Sherlock Holmes (Bộ 5/1)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bộ 5:Tuyển tập truyện dài

+Truyện 1:Dải băng lốm đốm

+Truyện 2:Vành đai khí độc

+Truyện 3:Thung lũng khủng khiếp

--------------------------------

Lời mở đầu:Bộ truyện được sưu tầm và biên soạn bởi Designer Phạm Hưng.Nguồn :

http://kinhdotruyen.com

,mong mọi người có được niềm vui khi đọc sách.Sau đây là phần truyện….

-----------------------------

Bộ 5:Tuyển tập truyện dài

Truyện 1: Dải Băng Lốm Đốm

Phần I:

Một sáng sớm tháng tư năm 1883, vừa thức giấc, tôi đã thấy Sherlock Holmes, ăn mặc tề chỉnh đứng bên đầu giường mình. Lệ thường, anh hay dậy muộn; mà theo đồng hồ lúc này chỉ mới 7 giờ 15. Tôi ngước nhìn anh, hơi ngạc nhiên. ánh mắt tôi cũng thoáng vẻ bực dọc, vì chính tôi cũng quen dậy muộn.


Tôi lấy làm tiếc là đã đánh thức anh dậy, Holmes nói



Có chuyện gì thế? Hoả hoạn à?



Không, có một thân chủ đang chờ. Một tiểu thư trẻ đang thảng thốt lo âu và khẩn khoản xin gặp tôi. Cô ấy hiện ngồi đợi dưới phòng khách. Khi những tiểu thư trẻ dám băng qua thành phố vào lúc mới rạng sáng như thế này và dám đánh thức những người chưa quen biết dậy, thì chắc hẳn họ phải gặp chuyện gì đó rất đáng lo. Vụ này có lẽ rất thú vị, đáng cho anh ghi chép, nên tôi tin chắc, anh sẽ muốn theo dõi ngay từ đầu. Tôi nghĩ nên đánh thức anh, để anh khỏi bỏ lỡ một dịp may.



ồ, anh bạn vàng, tôi không đời nào chịu để lỡ một dịp may, vì bất cứ lý do gì.



Tôi hối hả mặc quần áo, và chỉ vài phút sau đã theo chân bạn tôi xuống phòng khách. Cô tiểu thư mặc bộ quần áo đen, gương mặt khuất sau một tấm mạng nhỏ thó, đang ngồi bên cửa sổ, cô vội đứng ngay dậy khi chúng tôi bước vào.



- Chào tiểu thư, - Holmes niềm nở - tôi là Sherlock Holmes. Còn đây là bạn tôi, bác sĩ Watson. Tiểu thư có thể trò chuyện với anh ấy cởi mở, như với chính tôi. à, rất mừng là bà Hudson đã tinh ý nhóm giúp lò sưởi. Tiểu thư nên ngồi gần thêm chút nữa cạnh lò sưởi và tôi xin phép được mời tiểu thư một tách cà phê nóng, vì tôi thấy tiểu thư đang rét run lên.



-Tôi run không phải vì trời lạnh, cô gái khẽ đáp.



- Vậy thì vì lý do gì?



- Vì sợ, thưa ông. Vì kinh hoàng. Vừa nói, cô gái vừa nâng tấm mạng che mặt lên, và chúng tôi thấy cô đang thật sự thảng thốt trong nỗi kinh hoàng. Sắc mặt tái mét ánh mắt lộ rõ vẻ khiếp sợ, như ánh mắt con thú săn đang bị bủa vây. Trông bề ngoài, cô chỉ trạc ba mươi, nhưng mái tóc đã điểm bạc đôi chỗ, còn cử chỉ thì lộ rõ vẻ uể oải mỏi mệt. Chỉ bằng khoé mắt từng trải của anh, Sherlock Holmes đã biết về cô đủ mọi điều.



- Cô đừng sợ - anh nói, - chúng tôi sẽ giúp cô sớm giải thoát được mọi ưu phiền. Tôi chẳng chút hồ nghi. Tôi biết rõ cô vừa tới đây bằng chuyến tàu sớm nay.



- Thế ra ông đã biết tôi trước lúc tôi đến đây hay sao?



- Không, nhưng tôi nhìn thấy trên chiếc găng tay bên trái của cô phần còn lại của tấm vé khứ hồi. Cô đã phải dậy rất sớm, rồi còn phải ngồi co ro rất lâu trên một chiếc xe độc mã suốt cả một chặng đường dài lầy lội trước lúc ra tới ga.



Cô gái bối rối, nhìn anh bạn tôi chằm chằm.



- Chẳng có gì huyền bí đâu, thưa tiểu thư, anh mỉm cười nói - trên ống tay áo vét cô đang mặc lấm tấm bùn, ít nhất là ba chỗ. Những vết bẩn ấy còn mới. Không một loại phương tiện giao thông nào, ngoại trừ xe độc mã, lại có thể làm bắn nhiều bùn đất đến thế lên người hành khách; nhất là khi họ ngồi bên trái xà ích.



- Ông hoàn toàn đúng, dù ông dùng cách nào để phán đoán như vậy, cô gái nói. Tôi rời khỏi nhà lúc gần 6 giờ, đến Leatherhead lúc 6 giờ 20 và đáp ngay chuyến tàu đầu tiên đến ga Waterloo.. Thưa ông, tôi không còn chịu đựng được nữa. Tôi sẽ hoá điên mất nếu tình cảnh này cứ kéo dài. Tôi chỉ có một người để nhờ vả, nhưng con người khốn khổ đó e chẳng gíup ích được bao nhiêu. Vì vậy, tôi đành tới cầu cứu ông, thưa ông Sherlock Holmes. Ông có đủ sức giúp không, ít ra là cũng làm sáng tỏ ít nhiều những bí ẩn đáng sợ đang bủa vây tôi bốn bề?



- Xin cô cứ kể hết với chúng tôi tất cả những gì có thể giúp chúng tôi hình dung được tình cảnh đang khiến cô sợ hãi.



Điều khủng khiếp nhất trong tình cảnh của tôi hiện nay là những lo sợ của tôi , những lo sợ đều hết sức mơ hồ, - cô thân chủ đáp. Những ngờ vực của tôi đều bắt nguồn từ những chuyện rất nhỏ nhặt, đến nỗi người khác có thể cho là vớ vẩn. Nhưng tôi nghe đồn chỉ có ông, thưa ông Sherlock Holmes, mới thấu hiểu hết tâm địa hiểm ác của người đời. ông mới có thể khuyên tôi nên xoay xở thế nào trong những hiểm hoạ đang bủa vây quanh tôi.



- Tôi đang lắng nghe cô đây, thưa cô.



- Tôi tên là Helen Stoner. Tôi đang ở với ông bố dượng. Ông ấy là người cuối cùng còn sống của một dòng họ Saxon lâu đời nhất Anh quốc, dòng họ Roylott xứ Stoke Moran, tại cực tây này, giáp ranh với Surrey.



Sherlock Holmes gật đầu



- Tôi đã được nghe nói khá nhiều đến cái tên đó - anh nói.



- Có một thời, họ từng là dòng họ giàu có nhát Anh quốc. Lãnh địa họ, ở mạn bắc, vắt qua cả biên giới, ăn sâu vào tận Berkshire, và ở mạn tây - tận Hampshire. Nhưng vào cuối thế kỷ trước, cả bốn thế hệ liền đã mặc sức phung phí và chẳng buồn làm gì. Trong thập niên 1820, những gì còn sót lại đã bị một gã máu mê cờ bạc nướng hết vào các trò đen đỏ, ngoài trừ một vài mẫu đất và một toà nhà cũ, xây từ hai trăm năm trước. Viên điền chủ cuối cùng của dòng họ đành phải lui về cư ngụ tại ngôi nhà nọ, sống cuộc đời thảm hại của một người quí tộc nghèo. Nhưng cậu con trai độc nhất của ông ta, người hiện là bố dượng tôi, hiểu rằng phải tìm cách thích nghi với tình cảnh mới. Ông ấy cố kiếm được một mảnh bằng bác sĩ, rồi lên đường sang Calcutta. Tại đây, ông ta nhờ có tay nghề và đức kiên nhẫn, nên chẳng bao lâu sau đã được đông đảo khách hàng tín nhiệm. Nhưng rồi nhà ông ta bị mất cắp, khiến ông ta tức điên người, đánh một gia nhân người bản xứ đến chết, và chật vật lắm ông ta mới thoát khỏi bản án xứ giảo. Sau vụ đó, ông ta đã phải chịu cảnh tù tội rất lâu, nên khi được thả ông trở về Anh quốc trong tâm trạng thất vọng và bi quan.



Hồi còn làm bác sĩ ở ấn Độ, Roylott đã kết hôn với mẹ tôi, bà Stoner, một quả phụ trẻ, vốn là vợ của Thiếu tướng Stoner, chỉ huy pháp binh tại Bengal. Tôi và Jlia, chị tôi, là hai chị em sinh đôi. Hồi mẹ tôi đi bước nữa, hai chúng tôi mới 20 tuổi. Mẹ tôi có một khoản tiền khá lớn, mỗi năm được hưởng không dưới một ngàn bảng lợi tức. Bà giao hết khoản tiền đó cho bác sĩ Roylott cai quản, vì hai chị em tôi còn phải sống cùng ông bố dượng, và dặn ông ta phải chia đôi cho hai chúng tôi khi nào chúng tôi đi lấy chồng. Mẹ tôi qua đời chỉ ít lâu sau ngày chúng tôi trở về Anh: bà chết cách đây 8 năm trong một vụ tai nạn hoả xa gần Crewe. Ngay sau ngày đó, bác sĩ Roylott lập tức bỏ ý định ở lại Luân Đôn hành nghề, và đưa hai chị em tôi về Stoke Moran, sống tại ngôi nhà được thừa kế. Khoản tiền mẹ tôi để lại thừa đủ chu cấp cho mọi sở thích của chúng tôi, và tưởng chừng chẳng có gì ngăn trở chúng tôi sống hạnh phúc.



Nhưng đúng vào thời kỳ đó, tính khí bố dượng tôi bỗng thay đổi hẳn. Thay vì kết thân và tới viếng thăm những người hàng xóm, mới đầu rất hồ hởi khi được gặp lại một người thuộc dòng dõi Roylott trở về sống tại quê cũ, ông ta cứ ru rú suốt ngày ở nhà. Ông ta chẳng mấy khi bước ra ngoài, và hễ đi ra đến ngoài thì lần nào cũng gây gổ dữ dội với bất cứ ai chạm trán với ông trên đường đi. Cái tính hay có những cơn giận hung hãn đã thành một tật cố hữu của cánh đàn ông dòng họ Roylott. Và đến đời bố dượng tôi, các tật đó lại càng tăng thêm, có lẽ vì ông ta sống quá lâu ở miền nhiệt đới. Một loạt những vụ ẩu đả tồi tệ đã xảy ra, trong đó có hai vụ đã phải kết thúc ở đồn cảnh sát. Rốt cục, ông ta trở thành nỗi kinh hoàng của cả làng, và dân ở đấy ai cũng vội vã tránh mặt ông ta, vì ông ta có một thế lực phi thường và hoàn tòan không thể tự kiềm chế, khi đã nổi cơn thịnh nộ.



Bạn bè độc nhất của ông ta là những người Digan sống lang thang nay đây mai đó; ông cho họ dựng lều trại trên mảnh đất nhỏ, diện tích chỉ vài hecta của dòng họ để lại. Ông ấy thích lang thang đây đó cùng họ; có lần vắng nhà hàng tuần. Ông ta cũng thích những giống vật ấn Độ, được ngừơi quen gửi tận bên đó về. Hiện ông đang nuôi một con báo bờm, giống Cheetah, và một con khỉ đầu chó, nòi Baboon, suốt ngày đêm thả rông, mặc cho chúng muốn đi đâu thì đi. Dân làng hầu như ai cũng sợ chúng chẳng kém gì chủ chúng.



Qua lời tôi kể, chắc ông dễ dàng hình dung được là cảnh sống của chị Julia đáng thương và tôi chẳng lấy gì làm sung sưóng cho lắm. Không một người giúp việc nào chịu nổi cảnh sống ở nhà chúng tôi, nên từ lâu lắm rồi, hai chị em tôi đã phải tự tay làm lấy mọi việc trong nhà. Chị tôi đã chết hồi chỉ mới ba mươi tuổi, và tóc chị ấy cũng đã điểm bạc như tóc tôi.



- Thế chị ấy đã mất rồi sao?



- Chị ấy qua đời cách nay vừa tròn hai năm. Chính tôi cũng đang định kể với ông về cái chết của chị ấy. Các ông thấy đấy, cảnh sống mà tôi vừa kể khiến chúng tôi không còn thích giao du với bất cứ ai cùng trang lứa và địa vị. Chị em tôi có một bà dì ruột, sống độc thân, tên là Honoria Westphail, bà ở mạn Harrow, nhưng hoạ hoằn lắm chúng tôi mới được phép đến thăm bà vài ngày. Cách đây hai năm, chị Julia có đến đó đón lễ Noel và đã gặp một Thiếu tá Hải quân, rồi đính hôn cùng anh ta. Dượng tôi được biết chuyện đó sau ngày chị Julia trở về và không tỏ ý phản đối cuộc hôn nhân ấy nhưng rồi hai tuần trước ngày họ định tổ chức hôn lễ, chị Julia đã gặp một việc khủng khiép đã cướp mất của tôi người bạn tâm tình độc nhất trên đời.



Sherlock Holmes nãy giờ ngả người vào lưng ghế, mắt lim dim, đầu tựa trên chiếc gối đặt trên tay vịn của chiếc đi văng. Nghe đến đó, anh bỗng hé mắt nhìn thẳng vào mắt cô gái.



- Xin cô kể lại chuyện ấy thật cặn kẽ - anh nói.



- Việc này đối với tôi rất dễ, vì mọi điều xảy ra vào khoảng thời gian kinh hoàng đó đều đã khắc sâu vào ký ức của tôi. Toà nhà chính mà dượng tôi được thừa kế, như tôi vừa kể, rất cũ kỹ, chỉ còn một dãy bên là còn ở được. Sàn của mấy phòng ngủ ở đây toàn là sàn đất nện; mấy phòng khách thì chiếm phần trung tâm toà nhà. Trong ba phòng ngủ kia, thì phòng đầu là bác sĩ Roylott, phòng thứ hai là của chị tôi, còn phòng cuối thì dành cho tôi. Chẳng phòng nào ăn thông với phòng nào; nhưng cả ba đều có cửa mở ra dãy hành lang chung. Tôi kể như vậy, có được rõ không ạ?



- Rất rõ.



- Cửa sổ ba phòng đều hướng ra phía bãi cỏ. Vào cái đêm kinh hoàng đó, bác sĩ Roylott về phòng rất sớm, nhưng chúng tôi biết ông ấy chưa ngủ, vì chị tôi phải khó chịu vì cái mùi xì gà ấn Độ rất nặng mà ông ta quen dùng. Vì vậy, chị ấy rời phòng sang bên tôi, ngồi một lúc, nói chuyện gẫu về cái đám cưới sắp tới. Mười một giờ thì chị ấy đứng dậy, rời phòng tôi, nhưng ra đến cửa bỗng dừng lại, ngoái nhìn sau lưng, rồi lên tiếng hỏi tô :



- Helen,khuya khuya, em có bao giờ nghe tiếng ai đó huýt sáo không?



- Chưa bao giờ - tôi đáp.



- Biết đâu em có thể huýt sáo lúc mơ ngủ?



- Không thể có chuyện đó được. Nhưng tại sao chị hỏi thế?



- Vì mấy đêm gần đây, vào khoảng ba giờ sáng, đêm nào chị cũng nghe có tiếng huýt sáo rất khẽ và rõ. Chị vốn tỉnh ngủ, nên tiếng động đó khiến chị thức giấc. Chị không thể nói rõ nó từ phía nào đưa lại. Có thể là từ phòng bên, mà cũng có thể từ ngoài bãi cỏ vọng vào. Hôm qua, chị đã định hỏi em có nghe thấy không.



- Không, em không nghe. Chắc là đám Di-gan đấy.



- Có lẽ đúng vậy thật. Nhưng nếu quả là từ ngoài bãi cỏ vọng vào thì sao em không nghe thấy? Lạ thật!



- ồ, em ngủ say hơn chị nhiều.



Thôi, toàn chuyện vớ vẩn không đâu - chị ấy mỉm cười, khép cửa phòng tôi, và lát sau tôi nghe thấy tiếng chìa lách cách trong ổ khoá phòng chị.



- Thì ra là vậy, Sherlock Holmes nói. Chị cô và cô bao giờ cũng khoá cửa trước lúc đi ngủ?



- Vâng.



- Sao vậy?



- Hình như tôi đã kể với ông là dượng tôi có nuôi thả rông một con báo bờm và một con khỉ đầu chó. Hai chị em tôi chỉ cảm thấy an toàn khi đã khoá trái cửa sau lưng.



- Tôi hiểu. Xin cô kể tiếp.



- Đêm đó, tôi không thể nào chợp mắt được. Tôi linh cảm mơ hồ một điều bất hạnh sắp xuống giáng xuống đầu mình. Hai chúng tôi, hẳn ông còn nhớ, là hai chị em sinh đôi, và chắc ông cũng biết, anh em hay chị em song sinh vốn gắn bó với nhau mật thiết như thế nào. Đêm đó quả là một đêm ghê rợ. Gió rít từng hồi, còn mưa thì xối xả trút nước vào cửa sổ. Bất thình lình, trong tiếng gió gào thét bỗng dậy lên một tiếng rú man dại của một người phụ nữ đang hốt hoảng. Tôi nhận ra ngay: đó là tiếng chị tôi. Tôi nhảy vội xuống đất, lao ra hành lang. Lúc đang mở cửa, tôi chợt nghe một tiếng huýt sáo kẽ, đúng như chị tôi kể, rồi chỉ một lát sau, tiếng rơi đánh sầm của một vật nặng bằng kim loại. Khi tôi chạy sang, tôi thấy cửa phòng chị tôi không khoá, cánh cửa đang từ từ xoay trên bản lề. Tôi kinh hãi, trố mắt nhìn, không biết cái gì sắp xảy ra đây. Dưới ánh đèn treo ngoài hành lang, tôi thấy chị Julia hiện ra sau cánh cửa, mặt trắng bệch vì khiếp sợ. Chị chới với vươn hai tay ra phía trước, cầu cứu tôi, toàn thân lảo đảo như thể đang say. Tôi chạy vội tới, ôm choàng lấy chị, nhưng đúng vào lúc đó, chân chị bỗng bủn rủn và chị ngã khuỵu xuống đất. Chị quằn quại vì một nỗi đau đớn không thể chịu đựng nổi. Mới đầu, tôi tưởng chị không nhận ra mình; nhưng lúc tôi cúi xuống, chị bỗng hét lên bằng một giọng mà tôi nhớ suốt đời:“ Trời ơi, Helen! Cái dải băng ấy! Dải băng lốm đốm!“. Chị ấy còn cố nói một điều gì đó nữa, tay chỉ chỉ về phía phòng ông bố dượng, nhưng một cơn co giật nữa lại ập tới, không cho chị thốt nên lời. Tôi vừa đứng bật dậy, vừa lớn tiếng gọi ông bố dượng, và thấy ông ta chạy vội ra khỏi phòng. Trên người còn mặc chiếc áo ngủ lụng thụng. Khi ông ta chạy tới thì chị tôi đã bất tỉnh. Ông ta đổ rượu brandy vào miệng chị tôi, cho người đi gọi ông thầy thuốc trong làng nhưng mọi cố gắng cứu chữa chị tôi đều vô hiệu. Chị lả dần, rồi tắt thở, không còn tỉnh lại được nữa. Người chị yêu quí của tôi đã chết một cách khủng khiếp như vậy đó.



- Xin hỏi cô một câu, Sherlock Holmes nói.Cô có tin chắc là đã nghe tiếng huýt sáo và tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại? Cô có dám thề là mình đã không nghe lầm không?



- Tôi cảm thấy mình không lầm chút nào. Nhưng dẫu sao tôi cũng không dám đoán chắc lắm, vì lúc đó gió đang gào thét bên ngoài và căn nhà cũ cũng phát ra đủ mọi thứ âm thânh giữa lúc mưa to gió lớn.



- Chị cô lúc đó đã ăn mặc tề chỉnh?



- Không! Chỉ mỗi chiếc áo ngủ trên người. Bên tay phải đang cầm một que diêm đã đánh lửa, còn bên tay trái - một bao diêm.



- Điều đó chứng tỏ cô ấy đã quẹt diêm lên để xem thử có chuyện gì khiến cô ấy sợ hãi. Chi tiết đó rất quan trọng. Vậy ông dự thẩm kết luận thế nào khi đến điều tra?



- Ông ấy xem xét hết sức cẩn thận nội vụ, vì bác sĩ Roylott từ lâu đã là đối tượng khả nghi. Nhưng ông ấy không tài nào tìm thấy một chứng cứ gì xác đáng về nguyên nhân cái chết. Cửa phòng được khoá chặt từ bên trong. Bên ngoài cửa sổ còn có thêm một lần cửa gỗ được gá trên những thanh sắt to bản để phòng ngừa kẻ gian. Hơn nữa, đêm nào cũng cài then cẩn thận. Tôi cũng đưa ông ấy đi xem tường vách: tất cả đều vẫn còn vững chãi lắm. Sàn nhà cũng được khám xét kỹ, nhưng vẫn chẳng có dấu hiệu khả nghi nào. ống khói lò sưởi tuy rộng, nhưng không thể chui qua. Như vậy, chắc chắn là khi xảy ra cái tai hoạ bi kịch ấy, chị tôi chỉ có một mình trong phòng.



- Thế khả năng bị đầu độc?



- Các bác sĩ cũng đã khám nghiệm tử thi, nhưng chẳng thu được một kết quả nào.



- Vậy, theo cô, lý do gì đã khiến người chị bất hạnh của cô chết thảm khốc như thế?



- Tôi tin rằng chị ấy chỉ vì quá kinh hoàng và chấn động thần kinh, tuy không thể hình dung nổi điều gì đã khiến chị ấy sợ hãi đến mức đó.



- Hôm đó, đám Di-gan có mặt trong địa phận trang trại không?



- Có, họ hầu như lúc nào cũng ở gần trang trại.



- Này, vậy cô nghĩ gì về dải băng, dải băng lốm đốm, mà chị cô có nhắc tới?



- Có lúc tôi nghĩ đó chỉ là những lời vô nghĩa trong cơn mê sảng của chị tôi; nhưng có lúc tôi cho rằng có lẽ chị tôi muốn nói tới một loại băng đảng gì đấy, chắc là tới đám người Di -gan, cũng có thể là thứ khăn trùm sặc sỡ mà dân Di gan hay dùng đã khiến chị ấy thốt ra hai chữ ”lốm đốm“ kỳ dị đó.



Holmes lắc đầu như có ý không chút nào thấy thoả mãn.



- Còn có một cái gì khác nữa kia! - anh nói - Xin cô kể tiếp đi.



- Hai năm trôi qua kể từ ngày đó, và cuộc sống của tôi càng trở nên lẻ loi, cô độc hơn bao giờ hết. Nhưng tháng trước, một anh bạn thân mà tôi quen biết từ nhiều năm, đã ngỏ lời cầu hôn tôi. Anh ấy tên là armitage, Perryarmitage, thứ nam của ông armitage ở vùng Crame Water, gần Reading. Bố dượng tôi không phản đối, và chúng tôi định sang xuân thì tổ chức hôn lễ. Cách đây hai ngày, bác sĩ Roylott gọi thợ tới, cho sửa chữa phần trái nhà ở mạn tây. Họ đập phá vách tường căn phòng ngủ của tôi, nên tôi phải dời sang ở tạm tại căn phòng nơi chị tôi đã qua đời, ngủ trên chính chiếc giừơng chị ấy từng ngủ. Đêm qua, tôi nằm mà chẳng tài nào chợp mắt được, vì nghĩ tới cái chết bi thảm của chị mình. Thế rồi, các ông có hình dung được không nỗi kinh hoàng của tôi. Tôi bỗng nghe thấy trongcảnh vắng lặng của đêm khuya cái tiếng huýt sáo khẽ mà chính chị tôi từng nghe thấy trước lúc chết. Tôi choàng ngay dậy, châm đèn lên, nhưng chẳng thấy gì trong phòng cả. Tôi quá hoảng sợ, nên không thể lên giường ngủ tiếp, đành mặc sẵn quần áo, ngồi chờ. Thấy trời vừa sáng, tôi vội lên đường đến gặp ông ngay, để cầu cứu ông.



- Cô đã xử sự rất khôn ngoan, bạn tôi nói. Nhưng cô đã kể hết chưa?



- Thưa ông, hết rồi.



- Chưa đâu, cô Roylott ạ. Cô đang bao che cho ông bố dượng của cô đấy.



- Sao kia? Ông muốn ám chỉ điều gì?



Thay vì câu trả lời, Holmes kéo cao ống tay áo của cô thân chủ lên. Năm vết đỏ bầm, dấu của năm ngón tay, nổi rõ trên cổ tay trắng muốt của cô gái.



- Cô bị ông ta đối xử tàn tệ quá! Holmes nói.



Cô gái đỏ bừng mặt, kéo vội ống tay áo xuống để che cái cổ tay bị bầm.



- Ông ấy là hạng người cục súc, cô nói, sức lực như hộp háp, và chắc không lường hết được sức mạnh của mình.



Cả ba chúng tôi ngồi im lặng hồi lâu. Holmes tì cằm lên hai tay, nhìn chằm chằm ngọn lửa cháy trong lò.



Mãi sau, anh mới lên tiếng:



- Vụ này thật bí ẩn. Có tới hàng trăm tình tiết tôi đang muốn biết rõ trước lúc quyết định phương hướng hành động. Chúng ta đừng để mất thời giờ. Cô có thể giúp chúng tôi về Stoke Moran ngay hôm nay, để chúng tôi xem kỹ lại mấy căn phòng đó, mà dượng cô không hề hay biết, được không?



- Được ạ. Vì ông ấy có nói là hôm nay phải lên Luân Đôn thu xếp một số công việc gì đó hết sức hệ trọng. Chắc ông ta sẽ vắng nhà suốt ngày, nên không ai cản trở các ôngđâu.



- Tuyệt. Thế thì cả hai chúng tôi sẽ cùng đến. Còn cô, cô có phải thu xếp việc riêng gì nữa không?



- Tôi có vài việc đang định làm gấp nhân lên đây, nhưng tôi sẽ quay về ngay bằng chuyến tàu 12 giờ, nên tôi vẫn có mặt ở nhà để tiếp đón hai ông.



- Vậy cô nên đợi sẵn chúng tôi sau mười hai giờ trưa. Tôi cũng có vài việc vặt cần thu xếp.Cô có vui lòng ở lại dùng điểm tâm với chúng tôi không?



- ồ không, tôi phải đi gấp. Hy vọng sẽ gặp lai các ông vào chiều nay -cô gái buông chiếc mạng đen xuống, rồi rời căn phòng.



- Anh nghĩ sao về vụ này, Watson? - Sherlock Holmes vừa hỏi vừa ngã người vào lưng ghế.



- Tôi cảm thấy đây là một vụ án đầy bí hiểm, có thể chứa đựng một tội ác thâm độc.



- Bí hiểm thật, mà cũng thâm độc thật.



- Cô gái cho biết sàn nhà, tường, vách còn rất chắc; không một ai có thể đột nhập qua cửa ra vào, cửa sổ, và ống khói, thì rõ ràng là người chị chỉ có một mình trong phòng, lúc cái chết bí hiểm kia ập đến.



- Vậy thì tiếng huýt sáo lúc nửa đêm, và những lời kỳ lạ cô ấy thốt ra trước lúc chết phải lý giải thế nào



- Tôi chưa thể nghĩ ra.



- Anh nên ngẫm nghĩ kỹ về tiếng huýt sáo giữa đêm khuya và dải băng của đám Di gan mà lão bác sĩ chứa chấp trong địa phận của lão. Ta cũng có lý do để tin rằng lão ta rất quan tâm tới việc ngăn cản cô con gái của người vợ cũ đi lấy chồng. Hơn nữa, ở đây còn có lời cô chị nhắc tới dải băng và sau cùng, là tình tiết cô Helen Stoner nghe thấy tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại. Âm thanh đó rất có thể là do một thanh sắt gá vào cánh cửa chắn bên ngoài cửa sổ phát ra, khi nó bật mạnh vào vị trí cũ.Tất cả những tình tiết đó, theo tôi, có thể giúp ta lý giải vụ án.



- Nhưng nếu vậy thì đám Di - gan cóliên quan gì?



- Tôi chưa thể hình dung.



- Tôi thấy có quá nhiều điều chống lại cái giả thuyết anh vừa đưa ra.



- Tôi cũng nghĩ vậy. Chính vì lý do đó nên hôm nay chúng ta phải tới tận nơi, tới Stoke Moran. Tôi muốn biết những bằng chứng phản bác có vững hay không, hay ít ra cũng hiểu rõ được sự thể hơn. ồ, lại sắp có chuyện quỉ quái gì nữa đây?



Cửa phòng bật mở, và một người đàn ông cao lớn vạm vỡ xuất hiện. Ông ta cao đến nỗi mũ gần chạm vào thanh ngang trên cùng của khung cửa, và to ngang tới mức choán gần hết cả bề rộng cửa ra vào. Mặt ông ta to bè, nhăn nheo, sạm nắng và hằn sâu những dấu tích của đủ mọi thứ dục vọng quỉ quái. Ông ta đảo mắt lia lịa nhìn hai chúng tôi, và cặp mắt trũng sâu cùng cái mũi khoằm của ông ta khiến ông ta trông như một con ác điểu già hung dữ.



Trong hai anh, ai là Holmes, hả? - lão hỏi



- Tôi đây, thưa ngài - bạn tôi bình thản đáp.



Ta là bác sĩ Grimesby Roylott ở Stoke Moran.



- Rất hân hạnh - Holmes nói - Mời bác sĩ ngồi.



- Ta chẳng thèm ngồi với anh làm gì. Con gái vợ ta vừa ở đây ra. Tađã lần được dấu vết nó. Nó đã hót gì với các anh, hả?



- Trời lạnh thế này quả là trái mùa - Holmes nói.



- Nó đã hót với anh những gì?- lão rít lên, giọng tức giận.



- Nhưng tôi nghe nói hoa vẫn sẽ được mùa - bạn tôi nói tiếp.



à, anh định đánh trống lảng chứ gì? - ông khách vừa nói vừa bước lên trước một bước. Anh thì ta chẳng lạ. Ta nghe danh anh lâu rồi. Anh là Holmes, một gã rất hay can thiệp vào công việc người khác.



Holmes tủm tỉm cười đắc ý.



- Trò chuyện với ông thật thú vị- anh nói. Bao giờ ra khỏi đây, ông làm ơn khép cửa hộ, vì phòng này hay có giò lùa.



Ta chỉ ra khỏi đây chừng nào ta nói hết những điều cần nói với anh. Đừng có liều can thiệp vào công việc của ta. Ta biết con Stonerđã mò tới đây - ta đã lần theo dấu vết của nó! Ta là một người nguy hiểm! Nhìn đây.



Lão bước nhanh về phía lò sưởi, cầm thanh sắt cời than, bẻ cong nó lại bằng đôi tay hộ pháp sạm nắng.



Liệu hồn, chớ có để bị sa vào tay ta - lão gầm lên, vứt thanh cời than vào lò, rồi bỏ di.



- Quả là một con người dễ mến -Holmes vừa nói vừa cười lớn. Giá lão còn ở lại, tôi có thể cho lão thấy tay tôi cũng chẳng yếu hơn tay lão lắm đâu. Nói chưa dứt lời, anh ta cầm thanh sắt cời than lên, rồi lên gân uốn thẳng nó lại như cũ.

- Anh Watsso, bây giờ tôi sẽ bảo dọn điểm tâm; sau đó, tôi đi một lúc, hy vọng sẽ thu thập được một ít tin tức khả dĩ giúp chúng mình trong vụ này.



Khoảng một giờ trưa, Sherlock Holmes trở về. Anh cầm trên tay một tờ giấy màu xanh, chi chít những ghi chép và những hình vẽ, những con số.



- Tôi đã được tận mắt thấy bản di chúc của người vợ quá cố - anh nói - Tổng số lợi tức khoảng bảy trăm năm mươi bảng. Mỗi cô gái có quyền đòi hai trăm năm mươi bảng lợi tức khi nào họ đi lấy chồng. Như vậy, nếu cả hai cô đều lấy chồng, thì lão bác sĩ chỉ còn được hưởng một số tiền chẳng đáng là bao; thậm chí chỉ một cô về nhà chồng thì lão cũng đã bị thua thiệt đáng kể. Công việc của tôi sáng nay vậy là chẳng vô ích, vì nó cho thấy lão ta có đủ lý do rất hệ trọng để tìm mọi cách ngăn cản việc kết hôn của hai cô gái. Và bây giờ, nếu anh đã sẵn sàng rồi thì chúng ta sẽ gọi một chiếc xe để ra ga Waterloo. Tôi sẽ rất biết ơn, nếu anh vui lòng nhét vào túi khẩu súng ngắn của anh. Súng với bàn chải đánh răng nữa, tôi nghĩ chúng ta chỉ cần hai thứ đó.



Đến Waterloo, chúng tôi đáp ngay tàu lên Leatherhead, rồi thuê một cỗ xe ngựa tại một quán trọ gần ga. Chúng tôi lên xe ngựa, băng qua khoảng bốn năm dặm trên những con đường làng ngoạn mục của vùng Surry. Hôm đó thời tiết tuyệt đẹp, ánh nắng chan hoà, bầu trời hơi vẩn mây, không khí sực nức mùi đất ẩm. Tôi cảm thấy có một sự tương phản kỳ lạ giữa những dấu hiệu ngọt ngào hứa hẹn một mùa xuân đẹp với công việc khủng khiếp mà chúng tôi đang theo đuổi. Bạn tôi ngồi đằng trước, đắm mình trong những trầm tư, hai ta khoanh trước ngực, mũ kéo sụp xuống tận mắt, cằm tì sát ngực. Nhưng bỗng anh vỗ vai tôi, chỉ tay về phía nhữngcánh đồng.



- Nhìn kìa! anh nói.



Một khu vườn sum sê cây cối trải dài trên một sườn đồi thoai thoải. Giữa đám cây lá nhô lên cái mái cao của một toà nhà cũ tàn tạ.



- Stoke Moran thì phải? - anh hỏi.



- Vâng, thưa ngài, đó là dinh cơ của bác sĩ Grimesby Roylott - người xà ích đáp - Ngài sẽ đỡ mất thời giờ hơn, nếu đi theo lối đường tắt băng qua đồng. Chỗ có một tiểu thư đang đi kia kìa.



- Theo tôi đó chắc là cô Stoner -Holmes phỏng đoán vậy.



Chúng tôi xuống xe, trả tiền, và chiếc xe ngựa lại lóc cóc quay về Leatherhead.



- Chào cô Stoner - Holmes nói.



Thân chủ chúng tôi chạy vội lại đón chúng tôi, vẻ mặt mừng rỡ.



- Tôi rất mong hai ông - cô reo lên, ân cần xiết tay chúng tôi. Bác sĩ Roylott đã lên Luân Đôn và khó có thể quay về trước tối nay.



- Chúng tôi đã có hân hạnh được gặp bác sĩ rồi - Holmes nói, và anh vắn tắt thuật lại những gì đã diễn ra. Cô Stoner tái mặt khi biết chuyện đó.



- Trời ơi! - cô kêu lên. - Vậy là lão đã theo sát gót tôi.



- Chắc thế.



- Lão quỉ quyệt tới mức tôi không thể biết lúc nào mình được an toàn. Lão có nói khi nào lão quay về không?



- Chắc lão phải cẩn trọng, vì có thể lão hiểu rằng mình đã gặp trên đường đi một người còn tinh khôn hơn chính lão. Đêm nay, cô phải khoá chặt cửa để tránh lão. Nếu lão định làm gì, chúng tôi sẽ gửi cô đến Harrow, ở với bà dì cô. Còn bây giờ, chúng ta phải tận dụng tối đa thời cơ, vì vậy, xin cô đưa ngay chúng tôi đến mấy căn phòng mà chúng tôi phải xem kỹ.

Phần II:

Toà nhà được xây bằng đá xám; phần giữa cao, còn hai chái xây cong. Mấy khung cửa sổ ở một bên chái đã vỡ, nên phải bít lại bằng những thành gỗ. Ngói trên mát sút lở nhiều chỗ. Một cảnh tường đổ nát phơi bày trước mắt chúng tôi. Phần giữa nhà khá hơn ít nhiều ; nhưng hiện đại hơn cả vẫn là khối bên phải. Những tấm rèm trên mấy khung cửa sổ và làn khói bay lên từ mấy cái lò sưởi cho thấy cả gia đình hiện sống tại phần này. Holmes đi đi lại trên bãi cỏ, chăm chú ngắm nhìn phía ngoài mấy khung cửa sổ.



- Tôi đoán cửa sổ này là cửa phòng ngủ trước đây cô sử dụng; cái chính giữa là phòng của chị cô, còn cái kế cận với toà nhà chính là phòng của bác sĩ Roylott, đúng không, thưa cô?



- Vâng, đúng rồi. Nhưng tôi hiện phải ngủ tại căn giữa.



- Chỉ tạm thời trong lúc sửa chữa thôi, nếu tôi không lầm. à luôn tiện cũng xin hỏi: hình như chẳng việc gì phải sửa chữa gấp như vậy thì phải. Vì tôi thấy bức tường ở đầu nhà còn chắc lắm mà.



- Đúng vậy. Tôi tin chắc đó chỉ là cái cớ để bắt tôi phải chuyển phòng thôi.



- à! Có thể đúng thế thật. Nay, mặt trong cái chái hẹp này có một dãy hành lang mà cả ba phòng ngủ đều ăn thông ra, phải không? Bên phía đó chắc cũng phải có cửa sổ chứ?



Vâng, nhưng nhỏ lắm. Nhỏ đến nỗi không một ai có thể chui qua được.



- Vậy là từ mặt đó, không một ai có thể lọt vào phòng hai chị em cô, nếu đêm nào các cô cũng khoá chặt cửa. Bây giờ, cô làm ơn vào phòng cô và đóng chặt mấy cánh cửa chắn lại nhé.



Cô Stoner làm theo lời Holmes, và anh cố tìm mọi cách thử mở cánh cửa chắn, nhưng vô hiệu.



Hừm! - anh nói - Giả thuyết đầu của tôi như vậy là đã bị loại bỏ. Không một ai có thể chiu qua ngả này, nếu cửa chắn đã bị cài chặt. Được rồi, bây giờ thì ta thử vào phía trong, xem có phát hiện được gì mới không.



Một cánh cửa nhỏ bên hông dẫn vào hành lang mà cửa của ba phòng ngủ đều ăn thông ra. chúng tôi vào căn phòng thứ nhì, hiện là phòng ngủ của cô Stoner và cũng là nơi chị cô đã gặp tai hoạ. Đó là một căn phòng nhỏ, đủ tiện nghi, trần thấp và có một lò sưởi lớn. Một cái tủ gỗ nâu đựng quần áo, có ngăn kéo, kê ở một góc phòng; còn góc kia là một cái gường trắng hẹp và một cái bàn con đặt bên trái cửa sổ. Hết thảy những thứ vừa kể cùng hai chiếc ghế dựa là toàn bộ đồ đạc trong phòng, nếu không kể tới tấm thảm trải giữa sàn. Holmes đặt vào góc phòng một chiếc ghế, ngồi xuống im lặng nhìn quanh toàn bộ căn phòng, không bỏ sót một chi tiết nào.



Sợi dây kéo chuông này ăn thông vào đâu?- mãi sau, anh mới lên tiếng, tay chỉ vào một sợi dây giật chuông cỡ lớn buông thõng xuống sát đầu giường.



- Nối với phòng người quản gia.



- Trông có vẻ mới hơn mọi thứ vật dụng trong phòng.



- Vâng. Vì mới được lắp cách đây vài năm.



- Chắc chị cô đòi mắc?



- Không tôi chẳng bao giờ thấy chị tôi giật chuông cả. chúng tôi toàn tự tay làm lấy mọi việc, vì nhà không nuôi người hầu.



- Xin lỗi cô mấy phút nhé, tôi muốn xem kỹ thêm sàn căn phòng một chút.



Anh bò tới bò lui, xem xét cẩn thận từng đường rãnh những tấm ván lát sàn. Cuối cùng, anh đến cạnh giừơng ngủ, nhìn chằm hằm một lúc, rồi lại đưa mắt nhìn bức tường từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên. Đoạn, anh cầm lấy dây chuông giật mạnh một cái.



- Sao không nghe chuông reo gì cả? Thậm chí nó cũng chẳng được nối vào sợi dây thép kéo chuông. Lạ thật! Cô nhìn kìa, sợi dây thậm chí chỉ buộc vào một cái móc sắt nằm ngay phía trên cửa thông gió.



- Thật vô lý quá! Vậy mà lâu nay tôi chẳng để ý.



- Rất kỳ lạ! Holmes vừa lẩm bẩm, vừa giật sợi dây. Căn phòng này có một vài điểm rất kỳ quặc. Chẳng hạn, gã thợ xây hẳn phải điên rồi lắm mới trổ cửa thông hơi sang phòng bên cạnh; lẽ ra hắn có thể trổ ra ngoài; cũng chỉ mất chừng ấy công thôi.



- Cái này cũng mới làm gần đây - cô tiểu thư nói



- Chắc làm cùng lúc với sợi dây kéo chuông - Holmes nhận xét.



- Vâng dạo đó có một số thay đổi nhỏ trong nhà.



- Cô Stoner, cô vui lòng cho chúng tôi sang phòng ông bác sĩ xem qua một chút.



Phòng bác sĩ Roylott rộng hơn phòng hai cô con riêng của bà vợ trước, nhưng đồ đạc bài trí rất đơn sơ. Chỉ có một cái giừơng, một giá sách nhỏ bằng gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một giá sách nhỏ bằng gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một cái ghế xếp đặt sát tường, một cái bàn tròn và một tủ sắt lớn. Holmes thong thả đi quanh phòng, xem hết sức kỹ lưỡng từng món đồ đá.



- Tủ này đựng gì? Holmes vừa hỏi gõ vào chiếc tủ sắt.



- Giấy tờ làm ăn của bố dượng tôi.



- ồ, thế ra cô đã có dịp nhìn vào bên trong?



- Chỉ một lần duy nhất, cách đây vài năm. Tôi nhớ là trong tủ đầy ắp giấy tờ.



- Ông ta có nuôi gì trong đó không? Như mèo chẳng hạn.



- Không, ông hỏi gì lạ thế!



- Thề thì cô nhìn đây! - Anh cầm lên một cái đĩa lót tách nhỏ, đựng sữa, đặt trên nóc tủ.



- Không, chúng tôi không nuôi mèo. Nhưng có một con báo bờm và một con khỉ đầu chó.



à, vâng. Dĩ nhiên! Báo bờm chẳng qua chỉ là một con mèo lớn xác thôi. Nhưng tôi nghĩ rằng đĩa sữa nhỏ này e khó lòng chu cấp đủ cho con vật đó. Còn một điểm nữa tôi muốn làm sáng tỏ - Anh lấy kính lúp ra soi lên mặt chiếc ghế gỗ, xem xét mặt ghế hết sức kỹ lưỡng.



- Cảm ơn cô. Thế là rõ rồi, anh vừa nói vừa đứng dậy, cất chiếc kính lúp vào túi. Chà! Món này lý thú đây!



Vật khiến anh chú ý là chiếc roi nhỏ, treo trên góc giường. Tuy nhiên, chiếc roi ấy bị uốn cong ở đầu mút, rồi thắt lại thành một vòng tròn.



- Watson, anh nghĩ gì về món này?



- Đó chí là một cái roi cũng bình thường thôi. Có điều tôi không hiểu tại sao lại thắt vòng ở đầu mút.



- Chẳng bình thường lắm đâu, anh không thấy sao? Tôi nghĩ tôi xem xét xong rồi đấy, cô Stoner ạ. Điều hết sức hệ trọng là từ bây giờ, cô nhất nhất phải làm đúng những điều tôi khuyên. Vụ này nghiêm trọng lắm, ta không được chần chừ một phút nào nữa. Tính mạng của cô tuỳ thuộc cô đấy.



- Tôi xin phó thác hết cho ông.



- Trước hết, đêm nay cả hai chúng tôi phải ở lại trong phòng cô.Cả tôi lẫn cô Stoner đều kinh ngạc trố mắt nhìn anh.



- Vâng, phải như thế mới được. Để tôi cắt nghĩa. Chắc ở đằng kia là cái quán trọ của vùng này?



- Vâng, đó là quán trọ Crown Inn.



- Rất tốt. Từ đó nhìn sang có thể thấy được cửa sổ căn phòng cô không?



- Thấy được chứ.



- Khi nào bố dượng cô về, cô không được ra khỏi phòng, lấy cớ là cô bị nhức đầu. Bao giờ nghe thấy lão sửa soạn đi ngủ, thì cô hãy mở ngay cửa sổ, đặt lên bậu một ngọn đèn để báo hiệu cho chúng tôi . Xong xuôi, cô mang hết những gì mình cần sang bên phòng cũ của cô. Tôi tin chắc rằng, tuy đang sửa chữa, cô vẫn có thể nghỉ tạm một đêm bên đó.



- Vâng, chuyện đó chẳng có gì khó.



- Phần còn lại cô cứ để mặc chúng tôi lo liệu.



- Nhưng các ông sẽ làm gì



- chúng tôi sẽ ngồi bên căn phòng mới của cô để tìm cho ra nguyên nhân của những tiếng động đã quấy rầy cô.



- Ông Holmes, tôi tin rằng ông đã đi đến được một kết luận - cô Stoner vừa nói vừa đặt tay lên ống tay áo của bạn tôi.



- Có lẽ cô đúng.



- Vậy xin ông cho tôi biết tại sao chị tôi chết.



- Trước lúc cho cô biết, tôi muốn có những bằng chứng hiển nhiên hơn.



- ít nhất ông cũng có thể cho tôi biết là tôi đoán định như vậy có đúng không: chị tôi chết vì nỗi hoảng sợ quá đột ngột?



- ồ không, tôi không cho là vậy. Tôi nghĩ là có một nguyên nhân cụ thể hơn nhiều . Còn bây giờ, chúng ta phải tạm biệt nhau, vì nếu bác sĩ Roylott quay về mà bắt gặp chúng tôi ở đây, thì chuyển đi này coi như uổng công. Tạm biệt cô, cô hãy can đảm lên nhé! Nếu cô làm đúng những gì tôi dặn, cô có thể tin rằng chúng tôi sẽ sớm loại bỏ những hiểm hoạ đang rình rạp cô.



Sherlok Holmes và tôi thuê một phòng ngủ và một phòng khách tại quán trọ Crown Inn. Cả hai đều nằm ở tầng trên cùng, nên chúng tôi có thể nhìn rõ dãy nhà đang được sử dụng trong trang trại Stoke Moran. Vào lúc nhá nhem tối, chúng tôi thấy chiếc xe ngựa chở bác sĩ Grimesby Roylott chạy ngang qua cửa sổ phòng trọ. Vóc người lão trông càng cao lớn bên cạnh cậu xà ích bé nhỏ. Đến cổng, cậu đánh xe loay hoay một lúc mới mở được hai cánh cổng sắt nạng, và chúng tôi nghe được cái giọng khàn của bác sĩ Roylott gầm lên, trong khi lão giận dữ khua hai nắm đấm trước mũi cậu xà ích. Cỗ xe chạy qua cổng và chỉ một lát sau, chúng tôi đã thấy giữa lùm cây loé lên một ánh đèn mới thắp trong một phòng khách tại nhà lão.



- Watson ạ, quả tình tôi chưa dám chắc đêm nay có nên đưa anh đi cùng hay không - Holmes nói khi chúng tôi đang ngồi bên nhau trong bóng tối - Tình hình chắc sẽ nguy hiểm lắm!



- Tôi có thể giúp ích cho anh chút nào không?



- Có anh đi cùng là rất quí.



- Vậy thì tôi nhất định sẽ đi cùng anh.



- Cám ơn, anh tốt quá.



- Anh có nói đến nguy hiểm. Chắc chắn là anh đã phát hiện được nhiều điều trong những căn phòng đó hơn tôi.



- Không, tôi nghĩ rằng tôi chỉ rút ra được nhiều kết luận hơn anh thôi. Tôi cho rằng anh cũng đã trông thấy những gì tôi trông thấy.



- Tôi chẳng phát hiện được gì đáng chú ý, ngoại trừ sợi dây giật chuông. Tôi không hình dung nổi sợi dây đó được dùng làm gì.



- Anh cũng nhìn thấy cả cái lỗ thông gió chứ?



- Có. Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng có gì kỳ lạ là có một lối hở nhỏ giữa hai phòng. Nó nhỏ tới mức một con chuột nhắt cũng khó chui quá.



- Tôi biết trước thế nào chúng ta cũng phát hiện được cái lỗ thông gió đó ngay từ khi chưa đến Stoke Moran.



- Thế thì hơi quá đây, anh Holmes thân mến ạ.



- ồ, đúng thế. Anh không nhớ là cô Stoner cho biết chị cô ấy có lần ngửi thấy mùi khói xì gà của lão bác sĩ Roylott hay sao? Điều đó cho thấy ngay rằng giữa hai căn phòng tất phải có một lối thông sang nhau. Có điều cái lối thông đó phải rất nhỏ, nếu không thì viên dự thẩm đã nhận thấy. Tôi rút ra kết luận: đó chỉ là một cái lỗ thông gió.



- Nhưng cãi lỗ đó thì phỏng có hại gì?



- ồ, ít ra cũng có sự trùngkhớp đáng lưu ý giữa các sự việc: người ta trổ một cái lỗ cửa thông gió ngay phía trên đầu giường, người ta treo một sợi dây giật chuông lên, thế là cô gái ngủ trên cái giường kia chết. Anh không thấy sự trùng khớp đó là kỳ lạ?



- Tôi vẫn chưa thấy những cái đó có gì dính dáng với nhau.



- Thế anh không thấy có gì kỳ lạ nơi chiếc giường ngủ kia sao?



- Không.



- Chân giường được gắn chặt vào sàn nhà. Đã bao giờ anh thấy một kiểu kê giường như thế chưa?



- Có lẽ chưa bao giờ.



- Cô gái không thể di chuyển được cái giường. Nó luôn được đặt cố định bên dưới lỗ thông gió và sợi dây thừng. Chúng ta có thể gọi đó chỉ là sợi thừng , vì người ta treo nó lên không phải để giật chuông.



- Anh Holmes- tôi reo lên - Bây giờ như tôi đã hiểu được lờ mờ những gì anh muốn nói. Vậy là chúng ta đã có mặt vừa kịp thời để chặn đứng một tội ác khủng khiếp.



- Phải, cũng khá khủng khiếp . Nhưng chúng ta sẽ còn phải nếm đủ mùi khủng khiếp chừng nào đêm nay còn chưa trôi qua. Cho nên, ta hãy bình tâm thưởng thức những tẩu thuốc này và nghĩ tới một cái gì đó vui hơn trong vài tiếng đồng hồ,



Khoảng chín giờ tối, ánh đèn giữa các lùm cây vụt tắt, cả trang trại bỗng chìm vào bóng tối. Hai tiếng đồng hồ nữa chậm chạp trôi qua, rồi thình lình một ánh đèn đơn độc đã loé sáng phía trước.



- Đó là ám hiệu của chúng ta -Holmes nói, rồi đứng bật dậy - ánh đèn phát ra từ cánh cửa sổ ở giữa.



Lát sau, chúng tôi đã xuống đường. Trời tối, gió lạnh quạt vào mặt. ánh đèn vàng ệch đằng trước soi đường cho chúng tôi trong đêm tối. Chúng tôi lách qua giữa những gốc cây, đến chỗ bãi cỏ, rồi băng qua nó. Khi chúng tôi sắp trèo qua cửa sổ, thì từ trong những bụi rậm gần đó bỗng lao tới một quái vật tựa như một đứa bé dị dạng. Nó gieo mình xuống đất, trụ lại trên bốn cẳng chân co quắp, rồi lao qua bãi cỏ, mất hút vàp bóng đêm.



- Trời ơi! - tôi rỉ tai Holmes - Anh có trông thấy gì không?



Trong khoảng một phút đồng hồ Holmes cũng hoảng sợ như tôi. Rồi anh cười khẽ và thì thầm vào tai tôi:



- Một cơ ngơi thật khả ái. Con khỉ đầu chó đó.



Tôi đã quên khuấy mất lũ ”gia súc“ kỳ quặc của lão bác sĩ hiểm độc. Thú thực, tôi cảm thấy nhẹ cả người, khi noi gương Holmes, cởi giày và trèo qua cửa sổ vào phòng. Bạn tôi khẽ đóng cánh cửa chắn lại, đặt ngọn đèn lên bàn, rồi đảo mắt nhìn quanh phòng. Mọi thứ vẫn y nguyên như hồi chiều. Rồi anh rón rén tiến lại gần tôi, rỉ tai tôi, giọng khẽ đến mức khó lòng nghe rõ được từng lời:



- Chỉ một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể khiến những dự tính của chúng ta tiêu ma.



Tôi gật đầu để cho Holmes biết là tôi đã nghe thấy.



- Chúng ta phải tắt đèn ngay. Lão có thể phát hiện được ánh sáng qua lỗ cửa thông gió trên kia.



Tôi lại gật.



- Nhớ đừng ngủ gật nhé. Mạng sống của anh đang tuỳ thuộc vào đó. Chuẩn bị khẩu súng để khi cần, ta có thể ra tay. Tôi sẽ ngồi ở mép giừơng; còn anh, hãy ngồi tạm xuống chiếc ghế kia.



Tôi lấy khẩu súng ngắn ra, đặt lên góc bàn.



Holmes có mang theo một cây gậy dài, mảnh. Anh đặt nó lên mặt giừơng, sát bên tầm tay. Cạnh đó, anh đặt một bao diêm và một cây nến; xong xuôi, anh tắt đèn, và chúng tôi ngồi im trong bóng tối.



Chắc chẳng bao giờ tôi quên được cái đêm mất ngủ khủng khiếp đó! Tôi không thể nghe được một âm thanh nào, thậm chí cả tiếng thở. Tôi biết bạn tôi đang ngồi cách mình mấy bước, mắt mở trừng trừng và cũng đang trong trại thái thần kinh cẳng thẳng như tôi. Cánh cửa chắn ngăn hết mọi thứ ánh sáng, chúng tôi ngồi trong bóng tôi dày đặc. Bên ngoài chốc chốc lại vọng vào tiếng chim ăn đêm; và có một lần vang lên một tiếng hú dài tựa tiếng mèo kêu: hẳn là con báo bờm đã được thả. Từ xa vẳng lại tiếng chuông nhà thờ điểm giờ: cứ mười lăm phút lại buông một tiếng trầm trầm. Ôi, những khoảng thời gian mười lăm phút đó sao mà dài thế! Đồng hồ điểm mười hai giờ, một giờ, hai giờ, rồi ba giờ.. ., và chúng tôi vẫn im lặng ngồi đợi xem điều gì sẽ xảy ra.



Bỗng một ánh lửa loé lên từ bên kia lỗ cửa thông gió, rồi vụt biến mất ngay. Sau đó mùi dầu cháy và mùi sắt nung khé tlẹt bay sang. Ai đó ở phòng bên đã châm đèn. Tôi nghe một tiếng di động rất khẽ, rồi tất cả lại chìm vào im lặng, tuy mùi khét mỗi lúc một nồng nặc. Suốt nửa giờ tôi căng tai nghe ngóng. Rồi thình lình tôi nghe một tiếng động khác, rất khẽ, tựa như tiếng luồng hơi nước thoát ra từ một ấm đun nước. Đúng vào lúc tôi nghe thấy âm thanh đó, thì Holmes đứng bật dậy, đánh diêm và giận dữ vụt cây gậy tới tấp vào sợi dây giật chuông.



- Anh có thấy nó không, Watson? - anh rít lên - Anh có thấy nó không?



Nhưng tôi chẳng thấy gì cả. Vào lúc Holmes đánh diêm, tôi nghe thấy có tiếng huýt sáo khẽ, nhưng rõ.Tuy vậy, ánh lửa ở đầu que diêm đột ngột loé sáng đập vào cặp mắt mệt mỏi của tôi, khiến tôi không thể nói đích xác bạn tôi đang đạp tới tấp vào cái gì. Tuy vậy, tôi có thể thấy rõ mặt anh tái nhợt như một xác chết và đầy kinh hãi. Anh ngừng tay, ngước nhìn chằm chằm vào lỗ cửa thông gió, rồi giữa cảnh im ắng của đêm khuya bỗng vang lên một tiếng rú kinh hoàng mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng rú mỗi lúc một to hơn, một tiếng rú khàn khàn, chứa đầy đau đớn, sợ hãi và phẫn nộ. Tôi đứng nhìn trừng trừng vào Holmes, còn anh thì nhìn tôi, cho tới lúc những tiếng vọng cuối cùng của tiếng rú kia chìm vào cảnh im ắng của đêm khuya như ban nãy.



- Thế nghĩa là thế nào? - tôi thở dốc.



- Thế nghĩa là mọi chuyện đã kết thúc, - Holmes đáp - và xét cho cùng, kết thúc như thế là hay hơn cả. Anh cầm súng lên, chúng ta sẽ vào phòng bác sĩ Roylott.



Vẻ mặt trang nghiêm, anh châm đèn lên và bước ra hành lang. Tôi đi ngang anh sáng phòng bên. Anh gõ cửa hai lần, nhưng bên trong không có tiếng đáp. Anh vặn quả đấm, rồi đi vào phòng. Tôi vào theo, súng lăm lăm trong tay.



Một cảnh tường kỳ lạ đập vào mắt chúng tôi. Trên bàn đặt một ngọn đèn, hắt ánh sáng chói gắt lên chiếc tủ sát với cánh cửa đang hé mở. Ngồi trên chiếc ghế gỗ kê cạnh đó là bác sĩ Grimesby Roylott mình choàng chiếc áo chùng màu xám; và vắt ngang trên đùi lão là chiếc roi mà chúng tôi đã để ý tới hồi chiều. Cằm lão ta hếch lên, còn đôi mắt thì nhìn trừng trừng vào một góc trần nhà: một cái nhìn bất động trông rất khủng khiếp. Quanh đầu lão quấn một dải băng màu vàng kỳ dị, điểm những đốm màu nâu sẫm. Khi chúng tôi bước vào, lão vẫn ngồi im lặng và bất động.



Dải băng! Dải băng lốm đốm! Holmes khẽ thốt lên.



Tôi bước tới một bước. Ngay trong khoảnh khắc đó, dải băng bắt đầu chuyển động. Từ đám tóc của bác sĩ Roylott ngóc lên một cái đầu có cạnh và cái cổ ngẳng của một con rắn gớm ghiếc.



- Đó là giống rắn độc đầm lầy! - Holmes kêu lên - Độc hơn bất cứ giống nào ở ấn Độ. Lão ta chết mười giây sau khi bị rắn cắn. Anh hãy nhốt ngay con rắc độc kia vào tủ sắt đã, rồi đưa cô Stoner đến một nơi an toàn; xong đi báo cảnh sát địa phương.



Anh vừa nói, vừa rút vội cây roi trên đùi viên bác sĩ. Anh tròng đầu roi vào cổ rắn, thắt lại, rồi nhốt rắn vào tủ, đóng lại.



Đó là sự kiện đích thực về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott ở Stoke Moran. Trên đường về vào sáng hôm sau, Holmes nói thêm cho tôi rõ những việc còn lại mà tôi chưa biết về vụ này.



- Ban đầu, tôi đã kết luận hoàn toàn sai - anh nói. Điều đó cho thấy, Watson thân mến, sẽ nguy hiểm biết chừng nào khi lý giải mà chưa có đủ thông tin. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính việc cô gái tội nghiệp nọ đã dùng dải băng đễ diễn tả những gì cô trông thấy nhờ ánh sáng của que diêm và cả sự có mặt của đám Di gan trong trang trại - hai thứ đó đã gợi ra trong đầu tôi một ý nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nhưng tôi đã gạt bỏ ngay giả thuyết đó khi hiểu rõ rằng không thể có một hiểm hoạ nào đe doạ cô ấy từ phía cửa sổ và cửa ra vào. ý nghĩ của tôi nhanh chóng đổ dồn vào cái lỗ thông gió và sợi dây giật chuông thõng xuống đầu giường, như tôi đã có lưu ý với anh.Tôi còn phát hiện thêm được rằng sợi dây nọ chỉ là đồ giả và chiếc giường ngủ bị gắn chặt vào gỗ lát sàn. những chi tiết đó khiến tôi nghĩ ngay; sợi dây kia chỉ là một thức cầu nối, giúp cho một vật đi từ lỗ thông gío xuống giường ngủ. Tôi đoán đó phải là một con rắn, vì biết lão bác sĩ có nhận một số giống vật từ ấn Độ gửi sang.Tôi cảm thấy hình như mình đã lần ra đầu mối. Rồi tôi nghĩ tới tiếng huýt sáo. Dĩ nhiên lão phải gọi con rắn kia về trước khi trời sáng, để khỏi bị nạn nhân phát hiện. Lão đã luyện cho nó chắc là bằng đĩa sữa mà chúng ta đã thấy, khi nghe tiếng huýt sáo mà lão gọi. Lão chỉ cho nó leo qua lỗ thông gió vào thời điểm thích hợp, và biết rằng nó sẽ theo sợi dây mà bò xuống đầu giừơng. Con rắn có thể cắn người ngủ trên giừơng, mà cũng có thể không. Đêm đêm, cô gái có thể thoát chết trong vòng một tuần nhưng sớm muộn gì rồi cũng bị nó cắn.



Tôi đã đi đến những kết luận đó trước khi đặt chân vào phòng lão. Khi quan sát mặt ghế, tôi thấy lão hay đứng lên đó. Lão nhất thiết phải làm vậy, vì không thể nào với tay tới lỗ cửa thông gió sát trên trần nhà. Cái tủ sắt, đĩa sữa và ngọn roi đã đủ để xua tan những ngờ vực còn lảng vảng trong trí tôi. Tiếng động mạnh do một vật bằng kim loại phát ra, mà cô Stoner nghe được, rõ ràng do ông bố dượng gây ra: lão cần đóng mạnh cánh cửa sắt để nhốt con vật nuôi đáng sợ đó. Sau khi đã đi đến những kết luận đó, tôi liền tiến hành việc chứng minh, nhưng anh đã thấy đó. Khi nghe được những tiếng động rất khẽ mà tôi nghĩ chính anh cũng nghe rõ, tôi lập tức thắp đèn lên và tấn công con vật“.



- kết quả là anh đã đuổi nó bò trở lại lỗ thông gió.



Và cũng chính bằng cách đó, tôi đã xua nó về lại với ông chủ đang ngồi ở phòng bên. Bị đánh tới tấp, con rắn trúng gậy mấy lần, nó nổi giận và tấn vào kẻ đầu tiên mà nó chạm trán trên đường về. Và chính vì vậy, không còn ngờ vực gì nữa, tôi gián tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott. Nhưng chắc là việc đó chẳng đè nặng lên lương tâm tôi lắm đâu.

 

Truyện 2:Chiếc nhẫ tình cờ

Chương 1:

Năm 1878, tôi tốt nghiệp tại trường Đại học Y London, sau đó đến Netley dự khóa tu nghiệp dành cho các bác sỹ quân y. Học xong, tôi được bổ nhiệm về trung đoàn bộ binh Northumberland số 5, khi ấy đang đóng tại Ấn Độ. Tôi chưa kịp tới đơn vị của mình thì cuộc chiến tranh Afghanistan lần thứ hai bùng nổ. Đặt chân lên Bombay, tôi được biết đơn vị và tới được Kandahar an toàn. Tại đây, tôi gặp trung đoàn của mình.


Tôi bị chuyển sang trung đoàn Berkshires và tham dự trận đánh Maiwand. Trong trận này, tôi bị thương ở vai, nếu không có người lính hầu xốc tôi lên ngựa và đưa về phía sau chiến tuyến, thì tôi đã rơi vào tay quân địch rồi.


Kiệt sức, tôi được đưa về bệnh viện hậu phương Peshawar. Tại đây, tôi bình phục dần, và lúc đó có thể ra sưởi nắng ngoài hiên, thì lại bị thương hàn. Trong hàng tháng trời, người ta ra sức cứu sống tôi; đến ngày khỏi bệnh, tôi gầy yếu đến nổi Cục quân y phải đưa tôi về Anh lập tức. Một tháng sau, tôi đặt chân lên bến cảng Portsmouth, chính phủ cho tôi nghỉ chín tháng để lấy lại sức.


Vì không có bà con ở Anh nên tôi được tự do như gió trời, với 11 shillings[1] 6 pence[2] mỗi ngày. Trong tình cảnh đó, tôi bị thu hút về London với một sức mạnh không cưỡng lại nổi. Ở đây, tôi sống ít lâu tại một khách sạn, nhưng chẳng bao lâu tôi thấy mình nên đi tìm một nhà trọ xuyềnh xoàng và đỡ tốn kém hơn.


Đúng vào hôm tôi đi đến quyết định này, khi đang ở một quán rượu thì bỗng có người vỗ vai tôi. Ngoảnh lại, tôi nhận ra Stamford, một thanh niên trước đây làm y tá dưới quyền tôi. Trước đây, tôi chưa bao giờ thật thân với Stamford nhưng bây giờ tôi vồ vập chào đón anh ta và gặp tôi, Stamford xem chừng cũng hoan hỉ lắm, tôi mời anh ta đi ăn trưa tại khách sạn. Chúng tôi gọi xe ngựa, và trong lúc chiếc xe chạy, Stamford hỏi tôi:


- Dạo này ra sao? Trông anh gầy quá.


Tôi phác qua vài nét về những bước thăng trầm của mình. Chuyện vừa xong thì xe cũng tới quán ăn.


- Khốn khổ! Thế anh tính sao bây giờ?


- Tôi định tìm một nơi ở tiện nghi với một cái giá phải chăng.


- Lạ thật! Anh là người thứ hai trong ngày hôm nay ngỏ với tôi cái ý ấy.


- Ai là người thứ nhất?


- Một anh chàng làm việc tại phòng thí nghiệm hóa học ở bệnh viện. Sáng nay, anh ta phàn nàn là không tìm được ai để ở chung hầu giảm được một nửa tiền thuê nhà.


- Tôi cũng vậy. Tôi nghĩ ở chung hay hơn ở một mình.


Stamford cầm ly rượu, nhìn tôi với một vẻ khó hiểu:


- Anh chưa biết Sherlock Holmes. Có thể anh sẽ không thích anh ta.


- Anh ta có gì đáng chê trách?


- Ồ! Anh ta có những ý kiến hơi kỳ quặc. Anh ta nghiên cứu say mê cuồng nhiệt một vài ngành khoa học. Còn ngoài ra, anh ta là một người lịch sự, đúng mực.


- Sinh viên Y khoa?


- Không, tôi không hiểu anh ta định học cái gì; rất giỏi về giải phẫu, về hóa học, nhưng chưa hề theo học một lớp học chính quy nào. Anh ta học theo lối cóc nhảy, song trong nhiều lĩnh vực, anh ta đã thu nhập được một số vốn hiểu biết rộng lớn đến nỗi các giáo sư phải kinh ngạc.


- Anh không hỏi anh ta định theo ngành nghề nào sao?


- Đó là một con người không dễ khơi chuyện, tuy rằng những khi cao hứng, anh ta cũng thích chuyện trò.


- Nếu phải ở chung với ai, tôi muốn đó là một người ham học và yên tĩnh. Hiện nay tôi chưa khỏe nên rất sợ tiếng ồn. Tôi gặp bạn anh bằng cách nào?


- Anh ta hiện đang ở phòng thí nghiệm. Ăn xong, chúng ta sẽ đi đến đấy.


Trên đường đi, Stamford cho tôi biết thêm một vài chi tiết nữa về Sherlock Holmes.


- Về Holmes, tôi không biết gì hơn ngoài những điều tôi hiểu qua các buổi gặp gỡ tại phòng thí nghiệm. Chính anh đã đề xuất ý kiến ở chung, may nhờ rủi chịu đấy nhé!


- Nếu không hợp, chúng tôi sẽ chia tay nhau. Nhưng, hình như có một lý do nào đó khiến anh muốn phủi tay khỏi việc này. Tính tình người ấy khó chịu đến vậy ư?


- Không dễ diễn đạt được cái không thể diễn đạt nổi. Sherlock Holmes có tính tình gần như lạnh lùng, sắt đá. Anh ta rất có thể cho một người bạn uống thử một nhúm alkaloide thực vật loại mới nhất, không phải vì độc ác mà chỉ vì muốn biết hiệu lực của chất độc ấy như thế nào. Công bằng mà nói, tôi tin rằng bản thân anh ta cũng có thể sẽ dùng thử một thử một cách sốt sắng không kém.


- Thế thì rất tốt chứ sao?


- Đúng, nhưng việc lấy gậy đánh vào xác chết, thì phải nói là quái gở.


- Anh ta đánh xác chết?


- Phải, để xem người ta có thể gây ra những thương tích như thế nào trên cơ thể một người đã chết. Chính mắt tôi đã nhìn thấy anh ta làm như thế.


- Vậy mà hồi nãy anh nói Holmes không học ngành Y?


- Không mà! Mà thôi, ta đến nơi rồi, anh tự đánh giá nhân vật ấy.


Chúng tôi đi theo một lối hẹp, qua chiếc cửa phụ nhỏ, bước vào mé nhà của khu bệnh viện lớn. Gần cuối hành lang có một lối rẽ nhỏ, dẫn đến phòng thí nghiệm hóa học. Đấy là một gian phòng cao, các giá trên tường để đầy chai lọ. Đây đó có mấy cái bàn rộng và thấp, mặt bàn bề bộn những bình cổ cong, ống nghiệm, đèn hơi với ngọn lửa xanh lè. Trong phòng chỉ có mỗi một người đang chúi mũi xuống một chiếc bàn. Nghe tiếng chân chúng tôi, anh ta đảo mắt nhìn quanh rồi reo lên một tiếng và vội vã đứng lên.


- Tôi tìm ra rồi! Tôi tìm ra rồi!” Anh ta reo lên với Stamford và hấp tấp đi về phía chúng tôi, tay cầm một ống nghiệm “Tôi đã tìm ra một thuốc thử có đặc tính làm kết tủa huyết cầu tố mà không làm kết tủa bất kỳ chất nào khác.


Giá như anh ta có thấy một mỏ vàng thì sự vui mừng cũng chỉ đến thế là cùng. Stamford giới thiệu:


- Đây là bác sỹ Watson, đây là ông Sherlock Holmes.


Holmes thân mật bắt tay tôi với một sức mạnh mà tôi không nghĩ có thể có ở anh ta.


- Chào ông, ông ở Afghanistan về, phải không?


- Làm sao ông biết? - Tôi kinh ngạc hỏi lại.


- Có gì đâu. Cái điều quan trọng bây giờ là huyết cầu tố. Chắc ông hiểu được phát minh của tôi có tầm quan trọng như thế nào chứ?


- Một phát minh lý thú về mặt hóa học, nhưng về mặt thực tế...


- Ông nói lạ! Đây là phát minh có giá trị thực tiễn nhất từ bao nhiêu năm nay trong ngành pháp y. Ông không thấy là nó giúp ta xác định một cách không thể nhầm lẫn những vết máu à? Mời ông lại gần đây! - Trong lúc hào hứng, anh ta nắm lấy tay áo tôi, kéo lại chiếc bàn anh ta đang làm việc.


- Ta lấy một ít máu tươi nhé. - Vừa nói anh ta vừa lấy kim đâm vào đầu ngón tay, nặn ra một giọt máu và lấy ống hút hút - Bây giờ, tôi hòa chút xíu máu này vào một lít nước. Ông thấy hỗn hợp ấy trông y như nước, tỷ lệ của máu trong đó không thể quá một phần triệu. Dẫu vậy, tôi hoàn toàn tin chắc ta sẽ có được phản ứng đặc trưng.


Nói xong, Holmes thả vào trong bình một vài tinh thể trắng rồi rót thêm vài giọt chất lỏng trong suốt. Một phút sau, hỗn hợp trong bình chuyển thành màu gụ và một thứ bụi màu nâu nhạt kết tủa dưới đáy bình.


- Ha! Ha! Ông nói sao? - Holmes vỗ tay reo lên.


- Theo tôi, đây là một cách thử rất tinh tế.


- Tuyệt vời! Cách thử cũ với chất guaiacone vừa thô kệch vừa không chắc. Cách tìm các tiểu thể máu trên kính hiển vi cũng vậy, với lại chỉ cần vệt máu để lâu một vài giờ là phương thức đó không áp dụng được. Còn phương pháp này, thì lúc nào cũng hiệu nghiệm, dù với máu cũ hay máu tươi.


- Quả vậy!- Tôi lẩm bẩm.


- Những vụ án hình sự nhiều khi chỉ còn mắc ở khâu này mà thôi. Một kẻ bị nghi đã nhúng tay vào một vụ án mạng xảy ra trước đó có khi hàng tháng. Xem xét quần áo hắn, người ta phát hiện ra những vết màu nâu nhờ nhờ. Đây có phải là những vết máu không, hay là vết bùn, vết gỉ sắt, vết nhựa trái cây. Còn bây giờ đã có phản ứng hóa học này, việc xác định kia không còn khó khăn gì nữa.


Đôi mắt Holmes ngời lên trong khi nói, và tay phải đặt lên ngực trái, anh ta cúi gập người như để chào đáp lại những người ngưỡng mộ tưởng tượng của mình.


- Ông thật đáng được biểu dương. - Tôi phụ họa.


- Tôi có thể kể với ông đến hai chục vụ án đã qua mà phản ứng của tôi có thể đóng vai trò quyết định.


- Ông khác nào một quyển niên giám hình sự sống. Ông có thể ra một tờ báo được đấy, lấy tên là “Những vụ án hình sự trong quá khứ”.” - Stamford cười nói.


- Và đó sẽ là một tờ báo rất bổ ích. - Holmes tiếp lời trong khi dán một miếng băng dính lên vết kim châm vừa rồi ở đầu ngón tay. Anh ta quay sang tôi giải thích - Phải cẩn thận như vậy vì tôi thao tác khá nhiều loại chất độc.


Stamford ngồi xuống một chiếc ghế đẩu ba chân, đẩy một chiếc khác về phía tôi, bàn vào việc:


- Ông bạn tôi đây đang tìm chỗ ở. Thấy ông phàn nàn là không kiếm được ai ở chung nên tôi thấy không có gì tốt hơn là để hai người tiếp xúc với nhau.


Holmes có vẻ bằng lòng nói:


- Tôi tìm được mấy căn phòng ở phố Baker, rất thích hợp cho chúng ta. Tôi mong rằng ông không sợ mùi thuốc lá nặng.


- Tôi cũng hút một thứ thuốc rất nặng.


- Thế thì được rồi. Tôi quan tâm nhiều đến hóa học và đôi khi phải làm những thí nghiệm tại nhà. Điều đó có phiền ông không?


- Hoàn toàn không.


- Xem nào! Tôi còn tật xấu nào nữa không? Đôi khi tôi lầm lì, mấy ngày liền không hé răng nói một lời nào. Những khi như vậy, cứ để mặc tôi, chẳng bao lâu tôi sẽ lại vui vẻ. Còn ông, ông có điều gì cần nói không?


- Tôi cũng có một vài cố tật nhỏ. Tôi không thích ồn ào. Tôi dậy vào những giờ rất khác thường, ngoài ra tôi rất lười nhác. Khi khỏe mạnh, tôi lại có một loạt những tính xấu nho nhỏ khác. Hiện thời, đó là những nét chính.


- Trong chữ ồn ào có gộp cả tiếng đàn vĩ cầm không?


- Tiếng đàn của người chơi giỏi chỉ làm cho người nghe khoan khoái, chơi tồi thì...


- Ồ, thế thì được rồi! - Holmes cười vui vẻ - Như vậy là đã ổn thỏa, nghĩa là nếu như ông ưng chỗ ở.


- Khi nào thì ta đi xem?


- Mười hai giờ trưa mai, mời ông đến đây, chúng ta cùng đi xem.


- Xin đúng hẹn, mười hai giờ trưa mai. - Tôi nói và bắt tay anh.


Chúng tôi để anh làm việc tiếp và trở về khách sạn. Tôi bỗng dừng lại, quay sang hỏi Stamford:


- Này, làm thế nào mà anh ta biết là tôi ở Afghanistan về nhỉ?


- Anh ta khác người là ở chỗ đó.


Tôi xoa hai tay vào nhau:


- Ồ, một điều bí mật à? Thú vị thật! Tôi rất cám ơn anh cho tôi có dịp tiếp xúc với anh ta. Như anh biết đấy, đối tượng trong công cuộc nghiên cứu của loài người chính là con người Thế thì anh phải nghiên cứu anh ta đi thôi. Thôi xin tạm biệt nhé.


- Xin tạm biệt.



---


[*] Nguyên văn: “A STUDY IN SCARLET”


[1] Đơn vị tiền tệ Anh: 1 Shilling = 12 Penny


[2] Đơn vị tiền tệ Anh: 1 Penny = 1/100 Pound

Chương 2:

Như đã hẹn, ngày hôm sau chúng tôi cùng đến thăm căn hộ số nhà 221B phố Baker. Căn hộ gồm hai phòng ngủ tiện nghi và một phòng làm việc rộng lớn, thoáng mát, đồ đạc bày biện vui mắt, ánh sáng bên ngoài rọi vào qua hai khung cửa sổ lớn. Căn hộ vừa ý chúng tôi lắm và giá cả cũng vừa túi tiền. Chúng tôi nhận ngay. Tối hôm ấy, tôi mang đồ đạc đến và sáng hôm sau, Holmes cũng chuyển đến với nhiều hòm xiểng và va-li. Sau hai ngày đầu bận sắp xếp nơi ăn chốn ở cho thuận tiện, chúng tôi nhanh chóng quen dần với chỗ ở mới.


Holmes sống yên tĩnh với những nếp sinh hoạt đều đặn. Không mấy khi anh còn thức sau mười giờ tối và sáng nào khi tôi dậy, anh cũng đã ăn sáng và đi đâu rồi.


Đôi khi anh ở lì cả ngày trong phòng thí nghiệm, khi khác thì ở trong các phòng phẩu tích, và thỉnh thoảng có những ngày anh đến những khu phố nhớp nhúa nhất trong thành phố. Nhưng thỉnh thoảng anh nằm dài trên chiếc đi-văng trong phòng làm việc mấy ngày liền, suốt từ sáng đến tối không hé răng nói một lời nào và hầu như không có một cử động nào.


Sự quan tâm và tò mò ban đầu của tôi muốn biết mục đích các công việc của anh mỗi ngày mỗi thôi thúc tôi hơn. Vóc người anh nhỉnh hơn một mét tám mươi nhưng mảnh khãnh cho nên trông có vẻ cao hơn thế nhiều. Đôi mắt sắc sảo lamh lợi, cùng với sống mũi thanh mảnh, hơi khoằm khiến cho nét mặt mang một vẻ nhanh nhẹn và quyết đoán. Cái cằm vuông chìa ra phía trước tỏ ra đây là một con người kiên quyết.


Anh không theo học một lớp nào khả dĩ đem lại cho anh một bằng cấp trong bất kỳ một lĩnh vực khoa học nào đó. Tuy vậy, sự say mê nghiên cứu của anh trong một số lĩnh vực thật là đặc biệt; đến nỗi những ý kiến của anh làm tôi rất đỗi kinh ngạc. Những người tự học theo lối cóc nhảy không mấy khi có những tri thức đặc biệt chính xác.


Mặt dốt nát của anh cũng đặc sắc không kém gì mặt thông thái của anh. Về nền văn hóa đương thời, triết học và chính trị, xem chừng Sherlock Holmes biết rất ít. Sự kinh ngạc của tôi lên đến tột đỉnh khi tôi phát hiện ra Holmes không biết nhiều về học thuyết Copernic và cấu tạo của hệ Mặt trời.


- Anh ngạc nhiên à? Khi đã biết lý thuyết ấy rồi, tôi sẽ ra sức quên nó đi.


- Quên nó đi?


- Bộ óc con người ban đầu như một gian phòng trống rỗng, ta sẽ phải xếp vào đấy những đồ đạc ta thích. Kẻ ngu ngốc chồng chất vào trong đó đủ mọi thứ linh tinh đến nỗi các tri thức có thể giúp ích cho hắn bị đè bẹp dưới một đống tri thức khác, đến nỗi khi cần, hắn khó mà lôi ra sử dụng được. Trái lại, người thợ lành nghề chọn lọc hết sức cẩn thận những thứ xếp vào trong gian buồng ấy. Anh ta chỉ muốn chứa trong đó những dụng cụ có ích cho mình trong công việc; cái nào cái nấy sắp đặt một cách thật ngăn nắp. Thật là sai lầm nếu cho rằng cái gian buồng nhỏ bé ấy có những bức tường co giãn và nó có thể phình ra vô cùng tận. Anh hãy tin rằng rồi sẽ đến lúc mà mỗi khi ta thu nhận được một hiểu biết mới ta sẽ quên mất cái kiến thức gì đó đã có trong óc. Vì vậy, chớ có thu nạp những khái niệm vô ích. Chúng ta sẽ đẩy đi mất những điều có ích.


- Thế nhưng Hệ Mặt trời? - Tôi phản đối.


“Nó can gì đến tôi?” Holmes cao giọng “Nếu chúng ta xoay quanh mặt trăng thì công việc của tôi có gì khác đâu?”


Tôi đã toan hỏi anh công việc đó là cái gì vậy, nhưng dáng điệu anh bảo cho tôi biết câu hỏi ấy không được tiếp nhận. Tuy vậy, tôi suy nghĩ về buổi nói chuyện ngắn ngủi này và cố rút ra mấy điều suy đoán. Holmes nói với tôi rằng anh không muốn thu thập những hiểu biết không liên quan gì đến công việc của mình. Vậy thì, tất cả những tri thức mà anh có đều có thể giúp ích cho anh. Tôi thầm liệt kê những lĩnh vực mà anh đã để lộ cho thấy anh thành thạo. Thậm chí, tôi lấy bút chì ghi lại những điều đó ra giấy. Liệt kê đã xong, tôi không khỏi mỉm cười. Bản nhận xét đó như sau:


Sherlock Holmes; năng lực:


Hiểu biết về văn học: số không


Hiểu biết về triết học: số không


Hiểu biết về thiên văn học: số không


Hiểu biết về chính trị: yếu.


Hiểu biết về thực vật: Tồi. Am hiểu chất thuốc phiện và các loại chất độc nói chung. Hoàn toàn không biết gì về nghề làm vườn.


Hiểu biết về địa chất: Có những hiểu biết thực tế, nhưng hạn chế. Thoạt nhìn nói được ngay các loại đất khác nhaụ


Hiểu biết về hóa học: Rất sâu sắc.


Hiểu biết về giải phẫu: Chính xác nhưng không có hệ thống.


Hiểu biết về sách báo hình sự: Hết sức rộng lớn.


Chơi đàn vĩ cầm: Tốt.


Bậc thầy về tài nghệ Đánh gậy, quyền Anh, và đấu kiếm.


Vận dụng thành thạo luật pháp nước Anh.


Ghi đến đây, thấy rối như tơ vò, tôi quẳng mảnh giấy vào lửa, nghĩ bụng: “Chẳng hiểu con người này nhằm vào mục đích gì mà ra sức phát triển một số năng lực trên. Mình cũng không sao tìm thấy một nghề nào đòi hỏi tất cả những năng lực ấy. Thôi thì đành bỏ cuộc ngay thôi, cho khỏi mệt người”.


Trong tuần đầu, tôi đã tưởng Holmes không có mấy bạn bè. Nhưng chẳng bao lâu, tôi nhận ra anh quen biết rất rộng. Đầu tiên, một anh chàng người nhỏ bé, da tái, mặt choắt, mắt đen, đến ba bốn lần liền trong một tuần. Một hôm, có cô gái ăn mặc theo thời trang đến vào buổi sáng và ở chơi chừng một giờ. Ngay chiều hôm đó có thêm ông khách quần áo xuềnh xoàng, tóc hoa râm, dáng dấp như một người bán hàng rong.


Và tiếp theo đó là một phụ nữa cao tuổi, xống áo rất cẩu thả. Một dịp khác có một ông chững chạc, tóc bạc trắng hết cả. Rồi một người phu khuân vác ở nhà ga trong bộ đồng phục bằn vải nhung. Mỗi khi có khách đến, Holmes yêu cầu tôi để cho anh được sử dụng phòng khách. Lần nào anh cũng không quên xin lỗi tôi.


“Tôi phải dùng gian phòng này để làm việc. Họ là khách hàng của tôi.”


Đó là một cơ hội để hỏi thẳng xem công việc của anh ta là gì, nhưng tính tôi vốn dè dặt, nên lại thôi.


Hôm ấy, tôi dậy sớm hơn thường lệ và nhận thấy anh chưa ăn xong bữa sáng. Người phục vụ đã quen với thói dậy muộn của tôi nên bà ắt chưa chuẩn bị cho tôi. Tôi rung chuông với một thái độ nóng nảy và bảo bà ta với giọng khá cộc cằn. Sau đó, tôi cầm lấy một tờ báo để giết thời giờ. Trên tờ báo có một bài được đánh dấu bằng bút chì.


Dưới dòng tít khá huênh hoang “Cuốn sách cuộc đời”, tác giả bài báo khoe là có thể đi sâu vào những ý nghĩ thầm kín nhất của con người, căn cứ vào một vẻ mặt thoáng qua, một cử động của cơ bắp, một ánh mắt vụng trộm.


Bài báo viết:


“Chỉ từ một giọt nước, người giỏi suy luật có thể suy ra khả năng của một đại dương hoặc một thác nước, tuy chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy chúng. Như vậy, toàn bộ cuộc sống là môt chuỗi mắt xích rộng lớn mà ta có thể biết bản chất của nó, nếu ta biết được một mắt xích. Như tất cả mọi khoa học khác, suy đoán và phân tích là một khoa học mà ta chỉ có thể làm chủ sau một quán trình nghiên cứu lâu dài, bền bỉ. Người mới đi vào lĩnh vực này nên bắt đầu bằng những vấn đề sơ đẳng: gặp bất kỳ ai, chỉ bằng vào sự quan sát, ta hãy cố tìm hiểu tiểu sử, nghề nghiệp của người ấy. Tuy có vẻ ấu trĩ, nhưng thực ra sự tập luyện này rèn giũa các khả năng quan sát của ta và nó dạy cho ta biết ta cần phải nhìn vào đâu và phải tìm kiếm cái gì. Móng tay, những vết chai ở ngón trỏ và ngón cái, ống tay áo, đầu gối quần, dáng đi, cách đứng đều là những thứ nói lên nghề nghiệp của một con người.”


Tôi quăng tờ báo xuống bàn, thốt lên:


“Nhảm nhí! Tôi chưa thấy ai viết nhăng nhít đến vậy.”


“Anh nói về cái gì thế?” Holmes hỏi tôi.


“À, bài báo mà anh đã đánh dấu bên cạnh. Tôi không phủ nhận là bài báo có một lối viết khá, nhưng nó làm tôi khó chịu. Rõ ràng đây là một lý thuyết do một kẻ vô công rồi nghề nặn ra. Mong sao gặp hắn trên một toa xe điện ngầm hạng hai để bắt hắn nói ra nghề nghiệp của tất cả các hành khách trên xe. Tôi dám đánh cuộc với hắn một nghìn ăn một.”


“Anh sẽ thua thôi. Bởi vì tôi là tác giả bài báo đó.”


“Anh?”


“Đúng, tôi. Quan sát và suy đoán là hai thứ mà tôi vốn ham thích. Những lý thuyết tôi nêu lên trong bài báo là hết sức thực tế, thực tế đến nỗi tôi lấy nó làm kế sinh nhai.”


“Đó là nghề gì?” Tôi buột miệng hỏi


“Tôi kể anh nghe nhé. Tôi có một nghề riêng mà có lẽ trên thế giới có mỗi mình tôi làm. Nghề của tôi là thám tử cố vấn. Ở London này có vô số thám tử công, thám tử tư. Khi gặp phải điều gì bí, họ đến gặp tôi và tôi tìm cách gợi cho họ đi đúng hướng. Các vụ phạm pháp thường có nhiều nét giống nhau, nếu ta thuộc lòng các chi tiết của một số vụ thì rất dễ lần ra đầu mối của vụ thứ một nghìn lẻ một. Lestrade là một thám tử khá. Mới đây ông ta đi nhầm hướng trong việc khám phá một vụ làm bạc giả, vì vậy ông ta phải đến đây.”


“Còn những người khách khác thì sao?”


“Họ hầu hết là người của các hãng trinh thám tư. Họ mắc mớ ở điểm này hoặc điểm khác. Tôi nghe họ kể về công việc của họ, còn họ thì nghe các lời khuyên bảo của tôi và trả tiền công cho tôi.”


“Phải chăng anh ngồi yên trong phòng mà vẫn có thể giải quyết được những mắc mứu mà người khác không tài nào giải quyết nổi.”


“Đúng thế. Tôi có rất nhiều kiến thức đặc biệt để áp dụng vào lĩnh vực này: những quy tắc suy đoán trình bày trong bài báo mà anh đã khinh thường, đối với tôi lại có một giá trị không sao lường hết trong thực hành. Ngay lần đầu gặp anh, tôi đã biết là anh vừa ở Afghanistan về.”


“Chắc có ai bảo anh.”


“Không đâu. Lúc ấy cả một loạt những suy nghĩ, xét đoán đã lướt nhanh qua óc tôi khiến tôi đi thẳng đến kết luận ấy. Tuy vậy, có tồn tại những chặng đường. Cách lập luận phối hợp của tôi như sau: vị này thuộc giới bác sỹ, nhưng lại có dáng dấp một quân nhân, vậy thì chắc chắn là một bác sỹ quân y. Anh ta vừa mới ở vùng nhiệt đới về vì nước da rất sẫm nhưng không phải là da tự nhiên bởi da ở hai cổ tay rất trắng. Anh ta đã phải trải qua nhiều ngày kham khổ, đau ốm, điều đó có thể thất rõ trên nét mặt. Anh ta đã bị thương ở cánh tay vì cánh tay này cử động hơi gượng gạo. Một bác sỹ quân y người Anh, sống ở vùng nhiệt đới nào mà lại bị thương ở cách tay và phải sống kham khổ thiếu thốn? Tất nhiên là ở Afghanistan. Tất cả chuỗi suy nghĩ này diễn ra trong không đầy một giây đồng hồ.”


Tôi mỉm cười:


“Giải thích ra thì thấy rất đơn giản. Anh làm tôi nhớ đến nhân vật Dupin của Edgar Allan Poe. Tôi tưởng loại người đó chỉ tồn tại trong các tiểu thuyết chứ làm gì có ngoài cuộc đời.”


Holmes đứng dậy, châm tẩu thuốc.


“Có lẽ anh tưởng so sánh tôi với Dupin là khen tôi chăng? Theo tôi, Dupin là một kẻ rất tầm thường. Ông ta khoe là có thể dò đoán dược ý nghĩ của bạn bè sau một khắc đồng hồ im lặng, nói như thế, là khoa trương lại là kém cỏi. Ông ta có lẽ có đôi chút năng khiếu phân tích. Thế thôi!”


“Anh đã đọc sách của Gaboriau chưa? Lecoq có phải là thám tử không?”


Holmes có một cử chỉ mỉa mai và một giọng bực bội:


“Lecoq à? Ông ta giỏi về tay chân hơn đầu óc. Ông ta chỉ có mỗi một điều đáng khen là nghị lực. Cuốn sách ấy thực sự làm tôi phát ngán. Vấn đề đặt ra cho ông ta là xác định thủ phạm trong một đám tù nhân. Việc ấy, tôi sẽ giải quyết trong hai mươi bốn giờ, còn ông ta đã phải mất một tháng.”


Tôi hơi khó chịu khi thấy hai nhân vật mà tôi khâm phục bị coi thường. Tôi lại bên cửa sổ nhìn xuống đường phố nhộn nhịp bên dưới, nghĩ bụng: “Ông bạn nay có thể rất giỏi, nhưng đồng thời cũng rất tự mãn.”


Holmes nói tiếp với giọng luyến tiếc:


“Đầu của tôi bây giờ còn biết dùng làm gì nữa! Chưa bao giờ có một vụ án nào dữ dội để tôi khám phá cả! Cùng lắm là vài ba vụ gian lận vụng về với những động cơ lộ liễu đến nổi ngay một nhân viên sở cảnh sát cũng nhận ra ngay.”


Sự huênh hoang của Holmes tiếp tục làm tôi khó chịu, tôi thấy tốt hơn hết là thay đổi câu chuyện. Trên hè đường bên kia có một gã cao lớn, ăn mặt xuyềnh xoàng, tay cầm một phong bì lớn đang chăm chú xem số nhà cần tìm.


Tôi chỉ tay về phía người ấy, lên tiếng hỏi:


“Không biết người kia tìm nhà nào?”


“Anh muốn nói viên đội lính thủy đánh bộ kia phải không?” Holmes hỏi tôi.


”Lại huênh hoang khoác lác rồi!” Tôi nghĩ bụng. Ý nghĩ ấy vừa mới lướt qua óc tôi thì nhân vật đó đã nhận ra số nhà chúng tôi, rảo bước qua đường. Chúng tôi nghe tiếng gõ cửa ầm ầm, rồi tiếng bước chân nặng nề lên thang gác.


Người ấy bước vào phòng chúng tôi, đưa phong bì cho anh:


“Có thư cho ông Sherlock Holmes.”


Đây là một dịp để hạ bớt thói hợm hĩnh của Holmes. Lúc vừa rồi, khi đưa ra những lời phỏng đoán liều kia, chắc anh ta không nghĩ là tôi sẽ có cơ hội giáp mặt người này. Tôi hỏi, giọng nhẹ nhàng:


“Này anh, anh có thể cho biết anh làm nghề gì không?”


“Thừa phái, thưa ông.” Anh ta trả lời cộc cằn “Bộ đồ đồng phục của tôi đang được đưa đi sửa.”


“Trước đây anh làm nghề gì?” Tôi đưa mắt nhìn sang Holmes với vẻ chế giễu.


“Tôi ở binh chủng lính thủy đánh bộ, đóng lon đội. Ông có điều gì cần hỏi nữa không, thưa ông? Xin chào.”


Anh ta dập hai gót giầy vào với nhau, giơ tay chào chúng tôi rồi đi.

Chương 3:

Thú thật tôi hết sức kinh ngạc trước bằng chứng về giá trị thực hành của những lý thuyết mà Holmes đã nêu. Sự kính nể của tôi đối với tài phân tích của anh tăng vụt lên. Tuy vậy, trong óc tôi vẫn còn vương vấn một chút hoài nghi là tất cả câu chuyện này đã được xếp đặt từ trước để lòe tôi. Nhưng lòe để làm gì? Quay lại nhìn Holmes, tôi thấy anh đã đọc xong thư. Nét mặt đăm chiêu và đôi mắt xa vắng.


“Làm thế quái nào mà anh đoán được?”


“Đoán cái gì?” Holmes hỏi giật giọng.


“Đoán là một viên đội lính thủy đánh bộ.”


“Xin lỗi anh về những lời cáu kỉnh đó. Hóa ra, anh vẫn không thấy người đưa thư vốn là một viên lính thủy đánh bộ?”


“Quả là không.”


“Ngay ở bên này đường, tôi đã nhìn thấy một hình mỏ neo to xăm trên mu bàn tay người ấy và bộ râu theo đúng quy định của lính thủy đánh bộ. Anh chàng có vẻ tự tin và thậm chí có dáng điệu chỉ huy? Một anh chàng nghiêm nghị, đạo mạo, hơi đứng tuổi, những chi tiết đó khiến tôi tin rằng anh đã đóng đến lon đội.”


“Thật là tuyệt diệu!” Tôi reo lên.


“Có gì đâu.” Tuy nói vậy, song cứ theo vẻ mặt anh, tôi tin rằng nỗi kinh ngạc và sự khâm phục của tôi rõ ràng làm anh vui thích “Vừa nãy, tôi có nói là thời nay không còn những trọng án, nhưng có lẽ tôi lầm. Anh hãy xem đây.”


Holmes đưa cho tôi bức thư vừa mới nhận.


“Gì thế này? Thật khủng khiếp!” Tôi thốt lên.


“Tôi thấy vụ này hơi khác thường đấy. Anh vui lòng đọc to lên, chúng ta cùng nghe nào.”


”Ông Sherlock Holmes thân mến!


Đêm qua có một vụ án ghê gớm tại nhà số 3 khu Lauriston Garden đoạn sát gần đường Brixton. Một nhân viên cảnh sát thấy có ánh đèn ở ngôi nhà vào khoảng hai giờ sáng. Đây là một ngôi nhà bỏ hoang nên anh ta đoán là có chuyện gì không bình thường. Anh ta thấy cửa ra vào để ngỏ. Ở gian phòng trông ra mặt đường, anh ta thấy xác một người đàn ông ăn mặt lịch sự, trong túi có xấp danh thiếp đề tên “'Enoch J. Drebber, Cleveland, Ohio, U. S. A.”. Không có cách nào xác định rõ nguyên nhân của cái chết. Trong gian phòng có nhiều vết máu, nhưng trên thi thể thì không có một thương tích nào. Chúng tôi không biết người này đã vào ngôi nhà ấy bằng cách nào và nói chung toàn bộ vụ án hãy còn là một điều bí ẩn. Nếu ông có thể đến được hiện trường trước mười hai giờ trưa, ông sẽ gặp tôi ở đó. Toàn bộ hiện trường sẽ được giữ y nguyên cho đến khi ông đến. Sẽ rất hân hạnh cho tôi nếu được biết ý kiến của ông. Xin gửi ông lời chào thân thiết.


Tobias Gregson”


“Gregson là tay sừng sỏ nhất ở Scotland Yard.” Holmes nhận xét “Hắn và Lestrade được coi là những phần tử ưu tú của một đám không ra gì. Cả hai đều năng nổ, hăng hái, nhưng rất khuôn sáo. Và ghen tị nhau như một cặp gái lầu xanh.”


Tôi ngạc nhiên thấy Holmes giữ vẻ bình thản, lại có vẻ gần như giễu cợt. Tôi hối hả:


“Ta không được để lỡ phút nào, phải không anh? Tôi đi gọi xe nhé.”


“Chưa chắc tôi đã đi.”


“Nhưng đây chính là cơ hội mà anh đã mong mỏi từ lâu cơ mà?”


“Giả thử tôi gỡ được vụ này, thì bao nhiêu công lao đều vào tay Gregson, Lestrade hết cả. Không phải là người của nhà nước là phải chịu thiệt thòi như vậy đấy.”


“Nhưng Gregson yêu cầu anh giúp đỡ cơ mà.”


“Phải, hắn biết tôi giỏi hơn hắn và thừa nhận điều đó với tôi. Nhưng trước mặt người thứ ba, hắn thà cắt lưỡi đi còn hơn phải công nhận mình là thua kém. Dẫu vậy, chúng ta cũng nên đến đó xem sao. Nào, ta đi đi!”


Holmes xỏ tay vào chiếc áo khoác ngoài, nhanh nhẹn chuẩn bị.


“Anh cầm lấy mũi đi.”


“Anh muốn tôi cùng đi à?”


“Phải.”


Một lúc sau hai chúng tôi đã ngồi trong một chiếc xe ngựa chạy nước đại về phía đường Brixton.


Buổi sáng hôm ấy trời đầy mây và sương mù dày đặc. Một tấm màn tối sầm bao phủ lên các mái nhà và đường như phản chiếu các dãy phố xám xịt một màu bùn. Holmes rất vui vẻ, chuyện trò luôn miệng về những chiếc đàn vĩ cầm. Còn tôi cứ nín thinh vì thời tiết ảm đạm và vì sự việc bi thảm vừa xảy ra. Sau cùng tôi phải cắc ngang bài thuyết trình về âm nhạc của anh:


“Xem chừng anh không để tâm lắm đến cuộc điều tra sắp tới.”


“Đã có dữ kiện gì đâu. Một sai lầm cơ bản là cứ đặt trước các giả thiết trong khi chưa có trong tay các sự việc thực tế. Làm như vậy khiến cho nhận định của ta dễ bị chệnh lắm.”


“Anh sẽ có ngay các dữ kiện, vì đường Brixton đây rồi và ngôi nhà kia kìa!”


“Đúng rồi! Dừng lại, bác xà ích.”


Còn một trăm mét nữa mới đến hiện trường nhưng Holmes cứ đòi xuống xe để đi bộ.


Ngôi nhà số 3 khu Lauriston Garden có một vẻ sầu thảm ghê rợn. Đó là ngôi nhà thứ ba trong một dãy bốn nhà nằm thụt vào trong một tí. Hai ngôi nhà có người ở, hai ngôi kia bỏ hoang. Hai nhà bỏ hoang này bày ra hay dãu cửa sổ buồn bã và trần trụi, chỉ trừ thỉnh thoảng đây đó có hai chữ “Cho thuê” để chảy vài vệt sơn trên các ô cửa kính lem luốc. Từ hè đường vào đến nhà phải qua một mảnh vườn nhỏ mọc lưa thưa những cây con khẳng khiu, ốm yếu. Cắt ngang mảnh vườn là một lối đi hẹp, rải sỏi đá trộn lẫn đất sét màu vàng ệch. Tất cả khu vực này đều sũng nước vì trời mưa suốt đêm. Bao quanh mảnh vườn là bức tường gạch cao khoảng một mét, bên trên lại có hàng rào gỗ. Đứng tựa lưng vào bứa tường này là một viên cảnh sát cao lớn, xung quanh có đám người rảnh việc đang cố nghển mắt vào trong nhà.


Tôi tưởng Holmes sẽ xông thẳng vào nhà và lao ngay vào việc. Nhưng không! Với một vẻ uể oải giả tạo, anh đi di lại lại trên hè đường, lơ đãng nhìn đất, nhìn trời, nhìn các ngôi nhà bên kia đường và hàng rao gỗ. Xem xét xong, anh bước trên lớp cỏ mọc ven lối đi, luôn luôn dán mắt xuống đất. Hai lần anh dừng lại và có một lần tôi thấy anh thoáng nở một nụ cười và khẽ reo lên một tiếng vui mừng. Có nhiều vết chân trên nền đất sét ướt, nhưng vì cảnh sát đã dẫm nát lối đi này rồi, tôi không hiểu bạn tôi có thể hy vọng rút ra ở đây được điều gì.


Ở cửa nhà, chúng tôi được một gã cao lớn đón tiếp. Mặt tái mét, tóc rối bù, tay cầm một quyển sổ, anh ta vội vã tiến về phía chúng tôi, nồng nhiệt siết chặt tay Holmes:


“Ông đến, thật tốt quá. Tôi chưa đụng chạm đến gì hết.”


“Trừ chỗ này.” Holmes đáp, tay chỉ lối đi “Một đàn bò giá xéo qua đây cũng không thể phá hoại nhiều hơn. Nhưng có lẽ ông đã rút ra xong những kết luận của mình rồi mới cho phép xảy ra tình trạng này, có phải không, ông Gregson?”


Nhà thám tử nói lảng:


“Tôi quá bận ở bên trong. Ông Lestrade cũng có mặt tại đây. Tôi tưởng ông ta phải để mắt đến chuyện này.”


Holmes nhìn tôi trợn tròn mắt, giọng châm chọc:


“Đã có mặt ông và Lestrade rồi, chẳng còn gì cho người thứ ba khám phá nữa.”


Gregson xoa hai tay với nhau, vẻ hài lòng:


“Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm. Dẫu sao, đây là một vụ kỳ quặc và tôi biết ông vốn thích những vụ như thế.”


“Ông đến đây bằng xe ngựa?”


“Không.”


“Cả ông Lestrade cũng không chứ?”


“Phải.”


“Thế thì chúng ta vào trong xem gian phòng đi.”


Sau ý kiến không ăn nhập gì với câu nói vừa rồi, Holmes vào trong nhà. Gregson bước theo, vẻ mặt ngơ ngác.


Một hành lang nhỏ, bụi bặm dẫn đến nhà bếp và phòng ăn. Có hai ô cửa, một ở về phía bên trái và một ở về phía bên phải hành lang. Rõ ràng một trong hai cửa này đã bị đóng kín từ nhiều tuần naỵ Cửa kia là cửa mở vào phòng ăn, nơi đã diễn ra tấn thảm kịch đầy bí ẩn. Holmes bước vào. Tôi theo ngay.


Đây là một gian phòng rộng, hình vuông, không có thứ đồ đạc nào nên càng có vẻ rộng. Tường phủ bằng một loại giấy rẻ tiền, có nhiều chổ ẩm ướt loang lổ và vài ba chỗ giấy bị bong ra, thòng xuống, để lộ lớp vữa vàng khè bên trong. Đối diện với cửa ra vào là một lò sưởi, mặt lò làm bằng tấm đá giả cẩm thạch trắng. Ở một mé mặt lò sưởi có cắm mẩu nến bằng sáp đỏ. Chiếc cửa sổ duy nhất của gian phòng lem luốt đến nỗi ánh sáng mờ đục bên ngoài rọi qua nhuốm lên khắp gian phòng một màu xám nhờ nhờ thê lương.


Người chết nằm sóng soài trên sàn, hai con mắt trợn trừng nhìn lên trần nhà. Nạn nhân khoảng 43, 44 tuổi, người tầm thước, vai rộng, tóc quăn và đen, râu rậm xén ngắn. Mặc một chiếc áo đuôi tôm dày nặng, bên trong là chiếc áo gi-lê bằng da tốt, quần dài màu sáng, cổ áo và cửa tay áo trắng tinh. Một chiếc mũ đứng, sang trọng và rất sạch nằm ngay trên sàn nhà, cạnh nạn nhân. Hai bàn tay nắm chặt, cánh tay dang rộng, chân quắp vào nhau cho thấy cuộc vật lộn với tử thần đã diễn ra hết sức khốc liệt. Trên nét mặt cứng đờ còn in một nỗi kinh hoàng. Nét mặt nhăn nhúm thành một vẻ độc ác ghê sợ đó, cộng với cái trán ngắn, cái mũi tẹt di, hàm răng nhô ra, cùng với tư thế kỳ quặc, càng làm cho người chết có một vẻ rất giống loài khỉ. Tôi đã từng thấy cái chết dưới nhiều hình dạng, nhưng chưa bao giờ thấy nó dưới dạng thảm khốc đến như vậy.


Lestrade vóc người gầy gò, mặt choắt, đứng ở cửa chào chúng tôi:


“Vụ này sẽ ồn ào đây. Nó vượt tất cả những vụ tôi đã được chứng kiến.”


“Không có một vết tích nào.” Gregson nói.


“Không có mảy may.” Lestrade xác nhận.


Holmes đến cạnh xác nạn nhân, quỳ gối xuống và xem xét rất cẩn thận.


“Hai ông đã kiểm tra kỹ là không có thương tích gì chứ?” Holmes chỉ những giọt máu và những vết máu có rất nhiều xung quanh xác chết.


Cả hai thám tử của Scotland Yard cùng kêu lên:


“Hoàn toàn chắc chắn.”


“Thế thì tất nhiên máu này là của một kẻ thứ hai, chắc là của hung thủ, nếu như đây là một vụ ám sát.”


Trong khi nói, những ngón tay nhanh nhẹn của anh lăng quăng chỗ này chỗ kia, sờ nắn, lần mò, xem xét khắp nơi, còn đôi mắt vẫn đượm cái vẻ xa vắng. Sau cùng Holmes ngửi môi rồi xem đế giầy người chết.


“Không ai xê dịch xác này chứ?”


“Không.”


“Bây giờ các ông có thể cho chuyển về nhà xác được rồi.”


Gregson đã có sẵn một cái cáng và bốn người giúp việc. Khi cái xác được xốc lên thì có một chiếc nhẫn rơi xuống sàn, Lestrade chộp lấy chiếc nhẫn, ngắm nghía với con mắt kinh ngạc, reo lên:


“Đã có mặt một người đàn bà ở đây! Một chiếc nhẫn cưới đây mà!”


Vừa nói, ông ta vừa chìa chiếc nhẫn đặt trong lòng bàn tay của mình ra cho chúng tôi xem. Không có gì nghi ngờ: Chiếc vòng tròn nhỏ xíu một mạc bằng vàng này đã từng trang điểm cho ngón tay của một cô dâu.


“Thế là càng thêm rắc rối.” Gregson đánh giá.


“Ông có dám chắc là chiếc nhẫn lại không giúp ta chút nào không? Ngoài ra, ông thấy có những gì trong các túi áo, túi quần nạn nhân?” Holmes nhận xét.
Gregson chỉ những đồ vật được bày ra trên những bậc thang dưới cùng ngoài cửa buồng:


“Tất cả ở đây. Một chiếc đồng hồ bằng vàng khắc số 97.163 ở cửa hàng Barkerraud, London. Một dây xà tích vàng, dầy dặn và rất nặng, một chiếc nhẫn vàng có khắc biểu tượng của một hội kín. Một chiếc kẹp ca vát bằng vàng, chạm thành hình đầu chó, một cái ví đựng những danh thiếp ghi tên Enoch J.Drebber ở trong thành phố Cleveland phù hợp với những chữ viết tắc E.J.D thêu trên quần áo. Không có ví tiền nhưng có mấy đồng tiền, cộng lại là bảy bảng[1]. Hai bức thư, một bức đề gửi cho E.J.Drebber và bức kia gửi cho kẻ nào đó tên là Joseph Stangerson.


“Gửi về địa chỉ nào?”


“Gửi đến Sở giao dịch chứng khoán Mỹ. Cả hai bức thư đều là của công ty vận chuyển tàu biển Guion và cùng nơi đến, ngày giờ khởi hành các chuyến tàu của họ, xuất phát từ Liverpool. Rõ ràng nạn nhân sắp sửa lên tàu đi New York.”


-Các ông đã điều tra về một người mang tên là Stangerson này chưa?


-Điều tra ngay chứ! -Gregson đáp- Tôi đã cho đăng lời nhắn tin trên tất cả các báo hàng ngày và cử người đến sở giao dịch chứng khoán Mỹ, nhưng chưa về.


-Các ông đã liên lạc với Cleveland chưa?


-Chúng tôi đã đánh điện sáng nay.


-Các ông đã đặt những câu hỏi như thế nào trong điện?


-Chúng tôi chỉ tường thuật tỉ mỉ vụ án mạng và nói sẽ rất biết ơn nếu nhận được mọi tin tức có thể giúp chúng tôi làm sáng tỏ vụ này.


-Ông có hỏi tỉ mỉ về một điểm nào đó mà các ông coi là thiết yếu không?


-Tôi có nói đến Stangerson.


-Ngoài ra không nói gì khác? Liệu có thể có một chi tiết nào đấy làm đầu mối cho toàn bộ vụ này không? Các ông có nên đánh điện lại không?


-Tôi đã điện đi tất cả những gì cần hỏi rồi. Gregson nói với vẻ bị xúc phạm.


Holmes cười thầm và hình như định có một lời nhận xét thì Lestrade từ gian phòng đằng trước quay lại, xoa hai tay với vẻ hài lòng, giọng khoa trương:


-Ông Gregson ạ, tôi vừa mới phát hiện một chi tiết hết sức hệ trọng. Mắt Lestrade sáng lên. Ông ta mừng rỡ ra mặt vì đã thắng đồng nghiệp của mình một điểm:


-Mời các ông lại đây! Lestrade hối hả trở lại gian phòng khi nãy.- Đây, các ông đến đứng ở chổ này này.


Ông ta bật một que diêm và giơ lên cao sát mặt tường, giọng đắc thắng:


-Các ông nhìn đây!


Ở mé tường này, một mảnh giấy dán lớn đã bị bong, rơi đi đâu mất, để lộ một khoảng tường trát vữa thô nhám, vàng ệch, hình vuông. Trên khoảng tường trần trụi, có ai đã nguệch ngoạc viết những chữ mang màu đỏ sẫm bằng máu khô: “Rache”.


Nhà thám tử hồ hởi, nói tiếp:


-Chi tiết này bị bỏ sót vì đây là chổ tối nhất trong phòng. Thủ phạm đã viết chữ này bằng chính máu mình. Ta hãy nhìn vết này, chỗ máu đã chảy dọc trên tường. Chi tiết này đã loại trừ khả năng đây là một vụ tự sát. Tại sao hắn viết tại nơi này. Tôi xin nói lý do. Các ông có thấy ngọn nến trên mặt lò sưởi không? Lúc bấy giờ, ngọn nến này được thắp sáng và chổ này trở thành chổ sáng nhất trên bức tường.


-Giờ đây, đã phát hiện hết rồi, ông thấy ý nghĩa nó ra sao? Gregson vặn hỏi với vẻ khâm phục.


-Kẻ này đang định viết tên Rachel, nhưng không kịp viết cho trọn tên. Các ông hãy nhớ lấy lời tôi: khi vụ này được làm sáng tỏ, các ông sẽ thấy một người đàn bà tên là Rachel dính líu vào đây. Ông cứ tin đi, ông Holmes!


-Tôi xin lỗi -Holmes nói với Lestrade khi thấy tiếng cười của mình đã làm cho anh chàng bực tức. -Ông là người đầu tiên cho chúng tôi thấy chi tiết này, và xem chừng kẻ viết chữ này là nhân vật thứ hai trong vụ án. Tôi chưa có dịp xem kỹ gian phòng, nhưng bây giờ, mạn phép các ông, tôi sẽ xem xét một lát.


Nói xong, anh rút trong túi ra một cuộn thước dây và kính lúp, dò soát khắp căn phòng, lúc thì dừng lại hồi lâu, lúc thì quỳ hẳn gối xuống mặt đất; thậm chí có lúc nằm xoài, úp bụng xuống sàn. Anh bị thu hút vào công việc đến nỗi hình như quên hẳn chúng tôi, vì anh lầm bầm nho nhỏ một mình, thỉnh thoảng lại khẽ reo lên, xuýt xoa, làu bàu hay huýt sáo miệng. Những hành động ấy có thể diễn đạt những hy vọng của anh, song cũng có thể coi là những lời anh tự khích lệ trong công việc của mình.


Trong hai mươi phút, anh mải mê tìm tòi, dùng thước đo một cách tỉ mỉ khoảng cách giữa những dấu vết hoàn toàn vô hình đối với tôi. Đôi khi, anh lại úp cái thước dây vào tường. Ở chổ trên sàn nhà, anh hết sức thận trọng thu nhặt một nhúm nhỏ thứ bụi xam xám và cất vào phong bì. Sau cùng anh dùng kính lúp soi từng nét chữ của cái từ bí ẩn viết trên tường. Sau đó, anh có vẻ hài lòng, cất thước dây và kính lúp vào túi, đưa ra một nhận xét:


- Có người bảo rằng thiên tài là sự lao động hết sức kiên trì. Định nghĩa ấy không hoàn toàn chính xác, nhưng áp dụng vào công việc của người thám tử thì rất đúng.


Gregson và Lestrade đã theo dõi mõi động tác của nhà thám tử tư với một vẻ tò mò. Họ cùng lên tiếng hỏi:


-Ông có ý kiến gì không, ông Holmes?


Bạn tôi đáp, giọng đầy châm chọc:


-Cho tôi được phép góp vào một tay có khác gì làm hoen mờ vinh quang của các ông trong vụ này. Các ông sẽ tự giải quyết nó một cách chóng vánh và trọn vẹn, để một kẻ thứ ba xen vào thì thật là đáng tiếc. Dẫu vậy, tôi sẽ lấy làm hân hạnh được giúp các ông. Trong khi chờ đợi, tôi muốn gặp viên cảnh sát đã phát hiện ra xác nạn nhân. Các ông có thể cho tôi biết địa chỉ người ấy được không?


Lestrade nhìn vào quyển sổ tay:


-John Rance. Hiện giờ, anh ta dã hết ca làm việc. Ông có thể lại nhà anh ta ở số 46 đường Audley, khu Kennington.


Holmes ghi địa chỉ và bảo tôi:


-Bác sỹ Watson, ta đến gặp anh chàng ấy đi. -Rồi quay sang các nhà thám tử của nước Anh- Đây là một vụ ám sát, và thủ phạm là một người đàn ông. Một người đàn ông lực lưỡng, cao hơn 6 feet, tuổi trung niên. So với tầm vóc thì chân hơi nhỏ. Hắn đi giày mũi vuông, hút xì gà Trichinopoly. Hắn đến đây cùng với nạn nhân trên một chiếc xe ngựa bốn bánh. Con ngựa kéo xe có ba móng sắt cũ và một móng sắt mới ở chân trái trước. Thủ phạmcó bộ mặt đỏ gay, móng bàn tay phải của hắn đặc biệt dài.


Hai thám tử nhà nước nhìn nhau với nụ cười hoài nghi. Gregson lên tiếng:


-Nếu vậy, nạn nhân bị giết bằng cách nào?


-Bằng thuốc độc -Holmes trả lời vắn tắt rồi ra về, nhưng trước khi bước qua ngưỡng cửa, anh còn quay lại nói thêm: - Còn một chi tiết này nữa; ông Lestrade ạ. Rache trong tiếng Đức có nghĩa là trả thù, vậy ông đừng mất thời giờ tìm kiếm cô Rachel làm gì.


Sau ngón đòn nhẹ này, Holmes bỏ về, để lại đằng sau hai địch thủ há hốc mồm nhìn nhau.



---


[1] Nguyên văn: pound, đơn vị tiền tệ Anh

Chương 4:

Lúc chúng tôi rời ngôi nhà số 3 đường Lauriston thì đã một giờ trưa. Holmes kéo tôi đến trạm bưu điện gần nhất, gửi đi một bức điện dài. Sau đó, anh gọi xe ngựa bảo đánh đến địa chỉ mà Lestrade đã ghi cho.


-Không gì giá trị bằng những nhân chứng trực tiếp. Thực ra, vụ này đã được xác định rồi, nhưng hỏi để biết thêm vài chi tiết cũng không thừa. -Có thực các chi tiết mà anh vừa nói là đúng không?


-Điều đầu tiên tôi nhận ra ngay khi đến hiện trường là một chiếc xe ngựa đã in bánh thành hai cái rãnh sâu cạnh bờ hè. Trước đêm hôm qua, trời không mưa một tuần. Vậy thì chiếc xe đã để lại vết bánh chỉ có thể đỗ ở đây sau cơn mưa đêm qua. Tôi thấy cả các dấu chân một con ngựa. Một trong những vết chân này sắc nét hơn cả ba vết chân khác, điều đó chứng tỏ con ngựa có một chiếc móng mới đóng. Có một chiếc xe ngựa đã đến đây sau khi trời mưa và theo lời Gregson cho biết sáng nay không thấy nó đâu, ta suy ra chiếc xe của hắn đã đến rồi rời đi trong đêm và do đó, nó chính là chiếc xe chở hai người kia đến ngôi nhà.


-Nghe ra khá đơn giản. Nhưng còn về tầm vóc của người hung thủ?


-Có gì đâu! Ta có thể căn cứ vào chiều dài của bước chân mà suy ra chiều cao của người. Tôi đã thấy vết chân của người thứ hai trên lớp đất sét ở ngoài nhà và trên lớp bụi trong gian phòng. Ngoài ra, tôi còn có một cách khác để kiểm tra cách tính của tôi. Khi viết trên tường, người ta thường viết ngang tầm mắt mình. Chữ viết kia, như tôi đo được, ở cách mặt đất đúng 6 feet. Dễ như bỡn, phải không bác sỹ?


-Thế còn tuổi hắn?


-Một người có thể dễ dàng phóng bước 4 feet rưỡi thì không thể là người luống tuổi. Đây cũng là chiều dài của một vũng nước trên lối đi qua vườn mà hắn đã bước qua. Kẻ đi giày sang trọng cỡ nhỏ đã đi vòng qua vũng nước còn kẻ đi giày thô mũi vuông thì phóng bước ngang qua. Không có chút gì bí ẩn ở điểm này. Tôi chỉ áp dụng vào trong nếp sống hàng ngày một vài nguyên lý quan sát và suy đoán mà tôi đã nêu lên trong bài báo của tôi thôi. Có điều gì khác anh thấy khó hiểu nữa không?


-Móng tay và xì gà?


-Mấy chữ trên tường được viết bằng một ngón tay trỏ nhúng trong máu. Chiếc kính lúp đã giúp tôi nhận ra là khi viết, ngón tay người này đã cào mạnh lên lớp vữa trát tường, điều này chỉ có thể xảy ra nếu người này có móng tay dài. Tôi tìm thấy rải rác trên sàn một ít tro đen và xốp, chỉ có loại xì gà Trichinopoly mới cho một thứ tàn như vậy. Chính những điều vụn vặt vậy làm cho nhà thám tử có tài khác với loài thám tử như Gregson và Lestrade.


-Còn bộ mặt đỏ?


-Bộ mặt đỏ là một kết luận hơi táo bạo. Thôi không nên hỏi nhiều.


Tôi đưa tay xoa trán:


-Đầu tôi xoay như chong chóng. Càng nghĩ càng không biết đâu mà lần. Tại sao hai người ấy lại đến một ngôi nhà bỏ không? Người đánh xe chở họ đến hiện nay ra sao? Làm thế nào người này lại ép buộc được người kia uống thuốc độc? Máu ở đâu ra? Hung thủ giết người để làm gì? Tại sao lại có một chiếc nhẫn phụ nữ? Tại sao hung thủ viết chữ “RACHE” trước khi bỏ chạy?


Bạn tôi nở một nụ cười đồng tình:


-Anh đã tóm tắt ngắn gọn và chính xác những điều nan giải của vụ này. Hãy còn khá nhiều khía cạnh khó hiểu khác nữa. Còn về phát hiện của anh chàng Lestrade kia? Chữ này không phải do một người Đức viết. Nếu anh chú ý, anh sẽ thấy chữ A được viết hơi theo kiểu chữ của người Đức. Thế nhưng, người Đức chính cống bao giờ cũng viết theo dạng chữ Latin, vì vậy ta có thể khẳng định rằng những chữ này không phải do một người Đức viết mà là một kẻ muốn giả làm người Đức, nhưng vụng về. Đây chỉ là một cái mưu nhằm đánh lạc hướng cuộc điều tra. Nhưng thôi, bác sỹ Watson, cắt nghĩa hết các phép thuật của mình thì nhà phù thủy chẳng còn gì là cao tay nữa. Cũng vậy, nếu tôi bày tỏ với anh quá nhiều phương pháp làm việc của tôi, anh sẽ đi đến kết luận là tôi rút cuộc cũng chẳng có gì đặc biệt cả.


-Không khi nào! Anh đã đưa phép suy đoán của anh đến chổ gần thành một môn khoa học chính xác như chưa từng có trên thế giới này.


Những lời tôi nói và vẻ khâm phục trên nét mặt tôi khiến Holmes đỏ mặt vì sung sướng.


-Tôi xin kể thêm với anh. Kẻ đi giày cỡ nhỏ và kẻ đi giày mũi vuông cùng đến trên một chiếc xe, cùng đi trên lối đi qua vườn. Vào nhà, kẻ đi giày nhỏ đi đi lại lại ngang dọc gian phòng. Tôi có thể đọc thấy điều đó trên lớp bụi, tôi còn có thể đọc được là càng đi, hắn càng nổi xung lên, có thể thấy rõ ở bước chân ngày một dài của hắn. Khởi đầu ta đã có một điểm xuất phát đúng, vậy phải xúc tiến gấp lên thôi, vì chiều nay tôi muốn đi nghe hòa nhạc.


Câu chuyện giữa hai chúng tôi diễn ra trên chiếc xe ngựa đang lăn bánh. Đến những ngõ ngách bẩn thỉu và gớm ghiếc nhất, chiếc xe bỗng dừng lại.


-Đến chung cư Audley rồi, ở trong kia kìa - Người xà ích chỉ một khoảng hẹp giữa dãy nhà bằng gạch đen sì. Tôi chờ các ông ở ngoài này.


Lối đi nhỏ hẹp dẫn chúng tôi đến một cái sân gạch hình vuông, xung quanh là những căn nhà nhớp nhúa. Đi qua một nhóm trẻ Con rách rưới và một loạt dây phơi quần áo, chúng tôi tìm đến căn hộ số 46. Bên cửa có một tấm biển nhỏ bằng đồng khắc tên Rance. Hỏi ra, chúng tôi được biết viên cảnh sát đã đi ngủ. Người nhà đưa chúng tôi vào chờ ở gian nhà ngoài.


Một lát sau, viên cảnh sát ra tiếp, vẻ hơi cáu kỉnh:


-Tôi đã báo cáo hết ở đồn cảnh sát rồi.


Holmes rút ra một đồng tiền vàng, mân mê với vẻ tư lự:


-Chúng tôi muốn nghe chính anh kể lại.


Viên cảnh sát thay đổi hẳn thái độ:


-Tôi sẵn sàng.


Rance ngồi xuống chiếc ghế đệm, cau mày lại với vẻ mặt của người không muốn để sót một chi tiết nào.


-Ca đi tuần của tôi là từ 10 giờ tối đến 6 giờ sáng. Vào lúc 11 giờ đêm, xảy ra một vụ đánh nhau ở gần quán rượu “Con hươu trắng”[1], ngoài ra khá yên tĩnh. Đến 1 giờ, trời bắt đầu mưa và tôi gặp Harry Murcher, viên cảnh sát đi tuần phía đường Holland Grove. Chúng tôi nói với nhau dăm ba câu chuyện ở góc phố Henryetta. Một lát sau vào khoảng 2 giờ, tôi tự nhủ mình phải đi một vòng về phía đường Brixton. Phố xá yên tĩnh. Tôi không gặp ai cả, tuy có thếy một hai chiếc xe. Tôi đi thong thả, vừa đi vừa nghĩ tới một ly rượu. Bỗng nhiên một vạch ánh sáng lọt ra từ cửa sổ một ngôi nhà làm tôi chú ý. Tôi vốn biết hai ngôi nhà ở đường Lauriston vẫn bỏ không. Vì vậy tôi ngờ rằng có một chuyện gì không bình thường, khi tôi vào đến cửa nhà...


-...Thì anh đứng lại và quay ra chổ cửa vườn. Tại sao?


-Vâng, đúng thế. Nhưng quái lạ, sao mà ông biết? Khi tôi đến cửa nhà, cảnh vật im lìm và vắng vẻ đến nỗi tôi phải quay trở lại cửa vườn, xem có thấy ngọn đèn tuần tra của Harry không. Nhưng không thấy bóng một ai cả.


-Anh không thấy ai ngoài phố à?


-Không một ai, ngay một con chó cũng không. Lúc bấy giờ, tôi trở lại, đẩy cánh cửa. Cánh cửa mở ra dễ dàng, bên trong hoàn toàn yên tĩnh. Tôi bước vào gian phòng có ánh sáng. Dưới ánh sáng chập chờn của một ngọn nến trên mặt lò sưởi, tôi thấy...


-Được rồi, tôi biết anh thấy những gì rồi. Anh đã đi vòng quanh gian phòng vài ba lần, anh đã quỳ gối xuống bên cạnh xác chết, rồi anh đi ngang qua gian phòng, thử mở cánh cửa gian bếp và...


Rance bật đứng dậy, nét mặt hoảng hốt, con mắt ngờ vực:


-Ông nấp ở chổ nào mà nhìn thấy hết các hoạt động của tôi?


Holmes cười vui vẻ và đặt tấm danh thiếp của mình lên bàn:


-Chớ bắt giữ tôi về vụ án mạng này. Tôi là một trong những người săn đuổi con mồi chứ không phải là con mồi đâu. Anh kể tiếp đi. Sau đó anh làm gì?


Rance ngồi xuống, chưa bớt bàng hoàng:


-Tôi trở ra cửa, huýt còi. Nghe tiếng còi, Harry và hai viên cảnh sát khác kéo đến.


-Lúc đó ngoài phố vẫn không có ai à?


-Vâng, ít ra là không có ai có thể giúp tôi.


-Anh nói thế là thế nào?


Viên cảnh sát cười nhăn cả mặt:


-Trong đời tôi đã gặp khá nhiều đứa say, nhưng chưa bao giờ thấy ai say như gã này. Gã đứng ngoài cửa khi tôi ở trong nhà bước ra. Tựa người vào hàng rào gỗ, gã hát toáng lên một bài hát quen thuộc ở các quán rượu. Gã đứng cũng không vững, chứ đừng nói đến giúp tôi một tay.


-Gã đó thuộc dạng người như thế nào?


Rance có vẻ khó chịu trước câu hỏi lạc đề:


-Tôi đã bảo gã là gã say mềm mà, sau khướt, không biết trời đất là gì nữa. Nếu chúng tôi không vướng tay vào vụ này thì đã đưa gã về đồn rồi.


-Mặt gã thế nào? Gã mặt quần áo gì? Anh có thấy điều gì đặc biệt không? Holmes nôn nóng ngắt lời anh ta.


-Chắc là không có gì đặc biệt, vì tôi và Harry phải đỡ gã. Người gã cao lớn, mặt đỏ.


-Thôi đủ rồi, sau đó ra sao?


-Lúc bấy giờ chúng tôi đâu có rỗi rãi để mà bận tâm đến gã. Viên cảnh sát trả lời với vẻ mếch lòng. Tôi cam đoan là gã đi ngay về nhà.


-Gã mặc quần áo gì?


-Áo khoác ngoài màu nâu.


-Tay có cầm cái roi phải không?


-Roi à? Không.


-Hẳn ta đã bỏ quên. Bạn tôi lẩm bẩm. Sau đấy anh không nghe thấy hoặc nhìn thấy một chiếc xe ngựa nào à?


-Không.


-Xin đãi ông bạn đồng tiền vàng này -Holmes đứng dậy, tay cầm lấy mũ. -Anh Rance này, đêm qua lẽ ra anh đã giật được lon đội trưởng rồi đấy. Gã say rượu là người nắm giữ cái chìa khóa tìm ra vụ bí mật này. Chúng tôi đang tìm hắn. Thôi, ta đi đi bác sỹ!


Chúng tôi trở ra xe, để mặc viên cảnh sát ngồi ngẩn người và lo lắng.


Trong chiếc xe chạy về phố Baker, Holmes nói, giọng ngao ngán:


-Dịp may có một không hai đã đến với hắn mà hắn để tuột mất.


-Tôi vẫn thấy tối như bưng. Đúng là hình dáng gã say rượu kia rất khớp với sự miêu tả của anh về nhân vật thứ hai trong tấn bi kịch. Nhưng tại sao hắn quay trở lại ngôi nhà sau khi đã bỏ đi rồi. Đó không phải là thói thường hành động của bọn tội phạm.


-Chiếc nhẫn, bác sỹ ạ, vì chiếc nhẫn. Đó là lý do vì sao nó quay lại. Nếu ta không tìm được cách nào khác để tóm cổ nó, ta có thể bẫy nó bằng chiếc nhẫn. Rồi tôi sẽ tóm cổ được nó tôi đánh cuộc với anh đấy. Thôi, bây giờ, ta đi ăn cơm trưa rồi còn đi nghe hòa nhạc.



---


[1] Nguyên văn: White Hart

Chương 5:

Các hoạt động trong buổi sáng hôm đó là quá nhiều, cho nên đến chiều, tôi thấy mệt. Holmes, đi nghe hòa nhạc một mình còn tôi nằm dài trên chiếc đi-văng, cố chợp mắt lấy một vài tiếng, nhưng không sao ngủ được. Trí óc tôi bị kích thích quá mạnh vì những sự Việc đã diễn ra và chứa đầy những giả thiết, những điều tưởng tượng kỳ quái nhất.


Càng nghĩ, tôi càng thấy giả thiết của Holmes cho rằng nạn nhân đã bị đầu độc là kỳ quái. Nhưng nếu nạn nhân không phải chết vì thuốc độc thì vì cái gì, bởi lẽ trên cơ thể không có một thương tích nào cả. Và máu trên sàn là máu của ai? Chừng nào những câu hỏi ấy chưa được giải đáp, tôi cảm thấy giấc ngủ khó mà đến được.


Holmes vắng nhà khá lâu. Anh không thể nào ở nơi hòa nhạc tất cả ngần ấy thời gian. Bữa ăn tối dọn ra xong, anh mới về.


-Thật là kỳ thú -Holmes vừa nói vừa ngồi vào bàn ăn -Darwin cho rằng khả năng tạo ra âm nhạc và thưởng thức âm nhạc đã tồn tại ở con người từ lâu, trước khi con người biết nói. Có thể vì lẽ ấy mà ngày nay chúng ta chịu ảnh hưởng êm ái của âm nhạc. Trong tâm hồn chúng ta còn lưu lại những ký ức mơ hồ về những thời kỳ mông muội ấy.


-Đó là một tư tưởng rất vĩ đại -Tôi nhận xét.


-Tư tưởng của chúng ra phải vĩ đại ngang tầm với tự nhiên khi ta muốn tìm hiểu tự nhiên. Nhưng sao thế?


-Vụ án mạng là anh bồn chồn à?


-Đúng thế.


-Tôi hiểu tâm trạng anh. Trong vụ này có một khía cạnh bí ẩn nó kích thích trí tưởng tượng. Khi mà trí tưởng tượng không bị kích thích thì ta không thấy khủng khiếp. Anh đã đọc báo buổi chiều chưa?


-Chưa.


-Bài tường thuật không kể Lại chi tiết khi người ta nhất xác nạn nhân lên thì có một chiếc nhẫn rơi ra. Không nói đến chiếc nhẫn càng hay .


-Vì sao?


-Anh hãy đọc lời nhắn tin này. Sáng nay tôi đã gửi đăng trên các báo, ở mục “Của rơi”: “Đã nhặt được một chiếc nhẫn cưới trên đường Brixton, đoạn từ quán rượu “CON HƯƠU TRẮNG” đến góc phố Holland Grove. Ai đánh rơi, mời đến gặp bác sỹ Watson ở số nhà 221B, phố Baker nhận về, từ tám giờ đến chín giờ tối nay.


-Tôi xin lỗi đã mượn tên anh. Nếu dùng tên tôi thì thế nào một trong hai tên ngốc kia cũng nhận ra và lại dính vào đây.


-Không sao cả. Nhưng nhỡ có ai đến, tôi lại không có chiếc nhẫn nào.


-Ồ, có chứ, nhẫn đây! Holmes đưa cho tôi một chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn này được đấy chứ, giống chiếc kia như in.


-Ai sẽ đến xin lại của rơi này?


-Còn ai vào đây! Kẻ mặc chiếc áo khoác ngoài màu nâu, có bộ mặt đỏ đi giày mũi vuông. Nếu hắn không đích thân đến thì hắn sẽ phái một tên đồng lõa.


-Liệu hắn có cho là quá nguy hiểm không?


-Không đâu! Con người ấy dám liều mọi chuyện hơn là để mất chiếc nhẫn. Theo tôi, hắn đã đánh rơi chiếc nhẫn khi cúi xuống trên xác nạn nhân. Lúc ra khỏi nhà, hắn thấy mất chiếc nhẫn nên vội vã quay lại, nhưng lúc ấy cảnh sát đã tới vì hắn vô ý để ngọn nến vẫn cháy. Lúc bấy giờ hắn đã phải giả vờ say để đánh tan mọi nghi ngờ do sự Có mặt của hắn. Hắn cho rằng mình đã đánh rơi chiếc nhẫn sau khi ra khỏi nhà. Trong trường hợp đó, hắn sẽ làm gì? Hắn sẽ hối hả tìm đọc các mục đăng “CỦA RƠI”. Hắn sẽ mừng lắm. Việc gì hắn phải sợ bị bẫy. Hắn sẽ đến cho mà xem. Trong vòng một giờ nữa.


-Rồi sao nữa?


-Ồ, khi ấy, anh có thể để mặc tôi với hắn. Anh có súng đấy không?


-Tôi còn giữ khẩu súng ngắn với mấy viên đạn.


-Anh nên lau chùi và nạp đạn vào. Ta sẽ gặp một con người rất liều mạng.


Tôi về phòng riêng và làm theo lời khuyên của Holmes. Khi trở lại với khẩu súng, tôi thấy bàn ăn đã được dọn sạch và Holmes đang bận với môn giải trí ưa thích của mình: gảy dây đàn vĩ cầm. Thấy tôi vào, anh nói:


-Câu chuyện thêm nhiều chi tiết đậm đà. Tôi vừa mới nhận được điện trả lời từ Mỹ. Cách nhìn nhận vấn đề của tôi đã được xác nhận là đúng.


-Cụ thể là...? Tôi sốt sắng hỏi.


-Cất súng đi. Khi nhân vật của chúng ta xuất hiện, anh hãy nói chuyện với hắn một cách bình thường và để mặc tôi xử sự. Đừng làm hắn hoảng lên bằng những lời quá gay gắt.


-Bây giờ đã 8 giờ rồi.


-Được, hắn sẽ tới trong vài phút nữa. Anh hé mở cánh cửa một chút. Thế được rồi. Bây giờ anh tra chìa khóa vào ổ khóa trong đi. Cám ơn! A! Nhân vật của chúng ta đến kia rồi.


Trong lúc anh nói, tôi nghe tiếng chuông giật mạnh. Holmes nhẹ nhàng đứng dậy, kê lại ghế của mình gần cửa. Có tiếng chân người hầu vang lên trong phòng tiền sảnh, tiếng chìa khóa vặn trong ổ khóa và tiếng cửa mở.


Một giọng thanh thanh nhưng khá rắn rỏi:


-Đây có phải là nhà bác sỹ Watson không?


Chúng tôi không nghe thấy câu trả lời của người hầu, nhưng cánh cửa khép lại và có người bước lên cầu thang. Bước chân ngập ngừng, dè dặt. Holmes lắng tai nghe, có vẻ hơi ngạc nhiên. Có ai đó bước chậm chạp ngoài hành lang rỗi gõ cửa khe khẽ.


-Mời vào! Tôi hét to.


Sau lời mời của tôi, một bà cụ rất già, da nhăn nheo, bước vào. Bà cụ hình như bị chói mắt vì ánh sáng trong phòng. Bà cúi đầu xuống chào rồi cứ đứng nhìn chúng tôi với con mắt hấp háy đầy ghèn, bàn tay run rẩy lục tìm cái gì trong túi. Tôi liếc nhanh nhìn Holmes. Nét mặt anh biểu lộ một vẻ thất vọng. Bà lão rút trong túi ra một tờ báo:


-Thưa các ông quý hóa, tôi đọc được mẩu tin này trên báo nên mới đến- Bà lão lại cúi chào một lần nữa- Đó là chiếc nhẫn của con gái tôi, tên nó là Sally, nó lấy chồng cách đây một năm và chồng nó hiện đang làm việc trên tàu thủy. Chồng nó sẽ nói sao khi về thấy vợ không còn chiếc nhẫn cưới nữa. Thằng đó vốn là một đứa không thuần tính, nhất là khi rượu vào. Thưa hai ông, con gái tôi tối qua nó đi xem xiếc với...


-Đây có phải là chiếc nhẫn của cô ấy không? Tôi hỏi và đưa chiếc nhẫn ra.


-Xin tạ ơn chúa! Tối nay, con Sally sẽ mừng lắm đấy. Đúng là chiếc nhẫn của nó.


-Nhà cụ ở đâu? Tôi hỏi và cầm lấy bút chì.


-Số 13 phố Duncan khu Houndsditch. Xa đây lắm và đi mệt lắm.


Giọng Holmes đanh lại:


-Không có rạp xiếc nào từ Brixton đến khu Houndsditch cả.


Bà cụ quay sang Holmes, nhìn chằm chằm:


-Ông này hỏi nhà tôi. Còn nhà Sally thì ở số 3 khu Mayfield đường Peckham.


-Tên cụ là gì?


-Tên tôi là Sawyer, chồng nó là Dennis, Tom Dennis, một đứa nhanh nhẹn và khá ngoan khi ở biển, ai nấy đều quý hóa. Nhưng khi nó lên bờ thì ôi dào, rượu chè, trai gái


-Cụ Sawyer -Tôi ngắt lời bà cụ khi thấy Holmes ra hiệu. Chiếc nhẫn này đúng là của con gái cụ, tôi rất vui lòng trả lại cho chủ của nó.


Lầm bầm mãi những lời cảm ơn và chúc tụng, bà cụ cất chiếc nhẫn vào trong túi rồi lại lê chân bước xuống thang gác.


Holmes lao vội về buồng anh khi bà cụ vừa ra khỏi phòng. Vài giây sau, anh trở lại, người trùm trong chiếc áo măng-tô lớn và một cái khăn quàng kín cổ kín mũi.


-Tôi đi theo bà lão đấy. Anh chờ tôi ở nhà nhé.


Cổng nhà vừa khép lại sau lưng người khách già thì Holmes đã xuống hết cầu thang. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy bà già đang bước chầm chậm qua đường và bạn tôi ở cách đó không xa


Lúc Holmes đi, kim đồng hồ chỉ 9 giờ tối. Tôi ngồi hút thuốc và đọc sách. Chuông đồng hồ điểm 10 giờ, tôi nghe tiếng chân những người hầu gái đi ngủ. Mười một giờ, đến lượt tiếng chân rắn rỏi hơn của bà chủ nhà lên giường. Gần nửa đêm thì có tiếng mở khóa cửa. Holmes vừa mới thò đầu vào buồng, tôi đã thấy ngay là hỏng việc. Nét mặt Holmes có vẻ vừa buồn cười vừa bực bội, hai tâm trạng đó hình như vật lộn với nhau cho đến khi vẻ buồn cười thắng thế thì anh bật cười thành tiếng, buông mình xuống chiếc ghế bành, tự giễu mình:


-Giá mà Scotland Yard biết chuyện này, họ sẽ được một trận cười chế nhạo.


-Có chuyện gì vậy?


-Khi đi được một đoạn đường thì mụ già bắt đầu đi khập khiễng, lộ rõ là đau chân. Được một quãng nữa, mụ đứng lại, gọi một chiếc xe ngựa ngang qua. Tôi vội mon men đến gần, nhưng lo như vậy là thừa, vì mụ nói to đến nỗi đứng ở bên kia đường cũng nghe rõ. Mụ hét lên: “Cho tôi đến nhà số 14 phố Duncan, khu Houndsditch”. Tôi nghĩ bụng mụ này xem ra có vẻ ngay thật đấy. Khi đã thấy rõ ràng ràng mụ ngồi vào trong chiếc xe rồi, tôi mới thu mình nhảy lên ngồi nấp trong nhíp xe: đây là một trò mà nhà thám tử nào cũng sở trường. Thế rồi xe chạy, chạy mãi, không dừng lại một giây nào cho đến khi tới phố Duncan. Sắp đến nhà, tôi từ chổ ngồi nhảy xuống, đi vẩn vơ ngoài phố, người đánh xe nhảy xuống. Sán lại gần, tôi thấy hắn đang tức tối xem xét khoang xe trống không và tuôn ra một tràng câu chửi. Đến hỏi nhà số 13 tôi được biết chủ nhà là một người làm bánh ngọt tên là Keswick và ông chưa nghe đến tên Sawyer lẫn Dennis bao giờ.


Tôi kinh ngạc :


-Mụ già đã chuồn khỏi xe trong khi xe đang chạy mà anh và người đánh xe đều không biết?


-Để cho bị lừa như vậy chính chúng ta mới là bà già. Đó chắc là một gã trai trẻ, nhanh nhẹn, đóng kịch giỏi, cải trang khéo. Có lẽ hắn biết hắn bị theo dõi nên đã dùng cái mẹo ấy để lừa tôi. Điều đó chứng tỏ rằng nhân vật mà chúng ta tìm kiếm có những người bạn tài ba. Thôi bây giờ, anh có vẻ mệt đấy, bác sỹ ạ. Anh nên đi ngủ đi.


Tôi để Holmes ngồi một mình bên lò sưởi, và rất khuya tôi còn nghe thấy những âm thanh nỉ non khe khẽ trên cây đàn của anh. Tôi biết anh đang suy ngẫm về bài toán kỳ quặc mà anh muốn giải đáp.

Chương 6:

Các báo hôm sau đăng đầy những bài viết về "vụ án bí ẩn ở Brixton". Dưới đây là nội dung tóm tắt của một số bài.


Tờ "Tin điện hằng ngày" nhận xét:


"Trong lịch sử khoa hình sự, chưa mấy khi xảy ra một tấn bi kịch với những tình tiết kỳ quặc hơn thế. Nạn nhân mang tên Đức, những chữ bằng máu trên tường, động cơ ám sát không có. Tất cả những chi tiết ấy cho thấy án mạng này là do những kẻ tị nạn chính trị và những kẻ hoạt động xã hội gây ra. Các đảng phái cấp tiến có nhiều chi nhánh hoạt động tại Mỹ, và nạn nhân có lẽ đã vi phạm các luật lệ không thành văn của các đảng phái ấy nên đã bị trừng trị".


Bài báo kết thúc bằng lời khiển trách chính phủ và yêu cầu chính phủ giám sát chặt chẽ hơn các ngoại kiều trú ngụ trên đất Anh.


Tờ " Lá Cờ " bình luận:


"Những vụ trọng án như vụ này đã diễn ra dưới một chính thể tự do. Chúng sinh ra từ sự hỗn tạp trong dân chúng và sự suy yếu của chính quyền. Nạn nhân là một người Mỹ đã sinh sống ít lâu tại London. Ông ta đã ở trọ một thời gian tại nhà bà Charpentier khu Camberwell. Thư ký riêng của ông ta là Stangerson đã cùng đi với ông ta trong các chuyến đi. Hai người đã từ biệt bà chủ trọ hôm thứ ba, ngày mồng 4 tháng này và đã đi ra ga Euston để đáp chuyến tàu tốc hành đi Liverpool. Sau đó ít lâu, người ta thấy hai người đứng với nhau trên sân ga. Sau nữa thì không biết gì về họ cho đến khi người ta tìm thấy xác ông Drebber trong một ngôi nhà bỏ trống trên đường Brixton cách nhà ga Euston hàng mấy dặm đường. Nạn nhân đã đến đây bằng cách nào và đã chết như thế nào? Những câu hỏi này hãy còn nằm trong màn bí mật. Chúng tôi vui mừng được biết các thanh tra Gregson và Lestrade đã cùng bắt tay vào vụ án và tin rằng hai quan chức mẫn cán và tài năng ấy sẽ sớm rọi sáng vào vụ khó hiểu này ".


Tờ "Tin Hàng Ngày" kết luận:


"Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một vụ án chính trị. Sự chuyên chế của chính quyền các nước ở lục địa châu Âu đã xua đuổi về bờ biển nước ta nhiều người có thể trở thành những công dân tốt nếu họ không bị ám ảnh kích động bởi những ký ức về những nỗi đau khổ và gian truân của họ. Trong đám người ấy có một luật lệ hết sức nghiêm ngặt, nó kết án tử cho bất cứ ai vi phạm nó. Cần phải tìm cho ra viên thư ký Staggerson để hỏi một số chi tiết liên quan đến nạn nhân. Cuộc điều tra đã tiến được một bước khi tìm ra được địa chỉ nhà trọ của nạn nhân. Sự khám phá ấy hoàn toàn nhờ tài năng của ông Gregson".


Holmes và tôi rất buồn cười khi đọc những dòng này.


-Tôi đã bảo với anh mà, anh dù có thế nào, Lestrade và Gregson vẫn được tán dương. Một anh ngốc bao giờ cũng tìm được một anh ngốc hơn để khâm phục mình.


-Nhưng gì thế này - Tôi kêu lên thì vừa vặn lúc ấy có nhiều tiếng bước chân ở dưới nhà cùng với những lời gắt gỏng của bà chủ nhà.


-Đó là đội cảnh sát nghiệp dư ở phố Baker. - Holmes nghiêm trang trả lời. Cùng lúc đó khoảng hơn một chục đứa trẻ lem luốc, ùa vào phòng chúng tôi.
-Nghiêm - Holmes hô lên và bọn trẻ con xếp thành hàng như một dãy những bức tượng nhỏ- Lần sau các cháu đợi cả ở ngoài phố nhé, chỉ để cho một mình Wiggins lên báo cáo thôi. Wiggins có tìm thấy không?


-Không ạ, chúng cháu chưa tìm ra! - Một đứa trong bọn trẻ thưa.


-Kém thế! Tiếp tục đi cho đến khi tìm ra. Tiền thù lao đây - Holmes chia cho mỗi đứa 1 shilling bây giờ, các cháu hãy tỏa nhanh đi khắp nơi rồi trở về đây với một báo cáo có kết quả hơn.


Bọn trẻ chạy ào xuống cầu thang, một lát sau đã nghe thấy tiếng chúng léo nhéo ngoài phố.


-Mấy đứa trẻ này còn hữu ích hơn một tá cảnh sát. Nhìn thấy ai có vẻ là người nhà nước, người ta đã lo giữ miệng rồi. Trái lại, bọn trẻ này len lỏi được khắp mọi nơi và nghe được đủ mọi chuyện. Chúng không bị ai để ý và luồn lách nhanh như chạch.


-Anh sử dụng chúng cho vụ Brixton đấy à?


-Đúng. Có một điểm tôi muốn tìm hiểu. Đây chỉ là vấn đề thời gian, rồi thể nào cũng ra. Thế nào? Ai kia như Gregson ngoài phố. Anh ta mang hai chữ "hớn hở" ghi từng nét trên mặt. Anh ta đến chỗ ta đây.


Có tiếng chuông giật mạnh và vài ba giây sau, nhà thám tử có mái tóc vàng lên cầu thang, bước ba bậc một, và lao vào phòng chúng tôi như một tia chớp. Gregson vồ lấy tay Holmes, siết chặt và reo lên:


-Ông Sherlock Holmes thân mến, ông hãy khen ngợi tôi đi. Tôi đã làm sáng tỏ hết, rõ như ban ngày.


Hình như có một thoáng lo lắng lướt qua gương mặt diễn cảm của bạn tôi. Holmes hỏi:


-Ông muốn nói là ông đã tìm được hướng đúng rồi à?


-Hướng đúng! Ồ, chúng tôi đã tóm được hung thủ rồi.


-Tên hắn là gì?


-Arthur Charpentier, thiếu úy hải quân[1] - Gregson dài giọng, ưỡn ngực, xoa hai tay vào nhau.


Holmes thở phào, hé nở một nụ cười và nói:


-Mời ông ngồi và thử một điếu xì gà đi. Chúng tôi rất muốn biết ông đã tiến hành công việc như thế nào. Ông dùng một cốc whisky pha nước nhé.


-Xin vâng. Những nỗ lực ghê gớm mà tôi đã phải bỏ ra trong hai ngày qua làm tôi bải hoải cả người.


-Chúng tôi rất hân hạnh được ông quá bộ đến chơi -Holmes nói, giọng nghiêm trang- Xin ông cho biết ông đã làm thế nào để đi đến kết quả hết sức đáng khen ấy.


Gregson ngồi sâu trong chiếc ghế bành, khoan khoái rít xì gà, rồi bỗng nhiên vỗ đùi đánh tét một cái:


-Trong vụ này, anh chàng Lestrade ngốc nghếch cứ tưởng mình khôn ngoan, đã hoàn toàn đi nhầm đường. Anh ta đi tìm viên thư ký Stangerson mà Stangerson thì dính líu đến vụ này không hơn gì một đứa trẻ chưa ra đời. Hẳn bây giờ Lestrade đã tóm cổ hắn rồi.


Ý nghĩ ấy khiến cho Gregson cười sằng sặc mãi.


-Ông đã tìm ra hướng của ông như thế nào? - Holmes hỏi.


-Khó khăn đầu tiên đặt ra với tôi là tìm cho ra tung tích nạn nhân. Có người cứ ngồi ở nhà chờ người ta đọc các lời nhắn tin của mình trên báo mà đến cung cấp tin tức cho mình. Gregson thì không làm việc như thế. Ông bác sỹ, ông còn nhớ chiếc mũ bên cạnh nạn nhân khong?


-Có, chiếc mũ của cửa hàng Underwood và con số 129, đường Camberwell - Holmes trả lời.


-Tôi tưởng ông không để ý. Ông đã đến cửa hàng chưa? - Gregson chột dạ, hỏi.


-Tôi không đến - Holmes đáp.


-À - Gregson thở phào yên tâm -Chớ bao giờ coi thường một cơ hội, dù là nhỏ.


-Đối với bộ óc lớn không có gì là nhỏ - Giọng Holmes triết lý.


-Đúng thế! Tôi đến cửa hàng Underwood hỏi chủ hiệu, xem ông ta đã bán cho ai một chiếc mũ kiểu như vậy. Chủ hiệu xem sổ sách cho thấy người mua tên là Drebber, trọ tại nhà bà Charpentier.


-Giỏi lắm, rất giỏi! - Holmes khẽ nói.


-Tôi đến gặp bà Charpentier. Tôi thấy bà ta mặt tái mét và buồn rầu. Cô con gái hai mắt đỏ hoe và miệng run rẩy khi nghe tôi hỏi chuyện. Chi tiết ấy không thoát khỏi con mắt quan sát của tôi. Ông Sherlock Holmes, ông biết đấy khi ta dò đến gần hướng đúng .... các dây thần kinh của ta như run lên. Tôi mới hỏi hai mẹ con: "Bà và cô biết gì về cái chết của ông Drebber không?". Ngươi mẹ gật đầu. Cô con gái òa khóc. Tôi hỏi:


-Ông Drebber rời nhà bà ra tàu vào lúc mấy giờ?


Bà ta cho biết là vào lúc tám giờ. Người thư ký của ông ấy là Stangerson nói có hai chuyến tàu, một chuyến chạy vào lúc 9 giờ 15 và chuyến kia vào lúc 11 giờ. Họ phải kịp chuyến thứ nhất.


-Đó là lúc bà gặp ông ta lần cuối cùng phải không? -Tôi lại hỏi.


Người mẹ có vẻ hốt hoảng. Mấy giây sau bà ta mới nói lên được một tiếng "vâng".


Mấy phút im lặng trôi qua, cô con gái nói:


-Mẹ ạ, ta nên nói thẳng với quý ông đây. Chúng tôi đã lại gặp ông Drebber.


Bà Charpentier giơ hai tay lên trời, gieo mình xuống ghế, kêu lên:


-Cầu chúa tha tội cho con! Con giết anh con đó!


-Anh Arthur muốn ta nói thẳng ra sự thật -Cô con gái đáp với giọng rắn rỏi.


Tôi bảo họ:


-Bà và cô nên kể hết với tôi. Những lời khai nửa vời còn tệ hại hơn là không khai gì cả.


Bà mẹ mắng con:


-Mong sao tai họa rơi xuống đầu mày - Rồi quay sang tôi: - Tôi xin kể hết. Ông đừng nghĩ rằng tôi đang lo cho thằng con trai tôi. Nó hoàn toàn vô tội. Tôi lo là lo rằng dưới con mắt ông và con mắt người khác, nó có thể bị coi có liên can. Dù sao, chắc chắn là không thể nào có chuyện đó. Tính tình nó, nghề nghiệp nó, những hành vi đã qua của nó sẽ chứng minh cho nó.


-Tốt nhất là bà đừng có giấu giếm gì hết. Hãy tin rằng nếu con bà vô tội thì không vì thế mà nó có tội đâu.


Bà mẹ bao con gái:


-Có lẽ con để mặc mẹ với ông khách thì hơn - Cô con gái đi ra và bà nói tiếp: -Thưa ông, tôi không có ý định kể với ông, nhưng vì con gái tôi đã nói hở, tôi không còn cách nào khác.


-Đó là điều tốt nhất. - Tôi nói.


-Ông Drebber đã ở trọ nhà tôi trong ba tuần cùng với ngươi thư ký là ông Stangerson. Ông này là một ngươi điềm tĩnh, kín đáo, nhưng ông chủ của ông ta, thì thô lỗ, hung tợn. Ngay tối hôm đầu đến trọ, ông ấy đã tỏ ra rất xấu tính. Ông ấy có những cử chỉ và lời ăn tiếng nói sàm sỡ với các chị hầu. Và với cả con gái tôi. Có lần, bất thần ông ấy ôm chặt lấy nó và hôn nó.


-Việc gì bà phải chịu đựng những chuyện ấy. Tôi nghĩ bà có thể tống khứ họ đi chứ?


-Lạy Chúa! Giá mà tôi không nhận cho ông ấy trọ ngay sau tối đầu tiên! Nhưng ông ấy trả tiền trọ cao, mà hiện nay đang là mùa vắng khách! Tôi ở góa, thằng con trai tôi trong hải quân tốn kém cho tôi lắm. Vì vậy tôi cố chịu đựng. Nhưng sự lăng mạ cuối cùng này thì quá lắm. Vì thế, tôi đã bảo ông ấy đi tìm chổ trọ khác. Và hai thầy trò ông ấy đã bỏ đi.


-Rồi sao nữa?


-Nhìn họ ra đi, tôi thấy nhẹ người. Thằng con trai tôi lúc này đang nghỉ phép. Tôi không hé răng với nó về chuyện này vì tính nó nóng nảy và rất quý em gái. Nhưng! Không đến một giờ sau, có người giật chuông ngoài cửa và tôi thấy ông Drebber quay lại. Ông ấy cứ xông vào buồng nơi tôi đang ngồi với con gái tôi, làu bàu những câu không đầu không đuôi, đâu như nói về chuyến tàu mà ông ấy nhỡ thì phải. Sau đó ông ấy quay qua con gái tôi, rủ nó đi trốn. Con gái tôi hoảng sợ, toan bỏ đi, nhưng ông ấy nắm lấy cổ tay nó, cố kéo nó về phía cửa. Tôi kêu lên và đúng lúc ấy thằng Arthur chạy đến. Chuyện gì đã diễn ra lúc bấy giờ, tôi không biết nữa. Tôi nghe thấy những lời chửi rủa và tiếng xô xát. Tôi sợ quá, không dám ngẩng đầu lên. Đến khi dám nhìn thì tôi thấy con trai tôi đang đứng ở giữa cửa, tay cầm một cái gậy, cười to. Nó nói: "Thằng này chừa rồi, không dám quấy rầy nhà mình nữa đâu. Để con đi theo xem nó ra sao". Sau đó, nó cầm lấy mũ và ra đi. Sáng hôm sau, chúng tôi nghe tin ông Drebber đã chết một cách bí ẩn.


Lời khai ấy do chính mồm bà Charpentier nói ra kèm theo những tiếng thở dài và những chỗ ngắt quãng. Tôi đã ghi bằng tốc ký lời khai của bà ấy để khỏi có sự nhầm lẫn sai sót.


-Rất lý thú - Holmes nói và cố ghìm một cái ngáp - Rồi sau ra sao?


-Khi bà Charpentier khai xong, tôi thấy vụ này quy lại còn có mỗi một điểm. Tôi chiếu luồng mắt của mình vào bà ta theo cách mà tôi thường thấy có hiệu quả đối với phụ nữ, tôi hỏi con trai bà ta về nhà lúc nào.


-Thưa, tôi không biết.


-Bà không biết à?


-Vâng, nó có chìa khóa cửa riêng.


-Nó về sau khi bà đã đi ngủ?


-Vâng.


-Bà đi ngủ vào lúc mấy giờ?


-Khoảng mười một giờ.


-Như vậy con trai bà đã vắng nhà ít nhất hai giờ?


-Vâng.


-Cũng có thể là vắng bốn hoặc năm giờ?


-Vâng.


-Nó đã làm gì trong thời gian ấy?


-Tôi không biết - Bà ta trả lời, mặt lại tái đi.


Cố nhiên, sau đó tôi đã tìm ra thiếu úy Arthur. Tôi đem theo hai viên cảnh sát và đã bắt giữ hắn. Khi tôi đụng vào vai hắn, hắn hỏi tôi, hãy còn hăng như một con gà chọi:


-Chắc ông bắt tôi vì tội đồng lõa trong cái chết của tên vô lại Drebber chứ gì?


Chúng tôi đã nói gì với hắn đâu mà hắn đã đoán ra. Câu hỏi ấy, rõ là rất đáng ngờ.


-Rất đáng ngờ - Holmes đồng tình,


-Hắn còn giữ cái gậy to mà theo lời khai của mẹ hắn, hắn đã cầm khi đuổi theo Drebber. Một cái gậy to bằng gỗ sồi.


-Vậy giả thiết của ông là thế nào?


-Hắn đã theo Drebber đến tận đường Brixton. Đến đấy, giữa hai người lại cãi nhau nữa, và trong lúc xô xát, Drebber bị một gậy vào bụng, và chết ngay tức khắc, không để lại dấu vết gì. Đêm hôm ấy trời mưa, đường vắng nên Arthur đã lôi xác nạn nhân đến tận ngôi nhà trống. Còn về ngọn nến, những vết máu và chữ viết trên tường, chẳng qua chỉ là những cái mẹo nhằm đánh lạc hướng nhà chức trách thôi.


-Rất hay! - Holmes khích lệ - Ông Gregson, quả thực ông tiến bộ đấy. Ông sẽ còn đi xa hơn nhiều.


Nhà thám tử trả lời với vẻ kiêu hãnh:


-Tôi tự hào là đã giải quyết vụ án này khá suôn sẻ. Gã thanh niên khai ngay rằng hắn đi theo Drebber được một lúc thì Drebber phát hiện ra hắn và nhảy lên một chiếc xe để bỏ xa hắn. Điều làm tôi thích thú là Lestrade đang lao theo một hướng tắc tị. Ông ta sẽ chẳng thu lượm được gì nhiều. Nhưng, ơ kìa, thiêng chưa, vừa nói đến thì ông ấy đã xuất hiện.


Quả vậy, Lestrade đi lên cầu thang trong khi chúng tôi mải chuyện trò, và bây giờ ông đã ở trong phòng. Vẻ tự tin và ung dung thường có của ông, nay đã biến đi đâu mất. Nét mặt lo lắng, quần áo xộc xệch, rõ ràng Lestrade đến với ý định nhờ Holmes giúp đỡ, và khi nhận ra đồng nghiệp của mình cũng có mặt ở đây, Lestrade tỏ ra ngại ngùng, lúng túng. Lestrade đứng như trời trồng giữa phòng, tay mân mê chiếc mũ không biết để đâu, cuối cùng nói:


-Đây quả là vụ án cực kỳ khác thường, không tài nào hiểu được.


-A! Ông tưởng thế à, ông Lestrade? - Giọng Gregson đắc thắng - Tôi cũng đã đoán rằng ông sẽ đi đến kết luật ấy. Ông có tìm được viên thư ký Stangerson không?


- Viên thư ký Stangerson - Giọng Lestrade nghiêm trọng - Đã bị ám sát vào lúc 6 giờ sáng nay tại khách sạn Holiday.



---


[1] Nguyên văn: sub-lieutenant

Chương 7:

Cả ba chúng tôi đều sững người. Gregson bật dậy khỏi ghế đánh đổ chỗ rượu whisky còn sót trong ly. Tôi lặng lẽ nhìn Holmes, thấy anh mím môi, cau mày lẩm bẩm:


-Câu chuyện thêm rắc rối.


-Mà nó đã khá rắc rối rồi - Lestrade làu bàu, ngồi xuống ghế.


-Tôi đến đúng lúc mọi người đang bàn luận thì phải.


-Này, ông Lestrade, tin ấy có ... chính xác không? Gregson ấp úng hỏi.


-Tôi vừa mới có mặt ở phòng của Stangerson. Tôi là người đầu tiên thấy xác ông ấy.


-Chúng tôi vừa mới được nghe cách hình dung vấn đề của ông Gregson - Holmes nói - Ông Lestrade, ông có thể cho chúng tôi biết ông đã thấy và đã làm những gì không?


-Tôi thú nhận là tôi nghi Stangerson có dính líu vào cái chết của Drebber. Vì vậy nên tôi cố tìm ra tông tích viên thư ký. Ngày mồng 3, người ta thấy hai thầy trò họ đứng cùng với nhau tại nhà ga Euston vào lúc tám giờ rưỡi. Đến hai giờ sáng thì thấy xác Drebber tại đường Brixton. Vấn đề đặt ra với tôi là đi xác định xem Stangerson đã làm gì và ở đâu từ lúc 8 giờ rưỡi tối đến lúc xảy ra án mạng và sau đó anh ta làm gì. Tôi đã đánh điện đi Liverpool, miêu tả hình dáng Stangerson và yêu cầu cảnh sát sở tại kiểm tra các tàu biển nhổ neo đi Mỹ. Sau đó, tôi sục sạo tất cả các khách sạn, các quán trọ xung quanh nhà ga Euston. Tôi tự bảo rằng nếu hai người chia tay nhau thì Stangerson sẽ đi kiếm một khách sạn khu vực lân cận để qua đêm và sáng hôm sau trở lại nhà ga.


-Rất có thể hai người đã hẹn trước với nhau ở một nơi nào đó - Homles đưa ra ý kiến của mình.


-Đúng thế ... tôi đã mất cả tối hôm qua đi điều tra mà không kết quả. Sáng nay, tôi lại bắt tay vào việc từ sớm và khoảng tám giờ, tôi đến khách sạn Holiday. Khi tôi hỏi trong khách sạn có người khách nào tên là Stangerson không thì người ta trả lời là có.


-Ông là người mà ông ta đang chờ phải không? - Người ta hỏi tôi - Ông ấy chờ một người từ hai hôm nay.


-Hiện thời ông ấy ở đâu?


-Đang ở trong phòng ông ấy, trên gác. Ông ấy yêu cầu chúng tôi lên gọi ông ấy vào chín giờ sáng.


Chú bé đánh giày trong khách sạn dẫn tôi đến phòng Stangerson, chỉ cho tôi cửa phòng và toan đi xuống thì bỗng tôi nhìn thấy một dòng máu đỏ rỉ qua khe cửa, chảy ngang qua hành lang và đọng lại thành một vũng nhỏ dọc tấm gỗ lát chân tường, mé bên kai hành lang. Tôi kêu lên một tiếng và chú bé đánh giày quay lại. Cửa buồng khóa phía trong. Chúng tôi lấy vai xô tung ra. Cửa sổ gian buồng để mở và bên cạnh cửa sổ là xác một ngươi đàn ông mặc đồ ngủ ở tư thế nằm phủ phục. Nạn nhân chết khá lâu vì tay chân cứng và lạnh. Lật xác lên, nhân viên khách sạn nhận ra ngay đó là người thuê phòng dưới cái tên Stangerson. Nạn nhân bị một nhát dao găm đâm vào dưới sườn. Mũi dao sâu đến tận tim. Bây giờ, đây là điều quái gở nhất trong vụ này. Các ông tưởng tượng xem có gì bên dưới cái xác.


Holmes cắt lời:


-Chữ " Rache " viết bằng máu.


-Đúng thế - Nỗi khiếp sợ lộ rõ trong giọng nói của Lestrade và tất cả chúng tôi đền lặng đi một lúc-Trong các hành động của tên hung thủ lạ mặt kia có một cái gì tuần tự và bí hiểm làm cho các tội ác của hắn càng thêm khủng khiếp:


Lestrade nói tiếp:


-Có ngươi đã trong thấy hung thủ. Một người bán sữa đến cửa hàng của mình bằng lối đi men theo các chuồng ngựa ở mé sau khách sạn. Anh ta thấy một cái thang, thuờng vẫn để nằm dưới đất, nay được dựng lên áp vào một cửa sổ mở rộng ở tầng hai. Anh ta đã đi qua chổ cái thang rồi bỗng ngoái lại thì thấy một người đang tuột xuống. Người đó bình thản, ngang nhiên, khiến anh bán sữa tưởng là một bác thợ mộc đến làm việc cho khách sạn. Anh ta phảng phất thấy người kia có vóc dáng cao lớn, mặt đỏ sậm và mặc bộ đồ nâu. Hung thủ có lẽ đã ở lại trong phòng một thời gian ngắn sau khi hạ sát nạn nhân vì chúng tôi tìm thấy chậu nước mà hắn đã rửa tay nhuộm màu máu, và thấy có những vết máu trên khăn trải giường hắn đã bình tĩnh chùi dao.


Tôi nhìn sang Holmes khi nghe lời miêu tả hình dáng hung thủ rất khớp với sự miêu tả của bạn tôi. Anh hỏi:


-Ông có tìm thấy gì trong phòng khả dĩ cho biết thêm về hung thủ không?


-Không có gì. Stangerson còn có trong túi ví tiền của Drebber nhưng hình như đó là điều thông thường giữa hai người vì Stangerson là ngươi chi tiêu mọi thứ. Ở hai vụ án này, động cơ chắc chắn không phải là tiền bạc. Không có giấy tờ, sổ sách gì trong túi nạn nhân, ngoài một bức điện gửi từ Cleveland cách đây một tháng ghi vẻn vẹn: "J.H. đang ở châu Âu". Bức điện không ký tên.


-Còn gì khác nữa không? - Holmes hỏi tiếp.


-Một cuốn tiểu thuyết đặt trên giường, cái tẩu thuốc để trên một chiếc ghế cạnh giường. Trên bàn có một cốc nước, và trên bậc cửa có một cái hộp nhỏ đựng hai viên thuốc.


Holmes ngồi bật dậy, reo lên vui vẻ:


-Khâu cuối cùng! Cuộc điều tra của tôi thế là trọn vẹn!


Hai nhà thám tử kia nhìn anh khó hiểu.


Bạn tôi nói với vẻ tin tưởng:


-Tôi đã có trong tay tất cả những sợi dây đã đan bện với nhau một cách rắc rối. Tất nhiên, còn có những cho tiết cần phải bổ sung. Tôi sẽ dẫn ra đây một bằng chứng về những điều tôi biết. Ông có đem theo mấy viên thuốc ấy không?


-Tôi có đây - Lestrade liền giơ ra một cái hộp trắng nhỏ - Tôi giữ lấy nó cùng với cái ví và bức điện, định đem về nộp cho Sở Cảnh Sát. Tôi đem theo những viên thuốc này cũng là tình cờ thôi vì tôi coi chúng không có gì quan trọng.


-Xin ông đưa cho tôi - Holmes bảo - Này, bác sỹ, đây có phải là những viên thuốc thông thường không?


Hai viên thuốc trông rất giống những viên thuốc thông thường. Đó là những viên thuốc tròn, nhỏ, màu ngọc xám và gần như trong suốt. Tôi nhận xét:


-Viên thuốc trong suốt và nhẹ, tôi nghĩ nó dễ hòa tan trong nước.


-Đúng thế - Holmes nói - Bây giờ, xin các anh làm ơn xuống nhà đem hộ tôi lên đây con chó già ốm yếu mà hôm qua bà chủ nhà nhờ anh giúp nó sớm về chầu tổ tiên.


Tôi xuống nhà, ôm con chó lên. Mắt nó lờ đờ, hơi thở hổn hển. Thực vậy, mõm nó trắng như tuyết cho thấy nó đã sống quá cái thời hạn sống thông thường của một con chó. Tôi đặt nó xuống tấm nệm rơm.


-Bây giờ tôi sẽ bẻ một trong hai viên thuốc này ra làm đôi - Holmes vừa nói vừa làm - Tôi cất đi một nửa vào trong hộp để dùng về sau. Một nửa kia, tôi bỏ vào chiếc cốc này cùng với một thìa nước. Ta sẽ thấy ông bạn bác sỹ của chúng ta đã đoán đúng là nó dễ tan trong nước.


-Nó có dính dáng gì đến cái chết của Stangerson đâu? - Lestrade nói, giọng bực tức.


-Kiên nhẫn một chút! Có dính dáng nhiều lắm. Bây giờ tôi pha thêm một chút sữa cho dễ uống. Đem cho chó, ta thấy nó vội vã tớp ngay.


Con vật uống hết chỗ nước pha sữa ấy, rồi liếm đĩa. Vẻ nghiêm trang của Holmes đã khiến chúng tôi im lặng quan sát con vật. Nó nằm xuống trên chiếc đệm, hơi thở nặng nề, sức khỏe của nó không tăng lên hoặc giảm đi sau khi uống.


Holmes rút đồng hồ ra xem và mỗi phút trôi qua, sự bực bội và thất vọng càng hiện rõ trên nét mặt anh. Anh bặm môi, gõ tay lên bàn, thể hiện sự nôn nóng cao độ. Tôi thấy thương anh trong khi các nhà thám tử kia nở một nụ cười giễu cợt.


-Không thể có chuyện ngẫu nhiên - Cuối cùng Holmes kêu lên, từ chiếc ghế bành bật đứng dậy, lồng lộn như một con thú trong phòng - Đây không thể là một việc ngẫu nhiên được. Chính những viên thuốc mà tôi đã ngờ tham dự vào cái chết của Drebber, ta đã gặp lại chúng ở cái chết của Stangerson. Vậy mà hiện giờ chúng lại không có tác dụng gì cả, thế là làm sao? A! tôi đoán ra rồi!


Reo lên một tiếng mừng rỡ, Holmes nhảy bổ về phía hộp thuốc, bẻ viên thuốc thứ hai làm đôi, lại thả một nửa vào cốc nước, cho thêm sữa rồi cho con chó uống. Lưỡi con chó chỉ vừa mới chạm vào chỗ nước ấy là toàn thân nó đã co giật dữ dội rồi nó nằm vật ra ngay đơ.


Holmes hít một hơi thở dài, quệt mồ hôi đọng trên trán:


-Trong hai viên thuốc vừa rồi, một viên chứa thuốc độc cực mạnh còn viên kia thì vô hại. Lẽ ra tôi phải hiểu điều đó ngay trước khi mở hộp.


Lời khẳng định này quá đỗi kỳ dị khiến tôi khó mà tin rằng bạn tôi còn đầy đủ lý trí. Tuy nhiên con chó chết nằm kia, nó chứng tỏ giả thiết của Holmes là đúng.


Tôi thấy hình như đám sương mù trong đầu tôi dần dần tan đi.


-Những điều này đối với các ông có vẻ lạ lùng - Holmes nói tiếp - Ấy là vì ngay từ cuộc điều tra, các ông đã không nắm được các dấu vết quan trọng ở trước mắt các ông. Tôi có cái may mắn là đã không để lọt cái dấu vết ấy và tất cả những sự việc diễn ra sau đấy đều xác nhận giả thiết đầu của tôi. Việc khám phá vụ án này sẽ vô cùng khó khăn nếu như ta tìm thấy xác nạn nhân trên hè đường không kèm theo chi tiết nào trong số những chi tiết phụ lạ lùng và khác thường. Những chi tiết kỳ quái ấy, không làm cho vụ án khó khăn thêm mà ....


Gregson nghe bài diễn văn nhỏ của Homles với vẻ hết sức nôn nóng, cuối cùng không kìm được thêm nữa:


-Chúng tôi thừa nhận là ông có những phương pháp làm việc riêng rất độc đáo. Nhưng, giờ đây vấn đề là phải bắt được hung thủ. Bây giờ chúng tôi xin hỏi thẳng là ông đã biết hung thủ là ai chưa?


Lestrade phụ họa thêm:


-Gregson nói có lý, ông Holmes ạ. Chúng tôi đã cố công gắng sức, nhưng đều đã thất bại.


Tôi cũng thêm ý kiến:


-Mọi sự chậm trễ trong việc bắt giữ hung thủ có thể làm cho nó có thời gian gây thêm án mạng mới.


Bị mọi người dồn ép như vậy, Holmes có vẻ lưỡng lự. Anh tiếp tục đi đi lại lại trong phòng, đầu gục xuống ngực, hai hàng lông mày nheo lại như thói thường ở anh trong những lúc mải mê suy nghĩ. Cuối cùng, Holmes đột ngột dừng lại, nhìn thẳng vào mặt chúng tôi:


-Sẽ không xảy ra án mạng nào nữa. Các ông hỏi tôi có biết tên hung thủ không. Có, tôi biết, tôi đã dự định bắt hắn từ lâu rồi, nhưng đây là một việc cần phải thận trọng, vì hắn là một kẻ lực lưỡng, khôn ngoan, liều lĩnh và được một kẻ khôn khéo giúp sức. Chừng nào hung thủ chưa biết chúng ta đã nắm trong tay mọi bằng chứng tố cáo hắn thì ta còn có cơ hội bắt hắn, nhưng nếu hắn có một chút nghi ngờ nào thì hắn sẽ thay tên đổi họ và tan biến vào bốn triệu người dân thành phố này ngay. Tuy không muốn làm tổn thương đến lòng tự ái của hai ông, nhưng sự thật tôi coi những người ấy còn mạnh hơn cảnh sát của Scotland Yard, bởi vậy tôi không yêu cầu các ông giúp đỡ. Nếu thất bại, một mình tôi chịu. Trong lúc này, khi nào tôi có thể thông báo với các ông mà không phương hại đến các sự bố trí của tôi thì tôi sẽ làm ngay.


Gregson, và Lestrade, một người đỏ mặt đến tận chân tóc, một người mắt long lên vì tò mò và ác cảm. Tuy nhiên, cả hai người chưa kịp nói lời nào thì đã có tiếng gõ cửa. Thằng bé Wiggins ló đầu vào, giơ tay chào:


-Thưa ông, cháu đã gọi được một chiếc xe dưới nhà.


-Giỏi lắm! - Holmes nhẹ nhàng khen, rồi lôi trong ngăn kéo ra một vòng khóa tay bằng thép, nói tiếp: - Các ông ở Scotland Yard sao không dùng loại khóa tay này nhỉ. Các ông xem lò xo bật có lẹ không: vòng khóa bập vào trong nháy mắt.


Lestrade mỉa mai:


-Cái khóa kiểu cũ cũng khá tốt nếu như ta tìm được người để khóa.


-Được rồi, được rồi - Holmes cười mỉm - Bác đánh xe sẽ giúp tôi một tay để buộc những chiếc va-li này. Wiggins bảo bác đánh xe lên đây.


Tôi ngạc nhiên thấy bạn tôi nói năng như thể sắp đi đâu xa mà chẳng nói trước gì với tôi cả. Trong phòng có một chiếc va-li nhỏ. Holmes cầm lấy chiếc va-li tìm cách xiết chặt cái dây đai. Anh đang mải làm thì người đánh xe vào.


-Bác đánh xe. Giúp tôi một tay thắt mấy cái đai này - Holmes nói, không quay đầu lại.


Anh đang quỳ gối xuống sàn, cúi người trên chiếc va-li. Người đánh xe bước lại, vẻ lầm lì và ngờ vực, ấn tay lên chiếc va-li. Ngay lúc ấy, có tiếng lò xo bật đánh tách một cái và Holmes đứng thẳng ngươi lên, mắt sáng ngời:


-Thưa các vị, tôi xin giới thiệu đây là Jefferson Hope, kẻ đã giết Drebber và Stangerson.


Toàn bộ sự việc diễn ra trong nháy mắt, nhanh đến nỗi tôi không kịp nhận ra. Tôi còn nhớ như in giây phút đó, vẻ mặt đắc thắng và giọng nói vang vang của Holmes, gương mặt bàng hoàng và dữ dội của ngươi đánh xe khi anh ta nhìn thấy cái khóa tay sáng loáng như có phép thần thông đang xiết chặt lấy hai cổ tay anh ta. Tất cả chúng tôi đứng ngay ra như phỗng dễ đến một hai phút. Gầm lên một tiếng, người đánh xe vùng ra khỏi tay Holmes, lao mình ra cửa sổ. Các ô cửa mỏng manh gẫy tan cùng với các ô kính nhưng hắn chưa nhô được hẳn người ra ngoài thì cả Gregson, Lestrade lẫn Holmes đã chồm lên ngươi hắn, lôi ngược hắn và trong phòng. Gã đánh xe khỏe và hung dữ đến nỗi hắn đã nhiều lần vùng ra được khỏi tám bàn tay chúng tôi. Mặt và bàn tay hắn bị rách toạc nhiều chỗ khi hắn lao qua cửa kính, nhưng sự chống cực của hắn không hề giảm đi chút nào. Mãi đến khi Lestrade thọc tay được. vào sau cổ áo hắn, làm hắn suýt nghẹt thở, hắn mới im. Dù sao chúng tôi phải trói cả chân tay hắn lại mới cảm thấy yên tâm. Sau đó, chúng tôi đứng dậy mệt nhoài.


-Ta có chiếc xe của hắn bên dưới kia. Ta dùng xe ấy giải hắn. Bây giờ, nào các ông - Holmes tươi cười - tấm màn bí ẩn đến đây đã được vén lên rồi. Các ông muốn hỏi tôi câu gì thì hỏi.

Chương 8:

Nằm ở phần giữa Bắc Mỹ là một dải đất hoang vu và cằn cỗi. Trong nhiều năm dài, nó như một cái hàng rào ngăn chặn bước tiến cửa nền văn minh. Suốt từ dãy núi Sierra Nevada đến bang Nebraska, từ con sông Yellowstone ở phía Bắc đến bang Colorado ở phía Nam, là cả một vùng hoang vắng im lìm. Cảnh vật trên thay đổi tùy theo từng vùng. Nơi là những rặng núi hùng vĩ với những đỉnh cao đầy tuyết, nơi là những thung lũng tối đen, sầu thảm. Nơi lại là những con sông chảy xiết với dòng nước ào ào băng qua những hẻm núi và những cánh đồng bao la, mùa đông tuyết trắng, mùa hè xám xịt. Tuy nhiên, tất cả những cảnh vật rất khác nhau ấy đều có chung những đặc điểm là cằn cỗi, là hiểm ác, là đói khát.


Không ai sinh sống tại cái xứ sở vô vọng này. Họa hoằn mới có một toán người da đỏ vượt qua nó, đi tìm những vùng đất săn bắn mới, song họ cũng phải lánh xa những cánh đồng ấy và trở lại những đồng cỏ cũ của họ. Con sói náu mình trong bụi cây xơ xác, con chim ó đập cánh nặng nề trên không và con gấu xám vụng về lê chân trong những khe núi u tối. Đó là những dân cư hiếm hoi ở dải đất hoang vu này.


Trên khắp thế giới, không thể có cảnh tượng nào sầu thảm hơn cảnh tượng trải ra dưới mắt khi ta đứng ở triền phía bắc rặng núi Sierra Blanco nhìn xuống. Trải dài ra xa đến tận cùng của tấm mắt là một vùng đồng bằng mênh mông phẳng lì, nham nhở những khoanh đất và những bụi cây lùn tịt. Ở tận cùng chân trời nổi lên một dãy núi dài với sườn núi dựng đứng và đỉnh núi loang lổ tuyết. Trên cả vùng đất bao la, không có một dấu hiệu về sự sống, không có lấy một cánh chim trên bầu trời xanh biếc, không có lấy một vật di động trên mặt đất thê lương. Bao trùm lên tất cả sa mạc mênh mông này, chỉ có sự im lặng, ghê rợn.


Ở trên vừa nói là không có một thứ gì liên quan đến sự sống trên dải đất này. Điều đó không hoàn toàn đúng. Khi đứng trên rặng núi Sierra Blanco nhìn xuống dưới, ta nhận thấy có một con đường mòn nhỏ xíu, như một sợi chỉ ngoằn ngoèo uốn khúc qua sa mạc và chìm đi ở cuối tầm mắt. Những bánh xe đã in hằn xuống thành rãnh trên con đường này, bàn chân của nhiều kẻ phiêu lưu đã dẫm trên đó. Rải rác dọc con đường có rất nhiều vật gì trăng trắng, bóng lên dưới ánh nắng mặt trời và nổi lên trên lớp đất buồn thảm. Hãy lại gần, nhìn xem. Đó là những khúc xương. Khúc thì to và thô kệch, khúc thì nhỏ hơn, xương to là xương bò, xương nhỏ là xương người. Suốt con đường dài trên hai nghìn kilômet, rải rác hài cốt của những kẻ đã ngã xuống.


Ngày 4 tháng 5 năm 1847, có một người bộ hành cô đơn đứng ở đúng vị trí nói trên nhìn xuống cảnh ấy. Khó nói được tuổi ông ta khoảng bốn mươi hay sáu mươị Khuôn mặt gầy dũ tợn, xương trồi lên nhọn hoắt dưới lớp da đen sạm và nứt nẻ, tóc dài và đen, râu có nhiều sợi bạc, hai con mắt lõm sâu trong hia hốc mắt rực lên một ánh khác thường, và bàn tay xương xẩu nắm lấy khẩu súng trường. Ông ta đứng đó, dựa người vào khẩu súng, bộ mặt chỉ còn da bọc xương cũng như bộ quần áo rộng thùng thình trên đôi chân và đôi tay khẳng khiu chỉ rõ nguyên nhân của vẻ tàn tạ, và già nua: người sắp chết vì đói khát.


Ông ta lần bước xuống khe núi rồi lại leo lên tận mỏm đồi thấp này để nhìn xem chỗ nào có dấu hiện của nước. Ông ta lo lắng nhìn về phương Bắc, phương Đông rồi phương Tây và hiểu rằng những cuộc hành trình tứ xứ của mình sẽ kết thúc ở đây, trên tảng đá cằn cỗi này.


-Tại sao lại không phải là ở đây, sau hai mươi năm nữa? - Ông ta thì thào rồi ngồi xuống dưới bóng một tảng đá.


Trước khi ngồi, ông ta đặt khẩu súng và túi đồ buộc trong chiếc khăn quàng. Tức thì từ cái túi ấy vọng ra một tiếng rên nho nhỏ và một gương mặt hiện ra.


-Bác là cháu đau rồi đấy, - Một giọng trẻ thơ khẽ trách.


-Thật ư, cháu? - Người đàn ông trả lời, ân hận - Bác lỡ tay mà.


Vừa nói ông ta vừa cởi tấm khăn xám, để lộ một bé gái khoảng năm tuổi. Đôi giày nhỏ nhắn với chiếc váy hồng đỏm dáng dưới chiếc tạp đề nhỏ nói lên sự chăm sóc của một người mẹ. Đứa trẻ xanh xao và mệt mỏi, nhưng không bị suy sụp bằng người đồng hành của nó.


-Còn đau không, cháu? - Người đàn ông lo lắng hỏi, vì đứa bé vẫn xoa những búp tóc quăn vàng óng rối bù đằng sau gáy.


-Bác hôn vào đây chữa đền cháu đi - Đứa bé nói với vẻ nghiêm trang thật sự, tay chỉ vào chỗ đau - Mẹ cháu vẫn làm thế. Mẹ cháu đâu rồi?


-Mẹ cháu đi rồi. Tí nữa cháu sẽ gặp mẹ cháu.


-Đi rồi ạ? Lạ nhỉ, mẹ cháu đi mà không chào cháu. Bác ơi, khát quá? Không có nước sao? Bác không có gì để an sao?


-Không có, cháu a.. Cháu cố chờ một chút rồi sẽ ổn. Cháu dựa đầu vào bác đây, như thế cháu sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Cháu có cái gì đấy?


-Cháu có cái này đẹp lắm - Đứa bé reo lên, giơ ra hai mẩu mi-ca óng ánh - Khi về đến nhà, cháu sẽ cho anh cháu.


-Rồi cháu sẽ thấy những thứ còn đẹp hơn thế. Chỉ cần cố nán chờ một lát. Cháu còn nhớ lúc chúng ta rời khỏi dòng sông không?


-Dạ có.


-Thế đấy! Lúc ấy chúng ta tính sẽ gặp được một con sông khác. Nhưng chúng ta không gặp sông. Nước mỗi lúc một ít. Chỉ còn một hai giọt cho các cháu nhỏ, và .. và ....


-Và bác không rửa mặt được, - Đứa bé xen ngang, giọng nghiêm trang, mắt nhìn chằm chằm vào bộ mặt nhem nhuốt của ông già.


-Đến nước uống còn không có, cháu ạ. Ông Bender là người đầu tiên ra đi, rồi đến anh da đỏ Pete, rồi bà McGregor, rồi Johnny Hones, và sau cùng là mẹ cháu.


-Thế là mẹ cháu ... Mẹ cháu cũng chết rồi! - Đứa bé kêu lên, lấy tạp dề che mặt và khóc nức nở.


-Phải, tất cả đã chết hết, chỉ còn lại có bác cháu tạ Lúc đó ta tưởng may ra có thể tìm thấy nước ở mạn này.


-Bác bảo là cháu và bác sẽ chết nốt à? - Đứa bé thôi khóc, ngẩng bộ mặt đầm đìa nước mắt lên.


-Ta nghĩ chắc sẽ gần như vậy.


-Sao bác không nói ngay? Đứa bé reo lên với một tiếng cười vui vẻ - Bác đã làm cháu sợ quá! Nếu bác và cháu chết thì sẽ được gặp mẹ cháu.


-Phải, cháu sẽ đến với mẹ cháu.


-Cả bác nữa. Cháu sẽ kể là bác tốt với cháu biết baọ Mẹ cháu sẽ đón bác ngay cổng thiên đường, với một cái xô đầy nước và những chiếc bánh ngọt bằng lúa mạch thật nóng. Còn lâu nữa không bác?


-Không lâu lắm đâụ


Trên bầu trời xuất hiện ba cái chấm nhỏ đang tiến về phía họ, mỗi lúc một to hơn. Chẳng mấy chốc, ba cái chấm ấy trở thành ba con chim nâu to lớn, chúng bắt đầu lượn thành vòng tròn trên đầu hai kẻ lang thang, rồi đậu trên những tảng đá mọc chìa ra. Đó là những con ó của miền Tây, những con chim báo hiệu cái chết.


-Ô, gà, bác kìa! Đứa bé kêu lên vui vẻ, chỉ về phía những con chim mang điềm gở, vỗ hai tay vào với nhau để xua chúng Baynes đị - Bác ơi, có phải là Chúa tạo ra vùng này không?


-Ừ.


--Chúa đã tạo ra vùng đất đằng kia, ở bang Illinois. Chúa đã tạo ra bang Missouri - Đứa trẻ nói tiếp.


-Chắc là một Chúa khác đã tạo ra đất này. Đất ở đây còn xa mới bằng được các nơi kiạ Chúa đã quên làm cho ở đây có nước và cỏ cây.


-Này, bác cháu ta cầu kinh nhé? - Người đàn ông dè dặt hỏi.


-Đã đến tối đâu.


-Không cần đến tối.


-Thế sao bác không cầu kinh một mình? - Đứa bé hỏi, đôi mắt ngạc nhiên.


-Ta không thuộc. Ta đã không đọc kinh từ khi ta mới cao bằng nửa khẩu súng này. Cháu cầu kinh đi, bác đọc theo.


-Thế thì bác phải quỳ xuống - Đứa bé rải tấm khăn xuống đất để quỳ - Bác phải đặt bàn tay như thế này. Như thế là ngoan hơn.


Hai người quỳ gối bên cạnh nhau trên tấm khăn nhỏ. Gương mặt bầu bĩnh của đứa trẻ và bộ mặt gân guốc dũ tợn của người đàn ông dùng ngửa lên bầu trời. Cầu kinh xong, họ lại trở về ngồi bên bóng của tảng đá cho đến khi đứa trẻ ngủ thiếp đi. Đã ba ngày đêm liền, ông ta không cho phép mình dừng bước hoặc nghỉ ngơi Từ từ mí mắt ông ta cụp xuống, đầu cũng gục xuống mỗi lúc một thấp hơn cho đến khi bộ râu hòa vào những búp tóc vàng và cả hai đi vào một giấc ngủ sâu lắng, không mộng mị.


Nếu thức thêm nửa giờ nữa, ông ta sẽ được thấy một cảnh tượng kỳ la.. Từ xa, từ rất xa, bốc lên một đám bụi nhỏ mờ mờ, rất nhỏ và rất nhẹ đến nổi khó phân biệt nó với lớp sương mù. Những đám bụi ấy tiếp tục bốc lên, lớn dần cho đến khi tạo thành một đám mây bụi rõ rệt. Rồi đám mây ấy cũng không ngừng lớn dần. Ở những mảnh đất phì nhiêu hơn, ai thấy cảnh ấy cũng sẽ cho rằng đây là đàn bò rừng đang tiến về phía mình. Nhưng ở vùng đất hoang vắng này, điều đó không thể có. Khi đám mây bụi đến hiện ra những mui vòm phủ bạt của những chiếc xe ngựa vượt sa mạc, và hình bóng thấp thoáng của những người cưỡi ngựa có vũ khí, cho thấy đây là một đoàn xe rất dài đang tiến về phía Tây. Đầu đoàn xe đã tới chân núi mà đuôi đoàn xe vẫn còn chìm khuất ở cuối đường chân trời. Phụ nữ bước đi khó nhọc dưới gánh nặng trên vai. Trẻ em chạy lon ton bên cạnh các cỗ xe hoặc tò mò nhìn vào những thứ dưới mui vải bạt. Từ khối người to lớn này vang lên một tiếng ì ầm hỗn độn, xen lẫn tiếng ngựa hí và tiếng bánh xe rầm rập. Tiếng ì ầm ấy lớn đến vậy song vẫn không đánh thức nổi hai bác cháu.


Đi đầu đoàn người di cư là một nhóm khoảng hai mươi người cuõi ngựa. Đến chân tảng đá, họ dừng ngựa, quay lại với nhau, dường như để hội ý.


Một người không râu, tóc hoa râm, nét mặc độc ác nói:


-Giếng nước ở về phía bên phải, giáo hữa a..


Một người khác nói tiếp:


-Ở về phía bên rặng núi Sierra Blancọ Theo đường đó, chúng ta sẽ tới con sông Rio Grande. Người thứ ba nói lớn:


-Ta chớ sợ hãi trước sự xuất hiện của dòng nước. Đấng tối cao đã làm cho dòng nước tuôn ra từ đá, sẽ không từ bỏ đám dân mà Người đã tuyển chọn.


-Amen! Amen! - Cả nhóm người đáp lại.


Họ sắp sửa lại lên đường thì một người reo lên kinh ngạc và chỉ tay về tảng đá ở phía trên đầu họ. Ở chổ ấy có một mẩu vải màu hồng phất phới bay. Nhìn thấy thế, họ ghìm ngựa lại, cầm súng lăm lăm trong khi những người khác phi ngựa đến tăng cường. Những tiếng "bọn da đỏ" được lan truyền cửa miệng mọi người.


-Ở đây không có bọn da đỏ - Một người đứng tuổi xem chừng là thủ lĩnh nói: - Ta đã vượt núi.


-Giáo hữu Stangerson, tôi xin đi trinh sát - Một người trong toán nói.


-Tôi nữa. Tôi nữa - Khoảng một chục giọng nói khác cùng vang lên.


Người tên là Stangerson trả lời:


-Các bạn trẻ hãy để ngựa lại đây, chúng ta sẽ chờ.


Thoáng một cái, mấy người trai trẻ đã xuống ngựa, chạy Baynes lên sườn đồi dốc đứng. Sau một thóang, bóng của họ nổi bật trên nền trời. Người thanh niên đã báo động cho cả đoàn dẫn đầu, cả toán theo saụ Bỗng họ thấy gã giơ cả hai tay lên trời với động tác của một người quá đỗi ngạc nhiên. Khi họ đến chỗ gã, họ cũng không kém kinh ngạc.


Nằm dựa trên tảng đá là một người đàn ông và một bé gái. Đầu đứa bé đặt trên mảnh áo nhưng trên ngực người đàn ông. Đôi chân bụ bẫm mang tất dài xỏ trong một đôi giày xinh xắn tương phản với đôi chân khẳng khiu, khô đét của người đàn ông. Đậu trên đỉnh tảng đá, nhìn xuống cặp lữ khách kỳ quặc này, là ba con ó lớn. Thấy đám người mới đến, chúng kêu lên những tiếng thất vọng, rồi không chờ đợi nữa, nặng nề vỗ cánh bay đi


Tiếng kêu của những con chim, đã đánh thức hai người. Họ nhìn xung quanh với một vẻ cực kỳ sửng sốt. Người đàn ông lảo đảo đứng dậy, nhìn xuống bình nguyên, thấy đám người chen chúc, ông ta đưa bàn tay xương xẩu lên dụi mắt, lẩm bẩm:


-Ta mê sảng chăng?


Đứa bé gái nắm lấy gấu tạp dề, im lặng nhìn khắp xung quanh.


Một người trong đám ấy đặt đứa bé lên vai mình, trong khi những người khác dìu người đàn ông về chỗ các xe ngựa. Người đàn ông nói:


-Tôi tên là John Ferrier. Cả một đoàn hai mươi mốt người chỉ còn lại có tôi và đứa trẻ này. Những người kia đã chết ở đằng kia, phía phương Nam.


-Có phải con gái ông đấy không?


-Bây giờ nó mới là con tôi. Kể từ hôm nay, nó mang tên là Lucy Ferrier. Thế còn các ông là ai? - Ông ta tò mò nhìn những người đã cứu mình.


Một trong số những người trai trẻ kia đáp:


-Chúng tôi gần mười nghìn người. Chúng tôi là những đứa con bị ngược đãi của Chúa, những người dân được thiên thần Moroni tuyển chọn.


Người đàn ông đáp:


-Tôi chưa bao giờ được nghe nói. Vị thiên thần ấy tuyển chọn quá nhiều đấy.


-Không được giễu cợt những điêu thiêng liêng - Giọng người kia nghiêm khắc - Chúng tôi là những tín đồ tin ở các Thánh kinh của thiên thần Moroni. Chúng tôi xuất phát từ Nauvoo bang Illionis, nơi chúng tôi đã dựng lên ngôi đền của đạo chúng tôi. Chúng tôi đi tìm một nơi ẩn náu xa bọn người bạo tàn vô Chúa, một nơi mà chúng tôi sẽ phải tìm ra ở trung tâm sa mạc.


Cái tên Nauvoo gợi lại một vài ký ức cho John. Ông nói:


-Tôi biết rồi. Các ông là người Mormons.


-Phải - Đám người kia đồng thanh trả lời.


-Các ông định đi đâu?


-Chúng tôi không biết. Bàn tay của Chúa dẫn dắt chúng tôi thông qua các vị giáo chủ. Ông phải ra trình diện trước giáo chủ.


Lúc đó, họ đã xuống đến chân đồi. Nhiều tiếng kêu kinh ngạc và thương xót vang lên khi họ thấy hai người lạ mặt kiệt quệ. Đám người kia không dừng lại mà dẫn họ đi tiếp tới một chiếc xe khác biệt hẳn với các xe khác. Chiếc xe này có sáu ngựa kéo trong khi các xe khác chỉ hai hoặc bốn ngựa. Ngồi bên cạnh người đánh xe là một người đàn ông tuổi không quá ba mươi, nhưng cái đầu bề thế và nét mặt kiên nghị cho thấy đó là một kẻ biết điều khiển người khác. Khi đám người kéo tới, người ấy bỏ quyển sách xuống, chăm chú nghe kể lại. Sau đó, người ấy quay sang hai kẻ phiêu bạt:


-Nếu các người muốn được nhập vào đoàn thì ta chỉ có thể nhận các người như những tín đồn thuộc đạo giáo chúng tạ Thà để cho xương các người phơi trắng trên sa mạc hơn là để cho các người trở thành một vết đen trong đoàn chúng tạ Các người có muốn gia nhập với điều kiện ấy không?


-Tôi xin gia nhập với bất kỳ điều kiện nào.


-Giáo hữu Stangerson, hãy mang đồ ăn và thức uống đến cho hắn, và cả đứa trẻ nữa. Giáo hữu còn có nhiệm vụ dạy cho hắn tín ngưỡng của chúng ta. Thôi, ta đi thôi. Tiến lên! Tiến về Zion!


-Tiến lên! Tiến về Zion! Đám người Mormons đồng thanh nhắc lại, và những tiếng đó truyền đi từ miệng người này sang miệng người khác dọc theo cả đoàn người dài dằng đặc cho đến khi chìm đi thành một âm thanh mơ hồ ở tít xa xa. Tiếng roi ngựa quất, tiếng xe kẽo kẹt chuyển mình, cỗ xe lớn lăn bánh trước, rồi cả đoàn xe một lần nữa lại ra đi theo con đường mòn lượn khúc trên bình nguyên. Stangerson đưa họ đến cỗ xe của mình, ở đó đã dọn sẵn một bữa cơm.


-Các người chớ quên rằng bây giờ và mãi mãi sau này các người là thành viên của đạo giáo chúng tôi.

Chương 9:

Từ bờ sông Mississippi đến triền phía tây của rặng núi đá, những người dân cư Mormons không ngừng đấu tranh với thú dũ, đói khát, bệnh tật, và những đoàn người thù địch ... Tất cả đều đã vượt qua nhờ ở tính kiên trì và quả cảm của giống người Anglo-Saxon. Tuy vậy cuộc hành trình dài cùng với những nổi thống khổ đã làm lung lay cả những trái tim vững vàng nhất. Không ai không quỳ xuống, lầm rầm đọc một bản kinh cầu tạ ơn khi họ nhìn thấy thung lũng Utah rộng lớn và ngập nắng mà giáo chủ của họ bảo rằng sẽ vĩnh viễn thuộc về họ.


Young là một nhà cai trị khôn khéo và kiên quyết. Ông ta cho vẽ bản đồ, lập quy hoạch cho thành phố tương lai, phân chia đất đai tùy theo địa vị của từng người. Ai giỏi nghề nào tiếp tục làm nghề ấy. Họ ngả cây, đốn gỗ, san đất, cắm rào, đào mương, xẻ rãnh và mùa hè năm sau đất đai đã được phủ một màu vàng óng của lúa chín. Mọi sự trồng trọt và làm ăn đều phồn thịnh. Ngôi đền lớn dựng lên ở chính giữa thành phố mõi ngày một cao hơn, rộng hơn. Từ bình minh cho đến hoàng hôn, tiếng búa, tiếng cưa không ngừng vang lên trong nhà thờ.


Cô bé Lucy được ngồi trên chiếc xe của tông đồ Stangerson cùng với ba người vợ và con trai mười hai tuổi của ông ta. Với sức bật của tuổi thơ, cô bé vượt qua được nỗi đau buồn mất mẹ và chẳng bao lâu, cô bé thích nghi với cuộc sống trong ngôi nhà di động của mình và được các phụ nữ Mormons yêu quý. Sức khỏe của John cũng đã được phục hồi, ông ta tỏ ra là một ngươi dẫn đường hữu ích và một người đi săn không mệt mỏi.


Ông nhanh chóng được những người đồng hành quý trọng khi đến vùng đất hứa, họ nhất trí cấp cho ông một khoảnh đất to bằng phần đất của những kẻ hưởng nhiều đặc quyền, chỉ kém có giáo chủ và bốn tông đồ: Stangerson, Kemball, Johnston và Drebber.


Trên phần đất của mình, John dựng lên một ngôi nhà gỗ vững chãi, rồi xây thêm dần và chẳng bao lâu ngôi nhà ấy trở thành một biệt thự rộng lớn. Ông là một người khéo léo và nhanh nhẹn trong mọi công việc, làm việc suốt từ sáng đến tối. Sau ba năm, ông vượt hẳn những người láng giềng. Sau sáu năm, ông rất sung túc và sau chín năm, ông trở nên giàu có. Và sau mười hai năm kể từ ngày những người Mormons đến sinh cơ lập nghiệp tại đây, không có tới mười người có thể sánh kịp ông.


Ở ông, chỉ có một điều duy nhất khiến các người đồng giáo nghi ngờ: ông chưa để phụ nữa đến sống với ông theo phong tục đa thệ Ông không đưa ra một lý do gì, mà chỉ kiên quyết giữ vững ý định của mình. Người thì trách ông là không thiết tha với đạo giáo, người thì cho rằng ông muốn làm giàu nên mới sống độc thân. Có người lại nói đến một chuyện tình xưa, một cô gái tóc vàng đã chết bên bờ Đại Tây Dương. Mặc ai muốn nói gì thì nói, ông dứt khoát sống với đứa con gái nuôi. Ngoài chuyện này ra, về tất cả mọi mặt khác, ông nổi tiếng là một tín đồ chính thống, công bằng chính trực.


Cô gái lớn lên trong ngôi nhà gỗ, giúp đỡ người bố nuôi trong mọi công việc. Nhờ không khí trong lành vùng núi và hương thơm của cây cỏ, Lucy ngày càng cao lớn, khỏe mạnh, đôi má hồng hào, bước chân dẻo dai, uyển chuyển. Như vậy đó, cái nụ hoa đã trở thành một bông hoa.


Một buổi sáng tháng sáu, trên con đường cái bụi mù có hàng đoàn dài la chở đầy hàng đi về hướng Tây vì cơn sốt vàng vừa mới bùng lên ở Californiafornia. Con đường đến đó lại chạy qua thành phố Salt Lake. Trên đường còn có những đàn cừu và bê ăn cỏ ở những cách đồng xa về và nhiều đoàn người di cư. Lucy cỡi ngựa ra phố, hai má đỏ bừng bừng, mái tóc dài vàng óc Baynes phất phới. Cô lách đường đi qua giữa đám người và vật đông đúc kia với tài nghệ của một người thành thạo. Như mọi lần, nàng cho ngựa phi như bay, chỉ nghĩ đến chuyện hoàn thành công việc cho bố. Người ta nhìn nàng với con mắt khâm phục và kinh ngạc; ngay cả những người da đỏ cũng xì xào về vẻ đẹp của nàng.


Khi ra tới rìa thành phố thì đường bị nghẽn vì có đàn bò lớn đi từ đồng cỏ về, nàng thúc ngựa theo một lối hở trong đàn bò. Nhưng vừa mới lọt vào trong đó thì đàn bò đã khép ngay lại và nàng bị vây vào giữa một biển di động những con bò sừng cong dài. Đã quen với việc chăn nuôi bò, ngựa, Lucy không hốt hoảng mà vẫn thúc ngựa tiến lên. Rủi thay, cặp sừng của một con bò húc mạnh vào sườn con ngựa. Nó hí vang, lồng lên, đứng thẳng trên hai vó sau, nếu nàng không giỏi tất đã bị hất ngã xuống rồi. Mà ngã xuống thì sẽ bị cả đàn bò giẫm nát ngaỵ Tình thế rất nguy hiển. Con ngựa càng lồng, càng va đụng vào những chiếc sừng nhọn hoắt của bò, và nó càng điên lên. Cô gái cố giữ mình trên lưng ngựa, nhưng chẳng mấy chốc, ngột ngạt vì bụi cuốn lên mù mịt và hơi nước nồng nặc phả ra từ đàn bò, nàng choáng váng, đầu óc quay cuồng, tay cương lỏng đi. May thay, vừa vặn lúc ấy có một bàn tay rắn chắc nắm lấy hàm thiếc con vật hoảng loạn, vạch lối qua đàn bò, đưa nàng đến rìa thành phố.


-Cô có bị thương không?


Lucy ngước mắt lên nhìn gương mặt rám nắng, cương nghị rồi cười giòn giã:


-Ồ, không, may quá! Tôi bị một phen hú viá.


-Cũng may là cô còn ngồi vững trên yên - Người thanh niên kia có dáng dấp của người quen sống ở nơi hoang dã, vóc người cao lớn, cường tráng. Anh mặc bộ đồ đi săn dày, cưỡi con ngựa nâu cao khoẻ, vai đeo khẩu súng dài - Chắc cô là con gái ông John. Tôi đã thấy cô đi ngựa từ nhà ra. Nhờ cô về hỏi cụ nhà có nhớ ông Hope ở Saint Louis không. Nếu đúng là ông John ấy thì cha tôi và cụ nhà là bạn thân với nhau.


-Sao anh không đến chơi, rồi hỏi thẳng cha tôi.


Anh thanh niên mừng rỡ trước lời mời gián tiếp:


-Tôi rất muốn đến, nhưng anh em chúng tôi vừa mới ở trên núi về, quần áo chưa được chỉnh tề, gia đình phải miễn thứ cho chúng tôị


-Cha tôi phải cám ơn anh nhiều, cả tôi nữa. Cha tôi rất quý tôi. Nếu tôi bị làm sao, chắc ông sẽ buồn lắm.


-Cả tôi nữa.


-Cả anh nữa? Ô hay, anh đã quen biết gì tôi đâu? - Giọng cô gái vẫn mang vẻ nghịch ngợm, trêu chọc.


Nghe thấy vậy, gương mặt rám nắng của anh thanh niên tối sầm lại khiến Lucy bật cười:


-Ấy không, tôi không cố ý nói thế đâu. Anh đã là bạn của cả gia đình rồi. Anh phải đến chơi đấy nhé, còn bây giờ tôi phảii đi đây. Tạm biệt!


-Tạm biệt!


Chàng trai tiếp tục đi theo mấy người bạn. Họ mới thăm dò được một mỏ bạc trên vùng núi Nevada và giờ đây họ về Salt Lake tìm chỗ vay mượn tiền để khai thác. Hope say mê kinh doanh, nhưng đến hôm nay, cuộc gặp gỡ này làm đảo lộn nếp sống của anh. Hình ảnh cô gái tươi mát và lành mạnh như ngọn gió đã lay động trái tim rắn rỏi của anh. Khi nàng đi khuất, anh bỗng nhận ra một biến cố mới xảy ra trong đời anh, bây giờ tất cả mọi công việc đều không quan trọng bằng vấn đề mới mẻ vừa được đặt ra.


Chàng đến thăm ông John ngay tối hôm đó và nhiều buổi khác nữa. Bị giam chân ở thung lũng vì công việc, ông John háo hức muốn biết những tin tức bên ngoài trong mười hai năm qua. Những câu chuyện mà chàng kể, làm say mê cô gái lẫn người cha. Anh đã từng làm đủ các nghề: hướng đạo, săn thú, tìm vàng, chăn bò. Ở đâu có những chuyện phiêu lưu mạo hiểm đòi hỏi sự gan dạ và lòng quả cảm là ở đó có mặt chàng.


Một buổi chiều hè, chàng ghìm ngựa trước cổng trang trại của ông John. Lucy ra đón, chàng vắt dây cương lên hàng rào và rảo bước vào nhà. Nắm lấy hai bàn tay cô gái anh bảo:


-Lucy, anh có việc buộc phải đi xa, em a.. Anh chưa thể xin cha em cho em đi cùng. Nhưng, hứa với anh đi, em sẽ đợi anh về nhé.


-Anh đi đâu, và bao giờ thì về? - Cô gái hỏi, lo lắng và thẹn thùng.


-Bọn anh bắt đầu đi khai thác những vùng mỏ mới ở Nevada, việc này chỉ mất độ hai tháng là xong thôi.


Buổi chia tay diễn ra vội vàng, song nhiều bịn rịn.


Chàng lên đường đã được ba tuần. Ông John thấy lòng se lại khi nghĩ đến ngày trở về của chàng rể và việc mình phải xa đứa con gái nuôi. Tuy vậy, gương mặt ngời sáng của nàng đã làm ông vui lòng với hôn ước này. Trong thâm tâm, ông vẫn không chịu để nàng lấy một người Mormons. Theo ông, một hôn nhân kiểu ấy là một điều ô nhục, riêng về điểm này, không gì có thể lay chuyển ông được. Tuy nhiên, ông giữ kín quyết tâm ấy, nếu không, ông sẽ gặp nguy hiểm.


Đúng, một điều nguy hiểm. Nguy hiểm đến nỗi ngay cả những người ngoan đạo nhất cũng chỉ dám thì thầm những ý kiến của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Cả tòa án dị giáo thời trung cổ ở Tây Ban Nha, lẫn những hội kín ở Ý đều chưa biết một bộ máy nào ghê gớm bằng cái bộ máy đang phủ bóng đen lên toàn bộ vùng đất Utah.


Nó như có tai mắt ở khắp mọi nơi và có quyền lực vạn năng. Kẻ nào có ý tưởng thù nghịch với giáo phái sẽ bị mất tích một cách bí hiểm. Vợ con họ chờ họ ở nhà nhưng họ không bao giờ trở về để kể lại cho vợ con biết họ đã bị xét xử như thế nào.


Trước hết, cái thế lực mơ hồ và ghê gớm này giáng xuống những kẻ dao động, những kẻ đã quy theo đạo Mormons mà sau đó lại muốn sửa đổi hoặc từ bỏ đạo này. Nhưng chẳng bao lâu, cái thế lực ấy mở rộng phạm vi hoạt động của nó. Số phụ nữ trưởng thành trong cộng đồng giảm dần, nhưng nếu thiếu đàn bà con gái thì chế độ đa thê trở thành một giáo nghĩa vô giá. Đến khi ấy bắt đầu có những tin đồn lạ lùng: có những người di cư bị giết hại, những khu trại bị cướp phá ở những nơi không bao giờ thấy bóng người da đỏ. Tại nhà các tông đồ thấy xuất hiện những người phụ nữ mới, nét mặt ủ ê, còn đượm rõ nỗi kinh hoàng....


Một buổi sáng, John sắp sửa đi thăm đồng bỗng nghe thấy chốt cổng ngoài hàng rào mở mạnh. Một người đàn ông mở cổng bước vào. Ông giật thót người, vì đấy chính là vị thủ lĩnh tối cao của người Mormons. Ông lo ngại, vội chạy ra cổng chào đón giáo chủ. Young lạnh lùng nhận lời chào của ông và theo ông vào phòng ăn, vẻ mặt nghiêm khắc.


Young ngồi xuống một chiếc ghế, nhìn chăm chăm vào John:


-Giáo hữu John, các tín đồ đã cư xử như những người bạn tốt với ông. Chúng ta đã cứu vớt ông lúc ông sắp chết, chúng ta đã chia sẻ cơm ăn áo mặc cho ông, chúng ta đã cấp cho ông một phần đất rộng lớn. Có đúng không?


-Thưa đúng.


-Để đổi lấy tất cả những ân huệ đó, chúng ta chỉ đặt ra có mỗi một điều kiện là ông hãy tuân theo mọi quy định của đạo giáo. Ông đã hứa tuân theo, nhưng cứ như những điều ta nghe được thì ông đã không tuân theọ


-Có điều gì mà tôi không tuân theo. Tôi đã chẳng đóng góp vào quỹ chung hay sao? Tôi đã chẳng siêng năng đi lễ hay sao?


-Vợ ông đâu? - Young hỏi, đưa mắt nhìn xung quanh - Ông hãy bảo những người vợ của ông ra đây để ta chào.


-Đúng là tôi chưa lấy vợ. Nhưng phụ nữ ở đây rất hiếm và có nhiều người khác được quyền ưu tiên hơn tôi. Vả lại đã có con gái tôi trông nom tôi rồi.


-Ta muốn nói với ông về đứa con gái này. Nó đã lớn, nó đã trở thành một bông hoa của Utah và nhiều người quyền cao chức trọng đã nhìn nó với con mắt ưa thích.


John thầm rên rỉ trong lòng.


-Người ta bảo rằng con gái ông đã được ước hôn với một kẻ ngoại đạo. Có lẽ đó chỉ là những lời đồn đại nhảm nhí. Điều răn thứ mười ba của Joseph Smith dạy gì? "Con gái ngoan đạo phải lấy một trong những người được Chúa tuyển chọn làm chồng, vì lấy kẻ ngoại đạo là một trọng tội". Ông là tín đồ của Chúa, sao lại có thể để cho con gái vi phạm lời răn đó được?


John không trả lời, tay chỉ mân mê cái roi ngựa. Giáo chủ nói tiếp:


-Cô gái còn ít tuổi, chúng tôi không muốn nó lấy một mái đầu bạc. Chúng ta cũng không muốn ngăn cản nó chọn lựa. Stangerson có một con trai và Drebber cũng có một con trai. Nó hãy chọn một trong hai người ấy làm chồng. Họ đều giàu có, đều là những tín đồ chân chính. Ông có gì cần thưa lại với ta nữa không?


John im lặng một lát, vầng trán nhăn lại, cuối cùng ông nói:


-Xin giáo chủ hãy tha cho chuyện đó. Con gái tôi tuổi còn non.


Young đứng dậy:


-Nó được một tháng để chọn lựa. Sau thời hạn ấy, nó phải quyết định.


Bước qua ngưỡng cửa, Young còn quay lại, nét mặt hầm hầm, giọng vang vang:


-John! Ông và con gái ông, các người thà cứ nằm phơi xương trên dải Sierra Blanco còn hơn là chống lại những lệnh của "Các vị Thánh Ngày Cuối".


Sau một cử chỉ hăm dọa, Young quay đi và John nghe thấy tiếng chân nặng trình trịch trên lớp sỏi.


Ông vẫn còn ngồi đó, tỳ khuỷu tay lên đầu gối suy tính, thì một bàn tay dịu dàng khẽ đặt lên bàn tay ông. Ngước mắt lên, thấy gương mặt hoảng hốt của Lucy, ông hiểu là cô đã biết sự tình. Ông an uỉ:


-Con đừng lo, cha sẽ thu xếp. Con không chịu khuất phục trước ý muốn của con người vừa rồi chứ?


Lucy chỉ đáp lại bằng tiếng sụt sịt và nắm tay ông siết mạnh.


-Tất nhiên rồi. Cha cũng không muốn con chịu khuất phục. Hope rất xứng đáng với con, nó hơn tất cả bọn con trai ở đây gộp lại. Ngày mai có một toán người đi Nevada, cha sẽ tìm cách nhắn tin. Nếu nó đúng là con người như cha đã biết, nó sẽ trở về nhanh hơn điện tín.


Lucy cười qua những giọt nước mắt trước sự so sánh của người cha già.


-Khi anh ấy về, anh ấy sẽ giúp được cha con mình. Nhưng con chỉ lo cho cha. Người ta kể những chuyện ghê sợ về những ai dám cưỡng lại mệnh lệnh của giáo chủ.


-Nhưng ta đã cưỡng lại đâụ Ta còn một tháng. Đến thời hạn ấy, chúng ta đã đi khỏi nơi này rồi.


-Rời bỏ nơi đây?


-Chỉ còn cách đó.


-Còn trang trại thì sao?


-Cha sẽ chuyển thành tiền được càng nhiều càng tốt, còn thì bỏ lại hết, con ạ; cha không chịu cúi mình như những người ở đây.


-Họ không để cho mình đi đâu, cha ạ.


-Chờ Hope về, ta cùng thu xếp. Từ nay đến lúc đó, con không có gì lo sợ, và cũng đừng khóc. Nếu không, khi gặp cha, nó sẽ trách cha đấy.


John nói với con bằng một giọng tin tưởng, tuy vậy, Lucy vẫn nhận thấy rằng tối hôm đó, ông cài cửa cẩn thận hơn mọi hôm, nạp đạn vào khẩu súng và treo trong phòng ngủ.

Chương 10:

Sáng hôm sau, John ra thành phố nhắn tin cho Hope. Về đến nhà, ông ngạc nhiên thấy hai con ngựa buộc ở hai cái cọc bên cổng. Ông càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy trong phòng ăn có hai người trẻ tuổi. Một người mặt tái mét, dài ngoẵng, ngồi lút trong chiếc ghế đu, chân gác lên bếp lò. Người kia cổ to như cổ bò mộng, khuôn mặt phì nộn, đứng trước cửa sổ, tay đút túi, huýt sáo một bài hát. Cả hai nghiêng đầu chào khi John bước vào, và kẻ đang nằm dài trên chiếc ghế đu khơi chuyện:


-Có lẽ ông không biết chúng tôi. Đây là Enoch Drebber, con trai ông Elder Drebber; còn tôi là Joseph Stangerson, con trai Stangerson. Tôi đã đi cùng ông khi Chúa chìa bàn tay ra và đưa ông trở lại bầy đàn chân chính.


-Nơi người sẽ dắt dẫn mọi dân tộc, vào giờ phút thích đáng - Gã con trai kia nói tiếp bằng giọng mũi.


John lạnh lùng gật đầu.


Stangerson nói tiếp:


-Chúng tôi đến đây để xin con gái ông về làm vợ cho một trong hai người chúng tôi. Tôi mới có bốn vợ, và giáo hữu Elder Drebber bảy vợ. Như vậy tôi có lẽ được quyền ưu tiên hơn.


-Không! Không! - Gã kia vội kêu lên - Vấn đề không phải ở chỗ đã có bao nhiêu vợ, mà là có thể nuôi được bao nhiêu vợ. Cha tôi vừa mới cho tôi mấy nhà xay thóc, nên tôi là người giàu hơn.


-Nhưng triển vọng gia sản của tôi lại lớn hơn - Gã kia hung hăng đáng lại - Khi Chúa gọi cha tôi về hầu, tôi sẽ được thừa hưởng sản nghiệp thuộc da của cha tôi. Lúc đó tôi sẽ là tông đồ cấp cao hơn anh trong giáo hội.


-Cứ để cô gái quyết định - Elder Drebber nói, cười mỉm với hình ảnh của mình trong gương.


Trong lúc hai gã đối đáp nhau, John cố ghìm nén cơn giận để khỏi quất chiếc roi ngựa lên lưng họ.


-Này, các anh, khi nào con gái tôi gọi các anh đến thì các anh mới được đến. Nó chưa gọi thì đừng vác mặt tới đâỵ


Hai gã trẻ tuổi nhìn nhau, ngơ ngác. Theo họ, đây là một vinh dự lớn cho người cha lẫn cô gái. John quát lên:


-Có hai lối ra khỏi phòng này, ra bằng cửa lớn và ra bằng cửa sổ. Các anh muốn ra bằng cửa nào?


Gương mặt và hai bàn tay John đượm vẻ hung tợn, đến nỗi hai gã đứng bật dậy, vội vã bỏ về. John theo chân chúng đến tận cổng ngoài.


Stangerson tức sùi bọt mép:


-Ông sẽ hối hận cho đến khi nhắm mắt.


-Bàn tay Chúa sẽ giáng xuống đầu ông. Chúa sẽ trừng trị ông - Drebber cũng hét lên trước khi hai gã phóng ngựa bỏ đi.


Ông già quay vào nhà, lấy bàn tay chùi mồ hôi trên trán, nói với con:


-Bọn chó má! Cha thà thấy con nằm trong nấm mồ còn hơn làm vợ một trong hai đứa.


-Con cũng quyết thế - Cô gái trả lời với giọng rắn rỏi. Nhưng anh Hope chắc sắp về rồi.


-Ừ, chắc cũng không lâu, nhưng sớm ngày nào tốt ngày ấy.


Quả vậy, người trại chủ mạnh khỏe cần có người giúp đỡ. Trong suốt lịch sử của cộng đồng này, chưa từng có trường hợp nào chống lại uy quyền của giáo chủ một cách ngang nhiên như vậy. Những lỗi lầm nhỏ mọn mà còn bị trừng trị ghê gớm thì số phận của kẻ bất phục tùng này sẽ ra sao? John biết rằng tài sản và danh tiếng của ông chẳng giúp ông được gì. Đã có những người khác, giàu có và tiếng tăm như ông, bị thủ tiêu và gia tài thì bị sung vào quỹ của giáo hội.


Sáng hôm sau, ông thấy một mẩu giấy gài trên tấm chăn ông đắp, đúng ngang ngực. Trên mẫu giấy có dòng chữ in đậm nét:


"Ngươi còn hai mươi chín ngày để sửa mình".


Mẩu giấy ấy làm John lo sợ hơn bất kỳ lời đe dọa nào. Hai mươi chín ngày rõ ràng là thời hạn mà Young dành cho ông. Bàn tay đã gài mẩu giấy này rất có thể cắm một mũi dao vào giữa tim ông.


Sáng hôm sau, John còn hoảng hốt hơn. Hai cha con vừa ngồi vào bàn ăn buổi sáng thì Lucy kêu lên một tiếng kinh ngạc, giơ tay chỉ lên trần nhà. Ngay giữa trần có ai đã viết, có lẽ bằng một cái que còi lửa, con số "28".


Lucy chắc không thể hiểu ý nghĩa của con số đó, và John cũng không nói cho con hay. Duy có điều, đêm hôm ấy, ông cầm súng canh rất khuya. Ông không thấy bóng dáng một ai, không nghe thấy một tiếng động nào, thế mà sáng hôm sau trên mặt ngoài cánh cửa đã có một con số "27".


Cứ như vậy, ngày tiếp ngày, ông nhận thấy các kẻ thù vô hình của ông đã tính sổ đều đặn và ghi số ngày trong thời hạn dành cho ông. Những con số đó được viết khi thì trên tường, khi thì trên sàn, thỉnh thoảng lại ghi trên những tấm bìa nhỏ đính ở cửa vườn hoặc ngoài hàng rào. Một cảm giác hãi hùng xâm chiếm lấy ông mỗi khi nhìn thấy những con số đó.


Con số 20 trở thành 15, rồi 10, vẫn không có tin tức gì về Hope. Mỗi lần có tiếng vó ngựa qua đường, người trại chủ già lại vội vã chạy ra hàng rào xem. Nhưng đến khi ông thấy con số 5 bị thay thế bằng 4 rồi 4 bị thay thế bằng 3 thì ông hết hy vọng. Một thân một mình không thông thuộc đường đi trên các dãy núi bao quanh vùng, ông biết mình bất lực.


Một buổi tối, ông ngồi một mì nh suy nghĩ miên man, vô vọng. Sáng hôm ấy, con số 2 đã hiện trên tường và hôm sau sẽ là ngày của thời hạn đáng nguyền rủa. Trong bầu không khí im lặng buổi tối, ông bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa rất nhẹ. John nhảy vọt đến cửa, rút chốt, mở toang cánh cửa.


Bên ngoài, cảnh vật rất yên tĩnh. Trong vườn, ngoài nhà, không thấy bóng một ai. Bỗng nhìn xuống chỗ gần chân mình, ông thấy một người nằm áp bụng xuống đất, vặn vẹo bò vào trong nhà, nhanh và lặng lẽ như một con rắn. Vào đến trong nhà, người ấy đứng bật dậy, đóng cửa lại và John nhận ra là Hope. Giọng anh khản đặc:


-Bác có gì ăn không? - Anh sà vào bàn, ăn nốt chỗ thức ăn của bữa chiều còn lại, vừa ăn vừa hỏi chuyện - Lucy có khỏe không bác?


-Nó khoẻ. Nhưng sao cháu lại đến đây bằng cách ấy.


-Nhà bác đã bị vây kín. Cháu phải bò từ xa đến đâỵ Chúng ghê lắm, nhưng vẫn không bắt nổi một thợ săn của vùng rừng núi.


John phấn chấn xiết chặt bàn tay người thanh niên:


-Chúng ta tính sao đây?


-Ngày mai là ngày cuối cùng, nếu ta không đi ngay đêm nay thì hỏng mất. Cháu có một con la và hai con ngựa buộc ở chỗ hẻm Đại Bàng. Bác hiện có bao nhiêu tiền?


-Bảy nghìn dollars.


-Thế là đủ. Cháu cũng có chừng ngần ấy. Ta phải đi về phía thành phố Crason qua đường núi. Bác đánh thức Lucy dậy đi.


Một lát sau, lợi dụng lúc một đám mây bay qua làm đêm tối thêm, ba người thận trọng mở cửa sổ, vượt qua vườn, rồi nín thở, khi thì gập người lại làm hai, khi thì dán bụng xuống đất, tiến dần đến hàng rào, nơi có một khe hở mở ra cánh đồng.


Bỗng chàng vội kéo hai người nấp vào một chỗ khuất. Kinh nghiệm của người thợ săn đã giúp cho chàng có đôi tai của mèo rừng. Ba người vừa nấp xong vào một chổ tối đen, đã nghe thấy cách chỗ họ vài yard một tiếng hú buồn thảm của cú mèo. Một tiếng hú khác cũng ngay gần đấy đáp lại. Cùng lúc đó, một bóng người lờ mờ từ khe rào mà họ định tiến tới hiện ra, và tiếng hú áo não kia lại nổi lên. Lúc ấy có một bóng người khác nhô ra từ trong tối. Chiếc bóng đầu tiên, có vẻ là một kẻ chỉ huy, nói:


-Ngày mai, vào lúc nửa đêm, khi chim kêu ba tiếng.


-Rõ. Có cần nói lại với giáo hữu Drebber không?


Bóng kia đáp lại:


-Báo cho Drebber biết mật hiệu và chuyển lại cho các giáo hữu khác. Chín còn bảy?


-Bảy còn năm - Bóng kia đáp lại rồi hai bóng người đi về hai hướng khác nhau.
Tiếng bước chân của chúng vừa mới chìm đi xa, cả ba người liền đứng dậy, vượt qua khe rào, chạy thật nhanh qua cánh đồng tới đường cái.


Ra tới đường cái, họ đi nhanh hơn. Trên đường, họ chỉ găp có mỗi một người và kịp nấp tránh xuống bờ ruộng ven đường. Gần đến chỗ vào thành phố, người thợ săn rẽ sang một con đường đất gồ ghề nhỏ hẹp đi lên núi. Hiện ra lờ mờ trong bóng tối phía trên đầu họ là hai mỏm núi, giữa hai mỏm núi đó là hẻm Đại Bàng. Qua một lòng suối cạn nước, họ tới chỗ ẩn khuất đằng sau mấy tảng đá lớn, thấy ngựa và la vẫn còn. Cô gái ngồi lên lưng la, ông già với bọc tiền ngồi lên một con ngựa, còn người thợ săn dắt con ngựa kia.


Đường đi rất nguy hiểm, nhiều chỗ hẹp đến nỗi họ phải đi theo hàng một. Tới một chỗ hoang vắng và hiểm trở nhất của hẻm núi, bỗng Lucy khẽ kêu lên một tiếng, giơ tay chỉ lên mỏm núi. Một hình người đứng trên tảng đá mọc chìa ra bên trên con đường, nổi bật thành một bóng đen trên nền trời. Cùng lúc đó, người gác kia cũng nhìn thấy họ. Một tiếng "Ai?" lạnh sống lưng vang lên trong hẻm im lìm.


-Lữ khách đi Nevada - Hope đáp, tay đặt lên khẩu súng treo ở yên ngựa.


Họ thấy người gác lăm lăm khẩu súng, nhìn họ như chưa hài lòng với câu trả lời.


-Được phép ai chưa?


-Được phép của "Các vị Thánh Ngày cuối" - John đáp. Những năm tháng sống với người Mormons đã dạy cho ông biết đấy là quyền lực cao nhất mà ông có thể viện ra.


-Chín còn bảy - Tên gác hỏi mật hiệu.


-Bảy còn năm - Hope đáp lại ngay, nhớ lại mật hiệu nghe được ở hàng rào bên vườn.


-Đi đi, và cầu Chúa phù hộ cho các người!


Sau khúc đó, con đường rộng dần ra, bằng phẳng hơn và họ có thể cho ngựa đi nước kiệu. Ngoái lại đàng sau, họ thấy bóng người gác chống súng xuống đất, họ biết là họ đã được tự do.

Chương 11:

Những người chạy trốn đi suốt đêm, qua những đường đèo hiểm trở, dốc ngược và lởm chởm đá. Nhiều lần lạc đường, nhưng nhờ chàng trai thông thuộc vùng núi này nen họ lại tìm được phương hướng. Đến lúc trời rạng sáng, họ dừng lại bên một thác nước cho ngựa uống và để ăn vội bữa sáng, Lucy và ông John rất muốn nghỉ lâu hơn, nhưng người thợ săn nhắc nhở:


-Hiện giờ chúng đã bắt đầu đuổi theo. Thoát được. hay không là tùy ở tốc độ của chúng ta. Tới được thành phố Carson là thoát.


Suốt ngày hôm ấy họ đi theo những con đường cheo leo, những hẻm núi nhỏ hẹp và đến chiều, họ tính đã ở cách xa kẻ thù khoảng ba mươi dặm. Đêm đến, chọn chỗ ghỉ ở chân một tảng đá mọc nhô ra để che bớt gió, và nép người vào với nhau để có chút hơi ấm. Trước khi trời sáng, họ đã lên đường. Không thấy một dấu hiệu nào có người đuổi theo, Hope cho rằng họ đã thoát ra ngoài tầm tay của cái tổ chức khủng khiếp đó.


Đến khoảng trưa ngày thứ hai, chỗ lương thực ít ỏi, mang theo bắt đầu cạn. Chàng trai không lo lắng. Chọn chỗ khuất, anh chất đống một ít cành cây khô, nhóm đống lửa lớn để ông John và Lucy sưởi: gió thổi mạnh và giá lạnh. Buộc ngựa xong, chàng khoác súng lên vai, đi kiếm thức ăn cho cả nhóm.


Chàng đi vài dặm[1] vào một hẻm núi, rồi đi tiếp sau một hẻm núi khác, mà không gặp được một loại chim thú nào. Cuối cùng, sau hai giờ tìm kiếm, chàng nản chí, đã toan quay trở lại, bỗng nhìn thấy một con sơn dương, nó quay đầu về hướng khác, không thấy chàng. Chàng ngửa người, tì súng lên mép một tảng đá ngắm cẩn thận rồi mới bóp cò. Con vật lảo đảo bên bờ vực rồi lăn xuống đáy thung lũng. Chàng xẻo lấy một phần thịt, rồi vội vã quay trở lại chỗ cũ. Nhưng đường về bây giờ tìm mới khó vì lúc mải mê, chàng đã đi quá những hẻm núi quen thuộc. Trên núi, đêm ập xuống nhanh và lúc trời tối mịt, chàng mới nhận ra đường về.


Về đến đầu đường đèo - nơi chàng đã để ông John và Lucy ngồi chờ bên đống lửa -chàng bắt tay lên miệng hô vang một tiếng " hôôôô ". Nhưng không có một tiếng hô nào đáp lại. Hô tiếp một tiếng nữa. Vẫn không thấy có tiếng đáp, chàng cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ khó tả, vội vứt bỏ tảng thịt, lao chạy về phía trước.


Sau một chỗ ngoặt, chàng nhật ra rõ đây là nơi mình đã nhóm lửa. Dưới đất hãy còn một đống than cháy dở, nhưng xung quanh người và ngựa đã biến đi đâu mất!


Chàng khơi lại ngọn lửa và xem xét khu vực xung quanh. Nền đất có nhiều vết chân ngựa cho thấy một toán đông cưỡi ngựa đã đuổi kịp rồi sau đó đã lại rút đi. Cách đống lửa không xa có một mô đất mà lúc trưa không thấy có. Rõ ràng là một ngôi mộ vừa mới đắp. Bước lại gần, chàng thấy có một cái gậy cắm vào giữa ngôi mộ, trên đầu gậy gài một tờ giấy ghi vỏn vẹn:


“John Ferrier


Trước ở thành phố Salt-Lake


Chết ngày 4 tháng 8 năm 1860”


Đau đớn, chàng hối hả tìm khắp xung quanh xem có ngôi mộ nào nữa không, nhưng không thấy, Lucy đã bị bắt đi rồi. Nàng sẽ là vợ của con trai một tông đồ Mormons nào đó. Khi hiểu ra số phận của vị hôn thê, chàng trai muốn lấy cái hẻm núi này làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình. Nhưng bản tính kiên cường lại trỗi dậy. Nếu như đời chàng từ nay không còn ý nghĩa gì nữa, thì ít ra chàng vẫn có thể dùng nó để trả thù cho vợ. Cùng với bản tính kiên cường và nhẫn nại, chàng còn có một chí căm thù bền bỉ mà chàng đã học được ở những người da đỏ. Gương mặt tái nhợt và dữ tợn, chàng quay trở lại chỗ đã bỏ tảng thịt, nhóm lửa, chuẩn bị cho mình đủ thịt ăn trong vài ngày rồi đứng lên, lần đường tìm về thành phố Salt Lake.


Đến ngày thứ sáu, chàng về tới hẻm Đại Bàng. tại đó, chàng có thể nhìn thấy nơi ở của Các vị Thánh ngày tận thế. Chàng thấy có cờ Baynes phất phới ở một vài đường phố chính và một dấu hiệu khác là có cuộc vui hay buổi lễ gì đó, trong thành phố. Bỗng chàng nghe tiếng vó ngựa và thấy một người đi về phía mình. Chàng nhận ra đó là Cowper, người mà mình đã có lần giúp một vài việc. Khi người đó tới gần, chàng bước lại:


-Anh còn nhớ tôi không. Tôi là Hope đâỵ


Người Mormons này không giấu nổi vẻ ngạc nhiên. Quả thực, khó mà nhận ra một kẻ lang thang, rách rưới, râu rậm tóc bù, mặt nhợt nhạt và dễ sợ này... Rồi vẻ ngạc nhiên mau lẹ chuyển thành vẻ lo ngại.


-Anh điên hay sao mà đến đâỵ Có lệnh bắt anh vì anh đã giúp hai cha con ông John chạy trốn.


-Tôi không sợ. Chỉ xin anh, vì tình bằng hữu cho tôi biết Lucy hiện nay ra sao.


-Hôm qua, người ta đã làm lễ cưới cho cô ấy. Kìa, can đảm lên chứ. Trông anh như người mất hồn.


-Anh khỏi phải bận tâm về tôi - Giọng Hope yếu ớt. Đôi môi tái nhợt, ngồi bệt xuống một tảng đá -Anh bảo sao, lễ cưới ư?


-Lễ cưới được tổ chức hôm qua, vì vậy mới treo cờ. Con trai Drebber và con trai Stangerson tranh nhau khá găng. Cả hai đều nằm trong nhóm người đã đuổi theo họ và Stangerson là kẻ đã giết người cha của cô gái. Vì vậy, Stangerson có vẻ được ưu tiên, nhưng khi việc này được đưa ra hội đồng thì phái nhà Drebber thắng và giáo chủ đã trao cô gái cho Drebber. Dầu vâỵ, chẳng ai giữ cô ấy được lâu đâu vì hôm qua tôi đã thấy màu chết trên sắc mặt cô ấy rồi. Thế nào, anh đi đấy à.


-Vâng, tôi đi đây - Hope đứng dậy, gương mặt đanh lại và đôi mắt ánh lên một vẻ điên dại.


-Anh đi đâu?


-Đi đâu cũng vậy thôi - Hope đáp lại, rồi vác súng lên vai, rảo bước về phía đường đèo, tiến sâu vào trong lòng núi.


Lời tiên đoán của Cowper quả không sai: trong không đến một tháng. Lucy héo hon rồi chết. Drebber không tỏ ra đau buồn khi Lucy chết, vì hắn lấy Lucy chủ yếu vì của cải của ông bố. Nhưng những người vợ khác của y thương khóc cô, và theo phong tục của người Mormons, họ thức trông xác cô suốt đêm trước hôm mai táng. Đang ngồi xung quanh quan tài vào lúc trời chưa sáng, họ bỗng kinh ngạc và khiếp sợ khi thấy cửa bật mở và hiện ra một người đàn ông ăn mặc rách rưới, mặt sạm đen, con mắt điên dại, bước thẳng đến chỗ đặt thi hài, cúi đầu kính cẩn đặt môi lên vầng trán giá lạnh rồi đỡ lấy bàn tay người chết, rút chiếc nhẫn cưới ra khỏi ngón tay và nói bằng một giọng giống tiếng gầm rít của loài thú nhiều hơn tiếng người:


-Không thể để cho người ta chôn cất nàng cùng với chiếc nhẫn này. Trong lúc đám phụ nữ chưa biết nên làm gì thì người đó đã biến mất.


Trong nhiều tháng, người ta kể có một kẻ kỳ quặc thường hay lẩn quẩn ở những cánh đồng bên ngoài thành phố hoặc trong những hẻm núi hoang vắng. Một hôm, một viên đạn bắn qua cửa sổ nhà Stangerson đập vào tường cách đầu y có một foot. Lại một dịp khác, Drebber đang đi dưới chân một dốc núi thì một tảng đá lăn về phía y, y phải bổ nhào úp sấp mặt xuống đất mới thoát chết. Hai gã thanh niên ấy sớm phát hiện ra người tiếng hành những vụ mưu sát này, và chúng dẫn người đi tìm Hope nhiều lần nhưng khôngbắt được chàng. Chúng phải cắt người canh gác nhà chúng, chúng không bao giờ ra khỏi nhà một mình hoặc khi trời tối. Sau một thời gian, những biện pháp này được nới lỏng: người ta không còn thấy bóng dáng Hope đâu và chúng nghĩ rằng thời gian đã làm nguôi mối thù ở trong lòng người thợ săn trẻ tuổi ấy.


Nhưng chí báo thù đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn chàng trai, không còn chỗ cho một tình cảm nào khác len vào nữa. Nhưng cuộc sống phơi sương dãi nắng, chẳng mấy chốc làm hao mòn sức khỏe của chàng. Nếu chàng chết trên núi như con chó hoang thì ai sẽ báo thù cho? Mà nếu chàng cứ ở mãi trên núi thì không thể tránh khỏi kết cục đó. Vì vậy, chàng trở lại vùng mỏ Nevada để phục hồi sức khỏe và thu nhặt một ít tiền để rồi có thể theo đuổi chuyện báo oán.


Chàng định tạm nén mối thù lại độ một năm là cùng, nhưng nhiều tình huống không lường trước không cho phép chàng rời khỏi khu mỏ trước năm năm. Tuy nhiên, sau thời gian ấy, ký ức về nỗi đau buồn lòng khao khát báo thù vẫn mãnh liệt. Cải trang, chàng trở lại thành phố Salt Lake dưới một cái tên giả và được biết những tin đáng chú ý. trước đó vài tháng đã xảy ra một sự phân liệt trong đám người được Chúa tuyển chọn. Một vài thanh niên trẻ của giáo phái Mormons đã nổi dậy, chống lại quyền lực của các tông đồ và kết quả là một số đã ly khai, bỏ Utah ra đi, trở thành những kẻ ngoại đạo. Trong số đó có Drebber và Stangerson. Không ai biết chúng đi đâu. Người ta kể rằng Drebber đã khéo thu xếp, chuyển hầi hết taì sản của hắn ra thành tiền đem đi, còn Stangerson thì không được sung túc bằng.


Nhiều người cho rằng dù lòng báo thù có cháy bỏng đến đâu, có lẽ cũng đã phải từ bỏ ý định của mình trước ngần ấy khó khăn, nhưng Hope thì không. Với số tiền ít ỏi đã có, chàng đi hết thành phố này đến thành phố khác trong khắp nước Mỹ tìm kiếm tung tích của kẻ thù, vừa đi vừa nhận làm những công việc lặt vặt để có thêm tiền sinh sống. Thời gian trôi đi, mái tóc đen đã lốm đốm bạc nhưng ông vẫn cứ đi, không biết mệt mỏi, không hề nản chí, dò tìm dấu vết của kẻ thù như một con chó săn say mồi. Một hôm, ông thoáng nhìn thấy một nét mặt qua một khung cửa sổ, và biết đó là người mà ông lùng đuổi hiện đang ở tại thành phố Cleverland, bang Ohio. Ông trở về căn buồng, sắp đặt kế hoạch báo thù. Thế nhưng Drebber khi nhìn qua cửa sổ nhà hắn, cũng đã nhận ra kẻ lang thang ngoài phố kia và thấy ý định giết người trong ánh mắt người ấy. Hắn vội vã cùng với Stangerson - khi ấy đã trở thành thư ký riêng của hắn - đến nhà một vị thẩm phán khai rằng hắn đang bị một kẻ tình địch cũ dọa giết.


Tối hôm ấy, Hope bị tống giam vì ông sống lang thang, không nhà cửa, không nghề nghiệp nhất định. Ông bị giam mấy tuần. Đến khi được thả, ông thấy nhà Drebber bỏ trống và được biết hắn đã sang châu Âu cùng với tên thư ký riêng.


Một lần nữa, người báo oán thất vọng, nhưng cũng một lần nữa mối thù dồn tụ qua năm tháng lại đẩy ông tiếp tục hành động. Không đủ tiền đi xa, ông lại phải kiếm việc làm, dành dụm từng dollar một cho cuộc hàng trình sang châu Âu. Sau cùng, khi có tạm một ít tiền để đủ sống, ông lên đường, đuổi theo các kẻ thù của mình từ thành phố này đến thành phố khác ở châu Âu, nhận làm bất cứ việc gì để sống. Từ thành phố St. Petersburg của Nga, Thủ đô Paris của Pháp, Copenhagen của Đan Mạch; cuối cùng ông theo chúng tới thủ đô London nước Anh, và hạ sát được chúng.



---


[1] Nguyên văn: miles

Chương 12:

Tuy chống cự kịch liệt, nhưng người đánh xe tỏ ra không hằn thù gì chúng tôi. Ông ta nở một nụ cười thân thiện và tỏ ý mong ông ta không gây thương tích gì cho chúng tôi trong lúc xô xát. Ông ta nói với Sherlock Holmes:


-Tôi chắc các ông sẽ dẫn tôi về Sở cảnh sát. Xe của tôi để dưới lòng đường. Nếu các ông vui lòng cởi trói chân cho tôi, tôi sẽ tự mình xuống.


Gregson và Lestrade nhìn nhau suy nghĩ. Nhưng Sherlock Holmes cởi ngay dây trói.


Holmes bảo hai nhà thám tử:


-Các ông nên đi cùng với tôi.


-Tôi đánh xe cho - Lestrade nói.


-Tốt lắm. Ông Gregson ngồi trong xe cùng với tôi, bác sỹ Watson, cả anh nữa.


Tất cả chúng tôi ra xe. Hope ngoan ngoãn bước lên xe. Tới sở cảnh sát, viên thanh tra làm nhiệm vụ của mình một cách bình thản, buồn tẻ:


-Can phạm sẽ bị đưa ra xét xử ngay trong tuần. Trong khi chờ đợi, Hope, anh có muốn khai gì không?


Hope từ tốn nói:


-Lời khai của tôi khá dài. Tôi muốn được kể hết với các ông.


-Ông có thể để đến khi ra tòa khai cũng được.


-Có lẽ tôi sẽ không ra tòa đâu. Các ông chớ hoảng hốt. Tôi không có ý định tự tử. Ông có phải bác sỹ không? - Ông ta quay đôi mắt u tôi và cháy bỏng sang phía tôi.


-Phải.


-Thế thì xin ông đặt tay vào đây - Với một nụ cười hé nở trên môi, ông ta đưa hai cổ tay bị khóa lên ngực.


Làm theo yêu cầu của ông ta, tôi cảm thấy ngay những tiếng tim đập dữ dội. Lồng ngực ông ta rung lên bần bật như một tòa nhà mảnh mai bên trong đang chạy một động cơ quá mạnh. Trong bầu không khí im lặng của gian phòng, tôi có thể nghe thấy tiếng thổi và tiếng rung cũng xuất phát từ đó.


-Ủa, ông bị bệnh phình động mạch chủ hả - Tôi thốt lên.


-Đúng vậy - Hope bình thản đáp - Tuần trước tôi đã đi khám bệnh, bác sỹ bảo không lâu nữa nó sẽ vỡ tung. Bệnh đã nặng lên từ lâu trong những năm tôi phải sống ở ngoài trời, ăn không no, ngủ không yên giấc. Tôi đã làm xong cái việc cần làm, dù có phải ra đi sớm cũng không có gì hệ trọng. Tuy nhiên, tôi muốn kể lại câu chuyện của tôi để người ta đừng nghĩ tôi là một tên sát nhân bỉ ổi.


Viên thanh tra và hai nhà thám tử hội ý chớp nhoáng với nhau, xem có nên cho can phạm được phép kể như ông ta yêu cầu không. Viên thanh tra hỏi tôi:


-Bác sỹ có cho rằng tính mạng can phạm có thể bị nguy không?


-Rất có thể.


-Trong truòng hợp nhiệm vụ của chúng tôi là phải lấy lời khai của can phạm. Ông Hope, chúng tôi cho phép ông bắt đầu khai.


-Tôi xin phép được ngồi - Hope noi - Bệnh phình động mạch này làm tôi dễ mệt lắm, nhất là sau cuộc vật lộn hồi nãy. Tôi đang ở bên bờ cõi chết. Vì vậy, tất cả những lời tôi sẽ nói ra đây đều là hoàn toàn sự thật.


Tiếp đó, Hope bắt đầu kể câu chuyện của mình. Ông ta nói với một giọng bình thản, từ tốn:


-Hai kẻ ấy đã gây ra cái chết của hai cha con - Một cô gái và người cha - và vì thế, chúng rất đáng tội chết. Tuy nhiên, từ ngày đó đến nay, tôi không có đủ bằng chứng để đưa ra trước bất kỳ một tòa án nào. Vì vậy tôi đã quyết định đảm nhiệm cả vai trò quan tòa lẫn đao phủ.


Cô gái đã thiệt mạng mà tôi đã nói ở trên lẽ ra làm vợ tôi cách đây hai mươi năm. Nàng đã bị ép buộc phải lấy tên Drebber này. Khi rút chiếc nhẫn khỏi ngón tay vợ tôi, tôi đã thề rằng trước lúc chết, con mắt của Drebber sẽ phải nhìn chiếc nhẫn này. Tôi đã săn đuổi bọn chúng qua hai lục địa.


Khi tôi đến London, túi tôi hầu như không còn một xu nào, tôi cần tìm một nghề. Cưỡi ngựa, đánh xe đối với tôi tự nhiên như đi bộ. Tôi đến gặp một chủ xe, xin thuê một chiếc xe. Tiền kiếm được cũng đủ sống. Cái khó nhất là thuộc đường vì các thành phố này là cái mê cung rắc rối. Nhưng tôi kiếm được một cái bản đồ, và dần dần quen thuộc đường sá.


Tôi phải mất một thời gian mới tìm được địa chỉ của chúng. Chúng trọ tại một gia đình ở Camberwell. Phát hiện ra chỗ ở của chúng, tôi biết là đã nắm được chúng trong tay. Tôi để râu dài, và kiên trì theo dõi, mà chúng không nhận ra tôi.


Bất kể chúng đi đâu, tôi đều theo sát gót, khi thì bằng xe ngựa, khi thì bằng chân. Theo bằng xe tốt hơn vì chúng không thể bỏ xa tôi được.


Chúng rất gian ngoan. Có lẽ chúng nghi bị theo dõi nên không bao giờ ra khỏi nhà một mình và cũng như lúc đêm khuya. Trong hai tuần liền, ngày nào tôi cũng dùng xe theo chúng, nhưng không bao giờ tôi thấy có tên nọ mà không có tên kia. Drebber gần như lúc nào cũng say, nhưng Stangerson thì luôn luôn tỉnh táo và cảnh giác. Theo dõi mãi, tôi vẫn chưa tìm thấy cơ hội nào.


Một hôm, vào lúc xế chiều, khi đang đi lại trên phố Torquay Terrace, nơi chúng trọ, tôi bỗng thấy một chiếc xe ngựa đến đỗ trước cửa nhà chúng. Một lúc sau, có người khiêng hành lý ở trong nhà ra xe, rồi Drebber và Stangerson lên xe và chiếc xe lăn bánh. Tôi cho xe đuổi theo. Đến ga Euston, chúng xuống xe. Tôi nhờ một đứa trẻ trông ngựa cho tôi và theo chúng ra sân ga. Tôi nghe thấy chúng hỏi giờ tàu đi Liverpool. Nhân viên nhà ga báo cho chúng biết là tàu vừa mới chạy, và phải mất một tiéng đồng hồ nữa mới có chuyến sau. Stangerson tỏ ra bực mình, Drebber trái lại có vẻ mừng rỡ. Tôi xán đến gần chỗ chúng. Drebber nói là y có công việc nhỏ cần phải giải quyết và y bảo tên kia chờ, y sẽ quay trở lại ngay, Stangerson trách móc, nhắc nhở là hai đứa đi đâu cũng phải có đôi. Drebber trả lời rằng đây là một việc tế nhị nên y phải đi một mình. Tôi không nghe Stangerson đáp lại như thế nào mà chỉ thấy Drebber chửi rủa rồi nhắc nhở cho Stangerson biết rằng y chỉ là một kẻ tôi tớ. Thấy vậy, Stangerson không kèo nèo thêm nữa và hai đứa thỏa thuận là nếu Drebber không kịp trở lại tàu thì y sẽ đến gặp Stangerson tại khách sạn Holiday. Sau đó Drebber đi một mình ra khỏi nhà ga.


Khi đi cùng với nhau, chúng có thể bảo vệ lẫn nhau, nhưng nếu chúng tách riêng từng đứa thì đời chúng sắp tàn. Tuy thế, tôi không hành động hấp tấp. Trong sự báo thù, sẽ không có niềm sung sướng nếu kẻ thù của mình không biết vì sao nó phải đền tội và ai là người bắt nó đền tội. Trước đó mấy ngày, một ngươi chịu trách nhiệm trông nom mấy ngôi nhà ở đường Brixton đã đánh rơi chìa khóa của một ngôi nhà trên xe của tôi. Tôi đã trả lại cho ông ta chiếc chìa khóa, nhưng trước đó, tôi đã nhờ làm thêm một chiếc. Với chiếc chìa ấy, tôi đã có một nơi ra vào, một nơi có thể tự do hoạt động. Nhưng việc đưa Drebber đến ngôi nhà ấy, là điều rất khó khăn.


Ra khỏi ga, Drebber sà vào một hai quán rượu. Ở quán thứ hai, y lưu lại đến gần nửa giờ. Ở quán này ra, chân y bước không vững. Có một chiếc xe ngựa đỗ ngay trước xe tôi. Y vẫy vẫy gọi và lên xe đi. Tôi đi theo chiếc xe này sát đến nỗi suốt quãng đường, mũi con ngựa xe tôi gần như chạm vào cuối đuôi xe trước. Hai xe cứ đi vòng vèo một lúc lâu rồi cuối cùng lại trở lại đúng cái phố mà Drebber đã ở trọ. Tại đó chiếc xe ngựa kia dừng lại, cho người xuống xe rồi xe ra đi. Tôi cho xe mình đỗ cách nhà chừng một trăm mét, và ngồi chờ. Các ông cho tôi xin cốc nước. Tôi khô cả họng.


Tôi đưa cho ông ta một cốc nước.


-Xin cám ơn! Drebber vào nhà, tôi bình tĩnh ngồi chờ khoảng 15 phút. Một lát sau, tôi bỗng nghe thấy tiếng cãi cọ trong nhà, rồi cửa bật tung và hiện ra hai ngươi đàn ông. Một là Drebber, và người thứ hai là một thanh niên tôi chưa gặp bao giờ. Anh thanh niên này nắm lấy cổ áo Drebber, kéo y ra tới bậc thềm, xô mạnh một cái và co chân đạp bồi thêm một cái nữa làm y ngã lăn sang tận bờ hè bên kia. Anh ta giơ gậy lên dọa: "Đồ chó má! Tao sẽ dạy cho mày chừa thói lăng nhục một ngươi con gái lương thiện". Drebber chạy đến góc phố, trông thấy xe tôi, nhảy lên xe, bảo tôi: "Đến khách sạn Holiday". Lúc ấy tim tôi đập rộn lên vì mừng rỡ. Tôi cho xe chạy từ từ, cân nhắc trong đầu nên làm gì. Tôi có thể đưa y ra thẳng ngoại ô và trên một quãng đường vắng sẽ cho y giáp mặt lần cuối với tôi. Bỗng y bảo tôi đỗ xe trước một quán rượu. Y ở lại trong quán cho đến giờ đóng cửa, và khi y bước ra, chân nam đá chân xiêu, tôi biết tôi đã có một thuận lợi trong tay.


Các ông đừng nghĩ rằng tôi sẽ giết y một cách chóng vánh. Đã từ lâu, tôi tự bảo tôi sẽ dành cho y một cơ hội sống sót, nếu y muốn. Trong quãng đời lang thang ở Mỹ, tôi đã làm nghề gác cổng kiêm việc quét dọn cho một phòng thí nghiệm của York College. Một hôm, trong buổi giảng dạy về các chất độc, một vị giáo sư đã giới thiệu với sinh viên một loại alkaloid mà ông ta đã chiết xuất từ một thứ cây, có độc tính mạnh đến nỗi chỉ cần một chút bằng hạt đậu nhỏ cũng đủ làm chết người ngay tức khắc. Tôi đánh dấu bằng mắt cái lọ đựng thuốc độc ấy và khi mọi người ra về, tôi lấy trộm một chút. Tôi cũng ít nhiều biết cách chế biến các hóa chất và với một chút alkaloid ấy, tôi dập thành hai viên thuốc nhỏ dễ hòa tan trong nước. Đồng thời tôi cũng làm ra hai viên thuốc khác, y hệt như hai viên này nhưng không có chứa chất độc. Tôi bỏ một viên độc và một viên vô hại vào trong một cái hộp. Lúc bấy giờ, tôi đã quyết định là, một buổi giáp mặt cuối cùng, mỗi kẻ thù của tôi sẽ phải uống một viên trong hộp và tôi sẽ uống viên thứ hai còn lại. Từ sau hôm đó, lúc nào tôi cũng mang theo người hai hộp ấy và chờ có lúc sử dụng.


Lúc bấy giờ đã gần một giờ sáng. Đêm tối đen như mực. Mưa như trút nước và gió thổi dữ dội. Ngoài trời thì ảm đạm nhưng trong lòng tôi sung sướng, hân hoan. Nếu ai đã từng mong mỏi thiết tha một cái gì đó, trong suốt hai mươi năm trời, rồi bỗng có cái đó ngay trong tầm tay thì người ấy sẽ hiểu được những cảm xúc của tôi lúc bấy giờ. Tôi châm một điếu thuốc để bình tâm lại. Vừa đi, tôi vừa như thấy ông John và nàng Lucy nhìn tôi và mỉm cười với tôị Tôi dừng xe lại trước ngôi nhà ở đường Brixton. Suốt phố không một bóng người, không một tiếng động, chỉ trừ tiếng mưa rơi. Nhìn vào trong xe, tôi thấy Drebber đang ngủ như chết, vì say. Tôi lay vai y:


-Đến nơi rồi.


-Tốt! - Y đáp lại.


Tôi cho rằng y ngỡ là đã đến khách sạn, vì y xuống xe và đi theo tôi vào vuòn không nói một lời nào. Tôi phải đi cạnh y, đỡ y. Tới cửa nhà, tôi mở cửa, đưa y vào gian nhà ngoài.


-Tối quá! - Drebber dậm chân gắt gỏng.


-Sáng ngay bây giờ đây - Tôi nói, đánh diêm châm một ngọn nến tôi mang theo - - Này! Enoch Drebber - Tôi nói tiếp, quay mặt về phía y và giơ ngọn nến sát mặt tôi - Ta là ai đây?


Y nhìn tôi một lúc bằng con mắt lờ đờ của kẻ say và tôi thấy hiện lên trong mắt y một nỗi kinh hoàng làm nhăn nhúm cả mặt y. Y lùi lại, lảo đảo, mặt tái nhợt, mồ hôi nhỏ giọt trên trán, hai hàm răng đập lập cập vào nhau.


Tôi dựa lưng vào cánh cửa. Tôi cười rất to và khá lâu, rồi bảo Drebber:


-Đồ chó đẻ! Tao đã săn đuổi mày suốt từ Salt Lake đến St. Petersburg. Nhưng lần này, mày không còn chạy đi đâu được nữa, vì một trong hai ta, tao hoặc mày, sẽ không nhìn thấy mặt troì sáng maịi.


Y lùi lại khi nghe tôi nói, và tôi có thể đọc được trên nét mặt y là y tưởng tôi điên. Đúng là lúc ấy tôi điên thật. Thái dương tôi đập thình thình, tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ bị một cơn thần kinh nếu đã không bị chảy máu mũi làm cho người tôi nhẹ đi nhiều. Tôi đóng cửa lại, vung chiếc chìa khóa trước mặt y.


-Mày nghĩ gì về cô gái Lucy Ferrier bây giờ nào? Sự trừng phạt đến tuy có muộn, nhưng cuối cùng cũng phải đến chứ.


Tôi thấy môi y mấp máy, xin tôi tha tội:


-Ông định ám sát tôi ư? - Drebber ấp úng.


-Ai lại ám sát một con chó dại? Mày có thương xót gì cô gái khi mày giằng nàng ra khỏi xác cha nàng.


-Không phải tôi giết cha nàng! - Y kêu lên.


-Nhưng chính mày đã làm tan nát cõi lòng con ngươi trong trắng ấy - Tôi gần như thét lên và giơ chiếc hộp thuốc trước mặt Drebber - Mày hãy chọn lấy một viên và nuốt đi. Ở một viên là cái chết, còn ở viên kia là sự sống. Để xem có công lý trên quả đất này không, hay chỉ là chuyện may rủi.


Drebber lùi vào một góc phòng kêu lên những tiếng man rợ, xin tôi rủ lòng thương, nhưng tôi rút dao ra kề sát cổ y, làm y cuôi cùng phải uống thuốc. Tôi nuốt viên thuốc còn lại, chúng tôi đối diện nhau trong một phút, chờ xem ai sống và ai sẽ chết. Có lẽ tôi không bao giờ quên được nét mặt y, khi những cơn đau đầu tiên báo cho y biết thuốc độc đang lan khắp người. Nhìn thấy thế, tôi cười khanh khách và giơ chiếc nhẫn của nàng ra trước mắt y. Phút đó quá ngắn ngủi vì tác động của chất alkaloid rất mau lẹ. Y quằn quại vì đau đớn, toàn thân và các cơ mặt co giật, rồi ngã vật ra sàn. Tôi lấy mũi giầy hất người y lại, đặt tay trên ngực y. Y đã chết hẳn rồi. Máu ở mũi tôi ộc ra nhiều nhưng tôi không để ý. Không biết lúc đó tôi nghĩ gì, mà lấy máu tôi viết lên tường. Có lẽ định đùa trêu cảnh sát, đánh lạc hướng của cảnh sát, vì lúc đó lòng khoang khoái tôi nhớ lại vụ một người Đức bị ám sát tại New York, bên trên xác nạn nhân có chữ "Rache" làm báo chí kết luật là một án mạng do những hội kín gây ra. Tôi nghĩ chuyện bí ẩn đối với người New York chắc cũng sẽ là bí ẩn đối với người London. Tôi bèn nhúng ngón tay vào chính máu tôi,viết lên tường vào chỗ thuận tiện. Sau đó tôi trở ra xe. Đường vẫn không có một bóng người và trời vẫn mưa gió ào ào. Tôi đã đi được. một quãng, bỗng đút tay vào túi, không thấy chiếc nhẫn đâu. Tôi hoảng hốt, cho rằng có lẽ đã đánh rơi khi cúi xuống trên xác Drebber, tôi quay trở lại, để xe ở một ngách phố nhỏ và đánh liều trở lại ngôi nhà. Tới nơi, tôi chạm trán ngay phải một viên cảnh sát ở trong nhà đi ra, tôi phải giả vờ say mới khỏi bị nghi ngờ.


Lúc bấy giờ tôi chỉ còn có một việc, là thanh toán nốt Stangerson. Tôi biết Stangerson đang ở khách sạn Holiday. Tôi đã lảng vảng quanh đó suốt ngày, nhưng không thấy y ló mặt ra. Tôi sớm phát hiện được cửa sổ buồng y, và sáng hôm sau, nhân có mấy cái thang ở lối đi đằng sau khách sạn, tôi dựng lên, gác vào cửa sổ buồng y và trèo vào. Tôi đánh thức y dậy, bảo y phải trả lời về tội ác mà y đã gây ra cách đây hai mươi năm. Tôi mô tả lại với y cái chết của Drebber, rồi tôi cũng cho y được chọn một trong hai viên thuốc. Y nhảy bổ vào tôi, định bóp cổ tôi. Ở vào thế tự vệ, tôi đã đâm y.


Sau đó, tôi trở lại nghề đánh xe như trước, với ý định tiếp tục cho đến khi nào dành dụm đủ tiền để trở về nước Mỹ. Tôi đang đậu xe ở một nơi thì một đứa bé đến hỏi có người đánh xe nào tên là Hope không, và bảo có người ở số 221B phố Baker muốn thuê xe. Coi là chuyện bình thường, tôi đi theo nó đến địa chỉ kia. Đến nơi, chưa hiểu đầu đuôi ra sao thì ông này đã thừa lúc tôi sơ ý, khóa ngay cổ tay tôi lại. Thưa các ông, đó là toàn bộ câu chuyện của tôi.


Nghe xong câu chuyện, chúng tôi ngồi im lặng mất một lúc, chỉ có tiếng bút chì sột soạt ghi nốt phần cuối bản tốc ký. Sau cùng Holmes nói:


-Có một điểm tôi muốn biết thêm. Người đến nhận chiếc nhẫn cho anh là ai vậy?


-Tôi không thể làm liên lụy đến những người giúp tôi. Tôi đọc được tin nhắn của ông. Tôi nghĩ đây có thể là một cái bẫy, nhưng cũng có thể đúng là chiếc nhẫn mà tôi muốn tìm lại. Hình như bạn tôi đã khéo léo làm xong nhiệm vụ của mình.


-Đúng thế - Holmes tươi cười đáp.


Viên thanh tra trịnh trọng tuyên bố:


-Thứ năm tuần tới can phạm sẽ được đem ra xét xử. Tất cả các ông sẽ phải có mặt tại phiên tòa. Từ nay đến khi ấy, tôi sẽ chịu trách nhiệm giam giữ can phạm.


Nói xong, ông gọi hai viên cảnh sát đến dẫn Hope đi, còn Holmes và tôi lên xe về nhà.

Chương 13(hết)

Người ta dặn chúng tôi phải có mặt tại tòa vào hôm thứ năm, nhưng ngay đêm hôm bị bắt, động mạch của Hope bị vỡ và sáng hôm sau, người ta thâý ông nằm dài trên sàn phòng giam, với một nụ cười thanh thản trên môi.


Tối hôm ấy, trò chuyện với nhau ở nhà, Holmes bảo tôi:


-Gregson và Lestrade sẽ tức tối trước cái chết này. Nó làm cho họ mất một dịp khoe khoang thành tích của họ.


-Họ có thành tích gì trong vụ này đâu?


-Nhưng mà thôi. Không có anh thì suýt nữa tôi đã bỏ lỡ mất vụ án lý thú này. Tuy đơn giản nhưng nó có nhiều điểm rất bổ ích.


-Anh nói đơn giản ư?


-Thực ra, cũng khó đánh giá nó khác được - Holmes mỉm cười trước vẻ ngạc nhiên của tôi - Bằng chứng về sự đơn giản của nó là, không cần sự trợ giúp nào, chỉ chờ đến một vài sự suy đoán rất bình thường, trong ba ngày tôi đã tóm cổ được thủ phạm.


-Ừ, mà đúng.


Để giải quyết một vấn đề như vậy, cái quan trọng là lập luận ngược chiều. Đây là một phép tư duy rất bổ ích và rất dễ, nhưng ngày nay người ta không thực hành mấy nữa. Trong công việc hàng ngày, lập luận theo chiều thuận thường là dễ hơn, vì vậy người ta quên mất cách lập luật theo chiều ngược.


-Thú thực tôi chưa hiểu.


-Con người ta, khi được nghe trình bày một chuỗi sự việc hầu hết sẽ tiên đoán kết cục của những sự việc đó. Họ có thể tập hợp những sự kiện đó trong óc rồi suy ra điều sẽ phải xảy ra. Nhưng không có mấy người, sau khi nghe nói đến cuối cùng, có khả năng suy ra những sự việc nào dẫn đến kết cục ấy.


-Tôi đã hiểu.


-Đây là trường hợp người ta nói cho anh biết cái kết cục và tự anh phải tìm ra tất cả những sự việc đã dẫn đến kết cục ấy. Tôi xin kể lại với anh các giai đoạn khác nhau trong cách lập luận của tôị Như anh đã biết, tôi đã đi bộ khi gần đến hiện trường, đầu óc hoàn toàn không có một dự kiến hay thiên kiến gì. Tôi bắt đầu xem xét đoạn đường dẫn đến ngôi nhà, và ở đó, tôi thấy rõ những vệt bánh xe, loại xe nhỏ hai chỗ chở thuê, và qua một vài câu hỏi, tôi biết chắc là xe này đã đậu ở đấy đêm trước. Tôi biết đây không phai là một chiếc xe nhà mà là xe chở thuê, căn cứ ở Khoảng cách hẹp giữa hai bánh xẹ Chiếc xe chở thuê thông thường ở London nhỏ hẹp hơn nhiều so với xe nhà.


Sau đó tôi đã chầm chậm đi theo lối qua vườn mà nền đất là một loại đất sét, rất dễ nhận vết chân, đối với con mắt nhà nghề của tôi thì mỗi dấu vết mang một ý nghĩa. Lấy vết chân là một ngành trong khoa học hình sự rất quan trọng nhưng cũng bị coi nhẹ. Tôi đã thấy những vết chân nặng nề của các viên cảnh sát, nhưng tôi cũng thấy những vết chân của hai ngươi đã đi qua khu vườn này trước đám cảnh sát kia: ở một đôi vết chân của hai người bị những vết chân cảnh sát đè lên, xóa đi. Qua đó, nó cho tôi biết đã có hai người lạ mặt đến đây hồi đêm, một người rất cao lớn - căn cứ theo chiều dài của bước chân và ngươi kia ăn mặc sang trọng, căn cứ theo vết giầy nhỏ nhắn, thanh mảnh.


Vào trong nhà, người đi giầy sang trọng nằm đó. Vậy thì, người cao lớn là kẻ đã gây ra án mạng. Không có thương tích trên người nạn nhân, nhưng qua những nét kinh hoàng lưu lại trên mặt, tôi đoán hẳn nạn nhân đã được báo về số phận mình trước khi chết. Những người chết vì bệnh tim hoặc vì một nguyên nhân tự nhiên nào khác không bao giờ nét mặt lại nhăn nhúm đến vậy. Ngửi môi nạn nhân, tôi thấy có muì chua chua: tôi kết luận, nạn nhân đã bị cưỡng bức uống thuốc độc. Chính vẻ căm thù và khiếp sợ biểu lộ trên mặt đã dẫn tôi đến suy đoán ấy. Tôi đi đến kết luận này bằng phương pháp loại trừ, vì không có một giả thiết nào khác có thể giải thích được tất cả những chi tiết kia. Cưỡng bức nạn nhân của mình uống thuốc độc hoàn toàn không phải điều mới trong lịch sử hình sự


Tiếp theo đó là câu hỏi lớn: tại sao có vụ ám sát này. Tiền bạc không phải là động cơ. Vụ này dính đến chính trị hay đến phụ nữ? Trước hết tôi ngả về giả thiết thứ hai. Những kẻ ám sát chính trị một khi làm xong nhiệm vụ thì vội bỏ đi ngay. Ở đây ngược lại, thủ phạm đã để dấu vết trong khắp gian phòng, chứng tỏ y đã lưu lại đây khá lâu. Vậy đây là một vụ thanh toán do hận thù cá nhân chứ không phải là một vụ án chính trị. Khi phát hiện ra những chữ viết trên tường, tôi càng tin chắc sự suy đoán của tôi là đúng; đây quá rõ là một mưu mẹo nhằm đánh lạc hướng. Đến khi tìm thấy chiếc nhẫn thì tôi coi việc xác định giả thiết là đã xong. Rõ ràng thủ phạm đã dùng chiếc nhẫn này để gợi lại với nạn nhân một người phụ nữ đã chết hoặc vắng mặt. Chính là khi đó tôi hỏi Gregson xem trong bức điện gửi đi Cleveland, ông ta có hỏi một chi tiết gì đặc biệt về quá khứ của Drebber không. Chắc anh còn nhớ Gregson đã trả lời tôi là không.


Sau đó, tôi xem xét tỉ mỉ gian phòng. Việc này giúp tôi thấy rõ tầm vóc loại thuốc lá và móng tay dài của thủ phạm vì không có dấu vết vật lộn nào nên tôi kết luận chỗ máu giây ra trên sàn nhà hẳn là máu mũi của thủ phạm lúc bị quá khích. Tôi thấy những vết máu này trùng hợp với những vết chân của thủ phạm. Không mấy ai, trừ phi là người thuộc tạng rất thừa máu, lại chỉ vì xúc cảm mà chảy máu mũi. Vì vậy, tôi dám nghĩ rằng thủ phạm chắc là một người lực lưỡng, mặt đỏ vì xung huyết. Thực tế đã chứng minh là tôi đoán đúng.


Ở ngôi nhà đó ra về, tôi đã vội vàng làm cái việc mà Gregson bỏ qua. Tôi điện cho sở cảnh sát thành phố Cleveland, hỏi về những tình huống xung quanh cuộc hôn nhân của Drebber. Bức điện trả lời cho biết Drebber đã nhờ cảnh sát thành phố che chở cho mình khỏi bị một kẻ tên là Hope ám hại. Kẻ này là tình địch của Drebber trong một chuyện yêu đương cũ và hiện nay kẻ này đang có mặt tại Châu Âu. Đến lúc ấy, tôi biết là đã nắm trong tay tất cả các đầu mối, chỉ còn có việc tóm cổ thủ phạm nữa thôi.


Tôi đã tin chắc rằng người ấy đi cùng với Drebber vào ngôi nhà và người đánh xe chỉ là một. Vết chân ngựa day đi day lại tren đường cho thấy không có người giữ cương nó. Vậy thì người đánh xe lúc ấy ở đâu nếu không phải là ở trong nhà? Bởi không có ai dám gây ra một án mạng ngay trước mắt một người thứ ba để về sau người đó sẽ tố cáo mình. Cuối cùng, giả sử thủ phạm muốn theo dõi nạn nhân của mình qua các phố ở London thì liệu y còn tìm được cách nào tốt hơn là đóng vai người đánh xe ngựa không? Tất cả những khía cạnh ấy buộc tôi phải tìm Hope trong số những người đánh xe ngựa ở London.


Nếu y làm nghề đánh xe thì không có lý do gì y lại không tiếp tục nghề ấy. Trái lại, theo cách nhìn của y, mọi sự thay đổi đột ngột có thể làm cho người ta chú ý đến y. Chắc y cũng tiếp tục nghề cũ, ít nhất trong một thời gian. Cũng không có lý do gì để giả thiết rằng y sống dưới cái tên giả. Y cần gì phải đổi tên ở một nước không có ai quen biết? Tôi đã nhờ đến mấy chú bé lang thang, phái chúng đến tất cả các chủ xe London cho đến khi tìm được người mà tôi tìm. Chúng đã tìm được. Vụ giết Stangerson là một việc hoàn toàn bất ngờ, nhưng dù sao cũng không thể ngăn ngừa được. Anh thấy không, tất cả những điều đó là một chuỗi sự việc logic móc nối nhau liên tục, không một chỗ nào gián đoạn.


-Thật là tuyệt vời! - Tôi kêu lên - Công lao của anh đáng được mọi người biết đến. Phải đăng một bài báo về vụ này. Nếu anh không viết thì tôi sẽ viết thế anh.


-Anh làm gì thì tùy. Nhưng anh hãy xem đâỵ


Holmes đưa cho tôi một tờ báo. Đó là tờ "Tiếng vang" số ra trong ngày, và bài báo anh chỉ cho tôi chính là một bài báo nói về một vụ án. Bài báo viết:


"Với cái chết đột ngột của Hope, kẻ bị tình nghi là thủ phạm gây ra hai án mạng: giết Enoch Drebber và Joseph Stangerson, công chúng đã mất một dịp được biết nhừng tình tiết giật gân của một vụ án bí ẩn. Có lẽ người ta sẽ không bao giờ được biết những tình tiết ấy, tuy rằng theo nguồn đáng tin cậy, chúng ta được biết rằng hai án mạng này là kết cục của một mối thù oán lâu năm có dính dáng đến tình yêu và giáo phái Mormons. Hình như thời trao trẻ hai nạn nhân đã thuộc về giáo phái "Các vị Thánh ngày cuối" và thủ phạm Hope cũng là người gốc gác ở thành phố Salt Lake. Tuy vụ này không đi đến kết cục công khai tại toà, song ít nhất nó cũng nêu bật lên cách làm việc có hiệu quả của ngành cảnh sát nước ta. Không ai không biết rằng công lao này hoàn toàn thuộc về hai thanh tra nổi tiếng của Scotland Yard là các ông Gregson và Lestrade.Thủ phạm hình như đã bị bắt giữ tại nhà một người tên Sherlock Holmes. Bản thân người này - với tư cách thám tử nghiệp dư, - cũng đã tỏ ra có đôi chút tài năng. Hy vọng rằng, được những người như hai thanh tra kể trên dìu dắt, với thời gian, Sherlock Holmes sẽ học hỏi được nhiều và sẽ tấn tới hơn nữa.


Chúng tôi tin chắc rằng hai thanh tra Gregson và Lestrade đã được khen ngợi xứng đáng với những thành tích xuất sắc của họ ".


Sherlock Holmes cười lớn:


-Thì tôi đã bảo ngay từ đầu rồi mà.

Truyện 3:

 Vành đai khí độc

Chương 1:

Nhất định là tôi phải ghi lại tức khắc biến cố kỳ diệu này khi đầu óc tôi còn nhớ rộ mồn một, e rằng để lâu những chi tiết có thể phai nhòa. Tuy nhiên, tột vẫn chưa hết ngỡ ngàng về sự trùng phùng kỳ lạ của bốn người chúng tôi trong nhóm “Thế giới lạc loài”. Gặp nhau và cùng trải qua kinh nghiệm lạ thường này: Giáo sư Challenger, giáo sư Summerlee, đức ông Roxton và tôi.


Từ vài năm trước, tôi đã tường thuật cuộc du hành đánh dấu một thời đại của chúng tôi sang Nam Mỹ, trong tờ Daily Gazette. Tôi đâu có ngờ lại được dịp kể lại một kinh nghiệm cá nhân lạ lùng và độc nhất trong lịch sử nhân loại, nổi bật lên như một đỉnh cao giữa những đồi núi thấp lè tè xung quanh. Bản thân biến cố đã là kỳ diệu, nhưng việc bốn người chúng tôi tụ họp với nhau vào cái thời điểm bất thường ấy, vừa có vẻ tự nhiên vừa có vẻ không thể khác được. Tôi sẽ cố thuật lại những hoàn cảnh khiến chúng tôi họp mặt với nhau càng ngắn gọn, rõ ràng càng tốt, mặc dù đại đa số quần chúng vẫn chưa thỏa mãn, muốn biết dầy đủ chi tiết hơn.




Thứ Sáu, ngày 27 tháng 8, ngày sẽ ghi nhớ mãi trong lịch sử nhân loại, tôi đến tòa soạn tờ báo để xin ông McArdle ba ngày nghỉ phép. Ông vẫn là Trưởng ban tin tức của chúng tôi. Ông già tốt bụng, dân Scotch, lắc đầu, tay gãi gãi cái nấm mũ đỏ hoe, cuối cùng ông mới phải nói cái chẳng đặng dừng ra.


- Ông Malone, lúc này tôi đang định giao cho ông một nhiệm vụ có lợi nhất cho tờ báo. Có một đề tài chỉ có ông mới theo dõi và xử lý đúng cách được.


- Rất tiếc ông ạ, - tôi cố che giấu thất vọng, - dĩ nhiên, nếu có công tác thì đành dẹp chuyện nghỉ phép lại. Nhưng cái hẹn của tôi rất quan trọng và trong vòng thân mật. Nếu tôi được miễn cái công tác của ông...


- Này, ông không miễn được đâu.


Thật chua chát, nhưng tôi cố tỏ ra bình thản. Nói cho cùng là lỗi tại tôi, vì tình hình lúc này thì không nhà báo nào còn có thể nghĩ đến chương trình cá nhân. Tức khắc, tôi cố tỏ ra vui vẻ:


- Thôi được, tôi không nghĩ tới đi phép nữa, ông muốn tôi làm gì nào?


- Có thế chứ! ông sẽ đi phỏng vấn một tay phù thủy ở Rotherfield.


- Ông không nói tới giáo sư Challenger đấy chứ?


- Ồ chính tôi muốn nói tới ông đó đấy. Tuần qua ông ấy đã nắm cổ áo và ống quần cậu Alee Simpson của tờ Courier, kéo cậu ta đi cả nửa dặm đường, tuốt ra xa lộ. Chắc ông đã có đọc bài tường thuật của cảnh sát. Phỏng vấn ông ta chẳng khác nào nói chuyện với cá sấu ngoài đầm hoang. Nhưng tôi tin là ông làm được, ông vốn là bạn cố cựu với ông ta mà.


Tôi nhẹ nhõm cả người.


- Sao? Vậy thì dễ thôi. Chính vì muốn gặp ông ấy mà tôi xin nghỉ phép đấy. Sự thật là ông ấy đã mời chúng tôi họp mặt để kỷ niệm chuyến thám sát thành công của chúng tôi ở cao nguyên Nam Mỹ ba năm về trước.


- Tuyệt diệu! - ông McArdle cười giòn, xoa hai tay vào nhau, đôi mắt reo vui sau cặp kính. - Vậy thì ông chắc chắn sẽ moi được ý kiến của giáo sư Challenger. Ý kiến của những người khác chỉ là hoang tưởng mơ mộng, nhưng giáo sư đã đúng nhiều lần và hy vọng lần này lại đúng.


- Hỏi ông ta về cái gì? Ý kiến của ông ấy đã đúng về chuyện gì?


- Ông chưa đọc lá thư của giáo sư trên tờ Times hôm nay à? Đề tài “Những khả năng khoa học.”


- Chưa đọc.


McArdle cúi xuống lượm cho tôi tờ báo trên sàn.




- Làm ơn đọc lớn lên. - ông vừa đưa cho tôi vừa chỉ vào cột báo. - Tôi muốn nghe lại lá thư vì tôi chưa hiểu rõ giáo sư muốn nói gì.


Đây là lá thư tôi đọc cho Trưởng ban biên lập tin tức của tờ Gazette:


“Những khả năng khoa học


Thưa ông, tôi đã chăm chú đọc và không được thoải mái, bài báo tự đắc và ngây ngô của ông James Wilson Macphail trên báo của ông, về vấn đề những vạch nhạt nhòa Fraunhofer trong các quang phổ của hành tinh và định tinh. Và ông Macphail đã cho rằng hiện tượng này không nghĩa lý gì. Căn cứ vào nhiều thông tin chuyên sâu hơn, hiện tượng này có khả năng là một biến cố quan trọng sâu rộng đến độ ảnh hưởng đến sự an lạc của mọi người trên hành tinh này... Tôi không hy vọng dùng các thuật ngữ khoa học để diễn tả cho những người chỉ dựa trên những thông tin trong báo chí, hiểu được ý tôi muốn thông báo. Nhưng tôi sẽ cố gắng dùng một hoán dụ thông thường để so sánh với hiện tượng, hợp với tầm hiểu biết của các tác giả không thực tế và độc giả của quí báo.”




Ông McArdle gục gặp đầu ra chiều tâm đắc:


- Được lắm! Ông ấy là một hiện tượng, một kỳ quan sống! Ông ấy làm cho chim câu còn đang được mớm sữa mọc lông (1), ông ấy có thể làm một cộng đồng Quakers đang hành lễ hỗn loạn (2). Hèn chi, mọi người London muốn gặp ông ấy. Tội nghiệp ông ấy bị quấy rầy chỉ vì có bộ óc vĩ đại! Rồi, đọc cái hoán dụ của ông ấy đi.


Tôi đọc tiếp:


“Giả sử ta cột một chùm những miếng bấc lại với nhau, rồi thả xuống một trong những dòng nước lờ đờ trong Đại Tây Dương. Chùm bấc trôi dật dờ trong dòng nước, ngày này qua ngày khác trong môi trường cả dòng nước. Nếu những miếng bấc có ý thức, có tri giác, chúng ta có thể hình dung ra được là chúng sẽ cho là các điều kiện của môi trường xung quanh chúng vĩnh hằng và ổn định. Nhưng chúng ta có tri thức, biết rằng sẽ có nhiều biến cố xảy ra cho chùm bấc.




Chúng có thể đụng vào một mạn tàu, lưng một con cá voi ngủ, hoặc mắc kẹt trong một đám rong biển. Dù chúng có gặp gì trong cuộc hành trình, cuối cùng chúng sẽ bị sóng hất tung lên vách đá của bán đảo Labrador chẳng hạn. Nhưng những miếng bấc đâu có biết gì về những điều này, mà chỉ biết dật dờ trôi theo dòng và tưởng rằng đại dương là vô hạn và đồng nhất, đâu cũng như đâu.




Độc giả của ông hiểu được Đại Tây Dương, trong hoán dụ này là đại dương ether (3) của vũ trụ mà chúng ta đang trôi nổi bồng bềnh, và chùm bấc chính là hệ mặt trời của chúng ta. Một thái dương hệ gồm một ngôi sao cấp ba, loe ngoe vài hành tinh xoay quanh vô nghĩa như một cái đuôi cụt. Chúng ta cũng đang trôi nổi lềnh bềnh, trong những điều kiện hàng ngày, về nơi vô định. Rồi ở một nơi nào đó bên lề vũ trụ, một tai họa đen tối sẽ úp chụp xuống chúng ta, đẩy chúng ta vào một dòng thác ether như thác Niagara, hay đẩy chúng ta mắc kẹt vào một vùng Labrador nào đó của vũ trụ. Thật không thể lạc quan một cánh nông cạn, thiếu hiểu biết như ký giả James Wilson Macphatl. Có rất nhiều lý do khiến ta phải nghiêm túc quan tâm đến sự thay đổi trong môi trường vũ trụ, vì nó liên quan tới mạng sống của tất cả chúng ta.


Sự nhạt nhòa của những vằn song song Fraunhofer và sự xê xích của các điểm vạch quang phổ, theo ý tôi, là sự thay đổi rộng khắp trong toàn bộ vũ trụ, nhưng rất vi tế và độc đáo ánh sáng từ một hành tinh là ánh sáng phản chiếu từ một mặt trời, ánh sáng từ một định tinh do tự nó phát ra.




Nhưng trong biến cố này, quang phổ của ánh sáng hành tinh và định tinh đều có độ nhạt và lệch giống nhau. Vậy phải chăng có một sự thay đổi duy nhất xảy ra trên cả các định tinh lẫn hành tinh? Điều này không thể có được. Có thể chỉ bầu khí quyển của trái đất thay đổi? Tuy điều này có khả năng xảy ra, nhưng ta có thể đoan chắc là không phải, vì ta không quan sát thấy gì thay đổi quanh ta, các phân tách hóa học cũng không phát hiện ra thay đổi ấy. Vậy khả năng thứ ba là cái gì? Có thể do sự thay đổi trong môi trường ether dẫn ánh sáng, vốn lấp đầy vũ trụ và bao trùm mọi thiên thể.


Có thể thái dương hệ của chúng ta đang trôi trong một dòng ether lờ đờ, sắp đẩy chúng ta vào một môi trường ether có các đặc tính chúng ta chưa đoán nhận được? Phải có một sự thay đổi ở đâu đó. Phải có xáo trộn nào đó trong vũ trụ, các quang phổ của ta chứng tỏ điều đó. Sự thay đổi có thể gây hậu quả tốt, cũng có thể ảnh hưởng xấu hoặc trung lập. Ta chưa biết chắc được, các nhà quan sát vũ trụ nông cạn cho rằng hiện tượng này chẳng có gì đáng xem xét.


Nhưng đối với người làm khoa học như tôi, một trí thức chân chính, phải nhìn những khả năng trong vũ trụ không thể tính hết được theo quan điểm một triết nhân, sấn sàng đón nhận cái bất ngờ. Thí dụ nhãn tiền là người dân trên đảo Sumatra và vùng lân cận nhất loạt bị một chứng bệnh như nhau. Ai dám khẳng định bệnh này chẳng có liên quan gì đến thay đổi trong vũ trụ? Chẳng qua là người dân chất phác ở đây bị ảnh hưởng trước những người dân Âu châu văn minh hơn, biết bảo vệ sức khỏe hơn thôi. Tôi không bỏ ý định phải nghiên cứu hiện tượng, tôi cũng không đồng ý với dư luận, cứ bỏ lơ nó đi cũng chẳng hại gì, và cũng không đồng ý quan điểm cho rằng mọi thứ đã ở trong tầm tay nhà khoa học.


Trân trọng


George Edward Challenger.


The Briars, Rotherfield.”


- Thật là một bức thư súc tích và gợi ý. - ông McArdle nói với vẻ suy tư, vừa cài điếu thuốc vào cái đót bằng thủy tinh. – Ý ông ra sao, ông Malone?


Thú thật, tôi mù tịt về vấn đề này. Những vằn song song Fraunhofer là gì tôi cũng chẳng biết. Ông McArdle thì vừa nghiên cứu những quang phổ này với nhóm khoa học gia nghiệp dư trong tòa báo. Ông lượm trên bàn giấy hai tờ quang phổ đồ, tôi thấy chúng gồm những dải màu như cái đai mũ của các cầu thủ bóng chày. Ông chỉ cho tôi thấy thông đường viền song song ôm lấy những dải màu từ đỏ sang cam, vàng, lục xanh. chàm, tím.


- Những vằn đen song song này là vằn Fraunhofer. Những dải màu này chính là ánh sáng. Chiếu bất cứ ánh sáng nào qua một lăng kính ta cũng đều có phổ màu như thế này. Những dải màu chẳng có gì đặc biệt, nhưng chính những vằn song song Fraunhofer mới có ý nghĩa, chúng cho ta biết bản chất của nguồn sáng. Các vằn này hôm nay nhạt nhòa, không sắc nét như tuần trước. Các nhà thiên văn đang tranh luận sôi nổi về nguyên nhân của sự nhòa này. Đây là tấm hình vằn đen Fraunhofer nhạt nhòa, sẽ cho đăng trong số báo ngày mai. Phần lớn công chúng chẳng để ý gì đến chuyện này, nhưng tôi nghĩ, với bức thư của giáo sư Challenger trong tờ Times, quần chúng sẽ tỉnh thức.


- Và những quang phổ này liên quan tới bệnh ở Sumatra?


- Không, còn lâu mới xác định được liên hệ giữa xáo trộn trong vũ trụ với bệnh của dân địa phương ấy, nhưng cái ông thần thông này đã chứng tỏ ông ấy biết mình nói gì trong quá khứ. Ở miền xa xôi ấy dân chúng mắc một chứng bệnh kỳ lạ, là sự thực. Điện tín từ Singapore cũng cho biết hải đăng ở Eo Sun đã tắt ngấm và hai tàu thủy đã đâm vào bờ. Dẫu sao, ông phỏng vấn được Challenger về vấn đề này thì rất tốt. Nếu có được ý kiến chính thức của ông ấy, chúng ta có thể đãng một bài vào thứ Hai.


Tôi đang chậm rãi ra khỏi phòng biên tập của tôi, chú tâm sắp xếp, cân nhắc chuyến công tác của mình thì có ai gọi tôi ở tiền phòng dưới nhà. Đó lả cậu bé điện tín mang thư từ liên lạc từ nhà tôi ở Strentham lên cho tôi.


Cái điện tín của chính người chúng tôi đang nói tới. Nội dung như sau: “Malone. 17 Hill Street, Streatham - Mang dưỡng khí tới Challenger.”




Mang oxy tới! Cái ông giáo sư có óc hài hước cao độ này, rất có khả năng chơi những trò rắn mắt. Liệu đây có phải là một trò khiến ông có dịp cười như nắc nẻ, mắt híp lại hoặc là ông há miệng cười ha hả, bộ râu quất qua quất lại chẳng để ý gì đến xung quanh? Tôi lật qua lật lại cái điện tín trong đầu mà chẳng tìm ra ý nghĩa nghịch ngợm nào. Vậy chắc chắn nó là một lệnh ngắn gọn, tuy rằng hơi bất thường. Lệnh của ông, tôi không thể nào không tuân..




Chắc là ông đang làm một thí nghiệm hóa học nào đó cần tới oxy. Thôi, tôi cũng chẳng cần đoán già đoán non làm gì. Cứ việc mang oxy tới là xong. Tôi phải chuẩn bị mất gần một giờ mới lên được xe hỏa ở ga Victoria. Tôi lấy vé đến một địa chỉ theo niên giám điện thoại, Oxygen Tube Supply Co. ở phố Oxford.


Khi bước lên vỉa hè trước công ty, hai thanh niên đang khệ nệ khiêng một chai oxy ra xe. Theo sau hai thanh niên, vừa la rầy vừa điều khiển bằng một giọng the thé, ngạo nghễ, là một ông già. Ông ấy quay lại phía tôi. Những nét khắc khổ, chòm râu dê quen thuộc không thể lầm lẫn được. Đó là ông bạn già khắc tinh của tôi, giáo sư Summerlee.


Ông ấy hét lớn:


- Ông cũng nhận được cái điện tín ông ta om sòm đòi oxy, phải không?


Tôi đưa cái điện tín cho giáo sư coi.


- Lạ quá! Tôi cũng nhận được một cái. Thật là trái khoáy mà tôi cũng phải làm. Ông bạn chúng ta luôn luôn vô lý. Ông ấy cần oxy làm gì mà gấp đến thế. Không thể đợi được nguồn cung cấp thông thường, lại làm mất thời giờ của những người bận rộn hơn ông ấy nhiều. Tại sao ông ấy không đặt hàng trực tiếp nhỉ?


- Tôi đoán ông ấy cần tức thì.


- Cứ tạm cho là ông ấy cần gấp đi, nhưng nếu bạn cũng mang đến một bình thì hoang phí quá, bình của tôi là đủ rồi.


- Nhưng vì lý do nào đó, ông ấy cũng muốn tôi mang chai oxy tới. Tốt nhất là tôi cũng mang tới sẽ an toàn hơn.


Mặc kệ cho Summerlee cằn nhằn phản đối, tôi cứ mua một bình và cho khuân lên xe để cạnh chai của ông ấy, cùng ra ga.




Tôi quay lại trả tiền taxi. Tài xế rất khó chịu vì tính tiền quá lạm. Tôi quay lại chỗ giáo sư, đang bực tức cãi nhau với hai người khiêng bình oxy, bộ râu dê trắng rung lên vì tức giận. Tôi còn nhớ một người khiêng chai oxy gọi giáo sư là “con vẹt già mất màu,” khiến tài xế của ông ra khỏi xe định đập nhau với họ. Chúng tôi phải cố gắng lắm mới can được một cuộc đánh lộn ngoài đường.


Những chuyện vặt này, lúc đó chỉ như là ngẫu nhiên, chẳng liên quan gì đến chuyện tôi đang thuật đây. Sau này nghĩ lại, tôi mới thấy chúng có liên quan. Người tài xế của giáo sư có vẻ như mới lái, hoặc mất tinh thần trong vụ vừa qua, vì khi lái ra ga ông suýt đụng xe khác hai lần. Tôi cũng nhớ đã cùng giáo sư nhận xét là tiêu chuẩn tài xế London đã xuống cấp. Khi xe đến cạnh một đám đông ở một khu buôn bán, tôi được chứng kiến cảnh người chạy loạn xạ, người tài xế ẩu tả, và một người nhảy được lên lề, giơ gậy hăm dọa trên đầu chúng tôi. Cũng may là tôi đẩy được ông ấy đi và chúng tôi qua được công viên an toàn. Những sự việc nho nhỏ này làm tâm trí tôi không yên, cử chỉ của người đồng hành với tôi cũng nôn nóng, tỏ ra ông cũng mất kiên nhẫn. Chúng tôi chỉ lấy lại được sự vui vẻ khi thấy đức ông John Roxton đang đợl chúng tôi trên sân ga. Thân hình cao, gầy của ông mặc bộ len vàng sậm nổi bật lên. Bộ mặt tinh anh, đôi mắt sáng quắc, dữ tợn không thể quên được, cũng ánh lên những nét vui nhộn khi thấy chúng tôi tới. Mái tóc hung đỏ của ông hơi điểm bạc, cặp chân mày hằn sâu hơn vì thời gian. Nhưng những nét khác của ông vẫn là những nét của Lord Roxton, bạn của chúng tôi tự thuở nào. Ông vừa tiến đến chỗ chúng tôi vừa chào.


- Chào ông giáo sư, chào anh bạn trẻ! - ông gầm lên thật sự khi thấy người phu khuân vác đẩy cái xe chở bình oxy ở sau chúng tôi. - Các ông cũng mang theo oxy à. Của tôi đã để trong toa, không biết ông bạn già của chúng ta định làm gì với chúng đây?


- Ông đã đọc bức thư của ông ấy trên tờ Times chưa?


- Về chuyện gì vậy?


- Linh tinh, chẳng nghĩa lý gì! - Giáo sư Summelee nói xẵng.


Tôi nói:


- Nếu không lầm thì chuyện liên quan đến các chai oxy này đây.


- Linh tinh, vô lý!- ông giáo sư hét lên một lần nữa và làm chi cần lớn tiếng. Chúng tôi đã vào toa hạng nhất hút thuốc, và ông giáo sư đã đến lèn cái píp đen ngắn, tôi chỉ e nó sẽ làm cháy xém cái mũi cong dài hung hăng của ông thôi. Ông ấy nói oang oang: - Ông bạn Challenger rất thông minh, có điên mới không công nhận điều ấy. Cứ trông cái mũ của ông ấy thì biết, có gần hai kí lô óc ở trong ấy đấy, một bộ máy vĩ đại, chạy êm ru, sản xuất ra những công trình đẹp gọn. Cứ chỉ cho tôi biết nhà máy, tôi sẽ nói cho các ông biết cỗ máy. Nhưng ông ta bẩm sinh chỉ là một ông lang băm. Các ông đã từng nghe tôi nói thẳng vào mặt ông ta như vậy - một ông lang băm cũng tìm đủ mánh lới nhảy lên sân khấu cho nổi tiếng. Vì mọi chuyện đang tốt đẹp, êm ả thì ông bạn Challenger của chúng ta tìm được dịp buộc công chúng nói đến ông ta. Các bạn không thể mường tượng ra được ông ta thật sự tin là có chuyện vô lý như có xáo trộn trong môi trường ether, đe dọa sinh tồn của nhân loại. Các ông có thể tin một chuyện đầu Ngô đuôi Sở như vậy không?




Ông giáo sư ngồi như một con quạ già, lông trắng phau, ngồi cười lớn đến rúng động thân mình.


Một cơn giận lạnh tanh bủa chụp lấy tôi khi giáo sư Summerlee nói về bạn mình như vậy. Người bạn chung đã giúp chúng tôi có được chút tiếng tăm và đã cho chúng tôi những giây phút tuyệt vời không mấy ai đã được hưởng. Tôi đã mở miệng định lên tiếng phản đối thì đức ông John đã nhanh miệng hơn tôi. Ông nghiêm khắc nói:


- Ông đã tranh luận với trưởng lão Challenger một lần và đã thua, trắng đen đã rõ trong mười giây. Ông ấy vượt xa trình độ của ông nhiều. Cách đối phó tốt nhất với ông ấy là lỉnh xa ông ta ra, để ông ta yên, giáo sư Summerlee ạ.


Tôi cũng tiếp lời:


- Ngoài ra, ông ấy cũng là người bạn tốt với tất cả ba chúng ta. Dù lỗi lầm của ông ấy có là gì đi nữa, thì ông ấy cũng là người chính trực như một cây trúc. Tôi cũng tin là ông ấy chưa hề nói gì sau lưng bạn bè.


- Bạn nói hay lắm, ông bạn vong niên ạ. - Đức ông mỉm một nụ cười hiền rồi vỗ vai giáo sư Summerlee - Thôi, ông giáo sư, chúng ta không cãi nhau vào lúc này nữa. Chúng ta đã cùng thấy với nhau nhiều rồi mà. Nhưng xin ông đừng có thái độ như thế này nữa, trước mặt người bạn già của chúng ta mà chúng ta yếu hơn về mọi mặt.


Nhưng giáo sư Summerlee vẫn không có vẻ gì là khoan nhượng, ông bập píp và nhả ra những cuộn khói giận dữ.


- Về phần ông, đức ông John Roxton ạ, ý kiến của ông về các vấn đề khoa học, chỉ như một viên đạn súng săn nhờ văng ra nhiều mảnh mà trúng con mồi thôi. Tôi có óc suy luận và suy luận theo cách của tôi. Chỉ vì tin tưởng, tôi đã bị lầm lẫn một lần, bởi vậy, tôi không thể chấp nhận những gì ông ta nêu lên mà không phê phán. Chúng ta có cần một giáo hoàng trong khoa học với quyền năng bất khả ngộ, cứ phán ra rồi độc đoán bắt đại chúng hiền lành tin theo. Cho ông hay, tôi có cái đầu, tôi phải dùng nó, tôi không hợm hĩnh, theo đuôi người ta như một tên nô lệ. Nếu thích thì ông cứ tin vào ether và những vằn Flaunhofer trên quang phổ, nhưng đừng có bắt một người cao niên hơn, khôn ngoan hơn như tôi, chia sẻ quan điểm điên rồ đó với ông. Chẳng có bằng chứng nào là ether đã ảnh hưởng đến mức độ ông ta nói. Nếu ether có ảnh hưởng đến sức khỏe con người, thì chính chúng ta đã phải bị bệnh rồi.


Nói đến đây, ông giáo sư phá lên cười đắc thắng vì lý luận của mình.


- Vâng, thưa ông, chúng ta đã không còn là những con người bình thường, không còn bình an mà ngồi trên toa tàu này bàn chuyện khoa học. Chúng ta phải đang bị nhiễm độc. Các dấu hiệu bị nhiễm độc vì xáo trộn ether vũ trụ đâu? Trả lời tôi đi! Không được tìm cách lẫn trốn. Tôi buộc ông trả lời!


Tôi càng ngày càng giận và thái độ của giáo sư Summerlee càng ngày càng khó chịu, hung hăng. Tôi nói:


- Tôi nghĩ rằng, nếu ông biết thêm được nhiều sự kiện thực sự chắc ông sẽ bớt quả quyết về ý kiến của mình.


Summelee lấy píp khỏi miệng và trừng trừng nhìn tôi lạnh tanh.


- Làm ơn cho biết ý của ông về những nhận xét chẳng đâu vào đâu của ông ta?


- Trước khi rời tòa soạn, Trưởng ban biên tập tin tức đã cho tôi biết có điện tín xác nhận dân địa phương ở Sumatra đều bị nhất loạt một chứng bệnh, và hải đăng ở eo Sun đang tắt ngấm.


- Đúng rồi, cái điên của con người đâu có giới hạn! - Giáo sư Summelee la lên tức giận thật sự. - Nếu chấp nhận cái giã thuyết rỗng tuếch của Challenger, thì ông cũng phải thấy ether trong vũ trụ phải là chất đồng nhất ở cả hai phía của trái đất chứ. Có bao giờ ông tin là có thứ ether ở Anh khác với ether ở Sumatra? Chắc ông cho rằng ether ở Kent tốt hơn ether ở Surrey về một vài mặt nào đó. Những người dân thường ngoài giới khoa học rất cả tin và dốt nát. Các ông có thể chấp nhận được ether ở Sumatra, đúng lúc này, độc đến nỗi làm mọi người tê liệt, còn ở đây chúng ta chẳng hề hấn gì? Cá nhân tôi, tôi còn cảm thấy thân thể khỏe mạnh, tâm hồn quân bình hơn bao giờ hết.


- Có thể như vậy. Tôi không dám nhận là một nhà khoa học, nhưng tôi có đọc và nghe ở đâu đó là khoa học ở thế hệ này, có thể bị coi là sai lầm ở thế hệ kế tiếp. Vì chúng ta chưa biết nhiều về ether, nên cứ dùng lương tri mà xét, có thể vì các điều kiện ở địa phương, ether đã gây ảnh hưởng ở vùng đó trước, ảnh hưởng đến chúng ta sau.


- Với nếu và có thể thì ông chẳng chứng minh được gì cả. Heo có thể bay nhưng chúng có bao giờ bay được đâu. - Summerlee đùng đùng nổi giận. - Nói chuyện với các ông không được nữa rồi. Challenger đã nhồi nhét cho các ông những điều vô lý, còn cả hai ông đều không có khả năng suy luận. Thà tôi tranh luận với mấy cái ghế nệm này còn hơn.




Đức ông John nghiêm sắc mặt nói:


- Giáo sư Summerlee ạ, xem ra tác phong của ông chẳng cải tiến được chút nào, từ lần gần nhất tôi hân hạnh gặp ông.


Summerlee cười chua chát trả lời:


- Các đức ngài như ông không quen nghe sự thật. Chắc ông sẽ bi sức nặng nếu như có ai bảo với ông là, ngoài cái tước vị ra, ông cũng chỉ là dốt nát, mù tịt.


Đức ông John nói hết sức nghiêm khắc và cứng:


- Hứa với ông, nếu ông còn trẻ, hẳn ông không dám nói với tôi một cách hỗn hào như thế.


Giáo sư Summerlee hất cằm lên, chòm râu dê lắc lư.


- Ngài nên nhớ là, cả đời tôi, dù già hay trẻ, tôi chẳng ngần ngại gì khi nói thẳng ý mình với những kẻ hợm mình dốt nát mà vênh váo. Vâng, thưa ngài, dốt nát mà vênh váo, dù ông có bao nhiêu tước vị mà bọn gia nô của ông phong tặng và được lũ dốt nát chấp nhận.


Mắt đức ông John tóe lửa một lúc rồi ông chế ngự được cơn giận, ngồi dựa vào ghế, tay khoanh lại, miệng cười chua chát. Với tôi, chuyện này thật khủng khiếp, không thể chấp nhận được. Rồi như một đợt sóng, ký ức quá khứ tràn về: tình bạn thắm thiết, những niềm hạnh phúc, những ngày cùng nhau du thám, những chịu đựng, những cố gắng để chiến thắng. Thế mà chúng tôi đi đến nông nỗi này - thóa mạ, lăng nhục lẫn nhau! Rồi đột nhiên tôi khóc, khóc nức nở lớn tiếng. Khóc nghẹn ngào không thể kiềm chế và che dấu được. Các bạn tôi nhìn tôi ngỡ ngàng, tôi phải lấy hai tay che mặt lại.


- Không sao mà, - tôi cố nói - chỉ vì hoàn cảnh của chúng ta thảm thương quá.


Lord John nhận xét.


- Ông bạn trẻ, ông bịnh rồi. Đó mới là trục trặc của ông. Tôi đã thấy bạn hơi lạ thường từ lúc mới gặp.


Giáo sư Summerlee lên tiếng, vừa lắc đầu:


- Chính là do tật uống rượu của ông đấy, cả ba năm nay ông vẫn chưa cải sửa được. Tôi cũng thấy cử chỉ của ông lạ lùng ngay từ lúc mới gặp. Ngài John, ngài không cần phải ái ngại cho ông ấy. Những giọt nước mắt kia chỉ do rượu thôi. Ông ấy chắc đã uống quá nhiều. Tiện thể đây, đức ông ạ, vừa rồi tôi có gọi ông là hợm mình, quả là có hơi quá. Nhưng từ ngữ ấy gợi nhớ chút tài mọn của tôi, vặt vãnh thôi nhưng thú vi lắm. Các ông đã biết tôi là một nha khoa học rất nghiêm khắc. Các ông có tin là tôi đã từng nổi tiếng trong các vườn ươm và trại giống, về bắt chước tiếng và điệu bộ muông thú. Tôi sẽ giúp cho ông giải trí cho qua thời giờ. Các ông có thích tôi bắt chước gà gáy không?


Đức ông John vẫn còn tức, nói ngay:


- Không, thưa ông, trò đó không làm vui tôi đâu.


- Tài bắt chước gà cục tác ngay sau khi đẻ trứng của tôi cũng được coi là trên trung bình đấy. Tôi làm các ông xem thử nhé?


- Không, xin can ông.


Dù có bị quyết liệt từ chối, giáo sư Summelee cũng để píp xuống và giúp vui chúng tôi - hoặc không giúp vui được hay - bằng một loạt tiếng chim hót, thú vật kêu chẳng ra sao cả, đến nỗi nước mắt của tôi đã thay thế bằng những tiếng cười ha hả rồi cười ngặt nghẽo. Vì tôi ngồi đối diện ngay với giáo sư nhìn thấy - hay đúng hơn nghe thấy - ông đang nghiêm trang thật sự đóng vai gà gáy hay con chó con ăng ẳng khi bị nhằm vào đuôi. Khi đức ông chuyền cho tôi tờ báo, tôi thấy ghi ở bên lề bằng bút chì: “Tội nghiệp! Ông ấy mát nặng rồi! “


Vâng, ông ấy có lập dị thật, nhưng những trò ông mới làm cũng có vui và thông minh.


Trong khi Summerlee tiếp tục diễn trò, đức ông John nghiêng mình về trước kể cho tôi nghe chuyện một con trâu và một ông Hoàng Ấn Độ, và tôi có cảm tưởng là không bao giờ cùng. May thay, khi giáo sư Summerlee bắt đầu giọng hót lý như một con yến, đức ông John đang kể đến những tình tiết đỉnh điểm của câu chuyện, thì tàu vào ga Jarvis Brook.


Ở đây cũng có bến xe đi Rotherfield. Và kìa giáo sư Challenger đang đợi chúng tôi. Dáng vẻ của ông ấy thật kiêu hãnh. Không có con công hay gà trống tây nào có dáng vẻ kênh kiệu sánh được cái vẻ thong dong tự tin, và nụ cười hiền lành, hạ cố đối với những người quanh ông. Chỉ có vẻ mặt của ông hơi rạng rỡ hơn, vì quan điểm của ông đang thắng thế, là nét thay đổi duy nhất. Cái đầu đã to, vầng trán lộng, với mái tóc ép sát vào da đầu như có vẻ to ra hơn. Bộ râu đen mượt chảy dài xuống, có vẻ ấn tượng hơn, trông như một dòng suối. Đôi mắt xám, trong long lanh, dưới đôi mi bướng bỉnh, ngạo đời cũng thay đổi đôi chút.


Ông ấy bắt tay tôi tạo cho tôi thích thú, kèm nụ cười khích lệ như một thầy hiệu trưởng ban cho một cậu học trò. Ông bắt tay những người khác, giúp họ xách hành lý, lăn bình oxy lên xe. Tài xế vẫn là cái ông Austin nghiêm nghị, ít nói. Lần trước tôi tới, thì ông đóng vai quản gia. Chuyến hành trình bằng xe con này qua những đoạn đường bám trên sườn đồi ngoằn ngoèo, cảnh trí rất đẹp. Tôi ngồi trên với tài xế. Ba vị kia ngồi băng sau, tranh cãi sôi nổi. Tôi nghe như họ cùng nói một lượt. Đức ông John đang cố nói chuyện con trâu, đồng thời tôi nghe thấy cả tiếng oang oang của Challenger, giọng khăng khăng của Summerlee, vẫn y hệt như trước đây, khi họ tranh cãi về một vấn đề khoa học.


Thình lình, Austin nghiêng bộ mặt ngăm đen về phía tôi, mắt không rời khỏi mặt đường:


- Tôi đã được thông báo cho nghỉ việc, ông ạ.


- Trời ơi, thật sao?


Mọi sự hôm nay đều có vẻ kỳ cục. Mọi người đều nói đến các chuyện kỳ cục, bất ngờ. Giống như trong một cơn mơ.


Austin nói trong hồi tưởng:


- Đây là lần thứ bốn mươi bảy ông ấy cho tôi nghỉ việc.


- Khi nào ông đi? - Tôi hỏi để thăm dò tình hình nhà giáo sư hoặc có được giải thích rõ hơn.


- Tôi sẽ không đi.


Austin nói giọng cương quyết. Thế rồi chuyện đối thoại của chúng tôi như ngưng lại. Rồi thình lình Austin lại tiếp tục.


- Nếu tôi phải di, ai sẽ săn sóc ông ấy? (hất hất đầu về phía chủ).


- Thì một người khác.


Tôi trả lời cho có.


- Không có ai khác đâu. Không ai có thể ở đây được một tuần. Nếu tôi ra đi, nhà này sẽ đổ sụm như một đồng hồ đứt dây cót. Tôi nói chuyện với ông, vì là bạn giáo sư và cần phải biết. Nếu tôi phải nghe lời giáo sư và nghỉ việc... tôi không nỡ. Ông và bà ấy sẽ bất lực như hai đứa trẻ bị trùm trong một cái chăn. Tôi chăm lo mọi thứ cho ông ấy, thế mà ông ấy lại báo cho tôi nghỉ việc.


Tôi hỏi:


- Tại sao ông lại nói là không ai ở đây lâu được?


- Người ta sẽ không hiểu ông ấy, không thông cảm được như tôi. ông chủ rất thông minh, quá thông minh đến độ huyền hoặc. Tôi nhìn thấu tận đáy lòng ông ấy. Cứ coi chuyện sáng nay ông ấy làm thì rõ.


- Sáng nay ông ấy làm gì?


Austin nghiêng qua tôi.


- Ông ấy cắn chân cô quản gia. - ông thì thầm nho nhỏ.


- Cắn cô ấy?


- Vâng, thưa ông. Cắn cô ta vào chân, chính mắt tôi trông thấy cô ta chạy như gió, qua cái cổng cũ ra khỏi nhà.


- Đẹp mặt chưa?


- Vâng, ông có thể nói như vậy, nếu ông thấy được một chút cảnh đó. Ông ấy không làm bạn với hàng xóm. Vài người ở đây cho rằng chỉ khi nào ông ấy chán những con quái vật mà ông đã viết về chúng, thì ông ấy mới biến nơi đây thành một tổ ấm gia đinh. Mái ấm thật sự cho ông thầy, vì ông thầy không hòa hợp được thật sự vào một nhóm nào cả Nhưng tôi đã giúp việc cho ông ấy mười năm rồi, và tôi thích ông ấy, ông ấy là một vĩ nhân. Tôi lấy làm vinh dự được giúp việc cho ông ấy. Đôi khi ông ấy có làm những trò độc ác. Giờ thì xin ông hãy coi cái bảng kia kìa, ông có thể gọi đó là truyền thống hiếu khách được không? Ông cố mà đọc lấy.


Chiếc xe đang ở tốc độ chậm nhất, đang ì ạch leo một con dốc cao và ngoằn ngoèo. Ở một góc hàng rào cây xanh cắt tỉa bằng phẳng, nhô lên một cái bảng cảnh báo.


Đúng như Austin đã nói, cái bảng rất dễ đọc vì cái bảng vừa ít chữ vừa bắt mắt.


CẢNH BÁO,


Không tiếp: khách thăm, báo chí, ăn mày.


G. E. Challenger


- Không, cái câu ấy không có nhân tính. - Austin vừa nói vừa ngước mắt lên nhìn cái bảng đáng tội nghiệp. - Xin lỗi ông, hôm nay tôi nói hơi nhiều, nhưng có nói ra được tôi mới nhẹ nhõm. ông ấy có thể cho tôi nghỉ việc khi ông ấy buồn. Nhưng tôi không ra khỏi nhà. Thật rõ ràng, ông ấy là chủ, tôi là người giúp việc và tôi mong như vậy cho hết kiếp này.


Chúng tôi đã qua hai trụ cổng trắng và cái đường vòng xe vào cổng, hai bên viền những bụi hoa. Phía trong là ngôi nhà gạch, nổi bật lên giữa những công trình gỗ xung quanh.


Nhà có vẻ ấm cúng và sạch. Bà Challenger người nhỏ nhắn dong dỏng cao, luôn tươi cười, đứng trước cửa đã mở lộng chào đón chúng tôi.


Challenger ra khỏi xe, nói với bà ấy:


- Cưng à, hôm nay chúng ta có khách. Hơi bất thường phải không nào? Có mất mát gì đâu giữa chúng ta và những người hàng xóm. Nếu họ muốn bỏ thuốc chuột trong giỏ bánh.


Bà ấy la lên, vừa khóc vừa cười, nói:


- Anh nói gì mà khủng khiếp quá. Anh George hay gây lộn với hàng xóm. Chúng tôi chẳng có bạn nào ở vùng này cả.


- Không tiếp bạn để dồn hết chú ý vào chăm sóc bà xã tôi, người không ai sánh kịp.


Ông vừa nói vừa đưa cánh tay ngắn, mập quàng lấy eo vợ. Một con khỉ đột và một con linh dương. Đó là hình ảnh của hai ông bà Challenger.


- Thôi đi ông, khách đi đường đã mệt. Phải làm cơm trưa ngay. Cô Sarah đã về chưa?


Bà chủ lắc đầu buồn bã và ông giáo cười lớn, tay vuốt lâu ra vẻ kẻ cả. Ông gọi lớn:


- Austin, cất xe xong, làm ơn giúp bà ấy một tay dọn cơm. Rồi! Mời các ông sang phòng làm việc, tôi có một hai chuyện cần nói với các ông gấp.



Chú thích:


(1) Chim câu và chim hạc móm sữa cho con lắc mới nở, chưa có lông.


(2) Quaker là giáo phái kính sợ Thiên Chúa, có những qui luật sinh hoạt rất nghiêm ngặt.


(3) Trước đây các nhà khoa học cho rằng ether lấp đầy vũ trụ, các thiên thể, các dạng vật chất, bồng bềnh trôi trong môi trường ether đó. (ether đọc là ê-te)

Chương 2:

Khi chúng tôi băng qua phòng khách, chuông điện thoại reo, và chúng tôi là người nghe bất đắc dĩ phần đối thoại của giáo sư Challenger. Tôi nói “chúng tôi” vì trong vòng 300 mét chắc ai cũng nghe thấy cái giọng oang oang như sư tử rống, đang vang dội trong nhà. Những câu trả lời của giáo sư cứ vương vấn mãi trong đầu tôi.


- Vâng, dĩ nhiên, chính tôi... Vâng, chắc chắn là giáo sư Challenger, giáo sư nổi tiếng ấy chứ còn ai nữa. Vâng, dĩ nhiên mọi chữ, nếu không thì tôi đă chẳng viết... Tôi chẳng lấy gì làm ngạc nhiên... có nhiều dấu hiệu của hiện tượng... một hay khoảng đó nữa là cùng... không; tôi không thể... làm sao được?... Chẳng vui gì, nhưng tôi cứ phải hình dung là nó sẽ gây tai hại cho người quan trọng hơn ông nhiều. Than thở về nó có ích gì... không, tôi không thể... ông phải nắm lấy cơ hội... Điều đó quá đủ rồi, thưa ông. Vô lý! Tôi có nhiều việc quan trọng hơn là nghe chuyện tầm phào thế này.


Ông dập máy rồi dẫn chúng tôi lên lầu, vào một phòng rộng, thoáng khí. Trên cái bàn gỗ gụ lớn, bảy, tám cái điện tín đang đợi mở ra.


- Thật vậy à, - ông vừa nói vừa cầm chúng lên, - Tôi, nghĩ là sẽ bớt được tiền gửi thư tín, nếu dừng một địa chỉ điện tín. Lấy địa chỉ Noah, Rotherfield (l) là thích hợp nhất.


Như mỗi khi ông muốn làm một trò cười, ông tì vào bàn, vừa cười vừa nói, hai tay múa may nên không mở được điện tín. Ông hổn hển nói “Noah! Noah!” mặt đỏ bừng lên. Tôi và Đức ông mỉm cười thông cảm, còn giáo sư Summelee thì khó đăm đăm, lắc đầu phản đối. Sau cùng ông cũng mở được mấy cái điện tín ra. Cả ba chúng tôi đứng ở cửa sổ phía cửa phòng, thưởng thức phong cảnh tuyệt đẹp, đáng thưởng thức.


Con đường đồi uốn lượn nhẹ nhàng, đã đưa chúng tôi lên một độ cao đáng kể 210m, sau này chúng tôi mới khám phá ra. Căn nhà của giáo sư Challenger ở ngay trên sườn đồi.


Cửa sổ phía Nam nhà nhìn qua cánh rừng nhỏ, tới những cánh đồng cỏ xanh mởn, uốn lượn nhẹ nhàng South Downs, tạo thành một đường chân trời nhấp nhô. ở một khe giữa những quả đồi, một làn khói lam nhẹ, xác định vị trí thị xã Lewes. Ngay trước mặt chúng tôi là những cánh đồng thạch thảo trùng điệp, và sân golf Crowborough, với dải cỏ uốn lượn nhạt màu hơn, lác đác có vài người đang chơi. Hơi xa hơn về Nam, qua một khoảng rừng thưa, chúng tôi có thể thấy một đoạn đường xe lửa London - Brighton. Ngay phía dưới chân chúng tôi, là cái vườn nhỏ, trong có cái xe mới đưa chúng tôi từ ga về.


Một lời nói của Challenger mới thốt ra làm chúng tôi quay lại. Ông đã đọc xong các điện tín và xếp chúng thành một chồng. Bộ mặt rộng, gồ ghề, hay đúng hơn là phần mặt lộ ra khỏi bộ râu tóc xồm xoàm rối nùi, vẫn còn đỏ ửng, có vẻ như ông đang bị kích động dữ.


- Quý vị ơi, - ông nói với chúng tôi mà với giọng to như là nói trong một hội nghị, - buổi gặp mặt hôm nay rất là lý thú, vì tôi có thể nói là vào một thời điểm đặc biệt. Trên đường đi đến đây các ông có quan sát thấy dấu hiệu nào không?


- Điều duy nhất tôi quan sát được, - giáo sư Summelee nói với một nụ cười chua chát, - là người bạn trẻ của chúng ta chẳng có tiến bộ nào, trong cách cư xử, trong mấy năm qua. Rất buồn là phải nhắc lại, là tôi đã phải than phiền về hạnh kiểm của ông ta ở trên tàu. Và tôi sẽ thiếu thành thật nếu không nói luôn là nó gây một ấn tượng kém vui trong đầu óc tôi.


Đức ông đỡ lời:


- Chúng ta tất cả đều có những phút bốc đồng, hung hăng, nhưng anh bạn trẻ của chúng ta không có ý làm hại ai. Nói cho cùng, ông ấy thuộc tuýp người quốc tế, vì thế, nếu ông ấy có bỏ ra nửa giờ đồng hồ để kể lại một trận túc cầu, thì ông ấy cũng có quyền làm hơn nhiều người khác trong chúng ta.


Tôi tức giận la lên phản đối:


- Nửa giờ nói chuyện đá banh! Còn ông, dùng nửa giờ để nói chuyện dài hơi về một con trâu thì sao. Giáo sư Summelee sẽ làm chứng cho tôi.


Giáo sư Summelee hạ một đòn:


- Tôi không phán đoán được tiếng hai ông, ông nào gây khó chịu nhiều hơn. Nhưng tôi báo cho ông biết, Challenger, tôi chẳng thích nghe chuyện đá banh, cũng chẳng thích nghe chuyện trâu bò trong cả cuộc đời tôi.


Tôi cố cãi:


- Cả ngày hôm nay, tôi không nói lời nào về bóng đá cả. Đức ông John huýt một điệu sáo lanh lảnh, giáo sư Summelee thì lắc đầu buồn bã, rồi nói: “Cũng nói vào lúc sáng sớm mới gặp nữa, thật đáng tiếc, vì tôi ngồi đó buồn phiền quá nhưng yên lặng suy nghĩ... “


Đức ông John la lên:


- Im lặng! Tại sao ông biểu diễn tạp kỹ, bắt chước muông thú... giống như cái máy hát trệch rãnh hơn là một nghệ sĩ.


Giáo sư Summelee ngồi thẳng lên để phản đối cho mạnh:


- Ông thích những trò cười không đúng lúc lắm, đức ông. Ông nói chua như giấm.


- Thôi, dẹp hết chuyện này đi, thật là điên. - Đức ông John la lên. - Mỗi chúng ta đều biết những việc người khác làm, nhưng chẳng biết chính mình làm gì. Hãy kể lại từ đầu. Chúng tôi vào một toa hạng nhất được hút thuốc. Đúng như thế phải không? Sau đó, chúng tôi cãi nhau về bức thư của giáo sư Challenger trên tờ Times.


- Ồ các ông cãi nhau về bức thư thật à?


Ông chủ nhà hỏi oang oang, mắt híp lại.


- Giáo sư Summelee, ông nói rằng chẳng có chút sự thực nào trong lý luận của chủ nhà.


- Khổ tôi quá! - Challenger ưỡn ngực lên và vuốt râu. - Chẳng có chút sự thực nào! Hình như tôi đã có nghe ai đó nói trước rồi. Xin hỏi giáo sư nổi tiếng Summelee, đưa ra những luận cứ nào để bác ý kiến thô thiển của kẻ hèn này về khả năng khoa học? Trước khi giáo sư loại được ảnh hưởng tai hại của chất vô hình này, xin giáo sư hạ cố cho biết quan điểm đối lập của giáo sư.


Ông cúi mình, nhún vai, xòe tay trong lúc nói cực kỳ kiểu cách, mỉa mai.


Summelee phát biểu rất ngoan cố:


- Lý do tôi đưa ra rất giản dị. Tôi lý luận rằng nếu ether xung quanh trái đất gây độc trên một vùng, và dân chúng ở đó có những triệu chứng nhiễm độc, thì ba chúng tôi không thể còn an lành trong toa xe được.


Nghe lý luận như vậy, Challenger cười sang sảng thú vị. Ông cười cho đến lúc các đồ vật trong phòng lắc lư, rung lên lạch cạch. Sau cùng ông nói:


- Đây không phải lần đầu, giáo sư sáng giá Summelee không nắm được sự thực của vấn đề. Quý ông ơi, không gì tốt hơn để trình bày quan điểm của tôi, là tôi nói lại tỉ mỉ, việc tôi đã làm sáng nay khi hiệu được các ông có thể tha thứ phần nào vì đầu óc ta bị lệch lạc chút đỉnh, chính tôi có lúc đầu óc cũng bị mất thăng bằng, xáo trộn. Chúng tôi đã có mướn Sarah quản lý nhà này vài năm. Họ của cô ấy là gì tôi không nhớ. Cô ấy là một phụ nữ nghiêm khắc, kín đáo trang nhã nhưng bản tính lạnh lùng, chúng tôi chưa hề thấy cô biểu lộ tình cảm. Sáng nay, tôi đang ngồi ăn sáng một mình. Bà xã tôi thì có thói quen ngủ hết buổi sáng. Thình lình tôi nảy ra ý nghĩ tìm được mức độ lạnh lùng, an nhiên tự tại của cô gái này sẽ rất thú vị và bổ ích. Tôi nghĩ ra được cách kiểm nghiệm rất đơn giản nhưng rất hiệu quả: Tôi làm đổ một bình hoa giữa bàn, bấm chuông rồi chui xuống gầm bàn. Cô vào phòng, thấy phòng trống, tưởng tôi đã lên phòng làm việc. Đúng như tôi dự đoán, cô nhoài người trên bàn dựng bình hoa lên. Tôi thấy cẳng cô mang một vớ dài và chiếc giây thun giãn hai bên. Tôi thò đầu ra ngoạm một miếng vào bắp chân cô ấy. Cái thử nghiệm thành công ngoài sức tưởng tượng vì lúc đầu cô đứng chết trân, nhìn xuống đầu tôi rồi thét lên một tiếng, gỡ chân ra rồi lao ra ngoài phòng. Tôi đuổi theo cô với ý định thanh minh, giải thích vài điểm, nhưng cô đã bay ra đường xe, qua cổng. Tôi lấy ống nhòm và thấy cô đang chạy marathon về hướng Đông Nam. Tôi kể câu chuyện này cho các bạn vì ý nghĩa của nó. Tôi cấy nó vào đầu óc các bạn và đợi nó nảy mầm. Câu chuyện có minh họa được ý chính không? Nó gợi cho các bạn những ý tưởng gì? Đức ông nghĩ gì, John?


Đức ông John lắc đầu quầy quậy, rồi nói:


- Trong mấy ngày nay, nếu ta không cố tập trung kiểm soát ý chí của ta, ta có thể làm những hành động rồ dại, tai hại.


- Chắc giáo sư có vài nhận xét, Summelee?


- Ông phải ngưng ngay mọi công việc ông đang nghiên cứu, và đi nghỉ ở một công viên nước kiểu Đức ở đâu đó, để đầu óc ông nguội đi.


- Rất sâu sắc thâm thúy! - Giáo sư Challenger nói lớn. - Nào, mời ông bạn trẻ. Hy vọng nghe được ý kiến khôn ngoan của ông. Những ông bạn già của chúng ta đã thất bại. rõ ràng rồi.


- Đúng là chuyện ông tiên đoán đã xảy ra. - Tôi thành thực trả lời: - Nó đã xảy ra và chỉ có ông biết rõ; còn với chúng tôi, mọi sự đều mới quá nên không hiểu được rõ tàng. Và tự dưng, tôi tin tưởng tuyệt đối là chúng ta bị nhiễm độc không khí.


Và khi nói vậy, đầu óc tôi nhớ lại những cảm giác, những tâm trạng tôi trải qua từ sáng đến giờ: phải nghe chuyện trâu của đức ông, chuyện tôi khóc nức nở, chịu đựng những hành vi quái gở của giáo sư Summelee, thấy những chuyện kỳ cục ở London, chuyện cãi nhau ở công viên, người tài xế lái xe ẩu tả, cãi nhau ở công ty cung cấp oxy, mọi sự việc đều khớp với nhau. Tôi quả quyết:


- Chắc chắn là vì chất độc. Tất cả chúng ta đều bị ngộ độc.


Giáo sư Challenger xoa hai tay vào nhau, nói:


- Đúng thế, chúng ta đang ngộ độc. Trái đất của chúng ta đang lao vào một vành đai ether độc, và đang lao sâu vào đó với vận tốc vài triệu dặm một phút. Ông bạn trẻ của chúng ta đã diễn tả nguyên nhân các xáo trộn thần kinh của chúng ta và các, sự việc gây cho chúng ta ngỡ ngàng, bằng một từ ngữ ngắn gọn “chất độc”.


Chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng im lặng, xem ra chẳng còn lời bình luận nào thích hợp cho tình cảnh này. Giáo sư Challenger tiếp:


- Thần kinh chúng ta có cơ chế tự vệ, chống xâm nhập, có thể ngăn chặn và giới hạn những triệu chứng nhiễm độc trong tùy từng người. Tôi không cho là độc chất gây hại trong các bạn, y như mức nó gây hại trong tôi. Tôi cho rằng cơ chế hoạt động thần kinh khác nhau trong mỗi người, hóa giải được một phần chất độc khác nhau. Điều này, kinh nghiệm của anh bạn trẻ đây đã xác nhận. Sau cơn điên điên của tôi đã làm cô quản gia hú vía tới già, tôi ngồi im suy gẫm. Tôi nghiệm ra rằng từ trước tới giờ, tôi chưa hề bị xung động thôi thúc cắn người làm trong nhà bao giờ. Tôi nhận ra xung động kỳ này là bất thường. Tôi kiểm tra nhịp tim: tăng mười nhịp so với bình thường, các loại phản ứng của tôi đều tăng. Tôi cố gắng huy động và triệu dụng con người thật của tôi còn lành mạnh, ở mức còn làm chủ được ở tầm mức cao, con người thật của Geolge Edward Challenger, chưa bị những biến động cấp phân tử ảnh hưởng. Tôi ngồi im, tĩnh tại, dùng phương pháp nội quan, tách riêng những hành vi, những ý nghĩ manh động do chất độc gây trên hệ thần kinh, trên tinh thần của ta. Tôi thấy rằng tôi vẫn làm chủ được bản thân mình, tôi vẫn có thể kiềm chế được cái đầu óc lộn xộn của tôi. Đây là một ví dụ xuất sắc về tinh thần thắng vật chất, tinh thần làm chủ vật chất. Cuộc chiến thắng trên một dạng vật chất đặc biệt, vốn có liên hệ khăng khít với tinh thần. Hầu như tôi có thể khẳng định được rằng đầu óc ta có thể sai lầm và nhân cách của ta có thể điều khiển được đầu óc. Bởi vậy khi bà xã tôi xuống dưới nhà, tôi đã lẻn ra sau cửa, đánh động cho bà ấy biết bằng vài tiếng la hoảng. Tôi đã trấn áp được những xung động não và đón bà ấy chững chạc, bình thường, tự chế. Tôi cũng bị thúc đẩy muốn kêu lên vài tiếng quạc quạc như vịt, tôi cũng trấn áp được bằng cùng cách đó.


Sau đó muộn hơn, lúc xuống yêu cầu Austin chuẩn bị xe. Austin đang nghiêng mình loay hoay sửa chữa, tôi đã xòe tay và giơ lên định đập Austin một cú bất thình lình sau lưng, chắc chắn sẽ làm ông ấy chuồn thẳng một mạch, như cô quản gia của tôi. Nhưng may thay tôi đã tự chế được, điều khiển được tay mình. Và ngược lại với dự tính oái oăm quỷ quái tôi chạm nhẹ vai anh và yêu cầu chuẩn bị xe để kịp giờ. Ngay lúc này đây, tôi đang bị thúc đẩy nắm lấy bộ râu của giáo sư Summelee, và sẽ giật ngược đầu ông ấy ra sau rồi lại ghìm về trước. Nhưng rồi, như các ông thấy, tôi đã tự chế được. Để tôi phân tích và phê bình tâm trạng và hành động của tội cho các ông nghe.


Đức ông John nói:


- Tôi sẽ tìm con trâu đó.


- Còn tôi sẽ xem trận túc cầu.


Giáo sư Summelee, rất ngạc nhiên lại nói bằng một giọng ân hận:


- Tôi sẵn sàng công nhận, đầu óc tôi lúc này thích chỉ trích hơn là xây dựng, không sẵn sàng tiếp thu những giả thiết mới, nhất là cái giả thiết vừa bất thường vừa quái dị như lần này. Nhờ hồi tưởng lại những chuyện sáng nay, xét lại thái độ, cử chỉ giả hiệu của các bạn, tôi công nhận là có một chất độc kỳ lạ đang gây độc cho chúng ta.


Giáo sư Challenger vui mừng vỗ vai đồng nghiệp:


- Chúng ta có tiến bộ! Thật sự tiến bộ.


Summelee càng khiêm nhường hơn, hỏi:


- Vậy, xin giáo sư làm ơn cho biết quan điểm hiện nay của giáo sư về vấn đề này.


- Xin phép các ông, tôi xin trình bày vài lới về chủ đề này. - Giáo sư ngồi vào bàn, hai cái chân mập, lùn đung đưa trước mặt. - Chúng ta đang chứng kiến một sứ mạng to lớn và khủng khiếp. Theo ý tôi, đó là ngày tận thế.


Tận thế! Chúng tôi không ai bảo ai, cùng hướng mắt ra cái cửa sổ khung vòm, nhìn quang cảnh vùng đồi xinh đẹp dưới nắng hè, những triền đồi phủ đầy thạch thảo, những nhà nghỉ mát hoành tráng, những trang trại ấm cúng, những người tìm vui thú trên sân golf.


Ngày tận thế! Chúng ta đã từng nghe những từ này, nhưng chúng không gây một ấn tượng trực tiếp, tức thời như bây giờ. Nó sẽ không xảy ra vào một ngày tiên tri mơ hồ nữa, mà ngay bây giờ, ngày hôm nay. Ý tưởng tận thế to lớn, hùng mạnh, choáng ngợp làm ta bàng hoàng, quay cuồng.


Chúng tôi đều nghiêm trang, kính cẩn, yên lặng chờ Challengel nói tiếp. Sự hiện diện và dáng vẻ khống chế của ông khiến lời nói của ông trang trọng khác thường. Vào những giây phút này, mọi thô thiển, vô lý trần tục của con người đều biến mất, ông hiện ra dưới mắt chúng tôi là một đấng oai nghiêm, trên mức nhận thức thông thường của con người. Rồi, ít nhất là mình tôi, nhớ lại từ lúc vào phòng, giáo sư đã cười hai cơn sảng khoái, siêu thoát. Nhưng tôi nghĩ, có đánh lừa tâm trí mình cũng chỉ đến được một giới hạn thôi, tôi yên trí là tai họa này không vĩ đại, tối hậu, bức thiết như ta tưởng.


- Các ông cứ tưởng tượng một chùm nho, ngoài vỏ có vô số vi khuẩn lên men có hại. Nhà làm vườn nhúng vào một môi trường sát khuẩn để nho sạch, hay để cấy vào đó một chủng vi khuẩn có lợi cho tiêu hóa hơn. Ông ta nhúng vào độc chất, các vi khuẩn chết sạch. Nhà làm vườn định nhúng thái dương hệ của chúng ta, và những vi-khuẩn-người đang ngoe nguẩy, lúc nhúc ngoài vỏ địa cầu, chỉ trong nhấp nháy bi tiêu diệt.


Tất cả chúng tôi lại rơi vào im lặng. Rồi tiếng chuông điện thoại lanh lảnh phá tan sự tĩnh mịch. Giáo sư Challenger nói với vẻ mặt nghiêm túc:


- Lại một con vi-khuẩn-người ngọ ngoạy cầu cứu. Bây giờ họ mới thấy kiếp sống của con người đâu có cần thiết trong vũ trụ. Ông đi trả lời điện thoại một, hai phút gì đó. Chúng tôi chẳng ai nói một tiếng khi giáo sư vắng mặt. Tình cảnh của chúng tôi thật không nói nên lời hay không còn gì nữa mà bình luận.


Khi trở lại giáo sư bắt đầu:


- Cán bộ y tế hạt Brighton, ở vùng càng cao, triệu chứng ngộ độc phát triển càng nhanh. Chúng ta ở trên độ cao 210 mét nên có lợi hơn, bị ngộ độc chậm hơn. Công chúng có vẻ như thấy tôi là người đầu tiên nói về tai họa này. Dĩ nhiên, qua lá thư của tôi trên tờ Times. Khi mới về nhà, tôi đã tiếp chuyện Thị Trưởng của Thị trấn. Ông ấy cuống cuồng lo lắng cho mạng sống cá nhân mình, mà ông tưởng là quí giá lắm. Tôi phải giúp ông ta điều chỉnh lại nhân sinh quan.


Giáo sư Summelee đang đứng ở cửa sổ, hai cánh tay dài, khẳng khiu đang run lên vì xúc động. Ông hăm hở nói:


- Challenger, chuyện này quá quan trọng, không thể chỉ ngồi lý luận suông với nhau. Xin ông đừng phật ý khi tôi hỏi những câu này. Có thể nào những thông tin ông nhận được có thể sai lầm không? Có thể nào trong chuỗi lý luận của ông chưa thật sự mạch lạc không? Mặt trời vẫn le lói chiếu sáng trên nền trời xanh, vẫn những cánh đồng thạch thảo xanh rờn, vẫn có chim chóc, vẫn có những người giải trí trong sân golf, vẫn có những nông dân đang gặt lúa. Ông bảo họ và chúng ta đang ở trên bờ vực thẳm. Cái ngày nắng ấm này sẽ là ngày tận diệt loài người, ngày họ hằng bảo nhau chờ đợi từ lâu. Ông phán đoán điều ghê gớm này dựa trên những cái gì? Dựa trên những dải, những vằn quang phổ, dựa trên tin đồn đại của dân đia phương Sumatra? Dựa trên những suy nghĩ, cử chỉ bất thường của mỗi chúng ta. Các dấu hiệu này chưa thuyết phục là chúng ta bị ngộ độc, vì chỉ một chút cố gắng chúng ta đã tự khắc phục được. Ông không cần khách sáo nữa, Challenger. Chúng ta cùng sắp sửa đối diện với cái chết. Xin ông cứ nói thẳng, theo ông, tình trạng hiện tại của chúng ta, và tương lai chúng ta.


Đó là những lời nói can đảm, gãy gọn, trên một lập trường vững chắc, tinh thần sáng suốt thực tế, bằng tất cả uy tín và chính trực của một nhà động vật học kỳ cựu. Đức ông John đứng dậy lắc tay ông biểu đồng tình.


- Nhất trí với con bọ nhảy. Và ông Challenger, xin ông cho biết tình trạng của chúng ta đang ở đâu. Chúng ta không phải là những người rối trí. Ông mời chúng tôi tới thăm ông cuối tuần và thấy ông đã chuẩn bị lao thẳng vào ngày phán xét cuối cùng, xin ông cho chúng tôi vài lời giải thích. Nỗi nguy hiểm là cái gì, ở trong nhà này nguy hiểm ở mức độ nào, có cách nào để đối phó không?


Đức ông John cao, khỏe, đứng ở cửa sổ tràn ngập ánh nắng, vịn một tay đen xạm lên vai Summelee. Tôi ngả người sâu vào lưng ghế, điếu thuốc tắt ngấm vẫn còn trên môi, tâm hồn tôi đang ở trong trạng thái mơ màng và tôi ý thức rất rô. Có thể chúng tôi đang ở một giai đoạn ngộ độc khác, xung động thôi thúc hành động hung hăng đã qua, nhưng tôi có tâm trạng rất lo buồn. Tôi như người quan sát bàng quan, như thể tai họa chẳng khiến cá nhân tôi quan tâm. Nhưng có ba người khỏe mạnh khác trong phòng, quan sát và nhận xét về họ ở giờ phút hấp hối chắc sê rất thú vị. Challenger nhíu đôi mày rậm, quết quết bộ râu rối trước khi trả lời. Ta có thể thấy ông eố cân nhắc từng câu chữ thận trọng. Ông hỏi:


- Các ông có tin tức gì trước khi rời London không?


- Tôi rời tòa báo Gazette lúc 10 giờ. Có một điện tín của hãng Reuter từ Singapore cho biết dân đảo Sumatra nhất loạt bị ngộ độc và hải đăng ở đó không sáng lên được nữa.


Challenger tiếp:


- Từ lúc ấy, biến cố có vẻ phát triển rất nhanh. - Ông cầm xấp điện tín lên: - Tôi liên lạc với cả chính quyền lẫn báo giới, vì thế tôi nhận được thông tin từ mọi nơi. Mọi giới khẩn khoản mời tôi có mặt ở London, nhưng tôi thấy dù có lên đó tôi cũng không đạt được kết quả mong muốn. Theo những tường thuật, hậu quả ngộ độc lúc đầu là tinh thần bị kích động. Ở Paris, dân chúng rối loạn và có xảy ra bạo động. Phu mỏ ở vùng Welsh cũng vùng lên nêu yêu sách. Chúng ta chỉ mới có những bằng chứng này đáng tin. Ở giai đoạn kích động này, hiệu quả ngộ độc tùy theo mỗi sắc dân và tùy mỗi cá nhân. Sau đó đến giai đoạn đầu óc tỉnh táo, tâm thần thấy phấn chấn vui vẻ. Tôi có nhận thấy vài dấu hiệu của giai đoạn này ở ông bạn trẻ của chúng ta đây, cuối cùng, đến giai đoạn buồn thảm và rơi vào hôn mê, tiến sâu vào cõi vô thức rồi chết. Căn cứ vào kiến thức về độc chất của tôi, chất độc chúng ta gặp tác động lên hệ thần kinh thực vật của ta...


- Như là độc dược. - Summelee gợi ý.


- Tuyệt! - Challenger reo lên. - Có một cái tên sẽ tăng phần chính xác khoa học. Chúng ta gọi nó là chất “Daturon”. Ông sẽ là người có vinh dự đã đặt tên cho chất giết người toàn cầu, ông sẽ được tôn vinh sau khi chết nhưng không kém phần độc đoán. Người đặt tên cho chất sát khuẩn của Người Làm Vườn Vĩ Đại. Vậy thì, chất daturon sẽ gây ra những triệu chứng theo ba giai đoạn như tôi đã mô tả. Chất độc sê trùm Iên khắp thế giới và chắc chắn chẳng còn mạng nào sống sót, vì ether vốn là môi trường đầy ắp vũ trụ. Đến giờ phút này. Ether gây những hậu quả rất khác nhau ở những nơi chúng quét qua. Nhưng sự khác biệt này chỉ xảy ra trong vài giờ. Giống như thủy triều liếm dần những dải cát ven biển theo những hình dạng loang lổ, nham nhở, nhưng cuối cùng thì toàn bộ bãi biển chìm ngập trong nước. Có những qui luật về khí động học, chi phối tác động và phân bố khí daturon. Nếu chúng ta còn giờ nghiên cứu sâu hơn chắc thú vị lắm! Tôi chỉ mới theo dõi được diễn biến lới đây.


Ông liếc qua vào tập điện tín.


- Dân tộc nào càng bán khai càng bị daturon tác động nhanh. Có những báo cáo đáng tiếc từ Phi châu, từ Úc châu, cho biết nhiều bộ tộc thổ dân đã bị tận diệt. Các dân tộc phương Bắc có khả năng kháng độc mạnh hơn các dân tộc phương Nam. Cái điện này đến từ Marseilles lúc 9 giờ sáng nay. Tôi đọc cho các ông nghe nhé.


“Suốt đêm, người ta la ó điên loạn ở vùng Provence, dân trồng nho ở Nimes gây xáo trộn. Đảng xã hội dấy loạn ở Toulon. Một chứng bệnh đột xuất tấn công toàn bộ dân chúng sáng nay gây kích ngất và hôn mê. Trận Dịch Sấm Sét đã gây tử vong nhiều người ngoài đường phố. Công việc làm ăn buôn bán bị đình trệ toàn bộ, toàn thể xã hội xáo trộn.”


Một giờ sau tôi nhận được điện tín này, cũng từ cùng một nguồn:


“Chúng tôi đang bị đe dọa tận diệt. Các giáo đường lớn, nhà thờ đầy tràn người. Người chết nhiều hơn người sống. Thật là khủng khiếp không thể tưởng được. Cái chết xem ra không đau đớn, nhưng nhanh và không thể tránh khỏi.”


Cũng có một điện tín tương tự từ Paris, nhưng cơn dịch tiến triển không nhanh bằng. Ấn Độ, Ba Tư coi như dân số đã bị xóa sạch. Ở Áo, dân Slavonie coi như đã bị xóa sổ, nhưng dân Đức, sắc dân Tentonie lại có vẻ như không hề hấn gì. Nói chung dân ở đồng bằng và dân duyên hải mau cảm thấy hậu quả của chất độc hơn dân ở sâu trong nội địa và dân vùng cao, chỉ căn cứ vào những thông tin tôi có trong tay. Chỉ ở chênh lệch nhau một độ cao ngắn, hậu quả của chất độc đã khác nhau rõ rệt. Thảng hoặc nếu còn người nào sống sót, có lẽ, một lần nữa chúng ta lại thấy người đó trên một đỉnh Ararat nào đó (2). Ngay như chúng ta chỉ ở trên một ngọn đồi 210 mét trên mực nước biển, cũng coi như ta đang may mắn ở trên một hòn đảo giữa đại dương thảm họa. Nhưng với tốc độ phân bố chất độc như thế này, thì chỉ vài giờ nữa là chúng ta bị tràn ngập.


Đức ông Roxton lau mồ hôi trán, rồi run run nói:


- Cái tôi không hiểu, là làm sao mà ông có thể còn ngồi đây mà cười với chồng điện tín trong tay được? Tôi cũng đã nhìn thấy nhiều cái chết như phần đông chúng ta thấy. Nhưng nhân loại bị tận diệt thì... kinh khủng quá.


- Về chuyện tôi cười, các ông nhớ là, tôi cũng bị ether độc tính kích thích như các ông, đâu có được miễn. Về cái chết toàn bộ như nó đă gợi trong trí ông. Tôi có thể cho ông hay, là ông hơi phóng đại nỗi sợ hãi. Nếu ông ra khơi một mình trên một chiếc thuyền không có mui, để đến một nơi vô đinh, chắc ông sẽ sợ chết khiếp. Sự cô đơn, sự bấp bênh bất đinh cũng đủ làm ông tê liệt. Nhưng nếu ông đi trên một chiếc tàu thủy tốt, với cả họ hàng, bạn bè, dù có phải đến một nơi bất định, ông cũng vẫn cùng chia sẻ, cùng nếm trải, ông vẫn giữ được mối cộng đồng cảm thông ấy trong suốt cuộc hành trình. Một cái chết đơn độc có thể dễ sợ, nhưng chết nhất loạt, không đau đớn như tai họa này, theo ý tôi, chẳng có gì đáng sợ. Thật vậy, tôi có thể cảm thông với người có quan điểm là, nỗi sợ nằm ở chỗ tất cả những người đầy kiến thức, nổi tiếng được tôn vinh đã chết hết, mà mình thì sống sót, lạc loài.


Giáo sư, người đã vừa đồng ý với người anh em đồng giới của ông, hỏi:


- Vậy giáo sư thấy chúng ta cần làm gì?


- Ăn trưa, vì tiếng chuông báo bữa ăn đã vang lên. Chúng ta có bà nấu bếp làm món omelettes ngon tuyệt, và cũng chỉ có món sườn nướng của bà ấy có thể sánh với món này thôi. Tôi tin rằng chẳng có xáo trộn vũ trụ nào có thể làm lụt tài nấu ăn của bà ấy được. Nàng Scharzberger của năm 1896 phải được cứu thoát, nếu chúng ta cùng nỗ lực, nhiệt tình, khỏi cái thảm họa tận diệt oan uổng này. - Ông nhấc cái thân nặng nề khỏi ghế, nơi ông vừa ngồi loan báo ngày tận diệt của hành tinh. - Nào, chúng ta còn càng ít thời giờ chừng nào, chúng ta càng phải sống cho tỉnh táo, cho đáng sống bấy nhiêu.


Thật vậy, chúng tôi đã có một bữa ăn ngon và vui, vẫn không quên hoàn cảnh bi thảm: toàn bộ tính nghiêm trọng vẫn lù lù trong óc chúng tôi, và điều chỉnh tư tưởng chúng tôi Nhưng chính cái tâm của mình chưa hề đối diện với cái chết, đã giúp tinh thần chúng tôi cuối cùng đã tránh xa được nỗi ám ảnh chết chóc. Với mỗi người trong bọn đàn ông chúng tôi, đều đã trải qua một thời đại chiến, nên chuyện chết chóc vẫn thường lởn vởn trong đầu. Với bà chủ nhà, bà ấy dựa vào sự hướng dẫn mạnh mẽ của chồng, và sẵn sàng bằng lòng đến bất cứ nơi nào số phận đưa đẩy. Hiện tại là của chúng tôi, và chúng tôi đă sống được những giây phút trong tình bạn thực sự và khinh khoái trong lòng. Đầu óc chúng tôi, như tôi đã nói, thật trong sáng nhẹ nhàng. Tuy nhiên, lâu lâu tôi lại cảm thấy sợ như bị sét đánh. Còn giáo sư Challenger, ông ấy thật tuyệt. Tôi chưa bao giờ cảm thấy cái vĩ đại của con người như vậy, ông thật sự có quyền lực của tri thức sâu rộng. Giáo sư Summelee thì vẫn tiếp tục hỏi ông bằng cái giọng châm chọc bi quan. Tôi và đức ông John chỉ cười khi hai ông tranh luận, bà chủ luôn bám cánh tay ông chồng, để kiềm chế nhà minh triết đừng tranh luận gay gắt. Sống, chết, số phận là định mệnh của nam nhi, là những vấn đề nặng ký đè ập lên tâm trí chúng tôi, vào những giờ phút đáng nhớ cuối cùng này. Chúng hiện lên to lớn quá, trùm lợp cả cái không khí hoan lạc thần tiên, chúng chạy rần rần trong tứ chi tôi.


Tôi cảm thấy chết chóc đang dâng lên, như sóng triều phủ chụp lấy chúng tôi. Tôi đã thấy đức ông thình lình chụp tay dụi mắt, giáo sư Summelee ngồi đựng lên trong ghế. Nhưng tâm hồn chúng tôi vẫn tỏ vẻ vui vẻ, thảnh thơi. Ngay lúc đó Austin đặt thuốc lá lên bàn và chuẩn bị rút lui.


- Austin! - chủ anh gọi


- Dạ, chi ạ?


- Cám ơn ông đã giúp việc chúng tôi rất tận tụy, trung thành.


Một nét cười kín đáo lóe trên nét mặt nhăn nheo của người gia nhân.


- Tôi chỉ làm theo bổn phận, thưa ông.


- Tôi đang đợi ngày tận thế đây, Austin.


- Vâng, thưa ông. Tận thế lúc mấy giờ ạ?


- Tôi không nói chính xác được, Austin, trước tối nay.


- Vâng ạ, thưa ông.


Ông Austin chào rồi ra khỏi phòng.


Giáo sư Challenger châm một điếu thuốc, kéo ghế đến cạnh bà ấy, nắm tay bà:


- Em đã biết số phận của chúng ta đang ở đâu. Em không sợ phải không nào? Anh cũng đã nói cho các bạn đây biết. “ Không đau đớn, phải không anh?” Chỉ như nha sĩ chích khí gây cười (thuốc tê) cho em thôi. Đợi khi em cảm thấy đau thì em đã thực sự chết rồi.


- Như vậy thì chắc ta có cảm giác thú vị lắm.


- Vâng, khi chết có thể như vậy. Cái cơ thể cằn cỗi của chúng ta không thể ghi và lưu lại ấn tượng của cái chết, nhưng ta biết có khoái lạc tinh thần trong nhưng cơn mơ hay hôn mê. Thiên nhiên có thể tạo một cái cửa lộng lẫy, màn che, trướng rủ để đón linh hồn chúng ta sang một kiếp sống mới. Trong tất cả những nghiên cứu, thăm dò hiện thực, anh đều thấy trong cốt lõi mọi sự việc đều có chân và thiện. Ngay cả trong cái chết, dù có dễ sợ đến đâu, cũng có sự êm diu. Chắc chắn như vậy để người chết đi được quãng đường quá độ từ kiếp này sang kiếp khác. Không đâu Summelee, tôi không thể chấp nhận một chút gì về cái thuyết duy vật của anh. bởi vì, ít nhất bản thân tôi quá vĩ đại, không thể chỉ chấm dứt trong cái cơ thể vật lý này, cấu tạo bằng vài bịch các loại muối và khoảng ba xô nước. Mà, mà...


Ông gõ nhẹ cái bàn tay lông lá lên đầu.


- Mà còn cái gì sử dụng được vật chất, một cái gì thủ tiêu được cái chết, nhưng cái chết không tiêu hủy được nó.


Đức ông John lên tiếng:


- Nói về cái chết, tuy gần như là người theo đạo Thiên Chúa, tôi thấy trong cái chết còn có một lực siêu nhiên. Tổ tiên ta đã được an táng với rìu, cung tên hay các vật tùy táng tương tự, tôi vẫn cảm thấy sự hiện hữu của họ, họ vẫn sống theo kiểu xưa xung quanh ta. Tôi không biết vì sao, - ông nói thêm và nhìn lên bàn với vẻ thẹn thùng. - Tôi không đủ bình tĩnh để sang bên kia thế giới bằng khẩu 450 Express, loại ngắn báng cao su ấy, với một hay hai băng đạn. Đó chỉ là một hoang tưởng điên khùng, nhưng thực sự tôi nghĩ vậy. Ông nghĩ sao về cái chết, ông giáo sư? Được ông hỏi tôi mới nói, chết kiểu đó giống như lùi lại thời đồ đá hay sớm hơn nữa, lúc người ta chưa thể tự vệ được. Đang sống ở thế kỷ 20, tôi muốn chết như một người văn minh. Không biết tôi có sợ chết hơn các ông không, tôi già rồi. Gì thì gì, tôi cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa. Nhưng tôi không thể cứ ngồi yên chờ chết, dù tôi có là con cừu sắp lên bàn mổ, tôi cũng phải vẫy vùng, đá, húc tên đồ tể. Thật sự chúng ta chẳng còn làm gì được sao, Challenger?


- Để tránh khỏi thảm họa thì chẳng còn cách nào cả. - Giáo sư Challenger nói lạnh lùng đến sợ toát mồ hôi. - Chỉ có thể kéo dài đời sống thêm được vài giờ để xem thảm kịch vĩ đại này diễn biến ra sao thôi, trước khi chính chúng ta bi nhấn chìm trong thảm họa đó. Điều này thì tôi làm được và tôi đã có chuẩn bị vài bước...


- Oxy?


- Đúng, oxy.


- Nhưng oxy thì gây được hậu quả gì với ether độc? Một cục gạch và một chất khí còn có lý tính và hóa tính khác nhau ít hơn là ether và oxy. Chúng là hai dạng vật chất khác nhau, chúng không tác dụng lên nhau. Thôi đi, Challenger, ông không thể biện minh được một kế hoạch như vậy.


- Ui da, ông giáo sư Summelee tài ba ơi, độc chất ether này chắc chắn bị các tác nhân vật chất khác ảnh hưởng. Tôi suy ra điều này qua phân tích cách thức và phân bổ thảm họa khi bộc phát. Chúng ta chưa tiên nghiệm được khí này, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, nó là một thực thể. Từ đó tôi tin chắc là một khí như oxy, chất tăng cường sinh lực và sức đề kháng của cơ thể, có thể làm trì hoãn tác động của chất daturon mà ông đã có hận hạnh đặt tên. Có thể hành động chuẩn bị của tôi sai, nhưng tôi quả quyết là lý luận của tôi rất đúng đắn.


Đức ông John buột miệng nói ra sự thiếu tin tưởng:


- Dù có vậy chăng nữa, nếu cứ phải ngậm những cái vòi oxy để thở như con nít bú bình, tôi cũng chê.


Challenger trấn an ông:


- Không cần phải như vậy. Chúng tôi đã sắp đặt cả rồi. Ông phải cám ơn bà xã tôi vì cái phòng khách của bà ấy rất kín hơi và thực dụng, có nệm và giấy dán tường kín hơi như “gioăng” cao su.


- Trời đất quỷ thần ơi! Ông Challenger, ông định ngăn hơi ether vũ trụ bằng giấy dán tường đấy à?


- Đúng thế, ông bạn tài năng ạ. Ông suy nghĩ kỳ quặc quá nên đã lạc đề. Khi tai họa ập tới, chúng ta không ngăn cản khí ether tràn vào mà để giữ oxy đừng thoát ra. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, nếu ta cố duy trì được môi trường giàu oxy, ta có thể vẫn còn tỉnh táo. Tôi có hai bình và các ông đã đem thêm tới ba bình. Không nhiều, nhưng cũng đáng kể đấy chứ.


- Ta sử dụng được trong bao lâu?


- Tôi không thể đoán trước được. Chỉ khi nào chúng ta hết chịu đựng nổi ether độc, ta mới mở oxy và cũng sẽ chỉ cung cấp thêm cho những ai cần khẩn cấp. Như thế chúng ta còn có thể sống thêm vài giờ hoặc vài ngày, để chứng kiến cảnh thế giới bị hủy diệt. Mạng sống của chúng ta được duy trì đến lúc đó, chúng ta sẽ trải nghiệm những giây phút độc đáo nhất. Năm chúng ta sẽ là đội quân hậu bị của loài người bước vào cõi vĩnh hằng. Rồi, các ông giúp tôi một tay sắp xếp các bình oxy. Bầu không khí đã có vẻ ngột ngạt lắm rồi.



---


(1) Noah: tên con thuyền trong kinh thành cựu ước trong cơn đại hồng thủy.
(2) Theo các nhà khảo cổ, con tàu của ông Noe trong Old Tedtament (Cựu Ước) tấp vào đỉnh núi Ararat, giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia.

Chương 3:

Cái phòng được chọn để chúng tôi thể nghiệm một hoàn cảnh khó quên, là cái phòng khách phụ nữ rộng 4m2 x 5m. Phía cuối phòng là một màn nhung đỏ, ngăn cách với phòng phục sức của giáo sư. Phòng này lại ăn thông với một phòng ngủ rộng. Bức màn nhung vẫn buông, nhưng phòng khách và phòng trang sức có thể ứng chế thành một. phòng kín hơi. Một cửa ra vào và một cửa sổ đã được dán giấy keo, kín như gắn xi. Trên một cánh cửa khác mở ra chân cầu thang, có gắn một cánh cửa thông gió, điều khiển bằng một sợi dây kéo, sẽ được kéo lên khi tối cần thông khí. Mỗi góc cửa có một chậu cây cảnh lớn.


Sau khi đã xếp những bình oxy dựa vào tường, cạnh nhau, Challenger lên tiếng:


- Vấn đề sinh tử và vi tế của chúng ta, là loại bớt được khí carbonic chúng ta thở ra, mà chỉ phí mất ít oxy nhất. Tôi đã suy nghĩ nát óc mới sắp xếp được như thế này. Dĩ nhiên, nếu các ông có ý kiến gì hay, ta phải cố thực hiện. Hai chậu kiểng giúp ta giải quyết một phần carbonic. Hai chai oxy sẵn sàng mở ra tức khắc, nên ta không bị ngộp bất thình lình. Các ông cũng không được đi xa phòng này, vì khí độc sẽ ập đến thình lình và khẩn trương.


Có một cửa sổ rộng và thấp mở ra ban-công. Cảnh vật bên ngoài vẫn như chúng tôi đã thấy từ phòng làm việc trên lầu. Chẳng thấy dấu hiệu xáo trộn nào. Tôi thấy rõ con đường ngoằn ngoèo trườn xuống sườn đồi. Từ phía nhà ga, một chiếc xe ngựa còn sót lại từ thời tiền sử, thứ chỉ còn tìm thấy ở một vài làng quê, đang ì ạch bò lên đồi. Dưới sườn đồi chút nữa, một cô giữa trẻ đang đẩy một xe nôi, tay kia còn dắt theo một em bé. Những làn khói xanh uốn lượn bốc lên từ các nông trại, làm cho cảnh quan của một vùng rộng lớn có vẻ thanh bình ấm cúng.


Trên trời xanh cũng như trên mặt đất, chưa có dấu hiệu báo tai ương bùng nổ. Những người gặt lúa vẫn còn làm việc trên cánh đồng, những người chơi golf, vẫn từng tốp hai hay bốn, đi thành hàng trên sân cỏ. Đầu óc tôi quay cuồng, thần kinh căng thẳng, hỏi sao không ngạc nhiên trước sự bình thản của họ. Tôi chỉ tay vào họ, nói:


- Họ có vẻ không cảm thấy ảnh hưởng của khí độc.


Đức ông John hỏi:


- Ông có chơi golf không?


- Không ạ.


- Nếu ông chơi ông sẽ thấy, sau khi đi hết một vòng cầu qua các lỗ đắc ý, thì chỉ có cái chết tức khắc mới làm các tay chơi ngưng được. Chà, lại có tiếng chuông điện thoại.


Suốt thời gian sau bữa ăn, cái tiếng chuông điện thoại reo, thúc giục lâu lâu lại vang lên triệu ông tới. Sau đó, ông lại thông báo những tin tức nhận được bằng vài câu ngắn gọn. Những mẩu tin khủng khiếp này, chưa hề được ghi lần nào trong lịch sử nhân loại. Cái bóng đen to lớn, hãi hùng của thần chết bủa chụp xuống từ phương Nam, như những đợt triều dâng. Ai Cập đã trải qua gia đoạn kích động, đang dấn sâu vào giai đoạn hôn mê; Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã trải qua cơn cuồng loạn, mà giới tăng lữ và chính quyền hoàng gia phải kiệt sức đối phó để duy trì trật tự. Nay thì mọi sự đã chìm vào im lặng. Cũng chẳng nhận được điện tín nào từ Nam Mỹ nữa. Ở Bắc Mỹ, các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, sau những vụ bạo động hung hãn về sắc tộc, đã bị tê liệt vì khí độc. Ở tiểu bang Maryland và Canada triệu chứng ngộ độc chưa biểu hiện rõ. Bỉ, Hòa Lan Đan Mạch đã lần lượt ngộ độc. Những điện tín cầu cứu hoảng loạn được tung ra khắp bốn phương trời, đến các trung tâm học thuật, các nhà hóa học, các bác sĩ nổi tiếng thế giới để mong được chỉ giáo. Các nhà thiên văn cũng vậy, phòng tràn ngập điện hỏi ý kiến. Còn làm gì được. Tai họa xảy ra toàn diện, toàn cầu ngoài tầm hiểu biết và kiểm soát của con người. Cái chết cho tất cả mọi người; không đau đớn nhưng không có cách nào tránh khỏi. Già cũng chết mà trẻ cũng chết, yếu hay mạnh cũng chết, cái chết cho cả người giàu lẫn nghèo, chẳng ai có hy vọng hay khả năng trốn thoát được. Đó là những tin tức manh mún, hết hoảng, qua những bức điện và điện thoại chúng tôi nhận được. Theo chỗ chúng tôi biết, các thành phố lớn còn lại trên thế giới, đã biết số phận của mình và chuẩn bị đón tai họa này một cách can đảm và nhẫn nhục.


Thế mà vẫn còn những người chơi golf, còn những nông dân gặt lúa, họ như những con cừu non vẫn tung tăng nhảy nhót khi lưỡi dao của đồ tể đã treo trên đầu. Thật đáng ngạc nhiên. Nhưng suy cho cùng, làm sao mà họ biết được về tai họa này. Tai họa đang lao vào chúng ta trên đôi hia bảy dặm.


Các tờ báo buổi sáng đã thông báo cho họ được những tin tức gì? Đến bây giờ là ba giờ chiều, chúng tôi mới thấy tin đồn về tai họa có vẻ mới lan truyền tới họ. Chúng tôi thấy những người thợ gặt hối hả ra khỏi cánh đồng, vài người chơi golf vội vã ra khỏi sân chơi trở về đại sảnh Câu lạc bộ.


Họ chạy như tránh một cơn mưa rào, kéo theo túi dụng cụ đánh golf lắc lư ở phía sau. Vài người vẫn tiếp tục chơi nốt vòng golf còn dang dở. Cô giữ trẻ có vẻ đang cuống cuồng đẩy chiếc xe nôi lên đồi. Một chiếc xe ngựa không biết đến từ lúc nào đang đậu bên đường, con ngựa mệt đang gục đầu xuống tận đầu gối để nghỉ. Phía trên cao là một bầu trời bao la, trong xanh tuyệt đẹp, lác đác vài cụm mây trắng bồng bềnh, trên cánh đồng cỏ xanh mởn xa xa. Nếu toàn thể nhân loại có bị tận diệt hôm nay, thì cũng như được chết trên giường êm ả, xứng đáng. Cái cảnh thanh bình đáng yêu của đồng quê, càng làm cho cái cảnh tận diệt toàn bộ nhân loại dễ sợ, càng thảm thương, khủng khiếp hơn. Nơi này chính là nơi lý tưởng để được chết nhanh chóng, không thương tiếc và biến khỏi mật đất.


Chuông điện thoại lại rung lên lần nữa, lại được nghe giọng nói oang oang của Challenger lần nữa. Ông gọi lớn:


- Malone, có điện thoại của ông.


Tôi lao tới điện thoại. McArdle gọi tôi từ London.


- Ông Malone đó phải không? Ở London đang xảy ra chuyện khủng khiếp đó. Hỏi ông Challenger xem ông ấy có đề nghị làm gì để cứu vãn không?


- Ông ấy không đề ra được biện pháp gì đâu. Quan điểm của ông ấy đây là một thảm họa toàn cầu, không thể tránh được Chúng tôi có dự trữ được một ít oxy ở đây nhưng chỉ có thể trì hoãn được số phận trong vài giờ thôi.


- Oxy! - cái giọng đau khổ vang lên. - Không còn giờ để đặt mua. Từ lúc anh đi sáng nay. tòa soạn cứ rối tinh cả lên. Đến lúc này, nửa nhân viên tòa soạn đă bất tỉnh. Tôi cũng đang cảm thấy nặng nề muốn xỉu. Qua cửa sổ tôi có thể nhìn thấy người chết nằm la liệt trên phố Fleet. Xe cộ ngừng lưu thông. Suy luận từ những điện tín nhận được, thì cả thế giới...


Giọng ông tự nhiên chìm xuống rồi ngưng bặt. Vài phút sau, trong ống nghe vang lên một tiếng “bụp” như thể đầu ông đã gục xuống bàn. Tôi hốt hoảng la lên.


- Ông Ardle! Ông Ardie!


Không có tiếng trả lời. Đặt ống nghe xuống, tôi biết thế là hết, chẳng bao giờ tôi còn nghe thấy giọng ông ấy nữa.


Ngay lúc đó, tôi vừa quay lại, đi được vài bước, tai họa ập xuống chỗ chúng tôi. Chúng tôi chơi vơi như đứng trong nước ngập đến vai, rồi bị ngay một làn sóng phủ chụp qua đầu Như thể một bàn tay vô hình xiết cổ tôi, từ từ, nhẹ nhàng vắt ép sinh lực ra khỏi người tôi. Tôi ý thức được một sức ép to rộng mênh mông đè lên ngực, cảm giác bi ép chặt, khít dần trong đầu, tai nghe những giọng hát oang oang, ánh sáng chớp lòe trước mắt. Tôi cố lết đến tay vin cầu thang.


Ngay lúc đó, Challenger xẹt qua tôi, thở phì phò như con trâu bị thương. Hình tượng ông thật khủng khiếp: mặt đỏ tía, hai mắt lồi ra, râu tóc dựng ngược. Bà vợ nhỏ bé của ông đã bất tỉnh, vô cảm về mọi phương diện, nằm vắt vẻo qua đôi vai rộng của ông. Ông mò mẫm, loạng quạng vác bà ấy lên lầu, chỉ nhờ vào sức mạnh của ý chí, qua bầu không khí địa ngục chúng tôi đang chịu, để cố vào được thiên đường tạm thời chúng tôi đă xây dựng. Thấy gương nỗ lực của ông ấy tôi cũng lao theo lên bậc thang, leo lên, trượt, té nhưng tôi vẫn cố bám chắc tay vịn, cho đến khi tôi ngã sấp mặt xuống ở chỗ rộng đỉnh cầu thang, nửa mê man bất tỉnh. Tôi cảm thấy những ngón tay thép của đức ông John nắm vào cổ áo tôi Một lúc sau tôi nằm ngửa, chẳng nói được một lời và cũng chẳng cử động được, trên tấm thảm trong phòng khách của bà chủ nhà. Bà ấy nằm cạnh tôi và Summelee sụm một đống trên ghế cạnh cửa sổ, đầu gục xuống trên đầu gối.


Như trong giấc mơ, tôi thấy Challenger, giống một con cánh cam quái dị, bò qua sàn. Một lúc sau, tôi nghe tiếng xì xì oxy thoát ra. Challenger hít hai ba hơi đầy, ngực ông phồng lên khi có đủ khí nuôi sự sống. Ông phấn khởi thốt lên:


- Có hiệu nghiệm. Lý luận của tôi đã được chứng thực!


Ông vùng đứng dậy, mạnh khỏe và nhanh nhẹn. Ông gắn một ống dây vào bình, lao về phía vợ, để đầu ống chúc xuống mặt bà ấy. Vài giây sau, bà ấy rên nhỏ, động đậy và ngồi dậy được.


Ông ấy quay sang tôi, tôi thấy nguồn sống ấm và dào dạt trong huyết quản tôi. Lý trí bảo tôi đây chỉ là những giây phút sống duy trì tạm bợ. Mặc dầu trước đây chúng tôi có nói về những giây phút này hơi có vẻ giễu cợt, bây giờ tôi mới cảm nhận rõ đức mỗi giây phút sống là vô giá. Có bao giờ tôi được hưởng cái cảm giác run lên vì vui sướng được sang một trang đời mới. Sức ép đã cất khỏi ngực tôi, cái niền siết quanh đầu đã nới lỏng. Cái cảm giác yên lành, ngọt ngào, dễ chịu trào dâng trong tôi. Tôi nằm đó nhìn Summelee hồi sinh cũng bằng liệu pháp ấy. Và sau cùng đến lượt đức ông John được hít oxy để tỉnh dậy. Ông đứng bật ngay dậy và nâng tôi lên, trong khi Challenger dìu bà ấy đến chiếc ghế đôi.


Bà ấy nắm tay chồng và nói:


- Ôi, anh George, rất tiếc là anh đă gọi em trở lại cuộc đời. Ngưỡng cửa của thần chết, đúng như anh đã nói, rất huy hoàng, có treo màn lộng lẫy lấp lánh. Sau cái cảm giác nghẹt thở, em cảm thấy êm dịu thanh thoát không thể tả được, và con đường quá độ sang thế giới bên kia đẹp lắm. Tại sao anh lại lôi em trở lại?


- Vì anh muốn chúng ta cùng đi một lượt. Tôi với em đã sát cánh bên nhau nhiều năm. Đến giây phút trọng đại này lại phải chia lìa nhau thì buồn quá.


Chỉ trong một lúc, với lời lẽ êm diu, mà tôi thấp thoáng thấy một Challenger mới, có những nét khác hẳn một Challenger cũ với cái giọng áp chế, khoe khoang, hống hách; lúc thì làm kinh ngạc, lúc thì làm phật lòng người cùng thế hệ ông. Dưới bóng thần chết, con người bên trong Challenger mới lộ ra, con người đã chinh phục được một tình yêu và giữ được mãi mãi. Ông đã thay đổi và ông lại là thuyền trưởng của chúng tôi một lần nữa.


- Chỉ một mình tôi trong toàn thể nhân loại, thấy và tiên đoán được thảm họa này. - Ông nói với giọng phấn khởi và hân hoan vì chiến thắng của khoa học. - Với ông, giáo sư hiền nhân Summelee, tôi tin rằng thắc mắc của ông đã được giải đáp bằng ý nghĩa của các vằn mờ trong quang phổ, và ông không còn cho rằng lá thơ của tôi đăng trên tờ Times chỉ dựa trên ảo tưởng nữa.


Vì trước đây, ông bạn đồng nghiệp này ưa chống đối, hờn dỗi, không nghe theo lý luận của Challenger, ông vẫn ngồi há hốc miệng chưa hết kinh ngạc. Ông duỗi thẳng bộ chân tay dài ngoằng, khẳng khiu ra như để xác nhận chắc mình còn sống trên quả địa cầu.


Challenger bước qua bình oxy, vặn nhỏ lại tiếng xì xì nhỏ dần cho đến khi êm nhẹ nhất. Ông nói:


- Ta phải khôn ngoan dùng vừa đủ nguồn oxy của ta, không khí trong phòng quá nhiều oxy, tôi cho rằng không ai cảm thấy như nghẹt thở. Ta chỉ còn cách thí nghiệm bằng thực tế phải tìm ra cần thêm bao nhiêu oxy vào không khí đủ hóa giải chất độc ether. Để xem coi mở van cỡ nào là đủ.


Chúng tôi ngồi yên lặng, thần kinh căng thẳng. Tôi đang định nói là thái dương tôi bị ép, bà Challenger đã nói trước là bà muốn xỉu. Chồng bà mở thêm oxy. Challenger tiếp:


- Vào thời tiền khoa học, người ta thường nuôi chuột bạch dưới tàu ngầm. Giống vật rất nhạy cảm với bầu không khí ô nhiễm. Nó cảm thấy trước các thủy thủ. Bà vợ thân yêu của tôi ơi, bà là con chuột bạch của chúng tôi. Tôi mở thêm oxy và bà khỏe.


- Vâng, em khỏe hơn rồi.


- Thế là chúng ta đã tìm ra đúng thành phần của hỗn hợp không khí cần trong phòng rồi. Ta có thể tính được thời gian ta còn có thể sinh tồn. Tiếc thay lúc chúng tôi ngất xỉu, phải cứu tỉnh chúng tôi, chúng ta đã phí phạm phần lớn oxy trong bình thứ nhất.


- Điều đó có quan trọng không? - Đức ông John đang đứng gần cửa sổ thọc tay vào hai túi quần hỏi. - Đằng nào cũng phải chết thì duy trì cuộc sống phỏng có ích gì? Ông nghĩ chúng ta có dịp may nào thoát chết không?


Challenger mỉm cười lắc đầu. Đức ông tiếp:


- Vậy ông có nghĩ rằng ta chẳng cần đợi tử thần tới mà nhảy không vào cái chết hiên ngang và tư cách hơn không? Nếu ông đồng ý tôi đề nghị ta cầu nguyện rồi tắt oxy, mở cửa sổ ra.


- Sao không làm như vậy? - bà chủ mạnh bạo đồng tình. - Đúng đấy anh George làm như đức ông đề nghị đi.


Giáo sư Summelee hùng hổ ngăn lại:


- Tôi cực lực phản đối Khi phải chết ta cứ bình thản đón nhận nó. Võ đoán về cái chết thì thật là điên rồ và không thể biện minh được.


- Còn ông bạn trẻ nghĩ sao? - Giáo sư Challenger hỏi tôi.


- Ta nên coi thảm họa tới phút cuối cùng.


- Tôi hoàn toàn nhất trí với ông. - Giáo sư Challenger nói.


Bà chủ nhà vội tiếp,


- Nếu anh nói vậy, anh George, em cũng nghĩ như anh.


- Thôi được, tôi chỉ nêu vấn đề lên để bàn thôi. - Đức ông John phân bua. - Nếu các ông đồng ý chứng kiến thảm họa đến phút chót, tôi cũng sát cánh với các ông. Chắc sẽ thú vi lắm, đủ cả thương cảm, ghê sợ. Chẳng có gì sai trái cả. Tôi đã có những cuộc mạo hiểm trong đời, đã trắc nghiệm mọi cảm giác mạnh như nhiều người. Nhưng tôi phát từ giã cõi đời một cách hào hùng nhất.


Challenger tiếp ngay:


- Với điều kiện là ông được tiếp tục sống thêm.


- Các ông chỉ suy đoán hão! - Summelee bực mình nói xẵng.


Challenger nhìn ông ta nghiêm khắc phản đối, rồi nói như một nhà mô phạm:


- Trừ phi chúng ta còn tiếp tục sống, nếu đã chết rồi thì chẳng ai trong chúng ta còn có dịp quan sát những gì đã xảy ra ở ngoài. Vì lúc đó ta đă ở thượng giới tinh thần, làm sao còn hiểu được hạ giới vật chất. Thật là hiển nhiên đối với đa số không hiểu biết, (ông liếc sang Summelee) thì chỉ khi nào ta còn sống trong cái cơ thể vật chất này mới có thể quan sát và phán đoán về các hiện tượng vật chất được. Bởi vậy chúng ta cố duy trì cuộc sống thêm vài giờ, với hy vọng truyền lại cho những sinh vật tương lai, những thông tin để họ quan niệm được rõ ràng, rằng trái đất hay vũ trụ, cho đến thời điểm chúng ta sống, đã trải qua một biến cố vĩ đại kinh hoàng, từ trước chưa từng có. Theo tôi, thời gian còn sống để có được cuộc trải nghiệm tuyệt vời này, nếu bị bớt đi phút nào đều đáng tiếc cho phút đó.


Summelee lại hăm hở nói lớn:


- Hoàn toàn đồng ý.


- Thông qua tuyệt đối, không có phiếu chống. - Đức ông John tiếp lời. - Nhưng trời ơi! Ông tài xế của ông đã lái chuyến xe chót sang bên kia thế giới rồi. Ta có nên lao ra khiêng ông ta vào đây không?


- Chỉ có điên mới ra. Ra là chết. - Summelee lớn tiếng can ngăn.


- À há, bây giờ tôi cũng nghĩ như vậy. Chẳng giúp gì được ông ta, mà còn làm oxy thoát ra khỏi phòng, ngay cả khi còn sống mà trở vào phòng chăng nữa. Nghe này, coi mấy con chim nhỏ ở dưới mấy cây kia kìa!


Chúng tôi lấy bốn cái ghế xếp dọc theo cái cửa sổ rộng, thấp. Bà chủ nhà còn nhắm mắt mơ màng trên ghế. Tôi hình dung ra một cảnh quái đản, rùng rợn; cái ảo ảnh có lẽ được phóng đại lên nhiều do bầu không khí nặng nề, tù hãm chúng tôi đang hít thở. Chúng tôi là bốn khán giả ngồi trên hàng đầu đang coi màn chót của thế giới! Ngay trước mặt chúng tôi, ở dưới sân, là chiếc xe du lịch đang rửa dở dang, ông tài xế Austin nằm sóng soài cạnh bánh xe, trên trán có một cục u tím bầm, chắc là ông đã ngã, đập đầu vào bệ lên xe hay cái chắn bùn. Tay ông vẫn còn nắm chắc cái vòi nước rửa xe. Vài cây tiêu huyền che mát một góc vườn, dưới gốc vài chú chim chết xù lông ra, co quắp như những trái banh nhiều cỡ. Lưỡi hái tử thần đã lướt qua mọi sinh vật lớn nhỏ.


Qua bức tường cuối vườn, chúng tôi nhìn ra con đường uốn lượn dẫn tới ga. Nhóm thợ gặt mà chúng tôi đã thấy chạy ra khỏi đám ruộng, nằm bên vệ đường, lộn xộn, co quắp chồng lên nhau. Xa chút nữa, cô giữ trẻ nằm nghếch đầu và vai lên vạt cỏ bên vệ đường. Cô đã bồng cháu bé ra khỏi xe nôi, bây giờ là một bọc bất động trong tay cô. Ngay cạnh cô là cậu bé nằm sải chân tay bên mép đường. Gần chúng tôi hơn, con ngựa chết quì giữa hai càng xe. Người đánh xe nằm vắt qua thành trước xe, trông như một con chim già kỳ quặc, tay ông cong queo ở một thế lạ kỳ trước mặt. Qua cửa kính, chúng tôi thấy mờ mờ trong xe một thanh niên, tay còn nắm thành xe đã mở, hình như anh định nhảy xuống đường vào giây phút cuối. Xa hơn nữa là sân golf xanh nhạt hơn, rải rác xác những người chơi golf mà chúng tôi thấy hồi sáng, trong quần áo trắng viền đủ màu. Trên một vạt cỏ đậm màu hơn, một đống tám xác những tay chơi cặp bốn quyết chơi cho đến tối. Không một bóng chim trên vòm trời cao rộng, không một người, một sinh vật động đậy trong khung cảnh một miền quê trải rộng trước mặt chúng tôi. Mặt trời chiều đã dịu, dải nắng rực rỡ, êm ả lên cảnh vật. Nhưng bao trùm lên tất cả là cái không khí lạnh tanh, thê lương của tận diệt, cái chết toàn thể mà chẳng bao lâu nữa chúng tôi cũng tham dự. Tạm thời lúc này, tấm kính cửa sổ cách ly chúng tôi với số phận chung của đồng loại, nhờ có dự trữ một ít oxy để trung hòa ether độc. Nhờ tri thức và tiên kiến của một người, đã tạo được một ốc đảo sự sống, giữa một sa mạc chết mênh mông, trong vài giờ. Rồi oxy sẽ cạn, chúng tôi cũng sẽ phải chết co quắp trên cái thảm hồng đào này.


Thế là toàn bộ nhân loại và các chủng sinh vật khác bị xóa sạch trên địa cầu. Một lúc lâu, bầu không khí trong phòng nghiêm trọng đến nỗi lời nói thành vô nghĩa. Chúng tôi chỉ lặng lẽ nhìn ra cái thế giới thảm thương bên ngoài.


- Cháy nhà kìa! - cuối cùng tiếng Challenger vang lên. Ông chỉ vào một làn khói đang bốc cao khỏi các ngọn cây. - Tôi đoán là sẽ còn nhiều nhà cháy khác, có thể cả thành phố sẽ chìm trong biển lửa, cứ nghĩ tới có biết bao nhiêu người đang cầm lửa khi hôn mê ngã xuống. Sự kiện nhà còn cháy được, tự nó đã chứng minh cho thấy thành phần oxy trong không khí vẫn bình thường, và rõ ràng ether là thủ phạm. Chà! lại một đám cháy khác trên đỉnh đồi Crowborough Hill. Nếu tôi không lầm, đó là tòa nhà Câu lạc bộ. Chuông đồng hồ nhà thờ vẫn điểm giờ. Chắc các triết gia của chúng ta sẽ rất thích thú khi biết rộng có những máy móc con người chế ra, lại sống dai hơn toàn bộ nhân loại.


- Trời ơi! Những cuộn khói kia là cái gì? - Đức ông John hoảng hốt đứng dậy và hỏi to. -- - Tầu hỏa!


Chúng tôi nghe tiếng rầm rập rồi tức thời tàu lao vào tầm mắt chúng tôi, với tốc độ rất cao. Nó khởi hành từ đâu, cánh đây bao xa. Chúng tôi không thể biết, nhưng chỉ có phép lạ, nó mới chạy được đến đây, không bị các vật, xác người ngất xỉu trên đường làm lật. Nhưng lúc này chúng tôi sắp sửa phải chứng kiến cái kết cục thảm thiết của nó. Một tàu than đang đậu sừng sững trên đường ray. Chúng tôi đứng tim khi chiếc tàu khách tốc hành rầm rầm chạy qua trên cùng một đường ray. Cú đụng thật khủng khiếp kinh hoàng. Đầu tàu và các toa dồn cục lại thành một đống gỗ và sắt cong queo. Một tia lửa lóe lên, rồi cả đống bốc cháy hừng hực. Cả nửa giờ, chúng tôi ngồi im lặng sững sờ trước một cảnh vừa hùng vĩ vừa tang thương.


Sau cùng bà Challenger thốt lên:


- Tội nghiệp Tội nghiệp nhưng người đó!


Bà bám cứng lấy cánh tay chồng.


- Bà ơi, những hành khách trên tàu đâu có còn sống. Họ đã nằm im lìm như những bánh than trên đoàn tàu mà họ đụng, và bây giờ họ cũng đang bất động biến thành than. -Challenger nói nhỏ nhẹ vừa vỗ về trấn an vợ. - Chuyến tàu chở hành khách sống từ ga Victoria rồi hành khách cùng chết dần với những người họ thấy trên đường trong hãi hùng. Đoàn tàu đã thành đoàn tàu ma từ lâu rồi, trước khi gặp định mệnh kinh hoàng.


Một ảo ảnh lạ lùng hiện ra trong óc tôi khiến tôi lên tiếng:


- Những thảm cảnh tương tự đang diễn ra trên khắp thế giới. Cứ nghĩ tới những tàu đang lênh đênh ngoài biển. Chúng sẽ còn tiếp tục chạy mãi cho đến khi lò than tắt ngấm, hoặc lao hết tốc độ vào một bờ biển. Những thuyền buồm cũng vậy, làm sao thuyền quay trở lại bờ. Một thuyền đầy xác chết, sẽ trôi dật dờ trên sóng nước, cho đến khi gỗ thuyền mục, mối nối rò rỉ và thuyền chìm dưới đáy bể. Có lẽ hàng thế kỷ sau, Đại Tây Dương vẫn còn nổi trôi những xác tàu, thuyền và các vật dụng đi biển.


Sau cái tặc lưỡi chán nản, Summelee nối lời:


- Và các công nhân trung các mỏ than... sau này nếu lại có các nhà địa chất trên trái đất, chắc họ sẽ lập các giả thuyết kỳ lạ về đời sống con người vào giai đoạn này căn cứ vào những xác đã hóa đá của phu mỏ.


Đức ông John nhận xét:


- Thú thực tôi không hình dung được những chuyện đó. Nhưng trái đất sẽ như một “căn nhà cho thuê trống người” sau vụ này. Khi nhân loại đã bị quét sạch khỏi mặt địa cầu, thì bằng cách nào con người lại có mặt trên trái đất được?


- Thì trái đất trước đây, từ thời nguyên thủy vốn trống rỗng mà. - Chalienger nghiêm túc trả lời. - Như cái lý âm dương ấy, từ tạo thiên lập địa, vốn chi phối chúng ta và chúng ta không hiểu nổi, sẽ tạo ra con người trên trái đất. Tại sao một chu trình sinh thái như vậy lại không lập lại được nhỉ?


- Trời ơi! ông bạn Challenger thân mến, chắc ông không định nói vậy?


- Giáo sư Summelee, tôi không quen nói một đàng nghĩ một đàng. Lời nhận xét của ông chẳng đâu vào đâu cả.


Nói rồi ông ngoảnh ra chỗ khác, mắt nhắm lại.


- Ôi, ông sống như một người cứ khư khư ôm mớ giáo điều đến chết cũng vẫn chưa chừa được. - Giáo sư Summelee chỉ còn chua chát nhận xét.


- Và ông luôn luôn là kẻ phá đám, ngang bướng không thể tưởng được, chẳng bao giờ ông thoát ra nổi.


- Những lời phê bình của ông cũng đâu có nghèo tưởng tượng. - Giáo sư Summelee cố gân cổ phang lại.


Đức ông John xen vào can:


- Chắc các ông định hít thở hết những bình oxy này để thóa mạ nhau, mới trở lại con người đứng đắn thật sự? Con người có trở lại trái đất hay không có quan trọng gì lúc này nữa. Dù con người có trở lại chắc chắn không vào lúc này.


Challenger nghiêm sắc mặt trả lời:


- Nói vậy là ông đã bộc lộ rõ sự nông cạn của mình. Một đầu óc khoa học chân chính không hề tự đặt ra giới hạn không gian và thời gian cho công việc của mình. Nhà khoa học phải đặt trạm quan sát là chính mình, ở mốc thời gian là hiện tại, phân cách cái quá khứ vô định với tương lai bất định, từ đây ông xuất kích những đợt nghiên cứu từ lúc sính ra các giống loài và tới lúc mọi thứ bị tận diệt. Với cái chết, nhà khoa học sẽ chết ở vị trí nhiệm sở của mình, bình thường và vẫn theo phương pháp như thường cho đến lúc chết. Ông không cần để ý tới các thân xác vật chất của ông tan rã ra sao, cũng như mọi loại vật chất khác, ý kiến tôi có đúng không, giáo sư Summelee?


Summelee bất đắc dĩ càu nhàu một câu đồng ý:


- Với vài dè dặt, tôi đồng ý.


Challenger tiếp:


- Con người khoa học, tôi xin đặt ở ngôi thứ ba, để khỏi tỏ ra là người tự mãn. Một nhà khoa học chân chính, phải có khả năng vẫn nghĩ ra được một điểm nào đó về tri thức trừu tượng, trong lúc ông ta đang rơi từ trên một khinh khí cầu xuống đất. Những người có bản lãnh vững chắc như vậy rất cần trong chinh phục tự nhiên và bảo vệ chân lý.


Đức ông John tiếp ngay, mắt vẫn nhìn chăm chăm ra ngoài:


- Thiên nhiên khiến tôi quan tâm nhất lúc này. Tôi đã đọc những bài của các học giả có uy tín nhất, nói về việc giới khoa học điều khiển thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên vẫn giữ lại nhiều điều bí mật.


Challenger nói một cách tin tưởng:


- Trong khoảng thời gian vài triệu năm, vạn vật ra sao? Như ông thấy, thế giới cây cỏ đã sống còn. Nhìn cành lá sum sê của mấy cây tiêu huyền kia đi. Chim thì chết nhưng cây xanh tươi nảy nở. Giữa dòng đời sống thực vật trong ao đầm có những loài thủy tộc vi thể, là đạo quân tiên phong của đời sống động vật. Và đến lúc này, năm chúng ta được vinh dự là đạo quân hậu vệ. Khi đã có đời sống ở hình thái thấp nhất, thì khẳng định con người sẽ xuất hiện. chắc chắn như cây sồi nảy sinh từ hạt sồi. Chu kỳ đời sống sẽ lặp lại một lần nữa.


Tôi hỏi:


- Thế còn ether độc, nó có giết đời sống từ trong trứng nước không?


- Ether độc có thể chỉ là một dòng hay một lớp trong môi trường ether lấp đầy vũ trụ, chỉ như một dòng Gulf Stream siêu hình, trong cái đại dương ether mà chúng ta đang dật dờ trôi nổi. Có thể còn có một dung sai, khả dĩ để đời sống có thể thích ứng được với điều kiện mới. Chỉ sự việc trước mắt chúng ta, là ta thêm một lượng oxy vào không khí là có thể hóa giải được ether độc. Như vậy, môi trường trái đất chỉ cần thay đổi chút ít là các động vật có thể lướt qua thảm họa này.


Cái nhà lúc nãy bốc khói qua các lùm cây, bây giờ bùng cháy. Chúng tôi thấy những lưỡi lửa chập chờn, liếm lên bầu trời.


Đức ông John thì thầm nói:


- Thật quá khủng khiếp!


Nhìn ông lần này tôi có một ấn tượng lạ hơn bao giờ hết. Tôi nêu nhận xét:


- Được, nói cho cùng thì có gì nữa đâu? Thế giới đã chết! Chết cháy hay hỏa táng là hình thức xử lý xác chết tốt nhất.


- Nếu căn nhà này bốc cháy, đời sống chúng ta sẽ bị rút ngắn nhanh hơn.


- Tôi đã thấy nguy cơ khi ở trong một phòng kín tăng cường oxy, và có nhờ bà nhà tôi coi chừng nguy cơ bốc lửa.


- Mọi thứ đều an toàn ông ơi. Nhưng đầu em lại bắt đầu nhức rồi, thái dương giật thon thót. Không khí trong phòng này ghê quá!


- Chúng ta phải thay lượng khí này. - Challenger nói rồi nghiêng mình trên bình oxy. - Bình này hầu như hết rồi. Bình đầu tiên ta dùng được trong ba giờ rưỡi, hết lúc tám giờ tối. Vậy ta sẽ qua được một đêm an lành. Đến chín giờ sáng mai chúng ta sẽ hết sống. Chúng ta còn đón được một bình minh cuối cùng chỉ dành riêng cho năm người chúng ta.


Ông mở bình oxy thứ hai, mở cửa thông gió khoảng nửa phút. Chúng tôi cảm thấy được không khí ở bên ngoài đã khá hơn, nhưng triệu chứng nhiễm độc lại đến nhanh hơn. Ông đóng ngay cửa không khí lại.


Challenger nói tiếp:


- Tiện thể, con người đâu có chỉ sống bằng oxy. Đã đến giờ ăn và hơi quá rồi. Nhưng xin các ông cứ an tâm. Mời các ông đến đây chơi, tôi đã chuẩn bị kỹ và hy vọng buổi họp mặt này ai cũng thấy thú vị. Tôi đã tính rằng nhà bếp cũng phải thay đổi thích ứng với hoàn cảnh này. Chúng tôi đã cố gắng hết sức. Hẳn các ông cùng đồng ý với tôi là chỉ có điên mới đốt một bếp dầu hôi trong phòng này, nó sẽ đốt hết một lượng lớn oxy. Chúng tôi đã chuẩn bị một ít thịt nguội, bánh mì và đồ chua, vài chai vang đỏ, có thể thỏa mãn được nhu cầu uống xoay vòng của chúng ta. Cám ơn bà chủ, em luôn là người phụ nữ đảm đang, nữ hoàng tề gia. “


Tháo vát, tự trọng, biết lễ nghĩa, những bà nội trợ Anh quốc thật tuyệt vời! Chỉ trong vài phút, bà chủ đã trải cái khăn trắng như tuyết lên bàn, đặt khăn ăn, dọn các món ăn đơn giản ra, thanh lịch và hài hòa. Có cả một cái đèn pin ở giữa bàn, chiếu ra một thứ ánh sáng kỳ ảo thần tiên. Tuyệt vời hơn nữa là chúng tôi ngon miệng ăn ngấu nghiến.


- Ăn ngon miệng cũng tùy theo cảm xúc của ta. - Giáo sư Challenger nói. Tôi lấy làm lạ là ông giàu tình cảm đến vậy. Một đầu óc khoa học vĩ đại lại có thể chiếu cố đến những sự thực nhỏ nhoi. - Chúng ta đã trải qua cuộc khủng hoảng lớn, nhưng chỉ do nhiễu loạn cấp phân tử. Có nhiễu loạn trục trặc là cần sửa chửa. Bất cứ nỗi vui hay nỗi buồn to lớn nào cũng làm ta đói. Đừng có bỏ bữa ăn như các tiểu thuyết gia thường viết.


Tôi nêu một liên hệ:


- Hèn chi ở thôn quê người ta thường ăn cỗ đám ma linh đình.


- Đúng, ông bạn trẻ đã có một ví dụ minh họa rất thích hợp. Để tôi gắp cho ông một miếng lưỡi.


- Dân bán khai cũng vậy. - Đức ông John vừa cắt miếng thịt bò vừa nói: - Tôi đã chứng kiến họ chôn một tù trưởng ở sông Arnwimi, sau đó họ thịt một con hà mã, cân nặng bằng cả một bộ lạc. Có vài bộ lạc ở New Guinea còn sực luôn cả người thân mà họ vừa thương khóc, cứ như là cách họ dọn sạch một xác chết. Tất cả những bữa tiệc trong đám ma, tôi cho rằng bữa tiệc ta đang ăn đây là kỳ lạ nhất.


Bà Challenger góp thêm:


- Cái kỳ lạ nhất là tôi không thể cảm thấy thương xót được nhưng người đã chết. Tôi còn cha mẹ ở Bedford. Tôi biết rằng ông bà ấy đã chết hôm nay, vậy mà trước cái thảm họa to lớn, toàn cầu này, tôi lại không cảm thấy đau xót cho từng cá nhân được, ngay cả đau đớn cho cha mẹ tôi.


Tôi cũng cảm động tiếp:


- Mẹ già tôi ở Ireland, tôi có thể hình dung ra cụ, choàng khăn và mũ len, ngả người ra sau ghế, mắt nhắm lại, cạnh cửa sổ, kiếng và cuốn sách để bên cạnh. Làm sao tôi có thể thương khóc cụ được. Cụ đă chết, còn tôi chắc chắn sắp chết. Chết rồi chắc tôi sẽ được ở gần cụ không còn phải sống sinh ly, người ở Anh người ở Ái Nhĩ Lan nữa.


Challenger lên tiếng:


- Nói về thân xác, ta đâu có thương xót những miếng móng chân, móng tay cắt ra, hoặc một lọn tóc hớt đi, mặc dầu chúng là một phần thân thể ta. Cũng như chẳng người cụt chân nào còn cảm thấy thương tiếc cái chân đã cắt mất. Cái thể xác ta là nguồn gốc những đau đớn, chán nản mỏi mệt. Nó là cái chỉ số thường trực những giới hạn của ta. Vậy ta còn buồn gì nữa khi hồn lìa khỏi xác?


Ông Summelee càu nhàu:


- Dù hồn có lìa khỏi xác được, nhưng cái chết toàn thể khủng khiếp quá.


Challenger nói lại:


- Như tôi đã nói, cái chết toàn thể, toàn bộ bớt khủng khiếp hơn cái chết riêng lẻ chứ.


Đức ông John góp ý:


- Cũng giống như trong chiến tranh. Nếu các ông chỉ thấy một người lính chết ngực nát bấy hay lủng một lỗ trên mặt, có thể các ông sợ bủn rủn. Nhưng tôi đã nhìn thấy mười ngàn người chết ở Soudan, tôi không có cảm giác ghê sợ. Vì trong các cuộc chiến làm nên lịch sử, mạng sống của một cá nhân quá nhỏ ai thèm để ý. Khi một ngàn triệu người cùng chết một lúc như ngày hôm nay. Chúng ta không thể thương xót riêng một người được.


Bà chủ nhà run run, thật tình nói:


- Em mong là chúng ta đã qua khỏi. Ôi, anh George, em sợ lắm.


- Không bà chủ bé nhỏ ạ, bà cam đảm nhất trong chúng ta khi giờ phút lâm chung tới. Anh chỉ là anh chồng bẻm mép ba hoa của em thôi. Nhưng xin em nhớ cho rằng anh trước sau như nhất, bao giờ cũng hy sinh thân mình bênh đỡ em. Nói cho cùng, em đâu còn cần đến ai ngoài anh nữa.


Bà ấy nói “Em không cần nhờ ai nữa,” và choàng tay quanh cái cổ bạnh của ông ấy.


Ba chúng tôi bước ra cửa sổ và đứng chết sững trước cảnh đang diễn ra trước mặt.


Màn đêm đã xuống và cái thế giới chết đã được phủ kín trong một bức màn đen. Nhưng ở phương chính Nam, một dải đỏ thẫm sinh động. nhấp nhô như mạch đập cuộc sống, rồi thình lình vùng phụt lên tới thiên đỉnh hồng rực rỡ, lịm dần xuống thành một đường lửa huy hoàng nhưng khủng khiếp.


- Lewes cháy rồi!


- Không, đó là Brighton. - Challenger vừa băng qua phòng ra với chúng tôi vừa nói. - Các ông có thể thấy đường cong đen của những đồi cỏ nổi bật trên biển lửa. Đám cháy phải cách xa đó nhiều dặm. Chắc là cả thành phố đang bốc cháy.


Có nhiều đám lửa khác ở khắp bốn phương trời. Cái đoàn tàu hỏa chỉ còn cháy âm ỉ thôi, như một đám lửa cố định, không tung tăng nhảy rộng ra như đám đại hỏa hoạn bên kia đồi. Trời ơi, có biết bao nhiêu đề tài có thể viết cho tờ Gazette! Có ký giả nào bỏ lỡ dịp như thế này không? Một kho tin sốt dẻo, không ai thấy để khai thác sao? Hết nhiên, bản năng ghi chép bùng lên trong tôi. Nếu nhữg nhà khoa học này vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu của họ đến phút chót, tại sao tôi lại không kiên trì ghi lại cảnh tượng này nhỉ. Không một ai trong loài người được chứng kiến cảnh này và ghi lại. Dẫu sao thì cũng phải trải qua cái đêm cuối cùng này. Làm sao tôi còn có thể ngủ được. Vậy thì ghi chép sê giúp tôi trải qua những giây phút lo âu và giữ cho tâm hồn thanh thản. Thế là trên đầu gối tôi một cuốn sổ với những trang ghi chép nguệch ngoạc, dưới ánh đèn pin mờ mờ. Chút khiếu văn chương của tôi xem ra đắc dụng lúc này. Với những trang này, chúng có thể truyền đến những tâm hồn khác những các xúc, những sợ hãi dai dẳng trong cái đêm kinh hoàng này.

Chương 4:

Những chữ mà tôi nguệch ngoạc trên đầu những trang nhật ký của tôi mới ngộ nghĩnh làm sao! Ngộ hơn nữa là tôi, Edward Malone, lại viết những hàng chữ này. Tôi, bắt đầu ra khỏi nhà ở Streatham cách đây mười hai giờ, không mảy may có một ý niệm nào trước về những sự việc kỳ diệu sê xảy ra trong ngày. Tôi nhớ lại chuỗi biến cố: tham khảo ý kiến với McArdle, những dòng báo động đầu tiên của Challenger trên tờ Times, hành trình kỳ cục trên xe hỏa, một bữa ăn trưa ngon miệng, thảm họa ập đến và bây giờ chỉ còn năm chúng tôi sống sót trên hành tinh trống rỗng này. Biết chắc. số phận mình cũng sẽ chết như bao người khác, và những dòng nhật ký này, được viết như một động tác nghề nghiệp máy móc, sẽ chẳng bao giờ được cặp mắt con người ngó tới. Vì đây là lời của kẻ sắp chết; trong khi cả thế giới bên ngoài cái phòng ông viết đã chết hết cả rồi. Tôi thấm thía hiểu được Challenger khôn ngoan và đúng đắn biết bao, khi ông nói rằng nỗi bi thảm thật sự của chúng ta là chúng ta còn sống, sau khi chân thiện mỹ của con người đă bị hủy diệt. Như vậy chắc Challenger đã đoán ra chúng tôi không bị nguy hiểm. Bình oxy thứ hai của chúng tôi đã cạn. Chúng tôi thấy thảm thương cho cái thân xác cặn bã yếu hèn của chúng tôi gần một phút khi thay oxy.


Chúng tôi được nghe Challenger nói chuyện mười lăm phút đồng hồ. Ông ấy nổi hứng lên và cất tiếng sang sảng như đang thuyết trình, cho các nhà khoa học có uy tín trong thính đường Hoàng gia. Ông có một nhóm thính giả lạ thường để làm tình làm tội: vợ ông ấy rất bình thản, chẳng hiểu ông ấy nói gì, Summelee ngồi trong góc tối, luôn phản bác, chỉ trích ồn ào nhưng rất chú ý; Đức ông John nằm dài ở một góc xem ra chẳng ưa gì câu chuyện này; tôi ngồi cạnh cửa sổ lâu lâu lại lơ đăng nhìn ra cảnh bên ngoài. Tất cả cứ như một giấc mơ, trong đó tôi chẳng đóng vai trò nào tích cực.


Challenger ngồi ở bàn giữa, hướng cái đèn pin vào giá kính hiển vi, gắn miếng kính mang vật ông đem vào từ phòng phục sức lên giá. Cái vòng sáng le lói hắt lên từ gương đế, làm bộ mặt xương xầu, râu ria xồm xoàm của ông nửa sáng lực nửa tối đen. Có vẻ như gần đây nhất ông đang nghiên cứu dạng sống sơ đẳng. ông đang thích chí vì con a míp ông chuẩn bị mẫu ngày hôm qua vẫn còn sống. Ông vui sướng nhắc đi nhắc lại như điên:


- Chính mắt ông coi đi, Summelee. Bước qua coi cho kỹ, rồi vui vẻ chấp nhận quan điểm của tôi về vụ này; Malone, làm ơn quan sát đi, rồi xác nhận giùm nhưng điều tôi đã tuyên bố. Các vi sinh vật hình suốt chỉ ở giữa là những tảo cát. Người ta coi thường không để ý đến chúng, vì chúng có vẻ là thực vật hơn là động vật. Nhưng về phía bên phải, các ông sê thấy ngay bọn a míp đang uể oải bơi lội trong môi trường. Con ốc phía trên để điều chỉnh tinh. Các ông coi tận mắt đi.


Summelee coi và yên lặng đồng ý. Tôi cũng coi và thấy một dòi vi khuẩn như làm bằng vụn kính, đang bơi như dính chùm vào nhau trong môi trường. Đức ông John thì sẵn sàng tin ý kiến của Challenger đúng. Ông nói:


- Tôi chẳng cần biết chúng chết hay sống làm gì cho mệt óc. Có nhìn thấy chúng thì tôi cũng không phân biệt được, vậy thì tôi bận tâm làm gì? Con vi khuẩn cũng chẳng quan tâm đến tình trạng sức khỏe của chúng ta đâu.


Ông nói vậy làm tôi bật cười, và Challenger lườm tôi rất lạnh lùng và kiêu kỳ.


- Những phát biểu nông cạn của người có chút ít giáo dục, còn gây cản trở cho khoa học nhiều hơn là sự ngu đến, xin đức ông John hạ cố...


- Anh George ơi, đừng quá hăng say như vậy chứ! - Bà chủ nói vậy rồi xoa tay lên cái bờm tóc của ông đang cúi xuống kính hiển vi. - Con a míp sống hay chết thì có ý nghĩa gì?


Challenger làu bàu:


- Ý nghĩa lắm chứ.


Đức ông John cười khẩy nói:


- Được, cho biết tầm quan trọng của nó đi. Ta có thể nói đến thí nghiệm này của ông như bất cứ chuyện gì khác. Nếu tôi có lơ là với nó, hay làm phật lòng ông, xin bỏ qua cho.


Cái giọng the thé cãi bướng của Summelee lại chen vào:


- Theo tôi, mấy con vi sinh đó sống thì có gì quan trọng đâu. Chúng nó cũng ở trong môi trường dư oxy như chúng ta, làm sao chúng ngộ độc được. Nếu chúng ở ngoài phòng này, chúng sẽ phát chết như các sinh vật khác.


- Nhận xét của ông, giáo sư Summelee đáng kính ơi, - giáo sư Challenger phải hạ mình hết sức mới thốt nên lời. (Chà! ước chi tôi vẽ được cái nét mặt ngạo nghễ, kênh kiệu cả ông trong cái vòng ánh sáng của gương đế kính hiển vi hắt lên!) - Nhận xét của ông chứng tỏ ông không nắm được điều kiện thí nghiệm. Mẫu thí nghiệm này tôi gắn lên từ hôm qua, gắn kín rồi để ngoài cửa thông hơi. Oxy của chúng ta không thể vào được nhưng dĩ nhiên, ether trong không khí bên ngoài vào được như nó chui vào mọi ngõ ngách trong vũ trụ. Chúng còn sống, nghĩa là chúng không bị nhiễm độc. Từ đó, ta có thể suy ra tất cả những con a míp ở ngoài phòng này đã qua khỏi tai họa, chúng không chết như ông đoán sai.


Đức ông John hững hờ nói:


- Nhưng dù có như vậy chăng nữa cũng chẳng có gì phải vui điên cuồng lên như Achimèdes. Chúng sống sót thì có chi quan trọng nào?


- Kết quả thí nghiệm chỉ có ý nghĩa như thế này: Trái đất vẫn là một hành tinh sống, không phải là một hành tinh chết. Nếu ông có óc tưởng tượng khoa học, ông sẽ phóng tầm mắt về trước vài triệu năm, coi chỉ như trong khoảnh khắc trên trục thời gian vô tận, lúc đó trái đất cũng sẽ lại lúc nhúc mọi chủng loại, muông thú và con người, do biến hóa từ những sinh vật nhỏ nhoi này. Cứ xem một đám cháy trong thảo nguyên: cây, cỏ, sinh vật đều chết hết, chỉ còn một phần mặt đất cháy đen. Ông cứ tưởng phần đất đó sẽ vĩnh viễn hoang phế. Không, các mầm sống vẫn còn trong lòng đất sẽ chui lên sống trên mặt đất, sẽ mọc lên và nảy nở phát triển. Vài năm sau, nếu qua đó, ông sẽ không nhận ra chỗ cháy mấy năm trước ở đâu nữa.


- À há! thú vị thật! - Đức ông John reo lên rồi lướt qua phòng, nhìn vào kính hiển vi. - Ngộ quá, cái con nho nhỏ treo ở đầu dãy các chân dung tổ tiên loài người tương lai. Nó mang cái núm móc áo trên lưng!


- Vật đen đó là nhân tế bào của nó. - Challenger kiên nhẫn nói, như thể cô bảo mẫu dạy em bé đánh vần.


Đức ông John vừa cười vừa nói:


- Tốt, vậy thì chúng ta đâu có lẻ loi Vẫn có những sinh vật cùng sống với chúng ta trên trái đất.


Summelee lại phản bác:


- Ông Challenger này, xem ra ông chỉ võ đoán là mục đích tối hậu của trái đất, khi được hình thành là phải sản sinh ra và duy trì đời sống cho con người.


- Vậy thì ông cho mục đích của trái đất là gì? - Challenger bực mình vì ý ám chỉ trong lời phản bác. Đôi lúc tôi cho rằng con người hợm mình, cho rằng trái đất được sinh ra và tự biến hóa, sắp xếp thành một sân khấu. để hắn múa may.


- Chúng ta không khư khư ôm lấy quan điểm đó, nhưng ít ra con người cũng không hợm mình như bạn tưởng, mà thực sự con người có vị trí cao nhất trong vạn vật.


- Chỉ cao nhất theo tầm hiểu biết của chúng ta thôi.


- Chỉ cần vậy thôi, thưa ngài, không cần bàn gì thêm nữa.


- Cứ nghĩ đến những triệu năm, có lè những tỷ năm mà trái đất trống rỗng vận hành trong vũ trụ, hay nếu không trống rỗng thì cũng không có bóng dáng hay tư tưởng con người. Cứ nghĩ đến cái khoảng thời gian đằng đắng khôn lường ấy, trái đất bị mưa xói mòn, mặt trời thiêu đốt, gió bụi mịt mù, con người chỉ như mới xuất hiện ngày hôm qua, so với khoảng thời gian các nhà vật lý đia cầu đo được. Vậy làm sao có thể vô đoán được sự chuẩn bị lâu dài vĩ đại ấy, chỉ đợi con người xuất hiện.


- Vậy thì ông có là để cho loài nào hay cái gì xuất hiện?


Summelee nhún vai.


- Làm sao mà nói được. Vì những lý do ngoài tầm hiểu biết của con người. Sự xuất hiện của con người có thể chỉ là ngẫu nhiên, một phó phẩm trong quá trình tiến hóa của vũ trụ. Con người chỉ như một bọt nước trên đại dương, lại nghĩ rằng có đại dương là vì cái bọt, hoặc như thể một con chuột nhắt trong giáo đường lại nghĩ rằng giáo đường dành riêng cho chuột.


Đến đây tôi đã ghi lại đúng những gì họ tranh luận, nhưng càng về sau, họ càng dùng những thuật ngữ khoa học dài thoòng. Thật là có đặc ân mới được nghe hai nhân vật khoa học này tranh luận, về các vấn đề cao siêu nhất. Nhưng càng ngày họ càng bất đồng ý kiến với nhau. Những người trần tục như đức ông John và tôi càng ngày càng không hiểu những lý lẽ họ nêu. Họ luôn chống đối nhau, và cuối cùng họ không còn gì để cái nữa. Summelee ngồi bó gối trên ghế, Challenger tay vẫn vặn ốc điều chỉnh, miệng càu nhàu lẩm bẩm, như sóng biển còn ì ấm sau cơn bão. Đức ông John thì bước qua chỗ tôi, cùng nhìn ra màn đêm.


Một vầng trăng thượng tuần mờ nhạt nên sao trời rất sáng. Đêm trăng cuối cùng còn được mắt con người nhìn đến. Ngay cả khi ở trên cao nguyên Nam Mỹ, bầu trời trong sáng, tôi cũng chưa bao giờ thấy sao lấp lánh rạng ngời như vậy. Có thể do thay đổi trong môi trường ether ảnh hường đến ánh sáng. Cái lò thiêu xác ở Brighton vẫn rực lửa. Bây giờ lại thêm một vùng đỏ thẫm xa xa ở phía Tây, có thể là cháy Arundel, ở Chichester, ngay cả có thể ở Portmouth. Tôi ngồi trầm tư, lâu lâu lại ghi xuống vài điều. Tôi thấy bầu không khí nhè nhẹ vương buồn. Sức trẻ, sắc đẹp, tinh thần thượng võ, tình yêu sẽ chấm dứt cả sao? Trái đất sáng sao coi như một cõi mộng thanh bình. Ai dám tưởng tượng trái đất đang là một “Đồi sọ” vĩ đại, xác chết con người ngổn ngang?


Thình lình tôi bật cười.


- Chà, ông bạn trẻ! - Đức ông John ngó tôi ngạc nhiên rồi thảng thốt nói. - Chúng ta còn có thể cười vào cái lúc bi thảm này sao? Cười cái gì vậy?


- Tôi đang nghĩ tới những vấn đề lớn chưa được giải quyết, như vấn đề tranh chấp Anh-Đức chẳng hạn. Vấn đề vịnh Ba Tư mà xếp của tôi rất quan tâm. Chúng ta thì đang bực mình và thất vọng. Ai có thể đoán được chúng sẽ được giải quyết ra sao.


Chúng tôi rơi vào im lặng. Tôi đoán là ai cũng đang nghĩ tới bạn bè đã chết trước. Bà Challenger đang khóc ti tỉ và ông ấy đang dỗ dành. Tôi tưởng tượng ra những xác chẳng ra hình thù gì, trắng nhởn và cứng đờ như xác Austin trong vườn. Thí dụ McArdle, tôi biết ông chết ở đâu. Ông chết gục trên bàn viết, tay còn cầm điện thoại, vì the thấy ông ấy gục đầu xuống bàn. Chủ bút Beaumont chẳng hạn, chắc là ông ấy chết cong queo trên tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ xanh đỏ trong văn phòng của ông. Còn các bạn ký giả, thông tín viên nữa ở trong phòng tin tức. Macdona này, Mulray này, cả Bond nữa, chắc chắn họ đều chết khi đang làm việc, vẫn nắm chặt sổ tay. Đầu các ông ấy chắc đầy ấn tượng của thảm họa nhảy múa, còn sổ tay thì đầy tin tức về thảm họa diệt vong, xảy ra ở chỗ này, chỗ kia. Tôi có thể tưởng tượng ra, người ta kinh hoàng chuẩn bị đưa những người bị trước đến các bác sĩ như thế nào, gửi người này đến tu việ n Westminster, người kia đến nhà thờ St. Paul. Chắc trong đầu họ lúc chết, lấp lánh những hàng tít huy hoàng, mà họ cho là đẹp chưa từng có. Nhưng số phận chúng đã định là chẳng bao giờ được in! Tôi có thể tưởng tượng Macdona đang lao vào các bác sĩ để phỏng vấn. “Hy vọng ở phố Harley” Anh thường líu lưỡi khi biến cố xảy ra dồn dập. “Phỏng vấn ông Soley Wilson”, “Bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng nói là không có chi phải thất vọng”, “Đặc phải viên của chúng tôi báo về thấy một chuyên viên nổi tiếng ngồi trên mái nhà để trốn đoàn bệnh nhân hung dữ tràn ngập phòng mạch. Thái độ của ông thì cho thấy, ông đánh giá tình hình của thảm họa rất nghiêm trọng, nhưng vị bác sĩ không cho là mọi hy vọng đã tắt ngấm. Macdona chắc sè bắt đầu bài phóng sự như vậy. Còn Bond, chắc sẽ lấy tin ở khu St. Paul, anh tưởng tượng ra cách viết. Tôi tin đây là đề tài hợp với sở trường của anh!” Đứng trên một lan can trong vòm nhà thờ, nhìn xuống đám đông dày đặc những con người thất vọng, đang cuống cuồng níu kéo những giây phút cuối cùng, trước một sức mạnh vô hình họ không hề biết một tí gì, một tiếng rên rỉ van xin, hãi hùng vang đến tai tôi, rồi một tiếng kêu cầu cứu đấng vô hình làm tôi rùng mình...


Tuy nhiên, chết như thế cũng là vinh dự cho nghề làm báo, cũng như tôi. Anh ấy đã chết khi có nhiều. tin quý chưa được đăng. Có tin gì anh biết mà anh không viết ra, trong cột báo có chữ J.H.B ở cuối? Thật tội nghiệp!


Nhưng cái gì đã thúc đẩy tôi viết! Chỉ là để qua những phút giây tuyệt vọng. Bà Challenger đã rút sâu vào phòng trang sức, và giáo sư cho biết là bà ấy đang ngủ thiếp đi. Ông tiếp tục ghi chú và tham khảo sách ở bàn giữa, cứ như là ông vẫn đang ở trong một giai đoạn nghiên cứu bình thường. Ông viết soạn soạt bằng bút lông chim, như thể coi thường những kẻ bất đồng với ông.


Summelee ngồi im trên ghế, lâu lâu lại ngáy lên vài tiếng như thể kiệt sức. Đức ông John cũng nằm xuống, hai tay trong túi quần, mắt nhắm lại. Tôi không hiểu sao trong hoàn cảnh này mà người ta còn ngủ được.


3 giờ 30 sáng. Tôi mới giật mình thức dậy. Tôi ghi mục cuối lúc 11 giờ 5 phút. Tôi nhớ lúc đó tôi lên dây đồng hồ và nhớ được thời gian. Thế là tôi đã ngủ phí gần năm giờ đồng hồ của khoảng thời gian quí hóa còn dành cho chúng tôi Ai có thể tưởng chúng tôi còn ngủ được? Nhưng tôi cảm thấy khỏe khoắn hơn, và sẵn sàng đón nhận số mạng, hay tự nhủ như vậy. Khi một người đàn ông càng khỏe, sức sống càng dồi dào, lại càng sợ chết. Thiên nhiên sắp đặt như vậy thật khôn ngoan và từ bi, cái neo vào trần thế của một người, bị kéo bật lên từ từ không cảm thấy được, cho đến khi người đó hoàn toàn chìm vào vô thức, và bị nhấc lên thượng giới cao xanh! Bà Challenger vẫn ở trong phòng trang sức. Challenger ngủ gục trên ghế. Coi mới ngộ làm sao! Người ông ngả ra sau ghế, hai cánh tay lông lá, mập khoanh trước áo gi-lê, đầu ông ngửa ra sau, sâu đến nổi tôi thấy phía trên cái cổ áo chỉ có bộ râu rậm rối nùi. Người ông run run vì chính những tiếng ngáy của ông, trầm trầm hòa với tiếng ngáy giọng cao của Summelee. Đức ông John bây giờ cũng ngủ, thân nghiêng, co về một bên trên chiếc ghế mây. Rạng sáng còn mát lạnh đã len lén vào phòng. Vạn vật vẫn còn sẫm tối và tang tóc.


Tôi nhìn ra bình minh. Mặt trời mọc vào ngày định mệnh này, sẽ chiếu rọi trên một thế giới không người. Loài người đã bị tiêu diệt, biến mất hết chỉ trong một ngày. Các hành tinh vẫn vận hành quanh mặt trời. Thủy triều vẫn lên xuống, gió vẫn rì rào, và vạn vật vẫn tiếp tục sinh hóa, cả lũ a míp nhỏ nhất cũng tiếp tục tiến hóa, nhưng tuyệt đối không có bóng dáng của con người, sinh vật đã từng tự phong cho mình là Chúa sáng tạo, đã từng làm cho trái đất đáng tôn vinh hay đáng rủa xả bằng sự hiện hữu của mình. Dưới vườn, Austin nằm chết, cái mặt nhợt nhạt, bóng lên trong ánh bình minh, hai tay nghều ngoào vươn ra, còn nắm cái vòi nước rửa xe. Toàn thể loài người bây giờ được điển hình trong cái xác nửa hài hước nửa đáng thương, nằm bất động cạnh cái xe ông vẫn điều khiển.


Bút ký của tôi chấm dứt ở đây vì từ đây biến cố biến chuyển nhanh quá, đau thương quá, tôi không thể tiết tiếp được nhưng ký ức tôi ghi nhớ rất rõ đến từng chi tiết.


Một cảm giác nghẹt cổ khiến tôi ngó vào bình oxy. Thời gian sống của chúng tôi còn quá ít. Trong đêm Challenger đã mở bình oxy thứ tư và bình này cũng sắp hết. Cái cảm giác co thắt bóp nghẹt tôi, tôi băng qua mở bình oxy, gắn vòi qua bình cuối cùng. Khi làm việc này mà tôi thấy tim giật thon thót. Tôi nghĩ dại, nếu tôi ngưng không mở bình chót, tất cả bốn người sẽ ra đi êm thắm trong giấc ngủ của họ. Ý nghĩ đó của tôi bị cắt đứt nhờ tiếng kêu của bà Challenger ở phòng trong.


- Anh George, anh George em nghẹt thở quá!


- Sẽ ổn thôi, thưa bà Challenger. - Tôi trả lời khi những người khác đều lục tục đứng dậy. - Tôi vừa mở bình mới rồi.


Đến lúc này tôi cũng không nhịn được cười, khi nhìn cái bộ dạng của Challenger, mỗi bàn tay lông lá úp lên một mắt, như một em bé bự còn ngái ngủ. Summelee thì run rẩy như trong phút yếu lòng, nỗi sợ hãi cho số phận mỏng manh của con người. Nhưng khi nhớ lại được vị trí của mình, làm ra vẻ hơi khắc khổ hơn cái vẻ của một nhà bác học chân chính. Đức ông John thì tươi rói, tỉnh táo như vào một buổi sáng đi săn. Ông liếc nhìn những bình oxy rồi nói:


- Này ông bạn trẻ; chắc ông hết ghi cảm tưởng vào cuốn sổ để trên đùi rồi phải không?


- Tôi chỉ ghi ít hàng cho qua thời giờ thôi.


- Nói thật, tôi không tin là còn có ai làm được các việc như các người Ireland các ông. Tôi e rằng trước khi người anh em a míp của chúng ta lớn lên, ông không hy vọng gì tìm ra độc giả đọc bài của ông đâu. Người anh em a míp sẽ không quan tâm đến nhiều vấn đề như thời đại chúng ta đâu. Này, giáo sư, tương lai sẽ la sao?


Challenger nhìn những đám sương sớm đang la đà trên cảnh vật. Rải rác, những ngọn đồi cao có cây, như những hòn đảo hình nón lá, nhô lên một biển mây bồng bềnh.


- Có thể chỉ là một trang giấy bị gấp quăn queo thôi, - bà Challenger lên tiếng khi vào phòng. - Đó là bài ca thường lệ của anh thôi, anh George. Tống cựu nghênh tân. Nó chỉ có tính cách tiên đoán thôi. Nhưng trời ơi, các ông đang run lẩy bẩy cả kìa. Tôi được đắp chăn ấm cả đêm, còn các ông ngồi lạnh trên ghế. Tôi sê làm cho các ông ấm lại.


Người phụ nữ nhỏ nhắn, can đảm mau mắn ra khỏi phòng.


Chúng tôi nghe tiếng nước sôi xì xì, rồi bà bưng ra một khay năm ly ca cao bốc khói.


- Mời các ông uống cái này, sẽ ấm ngay thôi.


Chúng tôi uống và Summelee hỏi đốt ống điếu được không. Chúng tôi đều hút thuốc lá. Thuốc làm cho chúng tôi bình tĩnh một chút, nhưng khói thuốc làm cho không khí trong phòng thành ngột ngạt. Challenger phải mở cửa thông khí.


- Còn được bao lâu nữa, Challenger? - Đức ông John hỏi.


Challenger nhún vai trả lời:


- Khoảng ba giờ.


- Em cứ hay sợ hão. Nhưng lần này càng đến gần giờ tận số, em lại chẳng thấy sợ. Chúng ta có nên cầu nguyện không, anh George?


Ông giáo sư phương phi trả lời:


- Em nên đọc kinh nếu em thích. Mỗi người đều có cách cầu nguyện riêng. Cách cầu nguyện của tôi là chấp nhận số phận. Hoàn toàn tự nguyện chấp nhận. Tôn giáo và khoa học nhất trí ở điểm này.


Giáo sư Summelee lại lè nhè qua cái píp ngậm ở miệng.


- Tôi không thể diễn tả tâm trạng tôi là chấp nhận được. Lại càng không phải là tự nguyện chấp nhận. Tôi phải đón nhận số phận vì tôi không tránh được. Tôi rất mong được sống thêm một năm nữa để tôi hoàn thành bảng sắp loại các hóa thạch đá vôi.


- Công việc dở đang của ông là chuyện nhỏ, - giáo sự Challengel nói có vẻ huênh hoang. - Nếu đem so với tác phẩm vĩ đại “Tiến trình sự sống” của tôi. Tôi mới đang viết về giai đoạn đầu. Bộ óc tôi, những điều tôi đọc được và kinh nghiệm, thực sự là công cụ đuy nhất của tôi, sẽ được cô đọng súc tích trong tác phẩm đánh dấu thời đại này. Thế mà tôi còn phải nói là tự nguyện chấp nhận.


Đức ông John hào hứng góp ý:


- Tôi đề nghị mỗi người đều cho biết công việc đang làm. Ông đang làm gì, ông bạn trẻ?


- Tôi đang hoàn tất một tập thơ.


- Dẫu sao thì thế giới đã chẳng còn dịp để đọc rồi. Nhưng mất cái này sẽ được cái khác.


Tôi hỏi:


- Ông đang làm gì?


- À tôi đã nhất quyết và sẵn sàng cả rồi. Tôi hứa với Merivale, mùa xuân này đi Tây Tạng săn báo tuyết. Nhưng nếu ông ấy đi với chúng tôi thì bà sẽ phải qua một thời kỳ vất vả đấy. Bà sửa sang nhà cửa đẹp quá.


- Anh George ở đâu, thì đó là nhà của tôi. Ồ mà tại sao chúng ta lại không đi dạo với nhau, trên những đồi cỏ đẹp kia, trong buổi sáng nay nhỉ?


Trong thâm tâm, chúng tôi đều đồng ý với bà. Mặt trời vừa ló lên khỏi biển sương mù, cánh rừng và đồng cỏ Weald, ngập tràn trong ánh nắng vàng. Phải ngồi trong phòng kín thiếu ánh sáng và không khí ô nhiễm, thì. cái cảnh trong lành huy hoàng, lộng gió ngoài kia, quả thật hấp dẫn và đẹp hơn mơ. Bà Challenger đưa tay ra ô cửa kính một cách thèm thuồng. Chúng tôi kéo ghế ngồi thành nửa vòng quanh cửa sổ. Không khí trong phòng đã thật sự ngột ngạt. Tôi thấy bóng thần chết đã lởn vởn quanh chúng tôi, cuộc chạy đua cuối cùng. Giống như một bức màn bủa chụp chúng tôi từ bốn phía.


Đức ông John cố ngáp ngáp để thở:


- Chai oxy này thở không được lâu.


- Đúng, dung tích mỗi chai khác nhau. Dung lượng tùy thuộc vào áp suất nén và sự cẩn thận của người nạp khí vô chai. Đồng ý với ông, Roxton, chai này khiếm khuyết.


Challenger vẫn bình tĩnh. Nhưng Summelee lại nổi quạu:


- Vậy là chúng ta lại bị lường gạt những giờ cuối cùng của cuộc sống. Đây cũng lại là một bằng chứng rõ ràng, về sự. bẩn thỉu của thời đại ta đang sống. Thôi, đã đến lúc ông nghiên cứu hiện tượng tan rã của thân thể mình, bằng chính cảm nghiệm của ông, Challenger.


- Nào, mời em ngồi trên chiếc ghế đẩu trước mặt anh, và đưa tay cho anh. - ông Challenger ôn tồn nói với vợ. - Các ông ạ, tôi thấy không nên kéo dài giây phút ngột ngạt này lâu hơn nữa. Em không thích vậy à, cưng?


Bà vợ bé nhỏ của ông rên nho nhỏ, và gục mặt vào gối ông. Đức ông John liên hệ một kinh nghiệm:


- Tôi đã thấy người ta tắm ở hồ Serpentine vào mùa Đông. Một số ở trong hồ, số khác còn ngồi run rẩy trên bờ, thầm ghen với những người đã nhảy xuống trước. Càng chần chừ càng khốn khổ vì lạnh. Tôi sẵn sàng đi đầu và lao vào ether để...


- Ông muốn mở cửa thông hơi để ether lùa vào à?


- Thà chết vì ether độc còn hơn là chết ngáp.


Summelee miễn cưỡng gật đầu đồng ý và đưa bàn tay gầy guộc ra cho Challenger:


- Chúng ta đã cãi nhau suốt đời, nhưng giờ đây mọt sự đã xong. Chúng ta là những bạn tốt của nhau, và trong thâm tâm vẫn kính phục nhau. Vĩnh biệt!


- Vĩnh biệt ông bạn trẻ! - Đức ông John nói với tôi. - Cửa sổ đã dán keo cứng, không mở ra được đâu.


Challenger nâng vợ đứng dậy, ôm sát bà vào lòng, bà choàng hai tay lên cổ ông.


- Làm ơn đưa cho tôi cái ống nhòm, Malone.


Tôi đưa cho ông.


- Trong tay Đấng Toàn Năng đã tạo nên chúng ta, chúng ta lại trở về với Ngài! - Challenger tuyên bố, giọng oang oang rồi ném cái ống nhòm vào cửa kính.


Trước khi hết các miếng kính vỡ rơi loảng xoảng, một luồng gió trong lành ngọt ngào phả mạnh vào mặt chúng tôi.


Tôi không nhớ chúng tôi ngồi im lặng, ngỡ ngàng trong bao lâu. Rồi như trong mơ, tôi lại nghe tiếng Challenger cất lên:


- Chúng ta lại trở về trạng thái bình thường. Trái đất đã ra khỏi dòng ether độc, và chúng ta là những người cô đơn còn sống sót.

Chương 5:

Chúng tôi ngồi ngỡ ngàng im lặng. Gió Tây Nam từ biển thổi vào trong lành, mát rượi, làm những bức màn sa tin uốn lượn phần phật. Những bộ mặt nóng bừng vì hồi hộp eủa chúng tôi đã dịu lại. Không biết chúng tôi ngồi như vậy trong bao lâu, và sau này cũng chẳng ai xác nhận được điểm này. Chúng tôi ngẩn ngơ, bàng hoàng, nửa tỉnh nửa mê.


Chúng tôi đã lấy hết can đảm để đón nhận cát chết, rốt trước một sự thực chớp nhoáng bất ngờ: chúng tôi là những người sống sót lạc loài, của toàn thể nhận loại. Sự kiện khủng khiếp này như một cú trời giáng, làm chúng tôi tê liệt. Rồi từ từ, cơ chế phục hoạt trong con người bắt đầu chuyển vận, ký ức chúng tôi bắt đầu sống dậy. Tư tưởng chúng tôi bắt đầu lóe ra và kết nối lại. Chúng tôi ý thức được rõ ràng, tương quan các sự kiện hiện tại, quá khứ và tương lai, giữa cuộc sống chúng tôi đã trải qua và lối sống chúng tôi phải sống trong tương lai. Chúng tôi im lặng đưa cặp mắt kinh hoàng nhìn nhau, và thấy câu trả lời trong mắt nhau. Thay vì vui mừng như người ta thường nghĩ, sau khi đã thoát được trong đường tơ kẽ tóc một cái chết trước mắt, chúng tôi lại chìm trong màn đen tuyệt vọng. Tất cả những gì chúng tôi yêu quí đều bị nhấn chìm trong một đại dương mênh mông vô định, và chúng tôi như bị trôi giạt vào hòn đảo thế giới hoang vu không có đồng loại, chẳng có hy vọng và nguyện vọng nào. Chỉ sau vài năm quanh quẩn kiếm ăn, trên cái tha ma mộ địa lớn này của loài người, như một bầy chó hoang, cái chết muộn màng và cô độc cũng sẽ đến.


- Khủng khiếp quá, anh George, thật là khủ ng khiếp! - Người phụ nữ nói qua tiếng nấc nghẹn ngào. - Phải chi chúng ta cùng được chết với mọi người. Ôi, tại sao anh lại cứu chúng ta sống. Em thấy, giá chúng ta chết và mọi người còn sống, có lẽ hạnh phúc hơn.


Cặp chân mày đen rậm của Challenger nhíu lại suy nghĩ, trong khi hai bàn tay lông lá, to bè của ông xiết tay vợ trấn an. Tôi thấy bà luôn đưa tay cho ông mỗi khi lo lắng, y như những em bé bám lấy mẹ tìm che chở.


- Tôi không như những người theo thuyết định mệnh, đến độ không có phản ứng gì trước thảm họa, nhưng tôi nghĩ khôn ngoan nhất là chấp nhận thực tế. - Ông nói chậm rãi, oang oang nhưng giọng cũng run run vì xúc động.


- Tôi không chấp nhận, - Summelee lại nói cứng.


Đức ông John nhận xét:


- Chấp nhận thực tế hay không thì có khác gì đâu. Chấp nhận bằng cách khoa chân múa tay kháng cự, hay nằm im mà chấp nhận thì có khác gì nhau. Vậy thì chấp nhận hay không cũng chẳng nghĩa lý gì. Tôi chẳng thấy ai trong chúng ta yêu cầu để cho chết trước khi tai họa xảy ra. Và giờ này chắc cũng chẳng ai yêu cầu để yên cho mình tự sát. Như thế, nghĩ đến chết hay không chết phỏng có ích gì?


- Chỉ có vấn đề là ta hạnh phúc hay đau khổ khi còn sống sót thôi. - Challenger lơ đãng nói, tay vẫn vỗ về vợ. - Ông có thể bơi theo dòng lũ mà thanh thản tâm hồn, hoặc vùng vẫy bơi ngược lại, với thân thể bầm dập, tâm hồn bất an. Hoàn cảnh này ở ngoài khả năng của chúng ta, ta phải nhìn thẳng vào sự thực. Không bàn cãi gì nữa.


- Nhưng chúng ta sẽ tổ chức cuộc sống thế nào đây? - Tôi hỏi mà như tuyệt vọng, cầu cứu với trời xanh. - Thí dụ, cụ thể như tôi phải làm gì? Chẳng còn báo chí, tôi làm gì để sống còn?


- Và cũng chẳng còn muông thú nào để săn bắn, chẳng còn lính tráng để tôi chỉ huy. Tôi cũng thất nghiệp. - Đức ông cũng rầu rĩ nối lời.


- Và cũng có sinh viên nào đâu, tôi sẽ làm gì? - Giáo sư Summelee cũng hốt hoảng la lớn.


Bà chủ nhà lại rất lạc quan:


- Tôi còn chồng và ngôi nhà, cám ơn trời, tôi vẫn không thất nghiệp.


Challenger cũng vẫn rất bình thản:


- Tôi cũng chẳng thất nghiệp, vì khoa học không chết. Chính tai họa này lại tạo cho tôi nhiều đề tài nghiên cứu sâu xa hơn.


Ông mở rộng hết các cửa sổ. Chúng tôi lẳng lặng nhìn ra cảnh vật im lìm, bất động bên ngoài.


- Để xem, - Giáo sư Challenger tiếp. - Khoảng 3 giờ hay hơn một chút, trái đất lọt hẳn vào dòng ether độc. Bây giờ là 9 giờ, vậy vào giờ nào ta ra khỏi vùng khí độc?


Tôi nói:


- Vào tảng sáng, không khí vẫn rất tệ.


- Trễ hơn nữa, - bà Challenger lên tiếng, - vào khoảng 8 giờ tôi cảm thấy rõ triệu chứng nghẹt thở, như lúc bắt đầu hôm qua.


- Vậy thì ta có thể nói trái đất hoàn toàn ra khỏi dải ether độc lúc 8 giờ sáng, cả thế giới đã chìm ngập trong khí độc trong 17 giờ đồng hồ. Trong khoảng thời gian ấy, nhà làm vườn vĩ đại đã sát trùng, tẩy những vi-khuẩn-người đang bám ngoài vỏ trái nho của ông ta. Có thể nào, việc tẩy trùng có sai sót, và còn những người khác sống sót, ngoài chúng ta không?


- Tôi cũng thắc mắc như vậy. - Đức ông John vột bắt vào ý nghĩ đó. - Tại sao chỉ còn mình chúng ta sống sót, như những viên cuội lẻ loi trên bãi biển?


Summelee quả quyết:


- Thật vô lý, nếu đoán có ai đó ngoài chúng ta còn sống sót. Cứ nghĩ tới người mạnh như bò mộng, vạm vỡ như Malone đây, mà bị ether độc quật ngất xỉu ngay, không kịp chạy lên thang. Khó có ai chịu đựng được trong 17 phút, còn nói chi đến 17 giờ.


- Trừ phi cũng có những người khác, giống như ông bạn già Challenger của chúng ta đây đoán trước được và chuẩn bị chu đáo.


- Khó có chuyện đó lắm. - Challenger nghi ngờ, hất râu về phía trước, lim dim đôi mắt. - Phải phối hợp quan sát, liên hệ và tiên đoán nhạy bén mới mong đoán trước được hiểm họa. Người làm được như vậy, ít có 2 người trong cùng một thế hệ .


- Vậy thì ông quả quyết là nhân loại đã bị tận diệt?


- Có rất ít nghi ngờ về chuyện này. Tuy nhiên, nên nhớ rằng, ether độc từ dưới thấp bốc lên cao, nên rất có thể ngoài thượng tầng khí quyển ít độc hơn. Hiện tượng này kể cũng lạ nhưng dải khí độc đã cho ta thấy một trong những đặc tính của nó, nay mai sẽ là một lãnh vực nghiên cứu rất hấp dẫn. Bởi vậy, ta có thể mường tượng ra, nếu muốn tìm kiếm những người sống sót trên trái đất, ta phải ghé mắt vào những làng ở Tây Tạng, hoặc những nông trại trên dãy Aleps, ở độ cao trên 3000m, thì may ra còn có người sống sót.


Đức ông gạt ngang:


- Làm gì còn hỏa xa, tàu biển mà đến được đó, ông có thể nói đến người sống sót trên mặt trăng cũng chẳng ai phản bác được. Điều tôi còn thắc mắc là tai họa này đã qua hẳn chưa, hay nó mới đến giai đoạn nghỉ giải lao.


Summelee nghểnh cổ lên để nhìn tận chân trời, rồi phát biểu thiếu quả quyết.


- Trời trong sáng và đẹp. Hôm qua cũng vậy Tôi không thấy lý do nào, để quả quyết là tai họa đã qua hẳn.


Challenger nhún vai, rồi tiếp:


- Chúng ta trở lại ý niệm nhân quả một chút. Nếu trái đất trước đây đã có lần gặp tai họa này, không ngoài xác suất ngẫu nhiên, thì phải đã lâu lắm rồi. Vì thế, ta có thể hy vọng nếu thảm họa này có lặp lại chăng nữa cũng còn rất lâu.


- Nếu thế thì càng tốt, - đức ông John góp ý. - Nhưng ông nhớ rằng một trận động đất xảy ra, có thể bị ngay một trận liên tiếp. À mà tôi cho là khôn ngoan nhất, chúng ta nên ra ngoài bách bộ cho đỡ cuồng cẳng, và hít thở lấy một ít khí trời trong lành, khi chúng ta còn có dịp hưởng. Vì khi oxy của chúng ta đã hết, thì chết ngoài trời cũng như chết trong phòng.


Điều kỳ lạ là chúng tôi như hoàn toàn tê liệt, như thể phản ứng ngược lại với cơn xúc động mạnh trong 24 giờ qua. Tê liệt cả thể chất lẫn tinh thần, một cảm thức nằm sâu tận trong tiềm thức, chẳng còn gì quan trọng nữa, mọi thứ đã chán chường, cố gắng mà làm gì. Cả Challenger cũng rơi vào tâm trạng này. Ông ngồi đó một đống, cái đầu to gục trên hai bàn tay, suy nghĩ mông lung. Mãi tới khi Đức ông John và tôi, mỗi người một bên, xốc nách ông ta đứng dậy, ông nhìn chúng tôi tóe lửa hằn học, gầm gừ như một con chó ngao bị chọc phá. Nhưng khi chúng tôi đã ra khỏi cái hang an toàn chật hẹp, bước vào bầu không khí thoáng đãng hàng ngày, chúng tôi phấn chấn, khỏe khoắn dần lên.


Ta bắt đầu làm gì đây, trong cái thế giới nghĩa địa này? Từ thời tạo thiên lập địa đến giờ, con người có từng gặp vấn nạn như thế này không? Dĩ nhiên chúng tôi cần những sản phẩm vật chất, lương thực và các tiện nghi để sống. Nhưng còn tất cả những cửa tiệm bách hóa, cửa hàng lương thực, các kho tàng nghệ thuật, chúng tôi muốn lấy gì thì lấy. Nhưng chúng tôi bắt đầu bằng việc gì đây? Vài việc phải làm ngay, đang bày ra trước mắt chúng tôi. Chúng tôi vào bếp, khiêng hai xác gia nhân đặt lên giường của họ. Cái chết của họ có vẻ không đau đớn gì. Một người chết trên ghế cạnh bếp lửa, một người trên nền nhà phòng dụng cụ nhà bếp. Sau đó chúng tôi khiêng Austin từ vườn vào nhà. Xác ông co quắp, cứng đờ ở một tư thế kỳ quặc. Mặt ông co lại thành một nụ cười, ngạo nghễ.


Triệu chứng méo miệng rất đặc trưng ở những người ngộ độc. Bất cứ đi đến đâu, chúng tôi cũng đều gặp những xác chết với bộ mặt nhăn nhó cười, như đang tiếu ngạo cái hoàn cảnh dở khóc dở cười, hẩm hiu, của những kẻ sống sót của nhân loại.


- Nghe này, - đức ông John lên tiếng, trong khi đang bồn chồn đi tới đi lui trong phòng ăn, nơi chúng tôi đang dằn bụng một chút. - Không hiểu các ông nghĩ sao, tôi thấy ta phải làm cái gì chứ, sao lại cứ ngồi ở đây...


Challenger phụ họa


- Có lý, làm ơn cho biết chúng ta nên làm gì.


- Đi xem những gì đã xảy ra.


- Tôi cũng đồng ý như vậy.


- Nhưng không vào trong làng, từ cửa sổ này ta cũng đă thấy đủ rồi.


- Vậy ta nên đi đâu?


- Đi London!


- Không có gì trở ngại, - giáo sư Summelee nói mà như càu nhàu. - Các ông thì có thể đi bộ được 40 cây số, nhưng tôi không chắc cặp giò ngắn củn của Challenger có kham nổi không. Tôi thì dư sức lội rồi.


Challenger rất bực mình, nhắc khéo:


- Nếu ông đã biết giới hạn vào chuyện khoe thể lực của mình, ông cũng phải biết còn nhiều lãnh vực khác để phẩm bình chứ.


Ông bạn vô ý vô tứ vội vàng thanh minh:


- Thật tình tôi không cố ý xúc phạm ông, ông Challenger đáng kính. Ông đâu có đáng trách về thân thế mình. Bẩm sinh ông đã mập và lùn, thì làm sao mà ông tránh có cặp giò ngắn ngủn cho được.


Challenger tức nghẹn họng, chẳng nói nên lời, chỉ còn biết lẩm bẩm, nhìn căm tức, râu tóc dựng ngược. Đức ông John vội vàng can thiệp, trước khi cuộc cãi vã xảy ra.


- Nói đến đi bộ, tại sao ta lại phải đi bộ chứ?


Challenger vẫn còn sôi máu, hỏi ngạo:


- Vậy ông đề nghị đi xe lửa à?


- Cái xe của ông có trục trặc gì không? Tại sao ta không đi xe hơi?


- Tôi có là chuyên viên xe hơi đâu mà biết.


Challenger thoáng vui trở lại.


- Tuy nhiên tôi hoan nghênh quan điểm ẩn tàng trong đề nghị của ông về, đã là dân trí thức thì cũng có thể tùy thời làm được bất cứ cái gì. Tư tưởng của ông tuyệt đấy. Tôi sẽ lái xe đưa các ông đi London.


Summelee kêu toáng lên:


- Ông không làm chuyện như vậy được đâu?


Vợ giáo sư cũng đồng tình:


- Đúng đấy anh George ạ anh không lái xe được đâu? Anh còn nhớ anh mới thử tự lái xe có một lần, và anh đã tông vào cửa nhà xe như thế nào không.


Challenger vẫn nói ra vẻ tự mãn, mình có thể làm hết mọi thứ:


- Chỉ tại lúc đó anh sơ ý một chút thôi mà. Em có thể coi chuyện đó như chuyện quá khứ được rồi. Tôi sẽ lái xe đưa mọi người đến London .


Tình hình lại được Đức ông John cứu vãn:


- Xe của ông... hiệu gì?


- Humber, 20 mã lực.


- Vậy sao? Tôi cũng lái loại đó vài năm đấy. Chà chà, tôi không ngờ còn sống để có vinh dự, chở cả loài người trong một chuyến xe. Tôi nhớ là vừa đủ chỗ cho năm người. Mọi người chuẩn bị sấn sàng hành lý đi, tôi sê đánh xe lên cửa trong vòng 5 phút.


Đúng như lời, 5 phút sau, chiếc xe nổ rù rì trước cửa, với Đức ông John ở tay lái. Tôi ngồi ghế bên cạnh tài xế. Bà Challenger đóng vai quốc gia đệm giữa hai khối thù địch ở băng sau. Đức ông nhả thắng, đẩy cần sang số nhanh gọn từ 1 sang 3, chiếc xe lao đi, trên những khúc đường có quang cảnh lạ kỳ nhất từ khi có loại người đến giờ. Bạn có thử hình dung, quang cảnh đáng yêu của một buổi sáng thu, tháng tám. Trong khí ban mai tươi mát, dưới ánh mặt trời sớm, rực rỡ, màu xanh đậm đà của khu rừng Sussex, trên nền xanh mơn mởn thảo nguyên, trời thanh thanh không một gợn mây. Cứ phóng tầm mắt ra mênh mông, hùng vĩ chói lọi xung quanh, bạn cũng không thể nào quên được cái thảm họa cũng vĩ đại như thế, vì cái im lặng khủng khiếp cũng bủa chụp lên cảnh vật.


Trước đây vốn có những tiếng động tạp nham, trong cái vùng quê nhà cửa san sát này, nhưng chúng ta có bao giờ để ý tới đâu. Cũng như cư dân miền biển, có bao giờ ý thức là luôn có tiếng sóng rì rào vĩnh hằng đâu. Tiếng chim chíp chíp, tiếng côn trùng rù rì, tiếng sủa nhấm nhẳng của một con chó ở xa xa, tiếng rầm rập của đoàn xe hỏa, tiếng lọc cọc của xe bò xe ngựa. Các âm thanh sinh hoạt này, tổng hợp thành một dòng âm thanh trầm trầm rên rỉ, vang vọng đến tai ta. Bây giờ những âm thanh ấy không còn. Cái im lặng thê lương chết chóc làm chúng tôi kinh hoàng. Cái im lặng uy nghi, đe dọa, đến nổi tiếng nổ bong bong, tiếng rung lạch cạch của chiếc xe hơi, cũng không thể xâm nhập vào cái yên lặng mênh mông đó được. Cái im lặng dễ sợ, như tấm màn tang phủ lên đống hoang tàn của nhân loại. Chỉ có câm lặng lạnh lùng, và những cột khói đen, rải rác ngự trị trên khắp miền quê này, làm chúng tôi rùng mình phát sợ. Chúng tôi liếp nhìn quang cảnh huy hoàng khu rừng Weald quen thuộc như cầu cứu.


Và rồi, đâu đâu cũng thấy xác người chết! Đầu tiên chúng tôi liên tục gặp các nhóm xác chết, khuôn mặt cười nhăn nhúm, khiến chúng tôi rùng mình ghê sợ. Cái hình ảnh rõ ràng, thương tâm mà chúng thấy trên đường đồi, qua khung cửa kính nơi an toàn của chúng tôi, không thể xóa nhòa khỏi tâm trí. Cô bảo mẫu với hai đứa trẻ, con ngựa quỵ giữa hai càng xe, đầu gục xuống tận hai gối, người đánh xe vắt ngang thanh trước xe, cậu thanh niên trong xe, mở cửa như muốn nhảy xuống đường. Thấp hơn một chút, 6 người gặt lúa nằm ôm nhau thành một đống, mắt mở trừng trừng, ngước nhìn trời xanh. Tôi nhìn những cảnh này mà lòng trơ trơ, như nhìn một bức hình vì như thể có dự tính sẵn của thiên nhiên, hệ thần kinh của con người. Khi đã căng thẳng tột độ, nó không phản ứng với hiện thực nữa, và ta trở nên vô cảm. Cái cảnh ghê rợn khủng khiếp rộng lớn quá, sẽ không còn làm cá nhân chú ý nữa. Các cá. nhân tụ lại thành nhóm, những nhóm tụ thành các đám đông. Các đám đông trở thành cảnh chung, cuối cùng ta phải chấp nhận đó là chi tiết chung của mọi cảnh. Chỉ lâu lâu mới có một cảnh thật tàn nhẫn, hoặc một biến cố kỳ quái, chúng tôi mới chú ý tới một xác chết riêng lẻ, tâm hồn như bị một cú xốc, mới để ý tới ý nghĩa nhân tính của nó.


Trên hết là số phận của trẻ em, gây cho tột ý nghĩa trời đất thật bất công, có thể làm chúng tôi rơi nước mắt. Bà Challenger đã khóc thật sự. Một hàng dài học sinh, nằm dọc đường dẫn tới một trường tiểu học lớn. Các em được các thầy cô trong cơn hoảng hốt cho về. Đang trên đường về, các em bị ether độc chụp xuống. Nhà nào cũng có những người chết gục ở cửa sổ, vì họ mở ra khi bị ngộp. Không cửa sổ nào không có cái bộ mặt cười, mắt mở thao láo vắt ngang. Vào lúc thiếu oxy, mọi người đều nhào ra cửa sổ, nhưng chỉ có chúng tôi có oxy chuẩn bị trước. Trên các lối ra khỏi nhà cũng đầy xác người, nhiều người ngã trên đường xe. Cũng may là Đức ông John lái xe rất giỏi, vì không dễ gì qua được, mà không cán phải xác người. Qua các làng hay thị xã, chúng tôi chỉ có thể đi với tốc độ của người đi bộ. Tôi nhớ, hai ba lần trước cổng một trường học ở Tonbridge, chúng tôi đã phải xuống xe, khiêng xác người chắn đường lên hè nhà.


Một vài hình ảnh nhỏ, rõ nét in đậm trong tâm khảm tôi, trong toàn cảnh chết chóc rộng lớn trên xa lộ Sussex - Kent. Một trong những hình ảnh đó là một chiếc xe láng bóng đậu trước quán trọ làng Southborough có lẽ những người trong xe mới đi chơi ở Brighton hay Eastbourne về. Ba phụ nữ trẻ đẹp ăn mặc rất vui nhộn, nhưng thanh lịch. Một bà còn ôm con chó Bắc Kinh trong lòng. Cùng đi trong nhóm là một ông già quạu cọ và một thanh niên lịch lãm, đầu mẩu điếu thuốc tắt ngủm ở chỗ hai ngón tay đeo găng kẹp lại. Chắc họ đã chết tức thời, nên giữ nguyên dáng điệu phút chót của lúc sống. Chỉ ông già giựt cổ áo ra để thở, còn các người khác chết ở tư thế tự nhiên, như đang ngủ vậy. Một bên xe, cậu bồi bàn nằm co quắp trên các bậc thềm vào quán, cạnh cậu là một cái khay và những mảnh cốc vỡ. Ở bên khác của xe, là hai người ăn mày, quần áo rách rưới, nằm ở nơi ngã xuống. Người đàn ông vẫn xòe bàn tay ra ở tư thế xin tiền. Trong phút chốc, ether độc đã đặt những nhà quý phái, cậu bồi và vợ chồng người ăn mày ở tư thế bình đẳng cùng trở thành tiêu bản những xác người bất động.


Tột nhớ một cảnh độc đáo khác, cách Sevenoaks về phía London vài dặm. Có một tu viện lớn trên đồi, phía tay trái, lối lên đồi dốc, viền hai hàng cây xanh rợp bóng. Ở đầu trên của dốc, hàng trăm em bé đang quỳ trong hàng ở tư thế đọc kinh, hàng trên cùng là các nữ tu giáo viên. Trên cao nhất là một nữ tu quay mặt về phía họ, chúng tôi đoán là Mẹ Bề Trên. Khác với những người vừa đi chơi về ở trong xe, nhóm người này chắc chắn đã được báo trước tai họa, nên họ tổ chức chết đẹp, tập thể. Thầy, trò, hiệu trưởng tập hợp lại, cùng nhau học bài học cuối cùng.


Lúc này nghĩ lại cảnh uy nghiêm hãi hùng đó, tìm cách diễn tả cảm tưởng của chúng tôi lúc đó mà không ra, vì cứ nghĩ tới nó, đầu óc tôi lại bàng hoàng xúc động không nghĩ được gì. Nhưng có lẽ tốt hơn hết, là tôi chỉ mô tả lại những sự thực. Thấy cảnh đó, ngay cả Challengel và Summelee cũng chết lặng. Tôi chẳng nghe những người ở băng sau nói gì, lâu lâu chỉ nghe tiếng khóc thổn thức của bà Challenger.


Đức ông John phải tập trung lái xe ngoằn ngoèo giữa những đống xác chết trên xa lộ Lenvisham đi Old Kent. Tại đây, chúng tôi bị một cú xốc vừa bất thần vừa kinh ngạc. Trên cửa sổ một căn nhà ở góc ngã tư, một cánh tay dài khẳng khiu đưa ra, vẫy qua vẫy lại một cái khăn tay. Chẳng có cảnh chết chóc kỳ lạ nào làm chúng tôi đứng tim, rồi lại đập loạn xạ, cho bằng cái dấu hiệu của sự sống bất ngờ này. Đức ông John cho xe lên lề. Nhanh như chớp, chúng tôi xuyên qua tầng trệt, lên lầu hai, nơi có vẫy khăn. Một bà cụ ngồi trên ghế cạnh cửa sổ. Kế bên bà là chiếc ghế thứ hai có một chai oxy, nhỏ hơn, nhưng hình dáng giống hệt những chai oxy đã cứu chúng tôi. Bà cụ quay bộ mặt gầy gò, nhăn nheo, đeo kính lão, khi chúng tôi đang bu quanh cửa.


- Tôi sợ rằng người ta bỏ mặc mình tôi ở đây mãi mãi. Tôi bị phế tật, không cử động được.


Challenger trấn an bà:


- Thưa bà, rất may mà chúng tôi đi qua đây trông thấy.


- Tôi có một câu hỏi quan trọng muốn hỏi các ông xin các ông trả lời thành thật cho. Những biến cố này có ảnh hưởng gì đến cổ phần Hỏa Xa London - Tây Bắc không?


Nếu bà cụ không nghiêm trang đợi câu trả lời của chúng tôi, chúng tôi chắc đã phá ra cười rồi. Cụ Burston là một quả phụ, lợi tức của cụ chỉ gồm cổ tức của vài cổ phiếu mà cụ mua. Đời sống của cụ lên xuống theo giá cổ tức. Cụ cũng chẳng biết nhịp sống bên ngoài ra sao, trừ phi giá cổ phiếu của cụ tăng giảm mạnh. Chúng tôi cố gắng giải nghĩa cho cụ là tất cả tiền bạc trên thế gian này đều là của cụ, nhưng có lấy cũng chẳng dùng để làm gì được. Cụ không thể hiểu, đầu óc cụ không thể hấp thụ những tư tưởng mới, và cụ khóc sướt mướt vì cổ phiếu của cụ đã vô giá trị. Cụ rên rỉ: “Tôi chỉ có bấy nhiêu, nếu mất hết, tôi cũng sẽ chết mất thôi”.


Khi cụ còn đang than vãn, chúng tôi khám phá ra, tại sao một cây cỏ tàn tạ như cụ mà còn sống, trong khi những rừng cây cổ thụ lại chết - cụ là một phế nhân, lại bị bệnh suyễn. Bác sĩ cho cụ thở thường xuyên oxy qua bình. Chắc mỗi khi khó thở, cụ lại hít oxy thêm qua ống hít. Khi ether độc tràn đến, cụ hít thở trực tiếp oxy trong bình nên cụ sống sót. Chắc cụ đang ngủ thiếp đi và choàng thức dậy khi nghe còi xe của chúng tôi. Vì không thể chở cụ theo, và cụ có thể tự lực cánh sinh được vài ngày, nên chúng tôi hứa liên lạc thường xuyên với cụ. Chúng tôi từ giã cụ và cụ vẫn thương tiếc những cổ phiếu.


Chúng tôi đến bờ sông Thames, đường phố lại càng tắc nghẽn, những đống xác người càng kỳ cục, vất vả lắm chúng tôi mới qua được cầu London, lối lên cầu ở phía Midlesex bị kẹt xe, vì ai cũng muốn tiến lên trước. Một chiếc tàu thủy còn thắp đèn sáng choang, đậu dọc cầu cảng không khí đầy bụi khói, mùi cháy khét lẹt. Một cột khói dày đặc còn đang bốc lên ở phía tòa nhà Quốc Hội, nhưng từ đây, chúng tôi khó mà khẳng định là cơ sở nào cháy.


Thình lình, đức ông đậu xe lại và nêu nhận xét:


- Không biết các ông nghĩ sao, chứ tôi thấy đi về miền quê dễ chịu hơn ở trong thành phố. Cái thành phố London chết này ám ảnh tôi, khó chiu quá. Chúng ta đi vòng về Rotherfield đi.


Giáo sư Summelee cũng biểu đồng tình:


- Thú thật, tôi không hy vọng gặp được những gì ở đây.


Challenger cũng còn tiếng bằng một giọng oang oang lạ thường, trong khung cảnh thê lương tĩnh mịch này.


- Đồng thời, ta khó mà chấp nhận được, trong một thành phố 7 triệu dân như London, lại chỉ có một bà cụ, hoặc vì có thể có cấu tạo đặc biệt, hoặc vì ngẫu nhiên của nghề nghiệp, đã xoay sở được để sống còn.


- Nếu còn có người sống sót, làm cách nào liên lạc với họ, anh George? - Vợ ông hỏi rất nhiệt tình. - Và em sẽ không trở về nhà trước khi các ông thử liên lạc với họ.


Chúng tôi ra khỏi xe và bỏ nó trên lề đường, len chân đi bộ giữa những xác người dày đặc lên phố Kinh Wiiliam, bước vào một vân phòng rộng của hãng bảo hiểm. Vì nó ở góc phố, nên hy vọng chúng tôi quan sát được nhiều hướng.


Chúng tôi lên cầu thang, băng qua một phòng rộng, có lẽ là phòng họp, vì có tám người trong tuổi còn ngồi chết gục xung quanh một cái bàn dài. Các cửa sổ cao của phòng đều mở. Chúng tôi bước ra ban công. Từ đây, chúng tôi thấy đường phố rải rác đầy xác chết, tỏa đi 5, 7 hướng. Ngay dưới chúng tôi, một đầu đường đen từ lề bên này sang lề bên kia, vì những mui xe taxi đen, đậu bất động sát bên nhau. Mọi hành khách, hay hầu hết đều thò đầu ra cửa sổ xe, cho thấy, vào phút chót, dân chúng hoảng hốt ai cũng muốn về nhà sớm ở ngoại ô. Lác đác, trong dòng xe taxi và xe nhà rẻ tiền, nổi bật lên những xe sang trọng, bảng đồng trang trí bóng loáng của các tài phiệt, bi chặn lại trong bức tường thành xe cộ kẹt cứng. Ngay trước mặt chúng tôi, có một cái xe sang như thế. Ông chủ nhoài nửa người ra cửa sổ, tay phải đeo đầy nhẫn kim cương, tay trái như đang giang ra, cho lệnh tài xế tìm mọi cách bứt ra khỏi đòng xe kẹt.


Lác đác, những chiếc xe buýt hai tầng, vươn cao như những hòn đảo, nhô lên biển xe bất động. Những khách ở tầng trên, nằm chết ôm nhau thành từng đám hay nằm trong lòng nhau, như những hình người đồ chơi trẻ em trong nhà trẻ. Trên trụ đèn điều khiển giao thông, một cảnh sát to khỏe, đứng dựa vào trụ với dáng vẻ tự nhiên, đến nổi ta khó mà bảo là ông ta không còn sống. Dưới chân ông là một cậu bé bán báo, nằm co quắp với chồng báo bên cạnh. Một chiếc xe ngựa chở báo bị kẹt cứng sát lề đường, chúng tôi còn đọc được cái đầu đề, in chữ lớn đen trên nền vàng “Quang cảnh ở Lord, trận đấu liên quận bị gián đoạn”.


Đây có thể là những tờ báo in gần đây nhất, vì trên những bảng quảng cáo quanh xe, còn có những đầu đề: “phải chăng đã đến ngày tận thế”, “Lời cảnh báo của nhà bác học vĩ đại”, và đề khác: “Liệu ông Challenger có đúng không? Những tin đồn đen tối”.


Challenger chỉ cho bà vợ thấy cái tiêu đề này, vì nó ngang tầm mắt, như một tấm biểu ngữ, căng ngang trước mặt đám đông, tôi thấy ưỡn ngực ra và vuốt ve chòm râu, thích chí và tự mãn, cái đầu óc phức tạp của nhà khoa học này, có thể nghĩ rằng dân London chết, vẫn nghĩ đến tên ông và lời cảnh báo của ông. Cảm xúc ưng ý của ông rõ rệt đến nỗi, đồng nghiệp của ông phải ghen tức lên phê bình.


- Trong ánh hào quang đến phút cuối cùng, giáo sư Challenger.


- Vâng, có vẻ như vậy, - Challenger đắc ý trả lời. Nhìn những ngả đường đầy xác người, im lìm âm đạm, ông tiếp: - Nấn ná ở London thêm cũng chẳng ích gì, tôi đề nghị chúng ta trở về Rotherfield ngay. Chúng ta sẽ bàn chương trình hành động trong những năm trước mắt sao cho có lợi nhất.


Tôi thuật thêm một cảnh mủi lòng trong London thê lương này, vừa trở về trong ký ức tôi. Đi ngang nhà thờ St Mary’s, chúng tôi thoáng thấy cảnh bên trong. Cẩn thận bước tránh những xác phủ phục trên bậc tam cấp, đẩy hai cánh cửa bật, bước vào. Thật là một cảnh lạ! Nhà thờ đông nghẹt người chết, ở mọi tư thế quỳ khiêm nhường cầu khẩn. Và phút kinh hoàng cuối cùng, họ đã phải đối mặt với thực tế của kiếp nhân sinh, cái bất lực vào phút chót. Họ đã tìm vào cái nhà thờ cổ này, lâu nay đă không còn tổ chức lễ hay cầu nguyện gì. Họ quỳ sát vào nhau chặt như nêm cối. Có người hoảng hốt vẫn còn đội mũ. Trên bục giảng là một thanh niên, đứng đối diện với họ. Có lẽ anh đang động viên cộng đoàn hãy vững tin, giọng mình về với Chúa. Rồi cùng chiu chung số phận với mọi người. Anh ấy gục xuống mặt bục, hai tay ôm choàng hai thành bên, trông giống hệt một chai rượu ngâm trong xô đá. Thật là cơn ác mộng kinh hoàng, trong các nhà thờ cổ đá xám, hoang phế bụi bặm, những hàng người tinh thần đau khổ tột cùng, trong bóng tối mờ mờ, tĩnh lặng thinh không. Chúng tôi đi nhón gót lặng lẽ, lâu lâu chỉ dám thì thào với nhau.


Thình lình tôi nảy ra một ý nghĩ. Ở một góc cuối nhà thờ, phía sau chén đá đựng nước phép. Trong một hốc lôm sâu, tôi thấy lủng lẳng cái đầu dây chuông. Tại sao ta không kéo chuông để tập họp những người sống sót ở đây? Tôi bước vào, nắm cái đầu dây quấn vải và kéo. Ngạc nhiên quá! bây giờ tôi mới thấy kéo chuông không phải dễ! Đức ông John vào giúp tôi một tay. Ông hào hứng cởi áo ra, và nói:


- Trời ơi! ông bạn trẻ có một ý tuyệt quá! Để tôi nắm chắc đã, rồi chúng ta sẽ kéo được nó kêu thôi.


Với sức của hai chúng tôi, chuông chỉ hơi nhúc nhích. Mãi tới khi cả Challenger lẫn Summelee cùng đè cả thân mình lên dây với chúng tôi, chuông mới chịu đổ bing boong trên đầu. Bây giờ tôi mới cảm nhận được cái chuông đã lớn, cái lưỡi chuông còn nặng đáng nể hơn. Đó đập vào thành chuông những cú làm rung rinh cả mặt đất, không khí bị âm thanh khuấy động, đến nỗi tối cảm thấy được áp lực lên da.


Tiếng chuông đã vang vọng khắp nơi, như một thông điệp thình liên đới người với người, kêu gọi những người còn sống sót đến đây, cùng với tiếng chuông cầu nguyện cho những vong hồn đi trước. Tiếng chuông vàng rền vang như sấm, làm lòng chúng tôi rộn rã một niềm vui. Chúng tôi để toàn tâm toàn ý đến việc mình làm. Chúng tôi co hai chân lên mỗi khi chuông ở vị trí thẳng đứng, dây chuông được kéo lên cao nhất; ngay sau đó, cùng kéo xuống hết sức mình.


Challenger bám ở vị trí thấp nhất, dùng hết sức lực và toàn thể trọng lượng thân mình. Ông chồm lên, hụp xuống như một con cóc thần dị dạng. Mỗi lần kéo, ông đều hò uôm uôm. Nếu có một nghệ sĩ nhiếp ảnh, chụp giùm một bức 4 nhà thám hiểm này thì ý nghĩa quá. Bốn người đã cùng sát cánh trong biết bao tình huống nguy cấp, nay lại được số phận chọn lựa, để chứng kiến giờ phút nghiêm trọng này.


Sau nửa giờ kéo chuông, thân thể chúng tôi ướt đẫm mồ hôi. Hai cánh tay và lưng mỏi nhừ vì đã gắng sức quá. Chúng tôi bước ra cổng nhà thờ, trông ngóng nhìn cả hai đầu đường đông nghẹt nhưng im lìm, vì chỉ toàn là xác chết. Không một tiếng động, không một di chuyển, đáp ứng những hồi chuông triệu tập của chúng tôi.


Tôi buồn bã lên tiếng:


- Không hy vọng gì đâu. Chẳng còn ai sống cả.


- Chúng ta chẳng làm gì được nữa rồi. Anh George ơi, chúng ta về Rotherfield đi. Còn ở trong cái thành phố tĩnh mịch ma quái này một lúc nữa, chắc em điên lên mất.


Chúng tôi lẳng lặng vào xe, chẳng ai nói một lời. Đức ông John de xe lại, rồi quay đầu về hướng nam. Một chương lịch sử loài người đã gấp lại, chương kế tiếp sẽ mở ra, mà chúng tôi chẳng thể đoán được sẽ có những biến cố nào.

Chương 6:

Và đây là đoạn cuối của biến cố phi thường này, có tầm quan trọng bao trùm, chẳng những đến đời sống cá nhân của chúng tôi, mà còn đến lịch sử toàn nhân loại. Cũng như tôi đã nói ở đầu thiên ký sự này, khi biến cố lịch sử này được ghi lại, nó sẽ nổi bật lên như một ngọn núi cao ngất giữa những quả đồi thấp lè tè. Thế hệ chúng ta đă có may mắn đặc biệt, được trải qua biến cố ly kỳ này. Hậu quả của nó - qua vụ kinh hoàng này, con người sẽ còn biết khiêm nhường, tôn kính được bao lâu nữa - chỉ có thời gian mới trả lời được. Có thể nói mọi sự sẽ không còn như trước nữa.


Chưa bao giờ con người cảm thấy được mình bất lực và dốt nát đến như vậy, chưa bao giờ con người cảm thấy được luôn có một bàn tay nâng đỡ họ, chỉ khi bàn tay đó như muốn nắm lại, bóp nát họ, họ mới thấy. Cái chết luôn rình rập chúng ta và đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Chính cái bóng tử thần luôn lảng vảng, khiến ta có ý thức bổn phận, biết điều độ chừng mực và lẽ sống ở trên đời, có ý thức tu thân và thăng tiến. Chính công việc sinh tử của Nam Tào, Bắc Đẩu mới làm cho xã hội loài người văn minh công bằng hơn.


Sự thực này cao hơn mọi tôn giáo, mọi triết thuyết. Nó làm thay đổi nhân sinh quan của chúng ta, mức trung dung quân bình của ta. Nó chứng minh rô ràng chúng ta chả là gì, một sinh vật phù du sinh ký tử quy, luôn sống trong bể khổ và do thiên lý định đoạt.


Nếu ai cũng hiểu được điều này nghiêm túc hơn; thớt chắc chắn thế giới ta đang sống sẽ dễ chịu hơn. Ai cũng đă thấy rằng các cuộc vui giải trí điều độ hơn, tự chế hơn của chúng ta ngày nay, có chiều sâu và ý nhị hơn những cuộc vui ồn ào của một thời gần đây. Họ sống vất vả nhưng trống rỗng, trong những buổi ghé thăm nhau chẳng có mục đích gì làm khổ nhau phải tiếp, trong những bữa tiệc cầu kỳ và kiểu cách rất nhàm chán. Bây giờ ta đă biết tìm những thú vui lành mạnh và thoải mái trong thú đọc sách, nghe nhạc, lâu lâu nghé thăm thân tộc, bạn bè. Càng vui vẻ khỏe mạnh, ta lại càng làm giàu nhanh, dù ta có phải đóng thuế nhiều hơn, nhưng chính phủ đã dùng để tăng mức sống chung của dân đảo quốc này.


Người ta vẫn chưa thống nhất được thời điểm mọi người hồi sinh. Nhưng mọi người đều đồng ý là, ngoài việc các đồng hồ chỉ giờ khác nhau, đặc tính của mỗi địa phương có ảnh hưởng đến tác dụng của ether độc. Nghĩa là ở mỗi khu, người ta tỉnh thức cùng một lúc. Nhiều người nhìn thấy Big Ben trên khắp London lúc đó chỉ 6 giờ 10. Nhà thiên văn Hoàng Gia đặt lại giờ kinh tuyến gốc Greenwich lúc 6 giờ 12. Mặt khác, Laird Johnson, một nhà thiên văn tiếng tăm ở East Anglia, ghi nhận lúc mọi người tỉnh dậy là 6 giờ 20. Ở đảo Hebrides, thức tỉnh muộn hơn: 7 giờ 00. Phần chúng tôi, ngồi trong phòng làm việc của Challenger, cái đồng hồ đo giờ thí nghiệm rất chính xác nằm ngay trước mặt tôi. Lúc đó là 6 giờ 15.


Tâm trạng chán nản đang đè nặng tâm hồn tôi. Ấn tượng chồng chất do các cảnh hãi hùng tôi thấy trong chuyến đi vào London ám ảnh tôi. Tôi khỏe như vâm, thân thể tràn đầy sức sống, thế mà tôi lại lạc vào cơn lạc thần này, đầu óc cứ mụ ra. Tôi có khả năng của dân lreland, có thể nhìn ra những nét hài hước trong bất cứ hoàn cảnh đen tối nào. Cơn hôn ám chụp lấy tôi không lơi lỏng khiến tôi phát hoảng. Tôi ngồi cạnh cửa sổ, hai tay đỡ cằm, chìm đắm trong hoàn cảnh khốn khổ của chúng tôi, trong khi mọi người đang ở tầng dưới bàn chương trình tương lai. Đầu tiên tôi tự hỏi chúng tôi có nên tiếp tục sống lạc loài không? Chúng tôi có thể sinh tồn trong một thế giới chết không. Như trong vật lý, vật thể lớn bao giờ cũng hút vật nhỏ về phía mình, liệu chúng tôi có thể bị cả bộ phận nhân loại đã đi vào cõi vô thức vĩnh hằng thu hút chúng tôi về cõi ấy với họ mà không thể cưỡng lại được không? Chúng tôi về với họ bằng cách nào đây? Ether độc có thể trở lại không? Hoặc chúng tôi sê chết vì chất phân rã của vũ trụ, vô hình nhưng độc hại. sau cùng là chính hoàn cảnh lạc loài, bi đát của chúng tôi sẽ là áp lực lên tâm trí chúng tôi đến độ không chịu nổi và hóa điên.


Tôi đang suy nghĩ về cái tư tưởng chết người này, một tiếng động nhẹ làm tôi ngước nhìn ra con đường đồi: cái xe ngựa cũ đang bò lên dốc! Đồng thời tôi cũng nghe văng vẳng tiếng chim hót, tiếng ái ho dưới nhà và trong cảnh vật đã có sự sống chuyển động, sinh hoạt. Chính cái con ngựa kéo xe già yếu hết sức lực thu hút chú ý của tôi. Tuy chậm chạp, nhưng con ngựa leo dốc nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi liếc sang người đánh xe ngồi chễm chệ trên ghế trước xe, người thanh niên trong xe đang sống động chỉ trỏ hướng đi. Không còn gì nghi ngờ nữa, họ đang sống và linh hoạt.


Mọi người đã sống lại! Tất cả sự việc chúng tội thấy, chỉ là ảo giác thôi sao. Có thể nào quan niệm được chuyện ether gây độc cho địa cầu chỉ là một cơn mơ kỳ lạ? Vào lúc mới bàng hoàng, cái đầu óc thảng thốt của tôi đã sẵn sàng tin như vậy. Tôi cúi xuống, bàn tay tôi còn những mụn phỏng rộp vì kéo chuông. Đúng là đã có ether độc làm cho mọi người mê man. Rồi bây giờ, cả thế giới lại sống lại như cơn triều dâng sự sống. Tôi quét mắt trên toàn cảnh trước mắt, nhìn tứ phía. Và lạ chưa, ngay trong cái lùm cây trong sân golf có người sinh hoạt. Đó là những người chơi golf. Họ lại tiếp tục ván chơi dang dở sao? Vâng, đúng vậy, một người vừa quất một banh qua chướng ngại. Nhóm khác trên sân cỏ đang thận trọng đẩy nhẹ banh vào lỗ. Những người gặt lúa đang từ từ tụ tập lại tiếp tục công việc tạm ngưng. Cô bảo mẫu phủi bụi trên màu áo em lớn rồi tiếp tục đẩy chiếc xe nôi lên đồi. Mọi người như không hề biết mình ngất xỉu mê man, chẳng để ý chuyện gì đã xảy ra, mà chỉ đơn giản là làm tiếp việc mình đang làm.


Tôi chạy xuống tầng trệt, cửa trước nhà đã mở lớn. Tôi nghe tiếng các bạn tôi đầy vẻ ngạc nhiên, đang chúc mừng trong vườn. Cả hai người nữ gia nhân và Austin đều sống lại Chúng tôi bắt tay nhau mà cười hồ hởi làm sao! Bà Challenger vui đến xúc động mạnh ôm hôn mọt người, trước khi ôm chầm lấy chồng sung sướng.


Đức ông John kinh ngạc nói lạc cả giọng:


- Làm sao tin được là họ ngủ thiếp đi! Thế là sao, Challenger, ông có tin là họ ngủ mê man, chân tay cứng đờ, hai mắt trợn trừng, cái miệng méo xệch như cười ngạo vậy không!


- Chỉ có thể nói là họ ở trong tình trạng ngủ rũ giữ nguyên thế - Challenger phát biểu. - Hiện tượng hiếm hoi này đã từng xảy ra trong quá khứ và bác sĩ luôn lầm bệnh nhân đă chết. Khi ngủ rũ, nhiệt độ hạ xuống, hô hấp biến mất, mạch tim không còn nhận ra. Thực sự họ đã chết, nhưng sau một thời gian họ lại sống lại.


Ông nhắm mắt lại như tập trung rồi nói nhỏ:


- Ngay cả những đầu óc uyên bác sâu sắc nhất, cũng không thể quan niệm được một trận dịch ngủ rũ trên toàn cầu như thế này.


Summelee nhận xét:


- Ông có thể gọi nó là ngủ rũ. Nhưng đó chỉ là một tên bệnh. Chúng ta chẳng biết gì về hậu quả của bệnh, nhất là chẳng biết gì về chất ether. Nhiều nhất ta chỉ nói được rằng ether độc có thể gây ra cái chết tạm thời thôi.


Austin đang ngồi bần thần trên bậc cửa xe, hai tay ôm đầu. Chính tiếng ho của ông tôi dã nghe thấy từ trên lầu. Giờ thì ông đang nói gì lẩm bẩm một mình và nhìn khắp xe một lượt.


- Lại cái thằng nhỏ to đầu. Cái gì nó cũng phá được.


- Có chuyện gì đó, Austin?


- Dầu trong xe chảy lênh láng. Đã có ai nghịch phá cái xe. Tôi đoán là thằng nhỏ làm vườn, thưa ông.


Đức ông John trông lấm lét vì lỗi của mình. Austin đứng dậy rồi nói tiếp:


- Không biết tôi bị làm sao ấy, chắc tôi bị lúc đang rửa xe. Dường như tôi ngã xuống bậc lên xe, nhưng tôi nhớ là không làm tuột dây đồng hồ đo dầu.


Bằng vài câu ngắn gọn, tôi kể cho Austin nghe chuyện ông ấy gặp và cả thế giới. Cả chuyện dầu rỉ ra cũng được giải thích cho ông. Ông nghe chuyện có người lái xe ra London mà cả thành phố London ngủ rũ hết ông cũng chẳng tin. Tôi còn nhớ, nghe xong chuyện, ông hỏi:


- Ông có đến Ngân hàng nước Anh không?


- Có ông Austin ạ.


- Vẫn còn hàng triệu triệu trong đó và mọi người ngủ rũ hết?


- Đúng như thế.


- Thế mà tôi không có ở đó! - Ông rên lên tiếc rẻ rồi buồn bã quay về với cái vòi nước rửa xe.


Có tiếng bánh xe nghiến trên sỏi. Chiếc xe ngựa cổ đã đậu ở trước nhà ông Challenger. Người khách trẻ ngồi sau xuống xe. Một lúc sau, người tớ gái quần áo xốc xếch, nét mặt ngơ ngàng như thể cô vừa bị đánh thức dậy, bưng lên một cái đĩa có danh thiếp. Giáo sư Challenger xịt mũi khin khịt khi nhìn thấy danh thiếp, râu tóc như dựng ngược lên vì giận. Ông làu bàu:


- Một nhà báo! - nhưng sau đó ông gượng cười tiếp: - Dẫu sao, cả thế giới này muốn biết ý kiến tôi về biến cố này, cũng là tự nhiên thôi.


Summelee xen vào:


- Không phải ông ta đến hỏi cảm tưởng của ông về biến cố này đâu, vì ông ta đã ngồi trên xe ngựa lên đồi trước khi thảm họa xảy ra.


Tôi ngó tấm danh thiếp: “James Baxter: phóng viên thường trú ở London, báo New York Monitor”.


- Ông nên tiếp ông ta.


- Không.


- Ôi, ông George! Ông nên nhân ái và quan tâm tới người khác một chút. Chắc chắn ông có nhiều ý kiến khi chúng ta thoát được thảm họa.


Challenger tặc lưỡi và lắc lư cái đầu to và bướng bỉnh.


- Ông ấy là giòng đã bị nhiễm độc, đúng không, Malone. Một giống cỏ dại của kỷ nguyên văn minh mới, một công cụ cho bọn chuyên gia rởm trong mọi ngành. Bọn họ có nói tốt cho tôi bao giờ đâu.


Tôi đỡ lời:


- Thế giáo sư có nói tốt về họ bao giờ không? Thôi ông ạ. ông ta là khách đã lặn lội đến đây phỏng vấn ông. Xin ông đừng nặng lời với ông ta.


Ông nói nhấm nhẳng:


- Được, được. Nhưng ông đi với tôi và nói thay tôi. Tôi đã có lập trường từ trước, không để họ xen vào cuộc sống riêng tư của tôi.


Ông vừa Iẩm bẩm vừa bước thình thịch sau tôi, như một con chó giữ nhà bị nạt cho im.


Chàng phóng viên Mỹ bảnh bao lấy sổ tay ra và nhập đề ngay.


- Thưa Ngài, tôi xuống đây, vì đồng bào Mỹ của tôi rất mong mỏi được nghe ý ông về thảm họa sắp chụp lên thế giới.


Challenger nhấm nhẳng trả lời:


- Lúc này tôi chẳng còn thấy hiểm họa nào đang đe dọa thế giới cả.


Ông phóng viên nhìn ông hơi ngạc nhiên.


- Thưa Ngài, tôi muốn hỏi về trái đất có thể quay vào một vành đai ether độc.
- Thật sự lúc này tôi không lo có một hiểm họa như vậy.


Ông phóng viên thật sự bối rối ngỡ ngàng.


- Ngài có phải là giáo sư Challenger không ạ?


- Thưa ông đúng, tôi là Challenger.


- Thật tôi không hiểu, thưa ngài. Sao ngài lại có thể nói là bây giờ trái đất không có hiểm họa nào? Tôi muốn nhắc đến lá thư của giáo sư đăng trên tờ London Times sáng nay ạ.


Bây giờ thì đến lượt Challenger kinh ngạc.


- Sáng nay? Sáng nay không có tờ London Times nào được phát hành cả.


- Thưa Ngài, có ạ. - Ông nhà báo Mỹ nhẹ nhàng đính chính, - nó là một nhật báo mà, thưa Ngài.


Ông lôi một tờ báo ở túi trong ra.


- Thưa Ngài tôi muốn nói tới bức thư này ạ.


Challenger tặc lưỡi, xoa tay rồi nói:


- Tôi bắt đầu hiểu ra rồi Vậy là ông đọc lá thư này sáng nay?


- Thưa Ngài vâng.


- Và xuống phỏng vấn tôi ngay?


- Vâng ạ.


- Ông có thấy gì lạ trên đường xuống đây không?


- Vâng, nói thật, đồng bào của Ngài rất ân cần và nhiều tình người hơn trước đây. Người vác hành lý sáng nay đã kể cho tôi một câu chuyện vui. Và chuyện đó thật mới lạ với tôi ở đất nước này.


- Còn gì lạ nữa không?


- Không ạ. Sao ngài lại hỏi vậy?


- Được, ông rời ga Victoria lúc mấy giờ?


Ông Mỹ mỉm cười:


- Ồ, thật là trái khoáy, tôi đến đây phỏng vấn ngài lại bị ngài phỏng vấn lại.


- Tôi chỉ vô tình thấy lạ thôi. Ông có nhớ giờ không?


- Có ạ. Lúc 12 giờ 30 phút.


- Và ông đến ga này lúc nào?


- 2 giờ 15 phút ạ.


- Và ông thuê xe ngựa đến nhà tôi?


- Vâng, đúng vậy.


- Ông nghĩ rằng từ đây ra ga bao xa?


- Thưa ngài, nhiều lắm là hai dặm.


- Ông nghĩ là ông đã đi mất bao lâu?


- Dạ, khoảng nửa giờ, với ông xà ích ho hen.


- Tức là lúc 3 giờ?


- Vâng khoảng đó.


- Ông coi đồng hồ đi.


Người Mỹ coi giờ, rồi ngước nhìn chúng tôi kinh ngạc.


- Trời ơi! Kim giờ chỉ địa rồi. Con ngựa này phá kỷ lục chạy chậm rồi. Mặt trời cũng đã rất thấp. Sao vậy kìa. Chắc đã có chuyện gì kỳ cục xảy ra mà tôi không hiểu.


- Ông không nhớ ra chuyện gì bất thường khi ông lên đồi à?


- Thưa ngài, tôi nhớ là có một lúc tôi buồn ngủ kinh khủng. Tôi có bảo người đánh xe cái gì đó, nhưng không làm sao cho ông ta hiểu được. Tôi cho là vì trời nóng, tôi cảm thấy chơi vơi bồng bềnh một lúc. Vậy thôi.


Challenger nói với tôi:


- Như vậy là cả nhân loại cảm thấy chơi vơi bồng bềnh một lúc, và rồi chẳng ai ý thức được chuyện gì đã xảy ra. Khi tỉnh dậy mọi người lại thản nhiên làm tiếp công việc đang làm. Giống hệt như Austin lại cầm lấy vòi nước rửa xe và những người chơi golf tiếp tục cho hết vòng. Ông chủ bút của ông, Malone, lại lo sắp xếp bài cho số báo kế tiếp. Rồi ông sẽ rất đỗi ngạc nhiên khi thấy thiếu mất một số báo. Vâng, ông bạn trẻ ạ, - ông thật tình vui vẻ nói với nhà báo Mỹ, - ông sẽ thấy thích thú khi biết rằng trái đất của chúng ta đã trôi nổi qua một dòng ether độc uốn lượn như dòng Gulf Stream trong đại dương ether của vũ trụ. Để đỡ rắc rối sau này, ông cũng nên ghi nhớ hôm nay không còn thứ Sáu, ngày 27 tháng 8, mà là thứ Bảy ngày 28 tháng 8. Và ông đã ngồi bất tỉnh trong xe ngựa hai mươi tám giờ, trên đồi Rotherfield.


Cũng như ông bạn đồng nghiệp Mỹ của tôi nói “xin chấm d ứt cuộc phỏng vấn ở đây,” tôi cũng chấm dứt thiên ký thuật luôn. Và quí vị cũng đã thấy phóng sự của tôi đầy đủ hơn và chi tiết hơn, đăng trên số báo ngày thứ Hai của tờ Dai ly Gazette, một bài tường thuật được mọi người công nhận là bài báo xuất sắc nhất của mọi thời. Tờ báo hôm đó đã bán được không ít hơn ba triệu rưỡi bản. Trên tường văn phòng tôi tôi còn đóng khung những tiêu đề vinh hạnh đó:


Thế giới bị ngất xỉu hai mươi tám giờ.


Biến cố vô tiền khoáng hậu cho loài người.


Một trải nghiệm độc đáo.


Một phóng viên của chúng tôi đã thoát hiểm.


Một phóng sự ly kỳ, hồi hộp.


Một phòng kín được cung cấp oxy.


Chuyến xe lạ lùng.


London, thành phố chết


Bổ sung một trang lịch sử đã thiếu


Đại hỏa hoạn và tổn thất nhân mạng


Liệu có còn bị ngộ độc nữa không?


Dưới danh sách tiêu đề này là chín cột rưỡi ký sự xuất hiện lần đầu tiên và cũng là lần cuối, ghi lại lịch sử trái đất trong một ngày của một người duy nhất. Challenger và Summelee cùng hợp soạn một bài về khía cạnh khoa học của sự kiện, họ để mặc tôi viết tường thuật này. Thế là tôi cứ việc phóng bút. Nhưng thảm thương thay, viết được ký sự nổi tiếng này, là tôi đã lên đến đỉnh điểm sự nghiệp của một ký giả mất rồi!


Để chấm dứt ký thuật này, tôi không dùng lời lẽ gợi hình và thành tích cá nhân nữa, mà trích đoạn kết nổi tiếng, trong bài chính luận về sự kiện này, một bài mà những người đúng đắn, nghiêm túc đều muốn giữ làm tài liệu.


Tờ Times viết: “Nói rằng nhân loại rất yếu đuối trước những sức mạnh ẩn tàng trong tự nhiên quanh ta, là sự thật ai cũng biết rồi. Từ các tiên tân thời cựu ước đến các triết gia hiện đại, đều cũng đã gởi thông điệp này đến ta. Nhưng sự thực được lập đi lập lại nhiều quá, lại mất bớt hiệu quả thực tiễn và hợp thời. Một bài học, một kinh nghiệm cần phải đúng lúc, đúng chỗ. Chính nhờ thử thách khủng khiếp nhưng cứu độ chúng ta vừa trải qua, trí óc còn bàng hoàng vì bất chợt, tâm thần còn ê ẩm vì lại nhận thức được giới hạn và bất lực của chúng ta. Thế giới đã phải trả một giá kinh khủng về tính hiệu quả của giáo dục. Tuy chưa biết hết hậu quả của thảm họa này, những New York, Orleans, Brighton sụp đổ trong ngọn lửa, cũng đủ là một bi kịch trong lịch sử loài người. Khi các báo cáo về tai nạn hỏa xa và tàu bè được đúc kết, chắc ta sê có một tài liệu khủng khiếp. Tuy rằng đa số trưởng máy và lái tàu đã kịp thời tắt máy, ngắt lực kéo trước khi hôn mê. Những tổn thất về của cải và nhân mạng dù có cao đến đâu, chỉ trước đây ta mới quan tâm, ngày nay ta phải quan tâm hàng đầu đến những khả năng của vũ trụ. Phải quan tâm tới tai hại của tính tự mãn, phải hiểu rằng khía cạnh vật chất của con người rất mong manh,


dễ sụp đổ. Nghiêm cẩn và khiêm nhường phải là cơ sở cho các cảm xúc nhân tính ngày nay, ước gì đây là nén tảng mới để con người xây dựng một đền thờ tinh thần mới.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro