tràn ngoài phố và viêm giám đốc Thông tin liền điện thoại báo tin, cho nên viên Tổng quản lý quyết định cất đĩa hát vào tủ sắt riêng mà một mình ông biết chỗ giấu và ngày mai, đến phút chót mới cho gửi đến phòng vi âm. Các viên chức đài phát thanh rời Hoàng cung sau 11 giờ đêm một chút và khi họ bị bắt ở cổng ra vào thì những chiếc xách tay nhỏ của họ hoàn toàn toàn trống rỗng. Bị đặt dưới một cuộc thẩm vấn tàn bạo, họ không thể nào cho các người dự mưu biết được tin tức gì, khiến họ bị đưa trở lại xuống căn hầm để giúp tìm lại chiếc đĩa ghi âm mà họ muốn chiếm đoạt bằng mọi giá.Đến 3 giờ 30 sáng, công cuộc tìm kiếm vẫn vô hiệu, và Thiếu tá Hatanakato, một trong những lãnh tụ hiếu động nhất của lực lượng nổi loạn, quyết định đích thân đến đài phát thanh để đưa ra một lời kêu gọi. Đài phát thanh liền bị chừng 30 binh sĩ chiếm đóng và các chuyên viên, dưới sự đe doạ của mũi súng lục, bị bắt buộc phải truyền thanh trực tiếp lời của Hatanakato. Lúc đường dây đã sẵn sàng, thì còi báo nguy của hệ thống phòng thủ thụ động bắt đầu hú vang: các oanh tạc cơ Mỹ bay ngang qua thành phố thật thấp. Nhân viên đài phát thanh đã cắt ngang buổi phát thanh, Hatanakato nhảy đến chụp điện thoại để yêu cầu Tổng hành dinh ra lệnh tái lập các buổi phát thanh.Trong khi xảy ra vụ xúc động "đứng tim" này, thì những biến cố quyết định đã xảy ra tại Hoàng cung. Tướng Suzuichi Tanaka, tư lệnh Quân đoàn miền đông và là cánh tay mặt cũ của Tojo, dùng xe chính thức của ông tiến đến trước cổng và lính gác đã để cho ông tiến vào vườn. Với một tuỳ viên độc nhất đi theo, ông đột nhập vào phòng những người dự mưu. Uy tín của ông lớn lao đến nỗi, ngay từ những lời kêu gọi đầu tiên yêu cầu phải tuân phục mệnh lệnh chính thức của Thiên hoàng, bốn trong số các Đại tá đã tự bắn một viên đạn vào đầu. Những người khác liệng vũ khí và im lặng rút lui. Riêng phần Hatanakato, được thông báo chuyện gì xảy ra, hấp tấp trở về Hoàng cung và tự sát ngoài vườn ngay khi biết sự thất bại của bạn hữu. Cuộc nổi loạn bị đập tan.Kể từ 6 giờ 30 sáng, cứ cách nửa giờ đài phát thanh lại loan đi bản tuyên cáo của Thiên hoàng. Công chúng vốn không biết gì về các biến cố bắt đầu tập họp chung quanh các loa phóng thanh được mắc tại khắp các ngã tư đường phố. Trong các vùng ngoại ô, đám đông công nhân tập trung đông đảo trước cửa nhà máy. Còn hơn cả sự chờ đợi những hun tin, sự tò mò được nghe giọng nói của Thiên hoàng đã làm cho không khí im lặng lạ lùng. Khi giọng nói ấy cất lên để loan báo rằng Nhật Bản đã bại trận, nước mắt ràn rụa trên khắp nét mặt mọi người: "số phận đang chờ đợi dân tộc ta chắc chắn sẽ rất khổ nhọc. Trẫm biết rõ những cảm nghĩ sâu xa của tất cả mọi người, thần dân của Trẫm. Tuy nhiên, trước sự cần thiết ghê gớm của giờ phút lịch sử và của định mệnh, Trẫm đã quyết định chuẩn bị một con đường hoà bình thênh thang cho tất cả các thế hệ tương lai, bằng cách chấp nhận điều không thể chấp nhận được và bằng cách cam chịu điều không thể chịu đựng được. Vì có thể cứu vãn cơ cấu kiến trúc của Đế quốc, cho nên Trẫm ở lại với mọi người, với những thần dân thiện lương và trung kiên của Trẫm, tin tưởng vào sự chân thành và sự liêm khiết của tất cả mọi người. Hãy giữ ký lại mọi sự biểu hiện xúc động có thể tạo ra những rắc rối vô ích, mọi cảnh cốt nhục tương tàn có thể gây ra hỗn loạn, làm mọi người bơ vơ lạc lối và mất niềm tin nơi thế giới!".Khi giọng nói uy nghiêm của nhà vua chấm dứt, những đám dông dân chúng tan dần và các thị dân từng nhóm hoặc đi về nhà hoặc về các trung tâm tiếp đón người lâm nạn. Suốt ngày và suốt đêm những kẻ cô đơn không nơi ẩn trú tiếp tục đi lang thang vô định trong trạng thái ngơ ngẩn vì những nỗi đau đớn sâu thẳm vô bờ.Trong ngày hôm đó có rất nhiều người không nghe theo mệnh lệnh của Thiên hoàng "chấp nhận điều không thể chấp nhận được". Tướng Tanaka, sau khi khuất phục cuộc nổi loạn của các Đại tá, đã tự sát trong văn phòng tại bản doanh của ông. Thống chế lão thành Sugiyama, người tiền nhiệm của Tojo tại Bộ Tổng tham mưu, tự bắn một phát súng lục vào đầu trong khi vợ ông, trong bộ lễ phục, tự mổ bụng giữa một đám hoa theo nghi thức. Cùng lúc đó Tướng Anami tự sát tại nhà, để lại một câu cảm động: "Tôi hy vọng rằng cái chết của tôi sẽ là sự tha thứ cho những lầm lẫn của tôi". Tại Yokosuka, các nhóm phi công tự sát của hải quân tự nhốt mình trong doanh trại và toan tính tung một khối chất nổ sống Banzai vào số quân cảnh đến giải giới họ. Trong số những nhóm cuồng tín của không lực thuộc hải quân, có những cảnh say sưa và những trận ẩu đả chết người. Đô đốc Ugaki, người chỉ huy các thành phần cuối cùng của đơn vị phi công tự sát, đã tự bước lên một oanh tạc cơ để thực hiện một cuộc tấn công tự sát cuối cùng; tin tức ấy đã được đưa đến làm cho sự khích động của họ lên đến tột độ.Tối ngày 15 tháng 8, Đô đốc Onishi mời vài sĩ quan về nhà riêng của ông và giữ họ lại cho đến nửa đêm. Đấy là tất cả những người kỳ cựu thuộc Đệ Nhất không lực còn sống sót sau cuộc tàn sát ghê gớm do mệnh lệnh của ông để lại các tài liệu về thiên anh hùng ca Kamikzae và làm chứng cho các nguyên động lực của hành động đó với các thế hệ tương lai.Vài giờ sau khi họ ra đi, ông tự mổ bụng. Một trong những người thân chạy đến ngay. Đô đốc mổ bụng mình bằng một cây dao găm nhỏ, nhưng chắc vì nó quá ngắn cho nen vết thương không làm ông chết ngay.Để trả lời cho những người muốn chăm sóc cho ông, ông thầm thì:-Hãy để tôi yên.Ông chết sau 12 giờ hấp hối tàn khốc, từ chối mọi sự cấp cứu, làm như ông muốn lấy cái đau đớn của mình để trả món nợ mà ông còn thiếu đối với những phi công trẻ tuổi của Đệ I không lực, nhưng người mà ông từng áp đặt một cơn hấp hối tinh thần còn lâu hơn và có lẽ còn kinh khủng hơn trong những doanh trại thối mục tại Mabalacat.Người ta tìm thấy được chúc thư của ông. Đấy chính là một chúc thư của một Samourai, một người mà tự tôn sùng tổ quốc được nhân cách hoá nơi cá nhân Thiên hoàng, cấu thành nền tảng căn bản của cuộc sống.Nhưng, thật kỳ lạ, nơi con người đã từng hy sinh bất kể hàng ngàn thanh niên ấy, người ta cũng tìm thấy được những giọng điệu dịu hiền đầy cảm động với thế hệ trẻ tuổi."Tôi nói với đơn vị Kamikaze, đơn vị đã gục ngã một cách anh hùng và là đơn vị gồm những con dân ưu tú của xứ sở."Để chuộc lỗi lầm vì đã đưa họ đến cái chết vô ích, tôi xin dâng hiến cái chết của tôi cho linh hồn các thuộc viên của tôi và cho gia đình họ."Tôi cũng gửi lời đến thế hệ trẻ tuổi. Hãy rút ra một bài học từ nơi cái chết của tôi. Hãy vâng lệnh Thiên hoàng! Tôi khuyên họ hãy tự trọng và chuyên nhất. Ngay cả trong sự thất bại, cũng phải hãnh diện được là dân Nhật."Trẻ con là kho tàng của xứ sở".Trong cuộc đối thoại này ở bên kia thế giới, những người chết và những người sống hoà lẫn thân ái với nhau và lời kêu gọi của bậc Samourai lão thành ấy với thế hệ trẻ tuổi cũng là lời nói đồng thời với những anh hùng đã khuất bóng cũng như với những người sống sót hiếm hoi của đơn vị Kamikaze làm như những người này cũng như những người kia đều đã an vị giữa những Kamikaze, những linh hồn phò trợ nước Nhật vĩnh viễn.

Giờ phút vinh quang của Mac Arthur

Sau khi nuốt chửng 1.000 nạn nhân, làn sóng tự sát ấy tàn lụi trên những bờ biển của một nước Nhật nhẫn nhục. Quốc gia này đã thoát khỏi cuộc thảm sát và còn thở. Dần dần từng chút một, sự sống lại hồi sinh. Một niềm hy vọng phát hiện: hoà bình! Không còn nghe nói đến bom đạn, lẫn Hara-Kiri, lẫn Kamikaze nữa, không còn nghe trích dẫn cả Tojo lẫn Kempi Tai nữa. Xây dựng lại mái nhà nhỏ bé trong im lặng để được ở trong đó, ăn một nắm cơm rưới một chút rượu Saké, đằng sau một màn chắn gió chống lại những cơn ác mộng.Ngày 24 tháng 8 năm 1945, ngày mà các sĩ quan Hoa Kỳ đầu tiên sẽ phải đến Nhật bằng phi cơ, mộ cơn gió nóng bốc lên và mau lẹ biến thành một cơn giông tố: một cơn bão mùa hè đến muộn. Những truyền đơn cuối cùng do các phi cơ lén lút ném xuống, những lời kêu gọi nổi loạn sau cùng đều tan loãng vì ngọn thần phong, ngọn gió thần Kamikaze hoà bình đã cứu nước Nhật khỏi bị huỷ diệt hoàn toàn. Ngay trước khi các cơn gió lốc dịu bớt, trật tự khắp nơi đã dược tái lập và ngày 28 tháng 8 lúc 8 giờ, khi chiếc phi cơ Mỹ đầu tiên đáp xuống phi trường Atsugi, vài chiếc xe hơi đã tiến lên đón tiếp như đây là một cuộc viếng thăm xã giao nào đó. Hai sĩ quan bước xuống phi cơ, Đại tá Tent và Thiếu tá Bowers, thông dịch viên tiếng Nhật Tent đang có tâm trạng của một Pérouse bước lên Vanikoro: ông đã viết sẵn chúc thư và chờ bị giết chết. Ông nhanh nhẹn bước lên một chiếc xe hơi mà không biết người ta sẽ đưa mình đi đâu.Cuộc hành trình không xa. Chiếc xe dừng lại trước một chiếc lều được dựng lên ở đầu phi trường. Trung tướng Arisuýe, Tư lệnh quân khu miền đông đang chờ ông tại đấy và hai sĩ quan bắt đầu thi hành nhiệm vụ giải quyết, với sự hợp tác của Thiếu tá Bowers, các vấn đề do việc đưa quân dù Mỹ đến được đặt ra. Arisuyé đã nghĩ đến tất cả và có vẻ muốn san bằng mọi khó khăn.Ngay từ hôm sau, nhiều phi cơ C-54 bay đến, chở đầy xăng và vật liệu. Ngày 30 tháng 8, các phi cơ vận tải của sư đoàn 2 nhảy dù hạ cánh xuống phi trường với nhịp độ mỗi phút một chiếc. Đến trưa, đông đảo các sĩ quan được tập họp trên phi trường. Chiếc Bataan phi cơ riêng của Thống Tướng Mac Arthur được loan báo sắp hạ cánh. Thật vậy, chính ông là người được Truman chỉ định để chỉ huy đoàn quân chiếm đóng. Vài phút sau, chiếc phi cơ to lớn lăn bánh trên phi đạo và đến dừng trước hàng sĩ quan dàn chào.Chiếc bóng cao lớn của ông tướng xuất hiện trong khung cửa mở rộng và dừng lại đó một lát. Ông mang cặp kính đen và cắn chặt răng vào đầu chiếc tẩu thuốc lá lõi ngô danh tiếng. Chiếc nón kết nặng nề viền lá sồi che bóng một khuôn mặt gầy guộc. Ông chầm chậm bước xuống thang, chào lại những người đón tiếp và nói vài lời: "Từ Melbourne tới Đông Kinh, con đường thật xa và khổ nhọc. Nhưng hình như là những mệt nhọc của chúng ta đã được trả giá. Mới cách đây có vài ngày, 300.000 binh sĩ Nhật Bản vũ trang có mặt trong khu vực mà quân ta sắp đến đóng. Tôi có thể loan báo với các ông là họ sẽ rút lui mà không xảy ra một biến cố nào".Ngay sau bài diễn văn ngắn ấy, ánh đèn chụp hình loé lên và các máy quay phim bắt đầu kêu rè rè. Ban nhạc của sư đoàn II nhảy dù đánh một bản quân hành và ông tướng bước lên một chiếc xe Hoa Kỳ cũ để tiến giữa hai hàng quân cảnh Nhật Bản đến tận khách sạn Nouveau Grand Hotel tại Yokohama. Con đường bị bom tàn phá đến mức khoảng đường đi qua phải mất những hai giờ. Một không khí tưng bừng như hội chợ dính liền với sự hoan lạc của người Mỹ ngự trị trên sân trước khách sạn. Khi đến nơi, ông tướng được tiếp đón bằng những tiếng sáo miệng khích động, rồi bị tiếng chập choả như sấm động át đi khi ban nhạc chơi bản quốc thiếu và lá quốc kỳ Mỹ vĩ đại gắn 5 ngôi sao của vị tổng tư lệnh đạo quân chiếm đóng được kéo lên cột cờ. Ông "Nhiếp chính" rốt cuộc đã tìm thấy được một lãnh địa đúng với tầm vóc của mình.Trong khi các nghi lễ này đang diễn ra, lực lượng đặc nhiệm 38, do Đô đốc Halsey chỉ huy được điều động dọc theo bờ biển và các phi cơ của Mitscher bay trên bầu trời Nhật Bản trong một cuộc biểu dương đầy xúc động. Căn cứ Yokosuka đã được hải quân chiếm đóng và vài chiếc L.C.P đã đến tiếp thu cảng Yokohama. Ngày 1 tháng 9, một hải lực đồng minh gồm 258 chiến hạm đủ mọi kiểu buông neo trong vịnh Đông Kinh. Mac Arthur để cho Nimitz chọn lựa địa điểm làm nơi ký kết văn kiện đầu hàng của Nhật Bản và ông này đã đề nghị bãi trống đằng sau thiết giáp hạm Missouri. Chúa nhật ngày 2 tháng 9, nhiều nhân vật được mời dự lễ đã bước lên chiến hạm từ 7 đến 8 giờ và ngồi vào sau một chiếc bàn phủ thảm xanh. Trong số đó có Đô đốc Nimitz và Halsey, Đô đốc Sir Bruce Fraser của Anh, Tướng Leclers, đại diện chính phủ Pháp, và nhiều sĩ quan cấp Tướng thuộc mọi binh chủng. Vào khoảng 8 giờ 30, phái đoàn Nhật đến. Người ta nghe tiếng còi bái hiệu "Lên tàu" và hàng trăm thuỷ thủ và thuỷ quân lục chiến được phép dự kiến liền chen chúc nhau trên những spardeck và những sàn gỗ được dựng lên chung quanh sân thượng dành cho chuyên viên điện ảnh và báo chí. Những ánh đèn chớp loé ngay mặt những thành viên đáng thương của phái đoàn Nhật Bản ngay khi họ đến cầu tàu. Họ nhẫn nhịn tất cả, nhưng rất ít muốn thấy cái không khí hội chợ này, đến nỗi người ta thấy mặt họ đanh lại vì nhục nhã và đau đớn. Một trong các tướng lĩnh để lộ vẻ muốn quay trở lại, nhưng ngoại trưởng mới của Nhật, Shigemitsu, trước đây đã bị cụt chân vì bom của một đảng viên Kempi Tai cực đoan, đang khó nhọc tiến bước với chiếc chân giả, đã phát một cử chỉ ngăn chặn và các đại biểu đến đứng thẳng hàng trước chiếc bàn trải thảm xanh. Họ tạo thành một cái đinh gây nhạc nhiên trong buổi lễ" các quân nhân thì mặc những bộ quân phục cắt xấu xí, đầu đội những chiếc mũ hình nón cụt có lưỡi trai rất rộng đứng chen với các viên chức dân sự áo đuôi chồn dài, quần sọc, găng trắng và nón cao cổ.Khi tất cả đứng dậy sắp hàng theo thứ tự ngôi thứ xong, tu sĩ tuyên uý trên chiếc Missouri đọc vào máy vi âm vô hình vài đoạn thánh kinh và im lặng được tái lập. Lúc đó, cánh cửa phòng khách danh dự được mở rộng và Tướng Douglas Mac Arthur long truợng bước vào cuộc lễ: ông mặc quân phục mùa hè, áo sơ-mi cổ hở trên đó lấp lánh năm ngôi sao. Chỉ có chiếc nón kết viền lá sồi danh tiếng của ông, mặc dầu đã bạc màu là cho thấy tầm quan trọng của cấp bậc. Ông tiến tới chiếc bàn, hai bên cạnh là tham mưu trưởng của ông, Sutherland, và hai sĩ quan cấp Tướng vẻ mặt hốc hác tiều tuỵ và thân hình trơ xương lùng bùng trong những bộ quân phục cũ: đó là tướng Wainwright, người phòng thủ dũng cảm bán đảo Bataan, và tướng Sir Arthur Percival, vị anh hùng đáng thương của Tân Gia Ba vừa được phi cơ đến đón trong một trại tù binh ở Mãn Châu. Mac Arthur với vóc dáng cao lớn, ngạo nghễ nhìn các đại biểu Nhật Bản và nói vài lời trình bày bản chất của các tài liệu mà học phải ký vào. Rồi, rõ rệt là bị bối rối bởi nét mặt khổ hạnh và phong thái đầy cao thượng của những kẻ thù chiến bại, ông đọc bài diễn văn đã được soạn trước trong khi cố tìm cách biến đổi giọng nói để làm dịu bớt các từ ngữ. Khi ông nói đến phần kết luận, không khí cho đến lúc ấy thật giá lạnh, dần dần trở nên ấm áp cùng với sự cảm động bộc lộ rõ rệt của ông. Và để kết luận, ông tuyên bố: "Niềm hy vọng chân thành nhất của tôi mà cũng là niềm hy vọng của toàn thể nhân loại-là một thế giới tốt đẹp hơn sẽ hiện lên, nhân dịp long trọng này, bên trên cuộc tàn sát trong quá khứ, một thế giới đặt nền tảng trên niềm tin cậy và sự thông cảm hỗ tương, một thế giới biết tôn kính phẩm giá con người và cương quyết thoả mãn những khát vọng thân yêu nhất: tự do, độ lượng và công lý!".Có lẽ mặc dầu khi nói những lời này, hơn bao giờ hết, Mac Arthur có vẻ như đang quay một cuốn phim cho Hô Ly Vọng, nhưng các đại biểu Nhật Bản, vốn cho đến lúc đó đã nhìn quang cảnh buổi lễ với cặp mắt trống vắng phản ánh sự bất thông cảm tuyệt đối, đã trao đổi với nhau những cái nhìn rụt rè, rồi vẻ mặt rắn đanh của họ dịu dần một cách khó nhận thấy. Về sau, có người trong số họ đã nói rằng "trong giờ phút tuyệt vọng và khốn cùng ấy, một tia sáng chói đã phát hiện từ đích bản thân của Mac Arthur".Khi các đại biểu toàn quyền ký tên vào dưới văn kiện, ông tướng nói thêm: "Giờ đây chúng ta hãy cầu nguyện để cho hoà bình được tái lập trên thế giới và để cho thiện chí của tất cả mọi người giúp cho hoà bình được trường tồn mãi mãi".Trong khi nghi lễ trên diễn ra, nhiều Landing crafts của hải lực thuỷ bộ đã đưa lên bờ sư đoàn 1 kỵ binh của Tướng Chase, người được lệnh "tiến thẳng về Đông Kinh". Cuộc điều quân được thực hiện như một cuộc đổ bộ các lực lượng chiến đấu thật sự vì chưa có gì chắc chắn về thái độ của các đơn vị Nhật Bản đồn trú trong khu vực đó. Nhưng mọi chuyện đã xảy ra không gặp khó khăn và ngày hôm sau 3 tháng 9, tất cả sư đoàn đã đặt xong bản doanh trong các doanh trại tại Hara Machida cách Đông Kinh vài cây số.Lúc đó, trong vùng đồng bằng Kanto, còn có 14 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn thiết giáp và 17 lữ đoàn thuộc các binh chủng khác. Không một ai hoàn toàn yên tâm... Nhưng đã không có một phản ứng nào, các cuộc tiếp xúc được thiết lập không gặp khó khăn giữa người chiến thắng và kẻ chiến bại và trước sự ngạc nhiên của các đoàn quân Mỹ vừa chịu đựng các đợt xung phong hung tàn tại Lujon, thái độ của các quân nhân Nhật Bản không những là nghiêm chỉnh mà còn có vẻ rất hợp tác.Ngày 8 tháng 9, lúc 8 giờ sáng, tướng Chase long trọng tiến quân vào Đông Kinh, chính ông đi đầu đoàn quân chiến sĩ kỳ cựu của cuộc chiến.Vài giờ sau, đến lượt Mac Arthur đến, với một phi đoàn hộ tống. Ban quân nhạc của Sư đoàn 1 kỵ binh chờ đón ông trên tiền đình Toà Đại sứ Hoa Kỳ giữa một đoàn quân đông đảo mang quân kỳ và hiệu kỳ các đơn vị. Khi ông tướng đặt chân lên thềm, quốc kỳ được kéo lên lầu cột cờ dưới ánh mặt trời chói lọi trong khi ban quân nhạc cử bài "Star-spangled Banner". Vị tổng tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh quay về phía quan khách và nhìn quốc kỳ tung bay, ông nói mấy lời này: "Cầu cho quốc kỳ của xứ sở chúng ta tung bay dưới ánh mặt trời Đông Kinh trong vinh quang toàn diện như là một biểu tượng của niềm hy vọng dành cho những kẻ bị áp bức và như là một sứ giá đại biểu cho sự toàn thắng của luật pháp!"Công cuộc chiếm đóng yên ổn nhất lịch sử bắt đầu.

Đoạn kết

Qua các thông cáo báo chí, khi được biết cuộc ngưng bắn và cuộc giải giới được thi hành với sự mẫn tiệp và trật tự như thế nào, công luận thế giới đã có đôi chút vội vàng kết luận rằng Nhật Bản đã bị hấp hối từ lâu và rằng cuộc thảm sát ghê gớm tại Hiroshima lẽ ra đã có thể tránh được.Như chúng tôi đã nhấn mạnh nhiều lần, sửa lưng những đòn của đối phương khi ta có cả hai lá bài trong tay bao giờ cũng là chuyện dễ dàng. Lúc ấy quyết định ném quả bom A xuống Nhật Bản, người Mỹ chỉ có những dự kiện hết sức mơ hồ để đo lường mức độ yếu kém của kẻ thù: các không ảnh những khu vực bị oanh tạc (mà họ đã từng biết là có thể có hiệu quả lừa dối đến mức nào) và các tin tức do các cơ quan tình báo cung cấp, những tin tức không chính xác và mâu thuẫn. Ngược lại, điều mà họ biết quá rõ, chính là sức chiến đấu lạ thường mà quân đội Nhật Bản đã chứng tỏ, và tầm quan trọng của những kho dự trữ vũ khí đạn dược mà Nhật đã tích trữ trên khắp các lãnh thổ chiếm đóng bên trong vòng đai chu vi Đại Đông Á cũ.Chiến lược do các Đô đốc King và Nimitz đề nghị gồm có bao vây trực tiếp nước Nhật mà không chiếm lại các lãnh thổ mênh mông tại phía Nam Thái Bình Dương, tại Trung Hoa và tại Đông Nam Á, đã dựa vào một định đề vốn chưa được kinh nghiệm kiểm chứng: đó là ưu thế của không quân. Đó là áp dụng đơn thuần, với ít nhiều nguỵ trang, binh thuyết của một tướng lĩnh thời danh người Ý, Douhet, một binh thuyết mà từ mười lăm năm nay vẫn không ngớt gây ra những cuộc tranh luận gay go tại khắp mọi quốc gia. Liệu có thể áp dụng nó cho trường hợp Nhật Bản hay không? Liệu có thể hay không có thể chẹn họng quân đội Nhật, mà không cần phải chiến đấu trên bộ, nhưng chỉ bằng vào sự huỷ diệt vũ khí và các đường giao thông của Nhật? Những kết quả thu đạt được tại Đức quốc có khuynh hướng chứng tỏ rằng không thể, thế nhưng sự tàn hại do bom lửa gây ra lại đưa đến kết luận trái ngược. Song le, những cuộc oanh tạc ấy đòi hỏi một sự vận dụng phi cơ đến mức phải tiên liệu mất hàng nhiều tháng trời, mới mong tiêu diệt được dứt khoát hết các lực lượng của đối phương. Và trong những tháng trời dài dặc ấy, khi mà chiếc đầu con bạch tuộc chưa bị vặn ngược thì những chiếc vòi của nó vẫn tiếp tục bám chặt trên các quần đảo bị "bypass", cũng như tại Miến Điện và Trung Hoa. Uỷ ban tham mưu hỗn hợp đã rất mạo hiểm khi chấp thuận kế hoạch của các Đô đốc, và Tướng Mac Arthur đã không có lỗi khi luôn miệng nhắc nhở phải đề phòng.Lúc mà Tổng trưởng Chiến tranh Stimson báo cho Tổng thống Truman biết sự thành công chắc chắn của kế hoạch Mahattan, thì quân trú phòng Nhật Bản tại Okinawa vẫn còn kháng cự. Tướng Simson Bolivar Buckner vừa tử trận tại tiền tuyến. Tổn thất của Mỹ nội trong trận đánh này đã được ước tính lên đến 12.500 tử trận và 36.500 bị thương-tức là 50% lực lượng tham chiến. Mặc dầu tướng Ushijima phải tự sát, và tất cả đạo quân trú phòng trên đảo vốn được lãnh đạo đúng đắn, đã bị tiêu diệt, nhưng vố số những tổ kháng cự lẻ tẻ, gồm binh sĩ cũng như thường dân, vẫn còn chiến đấu với sự hăng say điên cuồng. Trong một góc của hòn đảo chưa bị lọt vào tay quân Mỹ, dân chúng đã đến hợp tác với các binh sĩ hiếm hoi còn khoẻ mạnh để tay không chống lại chiến xa và súng phun lửa đằng sau vị Tổng đốc dân sự được vũ trang bằng thanh kiếm Samourai của ông. Chắc chắn đấy là mùi vị được nếm trước của khung cảnh địa ngục mà một cuộc đổ bộ lên chính lãnh thổ Nhật Bản phải trải qua trên đó 30 triệu công dân Nhật và 2 triệu binh sĩ sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đến người cuối cùng.Lúc đó, theo lệnh của Truman, Stimson đã chỉ định một "Uỷ ban lâm thời" để nghiên cứu sự sử dụng bom A. Uỷ ban này gồm có 5 nhân vật thuộc giới chính trị và 3 nhà bác học Mỹ được giao cho trách vụ tổ chức nghiên cứu về quân sự từ năm 1940. Mặc dầu 3 nhà bác học này đã tham dự tích cực vào công việc của nhóm Los Alamos, nhưng họ cũng yêu cầu chỉ định một tiểu ban gồm các chuyên viên nguyên tử để hướng dẫn họ. Tiểu ban chuyên viên này, dược gọi là "Scientific Panel", phải tổ chức hội họp các nhà bác học thượng thặng nổi tiếng nhất trong giới khoa học bất chấp quốc tịch. Tiểu ban giới hạn trong số 7 thành viên mà 4 người là Do Thái gốc ngoại quốc.Các cuộc thảo luận của "Scientific Panel" và của Uỷ ban lâm thời đã đưa đến việc soạn thảo một "bản khuyến nghị" mà sau đây là các kết luận:1. Quả bom phải được sử dụng để chống lại Nhật Bản càng sớm càng tốt.2. Nó phải được ném xuống một "mục tiêu kép" vừa kỹ nghệ vừa quân sự.3. Không thể đưa ra một lời báo trước nào về bản chất của thứ vũ khí này.Chính vì nhận được ác kết luận chính thức này mà Stimson đã ra lệnh cho Groves tiến hành nhanh hơn cuộc thí nghiệm tại Alamogordo và chuẩn bị các biện pháp để sử dụng quả bom chống lại Nhật Bản.Nhưng vài ngày sau, tiếng đồn về những khuyến cáo này đã lan tràn trong số các nhà bác học nguyên tử thuộc nhóm Los Alamos và thuộc đại học đường Chicago. Bảy nhà khoa học thuộc đại học này liên nhóm họp dưới quyền chủ toạ của giáo sư lão thành Frank-cựu giám dốc Học viện Vật lý Gottingen, được xem như "giáo hoàng" của thế giới nguyên tử-đã soạn thảo một bản khuyến nghị khác đề nghị rằng sự biểu diễn thứ vũ khí mới phải được tổ chức dưới sự chứng kiến của các đại biểu Liên hiệp Quốc trong một sa mạc hay trên một hòn đảo không có người ở, để chính phủ Nhật có thể được thông báo sức mạnh tàn phá của nó và cạm chịu chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Tài liệu này được đưa đến cho đích thân Stimson, ông ta chuyển ngay cho Uỷ ban lâm thời và Uỷ ban này liền hỏi ý kiến của Tiểu ban chuyên viên. Các thành viên của Uỷ ban không tin rằng phải đề nghị sửa đổi lại lập trường, nại lý do rằng trong tư cách là các nhà khoa học họ không có thẩm quyền để quyết định liệu có nên sử dụng quả bom để chống lại Nhật Bản hay không, ngoài ra họ cũng chẳng biết gì về tình hình quân sự và không biết liệu có thể lôi kéo Nhật Bản đến chỗ đầu hàng bằng các phương cách khác hay không.Vững tâm vì sự xác định mới phát xuất từ những con người siêu việt này vốn chẳng có thù hiềm gi với Nhật Bản, mà sự suy luận riêng tư chỉ có thể bị ảnh hưởng bởi niềm ưu tư chính đáng là tránh làm tăng thêm tang tóc cho một xứ sở được họ coi như quê hương thứ hai của mình, Stimson không hề nghĩ đến chuyện thay đổi các mệnh lệnh đã được ban hành nữa. Ngọn lao đã phóng đi và đã quá trễ, không thể nào rút lại một quyết định có hậu quả nặng nề như vậy.Ngày 15 tháng 7 năm 1945, trên đường đi Potsdam, Truman nhận được tin cuộc thí nghiệm thành công tại Alanmogordo. Vài ngày sau, Stimson đến gặp ông để trình bày hiệu quả tàn khốc của chất nổ mới. Hai nhân vật đều đồng ý là không tiết lộ bản chất sát đúng trong thời gian cuộc Hội nghị Liên Đồng minh và chỉ yêu cầu các Quốc trưởng tham dự hội nghị chấp thuận rằng họ sẽ hậu thuẫn cho một lời cảnh cáo long trọng gửi cho Nhật Bản.Như chúng ta đã thấy, dân tộc Nhật bản đời nào lại chấp nhận một tối hậu thư được trình bày dưới một hình thức mơ hồ như thế và thủ tướng Suzuki, mặc dầu rất hoà hoãn, cũng chỉ có thể trả lời không chấp thuận.Những liên luỵ chính trị của sự xuất hiện vũ khí nguyên tử đã đến mức lúc ấy Tổng Thống Mỹ không còn có sự chọn lựa nào khác hơn là ném quả bom A xuống Hiroshima. Gia dĩ lãnh tụ quốc gia đồng minh duy nhất được biết rõ bí mật, Winston Churchill, lại mạnh mẽ đứng lên chống đối ý tưởng trì hoãn dầu cho chỉ là một giây đồng hồ, sự sử dụng một phương tiện căn bản như vậy để chấm dứt cuộc xung đột.Vài ngày trước khi chiếc Enola Gay cất cánh, Stimson nhận được một phúc trình bất ngờ do 60 nhà bác học thuộc mọi quốc tịch ký kết đòi hỏi đặt những công trình nghiên cứu phân cách nguyên tử dưới sự kiểm soát quốc tế và chấm dứt mọi công tác liên quan đến việc chế tạo quả bom. Những tay tập sự phù thủy đột nhiên ý thức được hậu quả rùng rợn của những suy luận khoa học mà họ là tác giả và liền ném một hòn đá xuống ao thả vịt! Những người ký tên gồm có hoặc là những khoa học gia vật lý trẻ tuổi, mới đến chỗ trú ẩn, hoặc là những người kỳ cựu của viện Gottingen, những nhà bác học đầy lòng quảng đại và đầy lý tưởng, đã xếp vào hàng ngũ chủ hoà của các nhà trí thức thiên tả, ngay từ lúc mới trưởng thành. Rõ ràng là họ chẳng có ảo tưởng gì về kết quả của đường lối vận động này, nhưng họ muốn trách nhiệm của họ được bao yểm.Stimson cho đọc những lời khẩn cầu của họ cho Groves nghe, ông tướng nhún vai với sự thẳng thắn quen thuộc, tuyên bố: "Người ta thấy rõ rằng không một ai trong số các nhà bác học thân mến ấy có thân nhân đang chiến đấu ngoài mặt trận!". Lúc đó Stimson ưu tư thì thầm: "Nếu tôi không sử dụng trái bom để chấm dứt chiến tranh, tôi sẽ không bao giờ còn dám nhìn ngay mặt một thanh niên Mỹ"...Thật rõ ràng.... Những ý tưởng thuộc về tình nhân loại từ lâu đã trở thành thứ yếu trong số những ưu tư của các dân tộc đang lâm chiến. Sự hăng say của binh sĩ Nhật Bản, nền tảng vô nhân đạo của họ, một nền tảng mang tính cách ngày càng điên rồ trước sự thảm bại sắp xảy ra, đã khiến cho thảm kích Hiroshima không thể nào tránh được, Little Boy và Enola Gay đã được đưa vào một tiến trình không thể nào đảo nghịch được.Vốn chỉ có trong tay 2 quả bom, Stimson cần tạo ra một sự xúc động tâm lý tức thời cho phép ông "diễn dich mau chóng ưu thế đè bẹp mà Hoa Kỳ có trong tay do những kết quả kinh tế". Chấn động tâm lý này cũng cần thiết cho chính phủ Nhật Bản để bước ra khỏi cơn mơ mộng không tưởng về tính cách bất khả chiến bại của mình. Nếu không có nó, hàng trăm ngàn sinh mạng Nhật Bản còn bị hy sinh một cách vô ích. Một cuộc tàn sát chưa từng có sẽ được tránh khỏi, khi mà Thiên hoàng có thể nhẫn nhục "chịu đựng điều không thể chịu đựng nổi và cam chịu điều không thể chấp nhận được", mà không cần phải rời khỏi ngai vàng.Được giải thệ nhờ mệnh lệnh của Thiên hoàng, người binh sĩ Nhật đã cứu vãn danh dự của mình. Anh ta đã đẩy lùi giới hạn của chủ nghĩa anh hùng, anh ta đã chứng tỏ cho đến cùng một khả năng kháng cự chưa từng thấy trong lịch sử, và không phải là vấn đề ít kiêu hãnh của dân tộc chiến bại khi mà phải có cả một đại biến khủng khiếp Hiroshima mới thắng được dân tộc ấy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro