sfsdfsf IV

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG XI

MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG

NHỮNG BƯỚC ĐẦU TIÊN TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO

I.- MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI

Các chương trước đã soi sáng nhiều vấn đề đến nay nan giải, nhưng chúng nó không hữu ích nếu không được đem ra thực hành một cách đứng đắn trong đời sống hằng ngày. Vì vậy, chương nầy rất quan trọng, nó sẽ nêu những qui tắc căn bản mà chúng ta phải tuân hành để thực hiện lý tưởng cao đẹp của chúng ta.

Kinh nghiệm và tiến bộ

Như chúng ta đã biết, Chơn thần chúng ta tích trữ kinh nghiệm của các kiếp sống và các kinh nghiệm nầy sẽ chuyển thành quan năng khi chúng ta lên cõi Thiên đàng. Do đó, vào đầu một kiếp sống mới, con người phải tiến hơn lúc cuối kiếp sống trước. Theo cơ tiến hóa, con người mỗi lúc mỗi trở nên thanh cao.

Mục đích của đời sống

Vậy mục đích của đời sống là tinh luyện con người cho đến mức toàn thiện để trở thành một siêu nhân. Cũng như thế, con thú được toàn thiện khi nó chuyển kiếp thành người. Sự toàn thiện chỉ có tánh cách tương đối.

Căn cứ vào quan niệm nầy, mục đích của đời sống được giải thích theo nhiều cách : sự tiến đến sự trường sanh bất tử, sự đánh thức Thượng Đế ở lòng, sự hòa hợp với Thượng Đế, sự phát triển các linh năng tiềm tàng ở con người, sự đạt đến quả vị Chơn Sư minh triết (điểm đạo lần thứ năm) hoặc sự thực hiện một an lạc vĩnh cửu tuyệt vời.

Đối với một người cũng như đối với Vũ trụ, mục đích vẫn là một : hòa hợp với Đại ngã, với Đấng Thánh Linh hóa sinh vạn vật. Sự Hòa Hợp nầy không có tánh cách bắt buộc mà do lòng mến yêu những điều cao đẹp sẵn có ở mọi tâm hồn.

Sự tiến hóa nầy được nhận thức rõ khi ta quan sát đời sống của con người. Khi y lớn tuổi, năng khiếu, kiến thức và quyền lực của y gia tăng. Và sự tiến hóa nầy tiếp tục từ kiếp nầy sang kiếp khác, nhờ thế, với thời gian, người dã man sẽ thành thánh nhân.

Sự ích kỷ

Có người hiểu lầm rằng sự tiến hóa ấy có tánh cách ích kỷ. Thật sự, sự toàn thiện loại trừ các tật xấu và thu thập các đức tốt. Nó không thể chấp nhận lòng ích kỷ.

Phục vụ nhơn loại

Những người đã đạt được mục đích nầy đều dạy chúng ta rằng bước đầu là phải giúp đời. Đó là điều kiện tất yếu. Bản chất của công việc không quan trọng miễn là nó có tánh cách phụng sự, giúp đỡ. Chúng ta phải hiến dâng trọn tâm hồn ta chớ không phải chỉ tài sản mà thôi. Bước đầu là diệt trừ sự ích kỷ.

Tóm lại, mục đích của đời sống là vươn lên một mức tiến hóa khiến ở con người quên mình trọn vẹn để phụng sự sanh linh. Chúng sanh sẽ hiện ra như một khối huynh đệ đại đồng.

Thánh điện

Sự tiến hóa có thể được phác họa như một con đường bò quanh núi, với những khúc đường vòng tiến chậm chạp lên đỉnh. Trên đỉnh có một Thánh điện nguy nga : đó là mục đích của cuộc hành hương. Đã có người vào Thánh điện rồi và đang tìm cách giúp đỡ những người đang tiến. Thánh điện được bao quanh bốn vòng, mỗi vòng đều có một tấm tường ngăn với một cổng vào. Chung quanh còn có một vòng ngoài nơi đây khách lữ hành đông hơn bên trong.

Thánh điện tượng trưng sự toàn thiện, bốn cổng là bốn lần điểm đạo. Vòng ngoài là con đường chuẩn bị, con đường quanh co trên sườn là con đường tiến hóa của nhân loại từ kẻ dã man đến bậc thánh hiền.

Khách hành hương tiến rất chậm vì họ không biết trên đỉnh có Thánh điện, nói cách khác, họ không hiểu mục đích của cuộc du hành hay của cuộc đời.

Chúng ta còn xa mục đích không ?

Hiểu con đường tiến hóa như thế, chúng ta đương nhiên tự hỏi, chúng ta còn xa mục đích không và làm sao để tiến mau lên Thánh điện.

Luật Trời.- Đa số nhân loại không hiểu luật Trời mặc dầu đang tiến lên đỉnh núi.

Ích kỷ.- Chúng ta có vị tha không, có giúp đỡ kẻ khác không, có hướng về vô ngã không ? Nếu có, chúng ta tiến mau trên con đường Đạo.

Hành thiện.- Chúng ta phải hành thiện và phải chọn những điều cao quí nhứt để làm.

Vô ngã.- Vô ngã là lưỡi gươm Ithuriel[9] giúp chúng ta xem độc dược của bản ngã ích kỷ có xen lẫn trong hành động của chúng ta không ? Ta cũng cần xem kỹ trước một sự thất bại, chúng ta có buồn không, nếu có thì lòng ích kỷ vẫn còn và phải được diệt trừ.

Lập hạnh.- Chúng ta phải loại trừ tật xấu, trau dồi đức tốt, phải có lý tưởng cao và phải dùng lý trí kiểm soát dục vọng. Chúng ta phải có hạnh kiểm tốt, ý chí sắt đá để chống mọi cám dỗ.

Có thế chúng ta mới tiến mau trên đường Đạo.

II.- CÁC BƯỚC ĐẦU TIÊN TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO

Chúng ta cần biết nội tâm quan trọng hơn hoàn cảnh.

Sự tiến hóa

Sự tiến hóa có ba giai đoạn :

a/ Hèn hạ : Con người chỉ biết nô lệ dục vọng.

b/ Đạo lý : Con người biết phân biệt điều phải, lẽ quấy và cố gắng hành thiện.

c/ Cao thượng : Con người luôn luôn hướng về điều lành vì nguyên lý thiêng thiêng ở y đã bộc lộ và hướng dẫn các thể của y.

Thế nào là con Đường Đạo ?

Ấy là đoạn sau cùng của con đường tiến hóa. Đoạn ấy ngắn, rất khó đi và ai theo nó thì tiến mau hơn theo dòng tiến hóa thường. Nó rất hẹp nên được sánh với lưỡi dao bén. Đấng Christ đã dạy : Rất hẹp, con đường và cái cửa dẫn vào sự Sống. Chỉ ở cuối con đường nầy, chúng ta mới thực hiện được lời dạy của Ngài : "Các người hãy toàn thiện như đức Cha trên Trời".

Tiến lên Thánh điện

Con đường tiến hóa là con đường vòng quanh sườn núi để tiến lên Thánh điện. Nhưng không phải ai ai cũng tiến theo con đường xa xôi nầy. Có những kẻ hành hương thỉnh thoảng bỏ nó và đi theo con đường dốc đứng để tiến mau đến đỉnh.

Những bước tiến vô thức

1.- Lý tưởng : Khi con người có một lý tưởng và quyết chí theo đuổi lý tưởng mình, con người ấy thức tỉnh, bớt ích kỷ và tiến mau trên đường Đạo.

2.- Phục vụ : Khi con người quên mình để phục vụ quyền lợi chung, mỗi hành động y là một bước tiến. Nguyện vọng của y không phải là thành công riêng mà là cải thiện hiện trạng thế gian ở mọi phạm vi : trí thức, mỹ thuật, tôn giáo, chính trị, xã hội, y tế v. v. . . Y không ganh đua mà hợp tác, không chạy theo lạc thú mà tìm cách giúp đời.

3.- Nguyên vọng tốt : Khi con người theo đuổi những mục đích cao thượng, y có thể có những hành động sai lầm. Tuy nhiên, y vẫn tiến trên đường đạo, vì theo luật huyền môn, động cơ bên trong quan trọng hơn hành động bên ngoài.

4.- Lập hạnh : Có một số người quyết chí lập hạnh và đến một lúc thì tự nguyện hiến thân cho đời. Với lời nguyện nầy, y tiến mau trên đường đạo.

5.- Xả ly : Sau mỗi lúc hưởng lạc, con người thấy mệt nhọc, chán chường. Do đó, lần lần y bớt say mê dục lạc vật chất. Đến một lúc nào đó, y không còn mến thế gian, cũng không ước muốn cõi trời, mà chỉ quí trọng những gì vĩnh cửu.

Những bước tiến ý thức

Làm sao một người thường tiến đến đường Đạo ? Làm sao biết được con đường Đạo ấy ? Những sách Đông phương đưa ra bốn phương tiện :

1.- Giao tiếp

Phương tiện thứ nhứt là giao tiếp với những người đã tiến cao trên đường Đạo,

2.- Đọc sách - Nghe giảng

Phương tiện thứ nhì là đọc sách hay nghe những gì liên hệ đến đường Đạo. Ví dụ, tác giả quyển sách nầy năm 1920 được may mắn nhận quyển Thông Thiên học khái lược của C.W.Leadbeater do một vị ẩn danh gởi bằng bưu điện.

Hiện nay, giáo lý Thông Thiên Học rất hợp với người Âu. Khi nó nói lên sự hiện tồn các Chơn Sư, các vị đắc đạo và con đường Đạo, nó chỉ nhắc lại một Thông Điệp mà thế giới duy vật đã quên tứ lâu.

3.- Phát triển trí thức

Phương tiện nầy ích khi được áp dụng.

4.- Lập hạnh

Sự lập hạnh lúc đầu có tính cách mù mờ, nhưng về sau đánh thức trực giác và đưa con người vào đường Đạo.

Tôn giáo và đường Đạo

Các tôn giáo và triết lý đều dạy đạo, vậy ta theo tôn giáo nào cũng được. Pháp môn tuy nhiều nhưng có thể xếp vào ba loại chánh :

- Con đường hành động

- Con đường minh triết

- Con đường sùng tín hay tình thương

Ba con đường

1.- Con đường Hành động (Karma yoga)

Ở đời, ai ai cũng tìm hạnh phúc và hành động trong mục đích ấy, nhưng rốt lại, chỉ gặp sự thất vọng. Sau đó, con người mới ý thức được rằng sự tự tại chỉ có thể đạt bằng cách thoát ly mọi dục vọng và từ bỏ mọi kết quả (xem lại chương X về sự chấm dứt nghiệp quả).

Qui tắc: Sẵn sàng hành động nếu phận sự bắt buộc, không làm gì cả nếu công việc không thuộc bổn phận mình và luôn luôn bình thản trước mọi kết quả.

2.- Con đường Minh triết (hay hiểu biết)

Trong con đường nầy, hành giả không bao giờ được thỏa mãn nếu không hiểu rõ bí quyết của cuộc đời. Y miệt mài tìm hiểu và thu thập kiến thức. Lần lần, y nhận thức tính cách duy nhứt của vạn vật (nhứt thể tán vạn thù) và phân biệt được sự vĩnh cửu với sự vô thường. Y còn nhận định được rằng kiến thức không phải là minh triết, vì minh triết là sự hiểu biết Đấng Duy Nhứt và là bản chất của Thánh Linh.

3.- Con đường Sùng bái hay tình thương

Đặc tính của con đường nầy là tình yêu mến một Đấng Tối Cao hiện thân của lý tưởng. Qui luật của con đường nầy là thức ăn thanh khiết và tâm trí hướng trọn vẹn lên Đấng Chí Tôn. Hành giả cố noi gương Ngài, suy gẫm giáo lý của Ngài để lần lần hòa hợp với Ngài.

Ba con đường nầy tuy khác nhau nhưng đều tiến đến một mục đích : sự hòa hợp với Thượng Đế. Ở giai đoạn cuối cùng chúng nó giống hệt nhau.

Tìm hiểu chơn lý

Khi một người quyết chí tìm hiểu đạo lý, chắc chắn y sẽ được dìu dắt bằng cách nầy hay cách khác. Nếu cơ hội ấy đến, y hãy nắm lấy. Cơ hội ấy thường có vẻ không quan trọng nhưng giúp hành giả rất nhiều trên con đường tu học. Nó có thể là một quyển sách, một bài diễn thuyết, một lời nói nội tâm. Khi bà Annie Besant nguyện hi sinh tất cả để tìm chơn lý thì mười lăm ngày sau, quyển Giáo lý Bí truyền của bà Blavatsky được gởi đến Bà. Vào thế kỷ XX nầy, lời dạy sau đây vẫn còn đúng : "Tìm rồi sẽ được, gõ cửa rồi cửa sẽ mở".

Những chơn lý đầu tiên mà hành giả cần tìm hiểu là luật Luân hồi, Nhân quả, sự hiện diện các Chơn sư và con Đường Đạo. Khi y tìm hiểu các luật nầy, y sẽ tiến đến một môn học quan trọng khác : Khoa Yoga nhằm hòa hợp với Thánh linh.

III.- KỶ LUẬT

Kỷ luật nhằm tránh cho kẻ tu hành các tai hại có thể xảy ra cho y do một sự cố gắng quá nhiều. Đặc tính chung của kỷ luật là sự nghiêm khắc đối với mình và sự khoan dung đối với kẻ khác. Nó gồm ba phần : sự tinh luyện, sự kiểm soát tư tưởng và sự lập hạnh. Nó cũng có thể giải thích bằng bốn đức tánh quan trọng trình bày trong quyển Dưới Chơn Thầy.

Một quá trình lập hạnh hay nhứt là sự tham thiền.

Tham thiền là định trí vào một tư tưởng để quán xét nó dưới mọi phương diện. Sau đó, kết quả của sự tham thiền sẽ được đem ra thực hành một cách trung thực. Tham thiền cần được đều đặn vì hành giả sẽ được giúp đỡ bằng sự tự động của thể xác và thể vía.

Chúng ta nên ghi rằng tham thiền và thực tập phải đi đôi với nhau mới có thể đem lại kết quả.

1.- Sự tinh luyện

Bản chất thấp kém cần được tinh luyện để nó rung động đồng nhịp với bản chất thanh cao.

a.- Thể xác

Chúng ta cần cử rượu và thuốc lá, vì nó đầu độc một vài bộ phận của khối óc, để trở nên tinh nhạy nhờ sự tham thiền. Chúng ta cũng nên tránh thịt cá để thể xác trở nên thanh khiết hầu đáp ứng với các rung động tế nhị của các cõi trên. Nhiều tu sĩ ở Âu Châu bị loạn trí vì không biết điều nầy.

Chúng ta thanh lọc thân thể bằng sự tiết độ chớ không nên hành xác.

b- Ham muốn

Ở giai đọan tiến hóa hiện tại, chúng ta không nên hủy diệt chúng vì chúng ta còn cần năng lực của chúng để họat động. Nhưng chúng ta phải tinh luyện năng lực đó bằng cách loại trừ các yếu tố vị kỷ.

Ví dụ sự nóng giận. Ở giai đọan đầu, ta cố tránh không nên nóng giận khi ta bị sỉ nhục, chưởi mắng. Nhờ vậy sự nóng giận chỉ đến với chúng ta khi nào ta thấy kẻ yếu bị hiếp đáp. Sau cùng, ta cũng không giận người áp bức vì ta biết Thượng Đế vẫn ngự trị ở kẻ bị hiếp đáp cũng như ở người hiếp đáp. Như vậy, sự nóng nảy ích kỷ lần lượt chuyển thành nghĩa khí và tình thương.

c.- Tư tưởng

Người trí hay kiêu căng. Y nghiên cứu, sưu tầm nói rằng vì ham học chớ thực sự là muốn hơn người, muốn cách biệt người. Y xây chung quanh y một bức tường cách biệt.

Sự tinh luyện phải đập ngã bức tường ấy, vì khi nó bị đập ngã thì đương nhiên bức tường chia phôi giữa con người và các Đấng Cao Cả cũng được hủy diệt theo.

d.- Vong kỷ

Đó là viên đá thử vàng dùng để xem độc dược của bản ngã có xen vào tư tưởng hay hành động của chúng ta không. Nếu chúng ta còn ưu phiền, chán nản, buồn bực thì hãy biết rằng cái ngã của chúng ta thường tấn công ta dưới lốt mặt đạo đức.

2.- Sự kiểm soát tư tưởng và luyện trí

Kiểm soát - Con người trí thức hay suy tư, và với tư tưởng tốt hay xấu, y tạo những thực thể (entités) hiền lành hay hung tợn đối với kẻ khác. Như thế bằng tư tưởng, y có thể hại người hay giúp đời.

Hơn nữa, y cũng thu hút đến với y những thực thể khác tốt hay xấu tùy tư tưởng y.

Thế là tư tưởng còn quan trọng hơn việc làm và cần được kiểm soát cẩn thận.

Dù sao, tư tưởng của chúng ta không phải là ta. Trên nó, có một nguyện lý cao hơn, ấy là Chơn Ngã. Nó chẳng qua là một dụng cụ của Chơn Ngã và tác động ở cõi Hạ thiên nhờ khối óc.

Luyện trí-

Để phục vụ Chơn Ngã hữu hiệu, cái trí cần được trau luyện. Trí của chúng ta thường hay lau chau, nhảy nhót không ngớt từ việc nầy sang việc nọ. Trong công việc hằng ngày, ta có thể tập nó suy tư mạch lạc rõ ràng.

Ngoài ra, chúng ta cần chọn một đề tài rồi tập trung tư tưởng vào đề tài ấy. Ví dụ, hằng ngày chúng ta nên đọc một quyển sách đạo rồi lần lần trí ta sẽ hướng theo con đường đã chọn.

Trong lúc định trí, hành giả phải gạt bỏ những tư tưởng lo âu, phiền não. Một khi trí đã định, y sẽ lần lần vượt khỏi nó để vươn lên tâm thức Chơn ngã.

Định trí

Chừng đó, tâm thức sẽ hoàn toàn ổn định và những tư tưởng bất hảo sẽ rơi như chiếc lá khô chớ không còn làm xao động tâm hồn. Tâm thức sẽ là một mặt hồ hoàn toàn an tĩnh.

3.- Lập hạnh

Hành giả phải cương nghị trước mục đích và quả quyết trong hành vi. Y không nhân nhượng với điều ác nhưng không cần vội vàng vì thành công là một điều hiển nhiên.

Ba phương tiện

Ấy là chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp. Ba phương tiện nầy được xem như là tượng trưng cho một sự tự chủ hoàn toàn.

Phương pháp

Hành giả phải có một lý tưởng hạp với mức tiến hóa của mình và hằng ngày suy gẫm lý tưởng ấy. Theo nguyên lý con người trở thành cái gì mình suy gẫm, y sẽ lần lần vươn lên lý tưởng của y để thực hiện nó.

Các đức tốt

Kinh Bhavagad Gita chương XVI có kể các đức tánh cần tập như sau : can đảm, thanh khiết, bình thản, quảng đại, ngay thật, chân thật, xả ly, khiêm tốn, bền chí, tinh tấn. Nhờ sự tham thiền hằng ngày, hành giả lần lượt rèn luyện các hạnh nầy.

IV.- BỐN PHẨM CHẤT CĂN BẢN

Các phẩm chất nầy được trình bày trong quyển Dưới Chơn Thầy gồm toàn những lời dạy của một Đấng Chơn Sư Minh triết. Trước khi ấn hành, quyển sách được Đức Di Lạc xem trước. Bốn phẩm chất nầy là sự phân biện, sự xả ly, hạnh kiểm tốt và tình thương.

1.- Sự phân biện (Viveka)

Ấy là sự phân biện giữa chơn và giả, giữa vĩnh cửu và vô thường. Ở thế gian nầy, chỉ có hai hạng người : hạng người hiểu biết cơ trời và hạng người không hiểu biết. Chỉ có sự hiểu biết nầy mới đáng quí còn tôn giáo hay sắc tộc là những điều không quan trọng.

Hành giả còn phải phân biện :

1.- Điều thiện với điều ác

2.- Điều quan trọng với điều tầm thường

3.- Điều hữu ích với điều vô ích

4.- Điều thật với điều giả

5.- Điều ích kỷ với điều vị tha

Con người và các thể là hai việc khác nhau. Đừng cho mình là các thể.

Thể xác.- Nó là con ngựa của ta nên phải được chăm nom cẩn thận và sạch sẽ. Nó phải tuân lịnh của ta chớ đừng để nó sai khiến ta.

Thể vía.- Nó thích những rung động thô bạo, không hợp với Chơn ngã.

Thể trí.- Nó tự cao và miệt thị người.

Huyền môn học không chấp nhận sự nhân nhượng trước điều ác. Phải luôn luôn hành thiện với bất kỳ giá nào.

Nên biết rằng nuôi dưỡng linh hồn quan trọng hơn nuôi dưỡng thể xác. Chỉ những người hiểu biết mới nuôi dưỡng được linh hồn, còn những người vô minh thường làm quấy hơn là làm phải.

Hành giả còn phải tư tưởng, nói năng và hành động đúng Chơn lý. Đó là một điều khó vì thế gian đầy dẫy sự sai lầm. Phải tập tự mình suy nghĩ và xét đoán. Dầu rằng cả ngàn người đồng ý về một vần đề, ý kiến của họ cũng không có giá trị nếu họ không biết rõ vấn đề ấy. Không nên làm, nói hay suy nghĩ một vấn đề gì theo ý ta mà Chơn Sư không chấp nhận. Đừng bao giờ giả dối. Phải chơn thật, xác thực và đừng thái quá.

Phải tập thấy Thượng Đế ẩn trong mọi sinh vật, tốt và xấu. Có thế ta mới vị tha và kính mến kẻ khác.

2.- Xả ly

Các việc trần không đáng cho chúng ta thâu thập. Muốn lên Thiên đàng hay giải thoát khỏi luân hồi cũng còn ích kỷ. Giúp người mà còn được muốn trả ơn cũng là một điều không tốt. Phải từ bỏ tất cả. Nên hiểu rằng khi một năng lực được phát xuất để hành thiện, nó đương nhiên mang đến một kết quả dù ta có thấy hay không. Đó là luật trời.

Đừng ham muốn những phép thần thông, ta sẽ có chúng nó khi Ðức Chân Sư xét cần.

Cũng đừng khoe khoang, đừng nói nhiều. Khi nói, ta phải tự hỏi lời của ta có chơn thật, dễ thương và hữu ích không.

Một ham muốn thông thường khác nên dứt bỏ là xen vào việc người. Mỗi người đều có quyền suy tư, nói năng và hành động theo ý riêng của y, nếu y không động chạm đến kẻ khác. Ta nên can thiệp khi một con thú hay một trẻ con bị hành hà, đánh đập hay khi nào có sự vi phạm luật pháp. Ngoài các điều nầy, hãy tập hạnh lặng thinh.

3.- Hạnh kiểm tốt

Hạnh kiểm tốt gồm 6 điểm :

a/ Chủ trị thể trí.- Đây là sự chủ trị cái tâm để đừng khi nào nóng nảy, buồn phiền. Những khó khăn xảy ra trong đời sống hằng ngày là kết quả của những hành động của ta trong các kiếp trước, ta không thể thay đổi gì được, vậy ta phải cam chịu. Điều mà ta có thể thay đổi được là hành động của ta bây giờ và chính hành động nầy xây dựng tương lai của chúng ta.

Một tánh xấu khác phải tránh là sự kiêu căng, ngạo mạn, nó phát sanh từ sự vô minh.

b/ Chủ trị hành động.- Để giúp đời, suy tư không chưa đủ, ta còn phải hành động. Bắt đầu, ta phải làm tròn những phận sự hằng ngày của chúng ta; có thế, sau nầy ta mới có thể đảm trách các công việc khó khăn hơn.

c/ Khoan dung.- Hãy khoan dung với tất cả mọi người nhứt là đối với tôn giáo họ. Nên nhớ rằng không có một thứ lễ nghĩa nào là phải có cả.

d/ An phận hay nhẫn nại.- Chúng ta hãy trả quả một cách vui vẻ và đón lấy các nỗi đau khổ như là một vinh hạnh vì chúng chứng tỏ rằng các Đấng Nam Tào, Bắc Đẩu nhận thấy ta đáng giúp đỡ. Hãy bỏ tinh thần chiếm hữu, hãy sẵn sàng rời bỏ tất cả, vì do luật nhân quả, ta có thể mất những người ta yêu nhứt hay những món ta quí nhứt.

e/ Một mục đích.- Mục đích của chúng ta là làm công việc của Ðức Chân Sư, và các công việc hữu ích và vị tha là công việc của Ngài. Ta chỉ làm những công việc đó mà thôi và làm một cách chu đáo như Ngài sẽ đến xem.

f/ Lòng tin.- Phải tin ở Ðức Chân Sư và cũng phải tin ở ta vì mỗi người trong chúng ta là một tia sáng của ngọn Lửa Thiêng. Vì Thượng Đế ngự ở lòng ta nên không có điều gì mà ta không làm được. Muốn bước vào Đường Đạo, ý chí của ta phải dũng mãnh như thép trui.

4.- Lòng từ ái

Lòng từ ái là ý chí hòa hợp với Đức Thượng Đế hầu có thể hành động với Ngài và được như Ngài. Nó gồm hai điểm quan trọng :

a/ Đừng gây đau khổ.- Trong mục đích nầy, đừng nói hành, đừng hung dữ và đừng mê tín.

Trong mỗi người và mỗi vật đều có những điểm tốt và những điểm xấu. Khi ta nói hành, ta làm ba việc không tốt : ta phóng ra trong không trung những tư tưởng xấu, ta làm cho kẻ bị nói xấu trở nên xấu hơn và chúng ta cũng tạo ở trí não chúng ta những tư tưởng xấu, do đó mà ta tiến chậm. Đừng nói xấu và cũng đừng nghe nói xấu mà hãy tự nhủ điều xấu nầy có thể không có thật và nếu có thật hay nữa, thì nín đi mới là nhơn từ.

Hung dữ là một tội nặng hơn các tội. Có sự hung dữ cố ý và sự hung dữ vô tình. Sự hung dữ cố ý là trường hợp các người tra tấn tội phạm hay những giáo viên hành hạ trẻ con chẳng hạn. Sự săn bắn cũng là một điều hung dữ mà chúng ta phải phản đối. Sự hung dữ vô tình phát sinh từ sự thiếu suy nghĩ như sự phát lương trễ cho công nhân hay một lời nói không cân nhắc trước.

Mê tín cũng gây rất nhiều tội lỗi. Chúng ta hãy nghĩ đến số thú vật bị tàn sát trong sự cúng tế và do sự lầm tưởng rằng con người cần dinh dưỡng bằng thịt cá.

b/ Hành thiện.- Hằng ngày ta phải làm mọi điều lành để khi cơ hội đến, ta sẽ có thể đảm trách những công việc lớn.

Ta phải giúp đỡ chẳng những đồng loại chúng ta, mà cả thú cầm, cây cỏ.

Kết luận

Hạnh kiểm tốt có thể tóm tắt trong lời vàng ngọc sau đây mà Đức Phật đã thốt ra với một đệ tử vào năm 588 trước Chúa Giáng Sinh : "Con có chắc chắn đã diệt xong ở lòng con mọi mầm mống oán ghét, giận hờn; con có chắc chắn đã khoan dung được đối với những người gây đau khổ cho con như giết con của con chẳng hạn ? Con có chắc chỉ biết yêu thương mà thôi không, yêu thương cả người làm hại con ?".

Ai lại không nghiêng mình trước lời dạy cao quí nầy.

CHƯƠNG XII

ĐƯỜNG ĐẠO VÀ SỰ ĐIỂM ĐẠO

CÁC CHƠN SƯ MINH TRIẾT VÀ QUẦN TIÊN HỘI

Con đường đạo là giai đọan chót của sự tiến hóa. Nó gồm hai giai đoạn :

1/ Giai đọan chuẩn bị, thử thách hay tập sự;

2/ Giai đoạn điểm đạo hay giai đoạn của người đệ tử, của sự thánh thiện, của đau khổ.

Con đường đạo chấm dứt bằng sự tự chủ hay sự giải thoát của các bậc Chơn Tiên.

Thiên Chúa giáo cũng có nêu rõ ba trạng thái tương đương : sự thanh lọc, sự đại giác và sự hợp nhứt với Thượng Đế (con đường, chơn lý và sự sống)

I.- SỰ CHUẨN BỊ

Phải xứng đáng với công việc của Chân Sư

1/ Phẩm hạnh.- Các phẩm hạnh không bắt buộc phải phát triển toàn vẹn, nếu không, người chí nguyện đã thành một Chơn Tiên (5 lần điểm đạo). Tuy nhiên, lý tưởng của anh phải thật cao đẹp và anh phải cố gắng liên tục. Anh phải có các đức hạnh bắt buộc chớ không thể chọn cái nầy bỏ cái kia, và phải đem ra thực hành. Có thế, anh mới bước vào đường đạo.

2/ Thái độ.- Thí sinh phải tuân hành giáo huấn của Ðức Chân Sư, nghĩa là phải quan niệm cuộc đời trên phương diện tiến hóa chung chớ không phải theo lợi ích của riêng mình. Vì vậy, anh sẵn sàng thay đổi lối hoạt động của anh và cố phụng sự một cách chân thành thay vì hành động theo lối tài tử, vui làm, buồn bỏ. Anh sẽ hợp tác với mọi người chí nguyện và cố cải tạo lại tánh tình mình.

Anh cố gắng sống một cuộc đời thanh cao, vong kỷ và diệt trừ mọi chia rẽ. Anh phải xem tội lỗi của người đời như là tội lỗi của mình. Anh sẽ tìm cách đánh tan vô minh và hành thiện khắp nơi.

3/ Chọn công việc.- Phải tự mình chọn một công việc hữu ích dù công việc có tánh cách khiêm tốn, rồi bắt tay vào chớ đừng đợi ai nhờ cậy.

4/ Cha mẹ và con cái.- Đôi khi cha mẹ lưu ý thấy con tiến mau hơn mình. Đó là nhờ cái không khí tốt đẹp mà họ đã tạo ở gia đình. Họ nên vui mừng được những linh hồn tiến cao đầu thai làm con họ.

Chân Sư lưu tâm

Môn đồ không nên lo sợ bị quên vì linh hồn tiến cao chói rạng ở các cõi trên như một ngọn đèn sáng trong đêm dày. Luôn luôn, Chơn Sư theo dõi ở các cõi ấy để tiếp đón tín đồ xứng đáng vì các Ngài rất cần người cọng tác. Các Ngài còn muốn gặp chúng ta nhiều hơn là chúng ta muốn gặp các Ngài.

Đôi khi có người bề ngoài có vẻ lỗi lạc nhưng không được Đức Chân Sư thâu nhận, ấy là vì họ còn tật xấu nào đó chưa bỏ được như kiêu căng, ngạo mạn v. v. . .

1.- Sự chuẩn bị

Khi thí sinh tinh luyện tánh tình đến mức nào rồi và đã cố phụng sự, Chơn Sư sẽ thâu anh làm đệ tử tạm; việc thâu nhận nầy thường xảy ra ở cõi Trung giới.

Hình ảnh linh hoạt

Từ đó, Đức Chân Sư tạo hình chơn thân, thể trí, thể vía, và thể phách của môn đồ và liên kết các hình nầy với anh bằng một sợi dây từ điện. Như thế, Ngài có thường trực trước mặt, hình ảnh của môn đồ để tiện chuyển thần lực cho anh.

Nhồi quả

Vì môn đồ muốn tiến mau nên anh được giúp trả quả mau. Do đó, anh được nhồi quả, nghĩa là những quả xấu dập dồn đến cho anh (Thượng Đế hành hạ người Ngài yêu mến). Đó cũng để xem anh chịu đựng như thế nào và có giữ nổi tánh nết thanh cao của anh không.

Các lời khuyên của Đức Chân Sư

Vắn tắt, những lời khuyên bảo như sau : đừng dừng chơn khi được vinh quang, tự tạo những cơ hội giúp đời, thông cảm với mọi người, mở mang trí hóa, đừng cộc cằn thô lỗ; ăn nói khiêm tốn; đừng nóng nảy, ngạo mạn; cải sửa những tật xấu mỗi khi nhận thấy; hãy nhún nhường, sống đơn giản; kiện toàn những công việc đã bắt đầu; nhắm cao; bớt nghĩ đến quyền lợi mà hãy nghĩ đến bổn phận, tránh cười chế nhạo; đừng tục tằn, đứng chế giễu các đau khổ hay lo âu của kẻ khác; tránh các lời nói vô ích, những dáng điệu cao kỳ và hãy hăng hái giúp đời.

Tất cả các điều nầy phải được thi hành đúng đắn. (Xem quyển Chơn Sư và Thánh Đạo chương IV về các lời khuyên bảo của Đức Chân Sư).

Công việc của người đệ tử

Người thì xuất vía giúp đời (cứu trợ vô hình), kẻ thì ở bên Đức Chân Sư để giúp vào công việc của Ngài; kẻ khác nữa thì giảng dạy ở cõi Trung giới v. v. . . Các đệ tử tiến cao có thể hướng dẫn sự phát triển tâm linh của những môn đồ mới để tránh mọi nguy cơ ở những bước đầu.

Thế sự thăng trầm

Người đệ tử sẽ gặp nhiều biến đổi, thăng trầm, nhằm giúp anh nhận định sự sống trường cửu giữa vạn vật vô thường. Anh có dịp phân biệt chơn giả và trở nên bình thản trước các cuộc tang thương .

Sử dụng thể vía

Môn đồ tập suy tư ngoài thể xác. Anh sẽ lần lần dùng thể vía như là môi trường tâm thức, đồng thời tìm hiểu sự sống ở cõi Thượng giới.

Từ bỏ Thiên đàng

Đây là một đặc ân nhằm giúp môn đồ tiến mau. Anh từ bỏ sự ban thưởng của cuộc đời cao thượng và tận tụy trong công việc giúp đời. Nhờ sự từ bỏ nầy, anh nhập thế rất mau sau một thời gian ngắn ở cõi Trung giới.

Nhập thế nhanh chóng

Chính Đức Chân Sư chọn nơi đầu thai của anh và tự chăm nom sự đầu thai nầy. Gia đình nào sanh một đứa con như thế thật là hữu phước, vì nó đựoc thấm nhuần ân huệ của Đức Chân Sư.

Đôi khi môn đồ tái sanh trong thể xác của một thiếu niên vừa từ trần và sử dụng thể xác nầy.

Thời gian của sự chuẩn bị

Một thời gian trung bình là 7 năm được xem như là cần thiết cho sự chuẩn bị. Khi thu nhận một đệ tử, Đức Chân Sư ước mong anh có thể được điểm đạo ngay trong kiếp hiện tiền

2.- Sự chấp nhận

Khi môn đồ đã sẵn sàng, Ðức Chân Sư thâu nhận anh làm đệ tử thiệt thọ. Ngài hủy các hình nói trên của đệ tử và thiết lập giữa Ngài và đệ tử một sự liên lạc mật thiết cho đến đỗi những điều nghe thấy của anh đều in vào ký ức của Ðức Chân Sư. Với sự kết hợp nầy, Ðức Chân Sư điều hòa các thể của Ðức Chân Sư với các thể của đệ tử. Tuy nhiên, khi đệ tử có một tư tưởng bất hảo, Ngài cản không cho nó đến với Ngài bằng cách tạo một tấm màn ngăn chận.

So sánh

Trước một vần đề khó khăn mà môn đồ không giải quyết được, anh có thể đặt sự xét đoán của mình cạnh sự xét đoán của Ðức Chân Sư để so sánh. Tuy nhiên, đấy là một phương tiện cuối cùng mà anh không nên lạm dụng.

Sử dụng thể xác của đệ tử

Đôi khi Ðức Chân Sư dùng thể xác của đệ tử để nói chuyện. Trong trường hợp nầy, môn đồ vẫn luôn luôn ý thức và làm chủ trọn vẹn thể xác mình.

Sự thanh khiết

Người đệ tử phải tránh các tư tưởng và các hành động xấu xa. Trong trường hợp thất bại, anh phải đứng lên và cương quyết tiến.

Nghi lễ và trình diện

Một nghi lễ đơn giản được tổ chức vào dịp thu nhận. Sau đó Ðức Chân Sư trình diện người đệ tử với Đức Văn Minh Đại Đế và Đấng nầy sẽ ghi trong một cuốn sổ bất diệt danh tánh và cấp bậc của anh.

3.- Con của Ðức Chân Sư

Đây là giai đoạn hợp nhứt thứ ba với Ðức Chân Sư. Đến giai đoạn nầy, người đệ tử phải hoàn toàn thanh khiết, vì Ðức Chân Sư không cần tạo ra một tấm màn ngăn chận nữa. Kế đó, anh sẽ được điểm đạo và trở nên một thành phần của Thiên đình (Quần Tiên Hội).

II.- CÁC CUỘC ĐIỂM ĐẠO

Đây mới thật là con đường đạo, gồm 5 lần điểm đạo. Khi được điểm đạo lần thứ năm, người đệ tử đạt được mục đích đời sống của con người.

Con đường đau khổ

Con đường điểm đạo nầy cũng gọi là con đường đau khổ vì nó đòi hỏi một tinh thần hi sinh cao độ. Gọi con đường nầy là đau khổ là đối với phàm nhơn ganh tị, vô minh, hung dữ. Người đệ tử phải dũng mãnh mới có thể chiến đấu với các cám dỗ của cõi đời và phải quảng đại mới có thể khoan dung đối với bọn ác tâm. Nhưng, bên trong lòng anh lúc nào cũng lâng lâng, an lạc, vì anh đã làm tròn bổn phận và sống với lý tưởng của anh.

Các nỗi khó khăn

Người đệ tử phải cam chịu một sự chống đối toàn diện và một sự cô đơn bi thảm. Anh phải vượt qua mười trở ngại quan trọng. Nhưng để bù lại, tâm thức anh không còn bị gián đoạn bởi sự chết, và anh có thể kết thân được với một vài bạn đạo trung thành. Anh còn liên lạc được với Ðức Chân Sư. Đó là những điều an ủi trong giai đoạn khó khăn nầy.

Giai đoạn, Thời gian

Để chuyển sang từ giai đoạn nầy đến giai đoạn khác, môn đồ phải :

1/ Thực hành một công việc gì cho nhơn loại,

2/ Phải diệt xong các tật xấu và trở ngại,

3/ Phải hiểu biết một ít giáo lý.

Mỗi giai đoạn gồm bốn phần : con đường, kết quả, hoàn tất và khả năng bước qua giai đoạn sau.

Khi được điểm đạo, người đệ tử sẽ có chơn trong Thiên đình hay Quần Tiên Hội.

Kỳ điểm đạo thứ nhứt

Danh từ điểm đạo có nghĩa là sự mở rộng tâm thức khỏi giới hạn thông thường. Sự mở rộng nầy được thực hiện trong một cuộc lễ long trọng trước một nhóm Chơn Sư. Vị chủ tọa trao cho thí sinh một chìa khóa : chìa khóa hiểu biết và quyền năng.

Danh hiệu

Phật giáo gọi kỳ điểm đạo nầy là Sohan và người được điểm đạo là Sotapanna (nhập lưu). Ấn giáo gọi là Parivradjaka, Thiên Chúa giáo gọi là sự Giáng sinh của Đức Ki tô.

Diễn trình

Cuộc điểm đạo thứ nhứt nầy được tổ chức ở cõi Trung giới. Nghi lễ kéo dài ít lắm là một đêm và đôi khi hai đến ba ngày liên tiếp.

Kinh nghiệm Bồ đề

Sau cuộc điểm đạo, người đệ tử mới kinh nghiệm được cõi Bồ đề và ý thức được rõ ràng tính cách nhứt thể của vạn vật. Vào lúc đó, chơn thân của anh bấy lâu tan mất và được thay bằng một Chơn thân mới huy hoàng hơn.

Lập nguyện

Người đệ tử nguyện sống nghèo (dù anh đang ở trong cảnh giàu sang), sống thanh khiết và vâng lời (anh tự mình tuân giữ luật trời).

Ba chướng ngại

Với sự điểm đạo lần thứ nhứt, anh phải diệt trừ 3 trong 10 chướng ngại mà anh phải vượt qua trước khi đạt mức mục đích cuối cùng. Ba chướng ngại đó là :

a/ Cảm giác chia rẽ

Đó là sự lầm lạc lớn của phàm ngã mà người đệ tử đã thấy rõ sau khi kinh nghiệm được cõi Bồ đề. Bây giờ anh biết những sự vật chung quanh anh là một với anh. Đó là tình huynh đệ đại đồng và duy nhứt.

b/ Hoài nghi

Anh hết hoài nghi về Thiên Cơ, về các luật luân hồi, nhân quả, và về sự hiện diện các Chơn Sư. Tự mình và bằng kinh nghiệm cùng lý luận riêng của mình, anh thấy rõ các điều đó là những sự thật.

c/ Dị đoan

Dị đoan ở đây là lấy cái phụ làm cái chánh. Anh biết nghi lễ không phải là chánh yếu và có thể bỏ qua. Anh cũng nhận chân được giá trị của mọi sự vật.

Điểm đạo lần thứ nhì

Người điểm đạo lần thứ nhì được gọi là Sakidagamin ở Phật giáo (người chỉ trở lại một lần nữa mà thôi), là Kontitchaka ở Ấn Độ giáo (người cất chòi). Sự điểm đạo nầy là sự rửa tội ở Thiên Chúa giáo (Baptême du Christ). Lễ điểm đạo được tổ chức ở cõi Hạ thiên.

Người được điểm đạo kỳ nhì không cần dứt bỏ một chướng ngại nào mà phải cố gắng trong các công phu phát triển tâm linh. Hỏa hậu nằm yên ở cuối xương sống phải được thức động để giúp anh rời bỏ thể xác lúc nào cũng được.

Sự cám dỗ ở sa mạc

Khi con người tiến cao, mối nguy hại là sự tự cao. Thời gian 40 ngày ở sa mạc tượng trưng sự phát triển các quyền năng tâm linh mà ma quỉ xúi giục anh hãy sử dụng trong mục đích riêng tư hay để lòe đời.

Trước các lời cám dỗ nầy, một số thí sinh không chống cự nổi và thối bước

Điểm đạo lần thứ ba

Người được điểm đạo kỳ ba gọi là Anagamin ở Phật giáo (người không trở lại) là Hamsa ở Ấn Độ giáo (người đã nhận định tôi là cái đó). Sự điểm đạo nầy là sự Biến Dung ở Thiên Chúa giáo. Lễ được tổ chức ở cõi Thượng thiên.

Trở ngại

Phải dứt bỏ hai trở ngại : Kâmarâga (sự yêu thích dục lạc và sự ham mê ngoại vật) và Patigha (sự giận hờn, oán ghét và gớm ghiết ngoại vật). Người được điểm đạo kỳ ba là bạn của mọi vật mọi người. Anh trải qua một thời kỳ an lạc ngắn trước khi bước vào giai đoạn lo âu và cô độc.

Điểm đạo lần thứ tư

Người được điểm đạo kỳ tư gọi là La Hán ở Phật giáo (người được kính trọng), là Parahamsa ở Ấn giáo (người đã diệt ngã). Ở Thiên Chúa giáo, lễ nầy là sự Khổ Hình, sự Đóng Đinh và sự Phục Sinh của Đấng Ki Tô.

Sự điểm đạo kỳ tư đem lại một sự an lạc ngắn ngủi. Liền sau đó, môn đồ cảm thấy mình bị loại bỏ; bạn bè lánh xa, cả Thượng Đế cũng ẩn mặt. Đó là trạng thái avitchi, trạng thái cô độc hoàn toàn. Trước sự thử thách nầy, có người lùi bước, nhưng ai vượt qua được thì thấy rằng đó chẳng qua là một hư ảo.

Đặc điểm

Cuộc điểm đạo được tổ chức ở cõi Bồ đề mà người La hán đã ý thức được trong lúc thức tỉnh. Trong lúc ngủ, người có thể đến cõi Niết Bàn, mức độ cao cực điểm, nơi đây họ vừa là chính mình vừa là trọn cõi giới.

Chướng ngại

Bây giờ môn đồ phải dứt 5 chướng ngại chót. Ấy là :

1/ Rouparaga : sự ham muốn sống ở cõi hữu hình;

2/ Arouparaga : sự ham muốn sống ở cõi vô hình;

3/ Ahamkara : sự chia rẽ mà hình thức tế nhị nhứt là sự ngạo mạn;

4/ Ouddhachcha : sự dao động bởi ngoại cảnh;

5/ Adyvia : sự vô minh.

Cho đến bây giờ người được điểm đạo còn là một đệ tử (Seka), ở giai đoạn sau anh sẽ trở thành một Chơn Tiên (Aseka : người không còn gì phải học hỏi nữa) nghĩa là một Chơn Sư.

III. SỰ ĐIỂM ĐẠO KỲ NĂM

Đây là con đường của sự hợp nhứt, sự tự chủ, sự giải thoát. Người được điểm đạo kỳ năm được gọi là Aseka ở Phật giáo, là Jivanmoukta ở Ấn Độ giáo. Ở Thiên Chúa giáo, đó là sự Thăng Thiên của Đấng Ki Tô và sự giáng trần của Đức Chúa Thánh Thần. Con người tự vươn lên mức độ toàn thiện của Đức Chúa.

Vị Chơn Tiên hay Chơn sư Minh Triết ý thức được cõi Niết Bàn ngay lúc thức tỉnh

Bảy con đường

Đến giai đoạn siêu nhân loại nầy, vị Chơn tiên đứng trước 7 con đường :

1/ Vào cõi Niết Bàn.

2/ Trở thành vị Nirmanakaya. Ngài giữ các nguyên tố trường tồn để có thể hiện hình ở các cõi dưới.

3/ Nhập vào Thiên Đình để hướng dẫn nhân loại.

4/ Hợp tác vào sự tạo lập các sắc tướng của dãy hành tinh kế tiếp.

5/ Nhập vào đường tiến hóa của Thiên Thần.

6/ Nhập vào Bộ Tham Mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế để phụng sự bất cứ nơi nào trên Thái Dương Hệ

IV. THIÊN ĐÌNH

(Quần Tiên Hội)

Thiên Đình là chính phủ vô hình của thế gian, đại diện Đức Thượng đế trên quả địa cầu.

CÁC CHƠN SƯ MINH TRIẾT

Sự hiện diện của Chơn sư

Quả vị Chơn sự là mức cuối cùng của sự tiến hóa nhơn lọai xuyên qua nhiều kiếp. Các Ngài là giáo chủ các tôn giáo lớn. Vào ngày nay, một số ít người - trong đó có các bậc huynh trưởng Thông Thiên Học - đã tiếp xúc được với các Ngài.

Thân thể các Chơn sư

Danh từ Chơn Sư Minh Triết được dùng để gọi các vị còn giữ thể xác và thu nhận đệ tử. Từ 50 đến 60 Chơn Tiên còn giữ thế xác, trong đó có hai vị sáng lập Hội Thông Thiên Học : ấy là Chơn sư Morya một vị hoàng thân và Chơn sư Kouthoumi, giáo sĩ Bà La Môn ở Cachemire (thuở trước, Ngài là Pythagore).

Tiếp theo là Đức Jésus (trước là Apollonius de Tyane) ở Li Ban, Đức Hilarion (trước là Triết gia Jamblique) ở Ai Cập, Đức Rakoczi người Hung Gia Lợi (trước là Bá tước Saint Germain), Đức Djoual Koul, người Tây Tạng, mới đạt được quả vị Chơn Tiên sau khi Hội Thông Thiên Học được thành lập.

Công việc của các Chơn sư

Các Ngài hợp tác với Thiên cơ, ban rải thần lực trí thức và tâm linh cho nhơn loại, nhận đệ tử, điều chỉnh các động lực tiến hóa mỗi lần có sự xáo trộn. Thỉnh thoảng các Ngài giáng trần lập đạo. Đặc biệt là đấng Ki Tô (Đức Di Lạc ở Đông Phương) sẽ giáng trần để sáng lập một văn minh và một tôn giáo mới.

Chính phủ của thế gian

Ở mỗi hành tinh của Thái dương hệ có một nhóm Tiên thánh hợp tác với Thượng Đế để thực hiện Thiên Cơ : đó là Quần Tiên Hội, là Thiên đình. Các Ngài hành sự tùy cấp bậc, từ 1 lần đến 10 lần điểm đạo và tùy theo cung : cung uy quyền, cung minh triết, cung thích nghi, cung mỹ lệ, cung khoa học, cung sùng kính và cung nghi lễ.

Đấng Phổ Tịnh Đại Đế (10 lần điểm đạo)

Ngài thuộc về cõi vô hiện. Ngài đã giữ chức vụ Ngọc Đế trong một cuộc tuần huờn trước.

Cung thứ nhứt (Cung uy quyền)

a/ Đức Ngọc Đế.- (9 lần điểm đạo)

Ngài là vị thủ lãnh tối cao, điều khiển sự tiến hóa mọi sinh linh ở quả địa cầu. Ngài thuộc trạng thái thứ nhứt của Đức Thượng Đế là trạng thái ý chí. Ngài đến từ bầu Kim tinh. Người Ấn gọi Ngài là Đức Sanat Koumara. Có ba vị Ngọc Đế trong một cuộc tuần huờn của quả địa cầu.

b/ Độc Giác Phật.- (8 lần điểm đạo)

Có ba vị. Các Ngài được mệnh danh là Hỏa Đức Tinh Quân.

c/ Đức Bàn Cổ.- (7 lần điểm đạo).

Ngài điều khiển trực tiếp sự tiến hóa các quốc gia và các dân tộc.

Cung thứ nhì (Cung giáo hóa)

a/ Đức Phật (8 lần điểm đạo)

Vị điều khiển cung nầy là một vị Phật. Hiện nay, vị Phật ấy là Đức Thích Ca. Ngài đã giáng trần nhiều lần với các danh hiệu : Vyasa, Hermès Trismégiste, Zoroastre đệ nhứt, Orphée để giáo hóa chúng sanh, trước khi thành Phật.

b/ Bồ Tát (7 lần điểm đạo)

Các vị Bồ Tát là các vị Giáo chủ. Ấy là Đức Di Lạc ở Đông phương, Đức Ki Tô ở Tây phương, Đức Krishna ở Ấn Độ. Ngài sắp tái sanh và hiện đang sống ở sườn Nam của dãy núi Hi mã lạp sơn.

Cung thứ nhì thuộc trạng thái thứ hai của Thượng Đế.

Các cung khác

Ở 5 cung khác, vị Chưởng Quản là Đức Văn Minh Đại Đế, 7 lần điểm đạo. Các cung nầy thuộc trạng thái thứ ba của Thượng Đế.

Đức Văn Minh Đại Đế

Đối với Ngài, tương lai là một cuốn sách mở. Ngài theo dõi diễn trình tiến hóa của sanh linh và hoạt động của Ngài thuộc phạm vi tổ chức và lãnh đạo quốc gia. Hiện nay, Ngài giữ xác thân Ấn Độ.

Các vị cao cả khác

Ngoài các vị Tiên Phật có chơn trong Thiên đình, còn có các vị cao cả khác : các Đức Bàn Cổ của các cuộc tuần hoàn, của những dãy hành tinh và sau cùng là Đức Thái Dương Thượng Đế mà sự vinh quang vượt khỏi tầm hiểu biết của con người.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro