Sáp Huyết 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sáp Huyết

Tác giả: Mặc Vũ

Thể loại: Lịch Sử Quân Sự

Nhóm Dịch: Tàng Thư Viện + Đọc Truyện Đêm Khuya

Nguồn: Tàng Thư Viện + Mê Truyện

Ebook by: Kiếm Giới

Creator by: Thủy Hỏa Thần

-------o0o-------

Giới thiệu

Thời kỳ Bắc Tống, sóng gió nổi lên chốn biên cương, giang sơn Đại Tống bấp bênh dưới đồ đao vó ngựa.

Mùa hoa mẫu đơn nở, hắn tình cờ gặp được người con gái thùy mị yêu kiều. Mối tình đầu ngây ngô trong sáng ấy khơi dậy một tràng chuyển biến kinh tâm động phách. Lăng mộ đế vương, lời tiên tri, bóng dáng hoàng cung, quyền thế, nhu tình...

Xuyên suốt trong những khúc mắc ái tình, có một vùng Hương Ba Lạp băng sơn thần bí mờ ảo.

Thời khắc Ngũ Long xuất thế, Thổ Phiên, Đại Hạ... Thậm chí Khiết Đan, Đại Lý lần lượt bị cuốn vào trong những cuộc đấu trí quyết liệt, minh tranh ám đấu, mưu sâu kế hiểm, chỉ vì tìm kiếm bí mật của Ngũ Long, phá giải giấc mộng Hương Ba Lạp.

Nhưng dù rong đuổi trên lưng ngựa ngàn dặm, cũng chẳng tìm thấy được manh mối gì. Hương Ba Lạp, rốt cuộc là thực hay ảo?

Tiên cảnh hay địa ngục? Bi huyết hay hào hùng!

Bát Bộ Thiên Long, Tàng Bắc Mật Tông, lập đô từ trong làn mưa tên ngũ sắc! Chỉ có vung đao lên mới có thể cùng tranh phong!

------------------------------

Hắn, mang trên lưng thâm tình của nghĩa huynh, lòng mang chí lớn bình định thiên hạ, uống máu ăn thề cùng đế vương, và lại mang tình yêu hồn nhiên chân thành, cùng một lời thề sinh tử. Thời khắc ác chiến trên sa trường, cũng không thể nào tránh khỏi bị cuốn vào cuộc tranh chấp đi tìm Ngũ Long...

 Quyển 1: Nghê Thường Khúc

Chương 1 - 4: Liều mạng

Tiết trời cuối xuân, con oanh lười biếng con yến bận bịu, qua lại không ngớt như đưa thoi. Gió mát hây hẩy, cuốn bay những cánh hoa mềm mại bé nhỏ, hòa vào trong trời đất.

Lúc này chợt có vài tiếng chiêng "gôm… gôm…gôm" truyền đến, phá vỡ sự rệu rã, làm kinh sợ những chú chim nhỏ đang đậu trong tán cây. Những cánh liễu như giật mình tỉnh khỏi giấc mộng, ào ạt rơi vào trong dòng suối, men theo dòng nước mà trôi đi.

Bên cạnh dòng suối có vài cây hòe to lớn, dưới tán cây bày một cái bàn gỗ, trước bàn có mấy người đang đứng, bận trang phục của cấm quân kinh thành, phía bên trái khuôn mặt có xăm hai chữ "Kiêu Vũ". Mấy người này mặc dù đang đánh chiêng, nhưng vẻ mặt lại có chút hờ hững.

Đằng trước những người này cắm hai ngọn cờ lớn, một lá cờ có thêu hai chữ "chiêu mộ", lá cờ còn lại thêu hai chữ "nghĩa dũng", thì ra những người này đang tuyển chọn cấm quân.

Bên cạnh ngọn cờ lớn có đặt hai người gỗ, dễ thấy là các binh sĩ được tuyển chọn phải có vóc người tương đương với chúng.

Sau bàn có một người đang tựa vào bàn ngủ say sưa, nghe được tiếng chiêng thì đứng dậy ngáp một cái, lười biếng duỗi người. Lúc nãy anh ta dựa vào bàn mà ngủ nên không nhìn ra được gì, nhưng khi anh ta vừa vươn vai, mới phát hiện người này thân cao vai rộng, râu quai nón đầy mặt, quả thật rất uy vũ. Người này nhìn vào bản danh sách đang đặt trên bàn, cau mày nói:

- Tại sao lại chỉ có chừng này người? Các huynh đệ, cố gắng thêm chút nữa, tuyển thêm mười người nữa là có thể về.

Một người gầy gò đáp:

- Chỉ huy sứ, những người dân ở đây hình như cũng không muốn đến, chiêu mộ thêm mười người nữa, nói thì dễ, nhưng làm thì cũng khó đấy.

Người râu quai nón ngáp thêm một cái nữa rồi nói:

- Làm hết sức đi chứ.

Một tên hói đầu hỏi:

- Quách đại nhân, vì sao không đi đến sương quân mà chọn lựa, lại phải chọn lựa từ trong dân chúng chứ?

sương quân quân đội địa phương. Gọi là quân chính quy, thực tế là lính tạp dịch của châu phủ hoặc cơ quan trung ương nào đó.

Người râu quai nón đáp:

- Lão tử ban đầu cũng muốn tuyển chọn những người từ trong sương quân để bổ sung vào Kiêu Vũ quân, đào tạo cẩn thận, không cho đám tạp chủng kia khinh thường. Nhưng tên Tri châu (chỉ chức quan đứng đầu bộ máy cai trị một châu) này rất keo kiệt, sương quân đưa tới cho ta đều là những tên phế thải, vừa gian trá vừa lười biếng, đã tham lam lại còn xảo quyệt, không bằng ta tự mình tuyển chọn.

Người gầy đột nhiên ánh mắt sáng ngời, gấp gáp nói:

- Có người đến kìa.

Người râu quai nón ngẩng đầu nhìn lại, thấy ở đầu kia dòng suối nhỏ xuất hiện một người, vui vẻ nói:

- Xem ra trời không phụ lòng người, mau đưa hắn đến đây. Tên tiểu tử này không tệ, đúng làcó tư chất.

Người kia đang lội qua dòng suối, vốn muốn vòng qua bên cạnh những người này mà đi, không ngờ vừa đặt chân lên bờ bên kia, đã thấy mấy cấm quân như sói như hổ xông tới, liền hoảng sợ vội vàng nói:

- Các vị quan đại ca, tại hạ không có phạm tội.

Người này vóc dáng cao gầy, mang theo chút tuấn lãng tuổi trẻ, lúc mỉm cười như gió xuân ấm áp.

Mấy người cấm quân tóm được người mới đến, cười nói:

- Có ai nói ngươi là thổ phỉ đạo tặc gì đâu. Tiểu huynh đệ, tòng quân hả?

Người này nghe được hai chữ "tòng quân" thì hoảng sợ, nghiêng người liếc mắt ngó lá cờ chiêu mộ cách đó không xa, sắc mặt lại càng biến đổi. Người râu quai nón đứng dậy, vỗ cái vai người đó, lớn giọng nói:

- Tiểu tử, ta thấy ngươi xương cốt cứng cáp, trong vạn người khó tìm được một, là vốn quý của người tòng quân. Ta rất hài lòng về ngươi, như vậy đi, đáng lẽ người khác tới tham gia quân ngũ, đều phải trải qua rất nhiều vòng tuyển chọn, muốn vào cấm quân, phải chọn lựa từ trong sương quân. Hiện tại ta quan tâm đặc biệt cho ngươi, ngươi sẽ không cần phải thi kiểm tra, chỉ cần về nhà thu dọn hành lý, ta sẽ mang ngươi vào kinh. Sau này nổi tiếng, ăn uống no say, vinh hoa phú quý hưởng thụ bất tận. Ngươi có thể từ người dân tầm thường tiến thẳng vào cấm quân, thật đúng là tổ tiên mười tám đời của ngươi hiển linh. Ơ ... Con mắt ngươi sao vậy?

Người râu quai nón vừa rồi từ xa thấy nhìn người cao gầy, so với người gỗ tham chiếu còn cao hơn vài phần, trong lòng đã thấy mừng, có thể thấy người kia tướng mạo không tệ, nhưng hai mắt hơi bị lé, giống như một bức tranh sơn thủy tráng lệ bị vẽ lên phân trâu, ngọc có tỳ vết.

Người kia ho khan liên tục, thầm nghĩ đây đâu phải chiêu binh, thật sự giống bọn thổ phỉ ép người ta nhập bọn mà không cho phép từ chối, sao ta lại xui xẻo như vậy, rơi vào tay của những kẻ này?

- Vị quân gia này, tại hạ thân thể gầy yếu, còn có bệnh trong người, chỉ sợ phải uổng phí ý tốt của ngài rồi.

- Ốm yếu thì sao nào, ăn nhiều một chút sẽ mập lên thôi. Còn bệnh chỉ là chuyện nhỏ, uống thuốc thì sẽ khỏe ngay. Người đâu, mau mau ghi tên của hắn vào trong danh sách đăng ký.

Người râu quai nón thực ra là bụng đói ăn quàng.

Người hói đầu hỏi:

- Họ tên?

Người kia thuận miệng đáp:

- Địch Thanh.

Người hói đầu gật đầu nói:

- Tên rất hay. Quê quán? À, cái này không cần hỏi, nơi này là huyện Tây Hà - Phần Châu, ngươi chắc chắn đúng là người ở đây.

Gã vung mạnh cây bút lớn lên, viết tên của Địch Thanh lên tờ danh sách. Địch Thanh lúc này mới tỉnh ngộ bèn cuống quít chụp lấy bút của người hói đầu, kêu lớn:

- Quan đại ca, ngài lầm rồi, tại hạ không có tòng quân.

Người râu quai nón sắc mặt trầm xuống, uy hiếp nói:

- Danh sách đã điền tên của ngươi, giấy trắng mực đen, còn có thể sửa đổi sao? Ngươi đang coi thường Quách mỗ sao?

Đôi mắt Địch Thanh trợn trắng, vội hỏi:

- Quan gia, tại hạ nào dám chứ? Chỉ là tại hạ còn có phụ mẫu tám mươi tuổi cần phụng dưỡng... Đâu thể nào dễ dàng rời khỏi quênhà?

Người râu quai nón quan sát Địch Thanh từ trên xuống dưới rồi hỏi:

- Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

Địch Thanh nói:

- Chưa tới hai mươi.

Người râu quai nón cười lạnh nói:

- Ngươi chưa tới hai mươi, phụ mẫu ngươi tám mươi, bọn họ sáu mươi tuổi mới sinh ra ngươi, đúng là gừng càng già càng cay đó.

Địch Thanh không ngờ người râu quai nón nhìn bề ngoài thô lỗ, nhưng lại thận trọng như vậy, vội vàng giải thích:

- Thật không dám dấu diếm, gia phụ lúc sáu mươi tuổi sinh ra tại hạ, nhưng mẫu thân chỉ là tiểu thiếp, khi sinh tại hạ, còn chưa đến bốn mươi tuổi.

Người râu quai nón nói:

- Điều này cũng không sao, chờ khi ngươi công thành danh toại, đón phụ mẫu lên kinh thành chẳng phải sẽ rất tốt hay sao?

Gã thu lấy danh sách, đem nhét vào trong ngực, gã tiếp tục nói:

- Con mắt ngươi mặc dù không tốt lắm, nhưng nói không chừng sẽ rất có thiên phú về bắn tên...

Địch Thanh á khẩu không trả lời được, không hiểu đây là đạo lý gì. Hắn thực ra không phải bị lé mắt, chẳng qua khi nhìn thấy hai chữ chiêu binh, ngay lập tức giả vờ mắt có tật, chỉ mong rằng bọn họ cảm thấy hắn bị tàn tật mà tha cho hắn, đâu có nghĩ đến khéo quá hóa vụng, rốt cuộc lại trở thành điều kiện được trời ưu ái để mà nhập ngũ.

Người râu quai nón lại nói:

- Tên của ngươi đã được ghi lại, ngươi mau về nhà thu dọn đi, tối nay đến đây báo tin, nếu không tới, ta sẽ bảo huyện lệnh Tây Hà bắt cả nhà ngươi, ngay cả anh chị em ruột thịt, họ hàng thân sơ của ngươi cũng bị bắt đi tòng quân bằng hết, ta nghĩ rằng ngươi không đến nỗi muốn uống rượu phạt thay vì rượu mời đó chứ?

Địch Thanh khẩn trương, đưa tay chộp lấy tờ danh sách kia. Người râu quai nón hừ lạnh nói:

- Tiểu tử khá lắm.

Lời gã còn chưa dứt, đã nắm lấy cổ tay Địch Thanh.

Địch Thanh hét lớn một tiếng, xoay tròn cổ tay thoát ra. Người râu quai nón vốn là kẻ dũng mãnh hơn người, lại không ngờ cổ tay Địch Thanh lại mạnh mẽ đến thế, cuối cùng thoát khỏi lòng bàn tay của gã. Người râu quai nón thét lớn một tiếng, vung quyền đánh tới. Địch Thanh né tránh không kịp, mắt thấy nắm đấm to như cái bát gần tới mặt, bất ngờ hắn cả người lộn mèo, tránh được một quyền. Người râu quai nón thấy thế mừng rỡ, vỗ tay cười nói:

- Ta đã nói tiểu tử ngươi không tệ, có thể tránh thoát một quyền của bản chỉ huy, thật sự rất giỏi!

Lứ gã nói còn chưa dứt, xung quanh Địch Thanh đã có tám người vây quanh, trường đao đều rút ra khỏi vỏ, đứng sừng sững, người gầy quát lớn:

- Đồ ngông cuồng to gan, dám vô lễ với Quách đại nhân! Không muốn sống nữa phải không?

Địch Thanh giật bắn cả người, không dám xuất thủ lung tung nữa, hắn đảo mắt, quỳ xuống thi lễ nói:

- Quan gia, tiểu nhân thật sự không muốn tòng quân, cũng không phải tất cả nguyên do đều là phụ mẫu, thật ra còn có nỗi khổ trong lòng.

Quách đại nhân cầm bình rượu trên bàn lên, "ừng ực" uống hai ngụm, nghiêng người liếc mắt nhìn Địch Thanh nói:

- Nói cho ta nghe, cho dù chuyện lớn bằng trời, bản chỉ huy cũng cỏ thể gánh vác cho ngươi.

Địch Thanh âm thầm kêu khổ, tự nhiên lại đụng vị thanh thiên đại lão gia này, không ngờ ép hắn tòng quân. Trên thực tế không chỉ có hắn, người dân bình thường thà rằng lưu lạc chịu khổ, cũng không muốn tham gia quân đội.

Vốn dĩ quân nhân Đại Tống đã thay đổi quy chế quân đội cũ của nhà Tùy Đường, áp dụng phương pháp chiêu mộ để chiêu binh, mà đối tượng chiêu binh đa phần là lưu dân và dân đói. Tham gia quân ngũ tuy rằng đúng là cơm áo không cần phải lo, nhưng không phải vinh hoa phú quý gì, còn bị xăm chữ. Xăm chữ này là một thói xấu thịnh hành thời Ngũ Đại, được Đại Tống thừa kế lại, mục đích chính là vì phòng ngừa binh sĩ đào ngũ. Cho nên lúc đó người bị xăm chữ lên mặt, không chỉ binh sĩ, còn có cả tội phạm và nô tỳ. Một khi sau khi tham gia quân ngũ là bị xăm chữ, cả đời sẽ bị mọi người coi thường.

Địch Thanh không muốn nhập ngũ, chỉ vì hắn có việc gấp cho nên mới men theo đường tắt mà đi qua nơi này, không ngờ lại bị một tên không biết là “bát” đại nhân hay “nồi” đại nhân này tóm gọn.

Vừa nãy, Địch Thanh đã tìm bốn cái lý do để thôi tòng quân, mắt lé, thể nhược, nhiều bệnh, phụ mẫu lớn tuổi, mà chẳng có cái nào dùng được.

Địch Thanh sốt ruột đến nỗi trán đổ đẩy mồ hôi nóng, thầm nghĩ bản thân mình nếu nói bị bệnh nan y, chỉ sợ tên râu ria này cũng phải xăm chữ lên mặt mình rồi mới tính tiếp. Hắn cắn răng một cái, mắt lé chớp chớp, hai hàng lệ nóng chảy xuống, nói rằng:

- Quan gia, thật sự không dám dấu diếm, tại hạ không chịu rời khỏi quê hương, chỉ vì tại Tây Hà còn có một người con gái mình yêu thương. Nàng tên là Tiểu Thanh, vốn là con gái của Trương thợ rèn chủ nhân của lò rèn phía tây huyện, tại hạ và nàng thuở nhỏ thanh mai trúc mã, tình yêu trong sáng... Nhưng Trương thợ rèn rất hám lợi, ưa tiền tài, khi nào tiểu nhân có thể đưa năm lượng bạc tiền sính lễ mới bằng lòng gả con gái. Quan gia, ngài cũng biết, người trẻ tuổi giống như tiểu nhân đây, kiếm tiền không phải là chuyện dễ dàng. Tiểu nhân một lòng cố gắng, đi sớm về tối nuôi hai con dê, không đợi dê xuất chuồng, hôm nay chạy ra chợ bán được ba lượng bạc. Ngài xem...

Địch Thanh đưa tay chìa ra ba lượng bạc, sau đó nói tiếp:

- Đây là tiền tiểu nhân bán dê mà có được.

Quách đại nhân ngạc nhiên hỏi:

- Việc này có liên quan gì tới việc ngươi không muốn tòng quân?

Địch Thanh vội nói:

- Tiểu nhân đã tích góp được hai lượng bạc, cộng thêm ba lượng này, vừa đủ cưới vợ. Nhưng Trương thợ rèn từ trước đến nay xem thường hạng người chơi bời lêu lổng, nếu biết tiểu nhân tòng quân, như thế còn không bằng hạng người chơi bời lêu lổng nữa, sao có thể đồng ý gả con gái cho? Quan gia, xin ngài thương cho tiểu nhân và Tiểu Thanh tình cảm sâu đậm, đừng ép tiểu nhân tòng quân, đừng cưỡng ép tách rời đôi uyên ương, có được không?

Địch Thanh cả gan nói ra những lời này, vốn tưởng rằng Quách đại nhân sẽ nói hắn nhục mạ cấm quân, không ngờ Quách đại nhân lại thở dài nói:

- Ài, trên đời nàyô chuyện gì cũng đều có thể ép buộc, chỉ có chữ "Tình" này là ép không được. Lần này... Quách mỗ cũng không giúp được ngươi.

Địch Thanh mừng rỡ nói:

- Quách đại nhân, ngài chỉ cần đừng bắt tiểu nhân tòng quân, đó chính là việc lớn nhất người giúp tiểu nhân.

Quách đại nhân vẻ mặt thất vọng, liếc mắt nhìn Địch Thanh, lẩm bẩm nói:

- Thực sự là rất giống. Nhưng trên đời này, người giống nhau chẳng phải rất nhiều sao?

Địch Thanh không biết Quách đại nhân có ý gì, chỉ thấy Quách đại nhân móc từ trong ngực áo ra một thỏi bạc vụn ném tới. Địch Thanh nhanh tay bắt lấy thỏi bạc, hắn chỉ nghĩ đây là tiền bán thân của mình, gấp đến độ mồ hôi chảy ròng ròng. Không ngờ Quách đại nhân nói:

- Quách mỗ và ngươi vừa gặp đã hợp nhau, cảm thấy ngươi là người có bản lĩnh, nếu chăm chỉ tập luyện, ở trong quân đội dù sao vẫn tốt hơn ở nông thôn. Nhưng mà ngươi đã có nỗi khổ trong lòng, ta cũng không miễn cưỡng nữa, một chút bạc vụn này, coi như ta chúc mừng ngươi sớm cưới được người vợ tốt.

Địch Thanh chớp mắt mấy cái, lần đầu tiên đối với Quách đại nhân này có chút thiện cảm, chân thành thi lễ nói:

- Đại ân đại đức của Quách đại nhân, Địch Thanh suốt đời không quên. Tại hạ còn muốn đi đến lò rèn, xin được đi trước.

Hắn thi lễ lần nữa rồi vội vội vàng vàng chạy đi.

Quách đại nhân cũng không ngăn cản, xoay người ngồi xuống sau bàn, nâng bình rượu lên dốc một hơi, sau đó thở dài, lại nói:

- Sao mà giống như vậy? Chẳng lẽ là...

Lời nói còn chưa xong, có viên Huyện úy vội vàng chạy tới, bẩm báo:

- Triệu huyện lệnh biết Quách đại nhân chiêu binh vất vả, đặc biệt bày một bàn tiệc rượu thịnh soạn ở huyện nha, mong đại nhân nể mặt mà đến.

Quách đại nhân xóa bỏ ngờ vực ra khỏi đầu, cười ha ha nói:

- Cũng tốt, chúng ta đi thôi.

Địch Thanh vội vàng bước nhanh đi, chờ cho đến khi cảm thấy đội kỵ mã của Quách đại nhân đuổi không kịp nữa, lúc này mới ổn định lại bước chân, ước lượng khối bạc vụn trong lòng bàn tay, lẩm bẩm:

- Quách đại nhân này thật không tồi, nhưng mẫu thân nói rằng 'Nam nhi chẳng việc gì phải đi lính, đi lính chính là lầm lỡ suốt đời', xem ra đành phụ lòng tốt của anh ta rồi, mà Địch Thanh ta có tài cán gì, lại được Quách đại nhân coi trọng như vậy? Chẳng lẽ là con rùa nhìn đậu xanh(mắt của con rùa rất nhỏ, giống hạt đậu xanh. Ý chỉ hai người hợp nhau, có cùng điểm chung hoặc sở thích), lác cả mắt cũng được sao?

Nghĩ tới đây, hắn vội vàng lắc đầu, thầm nghĩ Quách đại nhân đúng là một hán tử, bản thân mình cũng không phải đậu xanh...

Đang suy nghĩ miên man, xa xa có người kêu lớn:

- Địch Thanh, ngươi sao bây giờ mới về, xảy ... xảy ra chuyện lớn rồi!

Ở phía xa có một thanh niên trẻ tuổi chạy tới, thở hồng hộc, đầu đầy mồ hôi.

Địch Thanh nhận ra người này là Ngưu Tráng, là bạn thân lúc nhỏ thường hay chơi đùa cùng mình. Thấy vẻ mặt Ngưu Tráng hoảng hốt, quần áo tả tơi, khóe mắt bầm tím, giống như vừa bị người ta đánh một trận, trong lòng Địch Thanh trầm xuống:

- Xảy ra chuyện gì? Đại ca của ta đâu?

Ngưu Tráng vội la lên:

- Là đại ca ngươi đã xảy ra chuyện.

Địch Thanh gấp gáp bắt lấy cổ tay anh ta, hét lớn:

- Nói mau, rốt cuộc xảy ra chuyện gì?

Địch Thanh nói với Quách đại nhân, thực ra là nửa thật nửa giả. Tiểu Thanh và Trương thợ rèn đều là người thật, Trương thợ rèn cũng đúng là có ra giá năm lượng bạc, nhưng mà người muốn kết hôn với Tiểu Thanh không phải là Địch Thanh mà là đại ca Địch Vân. Địch Thanh hôm nay dậy sớm ra chợ bán dê, kiếm được tiền, lòng tràn đầy vui mừng chạy nhanh về nhà, thầm nghĩ mình đã giúp được đại ca cưới Tiểu Thanh về nhà, đâu có nghĩ đến lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn?

Ngưu Tráng nói:

- Triệu Vũ Đức nói muốn cưới Tiểu Thanh về làm tiểu thiếp thứ bảy, vứt cho Trương thợ rèn mười hai lượng bạc. Đại ca ngươi và ta đang cùng Trương thợ rèn làm mối, thấy thế đương nhiên không đồng ý, ta ra ngăn cản, bị bọn họ đánh một trận, đại ca ngươi cũng ra ngăn, kết quả...

Trên mặt hắn lộ ra vẻ sầu thảm.

Địch Thanh vội hỏi:

- Đại ca của ta rốt cuộc bị làm sao?

Hắn biết Triệu Võ Đức chính là con trai độc nhất của Triệu huyện lệnh, ở Tây Hà xưng bá một phương, đại ca và hắn trở mặt thì làm sao mà tốt lành cho được?

- Đại ca ngươi, huynh ấy... bị đánh gãy chân rồi.

Ngưu Tráng rơi lệ nói.

Trán Địch Thanh nổi hết gân xanh, siết chặt nắm tay nói:

- Là Triệu Võ Đức đã ra tay sao?

Ngưu Tráng oán hận nói:

- Mặc dù không phải y tự mình ra tay, nhưng cũng không khác biệt lắm. Ngươi cũng biết, Triệu Võ Đức có một đám tay sai giúp đỡ, ở trong huyện xưa nay không có chuyện ác gì không dám làm, lúc đó Triệu Võ Đức rêu rao, nói cha y là huyện lệnh, đánh chết người cũng không sao.

Địch Thanh không muốn nhiều lời, sải bước chạy nhanh về nhà. Ngưu Tráng cuống quýt đuổi theo, nhưng sớm đã bị Địch Thanh bỏ lại phía sau. Địch Thanh vừa về đến nhà, nhìn thấy đại ca Địch Vân sắc mặt tái nhợt, trên chân vết máu loang lổ, nằm trên giường hôn mê bất tỉnh. Có một đại phu đang nắn lại xương đùi, thấy Địch Thanh đến, lão lắc đầu nhỏ giọng nói:

- Chỉ sợ khỏi rồi, sau này cũng bị thọt.

Cả người Địch Thanh run lên, móc ra một chút bạc vụn đưa cho đại phu. Sau khi đại phu rời đi, hắn vung quyền đánh mạnh vào cái bàn ở trong sân nhà.

Cái bàn này vốn cực kỳ rắn chắc, vậy mà không chịu nổi lực đánh mạnh của hắn, "Rầm" một tiếng, chiếc bàn gãy tan tành.

Trong lòng Địch Thanh vô cùng oán hận. Cha mẹ hắn mất sớm, đại ca Địch Vân vốn là chàng trai thôn quê hiền lành chất phác, một tay nuôi nấng Địch Thanh, có thể nói là giống như cha mẹ, Địch Thanh đối với đại ca cực kỳ kính trọng. Triệu Vũ Đức đánh gãy chân Địch Vân, so với việc đánh gãy chân của Địch Thanh còn khiến hắn căm hận hơn.

Địch Vân nghe được động tĩnh bên ngoài sân, tỉnh lại, yếu ớt nói:

- Đệ đệ... đệ đã trở về rồi à?

Địch Thanh bước nhanh đi vào trong phòng.

- Đại ca, đệ về trễ. Đại ca trước tiên phải nghỉ ngơi đi đã... Đệ phải đi tìm tên Triệu Vũ Đức kia.

Nói xong, hắn xoay người đi, Địch Vân vội vàng gọi:

- Đệ đệ, đệ không thể đi!

Địch Thanh dừng bước, chậm rãi xoay người lại, cố chấp cười lớn nói:

- Đệ phải đi tìm bọn họ nói lí lẽ.

Địch Vân nói:

- Đệ đệ, huynh biết đệ muốn tìm công bằng cho huynh, nhưng bọn họ người đông thế mạnh, đệ không làm gì được bọn họ đâu. Huynh đã như vậy, đệ nếu có chuyện gì, huynh làm sao xứng đáng với cha mẹ ở dưới suối vàng đây?

Nước mắt theo hai gò má chảy xuống, Địch Vân đau khổ nói:

- Đệ đệ, chuyện này chúng ta nhịn đi.

Rất lâu sau, Địch Thanh mới nói:

- Được.

Trong lòng Địch Vân ít nhiều cũng cảm thấy dễ chịu hơn, anh ta mặc dù không may, nhưng dù sao cũng không muốn đệ đệ xảy ra chuyện:

- Đệ nói chuyện cùng ta một lát.

Anh ta chỉ sợ Địch Thanh một lúc nữa lại muốn đi tìm Triệu Vũ Đức, mượn cớ giữ Địch Thanh lại.

Lúc này Ngưu Tráng cũng chạy tới, nhìn thấy nơi đây trời yên biển lặng, lấy làm khó hiểu. Ngưu Tráng hiểu rất rõ tính cách Địch Thanh, dĩ nhiên biết Địch Thanh tuyệt đối sẽ không chịu để yên.

Địch Thanh nói:

- Đại ca, đệ đi nói với Ngưu Tráng mấy câu, đại ca nghỉ ngơi một chút, đệ sẽ trở về ngay.

Hắn mang Ngưu Tráng ra bên ngoài sân, nói nhỏ với Ngưu Tráng vài câu, lại móc ra ba lượng bạc đưa cho Ngưu Tráng, sau đó mới quay lại phòng.

Địch Vân không hề nhìn thấy Địch Thanh đưa bạc cho Ngưu Tráng, nhưng thấy đệ đệ nghe lời mình, khóe miệng rốt cục nở nụ cười, nói:

- Đệ đệ, đệ còn nhớ trước lúc mẹ mất đã nói gì không?

Địch Thanh nói:

- Mẹ nói huynh đệ chúng ta phải sống nương tựa lẫn nhau, dặn đệ phải nghe lời đại ca.

Địch Vân buồn bã cười nói:

- Đúng vậy, đệ đệ, đệ mặc dù tính tình không hẳn là tốt lắm, nhưng vẫn còn nghe lời huynh nói. Mẹ trước khi đi có nói với huynh, mẹ không yên tâm nhất chính là đệ. Mẹ bảo đại phải chăm sóc đệ cho thật tốt, kiếm cho đệ một người vợ, mẹ ở dưới suối vàng mới có thể nhắm mắt. Thế nhưng... đại ca vô dụng, đại ca có lỗi với đệ, đến bây giờ... ngược lại đệ còn giúp huynh cưới vợ.

Địch Thanh cúi đầu xuống nói:

- Đại ca, trên đời này người thân nhất của đệ chính là đại ca. Đệ lúc nhỏ rất tinh nghịch, mỗi lần gây ra tai họa, đều do đại ca gánh vác. Cả đời đại ca, bởi vì đệ đệ không ra gì này, không biết đã bao nhiêu lần bị đánh chửi, nhưng đại ca chưa bao giờ trách mắng đệ một câu, đệ chỉ nuôi hai con dê, làm sao có thể báo đáp ân tình của đại ca?

Địch Vân than thở:

- Đệ đệ ngốc, đệ với ta còn nói ân tình để làm gì? Đại ca biết đệ thích võ, những năm trước trong huyện có Trình võ sư, võ thuật không tệ, nhưng đại ca lại không có tiền để mời ông ta dạy võ công cho đệ, thật ra trong lòng đại ca rất áy náy, đệ sẽ không trách đại ca chứ?

Địch Thanh ngẩng đầu lên:

- Nhưng mà đệ lén lấy tiền của đại ca, đưa cho Trình võ sư mua rượu uống, năn nỉ ông ta dạy võ công cho đệ. Đại ca, việc này đại ca cũng sẽ không trách đệ chứ?

Địch Vân nghe xong, muốn cười thật to, nhưng động tới vết thương ở chân, khóe miệng co giật, nói:

- Đại ca đã sớm biết, chỉ tiếc là số tiền này cũng không đủ. Ài... Đệ đệ, đại ca chỉ sợ đệ gặp rắc rối, vì thế mới kiềm chế tính tình của đệ, khi đó mới cho đệ nuôi dê. Một năm qua, tính tình đệ đã khá hơn, đại ca rất vui. Chờ chân đại ca hồi phục, chúng ta sẽ lại nuôi vài con dê đem bán, đến lúc đó bán có tiền, sẽ kiếm cho đệ một người vợ, đại ca cho dù có chết, cũng không làm cho cha mẹ thất vọng.

Anh ta nói đến đây, mặc dù vẫn đang cười, nhưng trong lòng cực kì khó chịu. Tiểu Thanh bị Triệu Vũ Đức cướp đi, Địch Vân biết đã không thể xoay chuyển, lòng anh ta sớm đã nguội như tro, chỉ muốn chọn cho đệ đệ một người vợ, anh ta cũng sẽ có thể buông tay mặc kệ.

Địch Thanh nói:

- Vâng. Đại ca, đệ cám ơn huynh.

Hai huynh đệ tán gẫu, Ngưu Tráng lại chạy trở về, ở bên ngoài sân kêu lớn:

- Địch Thanh, ngươi ra đây một chút.

Địch Thanh đi ra khỏi phòng, cùng Ngưu Tráng nói mấy câu, lúc này mới đi đến bên cạnh giếng múc một bát nước, sau đó quay lại phòng nói:

- Đại ca, chắc đại ca khát nước rồi, uống chút nước đi. Đệ và Ngưu Tráng ở ngoài sân, đem bổ đống củi mấy ngày hái về trước đã.

Địch Vân bưng bát nước lên, gật đầu nói:

- Được rồi, nhưng đệ nhất định không được đi ra ngoài, đại ca ở trong phòng canh chừng đệ đó!

Địch Thanh gật đầu, chậm rãi đi ra ngoài sân, nháy mắt với Ngưu Tráng. Ngưu Tráng giúp đỡ mang gỗ khô từ trong phòng ra ngoài. Địch Thanh cầm lấy búa bổ vài nhát, lẩm bẩm nói:

- Búa cùn rồi, phải đi mài một chút.

Hắn lấy đá mài, cầm búa soàn soạt mài vài cái, thử chẻ củi. Địch Vân thấy thế, trong lòng an tâm. Anh ta đã uống xong bát nước, sau một lúc lâu, đột nhiên cảm thấy mí mắt nặng trịch, vốn chỉ định nhắm mắt lại nghỉ ngơi một hồi cho khá hơn, không ngờ cuối cùng lại ngủ lúc nào không hay.

Địch Thanh nghe thấy tiếng ngáy trong phòng, chậm rãi quay đầu lại, đem cây búa đã được mày bén ngót giắt ở bên hông, đột nhiên quỳ xuống trước mặt Ngưu Tráng. Ngưu Tráng lại càng hoảng sợ, cũng quỳ xuống theo, nói:

- Địch Thanh, ngươi làm cái gì vậy?

Địch Thanh nói:

- Ngưu Tráng chúng ta có đúng là huynh đệ hay không?

Ngưu Tráng ra sức gật đầu nói:

- Đương nhiên là đúng, từ khi ngươi bảy tuổi giúp ta đánh nhau, chúng ta đã là huynh đệ.

Địch Thanh nói:

- Ngươi là cô nhi, ta và đại ca cũng không có cha mẹ. Những năm gần đây, ta và đại ca mặc dù đối với ngươi không phải huynh đệ ruột thịt, nhưng đã xem ngươi là huynh đệ. Ngươi biết tính tình của ta, lần này ta cho dù làm trái lời đại ca, ta cũng nhất định phải đi, nếu không sống cũng không còn ý nghĩa gì nữa?

Thì ra hắn mặc dù đáp ứng đại ca không ra khỏi cửa, nhưng lại âm thầm bảo Ngưu Tráng mua thuốc mê bỏ vào trong bát nước cho Địch Vân uống.

Ngưu Tráng nói:

- Địch Thanh, ngươi nói đi, muốn ta làm thế nào, ta dù liều cái mạng này, cũng sẽ cố gắng theo ngươi!

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Ngươi không cần theo ta đi. Bây giờ, ngươi cần phải lập tức mướn một cỗ xe ngựa, mang đại ca ta đến sườn núi chăn dê cách hai mươi dặm ở phía bắc thị trấn chờ ta. Khi hoàng hôn, nếu ta không thể đem Tiểu Thanh đến sườn núi chăn dê, ngươi hãy mang đại ca ta tiến về hướng bắc, đi về phía Thái Nguyên phủ mà lánh nạn, chớ có trở về đây. Trời đất bao la, không nhất định phải ở Tây Hà này mới sống sót. Ngưu Tráng, ta cầu xin ngươi đó...

Ngưu Tráng vội la lên:

- Địch Thanh, một mình ngươi đi vào trong đó có được không? Triệu Vũ Đức ở trong huyện nha, nuôi rất nhiều tay sai, có vài tên thực lực rất cao, ngươi đánh không lại bọn họ đâu.

Anh ta biết Địch Thanh mặc dù cũng có tập võ, nhưng chẳng qua chỉ học được một chút ít nơi Trình võ sư, ngày thường có đến chỗ Trương thợ rèn đập sắt, lực tay mới mạnh như vậy. Nhưng nếu đánh nhau thật sự, chưa chắc là đối thủ của những kẻ đó.

Địch Thanh nói:

- Ta nhìn ra được, nếu ta cứu không được Tiểu Thanh, đại ca của ta cũng coi như đã chết. Nhưng còn đại ca, thà chết cũng không bằng lòng cho ta ra tay. Ngưu Tráng, ngươi biết đó, ta chỉ có một người anh!

Sống mũi Ngưu Tráng cay cay, biết việc đã đến nước này, không còn lựa chọn nào khác. Bọn họ vốn không có cách nào thưa quan, bởi vì ở nơi đây Triệu huyện lệnh là lớn nhất, Triệu huyện lệnh đương nhiên phải giúp con trai của lão. Ngưu Tráng cũng không khuyên nữa, nói:

- Vậy ngươi cẩn thận, ta chờ ngươi. Ngươi yên tâm, ta sẽ chăm sóc đại ca ngươi. Nhưng mà... sao ngươi không đợi buổi tối rồi hãy đi?

Địch Thanh lắc đầu:

- Bởi vì bây giờ là ban ngày, ta đến huyện nha, bọn chúng càng không lường trước được.

Địch Thanh đứng dậy, thi lễ với Ngưu Tráng, sau đó quay đầu lại nhìn đại ca ở trong phòng, không nói thêm gì, sải bước đi ra khỏi sân.

Sau khi ra khỏi sân, Địch Thanh trước tiên dùng tro bếp bôi đen mặt, đem y phục xé rách và làm cho đen đúa, hóa trang thành bộ dáng của ột tên ăn mày. Hắn mặc dù phẫn nộ, nhưng tuyệt đối không phải là hạng người lỗ mãng, coi thường mạng sống, vì đại ca hắn nhất định phải cứu được Tiểu Thanh, nhưng sẽ không dễ dàng tặng tính mạng mình cho người khác.

Đến phía trước huyện nha, Địch Thanh không khỏi hít một hơi khí lạnh.

Triệu Vũ Đức chính là con trai độc nhất của Triệu huyện lệnh, mà Triệu huyện lệnh vì công quên tư, vì nước quên nhà, vì công việc nên mới dứt khoát đem cả gia đình dời vào huyện nha. Hai cha con táng tận lương tâm này ở trong huyện nha, nhất định là có hộ viện bảo vệ. Địch Thanh đã tính toán sẽ có những hộ viện này, nhưng không nghĩ đến ở phía trước huyện nha lại còn có cả cấm quân.

Địch Thanh suy nghĩ một lát, quyết định đi đường vòng ra phía sau huyện nha. Đi được một lúc, mới đến vừa đến ngõ nhỏ ở cửa sau huyện nha. Nơi đây người qua lại rất thưa thớt, vốn là con đường mà tạp dịch qua lại. Địch Thanh đang suy xét nên leo tường hay là mạnh mẽ xông thẳng vào, thì phía sau đột nhiên vang lên tiếng người hét to:

- Tên ăn mày kia, tránh đường.

Địch Thanh quay đầu nhìn lại, thấy một chiếc xe bò đang ở đầu ngõ, trên xe chất đầy củi khô. Địch Thanh biết được ông lão đánh xe này chính là lão Vương, một người chở củi lâu năm của huyện nha, trong lòng hắn khẽ động, cúi đầu xuống tránh qua một bên.

Lão Vương lại không nhận ra Địch Thanh, thấy hắn nhường lối đi, vung roi, đánh xe vào ngõ nhỏ. Đi được một đoạn, lão theo bản năng quay đầu nhìn lại, phát hiện tên ăn mày này đã sớm biến mất không còn thấy tăm tích, lão Vương thầm nói:

- Tên ăn mày này đi nhanh thật.

Lão chỉ chăm chú đánh xe nên không có chú ý đến Địch Thanh thừa dịp lúc xe đi ngang qua, lăn mình một cái, chui xuống phía dưới xe, vươn cánh tay dài ra bám vào phía dưới xe bò.

Lão Vương đến cuối ngõ nhỏ, gõ vào cửa sau. Có người nói:

- Lão Vương, củi này có khô không?

Lão Vương thật thà cười nói:

- Xa quản gia, không khô không lấy tiền.

Xa quản gia cười nói:

- Ngươi là người thành thật. Được rồi, bản quản gia sẽ chú ý đặc biệt việc buôn bán của ngươi, ngươi ngày mai đem thêm củi tới đây.

Lão Vương ngạc nhiên hỏi:

- Muốn nhiều như vậy để làm gì, đốt nhà sao?

Xa quản gia khinh miệt nói:

- Ngươi nói câu nào dễ nghe hơn được không? Gần đây, có một nhân vật lớn từ kinh thành đến, lại còn có không ít cấm quân, củi lửa vì thế dùng nhiều hơn. Không chỉ như vậy, hiện giờ những người đó đang ở tiền sảnh uống rượu, vị chỉ huy sứ kia rất có tài uống rượu, ta tận mắt nhìn thấy y uống hơn năm cân rượu đấy.

Địch Thanh nghe thấy thế, trong đầu hiện lên hình dáng của Quách đại nhân kia. Hắn đang trầm ngâm suy nghĩ, thì Xa quản gia lại nói:

- Lão Vương, tới lấy tiền đi.

Lão Vương vừa mới đáp ứng một tiếng, chợt nghe thấy tiếng bước chân dồn dập, Xa quản gia đột nhiên nói:

- Công tử gia, sao người lại đến đây?

Địch Thanh nghe được ba chữ "Công tử gia", tim đập thình thịch, ngừng thở, thấy một đôi dày sa tanh đang đứng trước cỗ xe cách đó không xa, nghĩ thầm chẳng lẽ là Triệu Vũ Đức tới? Y đến nơi tạp dịch thường qua lại này để làm gì?

Đúng như dự đoán, Triệu Vũ Đức giọng khàn khàn truyền tới:

- Con mẹ nó, chỉ là một tên chỉ huy sứ, lão già ta lại muốn ta đi bồi tiếp. Tên kia chỉ là một người vô tích sự, tham ăn tham uống, đến bây giờ mới cho ta đi. Cô nàng xinh đẹp hôm nay mới bắt được của lão tử còn chưa có chạm đến. Xa quản gia, thế nào, nàng ở trong phòng củi có ngoan không?

Địch Thanh biết được tung tích của Tiểu Thanh, trong lòng vui vẻ. Từ dưới gầm xe, trông thấy ở phía sau đôi giày còn có hơn mười đôi chân, hắn liền biết rõ Triệu Vũ Đức mang theo thuộc hạ, không khỏi cau mày.

Xa quản gia trả lời:

- Công tử gia, nàng rất cứng đầu, không chịu ăn uống, bỏ đói nàng vài ngày sẽ nghe lời thôi.

Triệu Vũ Đức mắng:

- Không cần nể mặt gì cả, được lão tử coi trọng chính là phúc khí của nàng, chọc giận lão tử, sau khi ta chơi nàng xong, ném cho Vương đại mụ mang đi.

Vương đại mụ chính là tú bà trong thanh lâu ở huyện này, Triệu Vũ Đức chính là khách quen thường lui tới của Vương đại mụ.

Lúc này có người nói:

- Công tử gia, hôm nay chúng ta đánh Địch Vân, nghe nói tên phế vật này có đệ đệ là Địch Thanh rất giỏi đánh nhau. Thuộc hạ chỉ sợ Địch Thanh sẽ tìm đến đây gây phiền phức, người cẩn thận một chút sẽ tốt hơn.

Giọng nói người này bén nhọn, Địch Thanh nghe xong, biết ngay đó chính là võ sư mà Triệu Vũ Đức mời đến với giá rất cao, tên là Tác Minh, vũ khí sở trường là Liên Tử thương, võ công trong huyện rất nổi tiếng. Trước đây, ngay cả Trình sư phụ, người dạy võ công cho Địch Thanh cũng thua dưới tay thuộc hạ của Tác Minh, do đó mới rời khỏi Tây Hà. Có người này ở đây, Địch Thanh không dám hành động thiếu suy nghĩ.

Lúc này lại có người nói:

- Địch Thanh là cái rắm gì, cho hắn gan cọp, hắn cũng không dám ban ngày ban mặt đến nơi này. Tác sư phụ, ông nếu sợ, không bằng về nhà ôm con đi thôi.

Giọng nói của người này giống như vịt kêu, khiến cho người bên ngoài cười ha hả một trận.

Địch Thanh sắc mặt tái mét, biết được người này tên là Côn Tử. Không ai biết được tên thật của người này, nhưng mọi người đều biết tên Côn Tử này rất phi thường, ngay cả Tác Minh đối với y cũng phải tôn kính ba phần.

Tác Minh nghe Côn Tử châm chọc, có chút không hài lòng nói:

- Cẩn thận một chút bao giờ cũng tốt.

Xa quản gia nói:

- Thật ra tất cả mọi người đều muốn tốt cho công tử, Tác sư phụ, Côn Tử, đừng cãi nhau nữa.

Tác Minh, Côn Tử nghe Xa quản gia nói, đều hừ lạnh một tiếng, không thèm tranh cãi nữa.

Triệu Vũ Đức ha ha cười nói:

- Được rồi, ta sẽ cẩn thận, mấy ngày này các ngươi đều đi theo bên cạnh ta. Xa quản gia, mang ta đi gặp tiểu nương tử, ta chơi đùa nàng trước mặt các ngươi, như vậy sẽ an toàn hơn.

Cả đám cười dâm không ngớt.

Địch Thanh nghe thấy thế, suýt chút nữa là kiềm chế không được. Hắn biết rằng dựa vào bản lĩnh của chính mình, chỉ sợ không phải là đối thủ của Côn Tử và Tác Minh, nhưng mà chờ đợi cũng không phải là biện pháp, bắt được Triệu Vũ Đức, cục diện mới có thể xoay chuyển. Nghĩ tới đây, hắn buông lỏng tay, cả người liền rơi xuống. Không đợi rơi xuống mặt đất, cổ tay chống xuống, Địch Thanh dưới gầm xe lăn ra ngoài, hai tay dò xét, đã bắt được hai chân người mang cẩm hài, hét lớn:

- Súc sinh nhận lấy cái chết đi!

Hắn dùng lực lôi kéo, Triệu Vũ Đức hú lên một tiếng quái dị, cả người đã ngã xuống.

Triệu Vũ Đức tuy rằng muốn đề phòng Địch Thanh, nhưng không ngờ được Địch Thanh lại đột nhiên xuất hiện giống như quỷ. Ở đây người tuy nhiều, nhưng không ai chú ý cỗ xe bò cách đó không xa, cũng không có nhìn thấy Địch Thanh xuất hiện như thế nào. Triệu Vũ Đức hoảng sợ ngã xuống đất, Địch Thanh thân hình vọt lên, mới chế trụ được Triệu Vũ Đức, không ngờ chỉ nghe một tiếng 'Hô', một luồng gió mạnh sắc bén đã đến sau đầu hắn.

Địch Thanh đành phải buông Triệu Vũ Đức ra, rụt đầu tránh né, luồng gió mạnh này đột nhiên mà đến, đột nhiên ngừng lại, bóng côn loáng lên, cuối cùng đâm về phía mắt của Địch Thanh.

Địch Thanh chưa bao giờ gặp qua côn pháp nhanh đến thế, chỉ có thể né tránh sang một bên, cảm thấy không ổn, đối thủ đa mưu túc trí, chỉ dùng hai côn đã buộc hắn phải tách khỏi Triệu Vũ Đức. Địch Thanh vừa muốn xông tới, chỉ thấy trước mắt ánh sáng vàng lóe lên, lại phải lui về một bước, một mũi thương đâm vào không khí, làm cho Địch Thanh sợ hãi, cả người toát mồ hôi lạnh. Địch Thanh chỉ chú ý tránh né trường thương, không chú ý đến một côn lén lút đâm tới chính giữa cẳng chân hắn. Địch Thanh lảo đảo một cái, ngẩng đầu nhìn tới, thấy được hai người đang cười lạnh đứng trước mặt hắn, một người có con mắt tam giác, chính là Tác Minh, người còn lại mặt rỗ, đúng là Côn Tử.

Địch Thanh trong lòng trầm xuống.

Triệu Vũ Đức sau gáy đau nhức, cảm thấy đã hết nguy hiểm, giận dữ nói:

- Địch Thanh, ta phỉ nhổ mười tám đời tổ tông nhà ngươi, ngươi đám giết ta? Đánh chết hắn! Ai giết được Địch Thanh, ta thưởng một trăm lượng bạc.

Y vừa mới treo thưởng, mọi người đều nóng lòng muốn thử vận may. Địch Thanh quay đầu liếc mắt một cái.

Tác Minh thấy thế cười lạnh nói:

- Còn muốn chạy sao?

Lời gã còn chưa dứt, Địch Thanh bỗng nhiên xoay người, hướng ra ngoài chạy đi.

Tác Minh cho rằng Địch Thanh muốn chạy trốn, vừa định cất bước đuổi theo, nhưng không ngờ rằng Địch Thanh bỗng nhiên xoay người lại, vọt về phía gã. Tác Minh rùng mình, Liên Tử thương vung lên, đâm về phía ngực Địch Thanh. Cùng lúc đó, Côn Tử cũng nhấc côn đánh về phía sau Địch Thanh.

Trong nháy mắt, Địch Thanh hai mặt thụ địch, hắn dù tránh được côn, cũng không nhanh hơn Liên Tử thương, mà nhanh hơn Liên Tử thương, lại không né được sát chiêu tiếp theo.

Địch Thanh cái nào cũng không thể né tránh. Cây côn đánh mạnh vào sau lưng hắn, Liên Tử thương cũng đã đâm trúng đầu vai hắn.

Tác Minh thậm chí nghe được thanh âm trường thương đâm vào thịt, khóe miệng lộ ra nụ cười độc ác.

Chẳng ngờ Địch Thanh bị Côn Tử đánh trúng, bỗng nhiên "Á" một tiếng, miệng phun ra một ngụm máu tươi, bắn trúng hai mắt Tác Minh. Đôi mắt Tác Minh không thể nhìn thấy, lại càng hoảng sợ, muốn thối lui về phía sau, Địch Thanh đã sớm rút búa ra, bổ một búa vào ngực Tác Minh.

Búa găm vào ngực, máu tươi cuồn cuộn chảy ra.

Tác Minh rống một tiếng thấu trời xanh, cuối cùng đã bị Địch Thanh bổ chết.

Côn Tử nghe được tiếng kêu thảm thiết, trong lòng phát lạnh, vừa muốn vung côn đánh tiếp, Địch Thanh vung tay lên, búa rời tay bay ra, phóng thẳng vào mặt Côn Tử. Côn Tử đã gặp qua vô số đối thủ, nhưng chưa bao giờ gặp qua loại đấu pháp liều mạng như thế này, không thể ra chiêu, lắc mình né tránh. Búa bay tới nhanh như điện, tiếng gió rít qua mặt Côn Tử, bắn ra một tia máu, "Soạt" một tiếng, cắm phập vào cây cột bên cạnh chuồng ngựa, phát ra tiếng vang ong ong.

Địch Thanh ném búa xong, hét lớn một tiếng, nói:

- Cản ta thì chết!

Hắn nhảy tới trước mặt Triệu Vũ Đức, bên người Triệu Vũ Đức vốn đang có hai hộ viện, nhưng nhìn thấy Địch Thanh mình đẫm máu như hung thần, còn hai nhân vật lợi hại nhất trong đám hộ viện cũng một chết một bị thương, trong lòng hai người này không rét mà run, vứt Triệu Vũ Đức sang một bên, cuống cuồng chạy trốn.

Triệu Vũ Đức đã sớm bị dọa cho tè ra quần, hai chân không nghe sai bảo, chưa kịp nhúc nhích, đã bị Địch Thanh rút trường kiếm bên hông hắn, kề sát vào cổ y.

Địch Thanh chỉ cảm thấy trước mắt toàn màu đen, lắc lư sắp đổ, nhưng vẫn còn có thể hét lớn:

- Triệu Vũ Đức! Cái đầu của ta phải phí mất một trăm lượng bạc của ngươi, nhưng mà cái đầu chó của ngươi, lão tử sẽ chặt miễn phí cho ngươi!

 Chương 5 - 9: Thiên Vương

Địch Thanh liều mạng bắt được Triệu Vũ Đức, thật sự bị thương cũng không nhẹ. Hắn tự biết bản thân không phải là đối thủ của Tác Minh và Côn Tử, vì thế mới liều mạng cố gắng chịu một thương và một côn, khống chế được Triệu Vũ Đức.

Mọi người xung quanh nhìn Địch Thanh, đều mang theo ba phần kính nể. Bọn họ đã nghe nói Địch Thanh rất giỏi đánh nhau, nhưng chỉ nghĩ người này giống như một tên lưu manh đầu đường xó chợ, đâu có nghĩ đến tên lưu manh này, lại có thể giết Tác Minh, đánh lui được Côn Tử, còn bắt được Triệu Vũ Đức ngay trước mặt bọn họ.

Triệu Vũ Đức đã sớm sợ đến nỗi hai chân run cầm cập, nghe Địch Thanh đe dọa, run giọng nói:

- Địch Thanh... Địch gia...Tổ tông ơi, ngươi đừng giết ta.

Địch Thanh cười lạnh nói:

- Không giết ngươi? Cho ta một lý do xem nào?

Triệu Vũ Đức suy nghĩ cả buổi mới nói:

- Ta có tiền, có thể cho ngươi rất nhiều rất nhiều tiền. Ngươi không phải muốn Tiểu Thanh sao? Mấy thằng ngu này, còn đứng ngây ra đó làm gì, mau đem Tiểu Thanh tới đây!

Y vì bảo toàn tính mạng, đột nhiên thông minh hẳn ra. Xa quản gia vội vàng đi tới phòng củi, Địch Thanh thấy thế quát lớn:

- Chuẩn bị cho ta hai con khoái mã.

Triệu Vũ Đức liên tục gật đầu đáp ứng, lại mắng:

- Đám nô tài các ngươi, mau mau chuẩn bị ngựa cho Địch gia.

Y mặc dù muốn xé Địch Thanh thành trăm ngàn mảnh, nhưng bây giờ bảo toàn tính mạng quan trọng hơn, đối với Địch Thanh tất nhiên bảo sao sẽ nghe vậy rồi.

Bên trong nội viện ầm ĩ cả lên, Triệu huyện lệnh biết nơi này xảy ra chuyện, vội vội vàng vàng chạy tới, thấy Địch Thanh đang cưỡng chế con trai bảo bối, hét lớn:

- Địch Thanh, ngươi muốn tạo phản sao? Còn không mau thả nó ra!

Ngay sau đó vang lên nhiều tiếng bước chân gấp gáp, mấy chục cấm quân cũng chạy đến đây, dẫn đầu bởi một người chính là Quách đại nhân. Quách đại nhân nhìn thấy hết thảy mọi chuyện, lông mày nhướng lên, hiển nhiên cảm thấy rất ngạc nhiên khi gặp Địch Thanh ở chỗ này. Có mấy cấm quân định tiến lên, Quách đại nhân khoát tay chặn lại, những người này tức thì dừng bước.

Địch Thanh thấy tình hình như thế, trong lòng kêu khổ, thầm nghĩ bản lĩnh Quách đại nhân này vốn cực cao, lại còn có những cấm quân này, mình muốn chạy thoát quả thật hết sức khó khăn.

Lúc này, Xa quản gia đã đưa Tiểu Thanh đến:

- Công tử gia, Tiểu Thanh đã được mang đến.

Tiểu Thanh dung mạo thanh tú, nhìn thấy tình cảnh trước mắt, đã hiểu rõ tất cả, thút thít nói:

- Địch Thanh, sao ngươi ngốc nghếch như vậy?

Nàng luôn luôn xem Địch Thanh như là em ruột của mình, thấy Địch Thanh như thế, chỉ hận bản thân mình đã mang đến phiền phức cho huynh đệ Địch thị. 

Triệu huyện lệnh dĩ nhiên biết phẩm hạnh con trai mình, vừa thấy Tiểu Thanh tóc tai rối bới, quần áo không chỉnh tề, sớm đã hiểu rõ ngọn nguồn sự việc, thầm mắng Xa quản gia này ngu như heo, cuối cùng để người khác nắm thóp. Lão tiến tới cho Xa quản gia một cái bạt tai, mắng:

- Chuyện gì xảy ra?

Dứt lời liền đưa mắt ra hiệu lia lịa với Xa quản gia.

Xa quản gia bưng mặt nói:

- Đại nhân ... Cái này ... Cái kia ...

Triệu huyện lệnh không để ý thêm tới Xa quản gia, nói với Địch Thanh:

- Địch Thanh, đây là huyện nha, ngươi chớ có làm càn. Mau thả Triệu Vũ Đức ra, ta sẽ xử lý theo lẽ công bằng. Ngươi nếu như cứ sai thêm sai, chỉ sợ người nhà ngươi cũng khó thoát khỏi bị liên lụy."

Lão đem chuyện Tiểu Thanh bỏ qua một bên không nói, trong lời khuyên nhủ còn mang theo ý uy hiếp, lão thầm nghĩ chỉ cần Địch Thanh vừa thả người, sẽ đem hắn nhốt vào huyện lao, chặt chân hắn, rút gân hắn, sau đó nói hắn chết bất đắc kỳ tử, hết thảy mọi chuyện sẽ êm xuôi.

Địch Thanh cười lạnh nói:

- Nếu ngài thực sự công bằng chính trực, ta cần gì phải tới đây? Con trai ngài cưỡng đoạt dân nữ, đánh gãy chân đại ca tiểu nhân. Ngài chi bằng bây giờ nói cho tiểu nhân biết, ngài sẽ xử lý công bằng chuyện này ra sao?

Sắc mặt Triệu huyện lệnh trầm xuống nói:

- Địch Thanh, nói như vậy là ngươi muốn ngoan cố chống lại đến cùng phải không?

Lão thấy có hai người đã âm thầm đến phía sau lưng Địch Thanh, bất thình linh vung tay lên nói:

- Bắt.

Hai người này vừa muốn tiến lên phía trước, chẳng ngờ Địch Thanh đã sớm chú ý đến phía sau, xuất ra một cước đá vào giữa ngực một người. Người này thét to một tiếng, bay cái vèo ra ngoài một trượng. Người còn lại sợ xanh mặt liên tục lui về phía sau, không dám động thủ lần nữa. Cổ tay Địch Thanh khẽ động, trường kiếm đã cắt một vết máu trên cổ Triệu Vũ Đức, hét lớn:

- Triệu huyện lệnh! Ngài nếu không cần tính mạng của con trai, vậy tiểu nhân sẽ tiễn y đi!

Triệu Vũ Đức nhìn thấy máu chảy, thiếu chút nữa là ngất xỉu, lớn tiếng la lên:

- Phụ thân cứu con với!

Triệu huyện lệnh khẩn trương gọi:

- Địch Thanh! Đừng nóng nảy, mọi chuyện đều có thể thương lượng.

Bên cạnh, Quách đại nhân cảm thấy mình giống như đang xem một vở kịch:

- Triệu huyện lệnh ... Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, ta thật có hứng thú để nghe một chút đây.

Trong lòng Triệu huyện lệnh rùng mình, cười xòa nói:

- Quách đại nhân, đây chỉ là chuyện nhỏ thôi mà, ngài không cần phải bận tâm. Xin cứ tới tiền sảnh uống rượu trước, hạ quan giải quyết mọi chuyện ở đây rồi chúng ta sẽ nói chuyện tiếp.

Triệu huyện lệnh tuy là bá vương một vùng, nhưng không dám làm mất lòng Quách đại nhân chút nào.

Hóa ra Quách đại nhân chính là Quách Tuân, vốn là Điện tiền chỉ huy sứ ở kinh thành, đứng hàng Tam Ban, thống lĩnh Kiêu Vũ quân là một trong tám đại cấm quân ở kinh thành. Lần này Quách Tuân đến Phần Châu, nói là muốn chọn người bổ sung vào cấm quân. Tri châu không dám chậm trễ, hạ lệnh cho các huyện dưới quyền của mình toàn lực phối hợp, Quách Tuân đã đi qua được mấy huyện, mấy ngày nay đã tới Tây Hà.

Triệu huyện lệnh đương nhiên cũng không dám làm mất lòng người này, tận lực nịnh nọt, vừa tiếp rượu, vừa đút lót cho đám cấm quân, chỉ cầu bình an vô sự là tốt rồi. Đâu ngờ đứa con không ra gì lại đi gây họa lớn như vậy, bản thân muốn che giấu cũng chẳng còn cách nào. Triệu huyện lệnh âm thầm quyết định biện pháp, để xoa dịu chuyện này, nhất định chút nữa phải đưa một phần lễ vật hậu hĩnh tặng cho Quách Tuân, chỉ mong sao tai qua nạn khỏi.

Quách Tuân thấy Triệu huyện lệnh tìm đường thoái thác, thản nhiên nói:

- Đây không phải là chuyện nhỏ, mà hình như là chuyện lớn. Thật ra... ta cũng có thể giúp ông một chút...

Y lơ đãng liếc mắt nhìn Địch Thanh, khóe miệng mang theo ý cười. Lúc này có cấm vệ vội vã chạy tới, nói nhỏ bên tai Quách Tuân mấy câu, Quách Tuân sắc mặt khẽ biến, đầu mày hơi nhíu.

Triệu huyện lệnh nghe vậy vui vẻ nói:

- Sao dám làm phiền Quách đại nhân?

Triệu huyện lệnh nghĩ rằng Quách Tuân đứng về phía lão, liền có dũng khí, hét lớn:

- Địch Thanh, có Quách đại nhân ở đây, ngươi còn không mau mau bó tay chịu trói. Nếu còn ngoan cố kháng cự, dù cho ngươi trốn khỏi đây, ngươi và đại ca ngươi sẽ phải làm tội phạm bỏ trốn cả đời.

Địch Thanh trong lòng khẽ động, thầm nghĩ Triệu huyện lệnh nói quả thật không sai, mình tuy chuẩn bị chạy trốn chết, nhưng đại ca và Tiểu Thanh thì sao, chẳng lẽ cũng phải sống thấp thỏm lo sợ cả đời hay sao? Hắn nhất thời bị kích động, chỉ nghĩ đến phương pháp giải quyết này, nhưng thấy Quách Tuân cười cười với mì, đột nhiên trong đầu nghĩ tới một ý nghĩ, nói:

- Quách đại nhân, tiểu nhân muốn tòng quân!

Hắn nghĩ bản thân mình chạy trốn chết cũng chẳng sao, nhưng không được làm liên lụy đại ca. Quách đại nhân này nhìn có vẻ là một vị quan tốt, mình cần được y che chở, giúp đại ca xóa bỏ oan tình. Nếu muốn nhờ người ta giúp đỡ, điều kiện tiên quyết chính là phải gia nhập cấm quân.

Mọi người ngẩn ra, không ngờ lúc này Địch Thanh lại nói ra những lời như vậy. Triệu huyện lệnh cười lạnh nói:

- Địch Thanh, ngươi điên rồi sao? Ngươi cho rằng mình là ai mà lại muốn gia nhập cấm quân?

Quách Tuân cười ha hả, bèn nói:

- Đại trượng phu nhất ngôn cửu đỉnh, Địch Thanh, ngươi phải nhớ kĩ những lời mà ngươi đã nói hôm nay.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Tiểu nhân tuyệt không nuốt lời.

Triệu huyện lệnh thấy Quách Tuân không ngờ lại thực sự đáp ứng nguyện vọng của Địch Thanh, không khỏi khẩn trương nói:

- Quách đại nhân, việc này sao có thể được? Địch Thanh hung hãn tàn bạo, uy hiếp con trai hạ quan, vốn là một kẻ ác, không thể buông tha!

Quách Tuân nói:

- Không sai, nếu là kẻ xấu, đương nhiên không thể buông tha.

Lời nói của anh ta vừa dứt, đột nhiên tiến lên một bước, hét lớn một tiếng, đưa tay chộp tới một người.

Mọi người đều cả kinh, thì ra người Quách Tuân muốn đối phó không phải là Địch Thanh, mà là Côn Tử bên cạnh kia.

Côn Tử bất ngờ kinh hãi, thật không thể ngờ được Quách Tuân lại ra tay với gã, nhưng người này dù sao cũng có vài phần bản lĩnh, trường côn vung lên, đánh liên tiếp vào cánh tay, ngực và sườn của Quách Tuân. Một chiêu này tung ra bóng côn tầng tầng lớp lớp, biến hóa muôn trùng.

Triệu huyện lệnh kinh hãi nói:

- Côn Tử, ngươi điên rồi sao? Còn không mau ngừng tay!

Lời lão còn chưa dứt, không ngờ Quách Tuân đã đoạt được trường côn, quát to một tiếng, xuất ra một côn về phía trước, đầu côn đâm thẳng vào giữa ngực Côn Tử.

Tiếng 'rắc rắc' vang lên, xương ngực Côn Tử đều bị đâm gãy, một ngụm máu tươi phun ra, bắn ngược trở về sau. Vừa rơi xuống đất, Côn Tử trở mình nhảy lên, muốn leo tường bỏ chạy. Không ngờ Quách Tuân rảo bước tiến lên, trường côn quét ra, đánh vào hai chân Côn Tử. Côn Tử kêu thảm một tiếng, ngã xuống đất, không còn cách nào đứng dậy nổi. Quách Tuân thu trường côn, uy nghiêm quát:

- Bắt lại!

Cấm quân đã sớm tiến lên, trường đao rút ra khỏi vỏ kề vào cổ Côn Tử.

Triệu huyện lệnh sợ đến mồ hôi lạnh tuôn ra đầm đìa, luôn miệng kêu lên:

- Quách đại nhân, ngài ... ngài bắt lầm người rồi.

Quách Tuân ngửa mặt lên trời cười nói:

- Hoàn toàn không lầm. Ta nghe nói còn có một người nữa trà trộn ở trong đây.

Ánh mắt y đảo qua trên mặt đám hộ viện, đám hộ viện sợ hãi mặt cắt không còn chút máu, không hiểu Quách Tuân rốt cuộc đang tính toán cái gì?

Đột nhiên ở chính giữa đám người có một người định chuồn đi, thoắt cái đã đến chân tường, rồi nghiêng người nhảy lên chóp tường. Mấy cấm quân thấy thế, vội đuổi theo, nhảy qua đầu tường. Quách Tuân vẫn đứng yên, khóe miệng mang theo nụ cười giảo hoạt. Mọi người lớn tiếng kinh hô, bởi vì phát hiện người đang leo tường chính là Xa quản gia, tất cả nhất thời đều khó có thể tin vào hai mắt của mình, Xa quản gia này từ trước tới giờ chỉ là một thư sinh nho nhã yếu ớt, làm sao mà có bản lĩnh như vậy?

Triệu huyện lệnh đã hiểu ra, mồ hôi trên trán đầm đìa, lắp bắp nói:

- Quách đại nhân ... đây ... đây rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Quách Tuân quay sang Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, thả Triệu Vũ Đức ra.

Địch Thanh do dự trong chốc lát, cuối cùng quyết định quăng kiếm xuống đất. Quách Tuân thấy thế nói:

- Trói lại.

Vài cấm quân tiến lên, trói gô một người lại, mọi người suýt nữa té xỉu trên mặt đất, hóa ra người cấm quân muốn trói không phải là Địch Thanh mà là Triệu Vũ Đức. Triệu huyện lệnh hoảng hốt, tiến lên nói:

- Quách đại nhân, nhầm rồi, nhầm rồi ạ.

Quách Tuân hờ hững nói:

- Triệu huyện lệnh, ngươi có biết Côn Tử, Tác Minh và Xa quản gia là người phương nào không?

Triệu huyện lệnh mù mờ nói:

- Bọn họ ... Bọn họ là ai?

Quách Tuân hừ lạnh một tiếng, đưa tay xé vạt áo trước ngực Côn Tử, lại vạch vạt áo ra hai bên lộ ra bộ ngực, chỉ thấy trên ngực người này có xăm một chữ 'Phúc' rất to. Mọi người đều mờ mịt không hiểu được chữ này có hàm ý gì. Triệu huyện lệnh lại thất thanh la lên:

- Đây là người của Di Lặc giáo!

Quách Tuân cười lạnh nói:

- Không sai. Ba người này chính là giáo đồ của Di Lặc giáo, là bọn người mơ mộng hão huyền muốn tạo phản. Ta lần này tới Phần Châu, mượn việc chiêu mộ, thật ra chính là muốn điều tra chuyện về Di Lặc giáo. Triệu Văn Quảng, ngươi lén lút giấu những người này ở trong phủ, còn dám nói ta nhầm rồi?

Anh ta gọi thẳng tên của Triệu huyện lệnh, nghĩa là đã không còn xem lão là Huyện lệnh.

Triệu huyện lệnh mồ hôi nhễ nhại, cuống cuồng quỳ xuống nói:

- Quách đại nhân, hạ quan thực sự không biết chuyện này, xin ngài ... cầu xin ngài... Theo lẽ công bằng mà xử lý.

Mọi việc xoay chuyển một trăm tám mươi độ, mới vừa rồi Triệu huyện lệnh còn vênh váo tự đắc, nhưng bây giờ run rẩy như lá vàng mùa thu sắp rụng. Trong thâm tâm Địch Thanh cảm thấy khó hiểu, không biết Di Lặc giáo có lai lịch ra sao, lại có thể khiến Triệu huyện lệnh kinh hãi khiếp vía như vậy.

Quách Tuân nói:

- Xử lý như thế nào, đã có Thẩm Hình viện xử lý. Người đâu, đem Triệu Văn Quảng giải đi.

Có cấm vệ tiến lên, đem cha con họ Triệu trói lại và áp giải đi, mọi người thấy thế cũng không dám ngăn cản. Quách Tuân lại nói:

- Lý Giản, đã báo tin cho Tri châu vùng này chưa?

Một cấm quân đứng ra nói:

- Chỉ huy sứ, đã có người đi thông báo, Tri châu nói sẽ đến đây ngay lập tức.

Quách Tuân gật đầu, đi tới trước mặt Địch Thanh nói:

- Dẫn người trở về đi, nhớ kĩ lời ngươi đã nói, ba ngày sau đến đây tìm ta.

Địch Thanh tìm được đường sống trong chỗ chết, không hiểu gì hết, hỏi:

- Quách đại nhân, đại ca của tiểu nhân, huynh ấy...

- Đại ca ngươi thế nào?

Quách Tuân khó hiểu hỏi.

Địch Thanh vội vàng đem chuyện Địch Vân kể lại một lần, thấp thỏm nói:

- Chỉ sợ tiểu nhân đã gây phiền phức cho đại ca.

Quách Tuân ha ha cười:

- Việc này mà cũng gọi là phiền phức sao? Ngươi yên tâm, người ngươi vừa giết, chính là giáo đồ của Di Lặc giáo, ngươi thật ra không có tội, ngược lại còn có công. Về việc ngươi uy hiếp Triệu Vũ Đức ... Y vốn đáng tội chết, lén lút dấu người tạo phản, đây không phải là tội nhỏ. Cha con bọn họ nếu không bị chém đầu thì cũng bị xăm chữ trên mặt, đại ca ngươi khỏi cần lánh nạn nữa.

Dứt lời, có một cấm quân vội vàng đến nói nhỏ vài câu, sắc mặt Quách Tuân khẽ biến, nói:

- Được rồi, ta lập tức tới ngay.

Anh ta nhìn về phía Địch Thanh, nói:

- Ba ngày sau, ta chờ ngươi ở đây.

Địch Thanh gật gật đầu, thấy Quách Tuân rời đi, lúc này mới nhẹ nhõm đặtông ngồi xuống đất, mọi việc thoáng qua giống như một giấc mộng.

Tiểu Thanh đi tới băng bó vết thương cho Địch Thanh, nức nở nói:

- Địch Thanh, khổ cho đệ rồi.

Địch Thanh nhớ tới một chuyện, vội vàng hỏi:

- Tiểu Thanh, tỷ tuyệt đối không được nói cho đại ca đệ biết chuyện đệ tòng quân.

Tiểu Thanh hơi ngạc nhiên nhỏ giọng nói:

- Tỷ sao có thể giấu được huynh ấy chứ?

Nàng biết Địch Thanh phải trả giá lớn chấp nhận đi tòng quân, để đổi lấy hạnh phúc của nàng và Địch Vân, cảm kích không thôi.

Địch Thanh ngẩng đầu nhìn trời, thấy gió thổi mây trôi, bất đắc dĩ nói:

- Giấu được ngày nào đỡ ngày nấy.

Ba ngày nháy mắt đã trôi qua, Địch Thanh rầu rĩ ủ ê, mãitìm được cớ để ra khỏi nhà. Địch Thanh biết đại ca chỉ hy vọng hắn có thể làm một người bình thường mà sống hết kiếp này, nếu như biết được hắn tham gia quân ngũ, chắc chắn sẽ rất đau lòng.

Sau khi cha con Triệu huyện lệnh đền tội, Địch Thanh lập tức dẫn Tiểu Thanh đi đến sườn núi chăn dê. Địch Vân khi đó đã tỉnh lại, biết Địch Thanh vì mình mà đi huyện nha, vừa hoảng hốt vừa lo lắng, bắt Ngưu Tráng nhất định phải dẫn anh ta đi đến huyện nha. Đang lúc Ngưu Tráng không biết làm sao cho ổn, thì Địch Thanh và Tiểu Thanh rốt cuộc chạy đến. Địch Vân vừa mừng vừa sợ, Địch Thanh chỉ nói mình gặp được quan tốt, bản thân không chỉ không có tội, lại còn lập được công lao.

Địch Vân nghe xong, vốn định mắng Địch Thanh một trận, nhưng thấy đệ đệ cả người đầy máu, đầu vai mang thương tích, vì người đại ca này mà chịu khổ như thế nên đâu nỡ lòng nói gì nữa? Địch Vân may mắn cuối cùng không sao cả, chỉ cảm thấy là nhờ tổ tiên tích đức, liền mang Địch Thanh đến trước mộ phụ mẫu dâng hương khấn vái. Trương thợ rèn sau khi trải qua chuyện này, chỉ sợ con gái không gả đi được nữa nên thay đổi bản tính keo kiệt. Không ngờ lại giục Địch Vân mau chóng cưới Tiểu Thanh làm vợ, chỉ bàn bạc trong thời gian uống một chén trà nhỏ, đã quyến định ngày hôm sau sẽ tổ chức hỉ sự cho hai người.

Địch Vân mặc dù què chân, nhưng trong họa gặp phúc, đương nhiên là vui sướng vô cùng. Hai người Địch Thanh và Ngưu Tráng lập tức bắt tay vào việc chuẩn bị. Địch gia nghèo khó, chuẩn bị tuy qua loa sơ sài nhưng trước cửa đều có treo dải lụa đỏ, dán giấy đỏ khắp nhà, cũng thấy được không khí vui mừng.

Địch Thanh bận rộn cả đêm, cuối cùng cũng bố trí thỏa đáng mọi thứ trong nhà. Sắc trời còn chưa sáng đã tranh thủ chẻ một đống củi đủ dùng cho mấy tháng, lúc này mới ngồi ở trong sân, ngơ ngác nhìn về phía chân trời.

Hắn phải đi rồi, hắn không thể là người thất hứa được. Mặc dù hắn cảm thấy cho dù không nhập ngũ, thì cũng chẳng sao cả, nhưng hắn nếu đồng ý rồi thì phải làm cho được. Huống chi, hắn bỗng dưng nhận ra rằng, hoá ra bên ngoài còn có bầu trời bao la rộng lớn, điều này đối với hắn mà nói, rõ ràng là một sự hấp dẫn cực lớn.

Nhưng mà đại ca hắn bị què chân, hắn làm sao có thể yên tâm mà đi?

Có tiếng bước chân đằng sau vang lên, Địch Thanh không quay đầu lại cũng biết người đi tới chính là đại ca. Địch Vân đi tới bên Địch Thanh, cùng hắn ngồi trên bậc thang, trầm lặng một hồi lâu, rồi nói:

- Đệ đệ, đệ còn nhớ rõ cha đã dạy chúng ta một câu nói không?

- Là gì?

Địch Thanh thuận miệng hỏi.

- Cha nói đời người quan trọng nhất chính là chữ 'Tín'.

Địch Vân chậm rãi nói:

- Làm người không thể thất tín, nếu không sẽ không còn chỗ đứng trong thiên hạ.

Địch Thanh lòng đầy tâm sự, nói:

- Không sai, không riêng gì cha, ngay cả đại ca cũng dạy đệ như thế, đệ chưa bao giờ dám quên.

- Cho nên . . . Đệ cần phải đi.

Địch Vân nắm tay Địch Thanh kéo qua, đặt ở trên tay hắn một vật. Địch Thanh nhìn thấy đó là một thỏi bạc, ngẩn người ra nói:

- Đi, đi nơi nào?

Địch Vân mỉm cười nói:

- Đi đến nơi mà đệ đã nhận lời.

Địch Thanh nhanh chóng hiểu ra, nói:

- Đại ca, huynh đã biết hết rồi sao?

Địch Vân đáp:

- Tiểu Thanh đã nói tất cả mọi chuyện cho huynh biết, đệ đừng có trách cô ấy. Huynh nhìn ra được, đệ không muốn là người thất tín! Trước đây đại ca không muốn đệ tòng quân, là bởi vì nhìn thấy quân sĩ làm xằng làm bậy, không muốn đệ nhiễm thói thổ phỉ cường đạo này. Nhưng mà bây giờ huynh đã biết, đại bàng tự có nơi bay lượn, không thể khăng khăng học bầy gà quanh quẩn vườn nhà được. Địch Thanh, đệ đã trưởng thành, đã hiểu được đúng sai, đại ca đã yên tâm cho đệ đi. Đại ca không có tích góp được gì nhiều, chỉ có một chút bạc, đệ mang theo lên đường mà phòng thân, không được từ chối, nghe lời đại ca đi.

Địch Thanh siết chặt thỏi bạc, sống mũi cay cay:

- Đại ca, nhưng mà ....

- Nhưng cái gì mà nhưng? Chân huynh mặc dù què, nhưng nuôi sống cả nhà thì vẫn đủ sức.

Địch Vân mỉm cười nói:

- Đệ yên tâm đi đi, không cần lo lắng cho huynh, huynh nghe nói cha con họ Triệu kia đều đã bị bắt giam, nhốt ở trong đại lao của Phần Châu, đã không còn gây khó dễ cho chúng ta nữa đâu. Đệ đệ, ra khỏi nhà, không có người thân quan tâm chăm sóc, đệ phải chú ý săn sóc bản thân mình cho thật tốt. Đệ hãy nhớ kĩ, nếu gặp phải chuyện gì không hay, nơi đây vĩnh viễn là nhà của đệ.

Địch Thanh hồi lâu mới nói:

- Vậy đợi tân nương tử vào nhà rồi đệ mới yên tâm.

Địch Vân cười nói:

- Được.

Nhưng lúc quay đầu lại, anh ta không nén nổi lòng mà đưa ống tay áo lên lau khóe mắt.

Huynh đệ bọn họ sống nương tựa lẫn nhau đã nhiều năm, Địch Thanh ra đi, Địch Vân thật lòng không muốn, nhưng anh ta nhìn ra sự khó xử của Địch Thanh. Anh ta biết đệ đệ có chí hướng cao xa, cho nên anh ta có thể không làm được gì nhiều, chỉ cầu bản thân không liên lụy đệ đệ.

Lúc tân nương tử vào cửa, Địch Thanh đã bước chân lên cuộc hành trình mới.

Địch Thanh sải bước rời đi, tới nơi mà đại ca không còn nhìn thấy hắn nữa, lúc này hắn mới xoay người hướng về phía nhà lạy ba lạy, nói:

- Đại ca, đệ sẽ không làm cho huynh thất vọng, mong huynh bảo trọng.

Hắn chậm rãi đứng dậy, chỉ mang theo một ti đồ giản đơn, vài bộ quần áo để thay, đồ dùng hằng ngày và một ít lương khô. Còn thỏi bạc kia, hắn để lại ở trong phòng đại ca. Hắn không biết rằng, lúc hắn kiên quyết rời đi, Địch ân đã phát hiện ra thỏi bạc này, không kìm nổi mà rơi lệ.

Địch Thanh đi đến huyện nha, thấy có cấm quân canh giữ ở trước cửa, ôm quyền nói: - Quan đại ca, tại hạ là Địch Thanh.

Cấm quân nói:

- Ngươi là Địch Thanh? Mau vào, Quách chỉ huy đang chờ ngươi ở bên trong.

Y dẫn Địch Thanh vào nội nha, Quách Tuân đang ngồi ở tiền sảnh, bên cạnh còn có một người thanh niên đang ngồi cùng.

Địch Thanh trông thấy, chỉ cảm thấy người thanh niên này tựa như một thanh kiếm chuẩn bị xuất ra khỏi vỏ!

Người thanh niên này sắc mặt tái nhợt, ánh mắt sắc bén giống như mũi kiếm, liếc mắt quan sát toàn thân Địch Thanh, sau đó hơi kinh ngạc. Anh ta đứng lên đối diện với Quách chỉ huy nói:

- Quách chỉ huy, lần này vẫn cần chỉ huy giúp đỡ.

Quách Tuân chậm rãi gật đầu nói:

- Quốc gia đại sự, Quách mỗ sẽ tận tâm hết sức.

Người thanh niên này lại thi lễ, xoay người rời đi. Địch Thanh lúc này mới thở phào nhẹ nhõm, cảm giác bị người thanh niên này nhìn chằm chằm, toàn thân vô cùng khó chịu, không khỏi suy nghĩ về lai lịch của người thanh niên này.

Quách Tuân đưa mắt nhìn theo người thanh niên kia rời đi, quay đầu nói với Địch Thanh: - Ngươi quả nhiên đã tới.

Địch Thanh thi lễ nói:

- Tại hạ nếu đã nhận lời, làm sao có thể không đến?

Quách Tuân khen ngợi nói:

- Nói rất hay, trượng phu nói được làm được, nếu ngay cả một lời hứa cũng không làm được, còn có tư cách gì nói đến chuyện bảo vệ quốc gia? Quách mỗ ta cả đời này không phục người ngoài, chỉ phục nghĩa sĩ lời hứa đáng giá nghìn vàng. Thật ra lần đầu ta gặp được ngươi, đã biết ngươi nhất định là một người tài. Nghĩ biện pháp giả vờ mắt lé, không phải người thường có thể nghĩ ra.

Địch Thanh thấy anh ta nhìn thấu trò ranh của mình, xấu hổ cười. Quách Tuân còn muốn nói thêm gì đó, một cấm quân đi vào, thấp giọng nói:

- Quách đại nhân, các huynh đệ đều đã chuẩn bị sẵn sàng.

Quách Tuân gật đầu nói:

- Tốt, lập tức xuất phát. Địch Thanh, ngươi đã chuẩn bị xong cả rồi chứ?

Địch Thanh gật đầu, không nói lời nào. Quách Tuân nhìn ra tâm sự của hắn, nói:

- Trượng phu chí tại bốn phương, nếu không thừa dịp tuổi trẻ xông pha một lần, đến khi già yếu sẽ không khỏi cảm thấy tiếc nuối. Địch Thanh, ta nghĩ ngươi sau này sẽ không hối hận với lựa chọn của bản thân đâu. Đi thôi.

Anh ta vừa bước ra khỏi huyện nha, ngoài cửa sớm đã có hơn mười cấm quân đang đợi, bên cạnh mỗi người đều dắt theo một con ngựa.

Quách Tuân sai người dắt một con ngựa đến, nói:

- Biết cưỡi ngựa không?

Địch Thanh nói:

- Đã từng cưỡi bò.

Quách Tuân cười nói:

- Cái này cũng không khác nhiều lắm. Gia nhập quân Kiêu Vũ, không chỉ phải biết cưỡi ngựa, mà còn phải là người cưỡi giỏi nhất. Lên ngựa.

Mọi người xoay người lên ngựa, động tác mạnh mẽ. Địch Thanh mặc dù chưa bao giờ cưỡi qua ngựa, nhưng thân thủ cũng nhanh nhẹn, xoay người lên ngựa, không cam lòng tỏ ra yếu kém. Quách Tuân thấy thế khẽ gật đầu, sau đó quay đầu ngựa, dẫn đầu đám người phi về hướng đông.

Chạy một mạch hơn trăm dặm, mãi cho đến khi đến được bên bờ Phần Thủy, lúc này mọi người mới nghỉ ngơi một chút. Địch Thanh ít khi rời khỏi Tây Hà, lần đầu chạy khoảng cách xa như vậy, không nhịn được ngoảnh đầu nhìn lại, hiểu rằng mỗi một bước chạy, đã rời xa quê nhà một bước, xa rời đại ca, trong lòng khó tránh khỏi thương cảm. Trong chớp mắt hắn ngẩng đầu lên, thầm nghĩ Quách Tuân nói không sai, nam nhi chí tại bốn phương, mình không thể để cho người khác xem thường.

Mọi người đến bên bờ Phần Thủy, đi thuyền qua sông, tiếp đó chạy về phương nam hơn mười dặm, lúc này mới dừng lại.

Địch Thanh chỉ tưởng rằng Quách Tuân sẽ chuyển hướng đông nam đi về phía kinh thành Khai Phong, chẳng ngờ Quách Tuân lệnh cho mọi người tìm kiếm chỗ nước nông của Phần Thủy rồi lội qua sông lần nữa, lại chuyển hướng quay về đường ban đầu, tiến vào một sơn lộ hẻo lánh. Địch Thanh không hiểu, rốt cuộc Quách Tuân muốn đi đâu. Bởi vì dựa theo đường sá mà đoán, Quách Tuân đang đi loanh quanh, nếu mà chạy như thế này, chẳng bằng từ Tây Hà đi thẳng xuống phía nam cho khỏe. Nhưng hắn thấy mọi người đều nghiêm nghị không hỏi gì, thầm nghĩ dù sao các ngươi quản chuyện ăn chuyện ở của ta, ta đi theo các ngươi là được.

Chẳng ngờ đêm đó tất cả mọi người đều ngủ ở vùng rừng núi, Địch Thanh lấy từ trong bọc quần áo ra một ít lương khô, ăn cùng với nước suối. Trên lưng con ngựa kia của Địch Thanh cũng có một bọc quần áo, bên trong có chứa lương khô, thịt khô và mứt hoa quả. Những việc này làm Địch Thanh khó hiểu muốn phát bực, sau khi ăn lương khô xong, tìm một ít cỏ khô trải xuống đất nơi khô thoáng kín gió ở trong núi, sau đó nằm xuống nghỉ ngơi. Hắn thuở nhỏ bần hàn, ăn gió nằm sương đối với hắn chẳng nhằm nhò gì.

Lúc nửa đêm, Địch Thanh dựa sát vào vách núi, ngắm nhìn trời sao lung linh, ngân hà vẽ ra trên bầu trời giống như rãnh trời, thầm nghĩ từ biệt đại ca như thế, không biết bao giờ mới có thể gặp lại? Hắn đang chìm trong nhung nhớ thì nghe được bên trái có tiếng bước chân rất khẽ truyền đến, Địch Thanh khẽ rùng mình, quay đầu nhìn lại, trông thấy Quách Tuân đang đứng ở cách đó không xa nhìn mình.

Địch Thanh chậm rãi đứng dậy nói:

- Quách đại nhân, ngài tìm tiểu nhân sao?

Quách Tuân mỉm cười nói:

- Ngươi thính lực không tệ, rất thích hợp để học võ. Đáng tiếc là... không có thầy giỏi chỉ dạy, võ công còn chưa được nâng cao.

Địch Thanh gật đầu:

- Nhà tiểu nhân nghèo túng, không mời nổi sư phụ dạy võ.

Quách Tuân ngồi xuống, gọi Địch Thanh cùng ngồi xuống, không đề cập đến chuyện võ công nữa, hỏi:

- Ngươi đã nghe đến Di Lặc giáo chưa?

Địch Thanh nói:

- Đã nghe qua. Nếu không nhờ đại nhân lúc đó chỉ ra, tại hạ còn không biết những người đó chính là người Di Lặc giáo. Nhưng mà Di Lặc giáo sao vậy, hình như đại nhân cực kỳ căm hận giáo phái này?

Quách Tuân than thở:

- ‘Thích Già Phật suy bại, Di Lặc Phật chủ sự’ những lời này ngươi đã từng nghe qua chưa?

Thấy Địch Thanh lắc đầu, Quách Tuân cười nói:

- Thật ra lúc ngươi đi rồi, ta phái người đi điều tra thân thế của ngươi, biết ngươi gia cảnh bần hàn, tính tình trượng nghĩa, nhưng mà rất ít khi rời khỏi Tây Hà, do đó có rất nhiều chuyện ngươi chưa biết, ta đã hỏi thừa rồi.

Địch Thanh xấu hổ nói:

- Tại hạ vốn là một tiểu tử chỉ biết cậy mạnh, hiểu biết không nhiều lắm, làm cho đại nhân chê cười.

Quách Tuân nói:

- Có người nào vừa sinh ra là biết hết tất cả chứ? Địch Thanh, cười kẻ đầu bạc, chứ sao cười thiếu niên nghèo. Ta nhìn thấy được ngươi là người có chí hướng, nếu nỗ lực phấn đấu, sau này tiền đồ vô hạn.

Địch Thanh trong lòng cảm kích, nói:

- Đa tạ đại nhân quá khen. Thật ra...

Hắn muốn nói cái gì đó, nhưng cuối cùng lại thôi.

Quách Tuân nhìn hắn chằm chằm nói:

- Thật ra cái gì?

- Thật ra cũng không có gì.

Địch Thanh im lặng cười:

- Chẳng qua đây chỉ là mơ mộng hão huyền của đứa nhà quê mà thôi.

Quách Tuân ngược lại có vẻ hứng thú nói:

- Nói ra nghe thử.

Địch Thanh không ngờ Quách đại nhân lại nhiệt tình như thế, lúng túng nói:

- Thật ra mẫu thân của tiểu nhân kỳ vọng rất cao ở tiểu nhân, cứ nói tiểu nhân về sau sẽ là một vị tể tướng tài ba ... Bà nói lúc người tuổi còn trẻ, có một thuật sĩ rất linh xem tướng cho bà, nói bà có duyên với tể tướng.

Không biết vì sao, hắn cảm thấy Quách Tuân giống đại ca hắn, đều là người thân, nói những lời này không cần phải kiêng dè.

Quách Tuân mở to hai mắt nói:

- Chẳng lẽ nói... mẫu thân ngươi gả cho tể tướng?

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Điều này không phải, thuật sĩ nói mẫu thân của tiểu nhân sẽ sinh ra một tể tướng.

Nhìn thấy Quách Tuân tròng mắt mở to giống như mắt trâu, Địch Thanh cũng cảm thấy có chút buồn cười, nói:

- Vì vậy mẫu thân của tiểu nhân khi còn sống luôn luôn nói với tiểu nhân: 'Con trai, con phải nỗ lực, đừng có chỉ biết cả ngày rong chơi, con sau này có mệnh làm tể tướng đó'. Ha ha, tiểu nhân thì muốn làm tể tướng, nhưng trời sinh không thích đọc sách, đã phụ lòng tin của mẫu thân. Không đọc sách, không thi trạng nguyên, làm sao có thể lên làm tể tướng chứ?

Quách Tuân xoay đầu lại... nhìn về phương xa nói:

- Vậy cha ngươi là người như thế nào?

Địch Thanh nói:

- Cha tiểu nhân? Ông ấy… bệnh triền miên, không thể trị khỏi, tiểu nhân sinh ra chưa được bao lâu, ông đã qua đời. Mẫu thân tiểu nhân vất vả cực nhọc nuôi nấng hai huynh đệ tiểu nhân, không chờ tiểu nhân khôn lớn, cũng đã qua đời. Hài! ... Đại ca của tiểu nhân cả đời khổ cực, vừa làm cha lại vừa làm mẹ, nuôi tiểu nhân khôn lớn, cho nên tiểu nhân không thể để cho đại ca tiểu nhân phải chịu oan ức.

- Đó là lí do mà ngươi vô cùng kính trọng đại ca, liều chết cũng phải tìm Triệu Vũ Đức tính sổ?

Giọng nói Quách Tuân có chút khàn khàn.

Địch Thanh nhìn chăm chú vào một nơi, gật đầu nói:

- Không sai, tiểu nhân chỉ có một người đại ca này, cũng chính là người thân duy nhất! Tiểu nhân cho dù phải chịu áp bức và lăng nhục cũng không hề gì, nhưng không dễ dàng tha thứ người khác ức hiếp đại ca của tiểu nhân! Đại ca sợ tiểu nhân học thói xấu, bảo rằng mẹ đã dặn, tham gia quân ngũ rất ít người tốt, nên bảo tiểu đừng có tham gia quân ngũ... Vì thế mấy ngày hôm trước Quách đại nhân chiêu tiểu nhân nhập ngũ, tiểu nhân mới tìm mọi cách để chối từ.

Quách Tuân lẩm bẩm nói:

- Hóa ra là vậy. Tham gia quân ngũ rất ít người tốt?

Trong đầu anh ta đột nhiên loé lên hình ảnh nữ tử như hoa mai kia, âm thanh bén nhọn hướng về phía anh ta quát lên: "Quách Tuân, ngươi có bản lĩnh cao, vậy thì sao chứ? Ta cả đời này cũng sẽ không thích ngươi, tham gia quân ngũ... Không có một người nào tốt!" Quách Tuân nghĩ tới đây, khóe miệng lộ ra một nụ cười cay đắng, nhưng người anh ta xoay đi chỗ khác, Địch Thanh cũng không có nhìn thấy.

Địch Thanh cảm thấy lỡ lời, vội hỏi:

- Tham gia quân ngũ đương nhiên cũng có người tốt, giống như Quách đại nhân đây.

Hắn nói lảng sang chuyện khác:

- Quách đại nhân, Di Lặc giáo suy cho cùng xảy ra chuyện gì, chúng ta lần này là muốn đi bắt người Di Lặc giáo sao?

Hắn mơ hồ nhìn ra được gì đó, nói ra lời suy đoán này.

Quách Tuân trầm lặng một lúc lâu, cuối cùng nói:

- Di Lặc giáo thực ra có lai lịch từ xa xưa, được sáng lập vào thời Lương Vũ đế, đến thời Tùy Đường thì phát triển mạnh. Dù cho hiện tại Đại Tướng Quốc Tự trong kinh thành có pho tượng phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen, bên người phật Di Lặc có Tứ Đại Thiên Vương thủ vệ, nói là muốn tiêu diệt tất cả thế lực tà ác trong thiên hạ. Tay cầm rắn là Quảng Mục Thiên Vương, tay cầm đại đao là Trì Quốc Thiên Vương, lưng đeo bảo kiếm là Tăng Trưởng Thiên Vương, lưng vác tán (ô/dù) là Đa Văn Thiên Vương.

Địch Thanh nghe xong cảm thấy buồn bực, không hiểu Quách Tuân vì sao phải nói với hắn những điều này.

Quách Tuân ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng, lúc này ánh trăng lành lạnh chiếu xuống mặt, làm cho anh ta trông có vẻ tràn đầy cương nghị. Lúc Địch Thanh mới quen anh ta, chỉ cảm thấy vị đại nhân này hơi thô lỗ không biết lý lẽ, sau này được anh ta tặng bạc giúp đỡ, cảm thấy người này hào phóng chính trực, vào lúc này khi nói đến Di Lặc giáo, lại cảm thấy Quách Tuân kiến thức phi phàm.

Địch Thanh vốn không biết Quách Tuân xuất thân quân công thế gia, văn võ song toàn, nếu không sẽ nảy sinh lòng ngưỡng mộ Quách Tuân.

Quách Tuân lại nói:

- Tứ Đại Thiên Vương này chính là hộ vệ của phật Di Lặc, diệt trừ tà ác trong thiên hạ, giáo phái này bản ý là tốt. Nhưng giáo bản vô tội, tội là ở trong tâm con người!

Quách Tuân thở dài một hơi:

- Di Lặc giáo lâu ngày bị người có dụng ý xấu lợi dụng, tại Bắc Nguỵ, Tùy Mạt đều dấy lên sóng to gió lớn. Đến triều đại bây giờ, Di Lặc giáo vốn đã suy yếu, nhưng thời gian gần đây, triều đình lại tra ra được có người lợi dụng Di Lặc giáo mê hoặc nhân tâm, tiến hành việc tạo phản. 'Thích Già phật suy bại, Di Lặc phật chủ sự' Những lời này nghĩa là phật tổ Thích Ca Mâu Niuy sụp, phật Di Lặc muốn dẫn dắt mọi người mở ra một thế giới khác, dã tâm tạo phản không cần nói cũng biết. Thái Hậu nghe vậy giận dữ, lúc này mới lệnh cho Khai Phong phủ phái người điều tra việc này, ta cũng phải hỗ trợ điều tra. Vì thế ta ngoài mặt là tới Phần Châu chiêu mộ cấm quân, nhưng mà mục đích chính là điều tra phân bố của giáo đồ Di Lặc giáo. Ta phát hiện dấu vết Di Lặc giáo đồ thường lui tới ở Tây Hà , lúc này mới kết giao với Triệu huyện lệnh, vô tình phát hiện lão cũng là một tham quan rất lớn, ta vốn muốn tấu lên triều đình, nhưng mà sợ rút dây động rừng, lúc này mới tạm thời nhẫn nại. Sau đó...ngươi đến, chuyện còn lại ngươi cũng biết rồi đó.

Địch Thanh lo lắng nói:

- Nếu không phải tiểu nhân không biết chừng mực, nói không chừng Quách đại nhân một mẻ hốt gọn bọn chúng rồi.

Quách Tuân an ủi Địch Thanh, nói:

- Thật ra ta chỉ tra ra được Tác Minh và Côn Tử có quan hệ với Di Lặc giáo đồ, nhưng không biết Xa quản gia cũng thế. Chẳng qua ta hoài nghi còn có người trà trộn ở trong này, lúc đó mới dọa thử, Xa quản gia có tật giật mình, nên cuối cùng leo tường bỏ chạy.

Địch Thanh tâm trí khẽ động, nói rằng:

- Kỳ thực Quách đại nhân cố ý thả gã đi, có đúng không?

Quách Tuân ánh mắt lộ ra tia giảo hoạt, cười nói:

- Địch Thanh, ngươi rất thông minh. Không sai, ta cố ý thả cho Xa quản gia đi, sai người âm thầm theo dõi gã, đến bây giờ đã biết sào huyệt của bọn chúng nằm ở ngay Bạch Bích Lĩnh, cách Tây Hà hơn một trăm dặm về phía nam. Ta mặc dù bắt được Côn Tử, nhưng Côn Tử cực kỳ giảo hoạt, dùng biện pháp thí tốt giữ tướng, nói ra mấy chỗ không có liên quan gì tới sào huyệt. Ta đành tương kế tựu kế, mấy ngày nay dùng thủ đoạn sấm sét diệt trừ mấy chỗ này, sau đó gióng trống khua chiêng tuyên bố quay lại kinh thành... 

Địch Thanh giờ mới tỉnh ngộ,

- Quách đại nhân cố ý đi một vòng tròn, sau đó lén lút quay lại, chính là muốn lẻn vào Bạch Bích Lĩnh, thừa dịp bọn chúng buông lỏng cảnh giác, đánh cho chúng một đòn trở tay không kịp?

Quách Tuân mỉm cười nói:

- Đúng là như vậy, được rồi, những điều ta nên nói đã nói, ngươi nghỉ ngơi cho tốt đi, ngày mai nói không chừng sẽ có trận ác chiến đó.

Anh ta đứng dậy rời đi, thân thể cao to dưới ánh trăng kéo theo một cái bóng cô đơn.

Địch Thanh cảm thấy hơi khó hiểu, không giải thích được vì sao Quách Tuân lại nói với một tân binh như hắn những chuyện này? Nhưng dù nói thế nào thì việc Quách Tuân rất coi trọng hắn là không hề giả một chút nào. Địch Thanh mới rời xa quê nhà, trong lúc nhất thời nỗi lòng tràn về như thủy triều, mơ mơ màng màng ngủ lúc nào không hay.

Sáng sớm ngày thứ hai, Quách Tuân án binh bất động, ra lệnh cho mọi người tiếp tục nghỉ ngơi. Đám cấm quân nghiêm nghị vâng theo, Địch Thanh cũng xuất ra cây đao mới được phát, khua khua vài cái. Một ngày rất nhanh đã trôi qua, hoàng hôn đã đến, có một người mặc trang phục thường dân đến đây, Địch Thanh nhận ra người này chính là người cao gầy hôm bữa, tên là Triệu Luật. Triệu Luật nói khẽ với Quách Tuân vài câu, Quách Tuân gật đầu, hét lớn:

- Chuẩn bị xuất phát.

Đám cấm quân đã sớm bứt rứt trong người, nghe vậy liền nhảy bật dậy. Quách Tuân truyền lệnh năm người lập thành một đội, thay quần áo thường dân, sau đó đem tấm bản đồ đã chuẩn bị sẵn trải ra, dặn dò những việc cần làm lần này với mọi người.

Hóa ra mỗi khi đến đêm trăng tròn, Di Lặc giáo đồ lại dựa theo thông lệ, đều phải tiến hành nghi thức tế nguyệt. Lúc này bởi vì bị triều đình chú ý, Di Lặc giáo không dám xuất đầu lộ diện. Do biết được Quách Tuân đã rời đi, bọn chúng ngay lập tức quyết định đến thung lũng Phi Long ở Bạch Bích Lĩnh tiến hành tế nguyệt.

Quách Tuân đã sớm hiểu rõ địa hình Bạch Bích Lĩnh như lòng bàn tay, bắt đầu dặn dò rõ ràng cho từng người, nhiệm vụ chủ yếu lần này của đám cấm quân là ngăn lối đi chính, tùy thời trà trộn vào trong tín đồ, gây ra hỗn loạn, bắt giết nghịch đảng, mà nhiệm vụ của Quách Tuân cũng quá đơn giản rõ ràng rồi: giết Di Lặc phật chủ!

Quách Tuân tính tình quả thực rất can đảm cẩn trọng, hiểu rõ đạo lý ‘Bắn người trước tiên phải bắn ngựa, bắt giặc phải bắt tướng’, biết rằng phật Di Lặc nếu không chết, Di Lặc giáo bất cứ lúc nào cũng có thể tro tàn lại cháy, đây là sách lược đã được định ra.

Địch Thanh thấy Quách Tuân bình tĩnh chỉ huy, rất có phong độ của một đại tướng, không khỏi vô cùng kính phục. Hắn biết Quách Tuân võ công cực cao, trước đây nếu như là công bằng mà đấu, Địch Thanh tuyệt đối không phải là đối thủ của Côn Tử, nhưng Quách Tuân chỉ dùng hai chiêu đã bắt Côn Tử chịu trói, bản lĩnh cao cường có thể thấy rõ.

Quách Tuân dặn dò xong xuôi, đám cấm quân nhất loạt xuất phát, đi tới địa điểm đã được chỉ định. Địch Thanh phát hiện chỉ có duy nhất một mình mình là không có nhiệm vụ, không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Quách đại nhân, tiểu nhân làm gì ạ?

Quách Tuân nhìn chằm chằm hắn nói:

- Ngươi theo ta đi giết Di Lặc phật chủ, không biết ngươi dám hay không?

Thấy Địch Thanh một lúc lâu không đáp, Quách Tuân thở dài nói:

- Thì ra ngươi là người không có gan.

Địch Thanh do dự nói:

- Quách đại nhân, nếu Di Lặc phật chủ thật sự đáng chết, người đầu tiên tiểu nhân muốn giết chính là gã. Nhưng mà... gã không hẳn đáng chết... Gã mặc dù tạo phản, nhưng tiểu nhân cũng biết, rất nhiều dân chúng làm loạn cũng là bởi vì sống không nổi nữa, mà không phải cố ý muốn lật đổ giang sơn Đại Tống.

Quách Tuân thản nhiên nói:

- Nếu không đích thân tiến vào, làm sao mà biết được gã không đáng chết chứ?

Địch Thanh nói:

- Được, tiểu nhân sẽ đi cùng với Quách đại nhân. Chỉ sợ... tiểu nhân sẽ liên lụy người.

Quách Tuân không đáp, thay đổi một bộ y phục thường dân, xuống ngựa đi về hướng tây. Địch Thanh cũng bắt chước làm theo, thấy Quách Tuân lần này mọi chuyện đều thận trọng, khó tránh khỏi trong lòng lo sợ.

Lúc trăng sáng treo cao, Quách Tuân và Địch Thanh đã đến vùng ven Bạch Bích Lĩnh. Khe rãnh trong Bạch Bích Lĩnh có hàng vạn hàng nghìn, cảnh vật âm u tĩnh mịch, núi non nhấp nhô uốn lượn, có dòng sông nước biếc xuyên qua, phong cảnh vốn tú lệ, cũng không hiểu vì sao, trong quần sơn lúc nào cũng sương mù mông lung, mang đến một chút cảm giác thê lương.

Quách Tuân nhìn vào địa hình, men theo một con đường nhỏ mà vào. Mới vào trong dãy núi chưa được bao lâu, chợt nghe thấy ở sau tảng đá lớn phía trước có người hô to:

- Nguyệt thượng cô chủ phần!

Địch Thanh ngẩn ra, không giải thích được ý gì, Quách Tuân ung dung nói:

- Phật chiếu thiên địa môn.

Từ phía sau tảng đá có hai người đi vòng ra, nói:

- Các ngươi là thủ hạ của vị Thiên Vương nào, sao ... lại đến nơi này?

Hai người này mặc đồ đen, trên mặt đeo một cái mặt nạ dữ tợn, trong màn đêm âm u, làm cho lòng người phát lạnh. Một người đột nhiên đưa tay chỉ nói:

- Ngươi là ai?

Gã lời còn chưa dứt, Quách Tuân đã như con báo nhanh nhẹn xông tới, bổ một chưởng vào giữa cổ họng người kia, tiếng quát người kia đột ngột im bặt. Người còn lại kinh hãi, vừa muốn thổi còi báo động, không ngờ bàn tay Quách Tuân vỗ một cái, người nọ ú ớ một tiếng, cái còi chui tọt vào cổ họng gã. Cổ tay Quách Tuân khẽ đảo, bàn tay to như cái quạt hương bồ đã nắm đầu người đó, dùng sức vặn một cái, đã vặn gãy xương cổ người đó.

Hai người đeo mặt nạ mềm nhũn ngã xuống, Quách Tuân đứng tại chỗ nói:

- Địch Thanh, cởi y phục bọn chúng thay vào, lấy mặt nạ đeo vào luôn.

Địch Thanh thấy Quách Tuân giết người như giết gà, không khỏi trong thâm tâm cảm thấy mình may mắn, thầm nghĩ cũng may mình không phải là kẻ địch của Quách Tuân.

Hai người thay đổi y phục của hai kẻ kia, lại lấy mặt nạ đeo vào mặt. Quách Tuân lục soát trên người hai kẻ kia, lấy ra hai tấm lệnh bài, vứt cho Địch Thanh một tấm, thấp giọng nói:

- Lát nữa để ta đối đáp, ngươi đừng có lên tiếng.

Địch Thanh nhận lệnh bài móc vào đai quần, hỏi:

- Quách đại nhân, tại sao ngài quen thuộc nơi này vậy?

Hắn lúc đầu còn tưởng rằng những người sùng bái Di Lặc giáo chẳng qua cũng chỉ là một đám dân lưu lạc, nhưng thấy được đối phương tổ chức uy nghiêm đáng sợ, không giống với người dân tầm thường, không khỏi hoảng sợ.

Quách Tuân mỉm cười nói:

- Đương nhiên là có người giúp chúng ta tìm hiểu tất cả.

Anh ta không hề nhiều lời, chậm rãi tiếp tục dọc theo sơn đạo mà đi. Được khoảng vài dặm, ở sau gốc cây phía trước có người khẽ quát nói:

- Hai người các ngươi không canh giữ ở phía trước, đến đây làm cái gì?

Quách Tuân khàn giọng nói:

- Có người bẩm báo, nói rằng ở phía bắc núi nhìn thấy Bộ đầu kinh thành Diệp Tri Thu dẫn người tới đây. Ta chỉ sợ bọn họ gây bất lợi cho phật chủ, mới đặc biệt tới bẩm báo.

Một người từ sau cây đi ra, cũng đeo một cái mặt nạ quỷ dữ tợn, kinh hô:

- Diệp Tri Thu tới? Y sao lại tới đây?

Địch Thanh rất là hiếu kỳ, không biết Diệp Tri Thu là ai, mà có thể khiến Di Lặc giáo đồ Phần Châu sợ hãi. Quách Tuân nói:

- Ta cũng không rõ, nhưng chỉ sợ bọn họ muốn phá hoại chuyện phật chủ tế nguyệt, ngươi mau dẫn ta đi bẩm báo với Thiên Vương, để phật chủ đề phòng.

Người kia không nghi ngờ, ngẩng đầu nhìn lên cây nói:

- Ngươi ở chỗ này quan sát, ta dẫn bọn hắn đi bẩm báo phật chủ.

Địch Thanh âm thầm buồn cười, thầm nghĩ những người này cố ý làm ra vẻ quỷ khí âm u, nhưng cũng có một nhược điểm rất lớn, đó chính là trong lúc hai bên trò chuyện chỉ nhìn thấy mặt nạ và lệnh bài, ngược lại để Quách Tuân có kẽ hở lợi dụng. Quách Tuân tài cao mật lớn, nắm được lổ thủng ấy, dễ dàng trà trộn tiến vào đây, thật có thể nói là kẻ tài cao gan lớn.

Có người mặt quỷ dẫn đường, Quách Tuân và Địch Thanh đã đi qua được hai trạm, tiến vào thung lũng Phi Long. Thung lũng Phi Long là một thung lũng khá rộng mở ra ở giữa quần sơn Bạch Bích Lĩnh. Bởi vì từ trong thung lũng nhìn lên, chỉ thấy được quần sơn liên miên, giống như Thương Long bay lên trời, vì thế mà thành tên gọi.

Lúc này ánh trăng lành lạnh, gió mát nhè nhẹ thổi. Địch Thanh tới trước thung lũng Phi Long, không khỏi hít một hơi khí lạnh. Hắn chỉ cho rằng nơi đây cực kỳ hẻo lánh, chỉ nghĩ ở đây đều là nhân vật thủ lĩnh của Di Lặc giáo, không ngờ trong thung lũng lại đầy thường dân đang quỳ dưới mặt đất, chừng gần nghìn người. Tất cả mọi người đều yên lặng không một tiếng động, vẻ mặt thành kính, trên đài cao trước mặt dân chúng có một đài sen, trên đài sen có một pho tượng Kim Phật đang ngồi, miệng luôn nở nụ cười.

Trong thung lũng, bốn phía nhóm lửa trại hừng hực, phía trước phật Di Lặc nhóm lên một đống lửa lớn hơn, bụi bay mù mịt, dâng lên tới tận trời.

Bên cạnh Kim Phật có bốn người ngồi, đều đeo mặt nạ giống như thiên thần.

Một người mặc áo đỏ, đầu đội long khôi, toàn thân như lửa đỏ thiêu đốt, trên mình có một con mãng xà, trong tay cầm thiết giản.

Ngoài ra còn có một người mặc áo xanh, ánh mắt đỏ lên giận dữ, trên mặt đeo mặt nạ cực kỳ phẫn nộ uy nghiêm, người này bên hông đeo trường kiếm, dài khoảng bốn thước.

Người thứ ba áo trắng, mặt nạ trên mặt biểu lộ sắc thái rất từ bi, trên tấm ván gỗ phía trước người gã có cắm thanh đại đao, lưỡi đao to dày, chói lóa cả mắt.

Người cuối cùng có một chiếc ô cán dài tựa nghiêng trên vai, mũi ô sắc bén, chính là rèn từ thép tốt. Y mặc áo màu xanh, mặt nạ mang vẻ tươi vui.

Địch Thanh thấy hình dạng binh khí của bốn người này, đột nhiên nghĩ tới Tứ Đại Thiên Vương theo như lời của Quách Tuân nói đêm qua.

Bốn người này mang rắn, đeo kiếm, cầm đao, vác dù, đó chính là tứ đại hộ pháp ngồi xung quanh phật Di Lặc? Cũng chính là Quảng Mục, Tăng Trưởng, Trì Quốc và Đa Văn Tứ Đại Thiên Vương!

Thế nhưng Tứ Đại Thiên Vương đều ở đây, còn Di Lặc phật chủ người mà Quách Tuân muốn ám sát thì ở nơi nào?

 Chương 10 - 13: Khổ Chiến

Trăng sáng vằng vặc chiếu xuống người, kéo theo những cơn gió lùa lành lạnh. Một cơn gió núi thổi qua khiến cho, bóng cây lắc lư như ma quỷ đang nhe nanh múa vuốt.

Địch Thanh tuy gan lớn, nhưng tới đây cùng Quách Tuân, giống như trên một chiếc thuyền nhỏ đơn độc như đang trôi nổi trên biển rộng mênh mông, trong lòng không khỏi thấp thỏm, luôn nhìn về phía Quách Tuân.

Địch Thanh nhìn về phía Quách Tuân, Địch Thanh thấy gã Quách Tuân lại chỉ nhìn Kim Phật ở giữa Tứ Đại Thiên Vương.

Trong lòng Địch Thanh khẽ động, thầm nghĩ vị pho tượng Kim Phật kia lẽ nào chính là phật Di Lặc phật chủ? Nhưng mà nhìn từ xa Kim Phật này to gấp mấy lần thân thể người thường, rất lâu rồi vẫn không thấy động đậy, thoạt mới nhìn giống như một con rối thì, sao có thể là phật Di Lặc?

Người kia mang mặt nạ quỷ nhỏ giọng nói: "Phật chủ đang chúc phúc cho muôn dân, lúc này không thể cắt ngang, chờ một lát nữa rồi hãy qua đó."

Quách Tuân gật gật đầu, nhìn chằm chằm pho tượng Kim Phật kia, nghĩ thầm: ' Căn cứ vào tin tức của Diệp Tri Thu, Phật Di Lặc thực ra ẩn thân ở bên trong Kim Phật, làm ra vẻ thần bí mê hoặc lòng người. Bản thân mình mặc dù trà trộn tiến vào, cần phải vượt qua gần ngàn dân chúng ở đây, hạ gục chặn đường Tứ Đại Thiên Vương chặn đường, lại rồi đánh chết Phật Di Lặc trong Kim Phật, tuyệt không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng mà... Tin tức Diệp Tri Thu có đáng tin tuyệt đối hay không?' Quách Tuân là người nhìn giống tưởng như thô lỗ, nhưng lại cực kỳ cẩn thận,. Hắn không sợ khó mà thoát thân, mà chỉ sợ một kích này không trúng, thì để lại rất nhiều hậu hoạn vô cùng.

Đúng lúc này, Quách Tuân đột nhiên cảm giác được có chút không đúng, nhưng trong lúc nhất thời lại không biết vấn đề ở chỗ nào. Chỉ thấy một vài người dân đang quỳ rối rít ngẩng đầu nhìn lên trời, cảm xúc dâng trào.

Quách Tuân ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy được ở góc đông nam nhanh chóng tụ lại một đám mây đen cuồn cuộn. Đám mây này tới rất nhanh, không cần mất nhiều thời gian nó, đã che một nửa trăng sáng. Trải qua thời gian chén trà nhỏ, mây đen đã che phủ kín bầu trời che khuất hoàn toàn mặt trăng.

Địch Thanh lại phát hiện trước mặt Tứ Đại Thiên Vương đều để một chén nước, trước mặt mỗi người dân đang quỳ cũng có một chén nước trong vắt, không biết có tác dụng gì. Những người này có nam có nữ, có già có trẻ, thoạt nhìn thậm chí giống dường như cả một nhà đều kéo tới đây. Địch Thanh thấy vậy, đột nhiên nhớ tới đại ca, trong lòng chợt thấy ấm áp. Hắn cảm thấy nhận những người này chắc chắn là thường dân lương thiện, cũng không thấy phật Di Lặc kia hung ác ở chỗ nào, Lần này, Quách Tuân tiếp nhận ý chỉ của triều đình đến tiêu diệt Di Lặc giáo, cũng không chưa chắc đã được danh chính ngôn thuận.

Bầu trời ảm đạm nhưng lửa trại hừng hực, tỏa ra làn khói nhẹ tràn ngập không gian, cộng với tinh thần quần chúng cuộn trào mãnh liệt, khiến cho bầu không khí trong thung lũng Phi Long mù mịt có một cái cảm giác khó tả. Mắt thấy những thường dân đang xn xao, lúc này đột nhiên một tiếng hét lớn truyền đến đinh tai nhức óc, khiến cho mọi người đột nhiên đều yên lặng, nhìn về phía đài cao. Chỉ thấy Tăng Trưởng Thiên Vương đột nhiên đứng dậy vung bội kiếm lên, hét lớn: "Yêu nghiệt đã hiện, phật chủ trừ ma!"

Trì Quốc Thiên Vương cũng cầm đao đứng lên hét lớn: "Phật chủ cứu thế, phổ độ chúng sinh!"

Chắc chắn địa vị của hai vị Thiên Vương Tăng Trưởng, Trì Quốc trong lòng dân chúng cực cao. Sau tiếng hét như sấm của họ, đám dân chúng đang xôn xao đã chợt im lặng, lúc này lại nghe một thanh âm từ bi truyền đến: "Trăng vàng hết sáng, yêu nghiệt đã sinh. Tâm như gương sáng, phổ độ chúng sinh.” Giọng nói là từ phía Kim Phật truyền đến, có thể thấy môi của Kim Phật khẽ hé ra khép lại.

Địch Thanh nhìn thấy pho tượng phật Phật lớn này nói chuyện giống như một người sống, trong lòng lấy làm kinh ngạc.

Lúc này mây đen che khuất vầng trăng, chỉ còn những cơn gió lạnh lẽo, khiến cho không trung tràn đầy khí tức âm u. Đám dân chúng cũng thì thầm "Trăng vàng hết sáng, yêu nghiệt đã sinh. Tâm như gương sáng, phổ độ chúng sinh..."

Dân chúng càng đọc càng nhanh, càng đọc càng gấp, hết thảy già trẻ nam nữ đều giống như bị ma nhập. Địch Thanh vốn đang cảm thấy phật Di Lặc hoà nhã dễ gần, nhưng khi nhìn thấy tình cảnh này, tim không khỏi đập loạn nhịp.

Quách Tuân nghe được Phật chủ nói, cũng không chẳng hề kinh sợ mà còn lấy làm mừng, thầm nghĩ nếu không phải phật Di Lặc, ai lại có bản lĩnh mê hoặc chúng sinh? Y đã chắc chắn phật Di Lặc ở bên trong Kim Phật, nhìn qua thấy khắp nơi đều lặng yên, bèn tìm cơ hội ra tay. Y nhận thấy giữa đám dân chúng lại có mấy cấm quân ẩn nấp, hóa ra đám người này khi trà trộn vào bên trong thì trên người đã có sẵn ký hiệu bí mật, người bên ngoài mặc dù nhìn cũng không nhận ra, nhưng Quách Tuân vẫn có thể nhận ra. Mặc dù mấy người này bọn họ bôi đen mặt, nhưng Quách Tuân nhìn vào khuôn mặt, vẫn ngờ ngợ nhận ra mấy người này chính là Quách Mạc Sơn, Trương Hải và Vương Tắc thì không khỏi mừng thầm, thầm nghĩ mấy người này trong cấm quân đều cực kỳ nhạy bén, võ công cũng không tệ, có bọn họ giúp đỡ, khả năng thành công sẽ cao hơn. Nhưng Quách Tuân cũng không tính Địch Thanh ở trong vào đó, hắn mang dẫn Địch Thanh theo là có dụng ý khác.

Đột nhiên cảm thấy trên mặt mát lạnh, tới lúc này, Quách Tuân mới phát hiện rằng trời đã mưa. Những giọt mưa lộp bộp rơi xuống, mưa đến rồi ập xuống rất nhanh, thoáng cái đã như trút nước.

Những người dân đứng ở trong mưa, mặc cho mưa rơi, cũng không có người nào động đậy. Quảng Mục Thiên Vương có con trăn lớn quấn thân trên người bỗng nhiên chợt đứng dậy hét lớn: "Phật chủ cầu phúc, trời ban nước thánh."

Đa Văn Thiên Vương mang cầm cây dù cũng đứng dậy quát lên: "Nước thánh vô căn, gột ác tẩy trần."

Tứ Đại Thiên Vương cùng nhau bưng chén nước trước mặt lên, cùng rồi đồng thanh nói: "Nước thánh vô căn, gột ác tẩy trần!" Bọn họ bưng chén nước uống một hơi cạn sạch, đám dân chúng cũng uống theo. Ba người Quách Mạc Sơn do dự một chút, cuối cùng Vương Tắc bưng lên uống hết, còn Quách Mạc Sơn và Trương Hải thì lại thừa lúc mọi người không chú ý, đổ nước xuống đất.

Thì ra ba người đã phụng mệnh ẩn nấp tại phụ cận Bạch Bích lĩnh này từ rất sớm, nghe được tin dân chúng tham gia ở nơi này, bèn tìm thời cơ trà trộn tiến vào. Người dân hội họp ước chừng một nghìn người, nhưng người kiểm soát thì lại không nhiều, nên để cho ba người bọn họ dễ dàng trà trộn vào. Sau khi bọn họ tới được thung lũng Phi Long, mỗi người đều lấy một chén nước thánh đặt ở trước mặt. Nhìn nước thánh này cũng không có điều gì khác thường, chẳng biết dùng như thế nào, nhưng cũng không dám hỏi. Tính cách Quách Mạc Sơn, Trương Hải vốn cẩn thận, nên không dám uống nước, Vương Tắc lại nghĩ, chén nước này hơn ngàn người uống, dù sao cũng không đến mức là độc dược, cho nên vẫn uống.

Trong cơn mưa tiếng mọi người vẫn ồn ào huyên náo. Quách Mạc Sơn, Trương Hải vốn tưởng rằng đổ chén nước đi sẽ không có người chú ý, nhưng không ngờ Quảng Mục Thiên Vương đột nhiên quát lớn: "Vì sao hai người các ngươi không uống?"

Thân hình của Quảng Mục Thiên Vương bay vút lên chợt phình to, con mãng xà trên người đột nhiên lượn vòng lên xuống, cả người lẫn rắn đều nhìn về phía Quách Mạc Sơn.

Hai người Quách, Trương thầm kêu khổ, không ngờ Quảng Mục Thiên Vương lại có con mắt sắc bén đến như vậy,. Tăng Trưởng Thiên Vương vừa nhấc chân, đã bước xuống đài gỗ, chậm rãi đi về phía Quách Mạc Sơn, hét lớn: "Ngươi là gian tế ở nơi đâu?"

Lời Tăng Trưởng Thiên Vương còn chưa dứt lời đã đưa tay rút kiếm. Chỉ nghe một tiếng 'xoảng’ vang lên, thanh kiếm dài hơn bốn thước đã được hắn nắm chắc ở trong lòng bàn tay, vẽ lên một vệt ánh sáng trên không trung. Hắn không hề tiến lên, đứng đó chỉ kiếm về phía trước, nói: "Giết!"

Chữ 'Giết' vừa ra khỏi miệng Tăng Trưởng Thiên Vương, đã nghe thấy hai tiếng kêu thảm thiết truyền vọng đến, Địch Thanh thấy thế, chợt cảm thấy lạnh sống lưng. Thì ra hai người Quách, Trương không sao, nhưng có hai người thường dân đột nhiên nắm lấy hai người khác bên cạnh, cắn một phát vào cổ họng đối phương. Người bị cắn cố gắng giãy dụa, nhưng cuối cùng cũng đuối sức, chỉ trong chốc lát đã không còn động đậy.

Hai người sống sờ sờ đã bị cắn chết.

Sắc mặt Quách Mạc Sơn, Trương Hải biến sắc, nhìn thấy trong ánh mắt của những người xung quanh đều lộ ra ánh mắt như giống như dã thú, không khỏi mà hoảng hốt.

Đa Văn Thiên Vương khoan thai nói: "Di lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp, sát nhân thiện nghiệp (giết người xây nghiệp thiện), lập địa thành Phật, giết một người làm Nhất trụ Bồ Tát... Giết mười người làm Thập trụ Bồ Tát. . ." Hắn chưa nói xong, tình hình trong thung lũng Phi Long đã hoàn toàn không thể kiểm soát được nữa. Thường dân ở đây giống như phát điên cắn xé lẫn nhau, khóe miệng đều mang theo ai cũng nở nụ cười khiến người ta lạnh tim.

Địch Thanh thấy có hai người giống như một cặp vợ chồng bóp cổ lẫn nhau như hai người xa lạ, lại có hai cha con cắn xé lẫn nhau, phát ra những tiếng kêu cực kỳ quái dị. Có hai người giống như huynh đệ trở mặt thành thù, tay đấm chân đá. Trong cốc vốn rất yên bình, thoáng cái đã trở thành địa ngục nhân gian. Tới lúc này hắn mới hiểu rõ vì sao Quách Tuân nhất định phải diệt trừ phật Di Lặc, máu tanh tàn nhẫn ở đây thật sự khiến người ta vô cùng căm phẫn.

Quách Mạc Sơn, Trương Hải đã rơi vào trong vòng vây đánh của dân chúng.

Quách Tuân thất kinh, chợt nhớ tới chuyện cũ, thầm kêu không xong.

Vào thời Tuyên Vũ đế của Bắc Nguỵ, vùng Ký Châu có một người tên là Pháp Khánh, tự xưng mình là 'Tân Phật', sáng lập cái gọi là 'Đại Thừa Phật', phong Lý Quy Bá là Thập trụ Bồ Tát. Giáo phái khác đều chú trọng việc tu tâm dưỡng tính, khuyến khích làm việc thiện cứu giúp người, còn Tân Phật này lại coi trọng việc giết người thành Phật, hơn nữa chủ trương giết càng nhiều người càng tốt. Đại Thừa Phật có một thứ thuốc mê làm lệch lạc tâm tính thay đổi, có thể khiến cho cha con xích mích, vợ chồng thành thù. Sau này Pháp Khánh, Lý Quy Bá làm cho thiên hạ trở nên đầy sóng gió khôn cùng, cuối cùng bị triều đình trấn áp. Không ngờ tới hôm nay, việc cũ lại tái diễn.

Nhưng tên phật Di Lặc có ý làm phản này, vì sao lại muốn tín đồ của mình giết hại lẫn nhau ở thung lũng Phi Long?

Quách Tuân không có thời gian nghĩ nhiều, khẽ hú một tiếng, cả người đã nhảy lên không trung. Mũi chân y liên tiếp điểm vài cái, giẫm lên đầu thường dân mà bay qua.

Tiếng hú vừa mới vang lên, người đã ở giữa không trung, tiếng hú còn chưa dứt, cả người Quách Tuân đã vọt lên đài cao.

Mọi người bị tiếng hú của y làm giật mình. Trong phút chốc tất cả đều yên lặng. Tứ Đại Thiên Vương nghe được tiếng hú thì cảm thấy kinh ngạc, không ngờ trong thung lũng Phi Long ngoài bọn người Quách Mạc Sơn vẫn còn có cao thủ ẩn nấp. Trì Quốc Thiên Vương thấy Quách Tuân vọt tới, bèn hét lớn:

- Yêu nghiệt phương nào? Đến đây chịu chết!

Cổ tay hắn khẽ lật, thanh đao lớn đã rơi vào tay. Trong tiếng hét lớn của y, cây đao đã ém tới đỉnh đầu Quách Tuân. Đao phong hòa lẫn với nước mưa, ập thẳng xuống mặt Quách Tuân gây ra thanh thế làm người ta kinh ngạc. Với một đao này, hắn vốn muốn dồn Quách Tuân xuống phía dưới đài, hòng để cho đám thường dân đã bị ngấm thuốc vây khốn Quách Tuân.

Quách Tuân hừ lạnh một tiếng, không lùi lại mà còn tiến tới lách qua lưỡi đao đang tới sát. Lưỡi đao sắc bén chém rách một mảnh vạt áo của Quách Tuân, nhưng y cũng đã nắm lấy cổ tay của Trì Quốc Thiên Vương, giữ lấy khảm đao của gã, đồng thời xoay tay thúc một chỏ vào giữa ngực đối phương.

”huỵch!” Trì Quốc Thiên Vương lùi mấy bước về phía sau, cảm thấy khí huyết nhộn nhạo mà kinh hãi. Hắn thân là hộ pháp bên cạnh phật Di Lặc, là một trong Tứ Đại Thiên Vương, võ công cao cường không cần nói cũng biết. Nhưng Quách Tuân bất ngờ lao tới, chỉ một chiêu đã đoạt được binh khí, còn suýt chút nữa đánh cho gã hộc máu. Quả thực Trì Quốc Thiên Vương chưa bao giờ gặp ai có võ công cao như thế này.

Quách Tuân cũng thấy hơi ớn lạnh. C cùi chỏ này của y dù vội vàng đi chăng nữa thì cũng có thể dễ dàng đánh gục một con trâu. Vốn y tưởng rằng dù không thể đánh gục Trì Quốc Thiên Vương, cũng có thể đánh gãy vài chiếc xương ngực của gã, không ngờ Trì Quốc Thiên Vương quá khỏe khiến cho một chỏ này chỉ làm gã lùi vài bước.

Quách Tuân ứng biến cực nhanh. Sau khi đoạt lấy đao đẩy lui địch, lại tiến lên một bước, thanh đao kéo theo những giọt mưa hóa thành một vòng cung lạnh lẽo, chém về phía Trì Quốc Thiên Vương. Trì Quốc Thiên Vương không dám tiếp chiêu, lăn một vòng rồi chui xuống dưới đài gỗ. Quách Tuân đẩy lui Trì Quốc Thiên Vương liền không hề do dự, ngưng tụ sức mạnh toàn cánh tay, quát một tiếng chói tai:

- Yêu nghiệt, nhận lấy cái chết đi!

Lúc này một tia chớp từ không trung "rẹt rẹt" đánh xuống, chiếu sáng khắp nơi. Đơn đao trong tay Quách Tuân như tia chớp bay ra, bổ thẳng vào bụng phật Di Lặc.

Quách Tuân ra chiêu, hư hư thực thực, mặc dù đẩy lùi Trì Quốc Thiên Vương nhưng vẫn còn lưu lại toàn bộ sức lực ám sát phật Di Lặc. Một đao này của y như một tia chớp. Phật Di Lặc vốn cồng kềnh thì làm sao có thể tránh khỏi một đòn cực mạnh này chứ?

"Ầm" Kim Phật nổ tugn thành từng mảnh nhỏ. Một chiêu của Quách Tuân mặc dù trúng đích nhưng cũng làm cho y thất kinh, hoá ra bên trong phật Di Lặc tuy rỗng, nhưng không có ai ở đó!

Di Lặc phật chủ không ẩn thân trong Kim Phật, vậy vừa rồi là ai mê hoặc lòng người?

Quách Tuân không kịp nghĩ nhiều, phát hiện bản thân đã bị rơi vào vòng vây liền cố gắng đột phá. Tăng Trưởng Thiên Vương còn ở dưới đài nên không kịp cứu viện, Trì Quốc Thiên Vương cũng bị Quách Tuân bức lui xuống dưới đài, nhưng bên cạnh phật Di Lặc còn có hai Thiên Vương là Quảng Mục và Đa Văn. Hai người này vừa thấy Quách Tuân đánh nát Kim Phật thì không thể kiềm chế được cơn giận. Một người cầm thiết giản, một người nắm bảo tán cùng xông tới đánh Quách Tuân.

Quách Tuân bỗng phát hiện ra võ công Tứ Đại Thiên Vương đều cực cao, bọn Tác Minh, Côn Tử không thể nào sánh được.

Song giản của Quảng Mục Thiên Vương một công một thủ, trong nháy mắt đã xuất ra bảy chiêu, bao vây Quách Tuân. Đa Văn Thiên Vương hét lớn một tiếng, mũi tán đâm tới. Hai người này phối hợp cùng nhau tạo ra uy lực không thể nào lường được.

Quách Tuân chỉ lui một bước đã vọt ra ngoài hơn một trượng, tránh được một kích kinh thiên của hai đại Thiên Vương. Y nghiêng người liếc nhìn thì thấy đám Quách Mạc Sơn đã rơi vào giữa biển người, vô cùng chật vật nhưng không thấy bóng dáng Địch Thanh đâu. Tới lúc này hai đại Thiên Vương Tăng Trưởng, Trì Quốc cầm trong tay vũ khí sắc bén đã bay lên trên đài.

Đánh hay lui? Trong đầu Quách Tuân xuất hiện ý nghĩ đó thì hai vị Thiên Vương là Quảng Mục và Đa Văn đã đánh tới lần nữa. Quách Tuân lui về sau một bước, thân thể hơi cong lại như con báo đang chực sẵn, bất cứ lúc nào cũng có thể bùng nổ.

Không giết được phật Di Lặc thì sẽ giết hai tên Thiên Vương này, vì triều đình trừ họa!

Quách Tuân nghĩ tới đây liền ngưng tụ sức mạnh toàn thân. Y vốn gặp mạnh càng mạnh nên lúc này d thân bị vây hãm nhưng không hề sợ hãi một chút nào.

Hai đại Thiên Vương cũng rùng mình, rốt cuộc đã ngừng thế tiến công lại. Mới vừa rồi mặc dù chỉ giao thủ hai chiêu, nhưng hai người đều hiểu rõ Quách Tuân có võ công cực kì cao cường. Họ biết hắn nếu dồn sức đánh một đòn, nhất định sẽ vô cùng uy mãnh.

Lúc này bầu trời đột nhiên tối sầm lại, tới lúc này Quách Tuân mới phát hiện ra trận mưa đã dập tắt đống lửa to ở trước đài. Đống lửa lớn bị dập tắt khiến cho trong cốc chìm vào bóng tối. Trong mắt Quách Tuân chỉ còn lưu lại hai bóng đao của đối thủ. Chợt nảy ra một ý, y lặng lẽ không một tiếng động bước sang ngang ba bước.

Trên không đột nhiên tiếng gió rít lên ào ào. Bỗng một tia sét rạch ngang bầu trời, rọi sáng bốn phía. Hai đại Thiên Vương đều là người có kinh nghiệm phong phú, thấy ngọn lửa đột nhiên vụt tắt liền dựa vào địa thế quen thuộc và trực giác mà cùng đánh về phía Quách Tuân.

Nhưng ngay lúc sét đánh, hai người chợt phát hiện ra rằng Quách Tuân đã biến mất không thấy tăm hơi thì vô cùng kinh ngạc.

Đúng lúc này chỉ nghe thấy một tiếng hét vang vọng đến:

- Yêu nghiệt nhận lấy cái chết!

Quảng Mục Thiên Vương chỉ thấy một cơn gió mạnh cuốn tới bên người mình, vội hét lớn một tiếng, liền vội vàng khép song giản lại, đánh về nơi phát ra luồng gió. Chỉ nghe một tiếng nổ vang lên, tia lửa bắn ra bốn phía. Quảng Mục Thiên Vương chỉ kịp thấy được một thanh đao đang giáng xuống. Gã cảm thấy kinh hãi nhưng chưa kịp ra chiêu lần nữa thì đã thấy một nắm như sấm sét đánh thẳng vào mặt mình. Quảng Mục Thiên Vương kêu một tiếng thảm thiết rồi như một cánh diều đứt dây bay ra,. Y rơi xuống mặt đất, giẫy dụa hai cái rồi nằm im.

Hóa rột quyền này của Quách Tuân vốn cực kỳ cương mãnh, giống như chùy sắt. Nó không chỉ phá nát khuôn mặt Quảng Mục Thiên Vương mà còn đánh gãy cổ hắn.

Quách Tuân đánh trúng liền thuận tay nhặt lấy một cây thiết giản của đối thủ, nhanh chóng lui về phía sau. Mới vừa rồi, y nhặt đao lên, ném đao dụ địch rồi nhân lúc Quảng Mục Thiên Vương đã ra chiêu xong mà giết chết đối phương. Kinh nghiệm chiến đấu của y cực kỳ phong phú, biết địch mạnh ta yếu đành tùy thời cơ để diệt trừ bớt phe cánh của phật Di Lặc.

Quảng Mục Thiên Vương đã chết, Đa Văn Thiên Vương không hề sợ hãi mà còn tức giận. Trong tiếng hét, y liền vọt về phía Quách Tuân đồng thời vung trường tán lên mà đâm xuống liên tục. Nhưng những nhát đâm của y nhưng đều đâm vào khoảng không. Đa Văn Thiên Vương không tìm ra vị trí của đối thủ thì vô cùng tức giận, quát lớn:

- Lăn ra đây cho ta!

Lúc này bầu trời vừa xuất hiện một tia sét, chiếu sáng xung quanh. Đa Văn Thiên Vương đột nhiên phát hiện Quách Tuân ở ngay phía bên trái cách mình mấy trượng bèn hét lớn một tiếng rồi vọt tới.

Tia chớp biến mất khiến cho khắp nơi lại tối đen như mực, xòe bàn tay ra cũng không thấy năm ngón.

Quách Tuân thấy Đa Văn Thiên Vương vọt tới liền tránh sang ngang vài bước. Gã đã nhận ra cái trường tán của Đa Văn hết sức ảo diệu. Nó không chỉ có công dụng giống trường thương. Nếu như liều lĩnh tiếp chiêu, gã cũng không nắm chắc được phần thắng. Quách Tuân mới tránh được hai bước, đột nhiên cảm thấy nguy hiểm tăng lên liền không hề do dự điểm nhẹ mũi chân mà nhảy sang một bên.

Một đường kiếm chém xuống, sát sạt bên người Quách Tuân. Chỉ cần gã chậm một bước thì e là đã bị thanh kiếm này chém thành hai mảnh. Quách Tuân cảm thấy sợ hãi, biết Tăng Trưởng Thiên Vương đã bay lên đài gỗ yểm trợ. Đột nhiên tiếng kiếm rít trong không khí lại vang lên, Quách Tuân không rõ tình huống thế nào, cũng không dám tiếp chiến lại né tránh sang ngang một bên.

Quách Tuân dựa vào bóng đêm để ẩn thân, đi lại nhẹ nhàng giống như con báo. Chẳng ngờ bước thêm một bước, dưới chân vang lên một tiếng “Rốp”. hóa ra y đã lùi đến chỗ mấy mảnh vỡ của pho tượng Kim Phật. Mặc dù trong mưa to gió lớn, nhưng Tăng Trưởng Thiên Vương vẫn nghe được rõ ràng. Thanh cự kiếm trong tay y lại vung lên, đâm tới cực nhanh.

Quách Tuân lùi thật nhanh, thầm nghĩ phải mau lui xuống dưới đài. Trên đường đi lại làm vang lên mấy tiếng 'rộp rộp’. Không ngờ vừa mới lui được hai bước, gã đột nhiên cảm thấy có một vật sắc đâm vào bên hông. Quách Tuân kinh hãi, nhanh nhẹn xoay người. “Sột”! một vật bén nhọn đã đâm vào bụng y. Quách Tuân hét lớn một tiếng, cầm cái giản chém xuống, chỉ nghe “rắc” một tiếng đã đánh gãy vật kia. Cùng lúc đó có một chưởng nhanh chóng đánh vào giữa ngực Quách Tuân.

Một chưởng này có uy lực cực mạnh. Quách Tuân nhân đó mượn lực của nó rút lui, bay ra khỏi đài gỗ, rơi xuống đất mà phun ra một ngụm máu tươi. Trong lòng y càng thêm hoảng sợ, không biết ở đâu ra một kẻ địch lợi hại như vậy?

Mới vừa rồi Quách Tuân nhân ánh chớp, đã quan sát thấy phía sau chỉ có mấy mảnh vỡ Kim Phật ngoài ra không có gì khác. Chẳng ngờ lại có người xuất hiện như ma quỷ, đánh cho y bị thương nặng.

Quách Tuân vừa lộn xuống dưới đài. Nhân một tia sét đánh xuống, y chỉ thấy được trên đài có thêm một người đeo mặt nạ đang nở nụ cười, giống hệt như phật Di Lặc. Gã liền hiểu ra người đánh mình bị thương chính là Di Lặc phật chủ mà bản thân tìm mãi không thấy. Một đao vừa rồi của y mặc dù đánh vỡ Kim Phật nhưng người này có lẽ ẩn thân phía dưới đài gỗ, nhẫn nại không chịu xuất hiện, đợi đến đúng lúc mới xuất hiện giáng cho Quách Tuân một đòn trí mạng.

Quách Tuân vừa mới hiểu rõ mọi chuyện thì lại nghe phía sau xuất hiện một cơn gió mạnh. Có người nhào đến đồng thời bổ xuống một đao. Quách Tuân xoay giản lại. Chỉ nghe thấy tiếng ”Leng keng” vang lên, thiết giản trong tay gã rơi xuống đất. Thì ra Trì Quốc Thiên Vương đã thừa dịp sơ hở đánh tới.

Quách Tuân bị đánh trúng một chưởng suýt chút nữa thì gãy, cánh tay không còn chút sức lực nào thì làm sao có thể ngăn cản một đòn của Trì Quốc Thiên Vương. Đúng lúc này từ trên bầu trời sấm sét đánh xuống liên tục khiến cho trời lúc sáng lúc tối, làm cho gã không còn ẩn thân được nữa. Thấy ba người trên đài cao đã nhảy xuống, y thầm kêu khổ: "Lẽ nào lão tử ngang dọc một đời, hôm nay phải lập địa thành Phật sao?"

Thế đao của Trì Quốc Thiên Vương nhanh như chớp, cuồn cuộn ập đến. Trong tay Quách Tuân không có một tấc sắt nên chỉ biết lùi liên tục. Bỗng có một người bay ngang qua ôm lấy Quách Tuân đồng thời liên tục cất tiếng cười quái dị. Trì Quốc Thiên Vương mừng rỡ vì thấy người kia ăn mặc như dân thường, chắc là tâm thần còn mê muội bởi thuốc cho nên mới ôm lấy Quách Tuân.

Mắt thấy Quách Tuân bị thương nặng không thể giãy dụa được, Trì Quốc Thiên Vương không hề do dự chém xuống một đao. Cho dù có chém người dân kia thành hai mảnh cũng chẳng khiến y động lòng.

Trì Quốc Thiên Vương vừa vung đao chém xuống, bỗng giật mình khi thấy Quách Tuân vốn đang bị kẻ thường dân kia ôm chặt không thể giãy dụa lại đột nhiên thoát ra. Y đang định đuổi theo thì bất ngờ cổ tay người dân kia khẽ rung lên, một vệt sáng xanh từ ống tay áo bay ra đâm trúng vào ngực Trì Quốc Thiên Vương!

Trì Quốc Thiên Vương hét to một tiếng rồi xoay người ngã quỵ. Ánh mắt của y tràn ngập sự ngạc nhiên như không thể tin nổi vào chuyện vừa xảy ra. Lúc nãy khi y chém xuống một đao, nhưng vẫn đề phòng Quách Tuân giảo hoạt giả vờ không tránh thoát thậm chí còn sử dụng thủ đoạn độc ác đánh lại. Cho nên y chỉ tập trung vào Quách Tu. Nhưng không ngờ tên dân thường đần độn kia đột nhiên ra tay, hơn nữa đó là một thứ kiếm pháp cực kỳ cao siêu.

Sự tình phát sinh đột ngột khiến Di Lặc phật chủ và hai Thiên Vương Tăng Trưởng, Đa Văn đều không kịp cứu viện. Ba người lập tức nhảy tới bao vây Quách Tuân và người dân kia vào giữa.

Quách Tuân loạng choạng sắp ngã nhưng vẫn còn có thể cười được:

- Xem ra mạng lão tử hãy còn lớn lắm, không ngờ ngươi cũng có thể trà trộn vào đây.

Trì Quốc Thiên Vương vừa chết, Quách Tuân liền nhấc cây khảm đao của y lên thì cảm thấy rất nặng. Trong lòng gã cảm thấy nặng nề, biết rằng lúc nãy mất rất nhiều sức lực .

Người kia đáp:

- Có sống được hay không, còn phải xem ngài may mắn tới đâu.

Giọng nói của y tràn ngập sự thân thiết,

- Ngài...

Vốn gã định hỏi thương thế Quách Tuân có nặng không, nhưng thấy ba người kia đã vây quanh nên đành nuốt lời muốn nói vào trong.

Mưa lớn tầm tã, ai nấy đều ướt sũng nước mưa. Đám thường dân như được mưa gột rửa thì càng lộ ra vẻ sắc sảo giống như trường kiếm được tôi luyện.

Đa Văn Thiên Vương kinh ngạc thốt lên:

- Diệp Tri Thu? Bộ đầu kinh thành Nhất Diệp Tri Thu?

Người kia mỉm cười đáp:

- Chính là tại hạ.

Y chính là người thanh niên trẻ tuổi mà Địch Thanh đã gặp tại huyện nha, cũng chính là bộ đầu nổi tiếng trên kinh thành Diệp Tri Thu với ngoại hiệu Nhất Diệp Tri Thu.

Diệp Tri Thu thấy Đa Văn Thiên Vương nhận ra mình, mặc dù trên mặt vẫn tươi cười nhưng trong tâm xoay như chong chóng, suy nghĩ xem mấy ngườitrước mặt này rốt cuộc là ai?

Lần này Quách Tuân phụng chỉ đến Phần Châu, lấy danh nghĩa là chiêu mộ cấm quân nhưng thực chất ngầm phối hợp với bộ đầu phủ Khai Phong Diệp Tri Th tiêu diệt Di Lặc giáo có thanh thế đang càng lúc càng lớn . Diệp Tri Thu là một người hết sức tỉnh táo, võ công cao cường. Sau khi tới Phần Châu đã điều tra ra nơi đặt sào huyệt của Di Lặc giáo, hơn nữa còn trà trộn được vào bên trong. Quách Tuân có thể biết được mật hiệu Di Lặc giáo cũng là nhờ Diệp Tri Thu cả. Nhưng do Quách Tuân sợ rút dây động rừng nên không mang quân đến tiêu diệt trực tiếp mà quyết định bắt kẻ cầm đầu.

Diệp Tri Thu tán thành kế hoạch của Quách Tuân nên cũng cải trang thành dân thường tiến vào trong cốc, chờ thời trợ giúp Quách Tuân.

Vừa rồi Quách Tuân thất thủ khiến Diệp Tri Thu cảm thấy vô cùng kinh ngạc, không hiểu vì sao. Hơn nữa trên đài lại tối đen nên Diệp Tri Thu không thể làm gì khác hơn là chờ ở dưới đài, đợi thời cơ thích hợp xông ra cứu viện. Hắn biết Quách Tuân võ công cao cường nên không ngại việc Quách Tuân có thể đối phó Tứ Đại Thiên Vương hay không. Nhưng Di Lặc phật chủ đột nhiên ở đâu xông ra đánh Quách Tuân bị thương làm Diệp Tri Thu cứu viện không kịp.

Vào thời điểm Quách Tuân nguy hiểm nhất, Diệp Tri Thu đã xuất hiện đúng lúc, cùng gã liên thủ giết chết Trì Quốc Thiên Vương. Nhưng lúc này phật Di Lặc, Tăng Trưởng và Đa Văn Thiên Vương vốn chưa bị thương, trong khi Quách Tuân bị thương không nhẹ. Bọn họ lấy hai địch ba mà muốn thoát khỏi nơi đây an toàn thì chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Quách Tuân hiểu rõ suy nghĩ của Diệp Tri Thu, không muốn gã phân tâm nên nói nhỏ:

- Ta không sao! Đánh với đám người này thêm lần nữa cũng không thành vấn đề.

Thực ra gã cũng đang cố gắng chịu đựng. Vừa nãy bị trúng một kiếm lại thêm một chưởng khiến cho chỉ hơi dùng sức cũng làm lồng ngực Quách Tuân vô cùng đau nhức.

Mặc dù đống lửa lớn đã tắt nhưng sấm sét liên tục đánh xuống mãi không dứt, chiếu sáng mọi vật xung quanh rõ như ban ngày. Diệp Tri Thu thầm nghĩ sấm sét đan xen liên tục như thế này xem chừng cả đời cũng khó gặp, nhưng chúng lại làm cho gã và Quách Tuân không còn chỗ ẩn trốn. Đúng là ông trời không có mắt mà.

Lúc này gần nghìn dân thường đã chết hết một nửa. Mặc dù Quách Tuân và Diệp Tri Thu hoảng sợ trước cảnh tượng đó nhưng bây giờ không rảnh bận tâm đến.

Trên mặt Di Lặc phật chủ trước sau vẫn điểm một nụ cười hiền từ nhưng trong mắt lại không giấu được sự hung ác. Năm người đứng im không cử động giống như tượng gỗ. Đám thường dân tuy điên cuồng nhưng vẫn giữ sự tôn kính đối với Di Lặc phật chủ, chỉ ở bên ngoài cắn xé nhau.

Lại là một đường sấm sét rạch ngang bầu trời đêm. Di Lặc phật chủ đột nhiên gào lên một tiếng, nhưng cả Quách Tuân và Diệp Tri Thu đều không hiểu hắn nói cái gì. Tiếng gào vừa dứt, hai Thiên Vương Tăng Trưởng, Đa Văn cùng lúc nhào tới tấn công Quách Tuân. 

Diệp Tri Thu vẫn đứng yên vì y phát hiện ánh mắt sắc bén Di Lặc phật chủ đang nhìn mình chằm chằm. Chỉ cần y hơi động đậy, e rằng sẽ phải gánh chịu đòn công kích lợi hại nhất của Di Lặc phật chủ.

Không ngờ kẻ phản nghịch mê hoặc nhân tâm này võ công cực kỳ cao!

Quách Tuân đỡ trái hở phải. Bất cứ một ai nhìn qua là biết y đã bị trọng thương, không còn chống đỡ được bao lâu nữa. Ánh kiếm của Tăng Trưởng Thiên Vương trắng xóa như tuyết, trường tán của Đa Văn Thiên Vương lạnh như băng. Dưới sự tấn công điên cuồng của hai người, Quách Tuân gần như bị đông cứng lại. Di Lặc phật chủ vẫn đứng yên bất động nhưng đã nắm chắc thắng lợi trong tầm tay.

Mưu đồ của Di Lặc phật chủ rất rõ ràng, đó là giết Quách Tuân rồi diệt Diệp Tri Thu!

Diệp Tri Thu cảm thấy mình như vừa từ dưới nước chui lên. Nước mưa từ trán, chảy qua mí mắt, rồi men theo cằm nhỏ từng giọt xuống đất. Mặc dù chưa chớp mắt lần nào nhưng trong lòng gã đã sớm cảm thấy nặng nề, không nắm chắc phần thắng.

Quách Tuân bỗng dưng lảo đảo một cái. Thanh trường kiếm của Tăng Trưởng Thiên Vương đã lướt xuống chém một nhát vào cánh tay y khiến cho máu tươi bắn ra nhưng trong phút chốc đã bị nước mưa hòa tan. Quách Tuân quát lớn, chém lại một đao thật hiểm. Trong lòng Diệp Tri Thu vui mừng vì biết chắc một đao này của Quách Tuân ít nhất cũng có thể gỡ hòa, nhưng không ngờ Đa Văn Thiên Vương giương rộng trường tán đỡ lấy một đao này của Quách Tuân.

Một đao của Quách Tuân chém vào đỉnh tán liền bị bắn ngược lại, toàn bộ lực lượng của đao đã bị hóa giải. Cây tán của Đa Văn Thiên Vương không biết làm bằng chất liệu gì mà lưỡi dao sắc bén nhứ thế mà cũng không thể phá được. Đa Văn Thiên Vương đỡ được đơn đao bỗng nhiên gào to, trường tán biến thành thương đâm về phía Quách Tuân.

Tới lúc này, Diệp Tri Thu cũng ra tay, mũi chân điểm nhẹ làm như muốn chạy về phía Quách Tuân. Di Lặc phật chủ lặng lẽ mỉm cười, thoáng cái đã tới sát bên người Diệp Tri Thu. Diệp Tri Thu khẽ quát một tiếng rồi bỗng nhiên xoay người. Một tia sáng màu xanh xuất hiện trong tay liền đâm về phía Di Lặc phật chủ liên tiếp ba kiếm. Chiêu này của y chính là dương đông kích tây, dụ dỗ đối thủ tới gần rồi nhân cơ hội đả thương kẻ địch.

Dường như Di Lặc phật chủ đã sớm dự liệu trước chiêu này. Đang tiến đến nhưng chỉ trong chớp mắt y bất ngờ lui về phía sau, thân hình mơ hồ giống như ma quỷ. Một chiêu đầy tính toán của Diệp Tri Thu không ngờ lại rơi vào khoảng không. Diệp Tri Thu cảm thấy kinh hãi nhưng tên đã rời cung không thể dừng lại được. Gã hét lên một tiếng, thanh kiếm trong tay uốn lượn tấn công Di Lặc phật chủ từ bốn phương tám hướng.Kiếm cắt nước mưa, bầu trời tràn ngập ánh sáng lạnh lẽo. Sấm sét đùng đùng kích động sát khí ngút trời.

Di Lặc phật chủ lui về sau vài bước, cứ mười chiêu mới đánh trả hai, ba chiêu. Diệp Tri Thu vừa nôn nóng vừa giận vì biết mình đã rơi vào bẫy của đối thủ. Hắn biết bản lĩnh của mình và Di Lặc phật chủ ngang nhau nhưng bản thân bị vây khốn chắc chắn sẽ bất lợi hơn, đối thủ chỉ cần có thể cuốn lấy hắn. Mà gã cần tới cả trăm chiêu vẫn chưa thể phân thắng bại với Di Lặc phật chủ được.

Nhưng Quách Tuân thì không còn chịu đựng được bao lâu nữa!

Hai người Tăng Trưởng và Đa Văn cứ một chiêu nối tiếp một chiêu khiến cho Quách Tuân liên tục thối lui, sắc mặt tái nhợt. Y đang nghĩ xem làm sao phá thế công của địch thì bỗng nhiên cảm thấy dưới chân bị cái gì xiết lấy thì không khỏi kinh hãi. Y liếc mắt nhìn xuống thì nhận ra có một con mãng xà quái dị cuốn quanh mắt cá chân mình. Con mãng xà quái dị này phình người ra quấn chặt lấy Quách Tuân.

Mãng xà di chuyển rất lặng lẽ khiến cho Quách Tuân hoàn toàn không phát hiện ra.

Quách Tuân không ngờ mình giết chết Quảng Mục Thiên Vương, giờ con rắn của y lại báo thù cho chủ. Con mãng xà cực kỳ to khỏe, khiến cho Quách Tuân đã không thể nào thoát khỏi nó ngay được! Quách Tuân hơi xoay cổ tay, vung đao chém trúng thân thể mãng xà. Nhưng lớp da mãng xà trơn bóng, hơn nữa cánh tay Quách Tuân bị nó quấn lấy, không thể phát ra được nửa phần sức lực mà chỉ để lại một vệt máu trên thân nó.

Mãng xà đang quấn chặt Quách Tuân bỗng há cái miệng to như chậu máu nhắm đầu Quách Tuân mà cắn khiến cho y bất đắc dĩ phải quăng đao lấy tay bóp chặt cổ mãng xà. Y biết rằng dù cho ngăn chặn được mãng xà thì cũng khó mà chống lại đòn công kích của hai đại Thiên Vương. Nhưng tính mệnh vẫn chưa mất thì cố gắng sống được phút nào hay phút đó.

Tăng Trưởng, Đa Văn mừng rỡ không ngờ lại có điều bất ngờ xảy ra. Tăng Trưởng cười thật dài định xông tới thì tự nhiên cảm thấy mắt cá chân căng cứng. Tăng Trưởng kinh hãi cúi đầu nhìn xuống, đoán rằng còn có một con mãng xà bò lên người mình nhưng không ngờ lại bị một thanh trường kiếm đâm xiên từ dưới lên trên, cắm phập vào trong cơ thể hắn.

Tăng Trưởng Thiên Vương gầm rú một tiếng động trời, thanh kiếm giơ lên nhưng cánh tay mới dừng ở giữa không trung thì người đã ngửa mặt lên trời rồi ngã xuống. Nhát kiếm đó thật hiểm đâm xuyên từ sườn Tăng Trưởng Thiên Vương tới tận tim. Dù y là một người dũng mãnh nhưng cũng không thể chịu nổi một đòn trí mạng này.

Nhát kiếm ấy là của Địch Thanh!

Địch Thanh không chết!

Hoá ra khi đám dân chúng phát cuồng, Quách Tuân đi ám sát Di Lặc phật chủ, người mang mặt nạ quỷ thấy vậy thì run rẩy lén tìm chỗ trốn. Địch Thanh vốn không biết Di Lặc giáo xử lý người phạm tội cực kỳ tàn nhẫn. Nên khi nhận ra bản thân mình mang đến đây một tên thích khách thì làm sao mà người đó không sợ hãi cho được? Địch Thanh tránh khỏi cuộc chiến, nhìn thấy dân chúng điên cuồng thì cảm thấy rất kinh hãi. Nhưng hắn vốn lăn lộn khắp nơi, sớm học được khả năng cầu sinh bèn nhanh trí giả vờ ngã xuống..

Đám bách tính đã uống phải mê dược nên mất hết thần trí, chỉ biết cắn xé người đứng xung quanh mà không để ý đến động tĩnh ở dưới chân. Địch Thanh nằm bẹp trên mặt đất, tuy rằng cả người đầy bùn nhưng không bị tổn thương. Hắn cố gắng né khỏi bị người khác dẫm lên mà nhặt vội một thanh trường kiếm rồi cố gắng hết sức bò về phía đài gỗ. Hắn muốn giúp Quách Tuân!

Địch Thanh chưa bao giờ gặp phải trận đánh nào kịch liệt như vậy, hai bên sử dụng toàn là chiêu thức hiếm thấy, thân pháp cực nhanh, ra tay tàn nhẫn. So với những người này thì chuyện hắn đánh nhau với Tác Minh và Côn Tử trước đây chẳng khác nào trẻ con chơi đùa với nhau. Địch Than hiểu rõ hắn không thể giúp gì hết nhưng hắn cũng không thể ngồi yên mà không quan tâm.

Mặc dù mới đi cùng với Quách Tuân không lâu lắm, thế nhưng Quách Tuân là một người cởi mở thẳng thắn, cơ trí chính trực khiến cho Địch Thanh cực kỳ kính phục. Địch Thanh không muốn thấy Quách Tuân phải chiến đấu một mình.

Nhưng Địch Thanh biết với võ công kém cỏi của mình mà xông vào thì không được tác dụng gì. Cho nên hắn nằm bẹp xuống mặt đất giả vờ như đã chết, trường kiếm trong tay cũng cho vào trong bùn, chú ý động tĩnh của Quách Tuân và tìm kiếm cơ hội.

Rồi chuyện bất ngờ xảy ra, Quách Tuân bất ngờ bị mãng xà quấn lấy. Địch Thanh cả kinh. Nhìn thấy Tăng Trưởng Thiên Vương di chuyển đến gần, Địch Thanh biết rằng mình không được phép chần chừ, bèn cắn răng đưa tay trái tóm lấy cổ chân đối phương, đồng thời vung trường kiếm đâm xuyên một nhát từ dưới lên trên. Tăng Trưởng Thiên Vương đâu ngờ được người chết lại có thể ra tay. Nên tuy y có võ công cao cường nhưng ở khoảng cách quá gần liền bị Địch Thanh giết chết.

Địch Thanh thấy một kiếm của mình trúng đích thì trong lòng lấy làm vui mừng lắm. Nhưng hắn còn chưa kịp đứng dậy thì đã nghe Quách Tuân kêu to:

- Cẩn thận!

Địch Thanh run người, lập tức lăn mình khỏi chỗ đang nằm. Hắn chỉ cảm thấy một cơn gió lạnh lướt qua sát mặt rồi đâm xuống đất. Thì ra Đa Văn Thiên Vương thấy Tăng Trưởng Thiên Vương bị giết liền phẫn nộ không kiềm chế được. Y cùng với Quảng Mục, Tăng Trưởng, Trì Quốc tình như anh em, chẳng ngờ hôm nay đánh một trận mà Tứ Đại Thiên Vương đã chết mất ba người. Đa Văn Thiên Vương căm uất, thầm nghĩ trước hết phải giết được Địch Thanh rồi sẽ tới Quách Tuân. Hắn vung trường tán đâm tới, thấy Địch Thanh thân pháp thấp kém, võ công không cao thì càng quyết tâm tiêu diệt Địch Thanh trước tiên.

Địch Thanh mới né tránh ba chiêu thì mồ hôi đầm đìa khắp người. Mặc dù hắn chưa bị đánh trúng chố yếu hại nhưng cũng đã bị thương không nhẹ. Lúc này bầu trời lại có một tia sét rạch qua, Đa Văn Thiên Vương hét lớn một tiếng, đâm tới một chiêu nữa. Địch Thanh hú lên tiếng quái dị rồi trở mình lộn ngược ra ngoài. Trong mắt Quách Tuân chợt xuất hiện sự kinh hãi, hét lớn:

- Coi chừng!

Địch Thanh đang ở không trung, không biết phải cẩn thận cái gì. Hắn còn chưa kịp rơi xuống đất thì bỗng thấy từ mũi tán của Đa Văn Thiên Vương bất ngờ bay ra một tia sáng màu bạc lao vào phía sau gáy của mình. Địch Thanh chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, sau đó không còn cảm giác gì nữa.

Quách Tuân phẫn nộ chưa từng thấy! Y nhìn thấy trường tán của Đa Văn Thiên Vương bắn ra ngân châm nhưng Địch Thanh bất ngờ không kịp phòng thủ nên đã bị ngân châm bắn trúng. Lực đạo của ngân châm rất mạnh xuyên thẳng vào trong..

Địch Thanh đã chết rồi sao? Vốn hắn không đáng phải chết!

Quách Tuân đột nhiên thét lớn. Tiếng thét của gã khong ngờ át cả tiếng sấm rền.

Đa Văn Thiên Vương một chiêu đánh trúng đích, tin rằng Địch Thanh chắc chắn đã chết nên nỗi uất hận trong lòng cũng giảm đi đôi chút. Y vốn định quay lại đối phó với Quách Tuân, thậm chí cảm thấy có chút hối hận vì lãng phí thời gian với tên Địch Thanh. Nhưng nghe được tiếng rống của Quách Tuân thì y không khỏi kinh hãi quay đầu nhìn lại mà gần như ngây người.

Quách Tuân sau khi rống một tiếng thật to liền vọt lên cao. Con cự mãng vốn đang quấn lấy Quách Tuân rất chặt nhưng cũng không thể chống chọi được sức lực mạnh mẽ của y mà phải buông lỏng ra. Quách Tuân khẽ hất mũi chân cây khảm đao bỗng nhiên bay lên lọt vào tay y. Lúc ánh chớp lóe lên thì cổ tay y đã xoay tròn chặt đứt đầu mãng xà!

Cái đầu rắn bay lên, máu tươi phun ra như suối bắn cả vào mặt của Quách Tuân. Khóe mắt, chóp mũi, lỗ tai của y dính đầy máu tươi. Vì y dùng lực quá mạnh để thoát khỏi con mãng xà nên khiến cho lục phủ ngũ tạng bị thương không nhẹ. Nhưng Quách Tuân không thèm để ý tới thương tích của mình mà chỉ nhìn chằm chằm Đa Văn Thiên Vương, buông một câu:

- Không giết được ngươi, ta thề không làm người!

Đa Văn Thiên Vương vô cùng khiếp sợ. Trong cuộc đời của y chưa bao giờ cảm thấy sợ hãi như lúc này. Tuy biết rõ thương thế Quách Tuân rất nghiêm trọng, thậm chí thân thể của mãng xà vẫn còn quấn trên người Quách Tuân và nếu dốc hết toàn lực đánh một trận không chừng bản thân có thể giết được đối phương nhưng Đa Văn Thiên Vương vẫn không dám tiến lên.

Thậm chí y không dám nhìn vào đôi mắt của Quách Tuân nữa. Cặp mắt đó tràn ngập sự tuyệt vọng, áy náy, phẫn nộ và điên cuồng, nó khiến cho Đa Văn Thiên Vương mất hết dũng khí chiến đấu.

Quách Tuân kéo thi thể mãng xà tiến về phía trước từng bước một ...

Gã bước đi rất chậm nhưng bước chân hết sức kiên quyết. Toàn thân y ướt đẫm, vết máu chảy theo gương mặt nhỏ xuống từng giọt, giống như những giọt nước mắt uất hận.

Lúc này bầu trời lại xẹt qua một tia sấm sét, Quách Tuân cứ tiến tới giống như thần chết đến từ địa ngục như không giết được Đa Văn thì sẽ không trở về địa phủ. Trống ngực Đa Văn Thiên Vương đập thình thịch. Đột nhiên y kêu to một tiếng rồi quay đầu bỏ chạy, loạng chà loạng choạng một cái đã biến mất vào trong bóng đêm.

Di Lặc phật chủ thấy thế cũng đánh nhử một chiêu rồi cũng lao mình vào trong bóng tối. Diệp Tri Thu đang định đuổi theo nhưng thấy Quách Tuân loạng choạng hai cái ngã xuống đất thì không thèm truy đuổi Di Lặc phật chủ nữa, vội lao tới trước mặt Quách Tuân mà la lên:

- Quách đại nhân! Ngài sao thế?

Vừa nãy Quách Tuân vùng mình thoát khỏi sự trói buộc của mãng xà khiến cho lục phủ ngũ tạng đều bị thương, chỉ dựa vào ý chí kiên cường mới chịu đựng được đến lúc này. Thấy kẻ địch đã đi khỏi thì gã thở không nên hơi, ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Nhưng trong lòng hắn vẫn còn quá đau xót nên chỉ mê man chốc lát liền tỉnh lại. Lúc này thung lũng Phi Long giống như địa ngục trần gian, gần một nghìn thường dân giờ chỉ còn một vài người còn sống. Quách Tuân chật vật đứng lên, lảo đảo đi tới trước mặt Địch Thanh. Trông thấy Địch Thanh vẫn không nhúc nhích, nước mưa xen lẫn lá khô dính hòa cùng những dòng lệ bi thương chảy đầy trên khuôn mặt Quách Tuân ...

 Chương 14 - 18: Huynh Đệ

Quách Tuân không cầm nổi nước mắt. Gã chậm rãi quỳ xuống, ôm lấy Địch Thanh trong đám bùn lầy mà nức nở:

- Địch Thanh! Tại sao ngươi phải cứu ta? Ngươi không đáng phải chết! Ta làm cho ngươi ... phải thất vọng đúng không ?

Khoảnh khắc này trong lòng gã cũng gần như đã chết, hận không thể chết thay cho Địch Thanh. Trong đầu Quách Tuân lại hiện lên hình ảnh của người con gái như đóa hoa mai nở rộ đang chỉ thẳng vào mặt gã mà mắng:

- Quách Tuân! Ngươi điên rồi! Ngươi làm chồng ta bị thương nặng, cả đời ta cũng sẽ không tha thứ cho ngươi!

Quách Tuân đau lòng như muốn chết, lẩm bẩm nói:

- Mai Tuyết! Ta thật sự xin lỗi vợ chồng nàng. Ta đã hại chết con trai của hai ngươi rồi. Ta còn mặt mũi nào sống trên cõi đời này nữa?

Diệp Tri Thu cũng không nghe thấy lời Quách Tuân lẩm bẩm cái gì nhưng gã biết rõ vừa rồi nếu không có Địch Thanh thì Quách Tuân đã toi mạng. Mặc dù Địch Thanh biết bản thân mình không địch lại được nhưng vẫn lao ra cứu người. Cái ý chí đó thật sự khiến cho người ta thán phục. Diệp Tri Thu đột nhiên cảm thấy ở giữa không trung có tia sáng khác thường, y quay đầu lại nhìn thì vô tình thấy được một quả cầu lửa lướt trên bầu trời.

Quả cầu lửa rất to, ánh sáng chói lọi. Khi nó xẹt qua phía chân trời gần như soi sáng cả nửa bầu trời.

Quả cầu lửa bay theo một quỹ đạo chói mắt rồi rơi xuống phía tây ngọn núi. Từ đằng xa vọng tới một tiếng nổ thật lớn. Ngay sau đó cả thung lũng Phi Long rung chuyển, vô số những tảng đá theo sườn dốc lăn xuống giống như một trận động đất.

Diệp Tri Thu cảm thấy đứng không vững, liền kêu lên thất thanh:

- Động đất?

Nhưng cơn chấn động này chỉ xảy ra trong chốc lát, rồi trong nháy mắt đã yên tĩnh trở lại. Tuy núi đá vẫn còn đang lăn lông lốc nhưng nó đã không còn cái uy lực khiến lòng người khiếp sợ như vừa rồi nữa. Chỉ có điều từng cơn chấn động từ lòng đất lan đến khiến người ta lạnh mình kinh hãi mà thôi.

Cuối cùng, Diệp Tri Thu cũng có thể đứng vững. Thấy không còn núi lở nữa y mới chậm rãi thở phào. Nhưng Quách Tuân quá đau lòng nên vẫn chưa phát hiện ra có động đất. Diệp Tri Thu không nỡ lòng làm phiền gã, chỉ ngẩng đầu nhìn về phía quả cầu lửa lao xuống thì thấy ở phía đó dường như có lửa cháy to. Trong làn mưa đêm ánh lửa nhuộm đỏ rực cả một vùng.

Mưa tạnh mây tan, trăng sáng lại hiện ra.

Diệp Tri Thu nhìn thấy khắp thung lũng Phi Long đầy thi thể. Chỉ còn có mấy người dân mất lí trí may mắn sống sót đứng ngơ ngác trong nước bùn, thỉnh thoảng lại cất tiếng cười điên cuồng. Tuy nhiên họ cũng không tìm người cắn xé nữa. Vì Di Lặc phật chủ đã bỏ đi nên dược tính của mê dược cũng giảm dần giúp cho mọi người lúc này cũng đã bớt điên cuồng hơn. Có điều khi bọn họ tỉnh lại đi nữa, thấy mình giết hết những người thân thiết nhất để thành phật thì chỉ e là cũng lại không chịu nổi mà phát điên lần nữa. Diệp Tri Thu nghĩ vậy thì không nén được mà thở dài. Nhìn thấy hồng quang ở phía tây đã nhạt dần, gã ngập ngừng mấy lần muốn đi tới đó quan sát xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng đành xóa ý nghĩ này ra khỏi đầu.

Đang chìm trong suy nghĩ bỗng Diệp Tri Thu nhướng mày rồi ngồi xuống, nhìn vào gáy Địch Thanh, ánh mắt không giấu được sự kinh ngạc. Bởi vì gã phát hiện sau gáy của Địch Thanh chỉ có một vết máu rất nhỏ. Gã bèn nhẹ nhàng thò tay bắt mạch cho Địch Thanh rồi đột nhiên kêu:

- Hắn còn sống!

Quách Tuân do quá thương tâm, đầu óc hoàn toàn trống rỗng nên khi nghe Diệp Tri Thu hô to thì kinh hoảng, vội hỏi:

- Ngươi nói cái gì?

Diệp Tri Thu nói:

- Mạch hắn vẫn còn!

Gã lại đưa tay áp vào ngực của Địch Thanh, lập tức nói:

- Tim hắn còn đang đập.

Quách Tuân mừng rỡ, vội vàng đưa ngón tay đặt ở dưới mũi Địch Thanh nhưng không cảm nhận được có hô hấp. Gã bèn áp lỗ tai vào ngực của Địch Thanh mới phát hiện quả thực tim Địch Thanh vẫn còn đập nhưng rất khẽ, nếu không chú ý kĩ thì thực sự không khác gì người chết.

Quách Tuân lập tức ôm Địch Thanh đứng lên, nói:

- Diệp bộ đầu! Ta phải đưa hắn đi tìm đại phu. Mọi chuyện ở đây giao cho ngươi xử lý.

Diệp Tri Thu nói:

- Nhưng huynh cũng đang bị thương, nếu như gặp phải thủ hạ của phật Di Lặc thì làm sao?

Quách Tuân tức tối nói:

- Đám chuột nhắt nhát gan ấy cũng dám đi tìm ta sao?

Diệp Tri Thu vẫn chưa yên tâm, nói:

- Ta hộ tống huynh xuống núi, tới khi gặp được thuộc hạ của huynh rồi hãy nói.

Quách Tuân đột nhiên nhớ tới cái gì đó, bèn hỏi:

- Bọn Quách Mạc Sơn đâu rồi?

Khắp nơi toàn là thi thể thật khó có thể phân biệt, chỉ sợ mấy huynh đệ đó đã chết ở thung lũng Phi Long rồi. Quách Tuân nghĩ thầm mà cảm thấy buồn bã. Nhưng lúc này việc cứu mạng Địch Thanh quan trọng hơn nên Quách Tuân quyết định phải rời khỏi cốc ngay lập tức. Tuy nhiên, gã mới ôm Địch Thanh đi được vài bước đã cảm thấy trời đất quay cuồng, đứng thẳng cũng khó khăn. Diệp Tri Thu vội vàng ôm lấy Địch Thanh, dìu Quách Tuân thất tha thất thểu đi ra khỏi cốc. Bọn họ đi được vài dặm thì bỗng nghe thấy có tiếng người hô to:

- Là Quách đại nhân.

Có một người chạy tới, thì ra là Triệu Luật - thủ hạ của Quách Tuân.

Triệu Luật thấy Quách Tuân dính thương tích đầy mình thì kinh hãi. Y vội vàng bắn pháo hoa báo hiệu triệu tập mọi người đến đây. Bấy giờ lại có mấy cấm quân đi đến, Diệp Tri Thu bèn kể lại qua loa sự việc vừa xảy ra. Mọi người thấy Quách Tuân bị thương nặng khó đi lại nên vội vàng phái người cõng, đồng thời cũng có người đỡ lấy Địch Thanh từ trên tay Diệp Tri Thu.

Diệp Tri Thu nhìn thấy pho hoa thì lại nghĩ tới quả cầu lửa mà mình nhìn thấy lúc nãy, bèn hỏi:

- Vừa rồi các ngươi có thấy một quả cầu lửa từ bay qua không?

Triệu Luật gật đầu nói:

- Đúng là có thật, không biết đó là thứ quái quỷ gì. Nhưng mà chúng tôi không dám tự ý rời bỏ vị trí cho nên không có ai đi xem.

Quách Tuân ngạc nhiên nói:

- Quả cầu lửa nào?

Diệp Tri Thu kể lại đầu đuôi sự việc nhưng Quách Tuân cũng cảm thấy không hiểu cho lắm. Thấy Diệp Tri Thu có ý định muốn đi tìm hiểu, gã bèn nói:

- Diệp bộ đầu! Ngươi cứ đi xem đi. Ở đây giao cho bọn người Triệu Luật xử lý được rồi. Triệu Luật! Ngươi phái mấy huynh đệ đi tới thung lũng Phi Long tìm xem bọn Quách Mạc Sơn, Trương Hải, Vương Tắc thế nào rồi. Nếu như chưa chết thì quá tốt, còn nếu như đã chết thì phải đưa thi thể bọn họ mai táng cho thật tốt. Lý Giản! Ngươi đi báo cho quan phủ địa phương để cho bọn họ xử lý các thi thể ở đây...

Lúc này lại có một vài cấm quân lục tục chạy tới. Những người này vốn chịu trách nhiệm chặn những con đường quan trọng nhưng không thấy tung tích Di Lặc phật chủ và Đa Văn Thiên Vương ở đâu. Bọn họ cũng nhìn thấy quả cầu lửa. Tất cả đều nói cảnh tượng này hết sức kỳ dị song rốt cuộc là như thế nào thì không ai biết được nguyên do.

Quách Tuân lập tức phân công mấy tên thủ hạ đi trước tới các huyện Hiếu Nghĩa, Giới Hưu, Linh Thạch xung quanh Bạch Bích lĩnh tìm lương y.

Sau khi đã thu xếp mọi chuyện xong, Diệp Tri Thu thấy Quách Tuân đã có hộ vệ nên muốn tới phía tây dãy núi tìm kiếm xem đã xảy ra chuyện gì, bèn cáo từ đi ngay. Trước khi đi, Diệp Tri Thu đột nhiên nhớ tới cái gì đó, bèn nói:

- Quách đại nhân! Lúc nãy khi tên phật Di Lặc bảo hai tên thủ hạ tấn công ngài, ngài có biết hắn nói gì không?

Quách Tuân nhớ lại nói:

- Ta cũng chưa bao giờ nghe thấy, có thể đó là thổ ngữ của vùng hẻo lánh nào đó? Nếu như có thể biết được đó là tiếng địa phương của nơi nào thì không chừng có thể bắt được phần tử trợ giúp cho phật Di Lặc.

Diệp Tri Thu cũng nghĩ như vậy, lắc đầu nói:

- Hình như không phải là tiếng địa phương. Tiếng địa phương từ nam chí bắc tại hạ đều có nghe qua, nhưng chưa bao giờ nghe thấy thứ tiếng này...

Thấy Quách Tuân không yên lòng, Diệp Tri Thu lại nói:

- Được rồi, tại hạ sẽ tiếp tục đi điều tra. Quách đại nhân nhanh tìm người cứu chữa cho Địch Thanh đi đã.

Thấy Quách Tuân che miệng lại ho khe khẽ, trên tay tràn đầy máu tươi, Diệp Tri Thu nói:

- Quách đại nhân! Ngài nên chú ý sức khỏe. Lần này... Đa tạ Quách đại nhân đã ra tay, triều đình rất cần người như đại nhân.

Quách Tuân gật đầu thở dài:

- Đây là trách nhiệm của ta nhưng không ngờ làm liên lụy Địch Thanh. Chỉ mong rằng hắn có thể khỏe lại nhanh chóng.

Sau khi Diệp Tri Thu cáo từ, đoàn người ra khỏi Bạch Bích lĩnh thì đã có cấm quân tới tiếp ứng. Không biết Triệu Luật tìm đâu ra một chiếc xe ngựa. Quách Tuân lo lắng cho Địch Thanh nên tự mình ôm hắn bước lên xe, lại sợ xe tròng trành làm thương thế Địch Thanh thêm xấu nên dọc đường đi cứ ôm hắn mãi không chịu rời tay.

Đám người Triệu Luật cảm khó hiểu, thầm nghĩ Địch Thanh chẳng qua chỉ là một tên thường dân, mà sao Quách đại nhân lại ưu ái hắn đến vậy? Nhưng nhìn thấy vẻ mặt nặng nề của Quách Tuân thì không ai dám hỏi.

Ngay trong đêm, mọi người gấp rút lên đường. Đến lúc trời hừng sáng đoàn người đã đến được huyện Hiếu Nghĩa. Lúc này đã có cấm quân tới Hiếu Nghĩa trước, mời mấy vị đại phu giỏi nhất ở đây tới.

Hiếu Nghĩa vốn là một huyện nhỏ, viên huyện lệnh nghe nói Điện tiền chỉ huy sứ giá lâm thì cuống cuồng chạy tới bái kiến. Quách Tuân không có lòng dạ nào xã giao mà chỉ nhìn mấy vị đại phu, mong bọn họ có thể nói ra mấy chữ ”Có thể cứu chữa”. Tuy nhiên mấy đại phu này đều lắc đầu, mà cùng nhau nói rằng:

- Người này đã chết!

Quách Tuân giận dữ, suýt chút nữa là đem bốn vị đại phu này đi chôn sống. Cũng may gã không phải là người ngang ngược nên cố nén cơn giận xuống. Gã cũng hiểu những người này đã bó tay. Gã không muốn lãng phí thời gian ở nơi đây nữa bèn bảo huyện lệnh tìm mấy thớt ngựa tốt nhất, rồi lên xe ngựa chạy một mạch về hướng nam, tới Linh Thạch.

Khi tới được Linh Thạch, viên huyện lệnh ở đây đã cùng mấy vị đại phu cung kính chờ đợi. Một vị đại phu tiến lên bắt mạch cho Địch Thanh rồi nhíu mày nói:

- Đại nhân! Người này đã chết!

Huyện lệnh Linh Thạch cau mày quát lớn:

- Ngươi nói bậy bạ gì đó? Rõ ràng người này... vẫn còn một chút cơ hội sống mà.

Thật ra trong lòng huyện lệnh cũng cảm thấy Địch Thanh vô phương cứu chữa nhưng không dám đắc tội Quách Tuân. Y chỉ thầm nghĩ Địch Thanh muốn chết cũng được nhưng không nên chết ở huyện Linh Thạch.

Quách Tuân thở dài, không biết làm gì hơn. Đúng lúc này có một lão già tiến lên nói:

- Đại nhân! Vị tiểu ca này bị tổn thương não bộ dẫn đến hôn mê bất tỉnh, gọi là chết giả. Chứng bệnh này thuốc thang và châm cứu đều không có tác dụng.

Quách Tuân nghe thấy vậy liền vội vàng hỏi:

- Vậy cái gì mới có tác dụng đây?

Lão già đáp:

- Lão phu sống đến chừng này tuổi đã gặp qua không ít chứng bệnh nan y. Lão phu biết được rằng trước đây cũng có một người giống như tiểu huynh đệ này. Đó là một đứa bé do trèo cây không cẩn thận bị ngã xuống đất. Đầu nó bị một cái que sắt đâm vào khiến cho hôn mê bất tỉnh.

Quách Tuân vội vàng hỏi:

- Sau đó, nó sống hay chết?

Gã nhìn lão già chằm chằm, chỉ mong được nghe hai chữ "Còn sống". Bởi vì nếu đứa bé ấy có thể sống thì Địch Thanh sẽ có cơ hội.

Lão già đáp:

- Sau này, đứa bé đó đúng là có tỉnh lại, do nhờ được thần y Vương Duy Nhất ở kinh thành cứu chữa.

Quách Tuân nghe được ba chữ "Vương Duy Nhất" thì vỗ đùi đen đét, hét lớn:

- Ta thật nóng vội quá mà hồ đồ rồi, sao lại quên hắn chứ?, Lại còn lãng phí công sức ở đây làm gì không biết?

Dĩ nhiên Quách Tuân biết kỳ nhân Vương Duy Nhất. Người nàyỠmặc dù tuổi tác chưa cao nhưng y thuật cực kỳ tinh thông, rất nổi tiếng ở kinh thành.

Vương Duy Nhất hiểu rõ hệ thống kinh mạch của cơ thể người, tinh thông thuật châm cứu, với người bị bệnh nặng thường không cần phải uống thuốc mà chỉ cần châm cứu là có công hiệu ngay. Mấy năm trước mang hết toàn bộ sở học của mình, nhờ triều đình hỗ trợ chế tạo hai người đồng làm bản mẫu cho thuật châm cứu, phát triển mạnh thuật châm cứu mà vang danh thiên hạ. Vua Khiết Đan dù chỉ mới nghe thấy thôi nhưng cũng thèm khát có được người đồng đó, chỉ tiếc là cầu mà không được. Bây giờ Địch Thanh chẳng có thuốc thang và kim châm nào có thể chữa được, cách duy nhất cứu tính mạng hắn chắc chỉ có thể nhờ vào tài châm cứu của Vương Duy Nhất.

Quách Tuân suy nghĩ tới đây đột nhiên đứng bật dậy, ra lệnh cho Triệu Luật đi chuẩn bị ngựa. Thấy đám đại phu đều ngượng ngùng, có lẽ còn canh cánh trong lòng vì những lời nói của mình với Quách Tuân. Quách Tuân cũng cảm thấy hơi áy náy, suy cho cùng thì những người này dù sao cũng phải vất vả bèn dặn tri huyện:

- Các vị đại phu này thật vất vả. Ta muốn làm phiền tri huyện đại nhân cấp cho họ chút tiền thưởng.

Tri huyện Linh Thạch chỉ mong Địch Thanh đừng chết ở chỗ này thì thế nào cũng được. Y liền vội vàng khen thưởng mấy đại phu. Còn lão già kia thì được trọng thưởngkhiến cho ai nấy đều vui vẻ. Quách Tuân đột nhiên nhớ tới một chuyện, hỏi:

- Lão trượng! Ông có biết đứa bé đó bây giờ ở đâu không?

Lão già do dự một lát rồi mới nói:

- Đứa bé này sau khi được cứu chữa thì theo cha mẹ nó về quê, nhưng chỉ nửa năm thì đột nhiên mất tích khiến cho cha mẹ nó thương tâm gần chết.

Thấy vẻ mặt của Quách Tuân không giấu được sự hoài nghi, lão già vội nói tiếp:

- Đại nhân! Việc này không phải do lão hủ bịa ra đâu. Nếu ngài đến quê nhà của lão hủ, chỉ cần hỏi thăm một chút sẽ biết được việc này.

Quách Tuân vội đáp:

- Không phải là ta không tin ông, chẳng qua là không hiểu đứa bé này đã đi đâu?

Tri huyện Linh Thạch nói:

- Quách đại nhân! Hạ quan thật sự không nghe có ai trình báo, nên không biết biệc này.

Quách Tuân thấy hắn đùn đẩy trách nhiệm, nghĩ rằng việc này đã xảy ra lâu rồi, chắc cũng đã trở thành nghi án nên không có tâm tư quan tâm tới nó nữa. Đúng lúc này Triệu Luật đã chuẩn bị ngựa xong, cấm quân ở thung lũng Phi Long cũng đã chạy tới, báo rằng không tìm thấy thi thể của bọn người Quách Mạc Sơn cũng như tung tích của bọn họ. Quách Tuân cảm thấy vô cùng khó hiểu, thầm nghĩ mấy người này đều rất thông minh, nếu như không chết thì thế nào cũng sẽ tìm cách liên lạc với cấm quân ở ngoài cốc. Tại sao lại không có tung tích gì? Nhưng lúc này lòng dạ của gã hoàn toàn chỉ nghĩ tới Địch Thanh chẳng còn sức mà nghĩ tới chuyện khác. Gã liền lập tức ra lệnh cho cấm quân tiếp tục tìm kiếm, còn mình thì đưa Địch Thanh lên xe ngựa, dẫn theo một nhóm cấm quân trở về kinh thành.

Cả đoàn di chuyển một mạch cả ngày lẫn đêm không nghỉ, cấm quân cưỡi ngựa phi như tên bắn, liên tục đổi ngựa. Mọi người vượt Long Đức quânqua Hoài Châu, vượt sông Hoàng Hà đến Biện Khẩu, dọc theo dòng sông Biện, cuối cùng cũng đến được Khai Phong.

Kinh thành Khai Phong là nơi thiên tử đứng chân.

Đây là lúc triều Tống yên ổn hưng thịnh phồn hoa nhất. Phủ Khai Phong là thủ đô của Đại Tống có thể nói là giao với tám phương, thông cùng vạn nước, hết sức phồn thịnh cũng là thời kì hưng thịnh nhất.

Lúc bấy giờ tuy quân sự Đại Tống đã suy yếu từ lâu, nhưng sau khi Tống Chân Tông ký hiệp ước Thiền Uyên (1) với Khiết Đan ở phương bắc, Đại Tống đã có gần ba mươi năm yên bình. Tuy vùng tây bắc liên tiếp có chiến loạn nổ ra nhưng tạm thời không ảnh hưởng đến đại cuộc. Hiện nay Đông Kinh Khai Phong là chốn phồn hoa đô hội, đã trở thành thủ đô mơ ước trong mắt người thiên hạ…

Trong trời đất mênh mông, thành Khai Phong đồ sộ nguy nga, tản ra một thứ khí thế trang nghiêm hùng tráng.

So sánh thung lũng Phi Long đầy sát khí với phủ Khai Phong chỉ toàn là ca múa thái bình thì chẳng khác nào từ địa ngục tới thiên đường. Đám cấm quân bôn ba nhiều ngày tới tận lúc này mới thở phào nhẹ nhõm, nét mặt người nào cũng không giấu được sự vui vẻ. Chỉ có Quách Tuân là hai hàng lông mày nhíu chặt, nhìn trời xanh cầu xin:

- Ông trời ở trên cao, chỉ cầu người mở mắt được cứu tính mạng của Địch Thanh thì dù cho Quách Tuân này có phải giảm thọ mười năm cũng cam tâm tình nguyện.

Gã ho khan vài tiếng, giọng nói có chút khàn khàn. Thương thế của gã còn chưa có khỏi, lại bôn ba mấy ngày liền nên dù cho thân thể có làm bằng sắt cũng khó mà khỏe được.

Quách Tuân vào thành Khai Phong liền ra lệnh cho thuộc hạ đưa Địch Thanh về phủ của mình, sau đó sai người đi mời thần y Vương Duy Nhất. Còn riêng gã thì lại đến Tam Nha (2) phục mệnh. Quách Tuân là Điện tiền chỉ huy sứ, chịu sự quản lý của Tam Nha. Lần này tuy không giết chết được Di Lặc phật chủ nhưng đã trừ khử được ba người trong Tứ Đại Thiên Vương, cũng coi là có công. Sau sự việc lần này, e rằng trong thời gian ngắn Di Lặc phật chủ khó mà khôi phục được như cũ. Xưa nay Quách Tuân chỉ để ý tới việc đánh giết còn việc điều tra thân phận của Tam Đại Thiên Vương thì để cho Diệp Tri Thu giải quyết.

Khi Quách Tuân từ Tam Nha quay trở về phủ thì Vương Duy Nhất cũng đã đến, nhưng chưa kịp bắt mạch cho Địch Thanh.

Vương Duy Nhất ăn mặc giản dị, sắc mặt hồng hào, chỉ có điều râu dưới cằm giống như kim châm, thoáng nhìn thì như chỉ cần rút một sợi là có thể dùng để châm cứu. Thấy Quách Tuân vào phòng, Vương Duy Nhất đứng dậy nói:

- Tham kiến Quách đại nhân.

Quách Tuân thi lễ nói:

- Quách mỗ vừa trở về kinh thành đã làm phiền Vương thần y, thật áy náy quá.

Vương Duy Nhất cười nói:

- Trước đây nếu không có Quách đại nhân trượng nghĩa cứu giúp thì trên đời này làm gì còn Vương Duy Nhất. Một chút việc nhỏ này Quách đại nhân cần gì phải khách khí chứ?

Quách Tuân thấy Vương Duy Nhất vẫn còn có thể nở nụ cười thì trong lòng có thêm vài phần hy vọng.

Hóa ra bây giờ tuy Vương Duy Nhất là thần y, nhưng nhiều năm trước cũng chỉ là một thầy thuốc nghèo khó. Trước đây lúc lão mới vào kinh, trên đường đi gặp bọn đạo tặc cướp của giết người. Nếu như vào lúc đó Quách Tuân không trùng hợp đi ngang qua, thì không chừng Vương Duy Nhất bây giờ đã trở thành thần tiên. Sau việc đó, Quách Tuân và Vương Duy Nhất ít có cơ hội gặp gỡ nhau. Quách Tuân tính tình nghĩa hiệp, cả đời cứu người vô số nên mấy chuyện như vậy chẳng bao giờ để ý. Nếu không thì khi Địch Thanh bị thương nặng gã đã không nhớ tới Vương Duy Nhất như vậy.

Lúc này nghe được Vương Duy Nhất nói như thế, Quách Tuân nói hết sức khiêm tốn:

- Vương thần y nói quá lời rồi! Ngài có lòng dạ nhân từ làm đồng nhân cứu giúp mọi người, tạo phúc nhân gian, chắc chắn sẽ có thiện báo. Chẳng hay Địch Thanh ... chừng nào mới tỉnh lại được?

Vương Duy Nhất cau mày nói:

- Thực ra tình trạng não bộ bị tổn thương nặng nhưng vẫn còn sống như hắn, ta cũng đã từng gặp qua vài trường hợp. Cơ thể con người vốn là một thứ kỳ diệu, nhưng hắn có thể tỉnh lại hay không thì ta cũng không biết được, chỉ có thể trông chờ vào ý chí sinh tồn của hắn. Mạng sống của con người có thể vững chãi, hoặc mong manh. Nếu như hắn muốn sống lại thì ta mới có hy vọng cứu được.

Thấy Quách Tuân tỏ vẻ khó hiểu, Vương Duy Nhất giải thích:

- Sách cổ có nói rằng: “Tâm tàng thần, can tàng hồn, phế tàng phách, tỳ tàng ý, thận tàng chí.” Tủy hải của Địch Thanh, cũng chính là bộ não của hắn và những cái này không thể tách rời. Mặc dù Địch Thanh chỉ hôn mê mà không chết, nhưng mối dây liên hệ giữa ý chí của hắn là rất lớn, nếu cắt đứt thì chắc chắn phải chết.

Quách Tuân lo lắng hỏi:

- Nếu như hắn không thể tỉnh lại thì còn có thể duy trì được bao lâu?

Vương Duy Nhất đáp:

- Tình trạng của hắn lúc này rất giống với loài động vật ngủ đông, thể lực tiêu hao rất nhỏ cho nên mới có thể sống đến bây giờ. Nhưng mà tình hình thế này...e rằng hắn chẳng chịu được mấy ngày nữa đâu, theo như ta thấy thì bảy ngày là cao nhất.

Vẻ mặt Quách Tuân trầm hẳn xuống, lẩm bẩm nói:

- Chỉ có bảy ngày thôi sao?

(1) Hiệp ước Thiền Uyên: Năm 1004, người Khiết Đan phát động chiến tranh chống nhà Tống. Đại đa số đại thần của Tống không muốn giao tranh mà chỉ muốn hòa hoãn. Duy chỉ có tể tướng Khấu Chuẩn, người đứng đầu phe thiểu số chủ chiến, là cực lực phản đối, muốn quyết chiến. Cuối cùng thì Khấu Chuẩn cũng thuyết phục được Tống Chân Tông ngự giá thân chinh. Quân đội hai bên giao tranh tại Thiền Uyên (nay là khu vực phụ cận Bộc Dương thuộc tỉnh Hà Nam, phía bắc Hoàng Hà). Kết quả quân Tống giành chiến thắng. Mặc dù vậy nhưng năm 1005 triều đình nhà Tống vẫn ký Hòa ước Thiền Uyên. Hiệp ước này đã tạo ra hòa bình giữa hai quốc gia trong hơn 100 năm, nhưng nhà Tống phải ở vị trí thấp hơn so với nhà Liêu, mỗi năm Tống phải nộp cho Liêu 100.000 lạng bạc và 20.000 xấp lụa. Hai nước kết nghĩa làm anh em với Liêu Thánh Tông Gia Luật Long Tự nhận Chân Tông là anh, Chân Tông gọi Tiêu thái hậu nhà Liêu là thúc mẫu. Sự chấp nhận vị trí thấp hơn có thể coi là sai lầm cực lớn trong chính sách ngoại giao của nhà Tống, bởi vì việc cống nộp này dù chậm chạp nhưng cũng dần dần làm hao mòn quốc khố của Đại Tống.

(2) Tam Nha: bao gồm có điện tiền ti, thị vệ thân quân mã quân ti (kỵ binh), thị vệ thân quân bộ quân ti (bộ binh), hợp lại gọi là Tam Nha. Cấm quân lúc đó chia làm thị vệ thân quân ti và điện tiền ti, gọi là nhị ti, trong đó thị vệ chia làm kỵ binh và bộ binh…

Vương Duy Nhất quen biết Quách Tuân đã nhiều năm, nhưng chưa bao giờ thấy nét mặt Quách Tuân lộ ra vẻ chán chường buồn bã như vậy. Y không nhịn được hỏi:

- Quách đại nhân! Xin hỏi Địch Thanh có quan hệ gì với ngài vậy?

Quách Tuân lưỡng lự một chút mới nói:

- Nếu như không có hắn thì người chết đã là ta rồi!

Vương Duy Nhất thầm nghĩ: “Quách Tuân cả đời cứu vô số người, lần này được người khác cứu, hèn chi tận lực báo đáp như vậy. Nhưng gã Địch Thanh này có bản lĩnh gì mà có thể cứu được Quách Tuân nhỉ?”

Không tiện hỏi nhiều nên Vương Duy Nhất đành nói:

- Quách đại nhân! Ta đã cố gắng hết sức rồi. Đúng rồi! Hắn có người thân nào không?

Quách Tuân đáp:

- Có! Người thân duy nhất của Địch Thanh là đại ca Địch Vân của hắn. Y đang sống ở Phần Châu huyện Tây Hà. Ta đã sai người mời y đến.

Quách Tuân cẩn trọng tinh tế, trong khi tìm thầy thuốc tốt nhất cho Địch Thanh thì cũng đồng thời phái người đi mời Địch Vân đến đây. Y thầm nghĩ nếu như Địch Thanh thực sự không qua khỏi thì cũng có thể để cho Địch Vân tạm biệt đệ đệ lần cuối.

Vương Duy Nhất mừng rỡ nói:

- Thế thì tốt quá! Trước tiên ta sẽ châm thử xem có thể làm hắn tỉnh lại hay không. Nếu như Địch Vân đến thì đưa y tới gặp ta ngay. Quách đại nhân! Con người có tứ hải ngũ tạng, mười hai kinh mạch. Tứ hải phân thành tủy hải, huyết hải, khí hải và thủy cốc hải. Não chính là tủy hải. Bây giờ tủy hải của Địch Thanh bị thương nặng, ngoại vật đâm vào không thể rút ra. Chỉ sợ rằng khi rút ra sẽ chết. Ta hy vọng có thể dùng thuật châm cứu để khai thông con đường nối giữa tủy hải và ngũ tạng của hắn, làm cho hắn tỉnh lại. Bây giờ nếu muốn châm cứu thì sẽ bắt đầu từ huyệt Bách Hội và huyệt Phong Phủ của hắn, Bách Hội nối liền với Thái Dương Bàng Quang kinh, Phong Phủ nối liền liền với đốc mạch trong kỳ kinh bát mạch, hai kinh mạch này đều có quan hệ với tủy hải...

Quách Tuân nói:

- Vương thần y! Những cái này ta nghe cũng chẳng hiểu gì, ngài cứ việc làm đi là được rồi. Nếu như ngay cả ngài cũng không cứu được thì chỉ sợ trong kinh thành chẳng có ai đủ khả năng cứu hắn.

Dứt lời, gã thở dài một tiếng, nhíu mày.

Vương Duy Nhất không nói thêm lời nào, lập tức hạ châm. Lão phân biệt huyệt đạo cực chuẩn, động tác thuần thục, dường như nhắm mắt cũng có thể châm vào chính xác không nhầm. Quách Tuân đợi một lúc lâu nhưng không thấy Địch Thanh tỉnh lại, mà thấy Vương Duy Nhất đang tập trung rất căng thẳng, thỉnh thoảng lại bắt mạch cho Địch Thanh nên không muốn làm phiền mà lặng lẽ đi ra ngoài.

Quách Tuân vừa mới đến đình viện thì một đứa bé hoạt bát chạy tới, ôm lấy cổ Quách Tuân nói:

- Đại ca!

Quách Tuân tạm thời gác tâm sự sang một bên, bế đứa bé lên nói:

- Đệ đệ! Đệ lại cao hơn rồi đó.

Đứa bé này tên là Quách Quỳ(5), mắt to đầu bự rất tinh quái. Quách Quỳ và Quách Tuân cũng không phải huynh đệ cùng mẹ, nhưng Quách Tuân hết mực thương yêu đứa em trai này.

Quách Quỳ hiếu kỳ nói:

- Đại ca! Địch Thanh là ai vậy? Vì sao huynh lại lo lắng cứu hắn như vậy chứ?

Quách Tuân chậm rãi ngồi xuống ghế đá trong đình viện, đáp:

- Người đó ... Hắn là một anh hùng.

Quách Quỳ vội kêu lên:

- Rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra vậy? Đại ca kể cho đệ nghe được không?

Quách Tuân thấy đệ đệ háo hức chờ đợi nên y không nỡ từ chối, bèn kể lại sơ lược những chuyện xảy ra ở thung lũng Phi Long, nhưng không kể nhiều về chuyện mình chiến đấu ra sao mà chỉ bảo rằng trong lúc nguy hiểm nhất, Địch Thanh đột nhiên ra tay ngăn cản địch nhân, cứu lấy tính mạng của Quách Tuân. Nhưng Địch Thanh lại bị kẻ địch đánh cho trọng thương rất khó chữa.

Quách Quỳ nghe xong, chớp đôi mắt to, nói:

- Đại ca! Không ngờ ... Hắn lại bị thương nặng như vậy. Nếu hắn tỉnh lại, đệ nhất định phải cảm ơn hắn.

Quách Tuân buồn bã lắc đầu nói:

- Chỉ e hắn khó mà tỉnh lại.

Hai huynh đệ đều im lặng. Trong lòng Quách Tuân có tâm sự, còn Quách Quỳ cũng như đang nghĩ cái gì đó. Không biết đã qua bao lâu, Quách Quỳ đột nhiên nói:

- Đại ca! Huynh kể chuyện xưa cho đệ nghe đi?

Quách Tuân suốt ngày bận rộn ngược xuôi. Mỗi lần khi trở về, Quách Quỳ đều quấn quít lấy đại ca để đòi kể những chuyện thú vị, nhưng lần này thấy tâm tình của đại ca không vui nên nó muốn đùa một chút cho vui vẻ.

Quách Tuân nhìn lên bầu trời, đúng lúc mặt trời đang lặn hắt lên ráng chiều vàng rực. Khung cảnh bầu trời thật tráng lệ.

Trầm mặc một lúc lâu, Quách Tuân lúc này mới nói:

- Được, huynh sẽ kể một câu chuyện xưa cho đệ nghe.

Trầm ngâm một chút, Quách Tuân lên tiếng:

- Trước đây có một người xuất thân từ một gia đình quyền thế, văn võ song toàn. Y coi mình là số một trong thiên hạ nên không coi ai vào đâu. Võ công hắn không tệ nhưng mà không biết giấu tài, cả ngày chỉ biết đánh nhau với người ta. Y cho rằng có thể dùng nắm đấm để giải quyết tất cả vấn đề.

Quách Quỳ nói:

- Như thế thì có khác gì bọn lưu manh đầu đường xó chợ chứ?

Nó ngẩng đầu nhìn Quách Tuân nói:

- Đại ca yên tâm, đệ sẽ không trở thành loại người như thế đâu!

Quách Tuân vỗ vai đệ đệ, vui mừng nói:

- Đệ quả thực đã hiểu chuyện hơn rồi.

- Sau này người đó ra sao? - Quách Quỳ hỏi.

Quách Tuân thở dài nói:

- Sau này người đó gặp một người con gái, nàng đẹp như tiên nữ trên trời vậy. Người đó vừa nhìn thấy liền quyết tâm cho dù như thế nào cũng phải chiếm được nàng. Không ngờ người con gái ấy chẳng thèm để ý tới y, ngược lại còn có tình cảm với một gã thư sinh nho nhã yếu đuối.

Quách Quỳ cười nói:

- Cũng có thể cô ấy cho rằng... không chiếm được mới quý chăng? Có đôi khi đệ cũng giống như vậy, nhìn thấy cây kẹo hồ lô bọc đường trên tay người ta thì thấy ngon nhưng khi ở trong tay mình thì thấy nó cũng bình thường.

Quách Tuân không ngờ đệ đệ lại lấy ví dụ như thế, muốn cười to nhưng trong lòng lại tràn ngập đau khổ, lẩm bẩm:

- Đúng là như vậy sao?

Quay đầu nhìn về phía ánh chiều tà, Quách Tuân lại nói:

- Nhưng người đó lại không nghĩ như vậy. Y hận nàng có mắt như mù, lại vừa hận thư sinh kia cướp đoạt người con gái của minh. Tính tình của y vốn kiêu ngạo, ngông cuồng, hơn nữa chưa bao giờ phải chịu thất bại. Quá tự cao tự đại khiến cho lòng đố kị dâng cao, y chẳng còn biết mình là đúng hay sai. Nhưng hắn càng kiêu ngạo thì người con gái đẹp như hoa mai kia càng xem thường hắn, lại còn gần gũi với người thư sinh kia hơn. Đến một ngày người luyện võ kia quá giận không kiềm chế được, đi tới nhà trọ tìm được vị thư sinh kia rồi đưa cho hắn mười lượng vàng rồi bảo hắn lập tức phải rời xa người con gái đó. Khi đó vị thư sinh đang muốn dự thi khoa cử nên đương nhiên không chịu rời đi. Huống hồ, cho dù hắn không thi thì cũng không đời nào chấp nhận rời khỏi nàng.

Quách Quỳ bắt chước cách thở dài của người lớn rồi nói:

- Chuyện này của đại ca cũ rích! Đệ chẳng cần nghĩ cũng có thể biết được kết quả. Người đó đánh vị thư sinh kia trọng thương rồi sau đó bị Thanh Thiên đại lão gia của phủ Khai Phong chém, đúng không?

Thấy Quách Tuân nhìn mình với nét mặt cổ quái, Quách Quỳ giảo hoạt nói: 

- Đệ biết nỗi khổ trong lòng của đại ca! Huynh sợ đệ học phải thói xấu nên dùng chuyện xưa để khuyên đệ phải không? Đệ biết mà.

Mất một lúc lâu, Quách Tuân mới nói:

- Đệ thật là ... con mẹ nó... thông minh. Xem ra sau này ... huynh phải nhờ đệ kể chuyện xưa cho nghe rồi.

Quách Quỳ vỗ hai bàn tay nhỏ cười ha hả. Quách Tuân cũng cố nặn ra một nụ cười, vỗ vỗ vào cái đầu to của tiểu đệ, nói rằng:

- Đệ đi chơi đi! Huynh muốn yên tĩnh một lát.

Mục đích trêu đùa đại ca của Quách Quỳ đã đạt được, cậu bé liền vội vàng chạy đi. Trong lòng Quách Tuân cảm thấy hơi phiền não, lững thững đi tới hậu viên. Gã đi tới tận khu rừng trúc tĩnh mịch, bấy giờ mới dừng lại. Những cơn gió nhẹ thổi qua khiến cho lá trúc vang lên những tiếng xào xạc, Quách Tuân chậm rãi ngồi lên một tảng đá lớn, móc từ trong lồng ngực ra một cây sáo.

Cây sáo này được làm từ gỗ trúc có màu xanh biếc. Quách Tuân đặt sáo lên môi, nhẹ nhàng thổi một khúc “Nhất thủ mai hoa lạc”.

Sau khi Quách Tuân về kinh thành được bốn ngày thì Địch Vân cũng vừa tới Quách phủ, tuy nhiên Địch Thanh vẫn chưa tỉnh lại.

Quách Tuân thấy Địch Vân đến, chỉ nói một câu:

- Địch Thanh vì cứu ta mà bị thương. Ta có lỗi với hắn.

Sau đó Quách Tuân đưa Địch Vân tới trước giường Địch Thanh.

Địch Vân đã nghe đám cấm quân kể hết sự tình từ đầu đến cuối nên y còn cảm thấy Quách Tuân tự trách mình quá nhiều thì nói:

- Quách đại nhân! Địch Thanh vì cứu người mà bị thương, cho dù chết ...

Y vốn định nói mấy câu khách sáo nhưng khi thấy Địch Thanh đang nằm trên giường, hai mắt nhắm nghiền, sắc mặt tiều tụy thì giọng nói đã trở nên nghẹn ngào. Y không ngờ đệ đệ mới rời khỏi Phần Châu đã bị trọng thương. Nếu thực sự Địch Thanh không qua khỏi thì y làm sao dám nhìn mặt cha mẹ dưới suối vàng đây?

Vương Duy Nhất đang châm cứu cho Địch Thanh, thấy Địch Vân đến đây thì uể oải đứng dậy nói:

- Vị này... chính là đại ca của Địch Thanh sao?

Thấy Quách Tuân gật đầu, Vương Duy Nhất nói tiếp:

- Bây giờ người cứu được Địch Thanh chỉ có mình cậu thôi.

Địch Vân vội hỏi:

- Cứu làm sao?

- Nói chuyện với hắn. - Vương Duy Nhất nói một cách bất đắc dĩ:

- Ta liên tục kích thích tủy hải để kích thích sức sống của hắn, tiếc là không hiệu quả lắm. Cơ thể con người vốn rất kỳ diệu, tuy ta có nhiều nghiên cứu về kinh lạc và huyệt đạo nhưng hiểu biết đối với tủy hải vẫn còn rất sơ sài. Nhưng ta biết rằng lời nói của người thân có thể đánh thức thần trí của hắn, cậu cứ thử một lần xem sao.

Địch Vân gật đầu, khập khiễng đi tới trước giường, cầm tay Địch Thanh, trong mắt rưng rưng nhưng vẫn cố gắng mỉm cười nói:

- Đệ đệ! Đại ca tới thăm đệ đây. Huynh không ngờ có thể gặp lại đệ nhanh như vậy. Huynh đã biết tất cả mọi chuyện rồi, biết đệ tiêu diệt Tăng Trưởng Thiên Vương, trừ hại cho dân. Đại ca rất tự hào vì đệ. Huynh đến đây vội quá nên tẩu của đệ không thể tới cùng được, nhưng nàng có nhờ ta nói với đệ một câu là cảm ơn đệ trước đây đã cứu nàng. Nàng nói, đệ từ trước giờ vốn ở nông thôn. Lần này đến kinh thành, mong đệ chăm sóc tự bản thân cho thật tốt. Chúng ta không thể ở bên cạnh đệ, đệ hãy tự bảo trọng...

Nói tới đây, Địch Vân đã không kìm nổi xúc động. Nước mắt lã chã rơi xuống khuôn mặt tái nhợt của Địch Thanh, nhưng vẫn không có dấu hiệu nào chứng tỏ Địch Thanh tỉnh lại. Tim Địch Vân như bị dao cắt, song vẫn cố gắng cười nói:

- Lúc đó ta còn cười tẩu của đệ, bảo “Đệ đệ đã trưởng thành, chẳng những có thể chăm sóc bản thân mà còn có thể lo cho hai chúng ta nữa.” Nếu lúc trước không có đệ, ta và tẩu tẩu của đệ sao có thể ở cùng nhau?

Tuy Địch Vân nói toàn những chuyện bình thường, nhưng giọng nói run run, từng từ chan chứa tình cảm sâu đậm.

Sống mũi Quách Tuân cay xè, ngẩng đầu nhìn lên nóc nhà. Lại nghe Địch Vân nói tiếp:

- Đệ đệ! Đệ phải nhanh chóng tỉnh lại. Trên đời này, đệ là người thân thiết nhất của huynh. Đại ca đi lại bất tiện, vẫn cần có đệ quan tâm. Đệ không thể bỏ mặc huynh được. Đệ đã hứa với mẹ là phải nghe lời huynh, lần này đệ nhất định phải nghe.

Trong khoảnh khắc này, Quách Tuân không thể kìm lòng được xoay người đi ra khỏi phòng. Gã ngơ ngẩn ngồi trong đình viện với vẻ mặt thẫn thờ, trong mắt tràn ngập sự áy náy.

Quách Tuân ngồi từ bình mình cho đến khi hoàng hôn, rồi lại từ hoàng hôn cho đến bình minh, từ lúc nắng sớm còn lạnh lẽo đến khi nắng chiều vàng rực. Mấy lần Quách Quỳ đến, thấy vẻ mặt đại ca uể oải nên không dám nhiều lời mà chỉ lén lút đặt đồ ăn ở bên cạnh.

Thoáng cái đã qua hai ngày, Quách Tuân vẫn chưa được động tới một chút thức ăn bên cạnh. Người đàn ông cứng rắn đó cứ ngồi như vậy, chẳng ai biết gã đang nghĩ gì.

Không chỉ có Quách Tuân không ăn không uống mà cả Địch Vân cũng vậy. Địch Vân đã nói liên tục hai ngày, khuôn mặt tiều tụy, cổ họng khàn khàn nhưng vẫn cố gắng nói tiếp. Hắn cho rằng chỉ có nói tiếp thì đệ đệ mới có cơ hội sống lại. Mỗi một ngày trôi qua, Địch Thanh lại càng tiến gần đến cái chết, Địch Vân làm sao có thể lãng phí thời gian để ăn uống cho được?

Tới ngày thứ bảy, Vương Duy Nhất uể oải chậm rãi từ trong phòng mình đi ra. Trông thấy Quách Tuân ngồi bên bàn như pho tượng thì than nhẹ một tiếng. Quách Tuân bị tiếng than làm cho giật mình, trừng hai con mắt chằng chịt tơ máu nhìn Vương Duy Nhất, thấy gã không có nửa phần vui vẻ thì đã hiểu rõ tất cả. Vương Duy Nhất cảm thấy lo lắng, bèn đi tới nói:

- Quách đại nhân! Ta thấy hổ thẹn với sự tin tưởng của ngài...

Quách Tuân khoát tay nói:

- Số mạng hắn đã vậy, biết làm sao được?

Tuy nói như vậy, nhưng tâm tình gã kích động, lấy tay che miệng ho kịch liệt, từ khe ngón tay máu tươi thấm cả ra ngoài.

Vương Duy Nhất kinh hãi, nói:

- Quách đại nhân! Bệnh của ngài cũng cần phải nghỉ ngơi vài ngày.

Quách Tuân thở dài nói:

- Không vội.

Gã chậm rãi đứng dậy định đi đến gian phòng của Địch Thanh, nhưng rốt cuộc vẫn không dám. Cả đời gã chinh chiến vô số, vào sinh ra tử bao nhiêu lần nhưng cũng chưa bao giờ thấy sợ sệt như lúc này.

Đúng lúc này, ngoài cửa có một người đi vào và lên tiếng:

- Quách huynh! Huynh ... huynh làm sao vậy?

Khuôn mặt người đó đầy vẻ phong trần nhưng đôi mắt vẫn hết sức sắc bén. Người đó đúng là bộ đầu kinh thành Diệp Tri Thu.

Quách Tuân cố gắng cười nói:

- Không có gì. Ngươi ... có kết quả chưa?

Diệp Tri Thu than thở:

- Mấy tên thuộc hạ của huynh vẫn bặt vô âm tín. Đệ đi về phía tây Bạch Bích lĩnh thì phát hiện ở đó có một cái hố sâu, cây cối xung quanh bị cháy xém dường như là do quả cầu lửa rơi xuống gây nên.

- Hố sâu? - Quách Tuân thuận miệng thốt ra một câu.

Diệp Tri Thu nói:

- Đúng vậy! Cái hố đó rất sâu.

Quách Tuân thấy ánh mắt hắn có vẻ hoảng sợ thì cảm thấy hơi ngạc nhiên, thầm nghĩ Diệp Tri Thu đã từng thấy nhiều việc kì quái mà sao lại sợ hãi một cái hố sâu như vậy? Diệp Tri Thu cười khổ nói:

- ệ dùng hết khả năng vẫn không đo được hết cái hố. Sau đó đành phải ném một tảng đá xuống phía dưới, đợi một lúc lâu mà vẫn không có bất cứ âm thanh nào.

Quách Tuân chỉ lo lắng đến sự sống chết của Địch Thanh, thuận miệng nói:

- Tạo hóa thần kỳ, ngay cả ta cũng chẳng thể giải thích hết được...

Diệp Tri Thu thấy Quách Tuân hoàn toàn không có hứng thú với chuyện này, chỉ biết cười khổ, không muốn nói về chuyện quả cầu lửa kì quái với Quách Tuân nữa. Thấy hai tròng mắt Quách Tuân đỏ sậm, hai má ửng hồng, rõ ràng là bệnh tình không nhẹ, Diệp Tri Thu lo lắng nói:

- Quách huynh! Huynh...

Vốn định khuyên gã giữ gìn sức khỏe, y chợt nhớ ra, bèn hỏi:

- Địch Thanh chưa tỉnh lại sao?

Y có thể nhận ra giữa Quách Tuân và Địch Thanh dường như có mối quan hệ gì đó.

Quách Tuân lắc đầu. Diệp Tri Thu thấy Vương Duy Nhất đã ở đây, thầm nghĩ gã cũng chịu bó tay thì mình càng không có cách gì hơn nữa. Vốn là một người thẳng thắn, thấy thế bèn nói:

- Đã như vậy thì không làm phiền Quách huynh nữa. Chỉ mong Địch Thanh sớm tỉnh lại.

Diệp Tri Thu xoay người định đi thì chợt ngừng bước, nói:

- À, Quách huynh này! Đệ đã xem xét qua thi thể của Tam Đại Thiên Vương và đã cho vẽ lại chân dung của bọn chúng rồi ngầm ra lệnh cho bộ khoái các nơi lưu ý, nhưng đến bây giờ cũng chưa có manh mối gì về thân phận của ba người này. Lần trước lời nói của phật Di Lặc mặc dù không rõ nghĩa, nhưng đệ cũng vẫn nhớ được âm điệu. Cho nên hôm qua khi về tới kinh thành, đệ đã đi tìm mấy vị tinh thông ngôn ngữ các nơi hỏi thăm, cuối cùng đã xác định được câu nói kia!

Thấy Quách Tuân hoàn toàn không có hứng thú đối với vấn đề này, Diệp Tri Thu lắc đầu rồi nói tiếp:

- Đó là ngôn ngữ của dân tộc Thổ Phiên. Điều này cho thấy Di Lặc phật chủ có khả năng liên quan với người Thổ Phiên. Ta dỠđịnh đi Thổ Phiên một chuyến. Huynh ... hãy bảo trọng.

Hắn nói xong ôm quyền rời đi. Quách Tuân cũng ôm quyền nhưng chẳng có sức mà buông xuống, lẩm bẩm nói:

- Thổ Phiên? Phật Di Lặc, Thổ Phiên? Bọn chúng không ở Thổ Phiên mà đến vùng Trung Nguyên này để làm gì?

Quách Quỳ bưng thức ăn nóng đến, lên tiếng:

- Đại ca! Huynh ăn chút gì đi?

Quách Tuân nhìn thấy cơm nước cũng chẳng có lòng dạ nào mà nuốt.

- Tiểu Quỳ! Đệ giúp huynh đi xem xem Địch Thanh ra sao rồi.

Gã không có can đảm vào phòng hỏi thăm sức khoẻ Địch Thanh.

Quách Quỳ liền bưng thức ăn đi vào phòng, vốn định khuyên bảo Địch Vân vài câu nhưng thấy được đôi mắt Địch Vân đầy tuyệt vọng thì tất cả những lời muốn nói đều nuốt vào trong.

Địch Vân vẫn chưa phát hiện Quách Quỳ đến đây, toàn bộ tâm tư và tinh thần của hắn đều tập trung vào đệ đệ của mình.

Đã nhiều ngày rồi, Địch Thanh chưa tỉnh lại, sắc mặt càng thêm tái nhợt, dường như đang hấp hối.

Địch Vân nắm chặt bàn tay đệ đệ, như đang nắm chút hy vọng sống mong manh. Hắn đã nói liên tục hai ngày hai đêm không nghỉ. Hai tròng mắt hằn đầy tơ máu, đôi môi của hắn sớm đã nứt nẻ bật máu, cổ họng cũng khô khốc, hơi động một tý thôi là đau đớn giống như bị đao cắt. Nhưng con đau đó có đáng gì so với nỗi đau từ con tim nằm trong lồng ngực hắn.

- Đệ đệ! Đừng ngủ nữa, đại ca sẽ rất tức giận đấy...

Nói xong câu này, Địch Vân kìm được để cho nước mắt tuôn như mưa, nức nở nói:

- Đệ đệ! Đệ còn nhớ không? Mỗi lần đệ phạm lỗi đều không ám nói cho đại ca biết. Đệ không sợ huynh đánh vào đít mà chỉ sợ huynh thất vọng. Mỗi lần đại ca nói sẽ tức giận, đệ đều hiểu ra mà sửa sai. Ở trong lòng đại ca, đệ đáng giá ngàn vàng không gì có thể đánh đổi được. Khi huynh nghe được lời đệ nói với Ngưu Tráng rằng 'Ở trong lòng của đệ, đại ca cũng là một vị đại ca vạn vàng khó cầu.' Đệ có biết, lúc huynh nghe được câu nói đó thì sung sướng đến thế nào không?

Mấy giọt nước mắt rơi tí tách trên mặt Địch Thanh, Địch Vân lại nói:

- Đệ đệ! Đệ không được ngủ. Lần này đại ca thực sự rất tức giận. Không ... sau này đại ca sẽ không bao giờ ... nổi giận với đệ nữa. Chỉ cần đệ tỉnh lại thôi, có được không?

Năm ngón tay siết chặt lấy tay Địch Thanh, Địch Vân đang cười giống như khóc.

- Đệ đệ! Đệ còn nhớ lúc hấp hối mẹ đã nói gì không? Người nói là muốn huynh đệ chúng ta sống nương tựa lẫn nhau, chăm sóc cho nhau. Người nói: "Thế gian này gặp được nhau đã là duyên phận, là anh em lại càng có duyên. Duyên phận phải được quý trọng, thù hận chẳng qua chỉ là chốc lát. Người cũng nói đã không còn hận kẻ trước kia đã đánh phụ thân bị thương, không mong huynh đệ chúng ta báo thù rửa hận, chỉ mong hai chúng ta sống vui vẻ. Dù thế nào đi nữa được sống chính là điều tốt nhất!” Khi đó huynh còn trẻ không hiểu được gì, nhưng bây giờ huynh đã hiểu tấm lòng của mẫu thân. Người chẳng mong gì cả, không cần chúng ta làm tể tướng hay đỗ trạng nguyên, người chỉ mong chúng ta sống vui vẻ hạnh phúc thì đã mãn nguyện lắm rồi. Đệ đệ, huynh chỉ mong đệ đừng chết. Đại ca không cần gì hơn nữa.

Nước mắt gã giàn giụa, thấy Địch Thanh vẫn ngủ say không tỉnh thì không kiềm chế được nỗi đau trong lòng, đột nhiên nhào tới úp mặt vào ngực Địch Thanh, cố sức lay lay hắn mà nói:

- Đệ đệ! Huynh van đệ. Đệ đừng bỏ đại ca lại. Cầu xin đệ, đừng bỏ đại ca một mình!

Địch Vân vùi đầu vào ngực Địch Thanh, gào khóc. Quách Tuân nghe được tiếng khóc trong phòng vọng ra, nghĩ rằng Địch Thanh đã chết thì vô cùng đau đớn mà phun ra một một ngụm máu tươi lớn.

Chẳng biết đã khóc được bao lâu, đột nhiên Địch Vân cảm giác có người đang xoa đầu mình thì cứ tưởng rằng Quách Quỳ đang an ủi liền lên tiếng đầy đau thương:

- Quách tiểu đệ...

Không ngờ, y lại nghe Quách Quỳ thốt lên kinh ngạc:

- Địch Thanh hắn...

Địch Vân ngẩng đầu nhìn đệ đệ, chỉ thấy Địch Thanh đang mở mắt nhìn mình, một tay vừa mới từ đỉnh đầu gã hạ xuống.

Địch Vân thấy đệ đệ tỉnh lại, vừa bi thương vừa mừng rỡ mà ngây người.

Trong mắt Địch Thanh tràn đầy nước mắt, thì thào:

- Đại ca! Đệ sẽ không bỏ đại ca đâu, không bao giờ!

Giọng nói của hắn tuy rất yếu ớt nhưng rất chân thật.

Địch Vân vui mừng thiếu chút nữa ngất đi, hai cánh môi hé ra nhưng một chữ cũng nói không nên lời. Gã đã nói ba ngày hai đêm, tới lúc này mới đã cảm thấy đôi môi đau nhức, nhưng sự đau đớn đó làm sao có thể so với niềm vui trong lòng?

Quách Quỳ chính mắt nhìn thấy nước mắt Địch Thanh theo khóe mắt chảy xuống, tận nhìn thấy Địch Thanh mở mắt vươn tay ra xoa đầu Địch Vân thì chỉ kịp kêu lên một tiếng sợ hãi mà đứng yên. Tới khi nghe Địch Thanh nói mấy câu, nó mới cảm thấy vui mừng vô hạn, liền xoay người xông ra ngoài kêu to:

- Đại ca, Địch Thanh tỉnh rồi, Địch Thanh tỉnh rồi!

Vương Duy Nhất phấn chấn, bước nhanh vào trong gian phòng. Vết máu nơi khóe miệng Quách Tuân vẫn còn chưa khô, nghe nói như thế thì chưa dám tin, run giọng nói:

- Thật sao?

Quách Quỳ ôm cổ Quách Tuân, liên tục gật đầu nói:

- Thật mà! Hắn mở mắt ra rồi, hắn đã nói được.

Cậu bé vô cùng hưng phấn, ôm chặt cổ đại ca. Có lẽ chỉ có hôm nay nó mới thực sự cảm thấy tình huynh đệ sâu đậm đến thế nào.

Cuối cùng, Vương Duy Nhất bước ra cười với Quách Tuân, nói:

- Địch Thanh sống lại rồi.

Lúc này, Quách Tuân mới chịu tin, thân hình lảo đảo quỳ xuống đất. Quách Quỳ hốt hoảng kêu lên:

- Đại ca! Huynh làm sao vậy?

Quách Tuân ngẩng đầu tạ ơn ông trời, rồi dập đầu lạy mặt đất. Khuôn mặt gã lấm lem đất cát, vui sướng đến phát khóc.

 Chương 19 - 23: Kinh Diễm

Xuân đi xuân đến, mai rụng tuyết tàn.

Thời gian như nước tẩy sạch những dấu vết còn sót lại của tháng năm. Tuy trận đánh ở thung lũng Phi Long trời long đất lở, quỷ dị khó lường, nhưng thời gian cũng đã qua lâu, ngoại trừ những người trong cuộc ra thì đã không còn mấy ai nhớ được tình cảnh thảm liệt và quỷ dị lúc đó.

Nhưng chỉ cần là người đã từng trải qua thì cả đời này sẽ không quên được hết thảy những việc đã xảy ra lúc ấy!

Cuối xuân năm nay là mùa cỏ cây sinh sôi, đàn chim oanh bay hót, trong và ngoài Anh Vũ lâu ở phủ Khai Phong ồn ào náo nhiệt không ngớt, cấm quân qua lại nhộn nhịp như những chú kiến.

Bởi mấy ngày này là lúc tổ chức Ma Khám cấm quân rất lớn, cho nên cấm quân kinh thành đến tham gia sát hạch rất đông.

Đại Tống trọng văn khinh võ, khoa cử thường xuyên được tổ chức nhưng nếu không phải thời kì đặc biệt thì rất ít khi tổ chức võ cử. Quân nhân nếu không có lai lịch xuất thân, trong triều không có người nói giúp, để được từ sương quân được bổ sung vào cấm quân, con đường thăng chức duy nhất chính là tham gia Ma Khám. Người có thể đi vào trong Anh Vũ lâu thi diễn võ nghệ, chức vị thấp nhất cũng phải là Phó Đô Đầu trở lên, mà phần lớn quan quân cấp thấp nếu muốn thăng chức, cũng chỉ có thể tiến hành sát hạch ở Bát Đại doanh bên ngoài Anh Vũ lâu.

Trong Kiêu Võ doanh thuộc Bát Đại doanh, có quan giám thị hô to:

- Vương Khuê thi tiễn.

Một người ra khỏi hàng. Mọi người thấy người này mặt đen như than, tuổi tác cũng không lớn lắm, vừa bước ên đứng ở trên võ trường thì cả người đã tỏa ra một luồng khí tức lẫm liệt dũng mãnh này có người đưa cho gã một chiếc cung cứng, hai tay Vương Khuê dùng sức đã kéo căng cung cứng khiến cho mọi người phấn khích ủng hộ không ngớt.

Đám cấm quân chỉ trỏ, một người nói:

- Nếu lần này Vương Khuê vượt qua được khảo hạch thì sẽ trở thành Phó Đô Đầu rồi. Sau này chúng ta sẽ không còn nhìn thấy hắn ở đây nữa.

- Đương nhiên rồi, ngươi cho là ai cũng giống như ngươi sao? Nhìn ngươi xem, mấy năm nay chẳng có tiến bộ một tí gì, chín năm qua chưa vượt qua được một cuộc khảo hạch nào, đến bây giờ cũng chỉ là một Thừa Cục mà thôi. Người nhà Vương Khuê không có ai ở trong triều mà hắn lại có được chí khí như vậy, mỗi một cuộc khảo hạch đều vượt qua, một cơ hội nhỏ cũng không bỏ lỡ, từ một quân nhân tầm thường đã tiến lên được Quân Đầu, thoắt cái lại sắp trở thành Phó Đô Đầu rồi, thật đúng là một hán tử.

Người bị chất vấn kia bất mãn nói:

- Vậy thì sao chứ? Cũng chỉ là một Đô Đầu thôi, bên trên còn có Đô Ngu Hầu và Chỉ Huy Sứ. Chỉ Huy Sứ ở trong kinh thành thì được coi là cái gì? Nếu như ngươi không vào được Tam Ban thì cả đời này cũng chỉ là quân nhân thấp kém. Chỉ có gia nhập vào Tam Ban sứ thần thì mới thật sự có triển vọng. Dù Vương Khuê có dũng mãnh đi chăng nữa, nếu muốn tiến nhập vào Tam Ban sứ thần thì sợ rằng râu cũng đã bạc trắng rồi? Nỗ lực như thế để 'chui' vào Tam Ban thì cũng đã sắp về trời rồi, tội gì chứ?

Người lúc trước thở dài, lại nói tiếp:

- Nói thì nói thế, nhưng mà được thăng chức bao giờ cũng là chuyện tốt, giống như làm Tương Ngu Hầu dù sao cũng tốt hơn so với Thừa Cục.

Nói xong gã cười đắc ý. Vốn dĩ gã chính là quan cấp bậc Tương Ngu Hầu, cao hơn Thừa Cục một bậc, nói vậy chính là để châm chọc đối phương.

Người kia bị châm chọc đỏ mặt, phẫn nộ nói:

- Lão tử là Thừa Cục thì sao nào? Dù sao lão tử cũng dựa vào năng lực của bản thân mà thăng chức, chứ không giống với một số người, chỉ biết khoác lác, bưng bít mà vượt qua kiểm tra. Đúng là năm nào lão tử cũng dậm chân tại chỗ, nhưng ngược lại có những người năm nào cũng thụt lui. Tuy nhiên người ta vẫn là Thập Tương, còn cao hơn môt bậc so với Tương Ngu Hầu ngươi đó.

Người lúc trước cười nói:

- Người ngươi muốn nói là Địch Thanh?

- Không phải sao, tên khoác lác từ trên trời rơi xuống kia không gì làm không được, nghe nói giết một tên Tăng Trưởng Thiên Vương gì đó. Vốn tưởng rằng Quách Tuân ở trong cấm quân cũng là một người không đến nỗi nào, không ngờ rốt cuộc cũng chỉ là hạng người dùng người theo cảm tính. Địch Thanh này vốn ngay cả sương quân cũng không được xếp vào, thế mà Quách Tuân lại xin công cho Địch Thanh, để hắn vào thẳng cấm quân, hơn nữa còn một bước lên làm Thập Tương... Nhưng tên Địch Thanh này bản lĩnh cái rắm gì cũng không có, thật là khiến cho người ta tức chết mà.

Thừa Cục kia căm giận nói.

Tương Ngu Hầu kia nói:

- Ngươi tức giận là bởi vì Quách Tuân không phải là người thân thích của ngươi sao? Hắc hắc, nói vậy Tăng Trưởng Thiên Vương kia chỉ là Bồ Tát làm từ đất sét, nên mới có thể để cho hắn ta một chiêu thành cng nhỉ?

Hai gã đều cười hắc hắc.

Lúc này, trong doanh truyền đến một tràng hò reo ủng hộ, thì ra Vương Khuê đã bắt đầu tiến tới khảo hạch cưỡi ngựa bắn cung, gã phi thân lên ngựa, tay kéo trường cung, bắn một tên trúng hồng tâm, khiến cho mọi người trầm trồ khen ngợi ầm ầm.

- Đây mới là bản lĩnh thật sự!

Tương Ngu Hầu khen ngợi.

- Đương nhiên rồi, nào có như tên Địch Thanh kia, thực là làm mất mặt đồng đội.

Thừa Cục tiếp lời.

Lúc này quan giám thị xướng:

- Vương Khuê loại tốt, Địch Thanh thi tiễn.

Hai gã Thừa Cục và Tương Ngu Hầu nhìn quanh bốn phía, cùng nói:

- Không biết hôm nay hắn còn mặt mũi mà đi ra ngoài không?

Đang ngó nghiêng một hồi thì bỗng nghe có tiếng người nói từ phía sau:

- Tránh đường.

Hai người quay đầu lại nhìn, liền lộ vẻ xấu hổ, cuống quýt tránh sang một bên, hóa ra người lên tiếng chính là Địch Thanh, vừa nãy hắn đứng ở sau bọn họ.

Thời gian đã qua vài năm, Địch Thanh đã cao lên nhiều nhưng cũng gầy đi nhiều. Trên cái trán hắn có một vết sẹo nhỏ giống như nốt ruồi đỏ, bên má trái có xăm hai chữ "Kiêu Vũ", râu dưới cằm mọc lởm chởm, dung mạo rất tiều tụy.

Thấy hai người tránh ra, Địch Thanh chậm rãi đi tới phía trước quan giám thị, đưa lệnh bài ở thắt lưng ra. Quan giám thị kiểm tra tỉ mỉ, xác nhận là thật, liền gật đầu nói:

- Địch Thanh thi tiễn.

Có người đưa cung tên tới, Địch Thanh chậm rãi nhận lấy, nhìn trường cung, vẻ mặt phức tạp, tay khẽ run rẩy.

Quan quân cấp bậc thấp muốn thăng chức, cần phải thi bốn loại kĩ thuật là bộ bắn, cưỡi ngựa bắn, võ nghệ và bắn nỏ. Nếu Địch Thanh muốn từ Thập Tương thăng lên làm Quân Đầu, nhất định phải bộ bắn cung sáu đấu lực, bắn nỏ một tạ bảy đấu lực, cưỡi ngựa bắn ba mũi tên trúng đích, thi diễn võ nghệ, lúc này mới do quan giám thị xét duyệt, quyết định xem có được thăng chức hay không.

Bộ bắn cung sáu đấu lực đối với Địch Thanh lúc trước mà nói, không khó chút nào. Mặc dù hắn võ nghệ không cao, nhưng ngày ngày đi tới cửa hàng lò rèn giúp đập sắt, cơ bắp rất khỏe, trước đây dù cho Quách Tuân bất ngờ ra tay cũng không tóm được tay hắn. Tuy nhiên, hiện giờ kéo cung sáu đấu lực đối hắn mà nói là vấn đề vô cùng khó khăn.

- Địch Thanh thi tiễn!

Quan giám thị thấy Địch Thanh còn chưa có kéo cung , nên không kiên nhẫn được nữa. Mọi người thấy thế, xì xào nổi lên, có người kêu lên:

- Không được thì trở về ôm con đi, đừng làm lãng phí thời gian của mọi người. Phía sau còn có người chờ đó!

Địch Thanh âm thầm cắn răng, hét lớn một tiếng, hai tay dùng sức, chỉ nghe "Răng rắc" một tiếng, hai cánh trường cung đã bị hắn kéo gãy làm đôi. Mọi người cảm thấy kính nể, mặt mang vẻ sợ hãi. Nhưng sau đó Địch Thanh lảo đảo, mềm nhũn ngã xuống đất. Hai tay nắm chặt lại, móng tay cắm vào thịt, vẻ mặt rất đau đớn.

Mọi người đều xôn xao, không biết chuyện gì đã xảy ra. Thừa Cục than thở:

- Kéo cung lại có thể làm cho mình ngất xỉu, đây đúng là chuyện chưa bao giờ xảy ra.

- Nếu ngươi không nói, không ai bảo ngươi câm đâu.

Một người lạnh lùng nói.

Thừa Cục vừa quay đầu lại nhìn, thấy phía sau có một người mũi to như mũi sư tử, để ria ngắn, dung mạo rất có uy thế. Thừa Cục cuống quít thi lễ nói:

- Chỉ Huy Sứ, sao người lại đến đây?

Người này không đếm xỉa tới Thừa Cục, đi tới bên người Địch Thanh, gật đầu với quan giám thị rồi tự mình cõng Địch Thanh ra khỏi đại doanh.

Tương Ngu Hầu thấy người có lỗ mũi sư tử đã đi xa, không nhịn được hỏi:

- Người đó là ai vậy, cuồng ngạo ghê nhỉ?

Thừa Cục lau mồ hôi lạnh, nói:

- Người này tên là Vương Tín, chính là Chỉ Huy Sứ của Thần Vệ quân, cũng là bằng hữu của Quách Tuân. Ngươi biết Chỉ Huy Sứ không? So với Tương Ngu Hầu ngươi thì không thể sánh nổi.

Tương Ngu Hầu hít một hơi khí lạnh, chỉ có thể lắc đầu nói:

- Tên Địch Thanh này tốt số thật, có quan to như Quách Tuân và Vương Tín chiếu cố. Haizz... Nếu như ngươi và ta có thể được bọn họ chiếu cố thì nói không chừng đã sớm trở thành Đô Đầu rồi.

Trong khi hai người đang than thở thì Vương Tín đã đặt Địch Thanh nằm dưới bóng râm ở bên ngoài quân doanh.

Địch Thanh tỉnh lại, nhìn thấy Vương Tín thì gắng gượng đứng dậy nói:

- Vương đại nhân, là ngài cõng ta ra đây sao?

Vương Tín nói:

- Nếu như không thể, cần gì phải miễn cưỡng chứ?

Địch Thanh nở một nụ cười chua chát, nói:

- Ta là người lỗ mãng, không suy xét được nhiều.

Vương Tín nhìn hắn một lúc lâu, mới nói:

- Ta còn có việc, đi trước một bước.

Y xoay người rời đi, đợi đến khi Địch Thanh không còn thấy mình nữa, lúc này mới lắc đầu, lẩm bẩm nói:

- Haiz ... đáng tiếc cho một anh hùng.

Địch Thanh ngồi trở lại dưới tán cây, vẫn còn cảm thấy trong đầu nổ ầm ầm, đau đớn mơ hồ, ngẩng đầu nhìn cành liễu lả lướt, mưa bay lất phất, thần sắc ảm đạm, lẩm bẩm:

- Lẽ nào Địch Thanh ta cả đời này thật sự là kẻ vô tích sự ?

Thì ra Địch Thanh bị Đa Văn Thiên Vương làm tổn thương não bộ, sau khi tỉnh lại đến giờ vẫn không còn sức để hoạt động, không thể xuất khí lực được.

Mấy năm nay nhờ có Vương Duy Nhất hết lòng châm cứu nên Địch Thanh mới tránh khỏi trở thành phế nhân, nhưng cây ngân châm trong đầu hắn thì Vương Duy Nhất cũng bó tay không lấy ra được.

Mặc dù Địch Thanh có thể hoạt động lại được nhưng hơi dùng sức một tí là trong đầu lại đau đớn và nhức nhối vô cùng, bởi vậy hai năm nay hắn tham gia Ma Khám đều thất bại ở giai đoạn kéo cung khai nỏ. Hôm nay nghe thấy người khác bàn tán về mình, mặc dù ngoài mặt bình tĩnh nhưng trong lòng hắn rất căm uất, thực sự không muốn Quách Tuân vì mình mà bị chỉ trích nên dùng hết sức để kéo cung, dù đã kéo gãy trường cung nhưng trong đầu lập tức như bị thiết chùy đánh vào, đau đớn không chịu nổi mà ngất đi.

Ngày đó trước khi Quách Tuân tiến vào thung lũng Phi Long, ý định ban đầu là muốn rèn luyện cho Địch Thanh nhưng không ngờ lại khiến hắn bị trọng thương, thiếu chút nữa thì mất mạng. Trong lòng Quách Tuân hổ thẹn nên đã đem hơn một nửa công lao ở thung lũng Phi Long đẩy qua cho Địch Thanh, lại cố gắng giúp Địch Thanh lên tới chức quan Thập Tương. Nhưng Quách Tuân có thể làm đến Điện tiền Chỉ huy sứ, chịu trách nhiệm hộ vệ hoàng thượng, không chỉ vì võ công cao cường mà còn nhờ vào gia thế tốt. Địch Thanh không có xuất thân, chức Thập Tương này thì đã là năng lực cực hạn Quách Tuân tranh thủ cho hắn rồi.

Tuy chức quan Thập Tương không cao nhưng nhìn chung áo cơm không cần phải lo, mặc dù Quách Tuân vẫn còn áy náy nhưng Địch Thanh không hề có mảy may ý nghĩ trách hận Quách Tuân.

Trong lúc Địch Thanh còn đang đau lòng thì có một thiếu niên hoạt bát chạy đến nói:

- Địch nhị ca, thế nào rồi?

Người này chính là Quách Quỳ, chỉ trong một thời gian ngắn mà cậu cũng đã cao lên nhiều, nhưng vẫn không thoát khỏi tính trẻ con. Cậu gọi Quách Tuân là đại ca, cho nên gọi Địch Thanh là nhị ca. Mấy năm qua, Địch Thanh sống ở kinh thành cùng với huynh đệ họ Quách vô cùng vui vẻ.

Địch Thanh lắc đầu, Quách Quỳ thấy Địch Thanh có vẻ chán nản, vội vàng an ủi:

- Địch nhị ca, đệ biết hết rồi, huynh không cần phải nói nữa.

Thấy có mấy người từ Anh Vũ lâu đi ra, nét mặt vênh váo tự đắc, Quách Quỳ nói tránh đi:

- Địch nhị ca, huynh đừng thấy mấy kẻ này tài trí hơn người, thật ra bọn chúng đều là ỷ vào công trạng của phụ thân cả thôi. Phụ thân của bọn chúng không phải nhậm chức ở trong Tam Ban thì cũng là quan to hai viện. Những người này chỉ như là đống phân, ấy mà lại có thể vào thẳng Anh Vũ lâu. Huynh so với bọn chúng còn giỏi hơn nhiều.

Địch Thanh thầm nghĩ: "Bây giờ mình còn không thể so với đống phân nữa.”

Hắn bèn nói lảng đi:

- Tiểu Quỳ, đệ tìm huynh có chuyện gì?

Hắn ngáp một cái, hứng thú tan hết.

Tròng mắt Quách Quỳ chuyển động, nói:

- Thiếu chút nữa quên nói cho huynh một chuyện, đại ca của đệ lại phải rời kinh rồi.

Địch Thanh lo lắng nói:

- Huynh ấy đi đâu, có nguy hiểm không?

Thì ra Quách Tuân tuy là Điện tiền Chỉ huy sứ nhưng bởi vì võ công cao cường, làm việc linh hoạt nên thường xuyên bị Tam Nha điều đi hỗ trợ phủ Khai Phong và quan phủ địa phương xử lý một số vụ án phức tạp, do đó Quách Tuân hiếm khi ở kinh thành.

Quách Quỳ nói:

- Huynh còn nhớ ba người Quách Mạc Sơn, Trương Hải và Vương Tắc không?

Địch Thanh vô cùng kinh ngạc nói:

- Đương nhiên là nhớ. Ba người này trước đây chính là thuộc hạ của Quách đại ca, sau đó mất tích ở thung lũng Phi Long, Quách đại ca lúc nào cũng nhớ mãi không quên... Ba người bọn họ làm sao vậy?

- Quách Mạc Sơn và Trương Hải tạo phản ở Thiểm Tây.

Quách Quỳ nhíu mày nói:

- Hiện tại thanh thế bọn họ không nhỏ, đã trở thành tai hoạ ngầm của triều đình. Đại ca biết tin bọn người Quách Mạc Sơn tạo phản, lập tức xin lệnh đi trước tới Thiểm Tây dẹp loạn. Đây dù sao cũng là thuộc hạ của huynh ấy, không rõ vì sao những người này không trở về kinh thành mà lại muốn tạo phản nhỉ?

Địch Thanh không muốn suy nghĩ nhiều, cười khổ nói:

- Chỉ hy vọng Quách đại ca mọi chuyện đều thuận lợi. Tiểu Quỳ, huynh đi dạo chút.

Hắn không được như ý, trong lòng chỉ muốn tìm một nơi thanh tịnh để tĩnh tâm. Quách Quỳ kêu lên: 

- Được rồi, Địch nhị ca, đại ca của huynh sợ huynh ở kinh thành thiếu tiền tiêu nên nhờ người mang đến đây ba lượng bạc cho huynh. Này, đây này.

Nói xong, cậu chìa tay đưa ra ba lượng bạc, Địch Thanh không nhận, hỏi:

- Có thư không?

Con người Quách Quỳ chuyển động, cười nói:

- Đại ca của huynh không phải không biết chữ sao? Sao mà có thư được chứ?

Địch Thanh nói:

- Tiểu Quỳ, đệ không cần gạt huynh nữa, đây là Quách đại ca cho huynh đúng không?

Thấy Quách Quỳ không nói, Địch Thanh vỗ vỗ bả vai Quách Quỳ, nói:

- Tiểu Quỳ, huynh chỉ giúp Quách đại ca một lần, nhưng huynh ấy thật sự không nợ huynh cái gì hết, hai người đối với huynh quá tốt, huynh không cách nào báo đáp được.

Quách Quỳ cố gắng ưỡn lồng ngực gầy gò nói:

- Chúng ta có phải huynh đệ không? Nếu phải thì không cần nói ra những lời này.

Địch Thanh không nhịn được cười, dí mạnh cái mũi nó nói:

- Nhìn bộ dạng của đệ thật giống như một anh hùng hảo hán vậy. Huynh thật sự không thiếu tiền để dùng, chức quan Thập Tương này của huynh tuy là không làm gì được nhưng bổng lộc của triều đình thì cũng đủ cho huynh không cần lo chuyện ăn uống. Được rồi ... Còn phải làm phiền đệ một việc, huynh có tích góp được mấy lượng bạc, đệ quen biết nhiều, xem thử có thể giúp huynh chuyển số tiền này đến Phần Châu, đưa cho đại ca huynh hay không. Huynh ấy đã một thời gian dài không có tin tức của huynh, e rằng huynh ấy lo lắng.

Địch Thanh móc từ trong người ra thỏi bạc, trong lòng ít nhiều cũng có chút chua xót.

Trước đây, sau khi Địch Vân đánh thức được Địch Thanh, thấy đệ đệ yếu ớt nên hết sức lo lắng cho Địch Thanh, nhưng trong lòng lại nhớ thương Tiểu Thanh. Địch Thanh đương nhiên biết tâm sự của đại ca nên thúc giục y trở về. Quách Tuân còn vui vẻ đề nghị Địch Vân đưa Tiểu Thanh lên sống tại kinh thành, nhưng Địch Vân lại từ chối do không quen sinh hoạt ở kinh thành, bảo rằng kinh thành tốt thì tốt thật nhưng y không thích, hơn nữa quê nhà ở Tây Hà, gốc rễ ở Tây Hà, nên không muốn đến kinh thành. Vì thế sau khi Địch Vân thấy đệ đệ đã khỏe hơn thì liền quay về Tây Hà. Quách Tuân có phần khó hiểu nhưng trong lòng Địch Thanh lại biết, đại ca bởi vì chân què, không muốn đệ đệ mình bị mất mặt nên mới khăng khăng muốn quay về. Cũng may sau khi Địch Vân trở về Tây Hà cùng Tiểu Thanh làm buôn bán nhỏ, sống qua ngày cũng không đến nỗi nào.

Quách Quỳ nhìn thỏi bạc kia, thầm nghĩ: “Địch nhị ca này yếu mà không đuối.”

Không muốn để Địch Thanh khó xử, cậu nhận lấy bạc, nói:

- Được, đệ nhất định sẽ chuyển giúp huynh.

Sau khi tạm biệt Quách Quỳ, Địch Thanh cứ thế lững thững bước đi, thấy ven đường có quán rượu bèn đi vào kêu một cân rượu thường mà uống. Trong lòng hắn thầm tính toán, ở lại kinh thành có lẽ không phát triển được gì, còn muốn quay về Tây Hà thì lại càng không được. Mặt mình đã bị xăm chữ, cũng chẳng khác gì phạm nhân, gia nhập cấm quân không dễ, rời khỏi cấm quân lại càng khó khăn hơn. Hắn than nhẹ một tiếng, bỏ lại mười văn tiền rồi đi ra khỏi quán, nhất thời xung quanh mờ mịt, chỉ thấy tơ liễu bay bay, giống như bông tuyết nhẹ nhàng rơi xuống, phố xá náo nhiệt vô cùng, nhưng đều là tiếng ồn ào rầm rĩ của người khác, chẳng hề liên quan đến bản thân hắn.

Chợt nghe ở phía trước có tiếng trầm trồ khen ngợi, lúc này Địch Thanh mới phát hiện ra mình đã đi qua Châu Kiều, đến chỗ Đại Tướng Quốc Tự. Nơi này có câu lan ngõa tứ, ca hát biểu diễn, đúng là cực kỳ náo nhiệt.

(Câu lan: nơi hát múa và diễn kịch thời Tống, Nguyên ở Trung Quốc)

Phố phường người qua kẻ lại, hôm nay quả là tiên hoa tranh diễm, vạn vật rộn ràng giữa tiết xuân, hai bên đường đầy cửa hàng và chợ hoa, muôn hồng nghìn tía, hương hoa len lỏi.

Địch Thanh dừng chân nghỉ ngơi, trong lòng đầy phiền muộn. Đúng lúc này phía trước vọng đến vài tiếng chiêng, có một đội kỵ mã chạy trước mở đường, phía sau là một đoàn văn nhân cưỡi ngựa trâm hoa, người nào cũng hớn hở, vó ngựa gõ nhẹ..

Có một người dân tấm tắc nói:

- Mau nhìn, mau nhìn kìa, thiên tử môn sinh đang dạo phố kìa.

Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua đó, mới nhớ rằng hôm nay không chỉ là ngày quân nhân tham gia Ma Khám, mà còn là ngày khai bảng khoa cử của văn nhân. Mỗi lần vào ngày khoa cử công bố kết quả xướng tên ban thưởng, sĩ tử thi đậu đều được triều đình bố trí tập trung lại một chỗ, tổ chức dạo phố và kỳ tập (1) để an ủi khổ cực mười năm gian khổ học hành.

Nhưng mười năm khổ cực này cũng xứng đáng, bởi vì vinh quang này từ nay về sau có thể bù đắp tất cả. Những người này ngoại trừ tiến hành kỳ tập ở Đại Tướng Quốc Tự ra, đêm nay còn có thể đến Quỳnh Lâm Uyển, triều đình mở tiệc rượu, đích thân thánh thượng cùng thái hậu sẽ tới, vinh quang vô cùng. Sau đó những người này sẽ được phái đi khắp nơi nhậm chức, dựa vào thành tích lại quyết định có được trọng dụng hay không.

Tốc độ thăng chức của những người này cực nhanh, quân nhân hoàn toàn không thể so với họ được. Năm xưa, sau khi Thái Tông lên ngôi thì hằng năm đều mở khoa cử tuyển chọn học trò, hai người thi đậu là Lữ Mông Chính và Trương Tề Hiền chỉ trong thời gian bảy năm đã tiến vào Lưỡng Phủ, nhậm chức phó tướng, mà Lữ Mông Chính lại chỉ cần mười hai năm đã ngồi vào vị trí tể tướng, có thể nói là "dưới một người, trên vạn người!"

Thời gian mười hai năm, bảo ngắn cũng không ngắn lắm, nhưng có thể làm cho một người học trò bần hàn ngồi vào vị trí trên vạn người, sao mà không khiến sĩ tử nghèo trong thiên hạ thèm thuồng? Bởi vậy cũng chẳng trách người trong thiên hạ đều nói, "Nhất cử thủ đăng long hổ bảng, thập niên thân đáo phượng hoàng trì!" (Ngước trông tên bảng hổ treo, mười năm thân đã tới ao phượng hoàng!)

Địch Thanh nhìn thiên tử môn sinh nở mày nở mặt, cúi đầu nhìn lại bản thân, cười tự giễu. Hắn đến kinh thành đã được gần một nửa của mười hai năm rồi, nhưng hôm nay vẫn còn đang lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm.

Lại một hồi chiêng vang lên, những văn nhân này cưỡi ngựa đi qua, ai nấy đều mỉm cười, bất giác đều ngẩng đầu nhìn về phía trước. Bọn họ không cần phải nhìn bên cạnh và cũng không cần nhìn xuống dưới, bởi vì người nơi nào cũng phải ngẩng đầu lên nhìn bọn họ. Bọn họ chỉ nhìn về phía hai sườn lầu các, nhìn những bóng hồng xuân sơn trong lâu các kia.

Tài tử giai nhân vốn đã là giai thoại, bọn họ khổ cực mười năm, bỏ rất nhiều thời gian chẳng phải là vì giành được một đoạn giai thoại này đấy sao?

Lúc này đã có không ít giai nhân bước ra khỏi lầu các, cười nói, ngăn cản đầu ngựa, hướng về phía các tài tử đòi trâm hoa lưu niệm. Quan nhân cũng không ngăn cản, ngược lại còn vui vẻ chấp nhận. Có tài tử được người đẹp ưu ái, vẫn còn rụt rè, cũng có người đã tháo hoa cài trên đầu ném cho người nhìn trúng, giai nhân nhận lấy, đều thẹn thùng không nói nhưng chỉ xuống lầu các, mặt tài tử đỏ bừng làm dân chúng cười vang, chỉ chỉ trỏ trỏ, tấm tắc.

Hóa ra những giai nhân này đều là cô gái thanh lâu, nhưng Đại Tống xưa nay không cấm việc này, ngược lại chuyện phong lưu này vẫn là đề tài chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu(2).

Dân chúng chỉ chỉ trỏ trỏ, thảo luận sôi nổi. Có người nói:

- Huynh đệ, trước đây nếu ta không làm thợ nguội, đệ không bán đậu hũ, thì chúng ta cũng giống như bọn họ, phong lưu như thế. Nhìn đám cô gái này thường ngày làm bộ thanh cao không thể kết thân, nhưng cũng nhìn trúng tài văn chương của những người này.

Người bạn của gã cười khẩy nói:

- Ngươi đòi giống như thế kia hả, đếm lại xem số chữ mà ngươi biết có được một trăm chưa?

Lúc này có một phụ nữ chỉ những tài tử này rồi lại len lén chỉ Địch Thanh, dạy dỗ đứa con trai bướng bỉnh:

- Con trai à, con sau này cần phải đọc sách, đừng có học người kia đi làm lính, 'Nam nhi chớ tham gia quân ngũ, tham gia quân ngũ sai lầm cả đời', nếu như sau này con đi làm lính thì coi như cả cuộc đời này đã bị hủy hoại.

Đứa bé nghiêm túc gật đầu, khinh miệt nhìn Địch Thanh, sùng kính nhìn tài tử. Địch Thanh đứng ở trong đám đông ồn ào, nghe được giọng mỉa mai của người phụ nữ kia, nhìn thấy đám tài tử này đã đi xa, tiếng ồn ào rầm rĩ cũng xa dần theo, đột nhiên nhớ tới một câu nói mà mẫu thân thường nói.

Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy! (Mũ lọng đầy kinh hoa, một người này xơ xác!)

Địch Thanh đã tiều tụy.

Nghĩa khí, nhiệt huyết làm việc năm xưa đã trôi như nước chảy, Địch Thanh của bây giờ đã tiều tụy, tâm cũng mỏi mệt.

Quan cái mãn kinh hoa, nhưng kinh hoa vốn chẳng có quan hệ gì với hắn.

Trước đây sau khi hắn gặp được Quách Tuân, tuy là ép mình tòng quân nhưng cũng mang theo vài phần khát vọng. Hắn khát vọng dựa vào bản lĩnh của chính mình, bằng đôi tay mình mà khai phá ra một mảnh bầu trời riêng của mình, nhưng trận chiến ở thung lũng Phi Long đã khiến cho hắn bị thương nặng, hôn mê vài năm càng khiến nội tâm hắn bị thương nặng hơn. Hắn biết rõ kéo cung có thể dẫn đến hôn mê nhưng vẫn ngoan cường muốn dùng toàn lực để kéo cung, vì Quách Tuân và cũng vì nỗi phẫn uất cô độc trong lòng.

Hắn từng gặp được mẫu thân lúc đêm khuya, thì thầm căn dặn "Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy; thiên thu vạn tuế danh, tịch mịch thân hậu sự. (Mũ lọng đầy kinh hoa, một người này xơ xác, ngàn thu tiếng để đời, ích gì sau lúc thác)" Đọc đến nỗi lệ rơi ròng ròng...

Địch Thanh khi ấy hoàn toàn không cảm thụ được gì, nhưng vào giờ này khắc này, cô độc nhộn nhịp, tương phản to lớn nhưng lại làm hắn bỗng dưng cảm nhận được sự cô độc và hiu quạnh của mẫu thân lúc đó.

Địch Thanh muốn khóc, nhưng lại ngẩng đầu lên, đờ đẫn mà bước đi. Trong đầu hắn chợt dần hiện ra khuôn mặt của mẫu thân, nhớ tới mẫu thân nhìn mình, kiên định nói: "Thanh nhi, con sau này nhất định là tể tướng, con hãy tin mẹ. Bởi vì người xem tướng cho mẹ, chính là Trần Đoàn, người mà năm đó cùng Thái Tổ chơi cờ." Địch Thanh nghĩ tới đây, lẩm bẩm nói: "Mẹ ... Con tin mẹ, nhưng con không phải không làm, mà là không thể."

Một tiếng chuông khánh vang lớn, Địch Thanh giật mình tỉnh khỏi giấc mộng mấy năm trước. Hắn lúc này mới phát hiện ra mình đã đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự. Trong lòng Địch Thanh bỗng nhiên khẽ chuyển động, trào lên ý niệm muốn đi vào bên trong xem thử.

Đại Tướng Quốc Tự là chùa của hoàng thất Đại Tống, quy mô cực lớn, nguy nga lộng lẫy, ánh sáng mặt trời chiếu dọi như dải mây bảy màu. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự có vạn người đến viếng, hơn nữa còn có thiên tử môn sinh tụ họp cho nên người dân xung quanh tham quan điều mới lạ có thể nói là vai sát vai, đông nghịt.

Địch Thanh đến kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa bao giờ vào Đại Tướng Quốc Tự thăm quan, bởi vì hắn không phải là người thích náo nhiệt. Nhưng hôm nay vô thức đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự, lại nhớ tới lời nói của Quách Tuân mấy năm trước, hắn bèn vượt qua đám đông, đi vòng ra phía sau Đại Hùng bảo điện, tới trước Thiên Vương điện có mái hiên Đấu Củng. (Đấu củng: một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu)

Bên trong Thiên Vương điện có Tứ Đại Thiên Vương, còn có Di Lặc phật chủ!

Trong đầu Địch Thanh hiện lên lời Quách Tuân năm ấy, "Giáo Phật Di Lặc thực ra bắt nguồn từ xa xưa, từ thời Lương Vũ đế đã sáng lập ra rồi. Ngay cả Đại Tướng Quốc Tự cũng có tôn phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen." Địch Thanh sau khi tới kinh thành rồi mới nghe nói, phật Di Lặc này vốn là do thái hậu xây dựng.

Hắn nhớ tới Tứ Đại Thiên Vương, ma xui quỷ khiến thế nào lại nảy sinh ý định tiến vào Thiên Vương điện. Đến giữa điện, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn, thấy giữa điện quả nhiên có phật Di Lặc đang ngồi ngay ngắn trên đài sen, mỉm cười mà nhìn con dân bên dưới. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới phật Di Lặc âm hiểm ở thung lũng Phi Long, không khỏi rùng mình một cái.

Địch Thanh chưa bao giờ thấy người nào âm hiểm, hung ác như vậy. Đối với tất cả những việc xảy ra tại thung lũng Phi Long năm xưa, hắn và Quách Tuân sau đó đã thảo luậnn mấy lần nhưng đều không rõ vì sao Di Lặc phật chủ phải khiến cho tín đồ tự tàn sát lẫn nhau. Mấy năm nay, Diệp Tri Thu lần theo dấu vết từ Đông Hải đến đại mạc, từ thảo nguyên tới Giang Nam, nhưng vẫn không thể đưa phật chủ Di Lặc ra công lý.

Phật Di Lặc dường như đã biến mất rồi.

Địch Thanh có linh cảm, phật Di Lặc tuyệt đối sẽ không mai danh ẩn tích như thế. Phật Di Lặc ẩn nấp được càng lâu càng chứng tỏ hắn đang bày ra một mưu đồ kinh thiên động địa.

Hồi lâu, ánh mắt Địch Thanh lại rơi vào Tứ Đại Thiên Vương hai bên phật Di Lặc, hắn chỉ có thể nói, năm xưa khi nhìn thấy Tứ Đại Thiên Vương ở thung lũng Phi Long, bất kể là trang phục, mặt nạ hay binh khí đều cực kỳ giống với Tứ Đại Thiên Vương ở điện.

Địch Thanh nhìn cây tán của Đa Văn Thiên Vương, khóe miệng lộ ra một tia cười cay đắng, lẩm bẩm:

- Nếu các ngươi thật sự tốt thì đương nhiên sẽ có dân chúng thờ phụng, nhưng nếu các ngươi tà ác giống như đêm đó, ta vẫn còn muốn giết các ngươi.

Địch Thanh ngơ ngẩn nhìn Đa Văn Thiên Vương kia, không biết đã qua bao lâu, lúc này mới xoay người lại. Người bên trong điện không nhiều lắm, một người mới vừa rồi đứng ở bên cạnh Địch Thanh hướng về phía phật Di Lặc hành lễ. Khi Địch Thanh xoay người lại thì người đó đã rời khỏi.

Ở trong khoảnh khắc chớp mắt này, Địch Thanh phảng phất trông thấy được khóe miệng người ấy hình như lưu lại một nét cười nhưng vẻ mặt rất lạnh.

(1) kỳ tập: gặp gỡ định kỳ. Đặc biệt chỉ có sĩ tử sau khi thi đậu dựa theo lệ cũ tập trung dạo chơi và tiệc rượu.

(2) trà dư tửu hậu: giờ rỗi rãi (sau khi cơm nước xong).

Địch Thanh bị vẻ mặt không hài hoà của người kia thu hút, không khỏi nhìn trộm vài lần. Không ngờ khi người kia vừa tới trước cửa điện thì một cơn gió thổi qua, làm trường sam của người đó bay lên, Địch Thanh nhìn thấy đai lưng màu xanh biếc của người đó lộ ra, bỗng nhiên cảm giác ngực mình như bị đánh một quyền cực mạnh.

Đai lưng màu xanh biếc khuấy động đến ký ức chôn sâu của Địch Thanh.

Màu sắc của đai lưng kia chẳng phải chính là màu trang phục của Đa Văn Thiên Vương sao?

Khóe miệng kia hơi mỉm cười chẳng phải giống với nụ cười của Đa Văn Thiên Vương ở giữa điện, trong cái từ bi còn mang theo sự lạnh lẽo vô biên sao?

Địch Thanh nhanh chóng quay đầu lại liếc mắt nhìn tượng phật, càng thêm khẳng định ý nghĩ của mình, xoay người lại lần nữa thì đã phát hiện người kia biến mất không còn hình bóng. Địch Thanh cất bước muốn đuổi theo, đột nhiên cảm thấy trong đầu đau nhức, lảo đảo muốn ngã, nhưng lại không thể nào di chuyển được, nhưng tư duy lại rõ ràng mà trước giờ chưa từng có. Sau lưng người đó chẳng phải đeo theo một cái túi hình dạng dài sao? Ở bên trong đó có thể là cây dù hay không? Người đi đường lưng đeo một cây dù cũng không có gì lạ, nhưng cây dù của người này đeo chính là vũ khí đã làm cho Địch Thanh đau khổ nhiều năm!

Người đó chính là Đa Văn Thiên Vương!

Bằng trực giác, Địch Thanh khẳng định người hắn thấy chính là Đa Văn Thiên Vương. Nhưng sao Đa Văn Thiên Vương lại xuất hiện ở Đại Tướng Quốc Tự?

Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng rất đau thương, hai tay nắm chặt, móng tay cắm sâu vào thịt. Sự đau nhức ở lòng bàn tay xua tan cái đau ở trong đầu Địch Thanh, lòng báo thù trỗi dậy, hắn lao ra khỏi Thiên Vương điện, khàn giọng nói:

- Đừng hòng thoát!

Lúc này hắn hoàn toàn không nghĩ đến chuyện mình không phải là đối thủ của Đa Văn Thiên Vương.

Nhưng Địch Thanh vừa mới lao ra khỏi Thiên Vương điện, trái phải hai người đi qua. Một người đang muốn tiến vào trong điện thì vừa vặn bị Địch Thanh va vào, không khỏi "Ai u" một tiếng, ngồi bệt ở trên mặt đất.

Thanh âm yếu ớt này như dòng nước xuân ấm áp, thì ra người bị Địch Thanh đụng vào chính là một cô gái.

Địch Thanh không quay đầu lại xin lỗi, khi chạy vội đi thì nghiêng liếc mắt nhìn nàng kia một cái, chỉ thấy được nàng có một đôi mắt trong veo sáng rực.

Nha hoàn bên cạnh nàng nói:

- Tiểu thư, người này thật vô lễ.

Địch Thanh nghe được lời trách móc, trong lòng cảm thấy áy náy, nhưng hắn đang nóng lòng truy tìm Đa Văn Thiên Vương nên không quay lại. Chạy vội một hồi ra khỏi Tướng Quốc Tự, người đi đường rất nhiều, lưng đeo cây dù cũng nhiều nhưng không có ai thắt đai lưng màu xanh biếc cả.

Địch Thanh dừng bước, mờ mịt nhìn xung quanh, lại đuổi theo về một hướng khác. Hắn giống như con ruồi không đầu, chạy loạn xạ khắp nơi, tìm kiếm bốn phía xung quanh, không hề để ý đến ánh mắt tràn đầy vẻ kinh ngạc của mọi người xung quanh nhìn hắn. Không biết đã qua bao lâu, tiếng chuông khánh xa xa truyền đến, Địch Thanh lúc này mới dừng lại, đấm một đấm vào cây hòe ở bên cạnh, phát hiện mình mồ hôi nhễ nhại, quá mệt mỏi.

Tìm không được rồi, tìm không được rồi!

Trong lòng Địch Thanh vang lên tiếng gào thét điên cuồng, trong mắt lửa giận hừng hực, không ngừng nghĩ: Vì sao Đa Văn Thiên Vương lại tới nơi này? Hắn tới nơi này một lần, có khi còn trở lại? Nhưng cũng có thể hắn chỉ tình cờ đi qua đây, cả đời này không bao giờ ...đến nữa...

Tâm tư của Địch Thanh như nước thủy triều, trong lúc nóng nảy, chợt nghe thấy giọng nói một thiếu nữ:

- Tiểu thư, chính là người này đã làm tiểu thư ngã, ánh mắt hắn rất dữ.

Địch Thanh nghe xong ngẩn ra, quay đầu nhìn lại, hai người cô gái đang nhìn mình. Cô gái bên trái quần áo màu xanh nhạt, trang phục của một nha hoàn, đang dìu đỡ tiểu thư ở bên phải. Tiểu thư này khuôn mặt như tranh, y phục màu trắng tuyết, màu da còn trắng hơn so với y phục vài phần, thấy Địch Thanh nhìn qua, sóng mắt trong vắt như nước dời đi, nhỏ giọng nói với nha hoàn:

- Đừng có gây sự.

Tâm tư Địch Thanh rối loạn, muốn xin lỗi nhưng lại không nghĩ ra được lời nào để nói, bị ánh mắt trong veo của nàng kia quét qua, càng không được tự nhiên. Dưới tình thế cấp bách này, hắn liền xoay người bỏ đi, nhưng vẫn còn có thể nghe được tiếng lầm bầm của nha hoàn:

- Tiểu thư, lần này vốn định đi xem hoa mẫu đơn, nhưng chân của người bị trẹo rồi, còn có thể đi được không?

Tiểu thư này đáp:

- Thật khó khắn lắm mới đi ra ngoài được một lần, ài ... dù sao vẫn muốn đi xem.

Trong giọng nói mềm yếu của nàng còn mang một chút thất vọng.

Nha hoàn nói:

- Cũng được, nhưng chỉ sợ ở đây không có hoa gì đẹp, không bằng Diêu Hoàng ở nhà mình...

Tiểu thư kia than nhẹ một tiếng, cũng không nói gì nữa.

Giọng nói xa dần, Địch Thanh có chút bất an, muốn quay trở lại nhưng không có dũng khí. Hắn vốn là kẻ không sợ trời không sợ đất, trước đây cho dù đơn độc đối đầu với đám tai sai của Triệu công tử, khi dũng cảm đâm Tăng Trưởng Thiên Vương võ công cao tuyệt cũng không nhút nhát như vậy, chẳng biết vì sao lúc này hắn lại sợ nhìn thấy đôi mắt đen như hạt châu, ánh mắt sáng trong đẹp đẽ của nàng kia.

Đi không được bao lâu, phía trước có mùi thơm bay đến. Địch Thanh nhìn đến, thấy nơi đó có một lán hoa, hoa mẫu đơn đang nở rộ, bèn tới gần xem thử.

Người bán hoa chính là một ông lão, nếp nhăn trên mặt giống như bùn đất bên trong chậu hoa, tràn đầy tang thương, thấy Địch Thanh đi tới, hỏi:

- Khách quan, muốn mua hoa sao?

- Chỉ xem thôi.

Địch Thanh nói cho lấy lệ. Thật ra hắn chẳng hề thích hoa. Nhiều văn thần trong triều rất thích trâm hoa, mỗi lúc gặp dịp tiết khánh long trong, cả triều đầy trâm hoa, nhưng Địch Thanh dù sao vẫn cho rằng một người nam nhân nhuốm máu đào, ít nhiều cũng có chút không được tự nhiên.

Ông lão thấy không có khách nào tiếp, thì nhiệt tình giới thiệu với Địch Thanh:

- Khách quan, ở đây có Tử Kim Bàn, Điệp Lâu Thúy, Bạch Ngọc Băng và Mãn Đường Hồng, đều rất đẹp, nếu mua một chậu về nhà bày trí, nhìn sẽ rất đẹp đó.

Lán bán hoa này đều đặt cho những loài hoa một cái tên lịch sự tao nhã, tìm cách thu hút ánh mắt của khách hàng.

Địch Thanh nhìn thấy Hoa mẫu đơn có tên gọi là Tử Kim Bàn màu nâu son viền vàng rất hiếm thấy; Mẫu đơn Điệp Lâu Thúy màu xanh biếc, cánh hoa tầng tầng lớp lớp, cũng rất đẹp; Bạch Ngọc Băng kia tên cũng như nghĩa chính là màu trắng; Mãn Đường Hồng thì toàn thân màu đỏ. Mẫu đơn nở rộ, quả thực là đặc sắc diễm lệ. Ánh mắt Địch Thanh đảo qua, đột nhiên hỏi:

- Có hoa gì tên là ... Diêu Hoàng không?

Ông lão ngẩn ra, lắc đầu nói:

- Giống Diêu Hoàng thì cực kỳ quý báu, đường kính hoa này nửa thước, lão cũng chỉ thây qua một lần mà thôi, nhưng ở đây lại không có bán.

Địch Thanh hỏi:

- Ở đâu có bán vậy?

Ông lão lắc đầu nói:

- Lão không biết, nhưng mà loại hoa này ... chỉ có nhà quyền thế phú quý mới có khả năng mua được thôi.

Ông lão thấy Địch Thanh ăn mặc giản dị, nhịn không được mà nhắc nhở.

Địch Thanh nghe lão bán hoa nói như vậy, thầm nghĩ: “Trong nhà tiểu thư kia có Diêu Hoàng, chắc là người phú quý rồi.”

Hắn mới vừa rồi chỉ nhìn thoáng qua, bị dung mạo của tiểu thư kia làm cho khiếp sợ, dĩ nhiên không dám nhìn lâu, chỉ ngờ ngợ cảm thấy tiểu thư kia cực kỳ xinh đẹp, nhưng y phục như thế nào thì không nhớ, cũng không để ý.

Đang trong suy tính thì hắn trông thấy có chậu mẫu đơn nở hoa màu vàng óng ánh ở trong khóm hoa t᭠cỏ lạ đua sắc có vẻ điềm tĩnh an bình. Địch Thanh chậm rãi đến gần, dừng chân trước hoa một lát. Ông lão giới thiệu nói:

- Khách quan, hoa này đây là ...

Chưa kịp nói xong, bên ngoài lán đột nhiên có người hô lớn:

- Cao lão đầu, ngươi đã chuẩn bị xong chưa?

Ông lão quay đầu lại nhìn lên, thấy ba du côn đứng ở trước lán, phía bên trái là một người có dáng người ục ịch, ở giữa là một người đội mũ lệch, phía bên phải là một người phanh ngực, ở trên mặt xăm một con mãnh hổ dữ tợn, cử chỉ của ba người này vô cùng hung hăng ngang ngược, chỉ thiếu xăm hai chữ "côn đồ" trên mặt nữa thôi.

Lão Cao thấy thế hoảng sợ bước lên phía trước nói:

- vị, chuẩn bị cái gì vậy?

Người đội mũ lệch nói:

- Ngươi giả bộ hồ đồ phải không? Phí bảo vệ lán nên giao nộp rồi phải không nhỉ?

Lão Cao vội la lên:

- Mấy ngày trước không phải đã nộp rồi sao?

Người đội mũ lệch cười lạnh nói:

- Ngươi vài ngày trước đã ăn cơm rồi, chẳng lẽ ngày hôm nay không cần phải ăn nữa?

Người xăm mặt kia gật đầu phụ họa nói:

- Lão đại nói có lý.

Lão Cao vội la lên:

- Lão bán hoa chỉ đủ nuôi thân mình, nào có dư thừa tiền đâu? Các vị ... à, tháng sau mới nộp tiền cho các ngươi có được không?

Người đội mũ lệch cười lạnh nói:

- Vậy tháng sau ngươi mới ăn có được không hả?

Người xăm mặt kia khen:

- Lão đại nói có lý.

Địch Thanh nghe đến đó, đã biết là có chuyện đã xảy ra, chậm rãi đi tới, lạnh lùng thốt:

- Các ngươi có biết nhục không?

Người đội mũ lệch nghe vậy cả giận nói:

- Ngươi là ai?

Địch Thanh thản nhiên nói:

- Cho dù các ngươi không biết nhục, lẽ nào cũng không biết chữ?

Người đội mũ lệch kia ngẩn ra, hét lớn:

- Đại gia biết hay không biết chữ, quan hệ gì với ngươi?

Người ục ịch đảo mắt, thấy chữ xăm trên mặt Địch Thanh thì biến sắc, nói khẽ với người đội mũ lệch:

- Đại ca, gã này chính là cấm quân.

Người đội mũ lệch mải đắc ý kiêu ngạo, lúc này mới nhìn thấy trên mặt Địch Thanh có xăm chữ, sắc mặt liền khẽ biến. Bọn họ dù sao cũng chỉ là du côn, thường ngày chỉ dọa dẫm bắt nạt kẻ yếu mà sống chứ nào dám đắc tội với cấm quân, biết thân phận của đối phương thì ngay lập tức nhún nhường, cười làm lành nói:

- Vị đại gia này, tiểu nhân dốt nát, thuở nhỏ nhà nghèo, đâu có tiền mời thầy dạy học, nên không biết chữ, không nhận ra đại gia, xin người rộng lượng bỏ qua.

Bộ mặt y liền thay đổi nói với lão Cao:

- Chỉ đùa một chút với lão thôi, đừng có tin là thật nhé!

Dứt lời nháy mắt với hai người huynh đệ, xám xịt mà rời đi.

Lão Cao thở phào nhẹ nhõm, nói với Địch Thanh:

- Vị quan gia này, đa tạ ngươi đã giúp đỡ. Lúc này kinh thành thuế má không nhẹ, còn phải đối phó với đám vô lại này, thật là khiến người ta đau đầu.

Dứt lời lão lắc đầu, vẻ mặt bất đắc dĩ.

Địch Thanh cười, quay đầu lại nhìn chậu hoa mẫu đơn màu vàng rực rỡ kia, hỏi:

- Hoa kia bán bao nhiêu tiền vậy?

Lão Cao cười theo nói:

- Nếu quan gia thích thì cứ việc cầm lấy đi là được, chậu hoa này coi như lão tặng cho ngài.

Địch Thanh cười đáp:

- Ta chỉ là một cấm quân tầm thường, không phải là gia gì cả. Nếu ta không trả tiền thì có khác gì bọn du côn kia chứ?

Dứt lời, hắn liền chìa bàn tay đưa tới một vài đồng tiền nói:

- Chừng này đủ chưa?

Lão Cao gật đầu liên tục:

- Vậy là đủ rồi, dư nữa, dư nữa.

Địch Thanh bỏ đồng tiền xuống cầm chậu hoa đi ra ngoài, nhưng đột nhiên sửng sốt, hóa ra cô gái áo trắng kia dẫn theo nha hoàn đang ở bên ngoài lán nhìn mình. Địch Thanh đem chậu hoa này đặt ở trước người nàng, không nói được lời nào, xoay người rời đi. Cô gái áo trắng kia vô cùng ngạc nhiên, gọi:

- Này...

Nhưng giọng nói của nàng yếu ớt như muỗi kêu, không biết Địch Thanh có nghe được hay không, sớm đã lẫn vào trong biển người.

Nha hoàn bĩu môi nói:

- Chỉ có một chậu hoa phế phẩm như thế, sao có thể so sánh với Diêu Hoàng trong nhà mình được? Tiểu thư, cô nói xem đúng không? Hắn đụng tiểu thư bị thương, chẳng lẽ muốn bồi thường bằng chậu hoa này hay sao? Nếu không phải tiểu thư rộng lượng, chúng ta đem hắn giao cho phủ Khai Phong, đánh hắn hơn chục hèo! Hừ!

Cô gái áo trắng ôn hòa nói:

- Hình như lúc nãy hắn có việc gấp đó. Em không thấy hắn giúp đỡ ông lão bán hoa đấy sao? Nói như vậy, hắn chính là người tốt.

Thì ra mới vừa rồi Địch Thanh đuổi đi ba du côn kia, hai người chủ tớ này đều trông thấy.

Lão già nghe nha hoàn nói đây là hoa phế phẩm thì có chút bất mãn nói:

- Vị cô nương này, hoa của lão không phải là hoa phế phẩm, cô xem nó nở nhiều hoa đẹp không này. Hơn nữa loại hoa này, không phải lão khoác lác, xung quanh trăm dặm cũng rất hiếm thấy.

Cô gái áo trắng ngồi xuống nhìn chậu hoa kia, đột nhiên nói:

- Ông à, hoa này thật kỳ lạ, trên cánh hoa sao lại có vân hình trái tim vậy? Hoa văn này, rất là kỳ lạ, giống như trái tim vẽ bên cạnh ngọc tiêu.

Nàng quan sát cực kỳ tỉ mỉ, nhìn ra được hoa này có chỗ bất thường.

Ông lão tự hào nói:

- Đương nhiên rồi, hoa này mặc dù không nổi tiếng nhưng những nơi khác đều không có. Lão đã gặp được một người tao nhã, đặt cho hoa này một cái tên, gọi là Phượng Cầu Hoàng!

Địch Thanh rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự, mờ mịt mà mãi lang thang khắp nơi. Chỉ đến khi bóng tà dương lặn dần, lũ chim mệt mỏi bay về tổ thì hắn mới chợt tỉnh táo lại, tự hỏi vì sao mình lại thất hồn lạc phách như vậy, chẳng lẽ vẫn còn muốn tìm Đa Văn Thiên Vương?

Vừa nghĩ đến Đa Văn Thiên Vương, lửa giận trong lòng Địch Thanh lại bùng lên, ngẫm nghĩ: "Giáo đồ Di Lặc này xem ra vẫn còn có chút tôn kính đối với tượng phật Di Lặc. Đa Văn Thiên Vương đến một lần, không chừng sẽ đến lần thứ hai. Đã thế, sao mình không về Đại Tướng Quốc Tự xem thử, có khi gặp hắn cũng nên."

Mới đi được vài bước, hắn đã không cầm lòng được, lại nghĩ: "Không biết nàng ấy đã rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự hay chưa?"

Nghĩ tới đây Địch Thanh mới nhận ra, là ngay cả bản thân hắn cũng không rõ mình muốn quay về Tướng Quốc Tự là muốn tìm Đa Văn Thiên Vương hay là gặp cô gái kia. Hắn không khỏi tự chế nhạo bản thân: “Địch Thanh ơi là Địch Thanh, bộ dạng ngươi thế này mà cũng mơ mộng hão huyền hay sao?”

Địch Thanh không muốn nghĩ đến cô gái kia nữa, bèn nhắm chuẩn hướng, chạy về phía Đại Tướng Quốc Tự. Trên đường đi, hắn ghé qua quán bên đường mua hai cái bánh bao cất vào trong lòng ngực. Lúc này đám đông tụ họp trong chùa đã sớm từ lâu, dân chúng cũng đều đã bỏ về nên trong chùa đã thanh tịnh hơn rất nhiều.

Địch Thanh rảo bước vào trong Thiên Vương điện, thấy trên bàn thờ khói hương nghi ngút, chỉ còn một tăng nhân đang gõ mõ ở lại. Trong lòng khẽ động, hắn lặng lẽ vòng ra phía sau bàn thờ, thừa dịp tăng nhân này không chú ý liền chui xuống phía dưới bàn thờ. Hắn làm việc không dựa vào một quy tắc nào cả, chỉ nghĩ rằng nếu hắn ở đây lâu thì chắc tăng nhân trong tự sẽ cảm thấy lạ, có khi lại đuổi hắn ra ngoài không chừng, nên dứt khoát phải trốn trước đã.

Dưới bàn thờ tương đối sạch sẽ, Địch Thanh nhẹ nhàng rút thanh đao ở thắt lưng ra, rạch một khe nhỏ trên tấm màn bằng vải bố để nhìn ra ngoài dò xét. Hắn khoanh chân ngồi xuống, nhất thời trong lòng dao động, không biết phương pháp ôm cây đợi thỏ này có tác dụng hay không. Nhưng muốn tìm Đa Văn Thiên Vương thì thực sự hắn cũng không nghĩ ra được biện pháp nào hay hơn nữa.

Màn đêm buông xuống, đèn được thắp lên, tiếng ồn ào dần dần rời xa Đại Tướng Quốc Tự, trong tự chỉ còn văng vẳng tiếng cầu kinh. Nghe được âm thanh ôn hòa này, trong lòng Địch Thanh đã tĩnh lặng trở lại. Hắn vẫn từ lỗ hổng trên tấm màn bằng vải bố nhìn ra ngoài dò xét, nhưng nhìn chăm chú liên tục khiến cho đôi mắt trở nên đau nhức, mà Đa Văn Thiên Vương lại không xuất hiện lần nữa.

Địch Thanh thấy hơi đói bụng, bèn móc bánh bao ra xé một miếng, sợ phát ra tiếng động làm cho tăng nhân phát hiện, liền cho vào trong miệng chậm rãi nhai nuốt. Sau khi ăn bánh bao xong, lại qua nửa canh giờ, Địch Thanh ngồi lâu bàn chân tê rần, biết đã gần đến nửa đêm, không khỏi cảm thấy vô cùng uể oải. Hắn thầm nghĩ, cửa chùa đã đóng lâu rồi, chắc chắn là Đa Văn Thiên Vương không tới.

Lúc này có tiếng bước chân vang lên, tinh thần Địch Thanh chấn động, bèn đưa mắt nhìn lại. Phía trước có một tăng nhân một tục nhân đi tới, tăng nhân này mặt mũi hiền lành, râu dưới cằm trắng như cước; tục nhân kia thì đưa lưng về phía Địch Thanh, trên người không có đeo vật gì dài như cây dù, không giống người Địch Thanh đang đợi. Địch Thanh nhìn không thấy chính diện mặt mũi của tục nhân, chỉ thấy được giày của hắn là thêu hoa dệt gấm, cực kỳ hoa mỹ. Địch Thanh biết đôi giày này là do danh phường Ngũ Hồ Xuân kinh thành làm ra, người mua đều là quan to quý nhân.

Người vừa đến rõ ràng không có quan hệ gì với Địch Thanh. Hắn vô cùng thất vọng, nhắm hai mắt lại, chỉ nghe thấy tục nhân kia hỏi:

-Trụ trì, ta có một chuyện muốn thỉnh giáo.

Âm điệu người này tuy còn trẻ nhưng trong giọng nói ẩn chứa vẻ chán nản, giống như một lão già bảy tám mươi tuổi.

Địch Thanh hơi ngạc nhiên, cảm thấy giọng điệu người này và khuôn mặt của Đa Văn Thiên Vương có chung một điểm, là không hài hòa như lẽ thường. Hắn lại nghĩ: "Trụ trì Đại Tướng Quốc Tự phụ thuộc hoàng gia, không phải muốn gặp là gặp được, vậy mà người này có thể xin chủ trì giải thích nghi vấn, không biết có địa vị gì đây?"

Trụ trì nói:

- Thí chủ, xin cứ hỏi.

Tục nhân buồn rầu nói:

- Niết bàn là ở đâu?

Địch Thanh thiếu chút nữa phá lên cười, thầm nghĩ: "Chẳng lẽ kinh thành này không phải Niết bàn sao?"

Nhưng nghĩ lại một chút, khóe miệng hắn vẫn mang nét cười.

Trụ trì chậm rãi đáp:

-Nhược tầm tịnh thổ, đương cầu tịnh tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, vô xử bất tịnh thổ. (Muốn thấy Niết bàn, để lòng thanh tịnh. Khi tâm đã tịnh, đâu chẳng Niết bàn.)

Trong lòng Địch Thanh cười khổ: "Tuy nói thì là vậy, nhưng muốn tịnh tâm đâu phải là chuyện dễ dàng?"

Tục nhân liền nói:

- Cao tăng nói rất đúng, nhưng ta lại trước sau không thể tĩnh tâm được, vẫn luôn cảm thấy khắp nơi đều là địch, như ở trong lồng giam, nên mới đến đây để cầu phật.

Địch Thanh nghe trong ngữ khí của hắn ta tràn đầy vẻ hoang mang khốn khổ, hệt như con thú bị hãm sâu vào trong lồng, lòng hắn đột nhiên dâng lên sự đồng tình. Nhiều năm qua, Địch Thanh cũng vùng vẫy ở trong gian khổ, cũng trải qua cảm giác loại cảm giác này.

Trụ trì đáp:

-Thánh nhân cầu tâm không cầu phật, người ngu dốt cầu phật không cầu tâm. Thí chủ, bần tăng muốn kể một chuyện xưa ...

Tục nhân vui vẻ nói:

- Xin kể.

Trụ trì chậm rãi kể:

- Nghe kể rằng bên bờ biển Đông có một con chim bói cá, chán ghét thế tục xấu xa, nó cảm thấy thiên hạ đều là kẻ địch. Chính vì thế nó bay đến sườn núi cao đối diện biển xây tổ, tưởng rằng sẽ không còn nguy hiểm nữa, nhưng không ngờ đến một ngày thủy triều dâng lên, tổ chim bị sóng biển cuốn đi. Chim bói cá than thở nói: "Trong lòng có địch, khắp nơi đều là địch."

 Chương 24 – 27: Ngũ Long

Địch Thanh nghe xong trong lòng có chút hỗn loạn, thoáng nghĩ, "Ta và Đa Văn Thiên Vương không phải là địch, nhưng nếu người này không chết thì đại loạn sẽ không thể dừng lại được. Nếu hắn muốn quay đầu làm người tốt..." Nghĩ tới đây, khóe miệng nhếch lên một nụ cười cay đắng, "Nếu hắn muốn quay đầu làm người tốt, ta có thể tha hắn không? Sợ rằng không thể. Vậy chẳng phải gần nghìn thường dân sẽ chết oan uổng ở thung lũng Phi Long sao?

Tục nhân yên lặng một lúc lâu, lúc này mới nói:

- Đa tạ đại sư chỉ điểm, ta đã biết nên làm thế nào. Đại sư vất vả rồi, ta có ý muốn trùng tu chùa chiền, làm một chút công đức, không biết ý đại sư thế nào?

Trụ trì nói:

- Trùng tu hay không trùng tu, có công đức hay không công đức, trong lòng có phật, đã là công đức.

Tục nhân hiểu ý, hai tay hợp thành chữ thập thi lễ, chậm rãi bỏ đi, trụ trì cũng theo sau, Thiên Vương điện thoáng cái đã yên tĩnh trở lại.

Địch Thanh nghe cao tăng giảng kinh Phật, lúc thì cảm thấy có lý, lúc thì lại cảm thấy không buông bỏ được, lại có chút tò mò về địa vị của tục nhân kia. Đang miên man suy nghĩ thì đột nhiên cảm thấy một tia sáng xuyên thấu qua tấm màn vải, tối rồi lại sáng. Địch Thanh khẽ rùng mình, tiến đến phía sau màn che bằng vải bố nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy một người đứng yên trước tượng phật Di Lặc, bên hông có thắt một cái đai lưng màu xanh, lưng đeo cây dù dài, đúng là người mà hắn muốn tìm kiếm.

Tim Địch Thanh đập thình thịch, nhìn qua mặt người đó. Chỉ thấy khóe miệng người đó hơi mỉm cười, nhưng khuôn mặt cực kỳ lạnh lẽo u ám, đang nhìn tượng phật Di Lặc đến xuất thần. Địch Thanh nhìn người đó một lúc lâu, thấy vẫn đứng yên không đổi, trong lòng không khỏi cảm thấy ớn lạnh. Địch Thanh biết mình dù cho không bị thương thì võ công so với người đó cũng kém quá xa, thời khắc này hắn ngay cả thở mạnh cũng không dám, thầm than Quách Tuân đã rời khỏi kinh thành, nếu không cũng có thể tìm Quách Tuân đối phó với người này.

Không biết đã qua bao lâu, bên ngoài cửa điện có tiếng bước chân vọng đến, một tăng nhân bước vào, thấy người ấy đứng lặng im trước tượng phật, ngạc nhiên quát khẽ:

- Ngươi là ai?

Đại Tướng Quốc Tự là quốc tự, để ngọn đèn dầu ở chủ điện cả đêm không tắt, tăng nhân này phụ trách nửa đêm đến đây thêm dầu thắp thì bỗng nhiên nhìn thấy có người lạ ở đây, khó tránh khỏi ngạc nhiên.

Đa Văn Thiên Vương nghe được tiếng quát hỏi, đột nhiên xoay người lại, đến trước mặt tăng nhân. Cây dù dài trên lưng khẽ chuyển động, cán ô đã đập mạnh vào sau gáy tăng nhân.

Tăng nhân chưa kịp tri hô thì cả người đã mềm nhũn ngã xuống đất. Người nọ vươn tay ra bắt được hũ dầu cầm trong tay tăng nhân, đi một vòng quanh đại điện, châm thêm dầu cho những ngọn đèn ở bốn vách tường.

Địch Thanh từ một nơi bí mật gần đó nhìn thấy rõ ràng, nhưng không hiểu người này rốt cuộc muốn gì.

Người kia thêm dầu xong, trở lại ngồi trước mặt phật Di Lặc, nhìn Di Lặc phật chủ, lẩm bẩm nói:

- Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp ... Ngũ Long lại xuất hiện, nhỏ lệ không ngừng?

Y lặp lại không ngừng mấy câu nói đó, hình như đang suy nghĩ gì đó. Địch Thanh nghe không hiểu gì hết, thầm nghĩ năm xưa ở thung lũng Phi Long, người này niệm chú mê hoặc nhân tâm, nhưng hiện giờ ở chỗ này chỉ có một mình hắn thì còn niệm cái chú ngữ làm gì?

- Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt. Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp!

Người đó lại niệm những lời này đến điên đảo, miết chặt đầu mày, ánh mắt nhìn chăm chú trên thân tượng phật Di Lặc.

Dưới ngọn đèn dầu, phật Di Lặc rạng rỡỏa hào quang. Trong người kia đột nhiên lộ ra vẻ vui mừng, thấp giọng nói:

- Đúng rồi, Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp!

Bất luận giọng điệu y thế nào nhưng nụ cười ở khóe miệng vẫn tồn tại.

Địch Thanh chợt tỉnh ngộ: “Người này chắc chắn là đang mang mặt nạ cải trang."

Hắn chưa kịp suy nghĩ nhiều thì thân người đó chợt lóe lên, nhảy vút lên cạnh đài sen, chuyển tới bên thân tượng phật Di Lặc, đi liên tục mấy vòng.

Địch Thanh không nhịn được thò đầu ra khỏi tấm màn bố quan sát, cũng may toàn bộ tâm tư người này đều đặt trên người phật Di Lặc, nằm mơ cũng không ngờ rằng dưới bàn thờ có người đã nhìn thấy tất cả.

Cuối cùng người kia cũng dừng lại, lấy tay gõ gõ vào thân tượng phật Di Lặc, hai tay đột nhiên đặt trên tượng phật Di Lặc, tập trung tinh thần dùng hết sức, khẽ gầm một tiếng. Chỉ nghe thấy tiếng ầm ầm vang lên, tượng Di Lặc phật đã bị y đẩy khỏi đài sen. 

Trong tiếng nổ, tượng phật Di Lặc đã vỡ thành bốn năm mảnh, bụi bay tràn ngập không gian. Đột nhiên có một tiếng "đinh" vang lên rất nhỏ, người kia nhảy xuống, đưa tay chụp lấy một vật gì đó trong mảnh vỡ của tượng phật, không nén được vui mừng nói:

- Quả nhiên ở chỗ này.

Trong lòng Địch Thanh tràn đầy hiếu kỳ, không biết người này rốt cuộc lấy cái gì.

Đúng lúc này, bên ngoài Thiên Vương điện truyền đến mấy tiếng quát lớn:

- Là ai ở trong điện?

Tiếng quát chưa dứt thì đã có mấy võ tăng tiến vào.

Mặc dù Đại Tướng Quốc Tự lấy việc nghiên cứu tinh hoa Phật pháp, vì hoàng tộc phục vụ là chính, nhưng trong chùa cũng thu không ít pháp khí kim ngân, danh gia mặc bảo, sợ đám trộm vặt lớn gan không có mắt nhìn vào chùa trộm cướp cho nên luôn có võ tăng hộ viện. Vào Đại Tướng Quốc Tự trộm cướp là trọng tội, xưa nay đều phải bị chém đầu, quả thực đã uy hiếp không ít đạo tặc. Bởi vì nguyên nhân này mà mấy năm qua ít có kẻ trộm, tăng nhân trong chùa cũng thoải mái rất nhiều, không ngờ hôm nay trong Thiên Vương điện lại có biến đổi lớn. Mấy võ tăng tuần tra trong viện nghe được động tĩnh vội vàng chạy vào, nhìn thấy bên tượng phật Di Lặc bị phá vỡ, bên cạnh đứng một người, không khỏi vừa sợ vừa giận, không thèm hỏi mà vung côn lên đánh về phía người đó.

Người nọ hừ lạnh một tiếng, tay nắm lấy trường côn, tung người đá tới, đá một võ tăng văng ra ngoài. Đám võ tăng kinh hãi, làm sao lường trước được võ công người này cao cường đến như vậy, nhưng mang trách nhiệm bảo vệ chùa trong người, dù không đánh lại cũng phải kiên trì bao vây.

Địch Thanh nghe được tiếng gào “Ai, ui, má ơi” không dứt, chỉ trong chớp mắt, mấy võ tăng vọt tới đều người nọ đánh bay ra ngoài. Địch Thanh vốn định liên thủ cùng đám võ tăng, nhưng lại sợ bị võ tăng hiểu lầm là đồng đảng của tên trộm đó, không chừng ăn không được thịt dê, trái lại còn chuốc lấy phiền phức vào người. Trong lúc hắn đang lưỡng lự, người nọ đã lẻn đến trước điện, vừa mới nhảy ra ngoài điện chợt nghe được một tiếng hét lớn:

- Nằm xuống!

Một vệt kiếm quang như trăng sáng xuyên mây, đâm về phía trước người nọ!

Người nọ kinh hãi lùi lại một bước, nhưng đường kiếm kia hư hư thực thực, biến hoá khó lường, người nọ sau khi lùi một bước, lại bị bức lui thêm hai bước. Người xuất kiếm cũng âm thầm lặng lẽ đánh một chưởng vào giữa người nọ.

Người nọ bị một chưởng đánh trúng bay ngược trở ra, khí huyết trong lồng ngực cuồn cuộn, không khỏi hoảng hốt, thầm nghĩ “sao hắn ta lại ở đây?” Trước khi tới đây y đã thăm dò được địa thế trong điện, lại biết được võ tăng ở Đại Tướng Quốc Tự tuy đông nhưng đều không phải là đối thủ của y, vì vậy không kiêng dè gì cả, đâu ngờ kẻ thù một mất một còn của mình không ngờ lại cũng đi tới Đại Tướng Quốc Tự.

Địch Thanh nhìn thấy người vừa đến ánh mắt như kiếm phong thì trong lòng mừng rỡ, thì ra người xuất kiếm đẩy lùi gã kia lại chính là bộ đầu Khai Phong Diệp Tri Thu!

Một chưởng củaDiệp Tri Thu trúng đích vẫn không hề buông tha. Cả người gã theo kiếm bay tới, kiếm quang trùng trùng đâm tới toàn thân người nọ.

Người nọ hừ lạnh một tiếng, trở tay tháo cây dù dài đeo trên lưng xuống, chỉ cần điểm nhẹ lên mặt đất đã lập tức bay nhanh trở ra. Diệp Tri Thu ngạc nhiên với thân thủ người nọ, nhưng chẳng hề buông tha, mũi chân liên tiếp điểm mấy cái, cưỡi gió đuổi theo.

Hai người một tiến một lùi, thoáng cái đã đến bên cạnh tượng phật Tứ Đại Thiên Vương. Người nọ quát to một tiếng, cầm cây dù đâm tới Diệp Tri Thu, không ngừng di chuyển. Diệp Tri Thu thầm rùng mình, biết rõ cây dù dài của người này biến hóa vô cùng nên tập trung toàn bộ tinh thần mà chống đỡ.

Người nọ thấy thế thì cười một tràng dài, thò tay kéo một tượng Phật sắp đổ ném về phía Diệp Tri Thu. Diệp Tri Thu đành phải lùi ra sau một bước, người nọ thừa cơ tung người nhảy lên đỉnh tượng Phật, lại nhảy tiếp lên một cái xà ngang trên nóc điện, nhưng cực hạn của gã vẫn còn cách xà ngang một cánh tay, trong ranh giới sắp rơi xuống, người nọ quay ngược cán dù móc vào rồi ôm lấy xà ngang, làm vỡ ngọc lưu ly trên đỉnh điện, vọt tới trên nóc Thiên Vương điện.

Đỉnh điện mặc dù cao, người nọ mấy lần mượn lực, rõ ràng là muốn từ đỉnh điện để chạy trốn.

Diệp Tri Thu vô cùng giận dữ, không ngờ hắn ta lại ứng biến nhanh nhạy đến như vậy. Gã không dám khinh nhờn tượng phật, nhưng lại hoàn toàn không có cách gì leo lên nóc điện, nên chỉ có thể lách mình ra khỏi điện, thét ra lệnh thuộc hạ:

- Bao vây Thiên Vương điện.

Nhưng mệnh lệnh y vừa ra thì tự biết đã có vấn đề lớn, dù sao Thiên Vương điện cũng không phải là đại điện cô lập, mà còn gắn liền với cung điện khác, người nọ tuyệt đối không thể ở lại đỉnh điện chờ người lùng bắt, chỉ sợ lúc này sớm đã trốn thoát mất rồi.

Ánh trăng như nước, chiếu một mảnh tiêu điều trong trời đất. Diệp Tri Thu cau mày, phỏng đoán mục đích đến của người này. Đột nhiên nghe được trong điện truyền đến vài tiếng quát:

- Người nào?

Trong lòng Diệp Tri Thu ngạc nhiên, lắc mình vào trong điện, thấy đám võ tăng vây bắt một người, thất thanh:

- Ngươi...

Trong lòng gã khẽ động, hét lớn:

- Là người một nhà, các vị hãy thu hồi côn bổng lại đi.

Mới vừa rồi Diệp Tri Thu cùng người nọ đại chiến trong điện, đám võ tăng không làm được gì, đều cảm thấy vừa thẹn vừa ngượng, thấy kẻ trộm phá đỉnh điện chạy thoát thì càng khiến cho bọn họ trợn mắt líu lưỡi, không ngờ trên đời này còn có công phu bậc này. Những tăng nhân bảo vệ tự này ngày ngày luyện võ, tuy nói là tăng nhân vô dục vô cầu nhưng trong nội tâm đối với tài năng của Diệp Tri Thu tại Khai Phong thì cũng có lòng muốn tỷ thí. Nhưng hôm nay thấy người cầm cây dù dài hoành hành không kiêng nể gì ai, nếu như không có Diệp Tri Thu thì chỉ sợ tất cả bọn họ đều mất mặt, cho nên vừa có bảy phần kính nể ba phần cảm kích Diệp Tri Thu, liền thu hồi côn bổng.

Địch Thanh hơi xấu hổ, hô lên:

- Diệp bộ đầu.

Thì ra người nọ lật nhào tượng phật, thiếu chút nữa là đập xuống bàn thờ, Địch Thanh bị dọa cho xanh mặt, không thể ẩn náu được nữa mà lao ra ngoài, đám võ tăng thấy có người khác, thầm muốn lập công chuộc tội nên vây Địch Thanh lại. Địch Thanh thầm nghĩ không xong, nhất thời không biết giài thích thế nào mới phải.

Diệp Tri Thu cau mày, đột nhiên nói:

- Ngươi vì theo dõi Đa Văn Thiên Vương này mà đến đây sao?

Địch Thanh bội phục nói:

- Diệp thần bộ quả nhiên danh bất hư truyền. Ban ngày ta nhìn thấy người này ở trong chùa đi tới đi lui, lòng mang ý đồ xấu, nghĩ rằng có khả năng buổi tối hắn sẽ tới đây nên mới ở chỗ này ôm cây đợi thỏ. Gã đó thật sự là Đa Văn Thiên Vương, nói như vậy thì ta không có nhận lầm người?

Diệp Tri Thu mặc dù thấy Địch Thanh nói vô cùng tỉ mỉ xác thực, biết hắn tuyệt đối không phải là bè đảng của Di Lặc giáo, và cũng vì nguyên do Quách Tuân nên cũng không muốn thêm nhiều chuyện phức tạp xảy ra, y bèn nói:

- Tốt, ngày khác ta sẽ thỉnh cầu công lao cho ngươi. Ngươi trước tiên hãy rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự đi.

Địch Thanh không nghĩ núp ở dưới gầm bàn mà cũng có công lao, xem như là thời gian khổ cực cũng đã qua. Hắn vừa định nói gì thì có người vội vội vàng vàng tới bên cạnh Diệp Tri Thu, thấp giọng thì thầm hai câu. Diệp Tri Thu gật đầu, nói với Địch Thanh:

- Ta ... còn có việc khác, ngươi rời khỏi nơi đây trước đi đã.

Y đã hai lần giục Địch Thanh rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự, vẻ mặt hình như có điều bí ẩn khiến cho Địch Thanh có phần khó hiểu. Tuy nhiên Địch Thanh biết rõ Diệp Tri Thu có ý tốt, liền gật đầu rời khỏi chùa. Vừa mới ra khỏi Đại Tướng Quốc Tự, cửa chùa Ầm một tiếng đóng chặt. Địch Thanh vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ chắc đám tăng nhân này hơn phân nửa thấy tượng phật Di Lặc bị phá hỏng, sợ gánh trách nhiệm cho nên len lén ở trong chùa tu bổ, nhưng Diệp Tri Thu thì ở trong chùa làm gì?

Địch Thanh lắc đầu không muốn suy nghĩ nhiều bèn trở về phủ đệ của Quách Tuân.

Quách phủ không nhỏ nhưng lại chỉ có huynh đệ họ Quách ở, Quách Tuân trong một năm thì đã có hơn nửa năm ở bên ngoài kinh thành bắt giặc dẹp loạn, mấy năm nay Địch Thanh vẫn luôn ở Quách phủ. Địch Thanh ghé qua thăm Quách Quỳ trước, thấy nó đã ngủ say bèn nhặt cái chăn rơi trên mặt đất, nhẹ nhàng đi vào trong thay cho Quách Quỳ một cái chăn ấm, lúc này mới trở lại gian phòng của mình, châm ngọn đèn dầu.

Ngọn đèn lập loè giống như đôi mắt đa tình của tình nhân, Địch Thanh nhìn ngọn đèn một lát, chậm rãi sờ tay vào ngực móc ra một cầu đen to cỡ nửa nắm tay.

Chẳng ai biết đó là vật gì, Địch Thanh cũng vậy. Nhắc đến cũng là trời xui đất khiến, thứ này từ trên người Đa Văn Thiên Vương rơi xuống.

Lúc đó Đa Văn Thiên Vương phá vỡ tượng phật Di Lặc, lấy ra một vật từ trong đó, làm kinh động võ tăng và Diệp Tri Thu. Đa Văn Thiên Vương bị Diệp Tri Thu đánh một chưởng làm rơi ra một quả cầu đen, lăn xuống dưới bàn thờ. Địch Thanh đưa tay tóm lấy, cất vào trong ngực, hắn biết thứ này chắc là liên quan đến Đa Văn Thiên Vương nên đem vật này giữ lại trên người.

Lúc ở Đại Tướng Quốc Tự, Địch Thanh vốn định nói với Diệp Tri Thu điều này nhưng Diệp Tri Thu vội vội vàng vàng rời đi làm cho Địch Thanh không có cách nào mở miệng. Địch Thanh cầm quả cầu đen này, thấy nó cũng không phải sắt, toàn bộ đen nhánh rất bắt mắt, cảm giác thô ráp, không hiểu sao Đa Văn Thiên Vương lại phải vất vả mạo hiểm tới lấy?

Lật qua lật lại nhìn hồi lâu bỗng nhiên phát hiện quả cầu đen hình như lóe hàn quang nhè nhẹ, Địch Thanh cầm quả cầu đen tiến về phía ngọn đèn, phát hiện trên quả cầu đen có khắc hai chữ triện Ngũ Long.

Địch Thanh cau mày, nhớ tới lời Đa Văn Thiên Vương lẩm bẩm nói “Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp. Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt.” Xem ra phật Di Lặc không phải độ kiếp mà là gặp nạn, mới sinh ra vật Ngũ Long này.

Nếu quả cầu đen này là Ngũ Long, vậy nó có tác dụng gì?

Địch Thanh nghĩ đến đau cả đầu mà vẫn không nghĩ ra. Thử dùng đao khứa nhẹ lên mặt quả cầu đen, hắn phát hiện ra vật này cực cứng, đao sắc như thế mà cũng không để lại một vết tích nào.

Địch Thanh nghiên cứu liên tục một canh giờ mà mãi vẫn không thể khám phá ra điều gì, hắn ném thứ đó lên mặt bàn, lầm bầm:

- Cái thứ khỉ gió gì đây chứ, lãng phí thời gian ngủ của ông mày quá.

Bận rộn cả đêm, bây giờ cũng đã tờ mờ sáng. Địch Thanh không thèm cởi giày, cứ thế ngã lăn ra giường nhìn lên nóc nhà, trong đầu đột nhiên lại hiện ra khuôn mặt thanh lệ thoát tục kia, lắc đầu cố xua hình bóng ấy ra khỏi đầu, mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi. 

Không biết đã qua bao lâu, Địch Thanh đột nhiên cảm thấy trước mắt có tia sáng rực chiếu thẳng vào mắt. Gian phòng của hắn quay về hướng đông, mặt trời mọc lên ở phương đông, tia sáng đầu tiên của ánh mặt trời lúc nào cũng chiếu vào đây. Địch Thanh đã quen với ánh mặt trời nhưng lần này lại cảm thấy ánh mặt trời khác thường, hắn mở choàng hai mắt thì đột nhiên nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ đến khó tin, kinh ngạc đến nỗi thiếu chút nữa bật kêu to.

Hóa ra trước mắt hắn xuất hiện một dải lụa màu đỏ, bằng phẳng trải rộng ra, trên dải lụa đầy những chấm li ti kì quái, trong lúc nhất thời khó mà phân biệt được.

Địch Thanh phút chốc run sợ, bị cảnh tượng trước mắt làm cho kinh hãi, hét to một tiếng. Tiếng hét của hắn vừa phát ra thì dải lụa đỏ đột nhiên biến mất, trong phòng liền yên tĩnh trở lại. Chỉ thấy một luồng ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ chiếu vào trên giường, Địch Thanh lúc này mới phát hiện toàn thân mình mồ hôi đầm đìa, đồng thời mí mắt hắn giật giật liên tục.

Cửa phòng mở ra. Quách Quỳ chạy ùa vào hỏi:

- Địch nhị ca, sao vậy?

Địch Thanh bất thình lình nhảy dựng lên tóm lấy Quách Quỳ hỏi:

- Tiểu Quỳ, đệ mới vừa rồi ... có thấy dải lụa đỏ không?

- Lụa đỏ, lụa đỏ nào cơ?

Quách Quỳ chẳng hiểu gì, đưa tay sờ soạng trên trán Địch Thanh:

- Huynh sao mà ra nhiều mồ hôi vậy, bị bệnh à? Mí mắt huynh sao mà giật giật liên tục thế?

Địch Thanh lau mồ hồi trên mặt, cảm thấy mí mắt cuối cùng cũng đã ngừng giật, gấp gáp nói:

- Mới vừa rồi nếu đệ ở bên ngoài, hẳn là phải thấy ở trong phòng này có một dải lụa màu đỏ, từ mặt tường này kéo dài tới mặt tường kia.

Hắn đưa tay phụ họa, thấy Quách Quỳ kỳ quái nhìn mình thì mất hứng bỏ tay xuống, lẩm bẩm:

- Đệ không có nhìn thấy sao?

Quách Quỳ khó hiểu nói:

- Đệ vốn muốn tìm huynh, đứng ngoài cửa sổ nhìn thấy huynh đang ngủ say. Đệ đang do dự có nên chờ một lát hay không thì chợt nghe huynh thét to một tiếng, đệ lập tức chạy vào đây, đâu có thấy lụa đỏ gì đâu?

Trong lòng cậu bé thầm nghĩ Có phải Địch nhị ca vì lo lắng quá độ, buồn bực sinh ra bệnh rồi hay không?

Địch Thanh nhìn chằm chằm Quách Quỳ, thấy thái độ của cậu thành thật, cũng không cần phải bịa chuyện với mình làm gì, lẩm bẩm:

- Chẳng lẽ đây chỉ là một giấc mơ sao?

Thấy Quách Quỳ lo lắng nhìn mình, Địch Thanh miễn cưỡng cười nói:

- Đệ tìm huynh có chuyện gì?

- Đúng ra là Diệp bộ đầu tìm huynh ... Nhưng mà y đi rồi.

Quách Quỳ nói:

- Địch nhị ca, tối hôm qua có phải huynh đến Đại Tướng Quốc Tự không?

Địch Thanh cũng không giấu diếm, đem chuyện hôm qua kể lại một lượt nhưng lại lược bỏ bớt đi chuyện nữ tử áo trắng và quả cầu đen. Hắn không muốn đề cập đến chuyện cô gái ấy cho Quách Quỳ nghe, đồng thời cũng thấy quả cầu đen có chút quái dị. Vừa nghĩ đến quả cầu đen, hắn không nhịn được nhìn về phía cái bàn, thấy vật kia vẫn bình thản nằm ở cạnh bàn, ánh sáng mặt trời lên, vẫn là một màu đen tuyền.

Quách Quỳ chú ý tới quả cầu đen kia, thắc mắc:

- Đây là vật gì?

- Huynh nhặt được.

Địch Thanh thuận miệng đáp.

Quách Quỳ cầm ở trong tay xem xét, cười nói:

- Hình như là sắt, nếu như là vàng thì ngon rồi.

Cậu để lại quả cầu đen trên bàn, nói:

- Diệp bộ đầu bảo đệ nói với huynh là mấy ngày này không nên đi tới Đại Tướng Quốc Tự. Còn nữa, chuyện tối hôm qua thì cố gắng mà quên hết đi, nhớ kỹ nhé!

Chỉ sợ Địch Thanh có điều không vừa lòng, Quách Quỳ nói:

- Diệp bộ đầu cũng là muốn tốt cho huynh. Y nói không có nghi ngờ huynh gì hết, nhưng có nhiều chuyện không cần để ý tới quá, để tránh khỏi chuốc lấy phiền phức vào người.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Huynh hiểu.

Quách Quỳ thầm nghĩ: “Huynh thì hiểu, nhưng đệ lại không hiểu gì hết.”

Quách Quỳ thầm nghĩ: “Huynh thì hiểu, nhưng đệ lại không hiểu gì hết.”

Nhưng thấy vẻ mặt Địch Thanh hoảng hốt thì không hỏi nhiều, bèn xoay người rời đi. Địch Thanh nhớ tới hôm nay còn phải làm đương sai, đành sửa sang lại trang phục chuẩn bị ra ngoài. Chức quan Thập Tương này của hắn tuy là cơm ăn không phải lo, nhưng chuyện nên làm thì vẫn phải làm tốt. Cũng may Đại Tống đã hơn mười năm không có chiến tranh, kinh thành vẫn bình an vô sự, cái gọi là việc đương sai, chỉ cần làm qua loa cho xong.

Trước khi ra ngoài, Địch Thanh nhìn quả cầu đen trên bàn một lúc lâu, cuối cùng đem bỏ vào trong ngực, chẳng biết vì sao hắn nghĩ ảo cảnh sáng nay dường như có liên quan đến quả cầu đen này.

Vừa đến cấm quân doanh, Địch Thanh đã thấy có hai người xì xầm bàn tán. Một người mặt dài như mặt ngựa tên là Trương Ngọc, người còn lại là Lý Vũ Hanh, có bộ râu rậm rất uy mãnh nhưng con mắt lại chẳng lớn hơn so với hạt đậu tương được bao nhiêu, khiến cho cái uy mãnh của gã giảm đi nhiều.

Địch Thanh tiến lại gần hỏi:

- Đang bàn chuyện gì vậy?

Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh đều xem như là bằng hữu của Địch Thanh, quan hệ trong Kiêu Võ quân doanh cũng không đến nỗi nào. Trương Ngọc là một Quân Đầu, cao hơn Địch Thanh một cấp, Lý Vũ Hanh lại là một Tương Ngu Hầu, lại nhỏ hơn Địch Thanh một cấp. Bất kể là Quân Đầu, Thập Tương hay Tương Ngu Hầu, đều thuộc quan quân cấp thấp, quản lý không bao nhiêu việc, bổng lộc mỗi tháng nhiều lắm cũng chỉ một hai lượng bạc mà thôi, cho nên mọi người thường ngày cũng chỉ hi hi ha ha, ít có phân biệt cấp bậc.

Lý Vũ Hanh thấy Địch Thanh đến, ra vẻ thần bí nói:

- Địch Thanh, ta kể cho ngươi một bí mật, nhưng mà ngươi chớ có nói cho người ngoài biết.

Trương Ngọc bên cạnh cười mắng:

- Con mẹ nó, hôm nay ngươi nói cái câu này cũng không dưới chục lần rồi, cái lỗ tai lão tử nghe được cũng phải mọc kén rồi. Ngươi gặp người nào cũng nói cho họ một bí mật, đến bây giờ cái bí mật đó người qua đường ai cũng đều biết hết rồi.

Lý Vũ Hanh sờ sờ râu mép, chớp mắt nói:

- Còn chưa có tới mười lần, mới có bảy lần.

Dứt lời gã cười ha hả nói:

- Địch Thanh, ngươi biết Đại Tướng Quốc Tự xảy ra chuyện gì không?

Tim Địch Thanh nảy lên, nhớ tới lời Diệp Tri Thu dặn dò nên lắc đầu nói:

- Không biết.

Lý Vũ Hanh miêu tả như thân mình ở trong đó:

- Nghe nói ngày hôm qua, lúc nửa đêm, bầu trời trên Thiên Vương điện mây đen bao phủ, che khuất trăng sáng, trên không trung đột nhiên đánh ra một tia sét, đánh thủng nóc Thiên Vương điện, sau đó đánh vào trên tượng phật Di Lặc. Không chỉ như thế ... tượng phật Di Lặc còn bị đánh vỡ thành bốn năm mảnh, uy lực còn lại phá hủy luôn tượng Tăng Trưởng Thiên Vương kia. Việc này người khác vốn không biết, nhưng ta có một người quen làm tạp dịch ở trong Đại Tướng Quốc Tự, ngày hôm nay ở trong chùa thấy có người tu bổ đỉnh điện Thiên Vương, có thể thấy được tin đồn quá nửa là thật.

Địch Thanh thầm buồn cười nhưng không nói toạc ra, chỉ gật đầu nói:

- Đây quả đúng là một chuyện kỳ dị, cũng chỉ có người tài giỏi như ngươi mới có thể ... biết.

Lý Vũ Hanh đắc ý huênh hoang:

- Ai nói không phải?

Còn định nói thêm cái gì thì Triệu Luật đi tới nói:

- Nhiều chuyện quá, không muốn làm việc nữa sao?

Ba người Địch Thanh đứng lên, hô to:

- Triệu Quân sử.

Triệu Luật chính là thuộc hạ của Quách Tuân, thường ngày Quách Tuân vắng mặt thì Triệu Luật phụ trách điều động nhân lực của Kiêu Vũ quân.

Triệu Luật sầm mặt nói:

- Đừng có huyên thuyên nữa, cẩn thận họa từ cái miệng mà ra. Trương Ngọc, Địch Thanh, Lý Vũ Hanh, hôm nay ba người các ngươi đi tuần tra Tây Hoa môn đến đường cái lân cận Tây Giác lâu, chú ý những người lạ, không được chậm trễ.

Ba người tuân lệnh, biết rõ mỗi lần sau khi kinh thành xảy ra điều khác thường, đều phải theo thường lệ tăng cường nhân thủ theo dõi tình hình. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự xuất hiện sự việc khác thường, chỉ sợ đại nội kinh thành, trong thành, ngoài thành sớm đã đông nghịt cấm quân.

Triệu Luật thấy Địch Thanh đi ra ngoài, đột nhiên gọi hắn lại nói:

- Địch Thanh, ngươi chờ một chút.

Thấy Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đã đi xa rồi, Triệu Luật lúc này mới nói:

- Lần này tuần tra là làm việc theo thông lệ mà thôi, xảy ra chuyện thì chỉ cần báo hiệu là được rồi, không cần phải ra tay.

Y cũng không nói nhiều, xoay người rời đi. Địch Thanh cười khổ trong lòng, thầm nghĩ điều này hơn phân nửa là lời quan tâm của Quách đại ca. Bản thân mình mặc dù muốn thể hiện, nhưng ở trong mắt người khác thì mình cũng chẳng khác gì phế vật.

Ra khỏi cấm quân doanh, Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đã đợi sẵn, cùng hỏi:

- Địch Thanh, Triệu Quân Sử dặn dò gì thế? 

Địch Thanh thản nhiên nói:

- Hắn kể ngày hôm qua có một người ăn nói bậy bạ huyên thuyên bị Thiên Lôi ân cần thăm hỏi, mong rằng chúng ta nói năng cẩn thận.

Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh cười ha hả, biết rõ Địch Thanh nói giỡn, ôm lấy bả vai Địch Thanh, cùng nhau đi về phía đại nội Tây Hoa môn. Tuy rằng Địch Thanh võ công không tốt, không có cách nào dùng lực được, nhưng tính cách ngay thẳng phóng khoáng, làm việc trượng nghĩa, nên hai người cũng không coi thường hắn.

Ba người theo đường cái đi tới Tây Giác lâu, chỉ thấy dọc đường sầm uất, bọn họ phụ trách an toàn đoạn đường này cả một thời gian dài, người bán hàng rong hai bên đường đã sớm quen thuộc. Ven đường có một phụ nữ nhiệt tình bắt chuyện:

- Ba vị quan nhân, có một mẻ bánh bao mới ra lò, có muốn tới thử vài cái không?

Dân chúng kinh thành đều gọi người đương sai và nha dịch đều là quan nhân, phụ nữ này họ Vương, bày quầy bán bánh trên phố đã lâu, bánh bao bán ở con đường này rất có danh tiếng.

Địch Thanh đưa tới mười hai văn tiền, cầm lấy sáu cái bánh bao, cười nói:

- Vương đại tẩu, gần đây ở đây có người nào khả nghi không?

- Có đó.

Vương đại tẩu nhận lấy tiền, cười nói:

- Ngài rất khả nghi đó, lớn như vậy rồi mà ngay cả một người vợ cũng không có, có muốn đại tẩu giới thiệu cho ngài một người khuê nữ không?

Người dân bày quầy hàng xung quanh đều cười thiện chí. Địch Thanh có chút xấu hổ, cười nói:

- Đại tẩu đừng nói đùa mà.

Nói xong, hắn lôi kéo hai người Trương Ngọc nhanh như chớp chạy về phía bắc, Trương Ngọc bên cạnh nói:

- Địch Thanh, ngươi không phải là kẻ trộm, chạy làm gì? Nhắc tới mới thấy cuộc đời thực sự không công bằng, chức quan ta cao hơn ngươi, đẹp trai hơn ngươi, với lại còn thông minh hơn ngươi, vì sao người ta bao giờ cũng giới thiệu khuê nữ cho ngươi mà không giới thiệu cho ta?

Lý Vũ Hanh nói:

- Nhà Vương đại tẩu có con ngựa cái chưa gả i, ngươi suy nghĩ thử xem?

Gã nhắm gương mặt Trương Ngọc mà nói.

Trương Ngọc đá quá một cái, cười mắng:

- Đồ chết tiệt, ngươi lo cho bản thân mình đi. Ta nghe nói gần đây có sư tử Thổ Phiên tìm chồng, rất xứng với ngươi, bây giờ qua đó cầu hôn vẫn còn kịp đó.

Hai người cùng phá lên cười nắc nẻ.

Địch Thanh cụt hứng nói:

- Làm việc đi.

Không biết vì sao hắn lại nghĩ đến cô gái áo trắng ôn hòa nhã nhặn kia, khó tránh khỏi cảm thấy rầu rĩ.

Ba người đi tới gần Tây Hoa môn, tìm đại một bậc thang ngồi xuống, nhìn chằm chằm Tây Hoa môn đến ngẩn ngơ.

Qua khỏi Tây Hoa môn chính là hoàng cung đại nội, là nơi trọng thần triều đình làm việc và cũng là chỗ ở của hoàng đế, hoàng hậu. Loại người như bọn họ, mặc dù ở kinh thành đã nhiều năm, nhưng ngay cả mặt mũi hoàng đế cũng chưa từng thấy qua lần nào.

Lý Vũ Hanh nói:

- Địch Thanh, ta nói cho ngươi một bí mật, nhưng ngươi đừng nói cho người khác.

Địch Thanh uể oải nói:

- Có phải là Đông Hoa môn sinh ra nhiều Trạng Nguyên, Tây Hoa môn sinh ra nhiều mỹ nữ hay không?

Lý Vũ Hanh làm ra vẻ rất ngạc nhiên nói:

- Hóa ra ngươi sớm đã biết rồi.

Địch Thanh lầm bầm:

- Ngươi nói liên tục mấy năm nay, cho dù là người điếc, hơn phân nửa cũng đều biết hết rồi.

Mỗi lần mở khoa cử, xong lượt thi Đình thì tên của ba người Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa đều được xướng lên từ phía Đông Hoa môn, nổi danh thiên hạ. Đông chủ dương, Tây chủ âm, tương tự thì Tây Hoa môn lại là nơi hoàng cung nội quyến thường lui tới. Nếu như phi tần có địa vị qua đời, quan tài chắc chắn là từ Tây Hoa môn mà ra, phương hiển tôn quý. Hai cổng Đông Hoa, Tây Hoa, bọn người Địch Thanh thì cả đời cũng khó mà được đi vào. Mỗi lần khi Lý Vũ Hanh đến nơi đây làm đương sai đều không nhịn được mà đem cái bí mật kia nói ra một lần.

Lúc này, có một cỗ xe ngựa từ cuối đường chạy nhanh về phía Tây Hoa môn, xe ngựa này mành che làm từ châu ngọc, dây cương khảm ngọc, yên ngựa chạm trổ hoa văn, quả thực là lộng lẫy khác thường. Trương Ngọc đột nhiên thấp giọng nói:

- Thực ra Tây Hoa môn không chỉ xuất ra mỹ nữ, mà còn xuất ra một thứ đồ.

Lý Vũ Hanh khó hiểu nói:

- Là thứ đồ gì?

Trương Ngọc trào phúng nói:

- Còn xuất ra thái giám chết bầm.

Lý Vũ Hanh bật cười, nhỏ giọng nói:

- Thái giám cũng không phải là thứ gì.

Địch Thanh bên cạnh nói:

- Các ngươi không sợ bị người khác nghe thấy sao? Tên thái giám này nếu như biết được các ngươi bàn tán, nói cho thái hậu nghe, truy ra gốc rễ, nói không chừng các ngươi bị tịch biên gia sản, chém đầu cả nhà đấy.

Trương Ngọc lạnh lùng nói:

- Ta cái gì cũng sợ, chỉ không sợ bị tịch biên gia sản chém đầu cả nhà thôi. Cả nhà ta cũng chỉ có một người, cả nhà tịch thu tài sản cũng chỉ một cái đầu. Tên thái giám chết bầm này, mỗi lần nhìn thấy xe của hắn là ta đều muốn chửi một trận.

Lý Vũ Hanh than thở:

- Nhưng tên thái giám chết bầm này chẳng những không bị ngươi chửi chết mà hiện giờ còn trở thành người thân tín bậc nhất bên cạnh thái hậu. Hô mưa gọi gió, sống vô cùng tốt. Đáng tiếc ... đường đường là Xu Mật sứ (1) Tào Lợi Dụng cũng đấu không lại tên thái giám này, lại bị hắn lập mưu hãm hại đến chết.

Hóa ra người ngồi bên trong xe ngựa xa hoa kia chính là đệ nhất thái giám trong cung La Sùng Huân.

Đại Tống tuy có tổ tông gia pháp, thái giám bên ngoại không được chuyên chính nhưng bây giờ hoàng đế vẫn không đích thân xử lý quốc sự một mình mà muốn thái hậu giúp đỡ. La Sùng Huân này mặc dù không có năng lực gì nhưng rất được thái hậu tán thưởng, ỷ vào uy nghiêm của thái hậu nên rất có quyền thế. Làm thái giám thì không có dục vọng gì khác ngoài trừ tiền hay quyền lực. Nhiều thái giám trong cung sẽ tranh thủ kiếm cho người thân của mình một chức quan, nhưng Xu Mật sứ Tào Lợi Dụng tính tình cương trực ghét dua nịnh, nhiều lần cự tuyệt thỉnh cầu trong cung, mới khiến cho La Sùng Huân ghi hận trong lòng. Cuối cùng đến một ngày, y vin được cớ cháu trai Tào Lợi Dụng phạm sai lầm, bẩm lên thái hậu, thái hậu thấy thế giận dữ, trừng phạt nghiêm khắc Tào Lợi Dụng. Đường đường là Xu Mật sứ, người trong nhị phủ, mà lại bị cách chức đuổi ra khỏi kinh thành.

La Sùng Huân vẫn không chịu buông tha Tào Lợi Dụng, lại tìm người bịa đặt tội danh cho Tào Lợi Dụng. Tào Lợi Dụng còn đang trên đường cách chức thì lại bị đày tới Phòng Châu, người phụ trách áp giải Tào Lợi Dụng trước đây chính là thái giám Dương Hoài Mẫn, mà ai cũng đều biết rằng Dương Hoài Mẫn và La Sùng Huân vốn là cá mè một lứa. Tào Lợi Dụng bị hoạn quan này hãm hại, cuối cùng chết thảm trên đường vào đầu xuân.

Hòa ước Thiền Uyên năm đó, duy trì mấy chục năm bình an cho Đại Tống, mà người không màng đến sinh tử khi đó, không chút do dự đi sứ Khiết Đan chính là Tào Lợi Dụng. Tào Lợi Dụng thân ởang hùm, nhưng lẫm liệt không sợ hãi, tấc đất cũng không nhường, tuy rằng cuối cùng vẫn phải dâng vàng cầu hòa nhưng ở trong mắt người dân kinh thành, người này quả thật là đại công thần, bởi vậy người trong kinh thành cực kỳ căm ghét La Sùng Huân và Dương Hoài Mẫn, Trương Ngọc cũng không ngoại lệ.

Lý Vũ Hanh bùi ngùi nói:

- Đáng tiếc là thái hậu không phân biệt được đúng sai, trước đây không triệu hồi Khấu lão về chủ trì triều chính, đến bây giờ lại để hoạn quan hãm hại trung thần, triều cương không vượng rồi.

Khấu lão mà Lý Vũ Hanh nói chính là Khấu Chuẩn, người này ngay thẳng nổi tiếng thiên hạ, nhưng mà sau khi Lưu thái hậu nắm quyền thì trước sau không cần KhấChuẩn. Khấu Chuẩn đã qua đời mấy năm làm cho người trong thiên hạ phải thở dài than thở.

Trương Ngọc cười lạnh nói:

- Ngươi cho là thái hậu thực sự hồ đồ sao? Vậy thì ngươi sai hoàn toàn rồi!

Lý Vũ Hanh ngẩn ra, hỏi: 

- Bà ta trọng dụng hoạn quan, bức tử trọng thần, không thèm dùng đến người trung thành và tận tâm như Khấu lão, chẳng lẽ không phải mắt mù tai điếc sao?

Địch Thanh thấy hai người càng nói càng không kiêng nể gì cả, vội vàng nói lảng đi:

- Ăn bánh bao đi, ăn bánh bao đi, ồ, có hai người kia hình như rất lạ mặt?

Hắn vì muốn chuyển chú ý của hai người Trương Ngọc nên đưa tay chỉ về phía trước, chẳng ngờ quả nhiên có hai người cử chỉ hơi khác lạ. Người thường nhìn thấy xe ngựa của La Sùng Huân đi ngang qua thì hơn phân nửa sẽ lùi về bên đường, nhưng hai người này không chỉ lùi đến ven đường mà còn quay mặt đi nhìn vào vách tường.

Chờ sau khi La Sùng Huân đi qua, hai người này thỉnh thoảng lại lén lút nhìn xung quanh cỗ xe kia.

Trương Ngọc bỗng nhiên đứng lên nói:

- Đúng là khả nghi, đi tới hỏi xem.

Gã không có để ý hai người kia từ đại nội đi ra, hay là muốn đi vào đại nội, nhưng mà có chức trách trong người thì vẫn phải tra hỏi.

Ba người đi về phía hai người đó, thấy trong đó có một người vóc dáng trung bình, tuổi tác chưa cao, trên mặt hình như có dính tro bụi nhưng đôi tay cực kỳ trắng trẻo mềm mại. Người còn lại có khuôn mặt béo trắng, lông mày đậm, không có ria mép. Thấy ba cấm quân đi tới, sắc mặt người mập mặt trắng khẽ biến, vừa muốn nói cái gì nhưng lại bị người thanh niên chặn lại. Người thanh niên muốn đi qua bên cạnh, Trương Ngọc ngăn ở trước hai người, hét lớn:

- Lấm la lấm lét làm cái gì đó? Tên họ, quê quán, ở đâu? Thân thích là người phương nào? Mau thành thật khai báo!

- Lớn mật. Người mập trắng quát to, giọng nói chói tai phẫn nộ.

Người thanh niên vội vàng nói với người mập trắng:

- Đừng để lộ ra. Thật kỳ cục.

Y nói rất kỳ quái làm cho bọn người Trương Ngọc như rơi vào trong mây mù. Trong lòng Địch Thanh hơi giật mình, thầm nghĩ giọng nói người này làm sao mà nghe quen quen thế.

Trương Ngọc nói:

- Còn không lên tiếng? Các ngươi làm kẻ trộm ư, sao mà cẩn thận như vậy? Mau mau khai ra họ tên.

Trong mắt người thanh niên hiện lên vẻ cổ quái, nói:

- Ta muốn đi Đại Tướng Quốc Tự cầu phật, các ngươi đừng có nhiều chuyện.

Trương Ngọc vừa bực mình vừa nực cười, nói:

- Ngươi cầu phật giỏi lắm? Con mẹ nó, ta hỏi ngươi tên họ, ngươi nói cái con khỉ gì vậy?

Người thanh niên nghe lời tục tĩu thốt ra từ miệng Trương Ngọc, con mắt trừng lên, đầy phẫn nộ uy nghiêm.

Địch Thanh nghe được hai chữ cầu phật, trong lòng khẽ động, nhớ tới tối hôm qua ở Đại Tướng Quốc Tự hình như có nghe qua giọng nói này. Đây chẳng phải là người đã cùng chủ trì Đại Tướng Quốc Tự luận kinh phật sao? Cúi nhìn xuống phía dưới, thấy dưới chân hắn ta có mang một đôi giày, mặc dù đã thay đổi kiểu dáng, nhưng chắc chắn là do Ngũ Hồ Xuân may. Đinh ninh ý nghĩ trong đầu, hắn liền lôi Trương Ngọc sang một bên nói:

-Hai người này không có gì khả nghi đâu, thả cho bọn họ đi đi.

Địch Thanh thầm nghĩ: Người có thể cùng chủ trì Đại Tướng Quốc Tự luận kinh phật thì không phải là kẻ xấu, nếu như là người cao quý thì không cần phải ... mạo phạm.

Trương Ngọc thấy Địch Thanh nháy mắt với mình, ho khan một tiếng nói:

- Vậy các ngươi đi đi. Gần đây Đại Tướng Quốc Tự tạm thời không tiếp khách lạ, các ngươi cũng không nên đi tới đó.

Người thanh niên mỉm cười nói:

- Cám ơn đã nhắc nhở.

Y nhìn Địch Thanh một cái, gật đầu rồi bước nhanh đi. Người trung niên mập mạp kia vội vàng đi theo sát, cái mông lắc qua lắc lại giống như một con vịt.

Trương Ngọc chờ hai người kia đi rồi mới hỏi Địch Thanh:

- Ngươi biết bọn họ sao?

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Mặc dù không nhận ra bọn họ nhưng dù sao ngươi cũng làm cấm quân đã nhiều năm, nhìn đôi giầy kia cũng phải bằng bổng lộc một năm của ngươi. Người này không phú thì cũng quý, ngươi làm ầm ĩ với hắn thì được gì chứ?

Trương Ngọc cười hắc hắc:

- Chính vì ta thấy hắn phú quý cho nên mới mượn cớ chặn hắn lại. Đương sai chúng ta làm hết phận sự, có gì sai đâu?

Địch Thanh lắc đầu, ngồi xổm xuống gặm cái bánh bao đã nguội, không nhịn được liếc mắt nhìn về hướng người thanh niên rời đi, lại nghĩ tới sự việc đêm qua, nhớ tới Đa Văn Thiên Vương nên lại nghĩ tới Ngũ Long, không kìm lòng nổi mà sờ soạng trước ngực, quả cầu đen cứng rắn kia vẫn còn ở đây.

Một ngày vô sự, Địch Thanh báo cáo kết quả công tác xong xuôi, dùng bữa cơm tối xong, trực tiếp trở lại phòng mình, móc quả cầu đen đó ra, lật qua lật lại mà kiểm tra hết nửa ngày cũng không thu hoạch được gì. Cuối cùng, hắn nảy sinh ra ý định ác độc là lấy cái búa sắt đập thử xem, nhưng chỉ nghe được quả cầu đen truyền ngược lại âm thanh không có ý nghĩa, đành thờ dài để hắc cầu lại trên bàn, nhìn chằm chằm đến nửa đêm.

Quả cầu đen vẫn là quả cầu đen, không biến thành lụa đỏ mà cũng không biến thành trứng vàng.

Địch Thanh nhìn chòng chọc đến nỗi hai c ngươi cay cay, thầm nghĩ chẳng lẽ sáng nay thực sự là nằm mơ tỉnh giấc? Đã đến đêm khuya, Địch Thanh hết sức mệt mỏi bèn dựa vào vách tường nặng nề thiếp đi, nhưng mà vẫn không dám ngủ, trở mình mà tỉnh lại mấy lần.

Mỗi lần Địch Thanh tỉnhđều liếc mắt nhìn về phía quả cầu đen, thấy nó vẫn thâm trầm trong bóng đêm, yên tĩnh không kể xiết. Có một lần tỉnh lại, đột nhiên hắn bật cười, thầm nghĩ mình thực sự cho rằng nó là vật sống hay sao? Chẳng qua nó chỉ là là ảo giác, mình lại tưởng là thật mà thôi. Vừa nghĩ tới đây, Địch Thanh thả lỏng tâm tư, ngủ thiếp đi lần nữa, hắn ngủ thẳng đến khi gà trống gáy ba tiếng, mặt trời đỏ đã mọc lên ở hướng đông.

Bên tai nghe thấy tiếng gáy, Địch Thanh thầm nghĩ, thì ra trời đã sáng. Hắn còn chưa kịp mở mắt thì thân hình đột nhiên rung lên, bởi vì dù cho không mở mắt thì trước mắt hắn cũng là từng luồng sáng màu đỏ không bình thường.

Tình cảnh này cũng giống như tối hôm qua vậy!

Địch Thanh kìm nén sự chấn động trong lòng, chậm rãi mở hai mắt ra, khoảnh khắc lập tức kinh hãi khó nói nên lời. Ánh sáng mặt trời từ màn cửa sổ bằng lụa mỏng bắn đến, màu vàng rực rỡ lóa mắt, nhưng càng lóa mắt hơn lại là một dải lụa đỏ trước mắt. Dải lụa đỏ này cực kỳ lộng lẫy, màu sắc rực rỡ tươi đẹp, từ bên trái tường kéo dài tới tận bên phải tường, phấp phới chuyển động. Mà dải lụa đỏ này lại lấy quả cầu đen làm gốc. Loại hiện tượng cực kỳ quái dị này, giống như là quả cầu đen nhả tơ bó thành dải lụa rộng lớn.

(1) Xu Mật sứ: quan hàm Trung Quốc cổ đại, chức cao quyền trọng, nhã xưng là Thái úy, thống soái quân đội cả nước, trưởng quan của Xu Mật Viện. Xu Mật Viện cùng Trung Thư Tỉnh tịnh xưng là "Lưỡng phủ".

 Chương 28 - 33: Diệu ca

Khi Địch Thanh thấy dải lụa đỏ này động đậy thì càng kinh hãi không hiểu gì, không biết nó rốt cuộc là vật gì, vì sao bỗng dưng lại xuất hiện vô duyên cớ? Hắn không la hét, mà cũng quên mất la hét, chỉ nhìn chằm chằm dải lụa đỏ kia, thấy trên mặt nó có ánh sáng di động, lại qua chốc lát, dải lụa đỏ vừa di chuyển đã bay về phía hắn, Địch Thanh mặc dù không muốn hét, nhưng không còn nhịn được nữa phát ra tiếng rống động trời.

Không phải dải lụa đỏ, mà là con rồng!

Con rồng khổng lồ màu đỏ thẫm.

Dải lụa đỏ biến thành rồng lớn, ngay lúc Địch Thanh thét lên sợ hãi thì nó nhào tới trước người Địch Thanh. Địch Thanh nhảy bật dậy, vội vàng lui về phía sau, nhưng quên mất phía sau chính là tường, Phanh một tiếng đụng vào vách tường, nóc nhà rung động, sống lưng đau buốt. Ngay sau đó trong đầu Địch Thanh “ầm” một tiếng, chỉ thấy con rồng đỏ này đã chui vào bên trong cơ thể hắn rồi đột nhiên tan biến. Ánh sáng mặt trời trong phòng vẫn như cũ, cái bàn cái giường vẫn như cũ nhưng cả người Địch Thanh đã mồ hôi đầm đìa, mí mắt bên trái càng không ngừng giật giật.

Qua một lúc lâu, Địch Thanh phục hồi tinh thần lại, trong lòng gào lên: “Không phải mộng, không phải nằm mơ, ta còn tỉnh táo.”

Lúc này hắn mới phát hiện mình đang đứng ở trên giường liền chậm rãi ngồi xuống, cảm thấy khát nước vô cùng, vội đi tới lấy một tách trà ở trên mặt bàn, chỗ đó còn có tách trà đã nguội mà tối hôm qua hắn chưa uống hết.

Nhưng tay phải hắn vừa chạm vào tách trà, thì tách trà sứ men xanh cứng rắn đó “rắc” một tiếng, đột nhiên vỡ tan tành. Địch Thanh giật mình, theo phản ứng bản năng mà đưa tay bắt lấy, nửa tách trà còn lại ở trên tay hắn cũng vỡ vụn như đất khô. Địch Thanh ngẩn ra, đưa tay vịn lấy cái bàn, nhưng không ngờ cái bàn này cũng vang lên tiếng “Răng rắc”, chân bàn đã gãy. Địch Thanh bất ngờ không kịp phản ứng, phệt mông ngồi bệt trên mảnh vỡ, nhìn chén bể bàn khuyết, ngây ngốc tại chỗ.

Trong chốc lát Địch Thanh vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ: “Sao mình lại có sức mạnh lớn như vậy?”

Địch Thanh ngồi dưới đất kinh ngạc nhìn bàn gãy chén bể, đột nhiên hét lên một tiếng quái dị rồi đứng bật dậy.

Hóa ra hắn vừa rồi khiếp sợ với những việc đã phát sinh nên không để ý rằng mình vẫn còn ngồi ở trên mảnh sứ vỡ, lúc này mới cảm giác được mông đau đớn như bị kim đâm. Bây giờ thì hắn chẳng quan tâm tới rồng đỏ, lụa đỏ gì nữa, vội vàng cởi quần ra kiểm tra thì thấy máu đã chảy đỏ cả mông. Chật vật mãi Địch Thanh mới gỡ hết những mảnh sứ vỡ trên mông ra, bôi thuốc bột và băng bó xong xuôi, sau đó đổi một cái quần mới mặc vào.

Vật lộn với cái mông xong, Địch Thanh chợt nhớ tới hôm nay không cần phải đi tuần liền thở phào nhẹ nhõm. Hắn xoay người cầm lấy chân bàn, hai tay dùng sức bẻ một phát liền cảm thấy lòng bàn tay đau buốt. Địch Thanh nén đau, dùng sức bẻ chân bàn một lần nữa liền cảm thấy đầu đau âm ỉ.

Địch Thanh sợ rằng mình sẽ ngất đi nên không dám phát lực lần nữa, trong lòng vẫn còn hoang mang mãi. Không hiểu nổi vì sao vừa rồi có thể làm được mà bây giờ sức lực lại biến đâu mất?

Đúng lúc này, Quách Quỳ chạy ùa vào, thấy đống bừa bộn trên mặt đất thì kinh ngạc hỏi:

- Địch nhị ca, có trộm sao?

Địch Thanh không biết nên giải thích thế nào, đành nói qua quýt:

- Cái bàn này mục rồi, bát trà cũng bể mất rồi. Là huynh làm bể đó.

Vốn tưởng rằng Quách Quỳ sẽ truy hỏi đến cùng, không ngờ nó chỉ nói:

- Đệ hiểu rồi. Cái bàn mục thì để đệ kêu người mua thêm cái mới là được mà.

Quách Quỳ còn nhỏ nhưng rất thông minh, nó chỉ cho rằng trong lòng Địch Thanh phiền muộn nên mới đập vỡ cái bàn, bởi vậy không hề truy hỏi.

Địch Thanh hơi băn khoăn, đáp lại :

- Vừa lúc hôm nay không cần đi tuần, để đó tự huynh đi cũng được.

Quách Quỳ thấy thái độ Địch Thanh kiên quyết nên cũng không muốn miễn cưỡng nữa, giúp Địch Thanh thu dọn xong nó mới rời đi.

Thấy Quách Quỳ đi rồi, Địch Thanh đang định ngồi xuống nghỉ ngơi một lát, nhưng bờ mông vừa đặt xuống giường hắn liền giống như con thỏ trúng tên nhảy bật lên.

Địch Thanh nhịn đau nhức, nhìn về phía hắc cầu kia, trong mắt tràn đầy hiếu kỳ. Hắn dù sao cũng còn trẻ, hơn nữa cuộc sống nhàm chán nên gặp được chuyện kỳ lạ như thế này, chẳng những trong lòng không sợ mà còn nóng lòng muốn thử.

Nhưng chuyện kỳ dị kia không xuất hiện lần nữa, Địch Thanh cảm thấy hai lần xuất hiện cảnh tượng kỳ dị đều vào lúc sáng sớm, chắc phải chờ tới bình minh mới xuất hiện lại. Hắn đành rời khỏi phủ đi làm việc trước đã.

Ra khỏi Quách phủ, Địch Thanh chợt nhớ bên cạnh cửa ngõ lớn có một thợ thủ công họ Ô tay nghề không tệ, làm bàn ghế tuy không hoa mỹ nhưng cực kỳ rắn chắc.

Muốn tới cửa ngõ lớn trước hết phải đi qua đường Khúc Viện.

Đang qua đường Khúc Viện, Địch Thanh cảm thấy mông càng lúc càng đau nhức, thầm than mình muốn mặt không muốn mông, thực xin lỗi cái mông này rồi.

Đang không biết làm sao, Địch Thanh đột nhiên ngửi thấy hương hoa truyền đến, hóa ra cách đó không xa có một lán hoa, đúng lúc hoa mẫu đơn nở xinh đẹp, không khỏi muốn bước lại gần.

Phu nhân bán hoa nhận ra Địch Thanh, thấy dáng đi kỳ quái của hắn thì ân cần thăm hỏi:

- Địch Thanh, đệ làm sao vậy?

Địch Thanh cười khổ đáp:

- Hùng đại tẩu, đệ ngã bị thương ở... chân.

Hùng đại tẩu mắng:

- Bị thương chân, không ở nhà nghỉ ngơi đi, còn ra đây làm gì?

Nàng bèn xoay người cầm bình thuốc rượu đưa cho Địch Thanh nói:

- Đây là rượu xoa bóp, rất công hiệu đó, cầm lấy đi.

Địch Thanh thân là Thập Tương, nhưng khi đi tuần không bao giờ mượn cớ để vơ vét tài sản, thậm chí khi gặp dân chúng bị người xấu ức hiếp thì đều ra mặt giúp đỡ, vì thế người dân quanh đây đều yêu mến Địch Thanh.

Địch Thanh từ chối không được đành nhận lấy bình rượu thuốc, hỏi:

- Bao nhiêu tiền vậy tẩu?

Hùng đại tẩu cười mắng:

- Đệ xem thường đại tẩu rồi! Chỉ có một bình rượu thuốc mà cũng hỏi bao nhiêu tiền sao?

Địch Thanh không biết làm sao, bèn nói:

- Đệ mua nhánh hoa này.

Hắn móc ra một xâu tiền đưa cho Hùng đại tẩu, đột nhiên hỏi:

- Ở đây có bán diêu hoàng không?

Hùng đại tẩu lắc đầu nói:

- Hoa đó người thật giàu mới có được, hiếm thấy lắm. Địch Thanh, ở đây không có Diêu Hoàng nhưng lại có nhãn nhi mị, nở hoa rất đẹp, đệ lấy một nhánh đi.

Địch Thanh thấy bông hoa nở màu đỏ nhạt, cánh hoa tạo thành hình trăng lưỡi liềm, giống như là thiếu nữ thẹn thùng có sóng mắt như trăng, đã đẹp mà còn quyến rũ, không khỏi cười nói:

- Cám ơn đại tẩu nhé.

Hắn mặc dù không thích hoa nhưng lại không muốn từ chối lòng tốt của người ta. Hắn đưa tay nhận lấy hoa, chào Hùng đại tẩu xong, vừa quay lưng đã thấy phía trước có hai người đang đứng, nghe một người trách nói:

- Ngươi mau mau nghĩ cách cho ta.

Người này mi thanh mục tú, trong tay cầm quạt xếp, mặt như dính nhọ chưa được tẩy sạch vậy. Người này chính là người thanh niên mà Địch Thanh đã tha ở ngoài Tây Hoa môn.

Bên cạnh người thanh niên vẫn là người trung niên béo trắng không râu kia. Lão nghe vậy thì cười khổ nói:

- Cái này... Cái này....

Nhìn qua xung quanh, lão nói tiếp:

- Tiểu nhân cũng không có cách nào, tiểu nhân ... cũng chưa từng đi đến đó...

Người thanh niên giậm chân nói:

- Ta mặc kệ, nếu như ngươi không nghĩ ra cách, ta...

Gã dùng quạt xếp gõ đầu người trung niên bên cạnh uy hiếp nói:

- Ta sẽ cho cái mông ngươi nở hoa!

Người trung niên nghe vậy cười khổ nói:

- Thánh ... công tử, hay là trở về đi, tiểu nương nương chỉ có thể tạm thời giấu giếm cho người, nếu như người không quay về mau, e là sắc mặt đại nương nương không tốt lắm đâu.

Người thanh niên cả giận nói:

- Ta không về! Ngươi làm gì được ta?

Rồi gã đột nhiên trông thấy Địch Thanh, trong mắt hiện lên vẻ vui mừng. Gã bước nhanh đi tới nói:

- Này, ngươi còn nhận ra ta không?

Địch Thanh cũng có chút bất ngờ, bèn cười nói:

- Đương nhiên nhận ra rồi. Huynh đài có việc chỉ giáo sao?

Hắn cảm giác được người thanh niên này nỗi lòng tuy nặng, nhưng phong thái trong lời nói và việc làm vẫn còn giống như một đứa bé.

Người thanh niên cảm thấy thú vị nói:

- Ngươi gọi ta là gì?

Địch Thanh khó hiểu hỏi:

- Ta gọi ngươi là huynh đài, có gì không ổn sao?

Người thanh niên cười ha hả, rất vui vẻ nói:

- Thú vị, thú vị! Lại có người gọi ta là huynh đài? Tốt lắm, tốt lắm! Ta biết ngươi, ngươi chắc chắn là tên cấm quân lần trước ở bên ngoài Tây Hoa môn, ngươi tên là gì vậy?

Địch Thanh nghệch mặt ra, không hiểu thú vị cái nỗi gì, ngờ vực trả lời:

- Tại hạ Địch Thanh! Không biết cao danh quý tánh của công tử là gì?

Người thanh niên do dự một chút mới nói:

- Ta họ ... Thượng, tên chỉ có một chữ Thánh, ngươi gọi ta là Thánh công tử được rồi. Địch Thanh, ta muốn nhờ ngươi giúp một việc.

Địch Thanh thấy gã nói năng ngay thẳng, cũng vui vẻ đáp:

- Công tử cứ nói, nếu ta có thể giúp được, sẽ cố gắng hết sức.

Người mập trắng kia thấy công tử mình vậy mà lại có thể nói chuyện vui vẻ cùng với Địch Thanh, không khỏi mở to mắt, kinh ngạc cứ như thể lão trông thấy quỷ vậy. Địch Thanh nhìn vẻ mặt kì quái của người mập mạp kia, nhưng hắn không hơi đâu mà nghĩ nhiều.

Thượng công tử đột nhiên đỏ mặt xuống, nhăn nhó nói:

- Thật ra ... Ta muốn ... Ta muốn...

Hắn nghĩ nửa ngày nhưng vẫn không diễn đạt được điều muốn nói. Địch Thanh thấy thế, ngạc nhiên hỏi:

- Cho dù ngươi muốn cướp của giết người, cũng không cần phải khó xử như vậy chứ?

Thượng Thánh lại càng hoảng sợ, nhìn chằm chằm vào Địch Thanh hỏi:

- Ngươi đã từng giết người rồi sao?

Thấy Địch Thanh gật đầu, Thượng Thánh vội lui về phía sau hai bước, ánh mắtđầy cảnh giác, hỏi:

- Ngươi giết ai vậy?

Địch Thanh thở dài nói:

- Ta cũng không biết hắn là ai, nhưng mà người nào cũng gọi hắn là Tăng Trưởng Thiên Vương...

Thượng Thánh đột nhiên giật mình la to:

- Ngươi là Địch Thanh? Ngươi là thuộc hạ của Quách Tuân? Ta nhớ ra rồi!

Địch Thanh rất ngạc nhiên, nghi ngờ hỏi:

- Ngươi biết Quách đại ca sao?

Thượng Thánh hình như cảm thấy mình lỡ lời, úp úp mở mở nói:

- Thực không dám giấu giếm, ta cũng biết được một số người trong triều. Năm đó Quách Tuân nỗ lực xông pha thung lũng Phi Long, chuyện đánh Phật Di Lặc trọng thương, triều đình rất xôn xao, do đó ta cũng biết được. Hèn gì ta cảm thấy tên ngươi quen thế, thì ra ngươi là người Quách Tuân tiến cử. Quách Tuân rất tốt, ta rất thích. Người Quách Tuân tiến cử, ta càng thích.

Gã lúc thì ngại ngùng, lúc thì tùy tiện. Địch Thanh cảm thấy tính tình của người này thật quái dị, nhớ tới mình còn có việc phải làm, liền hỏi:

- Đúng rồi, rốt cuộc là ngươi muốn nhờ ta làm chuyện gì? Nếu không có việc gấp, ta còn phải đi làm mấy việc.

- Ngươi đừng đi!

Thượng Thánh đưa tay nắm lấy Địch Thanh, cuối cùng đành phải nói thật:

- Thật ra, ta muốn đi ... Trúc Ca lâu ... Muốn gặp Trương Diệu Ca.

Sau khi gã nói ra những lời này, cả khuôn mặt gã đỏ lên giống như đã dùng hết sức lực toàn thân vậy.

Địch Thanh nhịn không được cười nói:

- Muốn gặp Trương Diệu Ca, đi Trúc Ca lâu là được rồi. Nàng tuy rằng nổi tiếng, nhưng không đến mức khó gặp như Hoàng thượng chứ?

Trúc Ca lâu vốn chỉ là một thanh lâu, mà Địch Thanh cũng biết Trương Diệu Ca ca múa song tuyệt đứng đầu bảng Trúc Ca lâu, nhưng hắn chưa bao giờ gặp qua.

Thượng Thánh khẩn trương nói:

- Ngươi gặp Hoàng thượng rồi?

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Loại người như ta, làm sao có cơ hội được nhìn thấy Hoàng thượng chứ?

Thực ra, lời hắn nói thật, Địch Thanh tuy là cấm quân, nhưng ở trong bát đại cấm quân chỉ có thể xếp hạng ngoài. Mỗi lần thánh thượng đi tuần, bên người luôn có gần ngàn người của Tam Ban(1) mở đường, dân chúng tầm thường nếu như thị lực không tốt thì ngay cả xe ngọc của Hoàng thượng cũng không thấy được, chứ đừng nói chi là thấy được mặt Hoàng thượng.

Thượng Thánh thở phào:

- Trương Diệu Ca mặc dù không khó gặp như Hoàng thượng, nhưng ta chưa gặp được nàng bao giờ. Huynh đài nếu như là người sành sỏi, vậy xin chỉ điểm một tí.

Địch Thanh cảm khái, lấy lễ hạ mình, tất có chuyện nhờ vả, người xưa nói đâu có sai. Thật ra, hắn cũng chưa từng tới Trúc Ca lâu bao giờ, nhưng dù gì hắn cũng tính là thổ địa nơi này. Nghĩ vậy, Địch Thanh vỗ ngực, thấy chết không ngại nói:

- Được rồi, ta sẽ đưa hai vị đi một chuyến.

Nhưng mà hắn lại có chút nghi ngờ nói:

- Thánh công tử, ta nhìn ngươi tuổi tác không nhỏ, thật sự chưa bao giờ đi tới nơi bướm hoa này sao?

Thượng Thánh thở dài nói:

- Thực không dám giấu giếm, ta chưa bao giờ đi tới đó nên bây giờ rất muốn đi.

Địch Thanh gật gật đầu:

- Ngươi nói không sai, cái gì không có lại càng muốn, con cá xổng là con cá to phải không nào?

Một câu bâng quơ của hắn lại làm cho Thượng Thánh sợ run cả buổi. Địch Thanh thấy gã ngẩn người, hỏi:

- Thượng huynh! Ta vừa nói sai gì sao?

Thượng Thánh phục hồi tinh thần lại, cười lớn nói:

- Ngươi nói rất đúng, có lẽ vì thế cho nên mới có người thèm muốn đến vậy.

Lời gã nói đầy thâm ý, người trung niên trắng béo nghe vậy, biến sắc, trong mắt hiện lên vẻ sợ hãi, thấp giọng nói:

- Thánh ... công tử, hay là trở về đi. Nếu như đại nương nương biết được tiểu nhân đưa người đi đến chỗ như vậy, tiểu nhân chỉ sợ mông tiểu nhân phải nở hoa rồi.

Địch Thanh nghe được lời thoại của hai người, chỉ cảm thấy vị này chắc hẳn là con cháu dòng dõi tri thức, dạy dỗ nghiêm khắc, nói:

- Thánh công tử, thật ra lệnh đường chỉ sợ cũng là có ý tốt. Nơi bướm hoa rồng rắn lẫn lộn, ngài chỉ muốn nhìn thấy Trương Diệu Ca, thật ra cũng không sao cả. Nhưng nếu vì Trương Diệu Ca mà lại sinh ra nhiều chuyện, không phải là ta hại ngươi sao?

Thượng Thánh chăm chú nhìn Địch Thanh nói:

- Đa tạ các hạ nhắc nhở, chuyện này ngươi có thể yên tâm, ta nhất định sẽ không sao đâu.

Địch Thanh không nói thêm nữa, đi trước dẫn đường. Thượng Thánh lại không biết lấy đâu ra một cái mũ mềm đội lên đầu, kéo vành nón thấp xuống che nửa bên mặt. Địch Thanh cảm thấy buồn cười, thầm nghĩ gã trốn mẫu thân đến đây, chắc là sợ bị người nhà nhận ra. Ba người vừa tới Trúc Ca lâu thì thấy ở đây quả nhiên danh bất hư truyền, bốn vách tường đều được làm bằng trúc, tuyệt vời nhất chính là sân vườn trong lâu nơi có suối Tu Trúc, tiếng nước róc rách, gõ nhẹ vào ống trúc, quả thực là tao nhã vô cùng.

Trong đại sảnh đã có không ít khách khứa ngồi uống trà, ai cũng ngẩng đầu nhìn lên phía lầu trên. Địch Thanh tìm chỗ ngồi xuống, sợ cái mông vẫn còn đau nên chỉ dám ngồi nghiêng dựa vào một góc ghế. Trong lòng hắn rất khó hiểu, những người này đến Trúc Ca lâu vì sao không tìm ca kỹ mà lại cùng ngồi uống trà ở đây?

Ba người ngồi xuống, chẳng thấy có ai ra mời mọc, cứ như thể chỗ này đã ngừng kinh doanh rồi vậy. Trong lòng Địch Thanh buồn bực, vốn muốn hỏi Thượng Thánh một chút, thấy gã đang nhìn mình tha thiết cầu khẩn, không muốn bẽ mặt nên ho khan một tiếng:

- Ta có việc, đi trước tìm bằng hữu hỏi thăm chút chuyện.

Thượng Thánh khâm phục nói:

- Các hạ bằng hữu đầy thiên hạ, ta thật hổ thẹn không bằng.

Địch Thanh ra vẻ điềm tĩnh, thực ra là đang xem xét tình thế. Nhìn xung quanh thì thấy có hai thương nhân mập mạp đang ngồi uống trà, một người tai to mặt lớn, một người mặt mỡ bóng loáng, đều là điển hình của loại bụng no thì nghĩ đến chuyện xxx, liền mỉm cười đi tới ngồi xuống nói:

- Hai vị bằng hữu xin cho hỏi một chút.

Hai người kia thấy trên mặt Địch Thanh xăm chữ, có khắc chiêu bài cấm quân, mặc dù đáy lòng xem thường nhưng ngoài mặt không muốn đắc tội, miễn cưỡng trả lời:

- Vị quan nhân này có gì chỉ giáo?

Địch Thanh hạ giọng nói:

- Tại hạ mới tới chỗ này, không biết làm thế nào mới có thể gặp được Trương Diệu Ca đây?

Người tai to mặt lớn nghe vậy, cười hắc hắc:

- Ngươi muốn gặp Trương Diệu Ca hả? Ta cũng muốn vậy.

Địch Thanh kết thân nói:

- Nói như vậy chúng ta là anh hùng cùng chí hướng rồi, kính mong huynh đài chỉ điểm cho đôi chút.

Người tai to mặt lớn nhìn bên cạnh chỉ tay:

- Ngươi có thấy những người ngồi ở đây không?

- Thấy thì làm sao?

Địch Thanh khó hiểu nói.

Người mặt mỡ bóng loáng thản nhiên nói:

- Bọn họ đã đợi ở chỗ này mấy ngày, chắc cũng giống như chúng ta, chỉ có thể chờ đợi. Quan nhân nếu như muốn gặp, xin cứ chờ đợi.

Lời nói của y mang chút khinh miệt, y lại nói:

- Chúng ta hao phí mười lượng bạc, mua cái thẻ số này, quan nhân nếu như muốn gặp thì trước hết ra mua một cái thẻ số đi.

Địch Thanh lúc này mới phát hiện bên cạnh chén trà của hai người này đều có cái thẻ bằng trúc, trên đó có khắc số, một cái là mười hai, một cái khác là hai mươi ba, nhíu mày hỏi:

- Cái thẻ số này là sao vậy?

Người tai to mặt lớn nói:

- Trương Diệu Ca một ngày chỉ đánh đàn ca múa cho mười người, cho nên người muốn gặp được nàng thì từ lúc hơn mười ngày trước phải tới mua thẻ số mới có thể có cơ hội gặp nàng một lần. Nếu như có thể được nàng xem trọng, có khi còn được thưởng trà tâm sự cùng nàng. Chúng ta đã chờ ba ngày, cuối cùng đã đợi được. Huynh đài nếu như thực lòng muốn gặp Trương Diệu Ca, hay là ra mua cái thẻ số, nửa tháng sau lại đến xem, thế nào?

Y mặc dù như đang giảng giải nhưng trong lời nói lại mang ý mỉa mai. Địch Thanh ngượng ngùng quay lại, nghe được người kia khẽ nói với bạn:

- Sao không soi mặt vào trong nước tiểu mà xem mình là cái thá gì, vậy mà cũng muốn xem Trương Diệu Ca ca múa à?

Địch Thanh nghe được thì âm thầm cười lạnh. Hắn căn bản không có ý muốn gặp Trương Diệu Ca, nhưng thương nhân kia khinh miệt hắn như vậy, làm kích thích lòng tự tôn của hắn. Sau khi quay lại chỗ ngồi, Thượng Thánh nóng lòng hỏi:

- Các hạ, sao rồi?

Địch Thanh nói:

- Muốn gặp Trương Diệu Ca thì phải có thẻ số gì đó. Mười lượng bạc một cái.

Người trung niên mập thấy thế chế nhạo nói:

- Hóa ra ngươi chỉ biết khoác lác, rốt cuộc chả biết gì. Cái thẻ số ấy hả, thực ra chúng ta cũng có.

Lão chìa tay đưa ra hai thẻ số bằng trúc đặt ở trên bàn, nhưng theo yêu cầu trên thẻ số mà đợi chờ Trương Diệu Ca thì đến lập thu may ra mới gặp được.

Thượng Thánh thấy Địch Thanh nhíu mày không nói, không khỏi thất vọng nói:

- Cái này...ai...

Gã thở dài, hoàn toàn thất vọng.

Địch Thanh đột nhiên cười nói:

- Muốn gặp Trương Diệu Ca không khó lắm, nhưng mà các ngươi phải phối hợp với hành động của ta.

Thượng Thánh nghe vậy hứng thú lại nổi lên, vui vẻ nói:

- Mọi thứ nghe theo ngươi.

Địch Thanh nhìn xung quanh, thấy có tỳ nữ tới châm trà, nhỏ giọng nói:

- Đi gọi tú bà của ngươi tới đây.

Tỳ nữ khinh thường nói:

- Má má há có thể nói gặp là gặp sao?

Địch Thanh thầm nghĩ Trúc Ca lâu này quả thật còn muốn phô trương hơn cả hoàng cung, chỉ có một ca nữ đứng đầu bảng mà còn khó gặp hơn cả Hoàng thượng, tú bà này xem ra chẳng kém gì Thái hậu. Mình dẫu sao cũng là cấm quân, vậy mà bị những người này xem thường?

Sắc mặt trầm xuống, Địch Thanh thò tay mở rộng vạt áo, lộ ra bên trong một tấm lệnh bài, nói:

- Công gia phá án, ngươi biết làm như thế nào rồi chứ.

Hắn nhanh nhẹn che cái lệnh bài lại, thật ra cái đó chỉ là tấm yêu bài (thẻ bài đeo ngay eo) bình thường của cấm quân.

Tỳ nữ rốt cuộc có chút sợ hãi, nhanh chóng đi vào sau lâu. Không bao lâu, một thiếu phụ trang điểm lòe loẹt đi tới, ngồi ở phía trước Địch Thanh, õng ẹo cười nói:

- Ai ôi, vị tiểu ca này có gì chỉ giáo sao?

Tphụ này cũng đã có tuổi rồi nhưng vẫn còn bộ dáng thướt tha, ánh mắt lướt qua trên mặt Địch Thanh, rơi vào trên người Thượng Thánh và lão mập, bỗng có chút giật mình. Mượn thời gian bưng trà, bà lại nhìn xuống bàn chân mỗi người đánh giá, lông mày khẽ cau.

Dù cho bà hiểu biết sâu rộng, trong lúc nhất thời cũng không hiểu ba người này rốt cuộc là ai.

Thiếu phụ này tên là Phượng Sơ Ảnh, cũng tiếp xúc với không ít quan to tướng lớn. Nàng vừa thấy trên mặt Địch Thanh xăm chữ thì đã biết người này là cấm quân, chắc chắn là cái loại quan quân cấp thấp, nhưng cái thứ người thô kệch như hắn tại sao lại cầm một nhánh hoa mẫu đơn? Người trung niên mập trắng thì trên người vốn thừa thịt, đầy phúc hậu, nét mặt giống như hình dáng, tướng mạo của một vị thái giám trong cung. Mà người thanh niên cầm cái quạt xếp kia lại càng kỳ lạ, nhìn khuôn mặt gã dính đầy tro bùn, hình như là tạp dịch, nhưng đôi tay cực kỳ nho nhã, rõ ràng là chưa hề đụng tới một chút việc nặng nào, mà đôi giày hắn đang đi thì thù lao một năm làm tạp dịch cũng không mua nổi.

Ba người này dù nhìn thế nào cũng không giống như cùng một nhóm, nhưng sao tập hợp lại cùng một chỗ. Thoạt nhìn lại còn rất thân mật, khó tránh làm Phượng tú bà nghi hoặc.

Địch Thanh biết rõ theo số thứ tự sắp xếp, đợi đến lúc quân nhân Ma Khám lần nữa cũng không thể gặp được Trương Diệu Ca, thấy Phượng tú bà hỏi dò mục đích đến, bèn thấp giọng nói một câu:

- Ngươi không biết ta sao?

Phượng Sơ Ảnh làm nũng cười nói:

- Bây giờ chẳng phải đã biết rồi sao, quan nhân quý tính là gì vậy?

Địch Thanh thầm nghĩ, ngươi không biết ta thì tốt rồi. Nghĩ vậy, hắn nghiêm mặt nói:

- Phượng đại nương, thực không dám giấu, ta chính là huynh đệ Diệp Tri Đông của Khai Phong bộ đầu Diệp Tri Thu ở phủ Khai Phong, trước kia một lòng làm việc tại sương quân, gần đây mới đi đến kinh thành trợ giúp phủ Khai Phong phá một vụ án lớn. Bên cạnh ta, vị này ... là cao thủ hỏa khí Diêm Nan Địch của đại nội Vũ Kinh Đường, vị Thánh công tử càng dữ dội hơn, là bộ khoái tài ba Ngọc Phiến Phi Long, người bình thường đều không biết được đại danh của bọn họ. Không biết ngươi đã từng nghe chưa?

Hắn bịa ra mấy cái tên, thầm nghĩ ta đã nói trước rồi, chỉ trách ngươi kém hiểu biết thôi.

Phượng Sơ Ảnh thấy Thượng Thánh lay nhẹ quạt xếp, quả thực là có chút thâm sâu khó dò, sắc mặt biến đổi, nhưng thoáng thấy trên mặt Địch Thanh xăm chữ, lại nghi ngờ nói:

- Nhưng quan nhân hình như là cấm quân của Kiêu Vũ quân?

Địch Thanh không chút hoang mang nói:

- Xăm chữ chỉ là kế hoạch tạm thời để che đậy thân phận mà thôi, sau khi xong việc sẽ tẩy đi.

Phượng Sơ Ảnh cười làm lành nói:

- Thì ra là thế, thiếp mắt mũi kèm nhèm, không nhìn ra được ba vị quan nhân, xin chớ để bụng. Nhưng mà ba vị quan nhân tới nơi này để làm gì thế?

Thượng Thánh nghe Địch Thanh bịa chuyện, suýt nữa bật cười, nhưng nhớ tới lời dặn dò của Địch Thanh nên đành phải cúi đầu xuống uống trà.

Địch Thanh mặt không đổi sắc nói:

- Chuyện điện Thiên Vương của Đại Tướng Quốc tự bị sét đánh ngày hôm qua chắc là ngươi cũng đã nghe thấy?

Phượng Sơ Ảnh gật đầu nói:

- Cũng có nghe qua nhưng tình hình cụ thể thế nào thì thiếp cũng không rõ lắm.

Địch Thanh hừ lạnh một tiếng:

- Ta cũng đoán là ngươi không rõ tình hình. Ta nói cho ngươi biết nhưng ngươi tuyệt đối không được nói chuyện này cho ai khác biết. Nếu không, để tin này lộ ra ngoài thì e rằng mười cái đầu của ngươi cũng chém không đủ.

Phượng Sơ Ảnh vội vàng nói:

- Thiếp chỉ có một cái đầu thôi, vậy thôi quan nhân chớ có nói ra nữa. Chi bằng các ngài nói ra mục đích tới đây là được rồi.

Địch Thanh ra vẻ cẩn trọng nói:

- Đúng là chuyện Đại Tướng Quốc Tự không thể nói cho ngươi biết, nhưng ta cũng không ngại nói cho ngươi biết, chuyện này có liên quan đến yêu nghiệt Di Lặc giáo, triều đình biết những kẻ này thường xuyên xuất hiện ở kinh thành, nên mới bảo bọn ta liên thủ đi bắt giặc. Có người báo tin rằng những tên giặc này đã đến Trúc Ca lâu...

Phượng Sơ Ảnh kêu thất thanh nói:

- Sao có việc này chứ?

Địch Thanh nói:

- Không phải ngươi nói không thì sẽ không có.

Phượng Sơ Ảnh nói:

- Đúng vậy, đúng vậy.

Mụ ta cũng nghe không ít chuyện về Di Lặc giáo, hiểu rằng nếu bị nói có quan hệ với bọn họ thì tình hình sẽ rất nghiêm trọng, chắc chắn sẽ phải đóng cửa Trúc Ca lâu, liền vội vàng hỏi:

- Vậy rốt cuộc quan nhân định làm gì?

- Bây giờ ngươi có hai lựa chọn.

Địch Thanh nói:

- Lựa chọn thứ nhất là chờ đại đội nhân mã của chúng ta đánh tới đây, sẽ vây chặt Trúc Ca lâu rồi lục soát kỹ tầm mười ngày đến nửa tháng để xem trong đó có kẻ phản nghịch nào nữa hay không.

Phượng Sơ Ảnh cười khổ nói:

- Quan nhân nói đùa rồi, đâu cần khám xét nhiều thời gian như thế? Điều này không được đâu. Thế còn lựa chọn thứ hai?

Địch Thanh thấp giọng nói:

- Lựa chọn thứ hai chính là để cho ba chúng ta gặp mặt Trương Diệu Ca, bởi vì mật thám đã thăm dò được lũ giặc kia gần đây rất thích ẩn nấp tại nơi bướm hoa, tựa như chỗ ở của Trương Diệu Ca vậy, đó chẳng phải là một nơi an toàn để cho bọn gian tặc ẩn thân sao? Ba chúng ta muốn đến đó quan sát, điều tra xem rốt cuộc có kẻ gian nào ẩn náu hay không.

Phượng Sơ Ảnh khẽ giật mình, không ngờ Địch Thanh lại đưa ra đề xuất này. Mụ nghĩ mãi không ra lai lịch của ba người này, chỉ cho rằng bọn họ tới đây để bắt chẹt kiếm một khoản bạc, không ngờ bộ dạng của Địch Thanh đúng là giải quyết việc công, ngược lại khiến cho Phượng Sơ Ảnh bán tín bán nghi, không biết trả lời ra sao nữa.

Địch Thanh thấy mụ ta do dự, thản nhiên nói:

- Đương nhiên dù ngươi không đồng ý thì cũng vô phương thôi, chúng ta phụng mệnh đi điều tra, nói không được thì đành phải đánh vào thôi.

Phượng Sơ Ảnh vội vàng cười nói:

- Quan nhân, không phải thiếp thân không chịu, nhưng hi vọng mấy vị quan gia sau khi đi lên, ngàn vạn lần đừng có làm Diệu Ca của chúng ta bị thương. Như thế thật thì thật sự thiếp không thể nào chịu đựng được đâu.

Địch Thanh nói:

- Chuyện đó là đương nhiên, ngươi nghĩ rằng chúng ta chỉ có hư danh thôi sao? Vị này chính là Diêm Nan Địch đại nhân của Vũ Kinh đường, ngươi đừng chỉ nhìn dáng vẻ trắng trẻo của gã, nhưng khi gã đã nổi giận thì chẳng kém gì Thiên Lôi đâu.

Trong lòng Phượng Sơ Ảnh phát run, nghĩ thầm như thế chẳng phải phá sập Trúc Ca lâu của ta rồi còn gì? Nhưng chuyện tới bây giờ, cân nhắc nặng nhẹ cũng chỉ còn cách để cho ba người Địch Thanh đi vào. Mụ ta lén lút gọi nha hoàn tới thấp giọng dặn dò mấy câu. Nha hoàn kia hô:

- Xin mời các vị quan nhân qua bên này.

Địch Thanh thấy kế sách đã thành công, đứng lên chắp tay với hai người Thượng Thánh nói:

- Thánh công tử, Diêm đại nhân, địch nhân xảo trá, hai người hãy chú ý chút. Xin mời!

Thượng Thánh cố nén bụng cười, học theo dáng điệu chắp tay của Địch Thanh nói:

- Diệp nhị bộ đầu, mời.

Địch Thanh khẽ giật mình, trong chốc lát liền tỉnh ngộ ra, nghĩ thầm vừa rồi mình bảo mình là đệ đệ của Diệp Tri Thu cho nên Thượng Thánh mới gọi mình là Diệp nhị bộ đầu, thầm cảm thấy buồn cười. Giả bộ làm dáng điệu của bộ đầu, hắn nghênh ngang đi theo sát nha hoàn.

Hai người thương nhân phía bên kia thấy Địch Thanh thầm thì với Phượng Sơ Ảnh mấy câu, thế mà lại được dẫn vào Thính Trúc tiểu viện của Trương Diệu Ca, kinh ngạc đến nỗi quai hàm suýt chút nữa rớt cả xuống chân, không nhịn được nhốn nháo cả lên.

Địch Thanh giao chuyện phiền phức cho Phượng Sơ Ảnh xử lí, bước theo nha hoàn qua Phượng Lưu đình, Thưởng U đài rồi đến phía trước Thính Trúc tiểu viện. Nha hoàn kia nói:

- Ba vị công tử chờ ở đây, tiểu nhân vào bẩm báo một tiếng.

Chưa nói dứt lời thì đã đi vào Thính Trúc tiểu viện.

Địch Thanh rỗi rãi, thấy gã trung niên mập trắng sầm mặt lại, liền hỏi:

- Vẫn chưa biết quý tính của vị tiên sinh này?

Người mập trắng lạnh lùng đáp:

- Họ Diêm, Diêm trong chữ Diêm Vương.

Lão vẫn trầm mặc từ đầu cho tới giờ, hiển nhiên không tán đồng với cách xử sự của Địch Thanh.

Địch Thanh khẽ giật mình, không ngờ mình chỉ thuận miệng nói ra cái tên này mà lại trúng. Thấy mặt lão ta bí xị như bị người ta quỵt nợ, trong lòng hắn cũng thấy không vui.

Đúng lúc này, nha hoàn từ Thính Trúc tiểu viện đi ra, hô:

- Xin mời ba vị.

Nàng đi đằng trước dẫn đường, Thánh công tử chăm chú đi theo, Địch Thanh lại mất hứng nói:

- Thánh công tử, ta còn có việc trong người, vì thế sẽ không vào đâu.

Thượng Thánh nghe vậy liền túm lấy Địch Thanh, vội la lên:

- Như vậy sao được, ba người chúng ta đến để bắt giặc, sao có thể thiếu được cao thủ như ngươi? Ngươi...nhất định phải đi theo.

Giọng điệu của gã nghe ra nhiều tha thiết lắm, khiến lòng Địch Thanh mềm nhũn, cuối cùng cũng phải đi thẳng về phía trước.

Gian Thính Trúc tiểu viện này thật thú vị lạ thường, lấy nét tịch mịch, yên tĩnh, trang nhã, giản đơn làm chủ đạo, khiến Thượng Thánh trên đường đi cứ không ngớt miệng khen. Đúng lúc này, lại có vài tiếng "tình tính tang" vang lên, âm thanh cao vút như vọng giữa mây trời, khiến cho tiểu viện như thêm phần tươi vui.

Âm điệu này sau khi xuyên qua mây vén sương mù, quanh co uốn lượn, dần dần trở nên trầm nhẹ, như oanh hót giữa vườn hoa, như suối buồn lắng đọng, tuyệt vời vô cùng.

Thượng Thánh nghe đến ngây ngẩn cả người, khen ngợi nói:

- Khúc nhạc này mới hay làm sao, ta rất thích.

Địch Thanh thầm nghĩ, nhìn dáng dấp ngươi xem ra cũng là kẻ có tiền, nhưng sao lại giống như kẻ suốt ngày bị giam trong lồng thế, cái này cũng tốt, cái kia cũng hay, cái này cũng mê, cái kia cũng thích?

Ba người bước lên lầu, tuy tiếng đàn đã dứt, nhưng dư âm vẫn chưa tan. Nha hoàn đẩy nhẹ cửa bước vào, chỉ vào chỗ có ba cái ghế trống, thấp giọng nói:

- Xin mời ngồi.

Nói xong dẫn ba người đến trước ghế, dâng lên ba chén trà xanh.

Trong lầu các có mười người nữa đang ngồi, trước mặt mỗi người đều chỉ có một chén trà xanh, nhưng nhìn họ sung sướng như thể được ăn sơn hào hải vị vậy.

Người con gái ngồi gần song cửa sổ nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra, khẽ ngẩng đầu nhìn sang hướng này. Thượng Thánh vừa nhìn thấy, vốn định ngồi xuống nhưng lại đột nhiên đứng dậy, ngây ngốc nhìn nàng, tròng mắt cũng không đảo lấy một cái.

Ban đầu Thượng Thánh tán thưởng người ngoài, đều nói ta rất thích, nhưng giờ khắc này bờ môi chỉ nhúc nhích được hai cái, rốt cuộc ngay cả nửa chữ cũng không nói ra được.

Đôi mắt của nàng không phải là quá to, miệng cũng không được coi là quá nhỏ, phấn son cũng không quá dầy. Nếu chỉ nói riêng về khuôn mặt nàng thì không phải là quá đẹp, nhưng chỉ thoáng nhìn nàng như thế, thì tựa như gió lay cành liễu, trăng sáng nhìn người, phong tình vạn chủng, thật dễ động lòng người.

Mà chỗ động lòng người nhất của nàng, chính là ở cái phong tình.

Người khác nhìn thấy ánh mắt của cô gái này, giống như trầm mình trong nước biếc, nhìn thấy phong thái quyến rũ của nàng, tựa như được gột rửa bằng gió xuân. Không phải Thượng Thánh chưa từng nhìn thấy con gái, mà ngược lại những người gã nhìn thấy đều cực đẹp nhưng nếu so sánh với cô gái này, Thượng Thánh chỉ có thể nhận xét những người con gái trước đây, tất cả đều tầm thường!

Cô gái này tất nhiên là Trương Diệu Ca!

Lúc đôi mắt đẹp của Trương Diệu Ca lướt qua Thượng Thánh, mang theo đôi chút kinh ngạc, lúc nhìn người trung niên mập trắng, chau lại đôi mày, khi nhìn thấy Địch Thanh, đột nhiên khẽ bật cười.

Mọi người đều ngạc nhiên, trông theo ánh mắt Trương Diệu Ca, không hiểu vì sao nàng bật cười.

Trương Diệu Ca không cần cất tiếng hát, mỗi cử chỉ và hành động của nàng, một nụ cười, một cái chau mày đều là giọng ca không vang thành tiếng mà vẫn rung động lòng người. Lúc trước, Thượng Thánh mất hai mươi lạng bạc mua hai cái thẻ số còn cảm thấy không đáng, nhưng bây giờ gã bỗng cảm thấy chỉ cần gặp được Trương Diệu Ca một lần cho dù mất hai trăm lạng bạc cũng đáng.

Địch Thanh không hồn bay phách lạc như Thượng Thánh. Trên thực tế, bên trong các lâu, chỉ có hai người không hồn bay phách lạc trước Trương Diệu Ca, người thứ nhất là người trung niên mập trắng, người còn lại chính là Địch Thanh.

Người trung niên mập trắng vì lý do riêng của bản thân nên đối với con gái dù xinh đẹp cỡ nào lão cũng chẳng có cảm giác gì. Còn Địch Thanh thì cảm thấy Trương Diệu Ca có chút đáng thương, thậm chí hắn còn cảm thấy được, bản thân mình, Thượng Thánh và Trương Diệu Ca đều bị nhốt rất sâu vào thứ ngục tù mà không thể nào tự thoát ra được.

Bởi vậy, khi Địch Thánh thấy Trương Diệu Ca mỉm cười nhìn lại, cũng đáp lại bằng nụ cười, bước lên phía trước, cầm theo cành nhãn nhi mị ở trong tay đặt ở trước bàn Trương Diệu Ca, nói:

- Tặng cho cô.

Trương Diệu Ca hơi kinh ngạc, đôi mắt đẹp nhìn chăm chú vào mặt Địch Thanh, nhìn một lúc lâu mới nhẹ nhàng cất tiếng:

- Cảm ơn nhé.

Giọng nói của nàng như gió mát trăng thanh, mang theo một chút khí khái. Nàng cầm lấy cành nhãn nhi mị đặt ở trên bàn, đưa lên mũi ngửi, rồi mở môi son khen ngợi:

- Hoa đẹp! Quả thực có thể sánh với thơ của Liễu Thất(2).

Mọi người đều ngạc nhiên, trên mặt vài người đã lộ ra vẻ bất bình. Lúc Thượng Thánh nghe thấy hai chữ Liễu Thất lại khẽ nhíu mày.

Ít ai không biết Liễu Thất, chỗ nào có nước giếng chỗ đó có thơ văn của Liễu Thất!

Liễu Thất không phải quan to mà cũng chưa thi đỗ, dưới cái nhìn của người kinh thành, y chỉ là một thư sinh nghèo khổ. Nhưng tên tuổi của y thậm chí còn vượt qua cả hoàng đế đương triều.

Kim tiêu tửu tỉnh hà xử? Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt! (3)

(Đêm nay, nơi nao tỉnh rượu? Liễu xanh bờ, gió sớm trăng tan)

Chỉ bằng vào câu này, Liễu Thất đã trở thành tri kỉ của vô số nam nữ si tình trên đời này, và cũng là đối tượng ngưỡng mộ của vô số thiếu nữ khuê phòng cũng như hầu môn thâm phụ (những người vợ hay người thiếp trong gia đình quý tộc).

Thậm chí thanh lâu trong kinh thành còn lưu truyền một câu nói như thế này: "Không cần quân vương triệu, nguyện được Liễu Thất mời, không cần ngàn vàng bạc, nguyện được tâm Liễu Thất, không cần thấy thần tiên, nguyện được gặp Liễu Thất."

Ở trong mắt của vô vàn ca kỹ, tưởng chừng như Liễu Thất còn oai phong hơn cả Hoàng đế.

Có người mến mộ, có người căm ghét, có người ghi nhớ, có người khinh bỉ. Người trong thiên hạ bình luận về Liễu Thất rất nhiều, tuy những lời nhận xét đều không giống nhau, nhưng không ai có thể phủ nhận, danh tiếng của Liễu Thất quả thực rất lớn, thế gian hiếm có. Nếu như Trương Diệu Ca khen Liễu Thất thì cũng là chuyện bình thường, nếu như bàn về tiền nhiều, mỗi người ngồi ở đây ai cũng đều hơn xa Liễu Thất, nhưng nếu bàn về văn chương thì dù là bóng lưng Liễu Thất cũng khó mà chạm tới được. Tuy nhiên, Trương Diệu Ca không ngờ lại nói đóa hoa của một tên cấm quân quèn tặng cho có thể sánh với thơ văn của Liễu Thất…

Không ai có thể phục!

Địch Thanh cũng đã từng nghe qua tên Liễu Thất, nhưng mà chí hướng của hắn với Liễu Thất không giống nhau. Thơ văn của Liễu Thất miêu tả về tình yêu nam nữ, những nỗi sầu triền miên, tình người xa xứ cùng yến tiệc sớm khuya, nhưng chỉ độc khí chất khẳng khái nghĩa hiệp cương trực mà Địch Thanh đang hướng tới thì lại không viết được. Chính vì thế, tuy Địch Thanh biết tiếng tăm của Liễu Thất nhưng không hề có cảm giác tri kỉ. Hắn tặng hoa cho Trương Diệu Ca, đơn giản là vì hắn nhìn thấy nỗi cô đơn tịch mịch trong mắt Trương Diệu Ca, cái loại cô đơn này khiến cho lòng hắn cảm thấy thương xót.

Nghe lời khen của Trương Diệu Ca, Địch Thanh cười nói:

- Cám ơn.

Rồi hắn xoay người trở về chỗ ngồi hết sức tự nhiên. Nhưng khi mông hắn vừa chạm vào ghế, hắn liền nhe răng trợn mắt vì đau. Trương Diệu Ca nhìn thấy, cười khúc khích, nụ cười này không mang chút châm biếm nào. Ngón tay gẩy nhẹ dây đàn, vang lên mấy tiếng tinh tinh tang tang, mặc dù không cất tiếng hát nhưng rất nhiều người đều nghe ra đó là giai điệu của bài Vũ Linh Lâm (4),

"Thử khứ kinh niên, ứng thị lương thần hảo cảnh hư thiết. Tiện túng hữu thiên chủng phong tình, canh dữ hà nhân thuyết?" (5)

(Năm dài biền biệt, cảnh đẹp ngày vui chẳng thiết mơ màng. Dẫu rằng có tơ vương trăm mối, cùng ai ngỏ tâm can?)

Mọi người lại càng không vừa lòng, thầm nghĩ dù sao chúng ta cũng đều là những người giàu sang phú quý, vì sao Trương Diệu Ca lại chỉ quan tâm tới Địch Thanh?

Một người đã không nhịn được nữa, bỗng nhiên đứng dậy ra vẻ hào sảng nói:

- Nếu như Diệu Ca thích hoa, sao không nói sớm? Với khả năng của tại hạ, dù mua cho Diệu Ca 'Đan Quế viện' cũng chỉ là chuyện nhỏ.

Đan Quế viện là một vườn hoa có quy mô rất lớn ở kinh thành, chủng loại hoa trong đó rất đa dạng, cực kì xa xỉ. Người này vừa mở miệng đã nói sẽ mua cho người đẹp cả một tòa Đan Quế viện, có thể nói là cực kì xa xỉ. Hơn nữa, chỉ mới nhìn vào trên thân người đó thôi cũng đã thấy vô cùng xa hoa, lúc vừa mới đứng lên, người đã hiện đầy kim quang, trên mười đầu ngón tay đeo đủ mười chiếc nhẫn bằng vàng ròng, nhìn bộ dạng của gã cứ như thể chỉ hận không mọc thêm được mấy ngón tay nữa mà đeo.

Trương Diệu Ca thản nhiên cười một tiếng, nói:

- Mặc dù ta rất thích ăn thịt heo, nhưng dẫu sao cũng không đến mức phải đi trông chuồng heo chứ?

Tuy nàng cười, nhưng dễ thấy nụ cười của nàng thiếu đi sự khoan dung mà thêm vào chút ít mỉa mai.

Mọi người nhịn không được cười ầm lên, hóa ra người đứng lên là Chu Đại Thường, người này ngoài tiền ra thì cái gì cũng không có. Lượng heo hơi hằng năm cung cấp cho kinh thành hiện giờ gã đã chiếm tới một phần ba, có thể gọi là nhà giàu mới nổi. Nghe thấy giọng trào phúng của Trương Diệu Ca, khuôn mặt Chu Đại Thường đỏ giống màu tiết heo, đứng cũng ngượng mà ngồi cũng không yên, nhưng rời khỏi thì không muốn.

Một người ngồi bên cạnh bỗng nhiên đứng dậy, lớn tiếng nói:

Trương Diệu Ca, Chu huynh có ý tốt đối với ngươi, vì sao ngươi không hiểu lòng gã? Ngươi đã ở đây nhiều năm, thực ra cũng chỉ là nghề “dạng chân” mà thôi, cần gì phải ra vẻ thanh cao như vậy? Ngươi ra giá đi! Ta sẽ chồng đủ như ngươi muốn.

Dứt lời, hắn móc ra một thỏi vàng vứt xuống đất nói:

- Ngươi hiểu rồi chứ?

Mọi người không chịu nổi những lời kẻ này nói ra, sắc mặt đều thay đổi. Bởi vì xưa nay Trương Diệu Ca chỉ bán nghệ không bán thân, những câu người này nói có thể xem là lời sỉ nhục cực lớn đối với Trương Diệu Ca.

Người này gọi là Dương Đắc Ý, không phải là gia đình giàu có nhờ nuôi dê mà chính là thiếu chưởng quỹ của "Thái Bình hành" trong nội thành. Thái Bình hành chủ yếu đảm nhiệm việc vận chuyển hàng trong kinh thành bằng đường thủy, thỉnh thoảng cũng phụ trách đưa heo đến kinh thành, cho nên cũng có qua lại buôn bán với Chu Đại Thường. Lần này hắn và Chu Đại Thường cùng nhau xếp số để được gặp Trương Diệu Ca, vào đây ngồi uống trà xanh, nãy giờ đã tích đầy một bụng tức, nên mới mượn cơ hội này để xả giận.

Vẻ mặt Trương Diệu Ca không thay đổi, chỉ khoát tay áo, liền thấy một tỳ nữ bước lên nhẹ nhàng quẳng hai đĩnh vàng xuống đất.

Trương Diệu Ca cười nhạt một tiếng, nói:

- Ngươi có hiểu không?

Dương Đắc Ý quát:

- Ta hiểu cái gì?

Trương Diệu Ca nói:

- Hai đĩnh vàng này ý nói chỉ cần hai người Dương công tử xuống lầu thì chúng sẽ là của công tử đó.

Nói xong, nàng dùng tay gẩy đàn không nói gì thêm nữa, nhưng sự khinh miệt của nàng không cần nói cũng biết.

Tất cả mọi người đều cười, Dương Đắc Ý xấu hổ nóng cả gót chân lên, vừa định phát cáu, một người bỗng nhiên đứng dậy quát:

- Hai tên ngu xuẩn này, lại dám vô lễ với Trương cô nương! Cút ra ngoài mau!

Người nọ hai mắt trợn lên, hết sức giận dữ, Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý nhìn thấy người đó tức giận, trên mặt cuối cùng cũng lộ vẻ sợ hãi, do dự một lát rồi nén giận xoay người ra khỏi lầu.

Đến lúc này, người đó mới quay sang Trương Diệu Ca vái một lễ thật sâu nói:

- Trương cô nương, hai người kia quá thô bỉ, làm hỏng khung cảnh, mong nàng đừng trách.

Người này ăn mặc kiểu văn sĩ, trên mặt lỗ chỗ mụn, trông rất trẻ, nếu không phải cái mặt dài hơn người ta một phần ba thì cũng được coi là tuấn tú. Lúc này, tuy gã nhận lỗi dùm cho hai người Chu, Dương nhưng gương mặt lại ít nhiều lộ ra vẻ đắc ý.

Thượng Thánh nhìn thấy người đó, nói nhỏ với người trung niên mập trắng:

- Người này là ai vậy, sao ta thấy hơi quen mặt?

Người trung niên mập trắng hạ giọng nói:

- Gã tên là Mã Trung Lập, con trai của Mã Quý Lương.

Thượng Thánh nhíu mày, chỉ hừ lạnh một tiếng. Địch Thanh ở bên cạnh đã nghe được lời nói thầm của Thượng Thánh, trong lòng cũng có chút cảm giác lạ, thầm nghĩ cái tên Mã Quý Lương này rất quen tai, hình như mình đã nghe qua.

Trương Diệu Ca thấy Mã Trung Lập vì mình mà đuổi dê đuổi bò, nhưng lại che miệng ra vẻ mệt mỏi nói:

- Rất cảm ơn ý tốt của Mã công tử, nếu như bọn họ không liên quan gì tới ngài, vậy thì ngài cần gì phải vơ cái lỗi này vào mình?

Sắc mặt Mã Trung Lập hơi đổi, gã chớp mắt cười nói:

- Hai kẻ này làm sao có quan hệ với tại hạ được? Cô nương nói đùa rồi.

Trương Diệu Ca nói:

- Thiếp thấy hơi mệt.

Nàng nói ra lời ấy, đã có ý đuổi khách.

Ánh mắt của Mã Trung Lập lộ vẻ cổ quái, gã nói:

- Vậy không biết người cô nương muốn mời phẩm trà là ai nhỉ?

Trương Diệu Ca có một nguyên tắc là mỗi ngày chỉ gặp không quá mười người, nhưng có thể sẽ giữ một người ở lại để phẩm trà luận thơ. Những người đến Trúc Ca lâu ai nấy đều coi việc được cùng Trương Diệu Ca phẩm trà luận thơ làm vinh dự, Mã Trung Lập hỏi như vậy đương nhiên là có ý ôm mộng kề cận hồng nhan.

Trương Diệu Ca chỉ một ngón tay, tùy tiện nói:

- Vị quan nhân này có vẻ rảnh rỗi, không biết có thể cùng thiếp trò chuyện được không?

Mã Trung Lập dù có cố vươn cái cổ mình cho dài như cổ cò đi nữa thì ngón tay thon thon vẫn cách gã rất xa, kéo cổ ra cũng chẳng tới. Vừa quay đầu lại, gã đã tức giận đến mức lỗ mũi thiếu chút nữa thì nứt ra. Hóa ra người Trương Diệu Ca chỉ không phải ai khác mà chính là Địch Thanh!

Mọi người đều kinh ngạc vô cùng, một người đứng dậy không phục nói:

- Trương tiểu thư, vì sao chúng ta chân thành ngưỡng mộ mà cũng không bằng một nhánh hoa tươi?

Trương Diệu Ca thản nhiên nói:

- Mong cầu với không mong cầu thì khác gì nhau?

Câu vặn lại khiến người này cực kì xấu hổ, phất tay áo rời đi. Có một người mặc áo lụa khẽ nói:

- Như thể gặp cao tăng vậy.

Trong lời nói có ý mỉa mai, nhưng cũng biết rằng không có cách nào để cố chấp ở lại, người đó đành ngượng ngùng rời đi.

Trong mắt Mã Trung Lập hiện lên vẻ oán hận, lại đánh giá Địch Thanh từ trên xuống dưới một lượt, rồi phất tay áo rời đi. Chỉ chốc lát sau, trong phòng chỉ còn lại Địch Thanh, Thượng Thánh cùng người hầu của gã.

Trương Diệu Ca nhìn về phía Thượng Thánh nói:

- Thiếp hình như không có giữ công tử ở lại.

Thượng Thánh mặt dày mày dạn nói:

- Nhưng ta vốn là bằng hữu của Địch huynh, sao nỡ nhẫn tâm bỏ hắn mà đi?

Địch Thanh vừa bực mình vừa buồn cười, thấy Thượng Thánh đang nhìn mình, trong mắt đầy sự cầu khẩn, nói:

- Trương cô nương, Thượng huynh ngưỡng mộ tên tuổi của nàng đã lâu, lần này tới đây chính là vì vậy. Chúng ta chỉ nghe thấy tiếng đàn, nhưng chưa nghe được trọn vẹn một khúc, nếu được cô nương tấu cho một khúc nhạc thì thực là vinh hạnh.

Đôi mắt đẹp của Trương Diệu Ca vừa đảo qua, rồi dừng lại ở trên mặt Địch Thanh:

- Gã muốn gặp mặt thiếp một lần, vậy còn chàng?

Mặc dù Trương Diệu Ca đang ở thanh lâu nhưng xưa nay chỉ bán nghệ không bán thân, bởi vì nàng hát rất hay nên những người đến gặp có thể nói là đông đuổi không hết. Nàng đã gặp qua rất nhiều người, đã sớm nhìn ra Thượng Thánh tuyệt đối không phải con nhà thường dân, nhưng loại người này nàng đã thấy nhiều nên cũng không để tâm. Trái lại Địch Thanh sau khi ngồi xuống, lại cứ đứng ngồi không yên, hết nhìn đông lại nhìn tây, dường như không thèm để ý tới nàng, khiến cho Trương Diệu Ca dâng lên một cảm giác mới lạ.

Nàng làm sao mà biết Địch Thanh đứng ngồi không yên là vì vết thương ở mông chưa khép miệng, đau như thể bị ai châm lửa sau mông, làm sao mà tập trung cho được. Nhìn đông nhìn tây bởi vì Địch Thanh nhớ tới lời nói dối, nếu giả trang bộ đầu cũng phải diễn được tư thế của bộ đầu, cần phải tìm được dấu vết của đạo phỉ để tránh bị lộ. Không biết trời xui đất khiến làm sao lại được Trương Diệu Ca thêm vài phần kính trọng. Nếu như ba công tử Mã, Chu, Dương biết được, chắc chắn sẽ đập đầu xuống đất, máu tươi văng xa năm bước.

Thấy Trương Diệu Ca sóng mắt đưa tình, Địch Thanh do dự nói:

- Thực không dám giấu giếm, trước đây tại hạ không muốn, nhưng hôm nay nghe được khúc nhạc này, nói không chừng sau này sẽ muốn cũng nên.

Trương Diệu Ca nghe hắn nói xong chỉ mỉm cười. Người trung niên bên cạnh cười lạnh nói:

- Địch Thanh, đừng có động tâm, thật sự ngươi cho rằng Trương Diệu Ca thích ngươi sao? Nàng không có ý tốt với ngươi đâu.

Căn bản Địch Thanh không có ý nghĩ này, thấy người trung niên nói thế đột nhiên nhớ tới một điều, tức giận nói:

- Hóa ra điều đó làm ngươi không vừa ý sao?

Trương Diệu Ca thấy Địch Thanh tức giận thì cũng không nói nhiều, mỉm cười ngồi xem kịch hay. Phụ nữ ai mà chẳng thích đàn ông đấu đá tranh giành nàng, Trương Diệu Ca dù thanh cao song cũng chẳng phải ngoại lệ.

Người trung niên mập trắng nói:

- Nếu ngươi tưởng ai cũng mê mình, thì đã sai hoàn toàn rồi. Ngươi có biết Mã Trung Lập là người thế nào không?

Thấy Địch Thanh lắc đầu, người trung niên mập trắng lặng lẽ cười lạnh, nói:

- Gã là con trai của Mã Quý Lương, ngươi có biết Mã Quý Lương là ai không?

Địch Thanh thở dài nói:

- Ta cần gì biết hắn là ai? Cho dù hắn là hoàng đế thì cũng có liên quan gì đến ta?

Người trung niên mập trắng cười thâm thúy nói:

- Nhất định ngươi phải biết rõ hắn là ai mới được! Mã Quý Lương là Đãi chế(6) ở Long Đồ các (7) và cũng là con rể của Lưu Mỹ, Lưu Mỹ là anh trai của Hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu là ai ngươi có biết không?

Thượng Thánh cau mày, muốn nói gì đó nhưng rốt cuộc lại nuốt xuống.

Địch Thanh thầm giật mình, nhưng ngoài mặt lại tỏ ra không thèm quan tâm, nói:

- Điều này đương nhiên ta biết. Ta còn biết Hoàng Thái hậu liêm chính công minh, được thiên hạ ca tụng, tuyệt đối không để hoàng thân quốc thích làm xằng làm bậy đâu!

Người trung niên mập trắng thoáng run sợ, quay đầu nhìn sang Thượng Thánh. Thượng Thánh nở nụ cười có chút kì quái, bất ngờ nói:

- Các hạ nói không sai, một khi đã như thế thì nghe nhạc chẳng phải hay hơn sao.

Trương Diệu Ca lại nói:

- Trái lại thiếp vẫn muốn hỏi vị tiên sinh này, vì sao vừa rồi ngài nói thiếp không có ý tốt với Địch Thanh?

Lời của nàng không nhanh không chậm, người ta trách móc nàng cũng được, chửi bới nàng cũng được, thoạt nhìn vẫn đối đáp tự nhiên không có chút nào phật lòng.

Người trung niên mập trắng nói:

- Đương nhiên ngươi biết rõ Mã Trung Lập không dễ chọc vào, nhưng chắc hẳn cũng không muốn tâm sự cùng hắn.

Thượng Thánh ở bên cạnh nói:

- Mã Trung Lập vừa rồi hình như cũng không tệ nhỉ.

Gã bình tĩnh đánh giá thì dù sao Mã Trung Lập cũng nho nhã hơn rất nhiều so với Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý.

Trương Diệu Ca đột nhiên cười khanh khách, nói:

- Thiếp đã cho rằng mình ở chốn u lâu, không biết thế sự, không ngờ vị Thượng công tử này còn hiểu thế sự không bằng thiếp.

Người trung niên mập trắng quát:

- To gan...

Lão đang định nói điều gì đó nhưng Thượng Thánh xua tay ngăn lại, hỏi:

- Ý Trương cô nương là sao?

Trương Diệu Ca nói:

- Chu Đại Thường, Dương Đắc Ý mở nghiệp kinh doanh, nếu không có Mã Trung Lập hỗ trợ thì làm sao mà có chỗ đứng ở kinh thành? Bọn họ cùng nhau tới đây, nếu như bảo không quen biết thì thiếp chẳng tin. Chu Đại Thường làm vẻ hào phóng nhưng thực ra vắt cổ chày còn ra mấy chén nước, tên Dương Đắc Ý kia cũng chả kém gì Chu Đại Thường, hai người này rõ ràng biết mục đích của Mã Trung Lập tới đây thì làm sao dám tranh giành cùng hắn?

Địch Thanh cau mày nói:

- Nói như thế, tức là hai người này cố ý chọc giận cô nương để cho Mã Trung Lập có cơ hội làm anh hùng cứu mỹ nhân?

Thượng Thánh kinh ngạc nói:

- Bọn họ thật sự có tính toán như thế?

Trương Diệu Ca thản nhiên nói:

- Loại chuyện này một năm thiếp gặp phải cũng không dưới mười lần.

Người trung niên mập trắng nói:

- Cho nên ngươi cố ý giữ Địch Thanh lại, nhìn giống như yêu thích nhưng chẳng qua là ngươi chỉ muốn từ chối Mã Trung Lập. Nhưng chắc hẳn ngươi biết rõ sau khi Mã Trung Lập thất bại lần này, chắc chắn sẽ trút hết cơn giận dữ vào người Địch Thanh, không phải ngươi đang ưu ái hắn mà chính là hại hắn.

Trương Diệu Ca mỉm cười, cũng không nói gì nữa. Thượng Thánh nhíu mày, một lúc sau mới nói:

- Trương cô nương, thật sự đúng như thế à?

Trương Diệu Ca gẩy nhẹ dây đàn, hồi lâu mới đáp:

- Chuyện tam nhân thành hổ đâu có ít, miệng thế gian xói chảy cả vàng, ngài chắc cũng hiểu.(8)

Nàng nhẹ giọng nói, thôi không gẩy đàn, cũng không tranh biện nữa.

Thượng Thánh quay đầu nhìn Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, ngươi không làm gì cả mà tự dưng bị vạ lây, có thấy hối hận không?

Địch Thanh chậm rãi nói:

- Ta chỉ t Đại Tống bây giờ vẫn còn có bốn chữ ‘công lý lẽ phải’!

Thượng Thánh vỗ bàn, nói lớn:

- Nói rất hay, chỉ bằng vào bốn chữ ‘công lý lẽ phải’, Địch Thanh, dù có chuyện gì đi nữa ta cũng sẽ gánh vác cho ngươi.

Gã từ trước tới giờ luôn biểu hiện là con nhà thế gia, tính cách mềm mỏng, lúc này mới có vẻ sục sôi ý chí.

Người trung niên mập trắng vội nói:

- Thánh công tử, Mã Quý Lương có quan hệ với Thái hậu đấy.

- Thì sao?

Thượng Thánh liếc nhìn thủ hạ một cái, rồi quay sang nói với Trương Diệu Ca:

- Trương cô nương, nàng cứ yên tâm tấu nhạc là được.

Trương Diệu Ca thản nhiên cười một tiếng, cổ tay ngọc duỗi nhẹ. Sau mấy tiếng "tinh tang", nàng khẽ cất tiếng: "Lũng thủ vân phi, giang biên nhật vãn, yên ba mãn mục bằng lan cửu. Nhất vọng quan hà tiêu tác, thiên lí thanh thu, nhẫn ngưng mâu. . . . . ."(9)

Địch Thanh không biết nguồn gốc của bài này, nhưng Thượng Thánh lại biết đây chính là một bài từ của Liễu Thất sáng tác, khẽ nhíu mày. Nhưng giọng hát của Trương Diệu Ca như âm thanh của tự nhiên, nói lên tâm tư của con người, Thượng Thánh nghe một lúc thì cũng dần thôi không còn khó chịu nữa. Chỉ nghe Trương Diệu Ca hát rằng: "Yểu yểu thần kinh, doanh doanh tiên tử, biệt lai cẩm tự chung nan ngẫu. Đoạn nhạn vô bằng, nhiễm nhiễm phi hạ đinh châu, tư du du."(10)

Bỗng dưng lòng nàng đau xót nhớ tới chuyện cũ, nàng nghĩ thầm: "Tuy trong lời ca nói rằng từ biệt không tin tức, chẳng biết người kia sống chết ra sao nhưng mình và ý trung nhân lại không thể không ly biệt, chẳng biết ngày nào mới gặp lại." Vừa nghĩ tới đây, trong lòng đã cảm thấy thê lương vô hạn, nước mắt cứ vậy lặng lẽ tuôn rơi.

Trương Diệu Ca đàn hát đều tuyệt diệu, gợi lên chuyện cũ đau thương của Thượng Thánh, còn Địch Thanh lại nhớ tới cô gái áo trắng, thầm nghĩ: "Ngay cả tên nàng mình còn chưa biết chứ nói gì đến hồng nhạn truyền tin."

Chỉ có người trung niên mập trắng nhíu mày, thầm nghĩ chủ nhân bị ràng buộc đã lâu, lần này tới đây biểu lộ chân tình, những ưu sầu phiền muộn trong lòng được giải tỏa bớt, âu cũng là chuyện tốt. Nhưng ở đây dù sao cũng là nơi bướm hoa, đang phải bí mật hành sự, chủ nhân không nên mê muội ở chỗ này mới đúng.

--------------------------

Chú thích:

(1) Tam Ban (三班): gồm có ba ban Tạo, Tráng, Khoái. Tạo ban chủ quản nội cần, Tráng ban và Khoái ban cùng nhau phụ trách truy bắt và cảnh vệ.

(2) Liễu Thất (柳永)

(3),(5): Những câu hát này trích trong bài Vũ Lâm Linh của Liễu Thất (tức Liễu Vĩnh)

Chữ Hán:

寒蟬淒切

對長亭晚驟雨初歇。

都門帳飲無緒。

留戀處蘭舟催發。

執手相看淚眼,

竟無語凝噎。

念去去,

千里煙波。

暮靄沉沉楚天闊。

多情自古傷離別,

更那堪冷落清秋節?

今宵酒醒何處?

楊柳岸曉風殘月。

此去經年,

應是良辰好景虛設。

便縱有千種風情,

更與何人說?

Phiên âm:

Hàn thiền thê thiết,

Đối trường đình vãn sậu vũ sơ yết.

Đô môn trướng ẩm vô tự,

Lưu luyến xứ, lan chu thôi phát.

Chấp thủ tương khán lệ nhãn,

Cánh vô ngữ ngưng yết.

Niệm khứ khứ,

Thiên lý yên ba.

Mộ ái trầm trầm, Sở thiên khoát.

Đa tình tự cổ thương li biệt,

Cánh na kham lãnh lạc thanh thu tiết?

Kim tiêu tửu tỉnh hả xứ?

Dương liễu ngạn hiểu phong tàn nguyệt.

Thử khứ kinh niên,

Ưng thị lương thần hảo cảnh hư thiết.

Tiện túng hữu thiên chủng phong tình,

Cánh dữ hà nhân thuyết?

Dịch thơ:

Ve sầu miên man

Mưa tạnh chiều buông quán nhỏ bên đàng

Chén rượu chia ly chẳng nỡ

Luyến lưu hoài, thuyền đã giục sang

Tay níu, nhìn nhau lệ đẫm

Chẳng kịp lời chứa chan

Thương người đi dặm ngàn sóng gió

Để mây chiều trĩu cả trời Nam

Biệt ly làm khổ khách đa mang

Chịu thấu sao, cô quạnh tiết thu tàn

Đêm nay, nơi nao tỉnh rượu?

Liễu xanh bờ, gió sớm trăng tan

Năm dài biền biệt

Cảnh đẹp ngày vui chẳng thiết mơ màng

Dẫu rằng có tơ vương trăm mối

Cùng ai ngỏ tâm can?

(Dịch: Bò xào hành)

(4) Vũ Lâm Linh (雨霖铃): Tương truyền lúc xảy ra biến loạn An Lộc Sơn, Huyền Tông lúc chạy trốn, gặp mấy ngày liền mưa không dứt, bỗng nhiên dưới con đường sỏi lại vang lên tiếng chuông. Đường Huyền Tông vì thương tiếc Dương Quý Phi mà soạn nên khúc này, sau đó được Liễu Vĩnh viết lời lúc ông rời kinh thành Biện Kinh (Khai Phong), thể hiện nỗi lòng không muốn chia cách tình nhân.

Bài hát Vũ Lâm Linh - Ca sĩ Đồng Lệ: 雨霖铃/ Vũ Lâm Linh - Đồng Lệ | 320 lyrics

(6) Đãi chế (待制): là quan đang chờ lệnh vua.

(7) Long Đồ các (龍圖閣): Tên gọi đại các nhà Tống. Năm Hàm Bình thứ tư (năm 1001) (Tống Chân Tông) thì nằm ở cạnh tây của Hội Khánh điện. Đây là nơi cất giữ ngự thư, các loại điển tịch, tranh vẽ, bảo vật của Tống Thái Tông, Long Đồ các còn cùng với Tông Chính Tự lưu danh sách con cháu, gia phả triều Tống. Các chức quan ở đây gồm có Đãi chế, Trực học sĩ và các quan trực thuộc. Bao Công cũng từng nhậm chức Long Đồ các Trực học sĩ, nên truyện dân gian còn gọi ông là Bao Long Đồ. Những ai từng đọc truyện hoặc xem phim về Tứ đại danh bộ chắc có nghe qua tên Sái Ki, ông này cũng từng làm Long Đồ các Đãi chế.

(8) Tam nhân thành hổ, chúng khẩu thước kim: Ba người nói có hổ, thì thiên hạ cũng tin là có hổ vậy; miệng thế gian xói chảy cả vàng. Đoạn này ý nói dù không phải sự thật nhưng nhiều người nói, đông người tin thì mãi rồi cũng thành sự thật.

(9) (10) Đoạn này trích trong bài từ Khúc Ngọc Quản của Liễu Thất:

Chữ Hán:

陇首云飞,

江边日晚,

烟波满目

凭阑久。

一望关河萧索,

千里清秋,

忍凝眸?

杳杳神京,

盈盈仙子,

别来锦字

终难偶。

断雁无凭,

冉冉飞下汀洲,

思悠悠。

暗想当初,

有多少、

幽欢佳会,

岂知聚散难期,

翻成雨恨云愁?

阻追游。

每登山临水,

惹起平生心事,

一场消黯,

永日无言,

却下层楼

Phiên âm:

Lũng thủ vân phi,

giang biên nhật vãn,

yên ba mãn mục,

bằng lan cửu.

Nhất vọng quan hà tiêu tác,

thiên lí thanh thu,

nhẫn ngưng mâu?

Yểu yểu thần kinh,

doanh doanh tiên tử,

biệt lai cẩm tự,

chung nan ngẫu.

Đoạn nhạn vô bằng,

nhiễm nhiễm phi hạ đinh châu,

tư du du.

Ám tưởng đương sơ,

hữu đa thiểu,

u hoan giai hội,

khởi tri tụ tán nan kì,

phiên thành vũ hận vân sầu.

Trở truy du.

Mỗi đăng sơn lâm thủy,

nhạ khởi bình sinh tâm sự,

nhất trường tiêu ảm,

vĩnh nhật vô ngôn,

khước hạ tằng lâu.

Dịch thơ:

Núi quyện sương lam,

vàng loang bến nước,

sương khói ngút ngàn,

tựa lan can.

ngắm vọng non sông hun hút,

nghìn dặm thu vàng,

mắt đăm đăm

Mờ mịt kinh thành,

lênh đênh kiều nữ,

chẳng nhận thư xanh,

khó song hành

Cánh nhạn lẻ đàn,

chập chờn chao liệng châu Đinh.

Mộng miên man.

Thầm nhớ ngày nao,

đã bao lần,

gặp nhau mừng tủi,

biết rồi cách trở muôn trùng,

chợt dâng mưa sầu gió thảm.

Bước hoang đàng.

Trải bao nước non ngàn,

gợi về trọn niềm tâm sự,

lòng riêng ảm đạm,

chẳng thể than van,

đành lại xuống thang.

 Chương 34 - 39: Quan Ti

Ba người đều có tâm sự riêng, Trương Diệu Ca cũng đã gẩy đến điệu cuối cùng, cất tiếng du dương:

- Ám tưởng đương sơ, hữu đa thiếu, u hoan giai hội; khởi tri tụ tán nan kỳ, phiên thành vũ hận vân sầu. Trở truy du, mỗi đăng sơn lâm thủy, nhạ khởi bình sinh tâm sự, nhất tràng tiêu ảm, vĩnh nhật vô ngôn, khước hạ tằng lâu!

(Thầm nhớ ngày nao, thương yêu bao nhiêu, gặp nhau mừng tủi, biết rồi cách trở muôn trùng, chợt dâng mưa sầu gió thảm. Bước hoang đàng, trải bao nước non ngàn, gợi về trọn niềm tâm sự, lòng riêng ảm đạm, chẳng thể than oán, đành lại xuống thang.)

Trương Diệu Ca hát xong, cổ tay ngọc khẽ vuốt lên dây đàn, tuy khúc cuối đã ca xong nhưng dư âm vẫn vang vọng mãi. Nàng nhìn chăm chú vào bó hoa Nhãn Nhi Mị, khẽ nói:

- Liên nhi, tiễn khách.

Nàng nói xong đứng dậy rời đi, ba người Địch Thanh trầm ngâm một lúc lâu, lúc này mới nhìn nhau, nhìn thấy trong mắt ai cũng đầy vẻ phức tạp.

Thượng Thánh thở dài:

- Nếu không có hôm nay, thật không ngờ trên đời còn có khúc nhạc như thế.

Người trung niên mập trắng nói:

- Thánh công tử, đã quá giờ ngọ rồi, phải về thôi. Nếu không tiểu nương nươngsẽ tức giận

Thượng Thánh ra khỏi tòa lâu các, bấy giờ mới cảm thấy thời gian trôi qua thật nhanh nên có chút lo lắng nói:

- Sao ngươi không nói sớm cho ta biết, vậy thì nguy rồi.

Dứt lời, gã vội vàng bước ra ngoài Trúc Ca lâu. Vừa ra đến ngoài lâu, Thượng Thánh nói với Địch Thanh:

- Địch Thanh, ta nhớ ngươi rồi, lần sau lại tới tìm ngươi.

Địch Thanh thầm nghĩ, “Người này đúng là có lợi mới chịu kết giao”, bây giờ ngay cả tiếng xưng hô “các hạ” cũng bỏ đi rồi.

Nhưng thấy Thượng Thánh đúng là có vẻ rất sốt ruột, hắn nói:

- Thật ra, huynh đài chỉ đến nghe đàn, không phải làm chuyện gì sai trái hết, lệnh đường chắc sẽ không quở trách đâu.

Thượng Thánh cười khổ xoay người, nhưng bỗng dừng lại không bước tiếp. Cũng không phải vì giao tình với Địch Thanh mà là ở phía trước có hơn mười người đang đứng, người đứng đầu chính là Mã Trung Lập!

Thượng Thánh lấy tay đè mũ mềm xuống, hỏi:

- Tên Mã Trung Lập này muốn làm gì? Chẳng lẽ thật sự coi trời bằng vung, muốn chặn đường chúng ta sao?

Người trung niên mập trắng toát mồ hôi trán nói:

- Thánh công tử, hay là chúng ta đổi đường khác đi.

Thượng Thánh cả giận nói:

- Hắn là cái thá gì chứ, đáng để cho ta nhường đường sao? Địch Thanh, ngươi không phải là huynh đệ của Quách Tuân sao?

Địch Thanh thấy Mã Trung Lập đang đi về phía này, đã biết không ổn, bèn hỏi:

- Thì sao chứ?

Thượng Thánh nói:

- Quách Tuân vũ dũng, ngươi có lẽ cũng không tồi. Một mình ngươi đánh tám tên chắc không thành vấn đề!

Địch Thanh nói:

- Một đánh mười cũng không thành vấn đề, quan trọng là đánh người hay bị người đánh?

Hắn lập tức đưa tay kéo Thượng Thánh, hô lên:

- Không muốn bị đánh thì chạy theo ta.

Tiếp đó túm lấy Thượng Thánh, quay đầu bỏ chạy.

Mã Trung Lập không nghĩ tới ba kẻ này ngay cả một lời cũng không thèm nói, tức giận giậm chân quát:

- Đuổi theo!

Trương Diệu Ca nói quả không sai, Mã Trung Lập đã dùng hết tâm cơ lôi kéo bọn Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý diễn trò. Ban đầu, hắn cho rằng hôm nay có thể diễn trò hay anh hùng cứu mỹ nhân để giành được giai nhân, ai ngờ bị Địch Thanh thọc gậy bánh xe, đành phải dẫn heo dê về chuồng. Hắn hận đến nỗi hàm răng cũng thấy ngứa ngáy, vừa ra khỏi Trúc Ca lâu liền triệu tập gia đinh đứng ở ngoài ôm cây đợi thỏ, chuẩn bị đợi đám Địch Thanh đi ra để "nói lý lẽ" với bọn họ, lấy côn bổng nói cho bọn họ biết chữ phép tắc viết ra sao. Kết quả, mấy con thỏ vừa mới rời khỏi hang, Mã Trung Lập còn chưa có cơ hội hành động thì bọn họ đã nhanh chân bỏ chạy, mọi công sức của Mã Trung Lập đều trở thành nước chảy lá khoai. Lòng hắn càng thêm căm phẫn, thầm nghĩ nếu không dạy dỗ Địch Thanh một trận ra trò thì tối nay sẽ ngủ không yên.

Thượng Thánh tay không trói nổi gà, bước chân thì lảo đảo, ráng sức mà nói:

- Không có vương pháp, không có vương pháp! Chạy cái gì mà chạy?

Tuy là nói như vậy, nhưng tình hình thế này không chạy sao được? Trong lúc bối rối, gã loạng choạng một cái thiếu chút nữa ngã lăn trên mặt đất, không khỏi rê

- Ai ôi!!!

Rồi bụm mắt cá chân.

Địch Thanh vội hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Trán Thượng Thánh mồ hôi chảy ròng ròng, gã đáp:

- Chân không đi được.

Người trung niên mập trắng cũng thở hồng hộc, thấy thế hạ thấp người xuống phía trước Thượng Thánh nói:

- Thánh công tử, tiểu nhân cõng ngài đi.

Cơ thể của lão vốn béo, cõng Thượng Thánh trên lưng, cơ hồ không thể nhấc bước. Địch Thanh cắn răng, thoáng nhìn thấy bên cạnh vừa khéo có chiếc xe đẩy có chất đầy củi ở phía trên. Cạnh xe có một ông lão đang đứng, dường như đang muốn tránh né trận chiến này.

Địch Thanh quát:

- Quan gia bắt cướp, trưng dụng chiếc xe này.

Rồi hắn đoạt lấy xe, đẩy ngược về phía bọn người Mã Trung Lập. Trong đầu lại dâng lên từng cơn đau đớn. Những gia đinh kia không ngờ Địch Thanh lại dám phản đòn, một tên né tránh không kịp, bị xe tông ngã, tiếp đó còn bị bánh xe cán qua đùi, đau đến nỗi kêu cha gọi mẹ.

Mã Trung Lập sợ hãi cuống quít lui về phía sau, hét lên:

- Đánh cho ta, xảy ra chuyện gì thì đã có bổn công tử lo liệu.

Đám gia đinh nghe lệnh xông lên vây quanh bốn phía. Địch Thanh hét lớn:

- Các ngươi đi trước, không cần lo cho ta.

Vừa quay đầu nhìn lại đã không còn thấy bóng dáng tăm hơi của Thượng Thánh và người trung niên mập trắng, đáy lòng hắn thầm mắng:

- Tên tiểu tử Thượng Thánh này! Ở trước mặt mỹ nhân thì mạnh mẽ vỗ ngực xưng hảo hán, không nghĩ tới lúc xảy ra chuyện thì không có chút nghĩa khí nào!

Lúc này, tình cảnh cực kỳ hỗn loạn, Địch Thanh đã bị kẹp chặt trong lớp lớp vòng vây, trong đầu lại đau âm ỷ. Hắn thầm kêu khổ, xoay người nhảy lên xe, ôm quyền nói với Mã Trung Lập:

- Mã công tử, dù sao thì mọi người cũng đã quen biết, hà tất gì gặp nhau là phải dùng quyền cước? Như vậy đi, ta và công tử đều lùi một bước, từ nay về sau ta sẽ không bao giờ đến Trúc Ca lâu nữa, được không?

Hắn thầm nghĩ tránh voi chẳng xấu mặt nào, ngày xưa Hàn Tín(1) còn có thể chịu nhục chui qua hang người khác, mình tạm thời nhượng bộ cũng coi như là làm theo Hoài Âm hầu(2).

Mã Trung Lập âm hiểm cười nói:

- Không cần nhọc ngươi quan tâm. Để bổn công tử chịu vất vả, đánh gãy chân chó của ngươi, ngươi tất nhiên sẽ không còn đến được nữa.

Vẻ mặt hắn bỗng biến đổi, lạnh lùng quát:

- Ai đánh gãy chân chó của hắn, bổn công tử thưởng mười lượng bạc!

Đám người ùn ùn tiến tới, côn bổng nhất tề vung lên đánh về phía Địch Thanh trên xe. Địch Thanh không ngờ chiêu của Hoài Âm hầu lại không linh nghiệm, vội lăn người một vòng trượt xuống xe, nắm lấy đầu côn.

Nhưng võ nghệ của hắn hiện còn chưa bằng năm xưa nên chỉ trong chốc lát đã bị trúng vài côn.

Trong cơn đau nhức kịch liệt, Địch Thanh vung đoản côn lên, chẳng biết tại sao chợt nhớ đến tình cảnh chém giết ở Triệu phủ, liền quát lên:

- Cản ta thì chết!

Hắn dẫu sao cũng xuất thân chợ búa, trà trộn vào quân doanh, nếu luận về công phu thì không tính là cao cường cho lắm, nhưng nếu nói ẩu đả đánh nhau, có thể nói là mười mấy năm như một ngày, kinh nghiệm rất phong phú.

Địch Thanh bỗng phát uy, đánh một gậy vào đầu một tên gia đinh. Tên này máu tươi chảy ròng, lảo đảo mấy cái liền hôn mê bất tỉnh. Đám người thấy Địch Thanh dũng mãnh, hô lên một tiếng, nhất tề lui về phía sau. Địch Thanh liếc thấy kẽ hở, bất ngờ xông ra ngoài. Không ngờ có một người đang đi tới phía này, bị Địch Thanh va phải, gào to một tiếng rồi té xuống đất.

Địch Thanh đụng phải người này, loạng choạng bước chân, thầm nghĩ trong lòng: "Gã này điên rồi sao, lúc này còn sáp lại đây?"

Khẽ liếc xéo qua, thấy gã ta bẩn thỉu, quần áo xốc xếch, nhưng không phải là người điên! Địch Thanh thầm kêu khổ, chạy được hai bước thấy gã này vẫn còn nằm trên mặt đất, đã vậy còn không biết tránh ra, vội la lớn:

- Mau tránh ra.

Gã này vẫn ngây ngô nhìn Địch Thanh, cũng không thèm đứng dậy. Địch Thanh không quản nhiều nữa, ba chân bốn cẳng chạy đi.

Cơn giận dữ của Mã Trung Lập không cách nào phát tiết, hắn liền ra lệnh:

- Bắt không được Địch Thanh thì đánh chết tên điên đó cho ta.

Lúc này, dân chúng vây xem càng lúc càng đông, nhưng nhìn thấy cảnh này, không ai dám tới gần. Họ lại không nỡ bỏ qua tràng náo nhiệt này nên đều đứng ở xa xa, liên tục chỉ trỏ.

Vì đám gia đinh không dám đuổi theo Địch Thanh nên ào ào chạy đến vây tên điên lại. Nhưng một gậy vừa đánh vào đầu gã, tên điên kia đã đau quá, gào lên:

- Ai dám đánh bổn vương gia?

Tên điên tự xưng là Vương gia, rõ ràng là đầu óc không bình thường, mọi người nghe vậy cười vang.

Mã Trung Lập vốn đang tức giận, lúc này cũng cười to nói:

- Đánh hay lắm, đánh hay lắm! Đánh tiếp đi, bổn công tử sẽ có thưởng!

Địch Thanh vốn đã chạy xa, thấy thế liền dừng lại. Thấy một tên gia đinh giơ côn định đánh lên đầu gã điên, hắn vội vàng hét lớn:

- Đừng đánh người vô tội!

Lập tức phóng mạnh côn gỗ trong tay ra, cô bay vun vút trúng vào cổ tên gia đinh kia. Chỉ nghe tên gia đinh kia kêu thảm một tiếng, cổ suýt nữa bị đánh gãy.

Địch Thanh đột nhiên xông về, quát:

- Các ngươi còn có chút lương tâm nào không đấy?

Đám gia đinh thấy hắn uy mãnh như hổ, không ai dám ngăn cản, nhốn nháo tránh ra. Địch Thanh lách mình đi tới đứng trước người tên điên, rồi ngửa mặt lên trời cười nói:

- Được! Được! Được! Nếu các ngươi muốn đánh, hôm nay ta sẽ đánh với các ngươi một trận sảng khoái. Mã Trung Lập, ngươi có giỏi thì tới đây đánh nhau với ta!

Mọi người thấy Địch Thanh đột nhiên phẫn nộ, đều run như cầy sấy. Mã Trung Lập nắm chặt hai tay, quát lên trách móc:

- Một đám ngu xuẩn! Nhiều người như vậy mà còn sợ một thằng nhãi sao? Các ngươi không ra tay, trở về ta sẽ đánh chết các ngươi!

Đám gia đinh thấy chủ tức giận, cố lấy dũng khí tiến lên. Sau một tiếng quát lớn không biết của ai, bọn chúng liền vung gậy đánh tới. Địch Thanh sớm đã đẩy gã điên ra, chân gạt ngang ngáng ngã một tên, vung tay đấm một quyền cực mạnh vào mặt tên thứ hai.

Ngay lúc người này hét lên đau đớn, Địch Thanh cũng cảm thấy choáng váng, ngay cả đứng cũng không vững. Thì ra do xuất quyền quá mạnh, trong đầu lại đau đớn cùng cực.

Một gia đinh nhìn thấy sơ hở, thừa cơ đập một gậy vào lưng Địch Thanh. Địch Thanh còn đang lảo đảo thì bị hai tên khác chèn chân ngăn cản, hắn vấp vào té ‘rầm’ xuống mặt đất. Lúc này, lập tức có gia đinh phi thân lao tới, đè lên người Địch Thanh, những người còn lại túm tay túm chân, trong chớp mắt đã ép chặt Địch Thanh lại.

Đầu óc Địch Thanh đau nhức kịch liệt, mặc dù liều mình giãy dụa nhưng làm sao thoát được nhiều người như vậy?

Mã Trung Lập thấy đám gia đinh đã khống chế được Địch Thanh thì cười to, đi tới nói:

- Hừ! Thằng nhãi như ngươi mà cũng dám tranh giành nữ nhân với lão tử. Đây là kết cuộc của ngươi!

Hắn nói xong thì vung gậy đánh vào đỉnh đầu của Địch Thanh!

Máu tươi từ búi tóc của Địch Thanh chảy ra đầm đìa nhưng hắn chả thèm cầu xin, chỉ cắn răng trừng mắt nhìn Mã Trung Lập, nói:

- Ngươi tốt nhất nên đánh chết ta!

Mã Trung Lập nhìn thấy hai tròng mắt của Địch Thanh như muốn phun hỏa, trong lòng run lên, nhưng ở trước mặt đông người làm sao hắn lại chịu tỏ ra yếu kém. Hắn tỏ vẻ khinh miệt nói:

- Đánh chết ngươi thì sao chứ?

Nói xong, để chứng minh lời nói của mình, hắn lại giơ gậy đánh vào đầu Địch Thanh một cái.

Địch Thanh lại choáng váng trong đầu, nhưng chẳng biết tại sao, sau cơn choáng váng này, giác quan hắn bỗng nhạy bén chưa từng thấy. Hắn nghe được cách đó không xa có tiếng một người con gái nói:

- Tiểu thư, đây không phải là người tặng hoa cho tiểu thư sao? Không ngờ hắn là hạng người này, vậy mà có thể tranh đoạt nữ nhân với người khác trong thanh lâu.

Tiểu thư kia cũng chỉ nhẹ nhàng thở dài một tiếng, không nói gì thêm.

Địch Thanh khó khăn lắm mới nhìn qua được, thấy cách đó không xa có một đôi giày màu xanh nhạt, phía trên có thêu một đóa hoa cúc. Nhìn đóa hoa cúc này, không ngờ lại giống như đôi giày của cô gái áo trắng mà mình tặng mẫu đơn lần trước. Hắn cố gắng nghiêng đầu nhìn lên, đập vào mắt hắn là một khuôn mặt xinh đẹp vô cùng ngạc nhiên và có lẽ còn kèm theo một chút khinh thường.

Máu tươi chảy xuôi xuống phủ qua hai mắt Địch Thanh, Mã Trung Lập vẫn không chịu bỏ qua, quát lên:

- Còn ngây ra đó làm gì, mau đánh cho ta!

Tiếng nói trở nên văng vẳng, cảm giác côn bổng đánh xuống cũng trở nên như có như không. Trong lòng Địch Thanh mê man, mơ màng, chuyện xưa như khói lượn lờ, nhưng cũng giống như giọt nước in dấu vết lên tảng đá, từng chút một hiển hiện ra. Từ chuyện đánh nhau với ác bá đến chuyện tòng quân bấc đắc dĩ, từ chuyện lẻn vào thung lũng Phi Long đến chuyện giết Tăng Trưởng Thiên Vương, rồi từ chuyện đầu bị thương đến chuyện tinh thần sa sút mấy năm nay, cho đến việc gặp lại Đa Văn Thiên Vương và vô tình gặp được cô gái áo trắng ấy.

Người bên ngoài đối với hắn ra sao, hắn vốn không thèm để ý, nhưng ngay cả cô gái áo trắng cũng chán ghét, xem thường hắn, trong lòng Địch Thanh bỗng dâng lên cỗ lửa giận ngút trời.

Rốt cuộc ta đã làm sai điều gì mà sao tất cả người trong thiên hạ đều coi thường khinh bỉ ta?

Lúc này, lại thêm một côn đánh vào cổ Địch Thanh, Địch Thanh hét to một tiếng, cảm thấy trong đầu có một dải lụa đỏ đang chuyển động.

Không!

Không phải lụa đỏ, mà là hồng long!

Cự long bay múa, gào thét rống giận.

Địch Thanh nổi giận gầm lên một tiếng, bất ngờ lật người vùng dậy.

Mấy tên gia đinh đang đè hắn thét lên sợ hãi, bị hất tung lên không ngã văng ra ngoài. Địch Thanh chưa đứng dậy đã bắt được mắt cá chân của Mã Trung Lập, hắn dùng sức mà bóp. Mã Trung Lập kêu thảm một tiếng, hai chân đều gãy!

Địch Thanh vung tay lên, Mã Trung Lập cưỡi mây lướt gió bay lên rồi rơi mạnh vào xe củi. Đám gia đinh kinh hãi, muốn bắt Địch Thanh lại. Nhưng Địch Thanh lại rống to một tiếng, dùng tay nâng xe củi lên.

Dân chúng vây xem đều ngạc nhiên đến ngây người, thầm nghĩ chỉ riêng xe củi thôi đã nặng lắm rồi, huống chi là bên trên còn có Mã Trung Lập, người này có thể nhấc lên, chẳng phải người này có khí lực ngàn cân sao?

Mí mắt Địch Thanh liên tục giật giật, thấy đám gia đinh xông tới cứu chủ, hai tay nhấc xe củi lên đẩy bay ra ngoài, nện cái rầm lên người đám gia đinh. Trong lúc nhất thời, tiếng kêu cha gọi mẹ, tiếng gào thảm thiết vang lên không dứt.

Địch Thanh cười như điên cuồng nói:

- Mã Trung Lập, không phải ngươi muốn giết ta sao? Đến đây đi! Đến đi!

Bỗng nhiên có tiếng con gái thét thất thanh, Địch Thanh liếc qua, thấy trong mắt cô gái áo trắng tràn đầy sợ hãi. Hắn thầm nghĩ: "Nàng cũng sợ ta sao? Nhưng ta cần gì phải để tâm tới suy nghĩ của nàng? Mã Trung Lập nếu chết, mình còn sống được sao, tuyệt đối không được làm liên lụy tới Quách đại ca."

Vừa nghĩ tới đây, một côn nặng nề đánh vào sau đầu hắn, thân thể Địch Thanh lảo đảo hai cái, cảm thấy trời đất quay cuồng, rồi chậm rãi ngã xuống.

Cự long trong đầu Địch Thanh đã biến mất, thay vào đó là hình ảnh một đóa hoa cúc nằm trên chiếc giày thêu hoa màu xanh nhạt.

Trước lúc hôn mê, Địch Thanh nở nụ cười nơi khóe miệng.

Hắn bỗng nhiên cảm thấy, chết cũng không phải là chuyện đáng sợ gì.

Địch Thanh hôn mê không biết bao lâu, chợt nghe một tiếng gọi to, liền bật người ngồi dậy.

Hắn còn chưa chết, nhưng toàn thân đã không còn phân biệt được đau nhức ở đâu nữa. Chỗ nào cũng đều đau đớn!

Những cơn đau đớn này cũng không là gì với Địch Thanh, nhớ lại cảnh tượng trong mơ, toàn thân hắn ướt đẫm, mí mắt giật giật không ngừng.

Trong mộng có rồng có rắn, có hỏa cầu có sấm chớp, có phật Di Lặc cũng có Tứ Đại Thiên Vương. Nhưng thứ khiến cho tim Địch Thanh đập loạn nhịp lại là một giọng nói.

Giọng nói văng vẳng, tịch liêu, giống như từ trên trời truyền tới và cũng giống như từ u minh truyền về. Nội dung chỉ có ba chữ, "Đến đây đi!"

Đến đây đi? Đến nơi nào? Địch Thanh không biết, nhưng giọng nói này chân thật rõ ràng đến thế, không giống với cảnh trong mơ. Lúc đó, trong mộng, Địch Thanh đang cảm thấy kỳ quái, đột nhiên từ bóng tối nhô ra một cái miệng lớn đầy máu nuốt chửng lấy hắn.

Lúc này, Địch Thanh mới bừng tỉnh.

Đó là mộng ư, tại sao lại chân thật đến thế? Đó là thật ư, nhưng sao lại hư ảo như mộng?

Địch Thanh nghĩ mãi không ra, u mê nhìn quanh, chỉ thấy một ngọn đèn dầu lờ mờ và bốn vách tường lành lạnh, trong lúc nhất thời không biết mình đang ở đâu. Hắn chỉ nhớ mình đã đánh bại Mã Trung Lập, sau đó nhấc xe củi ném vào đám người, tiếp đó sau ót bị đánh một côn rất đau, sau đó...

Hắn muốn rướn người đứng dậy nhưng cảm thấy cổ tay lạnh như băng, có tiếng rung động "leng keng" vang lên. Địch Thanh cúi đầu nhìn xuống thì thấy có xích sắt còng tay, hiện tại hắn mới tỉnh ngộ, thì ra mình đang bị nhốt trong lao!

Ngoài phòng giam vang lên tiếng bước chân kéo dài đến trước phòng giam thì dừng lại, tiếp theo đó khóa sắt rung lên leng keng, có người đang mở cửa nhà lao. Có tiếng người nói:

- Ngươi nhanh lên, đây là trọng phạm.

Một người khác nói:

- Đa tạ huynh đệ. Có chút bạc vụn, mời các huynh đệ uống rượu.

Địch Thanh ngước mắt nhìn cửa phòng giam, thấy dưới ánh đèn lờ mờ có đứng hai người, một người là Trương Ngọc, người còn lại là Lý Vũ Hanh. Hai người bước tới trước Địch Thanh, đều trầm mặc, hết nhìn trái lại nhìn phải.

Địch Thanh nghi hoặc hỏi:

- Các ngươi nhìn cái gì?

Trương Ngọc thở dài:

- Ta tìm coi nơi nào trên người ngươi có lá gan lớn như vậy, chỗ nào lại có khí lực lớn như vậy? Nghe dân chúng ven đường kể tình cảnh lúc đó, ta thật không thể tin được những chuyện đó là do ngươi làm ra.

Địch Thanh nở nụ cười chua xót:

- Là ta làm.

Lý Vũ Hanh sốt ruột nói:

- Địch Thanh, ngươi có biết, người bị ngươi đánh là Mã Trung Lập, hắn là con trai độc nhất của Mã Quý Lương! Mã Quý Lương là con rể của Lưu Mỹ, mà Lưu Mỹ là huynh trưởng của Lưu Thái hậu! Tuy Lưu Mỹ đã chết nhưng Lưu Thái hậu cực kỳ quan tâm con cháu của Lưu gia. Lần này, ngươi chọc vào tổ ong vò vẽ rồi!

Trương Ngọc hỏi:

- Địch Thanh, trước khi ngươi ra tay, chắc không biết lai lịch của bọn chúng hả?

Địch Thanh dựa vào vách tường lạnh lẽo, bất đắc dĩ nói:

- Ta dù có biết cũng phải ra tay. Nếu không thì cũng chỉ có con đường chết.

Thấy Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh đầy tâm sự trong lòng, Địch Thanh cười an ủi:

- Chuyện nhỏ như con thỏ, cùng lắm thì mất mạng thôi. Tên Mã Trung Lập ấy ra sao rồi?

Trương Ngọc cười khổ nói:

- Mắt cá chân của hắn bị gãy, đã vậy còn bị xe củi nện vỡ xương ngực, bị thương nặng hơn người nhiều. Cũng may còn chưa chết, nhưng dù sống chắc cũng không ngồi dậy nổi.

Lòng Địch Thanh trầm xuống, biết Mã Trung Lập bị thương nặng thì người Mã gia nhất định sẽ không để cho hắn sống. Hắn cười khẽ nói:

- Được rồi, ít nhất một mạng đổi một mạng.

- Hắn là tên tạp chủng, ngươi sao có thể lấy mạng của mình đổi với hắn chứ!

Trương Ngọc vội la lên:

- Địch Thanh, ngươi đừng nghĩ đến chuyện chết, ít nhất kinh thành vẫn còn có một nơi phân rõ phải trái. Nếu như bọn chúng dám lạm dụng t hình, cấm quân doanh của chúng ta sẽ không để yên. Nhưng ngươi lần này... rốt cuộc là vì ai mà phải đánh nhau sống chết với Mã Trung Lập? Có phải là vì một vị tuyệt sắc đại mỹ nữ nào không?

Địch Thanh lắc đầu than thở nói:

- Nói ra thực buồn cười, là vì một nam nhân.

Nếu như là trước kia, hai người nói cười không cố kỵ, Trương Ngọc khẳng định sẽ đoán bừa và trêu chọc Địch Thanh là tên đồng tính luyến ái, nhưng bây giờ chỉ ngạc nhiên hỏi:

- Sao? Ngươi kể lại chuyện đó xem, chúng ta cùng nhau thương lượng xem có thể tìm được cách gì cứu vãn không?

Địch Thanh thở dài nói:

- Trương Ngọc, Vũ Hanh, hai ngươi không cần lo cho ta nữa. Chuyện này liên quan đến Thái hậu, đừng nói cấm quân doanh không tiện ra mặt, cho dù là Xu Mật Viện cũng cứu không được ta. Các ngươi cứ như thế mãi, e rằng sẽ liên lụy tới các ngươi.

Dù hắn chưa chết, nhưng biết sự tình trọng đại, sớm đã bỏ ý chống cự rồi.

Mặt Lý Vũ Hanh lộ ra chút sợ hãi, Trương Ngọc nghe vậy cả giận nói:

- Con mẹ nó! Ngươi có phải là đàn ông không! Đến giờ phút này rồi mà còn nói với huynh đệ những lời như thế? Nếu chúng ta muốn bỏ mặc ngươi, hôm nay cũng sẽ không đến đây. Xu Mật Viện cứu không được ngươi, nhưng huynh đệ chúng ta vẫn muốn cứu ngươi!

Địch Thanh nước mắt lưng tròng, cúi đầu xuống, hồi lâu mới nói:

- Chuyện là như vầy....

Hắn kể lại tường tận chuyện xảy ra ngày hôm đó ra. Trương Ngọc nghe xong, nghiến răng nghiến lợi nói:

- Địch Thanh, chuyện này ngươi vốn không sai, chính là bọn chúng cậy vào quyền thế, không nói đạo lý, khăng khăng muốn giết chết ngươi. Hừ, chúng ta không thể để bọn chúng được như ý.

Mặc dù Trương Ngọc nói như vậy, nhưng đối phó ra sao thì không có chút biện pháp nào.

Lý Vũ Hanh vò râu, khàn giọng nói:

- Trước mắt thì phải trông cậy vào Phủ doãn(3) phủ Khai Phong là Trình đại nhân phân rõ trắng đen.

Phủ doãn phủ Khai Phong tên là Trình Lâm, bản án này tất nhiên là phải giao cho phủ Khai Phong thẩm vấn, xét hỏi rồi.

Khuôn mặt ngựa của Trương Ngọc cũng tái mét:

- Nhưng Trình Lâm và Thái hậu là cùng một giuộc. Ta nghe nói Thái hậu vẫn chưa chịu giao trả triều chính cho Hoàng thượng, vẫn tự cho mình là hoàng đế. Tên Trình Lâm rất giỏi trò vuốt mông ngựa, trước đây không lâu còn dâng tặng cái gì "Võ hậu lâm triều đồ", khích lệ Thái hậu làm Võ Tắc Thiên!

Lý Vũ Hanh đã nhổ được mấy sợi râu nhưng vẫn hồn nhiên chưa phát hiện ra, chỉ nói:

- Vậy phải làm sao bây giờ?

Địch Thanh thấy hai huynh đệ lúc này còn có thể ra mặt giúp mình, cảm thấy xúc động, nhất thời im lặng.

Trương Ngọc đột nhiên vỗ đầu nói:

- Có rồi, việc trọng yếu nhất trước mắt là phải tìm được Thượng công tử. Nếu như có thể nhờ được gã ra mặt làm chứng, chuyện sẽ có thể xoay chuyển.

Địch Thanh thầm nghĩ: “Chuyện này liên quan đến Thái hậu, nếu Thượng công tử không phải là kẻ ngốc thì đã sớm trốn đi rồi, làm sao có thể ra mặt chứ?”

Trương Ngọc hưng phấn nói tiếp:

- Thượng công tử mà ngươi nói có phải là người mang giày của Ngũ Hồ Xuân không? Vậya phải đi thăm dò! Địch Thanh, ngươi không nên buồn nữa, bất kể ra sao ta cũng sẽ giúp ngươi tìm ra người này.

Địch Thanh không đành lòng dội cho Trương Ngọc một gáo nước lạnh, cười lớn nói:

- Vậy... làm phiền hai vị huynh đệ.

Trương Ngọc không chút chậm trễ, lập tức chào tạm biệt Địch Thanh, đút lót thêm cho ngục tốt(4), xin bọn họ đừng làm khó Địch Thanh rồi mới cùng Lý Vũ Hanh vội vàng rời đi.

Địch Thanh hiểu rằng dù cho có tìm được Thượng công tử, nhưng gã có chịu ra mặt hay không lại là chuyện khác. Nhưng có ai đui mù mà dám đối nghịch với Thái hậu chứ? Nghĩ tới đây, Địch Thanh có chút đau đầu, nhưng cảm giác đau nhức kịch liệt trước đây đã giảm đi chút ít. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới gì đó, thò tay vào trong ngực, hắc cầu ấy vẫn còn nằm ở đó, hắn thở phào một hơi.

Địch Thanh móc hắc cầu ra. Hắn khẳng định mình có thể đánh Mã Trung Lập bị thương, nguyên nhân nhất định là vì hắc cầu này.

Nhưng hắc cầu rốt cuộc có thần thông gì đây? Địch Thanh nghĩ mãi mà không ra.

Lao phòng hiu quạnh, Địch Thanh không khỏi nhớ tới Đa Văn Thiên Vương trước đây có nói, "Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp. Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt!"

Ngũ Long vừa xuất hiện, quả nhiên là có người lệ rơi không dứt. Nhưng với Địch Thanh, sau này rơi sẽ chỉ là máu, chứ không phải nước mắt.

Nghĩ tới đây, Địch Thanh ngẩng đầu lên, ánh mắt hiện ra vẻ quật cường. Ánh sáng nhàn nhạt từ ngọn đèn dầu rọi vào Ngũ Long đen tuyền, hiện ra hào quang âm u!

Chớp mắt Địch Thanh đã ở trong phòng giam hơn tháng. Phủ Khai Phong vẫn chưa thẩm vấn hắn nên Địch Thanh càng thêm lo sợ. Hắn nhịn không được mà nghĩ: "Chẳng lẽ ta sớm đã bị định tội chết, ngay cả thẩm vấn cũng không cần, sẽ bị mang thẳng đi xử trảm sao?" 

Nghĩ tới đây, Địch Thanh lại cảm thấy bi thương nhưng hắn lại không thể làm gì được.

Mấy ngày này, Quách Quỳ cũng đã đến mấy lần. Nó nói nó đã báo tin cho Quách Tuân hay, nhưng Quách Tuân vẫn còn đang ở bên ngoài, nhất thời không kịp trở về. Địch Thanh vốn không muốn để cho Quách Tuân biết chuyện này, với lại sợ liên lụy Quách Tuân nên hi vọng y đừng trở về kinh.

Trương Ngọc cũng tới vài lần, nhưng mỗi lần đều nở nụ cười miễn cưỡng. Y vẫn chưa tìm được Thượng công tử.

Tâm Địch Thanh đã nguội như tro tàn, lòng thầm nghĩ: "Việc này rất ồn ào, Thượng công tử không phải kẻ điếc, chắc là biết rồi. Gã không chịu xuất hiện thì dù có tìm được cũng vô dụng thôi.”

Khi biết mình đã không còn hi vọng, ngược lại, tâm tình hắn lại trở nên phóng khoáng. Mỗi ngày khi rảnh rỗi, hắn đều móc hắc cầu ra xem, nếu trước khi chết có thể nghiên cứu ra bí ẩn của Ngũ Long cũng tốt, nhưng hlong vẫn không hiện ra.

Cứ như thế, thời gian nửa tháng lại trôi qua. Sáng sớm một ngày nọ, ngục tốt đến đây, quát:

- Địch Thanh, hôm nay thẩm vấn, chuẩn bị đi thôi.

Địch Thanh thở dài, thầm nghĩ: người mình đánh là người của Thái hậu, thẩm vấn mình cũng là người của Thái hậu, mình nhất định không thể may mắn thoát tội rồi. Đại ca sao rồi? Rốt cuộc có nên nói cho huynh ấy biết hay không đây?

Trong lúc suy tư, Địch Thanh bị ngục tốt áp giải ra khỏi ngục Khai Phong, đi thẳng tới nha môn phủ Khai Phong. Mới tới trước cửa, đã thấy dân chúng vây ngăn ở trước nha môn. Thấy Địch Thanh bị áp đến, mọi người nhao nhao tiến lên, bảy mồm tám lưỡi quan tâm nói:

- Địch Thanh, ngươi không sao chứ?

Những người này đều là dân thường, có Vương đại thẩm bán bánh bao, có Hùng đại tẩu bán hoa, có Kiều đại ca đốn củi, có Tôn lão hán bán rượu, ngay cả Cao lão đầu, người mà Địch Thanh lần trước giúp đỡ không ngờ cũng tới đây.

Mấy năm nay, dù rằng chỉ nửa cấp quan giai Địch Thanh cũng không thăng được, nhưng làm việc lâu ngày trong chợ, những người dân đến đây đều đã từng được hắn giúp đỡ. Hay tin hôm nay hắn bị thẩm vấn nên họ đều đến đây thật sớm để nghe phán xét.

Địch Thanh không nghĩ tới còn có nhiều người nhớ mình như vậy, trong lòng rất cảm động. Cao lão đầu run rẩy đứng ra nói:

- Địch Thanh, người tốt tất được báo đáp, nhất định sẽ không có chuyện gì đâu. Chúng ta đều đến Đại Tướng Quốc Tự thắp hương cho ngươi, xin Bồ Tát phù hộ ngươi.

Địch Thanh thầm nghĩ:

- Nghe nói phật Di Lặc ở Đại Tướng Quốc Tự là do Lưu Thái hậu sai người đắp nặn ra, e rằng sẽ phù hộ Mã Trung Lập.

Nhưng miệng vẫn nói:

- Đa tạ mọi người, Địch Thanh nếu có cơ hội nhất định sẽ báo ơn!

Nha dịch bên cạnh thầm nghĩ: “Ngươi có mà đợi đến kiếp sau đi.”

Bọn nha dịch không để cho Địch Thanh nói thêm nữa, dùng côn bổng tách dân chúng ra, áp giải Địch Thanh vào quan nha.

Phía trên công đường có treo một cái bảng, trên viết bốn chữ "Liêm khiết công chính". Sau bàn xử án, Phủ doãn Khai Phong - Trình Lâm ngồi nghiêm trang. Nha lại hai bên thấy Địch Thanh tiến vào công đường liền dùng trượng gõ lên nền, đồng thanh hô hai chữ "Uy vũ". Ở trong Nha môn, hành động này gọi là “Gõ hèo”, một mặt khiến cho dân chúng bên ngoài yên tĩnh, mặt khác chính là hù dọa đám tù phạm, làm bọn chúng sợ hãi.

Địch Thanh đảo mắt nhìn qua, thấy bên tay phải Trình Lâm có đứng một người, nếp nhăn giữa mày giống như đao khắc, lộ ra vẻ cáu kỉnh trời sinh, nhìn cách ăn mặc thì chắc là Thôi quan(5) của phủ Khai Phong.

Chỗ bên tay trái Trình Lâm có một người đang ngồi, mắt tam giác, mũi hèm rượu, cặp mắt hung dữ nhìn chằm chằm Địch Thanh, vô cùng dữ tợn. Địch Thanh run lên, không biết người này là ai.

Trình Lâm thấy Địch Thanh quỳ xuống, vỗ Kinh Đường mộc(6), quát:

- Địch Thanh, ngươi có biết tội của ngươi không?

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Tiểu nhân không biết.

Người mắt tam giác đột nhiên đứng lên quát:

- Giỏi cho tên quan quân xảo quyệt, sắp chết đến nơi còn không biết hối cải sao?

Gã nói dồn dập, giống như bất cứ lúc nào cũng có thể tắt thở, người này chắc hẳn trời sinh nóng tính.

Địch Thanh không nói gì, ngẫm nghĩ người này có lẽ là thân thích của Mã gia. Quả nhiên, Trình Lâm nói:

- Lưu Tự Sự, bình tĩnh chút, đừng nóng nảy, thảy cứ án theo pháp lệnh mà xử lý.

Địch Thanh thầm nghĩ: “Lưu Tự Sự? Người này chắc là con trưởng Lưu Tòng Đức của Lưu Mỹ.”

Trong mấy ngày này, Lý Vũ Hanh đã kể về quan hệ của Mã gia cho Địch Thanh. Địch Thanh biết Mã Quý Lương là con rể của Lưu Mỹ. Lưu Tòng Đức này là vì quan hệ thông gia với Mã Quý Lương mà ra mặt cho con trai Mã Trung Lập của y cũng là bình thường. Nhưng theo gia pháp Đại Tống, thân thích bên ngoại ít nắm quyền cao. Nhà Tống thay đổi quy định trước, trong Cửu Tự Ngũ Giám(7), trừ Đại Lý tự(8) và Quốc Tử giám(9) ra, các chức vị còn lại đều là chức vụ nhàn nhã, không có hoặc có rất ít thực quyền. Lưu Tòng Đức cũng không có tài học, Thái hậu xin chức vị Tự Sự trong Vệ Úy tự(10) cho y, thật ra chỉ để lĩnh bổng lộc, cũng không làm được chuyện gì. Nếu bàn về quan giai thực quyền, Trình Lâm hơn xa Lưu Tòng Đức, nhưng Trình Lâm biết địa vị của Lưu Tòng Đức trong lòng Thái hậu, nên lúc này mới khách khí như vậy.

Lưu Tòng Đức phẫn nộ quát:

- Bây giờ chứng cớ đã vô cùng rõ ràng, còn thẩm vấn cái gì nữa không biết? Tên Địch Thanh này lấy võ khinh người, ngay trên đường ngang nhiên hành hung, đánh bị thương mấy người, làm hại Mã Trung Lập đến bây giờ vẫn còn nằm liệt giường, hơi thở thoi thóp, không giết Địch Thanh, không đủ để kiềm chế sự phẫn nộ của dân chúng!

Người có vẻ mặt đầy ưu sầu kia đột nhiên nói:

- Lưu Tự Sự, đây là phủ Khai Phong, chuyện xử án là thẩm quyền của Trình đại nhân, còn chuyện nghị án do hạ quan phụ trách. Kính xin ngài đừng có vượt quá chức phận, để tránh người ngoài đàm tiếu.

Người này nói chuyện trong mềm có khuyến cáo, Lưu Tòng Đức oán hận trừng mắt nhìn hắn, dồn dập nói:

- Bàng Tịch, hôm nay ta xem ngươi làm sao nghị án!

Trong lòng thầm hận nói: “Ngươi đừng để lão tử nắm được sai sót, bằng không ta bẩm báo Thái hậu, cho ngươi biết mặt!”

Bàng Tịch thấy Lưu Tòng Đức không mở miệng nữa, bèn nói với Địch Thanh:

- Địch Thanh, ngươi hãy đem chuyện xảy ra trước đây kể lại kỹ càng.

Lưu Tòng Đức quát:

- Còn kể lể cái gì chứ? Mấy ngày nay chẳng phải đã tra rõ rồi sao? Cần gì phải lãng phí thời gian!

Trình Lâm ho khan một tiếng, cau mày nói:

- Lưu Tự Sự, nếu ngài không hài lòng với phần thẩm án của bổn quan, có thể đến Lưỡng Phủ cáo sách. Nhưng nếu còn kêu gào chốn công đường nữa, bổn quan đành phải mời ngài ra ngoài cho.

Lưu Tòng Đức hừ lạnh một tiếng, không lên tiếng nữa.

Địch Thanh cũng có chút kinh ngạc, không ngờ Trình Lâm, Bàng Tịch lại có chút dáng vẻ cùng làm việc công, chẳng lẽ tin đồn là giả?

Trình Lâm thấy Lưu Tòng Đức đã câm mồm lại, lúc này mới nói:

- Địch Thanh, trước hết ngươi hãy chân thật kể lại chuyện ngày đó.

Giọng điệu y bình tĩnh, nhưng lòng tuyệt không ung dung.

Chỉ vì một cái bản án tầm thường này lại liên quan tới phạm vi rất rộng, quả thực khó có thể tưởng tượng. Trình Lâm tiếp nhận bản án này, cảm thấy áp lực to lớn, không dám khinh xuất.

Những ngày vừa qua, Trình Lâm điều tra càng nhiều thì càng do dự, không dám tùy tiện đưa ra phán quyết. Về phía Mã Trung Lập không cần nói nhiều cũng biết. Mấy ngày nay, Mã Quý Lương ngày ngày đều đến trước mặt Thái hậu khóc lóc kể lể, thỉnh cầu nghiêm trị hung đồ. Lưu Thái hậu nghe tin một tên cấm quân tầm thường lại dám đánh người nhà của mình, giận tím mặt, lệnh cho phủ Khai Phong nghiêm trị. Nhưng tên cấm quân tầm thường như Địch Thanh lại chả tầm thường tí nào, hắn ta chẳng những rất có hiệp khí trong lòng dân chúng, vả lại còn có quan hệ thân thiết với Quách Tuân. Quách Tuân là thế gia tướng môn, dù chưa quay lại kinh thành, nhưng quan hệ rất rộng, Tam Nha, Xu Mật Viện dù chưa lên tiếng, nhưng đều sát sao theo dõi xem chuyện này xử lý như thế nào.

Vốn một mình Quách Tuân cũng không có tư cách gì mà chống đối Thái hậu, nhưng trong đó còn có nội tình rất trọng yếu: Đã đến lúc Hoàng thượng tự mình chấp chính, Thái hậu vẫn rề rà không nhường triều chính, triều thần đã có rất nhiều người nghị luận. Qua việc này, trước mắt bách quan muốn nhìn xem, quyền của Thái hậu rốt cuộc to cỡ nào, hiện Thái hậu đã không còn có thể một tay che trời nữa!

Trình Lâm không biết, mình nên lấy lòng Thái hậu hay là xử lý chuyện này theo lẽ công bằng?

Nếu như nịnh nọt Thái hậu, sau khi Thánh Thượng đăng cơ, tiền đồ của gã chưa biết ra sao. Nhưng nếu theo lẽ công bằng mà xử lý, Thái hậu nói không chừng sẽ lập tức cách chức gã.

Bên ngoài phủ nha, dân chúng xôn xao. Trước ánh mắt của chúng nhân, mỗi quyết định đều có thể ảnh hưởng sâu sắc, Trình Lâm phân vân chưa biết định luận như thế nào. Trước khi nghe Địch Thanh thuật lại, Trình Lâm đã biết chuyện này là do Mã Trung Lập sai, Địch Thanh chả có lỗi gì lớn. Đợi Địch Thanh nói xong, gã càng thêm chứng thật phán đoán của mình.

Nhưng dù chuyện đã sáng tỏ, xử lý thế nào lại trở thành vấn đề nan giải. Trình Lâm suy nghĩ hồi lâu mới nói:

- Bàng Thôi quan, ý của ông thế nào?

Bàng Tịch nghiêm mặt nói:

- Cổ nhân có dạy ‘Kiêm thính tắc minh, thiên tín tắc ám’(11), hạ quan cho rằng vẫn còn phải nghe lời chứng của người ngoài mới được.

Trình Lâm trầm ngâm nói:

- Nếu vậy thì…, triệu Trương Diệu Ca của Trúc Ca lâu vào đây!

Trương Diệu Ca đã chờ sẵn ở hậu đường, nghe triệu liền khép nép e lệ đi ra, dáng điệu phong tình quyến rũ vô cùng.

Địch Thanh vốn đã tuyệt vọng, nhưng thấy Bàng Tịch và Trình Lâm đều có tiềm chất của thanh quan thì thấy có hy vọng. Trước mắt, không tìm được Thượng Thánh, lời chứng của Trương Diệu Ca rất quan trọng, tim hắn không khỏi đập thình thịch.

Trương Diệu Ca không nhìn Địch Thanh, đến đại đường, quỳ xuống song song với Địch Thanh nói:

- Thiếp thân Trương Diệu Ca bái kiến Phủ doãn đại nhân.

Trình Lâm hỏi:

- Trương Diệu Ca, ngươi trước kia có từng quen biết Địch Thanh?

Trương Diệu Ca lắc đầu nói:

- Chưa từng.

Trình Lâm lại nói:

- Vậy ngươi hãy đem hết thảy mọi chuyện xảy ra ở Trúc Ca lâu, kể lại tường tận một lần.

Trương Diệu Ca khe khẽ nói:

- Trước đây thiếp thân thậm chí không biết người này gọi là Địch Thanh, nhưng mà Phượng ma ma bảo thiếp thân cẩn thận tiếp đãi người này, đúng rồi. Y còn có hai bằng hữu, một người là Thánh công tử, người còn lại là Diêm Nan Địch.

Địch Thanh nghe đến đó, trong lòng trầm xuống, liền biết không ổn. Hắn nổi máu nhất thời, giả mạo nha sai phá án, nếu như bình thường sẽ không có gì, nhưng bây giờ mà bị vạch trần, chuyện này sẽ vô cùng nghiêm trọng. Bàng Tịch hỏi:

- Phượng ma ma vì sao muốn ngươi cẩn thận tiếp đãi Địch Thanh vậy?

Trương Diệu Ca nói:

- Phượng ma ma nói, người này gọi là Diệp Tri Đông, là đệ đệ của Khai Phong phủ - Diệp Tri Thu, nói đến Thính Trúc tiểu viện để tra án...

Mọi người xôn xao, Lưu Tòng Đức mừng rỡ, quát:

- Hay lắm, Địch Thanh không những đánh bọn người Mã Trung Lập, mà còn giả mạo nha dịch của phủ Khai Phong, có thể thấy rõ bộ mặt tàn ác của hắn! Trình đại nhân, xin hãy nghiêm trị tên này.

Trình Lâm nhíu mày, không để ý tới Lưu Tòng Đức, nói:

- Trương Diệu Ca, ngươi kể tiếp đi.

Trương Diệu Ca nói:

- Tuy nhiên, người này đi tới Thính Trúc tiểu viện cũng không có gì tàn ác, chỉ cùng hai người còn lại nghe đàn. Rồi hai người Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý tìm cớ bới móc, Mã công tử quát đuổi hai người này đi. Thiếp thân theo lời Phượng ma ma nói, giữ ba người Địch Thanh lại Thính Trúc tiểu viện tiếp tục đàn hát một khúc, sau đó mời bọn họ xuống lầu. Còn chuyện xảy ra sau đó, thiếp thân không biết.

Trình Lâm hỏi:

- Vậy ba người này ở trên các lâu, từng có xung đột gì với Mã công tử không?

Trương Diệu Ca che miệng khẽ cười:

- Ngoài mặt thì không.

Trình Lâm cau mày hỏi:

- Lời này có ý gì?

Trương Diệu Ca nói:

- Ngày ấy, Mã công tử đến chắc là muốn ở lại Thính Trúc tiểu viện, nhưng thiếp thân giữ Địch Thanh lại, trong lòng Mã công tử có lẽ có chút bất mãn chăng?

Lưu Tòng Đức giận dữ nói:

- Trương Diệu Ca, ngươi ăn nói cho cẩn thận!

Trương Diệu Ca cũng không sợ sệt, mỉm cười nói:

- Nếu đại nhân đã hỏi, thiếp thân sẽ dựa theo sự thật mà trả lời. Nếu như có chỗ nào không đúng, kính xin các vị đại nhân xem tiểu nữ tử kiến thức nông cạn, tha thứ cho tiểu nữ.

Bàng Tịch trầm ngâm nói:

- Vậy ba người Địch Thanh ở trên lầu các của ngươi, còn có hành động hung hăng càn quấy nào không?

Trương Diệu Ca lắc đầu nói:

- Không, bọn họ có thể nói là ba người ngay thẳng nhất mà thiếp thân đã từng gặp qua.

Trình Lâm gật đầu nói:

- Bản phủ đã biết, Trương Diệu Ca lui ra. Triệu tú bà Phượng Sơ Ảnh của Trúc Ca lâu thăng đường.

Trương Diệu Ca lui ra, Phượng Sơ Ảnh õng a ỏng ẹo lên đại đường, quỳ lạy Phủ doãn. Trình Lâm đề cập ngay vào điểm chính:

- Phượng Sơ Ảnh, ngươi có quen người trên công đường này không?

Gã chỉ ngón tay vào Địch Thanh, Phượng Sơ Ảnh thấy Lưu Tòng Đức nhìn mình lom lom, lập tức nói:

- Quen, hắn gọi là Địch Thanh, giả mạo nha sai, nói cùng với cái gì mà đại nội Diêm Nan Địch của Vũ Kinh đường, còn có bộ khoái tài ba Thánh công tử đến phá án, muốn xem xét Thính Trúc tiểu viện một chuyến. Thiếp thân không dám đắc tội bọn họ, mới gọi Diệu Ca tiếp đãi ba người này, không ngờ bọn họ chẳng những giả mạo nha sai, còn đánh Mã công tử trọng thương, thật sự đáng giận đến cực điểm.

Địch Thanh nắm chặt hai đấm, nhưng lại không có cách nào giải bày. Phượng Sơ Ảnh cắt cắt giảm giảm, nói mấy câu đã định hắn là kẻ ác độc, còn khiến người ta không thể nào giải thích.

Mũi cà chua của Lưu Tòng Đức hưng phấn càng thêm đỏ bừng, nhưng lúc này lại không vội yêu cầu Trình Lâm nghiêm trị Địch Thanh.

Trình Lâm bảo Phượng Sơ Ảnh lui ra, bèn hỏi Bàng Tịch:

- Bàng thôi quan, ông có kết luận chưa?

Bàng Tịch chậm rãi nói:

- Chuyện Địch Thanh giả mạo nha dịch, tuy rằng không đúng nhưng chưa gây thành tai họa, phải do chính Tam Nha tự xử trí. Về phần chuyện đánh Mã công tử, lại có nhân quả. Nếu án theo Địch Thanh, Trương Diệu Ca và cùng một số dân chúng đứng xem mà nói, Mã công tử ra tay trước, thậm chí còn đánh kẻ điên. Địch Thanh quay lại cứu giúp, đã ngộ thương Mã công tử. Có thể nói là hai bên đều có cái sai.

Lưu Tòng Đức bỗng nhiên đứng lên nói:

- Bàng Tịch, ngươi là Thôi quan cứt chó gì? Loại kết án này mà cũng có thể nói được sao? Trương Diệu Ca chỉ là một ả ca kỹ, địa vị thấp kém. Dân chúng nói, sao lấy làm chuẩn được? Địch Thanh nói, càng không được coi là chính xác!

Bàng Tịch cũng không tức giận, thản nhiên nói:

- Kính xin Tự Sự đại nhân nói năng cẩn thận, chức vị của hạ quan tuy hèn mọn nhưng quan chức dù sao cũng là do Thánh Thượng phong. Ông thuận miệng nhục mạ, sợ rằng không thỏa đáng lắm. Hơn nữa Trình đại nhân hỏi ý kiến, hạ quan chỉ dựa theo thông lệ trả lời, cung cấp chút căn cứ để xử án. Trước mắt, dựa vào những nhân chứng này, hạ quan cũng chỉ có thể rút ra những kết luận như vậy. Ông nếu cảm thấy không ổn, có thể đưa ra ý kiến khác, không cần phải la hét trên công đường.

Lưu Tòng Đức oán hận trừng mắt nhìn Bàng Tịch nói:

- Ta cho rằng nếu muốn biết rõ chân tướng chuyện này, cần phải hỏi đám người của Thính Trúc tiểu viện, chỉ dựa vào lời khai của hai người Địch Thanh và Trương Diệu Ca, làm sao chính xác?

Trình Lâm gật đầu nói:

- Lưu Tự Sự nói cũng có lý. Triệu Chu Đại Thường và những người liên quan thượng đường!

Cùng thượng đường với Chu Đại Thường không chỉ có Dương Đắc Ý mà còn có ba ngươi khác. Địch Thanh nhận ra ba người này đều là tân khách lúc trước ở Thính Trúc tiểu viện, thấy Lưu Tòng Đức cười gian, trong lòng trầm xuống.

Chúng nhân dưới công đường báo tên ra. Trong ba người ngoài, người mập ụch ịch là Đông Lai Thuận, là thiếu chưởng quỹ của một quán rượu, người mặc áo lụa gọi là Văn Thành, vốn là chủ nhân cửa hiệu tơ lụa Lục Ý, còn người mặt rỗ mở cửa hiệu trái cây, gọi là Cổ Thận Hành.

Chu Đại Thường nói trước:

- Hôm đó, sau khi Mã công tử rời khỏi Trúc Ca lâu, vốn muốn kết bạn với Địch Thanh, cho nên chờ ở ngoài lâu. Không ngờ Địch Thanh sau khi xuống tới, lại dùng lời lẽ ác độc chửi Triệu công tử... Về phần chửi cái gì, không tiện nói ra.

Đông Lai Thuận tiếp lời:

- Có cái gì mà không thể nói ra được chứ? Địch Thanh nói Mã công tử không biết tốt xấu, dám tranh đoạt nữ nhân với hắn, bảo Mã công tử mau mau cút đi, nếu không thì gặp một lần hắn đánh một lần.

Văn Thành nói:

- Mã công tử lúc ấy rất mất hứng, nhưng dẫu sao cũng là người khiêm tốn, đành nhẫn nhịn. Không nghĩ tới Địch Thanh cho rằng Mã công tử yếu đuối nên cứ lấn tới, hắn bắt đầu nhục mạ ... nói ... haiz, cái này có quan hệ với Thái hậu, tại hạ không dám nói.

Dứt lời, hắn lắc đầu liên tục, vô cùng đau đớn. Hắn dù chưa nói, nhưng hậu quả so với nói còn muốn nghiêm trọng hơn.

Địch Thanh càng nghe càng kinh, một cổ lửa giận từ đáy lòng bốc lên, quát:

- Ta và các ngươi không cừu không oán, các ngươi vì sao phải vu oan cho ta?

Hai mắt hắn trợn lên, trán nổi gân xanh.

Cổ Thận Hành lui về phía sau một bước, chỉ vào Địch Thanh nói:

- Khi đó, tính khí của hắn tàn bạo như thế đấy, liên tục hò hét. Mã công tử thấy hắn nhục mạ Thái hậu, cãi lại với hắn hai câu, ai ngờ hắn đánh thẳng tay, thực là coi trời bằng vung.

Dương Đắc Ý nói:

- Chúng tiểu nhân đều không nhịn được, có người đến gần khuyên gã, chẳng ngờ cũng bị gã đấm cho mấy đấm.

Dứt lời chỉ một ngón tay vào khóe mắt bầm tím nói:

- Chỗ này là do hắn đánh.

Địch Thanh cắn chặt răng, thân thể khẽ run, đã biết mục đích của những người này chỉ có một, đó là không giết được hắn thề không bỏ qua!

Chu Đại Thường tiếp lời nói:

- Cũng may gia đinh của Mã công tử chạy đến, họ chỉ muốn khuyên Địch Thanh đừng đánh nữa. Ai dè Địch Thanh lại phát điên như chó, cắn xé khắp nơi, trong lúc hoảng loạn, không biết là ai đẩy nhầm một người qua đường. Mã công tử “thương người như thể thương thân” nên vội vàng chạy đến bảo vệ. Người này dường như là tên điên, sau này không còn biết tung nữa. Địch Thanh lúc này đã bị chế trụ, Mã công tử nói: “Chỉ cần Địch Thanh nhận sai, sẽ bỏ qua tất cả mọi chuyện.” Không ngờ Địch Thanh lòng người dạ thú, giả vờ nhận sai rồi nhân lúc gia đinh thả hắn ra, xông tới đánh ngã Mã công tử, trong lúc hỗn loạn, xe củi bị lật đổ, Mã công tử bị đè dưới xe.

Gã nói xong cầm góc áo lau khóe mắt, nức nở nói:

- Đáng thương cho Mã công tử có tấm lòng Bồ Tát, số mệnh lại bị như thế. Bọn tiểu nhân nhịn không được, lúc này mới dũng cảm nói ra chân tướng, chỉ cầu Phủ doãn đại nhân cho Mã công tử công đạo!

Năm người này muôn miệng một lời, y như là trước đó đã diễn luyện qua. Lưu Tòng Đức đứng dậy chắp tay nói:

- Phủ doãn đại nhân, bây giờ chắc hẳn chân tướng đã rõ rồi chứ? Địch Thanh ăn nói lung tung, vọng tưởng lừa dối, không ngờ lưới trời lồng lộng, lưới trời lồng lộng a.

Lưu Tòng Đức vì muốn định tử tội cho Địch Thanh, đặc biệt tìm một hơi tới năm nhân chứng. Hắn mặc dù thấy dân chúng bên ngoài nha môn không ít, nhưng cũng biết tình cảnh lúc ấy hỗn loạn, rất nhiều người không hiểu tình huống, hơn nữa hắn cũng không tin có người dân nào dám ra đây đối nghịch với Lưu gia, làm chứng cho Địch Thanh

Trình Lâm lại nhìn Bàng Tịch, nói:

- Bàng thôi quan, ông có kết luận gì không?

Bàng Tịch đi vài bước thong thả trước công đường, đột nhiên hỏi:

- Năm người các ngươi trước đây có biết Mã Trung Lập không?

Năm người không ngờ thôi quan lại hỏi như vậy, có hai người gật đầu, ba người lắc đầu, người gật đầu thấy có người lắc đầu liền vội vàng lắc đầu, người lắc đầu thấy có người gật đầu cũng cuống quýt gật đầu, trong lúc nhất thời vô cùng tức cười.

Bàng Tịch buồn rầu nói:

- Rốt cuộc là quen hay là không quen?

Lưu Tòng Đức ho khan một tiếng, nói:

- Đương nhiên là sau khi đến Trúc Ca lâu mới quen.

Hắn nói như vậy, chỉ muốn tăng thêm độ tin cậy của lời chứng. Năm người đều gật đầu nói:

- Lưu đại nhân nói rất đúng, tất nhiên là sau khi đến Trúc Ca lâu mới quen.

Ánh mắt Bàng Tịch đảo qua trên người năm tên này, nghiêm nghị nói:

- Bọn ngươi cũng biết luật ‘Vu cáo phản tọa(12)' của bổn triều rồi đấy, nghiêm cấm vu cáo, nếu như bị tra ra vu cáo thì sẽ bị nghiêm trị?

Năm người ngơ ngác nhìn nhau, ẩn ước vẻ sợ hãi. Lưu Tòng Đức cười lạnh nói:

- Bàng Tịch, ngươi đang uy hiếp bọn họ sao? Ngươi chẳng lẽ cho rằng mấy người này là do ta tìm đến để vu cáo Địch Thanh sao?

Bàng Tịch tỏ vẻ kinh ngạc hỏi:

- Lưu Tự Sự vì cớ gì mà nói ra lời này? Hạ quan chỉ cảm thấy trong lời khai của bọn họ có một số chỗ mâu thuẫn, lúc này mới mở miệng nhắc nhở mà thôi. Nếu như bọn họ làm đúng thì hà tất gì phải nhắc nhở chứ?

Lưu Tòng Đức mặt đỏ tới mang tai, biết Bàng Tịch đang thầm mỉa mai mình. Hắn hừ lạnh nói:

- Vậy phải nghe cao luận của Bàng thôi quan rồi.

Mặt Bàng Tịch vẫn đầy ưu sầu nói:

- Chu Đại Thường, theo như lời Địch Thanh và Trương Diệu Ca nói, là ngươi và Dương Đắc Ý rời đi trước, sau đó Mã công tử và bọn Đông Lai Thuận mới rời đi, sau cùng lại qua khoảng gần nửa canh giờ, ba người Địch Thanh mới rời khỏi Trúc Ca lâu?

Chu Đại Thường nhịn không được nhìn về phía Lưu Tòng Đức, không biết trả lời thế nào. Lưu Tòng Đức có chút bất mãn nói:

- Cứ theo sự thật mà nói, chẳng lẽ còn có người có thể đổi trắng thay đen sao?

Chu Đại Thường lập tức nói:

- Bàng đại nhân nói không sai.

Bàng Tịch mỉm cười hỏi:

- Ngươi và Dương Đắc Ý, còn có mấy người Đông Lai Thuận sau khi đến Trúc Ca lâu mới kết bạn với Mã công tử?

Chu Đại Thường nói:

- Không sai.

- Vậy các ngươi vì cái gì mà trong gần một canh giờ vẫn còn quanh quẩn ở phụ cận Trúc Ca lâu, rề rà không đi? Mã công tử là vì muốn giảng chút đạo lý với Địch Thanh nên mới không rời đi. Còn ngươi và Dương Đắc Ý là vì cái gì chứ? Các ngươi bị Mã công tử trách mắng, nên ở phụ cận Trúc Ca lâu không chịu rời đi là vì lòng sinh bất mãn, muốn trả thù Mã công tử sao?

Chu Đại Thường toát mồ hôi hột đầy trán, vội hỏi:

- Sao có thể như vậy? Hại Mã công tử là Địch Thanh, chứ không phải bọn tiểu nhân.

- Vậy các ngươi ở phụ cận Trúc Ca lâu để làm gì?

Bàng Tịch truy hỏi.

Chu Đại Thường không biết làm sao, Lưu Tòng Đức nháy nháy đôi mắt tam giác, nói:

- Bọn họ chắc là hối hận vì lời nói và việc làm của mình ở Trúc Ca lâu, lúc này mới muốn tìm Mã Trung Lập tạ lỗi. Mã Trung Lập là người thích kết bạn, thấy bọn họ thành tâm sửa đổi nên kết giao với cùng bọn họ, mấy người này vừa gặp như đã quen lâu, ở quán trà bên cạnh Trúc Ca lâu uống trà, uống gần nửa canh giờ, cũng không có vấn đề gì a?

Lưu Tòng Đức dù sao vẫn có chút nhanh trí, giải thích một phen, cơ hồ ngay cả mình cũng tin.

Bàng Tịch trầm ngâm nói:

- Vậy bạn bè rốt cuộc đến mức nào, là bạn nhậu hay là bạn bè tri tâm?

Dương Đắc Ý nói tiếp:

- Đương nhiên là bạn bè tri tâm, chúng tiểu nhân cảm thấy sự nhân nghĩa của Mã công tử, hiềm khích lúc trước hóa không, trở thành tri kỷ. Không ngờ Địch Thanh phát rồ, thậm chí ngay cả người như Mã công tử cũng hại, thật sự là tội ác tày trời.

Ba người còn lại đều gật gù, vội vàng nói:

- Đúng thế, đúng thế.

Bàng Tịch nói với Trình Lâm:

- Phủ doãn đại nhân, nếu như bọn họ đúng là bạn bè tri tâm, vậy lúc chọn lời chứng, cần phải xét lại, để ngừa bọn họ bị tình cảm bạn bè lấn át mà làm ra lời chứng bất lợi cho hung phạm.

Lưu Tòng Đức giận tím mặt nói:

- Bàng Tịch, ngươi rốt cuộc có ý gì? Chẳng nhẽ chứng minh bọn họ kết bạn với Mã Trung Lập chỉ nhằm làm cho lời chứng vô hiệu? Loại Thôi quan như ngươi, bổn quan dù có đến chỗ Thiên tử Thái hậu, cũng tuyệt đối không nhân nhượng!

Trình Lâm nhíu mày, nói:

- Bàng Thôi quan, những người này trước đây không biết nhau, về sau vừa quen đã thân nên mới kết bạn. Mà vụ án phát sinh chỉ là chuyện sau đó, những người này đứng ra làm chứng, cũng không có gì không ổn.

Bàng Tịch gật đầu nói:

- Phủ doãn đại nhân nói rất đúng. Vậy giờ hạ quan kể đầu đuôi câu chuyện lại một lần. Mấy người Chu Đại Thường và Mã Trung Lập chưa bao giờ gặp qua, sau đó ở trong Trúc Ca lâu, Chu Đại Thường và Dương Đắc Ý nói năng xằng bậy, vũ nhục Trương Diệu Ca. Mã Trung Lập đứng ra can thiệp, đuổi hai người Chu, Dương ra ngoài. Hai người Chu, Dương lầm đường biết sai, hoàn toàn tỉnh ngộ, nên đứng ở dưới lầu chờ Mã công tử. Mã công tử đại nhân độ lượng, nhận lời xin lỗi, hơn nữa còn kết bạn với hai người. Đúng lúc này, ba người Đông Lai Thuận, Văn Thành, Cổ Thận Hành đi ngang qua... Nếu như bọn họ trước đây chưa từng gặp Mã công tử, chắc là thấy Mã công tử chính khí lẫm liệt, thật lòng hâm mộ, bấy giờ mới cùng kết bạn luôn?

--------------------------

Chú thích:

(1),(2) Hàn Tín(韩信): (229 – 196 TCN), còn gọi là Hoài Âm hầu, là một danh tướng bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch: "cầm quân trăm vạn, đánh tất thắng, công tất lấy" thời Hán Sở tranh hùng, là một trong "tam kiệt nhà Hán" có công rất lớn giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.

Theo sách Tây Hán chí thì Hàn Tín là người ở Hoài Âm (nước Sở). Cha mẹ mất sớm phải sống côi cút từ bé, nhà nghèo phải làm nghề câu cá. Khi mẹ mất, vì muốn xây cất choẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ. Thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng. Có gã bán thịt lợn làm nhục bắt Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là luồn qua háng y. Mọi người thấy Tín bị nhục đều chê cười. Có hôm không câu được cá, Tín không có gì ăn, thường đi xin cơm của bà lão giặt lụa và hứa hẹn sau này làm nên sự nghiệp sẽ trả ơn ngàn vàng. Bà lão giặt lụa trách: "cậu là thanh niên trai tráng mà không lo nổi miếng ăn thì làm sao làm nên sự nghiệp, tôi giúp cậu chỉ vì thấy tội chứ có mong cậu báo đáp làm chi".

Mọi người thấy thế đều cho ông là người thấp kém, hèn hạ.

(3) Phủ doãn: thẩm phán, chánh án.

(4) Ngục tốt: lính canh ngục.

(5) Thôi quan: ở đây tương đương trợ lý, làm nhiệm vụ nghị án.

(6) Kinh Đường mộc: Cục gỗ để vỗ lên bàn tạo âm thanh uy nghiêm.

(7) Cửu Tự Ngũ Giám (九寺五监): là các ban ngành độc lập với chức năng trung ương, thành lập vào thời Đường. Về cơ bản là cùng cấp quan chức với Thượng thư Lục bộ, không có quan hệ lệ thuộc về pháp định với Lục bộ, nhưng chức quyền lại chồng chéo với Lục bộ rất nhiều, thực tế thì tồn tại quan hệ phân công cùng chế ước lẫn nhau. Lục bộ chủ quản chính lệnh, Cửu Tự Ngũ Giám phân biệt phụ trách các mặt sự vụ cụ thể.

- Cửu Tự (九寺):

+ Thái Phủ tự: thuộc bộ Hộ — quản lý tiền tệ.

+ Ti Nông tự: thuộc bộ Bộ — quản lý lương thực.

+ Tông Chính tự: thuộc bộ Lễ — quản lý hoàng tộc.

+ Thái Thường tự: thuộc bộ Lễ — quản lý tế tự.

+ Quang Lộc tự: thuộc bộ Lễ — quản lý ăn uống.

+ Hồng Lư tự: thuộc bộ Lễ — quản lý ngoại giao.

+ Vệ Úy tự: thuộc bộ Binh — quản lý quân khí.

+ Thái Bộc tự: thuộc bộ Binh — quản lý xe ngựa.

+ Đại Lý tự: thuộc bộ Hình — quản lý tư pháp.

Có một Thiết khanh, hai Thiếu khanh, Tự Thừa quản lý sự vụ hằng ngày.

Mình không tìm được chức quan Tự Sự, chắc có lẽ thấp hơn Tự Thừa. Ai có thông tin thì góp ý mình nhé.

- Ngũ Giám (五监):

+ Quốc Tử giám: thuộc bộ Lễ — học phủ tối cao trong hệ thống giáo dục, đồng thời quản lý bộ máy giáo dục của quốc gia.

+ Quân Khí giám: thuộc bộ Binh — chế tạo và sửa chữa vũ khí.

+ Thiếu Phủ giám: thuộc bộ Công — quản lý chi tiêu cung đình, chế tác quần áo cho Hoàng đế, Hoàng hậu, phi tần và quan lại.

+ Tương Tác giám: thuộc bộ Công — quản lý công trình bằng gỗ: cung điện, vách thành, thiết kế và xây dựng dịch sở.

+ Đô Thủy giám: thuộc bộ Công — quản lý sông ngòi, bến cảng, đê điều, thủy lợi, ngư nghiệp...

(8) Đại Lý tự (大理寺): là một trong Cửu Tự, tương đương với toà án tối cao bây giờ. Quản lý Hình ngục, thẩm tra xử lí án kiện. Thời Tần, Hán là Đình Úy, thời Bắc Tề là Đại Lý tự, nhiều triều đại tiếp theo đều như vậy, đến đời Thanh là Đại Lý viện.

(9) Quốc Tử giám (国子监): là cơ quan đào tạo giáo dục cấp trung ương tại các nước Á Đông thời phong kiến Nho giáo. Ở Trung Quốc, Quốc Tử giám đầu tiên xuất hiện sau thời nhà Tuỳ. Mỗi triều đại sau đó đều lập Quốc Tử giám tại kinh đô của mình - Trường An, Lạc Dương, Khai Phong, Nam Kinh. Kể từ thời nhà Minh thì có tới hai Quốc Tử Giám: một ở Nam Kinh và một ở Bắc Kinh.

(10) Vệ Úy tự (卫尉寺): là một trong Cửu Tự, một cơ quan công sở của Trung Quốc xưa. Thời Bắc Tề thiết lập nên Vệ Úy tự, Vệ Úy đổi tên thành Vệ Úy Tự khanh hoặc Vệ Úy khanh, quan phụ tá gọi là Vệ Úy Thiếu khanh. Quản lý nghi trượng lều vải (vũ khí, quạt, dù, cờ... mà đội hộ vệ mang theo khi vua, quan lại đi tuần hành thời xưa). Đến thời Tần Hán thì đã thành chức quan nhàn tản. Kéo dài đến triều đại Nam Tống thì được nhập vào bộ Công.

(11) 'Kiêm thính tắc minh, thiên tín tắc ám': nghe ý kiến nhiều phía, nhiều mặt mới có thể nhận thức chính xác sự vật, chỉ tin lời nói phiến diện đơn phương sẽ dẫn đến sai lầm.

(12) 'Vu cáo phản tọa': lấy tội danh và hình phạt của người bị vu cáo ghép cho kẻ vu cáo.

--------------------------

Chú thích:

(1) Thị thần: cận thần bên cạnh Hoàng thượng.

(2) Thái Bảo: chức quan thấp nhất trong hàng tam công: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo

(3) Thái Uý: chức quan thời xưa, quản lý về quân sự.

(4) (5) Thượng thư lệnh (尚书令), Trung thư lệnh (中书令): Vào thời Tống có cấp bậc trên cả Thái Sư. Nhưng đây không phải chức vụ có quyền lực và nghĩa vụ cụ thể, chỉ là chức quan kèm theo cho thân vương hoặc các đại thần được phép ban chiếu vua (lưu thủ, tiết độ sứ, đổng bình chương sự,...).(theo Aficio).

(6) Tam Quán (三馆): gồm có Thống Văn Quán (tức Chiêu Văn Quán, Tu Văn Quán), Tập Hiền Viện, Sử Quán.

(7) Thực quân bổng lộc, dữ quân phần ưu: ăn bổng lộc của vua, phải giúp đỡ cho vua.

 Chương 40 - 44: Thái Hậu

Lưu Tòng Đức nghe thấy chướng tai s sao ấy, nhưng trong lúc nhất thời không hiểu ý nghĩ của Bàng Tịch, đành phải trầm mặc. Ba người Đông Lai Thuận thấy Lưu Tòng Đức trầm mặc thì cho rằng hắn đã ngầm đồng ý nên gật đầu liên tục, nói:

- Mặc dù Bàng đại nhân không có mặt ở nơi đó, nhưng phân tích lại như nhìn thấy tận mắt, tiểu nhân bội phục.

Bàng Tịch nói tiếp:

- Sau khi Mã công tử kết bạn với năm người các ngươi, thấy ba người Địch Thanh xuống lầu, Mã công tử rất có khí phách, muốn giao hảo với Địch Thanh nên tiến tới bắt chuyện. Không ngờ Địch Thanh phát điên đánh Mã công tử tơi tả. Chuyện xảy ra sau đó, các ngươi đã nói rất rõ ràng, vì thế không cần ta nói nhiều nữa.

Mọi người sau khi nghe lời phân tích của Bàng Tịch, đều cảm thấy hành vi của vị Mã công tử này thật quái gở, còn có nha dịch cố nín cười. Bọn người Chu Đại Thường đành phải kiên trì đến cùng đáp:

- Đúng là như thế.

Bàng Tịch nhìn Lưu Tòng Đức hỏi:

- Lưu đại nhân, suy luận lần này của hạ quan, không biết ông còn có nghi vấn gì không?

Lưu Tòng Đức rất đau đầu, cảm thấy những lời vừa rồi của Bàng Tịch đúng là suy nghĩ cho bọn họ, đành nói:

- Lần này ngươi nói không sai. Ta không có ý kiến gì.

Mặt Bàng Tịch càng sa sầm, bắt bẻ nói:

- Lưu đại nhân không có ý kiến, nhưng hạ quan lại có ý kiến.

Lưu Tòng Đức thầm giật mình, thấy Bàng Tịch cầm mấy cuốn sổ sách từ trên bàn lên, không khỏi nghi hoặc khó hiểu. Bàng Tịch thản nhiên nói:

- Đây là ghi chép mấy ngày nay mà hạ quan nhận được từ Thái Bạch Cư, Hỉ Lai Nhạc và Hội Tiên Lâu...

Trình Lâm cau mày hỏi:

- Hành động này của Bàng thôi quan có ý gì?

Bàng Tịch nói:

- Mã công tử quả nhiên hiếu khách, đều để lại dấu chân ở mấy tửu lâu này, dĩ nhiên tất cả là được người khác mời.

Vừa nói hai mắt vừa lướt qua mặt của bọn người Chu Đại Thường, thấy sắc mặt những kẻ này đã tái cả lại. Bàng Tịch chậm rãi nói:

- Mà người mời, chính là mấy người trước mặt: Chu Đại Thường, Dương Đắc Ý, Đông Lai Thuận. Căn cứ vào ghi chép, Mã công tử vốn quan hệ rất thân với mấy người Chu Đại Thường. Nếu có người không tin, ông chủ tửu lâu đang đợi triệu ở hậu đường, không ngại kêu lên mà hỏi.

Chu Đại Thường tuôn mồ hôi đầm đìa, cười lớn nói:

- Chúng ta...tin.

Sắc mặt Bàng Tịch trầm xuống:

- Bây giờ mới tin, e rằng đã muộn?

Tiếp đó, y bước đến dâng sổ sách lên trước án của Trình Lâm. Bàng Tịch xoay người đối mặt với bọn người Chu Đại Thường, mặt ủ mày chau nói:

- Vừa rồi ta hỏi đi hỏi lại nhiều lần, các ngươi đều nói chưa từng quen biết và giao thiệp với Mã công tử, nhưng sự thật nói rõ, các ngươi và Mã Trung Lập đã sớm là bạn bè. Các ngươi cố ý giấu giếm việc này là vì cớ gì?

Bọn người Chu Đại Thường hoảng hốt lo sợ. Bàng Tịch xoay người kiến nghị với Trình Lâm:

- Phủ doãn đại nhân, trải qua sự tra hỏi của hạ quan, ngay câu đầu tiên mà mấy người Chu Đại Thường đã nói sai, lời chứng về sau của chúng thật khó mà khiến cho người ta tin được nữa. Kính xin Phủ doãn đại nhân tra rõ toan tính của năm kẻ này. Nếu thật sự có hành vi vu cáo, kính xin đại nhân nghiêm trị, lấy làm răn đe!

Giờ phút này, tuy mặt Bàng Tịch vẫn đầy ưu sầu, nhưng sắc mặt đã toát vẻ chính khí, vô cùng nghiêm nghị.

Mặc dù Lưu Tòng Đức không xem Phủ doãn Khai Phong ra cái gì, nhưng đó là nhờ ỷ vào quyền thế của Thái Hậu. Còn nếu luận về tài khôn khéo thì còn thua kém Bàng Tịch nhiều lắm. Lưu Tòng Đức có nhân chứng, Bàng Tịch đã sớm biết được. Nếu Bàng Tịch muốn từ trong dân chúng tìm được năm người chịu thẩm vấn trước công đường, không dễ chút nào, mà dù cho có tìm được đi chăng nữa cũng khó mà phân biệt thật giả. Sợ rằng mọi người sẽ sa vào trong tranh luận kéo dài, e rằng đến cuối cùng còn gây náo loạn đến mức không thể vãn hồi.

Bàng Tịch muốn tốc chiến tốc thắng, vì thế trước tiền vờ thả để bắt thật, sau đó giải quyết tận gốc, trực tiếp đưa năm nhân chứng của Lưu Tòng Đức vào chỗ vạn kiếp bất phục. Y dùng thủ đoạn trực tiếp như thế là muốn cảnh cáo Lưu Tòng Đức, phủ Khai Phong không phải là nơi mà tên hoàng thân ngoại thích như gã có thể một tay che trời.

Trình Lâm nhìn sổ sách trước mặt, lật cũng không thèm lật, trầm giọng hỏi:

- Chu Đại Thường, Bàng thôi quan nói có đúng không?

Hai chân Chu Đại Thường run rẩy, quay qua nhìn Lưu Tòng Đức, Bàng Tịch thở dài nói:

- Chu Đại Thường, ngươi đừng có lúc nào cũng nhìn về phía Lưu đại nhân. Người không biết còn tưởng rằng ngươi bị ông ấy sai khiến, vậy chẳng phải sẽ làm vấy bẩn danh dự của Lưu đại nhân sao?

Dù Lưu Tòng Đức có chút nhanh trí, nhưng lúc này cũng rối loạn cả lên. Hắn vội quát:

- Bàng Tịch, ta không liên quan gì tới bọn chúng, ngươi đừng ngậm máu phun người!

Bàng Tịch lập tức nói:

- Nếu Lưu đại nhân đã nói không có quan hệ gì tới bọn ngươi, vậy bọn ngươi bị ai xúi giục, còn không mau thành thật khai ra!

Đám người Chu Đại Thường hoàn toàn sụp đổ. Bọn họ được Lưu Tòng Đức dặn dò đến đây vu cáo Địch Thanh, nhưng giờ Lưu Tòng Đức lại quay lưng vứt bỏ bọn họ, vậy bọn họ còn biết dựa vào ai đây?

Bàng Tịch thừa dịp, nói tiếp:

- Chẳng lẽ các ngươi tức tối vì Địch Thanh được Trương Diệu Ca giữ lại nên thừa dịp này hãm hại hắn? Nếu như các ngươi chủ động nhận tội, Phủ Doãn đại nhân niệm tình các ngươi vi phạm lần đầu, không chừng sẽ xử nhẹ cho.

Mặt Dương Đắc Ý như đưa đám:

- Phủ doãn đại nhân, chúng tiểu nhân sai rồi....

Lời hắn còn chưa dứt, ngoài nha môn chợt có nha lại xướng lên:

- La đại nhân, Mã đại nhân đến…

Lưu Tòng Đức bỗng đứng bật dậy, vui mừng nói:

- Mau mời.

Lòng hắn rối như tơ vò, vào lúc này cứ tưởng nơi đây là phủ đệ của mình. Trình Lâm bất mãn, nhưng vẫn cố kìm nén, nói:

- Mời vào phủ nha.

Trình Lâm vốn định đứng dậy nghênh đón, nhưng thấy Bàng Tịch nhìn mình, trong mắt muôn vàn hàm ý, mặt liền đỏ lên, lại ngồi xuống.

Ngoài nha có hai người đi vào. Một người phong lưu phóng khoáng, nhưng mặt có vẻ giận dữ. Người còn lại mặt trắng không râu, vẻ mặt kiêu căng.

Trình Lâm nhận ra người phong lưu phóng khoáng chính là Mã Quý Lương, phụ thân của Mã Trung Lập, cũng chính là cháu rể Thái Hậu, hiện giờ giữ chức Đãi chế của Long Đồ các. Còn người có vẻ mặt kiêu căng kia chính là đệ nhất đại thái giám đương triều, Cung Phụng - La Sùng Huân.

Trình Lâm biết Mã Quý Lương và La Sùng Huân đều là tâm phúc của Thái Hậu, vốn định tỏ vẻ nồng nhiệt, nhưng dù sao đệ nhất đại thái giám đương triều, quyền vị cũng không bằng Phủ doãn Khai Phong, nếu như gã nịnh nọt quá mức thì sẽ khiến thuộc hạ xem thường, vì vậy chỉ ngồi yên một chỗ chắp tay nói:

- Hai vị đại nhân đến đây, không biết có chuyện gì?

La Sùng Huân cất giọng the thé nói:

- Chúng ta nghe nói nơi này thẩm án, nên tới đây nghe thử để tránh có người ăn đút lót trái với luật pháp, phán sai bản án. Trình đại nhân, án này rốt cuộc như thế nào rồi?

Trình Lâm cười lớn nói:

- Đang thẩm tra, nếu như La Cung Phụng có hứng thú, có thể ở một bên nghe xem. Người đâu! Lấy ghế.

Nha lại đã chuẩn bị xong hai cái ghế dựa, La Sùng Huân đĩnh đạc ngồi xuống. Lưu Tòng Đức ở bên cạnh thì thầm kể lại hết thảy mọi việc cho Mã Quý Lương. Mã Quý Lương thấy Địch Thanh, hận không thể bóp chết hắn, nghe vậy lại càng tức giận, cất tiếng:

- Trình đại nhân, ta cảm thấy việc thẩm tra bản án này thật sự có vấn đề. Dù nói thế nào đi chăng nữa cũng là con ta bị thương nặng, vậy mà lại có người chẳng phân biệt được trắng đen, không ngờ đặt toàn bộ tinh lực trên người không liên quan. Quả thực khiến bổn quan rất thất vọng.

Trình Lâm giải thích:

- Lời này của Mã đại nhân sai rồi. Đã có nhân chứng thì phải thẩm tra phân biệt rõ ràng. Như vậy mới không phụ sự coi trọng của Thánh Thượng và sự tin cậy của Thái Hậu. Hơn nữa, gương sáng trong trời đất, pháp lý phải sáng tỏ, hết thảy cần dựa theo luật mà làm. Mấy người Chu Đại Thường đứng ra tố giác Địch Thanh, bổn quan theo luật dò hỏi, Bàng thôi quan giúp đỡ suy đoán, sao có thể nói đặt toàn bộ tinh lực trên người không liên quan được?

La Sùng Huân lên tiếng bác bỏ:

- Phủ doãn đại nhân, nhưng ta cảm thấy Đãi chế nói không sai, chuyện trước mắt đúng là như vậy. Địch Thanh đánh người bị thương, hơn nữa có khả năng Mã Trung Lập liệt cả đời. Hung đồ như vậy, nếu không nghiêm trị mới không xứng với sự coi trọng của Thái Hậu! Ngươi nên mau mau định tội cho Địch Thanh đi.

Hai người La, Mã vừa đến, lập tức tiến hành đánh võ mồm. Mục đích rõ ràng là muốn tạo áp lực cho Trình Lâm. Không ngờ Trình Lâm lại im lặng, Bàng Tịch ở bên cạnh cất tiếng trả lời:

- Chuyện của phủ Khai Phong đã có người của phủ Khai Phong xử lý, La đại nhân sai khiến như thế, không hợp với luật.

La Sùng Huân vốn là đệ nhất Thị thần (1) nội cung, được Thái Hậu coi trọng. Những năm gần đây, dù là trọng thần của Lưỡng Phủ cũng đều khách khí đối với hắn, dần dần dưỡng thành thói ngang tàng. Thấy một tên Thôi quan của phủ Khai Phong lại dám phản bác hắn, không khỏi giận dữ nói:

- Bàng Tịch, sao ngươi dám vô lễ với ta như thế?

(1) Thị thần: cận thần bên cạnh Hoàng thượng.

Bàng Tịch bình tĩnh nói:

- Hạ quan chỉ phối hợp cùng làm việc công, xử án theo luật, không thẹn với lương tâm, có gì mà dám hay không dám? Gia pháp của tổ tông bản triều có dạy, 'Ngoại thích không được tham gia chính sự, hoạn quan không được nắm quyền’. Trước mắt đang thẩm vấn đại án sống chết, hai vị đại nhân theo lệ cần phải tránh đi, không được làm phiền phủ Khai Phong xử án. Trình đại nhân coi trọng hai vị đại nhân nên mới bố trí chỗ ngồi mời hai vị đại nhân dự thính. Nhưng dự thính thì được, còn nếu thao túng việc phủ Khai Phong xử án, chẳng phải làm hỏng gia pháp của tổ tông hay sao? Nếu La đại nhân không hài lòng chỗ nào đó, có thể cùng hạ quan vào nội cung hỏi ý kiến của Thánh Thượng và Thái Hậu trước, rồi sau đó hãy quyết định hạ quan đúng hay là sai.

Khuôn mặt trắng nõn của La Sùng Huân sung huyết như trái cà chua, hắn căm hận nói:

- Giỏi, giỏi, giỏi lắm!

Mặt Bàng Tịch cau lại, nói:

- Nếu La đại nhân không có ý kiến, hạ quan cảm thấy Trình đại nhân tiếp tục thẩm án được rồi.

Trong lòng Trình Lâm có chút xấu hổ, đối với khí tiết không sợ quyền uy của Bàng Tịch lại có mấy phần kính nể. Gã liền vỗ kinh đường mộc nói:

- Chu Đại Thường, Dương Đắc Ý, Văn Thành, Đông Lai Thuận, Cổ Thận Hành, tại sao năm người các ngươi vu oan cho Địch Thanh? Còn không mau thành thật trả lời!

Bọn Chu Đại Thường thấy La Sùng Huân đến đây mà cũng không bảo vệ được bọn chúng, mồ hôi tuôn ra như mưa. Vẻ mặt Chu Đại Thường như đưa đám đáp: - Trình phủ doãn, chúng ta bất mãn Địch Thanh nổi trội hơn chúng ta, nên mới vu cáo hãm hại hắn. Còn tình hình lúc đó rốt cuộc như thế nào, chúng ta cũng không biết rõ.

Trình Lâm hừ lạnh một tiếng,

- Năm người Chu, Dương vu hãm người khác, làm loạn bản án, phạt mỗi người tám mươi trượng. Đem ra ngoài xử trí.

Đám người Chu Đại Thường thấy Lưu Tòng Đức mặt trầm như nước, mặc dù oan uổng nhưng cũng không dám nói ra, thầm nghĩ ráng chịu tám mươi trượng, tránh khỏi tai họa cũng coi như may mắn lắm rồi. Cả đám ủ rũ cúi đầu bị áp giải ra trước công đường, ngay tại đó chịu phạt. Dân chúng đứng xem ngoài nha môn không khỏi hò reo vui sướng.

La Sùng Huân nghe tiếng hèo ‘bôm bốp’ vang lên không dứt, giống như bị tát vào mặt. Hắn thầm nghĩ: Bàng Tịch, Trình Lâm các ngươi đừng vội đắc ý, sau này đừng để cho ta nắm được sơ hở, bằng không, ta nhất định khiến các ngươi sống không bằng chết. Tào Lợi Dụng là Xu Mật sứ, quyền to hơn các ngươi không biết bao nhiêu lần, còn bị chúng ta giết chết. Vừa nghĩ đến đây, La Sùng Huân nở nụ cười nham hiểm.

Đợi bọn người Chu Đại Thường được giải xuống, Mã Quý Lương bất mãn nói:

- Phủ Doãn đại nhân, tuy hiện giờ nói bọn người Chu Đại Thường sai, nhưng không thể miễn trừ tội của Địch Thanh. Bổn quan vẫn hi vọng Phủ Doãn đại nhân đặt tinh lực vào người Địch Thanh. Tất nhiên, đây chỉ là hi vọng, cụ thể làm như thế nào, bổn quan không dám sai khiến.

Hắn thấy cái mặt khó ưa của Bàng Tịch, trong lòng thầm hận, nhưng chọn từ cũng thận trọng hơn nhiều.

Trình Lâm nói:

- Nếu đúng như lời Địch Thanh và Trương Diệu Ca nói, Địch Thanh ra tay đánh người cũng là bất đắc dĩ...

Lưu Tòng Đức căm giận nói:

- Chỉ một câu bất đắc dĩ là có thể đánh người sao? Địch Thanh chỉ là tặc quân, Trương Diệu Ca là một ả ca kỹ, lời của hai người đó sao có thể tính chứ?

Bàng Tịch liền phản bác:

- Mong Tự Sự đại nhân thận trọng trong lời nói một chút. Ông nghĩ xem, cấm quân trong thiên hạ tám mươi vạn người, ông một câu ‘tặc quân’ gộp toàn bộ tướng sĩ cấm quân trong cả nước. Còn Trương Diệu Ca, tuy là ca kỹ nhưng luật lệ bản triều có quy định ca kỹ không được làm chứng sao?

Lưu Tòng Đức suýt chút nữa bị Bàng Tịch làm cho giận điên lên, Mã Quý Lương cắn răng nói:

- Bàng Tịch, theo bổn quan biết, Trương Diệu Ca cũng không biết tình hình bên ngoài Trúc Ca lâu lúc đó. Dẫu sao Địch Thanh cũng là người hành hung cho nên lời hắn nói không thể cho là đúng. Nếu muốn làm rõ đúng sai khi đó, phải có nhân chứng khác. Nếu như phủ Khai Phong không có nhân chứng, chúng ta có thể cung cấp nhân chứng thêm lần nữa.

Bàng Tịch do dự trong lòng, bởi vì tình cảnh lúc đó hỗn loạn, y đã tìm rất nhiều người nhưng những người đó cũng khó mà kể lại hoàn chỉnh tình hình lúc đó được. Còn nhân vật mấu chốt là Thượng Thánh và người trung niên mập trắng kia lại biến mất không thấy tăm hơi. Bàng Tịch không sợ La Sùng Huân, nhưng nếu ở phương diện nhân chứng xuất hiện sai sót, bị đám người La Sùng Huân nắm thóp, e rằng sẽ bị chết thảm không toàn thây. Vì thế ở phương diện này, hắn chưa tìm được nhân chứng thích hợp.

Khi Bàng Tịch còn đang chìm trong đắn đo thì Trình Lâm nói:

- Phủ Khai Phong đúng là vẫn chưa tìm được nhân chứng mấu chốt...

Mã Quý Lương lập tức nói:

- Vậy thì chúng ta có thể cung cấp mấy người. Khi đó có không ít gia đinh Mã phủ, đủ để làm chứng chuyện đã phát sinh.

Bàng Tịch âm thầm cười lạnh, nghĩ thầm nếu nhân chứng mà các ngươi cung cấp nhân chứng, không ngoài khả năng sẽ diễn lại vở kịch của bọn Chu Đại Thường. Cứ như vậy diễn tới diễn lui thì khi nào mới kết thúc được. Nhưng lần này y không còn cách nào từ chối, đang lúc khó xử thì ngoài nha môn đột nhiên có người lên tiếng:

- Ai bảo phủ Khai Phong không có nhân chứng?

Mọi người đều thay đổi sắc mặt, không biết lúc này người nào có lá gan lớn đến như vậy, lại dám đứng ra làm chứng cho Địch Thanh?

Lời còn chưa dứt, ngoài nha môn có hai người không đợi cho phép mà xông thẳng vào!

Trình Lâm nhíu mày, thầm nghĩ ai có lá gan lớn như vậy, dám coi phủ Khai Phong như cửa thành, tùy ý ra vào! Cho dù là La Sùng Huân đến phủ Khai Phong thì cũng không dám hung hăng càn quấy như thế!

Trình Lâm vốn đang cau mày, nhưng ngẩng đầu nhìn thấy hai người kia, lập tức đứng dậy, vội vội vàng vàng bước nhanh từ sau án ra nghênh đón, thi lễ thật sâu với một người trong đó, nói:

- Bát Vương gia đến đây, hạ quan không kịp tiếp đón từ xa, mong người thứ tội.

Mới vừa rồi Trình Lâm đa lễ với La Sùng Huân, Bàng Tịch cảm thấy hơi bất mãn, nhưng khi nhìn thấy người này thì cũng phải bước theo sau Trình Lâm thi lễ. Không chỉ Trình Lâm, Bàng Tịch cung kính làm lễ, ngay cả đám người La Sùng Huân khi thấy người đó đến, cũng đành phải đứng dậy thi lễ, không dám thiếu lễ nghĩa.

Tất cả mọi người rất kỳ quái, Bát Vương gia đến nơi này làm gì? Y giống như muốn can dự vào bản án của Địch Thanh. Địch Thanh có quan hệ với Bát Vương gia từ khi nào?

Địch Thanh cũng cảm thấy kỳ quái, bèn liếc nhìn người mà Trình Lâm bái kiến, đó là một người ăn mặc sạch sẽ. Người này thật sự quá sạch sẽ, quần áo ngay ngắn giống như được đánh qua sáp. Móng tay ông ta được cắt tỉa chỉnh chu đều đặn, tóc cực kỳ bóng mượt, chỉ sợ con ruồi đậu vào cũng phải trượt xuống té chết. Một người sạch sẽ như vậy, khiến người đứng trước mặt ông ta đều bị ảnh hưởng mà muốn đi soi gương xem mặt mình rửa sạch chưa.

Địch Thanh biết Bát Vương gia tên là Triệu Nguyên Nghiễm, cũng chính là Bát hoàng thúc của đương kim Thánh Thượng, nhưng lại chưa bao giờ nghĩ tới Bát Vương gia là một người như vậy. Địch Thanh ít nhiều cũng biết chút chuyện về Bát Vương gia. Ông ta chính là con thứ tám của Thái Tông. Thời Thái Tông tại vị, ông ta đã được phong làm Chu vương. Sau khi Chân Tông - Triệu Hằng lên ngôi, lại phong thêm cho Triệu Nguyên Nghiễm làm Tào quốc công, bái Tể tướng, giao giám sát Thái Bảo(1), tiến tước vinh vương, phong quang vô cùng.

Về sau Triệu Trinh lên ngôi, Thái Hậu buông rèm chấp chính, Triệu Nguyên Nghiễm thân là nguyên lão tam triều, tuy rằng tuổi tác chưa tới bốn mươi, nhưng vì địa vị cực cao, lại được Thánh Thượng phong làm Thái Úy(2), Thượng thư lệnh(3) kiêm Trung thư lệnh(4). Trong triều, ngoại trừ Thái Hậu và Hoàng đế ra, nếu nói thân phận chí tôn, không ai có thể vượt qua Triệu Nguyên Nghiễm. Cho dù là người uy danh hiển hách trong Lưỡng Phủ, Tam Nha, Tam Quán(5), Tam Ban, nhưng nếu so về độ tôn sùng, cũng khó mà đuổi kịp cái bóng của Triệu Nguyên Nghiễm.

Nhưng một người như vậy đến phủ Khai Phong làm gì chứ? Không ai hiểu được, chỉ thấy vị trí cao nhất vốn bố trí cho La Sùng Huân, đã sớm có người bố trí lại, mời Triệu Nguyên Nghiễm ngồi xuống, dâng lên trà thơm. Mặc dù La Sùng Huân không muốn nhưng cũng phải đổi chỗ, trong mắt lộ ra vẻ ghen ghét.

Sau một hồi bận rộn, cuối cùng phủ nha đã yên tĩnh trở lại. Trình Lâm trông thấy Địch Thanh đang quỳ mới nhớ ra mình còn phải thẩm án. Đành phải cười xòa nói:

- Không biết Bát Vương gia giá lâm, có gì căn dặn?

Bát Vương gia không nói, chỉ nhìn chăm chú vào đôi tay mình, bàn tay này thanh tú sạch sẽ, ngón tay thon dài. Cổ họng Trình Lâm hơi ngứa nhưng không dám ho, đành phải nhìn về phía người đứng bên cạnh Bát Vương gia. Người này tóc trắng như cước, lưng còng, nếp nhăn trên mặt có thể làm tấm chà quần áo, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể chuẩn bị tẩy sạch cho Bát Vương gia.

Tự dưng có ý nghĩ này, Trình Lâm muốn cười nhưng lại không dám, càng thêm cung kính, hỏi:

- Triệu quản gia, không biết Bát Vương gia tới đây, có chuyện gì không?

(1) Thái Bảo: chức quan thấp nhất trong hàng tam công: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo

(2) Thái Uý: chức quan thời xưa, quản lý về quân sự.

(3) (4) Thượng thư lệnh (尚书令), Trung thư lệnh (中书令): Vào thời Tống có cấp bậc trên cả Thái Sư. Nhưng đây không phải chức vụ có quyền lực và nghĩa vụ cụ thể, chỉ là chức quan kèm theo cho thân vương hoặc các đại thần được phép ban chiếu vua (lưu thủ, tiết độ sứ, đổng bình chương sự,...).(theo Aficio).

(5) Tam Quán (三馆): gồm có Thống Văn Quán (tức Chiêu Văn Quán, Tu Văn Quán), Tập Hiền Viện, Sử Quán.

Trình Lâm biết lão già này họ Triệu, khi Bát Vương gia vừa sinh ra thì lão là quản gia của Vương phủ. Trình Lâm là người cẩn trọng nên không muốn đắc tội với bất cứ ai.

Triệu quản gia ho khan vài tiếng, cất giọng khàn khàn nói:

- Mấy ngày ngay Vương gia thấy không thoải mái.

Trình Lâm không hiểu cho lắm, Bàng Tịch thì yên lặng theo dõi diễn biến. Tất cả mọi người đang nghĩ, hóa ra người đã già rồi, nhất định sẽ hồ đồ. Vương gia không thoải mái cũng không đến nỗi tới phủ Khai Phong xem bệnh chứ?

Trình Lâm đành phải nói:

- Vậy Vương gia...cần phải...

Vốn định đề nghị Triệu Nguyên Nghiễm nghỉ ngơi, nhưng lại cảm thấy hai chữ "cần phải" đường đột quá mức, hắn chỉ là Phủ Doãn thì có tư cách gì nói với Vương gia những lời này? Trán liền chảy mồ hôi, cho dù là thẩm án thì Trình Lâm cũng không tốn sức đến thế.

Bàng Tịch ở bên cạnh vội nói:

- Thế không biết phủ đã mời thái y hay chưa? Nếu Vương gia không thoải mái, cần phải nghỉ ngơi nhiều hơn.

Trình Lâm hùa theo:

- Đúng vậy, đúng vậy.

Triệu quản gia thở dài:

- Trình Phủ Doãn, ông cũng biết, những năm gần đây, Vương gia bị một loại quái bệnh, lúc thì minh mẫn, lúc thì hồ đồ.

Trình Lâm nhíu mày, chỉ "A" một tiếng. Loại chuyện như vậy, hắn không dám hỏi tiếp. Triệu quản gia mở miệng không cố kỵ, nhưng mỗi một câu nói của mình, Trình Lâm đều phải uốn lưỡi bảy lần trước khi cất tiếng.

Hóa ra đúng là Triệu Nguyên Nghiễm có bệnh, là bệnh điên! Từ lúc Triệu Trinh đăng cơ, rồi Lưu thái hậu buông rèm chấp chính, Triệu Nguyên Nghiễm trở nên có chút không bình thường. Ông ta ru rú trong nhà, cả năm hiếm khi ra khỏi Vương phủ. Có lời đồn rằng, Bát Vương gia e sợ Thái Hậu nghi kỵ cho nên không dám ra khỏi cửa. Chẳng bao lâu sau, tính tình của Triệu Nguyên Nghiễm lúc thì cáu kỉnh, lúc thì an tĩnh. Có thể ông ta vừa mới cùng ngươi nói cười vui vẻ, nhưng chớp mắt sau liền gọi gia đinh đánh ngươi tám mươi trượng.

Ông ta là Vương gia, hơn nữa còn giống một nửa tên điên, vì vậy tất cả mọi người đều kính trọng nhưng không dám gần. Trình Lâm cũng không ngoại lệ. Lúc này, trông Bát Vương gia rất bình lặng, nhưng người hiểu rõ tính khí của Bát Vương gi đều hiểu đây có lẽ chỉ là chút bình an trước cơn bão tố.

Vì Địch Thanh đang quỳ nên vừa khéo có thể nhìn thấy gương mặt cúi xuống của Bát Vương gia. Hắn cũng có chút mơ hồ, thậm chí bắt đầu hoài nghi câu nói mới vừa nghe được là ảo giác. Nhưng vào lúc này, Bát Vương gia đột nhiên nháy mắt mấy cái với Địch Thanh, sau đó lại cúi đầu xuống. Địch Thanh nghệch mặt ra, không dám khẳng định đó có phải là Bát Vương gia đang chào hỏi với hắn hay không. Hắn có chút tự giễu, Bát Vương gia thế nào lại đi chào hỏi hắn chứ?

Triệu quản gia trầm mặc một lúc lâu, rồi nói tiếp:

- Lúc Vương a hồ đồ, thỉnh thoảng sẽ ra khỏi phủ. Nhưng bởi tính cách ông ta hòa nhã nên chưa bao giờ gây hấn với người bên ngoài. Thật không nghĩ đến lại có người dám hỗn láo với Vương gia.

Mọi người đều nghĩ, không biết người nào ăn phải mật báo, dám láo xược với Triệu Nguyên Nghiễm? Nhưng việc đó có quan hệ gì với bản án này nhỉ? Lão già này chạy đến nơi đây phàn nàn, đúng là quá hồ đồ rồi! Nếu không phải người nói chuyện là quản gia của Bát Vương gia, chỉ sợ đã sớm bị đánh đuổi ra khỏi Nha môn của phủ Khai Phong.

Trình Lâm cau mày hỏi:

- Ai dám vô lễ với Vương gia?

Triệu quản gia không trả lời câu hỏi của Trình Lâm, tự biên tự diễn nói tiếp:

- Người này chẳng những vô lễ với Vương gia, còn dám kêu người đánh Vương gia. Đầu của Vương gia bị đánh đến nỗi chảy cả máu.

Mọi người đều kinh hãi, Mã Quý Lương bên cạnh cười lạnh nói:

- Xem ra phủ Khai Phong loạn thật rồi, có người dám đánh Vương gia, thật sự coi trời bằng vung? Trước là có Địch Thanh gây rối, sau lại có người đánh Vương gia, không coi hoàng thân quốc ra cái gì cả. Trình Phủ Doãn, ngươi quản lý phủ Khai Phong rất tốt đó.

Hắn sớm đã bất mãn với Trình Lâm nên ngấm ngầm châm chọc.

Trình Lâm cũng có chút luống cuống, vội hỏi:

- Sau đó thế nào? Có bắt được tên hung đồ kia chưa?

Khuôn mặt già nua của Triệu quản gia giật giật, nói tiếp:

- Chưa, vẫn còn thong dong ở kinh thành. Nếu không phải có người đứng ra cứu Vương gia, e rằng Vương gia bị tên hung hồ đó đánh chết thật rồi.

Mọi người đều lộ ra vẻ mặt không thể tưởng tượng nổi, La Sùng Huân thét to:

- Tốt lắm, không ngờ phủ Khai Phong để xảy ra chuyện lớn như vậy, Thái Hậu cũng không biết rõ tình hình. Chúng ta nhất định phải báo cho Thái Hậu biết chuyện này.

Hắn bỗng nhiên đứng dậy, nhưng bị Mã Quý Lương kéo lại. Mã Quý Lương thấp giọng nói:

- La đại nhân, cũng nên nghe xem cuối cùng ra sao mới được.

Mã Quý Lương vui sướng khi người khác gặp họa. Lưu Tòng Đức cũng hưng phấn đến nỗi cái mũi bã rượu đỏ bừng, liếc nhìn Trình Lâm và Bàng Tịch, nói to:

- Triệu quản gia, hung đồ ấy rốt cuộc là ai, nói ra đi, chúng ta giúp ông tìm Thái Hậu làm chủ. Đã có người không quản được chuyện này, vậy thì phải đổi người khác quản lý thôi.

Vẻ mặt Triệu quản gia đầy ưu sầu nói:

- Người cứu Vương gia hiện đang ở phủ Khai phong, nếu không thì ta và Vương gia đến đây làm gì cơ chứ?

Mọi người nghe lão đề cập vào điểm chính, rất đỗi kinh ngạc, nhìn khắp mọi nơi, nhao nhao hỏi:

- Là ai cứu Vương gia?

Triệu quản gia run rẩy đi vài bước, giơ tay lên, đầu ngón tay vẽ ra một đường cong trên không trung, sau đó dừng ở trước chóp mũi của một người:

- Người cứu Vương gia chính là...hắn!

Mọi người thuận theo hướng ngón tay chỉ mà nhìn tới, tròng mắt thiếu chút rớt ra ngoài. Đám người Mã Quý Lương giống như bị đạp một đạp vào mặt. Người mà Triệu quản gia chỉ không phải ai xa lạ, chính là Địch Thanh, người vẫn đang quỳ gối trước công đường. 

Địch Thanh cứu Bát Vương gia? Làm sao như vậy được? Địch Thanh cũng ngây ngẩn cả người, suy nghĩ mẻ đầu sứt trán cũng không rõ mình đã cứu Bát Vương gia khi nào?

Tim Mã Quý Lương như bị điện giật, hồi lâu mới nói:

- Triệu quản gia, Sao có thể như vậy? Chắc ông nhận lầm người rồi?

La Sùng Huân lập tức nói:

- Cho dù không nhận lầm người, Địch Thanh cứu Vương gia là một chuyện, đánh người là chuyện khác, không thể nhập làm một mà nói!

Lưu Tòng Đức dụi đôi mắt tam giác nói:

- La đại nhân nói rất đúng!

Mắt Bàng Tịch lóe lên, ở bên cạnh hỏi:

- Triệu quản gia, vậy là ai đánh Bát Vương gia thế? Người này gan to bằng trời, đánh Vương gia, chính là tội chết.

Cánh tay Triệu quản gia lại run rẩy. Mọi người thấy thế, không dám tin người đánh Vương gia cũng đang ở nha môn phủ Khai Phong. Đợi cánh tay ấy dừng lại, mọi người thuận theo hướng ngón tay chỉ mà nhìn tới, đều ngây ngẩn cả người. Người mà Triệu quản gia chỉ vào, không ngờ lại là Mã Quý Lương - phong độ hơn người.

Mã Quý Lương vẫn còn trấn tĩnh, thản nhiên nói:

- Triệu quản gia, đây là phủ Khai Phong, không phải muốn nói cái gì cũng được. Không lẽ ý của ông là ta đánh Bát Vương gia sao?

Hắn không có làm, tất nhiên sẽ không sợ.

Triệu quản gia buông cánh tay xuống, chậm rãi nói:

- Không phải ngươi, nhưng người đánh Vương gia lại là con ngươi.

Cơ mặt Mã Quý Lương co giật, thất thanh nói:

- Điều này sao có thể? Khuyển tử dù gan có lớn, cũng nào dám vô lễ với Vương gia?

Triệu quản gia lạnh lùng nói:

- Đúng là hắn không có vô lễ với Vương gia, hắn chỉ muốn đánh chết Vương gia. Ngày đó, Địch Thanh và Mã Trung Lập ở trước Trúc Ca lâu, đúng lúc Vương đi ngang qua, bị Mã Trung Lập kéo vào trong ra sức đánh. Nếu không nhờ Địch Thanh, chỉ sợ Vương gia sớm đã chết oan chết uổng rồi.

Mọi người kinh hoàng, mặt Mã Quý Lnhư tro tàn, mồ hôi từ trán chảy xuống khóe miệng, cơ mặt giật giật không ngừng:

- Ông nói là... tên điên kia...

Đột nhiên im miệng, mặt lộ vẻ kinh hoảng.

Triệu quản gia nói:

- Ngươi nói không sai, tên điên mà Mã Trung Lập đánh trên đường, chính là Bát Vương gia!

Nha môn phủ Khai Phong bỗng trở nên yên tĩnh trước nay chưa từng có. Mọi người trợn mắt há hốc mồm, muốn không tin nhưng không thể không tin.

Mã Trung Lập đánh tên điên kia, không ngờ lại là Bát Vương gia?

Địch Thanh đột nhiên ngẩng đầu lên, cũng khó có thể tin. Bên ngoài công đường đã trở nên ồn ào náo nhiệt. Triệu quản gia nói tiếp:

- Cho nên hôm nay Vương gia là nhân chứng của phủ Khai Phong, cũng là nhân chứng của Địch Thanh! Trình Phủ Doãn, án kiện đánh Vương gia này, không biết nên xử lý ra sao?

Tim Mã Quý Lương đập dồn không ngừng, không dám nói tiếp. Thật lâu sau, La Sùng Huân thở ra một hơi, nói:

- Triệu quản gia, những điều đó chỉ là lời một phía của ông.

Triệu quản gia phẫn nộ hỏi:

- La đại nhân có ý gì? Chẳng lẽ nói ta bịa đặt vô căn cứ hay sao?

La Sùng Huân thản nhiên nói:

- Triệu quản gia, khi nãy ông vừa nói, Vương gia bị một loại quái bệnh, lúc thì tỉnh táo, lúc thì hồ đồ. Xin hỏi, khi Vương gia bị đánh ở trước Trúc Ca lâu, là tỉnh táo hay hồ đồ?

Lời hắn hỏi ẩn chứa thâm ý, nếu Triệu quản gia nói Bát Vương gia tỉnh táo, điều này tuyệt đối không có khả năng, nhưng muốn nói Bát Vương gia hồ đồ, hắn càng có cớ phản bác. Thử hỏi lời nói của một người hồ đồ, làm sao có thể khiến người ta tin tưởng cho được?

Bàng Tịch nhíu mày, hiểu rõ thâm ý trong đó. Triệu quản gia chưa kịp mở miệng, bỗng có một giọng nói vang lên:

- Ngươi muốn nói ta có bệnh sao?

Giọng nói này cực kỳ uy nghiêm, rất có chừng mực. La Sùng Huân rùng mình, bởi vì người lên tiếng là Bát Vương gia. Bát Vương gia rốt cuộc ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm vào La Sùng Huân, vẻ mặt nghiêm túc.

Người nào cũng cho rằng thần trí của Bát Vương gia không bình thường, nhưng có ai dám nói ông ta bị bệnh chứ? La Sùng Huân cũng không dám, đành phải nói:

- Hạ quan chưa bao giờ có ý nghĩ như thế.

- Vậy là ngươi không tin ta bị đánh? Ngươi cho rằng...ta đang nói dối?

Bát Vương gia lại hỏi. Ông ta phát âm rõ ràng, giống như đã khôi phục lại bình thường.

La Sùng Huân ngậm miệng, chỉ có thể lắc lắc đầu. Bát Vương gia thấy La Sùng Huân không đáp, đảo mắt nhìn xung quanh nói:

- Vậy ai cho rằng ta nói dối?

Không ai lên tiếng. Đại não Trình Lâm phình to ra, tròng mắt xoay chuyển, vội la lên:

- Nếu bản án có thay đổi, bản phủ cần phải thẩm tra kỹ lại lần nữa, án này tạm dừng, sẽ xử lý sau, bãi đường!

Trình Lâm không có biện pháp thẩm tra tiếp, đành phải bãi đường. Một bên là Bát Vương gia, một bên là thân tín của Thái Hậu, bên nào hắn cũng không dám đắc tội. Hắn vốn định hi sinh Địch Thanh, nhưng tình thế xoay chuyển nhanh chóng, Trình Lâm tạm thời không có biện pháp. Trình Lâm nói bãi đường, cũng không có ai phản đối. Lúc Triệu quản gia đi, chỉ nói:

- Trên đời này, người tốt ở lao phòng, ác nhân thì ung dung bên ngoài!

Trình Lâm không có cách gì trả lời.

Đám người La Sùng Huân cũng không phản đối bãi đường, bọn chúng rất cần mau chóng trở về để thương lượng đối sách. Bọn họ vốn đinh ninh rằng Địch Thanh không có nhân chứng, nhưng đột nhiên Bát Vương gia lại đứng ra làm nhân chứng, quả thực so với dân chúng toàn thành làm chứng còn có tác dụng hơn nhiều. Bọn họ đành phải đi tìm Thái Hậu!

Chẳng mấy chốc Nha môn phủ Khai Phong yên tĩnh trở lại. Trình Lâm nhíu chặt hai hàng lông mày, chùm râu thưa thớt đã bị y nhổ rơi lả tả, nhưng vẫn nghĩ không ra kế sách song toàn. Y thấy Bàng Tịch vẫn cònở bên cạnh, nhịn không được hỏi:

- Bàng thôi quan, ông nói xem án này nên xử lý như thế nào?

Bàng Tịch vẫn rầu rĩ ủ ê, trả lời:

- Muốn xử lý án này, chỉ cần bốn chữ là được.

Trình Lâm vui mừng, vội hỏi:

- Bốn chữ gì?

Bàng Tịch đọc từng chữ:

- Xử - lý - công - bằng!

Trình Lâm ngạc nhiên, thấy trong lời nói của Bàng Tịch có ý châm chọc, liền ngửa mặt lên trời cười ha ha. Trong lòng thầm nghĩ, ông đứng đó nói, lưng đâu có đau, dù sao đi nữa, án này... Còn đang trầm ngâm thì có cung nhân tiến vào thông báo:

- Trình Phủ Doãn, Thái Hậu triệu ông vào cung Trường Xuân tiếp kiến.

Trong lòng Trình Lâm giật thót một cái, vội vàng sửa sang lại y quan rồi đi vào hoàng cung. Đến ngoài cung Trường Xuân, nơi ở của Thái Hậu, đứng đợi một lát thì có cung nhân dẫn Trình Lâm đi vào. Bên trong cung Trường Xuân phồn hoa rực rỡ, phục trang đẹp đẽ. Trình Lâm cúi đầu cụp mắt, không dám nhìn nhiều. Đi tới trước rèm châu, Trình Lâm quỳ xuống nói:

- Thần tham kiến Thái Hậu.

Rèm châu rũ xuống đất, lấp loáng ánh sáng trắng nhạt khiến người ta thấy không rõ dung mạo của người ngồi sau bức rèm. Nhưng Trình Lâm biết rõ, người ngồi sau rèm châu chính là đương kim đệ nhất nhân của Đại Tống, mẫu thân của hoàng đế Triệu Trinh, Lưu Nga - Lưu thái hậu!

Năm xưa lúc Chân Tông tại vị thì sùng tín quỷ thần, xây dựng rầm rộ khiến cho dân chúng lầm than, tiếng oán thán khắp nơi. Về cuối đời, Chân Tông ngày càng tệ hơn, một lòng cầu thần, không để ý tới triều chính. Khi đó, Lưu thái hậu đã tiếp quản triều chính, đến khi Chân Tông băng hà, Triệu Trinh tuổi còn nhỏ, Lưu thái hậu bắt đầu buông rèm chấp chính. Tuy Lưu thái hậu là nữ giới, nhưng xử lý quốc sự rất chú trọng nguyên tắc, chấn chỉnh triều cương, phục hưng thủy lợi, chỉnh lý quan lại, hoàn thiện khoa cử, hơn nữa còn trục xuất rất nhiều gian thần nịnh bợ trong triều. Từ đó nắm vững triều cương, cực kỳ uy nghiêm.

Trình Lâm có thể lên làm Phủ Doãn phủ Khai Phong, cũng là nhờ vào sự tiến cử của Lưu thái hậu. Do đó cực kỳ kính sợ đối với nữ nhân phía sau rèm này.

Thấy sau rèm vẫn im lặng, Trình Lâm cho rằng Lưu thái hậu giận mình, mồ hôi ứa ra như tắm, lắp bắp nói:

- Thái Hậu, án của Mã Trung Lập... vô cùng rắc rối...

Không đợi Trình Lâm nói xong, Thái Hậu ở phía sau rèm mở miệng nói:

- Hôm nay ta tìm ngươi đến, cũng không phải là hỏi về án Mã Trung Lập.

Thanh âm này rất trầm thấp, nhưng vô cùng uy nghiêm.

Trình Lâm ngẩn ra. Trước khi vào cung, hắn vốn nghĩ rằng Lưu thái hậu muốn hỏi về án của Địch Thanh, nên đã chuẩn bị lí do thoái thác, đâu nghĩ đến căn bản không phải là chuyện này!

- Vậy không biết Thái Hậu tuyên triệu, có dặn dò gì?

Trình Lâm hỏi dò.

Phía sau rèm lại yên lặng, rất lâu không có tiếng gì. Đến khi hai chân Trình Lâm quỳ tê dại, Lưu thái hậu mới nói:

- Án tượng phật Di Lặc trong chùa Đại Tướng Quốc bị hủy cách đây không lâu, tra đến đâu rồi?

Trình Lâm khó hiểu, thầm nghĩ tượng phật Di Lặc bị hủy tuy khiến người ta nhức đầu, nhưng Thái Hậu sao lại hỏi tới? Đột nhiên nghĩ đến tượng pBhật Di Lặc vốn là do Thái Hậu sai người xây dựng hoảng hốt nói:

- Thần đã yêu cầu bọ họ khẩn trương đắp lại thân Phật rồi.

Lưu thái hậu ở sau rèm hừ lạnh một tiếng, dường như đang tức giận, nói:

- Tượng phật tu sửa hay không có quan trọng gì? Nhưng tên phá hoại thân Phật kia rốt cuộc có bắt được hay chưa?

Trình Lâm càng thêm không hiểu vì sao Lưu thái hậu đột nhiên xem trọng vụ án này, mồ hôi chảy ròng ròng, trả lời:

- Vẫn chưa.

Lưu thái hậu khẽ thở dài:

- Vừa rồi ta nghe người ta nói, ngươi dạo này phá án lề mề, ta vốn không tin. Hôm nay thấy, mới biết được lời đồn quả không sai.

Trình Lâm biết người nói xấu hắn nhất định là đám người La Sùng Huân, vội la lên:

- Thái Hậu, không phải thần làm việc bất lực, mà là tên hung đồ hủy tượng Phật đó hành động không có nguyên tắc, thần như lạc vào sương mù, hơn nữa còn không có đầu mối, không thể nào tra ra. Huống chi thần không biết Thái Hậu quan tâm vụ án này đến thế, sau khi trở về, thần nhất định sẽ phái thêm người đi thăm dò.

Lưu thái hậu chậm rãi nói:

- Ngươi không cần phái thêm người. Tốt nhất ngươi hãy rút toàn bộ người đang điều tra vụ án này về hết đi.

Trình Lâm kinh ngạc hỏi:

- Vì sao thế?

Nếu Thái Hậu quan tâm đến việc này, vì sao không cho người tiếp tục điều tra? Trình Lâm nghĩ bể đầu cũng nghĩ không thông. Phía sau bức rèm lại tĩnh lặng, Trình Lâm không ngừng kêu khổ trong lòng, suy nghĩ mãi không thấu dụng ý của Lưu thái hậu. Chợt nghĩ đến, không phải Lưu thái hậu muốn cách chức quan của mình chứ? Vừa nghĩ đến đây, mồ hôi trên trán lại chảy xuống ròng ròng.

Cuối cùng Lưu thái hậu lại nói:

- Ta nghe nói bộ đầu Khai Phong Diệp Tri Thu làm việc lưu loát, nhiều lần phá án lớn. Trình Phủ Doãn, ngươi đánh giá người này ra sao?

Trình Lâm không dám nói bừa, ậm ờ nói:

- Người này quả thật làm việc lưu loát, nhiều lần phá được trọng án.

Hắn nói như chưa nói, nhưng Lưu thái hậu dường như có chút thỏa mãn, trầm giọng hỏi:

- Người này có đáng tin không?

Trình Lâm suy nghĩ hồi lâu mới đáp:

- Ba đời Diệp gia đảm đương trách nhiệm bộ đầu Khai Phong, Diệp Tri Thu võ công cao cường, đủ sức đảm nhận chức trách bộ đầu!

Lưu thái hậu trầm ngâm thật lâu:

- Vậy hãy truyền Diệp Tri Thu vào cung, Trình Phủ Doãn, ngươi lui ra đi.

Trình Lâm lui ra, Diệp Tri Thu lập tức vào cung. Lúc Diệp Tri Thu vào cung, cũng thấy lạ vô cùng, không biết Thái Hậu tìm hắn có chuyện gì. Tuy hắn là danh bộ, nhưng địa vị so với Thái Hậu thật sự kém xa vạn dặm, vốn xưa nay không qua lại với Thái Hậu, nhưng vì sao Thái Hậu lại muốn gặp hắn?

Mặc dù Phong thái Diệp Tri Thu sắc sảo như kiếm rời vỏ, nhưng khi vào cung thì cố gắng thu lại. Thái Hậu ở sau rèm trầm mặc một lúc mới nói:

- Diệp Tri Thu, ta biết ba đời nhà ngươi đều nhậm chức tại nha môn phủ Khai Phong ở kinh thành. Năm xưa Thái Tổ lập quốc, Biện Kinh nhiễu loạn, tổ phụ Diệp Phóng của ngươi phá ba trăm bảy mươi bảy vụ án lớn, giết một trăm sáu mươi ba tên đại tặc, lập tức chấn uy kinh thành, bọn đạo tặc vô lại nghe tên đều run sợ.

Trong mắt Diệp Tri Thu lộ vẻ kỳ lạ, trầm giọng đáp:

- Thái Hậu quá khen.

Lưu thái hậu lại nói tiếp:

- au này phụ thân ngươi kế thừa nghiệp cha, cũng giống như tổ phụ ngươi, trừ gian diệt ác, trung thành và tận tâm với triều đình. Bây giờ ngươi lại làm bộ đầu. Mấy năm qua, ngươi phá được vô số vụ án, cũng bắt được hơn mấy trăm tên đạo tặc lớn. Án ngươi xử lý, chưa từng có oan tình, rất tốt!

Diệp Tri Thu trả lời:

- Ăn bổng lộc của vua, thì phải giúp đỡ vua. Thần không muốn thẹn với chức trách của mình!

Phía sau rèm, Lưu thái hậu gật đầu, nói:

- Nói hay lắm, ngươi có biết hôm nay ta tìm ngươi là vì chuyện gì không?

Diệp Tri Thu lắc đầu nói:

- Thần ngu dốt, đoán không ra tâm ý của Thái Hậu.

Lưu thái hậu khẽ thở dài:

- Bởi vì ta cần một người vừa trung thành tận tâm, vừa có võ công cao cường, bí mật làm giúp ta một chuyện. Ta cảm thấy ngươi phù hợp với yêu cầu của ta.

Lòng Diệp Tri Thu khẽ run sợ, nếu Thái Hậu thận trọng như vậy, chuyện này làm được đến đâu còn chưa tính, chỉ cần nghe được bí mật, e rằng sẽ là mầm họa cả đời.

Lưu thái hậu thấy Diệp Tri Thu trầm mặc, lãnh đạm hỏi:

- Ngươi không dám đảm nhận sao?

Diệp Tri Thu xoay chuyển tâm tư, thấy không thể tránh né, cắn răng nói:

- Thần nguyện dốc hết sức lực, không phụ sự ủy thác của Thái Hậu!

Lưu thái hậu hài lòng nói:

- Rất tốt.

Khẽ trầm ngâm, rồi nói:

- Việc tượng phật Di Lặc trong điện Thiên Vương của Đại Tướng Quốc Tự bị hủy, ngươi biết rõ chứ?

Diệp Tri Thu cau mày nói:

- Thần đang phụ trách án này. Nhưng người đó đến đi quỷ dị, căn bản không để lại bất kỳ manh mối gì, thần tạm thời vẫn chưa tìm được hung đồ.

Lưu thái hậu đột nhiên hỏi:

- Ngươi cảm thấy hắn có phải là người Thổ Phiên không?

Diệp Tri Thu rùng mình, thất thanh hỏi:

- Vì sao Thái Hậu lại đoán như vậy?

Diệp Tri Thu biết Đa Văn Thiên Vương là thuộc hạ của Phật Di Lặc, trước đây Phật Di Lặc nói ngôn ngữ Thổ Phiên, vì thế Diệp Tri Thu mới đi Thổ Phiên tìm kiếm rất lâu nhưng không phát hiện được gì. Diệp Tri Thu không ngờ rằng, Thái Hậu vậy mà cũng hoài nghi người hủy đi tượng phật là người Thổ Phiên. Vì sao Thái Hậu lại nghĩ như thế? Vì sao Đa Văn Thiên Vương phải hủy tượng phật? Tại sao Thái Hậu lại quan tâm chuyện này? Diệp Tri Thu nghĩ mãi mà không ra, nhưng cũng không dám hỏi nhiều.

Rất lâu sau, Thái Hậu mới nói:

- Chỉ là ta có cảm giác này.

Diệp Tri Thu cảm thấy Thái Hậu nghĩ một đằng nói một nẻo, nhưng cũng không dám hỏi tiếp, bèn nói tránh đi:

- Thái Hậu muốn thần tận lực tìm tên hung đồ đã phá hỏng tượng phật sao?

Ở phía sau rèm, Thái Hậu lắc lắc đầu nói:

- Không phải! Haiizz, năm đó tiên đế băng hà, có để lại chuyện Thiên Thư, chắc ngươi cũng biết.

Diệp Tri Thu nói:

- Thần có biết một ít.

Thật ra thì hắn biết rất nhiều, nhưng không muốn nhiều lời.

Năm xưa Chân Tông sùng đạo, có một ngày nói với quần thần rằng ông ta nhìn thấy thần tiên giáng xuống ở trong điện. Thần tiên nói với Chân Tông, muốn xây đạo trường tại chính điện rồi sẽ giáng Thiên Thư cho Chân Tông. Sau đó Chân Tông thật sự xây đạo trường và chờ chực, quả nhiên có Thiên Thư ở phía nam bên trái cửa Thừa Thiên, làm quần thần chấn động, nhưng phần lớn đều thầm cho rằng, Thiên Thư này là do Chân Tông ngụy tạo, bởi Chân Tông muốn củng cố hoàng uy của mình. Nhưng lúc ấy nào có ai dám nhiều lời?

Kể từ lúc đó, Chân Tông bắt đầu cuồng mê đạo giáo, sùng tín điềm lành, không quan tâm triều chính. Mà các quan lại cũng hùa vào cho là tốt, khắp nước Tống triều tranh nhau xuất hiện hình ảnh điềm lành, khiến cho không khí thiên hạ ngột ngạt, bách tính khổ không nói nổi.

Sau khi Chân Tông chết, Lưu thái hậu quyết định đem tất cả Thiên Thư, điềm lành đều mai táng theo Triệu Hằng tại lăng Vĩnh Định. Tuy rằng có chút bất kính, nhưng cũng khiến người trong thiên hạ thở phào nhẹ nhõm. Từ đó về sau, trong triều đều biết Thái Hậu không thích quỷ thần điềm lành, do đó không còn ai dám ở trước mặt Thái Hậu đề cập đến Thiên Thư, điềm lành nữa.

Diệp Tri Thu biết được như vậy, càng thêm khó hiểu vì sao lúc này Lưu thái hậu lại chủ động đề cập đến chuyện Thiên Thư.

Dường như Lưu thái hậu nhận ra vẻ nghi hoặc của Diệp Tri Thu, liền thở dài:

- Vật của tiên đế, đa số được ta chôn tại lăng Vĩnh Định. Duy nhất có một vật thì ta giữ lại. Nhưng mỗi lần nhìn thấy vật này, ta lại cảm thấy thương cảm. Vì thế, ta cho đắp nặn tượng phật Di Lặc đặt ở Đại Tướng Quốc Tự và để vật ấy vào bên trong. Mỗi lần bái tế, nhớ đến còn có di vật tiên đế ở đây, cũng cảm thấy an ủi phần nào.

Diệp Tri Thu lập tức hiểu ra, nói:

- Lẽ nào tên đạo tặc kia biết việc này, do đó mới hủy tượng lấy vật sao?

Lưu thái hậu khen ngợi nói:

- Ngươi quả nhiên thông minh. Tên trộm đó phá hủy tượng phật Di Lặc là vì thèm muốn di vật của tiên đế. Lần này, ta triệu ngươi đến đây là muốn ngươi dốc hết sức tìm ra tung tích của tên trộm đó. Chuyện này, ngươi tuyệt đối không được để lộ cho người khác biết.

Diệp Tri Thu khó xử nói:

- Thần sẽ dốc hết sức mình. Nhưng vật ấy hình dạng ra sao?

Lưu thái hậu trầm mặc thật lâu, rồi chậm rãi nói:

- Vật này to bằng nắm tay của trẻ nhỏ, hình cầu màu đen, phía trên có khắc hai chữ triện, là Ngũ Long!

Diệp Tri Thu nghi hoặc đầy bụng, thầm nghĩ Ngũ Long rốt cuộc là vật gì? Nếu như quan trọng, vì sao Thái Hậu nhét nó vào tượng? Nhưng nếu không quan trọng, vì sao Thái Hậu lại thận trọng đến thế? Nhưng nếu Thái Hậu không nói, Diệp Tri Thu cũng chỉ có thể truy tìm, không thể hỏi. Hắn kính cẩn nói:

- Thần đã hiểu rõ, cần phải truy bắt tên trộm ấy về quy án, đem Ngũ Long "Châu về hợp Phố". (của về chủ cũ theo tích thời chiến quốc nước Triệu).

Lưu thái hậu thản nhiên nói:

- Nhất định phải nghĩ biện pháp thu hồi Ngũ Long. Về phần người nào lấy Ngũ Long, ngươi cứ giết, không cần trở về bẩm báo!

 Chương 45 – 49: Ninh Minh

Khi quay trở về phòng giam, Địch Thanh vẫn còn cảm thấy không thể tin được. Chuyện khiến Địch Thanh bất ngờ quá nhiều. Bàng Tịch không ngờ lại nói giúp cho hắn. Tên đại thái giám La Sùng Huân kia rốt cuộc không làm gì được một tên tiểu cấm quân như hắn. Đại lão gia của phủ Khai Phong cũng đau đầu vì hắn.

Mà chuyện khiến Địch Thanh bất ngờ nhất là hắn vì phẫn nộ mà quay lại đán mã Trung Lập cứu người, nhưng không ngờ người điên được cứu lại là Bát Vương gia! Hắn cũng không biết điều này là phúc hay họa nữa, nhưng hắn ít nhiều cũng biết được một điều. Bát Vương gia khá tốt với hắn, ít nhất có thể làm chứng cho hắn.

Một lời nói của Bát Vương gia có tác dụng hơn vạn lời chứng của Chu Đại Thường. Có Bát Vương gia làm chứng thì e rằng ngay cả Mã Quý Lương cũng không dám làm càn. Nhưng vì sao Bát Vương gia lại đứng ra làm chứng cho tên cấm quân quèn là hắn? Ông ta không sợ đắc tội với Thái Hậu sao? Rốt cuộc Bát Vương gia có đúng bị điên không? Địch Thanh cũng không chắc chắn.

Càng khiến cho Địch Tha khó hiểu chính là: Trình Lâm chỉ tạm giữ hắn để chờ xử lý, vậy mà lại giam hắn hơn nửa năm.

Trong nửa năm này, phủ Khai Phong vẫn chưa đưa ra kết luận gì về án của Địch Thanh, hắn cũng chỉ có thể ở trong lao mà chờ đợi. Hạ đi thu đến, thu đi đông đến, trong lao ngày nào cũng như ngày nào, may mà Địch Thanh còn có huynh đệ, Trương Ngọc mỗi lần đến đây đều liên tục oán giận, giống như người ngồi tù là gã vậy. Phủ Khai Phong cứ rề rà kéo dài mãi, Trương Ngọc đâu thể có biện pháp gì? Trái lại, Địch Thanh phải an ủi Trương Ngọc, khuyên bảo huynh đệ hãy thoải mái. Rồi một ngày, Quách Quỳ mang quần áo mùa đông đến. Tuy ngoài miệng không nói gì nhưng Địch Thanh cũng hiểu được rằng: mùa đông này, hắn phải tiếp tục sống trong lao ngục rồi.

Khi nào được ra tù, Địch Thanh đã không còn mong mỏi quá mức. Trong lao ngục, lòng hắn tạm thời có sự tĩnh lặng. Cũng may là hắn còn có viên Ngũ Long, trong Ngũ Long này dường như có ẩn chứa một bí mật cực lớn, Địch Thanh xem xét rất nhiều lần mà mãi vẫn chưa tìm ra manh mối. Rồng đỏ cũng không thấy xuất hiện nữa. Dù vậy, Địch Thanh biết đó không phải là ảo giác, nhưng bí mật rốt cuộc ở nơi nào?

Đến một ngày, khi mà Địch Thanh mong mỏi đến tuyệt vọng. Cửa lao chợt vang động, có ngục tốt đi vào nói:

- Địch Thanh, đến phủ nha thôi, định án rồi.

Địch Thanh rất đỗi kinh ngạc. Hắn đi theo ngục tốt đến nha môn phủ Khai Phong. Dọc đường đi, hắn mới phát hiện tuyết đã phủ khắp kinh thành, bông tuyết tung bay, phủ Khai Phong có phần lạnh lẽo.

Tuyết rơi lả tả ngoài nha môn phủ Khai Phong, cảnh tượng quạnh quẽ thê lương vô cùng, không có dân chúng tụ tập như trước đây. Hiển nhiên, bọn họ cũng giống như Địch Thanh, không biết án này được kết vào lúc nào.

Địch Thanh đến đại đường phủ Khai Phong. Hắn phát hiện chỉ có hai tên nha lại uể oải đứng đấy. Phủ doãn Khai Phong - Trình Lâm ngồi sau công án, râu vẫn thưa thớt như ngày nào. Bàng Tịch đứng ở một bên, mặt vẫn đầy ưu sầu.

Địch Thanh lo sợ trong lòng, tiến đến trước công đường quỳ xuống. Trình Lâm nói:

- Địch Thanh, ngươi chẳng những mạo danh nha dịch làm việc mà còn phá hỏng xe củi của người ta, ngươi có biết tội của mình chưa?

Địch Thanh thầm nghĩ: ‘Sao lôi tới đây rồi? Vì sao không hỏi chuyện Mã Trung Lập?’ Nhưng hắn không thể không đáp:

- Tiểu nhân biết tội..

Trình Lâm trầm ngâm, nói:

- Tuy ngươi mạo danh nha dịch Khai Phong, nhưng may là không gây ra hậu quả gì nghiêm trọng. Tuy nhiên, đánh nhau hung hãn thì không thể tha thứ dễ dàng. Án theo lệ, ta phạt ngươi tăng thêm năm năm Ma Khám, sau đó bồi thường tổn thất xe củi một lượng bạc cho ông lão là được ra tù, không biết ngươi có nhận tội không?"

(Ma Khám: thời gian thử thách, để có thể xét thăng quan tiến chức)

Mắt Địch Thanh giật giật, trong lúc nhất thời không biết trả lời ra sao. Phạt năm năm Ma Khám có nghĩa là trong vòng năm năm không được thăng chức, hắn không bận tâm với chuyện này. Một lượng bạc, hắn cũng có thể lấy ra để nộp. Nhưng án phạt này quả thực là "râu ông nọ cắm cằm bà kia"! Việc hắn đánh Mã Trung Lập bị thương thì tính thế nào?

Trình Lâm thấy Địch Thanh không trả lời, cau mày hỏi:

- Ngươi không phục án phạt sao?

Địch Thanh ậm ừ hỏi:

- Tiểu nhân nộp tiền phạt là có thể ra tù sao?

Bàng Tịch đứng ở bên cạnh nói:

- Đúng vậy.

Dứt lời, gã trao đổi ánh mắt với Trình Lâm, đều cùng nhìn ra sự bất đắc dĩ và mỏi mệt của đối phương.

Bọn họ vì sao bất đắc dĩ, chẳng lẽ là vì mình mà mỏi mệt? Địch Thanh không cần nghĩ nhiều, kêu to:

- Tiểu nhân bằng lòng!

Nộp tiền phạt xong, Địch Thanh nhận quần áo trước kia lại. Hắn lặng lẽ bước ra khỏi lao ngục của phủ Khai Phong.

Hắn vào một cách mơ màng, đi ra cũng mông lung không hiểu. Lúc đi vào, cây liễu lả lướt; lúc đi ra, cành trơ trọi lá, tuyết trắng bám đầy. Hơi thở thành sương, mùa đông giá lạnh!

Địch Thanh xoa xoa hai tay, dậm dậm chân, vừa mới cất bước đi thì bỗng nhiên dừng lại. Phía trước có một người đang đứng lẻ loi, râu quai nón bám sương, rõ ràng là đã đứng trong tuyết rất lâu, đang mỉm cười nhìn hắn.

Địch Thanh vui mừng vô hạn, chạy tới hỏi:

- Quách đại ca, sao huynh lại tới đây?

Quách Tuân quan sát Địch Thanh từ trên xuống dưới, nói:

- Ra được là tốt rồi.

Tiếp đó, lại vỗ vỗ bả vai Địch Thanh, nói:

- Chuyện này, đệ không làm sai.

Sống mũi Địch Thanh chua xót, một dòng máu nóng trào lên trong lòng. Hắn bị bọn người Mã Quý Lương vu oan, không sao cả. Hắn bị cô gái áo trắng hiểu lầm cũng không là gì, nhưng Quách đại ca thông hiểu hắn, lại làm cho hắn hổ thẹn khôn nguôi.

- Quách đại ca, đệ lúc nào cũng gây phiền phức cho huynh.

Quách Tuân thở dài, cười nói:

- Chúng ta là huynh đệ với nhau, sao phải nói những lời này? Huynh biết đệ có rất nhiều nghi vấn, vừa đi vừa nói nhé. Huynh còn muốn dẫn đệ đi gặp một người.

Địch Thanh không biết Quách Tuân muốn mình đi gặp ai, nhưng cho dù Quách Tuân bảo hắn nhảy xuống hố lửa thì hắn cũng sẽ nhảy xuống.

Quách Tuân không bảo Địch Thanh nhảy vào hố lửa, hai người chỉ sóng vai đạp tuyết mà đi. Tuyết đóng thành băng, vỡ thành mảnh nhỏ vang lên tiếng lách tách cọt kẹt, giống như tâm tình của Địch Thanh vào lúc này.

- Huynh biết đệ nhất định rất kỳ quái vì sao tự dưng được ra ngoài như vậy? Vì sao không ai đề cập đến chuyện Mã Trung Lập?

Ánh mắt của Quách Tuân sâu sắc, ngước nhìn mai vàng phía góc tường.

Địch Thanh vội vàng gật đầu đáp:

- Đúng vậy. Bọn chúng không phải loại buông tha đệ dễ dàng như vậy.

- Bọn chúng sẽ không bỏ qua cho đệ. Cho nên từ nay về sau đệ phải cẩn thận.

Quách Tuân bình thản nói tiếp:

- Nhưng chuyện này thì có điểm khác biệt. Mã Trung Lập đánh Bát Vương gia bị thương. Nếu như xử nặng đệ thì Mã Trung Lập chính là tội chết! Điểm này bọn họ hiểu rất rõ.

Địch Thanh rốt cuộc hiểu ra, nói:

- Cho nên bọn họ đành phải để phủ Khai Phong kết án qua loa, toàn bộ chuyện lớn đều hóa nhỏ?

Quách Tuân như nở nụ cười nơi khóe miệng, nói tiếp:

- Đệ nói không sai. Tội danh của đệ là đánh nhau hung hãn, lỡ tay làm người ta bị thương. Cho nên Mã Trung Lập cũng giống thế, vô tình làm Bát Vương gia bị thương. Đệ bị giam nửa năm, gã đó vẫn nằm liệt giường. Chuyện này chỉ cần Bát Vương gia không truy cứu và Thái Hậu không đề cập nữa, như vậy là được rồi.

Trong lòng thì thầm nghĩ: cách xử lý này vốn nằm trong dự liệu. Nhưng kỳ quái là Bát Vương gia vì sao lại đứng ra làm chứng cho Địch Thanh?

Địch Thanh thở dài, nói:

- Cuối cùng đệ cũng hiểu được tác dụng của quyền lực...

Hắn còn định nói tiếp cái gì đó, nhưng rồi lại không thốt ra câu nào.

- Địch Thanh, đệ sai rồi.

Quách Tuân dừng bước, xoay người nhìn Địch Thanh, ánh mắt sáng quắc, nói:

- Ở nơi này, quyền lực cũng không thể một tay che trời, cho dù là Thái Hậu cũng không thể muốn làm gì thì làm. Bởi vì, trong kinh thành còn có chí sĩ chính trực. Chuyện này đệ không có sai nên xử lý công bằng, đệ không cần bận tâm. Nhưng nếu đệ thật sự có lỗi, không ai có thể cứu đệ được.

Địch Thanh lẩm bẩm nói:

- Bốn chữ xử lý công bằng, nói thì dễ nhưng muốn làm không phải chuyện dễ dàng.

Đột nhiên hai mắt sáng ngời, hắn hỏi:

- Quách đại ca, huynh muốn dẫn đệ đi gặp chí sĩ chính trực sao?

Quách Tuân tràn đầy vui mừng:

- Đệ không ngốc tí nào, huynh dẫn đệ đi gặp một người, tên là ...

Lời còn chưa dứt liền nghe thấy tiếng keeng keeng thật lớn, là tiếng chiêng truyền đến. Tiếng chiêng này cực kỳ vang dội, chẳng những cắt đứt lời Quách Tuân, mà còn chấn động làm tuyết đọng trên cành cây rơi xuống rào rào.

Quách Tuân chăm chú nhìn, trông thấy một cỗ kiệu dừng ở cách đó không xa. Địch Thanh vừa nhìn thấy cỗ kiệu kia thì kinh ngạc vô cùng, hắn chưa bao giờ trông thấy cỗ kiệu kỳ quái như thế. Cái này có thể gọi là kiệu sao? Còn không bằng gọi là cái giường đi, bởi vì nó không có nóc và không có cái kiệu nào lại rộng lớn đến như vậy. Nhưng đây cũng có thể gọi là kiệu vì có ai khiêng một cái giường đi trên đường cái bao giờ chưa?

Nơi cuối đường bỗng xuất hiện tám Lạt Ma (1), trong tay tám tên Lạt Ma cầm một bộ bạt (2) lớn, mỗi lần bước mười bước sẽ cùng nhau vỗ bạt một cái. Tiếng chiêng vang dội mới vừa rồi, chính là tám bộ bạt cùng vỗ tạo nên, chẳng trách được muốn điếc cả tai.

Sau tám Lạt Ma này còn có mười sáu Lạt Ma đang khiêng cỗ kiệu rộng lớn kỳ quái kia. Trên kiệu chỉ ngồi một người. Người này cũng là Lạt Ma nhưng nửa người để trần, tuy thân thể hơi gầy gò nhưng bắp thịt săn chắc như sắt. Ở trong tuyết lạnh gió rét, toàn thân người này vẫn tỏa ra nhiệt khí như có như không. Phiên tăng(3) miệng to, đầu to, lỗ mũi hếch lên trời, nhìn thoáng qua sẽ thấy cái lỗ mũi còn muốn to hơn cái mũi.

Địch Thanh cảm thấy Lạt Ma này rất quái dị, cảm nhận này khó nói bằng lời. Đường đường là Biện Kinh mà sao những Lạt Ma này lại càn quấy đến thế? Địch Thanh ở kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa từng nhìn thấy Lạt Ma nào càn quấy như vậy.

- Quách đại ca...

Địch Thanh vốn định hỏi lai lịch của Lạt Ma này, đột nhiên phát hiện sắc mặt Quách Tuân cực kỳ khó coi, trong mắt lộ vẻ cảnh giác và hồi ức. Địch Thanh rùng mình, câu hỏi vừa đến đầu lưỡi liền nuốt trở xuống.

Những Lạt Ma này nhìn bước đi có vẻ chậm, nhưng thoắt cái đã đến bên cạnh Quách Tuân và Địch Thanh. Trời giáng tuyết lạnh, gió rét thấu xương, trên đường phố không người qua lại, cho dù có người thì khi nhìn thấy thanh thế này, cũng sớm tránh sang một bên mà đi. Quách Tuân kéo Địch Thanh lui về phía sau hai bước, y vẫn trầm mặc không nói gì. Lạt Ma trên kiệu đột nhiên hừ lên một tiếng, đôi mắt khép hờ bỗng nhiên mở ra, quay qua nhìn Quách Tuân.

Đôi mắt ấy không ngờ lại có màu xanh biếc.

Địch Thanh cảm thấy trong đôi mắt ấy ẩn chứa bí mật vô cùng vô tận, thiếu chút nữa bị ánh mắt ấy hấp dẫn. Quách Tuân lập tức bước lên nửa bước chắn trước mặt Địch Thanh, che khuất tầm nhìn của hắn. Tầm mắt Địch Thanh bị chắn mất, bất chợt rùng mình, nhất thời không hiểu vừa rồi bị gì. Ở trên kiệu, Lạt Ma nhìn chòng chọc Quách Tuân trong chốc lát, cỗ kiệu không dừng lại mà dần dần đi xa.

Nhưng ánh mắt thâm thúy và ý vị sâu xa của Lạt Ma kia, vẫn quanh quẩn trong đầu Địch Thanh giống như băng tuyết khó dứt. Sau khi cỗ kiệu biến mất ở đầu đường khác, Quách Tuân mới thu hồi ánh mắt, hừ lạnh một tiếng, lẩm bẩm nói: Là hắn sao? Sao hắn lại đến nơi này?

Địch Thanh không hiểu hỏi:

- Quách đại ca, Lạt Ma kia có lai lịch gì?

Quách Tuân lắc đầu, nói:

- Đệ không cần biết. Nhưng sau này, đệ đừng có đi trêu chọc kẻ này.

Trong giọng điệu của y tràn đầy vẻ đề phòng, lại như là nhớ tới chuyện gì đó. Đột nhiên nghe ở một bên có người nói:

- Aizz, còn ra thể thống gì nữa.

Quách Tuân nhìn sang, thấy có người trông có vẻ như văn sĩ ở trên tửu lầu đang lắc lắc đầu. Ánh mắt Quách Tuân chớp động, quay qua nói với Địch Thanh:

- Đến tửu lâu uống vài chén đi.

Địch Thanh thấy Quách Tuân không nói rõ nên cũng không tiện hỏi nhiều, liền đi theo Quách Tuân lên tửu lầu.

Ngoài lầu băng đông tuyết lạnh, trong lầu lại ấm áp như xuân. Ở đại sảnh tửu lầu, sớm đã có tửu khách nghị luận ồn ào, Quách Tuân cũng không để ý tới, đi thẳng lên lầu hai.

Địch Thanh lên tới lầu hai, thấy có một người ngồi dựa vào cửa sổ gần đường phố, hai mắt không khỏi sáng ngời. Quần áo người này đơn sơ, giặt nhiều đến nỗi bạc màu. Vì quay lưng về phía này nên Địch Thanh nhìn không thấy diện mạo của y. Thân hình người này hơi mập, trên bàn chỉ có một bầu rượu và một đĩa muối thạch anh (4).

Địch Thanh phát hiện người này là một tửu khách chân chính, bởi vì chỉ có tửu khách chân chính mới không cần đồ nhắm, chỉ dùng muối thạch anh để uống rượu, bọn họ không muốn để cho mùi vị khác làm ảnh hưởng đến hứng thú phẩm rượu. Người này không hề nghèo, bởi vì đĩa muối thạch anh kia không rẻ chút nào. Nhưng nhìn vào quần áo thì lại giống như một thư sinh nghèo. Đây rốt cuộc là dạng người gì? Địch Thanh thầm nghĩ trong lòng, đây là người mà Quách đại ca muốn dẫn mình đi gặp sao? Người này có năng lực gì? 

Người này đang nhìn ngắm đường phố, tuy y hơi mập nhưng nhìn bóng lưng lại có cảm giác rất cô độc. Quách Tuân vừa định cất bước thì đột nhiên thấy người đó cầm một cây đũa trúc trên bàn, sau đó gõ nhẹ lên cạnh đĩa sứ men xanh, tiếng đinh đinh đang đang vang lên. Âm thanh này dù không bì được với tiếng đàn êm tai của Trương Diệu Ca, nhưng rất có khí khái.

Quách Tuân dừng lại không bước nữa, đứng yên lắng nghe âm hưởng này. Địch Thanh không hiểu chút nào, không biết Quách Tuân rốt cuộc định làm gì.

Lúc này người đó lẩm bẩm đọc:

Nhân thế vô bách tuế,

Khuất chỉ tế tầm tư,

Dụng tẫn cơ quan,

Đồ lao tâm lực.

Niên thiếu si,

Lão thành tiều tụy,

Chích hữu trung gian kinh niên,

Xuân phong đắc ý,

Nhẫn bả phù danh khiên hệ?

(Đời người không trăm tuổi, bấm đốt tay nghĩ kỹ, dùng hết cơ mưu, uổng phí tâm lực. Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh?)

Sau khi đọc xong, y bèn nhấp một hớp rượu, khẽ thở dài, hình như đang có chuyện khó xử gì đó. Giọng y u buồn, giống như đã nếm trải đủ mùi đời. Giọng người này tuy trầm thấp, nhưng Quách Tuân và Địch Thanh đều nghe được rõ ràng. Quách Tuân đầy thất vọng, dáng vẻ đăm chiêu.

Địch Thanh nghe xong, không ngờ lại ngây cả người. Hắn cảm thấy bi thương trào dâng, chỉ muốn khóc òa một trận. Thưở nhỏ, hắn rất thích dốc sức đánh nhau, rất ít đọc sách, chỉ có mẫu thân thì rất kỳ vọng vào hắn nên dạy hắn biết chữ. Vì vậy, Địch Thanh cũng không phải nhìn chữ mà không biết đọc, nhưng nếu bàn tới văn chương thì như đuôi ngựa xuyên đậu hũ - không cần đề cập đến.

Dù vậy hắn vẫn hiểu được ý trong bài từ này, bởi vì bài này chỉ có người khổ tâm mới . Ý người này nói: đời người không quá trăm năm, thưở nhỏ thì không biết xét đoán, tuổi già lại quá hiểu chuyện, chỉ có giữa khoảng này là có nhiệt huyết nhất, đáng tiếc lại chìm trong mưu cầu danh lợi, lầm lỡ cả đời.

Tuổi trẻ dại khờ, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh! Chỉ mấy lời hờ hững đã nói hết đời người ngắn ngủi, Địch Thanh suýt nữa rơi lệ.

Tuy Quách Tuân cũng bị gợi lên chuyện xưa, nhưng dù sao vẫn còn nhớ mục đích đến đây. Y vừa định cất bước đi qua thì thấy một văn nhân đã ở trên lầu từ sớm đến trước người đó, khẽ gật đầu chào nói:

- Hi Văn huynh cho mời, không biết có gì chỉ giáo?

Người ngâm thơ đứng lên thở dài nói:

- Tống đại nhân chịu đến đây, hạ quan cảm kích khôn cùng.

Tống đại nhân xua tay nói:

- Hôm nay chỉ luận thơ phẩm rượu, không bàn việc công. Không biết Hi Văn huynh mời tại hạ đến đây, có định cùng tại hạ đạp tuyết tìm mai (5) không?

Hi Văn đổi cách xưng hô nói:

- Tuy Tống huynh không muốn bàn việc nước, nhưng thật không dám giấu diếm, tại hạ lần này mời huynh đến đây, chính là có quan hệ tới việc nước.

Sắc mặt của Tống đại nhân khẽ biến đổi, Hi Văn nói tiếp:

- Tống huynh còn nhớ bốn chữ ‘Vi thần bất trung’ không?

Tống đại nhân tức giận không vui nói:

- Thì ra Hi Văn huynh gọi tại hạ đến đây, chỉ muốn châm biếm tại hạ?

Địch Thanh nghe không hiểu, quay qua nhìn Quách Tuân, thấy y dỏng tai lắng nghe nên không tiện dò hỏi, đành phải nhẫn nại tiếp tục nghe.

Hi Văn lắc đầu nói:

- Cũng không phải, tại hạ chỉ cảm thấy mình 'bất trung' mà thôi.

Sắc mặt Tống đại nhân biến đổi không ngừng, hồi lâu mới hỏi:

- Vì sao Hi Văn huynh nói ra lời này?

Hi Văn rót cho Tống đại nhân một chén rượu nói:

- Chắc hẳn Tống huynh biết chuyện Giao Tự (6) vào mấy ngày sau?

Tống đại nhân nói:

- Hiện giờ, văn võ trong triều đều biết việc này. Thánh Thượng, Thái Hậu tế bái thiên địa, cầu phúc cho muôn dân, đây là chuyện may mắn của quốc gia.

Hi Văn thản nhiên hỏi:

- Tống huynh nghĩ thế thật sao?

(1) Lạt Ma (喇嘛): thầy tu ở Tây Tạng (cách gọi tôn kính các nhà sư theo đạo Lạt Ma ở Tây Tạng, Trung Quốc)

(2) Bạt (钹): xập xõa, não bạt, chập cheng (một loại nhạc khí) http://www.hudong.com/wiki/%E9%92%B9

(3) Phiên tăng: tăng nhân người Thổ Phiên.

(4) Muối thạch anh: lấy ra từ mỏ khoáng thạch muối thạch anh thiên thiên. Thường dùng làm đèn, có ánh sáng nhu hòa đặc trưng và tạo nên vùng không khí rất tốt, có lợi cho sức khỏe.

(5) Đạp tuyết tìm mai (踏雪寻梅): đề cập đến một thú vui tao nhã của văn nhân, thi sĩ: vừa ngoạn cảnh vừa đàm luận, sáng tác thơ văn.

(6) Giao Tự (郊祀): lễ cúng tế trời đất ở ngoài thành. Phía nam thành cúng trời, phía bắc thành cúng đất.

Tống đại nhân cau mày hỏi lại:

- Hi Văn huynh có ý gì?

Hi Văn nói:

- Nếu thật như Tống huynh nói thì đúng là chuyện may mắn của quốc gia. Nhưng có lẽ Tống huynh biết rõ, lần này cũng giống như lễ Trường Ninh, Thánh Thượng sẽ dẫn văn võ bá quan đến điện Hội Khánh chúc thọ Thái Hậu, sau đó mới đến điện Thiên An tiếp nhận triều bái.

Tống đại nhân chậm rãi nói:

- Đó là sự hiếu thuận của Thánh Thượng, giống như...giống như...

Ông ta vốn định nói gì đó, nhưng thấy Hi Văn nhìn mình trân trân, trên mặt liền lộ ra vẻ hổ thẹn, cuối cùng nói không nên lời.

Hi Văn hỏi:

- Giống như cái gì? Sao Tống huynh không nói tiếp? Nghĩ rằng Thiên tử bày tỏ đạo hiếu, thì không dùng lễ bề tôi; đã ngồi hướng Nam, thì đừng quay hướng Bắc. Nếu phụng dưỡng người thân bên ngoại, thì có thể dùng lễ người nhà vậy! Nhưng đằng này, Thánh Thượng và bách quan tề tựu, hướng Thái Hậu triều bái, mất quân thể, giảm chủ uy, không thể làm gương cho hậu thế. Cứ thế mãi, thiên hạ đại loạn không còn xa nữa!

Tuy Hi Văn vẫn bình tĩnh, nhưng giọng điệu hùng hồn.

Địch Thanh nghe được không hiểu gì hết. Hắn thầm nghĩ: hai người này chắc là đang bàn chuyện tế thiên của tiểu hoàng đế và Thái Hậu. Hoàng đế muốn nhân dịp tế thiên đến điện Hội Khánh mừng thọ Thái Hậu, vậy tại sao Hi Văn không đồng ý nhỉ? Hi Văn nói cái gì ‘thiên hạ đại loạn không còn xa nữa’, khiến hắn cũng có chút buồn lo vô cớ.

Tống đại nhân cười lạnh nói:

- Hi Văn huynh nói với tại hạ có tác dụng gì? Chẳng lẽ muốn tại hạ đi nói là Thánh Thượng làm không đúng?

Hi Văn mỉm cười nói:

- Đúng là tại hạ có ý nghĩ này.

Tống đại nhân cười ha ha nói:

- Vậy Hi Văn huynh muốn tại hạ làm chuyện gì đây? Chẳng lẽ muốn khoe tài miệng lưỡi như Tô Tần(1) sao?

Hi Văn chậm rãi nói:

- Những lời của tại hạ hôm nay, ngày hôm qua đã trình lên Lưỡng Phủ.

Tống đại nhân sững lại, mặt hiện lên vẻ xấu hổ. Hi Văn nói:

- Hôm nay mời Tống huynh đến đây, tại hạ không muốn làm khó, chỉ xin Tống huynh nhớ chuyện 'Vi thần bất trung' ngày đó, có thể hoàn toàn giác ngộ, rửa sạch nỗi nhục lúc trước, đó chính là hạnh phúc của thiên hạ, hạnh phúc trong triều đình. Tại hạ biết mình không có tư cách nổi giận, nhưng nhìn văn võ cả triều, không người nào dám nói, nay từ bỏ hư danh, bị giáng chức là điều chắc chắn. Tại hạ chỉ mong có thể dùng vài câu làm cho chí sĩ tri thức trong triều thức tỉnh, dù chết cũng không hối tiếc.

Lời của Hi Văn càng lúc càng hùng hồn, rất khí phách, Tống đại nhân dường như xấu hổ, hồi lâu không nói gì. Không biết qua bao lâu, cuối cùng Tống đại nhân nói:

- Hi Văn huynh, tại hạ cũng muốn kể cho huynh nghe một câu chuyện xưa.

Hi Văn khôi phục lại bình tĩnh, nói:

- Tống huynh, mời kể.

Tống đại nhân nói:

- Cây rừng sum suê, có chim ẩn nấp trong đó. Khi thợ săn đi qua, muôn chim yên lặng, không con nào dám lên tiếng. Nhưng có một chú chim không chịu im lặng, nó hót ríu ra ríu rít nên bị thợ săn phát hiện dấu vết, một mũi tên bắn xuyên qua, lập tức toi mạng. Con chim đó không ngờ mình nhiều chuyện lại gặp tai họa này. Nếu nó chịu im lặng như những con chim khác thì có lẽ đã sống thêm được mấy năm, Hi Văn huynh, huynh nghĩ xem có đúng không?

Hi Văn huynh thở dài nói:

- Đa tạ Tống huynh nhắc nhở. Nhưng thà hót mà chết, còn hơn là im lặng mà sống!

Giọng nói này tuy trầm thấp, Quách Tuân nghe xong, thân hình vạm vỡ chấn động, trong mắt biểu lộ sự kính trọng. Tuy Địch Thanh không rõ ràng cho lắm, nhưng nghe thanh âm này vang lên hùng hồn, vô cùng có khí phách, chẳng biết tại sao trong lòng cũng sôi trào nhiệt huyết.

Thà hót mà chết, còn hơn câm lặng mà sống! Tám chữ này mạnh mẽ sắc bén, đâm thẳng vào lòng khiến cho khuôn mặt Tống đại nhân tái nhợt. Nó cũng phá đi sự yên lặng khó tả trong tửu lầu, còn khuấy động làm khí phách hăng hái không lùi bước thức tỉnh khỏi cơn ngủ mê.

Tiếng gió rét ngừng, trên lầu im ắng tĩnh lặng. Chỉ còn tuyết nhẹ nhàng bay, giống như bóng lưng cô độc kia, không lời ----- nhưng cố chấp như mùa đông.

Cuối cùng trong mắt Tống đại nhân hiện lên vẻ tôn kính. Y dường như bị tám chữ kia kích động tâm tình, trầm ngâm thật lâu mới nói:

- Hi Văn huynh sẽ không lẻ loi!

Nói xong câu này, y uống cạn chén rượu rồi đứng dậy đi xuống lầu.

Hi Văn cũng không ngăn lại và cũng không đưa tiễn, y chỉ thở dài một tiếng rồi nhấc chén rượu lên, sau đó trầm mặc. Lúc này, Quách Tuân mới đi qua ôm quyền nói:

- Phạm đại nhân, Quách Tuân có lễ.

Hi Văn nghe thấy, xoay người nhìn lại, khóe miệng nở nụ cười, nói:

- Thì ra là Quách chỉ huy sứ.

Nhìn thoáng qua Địch Thanh bên người Quách Tuân, Hi Văn hỏi:

- Đây là Địch Thanh sao?

Lúc này Địch Thanh mới nhìn thấy dung mạo Hi Văn. Khuôn mặt này vô cùng trắng trẻo, nhưng có chút ảm đạm, khóe mắt đã có nếp nhăn, tràn đầy gian khổ. Lần đầu tiên nhìn thấy Hi Văn, Địch Thanh cảm thấy người này rất cô độc, nhưng khi nhìn đôi mắt người này, Địch Thanh lại phát hiện mình đã sai, rất sai.

Đôi mắt kia sáng ngời cố chấp, ôn hòa giàu tình cảm, làm cho người ta sau khi nhìn thấy sẽ đột nhiên phát hiện ra, thì ra con người giàu tỉnh cảm này sở dĩ u sầu thở than, tuyệt đối không phải vì bản thân. Y không cần người ta cảm thông, bởi vì y đang thương cảm đến chính người đời.

Quách Tuân nói tiếp:

- Phạm đại nhân đoán không sai, hắn chính là Địch Thanh. Lần này hắn có thể ra ngoài, còn phải rất cảm ơn Phạm đại nhân dâng thư nói thẳng, minh oan cho Địch Thanh.

Địch Thanh sửng sốt, ngơ ngác nhìn Phạm đại nhân, không thể tin nổi. Một người như vậy, không quen biết gì với hắn, lại không sợ đắc tội với Thái Hậu, dâng thư kêu oan cho hắn?

Phạm đại nhân nở nụ cười, nói:

- Chỉ huy sứ không cần cảm tạ, đây là bổn phận của ta mà thôi.

Quách Tuân xúc động nói:

- Nếu trên đời này ai cũng như Phạm đại nhân thì....

Phạm đại nhân khoát khoát tay cắt đứt lời Quách Tuân, nhấc bầu rượu lên rót đầy ba chén nói:

- Hôm nay từ biệt, không biết lúc nào gặp lại, một ly rượu nhạt, hẹn ngày gặp lại.

Y uống cạn chén rượu, rồi gật gật đầu chào, sau đó đi xuống lầu. Quách Tuân bưng chén rượu lên, cất giọng nói:

- Phạm đại nhân, gió mạnh tuyết lạnh, mong người bảo trọng!

Phạm đại nhân gật đầu rồi đi xuống lầu, chẳng mấy chốc đã khuất bóng vào màn đêm. Quách Tuân chán nản ngồi xuống. Địch Thanh bây giờ mới có dịp hỏi:

- Quách đại ca, Phạm đại nhân này là người nào? Vừa rồi bọn họ đang thảo luận chuyện gì thế?

Quách Tuân phục hồi lại tinh thần, uống một hơi cạn sạch rượu trong chén, giải thích:

- Phạm đại nhân tên là Phạm Trọng Yêm, hiện nay đang giữ chức Giáo lý(2) của Bí Các(3). Tống đại nhân tên là Tống Thụ, hiện đang là Hàn Lâm học sĩ của triều đình.

Địch Thanh ghi nhớ thật kỹ cái tên Phạm Trọng Yêm, không nhịn được nói:

- Chức vị Giáo lý của Bí Các thua kém hơn nhiều Hàn Lâm học sĩ, nhưng hình như Tống Thụ rất tôn kính Phạm đại nhân?

Trong lúc nhất thời hắn không tìm được từ phù hợp, chỉ cảm thấy Phạm Trọng Yêm giống như là cấp trên của Tống Thụ.

Quách Tuân chăm chú nhìn Địch Thanh nói:

- Đệ phải hiểu một điều, muốn nhận được sự tôn trọng của người khác thì không thể nào dựa vào quyền thế và quan chức, mà phải nhìn vào cách đối nhân xử thế của người đó. Quyền thế và quan chức chỉ có thể khiến cho người ta e ngại, chứ không thể khiến cho người ta kính trọng!

Địch Thanh lặng yên nghiền ngẫm lời mà Quách Tuân nói, rồi cảm thấy có chút giác ngộ.

Quách Tuân tự rót cho mình một chén rượu, nói tiếp:

- Quan vị của Phạm đại nhân dù thấp kém, nhưng trong kinh thành được rất nhiều người kính trọng. Nếu bảo huynh đánh giá Phạm đại nhân, huynh chỉ có thể dùng tám chữ để hình dung, 'Lòng lo thiên hạ, vì nước quên thân!'

Quách Tuân hiếm khi đánh giá người khác, nhưng khi nói đến Phạm Trọng Yêm, trong mắt tỏ vẻ tôn kính.

Lòng lo thiên hạ, vì nước quên thân, Địch Thanh nghe đến tám chữ này, hồi lâu mới hỏi:

- Quách đại ca, người này thực sự xứng với lời bình này sao?

(1) Tô Tần ( 蘇秦)

(2) Giáo lý (校理): chức quan quản lí các sự vụ về Bí Các, như chỉnh lí, khảo đính.

(3) Bí các (秘閣): Tàng Thư, là nơi cất chứa sách vở, thư họa... của triều đình Trung Quốc xưa.

Quách Tuân bưng chén rượu, ngắm tuyết bay, một lúc sau mới nói:

- Y vốn tên là Chu Thuyết, Phạm Trọng Yêm là tên sau này của y. Phụ thân y mất sớm, mẫu thân vì là thiếp nên bị người Phạm gia tranh giành gia tài đuổi ra khỏi nhà, nàng tái giá đến Chu gia. Y thuở nhỏ hiếu học, đến khi biết thân thế chân chính của mình thì hổ thẹn vì đổi họ nên bỏ đến phủ Ứng Thiên cầu học. Huynh nghe nói khiy cực kỳ bần hàn, vào mùa đông, dựa vào cháo nóng mà sống qua ngày. Mỗi ngày y cho cháo đông lại rồi chia thành bốn phần, mỗi ngày hai bữa, mỗi bữa thì ăn hai phần. Lúc tiên đế tại vị, y vượt qua khảo thí khoa cử trở thành tiến sĩ, từ đó theo đường quan trường. Sau đó y đón mẫu thân lên phụng dưỡng, cũng sửa trở lại họ Phạm, tự lập môn hộ.

Địch Thanh cảm khái nói:

- Phạm đại nhân ý chí kiên cường, khiến cho người ta kính nể.

Quách Tuân ảm đạm cười nói:

- Một người như vậy, cho dù có chút căm ghét thế tục, nhưng huynh nghĩ cũng có thể cảm thông. Dù tuổi thơ y bất hạnh và gặp nhiều trắc trở, nhưng sau khi tham chính thì thanh liêm như nước, cứu tế thiên hạ. Chỉ cần gặp chuyện bất bình, mặc cho đối thủ là ai, y đều muốn chống lại đến cùng. Vì thế tuy y có tài cao, nhưng tại quan trường chìm nổi trước sau vẫn khó được triều đình trọng dụng. Khi y bị giáng chức đến Thái Châu, thấy đê biển không được tu sửa liền dẫn người xây đắp mấy trăm dặm đê biển, giúp cho ngàn vạn dân chúng tránh khỏi cảnh cửa nát nhà tan. Khi y đến phủ Ứng Thiên dạy học thì trợ giúp vô số thư sinh nghèo khổ, bản thân quanh năm chỉ mặc một bộ quần áo. Mặc dù y có quan vị thấp kém nhưng khi gặp bất bình sẽ phản đối, tuyệt đối không lặng yên mà sống. Như chuyện của đệ vậy, mặc dù rất nhiều người biết đệ oan uổng, nhưng thật sự dám dâng thư, đắc tội Thái Hậu, trong triều chỉ có một mình y!

Tâm trạng Địch Thanh kích động, hối hận nói:

- Khi nãy, đệ quên cảm tạ người rồi. Dường như y đang gặp chuyện rất khó khăn, lúc đó nói với Tống Thụ cái gì mà ‘Vi thần bất trung’, nghĩa là gì vậy?

Quách Tuân giải thích:

- Năm đó, Thái Hậu mới vừa nhiếp chính, nịnh thần Đinh Vị nắm hết quyền hành. Hắn liền ra lệnh cho Tống Thụ, lúc đó là Tri Chế cáo(1), khởi thảo chiếu thư vu cáo tất cả các đối thủ chính trị như danh thần Khấu Chuẩn, Lý Địch, sau đó giáng chức đuổi khỏi kinh thành. Khi đó, văn võ bá quan toàn triều đều khuất phục dưới bạo quyền của Đinh Vị, Tống Thụ cũng không ngoại lệ. Tuy Tống Thụ biết Khấu Chuẩn và Lý Địch đều là trung thần, nhưng trên chiếu thư lại khiển trách Khấu Chuẩn là "Vi thần bất trung" , còn phê bình Lý Địch là "Phụ hạ tế ác”(2). Tống Thụ tự cho mình là thanh liêm chính trực, nên chuyện này có thể nói là nỗi nhục cả đời của hắn. Phạm công đề cập đến chuyện "Vi thần bất trung", cũng không phải là muốn vạch trần vết sẹo của Tống Thụ mà quá nửa là muốn khích lệ Tống Thụ, lần trước không kiên định nên để lại tiếc nuối cả đời, hi vọng lần này hắn có thể kiên định.

Địch Thanh không hiểu hỏi:

- Phạm đại nhân muốn Tống Thụ khuyên Hoàng Thượng đừng chúc thọ Thái Hậu sao? Điều này cũng đâu có vấn đề gì đâu?

Quách Tuân nhìn quanh bốn phía, thấy xung quanh không còn tửu khách nào nữa mới nhỏ giọng nói:

- Địch Thanh, có rất nhiều chuyện đệ chưa biết. Bây giờ, tuy Thái Hậu buông rèm chấp chính, nhưng Thiên tử đã trưởng thành. Rất nhiều người đều hi vọng Thái Hậu sớm trao trả triều chính cho Thiên tử, nhưng Thái Hậu dường như không hề có ý định này. Vì vậy rất nhiều người lén lút rỉ tai nhau, Thái Hậu muốn làm Hoàng đế.

Địch Thanh rùng mình, nhớ tới lời của Trương Ngọc đã nói ở Tây Hoa môn trước đây, bừng tỉnh hỏi:

- Cho nên Thái Hậu thà chết chứ không dùng Khấu Chuẩn, chỉ dùng người thân tín là vì muốn chuẩn bị để cướp ngôi sao?

Quách Tuân thở dài nói:

- Thái Hậu có cướp ngôi hay không, không ai biết rõ ràng. Nhưng mấy năm gần đây, khi Thái Hậu vi hành đều dùng Ngọc Lộ của Thiên tử, quy cách triều bái cũng càng ngày càng giống lễ nghi của Thiên tử. Mấy ngày nữa là triều đình tổ chức cúng tế đầu Đông, Thiên tử muốn dẫn quần thần đến chúc thọ Thái Hậu trước, sau đó mới cúng tế. Điều này chắc chắn sẽ làm cái bóng của Thái Hậu bao trùm lên người Thiên tử càng lớn. Thái Hậu được một tấc lại muốn tiến một thước, từng bước dò xét suy nghĩ của quần thần. Phạm công sợ Thái Hậu soán vị sẽ làm cho thiên hạ đại loạn, cho nên dâng thư phản đối việc này. Bây giờ quần thần trong triều đều ‘giữ miệng’, chỉ có Phạm công mới dám đứng mũi chịu sào. Huynh dẫn đệ đến đây chính là muốn đệ trò chuyện với y vài câu.

(3) Lộ: một loại xe lớn thời xưa. - Ngọc Lộ: Xe ngọc của vua dùng khi vi hành

Địch Thanh chợt hiểu, nói:

- Quách đại ca sợ đệ sa sút tinh thần nên muốn lấy chuyện Phạm công cổ vũ đệ?

Hắn giờ mới biết được dụng tâm sâu xa của Quách Tuân, trong lòng rất cảm kích.

Quách Tuân cười cười, thầm nghĩ: Cuối cùng Địch Thanh đã trưởng thành rồi. Haiz, hi vọng sau này đệ ấy ít phải chịu khổ.

Cả hai người đều có suy nghĩ riêng. Địch Thanh uống cạn chén rượu, cảm động nói:

- Mấy ngày nữa, đệ nhất định phải đến phủ Phạm công bái tạ. Người như vậy, thật đáng để kính trọng.

Quách Tuân lắc đầu nói:

- Không cần! Huynh nghĩ chẳng bao lâu nữa y phải rời khỏi kinh thành rồi.

Địch Thanh cả kinh nói:

- Vì sao?

Quách Tuân buồn bã nói:

- Vừa rồi, chẳng lẽ đệ không nghe thấy lời Tống Thụ nói sao? Chim đầu đàn luôn chết trước. Lần này, Phạm công dâng thư phản đối chuyện Thiên tử dẫn văn võ bá quan đến chúc thọ Thái Hậu, e rằng không đến hai ngày nữa y sẽ bị trục xuất khỏi kinh thành! Vừa rồi, lúc y xướng: 'nhưng lại vương vấn hư danh?', huynh đã biết rõ dụng ý của y.

Địch Thanh kinh ngạc hỏi:

- Ý huynh là Phạm công biết mình sẽ bị giáng chức, nhưng vẫn muốn dâng thư?

Đột nhiên nghĩ đến lúc sắp chia tay, Phạm Trọng Yêm có nói: "Hôm nay từ biệt, chẳng biết lúc nào gặp lại." Địch Thanh chợt hiểu rõ, nhớ tới bóng lưng cô độc kia, trong lòng bỗng dưng thấy chua xót.

- Đúng vậy, đây chính là Phạm Trọng Yêm, một Phạm Trọng Yêm liêm chính!

Quách Tuân đặt chén rượu đã cạn xuống, gõ nhẹ lên bàn thở dài:

- Người như thế, đệ nên gặp mặt một lần, bởi vậy hôm nay huynh mới dẫn đệ đến đây.

Quách Tuân đứng dậy bỏ chút bạc vụn xuống, cất bước đi xuống lầu. Chẳng bao lâu sau, có một cấm quân vội vàng chạy đến, mừng rỡ nói:

- Chỉ huy sứ, quả nhiên người ở chỗ này, Thái Hậu triệu người vào cung gấp.

Quách Tuân ngạc nhiên, không biết Thái Hậu tuyên có chuyện gì. Quay đầu nói với Địch Thanh:

- Đệ về trước đi, huynh vào trong cung.

Địch Thanh gật đầu. Hắn thấy gió tuyết đầy đường, sau khi thấy Quách Tuân đi khuất mới xoay người cất bước về hướng Quách phủ. Hắn uống chút rượu, mượn cảm giác say, nhớ lại những chuyện đã phát sinh trong quán rượu mới nãy, tâm trạng lúc thì kích động, lúc thì đau lòng xót dạ.

Tuổi thơ của hắn vốn gắn liền với miền thôn quê, bản tính thiện lương, dựa vào chút bản lãnh, khi gặp phải chuyện bất bình rất thích dây vào. Nhưng sau mấy lần gặp tai họa, tính cách đã thay đổi rất nhiều, có phần căm ghét thế tục, có phần ăn năn hối hận, nhưng hôm nay biết chuyện của Phạm Trọng Yêm, đột nhiên nghĩ tới Phạm đại nhân nhiều lần trải qua trắc trở, nhưng lòng vẫn lo cho thiên hạ, cớ gì mình phải cam chịu chứ?

Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh cảm thấy phấn chấn, gió tuyết phả vào mặt không cảm thấy rét lạnh, trái lại còn hào hứng bừng bừng. Mượn men rượu, hắn ưỡn ngực cao giọng ngâm: "Đời người không trăm tuổi, bấm đốt tay nghĩ kỹ, dùng hết cơ mưu, uổng phí tâm lực. Tuổi trẻ si, tuổi già tiều tụy, chỉ có khoảng giữa cuộc đời, tinh lực tràn trề, nhưng lại vương vấn hư danh?"

Địch Thanh không thích thơ văn, nhưng thích ý cảnh thê lương của bài từ này. Đang đạp tuyết trở về, vừa tới bên cạnh một ngõ hẻm nhỏ, gió tuyết lấp đường. Hắn bỗng thấy trên một cây đại thụ ở bên kia tường hẻm có con diều giấy mắc vào.

Con diều được làm vô cùng khéo léo, phía trên có vẽ chú chim. Chú chim này có cánh hoa lệ, mỏ chim màu đỏ, hai cánh lại có lốm đốm đỏ vàng. Cả kinh thành chìm trong màu trắng xóa khiến nó tỏ ra rất rực rỡ. Địch Thanh vừa nhìn thấy con chim đó, dù không biết tên nó là gì nhưng cũng cảm thấy rất ưa thích.

Hiện giờ không phải là mùa thích hợp để chơi diều, nhưng sao lại có con diều mắc trên cành cây? Địch Thanh đột nhiên nghĩ đến, thời tiết thế này mà chơi diều, người này cô quạnh y chang con diều này. Không nghĩ thêm nữa, Địch Thanh quyết định vượt tường trèo lên cây con diều xuống. Vừa định hành động, đột nhiên hắn nghe thấy có tiếng cô gái nào đó gọi:

- Này, ngươi giúp chúng ta lấy con diều xuống được không?

(1) Tri Chế cáo (知制诰): Chức vị thời xưa, người khởi thảo chiếu lệnh.

(2) “Phụ hạ tế ác”: bao che cấp dưới làm chuyện ác.

(3) Lộ: một loại xe lớn thời xưa. – Ngọc Lộ: Xe ngọc của vua dùng khi vi hành.

Địch Thanh quay đầu nhìn lại, trong lòng run lên, ở đầu ngỏ bên kia có hai cô gái đang đứng. Người vừa lên tiếng là nha hoàn, nha hoàn này đứng bên cạnh một cô gái đang kinh ngạc nhìn hắn. Nàng mặc áo lông màu trắng, da trắng mịn màng như ngọc, bông tuyết đầy trời như những cánh hoa đang nhảy múa quanh người nàng, tôn lên khuôn mặt xinh đẹp như tranh, đôi mắt lóng lánh có thần, giống như một bức tranh sơn thủy, tuyệt diệu vô cùng.

Địch Thanh ngẩn ngơ không thốt nên lời, không ngờ còn có thể gặp lại nàng. Nữ tử này không phải ai khác, chính là cô gái mà hắn vô tình gặp được ở điện Thiên Vương.

Cô gái trước là kinh ngạc, sau đó vui vẻ hỏi:

- Huynh... huynh ra rồi? Hóa ra....

Nàng bỗng đỏ mặt, mới nhớ tới mình và Địch Thanh không quen không biết, bèn khép miệng lại, về phần "hóa ra" cái gì, rốt cuộc không có nói ra.

Địch Thanh ậm ừ nói:

- Vừa mới ra không bao lâu.

Hắn đột nhiên cảm thấy tự ti mặc cảm, nghĩ mình không xứng để nói chuyện cùng nàng. Cô gái này thanh cao như thế, mình chỉ là cấm quân, lại còn từng bị nhốt trong lao, mà các nàng trước đây còn coi mình là người không ra gì đi tranh giành nhân tình với người khác. Khi đó, mình còn đâm đầu vào nàng, làm nàng bị thương. Mặt nàng đỏ lên, có phải là cảm thấy hối hận vì đã nói chuyện với mình hay không?

Nghĩ tới đây, Địch Thanh quay đầu định đi, cô gái ấy vội gọi:

- Địch Thanh, huynh chờ chút.

Địch Thanh dừng lại, trầm ngâm một lúc rồi mới quay đầu lại hỏi:

- Sao cô biết tên ta?

Cô gái lại có chút xấu hổ, cúi đầu không nói. Nha hoàn bèn nói:

- Ở kinh thành có ai mà không biết tên ngươi chứ? Một tên cấm quân quèn mà lại dám tranh giành nữ nhân, đánh hoàng thân quốc thích trọng thương.

Cô gái quát khẽ nói:

- Nguyệt nhi, đừng nói bừa.

Nàng ngẩng đầu lên nhìn Địch Thanh đáp:

- Địch Thanh, em ấy chỉ nói đùa với huynh, mong huynh đừng trách.

Địch Thanh cười giễu, nói:

- Tại hạ có tư cách gì mà quở trách người khác chứ? Vị cô nương này, nếu như không có chuyện gì khác, tại hạ xin đi trước.

Lần đầu gặp gỡ thì sợ hãi, lần tiếp theo thì hiểu lầm, gặp lại lần nữa thì ngỡ ngàng, tất cả đều hóa thành mây khói theo tiếng cười này.

Cô gái thấy Địch Thanh muốn đi, vội hỏi:

- Huynh có thể gỡ giúp con diều đó xuống rồi hãy đi, được không? Cây này cao quá, muội lấy xuống không được.

Địch Thanh nhìn con diều, hỏi:

- Cô làm con diều này?

Thấy nàng gật đầu, Địch Thanh không nói thêm nữa, đi tới vài bước, một chân đạp lên tường, vọt lên, lại nhảy tiếp, bắt lấy cành khô, đứng ở chóp tường. Tường này cao khoảng một trượng, Địch Thanh lại có thể dễ dàng trèo lên. Hắn cảm thấy bất ngờ với thân thủ nhanh nhẹn của mình. Đồng thời cũng có chút ngạc nhiên, hắn dùng sức như thế, vậy mà trong đầu không hề đau đớn. Bệnh đau đầu tra tấn hắn nhiều năm, lẽ nào ở trong lao ngục hơn nửa năm, bây giờ nó trở nên tốt hơn rồi?

Lòng bàn tay đau rát, Địch Thanh mới phát hiện mình chỉ tập trung leo tường, tay đã bị nhánh cây quẹt chảy máu lúc nào không biết. Nhưng vết thương nhỏ này đối với Địch Thanh mà nói, thật sự không đáng bận tâm. Cẩn thận trèo lên cây, tốn một lúc lâu hắn mới gỡ được con diều xuống. Địch Thanh từ trên cây nhảy xuống, chìa tay đưa con diều cho cô gái:

- Của cô nương.

Cô gái vừa muốn nhận con diều, đôi mắt đẹp khẽ chuyển, chợt che miệng thốt lên:

- Tay huynh chảy máu rồi!

Nàng loạng choạng mấy cái, dáng vẻ giống như sắp té xỉu đến nơi. Địch Thanh vội đỡ lấy nàng, hỏi:

- Cô nương không sao chứ?

Đột nhiên cảm thấy có chút không ổn, lại thấy nha hoàn nhìn mình lom lom, hắn vội vàng buông tay ra nói:

- Nàng... Ngươi mau đỡ nàng.

Nha hoàn hừ lạnh một tiếng, đỡ cô gái nói:

- Tiểu thư, nơi này lạnh, chúng ta trở về nhà đi.

Cô gái nhìn Địch Thanh nói:

- Cám ơn huynh.

Nhìn thấy tay Địch Thanh vẫn còn chảy máu, nàng đột nhiên nói:

- Tay huynh bị thương kìa, phải băng bó lại.

Nàng nói xong, không để ý tới ánh mắt kinh ngạc của nha hoàn, không đợi Địch Thanh từ chối. Nàng lấy ra lấy ra một chiếc khăn lụa, giữ chặt tay Địch Thanh, cúi đầu băng bó vết thương cho hắn.

Địch Thanh cúi nhìn xuống, thấy làn tóc đen như mực chảy xuôi theo cái cổ mảnh khảnh trắng như tuyết, trong lòng hơi loạn, vội nghiêng đầu đi không dám nhìn nữa, chỉ cảm thấy hơi thở nàng như hương lan, ngón tay có chút lạnh buốt và khăn lụa mềm mại chạm vào bàn tay, khiến Địch Thanh run rẩy sững sờ như đứng trên vách đá.

Không biết qua bao lâu, cuối cùng cô gái thở ra một hơi nhẹ nhỏm, nói:

- Đã băng bó kỹ rồi.

Địch Thanh vội hỏi:

- Trời lạnh, cô mau trở về đi thôi, coi chừng cảm lạnh.

Cô gái khẽ cười xinh xắn, nhận lấy con diều từ trên tay nha hoàn, dịu dàng nói:

- Cảm ơn huynh. Còn ... Cảm ơn hoa của huynh.

Nàng nói xong, khuôn mặt như bạch ngọc hơi ửng hồng, lập tức xoay người rời đi.

Địch Thanh muốn giữ lại, nhưng không có cớ gì. Hắn chợt hận miệng mình kém cỏi, khi nhìn thấy con diều kia, trong lòng chợt động, kêu lên:

- Cô nương, con chim này tên là gì vậy?

Vừa nói xong, hắn lại có chút hối hận, hối hận vì sao mình lại không hỏi tên của nàng. Nhưng hắn cất tiếng hỏi một câu này, khí lực đã giống như chảy hết ra khỏi cơ thể, thốt không nổi câu hỏi thứ hai.

Thân hình cô gái khựng lại, bóng lưng dường như thẹn thùng, nói:

- Con chim này.... gọi là .... Hồng Chủy Ngọc.

Dứt lời, bước nhanh rời đi.

Địch Thanh ngơ ngác nhìn hình bóng của nàng, lẩm bẩm:

- Hồng Chủy Ngọc? Tên không tệ.

Thật ra, hắn biết mình muốn gì, nhưng không có dũng khí tiếp tục bắt chuyện. Không biết qua bao lâu, hắn chợt cảm thấy toàn thân rét lạnh, không khỏi rùng mình một cái. Hắn phát hiện tuyết đã phủ dầy trên người, chẳng khác gì người tuyết....

***

Quách Tuân không biết Thái Hậu tìm mình có chuyện gì, trong đầu không khỏi nhớ tới đám Phiên tăng đi trên đường cái khi nãy, y nghĩ thầm: “Tạng biên (biên giới Tây Tạng) cực kỳ thần bí, mình đã từng nghe qua mấy cao thủ Tạng Mật (Mật tông Tây Tạng) ở đó. Nghe nói Thổ Phiên vương là Cốc Tư La có thể thoát khỏi khống chế của Thổ Phiên tăng - Lý Lập Tuân, chính là nhờ vào ba cao thủ Tạng Mật. Lúc này Cốc Tư La mới nổi phái mới, thế lực không cho phép coi thường, chủ yếu là có Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không tương trợ.

Vừa rồi kẻ đi ngang qua trên đường lớn hình như là thủ hạ Bất Không của Cốc Tư La. Tuy nhiên, Cốc Tư La thế lực mới nổi, cớ sao lại muốn phái người đến Biện Kinh? Nhìn thanh thế của Bất Không, dường như là đã chào hỏi qua với triều, nếu không thì cấm quân sớm đã can thiệp rồi. Chẳng lẽ Thái Hậu triệu mình vào cung là có liên quan tới gã Bất Không này sao?

Đang lúc suy nghĩ miên man thì La Sùng Huân đi tới. Y cất giọng the thé:

- Quách Tuân, ngươi đã đến rồi.

Quách Tuân mỉm cười hỏi:

- Không biết Cung Phụng đại nhân có điều gì dặn dò?

La Sùng Huân nhìn Quách Tuân từ trên xuống dưới rồi nói:

- Nghe nói ngươi hiện giờ được xem là đệ nhất cao thủ cấm quân ở Biện Kinh. Không biết là thật hay giả?

Quách Tuân không tự ti cũng không kiêu ngạo nói:

- Danh xưng đệ nhất cao thủ, tại hạ nào dám đảm đương? Cung Phụng đại nhân nói đùa rồi.

- Khoảng hai mươi năm trước, ngươi chỉ là một tên thị vệ tầm thường trong cung.

La Sùng Huân thổn thức:

- Thoáng cái đã qua nhiều năm như vậy, Ngự tiền thị vệ của tiên đế còn lại không được bao nhiêu. Võ nghệ như ngươi mà chỉ làm Điện tiền chỉ huy sứ, đúng là nhân tài không được trọng dụng. Nếu nh...

La Sùng Huân giả vờ trầm ngâm. Y lia mắt nhìn Quách Tuân rồi mỉm cười lặng yên chờ Quách Tuân dò hỏi.

Quả nhiên Quách Tuân hỏi:

- Nếu như cái gì?

La Sùng Huân thản nhiên nói:

- Nếu như ngươi có thể giúp Thái Hậu làm chút chuyện, cho dù là thống lĩnh hai bên, hay làm quan trong Tam Nha cũng dễ như trở bàn tay.

Quách Tuân cười nói:

- Với chút năng lực này của hạ quan. Nếu vào Tam Nha có lẽ sẽ bị người ta cười đến rụng răng mất.

Đáp xong, anh ta lái câu chuyện sang hướng khác:

- Không biết Thái Hậu triệu hạ quan đến đây là có điều gì phân phó?

Rồi lại thầm nhủ: “Không biết La Sùng Huân thể hiện thiện ý, là ý của Thái Hậu hay là ý của riêng lão? Nếu là ý của lão thì phải đề phòng lão đâm lén một đao. Nếu là ý của Thái Hậu thì có thể thấy Thái Hậu đang lôi kéo nhân thủ. Chẳng lẽ Thái hậu thật sự không muốn nhường ngôi cho Thiên tử sao?”

 Chương 50 - 53: Dòng chảy ngầm

La Sùng Huân lắc đầu, trong mắt thoáng hiện vẻ giận dữ. Y thầm nghĩ, “Tên Quách Tuân này thật không biết điều.”

Lúc này, từ phía trong cung có một thái giám vội vàng chạy tới hỏi:

- Cung Phụng, Thái Hậu thúc giục hỏi, Quách Tuân khi nào mới tới?

La Sùng Huân cất giọng the thé đáp:

- Gấp cái gì, không phải là tới rồi sao?

Tiếp đó y uốn éo cái mông đi trước dẫn đường. Khi vào đến cung Trường Xuân, La Sùng Huân bước tới phòng chính, quỳ xuống trước rèm châu, kính cẩn nói:

- Khởi bẩm Thái Hậu, tiểu nhân đã đưa Quách Tuân đến.

Quách Tuân quỳ một gối trên mặt đất nói:

- Thần, Điện tiền chỉ huy sứ Quách Tuân, khấu kiến Thái Hậu.

- Đứng lên đi.

Giọng nói sau rèm có chút khàn khàn nhưng vẫn lộ vẻ uy nghiêm.

Quách Tuân chậm rãi đứng dậy, cũng không hỏi tiếp nữa. Dẫu sao đã đến đây rồi, Thái Hậu cuối cùng cũng phải nói ra dụng ý. Ở sau rèm, Lưu Thái hậu trầm mặc một lát mới nhẹ giọng nói:

- Quách Tuân, từ lúc tiên đế băng hà đến nay, ta rất ít khi gặp ngươi. Mấy năm qua, ngươi bận rộn ngược xuôi, tận lực vì nước, đã khổ cực nhiều.

Quách Tuân trả lời:

- Đây là bổn phận của thần. Thái Hậu tất bật với chính sự mới vất vả thật sự.

Lưu Thái hậu đột nhiên thở dài:

- Ta đúng là mệt mỏi, nhưng Thiên tử vẫn còn chưa hiểu chuyện. Than ôi!

Quách Tuân nghĩ không thấu tâm tư của Lưu Thái hậu, dè dặt nói:

- Nhưng dù sao Thiên tử cũng đã có thể xử lý chính sự, Thái Hậu nếu muốn để cho Hoàng thượng tôi luyện, thì bây giờ là đúng lúc.

Lưu Thái hậu trầm mặc hồi lâu rồi nói tiếp:

- Cốc Tư La phái thủ hạ đến Biện Kinh, y tên là Bất Không.

Nghe vậy, Quách Tuân thầm nghĩ: “Tên Phiên tăng vừa mới gặp trên đường quả nhiên là Bất Không! Thái Hậu rốt cuộc vẫn không chịu bàn đến việc trao trả triều chính cho Thiên tử.”

Lưu thái hậu lại nói:

- Hiện nay Tây Bình vương Triệu Đức Minh đã tới lúc xế chiều. Song Triệu Nguyên Hạo dã tâm bừng bừng. Y gần đây làm không ít chuyện lớn, đã trở thành tai họa ngầm của triều đình. Nhưng thời gian trước, Triệu Nguyên Hạo khai chiến với Thổ Phiên, giằng co không nổi với Cốc Tư La...

Quách Tuân biết Tây Bình vương Triệu Đức Minh, hơn nữa còn nghe qua con của y là Triệu Nguyên Hạo. Lúc nghe đến ba chữ Triệu Nguyên Hạo, Quách Tuân thốt nhiên trở nên nghiêm nghị nói:

- Khi Tào Vĩ tướng quân còn tại thế đã có nói dã tâm của Nguyên Hạo rất lớn. Bây giờ Nguyên Hạo đánh nhau với Cốc Tư La chính là việc may của Đại Tống ta.

Trong đầu anh ta lại nghĩ, chuyện này có quan hệ tới chuyện Bất Không đến Biện Kinh sao?

Mấy phần thiên hạ như ngày nay, trừ Bắc Cương - Đại Liêu khống chế mười sáu châu Yên Vân nên có thế lực ngang bằng với Đại Tống ra, biên thuỳ Tây Bắc chiến sự liên miên, đã trở thành tai họa ngầm từ lâu. Năm đó, sau khi Tống Thái Tổ lập quốc, vì cầu thống nhất giang sơn, để tránh tạo nên nhiều cường địch, đã dùng chiến lược "trước Nam sau Bắc". Thừa nhận hậu duệ của Thác Bạt Tư Cung thủ lĩnh tộc Đảng Hạng là Lý Di Hưng làm Tây Bình vương, định nơi cắt cứ của Nam quân Tiết Độ Sứ, để đổi lấy sự thần phục của gã. Trước đây vào thời nhà Đường, Thác Bạt Tư Cung có công bình định phản loạn, con cháu được ban cho họ Lý, về sau quy thuận Đại Tống, lại được ban thưởng họ Triệu.

Hai mươi năm đầu nhà Tống, Đại Tống vì thống nhất đại nghiệp nên nâng đỡ tộc Đảng Hạng ở Hạ Châu để kiềm chế Bắc Hán. Kết quả, sau khi Bắc Hán diệt vong, tộc Đảng Hạng ở Hạ Châu đã đủ lông đủ cánh, từ đó trở thành tai họa ngầm của nhà Tống. Tộc Đảng Hạng trước sau lập Lý Quang Duệ, Lý Kế Quân làm chủ, khi đến Lý Kế Phủng nắm quyền, vì Lý Kế Phủng không đủ năng lực nên tộc Đảng Hạng rơi vào nguy cơ bị triều Tống thu phục. Nhưng không ngờ, tộc đệ của Lý Kế Phủng là Lý Kế Thiên nổi dậy dẫn dắt tộc Đảng Hạng phản kháng, xây dựng cơ sở ở Mạc Bắc, tiếp tục kháng cự Đại Tống. Về sau lại trải qua sự không ngừng hao tâm tổn sức của con trai Lý Kế Thiên là Lý Đức Minh, thế lực của tộc Đảng Hạng càng thêm mở rộng. Đợi sau khi con trai của Lý Đức Minh là Nguyên Hạo yên vị, gã càng biểu hiện ra dã tâm bừng bừng.

Những năm gần đây, tuy Đức Minh đã già nhưng Nguyên Hạo lại bắt đầu tiến hành chinh phạt bốn phương, thường xuyên khơi mào tranh chấp ở tây bắc biên cương của Đại Tống, trở thành 'kho bom sát vách' của Đại Tống. Nhưng hiển nhiên Lưu Thái hậu vẫn không coi trọng hai cha con họ, trong giọng điệu tràn đầy sự khinh miệt. Xưng hô cha con họ là họ Triệu, điều đó có ý là, cha con Đức Minh chẳng qua chỉ là tôi tớ được ban cho “họ” của Đại Tống mà thôi.

Trầm mặc một lát, Lưu Thái hậu lại nói tiếp:

- Cốc Tư La mặc dù tạm thời có thể chống lại Nguyên Hạo, nhưng cảm thấy nhuệ khí của Nguyên Hạo đang hừng hực nên mới muốn đầu nhập vào triều ta, hy vọng Đại Tống ta có thể xuất binh giáp công Nguyên Hạo. Y nói nếu có thể đánh bại Nguyên Hạo thì chỉ mong triều đình phong thưởng cho hai vùng là Qua Châu và Sa Châu. Không biết ngươi nhìn nhận vấn đề này ra sao?

Lưu Thái hậu ngoài miệng thì hỏi ý kiến, nhưng trong lòng thì cảm thấy khó hiểu, hai nơi Qua Châu và Sa Châu đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, Cốc Tư La vì sao chỉ muốn hai nơi này?

Quách Tuân cẩn thận đáp:

- Thần chỉ là Điện tiền chỉ huy sứ, không dám thảo luận bừa chuyện chính sự. Chuyện này đã có Lưỡng Phủ định đoạt.

Lưu Thái hậu ở phía sau rèm nói:

- Tể tướng, tham chính còn có Xu Mật sứ đều nói triều đình không nên xuất binh giáp công Nguyên Hạo, cứ để cho bọn chúng tàn sát lẫn nhau. Triều ta có thể ngư ông đắc lợi.

Quách Tuân tự hỏi: ‘Vậy còn hỏi làm gì?’ Nhưng biết Thái hậu tìm mình đến đây, nhất định là còn có nguyên do khác, nên nói phụ họa:

- Lưỡng Phủ nói thế rất có đạo lý.

Lưu Thái hậu hồi lâu sau mới nói:

- Nhưng nếu không xuất binh mà muốn Cốc Tư La dốc sức, chỉ ban thưởng phong hầu không thôi thì e rằng vẫn chưa đủ.

Quách Tuân cau mày hỏi:

- Lẽ nào...bọn họ còn có yêu cầu khác sao?

Lưu Thái hậu chậm rãi nói:

- Ngươi vừa đoán đã trúng, bọn chúng còn muốn ------ Ngũ Long!

Thân hình Quách Tuân chấn động, sắc mặt biến hóa.

- Bọn chúng muốn Ngũ Long để làm gì?

Khoảnh khắc này, ánh mắt ông ta cực kỳ quái dị, tựa như hồi ức lại tựa như kinh sợ, còn mang theo sự hoang mang khôn cùng.

Lưu Thái hậu lẩm bẩm nói:

- Ta cũng rất muốn biết bọn chúng muốn Ngũ Long để làm gì. Những Ngự tiền thị vệ của tiên đế biết Ngũ Long chỉ còn mình ngươi. Vì vậy, khi Bất Không đến đây, ngươi có thể ở một bên nghe xem. Biết đâu có thể nghe ngóng được chút manh mối.

Thoáng trầm ngâm, rồi Lưu Thái hậu hô:

- Triệu Bất Không vào cung.

Lần này Bất Không đi bộ vào, những tên Lạt Ma khiêng kiệu cho Bất Không đều bị chặn lại ở ngoài cung. Quách Tuân đứng ở bên cạnh rèm châu, thấy Bất Không chầm chậm đi tới, chẳng biết tại sao, tim cứ đập thình thịch.

Bất Không đầu to thân gầy, giống như củ cải bị nhổ khỏi đất trồng. Củ cải này rõ ràng đứng không vững, thoạt nhìn Bất Không cũng lảo đảo ngả nghiêng như vậy. Quách Tuân có cảm giác rất kỳ lạ, như thể người này đang lơ lửng giữa không trung.

Hai tay Bất Không kết thành ấn ký kỳ quái, đôi môi mấp máy nhưng không phát ra thanh âm gì. Khi đến gần rèm châu, gã mới khom người thi lễ:

- Sứ giả của Phật tử - Bất Không bái kiến Thái Hậu.

Cốc Tư La là phiên âm theo tiếng Thổ Phiên, Trung Nguyên thì gọi là Phật tử, ngụ ý là Phật thể chuyển thế.

Quách Tuân như hữu ý lại như vô ý đứng ngăn cách ở giữa Bất Không và Thái Hậu. Dù biết rõ lần này là muốn thăm dò bí mật của Ngũ Long, nhưng cũng phải bảo vệ Thái Hậu. Tên Bất Không này rất không đơn giản mà còn là cao thủ, ông ta không thể không đề phòng.

Quách Tuân hiểu biết sâu rộng. Gã biết Mật tông có Tam Mật là Thân, Khẩu, Ý. Vào đầu thời Đường, đại sĩ Liên Hoa Sanh từ Bắc Ấn Độ vào Tây Tạng, truyền thụ Phật pháp Mật tông, cao thủ Mật tông Tạng Biên thì cực kỳ thần bí.

Muốn nói tỉ mỉ về Tam Mật, chỉ sợ nói hơn mấy tháng cũng chưa xong. Nhưng nói đơn giản thì, thủ ấn là một loại phương pháp tu trì (tu hành Trì Giới*) của Thân Mật, chân ngôn (lời nói thật) có thể xem là Khẩu Mật, mà Ý Mật là một loại sức mạnh ý chí. Cao thủ Tạng Mật đều tin rằng lấy tay kết ấn, miệng niệm chân ngôn, tu luyện sức mạnh ý chí là có thể kết nối với thần, nhận được thần lực.

http://www.quangduc.com/file_chinh/v...iao_trinh.html

Nhưng đa số người đều bán tín bán nghi với điều đó, thậm chí còn cho rằng đây là chuyện vô căn cứ. Nếu không phải khi còn trẻ Quách Tuân đã gặp phải chuyện vô cùng thần bí, thì cũng sẽ không tin Tam Mật của Mật Tông. Nhưng hiện giờ ông ta thà tin còn hơn không.

Tên Bất Không trước mặt này có thần trợ giúp hay không, Quách Tuân không dám khẳng định. Nhưng Quách Tuân thấy hai con ngươi gã tràn đầy thần quang giống như có ma lực, vả lại cơ bắp Bất Không như sắt, Quách Tuân thật không dám có chút lơ là nào.

Lưu Thái hậu cũng đang quan sát Bất Không, hồi lâu mới nói:

- Không cần đa lễ.

Chẳng những cơ bắp như sắt, mà giọng nói của Bất Không cũng sắc bén chói tai y như hai cái bạt sắt vỗ vào nhau.

- Phật tử thật lòng muốn kết thân với Đại Tống, khẩn cầu triều đình Đại Tống xuất binh cùng đánh Nguyên Hạo. Thái Hậu nói mấy ngày nữa sẽ có câu trả lời. Hôm nay triệu thần vào cung, phải chăng đã có đáp án?

Gã vô ý mà như hữu ý liếc nhìn Quách Tuân, trong mắt hiện lên cái nhìn quỷ dị.

Lưu Thái hậu chậm rãi đáp:

- Phật tử thật lòng muốn kết thân với Đại Tống, đây là việc may của thiên hạ. Ta đã nói với Lưỡng Phủ, quyết định phong cho Phật tử các chức vụ Ninh Viễn đại tướng quân, Ái Châu Đoàn luyện sứ, Mạc Xuyên Đại thủ lĩnh. Qua ít ngày nữa, Đại Tống còn chuẩn bị phát triển giao dịch trà và ngựa với các ngươi, không biết ý của ngươi ra sao?

Bất Không thẳng thắn hỏi:

- Vậy còn chuyện xuất binh thì sao?

Lưu Thái hậu lạnh nhạt nói:

- Phật tử muốn kết thân với Đại Tống, Triệu Đức Minh cũng muốn như thế. Ta không thể coi trọng bên này mà xem nhẹ bên kia. Qua vài ngày nữa ta sẽ viết một lá thư khuyên y bãi binh là được. Mà dù cho Triệu Nguyên Hạo không bãi binh, với thực lực của Phật tử, muốn đánh bại y cũng không phải là chuyện khó khăn gì.

Chỉ mấy câu này thôi mà bà ta đã dễ dàng hóa giải đòi hỏi của Bất Không, ngay cả Quách Tuân cũng có chút bội phục.

Hào quang trong mắt Bất Không thoáng hiện rồi biến mất. Hai tay gã kết ấn nói:

- Vậy chuyện Ngũ Long thì sao?

Phía sau rèm, giọng nói của Lưu Thái hậu có chút âm trầm:

- Ta muốn hỏi một câu, các ngươi làm sao biết Ngũ Long ở trong tay ta?

Bất Không mỉm cười.

- Trí tuệ của Phật tử có thể thông thần, từ lâu đã biết vật này nằm trong tay Thái Hậu. Thật ra thì viên Ngũ Long này vốn là vật của Phật tử, hoàng đế Chân Tông chỉ là mượn tạm, bây giờ dùng đã nhiều năm rồi, cũng nên sớm trả lại?

Ngũ Long này cực kỳ thần bí. Lưu Thái hậu không biết nhiều, giờ nghe Bất Không nói như thế thì trong lúc nhất thời không biết nên trả lời thế nào. Song bà ta không khỏi nghĩ, bọn chúng nhất nhất muốn Ngũ Long, chẳng lẽ nói... ban đầu người hủy tượng phật không phải là bọn chúng sao? Nhưng trừ những tên Lạt Ma này ra, còn có ai cũng muốn đánh cắp Ngũ Long chứ?

Quách Tuân đột nhiên nói:

- Tiên đế đã băng hà gần mười năm rồi.

Bất Không nói:

- Vị này là Điện tiền thị vệ Quách đại nhân Quách Tuân của Chân Tông năm đó sao?

Thấy Quách Tuân gật đầu, Bất Không nói:

- Chân Tông mặc dù đã khuất, nhưng vật mượn cũng nên trả lại, chẳng lẽ không đúng sao?

Quách Tuân hờ hững đáp:

- Vật mượn đương nhiên phải trả, nhưng nếu không phải mượn thì đương nhiên không cần phải trả lại. Tiên đế giữ Ngũ Long mười năm, băng hà gần mười năm, ta biết Phật tử bây giờ cũng chỉ khoảng ba mươi. Lẽ nào tiên đế lại đi mượn đồ của một đứa trẻ mới hơn mười tuổi thôi sao?

Bất Không mỉm cười đáp:

- Chuyện này vô cùng huyền diệu, khó mà nói chi tiết được. Nhưng ta nghĩ rằng dù cho Thái Hậu có vật này, chắc hẳn cũng không biết tác dụng của nó.

- Lẽ nào ngươi biết sao? Nếu không ngại, ngươi nói ra nghe xem. Nếu Thái Hậu thấy các ngươi thật sự cần dùng gấp, nói không chừng sẽ cho các ngươi mượn Ngũ Long một thời gian.

Quách Tuân ra vẻ thoải mái nói.

Ánh mắt Bất Không chợt lóe sáng, lát sau mới nói:

- Đó là vật của Thần. Phật tử sử dụng để kết nối với trời.

Lưu Thái hậu không nhịn được quát:

- Nói bậy nói bạ!

Thái độ của bà ta uy nghiêm, giọng nói vốn luôn ôn hòa nhưng chẳng biết tại sao bây giờ lại đột nhiên giận dữ.

Bất Không thở dài nói:

- Nếu Thái Hậu không tin, thì cứ coi Ngũ Long vô dụng đi. Vậy thì hãy thương tình mà ban nó cho Phật tử chúng ta. Không biết ý của Thái Hậu ra sao

Lưu Thái hậu thoáng chút ngạc nhiên, bà ta không ngờ rằng Bất Không lại cung kính đến thế. Bà ta xưa nay rất có tâm cơ, chỉ là đang nghĩ, lần này CốcTư La đặc ý phái Bất Không đến đây muốn lấy Ngũ Long mà biểu hiện thì vừa cứng vừa mềm, khẳng định trong đó tất có kỳ quái. M không biết công dụng của Ngũ Long, nhưng bà ta nhất định không thể đưa cho bọn chúng! Năm đó tên ma quỷ kia từng nói, ở bên trong Ngũ Long có một bí mật rất lớn, ‘có nó có thiên...’ song gã chưa nói hết câu thì đã chết rồi. Chẳng lẽ ý gã là ‘có nó có thiên hạ’ sao? Nếu đúng là như vậy thì không thể để thứ đó lưu lạc bên ngoài. Còn nếu như gã định nói ‘có nó được thiên thần tương kiến’(gặp được thần tiên) thì sao chứ? Vậy đúng là gặp quỷ rồi. Nghe nói Phật tử CốcTư La rất cơ trí, y khao khát Ngũ Long đến thế, nhất định là có bí mật kinh thiên ẩn giấu trong đó.

Tên ma quỷ trong suy nghĩ của Lưu thái hậu tất nhiên là Chân Tông Triệu Hằng đã băng hà. Đến bây giờ bà ta vẫn còn hận Triệu Hằng, mà vì sao lại hận thì chỉ có chính bà ta mới biết được!

Song phụ nữ đều như thế cả, thứ mà người ta càng muốn đoạt được thì họ lại càng muốn. Còn ngược lại thì họ cũng không muốn! Lưu Thái hậu cũng là phụ nữ nên thái độ không khác gì. Trước đây đối với bà ta, Ngũ Long không quan trọng lắm, có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Nhưng từ khi Ngũ Long bị trộm, bà ta liền cảm thấy không ổn, từ đó mới căn dặn Diệp Tri Thu tận lực tìm kiếm tung tích của Ngũ Long. Lần này thấy Bất Không cũng có hứng thú với Ngũ Long, bà ta càng thêm tò mò.

Nhưng Lưu Thái hậu căn bản không có Ngũ Long, nên không có cách nào ban cho. Bà ta trầm ngâm một lát rồi nhìn Quách Tuân hỏi:

- Quách khanh gia, ý của khanh thế nào?

Quách Tuân hiểu ý nghĩ của Thái Hậu, đột nhiên quay qua Bất Không nói:

- Sáng nay ta ăn cơm, còn thừa lại nửa bát.

Lưu Thái hậu ngẩn ngơ, Bất Không cũng ngạc nhiên buột miệng hỏi:

- Vậy thì sao nào?

Quách Tuân chậm rãi nói:

- Cơm đặt trên bàn, ta không ăn không có nghĩa là ngươi có thể ăn. Muốn ăn nhiều hay ăn ít thì phải xem bản lãnh của ngươi!

Cung Trường Xuân bỗng dưng chìm trong nặng nề tĩnh lặng.

Hào quang trong mắt Bất Không lóe lên, gã lạnh nhạt nói:

- Hóa ra Quách thị vệ muốn xem bản lãnh của tại hạ.

Nói xong, gã chậm rãi bước tới gần Quách Tuân. Quách Tuân cũng bước lên phía trước một bước, khóe miệng nở nụ cười:

- Không dám.

Khoảng cách giữa hai người chỉ khoảng một trượng, nhưng ai cũng không động chân nửa bước. Không khí trong cung Trường Xuân vốn ôn hoà như xuân đột nhiên trở nên lạnh lẽo như băng.

Lưu Thái hậu rùng mình, vừa định gọi thị vệ vào cung hộ giá, đánh đuổi Bất Không ra ngoài, nhưng nghĩ lại nên thôi, bỏ đi ý định này. Bà ta biết Quách Tuân từ trước tới nay luôn thận trọng, giờ muốn ra tay thì nhất định là có lý do. Vả lại bà ta biết trước đây Quách Tuân là Ngự tiền thị vệ bên cạnh Triệu Hằng, võ công rất cao cường nên bà ta đặt niềm tin vào Quách Tuân.

Thế nhưng Quách Tuân vẫn không ra tay, chỉ nhìn Bất Không chằm chằm. Từ lúc Bất Không vào cung, hai tay không ngừng kết ấn, vào thời khắc này cả người gã như bị đóng băng, không động đậy chút nào. Song môi gã lại không ngừng mấp máy giống như đang niệm cái gì đó.

Thật lâu sau, hai người vẫn đứng bất động, bốn mắt nhìn nhau như đao kiếm giao nhau, ẩn chứa đốm lửa. Thái Hậu nhìn qua rèm châu, trong đầu đột nhiên có chút mê man.

Bà ta giật mình kinh hãi, tay vung ra hất chén trà rơi xuống đất, "choang" một tiếng vỡ tan tành. Tiếng vang này phá vỡ bầu không khí ngưng trọng giữa Quách Tuân và Bất Không. Quách Tuân chậm rãi lui về phía sau một bước, lạnh nhạt nói:

- Xem ra chén cơm này, cũng không dễ ăn.

Khóe miệng Bất Không khẽ nở nụ cười, tiếp lời:

- Vậy lần sau ta nếu đến, nhất định sẽ đòi nữa.

Gã bỗng xoay người sải bước rời đi, không thèm hỏi đến chuyện Ngũ Long nữa.

Lưu Thái hậu ngạc nhiên hỏi:

- Quách Tuân, xảy ra chuyện gì?

Mắt Quách Tuân lộ ra vẻ suy tư trả lời:

- Thái Hậu cứ yên tâm, gã sẽ không đòi hỏi Ngũ Long nữa đâu. Về việc tìm bí mật của Ngũ Long, thần sẽ làm tận lực.

Lưu Thái hậu cảm thấy có chút mệt mỏi, khoát tay nói:

- Được rồi, việc này giao cho ngươi xử lý. Nếu có tin tức thì lập tức bẩm báo cho ta.

Bất Không mỉm cười sải bước ra khỏi cung Trường Xuân. Mọi người đều biết đây là sứ giả của Thổ Phiên nên không ai dám cản trở. Khi Bất Không ra khỏi hoàng cung thì kiệu đã chờ sẵn. Những Lạt Ma đứng đó kính cẩn lễ phép giống như thấy thần tiên vậy. Xung quanh không có ai khác, chỉ còn lại gió đao tuyết kiếm. Một cơn gió lạnh thổi qua, nụ cười trên mặt Bất Không chợt tắt. Sau một tiếng “khụ”, gã hộc ra một ngụm máu tươi.

Màu máu đỏ tươi, như hoa mai nở rộ. Cả đám Lạt Ma hoảng sợ, cùng hô lên:

- Đại sư...

Bất Không khoát khoát tay rồi bước lên kiệu. Hai mắt nhắm nghiền, gã vô cùng mệt mỏi lẩm bẩm nói:

- Hay cho một tên Quách Tuân, không ngờ lại có bản lĩnh như vậy, lẽ nào?

Khóe miệng gã thoáng nở nụ cười như có như không,

- … nhưng kể từ bây giờ về sau... ngươi đừng có mong nghĩ đến thái bình nữa.

Địch Thanh quay về Quách phủ thì sắc trời đã tối. Hắn thất tha thất thểu quanh quẩn trên đường cổ Biện Kinh, người như ở trên mây. Hắn cũng không biết tại sao mình không muốn quay về, có lẽ là cảm thấy còn có thể gặp lại nàng ấy lần nữa. Nhưng cho đến lúc đèn hoa đã thắp, hắn rốt cuộc vẫn không gặp được nàng.

Đẩy mở cổng chính Quách phủ, Địch Thanh thở nhẹ một hơi, đột nhiên sau lưng có cơn gió mạnh thổi tới, Địch Thanh cả kinh quát lên:

- Ai đó?

Hắn vừa định xoay người thì có một bàn tay đặt lên vai, một giọng nói trầm thấp vang lên:

- Là ta!

Địch Thanh không cần quay đầu lại cũng biết đây chính là giọng nói của Quách Tuân, hắn vui mừng nói:

- Quách đại ca, huynh đã về rồi?

Vừa quay đầu nhìn lại, hắn thấy sắc mặt Quách Tuân trắng bệch, Địch Thanh sợ hãi hỏi:

- Huynh làm sao thế? Bị thương à?

Quách Tuân khoát khoát tay đoạn bước chầm chậm về phòng, sau đó lấy vò rượu ra uống ừng ực mấy ngụm, lúc này mới lẩm bẩm nói:

- Thật là lợi hại.

Địch Thanh vẫn một mực đi theo bên cạnh Quách Tuân, nghe vậy vội hỏi:

- Quách đại ca, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Huynh bị bệnh sao? Đệ đi tìm đại phu cho huynh nhé!

Hắn vừa định xoay người đi thì bị Quách Tuân bắt lấy cổ tay.

- Ta không sao. Hôm nay ta giao thủ với tên Phiên tăng kia.

Địch Thanh vô cùng kinh sợ.

- Huynh cũng không phải là đối thủ của gã ư?

Hắn thật không thể tin nổi, ngay cả năng lực của Quách Tuân mà cũng không thắng được tên Lạt Ma đó.

Quách Tuân trầm mặc một lúc.

- Ôi, khó nói lậ, nhưng gã nhất định cũng không dễ chịu. Địch Thanh, tên Phiên tăng mà chúng ta nhìn thấy hôm nay tên là Bất Không, là một trong tam đại thần tăng dưới trướng của Thổ Phiên vương Cốc Tư La. Sau này đệ hãy cố mà tránh xa gã.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Quách đại ca, đệ nhớ kỹ rồi.

Trong lòng hắn lại nghĩ, tên Phiên tăng này vì sao lại đối đầu với Quách đại ca? Quách đại ca bảo mình tránh xa gã, có lẽ là muốn tốt cho mình.

Trong đầu Quách Tuân nghĩ đến Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, Bất Không chính là ba đại cao thủ thuộc hạ của Cốc Tư La. Chỉ mỗi tên Bất Không này mà đã có ý chí như vậy, không biết mấy tên còn lại thì sao đây? Cốc Tư La có phải càng thêm lợi hại hay không? Cao thủ Tạng Mật quả nhiên danh bất hư truyền.

Thì ra Quách Tuân dù chưa giao thủ với Bất Không nhưng so với đánh thật còn nguy hiểm hơn. Hai con ngươi của Bất Không như có một loại ma lực, quả thực có thể câu hồn đoạt phách. Gã dùng lực tinh thần từ hai con ngươi định khống chế Quách Tuân. Quách Tuân sớm đã nghe qua loại pháp môn này, hôm nay mới được nhìn thấy tận mắt. Ý chí của Quách Tuân từ lâu đã như sắt thép, lại thêm bản thân trải qua nhiều trận mạc, nên tuy biết rõ pháp môn của Bất Không nhưng vẫn tập trung tinh thần đối kháng với Bất Không. Bất Không không thể khống chế được Quách Tuân, ngược lại lực tinh thần còn bị thương tổn, sau đó chịu không nổi phải phun ra một ngụm máu tươi, gã địch không lại bèn rời đi. Tuy nhiên, Quách Tuân cũng cảm thấy tinh thần mệt mỏi đến nỗi ngay cả sức lực cũng không thể ngưng tụ được. Anh ta thật sự hoảng sợ thần thông của kẻ này.

Thấy Địch Thanh rất quan tâm, Quách Tuân cười nói:

- Không có việc gì đâu. Đệ về nghỉ ngơi đi. Mấy ngày này huynh muốn tra một số chuyện, có thể sẽ ít gặp mặt đệ. Đúng rồi, bọn người Mã Quý Lương không phải là hạng người lương thiện đâu, đệ phải cẩn thận một chút.

Địch Thanh có chút lo lắng cho Quách Tuân, nghe vậy nói:

- Vâng, đệ hiểu!

Đợi Địch Thanh rời đi, Quách Tuân thở phào nhẹ nhõm, khuôn mặt dần dần có chút huyết sắc. Uống thêm vài chén rượu, anh ta nghĩ thầm: “Thái Hậu không biết bí mật của Ngũ Long nhưng Bất Không rõ ràng biết chút chuyện. Mình đánh bại Bất Không, gã nhất định sẽ biết mình cũng có bí mật. Chính vì thế, có lẽ gã sẽ tìm mình gây phiền phức...”

Quách Tuân khẽ thở dài, rút cây sáo từ trong ngực ra, nhìn ống sáo nói:

- Bất Không, ta sẽ chờ ngươi. Chuyện này đã khiến ta u sầu quá lâu rồi. Mai Tuyết, nàng cũng biết đấy, năm đó ta cũng là thân bất do kỷ (không thể tự làm chủ)? Nếu không tra ra chân tướng, ta trước sau khó mà thoải mái được.

Sáo ngọc lành lạnh, dưới ánh đèn hiện ra ánh sáng xanh, phản chiếu vào mặt Quách Tuân, thê lương như tuyết bay ngoài sân...

Sáng sớm, sau khi Địch Thanh thức dậy, việc đầu tiên là đến vấn an Quách Tuân, nhưng lại phát hiện Quách Tuân đã đi khỏi. Địch Thanh nhớ tới sắc mặt của Quách Tuân vào tối hôm qua, liền không khỏi lo lắng vội đi tìm Quách Quỳ để hỏi. Ai ngờ, nó thậm chí còn không biết Quách Tuân từng quay về.

Địch Thanh không biết làm sao, đành quyết định trước hết cần phải đi đến cấm quân doanh. Đám người Kiêu Vũ quân nhìn thấy Địch Thanh thì hoan hô liên hồi. Nhưng Triệu Luật lại sầm mặt xuống nói:

- Địch Thanh, ngươi chẳng những quậy phá gây nên rắc rối mà còn mạo danh phủ Khai Phong. Quách chỉ huy có lệnh, phạt ngươi ba tháng bổng lộc để cảnh cáo.

Mọi người thầm bất bình. Địch Thanh biết Quách Tuân làm vậy là muốn dàn xếp ổn thỏa, nên yên lặng chấp nhận. Chịu thiệt có lúc chính là chiếm ưu thế, Địch Thanh chịu thiệt thòi lần này, nếu có thể bảo vệ được tính mạng thì cũng coi như chiếm được ưu thế rồi. Mặc dù Triệu Luật ra vẻ lạnh nhạt nhưng vẫn phân công Địch Thanh chung tổ với Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh.

Mấy ngày nữa chính là đại lễ tế tự, cấm quân trong kinh tất nhiên phải toàn lực cảnh giới. Ba người Địch Thanh được phái đến tuần tra khu vực gần sông Ngũ Trượng. Ba người cười cười nói nói đi đến phụ cận sông Ngũ Trượng. Thiên hạ thái bình vô sự đã mấy chục năm, triều đình nuôi nhiều cấm quân như vậy chỉ vì phòng ngừa vạn nhất, nói là tuần tra chứ thật ra thì cũng không có quá nhiều chuyện để làm. Mấy người tìm một chỗ khuất gió núp vào, ôm vai, co chân lại. Địch Thanh ngẩng đầu nhìn trời, thấy bóng chim giữa không trung bay lướt qua thì đột nhiên nhớ tới một chuyện, hỏi:

- Trương , ngươi là người phương nam, vậy có từng nghe qua loài chim nào tên là Hồng Chủy Ngọc chưa?

Trương Ngọc nói:

- Đương nhiên là nghe qua rồi. Loài chim này rất đẹp, lúc ta còn nhỏ, còn bắt một con để nuôi. Có điều sau này ta lại thả nó đi.

- Sao vậy?

Địch Thanh khó hiểu hỏi.

Trương Ngọc buồn bã nói:

- Vì khi ta bắt nó nhốt trong lồng, có một con chim khác không sợ nguy hiểm, hàng ngày ở ngoài lồng thương xót hót than và không ngừng đâm vào lồng chim. Khi đó ta rất ngạc nhiên. Mẹ ta nói cho ta biết, loài chim này cực kỳ trọng tình, hai con chim mái và trống phần lớn thời gian đều như hình với bóng, cực kỳ hết lòng với nhau. Nếu một con bị bắt, con kia dù gặp ngàn vạn nguy nan đi chăng nữa cũng sẽ cố gắng tìm cách đoàn tụ.

Lý Vũ Hanh tấm tắc nói:

- Như vậy thì chẳng phải loài chim này còn trung nghĩa hơn con người sao?

Trương Ngọc thở dài:

- Ôi, ai nói không phải chứ? Sau khi ta thả nó đi, cha ta qua đời. Chưa tới mấy năm sau, mẹ ta cũng đi nốt, ta nghĩ ... họ cũng giống như Hồng Chủy Ngọc.

Địch Thanh nghĩ đến mẫu thân của mình, trong lòng cũng không khỏi cảm thấy chua xót.

Tuyết đọng trên người Trương Ngọc khiến y run lẩy bẩy, thở dài một hơi nói:

- Đúng rồi, còn quên nói cho ngươi biết, vì Hồng Chủy Ngọc có tính cách này nên chúng ta đặt cho nó thêm một cái tên khác, gọi là chim tương tư.

Nói xong anh ta vỗ vỗ tay, khẽ ngâm:

“Nhập ngã tương tư môn,

Tri ngã tương tư khổ,

Trường ương tư hề trường tương ức,

Đoản tương tư hề vô cùng cực!

(dịch thơ: theo Võ Thị Xuân Đào)

Ai vào trong ngõ tương tư

Mới hay bể khổ không từ một ai

Tương tư mãi , tương tư dài

Tương tư khôn xiết vẫn hoài tương tư.”

Lý Vũ Hanh ở bên cạnh nói:

- Trương Ngọc à, không ngờ tới cái thứ như ngươi, ngoại trừ đánh rắm ra, còn biết làm thơ con cóc nữa đó.

Trương Ngọc nói:

- Cấm quân không đáng sợ, chỉ sợ cấm quân nói nhảm. Đây là thơ Đường do đại thi nhân Lý Bạch sáng tác, vậy mà ngươi lại nói nó là thơ con cóc? Năm đó sau khi cha ta chết, mẹ ta lúc nào cũng đọc bài thơ này cho ta nghe, thế nên ta học thuộc được. Lúc đó chẳng hiểu nỗi khổ đó, bây giờ hiểu thì đã muộn.

Dứt lời khóe mắt nhòe lệ.

Địch Thanh nghe vậy thì nhớ tới đại ca thường nói: "Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn dưỡng mà cha mẹ không còn", mới hiểu được tâm tình của Trương Ngọc nên an ủi:

- Trương Ngọc, ngươi đừng buồn nữa, thực ra cha mẹ chỉ cần biết chúng ta đang sống rất tốt, họ đã cảm thấy hài lòng lắm rồi.

Tuyết lớn lúc rơi lúc ngừng, ba người chìm trong trầm mặc, mỗi người đều có tâm sự.

Sau khi kết thúc công việc, Địch Thanh không lập tức trở về nhà mà đi đến nơi lúc trước nhặt diều, cái ngõ hẻm này gọi là ngõ Mạch Kiết.

Hoàng hôn tuyết lạnh, trong ngõ hẻm đã không còn ai qua lại. Địch Thanh giống như cô hồn dã quỷ đi từ đầu này đến đầu kia ngõ hẻm, rồi lại từ đầu kia quay lại đầu này. Hắn không biết đã đi qua đi lại bao nhiêu lần nhưng vẫn không thấy con diều ấy bay lên. Địch Thanh thầm cười nhạo suy nghĩ hão huyền của mình rồi ngượng ngùng trở về chỗ ở. Đến lúc này vẫn không gặp được Quách Tuân.

Quách Quỳ vẫn vô tư, chỉ nói ban ngày đại ca có trở về một lần nhưng lại vội vã rời đi, giống như có việc gấp. Địch Thanh biết được Quách Tuân không có việc gì, cũng bớt lo lắng. Hắn ngây người ngồi trên giường, cả đêm chỉ suy nghĩ về việc nàng thả diều trong ngày tuyết, trên thân diều có vẽ chim tương tư, rốt cuộc là có ý gì?

Không biết qua bao lâu, Địch Thanh đột nhiên nghĩ, mình nhung nhớ nàng đến mức thần hồn điên đảo, phải chăng là tự cho rằng nàng ấy đang tương tư mình? Hắn bỗng bật cười thầm nghĩ mình sẽ không phải là tự đa tình như vậy. Nhưng nếu không phải như thế thì cớ gì mình lại như bị ma xui quỷ khiến đi tới chỗ đó?

Địch Thanh bất chợt phát hiện trên bàn có một chiếc khăn lụa, là chiếc khăn mà cô gái ấy để lại. Hắn tự biện bạch, có lẽ là mình muốn trả lại chiếc khăn lụa này, chứ không có ý khác. Nhưng mà lúc hoàng hôn, khi đi đến nơi đó, mình cũng không có nhớ tới khăn lụa.

Địch Thanh ngồi ở trên giường suy tính hơn thiệt rồi ngủ say lúc nào không biết. Sáng sớm tỉnh lại, trong đầu không nghĩ đến hồng long, chỉ có một chiếc khăn lụa xanh thẫm tung bay trong suy nghĩ của hắn.

Hôm sau khi xong ca trực, Địch Thanh lại vô thức mà đi đến ngõ Mạch Kiết. Nhưng rốt cuộc cũng không thấy con diều bay lên.

Vào ngày thứ ba, gió cuồng tuyết lạnh, Địch Thanh thầm nhủ sẽ không có ai chơi diều trong thời tiết như thế này, đừng đến đó nữa. Nhưng rồi sau khi xong ca trực, dù cho gió rít cắt da, tuyết lạnh buốt hắn vẫn không cầm lòng được mà đi đến trước ngõ Mạch Kiết.

Không có diều, chỉ có gió lớn. Địch Thanh hứng gió Tây Bắc cả buổi, khi trở về thì đông cứng giống như cột băng vậy. Núp ở trong chăn sưởi ấm, Địch Thanh tức giận nói:

- Ngày mai nếu nổi gió thì chết sống gì cũng không đi. Địch Thanh à, ngươi tự mình đa tình, cả đời này cũng không thể gặp lại nàng nữa đâu. Ngươi là cái thá gì chứ, chỉ lấy giùm nàng con diều, chẳng lẽ còn muốn trả thù lao sao?

Mơ màng thiếp đi, sáng sớm tỉnh lại, tuyết ngừng trời trong.

Địch Thanh nhìn bầu trời quang đãng lạnh giá không khỏi thầm nghĩ, đây chẳng phải là thời tiết tốt để chơi diều sao? Hôm nay đúng lúc không trực ban, Địch Thanh đứng dậy đến ngõ Mạch Kiết thêm lần nữa. Hắn dựa vào tường hẻm, đứng chờ từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn...

Ngay cả một bóng người cũng không thấy.

Gió bắc nổi lên, tuyết bay tán loạn, Địch Thanh rụt cổ lại nhìn gốc cây dương nằm ở trong tường hẻm. Gốc dương trụi lủi, bám đầy tuyết, cây và người nhìn nhau trân trân. Thỉnh thoảng có một cơn gió thổi qua, tuyết đọng trên cây rớt xuống xào xào xoạt xoạt, Địch Thanh vươn tay ra, ngắm nhìn những bông tuyết rơi xuống trên tay, hóa thành từng hạt nước.

Trời tuy lạnh nhưng lòng ấm. Tình dù mông lung nhưng nồng cháy.

Mặt trời chiều đã lặn, ánh chiều tà tàn hết, màn đêm bắt đầu bao trùm thành Khai Phong cổkính. Địch Thanh rung mình rũ tuyết đọng trên người rồi xoay mình đi về phía đầu hẻm. Chợt vang lên âm thanh ‘loẹt xoẹt, loẹt xoẹt’, tiếng bước chân mang theo sự hiu quạnh của bông tuyết, âm thanh đó đến đầu ngõ thì ngừng bặt.

Nơi đầu ngõ, có hương mai thoang thoảng, cành mai vươn dài. Địch Thanh đứng ở nơi đây không phải vì mai, khuôn mặt tê dại vì lạnh của hắn đột nhiên rạng rỡ khó tả. Đầu kia ngõ hẻm, một người con gái giống như tuyết mai thanh tịnh đang đứng ở nơi đó ngóng nhìn Địch Thanh. Trong đôi mắt đen lánh ấy lung linh nước mắt, giống như băng chưa tan trong làn nước xanh khi mùa xuân tới.

Cuối cùng cũng gặp được người con gái trong mộng, Địch Thanh đột nhiên cảm thấy ông trời đối xử với mình không tệ. Để có thời khắc này, không biết hắn đã đợi bao lâu rồi. Nhưng đúng vào lúc này, hắn mới phát hiện ra mình không có lời gì để nói. Hắn chỉ là tên cấm quân tầm thường, mà nàng...

Đang chìm trong suy nghĩ miên man, Địch Thanh chợt phát hiện cô gái khẽ run rẩy trong gió. Cuối cùng, hắn bước nhanh đi tới, cố lấy dũng khí nói:

- Muội... thật trùng hợp, lại có thể gặp được muội.

Địch Thanh có chút xấu hổ, hắn biết trên đời này trùng hợp đa phần đều là từ cố ý.

Cô gái thản nhiên cười một tiếng:

- Đúng là trùng hợp.

- Hôm nay không chơi diều sao?

- Hôm nay không phải ngày thả diều.

Cô gái ho nhẹ hai cái.

Lúc này Địch Thanh mới phát hiện hai má nàng ửng đỏ, ân cần hỏi:

- Muội lạnh à?

Cô gái nói:

- Mấy ngày hôm trước thả diều, bị cảm lạnh cho nên mấy ngày nay không tới.

Địch Thanh hoảng hốt trong lòng, dù không muốn nhưng lại không thể không nói:

- Vậy mau mau trở về đi, ở đây lạnh lắm.

Cô gái kéo kín áo lông trắng trên người, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời rồi đột nhiên nhảy lên hai cái. Địch Thanh không hiểu ý nàng, chỉ cảm thấy như có một đóa hoa xoay múa trong tuyết.

- Mẹ nói cho muội biết, nếu như cảm thấy lạnh, phải vận động vài cái.

Cô gái khẽ cười, nụ cười này giống như trăng sáng.

Địch Thanh cười nói:

- Đúng vậy.

Bây giờ, hắn mới phát hiện mình cũng bị lạnh đến run rẩy. Hắn lắc trái lắc phải dậm chân rồi nói:

- Bọn huynh cả ngày chạy quanh kinh thành, nếu như cảm thấy lạnh thì hãy dậm chân một cái, nếu chân không lạnh thì người sẽ không lạnh.

Cô gái đột nhiên che miệng cười khúc khích.

Địch Thanh ngẩn ngơ hỏi:

- Cô cười gì thế?

Cô gái nói:

- Muội thấy huynh lắc lư giậm chân giống như là một con cua lớn. Muội thích ăn nhất là cua ở thành đông Biện Kinh.

Nàng nhịn không được cười ngặt nghẽo.

Địch Thanh rất bối rối nhưng trong lòng lại thấy vui sướng.

Cô gái cười xong, giậm mạnh chân một cái, hành động ngây thơ hồn nhiên không thể tả. Sau một lúc lâu, nàng vui vẻ nói:

- Huynh nói rất đúng. Muội cũng biến thành con cua rồi, giống huynh...

Đột nhiên nàng thẹn thùng cúi đầu không nói, chỉ dùng mũi chân vẽ lên mặt tuyết.

Địch Thanh nhìn say sưa, thầm nghĩ: ‘Giống nàng sao? Giống nàng là một cặp cua sao?’ Tuy đoán như vậy, nhưng làm sao dám mạo phạm giai nhân?

Không biết qua bao lâu, cô gái lại cười hỏi:

- Địch Thanh, vì sao huynh nhập ngũ?

Địch Thanh thấy cô gái thoải mái không câu thúc, bản thân cũng dần dần không còn bất an, hắn đáp:

- Nói ra rất dài dòng...

- Kể cho muội nghe đi.

Cô gái mỉm cười nói.

Địch Thanh thấy trong đôi mắt nàng như hàm chứa cái gì đó, cũng tuyệt không có ý rời đi, đành phải nói:

- Trước đây huynh vốn không muốn nhập ngũ. Nhưng trên đời không phải mình muốn làm cái gì thì làm được cái đó...

Sau khi kể ra chuyện trước đây, hắn đột nhiên cảm thấy thoải mái hơn rất nhiều. Tất nhiên là rất nhiều chuyện đều được lượcớt đi. Kể đến lúc bắt Triệu công tử hắn chỉ nói là may mắn, lúc ấy bị bức bách không biết làm sao nên đành phải tòng quân.

Cô gái lẳng lặng lắng nghe. Sau khi nghe xong, nàng cảm thấy lạnh giá liền dậm chân nói:

- Thì ra là thế! Theo muội thấy, huynh không giống với bọn họ.

Địch Thanh khẽ run, hỏi:

- Có gì không giống chứ?

Trong trời tuyết, vẻ mặt cô gái như uống rượu say. Chợt nghĩ đến gì đó, nàng ngẩng đầu nhìn trời rồi kinh hãi kêu lên:

- Trời ơi, muộn rồi. Muội phải về thôi, nếu không thì cha sẽ quở trách.

Vừa dứt lời, nàng xoay người chạy đi, trong đất tuyết trông nhẹ nhàng như thỏ ngọc.

Địch Thanh đột nhiên nhớ tới còn chưa có hỏi tên nàng, vừa muốn cất tiếng hỏi thì cô gái đã hòa vào trong bóng tối. Địch Thanh có chút lo lắng, sợ rằng nàngđi một mình sẽ xảy ra chuyện nên lặng lẽ đi theo. Nhìn bóng dáng yểu điệu ấy đi vào cửa son cho đến khi không còn thấy bóng dáng nữa, lúc này hắn mới yên lòng.

Trên đường quay về, Địch Thanh cảm thấy người nhẹ như yến, vui sướng vô hạn.

Sáng sớm ngày tiếp theo, Địch Thanh đến cấm quân doanh sớm rồi cùng Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh đến phụ cận sông Kim Thủy tuần tra.

Địch Thanh dào dạt tâm sự, chỉ mong mặt trời như sao băng mau lặn xuống, để hắn có thể báo cáo kết quả nhiệm vụ rồi đến ngõ Mạch Kiết. Mặc dù không chắc chắn rằng nàng có thể đến được hay không, nhưng bây giờ mỗi ngày nếu hắn không đến nơi đó đảo qua một vòng, thì buổi tối sẽ cảm thấy ngủ không ngon.

Thấy sông Kim Thủy uốn lượn về hướng đông, tuyết phủ trắng xóa, nhìn như rồng bay, Địch Thanh bỗng nghĩ đến hồng long, trong lòng thoáng rung động. Đồng thời hắn cũng có chút kỳ quái, mấy ngày nay sao hồng long không xuất hiện nữa nhỉ?

 Chương 54 - 59: Chém giết

Trong lúc suy tư, Địch Thanh nghe Lý Vũ Hanh nói với Trương Ngọc:

- Trương Ngọc, ngươi có biết gần đây kinh thành xảy ra chuyện lớn không?

Trời tuyết mà phải đi trực, có thể nói là khổ không thể tả, nếu không tán phét mấy câu thì quả thực rất nhàm chán. Trương Ngọc thuận miệng hỏi:

- Ngươi thì biết cái rắm gì chứ?

Lý Vũ Hanh than thở:

- Nghe nói Phạm Trọng Yêm bị cách chức đuổi khỏi kinh thành rồi.

Địch Thanh phục hồi lại tinh thần, trong lòng chấn động. Hắn nhớ lại đôi mắt giàu tình cảm ấy, khuôn mặt thương tâm ấy. Phạm Trọng Yêm quả nhiên bị cách chức rồi, kết cục này đã sớm định trước. Nhưng chỉ có loại người như thế mới dám làm những chuyện đã biết rõ kết cục! Địch Thanh nhìn băng tuyết trên sông Kim Thủy, cảm thấy rất lạnh.

Trương Ngọc khịt mũi khinh bỉ nói:

- Ngươi coi chuyện này là chuyện lớn ư? Ta còn biết ngoại trừ Phạm Trọng Yêm bị cách chức ra, còn có Hàn Lâm học sĩ Tống Thụ đấy. Hai người này đều khuyên Thái Hậu giao quyền cho thiên tử, kết quả đều bị Thái Hậu giáng chức đuổi khỏi kinh thành.

Địch Thanh bỗng nhớ tới Quách Tuân từng nói: "Thái Hậu muốn làm hoàng đế!" Không nhịn được kéo chặt cổ áo.

Trương Ngọc nói tiếp:

- Thái Hậu muốn làm hoàng đế!

Lý Vũ Hanh vừa kinh vừa sợ, vội hỏi:

- Trương Ngọc, đừng nói bừa.

Trương Ngọc hừ lạnh nói:

- Ta không nói bừa, Thái Hậu không ngừng trục xuất thần tử trung thành với họ Triệu ra khỏi kinh thành, chính là muốn làm hoàng đế.

Không có ai lên tiếng đáp lời. Trong không khí vô cùng lạnh lẽo, Địch Thanh nhịn không được thầm nghĩ, ‘thiên tử là con trai của Thái Hậu, Thái Hậu muốn làm hoàng đế, vậy xử lý thiên tử ra sao đây?’ Địch Thanh chỉ thoáng nghĩ trong đầu rồi nở nụ cười nhạt tiếp tục ngắm băng tuyết trên sông Kim Thủy. Hắn chỉ là tên cấm quân nho nhỏ, loại chuyện như vậy chỉ suy nghĩ thôi cũng là dư thừa. Một người có phiền não, thông thường không phải suy nghĩ quá ít mà vì suy nghĩ quá nhiều.

Gần đến hoàng hôn, Địch Thanh cầm lòng không được. Hắn vừa định cùng Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh quay về báo cáo kết quả nhiệm vụ thì bất chợt thấy xa xa có mấy người đi tới. Người dẫn đầu mặt ngăm đen, khuôn mặt góc cạnh giống như miếng sắt, chính là Bộ đầu Khâu Minh Hào của phủ Khai Phong.

Mấy năm nay phủ Khai Phong ngoại trừ Bộ đầu Vương Lâm Tông ra còn có mấy người tài giỏi khác. Trong số đó, hai người Diệp Tri Thu, Khâu Minh Hào bởi vì phá án xuất sắc, nên được người kinh thành ca tụng là "Nhất Diệp Tri Thu, Minh Sát Thu Hào."

Diệp Tri Thu như kiếm, Khâu Minh Hào thoạt nhìn như tấm chắn, một tấm chắn bằng sắt!

Đi theo phía sau Khâu Minh Hào là một người thanh niên ngạo mạn, con mắt giống như mọc ở trên trán vậy. Địch Thanh nhận ra đó là Hạ Tùy, là con trai của Tam Nha - Mã quân đô Chỉ huy sứ Hạ Thủ Uân. Hiện nay gã là một Chỉ huy sứ của quân Kiêu Kỵ.

Quân Kiêu Kỵ và quân Kiêu Vũ đều chịu sự chỉ huy của Thị vệ Mã Quân Ti trong Tam Nha. Nói cách khác, cho dù là Quách Tuân cũng phải nghe lệnh của Hạ Thủ Uân. Hạ Tùy có người cha làm to nên cũng có thể chỉ huy bọn người Địch Thanh. Hiện giờ y đang ngạo mạn nói:

- Tuần tra phụ cận cầu Bạch Hổ ở sông Kim Thủy là ba người các ngươi sao?

Trương Ngọc có cấp quan cao nhất trong ba người liền đáp:

- Trừ ba người chúng tôi ra, cầu Bạch Hổ còn có nhóm Quân Đầu - Lý Giản trông coi.

Hạ Tùy gật đầu nói:

- Nếu như vậy thì cầu Bạch Hổ giao cho nhóm Lý Giản phụ trách đi, ba người các ngươi đi theo ta.

Ba người Trương Ngọc rất kinh ngạc, nhưng không thể làm gì khác hơn là phải nghe theo lệnh điều động. Họ đi theo sau Hạ Tùy mà không biết phải làm cái gì. Địch Thanh ngầm nhíu mày, thầm nghĩ ‘nếu là người xui xẻo, uống nước nguội cũng tê răng’. Hắn vốn định đi ngõ Mạch Kiết, không nghĩ tới lại có việc phải làm.

Hạ Tùy cũng không nhiều lời, dẫn đám người đi thẳng về hướng nam. Đôi mắt Khâu Minh Hào như điện cảnh giác chú ý động tĩnh xung quanh. Vẻ mặt hai người này đều thận trọng như gặp đại địch. Đám người từ cầu Bạch Hổ xuôi nam, đi qua Đại Phật Tự rồi qua đầu hẻmbắc, sau đó lại vòng qua cửa hàng vàng bạc Vương gia một vòng.

Địch Thanh nhìn mặt trời sắp lặn ở phía tây, màn đêm lờ mờ phủ xuống, trong lòng lo lắng. Lúc này chợt nghe Hạ Tùy thấp giọng nói:

- Bọn chúng có lẽ ẩn nấp ở nơi này.

Khâu Minh Hào cũng hạ thấp giọng nói:

- Đúng vậy, trước mắt đừng rút dây động rừng, không bằng điều tra rõ ràng rồi tính tiếp.

Địch Thanh nghe thấy lời của Hạ Tùy và Khâu Minh Hào, nhưng không hiểu ý gì, chỉ láng máng biết hai người này chắc là đang tìm ai đó. Hắn vô tình phải đi bắt trộm, trong lòng sớm đã mắng chửi không thôi. Ngẩng đầu nhìn sắc trời, Địch Thanh thấy rất nhiều cửa hàng đã lên đèn, cả con đường cầu Kim Lương như cả trời sao sà xuống, rực rỡ vô cùng. Hắn nghĩ, ‘hôm nay nàng có đến ngõ Mạch Kiết hay không?’

Thật không dễ dàng mới chờ được đến lúc Hạ Tùy nói:

- Hôm nay tạm đến đây thôi, chư vị vất vả rồi, về nghỉ ngơi đi.

Địch Thanh vội vàng cáo từ rời đi. Trương Ngọc liếc nhìn Hạ Tùy, nhìn thấy sắc mặt gã âm trầm đang nhìn theo bóng lưng của Địch Thanh, không khỏi rùng mình một cái...

Tuyết đã ngừng, gió thêm lạnh. Gió thổi vào người, buốt lạnh thấu xương.

Địch Thanh chạy một mạch từ cầu Kim Lương thẳng đến ngõ Mạch Kiết. Ngõ Mạch Kiết cách cầu Kim Lương rất xa. Hắn chạy cấp tốc gần nửa canh giờ, toát mồ hôi trán, lại dừng nghỉ thêm hai lần nữa mới đến được đầu ngõ Mạch Kiết.

Trăng sáng treo cao, ngõ Mạch Kiết yên ắng đến nỗi ngay cả bóng quỷ cũng không thấy. Địch Thanh há miệng thở hổn hển, hơi thở lạnh giá phả vào không khí ngưng tụ thành khí sương, và đóng băng cả nỗi mất mát trong lòng Địch Thanh. Địch Thanh thở dài tiếc nuối rồi ngồi xuống nhìn bụi hoa mai ở góc tường, bóng cây nghiêng nghiêng, hoa mai rung động, mùi hương quanh quẩn nơi đây, rồi hắn lẩm bẩm nói:

- Huynh có việc nên đến trễ, xin lỗi muội.

Mặc dù không có hẹn ước gì với cô gái, nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt nàng thì Địch Thanh đã thấy rằng, không cần phải hẹn ước, nàng tới cũng được, không tới cũng chẳng sao, hắn lúc nào cũng đợi nàng!

Địch Thanh ngồi trên mặt tuyết một lúc lâu rồi mệt mỏi đứng dậy. Hắn nhìn thấy dưới hoa mai có vài cánh hoa màu hồng. Trong lòng chợt lay động, hắn chậm rãi bước tới. Bên cạnh cánh hoa có lưu lại một dãy chi chít dấu chân, dường như đây là dấu chân nhỏ nhắn của cô gái để lại. Địch Thanh nhìn theo dấu chân thì phát hiện phương hướng dấu chân rời đi, chính là phương hướng mà nàng rời khỏi lúc ban đầu, trong lòng hắn không khỏi thốt lên: "Là nàng, là nàng! Rõ ràng nàng đã tới đây." Địch Thanh men theo dấu chân tìm kiếm thì thấy dấu chân này kéo dài đến trước cửa son rồi dừng lại, trong sự mừng rỡ xen lẫn một chút thất vọng. Vui là vì nàng vẫn còn nhớ tới mình, nàng đến đây chắc là tìm mình. Thất vọng là vì hắn bận chuyện nên không thể đến đây đúng hẹn.

Ở trước cửa son chần chừ thật lâu, cho đến khi sắc trời tối sẫm, Địch Thanh vẫn không có can đảm đi gõ cửa. Hắn lại men theo dấu chân quay trở về chỗ cũ. Lúc đi theo, do tâm tình kích động nên không lưu ý. Lúc quay lại, Địch Thanh mới phát hiện dấu chân ấy không hoàn chỉnh, chỉ có vết mũi bàn chân. Hắn thầm nhủ: "Sao nàng phải đi kiểu như thế nhỉ?" Ban đầu mới gặp, nàng xinh đẹp rụt rè và nho nhã, lần gặp mặt gần đây nhất thì lại thấy nàng ngây thơ chân chất. Khi đó nàng còn nhảy mấy cái để đỡ lạnh. A! Chắc là nàng vui vẻ nên mới nhảy nhót tung tăng quay về. Vừa nghĩ đến đây, hắn cảm thấy hạnh phúc trào dâng trong lòng.

Nhưng ngẫm lại, suy đoán này của mình chưa chắc đúng. Nàng không gặp được mình, sao lại vui mừng chứ? Chẳng lẽ mình đáng ghét đến thế sao? Trời lạnh đường trơn, nói không chừng nàng không cẩn thận, bị té ngã hoặc là bị trật chân nên mới dùng mũi chân nhón nhón quay về. Vừa nghĩ đến đây, con tim hắn như treo ngược lên, trong lòng lo sợ bất an.

Hắn quay về phía cửa son một lần nữa, chú ý quan sát dấu chân ấy. Hắn bỗng nhìn thấy chỗ có nửa vết dấu chân, chúng hơi rộng so với nhịp bước bình thường, chợt nghĩ: "Không phải là bị thương rồi. Đây là dấu chân nhảy lên, nếu như bị thương thì nhịp bước của dấu chân này phải nhỏ hơn bình thường mới phải."

Địch Thanh nghĩ tới đây, lại quay trở về chỗ cũ. Nhưng lòng không yên, hắn vừa đi vừa dán mắt nhìn dấu chân của cô gái, ngay cả dẫm lên cũng không nỡ. Hắn đi một mạch đến nơi mấy cành mai thì lại lưỡng lự không đi. Hắn bỗng nhìn thấy vết chân dưới cành mai cũng hỗn loạn, thầm nhủ: ‘Đúng rồi, chắc là nàng cảm thấy lạnh nên đi loanh quanh đợi ở đây. Trời ơi, đáng ra mình không nên để nàng chờ.'

Địch Thanh ngồi xổm xuống xem xét lại dấu chân, đột nhiên ánh mắt đanh lại. Hắn cảm thấy cánh hoa trên đất tuyết có chút khác thường. Mượn ánh trăng mờ mờ, Địch Thanh mới phát hiện được một điều rằng những cánh hoa này xếp thành hình mũi tên chỉ về một hướng, đầu cuối của mũi tên có viết mấy chữ. Kí hiệu này vốn dĩ rất rõ, nhưng trong lúc lòng rối như tơ vò, Địch Thanh hoàn toàn không chú ý tới. Bây giờ nhìn thấy ký hiệu này, tim hắn đập thình thịch. Hắn biết đây chắc là chữ mà cô gái kia lưu lại. Nhưng rốt cuộc viết cái gì?

Địch Thanh nhìn chăm chăm vào tám chữ được viết trên mặt tuyết: “喓喓草虫, 趯趯阜螽 – Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung”.

Địch Thanh biết chữ chẳng ít, nhưng cũng không nhiều, trong tám chữ này có đến sáu chữ hắn không biết! Hai chữ duy nhất hắn có thể biết đó là ‘thảo trùng”, nhưng những chữ này có nghĩa gì?

Địch Thanh nhìn thật lâu. Hắn nghĩ rằng nàng nói hắn đáng ghét như thảo trùng sao? Nhưng thảo trùng cũng không hoàn toàn đáng ghét, cũng có một số côn trùng đáng yêu đấy. Nhưng cuối cùng hắn lại cảm thấy khó mà tự bào chữa, đa số côn trùng không phải đều đáng ghét sao? Rồi ‘喓喓 – yêu yêu’ này thì có nghĩa gì? À, có lẽ là nàng muốn mình bắt thảo trùng cho nàng, vì thế mới viết chữ ‘yêu - 要’ này, nhưng vì sao có tới hai chữ ‘yêu’ và phía trước có thêm chữ ‘khẩu - 口’ là sao chứ? Chắc là nàng thúc giục mình, bảo mình mau mau tìm thảo trùng? Chỉ có điều mùa này tuyết lạnh đất đông, ở đâu mới có thảo trùng đây? Mà nàng muốn thảo trùng làm gì kia chứ?

Địch Thanh nghĩ đến đây, cứ cảm thấy lời giải thích của mình quá gượng ép. Hắn nhìn bốn chữ "địch địch phụ chung -趯趯阜螽" ở phía sau, càng thêm mờ mịt khó hiểu. Hắn nghĩ: 'Chữ cuối 螽 gồm chữ ‘mùa đông -冬’ và hai chữ ‘côn trùng -虫’ ghép lại với nhau, nếu vậy thì suy đoán khi nãy của mình có lẽ đúng, nàng muốn một loài côn trùng vào mùa đông. Côn trùng vào mùa đông? Than ôi, trời đông như thế này, rốt cuộc đi đâu tìm loại côn trùng đó đây?'

Địch Thanh suy đoán cả buổi mà vẫn không có kết quả, cuối cùng cảm thấy có lẽ nên tìm người có học vấn hỏi thử. Hắn rút bội đao (đao đeo ở bên hông) ra định chặt cành mai xuống để khắc mấy chữ này lên, nhưng ngẫm lại nàng thích cành mai này, nếu mình chặt đi thì không còn để cho nàng ngắm nữa!

Do dự một lúc, Địch Thanh chợt nảy ra một ý. Hắn bèn cởi giày, kiễng chân lên, lấy mũi đao khắc tám chữ này vào đế giày. Sau khi so sánh một lúc và xác nhận không sai thì hắn mới mang giày vào. Hắn tiếp tục ở lại một lúc lâu, chờ đến khi “nàng trăng” cũng đã ngủ. Lúc này hắn mới chịu quay về.

Khi về tới Quách phủ thì đêm đã khuya. Địch Thanh trằn trọc cả đêm, khó mà ngon giấc. Trời vừa ửng sáng, hắn đã vội vàng thức dậy đi ra ngoài. Chợt cảm thấy ngực mình hơi đau, hắn đưa tay sờ thì phát hiện cơn đau này là do hắc cầu ấn vào ngực gây nên.

Hắc cầu tuy quỷ dị nhưng đã lâu rồi không hiển linh, do đó Địch Thanh không còn lòng dạ nào để ý tới nó. Hắn vội vàng đi tìm Quách Quỳ. Quách Quỳ vẫn còn đang ngủ say. Địch Thanh không tiện đánh thức nó. Hắn bỗng nảy ra một ý, bèn ở trong sân múa quyền pháp vù vù.

Từ khi Địch Thanh đến Biện Kinh tới nay, Quách Tuân hết lòng truyền thụ võ công cho hắn. Địch Thanh không nỡ làm Quách Tuân thất vọng nên mọi chiêu thức đều cố gắng nhớ kỹ. Song vì vận lực khó khăn nên thường ngày ít luyện tập. Lúc này, hắn nổi lòng hứng thú, từng quyền từng quyền nối đuôi nhau được đánh ra, mạnh mẽ như hổ. Địch Thanh đánh đến hưng phấn, thò tay rút đao ra múa thêm một hồi. Địch Thanh cảm nhận được khí lực trong cơ thể bây giờ rất sung mãn, đánh đến tận hứng, hắn hét to một tiếng, phóng trường đao bay vèo tới cắm mạnh vào gốc cây liễu phía đối diện, vang lên một tiếng "rắc".

Địch Thanh ném đơn đao xong đột nhiên cảm thấy kinh ngạc, thầm nghĩ, ‘đầu mình hết đau rồi sao?’ Hắn vừa nghĩ đến đây thì cảm giác trong đầu có cơn đau đớn mơ hồ, nhưng không còn đau đớn cùng cực như trước đây nữa.

Chẳng lẽ người gặp chuyện vui thì tinh thần cũng sẽ sảng khoái hơn nhiều? Địch Thanh đang kinh ngạc thì có một người hoan hô:

- Đao pháp tuyệt quá! Địch nhị ca, không ngờ huynh có bản lãnh như vậy. Đầu huynh hết đau rồi sao?

Địch Thanh quay đầu lại liền trông thấy Quách Quỳ. Địch Thanh ngờ vực nói:

- Huynh cũng không chắc là đã tốt hơn hay chưa. Nhưng lần này sau khi múa đao xong, đầu huynh thật sự không còn đau đớn như trước kia nữa.

Quách Quỳ vui vẻ nói:

- Đây chẳng phải là chuyện rất tốt hay sao? Mấy ngày nữa huynh hãy đi tìm Vương đại phu xem sao.

Địch Thanh nghi hoặc gật gật đầu, đột nhiên nhớ tới chuyện tối hôm qua, hắn bèn nói:

- Tiểu Quỳ, đệ lúc nào cũng nói mình rất có học vấn, huynh muốn đố đệ một câu.

Quách Quỳ ngạc nhiên hỏi:

- Huynh muốn đố đệ câu gì?

Địch Thanh cởi giày, lấy tuyết trắng lau bùn nhơ dưới đế, thấp thỏm hỏi:

- Đệ có biết tám chữ này có nghĩa gì không?

Quách Quỳ nhận lấy giầy, bịt mũi lại than:

- Huynh mấy ngày chưa rửa chân rồi?

Địch Thanh nở nụ cười xấu hổ, nói tránh đi:

- Đừng giả bộ đánh trống lảng nữa, không biết thì nói không biết. Được rồi, để huynh đi tìm người khác hỏi là được.

Hắn giả vờ thò tay muốn giật giày lại, Quách Quỳ cầm giày lui về phía sau một bước, la lên:

- Huynh quá xem thường đệ rồi đó, đây chẳng phải là tám chữ ‘Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung' sao? Có gì khó đâu chứ?

Địch Thanh thấy Quách Quỳ đọc trôi chảy, không giống như đang lừa hắn, kỳ quái hỏi:

- ‘Diêu diêu thảo trùng, thích thích phù thũng’(Thảo trùng lắc lư, đá cho sưng phù) là nghĩa gì? Đá mấy cước thì tất nhiên là sưng phù rồi, ha ha.

Dứt lời, hắn cười gượng mấy tiếng. Hắn biết cô gái viết mấy chữ này, tuyệt đối không phải có ý này.

Quách Quỳ nhìn Địch Thanh từ trên xuống dưới, cười ranh ma hỏi:

- Huynh nói xem ... đôi giày này huynh mua ở đâu?

Địch Thanh trả lời:

- Đây là giày của quan gia, có vấn đề gì sao?

Quách Quỳ trầm ngâm xem giày, xác định Địch Thanh nói không sai. Kinh thành có bát đại cấm quân, mỗi cấm quân đều có trang phục thống nhất. Vào mùa đông hằng năm, cơ quan quản lý trang phục mùa đông Độ Chi Bộ thuộc Tam Ti đều phát cho mỗi người hai đôi. Đại ca Quách Quỳ cũng mang giày giống vậy.

- Vậy thì lạ nhỉ?

Quách Quỳ rất ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại có người khắc tám chữ này lên giày của huynh chứ?

Địch Thanh vốn muốn nói là mình khắc. Chỉ có điều hắn sợ Quách Quỳ nếu biết rồi thì sẽ không giải thích đúng ý, đã đâm lao đành phải theo lao, hắn nói:

- Đúng vậy, kỳ quái thật, trong lúc vô tình huynh phát hiện đế giày của huynh có khắc tám chữ này, mấy ngày nay quên kiếm người để hỏi, hôm nay gặp đệ nên mới đố đệ. Đệ biết hai câu này có nghĩa là gì không? Không biết thì cứ nói không biết, huynh sẽ không cười nhạo đệ đâu.

Hắn nói xong lại cười rộ lên.

Quách Quỳ khịt mũi khinh thường nói:

- Đệ đọc nhiều sách vở, thông cổ tri kim (biết thời xưa hiểu thời nay), sao lại không biết nghĩa của hai câu này chứ? Hai câu này ý nói, thảo trùng kêu vang ‘yêu yêu’(ti tỉ), châu chấu xung quanh nhảy về phía trước. ‘Yêu yêu’ là tiếng kêu của cào cào, ‘phụ chung’ là chỉ châu chấu, ‘địch địch’ là dáng nhảy lên của châu chấu. Sao nào? Huynh phục chưa?

Địch Thanh biết được nghĩa của tám chữ này, đầu lại càng to ra, hắn thầm nhủ: ‘Nàng ấy viết tám chữ này là có ý gì?’ Hắn ra vẻ châm chọc nói:

- Tiểu Quỳ, đệ đừng lừa huynh. Chắc đệ cho rằng nhị ca không biết chữ nên bịa đại ra chứ gì. Khà khà! Bọn họ khắc dưới đế giày huynh tám chữ này, sao có thể là ý này chứ? Ôi chao, thật là kỳ lạ! Thôi được rồi, có lẽ huynh nên đi tìm vị đại nho nào đó có học vấn hỏi thử xem. Nhóc à, nhóc còn kém xa lắm.

Hắn mang giày vào, xoay người định đi. Quách Quỳ không cam lòng, túm lấy Địch Thanh kéo lại mếu máo:

- Huynh có thể khinh thường thành ý của đệ, nhưng không được sỉ nhục học vấn của đệ. Tám chữ này đúng là chẳng có nghĩa gì hết, nhưng ý là nằm ở mấy câu thơ sau kìa!

Địch Thanh khẽ run, giả vờ không quan tâm hỏi:

- Mấy câu thơ sau như thế nào?

Quách Quỳ lớn tiếng nói:

- Đây vốn là một bài nằm trong Kinh Thi, tên là "Thảo Trùng". Đằng sau hai câu 'Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung' là 'Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung'. (Không thấy quân tử, ưu tư bời bời)

Lòng Địch Thanh chấn động, ngây ngẩn cả người.

“Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung. Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung!”

(Chấu kêu ti tỉ, cào nhảy loi choi. Không thấy quân tử, ưu tư bời bời.)

Địch Thanh dù không thông hiểu sách vở lắm, nhưng cũng ít nhiều hiểu được hàm nghĩa bốn câu này. Giờ phút này, hắn chỉ muốn gào lên thật to, hóa ra nàng đang quan tâm mình! Khoảnh khắc này, trong sự vui sướng còn có ngọt ngào, trong cảm động lại xen lẫn thương cảm.

Hắn chỉ là tên cấm quân tầm thường, lại buồn bực thất bại, mặc dù thích nàng nhưng không dám nói ra. Hắn thấy dung mạo nàng thoát tục, xinh đẹp tuyệt luân, chỉ nghĩ rằng có thể gặp được nàng, trò chuyện cùng nàng mấy câu thì đã là may mắn cả đời rồi. Nhưng đâu ngờ rằng, nàng cũng quan tâm tới hắn!

Đầu Địch Thanh choáng váng, hạnh phúc đến nỗi lồng ngực muốn nổ tung.

Quách Quỳ không để ý đến vẻ khác thường của Địch Thanh, cất tiếng giải thích:

- Đây vốn là thơ tình nói về việc tình nhân đợi chờ ước hẹn, nhưng mãi không thấy được người trong lòng đâu cả, cho nên rất lo lắng. Ha ha, huynh không còn lời nào để nói nhé? Chắc là có anh chàng nào đó ở Độ Chi Bộ trong Tam Ti có hứng thú với huynh nên mới khắc mấy chữ này lên giày huynh để thổ lộ tình ý.

Nói xong, nó cười ngặt ngẽo, vô cùng hả hê.

Địch Thanh phục hồi lại tinh thần, nhìn mặt trời ửng hồng mọc lên ở đằng đông. Hắn nhớ ra hôm nay còn phải đi tuần, thầm kêu không tốt. Hắn vừa định rời đi, nhưng không dám chắc mới hỏi:

- Tiểu Quỳ, đệ nói cái gì? Trong sách có viết sao?

Quách Quỳ bĩu môi, xoay người chạy ùa về phòng, chỉ chốc lát sau nó đã mang tới quyển Kinh Thi ném cho Địch Thanh nói:

- Huynh tự mình xem đi. Chẳng lẽ đệ lại đi lừa huynh, lẽ nào trong sách cũng đặc biệt viết riêng để lừa huynh sao?

Nói xong, nó lắc lắc đầu, ngáp dài:

- Bị tiếng múa quyền của huynh đánh thức, ra đây xem thế nào? Không ngờ gặp phải người không có phẩm vị. Đệ trở về ngủ bù một giấc mới được.

Địch Thanh lật sách vùn vụt, cuối cùng tìm được bài "Thảo Trùng". Bốn câu đầu trong "Thảo Trùng" y như lời Quách Quỳ giải thích, phần sau còn có thêm ba câu nữa: "Diệc ký kiến chỉ, diệc ký cấu chỉ, ngã tâm tắc hàng." (Chỉ cần được gặp, được thấy mặt người, lòng này thảnh thơi.)

Bên cạnh trang sách còn có ghi chú của Quách Quỳ, giải thích rằng: 'Cuối cùng gặp được người trong lòng, liền uống cạn một chén lớn.' Địch Thanh thầm nghĩ: "Quách Quỳ này giải thích không lưu loát gì hết, ý cảnh hoàn toàn không hợp với phần trước, giải thích chính xác phải là: ‘Cuối cùng gặp được người trong lòng, vậy là ta đã yên tâm.’

Thơ chia làm ba đoạn nhưng ý thơ đều tương tự nhau. Địch Thanh cất sách rồi chạy nhanh khỏi Quách phủ. Nghĩ đến tám chữ "Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung", hắn nhịn không được cất tiếng hét to đồng thời lộn mèo một cái. Nhưng hắn lại nghĩ ‘Địch Thanh ơi Địch Thanh, người ta thì lo lắng mà ngươi còn vui vẻ được sao, không nên như vậy chứ.’ Nhưng rồi không nén được niềm vui trong lòng, hắn chạy một mạch như bay đến tận quân doanh.

Thật may là hắn vẫn chưa trễ, đầu cũng không đau nhức. Sau khi đến quân doanh, Địch Thanh nhận nhiệm vụ tuần tra khu vực quanh sông Thái ở Biện Kinh với Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh.

Chờ đến phụ cận sông Thái, Địch Thanh tìm một chỗ khuất gió vừa tắm nắng vừa nhìn bầu trời đến phát ngây, khóe miệng luôn nở nụ cười như có như không.

Một ngày bình yên, gần tới lúc báo cáo kết quả công tác, Địch Thanh không chịu nổi nữa, bèn lén lấy quyển Kinh Thi ra xem. Khi nhìn thấy mấy câu: "Trắc bỉ nam sơn, ngôn thải kỳ quyết, vị kiến quân tử, ưu tâm tuyết tuyết" (Dạo khắp Nam Sơn, nói đi hái quyết, không gặp được chàng, nhớ nhung da diết) trong Kinh Thi, hắn không khỏi nghĩ thầm: ‘nếu thật sự có thể cùng nàng lên núi hái quyết, xuống núi trồng rau nuôi dê thì dù cho mình làm hoàng đế mình cũng không thèm. Nhưng mà nàng có cuộc sống ấm no, nàng sẽ không làm như thế đâu, có thật là nàng đang đợi mình không? Mình có gì tốt chứ? Chao ôi, có lẽ tám chữ này là viết cho người khác, mình chỉ tự mình đa tình mà thôi.’ Địch Thanh lo được lo mất, vẻ mặt cũng biến hóa liên tục.

Trương Ngọc thấy Địch Thanh đang xem sách thì hoảng hết cả hồn, có lẽ còn kinh ngạc hơn cả việc thấy Thái Hậu trao trả triều chính cho hoàng đế. Anh ta lại thấy sắc mặt của Địch Thanh biến hóa trăm kiểu, nhịn không được đưa tay sờ trán Địch Thanh. Địch Thanh giật mình nhảy lùi về phía sau, đến khi phát hiện ra là Trương Ngọc thì kinh ngạc hỏi:

- Ngươi làm gì thế?

Trương Ngọc không trả lời mà hỏi ngược lại:

- Hôm nay có uống thuốc chưa?

Địch Thanh ngạc nhiên hỏi:

- Chưa uống, sao vậy?

Trương Ngọc nói:

- Vậy ta đề nghị ngươi mau uống thuốc đi. Ta thấy ngươi lúc thì ưu sầu, lúc thì cao hứng, trúng tà à?

Địch Thanh hất tay Trương Ngọc ra, cười mắng:

- Ngươi mới trúng tà đó.

Lời còn chưa dứt, Lý Vũ Hanh đột nhiên thấp giọng nói:

- Thật bất bình thường, sao bọn họ lại đến?

Địch Thanh rùng mình ngẩng đầu lên, trông thấy Hạ Tùy và Khâu Minh Hào đã sánh bước đi tới. Địch Thanh âm thầm kêu khổ đồng thời cũng lấy làm kỳ quái, không hiểu sao Biện Kinh to lớn như vậy mà hai ngày nay cứ gặp phải hai tên này? Hai người bọn Hạ Tùy nếu như là vô ý, vậy thì hai lần gặp được Địch Thanh cũng quá trùng hợp. Nhưng nếu như cố tình, Hạ Tùy, Khâu Minh Hào và Địch Thanh cũng không qua lại với nhau, bọn họ rốt cuộc muốn làm gì?

Hạ Tùy vẫn mang dáng vẻ xấc láo như trước, lạnh lùng hỏi:

- Chung quanh đây có gì khác thường không?

Trương Ngọc lắc đầu nói:

- Hồi bẩm Chỉ huy sứ, không có khác thường.

Hạ Tùy cau mày, quay qua nói với Khâu Minh Hào:

- Vậy thì lạ thật, tên giặc này rốt cuộc ẩn nấp nơi nào chứ?

Khâu Minh Hào chậm rãi nói:

- Người của Di Lặc giáo từ trước đến giờ đều tỏ vẻ thần bí. Theo ý ta, nhân thủ của bọn chúng lần này đến Biện Kinh sẽ không nhiều, chủ yếu là phô trương thanh thế...

Địch Thanh nghe đến ba chữ Di Lặc giáo thì tim đập loạn. Hắn nghĩ thầm: ‘Chẳng lẽ Đa Văn Thiên Vương lại đến ư? Y đến đây làm gì? Tìm Ngũ Long sao?’

Hạ Tùy lắc đầu nói:

- Chuyện này thà tin là có còn hơn là không. Ngày mai là đại điển, nếu như để bọn chúng kinh động thánh giá, vậy thì nguy to.

Gã quay đầu lại, nói với Trương Ngọc:

- Các ngươi lại phải vất vả theo chúng ta đi bắt giặc, không thiếu chỗ tốt cho các ngươi đâu.

Trương Ngọc đã hiểu rõ, thì ra kinh thành xuất hiện phản tặc, hèn chi Hạ Tùy lại khẩn trương đến thế. Trương Ngọc dù không muốn chỗ tốt tí nào, song bây giờ anh ta không còn cách nào từ chối. Đang lúc do dự thì từ phía bắc đột nhiên có cấm quân chạy tới thì thầm bên tai Hạ Tùy mấy câu. Hạ Tùy khẽ biến sắc, nói:

- Chuyện này có thật không?

Cấm quân này đáp:

- Chắc chắn ạ.

Hạ Tùy lập tức nói khẽ mấy câu với Khâu Minh Hào. Khuôn mặt như tấm sắt của Khâu Minh Hào cũng khẽ biến, nói:

- Nếu như tin này chính xác, vậy phải lập tức ra tay.

Hạ Tùy gật gù, quát Trương Ngọc:

- Đã phát hiện hành tung của giáo đồ Di Lặc. Chúng ta phải lập tức đi bắt ngay, ba người các ngươi hãy đi theo ta!

Dứt lời gã dẫn đầu đoàn người chạy về phía bắc.

Lòng Địch Thanh nặng trĩu, sờ quyển sách trong ngực, vô cùng bất đắc dĩ.

Đoàn người chạy một mạch về phương bắc, chẳng mấy chốc đã đến được phụ cận cửa ngõ bắc. Hạ Tùy vẫn không dừng lại mà chạy thẳng đến hướng cửa hiệu vàng bạc Vương gia. Địch Thanh thầm nhíu mày. Hắn còn nhớ lộ tuyến hôm qua cũng y như vậy.

Hạ Tùy đến cạnh cửa hiệu vàng bạc Vương gia cũng không dừng lại mà chạy chếch vào một ngõ hẻm ở bên cạnh. Khi đến trước một khu nhà lớn, liền có cấm quân cải trang hấp tấp chạy tới chỉ tay về phía khu nhà nói:

- Hạ chỉ huy, có người nhìn thấy bọn chúng tiến vào đó rồi không trở ra nữa.

Lúc này có cấm quân lục ta lục tục chạy tới. Số lượng không ngờ đến hơn mấy chục người, ai nấy đều cầm vũ khí sắc bén trong tay, có người còn cầm cung nỏ. Địch Thanh vừa nghĩ tới võ công của Đa Văn Thiên Vương, lòng bàn tay đổ đầy mồ hôi.

Hạ Tùy ra lệnh:

- Lệ Chiến, ngươi dẫn mười người xiết chặt đường chính phía nam, dùng nỏ cứng bắn vào yếu đạo. Nếu có nghịch tặc lao ra thì giết không cần hỏi. Tống Thập Ngũ, ngươi dẫn nhóm kim thương coi giữ tường sân phía bắc, không cho bất cứ kẻ nào. thoát ra. Cao Đại Danh, Uông Minh Đô, hai người các ngươi chia nhau dẫn cung tiễn thủ và đao phủ thủ canh giữ hai hướng đông tây, không được sơ suất!

Bọn người Lệ Chiến, Tống Thập Ngũ, Cao Đại Danh và Uông Minh Đô đều là quân Kiêu Kỵ, nhao nhao nhận lệnh. Đến lúc này thì Phó Đô Đầu - Vương Khuê và Quân Đầu - Lý Giản của quân Kiêu Vũ cũng chạy tới. Địch Thanh đến kinh thành đã nhiều năm, nhưng đây là lần đầu tiên gặp phải thế trận như vậy, trong lòng trở nên căng thẳng.

Hạ Tùy nhìn Khâu Minh Hào nói:

- Khâu Bộ đầu, nhân thủ đã đến đông đủ. Điều động nhân thủ thì ta thông thạo, song việc bắt giặc thì trông cậy vào Bộ đầu rồi.

Khâu Minh Hào bình tĩnh nói:

- Ta đã từng đến Tào phủ, biết rằng phủ này chia làm: tiền thính (nhà trước), hậu đường (nhà sau), tả hữu sương (hai dãy hiên hai bên) kéo dài tới hậu hoa viên, chuồng ngựa, hòn non bộ, đình mai và rừng trúc. Tào tướng đã tạ thế, con cháu y đã rời khỏi kinh thành, vì thế khu nhà này trở nên hoang vu. Tên giặc ẩn náu trong đó, chúng ta phải chia nhau ra tìm thôi.

Địch Thanh chột dạ, thầm nghĩ: ‘Nơi này chẳng lẽ là nơi ở của Xu Mật sứ Tào Lợi Dụng ư?’

Hạ Tùy cau mày nói:

- Vậy thì Khâu bộ đầu và Vương Khuê cùng một đội với ta, xông thẳng vào tả hữu sương. Lý Giản, ngươi dẫn hai người đến tra xét đình mai và rừng trúc. Còn Trương Ngọc, Địch Thanh và Lý Vũ Hanh, ba người các ngươi đến hậu hoa viên xem xét tình hình....

Sau khi đưa ra hàng loạt phân công, Hạ Tùy nói:

- Theo tin tức thì ở đây có ba nhân vật khả nghi. Lần này bao vây bắt nghịch tặc, chúng ta ra tay phải tuyệt đối thành công. Nếu phát hiện ra tung tích nghịch tặc thì chỉ cần thổi còi là được, những người còn lại nếu nghe thấy tiếng còi phải nhanh chóng chạy đến trợ giúp.

Vừa dứt lời liền có đám người khiêng cây gỗ to phá cửa. Một tiếng “rầm” thật lớn vang lên, cửa son ngã xuống. Hạ Tùy hăng máu dẫn đầu xông vào tiền thính, vượt qua hậu đường rồi chạy nhanh về hướng tả hữu sương.

Địch Thanh và Trương Ngọc thấy việc hệ trọng như vậy, mặc dù trong lòng thấp thỏm lo âu, nhưng cũng có chút hưng phấn. Sắc mặt Lý Vũ Hanh lại tái nhợt, có vẻ sợ sệt. Ba người chạy một mạch dọc theo đường mòn, vòng qua hòn non bộ, đình đài lầu các, rồi tiếp tục chạy thêm một lúc nữa mới đến được hậu hoa viên. Tào phủ rất lớn, tuyết đọng rất dày, vô cùng hoang vu. Trương Ngọc thấy thế, nhịn không được thở dài:

- Cả đời Tào Lợi Dụng hào hoa xa xỉ không chịu trói buộc, không ngờ sau khi chết thì Tào gia lại suy tàn đến thế.

Địch Thanh khẽ suỵt:

- Cẩn thận.

Hắn thấy Lý Vũ Hanh theo sát phía sau mình, mỉm cười nói:

- Không cần sợ, ngươi chưa từng giết người sao?

Lý Vũ Hanh khẩn trương đến nỗi cả người run rẩy, nói:

- Ngay cả gà ta cũng chưa từng giết huống chi là ngươi? Trời ơi, ta cứ tưởng rằng sau khi gia nhập cấm quân sẽ được hưởng phúc, đâu ngờ còn phải bắt nghịch tặc. Nhìn thanh thế của bọn họ như vậy, khẳng định tên nghịch tặc này rất hung ác ngươi nhất thiết phải cẩn thận.

Giọng nói y phát run, rất bất an.

Trương Ngọc và Địch Thanh đều lắc đầu thở dài. Nhìn Lý Vũ Hanh thường ngày thô kệch, không ngờ lại là người nhát gan đến thế.

Địch Thanh an ủi:

- Vũ Hanh, ngươi đừng lo lắng. Chúng ta nhiều người, không cần phải sợ.

Hắn đưa mắt nhìn quanh, thấy băng tuyết bao trùm hậu hoa viên, xa xa có chuồng ngựa, nhưng sớm đã không còn con ngựa nào. Cách chuồng ngựa không xa là giếng nước, thùng nước đã lâu không sử dụng nằm lăn lóc ở bên cạnh, khiến cảnh vật càng lộ ra vẻ thê lương.

- Đi tới kiểm tra chuồng ngựa nào. Xung quanh đây xem ra chỉ có chỗ đó là tên nghịch tặc có thể ẩn nấp.

Trương Ngọc nhíu mày nói.

Ba người sóng vai nhau đi về phía chuồng ngựa. Trong chuồng ngựa là một mảng âm u, nhìn không rõ cảnh vật trong đó. Chuồng ngựa này rất lớn, chỗ bên trái có cái lán chất đầy cỏ khô cho ngựa ăn. Trương Ngọc nhặt một cục đá từ trên mặt đất ném vào. "Độp" một tiếng, trong bầu không khí yên tĩnh của hậu hoa viên nghe càng thêm đáng sợ. Lý Vũ Hanh rùng mình, thấy chuồng ngựa không có bất kỳ động tĩnh gì, run giọng nói:

- Không có ai cả. Trương Ngọc, Địch Thanh, hay là chúng ta ngồi ở đây một lát đợi tin tức của những người khác, đừng mù quáng mà xông vào.

Địch Thanh đột nhiên chun mũi, khẽ ồ lên một tiếng. Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh rùng mình, vội hỏi:

- Gì thế?

Địch Thanh nhìn về phía góc chuồng ngựa, nói:

- Nơi đó không phải tuyết, mà là hoa mai, có hương thơm tỏa ra từ đó.

Bên cạnh chuồng ngựa này có một bụi hoa mai trắng như tuyết. Địch Thanh nhìn thấy hoa mai thì nhớ tới cô gái, trong lòng cảm thấy ấm áp. Hắn thầm nghĩ, xem ra nàng lại uổng công chờ đợi rồi. Trời ơi...

Trương Ngọc thở phào nói:

- Địch Thanh, đến lúc này mà ngươi còn để ý hoa mai?

Địch Thanh ngượng ngùng dời ánh mắt đi. Hắn đột nhiên nhìn chòng chọc vào mặt đất nói:

- Các ngươi xem đây là dấu vết do vật gì để lại?

Dưới ánh trăng mờ nhạt, ba người thấy trên mặt tuyết trắng bạc có hai hàng dấu vết hình bán nguyệt. Những hình bán nguyệt này lớn cỡ nắm tay, ở ven rìa còn có ba vết răng in sâu vào mặt tuyết, xếp thành một kí hiệu kéo dài tới miệng giếng.

Trương Ngọc ngồi xổm xuống dán mắt nhìn dấu vết này rồi ngạc nhiên nói:

- Cái này không phải là dấu chân người, nhưng đây cũng không phải là dấu chân thú vật. Cả đời ta chưa bao giờ nhìn thấy loại dấu vết kỳ quái này.

Địch Thanh vừa định đi dọc theo dấu vết này tìm kiếm, nhưng bị Lý Vũ Hanh kéo lại. Lý Vũ Hanh nói:

- Địch Thanh, dấu vết này kỳ quái quá, hay là chúng ta đợi Hạ Tùy đến rồi hãy quyết định tiếp.

Địch Thanh cười khổ nói:

- Đến khi đó nếu như bọn họ hỏi chúng ta ở đây làm gì, chẳng lẽ chúng ta nói ngồi ở đây chờ sao? Vậy thì quá bẽ mặt.

Lý Vũ Hanh xấu hổ buông tay ra, lẩm bẩm nói:

- Bẽ mặt dẫu sao vẫn tốt hơn toi mạng.

Địch Thanh không quan tâm. Hắn bước dọc theo dấu vết tiến về phía miệng giếng, thấy những dấu vết này kéo dài đến cạnh giếng thì không thấy nữa liền không khứ cảm thấy kỳ quái. Trương Ngọc cũng đến bên cạnh giếng, nhìn khắp bốn phía, cau mày nói:

- Đây là cái gì vậy, lẽ nào dẫn vào trong giếng ư?

Anh ta vừa định nhìn vào trong giếng nước thì Địch Thanh đột nhiên cảm thấy có điều không ổn, ánh sáng vào trong đầu hắn chợt lóe lên, vội kéo Trương Ngọc lại, hét lên:

- Cẩn thận!

Không biết vì sao vào thời khắc này, Địch Thanh lại có cảm giác ru sợ mà trước nay chưa từng có, trong giếng có chứa mối nguy cực lớn!

Đúng lúc này, trong giếng có một luồng ánh sáng vô cùng chói mắt phát ra. Luồng ánh sáng này cực sáng, trong nháy mắt đã áp chế ánh trăng trên trời, vô cùng kỳ dị. Ánh mắt ba người đều bị cuốn hút theo luồng sáng này, trong luồng sáng bất ngờ phân ra một vệt sáng lạnh, đâm về phía cổ họng Trương Ngọc.

Là thứ gì ở trong giếng vậy? Chẳng lẽ đây là giáo đồ Di Lặc mà bọn người Hạ Tùy muốn bắt?

Địch Thanh hét lớn một tiếng, thò tay rút đao chém một nhát về phía vệt sáng đó. Vệt sáng này là kiếm, trong giếng có người!

Địch Thanh lập tức chém ra một đao, công địch tất cứu. (đánh vào nơi yếu hại của địch để buộc y phải phòng thủ).

Một đao này của hắn không tính là cao siêu, nhưng thời điểm ra đao lại vô cùng chuẩn xác, kẻ này nếu muốn giết Trương Ngọc thì phải để cái mạng lại. Ai ngờ kẻ này trở kiếm, ánh kiếm đột nhiên bay vút lên, đâm trúng vào cổ tay Địch Thanh. Địch Thanh thét lên một tiếng đau đớn, đơn đao rời khỏi tay bay vọt lên không.

Máu phọt ra, từng chấm nhỏ trên không trung như hoa mai nở rộ. Hoa mai này chưa tàn, trường kiếm đã hóa thành Độc Long bay tới cắn thẳng vào cổ họng Địch Thanh. Địch Thanh mặc dù có thể liều mạng, nhưng chưa bao giờ thấy qua kiếm pháp tàn nhẫn, độc ác và nhanh đến thế.

Trong chớp mắt, Địch Thanh đã không thể tránh thế kiếm đâm tới. Ngay khoảnh khắc giữa ranh giới sự sống và cái chết, hai chân Địch Thanh bị ai đó kéo mạnh. Hắn bất ngờ ngã xuống, điều này vượt ra ngoài dự liệu của kẻ đó, nhờ vậy mà Địch Thanh đã tránh được một kiếm trí mạng này.

Người kéo ngã Địch Thanh chính là Trương Ngọc. Thời điểm Trương Ngọc bị một kiếm kia đâm vào yết hầu, trong đầu đã nghĩ đến chữ “chết”, nhưng Địch Thanh cứu anh ta một mạng. Trương Ngọc tìm được đường sống từ trong chỗ chết, chẳng những không khiếp sợ mà còn sục lên dũng khí vô biên. Anh ta biết tay kiếm này võ công rất cao nhưng anh ta vẫn xông tới, bởi vì Địch Thanh đang gặp nguy hiểm.

Đường sống chết.

Sống chết cũng thường được xác định chỉ trong chớp mắt. Bởi vì sự can đảm của Trương Ngọc và anh ta cách Địch Thanh rất gần, nên anh ta đã cứu được Địch Thanh một mạng trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng trường kiếm kia lại như rồng, chỉ rùng mình một cái hóa thành một vệt sáng đâm vào bả vai Trương Ngọc, máu tươi bắn ra tung tóe. Trương Ngọc không rên lên một tiếng nào, ôm Địch Thanh lăn một vòng đến bên cạnh chuồng ngựa. Hai người nhảy bật lên, chăm chăm nhìn vào đối thủ như mãnh thú rình mồi, không mảy may sợ hãi.

Mặc dù võ công của hai người không cao tuyệt, tài nghệ cũng không vô song, nhưng cả hai đều có dũng khí mãnh liệt, có nghĩa khí quên mình. Bọn họ vừa trải qua ranh giới giữa sự sống và cái chết nên đều vô cùng tín nhiệm đối phương. Họ biết hiện giờ nếu muốn bảo toàn tính mạng thì chỉ có thể dựa vào dũng khí, dựa vào sự chu toàn, sự đồng lòng của huynh đệ bọn họ.

Khoảng cách giữa kẻ xuất kiếm và hai người Địch Thanh chỉ hơn một trượng, nhưng gã bị dũng khí của hai người bức bách nên tạm thời không dám tiến lên.

Cuối cùng Địch Thanh cũng đã nhìn thấy rõ mặt mũi của kẻ đó. Đột nhiên hắn như thể bị búa tạ đập mạnh vào ngực, cả người run rẩy. Kẻ xuất kiếm mặc áo xanh, tóc đỏ, mắt trợn trừng, vẻ mặt cực kỳ phẫn nộ và uy nghiêm, đây là Tăng Trưởng Thiên Vương, người mà trước đây Địch Thanh đã đâm chết!

Tăng Trưởng Thiên Vương vẫn chưa chết? Hay là y đã chết rồi và đây chỉ là quỷ hồn của y trở về báo thù?

Địch Thanhtin! Trước đây Địch Thanh rõ ràng đã đâm một kiếm xuyên qua tim Tăng Trưởng Thiên Vương, sau đó Quách Tuân cũng chứng thực rằng Tăng Trưởng Thiên Vương đã chết, nhưng không có cách gì tra ra thân phận của y. Người chết không thể sống lại, vậy kẻ trước mắt là ai đây?

Địch Thanh đang chìm trong suy tư thì có tiếng huýt sáo vang lên, thì ra Lý Vũ Hanh đang huýt sáo. Lý Vũ Hanh thấy chiến đấu kịch liệt, không dám đến gần. Nhưng y vẫn làm được chuyện có ích, đó là báo động cầu viện. Tiếng còi vừa cất lên, từ phía mai đình, rừng trúc cũng truyền đến tiếng huýt sáo chói tai, đây chắc là Lý Giản đang cầu viện.

Trong Tào phủ này không chỉ có một kẻ địch là Tăng Trưởng Thiên Vương?

Tiếng huýt sáo vừa mới cất lên giữa rừng trúc, Địch Thanh chợt cảm thấy trời đất hơi sáng lên. Hắn vội vàng nhìn sang hướng bên hông nhà của Tào phủ thì thấy có ánh lửa phát ra, chỉ trong nháy mắt tiếng huýt sáo đã vang lên dồn dập.

Không ngờ bọn người Hạ Tùy cũng gặp phải kẻ địch? Trong Tào phủ này, rốt cuộc có bao nhiêu kẻ địch?

Lòng Địch Thanh trầm xuống, khắp Tào phủ đều có địch, rất khó để ai đó đến giúp bọn hắn. Với khả năng của hắn và Trương Ngọc thì làm sao có thể đấu lại Tăng Trưởng Thiên Vương?

Tăng Trưởng Thiên Vương lạnh lùng nhìn Địch Thanh, đột nhiên trầm giọng:

- Trả mạng cho ta!

Gió lạnh thổi qua, hoa viên trở nên quỷ khí trùng trùng. Địch Thanh cắn răng nói:

- Người chết không thể sống lại, ngươi không phải là Tăng Trưởng Thiên Vương!

Trong mắt Tăng Trưởng Thiên Vương lấp lánh ánh sáng kì dị, quát:

- Phật chủ tân sinh, Thiên Vương bất tử!

Gã nói xong liền lao kiếm đâm vào cổ họng Địch Thanh. Võ công của kẻ này rất cao cường, ắt không kém tên Tăng Trưởng Thiên Vương ở thung lũng Phi Long năm đó là bao.

Trương Ngọc thấy thế, quát khẽ một tiếng đồng thời lăn một vòng rồi vung đao chém ngang vào hai chân Tăng Trưởng Thiên Vương. Phương thức tấn công mà anh ta đang dùng là vây Nguỵ cứu Triệu.

Lần này Địch Thanh đã sớm đề phòng. Hắn xoay nhanh người lại, thoắt cái đã đến cây cột ở phía sau chuồng ngựa, sau đó nhảy lên đưa tay chụp lấy chĩa sắt cạnh chuồng ngựa.

Trường kiếm ngân lên một tiếng, đâm mạnh vào cột gỗ. Thế kiếm uy mãnh phá tan cột gỗ!

Địch Thanh không thể tưởng tượng được trên đời này lại có kiếm pháp uy mãnh đến thế. Hắn tay không tấc sắt, chỉ cố chụp lấy chĩa sắt để ứng chiến, không ngờ lại tránh được một kiếm quỷ thần khó lường này. Nhìn trường kiếm, sống lưng Địch Thanh ớn lạnh. Nhưng có chĩa sắt trong tay, Địch Thanh không nghĩ nhiều liền vung lên đập mạnh vào trường kiếm.

Đơn đao của Trương Ngọc cũng đã đến chân Tăng Trưởng Thiên Vương. Tăng Trưởng Thiên Vương không kịp rút kiếm. Y tung người nhảy lui về phía sau, trường kiếm vang lên một tiếng "keeng" rồi gãy thành hai đoạn.

Địch Thanh và Trương Ngọc chấn động tinh thần, thừa dịp Tăng Trưởng Thiên Vương vừa mất đi binh khí, một trái một phải cùng nhau đánh tới. Hai người biết đây là cuộc chiến sinh tử, nên thế như hổ điên, xuống tay không chút lưu tình. Trong nháy mắt, Tăng Trưởng Thiên Vương bị bức lui mấy bước đến gần đống cỏ khô trước chuồng ngựa.

Trương Ngọc thấy vậy, mạnh mẽ bước dài tới chém liên tiếp ba đao. Địch Thanh vừa định vung chĩa chặn đường lui của Tăng Trưởng Thiên Vương thì thoáng thấy đống cỏ khô chợt động, trong lòng sợ hãi quát lên:

- Cẩn thận!

Hắn vừa mới quát lên, Tăng Trưởng Thiên Vương đột nhiên đưa tay bắt lấy chĩa sắt rồi tiếp đó khống chế hai tay Địch Thanh.

Đống cỏ khô đột nhiên bị ai đó tung lên, rơi ào ào vào người Trương Ngọc, che khuất tầm mắt anh ta. Trương Ngọc vội nhắm mắt lại, nên không nhìn thấy một luồng ánh sáng bay ra, trong nháy mắt đã chém tới trước mặt anh ta! Thì ra trong đống cỏ khô còn có kẻ địch. Gã đó nhẫn nhịn đến bây giờ mới chịu ra tay. Gã vừa ra tay liền dồn Địch Thanh và Trương Ngọc vào chỗ chết.

Một gã vận áo trắng nhảy ra khỏi đống cỏ khô, tóc tía, mặt mũi hiền lành, trong tay cầm một thanh đao. Thật không thể tin nỗi, người vừa xuất hiện lại là Trì Quốc Thiên Vương mà Địch Thanh trước đây đã nhìn thấy ở thung lũng Phi Long. Địch Thanh kinh hoảng trong lòng, cũng không thèm nghĩ vì sao Trì Quốc Thiên Vương cũng chưa chết. Mắt thấy Trương Ngọc đã bị dồn đến đường cùng, Địch Thanh đột nhiên vứt chĩa, vung tay lên ném một vật về phía người vừa lao ra khỏi đống cỏ khô, gào lên:

- Xem tuyệt độc ám khí của ta đây.

Vật này rào rào xoạt xoạt trên không, biến ảo muôn hình vạn trạng bay tới gã ấy. Trì Quốc Thiên Vương sắp thành công, bỗng nhìn thấy ám khí kỳ dị này, không cố giết Trương Ngọc nữa mà lập tức lui về sau đồng thời vung đao đánh bật ám khí văng đi. Khi đao vừa chạm vào vật ấy, gã mới phát hiện ám khí này chỉ là một quyển sách mà thôi.

Quyển sách này là 《Kinh Thi》.

Địch Thanh bỏ chĩa ném sách cứu Trương Ngọc một mạng, nhưng lại để Tăng Trưởng Thiên Vương đoạt được chĩa sắt. Y trở tay đâm tới, cán chĩa đâm thẳng vào ngực Địch Thanh chính xác không sai một ly. Địch Thanh cảm thấy ngực mình đau đớn tột cùng, hộc một tiếng phun ra một ngụm máu tươi, cả người văng ngược ra ngoài.

Tăng Trưởng Thiên Vương cũng thấy bất ngờ. Thoạt nhìn thì như là thuận tay đâm tới, nhưng chiêu này ngưng tụ toàn bộ sức mạnh của y. Y vốn cho rằng sẽ đâm chết Địch Thanh ngay tại trận, nhưng không ngờ ngực của Địch Thanh giống như có cái gì đó ngăn lại, cán sắt như vậy mà lại không đâm thủng được ngực hắn.

Tăng Trưởng Thiên Vương biến hóa cực nhanh, y quát to một tiếng, phóng mạnh chĩa sắt bay tới đâm vào người Địch Thanh. Địch Thanh vẫn còn ở giữa không trung, muốn tránh cũng không tránh được. Có ai đó bỗng bay xẹt qua chắn trước người Địch Thanh. Người này tay không vũ khí, gào to một tiếng, dồn sức vào hai tay nắm chặt lấy đầu chĩa. Song lực ném của Tăng Trưởng Thiên Vương quá mạnh, người này mặc dù nắm được mũi chĩa nhưng không thể nào ngăn được một đòn trí mạng này. Chĩa sắt liền xuyên thủng bàn tay anh ta, rồi đâm vào bụng dưới.

Khóe mắt Địch Thanh như muốn nứt ra, gào lên:

- Trương Ngọc!

Người ngăn cản đòn trí mạng này cho Địch Thanh chính là Trương Ngọc. Mặc dù hai người không phải là huynh đệ, nhưng tình cảm của họ còn hơn cả huynh đệ. Trong tình cảnh này, anh ta không hề nghĩ đến chuyện chạy thoát thân mà chỉ mong sao cứu được huynh đệ, dù có chết cũng cam lòng!

Địch Thanh văng mạnh vào chuồng ngựa. Hắn ngã xuống trên cành tùng mai, phịch một tiếng, mai tuyết tung tóe.

Toàn thân Địch Thanh đau đớn kịch liệt, gân cốt muốn nứt ra, hắn há miệng phun thêm một ngụm máu tươi. Lúc này lửa đã bùng lên khắp Tào phủ, tiếng huýt sáo vang lên bốn phía. Địch Thanh chống tay muốn đứng dậy bước tới cứu Trương Ngọc, nhưng vết thương quá nặng, tay chân hắn đã không còn chút sức lực nào. Hắn vừa mới ngóc dậy lại ngã mạnh xuống đất. Hắn chỉ cảm thấy mệt mỏi gần chết, đom đóm bay loạn trước mắt. Hắn thoáng thấy quyển “Kinh Thi” đang nằm bên cạnh.

Gió lạnh vần vũ, ánh lửa hừng hực. Cánh mai và bông tuyết bay chập chờn theo gió. Địch Thanh dõi mắt nhìn theo cánh hoa rồi dừng lại trên quyển sách. Hắn vừa vặn thấy được một câu trong bài Thảo Trùng: “Trắc bỉ nam sơn, ngôn thải kỳ vi, vị kiến quân tử, ngã tâm thương bi!”

(Trèo lên Nam Sơn, nói hái rau Vi, thiếu người trong mộng, tim thiếp sầu bi!)

Trông thấy câu thơ này, trong lòng Địch Thanh chợt dâng lên nỗi đau thương khôn tả. Cả đời mình thật bất hạnh, ba chìm bảy nổi, vừa mới ban ngày lòng còn tràn đầy niềm vui vì tìm được người mình yêu trong đời, đâu ngờ rằng tới ban đêm lại phải bỏ mạng nơi đây. Nàng ấy chờ đợi đến tận khuya, rốt cuộc vẫn không gặp được mình. Nỗi bi thương này càng lúc càng nồng đậm, ngưng tụ ở ngực, như thể muốn nổ tung. Địch Thanh tuy biết hôm nay chết là cái chắc, nhưng trong lòng hắn lại có một giọng nói liên tục gào thét: ‘Ta không thể chết được, ta không muốn chết, ta không muốn chết!’

Trước đây hắn vẫn có thể tỉnh lại sau khi bị thương nặng ở thung lũng Phi Long, đơn giản là vì còn bận lòng với đại ca. Giờ phút này hắn không muốn chết, là vì hắn căm giận ông trời đùa cợt với hắn, nỗi bi phẫn khó tả dâng trào. Hắn muốn chống lại ông trời. Nỗi đau xót sục sôi mãnh liệt, trong nháy mắt ào ạt xông lên đỉnh đầu, Địch Thanh chỉ cảm thấy trong đầu bỗng nổ ầm một tiếng, hai con rồng to lớn điên cuồng quẫy động.

Hai con rồng này một đỏ một vàng, gào thét rống giận, không ngừng bay lên. Chúng đột nhiên quấn lấy nhau, như mây đỏ đầy trời, như tà dương lóe sáng, rực rỡ khó tả. Thân thể Địch Thanh chấn động, chỉ cảm thấy hai con rồng to lớn này mang đến cho hắn sức mạnh vô biên. Vào thời khắc này, vết thương trên người hắn tuy vẫn còn đau nhưng đã không còn nghĩa lý gì với hắn. Địch Thanh xoay người nhảy lên, chắn trước người Trương Ngọc.

Tăng Trưởng Thiên Vương và Trì Quốc Thiên Vương đều ngơ ngẩn, không thể nào tin được trên đời này còn có người biến thái như hắn. Hắn vừa mới bị thương nặng sắp chết mà sao thoắt cái đã có thể mạnh mẽ như hổ? Càng khiến cho hai vị Thiên Vương kinh hãi là toàn thân Địch Thanh chẳng những run rẩy, mà hai mắt hắn còn co giật không ngừng, như thể bị trúng gió. Hai vị Thiên Vương chưa từng thấy người nào có vẻ mặt quái dị như thế, một sự ớn lạnh không thể khống chế từ đáy lòng dâng lên. Bọn họ chợt phát hiện tên Địch Thanh này lại xa lạ đến thế.

Địch Thanh rống lên một tiếng, xông về phía Tăng Trưởng Thiên Vương.

Địch Thanh lại chủ động ra chiêu đối phó với hai đại Thiên Vương? Tăng Trưởng và Trì Quốc nở nụ cười châm biếm Địch Thanh không tự lượng sức mình, nhưng nụ cười ấy rất nhanh liền biến thành kinh hãi. Bởi vì thế tới của Địch Thanh thật sự quá mãnh liệt, thật sự quá nhanh, nhanh như cưỡi rồng, mạnh như cưỡi hổ. Trong nháy mắt, hắn đã lao tới trước người Tăng Trưởng Thiên Vương.

Tăng Trưởng Thiên Vương cũng đã mất đi binh khí. Y siết chặt nắm tay, đấm cùng lúc hai đấm vào huyệt Thái Dương của Địch Thanh. Chiêu này lấy công làm thủ, ép Địch Thanh không thể không lui về tự bảo vệ mình, cũng có thể coi là chiêu hay vào lúc này. Nhưng Tăng Trưởng Thiên Vương đột nhiên nhận ra, chiêu này cực tệ.

Địch Thanh không hề có ý tránh né, hắn nhanh như điện tránh được hai quyền này, rồi xông tới trước ngực Tăng Trưởng Thiên Vương. Tiếp đó hắn như thể phát điên, dang rộng hai tay ôm chặt lấy Tăng Trưởng Thiên Vương rồi ngửa cổ cụng mạnh đầu vào trán của Tăng Trưởng Thiên Vương.

Một tiếng bịch vang lên rất lớn, như trời long đất lở. Tăng Trưởng Thiên Vương cảm thấy đầu mình như muốn vỡ tung, hai mắt tối sầm, máu mũi chảy ròng, y gào lên:

- Cứu ta!

Ban đầu, do có võ công cao tuyệt nên y vô cùng ngạo mạn. Nhưng khi đối mặt với Địch Thanh, lần đầu tiên y sinh ra cảm giác không địch nổi.

Trì Quốc Thiên Vương chém ra liên tục ba đao, giống như lốc cuốn hoa mai. Nhưng đao vừa đánh ra lại phải thu về, không có cách nào chém xuống. Vì Địch Thanh đang ôm chặt lấy Tăng Trưởng Thiên Vương xoay như chong chóng. Hai người quấn chặt lấy nhau khiến cho Trì Quốc Thiên Vương không thể phân biệt được người nào với người nào. Đao pháp của gã dù nhanh hơn nữa cũng không dám chém bừa.

Gã chần chừ cho đến khi nghe thấy một âm thanh. Âm thanh này tuy nhỏ, nhưng thoắt cái đã lớn lên thành tiếng rốp rốp. Trì Quốc Thiên Vương cả kinh, không do dự nữa mà vội vung đao chém xuống. Gã phát hiện tiếng rốp rốp này là tiếng xương cốt gãy tạo nên. Cái ôm này của Địch Thanh lại xiết mạnh đến nổi trực tiếp vặn gãy xương cánh tay, xương sườn, xương ngực và cả xương cột sống của Tăng Trưởng Thiên Vương! Trì Quốc Thiên Vương nếu không ra tay, Tăng Trưởng Thiên Vương chắc chắn phải chết.

Đơn đao chém xuống, một cánh tay bay lên. Trì Quốc Thiên Vương gào thảm một tiếng, trong lòng đau đớn khó tả. Hóa ra lúc y chém xuống thì Địch Thanh đã buông tay lui về phía sau, một đao này của gã không thể rút lại liền chém thẳng vào cánh tay của Tăng Trưởng Thiên Vương. Tăng Trưởng Thiên Vương ngã xuống đất như bùn nhão, thất khiếu không ngừng rỉ máu tươi, tay chân co giật liên tục. Tuy bây giờ y chưa thể chết nhưng toàn bộ xương cốt trên người đều đã gãy, đâm xuyên qua ngũ tạng lục phủ, dù không chết nhưng so với chết còn thảm hơn.

Địch Thanh vừa mới lui đã lập tức lao đến trước người Trì Quốc Thiên Vương. Tim Trì Quốc Thiên Vương đập liên hồi. Gã gầm lên, mũi chân điểm lên mặt đất đẩy người lùi về phía sau.

Trì Quốc Thiên Vương nhìn thấy thảm cảnh của Tăng Trưởng Thiên Vương, đã sớm rét run. Gã sợ rằng Địch Thanh lại ôm chặt lấy gã như lúc nãy nữa thì đúng là sống không bằng chết. Lúc gã rút lui thì đồng thời vung đao lên chém ra mười ba đao nhanh như chớp. Một chiêu mười ba đao này như gió mát, thế như sét đánh, hội tụ năng lực cả đời của Trì Quốc Thiên Vương. Đao thế như thủy triều, sùng sục dồn dập, cuốn lấy cánh mai tuyết đọng xoắn tít lên không, thanh thế to lớn. Trên đời này, sợ rằng ít ai dám chính diện ngăn cản nó!

Tuy nhiên, Địch Thanh lại dám! Trong mắt Địch Thanh chợt lóe lên hàn quang. Hắn liền vung quyền đánh tới. Một quyền này của hắn đánh xuyên qua hàn quang nện thẳng lên thân đao. Đơn đao vang lên tiếng răng rắc rồi gãy thành mấy đoạn. Mấy đoạn đao gãy này bị lực mạnh đánh vào đột nhiên bay ngược trở về găm thẳng vào người Trì Quốc Thiên Vương. Gã thét to một tiếng, vừa rơi xuống đất liền lảo đảo vài bước, thân hình bỗng lóe lên rồi hòa vào trong bóng tối. Địch Thanh vừa định đuổi theo thì Trương Ngọc loạng choạng ngã xuống đất.

Địch Thanh quay đầu nhìn lại. Hắn lập tức bỏ qua ý nghĩ đuổi theo Trì Quốc Thiên Vương mà xoay người ôm lấy Trương Ngọc chạy ra khỏi Tào phủ. Một màn vừa rồi vẫn còn quanh quẩn trong đầu hắn, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, hắn cũng không rõ lắm. Địch Thanh chỉ biết là lúc hai con rồng xuất hiện trong đầu thì sức mạnh trong người hắn bỗng nhiên được phục hồi. Chẳng những vậy, sức mạnh này còn lớn hơn lúc trước mười mấy lần.

Ở trong mắt Địch Thanh, mấy đao chém ra liên tiếp của Trì Quốc Thiên Vương lại chậm rì rì. Do đó Địch Thanh có thể dễ dàng đập gãy đơn đao của Trì Quốc Thiên Vương, ôm chết Tăng Trưởng Thiên Vương. Sức mạnh này đến từ đâu? Và vì sao mà có? Địch Thanh hoàn toàn không biết.

Vừa chạy được vài bước thì hai chân hắn bỗng mềm nhũn, hắn loạng choạng ngã xuống đất. Lúc này hắn mới phát hiện sức mạnh khi nãy đã biến đâu mất, hiện giờ hắn yếu ớt đến đáng thương, bước đi còn khó khăn chứ đừng nói chi là ôm người.

Một người chạy tới đỡ lấy Trương Ngọc, nói:

- Địch Thanh, để ta.

Vẻ mặt của Lý Vũ Hanh đầy hổ thẹn. Mới vừa rồi Địch Thanh và Trương Ngọc chiến đấu kịch liệt, Lý Vũ Hanh lại run rẩy sợ hãi. Trừ việc huýt sáo báo hiệu ra thì y không dám xông vào. Y núp ở một bên nhìn Địch Thanh và Trương Ngọc không tiếc tính mạng mà xả thân vì nhau, không khỏi cảm thấy vừa nhục nhã vừa xấu hổ. Vốn tưởng rằng Địch Thanh và Trương Ngọc chết chắc, đâu ngờ rằng Địch Thanh lại có thể đánh bại hai vị Thiên Vương, thậm chí không quan tâm đến bản thân mà cố gắng cứu Trương Ngọc. Y cảm thấy rất hối hận nên xông ra.

Địch Thanh xốc lên hai cái, phát hiện mình đã không còn chút sức nào, đáp:

- Vũ Hanh, ngươi dìu Trương Ngọc đi tìm đại phu trước đi, không cần lo cho ta. Ta... không sao đâu.

Hắn chợt biến sắc. Hắn nghe thấy có tiếng người thì thầm:

- Tên Địch Thanh chắc chết rồi nhỉ?

Giọng người này mang vẻ ngạo mạn và vênh váo.

- Hừ...

Có một người khác thấp giọng nói:

- Chuyện chỉ mới bắt đầu thôi, coi chừng tai vách mạch rừng.

Giọng người này lạnh như băng. Địch Thanh cảm thấy mù mờ, không biết giọng nói này từ đâu truyền đến.

Lý Vũ Hanh thấy sắc mặt Địch Thanh tái nhợt, lo lắng nói:

- Ngươi... ngươi không có việc gì thật chứ? Ta biết ... ngươi nhất định trách ra, ta xin lỗi hai ngươi.

Dứt lời, hắn ôm lấy Trương Ngọc, chạy ùa ra ngoài.

Địch Thanh ngẩn ra, thầm nghĩ: ‘Mình trách Vũ Hanh sao? Đang lúc nguy cấp, y lại ẩn nấp một bên, quả thật khiến cho người ta bất mãn. Nhưng vào thời điểm sống chết đó, y tham gia vào cũng chẳng ích gì. Hơn nữa, mạng chỉ có một cái, còn không phải là do bản thân chọn lựa sao? Mình không nên trách y.’

Thấy Lý Vũ Hanh dần khuất trong bóng đêm, Địch Thanh lo lắng đến sống chết của Trương Ngọc, cố gắng đứng dậy, loạng choạng bước về phía trước. Trong lòng hắn cảm thấy kỳ quái, giọng nói vừa nãy rốt cuộc là chuyện gì xảy ra?

Đang đi thì chợt từ dãy nhà phía tây có hai người đi tới. Địch Thanh giật mình, dừng bước không tiến nữa. Hai người này cũng dừng bước, tay đè bên hông.

Hai người này chính là Hạ Tùy và Khâu Minh Hào.

Hai người nhìn thấy Địch Thanh, không hẹn mà cùng nói:

- Địch Thanh, sao lại là ngươi?

Địch Thanh vừa nghe giọng nói của hai kẻ này. Hắn đột nhiên hiểu ra, cả người run rẩy. Hắn cuối cùng cũng biết được, giọng nói thần bí vừa rồi chính là cuộc trò chuyện giữa Hạ Tùy và Khâu Minh Hào.

Hạ Tùy và Khâu Minh Hào cách hắn rất xa, hắn tại sao có thể nghe thấy giọng nói của bọn họ? Trong chuyện này rốt cuộc có điều gì kỳ quái đây? Địch Thanh cảm thấy mơ hồ, nhưng nỗi kinh hãi trong lòng lại càng lớn hơn.

Đây vốn là một cái bẫy, một cái bẫy để lừa Địch Thanh vào chỗ chết.

Hạ Tùy giăng cái bẫy này, muốn mượn tay hai đại Thiên Vương giết Địch Thanh hắn? Hai đại Thiên Vương này là ai? Hạ Tùy và Địch Thanh vốn không quen biết nhau, cớ sao lại muốn tính kế giết hắn?

Địch Thanh hoang mang không hiểu, cảm thấy mình như con thú bị nhốt trong lồng. Đây là cái lưới lớn đã được giăng ra từ trước, còn hắn là con cá lớn trong lưới ư?

Thậm chí Địch Thanh bắt đầu hoài nghi, hai đại Thiên Vương kia cũng không phải là phản đồ của Di Lặc giáo, mà giống như là người do Hạ Tùy bố trí mai phục sẵn, nếu không như vậy thì cớ sao Hạ Tùy lại quả quyết rằng hắn phải chết chứ? Nếu hắn phải chết, mà chết vào trong tay giáo đồ Di Lặc giáo, sẽ không ai hoài nghi Hạ Tùy!

Lúc này, Địch Thanh vô cùng yếu ớt, thấy tay của Hạ Tùy và Khâu Minh Hào đè lên chuôi đao, trong lòng càng thêm sợ hãi. Trong gió lạnh, ba người nhìn nhau chăm chăm, trong ánh mắt ai cũng chứa đầy vẻ đề phòng. Cuối cùng Hạ Tùy tiến lên một bước, cất tiếng hỏi:

- Địch Thanh, ngươi có phát hiện ra giáo đồ của Di Lặc giáo không?

Tâm tư rối bời, Địch Thanh đáp:

- Có hai tên...

Khâu Minh Hào lạnh lùng chen vào:

- Ngươi đừng có nói phét, nếu đúng là Tăng Trưởng và Trì Quốc Thiên Vương ra tay thì sao ngươi còn có thể đứng ở nơi này?

Địch Thanh thầm giật mình, hỏi ngược lại:

- Tôi không có nói là hai kẻ đó! Sao Khâu bộ đầu lại biết được là ai ra tay chứ?

Trong bóng đêm, sắc mặt Khâu Minh Hào thoáng thay, sầm mặt lạnh nhạt nói:

- Người mà chúng ta muốn bắt chính là hai kẻ này, lẽ nào trong Tào phủ còn có người khác ra tay ư?

Địch Thanh rất căm phẫn, song hắn biết biết mình vừa mới dạo một chuyến quỷ môn quan trở về, liền châm biếm:

- Tăng Trưởng Thiên Vương bị ta giết chết, có Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh tận mắt nhìn thấy. Nếu các người không tin, sao không đến đó mà xem?

Khâu Minh Hào lại biến đổi sắc mặt, tay cầm đao nổi gân xanh. Hạ Tùy lui về phía sau một bước, hét lên thất thanh:

- Ngươi làm sao có thể giết được Tăng Trưởng Thiên Vương chứ?

 Chương 60 - 63: Bẫy

Địch Thanh làm ra vẻ ung dung nói:

- Hạ chỉ huy tìm tại hạ đến đây, không phải muốn tại hạ bắt giặc sao? Tại hạ may mắn không phụ lòng tin tưởng của chỉ huy.

Khâu Minh Hào nhìn Địch Thanh từ trên xuống dưới, chậm rãi nói:

- Có vẻ như ngươi bị thương không nhẹ!

Gã liếc nhìn Hạ Tùy, ngầm hỏi ý kiến.

Địch Thanh rùng mình, tuy lúc này rất muốn nằm xuống nghỉ ngơi, nhưng hắn vẫn cố tỏ ra bình tĩnh:

- Chút tổn thương nhỏ nhoi này thì nhằm nhò gì.

Hắn sợ Khâu Minh Hào và Hạ Tùy nhận ra mình đã đuối sức thì sẽ lập tức vung đao giết hắn.

Ánh mắt Khâu Minh Hào hiện rõ sát khí, gã vừa định tiến lên thì bỗng có tiếng bước chân từ đằng xa truyền đến, một người chạy vội đến, nói:

- Hạ chỉ huy, không phát hiện tung tích của bọn giặc ở đâu cả!

Khâu Minh Hào thở ra một hơi rồi buông tay cầm đao ra. Người vừa mới tới là Phó đô đầu Vương Khuê của quân Kiêu Vũ. Hạ Tùy chậm rãi lắc đầu, cũng buông lỏng tay cầm đao ra, cau mày hỏi:

- Vậy thì kỳ quái thật! Vừa rồi rõ ràng ta còn thấy dấu vết của bọn chúng. Vương Khuê, mấy nơi khác thì sao?

Y nháy mắt với Khâu Minh Hào. Khâu Minh Hào hiểu ý nói:

- Để ta tới chỗ chuồng ngựa kiểm tra.

Vương Khuê lắc đầu đáp:

- Mấy nơi kia đều là kế nghi binh do bọn giặc cố ý bố trí, cũng không thấy tên giặc nào xuất hiện hết.

Rồi chợt thấy trên người Địch Thanh đầy máu tươi, Vương Khuê kinh ngạc hỏi:

- Địch Thanh, ngươi đánh nhau với bọn chúng à?

Địch Thanh gật đầu, đồng thời nhận ra Vương Khuê và Hạ Tùy không phải cùng một giuộc. Vương Khuê đến thật đúng lúc, cứu cho hắn một mạng. Vương Khuê không nhịn được hỏi:

- Bọn chúng là ai?

- Là Tăng Trưởng Thiên Vương và Trì Quốc Thiên Vương của Di Lặc giáo.

Địch Thanh trả lời.

Vương Khuê ngạc nhiên hỏi:

- Không phải bọn chúng đã chết rồi ư? Người cần bắt lần này, chẳng lẽ là bọn chúng sao?

Vẻ mặt Hạ Tùy liền thay đổi, giọng điệu chế nhạo:

- Biết đâu chừng người chết sẽ sống lại.

Gã nhìn Địch Thanh đầy thâm ý rồi quay qua căn dặn:

- Vương Khuê, ngươi hãy theo ta đến chuồng ngựa tra xét. Nói không chừng còn có thể tìm được chút manh mối nào đó.

Vương Khuê vốn định hỏi tiếp một số chuyện, nhưng nghe Hạ Tùy nói vậy thì đành phải nghe theo. Chợt thấy Địch Thanh loạng choạng sắp ngã, liền ân cần hỏi:

- Ngươi còn đi được không?

Địch Thanh cắn răng trả lời:

- Một chút thương nhỏ thôi, chả thấm vào đâu.

Lúc này Vương Khuê mới cùng Hạ Tùy rời đi. Còn Địch Thanh cũng đã phục hồi được chút sức lực, không dám ở đây lâu nữa, vội vàng lảo đảo rời khỏi Tào phủ, cả người toát đầy mồ hôi.

Đột nhiên trong Tào phủ vang lên một loạt tiếng “cộc cộc”, đã có người bắt đầu cứu hỏa. Địch Thanh quay đầu nhìn lại, thấy phía chuồng ngựa lửa cháy ngút trời thì dường như nghĩ đến cái gì đó, miệng nở nụ cười khẩy. Địch Thanh lo cho thương thế của Trương Ngọc, lại thấy nơi đây không thể ở lâu, vội vàng chạy về quân doanh. Hắn bị thương không nhẹ, dọc đường phải nghỉ ngơi hai lần nữa mới về tới quân doanh.

Vừa vào quân doanh, Triệu Luật liền nghênh đón:

- Địch Thanh, ngươi không sao chứ?

Ngực Địch Thanh vô cùng đau nhức, nhưng hắn vẫn không quan tâm tới bản thân mà vội hỏi:

- Trương Ngọc đâu?

Triệu Luật cau mày nói:

- Hắn vẫn còn hôn mê chưa tỉnh. Vận số của các ngươi không tốt, dường như chỉ có nhóm các ngươi là gặp địch.

Địch Thanh thầm cười khẩy và càng thêm chắc chắn đây là cái bẫy do Hạ Tùy bố trí ra. Người ngoài thì mơ hồ chứ người trong cuộc như Địch Thanh lại thấy chuyện đã rất rõ ràng. Hạ Tùy muốn giết hắn nên mới có hai lần ‘tình cờ’ gặp gỡ này, và lần nào cũng đều mượn cớ điều hắn đến Tào phủ. Các nơi khác không thấy kẻ địch đâu, chỉ riêng chuồng ngựa là có hai tên sát thủ,. không cần hỏi cũng biết, sát thủ đó đã được chuẩn bị sẵn cho Địch Thanh hắn. Dĩ nhiên, các nơi khác cũng do Hạ Tùy cố ý bày trận nghi binh. Hạ Tùy giết Địch Thanh rồi thì có thể đổ tội cho bọn Di Lặc giáo. Hạ Tùy tính toán rất khéo, nhưng y nghìn tính vạn tính cũng không ngờ rằng Địch Thanh lại không chết! Hạ Tùy càng không tính được dù Địch Thanh cách y rất xa nhưng vẫn có thể nghe thấy được cuộc trò chuyện giữa y và Khâu Minh Hào.

Địch Thanh tin chắc rằng bản thân đã nghe được cuộc trò chuyện ấy, nhưng vẫn còn chút ngờ vực, vì sao hắn có thể nghe được những âm thanh đó? Vì sao Hạ Tùy muốn giết hắn? Nhớ tới ánh mắt âm trầm lạnh lẽo của Hạ Tùy trước khi đi, Địch Thanh siết chặt nấm đấm.

Hắn đang đuổi theo những suy nghĩ trong đầu thì đã đến trước giường Trương Ngọc.

Trương Ngọc nhắm chặt hai mắt. Lý Vũ Hanh đứng chăm sóc ở bên cạnh. Gã thấy Địch Thanh tới đây thì lập tức đứng dậy:

- Địch Thanh, Trương Ngọc bị thương rất nặng, đại phu nói hắn chưa chắc có thể tỉnh lại....

Địch Thanh nhìn khuôn mặt tái nhợt của Trương Ngọc, lẩm bẩm:

- Hắn chưa chắc có thể tỉnh lại?

Sự phẫn nộ trong lòng Địch Thanh càng thêm sâu đậm. Hắn bỗng nhớ tới chuyện đại ca bị đánh trước đây.

Lý Vũ Hanh rất hổ thẹn, thất thần ngượng ngùng lui về phía sau hai bước, ấp úng nói:

- Ta....Ta.. vô dụng...

Địch Thanh thở dài, vỗ vỗ vai Lý Vũ Hanh:

- Ngươi....

Địch Thanh cũng không biết nên an ủi gã thế nào đây. Hiện giờ lòng hắn cũng rất bất mãn với Lý Vũ Hanh, nhưng thấy gã như thế thì không nỡ nói lời oán trách. Thật lâu sau, Địch Thanh mới nói:

- Ngươi chăm sóc Trương Ngọc cho tốt, ta ra ngoài một lát.

Lý Vũ Hanh ngơ ngác gật đầu. Địch Thanh nhanh chóng rời đi, nhưng hắn đi chưa được bao xa thì dừng lại, ngồi xuống ngây ngẩn một chỗ. Cho đến khi phía đông đọng sương thì Địch Thanh mới mệt mỏi vươn người đứng dậy quay về quân doanh. Lúc quay lại vào đó thì Trương Ngọc vẫn chưa tỉnh lại.

Triệu Luật đi tới thấy Trương Ngọc như vậy, cũng liên tục lắc đầu, lại biết Địch Thanh bị thương nên bảo Địch Thanh về nhà nghỉ ngơi mấy ngày, trong mấy ngày này không cần phải đi tuần. Địch Thanh gật đầu. Trên đường thả bộ về nhà, lửa giận trong lòng hắn dần dần bốc cao, trong đầu chỉ có một suy nghĩ: "Thù này phải trả!"

Hắn nghĩ cả đêm rồi cũng thông suốt. Giữa hắn và Hạ Tùy, chỉ một người có thể sống! Chuyện này dù cho hắn giả bộ không biết gì thì Hạ Tùy nhất định cũng không bỏ qua. Hạ Tùy giết hắn một lần không thành, nhất định còn muốn giết tiếp.

Địch Thanh là chàng trai nhiệt huyết, làm việc coi trọng ân oán rõ ràng. Tuy mấy năm nay tuy tinh thần sa sút, nhưng tính cách vẫn không thay đổi. Hạ Tùy muốn giết hắn thì hắn sẽ ăn miếng trả miếng, điều này là đạo lý hiển nhiên. Khi suy nghĩ về việc báo thù, Địch Thanh quyết định không cần nói chuyện này cho Quách đại ca hay, cũng tuyệt đối không thể liên lụy huynh ấy! Giết Hạ Tùy, nếu may mắn không chết thì từ nay về sau hắn sẽ lang bạt nơi chân trời góc bể. Nếu như chết đi thì ít nhất cũng phải mạng đổi mạng.

Khóe miệng khẽ nở nụ cười cay đắng, Địch Thanh không ngờ rằng trước đây không phải rơi vào cảnh trốn chạy, nhưng mấy năm sau, hắn vẫn không tránh khỏi có kết cục này. Chẳng lẽ đây là số mệnh sao?

Vừa nghĩ tới cảnh phải lưu lạc nơi chân trời góc bể, tim hắn chợt nhói đau, trong đầu chợt hiện lên hình ảnh một khuôn mặt thanh lệ thoát tục đang buồn bã. Lần gặp gỡ này hẳn là không có kết quả, chẳng lẽ đây cũng là số mệnh sao?

Địch Thanh lắc lắc đầu, cố xua đi hình ảnh ấy, lại cảm thấy ngực mình đau nhức kịch liệt, vạch vạt áo trước ngực ra thì thấy phần ngực hơi lõm vào và còn hằn hai chữ "Ngũ Long". Hắn chợt ngộ ra. Hóa ra khi cán chĩa sắt đâm vào ngực thì lại trúng ngay vào quả cầu đen. Nếu không nhờ quả cầu đen này chặn lại thì e rằng hắn đã bị một chĩa kia đâm chết từ lâu.

Trong lòng Địch Thanh chợt động, thầm nghĩ: “Lúc ở Tào phủ, thể lực của mình chẳng những hồi phục trong nháy mắt, mà còn dũng mãnh hơn trước mười lần, lẽ nào cũng có liên quan tới vật này ư? Nếu không thì dựa vào điều gì để giải thích việc mình có thể đánh chết được Tăng Trưởng Thiên Vương chứ?"

Địch Thanh nhìn Ngũ Long, âm u, không có bất cứ động tĩnh gì.

Hồng long, Kim long, Thiên Vương, Di Lặc... Đủ thứ chuyện kỳ quái nườm nượp kéo đến. Địch Thanh suy nghĩ một lúc lâu nhưng vẫn không tìm ra được điểm mấu chốt. Cuối cùng hắn lại cất Ngũ Long vào trong ngực rồi rời khỏi quân doanh. Tuy hắn có ý định giết Hạ Tùy, nhưng giết như thế nào thì trong lúc nhất thời vẫn chưa thể nghĩ ra.

Trong lòng Địch Thanh rầu rĩ, ngẩng đầu lên thì trông thấy có một quán rượu, liền quyết định đi vào uống chút rượu giải sầu. Hôm nay kinh thành làm lễ tế tự, dân chúng trong tửu lâu bàn luận xôn xao. Có rất nhiều người dân đã đến gần cửa Chu Tước từ sớm để chờ xem náo nhiệt.

Địch Thanh ngồi gần cửa sổ, nhìn ra ngoài, cả kinh thành mênh mông bát ngát, tuyết đã dừng nhưng gió vẫn thổi mạnh. Ngày tế tự, khí trời vô cùng khắc nghiệt. Nhưng trong khí trời khắc nghiệt này, có một cây mai đỏ tươi vẫn quật cường vươn mình trong gió mạnh, nổi bật trên nền tuyết trắng xoá.

Địch Thanh nhìn cây mai đỏ, đột nhiên nhớ tới tám chữ "Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung". Dù cho cả đời phiêu dạt nơi chân trời góc bể, hắn cũng không thể nào quên đã từng gặp được nàng ở Biện Kinh, mặc dù ngay cả tên nàng hắn vẫn chưa biết. Nhưng nàng thì sao? Nhiều năm sau, nàng có còn nhớ hay nàng sẽ quên! Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng lại cảm thấy chua xót, ngẩn ngơ nhìn cây mai đỏ đến thẫn thờ.

Đúng lúc này, ngoài quán rượu có mấy người đi vào, lớn tiếng nói:

- Tiểu nhị, mang đến cho chúng ta mấy chén rượu làm ấm người đi.

Địch Thanh liếc nhìn qua, thấy đám người Lệ Chiến, Tống Thập Ngũ đang đi vào. Đám Lệ Chiến đều là người của Kiêu Kỵ Quân, cũng chính là thuộc hạ của Hạ Tùy. Lúc vây công Tào phủ, bọn chúng đều ở bên ngoài phủ. Địch Thanh nhìn thấy bọn chúng thì cảm thấy chán ghét nên quay đầu sang chỗ khác. Đám Lệ Chiến cũng không phát hiện ra Địch Thanh, chúng ngồi xuống rồi chụm đầu nói chuyện, Tống Thập Ngũ nói:

- Tranh thủ đang lúc rãnh rỗi, các vị huynh đệ mau mau làm một vài chén, lát nữa còn phải đi tuần đấy.

Lệ Chiến nói:

- Gấp làm gì? Trong ngoài kinh thành đều có hơn chục vạn cấm quân đóng giữ, chúng ta chỉ canh giữ ngoài thành. Ngươi yên tâm đi, không xảy ra sai sót gì đâu.

Cao Đại Danh đắc ý nói:

- Cho dù có xảy ra sai sót thì sao chứ? Hôm qua chúng ta đã vất vả cả ngày rồi, hôm nay lại phải đi tuần, dù có là người sắt đi nữa cũng phải nghỉ ngơi chứ. Chúng ta uống chút rượu, thì có gì là to tát đâu?

Rượu vừa được đem lên, bọn chúng chưa kịp nhấp môi thì bên ngoài quán rượu có một người chạy vào nói:

- Sao các ngươi sao còn ở đây uống rượu hả? Hạ chỉ huy đang tìm các ngươi đấy, nhanh lên đi. Hạ chỉ huy nói, hôm nay đi tuần xong sẽ mời các ngươi đến đây nhậu một chầu.

Bọn Tống Thập Ngũ mừng rỡ nói:

- Thật tốt quá, đêm nay chúng ta không say không về. Được rồi, vậy thì đi thôi.

Sau đó y quay sang hét với ông chủ quán rượu:

- Tiền rượu này ghi sổ đi, đến tối rồi tính luôn một lượt.

Ông chủ quán rượu cười xòa nói:

- Chào mấy vị quan nhân, tiền rượu này... cứ để đó đi.

Từ trước đến nay, quân Kiêu Kỵ làm mưa làm gió ở kinh thành, ông chủ quán rượu chỉ cầu bọn chúng đừng gây rối, một ít tiền rượu này nào dám đòi chứ.

Chờ bọn người Tống Thập Ngũ rời đi, Địch Thanh rót đầy một chén rượu, nhếch miệng nở nụ cười lạnh, lẩm bẩm nói:

- Đêm nay không say không về?

Hắn vẫn luôn lo nghĩ làm cách nào để thịt được Hạ Tùy, thầm nghĩ nếu đêm nay bọn người Hạ Tùy uống say bí tỉ, vậy thì hắn có cơ hội ra tay rồi.

Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng phấn chấn hẳn ra, ngẩng đầu nhìn cây mai đỏ đang rung động nổi bật trên nền tuyết trắng, hắn bỗng nghĩ, qua đêm nay, bất kể sống hay chết, e rằng cả đời này sẽ không còn gặp được nàng nữa. Địch Thanh sững người nhìn cây mai, không biết qua bao lâu, hắn tính tiền rượu rồi lững thững đi đến ngõ Mạch Kiết.

Lúc này, triều đình đại tế, muôn người đều đổ xô ra đường. Tuy là ban ngày nhưng ngõ Mạch Kiết vẫn âm u và thanh vắng như ban đêm. Địch Thanh đến ngõ Mạch Kiết, gió thổi vù vù, tuyết trắng bay bay, hoa mai ngạo tuyết, nhưng người trong mộng thì không thấy đâu. Địch Thanh đứng ở trước gốc mai, thấy dưới tán cây có dấu chân ngổn ngang, dấu chân không chỉ của một người. Hắn cẩn thận tìm dấu chân nhỏ nhắn ấy, qua một lúc lâu liền chậm rãi ngồi xổm xuống, tiếp đó nhặt lên một cánh hoa tàn. Địch Thanh thầm nghĩ hoa đã tàn, chữ viết đã mất đi, tất cả mọi thứ đều đã là quá khứ.

Dù nghĩ như thế nhưng lòng hắn lại dâng trào đau thương, rút đao ra gạt bằng một mảnh đất tuyết bằng phẳng, muốn viết lên vài chữ gì đó. Sau khi suy nghĩ một lúc, Địch Thanh chỉ viết được hai chữ "Bảo trọng". Hắn lại ngẫm nghĩ: “Có lẽ nàng cho rằng mình không tới, có lẽ nàng sẽ không thấy hai chữ này đâu. Thế nhưng... Mình biết mình nghĩ gì là được rồi, cần gì phải quan tâm tới nàng nghĩ gì làm chi?”

Hắn lại trầm ngâm, ngắm hai chữ trên mặt tuyết thật lâu, sau đó đột nhiên ngửa mặt lên trời cười to, trong tiếng cười mang theo vẻ cô đơn hiu quạnh vô tận.

Hắn xoay người định đi, nhưng nụ cười bỗng cứng lại trên môi, cả người run rẩy.

Chỉ thấy cô gái mà hắn trăm thương ngàn nhớ chẳng biết đã đứng trước mặt từ khi nào rồi. Mấy ngày không gặp, nàng vẫn xinh đẹp tuyệt thế như trước nhưng lại có chút tiều tụy. Khoảnh khắc trông thấy Địch Thanh, ánh mắt nàng ngời sáng nhưng không thể thốt lên lời nào.

Địch Thanh si ngốc nhìn nàng, trong khoảnh khắc này hắn không biết làm sao cho phải. Nàng nhìn Địch Thanh từ trên mặt xuống tới cổ tay rồi hoảng sợ la lên:

- Huynh bị thương?

Đến lúc này, Địch Thanh mới cảm thấy có chút đau đớn, không phải đau ở cổ tay đâu, mà là ở ngực. Hắn gượng cười nói:

- Những người như huynh đây, cả ngày đánh đấm, không bị thương mới là lạ.

Trong mắt nàng chợt hiện lên vẻ thương cảm, bước tới định băngó vết thương cho hắn, nhưng Địch Thanh vội lùi về phía sau một bước nói:

- Không cần đâu, cám ơn cô.

Hắn đã quyết định phải giết Hạ Tùy, và sau đó sẽ chạy trốn tới nơi chân trời xa xăm nên chỉ mong nàng hãy quên hắn đi. Trong ngực hắn còn có chiếc khăn lụa kia vốn định lấy cắt đứt lòng quan tâm của nàng. Hắn nhận ra nàng thích hắn, còn vì sao thích hắn thì hắn thật sự không biết. Nhưng chiếc khăn lụa này là vật duy nhất mà nàng trao cho hắn, sao nỡ trả lại cho được?

Cô gái thấy Địch Thanh bỗng trở nên lạnh lùng. Ánh mắt liền lộ vẻ kinh ngạc, nàng định hỏi gì đó nhưng khi cúi đầu xuống thì vừa vặn nhìn thấy hai chữ do đao khắc trên mặt đất kia.

Cô gái không nói, cũng không ngẩng đầu lên. Địch Thanh nhìn thấy hai giọt châu rơi xuống mặt tuyết, lộ ra hai điểm mờ nhạt, gió thổi qua không dấu vết, nhưng nước mắt chảy qua thì sao chứ? Đau lòng thấu xương. Địch Thanh thấy nàng đau lòng, trong lòng rất áy náy, vốn định an ủi vài câu, song hắn biết nếu làm vậy thì chỉ thêm khó xử, nên kiên quyết nói:

- Trời lạnh, cô mau về đi.

Thanh âm này lạnh lùng như băng nhưng ẩn chứa sự ân cần như lửa.

Cô gái buồn bã hỏi:

- Huynh muốn đi ư?

Địch Thanh nói:

- Ừm.

Cô gái hỏi tiếp:

- Không bao giờ trở về nữa?

Địch Thanh nói:

- Đúng. Mượn đường, xin tránh giùm cho.

Cô gái đột nhiên ngẩng đầu lên, kiềm chế giọt lệ chực trào ra, nhìn thấy vầng trán Địch Thanh chứa đựng nỗi ưu sầu vô hạn thì chợt hiểu ra, mới khẽ tránh mình sang một bên, nhưng dưới chân bị trượt đi, cả người lảo đảo sắp ngã. Địch Thanh thấy thế vội vàng vươn tay đỡ lấy. Nắm chặt cổ tay nhỏ b, mịn màng, lạnh lẽo trong tay, thân thể hắn chợt run lên. Sau khi đứng vững, nàng nhỏ giọng nói:

- Cám ơn. Huynh .... cũng bảo trọng.

Nhìn thấy giọt nước mắt trong suốt của nàng, Địch Thanh sững sờ. Gió lạnh như đao cắt, hắn cũng không nỡ để cô gái chịu lạnh thêm nữa nên kiên quyết nói:

- Ừ.

Hắn sải bước đi, không quay đầu lại, chỉ nghe tiếng nàng khẽ thầm thì:

"Phiếm bỉ Bách chu, diệc phiếm kỳ lưu."

(Chiếc thuyền gỗ bách chơi vơi,

Xuôi theo sông nước nổi trôi mặc lòng.)

Địch Thanh thoáng khựng lại, nghe câu ngâm của nàng giống như là thơ. Bước chân chỉ chậm lại trong chốc lát rồi lại bước đi nhanh hơn, sau cùng còn nghe thấy nàng nói: "Cảnh cảnh bất mị, như hữu ẩn ưu."

(Ngẩn ngơ chẳng ngủ buồn trông,

Như ôm ấp mãi mối lòng bỉ ưu.)

Địch Thanh đã đi xa, nhưng bốn câu kia vẫn còn quanh quẩn trong đầu hắn: "Phiếm bỉ Bách chu, diệc phiếm kỳ lưu. Cảnh cảnh bất mị, như hữu ẩn ưu."

Hắn biết bài thơ đó miêu tả một người đang ưu sầu, nhưng rốt cuộc nàng muốn nói tới hắn hay là nói bản thân nàng đây? Địch Thanh nghĩ mãi mà không rõ, bước chân nhanh hơn, trở về Quách phủ mà như đang chạy trốn.

Quách Quỳ không có ở trong phủ, Quách Tuân cũng không thấy đâu. Địch Thanh hơi thất vọng, thầm nghĩ:

“Nếu như có Quách Quỳ ở đây, mình có thể hỏi xem câu thơ kia có nghĩa là gì, nếu như có Quách Tuân ở đây, mình cũng có thể cám ơn Quách đại ca đã cưu mang mình bấy lâu nay”.

Nhưng hắn lại chợt nghĩ: “Biết thì sao nào? Cám ơn thì sao nào? Biết rồi chỉ tăng thêm phiền não, loại tình huynh đệ thâm sâu này, chỉ một lời cám ơn là xong ư?”

Địch Thanh ngồi ở trước phòng ngủ một giấc nhằm khôi phục thể lực, khi tỉnh dậy thì đã sắp hoàng hôn.

Địch Thanh cũng không chuẩn bị hành lý, chỉ rút đao ở thắt lưng đem đi mài ở một tảng đá nhám thật lớn. Đến khi đao được mài bóng loáng ánh lên vẻ băng lãnh thì lẩm bẩm nói: “Đao à! Đêm này ta đành phải trông cậy vào mi, sau này bỏ mạng cũng chỉ có mi theo cùng...”

Nhìn thấy trời đã nhá nhem tối, Địch Thanh thu đao vào vỏ, cẩn thận sửa sang lại trang phục. Vì muốn xuất chiêu được dứt khoát gọn gàng, nên không mang theo hành lý .

Trăng non đã lên, Địch Thanh đội mũ mềm, sải bước rời khỏi Quách phủ, tìm đại một quán rượu ngồi xuống ăn nửa cân thịt dê, lại nốc thêm hai cái bánh bao, sau đó đến nơi mà lúc sáng hắn từng uống rượu. Hắn kéo mũ mềm xuống thấp định vào do thám tình hình, nhưng chưa kịp tiến vào quán rượu thì đã nghe thấy tiếng người trò chuyện ồn ào ở phía đằng xa. Trong lòng Địch Thanh khẽ động, vội lách mình vào một góc tối, thấy Hạ Tùy dẫn theo bảy tám người đi tới, bọn người Tống Thập Ngũ, Lệ Chiến, Cao Đại Danh, Uông Minh Đô đều có đủ và có thêm mấy người lạ mặt, song không thấy Khâu Minh Hào đâu cả. Địch Thanh cảm thấy hơi yên tâm, thầm nghĩ: “Thiếu Khâu Minh Hào thì đối phó với tên Hạ Tùy uống say mèm này càng thêm nắm chắc mấy phần.”

Hạ Tùy lớn tiếng nói:

- Mấy ngày nay, các huynh đệ đã khổ cực nhiều, đêm nay cứ uống thoải mái đi, không say không về. Con mẹ thằng nào không uống nhiệt tình, lão tử tuyệt không tha cho kẻ đó!

Mọi người vỗ tay hoan hô vang trời. Địch Thanh mừng thầm trong lòng, thầm nghĩ: “Cả đám rùa các ngươi uống càng nhiều càng tốt”.

Hắn đứng ở một góc nhỏ khuất gió dán mắt nhìn về phía quán rượu.

Gió rét lạnh lẽo, trăng mờ không sáng.

Qua khoảng một canh giờ, nơi quán rượu vẫn ồn ào náo nhiệt, Địch Thanh lắc lư thân thể có chút tê dại, mở to mắt nhìn sang. Trong bóng đêm, ánh đèn trong quán rượu càng thêm sáng. Hạ Tùy đã uống say mèm, được hai tên thuộc hạ dìu ra khỏi quán rượu, hai tên thủ hạ này bước đi cũng xiêu vẹo, thỉnh thoảng cả ba lại ngã xuống mặt tuyết. Hạ Tùy không nổi giận mà còn hét lớn:

- Tiếp tục uống nào, ai không uống là đồ con nít.

Rồi y nấc lên như muốn ói, nhưng ụa ọe mấy lần vẫn không phun ra được gì.

Địch Thanh thấy thế thì mừng rỡ, nghĩ thầm: “Mấy tên này đều đã uống say, là ông trời có mắt, cho mình cơ hội để báo thù rửa hận.”

Tay đặt lên chuôi đao, Địch Thanh vừa định lao ra kết liễu Hạ Tùy thì đột nhiên có một bàn tay ấn vai hắn xuống. Bàn tay này cực kỳ chắc khỏe, đặt ở trên vai Địch Thanh nặng hơn ngàn cân.

Địch Thanh kinh hãi, cho rằng có kẻ địch ở sau lưng tập kích, lập tức thúc mạnh khuỷu tay thẳng vào ngực người đó rồi bước tới trước hai bước, sau đó xoay người định rút đao. Không ngờ người sau lưng bị Địch Thanh thúc mạnh mà vẫn điềm nhiên như không. Trái lại, còn cất bước tới bắt lấy cổ tay của Địch Thanh, thấp giọng nói:

- Là huynh.

Địch Thanh cảm thấy cổ tay mình như bị còng sắt kẹp vào, giật mình kinh hãi, nhưng khi nghe thấy giọng nói đó thì định thần nhìn lại, lập tức cả kinh hỏi:

- Quách đại ca, sao lại là huynh?

Người đó chính là Quách Tuân!

Quách Tuân nghiêm mặt không trả lời, đưa tay kéo Địch Thanh đi sâu vào trong ngõ nhỏ. Địch Thanh quay đầu nhìn lại, thấy bọn người Hạ Tùy đã dần đi xa thì thầm khẩn trương. Nhưng bị Quách Tuân kéo đi, hắn đành phải trơ mắt nhìn Hạ Tùy đi xa. Đợi qua hẻm tối, đến đầu đường bên kia, lúc này Quách Tuân mới buông tay ra, lạnh lùng hỏi:

- Đệ tới đây làm gì?

Địch Thanh do dự một chút, cuối cùng nói:

- Giết Hạ Tùy.

- Vì sao?

Quách Tuân dường như đã đoán ra được.

Địch Thanh căm hận nói:

- Vì hắn muốn giết đệ, nếu không phải may mắn, tối qua đệ đã chết rồi.

Quách Tuân nhìn con đường dài thê lương nói:

- Không phải lúc nào cũng may mắn.

Địch Thanh nói;

- Đúng thế, may mắn không phải lúc nào cũng có, cho nên đệ phải nắm chắc cơ hội lần này. Quách đại ca, đệ biết huynh muốn tốt cho đệ. Nhưng nếu đệ không giết Hạ Tùy, sớm muộn gì hắn cũng sẽ ra tay với đệ. Đệ không muốn làm huynh khó xử, cũng không muốn huynh can dự vào chuyện này. Lần này, sau khi đệ giết hắn xong, đệ sẽ phiêu bạt nơi chân trời góc bể, huynh cứ coi như là.... chưa từng có người huynh đệ như đệ! Đệ van huynh đó!

Hắn xoay người định đi, Quách Tuân cười gằn:

- Huynh chỉ ngăn đệ một lần. Nhưng nếu đệ ngoan cố muốn đi tìm cái chết, huynh cũng đành bó tay.

Địch Thanh rùng mình, dừng lại hỏi:

- Sao huynh nói vậy?

Quách Tuân nói:

- Đệ có biết tửu lượng của tên Hạ Tùy này cực mạnh không? Huynh chưa từng nhìn thấy hắn uống say bao giờ.

Lò Địch Thanh trầm xuống, lắp bắp hỏi:

- Vậy hôm nay hắn.....?

Quách Tuân thản nhiên:

- Hôm nay, hắn dẫn theo ba tên cao thủ, hơn nữa còn giả vờ say, nếu đệ đi thì chết là cái chắc.

Địch Thanh giống như bị một chậu nước lạnh tạt vào, cả người lạnh run:

- Hắn vờ say, vì sao hắn phải giả say?

Quách Tuân cười lạnh:

- Đơn giản thôi, hắn đang đợi người mắc câu. Hắn đang đợi tên ngu ngốc nào đó cho rằng hắn đã uống say mà xông tới giết hắn, sau đó hắn sẽ giết tên ngu ngốc đó đi.

Địch Thanh ứa mồ hôi lạnh, lúc này mới nhận ra việc chạm mặt với bọn người Tống Thập Ngũ không phải là trùng hợp, chuyện Hạ Tùy say rượu cũng là một cái bẫy. Thì ra tất cả mọi chuyện đều là do Hạ Tùy sắp đặt, nếu hắn không hiểu rõ ngọn nguồn mà xông đến ám sát, nói không chừng đã bị Hạ Tùy giết chết tại trận.

Địch Thanh được mấy câu nói của Quách Tuân đề tỉnh, nhưng trong lòng hắn vẫn còn nghi hoặc, không nhịn được hỏi:

- Quách đại ca, làm sao huynh biết Hạ Tùy bày ra kế này để giết đệ?

Quách Tuân nói:

- Huynh đã hỏi đám người Vương Khuê, Triệu Luật, Lý Giản, biết rằng chuyện bắt loạn đảng trong Tào phủ có vấn đề. Vừa rồi huynh thấy đệ nghiến răng nghiến lợi, còn Hạ Tùy thì giả bộ say rượu. Huynh tổng hợp mấy cái này lại liền biết rõ mọi chuyện. Hạ Tùy muốn giết đệ, hắn cũng không thể biết chắc đệ có đoán ra được hay không, vì thế hắn muốn bố trí cái thòng lọng này để dẫn dụ đệ. Nếu đệ mắc câu thì rõ ràng chỉ có con đường chết. Nếu đệ không mắc câu, hắn sẽ cho rằng đệ không nhìn ra kẽ hở nên tạm thời sẽ không ra tay nữa.

Địch Thanh phẫn nộ nói:

- Hắn không ra tay thì sao chứ? Hắn muốn giết đệ, chẳng lẽ đệ cứ nhẫn nhịn như vậy sao?

Trên mặt Quách Tuân lộ vẻ thương tâm, một lúc lâu mới nói:

- Thực lực của đệ không đủ, không nhẫn nhịn thì có thể làm được gì chứ? Chẳng lẽ đưa đầu ra cho người ta thịt sao?

Địch Thanh thở ra một hơi, chậm rãi nói:

- Vâng, đệ…nhịn!

Hắn thầm nghĩ: “Loại chuyện không chứng không cứ này, mình đã liên lụy Quách đại ca quá nhiều nên không thể nhờ Quách đại ca giúp đỡ nữa, đã vậy rồi thì mình đành phải chờ cơ hội tiếp theo.”

Hắn chôn thù hận vào lòng, vẻ mặt trở nên bình tĩnh hơn. Phải hứng chịu uất ức nhiều năm, tên thôn quê lỗ mãng này đã được tôi luyện dần dần trở nên thâm trầm hơn.

Quách Tuân nhìn Địch Thanh một lúc rồi nói:

- Hãy theo huynh.

Y sải bước về phía trước, rồi lách vào một con đường, tìm quán rượu ngồi xuống.

Trời đông giá rét, quán rượu này đã sớm không còn người khách nào. Trong quán chỉ có một ngọn đèn dầu mờ nhạt như trăng, một lão già nhìn ngọn đèn, lẳng lặng chờ đợi. Có thể lão đang đợi khách, mà cũng có thể lão đang ngồi đời tuổi già qua đi. Người giống như lão đây, bây giờ xem ra chỉ có nước ngồi chờ đợi mà thôi.

Nghe tiếng bước chân, lão đứng dậy nghênh đón:

- Quách quan nhân, ngài đã đến. Như cũ sao?

Hóa ra ông lão này đã sớm quen biết Quách Tuân.

Trên mặt ông lão này có một vết sẹo dài cắ ngang qua hàng chân mày, dung mạo có chút quái dị, bị thọt một chân. Địch Thanh nhìn thấy bỗng nghĩ đến đại ca Địch Vân của mình, trong lòng liền nảy sinh đồng cảm với lão.

Quách Tuân gật đầu nói:

- Làm phiền lão Lưu. Muộn như vậy rồi mà còn mở cửa sao?

Nếp nhăn trên mặt của lão Lưu như đao khắc. Lão nghe vậy thì cười nói:

- Lão lo là ngài không đến làm phiền lão. Người già rất khó ngủ, hiếm khi có người tới đến đây nói chuyện với lão. Vị tiểu ca này là bạn của ngài sao?

Quách Tuân gật đầu nói:

- Ừ, hắn là Địch Thanh.

Lão Lưu "A" lên một tiếng rồi nhìn Địch Thanh đăm đăm, sau đó hỏi:

- Như cũ sao?

Quách Tuân gật đầu, đáp gọn lỏn:

- Hai phần.

Lão Lưu không nhiều lời nữa, bước tập tễnh tới hậu đường, lát sau đã bưng ra mấy đĩa đồ kho và hai bầu rượu. Sau đó, lão lặng lẽ rời đi, như thể đã thành thói quen.

Địch Thanh nhịn không được hỏi:

- Quách đại ca, huynh thường đến đây sao?

Quách Tuân gật đầu, nâng bầu rượu lên rót đầy chén. Y tự rót tự uống, vẻ mặt đăm chiêu, giống như đang suy nghĩ gì đó. Địch Thanh thấy Quách Tuân như thế, chợt có cảm giác như lão Lưu đang đợi Quách Tuân, do đó mới không chịu đóng cửa sớm. Rõ là Quách Tuân thường xuyên đến đây, Địch Thanh nhìn mấy đĩa đồ kho, một bầu rượu, nghĩ tới Quách Tuân uống rượu một mình trong đêm đông, lại cảm thấy Quách đại ca rất cô đơn và đầy tâm sự.

Nhưng chẳng phải Địch Thanh cũng đầy tâm sự sao? Hắn tự rót cho mình một chén rượu, nhấp một hớp thì cảm thấy miệng đắng chát.

Quách Tuân đặt chén rượu xuống, đột nhiên nói:

- Hôm nay trước khi tế tự, thiên tử vẫn quyết định dẫn văn võ bá quan đến điện Hội Khánh, trước là chúc thọ cho Thái Hậu, sau đó mới đến điện Thiên An tiếp nhận triều bái của triều thần.

Địch Thanh nhớ lại những lời trước đây mà Quách Tuân đã nói, nhíu mày hỏi:

- Lẽ nào Thái Hậu chuẩn bị xưng đế thật ư?

Quách Tuân tránh không đáp vấn đề này, nói tiếp:

- Trước đó vài ngày, Phạm Trọng Yêm và Tống Thụ đều bị cách chức đuổi khỏi kinh thành.

Địch Thanh lẩm bẩm:

- Đương nhiên là bởi vì bọn họ kiến nghị Thái Hậu trao trả triều chính cho thiên tử, nên mới chọc giận Thái Hậu đúng không? Tuy nhiên, chuyện này có quan hệ gì với đệ chứ?

Quách Tuân nhìn thẳng vào Địch Thanh, chậm rãi nói:

- Chuyện huynh sắp nói cho đệ biết lại có quan hệ rất lớn với đệ. Hạ Tùy vốn là người của Thái Hậu.

Trong đầu Địch Thanh bỗng có tia điện xẹt qua, nghẹn lời hỏi:

- Hắn rắp tâm muốn giết đệ cho bằng được, lẽ nào là vì chuyện Mã Trung Lập sao?

Quách Tuân nhấc chén rượu lên, trầm mặc không nói gì. Có đôi khi trầm mặc là thể hiện sự đồng ý.

Cuối cùng Địch Thanh đã hiểu rõ hết thảy ngọn nguồn, tim đập thình thịch.

Quách Tuân uống cạn chén rượu, nói tiếp:

- Vậy là đệ đã hiểu rồi, bản án của đệ mặc dù đã chấm dứt, nhưng chuyện đó vẫn chưa xong đâu. Hạ Tùy là người của Thái Hậu, lần này giết đệ quá nửa là trút giận cho Mã Quý Lương.

Ánh mắt y lấp lánh như có gì muốn nói nhưng lại thôi.

Địch Thanh không chú ý tới sự khác thường của Quách Tuân, tay cầm chén nổi rõ gân xanh, nói:

- Đệ đã hiểu....

- Đệ đã hiểu nhưng huynh lại có chuyện không hiểu.

Trong mắt Quách Tuân hiện lên vẻ uy nghiêm, trầm giọng hỏi:

- Sao đệ lại có bản lĩnh giết Tăng Trưởng Thiên Vương thêm lần nữa chứ?

Ánh mắt Quách Tuân sáng quắc nhưng Địch Thanh không thẹn với lương tâm, cười khổ nói:

- Đệ không biết.

- Đệ không biết?

Quách Tuân chau mày hỏi:

- Sao đệ lại không biết?

Địch Thanh do dự một lúc, sau đó thò tay vào trong ngực móc Ngũ Long ra đặt lên bàn, khó xử nói:

- Đệ thật sự không biết, Quách đại ca, đệ .... e rằng vật này đang tác quái.

Hắn căn bản không biết giải thích như thế nào và cũng cho rằng Quách Tuân sẽ không tin lời giải thích của mình. Không ngờ khi Quách Tuân nhìn thấy Ngũ long, đột nhiên sắc mặt biến đổi, thất thanh nói:

- Sao Ngũ Long lại ở trong tay đệ?

Vào thời khắc này, trong mắt Quách Tuân đầy vẻ kinh hãi, ngạc nhiên, còn có hoang mang vô tận, thậm chí xen lẫn cả hoảng sợ. Địch Thanh thấy thế thì khó hiểu, lắp bắp hỏi:

- Quách đại ca, huynh đã từng nhìn thấy vật này?

Một tiếng "rốp" vang lên, chén rượu trong tay Quách Tuân đã bị bóp nát, nhưng dường như y vẫn chưa biết, lẩm bẩm nói:

- Di Lặc sinh ra, tân Phật độ kiếp. Ngũ Long xuất thế, lệ rơi không ngừng! Ngũ Long này ..... thế là đã xuất thế. Chẳng lẽ... lời hắn nói là thật ư?

Địch Thanh thấy Quách Tuân lặp lại y như đúc lời của Đa Văn Thiên Vương năm đó thì sợ hãi nói:

- Quách đại ca, huynh sao thế?

Trong lòng lại nghĩ thầm: “Không biết ‘hắn’ mà Quách đại ca vừa nói là ai?”

Cuối cùng Quách Tuân phục hồi lại tinh thần, nhìn chòng chọc vào Ngũ Long trên bàn, thật lâu sau mới vươn tay ra, nhẹ nhàng đụng vào, trên mặt lại lộ ra vẻ hoang mang, nhỏ giọng hỏi:

- Địch Thanh, sao đệ lại có được viên Ngũ Long này?

Tuy Địch Thanh ngạc nhiên trước phản ứng của Quách Tuân nhưng hắn vẫn mang mọi chuyện xảy ra lúc trước kể lại một lần. Từ lâu hắn đã xem Quách Tuân như người thân, hắn đã giấu chuyện này rất lâu, trừ Quách Tuân ra thì hắn chưa từng nói cho ai khác biết.

Vẻ mặt Quách Tuân ngẩn ngơ, như là chăm chú lắng nghe, lại như là căn bản không nghe. Địch Thanh nói xong, thấy Quách Tuân như mất hồn mất vía, hắn hỏi:

- Quách đại ca, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Tất cả... là ảo giác của đệ? Hay là do Ngũ Long này thật sự...có điều quái dị?

Quách Tuân lấy lại bình tĩnh, chần chừ đáp:

- Ngũ Long này...vốn là vật của tiên đế.

Địch Thanh hoảng hốt hỏi:

- Đây là vật của Chân Tông?

Ánh mắt Quách Tuân rơi vào trong mờ mịt nhìn về phía ngọn đèn. Ngọn đèn lúc sáng lúc tối rọi vào làm sắc mặt Quách Tuân cũng thay đổi liên tục. Thật lâu sau, Quách Tuân mới nói nhỏ:

- Thật ra thì huynh cũng không dám khẳng định. Lúc tiên đế tại vị, huynh là Ngự Tiền thị vệ. Có một đoạn thời gian, huynh thấy ông ấy cả ngày cầm Ngũ Long này trầm ngâm không nói lời nào.

Địch Thanh trợn mắt há hốc mồm hỏi:

- Nếu là vật của tiên đế thì sao lại giấu ở trên thân tượng phật Di Lặc? Nếu là vật của tiên đế thì sao Đa Văn Thiên Vương có thể biết vật này giấu ở đâu? Bốn câu nói kia rốt cuộc là có ý gì? Quách đại ca, huynh biết được những gì hãy nói cho đệ đi?

Quách Tuân thở dài nói:

- Thật lòng huynh cũng hy vọng mình có thể biết.

Y lại có chút buồn bã, đột nhiên tóm lấy tay Địch Thanh, khẩn thiết nói:

- Địch Thanh, huynh chỉ biết Ngũ Long này là vật chẳng lành. Đệ hãy vứt nó đi, được không?

Địch Thanh ngẩn ra, ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao?

Hắn chưa bao giờ cảm thấy Ngũ Long có gì chẳng lành. Ngược lại, ở trong suy nghĩ của hắn, Ngũ Long đang không ngừng giúp hắn.

Khóe miệng Quách Tuân giật giật, trong mắt hiện ra vẻ xót xa khó nói nên lời, hồi lâu mới đáp:

- Đệ đừng hỏi, huynh cũng không biết.

Địch Thanh chồm tới chụp lấy Ngũ Long, lắc đầu nói:

- Quách đại ca, đệ không thể vứt nó đi, huynh đừng bức đệ!

Thân thể Quách Tuân chấn động, bỗng nhiên đứng bật dậy, cả người run rẩy, ánh mắt trở nên cực kỳ sắt bén, thậm chí còn kèm theo mấy phần dữ tợn.

Địch Thanh nhìn thấy vẻ mặt đáng sợ của Quách Tuân, trong nhất thời cũng thay đổi sắc mặt.

Ánh đèn lập lòe, cơ nhục trên mặt Quách Tuân hơi co giật, trầm giọng nói:

- Vì sao đệ không chịu vứt nó đi?

Trong sự thống khổ của y còn xen lẫn bất an, đã mất đi sự bình tĩnh thường ngày.

Địch Thanh nói rành mạch từng chữ:

- Nếu không nhờ nó, lúc đó đệ đã chết trong tay Tăng Trưởng Thiên Vương rồi!

Quách Tuân chấn động, đột nhiên khôi phục lại tỉnh táo, chậm rãi ngồi xuống, lẩm bẩm:

- Nếu đệ không có nó...nói không chừng...

Y nhìn thấy Địch Thanh đầy kích động, cuối cùng thở dài một hơi, không nói gì thêm nữa.

Địch Thanh thấy kỳ lạ, thầm nghĩ: “Quách đại ca muốn nói điều gì? Nếu mình không có nó, nói không chừng cái gì?”

Quách Tuân nhấc bầu rượu lên, chậm rãi rót đầy chén rượu, dần dần bình tĩnh trở lại. Y thầm nhủ: "Ngũ Long lại xuất thế, lẽ nào lời tiên đoán của người đó là thật ư? Nếu là thật, thì Địch Thanh có bị sao không? Với mình, Ngũ Long là tai họa, nhưng trong cảm nhận của Địch Thanh thì sao? Mấy năm nay, tinh thần đệ ấy sa sút chán nản, hiếm khi thích vật nào đó, mình sao đành tâm mà bảo đệ ấy vứt nó đi chứ? Đại Tướng Quốc Tự bị hủy, tượng phật Di Lặc hư hại, Thái Hậu tức giận thì ra là vì viên Ngũ Long này. Thái Hậu đã biết những gì? Đa Văn Thiên Vương rốt cuộc là ai? Làm sao hắn biết được tung tích của Ngũ Long? Tại sao Bất Không của Thổ Phiên cũng muốn có được Ngũ Long?”

Tất cả những chuyện đó đã trở thành khúc mắc khó giải ở trong lòng Quách Tuân!

Hồi lâu sau Quách Tuân mới nói:

- Tín thần của Tiên đế, năm xưa chuyện cả nước tín thần tu đạo, có lẽ đệ cũng biết?

Địch Thanh gật đầu:

- Đó là chuyện cười xảy ra nhiều năm trước. Cho dù chúng đệ ở thôn quê, cũng đều nói Chân Tông rất hồ đồ, lừa mình dối người.

Quách Tuân mỉm cười nói:

- Năm xưa tiên đế nói trời ban điềm lành, thần tiên truyền thụ cho ông ấy Thiên Thư, quả thật có rất nhiều người không tin. Nhưng dù sao tiên đế vẫn là quân vương, nếu không có chút kỳ dị thì sao ông ta lại si mê đến thế? Huynh biết, Ngũ Long này chính là vật mà thần cho ông ta.

Địch Thanh run rẩy:

- Thần? Có thần thật sao? Sao có thể chứ?

 Chương 64 - 68: Vũ Thường

Quách Tuân không đáp, tiếp tục nói:

- Thái Hậu cũng không tin những gì Chân Tông nói, vả lại còn cực kỳ căm ghét Thiên Thư gì đó của Chân Tông. Sau khi Chân Tông tạ thế, Thái Hậu đem tất cả những thứ thuộc về Chân Tông phong kín vào trong lăng Vĩnh Định. Lúc đầu huynh cũng tưởng Ngũ Long cũng được cất giấu vào lăng Vĩnh Định, giờ nghe đệ nói, huynh mới biết được năm đó Thái Hậu giấu Ngũ Long trong tượng phật Di Lặc. Không ngờ ý trời sâu xa, đệ đánh bậy đánh bạ mà lại có được nó.

Địch Thanh hỏi:

- Vậy bốn câu "Ngũ Long xuất thế" kia, nghĩa là gì?

Quách Tuân nói:

- Đây vốn là lời của một vị ẩn sĩ. Năm đó, Thái Hậu từng đem chuyện Ngũ Long hỏi vị ẩn sĩ kia, ẩn sĩ đó liền đọc ra bốn câu Kê này. Cụ thể có ý gì, e rằng trừ vị ẩn sĩ đó ra, không ai biết được.

(Kê: lời hát trong kinh Phật)

- Ẩn sĩ đó là ai?

Quách Tuân trầm mặc một lúc rồi nói:

- Y là Thiệu Ung, nghe đâu y là đồ tôn của Trần Đoàn, được chân truyền từ Lý Chi Tài đệ tử của Trần Đoàn.

Địch Thanh hỏi:

- Trần Đoàn? Chính là vị thần tiên luận cờ với Thái Tổ ở Hoa Sơn sao?

Quách Tuân gật đầu nói:

- Đúng vậy, đồn rằng Trần Đoàn giống như thần tiên đó. Năm xưa, Thái Tổ nhờ được Trần Đoàn chỉ điểm nên mới có thể từ một tên cấm quân tầm thường lập nên nghiệp lớn, cùng với Thái Tông dựa vào bốn nắm tay và hai côn đánh hạ bốn trăm quân châu của Đại Tống.

Thấy Địch Thanh muốn nói lại thôi, Quách Tuân hỏi:

- Đệ có lời gì muốn nói sao?

Địch Thanh ngập ngừng nói:

- Năm xưa, thuật sĩ xem mệnh cho mẹ đệ, cũng chính là Trần Đoàn.

Quách Tuân chấn động, thất thanh hỏi:

- Trần Đoàn nói mẹ đệ có thể sinh ra được tể tướng?

Địch Thanh gật đầu, trầm mặc một lúc rồi nói:

- Điều này chỉ là nói bậy nói bạ thôi, rõ ràng không thể coi là đúng được. Đệ là cái gì chứ? Sao lại có số mạng làm tể tướng chứ?

Quách Tuân chuyển qua Ngũ Long đầy phức tạp, hình như đang suy nghĩ gì đó, hồi lâu mới nói:

- Có lẽ đây là ý trời a...

Địch Thanh không hiểu hỏi:

- Quách đại ca, huynh nói cái gì là ý trời vậy?

Quách Tuân cười gượng nói:

- Ý trời cho đệ có được Ngũ Long, nhưng nếu đệ không vứt nó đi, sau này đừng có hối hận.

Trong vẻ mặt trầm trọng của y còn mang theo phần bất đắc dĩ, nhưng không khuyên Địch Thanh vứt bỏ Ngũ Long nữa.

Địch Thanh nghiêm giọng nói:

- Chuyện đệ làm, đệ tuyệt đối không hối hận.

Quách Tuân chậm rãi đứng dậy, cõi lòng đầy tâm sự, thở dài một hơi, nói:

- Huynh có việc phải làm, xin đi trước. Lần này, đệ không đến giết Hạ Tùy, chắc hắn nghĩ đệ không nhìn thấu tâm tư của hắn nên tạm thời sẽ không ra tay với đệ nữa. Đệ nên cẩn thận nhiều hơn, trước mắt sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu.

Địch Thanh thấy Quách Tuân sắp đi, bỗng nghĩ tới một chuyện, vội hỏi:

- Quách đại ca, vậy lời Kê đó trừ Thái Hậu và huynh ra, còn có ai khác biết không?

Quách Tuân trầm ngâm một lát rồi lắc đầu nói:

- Chắc không có đâu.

Ánh mắt Địch Thanh lóe lên, nói rõ ràng từng chữ:

- Nếu lời Kê kia trừ huynh và Thái Hậu ra không còn có ai biết. Vậy sao Đa Văn Thiên Vương lại biết được? Dĩ nhiên, bí mật này huynh và Thái Hậu sẽ không nói cho Đa Văn Thiên Vương biết, chẳng lẽ… là Thiệu Ung nói cho hắn biết sao?

Hắn phát hiện ra điểm nghi vấn liền hưng phấn nói:

- Có lẽ chúng ta có thể tra ra được tung tích của Đa Văn Thiên Vương từ trên người Thiệu Ung.

Quách Tuân thở dài nói:

- Thiệu Ung là kỳ nhân ẩn sĩ, không có nơi ở cố định, muốn tìm ra y, dễ lắm sao? Nhưng huynh nghĩ quá nửa là không phải do hắn nói, chắc có lẽ là...

Ánh mắt y lóe sáng, dường như nhớ ra chuyện gì đó, song lại không nói tiếp, thoắt cái đã hòa mình vào trong bóng đêm mịt mù.

Địch Thanh trầm tư suy nghĩ mãi nhưng vẫn không tìm ra điểm mấu chốt, thầm nghĩ: “Theo như lời Quách đại ca nói, Thiệu Ung sẽ không nói ra bí mật này. chắc chắn Quách đại ca cũng sẽ không nói, biết rõ bí mật này chỉ còn có Thái Hậu, nhưng dĩ nhiên Thái Hậu cũng sẽ không nói!”

Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh chợt thấy rất đau đầu. Hắn lặng lẽ đặt xuống bàn chút bạc vụn rồi rời khỏi quán rượu. Lão Lưu cũng không có đi ra, dường như đã ngủ rồi.

Đêm đã khuya, ánh trăng mờ nhạt.

Địch Thanh bước lững thững trên đường suy nghĩ về lời của Quách Tuân hôm nay, hằng hà bí ẩn, muôn vàn suy tư.

Lơ đãng ngẩng đầu lên mới phát hiện đã đến gần ngõ Mạch Kiết lúc nào không hay. Hắn cảm thấy ngỡ ngàng, rốt cuộc vẫn không quên được nàng, nhưng hôm nay vừa từ biệt nàng xong, còn nói ra lời tuyệt tình đến thế, sau này còn mặt mũi nào mà gặp nàng chứ?

Nghĩ vậy nhưng Địch Thanh vẫn đi tới ngõ hẻm đó. Còn chưa đến gần cửa ngõ, hắn đã phát hiện có ai đó đang đứng trước cây mai kia, tim không khỏi loạn nhịp. Có tiếng ‘rốp rốp’ vang lên dồn dập từ phía gốc mai, hắn vốn tưởng là tiếng tim mình đập nhanh, nhưng khi nghe kĩ thì phát hiện ra đây là tiếng chặt cây mai của người đó.

Địch Thanh giật mình kinh hãi, vội vàng chạy tới thì thấy người đang chặt mai không phải là người trong mộng của hắn mà là nha hoàn Nguyệt nhi của nàng. Mặc dù Nguyệt nhi nhìn có vẻ gầy yếu nhưng sức lực cũng không kém, theo tiếng ‘rốp rốp’ vang lên không dứt, tuyết đọng bị chấn rơi xuống ào ào, vụn gỗ bay tứ tung.

Địch Thanh vội hỏi:

- Này, cô đang làm gì thế?

Nguyệt nhi đang chặt cây hết sức tập trung, do đó không để ý sau lưng có người đến gần. Nàng giật mình hét lên một tiếng sợ hãi rồi bỗng xoay người bổ một búa về phía Địch Thanh! Địch Thanh bắt lấy cổ tay nàng, quát:

- Cô có bị khùng không đó, sao vừa gặp tôi đã chém?

Nguyệt nhi nhận ra Địch Thanh thì vùng mạnh mấy cái. Địch Thanh sợ nàng sẽ đánh tiếp nên không dám buông tay. Nguyệt nhi vùng ra không được, bỗng hé miệng phun một ngụm nước bọt vào mặt Địch Thanh.

Địch Thanh cuống quýt lui về phía sau, giận dữ nói:

- Sao cô ngang ngược không nói lý lẽ gì cả? Ta là Địch Thanh đây!

Nguyệt nhi cười lạnh:

- Ta biết rõ ngươi là Địch Thanh đó, sao ngươi còn chưa đi chết đi?

Địch Thanh thấy nàng tức giận đến nỗi nghiến răng nghiến lợi, không khỏi rất đỗi kỳ quái:

- Ta..ta có mạo phạm gì cô đâu? Chuyện lúc trước, không phải ta đã nhận lỗi rồi sao?

Trong suy nghĩ của hắn, lúc trước đụng ngã nàng, hắn đã dùng hoa để xin lỗi. Trừ chuyện đó ra, hắn tự nghĩ mình không hề chọc giận Nguyệt nhi này thêm lần nào.

Nguyệt nhi mắng:

- Tên lừa gạt nhà ngươi, tiểu thư bˠngươi hại chết rồi, vậy mà ngươi còn buông lời châm chọc?

Địch Thanh giật mình, hỏi gấp:

- Tiểu thư nhà cô làm sao?

Nguyệt nhi la lên:

- Không phải ngươi nói muốn rời kinh thành, không bao giờ trở về nữa hay sao? Tiểu thư nghe vậy rất thương tâm, khóc cả ngày, giờ đã ngã bệnh, tên chết tiệt nhà ngươi hài lòng rồi chứ? Ngươi đụng ngã tiểu thư thì thôi đi, sao còn lại tặng Phượng Cầu Hoàng cho nàng?

Địch Thanh ngạc nhiên hỏi:

- Phượng Cầu Hoàng gì?

Nguyệt nhi lập tức vung búa bổ tới:

- Đến giờ mà ngươi vẫn không thừa nhận sao?

Lòng rối như tơ vò, Địch Thanh vội vàng tránh sang một bên, hô to:

- Cô đừng có hở một cái là đánh đánh đấm đấm, ta thấy cô là nữ giới nên mới không đánh trả, cô đừng tưởng rằng ta sợ cô. Cô muốn ta thừa nhận thì cũng phải nói cho ta rõ chứ, uy hiếp người khác thừa nhận là không đúng tí nào.

Nguyệt nhi quát lên:

- Bồn hoa lúc trước ngươi tặng cho tiểu thư nhà ta, không phải là Phượng Cầu Hoàng sao? Ngươi đừng có nói rằng, ngươi không có tặng nha.

Địch Thanh giật mình, không ngờ chậu hoa đó lại có cái tên lịch sự tao nhã đến như vậy. Lúc đó, hắn chỉ muốn thể hiện lời xin lỗi của mình, đâu có biết tên của loài hoa này. Tuy hắn ít đọc sách nhưng vẫn biết chút ít ý nghĩa của Phượng Cầu Hoàng. Nếu khi đó hắn mà biết tên nó như vậy thì cho dù có bị đánh chết, hắn cũng không dám tặng. Bây giờ biết rồi, trong lòng vừa chua xót vừa có chút ngọt ngào. Giờ hắn mới hiểu được tại sao lúc nàng cám ơn hắn tặng hoa thì có chút ngượng ngùng.

Nguyệt nhi nói:

- Ngươi tặng hoa cho tiểu thư nhà ta cũng không vấn đề gì, nhưng ngươi không nên bắt cá hai tay, tặng hoa cho nàng này rồi còn đến nơi bướm hoa vui vẻ với nàng khác. Hơn nữa, còn vì một nữ nhân mà đánh nhau với người ta.

Địch Thanh không thể không giải thích:

- Thật ra, ta không phải vì nữ nhân.

Nguyệt nhi bĩu môi:

- Không phải nữ nhân, chẳng lẽ vì nam nhân sao?

Địch Thanh khó lòng giải thích rõ ràng:

- Nguyệt nhi cô nương, mong cô hãy tin ta, ta đến đó không phải vì ca cơ đâu.

Nguyệt nhi nói:

- Ta tin ngươi làm gì? Chỉ có tiểu thư nhà ta mù quáng, không ngờ lại tin ngươi vô tội. Tiểu thư nói ngươi nhất định có nỗi khổ trong lòng, cảm thấy ngươi không phải là người xấu. Ngươi ở trong lao ngục hơn nửa năm thì nàng cũng lo lắng cho ngươi hơn nửa năm. Quê của chúng ta có một tập tục là khi thả diều vẽ Hồng Chủy Ngọc lên thì có thể cầu phúc cho người khác, nghĩ gì được nấy. Ngươi ở trong lao ngục hơn nửa năm, tiểu thư nhà ta thả diều hơn nửa năm để cầu may cho ngươi.

Địch Thanh ngẩn người, giọng nói run rẩy trong gió:

- Cô nói thật chứ?

Rồi chợt nhớ lại lúc gặp nàng, nàng có nói cái gì mà: "Thì ra...", rõ ràng là định nói ...“Thì ra tập tục là thật”.

Nguyệt nhi cười lạnh:

- Ngươi đừng giả vờ giả vịt nữa. Dù lời ta nói là thật đi chăng nữa, nhưng đó là do tiểu thư nhà ta có lòng tốt, không phải có tình ý gì với ngươi hết.

Địch Thanh chỉ có thể nói:

- Cô nương nói rất đúng. Nhưng ta... cũng lấy diều giúp tiểu thư nhà cô...mà.

- Lấy diều là giỏi lắm sao?

Nguyệt nhi hỏi vặn lại.

Địch Thanh chột dạ trả lời:

- Cũng không phải giỏi gì, ta cũng không biết, thật sự không biết...

- Ngươi chỉ biết đi tìm chết thôi đúng không?

Nguyệt nhi châm chọc:

- Nếu cái gì ngươi cũng không biết, tại sao lại đợi suốt mấy ngày ở ngõ Mạch Kiết, bộ dạng thì như thất hồn lạc phách?

Địch Thanh cả kinh, ngượng ngùng hỏi:

- Làm sao cô biết?

Nguyệt nhi cười khẩy:

- Có cái gì mà ta chẳng biết? Ngươi dám thề rằng mấy ngày nay ngươi quanh quẩn ở ngõ Mạch Kiết không phải đợi tiểu thư nhà ta không?

Đôi mắt Nguyệt nhi như băng, lạnh lùng nhìn Địch Thanh.

Địch Thanh không trốn tránh nữa, ưỡn ngực đáp:

- Đúng vậy, ta đợi tiểu thư nhà cô đó. Ta không biết lượng sức mình, nhưng ta đi loanh quanh ngõ Mạch Kiết thì có gì là sai chứ?

- Ngươi không sai sao?

Nguyệt nhi bất mãn nói:

- Ngươi không thấy tiểu thư nhà ta đến, chẳng lẽ không thể tự mình đi tìm nàng sao? Nàng nhìn thấy máu liền chóng mặt, nhưng lại băng bó vết thương cho ngươi. Nàng sợ lạnh nhất, nhưng lại đứng chờ ngươi mấy lần. Nàng làm cho ngươi nhiều như vậy, vậy mà ngươi ngay cả một tí xíu cũng không cảm nhận được? Nàng chủ động tới tìm ngươi, chủ động nhắn tin cho ngươi, ngươi giỏi lắm, được thế bắt đầu chảnh, mấy đêm liền không thèm tới, cũng không biết ngươi là bò ngốc hay là ngốc như bò đây?

Địch Thanh nghe vậy thì vô cùng kích động, hận không thể tát mình mấy cái, vội mở miệng giải thích:

- Ta thực sự bận việc mà, cô xem, ta bị thương đây này. Mấy đêm nay, đêm nào cũng phải đi tuần, suýt tí nữa thì toi mạng rồi.

- Chết thì hay lắm sao?

Nguyệt nhi đốp chát lại.

Địch Thanh lúng túng nói:

- Ơ! Cái này cũng không có gì hay, nhưng lúc đó thật sự ta tới không được.

- Vậy lần cuối cùng ngươi đến đây, tại sao lại tuyệt tình như vậy?

Nguyệt nhi cười nhạt hỏi:

- Ngươi cho rằng ngươi có lí do chính đáng ư? Ngươi cho rằng tiểu thư nhà ta phải chịu đựng bị ngươi ức hiếp sao? Có lẽ ngươi chỉ là tên bịp bợm? Nếu ngươi đã đi rồi vì sao sao đêm nay còn đến đây?

- Nguyệt nhi cô nương, ta thật sự có nỗi khổ trong lòng. Ta biết đây đều là lỗi của ta, cô đánh ta cũng được, mắng ta cũng được, nhưng ta chỉ xin cô dẫn ta đến gặp tiểu thư nhà cô, ta sẽ giải thích rõ mọi chuyện với nàng. Nàng tha thứ cho ta cũng được, hận ta cũng không sao, ta đều cảm kích cô vô cùng.

Vốn tưởng rằng cô nàng Nguyệt nhi cay nghiệt này sẽ không dẫn hắn đi, ai dè Nguyệt nhi nhìn hắn một lúc, cuối cùng thở dài:

- Được rồi, ta dẫn ngươi đi. Mong rằng lần này ngươi đừng có khiến cho người ta thất vọng.

Địch Thanh được Nguyệt nhi đồng ý thì vừa mừng vừa lo, thấy Nguyệt nhi xách búa đi trước dẫn đường thì lại thầm run sợ. Hai người băng qua ngõ Mạch Kiết, đến trước cửa son mà lần trước cô gái ấy đi vào, nhưng lại không đi vào mà tiếp tục đi qua. Nguyệt nhi dẫn Địch Thanh vào bằng cửa hông, đi qua hành lang xuyên sân vườn, cuối cùng đến trước một căn phòng thì dừng lại. Nàng nói nhỏ:

- Tiểu thư nhà ta chủ yếu ở đây, ngươi vào gặp đi. Có lẽ nàng còn đang ngủ đó, ngươi nhẹ nhàng một chút.

- Cô không vào sao?

Địch Thanh đổ mồ hôi hột hỏi.

Nguyệt nhi trả lời:

- Ta mệt rồi, chẳng lẽ ngươi không thể để cho ta nghỉ một chút sao?

Địch Thanh hơi chần chừ hỏi:

- Đây là khuê phòng của tiểu thư nhà cô sao? Làm sao ta có thể vào chứ?

- Nếu ngươi thật lòng muốn gặp nàng, cho dù núi đao biển lửa cũng phải xông vào, nói chi là khuê phòng!

Địch Thanh thầm nghĩ: “Sao mà giống được chứ? Vì nàng, dù núi đao biển lửa mình cũng không sợ, nhưng khuê phòng thì khác”.

Thấy hắn còn định nói thêm gì đó, Nguyệt nhi sầm mặt nạt:

- Bà ta ơi! Mẹ ta ơi! Thật không phải là đàn ông mà. Ngươi không vào đúng không? Vậy thì theo ta đi ra ngoài!

Địch Thanh vội nói:

- Ta vào, ta vào.

Vừa định lên tiếng trước, Nguyệt nhi ngăn lại:

- Tiểu thư có lẽ đang nghỉ ngơi, ngươi đừng đánh thức nàng.

Dứt lời liền xoay người rời đi.

Địch Thanh rất khó xử, không đoán được tâm tư của cô nàng Nguyệt nhi này.

Nhìn thấy trong sương phòng hắt ra ánh đèn nhàn nhạt, hắn bỗng cảm thấy nghi hoặc trong lòng. Mấy ngày nay hắn luôn chìm trong mưu mô tính kế, nên giờ đột nhiên có suy nghĩ này: “Chẳng lẽ đây là một cái bẫy, nếu không thì sao Nguyệt nhi lại để một người xa lạ như mình đến gặp tiểu thư nhà nàng?”

Nhưng ngay sau đó hắn lại cười chua xót, thầm nhủ: “Địch Thanh à Địch Thanh, ngươi coi ngươi là cái gì chứ, đáng để bọn họ bày bố ra cái bẫy này hay sao? Cho dù là bẫy thật, nhảy vào cũng có sao?”

Địch Thanh đắn đo suy nghĩ, cuối cùng cố lấy can đảm đẩy cửa phòng ra, lai phát hiện trong phòng vắng vẻ trống trải, chỉ có một ngọn đèn mờ ảo.

Phòng này rộng lớn như vậy, thực sự là khuê phòng ư?

Đứng ở trong phòng một lát, Địch Thanh mới phát hiện nơi này còn có cửa hông, hắn chậm rãi đi tới đẩy cửa phòng ra lại thấy nơi này hương khói lượn lờ, nàng đang đứng yên trước bàn thờ, mặt đối điện với một linh vị, lưng đưa về phía Địch Thanh.

Địch Thanh cảm thấy có chút không tiện, vừa định rời đi thì cô gái nghe thấy sau lưng có tiếng động liền buồn bã hỏi:

- Tiểu Nguyệt, em về rồi sao?

Địch Thanh khó xử, trong lúc nhất thời không biết nói gì cho phải.

Thiếu nữ kia chỉ cho là Tiểu Nguyệt đến nên cũng không quay đầu lại, nói tiếp:

- Than ôi, cổ tay huynh ấy bị thương, vết thương còn chưa được băng bó, cũng không biết đã đỡ hơn chưa. Nhưng ta sẽ không còn được gặp huynh ấy nữa rồi.

Sống mũi Địch Thanh cay cay nhưng hắn vẫn đứng lặng yên nhìn nàng, trong lòng dâng trào cảm xúc.

Im lặng một lúc, nàng lại nói tiếp:

- Tiểu Nguyệt, em nói xem, có phải ta rất ngốc đúng không? Ta chỉ gặp huynh ấy một lần, chỉ nhận một chậu hoa mà huynh ấy tặng, nhưng chẳng biết tại sao, lần đầu tiên gặp nhau, ta đã cảm thấy trong lòng huynh ấy chất chứa đầy tâm sự và ưu sầu, giống hệt như ta vậy. Lúc trước ta vốn không tin chuyện vừa gặp đã thương, nhưng sau này ta đã tin, em còn cười ta ngây ngơ. Trước đây, em nói huynh ấy tranh đoạt tình nhân với Mã Trung Lập, không phải là đàn ông tốt, ta còn trách mắng em, nói huynh ấy không phải là hạng người này, ta và em còn đánh cuộc với nhau, ta nói huynh ấy không phải hạng người này! Em thua, có phải không?

Nàng nở một nụ cười như có như không, nói tiếp:

- Hóa ra thả diều Hồng Chủy Ngọc thật sự có thể thực hiện được tâm nguyện của con người. Thì ra người tốt cuối cùng cũng được báo đáp. Huynh ấy bình an rồi, ta mừng ghê lắm, nhưng huynh ấy thật sự thích ta sao? Suốt mấy ngày nay, huynh ấy quanh quẩn trong gió tuyết nơi ngõ Mạch Kiết, có phải là đang chờ ta hay không? Tiểu Nguyệt, em biết không, đến tận bây giờ, ngoài mẫu thân và em ra, chưa từng có ai quan tâm ta đến thế, ta rất vui em ạ. Ta nghe huynh ấy kể lại chuyện xưa thì mới biết được thì ra huynh ấy cũng giống như ta, đều mất mẫu thân từ lúc còn rất bé, huynh ấy vì đại ca nên mới tòng quân, vì bình định phản loạn nên mới bị thương. Lúc nào huynh ấy cũng bị thương, thật là làm cho người ta lo lắng. Lần trước ta đã băng vết thương cho huynh ấy, nhưng lần này tại sao huynh ấy lại quyết rời đi chứ? Ta biết huynh ấy gặp chuyện khó xử và không muốn làm cho ta buồn, nhưng huynh ấy không biết sao? Huynh ấy không nói ra thì càng làm ta buồn hơn!

Đột nhiên nàng rủ xuống mặt bàn, nấc lên từng tiếng nghẹn ngào. Địch Thanh ứa nước mắt, không thể thốt nên lời.

- Mẫu thân, huynh ấy...đi...đi thật rồi, không bao giờ...trở về…nữa. Con biết, biểu hiện của huynh ấy lúc đó đã nói cho con biết hết thảy. Mẫu thân, lúc đó con rất muốn nói rằng, con muốn phiêu bạt khắp chân trời góc bể với huynh ấy, nhưng con làm sao có thể? Con đành phải trơ mắt nhìn huynh ấy rời đi. Trong khoảnh khắc đó, mẹ có biết trái tim con tan nát rồi không... Mẫu thân, con không cầu gì cả, chỉ cầu mong mẹ ở trên trời có linh thiêng phù hộ cho huynh ấy…bình an...

Trong lúc nghẹn ngào khôn xiết, nàng cảm thấy có bàn tay vuốt nhẹ lên mái tóc, liền xoay người ôm lấy, thút thít:

- Tiểu Nguyệt...

Rồi đột nhiên cảm giác không phải, nàng lập tức buông tay lùi bước, nhìn thấy là Địch Thanh, thân hình yêu kiều của nàng loạng choạng mấy cái, như thể sắp ngất xỉu.

Lần này thì Địch Thanh đã có thể mấp máy bờ môi, run rẩy nói:

- Ta...

Nghe cô gái bày tỏ tấm lòng, hắn đã sớm xúc động khó tả, tuy có rất nhiều lời muốn nói, nhưng không thốt nổi một từ nào. Cô gái kêu nhỏ một tiếng, lại nhào vào lòng Địch Thanh. Hai người ôm chặt lấy nhau, không nói thêm lời nào. Có lẽ ở trong lòng hai người bây giờ không lời còn giá trị hơn ngàn lời, im lặng còn giá trị hơn cả nói!

Bóng tối vắng lặng hiền hòa, trong không kh phảng phất mùi hương thơm dìu dịu. Địch Thanh ôm lấy thân thể ấm áp và mềm mại trong lòng, nhất thời không biết thân đang ở nơi đâu, nhất thời quên tất cả vinh nhục xót xa.

Không biết qua bao lâu, cô gái nhẹ nhàng đẩy Địch Thanh ra, thụt lùi hai bước, mặt lộ vẻ thẹn thùng hỏi:

- Không phải huynh đã đi rồi ư? Sao còn trở về đây? Tiểu Nguyệt, em đang ở đâu?

Cô gái thầm nghĩ, Địch Thanh tuyệt đối không có can đảm đến đây một mình, nhất định là do nha đầu Tiểu Nguyệt ấy dẫn đến.

Ngoài cửa không có ai trả lời, nàng đỏ mặt, vân vê góc áo nói:

- Địch Thanh...huynh...

Địch Thanh áy náy:

- Huynh...thật không biết nói gì nữa, huynh không biết muội đối với huynh như thế, nếu sớm biết...

Thấy đôi mắt trong trẻo như nước biếc của nàng đang nhìn mình, Địch Thanh nhấc tay định vả vào mặt.

Cô gái dịu dàng nắm chặt lấy bàn tay Địch Thanh, nhỏ giọng:

- Muội biết huynh nhất định có điều khó nói.

Địch Thanh đột nhiên phát hiện rằng, mọi chuyện đã không cần phải giải thích gì nữa, nàng chẳng những có dung mạo thoát tục mà còn khéo hiểu lòng người.

Hắn cảm khái:

- Nhưng dù cho huynh có chuyện gì khó nói đi chăng nữa, cũng không nên đối xử với muội như vậy.

Nước mắt nàng lăn dài từ vành mắt xuống khóe miệng tạo thành một đường cong mỹ lệ:

- Huynh nghĩ rằng, dù có nói cho muội đi nữa thì cũng vô dụng thôi, trái lại càng làm cho muội thêm khó xử, đúng không?

Trước đây, Địch Thanh quả thực nghĩ như thế nên thở dài:

- Lúc đó huynh chỉ muốn trả thù, tưởng rằng không thể lui được nữa nên mới nghĩ đến sau khi ra tay sẽ rời khỏi kinh thành, từ nay về sau lưu lạc nơi chân trời góc bể. Dĩ nhiên...cũng có thể bỏ mạng nơi đầu đường, kết cục là cái chết.

Thân thể mềm mại của nàng khẽ run, đôi mắt xinh đẹp nhìn Địch Thanh hỏi:

- Vậy bây giờ thì sao?

Địch Thanh cười khổ:

- Bây giờ suy nghĩ lại, một số việc dường như vẫn có thể nhẫn nhịn được.

Cô gái khẽ khàng nói:

- Đúng vậy, trên đời này có một số việc, ban đầu nhìn thì khó mà nhẫn nhịn, nhưng sau này ngẫm lại, cũng không đáng một nụ cười. Địch Thanh, huynh hãy hứa với muội, sau này làm việc gì cũng phải nghĩ kỹ nhé?

Địch Thanh không chút do dự nói:

- Huynh hứa với muội!

Nàng nở nụ cười tươi tắn, rồi thân hình bỗng loạng choạng, đưa tay xoa trán.

Địch Thanh vội vàng đỡ lấy nàng:

- Muội sao thế?

Cô gái nói:

- Muội...không sao cả.

Lúc này Địch Thanh mới chợt nhớ Nguyệt nhi có nói nàng đang sốt, liền ân cần dặn dò:

- Nếu muội cảm thấy không khỏe thì trở về nghỉ ngơi đi.

Nàng vốn định gật đầu nhưng rồi mặt lại ửng đỏ, lắc đầu:

- Không, muội vẫn còn muốn ngồi đây một chút nữa, huynh ngồi cùng muội được không?

Địch Thanh không nỡ từ chối liền gật đầu đồng ý. Hắn quay đầu nhìn linh vị, trông thấy bên trên có khắc "Hiển (1) tỷ Dương môn Bạch thị linh vị", thầm nghĩ: “thì ra nàng họ Dương”.

Nàng thấy Địch Thanh nhìn linh vị, thầm thì:

- Đó là linh vị của vong mẫu (2).

Địch Thanh nghe vậy, kính cẩn thi lễ thật sâu với linh vị kia, trong lòng mặc niệm: “Bá mẫu, tại hạ Địch Thanh, may mắn gặp gỡ lệnh thiên kim, chỉ cầu người phù hộ nàng bình an hạnh phúc, Địch Thanh được nàng xem trọng, nhất định không phụ thâm tình của nàng.”

Nhiều năm qua, tinh thần Địch Thanh sa sút, buồn bực không vui, đột nhiên biết được tình cảnh của nàng cũng giống như hắn, lại còn thâm tình với hắn đến thế thì sớm đã không kềm lòng được. Nhiều ngày quanh quẩn ở ngõ Mạch Kiết, Địch Thanh không ngờ rằng tình ý đã sớm đâm chồi trong lòng.

Sau khi bái linh vị xong, Địch Thanh mới nhớ ra mình vẫn chưa hỏi tên nàng. Lúc trước thì ngượng ngùng, sau này thì mặc cảm, đợi đến khi quen nhau hơn thì lại sắp ly biệt, cần gì phải hỏi nữa? Cho nên đến bây giờ, Địch Thanh vẫn chưa biết tên nàng, trong sự ngọt ngào cũng mang theo ít nhiều áy náy.

Cô gái thấy Địch Thanh rất kính trọng với vong mẫu của mình thì trong lòng vui sướng, nhưng nhìn thấy hắn trầm tư nên hỏi:

- Huynh nghĩ gì thế?

Địch Thanh lắc đầu trả lời:

- Cũng không có gì, huynh đang nghĩ tới việc đến tận bây giờ mà vẫn chưa biết tên muội, cảm thấy có phần thất lễ quá.

Cô gái nhoẻn miệng cười:

- Thất lễ quá sao? Cũng không hẳn vậy đâu! Nhưng nếu mẹ muội còn sống, có lẽ sẽ nói rằng: “Vũ Thường à, sao con có thể quen biết nam nhân hồ đồ này chứ?”

Địch Thanh nghe cô gái hờn dỗi thì thẹn đỏ cả mặt, ngập ngừng:

- Hóa ra muội tên là Dương...

Hắn đang cân nhắc xem rốt cuộc tên nàng là Vũ Thường(Vũ: mưa) hay là Vũ Thường(Vũ: lông) hay là chữ gì khác thì đột nhiên nàng đứng dậy, nhẹ nhàng múa một điệu rồi nói:

- Chẳng lẽ huynh không biết 《 Nghê Thường Vũ Y Khúc 》(3) sao?

Nhìn điệu múa uyển chuyển của nàng, Địch Thanh cảm giác như đang chìm trong cõi bồng lai tiên cảnh, xấu hổ nói:

- Chưa từng nghe qua.

Cô gái dịu dàng cười nói:

- Khúc《 Nghê Thường Vũ Y》này vốn là tác phẩm mà Đường Huyền Tông tâm đắc nhất, lúc ấy có người làm thơ khen rằng,

'Thiên khuyết trầm trầm dạ vị ương,

Bích vân tiên khúc vũ nghê thường

Nhất thanh ngọc địch hướng không tẫn

Nguyệt mãn ly sơn cung lậu trường.'

Dịch:

Thăm thẳm cung trời đêm chẳng buông

Mây xanh tiên múa khúc Nghê thường

Một làn sáo ngọc dâng cao vút

Trăng trải non ngàn điệu vấn vương.

Mẫu thân của muội rất thích nhạc điệu cũng như lời bài thơ này, ban đầu định đặt tên muội là Nghê Thường, nhưng lại cảm thấy lộng lẫy qua mức nên về sau quyết định đổi thành Vũ Thường. Người nói: 'Con gái à, chất phác là Chân (bản tính tự nhiên), mẫu thân không chọn Nghê Thường mà lấy Vũ Thường để đặt cho con, Vũ trong vũ mao (lông vũ), Thường trong y thường (xiêm y), hy vọng con sau này không cầu xa hoa, chỉ cầu hạnh phúc vui vẻ. Con phải biết rằng, nhiều lúc hạnh phúc, bao nhiêu xa hoa cũng không mua được.

- Thì ra muội tên là Dương Vũ Thường, mẹ muội nói thật hay...

Trong đầu thì nghĩ: “Mình có thể được Vũ Thường xem trọng, đây đúng là bao nhiêu xa hoa cũng không mua được.”

- Đúng vậy, do đó khi đau buồn muội sẽ tìm mẫu thân khóc lóc kể lể, khi vui vẻ muội cũng sẽ đến đây thổ lộ ra hết. Muội biết bất kể muội có vui vẻ hay không, người lúc nào cũng kiên nhẫn nghe muội nói.

Vũ Thường nhẹ giọng nói.

Địch Thanh cố lấy can đảm:

- Vậy sau này bất kể là u buồn hay vui vẻ, muội cũng có thể nói với huynh.

Sóng mắt long lanh, Vũ Thường vui vẻ nói:

- Ừm.

Nàng khẽ ngáp một cái, rồi lấy tay che miệng. Địch Thanh thấy thế thì cười bảo:

- Muộn rồi đó, muội về nghỉ ngơi đi, hôm khác huynh lại tới thăm muội.

Vũ Thường lắc đầu:

- Muội chưa buồn ngủ.

Rồi nàng bỗng nảy ra một ý, cười nói:

- Muội kể cho huynh nghe nguồn gốc tên muội rồi, huynh cũng nên kể chuyện của huynh mới được.

Địch Thanh lúng túng đáp:

- Huynh nào có chuyện gì để kể chứ?

Vũ Thường không chịu buông tha:

- Huynh không kể, muội không cho huynh đi.

Địch Thanh cũng không nỡ đi, nhưng nhìn thấy sắc mặt mệt mỏi của Vũ Thường thì thật không nỡ để nàng thức đêm nữa, đành trầm ngâm:

- Thật ra thì cũng không có chuyện gì để kể. Khi còn bé huynh ở Tây Hà, vì cha mẹ mất sớm nên huynh rất thích đánh nhau. Huynh ghét nhất là bị người khác xem thường, nhưng sau này huynh rốt cuộc hiểu ra, có lẽ số mệnh đã định trước huynh là kẻ bị người ta xem thường.

Vũ Thường an ủi:

- Vương hầu tương tương, ninh hữu chủng hồ (4). Địch Thanh, nếu huynh muốn được người khác xem trọng thì phải có chí khí mới được.

(1) Hiển: cách xưng hô tổ tiên một cách kính trọng.

(2) Vong mẫu: mẹ đã mất)

(3)《 Nghê Thường Vũ Y Khúc 》(《 霓裳羽衣曲 》 )

Khúc Nghê thường vốn là một Đại vũ khúc (hay Đại khúc) nổi tiếng vào thời kỳ nhà Đường (618 – 896), Trung Quốc. Đại khúc hiểu là tác phẩm nghệ thuật tổng hợp có quy mô lớn viết cho ca, múa và nhạc cụ.

(4) Vương hầu danh tướng không phải tự nhiên mà có, phải qua nỗ lực phấn đấu thì mới thành công.

Địch Thanh thấy Dương Vũ Thường khéo hiểu lòng người thì cảm kích nói:

- Muội nói không sai, sau này huynh tuyệt đối sẽ không để cho người khác xem thường nữa.

Rồi nghĩ thầm: ‘vì muội, huynh phải phấn chấn hơn mới được.’

Vũ Thường hỏi:

- Huynh nói vì đại ca nên huynh đánh nhau với tên cường hào ác bá đó, hình như trong đó có một vị cô nương tên là Tiểu Thanh, trong tên nàng có chữ Thanh, huynh cũng có chữ Thanh, phải chăng hai người có duyên phận?

Địch Thanh vội nói:

- Thanh sơn cũng có chữ Thanh, chẳng lẽ huynh cũng có duyên phận với toàn bộ thanh sơn (non xanh) sao?

Nhìn thấy trong hai tròng mắt của Vũ Thường có ý cười ranh mãnh, Địch Thanh cười nói:

- Hay lắm, muội dám giễu cợt huynh.

Vũ Thường làm bộ nghiêm mặt lại nói:

- Muội nào dám chứ? Địch Thanh, huynh không biết là... huynh rất anh tuấn không?

Địch Thanh sờ sờ mặt, cười khổ đáp:

- Bị xăm chữ trên mặt thì sao mà anh tuấn cho được?

Dương Vũ Thường nói:

- Nếu không thì, muội nghĩ do huynh quá anh tuấn, ngược lại cũng không tốt lắm. Mẫu thân muội nói, trên đời này, vật quá hoàn mỹ, sẽ chết yểu...

Địch Thanh thầm run, nói vội:

- Cũng không hẳn vậy.

Nhìn khuôn mặt xinh đẹp không chút tỳ vết của Vũ Thường, tim hắn bỗng đập nhanh.

Vũ Thường thấp giọng nói:

- Mấy chữ xăm trên mặt đã giúp huynh xóa đi vẻ đẹp nhu nhược trước kia mà chuyển thành vẻ kiên cường bây giờ. Vết sẹo trên đầu huynh vì sao mà có vậy?

Địch Thanh nói:

- Chuyện dài lắm.

Dương Vũ Thường nói:

- Thế huynh kể cho muội nghe đi.

Nhìn thấy dáng vẻ đầy quyến luyến, Địch Thanh không nỡ từ chối:

- Đây có thể nói là một trận chém giết khó quên nhất trong cuộc đời huynh...

Thảm trạng tại thung lũng Phi Long năm đó lại một lần nữa hiện ra trong đầu, Địch Thanh không nhịn được kể lại chuyện năm đó. Mặc dù chuyện đã xảy ra cách đây nhiều năm, nhưng khi Vũ Thường nghe xong vẫn cảm thấy chấn động, có lúc trong đôi mắt đẹp lại hiện ra vẻ kinh hãi, dẫu sao nàng vẫn là thiếu nữ khuê phòng, thường ngày không biết đến chuyện đẫm máu như thế này, ngay cả nghe cũng chưa từng nghe qua. Khi nghe đến chuyện Địch Thanh ra tay cứu Quách Tuân thì nàng lộ vẻ tôn kính:

- Địch Thanh, muội không có nhìn lầm huynh, lúc đó còn có thể ra tay cứu giúp, đây chính là hành động của trượng phu!

Địch Thanh được người yêu khen ngợi thì ngượng ngùng cười:

- Muội quá khen rồi! Suốt mấy năm sau huynh luôn tự hỏi, năm đó ra tay có đáng hay không? Hay lúc đó chỉ là bốc đồng nhất thời.

Dương Vũ Thường chậm rãi nói:

- Trong giây phút sống chết, mới hiển lộ ra bản sắc anh hùng. Muội thấy chỉ trong khoảnh khắc đó, mới có thể hiển lộ bản sắc con người chân chính. Vậy tiếp đó thì sao?

Địch Thanh nói tiếp:

- Khởi đầu là Quách đại ca cứu huynh, tiếp đó huynh giúp huynh ấy một tay, sau đó nữa thì huynh ấy lại cứu huynh. Trong trận đánh nhau ở thung lũng Phi Long, do huynh ấy vận công quá sức, nghe nói bệnh căn không dứt, đã mấy năm rồi vẫn chưa khỏe lại, song huynh ấy chưa từng nói chuyện này cho huynh biết, huynh hỏi Vương đại phu mới biết được đó. Than ôi, cả đời này, huynh lúc nào cũng nợ huynh ấy.

Những lời này hắn chưa bao giờ đề cập với người ngoài, bởi vì hắn biết Quách Tuân xưa nay ban ơn không mong báo đáp, nhưng cuối cùng vẫn thổ lộ với Vũ Thường.

Vũ Thường tỏ ra kính ngưỡng, hồi lâu mới nói:

- Cá huynh đều là anh hùng! Địch Thanh, huynh không nên nản lòng, chỉ cần cố gắng thì cuối cùng sẽ có một ngày thực hiện được ước nguyện.

Địch Thanh cười hỏi:

- Chẳng lẽ muội biết được ước nguyện của huynh sao?

Đôi mắt đẹp của Vũ Thường dừng lại trên khuôn mặt Địch Thanh, dịu dàng nói:

- Ước nguyện của huynh không phải là muốn trở thành anh hùng, được tất cả người trong thiên hạ tôn sùng sao?

Địch Thanh giật mình, nắm lấy bàn tay mềm mại của Dương Vũ Thường, nghẹn lời hỏi:

- Làm sao muội biết? Chuyện này huynh chỉ nói với đại ca mà thôi.

Vũ Thường hơi đỏ mặt nhưng không rút tay về, ranh mãnh nói:

- Muội biết mà.

Lòng bàn tay có cảm giác mềm mại, hắn cúi đầu thì nhìn thấy đôi bàn tay bé nhỏ của nàng, trắng như ngọc, trắng hơn cả tuyết. Hắn chậm rãi buông lỏng tay ra, nói:

- Vũ Thường, huynh sẽ không khiến cho muội thất vọng, cũng sẽ không khiến cho bản thân thất vọng. Muội hãy tin huynh.

Lời hắn nói như chém đinh chặt sắt, ý chí chưa bao giờ kiên định đến thế.

Vũ Thường nhìn vào hai mắt Địch Thanh:

- Nếu muội không tin huynh thì còn đợi huynh làm gì?

Nàng dịu dàng cười, rồi nói tiếp:

- Được rồi, hôm nay huynh kể chuyện nên được qua ải, sau này nhớ đến kể chuyện cho muội nghe nữa nhé.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Ừ.

Dương Vũ Thường tiễn ra đến trước cửa phòng, Địch Thanh ngăn lại:

- Gió lớn lắm, muội đừng tiễn nữa, huynh tự về được rồi.

Vũ Thường không cố chấp nữa, gật đầu đồng ý, rồi nhẹ giọng ngâm:

- Thanh thanh tử khâm, du du ngã tâm. Túng ngã bất vãng, tử ninh bất tự âm?

(Xanh xanh áo ai, xao xuyến lòng ta. Dẫu mình không gặp, sao chẳng nhắn đôi lời?)

Ngâm xong nàng bật cười, đóng cửa phòng lại, không còn thấy bóng dáng nữa.

Địch Thanh nghe thấy nàng ngâm bốn câu này, song trong lúc nhất thời vẫn chưa hiểu nghĩa, thầm nghĩ: ‘thanh thanh’ có lẽ là nói ‘Địch Thanh’ hắn, ý của phần sau hình như là Vũ Thường oán trách hắn, nàng không tới tìm hắn, chẳng lẽ hắn không thể đi tìm nàng sao? Ôi, có lẽ là thế. Mặc dù hắn nghĩ vậy nhưng cũng không chắc lắm, lát về phải thỉnh giáo thằng nhóc Quách Quỳ có kiến thức nửa vời kia mới được.

Địch Thanh bước theo đường cũ ra ngoài, khi đến cửa nhỏ thì tần ngần một lúc rồi mới đẩy cửa rời đi. Vừa ra khỏi cửa nhỏ thì chợt nghe sau lưng vang lên một tiếng "cạch", hình như là có người ci cửa. Trong lòng Địch Thanh cảm kích, chắc hẳn nàng chờ đã lâu, lúc này mới cài cửa. Cô nương Nguyệt nhi này nói năng chua ngoa nhưng tấm lòng thiện lương, người lạnh lùng như vậy mà lại thức đêm canh cửa cho bọn họ, sau này mình phải cảm ơn nàng mới được.

Về tới Quách phủ mà lòng Địch Thanh vẫn còn lâng lâng, nằm trên giường giống như đang ở trên mây, tuy vẫn còn nhiều điều băn khoăn nhưng nó đã bị niềm hạnh phúc lấn át đi, thậm chí cừu hận trước đây cũng phai nhạt đi rất nhiều.

Chờ mãi cũng đến lúc bình minh, Địch Thanh rời giường thật sớm đi đến trước phòng Quách Quỳ, thấy nó vẫn ngon giấc nồng thì không tiện làm phiền nên quay qua tìm Quách Tuân. Giường của Quách Tuân gọn gàng ngăn nắp, dường như cả đêm qua không về. Địch Thanh dần dần phát hiện ra rằng, Quách Tuân hình như cũng có rất nhiều bí mật, nhưng hắn cũng không nghĩ thêm nhiều.

Quay lại trước cửa sổ phòng Quách Quỳ, Địch Thanh thấy nó vẫn ngủ say như heo, thầm nghĩ: “Cả ngày lười biếng như vậy, sao mà coi cho được? Mình làm nhị ca thì phải có trách nhiệm dẫn dắt nó trở nên hăng hái hơn.”

Vì thế Địch Thanh làm bộ làm tịch múa quyền vù vù trước cửa sổ phòng Quách Quỳ. Tiếng la hét ỏm tỏi có thể so sánh với bà bán bánh hấp ở đầu phố. Mới la được mấy tiếng thì một quyển sách bay thẳng vào gáy Địch Thanh, Địch Thanh trở tay bắt lấy, nhìn thấy là cuốn « Kinh Thi » thì mừng thầm.

Quách Quỳ la lớn:

- Mới sáng sớm mà huynh làm gì kêu gào như quỷ thế? Muốn mượn sách phải không? Mới mua hôm qua đó, cầm lấy mà xem đi.

Nó vốn tưởng rằng Địch Thanh sẽ phát cáu, ai dè Địch Thanh lấy sách nhét vào trong ngực rồi mỉm cười nói:

- Tiểu Quỳ, đệ hiểu người còn giỏi hơn so với Bá Nha Tử Kỳ(1) đó.

Nói xong vội vàng rời đi, cũng quên luôn trách nhiệm nhắc nhở Quách Quỳ luyện võ.

Quách Quỳ rất ngạc nhiên, lẩm bẩm:

- Địch nhị ca này, không biết đang làm cái trò quỷ gì nữa, lẽ nào trong sách cũng có Hoàng Kim Ốc (2) thật sao? Nếu không thì sao bị chọi sách vào đầu mà còn cao hứng như thể nhặt được vàng?

Ngáp một cái thật dài, cơn buồn ngủ lại ập đến, không muốn nghĩ thêm nữa, nó nằm xuống ngủ tiếp.

Địch Thanh vừa ra khỏi Quách phủ thì lập tức lấy « Kinh Thi » ra xem, lật đến chỗ có bốn chữ "thanh thanh tử khâm" thì dừng lại, phát hiện ra bài thơ này có tên là « Tử Khâm », trừ mấy câu mà Vũ Thường đã đọc ra, phần sau còn có bốn câu là "thanh thanh tử bội, du du ngã tư. Túng ngã bất vãng, tử ninh bất lai?"

(Xanh xanh đai lưng

Tương tư dai dẳng

Người lâu không gặp

Sao nỡ không đến?)

(1) Bá Nha Tử Kỳ (伯牙子期): Chu Bá Nha và Chung Tử Kỳ là điển hình của mỴ đôi bạn tri kỷ được nghìn đời ca tụng.

(2) Hoàng kim ốc (黄金屋): phòng bảo vật | chỉ cuộc sống vinh hoa phú quý

Những lời này cho dù là người mù cũng hiểu, ý là ‘nếu muội không đến, huynh không thể tự mình đến sao?’ Địch Thanh thầm cao hứng vì khả năng học một biết mười của mình, nhưng vì trong sách thiếu đi phần chú thích của Quách Quỳ như những chỗ trước đây, nên hắn vẫn còn có đôi chỗ không hiểu lắm. Địch Thanh đọc tiếp, thấy phần sau cùng có bốn câu là "Thiêu hề đạt hề, tại thành khuyết hề. Nhất nhật bất kiến, như tam nguyệt hề." thì tình cảm dịu dàng dào dạt trong lòng.

Chờ a đợi a, trước cổng thành a. Một ngày không gặp, như ba tháng chưa gặp.

"Một ngày không gặp, như ba tháng chưa gặp." Làm sao mà Địch Thanh không rõ hàm nghĩa trong đó chứ? Vũ Thường nhớ mình đến thế sao? Vũ Thường nói những lời này, có phải muốn nhắc nhở mình đừng lỡ hẹn nữa, nhanh đến gặp nàng?

Địch Thanh đem quyển sách và nỗi tương tư nhét vào lồng ngực, chân giẫm tuyết đọng, bước thấp bước cao đi đến quân doanh.

Vừa vào doanh trướng, Lý Vũ Hanh liền chạy ra đón, vẻ mặt đầy vui mừng:

- Địch Thanh, Trương Ngọc đã tỉnh!

Địch Thanh vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, vội đến trước giường Trương Ngọc. Trương Ngọc đang nhìn hắn, mặc dù hai mắt vô thần, nhưng dù sao cũng đã tỉnh lại.

Lý Vũ Hanh đứng bên nói:

- Đêm qua Quách chỉ huy đã mời Vương thần y tới đây chữa bệnh cho Trương Ngọc, sáng nay vừa mới rời đi.

Địch Thanh thầm cảm thấy xấu hổ, Quách đại ca thì chu đáo cẩn thận, còn hắn thì lại lỗ mãng chỉ nghĩ đến báo thù, làm sao có thể quên mời Vương thần y được nhỉ? Hắn nắm chặt tay Trương Ngọc nói:

- Trương Ngọc, ngươi yên tâm nghỉ ngơi đi...

Trương Ngọc khẽ nói:

- Địch Thanh, ta có việc muốn nói riêng với ngươi.

Lý Vũ Hanh khẽ biến sắc, chậm rãi lui ra ngoài, biết Trương Ngọc vẫn chưa chịu tha thứ cho gã.

Địch Thanh ngồi ở đầu giường, khó hiểu hỏi:

- Ngươi muốn nói gì?

- Ta e rằng chuyện này là do Hạ Tùy giở trò.

Trương Ngọc lo lắng nói:

- Khi lần đầu hắn tìm ngươi, ánh mắt hắn nhìn ngươi có vẻ bất thường...

Địch Thanh ngắt lời:

- Trương Ngọc, ta biết rồi. Ngươi cứ yên tâm dưỡng thương đi, không nên nghĩ nhiều.

Trương Ngọc nhìn Địch Thanh thật lâu, không hiểu hỏi:

- Ngươi cũng biết rồi sao?

Địch Thanh nghiêm nghị đáp:

- Ta tuy biết, song trước mắt cũng không làm được gì.

Trương Ngọc thở phào nhẹ nhõm, lẩm bẩm nói:

- Vậy ta yên tâm.

Y nhắm mắt lại, không nói thêm lời nào.

Địch Thanh ngồi đây một lát, thấy Trương Ngọc đã ngủ say, thầm nghĩ: “Thì ra Trương Ngọc đã sớm nhìn ra vẻ bất thường của Hạ Tùy, y lo lắng mình không nắm rõ tình hình, do đó mới nhắc nhở mình đừng đi tìm Hạ Tùy báo thù. Trước đây, y suốt ngày nói cười toe toét, không ngờ lại trọng nghĩa như vậy.”

Hoạn nạn mới thấy chân tình, Địch Thanh cảm khái bước ra doanh trướng, Lý Vũ Hanh bước tới hỏi:

- Địch Thanh à, Trương Ngọc còn giận ta sao?

Địch Thanh vỗ vỗ vai Lý Vũ Hanh nói:

- Hắn trọng thương chưa lành, ngươi phải chăm sóc hắn nhiều hơn.

Lý Vũ Hanh gật đầu, vẻ mặt ảm đạm. Có đôi khi, chỉ một lựa chọn thôi cũng có thể tạo nên áy náy cả đời.

Địch Thanh đầy tâm sự, lững thững mà đi, trong lúc không tự chủ lại đi đến ngõ Mạch Kiết. Lúc đi ngang qua Đại Tướng Quốc Tự, hắn nhìn thấy cảnh buôn bán tấp nập, trời tuy lạnh nhưng dân chúng vẫn hào hứng giao dịch, nơi nơi rộn ràng nhộn nhịp. Bất kể triều đình, biên cương ra sao, quang cảnh buôn bán nơi đây lúc nào cũng yên bình.

Địch Thanh thầm nghĩ: “Tối qua, Vũ Thường vẫn còn mệt, hôm nay mình không nên đến sớm, để cho nàng nghỉ ngơi nhiều thêm cũng tốt”.

Hắn nghĩ thế nên quyết định đi dạo trước Đại Tướng Quốc Tự, nhớ lại lúc mới quen Vũ Thường cũng ở quanh đây, nhưng thật không ngờ bây giờ lại thân quen đến vậy? Việc đời thực khó dự liệu.

Hắn đang chìm trong suy tư thì có người gọi:

- Quan nhân, mua chút đồ trang sức đi.

Địch Thanh xoay người nhìn lại, mới phát hiện mình đã đi đến trước quầy ngọc.

Trước Đại Tướng Quốc Tự có đủ loại hình mua bán, muôn hình vạn trạng, cái gì cũng có. Từ các loại chim mèo chó bình thường đến chim quý thú hiếm, từ hoa quả khô mứt đến lụa là châu ngọc, rực rỡ muôn màu, cần cái gì có cái đó. Đại Tống yên bình mấy chục năm, nghệ nhân và thương nhân khắp cả nước đều đến kinh thành, khiến cho Khai Phong phồn hoa chưa từng thấy.

Trước đây do tâm tình buồn chán, Địch Thanh gặp cảnh náo nhiệt đều sẽ tránh sang một bên, đi tìm rượu giải sầu. Mặc dù lần này bị hãm hại, nhưng được Vũ Thường an ủi nên trong lòng cảm thấy vui vẻ. Khi nhìn cảnh vật nơi đây thì tâm tình tự nhiên cũng khác với trước kia. Thấy quầy ngọc này có treo đầy mỹ ngọc, nổi bật rực rỡ trong cảnh tuyết trắng xóa này, hắn quyết định ngồi xuống xem.

Người bán ngọc là người đàn ông trung niên khoảng bốn mươi tuổi, dáng vẻ khôn khéo, thấy Địch Thanh có hứng thú liền cầm lấy một miếng ngọc đưa tới giới thiệu:

- Khách quan, ngài xem miếng ngọc này được chế tác tinh xảo biết bao, trông như Phật thủ (đầu Phật), đây là Hòa Điền Ngọc, nó được đào từ trên núi Côn Luân đó.

Địch Thanh nhìn thấy ngọc Phật thủ thì khẽ run, nghĩ thầm: “Đời mình không tín Phật, nhưng lại gắn bó khăng khít với Phật, bất kể chuyện tốt hay chuyện xấu gì cũng có dính dáng tới Phật Di Lặc."

Hắn lại nhìn sang bên, thấy đồ ngọc muôn hình vạn trạng toát ra thần vận đặc trưng, trên bề mặt chạm đủ các kiểu hoa văn; cái thì như thương tùng bách thúy(tùng bách xanh um), cái thì như mãnh hổ hạ sơn, cái thì như mực đậm vẩy ra, có cái lại như trúc non xanh mượt, tất cả đều đẹp nhưng hắn không thích.

Người đàn ông bán ngọc không ngại cực khổ giới thiệu tiếp:

- Khách quan, nếu ngài không thích miếng này cũng không sao, ngài xem ở đây còn có rất nhiều loại nè, đây là Lam điền ngọc, đây là Kỳ liên ngọc, lấy màu lục làm chủ đạo, loại lục nào cũng có hết, lục đậm, lục nhạt, lục biếc, lục sẫm... Ngài xem màu sắc này, tinh khiết làm sao...

Địch Thanh không để ý đến lời giới thiệu của người đàn ông mà ánh mắt dừng lại trên một miếng ngọc xanh. Dù ngọc xanh này không phải là Kỳ liên ngọc, nhưng cũng có màu xanh sẫm, sắc thái êm dịu, càng độc đáo đó là miếng ngọc này có một khối vàng nhạt nằm ẩn trong đó. Địch Thanh cầm lên xem, cảm thấy miếng ngọc này như một chậu hoa, trong lá xanh lộ ra hoa vàng. Địch Thanh vừa nhìn đã thích, liền hỏi:

- Miếng ngọc này bán nhiêu vậy?

Người đàn ông vội đáp:

- Khách quan quả nhiên có tinh mắt, đây là Nam dương ngọc chính tông, phẩm chất rất tốt, ngài nhìn bề mặt này ... đẹp không thể tả.

Đây là một miếng tạp ngọc, mặt ngoài còn có vết ngấn rất nhỏ nhưng nếu không chú ý kỹ thì sẽ nhìn không ra. Người đàn ông thầm cười Địch Thanh không có mắt nhìn, nhưng nếu khách hàng đã chọn thì không có lý do gì mà không lấy giá cắt cổ:

- Nếu như người khác hỏi giá, miếng ngọc này ít nhất cũng phải mười lượng bạc. Nhưng với khách quan, ngài trả cho ta tám lượng là được rồi?

- Tám lượng bạc?

Địch Thanh kinh ngạc, không ngờ rằng một miếng ngọc lại mắc đến thế. Hắn là Thập tướng, lương một tháng cũng chỉ có ba lượng bạc mà thôi. Địch Thanh xưa nay phóng khoáng rộng rãi, khoảng thời gian trước vất vả lắm mới dành dụm được một ít, nhưng đều đã gửi về quê cho đại ca, nên lúc này không dư giả cho lắm, sao có nhiều bạc như vậy để mua ngọc đó.

Người đàn ông thấy Địch Thanh có vẻ bối rối, vội nói:

- Tất nhiên giá tiền có thể thương lượng. Bảy lượng được không?

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Trả cho ông một lượng thì được.

Người đàn ông kia khó xử nói:

- Một lượng bạc ít quá, quan nhân thêm chút nữa đi. Như vậy đi, hai lượng bạc chắc giá, không mặc cả nữa, nếu chỉ có một lượng thì ngay cả vốn cũng không đủ.

Khó lắm mới tìm được miếng ngọc mình thích, nên Địch Thanh không trả giá nữa, sảng khoái nói:

- Được.

Tiếp đó hắn thò tay vào trong ngực tìm kiếm, nhưng moi hết tiền ra đếm mới phát hiện cộng lại ngay cả một lượng cũng không đủ.

Sắc mặt người đàn ông trở nên khó chịu, chồm tới lấy ngọc lại, nói lầm bầm:

- Không có tiền thì đến đây làm gì?

Địch Thanh nghe thấy lời xấc láo của ông ta, hắn trừng mắt lên định mắng, nhưng nghĩ lại, tranh đấu với loại người này thì có ích gì chứ? Hơn nữa, lỗi là ở phần mình, trong người còn bao nhiêu bạc cũng không biết, trách không được Vũ Thường nói mình hồ đồ.

Không còn cách nào khác, Địch Thanh đành đứng dậy chuẩn bị rời đi. Người đàn ông nói mãi mà không thu được gì, nên bực bội mắng thêm một câu:

- Vừa nhìn đã biết nghèo kiết xác!

Lời còn chưa dứt, từ bên cạnh có một bàn tay mập mạp trắng trẻo chìa tới, trên tay cầm một đĩnh bạc lớn hỏi:

- Bằng này đủ mua ngọc rồi chứ?

 Chương 69 - 72: Tình cờ

Địch Thanh quay đầu nhìn lại, sắc mặt hơi đổi.

Người đưa bạc là người họ Diêm, Địch Thanh biết lão, mà người bên cạnh người họ Diêm không phải Thánh công tử, người đã hại hắn vào tù thì là ai? Địch Thanh nổi giận xông tới nắm chặt cổ áo của Thánh công tử, hét lên:

- Ngươi còn mặt mũi nào đến gặp ta?

Thánh công tử hoảng hốt, lắp bắp:

- Địch Thanh, đừng đánh, có chuyện gì thì bình tĩnh thương lượng. Ta có nỗi khổ trong lòng, ngươi nghe ta giải thích được không?

Địch Thanh vung tay định đánh, nhưng nhìn thấy bộ dạng đáng thương của Thánh công tử thì mềm lòng quát:

- Ngươi có biết ta vì ngươi mà ngồi tù hơn nửa năm không? Ngươi đừng có nói là khoảng thời gian này ngươi rời khỏi kinh thành nên không biết chuyện đó nhé!

Chợt ở bên cạnh có một người quát lên:

- Ngươi buông tay ra đi đã.

Địch Thanh liếc qua thấy có thêm một người đang đứng bên cạnh Thánh công tử. Khuôn mặt người này ngăm đen, tuổi trung niên, rất có dáng dấp thuộc hạ, chàng cười lạnh hỏi:

- Sao nào? Hổ thẹn sao? Sợ bị ta đánh nên dẫn bảo tiêu theo?

Thánh công tử lắc đầu đáp:

- Đâu có, đâu có, đây là Lý Dụng Hòa, là bà con xa của ta, đi dạo kinh thành cùng ta mà thôi.

Người mặt ngăm đen nghe Thánh công tử nói vậy thì lộ vẻ rất ngạc nhiên, nhưng lập tức cúi đầu xuống, không cho người ta nhìn thấy vẻ mặt của y.

Địch Thanh không chú ý tới chuyện này, nhưng tay cũng buông lỏng ra một chút. Mặc dù chuyện xảy ra trước đây là do Thánh công tử dấy lên, song cũng không thể đổ hết lên đầu gã được. Điểm duy nhất làm cho Địch Thanh không hài lòng là khi đó Thánh công tử không đứng ra giúp hắn. Nói vậy thôi chứ ngay cả Bát Vương gia ra mặt mà Địch Thanh vẫn không tránh khỏi bị giam nửa năm trong ngục, Thánh công tử ra mặt thì có ích gì?

Nghĩ đến đây, Địch Thanh bình tĩnh lại, nhưng rồi cảm thấy Thánh công tử không trọng nghĩa, liền nói:

- Ngươi không cần giải thích chi nữa, chuyện đã qua lâu rồi, ngươi là ngươi, ta là ta, đường ai nấy đi.

Chàng vừa xoay người định đi thì Thánh công tử vội chụp lấy miếng ngọc kia đưa tới trước mặt Địch Thanh, giọng chân thành:

- Địch Thanh, ta biết miếng ngọc này không bồi thường được gì cho ngươi cả, nhưng ta thật lòng xin lỗi ngươi, hi vọng ngươi có thể hiểu được tấm lòng của ta.

Địch Thanh chăm chú nhìn miếng ngọc một lúc rồi mỉm cười nói:

- Vậy ta không cần phải cám ơn ngươi chứ?

Thánh công tử đỏ mặt, ho nhẹ:

- Diêm tiên sinh, ta nhớ trong ngực ngươi còn có quyển sách?

Sắc mặt Diêm tiên sinh khẽ đổi, ngượng nghịu lấy hộp sách từ trong ngực ra. Thánh công tử cầm lấy đưa cho Địch Thanh:

- Địch Thanh, quyển sách này tặng cho ngươi.

Địch Thanh không nhận, nhưng thấy vẻ mặt áy náy của Thánh công tử thì mềm lòng:

- Ngọc ta nhận, còn sách thì không cần.

Thánh công tử kiên quyết nhét hộp sách vào tay Địch Thanh, chậm rãi nói:

- Ta thấy ngươi cũng rất khó khăn, sách này ngươi dùng được đó.

- Thay vì ngươi cho ta quyển sách này thì không bằng đưa ta một ít bạc đi.

Địch Thanh thở dài rồi nói tiếp:

- Ta không thi Trạng nguyên thì cần sách làm gì?

Lời còn chưa dứt thì Địch Thanh cảm thấy hộp sách trên tay khá nặng, nhịn không được mở ra nhìn.

MỴ luồng ánh sáng vàng nhạt chiếu ra.

Địch Thanh rùng mình, tưởng rằng Kim long lại xuất hiện trong đầu nữa. Hắn cẩn thận nhìn kỹ lại, lúc này mới phát hiện trong hộp sách là từng tấm vàng lá. Trong hộp sách này có xếp hơn mười lượng vàng.

Ở Đại Tống, vàng rất quý, hơn mười lượng vàng này tương đương với mấy trăm lượng bạc. Lương làm Thập tướng trong hai mươi năm của Địch Thanh mới có thể miễn cưỡng kiếm được bằng này vàng. Địch Thanh cầm tấm vàng lá nhìn một lúc, rồi mới nói:

- Ngươi làm gì thế? Ta là người tham tiền đến thế sao?

Thánh công tử cười xòa nói:

- Chút tấm lòng, cũng không đủ thể hiện lòng thành của ta.

Địch Thanh định trả lại cho Thánh công tử, nhưng chợt thay đổi ý nghĩ, bèn cất hộp sách vào trong ngực nói:

- Ôi, thịnh tình không thể chối từ. Ta tha thứ cho ngươi đó, lần sau không được làm vậy nữa. Ta có việc, đi trước đây.

Hắn thầm nghĩ: “Tặng lễ vật cho người, tất có chuyện nhờ vả. Thánh công tử này đột nhiên xuất hiện tìm mình, chắc là có việc nhờ mình làm giúp. Lần trước, đi Trúc Ca lâu, ta bị vào tù hơn nửa năm, lần này dù cho nói như thế nào đi chăng nữa cũng không giao du với gã. Vàng mà, không lấy thì phí.”

Thánh công tử thấy Địch Thanh rời đi, vội gọi:

- Địch Thanh, ta có việc nhờ.

Gã không gọi không sao. Gã vừa gọi, Địch Thanh chuồn càng nhanh hơn.

Diêm tiên sinh mắng:

- Tên tiểu tử này thật không đàng hoàng.

Thánh công tử dậm chân nói:

- Trời ơi, ta còn chuẩn bị xin cho hắn làm quan...

Lời còn chưa dứt, Địch Thanh đã lại xuất hiện ở trước mặt Thánh công tử, cười nói:

- Ôi chao, Thánh công tử, dạo này lỗ tai ta có vấn đề, mới vừa rồi không nghe thấy ngươi gọi. Ngươi vừa nói cái gì cơ?

Lỗ tai Địch Thanh không phải có vấn đề, mà là quá thính. Hắn đã chuồn được nửa đường, nhưng vẫn nghe thấy lời Thánh công tử xin quan cho mình, tim không khỏi đập thình thịch.

Địch Thanh vốn không phải là người tham tiền tham quan, nhưng con người luôn luôn thay đổi. Chàng biết Vũ Thường không để ý đến thân phận của chàng, nhưng còn người nhà của Vũ Thường thì sao chứ? Liệu bọn họ có vì nguyên nhân này mà xem thường Vũ Thường không? Địch Thanh vì nghĩ như vậy nên mới có quyết tâm muốn tiến thân. Chàng cảm thấy Thánh công tử có quyền có thế, nói không chừng thật sự có thể giúp chàng làm quan.

Diêm tiên sinh hừ lạnh một tiếng hỏi:

- Không phải ngươi có việc sao?

Địch Thanh mặt dạn mày dày đáp:

- Thánh công tử có việc, dù sao đi nữa thì ta cũng phải xem coi có thể giúp đỡ được gì hay không chứ.

Thánh công tử không tức giận, trong mắt có ý cười, nói:

- Địch Thanh, ngươi giúp ta giải quyết khó khăn, ta trả cho ngươi bạc, tặng ngươi ngọc, coi như không ai nợ ai.

- Cho nên, ta muốn làm quan thì phải giúp ngươi làm việc, đúng không?

Địch Thanh hiểu lời bóng gió của Thánh công tử nên hỏi.

Thánh công tử nghiêm túc gật đầu nói:

- Đúng, cuộc giao dịch này có thể làm, thành giao!

- Cứ từ từ, ngươi trước hết hãy nói xem muốn ta làm chuyện gì, sau đó nói xem ngươi định xin cho ta chức quan gì? Rồi ta mới tính tiếp.

Thánh công tử nói:

- Ta muốn ngươi dẫn ta đến Trúc Ca lâu!

Địch Thanh quay đầu đi ngay tắp lự, nhưng vừa đi được mấy bước thì dừng lại, bởi vì Thánh công tử nói tiếp:

- Ta có thể xin cho ngươi chức quan Điện tiền Tán Trực!

Một lúc sau, Địch Thanh mới xoay người lại nhìn Thánh công tử chăm chăm:

- Ngươi không gạt ta?

Thánh công tử nói rõ từng chữ:

- Tuyệt không lừa gạt.

Địch Thanh có chút do dự, chàng không thể không động lòng. Tán Trực được liệt vào thân binh của Hoàng thượng, trực tiếp phụ trách an toàn hoàng cung, địa vị cao hơn rất nhiều so với chức Thập tướng trong quân doanh. Người theo nghiệp binh, muốn làm Tán Trực thì chẳng những phải phấn đấu mười mấy năm mà còn phải có cơ hội thích hợp. Bây giờ, cơ hội lại đột nhiên xuất hiện, chàng nhận hay là không đây?

Diêm tiên sinh thấy thế, cười lạnh nói:

- Ngươi đừng có giả bộ thần bí nữa, nếu muốn gặp Trương Diệu Ca thì cũng phải thể hiện ra chút bản lĩnh mới được.

Địch Thanh chống hông, ngang nhiên nói:

- Đầu ngươi bị cánh cửa kẹp, ta thì không. Hôm nay, ta sẽ cho ngươi thấy bản lĩnh của ta.

Mọi người lập tức lên đường đến Trúc Ca lâu, Thánh công tử buồn cười, nhưng cố nhịn xuống. Lúc này thì sắc mặt của Diêm tiên sinh còn đen hơn cả Lý Dụng Hòa. Lão hơi béo, đầu hình thang, đúng là nhìn qua trông như bị cánh cửa kẹp.

Dù giọng điệu rất tự tin, nhưng thật ra Địch Thanh không nắm chắc lắm. Hồi đó, hắn đã lừa Phượng Sơ Ảnh một lần. Bây giờ, nếu muốn lừa mụ thêm lần nữa thì quả khó như lên trời. Nhưng ‘có chí làm quan, có gan làm giàu’, nếu không thử thì cả đời này khi nào mới có thể ngóc đầu lên được? Hắn đang trầm tư suy nghĩ thì đã gần đến Trúc Ca lâu. Mọi người vừa định đi vào, song Thánh công tử chợt biến sắc, lách mình trốn sang một bên. Diêm tiên sinh và Lý Dụng Hòa cũng giống như kẻ cướp, lật đật lao theo, trốn chung một chỗ với Thánh công tử.

Một người dáng vẻ công tử đi ra khỏi Trúc Ca lâu, rồi lên xe ngựa nghênh ngang rời đi. Địch Thanh thấy Thánh công tử dán mắt nhìn công tử kia, ánh mắt rất kì quái thì nhịn không được hỏi:

- Thánh công tử, ngươi biết hắn sao?

Hắn thấy vị công tử lên xe ngựa kia, mày kiếm mắt sáng, tuấn tú lịch sự, mỗi động tác đều ôn hòa tao nhã, loại công tử trăng hoa như Mã Trung Lập tuyệt đối không thể sánh bằng.

Thánh công tử ho khan một cái, sắc mặt khôi phục bình thường, miệng lẩm bẩm:

- Sao hắn lại có thể tới chỗ này chứ?

Ánh mắt gã chợt quắc lên, nói tiếp:

- Tới hay lắm.

Địch Thanh không hiểu hỏi:

- Ngươi cũng có thể tới nơi này, còn có ai không thể tới chứ?

Thánh công tử lắc đầu, nói tránh đi:

- Đi vào đi! Địch Thanh, ngươi có cách gì chưa?

Địch Thanh không trả lời mà đi thẳng vào Trúc Ca lâu. Khi vào tới bên trong, Địch Thanh chợt nảy ra một ý, hắn ngăn một tỳ nữ lại:

- Ta là Địch Thanh, ngươi gọi Phượng Sơ Ảnh ra đây.

Tỳ nữ này nghe thấy hai chữ "Địch Thanh" thì giật mình kinh hãi, vội vàng đi ra hậu đường. Chẳng bao lâu sau, Phượng Sơ Ảnh đi ra, Diêm tiên sinh ở bên cạnh cười lạnh, đang chờ xem Địch Thanh mất mặt đến mức nào. Cùi không sợ lở, Địch Thanh vừa định đọc bài đã nghĩ sẵn trong đầu ra thì Phượng Sơ Ảnh đột nhiên nở một nụ cười xán lạn, nói:

- Ôi chao, đây không phải là Địch công tử sao? Đã lâu không gặp, mừng ngài lại đến.

Địch Thanh nghệch mặt ra, lời vừa định nói liền nuốt trở vào.

Phượng Sơ Ảnh cười nói:

- Diệu Ca cô nương vẫn luôn nhắc tới ngài. Nàng nói nếu ngài đến thì không cần phải chờ đợi, cứ đưa ngài vào gặp là được. Ngài nhất định phải nể mặt mà đến gặp Diệu Ca nhé.

Mặt Diêm tiên sinh đang đen liền chuyển thành xanh, lão không hiểu nổi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Địch Thanh cũng không hiểu đầu cua tai nheo gì sất. Có điều bây giờ hắn tất nhiên sẽ không từ chối, mỉm cười nói:

- Phượng lão bản, bà quả là người hiểu chuyện.

Tuy vậy, hắn lại nghĩ thầm: “Chẳng lẽ đang có đao phủ mai phục trên lầu, chờ khi mình đi lên thì chém mình thành thịt vụn? Nếu không thì cớ sao Trương Diệu Ca chỉ mới gặp mình một lần, nhìn qua nàng ta cũng không thuộc dạng mê trai, sao lại muốn gặp mình chứ?”

Phượng Sơ Ảnh dường như nhận ra Địch Thanh đang nghi hoặc, bà ta cười xòa nói:

- Địch công tử, nhưng bây giờ trên lầu của Diệu Ca có người, ngài tạm thời không thể đến.

Địch Thanh thầm giật mình, cố trấn tĩnh hỏi:

- Là ai?

Phượng Sơ Ảnh nhíu mày:

- Người này... có lẽ Địch công tử không biết đâu, nhưng y nhất định sẽ xuống ngay thôi. Tiểu Liên, mau dẫn ba vị công tử này đến Thính Trúc tiểu viện ngồi chờ. Địch công tử, mụ xin lỗi không thể tiếp chuyện được.

Phượng Sơ Ảnh nói xong, vội vàng rời đi. “Người như thế cứ để Diệu Ca tống cổ đi là được. Xin Phật phù hộ, ngàn vạn lần đừng để Mã gia biết con từng qua lại với tên Địch Thanh này.” Tuy mụ sợ Mã gia, nhưng lần này để cho Địch Thanh đi gặp Trương Diệu Ca, cũng là thân bất do kỷ.

Đám người Địch Thanh tất nhiên không biết suy nghĩ của Phượng Sơ Ảnh. Trong lòng cũng có chút kỳ quái, bọn họ khó có thể tin chuyện lại đơn giản như vậy.

Diêm tiên sinh cau mày nói:

- Đơn giản như đùa vậy. Có lẽ nào đây là bẫy?

Lý Dụng Hòa mặt đen gật đầu nói:

- Đúng vậy, chuyện này kỳ quái thiệt.

Thánh công tử gấp quạt lại gõ đầu hai gã, cười mắng:

- Các ngươi quá đa nghi rồi, Địch Thanh là anh hùng, Trương Diệu Ca là mỹ nữ, từ xưa tới nay mỹ nữ yêu anh hùng, có gì đáng ngờ hay sao?

Khi gã nhát gan thì so với chuột còn cẩn thận hơn, nhưng khi lớn gan thì chẳng khác nào ăn phải gan báo vậy.

Mọi người đi theo Tiểu Liên đến Thính Trúc tiểu viện. Trước Thính Trúc tiểu viện, tuyết phủ trúc cong, vạn hoa ngàn thảo điêu linh, mà lá trúc nhọn như mũi tên, phá tan cái lạnh nổi bật trên nền tuyết trắng, khiến cho ngày đông vẫn ngập tràn sức sống.

Thánh công tử khen:

- đi ra ngoài sao có thể nhìn thấy cảnh đẹp thế này?

Địch Thanh không có tâm tình thưởng thức, tròng mắt xoay chuyển nói: 

- Thánh công tử à, chuyện ngươi muốn ta làm, ta đã lo xong cho ngươi, mong rằng ngươi đừng quên lời hứa của mình. Ngươi đi lên trên là có thể gặp được Trương Diệu Ca rồi, ta không lên đâu.

Thánh công tử vội vàng kéo Địch Thanh lại:

- Vừa rồi ngươi không nghe sao? Người ta nói chỉ muốn gặp ngươi. Dù thế nào đi nữa thì ngươi cũng phải đi với ta lên trên đó, đợi đến khi nào người ta không đuổi khách mới được.

Vì kế hoạch thăng quan, Địch Thanh đành phải chờ đợi. Trên lầu có tiếng động vang lên, một người nhẹ nhàng đi xuống, người này miệng rộng, đầu to, lỗ mũi hướng lên trời, trông rất quái dị. Địch Thanh vừa thấy, giật mình kêu lên:

- Sao hắn lại đến nơi này?

Người này chính là Thổ Phiên tăng - Bất Không. Địch Thanh thầm nghĩ, Trương Diệu Ca này làm ăn phát đạt thật, ngay cả Bất Không cũng đến ủng hộ. Nhưng Bất Không đến nơi này làm gì, chẳng lẽ cũng muốn nghe Trương Diệu Ca đánh đàn sao? Hắn cảm thấy không có khả năng này, nhưng nhớ tới lời nhắc nhở của Quách Tuân, Địch Thanh không muốn nhiều chuyện nên cúi đầu xuống.

Lần này Bất Không ít phô trương hơn và cũng không có mặc quần áo của Lạt Ma, thoạt nhìn trừ diện mạo có chút quái dị ra thì không khác biệt lắm so với người bình thường.

Diêm tiên sinh ở bên cạnh nói:

- Ngươi cũng có thể đến, còn có ai không thể đến?

Vừa rồi Địch Thanh dùng câu này để nói với Thánh công tử, Diêm tiên sinh dường như nhìn Địch Thanh không vừa mắt nên mượn cớ châm chọc.

Thánh công tử hỏi:

- Địch Thanh, ngươi biết người này à? Hắn là ai vậy?

Địch Thanh cau mày đáp:

- Ta...không biết.

Thánh công tử bỗng phì cười, vừa định nói thêm gì đó thì đúng lúc này Bất Không lướt qua bên cạnh. Hắn liếc Thánh công tử một cái. Thánh công tử cảm thấy trong đôi mắt này có ẩn chứa ma lực kì bí, ngay cả nói chuyện cũng quên luôn. Khi Bất Không nhìn thấy Thánh công tử thì ánh mắt lộ ra vẻ kinh ngạc, nhưng bước chân không dừng lại, thoáng cái đã đi xa.

Thánh công tử lắc đầu, vừa phục hồi lại tinh thần liền nhớ tới Trương Diệu Ca, đưa tay kéo Địch Thanh, sốt ruột nói:

- Đến lượt chúng ta rồi.

Địch Thanh cười khổ, đành phải cùng Thánh công tử đi lên lầu. Khi đến trước rèm che, gió thổi rèm động, tiếng va chạm lao xao thanh thúy như băng. Vén rèm ngọc lên, không khí trong phòng ấm áp như xuân.

Trương Diệu Ca đang thả lỏng cơ thể, biếng nhác ngồi ở trước đàn, thấy bốn người bước vào thì yểu điệu nói:

- Thiếp thân hơi mệt, xin thứ lỗi vì không thể đứng dậy nghênh tiếp.

Trương Diệu Ca mặc váy thêu mỏng màu lục nhạt, dáng ngồi nhàn nhã, thân mình mảnh mai thon thả lộ hết ra. Mặt nàng chỉ trang điểm nhẹ như hoa chớm sắc xuân, nữ trang hình hoa mai buông thả trên trán làm cho vẻ lười nhác thờ ơ đó mang theo một khí chất diễm lệ kinh người.

Thánh công tử vội hỏi:

- Diệu Ca tiểu thư đã xem bệnh chưa? Tại hạ biết mấy vị lương y, nếu cô đồng ý, tại hạ sẽ lập tức mời họ đến xem bệnh cho cô nương.

Trương Diệu Ca dịu dàng lắc đầu, tay gẩy dây đàn hát vài câu:

- Tử huệ tư ngã, khiên thường thiệp trăn. Tử bất tư ngã, khởi vô tha nhân? (1)

(1) Chàng nhớ thương em, xắn áo vượt sông. Chàng không còn nhớ, bao kẻ ngóng trông?

Làn điệu đều đều, không có trầm bổng cao trào như lần đầu tiên nghe được.

Thánh công tử cũng chưa từng nghe qua khúc nhạc này, chỉ cảm thấy âm điệu êm dịu, quanh co uốn lượn, không khỏi vỗ tay khen hay.

Địch Thanh nghe thấy thì khẽ giật mình. Nếu như là mấy tháng trước, Địch Thanh tuyệt đối không hiểu hàm ý trong lời hát của Trương Diệu Ca, nhưng dạo này chàng đọc Kinh Thi không ít nên nghĩ mấy câu hát này có lẽ cũng nằm ở trong đó. Ý nghĩa của nó hình như là: ‘nếu chàng nhớ em thì phải không ngại cực khổ mà vén áo vượt sông tìm em, nếu chàng không cần em, chẳng lẽ không có người khác nhớ em sao?’

Bốn câu thơ này vốn là lời thổ lộ mạnh dạn của thiếu nữ với người mình yêu, giờ Trương Diệu Ca bỗng hát ra làm cho Địch Thanh nghe chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Nơi này làm gì có đối tượng cho Trương Diệu Ca thổ lộ chứ?

Trương Diệu Ca nghe Thánh công tử trầm trồ khen ngợi thì mỉm cười nói:

- Hóa ra Thánh công tử còn là người tao nhã. Vậy thiếp thân sẽ đàn thêm một khúc để tặng công tử...

Nói xong, cổ tay nàng nhẹ nhàng gảy lên dây đàn. Đàn này là vật chết, nhạc khúc lại là vật sống, lên xuống không ngừng, vang vọng trong gian lầu ấm áp, tràn đầy linh cảm. Điệu hát vừa dừng, Trương Diệu Ca lại nhỏ giọng ngâm:

- Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung. . .

Địch Thanh đang ngắm nghía miếng ngọc vừa mới mua cho đỡ nhàm chán, chợt nghe hai câu hát này thì giật cả mình, nhịn không được ngẩng đầu lên nhìn. Sóng mắt long lanh mờ ảo của Trương Diệu Ca đang lay động trên mặt Địch Thanh, đôi tay vẫn gảy đàn không ngừng, nhưng mà ngâm xong hai câu đó nàng lại không hát tiếp nữa.

Thánh công tử không biết xuất xứ hai câu này, đang nhíu mày suy nghĩ thì thấy Địch Thanh có vẻ đăm chiêu, hỏi nhỏ:

- Địch huynh, ngươi nói xem hai câu 'Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung' này nghĩa là gì?

Địch Thanh thản nhiên cười:

- Ta không biết.

Thánh công tử nhìn ra có vấn đề, khích tướng:

- Ta cũng nghĩ là ngươi không biết, vốn định hỏi thử xem ngươi biết không, nếu ngươi biết thì lúc xin quan cho ngươi còn có thể xin thêm cái quan hàm Vũ Kỵ Úy.

Dứt lời, gã giả bộ liên tục lắc đầu ra vẻ tiếc rẻ lắm.

Hai mắt Địch Thanh sáng ngời, hỏi:

- Ngươi nói thật chứ?

Thánh công tử lập tức đáp:

- Đương nhiên.

Địch Thanh mừng rỡ, thầm nghĩ đọc sách hay thật, lần này lại lượm được chỗ tốt. Thì ra Vũ Kỵ Úy là huân quan(2), huân quan là thiếp chức (kiêm chức) (3), tuy có danh không quyền nhưng được nhận bổng lộc. Vừa rồi Địch Thanh sợ phiền toái nên không muốn nói, lần này tự dưng lại có được cơ hội thăng tiến, đương nhiên không thể bỏ qua, trả lời:

- Đây vốn là hai câu của bài « Thảo Trùng » trong « Kinh Thi », hai câu cuối là 'Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung'. Ha ha, Đừng có quên chuyện mà ngươi đã đáp ứng ta đó nhé.

(3) Thiếp chức: chức vị kèm theo một chức vị có sẵn khác.

Nghe bốn câu này rất ăn khớp hợp vần, không giống như Địch Thanh bịa đặt lung tung, Thánh công tử cũng có chút khâm phục Địch Thanh, liền mở lời tán dương:

- Không ngờ ngươi cũng văn võ song toàn đó?

Địch Thanh nói khoác mà không biết ngượng nói:

- Tất nhiên.

Quay qua nhìn Trương Diệu Ca đang đánh đàn, Thánh công tử đột nhiên lấy tay gõ bàn, hòa theo nhịp điệu mà ngâm:

- Yêu yêu thảo trùng, địch địch phụ chung, vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung. Diệu Ca tiểu thư đánh đàn rất hay, khó có được khúc ý như tuyết, ẩn có nét xưa.

Gã có nghiên cứu về âm luật, bên xướng bên hoạ, cực kỳ ăn ý. Trong lúc đàn hát, gã thầm nghĩ: “Không biết Trương Diệu Ca đang nhớ ai, có phải là Địch Thanh hay không?”

Trong mắt Trương Diệu Ca hiện lên vẻ kinh ngạc, cổ tay khẽ vạch, dư âm chưa dứt đã dịu dàng cười nói:

- Thánh công tử tài hoa bất phàm, thiếp thân bội phục.

Thánh công tử thầm kêu xấu hổ, vừa định khiêm tốn vài câu thì Trương Diệu Ca quay qua nói với Địch Thanh:

- Địch quan nhân, trên tay ngài là vật gì thế, có thể cho thiếp thân xem được chăng?

Địch Thanh thấy người ta lễ độ, không nỡ từ chối, vừa đưa vừa nói:

- Chỉ là một miếng ngọc mới mua mà thôi.

Trương Diệu Ca nhận lấy ngọc bội, nhìn một lúc rồi nói: "Ngọc này đẹp thật, hoa văn xanh như sóng, sắc vàng như hoa, vết ngấn như lệ. Trước đây, thiếp chỉ gặp một miếng ngọc giống thế, gọi nó là Nhãn Nhi Mị (mắt xinh), đáng tiếc đã mất rồi. Địch quan nhân, ngài thật tinh tường.

Nàng vừa khen vừa vuốt ve miếng ngọc không ngừng, rõ ràng cực kỳ yêu thích nó.

Thánh công tử thầm nghĩ tên tiểu tử Địch Thanh này không biết có chỗ nào hay mà làm cái gì cũng được con gái thích. Mình phong lưu phóng khoáng, đẹp trai nhiều tiền, sao Trương Diệu Ca không khen mình vài câu? Tiền mua miếng ngọc này là của mình đó.

Thấy Địch Thanh đứng đờ ra, Thánh công tử lấy tay huých Địch Thanh:

- Ngươi cũng nên nói vài lời đi chứ.

Thánh công tử có ý ra hiệu Địch Thanh tặng miếng ngọc này cho giai nhân, không ngờ Địch Thanh lại nói:

- Trương cô nương, cô xem xong chưa? Miếng ngọc này trả lại cho tại hạ nhé?

Địch Thanh thấy sắc trời đã muộn, vì nóng lòng đến gặp Dương Vũ Thường nên thúc giục.

Thánh công tử thiếu chút nữa đạp cho Địch Thanh một đạp. Nhìn vẻ mặt buồn bã của Trương Diệu Ca, Thánh công tử vội hỏi:

- Địch huynh, chẳng phải khi nãy huynh mua nó với giá hai lượng bạc sao? Ta trả huynh hai lượng coi như là tiền mua lại miếng ngọc này để tặng cho Diệu ca cô nương, ý của huynh thế nào?

Địch Thanh lắc đầu:

- Bao nhiêu tiền cũng không bán!

Thánh công tử còn định nói thêm, Trương Diệu Ca đã chìa cánh tay thon thả đưa miếng ngọc ra:

- Địch quan nhân, ngài cất ngọc đi.

Địch Thanh cầm lấy miếng ngọc:

- Diệu Ca cô nương, tại hạ còn có việc, chào cô nương.

Trương Diệu Ca buồn bã nói:

- Địch quan nhân không thể ở thêm chút nữa sao? Thực ra, thiếp...

Nàng chưa nói xong, Địch Thanh đã ngắt lời:

- Tại hạ còn có chuyện quan trọng, không thể chậm trễ.

Thánh công tử ở bên cạnh liền lên tiếng:

- Tại hạ thì không bận việc gì.

Trương Diệu Ca thở dài:

- Thiếp thân cũng mệt rồi. Liên Nhi, tiễn khách.

Thánh công tử cũng đành thở dài thườn thượt, ngượng ngùng đi theo Địch Thanh xuống lầu.

Tiễn mọi người xuống lầu xong, lúc đi lên lại, Liên Nhi phẫn nộ nói:

- Tiểu thư, tên Địch Thanh này thật kiêu ngạo phách lối, tiểu thư muốn giữ hắn lại, vậy mà hắn không chịu ở lại.

Trương Diệu Ca gẩy đàn tính tình tinh mấy tiếng, tiếng đàn chưa dứt nàng đã nói:

- Địch Thanh ở lại hay không cũng không sao, ta vốn định dò la chút tin tức về Quách Tuân từ Địch Thanh, nhưng ta cảm thấy có lẽ hắn cũng không biết gì về Quách Tuân đâu. Bất Không này thật phiền toái, e rằng y sẽ còn đến tìm ta.

Liên nhi thấp giọng hỏi:

- Sao chúng ta phải sợ y?

Trương Diệu Ca chỉ tiếp tục đánh đàn, khe khẽ thở dài, nhưng tiếng đàn không còn tình cảm, không còn sức sống nữa, mà ngược lại lộ ra cảm giác lạnh lẽo thấu xương.

Sau khi xuống lầu, Thánh công tử tức giận nói:

- Địch Thanh, ngươi ngu hết chỗ nói. Trương Diệu Ca thích miếng ngọc này, sao ngươi không tặng cho nàng đi?

Địch Thanh cau mày:

- Ta còn thích bạc đó, ngươi có sao không tặng cho ta?

Thánh công tử hơi kinh ngạc, chưa kịp trả lời, Địch Thanh nói tiếp:

- Ngươi nợ ta chức Tán Trực và Vũ Kỵ Úy đấy, nhớ trả cho ta! Người sống ở kinh thành, điều quan trọng nhất là phải giữ chữ tín, ta chờ tin tức của ngươi.

Nói xong, chàng nghênh ngang rời đi.

Thánh công tử định gọi Địch Thanh lại, không ngờ có người đột nhiên xông tới. Lý Dụng Hòa vẫn luôn trầm mặc, trông thấy vậy liền ngăn ở trước mặt Thánh công tử, quát hỏi:

- Ngươi muốn làm gì?

Người này mỉm cười, nhìn thẳng vào Thánh công tử:

- Ấn đường của vị công tử này sinh đen, e rằng sắp tới sẽ gặp tại nạn đổ máu.

Thánh công tử rùng mình, nhận ra người tới là người vừa từ Trúc Ca lâu đi xuống. Địch Thanh biết người này, nhưng gã thì không biết.

Diêm tiên sinh quát lớn:

- Nói hươu nói vượn, ngươi là ai?

Hai tay người này kết ấn, mỉm cười đáp:

- Tiểu tăng pháp danh Bất Không!

Thánh công tử ngạc nhiên, nghẹn lời:

- Ngươi… ngươi là Bất Không?

Hai mắt Bất Không nhìn chăm chú vào đôi mắt Thánh công tử, hỏi:

- Công tử biết tiểu tăng sao?

Thái độ của hắn đối với Thánh công tử không ngờ còn nhã nhặn hơn so với Lưu thái hậu. Giọng nói dù vẫn oang oang như tiếng bạt, nhưng đã thu bớt ngạo khí.

Thánh công tử lắc đầu:

- Ta chưa từng gặp ngươi.

Rồi y bỗng dưng nhớ tới điều gì đó:

- Ta nghe nói đại sư liệu chuyện như thần, lẽ nào ta thật sự có nguy hiểm sao?

Đôi mắt Bất Không thoáng hiện vẻ quỷ dị rồi thoắt cái biến mất, thở dài:

- Tiểu tăng gặp được công tử, lại nhất định có duyên. Mới vừa rồi thấy công tử tại Trúc Ca lâu, đã cảm thấy Thánh công tử có nạn trên người, nên mới đứng chờ ở bên ngoài.

Diêm tiên sinh vừa sợ vừa giận:

- Tên phiên tăng này, nói năng lung tung. Thánh công tử sao có thể gặp nạn chứ?

Bất Không lắc lắc đầu:

- Nếu vị tiên sinh ny không tin, tiểu tăng xin cáo từ.

Hắn xoay người định đi, nhưng bị Thánh công tử kéo lại. Vẻ mặt Thánh công tử lạ lùng, trong mắt cũng hiện vẻ hoảng sợ không yên, khàn giọng:

- Cao tăng đừng đi, ta tin ngài mà, mong ngài giúp đỡ tìm cách phá giải.

Bình thường Thánh công tử luôn ung dung, nhưng giờ phút này vẻ mặt lại rất lo âu, tin tưởng lời Bất Không nói là thật. Có thể thấy gã quả thực có điều khúc mắc, nếu không cũng sẽ không trở nên như vậy. Diêm tiên sinh và Lý Dụng Hòa nhìn nhau, mặt ai cũng đầy ưu sầu...

Địch Thanh thì không có gì phải lo âu như Thánh công tử, thân thể bay bổng, cảm giác nhẹ tựa chim yến đi đến ngõ Mạch Kiết. Thánh công tử xin được chức quan cũng tốt, xin không được cũng chẳng sao, miếng ngọc này vẫn là tấm chân tình trong lòng hắn. Có đôi khi, quan chức và kim tiền há có thể sánh được với chân tình.

Đến trước cửa son Dương phủ, Địch Thanh cúi đầu nhìn lại trang phục của mình. Hắn cảm thấy hơi mặc cảm, thầm nghĩ nếu có người mở cửa thì mình làm sao mở miệng đây? Chần chừ một chút, hắn đi đến chỗ cửa hông mà lần trước đã vào. Gõ cửa, nhưng không nghe thấy bất cứ động tĩnh gì, Địch Thanh hơi thất vọng. Sau một hồi lưỡng lự, hắn vừa chuẩn bị rời đi, bất chợt cửa hông vang lên tiếng kẽo kẹt, rồi mở ra.

Nguyệt nhi nhô đầu ra khỏi cửa, nói:

- Chỉ là một cánh cửa mà cũng làm khó được ngươi sao?

Địch Thanh xấu hổ nói:

- Tôi cũng không thể phá cửa đi vào. Nguyệt nhi cô nương, tiểu thư nhà cô có nhà không?

Nguyệt nhi gật gật đầu:

- Có, nhưng có chút vấn đề.

Địch Thanh sốt ruột hỏi:

- Nàng vẫn chưa khỏe sao?

- Ngươi nghĩ có thể khỏe nhanh thế sao?

Nguyệt nhi bĩu môi rồi nói tiếp:

- Nàng đột nhiên bị cảm lạnh đã mấy ngày rồi, vẫn chưa khỏe được. Nhưng bây giờ chuyện khó không phải là bệnh, mà là chuyện khác, phải xem ngươi có thể giúp đỡ hay không?

Địch Thanh lập tức nói:

- Núi đao biển lửa, tuyệt không chối từ!

Rốt cuộc Nguyệt nhi cũng nở nụ cười:

- Không uổng công tiểu thư nhà ta quan tâm ngươi như thế, đi theo ta.

Nói xong liền dẫn Địch Thanh vào cửa hông, đi thẳng tới tiền đường. Địch Thanh không hiểu hỏi:

- Nguyệt nhi cô nương, chúng ta đi đâu thế?

Nguyệt nhi đáp:

- Đi gặp lão gia nhà ta.

Địch Thanh cả kinh, dừng bước:

- Gặp lão gia nhà cô?

Nguyệt nhi nhíu mày hỏi:

- Sao thế, chẳng lẽ ngươi cứ muốn lén lén lút lút với tiểu thư nhà ta cả đời sao?

- Không phải vậy, nhưng mà gặp ngay lúc này thì ta chưa chuẩn bị chút gì cả.

- Đợi ngươi chuẩn bị ư? Có thể chuẩn bị ra chức Đại tướng quân, Tiết Độ Sứ không?

Địch Thanh cười khổ trả lời:

- Không thể.

Nguyệt nhi nguýt một cái rồi nói:

- Vậy không được, nếu ngươi không có cách gì chuẩn bị tốt hơn thì trước mắt chỉ có hai điều có thể thuyết phục lão gia nhà ta chấp nhận ngươi.

Địch Thanh khiêm tốn:

- Mời cô nương nói.

- Điều kiện đầu tiên là chân thành, ngươi nhất định phải làm cho lão gia nhà ta biết ngươi cực kì chân thành với tiểu thư nhà ta.

- Cái... chân thành… này tôi có!

Nguyệt nhi thấy bộ dạng lúng túng của Địch Thanh thì cười khúc khích, tiếp tục vừa đi về phía trước vừa nói:

- Có hay không, phải đến lúc đó mới biết được. Điều kiện thứ hai là ngươi phải làm cho lão gia nhìn thấy ngươi là người có bản lĩnh!

Địch Thanh âm thầm than thở, điều kiện của Nguyệt nhi đúng là không quá lắm. Thử hỏi lão gia nhà nào lại gả con gái cho người tầm thường không có chí tiến thủ chứ? Nhưng mình thì có tài năng gì chứ? Lòng rối như tơ vò, hắn thử dò hỏi:

- Vậy lão gia nhà cô có thích gì không?

Nguyệt nhi trả lời gọn gàng:

- Người làm ăn, đương nhiên thích tiền!

Hai người nói chuyện một lúc đã đi đến gần tiền đường. Nhìn từ xa xa, thấy trong nhà có ba người đang ngồi, trong đó có Vũ Thường. Nàng đang nhìn ra ngoài như mong chờ ai đó, thấy Địch Thanh và Nguyệt nhi đến liền nở nụ cười xinh đẹp, hai gò má đỏ bừng, đầu cúi xuống.

Địch Thanh từ xa trông thấy Vũ Thường nở nụ cười, tình cảm dâng lên trong lòng, thầm nghĩ lần này bất kể ra sao cũng không thể để nàng thất vọng.

Trong phòng khách trừ Vũ Thường ra, ở vị trí chủ nhà là một người lớn tuổi ngồi ngay ngắn, râu hoa râm, khuôn mặt đỏ như đồng, dáng vẻ khá uy nghiêm. Địch Thanh nghĩ rằng, người này chắc là phụ thân của Vũ Thường rồi, nhưng không giống Vũ Thường lắm, may mà cũng không giống.

Ngồi vị trí phía dưới lão là một người thanh niên, dưới mông giống như có đinh, ngồi không yên. Trên tay người thanh niên này đeochiếc nhẫn lục ngọc cực lớn, ăn mặc xa hoa cầu kì, mặc dù đang nói chuyện với lão giả, nhưng ánh mắt thỉnh thoảng lại liếc về phía Dương Vũ Thường. Lão giả phát hiện có khách đến, không khỏi kinh ngạc:

- Tiểu Nguyệt, có chuyện gì đấy?

Tiểu Nguyệt ấp úng đáp:

- Lão gia, có khách viếng thăm.

Nàng dẫu sao cũng là nha hoàn, mặc dù toàn tâm vì Vũ Thường nhưng cũng không dám làm Dương lão gia tức giận.

Dương lão gia tức giận không vui, lão đang tiếp khách mà sao Nguyệt nhi lại không biết lễ độ, dẫn người đến đây làm gì? Thấy Địch Thanh đã đến trước mặt, lại thoáng thấy hình xăm trên mặt Địch Thanh, Dương lão gia hơi giật mình, đứng dậy chắp tay hỏi:

- Vị quan quân này, không biết tới đây có việc gì không?

Vào lúc này, Địch Thanh đã định ra đối sách, nói thẳng ra:

- Tại hạ tìm Dương bá phụ.

Dương Vũ Thường vừa mừng vừa sợ, không nghĩ tới Địch Thanh lại thẳng thắn như thế. Dương lão gia nhíu mày, tâm tư xoay chuyển, trong lúc nhất thời không biết đối đáp ra sao! Địch Thanh chỉ hiền lành trước mặt Vũ Thường thôi, cò với người ngoài thì một chút cũng không có, con ngươi khẽ đảo, hắn định giải thích lý do:

- Dương bá phụ...

Dương lão gia ngắt lời:

- Lão hủ là Dương Niệm Ân, ngươi nể mặt ta thì gọi ta là lão trượng, bá phụ thì thật không dám nhận.

Vũ Thường cúi đầu không nói, khóe miệng thủy chung vẫn mang nụ cười như có như không. Người thanh niên đỏm dáng vẫn luôn coi Địch Thanh như không khí, nhưng khi thấy Địch Thanh dường như cũng làm ngơ với gã thì nhịn không được nói:

- Rốt cuộc ngươi là ai? Đừng có lôi kéo làm quen!

Địch Thanh quay đầu nhìn gã

- Ngươi là ai? Vì sao đến nhà Dương lão trượng, muốn trộm cắp sao?

Người đó phẫn nộ kêu lên:

- Ta cảnh cáo ngươi, ngươi nói chuyện lễ độ chút!

Địch Thanh vặn lại:

- Không lễ độ thì sao nào?

Người đó sững lại, rồi nhìn thấy trên mặt Địch Thanh có xăm chữ thì cười lạnh nói:

- Ta cần gì chấp nhặt thứ đồ như ngươi?

Gã thầm nghĩ: “Hảo hán không ăn thiệt thòi trước mắt, tiểu tử này là quân nhân cấp thấp, chỉ là một cái mạng rách, mình không cần phải liều mạng với hắn.”

Dương Niệm Ân vội hòa giải:

- Quan nhân, vị tiểu ca này là La Đức Chính, đến đây nói chút chuyện riêng với lão hủ, không phải là loại người trộm cắp.

La Đức Chính tự dưng cảm thấy yếu thế đi, cả giận:

- Dương bá phụ, hà tất gì phải nói lời vô nghĩa với hắn?

- Bá phụ thì không dám nhận, hay ngươi gọi là lão trượng đi.

Chàng tiếp lấy câu chuyện, ngược lại đã chiếm được tiện nghi của La Đức Chính.

Vũ Thường không kìm được, bật cười khúc khích.

La Đức Chính chợt đứng lên, vỗ bàn nói:

- Ngươi dám chiếm tiện nghi của ta?

Địch Thanh kinh ngạc nói:

- Đâu có, đâu có. Ta thấy Dương lão trượng khiêm tốn nên mới thay người nói ra, chẳng lẽ ngươi không muốn gọi người là lão trượng, muốn gọi là huynh đài sao?

Dương Niệm Ân nhíu chặt mày, nói lảng đi:

- Đức Chính hiền chất, vừa rồi con có nói mang tới ít trà. Đâu? Cho lão hủ xem.

La Đức Chính thấy Dương Niệm Ân khách sáo với gã thì bình tĩnh lại, lấy hộp gấm ra, hai tay đưa lên nói:

- Kính mời bá phụ đánh giá.

Dương Niệm Ân đưa tay nhận lấy, cười nói:

- Không biết đây là trà nơi nào?

Lão vốn là thương trà, chuyển chủ đề vì không muốn Địch Thanh và La Đức Chính xung đột nhau, chứ đối với trà thông thường, lão thật sự không để vào trong mắt.

La Đức Chính mỉm cười nói:

- Đây là trà Long Đoàn của Kiến Khê.

(trà Long Đoàn: một loại trà dùng để triều cống. được ép thành hình cầu, trên có vẽ hình rồng.)

Dương Niệm Ân giật mình, vội vàng mở hộp gấm ra, thấy chính giữa có để một bánh trà, màu sắc rực rỡ, trên có ký hiệu Kim Long đặc trưng của Kiến Khê, vui vẻ nói:

- Ai chà! Lễ vật này thật quý, rất quý!

Địch Thanh nhìn không ra bánh trà này quý giá ở chỗ nào, nhưng không muốn xấu mặt đành phải trầm mặc để giấu dốt. Mặc dù Địch Thanh muốn ẩn mình nhưng La Đức Chính thì lại không buông tha, gã khinh khỉnh hỏi:

- Vị quan nhân này, ngươi có biết lễ vật quý trọng này iểm nào không?

Địch Thanh trả lời:

- Thường lắm.

Hắn vừa nói ra lời này, Dương Vũ Thường và Nguyệt nhi đều nhíu mày, Địch Thanh biết mình đã nói sai, con ngươi đảo vòng vòng, nghĩ cách ứng đối.

La Đức Chính cười ha ha nói:

- Thường lắm? Ha ha, nếu ngươi có thể đưa ra được lễ vật nào quý trọng hơn nó, ta liền…

- Ngươi liền dập đầu gọi ta là gia gia?

Địch Thanh khiêu khích.

La Đức Chính tức giận đỏ mặt tía tai, Dương Niệm Ân vội giải vây:

- Quan nhân nói đùa rồi, lễ này không quá quý trọng, nhưng cũng không phải tầm thường. Phải biết rằng Kiến Khê - Phúc Kiến là cái nôi sản xuất trà trong cả nước, mà trà Long Đoàn lại là cực phẩm trong các loại trà ở Kiến Khê, một cân trà cũng chỉ có thể làm ra hai mươi bánh trà Long Đoàn, trị giá tới hai lượng vàng đó. Huống chi, đây là trà dùng trong cung, có tiền cũng không mua được.

Địch Thanh ra vẻ xem thường nói:

- Giá hai mươi bánh trà chỉ có hai lượng vàng? Giá cũng tàm tạm thôi.

Hắn đương nhiên biết cái giá này không phải tàm tạm, mà là đắt chết người, lương bổng một năm của hắn còn chưa được hai lượng vàng. Nhưng lúc này, dĩ nhiên Địch Thanh không thể xuống nước.

La Đức Chính cười giận dữ:

- Hừm! Thật huyênh hoang khoác lác, không biết trên người có được hai lượng bạc không nữa?

Địch Thanh cười nói:

- Không gạt ngươi chứ, tuy tại hạ bần hàn nhưng vung tay một cái cũng mua được mấy trăm bánh trà. Chừng này có là gì? À, Long Đoàn đúng không? Mua mấy trăm bánh Long Đoàn cũng không là vấn đề.

La Đức Chính tức giận:

- Nếu ngươi có thể mua mấy trăm bánh, ta liền...

- Ngươi liền dập đầu gọi ta là gia gia?

Địch Thanh hỏi.

La Đức Chính tức muốn điên lên, vỗ bàn nói:

- Được, chỉ cần ngươi có thể ngay tại đây đưa ra năm mươi lượng vàng, ta liền dập đầu gọi ngươi là gia gia, nhưng nếu ngươi không làm được thì sao nào?

Gã thấy Địch Thanh là tên cấm quân quèn, quần áo rách nát, tuyệt đối không tin Địch Thanh có vàng trong người.

Địch Thanh thầm buồn cười, giả bộ lưỡng lự:

- Nói đùa thôi mà, cần gì cho là thật chứ?

La Đức Chính thấy Địch Thanh chùn lại, càng có thêm lòng tin, quát:

- Ai mà rỗi hơi đùa với ngươi? Nếu ngươi không có năm mươi lượng vàng thì đừng có khoác lác, cút ra ngoài đi!

Địch Thanh ra vẻ giận dữ hỏi:

- Nếu ta có vàng thì sao nào?

- Ngươi không có thì sao?

- Ta có thì sao?

Dương Niệm Ân thấy bộ dáng tranh hơn thua kiểu "Anh một câu, ta một câu" của hai người, sợ đấu khẩu đến ngày mai cũng không có kết quả, liền nói:

- Hai vị đừng cãi nhau nữa, người tới là khách, hòa khí sinh tài. Tuy lão hủ không có trà Long Đoàn, nhưng vừa lúc có chút trà Tảo Xuân của Giang Nam, chờ lão hủ pha trà giảm nhiệt cho hai vị.

La Đức Chính nói:

- Dương bá phụ, không phải ta không nể mặt người, có điều người này lớn lối quá mức, nếu ta không dạy dỗ hắn một trận, hắn còn không biết trời cao đất rộng là gì. Hôm nay ta quyết định đánh cược một trận.

Địch Thanh bỗng đứng lên, quát:

- Được, cược thì cược, nếu ta lấy ra năm mươi lượng vàng ngay tại đây. Ngươi phải lập tức gọi ta là gia gia, nếu ta không lấy ra được, ta liền rời khỏi nơi này, sau này sẽ không bao giờ đến đây nữa.

Sắc mặt Vũ Thường khẽ biến, nhỏ giọng:

- Đừng có làm việc theo cảm tính.

Địch Thanh đưa lưng về phía Vũ Thường, bàn tay vẫy vẫy. Thấy Địch Thanh có vẻ đã có dự tính trước, nàng cũng không hiểu cho lắm, bởi vì nàng rất rõ Địch Thanh, biết hắn không phải là người có tiền. La Đức Chính thấy Địch Thanh trúng kế, cười ha ha nói:

- Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy! Hôm nay, xin bá phụ làm chứng cho.

Địch Thanh nói:

- Tuyệt không đổi ý?

- Tất nhiên!

Địch Thanh cười hì hì, đưa tay móc hộp sách mà Thánh công tử đưa, quăng lên mặt bàn cái rầm:

- Vậy ngươi mau mau gọi ta là gia gia đi.

Phịch một tiếng, nắp hộp sách bung ra, mấy miếng vàng lá sáng choang xuất hiện, đập vào mắt mọi người.

La Đức Chính sững sờ, thốt không nên lời.

 Chương 73 - 76: Thiên tử

Chẵng những La Đức Chính kinh ngạc, cho dù Dương Niệm Từ, Dương Vũ Thường và Nguyệt Nhi đều tràn đầy ngạc nhiên. Bởi vì bất luận kiểu gì, Địch Thanh cũng không phải là người có khả năng bỏ ra 50 lượng vàng. Nếu nói hắn có thể bỏ ra 50 lượng phân trâu thì may ra. Nhưng số vàng kia đang tỏa sáng lấp lánh, khó có thể là giả.

Địch Thanh cười ha hả nói:

- Xem ra có người muốn gọi ta là ông nội rồi.

Dương Vũ Thường buông lỏng tâm sự, che miệng cười như mùa xuân tỏa nắng.

Khuôn mặt La Đức Chính đỏ bừng như quả cà chua, quát:

- Dương bá phụ, tại hạ không có mặt mũi nào ở đây nữa, cáo từ.

Dứt lời xoay người liền đi.

Địch Thanh kêu lên:

- Này ngươi còn chưa gọi đâu…

Lời nói còn chưa dứt, Dương Niệm Từ đã kéo Địch Thanh lại, cầu khẩn nói:

- Quan nhân, cầu người đừng làm loạn.

Dương Niệm Từ ra hiệu cho Dương Vũ Thường ngăn Địch Thanh lại, sau đó đuổi theo ra sân nhà. Nhưng La Đức Chính đã sớm đi xa. Dương Niệm Từ âm thầm kêu khổ, mặt mày nhăn nhó trở về. Địch Thanh thấy thế an ủi:

- Dương…Lão trượng, những kẻ hay lật lọng thường không có bản lĩnh gì. Nếu y lại đến gây rối, lão chỉ cần đến bảo ta, ta sẽ đánh đuổi y!

Dương Niệm Từ thấy kẻ không nên đến lại đến, kẻ nên đến lại đi, trong lòng tức giận. Nhưng thấy Địch Thanh độc lập độc hành giống như cao nhân, cũng không dám đắc tội, dò hỏi:

- Quan nhân tới đây rốt cuộc có việc gì?

Địch Thanh quanh co nói:

- Tại hạ Địch Thanh, tới để…

Quay đầu nhìn hướng Dương Vũ Thường. Thấy nàng nhìn mình chằm chằm, hình như có chờ mong, lại như trách cứ. Trong lòng đột nhiên dâng lên dũng khí, nói:

- Tại hạ tới đây, thật ra là đề nghị kết thông gia với lão trượng. Số vàng này chính là sính lễ, mong rằng lão trượng đồng ý gả Vũ Thường cho tại hạ.

Dương Vũ Thường tuy rằng ưa thích Địch Thanh, nhưng nghe tới vậy cũng thẹn thùng vô cùng, cúi đầu xuống. Dương Niệm Từ thiếu chút nữa hôn mê bất tỉnh. Ông sống cả đời, cũng chưa bao giờ thấy người nào mặt dày, vớ vẩn như vậy.

Địch Thanh chân thành nói:

- Tại hạ đương nhiên cũng biết hành động lần này có chút mạo muội. Nhưng tại hạ thật tâm thích Vũ Thường, chỉ cầu lão trượng thành toàn.

Dương Niệm Từ vội hỏi:

- Già này chẳng qua chỉ là một kẻ thương nhân, làm sao dám trèo cao? Nguyệt Nhi, mau đun nước, ta muốn mời Địch quan nhân uống trà. Việc khác, tạm thời bàn bạc kỹ hơn.

Ông ta cảm thấy tâm phiền ý loạn, tay run lên, chén trà trên tay rơi xuống mặt đất, vỡ nát. Thấy trên mặt con gái có ý xấu hổ, trong lòng Dương Niệm Từ khả nghi nói:

- Vũ Thường, con quen vị quan nhân này sao?

Dương Vũ Thường gật đầu nói:

- Cha, chúng con đã quen từ trước.

Trong lòng Dương Niệm Từ không hài lòng. Nhưng lại không tiện quát lớn con gái trước mặt khách. Đúng lúc này Nguyệt Nhi đã chuyển một cái bếp lò nhỏ vào. Bắc một cái ấm nhỏ lên rồi đổ nước giếng vào.

Thời Tống còn thừa hưởng cách pha trà của thời Đường. Lúc uống trà, có người dùng phương pháp đun trà, tuy nhiên cũng có người dùng cách hãm trà. Chỉ có điều người Đường có khi còn dùng gừng, dùng muối làm gia vị. Người Tống lại chú trọng hương vị của trà nên đã không cho vào.

Dương Niệm Từ tự mình lấy trà rồi đem nghiền nát chờ nước sôi. Dương Niệm Từ tự pha trà để che dấu bất an trong lòng. Ông ta suy nghĩ làm sao để đối phó với kẻ vô lại này đây? Vũ Thường làm sao mà quen biết kẻ này? Mẹ Vũ Thường chết sớm, ta lại đi làm ăn suốt, nên mới khiến tính tình con bé trở nên bốc đồng. Qua chuyện này phải tìm Vũ Thường nói chuyện. Con gái lớn thì phải xuất giá, không nên giữ ở nhà lâu, ôi…

Địch Thanh tuy xuất thân là con nhà nông, nhưng cũng biết mỗi khi gặp lễ mừng năm mới hay tang lễ, đám cưới mà mời khách uống trà thì ở nông thôn được coi là có mặt mũi. Hắn thầm nghĩ, Dương lão trượng này mời mình uống trà, hơn phân nửa là đang thận trọng xem xét đề nghị của mình.

Trong lòng Dương Vũ Thường ngượng ngùng, nhưng cũng mang theo vài phần ngọt ngào, thầm nghĩ: “Địch Thanh rốt cuộc chịu vì mình mà ra mặt. Chỉ có điều cha hơn phân nửa là không đồng ý. Nếu thế thì ta phải kiên trì đến cùng. Tuy nhiên xem Địch Thanh làm thế nào thuyết phục cha ta. Kỳ thật mồm miệng anh ấy khá khéo léo, nhưng vì sao mỗi lần nhìn thấy mình lại trở nên chất phát ngờ nghệch?

Nghĩ đến đây, khóe miệng mỉm cười ngọt ngào.

Mọi người đang suy nghĩ tâm sự của mình thì nước đã sôi. Dương Niệm Từ lấy bát trà, thả chút trà trong chén, rồi đổ chút nước vào trong, nói:

- Địch quan nhân, đây gọi là điểm trà để tăng thêm mùi vị trà. Sau đó thì mới thêm ít nhiều trà tùy khẩu vị. Trà muốn ngon, một chút cũng không thể tùy ý.

Địch Thanh chân thành nói:

- Tại hạ ít uống trà, nên không biết pha trà cũng phải ch ý nhiều như vậy.

Dương Niệm Từ thầm nghĩ, tiểu tử này cuối cùng cũng nói tiếng người. Xem ra không giống hạng người không biết nói đạo lý, nên tìm hiểu thêm. Nói:

- Há chỉ chú ý từng đó cách pha trà. Kỳ thật tuy chỉ là những miếng trà tầm thường, nhưng phải gian khổ mới lấy được. Người hái sau khi lấy được búp trà, phải rang chín, nghiền nát. Có khi phải lấy dầu mỡ đắt tiền bao vào, loại trà này gọi là Tịch Trà. Trà Long Đoàn mà La Đức Chính đưa chính thuộc loại này. Tuy nhiên trà này sản xuất rất ít. Đến Hoàng Đế cũng không dám uống nhiều, mỗi lần ban cho hạ thần cũng chỉ có một nhúm. Rất là trân quý, có vàng cũng không mua được. Trà phải chờ đợi, mới có thể uống ngon, trà vì cao quý, bởi vậy tuyệt đối không thể dùng vàng là có thể mua được.

Dương Niệm Từ tận tình khuyên bảo. Đem con gái so sánh với trà. Ý là nữ nhi của ta và ngươi không xứng. Ngươi có vàng cũng vô dụng. Dương Niệm Từ nói ra tâm ý, thấy Địch Thanh vẫn là tỉnh tỉnh mê mê, đành phải nói:

- Không biết Địch quan nhân thấy thế nào?

Vừa nói vừa rót xong trà, bảo Nguyệt Nhi đem một ly đưa đến trước mặt Địch Thanh.

Địch Thanh không dám chậm trễ, nhận lấy và uống một ngụm, kêu lên:

- Nóng quá!

Hắn chỉ lo cân nhắc ý tứ của Dương Niệm Từ, không để ý đến nước trà vừa mới pha xong liền uống một hớp lớn, nóng đến phỏng lưỡi. Cũng không dám thất lễ, chỉ có thể cố nén đau đớn.

Dương Niệm Từ thầm nghĩ, thôi, nãy giờ đúng là phí lời. Gặp kẻ không biết thưởng thức trà như thế, đúng là đàn gảy tai trâu.

Địch Thanh hít một hơi, nhịn bỏng nói:

- Kỳ thật những lời Dương lão trượng vừa nói, tại hạ không dám gật bừa.

Trong lòng Dương Niệm Từ run lên, hỏi:

- Vậy quan nhân có cao kiến gì?

Địch Thanh nói:

- Không tính là cao kiến. Chẳng qua chỉ là một chút ý kiến nho nhỏ thôi. Nghĩ đến lúc tại hạ còn ở nông thôn, trong nhà dân chúng có chút lá trà, không dám uống, cứ để như thế vài năm. Nhưng thời điểm lấy xuống uống, đã không còn mùi vị. Lá trà kia vốn là mới mẻ, nhưng rất nhiều người vì tồn trữ, không tiếc đem lá trà xanh tươi phơi khô rồi nghiền nát, mùi vị đã không còn sót chút gì. Làm thế chỉ là bỏ gốc lấy ngọn. Cho nên, trong mắt của tại hạ, cách uống trà là cần nước sôi cùng trà tươi. Còn bày diễn đủ kiểu pha trà là không cần thiết, không tính là uống trà. Dương lão trượng, tại hạ thuận miệng nói như vậy, nếu có chỗ đắc tội, kính xin lão trượng bao dung.

Địch Thanh thuận miệng nói như vậy, chỉ muốn làm thấp đi trà Long Đoàn của La Đức Chính. Dương Niệm Từ nghe xong cũng sững sờ tại chỗ, bưng chén trà, thật lâu không nói gì.

Lúc này trong kinh vốn có phong trào xa hoa lãng phí nên mới có kiểu trà Long Đoàn. Vật lấy hiếm là quý. Tuy nhiên đắt tiền chưa chắc là tốt nhất, Long Đoàn chỉ có thể coi là khan hiếm. Ở trong mắt Dương Niệm Từ cũng không coi là cực phẩm. Bởi vậy tuy Địch Thanh nói có chút trắng ra, nhưng người này so với mấy kẻ chỉ biết học đòi giải thích thì cao hơn nhiều.

Dương Niệm Từ thấy Địch Thanh rất có kiến giải thì cũng dám coi khinh hắn. Liếc xéo sang, thấy hộp kia còn phát hào quang trên bàn. Thầm nghĩ người có thể tùy tiện lấy ra 50 lượng vàng, ở trong kinh thành cũng không nhiều lắm. Người này rốt cuộc có lai lịch gì? Rồi đột nhiên nhìn thấy trên hộp có khắc hai chữ triện. Chăm chút nhìn sang, thì thấy viết “Nội Tàng”. Sắc mặt Dương Niệm Từ biến hóa, không kìm nổi hỏi:

- Không biết Địch quan nhân lúc này đang làm chức gì?

Địch Thanh hổ thẹn nói:

- Hiện tại chẳng qua chỉ là chức Thập Tương.

Thấy Dương Niệm Từ nhíu mày, Địch Thanh đành phải nói:

- Nhưng sắp tới có đề bạt, có thể lên chức Tán Trực.

Dương Niệm Từ lại cả kinh. Thầm nghĩ Thập Tương không thể so sánh với Tán Trực. Người này có thể từ Thập Tương lên thẳng tới Tán Trực, không cần nói cũng biết, nhất định là có hậu đài. Dương Niệm Từ không phải là vô căn cứ đoán, vì từ hai chữ “Nội Tàng” đã nhìn ra xuất xứ của hộp vàng.

Hộp vàng này đến từ kho Nội Tàng trong cung. Kho Nội Tàng hay còn gọi là kho của Thiên Tử, chỉ có thể do Thiên Tử sử dụng. Năm đó sau khi Tống Thái Tổ đánh chiếm Kinh Hồ, Hậu Thục, liền xây “kho Phong Thung” để tồn trữ của cải của hai địa phương. Sau lại có lợi nhuận dư từ Tam Ti, cũng có phần lớn nhập kho.

Năm đó Tống Thái Tổ xây dựng kho Phong Thung nhằm mục đích đối phó với Khiết Đan. Tống Thái Tổ từng nói, đợi kho đầy ba mươi lăm triệu, thì dùng để chuộc đất cũ U Yến từ tay Khiết Đan. Nếu không thành, thì đem toàn bộ kho làm quân phí để tấn công chiếm đất. Tống Thái Tổ hùng tài vĩ lược, lập chí thu hồi lại đất cũ. Không ngờ lại đột tử vào đêm khuya, mà kho Phong Thung này sau đổi tên thành kho Nội Tàng, cất giấu vô số của cải. Nhưng ý lúc trước của Tống Thái Tổ đã bị hậu nhân quên dần.

Hộp vàng này có liên quan đến Thiên Tử? Dương Niệm Từ khó có thể tin, thử hỏi:

- Địch tiểu ca, không biết ngươi có quen vị quan nào trong triều đình không?

Ông ta hỏi như vậy, đương nhiên là cảm thấy vàng này là Thiên Tử tặng cho trọng thần. Trọng thần lại vòng lại cấp cho Địch Thanh. Vừa nghĩ đến đấy, thầm tâm động.

Địch Thanh hàm hố nói:

- Có vài vị…

Dương Niệm Từ thởi dài:

- Kỳ thật già này tìm La Đức Chính, vốn có chuyện muốn nhờ. Tuy nhiên y đi rồi, chỉ sợ sự tình không làm được.

Dứt lời lão liếc xéo Địch Thanh, có ý thử.

Địch Thanh cả gan nói:

- Không biết lão trượng có việc gì khó.

Dương Vũ Thường bất mãn nói:

- Cha, cha và Địch Thanh lần đầu gặp mặt, sao lại làm phiền huynh ấy rồi?

Dương Niệm Từ cười nói:

- Không phải là nhờ cậu ta giúp, chỉ là hỏi một chút thôi. Vũ Thường, Địch Thanh là bằng hữu của con, đương nhiên là bằng hữu của cha. Thương lượng một chút việc, chắc không sao chứ?

Địch Thanh không muốn Thường Vũ khó xử, kiên trì nói:

- Không có gì, không có gì.

Dương Niệm Từ ho nhẹ một tiếng nói:

- La Đức Chính này vốn cùng với Phò mã Đô Úy Lý Tuân Úc có chút quan hệ thân thích. Mà Lý Tuân Úc lại được Thái Hậu rất coi trọng…

Địch Thanh trong lòng trầm xuống, biết đã gặp phiền toái. Hắn mặc dù chưa thấy qua Thái Hậu, nhưng cũng biết nếu đắc tội lão thái bà này thì không có ngon để ăn.

Dương Niệm Ân lại nói:

- Lão phu vốn là thương nhân bán trà. Mấy năm nay triều đình thay đổi thuế trà liên tục. Thời gian trước dùng phương pháp ‘Hư thực tam cô’, cho nông dân trồng chè, thương nhân chịu khổ. Hiện giờ triều đình sửa lại luật, chọn phương pháp ‘Thiếp xạ’ (chế độ thu nhập của nhà nước về thuế trong việc buôn bán chè vào thời Tống). Lão phu đã quan sát cẩn thận, cảm thấy việc này có triển vọng. Nhưng nếu có thể lại bán trà, nhất định phải đến triều đình đăng ký, mới cho phép bán. Nhưng láy được giấy cho phép không phải dễ dàng. Mấy ngày nay lão phu vì chuyện này mà phát sầu nên mới tìm đến La Đức Chính. Y có thể giúp lão phu giải quyết. Chuyện sau đó… Địch tiểu ca cũng biết.

Địch Thanh đã hiểu, nhưng trong lòng không khỏi kêu khổ. Chuyện này nói trắng ra là triều đình hủy bỏ độc quyền về bán trà, muối. Muốn đem quyền lợi trao trả cho các thương nhân. Mà danh ngạch thì có hạn, cho nên mọi người đều muốn tranh giành. Địch Thanh hắn vốn chỉ là một cấm quân bình thường, làm sao có đủ quyền lực tiếp tay vào?

Dương Niệm Ân thấy Địch Thanh có vẻ khó khăn thì không khỏi thất vọng. Thầm nghĩ hậu trường người này chắc không quá lớn, cũng lười cùng hắn cãi cọ, nói:

- Chuyện này làm lão phu đau đầu thật lâu, lại còn phải khắp nơi bôn ba. Địch tiểu ca, nếu như không còn việc gì thì xin mời trở về. Số vàng này cũng xin thu hồi.

Địch Thanh dù cho ngu ngốc cũng đoán ra ý của Dương Niệm Ân, ngượng ngùng đứng lên nói:

- Nếu lão trượng bận rộn, vậy ngày khác lại tới bái kiến. Đến vội vàng, còn chưa chuẩn bị lễ vật. Cho dù lão trượng không chịu gả Vũ Thường cho tại hạ, số vàng cũng xin nhận lấy, coi như là thay thế lễ vật.

Địch Thanh phải đi, Dương Vũ Thường đột nhiên nói:

- Cha, con tiễn Địch Thanh ra ngoài.

Dương Niệm Ân vội la lên:

- Con! Bên ngoài trời lạnh, không chớ có đi.

Dương Vũ Thường cố chấp nói:

- Không sao, con chỉ cùng Địch Thanh nói vài câu. Cha yên tâm đi.

Dứt lời cô đã kéo Địch Thanh ra ngoài. Dương Niệm Ân thấy cử chỉ thân thiết của con gái với Địch Thanh, trong lòng càng phiền muộn.

Ra ngoài, Dương Vũ Thường một mực không nói gì với Địch Thanh. Lúc thấy hắn phải đi, cảm thấy lưu luyến. Địch Thanh thấy thế cười nói:

- Vũ Thường, không nghĩ hôm nay gặp bá phụ lại xảy ra như vậy… Tuy nhiên… Huynh cũng đã nói ra được điều muốn nói, chuyến này đi coi như không tệ.

Trong mắt Dương Vũ Thường tràn đầy nhu tình, thấp giọng nói:

- Gặp chuyện gì, cố hết sức mình là được, chớ phải lo lắng nhiều. Trời lạnh, huynh phải tự chiếu cố mình nhé!

Dứt lời liền thay Địch Thanh kéo vạt áo xuống, vỗ vỗ bụi bặm. Sau đó hai người nhìn nhau thật lâu. Địch Thanh đột nhiên nghĩ tới một chuyện, liền từ trong lòng ngực lấy ra một miếng ngọc nói:

- Vũ Thường, đây là ngọc ta mua cho muội.

Dương Vũ Thường nhìn thấy hoa văn trên viên ngọc, vui vẻ nói:

- Hoa văn trên ngọc này rất giống Diêu Hoàng nha. Địch Thanh, huynh thật tốt.

Nói xong trên mặt ửng đỏ, cầm lấy ngọc bội kia, xoay người trở lại nhà. Lại không kìm nổi quay đầu nhìn lại. Địch Than thấy nàng quay đầu lại liền cười. Nhưng thấy Dương Niệm Ân sắc mặt không tốt, chỉ sợ khó xử cho Dương Vũ Thường nên đành cất bước rời đi.

Dương Vũ Thường thấy Địch Thanh đi rồi, cầm khối ngọc ngắm nghía kỹ càng. Lúc thì trầm tư, lúc thì mỉm cười, trong lòng tràn đầy nhu tình cùng ngọt ngào. Nguyệt Nhi đứng một bên nhìn thấy thế, nói:

- Miếng ngọc này còn nhiều tạp chất, không thuần khiết, chắc cũng thuộc dạng ngọc bình thường.

Dương Vũ Thường cười nói:

- Vàng có giá, ngọc vô giá…

- Chẳng những ngọc vô giá, chỉ sợ tình ý này cũng vô giá rồi.

Nguyệt Nhi lớn tiếng trêu nghẹo.

Dương Vũ Thường đỏ mặt quát lên:

- Nói hươu nói vượn, xem ta cắt đầu lưỡi ngươi.

Nguyệt Nhi cầu xin tha thứ xoay người chạy trốn. Dương Vũ Thường muốn đuổi theo, lại bị Dương Niệm Ân ngăn lại.

Dương Niệm Ân ngồi một bên nhìn đã lâu, thấy con gái lặng lẽ đưa tình. Dường như đã có tình cảm sâu đậm với Địch Thnh. Xem ra Địch Thanh không cần đưa ngọc, chỉ cần đưa con gái một tảng đá, con gái cũng ưa thích. Dương Niệm Ân hoảng hốt, không thể không hỏi:

- Vũ Thường, cha mấy năm nay chỉ lo kinh thương nên ít cùng con tâm sự. Con cùng Địch Thanh làm sao mà quen biết?

Dương Vũ Thường gục đầu xuống, hồi lâu mới nói:

- Kỳ thật cũng không có gì. Huynh ấy tặng con bông hoa, lại nhặt diều về cho con, chúng con liền quen biết ạ.

Dương Niệm Ân vội la lên:

- Người này đối với con có lòng dạ không tốt, lại là một tên cấm quân đê tiện. Con chớ để hắn mê hoặc.

Dương Vũ Thường vốn ngượng ngùng, nghe vậy ngẩng đầu nói:

- Cha, con gái lớn rồi, hiểu bản thân đang làm gì. Cha còn nhớ ngày trước đã hứa qua với mẹ con điều gì không?

Dương Niệm Ân cau mày nói:

- Ta hứa với mẹ con, cho con quyền quyết định chọn chồng. Nhưng con à, cha cũng là muốn tốt cho con. Trong kinh thành có rất nhiều thanh niên tài tuấn. Dựa vào tướng mạo cùng học thức của con, muốn tìm quan to hiển quý cũng không phải là việc gì khó. Con không thấy La Đức Chính mới gặp qua con hai lần đã hồn bay phách lạc? Nếu không phải Địch Thanh đột nhiên đến, y đã sớm giúp cha làm xong việc.

Dương Vũ Thường bất mãn nói:

- Cha, cha nhờ La Đức Chính làm việc là chuyện của cha, liên quan gì đến việc của con? Chẳng lẽ con gái trong mắt cha chỉ giống như hàng hóa? Y giúp cha làm xong việc thì liền đem con gái bán luôn cho y sao?

Dương Niệm Ân thở dài:

- Đương nhiên không phải như thế. Nhưng Giang Đông có mấy trăm miệng ăn đều trông chờ vào cha làm xong việc này. Nếu không làm được, cha còn mặt mũi nào gặp Giang Đông phụ lão? Con gái, dù sao con người vẫn cần ăn cơm để sống? Con xem Địch Thanh có thể giúp cha hoàn thành việc này hay không. Nếu hắn thật sự có bản lĩnh, cha sẽ không cản con.

Dương Vũ Thường cúi đầu nhìn miếng ngọc trong tay. Trong lòng nghĩ, hắn có bản lĩnh làm được việc này sao?

Tuyết dần dần tan ra, trời càng thêm lạnh. Thời tiết đầu xuân, mặc cho ánh mặt trời chiếu khắp nơi, nhưng gió lạnh thổi vào người, vẫn làm chon người ta rét run.

Trong lòng Địch Thanh cũng rét run. Mấy ngày nay hắn cảm thấy hổ thẹn nếu gặp Dương Vũ Thường. Tuy Dương Vũ Thường nói hắn không cần phải cố sức, vẫn đối xử thân thiết với hắn. Nhưng Dương Niệm Ân thì cả ngày mặt lạnh, khiến Địch Thanh đứng ngồi không yên.

Từ khi gặp Dương Vũ Thường, tinh thần suy sụp của Địch Thanh đã hết, muốn trở nên phấn chấn. Nhưng cho dù phấn chấn lên, hắn cũng bất lực. Mắt thấy phong cảnh hiu quạnh, Địch Thanh không kìm nổi thổn thức:

- Làm cấm quân đã khó, làm cấm quân cấp thấp lại càng khó.

Lúc này, hắn đã mua cơm sáng về cho Trương Ngọc. Thương thế của Trương Ngọc đã có chuyển biến tốt hơn. Chỉ có điều ít nói chuyện với Lý Vũ Hanh. Địch Thanh biết Trương Ngọc còn bất mãn với Lý Vũ Hanh vì ở thời điểm nguy cấp lại tránh sang một bên. Trương Ngọc hiển nhiên cho rằng, đây không phải điều huynh đệ nên làm. Có đôi khi, thành kiến rất khó sửa đổi. Địch Thanh chỉ có thể hy vọng Trương Ngọc có thể nghĩ thông suốt.

Trương Ngọc nhìn ra ngoài, trong mắt cũng có ý buồn:

- Làm một cấmhạng bét bị người đánh lén, điều đó lại khó càng thêm khó.

Địch Thanh biết Trương Ngọc đang nói Hạ Tùy, trong lòng cũng hiện lên vài phần cảnh giác.

Triệu Luật từ bên ngoài doanh đi vào, nhìn chằm chằm Địch Thanh nói:

- Ngươi không muốn làm cấm quân hạng bét, thì đừng có làm.

Địch Thanh cười làm lành nói:

- Dù sao cũng phải kiếm cơm ăn? Công việc không như ý nhiều khi khó tránh khỏi bực tức. Mong Triệu đại ca đừng trách.

Triệu Luật sa sầm nét mặt nói:

- Ta hiện tại có tư cách gì trách ngươi? Địch Thanh ơi Địch Thanh, không biết là ngươi ăn cứt trâu hay là giẫm lên cứt chó? Tam Nha lại có điều lệnh, thăng chức ngươi làm Tán Trực, gia phong Võ Kỵ Úy, ngay hôm nay nhận chức.

Trương Ngọc một bên cười nói:

- Triệu quân sứ, năm mới đã qua, đừng trêu nghẹo chúng ta làm gì.

Trong lòng Địch Thanh vừa động. Nhớ tới lời hứa của Thánh công tử, thì có vài phần tin tưởng. Nhưng Thánh công tử rốt cuộc là ai mà muốn điều hắn làm Tán Trực thì trực tiếp làm Tán Trực, muốn gia phong là có thể gia phong? Người như vậy sao gặp Trương Diệu Ca cũng khó xử như vậy? Người như vậy sao lại bị Mã Trung Lập đuổi chạy trối chết?

Đang lúc Địch Thanh cân nhắc, Triệu Luật duỗi tay ra, đưa cho hắn một tờ điều lệnh, cười nói:

- Không phải nói đùa, Quách đại cũng có chút không tin, nhưng cực kỳ chính xác. Địch Thanh, ngươi lập tức thu thập hành trang, đi Tam Nha báo cáo trước đi.

Dứt lời, xoay người liền đi.

Địch Thanh thầm nghĩ, mùa xuân đã đến, cơ hội của mình cuối cũng cùng tới. Vị Thánh công tử kia, mặc dù không đủ trượng nghĩa, nhưng vẫn biết giữ lời hứa. Nhưng người như vậy, rốt cuộc có hậu trường như thế nào?

Hắn đang định đi Tam Nha, Trương Ngọc đã lo lắng hỏi:

- Địch Thanh, có phải bọn họ trước đề bạt ngươi rồi sau đó lại chuẩn bị giết ngươi?

Địch Thanh biết là không phải, an ủi nói:

- Hẳn là không phải…

Lời còn chưa nói dứt, Lý Vũ Hanh chạy vào nói:

- Ngươi lên chức Tán Trực rồi? Việc này trong quân doanh đã truyền ra, rốt cuộc là thế nào?

Địch Thanh không biết giải thích ra sao, chỉ phải thần bí nói:

- Nói không chừng vận khí của ta đã đến. Mấy ngày trước bái Phật cầu Thần, chắc đã có linh nghiệm rồi.

Lý Vũ Hanh muốn hỏi rốt cuộc là vị thần tiên nào mà linh nghiệm như vậy, y cũng muốn đi cầu. Nhưng thấy Trương Ngọc mặt lạnh, đành phải sửa lời nói:

- Vậy thật sự là may mắn. Địch Thanh, ngươi thăng quan, cũng đừng quên huynh đệ nhé.

Địch Thanh cười nói:

- Hiển nhiên rồi. Ta sẽ thường xuyên đến thăm hỏi các ngươi.

Khi hắn đi ra ngoài, chỉ thấy các cấm quân hướng hắn chỉ trỏ. Trong ánh mắt hoặc ghen tị, hoặc ngạc nhiên. Trong lòng hắn cũng không biết là cao hứng hay là ưu thương. Đột nhiên nhớ lại cổ nhân đã từng nói qua cái gì mà ‘Trong phúc có họa, trong họa có phúc’. Nghĩ thầm: “Cổ nhân nói vãn là có đạo lý. Ngồi lao tù nửa năm lại được thăng sáu cấp.. Vụ mua bán này, đúng là kiếm lời.”

Địch Thanh đến Tam Nha gặp người chủ sự. Đầu tiên chủ quản nói ra quy củ, sau đó phân hắn thuộc Điện Tiền Chỉ huy sứ Cát Tông Thịnh quản lý. Địch Thanh biết Cát Tông Thịnh là con của Cát Hoài Mẫn, cháu của Cát Bá. Cát Bá ở thời kỳ Chân Tông, do quân công lớn lao mà được khen ngợi. Sau lại cưới em gái của Phó sứ Vương Đức Dụng. Tính ra Cát Tông Thịnh coi như là gia đình danh tướng rồi.

Địch Thanh bỗng dưng được đề bạt, chỉ dám oán thầm nhưng bên ngoài vẫn phải khúm núm. Trước đi nhận quân bị, hôm sau sẽ đi trực. Địch Thanh nhận được quân bị xong thì liền đi tìm Dương Vũ Thường để nói tình hình gần đây. Nhưng nghĩ đến mặt lạnh của Dương Niệm Ân thì trong lòng lại thấy sợ. Nên đành quay lại doanh mời các huynh đệ uống rượu mừng. Ngoại trừ Trương Ngọc, tất cả mọi người đều mong Địch Thanh chiếu cố huynh đệ nhiều hơn. Địch Thanh trên miệng đồng ý, trong lòng thì lại cười khổ.

Sáng sớm hôm sau, Địch Thanh chính thức gia vào đại nội tuần tra.

Cát Tông Thịnh là tướng môn hổ tôn. Ngày thường rất ít khi thấy mặt. Người phụ trách điều hành là Thường Côn, vốn là một trong tám phó chỉ huy sứ. Y có võ công cao cường, nên được điều động đến Điện tiền.

Tán Trực là một loại ban trực, ban trực kỳ thực chính là thân binh của Hoàng đế. Người ban trực chủ yếu được điều động ra và thăng chức từ bát đại cấm quân trong kinh thành, chức trách là bảo vệ Hoàng thượng, ngày thường chủ yếu là bảo vệ sự an toàn của Đại nội. Ban trực được phân làm Chư ban và Chư trực. Trong Chư ban có các chức danh Điện tiền chỉ huy sứ, Kim thương ban, Tán Trực. Trong Chư trực có các chứ danh Ngự long trực, Ngự long cung trực, Ngự long cung tiễn trực. Nói trắng ra, các ban các trực phụ trách các sự vụ an toàn trong hoàng cung. Địch Thanh nghe Thường Côn nói một hồi, cũng không nhớ được nhiều, chỉ biết bản thân hiện giờ thuộc loại cứu hỏa, ở đâu thiếu người thì bổ sung tới đó.

Thường Côn đối với Địch Thanh cũng có chút đau đầu. Y đã sớm nghe nói Địch Thanh là từ Lưỡng Phủ chuyển tới Tam Nha. Tam Nha đem Địch Thanh chuyển tới dưới tay y. Địch Thanh rốt cuộc có lai lịch gì, Thường Côn nhất thời cũng cân nhắc không ra. Chỉ có thể tạm thời nói lời khách khí với Địch Thanh.

Thường Côn đang đau đầu không biết nên an bài Địch Thanh như thế nào. Đột nhiên linh cơ vừa động. Y cũng không mang Địch Thanh đến các nơi quen thuộc mà lập tức đưa hắn vào trong một cửa cung.

Địch Thanh ngẩng đầu thì thấy tấm biển trên cửa cung có ghi “Tập Anh Môn”. Thầm nghĩ, xem ra ở đây toàn tinh anh. Nghĩ đến đây, mặt cũng có chút đỏ.

Thường Côn mang theo Địch Thanh đi qua vài chỗ thành cung rồi đến một nơi. Nơi này xung quanh đều là tường cao, phía trước là đường chết. Địch Thanh mờ mịt nhìn xung quanh, nghi ngờ Thường Côn muốn đem hắn đến đây giết người diệt khẩu.

Thường Côn dừng lại nói:

- Địch Thanh, nơi này tạm thời không có người canh gác. Chức trách trọng đại, ngươi nhất định phải trông giữ cẩn thận. Đợi cho mặt trời lặn, là có thể quay về. Đúng rồi, ngươi còn nhớ đường quay lại chứ?

Thấy Địch Thanh gật dầu, Thường Côn vỗ vỗ vai hắn nói:

- Cố gắng làm việc, đừng đi linh tinh. Bằng không xảy ra việc gì, ta cũng không thể bảo vệ ngươi. Nếu có công lao, ta sẽ nhớ ngươi.

Dứt lời y xoay người rời đi

Nơi Địch Thanh canh gác tuy ba mặt là tường cao, nhưng ở giữa có một khu rừng trúc, cá bàn và ghế đá, bên cạnh khu rừng còn có một cái đình. Nơi này tuy nhỏ, cũng xem như đẹp và tĩnh mịch, Địch Thanh không hiểu nổi nơi này vì sao phải phái người gác, chẳng lẽ còn sẽ có người đến nơi đây gây rối?

Mặt trời lên cao, ánh nắng vượt qua bức tường, chiếu lên người thật là ấm áp. Địch Thanh thở dài, lẩm bẩm nói:

- Có tiền lĩnh, có nơi để nghỉ ngơi, ngươi nên cảm thấy đủ chứ.

Từ lúc hắn quen với Dương Vũ Thường thì ưu tư trong lòng đã dần vơi đi, thiên tính lạc quan lại trở về. Tìm ghế đá ngồi xuống, thầm nhủ:

- Ở đây chắc là nơi người trong cung nghỉ ngơi vào mùa hè? Đầu xuân trời còn lạnh, tuyết chưa tan hết, chắc có lẽ ít người đến.

Chính vào lúc cân nhắc bỗng một tiếng hét thảm truyền đến.

Địch Thanh đang thất thần, nghe thấy tiếng kêu thảm thiết, cả người tóc gáy dựng lên. Liền đứng dậy cầm đao ở tay. Tiếng kêu thảm thiết ngừng lại, chung quanh lại trở nên yên tĩnh đến ghê người.

Địch Thanh nhìn trái nhìn phải, nhớ lại hướng vang lên tiếng kêu. Hình như từ tường cao ở hướng tây. Trong lòng Địch Thanh lo sợ. Thầm nghĩ chẳng lẽ có người muốn thiết lập bẫy rập để dụ dỗ hắn vào tròng? Đầy là đại nội hoàng cung, Hạ Tùy chỉ sợ cũng không dám gây rối ở đây đi?

Địch Thanh chậm rãi đi về phía tường cao ở hướng Tây. Đi xuống dưới tường, nghiêng tai lắng nghe, không nghe thấy tiếng vang. Rốt cuộc cố lấy dũng khí, lui ra phía sau hai bước. Lấy đà chạy đến, chân giẫm lên tường, cả người bay lên, cố hết sức lộn lên đầu tường. thò đầu trông qua, suýt chút nữa lại rơi xuống.

Bên trong cách đó không xa là máu tươi đầm đìa. Ở giữa có khối thớt, ở trên là một đầu lợn chết. Lúc này Địch Thanh mới nhớ tới, tiếng kêu vừa nãy xác thực là tiếng heo kêu khi bị giết. Hóa ra bên trong Tập Anh Môn là nơi để giết mổ động vật.

Địch Thanh chỉ có thể thở dài. Cung nhân cũng là người, Hoàng đế, Hoàng hậu cũng là người. Là người sẽ ăn cơm, trong cung dù sao cũng phải có nơi giết mổ động vật. Mà nhiệm vỠcủa hắn bây giờ, hóa ra là trông coi lợn chết.

Địch Thanh buông tay bám, rớt xuống. Lắc đầu thầm đem cả nhà Thường Côn chửi một lượt. Hắn đường đường là một Tán Trực, không ngờ lại phải đảm nhiệm chức vụ lặt vặt này. Không cần hỏi cũng biết mấy kẻ kia coi thường mình.

Tuy nhiên cũng không hoàn toàn trách Thường Côn. Nghĩ đến người có thể vào ban trực phần lớn là con dòng cháu giống. Mình vốn chỉ là người quê mùa, đương nhiên là bị người khinh thị. Địch Thanh ngồi xuống, trong lòng nghĩ, cho dù cả đời trông chuồng heo chỉ sợ cũng không có công lao gì. Nếu có thể gặp lại Thánh công tử thì tốt… Hy vọng anh ta còn muốn đi Trúc Ca lâu. Mình và anh ta cò kè mặc cả, muốn tăng thêm chức quan, không biết anh ta có đồng ý hay không?

Nở nụ cười trào phúng, Địch Thanh cũng biết ý nghĩ của mình kỳ lạ. Ôm đao, dựa vào cột đình, đang muốn ngủ một lát, đột nhiên nghe thấy từ phía Tập Anh Môn giống như có động tĩnh.

Địch Thanh rùng mình. Xác định không phải tiếng heo kêu liền vươn người đứng dậy. Lắng nghe thì nghe thấy một người thấp giọng nói:

- Hỏng rồi, bọn họ sắp đuổi kịp.

Một người khác nói:

- Ngươi đi cản lại, ta đi trước.

Địch Thanh nghe thấy vậy, thầm nghĩ chắc Thường ngh sẽ có kẻ trộm tới đây nên mới giao cho mình canh giữ chỗ này. Xem ra cơ hội lập công của Địch Thanh ta đã tới. Đây chính là anh hùng không hỏi xuất xứ, mặc kệ ngươi giết heo hay xem heo. Nghe tiếng bước chân nặng trịch vang lên, thầm nghĩ kẻ cắp đã mệt, cơ hội không thể bỏ qua.

Bỗng nhiên cảm thấy thanh âm này có vẻ quen tai, tiếng bước chân đã đến gần. Không cần nghĩ nhiều, lắc mình tránh ở một bên tường. Thấy bóng người vừa động, Địch Thanh liên giơ chân ngáng. Người nọ vội vàng không kịp chuẩn bị. Ai ôi một tiếng, đã ngã lăn trên đất.

Phía sau người nọ còn có một người. Thấy vậy liền kêu lên sợ hãi:

- Dừng tay!

Địch Thanh đã rút đao khỏi vỏ, gác ở lồng ngực y, quát:

- Chớ bắt ta giết người!

Lời vừa ra khỏi miệng, tròng mắt đã trừng lớn, thất thanh nói:

- Diêm tiên sinh, tại sao lại là tiên sinh!

Người đằng sau đúng là người hầu của Thánh công tử Diêm tiên sinh. Địch Thanh nghĩ đến cái gì, quay đầu trông lại, liền giật mình. Người ngã lăn quay kia không phải Thánh công tử thì là ai?

Diêm tiên sinh cả giận:

- Giởi lắm Địch Thanh, dám mạo phạm Thánh…Công tử?

Địch Thanh cười lạnh nói:

- Trộm cắp mà cũng dám kiêu ngạo như thế? Nghĩ tới ta đường đường là Tán Trực, dĩ nhiên là bắt trộm là nhiệm vụ đầu tiên…

Nghĩ lại, chức Tán Trực này vẫn là do Thánh công tử ban cho. Giọng liền mềm nhũn lại, nói với Thánh công tử:

- Công tử không sao chứ? Các ngươi ăn gan báo hay sao mà dám vào cung ăn trộm?

Bỗng dưng sống lưng lạnh buốt. Thầm nghĩ hai người này là kẻ trộm, vậy hộp vàng kia cũng là do bọn họ trộm trong cung mà đến?

Diêm tiên sinh nói:

- Ai trộm đồ?

Thánh công tử khoát tay chặn lại, miễn cưỡng đứng lên nói:

- Địch Thanh, sao ngươi lại ở đây?

Địch Thanh kỳ quái nói:

- Không phải là công tử cho ta thăng chức sao?

Trên mặt Thánh công tử lộ vẻ cổ quái. Sau một lúc lâu mới nói:

- Hóa ra y thật sự giúp ta làm được.

Địch Thanh vội hỏi:

- Ngươi nói cái gì?

Trong lòng nghĩ, hóa ra Thánh công tử cũng cầu người khác. Không biết vị kia giúp mình thăng chức là vị nào?

Thánh công tử lắc đầu, vội la lên:

- Địch Thanh, ngươi phải giúp ta một chuyện. Việc khác, sau này hẵng nói.

Địch Thanh lập tức nói:

- Thù lao thế nào?

Diêm tiên sinh cả giận nói:

- Ngươi ăn gan gấu sao dám nói như vậy?

Địch Thanh thu đao vào vỏ nói:

- Đây là chuyện riêng của ta với Thánh công tử, mắc mớ gì tới ngươi? Thánh công tử không đồng ý, ta cũng không cần xen vào việc của người khác.

Hắn quay đầu định đi. Thầm nghĩ dù sao cùng với hai người này cũng có chút giao tình, mắt nhắm mắt mở thả bọn họ qua là được.

Thánh công tử kêu lên:

- Được, ta đáp ứng ngươi. Trước ngươi giúp ta chạy trốn rồi nói sau.

Địch Thanh rùng mình:

- Ngươi đã giết người.

Thánh công tử cười khổ nói:

- Ngươi thấy ta giống kẻ giết người sao? Ai nha, mau lên, ngươi giúp ta trước rồi nói sau.

Địch Thanh cảm thấy Thánh công tử không phải là kẻ xấu, liền quyết định ra tay, nói:

- Các ngươi đi theo ta!

Hắn dẫn hai người tới ngoài chỗ vừa mới mổ heo, nói:

- Bên trong là nơi giết mổ động vật. Hình như tạm thời không có ai. Chờ một lát ta nghĩ biện pháp đưa các ngươi ra ngoài.

Diêm tiên sinh cau mày nói:

- Chúng ta sao có thể đi qua chỗ bẩn thỉu này.

Địch Thanh vừa tức vừa cười:

- Vậy ngươi đến chỗ cao quý mà đi. Thánh công tử, công tử nghĩ sao?

Thánh công tử hướng chỗ cũ nhìn một cái, mơ hồ nghe thấy tiếng người. Sắc mặt biến hóa, khó xử nói:

- Nhưng ta không trèo qua được.

Địch Thanh ngồi xổm xuống nói:

- Dẫm lên đầu vai của ta trèo lên. Ta chịu chút thiệt thòi, ngươi nhớ phải báo đáp ta đấy!

Thánh công tử gật gật đầu, cuống quít dẫm lên đầu vai Địch Thanh. Địch Thanh dùng lực, Thánh công tử đã bay qua đầu tường. Diêm tiên sinh thay đổi sắc mặt, kêu lên:

- Địch Thanh, ngươi mau đưa ta sang, ta phải đi theo Thánh công tử.

Địch Thanh thở dài, nâng người lên:

- Ta lại không nợ ngươi cái gì, ngươi dựa vào cái gì muốn ta hỗ trợ.

Diêm tiên sinh giận dữ, sờ tay vào ngực, lấy ra thỏi bạc nói:

- Chỗ này đủ chưa?

Thánh công tử ở bên trong hô nhỏ:

- Diêm tiên sinh, ngươi nhanh lên, ta cảm thấy sợ.

Địch Thanh cũng nghe thấy tiếng bước chân ở phía Tập Anh Môn. Không kịp ra giá, lại đưa Diêm tiên sinh sang bên. Lúc này mới sửa sang lại áo giáp, ôm đao mà đứng.

Góc rẽ vang lên tiếng ồn ào, mắt thấy sắp đến, trong lòng Địch Thanh vừa động, nghênh đón nói:

- Ai ồn ào thế?

Trả lời là một đám người, tiến gần vây kín Địch Thanh. Địch Thanh cả kinh, tay cầm chuôi đao, đang định hô quát thì thấy một người con gái đội mũ phượng, khăn quàng vai, thần sắc kiêu căng, liền đem lời nuốt vào. Hắn vừa vào cung, mặc dù không biết cô gái này là ai. Nhưng nghĩ đến có thể mang theo một đám người chạy lộn xộn trong cung thì chắc không phải dễ đụng vào.

Bên cạnh nàng kia có năm sáu người cung nhân, bảy tám cung nữ, trên trán mỗi người đổ đầy mồ hôi. Nàng kia nhìn khắp nơi, thấy chung quanh không có người, dài giọng nói:

- Ngươi có thấy ai đi qua đây không?

Địch Thanh nói:

- Có ạ.

Thánh công tử đứng bên trong nghe được, suýt chút nữa hôn mê bất tình. Nàng kia vui vẻ nói:

- Người nọ đâu?

Địch Thanh nói:

- Không phải là các ngươi sao?

Một cung nhân đứng bên cạnh kêu lên:

- Lớn mật! Ngươi dám nói như thế với Hoàng Hậu à?

Địch Thanh chấn động, suýt nữa té ngã. Hắn không ngờ tới người con gái này lại là Quách Hoàng hậu trong cung. Mặc dù Địch Thanh không quen thuộc tình hình trong cung, nhưng cũng biết đương kim Thiên tử có một Hoàng hậu họ Quách. Quách Hoàng hậu muốn tìm Thánh công tử là cớ làm sao? Chẳng lẽ là Thánh công tử tham luyến sắc đẹp, cho dù là Quách Hoàng hậu cũng dám thông đồng làm bậy? Địch Thanh âm thầm kêu khổ. Thầm nghĩ đen đủi chọc vào Hoàng hậu. Nếu bị nàng phát hiện Thánh công tử, Thánh công tử không trượng nghĩa, lại khai ra hắn, vậy sau này hắn không cần phải đứng ở Tập Anh Môn rồi, cho dù chăn heo cũng không thể.

Quách Hoàng hậu đã trợn mắt tròn xoe, rồi đột nhiên vươn tay đánh tới. Địch Thanh cắn rang một cái. Chỉ nghe “Bốp” một tiếng. Cung nhân vừa vuốt mông ngựa (nịnh hót) đã bị Hoàng hậu cho một bạt tai. Cung nhân kia bụm mặt, vô cùng sợ hãi. Địch Thanh không bị đánh, cảm thấy hồ đồ. Chẵng nhẽ Quách Hoàng hậu hôm nay uống nhầm thuốc?

Đôi mắt tròn đen lánh của Quách Hoàng hậu trừng lên, chỉ vào đám cung nữ mắng:

- Một đám ngu xuẩn! Không để ý người chạy đi còn ở đây đùn đẩy trách nhiệm? Nơi này không có, thì không biết tìm nơi khác sao?

Nàng quay đầu liền cất bước, bất chấp để ý Địch Thanh.

Có một cung nữ tới nói:

- Hoàng hậu, Thái hậu gọi người. Mời người sang.

Quách Hoàng hậu lại đánh tới một cái tát. Cung nữ kia hét thảm một tiếng, trên mặt đã có vài vết máu. Quách Hoàng hậu nói:

- Tự ta không biết đi sao? Cần ngươi phải lắm miệng?

Ồn ào qua đi, một lúc sau, Quách Hoàng hậu đã không còn thấy thân ảnh. Địch Thanh không kìm nổi sờ sờ mặt. Âm thầm may mắn, nghĩ Quách Hoàng hậu chắc có bệnh. Thảo nào Thánh công tử muốn chạy trốn chết. Ai gặp phải loại nữ nhân này, cũng phải chạy mất dạng. Nhưng mà cái người có bệnh này sao phải vội vàng tìm Thánh công tử nhỉ?

Địch Thanh nghĩ mãi không rõ, cũng thuận chân nhảy qua tường. Đợi đến khi vào đến cửa chính khu giết mổ, nhìn quanh thấy không ai liền lắc mình mà vào. Trong viện vắng tanh, ngay cả tạp dịch cũng không có. Chắc là đi nghỉ hết rồi. Địch Thanh thầm kêu trời xanh có mắt. Xem ra qua mấy ngày là có thể lại thấy Vũ Thường rồi. Hóa ra Địch Thanh muốn cùng Thánh công tử cò kè mặc cả là vì chuyện của Dương Niệm Ân.

Vào hậu viện, Địch Thanh thấy Thánh công tử và Diêm tiên sinh đang ngồi trong viện, nhìn lợn chết mà nhăn nhó. Địch Thanh thở dài nói:

- Cũng may ta giải quyết tốt, Thánh công tử, vì sao Hoàng hậu muốn tìm công tử?

Địch Thanh nghĩ lại còn sợ, không kìm nổi muốn hỏi rõ ngọn nguồn.

Trong mắt Thánh công tử hiện lên vẻ giận dữ. Giây látbị thay thế bởi sự u sầu, thở dài nói:

- Đừng nói nữa, đó là một nữ nhân điên.

Địch Thanh tràn đầy đồng cảm. Thấy Thánh công tử không muốn nhắc lại, thầm nghĩ mặc cô ta là Hoàng hậu hay Thái hậu, mình trước đem yêu cầu đề xuất ra đã. Đang muốn mở miệng, đột nhiên nghe thấy tiếng cửa mở, sắc mặt Địch Thanh biến đổi, vội la lên:

- Chẳng lẽ bọn họ đuổi tới? Các ngươi mau trốn!

Thấy bên cạnh có một chuồng heo, chất đầy cỏ khô, liền ra hiệu cho Thánh công tử trốn vào.

Diêm tiên sinh cả giận nói:

- Điều này sao có thể?

Thánh công tử cau mày nói:

- Trước cứ trốn đã, tiến vào chuồng heo còn hơn bị Hoàng hậu bắt được.

Dứt lời y liền chui vào chuồng heo. Diêm tiên sinh mặc dù không muốn nhưng vẫn phải đi theo. Hai người đã giấu kỹ thân mình. Địch Thanh chợt nghe tiếng bước chân truyền đến. Tiếng bước chân rất nhỏ, nếu không cẩn thận lắng nghe, rất khó phát hiện. Địch Thanh cảm thấy rét run, nói:

- Ai ở bên ngoài, nơi này sao không có người? Ta muốn tìm các ngươi có việc.

Một người lắc mình vào, đã đứng trước mặt Địch Thanh. Địch Thanh nghẹn họng nhìn trân trối, hồi lâu mới nói:

- Quách đại ca, sao huynh lại tới đây?

Người tới là Quách Tuân. Quách Tuân nhìn chằm chằm Địch Thanh nói:

- Ngươi đến nơi này làm cái gì?

Địch Thanh ấp úng nói:

- Không có gì, chỉ là nghe thấy tiếng giết heo, liền chạy sang nơi này xem. Quách đại ca, huynh đến nơi này làm gì?

Quách Tuân chậm rãi nói:

- Ta biết ngươi mới thăng chức, cho nên sang đây xem. Mới vừa rồi thấy ngươi nhảy vào, cho nên cũng đi theo.

Địch Thanh không biết Quách Tuân nghe được nhiều ít, nói tránh đi:

- Chỗ giết heo, không có gì đẹp mắt. Quách đại ca, chút ta đi ra ngoài nói sau.

Hắn vừa mới bước đi, Quách Tuân đã nói:

- Trong chuồng heo là ai?

Địch Thanh cả kinh. Không đợi nhiều lời, Quách Tuân đã lắc mình tiến đến, xốc rơm rạ trong chuồng heo lên. Địch Thanh thấy không tốt, chỉ cho là Thánh công tử phạm tội, Quách Tuân lại tới đây tập nã, vội kêu lên:

- Quách đại ca, chớ tổn thương anh ta. Anh ta là bằng hữu của đệ.

Thân hình Quách Tuân cứng lại, nhìn Thánh công tử chui từ đống rơm rạ ra, thần sắc trở nên cực kỳ cổ quái, thấp giọng nói:

- Bằng hữu của ngươi?

Thánh công tử nhìn thấy Quách Tuân, chỉ có thể cười khổ nhưng không có ý sợ hãi. Địch Thanh không có lưu ý đến vẻ mặt của Thánh công tử, không ngừng nói:

- Đúng vậy, bọn họ là bằng hữu của đệ…

Chưa nói xong, Địch Thanh đã há mồm trợn mắt, bởi vì hắn nhìn thân Quách Tuân quỳ một gối xuống, hướng Thánh công tử thi lễ nói:

- Điện Tiền Chỉ huy sứ Quách Tuân, tham kiến Thánh Thượng!

Địch Thanh thiếu chút nữa cắn đầu lưỡi, thất thanh nói:

- Thánh…Thánh Thượng? Anh ta là Thánh Thượng?

 Chương 77 - 81: Yêu nhau

Không ngờ Thánh công tử chính là Thánh Thượng. Lúc Địch Thanh nghe được câu này, cảm giác như sấm sét giữa trời quang.

Chuyện cũ từng màn lướt qua, nhất thời Địch Thanh cảm thấy hỗn loạn. Đúng rồi, Thánh công tử nếu không phải Hoàng đế, làm sao có thể dễ dàng thăng hắn làm Tán Trực, làm thân binh của Hoàng thượng? Thánh công tử nếu không phải Hoàng đế, làm sao có thể tùy tiện lấy ra đồ trong kho Nội Tàng? Thánh công tử nếu không phải Hoàng đế, chủ trì chùa Đại Tướng Quốc làm sao sẽ tự mình tiếp kiến? Lúc trước, tượng Phật Di Lặc bị hủy, Diệp Tri Thu vừa vặn xuất hiện, hơn phân nửa là tới bảo vệ Hoàng thượng. Lúc đấy thần sắc Diệp Tri Thu lộ vẻ cổ quái, ý có lẽ bảo hắn đi mau, chớ có nhiều chuyện.

Hết thảy đều là vì Thánh công tử chính là đương kim Hoàng đế - Triệu Trinh.

Địch Thanh nghĩ đến đây, lại cảm thấy nghi hoặc. Làm Hoàng đế sao lại yếu bóng vía như vậy? Đi chùa Đại Tướng Quốc kể khổ, muốn gặp Trương Diệu Ca cũng không được. Bị Mã Trung Lập truy đánh, thích chỗ phong hoa tuyết nguyệt, thậm chí - bị Địch Thanh hắn lừa gạt.

Còn bây giờ, vị Hoàng để này ngay cả ở trong cung, vì tránh né Hoàng hậu, cũng chính là để trốn tránh lão bà của mình, thà chui vào chuồng heo trốn sao? VịHoàng thượng này chả lẽ có bệnh? Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh dở khóc dở cười. Nhưng hắn biết, Quách Tuân tuyệt đối không nhìn lầm.

Thượng Thánh, Thánh Thượng… Địch Thanh tỉnh ngộ, hóa ra Thượng Thánh chính là Thánh Thượng đảo lại. Trách không được mỗi lần Diêm tiên sinh nói “Thánh” đều kéo dài âm. Không cần hỏi, thói quen khó sửa, Diêm tiên sinh thói quen kêu Thánh Thượng rồi.

Địch Thanh đang suy nghĩ miên man. Thánh công tử đã từ chuồng heo chui ra nói:

- Quách chỉ huy, ở đây gặp được ngươi, thật là đúng lúc.

Trên đầu anh ta có vài cọng rơm, còn dính chút phân heo trên người, nhưng trong giọng nói đã lộ ra vẻ uy nghiêm của Thiên tử Triệu Trinh, Hoàng đế trẻ của Đại Tống. Cho dù có chút chật vật, cho dù vừa từ chuồng heo ra, nhưng suốt ngày ở cung điện triệu kiến đủ loại quan lại, cũng sinh ra khí khái uy nghiêm.

Quách Tuân cũng đang kỳ quái làm sao Địch Thanh có thể quen biết Triệu Trinh, nghe thấy vậy nói:

- Vâng, có chút trùng hợp. Thánh Thượng có gì phân phó sao?

Quách Tuân ở lâu trong cung, làm việc cẩn thận, những việc không nên hỏi, tuyệt đối sẽ không hỏi.

Triệu Trinh lắc đầu nói:

- Không có gì phân phó, trẫm chỉ là muốn hít thở không khí sạch sẽ một chút.

Vừa nói đến hai chữ “Sạch sẽ”, trên mặt lộ ra vẻ bất đắc dĩ.

Quách Tuân nói:

- Vậy thì thần cáo lui.

Triệu Trinh gật gật đầu, phân phó nói:

- Địch Thanh, ngươi lưu lại ở cùng trẫm đi.

Địch Thanh đành phải gật đầu. Thầm nghĩ người trốn tránh lão bà, bảo ta cùng đi là có tính toán gì? Ta giống Trương Diệu Ca, cũng là bán nghệ không bán thân đấy.

Triệu Trinh đương nhiên là đoán không ra tâm sự của Địch Thanh. Đang lúc Địch Thanh suy nghĩ lòng vòng, Triệu Trinh cũng cảm thấy buồn phiền. Anh ta là thiên tử Đại Tống, có lẽ ởỠtrong mắt rất nhiều người là phong quang vô hạn, vinh diệu vạn thiên. Nhưng anh ta có khổ khó nói. Triệu Trinh sống lâu trong thâm cung cực kỳ tịch mịch. Lúc tình cờ quen biết Địch Thanh, cảm thấy hắn láu cá mang theo nghĩa khí, thông minh mang theo tính con buôn, trong nội tâm không thấy ghét, mà ngược lại rất thưởng thức tính cách của Địch Thanh.

Anh ta xuất cung, đơn giản là trong lòng phiền muộn, lại không thích giống như con rối bị tiền hô hậu ủng. Bởi vậy, nhiều khi anh ta chỉ mang theo thái giám Diêm Văn Ưng bên người, vụng trộm xuất cung. Diêm Văn Ưng chính là Diêm tiên sinh mập trắng này, vốn là một thái giám.

Mỗi lần gặp được Địch Thanh, Triệu Trinh đều có thể trải qua những việc kích thích. Cho nên ấn tượng với Địch Thanh rất tốt. Lần này bị Quách Tuân vạch trần thân phận, Triệu Trinh đương nhiên buồn bã. Thầm nghĩ về sau chỉ sợ sẽ không còn người bạn này. Lại nghĩ, giờ đang có chuyện phải làm muốn nhờ Địch Thanh, giờ cho Địch Thanh thấy thân phận cũng không phải là việc xấu.

Quách Tuân rời khỏi mà trong lòng đầy nghi hoặc, chỉ có thể chờ Địch Thanh quay lại rồi hỏi cho ra nhẽ. Y ở ngoài cung bồi hồi, đang do dự nên chờ đợi hay không thì thấy có người đi đến trước mặt. Quách Tuân ngẩng đầu nhìn lên, thì có chút kinh ngạc nói:

- Diệp Bộ đầu, sao ngài lại ở đây?

Người tới chính là Bộ đầu trong kinh thành Diệp Tri Thu. Diệp Tri Thu mặt đầy bụi đất nhưng nhuệ khí lại không giảm. Y nhìn chằm chằm vào Quách Tuân nói:

- Quách chỉ huy, ta muốn cùng ngươi nói vài lời.

Quách Tuân biết Diệp Tri Thu không có chuyện se không làm phiền mình, trầm ngâm nói:

- Đi ra ngoài uống vài chén đi.

Diệp Tri Thu sảng khoái nói:

- Được.

Hai người tùy ý tìm một tửu quán. Diệp Tri Thu chọn một chỗ hẻo lánh ngồi xuống. Quách Tuân biết Diệp Tri Thu muốn tránh người bên ngoài nghe thấy. Thầm nghĩ, mấy ngày trước, Diệp Tri Thu rời khỏi kinh thành, cũng không biết y làm cái gì. Hình như y đang truy tìm tung tích tượng Phật Di Lặc, không biết có kết quả chưa?

Diệp Tri Thu trước rót đầy chén rượu cho Quách Tuân rồi mới nói:

- Quách huynh, những người mà cả đời tại hạ kính trọng không nhiều lắm, Quách huynh xem như là một trong số đó.

Quách Tuân nói:

- Tri Thu, nếu như ngươi có việc, cứ nói đừng ngại.

Anh ta thấy Diệp Tri Thu xưng mình là huynh, cũng thay đổi cách xưng hô. Lúc phá án, hai người hợp tác khá là ăn ý, nên cũng có giao tình.

Diệp Tri Thu nói:

- Lúc Địch Thanh bị bỏ tù, ta đã bị Thái hậu phái đi xử lý một vụ án. Là vụ án gì, ta không tiện nói rõ.

Trong lòng Quách Tuân hơi rét. Thầm nghĩ Diệp Tri Thu mở miệng là nói tới Địch Thanh. Chẳng lẽ việc Diệp Tri Thu muốn nói có liên quan đến Địch Thanh? Diệp Tri Thu thấy Quách Tuân im lặng, lại nói:

- Ta mặc dù không thể nói rõ vụ án này, tuy nhiên…Vụ án này có liên quan đến tượng Phật Di Lặc của chùa Đại Tướng Quốc bị hủy.

Trong lòng Quách Tuân vừa động, mơ hồ đã đoán ra cái gì, chỉ ồ lên một tiếng. Diệp Tri Thu uống hết một chén rượu rồi mới nói:

- Quách huynh đương nhiên cũng biết, tượng Phật Di Lặc kia là bị Đa Văn Thiên Vương phá hủy. Lúc Thánh Thượng đang ở chùa Đại Tướng Quốc, ta phụ trách hộ vệ. Lúc ấy ta cứ nghĩ rằng Đa Văn Thiên Vương là có ý dương đông kích tây nhằm hành thích Thánh Thượng. Không nghĩ ra gã chỉ muốn lấy đi một vật.

Quách Tuân biết mà còn hỏi:

- Y lấy đi cái gì?

Diệp Tri Thu nhìn chằm chằm Quách Tuân thật lâu. Thấy thần sắc y trầm tĩnh, dời ánh mắt đi và nói:

- Việc kia rất quan trọng, Thái hậu ra lệnh cho ta lén điều tra. Dặn rằng nếu có người lấy vật kia thì lấy lại, thuận tiện giết luôn người nọ.

Quách Tuân rét run, gật đầu nói:

- Ngươi nói với ta điều này, chả lẽ muốn ta giúp ngươi phá án?

Diệp Tri Thu thở phào một cái, nói tránh đi:

- Nếu như để cho Quách huynh phá án, không biết huynh bắt đầu từ đâu đây?

Quách Tuân lập tức nói:

- Nếu là Đa Văn Thiên Vương hủy hoại tượng Phật, đương nhiên là bắt đầu từ thân phận của Đa Văn Thiên Vương rồi.

Diệp Tri Thu gật đầu nói:

- Ta cũng nghĩ như Quách huynh vậy. Trận chiến lúc trước ở thung lũng Phi Long, Tứ Đại Thiên Vương đã chết ba người, chỉ có Đa Văn Thiên Vương là trốn thoát. Đương nhiên Phật Di Lặc cũng trốn theo. Ta vẫn truy tra án này, mấu chốt vụ án đều trên người Đa Văn Thiên Vương. Lúc đấy Phật Di Lặc đã nói qua một câu tiếng Tạng, ta đã tra nghĩa của nó một thời gian.

Quách Tuân chậm rãi nói:

- Có lẽ y muốn đánh lạc hướng của ngươi, khiến ngươi mất phương hướng tra án.

Diệp Tri Thu đồng ý nói:

- Quách huynh nói không sai. Về sau ta cũng đã nghĩ đến. Nhưng gần đây ta lại có manh mối, nói Đa Văn Thiên Vương có khả năng liên quan với người Tạng, và đang một lần nữa trốn ở Tạng.

Diệp Tri Thu không nói tới tin tức truyền từ đâu, Quách Tuân cũng không truy vấn, chỉ dò hỏi:

- Vậy lần này…Có chút tin tức gì không?

Diệp Tri Thu nói:

- Ở biên giới Tây Tạng chưa nghe thấy tin tức gì…

Quách Tuân đã nghe ra ngụ ý của Diệp Tri Thu, xúc động nói:

- Chẳng lẽ nói, ngươi ở địa phương khác tra được thân phận của Đa Văn Thiên Vương?

Về trận chiến ở thung lũng Phi Long, Quách Tuân khắc cốt ghi tâm. Y bị Phật Di Lặc đánh lén, khiến Địch Thanh thống khổ nhiều năm. Oán hận lần đó mặc dù Quách Tuân không nói, nhưng không có ngày nào là không quên. Biết được tin tức của Đa Văn Thiên Vương, ý nghĩ chiến đấu của Quách Tuân đã nổi lên.

Diệp Tri Thu chậm rãi nói:

- Ta từ biên giới Tây Tạng trở về, đi ngang qua Tây Bắc, tình cờ nghe được bài ca dao…

Không đợi Quách Tuân ngắt lời, Diệp Tri Thu đã nói:

- Câu ca dao này chỉ có bốn câu là:

“'Tây bắc Nguyên Hạo Đế Thích Thiên,

Ngũ quân bát bộ phận vọng phong yên.

Dạ Xoa tam la ma cản bộ,

Bất cập Cửu vương thiên ngoại tiên.”

Quách huynh đã từng nghe qua câu ca dao này chưa?

Diệp Tri Thu lanh lảnh đọc thuộc bài ca dao, từng câu từng câu một cực kỳ thong thả, dường như muốn nhai nuốt dụng ý trong bài ca dao. Đọc xong, ánh mắt Diệp Tri Thu đã trở nên sắc bén.

Bốn câu ca dao này rốt cuộc có chỗ thần kỳ gì mà khiến Diệp Tri Thu coi trọng như vậy?

Triệu Trinh ra khỏi chuồng heo, không hề hoảng sợ mà dọc theo tường thành đi một lúc, không ngờ đến chỗ trực của Địch Thanh. Địch Thanh theo sau Triệu Trinh, không biết Triệu Trinh đang suy nghĩ cái gì. Tuy nhiên Địch Thanh biết mình nên làm gì. Triệu Trinh là Hoàng đế, hắn giúp Triệu Trinh, nếu không đưa ra vài yêu cầu thì thật là lãng phí.

Địch Thanh vừa nghĩ đến nụ cười của Dương Vũ Thường, trong lòng liền ấm áp. Nhẹ nhàng thở dài, nhưng đó cái thở dài mãn nguyện.

Triệu Trinh ngồi ở trên ghế đá, cũng thở dài, nhưng vô cùng nặng nề.

Địch Thanh đành phải làm bộ bi phẫn, hỏi:

- Thánh…Thượng, ngài có tâm sự phải không?

Trong lòng nghĩ, vị Hoàng đế này, nhìn thế nào cũng không ra dáng a.

Triệu Trinh mờ mịt ngẩng đầu lên, sau một lúc lâu nói:

- Địch Thanh, ngươi có người yêu không?

Địch Thanh nằm mơ cũng không nghĩ đến Triệu Trinh đột nhiên hỏi tới vấn đề này, cẩn thận nói:

- Có…

Triệu Trinh nói:

- Ta cũng có.

Nhìn về phía rừng trúc cách đó không xa, nhưng dường như lại không nhìn thấy gì.

Địch Thanh theo đề tài nói:

- Người mà Thánh Thượng thích, là Trương Diệu Ca - Trương cô nương sao ạ?

Hắn biết người phụ nữ mà Triệu Trinh ngưỡng mộ trong lòng, khẳng định không phải là Quách Hoàng hậu. Tuy nhiên chỉ là sự gặp gỡ ngắn ngủi, Địch Thanh đã cảm giác được giữa Hoàng hậu và Triệu Trinh, có một mâu thuẫn khó có thể dung hòa.

Triệu Trinh lắc đầu, lại gật gật đầu, Địch Thanh không hiểu ra sao, nhẫn nại nói:

- Thánh Thượng, thứ cho thần ngu dốt, không hiểu được tâm ý của Thánh Thượng.

Nếu vị này vẫn là Thánh công tử, Địch Thanh đã sớm bỏ gánh chạy lấy người rồi, nhưng đây là Hoàng thượng, Địch Thanh có điều cần nhờ vả, đương nhiên phải ra lễ trước rồi.

Triệu Trinh thầm nghĩ, người con gái ta thích không phải là Trương Diệu Ca. Trương Diệu Ca mặc dù không tồi, nhưng sao có thể so sánh với ý trung nhân của ta? Ta gặp Trương Diệu Ca, bất quá là cảm thấy Trương Diệu Ca giống nữ nhân ta thích thôi. Nhưng những cái này, nói với Địch Thanh thì có tác dụng gì?

Triệu Trinh là Hoàng đế, cũng là người bình thường, đương nhiên cũng có người con gái mình thích. Lúc tuổi nhỏ, thích nhất là một nữ tử họ Vương. Nàng kia vốn là con gái của thương nhân Vương Mông. Tuy không phải là con gái quan lại, nhưng lại khéo hiểu lòng người, tư sắc tuyệt đại. Triệu Trinh nằm mơ cũng muốn cưới nàng kia làm vợ.

Nhưng Lưu Thái Hậu lại không cho phép!

Lúc này, tại triều đình đều là do Lưu Thái Hậu quản lý toàn bộ. Từ quan lại cho đến cung nữ, thái giám. Nếu Thái Hậu không đồng ý, Triệu Trinh cũng không dám cưới. Lưu Thái Hậu lấy cớ con gái của Vương Mông quá xinh đẹp nhưng không có xuất thân, đem con gái Vương Mông trục xuất khỏi cung. Bắt Triệu Trinh cưới cháu gái của Đại Tướng Quân Quách Sùng, nói đây mới là môn đăng hộ đối.

Triệu Trinh bất đắc dĩ, chỉ có thể cùng người trong lòng ly biệt, cưới một Quách Hoàng hậu điêu ngoa, xảo trá.

Quách Hoàng hậu ỷ vào được Thái Hậu tin tưởng, cả ngày giống như người đàn bà đanh đá. Cấm Triệu Trinh và nữ nhân khác quan hệ. Hôm nay Triệu Trinh chạy trối chết, cũng là bởi vì ở tẩm cung của phi tử khác một lát mà bị Quách Hoàng hậu đuổi giết đến đây.

Triệu Trinh đối với Quách Hoàng hậu đã ghét cay ghét đắng. Thà rằng chui vào chuồng heo, cũng không muốn thấy mặt Quách Hoàng hậu. Triệu Trinh bởi vì Thái Hậu nên chỉ có thể nhẫn nại với Quách Hoàng hậu. Nhưng điều khiến anh ta khó chịu chính là, không lâu sau khi cưới Quách Hoàng hậu, Lưu Thái Hậu đã đem người anh ta yêu gả cho cháu của bà ta là Lưu Tòng Đức.

Mỗi lần Triệu Trinh nghĩ đến đây, trong ngực giống như bị kim đâm. Bởi vậy khi Địch Thanh đánh thương nặng Mã Trung Lập, Triệu Trinh mới cảm thấy vui sướng. Anh ta là Hoàng đế, nhưng chẳng qua chỉ là một Hoàng đế bù nhìn. Thậm chí người con gái anh ta yêu cũng không thể bảo vệ được. Lúc trước Triệu Trinh nghe Trương Diệu Ca hát thấy Trương Diệu Ca hát đến câu: “Nơi kinh thành xa xôi, có người con gái như tiên nữ duyên dáng yêu kiều. Từ ngày chia tay tới nay, không có tin tức của nàng, khiến ta nhớ nhưng vô cùng. Ta nhìn những con nhạn bat về nam, cũng không đợi được bất kỳ dấu vết gì, mà chỉ làm cho nỗi sầu khổ trong lòng ta nhiều thêm.”

Anh ta liền lặng yên rơi lệ.

Anh ta thích nghe Trương Diệu Ca đánh đàn, bởi vì chỉ có chìm đắm trong tiếng đàn, anh ta mới có thể sống lại những hồi ức đẹp đẽ kia. Chuyện cũ như mây như khói…Người con gái anh ta yêu tha thiết, gọi là Vương Như Yên.

Triệu Trinh đang thẫn thờ nhớ lại, trong đầu bỗng dưng hiện lên một đôi mắt yêu dị. Một thanh âm từ phía trên truyền đến: “Vị công tử này ấn đường biến thành màu đen, chỉ sợ sắp gặp tai ương đổ máu. Nếu không phá giải….Thậm chí có họa sát thân”

Thân hình Triệu Trinh chấn động, mặt lộ vẻ hoảng sợ. Một tay tóm lấy tay Địch Thanh, thấp giọng nói:

- Địch Thanh, trẫm có thể lại cầu ngươi một việc sao? Chuyện này ngươi nhất định phải giúp trẫm.

"Tây bắc Nguyên Hạo Đế Thích Thiên? Ngũ quân bát bộ vọng phong yên..."

Quách Tuân thì thào nhớ kỹ mấy câu đó, tinh quang trong mắt chớp động.

Diệp Tri Thu đì giọng nói:

- Ta nghĩ, với cơ trí của Quách huynh, cho dù chưa từng nghe qua câu ca dao này, hơn phân nửa cũng đoán ra hàm nghĩa trong đó.

Quách Tuân chậm rãi nói:

- Bài ca dao này là nói về Tây Bình Vương Nguyên Hạo sao? Không nghĩ tới Nguyên Hạo lại tự xưng là Đế Thích Thiên.

Quách Tuân bỗng dưng nhớ tới cuộc chiến của Cốc Tư La và Nguyên Hạo, lại nghĩ tới Bất Không và Lưu Thái Hậu, mơ hồ có một ý niệm trong đầu. Trong nhất thời không thể nói ra.

Quách Tuân văn võ song toàn, biết điển cổ của Phật giáo. Đế Thích Thiên vốn là Thiên Chủ của ba mươi tầng trời trong Phật giáo. Nguyên Hạo tin Phật, tự xưng Đế Thích Thiên, không cần nói cũng biết, ngụ ý của y là muốn đứng đầu thiên hạ, duy ngã độc tôn.

Diệp Tri Thu nói:

- Đúng vậy, Tây Bình Vương Nguyên Hạo dã tâm bừng bừng, đã không cam lòng chịu cúi đầu dưới trướng Tống Đình Chi, mà muốn tự lập làm vương. Bài ca dao này không những nói lên dã tâm của Nguyên Hạo, mà còn nói đến thế lực quân đội của Tây Bình Vương.

Quách Tuân gật đầu nói:

- Đúng vậy. Ta tuy ít đi Tây Bắc, nhưng cũng biết Nguyên Hạo đã xây dựng ngũ quân, bát bộ. Sửa quan chế, lấy đông giết tây, làm chuẩn bị vì việc xưng đế. Bài ca dao này nói đến ngũ quân, bát bộ cùng Dạ Xoa, Tu La, Cửu vương của Nguyên Hạo…Ôi!

Thần sắc y ảm đạm xuống, đột nhiên thở dài.

Nếu người khác nghe thấy bài ca dao kia, hơn phân nửa không hiểu gì. Quách Tuân rành kinh Phật, lại biết thuật ngữ bát bộ của Phật giáo. Chính là tám loại quái vật thần đạo. Lấy Thiên, Long hai bộ đứng đầu, còn lại sáu bộ bao gồm quỷ thần Dạ Xoa, Tu La.

Nguyên Hạo chế ra bát bộ, chính là đem thủ hạ phân thành tám bộ phận để quản lý. Nghe nói Thiên bộ chỉ có một mình Nguyên Hạo. Còn lại bảy bộ đều là những kỳ nhân dị sĩ. Quách Tuân chỉ biết đại khái, tình hình cụ thể như thế nào, lại không thể biết hết.

Diệp Tri Thu thầm nghĩ Quách Tuân học thức thật uyên bác, đã rõ ý nghĩa bài ca dao, lập tức hỏi:

- Quách huynh, huynh thở dài cái gì?

Quách Tuân cười khổ nói:

- Cũng không có gì. Chỉ là nhớ năm đó Tào tướng quân từng nói: “Nguyên Hạo là kẻ kiêu hùng vậy, tương lai sẽ là họa lớn của Đại Tống”. Không nghĩ đã thành sự thật. Năm đó triều đình do dự, không thừa cơ bất ngờ đánh chiếm các châu Linh, Hạ, quả thật thất sách.

Đề cập đến Tào tướng quân, trên mặt Quách Tuân lộ vẻ tôn kính, Diệp Tri Thu cũng như vậy. Võ công của hai người này rất giỏi, tâm cao khí ngạo, cuộc đời này rất ít phục một ai. Nhưng chỉ riêng đối với Tào tướng quân, thì thực khâm phục từ đáy lòng.

Tàtướng quân chính là Tào Vĩ, con trai của võ tướng khai quốc Tào Bân, danh tướng hiếm có của Đại Tống sau khi lập quốc. Năm đó phụng mệnh trấn thủ Tây Bắc, dụng binh như thần. Lý Kế Thiên, ông nội của Lý Nguyên Hạo, làm loạn Tây Bắc, chư tướng quân Tống không thể ngăn cản. Tào Vĩ tuổi còn trẻ, ở Tây Môn dùng khinh kỵ binh phục kích, khiến Lý Kế Thiên nhận được đòn cảnh cáo. Từ đó về sau danh chấn thiên hạ. Sau Lý Kế Thiên chết, Tào Vĩ đề nghị triều đình nhà Tống nhân cơ hội này thu phục Tây Bắc Hạ, Linh Châu. Nhưng Lý Đức Minh giảo hoạt, giả ý quy thuận, phụng bề ngoài xưng thần. Triều đình nhà Tống không quả quyết, lại dĩ hòa vi quý, ngồi xem Lý Đức Minh ở Tây Bắc phát triển lớn mạnh, đánh mất một cơ hội. Nhưng mặc dù Lý Đức Minh giả dối, nhưng cuối cùng cả đời cũng không dám xâm phạm biên cương nhà Tống. Đơn giản bởi vì Tây Bắc có một Tào Vĩ!

Tào Vĩ chẳng những uy hiếp Đảng Hạng ở Tây Bắc, thậm chí người Thổ Phiên ở Tây Nam mỗi khi nhắc tới tên người này đều trên mặt biến sắc. Đơn giản là do trận chiến ở Tam Đô Cốc năm đó, Tào Vĩ dùng mấy nghìn khinh kỵ binh đã đánh bại trọng thần Lý Lập cùng mấy vạn thiết kỵ của Thổ Phiên. Khiến Thổ Phiên không dám kinh phạm Đại Tống.

Biên thùy có Tào Vĩ, bình tĩnh như nước! Một người như vậy, đang giá để Quách Tuân, Diệp Tri Thu khâm phục, ngưỡng mộ. Nhờ có một người như vậy, nên lúc đó Nguyên Hạo cũng chỉ có ý lập quốc chứ không dám làm. Một danh tướng thiên hạ vô song như thế, vậy mà khi đánh giá Nguyên Hạo lại nói: “Con người này thực sự rất kiệt xuất”. Anh hùng nhận thức anh hùng, anh hùng càng coi trọng anh hùng.

Mỹ nữ tuổi xế chiều, anh hùng mạt lộ.

Con đường cuối cùng của Tào Vĩ vẫn là cái chết, người ai mà lại không chết? Bất cứ kẻ nào cũng không chạy khỏi sinh lão bệnh tử. Cho dù là danh tướng thiên cổ. Tào Vĩ chết rồi, nhưng Nguyên Hạo còn sống, vả lại Nguyên Hạo đang lúc tráng niên.

Những năm gần đây, Nguyên Hạo thừa dịp triều đình nhà Tống do Lưu Thái Hậu lộng quyền, liền mang thiết kỵ Đảng Hạng xâm chiến dân tộc Hồi Hột, đánh Cao Xương, đối kháng Thổ Phiên. Trước lấy Cam Châu, sau phá Tây Lương, chiếm cứ hành lang Hà Tây. Đưa biên giới Đảng Hạng phát triển, đông tận Hoàng Hà, tây gần Ngọc Môn, nam tiếp Tiêu Quan, bắc khống chế Đại Mạc. Hùng tài vĩ lược, có thể nhìn thấy manh mối. Chí lớn của Nguyên Hạo đã thể hiện sắc bén, triều đình nhà Tống ai có thể mài cạnh được?

Quách Tuân chính bởi vì thế mà thở dài. Nhìn về Tây Bắc phương xa, tưởng thấy khói lửa chiến tranh. Y cau mày, thần sắc sầu khổ, đột nhiên nghĩ đến một chuyện, thất thanh nói:

- Tri Thu, ngươi đang truy tìm thân phận của Đa Văn Thiên Vương, tự nhiên lại đề cập Nguyên Hạo. Chẳng lẽ là…

Y không nói thêm gì nữa, nhưng trong mắt đã lộ vẻ lo lắng.

Diệp Tri Thu hít sâu một hơi, từng chữ nói:

- Đúng vậy, ta chính là hoài nghi. Đa Văn Thiên Vương vốn là một trong bát bộ dưới trướng Nguyên Hạo.

Quách Tuân chấn động, nghi ngờ nói:

- Hoài nghi? Ngươi chưa thấy qua bộ mặt thật của Đa Văn Thiên Vương, làm sao có thể phỏng đoán như vậy?

Diệp Tri Thu nói:

- Mặc dù ta chưa từng thấy qua mặt Đa Văn Thiên Vương, nhưng lúc ở thung lũng Phi Long, ta đã nhìn qua mặt của ba người đã chết. Ta liền sớm vẽ lại hình dạng của bọn họ.

Quách Tuân chợt nói:

- Ta hiểu rồi. Ngươi ở Tây Bắc đã tìm được người biết mặt ba người chết kia. Lại từ thân phận của ba người đó mà đoán ra lai lịch của Đa Văn Thiên Vương?

Diệp Tri Thu gật đầu, từ trong lòng ngực lấy ra bức vẽ rồi mở ra. Trên trái bức tranh vẽ ba người, bên phải ba người, tổng cộng là sáu người. Diệp Tri Thu nói:

- Ba người bên trái là ba người chết ở thung lũng Phi Long. Ba người bên phải là ảnh vẽ của ba người trong bát bộ mà ta tìm được. Ngươi xem có giống không?

Ba người trái phải, ngoại trừ ăn mặc không giống, khuôn mặt lại cực kỳ giống. Quách Tuân nhìn hồi lâu mới nói:

- Nếu những người này thực sự là người trong bát bộ. Vậy những việc mà họ làm ở thung lũng Phi Long, nên được suy nghĩ cẩn thận.

Diệp Tri Thu tâm sự nặng nề:

- Bở vậy ta muốn báo cáo cho Thái Hậu hết mọi việc.

Quách Tuân chần chờ nói:

- Chỉ bằng vài bức họa này, chỉ sợ không giải quyết được gì.

Diệp Tri Thu thở dài một tiếng, nói:

- Ngươi nói không sai.

Y đươnng nhiên biết ý tứ của Quách Tuân. Lúc này, Thái Hậu đang nghĩ chuyện đăng cơ, tự nhiên đối với nguy hiểm bên ngoài không quan tâm. Cho dù chuyện ở thung lũng Phi Long thật là do Nguyên Hạo làm chủ, nhưng trọng thần của Lưỡng Phủ, Tam Nha, làm sao có thể vì chuyện này mà gây chiến tranh với Tây Bắc đây?

Đôi mắt vốn sắc bén của y liền trở nên ảm đạm, chỉ biết uống rượu giải sầu.

Quách Tuân chậm rãi nói:

- Nhưng ngươi hôm nay tìm ta, khẳng định là không phải để cho ta bắt hung phạm. Ngươi còn mục đích gì khác phải không?

Diệp Tri Thu bỗng nhiên ngẩng đầu, mắt sáng như đuốc nói:

- Đúng vậy. Ta tới tìm ngươi, là có liên quan đến Địch Thanh. Ta nghĩ thật lâu, đột nhiên cảm thấy, vật giấu trong tượng Phật Di Lặc, chưa chắc bị Đa Văn Thiên Vương lấy đi. Bởi vì lúc trước…Địch Thanh cũng ở trong chùa Đại Tướng Quốc.

Thấy thần sắc Quách Tuân không thay đổi. Diệp Tri Thu lại nói:

- Ngươi không bất ngờ, bởi vì ngươi đã sớm biết việc gì đó?

Quách Tuân trầm ngâm nói:

- Tính cách của ngươi xưa nay vốn cẩn thận, nói vậy sẽ không chỉ dựa vào việc Địch Thanh ở chùa Đại Tướng Quốc, mà đã suy đoán Địch Thanh cầm vật kia rồi hả?

Diệp Tri Thu nói:

- Đương nhiên! Bởi vì trong khoảng thời gian này ta tuần tra, những người biết rõ vật kia, nhất định có chỗ đặc biệt. xem qua thương thế của Mã Trung Lập, biết mắt cá chân của Mã Trung Lập, là bị người bóp gãy. Địch Thanh vốn không có bản lĩnh ấy. Hắn có thể bóp gãy mắt cá chân của Mã Trung Lập, là một chuyện kỳ quái. Huynh có muốn ta nói chuyện của Tào phủ hay không?

Quách Tuân rốt cục thở dài, lẩm bẩm nói:

- Ta biết ngay, chuyện này dấu diếm được rất nhiều người, chỉ khiến họ kỳ quái, chứ không thể lừa gạt được ngươi.

Trong lòng suy nghĩ, Hạ Tùy mấy ngày nay vẫn không có hành động nào thiếu suy nghĩ. Đương nhiên cũng không hiểu Địch Thanh làm sao có thể giết được Tăng Trưởng Thiên Vương. Nhưng Hạ Tùy hơn phân nửa là không biết chuyện Ngũ Long. Mà không riêng Hạ Tùy không biết, trên đời này có mấy người biết đến Ngũ Long đâu?

Diệp Tri Thu trầm giọng nói:

- Cho nên Địch Thanh đang cầm Ngũ Long?

Giọng y thận trọng, nhưng sát khí đã nổi lên, lạnh như băng. Y vốn được Thái Hậu mệnh lệnh, giết kẻ trộm Ngũ Long, mà Địch Thanh đúng là người đó.

Quách Tuân không có trả lời, cũng không nhìn Diệp Tri Thu, chỉ nhìn vào chén rượu. Sau một lúc lâu mới nói:

- Ngươi không tìm Địch Thanh, lại tới tìm ta, đương nhiên là không muốn bắt Địch Thanh rồi.

Y nói như vậy, hiển nhiên đã thừa nhận cách nói của Diệp Tri Thu.

Diệp Tri Thu thản nhiên nói:

- Huynh cứ nói đi?

Quách Tuân lại nói:

- Diệp gia của ngươi nhiều thế hệ đã làm danh bộ trong kinh thành, một lòng vì nước. Nhưng Diệp Tri Thu ngươi, làm việc linh động, chỉ cầu an tâm, là tính cách mà ta thích nhất.

Diệp Tri Thu mỉm cười, cười như xuân về hoa nở:

- Huynh đừng tưởng rằng nịnh hót ta hai câu, ta sẽ không truy cứu tiếp. Quách huynh, Thái Hậu muốn Ngũ Long, thủ hạ của Nguyên Hạo cũng muốn Ngũ Long. Ta nghe nói, thủ hạ của Cốc Tư La là Bất Không, không lâu trước cũng hướng Thái Hậu đòi Ngũ Long. Trong kinh nếu như nói có một người biết bí mật của Ngũ Long, vậy nhất định là huynh rồi. Ta rất muốn biết, Ngũ Long rốt cuộc có bí ẩn gì?

Quách Tuân lắc đầu nói:

- Ta thực sự không biết.

Diệp Tri Thu cau mày nói:

- Ngươi không biết? Ngươi sao lại không biết?

Quách Tuân nhìn Diệp Tri Thu nói:

- Tri Thu, ta và ngươi hiểu nhau nhiều năm. Có lẽ có nhiều chuyện ta chưa từng nói với ngươi, nhưng ta có từng lừa gạt ngươi chưa?

Diệp Tri Thu đì giọng nói:

- Huynh chưa từng lừa gạt ta. Huynh chẳng những không lừa gạt qua ta, huynhcòn cứu mạng ta. Nếu không nhờ huynh ra tay, tám năm trước, ta đã chết trên tay của siêu trộm Lịch Nam Thiên rồi. Mặc dù ta không có bắt được Lịch Nam Thiên, nhưng ta vĩnh viễn nhớ rõ ân tình của huynh.

Quách Tuân thở phào một cái nói:

- Ta có thể cầu ngươi một việc được không?

Ánh mắt Diệp Tri Thu như đao:

- Huynh cầu ta buông tha Địch Thanh? Vậy không có vấn đề. Nhưng huynh phải đem Ngũ Long giao cho ta. Bằng không ta làm sao có thể ăn nói với Thái Hậu?

Quách Tuân lắc đầu nói:

- Ta chẳng những cầu ngươi buông tha Địch Thanh, ta còn muốn cầu người đừng ngăn hắn lấy đi Ngũ Long. Cứ để Ngũ Long trên tay hắn được không?

Diệp Tri Thu kinh ngạc, thất thanh nói:

- Huynh nghĩ ta sẽ đáp ứng chắc?

Quách Tuân nhìn chăm chú vào Diệp Tri Thu, gằn từng chữ nói:

- Ta, xin, ngươi!

Khi Địch Thanh nghe Triệu Trinh cầu hắn làm việc, không ngừng kinh ngạc. Triệu Trinh là Hoàng đế, lại hướng một cấm quân nhỏ nhoi cầu xin? Địch Thanh có chút kinh mà sợ, cũng có chút tự hào.

Diêm Văn Ứng thay đổi sắc mặt, nhưng rốt cục gã vẫn phải nhịn không nói gì.

Triệu Trinh thấy Địch Thanh im lặng, thất thần nói:

- Ngươi không chịu giúp trẫm sao?

Ở thời khắc này, Địch Thanh đã hạ quyết tâm:

- Chuyện Thánh Thượng phân phó, dù nhảy vào biển lửa thần cũng làm.

Hắn biết Triệu Trinh giống như không được thế, cũng nhìn ra Lưu Thái Hậu một tay che trời. Nhưng hắn vẫn muốn giúp Triệu Trinh, bởi vì hắn thích!

Triệu Trinh thở phào một cái:

- Người giúp trẫm, vậy là tốt rồi. À, trẫm nhớ rõ lúc ngươi giúp trẫm chạy trốn, ngươi nói phải trả thù lao? Ngươi gặp việc gì khó khăn rồi hả? Trước nói với trẫm, xem trẫm có thể giúp hay không?

Địch Thanh cảm động nước mắt nước mũi thiếu chút nữa chảy ra:

- Thánh Thượng, vậy thì ngại quá.

Diêm Văn Ứng lạnh lùng nói:

- Da mặt của ngươi đao chém cũng không rách, mà cũng có lúc ngại sao?

Địch Thanh làm bộ như không có nghe thấy lời châm chọc của Diêm Văn Ứng, vội đem việc Dương Niệm Ân nói một lượt.

Triệu Trinh nói:

- Diêm Văn Ứng, ngươi lập tức phái người đi làm việc này.

Địch Thanh vui vẻ nói:

- Tạ ơn Thánh Thượng.

Câu tạ ơn này, thật đúng là thành tâm thành ý. Vừa nghĩ về sau có Hoàng đế làm chỗ dựa, Địch Thanh cảm giác như không chỉ mùa xuân đến đây, mà mùa hè thoạt nhìn cũng tới rồi. Tuy nhiên, nhất thời hắn cũng thật không ngờ, trợ giúp Hoàng thượng là có nghĩa hắn phải đối đầu với Thái Hậu, mùa đông xem ra cũng không còn xa nữa.

Triệu Trinh mỉm cười nói:

- Kỳ thật có thể giúp ngươi làm chút chuyện, ta cảm thấy cũng không tệ.

Những lời này là Triệu Trinh có cảm xúc mà nói ra. Những năm gần đây, vốn không có người cầu y. Vẫn luôn là có người mệnh lệnh y, khuyên nhủ y, chỉ bảo y không nên làm cái gì, lại chưa từng có người nhờ y làm cái gì.

Diêm Văn Ứng khó xử nói:

- Thánh Thượng, tìm ai để phân phó đây?

Triệu Trinh lập tức nói:

- Tìm Lã Di Giản là được. Lần trước điều Địch Thanh vào ban trực, không phải tìm y làm sao?

Địch Thanh nghe thấy ba chữ Lã Di Giản mà chấn động. Hắn đương nhiên biết Lã Di Giản là ai, đó là Tể tướng đương triều, cũng là đệ nhất nhân trong Lưỡng Phủ của triều Tống. Địch Thanh chưa từng nghĩ qua, vì giúp hắn thăng chức làm Tán Trực, là nhờ Lã Di Giản ra tay.

Diêm Văn Ứng nói:

- Lần trước điều Địch Thanh làm Tán Trực, Lã Di Giản giống như cũng có chút khó xử…

Triệu Trinh phiền toái nói:

- Ngươi cứ nói là do ta bảo, việc khác không cần quan tâm.

Lòng thầm nghĩ, trong triều đình, những người phản đối mẫu hậu, như đám người Phạm Trọng Yêm, Tống Thụ, đều bị giáng chức ra kinh thành. Lã Di Giản đối với trẫm là trung thành hay không trung thành, từ những việc nhỏ nhặt này là có thể nhận ra. Lần trước tìm Lã Di Giản làm việc, ông ta ra vẻ khó xử, làm sao biết không phải lấy lui làm tiến?

Diêm Văn Ứng miễn cưỡng đáp ứng, Địch Thanh nghĩ có qua có lại mới toại lòng nhau, lập tức nói:

- Thánh Thượng có chuyện gì phân phó?

Triệu Trinh suy nghĩ hồi lâu mới nói:

- Trẫm gần đây muốn đề bạt một số người nhập ban trực. Ngươi xem có người nào thích hợp thì báo tên, trẫm sẽ trâm chước đề bạt.

- Sao ạ?

Địch Thanh nghe mà líu lưỡi. Trong lúc nhất thời không hiểu là Triệu Trinh cầu hắn hay là hắn cầu Triệu Trinh.

Triệu Trinh khó hiểu nói:

- Việc này rất khó làm sao?

Địch Thanh vội nói:

- Không khó, không khó.

Trong lòng khẽ nhúc nhích, nói thêm câu:

- Thánh thượng, thần đối với Thánh Thượng tuyệt đối trung thành và tận tâm.

Triệu Trinh chậm rãi gật đầu nói:

- Ngươi làm việc, trẫm yên tâm. Tốt lắm, ngươi có thể xuất cung làm việc.

Suy nghĩ một lúc, từ trong lòng ngực lấy ra một kim bài đưa cho Địch Thanh nói:

- Ngươi cầm lệnh bài này, về sau chính là thị vệ bên người trẫm, đi lại tùy ý, không cần nghe Điện tiền chỉ huy sứ điều động.

Địch Thanh đương nhiên nhanh miệng đáp ứng, cầm lệnh bài rời đi. Đợi Triệu Trinh nhìn không thấy bóng mình, lúc này mới xem kỹ lệnh bài. Thấy trên mặt lệnh bài có khắc Điêu Long, mặt trái là sơn thủy. Dưới Kim Lo khắc bốn chữ: “Như trẫm thân lâm”!

Địch Thanh thầm nghĩ, vị hoàng đế này đến chuồng heo cũng phải chui vào, như trẫm thân lâm? Đây không phải là cùng với y chui vào chuồng heo sao? Cho nên đối với khối lệnh bài này rất là hoài nghi. Đang lúc đi lại thì gặp một người tới nói:

- Địch Thanh, ngươi đi lung tung khắp nói làm gì vậy?

Người nọ đúng là Thường Côn, lãnh đạo trực tiếp của Địch Thanh.

Địch Thanh vốn có chút hốt hoảng, nhưng nghĩ lại, giơ lệnh bài ra nói:

- Thánh thượng phái ta xuất cung làm việc.

Thường Côn nhìn thấy lệnh bài kia, trong mắt lộ ra vẻ kinh ngạc, nhìn chằm chằm một hồi lâu mới cười khan nói:

- Địch Thanh hóa ra là thân binh bên cạnh Thánh Thượng, có việc gì nhờ tiểu đệ làm sao?

Địch Thanh không nghĩ lệnh bài vừa giơ ra, mình liền biến thành Địch huynh, thủ trưởng biến thành tiểu đệ, cười nói:

- Tạm thời không có chuyện gì. Thường đại nhân, về sau tại hạ trong cung đi lại, kính xin chiếu cố nhiều hơn.

Thường Côn vội hỏi:

- Nhất định, nhất định Địch huynh nếu để mắt tiểu đệ, thì gọi ta là Thường Côn là tốt rồi. Cái gì Thường đại nhân, không phải là khó nghe sao?

Địch Thanh tâm tình khoan khoái dễ chịu, gật đầu rời đi. Thầm nghĩ, loại cây cỏ đầu tường này, nhất định không thể báo tên cho Thánh Thượng.

Thường Côn không biết bởi vì vuốt mông ngựa, mất đi cơ hội lên chức. Thấy Địch Thanh rời đi, cười lạnh nói:

- Một bộ dạng tiểu nhân đắc chí. Chỉ có điều không biết người này rốt cuộc có lai lịch gì, như thế nào mới làm Tán Trực nửa ngày, đã biến thành thân binh của Thánh Thượng đây?

Một người ở phía sau Thường Côn hỏi:

- Ai thành thân binh của Thánh Thượng?

Thanh âm ấm áp, Thường Côn quay đầu lại nhìn, thấy người tới vội vàng thi lễ nói:

- Tỵ chức bái kiến Thành Quốc Công.

Triệu Trinh đợi Địch Thanh rời đi, lại thở dài. Ngồi trên mặt ghế đá lạnh như băng, không biết đang suy nghĩ cái gì. Diêm Văn Ứng một tấc không rời, thấy thế nói:

- Thánh Thượng, Địch Thanh người này, không nên quá tin tưởng a.

Sau một lúc lâu Triệu Trinh mới nói:

- Lúc trước, hắn không biết thân phận của ta mà vẫn liều mình cứu ta. Ta cảm thấy hắn là một người trung trực. Huống chi…Giờ ta còn có thể tìm ai được?

Diêm Văn Ứng gục đầu xuống, ánh mắt lập lòe. Đúng lúc này vang lên tiếng bước chân ở đằng xa. Một người nam tử mày kiếm mắt sáng đi tới, nhìn thấy Triệu Trinh, vui vẻ nói:

- Thánh Thượng quả nhiên ở đây. Vừa rồi thần nghe Thường Côn nói, Địch Thanh cầm thủ dụ (chỉ thị viết tay) của Thánh Thượng, còn đang nghi hoặc đây.

Nam tử kia thấy Triệu Trinh thì cực kỳ cao hứng. Triệu Trinh thấy người nọ thì lại nhíu lông mày. Người nọ đúng là vị công tử mà Triệu Trinh đã gặp ở Trúc Ca lâu. Triệu Trinh đương nhiên quen biết người này, nhưng trong lòng lại không muốn gặp y. Người này tên là Triệu Doãn Thăng, là con của Sở Vương Triệu Nguyên Tá, quan làm tới Thành Quốc Công.

Năm đó Thái Tông vốn muốn truyền ngôi cho Sở Vương. Nhưng sau Triệu Nguyên Tá lại nổi điên, Thái Tông mới đành truyền ngôi cho phụ thân của Triệu Trinh là Chân Tông. Nếu Triệu Nguyên Tá không nổi điên, thiên tử hiện giờ rất có thể chính là vị này Triệu Doãn Thăng. Triệu Trinh cũng không kiêng kị điều này, mà là vì Lưu Thái Hậu đối xử với Triệu Doãn Thăng rất tốt, thậm chí so với con ruột còn tốt hơn.

Triệu Doãn Thăng dường như không có nhìn ra Triệu Trinh đang bất mãn, còn nhiệt tình nói:

- Thánh Thượng, Hoàng hậu tìm Thái hậu khóc lóc kể lể, nói không tìm thấy ngài. Thần lòng nóng như lửa đốt, chạy ra đây tìm kiếm, chỉ sợ Thánh Thượng có việc gì…

- Ngươi rất hy vọng trẫm có việc gì?

Triệu Trinh không mặn không nhạt nói.

Triệu Doãn Thăng có chút đổ mồ hôi, cười làm lành nói:

- Thánh Thượng nói đùa.

Triệu Trinh có chút xem thường vị đường huynh này, cảm thấy y ngoại trừ vuốt mông ngựa, cũng không có bản lĩnh gì khác. Thực không rõ vì sao mẫu hậu lại thích gã. Đột nhiên nghĩ tới một chuyện, nói:

- Mấy ngày trước đây, Diêm Văn Ứng xuất cung, nói rằng thấy ngươi từ Trúc Ca lâu đi ra. Ngươi nên biết, Thái hậu ghét nhất là những nơi bướm hoa này.

Sắc mặt Triệu Doãn Thăng biến đổi, ác độc nhìn vào Diêm Văn Ứng. Diêm Văn Ứng gục đầu xuống, không dám nhiều lời.

Triệu Trinh thản nhiên nói:

- Đến thì cũng đến rồi, trừng Diêm Văn Ứng cũng vô dụng. Vừa lúc ta muốn đi gặp Thái hậu…

Y định bước đi, Triệu Doãn Thăng cuống quít quỳ mà nói:

- Thánh Thượng, thần do vô tâm mà làm, kính xin Thánh Thượng đừng nói chuyện này cho Thái hậu.

Triệu Trinh thấy Triệu Doãn Thăng sợ hãi, trong lòng hơi vui mừng, ra vẻ khó xử nói:

- Vậy không phải là lừa dối Thái hậu sao?

Triệu Doãn Thăng lộ vẻ mặt đau khổ nói:

- Thánh Thượng chỉ là không nói ra thôi…

- Ngươi có tư cách gì khiến trẫm không nói chứ?

Triệu Trinh thấy Triệu Doãn Thăng đầu đầy mồ hôi, đột nhiên giọng điệu trở nên nhẹ nhàng:

- Ta không nói cũng được, nhưng về sau ngươi nên biết phải làm gì a?

Triệu Doãn Thăng nháy nháy mắt, lau mồ hôi nói:

- Thần đã biết.

Địch Thanh kích động xuất cung. Dọc theo đường đi không hề bị ngăn trở. Tấm lệnh bài kia quả thật rất hữu hiệu. Đầu tiên hắn chạy đến trước quân doanh của Kiêu Võ quân. Thấy Lý Vũ Hanh đang giúp Trương Ngọc đứng dậy, vui vẻ nói:

- Trương Ngọc, đã đỡ hơn chưa?

Hắn càng vui hơn khi biết mấy ngày nay Lý Vũ Hanh tận tâm tận lức chiếu cố Trương Ngọc, khiến thái độ của Trương Ngọc có vẻ tốt hơn nhiều.

Thân thể Trương Ngọc cường tráng, cuối cùng cũng giữ được cái mạng, đang muốn xuống giường đi lại. Thấy Địch Thanh đến, vui đùa nói:

- Đại nhân đã trở lại?

Địch Thanh cười mắng:

- Tiểu tử, vừa mới khỏe một chút lại muốn đùa cợt. Hai ngươi đoán xem hôm nay ta gặp được ai?

Lý Vũ Hanh chần chờ nói:

- Thái hậu?

Trương Ngọc suy đoán nói:

- Trì Quốc Thiên Vương.

Địch Thanh vung tay lên lộ vẻ đắc ý:

- Hai ngươi đều đoán sai cả.

Nói xong, lộ vẻ thần bí cười.

- Ta gặp được Hoàng thượng.

Trương Ngọc bĩu môi nói:

- Ngươi là Tán Trực, là người hầu cận Hoàng thượng, nhìn thấy Thánh Thượng thì có gì là quý hiếm? Tuy nhiên bộ dạng Thánh Thượng thế nào? Không ngại mô tả thoáng cái?

Cấm quân cũng có phân chia cao thấp. Trương Ngọc thuộc về cấp quan thấp, không được vào đại nội. Trông thấy Hoàng thượng cũng chỉ là cách vài dặm, còn chưa biết bộ dáng của Hoàng thượng.

Địch Thanh nói:

- Kỳ thật, Hoàng thượng tính tình cũng không tệ lắm…

- Chậc, chậc…

Trương Ngọc nhếch miệng:

- Người vào đại nội thì lại khác, vừa mới trực một ngày đã biết ca tụng Hoàng đế. Địch đại nhân, ngươi rất có tiềm năng thăng chức nha.

Y đương nhiên là đang nói đùa, đùa cợt Địch Thanh biết nịnh nọt.

Lý Vũ Hanh vội nói:

- Trương Ngọc, không được nói như vậy. Hoàng thượng vốn không tệ, chẳng lẽ bảo Địch Thanh mắng Hoàng thượng sao?

Trương Ngọc làm bộ tức giận nói:

- Lúc trước chúng ta mấy huynh đệ nói cái gì có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chia. Đáng tiếc nha, có người trở thành Tán Trực, liền quên mất lời hứa lúc trước. Ha ha, nghĩ tới Trương Ngọc ta không biết a dua nịnh hót, tự nhiên là không được thăng chức rồi.

Địch Thanh ra vẻ tiếc hận nói:

- Thật ra ta không quên. Hôm nay Thánh Thượng mời ta hỗ trợ, muốn ta cân nhắc vài người. Ta đang chuẩn bị ghi tên các ngươi báo lên. Đáng tiếc nha…Có người không thích a dua nịnh hót, thầm nghĩ thăng chức bằng bản lĩnh. Như vậy đi, ta thấy người này có vẻ tự tin, thì đành phải xóa tên đỡ mang tiếng làm nhục cả đời anh minh của anh ta.

Trương Ngọc vội hỏi:

- Thánh Thượng quả thật là vị quân vương thánh minh, thiên hạ ca tụng, Trương Ngọc ta cũng từ đáy lòng bội phục. Địch Thanh, việc ngươi nói có phải là thực?

Địch Thanh cười ha hả. Đem chuyện hôm nay nói qua loa mơ hồ. Lược bớt đi chuyện Triệu Trinh đi Trúc Ca lâu.

Trương Ngọc tấm tắc kêu kỳ lạ. Trong lúc nhất thời không rõ ràng lắm, chỉ nghĩ rằng Địch Thanh may mắn.

Lý Vũ Hanh nhát gan nói:

- Địch Thanh, có phải ngươi trong cung đắc tội Thánh Thượng, người chuẩn bị tru di cửu tộc ngươi, mới bảo ngươi ghi tên bằng hữu nộp lên…

Địch Thanh cười khổ nói:

- Nếu không ta xóa bỏ tên của ngươi, không báo lên triều đình?

Lý Vũ Hanh cân nhắc một lúc, rốt cục nói:

- Không cần, chúng đã không phải đã nói, có nạn cùng chịu sao?

Địch Thanh lại cười. Nghĩ muốn nói cho Dương Vũ Thường tin vui này, liền cáo từ rời đi. Ra quân doanh, Địch Thanh thầm nghĩ : “Trên danh sách chỉ có hai người Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh có vẻ hơi ít. Còn có ai đầy nghĩa khí để đề bạt đây? Quách đại ca đương nhiên không cần. Huynh ấy vốn ở Tiền Điện”. Đang suy nghĩ, không cẩn thận suýt nữa đâm vào người khác. Ngẩng đầu nhìn lên, kinh ngạc nói:

- Quách đại ca, sao lại là huynh?

Quách Tuân không nghĩ tới lại gặp Địch Thanh ở đây. Nhìn Địch Thanh lộ vẻ ngạc nhiên, cười nói:

- Sao ngươi lại quen biết Hoàng thượng?

Địch Thanh cười nói:

- Quách đại ca, nói ra rất dài dòng. Nhưng nếu nói đơn giản…

Ngắm nhìn xung quanh, giảm thấp thanh âm nói:

- Thánh Thượng chính là Thánh công tử.

Quách Tuân bừng tỉnh đại ngộ, lẩm bẩm nói:

- Thì ra là thế. Ngươi đắc tội Thái hậu, cứu Thánh Thượng, trách không được…

Y muốn nói lại thôi, lòng vòng hỏi:

- Ngươi vừa rồi đang suy nghĩ cái gì?

Địch Thanh kể lại chuyện gặp Triệu Trinh, đột nhiên hưng phấn nói:

- Quách đại ca, huynh kiến thức sâu rộng, lại quen biết rộng rãi, không bằng huynh đề cử vài người a.

Quách Tuân trầm ngâm, chậm rãi nói:

- Ngươi nói Thánh Thượng muốn đề bạt một số người vào Ban Trực?

- Đúng vậy, cơ hội khó được a! Đệ cũng không biết vận khí sao lại tốt vậy.

Trong lòng nghĩ, chẳng lẽ vận khí do Vũ Thường mang đến.

Quách Tuân thầm nghĩ, Thánh Thượng muốn tuyển người thân cận bên mình, chẳng lẽ đối với Thái hậu đã có ý cảnh giác? Sau một lúc lâu mới nói:

- Địch Thanh, chuyện này có lẽ không chỉ đơn giản như vậy.

Địch Thanh thu lại vẻ tươi cười, thở dài nói:

- Đệ biết. Gần đây Thái hậu nghĩ muốn đăng cơ, Thánh Thương lại lo lắng. Vừa lo lắng Thái hậu đoạt đế vị, lại cảm thấy trong cung không an toàn. Nên muốn tuyển thêm người bảo vệ mình. Đệ thấy Hoàng thượng cũng thật đáng thương. Quách đại ca, đệ biết huynh muốn khuyên đệ suy nghĩ kỹ càng. Nhưng phú quý chỉ có thể kiếm từ trong gian khổ. Những người như đệ, còn có gì phải e dè? Hơn nữa, hiện tại ai cũng không rõ tâm tư của Thái hậu. Có lẽ Thái hậu không có ý đoạt ngôi vị Hoàng đế của nhi tử đâu.

Quách Tuân lẳng lặng nghe, thật lâu sau mới vỗ vai Địch Thanh:

- Ngươi nói đúng, vậy đi làm đi.

Trầm ngâm một lát lại nói:

- Kiêu Võ quân Vương Khuê võ công cao cường. Lý Giản làm việc lão luyện. Phủng Nhật quân Vũ Anh, ý chí rộng lớn. Thiên Võ quân Chu Quan Dũng võ dũng vô song. Long Vệ quân Tang Dịch rất có nhuệ khí…

Quách Tuân chậm rãi nói xong. Y đối với tầng thấp nhất trong cấm quân có vẻ rất quen thuộc.

Địch Thanh thầm nghĩ, Quách đại ca so với mình tinh tế hơn nhiều. Nhớ rõ được nhiều người như vậy. Quách Tuân nói ra hơn mười cấm vệ, lại nói:

- Kỳ thật, những người này đều giống ngươi. Tuy có hùng tâm, nhưng có xuất thân không tốt, rất khó thăng chức. Ta luôn luôn để ý quan sát, cảm thấy những người này có thể đảm đương việc lớn. Khó có được cơ hội này, ngươi đem tên của bọn họ đều báo lên đi. 

Địch Thanh liên tục gật đầu nói:

- Quách đại ca, huynh còn nghĩ ra ai nữa không?

Quách Tuân cười nói:

- Một lần đề bạt những người này nhập Ban Trực, đã là chuyện hiếm có trong triều. Ngươi còn muốn đề bạt bao nhiêu người đây? Để ta nghĩ thêm rồi ngày mai sẽ đưa ngươi danh sách.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Vậy vất vả Quách đại ca rồi. Đệ còn có việc, cáo từ trước.

Quách Tuân gật gật đầu, nhình Địch Thanh đi xa, than nhẹ một tiếng, lẩm bẩm nói:

- Mai Tuyết, ta rất xin lỗi vợ chồng ngươi. Hôm nay nhìn thấy Địch Thanh vui vẻ, ta cũng rất vui vẻ. Chỉ hy vọng vợ chồng ngươi trên trời có linh thiêng phù hộ, giúp Địch Thanh từ nay có thể thuận buồm xuôi gió.

Y xoay người bước đi. Gió mạnh thổi ngược, cuộn tròn từng đám lá cây, ảnh người lay động, vô cùng tiêu điều.

Mặt trời đã lặn, nhưng trăng non vẫn chưa mọc.

Khi Địch Thanh đi ngang qua mấy cái cửa hàng trên con phố, nhớ lại Dương Vũ Thường từng nói rất thích ăn cua, liền tiện tay mua mấy con của to, dùng giấy dầu gói lại rồi ôm trong lòng. Sau khi đến Dương gia, Địch Thanh do dự một chút mới đi tới trước cổng, gõ gõ vài cái. Viên quản gia đi ra mở cửa, cười gượng gạo nói:

- Địch quan gia tới đây có chuyện gì không?

Địch Thanh biết tên quản gia này họ Điêu, là loại nham hiểm giống như Dương Niệm Ân.

Địch Thanh nói:

- Không biết Vũ Thường có ở nhà không?

Điêu quản gia nói:

- Tiểu thư có nhà, nhưng lão gia đã dặn, nếu Đich quan nhân vẫn chưa lấy được giấy chứng nhận về, sau này đừng nên cố nữa. Tuy nhiên, hôm nay lão gia đang mở tiệc chiêu đãi La công tử, nếu Địch quan nhân muốn thì tuy không được gặp Vũ Thường tiểu thư, cũng có thể uống chung vài chén.

Địch Thanh tức giận, vốn định phất tay áo rời đi, nhưng nghĩ lại liền mỉm cười nói:

- Hiếm khi có được cơ hội tốt như vậy, ta phải tận dụng cơ hội này mời Dương lão trượng và La công tử vài chén mới được.

Điêu quản gia không ngờ Địch Thanh lại làm thế, nhưng đã chót nói rồi, cũng ngại từ chối, đành lẩm bẩm

- Đúng là đồ mặt dày, chưa bao giờ gặp ai mặt dày đến thế.

Địch Thanh nói:

- Điêu quả gia nói ai cơ? Ôi! Da mặt tại hạ mỏng lắm ah. Nếu ngươi không có lời mời, ta cũng ngại không đến đâu.

Điêu quả gia nghe thấy vậy cũng không biết nói gì hơn.

Địch Thanh và Điêu quản gia vào trong phòng, thấy yến tiǣ đã bày sẵn, chỉ có Dương Niệm Ân và La Đức Chính đang ngồi. Dương Niệm Ân nhìn thấy Điêu quản gia đưa Địch Thanh tới, không khỏi nhíu mày. Lão thầm nghĩ đã dặn trước rồi, nếu có thể không cho hắn vào trong phủ được thì đừng có cho vào, đằng này lại dẫn hắn tới đây.

Địch Thanh chủ động trước, chắp tay cười nói:

- Ai da! Dương lão trượng! La công tử! Được mời không bằng tình cờ gặp mặt. Mấy khi lại được Điêu quả gia khách khí. Tại hạ không mời mà tới, kính xin đừng trách.

Hôm nay, La Đức Chính tới đây là đã lấy được giấy chứng nhận. Y thầm nghĩ Địch Thanh tới thật đúng lúc. Y định làm hắn ngượng một phen liền ra vẻ phóng khoáng nói:

- Địch quan nhân tới đây, tại hạ rất hoan nghênh. Chỉ tiếc là hôm nay Dương cô nương không được khỏe, để cho Địch quan nhân mất công quay về rồi.

Địch Thanh biết La Đức Chính đang cười nhạo mình không làm được chuyện chính nên mới mỉa mai như thế. Bất chợt, bên ngoài có người nói:

- Địch Thanh! Ngươi đã tới?

Trong giọng nói mỏng manh dễ vỡ ấy tràn ngập niềm vui sướng, đó chính là Dương Vũ Thường.

Địch Thanh mừng rỡ vội vàng lên tiếng:

- Vũ Thường! Sao nàng lại ra đây? Nghe nói nàng không được khỏe, ta còn đang định mời Vương thần y tới xem bệnh cho nàng đây.

Dương Vũ Thường nở nụ cười duyên dáng mà nói:

- Cũng không có gì, chỉ là hơi mệt mỏi một chút nên không muốn gặp người lạ thôi.

Người lạ mà nàng nói là muốn ám chỉ tới La Đức Chính, điều này không cần nói cũng biết.

Sắc mặt La Đức Chính thể hiện rõ sự không hài lòng. Dương Niệm Ân vội hỏi:

- La công tử! Uống rượu, uống rượu nào.

Dương Vũ Thường tới ngồi bên cạnh Địch Thanh, nhẹ nhàng nói:

- Địch Thanh! Hôm nay mọi việc của ngươi đều thuận lợi chứ?

Địch Thanh nói:

- Cũng không có việc gì, chỉ đi vòng quanh đại nội vài vòng là xong ấy mà.

Dương Vũ Thường mỉm cười:

- Ta vẫn chưa có cơ hội đi vào đại nội. Nghe nói nơi đó nguy nga lộng lẫy lắm đúng không.

Địch Thanh nói:

- Ta lại thấy, cây hoa mai ngoài ngõ kia còn đẹp hơn nhiều.

Dương Vũ Thường biết ý của Địch Thanh là ở đâu có nàng, ở đó chính là hoàng cung. Nàng cảm thấy vui lắm, liền cúi đầu xuống.

La Đức Chính không hiểu ý nghĩa, châm chọc nói:

- Cây hoa mai trong ngõ ư? Địch quan nhân, lần đầu tiên ngươi vào đại nội, đã được gặp Thánh thượng chưa? Tại hạ bất tài, cũng có vinh dự được nhìn thấy thánh thượng một lần, Đương nhiên, người có bản lĩnh mới có cơ hội được gặp thánh thượng.

Dương Niệm Ân tỏ vẻ hâm mộ nói:

- Nghĩ mà xem thiên tử là bậc cửu ngũ chí tôn, người thường sao có thể gặp được?

Nghe nói nghĩa phụ của La công tử không những thường xuyên được gặp thiên tử, mà còn là người tâm phúc số một bên cạnh thái hậu.

 Chương 82 - 86: Nhu tình

Địch Thanh kinh ngạc nói:

- Ta vẫn chưa biết nghĩa phụ của La công tử là ai nữa?

La Đức Chính ngạo nghễ nói:

- Nghĩa phụ ta họ La, hiện là Đông Đầu Cung Phụng quan. Khi ngươi bị hạ ngục để thẩm vấn cũng có gặp nghĩa phụ ta một lần.

Địch Thanh cảm thấy hơi ớn lạnh, thầm nghĩ hóa ra La Đức Chính lại là con nuôi của La Sùng Huân, chả trách lại kiêu ngạo như thế. Cái tên đó và tên thái giám đáng chết Diêm Văn Ứng kia cũng đáng ghét chẳng kém gì nhau. Thái giám không sinh được con, nhưng lại cần có người nối dõi tông đường, vì thế mới nhận con nuôi. Mà chỉ cần là người dính dáng bên cạnh thái hậu đều là những thứ chẳng ra gì.

La Đức Chính thấy Địch Thanh không nói gì, nghĩ là đã ép được hắn, liền đắc ý cười nói:

- Địch quan nhân! Đã nhớ ra nghĩa phụ của ta là ai chưa?

Địch Thanh cười nói:

- Hóa ra các hạ là nghĩa tử của Đầu Đông Cung Phụng La đại nhân, chả trách nhìn thấy quen mặt. Các hạ được thừa kế nghiệp cha, thật sự là đáng mừng.

Địch Thanh nói như vậy, đương nhiên là châm chọc La Đức Chính cũng là thái giám. Dương Vũ Thường nghe xong thì hơi đỏ mặt mà cảm thấy buồn cười.

La Đức Chính giận tím mặt, vỗ án quát, nói:

- Ngươi nói cái gì?

Địch Thanh tỏ vẻ kinh ngạc nói:

- La công tử! Ta có nói sai gì không? Các hạ chính là lá ngọc cành vàng, một đấng anh tài, rồi cũng sẽ có ngày được như Đại cung phụng mà dương danh thiên hạ.

Trong lòng La Đức Chính hết sức tức giận, nhất thời không thể cãi lại được. Dương Niệm Ân liền vội vàng lên tiếng:

- Uống rượu, uống rượu nào! Nghe La công tử nói đã có chút tin tức về cái giấy chứng nhận đó rồi đúng không?

La Đức Chính uống cạn cốc rượu, từ trong cốc lấy ra một tờ giấy, đặt mạnh lên trên bàn:

- Hôm nay ta đã lấy được giấy chứng nhận, chỉ cần Dương Bá Phụ kí tên đồng ý ở phía trên, ta sẽ đi nhờ nghĩa phụ đóng cho cái dấu thế là Dương Bá phụ có thể chính thức làm ăn buôn bán rồi.

Dương Niệm Ân vui mừng, nói:

- La công tử lúc nào cũng phóng khoáng.

La Đức Chính nói:

- Cũng chưa bằng công phu mồm mép của một số người. Dương bá phụ ah, có một số người dựa vào bộ mặt tử tế, ngôn ngữ giảo hoạt chuyên đi lừa đảo trái tim của con gái. Dương bá phụ phải thật cẩn thận với những người như thế.

La Đức Chính nói có vẻ chua chát, như hơi kì vọng ở Dương Vũ Thường.

Tuy trên mặt Địch Thanh có khắc chữ, trên trán có sẹo, nhưng hắn vốn là người có tuấn tú thông minh, lại thêm nhiều năm bôn ba, khuôn mặt nhìn hơi phong sương, nhưng lại có sức hấp dẫn đặc biệt. La Đức Chính cũng biết nếu bànề tướng mạo, thì y còn kém xa so với Địch Thanh. Vì vậy mà y định dùng lời lẽ để thức tỉnh Dương Vũ Thường, chỉ hi vọng nàng có thể quay đầu lại.

Dương Vũ Thường cũng không thèm nhìn La Đức Chính lấy một lần, bàn tay mềm mại hơi vân vê mép áo, khẽ giọng nói:

- Đầu ngã dĩ mộc qua, báo chi dĩ quỳnh cư...

Những ngày này Địch Thanh vất vả đọc cuốn “Kinh Thi”, còn chăm chỉ hơn cả thi Trạng Nguyên nên hắn biết được đây là bài “Mộc qua (cây đậu mộc)”. hai câu cuối là “Phỉ báo dã, vĩnh dĩ vi hảo dã.” Ý của bài thơ nói tình yêu nam nữ lúc này đã không còn coi trọng giá trị của vật chất, chỉ mong có được tình yêu vĩnh cửu. Dương Vũ Thường đọc bài thơ vào lúc này, đương nhiên là an ủi Địch Thanh, để hắn biết được tâm ý của mình. Địch Thanh nhìn thấy Vũ Thường đầu tuy cúi, nhưng miệng vẫn hơi mỉm cười mà không thể kiềm lòng mình.

La Đức Chính không biết đọc sách, nên cho rằng Dương Vũ Thường cuối cùng đã bị y làm cho động lòng, ngầm hiểu tờ chứng nhận đó chính là mộc qua, Dương Vũ Thường chính là quỳnh cư. Nàng đã biết ai thật lòng nên muốn lấy thân báo đáp. Nhìn chiếc cổ cao trắng ngần của Dương Vũ Thường mà trong lòng La Đức Chính lại rực lửa.

Dương Niệm Ân đã nhận được giấy chứng nhận, mặt mày hớn hở nói:

- La công tử, uống rượu nào uống rượu nào.

La Đức Chính thấy Địch Thanh không nói, không biết hắn đang chìm đắm trong tình cảm dịu dàng liền cho rằng hắn không còn gì để nói. Y không chịu bỏ cơ hội nhục mạ hắn liền lên tiếng:

- Lần này ta đem giấy chứng nhận tới, không biết Địch công tử có mang gì tới không? Không phải là chút tiền lẻ hèn mọn đấy chứ?

Địch Thanh thở dài trong lòng, nói:

- Đáng tiếc là phụ thân của tại hạ là một người đầy đủ, chỉ thiếu mỗi điều không phải là thái giám…

La Đức Chính biến sắc, chưa kịp nói tiếp thì từ phía cửa sân có người gọi:

- Dương Niệm Ân có nhà không?

Điêu quản gia nghe thấy ngoài cổng có tiếng gõ cửa ầm ầm, liền vội vàng đi ra mở cửa thì thấy có hai người đứng trước cửa, một người hơi gày, một người béo lùn. Cả hai đều ăn mặc theo kiểu quan gia, liền nghi ngờ hỏi:

- Hai vị quan nhân có việc gì không?

Người hơi gày nói:

- Ta là giám quan Các Hóa vụ, vị này là phó sứ Các Hóa vụ.

Điêu quản gia nghe thấy mà sợ hãi, trong lòng nghĩ “Các Hóa vụ phụ trách quản lí việc buôn bán trà, muối. Lão gia muốn gặp hai người này đã tốn không biết bao công sức, nhưng cuối cùng vẫn không được gặp. Sao hôm nay hai người này lại tự dưng tới đây?”

Điêu quả gia mời hai người vào trong phủ, nhanh chân bước tới trước mặt Dương Niệm Ân, nói rõ thân phận của họ. Dương Niệm Ân nửa mừng nửa lo, không biết dụng ý của hai người này là gì liền vội vàng bước ra, khom người thi lễ nói:

- Hai vị đại nhân tới đây có việc gì thế ạ?

Giám quan hơi gày nói:

- Ngươi tên là Dương Niệm Ân?

Dương Niệm Ân gật đầu liên tục, lại hỏi:

- Ngươi có biết Địch Thanh không?

Dương Niệm Ân không hiểu được, quay đầu nhìn Địch Thanh nói:

- Hắn đang ở phủ của lão hủ, chỉ có điều…không phải do lão hủ mời tới…

Lão nói chuyện còn rào trước vì chỉ sợ Địch Thanh gây chuyện.

Giám quan nói:

- Thế thì đúng rồi. Dương Niệm Ân! Thánh thượng có chỉ! Tể tướng có lệnh! lệnh thu xếp ổn thỏa giấy chứng nhận cho các gian hàng của ngươi. Đây là giấy chứng nhận của ngươi, kí tên lên đây để bọn ta còn về báo cáo kết quả.

Hóa ra Triệu Trinh hạ chỉ, Lã Di Giản liền lập tức lo ổn thỏa mọi chuyện. Có sự chú ý của hoàng đế và thừa tướng, đám quan viên của Các Học vụ làm sao dám chần chừ. Đích thân giám quan xử lý việc này, thậm chí là ngay trong đêm.

Dương Niệm Ân không rõ nguyên do, lại vừa mừng vừa sợ, vội nói:

- Được, được.

Lão điểm chỉ rồi nói với giám quan:

- Hai vị đại nhân từ xa tới, trên đường vất vả, xin mời uống li rượu đã.

Viên phó sứ nói:

- Bọn ta thực sự không có thời gian rảnh, rượu này xin miễn cho.

Địch Thanh đi tới thi lễ nói:

- Hai vị đại nhân vất vả rồi. Tại hạ là Địch Thanh, sau này mong được chiếu cố nhiều hơn.

Giám quan nhìn từ trên xuống dưới Địch Thanh nói:

- Ngươi là Địch Thanh? Không đơn giản chút nào. Sau này…

Nói tới đây y chợt dừng lại rồi lại cười nói

- Nói không chừng sau này ngươi phải quan tâm tới bọn ta ấy chứ. Địch Thanh! Sau này có chuyện gì cần tới bọn ta, thì cứ tới thẳng Các hóa vụ nói với bọn ta một tiếng, không cần làm phiền đến thánh thượng.

Địch Thanh cười nói:

- Hai vị đại nhân vất vả rồi, Địch mỗ vô cùng cảm kích. Sau này nếu có việc gì cần nhờ tới huynh đệ, xin cứ dặn dò. Tại hạ vẫn còn chưa biết quý tính của hai vị.

Giám quan nói:

- Ta tên Biên Hiểu Đỉnh, đây là trợ thủ của ta, tên Dịch Địch.

Địch Thanh rót đầy hai chén rượu, bưng lại nói:

- Những lời nói khách khí không cần nói thêm nữa. Hôm nay hai vị đại nhân cùng ta uống một li, trời giá rét thế này coi như làm ấm người.

Biên Hiểu Đỉnh cười ha ha nói:

- Cũng được.

Y cùng với Dịch Địch nâng chén rượu lên uống cạn với Địch Thanh một chén. Biên Hiểu Đỉnh đặt chén rượu xuống nói:

- Địch Thanh! Bọn ta còn phải quay về phục chỉ, không dám chậm trễ…

- Vậy hôm khác rảnh rỗi, nhất định sẽ mời hai vị đại nhân uống một trận thật đã.

Địch Thanh cười nói. Biên Hiểu Đỉnh gật gật đầu, cùng với Dịch Địch rời đi.

Đến lúc này, Địch Thanh mới quay lại bàn tiệc, nói với Dương Vũ Thường:

- May mà không bị nhỡ việc.

Dương Vũ Thường kinh ngạc nói:

- Sao có thể mời giám quan của Các học vụ tới được.

Địch Thanh cười nói:

- Không phải ta mời mà là ta nói với thánh thượng chuyện này, nên người mới sai người đi làm. Chuyện này tới tận hôm nay ta mới nói, không ngờ đã làm xong rồi.

Dương Vũ Thường nói:

- Hóa ra chàng đã gặp được thánh thượng rồi à?

Địch Thanh nói:

- Nhưng ta lại chẳng có bản lĩnh gì. Thật hổ thẹn! Hổ thẹn

La Đức Chính nghe Địch Thanh nói thế, rõ ràng là đang châm chọc mình có bản lĩnh mới gặp được thánh thượng của mình thì mặt đỏ tưng bừng. Lúc này tấm giấy chứng nhận chưa được đóng dấu vẫn ở trên mặt bàn, dưới ánh nến, đúng thật là chướng mắt.

Dương Niệm Ân vội nâng chén với Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, uống rượu, uống rượu.

Lão thấy Địch Thanh được nói chuyện với hoàng thượng, rõ ràng là còn mạnh hơn người cha thái giám kia nhiều. Tính tình của lão vốn gió chiều nào theo chiều ấy, nên lập tức thay đổi thái độ với Địch Thanh luôn.

La Đức Chính vô cùng xấu hổ, giơ tay xé tấm giấy chứng nhận kia đi, căm giận nói:

- Dương bá phụ, tại hạ làm việc thừa rồi, cáo từ!

Dương Niệm Ân vội nói:

- La công tử vất vả, già này vô cùng cảm kích. Rượu này uống vẫn chưa hết, chi bằng uống thêm lúc nữa?

La Đức Chính thấy Dương Niệm Ân nghĩ một đằng nói một nẻo, ý nghĩa thâm sâu, lại lên cơn giận, phất tay áo, quay người mà đi. Dương Niệm Ân đợi gã đi ra khỏi cổng rồi mới đuổi theo nói:

- Trời tối rồi, La công tử về cũng được. La công tử đi cẩn thận.

(1): Mộc Qua:

Đầu ngã dĩ mộc cô (qua).

Báo chi dĩ quỳnh cư.

Phỉ báo dã,

Vĩnh dĩ vi hảo dã.

Cây Đậu Mộc (người dịch: Tạ Quang Phát)

Mộc qua người tặng ném sang,

Quỳnh cư ngọc đẹp ta mang đáp người.

Phải đâu báo đáp ai ơi,

Để mà giao hảo đời đời cùng nhau.

Nhẹ nhàng đóng cửa sân, rồi nhanh chóng quay lại, Dương Niệm Ân nhấc chén rượu lên nói với Địch Thanh:

- Lão hủ mặt dày nhưng gọi ngươi một tiếng là Địch hiền chất có được không?

Địch Thanh nói:

- Dương lão trượng khách khí rồi. Ngài muốn gọi vãn bối như thế nàocùng được.

Dương Niệm Ân nói:

- Ta nói hiền chất mới là người khách khí. Nếu ngươi còn coi trọng ta thì sau này cứ gọi ta một tiếng bá phụ là được rồi.

Địch Thanh vội nói:

- Dương bá phụ

Dương Niệm Ân mỉm cười:

- Sắc trời vẫn còn sớm, ngươi tới lại muộn. Hôm nay phải uống thêm vài chén nữa. Không s không về.

Địch Thanh thầm nghĩ, “Mặt trời này vì một mình lão mà lên hay sao? Muốn sớm thì sớm, muốn muộn là muộn. Chuyện này làm xong thì là bá phụ, nếu không xong thì là lão trượng. Đúng là bá phụ thực sự nghe thân thích hơn còn lão trượng nghe xa lạ quá.

Dương Vũ Thường sẵng giọng:

- Uống rượu cũng phải có chừng mực. Nếu uống say thì làm sao mà về nhà được?

Địch Thanh thấy được sự quan tâm của Dương Vũ Thường, trong lòng thích thú, cười nói:

- Dương Bá phụ chỉ nói đùa thôi. Mọi người uống rượu cho ấm người, chứ sao có thể uống cho say được?

Dương Niệm Ân thấy rượu và thức ăn đã lạnh, liền quay sang căn dặn:

- Điêu quản gia, mau bảo đầu bếp hâm lại thức ăn, rồi đem trà Vũ Tiền quý giá mà ta cất lâu năm ra đây.

Địch Thanh vội hỏi:

- Dương bá phụ! Không cần thế đâu, ta cứ ăn thế này là được rồi.

Đột nhiên nhớ điều gì đó, Địch Thanh rút từ trong người ra một gói giấy dầu, mở ra nói:

- Vũ Thường! Ta đem tới cho nàng món nàng thích ăn đây nè, chỉ có điều….lạnh rồi.

Dương Vũ Thường nhận lấy đám cua đó, cúi đầu nhìn xuống mà im lặng mất một lúc lâu.

Địch Thanh đột nhiên nhìn thấy hai giọt nước mắt rơi xuống con c. Biết Dương Vũ Thường đang rơi lệ, hắn cảm thấy kích động mà nói:

- Vũ Thường! Nàng không thích ăn sao? Lần sau ta không đem tới nữa.

Dương Vũ Thường chậm rãi ngẩng đầu lên, đôi mắt nàng hết sức dịu dàng nhưng đẫm lệ. Nàng lên tiếng:

- Ta rất thích, nhưng, không muốn ăn ngay.

-

Nói xong Vũ Thường liền gói nó lại rồi giữ ở trong tay.

Địch Thanh ngơ ngác không biết mình đã làm sai điều gì mà khiến Vũ Thường rơi nước mắt. Đang trong lúc không biết làm gì, thì Dương Niệm Ân ở bên cạnh giục:

- Điêu quản gia! Còn đứng ngây ra đó làm gì? Mau đi đem trà lại đây.

Dương lão gia là một cánh buồm, còn Điêu quản gia cũng là ngọn cỏ trên tường. Thấy lão gia thay đổi, liền vội vàng nhanh chân đi lấy trà tới. Dương Niệm Ân tự mình nấu nước, lấy ra bộ dụng cụ uống trà mà ngày thường lão rất thích, nói:

- Hiền chất. Cái đạo trà mà lần trước ngươi nói, sau đó ta mới ngẫm lại thì đúng là rất có lí. Thật ra loại Long Đoàn rất hiếm, uống cũng không cần thiết. Lão phu thấy đối với việc thưởng trà thì thấy ở Phúc Kiến, phía Nam Kiếm châu sinh ra mười hai tuyệt. Nhưng vùng Hoài Nam, Giang Nam, Kinh Hồ sản sinh ra trà tán lại tương đối nổi tiếng. Hay các loại như Vũ Tiền, Vũ Hậu, Long Khê cũng đều là cực phẩm. Bao năm qua, lão phu có cất rất nhiều danh trà ở các nơi trong thiên hạ. Sau này nếu có cơ hội sẽ từ từ cùng thưởng thức với hiền chất.

Địch Thanh đang nghĩ xem tại sao Vũ Thường lại khóc, mình đã làm sai gì sao? Chợt nghe thấy vậy thì chỉ đáp cho có lệ:

- Đa tạ lão bá phụ.

Dương Niệm Ân thấy Địch Thanh không có lòng dạ uống trà, thì thấy như mình vừa làm trò cho người mù xem vậy, nhưng có điều khó nói thẳng ra lờ.i

- Hiền chất! Ta chỉ biết gần đây ngươi mới được thăng chức làm Tán Trực, không biết rằng ngươi còn được tiếp chuyện với thánh thượng. Chuyện hôm nay, đúng là thiệt thòi cho hiền chất quá.

Địch Thanh trấn tĩnh lại tinh thần,

- Thực ra vãn bối may mắn được giúp thánh thượng vài lần. Thánh thượng đối xử với vãn bối cũng tốt. Lần này thăng cho vãn bối làm Tán Trực. Sau đó vãn bối lại nhớ tới chuyện của Bá phụ, nên thuận miệng nói với thánh thượng, đúng lúc thánh thượng tâm trạng đang vui, liền cho người đi xử lí luôn.

Thái độ của Dương Niệm Ân trở nên kính nể.. Lão vẫn cho Địch Thanh có chỗ dựa vững chắc, nhưng chắc chắn tiền tài không nhiều. Không lẽ nào chỗ dựa của Địch Thanh chính là hoàng để! Có hai vị đại nhân của Các Học vụ là chỗ dựa, thì việc làm ăn của mình chẳng phải thuận buồm xuôi gió lắm không? Vừa nghĩ đến đây, Dương Niệm Ân vui như hoa nở, trong lòng nghĩ con gái mình đúng là không nhìn nhầm người. Thấy Địch Thanh liên tiếp nhìn về hướng Dương Vũ Thường, Dương Niệm Ân hiểu ra vấn đề, liền chắp tay nói:

- Ta già rồi, rượu cũng không uống được nhiều nữa, mới có vài chén đã đau đầu chóng mặt rồi. Vũ Thường, ta về phòng nghỉ ngơi trước, con cùng với Địch hiền chất ngồi một lúc vậy.

Nói xong lão liền đứng dậy cáo từ.

Địch Thanh biết Dương Niệm Ân lâu như thế, cuối cùng cũng phát hiện ra Dương Niệm Ân cũng có lúc lại hiểu lòng người đến thế. Sau khi khách khí tiễn Dương Niệm Ân tới trước sảnh, đợi cho tới khi Dương Niệm Ân và quản gia đi khuất, Địch Thanh vội hỏi

- Vũ Thường, nàng không được khỏe sao? Hay là về nghỉ ngơi đi

Dương Vũ Thường lắc lắc đầu:

- Không có! Ta chỉ không muốn gặp La Đức Chính, nên mới nói trong người không được khỏe. Địch đại ca! Huynh vất vả quá.

Nàng gọi một tiếng Địch đại ca hơi kéo dài ra một chút rồi mặt lại đỏ lên. Địch Thanh cũng cảm thấy kích động, hạ giọng nói:

- Vũ Thường! Ta chỉ nhân tiện mà làm thôi. Hơn nữa vì nàng thì chuyện khó hơn nữa ta cũng sẽ làm.

Địch Thanh thường đấu võ mồm với người ngoài, ít khi nhường nhịn ai, nhưng trước mặt Vũ Thường thì lại toàn những lời cứng nhắc, nhưng những lời nói của hắn hoàn toàn xuất phát từ nội tâm với một thái độ chân thành. Dương Vũ Thường nghe thấy vậy trong lòng cảm động, nhất thời cũng không nói được nên lời.

Hai người đều im lặng, tận hưởng khoảng thời gian ấm áp bên nhau.

Bầu trời bên ngoài thi thoảng lại có một đám mây lẻ loi lững lờ trôi qua. Một trận gió bắc tràn tới khiến cho những bông tuyết bám trên cành cây bay phất phới trong không trung như những cánh hoa, Địch Thanh nhìn cảnh vật bên ngoài thì cảm thấy so với cánh hoa tuyết lẻ loi kia mình còn hạnh phúc hơn gấp nhiều lần. Một cơn gió thổi vào trong phòng, Dương Vũ Thường cảm thấy lạnh liền rùng mình một cái. Địch Thanh không dám ôm mà chỉ dám nắm lấy bàn tay mềm mại của nàng.

Thân thể mềm mại của nàng run lên, bàn tay để mặc cho Địch Thanh nắm, cũng không rút ra. Địch Thanh chỉ cảm thấy bàn tay nàng mịn màng nhưng lại lạnh như băng, liền ân cần nói:

- Vũ Thường, ở đây rất lạnh, hay là nàng về đi?

Dương Vũ Thường nhẹ nhàng dựa vào ngực Địch Thanh mà nói nhỏ:

- Địch đại ca, thế này…không phải là ấm rồi sao?

Trên mặt nàng có chút ngượng ngùng, nhưng trong ánh mắt lại chứa đầy niềm vui.

Địch Thanh tỉnh ngộ lại, nhẹ nhàng ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của Dương Vũ Thường. Mũi hắn ngửi thấy mùi hương xử nữ liền cảm giác mình như đang lơ lửng trên mây. Kể cả hắn có là Hoàng Đế đi chăng nữa thì cũng không thể hạnh phúc bằng hôm nay. Địch Thanh đầy cảm khái lên tiếng:

- Vũ Thường! Ta là người lỗ mãng, không hiểu được ý của người khác. Nnếu có chuyện gì làm không tốt, nàng đừng trách ta nhé.

Dương Vũ Thường khẽ cười nhưng không nói gì. Địch Thanh chỉ cảm thấy nụ cười dịu dàng đó thật mê hoặc liền không nhịn được nói:

- Vũ Thường, lúc nãy sao nàng lại khóc? Người ngốc nghếch như ta tới tận bây giờ vẫn không thể hiểu được sao nàng lại thích ta.

Dương Vũ Thường không trả lời câu hỏi mà chỉ nói nhẹ nhàng:

- Thích một người có khi không cần lí do. Nếu thực sự muốn biết lí do rõ ràng, thì muội cũng giống như cha là vì chuyện làm ăn.

Địch Thanh không kìm nổi mà bật cười.

- Nàng không đồng ý với cha nàng ư?

Thực ra lệnh tôn cũng không có ý gì, chỉ nghĩ tới chuyện làm ăn thôi. Trước kia chẳng phải nàng đã từng kể rằng khi ở Giang Nam, nhà nàng vốn là một gia tộc lớn., cha nàng phải nuôi cả một gia đình lớn, mới phải lăn lộn chốn kinh thành nhưng lại không có nhiều mối quan hệ nên thực sự không dễ dàng đâu.

Dương Vũ Thường hạ giọng nói:

- Thực ra, thực ra….

Nàng ta nhìn gói cua rất lâu, mới quyết định nói:

- Thực ra đó không phải là cha đẻ của muội.

Địch Thanh giật mình,

- Dương Niệm Ân không phải là cha nàng, vậy cha nàng là ai?

Đôi mắt Dương Vũ Thường rưng rưng nói nhỏ:

- Muội cũng không biết cha đẻ là ai, nhưng mẹ của muội cải giá vào Dương gia.

Địch Thanh thấy Dương Vũ Thường đau lòng, không biết cách nào an ủi, chỉ biết dùng tay khẽ vuốt mái tóc của nàng, nhưng cảm giác được mái tóc của nàng cũng lạnh, từng sợi từng sợi lạnh như băng.

Dương Vũ Thường nói:

- Muội nghe kế phụ nói, sau khi mẹ sinh ra muội thì bị chia cắt với cha đẻ, rồi đến họ Dương. Cha dượng của muội vốn biết mẹ nên vẫn một mực đợi mẹ của muội. Vì thế mà người vui vẻ chấp nhận mẹ con ta. Nhưng sau khi mẹ muội được gả vào Dương gia thì luôn buồn bã, rồi quá đau lòng mà chẳng được bao lâu sau thì mất.

Địch Thanh cảm thấy đau lòng mà nói:

- Hóa ra, nàng còn đáng thương hơn ta. Ít nhất ta còn có đại ca chăm sóc. Cha dương nàng, ông ấy….

Dương Vũ Thường nhẹ giọng nói:

- Đại ca của chàng đối với chàng rất tốt, cha dượng cũng đối xử không tồi với muội. Sau khi mẹ muội mất, ông ấy cũng rất buồn, nhưng rất yêu thương muội. Năm mẹ muội mất đã cầu xin ông ấy chăm sóc cho muội, nhưng phải để cho muội tự lựa chọn vị hôn phu. Cha dượng ta đã đồng ý, không ép ta lấy ai. Còn về việc tới nói chuyện với La Đức Chính, cũng chỉ là một trong những thủ đoạn làm ăn mà thôi. Năm đó khi muội ở Giang Nam, trong gia tộc có không ít người để ý muội, nhưng muội đều không thích. Cha dượng cũng không ép buộc. Khi ông ấy muốn tới kinh thành làm ăn liền mang theo muội đến đây. Sau đó muội mới gặp được chàng.

Địch Thanh áy náy nói:

- Ngày ấy khi ta va vào nàng thật sự là vô tâm không có ý gì. Nàng đừng giận nhé.

Dương Vũ Thường mim cười nói:

- Chẳng nhẽ tới hôm nay, chàng vẫn còn khách khí với ta sao? Lúc đó khi ta nhìn vào ánh mắt chàng đã biết lúc đó chàng rất buồn,. Chuyện va vào ta hoàn toàn không phải là hành động của một kẻ phóng đãng. Địch đại ca, lúc đó sao chàng lại uất ức căm phẫn đến thế? Rút cuộc đã xảy ra chuyện gì, chàng có thể nói được không?

Địch Thanh liền kể hết lại chuyện hôm đó. Dương Vũ Thường nghe xong, cảm khái nói:

- Hóa ra là như thế, chả trách hôm đó chàng lại lo lắng đến vậy, tiếc là cuối cùng cũng không tìm được người hại chàng. Giữa hai người vốn không có khúc mắc, nhưng lại không thể tránh được va chạm. Sao con người lại buồn cười như vậy?

Địch Thanh trầm mặc hồi lâu mới nói:

- Ta mà gặp lại gã, ta sẽ bắt gã, không vì điều gì khác…chỉ vì đám dân chúng vô tội.

- Vậy thì…chàng hãy cẩn thận nhé.

Dương Vũ Thường cẩm tay Địch Thanh, không phản đối, nhẹ giọng nói:

- Chàng hãy nhớ, cho dù có chuyện gì xảy ra thì muội luôn ở bên cạnh chàng.

Địch Thanh chậm rãi gật đầu:

- Ta nhớ. Bất kì lúc nào cũng đều có nàng chăm sóc ta, quan tâm ta. Ta cũng được chăm sóc nàng suốt đời suốt kiếp.

Dương Vũ Thường nắm chặt tay Địch Thanh, khóe miệng điểm một nụ cười ngọt ngào,

- Muội biết điều đó ngay khi lần đầu tiên nhìn thấy chàng. Địch đại ca, chẳng biết tại sao từ sau lần đầu tiên nhìn thấy chàng muội đã không thể quên được. Phải chăng đây chính là duyên phận.

Nói xong Vũ Thường ngượng ngùng cúi đầu nhưng vẫn nắm chặt lấy tay Địch Thanh không buông.

Địch Thanh cảm động, nói hết sức nhẹ nhàng:

- Từ sau khi ta nhìn thấy nàng, ta cũng luôn nhớ về nàng. Mấy năm nay ta bị mọi người hiểu lầm, lại buồn bực trong người. Khi đó nàng nói hộ cho ta vài câu, ta đều ghi nhớ trong lòng. Cũng vì mấy câu nói đó mà ta không sao quên được nàng. Nhưng có nằm mơ ta cũng không ngờ lại được gặp lại nàng. Không ngờ, cuối cùng nàng lại thích ta.

Dương Vũ Thường nói:

- Vậy chúng ta coi như giống nhau rồi. Chàng hỏi ta sao ban nãy lại khóc đúng không? Thật ra hồi bé ta vẫn thường hay ăn cua, lúc đó toàn do mẫu thân ta tự tay làm, ta vẫn còn nhớ như in. Trước đây ta cũng chỉ vô tình nói thích ăn cua, không ngờ chàng vẫn nhớ. Ta nhìn thấy chàng cầm cua, tự nhiên lại nhớ tới mẫu thân, cũng muốn nói cho mẫu thân biết một câu, vì thế mà không nén được lòng.

Địch Thanh nói

- Nàng muốn nói gì với mẹ?

Đôi mắt Dương Vũ Thường rưng rưng lệ nhưng miệng lại mỉm cười, nhẹ nhàng nói:

- Ta muốn nói với mẹ, “Mẹ à! Mẹ cứ yên tâm, cuối cùng con cũng đã tìm được người yêu thương con như mẹ. Chàng ấy tên Địch Thanh!’

Dương Vũ Thường nhìn Địch Thanh âu yếm, với vô vàn ý tứ nhưng không cần phải nói ra bằng lời.

Địch Thanh run người, nắm chặt tay Dương Vũ Thường mà nhẹ giọng nói:

- Vũ Thường…

Dương Vũ Thường nhẹ nhàng đáp lại:

- Địch đại ca….

Hai người nhìn vào mắt nhau đều thấy được sự quan tâm thương yêu trong đó. Gió bắc mặc dù lạnh, nhưng ánh nến ở sảnh sáng như mùa xuân, ấm áp khiến hai người cảm thấy không cần phải nói quá nhiều. Những lời nói đường mật cũng đã thừa, bởi bọn họ đã hiểu được nỗi lòng của nhau.

Nhìn nhau thật lâu, Địch Thanh bỗng dưng nhớ tới một chuyện, liền hỏi:

- Nếu nàng vẫn nhớ chuyện khi còn nhỏ, chả nhẽ lệnh đường chưa bao giờ kể về chuyện của lệnh tôn sao?

Dương Vũ Thường lắc lắc đầu, lấy từ trong lòng ra nửa miếng ngọc bội đưa cho Địch Thanh nói:

- Đây là di vật của mẫu thân, có thể là do cha muội để lại.

Mặt phải của miếng ngọc bội chạm rồng, phía sau khắc phượng cực kì tinh xảo. Chỉ nhìn qua là biết của gia đình giàu có.

Địch Thanh nói:

- Sao lại chỉ có nửa miếng? Có lẽ sau khi lệnh tôn và lệnh chia cách sợ sau này sẽ khó nhận được, nên lưu lại làm tin.

Nhìn thấy miếng ngọc, trong lòng Địch Thanh cũng dâng lên mối đồng cảm, nói:

- Vũ Thường! Nàng yên tâm, cho dù có thề nào đi chăng nữa, chỉ cần lệnh tôn vẫn còn, ta sẽ nhất định tìm ra ông ấy.

Dương Vũ Thường ngần ngơ nhìn Địch Thanh, một lúc lâu sau mới nói:

- Miếng ngọc bội này chính là của mẫu thân để lại cho ta. Nhưng khi bà để lại cho ta cũng không nói gì. Bà chưa bao giờ nhắc tới phụ thân ta. ước khi bà lâm chung chỉ nói ‘ Vũ Thường, mẹ không mong muốn con sẽ tìm được cha con, chỉ mong con tìm được người đàn ông thật lòng với con. Không cầu vinh hoa phú quý, chỉ cần bình an hạnh phúc.’ Vì thế mẹ ta mong cha dượng chăm sóc cho ta nhưng để ta tự lựa chọn vị hôn phu. Cho đến nay miếng ngọc bội này có phải là bằng chứng gặp mặtcha mẹ ta hay không thì ta cũng không biết.

Dương Vũ Thường nói đến đây, âm thanh trở nên nghẹn ngào, nước mắt rơi xuống từng giọt từng giọt, giống như những hạt ngọc bị đứt dây đang rơi xuống vậy.

Địch Thanh thầm nghĩ, “mẹ của Vũ Thường chắc hẳn đã bị chồng mình lừa gạt, vì thế mới thương tâm, cho tới khi chết cũng chỉ hi vọng con gái sau này sẽ tìm được một người đàn ông tốt. Nhưng từ miếng ngọc bội này, có thể thấy gia đình Vũ Thường chắc hẳn phải giàu có. Hừ! Người vừa có tiền có thể thì như thế nào nhỉ? Bọn họ có tất cả duy chỉ không có tình cảm mà thôi. Đương nhiên, có khả năng cha mẹ của Vũ Thường bắt buộc phải chia li, mới để lại miếng ngọc bội làm vật chứng. Nhưng tại sao cha của Vũ Thường vẫn chưa xuất hiện. Còn một khả năng là cha của Vũ Thường đã chết. Đương nhiên không thể nói điều này cho nàng nghe được.” Thấy Vũ Thương đau lòng như thế, Địch Thanh rút ra một chiếc khăn lụa màu xanh da trời đưa cho nàng lau nước mắt.

Dương Vũ Thường khóc một lúc, trong lòng cũng dễ chịu hơn nhiều. Thấy chiếc khăn lụa đó chính là chiếc khăn nàng đã băng bó cho Địch Thanh khi hắn bị thương, liền hỏi:

- Hóa ra chàng vẫn giữ nó cơ ah?

Địch Thanh nói:

- Đây là vật nàng tặng, sao ta có thể vứt đi được?

Hắn rung đùi đắc ý nói:

Đầu ngã dĩ mộc qua, báo chi dĩ quỳnh cư. (Mộc qua người tặng ném sang,

Quỳnh cư ngọc đẹp ta mang đáp người. ) Nàng tặng ta chiếc khăn lụa đó, ta trả lại bằng những con cua.

Dứt lời hắn ôm lấy Vũ Thường, khóe miệng nở một nụ cười.

Dương Vũ Thường đột nhiên bừng tỉnh, cười nói:

- Được thôi, chàng châm biếm ta là con cua, xem ta có dám đánh chàng thành cây mộc qua không?

Nói xong nàng nhẹ nhàng buông tay đám vào ngực hắn. Địch Thanh duỗi tay ra, nhẹ nhàng nắm chặt cổ tay Vũ Thường khiến cho cả hai người gần nhau trong ga tấc, Địch Thanh cảm nhận được hơi thở của Dương Vũ Thường thì không kìm nén được ý loạn tình mê. Khuôn mặt Dương Vũ Thường đỏ ửng, mắt hơi hơi nhắm lại. Địch Thanh bạo gan, hôn lên má nàng, chỉ cảm thấy làn môi mình như đang hôn lên ngọc, làm cho tim hắn đập thình thịch. Dương Vũ Thường ừm một tiếng, rồi lại nép vào lòng Địch Thanh, tỏ vẻ thẹn thùng. Cả hai người tâm đầu ý hợp, chỉ mong giờ phút này kéo dài mãi mãi.

Một lúc lâu sau, Dương Vũ Thường cầm miếng ngọc bội đó đưa cho Địch Thanh, lẩm bẩm nói:

- Địch đại ca, nửa miếng ngọc bội này, chàng giữ lại đi. Cha ta tuy bỏ mẹ ta mà đi, nhưng ta biết, chàng vĩnh viễn không bao giờ xa rời ta. Chỉ mong chàng và ta mãi mãi không bị chia lìa.

Địch Thanh nắm chặt tay Dương Vũ, nói một cách kiên định:

- Được! Trên thế gian này, nàng và ta mãi mãi không rời xa nhau.

Dương Vũ Thường cảm thấy ấm áp, không còn mong muốn gì hơn nữa. Địch Thanh lại nhìn nửa miếng ngọc bội, thầm nhủ “cha của Vũ Thường rút cuộc là ai? Cho dù thế nào, nhất định ta cũng phải tìm được cha cho nàng, để không phụ tình cảm của nàng dành cho ta.”

Rất nhiều việc nói nghe có vẻ dễ, nhưng làm mới khó. Thoáng cái đã tới cuối xuân, chim chóc bay lượn khắp nơi. Địch Thanh vì Dương Vũ Thường tìm cha nhưng vẫn chưa có đầu mối. Cũng may Dương Vũ Thường cũng thấu hiểu lòng người, chỉ khuyên Địch Thanh cứ thuận theo tự nhiên.

Người con gái si tình đó đã trao trọn trái tim của mình cho Địch Thanh, không cầu vinh hoa phú quý nơi hắn mà chỉ mong hắn luôn được bình an.

Mấy ngày nay, việc làm ăn của Dương Niệm Ân rất thuận lợi, khiến lão cảm thấy rất thoải mái, không những không ngăn cản việc Địch Thanh tới thăm Dương Vũ Thường, mà ngược lại còn hi vọng hắn sẽ tới thường xuyên. Dương Niệm Ân không biết nhiều đến bối cảnh của Địch Thanh, nhưng có thể nói khiến cho cả Hoàng đế cũng phải động lòng thì lão đối với Địch Thanh cũng hết sức hài lòng. Hơn nữa trước khi lâm chung Dương mẫu cũng muốn sau này Dương Niệm Ân sẽ không làm khó con gái mình. Trong lòng Dương Niệm Ân cũng biết Địch Thanh là người mà Dương Vũ Thường lựa chọn, mà hắn cũng có được vài phần bản lĩnh, nên cũng có thể nói là vẹn cả đôi đường.

Có một ngày, Địch Thanh vừa mới vào trong cung thì Diêm Văn Ứng đã tìm đến, lạnh lùng nói:

- Địch Thanh! Thánh thượng đang đợi ngươi.

Không biết vì sao, Địch Thanh luôn cảm thấy Diêm Văn Ứng có chút thái độ thù địch đối với mình. Lẽ nào trước đây do hắn nói não của gã bị ván cửa kẹp lại, mới khiến gã đâm ra thù hận? Nhưng nhìn đi nhìn lại, hắn vẫn cảm thấy đầu Diêm Văn Ứng bị cửa kẹp càng kinh khủng hơn rồi.

Khi đến trước mặt Triệu Trinh, không để cho hắn kịp thi lễ, Triệu Trinh đã nói:

- Miễn lễ! Địch Thanh! Gần đây có bao nhiêu người của bát đại cấm quân mới tham gia ban trực?

Địch Thanh tính toán, đáp:

- Có khoảng ba mươi hai người

Triệu Trinh lẩm bẩm nói:

- Cũng gần đủ rồi.

Ánh mắt của y vừa cổ quái, lại vừa như lo lắng.

Địch Thanh cảm thấy hơi run hỏi:

- Gần đủ rồi là thế nào ạ?

Triệu Trinh nói:

- Trẫm chuẩn bị cải trang vi hành, vì thế cần các ngươi hộ giá. Địch Thanh! Ngươi sẽ đi cùng ta chứ?

Địch Thanh hơi giật mình nói:

- Thánh thượng thân thể ngàn vàng, chỉ e muốn đi không phải là chuyện dễ dàng.

Triệu Trinh tươi cười lên tiếng có chút gì đó mỉa mai:

- Mọi việc đều đã có thái hậu, ta có đi hay không, có gì khác biệt đâu? Địch Thanh! Ngươi lệnh cho bọn họ chuẩn bị đi.

Lần đầu tiên Địch Thanh mới thấy Triệu Trinh dứt khoát như vậy. Hắn biết mình không thể ngăn được, đành phải đi thông báo cho một nhóm người. Triệu Trinh thấy Địch Thanh rời đi, đi đi lại lại trong cung một lúc lâu, thấy Diêm Văn Ứng còn đang đứng thẳng bên cạnh liền nhíu mày nói:

- Văn Ứng! Trẫm muốn tới lăng tẩm của tiên đế trước, ngươi có chủ kiến gì không?

Vẻ mặt Diêm Văn Ứng không giấu được sự đau khổ nói:

- Địch Thanh nói mặc dù không dễ nghe nhưng quả thực không hề sai. Thánh thượng thân thể ngàn vàng, sao có thể rời khỏi kinh thành một cách dễ dàng được? Thần chỉ e…thái hậu không cho phép.

Triệu Trinh tức giận nói:

- Thái hậu không cho phép? Thái hậu không cho phép. Trẫm đã từng này tuổi rồi mà phải nghe nhiều nhất chính là câu thái hậu không cho phép đó. Đầu óc ngươi chẳng lẽ đúng như Địch Thanh đã nói, bị cánh cửa kẹp vào đầu sao? Sao không vì trẫm mà nghĩ kế ra khỏi cung?

Sắc mặt Diêm Văn Ứng tái nhợt, vâng vâng dạ dạ không dám nói lời nào nữa. Gã theo Triệu Trinh đã nhiều năm rồi, nhưng lần đầu tiên mới thấy Triệu Trinh tức giận như thế. Đúng lúc đó, có cung nhân vội vàng đến tâu:

- Thánh thượng, Bát vương gia cầu kiến.

Ánh mắt Triệu Trinh chợt sáng lên, hít một hơi rồi nói:

- Cho mời

Bát vương gia mặc triều phục đi vào. Trên đương đi, lão không hề chớp mắt. Khi đến trước mặt Triệu Trinh, Bát vương gia liền quỳ xuống thi lễ. Cho dù Bát vương gia là thúc phụ của Triệu Trinh thì khi nhìn thấy hoàng thượng cũng phải thi lễ. Triệu Trinh một tay đỡ Bát vương gia, ánh mắt chớp chớp nói:

- Bát hoàng thúc không cần đa lễ. Ngươi ở Vương phủ đã lâu, hôm nay vào cung có chuyện gì thế?

Bát vương gia khẽ giọng nói:

- Thần nghe nói thái hậu bị bệnh, bởi vậy vào cung để hỏi thăm. Đi ngang qua tẩm cung của thánh thượng, nghĩ cũng đã lâu chưa khấu kiến thánh thượng cảm thấy thật thất lễ nên vào đây cầu kiến.

Triệu Trinh có chút kinh ngạc

- Mẫu hậu bệnh rồi ư? Sao không có ai nói với ta?

Triệu Trinh quay đầu về phía Diêm Văn Ứng nói:

- Cả ngày hôm nay ngươi làm gì?

Diêm Văn Ứng sợ hãi nói:

- Thần cũng không biết. Không biết Bát vương gia biết được tin này từ đâu?

Bát vương gia khẽ nói:

- Là Thành quốc công đã nói với ta sáng nay.

Triệu Trinh trong mắt ánh lên tia lửa, thầm nghĩ “Con ruột như ta còn không bằng đứa con nuôi”. Hóa ra năm đó Chân Tông không có con, đã đưa Triệu Doãn Thăng vào Đông cung, muốn là nhỡ sau này không có con, sẽ lập Triệu Doãn Thăng làm thái tử. Sau đó Triệu Trinh được sinh ra, vì vậy mà sau vài năm, Triệu Doãn Thăng liền bị đưa ra khỏi Đông cung. Nhưng Lưu thái hậu nuôi dưỡng Triệu Doãn Thăng mấy năm, cực kì yêu thương, vì vậy mà liên tiếp đề bạt gã, ngược lại xa cách con ruột của mình là Triệu Trinh.

Mỗi lần Triệu Trinh nghĩ tới chuyện này, trong lòng đều không cảm thấy tự nhiên. Nghe nói Lưu thái hậu bị bệnh, cuối cùng Triệu Trinh cũng lộ ra sự quan tâm, thở dài nói:

- Hoàng thúc! Trẫm và ngươi cùng đi vấn an thái hậu đi.

Bát vương gia gật đầu nói:

- Thế là tốt nhất.

Hai người cùng đi tới Trường Xuân cung. Khi tới trước cửa cung, Triệu Trinh đột nhiên hỏi:

- Hoàng thúc! Thái hậu mắc bệnh gì vậy?

Bát vương gia nói:

- Nghe Thành quốc công nói, Tối qua thái hậu gặp ác mộng, sau khi tỉnh dậy sáng sớm nay cảm thấy không được khỏe.

Triệu Trinh lại hỏi:

- Thái hậu mơ thấy gì?

Bát vương gia im lặng một lát mới nói:

- Thần không dám hỏi.

Mặc dù tính tình của lão còn điên hơn những kẻ điên, nhưng lập tức lấy lại được bình tĩnh. Vào những thời điểm như thế này c箠phải hết sức cẩn thận không thể lơ đễnh được.

Triệu Trinh làm như vô tình hỏi tiếp:

- Tại sao Thành Quốc Công lại tới tìm Bát vương gia?

Bát vương gia do dự một lúc

- Gã cũng tới để hỏi thăm bệnh tình của thần.

Triệu Trinh ồ lên một tiếng, thấy đại thái giám La Sùng Huân nghênh tiếp, liền căn dặn:

- Trẫm nghe nói thái hậu có việc gì đó, đưa ta vào vấn an thái hậu.

La Sùng Huân không dám chậm trễ, lập tức dẫn Triệu Trinh, Bát vương gia đi vào trong. Đợi tới khi vào tẩm cung của thái hậu, thì chỉ thấy thái hậu đang nằm mê man trên giường, còn Thành Quốc Công Triệu Doãn Thăng đang đứng trước giường.

Triệu Doãn Thăng thấy Triệu Trinh đến liền vội vàng đến thi lễ, Triệu Trinh cũng không để ý tới, lập tức đến thẳng giường của thái hậu, quỳ xuống nói:

- Trinh nhi nghe nói mẫu hậu có chuyện nên đến hỏi thăm.

Nói xong, gã liền quay đầu quát La Sùng Quân:

- Sao không mời thái y đến xem bệnh cho thái hậu?

La Sùng Huân chưa kịp trả lời, Lưu thái hậu đã khẽ giọng nói:

- Ta chỉ không khỏe một chút thôi, không cần thái y đến đâu. Trinh Nhi! Chỉ là chút chuyện nhỏ nên không muốn ảnh hưởng tới con. Không ngờ con vẫn biết.

Triệu Trinh vội la lên:

- Mẫu hậu bị ốm sao lại nói là chuyện nhỏ được.

Lưu thái hậu ngắt lời nói:

- Tối qua ta nằm mơ…

Triệu Trinh kinh ngạc nói:

- Không biết mẫu hậu mơ gì vậy?

Giọng nói Lưu thái hậu có chút hoảng hốt

- Ta nằm mơ gặp tiên đế. Người đứng trước mặt ta nhưng chỉ nhìn. Sau đó, người muốn nói gì đó, nhưng ta nghe không rõ. Không biết người muốn nói gì nữa?

Triệu Doãn Thăng nói

- Ngày nghĩ làm sao, đêm chiêm bao là vậy. Thái hậu vì quá thương nhớ tiên đế, nên mới mơ về người thôi.

Trong mắt Triệu Trinh ánh lên chút kì quái, đột nhiên hỏi:

- Mẫu hậu! Thực ra mấy ngày nay hài nhi cũng mơ một giấc mơ kì lạ…

Lưu thái hậu run giọng nói:

- Ngươi mơ gì?

Triệu Trinh chậm rãi nói:

- Hài nhi mơ thấy tứ phía đều là một màu đen tối, tự dưng có một tia sáng xuyên qua bóng đêm. Trong tia sáng đó có tiên đế đang đứng. Có điều cảnh tượng hết sức huyền ảo không rõ lắm rồi sau đó con bị đánh thức nên không biết là có chuyện gì không.

Lưu thái hậu yên lặng một hồi lâu, mới khẽ giọng nói:

- Không có điều gì khác sao?

Triệu Trinh liếc Bát vương gia một cái, khẽ giọng nói:

- Hài nhi chỉ thấy cảnh tượng mơ hồ, gần đó dường như có một ngọn núi…

- Có ngọn núi ư?

-

Lưu thái hậu La Mạn Hậu bỗng nhiên ngồi dậy, thất thanh :

- Là ngọn núi gì?

Giọng nói của bà có chút kinh hãi.

Triệu Trinh vội hỏi:

- Mẫu hậu, người sao vậy?

Lưu thái hậu im lặng một hồi lâu

- Không có gì! Trinh Nhi, ngươi nói tiếp đi.

Triệu Trinh lo lắng nói:

- Mẫu hậu! Hài nhi không dám nói, người nghỉ đi ạ.

- Ta bảo ngươi nói thì ngươi cứ nói đi.

Giọng nói của Lưu thái hậu có phần tức giận.

Tất cả mọi người đều kinh sợ. Lưu thái hậu buông rèm nhiếp chính trong nhiều năm, nên bản thân có một sự uy nghiêm. Hơn nữa suy nghĩ của bà rất khó có thể nắm bắt được, nhưng rất ít khi tức giận thế này. Trong ánh mắt của Thành Quốc Công có chút gì đó kì lạ, nhưng khi thấy Triệu Trinh nhìn sang, gã liền cúi đầu.

Triệu Trinh giật mình nói:

- Con cũng không biết là ngọn núi nào, chỉ nhớ hình như là bị thiêu đốt, không có đến một ngọn cỏ nào cả. Đá trên núi, dường như đều bị hòa tan. Đúng rồi, tiên đế nhìn vào con, hình như cũng muốn nói gì đó. Nhưng hài nhi bị đánh thức, nên không nghe được những lời nhắc nhở của tiên đế.

Nói xong nét mặt của gã trở nên buồn rầu.

Bầu không khí trong cung trở nên yên lặng. Triệu Trinh kể lại một cách sinh động như thật, khiến cho trong cung vốn ấm áp, nhưng không biết vì sao lại có chút khí lạnh tràn vào.

Tiếng hít thở của Lưu thái hậu dường như càng lúc càng thêm to. Triệu Doãn Thăng, bát vương gia cũng nín thở không dám nói điều gì. Một lúc lâu sau, Lưu thái hậu mới khẽ giọng nói:

- Doãn Thăng! Theo ngươi thấy giấc mơ của Hoàng thượng là có ý gì?

Triệu Doãn Thăng nơm nớp lo sợ nói:

- Thần không biết được. Thần nghe nói có một người được gọi là Thiệu Ung ẩn sĩ, lí giải những giấc mơ rất giỏi. Nếu có cơ hội, thần sẽ mời ông ta tới giải mộng.

Sắc mặt gã xám xịt. Xem ra sau khi phát hiện ra sự khác thường của thái hậu liền không dám giải thích một cách tùy tiện.

Lưu thái hậu lại hỏi:-

- Vinh vương! Ngươi thấy giấc mộng của hoàng thượng thế nào?

Vinh vương chính là Bát vương gia, nghe vậy nói:

- Thái hậu! Thần chỉ biết nằm mơ, chứ không biết giải mộng.

Lưu thái hậu thở dài nói:

- Trinh nhi! Đối với bối cảnh trong mơ ngươi có suy nghĩ gì không?

Sắc mặt của Triệu Trinh cuối cùng cũng trở lại bình thường, chau mày nói:

- Cảnh trong mộng không thể tin hoàn toàn, nhưng cũng có chút dấu hiệu. Hài nhi và mẫu hậu cùng mơ thấy giấc mộng về tiên đế, chắc tiên đế cũng đang nghĩ về chúng ta. Mẫu hậu vì mơ mà nhiễm bệnh khiến hài nhi hết sức lo lắng. Hài nhi muốn thay mẫu hậu tới bái tế lăng tẩm của tiên đế, nói không chừng tiên đế sẽ thích….

 muốn đi lăng Vĩnh Định?

Lưu thái hậu chậm rãi nói

Triệu Trinh thấp giọng nói:

- Hài nhi cũng muốn tới bái tế tiên đế.

Nói xong, Triệu Trinh liếc nhìn Triệu Doãn Thăng một cái. Sắc mặt Triệu Doãn Thăng hơi biển đổi, do dự một lúc, nói:

- Hoàng thượng có tấm lòng hiếu thuận cho nên ý kiến này xem ra cũng được. Lẽ nào …đúng là tiên đế linh thiêng về đây báo mộng sao?

Lưu thái hậu ở phía sau màn yên lặng hồi lâu thở dài nói:

- Ngươi tình nguyện đi, thì đi đi. Ta mệt rồi, các ngươi lui cả đi.

Ánh mắt của Triệu Trinh không giấu được niềm vui, cùng mọi người lui ra. Lưu thái hậu yên lặng ngồi trên giường. Sau thời gian uống một chén trà, có một người yên lặng đi tới. Lưu thái hậu cũng không kinh ngạc mà hỏi:

- Diêm Văn Ứng! Gần đây thánh thượng luôn có ý định xuất cung sao?

Diêm Văn Ứng gật đầu nói:

- Đúng ạ! Gần đây tinh thần thánh thượng bất an, nhìn như lúc nào cũng gặp ác mộng vậy.

- Sao nó lại muốn xuất cung đến như vậy?

Vì sao nhất định phải đi lăng Vĩnh Định?

Lưu thái hậu hỏi

Một lúc lâu sau Diêm Văn Ứng mới nói:

- Thần không biết ạ. Gần đây không phải chuyện gì Thánh thượng cũng nói với thần.

Lưu thái hậu từ từ nói:

- Diêm Văn Ứng! Ta đối với ngươi thế nào?

Diêm Văn Ứng quỳ xuống nói:

- Thái hậu đối với thần ân trọng như núi. Cho dù thần có tan xương nát thịt cũng không thể báo đáp.

Lưu thái hậu khẽ giọng nói:

- Ta cho ngươi chăm sóc Hoàng thượng, ngươi làm rất tốt. Lần này hoàng thượng đi lăng Vĩnh Định, ngươi cũng nên đi theo. Nếu Hoàng thượng có bất cứ hành động gì thì ngươi biết phải làm gì rồi đó.

Diêm Văn Ứng nói:

- Thần nhất định sẽ bẩm báo với thái hậu

Lưu thái hậu gật gật đầu nói:

- Tốt! Ngươi lui đi. Sau này, ta sẽ không bạc đãi ngươi.

Bỗng dưng nghĩ tới một chuyện, thái hậu lại hỏi:

- Gần đây ,Thánh thượng tuyển một đám người đến trực ban, là có ý gì?

Diêm Văn Ứng chần chừ nói:

- Thánh thượng muốn xuất cung, nhưng lại sợ xảy ra chuyện, nên mới đưa một ít cấm quân bảo vệ bên mình. Thánh thượng cũng biết, những người trước võ công không thực sự giỏi. Bởi vậy thánh thượng mới điều động người từ Bát đại cấm quân đến.

Lưu thái hậu thản nhiên nói:

- Bây giờ nó cũng đã cẩn thận hơn nhiều rồi. Nếu nó cẩn thận như thế, sao có thể đi cùng với ngươi tới những nơi ong bướm được? Ta còn cho rằng nó đề bạt nhân thủ là muốn tự làm chủ trong cung cơ.

Diêm Văn Ứng không dám nhiều lời. Câu nói cuối cùng của Lưu thái hậu có hàm ý thâm sâu nên gã cũng không dám xen vào.

Lưu thái hậu trầm ngâm một lát mới nói:

- Được rồi! Ngươi lui đi. Nhớ làm việc phải cẩn thận.

Nhìn Diêm Văn Ứng lui ra, Lưu thái hậu lẩm bẩm nói:

- Núi? Núi bị thiêu đốt? không có đất? Sao có thể thế được?

Âm thanh của bà có chút run run, dường như đang nghi hoặc hay sợ hãi điều gì đó.

Bà buông rèm nhiếp chính, có thể nói là người phụ nữ quyền lực nhất trong thiên hạ. Vậy thì bà còn sợ điều gì?

***

Sau khi Bát vương gia rời khỏi Trường Xuân cung, thấy Triệu Trinh tâm trạng nặng nề nên cáo từ trước. Thần sắc Triệu Trinh có vẻ khác khác nên cũng không nói nhiều. Bát vương gia ra khỏi hoàng cung, lập tức lên ngựa đi thẳng về Vương phủ.

Xe ngựa cứ từ từ mà đi, bởi Bát vương gia cũng không vội. Không ai để ý tới Bát vương gia, rất nhiều người đều biết, Bát vương gia là người nửa điên, khi không lên cơn bệnh có thể tặng cho ngươi một bảo đao, nhưng khi lên cơn bệnh có thể lấy bảo đao đã tặng ngươi để đâm ngươi. Bát vương gia có bệnh, chém ngươi thì cũng không được tính là có tội, vì thế mọi người đối với ông ta là trốn được thì trốn, có thể không động chạm, thì quyết không rây.

Cũng may, Bát vương gia cũng rất ít khi gây chuyện với người khác. Ông xuống xe ngựa, quay lại phủ đệ, trên đường rất yên tĩnh, trong phòng khách của ông, có một bức bình phong thật lớn, phía trên mực màu đậm, vẽ một bức tranh rối rắm. Đó là bức vẽ của Bát vương gia, tất cả mọi người không ai hiểu ông vẽ gì. Nhưng đó là phòng khách của Bát vương gia, cho dù ông ta vẽ một đống phân bò, mọi ngườitới cũng chỉ có thể ngắm nhìn mà thôi.

Trong phòng khách không có người, chỉ có bức bình phong, Bát vương gia đang tự mình pha trà, rót trà sau đó uống một ngụm. Cử chỉ của ông không hề giống một người điên, bởi vậy rất khó khiến người khác tin là người điên ở trước Trúc Ca lầu lúc trướcchính là ông ta. Nhưng nếu không phải là người điên, đường đường là một vương gia, đến việc pha trà sao phải tự mình làm?

- Triệu Trinh đã tin người rồi?

Một âm thanh đột ngột vang lên. Trong phòng khách trống trải đột nhiên có một âm thanh từ bên ngoài vọng vào.

Bát vương gia tay không hề run, vẫn chầm chậm nhấp một ngụm trà.

- Bây giờ hắn gần như không tin một ai.

Ông chỉ nhìn bức bình phong, cứ như bức tranh đó là đan thanh diệu thủ. Giọng nói từ sau bức bình phong đó vọng ra, hóa ra sau bức bình phong đó có người.

- Nhưng sao nó có thể tin được ông?

Âm thanh đó có chút mềm mỏng, có chút khiêm tốn, lại có chút châm biếm.

Bát vương gia thở dài nói:

- Hắn vẫn nghĩ, nếu ta đến Khai Phong phủ cứu Địch Thanh, thì cũng nên đứng cùng một phe với hắn, hắn vẫn còn trẻ mà.

Người đó cười nói:

- Đúng, hắn vẫn còn trẻ, chưa hiểu gì, hắn không có ai để tin tưởng, vì thế hi vọng có thể lôi kéo ngươi. Ta biết, chỉ cần ngươi và hắn nói thái hậu bệnh, nói thái hậu kinh mộng, nhất định hắn sẽ bịa nên một câu chuyện rất hay. Nhưng ta cũng thật không ngờ câu chuyện hắn bịa ra lại tuyệt sắc đến vậy khiến Thái hậu cuối cùng cũng tin.

Nói đến đây, ngữ khí của người đó có phần khó hiểu, lẩm bẩm nói:

- Ngọn núi bị thiêu đốt, đến ngọn cỏ cũng không mọc được, hòa tan cả đá…những lời bịa đặt này rốt cuộc có hàm ý gì? Tại sao khi Thái hậu nghe được, lại có bộ dạng sợ hãi đến thế? Có đúng là Triệu Trinh mơ thật hay không, hay chỉ là bịa đặt?

Ban đầu khi Triệu Trinh nói về giấc mơ, người đứng bên đầu giường Thái hậu chỉ đếm trên đầu ngón tay, nhưng người đứng đằng sau bức bình phong lại như ở một cảnh giới kì lạ.

Bát vương gia lắc lắc đầu:

- Ta chỉ biết nằm mơ, không biết lí giải giấc mơ.

Người đó thở dài nói:

- Cho dù thế nào, Triệu Trinh cũng đã chuẩn bị ra khỏi kinh thành, hắn không ra khỏi Biện Kinh, không ai làm gì được hắn, nhưng hắn đã rời khỏi Biện Kinh, sẽ không bao giờ quay trở lại được nữa.

Trong giọng nói của người đó có ý oán hận. Yên tĩnh một lúc, người đó lẩm bẩm nói:

- Giấc mộng đó rốt cuộc có ý gì, ta cũng không muốn tìm hiểu kĩ.

 Chương 87 - 91: Vận số

Bát vương gia thản nhiên nói:

- Ta chỉ thấy kì lạ một chút.

- Kì lạ cái gì?

Người kia hiếu kì nói

Bát vương gia nói:

- Ở đây chỉ có hai người chúng ta, cũng không có người thứ ba, vì sao ngươi nhất định cỠphải ngồi sau bức bình phong nói chuyện với ta? Lẽ nào ngươi cảm thấy trà sau bức bình phong ngon và thơm hơn trà ta tự pha?

Người nọ cười ha ha từ phía sau bức bình phong bước ra. Sau bức bình phong không những có trà, mà còn có điểm tâm. Vừa rồi người kia còn ngồi phía sau bức bình phong, uống trà, ăn điểm tâm, xem ra còn thích thú hơn ngồi ở phủ của mình.

Người vừa bước ra này, mắt sáng mày xếch, tuấn tú lịch sự, khóe miệng còn kèm theo một nụ cười, trên mặt có vẻ mặt trang nghiêm. Người đó chính là Triệu Doãn Thăng! Bát vương gia vẫn đang uống trà, Triệu Doãn Vương bước gần lại, ngồi trước mặt Bát vương gia, rót đầy chén trà cho Bát vương gia nói:

- Hoàng thúc, chắc người biết vì sao Triệu Trinh lại đi lăng Vĩnh Định chứ?

Y và Triệu Trinh đều là đồng căn sinh, đều gọi Bát vương gia là hoàng thúc, cũng đều họ Triệu.

Bát vương gia lắc đầu

- Ta chưa hỏi, cũng không cần hỏi

- Tại sao vậy?

Triệu Doãn Thăng nhíu mày.

Bát vương gia lại thở dài nói:

- Bởi ta chỉ muốn sống, còn ngươi…

Ánh mắt của ông lướt qua mặt Bát vương gia một cái, cũng không nói gì thêm.

Triệu Doãn Thăng cười

- Hoàng thúc, ngươi thật sự thông minh đấy

- Người thông minh, sẽ không chịu sự chi phối của ai cả.

Trên mặt Bát vương gia đã biểu lộ sự khổ não.

- Người thông minh cũng sẽ không ngày ngày hoảng sợ bất an.

Tay ông cầm chén trà bỗng run lên, giống như dùng hết sức lực bản thân, mới có thể kìm hãm cơn sợ hãi.

- Doãn Thăng, lúc này ta chỉ có thể cầu xin ngươi.

Triệu Doãn Thăng hài lòng thở dài nói:

- Triệu Trinh cho rằng thúc và hắn cùng một phe, chứ không hề biết, thúc chỉ có một sự lựa chọn, là hợp tác với ta. Chỉ có ta mới có thể đảm bảo tính mạng cho thúc. Nếu không có lời nói của ta, Thái hậu sẽ nhanh chóng tìm cớ để ban cái chết cho thúc.

Bát vương gia không nói gì, nhưng tay không ngừng run rẩy. Triệu Doãn Thăng nhấp một ngụm trà, đột nhiên hỏi:

- Nhưng ta không biết vì sao Thái hậu lại căm ghét thúc thế? Xem ra hận tới mức muốn thúc chết.

Bát vương gia bỗng nhiên ngẩng đầu, trong mắt tràn đầy nỗi sợ hãi, khan giọng nói:

- Ngươi đừng hỏi ta nữa, ta xin ngươi đấy…

Sắc mặt ông tái mét, thần sắc hoảng sợ, đột nhiên dùng tay bứt tóc, bóp cổ, trong mắt lại tràn ngập sự điên cuồng. Thời khắc này ông tựa như sắp phát điên rồi. . Dường như ông đang mang một nỗi sợ hãi tận trong sâu thẳm và giây phút này mọi thứ mới được giải phóng. Ông không chịu được sự sợ hãi khủng khiếp ấy, chỉ có thể phát điên.

Triệu Doãn Thăng giật mình kinh hãi, nhưng vẫn ngồi yên chỗ đó, không nhúc nhích. Đối diện với một người điên, vẻ mặt Triệu Doãn Thăng đột nhiên trở nên tỉnh táo vô cùng. Y không hề ôn hòa, không có vẻ khiêm tốn nữa, hai mắt sắc lạnh như chim ưng.

Bát vương gia đột nhiên chộp lấy chén trà trên bàn, ấm trà hãy còn nóng nhưng ông lại uống một hơi rồi vứt chén trà đó xuống mặt đất. Trong mắt Triệu Doãn Thăng đầy vẻ kinh ngạc, đứng vội lên. Bát vương gia uống trà xong, ngược lại lại tốt hơn một chút, ông thở dốc, nhìn Triệu Doãn Thăng, khàn giọng nói:

- Ngươi đi đi! Mau đi đi! Sau này đừng đến tìm ta nữa.

Triệu Doãn Thăng nhìn chằm chằm vào Bát vương gia một lát, bỗng nhiên xoay người định đi thì bên ngoài phòng có một ông lão vội vàng tới, là Triệu quản gia của vương phủ. Triệu quản gia nhìn thấy Triệu Doãn Thăng mà như không thấy, vội chạy đến trước mặt Bát vương gia.

Bát vương gia khàn giọng nói:

- Thuốc…thuốc…

Triệu quản gia vội vàng đưa tới một bình sứ, mở nắp bình ra, Bát vương gia nhận lấy chiếc bình sứ đó, một ngụm uống hết thuốc trong đó. Chiếc bình gốm tràn đầy chất lỏng màu đen, nắp bình vừa được nhấc ra, trong phòng nồng mùi hương kì lạ.

Mùi như xạ hương, Triệu Doãn Thăng không thể hít thở nổi, trên mặt lộ ra vẻ kì quái.

Bát vương gia uống xong thuốc, đột nhiên thở phào một hơi, cuối cùng cũng bình tĩnh lại được, ngã xuống. Trên mặt đất còn có mảnh gốm bị vỡ, ông ngã lên đó, trên mình có chỗ bị đứt chảy ra máu nhưng dường như không có cảm giác.

Không ngờ Bát vương gia đã ngủ rồi. Triệu quản gia nhìn Bát vương gia, sắc mặt trắng bệch, lộ ra nét đau thương khó nói, ánh mắt đục ngầu kia đã chan chứa nước mắt, lão nhẹ nhàng băng bó vết thương cho Bát vương gia, hết sức chăm chú, cứ như không hề có sự tồn tại của Triệu Doãn Thăng.

Cuối cùng Triệu Doãn Thăng cũng đi, y chẳng còn cách nào để ở đó thêm nữa, y tuy biết Bát vương gia chỉ bị điên trong tạm thời, nhưng không biết khi phát tác, lại kinh khủng đến thế. Màn đêm buông xuống, trong vương phủ cũng chìm vào bóng tối.

Bát vương gia nằm trên mặt đất, Triệu quản gia ngồi xổm bên cạnh, hai người cứ như âm hồn ở trong sảnh vậy. Bọn họ cũng không hề để ý, trong bóng đêm, còn có những âm hồn bay ra, ngồi ở trên cây bên ngoài tường lạnh lùng nhìn hai bọn họ. Hồi lâu, âm hồn kia mới lắc đầu, từ trên cây bay xuống, nhẹ như lá rơi, theo gió hòa vào với bóng đêm.

***

Địch Thanh nhìn lá rụng, trong lòng tràn ngập sự không đành lòng. Hắn phải rời xa kinh thành, tuy rằng hắn biết mình sẽ không đi quá lâu bởi vì Triệu Trinh sẽ không rời Biện Kinh quá lâu, nhưng sao hắn rời xa Dương Vũ Thường được?

Hắn thích sự dịu dàng của Dương Vũ Thường, thích nụ cười yếu ớt của nàng, thích đôi mắt ướt chăm chú của nàng…

Chỉ cần ở bên Dương Vũ Thường, hắn dù cả ngày không làm gì, trong lòng vẫn tràn đầy niềm vui. Dương Vũ Thường cũng như thế. Tình yêu cuồng nhiệt, ánh mắt đắm đuối còn hơn cả mật ngọt.

Nhưng Địch Thanh không thể không đi. Sáng sớm, mặt trời chưa ló hắn đã vội tới nhà của Dương Vũ Thường. Dường như Dương Vũ Thường cũng cả đêm không ngủ, nàng sớm đã đứng trước cửa như biết chắc Địch Thanh sẽ tới, đúng là người yêu nhau có thần giao cách cảm, rất nhiều điều không thể nói ra nhưng có thể tự hiểu.

Địch Thanh vốn có rất nhiều thứ muốn nói, nhưng khi nhìn thấy nhìn thấy đôi mắt đen thẳm của Dương Vũ Thường thì lại không nói được gì. Người yêu nhau vốn không cần nói ra những lời mật ngọt. Tấm lòng tuy nhạt nhưng chống lại được sóng gió, tình yêu giả dối ngọt ngào hơn nhưng lại không thể hòa trộn được đau khổ và cay đắng.

Bàn tay mềm mại của Dương Vũ Thường kéo vạt áo của Địch Thanh, lại phủi bụi trên người hắn. Trên người Địch Thanh cơ bản không hề có bụi, Địch Thanh cũng không nhúc nhích, đợi Dương Vũ Thường nhìn lại, Địch Thanh mới phát hiện trong ánh mắt nàng cũng đầy vẻ không đành lòng. Nhưng Dương Vũ Thường không hề nói gì, người đàn ông nàng gửi gắm tình yêu chẳng phải nên vỗ cánh bay cao, có chí lớn, tung hoành khắp nơi sao?

- Ta phải đi rồi

- Vâng

- Ta sẽ nhanh chóng trở về.

- Vâng

- Ta sẽ nhớ nàng hàng ngày.

Địch Thanh dường như rất khó cất lên lời nhưng đó là câu nói ngọt ngào nhất của hắn.

Dương Vũ Thường duyên dáng nhìn ánh mắt của Địch Thanh, cũng không nỡ rời xa:

- Muội cũng thế.

Giọng nói dù nhẹ nhàng nhưng trong đó đã chứa đầy nỗi tương tư không đợi được đến lúc chia tay.

- Huynh phải cẩn thận

- Ừ.

- Nhớ tự chăm sóc bản thân nhé

- Ừ

- Muội đợi huynh quay lại.

Dương Vũ Thường nhẹ nhàng rúc vào trong lòng Địch Thanh, cảm nhận được nhịp tim đang đập dồn kia.

Gió xuân khẽ thổi, tràn đầy không khí li biệt. Địch Thanh ôm ấp thân thể mềm mại, đột nhiên ôm chặt lấy vai Dương Vũ Thường, nhìn chằm chằm vào đôi mắt mông lung kia, trầm giọng nói:

- Vũ Thường, khi ta quay lại, sẽ tới chỗ Dương bá thúc cầu hôn muội, cưới muội làm vợ. Địch Thanh không tiền không thế, chỉ có tấm lòng này.

Dương Vũ Thường cười, khóe mắt đẫm lệ, nhưng đó là những giọt lệ của niềm vui. Nàng đã đợi câu nói này từ lâu, Địch Thanh cho rằng nói câu đó hơi sớm, còn nàng lại thấy đợi nó thật lâu. Người chất phác như Địch đại ca của nàng, cuối cùng cũng đã không phụ trái tim của nàng, nàng nhìn Địch Thanh, nhưng cuối cùng cũng quyết tâm, khẽ nói:

- Được, vậy Vũ Thường về trước đây, muội không muốn tiễn người đi, nhưng lại thích người khác tiễn mình.

Địch Thanh gật gật đầu, Dương Vũ Thường xoay người bước vào cửa, đầu không ngoảnh lại. Tiếng kẽo kẹt vang nhỏ, cửa son đã đóng, tấm lòng của Địch Thanh sáng như ánh mặt trời đang lên. Đây là hai lần gặp mặt, Địch Thanh hắn đã hiểu được tâm ý của Dương Vũ Thường.

Cũng không nói thêm nhiều, Địch Thanh quay người sải bước rời đi, qua con phố dài, rồi biến mất. Hắn không hề nhìn thấy, lúc hắn rời đi, tấm cửa son đã mở không tiếng động. Đôi mắt đen láy như hồ nước kia đã si ngốc mà trông theo, cứ như cơn gió xuân vậy, đuổi theo bóng dáng của Địch Thanh, không muốn rời mắt.

Gió xuân ấm áp, ánh mặt trời rực rỡ chiếu trên cao.

Trong một ngày, Địch Thanh đã tới huyện Củng. Khi ở huyện Củng mới biết được Triệu Trinh định đi Lăng Vĩnh Định.

Lăng Vĩnh Định ở huyện Củng.

Huyện Củng cách Biện Kinh cũng không xa, nếu ngựa nhanh thì một ngày một đêm là tới, Triệu Trinh chưa đi xa bao giờ, cũng không quen cưỡi ngựa nhanh, nhưng vẫn hết sức thúc ngụa, trong thời gian hai ngày, đã tới huyện Củng.

Huyện Củng nằm ở giữa vị trí Tây Kinh, Biện Kinh, phía Bắc có Hoàng Hà hiểm yếu, phía Nam có Tung Sơn sừng sững, phía Đông có dãy núi kéo dài, Lạc Thủy từ Tây sang Đông, phong cảnh tuyệt sắc.

Nơi này xưa nay đếu là nơi tranh chấp binh đao, nhưng hiện nay, hoàng lăng đại Tống đều được chôn nơi này.

Không chỉ có lăng mộ tiên đế Triệu Hằng nằm ở đây, còn là nơi chôn cất của cao tổ, thái tổ…

Triệu Trinh ngóng nhìn núi núi non nguy nga, nhưng cũng không biết, mình sau này có được chôn cất ở nơi này không!

Đa phần thị vệ đều là những người mới, những người này cơ bản đều đã được qua sự sàng lọc của Quách Tuân, trọng nghĩa khí, biết cảm ân, im lặng theo au Triệu Trinh. Bọn họ từ trước đều không nghĩ sẽ có được cơ hội này, nhưng cơ hội khi đã đến, tất cả mọi người sẽ nắm bắt.

Động tĩnh lần này của Triệu Trinh, tuy nói không quá gây kinh hãi nhưng lại khiến quá nhiều người kinh ngạc. Rất nhiều người tin rằng Triệu Trinh chỉ là cải trang đến Lăng Vĩnh Định để tế bái tổ tiên, nhưng Địch Thanh lại cảm thấy chuyện không đơn giản như thế. Vì sao Triệu Trinh lại đến lăng Vĩnh Định? Chỉ e ngoài Triệu Trinh ra người khác không ai biết.

Triệu Trinh cải trang, mọi người đương nhiên cũng không mang theo trang phục của thị vệ. Đám người cứ thúc ngựa mà đi, giống như người hầu cận của công tử nhà giàu có nào đó, lúc này đang du xuân săn bắn.

Do mọi người đi từ hướng Đông đến, muốn đi tới lăng Vĩnh Định thì trước tiên phải qua Củng gia tập, Triệu Trinh vẫn đang gia sức giục ngựa, xem ra chỉ hận một nỗi không thể đến lăng mộ tiên đế ngay được. Nhưng khi đến gần lăng Định Vĩnh, thì lại thả chậm vó ngựa, thần sắc có ý chần chừ.

Bọn thị vệ không hiểu được tâm ý của hoàng thượng, chỉ chú ý tới động tĩnh xung quanh, trước mắt tuy nói thiên hạ thái bình, nhưng lại loạn lạc không ngừng, giáo đồ Di Lặc luôn ở Biện Kinh, xuất ẩn ở Tây Kinh, đám thị vệ không thể không phòng.

Những tên thị vệ này đều vô cùng tôn kính lấy Địch Thanh, bởi mọi người đều biết, nếu không có Địch Thanh đề xuất, bọn họ cho dù có nhẫn nhục thêm mười năm nữa cũng không có được viễn cảnh như hôm nay, trước mặt nhiều người tuy không nói, nhưng trong lòng lại thấy cảm kích khó tả.

Trong đám thị vệ, nếu luận về võ nghệ thì có Vương Khuê mạnh nhất, Địch Thanh tự biết năng lực bản thân, tuy đám thị vệ đều đề cử Địch Thanh cầm đầu hộ vệ hoàng thượng, nhưng Địch Thanh vẫn mời Vương Khuê ra chỉ huy đại cục. Vương Khuê xuất thân binh nghiệp, văn võ song toàn, thấy Địch Thanh thì nhún nhường, cũng không đùn đỡ liền đảm nhận nhiệm vụ hộ vệ hoàng thượng. Gã lệnh cho ba người Địch Thanh, Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh hộ giá bên hoàng thượng, lại mời Diêm Văn Ứng, Lý Dụng Hòa phụ trách việc phụng dưỡng ăn uống hàng ngày cho hoàng thượng. Những người còn lại, có người làm trinh sát, có người cản sau, phân bố xung quanh Triệu Trinh, chú ý những người đến gần. Việc sắp xếp như thế này, không khác là mấy so với hành quân tác chiến. Chỉ có điều tác chiến yêu cầu phải thắng, nhưng Vương Khuê chỉ yêu cầu Triệu Trinh được bình yên tới lăng Vĩnh Định, không bệnh tật gì về đến Biện Kinh.

Lần này Triệu Trinh tới lăng Vĩnh Định, ngoài việc cân nhắc thị vệ đi theo ra thì chỉ đem theo hai người cũ là Diêm Văn Ứng, Lý Dụng Hòa. Mọi người đều biết Diêm Văn Ứng là thái giám luôn bên Triệu Trinh, nhưng hoàn toàn không biết Lý Dụng Hòa có lai lịch thế nào.

Lý Dụng Hòa là một Tán Trực, ban đầu khi Địch Thanh gặp gã thì thấy người này trầm mặc kiệm lời với người bên ngoài, nhưng nếu Triệu Trinh lại tin gã, mọi người đương nhiên cũng tín nhiệm gã.

Khi đi ngang qua Cố Gia Tập, Triệu Trinh nhìn thấy ven đường có một tửu quán, dọc đường bôn ba cũng đã có chút đói rồi, liền nói:

- Mọi người ăn chút gì đã, trên đường đi cũng vất vả rồi. Đúng rồi, đem rượu ngon đến cho mọi người cùng uống nào.

Triệu Trinh nói ra thật nhẹ nhàng, nhưng trong mắt lại càng cảm thấy u buồn, Địch Thanh thoáng nhìn, trong lòng không hiểu được. Thầm nghĩ: “Triệu Trinh đã đến được lăng Vĩnh Định rồi còn lo lắng, suy nghĩ điều gì?”

Vương Khuê gật đầu ra hiệu với Lý Giản, Lý Giản nói với lão bán rượu:

- Mang một cân rượu ngon tới đây, mang thêm cả năm cân thịt dê Phùng Dực, nếu có gà béo cá tươi, cũng mang ra đây luôn đi.

Lão bán rượu khó xử nói:

- Khách quan, ta đây cũng chỉ là cửa tiệm nhỏ, đừng nói là thịt dê Phùng Dực, thịt dê ở địa phương cũng chẳng có đâu ạ.

Hóa ra Đại Tống cấm giết trâu cày, người giàu có đều có thể ăn thịt dê vì đắt, trong thiên hạ có thịt dê Phùng Dực của Thiểm Tây là tươi ngon nhất. Ngự phòng trong triều, hàng năm đều có người từ Phùng Dực đem thịt dê tới cung cấp cho nội cung dùng, Lý Giản lên làm Tán Trực không bao lâu cũng đã thông thuộc mọi quy tắc trong cung, trong lòng nghĩ thánh thượng lúc này, đương nhiên sẽ yêu cầu những thứ tốt nhất, đâu biết được một nơi hẻo lánh như thế này, có đồ để ăn đã là tốt rồi.

Lý Giản có đôi chút khó xử, nhưng Triệu Trinh lại không gây khó khăn gì, nói:

- Có gì mang thứ ấy, chỉ cần ăn no là được 

Lão bán rượu nói:

- Tiểm tiệm chỉ có chút món kho, và chút mì để ăn thôi ạ.

Triệu Trinh mỉm cười nói:

- Thế thì mang lên những món kho đi, mỗi người một bát là được rồi.

Lão già nhìn thấy Triệu Trinh nói thế trong lòng vui mừng, không lâu sau đã mang một vò rượu đi lên. Vương Khuê lấy ra cây kim bằng bạc để thử rượu, thấy rượu không có độc, mới rót rượu cho Triệu Trinh. Khi rót rượu, Vương Khuê liếc xéo xem bên trong tửu quán thấy có người đang dựa vào bàn mà ngủ thì nhíu mày.

Triệu Trinh mang theo một đám người đến quát tháo, những người ngồi bên cạnh thấy thế đã vội tránh đi nơi khác, chỉ có mỗi vị khách kia vẫn say sưa ngủ, hoàn toàn không để ý đến ai. Cứ dựa vào bàn mà ngủ, nhìn không rõ mặt, chỉ nhìn thấy mái tóc đen trên đầu gã, thân hình gày yếu, dường như tuổi còn rất trẻ. Người này là ai? Nếu là thường dân, lại dám to gan thế này sao?

Vương Khuê nháy mắt với vài tên thị vệ, mấy tên kia gật gật đầu, làm bộ như không để ý gì ngồi xung quanh thực khách kia, bọn họ cũng không có ý sinh sự, chỉ là phòng vệ chẳng may có chuyện gì xảy ra.

Triệu Trinh không hề để ý quá nhiều, uống một ngụm rượu, chỉ cảm thấy rượu đó cay vô cùng, ho khan liên tục, nước mắt trực trào ra, liền nói to:

- Rượu ngon!

Gã ở lâu trong thâm cung, lần đầu tiên uống rượu thấy sảng khoái đến thế, chỉ muốn uống cho say, nhưng lòng lại thấy nặng nề, tới lăng Vĩnh Định là vì một bí mật lớn, lại lo một đi không trở lại, vì thế không thể vui vẻ được. Thấy Vương Khuê và mọi người vẫn đang đứng, Triệu Trinh nói:

- Ngồi xuống hết cả đi, đứng làm gì! Rượu này cũng không tồi, các ngươi cũng uống một ít đi.

Vương Khuê nói:

- Thánh công tử, ta đang mang chức trách trong người, không được phép uống rượu. Mọi người đều ngồi xuống ăn mì đi.

Triệu Trinh cải trang vi hành lấy tên là Thượng Thánh. Trước mặt người ngoài Vương Khuê liền gọi Triệu Trinh là Thánh công tử. Đám thị vệ cũng lần lượt ngồi xuống bàn. Triệu Trinh một mình uống rượu cũng không mấy hứng thú, mới gọi thêm Địch Thanh tới uống, đột nhiên nghe thấy có tiếng vó ngựa gấp gáp truyền đến.

Trong lòng Vương Khuê hơi run, đưa mắt nhìn quanh, nhìn thấy đầu đường đằng kia bụi mù lên, có mấy kỵ binh cưỡi như bay tới, người đi đầu cử chỉ hết sức ngông cuồng, mấy người đằng sau ăn mặc như gia đinh, đám người này đang treo trên mình mấy con thỏ và chim trĩ, xem bộ dạng như kết quả từ một cuộc đi săn về.

Tên công tử cầm đầu kia tới bên cạnh quán rượu, ghìm cương ngựa, nói:

- Mấy con thú hôm nay săn được, cứ ăn ở đây luôn đi.

Đám gia đinh đều vui mừng, lập tức xuống ngựa, mới phát hiện trong quán rượu người ngồi kín cả rồi, có một tên gia đinh mập mạp quát:

- Các ngươi ăn xong rồi cút.

Lúc này một số món ăn thị vệ gọi vẫn chưa được mang lên, nghe vậy thì giận dữ, trong bụng nghĩ: “lão mày ăn cơm ở kinh thành còn không có ai dám đuổi, chúng mày chỉ là dân chúng một huyện mà dám kiêu ngạp với lão tử như thế?”

Vương Khuê không muốn nhiều chuyện, dặn dò thuộc hạ:

- Mấy người các ngươi ngồi tụ tập vào với nhau, để dồn ra hai chiếc bàn trống.

Mấy tên thị vệ được chỉ định tuy tỏ vẻ không đồng ý nhưng vẫn đứng dậy chuyển hai chiếc bàn trống ra, nhưng tên gia đinh béo lại được voi đòi tiên, nói với Triệu Trinh:

- Chỗ này của ngươi là tốt nhất, đem bàn trống ra đây đi.

Lời nói của tên gia đinh béo chưa dứt, chỉ nghe “bùm” một tiếng, đã kêu thảm bay ra ngoài.

Mọi người kinh hãi, chỉ nhìn thấy Vương Khuê hạ nắm tay xuống, nói:

- Còn ai dám đòi bàn nữa không?

Vương Khuê vốn tưởng đã giàn xếp ổn thỏa, nhưng thấy đám gia đinh vẫn chỉ vào mũi hoàng thượng, sao có thể chịu đựng được nữa?

Sắc mặt tên công tử thay đổi, thấy đám gia đinh định xông lên phía trước, liền ngăn bọn chúng lại:

- Các vị từ đâu tới?

Vương Khuê không đáp, chỉ hừ lạnh một tiếng, từ từ ngồi xuống, Công tử kia trong lòng tức giận, ngoài miệng thì cười lớn nói:

- Tại hạ làm phiền rồi, các ngươi cứ từ từ ăn đi.

Nói xong liền lên ngựa rời đi, đám gia đinh đem tên béo lên ngựa, cùng rời đi với công tử kia.

Bọn thị vệ trong lúc vui mừng cũng có thấy chút ngạc nhiên, trong bụng nghĩ tên công tử này có vẻ như không phải là loại người dễ đối phó, sao có thể dễ dàng đi như thế được? Địch Thanh lại thường chỮg kiến những vụ việc như thế này, lập tức nói:

- Đám người này hơn phân nửa là đi tìm trợ thủ.

Bọn thị vệ đều nói:

- Cứ cho là trăm quân vạn mã, chúng ta phải sợ bọn này sao?

Khi mọi người nói chuyện đều nhìn về phía Triệu Trinh, trong bụng nghĩ: “Hoàng thượng đang ở đây, chúng ta lại là thị vệ nếu thật sự lùi bước thì đúng là bị thiên hạ chê cười.”

Vương Khuê thi lễ với Triệu Trinh nói:

- Thánh công tử, tại hạ không thể không ra tay, xin công tử tha tội, trước mắt nên làm thế nào, xin công tử định đoạt.

Trong lòng Triệu Trinh vốn đang phiền muộn, thấy Vương Khuê trừng phạt tên ác nô thì thấy sảng khoái, thản nhiên nói:

- Ăn xong rồi đi tiếp vậy.

Tên công tử kia tuy đang đi tìm giúp đỡ, nhưng Triệu Trinh cũng muốn xem bản lĩnh bọn thị vệ của mình, trong lòng nghĩ ta ở trong cung chạy trốn nhiều rồi, lẽ nào đến nơi này vẫn còn phải trốn.

Vương Khuê đã hiểu dụng ý của Triệu Trinh, dặn dò nói:

- Ăn cơm đi.

Gã chậm rãi chọn mì, ý đã rõ, chính là đợi người của tên công tử kia tới. Đám thị vệ cũng xoa xoa tay, nóng lòng muốn thử.

Lúc này đột nhiên có người ngái ngủ nói:

- Ôi, trời xanh như cái nắp, che phủ ấy là cao. Ngày tháng cứ qua đi, lui tới không ngơi nghỉ, cây dẫu có muốn lặng, mà gió kia chẳng ngừng, phàm là những người muốn cầu an sao mà khó đến thế.

Mọi người cùng nhìn lại, chỉ nhìn thấy người dựa vào bàn ngủ ban nãy đã duỗi lưng đứng dậy. Người đó trán cao, hai mắt sáng, dưới căm để râu. Gã mặc quần áo bình thường tuy cũng chỉ là vải thô, nhưng lại thoải mái đứng ở nơi đó, nói ra những lời nói đầy hàm ý.

Vương Khuê nhìn thấy người kia cũng đã buông lỏng cảnh giác, không biết vì sao, y luôn cảm giác người kia có thái độ thật thản nhiên, không những không thèm để mắt tới đám thị vệ của Triệu Trinh, mà cũng chẳng thèm để ý tới vạn vật trong thiên hạ, bất cứ ai khi đối mặt với người này, đều rất khó có cảm giác thù địch. Trong mắt của người đó, thâm sâu như đáy hồ nước, dường như đang ẩn chứa một bí mật nào đó.

Ánh mắt người đó quét một lượt về phía mọi người, rồi dừng lại trên người Triệu Trinh, hơi có chút ngạc nhiên, lẩm bẩm nói:

- Ngươi ốc còn không mang nổi mình ốc, sao lại cứ thích gây ra những chuyện không đâu như vậy?

Tim Triệu Trinh đập mạnh, cảm giác người kia đã nhìn thấu tâm can mình, nhất thời chân tay đổ mồ hôi. Người đó đã rời ánh mắt định rời đi. Trong lúc đó thân hình vẫn còn đứng yên, Vương Khuê vẫn tỏ thái độ nghiêm nghị, như hổ nằm trên đồi cao, chỉ e người đó đột nhiên gây khó dễ. Gã tuy cảm thấy người nọ bình thản nhưng bản thân đang làm nhiệm vụ, nên không thể không phòng?

Chỉ nhìn thấy người nọ chậm rãi xoay người, ánh mắt lướt qua thân người Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh, và dừng trên người Địch Thanh. Y chỉ nhìn một cái lướt qua đám thị vệ, nhưng khi nhìn thấy Địch Thanh, lại xem xét một lúc, ánh mắt có chút kinh ngạc.

Địch Thanh bị y nhìn tới mức nổi da gà, miễn cưỡng tươi cười, trong một thời gian ngắn cũng không biết nên phản ứng thế nào, người đó lẩm bẩm nói:

“Chuyện. đã qua vẫn hướng quay về chỉ điểm,

Tương lai chờ đợi xoay chuyển,

Chắng biết tương lai ai xưng đế,

Mà sinh ra lắm bậc trượng phu!”

Người đó nói giọng rất nhẹ, nhưng Địch Thanh lại nghe thấy rất rõ, nhưng nhất thời không hiểu được ý của người đó như thế nào.

Người nọ chắp tay nói:

- Đại danh của huynh đài?

Địch Thanh ngỡ ngàng nói:

- Địch Thanh

Người đó lẩm bẩm nói

- Địch Thanh…

Bỗng dưng hai mắt sáng lên, thở nhẹ nói:

- Ngươi chính là Địch Thanh?

Ánh mắt của người đó lướt từ trên trán xuống chân Địch Thanh.

Địch Thanh không biết người này luyện công phu gì, chỉ âm thầm đề phòng. Năm ngón tay của người đó bỗng dưng ngừng tính toán. Thở dài nói:

- Địch Thanh, ngươi sẽ là anh hùng trong thiên hạ.

Triệu Trinh và đám thị vệ sau khi nghe xong, đều rất không tán thành. Nếu Địch Thanh là một trượng phu, bọn họ coi như đồng ý, nhưng anh hùng trong thiên hạ, bốn từ này, Địch Thanh sao gánh vác nổi đây?

Địch Thanh cười khanh khách:

- Tiên sinh cứ nói đùa

Trong ánh mắt người nọ đã có ý thông cảm, lại nói:

- Nhưng tiếc là ngươi sẽ gặp nhiều hoạn nạn trong cuộc sống

Địch Thanh chấn động, thất thanh nói:

- Tiên sinh nói lời này là ý gì?

Người nọ lại nhìn Địch Thanh, lắc lắc đầu, lại gật gật đầu nói:

- Nhưng trời xanh sẽ không tuyệt tình như vậy, ngươi sẽ tự hóa giải được.

Người đó nói xong, chậm rãi rời đi.

Bước đi của người đó không nhanh, nhưng chỉ trong chốc lát, đã biến mất dạng.

Mọi người đều cảm thấy người đó nói chuyện giật gân, Vương Khuê thấy người kia rời đi thì thở phào nhẹ nhõm. Địch Thanh cũng không hiểu ra sao, đột nhiên hoảng hồn, rồi bỗng nhớ ra một chuyện, nói với ông lão bán rượu

- Lão trượng, lão có biết người đó tên là gì không?

Lão bán rượu nói:

- Ai da, ngay cả các người cũng không biết hắn là ai sao ? Vậy sao hắn có thể đoán mệnh được cho các ngươi?

Trương Ngọc lạnh lùng nói:

- Hắn là ai? Dù sao cũng chẳng phải là hoàng đế?

Ông lão bán rượu cười xòa nói:

- Người đó chằng phải là hoàng đế gì nhưng là thần tiên. Tên là Thiệu Ung, xem tướng rất huẩn…

Không đợi ông lão nói hết, Địch Thanh và Triệu Trinh cùng đồng thanh nói:

- Cái gì? Đó chính là Thiệu Ung sao?

Triệu Trinh kinh ngạc vô cùng, thầm nghĩ nghe nói Thiệu Ung là thần tiên, giải mộng rất chuẩn, đoán mệnh như thần, nếu không Triệu Doãn Thăng sẽ không nói là mời Thiệu Ung giải mộng. Bản thân luôn muốn được gặp Thiệu Ung, nào biết đã lỡ dịp tốt. Thiệu Ung quả là danh bất hư truyền, chỉ một cái nhìn cũng có thể đoán được hắn đang có tâm sự.

Địch Thanh trong lòng kích động, thân hình run lên bần bật. Người đó đúng là Thiệu Ung?

Hắn đương nhiên đã nghe tới thanh danh của Thiệu Ung, chính là từ miệng Quách Tân mà biết. Thiệu Ung là đệ tử của Trần Đoàn, cũng là người trong lời tiên đoán Ngũ Long, chỉ có Thiệu Ung mới biết được sự kì diệu của Ngũ Long.

“Di Lặc ra đời, tân phật độ kiếp…Ngũ Long xuất hiện, nước mắt không dừng!” Đây vốn là lời tiên tri của Thiệu Ung, rốt cuộc là ý gì, có lẽ chỉ có Thiệu Ung mới biết được!

Hôm nay Thiệu Ung lại nhìn Địch Thanh bằng con mắt khác so với những người còn lại, lẽ nào đã đoán được giữa Địch Thanh và Ngũ Long có bí mật gì chăng? Vì sao Thiệu Ung lại nói trong cuộc đời hắn có nhiều biến cố, lẽ nào trong tăm tối có thiên cơ, có thể đoán được chuyện sau này của hắn? Rốt cuộc Ngũ Long thần bí như thế nào? Tại sao sức mạnh của Địch Thanh hắn tự nhiên xuất hiện rồi tự nhiên lại biến mất.

Tâm tư của Địch Thanh như nước thủy triều dâng, nhất thời tâm tư rối loạn…

Triệu Trinh nói:

- Vương Khuê, nhanh chóng phái người đi mời Thiệu Ung tiên sinh quay lại.

Địch Thanh đang có ý định tự nguyện xin đi mời, nhưng Vương Khuê đã nói:

- Lý Giản, Vũ Anh, hai người các ngươi đi tìm đi.

Lý Giản vốn là thủ hạ của Quách Tuân, làm việc lão luyện, Võ Anh tuổi ít nhưng từng trải, có thể gánh vác nhiệm vụ lớn. Vương Khuê nắm trong tay số cấm binh này cũng đã nắm vững được bản tính của họ, gã định bảo Địch Thanh đi nhưng lại thấy hắn đang hồn bay phách lạc, chỉ sợ hỏng việc, nên không chỉ bảo gì.

Hai người Lý Giản, Võ Anh nhận lệnh, cưỡi ngựa chạy theo hướng đi của Thiệu Ung.

Vương Khuê không nghĩ nhiều như Địch Thanh, chỉ là đang nghĩ tới những điều Thiệu Ung nói “ Địch Thanh, ngươi là anh hùng trong thiên hạ”! thì không kìm nổi nhìn Địch Thanh một cái, chỉ thấy Địch Thanh thần sắc hoảng hốt, nhíu mày.

Trong lúc đó, xa xa vang tiếng vó ngựa, sáu bảy con ngựa đang chạy tới trước, đằng sau còn có mười người khác, nhìn trang phục, có vẻ như là người của nha dịch huyện Củng.

Vương Khuê thấy những người này hung dữ, có ý đồ không tốt, lại nhìn thấy tên đi đầu chính là gã công tử kia, trong lòng nghĩ cái gì tới sẽ phải tới, khẽ nói:

- Bảo hộ Thánh công tử!

Đám thị vệ hướng về phía trong, Vương Khuê ưỡn ngực đứng ra, trong lòng cân nhắc: “tên công tử cần sĩ diện không cần mạng sống kia có lai lịch gì mà phái được cả nha dịch thế kia?

Đám nha dịch kia nhìn thấy Vương Khuê sừng sững tại chỗ, như rồng như hổ, rất có uy thế, không khỏi tiến chậm lại, tên công tử đó chỉ Vương Khuê, quát:

- Chính là hắn đã đánh bị thương gia đinh nhà ta, lại còn đánh ta, may mà ta chạy nhanh, các ngươi mau bắt y lại.

Đám nha dịch tiến lên một bước, dẫn đầu là một tên đầu hơi trọc, vung xích sắt quát,

- Các ngươi dám đánh công tử nhà ta! Đúng là không muốn sống nữa rồi. Nếu biết điều thì bó tay chịu trói, đi với bọn ta về nha môn.

Vương Khuê lạnh lùng nói:

- Nếu không biết điều thì sao?

Tên hói đầu đó ngẩn ra, quát:

- Tên to gan lớn mật, lại còn kiêu ngạo như thế, trong ngươi còn có vương pháp không?

Vương Khuê vốn mang nón để che khuất hình xăm, nghe vậy tháo nón xuống, lạnh lùng cười:

- Chắc ngươi biết Vương pháp ở đâu?

Người hói đầu nọ vừa nhìn thấy chữ khắc trên trán Vương Khuê, lẩm bẩm hỏi:

- Ngươi..ngươi là cấm quân?

Vương Khuê lạnh lùng cởi bỏ vạt áo cẩm vệ, lộ ra trang phục đại nội, chậm rãi nói:

- Ta không chỉ là cấm quân, mà còn làTiền điện thị vệ, các ngươi còn muốn ta đi cùng một chuyến về nha môn không?

Người hói đầu nọ cuống quýt quỳ một chân xuống đất nói:

- Ty chức không biết thân phận của đại nhân, xin đại nhân thứ tội

Vương Khuê chất vấn :

- Có thân phận thì không cần xử theo công lý sao?

Tên hói đầu nọ chân tay luống cuống không ngừng nói:

- Đương nhiên không phải, đương nhiên không phải.

Gã khó xử, lai lịch của Tiền công tử cũng không nhỏ, nhưng đứng trước một Tiền điện thị vệ, gã chỉ là một nha môn huyện Củng, cho dù có mượn gan trời, cũng không dám đắc tội Vương Khuê.

Tiền công tử thấy thế choáng váng, Vương Khuê lạnh lùng nhìn y một cái, hỏi:

- Huyện lệnh huyện Củng ở đâu?

Tên nha dịch đầu hói vội trả lời:

- Đại nhân, xin đại nhân bỏ qua cho, xin đừng truy cứu.

Vương Khuê nói:

- Ta cũng không muốn truy cứu, nếu như không truy cứu, thì vương pháp ở đâu chứ?

Tiền công tử vốn có ý lùi bước, nhìn thấy Vương Khuê nói thể thì sợ vãi đái ra quần nhưng vẫn cả gan nói:

- Cấm quân thì sao chứ? Lẽ nào cấm quân cũng chưa bao giờ phạm sai lầm? Lời nói của cha ta trước mặt thái hậu cũng còn có trọng lượng, một cấm quân như ngươi thì là cái gì chứ?

Triệu Trinh nói nhỏ với Địch Thanh:

- Lai lịch người này thế nào?

Cuối cùng Địch Thanh cũng định thần lại được nhưng cũng không rõ lai lịch của Tiền công tử, liền buông bỏ những nghi ngờ, quát hỏi:

- Cha ngươi là ai? Cha ngươi ở đây sao?

Đám thị vệ cười ầm lên, Tiền công tử tức giận quát:

- Tiểu tử, ngươi có gan thì đứng ra đây!

Địch Thanh cười khẩy nói:

- Ta có gì mà sợ.

Hắn có hoàng đế là chỗ dựa, thầm nghĩ: “cho dù cha của tên tiểu tử này có là Thiên Vương, ta đây cũng không phải sợ.”

Tiền công tử giận dữ, loảng xoảng một tiếng rút kiếm, xông ra chỗ Địch Thanh. Vương Khuê nhìn thấy liền nắm lấy cổ tay của Tiền công tử, lập tức dùng sức bẻ một cái, khóa tay chéo sau lưng. Tiền công tử mặc dù biết chút võ vẽ, nhưng sao có thể là đối thủ của Vương Khuê? Gã ngẹo đầu, thấy cuối đường lại có ba tên kỵ binh đang đi tới, không giấu được niềm vui sướng, hô lên:

- Cha cứu con với!

Trong ba người cưỡi ngựa, một người mặt trắng không râu, một người mặt trắng râu dài, người còn lại sắc mặt ngăm đen. Người mặt trắng râu dài nghe thấy tiếng Tiền công tử tri hô, vội thúc ngựa tới, hỏi:

- Xảy ra chuyện gì thế?

Tiền công tử kêu lên:

- Đám người này không biết là đạo tặc nơi nào, không ngờ lại vây hãm con, cha nhất định phải….

Lời nói chưa dứt, “bốp” một tiếng thật lớn, Tiền công tử bị đánh cho hoa mắt, là bị phụ thân của mình cho một cái bạt tai.

Trong lúc hồ đồ Tiền công tử nhìn thấy phụ thân quỳ trước mặt một công tử, giọng run run nói:

- Thần tiếp giá muộn xin Thánh Thượng thứ tội.

Khi bọn nha dịch đang nghi ngờ, lại thấy Tiền đại nhân run rẩy quỳ xuống gọi công tử kia là Thánh Thượng, tức thì tất cả đều kinh hãi quỳ xuống. Tên đầu trọc run rẩy cả người, không nói thêm được câu gì, Tiền công tử cổ họng như bị tắc há hốcồm, trước mặt như toàn màu đen, có nằm mơ cũng không nghĩ tới, người gã đắc tội lại chính là Hoàng đế!

Triệu Trinh cười nói:

- Hóa ra là Hiếu Nghĩa Cung Sử, nghe thấy lời nói của lệnh lang, cứ nghĩ mãi, cha y rốt cuộc là ai mà y lại kiêu ngạo như thế?

Người râu dài mồ hôi đầy trán, không ngừng thanh minh nói:

- Thần đáng tội chết, thần quản giáo không nghiêm, đáng bị phạt, mong Thánh Thượng nghiêm trị.

Hóa ra người râu dài đó là Tiền Duy Tế, vốn là công sử của Hiếu Nghĩa Cung huyện Củng, là một Lộc quan không có thực quyền gì. Bản thân Tiền Duy Tế không có gì đáng nói, nhưng anh trai gã Tiền Duy Diễn từng đảm nhiệm Xu Mật Sứ, Tiền Duy Tế cũng ăn hôi theo, cũng có chút quyền lực. Tiền Duy Tế này cực kì biết luồn cúi, năm xưa thân thiết với anh trai Lưu thái hậu là Lưu Mĩ Phàn nên được ngồi vào chức Xu Mật Sứ, sau đó triều thần cực liệt phản đối, nói là ngoại thích không được nắm binh quyền, Lưu thái hậu bất đắc dĩ, mới truất binh quyền của Tiền Duy Diễn.

Triệu Trinh vốn đã chán ghét thân thích của Lưu thái hậu, nhưng nghĩ vẫn còn phải dùng người này nên nhẹ nhàng nói:

- Đứng dậy hết lên đi

Mọi người đứng dậy, Tiền Duy Tế sớm đã xách con đến trước mặt Triệu Trinh, lại đá một cái thật mạnh, rơi lệ nói:

- Xin Thánh Thượng phạt thật nặng thằng con hư hỏng này đi ah, lão thần chỉ có một đứa con trai nhưng…lại dám đắc tội với thánh thượng, lão thần cũng không dám cầu cứu.

Triệu Trinh thở dài nói:

- Tiền Cung sử, sau này chớ để lệnh công tử lại tiếp tục gây chuyện thị phi nữa, chuyện lần này…coi như bỏ qua.

Gã thầm nghĩ: “Vào lăng Vĩnh Định còn cần tên Tiền Duy Tế này chỉ điểm, tha cho con trai y, cũng sẽ khiến y tận tâm làm việc.”

Tiền Duy Tế cảm thấy có chút khó có thể tin được, vội vàng dập đầu nói:

- Tạ ơn thánh thượng.

Tiền công tử cũng vui mừng khôn xiết, liên tục dập đầu.

Triệu Trinh nói với người mặt trắng không râu:

- Văn Ứng, trong cung chuẩn bị thế nào rồi?

Hóa ra hai người cùng tới cùng với Tiền Duy Tế là Diêm Văn Ứng và Lý Dụng Hòa.

Triệu Trinh đúng là vi phục xuất tuần, nhưng tế bái tổ tiên vẫn phải dựa theo quy định để tiến hành. Hoàng đế Đại Tống mỗi lần tế lăng đều phải ở Hiếu Nghĩa, Vĩnh An tắm rửa chay giới sau đó mới được làm lễ tế bái.

Triệu Trinh cải trang tới huyện Củng sớm đã để Diêm Văn Ứng đến cung Hiếu Nghĩa tìm Cung Sử để chuẩn bị, còn dặn dò những người này không được làm ảnh hưởng đến người dân. Tiền Duy Tế nghe thấy nói Thánh Thượng đến đây thì nào dám chậm trễ, vội vàng tới, không ngờ thằng con trai kiêu ngạo của mình lại dám ngạo mạn với Hoàng thượng.

Diêm Văn Ứng nói:

- Bẩm thánh thượng, mọi việc đã được chuẩn bị xong rồi

Chỉ đợi thánh thượng tới.

Triệu Trinh định đi trước thì Vũ Anh đã kịp đi tới nói:

- Thánh thượng, không tìm được Thiệu tiên sinh Thiệu Ung, Lý Giản vẫn đang đi tìm, thần về trước báo cáo tình hình.

Địch Thanh có chút thất thần, thầm nghĩ mệnh mình đúng là gặp nhiều trắc trở, chẳng mấy khi có cơ hội được gặp Thiệu Ung, cuối cùng vẫn không được gặp.

Tiền Duy Tế nghe được hai chữ “ Thiệu Ung” sắc mặt có chút biến đổi, vội hỏi

- Thánh thượng có chuyện gì thế? Không biết thần có giúp được gì không?

Triệu Trinh nói tóm gọn tính hình lúc nãy kể cho gã nghe, Tiền Duy Tế lập tức nói:

- Xin thánh thượng khởi giá tới cung Hiếu Nghĩa, thần sẽ phái người đi tìm, nếu có tin tức, lập tức bẩm báo Thánh Thượng.

Triệu Trinh bất đắc dĩ, gật đầu nói:

- Được, vậy ngươi phái người đi tìm đi, bọn ta đi đây.

Y lên ngựa trước, Tiền Duy Tế vội đi trước dẫn đường, bọn thị vệ vây quanh, đám người cùng đi về phía cung Hiếu Nghĩa.

Muốn tới cung Hiếu Nghĩa trước tiên phải qua đồi Ngọa Long. Đồi Ngọa Long cảnh thế hùng vĩ, phía Đông giáp núi Thanh Long, đúng là tạo nên thế ngọa hổ tàng long. Khi Triệu Trinh qua đồi, nhìn về dãy núi nguy nga, trong lòng yên lặng cầu khẩn:

- Cầu phụ hoàng phù hộ cho con, sớm được chấp chính. Con có thể lo việc nước ổn thỏa, không phụ vị trí của thiên tử, bảo vệ thiên hạ thái bình.

Phụ thân của Triệu Trinh là Chân Tông Triệu Hằng sớm đã được an táng trong đồi Ngọa Long của huyện Củng, hoàng lăng địa thế thuận lợi, địa thế cao hơn lăng của Thái Tổ Thái Tông, danh ghi Vĩnh Định. Xung quanh lăng Vĩnh Định tùng bách xanh tươi, cây cối um tùm, cứ như dáng đứng thẳng của cây thương dài.

Trước khi Triệu Trinh muốn vào nghĩa trang thì nhất định phải tắm rửa chay tịnh trong ba ngày bởi vậy cũng không thể vào khuôn viên lăng. Dưới sự dẫn đường của Tiền Duy Tế, Triệu Trinh đi tắt qua con đồi, tới trước cung Hiếu Nghĩa Hành rồi mới xuống ngựa. 

Vương Khuê nhìn xung quanh cung Hiếu Nghĩa, thấy thị vệ bảo vệ lăng chưa quá mười người, bởi cung Hiếu Nghĩa rất lớn, chỉ sợ phòng bị không chu toàn liền nói với Tiền Duy Tế:

- Tiền Cung Sử, lần này Thánh thượng vi hành xuất cung, thị vệ mang theo không nhiều, chuyện hộ vệ thánh giá…

Tiền Duy Tế vội hỏi:

- Điểm này có thể yên tâm, ta đã thông báo với Trương Huyện Lệnh của huyện Củng, lệnh cho gã điều động người trong huyện tới hộ vệ, hẳn lúc này đã tới bảo vệ lối đi trên đồi Ngọa Long, người bình thường đều không thể ra vào. Thánh thượng dặn dò đây là việc phải làm thật bí mật, bởi vậy ta không dám cho bọn họ đến cung trước để hộ giá.

Vương Khuê mặc dù thấy Tiền Duy Tế suy xét chu toàn, nhưng vẫn không dám khinh suất, liền chia đám thị vệ đi theo làm ba nhóm, thay phiên hộ giá như trong đại nội vẫn thường làm.

Đợi sắp xếp thỏa đáng, Vương Khuê mới nói với Địch Thanh:

- Địch huynh, nghe nói sở dĩ ta có thể được làm Tiền điện, là bởi vì có Địch Thanh huynh tiến cử lên Thánh Thượng?

Địch Thanh cười nói:

- Chỉ là việc nên làm thôi

Vương Khuê lạnh lùng nói:

- Tại hạ và Địch Thanh không quen biết gì nhau, không biết Địch Thanh vì sao lại tiến cử ta vậy?

Địch Thanh nghiêm mặt nói:

- Chính bởi vì ta và ngươi không quen biết nhau, nên ta mới tiến cử Vương huynh. Nhiều năm ở Ma Khám, Vương huynh không than trách phận, tính tình thẳng thắn, nếu Địch Thanh ta không tiến cử người tài như thế, thì tiến cử ai đây?

Vương Khuê nhìn Địch Thanh thật lâu, mới nói:

- Địch huynh, lần này ta được Thánh thượng đề bạt, không thể không báo, sẽ tận tâm bảo vệ thánh thượng được bình an. Nếu Thánh thượng bớt đi lại, áp lực của ta cũng ít đi. Ta biết mối giao hảo giữa huynh và Thánh thượng, không biết huynh có thể ở đây được ba ngày không, đồng thời sẽ canh giữ trước cửa phòng của Thánh thượng, thuận tiện khuyên Thánh thượng chớ tùy ý đi lại nơi này.

Địch Thanh cười nói:

- Chuyện đó có khó gì, huynh yên tâm, cứ để ta lo

Vương Khuê thở phào, thi lễ nói:

- Vậy thì vất vả rồi

Vương Khuê vốn cho rằng khuyên hoàng thượng tĩnh tâm không phải là chuyện dễ, vì thế mới nhờ Địch Thanh giúp đỡ. Không ngờ rằng trong ba ngày này, Triệu Trinh không hề ra ngoài nửa bước, Triệu Trinh luôn ở trong phòng ngủ, không ai biết hoàng thượng đang làm gì trong đó.

Chả mấy chốc đã qua hai ngày, cung Hiếu nghĩa bình an vô sự, đám thị vệ tuy bên ngoài thấy buồn chán, nhưng trong lòng lại thấy vui. Địch Thanh lại cầu nguyện được bình an, để có thể sớm quay về với Vũ Thường.

Tối ngày thứ ba, trăng mới lên, Địch Thanh theo thường lệ canh trước điện, hắn ngồi trước điện, ngẩng đầu nhìn lên, nhìn thấy ánh trăng sáng mờ ảo, lòng thầm nghĩ: “truyền thuyết từ xưa này, trên cung trăng có Ngô Cương phạt Quế, gian nan vất vả, khó gặp được ý trung nhân. Ta cũng chẳng khác gì Ngô Cương, lâu rồi chưa được gặp Vũ Thường, nàng có khỏe không? Nàng nhất định vẫn còn khỏe, vậy còn có điều gì nữa đây? Ôi!

Địch Thanh không khỏi tự trách, lại nghĩ,

- Ta đang nhớ về Vũ Thường, lúc này nàng chắc hẳn cũng đang nhớ ta, chỉ có điều nàng chắc chắn sẽ nhớ đến câu thơ tương tư gì đó, là câu gì ấy nhỉ?

Hắn đang định lấy ra quyển Kinh Thi ra để xem, bỗng nhiên nhìn thấy phía trước có một bụi hoa đang lắc lư. Địch Thanh hơi run, chăm chú nhìn, thấy bụi hoa lại đứng yên. Vốn định qua đó xem, bỗng dưng nghĩ lại, không nên trúng kế điệu hổ ly sơn. Nói không chừng là gió thổi hoa động, hơn nữa bên ngoài cung chẳng phải cũng có thị vệ canh gác sao, ai có thể ẩn nấp ở đây chứ?

Địch Thanh ngồi yên bất động, thấy mặt trăng đã đi qua giữa trời, chiếu xuống những tia sáng trong trẻo, khóe miệng mỉm cười, trong lòng nghĩ: “ Ánh trăng này đang chiếu vào ta, cũng đang chiếu vào Vũ Thường, nàng đang yên giấc rồi chăng?”

Đúng lúc này, có tiếng bước chân vang lên, Địch Thanh lấy lại cảnh giác, khẽ nói:

- Sùng Đức

Người đối diện đáp:

- Diên Khánh

Địch Thanh thở phào một cái:

- Ai?

Trương Ngọc cười nói:

- Là ta

Sùng Đức, Diên Khánh đều là cung điện trong đại nội Kinh Thành, Vương Khuê lấy đó làm khẩu lệnh, cung điện đại nội vô số, kẻ cắp trà trộn vô số, tuyệt không biết thế nào mà ứng phó.

Trương Ngọc nói:

- Địch Thanh, thánh Thượng ngủ rồi đúng không?

Địch Thanh quay đầu lại, thấy phòng của Triệu Trinh đèn vẫn sáng, nói:

- Thánh thượng chắc vẫn chưa đi ngủ đâu, người phải khuya mới ngủ.

Trương Ngọc thở dài nói:

- Đúng là làm hoàng đế mệt thật.

Địch Thanh khẽ mắng:

- Lẽ nào ta và ngươi đang trực ở đây cũng không mệt? Được rồi, không cần lo nhiều chuyện thế, giữ vững tinh thần lên nào.

Trương Ngọc đến đây cũng là để thay ca trực với Địch Thanh.

Địch Thanh khai báo vài câu, vẫn là nhớ tới chuyện ban nãy, hắn đi chậm lại bước về phía bụi hoa kia. Đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân, không khỏi kinh ngạc, tay cầm lấy chuôi đao, chỉ nhìn thấy một bóng đen chạy từ phía góc tường đi ra, nhìn thấy hình dáng trông giống một con thỏ, trong bụng nghĩ: “Hóa ra là con thỏ, thế mà làm mình giật nảy cả mình.”

Lúc đó mới chịu rời đi, đột nhiên ánh mắt dừng lại chỗ bụi hoa kia.

Lúc này ánh trăng đã chiếu thẳng vào khóm hoa, hương hoa bay trong không khí, Địch Thanh chú ý thấy có hai cành hoa bị giẫm gãy. Địch Thanh quỳ xuống, nhìn cành hoa một lúc lâu, trong bụng nghĩ”Lúc nãy nhất định có người trốn ở đây, nếu là thỏ hoang, tuyệt đối sẽ không giẫm lên cành hoa này, ai đã trốn ở đây? Sao gã có thể trốn được ở đây? Mục đích là gì?

Địch Thanh ngẫm nghĩ, đột nhiên quơ tay vào khóm hoa, từ trên cành hoa nhấc lên một miếng vải, miếng vải đó là lụa, sắc màu tối, hình như là người tới đây trong lúc vô ý, bị cành hoa cào rách quần áo.

Lúc này Địch Thanh đã xác định được nơi này chắc chắn đã có người tới! Rốt cuộc người này là ai mới được?

 Chương 92 - 96: Ám sát

Địch Thanh phát hiện có người núp trong bụi hoa thì trong lòng ngạc nhiên nghi ngờ, lại quay trở về trước điện.

Trương Ngọc thấy làm lạ bèn hỏi:

- Huynh quay lại làm gì đó? Tốt bụng định trực thay ta sao?

Địch Thanh hạ giọng nói lại điều hắn vừa mới phát hiện. Trương Ngọc cũng trở nên căng thẳng, thấp giọng hỏi:

- Là ai được cơ chứ? Lẽ nào lại là thích khách?

Địch Thanh hạ giọng nói:

- Không rõ lắm, nhưng bây giờ không nên làm kinh động đến Hoàng thượng. Ngươi cẩn thận một chút…

Địch Thanh đang định đi tìm Vương Khuê thảo luận, cánh cửa phòng mở ra, Triệu Trinh nói:

- Địch Thanh, ngươi vào đi, trẫm có chuyện muốn nói với ngươi.

Triệu Trinh đứng ở trước cửa, hai hàng lông mày nhăn lại.

Địch Thanh hơi kinh ngạc nhưng vẫn đi vào căn phòng, thấy bên trong căn phòng bài trí rất giản dị, màu trắng là cơ bản, có một sự ảm đạm. Triệu Trinh ngồi xuống chỉ vào chỗ ngồi bên cạnh nói:

- Không cần đa lễ, ngồi đi.

Địch Thanh mặc dù theo Triệu Trinh có vài ngày, vẫn còn chưa hình thành thói quen thi lễ. Lần này nghe thấy Triệu Trinh đề cập đến mới hơi tỉnh ngộ, trước mặt hắn chính là Hoàng đế. Nhưng Địch Thanh nhìn thế nào vẫn thấy vị Hoàng đế này rất không giống.

Triệu Trinh sau khi thấy Địch Thanh ngồi xuống thì thở dài nói:

- Trẫm thật không giống một Hoàng đế. Trẫm thậm chí có lúc còn cảm thấy mình chẳng qua chỉ là một thứ rác rưởi.

Địch Thanh vội hỏi:

- Thánh Thượng quá khiêm nhượng. Người...người. ..

Vốn định nói mấy câu ca tụng công đức, nhưng công lao đó đều là của Thái hậu, Địch Thanh không đành lòng lừa gạt Triệu Trinh nên đành im lặng.

Triệu Trinh không để ý đến sự khó xử của Địch Thanh, nhìn cây nến đỏ đang cháy, nói lẩm bẩm:

- Địch Thanh, trẫm rất cô đơn. Trẫm từ nhỏ đã không có bạn chơi cùng, lấy một người phụ nữ mình không yêu, cả ngày nghe bốn từ" Thái hậu không cho phép!", lại chịu sự trói buộc của mấy lão thần mục nát đó. Địch Thanh, ngươi là người bạn đầu tiên của trẫm đo.

Địch Thanh có chút thấy được sủng ái mà lo sợ, mặt toát mồ hôi nói:

- Thần hổ thẹn không dám nhận.

Thật sự là hắn có chút xấu hổ, bởi vì cho tới nay, hắn toàn là bắt chẹt Triệu Trinh.

Triệu Trinh nghiêng đầu lại, nhìn chằm chằm Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, nếu trẫm tự mình chấp chính, chắc chắn sẽ trọng dụng ngươi. Trẫm tuyệt đối không nuốt lời.

Địch Thanh vâng vâng nói:

- Thánh Thượng cất nhắc rồi.

Trong lòng hắn nghĩ, Hoàng đế Trọng Trinh này không biết còn có thể làm Hoàng đế được bao lâu nữa? Nếu chẳng may Thái hậu tự mình chấp chính thì chỉ sợ mình sẽ không được trọng dụng mà còn bị rơi đầu. Ta và ngài cộng lại sợ cũng chẳng chống lại được một đầu ngón tay của Thái hậu ấy chứ..

Triệu Trinh thở dài, đứng lên đi tới đi lui trong phòng, giơ tay lên vẽ vẽ trong không trung:

- Nếu trẫm tự mình chấp chính, làm một minh quân thiên cổ, sửa đổi những thói xấu của Đại Tống, chấn hưng uy thế quốc gia Đại Tống, dẹp loạn Bình Tây Bắc, thu phục mười sáu châu U Vân, thống nhất thiên hạ, học theo Tần Hoàng Hán Vũ, giống như Thái Tổ vậy, vó ngựa đi khắp thiên hạ. Địch Thanh, nếu như trẫm cầm quyền, thì chắc chắn sẽ trọng dụng ngươi. Nếu trẫm là Hán Vũ Đế thì ngươi chính là Hoắc Khứ Bệnh đánh Hung Nô. Nếu Trẫm nếu là Đường Thái Tông thì ngươi chính là Lý Tĩnh diệt Đột Quyết!

Địch Thanh thấy Triệu Trinh dõng dạc, vẻ mặt đầy hưng phấn thì thầm nghĩ hãy còn sớm, còn chưa tới lúc nằm mơ đâu. Nhưng lúc này, Địch Thanh làm sao mới có thể nói ra mấy câu mất hứng được chứ?

Triệu Trinh đột nhiên ngừng lại bước chân, thở dài một hơi nói:

- Nhưng Trẫm có khả năng tự mình chấp chính sao?

Địch Thanh sau một lúc lâu mới nói:

- Thánh Thượng là thân tử của Thái hậu...

Triệu Trinh lẩm bẩm nói:

- Trẫm thật sự là con ruột của Thái hậu sao? Vậy tại sao Thái hậu lại đối tốt với Triệu Doãn Thăng hơn trẫm? Có rất nhiều chuyện, Thái hậu thà rằng nói với Triệu Doãn Thăng, chứ không nói với trẫm.

Địch Thanh không kìm nổi cười lên:

- Quan hệ giữa Thánh Thượng và Thái hậu cả thiên hạ đều biết, làm sao mà sai được chứ?

Dưới ánh nến, Triệu Trinh sắc mặt âm trầm bất định, đột nhiên nói:

- Địch Thanh, ngươi có còn nhớ, trong Tập Anh Môn, trẫm đã từng nói có việc muồn cầu ngươi không?

Địch Thanh gật đầu nói:

- Xin Thánh Thượng cứ dặn dò.

Triệu Trinh đi tới, cầm lấy tay Địch Thanh. Địch Thanh có chút lúng túng, nhưng không giãy ra, chỉ cảm thấy trong lòng bàn tay Triệu Trinh đầy mồ hôi lạnh. Lại nhìn vào hai tròng mắt của Triệu Trinh, dường như cũng có ý kinh hãi.

- Địch Thanh, lần này trẫm đến lăng Vĩnh Định, cầu tiên đế phù hộ cho ta được tự chấp chính là một chuyện, cầu tiên đế phù hộ cho Thái hậu bình an là chuyện thứ hai. Tuy nhiên, trẫm còn muốn làm một chuyện thứ ba nữa. Chuyện này ngươi nhất định phải giúp trẫm.

Địch Thanh thấy sắc mặt Triệu Trinh xanh mét, thì cảm thấy sống lưng lạnh ngắt, cười lớn nói:

- Là chuyện gì vậy?

Mặc dù bốn bề vắng lặng, Triệu Trinh vẫn quay đầu nhìn lại rồi mới nói nhỏ:

- Trẫm muốn vào căn phòng bí mật để quan tài của tiên đế để lấy một thứ đồ.

Địch Thanh giật mình nói:

- Muốn lấy vật gì? Việc này...không ổn đâu.

Hoá ra bái tế Chân Tông, chỉ cần cử hành nghi thức ở Hiến Điện ở bên trong nghĩa trang là được rồi. Nhưng nếu như muốn nhìn quan tài của Chân Tông thì phải đến Huyền Cung ở dưới ngầm.

Địch Thanh dù chưa từng đến lăng Vĩnh Định nhưng cũng biết các cơ quan bên trong Huyền Cung để di thế của Hoàng đế vô cùng nhiều. Đó là vì muốn phòng bị người ngoài đến quấy nhiễu di thể của Chân Tông. Nhưng Triệu Trinh lại muốn đi vào Huyền Cung đó? Đó là chuyện khiến người ta nghe xong cũng phải kinh sợ.

Triệu Trinh vô cùng lo lắng nói:

- Bất kể như thế nào, trẫm nhất định phải đi, tiên đế chắc chắn phù hộ trẫm. Nói cách khác...

Ông ta không nói tiếp nhưng sắc mặt tái nhợt, nắm chặt lấy tay Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, ngươi nhất định phải giúp trẫm, trẫm cầu xin ngươi. Chuyện này mà thành thì trẫm và ngươi chính là huynh đệ sinh tử, không bao giờ vứt bỏ.

Tâm tư Địch Thanh rối bời. Thấy sự sợ hãi trong lời cầu khẩn của Triệu Trinh, nghĩ đến mối giao tình trước đây, nghĩa khí của hắn dâng lên, cắn răng nói:

- Được rồi, thần nguyện nước sôi lửa bỏng cũng không chối từ.

Triệu Trinh thấy Địch Thanh nhận lời, mặc dù trong mắt còn có ưu sầu, nhưng đã thở phào một hơi, thấp giọng nói:

- Được lắm. Có câu nói này của ngươi trẫm cũng có chút vững vàng rồi. Địch Thanh, ngươi lui ra đi. Đến lúc đó trẫm sẽ tìm ngươi. Chuyện này tuyệt đối không được để cho người khác biết.

Sau khi Địch Thanh rời khỏi phòng của Triệu Trinh thì trong lòng đầy nghi hoặc. Rốt cuộc là Triệu Trinh muốn lấy vật gì quan trọng đây? Tự ý vào Huyền Cung Chân Tông không phải là chuyện nhỏ. Triệu Trinh làm sao dám chắc được việc có thể đi vào cơ chứ?

Trương Ngọc thấy Địch Thanh cõi lòng đầy tâm sự, thấp giọng nói:

- Địch Thanh, không sao chứ?

Địch Thanh muốn nói lại thôi, nhớ tới lời nhắc nhở của Triệu Trinh bèn lắc đầu nói:

- Không có gì, Thánh Thượng đang phiền lòng mà thôi.

Lại nghĩ đến chuyện có người ẩn nấp trong bụi hoa, hắn liền cau mày nói:

- Trương Ngọc, ta đi trước tìm Vương Khuê hỏi một chút, ngươi ở đây canh gác cẩn thận.

Trương Ngọc gật đầu nói:

- Huynh cũng cẩn thận đó.

Địch Thanh trở về chỗ gần bụi hoa, nhìn lại xung quanh, thấy có một con đường kéo dài đi ra. Hắn đi theo con đường nhỏ đó, i được không xa, chợt nghe thấy ở chỗ tối có người nói khẽ:

- Sùng Đức.

Địch Thanh trả lời:

- Thiên Hòa.

Hoá ra qua thời gian giao ca, nhóm cầm vệ lại thay đổi một lần khẩu lệnh. Hành động này của Vương Khuê có ý nghĩa là hao tổn tâm huyết, chỉ là đề phòng người bên ngoài đục nước béo cò. Từ phía sau cây có một người đi ra, khuôn mặt ngăm đen, nói năng thận trọng, đó chính là thị vệ Lý Dụng Hòa bên cạnh Triệu Trinh. Lý Dụng Hòa hỏi:

- Địch Thanh, ngươi đến đây làm gì?

Địch Thanh hỏi ngược lại:

- Huynh có thấy có người đi qua đây không?

Vẻ mặt Lý Dụng Hòa có chút mất tự nhiên, lảng ánh mắt đi nói:

- Không có.

Địch Thanh thấy ánh mắt Lý Dụng Hòa chớp sáng, kiểu như nghĩ một đằng nói một nẻo, trong lòng trầm xuống, cảm giác Lý Dụng Hòa có chút kỳ lạ thì bèn nói tránh đi:

- Ở ngoại vi của huynh là ai đang trực?

Lý Dụng Hòa trả lời đơn giản:

- Vương Khuê.

Địch Thanh nói:

- Ta đang có việc muốn tìm Vương Khuê. Chỗ này nhờ cả vào Lý huynh rồi.

Lý Dụng Hòa gật gật đầu, lắc mình về phía sau cây. Địch Thanh sải bước rời đi, đi đến nơi mà Lý Dụng Hòa không thể nhìn thấy được thì lắc mình ẩn sau một tảng đá lớn, lặng yên nhìn về phía Lý Dụng Hòa. Một hồi lâu sau, không thấy động tĩnh của Lý Dụng Hòa, Địch Thanh trong lòng nghi hoặc, đang định đứng dậy thì đột nhiên cảm thấy có người lén lút đi qua, trong lòng Địch Thanh kinh sợ, chuyển người sang mặt bên khác của tảng đá lớn, tay giữ lấy chuôi đao.

Người lén lút kia dừng bước chân, quát khẽ:

- Địch Thanh, đệ đến nơi đây làm gì?

Địch Thanh nghe ra là tiếng của Vương Khuê thì thở phào một cái nói:

- Vương Khuê, ta đang muốn tìm huynh đây. Có chuyện lạ.

Vương Khuê chậm rãi đi ra, ánh mắt sắc bén nhìn thẳng vào Địch Thanh.

Địch Thanh không thẹn với lương tâm, thản nhiên nói:

- Vừa rồi ta thấy hình như có động tĩnh từ hướng này. Lúc nãy mới thừa dịp Trương Ngọc đang trực thay ca nên lại đây để xem xét. Huynh có thấy người ngoài lui tới hay không?

Vương Khuê nói:

- Không có người ngoài, chỉ có người trong cung đi qua.

Địch Thanh hỏi:

- Là ai?

Vương Khuê nói:

- Là một Thuận Dung (thuận dung là một trong chín loại thiếp của Vua) của tiên đế, họ Lý, cũng là tỉ tỉ của tán trực Lý Dụng Hòa. Lý Dụng Hòa luôn ở trong kinh hộ giá. Lần này đến huyện Củng, Lý Thuận Dung nhớ đệ đệ của mình nên đến thăm. Ta đã cho phép rồi.

Địch Thanh biết Thuận Dung là người phụ nữ cấp ba, cấp bốn của Hoàng đế (Chính xác là xếp thứ năm trong các loại thiếp), bình thường không được coi là phi tần được sủng ái. Nghe nói Lưu Thái hậu ghen tị, sau khi Chân Tông qua đời, trong các phi tần, ngoại trừ Dương Thái hậu vẫn còn ở lại kinh thành ra, các phi tử còn lại đều bị phân phát đi xuất gia ở các nơi. Thuận Dung này coi giữ phần mộ của Chân Tông, rất là thê lương. Nghĩ đến đây, Địch Thanh cũng nảy sinh chút cảm thông với người phụ nữ này. Nhưng sự nghi hoặc vẫn không mất đi. Hắn thầm nghĩ, cho dù là Lý Thuận Dung thăm hỏi đệ đệ thì cũng chẳng cần phải núp trong bụi hoa như thế làm gì

Tuy nhiên một người phụ nữ yếu ớt, chắc hẳn không tạo được sự uy hiếp đối với Hoàng Thượng. Địch Thanh nghĩ vậy liền nói:

- Thế thì không sao, ta đi xung quanh xem xét chút.

Vương Khuê cười nói:

- Địch Thanh, ngươi cẩn thận chút cũng là tốt. Đừng đi xa quá. Thánh Thượng muốn tại Ngũ Lậu canh ba bái tếtiên đế, chúng ta phải có mặt đủ để hộ giá.

Địch Thanh gật gật đầu, đi ra ngoài. Một con đường lát đá xanh, dưới ánh trăng chiếu xuống trông trơn láng như tơ lụa. Khí trên núi tươi mái phả vào mặt khiến cho đầu óc thoải mái tỉnh táo.

Địch Thanh biết đi theo con đường này thì sẽ đến tẩm lăng của Chân Tông. Không tiện đi thêm, hắn chọn một con đường nhỏ rồi chầm chậm bước đi. Hắn đi trên ánh trăng, càng đi càng lệch xa. Chỗ này đã không còn là trong phạm vi đề phòng của Vương Khuê, cũng không có ai coi giữ. Địch Thanh tùy tay hái một đóa hoa dại, lòng thầm nghĩ nơi này cảnh sắc thật là đẹp. Nếu như có thể cùng với Vũ Thường cùng nhau tản bộ nơi này thì thật chẳng kém gì chốn thần tiên. Hái về cho nàng mấy bông hoa, nhất định nàng sẽ rất thích, nhưng chỉ sợ hoa hái về rồi sẽ héo đi rất nhanh.

Hắn tìm một nơi sạch sẽ ngồi xuống, nhìn mặt trăng trên trời, trong lòng tràn đầy hình ảnh nữ tử thanh tú kia. Đang lúc mơ màng thì đột nhiên nghe thấy ở phía bên tay trái nơi sườn núi có tiếng người vọng đến. Địch Thanh trong lòng rùng mình, đi nhẹ nhàng qua bên đó, đi qua một cánh rừng, chỉ nhìn thấy có một nữ tử ngồi bên một con đường tối, y phục màu thâm mũ xanh đen, là cách ăn mặc của ni cô, đang bái lạy về hướng ánh trăng, trong miệng thì thào. Địch Thanh mơ hồ nghe được tiếng ni cô kia nói:

- Cầu xin người..rơi xuống địa ngục....cam lòng.

Gió nhẹ thổi qua, Địch Thanh nghe được đứt quãng, lại lặng yên tiến lên hai bước thấy ni cô kia đứng dậy, cầu nguyện hai câu, lại quỳ xuống, nói:

- Bồ Tát ở trên, dân nữ tạ ơn người mấy năm nay đã chiếu cố đến no. Biết nó không sao, dân nữ xin cảm tạ ân đức. Nhưng mấy năm nay dân nữ ngày đêm mong muốn được nhìn bóng dáng nó, cầu xin Bồ Tát rủ lòng thường cho con được gặp nó một lần, con có chết cũng không uổng!

Lúc này Địch Thanh đã lách đến bên cạnh ni cô đó, chỉ thấy hai hàng nước mắt từ gò má nàng chảy xuống rơi lã chã xuống phía bụi rậm. Ni cô tuổi trung niên, dung nhan hao gầy, trên khuôn mặt mơ hồ vẫn còn nhìn ra được vẻ đẹp trước đây.

Đúng vào lúc này, xa xa có tiếng bước chân vang lên. Địch Thanh ẩn người đi, nhìn thấy Lý Hòa Dụng vội vàng chạy tới.

Trong lòng Địch Thanh khẽ động, thầm nghĩ chẳng lẽ thật sự trùng hợp như vậy? Người phụ nữ này chính là phi tử của Chân Tông? Cũng là tỉ tỉ của Lý Dụng Hòa?

Lý Dụng Hòa đến trước ni cô nói:

- Hôm nay tỷ làm sao mà lại lỗ mãng như vậy? Thiếu chút nữa là bị người ta phát hiện ra, hỏng mất đại sự.

Người phụ nữ không hiểu:

- Ai phát hiện?

Lý Dụng Hòa nói:

- Là thị vệ trước điện, tên là Địch Thanh. Người này cực kỳ cảnh giác, đệ thấy hắn có vẻ như là phát hiện được có người đến gần cung Hiếu Nghĩa. Đệ đã nói với tỷ bao nhiêu lần rồi.s Thánh Thượng muốn vào canh ba nửa đêm...Đến lúc đó mới là cơ hội của chúng ta...

Y giảm âm thanh xuống thấp, lúc liền lúc đứt.

Trong lòng Địch Thanh rùng mình, thầm nghĩ, bọn họ muốn làm gì vào canh ba nửa đêm tại Ngũ Lâu? Chẳng lẽ muốn gây hại cho Hoàng Thượng? Lý Dụng Hòa này rất được Hoàng Thượng tín nhiệm. Nếu như đúng là gây hại cho Triệu Trinh, vậy thì thật khó lòng mà phòng bị được.

Người phụ nữ kia nói:

- Ta không thể...

Nói tới đây khuôn mặt tràn đầy sự u oán, kéo lấy cánh tay của Lý Dụng Hòa nói:

- Đệ nhất định phải cẩn thận, bằng không Thái hậu nàng sẽ không bỏ qua chúng ta đâu.

Lòng Địch Thanh trầm xuống, thầm nghĩ hóa ra Lý Dụng Hòa đã bị Thái hậu mua chuộc hoặc uy hiếp nên mới gây hại cho Triệu Trinh.

Lý Dụng Hòa nhẹ giọng nói:

- Đệ đương nhiên sẽ cẩn thận, tỷ yên tâm đi. Lần này Tiền Duy Tể đã nói với đệ rồi. Có hắn ta ở đó thì chúng ta chắc không có vấn đề gì.

Địch Thanh chỉ cảm thấy lưng lạnh ngắt. Hắn thực sự không muốn tin, nữ tử u oán này liên hợp với Lý Dụng Hòa để gây hại cho Hoàng Thượng. Nhưng sự thật đang ở ngay trước mắt, chẳng thể do việc Địch Thanh tin hay không tin. Địch Thanh trong lòng lo lắng, chỉ sợ rút dây động rừng. Hắn khẽ lui sang một bên, muốn tìm mấy người Vương Khuê để bàn thêm về cách ứng phó. Đến chỗ rẽ thì đột nhiên nhe thấy có tiếng còi thê lương từ cung Hiếu Nghĩa truyền đến. Tiếng còi đó đã phá vỡ sự tĩnh mịch của màn đêm. Xung quanh tẩm lăng trở nên chấn động!

Địch Thanh chấn động, thấy phía cung Hiếu Nghĩa có ánh lửa chớp động, trong lòng căng thẳng, chạy vội về. Địch Thanh về đến trước cung Hiếu Nghĩa, tất cả các thị vệ cung trước điện đều đã đổ xô về phía cung Hiếu Nghĩa, gấp gáp hỏi:

- Chuyện gì thế? Thánh Thượng đâu?

Địch Thanh đột nhiên nghĩ đến một điều gì đó liền quát:

- Lý Giản, Lý Vũ Hanh, các ngươi mang theo mười người tạm thời chặn ngay đường chính, đề phòng có người tiến vào, những người còn lại đi theo ta hộ giá!

Bọn thị vệ đều gật đầu. Địch Thanh cùng bọn thị vệ tới trước điện, phát hiện Vương Khuê, Trương Ngọc cùng với những người canh giữ trước điện đều đã không còn ở đó thì hơi hoảng hốt, gọi to:

- Vương Khuê, Trương Ngọc!

Sau đó liền vọt đến phòng của Hoàng Thượng, chẳng quan tâm gì đến việc bẩm báo nữa mà đá văng cửa xô vào phòng.

Trong phòng có một ánh kiếm sắc bén, trực tiếp chỉ thẳng vào cổ họng Địch Thanh. Địch Thanh lùi lại sau một bước nhìn thấy đó là Vương Khuê thì liền hỏi:

- Thánh Thượng...

Thoáng thấy Triệu Trinh đang ngồi trong phòng thì thở phào hỏi:

- Các thị vệ ngoài điện đâu rồi?

Vương Khuê chậm rãi thu kiếm, thấy Địch Thanh đã đưa đến hơn mười thị vệ, nói:

- Sau điện Cung Hiếu Nghĩa đột nhiên bốc cháy, ta đã lệnh cho hai người đi trước xem xét tình hình, để đề phòng kẻ thù dương đông kích tây, ta đã phái toàn bộ người ở trước điện đến ngay bên Thánh Thượng. Vừa nãy ngươi phá cửa xông vào, ta còn tưởng là kẻ địch...

Địch Thanh khoát tay nói:

- Không cần giải thích, ta hiểu mà. Vương Khuê, ta dẫn theo mười bốn người lại đây, còn có mười người do Lý Giản suất lĩnh, tạm thời đang thắt chặt đường chính.

Nhìn thấy trong phòng Triệu Trinh ngoài Vương Khuê, Trương Ngọc ra còn có năm người, Địch Thanh nói:

- Lúc này đầu tiên phải bảo vệ sự an toàn của Thánh Thượng, sau đó cho người đi cứu hỏa...

Vương Khuê cau mày nói:

- Ta đã để Đỗ Phóng và Ôn Lương Ngọc đi thăm dò tình hình cháy rồi, mà sao vẫn chưa quay lại nhỉ?

Địch Thanh nói: - Ta đi xem.

Triệu Trinh đột nhiên nói:

- Địch Thanh, ngươi ở lại bên trẫm.

Vương Khuê lập tức nói:

- Xa Dạ Vĩnh, Thân Báo Hỷ, các ngươi hãy ra sau điện xem xét, đồng thời phụ trách sắp xếp người cứu hỏa. Nếu nhìn thấy Đỗ Phóng và Ôn Lương Ngọc thì bảo bọn họ quay về hộ giá.

Hai thị vệ nhận lệnh liền đi ra khỏi phòng. Lúc này hậu điện đã vang lên từng hồi chiêng. Diêm Văn Ứng vọt vào trong phòng, nhìn thấy Triệu Trinh còn ở đó thì vội hỏi:

- Thánh Thượng, còn không mau đi thôi. Lửa sắp lan đến chính điện rồi.

Triệu Trinh vỗ bàn nói:

- Tiền Duy Tế đâu rồi? Sao vẫn chưa qua đây? Lý Dụng Hòa đâu rồi? Bây giờ đang ở đâu?

Còn chưa dứt lời, ngoài cửa có tiếng người kêu lên:

- Thánh thượng!

Người đó bước nhanh xông tới,chính là Lý Dụng Hòa.

Trong lòng Địch Thanh rùng mình, đứng chắn bên cạnh Triệu Trinh. Lửa này tới đột nhiên như vậy, nói không chừng là kẻ địch vàng thau lẫn lộn, hắn không thể không đề phòng.

Triệu Trinh thấy Lý Dụng Hòa tiến đến liền hỏi:

- Lý Tán Trực, còn Tiền Duy Tế đâu?

Lý Dụng Hòa nói:

- Thánh thượng, thần mới nghỉ ngơi, biết có lửa cháy liền vội vàng tới ngay, cũng không thấy Tiền Duy Tế đâu.

Triệu Trinh hừ lạnh nói:

- Bây giờ trong cung cháy, Tiền Duy Tế thân là cung sử, không thể đùn đẩy trách nhiệm thế được.

Lý Dụng Hòa vội hỏi:

- Thánh thượng, bây giờ không phải là lúc truy cứu trách nhiệm. Trong cung bị cháy, thần thấy khó có thể khống chế được. Thánh thượng phải ra khỏi đây đã rồi hãy tính sau, nếu không lửa cháy đến, chỉ sợ sẽ nguy hiểm.

Y đi lên phía trước hai bước nói:

- Thần hộ tống Thánh Thượng đi trước.

Vương Khuê theo bản năng ngăn Lý Dụng Hòa lại, nói:

- Lý Tán Trực, chức trách hộ tống Thánh Thượng này, giao cho chúng ta là được rồi.

Địch Thanh hơi ngạc nhiên, thấy rằng dường như Vương Khuê cũng có ý hoài nghi đối với Lý Dụng Hòa.

Lý Dụng Hòa ngẩn ra, nói:

- Vậy thì còn không đi đi?

Vương Khuê hỏi:

- Đi về phía nào?

Lý Dụng Hòa nói:

- Cứ đến lăng Hoàng đế đã rồi nói sau. Ở đó có mấy chục cấm quân hộ vệ, lại thêm mấy người chúng ta ở đây nữa, có thể bảo vệ sự an toàn của Thánh Thượng.

Vương Khuê xoay người thi lễ với Triệu Trinh, nói:

- Thánh Thượng, xin di giá trước.

Triệu Trinh gật gật đầu, đi ra khỏi phòng với sự hộ tống của Vương Khuê, Địch Thanh. Lúc này bọn thị vệ đã tụ tập hai mươi người đến. Triệu Trinh thấy thế, cảm thấy an tâm một chút, nói:

- Chúng ta đến chỗ lăng tẩm Tiên đế đã.

Triệu Trinh vẫn một lòng muốn mạo hiểm binh qua của Thái Tổlần này lấy thân mạo hiểm, đã có ý hối hận rồi.

Vương Khuê nói:

- Lăng tẩm của Tiên đế không thể đi được!

Lý Dụng Hòa ngẩn ra, vội hỏi:

- Vì sao?

Vương Khuê lạnh lùng nói:

- Vì ta nghi ngờ có người sẽ gây hại cho Thánh thượng!

Lý Dụng Hòa nhíu mày:

- Ngươi nói ai?

Vương Khuê trầm giọng nói:

- Hôm nay sau giờ ngọ, ta có nhìn thấy một người xì xào bàn tán với Tiền Duy Tế, dường như đang bàn tính điều gì đó. Bây giờ cung Hiếu Nghĩa có cháy, Tiền Duy Tế lại chậm chạp chưa tới. Con trai của Tiền Duy Tế đắc tội Thánh Thượng, dù là chuyện cũ Thánh thượng bỏ qua nhưng Tiền Duy Tế chưa chắc đã không còn ý xấu trong lòng, cấu kết với người ngoài. Lửa lần này cháy to như vậy, mấy người Đỗ Phóng bây giờ còn chưa quay lại, chắc là đã gặp bất trắc rồi. Ta nghĩ chắc chắn là có người phóng hỏa để gây lộn xộn, che khuất tầm nhìn để thừa cơ gây hại cho Thánh thượng. Mà trong cung Hiếu Nghĩa này, nhất định đã có thích khách lọt vào rồi.

Lúc này Địch Thanh mới biết Vương Khuê cũng thật cẩn thận, thở phào một cái. Vương Khuê vung tay lên, bọn thị vệ hiểu được ý của anh ta liền bao vây lấy Lý Dụng Hòa. Triệu Trinh nghẹn họng nhìn trân trối, chẳng nói câu gì. Lý Dụng Hòa thấy mọi người vây lại thì không hề hoảng hốt mà lạnh lùng hỏi:

- Cái người xì xào bàn tán với Tiền Duy Tế kia đương nhiên chính là ta sao?

Vương Khuê nói:

- Chính xác! Không biết ngươi có dá nói hết ra nội dung cuộc nói chuyện giữa ngươi và Tiền Duy Tế cho mọi người ở đây nghe không?

Lúc này, lửa lớn càng lớn hơn, tất cả các cung nhân, cung nữ cung Hiếu Nghĩa đều chạy đi cứu hỏa. Có một người vội vã chạy tới, nhìn thấy bọn thị vệ và Triệu Trinh thì vui mừng nói:

- Thánh thượng….

Vương Khuê quát:

- Đứng ở bên ngoài, không được đến gần, nếu không sẽ giết không luận tội!

Người nọ ngẩn ra, vội hỏi:

- Ty chức là Phó sứ Trang Biệt cung Hiếu Nghĩa, trong cung có cháy, ty chức tìm khắp nơi không thấy Tiền Đại nhân đâu nên đến để hộ giá!

Vương Khuê dặn dò:

- Trang Phó sứ, ngài dẫn mọi người trong cung cố gắng khống chế thế lửa. Nếu có người lạ lui tới thì cần bẩm báo ngay.Về phần hộ giá Thánh thượng, ta sẽ có trách nhiệm.

Trang Biệt thấy Vương Khuê đằng đằng sát khí, không dám làm trái, liền vội dẫn người đi cứu hoả. Triệu Trinh ở bên nhìn thấy, trong lòng lo sợ. Diêm Văn Ứng đã quát lên:

- Vương Khuê, ngươi thật to gan! Thánh thượng ở đây, ngươi dám tự mình làm chủ?

Vương Khuê ngẩn ra, xoay người quỳ một gối xuống nói:

- Thánh Thượng, thần được Thánh Thượng khen ngợi mới đạt được vị trí như hiện nay, chỉ muốn hộ vệ Thánh thượng an toàn, cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi. Xin Thánh thượng hãy tin tưởng thần.

Ánh mắt y sáng quắc, tràn đầy sự khẩn thiết. Triệu Trinh nhìn rồi quay sang phía Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, ngươi thấy thế nào?

Địch Thanh bước ra khỏi hàng, nói:

- Thần và Vương Khuê có cùng ý nghĩ. Lúc này cháy trong cung là chuyện nhỏ, hộ vệ Thánh Thượng an toàn là chuyện lớn. Lời nói của Vương Khuê rất có lý. Thần cũng cảm thấy Lý Dụng Hòa rất khả nghi.

Thấy Triệu Trinh tràn đầy kinh ngạc, Địch Thanh lại nói ra chuyện có người đi qua trạm kiểm soát của Lý Dụng Hòa, tiếp cận cung Hiếu Nghĩa. Hắn vốn định nói ra thêm chuyện nhìn thấy Lý Thuận Dung ở trên núi ra nữa, nhưng nghĩ lại thì vẫn nên kìm nén suy nghĩ này.

Địch Thanh lại nói tiếp:

- Nếu Thánh thượngkhông tin thì có thể hỏi Trương Ngọc.

Trương Ngọc bước ra khỏi hàng nói:

- Khởi bẩm Thánh thượng, lời nói của Địch Thanh là thật.

Như lửa dữ giữa trời quang, ánh mắt tràn đầy sự hoài nghi đề phòng của mọi người đều nhìn vào Lý Dụng Hòa. Vẻ măt Triệu Trinh trầm như nước nói:

- Lý Dụng Hòa, ngươi có thể cho ta một lời giải thích được không?

Lý Dụng Hòa quỳ gối xuống, lo lắng nói:

- Thánh thượng, thần đối với Thánh thượng luôn trung thành. Chẳng lẽ Thánh thượng lại không tin thần?

Vương Khuê lạnh lùng nói:

- Biết người biết mặt khó biết lòng. Ngươi đừng có đánh lừa dư luận. Tiền Duy Tế bây giờ đang ở đâu? Hôm nay ngươi đã nói gì với Tiền Duy Tế?

Lý Dụng Hòa quay đầu nhìn phía Vương Khuê, quát:

- Vương Khuê! Thánh thượng đối đãi ngươi không tệ. Bây giờ đang lúc nguy hiểm, ngươi không lo lắng cho sự an nguy của Thánh thượng mà chỉ muốn nội chiến, thật sự khiến ta thất vọng!

Vương Khuê nói:

- Muốn trừ bên ngoài phải trừ bên trong trước. Muốn hộ vệ Thánh thường thì trên dưới cần một lòng. Nếu bên trong có phản đồ thì làm sao có thể bảo toàn được? Thánh thượng, nếu như người này không nói ra chân tướng thì thần xin Thánh thượng hãy hạ chỉ bắt anh ta!

Triệu Trinh cau mày nói:

- Dụng Hòa, đến nước này rồi, ngươi vẫn còn không thể nói ra được hay sao? Nếu như ngươi thật sự không thẹn với lương tâm, sao không nói tất cả cho trẫm biết?

Lý Dụng Hòa nhìn Triệu Trinh, sầu thảm nói:

- Thánh Thượng, thần không thể nói, càng không muốn lừa người, nhưng thần tuyệt đối không gây hại cho người. Thánh Thượng, mấy năm nay thần đối đãi với người như thế nào chứ?

Triệu Trinh do dự. Lúc này anh ta tín nhiệm nhất là mấy người Diêm Văn Ứng, Lý Dụng Hòa, Địch Thanh. Mặc dù Vương Khuê được anh ta đề bạt trọng dụng nhưng trong thời điểm thế này, muốn tin theo Vương Khuê bắt Lý Dụng Hòa thì trong lòng anh ta như tự mình hủy hoại Trường Thành vậy. Anh ta trầm ngâm hồi lâu mới nói:

- Dụng Hòa, ta tin ngươi!

Vương Khuê cả kinh, vội la lên:

- Thánh thượng…

Triệu Trinh lắc lắc đầu nói:

- Vương Khuê, ngươi và Lý Dụng Hòa, Diêm Văn Ứng, Địch Thanh và tất cả các cấm quân ở đây đều là những người ta tin tưởng nhất. Lúc này trẫm chỉ hy vọng các ngươi có thể đồng tâm hiệp lực, ứng phó cục diện.

Anh ta đi qua kéo Lý Dụng Hòa, lại kéo lấy tay Vương Khuê rồi cho bắt tay nhau, chậm rãi nói:

- Tất cả những chuyện quá khứ, để cho nó qua đi. Vương Khuê, ngươi nói xem thế nào?

Vương Khuê không thể làm trái, đành phải nói:

- Thần tuân chỉ.

Trong lúc đó một tiếng hét thảm thiết truyền đến khiến mọi người kinh hãi, quay đầu nhìn lại thì thấy từ phía xa xa có một người chạy tới, máu tươi chảy từ trên trán xuống, nhìn trang phục thì đúng là thị vệ mà Vương Khuê vừa phái đi. Người này thất tha thất thểu tới trước mặt mọi người, không trụ nổi, ngã lăn ra đất, giơ tay lên quay đầu về phía sau chỉ:

- Ba người bọn họ đều chết rồi…thần...Có kẻ thù.

Vương Khuê phóng qua đó, vội hỏi:

- Kẻ thù là ai?

Còn chưa dứt lời, Địch Thanh đột nhiên kêu lên:

- Cẩn thận!

Vương Khuê giật mình, phút chốc tránh ra, chỉ thấy ánh đao như tấm khăn lụa xoẹt qua người Vương Khuê, cắt vỡ vạt áo trước ngực y. Nếu như y không lùi bước đúng lúc, chỉ sợ đã bị đao này xuyên qua tim rồi.

Người vung đao kia lại là chính là thị vệ mặt đầy máu tươi đó. Mọi người kinh ngạc, nhất thời không biết chuyện gì xảy ra. Vương Khuê đã hiểu, người này không phải thị vệ, mà là thích khách. Thích khách đục nước béo cò mặc đồ của thị vệ, dùng máu tươi bôi lên mặt, cố tình khàn giọng, chính là muốn lẫn lộn tầm mắt, nhân cơ hội đánh lén.

Nói như vậy thì …các thị vệ vừa rồi phái đi đều đã chết cả rồi? Vương Khuê nghĩ đến đây, mặc dù không kinh sợ nhưng lúc lui về phía sau đã rút trường kiếm ra, một kiếm đâm tới. Một tiếng “keng” vang lên, hoa lửa bắn khắp nơi, người đánh lén kia vừa đúng lúc lấy đao ngăn một kiếm của Vương Khuê.

Hai người đao kiếm giao nhau, đều là hiên ngang như nhau. Vương Khuê kinh hãi, đao này chất chứa sức mạnh rất lớn, thu phát tự nhiên. Người đánh lén đó cũng âm thầm kêu khổ, thầm nghĩ thị vệ bên cạnh Triệu Trinh quả nhiên võ công cao cường. Một ý nghĩ chợt loé lên trong đầu, người đánh lén dựa thế lăn một vòng vượt qua Vương Khuê, lao thẳng tới Triệu Trinh. Hai người Địch Thanh, Lý Dụng Hòa không chút do dự, mỗi người một bên đứng trước Triệu Trinh.

Vương Khuê hét vang văng trường kiếm về phía ngực người nọ. Trường kiếm như cầu vồng, cứ như sẽ làm một đường đi thẳng vào lưng người nọ vậy, không ngờ người nọ bổ nhào về phía trước kia chỉ là chiêu giả, nhón chân một cái đã chạy xuyên ra ngoài. Trường kiếm của Vương Khuê tính sai thế đi, sượt qua vạt áo của người nọ cắm xuống đất, “phập’ một tiếng, thân kiếm rung lên khiến người ta cũng phải sợ. Thích khách kia chạy ra khỏi vòng vây của bọn thị vệ, đi vào trong bóng tối rồi sau đó là tiếng cười dài:

- Cẩu Hoàng đế, lần này giết không được ngươi, chỉ sợ ngươi không qua được đêm nay!

Sắc mặt Triệu Trinh xám ngoét. Trương Ngọc định đuổi theo, Vương Khuê nói:

- Giặc cùng đường chớ đuổi!

Sắc mặt y âm tình bất định, nhìn về hướng thích khách chạy trốn, trong lòng thầm nghĩ, chắc chắn thích khách biết hộ vệ bên cạnh Thánh thượng trùng trùng, lần này nghĩ muốn giết mình trước, gạt bỏ trợ thủ đắc lực của Thánh thượng, sau đó mới ra tay với Thánh thượng. Nhưng không ngờ sự tính toán tỉ mỉ như thế của hắn đã bị Địch Thanh nhìn thấu, bản thân mình cũng có thể đủ sức chống lại sát chiêu của thích khách đó. Thích khách đó xuất chiêu không trúng, lập tức rời đi, cũng là một nhân vật giỏi. Bây giờ phải coi việc bảo vệ Hoàng đế là chính, không thể để cho bọn chúng điệu hổ ly sơn được.

Trương Ngọc dừng lại, oán hận nói:

- Chẳng l cứ để cho y dễ dàng chạy thoát như vậy sao?

Địch Thanh nói:

- Tại sao phải đuổi theo chứ? Y nhất định sẽ quay lại.

Mọi người rùng mình, thầm nghĩ Địch Thanh nói không sai. Thích khách bố trí tỉ mỉ như thế, gây cháy cung Hiếu Nghĩa, cải trang ám sát, nhất định sẽ không cam lòng dừng tay như vậy.

Vương Khuê chậm rãi nói:

- Người đó mặc quần áo thị vệ. Chỉ sợ mấy người Đỗ Phóng đã bị bọn chúng hạ độc thủ rồi.

Còn chưa dứt lời thì một tiếng nổ lớn vang lên từ phía hậu điện. Hậu điện cung Hiếu Nghĩa không chịu được lửa lớn đã đổ sụp hoàn toàn. Ngọn lửa vươn xa, đã đến điện chính. Ngay cả những người đứng ngoài điện cũng đều cảm thấy sự nóng bức của thế lửa.

Nhưng trong lòng mọi người đều là sự lạnh băng.

Vương Khuê đột nhiên nhìn phía Địch Thanh nói:

- Địch Thanh, vừa rồi đa tạ huynh đã nhắc. Nhưng…thích khách ngụy trang vô cùng giỏi,làm sao huynh biết được y là kẻ địch chứ?

Địch Thanh nói:

- Ta thấy người đó cử chỉ lảo đảo nhưng đôi mắt rất có thần, không giống người mới trải qua cuộc chiến đấu kịch liệt. Hơn nữa y tuy là mặt y tuy là đầy máu nhưng đao kiếm vẫn ngay ngắn, quần áo không vướng bụi bẩn. Nhìn thế nào thì cũng không giống như kiểu vừa mới trải qua một cuộc huyết đấu.

Vương Khuê cẩn thận suy nghĩ, không khỏi thầm khen óc quan sát nhạy bén của Địch Thanh. Y thoáng thấy Địch Thanh còn đang trầm tư, bèn hỏi:

- Địch Thanh, huynh có vấn đề gì sao?

Địch Thanh cau mày nói:

- Ta cảm thấy…. thích khách đó quan quen.

Nói xong liền nhìn qua phía Trương Ngọc. Trương Ngọc khó hiểu nói:

- Huynh nhìn ta làm gì? Chẳng lẽ là bằng hữu của chúng ta.

Địch Thanh nhắc nhở:

- Không nhất thiết là bằng hữu của chúng ta. Nói không chừng đã từng đánh nhau sống chết với chúng ta. Ta nghĩ đệ không nên quên.

Trương Ngọc nhăn mày, nhớ lại tình hình lúc trước, đột nhiên kêu lên:

- Là Trị Quốc Thiên Vương. Người đó chính là Trị Quốc Thiên Vương.

Mọi người đều kinh sợ, Vương Khuê hỏi:

- Người đó chính là Trị Quốc Thiên Vương trước đây chạy thoát khỏi Tào phủ đúng không?

Trương Ngọc nói:

- Đúng thế. Địch Thanh vừa nói, ta liền nhớ ra ngay. Người này thực sự đúng là Trị Quốc Thiên Vương xuất hiện ở Tào phủ. Nhưng…. sao y lại đến đây?

Sắc mặt Vương Khuê âm trầm bất định, Triệu Trinh cả giận nói:

- Di Lặc Giáo (Phật giáo) này âm hồn không tan, không ngờ lại đại nghịch bất đạo như thế. Sau khi trẫm quay về kinh thành nhất định phải triệu tập cấm quân bắt hết tất cả các giáo đồ Di Lặc.

Trong lòng Địch Thanh nghiêm nghị, thầm nghĩ nếu quả thật thích khách chính là Trị Quốc Thiên Vương xuất hiện ở Tào phủ thì thật không ổn chút nào. Có khả năng người đó và Hạ Tùy có mối liên quan. Hạ Tùy lại là người của Thái hậu. Chẳng lẽ…vụ ám sát lần này, Thái hậu là chủ mưu? Rốt cuộc Lý Dụng Hòa có âm mưu quỷ kế gì? Vì sao Thánh thượng lại tin y như vậy?

Lửa cháy càng thêm mãnh liệt. Triệu Trinh thấy lửa lớn ở cung Hiếu Nghĩa càng ngày càng không thể cứu vãn thì không khỏi thở dài một tiếng, hỏi:

- B ây giờ nên ứng phó thế nào đây?

Vương Khuê an ủi:

- Thánh thượng không cần lo lắng. Cung Hiếu Nghĩa cháy, dù không thấy tung tích Tiền Duy Tế đâu nhưng lúc này còn có hơn mười nha dịch huyện Củng ở ngoài núi. Nếu biết ở đây cháy chắc chắn sẽ thông báo cho Trương Huyện lệnh huyện Củng. Cho nên thần phỏng đoán thì chậm nhất là sáng sớm mai, Trương huyện lệnh sẽ dẫn người tới hộ giá. Chúng ta nên ngồi chờ cứu viện.

Triệu Trinh an tâm đôi chút. Địch Thanh thì lại lo lắng vô cùng, thầm nghĩ, luôn là Tiền Duy Tế liên hệ nhân sự ở huyện Củng. Nhưng Tiền Duy Tế bây giờ không thấy đâu, nha dịch của huyện Củng này có đến hay không thì vẫn còn chưa biết.

Lý Dụng Hòa ở bên nói:

- Thần không tán thành đề nghị của Vương Khuê. Nơi này cách lăng tẩm tiên đế không xa. Đi vào trong đó thì sẽ tốt hơn ở đây rất nhiều.

Vương Khuê phản bác:

- Theo như thần thấy. Cung Hiếu Nghĩa này bây giờ đã là nguy cơ trùng trùng. Ai mà biết được ở lăng tẩm đó sẽ không có kẻ địch lẫn vào? Hơn nữa kẻ địch ở trong tối ta ở ngoài sáng, ai có thể đảm bảo dọc đường chúng ta đến lăng tẩm không xảy ra vấn đề gì?

Triệu Trinh nghe đến mức đau đầu, hỏi Địch Thanh:

- Ngươi nói xem nên làm thế nào?

Địch Thanh do dự nói:

- Thần lại đồng ý với ý kiến của Vương Khuê.

Triệu Trinh bất đắc dĩ nói:

- Vậy được rồi. Trẫm sẽ ở lại đây.

Vương Khuê thấy Triệu Trinh đồng ý đề nghị của mình, trong lòng an tâm một chút, mời Triệu Trinh dựa vào tường viện để ngồi. Hơn mười thị vệ làm thành vòng tròn vây quanh Triệu Trinh. Như thế thì dù có mấy trăm binh mã tiến đến, trong lúc cấp thiết, chỉ sợ cũng không phá được vòng hộ vệ của mọi người.

Vương Khuê thấy thần sắc mọi người hoặc là hoảng sợ, hoặc là mờ mịt thì biết được rằng mọi người đột nhiên gặp phải tình huống như thế này, nhất thời chưa biết ứng biến thế nào. Từ đủ loại dấu hiệu như việc cung Hiếu Nghĩa cháy, Tiền Duy Tế không thấy đâu, bốn thị vệ bị giết, Trị Quốc Thiên Vương đến ám sát mà phán đoán, kẻ địch đã tính toán một cách tỉ mỉ cả rồi. Tuy Trị Quốc Thiên Vương đã đi rồi nhưng đêm nay khó tránh một cuộc chiến ác liệt. Huống chi bên trong doanh trận của ta lại còn có một Lý Dụng Hòa lén lén lút lút như thế nữa. Cục diện như thế chỉ sợ có rất nhiều người sẽ không thấy được ánh mặt trời ngày mai. Vương Khuê nghĩ đến đây bèn nhìn sang Địch Thanh.

Địch Thanh cũng là lòng đầy tâm sự, nhìn lại Vương Khuê. Hai người bốn mắt gặp nhau, chậm rãi gật đầu. Dù chưa nói câu nào nhưng lòng đã cùng quyết tâm. Lúc này chỉ có đồng tâm hiệp lực, mới có thể bảo hộ sự an nguy của Triệu Trinh.

Lúc này ánh trăng đã lên cao, bóng cây sum suê, trong trẻo nhưng lạnh lùng treo trên biển lửa, trong sự xán lạn là cô đơn. Trải qua canh giờ này, chỉ nghe thấy xa xa có một tiếng ầm vang lớn. Hóa ra cung Hiếu Nghĩa không chịu nổi lửa lớn, chủ điện cũng sập xuống luôn. Một cột khói đặc phóng lên cao, kéo dài không tắt. Thế lửa nung đỏ nhuốm đỏ bầu trời, giống như ráng chiều đỏ trước lúc mặt trời lặn vậy.

Lại một tuần trà (tầm nửa canh giờ) nữa trôi qua, chỉ nghe được tiếng vó ngựa gấp gáp từ phía xa xa như sấm rền. Ngay sau đó là tiếng ngựa hí dài, tiếng chân bước vang lên, trong bóng đêm có người đi nhanh về phía các thị vệ. Lý Giản ở bên ngoài vòng bảo vệ quát lên:

- Ai đó?

Mọi người nghe thấy tiếng bước chân dày đặc thì biết có rất nhiều người đến, không khỏi kinh sợ.

Có người trả lời:

- Vị đại ca này là thị vệ tiền điện đúng không? Ty chức là Lã Đương Dương huyện úy huyện Củng, phụng thủ dụ (chỉ thị viết tay) của Trương huyện lệnh đến để hộ giá. Trương Huyện lệnh biết cung Hiếu Nghĩa có biến đã phái chúng ta nhanh chóng đến trước, Trương Huyện lệnh sẽ cùng với nhiều người nữa đi theo sau. Cung Hiếu Nghĩa cháy, thần cứu viện chậm trễ xin Thánh thượng thứ tội!

Lý Giản tiếp nhận thủ dụ, nhìn thấy có tới mấy chục người đến thì trong lòng mừng thầm, nói:

- Các ngươi cứ chờ ở đây đã.

Nói xong liền quay người đi đến trước mặt Vương Khuê, nói lại sự việc. Kỳ thật Vương Khuê sớm đã nghe được, cẩn thận kiểm tra thủ dụ, xác định không có gì sai liền nói với Triệu Trinh:

- Thánh thượng, huyện Củng đến cứu viện, còn sớm hơn thần dự liệu tới mấy canh giờ.

Triệu Trinh thấy viện trợ đến thì mừng rỡ nói:

- Mau bảo bọn họ đến. Trẫm sẽ có thưởng cho bọn họ.

Lý Giản nhận lệnh đến gặp Lã Đương Dương. Vương Khuê nói với Địch Thanh:

- Địch Thanh, huynh đi xem mấy người đến từ huyện đó đi, xem có thể lấy ra trong đó mấy người đi hộ giá được không.

Trong suy nghĩ của Vương Khuê, một huyện nho nhỏ thì cũng chẳng có mấy nhân tài, nhưng hiện tại trước mắt thì chỉ có thể tìm những người lớn nhất trong những người lùn mà thôi. Địch Thanh gật đầu, bước đi ra ngoài. Lý Giản cũng đã dẫn Lã Đương Dương đến.

Lã Đương ương thoạt nhìn là người khôn khéo lanh lợi, trên mặt gã có một cái nốt ruồi rất to, bên cạnh gãcó hai trợ thủ, đều ăn mặc kiểu quan sai.

Lúc Địch Thanh đi lướt qua Lã Đương Dương, trong lòng chợt động, nhưng liếc thấy Lã Đương Dương và hai thủ hạ của gã, thấy thần sắc của ba người đó đều điềm tĩnh, không thấy có vấn đề gì.

Trong lòng Địch Thanh luôn cảm thấy có điều lạ thường nhưng bước chân không dừng mà đã đến trước mặt những quan sai đó, rồi đột nhiên trong lòng kinh hoàng...

Lã Đương Dương đã đi vào vòng trong các thị vệ, tiến lên một bước, cùng với hai trợ thủ quỳ xuống nói:

- Thần khấu kiến Thánh thượng.

Vương Khuê thấy Lã Đương Dương tiến lên một bước thì theo bản năng che trước người Triệu Trinh. Triệu Trinh âm thầm nhíu mày, thầm nghĩ Vương Khuê này có tâm hộ giá là tốt, nhưng nhiều lúc dường như là cẩn thận quá. Anh ta nhẹ nhàng nói:

- Miễn lễ bình thân.

Lã Đương Dương thấy Vương Khuê ngăn ở trước người như thế thì ngẩng đầu cười nói:

- Đại nhân cẩn thận như vậy chẳng lẽ sợ ta tập kích hay sao?

Vương Khuê thấy gã cười chân thành, trán lại đầy mồ hôi, chắc là đã vội tới trong đêm đến hộ giá thì không khỏi hổ thẹn với sự hoài nghi của mình, lui hai bước, nói tránh:

- Trương Huyện lệnh khi nào sXX

Lã Đương Dương nói

- Cung Hiếu Nghĩa cháy, sau khi Trương Huyện lệnh biết được thì vô cùng lo lắng. Bởi vậy mới bảo ty chức đến trước hộ giá. Trương Huyện lệnh gần đây bị cảm phong hàn, cố gắng dậy thì cũng phải có người đỡ tay. Nhưng thần nghĩ trước khi trời sáng chắc ông ấy có thể đến được.

Vương Khuê cảm giác có gì đó không đúng nhưng nhất thời lại không nghĩ ra rõ ràng được nên thuận miệng nói:

- Vậy ngươi dẫn theo bao nhiêu người...

Nói còn chưa dứt lời thì nghe thấy tiếng Địch Thanh từ xa xa vang đến:

- Cẩn thận, có kẻ lừa dối!

Vương Khuê giật mình, nhìn thấy một tia âm tàn trong mắt Lã Đương Dương thì không chút nghĩ ngợi, rút kiếm đâm thẳng vào cổ họng Lã Đương Dương.

Một kiếm Vương Khuê đâm ra, đã hiểu được không đúng chỗ nào. Tên Lã Đương Dương thật sự rất trấn tĩnh! Theo lý mà nói thì một huyện úy bình thường sẽ không được nhìn thấy Hoàng đế bao giờ. Trước mặt đấng Thiên tử thì sẽ không thể bình tĩnh như vậy được, huống chi hai thủ hạ của Lã Đương Dương cũng lại trấn tĩnh quá mức!

Vương Khuê xuất kiếm có ý thăm dò. Chỉ cần đối phương có ý xấu thì tất phải đề phòng. Qủa nhiên Lã Đương Dương rút kiếm, một kiếm đã ngăn trường kiếm của Vương Khuê. Một tiếng keng vang lên, đốm lửa văng khắp nơi sáng như ngân tinh. Trong mắt Lã Đương Dương hiện lên vẻ kinh ngạc, hiển nhiên cũng ngạc nhiên vì sự phản ứng nhanh chóng của Vương Khuê.

Vương Khuê lập tức nói:

- Hộ giá!

Y vươn người chặn phía trước Triệu Trinh. Nhưng trường kiếm của Lã Đương Dương như rắn, đã uốn lượn đâm tới khiến Vương Khuê không thể không lui.

Nhưng Vương Khuê không lùi! Phía sau y chính là Triệu Trinh. Triệu Trinh tay trói gà không chặt, nếu như y lui một cái không cẩn thận sẽ đặt Triệu Trinh vào chỗ nguy hiểm. Vương Khuê không do dự nữa, thân người đón lấy mũi kiếm vọt tới.

Lã Đương Dương vừa mừng vừa sợ, trường kiếm đâm nhanh nhưng lại không đâm vào cơ thể Vương Khuê. Lúc trường kiếm đâm vào thịt, Vương Khuê nhô khuỷu tay ra đánh thật mạnh vào mặt Lã Đương Dương. Trong thời khắc mấu chốt, Vương Khuê đã ra đòn, dùng vết thương nhẹ để có được cơ hội.

Lã Đương Dương chỉ cảm thấy một lực lớn tác động lên, cả người bay ra ngoài, mặt mũi mơ hồ trước mắt đầy sao. Vương Khuê cũng không đuổi theo, vừa vung tay lên, trường kiếm vung ra, xuyên thẳng vào ngực Lã Đương Dương trong không trung.

Máu tươi bắn ra, trong trời đêm cực kỳ đẹp. Vương Khuê giết chết Lã Đương Dương, nhưng trong lòng lại càng căng thẳng. Bởi vì khi Lã Đương Dương cuốn lấy y thì hai trợ thủ mà gã mang theo đã tả hữu thoát ra, chạy xẹt qua Vương Khuê, đánh về phía Triệu Trinh. Vương Khuê giết được Lã Đương Dương, nhưng lại không kịp ngăn hai tên thích khách còn lại.

May mắn còn có người bên cạnh! Trương Ngọc cũng xem như trải qua trăm trận chiến. Trong thời khắc sinh tử, đã phản ứng lại ngay, bổ nhào một cái liền nắm lấy mắt cá chân của thích khách. Tên đó ở trên không trung, chỉ cảm thấy có một lực mạnh mẽ truyền từ dưới chân lên, vội vàng không kịp chuẩn bị,kêu lên một tiếng ngã bịch một ci xuống đất.

Cứ coi là có Trương Ngọc thì cũng chỉ có thể vồ bắt được một người. Nhưng vẫn còn một tên thích khách khác nữa!

Một thích khách khác rung cánh tay lên, đã tung ra đường sắc bén bắn thẳng vào Triệu Trinh đang kinh sợ há hốc mồm.

Vương Khuê căng thẳng, muốn gọi Thánh thượng mau tránh đi nhưng cổ họng đã câm, hai mắt đỏ thẫm, âm thanh vì thế một tiếng cũng không nói ra được. Mắt thấy tia sắc bén kia sẽ bắn vào cơ thể Triệu Trinh thì liền vẹo người đánh tới, chắn trước người Triệu Trinh. Ba tia sắc bén đó cuối cùng không vào người.

Người nhào lên đó chính là Lý Dụng Hòa. Lý Dụng Hòa đã không cần giải thích gì, chỉ cần bằng màn bổ nhào đó, Vương Khuê biết đã trách nhầm Lý Dụng Hòa.

Lý Dụng Hòa ngăn trở ám khí của thích khách. Người ở trên không trung, gập cánh tay, hai tia ám khí đã bị đánh bật trở lại. Y là Tán Trực nên bên người lúc nào cũng mang theo cơ nỏ!

Thích khách kia vốn tưởng rằng đã đạt được rồi, không kịp vội mừng thì thấy ám khí đánh trước mặt. Y cố dốc sức tránh về phía bên, hai ám khí xoẹt qua chạm người. Thích khách đã quyết định tháo chạy!

Lã Đương Dương đã chết, các đồng bọn cũng đang bị đối phó. Y đánh một đòn không trúng, đã không còn có cơ hội xuất thủ nào nữa rồi. Mũi chân thích khách chạm đất, lại tung người lên đánh ra bên ngoài. Nhưng còn chưa kịp tháo chạy thì một mũi tên bắn tới trúng ngực của y. Y lắc mạnh hai cái, cúi đầu nhìn thì chỉ thấy trên ngực bị đâm một tên, y ngửa mặt lên trời ngã xuống.

Thị vệ Võ Anh ra tay đúng lúc bắn chết thích khách. Võ Anh bình thường trầm mặc ít lời nhưng trong thời khắc mấu chốt thì cũng không nương tay.

Trong lòng Vương Khuê nhẹ nhõm, thấy Trương Ngọc đang đánh nhau với thích khách cuối cùng, thân hình vừa nhảy lên liền đã đến bên tên thích khách kia. Tên thích khách kia bị Trương Ngọc cuốn lấy thân mình, cảm giác gió táp ập đến sau đầu gió táp nhanh như tên bắn, mới né tránh, thì liền đã nghe thấy một tiếng “phịch” lớn, hai mắt lồi ra, đương nhiên là mất mạng.

Vương Khuê một cước đá vào làm gãy cổ thích khách!

Lúc này phương xa có tiếng kêu thảm thiết không nguôi, không ngờ lại là tiếng của thị vệ.Vương Khuê lo lắng cho tình hình của Địch Thanh, hét lên:

- Các ngươi bảo hộ Thánh thượng! Nếu có người đến gần thì giết luôn không tha!

Bên hông y còn có vết máu nhưng cũng không thèm nhìn, cả người tung lên phóng về hướng Địch Thanh, Lý Giản.

Lúc vừa đến gần, dù Vương Khuê can đảm nhưng nhìn thấy tình trạng thê thảm trước mắt cũng không khỏi rùng mình một cái. Trong giờ phút này y chỉ cảm thấy không phải ở nhân gian mà như rơi vào tầng mười tám địa ngục. Những nha dịch mà Lã Đương Dương mang đến đã trở nên như chó điên vậy, gặp người liền vồ. Có mấy người thị vệ không kịp đề phòng liền bị những người đó ôm cổ cắn họng.

Vương Khuê chỉ cảm thấy trong lòng bàn tay rét run, thấy Địch Thanh bỗng nhiên nhảy vào trong đám người, trường đao vung lên, chém vào một tên nha dịch, đoạt lại một thị vệ. Vương Khuê không khỏi âm thầm khen ngợi, Địch Thanh này ngày thường láu cá nhưng những lúc thực sự thì có thể trọng dụng được.

Địch Thanh cũng là có chút bất đắc dĩ. Với cảnh tượng như thế này, hắn dường như đã từng quen. Cảnh tượng này cũng dữ dội giống với cảnh tượng ở thung lũng Phi Long năm đó?

Địch Thanh nghe theo sự dặn dò của Vương Khuê đến đó xem xét nhân sự nha dịch, nhưng vừa mới đến trước mặt mọi người thì đã cảm thấy có gì đó không đúng. Bởi vì trong bóng đêm những người đó đứng như tượng gỗ, ánh mắt mờ mịt. Lập tức Địch Thanh cảm thấy như đã nhìn thấy tình cảnh này rồi. Hắn liền nhớ ra những người dân bị mất tâm thần của thung lũng Phi Long cũng có bộ dạng y hệt như vậy.

Ngay lập tức Địch Thanh ra lời cảnh báo, nhưng hắn vừa mới hét lên thì trong đám người có người nói:

- Di Lặc ra đời, tân Phật độ kiếp. Giết người thiện nghiệp, lập địa thành Phật!

Trong lòng Địch Thanh run lên, quay đầu nhìn lại. Năm đó thung lũng Phi Long cũng là vì mười sáu chữ này, mới dẫn đến một đại họa khôn cùng. Địch Thanh thật không thể ngờ được rằng, hôm nay, giờ phút này lại nghe thấy những lời này!

Đêm đen như mực, có một đôi mắt sáng trong. Trong đôi mắt sáng đó mang theo một sự tà ác vô tận. Từ trong đáy lòng Địch Thanh có một tiếng gào thét, hắn đã nhận ra người đó là ai.

Người nọ rõ ràng chính là Đa Văn Thiên Vương -người khiến hắn nhiều năm đau khổ!

 Chương 97 - 100: Truy mệnh

Đa Văn Thiên Vương làm sao lại tới đây? Di Lặc giáo rốt cuộc muốn làm gì? Vì sao những người này lại bày ra trăm phương ngàn kế để ám sát Triệu Trinh? Nếu bọn chúng là do Thái hậu sai khiến thì vì sao mấy năm trước bọn chúng lại gây loạn giang sơn Đại Tống?

Địch Thanh nghĩ mãi không ra. Nhưng tình hình cũng không cho phép hắn suy nghĩ nhiều nữa. Sau khi Đa Văn Thiên Vương nói xong câu “Giết người thiện nghiệp, lập địa thành Phật" thì mấy nha dịch kia đã điên cuồng xông tới, hệt như ở thung lũng Phi Long năm đó.

Địch Thanh biết như thế không hay rồi liền lập tức lui về phía sau. Một số thị vệ không biết ứng phó thế nào, đến khi có mấy người bị cắn chết tươi thì mới có phản ứng, phản kháng lại mãnh liệt. Địch Thanh chỉ sợ Đa Văn Thiên Vương ra tay nhưng sớm đã không thấy Đa Văn Thiên Vương đâu rồi.

Lý Vũ Hanh xưa nay nhát gan, thấy tình hình như thế thì sợ đến nỗi chân không nhúc nhích. Mấy nha dịch bị mất hết lý trí kia chạy qua phía anh ta, anh ta còn quên mất việc né tránh, chỉ hét lên sợ hãi:

- Đừng đi qua! đừng có đi qua!

Nha dịch kia nghe thấy lệnh của anh ta liền ôm lấy và cắn vào cổ Lý Vũ Hanh. Địch Thanh ra tay, một đao đâm vào ngực tên nha dịch đó, tên nha dịch ngã xuống, Lý Vũ Hanh cũng ngã ra đất. Địch Thanh một tay bắt lấy cánh tay anh ta, quát lớn:

- Muốn sống thì mau chạy!

Lý Vũ Hanh phục hồi tinh thần lại, cố lấy dũng khí chạy thoát thân. Nhưng lúc này thị vệ và bọn nha dịchđã bao vây chặt lấy. Địch Thanh hơi do dự, thấy một thị vệ bị kẹp thì ra một đao cứu thị vệ đó. Chỉ là giết liên tiếp hai người, Địch Thanh cũng thấy có chút mềm tay. Nếu như thật sự chiến đấu với những kẻ xấu xa hung ác thì hắn sẽ không như thế, nhưng với những người bị đánh mất tâm trí đó thì Địch Thanh có chút không muốn xuống tay.

Lúc này lại có hai người vọt về phía Địch Thanh, Địch Thanh còn đang do dự thì Vương Khuê tới, vung hai kiếm liền cắt đứt cổ họng hai người đó. Địch Thanh quay đầu nhìn lại, vội la lên:

- Vương Khuê, mấy người này bị Di Lặc giáo mê hoặc, mất hết lý trí rồi!

- Huynh không giết hắn, hắn sẽ giết huynh.

Vương Khuê quát:

- Địch Thanh, chúng ta không có lựa chọn!

Địch Thanh nói:

- Chúng ta có thể lựa chọn đi!

Vương Khuê lại xuất kiếm, lại giết thêm một người, quát:

- Dụng ý của bọn chúng chính là ép chúng ta đi! Lúc này chúng ta phải phòng bị nghiêm ngặt, không để bọn chúng đến gần Thánh thượng. Nhưng trên đường chạy trốn, ai có thể đảm bảo được Thánh thượng sẽ không gặp nguy hiểm chứ?

Máu trên trường kiếm rơi xuống ngưng đọng trong đêm xuân lạnh. Trong mắt Vương Khuê tuy có chút bất đắc dĩ nhưng đao kiếm không niệm tình, trong chốc lát lại đã giết chết mấy người.

Các thị vệ bị nhốt đã tỉnh táo lại và chạy về phía Vương Khuế. Mọi người vây thành vòng tròn bên ngoài, thấy mấy nha dịch kia vọt tới thì không nương tay. Tuy mấy nha dịch đó điên cuồng nhưng lại không biết thay đổi theo tình hình, chỉ biết xông về phía trước, không biết né tránh. Chỉ trong chốc lát bọn chúng đã bị các thị vệ chém giết hết.

Trong không khí tràn đầy mùi máu tanh, trên mặt đất máu chảy như sông, một thị vệ nhìn thấy các thi thể đầy trên mặt đất chịu không nổi sự ghê tởm, liền nôn thốc ra, dạ dày các thị vệ khác cũng co giật, mấy người cũng nôn ra theo, tiếng nôn ọe cứ liên tục không thôi.

Vương Khuê thu trường kiếm về. Lúc này anh ta mới băng bó sơ qua vết thương của mình. Đột nhiên anh ta nghe thấy tiếng bước chân từ phía sau vang lên, Vương Khuê quay đầu nhìn lại thì thấy Triệu Trinh đang đi tới dưới sự hộ vệ của các thị vệ, liền quỳ một gối xuống nói:

- Thần thủ vệ không tốt đã khiến Thánh thượng sợ hãi rồi!

Triệu Trinh giơ tay kéo Vương Khuê, thở dài nói:

- Các ngươi đã cố gắng rồi. Trẫm đều đã thấy cả. Chỉ có điều…những người này thực sự có thù hận với trẫm hay sao mà cứ phải lấy tính mạng của trẫm mới được?

Trong lòng Triệu Trinh tràn đầy nghi hoặc, dường như không hiểu bản thân mình cải trang đến đây lại khiến cho kẻ nào đó cố ý tới tập kích.

Vương Khuê do dự một chút nói:

- Lã Đương Dương này chưa chắc đã là huyện úy huyện Củng.

Triệu Trinh nói:

- Nếu không phải là huyện úy huyện Củng thì làm sao lại có thủ dụ của Huyện lênh được? Ôi, chỉ sợ là không đợi được nhân lực huyện Củng đến cứu giá rồi.

Vương Khuê vội hỏi:

- Thánh Thượng, nói không chừng thực sự có huyện úy tới cứu Thánh thượng nhưng lại bị nhóm nghịch tặc đó đón giết, lấy thủ dụ của bọn họ.

Địch Thanh đột nhiên nói:

- Nói không chừng huyện úy này thực sự phụng theo thủ dụ của Huyện lệnh.

Mọi người trầm mặc, từ trong lòng thấy như toát lạnh. Nếu thật sự là như thế thì chính là tạo phản rồi! Huyện lệnh làm sao có gan lớn như thế được? Lẽ nào có người bày mưu đặt kế? Rốt cuộc là ai muốn ám sát thiên tử? Rất nhiều người đều đang suy đoán nhưng không ai dám nói.

Áng trăng lạnh lẽo chiếu lên máu đông khiến cho khung cảnh càng thê lương. Mọi người nhìn mà lòng ưu tư. Đúng lúc này xa xa đột nhiên truyền đến tiếng sáo khoan thai. Mọi người ngẩn ra. Trong lúc khó hiểu đó làm sao lại có tiếng sáo vang tới như thế chứ? Tiếng sáo đó như tiếc nuối thời gian, than đêm dài lạnh lẽo, toàn là ý thê lương. Triệu Trinh nghe xong mà thấy bi thương, hận là chẳng thể khóc lớn lên một trận.

Ngay khi các thị vệ đang ngơ ngác nhìn nhau thì tiếng sáo đã bất thình lình chuyển điệu, tiếng sáo trở nên mờ mịt xa xăm, tràn đầy không khí chiến tranh. Một lát sau tiếng sáo lại thay đổi, chỉ còn là tiếng nức nở. Tiếng sáo kia trầm thấp nhưng lại cực kỳ có lực. Lại một thời gian nữa trôi qua, xung quanh đều như có tiếng sáo, như ma than quỷ khóc bao vây đám đông bên trong.

Mặc dù Vương Khuê thấy kinh ngạc với sự biến đổi đa dạng của tiếng sáo kia nhưng càng kinh hãi hơn dụng ý của người tới đó. Anh ta hét to:

- Người nào giả thần giả quỷ? Có tài thì ra đây đánh một trận.

Tiếng quát chưa dứt, ánh mắt Võ Anh đã ngưng đọng:

- Mọi người nhìn xem! Rắn kìa!

Võ Anh vốn là con người trầm tĩnh. Nhưng bây giờ trong tiếng kêu của anh ta cũng mang ý kinh hoàng.

Mọi người đưa mắt nhìn lại, toàn thân lạnh toát. Trong đêm tối chỉ nghe thấy có tiếng sàn sạt, căng mắt nhìn về phía đó thấy có vô số rắn độc đang trườn về đám người Triệu Trinh.

Rắn tuôn ra như sóng, bốc lên không ngớt. Triệu Trinh chỉ cảm thấy hai chân như nhũn ra, khàn giọng nói:

- Làm sao…chuyện gì đây? Hộ giá!

Bọn thị vệ cũng choáng váng. Bọn họ có thể đẩy lui thích khách nhưng làm sao có thể đẩy lui được lũ rắn nhiều đến vô cùng vô tận thế này chứ?

Lúc này tiếng sáo gấp hơn. Mặc dù bầy rắn độc không bò nhanh lắm nhưng chính cái kiểu uốn lượn phập phồng này càng khiến người ta hết hồn. Tâm trạng Vương Khuê xáo trộn. Anh ta quát:

- Nhanh lên, mau đốt lửa đuổi rắn!

Mọi người bừng tỉnh, thầm nghĩ rắn rất sợ lửa. Lúc này chỉ có thể lấy lửa đuổi rắn. Đã có thị vệ luồn ra ngoài tụ củi đốt, đốt thành một đám lửa lớn.

Địch Thanh không ngờ đám rắn lại nghe theo sự chỉ huy của tiếng sáo. Kẻ thù thật sự có khả năng đáng kinh ngạc, càng cảm thấy thích khách tập kích sớm đã có sự chuẩn bị, chứ tuyệt đối không phải chỉ là đơn giản đuổi rắn đến tấn công như thế. Địch Thanh lo lắng nói:

- Chỉ sợ bọn họ còn có hậu chiêu.

Vừa mới nói xong thì một tiếng trống vang lên. Tiếng trống như sấm sét, trong trời đêm càng trở nên nặng nề, mang quỷ khí dày đặc. Mọi người kinh ngạc, Không biết giờ khắc này làm sao lại vẫn còn có người đánh trống?

Tiếng sáo ngừng, bầy rắn ngừng, tiếng trống lại nổi lên, chỉ thấy từ xa xa có một đốm lửa bắn tới, chiếu sáng ở trên cao.

Đó là một hỏa tiễn. Vương Khuê thấy thế thì hừ lạnh mọt tiếng, mũi ngón chân khẽ nâng lên, một cây củi khô bay lên, vừa trúng vào trên mũi tên kia. Mọi người còn chưa kịp trầm trồ khen ngợi thì đã nghe thấy một âm thanh thình thịch vang lên. Hỏa tiễn kia không ngờ lại nổ tung ra, khói đen phun ra nồng nặc.

Địch Thanh hét lớn:

- Nín thở mau, cẩn thận khói có độc!

Vương Khuê kinh hãi, quát:

- Địch Thanh, Trương Ngọc, bảo hộ Thánh thượng! Chu Quan, Tang Dịch đỡ Lý Dụng Hòa, Võ Anh mở đường, ta sẽ cản người phía sau!

Vương Khuê vốn định đợi quân địch mệt mỏi rồi tấn công, không ngờ mưu kế của đối thủ chồng chất, chỉ có thể ép Vương Khuê, Địch Thanh phá vây. Tuy Vương Khuê biết bị trúng kế nhưng lúc này cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ có thể tạm thời rời khỏi chỗ này.

Mặc dù khói đen rất nồng nhưng tốc độ lan ra cũng không nhanh. Địch Thanh sớm đã dùng vải ướt che kín mũi miệng của Triệu Trinh rồi cõng anh ta trên lưng xông ra ngoài. Mọi người cùng nhau xông ra, rất nhanh đã ra khỏi phạm vi của khói đen. Có một vệ sĩ chậm chân đã hít phải khói đen, người lắc lư hai cái rồi ngã sụp xuống đất.

Mọi người hoảng sợ, không ngờ độc của khói lại có thể lợi hại như thế. Vương Khuê mới đi cứu người nọ thì chợt nghe thấy từ xa xa có mấy tiếng bò rống. Mọi người ngoảnh đầu lại nhìn thì thấy xa xa những đốm sáng hiện lên, càng ngày càng tới gần. Mấy con bò trên đầu có gắn đao nhọn, đuôi cháy lửa xông về phía bọn họ. Lửa bò đến rất nhanh, Vương Khuê kinh sợ kêu lên:

- Địch Thanh, cẩn thận!

Địch Thanh né người tránh bò lửa. Mấy con bò lửa kia vọt xông đến, đạp trên đống lửa, lập tức khỏi lửa bốc ra tứ phía. Tiếng sáo lại vang lên, bầy rắn lại tuôn ra, sàn sạt trườn tới. Những người bị ngã xuống đất giãy giụa muốn dậy nhưng lại bị đàn rắn trườn qua và rất nhanh đã bị mất mạng dưới nọc độc rắn.

Trong lòng Vương Khuê, sự kinh sợ và phẫn nộ đan xen. Không ngờ đối thủ không chỉ có một người, đã dồn anh ta đến bước không thể không trốn. Lúc này hỏa trận đã bị phá, không thể đuổi rắn đi được nữa, chỉ còn một đường chạy trốn về phía lăng đế vương. Nhưng đối thủ đã bày ra sách lược thế này thì làm sao mà biết được chúng có đặt bẫy ở lăng đế vương hay không?

Mọi người chạy rất nhanh. Tuy kinh sợ vô cùng nhưng vẫn hộ vệ Triệu Trinh ở giữa. Địch Thanh lưng cõng một người. Mặc dù thể trạng không tồi nhưng cũng có chút thở hổn hển. Diêm Văn Ứng vội kêu lên:

- Vừa rồi nếu như sớm chạy đi thì còn có thể cưỡi ngựa, chứ bây giờ thì hay rồi, mất cả thế chủ động.

Triệu Trinh quát lên:

- Bây giờ trách móc thì có tác dụng gì? Vương Khuê, rốt cuộc nên đi đâu, ngươi hãy quyết định đi.

Trong lúc bối rối hoảng loạn, Triệu Trinh vẫn chưa mất đi sự mực thước, biết rằng lúc này nên lấy việc ủng hộ sĩ khí làm chính.

Vương Khuê cũng bàng hoàng chưa có kế sách gì. Anh ta quay ra nhìn về phía Địch Thanh Địch Thanh cau mày nói:

- Như ta thấy thì lăng Vĩnh Định chắc là sẽ có người mai phục…

Bọn thị vệ cũng tán thành, Vương Khuê chậm rãi nói:

- Cũng chưa chắc. Kẻ thù dùng kế hư hư thực thực. Cho đến bây giờ bọn chúng chỉ đưa ra bốn thích khách thì đã chết ba rồi. Nếu như bọn chúng đông người thật thì tại sao không thừa dịp hỗn loạn mà tấn công luôn?

Địch Thanh sửa lại câu nói:

- Bọn họ ít nhất cũng là có năm thích khách. Trước mắt là chết ba, nhưng hai người Đa Văn và Trì quốc kia đều là cao thủ ngang cơ. Ta nghĩ không mấy người có thể là đối thủ của bọn chúng.

- Vậy tiếng sáo, tiếng trống kia thì sao? Có hai Thiên Vương hay là còn có người khác nữa?

Trương Ngọc ở bên không kìm được hỏi.

Địch Thanh cau mày nói:

- Nếu không phải là hai người Trì quốc và Đa Văn kia thì có thể còn có hai người ngoài nữa. Lẽ nào bọn chúng có tổng cộng bốn người?

Vương Khuê trầm giọng nói:

- Không cần biết bọn chúng có mấy người, nhưng không nhiều quá đâu. Bọn chúng nghĩ hết cách này đến cách khác để buộc chúng ta chạy trốn chính là muốn thừa dịp loạn để giết Thánh thượng. Nếu như bọn chúng tất nắm phần thắng trong tay thì đã sớm ra tay rồi chứ sao lại cứ phải lén lét lút lút như thế? Bởi thế nên trước mắt dù là đi đâu chúng ta cũng không được phân tán.

Mặc dù đã bị mất đi mấy thị vệ nhưng vẫn còn có ba mươi cao thủ. Những người này đều đã trải qua xem xét của Quách Tuân, được xếp vào hạng võ công trác tuyệt trong bát đại cấm quân. Bọn họ nghe thấy Vương Khuê phân tích như thế thì đều tán thành, sĩ khí dâng trào.

- Vậy bây giờ nên làm thế nào?

Diệp Văn Ứng hỏi gấp, trong ánh mắt nhìn Triệu Trinh của ông ta có chút gì đó quái dị. Triệu Trinh cũng đang nhìn Diêm Văn Ứng, trong mắt dường như cũng có tia lo lắng.

Địch Thanh thấy vẻ mặt hai người kỳ quái, còn chưa nghĩ được gì nhiều thì đã nghe thấy một tiếng ngựa hí trong bóng đêm. Một con tuấn mã phi ra từ trong màn đêm, xẹt qua mọi người. Một người nhảy ra từ trong đám đông, đột nhiên ra tay giữ lấy cương ngựa. Con ngựa có sức chạy nhanh vô cùng nhưng trong tiếng thét lên của người đó, con ngựa đã bị kéo dây cương lại. Con ngựa kinh sợ kêu lên, dựng thẳng người không thể đi về phía trước được nữa.

Mọi người nhìn lại thì thấy người đó chính là Điện tiền thị vệ Chu Quan. Địch Thanh nhớ tới lời đánh giá của Quách Tuân là “Sức mạnh của Chu Quan Thiên Võ quân khó mà địch nổi” thì không khỏi khâm phục sức mạnh lớn lao của người này, cũng cảm thấy lời đánh giá của Quách Tuân rất đúng.

Triệu Trinh thấy thế, quát lên:

- Thật là dũng sĩ thực sự!

Triệu Trinh nhìn thấy Chu Quan kéo con tuấn mã, rồi lại thấy ý chí chiến đấu của bọn thị vệ không giảm thì trong lòng khá là an tâm. Lúc này Chu Quan đã dắt con ngựa tới nói:

- Thánh thượng, xin mời lên ngựa!

Triệu Trinh thấy con ngựa kia vô cùng thần tuấn thì không khỏi vui sướng, vội nói:

- Tốt lắm

Rồi Triệu Trinh mới lên ngựa. Địch Thanh đột nhiên nói:

- Khoan đã, ở đây sao tự nhiên lại xuất hiện một con ngựa được chứ?

Vương Khuê cũng nghi hoặc nói:

- Thánh thượng, để thần kiểm tra trước đã.

Anh ta nhanh bước chân về phía trước, kiểm tra một cách cẩn thận những chỗ có thể có vấn đề như cương ngựa, yên ngựa và bàn đạp, thấy không có gì bấy thường thì mới thở phào một cái nói:

- Địch Thanh, con ngựa này không có vấn đề gì đâu. Mời Thánh thượng lên ngựa!

Trong lòng Địch Thanh vẫn còn cảm thấy nghi hoặc. Hắn luôn cảm thấy có chút gì đó không ổn. Hắn nhìn chằm chằm vào con ngựa đó một lúc lâu. Diêm Văn Ứng có chút bất mãn, thầm nói:

- Cẩn thận quá như các ngươi, không biết rằng như thế là bỏ mất bao nhiêu cơ hội rồi.

Triệu Trinh trở mình lên ngựa, nói:

- Bây giờ nên đi đâu?

Triệu Trinh đã có con ngựa nên cũng cảm thấy có chút sức mạnh. Triệu Trinh quay ra nhìn Diêm Văn Ứng, Diêm Văn Ứng thấp giọng đáp:

- Thánh thượng, chúng ta vẫn nên đến lăng tiên đế, tiên đế chắc chắn sẽ phù hộ cho chúng ta.

Địch Thanh thấy thế thầm nghĩ Triệu Trinh vẫn luôn muốn đến lăng tẩm để lấy một thứ. Trước mắt thì hắn vẫn chưa hết hy vọng. Trong lúc đang suy nghĩ thì xa xa có tiếng huýt sáo du dương.

Mọi người cùng kinh sợ, biết rằng tiếng huýt sáo đó tất có điều không ổn. Qủa nhiên tiếng huýt sáo vừa truyền đến thì liền nghe thấy tiếng hổ gầm vang đến, lập tức gió tanh nổi lên. Con ngựa kinh sợ hí vang, một con mãnh hổ sặc sỡ chui ra như không có bất cứ một điềm báo trước nào. Nó dùng móng vuốt vồ ngay lên ngực của thị vệ đi đầu tiên.

Móng vuốt của mãnh hổ như dao, rạch cào lên người thị vệ đó một đường từ ngực xuống bụng. Tên thị vệ hét thảm một tiếng mất mạng. Bọn thị vệ sợ hãi, lại nhìn thấy một người phi thân ra, trường kiếm như cầu vồng đâm về phía con mãnh hổ. Người đó chính là Võ Anh.

Trong tiếng hô vang của mọi người, con mãnh hổ dường như có linh tính, nó né người tránh trường kiếm của Võ Anh. Trong tiếng huýt sáo, con hổ quay ra cắn vào thị vệ bên cạnh, thị vệ đó né người lui về sau. Ngay lập tức, một cánh tay giơ lên, mũi tên đã bắn ra vào trúng ngay bụng hổ. Người bắn nỏ đó là Tang Dịch.

Vương Khuê thấy con mãnh hổ bị thương, không mừng mà lại thấy kinh sợ. Bởi vì sự xuất hiện của mãnh hổ khiến con ngựa kinh sợ. Con ngựa bỗng nhiên lồng lên chạy như bay, thoát ra khỏi vòng bảo hộ của các thị vệ.

Tiếng huýt sáo xa xa trên đỉnh núi dần ngừng, tiếng sáo lại vút lên giống như tiếng gào khóc thảm thiết. Con ngựa kia hơi dừng lại một chút rồi lại lập tức phi về hướng đỉnh núi.

Vương Khuê khàn giọng nói:

- Hộ giá!

Lời còn chưa nói ra hết, anh ta đã lao thân chạy theo hướng con ngựa. Dưới ánh trăng, thân hình Vương Khuê loang loáng bị ép phải dốc toàn bộ khí lực. Lúc này anh ta mới biết được kẻ thù đã sắp xếp thật khéo léo, thật sự không thể tưởng tượng nổi.

Số người của đối phương thực sự không nhiều nên mới nghĩ ra trăm phương ngàn kế để cô lập Triệu Trinh. Bọn chúng đốt cung Hiếu Nghĩa, xua rắn độc, phóng khói độc, đưa trâu điên ra chẳng qua là muốn ép mấy người Vương Khuê phải hoảng sợ chạy đi, sau đó đối phương dùng con ngựa để dụ dỗ, để cho thị vệ bắt được con ngựa hoangBao nhiêu người như thế mà chỉ có một con ngựa thì đương nhiên người ngồi lên chính là Triệu Trinh rồi.

Chỉ cần Triệu Trinh ngồi lên lưng ngựa rồi bọn chúng sẽ dùng hổ để khiến ngựa hoảng sợ và dùng tiếng huýt sáo để lôi kéo con ngựa chạy đi là có thể dễ dàng ngăn cách Triệu Trinh với bọn thị vệ đúng như ý muốn của bọn chúng. Suy nghĩ của kẻ thù kín đáo, càng kinh người hơn là tiếng nhạc quỷ dị, biến đổi vô lường, như là có khả năng vô thượng vậy. Vậy kẻ địch rốt cuộc là ai?

Mặc dù Vương Khuê đã dốc hết sức nhưng vẫn không thể kéo gần khoảng cách với con ngựa hoảng sợ đó. Anh ta thấy sức mình không đủ nữa rồi liền giơ tay vung kiếm dốc sức vung về phía trước. Anh ta không sợ sẽ không đâm trúng con ngựa đang kinh sợ, mà sợ đâm bị thương con ngựa thì ngược lại sẽ khiến nó phát tác dã tính. Trường kiếm Vương Khuê nhanh như chớp đã vượt lên trước con ngựa Một âm thanh lớn vang lên, trường kiếm cắm vào đất, ngay trước con ngựa. Con ngựa hoảng sợ hí lên và dừng bước chân. Vương Khuê mừng rỡ, khó khăn lắm mới đến được bên hông con ngựa, đưa tay ra bắt lấy nó thì trên đỉnh núi đột nhiên lại vang lên một tiếng sáo, truy hồn đoạt phách!

Con ngựa kinh sợ hí lên một tiếng, móng trước giơ lên đạp vào Vương Khuê. Vương Khuê không thể không né tránh. Nếu như cơ thể của anh ta bị hai chân của con ngựa này đạp vào thì chắc chắn sẽ biến thành thịt vụn. Nhưng chỉ né một cái như thế thôi, con ngựa đã vượt qua Vương Khuê.

Vương Khuê giận quát lên một tiếng, xoay người nhảy lên, muốn vồ lấy con ngựa, đầu ngón tay đã chạm vào đuôi ngựa nhưng đã không còn đủ sức nên ngã trong khoảng không. Trong nháy mắt con ngựa đã chạy thoát ra được hơn một trượng. Vương Khuê đã tuyệt vọng, khàn giọng nói:

- Thánh thượng, mau nhảy xuống ngựa đi!

Nhưng Triệu Trinh ở trên ngựa, không biết là vì sợ đến ngây người ra hay là vì không dám mà lại chỉ cứ ôm chặt lấy lưng ngựa, làm sao muốn nhảy ngựa? Nhưng ngay lúc đó, một người chạy qua, thả người nhảy lên, chộp về phía con ngựa.

Người xuyên ra đó là Địch Thanh. Địch Thanh vốn không nhanh bằng Vương Khuê. Nhưng con ngựa kia bị Vương Khuê làm cho sợ hãi đã thay đổi phương hướng, Địch Thanh vừa mới chặn qua, vừa hay lại ngăn lại kịp.

Địch Thanh thả người bổ nhào ra. Hắn đã tính chuẩn có thể bắt lấy dây cương ngựa rồi nhưng con ngựa hoảng sợ này thực sự tốc độ quá nhanh. Khi người hắn còn ở trên không trung, con ngựa đã chạy qua rồi. Địch Thanh vội giơ cánh tay ra, ôm chặt lấy đuôi ngựa nhưng con ngựa vẫn không dừng lại mà vẫn tiếp tục phi về phía đồi núi.

Địch Thanh đã bắt lấy đuôi ngựa, sao có thể thả ra được. Một tay còn lại cũng cố hết sức bắt lấy đuôi ngựa, hai chân nối nhau, dường như chân không chạm đất. Hắn bị con ngựa kéo bay đi theo.

Tiếng sáo càng lúc càng mãnh liệt, con ngựa chạy càng gấp hơn!

Mặt mày Địch Thanh xám tro u ám nhưng vẫn kéo đuôi ngựa, đập đập vào mông ngựa kêu lên:

- Thánh thượng, người không sao chứ?

Từ lúc ở trên con ngựa hoảng sợ, hồn phách Triệu Trinh đã như bay đi mất, đến bây giờ mới hoàn hồn được một chút. Thấy Địch Thanh đang nắm lấy đuôi ngựa, đang trong hoàn cảnh nguy hiểm mà vẫn quan tâm đến sự an nguy của mình thì không khỏi lấy làm cảm động, nức nở nói:

- Địch Thanh…Ngươi… tốt lắm. Khi quay về Trẫm sẽ…thăng quan cho ngươi!

Địch Thanh âm thầm cười khổ. Hắn thấy tiếng còi càng lúc càng gấp hơn, con ngựa không có ý gì là dừng lại mà cứ vút thẳng lên núi. Hắn biết kẻ thù đang ở đây, vì thế bất luận thế nào thì cũng không thể để con ngựa chạy lên đồi cao đó được.

Bụi đất bay mù mịt, tiếng còi thê lương. Đúng lúc Địch Thanh đang thay đổi ý nghĩ, dùng một cánh tay nắm lấy đuôi ngựa, bỏ một tay ra, tháo vỏ đao ra hích vào mông con ngựa, con ngựa đau đớn hoảng sợ, hí dài. Địch Thanh đột nhiên cảm thấy một lực rất mạnh trong mình. Hắn thuận thế leo lên lưng ngựa, đẩy Triệu Trinh xuống khỏi con ngựa.

Triệu Trinh sợ tới mức kêu thảm thiết, chỉ cảm thấy trời đất u ám. Lúc Địch Thanh xuống ngựa, hắn liếc qua nơi đồi cao hình như có một bóng người vọt qua, chạy thẳng về phía này, biết rằng người đó chắc không có ý đồ gì tốt đẹp, Địch Thanh liền ôm lấy Triệu Trinh lăn về phía triền núi khác.

Con ngựa đã chạy đi rất xa. Đoạn đường này địa thế khá cao. Hai người lăn xuống, người lăn lộn đến thất điên bát đảo, mãi vẫn chưa dừng. Triệu Trinh sớm đã ngất đi rồi, Địch Thanh thì vẫn cắn răng chịu đựng. Chẳng biết là bao lâu sau, chỉ cảm thấy đầu óc quay cuồng, toàn thân đã không còn cảm nhận được chỗ nào đau nữa thì một tiếng phịch lớn vang lên, ngực Địch Thanh đau đớn, đã đụng vào một cây tùng. Thế lăn xuống của hai người cuối cùng cũng đã chậm lại.

Địch Thanh chỉ cảm thấy gân cốt như muốn nứt ra, máu trong miệng phun ra. Hắn cúi đầu trông qua thì thấy hai mắt Triệu Trinh nhắm chặt nhưng vẫn còn thở, biết rằng Triệu Trinh chẳng qua là vì sợ quá nên tạm thời hôn mê mà thôi. Hắn nhanh chóng đánh giá tình thế xung quanh, phát hiện ra mình đang ở một vùng đất lõm, xung quanh là tùng bách, cỏ dại mọc đầy.

Địch Thanh bất chấp sự đau đớn của cơ thể, ngẩng đầu nhìn lên trời, phân biệt rõ phương hướng. Nhớ rõ rằng bọn thị vệ đang ở hướng đông mới cõng Triệu Trinh trên lưng chạy như điên cuồng, đột nhiên hắn nghĩ ra, nếu kẻ địch biết hắn vội vã tụ hợp lại với mọi người thì chắc chắn sẽ chặn giữa đường. Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh bỗng xoay người chạy về phía tây, ngược hướng với phía bọn thị vệ. Chiêu này cực kỳ nguy hiểm nhưng Địch Thanh đã quyết định thì sẽ không do dự.

Lúc này mây trên trời bay bay, mặt trăng xấu hổ, gió đông phe phẩy khiến đêm xuân thêm buồn. Ai biết được rằng trong sự khoan thai đó lại ẩn chưa sát khí chết người.

Chạy thẳng một đường mà phía trước không có vậtản gì, Địch Thanh thầm cho là may mắn, đi được vài dặm, hắn đặt Triệu Trinh nằm trên cỏ. Hắn thở hổn hển từng hơi, mỏi mệt như muốn chết, trong lòng chỉ nghĩ nếu như kẻ thù không chặn lại được mình thì nhất định sẽ nghĩ ra cách của mình, đuổi theo hướng ngược lại. Đến lúc đó thì nên làm thế nào đây?

Đang lúc trầm ngâm thì Triệu Trinh từ từ tỉnh lại, thấy Địch Thanh mình, Triệu Trinh giãy giụa kêu lên:

- Địch Thanh, trẫm vẫn còn sống sao?

Địch Thanh thấp giọng nói:

- Tuy chúng ta còn sống nhưng đã cách mấy người Vương Khuê rất xa. Bây giờ bốn phía đều là kẻ địch, chúng ta nhất định phải cẩn thận.

Triệu Trinh cũng giảm thấp thanh âm xuống, nói:

- Vậy thì nhanh phát tín hiệu để bọn họ chạy đến cứu viện đi.

Triệu Trinh biết lần này xuất hành tất cả các thị vệ đều có pháo tín hiệu. Pháo tín hiệu dùng để truyền đạt thông tin về vị trí, chỉ cần thả ra thì các thị vệ sẽ lập tức tới cứu viện.

Địch Thanh do dự nói:

- Lần này người ám sát Thánh thượng rất hiểu hành tung của Thánh thượng. Sau khi tín hiệu được phát ra thì thích khách có khi lại sẽ đến trước mất.

Mặt Triệu Trinh biến sắc, nói gấp:

- Vậy phải làm sao bây giờ? Địch Thanh, ngươi nhất định phải cứu trẫm!

Địch Thanh an ủi:

- Thánh Thượng cứ yên tâm, thần sẽ dốc sức hết mình.

Triệu Trinh an tâm hơn một chút. Thấy Địch Thanh trầm ngâm không nói thì không muốn làm ngắt dòng suy tư của hắn. Địch Thanh ngẩng đầu nhìn trời, thả lỏng tâm trạng, dường như lại nhớ tới thời thơ ấu. Khi đó hắn và các bạn rất thích chơi trò trốn tìm, cố gắng không để cho đối phương tìm thấy mình. Ngày xưa là trò chơi, thắng thua không quan trọng. Nhưng lần này mà thua thì ngay cả tính mạng cũng có thể bˠmất.

Đột nhiên hắn nghĩ ra một ý kiến. Hắn nói:

- Thánh thượng, nếu muốn sống thì tất cả phải nghe theo thần đó.

Triệu Trinh sớm đã rối loạn, gật đầu lia lịa.

Địch Thanh nhìn xung quanh, nhìn thấy các cây gỗ xung quanh đều cao, đi vào trong rừng tìm một dây mây khô, giật xuống , thấy khá là chắc chắn liền xoay người giơ tay giật một vạt áo của Triệu Trinh xuống.

Triệu Trinh hoảng sợ, hỏi:

- Ngươi làm gì đó?

Địch Thanh không nói mà rất nhanh đã cầm lấy vạt áo của Triệu Trinh kéo đi hơn mười trượng, treo trên bụi gai. Sau đó hắn lại đi vài bước về phía trước, lăn qua lăn lại, rồi đập gãy mấy cành cây khô. Triệu Trinh từ xa nhìn thấy thì chẳng hiểu ra sao. Không biết Địch Thanh bị điên hay là ngộ rồi.

Địch Thanh làm xong hết thảy rồi quay về, lấy dây mây thắt ở bên hông Triệu Trinh, sau đó dắt lên cây, nhẹ giọng nói:

- Thánh thượng, người cẩn thận.

Hắn dùng hết khí lực của mình kéo Triệu Trinh lên cây. Lúc này hắn mới thở phào một cái.

Bàn tay mềm không dính chút bẩn nào của Triệu Trinh đã sớm đầy là vết thương. Nhưng lúc này Triệu Trinh bất chấp đau đớn, lo sợ nói:

- Địch Thanh, nấp trên cây có ổn không?

Địch Thanh nói:

- Có ổn không thì phải thử mới biết được.

Vừa dứt lời hắn xuống cây, lại chạy đi hơn mười trượng, từ trong người lấy ra pháo tín hiệu, gỡ vỏ ra, đón gió lắc một cái. Tín hiệu kia cháy lên, bay lên không trung, trong bóng đêm nó trở nên lóa mắt vô cùng.

Triệu Trinh vừa nhìn thấy thiếu chút nữa hôn mê bất tỉnh. Vừa rồi Địch Tha còn nói không thể phát tín hiệu được, sợ có người đuổi giết. Thế mà mới một lúc thôi đã chủ động dụ người đến rồi.

Địch Thanh thả tín hiệu ra, ung dung quay trở về, nhìntrên cỏ không có dấu vết gì mới trèo lên cây, dùng cành lá rậm rạp để che hai người. Lúc này hắn mới nói:

- Thánh thượng, lát nữa dù có bất cứ chuyện gì xảy ra Thánh thượng cũng không được lên tiếng.

Triệu Trinh gật gật đầu, thấy quần áo mình tả tơi, vô cùng nhếch nhác, chỉ hận không thể khóc lớn một trận.

Chỉ một lúc sau thấy từ phía đông có một người mặc quần áo thị vệ chạy vội tới, gọi nhỏ:

- Thánh thượng đâu rồi?

Triệu Trinh thiếu chút nữa là lên tiếng trả lời nhưng lại nhớ lại lời của Địch Thanh liền cắn chặt răng không nói. Người nọ nhìn khắp xung quanh, quay mặt lại, ánh trăng sáng chiếu rõ trên khuôn mặt người này, đầy vẻ dữ tợn. Lúc này Triệu Trinh mới phát hiện ra mình không quen biết người này.

Địch Thanh thấy hai tròng mắt của người đó như đôi mắt chim ưng, mặt gầy, lưng đeo một cây đao đơn, toàn thần tràn đầy dũng mãnh thì trong lòng rùng mình. Người này chính là Trị Quốc Thiên Vương. Trị Quốc Thiên Vương hô gọi hồi lâu. Lúc sau lại có một người chạy tới, trong tay cầm một cây ô dài, đó chính là Đa Văn Thiên Vương!

Đa Văn Thiên Vương cũng mặc quần áo thị vệ. Địch Thanh thấy thế trong lòng lạnh toát. Chẳng cần hỏi cũng biết, hai người này cả đường tìm kiếm Triệu Trinh, tiện tay đã giết mấy thị vệ. Tuy các thị vệ người đông thế mạnh nhưng nếu đánh lần lượt thì không ai có thể là địch thủ của hai người này. Địch Thanh nghĩ đến đây thì không khỏi thấy buồn vì các huynh đệ thị vệ.

Đa Văn Thiên Vương quát khẽ:

- Người đâu rồi?

Trị Quốc Thiên Vương cắn răng nói:

- Chắc chắn là cái thằng tiểu tử đó giở trò rồi. Khi ta đuổi đến thì chẳng thấy bóng dáng tên cẩu Hoàng đế đâu hết. Chúng ta đợi trên đường chúng quay về, không ngờ bọn chúng lại không quay về. Cái tên Địch Thanh này liên tiếp phá hỏng đại sự của chúng ta. Lần sau thấy hắn thì nhất định phải róc xương lóc thịt hắn ra!

Đa Văn Thiên Vương cau mày nói:

- Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa đâu, nhiều lời vô ích, bắt gọn được cẩu Hoàng đế mới là chính đạo.

Nói xong, y ngẩng đầy lên nhìn về phía trước. Địch Thanh rùng mình, không nhúc nhích. Triệu Trinh thì cho là hai người Đa Văn Thiên Vương đã phát hiện ra hai người, tim suýt nhảy ra khỏi lồng ngực.

Đa Văn Thiên Vương chỉ là nhìn sắc trời, cúi đầu thở dài:

- Bao nhiêu mưu kế của chúng ta lại không giết chết được cẩu Hoàng đế, chẳng lẽ vận số của Đại Tống thật sự chưa hết?

Địch Thanh kinh ngạc, thầm nghĩ: nghe giọng nói của hai người này chẳng lẽ không phải là người Tống? Lẽ nào bọn chúng không phải là người của Thái hậu sao?

Trị Quốc Thiên Vương đột nhiên ánh mắt ngưng tụ, nhìn về phía xa nói:

- Bên đó hình như có biến.

Lúc này có hai người từ hướng đông chạy tới, quát:

- Phát hiện được gì không?

Hai người đó là thị vệ thật, nhìn thấy hai người kia mặc trang phục của người nhà mình thì liền hỏi.

Đa Văn Thiên Vương lắc đầu nói:

- Không thấy Thánh thượng đâu cả.

Có một thị vệ đột nhiên nói:

- Làm sao mà ta…chưa từng gặp hai ngươi nhỉ?

Đa Văn Thiên Vương giơ tay chỉ về phía xa xa, kinh ngạc nói:

- Ôi, ai kia? Thánh thượng phải không?

Hai thị vệ kia không kìm nổi quay đầu nhìn lại thì hai người Trì Quốc, Đa Văn đã lắc mình tiến về phía trước, ô đâm đao chém, trong nháy mắt đã giết chết hai thị vệ.

Địch Thanh nhìn thấy hai người Đa Văn, Trì Quốc giết người như ngóe thì càng thấy lạnh tim.

Đa Văn Thiên Vương thu lại cây dù quý. Lúc này mới đi về phía Trị Quốc Thiên Vương chỉ. Bỗng nhiên y hơi cúi người xuống bắt lấy vạt áo mà Địch Thanh đã vứt bỏ, nhìn rồi nói:

- Đây là quần áo của tên cẩu Hoàng đế. Bọn chúng đã đi qua đây rồi.

Tinh thần của Trị Quốc Thiên Vương rung lên, cúi đầu xem xét nói:

- Cành cây khô này là bị người giẫm lên. Bọn chúng thực sự đã đi qua đây. Chắc chắn là Địch Thanh sau khi phóng tín hiệu đi, sợ chúng ta đuổi đến kịp nên chạy trốn rồi. Cẩu Hoàng đế được nuông chiều từ bé, Địch Thanh dẫn theo tên cẩu Hoàng đế chắc chắn cũng chạy không nhanh.

Đa Văn Thiên Vương cau mày nói:

- Bọn chúng đi đâu chứ?

Trị Quốc Thiên Vương nói:

- Thấy chúng còn cách lăng Vĩnh Định đã gần rồi, chắc là chúng muốn đi trốn ở lăng Vĩnh Định rồi. Chúng ta đuổi theo thôi.

Vừa nói dứt lời thì nhoáng một cái đã chạy về phía tây. Đa Văn Thiên Vương gắt gao đi theo, thân hình như một đám khói nhẹ. Triệu Trinh giờ mới hiểu được dụng ý của Địch Thanh khi lăn lộn giẫm lên nhánh cây. Triệu Trinh vừa mừng vừa khâm phục, đang định nói thì Địch Thanh giơ tay bịt miệng. Triệu Trinh không hiểu nhưng cũng ngậm miệng lại.

Một lúc lâu sau , đột nhiên có tiếng vang lên từ dưới cái cây Triệu Trinh đang nấp.

- Đúng là bọn chúng không ở đây. Ngươi đừng đa nghi quá.

Đó là giọng nói của Trị Quốc Thiên Vương.

Trong lòng Triệu Trinh kinh hoàng, mới hiểu hai người kia nhìn như là đã đi xa nhưng thực ra là đang yên lặng xem xét động tĩnh. Nếu như mình lên tiếng thì chỉ sợ sẽ bị bọn chúng bắt được ngay.

Đa Văn Thiên Vương gật đầu nói:

- Đi thôi.

Lúc này hai người mới phi nước đại rời đi. Địch Thanh vẫn không dám khinh suất, lại lắng nghe một lúc rồi mới buông tay ra khỏi miệng Triệu Trinh, thở phào nói:

- Bọn chúng đi rồi!

Triệu Trinh bội phục Địch Thanh sát đất, vội hỏi:

- Bây giờ thì làm thế nào?

Địch Thanh trầm ngâm nói:

- Chiêu này có thể nhất thời lừa được bọn chúng nhưng nói không chừng sẽ bị bọn chúng sẽ biết được. Nếu như bọn chúng không tìm thấy Thánh thượng ở lăng Vĩnh Định thì chỉ sợ sẽ giết quay lại. Đã như thế thì không bằng ở nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất. Bọn chúng tìm ở lăng Vĩnh Định không có kết quả thì chắc chắn sẽ đi chỗ khác. Chúng ta cứ đi theo đuôi chúng đến lăng Vĩnh Định.

Triệu Trinh liên tục gật đầu nói:

- Qủa nhiên là kế hay. Địch Thanh, trẫm trông cậy vào ngươi đó.

Địch Thanh đỡ Triệu Trinh xuống khỏi cái cây, rời khỏi chỗ mà hai đại Thiên vương đi, rẽ sang một vòng đi đến phía lăng Vĩnh Định. Địch Thanh ngẩng đầu nhìn trời, thấy còn phải mấy canh giờ nữa trời mới sáng thì khẽ thầm thở dài. Hắn thấy Triệu Trinh đi thất tha thất thểu thì đỡ tay Triệu Trinh đi về phía trước.

Hai người đi được một đoạn đường, phía trước có một chỗ rẽ, Địch Thanh hỏi:

- Thánh thượng, người đã từng đến nơi này, nhưng có biết đường nào là đường đi vào lăng Vĩnh Định không?

Triệu Trinh cười khổ nói:

- Ngươi hỏi nhầm người rồi. Mỗi lần trẫm đến đây đều có người tiền hô hậu ủng, chẳng bao giờ phải tự tìm đường. Hơn nữa, đường ta đi đều là đường chính. Còn chỗ hoang dã này là lần đầu tiên ta đến.

Địch Thanh biết điều Triệu Trinh nói là sự thật. Đang trong lúc do dự thì đột nhiên nghe thấy phía trước có tiếng bước chân đến gần, Địch Thanh rùng mình đưa Triệu Trinh khẽ nấp sau một tảng đá lớn, trong lòng đang nghĩ, người tới là ai? Là bạn hay là thù?

Địch Thanh núp sau tảng đá chờ giây lát, thấy một người con gái đi tới đi lui, nhìn ngó xung quanh, giống như đang tìm kiếm gì đó.

Dưới ánh trăng, Địch Thanh chỉ thấy người này dáng hao gầy, có vẻ tiều tụy, thì ra đó là người đã nói chuyện với Lý Dụng Hòa, cũng chính là Lý Thuận Dung, tỷ tỷ của Lý Dụng Hòa!

Nàng nhìn ngó xung quanh, trong thần sắc tiều tụy mang theo sự lo lắng, lẩm bẩm một mình:

- Rốt cuộc là ở đâu, rốt cuộc là ở đâu vậy?

Nàng như đã rất mệt mỏi, đột nhiên quỳ rạp xuống đất, ngửa mặt nhìn ánh trăng nói:

- Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, xin ngài phù hộ chàng bình an vô sự, nếu có bất kỳ cực khổ gì, chỉ xin ngài giáng vào dân nữ, dân nữ dù có phải chết ngay lập tức, cũng xin cam tâm tình nguyện!

Triệu Trinh thấy hai hàng nước mắt lăn dài trên má người con gái đó, lại nghe những lời nàng cầu nguyện, trong lòng chợt xúc động, thầm nghĩ, người nàng muốn xin phù hộ là ai? Người được nàng lưu tâm kia, thật là có phúc. Triệu Trinh tuy là Hoàng đế, nhưng lại vô cùng cô đơn, ngay mẹ đẻ cũng cực kỳ lạnh lùng với anh ta. Nhìn ánh trăng lạnh lẽo, chợt nghĩ, không biết tới khi nào, dưới ánh trăng như thế này, cũng có một người thân lo lắng cho mình như vậy?

Địch Thanh sớm đã có quyết định, nói khẽ với Triệu Trinh:

- Người ở lại đây, thần đi ra ngoài trước tìm hiểu tình hình.

Không đợi Triệu Trinh nói gì, Địch Thanh đã rút con dao găm trong ống quần ra, phi thân đến cạnh người con gái kia, kề dao lên cổ nàng, quát khẽ:

- Chớ có la!

Lý Thuận Dung giật thót, thiếu chút nữa đứng không vững, nhìn thấy Địch Thanh, trong mắt lại hiện lên sự vui mừng, nói:

- Ta biết ngươi, ngươi tên Địch Thanh, ngươi là Địch Thanh!

Nàng nắm chặt lấy Địch Thanh, giống như nắm được sợi rơm cứu mạng.

Địch Thanh ngược lại bị Lý Thuận Dung làm giật mình, khẽ nói:

- Sao ngươi lại biết ta? Quỷ kế của các ngươi, ta đã sớm nhìn ra rồi.

Tuy Lý Dụng Hòa bất chấp tính mạng cứu Triệu Trinh, nhưng Địch Thanh vẫn luôn có cảm giác dường như tỷ đệ Lý gia này có mưu đồ gì đó.

Lý Thuận Dung kinh ngạc nói :

- Ta… Ta có quỷ kế gì ?

Địch Thanh lạnh lùng nói:

- Ngươi hôm nay sao lại lỗ mãng như vậy, thiếu chút nữa làm người khác phát hiện ra, suýt làm hỏng đại sự.

Hắn sau khi bắt chước lại giọng điệu của Lý Dụng Hòa, lại gân cổ lên nói:

- Ai phát hiện ra ta?

Sau đó lạnh lùng cười nói :

- Còn cần ta nói thêm gì nữa không ?

Lời Địch Thanh nói chính là hai câu mà Lý Thuận Dung và Lý Dụng Hòa nói nhỏ với nhau, hắn căn bản không rõ ẩn tình trong đó, nhưng Địch Thanh từ trước đến nay thường đa nghi, cho rằng lừa dối như vậy, chắc chắn Lý Thuận Dung hơn phân nửa là đã cảm thấy mưu kế sắp bại lộ.

Đôi mắt xinh đẹp của Lý Thuận Dung vẫn ngạc nhiên, chỉ nói:

- Ngươi… nói cái gì?

Địch Thanh lạnh lùng cười nói:

- “Thánh thượng muốn canh năm ba khắc tế bái, đến lúc đó chính là cơ hội của chúng ta!”. Lý Thuận Dung, các ngươi muốn gây bất lợi với Hoàng thượng, còn muốn ta nói thêm gì nữa sao?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro