SÁU PHO TƯỢNG NAPOLEON-Sherlock Holmes

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một buổi tối, ông Lestrade, thanh tra Scotland đến thăm chúng tôi. Ông ta thường đến thăm chúng tôi vào buổi tối và Sherlock Holmes rất hoan nghênh những buổi tối ấy vì nhờ đó mà anh có được mối liên hệ thường xuyên với Tổng nha cảnh sát. Để đền đáp lại cho những tin tức mà Lestrade đem đến, Holmes luôn chăm chú lắng nghe mọi tình tiết về các vụ án mà viên thanh tra này đang phụ trách điều tra. Đôi lúc, như hoàn toàn vô tình, anh biết cách đưa ra những lời khuyên và gợi ý rút từ vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú của anh.

Riêng tối hôm đó, Lestrade sau khi nói về thời tiết và tin các báo không nói thêm gì nữa mà lặng yên hút thuốc. Holmes nhìn xoáy vào ông.

- Ông có vụ nào đáng chú ý không? - Holmes hỏi.

- Ồ không, ông Holmes ạ, chẳng có gì đặc biệt cho lắm.

- Vậy thì ông cứ kể cho tôi nghe đi.

Lestrade cười:

- Khó mà giấu nổi ông điều gì, ông Holmes ạ. Đúng là tôi đang có một chuyện nhưng nó thật vớ vẩn nên tôi cứ phân vân không biết có nên làm phiền ông không. Việc này không lớn nhưng lại rất đặc biệt, chắn chắn như thế. Tôi biết ông vốn rất thích tất cả những chuyện khác thường. Nhưng theo tôi chuyện này nên để bác sĩ Watson quan tâm hơn là tôi với ông.

- Có liên quan đến bệnh tật gì à?- tôi hỏi.

- Bệnh điên. Mà lại là một bệnh điên kỳ quặc nữa. Các ông chắc không tưởng tượng được bây giờ mà lại có người căm ghét Napoleon Đệ nhất đến mức hễ thấy bất cứ một hình tượng nào của ông ta là đập vỡ cho bằng được.

Holmes ngã người trên ghế.

- Chuyện này không thuộc lĩnh vực của tôi - anh nói.

- Đúng thế, thì tôi đã nói mà. Nhưng khi thằng cha đó phạm tội ăn trộm để đập nát những pho tượng không phải của hắn thì câu chuyện đã chuyển từ tay bác sĩ sang tay cảnh sát rồi.

Holmes ngồi thẳng dậy.

- Ăn trộm à? Câu chuyện đã thú vị hơn rồi. Xin ông kể chi tiết cho tôi nghe với.

Lestrade rút cuốn sổ ghi chép công vụ ra và lật từng trang để nhớ lại cho rành mạch.

- Sự việc xảy ra cách đây bốn hôm tại cửa hiệu ông Morse Hudson làm nghề bán tranh, tượng ở đường Kennington. Người phụ việc vừa rời khỏi cửa hiệu một lát thì nghe có tiếng loảng xoảng. Anh ta vội quay vào và thấy pho tượng bán thân Napoleon vẫn bày trên quầy cùng với các tác phẩm nghệ thuật khác đã vỡ tan tành trên sàn nhà. Anh ta chạt vụt ra đường nhưng không thấy ai, tuy có nhiều người qua đường nói rằng họ trông thấy một người từ trong cửa hiệu chạy ra. Pho tượng thạch cao nọ không đáng giá là bao và toàn bộ sự việc đó chỉ như một trò trẻ con không đáng phải mở cuộc điều tra.

- Vụ thứ hai thì nghiêm trọng hơn và cũng kỳ quặc hơn xảy ra đêm qua ở đường Kennington Road, cách cửa hiệu Morse Hudson vài trăm mét tại nhà bác sĩ Barnicot. Tuy nhà ở đường Kennington Road nhưng bác sĩ này có một phòng mổ ở đường Lower Brixton Road cách đấy ba cây số. Bác sĩ Barnicot là người rất hâm mộ Napoleon. Nhà ông đầy sách và tranh của vị hoàng đế Pháp này. Mới đây ông mua được ở cửa hiệu Morse Hudson hai bức tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao do nhà điêu khắc người Pháp Devine tạc. Ông bày một bức trong đại sảnh của căn nhà trên đường Kennington Road, còn bức kia ông đặt trên mặt lò sưởi tại phòng mổ ở Lower Brixton. Sáng nay, từ trên gác bước xuống, bác sĩ Barnicot phải sửng sốt khi phát hiện ra đêm qua nhà ông bị kẻ trộm đột nhập, song trong nhà không mất gì cả ngoài bức tượng bán thân bằng thạch cao đặt ở đại sảnh. Tên trộm đã mang pho tượng ra khỏi nhà và đập nát vào bức tường ngoài vườn vì sáng nay người ta thấy mảnh tường vỡ nằm vung vãi dưới chân tường.

Holmes xoa tay nói:

- Chuyện này quả là rất mới lạ.

- Tôi vẫn nghĩ là ông sẽ thích chuyện này mà. Nhưng tôi vẫn chưa kể hết. Bác sĩ Barnicot phải đến phòng mổ lúc mười hai giờ trưa. Đến nơi, ông thấy cửa sổ phòng mổ đã bị phá tung từ đêm qua và khắp sàn vung vãi những mảnh vỡ của pho tượng thứ hai. Pho tượng bị đập vụn ngay tại chỗ. Trong cả hai vụ đều không có manh mối gì về tên tội phạm hay kẻ điên rồ đã làm ra vụ này. Đấy sự việc là như vậy đấy, ông Holmes ạ.

_ Đúng là mới lạ nhưng cũng chưa phải là ly kỳ lắm. Tôi muốn biết hai pho tượng bị đập vụ của bác sĩ Barnicot có giống hệt với pho tượng bị phá tan tại cửa hiệu ông Morse Hudson không?

- Những pho tượng đó đều đúc từ một khuôn ra mà.

- Điều đó bác bỏ cái giả thuyết cho rằng kẻ đập tượng hành động do căm thù Napoleon bởi kẻ đó bắt đầu bằng ba bản sao của cùng một pho tượng bán thân, khó lòng có thể là do một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

- Lúc đầu tôi cũng nghĩ như ông - Lestrade nói - tuy nhiên, Morse Hudson là người bán tượng ở khu vực đó của Luân Đôn và suốt mười năm qua cửa hiệu ông ta chỉ có duy nhất ba pho tượng kia. Cho nên tuy ông nói ở Luân Đôn có hàng trăm pho tượng Napoleon nhưng cũng rất có thể ba pho tượng kia là những pho tượng duy nhất trong vùng đó. Vì vậy cái người điên sống trong vùng mới khởi sự bằng chính ba pho tượng ấy. Bác sĩ Watson, ông nghĩ thế nào?

- Bệnh điên có rất nhiều biểu hiện - tôi nói - chẳng hạn một người nào đó đọc quá nhiều sách về Napoleon tạo nên một số vấn đề về tâm lý, dưới ảnh hưởng của tâm lý này anh ta sẽ có những hành động vô cùng kỳ quái.

- Tôi chỉ nhận xét là hắn hành động tuy rất kỳ lạ nhưng có tuân theo một số nguyên tắc nào đấy. Chẳng hạn ở đại sảnh trong nhà bác sĩ Barnicot, nơi mà tiếng động có thể làm cho chủ nhà thức giấc, hắn đã đem pho tượng ra ngoài rồi mới đập vỡ. Còn ở phòng mổ ít nguy hiểm hơn, hắn đã đập vụn pho tượng ngay tại chỗ. Vụ này có lẽ như nhố nhăng nhưng một số vụ hay nhất của tôi khi mới khởi đầu cũng không có chút gì hứa hẹn. Vì vậy tôi sẽ rất biết ơn ông, Lestrade, nếu ông báo cho tôi bất cứ tiến triển mới nào trong vụ này - Holmes nói.

Các sự kiện tiếp theo của vụ án mà bạn tôi đang trông chờ xảy ra nhanh và dưới một hình thức bi đát hơn chúng tôi tưởng tượng nhiều. Sáng hôm sau, tôi còn đang mặc quần áo trong phòng ngủ thì Holmes gõ cửa bước vào, tay cầm một bức điện. Anh đọc to lên:

"Đến ngay Kensington, Pitt Street, 131, Lestrade".

- Điều gì vậy nhỉ? - tôi hỏi.

- Tôi cũng không rõ. Cái này có thể hiểu thế nào cũng được. Nhưng tôi nghi đây là câu chuyện về những pho tượng kia. Nhưng trong trường hợp này, có lẽ anh bạn đập phá tượng của chúng ta đã chuyển hoạt động sang một khu khác của Luân Đôn. Cà phê đã pha sẵn cho anh ở trên bàn và xe ngựa đã đợi sẵn ngoài cửa rồi.

Nửa giờ sau chúng tôi đã có mặt ở Pitt Street. Lúc chúng tôi đến gần, một đám người hiếu kỳ đã tụ tập trước ngôi nhà. Holmes huýt sáo:

- Thế này thì ít ra cũng là một vụ mưu sát. Nếu không thì dân vô công rồi nghề ở Luân Đôn không tụ tập đông đến thế. Ồ, Lestrade đang đứng bên khung cửa sổ trước nhà kia kìa. Chúng ta sẽ biết hết mọi việc ngay thôi.

Lestrade với vẻ mặt trịnh trọng bước ra đón chúng tôi và dẫn vào phòng khách. Chúng tôi thấy một người đàn ông đứng tuổi mặc áo choàng nội tẩm đang đi đi lại lại trong phòng. Vẻ băn khoăn lo lắng, Lestrade giới thiệu đó là chủ nhà - ông Horace Harker, một nhà báo.

- Chuyện pho tượng Napoleon lại tiếp diễn - Lestrade nói - tối qua ông tỏ ra quan tâm tới chuyện này, ông Holmes, nên tôi nghĩ ông sẽ vui lòng có mặt khi giờ đây vụ việc đã dẫn đến một sự kiện nghiêm trọng như thế này.

- Nghiêm trọng đến mức nào?

- Án mạng. Ông Harker, phiền ông kể lại cho các vị đây nghe đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra.

Người đàn ông mặc áo choàng quay về phía chúng tôi, nói:

- Cả đời tôi đi phỏng vấn mọi người, chẳng bao giờ tôi nghĩ mình lại trở thành đối tượng được mọi người phỏng vấn. Tôi đã nghe tiếng ông, ông Holmes ạ, và nếu ông làm sáng tỏ được sự việc kỳ lạ này thì tôi cũng thấy mình được đền bù hậu hĩnh cho cái công trình bày tất cả những việc vừa xảy ra. Mọi việc đều như xoay quanh cái pho tượng bán thân Napoleon tôi mua bốn tháng trước đây. Tôi mua được với giá rẻ tại hiệu Harding Brothers, gần nhà ga High Street. Tôi hay viết bài về đêm và thường ngồi làm việc đến tận sáng sớm. Hôm nay cũng vậy. Tôi ngồi làm việc trong phòng mình ở mặt sau tầng thượng, gần ba giờ sáng bỗng nghe có tiếng động dưới nhà. Tôi lắng tai nghe nhưng chẳng thấy động tĩnh gì nữa nên tôi nghĩ đó là tiêng động ngoài phố đưa vào. Nhưng độ năm phút sau, bỗng có tiếng hét hết sức khủng khiếp - tôi chưa bao giờ nghe thấy một âm thanh nào ghê rợn đến thế ông Holmes ạ. Tiếng thét đó sẽ vang mãi trong tai tôi cho đến suốt đời. Người tê dại đi vì hãi hùng, tôi ngồi bất động vài phút, sau đó tôi cầm lấy cái que sắt thông lò và bước xuống nhà. Vừa bước vào phòng này tôi thấy cửa sổ mở toang và pho tượng đặt trên mặt lò sưởi đã biến mất. Tôi không hiểu tại sao tên trộm lại lấy đi một vật như thế vì pho tượng thạch cao ấy có đáng giá gì đâu.

Như các ông thấy đấy, bất cứ người nào nhảy một bước dài từ cửa sổ này xuống đều có thể ra đến bậc cửa lên xuống ở cửa chính. Tên trộm rõ ràng đã ra bằng cách ấy nên tôi đi vòng ra cửa chính và mở cửa. Tôi bước ra ngoài và trong bóng tối tôi vấp chân suýt ngã đè lên một xác chết đang nằm đó. Tôi chạy vào nhà đem đèn ra. Cổ họng kẻ bất hạnh bị đâm một vết rộng hoác, quanh xác chết máu loang đầy. Người bị giết nằm ngửa, hai đầu gối co lên, miệng há hốc ra trông rất gớm ghiếc. Từ nay trở đi hắn sẽ hiện lên thường xuyên trong những cơn ác mộng của tôi. Tôi chỉ còn kịp gọi cảnh sát và sau đó chắc là tôi đã ngất đi vì tôi không còn hay biết gì nữa cho đến khi tôi tỉnh lại trong đại sảnh. Tôi mở mắt nhìn lên thì thấy một viên cảnh sát đang đứng bên.

- Thế người bị giết là ai? - Holmes hỏi.

- Chẳng có gì cho biết người ấy là ai - Lestrade nói - các ông sẽ được nhìn thấy cái xác nhưng cho đến nay thì chúng tôi chưa làm gì được. Anh ta cao lớn, da rám nắng, khỏe mạnh, chưa đến ba mươi tuổi. Tuy ăn mặc nghèo khổ nhưng anh ta không có dáng dấp dân lao động. Có một con dao nằm trong vũng máu cạnh xác anh ta. Tôi không rõ đó là con dao mà hung thủ đã dùng để gây án hay là con dao của nạn nhân. Trên quần áo anh ta chẳng thấy có tên tuổi gì, còn trong túi áo cũng chẳng có gì ngoài một quả táo, một sợi dây, một tấm bản đồ Luân Đôn và một bức ảnh. Chính là bức ảnh này.

Chỉ cần lướt qua cũng đủ biết đó là một tấm ảnh chụp nhanh bằng loại máy ảnh cỡ nhỏ. Ảnh chụp một người đàn ông linh lợi, nét mặt gãy gọn, có cặp lông mày rậm.

- Thế còn pho tượng thì sao? - Holmes hỏi sau khi xem kỹ bức ảnh.

- Tôi vừa nhận được tin về pho tượng này ngay trước lúc các ông đến. Người ta tìm thấy nó trong vườn, trước một ngôi nhà không có người ở tại đường Campden House Road. Nó đã bị đập vụ ra từng mảnh. Tôi đang định đến đó xem đây. Các ông cùng đi chứ?

- Tất nhiên. Tôi phải đến đấy xem qua một lượt - Holmes xem xét tấm thảm và cái cửa sổ.

Chúng tôi rời khỏi căn phòng. Ông nhà báo không đi cùng chúng tôi mà ở lại viết tin. Chỗ tìm thấy những mảnh vỡ của pho tượng cách ngôi nhà chỉ vài trăm mét. Pho tượng của Napoleon bị đập vụn, nằm trên bãi cỏ. Holmes nhặt lên vài mảnh vụn và xem xét kỹ lưỡng. Qua nét mặt chăm chú của anh, tôi tin là rốt cục anh cũng lần ra được manh mối.

- Có phát hiện gì mới không? - Lestrade hỏi.

- Đường chúng ta phải đi còn dài lắm - Holmes nhún vai, nói.

- Nhưng dù sao thì chúng ta cũng đã có được vài đầu mối để tìm tiếp. Dưới mắt tên tội phạm kỳ quặc kia thì pho tượng bán thân rẻ tiền này còn đáng giá hơn cả mạng người. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai cũng thật kỳ lạ. Nếu mục đích duy nhất của hắn là đập vỡ pho tượng, tại sao hắn không đập ngay trong nhà hay sau khi ra khỏi nhà?

- Hắn hoảng hốt khi chạm trán với người khác đến nỗi giết người đó. Hắn hầu như không ý thức được hắn đang làm gì nữa.

- Ừ, ông nói có lý. Song tôi muốn các ông đặc biệt lưu ý đến vị trí căn nhà này, nơi mà pho tượng đã bị đập nát trong vườn.

Lestrade đưa mắt nhìn quanh.

- Đây là ngôi nhà không có người ở nên hắn biết sẽ không bị ai bắt gặp trong vườn.

- Phải. Nhưng từ đầu phố đến đây còn có một ngôi nhà bỏ không nữa mà hắn phải đi qua để đến đây. Tại sao hắn không đập pho tượng ở đó? Hắn thừa hiểu rằng đi xa thêm mỗi mét là tăng thêm nguy cơ bị phát hiện cơ mà?

Holmes chỉ lên ngọn đèn đường ở phía trên đầu chúng tôi.

- Ở đây hắn mới nhìn rõ, còn ở đằng kia thì không. Đó chính là lý do hắn phải đến tận đây.

Viên thanh tra thốt lên:

- Bây giờ tôi mới nhớ lại pho tượng của bác sĩ Barnicot bị đập vỡ cách chỗ ngọn đèn đỏ nhà ông không bao xa. Chúng ta phải xử lý thế nào với sự việc này, ông Holmes?

- Ghi nhớ nó. Sau này chúng ta có thể gặp phải một tình tiết buộc ta trở lại với nó đấy. Giờ ông định tiến hành những bước gì nữa, ông Lestrade?

- Theo tôi, thiết thực hơn cả là xác minh xem người bị giết là ai. Việc này thì không khó. Khi đã biết được anh ta là ai rồi chúng ta có thể bắt tay vào điều tra xem đêm qua anh ta làm gì ở đường Pitt, kẻ nào đã gặp và giết anh ta trên bậc thang trước cửa nhà ông Horace Harker. Ông thấy như vậy có được không?

- Được lắm. Nhưng tôi thì tôi sẽ tiếp cận vụ này một cách khác.

- Vậy ông sẽ làm thế nào?

- Ồ, ông không nên để tôi ảnh hưởng đến ông một chút nào. Tôi đề nghị ông cứ theo cách của ông, còn tôi sẽ theo cách của tôi. Sau đó sẽ đối chiếu những điều đã ghi nhận được với nhau.

- Tốt lắm - Lestrade nói.

- Này anh Watson, tôi nghĩ trước mắt chúng ta sẽ là một ngày bận rộn đấy. Tôi sẽ rất vui, ông Lestrade ạ, nếu sáu giờ chiều nay ông có thể thu xếp đến thăm chúng tôi ở Baker Street. Còn bức ảnh tìm thấy trong túi áo nạn nhân tôi xin được giữ cho đến lúc đó. Tối nay có lẽ tôi phải nhờ ông giúp một tay nếu những suy luận của tôi cho thấy là tôi đúng. Từ giờ đến lúc đấy xin tạm biệt và chúc ông may mắn.

Tôi và Holmes cùng đi bộ đến High Street và rẽ vào hiệu Harding Brothers, nơi đã bán pho tượng nọ. Một người phụ việc trẻ trong hiệu cho chúng tôi hay là ông Harding mãi đến chiều mới về, còn anh ta thì không thể giúp chúng tôi biết được điều gì. Mặt Holmes đầy vẻ thất vọng và buồn bực.

- Không phải việc gì cũng thuận lợi cả, chúng ta đành phải quay lại đây chiều nay thôi, Waston ạ, vì đến lúc đó ông Harding mới có mặt ở đây - cuối cùng anh nói - tất nhiên anh đã đoán ra là tôi đang cố lần theo dấu vết mấy pho tượng kia cho đến tận đầu mối, để xem tại sao gã điên nọ lại quan tâm đến chúng như vậy. Bây giờ chúng ta đến phố Kennington gặp ông Morse Hudson thử xem ông ta có biết điều gì có thể làm sáng tỏ vụ này chăng.

Chúng tôi đi xe ngựa mất một giờ thì đến được cửa hiệu bán tranh của Morse Hudson. Ông là một người thấp bé, mập mạp, mặt đỏ, phong thái có vẻ nóng nảy.

- Vâng, thưa ngài. Hắn đập vỡ ngay tại quầy của tôi, thưa ngài - ông nói - chúng tôi đóng thuế để được gì nếu bạ ai cũng có thể vào nhà phá phách đồ đạc. Vâng, thưa ngài, chính tôi đã bán cho bác sĩ Barnicot hai pho tượng. Tôi mua của ai những pho tượng ấy ư? Tôi không hiểu chuyện đó có can hệ gì đến sự việc. Thôi được, ngài đã muốn biết thì tôi xin nói. Tôi mua tại hãng Gelder và công ty trên đường Church Street, Stepney. Tôi có mấy pho tượng ư? Ba pho - hai cộng một là ba - hai pho tôi bán cho bác sĩ Barnicot, còn một pho nữa bị đập nát ngay giữa ban ngày ban mặt tại quầy hàng của tôi. Tôi có biết người trong ảnh này không ư? Không, tôi không biết. À có, tôi có biết. Hắn là Beppo, người Ý. Hắn làm được một vài việc cho cửa hiệu tôi. Hắn biết chạm khắc đôi chút và làm vài việc sai vặt trong hiệu. Hắn đi khỏi hiệu tuần trước và từ đó tôi chẳng nghe tăm hơi gì về hắn ta nữa. Không, tôi không biết hắn ta từ đâu đến. Hắn rời hiệu tôi đi đâu tôi cũng chẳng hay. Tôi chẳng có gì xung khắc với hắn khi hắn làm việc ở đây. Hắn đi khỏi đây hai ngày trước khi pho tượng bị đập vỡ.

- Ồ, những điều Morse Hudson cho chúng ta biết thật đáng giá, chúng ta không thể mong muốn gì hơn thế - Holmes nói khi chúng tôi rời cửa hiệu - chúng ta đã biết được tay Beppo này dính dáng đến cả hai vụ: cả ở Kennington lẫn ở Kensington, thật đáng công đi mười dặm đường đến đây. Anh Watson, bây giờ chúng ta đi đến hãng Gelder và công ty, khu Stepney, đến tận xuất xứ của mấy pho tượng. Tôi tin là ở đấy chúng ta sẽ biết được một điều gì đó giúp chúng ta điều tra vụ này.

Chúng tôi tìm ra cái xưởng tạc tượng ấy trên một con đường rộng chạy dọc bờ sông. Bên ngoài xưởng là một khoảng sân rộng ngổn ngang những sản phẩm bằng đá đủ loại, bên trong có một căn phòng lớn với năm mươi công nhân đang tạc tượng và đúc tượng theo khuôn. Chủ xưởng, một người Đức cao lớn, tiếp chúng tôi rất lịch sự va trả lời rõ ràng mọi cậu hỏi của Holmes. Sổ sách cho thấy: xưởng ông đã sản xuất hàng trăm pho tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao; tất cả đều được đúc ra từ một khuôn, dùng pho tượng cẩm thạch của nhà điêu khắc Devine làm mẫu. Ba sản phẩm trong một lô hàng riêng gồm sáu pho tượng đã đem giao cho ông Móe Hudson khoảng một năm trước; số còn lại thì bán cho hiệu Harding Brothers ở Kensington. Sáu pho tượng trong lô hàng đó chẳng có gì khác với những pho tượng còn lại. Ông không hình dung nổi vì lẽ gì lại có kẻ chỉ muốn đập vỡ những pho tượng ấy.

Trong thâm tâm ông thấy ý dịnh đó quả thật nực cười. Mỗi pho tượng đều được đúc từ hai khuôn, khuôn này đúc nửa mặt bên phải, khuôn kia - nửa bên trái; sau đó ghép hai nửa mặt với nhau thế là được một pho tượng hoàn chỉnh. Công việc này thường do mấy tay thợ người Ý đảm nhiệm, ngay tại phòng chúng tôi đang đứng. Làm xong họ đặt những sản phẩm đó lên cái bàn kê ngoài lối đi cho khô, sau đó cất vào kho. Đấy là tất cả những gì ông có thể cho chúng tôi biết. Nhưng tấm ảnh đã gây cho ông chủ xưởng một ấn tượng mạnh mẽ. Ông đỏ mặt giận dữ.

- Vâng, thật sự tôi biết hắn rất rõ - ông hét to lên - từ trước đến giờ chỉ có một lần duy nhất cảnh sát đến xưởng tôi chính là vì thằng này đây. Chuyện đó xảy ra hơn một năm nay rồi: hắn dùng dao đâm một tay người Ý khác ở ngoài phố rồi chạy bổ vào xưởng tôi để trốn cảnh sát đang đuổi bắt phía sau. Hắn bị tóm cổ ngay tại đây. Tên hắn là Beppo. Tôi không hề biết họ của hắn. Tuy thế hắn là một tay thợ khá - một trong những tay giỏi đấy.

- Hắn bị kết án gì?

- Người bị hắn đâm không chết cho nên người ta chỉ xử hắn hai năm tù ngồi. Tôi tin rằng giờ hăn đã được tự do nhưng hắn chẳng dám thò mặt về đây. Người em họ của hắn đang làm việc ở chỗ tôi. Hy vọng anh ta có thể mách cho ông biết Beppo hiện ở đâu.

- Không, không - Holmes kêu lên - ông đừng nói gì với em họ của hắn cả, tôi xin ông đừng nói gì! Việc này rất hệ trọng. Càng đi sâu vào tôi càng thấy nghiêm trọng. Trong cuốn sổ của ông tôi thấy ghi là những pho tượng đó được bán ngày 3 tháng 6 năm ngoái. Ông có thể cho chúng tôi biết ngày Beppo bị bắt được không?

- Tôi có thể tính gần đúng dựa theo bản danh sách tính tiền công, chủ xưởng đáp lại - đúng - ông lại lên tiếng sau một hồi lật tìm trong mớ giấy tờ - hắn được trả tiền công lần cuối vào ngày hai mươi tháng năm.

- Cảm ơn ông, Holmes nói - tôi nghĩ không nên làm mất thì giờ và lạm dụng lòng kiên nhẫn của ông nữa. Còn bây giờ, anh Watson, chúng ta quay về Kensington xem ông chủ hiệu Harding Brothers kể được những gì cho chúng ta về vụ này.

Ông Harding là một người nhỏ bé, nhanh nhẹn, tỉnh trí và nhanh miệng.

- Vâng, thua ngài, tôi đã đọc được chuyện này trên các báo buổi chiều. Ông Horace Harker là một trong những khách hàng của chúng tôi. Chúng tôi bán cho ông ấy pho tượng nọ cách đây mấy tháng. Ba pho tượng loại này chúng tôi đã đặt mua tại hãng Gelder và công ty ở Stepney và đã bán hết. Bán cho ai ư? Để tôi xem sổ sách bán hàng và trả lời ngài ngay thôi. Đúng, trong này có ghi đầy đủ. Một pho bán cho ông Harker, ông thấy đấy, một pho nữa bán cho ông Josiah Brown ở Laburnum Lodge, Laburnam Vale, Chiswick và pho thứ ba bán cho ông Sandeford ở Lower Grove Road, Reading. Không, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông trong bức ảnh ngài đưa tôi xem. Trong hiệu tôi có nhân viên nào người Ý không ư? Thưa ngài, có, có mấy người tôi thuê làm công và quét dọn. Bọn họ có thể liếc nhìn quyển sổ bán hàng này nếu thích. Chẳng có lý do gì đặc biệt để giữ bí mật cả. Chà, vụ này quả là kỳ lạ. Tôi hy vọng ông sẽ cho tôi biết những gì ông phát hiện được.

Holmes ghi chép vài điểm. Tôi thấy anh đắc ý ra mặt. Nhưng anh chẳng giải thích gì, chỉ giục tôi nhanh chân kẻo trễ hẹn với Lestrade. Quả nhiên, khi chúng tôi về đến Baker Street, viên thanh tra đã đợi sẵn ở đấy và đang đi đi lại lại, vẻ sốt ruột.

- Công việc thế nào rồi, ông Holmes? - ông ta lên tiengs hỏi.

- Chúng tôi đã bận rộn suốt ngày và thật là không uổng công chút nào - bạn tôi giải thích - giờ tôi có thể lần theo dấu vết của từng pho tượng từ lúc mới được đúc trong khuôn ra.

- Các pho tượng à? - Lestrade thốt lên - thôi được, thôi được, ông Holmes, ông co phương pháp của riêng ông, song tôi cho là ngày vừa qua tôi khám phá được nhiều điều hơn ông. Tôi đã xác minh được người bị giết là ai và tìm ra nguyên nhân gây án.

- Tuyệt vời.

- Ngài thanh tra Hill, người chuyên theo dõi kiều dân Ý sống tại khu phố Ý vừa trông thấy đã nhận ngay ra hắn. Hắn tên là Pietro Venucci, quê ở Napoli, là một trong những tay đâm thuê chém mướn sừng sỏ nhất Luân Đôn. Hắn có liên hệ vợi bọn mafia, như ông biết đấy, một tổ chức chính trị bí mật. Giờ ông thấy đấy, vụ này bắt đầu sáng tỏ. Kẻ giết hắn có lẽ cũng là người Ý và là thành viên mafia. Tay này chắc đã vi phạm luật lệ như thế nào đó. Pietro rình tìm hắn. Tấm ảnh ta tìm thấy trong túi áo hắn có lẽ là của chính tay này, hắn mang theo để không giết nhầm người nào khác. Hắn theo dõi địch thủ, khi thấy tên này lẻn vào nhà, hắn đứng ngoài đợi tên này trở ra và trong cuộc ẩu đả với địch thủ hắn đã bị tử thương. Ông nghĩ thế nào về điều này, ông Holmes?

Holmes vỗ tay tán đồng.

- Tuyệt, ông Lestrade, thật là tuyệt!-anh thốt lên - nhưng tôi chưa rõ ông lý giải như thế nào việc mấy pho tượng bị đập nát.

- Lại mấy pho tượng! Ông không gạt bỏ được mấy pho tượng ấy ra khỏi đầu sao. Rốt cục, đấy chỉ là chuyện vớ vẫn. Chính vụ án mạng mới là cái chúng ta thật sự quan tâm và tôi có thể nói với ông là tôi đã nắm được mọi đầu mối.

- Thế bước tiếp theo ông định làm gì?

- Hết sức đơn giản. Tôi cùng ngài Hill đến khu phố Ý, tìm cho ra tên trong ảnh nọ và bắt hắn vì tội giết người. Ông đi cùng với chúng tôi chứ?

- Có lẽ không đâu. Tôi có cách đơn giản hơn nhiều. Tôi rất mong đêm nay ông cùng đi với chúng tôi, tôi có thể sẽ giúp ông bắt được hắn.

- Ở khu phố Ý ư?

- Không. Theo tôi, tìm bắt hắn ở Chiswick là chắc hơn cả. Ông Lestrade, nếu đêm nay ông đi cùng tôi đến Chiswick thì tôi hứa ngày mai sẽ đi với ông đến khu phố Ý. Hoãn lại một tí đâu có hại gì. Anh Watson, trong lúc chờ đợi, anh làm ơn bấm chuông gọi giúp người đưa thư vì tôi muốn gửi gấp một bức thư rất hệ trọng.

Buổi tối hôm đó Holmes lục tìm các chồng nhật báo cũ chất đầy ắp cả một phòng trong nếp nhà hai chúng tôi đang ở. Cuối cùng roofi anh cũng ra với chúng tôi, mặt rạng rỡ vẻ đắc thắng nhưng anh chẳng hé răng nói gì với cả tôi lẫn viên thanh tra về những kết quả vừa khám phá. Tôi đã theo sát anh từng bước chân trong suốt tiến trình điều tra vụ này. Vì vậy, tuy chưa thể biết rõ mục tiêu cuối cùng chúng tôi đang theo đuổi, tôi vẫn hiểu mười mươi rằng Holmes hy vọng sẽ tóm được tên tội phạm đang cố tìm mọi cách đoạt hai pho tượng còn lại, ma một, theo tôi nhớ, hiện đang nằm tại Chiswick. Không còn ngờ vực gì nữa, mục đích chuyến đi của chúng tôi đêm nay là bắt quả tang hắn ta. Tôi chẳng ngạc nhiên khi Holmes nhắc tôi nên mang theo cả khẩu súng ngắn ưa thích của tôi.

Mười một giờ chúng tôi lên xe ngựa đi đến một nơi nằm bên kia cầu Hammer Smith. Sau một quãng đi bộ, chúng tôi đã đến một con đường yên tĩnh với những tòa nhà đẹp mắt, xây trên từng khoảng đất riêng cách biệt nhau. Nhờ ánh đèn đường, tôi đọc được hai chữ Laburnum Lodge trên cổng hậu một ngôi nhà đang chìm trong bóng tối, ngoại trừ một khung cửa sổ ngay bên trên cửa chính dẫn vào tiền sảnh, hắt một quầng sáng lẻ loi xuống một lối đi trong vườn. Một dãy rào gỗ ngăn khu vườn với đường phố, hắt một dải bóng tối dày đặc vào phía trong. Chúng tôi chọn đó làm nơi ẩn nấp.

- Tôi e là anh sẽ phải đợi lâu đấy - Holmes rỉ tai tôi.

- Nhưng chắc chắn chúng ta sẽ được đền bù xứng đáng cho những nỗi vất vả mà chúng ta đã trải qua.

Chúng tôi chẳng phải đợi lâu như Holmes đã nghĩ, kết cục thật bất ngờ và kỳ lạ. Thình lình, không có một tiếng dộng nào báo trước, cánh cổng vườn bật mở và một bóng đen nhanh nhẹn, khéo léo chạy vụt vào theo lối mòn trong vườn. Chúng tôi thấy cái bóng đó lướt qua quầng sáng trên cửa sổ hắt xuống cửa chính rồi biến mát vào bóng tòa nhà. Bốn bề im ắng khá lâu. Chúng tôi nín thở chờ đợi. Rồi một tiếng động khẽ vọng tới: cánh cửa sổ mở ra. Tiếp đó, không còn nghe một tiếng động nào nữa, tất cả lại lặng ngắt một hồi lâu. Bóng đen nọ lẻn vào nhà. Bỗng chúng tôi thấy một ánh đèn lóe sáng trong phòng. Cái hắn tìm chắc không có ở chỗ đó vì chúng tôi lại thấy ánh đèn lóe sáng tại một chỗ khác, rồi một chỗ khác nữa.

- Nào, chúng ta hãy tới cửa sổ để ngỏ. Chúng ta sẽ tóm hắn lúc hắn leo ra - Lestrade khẽ nói.

Nhưng chúng tôi chưa kịp tới nơi dự tính thì gã nọ đã xuất hiện. Khi hắn ra đến quầng sáng, chúng tôi thấy hắn đang cắp trong nách một vật màu trăng. Hắn đưa mắt nhìn quang. Quay lưng về phía chúng tôi, hắn đặt vật đang cắp dưới nách xuống và ngay sau đó bỗng vang lên một tiếng đập mạnh, rồi tiếp theo là những tiếng lạo xạo. Hắn mải miết với việc đang làm đến mức không nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi lướt trên mặt cỏ. Holmes nhảy chồm lên lưng hắn như một con hổ và chỉ một chớp mắt sau, Lestrade và tôi đã tóm lấy cổ tay hắn. Khi chúng tôi lật ngửa hắn lại, tôi thấy hắn đang nhìn chúng tôi một cách hằn học. Và tôi nhận ra kẻ bị bắt chẳng phải ai khác mà chính là người đàn ông trong ảnh.

Nhưng Holmes chẳng hề quan tâm đến kẻ bị bắt. Anh chỉ chăm chú xem pho tượng Napoleon mà gã nọ vừa lấy trộm trong nhà ra. Pho tượng này cũng giống như pho tượng mà chúng tôi thấy sáng nay và cũng bị đập vụn tưng mảnh. Thận trọng, Holmes đưa từng mảnh vỡ ra chỗ ánh sáng xem xét nhưng những mảnh thạch cao đó xem ra chẳng khác gì nhau. Anh vừa xem xong thì ánh đèn trong tiền sảnh bỗng sáng rực. Cửa mở và từ trong nhà bước ra một người đàn ông vui vẻ, ăn mặc tề chỉnh, tự giới thiệu mình là chủ nhà.

- Ông chắc hẳn là Josiah Brown? - Holmes nói.

- Vâng, thưa ngài. Còn ngài chắc hẳn là ngài Holmes? Tôi đã nhận được thư ngài do người đưa thư chuyển tới và tôi đã làm đứng như lời ngài dặn trong thư. Chúng tôi đã khóa chặt các cửa phòng và đợi moijn diễn biến. Tôi rất mừng là ngài đã tóm được hắn. Tôi hy vọng các ngài sẽ quá bộ vào nhà nghỉ một lát trước lúc ra về.

Nhưng Lestrade sôt ruột chỉ muốn đưa gấp tên trộm về đồn cho chắc ăn nên chỉ vài phút sau ba chúng tôi và tên trộm đã yên vị trên xe về lại Luân Đôn. Tên trộm không hề hé răng thốt ra một lời nào mà chỉ hằn học nhìn chúng tôi từ sau mái tóc rũ xuống trán. Có một lần, khi tay tôi nằm trong tầm với, hắn vụt cúi xuống định ngoạm. Chúng tôi lưu lại đồn cảnh sát khá lâu để chờ kết quả khám xét người hắn nhưng chẳng tìm thêm được gì ngoài một vài đồng xu trong túi và một con dao dài, trên cán còn nguyên vết máu chưa kịp xỉn lại.

- Thôi ổn rồi - Lestrade nói khi chia tay chúng tôi - Ngài Hill biết mặt tất cả các kiều dân khu này nên sẽ cho chúng ta biết họ tten hắn. Ông sẽ thấy giả thuyết của tôi về bọn mafia là chính xác một trăm phần trăm. Dù sao tôi cũng biết ơn ông đã mách giúp tôi cách tóm cổ hăn. Có điều, tôi vẫn chưa hiểu hết làm thế nào mà ông biết nơi hắn sẽ xuất đầu lộ diện.

- Tôi e rằng muốn giải thích phải đợi dịp khác vì bây giờ đã quá khuya rồi - Holmes nói - hơn nữa vẫn còn một vài tình tiết tôi chưa khám phá ra và đây là một trong những vụ đáng để chúng ta thực hiện đến nơi đến chốn. Nếu ngày mai ông chịu khó ghé lại nhà tôi vào lúc sáu giờ, tôi nghĩ tôi có thể cho ông thấy cho tới lúc này ông vẫn chưa hiểu hết điểm mấu chốt của vụ án này. Đó mới chính là những điểm khiến vị này độc đáo nhất lịch sử tội phạm.

Tối hôm sau, khi gặp lại nhau, Lestrade đã cho chúng tôi biết hàng loạt thông tin về kẻ bị bắt. Hóa ra tên hắn là Beppo, còn họ thì không rõ. Có thời hắn từng là thợ đúc tượng giỏi, làm ăn lương thiện. Nhưng về sau hắn đã gây nên những vụ phạm pháp. Hắn từng hai lần ngồi tù, một lần vì ăn cắp vặt, lần sau thì như các ông đã biết, vì tội đâm trọng thương một đồng bào của hắn. Hắn rất thạo tiếng Anh. Nhưng lý do nào khiến hắn đập nát những pho tượng thì chưa rõ. Hắn không chịu trả lời bất cứ câu hỏi nào về chuyện này. Cảnh sát đã phát hiện được rằng những pho tượng mà hắn đập nát có thể đều do chính tay hắn làm ra vì hắn từng làm loại công việc này tại hãng Gelder và công ty. Tất cả những thông tin này phần nhiều chúng tôi đều biết cả rồi nhưng Holmes vẫn lịch duyệt lắng nghe; có điều tôi vốn biết rõ anh nên tôi hiểu rằng ý nghĩ anh đang đổ dồn vào một chuyện khác. Bỗng anh đứng bật dậy, mắt sáng rực khi nghe vang lên tiếng chuông gọi cửa dưới nhà. Một phút sau, có tiếng chân bước lên cầu thang, rồi một người đàn ông đứng tuổi, mặt đỏ gay bước vào, tay phải xách theo một cái túi. Ông ta đặt cái túi lên bàn rồi lên tiếng:

- Đây có phải là nhà ngài Holmes không?

Bạn tôi mỉm cười cúi chào.

- Nếu tôi không nhầm, ông là Sandeford ở Reading? - anh lên tiếng.

- Vâng, thưa ngài, có lẽ tôi đến hơi muộn nhưng không có chuyến tàu nào thuận tiện hơn. Trong thư ông có yêu cầu tôi nhượng lại pho tượng bán thân mà tôi đang sở hữu.

- Quả đúng như vậy.

- Tôi có đem theo thư ông đây. Ông viết: "Tôi muốn có một bản sao pho tượng bán thân Napoleon do Devine tạc và tôi sẵn sáng trả mười bảng để mua lại pho tượng ông hiện sở hữu". Có đúng không ạ?

- Chính thế.

- Tôi rất ngạc nhiên khi đọc thư ông vì tôi không thể hình dung được nhờ đau mà ông biết được tôi có pho tượng như thế.

- Ông ngạc nhiên là phải thôi nhưng chuyện này có thể giải thích hết sức đơn giản. Ông harding, chủ hiệu Harding Brothers nói là đã bán phúc bản cuối cùng của pho tượng cho ông và có cho tôi biết địa chỉ của ông.

- Thì ra là vậy. Thế thì tôi có mang theo pho tượng như ông đã yêu cầu. Nó đây này!

Ông ta đã mở túi xách và mãi lúc này chúng tôi mới được thấy trên bàn chugns tôi một pho tượng nguyên vẹn, chứ từ trước đến giờ chúng tôi chỉ toàn thấy những mảnh vụn.

Holmes rút trong túi ra một tờ giấy và đặt lên bàn tờ giấy bạc mười bảng.

- Ông Sandeford, ông làm ơn ký vào tờ giấy này trước sự chứng kiến của các vị đây. Trong giấy xác nhận rằng ông chuyển nhượng cho tôi mọi quyền lợi có thể có đối với pho tượng. Cám ơn ông Sandeford. Đây, xin ông nhận lấy tiền và chúc ông một buổi tối tốt lành.

Khi vị khách đã đi khuất, Holmes liền lôi trong ngăn kéo ra một tấm vải trắng tinh và trải lên bàn. Rồi anh đặt pho tượng vừa mua vào chính giữa tấm vải. Xong xuôi, anh giơ cao gậy giáng một cái thật mạnh vào đỉnh đầu Napoleon. Pho tượng vỡ vụn ra từng mảnh. Holmes háo hức cúi xuống xem xét các mảnh vỡ. Lát sau, anh ren lên đắc thắng và giơ cao một mẩu thạch cao bọc bên ngoài một vật tròn tròn sẫm màu.

- Thưa các vị - anh reo lên - xin được giới thiệu với các vị viên ngọc đen nổi tiếng của giòng họ Borgia.

Lestrade và tôi ngồi lặng người đi một lúc rồi cả hai cùng vỗ tay hệt như vừa xem xong một vở kịch. Má Holmes vốn tái nhợt giờ vụt ửng hồng. Anh cúi chào chúng tôi như một diễn viên bậc thầy đáp lại lòng ngưỡng mộ của khán giả. Chỉ trong những khoảng khắc đó Holmes mới tỏ ra là một nhân viên rất người, rất thích được ngưỡng mộ và thán phục chứ không phải là một cái máy giỏi suy luận.

- Vâng, thưa các ngài - anh nói - đây chính là viên ngọc lừng danh thế giới. Tôi đã có cái may mắn được theo dõi hành trình của viên ngọc quý từ phòng ngủ của Quận công xứ Lohoma trong khách sạn Darce Hotel, nơi nó bị mất, cho tới khi nó chui vào pho tượng cuối cùng trong số sáu pho tượng Napoleon do hãng Gelder và công ty tại Stepney đúc ra. Ông Lestrade, chắc ông còn nhớ vụ xì căng đan nổ ra sau ngày viên ngọc quý này mất tích và những nỗ lực tìm kiếm vô vọng của cảnh sát Luân Đôn. Chính tôi cũng được mời đến làm cố vấn cho họ trong vụ này nhưng tôi đã không làm sáng tỏ được gì. Người ta nghi cho cô hầu gái của Quận chúa. Cô này người Ý và người ta cũng phát hiện ra rằng cô ta có một người anh ở Luân Đôn, nhưng chúng tôi không tìm ra được bất cứ một mối liên hệ nào giữ hai người. Cô ta tên là Lucretia Venucci, và tôi tin chắc rằng chính gã Pietro bị giết cách đây hai hôm là anh cô ta. Tôi dò tìm ngày tháng trong đống báo cũ và thấy rằng viên ngọc bị mất đúng hai ngày trước hôm Beppo bị bắt vì tội mưu sát. Hắn bị bắt ngay tại xưởng Gelder và công ty đúng vào thời điểm những pho tượng kia đúc ra. Beppo đang giữ viên ngọc. Có thể hắn đánh cắp của Pietro hoặc hắn là tòng phạm của Pietro, hoặc hắn làm trung gian giữa Pietro và em gái hắn ta. Thực ra khả năng nào là đúng đối với chúng ta không hệ trọng.

- Cái chính là hắn có viên ngọc và đang giữ viên ngọc trong người lúc bị cảnh sát truy đuổi. Hắn đến cái xưởng làm tượng mà hắn đang làm việc. Hắn biết mình chỉ còn vài phút để giấu cái vật vô giá ấy, nếu không cảnh sát sẽ tìm thấy nó khi khám xét người hắn. Lúc đó sáu pho tượng Napoleon bằng thạch cao đang hong ở lối đi, trong đó có một pho còn mềm. Vốn là một tay thợ giỏi, trong chớp mắt Beppo đã tạo được một cái hốc nhỏ, ấn viên ngọc vào đó, rồi với vài động tác hắn đã có thể trám ngay được cái hốc kia. Quả không còn một nơi cất giấu nào tốt hơn. Không một ai có thể tìm ra viên ngọc được nữa. Nhưng Beppo bị kết án một năm tù và trong thời gian đó sáu pho tượng kia được bán đi khắp Luân Đôn. Ra tù, hắn không thể biết báu vật nọ hiện nằm trong pho tượng nào. Bây giờ chỉ còn cách đập vỡ từng pho một mới biết được vì dù có lắc mạnh viên ngọc cũng không gây được tiếng dộng nào: khi thạch cao còn ướt, viên ngọc có thể bị dính chặt ở bên trong và sự thực quả đúng như vậy. Nhưng Beppo không nản lòng. Hắn thực hiện một cuộc tìm kiếm thật tài tình. Qua người em họ làm cho Gelder, hắn biết được những pho tượng ấy đã được bán cho hãng nào. Hắn cố xin một chân ở hiệu Morse Hudson và nhờ đó đã lần ra được dấu tích của ba pho. Tiếc thay trong cả ba pho ấy đều không thấy có viên ngọc. Sau đó, nhờ một nhân viên người Ý, hắn đã dò ra được ba pho còn lại hiện ở đâu. Pho thứ nhất ở nhà ông Harker. Tại đây, Beppo bị Pietro theo dõi. Tên này vốn coi hắn như kẻ chịu trách nhiệm về vụ mất viên ngọc, Beppo đã hạ sát tên này trong trận ẩu đả sau đó.

- Nếu chúng là đồng bọn của nhau thì tại sao Pietro lại phải mang theo tấm ảnh? - tôi hỏi.

- Mang theo tấm ảnh là để dò hỏi người khác xem họ có nhận ra người trong ảnh không. Lý do chỉ có vậy. Sau khi gây án mạng, tôi đoán chắc Beppo nhất định phải hành động khẩn trương hơn chứ không thể chần chừ. Hắn sợ cảnh sát khám phá được điều bí mật của hắn nên hắn phải làm gấp trước khi bị cảnh sát biết. Tất nhiên, ở thời điểm đó, tôi chưa thể nói rằng hắn không tìm thấy viên ngọc. Tôi cũng chưa thể kết luận đích xác rằng hắn đang tìm một viên ngọc. Nhưng tôi biết chắc rằng hắn đang tìm một vật gì đó vì hắn phải mang pho tượng qua mấy nhà liền để tìm một chỗ nào đó có ánh đèn. Bấy giờ chỉ còn hai pho nên dĩ nhiên hắn phải tìm pho ở Luân Đôn trước tiên. Vì thế tôi phải báo trước với chủ nhà để tránh một thảm kịch thứ hai. Và ở đó chúng ta đã thu được kết quả mỹ mãn nhất. Lúc này, dĩ nhiên, tôi đã biết chắc cái mà chúng ta đang theo đuổi chính là viên ngọc Borgia. Tên kẻ bị giết đã giúp tôi tìm ra mối liên hệ giữa các sự việc với nhau. Cuối cùng chỉ còn một pho tượng độc nhất - pho ở Reading - và chắc chắn viên ngọc phải nằm ở đó. Tôi đã mua nó từ tay chủ nhân trước sự chứng kiến của các vị và viên ngọc giờ này đã ở đây.

Chúng tôi ngồi im lặng. Một lúc sau, Lestrade lên tiếng:

- Quả là tôi đã từng được chứng kiến ông xử lý nhiều vụ án, ông Holmes ạ, nhưng từ lúc hành nghề tới giờ tôi chưa hề được thấy một vụ được xử lý một cách tài tình như vụ này. Nếu ngày mai ông có nhã ý quá bộ đến đồn cảnh sát Scotland thì tôi tin rằng kể từ ông thanh tra già nhất đến anh nhân viên trẻ nhất đều rất lấy làm sung sướng được bắt tay ông.

- Cám ơn ông - Holmes nói - cám ơn ông.

Và khi anh quay đi, tôi có cảm giác xúc dộng hơn bất cứ lúc nào mà tôi từng được chứng kiến. Lát sau, anh đã lại trở thành con người có cách suy nghĩ lạnh lùng và thực dụng như cũ. Anh nói:

- Watson, cất giúp viên ngọc vào chỗ an toàn - anh nói - tạm biệt ông Lestrade. Nếu sau này ông có gặp một vấn đề nhỏ nhặt nào, tôi sẽ lấy làm sung sướng được góp với anh một vài ý nhỏ để giúp ông tìm giải pháp.

-----------------------------------------------------------------------------------------

NĂM HẠT CAM

Khi tôi giở lại cuốn sổ ghi chép về những vụ án đã khám phá từ năm 1882 đến năm 1890, tôi không biết nên bắt đầu từ đâu bởi những tư liệu này quả là quá phong phú. Có những vụ án đã được báo chí công bố nhưng cũng có những vụ án chỉ có tôi và Sherlock Holmes biết bởi chúng mới chỉ được làm sáng tỏ phần nào hoặc là giống như những câu chuyện có đầu mà chưa có phần cuối hoặc vĩnh viễn không bao giờ có kết thúc.

Năm 1887, chúng tôi khám phá hàng loạt vụ án lớn và rất thú vị. Những vụ án này tôi đều đã ghi chép lại, sẽ có một ngày tôi kể hết cho các bạn nghe nhưng có lẽ không có câu chuyện nào có thể mê ly, hoang đường hơn câu chuyện mà tôi kể sau đây.

Đó là vào những ngày cuối tháng chín khi cơn bão mùa thu đang hoành hành dữ dội, phô trương sưc mạnh ghê gớm của thiên nhiên. Suốt ngày gió gào rít ầm ĩ, mưa trút xối xả như gõ trống vào các cánh cửa sổ. Càng về tối, cơn bão càng dữ dội hơn, gió thổi vào các ống khói như trẻ con cả thành phố nhất loạt khoc hu hu.

Hôm ấy, Holmes ngồi buồn rầu cạnh lò sưởi và sắp xếp lại cho ngăn nắp trật tự tài liệu của mình. Còn tôi thì ngồi đối diện với anh, say mê đọc những câu chuyện tuyệt vời của Clark Rusell nói về biển.

Tôi say mê đến mức tiếng rít của cơn bão rơi vào tiềm thức của tôi như lời của câu chuyện, còn tiếng mưa rơi như tiếng rì rào của sóng biển. Vợ tôi mấy hôm nay có công việc phải về bên nhà bà nhạc. Còn tôi tạm trú tại căn hộ cũ kỹ mọc rêu trong hẻm Baker.

- Nghe kìa - tôi nói và nhìn Holmes - hình như có tiếng chuông gọi cửa. Ai lại đến trong lúc cơn mưa bão thế này được nhỉ? Hay là bạn của anh?

- Ngoài anh ra, tôi chẳng có ai là bạn cả - Holmes trả lời - còn khách khứa thì tôi chẳng mời ai cả.

- Vị khách nào nhỉ?

- Chắc là phải có công việc vô cùng nghiêm trọng và cấp bách bởi chẳng có ai lại đi ra ngoài đường trong cơn mưa bão hoành hành gầm rít vào giờ này. Mà có khi lại là người đàn bà ngồi lên mách lẻo nào đó, bạn của bà chủ nhà đến chơi cũng nên.

Holmes đã nhầm. Chúng tôi nghe thấy tiếng chân ngoài phòng và tiếng gõ cửa rụt rè. Holmes thò cái tay dài ngoằng của mình quay bóng đèn về phía chiếc ghế bành còn trống.

- Mời vào - anh nói.

Một chàng trai trẻ tuổi độ hai mươi, hai mươi hai, ăn mặc khá chải chuốt và hơi kiểu cách. Nước ở chiếc dfu chảy xuống thành dòng, chứng tỏ thời tiết thật kinh khủng. Người mới vào lo lắng nhìn xung quanh và dưới ánh sáng ngọn đèn, tôi thấy khuôn mặt của anh ta bệch bạc, còn đôi mắt thì đầy nỗi lo âu tuyệt vọng.

- Tôi thành thật xin lỗi hai ngài - anh ta nói và đưa cái kính gọng vàng đang cầm ở tay lên mắt - tôi hy vọng các ngài không cho tôi là kẻ quấy rầy... Sở dĩ tôi phải mang vào căn phòng ấm cúng sự lạnh lẽo ướt át của cơn mưa bão là...

- Hãy đưa áo khoac và dù của ngài cho tôi - Holmes nói - Tôi treo vào chiếc móc sẽ khô ngay. Tôi nhận thấy hình như ngài vừa đi từ hướng ttay nam tới đây.

- Vâng, tôi từ Horsham tới.

- Bùn trên đế giày của ngài đúng là đất bùn của vùng ấy.

- Tôi đến gặp ngài xin ngài lời khuyên bảo.

- Điều đó thì dễ thôi.

- Và nhờ sự giúp đỡ.

- Ờ, sự giúp đỡ thì không phải bao giờ cũng dễ dàng có được.

- Tôi đã được nghe về ngài rất nhiều, thưa ngài Holmes. Tôi nghe ngài thiếu tá Prendergast kể là ngài đã cứu ông ta thoát khỏi cảnh ồn ào hỗn độn ở câu lạc bộ Tankerville.

- À tôi nhớ rồi, ông ấy bị bọn xấu lừa đảo, buộc tội chơi bài không sòng phẳng.

- Ông ta nói là ngài thông thạo trong mọi lĩnh vực.

- Ông ta khen quá lời đấy.

- Theo lời ông ấy là ngài chưa bao giờ thất bại.

- Tôi đã bị thua bốn lần. Ba lần do cánh đàn ông, một lần do cánh đàn bà cho đo ván.

- Những con số ấy thấm vào đâu so với những chiến thắng?

- Vâng, chúng tôi thường thành công.

- Vậy thì ngài cũng sẽ thành công trong chuyện của tôi.

- Mời ngài ngồi sát lò sưởi và hã kể thật tỉ mỉ từng chi tiết.

- Chuyện của tôi rất khác thường.

- Chuyện bình thường không bao giờ đến với tôi. Tôi đại diện cho cơ quan phá án cao cấp nhất.

- Nhưng dù sao, thưa ngài, tôi vẫn ngờ là trong quá trình hoạt động của mình, ngài chưa bao giờ nghe nói đến những chuyện kinh khủng như chuyện đã xảy ra với gia đình tôi.

- Ngài kích thích trí tò mò nghề nghiệp của tôi quá - Holmes nói - Trước hết ngài hãy bình tình kể hết những tình tiết chính, còn sau đó tôi sẽ hỏi thêm những chi tiết cần thiết khác mà tôi cho là bổ ích.

- Tên tôi là John Openshaw - anh ta tự giới thiệu - Nhưng theo tôi hiểu, công việc của tôi ít liên quan đến những sự việc ghê rợn kia. Đó là chuyện thừa kế, vì vậy để cho ngài nắm được sự kiện một cách rõ ràng, tôi buộc phải quay lại từ đầu toàn bộ lịch sử gia đình tôi.

Ông nội tôi sinh được hai người con trai là bác tôi tên là Elias và cha tôi 0 Joseph. Cha tôi tậu được một xí nghiệp nhỏ ở Coventry. Sau đó cha tôi mở rộng quy mô sản xuất hơn nhờ sản xuất xe đạp. Cha tôi đã phát minh ra loại vành xe đạp không gỉ "Ophenshaw". Xí nghiệp làm ăn rất phát đạt cho nên sau khi bán cơ ngơi ấy cha tôi về sống rất đầy đủ và sung túc. Bác Elias tôi trong những năm trai trẻ đã sang tận châu Mỹ làm ăn và trở thành một chủ đồn điền ở bang Florida. Ở đây, công việc làm ăn của bác tôi rất trôi chảy. Trong thời gian chiến tranh, bác tôi chiến đấu trong quân đội của tướng Jackson, sau đó thì dưới quyền chỉ huy của tướng Hood và đã được phong cấp đại tá.

Đến khi tướng Lee hạ vũ khí đầu hàng, bác tôi trở về với đồn điền của mình. Ông sống ở đó ba bốn năm. Vào năm 1869 hoặc 1870 gì đấy, bác tôi quay về châu Âu và thuê một nơi ở không xa lắm ở Sussex, gần Horsham. Khi ở bên Mỹ, bác tôi đã dành dụm được một số vốn liếng khá lớn và cầm món tiền đó bác tôi rời khỏi nước Mỹ với nguyên nhân là không thích những người da đen và không đồng tình với chính phủ trong việc giải phóng người da đen khỏi ách nô lệ. Bác tôi là một người kỳ quặc, ông ấy rất ác độc và nóng tính. Tức giận cái gì đó là ông văng ra những câu chửi nghe thật kinh tởm.

Ông ấy sống độc thân, tránh giao tiếp với mọi người. Tôi chắc chắn rằng trong những năm tháng sống ở Horsham, bác tôi chưa lần nào ra phố. Bác tôi có một mảnh vườn và hai ba mảnh đất trống xung quanh nhà. Ông chỉ bách bộ dạo chơi trong khu vực đó mà thôi. Có những tuần ông bác tôi ngồi lỳ trong phòng, uống rượu và hút thuốc lá rất nhiều, xa lánh mọi người, thậm chí ngay cả đến em ruột của mình ông ấy cũng không thèm biết đến.

Ông ấy tỏ ra yêu mến tôi, mặc dù mới gặp tôi lần đầu lúc tôi mười hai tuổi - năm đó là 1878. Trong thời gian đó bác tôi đã sống ở nước Anh được tám hay chín năm rồi. Bác tôi thương lượng với cha tôi để cho tôi sang sống với ông, bác rất thương tôi. Trong những lúc say rượu bác thường chơi cờ nhảy với tôi. Ông hoàn toàn tin tưởng giao phó mọi việc trong nhà cho tôi.

Đến năm tôi lên mười sáu tuổi thì tôi thực sự là ông chủ trong nhà. Tôi giữ các loại chìa khóa muốn vào chỗ nào cũng được, muốn làm gì thì làm nhưng với một điều kiện là không được phá rối sự yên tĩnh cô độc của người bác. Ngoài ra tôi còn bị ràng buộc bởi trường hợp ngoại lệ: ở gác lửng có một căn phòng luôn luôn đóng kín. Bác tôi không cho phép bất cứ một người nào vào, kể cả tôi. Với tính hiếu kỳ của trẻ con, có lần tôi nhìn trộm qua lỗ khóa nhưng không thấy gì cả ngoài chiếc rương và túi linh tinh gì đó.

Một hôm vào tháng ba năm 1883 có một bức thư dán phong bì nước ngoài nằm trên bàn. Bác tôi hầu như chẳng bao giờ có thư vì mọi chuyện mua bán ông ấy đều trả bằng tiền mặt, còn bạn bè thì không có.

"Từ Ấn Độ gửi tới - cầm bức thư ông nói - Dấu đóng ở Pondicherry! Chuyện gì có thể xảy ra đây?"

Bác tôi mau chóng xé phong bì, từ trong phong bì năm hạt cam khô rơi xuống kêu lanh canh trong đĩa sứ. Tôi định reo lên nhưng nụ cười của tôi vụt tắt ngấm khi tôi ngước nhìn bác tôi. Môi dưới của ông trễ xuống, cặp mắt mở to thao láo, cả bộ mặt trở nên xám ngắt, ông ấy nhìn bất động chiếc phong bì đang cầm trên tay run run.

"K. K. K! - ông ấy thốt lên và sau đó nói thêm - Lạy chúa tôi! Lạy chúa tôi! Đây là bản thanh toán món nợ của tôi".

"Cái đó là gì thưa bác? - tôi hỏi".

"Cái chết - ông nói xong và đứng lên ra khỏi ghế và từ từ đi vào phòng của mình, để mình tôi ở lại sửng sốt và hoảng sợ".

Tôi cầm lấy phong bì và nhìn vào thấy bên trong có ba chữ "K" bằng mực đỏ. Trong phong bì không còn gì nữa ngoài năm hột cam đã khô. Cái gì làm cho bác tôi hoảng sợ?

Tôi đứng dậy chạy lên tầng trên. Bác tôi đi xuống trên tay cầm một chiếc chìa khóa cũ đã bị gỉ nhiều, có lẽ chiếc chìa khóa để mở căn phòng trên gác lửng. Còn tay kia ông đang giữ một chiếc hộp bằng đồng thau.

"Chúng muốn làm gì mặc chúng. Dù sao chăng nữa bác cũng không thể trao cho chúng đâu! - bác tôi nói với sự nguyền rủa, căm tức - Cháu nói cô Mary đến nhóm lò sưởi ở phòng bác và đi mời ngài Fordham luật sư ở Horsham tới".

Tôi thi hành tất cả mệnh lệnh mà bác tôi sai bảo. Khi ngài luật sư đến, người ta gọi tôi lên phòng bác tôi. Ngọn lửa trong lò sưởi cháy sáng rực, trên tấm sàn của nó là một đống tro dày, dường như tro của một mớ giấy tờ vừa bị đốt. Chiếc hộp bằng đồng thau mở ra rỗng tuếch. Nhìn vào chiếc hộp, tôi thở dài ngao ngán, lo sợ vì nhìn thấy phía trong nắp có khắc ba chữ "K" giống y như trên phong bì.

"Bác muốn cháu là người làm chứng cho việc lập biên bản này, John - bác tôi nói - Bác sẽ để lại chỗ này cho em của bác, tức là cha cháu, tất nhiên nó sẽ được truyền lại cho cháu, nếu cháu có thể sử dụng một cách yên ổn thì điều đó rất tốt! Còn nếu cháu không có khả năng làm điều đó thì hãy nghe theo lời khuyên của bác là nên trao nó lại cho kẻ thù độc ác nhất của bác! Bác rất phiền muộn khi để lại cho cháu một thừa kế như vậy, nhưng bác không hiểu sự việc sẽ xảy ra thế nào. Hãy vui lên và ký tên vào tờ giấy này vào cái chỗ mà ngài Fordham sẽ chỉ cho cháu".

Tôi ký vào tờ giấy ấy và ngài luật sư mang nó đi luôn.

Trường hợp rất kỳ lạ khiến cho tôi băn khoăn và có một ấn tượng sâu sắc. Tôi nghĩ đến nó mà chưa hề tìm ra được lời giải đáp: tôi không thẻ nào xua tan đám mây lo sợ bao phủ, mặc dù nỗi niềm lo âu đã giảm sút sau vài tuần trôi qua không có một dấu hiệu nào làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của chúng tôi. Thú thực rằng tôi có nhận thấy những thay đổi lớn lao trong chiều sâu con người bác tôi. Ông ấy uống rượu nhiều kinh khủng và xa lánh tất cả thế giới bên ngoài. Phần lớn thời gian ông ấy khóa kín cửa ngồi trong phòng. Nhưng thỉnh thoảng trong lúc say khướt ông đi ra khỏi phòng với khẩu súng lục trong tay, bác ra vườn hét toáng lên rằng ông không sợ ai hết và cũng không cho bất kỳ người hay là ma quỷ *****ng đến ông và chặt ông như chặt con cừu. Tuy thế nhưng khi cơn nóng giận say sưa đã nguôi, ông ấy vội vã chạy về phòng đóng chặt cửa lại, khóa ổ, cài then như một kẻ đang bị nỗi sợ hãi bao trùm từ tứ phía không thể giữ thân nổi. Trong lúc nóng giận, khuôn mặt của bác tôi, kể cả những ngày giá buốt, cũng vẫn mồ hôi mồ kê nhễ nhại y như người ta vừa mới tăm hơi về.

Để kết thúc câu chuyện bi thảm ấy, thưa ngài Holmes, và cũng khỏi lạm dụng lòng kiên nhẫn của ngài, tôi chỉ kể vắn tắt kết cục như sau: Một hôm trời vừa tối, sau khi uống rượu say mềm, bác tôi thực hiện một cuộc dạo chơi. Sau đó chúng tôi không thấy ông về nữa. Chúng tôi hoảng hốt vội vã chạy bổ đi tìm. Thật tang thương khi chúng tôi nhìn thấy ông nằm sấp mặt xuống trong cái ao đầy nước, cái ao phủ đầy rong rêu nằm phía sâu trong vườn. Trên người ông không thấy một dấu vết đánh đập nào hết, còn cái ao thì rất cạn chỉ sâu không quá hai thước Anh.

Chính vì thế tòa phúc thẩm chỉ chú ý đến tính khí bất thường của bác tôi để kết luận rằng đây là một vụ tự vẫn. Nhưng tôi biết chắc chắn ý nghĩ cái chết làm bác tôi hoảng sợ, bởi thế làm sao bác tôi tự nguyện lìa bỏ cõi đời này một cách dễ dàng và nhanh chóng như thế. Dù có muốn gì đi nữa thì thực tế vẫn phũ phàng bao trùm tất cả. Cha tôi là người thừa kế gia sản khoảng mười bốn ngàn bảng Anh nằm tại ngân hàng...

- Xin phép - Holmes ngắt lời anh ta - Câu chuyện của ngài thật ly kỳ và có những bí ẩn khó hình dung ngay được. Ngài hãy cho tôi biết bác ngài nhận được lá thư ngày nào và ông chết ngày nào?

- Bức thư đến ngày chín tháng ba năm 1883 và bác tôi chết sau đó đúng bảy tuần, tức đêm mùng một rạng mùng hai tháng năm năm 1883.

- Xin cám ơn ngài, xin ngài cứ tiếp tục.

- Khi cha tôi bắt đầu nắm quyền kế thừa cơ ngơi của bác tôi ở Horsham thì theo đề nghị của tôi, cha tôi đã lục kỹ lưỡng căn buồng ở gác lửng mà trước kia luôn đóng kín. Chúng tôi tìm thấy một chiếc hộp bằng đồng thau nhưng bên trong dường như bị hủy hết. Bên trong nắp đậy có dán một mảnh giấy ghi ba chữ "K" và một dòng chữ nhỏ phía dưới "Thư từ, ghi chép biên lai, khế ước cho vay". Tôi cho rằng những dòng chữ nói lên nội dung những giấy tờ đã được đựng bên trong chiếc hộp và đã bị ngài đại tá Openshaw đốt hết. Ngoài chiếc hoppj ra, trong buồng không có gì đáng kể, nếu không tính một đống giấy vứt bừa bộn và những quyển sổ ghi chép linh tinh có liên quan đến cuộc sống của bác tôi ở Mỹ. Trong mớ lộn xộn ấy có thứ đề cập đến thời gian chiến tranh và đã cho thấy bác tôi là một quân nhân thi hành nghĩa vụ của mình rất tốt. Những giấy tờ khác thì nói về thời kỳ thành lập các bang ở miền Nam, phần lớn đều liên quan đến vấn đề chính trị. Rõ ràng bác tôi đã đóng một vai trò lớn trong phe chống đối, đối lập hẳn với các nhà lãnh đạo từ miền Bắc được cử vào.

Vào đầu năm 1884, cha tôi chuyển hẳn tới sống ở Horsham. Mọi chuyện đều rất tốt đẹp. Một hôm vào ngày mùng bốn tháng giêng năm 1885, khi chúng tôi đang ăn sáng, bỗng cha tôi kinh ngạc kêu lên. Một tay cha tôi cầm chiếc phong bì, còn trong lòng bàn tay kia là năm hột cam khô. Cha tôi thường giễu cợt trước cái chết hoang đường của ngài đại tá, còn bây giờ chính cha tôi cũng bang hoàng hoảng hốt khi nhận đúng giấy báo của tử thần như thế.

"Thế này là thế nào, John?" - Cha tôi hỏi khẽ.

Tim tôi chợt lạnh buốt.

"Đó là ba chữ "K" - Tôi trả lời.

Cha tôi nhìn vào phía trong chiếc phong bì.

"Đúng ở đây cũng có ba chữ ấy. Nhưng còn cái gì đây?".

"Hãy đặt tất cả giấy má lên chỗ chiếc đồng hồ mặt trời" - Nhìn qua vai cha tôi, tôi đọc.

"Đồng hồ mặt trời nào? Những giấy tờ gì kia chứ?" - Cha tôi thảng thốt ngạc nhiên hỏi.

"Đồng hồ mặt trời đặt ở trong vườn, còn giấy tờ chắc bị cháy rụi rồi".

"Quỷ tha ma bắt hết bọn nó đi! - Cha tôi nói - Chúng ta đang sống trong một đất nước văn minh, không thể chấp nhận những điều nhảm nhí được. Bức thư từ đâu tới?"

"Từ Dundee" - Tôi trả lời sau khi đã lướt nhìn con dấu bưu điện.

"Một trò đùa mù quáng của một kẻ khùng nào đó - cha tôi nói- Đồng hồ mặt trời và giấy má lằng nhằng có liên quan gì đến tôi kia chứ? Không thèm chấp cái đồng hồ quái quỷ ấy làm gì!".

"Con muốn báo cho cảnh sát" - Tôi lo âu nói.

"Để cho người ta lấy cha làm trò cười à? Cha không nghĩ như thế!".

"Vậy để con tự làm lấy".

"Không đời nào. Cha không muốn rung chuông ầm ĩ với thiên hạ rằng tôi là thằng điên".

Thuyết phục cha tôi quả là uổng công vì ông ấy rất cố chấp. Còn tôi thì bị nỗi lo sợ dày vò.

Ba ngày sau, cha tôi đi thăm một người bạn cũ - ngài thiếu tá Freebody, đang chỉ huy một đồn ở Portsdown. Tôi mừng là cha tôi đã đi khỏi vì tôi ngỡ ra khỏi căn nhà này sẽ bớt nguy hiểm. Nhưng tôi đã lầm. Ngày hôm sau tôi nhận được một bức điện của ngài thiếu tá gửi, yêu cầu tôi đến gấp. Cha tôi đã bị rơi xuống một mỏ đá phấn sâu hoắm, ở địa phương này khá nhiều hố như vậy. Tôi chạy vội tới chỗ cha tôi, ông bị vỡ sọ mà chết, không kịp trăng trối lời nào. Cha tôi đi từ Ferkhem về lúc nhá nhem tối, ở đây cha tôi không thông thạo địa hình mà các mỏ đá phấn không được rào dậu cẩn thận, cho nên tòa phúc thẩm không chút do dự kết luận ngay "Chết trong trường hợp đáng tiếc". Tôi nghiên cứu kỹ lưỡng những dữ kiện có liên quan đến cái chết của cha tôi nhưng không thể phát hiện được gì để kết luận đó là một vụ giết người tinh vi. Không có vết tích đánh đập, không có dấu vết trên mặt đất. Tôi chỉ nói riêng với ngài: Tôi lo lắng vô cùng và cảm giác như cha tôi đã lọt vào chiếc bẫy giăng sẵn.

Nghiễm nhiên tôi trở thành người thừa kế toàn bộ gia sản trong cảnh tang tóc đau thương như thế đấy. Ngài có thể hỏi lại tôi "tại sao anh không từ chối thừa kế tài sản đẫm máu ấy?". Tôi trả lời ngài rằng tôi khẳng định những điều bất hạnh xảy ra với gia đình tôi có liên quan tới những sự kiện bí mật xa xưa lắm trong cuộc đời người bác quá cố và mối đe dọa tương tự sẽ đến bất kỳ từ đâu, lúc nào cũng sẵn sàng giáng xuống đầu tôi dù tôi có ở ngôi nhà nào cũng vậy.

Người cha xấu số của tôi qua đời vào tháng giêng năm 1885. Từ đó đến nay đã hai năm tám tháng trôi qua. Tất cả chuỗi thời gian đso tôi hoàn toàn sống yên ổn ở Horsham và hy vọng câu chuyện đáng nguyền rủa kia không còn đè nặng lên gia đình tôi nữa. Tôi nghĩ sau những cái chết của thế hệ bác tôi, cha tôi thì nó cũng rời xa theo dĩ vãng luôn. Nhưng tôi hy vọng quá sớm. Sáng hôm qua tôi bị choáng váng, cũng vẫn bức thư của thần chết đến gõ cửa cuộc sống êm đềm của chúng tôi.

Chàng trai lấy ra từ trong túi một chiếc phong bì nhàu nát, lật đi lật lại rồi trút năm hột cam khô dặt xuống tấm khăn trải bàn.

- Chiếc phong bì này đây - anh ta nói tiếp - Dấu bưu điện đóng tại Luân Đôn - khu Đông, bên trong vẫn ba chữ "K" khó hiểu và dòng chữ "Hãy đặt tất cả giấy má vào chỗ đồng hồ mặt trời".

- Ngài đã làm những gì rồi? - Holmes hỏi.

- Chưa làm gì cả.

- Chưa làm gì à?

- Nói đúng ra - anh ta gục mặt vào đôi bàn tay nhỏ nhắn - tôi bất lực như một con chuột bị một con rắn đuổi cùng đường chỉ biết nằm im chờ rắn tới gần. Hình như tôi bị rơi vào tay của một thế lực siêu phàm không thể nào thoát được và không có cách gì cứu nổi.

- Ngài nói gì lạ vậy? - Holmes vội thốt lên an ủi - ngài cần phải hành động gấp nếu không ngái sẽ chết. Chỉ có ý chí và năng lực là có thể cứu sống ngài. Giờ đây không phải lúc tuyệt vọng.

- Tôi đã đến gặp cảnh sát.

- Ở đó đã giải quyết ra sao rồi?

- Nghe tôi nói, họ chỉ cười. Tôi nghĩ ngài chỉ huy cảnh sát cho những lá thư kia là trò đùa của một kẻ vô công rồi nghề nào đó! Còn những cái chết của người thân trong gia đình tôi, theo quan tòa chứng nhận chỉ là những trường hợp không may mà thôi. Nó không dính líu gì đến những lời đe dọa, cảnh cáo...

Holmes vung nắm đấm trong không trung.

- Ngu xuẩn không tưởng tượng nổi - anh bất bình.

- Dẫu thế người ta cũng cử một cảnh sát đến chỗ tôi, người ấy túc trực suốt ngày đêm trong phòng tôi.

- Ông ta có đi cùng ngài đến đây không?

- Không, người ta ra lệnh cho ông ta phải ngồi trong nhà.

Một lần nữa, Holmes lại vung nắm đấm lên, vẻ tức giận.

- Ngài đến đây để làm gì? - anh hỏi - Quan trọng là tại sao ngài không đến đây ngay lúc mới nhận thư?

- Tôi không biết, vừa mới hôm qua tôi mới nói chuyện sự nguy hiểm của tôi cho ngài thiếu tá Prendergast và ông ấy khuyên tôi nên đến gặp ngài.

- Đã hai ngày rồi, đáng lẽ ngài phải hành động sớm hơn mới phải. Ngài không còn những số liệu gì thêm ngoài những cái ngài mới kể ư? Còn tình tiết nào gợi ý để giúp ích cho chúng tôi được không?

- Còn một chi tiết nữa - John Openshaw nói, anh ta lục tìm trong túi áo bành tô và lấy ra mẩu giấy màu xanh đã ngả màu đặt lên trên bàn - Tôi vừa nhớ ra - anh ta tiếp - Trong ngày bác tôi đốt tất cả giấy tờ thì mẩu giấy này còn sót lại chưa cháy kịp, nằm lẫn trong đám tro ấy. Tôi tìm thấy ở trên sàn phòng bác tôi. Tôi nghĩ chắc đây là mẩu giấy tình cờ bị sót lại trong cuộc thiêu hủy kia. Ngoài mấy hột cam ra, trong tờ giấy này không có gì giúp ích cho tôi. Tôi cho đó là một trang của sổ nhật ký, nét chữ này là của bác tôi.

Holmes xoay bóng điện và cả hai chúng tôi cúi sát xuống tờ giấy. Đường biên có những vết xước nham nhở chứng tỏ tờ giấy này được xé trong một quyển vở nào đó. Phía trên cùng có dòng chữ: "Tháng ba năm 1869", phía dưới có những câu vừa đọc vừa đoán như sau:

"Mùng 4 Hudson có mặt: Tại cầu cảng như trước kia.

Mùng 7 đã gửi những hột cam cho McCauley, Paramore và John Swain từ Xen - Augustine.

Mùng 9 - McCauley đã cút khỏi mặt đất.

Mùng 10 John Swain đã cút khỏi mặt đất.

Ngày 12, Paramore đã được đến gõ cửa - Mọi việc đều êm đẹp".

- Cảm ơn ngài - Holmes nói và xếp tờ giấy trả lại cho người khách trẻ - Ngay bây giờ ngài hãy nhanh chóng, khẩn trương bắt tay vào việc. Chúng ta không cần tốn thêm một chút thời gian nào để tranh luận điều ngài vừa kể. Ngài cần trở về nhà ngay lập tức và hành động gấp.

- Tôi cần phải làm gì bây giờ?

- Có mỗi một việc thôi nhưng cần phải giải quyết ngay. Ngài phải đặt ngay tờ giấy mà ngài vừa cho chúng tôi xem vào chiếc hộp đồng thau mà ngài đã nói lúc nãy. Ngài đặt vào đó một bức thư báo tin là tất cả những giấy tờ còn lại đã bị ông bác của ngài đốt sạch sành sanh và chỉ còn lại duy nhất một mẩu giấy này thôi. Ngài phải thông báo điều này để gây lòng tin. Sau khi viết xong bức thư ấy ngài hãy đặt ngay chiếc hộp bằng đồng thau kia lên chiếc đĩa của đồng hồ mặt trời như trong thư người ta yêu cầu. Ngài hiểu chứ?

- Tôi hoàn toàn hiểu ý ngài.

- Ngài nên nhớ hiện tại không nên nghĩ đến chuyện báo thù hoặc một ý nghĩ nào tương tự như vậy. Tôi đề nghị chuyện ấy để pháp luật trừng trị nhưng chúng ta cũng cần giăng một mẻ lưới, tuy nhiên chúng nó đã giăng sẵn rồi. Vì vậy, trước hết cần phài thoát khỏi mối nguy hiểm đang đe dọa ngài. Còn sau đó chúng tôi sẽ làm sáng tỏ sự việc mờ ám và trừng trị những kẻ sát nhân.

- Chân thành cảm ơn ngài - Chàng trai nói và đứng lên lấy áo khoác mặc vào - Ngài đã trả lại cho tôi cuộc sống và niềm hy vọng. Tôi sẽ hành động đúng như ngài đã dạy bảo.

- Không được lãng phí dù chỉ một phút nào hết. Điều quan trọng là hãy giữ lấy mình. Rõ ràng không thể chối cãi là ngài đang đứng trước mối hiểm họa ngàn cân treo sợi tóc. Ngài quay về bằng cách nào?

- Tôi sẽ đi tàu hỏa, từ ga Waterloo.

- Chưa đến 21 giờ. Ngoài đường vẫn còn đông người. Tôi hy vọng ngài sẽ bình an. Nhưng dẫ sao ngài cũng nên đề phòng kẻ thù.

- Tôi đã mang phòng theo khẩu súng lục.

- Rất tốt. Ngay ngày mai tôi sẽ bắt tay vào công việc của ngài.

- Có nghĩa là tôi sẽ gặp ngài ở Horsham?

- Ô! Đó là điều bí mật của công việc. Ở tại Luân Đôn này, chính ở đây tôi sẽ tìm ra hắn.

- Vậy thì tôi sẽ ghé lại chỗ ngài một hoặc hai ngày nữa và thông báo cho ngài tất cả sự việc dính dáng tới chiếc hộp đồng thau và giấy má kia. Tôi sẽ làm đúng tất cả những gì ngài dặn.

Anh ta bắt tay chúng tôi rồi từ biệt ra về. Gió vẫn gầm rít, mưa vẫn liên tiếp gõ vào cánh cửa sổ.

Câu chuyện ly kỳ bi thảm kia đã làm cho chúng tôi phần nào quên đi nỗi phiền muộn về cơn bão dai dẳng, giờ đây đang xâm chiếm bao phủ trở lại.

Holmes ngồi im lặng, đầu anh hơi cúi xuống, mắt nhìn chăm chú vào ngọn lửa đỏ rực trong lò sưởi đang hừng hực cháy. Anh hút hết một tẩu thuốc rồi ngả người ra sau ghế và nhìn những làn khói xanh đang nhẹ nhàng uốn éo liên tiếp nối nhau bay lên trần nhà.

- Watson, tôi nghĩ là - Cuối cùng anh phá tan sự im ắng - trong công việc "chữa bệnh" của tôi có lẽ không bao giờ gặp phải những vụ nguy hiểm, ly kỳ hơn vụ này.

- Nhưng trước hết anh đặt cho mình một quy định cụ thể về tính chất của nguy hiểm ra sao cái đã? - tôi hỏi.

- Ở đây không có chuyện hoài nghi về tính chất tương đối của nó - anh trả lời.

- Nhưng cụ thể ra sao? Ai là người có tên K.K.K.? Và hắn ta cứ bám riết như con đỉa vào gia đình bất hạnh ấy nhằm mục đích gì?

Holmes nhắm mắt lại, dựa hẳn vào thành ghế và gập hai tay vào nhau.

- Một nhà suy luận chính thống - anh nhận xét - khi nhìn thấy một dữ kiện duy nhất trong cả tổng thể có thể rút ra từ đấy không những toàn bộ chuỗi sự kiện tạo nên nó mà còn thấy được những hậu quả sẽ xảy ra theo sau. Một nhà sinh vật học có thể môt tả đúng một con vật mà chỉ dựa vào cơ sở một chiếc xương của nó. Một quan sát viên nghiên cứu một mắc xích tỏng toàn bộ chuỗi sự kiện cần phài dựng lại được tất cả những mắc xích còn lại, kẻ cả những tiền tố và hậu tố. Nhưng không thể đưa nền nghệ thuật suy luận lên đến đỉnh cao tột cùng, người suy diễn cần phải sử dụng tất cả những dữ kiện đã được đắp nên. Để làm được việc này, anh ta cần có những kiến thức chung nhất định nào đó. Nếu như trí nhớ của tôi không phản tôi thì trong ngày đầu chúng mình quen biết nhau, anh đã xác định chính xác ranh giới kiến thức của tôi.

- Đúng như vậy - tôi mỉm cười trả lời - Đó là một tài liệu bất thường. Tôi nhớ là triết học, thiên văn học và bộ môn chính trị đứng vào vị trí số không. Kiến thức trong lĩnh vực thực vật học luôn luôn dao động, trong ngành địa chất thì sâu hơn. Bởi công việc dính dáng tới những vết dơ bẩn của bất kỳ một vùng nào đó trong giới hạn 50 dặm xung quanh thành Luân Đôn. Còn trong lĩnh vực hóa học thì hài hước, kỳ quặc. Trong giải phẫu học thì không đồng bộ, tản mác, rời rạc. Trong lĩnh vực văn học giải trí, kiến thức đặc biệt khác thường. Trong đó, võ sĩ quyền anh thì dùng kiếm, còn luật sư thì tự đầu độc mình bằng thuốc phiện và thuốc lá. Đó là những nét cơ bản nhất trong cách nhận định, đánh giá của tôi.

Holmes cười rất khoái trá khi nghe tôi nói những tiếng sau cùng.

Cũng như lúc xưa tôi đã nói con người cần phải điều khiển trí nhớ của mình như thế nào để cho mớ kiến thức được sắp xếp thứ tự ngăn nắp trong kho tàng trí tuệ, sao cho đến lúc cần dùng là có thể lấy ra dễ dàng không phải tìm kiếm lục lọi.

Chúng ta ngay trong tối hôm nay cần phải huy động tất cả vốn liếng mà chúng ta có. Anh lấy giúp tôi cuốn bách khoa toàn thư nước Mỹ, tập chữ "K". Nó nằm trên giá sách, gần chỗ anh ngồi đấy. Cám ơn! Giờ đây chúng ta sẽ đặt ra các giả thiết và từ đó rút ra những kết luận.

Trước hết bắt đầu từ ngài đại tá Openshaw xem thử vì lý do gì mà ông ta rời bỏ nước Mỹ. Trong thời đại ngày xưa, con người không có khuynh hướng phá bỏ những thói quen của mình để tự nguyện tự giác thoái thác ra đi khỏi vùng khí hậu tuyệt vời như Florida, để rồi sống một cuộc đời ẩn dật trong thị trấn quê mùa bên nước Anh này. Sự ham mê thích thú ẩn dật nói lên ý nghĩa rằng ông ta sợ một điều gì đó hoặc một người nào đó, hay đại loại như vậy.

Chúng ta khẳng định giả thiết này dựa trên cơ sở những bức thư dọa dẫm đáng sợ mà ông ta cũng như người thừa kế đã nhận được. Anh có nhận xét gì về những con dấu đóng trên phong bì đó không?

- Lá thư thứ nhất từ Pondicherry, thư thứ hai từ Dundee, thư thứ ba từ Luận Đôn.

- Từ phía đông Luân Đôn! Anh rút ra kết luận gì?

- Đó là những bến cảng của đại dương. Hình như người viết lá thư ấy là thủy thủ.

- Tuyệt diệu! Chúng ta đã có chìa khóa rồi. Hoàn toàn có khả năng người viết thư đang sống trên một con tàu. Còn bây giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề này từ khía cạnh khác. Trong trường hợp từ Pondicherry thì khoảng thời gian giữa lời dọa dẫm đến chuyện thực cách nhau bảy tuần lễ, trong trường hợp từ Dundee khoảng cách ấy chỉ có ba, bốn ngày. Anh nghĩ gì?

- Khoảng cách trong trường hợp thứ nhất lớn hơn nên cần thời gian để thực hiện lâu hơn.

- Nhưng chính bức thư cũng phải qua một quãng đường lớn như thế?

Tôi chịu. Không hiểu sự thể ra sao?

- Có cơ sở để rút ra nhận xét là con tàu mà kẻ sát nhân đang sống là một chiếc thuyền buồm hoặc một nhóm đang sống là một chiếc thuyền buồm. Cũng như những trường hợp tương tự, chúng nó bao giờ cũng gửi đi những lời cảnh cáo sau đó mới thi hành bản án. Anh thấy không trường hợp từ Dundee xảy ra nhanh chóng làm sao! Nếu chúng đi bằng tàu thủy từ Pondicherry thì chúng tới cùng lúc với lá thư. Nhưng ở đây lại là bảy tuần. Bảy tuần này là hiệu số giữa tốc độ của tàu thủy bưu điện đã mang bức thư với tốc độ của thuyền buồm mà lũ sát nhân đang sống.

- Có thể là như thế.

- Đó là điều chắc chắn. Dựa trên cơ sở đó anh thấy ngay sự nguy hiểm chết người trong trường hợp cuối. Anh biết vì sao tôi căn dặn anh chàng Openshaw phải thận trọng rồi chứ? Đòn trừng phạt bao giờ cũng giáng vào thời hạn kết thúc cần thiết cho những kẻ đã gửi bức thư khi vượt qua khoảng cách trên chiếc thuyền buồm. Nhưng chính bức thư cuối này lại được gửi đi từ Luân Đôn, vì vậy chúng ta không thể cho phép mình trì hoãn công việc.

- Lạy chúa - tôi thốt lên - cuộc truy nã gắt gao kia có ý nghĩa gì?

- Rõ như ban ngày, giấy tờ đã bị Openshaw cuỗm đi mang trong đó một bí mật liên quan đến sự sống còn của bọn trên chiếc thuyền buồm. Tôi cho là trên thuyền này không chỉ có một thằng. Một người không thể tham gia hai vụ giết người tài tình, không để lại dấu vết gì. Trong chuyện này phải vài ba tên nhúng tay vào, hơn nữa chúng là những kẻ giết người sành sỏi và không hề run ray. Những giấy tờ mà chúng muốn chiếm lại bằng được, dù nó nằm trong tay ai mặc kệ. Chính thế cậu thấy không "K.K.K." đâu phải là tên của một người mà là dấu hiệu ám chỉ một tổ chức xã hội bí mật nào đó.

- Tổ chức gì?

- Tôi chưa nghe thấy bao giờ.

Holmes lật lật mấy trang sách đang nằm trên đùi anh.

- Ở đây họ có viết như thế này "Ku Klux Klan" là tên gọi xuất phát từ sự giống tiếng lên quy lát của khẩu súng. Tổ chức bí mật nguy hiểm đáng sợ này có những cựu chiến binh của quân đội miền Nam sau cuộc nội chiến thành lập. Sau một thời gian ngắn đã nhanh chóng lập các chi nhánh ở các bang khác. Chủ yếu là bang Tennessee, bang Luidian, ở cả hai vùng Carolina, bang Georgia và bang Florida. Tổ chức này dùng bạo lực phục vụ cho mục đích chính trị, chủ yếu là khủng bố, ám sát những ứng cử viên đại biểu cho dân da đen hoặc đuổi khỏi đất nước, giết những kẻ đối lập có quan điểm chống đối chúng. Bọn chúng thường cảnh cáo trước rồi mới thực hiện. Lời caenh cáo chỉ gửi cho những người mà bọn chúng định ám sát dưới hình thức thơ mộng nhưng mọi người đều quen thuộc, ở một số địa phận trong nước thì là một cành lá sồi, còn những nơi khác thì vài hạt dưa gang hoặc hột cam.

Sau khi nhận được những lời cảnh cáo đó, người ta hoặc thay đổi quan điểm của mình, hoặc đi khỏi tổ quốc. Nếu không chú ý đến lời cảnh cáo đó thì người bị gửi thư sẽ không tránh khỏi cái chết. Thường là một cái chết kỳ quặc, không lường trước được. Tổ chức này được lãnh đạo rất chặt chẽ, nó nghĩ ra những biện pháp hành động hữu hiệu đến nỗi chưa ai có thể khám phá ra được hoặc tránh khỏi cái chết thảm thiết. Chưa bao giờ những kẻ gây tội ác bị vạch mặt. Tổ chức được hình thành trong vài ba năm bất chấp mọi sự đàn áp của chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và tầng lớp tiến bộ của nhân dân. Năm 1869 những hoạt động của tổ chức bí mật này bỗng dưng chấm dứt, tuy nhiên vẫn xảy ra một vài vụ khủng bố.

- Anh có thấy không - Holmes nói và lật lật quyển sách - Sự chấm dứt bất bình thường những hoạt động chống đối của tổ chức sát nhân này trùng lặp với cuộc ra đi của Openshaw, ông ta đã thu góp tất cả tài liệu giấy tờ của tổ chức mang theo mình hồi hương. Có khả năng là những nguyên nhân và kết quả nằm ở điểm này. Không phải ngẫu nhiên những người tàn ác dã man kia cứ theo đuổi mãi gia đình Openshaw. Anh hiểu không, bảng thống kê và những cuốn nhật ký có thể là bôi nhọ, nói xấu những nhà hoạt động nổi tiếng nhất của miền Nam nước Mỹ và chính những giấy tờ này đã làm cho nhiều kẻ mất ăn mất ngủ.

- Có nghĩa là những giấy tờ mà chúng mình vừa được thấy...

- Chính nó. Đó là một thứ mà người ta mong đợi. Nếu tớ không nhầm thì ở đó ghi "Đã gửi những hạt giống cho A.B.V". Có nghĩa là họ đã gửi những lời cảnh cáo. Tiếp theo là mấy dòng chưa A và B đã cút xéo khỏi mặt đất - có nghĩa bọn họ đã bỏ tổ quốc ra đi. Còn V. đã được đến thăm. Tôi sợ ngài V. đã kết thúc không tốt đẹp. Chúng mình còn kịp làm sáng tỏ công chuyện mờ mịt này. Con đường để cứu thoát Openshaw trai trẻ kia chính là phải hành động đúng như tớ khuyên bảo. Hôm nay chúng ta không thể nói thêm được gì nữa và cũng không thể làm thêm được gì... Anh đưa tôi mượn cây đàn, chúng ta đành chịu khó ngồi im lặng nửa tiếng đồng hồ để quên đi thời tiết tồi tệ và quên đi những hành động còn tồi tệ gấp bội của con người.

Gần sáng cơn bão mới tan, mặt trời hé ửng lên xuyên qua những đám mây mù u tối rạng rõ chiếu rọi thành Luân Đôn.

Khi tôi đi xuống thì Holmes bắt đầu ăn sáng.

- Xin lỗi, tôi không đợi anh được - anh nói - Tôi thấy trước rằng tôi phải làm việc cật lực trong ngày hôm nay vì câu chuyện của Openshaw.

- Anh chuẩn bị đến đâu rồi? - Tôi hỏi.

- Điều này phụ thuộc vào sự đánh giá chính xác hay không của tôi. Có lẽ tôi phải ghé tới Horsham.

- Anh không định tới đó trước sao?

- Không, tôi sẽ bắt đầu từ Xiti. Anh gọi con hầu mang cà phê lên đi.

Trong lúc đợi cà phê, tôi cầm tờ báo để trên bàn và đọc lướt qua các mục. Bất chợt một cột báo làm tim tôi lạnh toát.

- Holmes - tôi thốt lên - anh bị chậm mất rồi.

- Có chuyện gì vậy? - anh nói và đặt cốc cà phê xuống.

- Tôi đã dự đoán trước là sẽ xảy ra chuyện này.

- Chuyện xảy ra như thế nào? - giọng anh rất bình tĩnh, chính tôi cảm thấy anh đang xúc động mãnh liệt.

Cái tên Openshaw đã đập vào mắt tôi và đề mục "Câu chuyện tang thương ở cầu Waterloo" được viết như thế này:

"Tối qua vào khoảng 21, 22 giờ, nhân viên cảnh sát có tên Cook trong lúc đang tuần tra canh gác cầu Waterloo, có nghe thấy tiếng kêu cứu và tiếng nước "bõm". Nhưng do trời tối đen như mực, gió thét ào ào cho nên mặc dù chạy đến cứu giúp nhưng vẫn không vớt được kẻ chìm dưới sông.

Cảnh sát lập tức nổi còi báo động và nhờ chiếc xuồng cấp cứu, xác chết đã được tìm thấy. Đó là một chàng trai trẻ, tên anh ta theo phong bì tìm thấy trong người là John Openshaw, sống gần Horsham. Người ta đoán anh ta vì quá vội để đi chuyến tàu cuối cùng xuất phát từ ga Waterloo, trong bóng đêm mịt mùng và đã bị trượt chân lọt xuống dưới cầu. Trên thi hài nạn nhân không phát hiện một dấu vết đánh đập hành hung nào. Không thể nghi ngờ gì nữa, anh ta đã mất mạng trong trường hợp đáng tiếc. Điều đó bắt buộc chính quyền địa phương phải chú ý đến tình trạng chiếc cầu".

Chúng tôi lặng đi mấy phút. Tôi chưa hế nhìn thấy Holmes mệt nhọc đến như thế.

- Cái đó đã giáng một đòn chí mạng vào tính tự ái của tôi - Cuối cùng anh thốt lên đau đớn - Không thể chối cãi và bào chữa được điều gì, tính tự ái là một thứ tình cảm nhỏ nhen ích kỷ, nó không giải quyết được việc gì cả. Bây giờ câu chuyện này trở thành việc riêng của tôi và nếu Chúa có ban cho tôi một sức khỏe thì tôi sẽ tóm gọn cả băng sát nhân ấy. Anh ta hoảng sợ đến nhờ tôi giúp đỡ, thế mà tôi lại đẩy anh ta đến chỗ chết.

Anh đứng dậy khỏi chiếc ghế, bước đi bước lại trong căn phòng, khuôn mặt trắng bệch bừng bừng tức giận. Anh hết bóp lại thả ra những ngón tay dài và nhỏ nhắn của mình một cách giận dữ.

- Những con quỷ láu cá! - Cuối cùng anh thét lên - Làm thế nào mà chúng lừa được anh chàng để nhấn chìm xuống đáy sông? Bờ sông không phải là con đường dẫn tới nhà ga. Còn trên cầu thậm chí trời có tối đi chăng nữa cũng còn rất nhiều người. Watson, chúng ta thử xem ai là người chiến thắng trong hiệp này. Tôi đi đây.

- Tới đồn cảnh sát à?

- Không, tôi sẽ làm cảnh sát. tôi sẽ giăng một tấm lưới như tấm mạng nhện và cứ để cho cảnh sát đến bắt những con ruồi trong đó, nhưng không dễ làm ngay bây giờ.

Cả ngày hôm đó, tôi mắc công việc chữa bệnh. Khi quay về hẻm Baker thì trời đã tối từ lâu. Holmes vẫn chưa về. Khi anh về thì đã hơn 21 giờ đêm, người bơ phờ, nhợt nhạt. Anh đến tủ đựng thức ăn, lấy một mẩu bánh mì cho vào miệng nhai ngấu nghiến và nuốt ừng ực những ngụm nước lớn.

- Anh đói lắm phải không? - Tôi nhận xét.

- Đói gần chết đây. Tôi làm quên cả ăn, kể từ buổi ăn lót dạ sáng đến giờ.

- Thế anh nhịn à?

- Không có lấy một hột. Tôi không có thời gian rỗi để nghĩ đến chuyện ăn uống nữa.

- Còn công việc của anh ra sao?

- Rất tốt đẹp.

- Anh đã tìm ra chìa khóa vén mở điều bí mật chưa?

- Bọn nó đã nằm gọn trong lòng bàn tay tôi. Rồi chàng Openshaw trẻ tuổi kia không còn bao lâu nữa sẽ được rửa hận. Watson, chúng mình sẽ dán nốt cái nhãn hiệu ma quỷ chính thống của chúng nó. Chẳng lẽ đó là điều không hay?

- Anh nói về cái gì thế?

Holmes lấy từ trong chạn ra một quả cam. Rồi anh bóc nó ra từng múi, cẩn thận nhặt mấy hạt để lên bàn. Anh nhặt nắm hột cho vào chiếc phong bì. Phía trong phong bì anh viết:

"S.H gửi cho J.O".

Sau đó anh dán phong bì lại và ghi địa chỉ ở ngoài "Gởi ngài thuyền trưởng James Calhoun, thuyền buồm Ngôi Sao Đơn Độc Savannah, Georgia".

- Bức thư sẽ đợi Calhoun khi hắn ta cập bến - Holmes nói - Điều này sẽ làm cho hắn mất ăn mất ngủ. Tôi tin rằng hắn sẽ chịu chung số phận như số phận của ngài Openshaw.

- Thuyền trưởng Calhoun là ai vậy?

- Hắn là thủ lĩnh của cả bọn khốn kiếp ấy. Dần dần tôi sẽ lần ra những thằng khác nữa. Hắn là thằng đầu tiên.

- Bằng cách nào mà anh tìm ra chúng nó?

Holmes lôi ra từ trong túi một tờ giấy cỡ lớn ghi chép chi chít những năm tháng và tên người.

- Cả ngày tôi chỉ chúi đầu sục vào các tập hồ sơ, giấy má cũ, theo dõi số phận của từng chiếc tàu đã cập bến Pondicherry trong thời gian từ tháng giêng và tháng hai năm 1883. Trong hai tháng ấy có ghi lại ba mươi sáu chiếc tàu có trọng tải khá lớn. Trong số đó có chiếc "Ngôi Sao Đơn Độc" làm cho tôi chú ý nhất bởi địa điểm cập bến là Luân Đôn. Hơn nữa "Ngôi Sao Đơn Độc" là một biệt danh của một bang bên Mỹ.

- Hình như bang Texas phải không?

- Điều này chưa chắc chắn. Nhưng tôi biết con tàu đó đã xuất phát từ bên Mỹ.

- Có gì nữa không?

- Tôi đọc lướt qua các mục ghi chép về ngày đến và ngày đi của tất cả tàu thuyền ở cảng Dundee. và khi tôi thấy chiếc thuyền buồm "Ngôi Sao Đơn Độc" đã cập bến Dundee trong tháng giên năm 1885 thì mọi nghi ngờ của tôi đã chuyển sang khẳng định. Tôi lập tức lục tìm bảng chỉ dẫn có liên quan tới những chiếc tàu thuyền đã đậu ở cảng Luân Đôn trong thời gian hiện nay.

- Anh có thấy được gì không?

- "Ngôi Sao Đơn Độc" vừa cập bến Luân Đôn trong tuần trước. Tôi vội chạy đến chỗ Albert Dock và được biết đúng hôm nay, lúc thủy triều lên sớm, "Ngôi Sao Đơn Độc" đã rời bến ra sông để quay về cảng Savannah. Tôi đã điện tới Gravesend và được báo cho biết "Ngôi Sao Đơn Độc" vừa mới qua đấy không lâu. Và do gió hướng đông nên tôi không nghi ngờ gì hết. "Ngôi Sao Đơn Độc" đã vượt qua Goodwins và hiện giờ đang cách không xa hòn đảo Wight.

- Anh định hành động ra sao?

- Ồ! Kelgun đang nằm trong tay tôi. Hắn với hai tên thủy thủ - là những tên người Mỹ duy nhất trên tàu. Những người còn lại là người Phần Lan và người Đức. Thậm chí tôi còn được biết tối hôm qua cả ba đứa đều không có mặt trên thuyền. Người khuân vác đã cho tôi biết chi tiết ấy. Ông ta làm nhiệm vụ bốc vác trên chiếc thuyền buồm "Ngôi Sao Đơn Độc". Khi thuyền "Ngôi Sao Đơn Độc" cập bến Savannah thì tàu thủy đã mang bức thư của tôi tới trước rồi. Còn bức điện tôi báo cho cảnh sát ở Savannah là phải bắt ngay ba tên người Mỹ vì tội đã giết người.

Tuy nhiên, trong mọi dự tính cẩn thận nhất của con người bao giờ cũng có một chỗ sơ hở nào đó. Những kẻ đã giết hại gia đình Openshaw kia chưa phán đoán được là sẽ nhận được những hột cam do người khác gửi cho chúng. Mà con người ấy, cũng kiên quyết, láu cá như bọn chúng. Con người đó đã lần ra dấu vết chúng nó.

Trong năm ấy, những trận cuồng phong thật là dữ dội, kéo dài dai dẳng. Chúng tôi chờ đợi tin tức của chiếc thuyền buồm "Ngôi Sao Đơn Độc" rất lâu nhưng tất cả đều không đúng như chúng tôi mong đợi.

Cuối cùng chúng tôi mới được biết là ở một nơi xa xôi nào đó trên bờ Đại Tây Dương, người ta đã nhìn thấy chiếc đuôi tàu bị vỡ, dập dềnh theo sóng biển. Trên đó người ta đã nhìn thấy những chữ "L.S" (tức Ngôi Sao Đơn Độc, viết tắt từ tiếng Anh). Đó là tất cả những gì chúng tôi được biết về số phận của "Ngôi Sao Đơn Độc".

(Hết)

-----------------------------------------------------------------------

NGÔI NHÀ HOANG

Năm 1894, cả thành phố Luân Đôn đều bàn tán xôn xao về vụ ám sát bá tước Ronald Adair trẻ tuổi. Vụ án xảy ra vào mùa xuân, người ta biết được những tình tiết của vụ án chủ yếu theo thông tin từ phía cảnh sát nhưng trong thực tế, phần lớn những tình tiết phải giấu kín.

Mười năm trôi qua, hiện giờ tôi mới có khả năng bổ sung thêm những mắt xích còn thiếu trong chuỗi sự kiện đầy bí ẩn kia. Bản thân vụ án đã là một điều lý thú nhưng kết cục mà chẳng ai đoán được của vụ án còn lý thú gấp nghìn lần. Kết cục này làm cho tôi bàng hoàng, chấn động hơn tất cả những gì mà tôi từng gặp trong đời mình; dù cuộc đời của tôi nếu không có sự kiện ấy thì cũng đã chứng kiến nhiều cuộc trinh thám ly kỳ. Thậm chí ngay bây giờ, sau nhiều năm tôi vẫn còn cảm giác run sợ khi nghĩ lại câu chuyện xa xưa và tôi vẫn bị một nỗi hoài nghi, thảng thốt, vui buồn lẫn lộn bao trùm xâm chiếm toàn bộ tâm hồn.

Tôi muốn nói với các bạn độc giả, những người vẫn thường quan tâm tới những mẩu truyện của tôi về những việc làm và những suy luận của một con người tuyệt vời hãy tha thứ cho tôi, vì việc tôi không chia xẻ với các bạn điều khám phá của mình. Tôi tự đặt cho mình một nghĩa vụ là phải báo cáo cho các bạn tất cả sự thật, một khi tôi không còn bị ràng buộc bởi chuyện cấm đoán xuất phát từ chính ý muốn của bạn tôi. Câu chuyện ngăn cấm được xảy ra cũng vừa mới đây, ngày mùng ba tháng trước.

Tôi quan tâm tới những chuyện hình sự bởi tôi và Sherlock Holmes có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Kể từ khi anh biệt tăm mất tích, tôi trở thành kẻ thường xuyên theo dõi trên các báo chí tất cả các vụ án chưa được khám phá. Để thỏa mãn tính hiếu kỳ, đôi lúc tôi đã có ý định tham gia vào chuyện phá án, tôi sử dụng những phương pháp, thủ thuật như của bạn tôi thường làm, mặc dù còn lâu tôi mới đạt được trình độ ấy.

Tuy thế, không có vụ án nào lại làm cho tôi hồi hộp, lo âu bằng câu chuyện tang thương của Ronald Adair. Khi tôi biết những căn cứ đưa ra không đủ để kết tội mưu sát của một người hay một nhóm người nào đó, tôi càng thấy thấm thía hơn bao giờ hết rằng cái chết của Holmes đã gây cho xã hội một tổn thất to lớn. Tôi dám khẳng định rằng trong chuyện này nhất thiết phải có những tình tiết làm cho Holmes chú ý, hoạt động của cảnh sát sẽ được bổ sung đầy đủ và đạt kết quả hơn nếu như họ có sự giúp sức của bộ óc thông minh và đôi mắt quan sát tinh tế của nhà thám tử sành sõi nhất châu Âu này.

Cả ngày tôi đi tìm hiểu, những suy nghĩ làm tôi nhức đầu, đó là câu chuyện của Adair, nhưng tôi không thể nào tìm ra được một lời giải đáp thỏa đáng. Tôi đánh bạo lặp lại những gì mà mọi người đã biết, tôi cũng muốn nêu lên những dữ kiện theo dạng đã được thông báo cho công chúng biết sau khi kết thúc cuộc điều tra.

Ronald Adair là con trai thứ hai của bá tước maynooth. Bá tước Maynooth là tổng đốc toàn quyền một khu vực thuộc địa của người Anh ở Áo. Người mẹ của Adair đã từ Áo đến nước Anh để giải phẫu mắt, cắt bỏ cái vây mọc ở mắt, đã cùng cậu con trai Adair và cô con gái Hilda sống ở Park Lane, số nhà 427. Ronald Adair thường giao du với những người tốt và hình như không có địch thủ nào, cũng chưa làm gì đáng chê trách.

Đã có thời chàng đính hôn với tiểu thư Edith Woodley ở bang Carstairs. Nhưng trước khi xảy ra vụ án mạng vài tháng thì cả chú rễ lẫn cô dâu đã quyết định chia tay nhau, không ai hối hận về chuyện này cả. Nói chung cuộc đời của chàng thanh niên trai trẻ chỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình và trong giới thượng lưu. Tính tình anh ta điềm đạm, thói quen và sở thích không có gì xấu. Thế nhưng một cái chết bất ngờ nhất và kỳ lạ nhất đã cướp đi một nhà quý tộc trẻ vô tư. Chuyện đó xảy ra vào khoảng 23 giờ 10 phút đến 23 giờ 20 phút ngày 30 tháng 3 năm 1894.

Ronald Adair là một người thích cờ bạc nhưng chưa bao giờ tỏ ra vượt quá giới hạn bởi nếu không sẽ làm tổn hại đến danh dự quý tộc của anh ta. Anh ta là thành viên của ba câu lạc bộ Baldwin, Cavendish và Bagathel. Chính trong ngày bị giết, sau bữa cơm chiều, Ronald đã chơi một ván bài ở câu lạc bộ Bagathel. Thậm chí trước bữa cơm chiều anh ta cũng có chơi ở đấy rồi. Những người cùng chơi với anh ta là: ngài Murray, ngài John Hardy và ngài đại tá Moran.

Adair bị thua mất năm bảng Anh. Gia tài của anh ta khá lớn nên việc thua bạc như vậy không làm cho anh ta bận tâm chút nào. Anh ta hầu như ngày nào cũng chơi và thường là được bạc. Trong những lời khai của các nhân chứng còn có một chuyện nữa đó là khoảng một tháng rưỡi trước khi bị giết, Adair cùng chơi với nhài đại tá Moran, một buổi tối đã ăn của ngài Godfrey Milner và huân tước Balmoral 420 bảng. Đấy là tất cả những gì biết được về những tuần cuối cùng của đời anh ta trong báo cáo điều tra.

Vào buổi tối đó, anh ta từ câu lạc bộ trở về nhà đúng 10 giờ đêm. Mẹ và em gái anh ta đi vắng. Họ đi thăm người quen chưa về. Người hầu gái thề rằng cô ta đã nghe thấy anh ta bước vào phòng của mình. Căn phòng ấy nằm trên tầng hai, cửa sổ hướng ra đường phố, anh ta dùng làm nơi tiếp khách. Trước khi bá tước trẻ tuổi về, người hầu gái vừa nhóm lò sưởi xong, lò sưởi vẫn còn bốc khói nghi ngút, cô ta phải mở toang các cửa sổ để thoáng khói.

Trước 23 giờ 20 phút không hề nghe thấy một động tĩnh nào phát ra từ căn phòng của bá tước. Lúc ấy bà Maynooth và cô con gái về đến nhà. Mà Maynooth muốn ghé lại chỗ cậu con trai để chúc cậu ngủ ngon nhưng cánh cửa phòng đã được khóa chặt bên trong, mặc cho người ta gào thét, đập cửa vẫn không một ai lên tiếng. Trong tình hình cấp bách, người mẹ gọi người nhà phá cửa ra. Khi cửa mở, chỉ thấy chàng thanh niên xấu số đang nằm gục dưới sàn nhà, ngay cạnh chiếc bàn. Đầu anh ta bị một viên đạn súng lục bắn thủng, trông thật khủng khiếp.

Nhưng rất kỳ lạ là trong phòng không thấy một thứ vũ khí nào hết. Trên bàn có hai tờ ngân phiếu trị giá 10 bảng Anh và 17 đồng bảng Anh với 10 silinh bằng bạc có, bằng vàng có. Những đồng bạc được xếp thành từng chồng nhỏ với từng loại giá trị khác nhau. Bên cạnh những đồng bạc là một tờ giấy có ghi những con số và ngang hàng với những con số là tên những người bạn cùng câu lạc bộ của Adair. Từ những dữ kiện này có thể rút ra một nhận xét: trước khi chết, chàng trai đã tính toán những ván thua, thắng bạc của mình.

Những điều tra tại hiện trường càng làm cho công việc càng trở nên rối rắm, mù mịt hơn. Một điều làm chúng ta khó hiểu: vì sao chàng trai phải khóa chặt cửa từ bên trong? Thực ra kẻ giết người cũng có thể khóa cửa rồi trèo qua cửa sổ để tẩu thoát. Nhưng dưới những cánh cửa sổ là những bồn hoa hồng lại không hề bị dẫm nát, hơn nữa từ cửa sổ đến mặt đất phải đến 30 thước Anh. Không một cây hoa nào bị giày xéo, làm nát. Ngay cả lớp đất giữa nhà và con đường cũng không hề có một dấu vết nào.

Rõ ràng là chính Adair đã khóa cửa. Nhưng sao cái chết lại đột ngột dội vào đầu anh ta? Cứ giả thiết rằng tên sát nhân đã bắn qua cửa sổ thì đó phải là một phát súng rất đặc biệt vì chỉ bằng một viên đạn súng lục đã giết chết chàng trai ngay lập tức với một khoảng cách quá xa như vậy thì đâu phải chuyện dễ dàng. Hơn nữa, Park Lane là một đường phố nhộn nhịp đông người qua lại, cách nhà hơn 100 ácđơ có một trạm xe ngựa. Không một người nào nghe thấy tiếng súng nổ. Vậy mà có một người bị ám hại nằm xuống chỉ với một viên đạn súng lục bắn xuyên thủng đầu? Xét theo vết thương thì chính viên đạn kia là nguyên nhân gây ra tử vong. Bối cảnh vụ án đầy bí ẩn ở Park Lane là như vậy.

Một vụ giết người có ẩn số đầy bí hiểm bởi thiếu hoàn toàn những nguyên do xác đáng, logic. Anh bạn trẻ Adair không hề có địch thủ, còn tiền nong cũng như giấy tờ quý giá khác thì không hề suy suyển.

Cả ngày tôi suy đi nghĩ lại trong óc tất cả những dữ kiện ấy. Với tham vọng cố đặt ra cho nó một giả thiết có phàn nào phù hợp và đủ sức thuyết phục. Tôi cố gắng tìm ra "điểm khởi đầu của điều tra", điều mà người bạn xấu số của tôi luôn luôn lấy làm kim chỉ nam cho các công cuộc khám phá. Tôi thành thật thú nhận mình hoàn toàn không đạt được ý đồ đó.

Chính vào buổi chiều khi tôi đang lang thang trong công viên, khoảng 18 giờ, bỗng dưng tôi đi đến góc phố giữa đường Park Lane và đường Oxford không hề có ý định trước. Tôi thấy một nhóm người đang tụm năm tụm ba, dòm ngó vào một chiếc cửa sổ ngôi nhà đã xảy ra vụ án mạng đầy bí ẩn.

Một gã đàn ông cao, gầy đeo kính râm to - tôi nghĩ chắc là một thám tử giả dạng - đang thử nêu một giả thiết về án mạng, những người tò mò bao quanh ông ta chật cứng, chăm chú lắng nghe. Tôi cũng định xán lại nhưng khi nghe loáng thoáng những nhận định, phán đoán ngu xuẩn, tôi có cảm giác kinh tởm và thối lui.

Vô tình tôi *****ng phải một ông già gù lưng đứng phía sau, mấy cuốn sách mà ông ta đang kẹp nách bị rơi ra. Trong lúc cúi xuống nhặt giúp mấy cuốn sách cho ông lão, tôi chợt đọc thấy một tên sách "Khởi nguồn của việc sùng bái cỏ cây". Tôi thoáng nghĩ: thật là một con mọt sách tội nghiệp, chắc vì để kiếm sống hoặc vì yêu thích nghệ thuật nên đã cố sưu tầm những cuốn sách quý hiếm. Tôi định nói vài câu xin lỗi cho sự vô tình của mình đã làm rơi những vật mà chủ nhân của nó nâng niu, trân trọng, nhưng ông già càu nhàu, tức tối và khinh khỉnh quay đi. Chỉ một loáng cái lưng gù gù và bộ râu quai nón bạc trắng của ông đã lẩn vào đám đông.

Tôi đã quan sát nhiều lần ngôi nhà 427 phố Park Lane và những quan sát này đã giúp tôi được chút ít trong công việc khám phá lời giải đáp mà tôi quan tâm. Ngôi nhà được ngăn cách với đường phố bằng một bức tường thấp, trên tường có chăng dây thép. Dây thép cao chưa đến một mét. Mọi người dễ dàng lọt được vào vườn. Nhưng trèo lên cửa sổ thì khó thực hiện được vì không có ống thoát nước, không hề có một cái gờ nào nhô ra, cho nên ngay cả một nhà thể thao điêu luyện nhất cũng không thể trèo lên theo bức tường được.

Càng thấy mơ hồ hơn, tôi quay về phố Kensington để về nhà. Tôi bước vào phòng mình chưa đầy năm phút thì người hầu gái đã báo với tôi là có một người khách muốn gặp tôi. Tôi thật sửng sốt và ngạc nhiên vì đó không phải ai xa lạ mà chính là ông già gù gù, thích sưu tầm sách quý tôi gặp lúc chiều. Bộ tóc bạc phau, trùm gần kín khuôn mặt nhăn nheo, nhọn hoắt của ông. Ông kẹp ở nách có đến một tá những cuốn sách loại quý:

- Chắc ngài rất ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi? - Ông ta hỏi với giọng the thé rất kỳ dị.

Tôi thú nhận là ông ta đoán đúng.

- Tôi cảm thấy rất áy náy, thưa ngài. Tôi đi theo con đường mà ngài đi và chợt thấy ngài bước vào ngôi nhà này. Tôi tự nhủ với mình là cần ghé lại gặp con người lịch thiệp kia để xin lỗi. Nếu tôi có thô thiển lố bịch với ngài thì thú thật tôi cũng không có ý định làm cho ngài bực dọc. Tôi mang ơn ngài rất nhiều vì ngài đã hạ cố nhặt giúp tôi những cuốn sách.

- Ngài khách khí rồi, chuyện nhỏ nhặt ấy tôi không bận tâm đâu - Tôi đáp - Ngài cho phép tôi được hỏi làm sao ngài biết được tôi là người như thế nào?

- Tôi cũng xin mạnh dạn nói với ngài rằng tôi là hàng xóm láng giềng với ngài. Tiệm sách bé nhỏ của tôi nằm ở góc phố Church, tôi rất hân hạnh nếu được ngài ghé lại chơi. Có lẽ ngài cũng là người ham mê sách? Tôi xin giới thiệu với ngài đây là cuốn "Những giống chim ở British", "Catullus", "Cuộc thánh chiến". Ngài mua đi, tôi sẵn sàng bán giá rẻ. Năm tập này vừa vặn đủ lấp kín chỗ trống ở ngăn thứ hai tủ sách của ngài. Tôi thấy hình như giá sách của ngài không được đẹp mắt lắm thì phải, thưa ngài?

Tôi ngoái cổ để nhìn lại giá sách, khi quay lại thì tôi không thể tin ở mắt mình được nữa: Sherlock Holmes đang đứng ngay bên chiếc bàn của tôi và đang cười. Tôi khuỵu xuống vài giây.

Tôi ngơ ngác nhìn anh và sau đó thì, có lẽ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi đã bị ngất. Tôi chỉ mang máng nhớ là có một đám mây xám đang nhập nhòa trước mắt. Khi đám mây tan biến đi, tôi thấy cổ áo của mình bị mở phanh ra và tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi rượu cô-nhắc. Holmes vẫn đứng đấy, trên tay cầm chai rượu, đầu hơi cúi xuống.

- Watson thân mến! - Một giọng nói khá thân thuộc cất lên - Nghìn lần tôi xin lỗi anh. Tôi không ngờ cái ấy lại gây cho anh một xúc động mạnh như vậy.

Tôi nắm lấy tay anh.

- Holmes! - Tôi thốt lên - Có phải thật anh không? Chẳng lẽ anh vẫn còn sống ư? Không thể nào tin được, làm sao anh vượt lên được cái thác nước khủng khiếp ấy?

- Hãy đợi chút đã - Anh nói - Không biết anh đã bình tĩnh lại chưa? Rõ ràng sự xuất hiện quá đường đột của tôi đã làm anh choáng váng.

- Tôi đã bình tĩnh lại rồi. Nhưng thú thật với anh, tôi không còn tin ở mắt mình nữa. Thật hú vía! Chẳng lẽ chính anh đấy ư? Không phải ai khác đang đứng trong phòng tôi đấy chứ?

Tôi lại nắm lấy cánh tay anh và bóp nắn cánh tay gân guốc.

- Đúng rồi, chính là anh rồi, không còn nghi ngờ gì nữa - Tôi tiếp - Bạn yêu mến của tôi ơi! Tôi hạnh phúc biết bao khi được gặp lại anh! Hãy ngồi xuống cái đã và hãy kể vắn tắt cho tôi nghe bằng cách nào anh thoát khỏi vực thẳm kia?

Holmes ngồi xuống đối diện với tôi, với dáng điệu quan thuộc xưa anh lấy thuốc ra châm hút. Anh vẫn đang mặc chiếc áo đã sờn với dạng của người bán sách cũ nhưng những thứ dùng để cải trang như bím tóc bạc, túi đựng sách cũ... đã nằm trên bàn. Tôi có cảm giác anh gầy hơn xưa, cái nhìn của anh có vẻ sắc sảo hơn. Khuôn mặt trắng xanh nhợt nhạt của anh chứng tỏ trong thời gian qua anh đã nếm nhiều khổ cực, đã trải qua một chặng đường đời khắc khổ không có lợi cho sức khỏe.

- Watson, được duỗi thẳng người ra thật khoan khoái - Anh lên tiếng - Một người cao lớn như tôi không dễ dàng gì mà rút đi một vài chục phân và bắt buộc giữ tình trạng đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Bây giờ, chúng ta sẽ đề cập đến những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Tôi muốn cầu cứu sự giúp đỡ của anh, nếu anh không phản đối. Cả hai chúng mình sẽ phải thức trắng suốt đêm nay với một công việc nặng nhọc đầy nguy hiểm. Tốt nhất nên để chuyện về cuộc phiêu lưu của tôi đến lúc công việc kia giải quyết xong xuôi.

- Nhưng tôi đang cháy ruột, cháy gan vì tò mò. Holmes, tôi nóng lòng được anh kể ngay bây giờ.

- Anh có đồng ý đi với tôi đêm nay không?

- Đi bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào, tùy anh.

- Hoàn toàn như ngày xưa. Chúng ta vẫn còn kịp giải lao cho thư thả trước lúc lên đường. Nào, bây giờ tôi bắt đầu câu chuyện về cái thác nước. Nguyên nhân đơn giản làm cho tôi lên được khỏi vực thẳm là tôi chưa hề bị rơi xuống đó.

- Anh không bị rơi xuống vực à?

- Đúng thế, Watson ạ, không hề bị rơi. Thế nhưng mẩu thư tôi viết cho anh hoàn toàn là sự thật. Khi bóng dáng độc ác của giáo sư Moriarty xuất hiện trên lối mòn chật hẹp, chặn ngang con đường giải thoát duy nhất của tôi, lúc ấy tôi nghĩ mọi chuyện đối với tôi như vậy đã chấm dứt. Trong đôi mắt mà nâu của hắn, tôi đọc được quyết định không thể nào lay chuyển nổi về số phận của tôi. Tôi trao đổi với hắn vài ba câu, hắn lịch sự cho phép tôi được viết một mẩu tin ngắn ngủi, anh đã nhận được bức thư đó. Tôi để lá thư cùng hộp thuốc và cây gậy lại, còn tự mình đi theo lối mòn tiến về phía trước. Moriarty đi theo sau tôi từng bước một. Khi đến đoạn cuối cùng của lối mòn, tôi dừng lại bởi có đi tiếp cũng không còn đường nào hết. hắn không thèm lấy ra một thứ vũ khí gì, vội lao vào tôi và hắn dùng đôi tay dài ngoằng của mình chộp lấy tôi. Hắn biết cuộc đời của hắn đã tới số, hắn chỉ cần thực hiện một việc là trả thù tôi. Không thèm buông ra, tôi với hắn giằng co ngay bên mép vực thẳm. Nhưng nhờ tôi biết vài miếng võ Judo của Nhật Bản, khoản này đã giúp tôi không ít trong công việc, tôi kịp thoát ra khỏi người hắn.

Hắn thét lên nghe thật man rợ, loạng choạng vài giây, hai tay chới với trong không trung. Mặc dù hắn cố gắng hết sức nhưng vẫn không thể giữ nổi thăng bằng và ngã xuống. Đứng trên bờ vực thẳm, tôi nhìn theo rất lâu xem hắn bị rơi xuống vực như thế nào. Tôi thấy hắn va vào gờ của một tảng đso và chìm nghỉm dưới nước.

ôi lắng nghe Holmes kể với tâm trạng hồi hộp vô cùng. Còn anh vẫn thản nhiên, vừa kể vừa nhả khói thuốc một cách khoan thai.

- Nhưng còn các vết chân! - Tôi thốt lên - Chính tôi, bằng mát mình đã trông thấy rõ rành rành hai dãy bước chân cùng đi lên theo lối mòn, dấu quay lại không hề có.

- Chuyện ấy xảy ra như thế này. Trong giây phút, khi giáo sư Moriarty rơi xuống vực, tôi hiểu rằng vận may đã đến với tôi một cách không ngờ. Tôi biết rằng không phải chỉ có một mình Moriarty đang tìm cách giết tôi. Ít nhất phải có ba tên đồng bọn, cái chết của thủ lĩnh sẽ đốt cháy trong tim bọn nó một sự khao khát trả thù. Đó là một lũ người cực kỳ nguy hiểm. Trong tương lai, sẽ có một tên nào đó trong bọn chúng thực hiện mưu đồ làm hại tôi. Nếu chúng nghĩ rằng tôi đã chết thì chúng sẽ hành động trắng trợn hơn, ít đề phòng và dễ dàng để lộ tung tích. Lúc ấy, sớm hay muộn rồi tôi cũng có ngày tiêu diệt được chúng nó. Chỉ đến lúc này, tôi mới thông báo cho mọi người biết tôi vẫn còn sống! Bộ não của con người làm việc rất nhanh, Moriarty chưa kịp xuống tới đáy của vực nước Reichenbach tôi đã nghĩ xong kế hoạch đối phó rồi. Tôi đứng lên và quan sát bức tường đó sừng sững ở sau lưng. Trong đoạn miêu tả về cái chết tang thương của tôi, mà tôi rất thú vị đọc sau đó vài tháng, anh cho rằng bức tường đá hoàn toàn dựng đứng và trơn tuột. Không phải đúng hết như vậy. Trên tảng đã có vài chỗ gờ nhô ra có thể đặt chân bám vào được. Ngoài ra, dựa vào các dấu hiệu, tôi tin sẽ có một cái hốc nào đấy ở trên cao... Mỏm đá khá cao, rõ ràng không thể nào trèo lên đỉnh được và cũng không thể đi theo lối mòn ẩm ướt mà không để lại dấu vết. Thực ra tôi cũng có thể mang giày cho gót lộn ngược cũng được, như tôi đã từng làm trong những trường hợp tương tự, nhưng ba dấu giày cùng đi theo một hướng không thể tránh khỏi sự nghi ngờ rằng cố ý đánh lừa được.

Vì vậy tốt nhất cứ liều leo lên cao. Điều này không phải là dễ, thác nước đang réo ầm ĩ phía dưới. Tôi có cảm giác tiếng nói của Moriarty đang gọi tôi từ đáy vực thẳm vọng đến tai tôi. Đôi lúc, khi một nắm cỏ nằm lại trên bàn tay hoặc bàn chân bị trượt theo cái gờ đá ẩm ướt láng lầy, tôi nghĩ rằng mọi việc đã kết thúc. Nhưng tôi vẫn tiếp tục bò lên, cuối cùng tôi bò lên chỗ nứt lở khá sâu mọc đầy rêu xanh. Ở đay, tôi có thể nằm duỗi tay, duỗi chân mà không sợ ai nhìn thấy. Tôi nghỉ một lát cho sảng khoái. Tôi đã nằm ở đấy, trong lúc đó, anh và những người được anh mời tới đã hoài công dựng lên bức tranh về cái chết của tôi.

Cuối cùng, sau khi đã rút ra kết luận hoàn toàn sai lầm về những diễn biến đã xảy ra, anh quay về khách sạn, còn tôi nằm lại một mình. Tôi hình dung cuộc phiêu lưu của tôi đã kết thúc. Nhưng một việc khá bất ngờ đã xảy ra chứng tỏ là có một chuyện không kém phần ly kỳ đang chờ đợi tôi. Có một hòn đá to vỡ ra chợt bay vèo qua đầu tôi, rơi xuống lối mòn rồi rơi xuống vực. Lúc đầu tôi cứ nghĩ đó là một chuyện tình cờ. Nhưng sau khi nhìn lên trên, tôi trông thấy một cái đầu của người đàn ông in trên nền trời đang tắt dần nắng. Đúng giây phút ấy, một hòn đá khác bay tới ngay sát cái hõm mà tôi đang nằm, cách đầu tôi chỉ vài inch. Tình thế đối với tôi đã quá rõ. Moriarty không phải chỉ đến một mình. Tên đồng bọn của hắn cũng khá nguy hiểm, thằng này chắc đứng cảnh giới, khi Moriarty xông vào tấn công tôi. Từ xa, hắn đã chứng kiến cái chết của thủ lĩnh mình và thấy kẻ thù của hắn đã thoát nạn. Sau khi chờ đợi một lúc, hắn chạy vòng lên đỉnh bằng hướng khác và mưu toan thực hiện việc mà Moriarty đã không thành công.

Watson, tôi suy tính chuyện này rất nhanh. Sau khi nhìn quanh, tôi lại trông thấy bộ mặt dữ tợn của hắn và hiểu rằng hắn là kẻ đã ném thêm viên đá nữa. Tôi quyết định bò xuống lối mòn. Tôi không biết, trong trạng thái bình thường, tôi có làm nổi chuyện ấy hay không? Tuột xuống khó gấp cả nghìn lần lúc leo lên. Nhưng không hơi đâu mà đắn đo, suy tính. Khi đó tôi đang treo người, hai tay bám vào mép của khe đá. Một viên đá thứ ba bay vù qua đầu tớ. Tụt được nửa đường, bỗng tôi trượt chân một cái nhưng dẫu sao tôi cũng đã đến lối mòn. Người bị rách bươm, thấm đầy máu, ba chân bốn cẳng tôi cắm đầu cắm cổ chạy. Trong đêm tối tôi chạy xuyên rừng, xuyên núi mười dặm, một tuần sau tôi có mặt ở Flôrenx và tin chắc rằng không một người nào trên đời này biết được số phận của tôi.

Chỉ một người biết được bí mật đó là anh trai tôi - Mycroft. Nghìn lần xin lỗi anh, Watson. Nhưng tôi bắt buộc phải làm như vậy, cứ để mọi người tưởng tôi chết thật là được rồi. Nếu không, không bao giờ anh có thể viết lên những điều khẳng định chắc chắn về cái chết của tôi, nếu anh tin rằng đó là sự thật. Trong ba năm ấy, đôi lần tôi định viết thư cho anh, nhưng mỗi lần như vậy tôi đành phải dằn lòng vì sợ rằng mối mật thiết quá ư chặt chẽ giữa anh và tôi sẽ dễ làm cho anh có sơ suất và sẽ lộ điều bí mật của tôi. Vì sao chiều nay tôi phải tránh mặt anh khi anh làm rơi sách của tôi ư? Tôi thật liều lĩnh, nếu như anh kêu lên vì kinh ngạc hoặc vì vui mừng, mọi người sẽ nhìn chằm chằm vào tôi. Chuyện đó sẽ dẫn đến hậu quả không thể cứu chữa được. Còn phải nói cho anh Mycroft thì cực chẳng đã tôi mới thú thật mà thôi, bởi tôi rất cần một món tiền để tiêu xài.

Công việc ở Luân Đôn giải quyết rất tệ, tệ hơn là tôi mong đợi. Sau khi ra tòa, trong băng của Moriarty còn hai tên đang nằm ngoài vòng pháp luật. ĐÓ là hai tên cướp rất nguy hiểm, cả hai thằng đều là kẻ tử thù của tôi. Vì thế tôi đã đi chu du trong hai năm ở vùng Tibet và đến thăm thành phố Lhassa. Có lẽ anh đã đọc bài báo nói về vụ chấn động lớn của một người Na Uy mang tên Sigerson, nhưng anh làm sao có thể nghĩ rằng bài ấy là của bạn mình. Tôi còn đi thăm vài nơi ở vương quốc Ả Rập, chuyến đi thăm do tôi đề nghị lên ngài bộ trưởng ngoại giao.

Sau khi quay về châu Âu, tôi ở lại thăm nước Pháp vài tháng, ở đây tôi tham dự vào công cuộc nghiên cứu, phân tích những chất lấy từ một vùng than đá. Việc này tôi làm ở một phòng thí nghiệm thuộc miền Nam nước Pháp - Montpellier, sau khi kết thúc tốt đẹp thí nghiệm và biết được hiện nay ở Luân Đôn chỉ còn sống sót một kẻ thù không đội trời chung của tôi, tôi suy tính chuyện trở về. Lúc đó tôi nghe tin vụ ám sát đầy bí ẩn ở phố Park Lane và nogns lòng ra đi. Tôi cũng đã nghiên cứu kỹ vụ này rồi. Đáp số của vụ án mạng sẽ giúp tôi thực hiện ý định của riêng mình. Thế là tôi vội vã quay về Luân Đôn. Tự tôi đến hẻm Baker và đã làm cho bà Hudson bị một phen hoảng sợ, lên cơn thần kinh. Anh trai tôi vẫn trông nom căn phòng và mọi giấy tờ vẫn nguyên vẹn như lúc tôi ra đi. Ngày hôm nay, lúc 14 giờ, tôi đã ghé vào căn phòng cũ của mình, ngồi vào chiếc ghế bành thân quen và chỉ mong ước một điều duy nhất là làm sao cho người bạn cũ Watson của mình được cùng ngồi ung dung trong một chiếc ghế bành khác mà anh ta vẫn thường ngồi.

Câu chuyện kinh hoàng tôi đã được nghe trong buổi tối tháng tư là như vậy đấy. Tôi khó lòng tin đó là sự thật. Mặc dù chính mắt tôi đã trông thấy thân hình cao, gầy và khuôn mặt thông minh, cương nghị của người bạn mà tôi nghĩ rằng không bao giờ tôi còn gặp lại. Không biết bằng cách nào Holmes đã rõ cái chết của vợ tôi, sự thương cảm được thể hiện trong giọng nói của anh:

- Làm việc! Đó là cách tốt nhất để khuây khỏa nỗi đau khổ, Watson yêu quý - Anh động viên an ủi tôi.

- Khuya hôm nay có công việc đang chờ chúng mính. Người có diễm phúc hoàn thành sứ mệnh một cách tốt đẹp có thể mạnh dạn tuyên bố rằng anh ta đã sống một cuộc đời không phải là uổng phí, vô ích.

Tôi đã mất công để thuyết phục anh giải thích cho rõ.

- Đến sáng mai anh sẽ được nghe, được thấy đầy đủ - Anh đáp - Còn bây giờ không cần nói tới chúng ta còn khối chuyện để tâm sự. Anh biết đấy, đã ba năm rồi chúng mình không được nhìn thấy nhau. Hy vọng chúng ta sẽ tâm sự đến 21 giờ 30 phút rồi sẽ lên đường, đón nhận một cuộc phiêu lưu đầy thú vị trong một ngôi nhà bỏ trống.

Như ngày xưa, khi tôi ngồi cùng với anh trong một cỗ xe đúng giờ đã định, tôi sờ soạng khẩu súng ngắn nằm trong túi, tim đập liên hồi vì hồi hộp đón chờ những sự kiện chưa lường trước được.

Holmes thì trầm ngâm, đăm chiêu suy nghĩ. Khi ánh sáng của ngọn đèn đường hắt vào khuôn mặt khắc khổ của anh, tôi thấy anh khẽ ngước đôi lông mày, còn cặp môi mỏng thì mím chặt, chứng tỏ anh đang suy nghĩ rất căng thẳng. Tôi không biết chúng tôi đang săn đuổi con thú ranh mãnh nào đây trong khu rừng rậm của thế giới tội phạm tại Luân Đôn. Nhưng tất cả dáng điệu của một người thợ săn đầy lão luyện như báo cho tôi rằng cuộc trinh thám này sẽ là cuộc trinh thám nguy hiểm nhất, ác liệt nhất. Nụ cười mỉa mai thường xuyên xuất hiện trên gương mặt đăm chiêu của bạn tôi không hưa hẹn một điều gì tốt đẹp cho con thú chúng tôi đang săn đuổi.

Tôi đinh ninh rằng thế nào chúng tôi cũng ghé về hẻm Baker, nhưng Holmes lại ra lệnh cho người xà ích dừng xe ở góc phố Cavendish. Trong lúc bước xuống xe, anh cẩn thận quan sát, nhìn soi mói vào từng ngóc ngách, kiểm lại xem có cái đuôi nào bám sau không.

Chúng tôi bước vào một cái ngách trông rất lạ. Holmes luôn luôn làm cho tôi thán phục về sự hiểu biết tường tận khá nhiều góc hẻm ở Luân Đôn. Anh ung dung tự tin bước vào một góc tối đầy chuồng ngựa, đi qua những cái sân hôi hám, nhớp nhúa, tôi không thể tin sự tồn tại của những thứ ấy. Cuối cùng chúng tôi lọt vào một cái hẻm chật hẹp, có hai dãy nhà cũ kỹ, tối tăm ở hai bên. Đường này dẫn chúng tôi ta phố Manchester rồi đến phố Blandford. Holmes nhanh nhẹn nhảy sang một lối hẹp khác, đi qua một hộc cửa bằng gỗ, lọt vào cái sân vắng vẻ. Anh dùng chìa khóa mở cửa sau một ngôi nhà. Chúng tôi bước vào, ngay lập tức anh khóa trái cửa lại.

Dù trời rất tối nhưng tôi hiểu ngay là ngôi nhà này không có người ở. Nền nhà không lót thảm, kêu lên răng rắc, lạo xạo dưới chân khi tôi vô ý chạm phải những bức tường, nhiều tờ giấy dán tường bị bong ra treo trên đầu chúng tôi.

Những ngón tay gầy, lạnh lẽo của Holmes bóp chặt bàn tay tôi, anh dẫn tôi theo một hành lang dài, cuối cùng trước mắt chúng tôi hiện ra một cái vòm cửa sổ nửa cong nửa thẳng kín đáo nằm trên chỗ cửa ra vào. Bỗng dưng Holmes quay về bên phải và chúng tôi lọt vào một căn phòng hình vuông rộng lớn nhưng bị bỏ hoang, các góc, xó hoàn toàn tối om, nhưng ở giữa phòng thì được lờ mờ ánh sáng ngọn đèn đường. Cạnh cửa sổ không có một ngọn đèn nào, còn tấm kính trên cửa sổ thì bị một lớp bụi dày bao phủ. Chúng tôi nhận ra nhau khá chật vật.

Holmes đặt tay lên vai tôi và cúi sát môi vào tai tôi.

- Anh có biết chúng ta đang ở đâu không? - Anh thầm thì hỏi.

- Dường như trong hẻm Baker - Tôi vừa nhìn vào tấm kính mờ *****c vừa nói.

- Đúng như vậy, chúng ta đang đứng ở nhà Kemdem, đối diện với căn buồng trước kia của chúng mình.

- Chúng mình đến đây làm gì?

- Đến đây để nhìn hình dạng tuyệt vời của ngôi nhà kia. Không biết có nên tiến sát vào cánh cửa sổ không? Nhưng hãy thật thận trọng, đừng để ai phát hiện ra anh. Anh thử nhìn vào cửa sổ của buồng cũ của chúng mình đi, nơi đó đang mở ra những cuộc trinh thám đầy thú vị. Anh thử xem, tôi đã mất khả năng làm anh kinh ngạc chưa sau ba năm trời phiêu bạt?

Tôi nhẹ nhàng, cẩn tắc tiến về phía trước, nhìn vào khung cửa sổ vô cùng thân thuộc... Bỗng nhiên tôi thốt lên một tiếng kinh ngạc, bức rèm được buông xuống, đèn sáng rực rỡ, có một người ngồi trên chiếc ghế bành kê ở giữa phòng, hắt bóng rất rõ lên nền sáng của cánh cửa sổ. Từ đầu đến đôi vai rộng, cho đến khuôn mặt xương xương, cái đầu hơi xoay nghiêng tạo nên một dáng dấp mờ ảo, những bà cụ rất thích được vẽ kiểu ấy.

Không còn gì nghi ngờ, đấy chính là một bản sao hoàn hảo chính xác con người Sherlock Holmes. Tôi kinh ngạc đến nỗi phải đưa tay lên sờ vào người anh để khẳng định anh vẫn đứng bên cạnh tôi.

Holmes cười không thành tiếng.

- Thế nào? - Anh hỏi.

- Chuyện này khó tin được! - Tôi thì thầm nói.

- Dường như năm tháng không cướp đi khả năng sáng tạo của mình, còn thói quen cũng không vì thế bị khô mòn - Anh nói.

Tôi cũng bắt gặp trong giọng nói của anh một niềm vui sướng, kiêu hãnh của nhà họa sĩ đang thưởng thức công trình tuyệt tác của mình.

- Anh thấy có thật giống tôi không?

- Tôi nghĩ rằng đây chính là anh đang ngồi. Vinh dự này thuộc về ngài Meunier ở Grenoble. Ông ta đã tạc tượng tôi trong vòng có ba ngày. Nó được làm bằng sáp. Những phần còn lại tôi tự sắp đặt khi tôi quay về hẻm Baker sáng sơm hôm nay.

- Nhưng anh làm thế nhằm mục đích gì?

- Tôi có nguyên nhân chính đáng. Tôi muốn một số người nào đó cứ đinh ninh là tôi đang ngồi ở nhà, trong khi ấy thực tế tôi lại ngồi ở một nơi khác.

- Có nghĩa là anh nghĩ rằng có một bọn nào đó đang rình mò căn hộ ư?

- Tôi biết có kẻ đang rình mò căn nhà.

- Kẻ đó là ai?

- Những kẻ thù của tôi. Cái băng đầy hấp dẫn mà tên thủ lĩnh đã vĩnh viễn nằm chôn vùi dưới đáy thác nước Reichenbach. Anh biết đấy, chỉ có bọn nó mới biết chính xác là tôi còn sống. Chúng nó tin chắc dù sớm hay muộn rồi tôi cũng quay về căn phòng cũ của mình. Tụi nó chưa chịu từ bỏ ý định theo dõi rình rập để hại tôi. Sáng nay chúng nó đã thấy tôi quay về nhà.

- Làm sao anh đoán được điều đó?

- Trong lúc nhìn qua cửa sổ, tôi nhận ra một thằng thám thính của chúng. Tên của hắn là Parker, chuyên ăn cướp, giết người đồng thời còn là một nhà tổ chức thiên tài. Tôi chú ý đến thằng này ít thôi. Một thằng khác làm cho tôi chú ý nhiều hơn, đáng gờm hơn là thằng núp sau lưng tên Parker. Đó là kẻ thân cận nhất của tay Moriarty. Chính hắn đã dùng đá ném tới tấp vào tôi từ ngọn núi đá. Hắn là một tên tội phạm ranh ma, xảo quyệt nhất, nguy hiểm nhất hiện nay ở Luân Đôn. Chính hắn đêm nay sẽ đi săn tôi và hắn đâu ngờ rằng chúng ta sẽ săn hắn.

Kế hoạch của Holmes dần dần làm cho tôi sáng tỏ. Từ chỗ ẩn nấp thuận tiện này, chúng tôi có khả năng theo dõi tất cả những ai có ý đồ theo dõi chúng tôi. Dáng dấp bóng người thấp thoáng bên cửa sổ là một miếng mồi, còn chúng tôi là những tay thợ săn.

Vai kề vai, chúng tôi lặng im trong bóng tối chăm chú ngắm nhìn những bóng người lượn qua lượn lại. Đêm ấy thời tiết rất xấu, gió trở lạnh tê tái, gió thổi dọc theo dãy phố một cách dữ dội, gay gắt. Người đi lại ngoài đường khá đông, hầu như ai bước đi cũng rất vội, họ đều cố kéo cổ áo hoặc mũ che kín mũi cho đỡ lạnh.

Tôi có cảm giác một người nào đó cứ đi qua đi lại sát ngôi nhà, đặc biệt có hai người làm cho tôi nghi ngờ hơn cả. Họ làm như thể tránh gió nên bước vào một cánh cổng cách chúng tôi không xa. Tôi định bụng sẽ báo cho Holmes biết nhưng anh trả lời tôi với một giọng bực bội rồi tiếp tục theo dõi động tĩnh ngoài đường. Thỉnh thoảng anh co chân cho đỡ mỏi hoặc lấy ngón tay gõ gõ vào bức tường. Tôi thấy anh có vẻ không vui, hình như sự việc xảy ra không hoàn toàn đúng như kế hoạch. Trời chuyển về khuya, đường phố tĩnh mịch vắng vẻ. Holmes đi lại trong phòng. Anh bồn chồn lo lắng, hồi hộp. Vừa máy miệng định nói một điều gì nhưng tôi lại một lần nữa sửng sốt, kinh ngạc.

- Bức tượng cử động kìa! - Tôi thốt lên.

Rất rõ, bóng hình kia quay về phía chúng tôi, không phải bên hông mà là quay hẳn lưng lại.

Năm tháng không làm cho tính cách của Holmes thay đổi chút nào, anh vẫn là người điềm đạm, nhẫn nại, luôn thể hiện trí thông minh, đầu óc sắc sảo, nhìn nhận rất tinh tế.

- Phải làm như thật - Anh đáp - Chẳng lẽ tôi lại là một kẻ ngu ngố không có bộ não hay sao? Đặt trong phòng một hình nộm bất động không xua được ruồi thì quả là rất lộ liễu, phải chăng nhờ nó mà có thể đánh lừa được những kẻ ranh ma nhất châu Âu ư? Chúng mình thu lu trong xó xỉnh này đã hai giờ đồng hồ, trong lúc đó bà Hudson đã thay đổi vị trí bức tượng tám lần. Cứ mười lăm phút một lần, với điều kiện là bà sẽ không để in bóng mình cho người ngoài trông thấy.

Bỗng nhiên anh im lặng, nín thở. Trong cảnh nhá nhem, tôi trông thấy anh rướn cổ lên trong tư thế chờ đợi rất căng thẳng.

Đường phố đã hoàn toàn vắng ngắt. Có lẽ hai tên đứng nấp trong hẻm vẫn còn. Nhưng tôi không tài nào nhìn thấy chúng. Xunh quanh tôi một màn đen và sự im ắng bao trùm.

Trong bóng đêm, màu vàng của cánh cửa sổ được chiếu sáng rực cùng với bóng của hình người ngồi giữa phòng càng nổi bật rõ nét. Không gian im ắng đáng sợ. Tôi nghe thấy tiếng thở khò khè của Holmes, chắc anh rất hồi hộp cho kế hoạch của mình. Bỗng nhiên anh ấn sâu tôi vào góc căn phòng, chỗ tối nhất và lấy tay bịt miệng tôi lại. Bằng cách này anh muốn nhủ tôi phải tuyệt đối im lặng. Lúc này, tôi thấy những ngón tay của anh run run.

Chưa bao giờ tôi được chứng kiến anh bị kích động, căng thẳng đến tột độ như vậy. Đường phố vẫn tạnh ngắt, yên ả không có gì xảy ra hết. Bỗng nhiên tôi nghe thấy một âm thanh khe khẽ, rì rầm vang đến tai tôi, âm thanh mà dôi tai cực nhạy của Holmes đã nghe thấy trước. Tiếng dộng không phải phát ra từ hẻm Baker mà chính trong ngôi nhà chúng tôi đang nấp. Cửa ra vào được mở ra rồi đóng lại. Có tiếng bước chân rón rén vang lên khe khẽ ngoài hành lang. Người đi cố giữ cho bước chân khỏi kêu to nhưng trong căn nhà hoang này nó vẫn dội lên những âm thanh khá to.

Holmes đứng dựa sát và tường, tôi cũng làm theo và nắm chặt khẩu súng ngắn, căng mắt nhìn vào bóng tối. Tôi nhận ra lờ mờ bóng dáng một người đàn ông, bóng đen hơi sẫm hơn so với tấm khung hình chữ nhật của cánh cửa đã mở. Hắn đứng im ở đó chừng một phút rồi nhảy xuống và rón rén tiến về phía trước. Mọi cử chỉ hành động của hắn đều chứa đựng một mối đe dọa. Thân hình dữ tợn của hắn đứng cách chúng tôi có ba bước.

Tôi lên gân cốt, chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công. Nhưng hắn không hề biết có chúng tôi ở đây.

Hắn đi ngang qua chỗ chúng tôi đứng, suýt nữa thì chạm phải nhau. Hắn rón rén tiến đến gần cửa sổ rất thận trọng không hề một tiếng động, hắn nhấc cánh cửa lên cao khoảng mười phân. Khi hắn trèo lên để mở chốt cửa, ánh sáng đền đường hắt qua tấm kính bẩn thỉu soi rõ bộ mặt hắn, một bộ mặt dễ làm cho chúng ta kích dộng cao độ. cặp mắt cháy lên một cách man rợ, nét mặt biến dạng kinh khủng.

Hắn không còn trẻ trung gì nữa, có một chiếc mũi quặp như mỏ diều hâu, trán hói khá cao, bộ râu bạc trắng rất dài. Mũ của hắn được kéo xuống tận gáy, chiếc áo bành tô hở cúc, để hở ra một khoảng trắng trước ngực - chiếc yếm hồ trắng. Bộ mặt rám nắng, đen đủi hằn đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong tay hắn cầm một vật đại loại như cây ba-toong, nhưng khi hắn đặt xuống nền nhà nó phát ra một tiếng kêu "keng" của kim khí. Hắn lôi từ trong túi ra một vật gì đó khá lớn. Hắn loay hoay với đồ ấy chừng vài phút cho đến khi một âm thanh kim khí phát ra, có lẽ hắn kéo một chiếc lò xo hay cái then chốt.

Ngồi bằng đầu gối, hắn tiến về phía trước và với tất cả sức nặng của bản thân hắn đè lên một đòn bẫy. Chúng tôi nghe thấy một âm thanh dài dữ dội, có phần kêu to hơn lúc trước. hắn đứng thẳng người lên, tôi trông thấy trong tay hắn không phải cái gì xa lạ mà là khẩu súng săn, có cái báng kỳ lạ, xấu xí. Hắn mở khóa, kéo cò bấm và đặt một vật gì vào bên trong xong cài chốt lại. Hắn quỳ xuống, đặt đầu nòng súng lên bệ cửa sổ, bộ râu dài của hắn chấm sát tận nòng, cặp mắt hắn long lanh dữ tợn. Hắn đặt súng tỳ vào vai và thở ra khoan khoái: tấm bia đang đứng trước mặt hắn - tấm bia kỳ lạ, bóng dáng đen đen soi rõ trên nền sáng. hắn lưỡng lự một lát, sau đó đặt tay lên cò súng, một tiếng "vù" là lạ phát ra, tiếp theo là tiếng kính vỡ loảng xoảng.

Ngay lúc đó Holmes bỗng nhảy bổ ra như một con hổ, anh chộp ngay lưng kẻ vừa bắn và quật hắn ta úp mặt xuống sàn.

Nhưng một giây sau, kẻ bị quật ngã đã đứng dậy được, với một sức mạnh không ngờ hắn tóm lấy cổ Holmes. Tức thì, tôi dùng báng súng nện mạnh vào đầu kẻ hành hung, hắn ngã xuống, tôi nằm đè lên. Lúc đó Holmes thổi còi. Ngoài đường một tốp người đã chạy tới, có hai cảnh sát quân phục đầy đủ cùng một vị thám tử từ cổng chính bước vào phòng.

- Có phải Lestrade đó không? - Holmes hỏi.

- Tôi đây, thưa ngài Holmes. Tôi định tự mình sẽ giải quyết việc này. Rất vui mừng lại được gặp ngài ở Luân Đôn.

- Sự giúp đỡ nhỏ mọn, không đáng kể của chúng tôi chắc không cản trở các ngài? Trong một năm có ba vụ án mạng không được phát hiện, cũng hơi nhiều đấy Lestrade ạ. Nhưng câu chuyện bí mật ở Molesey, ngày tiến hành không đến nỗi nào... nghĩa là ngài giải quyết vụ ấy không đến nỗi tồi.

Chúng tôi đứng lên còn tên hung thủ thì thở hổn hển trong cánh tay của hai viên cảnh sát lực lưỡng.

Một đám đông những kẻ rỗi việc bắt đầu tụ tập ngoài đường. Holmes tiến đến bên cửa sổ, đóng lại. Lestrade châm hai ngọn nến vừa mang tới còn các vị cảnh sát thì bật công tắc đèn pin bỏ túi. Tôi có dịp quan sát kẻ sát nhân kỹ càng hơn.

Hắn có bộ mặt rất đàn ông, trông rất đáng ghét. Vầng trán như một triết gia, cái cằm như của một người thích nói những lời ngọt ngào, êm dịu. Những cái đso chứng tỏ con người hắn cũng có một khả năng làm những điều tốt lành cũng như làm những điều ác độc. Nhưng cặp mắt dữ dằn màu ánh thép, bộ lông mi rậm, cái nhìn trâng tráo, chiếc mũi quặp ác thú và những nếp hằn sâu trên trán đã tự tốt cáo lên bản chất của hắn, những dấu hiệu báo trước cho xã hội biết những dã tâm nguy hiểm. Hắn không thèm nhìn lên bất cứ người nào trong số chúng tôi. Cái nhìn của hắn như cắm chặt vào khuôn mặt của Sherlock Holmes, hắn nhìn với một sự kinh ngạc và hằn học.

- Con quỷ! - Hắn lẩm bẩm - Một con quỷ ranh ma, xảo quyệt!

- Đại tá - Holmes nói và sửa lại cổ áo bị nhàu - Những người bạn chí cốt lại gặp nhau, như lời người xưa thường nói. Tôi chưa có dịp gặp lại ngài sau lần ngài đã theo dõi tôi một cách trắn trợn. Ngài hẳn còn nhớ, khi tôi nằm ở khe hở của núi đá tại thác nước Reichenbach.

Ngài đại tá có lẽ đang bị thôi miên, hắn không thể nào bứt cái nhìn ra khỏi Sherlock Holmes.

- Con quỷ, con quỷ có thật! - Hắn cứ lặp đi lặp lại câu nói đó.

- Tôi chưa kịp giới thiệu cho các vị - Holmes lên tiếng - Các vị biết không, đây là ngài đại tá Sebastian Moran, một cựu sĩ quan trong đội quân của hoàng gia đóng ở Ấn Độ và là một thợ săn thú dữ tài ba có một thời nổi tiếng oanh liệt ở những vùng thuộc địa Đông phương. Tôi nghĩ tôi không nhầm ngài đại tá ạ, có phải về số hổ báo săn bắn được, hiện nay ngài đang giữ kỷ lục phải không?

Tên tù binh thật vất vả lắm mới kìm được cơn phẫn nộ, hắn tiếp tục nín thinh. Chính hắn cũng đã giống một con hổ rồi, cawhjp mắt của hắn long lên dữ tợn, ria mép cũng xù lên.

- Tôi rất ngạc nhiên vì sự đánh lừa quá ư đơn giản đã đưa một thợ săn dày dạn kinh nghiệm vào tròng - Holmes tiếp tục - Đối với ngài điều này đâu còn là mới mẻ. Chẳng lẽ chưa bao giờ ngài buộc một con dê dưới một gốc cây, còn ngài thì leo lên cây rậm rạp với khẩu súng săn hoặc carbin trong tay để chờ con cọp dẫn xác đến con mồi hay sao? Ngôi nhà bỏ trống này là cái cây của tôi, còn ngài là con hổ của tôi. Tôi nghĩ rằng đôi khi ngài cũng phải dùng những phát đạn dự trữ trong trường hợp cùng một lúc có nhiều con hổ xuất hiện, hoặc hạn hữu cũng có đôi lúc ngài bắn trượt chứ. Mấy vị này - Anh nói và chỉ vào chúng tôi - là những phát súng dự phòng của tôi. Sự so sánh của tôi chính xác đấy chứ?

Bất thình lình, đại tá Moran tức tối chồm lên phía trước nhưng hai người cảnh sát đã kịp giữ hắn lại. Bộ mặt của hắn thể hiện nỗi hằn học, nhìn vào đó chúng tôi thấy kinh khủng, gớm ghiếc.

- Thú thật, ngài đã mang đến cho tôi một món quà nho nhỏ - Holmes tiếp tục công kích - Tôi không ngờ chính ngài cũng muốn sử dụng ngôi nhà bỏ trống này, quả thật thuận lợi. Tôi nghĩ thế nào ngài cũng hành động từ ngoài phố, ở đấy có anh bạn Lestrade của tôi cùng những thủ hạ của anh ta đã chờ đợi ngài sẵn. Trừ chi tiết ấy ra, còn mọi việc đều tiến triển đúng như tôi dự định.

Đại tá Moran quay sang phía Lestrade.

- Không kể những cái ấy, ngài có đủ chứng cớ, cơ sở để bắt tôi, hay là ngài không có đủ cơ sở? - Hắn ta nói - Tôi không thể nào chịu đựng nổi những lời lẽ nhạo báng của con người kia. Nếu tôi ở trong tay luật pháp thì cứ để pháp luật giải quyết.

- Điều này công bằng thôi - Lestrade nhận xét - Trước khi chúng tôi ra về, ngài còn muốn nói điều gì nữa không, thưa ngài Holmes?

Holmes nhặt khẩu súng hơi đồ sộ lên và quan sát cơ cấu của khẩu súng.

- Khẩu súng có một không hai này mới tuyệt làm sao - Anh thốt lên - Bắn không nghe tiếng kêu nhưng có sức công phá và hủy diệt rất lớn. Tôi biết một nhà cơ khí người Đức tên là Von Herder. Ông ta đã thiết kế khẩu súng này theo đơn đặt hàng của ngài giáo sư Moriarty. Từ lâu tôi đã nghe tiếng tăm của khẩu súng nhưng chưa bao giờ có vinh dự được cầm nó trên tay. Tôi đặc biệt lưu ý ngài về khẩu súng này và cả cách nạp đạn cho nó nữa, thưa ngài Lestrade.

- Ngài không phải bận tâm, thưa ngài Holmes, chúng ta còn dịp quay lại vấn đề này - Khi tất cả mọi người tiến sát đến cánh cửa ra vào, Lestrade nói - ĐÓ là tất cả những gì ngài muốn nói?

- Vâng, tất cả, nhưng ngài định khép tên này vào tội gì?

- Còn tội gì nữa, thưa ngài? Chẳng hạn như tội mưu sát ngài Sherlock Holmes.

- Ôi! Không phải như vậy đâu! Tôi không muốn dính líu vào vụ này. Chỉ có ngài mới được lãnh trọng trách làm công việc bắt bớ tuyệt vời này, ngài đã tốn công sức để tiến hành. Xin chúc mừng ngài Lestrade! Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng hiếm có và lòng quả cảm, đầy mưu lược, cuối cùng ngài đã bắt được kẻ kia.

- Người kia là ai vậy? Hắn ta là ai, thưa ngài Holmes.

- Người mà cả ngành cảnh sát đã hoài công tìm kiếm, truy nã. Đại tá Sebastian Moran, kẻ mà vào đêm 30 tháng trước đã bắn chết ngài Ronald Adair bằng khẩu súng hơi, bắn qua cửa sổ tầng hai ngôi nhà 427, phố Park Lane. Chúng ta cần lời buộc tội như vậy... Còn bây giờ, Watson, nếu anh không sợ gió lùa từ cánh cửa sổ bị vỡ kính thì chúng ta sẽ cùng nhau ngồi trong phòng tôi và hút với nhau điếu thuốc. Tôi hy vọng sẽ làm cho anh khuây khỏa phần nào.

Nhờ sự quan tâm thường xuyên của anh Mycroft Holmes và sự chăm sóc tận tụy của bà Hudson, căn hộ của chúng tôi vẫn như xưa không hề có gì thay đổi. Thú thật khi bước vào tôi lấy làm ngạc nhiên vì sự tươm tất hiếm có, mọi thứ thân thuộc quen biết đều nằm ở vị trí cũ. Ở góc dành riêng cho những thí nghiệm hóa học, một chiếc tủ bằng gỗ thông vẫn như xưa, vẫn những vết ố do a-xít mạnh. Trên giá những chồng sách tra cứu, những mẩu tin cắt từ các tờ báo vẫn được sawxp xếp ngay hàng thẳng lối. Ôi, tôi chỉ muốn ném hết những thứ chết tiệt kia vào lửa cho rảnh! Khi tôi nhìn hết một lượt thì những bản biểu đồ, hộp đựng đàn viôlông, chiếc hộp Ba Tư đựng thuốc lá lại hiện lên trước mắt tôi. Hai người có mặt trong phòng. Một là bà Hudson chạy vồn vã đón mừng chúng tôi với nụ cười lấp láy trên môi. Người thứ hai, người mặc đồ màu cũ kỹ, đã đóng một vai trò rất quan trọng trong những sự kiện đêm hôm qua. Đó là bức tượng bằng sáp của bạn tôi, đã được tô màu, được tạc thật khéo léo do một bàn tay điêu luyện, trông giống như thật. Bức tượng được đặt trên một chiếc ghế đẩu không cao, được khoác chiếc áo bành tô cũ của Holmes trông rõ khéo, từ ngoài đường nhìn vào thì khó ai tưởng tượng đó là tượng.

- Bà đã thực hiện tất cả chỉ dẫn của tôi một cách tuyệt vời - Holmes nói.

- Tôi phải bò bằng đầu gối để tiến sát bức tượng, như ngài chỉ bảo thưa ngài.

- Tốt, bà đã làm việc đó không thể chê vào đâu được. Bà có thấy viên đạn đâm vào đâu không?

- Có thưa ngài. Tôi sợ viên đạn làm hỏng mất bức tượng đẹp đẽ của ngài. Nó xuyên qua đầu và cắm vào tường. Tôi nhặt nó lên từ tấm thảm. Nó đây.

Holmes chìa cho tôi xem đầu đạn.

- Đầu đạn súng lục mềm mại. Watson, anh hãy nhìn xem.

- Thật là cự phách! Có ai dám nghĩ viên đạn này lại được bắn ra từ khẩu súng hơi? Rất tuyệt, bà Hudson, xin cám ơn bà vì sự giúp đỡ... Còn bây giờ, Watson, anh hãy ngồi vào vị trí cũ của mình như thuở nào. Tôi muốn tâm sự với anh đôi điều.

Anh cởi chiếc áo khoác ra rồi lấy chiếc áo choàng trên bức tượng khoác vào. Trước mặt tôi lại xuất hiện một Sherlock Holmes ngày xưa.

- Thần kinh của người thợ săn già vẫn còn vững, cặp mắt vẫn còn tinh - Anh nói và cười, vừa nhìn cái sọ của bức tượng bằng sáp bị bắn thủng - Bắn trúng chính giữa gáy và làm chảy não. Đúng là một tay thiện xạ của rừng nhiệt đới ở Ấn Độ. Tôi nghĩ rằng ở Luân Đôn này địch thủ của hắn không phải là nhiều. Trước kia anh có bao giờ nghe tên hắn hay chưa?

- Không, tớ chưa từng nghe.

- Ừ nhỉ, thế mà tôi quên! Cách đây không lâu, anh đã thú nhận, thậm chí anh còn chưa nghe đến tên giáo sư Moriarty, đó là một bộ óc của thế kỷ chúng ta. May quá, anh lấy giúp cặp đựng tài liệu theo dõi tiểu sử...

Sau khi ngồi lại ngay ngắn, thả người thoải mái trong chiếc ghế bành và khoan khoái thở ra từng *****n khói thuốc, Holmes lơ đễnh lật từng trang giấy.

- Vần chữ "M", tôi có một bộ sưu tầm khá hoàn chỉnh - Anh nói - Chỉ một cái tên Moriarty cũng đủ làm cho vần "M" trở nên nơi tiếng. Còn cái tên Moran là một tên ghê tởm. Tên Merridew, có một trí nhớ khó ai sánh kịp. Tên Mathews - chính là tên làm gãy chiếc răng nanh bên trái của tôi ở phòng đợi nhà ga Treringkrox. Còn đây là anh bạn của chúng mình ngày hôm nay.

Anh đưa cho tôi tập tài liệu, tôi đọc:

"Moran Sebastian, đại tá nghỉ hưu. Từng phục vụ trong trung đoàn công biệt số một ở Bangalore. Sinh năm 1840 tại Luân Đôn. Con trai của ngài Augutus Moran - người được thưởng huân chương Banhi, một thám tử cũ của Anh ở Persia, Sebastian từng tốt nghiệp trường trung học Itonx và đại học tổng hợp Oxford. Từng làm liên lạc cho các hội, tập đàon Jowaki; Afghan Charasiab, Sherpur và Cabul. Là tác giả của các cuốn sách "Cuộc đi săn mãnh thú ở miền Tây Himalayas" (1881), "Ba tháng sống trong rừng nhiệt đới" (1884). Địa chỉ phố Konduit. Tham gia các câu lạc bộ Anh - Ấn: Tankerville, câu lạc bộ chơi bài Bagatelle".

Ngoài lề được ghi bằng nét chữ của Holmes:

"Một tên nguy hiểm nhất của Luân Đôn, đứng sau Moriarty".

- Thật kỳ lạ! - Tôi lên tiếng và đưa trả Holmes cặp tài liệu - Dường như cuộc đời của hắn là bước đường của một người lính trung thành.

- Anh nói đúng - Holmes đáp.

- Trước kia hắn không hề làm việc gì xấu xa. Hắn là con người có bộ thần kinh bằng thép, ở Ấn Độ đến bây giờ vẫn lưu truyền một huyền thoại kể rằng: Anh ta đã bò trong lòng một con sông cạn, đã cứu thoát một người khỏi những móng vuốt của một con hổ bị thương. Có những cây gỗ, lúc đầu mọc, phát triển bình thường, rồi đến một độ cao xác định nào đó, bỗng nhiên phát hiện trong quá trình phát triển của mình một sự biến đổi kỳ quặc so với bình thường. Đối với con người cũng xảy ra điều tương tụ. Theo thuyết của tôi, mỗi cá nhân trong quá trình phát triển đều lặp lại lịch sử phát triển của tất cả tổ tiên. Tôi cho rằng mỗi một biến động bất ngờ về phía lương thiện hay độc ác đều phụ thuộc vào điều kiện khách quan tác động rất mạnh; muốn biết được quá khứ của một người, cần phải lục xem trong gia phả của người ấy và suy luận rộng ra, tiểu sử của một con người, đó như là một mẩu nhỏ trong tiểu phẩm cả tiểu sử của toàn bộ gia đình.

- Thôi được, nhưng tôi thấy cái thuyết lý của anh hơi viễn vông.

- Tôi sẽ chấm dứt câu chuyện. Có những nguyên nhân này hoặc nguyên nhân khác đã đẩy đại tá Moran đi theo con đường ngu xuẩn. khi còn ở Ấn Độ có một kẻ đê tiện đã dựng lên câu chuyện nào đó gây căng thẳng cho ông ta nhằm chống ông ta một cách kịch liệt đến nỗi ông ta không thể nào ở lại được nữa.

Ông ta xin về hưu, trở lại đất Luân Đôn và tại đây ông ta đã bước vào con đường tội lỗi. Giáo sư Moriarty đã phát hiện ra ông ta, trong một thời gian dài ông ta là cánh tay phải của Moriarty.

Tên giáo sư này cung cấp tiền nong cho ngài đại tá tiêu xài một cách phóng khoáng. Nhưng rất hãn hữu mới cần tới sự giúp đỡ của hắn. Chỉ trong hai hoặc ba trường hợp khó khăn mà những tên tội phạm bình thường không thể đảm đương nổi. Có lẽ anh còn nhớ cái chết kỳ quặc của bà Stewart ở Lauder năm 1887? Không nhớ à? Tôi chắc chắn chuyện này không thể không có tay của Moran nhúng vào, mặc dù không có chứng cớ để buộc tội hắn ta. Ngài đại tá có nghệ thuật giấu mình một cách tài tình. Khi cả băng của Moriarty bị tóm hết thì chỉ rieegn hắn là không làm sao lloi cổ ra tòa được.

Watson, anh còn nhớ buổi tối khi tôi đến chỗ anh, tôi phải kéo rèm cẩn thận không? Tôi sợ phát súng bắn ra từ khẩu súng hơi đặc biệt. Lúc bấy giờ anh cho tôi là kỳ quặc, nhưng tôi biết mình cần phải làm gì. Tôi đã nghe nói về khẩu súng hơi đặc biệt kia rồi. Hơn nữa tôi biết khẩu súng đang nằm trong tay một nhà thiện xạ. Khi tôi với anh đi sang Thụy Điển, Moran và Moriarty đã đuổi theo chúng ta, và chính hắn đã làm cho tôi bàng hoàng trong mấy phút ở khe lở của thác Reichenbach.

Anh biết không, khi còn ở bên Pháp, tôi vẫn thường xuyên theo dõi tin tức trên báo chí Anh. Tôi hy vọng sẽ tìm ra đầu mối nào đó để bắt hắn ta phải ngồi vào lồng sắt. Khi hắn còn nhởn nhơ dạo chơi trên đất Luân Đôn thì tôi chưa thể tính chuyện về được. Cả ngày lẫn đêm, mối đe dọa kia cứ ám ảnh tôi, dứt khoát hắn sẽ tìm mọi cách để giết tôi. Tôi phải làm gì? Chẳng lẽ gặp trực tiếp và bắn chết hắn? Tôi không thể làm như vậy được. Vì lúc ấy, chính tôi sẽ bị ngồi vào ghế bị cáo. Trực tiếp đến báo với tòa? Không ích lợi gì, vì tòa sẽ không đủ chứng cớ để xét xử, chẳng lẽ xử hắn bằng những vấn đề nghi vấn? Tôi bất lực hoàn toàn, không có cách nào để giải thoát được. Tôi đã trải qua một quá trình kiên trì không mệt mỏi theo dõi hắn bằng tin tức các vụ án, bởi tôi tin như đinh đóng cột rằng dù sớm hay muộn tôi cũng phanh phui ra hắn.

Vụ ám sát đầy bí ẩn anh chàng Ronald Adair đã dẫn đến sự chín mùi của những ngày kiên trì mong đợi, giờ khởi hành đã đến. Không biết tôi có dám khẳng định Moran đã bắn chết chàng Ronald hay không? Hắn ta đã cùng chơi bài với chàng thanh niên và bám gót anh ta từ câu lạc bộ về nhà, sau đó bắn chết chàng trai qua cửa sổ đã mở. Đúng, không còn nghi ngờ gì nữa. Chỉ một đầu đạn cũng đủ chứng cớ để nghi. (Hết)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro