Sherlock Holmes Toàn Tập (p2)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sherlock Holmes Toàn Tập - Athur Conan Doyle (tiep theo)

DẤU BỘ TỨ

Chương 1

Phép diễn dịch là một khoa học

Shelock Holmes lấy cái chai ở góc lò sưởi rồi rút ống tiêm ra khỏi bao da. Những ngón tay dài, xanh, gân guốc chuẩn bị kim tiêm trước khi xắn tay áo trái lên. Trong một thoáng, ánh nhìn tư lự của anh dừng trên mạng tĩnh mạch ở cẳng tay lỗ chỗ vô số vết tiêm. Anh nhấn kim một cách chính xác, đẩy chất nước, rồi ngồi gọn gàng vào chiếc ghế bành bọc nhung, thở một hơi dài sảng khoái. 

Từ nhiều tháng nay, tôi đã chứng kiến cảnh này tái diễn mỗi ngày ba lần, nhưng tôi vẫn không làm quen được với nó. Ngược lại càng ngày tôi càng thấy khó chịu thêm, và cả trong giấc ngủ, đêm đêm, lương tâm trách tôi sao không có can đảm để phản đối chuyện này. Đã bao nhiêu bận rồi tôi tự nguyện phải làm sao cho tâm hồn mình được thanh thản và nói ra những gì cần nói. Nhưng thái độ uể oải và dè dặt của bạn tôi không cho phép tôi tọc mạch như thế được. Những thiên tư đặc biệt và những phẩm chất khác thường của anh mà tôi đã biết rõ khiến tôi phải kiêng nể. Làm trái ý anh, tôi cảm thấy thật rụt rè và vụng về biết bao. 

Ấy thế mà, chiều hôm đó, tôi không thể dằn được nữa. Phải chăng đó là do chất men của món rượu chúng tôi đã uống vào bữa ăn trưa? Hay là vì cái cung cách khiêu khích của anh làm tôi cũng giận anh hơn? Dẫu sao, tôi cũng phải lên tiếng. 

- Hôm nay là morphine hay cocaine đấy, anh bạn? Tôi hỏi. 

Cặp mắt đờ đẫn của anh rời khỏi cuốn sách in bằng chữ kiểu gotise anh đang cầm trong tay. 

- Cocaine - Anh đáp - dung dịch 7%. Anh muốn dùng thử chút chăng? 

- Không, chắc chắn là không rồi! - Tôi đáp, giọng hơi cộc cằn - Sau chiến tranh ở Afghanistan, tôi vẫn chưa bình phục hẳn. Tôi không thể tự cho phép mình hoang phí sức lực được. 

Giọng điệu sôi nổi của tôi khiến anh mỉm cười. 

- Có lẽ anh nói có lý đấy, Watson ạ. - Anh đáp. - Có thể loại độc dược này gây ảnh hưởng tác hại trên thân thể tôi. Nhưng tôi lại thấy nó có tác dụng kích thích làm cho đầu óc tôi sáng suốt, nên tôi nghĩ là những tác dụng phụ của nó chỉ có một mức độ quan trọng không đáng kể. 

- Nhưng anh hãy xét vấn đề trong toàn bộ của nó chứ? - Tôi nói lớn bằng một giọng hăng hái - Đúng thế, đầu óc anh có thể minh mẫn khác thường, song anh hãy nghĩ đến cái giá mà anh phải trả chứ? Đó là một quá trình bệnh hoạn khiến các tổ chức tế bào não bộ hồi sinh nhanh chóng, và do đó có thể đưa đến một sự suy nhược thường xuyên. Anh cũng từng biết đến tình trạng suy nhược tinh thần thảm hại theo sau đó: thế thì cuộc chơi này đâu có bổ? Sao lại đành chịu để tiêu tan những tài năng to lớn trong anh để chỉ kiếm lấy một khoái cảm thoáng qua thôi? Xin anh nhớ cho rằng lúc này kẻ nói với anh chẳng những là người bạn chí tình mà còn là một bác sỹ chịu trách nhiệm một phần nào đó về sức khỏe của anh. 

Anh chẳng tỏ vẻ gì là bị xúc phạm. Trái lại anh đan mười đầu ngón tay lại với nhau và đặt khuỷu tay lên tay ghế bành trong tư thế của một người sắp sửa được thưởng thức một buổi nói chuyện lý thú. 

- Trí óc tôi không chịu nổi tình trạng đình đốn. - Anh đáp - hãy đặt cho tôi những bài toán, hãy cho tôi việc làm! Anh cứ giao cho tôi bản mật tự bí hiểm nhất hoặc một công trình phân tích phức tạp nhất đi, ấy thế là tôi được sống trong bầu không khí thích hợp với tôi rồi đó. Lúc bấy giờ tôi chẳng màng đến thứ kích thích tố nhân tạo này nữa đâu. Nhưng tôi quá chán ghét cái lề lối đơn điệu và cuộc sống lắm rồi. Tôi cần có một liều kích thích về tinh thần. Vả chăng, đó cũng là lý do tại sao tôi lại chọn cái nghề kỳ cục này, hay nói đúng hơn, lý dó tại sao tôi đã tạo ra nó, bởi lẽ trong loài người như tôi, tôi là kẻ độc nhất trên cõi đời này. 

- Tay thám tử tư độc nhất à? Tôi ngước mắt nói. 

- Nhà thám tử duy nhất mà người ta đến hỏi ý kiến - Anh nói rõ thêm - Về việc điều tra, sưu tầm, thì chính tôi là tòa án phúc thẩm khi mà những anh chàng thám tử như Gregson, Lestrade hay Athelney Jones bỏ cuộc thôi không mò ra được nữa. -Một điều đã trở thành lề thói ở họ, xin nhắc qua thế thôi - thì những người ấy đến tìm tôi. Tôi xem xét các dữ kiện với tư cách một giám định viên và phát biểu ý kiến với tư cách là một chuyên gia. Trong những trường hợp như vậy, tôi chẳng đòi hỏi rằng vai trò của tôi phải được thừa nhận chính thức. Tên tuổi của tôi không xuất hiện trên báo chí. Công việc tôi làm, tự bản thân nó, và niềm sảng khoái tìm được môi trường hoạt động cho những tài năng thiên phú của tôi cũng đã là phần thưởng cao quý nhất cho tôi rồi. Vả lại, anh cũng đã có dịp trông thấy tôi làm việc trong vụ Jefferson Hope[1] rồi mà. 

- Quả có vậy thật. Và chưa bao giờ tôi lại kinh ngạc đến như thế. Kinh ngạc đến độ từ đó tôi lấy ra tư liệu để viết thành một tập sách nhỏ dưới một cái tên kể ra cũng khá kỳ quặc "Chiếc nhẫn tình cờ"[2]. 

Anh buồn bã gật đầu. 

- Vâng, tôi có xem qua. Anh nói - Thẳng thắn mà nói thì tôi không thể khen ngợi anh được. Việc điều tra là, hoặc phải là, một khoa học chính xác; như vậy lúc nào nó cũng phải được tiến hành một cách lạnh lùng và không xúc động. Vậy mà anh lại tìm cách sơn phết cho nó một màu sắc lãng mạn, thì cũng chẳng khác nào anh đưa một chuyện tình hoặc một vụ bắt cóc vào mệnh đề thứ năm của Euclid[3] vậy. 

- Nhưng yếu tố lãng mạn tự nó đã có sẵn một cách khách quan rồi kia mà - Tôi nói lớn - Tôi đâu có quyền nhào nặn, sửa đổi các sự kiện một cách tùy tiện được. 

- Trong những trường hợp như thế ta phải gạt ra ngoài một số sự kiện, hoặc nếu có thuật lại, thì phải thuật lại theo một ý nghĩa đúng đắn, hợp với tầm vóc của nội dung chuyện kể. Điều đáng lẽ phải được ghi nhận trong vụ này là lối lập luận lạ lùng có tính phân tích đi ngược từ quả lên nhân, nhờ đó mà tôi mới có thể phăng nó ra được. 

Lời phê bình này khiến tôi đâm bực mình, giận anh ta. Tôi đã chẳng động não chủ yếu là để làm anh ta được vừa lòng đó sao. Lòng kiêu hãnh của anh đã khiến anh ân hận rằng mỗi dòng tôi viết ra trong tập sách nhỏ của tôi đã không nhằm độc nhất vào những công việc anh tiến hành. Đã nhiều lần, trong những năm tháng sống chung với anh ở phố Baker, tôi nhận ra một thoáng kiêu căng qua cái thái độ điềm tĩnh và có tính chất lý thuyết của anh, nên tôi chẳng buồn cãi lại, chỉ chăm chú săn sóc vết thương ở chân mình. Cách đây khá lâu, một viên đạn đã 

xuyên thủng qua đó, và tuy vậy tôi vẫn còn đi được, nhưng hễ cứ thời tiết thay đổi thì viết thương lại đau nhức. 

- Vừa rồi mạng lưới thân chủ của tôi đã lan đến các nước lục địa - Holmes vừa nhồi thuốc vào ống điếu bằng gỗ cây thạch thảo vừa nói tiếp - Mới tuần trước đây thôi, Francois le Villard có đến nhờ tôi giúp ý kiến. Đó là một người cũng cố đôi chút tiếng tăm trong ngành cảnh sát tư pháp của Pháp. Anh ta có sẵn cái 

trực giác tinh tế của dân Celtic[4], nhưng lại thiếu hẳn những kiến thức rộng rãi có thể giúp anh ta vươn lên những đỉnh cao nghệ thuật của mình. Nội vụ liên quan đến một bản chúc thư và nêu lên một số điểm lý thú tôi đã gợi ý với anh ta là nên xem lại hai vụ tương tự, một ở Riga năm 1857, một ở St. Louis năm 1871; nhờ đó anh ta đã tìm ra lời giải đáp chính xác. Và đây là bức thư cảm ơn tôi vừa nhận được sáng nay. 

Vừa nói, anh đưa cho tôi một tờ giấy vò nhàu, trông đến kỳ quặc. Tôi đọc lướt qua: bức thư rặt những từ to tát, như là "rực rỡ", "một sự thành công tuyệt vời", "một chuyện phi thường ít ai làm nổi" toàn là những từ tỏ lòng ngưỡng mộ nồng nhiệt của anh chàng người Pháp này. 

- Thư anh ấy viết như đệ tử viết cho thầy - Tôi nói. 

- Ồ! việc tôi giúp đỡ anh ấy không xứng với lời khen tặng như thế đâu. - Shelock Holmes nói bằng giọng bông đùa - Bản thân anh ta cũng rất có tài; anh ta đã có được hai trong ba phẩm chất thiết yếu đối với một người thảm tử toàn diện, đó là 

khả năng quan sát và khả năng suy diễn. Anh ta chỉ còn hiếu sự hiểu biết, nhưng điều này có thể đến với thời gian. Anh ta đang dịch những tập tiểu luận nhỏ của tôi sang tiếng Pháp. 

- Những tiểu luận của anh à? 

- Ồ, anh không biết gì sao? - Anh vừa cười vừa nói lớn - Vâng, đúng vậy, tôi có tội là đã viết ra nhiều tập tiểu luận, nhưng tất cả đều thuộc về các vấn đề kỹ thuật. Chẳng hạn như tập tiểu luận này đây: "Về sự phân biệt các loại thuốc lá khác nhau". Một trăm bốn mươi loại xì gà, thuốc điếu và thuốc rời được kê ra trong đó, lại còn có những bản ảnh chụp màu để minh họa các dạng tro tàn thuốc lá khác nhau nữa cơ đấy. Đây là một vấn đề ta thường gặp phải trong những vụ án hình sự. Tàn thuốc có thể là dẫn chứng vô cùng quan trọng. Chẳng hạn khi anh có thể quả quyết rằng một án mạng nào đó là do một người đàn ông hút xì gà Ấn Độ, thì điều này tất nhiên đã giới hạn tầm truy cứu của anh rồi. Đối với con mắt nhà nghề, thì sự khác nhau giữa tro đen của điếu thuốc hiệu "Trichinopoly" và tro màu trắng mịn của loại thuốc lá "Bird s Eye" cũng rõ nét như giữa quả su su và củ khoai tây vậy. 

- Anh quả thật là có tài siêu đẳng trong những chi tiết nhỏ nhặt nhất! 

- Tôi biết đánh giá tầm quan trọng của chúng. Đây, anh xem đi, tập tiểu luận của tôi về việc dò tìm dấu chân, có bổ sung thêm một số nhận xét về cách dùng thạch cao Paris để giữ lại dấu chân... cũng là một cuốn sách kỳ lạ đấy. Nó bàn về ảnh hưởng nghề nghiệp trên hình dạng bàn tay, có ấn bản minh họa, cho thấy dạng bàn tay của thợ nề, của thủy thủ, tiều phu, thợ sắp chữ, thợ dệt, và thợ mài hột xoàn. Tập sách này có một tầm lợi ích thiết thực đối với nhà thám tử khoa học, nhất là để tìm ra tiền sử của một tên tội phạm nào đó hoặc trong trường hợp gặp những xác chết vô thừa nhận. À, mà không khéo tôi lại làm cho anh đến phát bực mình vì những câu chuyện nhảm của tôi. 

- Không đâu! Tôi rất thích là đằng khác, nhất là từ khi tôi có dịp ứng dụng những câu chuyện nhảm ấy vào thực tế. À, mà có phải vừa lúc nãy anh có đề cập đến vấn đề quan sát, và diễn dịch phải không? Theo tôi thì hình như cái nọ phải bao hàm cái kia, ít ra trong một phần nào đó, phải thế không? 

- Chậc, chỉ ít thôi! - Anh vừa nói vừa ngả lưng dựa thoải mái vào ghế bành, trong khi từng cuộn khói xanh đặc tỏa lên từ chiếc ông điếu của anh - Này nhé, do quan sát, tôi biết rằng sáng nay anh có đi đến bưu điện phố Wigmore; nhưng chính nhờ 

diễn dịch mà tôi biết rằng anh đã gởi một bức điện tín. 

- Đúng thế! Tôi nói lớn - Đúng ở cả hai mặt! Nhưng thú thật tôi không rõ bằng cách nào mà đạt đến kết luận như vậy. Bởi vì việc ấy, tôi quyết định một cách đột ngột và chẳng nói với một ai cả. 

- Thật là đơn giản thôi, anh ạ - Anh vừa lưu ý tôi, vừa cười nhẹ về nỗi ngạc nhiên của tôi - Đơn giản một cách thật vô lý đến nỗi một lời giải thích nào cũng có vẻ là thừa. Thế nhưng, ví dụ này có thể dùng để xác định ranh giới giữa quan sát và diễn dịch. Này nhé, tôi để ý thấy những vết bùn đỏ trên giày của anh. Mà ngay trước mắt nhà bưu điện phố Wigmore, lòng đường vừa mới sụp xuống, và đất bùn vung vãi tứ phía thành thử khó lòng vào được nhà bưu điện mà không phải đi qua đấy. Sau cùng, thứ đất ấy có màu đo đỏ đặc biệt mà theo chỗ tôi biết, thì không nơi nào có ngoài nơi ấy. Tất cả những điều này là do quan sát. Và phần còn lại là diễn dịch. 

- Thế thì làm sao anh có thể diễn dịch ra bức điện tín kia? 

- Kìa, tôi biết chắc chắn rằng anh đã không viết một lá thư nào cả, bởi lẽ suốt cả buổi sáng nay tôi vẫn ngồi đối diện với anh mà. Tôi lại còn trông thấy trên bàn của anh một lô tem và một chồng bưu thiếp dày cộp. Thế thì tại sao anh lại ra bưu điện, nếu không phải là để đánh điện tín? Anh cứ bỏ đi tất cả những động cơ khác, thì cái động cơ còn lại là động cơ đúng. 

- Lần này thì đúng thôi - Tôi đáp sau một hồi suy nghĩ - Sự việc như anh vừa nói, thật là vô cùng đơn giản... Tuy nhiên cũng mong anh chớ cho tôi là một kẻ khiếm nhã nếu tôi đem những lý thuyết của anh ra kiểm tra lại một cách nghiêm khắc nữa. 

- Ồ, không sao đâu - Anh đáp - Có thể tôi khỏi phải dùng thêm một liều cocaine thứ hai đấy. Tôi rất hân hoan mà chú tâm vào bài toán anh đặt ra cho tôi. 

- Tôi thường nghe anh bảo rằng thật khó lòng mà sử dụng một đồ vật nào đó hàng ngày mà ta lại không lưu lại dấu vết trên đó cá tính của ta, những dấu vết mà một người quan sát lành nghề thế nào cũng tìm thấy. Thì đây nhé, vừa mới đây thôi, tôi có được một cái đồng hồ bỏ túi. Xin anh vui lòng cho biết ý kiến về những thói quen hoặc cá tính của người chủ cũ của nó. 

Tôi đưa anh chiếc đồng hồ với đôi chút ác ý, vì tôi vốn biết trước rằng việc khảo sát chắc chắn sẽ không tài nào tiến hành được, và anh sẽ tịt ngòi ngay, hết lắm lời khoa trương nữa. Anh nhấc đồng hồ lên xem nặng nhẹ thế nào, quan sát kỹ mặt đồng hồ, mở vỏ ra và xem xét một cách cẩn thận cách vận hành của nó, trước bằng mắt, sau dùng kính lúp. Tôi không thể nào dằn được nụ cười mỉm trước vẻ mặt chưng hửng của anh khi anh đẩy chiếc đồng hồ trả lại tôi. 

- Có rất ít dấu vết - Anh ghi nhận - Nó vừa được chùi dầu, nên tôi thiếu những dấu vết có ý nghĩa nhất. 

- Đúng thế đấy - Tôi đáp - Nó đã được lau chùi trước khi giao cho tôi. 

Tự thâm tâm, tôi trách anh bạn tôi đã đưa ra một lời bào chữa khá là khập khiễng để khuất lấp thất bại của mình. Tôi tự hỏi ở một chiếc đồng hồ không lau chùi thì anh có thể rút ra những dấu vết gì? 

- Tuy không được mỹ mãn lắm nhưng việc điều tra của tôi không phải là hoàn toàn vô bổ - Anh vừa nói vừa nhìn lên trần nhà bằng cái nhìn mờ nhạt và xa xôi - nếu tôi không lầm thì chiếc đồng hồ này trước kia thuộc về người anh cả của anh mà anh ấy đã thừa hưởng lại của cha anh. 

- Có lẽ những mẫu tự đầu H.W khắc vào mặt sau vỏ đồng hồ đã gợi cho anh lối giải thích như thế phải không? 

- Hoàn toàn đúng như vậy. Mẫu tự W. chỉ họ gia đình anh. Đồng hồ này có từ gần 50 năm nay. Những mẫu tự cũng xưa như chính nó, như thế nó đã được chế tạo ra cho thế hệ trước nữa kia. Vật trang sức thường được giao cho con trai trưởng, người này thường mang tên người cha. Mà ông cụ, nếu tôi còn nhớ rõ, đã qua đời từ nhiều năm nay. Do đó tôi suy ra đây có lúc nó thuộc quyền sở hữu của anh cả anh. 

- Cho đến đây, thì đúng đấy - Tôi nói - Nhưng anh còn tìm ra điều gì khác nữa không? 

- Đó là một người bất cẩn và thiếu ngăn nắp. Thoạt đầu, anh ta gặp nhiều vận hội tốt đẹp, nhưng anh ta lại để phung phí mất đi. Anh ta sống trong cảnh nghèo nàn túng bấn xen kẽ những thời thịnh vượng ngắn ngủi và anh ấy chết đi sau khi đâm ra nghiện ngập. Đấy, tất cả những gì tôi đã có thể tìm ra được. 

Lòng tôi ngập tràn cay đắng. Tôi nhảy ra khỏi ghế bành và sải từng bước giận dữ trong gian phòng mặc dầu chân đang bị đau. 

- Thật là không xứng đáng với anh chút nào cả, anh Holmes ạ! - Tôi hét lớn - Tôi thật không bao giờ nghĩ rằng anh lại có thể cam tâm làm một điều thấp hèn như vậy. Anh đã dò hỏi về cuộc đời người anh khốn khổ của tôi, rồi anh lại kiếm cách làm cho tôi tin rằng do một phương pháp ngông cuồng nào đó anh đã diễn dịch ra những chuyện như vậy. Đừng mong rằng tôi tin là anh đã tìm ra tất cả những điều này trong một chiếc đồng hồ cũ kỹ. Quả thật là một cung cách thiếu nhân ái, và để nói cho hết ý, nó chẳng khác nào cái trò quảng cáo bịp bợm đâu. 

- Ông bác sỹ thân mến của tôi ơi, tôi xin anh vui lòng thứ lỗi vậy - Anh nói từ tốn - Lúc xét sự việc như một vấn đề trừu tượng, tôi đã quên khuấy đi mất là nó đụng chạm trực tiếp đến anh và có thể làm cho anh đau khổ như thế. Tôi xin cam đoan 

với anh, Watson ạ, rằng trước khi xem xét cái đồng hồ kia, tôi thật tình chẳng biết một tí gì về người anh của anh. Tôi cũng không biết là anh có một người anh nữa kia mà. 

- Trời ơi, thế thì làm sao anh có thể phát hiện được những điều đó? Tất cả đều đúng sự thật, cho đến cả chi tiết nhỏ nhặt nhất. 

- Thì cũng là nhờ chút ít may mắn thôi! Tôi chỉ có thể nói ra những gì theo tôi có khả năng là đúng nhất mà thôi. Thật tôi cũng không ngờ là nó lại đúng đến như vậy. 

- Đấy không phải là trò đoán mò chứ? 

- Không, không đâu; tôi không bao giờ đoán mò cả. Đó là một thói quen đáng ghét, nó giết chết khả năng lý luận. Điều anh cho là lạ lùng chỉ lạ lùng vì anh không theo dõi lối lập luận của tôi và anh không chịu chú ý đến những sự kiện nhỏ nhặt, từ đó suy diễn ra những kết luận to lớn. Chẳng hạn, lúc bắt đầu câu chuyện, tôi có nói là người anh của anh có tính cẩu thả. Thì anh hãy quan sát thật kỹ phần dưới vỏ đồng hồ rồi anh sẽ thấy nó chẳng những nổi u ở hai chỗ mà lại còn đầy những vết trầy xước, do va chạm với những vật khác. Đó là xâu chìa khóa hoặc những đồng tiền lẻ mà anh ấy cho vào trong cùng một túi. Thế 

thì chắc chắn không phải là một trò quỷ thuật nếu ta suy ra tính cẩu thả của một người từng xem thường một chiếc đồng hồ trị giá 50 guinea[5] như vậy. Mà cũng chẳng phải nhờ một lối lập luận thiên tài nào đó mà tôi nói được là một di sản gồm một đồ vật giá trị đến như vậy chắc phải là quan trọng lắm. 

Tôi gật đầu, tỏ vẻ đã hiểu ý anh. 

- Mặt khác, những người làm nghề cầm đồ ở Anh thường có thói quen dùng đầu mũi kim khắc vào mặt sau đồng hồ số biên nhận cấp khi đồ vật được đem cầm thế. Như thế thì tiện lợi hơn nhãn dán có thể thất lạc hoặc dán nhầm trên một vật khác. Thế mà, có không dưới bốn con số như vậy được khắc vào mặt trong vỏ đồng hồ. Từ đó, điều suy diễn thứ nhất: Anh của anh thường lâm vào cảnh túng thiếu. Suy diễn thứ hai: Anh ấy cũng đã từng sống qua những thời sung túc, nếu không phải thế thì đâu anh ấy có thể chuộc lại chiếc đồng hồ kia được? Sau cùng, đề nghị anh nhìn kỹ vào nắm bên trong có lỗ nhỏ nơi khóa núm vặn xuyên qua. Một người điều độ đã không thể làm trầy trụa nó như vậy. Ngược lại, đồng hồ của những người nghiện rượu thường mang dấu vết bàn tay run rẩy khi lên dây cót đồng hồ. Như vậy thì còn gì là bí ẩn trong lối giải thích của tôi đâu? 

- Tất cả đều rõ như ban ngày - Tôi đáp - Tôi rất ân hận đã bất công đối với anh. Lẽ ra, tôi phải biểu lộ lòng tin to lớn hơn nữa vào những năng lực của anh mới phải. Cho tôi xin phép được hỏi là hiện nay anh có phải giải quyết vụ nào không? 

- Không. Bởi thế nên tôi mới phải dùng đến cocaine. Tôi không tài nào sống mà không bắt óc tôi phải làm việc. Ở đời còn có hoạt động nào khác đáng giá hơn đâu? Này, anh hãy đến gần cửa sổ đây này. Có bao giờ mà thế giới lại ảm đạm, tầm thường và buồn chán như thế này đâu? Anh cứ nhìn vào đám sương mù vàng bệch đang giải rộng dọc theo con phố rồi vỡ vụn một cách thật là vô ích vào những cái nhà buồn tẻ kia đi! Còn có gì chán ngán và tầm thường hơn không? Này, ông bác sỹ của tôi ơi, anh hãy nói cho tôi biết đi, những năng lực của ta liệu có ích gì nếu ta không mang ra sử dụng? Tội phạm thì tầm thường, cuộc sống 

cũng tầm thường, chỉ có những phẩm chất tầm thường mới có cơ thao luyện ở cõi đời này thôi. 

Tôi định trả lời cho những câu nói tràng giang này thì có tiếng gõ cửa. Bà chủ nhà trọ bước vào mang theo một tấm thiếp đặt trên chiếc mâm đồng. 

- Có một cô mong được gặp ông - Bà nói với bạn tôi. 

- Cô Mary Morstan - Anh đọc. - Hừm! Tôi chẳng còn nhớ gì về cái tên này cả. Phiền bà mời người ấy vào hộ tôi, bà Hudson nhé. Ấy, bác sỹ đừng đi! Tôi thích bác sỹ ngồi lại dự cuộc hội kiến này.

Chương 2

Trình bày nội vụ

Cô Morstan bước vào phòng với dáng đi quả quyết. Đó là một thiếu nữ tóc hoe vàng, nhỏ nhắn và mảnh mai, y phục đơn giản và tầm thường, tuy rất thanh nhã khiến ta liên tưởng đến những điều kiện sinh hoạt hạn chế của cô. Chiếc áo, không đồ trang sức cũng chẳng nữ trang, màu gạch non ngả sang màu xám. Cổ quấn một dải khăn choàng đầu nhỏ, cũng một màu xám xịt ấy, may là có điểm thêm một chiếc lông vũ màu trắng ở một bên. Vẻ đẹp của cô không ở trong đường nét thanh tú, không ở trong nước da trong sáng, mà phảng phất trong nét tinh anh linh động, cởi mở và dịu dàng, trong đôi mắt xanh lớn, đa cảm và thăm thẳm. Kinh nghiệm của tôi về phụ nữ, vốn bao trùm nhiều nước ở ba lục địa, chưa bao giờ cho tôi được chiêm ngưỡng một khuôn mặt nào biểu lộ một tâm hồn tế nhị một cách tuyệt vời như thế. 

Shelock Holmes đẩy ghế tới mời cô ngồi. Tôi nhận thấy ngay miệng cô run run và đôi tay cô co quắp lại, toàn là những dấu hiệu của một sự xúc động nội tâm mãnh liệt. 

- Tôi đến gặp ông, thưa ông Holmes! - Nàng nói - bởi vì ông đã giúp bà Cecil Forrester vốn là người mà tôi phục vụ, gỡ được một vụ rắc rối trong gia đình bà ấy. Tài năng và nhiệt tình của ông đã làm bà ấy cảm kích vô cùng. 

- Bà Cecil Forrester à? - Anh nhắc lại, ra chiều nghĩ ngợi - À vâng, tôi nhớ đã giúp bà ấy một việc nho nhỏ. Tuy nhiên, nếu tôi còn nhớ rõ, thì đó chỉ là một vụ rất đơn giản thôi. 

- Vâng, nhưng đó không phải là ý kiến của bà ta. Dầu sao chăng nữa, chắc là ông sẽ không nghĩ như vậy về câu chuyện của tôi đâu. Tôi thật khó lòng mà tưởng tượng ra một câu chuyện lạ lùng hơn, và hoàn toàn không thể giải thích gì được. 

Holmes xoa tay vào nhau. Đôi mắt sáng ngời lên. Trong chiếc ghế bành, anh chồm tới trước với cái dáng nhìn nghiêng của loài chim săn mồi, và nét mặt đột nhiên biểu lộ một sự tập trung tư tưởng đến là lạ lùng. 

- Mời cô trình bày trường hợp của cô đi - Anh nói. 

Anh lấy giọng của một nhà doanh nghiệp. Địa vị của tôi lúc bấy giờ đâm ra khó xử, nên tôi đứng dậy cáo từ: 

- Mong quý vị miễn thứ cho tôi. 

Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi người phụ nữ khoát bàn tay đeo găng giữ tôi lại. 

- Nếu bạn ông vui lòng ngồi lại - Nàng nói - thì ông ấy có thể giúp đỡ tôi rất nhiều. 

Tôi đành phải ngồi xuống. 

- Sau đây là vắn tắt các sự kiện đã xảy ra - Nàng nói tiếp - Cha tôi là sĩ quan phục vụ tại Ấn Độ. Ông gởi tôi qua Anh thuở tôi hãy còn bé. Mẹ tôi mất sớm và ở đây tôi chẳng có người bà con nào. Vì vậy tôi được gởi vào một ký túc xá, nói đúng ra rất là đàng hoàng, ở Edinburgh, và tôi lưu lại tại đó mãi đến năm 17 tuổi. Đến năm 1878, cha tôi, với quân hàm đại úy cấp trung đoàn được nghỉ phép 12 tháng và trở về đây. 

Ông gởi cho tôi một điện tín từ London báo cho tôi biết là ông đã trở về bình an, và đợi gặp tôi ngay tại khách sạn Langham. Bức điện viết một cách đầy lòng yêu thương. Vừa đến London, tôi đi ngay tới khách sạn Langham. Tôi được người ta cho biết rằng đúng là đại úy Morstan có đăng ký phòng trọ tại đây, nhưng tối hôm qua ông ấy đã đi đâu đó mà chưa thấy trở về. Tôi chờ đợi trọn ngày hôm đó, nhưng bặt vô âm tín. Đến tối, theo lời khuyên của giám đốc khách sạn, tôi đi báo với cảnh sát sáng ngày hôm sau, mục rao vặt về việc này được đăng trên tất cả các báo. Công việc tìm kiếm của chúng tôi không kết quả, và cũng kể từ ngày đó tôi chẳng nhận được tin tức gì về người cha bất hạnh của tôi. Ông trở về quê hương lòng chứa chan hy vọng tìm được chút bình yên và an ủi, ấy thế mà... 

Nàng đưa tay lên cổ, câu nói nghẹn ngào qua tiếng khóc. 

- Xin cô cho biết rõ ngày, tháng xảy ra sự việc - Holmes vừa nói vừa mở sổ tay ghi chép ra. 

- Cha tôi mất tích ngày 3 tháng Chạp năm 1878, tính đến nay là đã gần 10 năm. 

- Còn hành lý thì sao? 

- Vẫn còn ở khách sạn đây. Nhưng cũng chẳng có dấu tích gì. Toàn là quần áo, sách vở, và rất nhiều vật hiếm, lạ mang từ đảo Andaman[1] về. Tưởng cũng cần nói rõ thêm rằng cha tôi là sĩ quan đồn trú, chịu trách nhiệm về những tên tội phạm bị đày biệt xứ đến đó. 

- Ở thành phố ông ấy có bạn bè nào không? 

- Theo chỗ tôi biết, cha tôi chỉ có một người bạn duy nhất: đó là thiếu tá Sholto, cùng đơn vị, trung đoàn bộ binh thứ 35 Bombay. Viên thiếu tá nay đã nghỉ hưu, trước đó một thời gian về sống ở Thượng Norwood. Chúng tôi có tìm cách liên lạc với ông ấy; nhưng ông ấy lại không ngờ rằng bạn ông ấy lại có mặt tại Anh. 

- Một vụ khá lạ lùng đây - Holmes nhận xét. 

- À xin lỗi, tôi quên không thuật lại với quý ông giai đoạn rối rắm nhất của câu chuyện. Cách đây 6 năm, ngày 4 tháng 5 năm 1882, nếu muốn chính xác hơn, trên nhật báo "Times", có đăng mục rao vặt hỏi thăm địa chỉ của cô Morstan, và còn nói rõ là cô nên cho biết tin tức về cô vì có lợi cho chính bản thân cô. Trong mục rao vặt đó, chẳng có tên, mà cũng không có địa chỉ. Lúc bấy giờ, tôi vừa mới được thâu nhận làm quản gia trong gia đình bà Cecil Forrester. Theo lời khuyên của bà này, tôi cũng nhờ đăng báo địa chỉ của tôi. Cùng ngày, tôi nhận được qua bưu điện một hộp nữ trang bằng giấy bồi, trong đựng duy nhất một viên ngọc trai cực lớn nước sáng rất đẹp. Kể từ ngày hôm ấy, năm nào cũng vậy, vào cùng ngày, tôi lại nhận được một bưu phẩm đựng một viên ngọc trai như thế, mà chẳng có tên tuổi, địa chỉ gì của người gởi. Tôi đã hỏi ý kiến một chuyên gia: những viên ngọc trai này thuộc một chủng loại hiếm có và có một giá trị to lớn. Mời ông cứ tự xem lấy mới thấy là đẹp biết nhường nào. 

- Nàng mở một chiếc hộp đẹp, đưa chúng tôi xem 6 viên ngọc: những viên ngọc tinh thuần nhất mà tôi chưa từng thấy. 

- Câu chuyện của cô rất là kỳ thú - Shelock Holmes nói - Có còn gì nữa không? 

- Vâng, còn ạ. Mới hôm nay thôi ấy chính vì vậy mà tôi đến gặp ông đấy. Sáng nay tôi có nhận được một bức thư. Thưa ông, đây. 

- Cám ơn, Holmes nói - Xin cho tôi xem cả phong bì. Dấu nhật ấn bưu điện London, khu vực Tây Nam. Ngày 7 tháng 7. Hừm! Ở phía góc, có dấu tay trái, có lẽ là của bưu tá. Loại phong bì 6 pence một tập. Giấy viết thư thuộc loại sang. 

Không địa chỉ. 

Bức thư như sau: 

"Bảy giờ tối nay xin có mặt tại Nhà hát Lyceum, cạnh cột thứ ba lối đi ra tỉnh từ bên trái. Nếu cô không tin tưởng, cô có thể mời hai người bạn đi theo. Cô là nạn nhân của một sự bất công và sự bất công này sẽ được đền bù. Xin đừng đem cảnh sát theo. Nếu không, tất cả sẽ thất bại. Người bạn vô danh của cố." 

- Thế đấy, quả là một bí ẩn nho nhỏ, ngồ ngộ. Cô có dự tính gì không, cô Morstan? 

- Đó lại chính là câu hỏi tôi muốn đặt ra với ông đấy. 

- Nếu thế thì, chắc chắn chúng ta sẽ đến điểm hẹn, cô, tôi và... dĩ nhiên, cả bác sỹ Watson nữa. Người viết thư cho cô chấp thuận cho cô mang theo hai người bạn: bác sỹ đây đúng là người mà ta cần. Chúng tôi đã từng làm việc chung với nhau. 

- Nhưng liệu ông ấy có muốn đến không? - Nàng hỏi bằng giọng thúc bách. 

- Tôi sẽ rất hãnh diện và sung sướng - Tôi sốt sắng nói - Nếu tôi có thể giúp cô phần nào đó. 

- Cả hai ông đều thật là tử tế quá - Nàng đáp - Tôi vốn sống một cuộc sống thầm lặng, và tôi chẳng có ai là bạn bè để nhờ cậy cả. Tôi nghĩ là ta sẽ có đủ thời giờ nếu tôi trở lại đây lúc 6 giờ. 

- Nhớ đừng đến trễ nhé - Holmes nói - Cho tôi hỏi thêm một câu. Tuồng chữ trên phong bì này có giống với tuồng chữ cô đã trông thấy trên mấy chiếc hộp đựng ngọc trai không? 

- Đây, tôi có sẵn đây - Nàng đáp và đưa ra 6 mẫu giấy. 

- Cô quả thật là một thân chủ gương mẫu, trực giác đã cho cô biết điều gì quan trọng trong nội vụ này. Nào, giờ ta hãy xem nào. 

Trải rộng mấy mẫu giấy lên bàn, anh so sánh bằng cái nhìn linh hoạt và sâu sắc. 

- Nét chữ thì giả mạo, trừ bức thư, song tác giả chắc chắn chỉ là một - Anh nói - Các bạn cứ xem kỹ chữ "e" kiểu Hy Lạp cứ xuất hiện mỗi lúc tác giả thiếu chú ý và nét cong đặc biệt ở chữ "s" cuối từ[2]! Tôi chẳng muốn gây cho cô niềm hy vọng giả tạo, cô 

Miorxtan ạ, nhưng cô thấy có gì giống nhau giữa nét chữ này và 

nét chữ của cha cô không? 

- Hoàn toàn không ạ. Hai tuồng chữ khác hẳn nhau. 

- Tôi cũng đoán trước câu trả lời ấy rồi. Thế thì xin hẹn đến sáu giờ chiều nay. Cho phép tôi giữ mấy tờ giấy này. Bây giờ chỉ mới ba giờ rưỡi và có thể tôi sẽ cần đến khoảng thời gian còn lại trước khi cô trở lại đây. Xin tạm biệt[3]! 

- Vâng, xin tạm biệt[4] - Thiếu nữ đáp lại. 

Cầm lại hộp ngọc trai, nàng mỉm cười duyên dáng và nhanh nhẹn ra về. 

Qua cửa sổ, tôi nhìn theo dáng đi thoăn thoắt của nàng trên đường phố, mãi đến khi chiếc khăn choàng đầu màu xám và chiếc lông vũ trắng tan biến đi giữa đám đông. 

- Chà! Cô gái mới quyến rũ làm sao! - Tôi vừa nói lớn vừa quay lại với bạn tôi. 

Anh đã đốt lại ống điếu và ngồi gọn sâu vào chiếc ghế bành, mắt nhắm lại. 

- Thật à? - Anh nói bằng giọng uể oải - Thế mà tôi không để ý đấy. 

- Anh đích thực là một người máy? - Tôi nói - Một cái máy biết lý luận. Đôi khi tôi thấy anh hoàn toàn mất hẳn nhân tính. 

Anh mỉm cười, đáp lại: 

- Có một điều tối quan trọng là tôi không được để bị ảnh hưởng bởi những tính chất riêng của từng người. Một thân chủ đối với tôi chỉ là một yếu tố trong một bài toán mà thôi. Tính cảm xúc cảm trở sức lập luận trong sáng và óc phán đoán lành mạnh. Người đàn bà quyến rũ nhất mà tôi đã từng biết đã bị treo cổ chỉ vì bà đã đầu độc 3 đứa con mình để lãnh món tiền bảo hiểm nhân mạng ký kết trên đầu chúng nó. Mặt khác, gã đàn ông đáng ghét nhất trong chỗ quen biết của tôi lại là một người đầy lòng nhân ái, dám bỏ ra gần nửa triệu bảng cho kẻ nghèo khó. 

- Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt này... 

- Tôi không bao giờ đặt ngoại lệ. Với tôi ngoại lệ phủ nhận quy tắc. Anh có bao giờ gặp dịp tìm hiểu tính tình của một người qua nét chữ của họ không? Và anh nghĩ gì về tuồng chữ như thế này? 

- Nó trông dễ đọc và đều đặn - Tôi đáp - Tuồng chữ của một người từng quen với công việc làm ăn, và có một cá tính khá mạnh mẽ. 

Holmes lắc đầu, không đồng ý. 

- Anh hãy nhìn những chữ có vòng gút: chúng chẳng khác gì nhau lắm. Chữ "d" cũng có thể là chữ "a", và chữ "l" có thể là chữ "e". Những người có cá tính luôn luôn viết rõ ràng những chữ có vòng gút, dầu cho họ có viết xấu đến đâu chăng nữa. Chữ "k" hơi run, và những chữ hoa chứng tỏ chút ít tự phụ... Thôi được. Giờ 

tôi phải đi. Tôi cần thêm vài tin tức. Để tôi giới thiệu với anh cuốn sách này trong khi chờ tôi; Watson ạ. Hay tuyệt đấy. Đó là cuốn "Kiếp đọa đày của con người"[5], của Winwood Reade. Trong vòng 1 tiếng nữa tôi sẽ trở về thôi. 

Tôi cầm lấy cuốn sách ngồi lại gần cửa sổ, song chẳng mấy chốc dòng suy nghĩ của tôi tách rời khỏi những thuyết lý táo bạo của nhà văn. Tôi hình dung lại cô thiếu nữ với nụ cười của nàng; tôi lại nghe thấy giọng nói uyển chuyển và êm ái khi nàng thuật lại điều bí ẩn lạ lùng đang bao trùm lên cuộc đời nàng. 

Nếu nàng vừa 17 tuổi lúc cha nàng mất tích, thì nay chắc nàng phải ở vào độ 27. Ôi, cái tuổi đẹp biết nhường nào? Cái tuổi thanh xuân, đang còn ở độ rực rỡ, tâm hồn không vướng bụi vị kỷ và lại được kinh nghiệm đời lắng dịu xuống... Tôi ngồi trong ghế bành, mải mơ màng như vậy cho đến khi những ý nghĩ độc hại ùa đến trí óc tôi. Thế là tôi đâm nhào đến bàn giấy và đọc ngấu nghiến đến quên mình tập thảo luận sau cùng về bệnh lý học. Nhưng, tôi là cái gì kia chứ? Một bác sĩ phẫu thuật trong quân đội, khổ sở vì cái chân yếu đuối và một trương mục ngân hàng lại càng yếu kém hơn nữa. Thế thì sao tôi lại có thể thả hồn theo dòng suy nghĩ ngông cuồng đến thế? Người thiếu nữ kia chẳng qua cũng chỉ là một thành phần, một yếu tố trong bài toán mà thôi. Nếu tương lai tôi có đen tối đi nữa, tốt hơn là cứ nhìn thẳng vào nó, mặt đối mặt, như một con người còn hơn là che đậy nó sau những hình ảnh ngông cuồng huyễn hoặc do óc tưởng tượng thêu dệt nên.

Chương 3

Đi tìm một giải đáp

Mãi đến 5 giờ rưỡi Holmes với trở về, hoạt bát và tươi cười, trông anh thật vui vẻ (tâm trạng này, ở anh, thường xen kẽ với tình trạng suy sụp sâu sắc). 

- Trong vụ này chẳng có gì là bí ẩn lắm đâu! - Anh vừa nói vừa đón lấy tách trà tôi mới rót cho anh - Các sự kiện xảy ra dường như chỉ chấp nhận có một lối giải thích mà thôi. 

- Sao? Anh đã tìm ra lời giải đáp rồi à? 

- Thật ra, nói như thế thì cũng đi quá xa đấy! Tôi mới chỉ tìm ra một sự kiện có ý nghĩa, thế thôi; nhưng nó rất có ý nghĩa. Còn thiếu một số chi tiết. Thật vậy, lúc tra cứu kho lưu trữ báo "Times", tôi vừa phát hiện ra rằng thiếu tá Sholto, ở Thượng Norwood, nguyên là sĩ quan thuộc trung đoàn 35 bộ binh, chết ngày 28 tháng Tư năm 1882. 

- Có lẽ tôi hơi tối dạ thật anh Holmes ạ, nhưng thật tình tôi chẳng thấy ý nghĩa gì trong đó cả. 

- Không à? Anh làm tôi ngạc nhiên đấy! Mời anh xét lại các sự kiện sau đây: Đại úy Morstan mất tích. Người duy nhất mà ông ta quen biết ở London là thiếu tá Sholto. Nhưng ông này quả quyết là không biết đại úy có mặt ở Anh. Bốn năm sau, Sholto chết. Trong tuần lễ tiếp theo sau cái chết, con gái đại úy Morstan nhận được một món quà có giá trị rất lớn, và năm nào cũng nhận được như vậy. Bức thư ngày hôm nay mô tả cô này như là nạn nhân của một sự bất công nào đó. Thế thì, với cô gái này, ngoài sự mất tích của người cha ra, đã phải chịu đựng những thiệt hại nào nữa chăng? Và tại sao những món quà lại khởi đầu ngay sau khi Sholto chết, nếu không phải là vì người thừa kế của ông này, phát hiện ra được một bí ẩn nào đó nên mới nảy ra ý muốn đền bù lại sự thiệt hại cho cô ta? Hay là anh có giả thuyết nào khác ăn khớp với tất cả các sự kiện kia chăng? 

- Dẫu sao thì đây cũng là một cách khá kỳ quặc để đền bù lại cho sự mất tích của người cha! Mà cách tiến hành cũng lạ lùng nữa chứ? Mặt khác, tại sao lại phải đợi đến hôm nay mới viết lá thư kia, mà không viết ra trước đây 6 năm? Sau cùng, 

còn vấn đề đền bù một sự thiệt thòi nữa chứ? Đền bù bằng cách nào? Bằng cách trả lại người cha cho con gái chăng? Ta không thể tin rằng người cha vẫn còn sống. Và người thiếu nữ kia không là nạn nhân của bất cứ một sự thiệt thòi nào khác. 

- Vâng, có khó khăn đấy! Nhưng chuyến đi của chúng ta chiều nay sẽ san bằng tất. A! Cỗ xe ngựa hòm đây rồi! Cô Morstan ngồi bên trong ấy, anh sẵn sàng chưa? Nào, ta đi xuống đi, đã quá 6 giờ rồi đấy. 

Tôi với lấy cái mũ và cây gậy chống to nhất. Tôi nhận thấy Holmes lấy khẩu súng ngắn trong ngăn kéo cho vào túi. Vậy là anh nghĩ rằng câu chuyện tối nay sẽ có hướng phức tạp rắc rối hơn. 

Cô Morstan thu mình trong chiếc áo choàng màu tối; khuôn mặt thanh tú phớt xanh nhưng vẫn điềm tĩnh. Có lẽ nàng cần phải có nhiều nghị lực hơn một người đàn bà bình thường, mới không cảm thấy xốn xang, hồi hộp trước một chuyến đi kỳ lạ mà chúng tôi sắp sửa dấn thân vào. Nếu căn cứ vào lối trả lời rành mạch của nàng đối với những câu hỏi của Holmes thì nàng rất tự chủ. 

- Qua thư từ - Nàng nói - Cha tôi kể rất nhiều về thiếu tá Sholto. Hai người chắc phải là thân nhau lắm. Chắc hẳn họ rất thường gặp nhau vì cả hai đều chỉ huy binh sĩ trên đảo Andaman. À, tôi vừa sực nhớ ra người ta có tìm thấy trên bàn giấy của cha tôi một tài liệu thật là lạ. Chẳng ai hiểu gì cả. Tôi không nghĩ là nó có một tầm quan trọng nào đó. Nhưng có lẽ ông cũng muốn xem qua. Thưa ông, đây. 

Holmes cẩn thận mở tờ giấy ra, đặt lên đầu gối vuốt lại cho phẳng phiu. Rồi anh dùng kính lúp xem kỹ mảnh giấy đó. 

- Loại giấy này được chế tạo tại Ấn Độ - Anh nhận xét - Đã có lúc nó được ghim vào một tấm bảng con. Sơ đồ vẽ ra trong đó xem như là họa đồ một phần của một tòa nhà to lớn có rất nhiều lối ra vào và hành lang. Một dấu chữ thập nhỏ được đánh dấu bằng mực đỏ. Bên trên dấu chữ thập, có chú thích: "3,37 

tính từ bên trải qua" viết bằng bút chì. Ở góc trái, một kiểu linh tự trông giống bốn chữ thập xếp hàng cạnh nhau. Cạnh đó, có ghi bằng nét chữ vụng về và thô kệch: 

"Dấu Bộ Tứ. Jonathan Small, Mahomet Singh, Abdullah Khan, Dost Akbar". 

- Không, anh ạ. Thú thật là tôi chả thấy tài liệu này có liên quan gì đến nội vụ của chúng ta. Song có điều chắc là nó quan trọng; chẳng thế mà nó được gấp xếp cẩn thận vào ví, vì mặt trái cũng sạch sẽ như mặt phải. 

- Đúng vậy, tối đã tìm thấy nó trong ví của cha tôi, cô Morstan nói. 

- Thế thì cô nên cất giữ nó cho kỹ lưỡng, cô Morstan ạ. Nó có thể giúp được việc cho ta đấy. Tôi chợt có ý nghĩ là phải chăng vụ này còn sâu sắc và tinh vi hơn là tôi tưởng lúc ban đầu. Chắc là tôi phải duyệt xét lại quan điểm của tôi. 

Holmes thu mình vào một góc trên ghế xe ngựa. Nhìn thoáng qua vầng trán hằn sâu những nếp nhăn và cái nhìn xa vắng của anh, tôi đoán ra là anh đang suy nghĩ lung lắm. Cô Morstan và tôi đang nhỏ to về chuyến đi này của chúng tôi và về kết quả có thể có được của nó, nhưng Holmes vẫn giữ lấy một thái độ dè dặt khó hiểu mãi cho đến cuối cuộc hành trình. 

Dạo ấy là vào tháng Chín, buổi chiều tối cũng ảm đạm như ban ngày. Một màn sương dày đặc và ẩm ướt thấm sâu vào thành phố lớn. Từng cụm mây màu đất bùn lê thê một cách thiểu não trên đầu thành phố lầy lội. Dọc theo phố Strand, 

những trụ đèn chỉ còn là những điểm sáng phân tán loãng và như tẩm dầu hắt ra một khoang ánh sáng yếu ớt xuống lòng đường nhầy nhụa. Đèn vàng trong tủ kính chiếu sáng đó đây bầu không khí ẩm hơi nước. Tưởng chừng như có một điều gì quái dị khác thường trong cảnh diễu hành vô tận của những khuôn mặt buồn thảm hay hân hoạn, âu lo hay mãn nguyện. Lướt nhẹ từ vùng tối ảm đạm ra vùng ánh sáng để rồi lại rơi vào cảnh tối tăm mờ mịt, những khuôn mặt ấy biểu tượng cho cả đám nhân loại. Bình thường thì tôi đâu có dễ gì bị xúc cảm, ấy thế mà cái ngoại cảnh ấy kết hợp với tính chất lạ lùng trong công việc chúng tôi làm đã khiến cho tôi phải xuống tinh thần. Thái độ của cô Morstan cũng giống như tôi vậy thôi. Còn Holmes thì lại có thể vượt lên trên những ảnh hưởng tương tự. Anh lật sổ tay, đặt lên đầu gối, đọc dưới ánh sáng của cây đèn bỏ túi. 

Tại Nhà hát Lyceum, thiên hạ chen lấn nhau trước cửa ra vào hai bên. Dọc theo mặt tiền nhà hát, xe ngựa hòm và xe tư nối đuôi nhau thành một hàng dài bất tận, các ông các bà xuống xe, súng sính trong bộ dạ phục. Chúng tôi vừa đến cột thứ ba là nơi hẹn gặp, thì một người đàn ông nhỏ thó tóc vàng sẫm, song linh hoạt, mặc cải trang làm người đánh xe ngựa tiến lại gần chúng tôi. 

- Các ông là người đi theo cô Morstan? - Gã hỏi. 

- Tôi là Morstan, còn hai ông này là bạn tôi - Nàng đáp. 

Gã ngước mắt nhìn chúng tôi, ánh nhìn xoi mói lạ thường. 

- Cô cũng miễn lỗi cho, cô Morstan ạ. Hắn nói giọng có phần hơi xấc xược, nhưng cô phải lấy danh dự mà bảo đảm rằng trong hai ông đây không ai là cảnh sát mới được. 

- Tôi xin bảo đảm đúng nhứ vậy. - Nàng trả lời. Gã huýt lên một tiếng lanh lảnh; một đứa bé dắt cỗ xe lại và mở cửa. Gã đàn ông leo lên ghế người đánh xe trong khi chúng tôi ngồi vào bên trong. Chúng tôi vừa an vị thì gã quất ngựa và đưa chúng tôi vào những đường phố sương mù với một tốc độ điên cuồng. Hoàn cảnh chúng tôi kể cũng oái oăm thật, chúng tôi đang đi đến một nơi nào không biết với những lý do cũng không rõ. Nghĩ lại thì lời mời này, hoặc là một trò bịp bợm từ đầu đến cuối - giả thiết này khó lòng đứng vững được - hoặc đây là bằng chứng cho thấy rằng có những sự cố quan trọng đang được chuẩn bị. Morstan thì có vẻ quả quyết dứt khoát hơn bao giờ hết. Tôi tìm cách làm cho nàng khuây khỏa bằng một vài mẩu chuyện phiêu lưu của tôi hồi còn ở Afghanistan. Nhưng nói đúng ra thì bản thân tôi cũng hồi hộp muốn biết nơi chúng tôi sẽ đến, nên câu chuyện tôi kể cũng đâm ra lộn xộn phần nào. Cho đến bây giờ nàng vẫn còn quả quyết là hồi đó tôi đã kể cho nàng nghe một giai thoại cảm động: có một đầu mũi súng xuất hiện bên trong lều tôi nghỉ vào lúc nửa đêm và tôi đã chụp ngay lấy khẩu súng săn của mình bắn về hướng đó. 

Dầu sao thì tôi cũng quan tâm đến lộ trình chúng tôi đang theo hơn là những câu chuyện cũ rích ấy. Lúc đầu, tôi đã theo dõi hướng đi của chúng tôi nhưng về sau, chẳng mấy chốc mà sương mù, tốc độ xe chạy và sự hiểu biết khá hạn chế của tôi về London khiến tôi không tài nào theo dõi được nữa. Tôi chẳng còn biết gì nữa, chỉ rõ một điều là chúng tôi đang đi một đoạn đường khá dài. Còn Shelock Holmes vẫn bám sát lộ trình. Anh gọi thầm tên các khu phố và những con đường quanh co mà xe chúng tôi ào ào băng qua. 

- Phố Rochester Row - Anh bảo - Giờ là Quảng trường Vincent. Ta đang đến đường Vauxhall Bridge. Dường như ta đang chạy về phố Surrey. Vâng, quả đúng như tôi đã nghĩ. Bây giờ, ta đang chạy trên cầu. Anh có thể thấy lấp lánh ánh nước sông. 

Thật vậy chúng tôi có thể nhận rõ một đoạn sông Thames hắt bóng một cách yếu ớt mấy ngọn đèn đường. Nhưng rồi xe đã qua bên kia cầu, đi vào những con đường quanh co khúc khuỷu. 

- Đường Wordsworth - Bạn tôi đọc tên - đường Priory, hẻm Lark Hall, Quảng trường Stockwell, phố Robert, hẻm Cold Harbour. Chà, cuộc điều tra của chúng ta không có vẻ gì là sẽ đưa ta đến một khu phố sang trọng nào đó đâu... 

Thực tình thì các đường phố chẳng có phút gì là hấp dẫn cả. Nét đơn điệu của những ngôi nhà gạch thảng hoặc mới được điểm bằng vài quán cà phê ở ngã tư đường. Tiếp đến, những tòa biệt thự hai tầng hiện ra giữa mảnh vườn bé tí hon. Rồi lại đến hàng dài bất tận những ngôi nhà mới tinh màu sắc lòe loẹt, trông chẳng khác nào những ống vòi quái dị mà thành phố khổng lồ tung và o vùng nông thôn lân cận. Sau cùng chúng tôi dừng lại trước căn nhà thứ ba trên một con đường xe mới ngoặt vào. Những căn nhà khác có vẻ như chưa có người ở. Căn nhà chúng tôi dừng lại cũng tối tăm như mấy căn nhà ấy, nhưng ở cửa sổ nhà bếp có ánh đèn leo lét. Chúng tôi vừa gõ cửa thì một gia nhân người Ấn Độ, đầu chít khăn vàng, lụng thụng trong bộ y phục có thắt lưng cũng màu vàng, ra mở cửa. Có một vẻ gì đó, không hòa hợp trong cảnh xuất hiện đầy màu sắc phương đông đóng khung trong ô cửa của một căn nhà ngoại ô tầm thường. 

- Chủ nhân tôi đang chờ đời quý ngài! Gã gia nhân nói. 

Cùng lúc, một giọng lanh lảnh và chói chang cất lên từ bên trong: 

- Mời họ vào, khitmutgar[1] - Giọng ấy thét lớn. Đưa họ vào đây ngay.

Chương 4

Câu chuyện của người hói đầu

Chúng tôi đi theo người gia nhân Ấn Độ dọc theo một hành lang bẩn thỉu, thiếu ánh sáng và thiếu cả bàn ghế. Cuối hành lang, hắn mở cánh cửa bên tay phải. Ánh đèn vàng rực đón tiếp chúng tôi. Giữa vùng sáng chói chang đột ngột đó hiện ra một người đàn ông thỏ thó với cái đầu hói khổng lồ bóng loáng. Một vành tóc hung chạy quanh đầu tự nhiên gợi cho ta hình ảnh đỉnh một quả núi nổi lên từ giữa đám rừng thông. Người đàn ông đứng thẳng, vặn đôi tay với nhau, vẻ bứt rứt. Nét mặt thay đổi không ngừng, hết mỉm cười rồi lại cau có mà ta chẳng biết tại sao. Ngoài ra, môi dưới của ông ta bị tật trễ xuống, để lộ hàng răng vàng bệch và mọc lộn xộn. Ông tìm cách che đậy bằng cách chốc chốc lại đưa tay che phần dưới mặt. Ông có vẻ còn trẻ, tuy bị hói đầu: thực ra, ông vừa mới ba mươi tuổi. 

- Kính hầu cô, cô Morstan! Ông nhắc đi nhắc lại bằng một giọng lanh lảnh - Kính hầu quý ngài: Xin mời quý ngài hạ cố bước vào bên trong ẩn phòng nhỏ bé của tôi. Nó không lớn lắm đâu; thưa cô, song tôi đã thiết trí nó theo sở thích của tôi: một thánh đảo huy hoàng giữa bãi sa mạc nóng bỏng của Nam London. 

Cả ba chúng tôi đều bàng hoàng ngơ ngẩn trước quang cảnh gian phòng ông mời chúng tôi vào. Trong ngôi nhà buồn tẻ này, gian phòng trông đến lạc lõng, chẳng khác nào viên kim cương tinh khiết nhất lại gắn vào một chiếc nhẫn đồng. Bốn bức tường được trang hoàng bằng thảm và màn với màu sắc và nghệ thuật rất tuyệt vời, đôi chỗ người ta vén lên một chút để làm nổi bật hơn một lọ cổ phương Đông hoặc một bức tranh lồng khung sặc sỡ. Tấm thảm trải lên sàn nhà màu hổ phách có vân đen, dày đến độ chân ta lún vào đấy thật khoan khoái như bước lên 

một lớp rêu. Hai tấm da cọp rộng lớn tăng thêm vẻ huy hoàng Đông Phương. Một cỗ điếu cày to tướng đặt trên một cái mâm chẳng làm giảm vẻ đẹp đẽ của toàn cảnh chút nào. Từ chiếc đỉnh trầm treo bằng một sợi dây vàng nhỏ gần như mắt không trông thấy được, ngay giữa gian phòng, tỏa ra một mùi hương nồng thắm. 

Người đàn ông vừa lăng xăng vừa tự giới thiệu: 

- Tôi là Thaddeus Sholto. Cô chắc hẳn là cô Morstan? Còn các ông đây là...? 

- Xin giới thiệu: đây là ông Shelock Holmes và bác sỹ Watson. 

- Ồ, một bác sỹ à? Ông la lớn, vẻ kích động rõ ràng - Thế ông có mang ống chẩn bệnh theo không? Tôi có thể hỏi thăm ông là...? Xin ông vui lòng...? Tôi đang rất lo ngại không biết cái mão biện mạc của tôi có hoạt động tốt không, và nếu không phải là quá lợi dụng lòng tốt của ông thì...? Tôi nghĩ là cái động mạch chủ của tôi thì không sao, nhưng tôi rất mong được biết ý kiến của ông về cái mão biện mạc. 

Tôi khám tim cho ông theo lời ông yêu cầu, nhưng thấy chẳng có gì là bất thường, chỉ có điều là hình như ông đang đau khổ về một nỗi lo sợ thầm kín nào đó: Toàn thân ông ta run lẩy bẩy từ đầu xuống chân thế kia. 

- Mọi sự đều có vẻ bình thường - Tôi bảo - Ngài chẳng có lý do gì để phải lo lắng cả. 

- Xin cô cũng vui lòng bỏ qua cho tôi nỗi lo âu hồi hộp này, cô Morstan ạ - Ông nói bằng giọng nhẹ nhàng hơn - Sức khỏe của tôi rất yếu kém, và từ lâu nay cái biện mạc ấy vẫn làm tôi băn khoăn mãi. Nay tôi rất đỗi vui mừng được biết rằng không có gì đáng ngại. Này cô, nếu thân phụ cô không làm nhọc tim mình quá độ, thì hôm nay ông ấy có thể vẫn còn sống đấy. 

Thật tôi muốn tát tai ông ấy quá. Lối nói năng thô bạo và thờ ơ về một chuyện đau buồn như thế làm tôi tức đến lộn ruột. 

Cô Morstan ngồi xuống, mặt mày tái nhợt, đôi môi trắng bệch ra. 

- Trong thâm tâm, tôi cũng biết là cha tôi đã chết rồi. 

- Tôi có thể thuật lại cho cô mọi chi tiết. Hơn nữa, tôi có thể đem lại công bằng cho cô. Và tôi sẽ làm đúng như thế, dù anh Bartholomew của tôi có nói gì đi nữa. Tôi rất mừng là các bạn cô có mặt ở đây. Không phải chỉ vì họ làm cho cô an tâm mà còn vì họ sẽ là nhân chứng cho những điều tôi sắp nói và làm. Bốn chúng ta đây cũng đủ đương đầu với anh Bartholomew của tôi rồi. Nhưng ta chớ để kẻ lạ xen vào? Cảnh sát hay các viên chức khác cũng thế! Nếu không có sự can thiệp không phải lúc thì ta sẽ có cách thu xếp mọi chuyện rất thỏa đáng. Nếu làm rùm beng chuyện này lên thì anh Bartholomew sẽ bực mình lắm đấy. 

Ông ngồi trên chiếc ghế tròn thấp, cặp mắt xanh yếu ớt và kèm nhèm nhìn chúng tôi như lục vấn. 

- Riêng về phần tôi, những điều ông sắp sửa nói ra chắc là không đi xa hơn những suy nghĩ của tôi lắm đâu - Holmes bảo. 

Tôi gật đầu đồng tình. 

- Điều đó tốt thôi! - Ông ta nói: - Rất tốt thôi! Tôi có thể mời cô dùng ly rượu Chianti được chăng, cô Morstan? Hoặc một ly Tokay nhé? Tôi chẳng có thứ rượu vang nào khác. Tôi khui một chai nhé? Không à? Thế thì tôi mong rằng khói thuốc không làm cô khó chịu: Thuốc lá phương Đông có một mùi thơm đậm đà. Tôi hơi nóng tính, như cô thấy đấy, và thứ thuốc điếu cày này đối với tôi là một liều an thần tuyệt diệu. 

Ông đưa ngọn nến xích lại gần và trong khoảnh khắc từng tăm khói thuốc lọc qua nước màu hồng. Ngồi thành hình bán nguyệt, đầu hơi chồm về phía trước, cằm tỳ lên bàn tay, cả ba chúng tôi chăm chú nhìn con người nhỏ bé với cái đầu to tướng 

láng bóng ấy, đối diện với chúng tôi, rít từng hơi thuốc trên ống điếu bằng dáng điệu thiếu tự tin. 

- Sau khi quyết định bắt liên lạc trực tiếp với quý vị - Ông nói - tôi cũng ngần ngại lắm mới cho biết địa chỉ của mình. Tôi e rằng quý vị không theo lời yêu cầu của tôi, đem theo những kẻ có thể gây ra phiền hà. Thế nên tôi đã mạn phép định với quý vị một điểm hẹn sao cho Williams có thể trông thấy quý vị trước. Tôi hoàn toàn tin tưởng anh ta. Vả lại tôi cũng đã căn dặn anh ấy đừng đưa quý vị đến đây, nếu thấy có dấu hiệu khả nghi. Quý vị chắc cũng miễn chấp cho tôi về những biện pháp phòng đó, nhưng thật tình là tôi đang sống một cuộc đời có phần ẩn dật. Hơn nữa, không có gì làm cho tính mẫn cảm của tôi, mà tôi có thể coi là rất tinh tế, một phát ghê tởm bằng một tên cảnh sát. 

Tôi có xu hướng bẩm sinh là tránh mọi hình thức thô bạo; và rất hiếm khi tôi tiếp xúc với cái đám bằng dân hạ đẳng kia. Như quý vị đã thấy, tôi sống trong một khung cảnh thanh lịch. Tôi có thể tự cho tôi là người bảo vệ nghệ thuật. Ấy, nhược điểm của tôi là ở chỗ đó. Cảnh này là một bức tranh của họa sỹ Corot chính hiệu đấy. Còn đây, về bức tranh này của họa sỹ Salvator Rosa, thì một chuyên gia có thể dè dặt nêu lên một vài điểm yếu; nhưng ngược lại, bức tranh này của Bouguereau, thì không có gì phải bàn cãi thêm nữa. Tôi có xu hướng rõ rệt với trường phái hội họa của Pháp mới đây, thú thật như vậy. 

- Xin lỗi ông Sholto, cô Morstan cất tiếng - Tôi đến đây theo lời yêu cầu của ông để nghe những điều ông muốn nói với tôi. Bây giờ cũng đã muộn lắm rồi, và tôi mong sao cuộc hội kiến này càng chóng càng tốt. 

- Dẫu cho rằng một sự sẽ êm xuôi, thì cũng phải còn lâu lắm ạ. - Ông đáp - Chắc chắn là ta sẽ phải đi đến Norwood để gặp anh Bartholomew của tôi. Chúng ta sẽ cố gắng thuyết phục anh ấy làm cho anh ấy phải nghe ra lẽ phải mới được. Anh ấy rất giận tôi vì tôi đã làm điều mà tôi cho là đúng. Tối qua chúng tôi đã gần đi đến chỗ cãi lộn nhau rồi đấy. Quý vị không thể tưởng tượng được mỗi khi anh ấy nổi giận thì anh ấy khủng khiếp như thế nào. 

- Nếu cần đi đến Norwood tốt hơn có lẽ ta nên đi bây giờ chăng? - Tôi đánh bạo nói. 

Ông vụt cười đến đỏ bừng cả tai. 

- Không được đâu! Ông kêu lên - Tôi không biết anh ấy sẽ phản ứng ra sao nếu tôi đưa quý vị đến đấy một cách đột ngột như vậy. Không ạ, chưa tiện, tôi cần giải thích cho anh ấy rõ vị trí của mỗi người trong chúng ta. Và trước hết, cần phải nói thêm là trong câu chuyện này, còn một số điểm mà chính tôi cũng còn chưa được tỏ tường. Tôi chỉ có thể trình bày cho quý vị thấy những gì mà tôi được biết. 

Thiếu tá John Sholto, thuộc đạo quân ở Ấn Độ, là thân sinh ra tôi, chắc quý vị cũng đã đoán biết. Ông nghỉ hưu cách đây gần 11 năm và đến định cư tại biệt trang Pondicherry, khu Thượng Norwood. Tại Ấn Độ ông rất giàu; lúc trở về, ông mang theo một số tiền kếch sù, một bộ sưu tập phong phú những báu vật hiếm có, và sau cùng là một số gia nhân người bản xứ. Thế rồi ông tậu một ngôi nhà và sống rất đế vương. Chúng tôi, anh Bartholomew và tôi là con song sinh, độc nhất. 

Tôi nhớ rất rõ nỗi sửng sốt khi hay tin đại úy Morstan mất tích. Chúng tôi đọc chi tiết nội vụ đăng trong các nhật báo, và được biết ông ấy là bạn thân của cha tôi, nên chúng tôi công nhiên thảo luận vụ ấy trước mặt ông. Vả lại; chính ông cụ cũng tham gia ý kiến với chúng tôi để giải thích điều bí ẩn này. Nhưng tuyệt nhiên, không bao giờ, một trong hai chúng tôi lại có ý ngờ rằng ông cụ lại giữ kín điều bí mật tận đáy lòng. Tuy nhiên, ông cụ biết rõ, và trên đời này chỉ có mình ông cụ mà thôi, về số phận của Arthur Morstan. 

Có điều chúng tôi cảm thấy một điều bí ẩn nào đó, một hiểm nguy thật sự đang đe dọa cha chúng tôi. Ông cụ rất sợ phải ra phố một mình và mướn cả hai cựu võ sĩ quyền anh chuyên nghiệp làm người gác cổng. Williams, người đã đưa quý vị đến đây tối nay là một trong hai tay đó. Đã có dạo anh chàng này là vô địch hạng nhẹ của nước Anh đấy. Cha chúng tôi không muốn thổ lộ nguyên nhân những nỗi sợ hãi của ông, nhưng ông cụ vô cùng kinh tởm những người đi chân gỗ, đến độ, một ngày nọ, ông cụ không do dự bắn một phát súng ngắn vào một người như thế, mà thực ra đó chỉ là một nhân viên chào hàng vô hại đang đi kiếm mối. Chúng tôi đã phải trả một khoản tiền rất lớn mới giữ kín được việc này. Anh tôi và tôi sau cùng rồi cũng cho đây chỉ là tính ngông của tuổi già thôi. Nhưng các sự cố tiếp theo buộc chúng tôi phải thay đổi ý kiến. 

Đầu năm 1882 trong lúc đang đọc báo trước bữa điểm tâm, cha tôi nhận một bức thư từ Ấn Độ gởi sang. Ông suýt ngất xỉu và cũng từ ngày đó ông cụ héo hon dần. Lúc ấy chúng tôi không đọc được nội dung lá thư kia, nhưng đến khi ông cụ tỉnh lại tôi thấy nó chỉ gồm vài câu viết hí hoáy. Suốt nhiều năm sau, ông cụ mắc chứng sưng gan; tình trạng suy sụp rất nhanh. Khoảng cuối tháng Tư, chúng tôi được thông báo là ông cụ không còn hy vọng gì nữa và muốn nói chuyện với chúng tôi một lần cuối. 

Khi chúng tôi bước vào phòng, ông cụ đang ngồi, người được đỡ bằng nhiều gối, và thở rất khó nhọc. Ông bảo chúng tôi khóa cửa lại và ngồi xuống bên cạnh giường. Nắm chặt lấy tay chúng tôi, ông cụ thuật lại chúng tôi nghe một câu chuyện thật là ly kỳ. Cơn xúc động và đau đớn đôi lúc đã khiến ông phải ngắt lời. Tôi cố gắng kể lại nguyên văn lời ông: 

"Vào giây phút cuối cùng này - Ông cụ nói - chỉ còn một điều duy nhất làm cha khổ tâm: đó là cung cách cha đã đối xử với cô gái mồ côi của anh bạn Morstan đáng thương của cha. Do cái tính keo kiệt đáng nguyền rủa vốn là nguyên nhân tội lỗi của cha, cô bé đã bị truất mất một kho báu mà ít ra nó cũng có quyền được hưởng một nửa. Tuy nhiên, chính cha cũng không sử dụng đến của ấy, bởi vì tính keo kiệt đã khiến cha đâm ra mù quáng và ngu xuẩn. Của cái đã khiến cha quên hết tất cả nên cha không muốn chia sớt cho ai, dầu ít đến đâu chăng nữa. 

Các con có trông thấy chuỗi ngọc bên cạnh lọ thuốc quinine của cha không? Đấy, mãi cho đến nay, cha vẫn chưa quyết định dứt khoát là nên xa nó đấy, các con à. Vì thế mà cha đã lấy nó ra với quyết định gởi nó cho cô gái kia đấy. Vậy, nay đến lượt các con, các con hãy gởi cho cô ấy một phần công bằng trong kho báu vật Arga[1] nhưng chớ gởi gì cả, dẫu chỉ là một hạt ngọc trước khi cha chết. Dầu sao thì cũng có rất nhiều người còn đau yếu hơn cha mà vẫn bình phục được!". 

Giờ cha sẽ cho các con biết Morstan đã chết như thế nào - Ông cụ nói tiếp - Từ lâu, ông ấy mắc chứng đau tim, nhưng chẳng nói cho ai biết cả. Chỉ có mình cha là rõ chuyện ấy. Dạo còn ở bên Ấn Độ, nhờ thời cơ đặc biệt lạ lùng, ông ấy và cha 

nắm trong tay một kho báu to lớn. Cha chuyển nó về Anh và ngay tối hôm về nước, Morstan đến đòi phần mình. Ông ta đã đi bộ từ nhà ga và chính Lal Chowdar, tên gia nhân trung thành của cha chết từ sau dạo ấy, đã đưa ông ta vào nhà. Một cuộc cãi vã bùng ra sau khi ông ấy và cha bàn tính chuyện chia chác kho báu. Lúc tức giận cực điểm, Morstan vụt đứng dậy, rồi đột ngột đưa tay sang bên. Mặt mất hết thần sắc, ông ngã ngửa người ra. Đầu ông chạm mạnh vào góc chiếc hộp đựng báu vật. Cha cúi xuống nhìn xem và kinh hoàng khi thấy ông ta đã chết. 

Cha ngồi bất động hồi lâu trong ghế bành, đầu óc trống rỗng, chẳng biết phải làm gì nữa, ý nghĩ đầu tiên của cha lúc bấy giờ dĩ nhiên là chạy đi cầu cứu. Nhưng nếu thế thì chẳng hội đủ điều kiện để cha bị buộc vào tội sát nhân đó sao? Cái chết của ông ta xảy đến trong một cuộc cãi vã; lại còn vết da đầu nứt lúc ông ấy té; bao nhiêu suy đoán chống lại cha. Hơn nữa, một cuộc điều tra chính thức sẽ phát hiện về kho báu vật kia, điều mà cha chẳng muốn phổ biến tí nào. Morstan đã báo với cha rằng: chẳng ai hay biết gì về việc ông ấy đến nhà cha; vậy thì cũng chẳng cần để cho ai biết thêm làm gì nữa. Cha đang mải suy nghĩ như thế thì, lúc ngước mắt lên, bỗng dưng cha thấy Lal Chowdar hiện ra trong khung cửa. Hắn bước vào không một tiếng động rồi khóa trái cửa lại. 

"Thưa chủ nhân, ngài đừng e sợ gì cả! Hắn bảo - Chẳng cần để cho ai biết ngài đã giết ông ta. Ta đem đi giấu cho xa đi thì còn ai mà biết nữa?" 

- Ta không giết ông ấy! 

Lal Chowdar lắc đầu mỉm cười. 

"Tôi đã nghe thấy, thưa chủ nhân - Hắn bảo -Tôi đã nghe cuộc đấu khẩu và tôi cũng đã nghe tiếng nổ. Nhưng miệng tôi đã khóa lại rồi. Mọi người trong nhà đang ngủ. Nào, ta hãy đưa ông ấy đi cho xa". 

Những câu nói ấy giúp cha quyết định. Nếu tên gia nhân trung thành nhất của mình mà còn không tin được là mình vô tội, thì làm sao cha có thể thuyết phục mười hai bị thịt trong bồi thẩm đoàn? Lal Chowdar và cha phi tang thi thể ngay trong đêm ấy. Ít hôm sau báo chí London thắc mắc về vụ mất tích đầy bí ẩn của đại úy Morstan. Cứ theo lời cha thuật lại, các con cũng thấy là không thể đổ riệt cái chết ấy cho cha được. Sai lầm của cha là ở chỗ chẳng những cha đã cất giấu thi thể của Morstan, mà còn giấu luôn cả kho báu vật, trong đó một phần đương nhiên thuộc về Morstan hoặc con cháu ông ta. Vậy nên cha muốn các con hoàn trả lại số của đó. Lại gần đây mà xem này. Kho báu vật được cất giấu trong... 

Ngay lúc đó, nét mặt của ông cụ bỗng thất sắc vì khiếp đảm: cặp mắt điên dại và mồm há hốc ra. "Đuổi nó đi ngay! Trời ơi, đuổi nó đi ngay". Ông hét lớn bằng cái giọng mà tôi không bao giờ quên được. Chúng tôi trông về phía cửa sổ nơi ông cụ đang nhìn chăm chăm. Một khuôn mặt từ trong bóng tối hiển ra nhìn chúng tôi chăm chú. Một cái đầu rậm tóc râu với tia nhìn hung bạo, man rợ, chất chứa mốt nỗi căm hờn cháy bỏng. Chúng tôi đổ xô về phía cửa sổ, nhưng người kia đã biến mất. Khi chúng tôi trở về chỗ ông cụ, thì cằm ông đã gục xuống và mạch ông đã ngừng đập. 

Đêm ấy chúng tối sục sạo khắp khu vườn, nhưng chẳng tìm thấy gì ngoài dấu chân thọt giữa luống hoa. Nếu không có dấu chân này, chắc chúng tôi sẽ nghĩ rằng khuôn mặt hung dữ kia chỉ là do trí tưởng tượng của chúng tôi tạo ra. Tuy vậy, chúng tôi có thêm một bằng chứng khác nữa, còn rõ ràng hiển nhiên hơn, là kẻ thù đang vây bủa chúng tôi. Thật vậy, qua sáng hôm sau người ta thấy cửa sổ phòng cha chúng tôi có ai đã mở trước rồi; tủ, ngăn kéo bị lục soát kỹ, và trên ngực người chết, có gắn một mảnh giấy với hàng chữ nguệch ngoạc: "Dấu bộ tứ". Đến nay chúng tôi vẫn chưa hiểu được những từ ấy có ý nghĩa gì, mà cũng chẳng rõ ai là tác giả. Mới nhìn qua thì chẳng có gì mất mát cả tuy đồ đạc đã bị lục tung lên. Từ câu chuyện đầy chất quái đản này, anh tôi và tôi đã đặt mối liên hệ bình 

thường với nỗi khiếp sợ mà cha chúng tôi đã phải chịu đựng cả cuộc đời. Nhưng với chúng tôi điều bí ấn kia vẫn còn nguyên vẹn. 

Người đàn ông nhỏ bé ấy ngừng lại để đốt ống điếu cày rồi im lặng hút vài hơi trong một lúc. Ba chúng tôi ngồi yên, bàng hoàng trong câu chuyện lạ lùng này. Trong những khoảnh khắc ngắn ngủi mà cái chết của thân phụ được mô tả lại, cô Morstan biến sắc, tái nhợt và tôi sợ rằng nàng bất tỉnh. Tuy nhiên, nàng cũng đã trấn tĩnh được sau khi uống cốc nước tôi đã kín đáo rót cho nàng ở chiếc bình pha lê kiểu Venetian ở bên cạnh. Shelock Holmes ngồi lọt vào ghế trong một tư thế lơ đãng, đôi mắt lim dim. Trông anh tôi không thể không nhớ lại mới hồi sáng nay thôi, anh than phiền về cái tầm thường của cuộc sống! Thì ít ra bây giờ anh chuẩn bị mang tài xét đoán sáng suốt của mình ra thử thách đây... Cái nhìn của ông Thaddeus Sholto lần lượt chuyển từ người này qua người khác. Hiển nhiên là tự hào về tác dụng do câu chuyện kể gây nên, thỉnh thoảng ông ngừng lại để kéo một khói thuốc. 

Như quý vị có thể đoán được, anh tôi và tôi rất quan tâm đến kho báu mà cha chúng tôi đã đề cập tới. Tuần này qua tháng nọ, chúng tôi lùng sục, đào xới từng mảnh đất trong vườn song chẳng tìm ra chỗ cất giấu. Cứ nghĩ đến điều bí mật kia đã đọng lại trên môi khi ông cụ qua đời là cũng đủ khiến chúng tôi điên tiết vì chán ngán. Cứ nhìn vào chuỗi ngọc kia chúng tôi cũng đoán ra được kho báu kia phải rực rỡ, lộng lẫy đến đâu rồi. Vả chăng, anh tôi và tôi, chúng tôi cũng đã tranh luận nhau về chuyện này. Những hạt ngọc tất nhiên là có một giá trị to lớn và anh Bartholomew không muốn phải xa rời chúng. Nói riêng để quý vị biết là anh tôi thừa hưởng được của cha tôi cái xu hướng biển lận. Anh ấy cũng nghĩ rằng chuỗi ngọc kia có thể gợi trí tò mò và đem đến cho chúng tôi những chuyện phiền phức sau này. Anh chỉ đồng ý với tôi một điểm là tôi sẽ tìm ra địa chỉ cô Morstan và cứ đều đặn gởi đến cô một viên ngọc, để cô khỏi phải sống trong cảnh thiếu thốn. 

- Ông thật là nhân từ bác ái quá - Người thiếu nữ hồn nhiên nói - Tôi biết ơn ông vô cùng! 

Người đàn ông khoát tay. 

- Ấy không phải thế đâu? Ông nói - Chúng tôi là những kẻ thụ thác của cô. Hay ít ra đó cũng là điều suy nghĩ của tôi, chứ thú thật với quý vị là anh Bartholomew không hiểu như tôi. Bản thân chúng tôi sống trong cảnh an nhàn sung túc. Tôi không còn ham muốn gì nữa. Vả chăng, thật là quá tệ nếu tỏ ra bủn xỉn với một phụ nữ. Người Pháp đã chẳng nói một cách chẳng kém lịch sự là "Sự thiếu ý tứ dẫn đến tội ác"[2] đó sao? Tóm lại, mối bất hòa giữa chúng tôi ngày càng sâu sắc hơn nên tôi thấy tốt hơn là tôi nên đi ở riêng. Thế là tôi rời khỏi biệt trang Pondicherry, mang theo Williams và tên gia nhân người Ấn già[3]. 

Nhưng hôm qua tôi được hay một tin rất quan trọng: kho báu đã bị khám phá. Lập tức tôi viết thư cho cô Morstan, và giờ đây tôi chỉ còn mỗi một việc là đi đến Norwood để đòi phần của chúng ta. Đêm qua, tôi đã trình bày quan điểm của tôi với anh tôi. Cuộc viếng thăm của chúng ta chắc hẳn là không ai mong muốn đâu, nhưng chắc là có người đợi. 

Ông Thaddeus Sholto ngừng nói, nhưng vẫn không ngớt cựa quậy trên chiếc ghế nệm tròn sang trọng. Tất cả chúng tôi đều ngồi lặng yên suy nghĩ kỹ hơn về những biến chuyển mới trong vụ đầy bí ẩn này, và Holmes là người đầu tiên đứng dậy. 

- Từ đầu chí cuối, ngài đã hành động rất đúng, thưa ngài - Anh nói - Có lẽ chúng tôi còn phải khiêm tốn tỏ lòng biết ơn đối với ngài vì ngài đã làm sáng tỏ những điểm còn tối tăm khó hiểu đối với chúng tôi. Nhưng bây giờ cũng đã muộn rồi, như cô Morstan đã nhận thấy, và ta không nên phí mất thì giờ. 

Gia chủ cẩn thận cuộn ống hút bình thuốc trả lại rồi lấy từ sau tấm màn cái áo măng-tô dài và nặng, cổ bằng da lông cừu non. Ông cài nút cẩn thận mặc dầu khí hậu nặng nề không lạnh này và sửa lại trên đầu chiếc cát-két bằng da nhỏ với đôi vành che phủ tai. 

- Sức khỏe của tôi có phần yếu kém, ông vừa bảo vừa hướng dẫn chúng tôi trong dãy hành lang. Vì thế nên tôi buộc phải đề phòng. 

Cỗ xe đợi chúng tôi. Cuộc hành trình có vẻ như đã được dự kiến trước, vì người đánh xe cho xe chạy nhanh ngay sau đó. Thaddeus vẫn không ngừng nói bằng giọng ồm ồm át cả tiếng đánh xe lăn trên đường. 

- Bartholomew là một con người giàu sáng kiến - Ông bắt đầu nói - Theo quý vị nghĩ thì anh ấy phát hiện ra kho báu bằng cách nào? Anh đi đến kết luận là nó phải nằm vào một nơi nào đó trong nhà. Thế là anh bắt đầu tính toán kích thước chính xác của ngôi nhà, ghi chép vào sổ rồi kiểm tra lại. Cứ thế nên trong nhà không có một inch nào lọt khỏi vòng điều tra tìm kiếm của anh. Chẳng hạn, anh để ý thấy rằng chiều cao toàn bộ ngôi nhà là 74 feet, nhưng khi cộng chiều cao các tầng với nhau, thì chỉ mới có 70 feet, dầu có tính khoảng cách giữa trần và sàn nhà một cách rộng rãi chăng nữa. Vậy còn thiếu 4 feet. Phần thiếu này chắc chắn là phải ở trên mái nhà. Anh ấy liền khoét thủng một lỗ trên trần trong căn phòng cao nhất và phát hiện ra một cái gác nhỏ căn gác xép này bốn bề tường xây kín, nên không ai biết đến nó cả. Ở ngay giữa gác, là kho báu đặt trên hai cây đà. Anh đưa nó xuống qua lỗ hổng, và mở hộp ra... số châu báu trong hộp trị giá ít nhất cũng lên đến nửa triệu sterling[4]. 

Khi nghe nói đến số tiền khổng lồ này, chúng tôi trố mắt nhìn nhau. Nếu chúng tôi có cách bảo đảm quyền lợi của cô Morstan, người quản gia đang nghèo túng, thì cô sẽ là người nữ thừa kế giàu nhất nước Anh! Một người bạn trung thực dĩ nhiên chỉ có thể vui mừng trước một cái tin như vậy. Nhưng tôi phải hổ thẹn mà thú nhận rằng lòng vị kỷ của tôi mạnh hơn hết mọi sự và tim tôi đã hóa thành chì. Tôi lắp bắp dăm ba câu chúc mừng rồi ngồi thụp vào ghế, đầu gục xuống, đắm chìm trong nỗi thất vọng, không buồn nghe Thaddeus nói năng những gì nữa. Đây đích thực là một kẻ mắc chứng ưu uất lo sợ. Tôi mang máng nghe ông ta tuôn ra một tràng bất tận những triệu chứng bệnh và nài nỉ hỏi thăm tôi về thành phần cấu tạo cùng tác dụng điều trị của vô số thứ thuốc lang băm. Trong túi ông có mang theo vài mẫu xếp ngăn nắp trong một cái túi da. Tôi mong sao ông chẳng nhớ được gì về những câu trả lời của tôi đêm hôm ấy. Holmes cả quyết là anh có nghe tôi bảo ông ta hãy coi chừng chớ dùng quá hai giọt dầu đu đủ kẻo nguy hiểm. Và tôi cũng đề nghị ngược lại và nên dùng mã tiền với liều lượng cao để làm thuốc xổ. Dẫu sao tôi cũng thấy nhẹ nhõm khi cỗ xe dừng lại sau cái lắc cuối cùng. Người đánh xe nhảy xuống khỏi ghế, mở cửa cho chúng tôi. 

- Đây là biệt trang Pondicherry, thưa cô Morstan -Thaddeus Sholto vừa nói vừa đưa tay đỡ cô xuống.

Chương 5

Tấm thảm kịch ở biệt trang Pondicherry

Lúc ấy gần 11 giờ khuya. Chúng tôi bỏ lại đằng sau sương mù ẩm thấp của thành phố lớn, và đêm khá đẹp. Một cơn gió ấm áp chở những tảng mây nặng nề chậm chạp trôi từ phía tây qua vòm trời. Vành trăng non chợt hiện, chợt biến từng hồi. 

Ánh sáng tự nhiên cũng đủ soi sáng khá xa, nhưng Thaddeus vẫn lấy chiếc đèn lồng trong xe ra. Biệt trang Pondicherry có một khu vườn rộng mênh mông. Một bức tường đá cao lởm chởm mảnh chai vụn cô lập nó hoàn toàn. Một cái cửa hẹp được tăng cường những thanh sắt là lối vào độc nhất. Người hướng dẫn gõ cửa theo mật hiệu riêng. 

- Ai đó? - Một giọng kèn hòa nhã hỏi lớn. 

- Ta đây? McMurdo. Kìa, từ bao lâu nay chắc anh đã nhận ra cách gõ cửa của ta rồi chứ? 

Trả lời ông là một tiếng động không rõ ràng, rồi tiếng xâu chìa khóa khua lách cách. Cánh cửa xoay nặng nề trên bản lề. Trong ánh đèn lồng, một người đàn ông dáng thấp, vóc khỏe, hiện ra ở khung cửa nhìn chúng tôi bằng cài chớp mắt ngờ vực. 

- Ông đấy à, - Thaddeus? Còn những người này là ai? Tôi không nhận được lệnh gì về họ cả. 

- Không à? Anh làm tôi ngạc nhiên đấy. McMurdo à! Tối qua ta đã bảo trước với anh ta là ta sẽ đến cùng vài người bạn kia mà. 

- Hôm nay ông ấy không ra khỏi phòng, thưa ông Thaddeus, mà tôi chẳng nhận được chỉ thị đặc biệt nào cả, ông cũng biết rằng mệnh lệnh rất nghiêm ngặt. Tôi có thể để ông vào, nhưng các bạn ông phải ở lại bên ngoài. 

Đứng trước trở ngại đó, Thaddeus phân vân nhìn chúng tôi. 

- Anh có vẻ hơi bướng bỉnh đấy! - Sau cùng ông bảo người gác cổng - Tôi chịu trách nhiệm về hai người này là cũng đủ cho anh rồi chứ? Trong chúng tôi, có một phụ nữ; chắc chắn không thể để cô chờ đợi ngoài đường vào một giờ khuya khoắt như thế này! 

- Tôi rất tiếc, ông Thaddeus ạ. - Người đàn ông đáp lại bằng giọng không gì lay chuyển được - Những người này có thể là bạn của ông nhưng không phải vì thế mà cũng là bạn của chủ tôi. Tôi được trả lương, mà trả hậu là đằng khác, để chấp hành một số mệnh lệnh nào đó; đây là vấn đề nguyên tắc, không thể khác được. Tôi chẳng biết bạn ông là ai cả! 

- Ồ, có chứ. Anh có biết một người, anh bạn McMurdo ơi. - Shelock Holmes nói lớn bằng giọng nhã nhặn - Tôi không tin rằng anh đã có thể quên tôi. Anh không còn nhớ anh chàng võ sĩ nghiệp dư đã đấu với anh trong ba hiệp sao? Chuyện ấy cách 

đây đã 4 năm rồi, tại nhà ông Alison đó, nhân đêm võ đài tổ chức lạc quyên giúp anh. 

- Ông không muốn nhắc đến ông Shelock Holmes đấy chứ. Tay cựu võ sĩ kêu lớn - Ô, thế thì có chứ. Trời đất, sao tôi lại không nhận ra ông ngay được thế này? Thay vì cứ đứng điềm nhiên ra đấy, ông đã có thể tặng cho tôi một cú móc cằm thần sầu quỷ khóc rồi. Và thế thì tôi đã nhận ra ông ngay rồi. Chà, ông đã để phí phạm tài năng của ông nhiều lắm rồi đó, ông ơi. Ông còn có thể đi xa hơn nữa nếu ông chịu hiến trọn vẹn đời mình cho môn nghệ thuật cao quý đó. 

- Đấy, anh xem, Watson à, nếu một mai tôi phải thiếu thốn tất cả, thì ít ra tôi vẫn còn cái nghề khoa học sau cùng này - Holmes vừa nói vừa cười - Bây giờ tôi chắc chắn rằng anh bạn của chúng ta đây sẽ không để ta phải chịu cảnh giá lạnh đêm 

khuya đâu. 

- Vâng, mời ông vào - Gã đáp - Mời ông và các bạn ông vào đi... Tôi rất ân hận, thưa ông Thaddeus, nhưng ông cũng hiểu là mệnh lệnh rất nghiêm. Tôi phải chắc chắn về bạn của ông trước khi để họ vào 

Bên trong tường thành, con đường lát sỏi lượn quanh co giữa đám đất hoang, dẫn đến một ngôi nhà đồ sộ, kiến trúc tầm thường, chìm hẳn vào bóng tối, chỉ trừ ở một góc nơi ánh trăng lấp lánh trên khung cửa sổ mái nhà. Tòa nhà to lớn tối tăm vắng lặng tỏa ra vẻ ngột ngạt khó chịu. Ngay Thaddeus dường như cũng cảm thấy bất an, và chiếc đèn lồng cầm ở đầu tay run lên một cách lạ kỳ. 

- Thật tôi chẳng hiểu có chuyện gì xảy ra thế này. Ông nói 

- Chắc là có sự hiểu lầm gì đây. Tôi có nói rõ ràng với Bartholomew là tối nay chúng ta sẽ đến kia mà. Tại sao lại không có đèn ở cửa sổ anh ấy? Như thế nghĩa là thế nào? 

- Ông ấy vẫn thường cho canh giữ cổng ra vào cẩn mật như thế ư? Holmes cất tiếng hỏi. 

- Vâng, anh ấy vẫn giữ thói quen của cha tôi. Anh ấy là con cưng, ông biết đấy, và lắm khi tôi tự hỏi có thể là cha tôi còn nói cho anh ấy biết nhiều hơn tôi nữa đấy. Cửa sổ của Bartholomew giờ đây có ánh trăng chiếu vào; tôi nghĩ là bên trong không có đèn. 

- Không đâu - Holmes nói - Nhưng tôi có thấy ánh sáng lờ mờ ở cửa tò vò phía bên cửa lớn. 

- À, đó là phòng bà giúp việc. Chắc bà lão Bernstone có thể giải thích cho chúng ta. Tuy nhiên, quý vị không có gì phản đối nếu chờ tôi tại đây vài phút chứ? Nếu không được báo trước mà lại thấy chúng ta đến cùng mệt lúc, bà lão có thể phát hoảng lên. Ấy mà này? Gì thế? 

Ông nhấc cao chiếc đèn lồng, tay ông run đến nỗi khoanh tròn ánh sáng nhảy múa quanh chúng tôi. Cô Morstan nắm lấy cổ tay tôi. Chúng tôi đứng lặng yên, trống ngực đánh liên hồi, tai nghe ngóng: Từ ngôi nhà to lớn tối đen bay ra một giọng thật buồn bã, thảm thiết, ngân vang trong cảnh đêm tĩnh mịch, đó là tiếng khóc thảng thốt của một người đàn bà bị khiếp đảm. 

- Giọng bà lão Bernstone đấy. Trong nhà chỉ có bà là đàn bà thôi - Sholto giải thích - Quí vị chờ đây. Tôi trở lại ngay. 

Ông bước nhanh đến cửa và gõ theo ám hiệu. Chúng tôi cũng nhìn ra được một bà lão to béo ra mở cửa và bà vươn mình nhẹ nhõm khi nhìn thấy ông ta. 

- Ồ! Ông Thaddeus. Gặp ông tôi mừng quá. Vâng đúng thế. Tôi thật là vui mừng vì ông đến đây, ông ạ. 

Cánh cửa khép lại đằng sau, hai người. Nhưng biểu hiện mừng rỡ nhường chỗ cho một cuộc độc thoại rì rầm. Người hướng dẫn đã để lại cho chúng tôi chiếc đèn lồng. Holmes nắm lấy, lắc nhẹ, mắt chăm chú dò xét ngôi nhà và mấy đống vôi gạch vụn rải rác trên đám đất. Cô Morstan và tôi đứng yên cạnh bên nhau, tay trong tay. Quả thật, tình yêu là một thứ gì tinh tế mà tuyệt vời quá chừng. Thì đây nhé, hai chúng tôi, cho đến ngày hôm ấy, chưa lần nào gặp nhau, chưa bao giờ trao đổi một cái nhìn hoặc nói với nhau vài câu tình cảm, ấy thế mà chúng tôi lại cùng tuân theo một cử động: tay chúng tôi tìm lấy nhau. Về sau này, tôi vẫn lấy làm lạ vô cùng, nhưng đêm hôm ấy, tôi thấy việc tôi đến với nàng rất là tự nhiên và về phía nàng, sau này nàng cũng thổ lộ với tôi rằng, nàng đến với tôi để tìm thấy sự che chở và an ủi thì cũng là chuyện bình thường thôi. Chúng tôi tựa như hai đứa bé, tay trong tay, đứng giữa cõi âm u mịt mù vây kín chung quanh mà vẫn thấy bình yên. 

- Chỗ ở gì mà kỳ lạ thế này. - Nàng buột miệng thở dài. 

- Tưởng chừng như tất cả những chú chuột chũi cả nước Anh đều tập họp về đây - Tôi nói - Tôi đã từng chứng kiến cảnh tượng tương tự như thế này trên sườn một ngọn đồi, gần thành phố Ballarat[1], sau thời kỳ sôi nổi đổ xô đi tìm mỏ. 

- Và cùng với những lý do tương tự - Holmes nói xen vào - Đây là dấu vết đào xới để tìm kho báu. Ta đừng quên rằng họ đã tìm kiếm suốt 6 năm nay. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu chỗ này giống như ô vuông hầm mỏ. 

Vừa lúc đó, cửa ra vào bật tung ra, và Thaddeus Sholto chạy về phía chúng tôi, hai tay giơ thẳng lên, mắt đầy nét kinh hoàng. 

- Chắc có chuyện gì xảy ra cho anh Bartholomew rồi. Ông hét lớn - Tôi sợ quái! Thần kinh tôi chịu đựng hết nổi rồi. 

Quả thật ông nấc lên vì sợ hãi. Đóng khung trong chiếc cổ áo da cừu non to tướng, khuôn mặt với những đường nét chảy dài của ông có một vẻ khẩn cầu và tuyệt vọng của đứa bé trong cơn khủng khiếp. 

- Nào, chúng ta hãy vào nhà - Holmes nói điềm tĩnh và quả quyết. 

- Vâng, xin mời quý vị - Thaddeus Sholto nói - Tôi chẳng còn biết phải làm gì nữa. 

Chúng tôi theo ông ta vào phòng bà giúp việc, nằm bên trái dãy hành lang. Bà lão rảo bước trong căn phòng, vừa đi vừa cắn móng tay. Khi chợt thấy cô Morstan, bà lão có vẻ khuây nguôi phần nào. 

- Xin Chúa ban phước lành cho khuôn mặt dịu hiền của cô. Bà thốt lên giọng như ngây dại. Gặp được cô thật là điều quý hóa. Hôm nay tôi phải chịu bao nhiêu là chuyện khổ não! 

Cô gái nắm lấy bàn tay khẳng khiu tiều tụy vì lam lũ của bà lão, miệng thì thầm dăm ba câu an ủi. Lòng nhân hậu đầy trìu mến của cô đã trả lại đôi chút thần sắc lên đôi má tái nhợt của bà lão giúp việc. 

- Ngài chủ tôi ở riệt trong phòng, khóa kín cửa lại, và không buồn trả lời tôi - Bà lão giải thích - Tôi đã chờ đợi suốt cả ngày để ông có gọi chăng. Tôi biết tính ông ấy thích sống một mình, nhưng sau cùng tôi cũng đâm ra thắc mắc không hiểu có 

chuyện gì đã xảy ra. Thế là tôi lên lầu, cách đây khoảng tiếng đồng hồ và nhìn qua lỗ khóa. Ông cũng nên lên đó đi, ông Thaddeus ạ. Lên đó đi ông ạ, rồi tự khắc ông sẽ thấy. Từ 10 năm nay, tôi từng biết ông Bartholomew Sholto qua những lúc phiền não cũng như những hồi vui sướng, song chưa bao giờ tôi thấy ông ta có một gương mặt như thế cả. 

Shelock Holmes cầm lấy cây đèn lần mò bước lên trước tiên, vì Thaddeus Sholto như đứng chết sững, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Tôi phải đỡ ông ta bước lên cầu thang: đôi chân không mang nổi thân ông. Hai lần trong lúc lên cầu thang, Holmes lấy kính lúp ra chăm chú quan sát mấy dấu vết nơi là mắt tôi chỉ thấy đơn thuần là những vết bùn để lại trên tấm thảm xơ dừa ở bậc cầu thang. Anh chầm chậm leo lên từng bậc một, đặt cây đèn dựa vào đôi chỗ, đưa mắt dò tìm quanh mình. Cô Morstan theo sau chúng tôi, đi cạnh bà lão giúp việc. 

Tầng lầu thứ ba đưa đến một hành lang khá dài; trên tường bên phải là một tấm thảm Ấn Độ rộng lớn; bên trái, ba cánh cửa nằm thẳng hàng. Chúng tôi nối gót ngay sau Holmes, anh bước tới từng bước chậm rãi, khoan thai. Bóng chúng tôi ngả dài phía sau. Cánh cửa thứ ba đúng là cánh cửa chúng tôi quan tâm đến. Holmes gõ nhưng không ai trả lời; anh quay tay nắm toan dùng sức mạnh mở nó. Nhích chiếc đèn lại gần, chúng tôi nhận thấy cánh cửa được cài then chắc chắn từ bên trong. Tuy nhiên, lúc tra chìa vào ổ khóa và quay trong chốt khóa, ta vẫn có được một kẽ hở nhỏ. Shelok Holmes ngồi thụp xuống, dán mắt vào đấy, nhưng rồi đứng phắt ngay dậy, hơi thở như nghẹn lại. 

- Trong ấy có cái gì ghê khiếp quá chừng - Anh bảo bằng một giọng chưa bao giờ nghe xúc động đến như thế - Anh nhìn đi, thế nghĩa là làm sao, anh Watson? 

Đến lượt tôi ngồi xổm xuống trước ổ khóa, nhưng tôi giật lùi lại vì khiếp đảm. Vầng trăng chiếu vào căn phòng tia sáng mờ nhạt và lạnh lẽo. Tôi thấy rõ, nổi bật hẳn lên khỏi vùng tăm tối, một khuôn mặt tưởng như bồng bềnh trong không khí mà lại cứ nhìn chằm chặp vào mắt tôi. Quả thật ấy là bản sao nhận dạng của Thaddeus: cũng cái sọ cao và bóng loáng ấy, cũng cái vành tóc màu hung ấy, cũng nước da tái nhợt ấy... Nhưng đường nét trên khuôn mặt ấy nhăn nhúm lại với một nụ cười mỉm đến là khủng khiếp. Dưới ánh trăng, cái nhếch mép lạnh cứng ấy còn ghê sợ hơn bất cứ cái nhăn mặt nào. "Nó" trông giống hệt chân dung của người bạn chúng tôi đến nỗi tôi phải quay lại xem ông ta còn đứng đó không. Bấy giờ tôi mới sực nhớ ông ta có bảo hai người là anh em sinh đôi. 

- Khiếp thật - Tôi nói khẽ - Làm gì bây giờ, anh Hoimes? 

- Phải phá cửa vào! 

Nói xong, anh chạy bổ tới, lấy trọng lượng toàn thân đè lên ổ khóa. Cánh cửa nghiến rít lên, kêu cót két, nhưng vẫn không lay chuyển. Lần này chúng tôi cùng tấn công một lượt. Cánh cửa bật tung sau một tiếng răng rắc ngắn ngủi, và chúng 

tôi bị ném tung vào phòng Bartholomew Sholto. 

Người ta có thể nói đây là một phòng thí nghiệm. Hai hàng dài những lọ thủy tinh có vòng quăn xếp ngay ngắn sát tường đối diện cửa ra vào; một chiếc bàn ngổn ngang những đèn Bunsen, ống nghiệm và nồi cổ cong. Trong góc phòng còn có 

mấy chai phình bụng đựng acid; một chai chắc đã bị nứt dẫu sao thì nó cũng rỉ nước bởi ta thấy một chất nước mầu đen thẫm loang ra, làm cho không khí trong phòng nặng một mùi nhựa đường đặc biệt. Trong một góc phòng, giữa đống vôi gạch vụn, một chiếc thang ngắn được bắc lên lỗ hổng khoét trên trần, đủ rộng để một người có thể chui qua lọt. Ở chân thang xếp, ngổn ngang một đống sợi thừng. 

Cạnh bàn, Bartholomew ngồi lù lù trong chiếc ghế bành, đầu ngả trên vai trái và vẫn cái nụ cười bí hiểm ấy, tử thi đã lạnh cứng rồi. Cái chết chắc đã xảy ra cách đây mấy tiếng đồng hồ. Hình như những nét nhăn nheo lạ lùng trên gương mặt vẫn gặp lại trên tứ chi và tạo cho cái xác kia một vẻ thật là quái đản. Trên bàn, trong tầm tay người chết, tôi trông thấy một dụng cụ kỳ quặc: một kiểu cán bằng gỗ nâu, ở đằng đầu có buộc một viên đá, một cách sơ sài. Bên cạnh có một mẩu giấy rách viết nguệch ngoạc nấy chữ. Holmes liếc qua rồi đưa tôi xem. 

- Đấy, anh thấy chưa - Anh thốt lên, nhướng mày trong một dáng điệu đầy ý nghĩa. 

Tôi đưa đèn lại gần và giật mình kinh hãi khi đọc thấy mấy chữ "Dấu Bộ Tứ". 

- Trời đất! Tất cả những chuyện này nghĩa là thế nào? Tôi hỏi. 

- Một vụ ám sát - Anh đáp, vừa nghiêng mình trên xác chết... - À, tôi biết ngay mà! Này, anh xem đây... 

Anh chỉ vào một cái gai đen dài ghim vào ngay bên trên vành tai nạn nhân. 

- Trông giống cái gai quá - Tôi bảo. 

- Thì đó là một cái gai mà. Anh có thể lấy nó ra. Nhưng coi chừng: nó có tẩm thuốc độc đấy. 

Tôi kẹp nó giữa ngón cái và ngón trỏ, lấy ra rất dễ dàng, hầu như chẳng để lại dấu vết gì cả. Độc nhất chỉ một giọt máu nhỏ nơi bị đâm thôi. 

- Tôi thấy bí ẩn này không giải nổi - Tôi nói - Thay vì sáng tỏ, mỗi lúc nó lại càng rối rắm thêm. 

- Trái lại ấy chứ! - Holmes đáp - Nội vụ càng đơn giản hơn lên. Chỉ còn thiếu một vài chi tiết bổ sung thôi... 

Từ lúc chúng tôi phá cửa vào, chúng tôi hầu như quên hẳn Thaddeus. Ông vẫn đứng ở ngưỡng cửa, đôi tay vặn lấy nhau, rên rỉ: đúng là hình ảnh sống động của nỗi kinh hoàng. Nhưng bỗng nhiên, một tiếng thét phẫn nộ buột khỏi mồm ông ta: 

- Kho báu không còn ở đó nữa! - Ông thốt lên - Chúng nó đã đánh cắp kho báu rồi! Trên kia là lỗ hổng mà qua đó chúng tôi đã đem nó xuống. Tôi biết rõ mà. Chính tôi đã giúp anh ấy. Tôi là người cuối cùng được trông thấy kho báu ấy. Anh ấy ở trong phòng và tôi nghe rõ anh ấy cài chốt cửa sau lưng tôi mà. 

- Lúc ấy là mấy giờ? 

- Mười giờ. Thế mà bây giờ anh ấy đã chết. Rồi cảnh sát sẽ đến. Rồi tôi sẽ bị tình nghi, bị kết tội... Ôi, đúng thế mà, tôi biết chắc là như thế mà. Nhưng quý ngài không nghĩ rằng tôi lại có thể... chứ? Quý ngài không nghĩ rằng chính tôi đã.. phải không? Nếu có thể thì tôi đâu đưa các ngài đến đây làm gì, phải thế không ạ? Ối trời đất ơi! Ô i trời đất ơi! Tôi phát điên lên mất! Tôi biết quá mà! 

Ông ta khua tay, dậm chân. Một nỗi kinh hoàng cuồng sảng bao trùm ông ta. 

- Ông không có gì phải hoảng sợ, ông Sholto ạ! - Holmes vừa từ tốn nói vừa đặt tay lên vai ông - Cứ nghe theo lời tôi khuyên đây. Ông hãy cho người đưa ông đến đồn cảnh sát. Hãy thuật lại vụ án mạng và đề nghị họ nhận sự giúp đỡ hợp tác của ông. Chúng tôi sẽ lưu lại đây chờ ông trở về. 

Người đàn ông nhỏ bé ấy đồng ý, vẻ gần như đờ đẫn, và chúng tôi nghe ông lần xuống cầu thang với bước chân lảo đảo.

Chương 6

Sherlock Holmes bắt đầu diễn giảng

- Anh Watson ạ, giờ đây chúng ta còn được nửa tiếng đồng hồ. Vấn đề là phải biết lợi dụng. Như tôi đã nói anh rõ, hồ sơ của tôi hầu như hoàn tất. Nhưng chúng ta chớ nên tin tưởng quá mà mắc phải sai lầm. Cho dù hiện nay nội vụ có vẻ đơn giản đến đâu chăng nữa, vẫn có thể còn nhiều uẩn khúc. 

- Đơn giản à? - Tôi lớn tiếng hỏi. 

- Hẳn là thế! - Anh đáp bằng giọng của một giáo sư y khoa giảng giải với đám sinh viên nội trú - Nhưng anh bạn hãy ngồi yên trong góc kia, kẻo vết chân anh lại làm cho công chuyện thêm rắc rối. Nào, giờ ta hãy bắt tay vào việc đi chứ! Trước tiên, những người kia họ đến bằng cách nào? Cửa ra vào vẫn đóng từ tối hôm trước. Thế còn cửa sổ? 

Anh dùng chiếc đèn lồng soi sáng cửa sổ, miệng thốt lên những nhận xét tuy bằng giọng nghe rõ ràng nhưng thật ra là tự nói với chính mình. 

- Cửa sổ đóng từ bên trong. Khung cửa chắc. Không có bản lề ở một bên. Nào, ta mở thử xem. Quanh quất đây chẳng có ống máng nào. Từ đây, không thể nào leo lên mái được... Ấy thế mà một người đã leo lên bằng cửa sổ; đêm qua có mưa chút đỉnh, và đây, trên thành cửa sổ, ta thấy có dấu chân dính bùn. Còn kia lại có dấu đất bùn hình tròn. A, ta lại thấy dấu ấy trên sàn nhà, rồi cạnh chiếc bàn. Nhìn đây này, anh Watson ơi! Thật là một cuộc biểu diễn tuyệt đẹp. 

Tôi cúi xuống nhìn đấu vết rõ nét hình dáng giống một cái đĩa. 

- Đây không phải là dấu bàn chân - Tôi nói. 

- Cái này còn chính xác và quý giá hơn thế nữa kia. Đấy là dấu của một đầu chày bằng gỗ. Anh cứ nhìn lên thành cửa mà xem; đây là dấu chiếc giày ống nặng trịch đế rộng có đóng đĩa; cạnh đó là dấu của chân kia, nhưng đấu này lại tròn. 

- Đúng là người đàn ông chân gỗ. 

- Đúng vậy. Nhưng còn một tên khác nữa, một kẻ đồng minh rất có khả năng và rất được việc. Này, anh xem thử nhé, anh có thể trèo qua hàng hiên kia không, bác sỹ? 

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Ánh trăng vẫn còn chiếu sáng đến phía này của ngôi nhà. Mặt đất ở bên dưới cách hơn 60 feet. Cho dầu có căng mắt ra nhìn, tôi cũng không thấy được một điểm tựa con con nào, hoặc một kẽ nứt nhỏ nào trong bức tường bằng gạch. Tôi lắc đầu bảo: 

- Không tài nào được! 

- Không tài nào được nếu chỉ có mình anh, đúng thế. Nhưng nếu anh có một người bạn ở cửa sổ này, và nếu bạn anh thòng xuống cho anh sợi dây thừng to khỏe mà tôi trông thấy ở góc tường, sau khi đã buộc nó vào cái móc lớn kia, thì anh bảo sao? Tôi lại nghĩ rằng, trong trường hợp ấy, nếu anh có chút ít thể lực, anh có thể đu mình lên đến đây kể cả cái chân gỗ nữa. Và dĩ nhiên, anh rời khỏi chỗ này cũng bằng cách đó thôi. Sau đó, bạn anh sẽ rút dây lên, tháo ra khỏi móc, đóng và chốt cái cửa sổ lại từ bên trong và sau cùng ra đi bằng lối mà hắn đã đến. Tôi xin bổ sung thêm một chi tiết phụ - Anh vừa tiếp tục diễn giảng vừa mân mê sợi dây thừng - Người bạn chân gỗ của ta, mặc dù là một tay leo trèo có hạng, nhưng không phải là một thủy thủ. Anh ta không có đôi tay chai sạn. Chiếc kính lúp của tôi có cho tôi thấy nhiễu vết máu, nhất là ở đoạn cuối. Từ đó tôi suy ra là anh ta đã buông mình tuột xuống ở một tốc độ khiến đôi tay phải sướt da. 

- Tất cả những điều ấy nghe ra thật là hay -Tôi nói - Nhưng câu chuyện lại càng khó hiểu hơn bao giờ hết. Kẻ đồng minh bí mật kia là ai? Hắn đột nhập vào phòng này bằng cách nào? 

- À phải rồi, kẻ đồng minh hả - Holmes nhắc lại, vẻ nghĩ ngợi - Chính gã đồng minh ấy sẽ đem đến cho chúng ta nhiều yếu tố lý thú đấy. Nhờ hắn mà nội vụ đã vượt ra ngoài giới hạn bình thường. Tôi cho chính gã đồng minh này đã đưa một cái mới mẻ vào biên niên hình sự của đất nước này. Tôi nhớ lại có những "ca" tương tự như thế đã xảy ra rồi, nhất là ở Ấn Độ, và nếu trí nhớ tôi còn tốt, thì ở cả Senegambia. 

- Nhưng hắn ta đến bằng cách nào? Tôi nài nỉ hỏi - Cửa ra vào thì bị cài then, cửa sổ lại không lên đến được. Bằng lối ống khói chăng? 

- Tấm lưới song sắt ở trên ấy quá hẹp - Anh đáp - Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó, nhưng... 

- Vâng, thế thì sao? Bằng lối nào? 

- Thực tình anh không muốn áp dụng mấy nguyên tắc của tôi sao? Bao nhiêu lần tôi đã bảo với anh là sau khi đã gạt bỏ ra ngoài tất cả những trường hợp không thể nào xảy ra được, thì giả thiết còn lại, dầu là bấp bênh, thiếu cơ sở đến đâu chăng nữa, cũng phải là giả thiết đúng đắn! Chúng ta biết rằng hắn ta không đến bằng cửa ra vào, không bằng cửa sổ, cũng không bằng ống khói. Ta cũng thừa biết rằng hắn không ẩn trốn trong phòng này, bởi vì phòng này không có chỗ nào có thể ẩn trốn cả. Thế thì hắn đã đến bằng lối nào? 

- Bằng một lỗ hổng khoét trên mái nhà? - Tôi hỏi lớn. 

- Tất nhiên rồi? Chỉ bằng lối đó thôi. Nếu anh vui lòng cầm hộ tôi chiếc đèn này, ta sẽ đẩy cuộc tìm kiếm lên mãi tận cái rầm thượng bí mật, nơi phát hiện ra kho báu. 

Anh trèo lên thang xếp, tì bàn tay vào hai cây đà và đu mình lên rầm thượng. Lên đến nơi, anh nằm sấp sát xuống, với tay nắm lấy cây đèn để tôi có thể lên theo anh. Căn rầm thượng dài khoảng 10 feet, rộng 6 feet. Sàn rầm là mấy cây đà, và phải nhảy từ đà này qua đà khác nếu muốn di chuyển, vì ở giữa hai hàng đà chỉ là những tấm lách mỏng manh mà thôi. Mái rầm vươn lên thành góc nhọn - dĩ nhiên là chỉ mặt bên trong của cái mái nhà thật. Căn rầm hoàn toàn trống trơn. Bụi đóng thành lớp dày trên sàn. 

- Đây rồi - Holmes nói, tay đặt lên bức tường dốc nghiêng - Đây là cái cửa chống mở ra trên mái nhà. Tôi có thể đẩy nó lên. Mái nhà hiện ra để dốc thoai thoải xuống. Đây là con đường mà theo đó tên số một đã đi vào. Ta hãy thử xem còn có thể tìm thấy dấu vết gì khác giúp ta nhận diện hắn nữa không. 

Anh đưa đèn lại gần sàn, và đây là lần thứ hai trong cùng đêm ấy, tôi thấy gương mặt anh thoáng vẻ ngạc nhiên trái ý. Đưa mắt theo hướng anh ta nhìn, tôi thấy nổi gai ốc dưới lần vải áo quần. Vì sàn rầm đầy dấu chân trần trông rõ cả hình thù, nhưng không lớn quá nữa dấu chân bình thường. 

- Anh Holmes à - Tôi bảo thầm - Một đứa bé có thể làm được một chuyện khủng khiếp như thế chăng? 

Anh lấy lại được tự chủ ngay. 

- Lúc đầu tôi có ngạc nhiên thật. Tuy nhiên, chuyện này không có gì là lạ lùng đâu. Trong phút chốc trí nhớ tôi bỗng sút kém hẳn đi, bởi vì lẽ ra tôi đã phải dự kiến sự việc này rồi. Ta chẳng còn có gì để phát hiện ra trên đây nữa. Ta xuống đi. 

- Vậy thì về mấy dấu chân ấy, thuyết của anh như thế nào? - Tôi cất tiếng hỏi khi chúng tôi đã trở xuống căn phòng bên dưới. 

- Anh bạn Watson thân mến của tôi ơi, anh thử tự phân tích một chút xem nào - anh nói với một thoáng nóng nảy - Anh thừa biết phương pháp của tôi rồi kia mà. Hãy áp dụng xem sao. Đối chiếu những kết quả của chúng ta kể ra cũng lý thú 

đấy chứ. 

- Tôi chẳng nghĩ ra được bất cứ lối giải thích nào cho phù hợp với các sự kiện đã xảy ra - Tôi đáp. 

- Anh sẽ thấy mọi việc hiện ra rất rõ ràng - Anh ung dung đáp lại - Tôi nghĩ rằng ở đây chẳng còn gì quan trọng nữa, song tôi cũng xem lại cho chắc hơn. 

Anh chùi kính lúp, lấy cây thước đo ra và bò khắp phòng, đo đạc, so sánh, xem xét, đưa cái mũi thính sát sàn nhà, đôi mắt chìm sâu trong hốc long lanh ánh xà cừ. Cử chỉ của anh nhanh nhẹn, lặng lẽ thoăn thoắt như của một con chó đánh hơi vết chân con mồi. Và tôi không thể không nảy ra cái ý nghĩ bậy bạ rằng anh ta rất có thể là một tên tội phạm vô cùng nguy hiểm nếu anh quay cái trí óc minh mẫn và cái nghị lực của anh chống lại luật pháp, thay vì sử dụng chúng để bảo vệ luật pháp. Vừa tiến hành công việc, anh vừa lẩm bẩm những câu gì khó hiểu. Sau cùng anh buông ra một tiếng reo khoan khoái nhẹ nhõm. 

- Vận may ở với chúng ta rồi! Anh thốt lên - Bây giờ, có lẽ chúng ta chẳng còn gặp khó khăn nào nữa. "Tên số một" của chúng ta không may đã dẫm lên chất mộc du[1]. Ta có thể trông rõ vành bàn chân nhỏ bé của nó đây này, bên cạnh cái vũng nhầy nhụa hôi hám này. Cái bình chai phình bụng bị vỡ, anh hiểu ra rồi chứ? Và chất nước chứa bên trong chảy lênh láng ra ngoài. 

- Thế thì sao? Tôi hỏi. 

- Thế thì chúng ta đã bám nó được rồi, có thế thôi. Tôi được biết có một con chó nó có thể bám theo một mùi nào đó đến mãi tận cùng thế giới một cách rất là dai dẳng. Ta nắm được hắn rồi: đây là điều có tính toán học chính xác chẳng kém gì quy tắc tam suất... À, mà tôi nghe xôn xao gì thế? À, chắc hẳn là các vị đại diện có tín nhiệm của luật pháp. 

Từ bên dưới đưa lên những giọng nói ồn ào, những bước chân nặng nề vang dội; có tiếng cửa ra vào đóng rầm lại. 

- Trước khi họ đến, anh hãy đặt bàn tay anh lên cánh tay kẻ khốn khổ này - Holmes nói - Rồi bây giờ hãy đặt lên chân hắn đây. Anh cảm thấy gì nào? 

- Các cơ bắp rắn chắc chẳng khác gì gỗ. Tôi đáp. 

- Đúng thế. Chúng ở trong trạng thái co rút cùng cực vượt hẳn tình trạng co rút bình thường do sự chết. Anh cứ thêm vào đấy cái nét mặt nhăn nhúm kia, cái nụ cười Hippocrates, cái nụ cười đanh ác, như cổ nhân thường gọi đi. Rồi anh rút ra được kết luận gì, bác sỹ? 

- Chết vì một chất alkaloid thảo mộc cực mạnh - Tôi đáp không chút do dự - Một chất tương tự như mã tiền, nó gây nên chứng phong đòn gánh. 

- Đó cũng là ý nghĩ đến với tôi ngay sau khi tôi thấy tình trạng co rút tột độ ở các cơ bắp mặt. Lúc bước vào phòng, tôi đã tìm ngay xem độc dược đã xâm nhập cơ thể bằng cách nào. Tôi đã phát hiện ra một cái gai, hoặc đã được đâm vào, hoặc đã được phóng tới da đầu, nhưng dầu sao, thì cũng không mạnh lắm! Anh cũng có thể nhận thấy rằng, nếu nạn nhân ngồi thẳng trong ghế bành thì phần bị trúng thương là phần đối diện với lỗ hổng khoét trên trần nhà. Bây giờ, đề nghị anh hãy xem kỹ cái gai này. 

Tôi cẩn thận đón lấy cái gai và quan sát nó dưới ánh chiếc đèn lồng. Cái gai dài, đen, nhọn; mũi gai như có phết sơn, như có chất nhựa khô quánh ở đó. Mũi gai cùn đã được gọt chuốt lại bằng dao. 

- Đây có phải là một thứ gai ta có thể tìm thấy ở nước Anh không - Anh hỏi. 

- Không, chắc chắn là không! 

- Thế thì, với những dữ kiện đó, anh có thể rút ra một vài suy diễn đúng đắn rồi. Nhưng các viên chức đã đến đây rồi. Lực lượng phụ trợ có thể trỗi kèn rút lui rồi đấy. 

Holmes vừa nói đến đây, thì trong hành lang có tiếng bước chân khua vang, và một người đàn ông lùn mập, nước da đỏ tươi, vạm vỡ, mặc bộ com-lê màu xám, nặng nề bước vào phòng. Ông ta có khuôn mặt béo phị, đôi mi mắt húp lại, cặp mắt rất nhỏ nhấp nháy ném ra một tia nhìn sắc sảo. Nối gót ông ta là viên thanh tra mặc đồng phục và Thaddeus Sholto, vẻ mặt vẫn còn tỏ ra xúc động. 

- Trời đất! Vụ gì mà rắc rối đến thế này nhỉ? Người đàn ông to béo thốt lên, giọng ồ ồ, khản đục. À vâng, một câu chuyện hay đấy! À, mà mấy người này là ai thế này? Nói thật đấy, nhà gì mà ngổn ngang bừa bãi tựa như cái hang thế này. 

- Tôi nghĩ là ngài có thể nhận ra tôi, thưa ngài Athelney Jones - Holmes điềm nhiên nói. 

- À vâng, hẳn thế rồi - ông đáp, giọng hổn hển - Ngài Shelock Holmes, nhà lý thuyết đại tài. Nhận ra ngài à? Tôi không bao giờ quên buổi thuyết trình nhỏ của ngài về những nguyên nhân, suy diễn kết quả trong vụ viên ngọc Bishopgate. Nói 

đúng ra thì ngài đã đặt chúng ta lên con đường đúng đắn. Nhưng bây giờ thì ngài cũng chấp nhận rằng đó chẳng qua là do ngẫu nhiên hơn là kết quả của một sự phát hiện đích thực. 

- Chỉ cần một lối lập luận rất đơn giản thôi. 

- Ồ thôi đi, tôi xin ngài. Chẳng có gì xấu hổ phải chấp nhận sự thật cả. Nhưng còn vụ này? Một vụ hóc búa đây. Một vụ rắc rối, phải thế không ạ? Đề nghị chỉ đưa ra những sự kiện chính xác thôi, và chớ lý thuyết dài dòng, ngài đồng ý thế chứ? Cũng may là tôi có mặt ở Norwood trong một vụ án khác. Tôi đang ở Sở cảnh sát thì nhận được tin về vụ án này. Theo ngài, nạn nhân chết vì nguyện nhân gì? 

- Ồ! Trong vụ án này chẳng có chỗ nào dành cho lý thuyết suông đâu - Holmes nói sẵng giọng. 

- Không, không đâu. Nhưng dù sao, người ta không thể phủ nhận rằng đôi khi ngài cũng đánh đúng chỗ. Trời! Cửa ra vào có cài then, người ta bảo với tôi như thế. Một số báu vật trị giá nửa triệu biến mất. Thế còn cửa sổ thì sao? 

- Đóng từ bên trong; nhưng có dấu chân trên thành cửa. 

- À vâng. Nhưng nếu cửa sổ đóng, dấu chân không dính dáng gì đến câu chuyện cả. Đây chỉ là một vấn đề thường tình thôi. Nạn nhân có thể chết vì chứng động tim; thế mà báu vật lại mất. À, tôi nghĩ ra rồi, đôi khi tôi lại nảy ra những ý nghĩ tài tình như vậy đó. Bây giờ xin ông thanh tra cho tôi nói chuyện riêng, ông Sholto cũng thế. Ông bạn của ngài có thể ở lại đây, ngài Holmes ạ. Xin ngài cho tôi biết ngài nghĩ gì về sự việc như sau: Sholto tự mình đã thú nhận đêm qua có ở cùng với người anh. Người này chết vì chứng động tim, và Sholto ra đi với kho báu vật. Sao, ý kiến ngài thế nào? 

- Sau đó, người chết vì sợ cảm lạnh, nên đã dùng cài chốt cửa lại chứ gì? 

- Hừm! Có một kẽ hở đấy. Nào, ta hãy thử dùng chút ít lý trí thông thường xem sạo. Cái ông Thaddeus kia có ở với người anh; và có xảy ra cuộc cãi vã. Chuyện đó, ta đều biết. Người anh chết, báu vật biến mất. Điều đó, ta cũng đã biết. Không ai gặp người anh từ khi Thaddeus ra đi. Chăn nệm trên giường vẫn y nguyên: như thế là nạn nhân đã không đi nằm. Mặt khác, Thaddeus rõ ràng ở trong một tâm trạng giao động. Ông ấy, nào, ta cứ nói thẳng ra là ít thiện cảm. Quý vị chắc thấy tôi đang dệt mạng lưới của tôi. Lưới siết chặt quanh ông ta. 

- Ngài chưa nắm vững hoàn toàn các sự kiện - Holmes nói - Cái dằm gỗ kia, mà tôi có đủ lý do để tin rằng nó bị tẩm độc, đã ghim vào đa đầu nạn nhân; dấu vết vẫn còn đấy. Tấm thiếp kia, với dòng chữ mà ngài có thể trông thấy, được đặt trên bàn bên cạnh cái dụng cụ kỳ lạ gồm một cái cán và một viên đá. Làm sao những điều này có thể ứng hợp với lý luận của ngài được. 

- Trái lại đấy chứ? Mỗi một chi tiết trong lý luận của tôi đã được xác nhận là đằng khác. Nhà thám tử cãi lại giọng huênh hoang - Ngôi nhà thì đầy rẫy những vật lạ từ Ấn Độ. Thaddeus có thể mang lại cái dụng cụ kia. Và ông ta cũng có thể như bất cứ như một người nào khác, sử dụng dằm gỗ ấy vào mục đích sát nhân, nếu nó có dấu vết bị tẩm độc. Còn tấm thiếp nọ chỉ là một mánh khóe, có lẽ để đánh lạc hướng. Còn lại một câu hỏi duy nhất: ông ấy ra đi bằng cách nào? À, dĩ nhiên! Trên trần nhà có một lỗ hổng. 

Ông nhảy tót lên chiếc thang, với một tốc độ khiến phải kinh ngạc đối với một người to béo như ông, và tìm đường lên qua lỗ hổng. Đoạn, chúng tôi nghe ông loan báo giọng đắc thắng: ông đã tìm thấy cái cửa trống trổ lên mái nhà. 

- Ông ta có thể phát hiện ra điều gì đó rồi. Holmes vừa nhận xét vừa nhún vại. Đôi khi ông ta nảy sinh ra những tia thông minh. Thật chẳng có kẻ ngu xuẩn nào lại rầy rà hơn những kẻ tưởng mình là có đầu óc thông minh. 

- Đấy ngài xem! Athelney Jones vừa bước xuống mấy nấc thang xếp vừa nói - Dầu sao thì sự kiện vẫn giá trị hơn lý luận suông. Ý kiến của tôi về vụ án này được củng cố vững chắc rồi đấy. Có một ô cửa chống trên mái mà ai đó đã mở nó ra rồi. 

Chính tôi đã mở nó ra đấy. 

- À, thế ra ngài cũng để ý đến nó à? Ông nói, giọng hạ thấp - dầu sao chăng nữa điều này cho ta thấy ông bạn của chúng ta đã đi ra bằng cách nào. Ông Thanh tra! 

- Thưa ông, có tôi - Một giọng đáp trong hành lang. 

- Mời ông Sholto vào đây. 

- Này ông Sholto, tôi có bổn phận báo ông biết rằng những điều ông sắp nói ra đây có thể chống lại ông đấy. Nhân danh nữ hoàng nước Anh, tôi bắt ông, vì có 

liên can trong vụ án mạng người anh của ông. 

- Đấy quý vị thấy không! Tôi đã chẳng nói trước chuyện này với quý vị rồi đó sao? Người đàn ông khốn khổ đưa tay thốt lên với chúng tôi như vậy. 

- Xin ông đừng lo, ông Sholto ạ! - Holmes nói - Tôi xin hứa với ông là tôi sẽ mang lại bằng chứng về sự vô tội của ông. 

- Chớ hứa hẹn nhiều quá đấy, hỡi ngài lý thuyết gia của tôi - Viên thám tử nhà nước cắt ngang, giọng đanh thép - Đừng hứa hẹn nhiều quá, kẻo lại gặp nhiều khó khăn hơn ngài tưởng khi phải giữ đúng những cam kết của mình đấy. 

- Chẳng những tôi sẽ xóa tan mọi ngờ vực cho ông ta, thưa ngài Jones, mà ngay bây giờ, tôi biếu ngài một món quà: tên họ và nhân dạng của một trong hai người đã đột nhập vào đây đêm qua. Tôi có đủ lý do tin rằng hắn tên là Jonathan Small. Đó là một gã ít học, thấp người, lanh lẹ, cụt mất chân phải; gã mang chân gỗ mà mặt trong đã bị mòn. Chiếc giày ống bên trái có đế dày, vuông và đóng con đỉa sắt. Hắn là một tên cựu tù, tuổi trung bình, nước da nâu rất sẫm. Mấy chi tiết này chắc sẽ giúp ngài rất nhiều. Tôi cũng nói thêm là lòng bàn tay hắn rướm máu. Còn tên kia thì... 

- À, tên kia? - Jones vừa cất tiếng hỏi vừa cười mỉa. 

Dẫu sao rõ ràng là cung cách ăn nói chính xác của Holmes cũng khiến ông ta có phần nao núng. 

- Hắn ta là một nhân vật khá kỳ quặc. Bạn tôi vừa nói vừa quay gót đi - Tôi mong có thể trình diện với quý vị cả hai tên trong chẳng bao lâu nữa đâu Anh Watson à, tôi có chuyện muốn nói với anh. 

Anh ta dắt tôi ra cầu thang và thì thầm: 

- Cái biến cố đột xuất này đã làm chúng ta quên bẵng đi mất cái lý do đầu tiên của chuyến đi. 

- Tôi cũng đang nghĩ thế đấy - Tôi đáp - Không nên để cô Morstan ở mãi trong ngôi nhà khốn khổ này. 

- Không. Anh sẽ đưa cô ấy về. Cô ta ngụ tại nhà bà Cecil Forrester, Hạ Camberwell, không xa lắm đâu. Tôi sẽ chờ anh ở đây nếu anh muốn trở lại. Nhưng có lẽ anh mệt quá chăng? 

- Hoàn toàn không. Tôi không tài nào nghỉ ngơi gì được trước khi được biết thêm về vụ án quái gở này. Tôi đã biết cuộc đời qua một số tình huống mà không phải là những tình huống đẹp đẽ đâu nhé! Nhưng xin thề với anh là những sự cố đột biến liên tiếp nhau như thế này đã làm cho cân não tôi quỵ gục. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn cùng anh đi đến cùng, vì nghĩ ra thì tôi cũng đã đi khá xa rồi. 

- Sự hiện diện của anh giúp đỡ tôi rất nhiều - Anh đáp - Ta cứ để anh chàng Jones kia thỏa mãn với những quả bong bóng mà anh chàng tưởng là đèn lồng, và ta sẽ làm việc riêng. Tôi nhờ anh đi đến nhà số 3, hẻm Pinchin, khu Lambeth, ngay trên bờ sông, sau khi anh đã đưa cô Morstan về nhà. Căn nhà thứ ba về bên phải là nhà của một người nhồi rơm chim giả. Tên anh ta là Sherman. Đến đấy anh sẽ thấy ở cửa sổ một con chồn cái ngoạm chú thỏ. Cho tôi nhắn gởi lời chào thân ái nhất đến anh bạn già Sherman ấy và bảo anh ấy tôi cần chú Toby ngay. Khi về, anh mang nó theo trong xe. 

- Một con chó, chắc thế? 

- Đúng thế. Một con chó lai hiếm có được thiên nhiên phú cho một thính giác lạ lùng. Có sự giúp đỡ của Toby còn hơn cả sự tiếp tay của cả lực lượng Cảnh sát ở London. 

- Được thôi, tôi sẽ mang Toby về cho anh... Bây giờ là 1 giờ sáng! Tôi sẽ trở về trước 3 giờ nếu tôi có thể thay ngựa. 

- Còn tôi - Holmes bảo - Tôi sẽ xem có thể rút ra được gì phía bà lão Bernstone và anh gia nhân người Ấn. Anh này ngủ trong gác nhỏ bên cạnh, ông Thaddeus có bảo tôi thế. Rồi tôi sẽ nghiên cứu phương pháp của Jones, nhà thám tử vĩ đại, bằng cách lắng nghe những câu chua chát thiếu tế nhị của ông ấy. 

"Người ta thường chế diễu những điều mà người ta không hiểu."[2] 

Quả thật, thi hào Goethe luôn luôn vẫn tràn trề nhựa sống.

Chương 7

Câu chuyện chiếc thùng tô-nô

Cảnh sát có đưa đến một chiếc xe; tôi dùng xe đó đưa cô Morstan về nhà. 

Theo cung cách thật là dễ thương của giới phụ nữ, mãi đến lúc này, nàng đã chịu đựng tất cả trong khoảng thời gian dài cần thiết để an ủi người yếu đuối hơn nàng. Tôi đã thấy nàng vẫn điềm tĩnh và tươi cười bên cạnh bà lão giúp việc chưa hoàn hồn sau nỗi kinh hãi. Nhưng lúc ngồi vào xe, nàng kiệt sức và òa lên khóc, bởi những sự cố xảy ra trong đêm đã kích động đến nàng quá độ. Nàng bảo tôi từ lúc nàng thấy tôi lạnh lùng và xa cách trong chuyến đi này thì... ấy thế mà nàng đâu có hay trong tim tôi cuộc chiến đấu đã xảy ra như thế nào đâu! Và tôi đã cố gắng ra sao mới dằn lòng được. Tình cảm yêu thương của tôi dồn về nàng, y như hồi nào, trong vườn, tay tôi tìm kiếm tay nàng. Biết bao năm quen sống theo quy ước che dấu bản chất dịu dàng và dũng cảm của nàng cho bằng mấy tiếng đồng hồ kỳ diệu đó. Tuy nhiên những ngôn từ âu yếm không thoát khỏi miệng tôi: hai suy nghĩ buộc tôi phải câm nín. Trước hết là nàng yếu đuối, không người che chở, tâm trí lại hoang mang lạc lõng. Vào một lúc như thế này mà áp đặt cho nàng mối tình của tôi liệu có đứng đắn không? Mặt khác, nàng lại giàu! Nếu công cuộc truy tìm của Holmes đem lại kết quả nàng sẽ là người thừa kế được mọi người ganh tị. Trong hoàn cảnh đó, một bác sỹ phẫu thuật hưởng nửa lương nhân một sự ngẫu nhiên lại đi lợi dụng một mối quan hệ thân mật như thế này thì có công bằng, vinh dự gì cho tôi không? Biết đâu nàng lại không xem tôi chỉ là một tay phiêu lưu hạ cấp? Chỉ một ý trong đó mà thoáng qua đầu óc nàng cũng đủ khiến tôi không chịu nổi. Giữa nàng và tôi, sừng sững một chướng ngại không tài nào vượt qua nổi: kho báu Arga. 

Chúng tôi đến nhà bà Cecil Forrester khoảng 2 giờ sáng. Gia nhân đã đi nghỉ từ lâu, nhưng bức thư cô Morstan nhận được đã gợi trí tò mò của bà nên bà vẫn còn thức. Bà tự ra mở cửa cho chúng tôi. Đó là một phụ nữ duyên dáng đứng tuổi; bà tiêp đón cô gái bằng giọng đằm thắm như giữa mẹ và con, bà âu yếm đưa tay choàng lấy thân nàng. Tôi thích thú nhận ra rằng nàng không đơn thuần chỉ là cô quản gia hưởng lương, mà còn là một người bạn được bà chủ trọng nể. Tôi được giới thiệu, và ngay sau đó, bà Forrester mời tôi vào và yêu cầu thuật lại những chuyện phiêu lưu của chúng tôi. Tôi giải thích rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ của tôi và hứa sẽ thông báo với bà những tiến triển chúng tôi đạt được. Cỗ xe lăn bánh xa dần, tôi ngoảnh lại nhìn theo hai người. Dường như tôi vẫn còn trông rõ dưới cửa hiên dáng hai người quấn quít lấy nhau, cửa ra vào hé mở, ánh đèn lối vào chiếu qua khung kính màu, chiếc phong vũ biểu và lan can cầu thang bóng loáng. Hình ảnh ấy, dẫu chỉ thoáng qua, của mọi nội thất yên tĩnh của một gia đình người Anh cũng đem đến cho tôi những phút ấm áp, dễ chịu trong lúc đang 

vướng vào vụ án âm u này. 

Vả chăng, càng suy nghĩ tôi lại thấy nó càng phức tạp. Tôi điểm lại các sự cố theo thứ tự thời gian của chúng. Về những gì có liên hệ đến bài toán lúc ban đầu, bây giờ khá rõ ràng rỗi. Cái chết của đại úy Morstan, việc gửi những viên ngọc, mục rao vặt trên báo, lá thư, đó là một số chi tiết đã phăng ra được rồi. Tuy nhiên chúng tôi lại bị đưa đến một bí hiểm: sâu sắc hơn và bi thiết hơn. Cái kho báu Ấn Độ, tấm bản đồ kỳ quặc tìm thấy trong hành lý của đại úy, việc thiếu tá Sholto xuất hiện vào lúc đại úy Morstan chết, việc tìm thấy lại kho báu tiếp liền theo sau 

là án mạng của người tìm ra nó, những hoàn cảnh thật lạ lùng bao quanh tội phạm này, dấu chân, vũ khí chưa từng thấy, mấy chữ trên mảnh giấy phù hợp với tấm bản đồ của viên đại úy, toàn là những sự kiện mà một người kém thiên tư hơn Shelock Holmes không thể giải đoán ra nổi. 

Hẻm Pinchin vốn là một dãy những ngôi nhà gạch hai tầng xập xệ, nằm gần cuối khu Lambeth. Tôi phải đập cửa khá lâu ở căn số ba mới có kết quả. Ánh ngọn nến rồi cũng lọt qua ô cửa kéo và một khuôn mặt nhìn qua cửa sổ bên trên. 

- Thôi, thôi đi, tên bợm bãi, chẳng có gì đâu! - Một giọng thét ầm lên. Nếu cậu không ngừng đập phá ta sẽ thả 43 con chó của ta cắn cậu đấy. 

- Đó chính là điều tôi tìm kiếm đấy ạ. Nếu bác chịu thả một chú ra thì... 

- Thôi xéo đi nơi khác, cha ơi! Giọng ấy đáp lại - Ta có sẵn đây một mảnh gang ngon lành lắm, quỷ tha ma bắt ta nếu ta không ném nó lên đầu anh. 

- Nhưng tôi cần một con chó - Tôi la lớn. 

- Thôi, không nói dông dài - Ông Sherman thét lên - Cút đi không nào? Ta đếm đến ba và ta quăng mảnh gang xuống đó... 

- Dạ, ông Shelock Holmes... - Tôi lên tiếng. 

Cái tên đó có tác dụng đến là thần kỳ. Cửa sổ đóng lại ngay, có tiếng rút then cài và cửa mở ra ngay trong chốc lát... 

Ông Sherman là một ông lão cao lêu nghêu, đôi vai buông tuồng, cổ gân guốc, mắt đeo kính màu xanh lơ. 

- Bạn bè của ông Shelock Holmes luôn luôn được hoan nghênh? Ông nói - Mời ông vào đi. Đừng đến gần con chồn xù ấy, nó cắn đấy. Ái chà, dữ quá ha! Mày muốn bắt ông đây, hả? 

Câu nói sau này dành cho chú chồn trắng đang thò cái đầu thèm thuồng với cặp mắt đỏ ngầu qua chấn song chuồng. 

- Đừng bận tâm đến con kia! - Ông lão nói tiếp - Đó chỉ là con thằn lằn thôi, nó không có nhanh đâu, lão cho nó tự do để bắt bọ rầy. Xin đừng để tâm giận nếu lúc nãy lão tiếp không được đàng hoàng lắm. Với đám trẻ con xóm này lão như là cái gai và chúng nó thường đến quấy rầy lão. Ông Shelock Holmes cần gì nào? 

- Một trong những con chó của bác. 

- Toby chứ gì, phải không nào? 

- Vâng, đúng là con Toby đấy ạ. 

- Nó ở số 7, đây này, bên trái đấy. 

Nâng cao ngọn đèn cày lên, ông lão từ từ bước lên giữa đám thú mà ông đã tập trung quanh mình. Dưới ánh lửa mập mờ nhảy múa của ngọn đèn, xuyên qua khe hở hoặc từ một xó xỉnh nào đó, những cặp mắt tinh anh chăm chăm nhìn chúng 

tôi. Ngay cả những cây xà ngang trên đầu chúng tôi cũng được trang hoàng bằng những chú chim bị quấy rầy trong giấc ngủ, chúng đổi thế đứng từ chân này qua chân kia với dáng oai vệ uể oải. 

Chú Toby quả thật là xấu tướng: Đôi tai buông thòng, lông thì dài, dáng đi núng nính trông chẳng được mắt tí nào! Nửa là giống chó xù, nửa là giống béc-giê, với bộ lông trắng pha hung. Sau một hồi do dự, Toby cũng chấp nhận mẩu đường mà nhà tự nhiên học già nua đã trao cho tôi. Và sau khi đã kết thúc thỏa ước, nó theo tôi ra xe và chẳng gây khó dễ gì. Đồng hồ Hoàng cung đổ ba tiếng khi tôi về lại biệt trang Pondicherry. Tôi được biết là McMurdo đã bị bắt vì tội đồng lõa, cả ông Sholto lẫn y đã được đưa đến Sở cảnh sát. Hai cảnh sát viên đang giữ lối ra vào chật hẹp, nhưng họ để tôi qua cùng với con chó khi tôi nêu tên nhà thám tử. 

Holmes đứng dưới vòm cửa miệng phì phèo ống điếu tay đút túi quần. 

- A! Anh đã đưa nó đến đấy à? - Anh nói - Một chú chó khôn đấy! Anh chàng Athelney Jones đã đi rồi. Lúc anh vừa ra khỏi đây, đã diễn ra một cảnh náo nhiệt sôi nổi ghê khiếp thật. Anh ta ra lệnh bắt chẳng những ông bạn Thaddeus của chúng ta, mà cả người gác cửa, bà quản gia và anh gia nhân người Ấn. Giờ đây chúng ta tha hồ hành động, chỉ còn một nhân viên cảnh sát trên kia thôi. Ta để con chó dưới này và lên đó. 

Tôi buộc con chó vào chiếc bàn ở lối ra vào và bước theo anh. Căn phòng vẫn y nguyên như lúc chúng tôi rời khỏi, ngoài một tấm khăn trải giường đã được phủ lên mình nạn nhân. Một viên đội cảnh sát vẻ mệt mỏi đứng tựa vào góc tường. 

Trung sĩ làm ơn cho tôi mượn chiếc đèn lồng của anh một tí - Bạn tôi nói - Bây giờ, nhờ anh buộc nó vào cổ tôi bằng đoạn dây này để nó đong đưa trước ngực tôi. Cám ơn. Tôi chỉ còn phải tháo giày và gỡ bít tất ra. Nhờ anh bạn Watson đem hộ xuống dưới. Tôi sắp sửa phải leo trèo đây. Nhúng giùm chiếc khăn tay tôi vào chất mộc du. Tốt lắm. Bây giờ mời anh lên với tôi trên rầm thượng trong chốc lát. 

Chúng tôi đu mình lên qua lỗ hổng. Holmes xích ngọn đèn lại gần dấu chân trong lớp bụi một lần nữa. 

- Phiền anh hãy xem kỹ những dấu vết này - anh nói - anh có nhận thấy có gì đáng chú ý không? 

- Những dấu vết này là của một đứa bé hoặc của một người đàn bà nhỏ con - Tôi bảo. 

- Nhưng ngoài tầm vóc ra? Chẳng còn gì khác nữa sao? 

- Thì chúng vẫn giống bất cứ dấu chân nào khác thôi. 

- Tuyệt nhiên không phải thế đâu! Anh cứ xem kỹ vào đây này! Đây là dấu bàn chân phải. Bây giờ tôi in bàn chân tôi vào lớp bụi, bên cạnh đấy nhé. Anh thấy có gì khác biệt sâu sắc không nào? 

- Những ngón chân của anh thì dính chặt vào nhau. Còn ở dấu chân kia thì những ngón chân lại tách rời nhau một cách rõ rệt. 

- Đúng thế đấy. Đó là điều chủ yếu? Anh hãy nhớ lấy nhé. Bây giờ, anh vui lòng đến gần bên cửa sổ kia và ngửi ở bậu cửa xem. Tôi phải đứng đây vì chiếc khăn tôi đang nắm có thể làm mất mùi. 

Tôi làm theo lời anh yêu cầu, và tôi nhận ra ngay mùi dầu hắc rất nặng. 

- Vậy chính tại nơi đó hắn ta đã đặt chân khi đi ra. Nếu anh có thể đánh hơi được dấu vết của hắn, thì chú Toby sẽ chẳng gặp phải khó khăn gì. Bây giờ, anh xuống đi; thả chó ra và đến mà xem vận động viên nhào lộn biểu diễn. 

Tôi vừa bước ra đến vườn thì Shelock Holmes đã lên được mái nhà, và tôi có thể nhìn theo anh đang bò chầm chậm dọc theo nóc nhà - hệt một con sâu khổng lồ bóng loáng. Có lúc anh mất hút sau hàng cột ống khói, nhưng sau đó lại hiện ra để rồi biến mất ở phía bên kia. Tôi đi vòng quanh khu nhà và thấy anh ngồi ở mép góc mái nhà. 

- Anh đấy hả, Watson? Anh hỏi lớn. 

- Vâng, tôi đây. 

- Tôi đã tìm ra chỗ kia rồi. Thế còn cái khối đen ngòm ngay bên dưới là gì thế? 

- Cái thùng tô-nô đựng nước. 

- Có cái nắp đậy bên trên chứ? 

- Vâng. 

- Không thấy dấu vết cái thang sao? 

- Không. 

- Con người cừ khôi thật? Cả một đoạn đường khiến ta phải gãy cổ đến cả vài chục lần chứ chẳng chơi. Nhưng tôi phải tìm cách leo xuống theo đúng lối mà hắn đã leo lên. Dầu sao, cứ thử xem! 

Tôi nghe có tiếng bàn chân xát vào nhau, và chiếc đèn lồng bắt đầu hạ thấp từ từ theo bức tường. Rồi bằng một cái nhảy nhẹ nhàng, anh đáp xuống mặt thùng, rồi nhảy xuống đất luôn. 

- Tìm ra dấu vết cũng dễ thôi - Anh vừa nói vừa mang lại giầy. - Những viên ngói bị xê dịch dọc theo đường hắn di chuyển. Trong lúc vội vàng, hắn đã đánh rơi vật này, nó xác nhận cách chẩn đoán của tôi, nói theo giọng nhà nghề bác sỹ của anh. 

Vật anh đưa tôi xem trông giống một cái ví nhỏ hoặc một cái bao đạn đan bằng lác được sơn phết và trang điểm bằng mấy viên đá màu. Cứ trông hình dáng và kích thước, thì nó giống hộp đựng thuốc điếu. Bên trong, có khoảng sáu bảy cây kim bằng gỗ sẫm, một đầu nhọn, đầu kia tròn. Cây kim đã giết Bartholomew trông cũng giống hệt như thế. 

- Quả thật là những vũ khí hiểm độc? - Anh nói - Cẩn thận kẻo chích vào tay đấy. Tôi rất mừng được nắm giữ chúng trong tay, vì có lẽ đây là tất cả số dự trữ còn lại. Như vậy ta khỏi phải e ngại có kẻ nào trong chúng ta nhận lãnh một mũi vào da. Về phần tôi, tôi thích một viên đạn hơn. Anh có còn đủ phong độ để làm một chuyến đi mười cây số không, Watson? 

- Hẳn nhiên - Tôi đáp. 

- Chân anh có thể đi đến cùng chăng? 

- Ô vâng. 

- À, chào anh bạn, con chó của tôi. Khá lắm đấy, chú Toby? Đánh hơi đi nào. Hít mạnh lên nào, Toby! 

Anh dí chiếc khăn tay tẩm đầy chất mộc du dưới mũi con Toby. Toby đứng yên, cẳng dang rộng, đầu nghiêng về một bên một cách thật buồn cười, như một tay sành đời đánh hơi mùi rượu quý. Sau đó, Holmes ném khăn tay ra xa, buộc một sợi dây thật chắc vào cổ chó, và dắt nó về phía thùng tô-nô. Lập tức, con chó rít lên một hồi ăng ẳng the thé rồi chúi mũi xuống đất, đuôi vểnh cao, lần theo đường hơi với một tốc độ chúng tôi khó lòng theo kịp, dầu đã bị buộc vào một đầu dây. 

Phía đông, bầu trời dần dần bừng sáng và qua một khoảng ánh sáng xám lạnh, chúng tôi có thể trông rõ được khá xa. Ngôi nhà đồ sộ vuông vắn hiện ra sừng sững đằng sau chúng tôi, với những khung cửa sổ cao và trống rỗng cùng những hàng hiên trơ trụi. Con đường đưa chúng tôi thẳng qua một đám đất dọc ngang đầy hầm hố mà chúng tôi phải vượt qua. Với những mô đất, rải rác đây đó và những bụi cây khô cằn, biệt trang này đượm một vẻ sầu thảm bi đát rất phù hợp với tấm thảm kịch đang đổ ập lên nó. 

Vừa đến chân tường rào, chú Toby vừa rảo dọc theo, vừa lên tiếng rên ư ử nôn nóng trong bóng tối. Rồi sau cùng nó dừng lại ở một góc vườn, khuất dưới bóng cây dẻ. Ở góc hai bức tường, có nhiều viên gạch bị gỡ ra, tạo thành những bậc thang, chắc đã được dùng đến nhiều lần vì đã mòn nhắn. Holmes leo lên đầu tường, bắt lấy con chó tôi chuyển cho anh, rồi buông nó xuống phía bên kia tường. 

- Đây là dấu bàn tay của gã đàn ông có chân gỗ - Anh nhận xét, trong khi tôi leo theo anh lên đầu tường - anh có trông thấy những vết máu lờ mờ trên lớp vôi trắng kia không? Thật may là từ hôm qua đến nay không có trận mưa lớn nào! Mùi mộc du vẫn còn phảng phất trên đường dầu bọn chúng đã đi trước chúng ta những 28 tám tiếng đồng hồ rồi. Riêng tôi, tôi phải thú nhận rằng tôi vẫn còn ngờ vực. 

Trên con đường trong thành phố London này biết bao xe cộ đã chạy qua trong khoảng thời gian đó. Song, mối hoài nghi của tôi cũng nhanh chóng tan biến đi. Không chút do dự, cũng không hề lệch hướng, chú Toby vẫn thong thả rảo bước theo cung cách ưỡn ẹo nhún nhảy của nó; mùi mộc du vất vưởng quanh đây chắc lấn át tất cả những mùi khác đi. 

- Anh chớ tưởng rằng - Holmes nói - Sự thành công của tôi là do ngẫu nhiên thuần túy; theo chúng ta đã thấy, một trong những tên kia đã bước chân vào chất mộc du. Bây giờ thì tôi biết khá nhiều cách để có thể tìm ra dấu vết của chúng. Cách này là cách dễ nhất, và tôi sẽ phạm sai lầm lớn nếu bỏ qua nó, vì dịp may đã đặt nó vào tay ta. Tuy nhiên, cũng vận may ấy làm cho nội vụ mất hẳn một vấn đề tri thức nho nhỏ khá lý thú mà lúc này nó suýt đặt ra cho tôi. Phải thú nhận rằng nếu không có vết chỉ dẫn quá hiển nhiên thế này thì chọc thủng được bí ẩn kia mới là công lao lớn! 

- Nhưng chỗ công lao, mà rất nhiều công lao là đằng khác, là ở phương pháp anh lý giải nội vụ chứ! - Tôi nói - Nói thật với anh là trong vụ này tôi lại còn kinh ngạc hơn trong vụ Jefferson Hope nữa kia. Tôi thấy vụ này còn sâu sắc và khó giải hơn nữa kia. Chẳng hạn như làm sao anh lại có thể mô tả nhân dạng chỉ của gã đàn ông chân gỗ một cách tin tưởng chắc chắn như vậy? 

- Thì có có gì đâu, đơn giản thôi, anh bạn tôi ơi! Nào tôi có kiếm cách làm trò ảo thuật gì đâu! Tất cả đều hiển nhiên rõ ràng, tất cả đều nằm trong các sự việc đã xảy ra thôi. Có hai sĩ quan trông coi một trại tù biết được một bí mật quan trọng liên quan đến một kho báu cất giấu đâu đó. Một người Anh tên Johnathan Small họa giúp cho hai người này tấm bản đồ. Xin anh nhớ lại là chúng ta đã đọc được tên này trên họa đồ tìm thấy trong mớ đồ đạc của đại úy Morstan. Johnathan Small đã nhân danh bản thân và nhân danh những người cộng sự ký tên vào tấm bản đồ: "Dấu Bộ Tứ", đó là chỉ danh hiệu có vẻ hơi khoa trương mà y đã chọn. Nhờ tấm họa đồ đó, hai sĩ quan kia, mà không chừng là một trong hai người thôi, đã đoạt lấy kho báu đưa về nước Anh, nhưng không làm đầy đủ ta hẳn cho là như thế đi, một số nghĩa vụ để đánh đổi lấy bức họa đồ đã được giao cho họ. Thế bây giờ còn câu hỏi này là tại sao đích thân Johnathan Small không đoạt lấy kho báu? Câu trả lời thật hiển nhiên. Bức họa đồ có từ thời Morstan có liên hệ với đám tù khổ sai. Johnathan Small không chiếm được kho báu vì cả y lẫn những cộng sự của y, tất cả đều là tù khổ sai, đã không thể đến nơi cất giấu để lấy. 

- Nhưng đó đơn thuần chỉ là một giả thiết thôi. 

- Ấy thế mà đó là giả thiết hiện nay ăn khớp với các sự kiện. Vậy đây là hơn cả giả thiết nữa đấy. Ta hãy thử xem giả thiết ấy có phù hợp với phần kế tiếp không. Này nhé, trong vài năm, thiếu tá Sholto sống trong bình yên hạnh phúc nhờ nắm 

giữ kho báu. Nhưng sau đó ông ta nhận được thư từ Ấn Độ gửi sang và lá thư này đã khiến ông kinh hoảng. Thế nội dung lá thư ấy như thế nào? Nó báo cho ông ta biết là những người mà ông ta phản bội đã được trả tự do, phải thế chăng? 

- Hay là chúng đã vượt ngục được? Tình huống này có thể đúng hơn, bởi vì ông biết rõ thời hạn lưu đày của chúng, và, nếu chúng mãn hạn tù thì ông không lấy gì làm ngạc nhiên đâu. Giả thiết ngược lại ông ta sẽ làm gì? Tất nhiên là sẽ tìm cách để tự vệ. Có điều là ông ta sợ nhất là gã đàn ông chân gỗ: một người da trắng, xin anh nhớ kỹ cho điều này, bởi vì ông ta đã bắn lầm vào một nhân viên chào hàng người Anh!... Xong rồi nhé. Trên mặt này, chỉ còn lại một cái tên, mấy tên khác đều là Ấn Độ hoặc dân Hồi giáo. Bởi lẽ đó nên ta có thể quả quyết dứt 

khoát là gã đàn ông chân gỗ và Johnathan Small chỉ là một mà thôi. Lối lập luận của tôi anh thấy có gì sai sót chăng? 

- Không Nó rất sáng suốt và chính xác. 

- Tốt. Thế bây giờ ta hãy thử đặt mình vào hoàn cảnh của Johnathan Small. Ta hãy nhìn sự việc diễn biến theo quan điểm của hắn ta. Hắn đến Anh quốc với hai mục đích: thu hồi lại những thứ mà hắn xem như là thuộc quyền sở hữu của hắn, và trả thù kẻ đã phản bội hắn. Hắn đã tìm ra nơi ăn chốn ở của Sholto và rất có thể hắn đã làm quen với một ai đó trong nhà. Chẳng hạn như Lal Rao anh chàng đầu bếp nọ. Bà Bernstone đã mô tả anh chàng này với tôi bằng những lời lẽ không mấy tốt đẹp cho lắm. Tuy nhiên, Johnathan Small không tìm ra được nơi cất kho báu, vì chẳng ai biết được nơi ấy cả: chẳng ai cả, ngoại trừ viên thiếu tá và một gia nhân trung thành đã chết từ thuở ấy. Bỗng nhiên Small hay tin thiếu tá Sholto đang nằm trên giường chờ chết. Phát hoảng bởi ý nghĩ là bí mật của kho báu có thể bị chôn vùi xuống mồ cùng với viên thiếu tá, Small lọt được qua vòng kiểm soát canh giữ của đám gia nhân và tìm cách đến cạnh cửa sổ mà bên trong viên thiếu tá đang hấp hối; chỉ vì sự hiện diện của hai người con nên hắn không đột nhập vào nhà được. Lòng căm thù đối với người chết khiến hắn nổi điên. Hắn đột nhập vào phòng trong đêm, lục lọi mớ giấy tờ bí mật với hy vọng phát hiện ra một tài liệu nào đó có liên quan đến kho báu. Sau cùng, hắn ghi lại vài chữ trên tấm thiếp để nhắc nhở cuộc viếng thăm của hắn. Chắc hẳn là hắn dự kiến rằng, nếu có phải hạ sát viên thiếu tá thì hắn để lại vết tích kiểu này chỉ cho thấy đây không phải là một vụ án mạng tầm thường, mà là một hành vi tái lập công lý, ít ra cũng là đứng trên quan điểm của bốn người cộng sự. Những ý nghĩ lạ lùng kỳ quặc như thế cũng khá thông thường trong các lịch sử "tội phạm" thường thì nó cho ta nhiều chỉ dẫn rất hữu ích về cá tính tên tội phạm. À, mà anh có theo tôi kịp không đấy? 

- Rất tốt. 

- Bây giờ thì Johnathan Small có thể làm gì nào? Y chỉ có thể tiếp tục một cách kín đáo những cố gắng để tìm ra kho báu. Có thể hắn ta đã rời khỏi nước Anh để thỉnh thoảng trở về lại. Nhưng lại xảy ra việc phát hiện ra rầm thượng. Hắn được thông báo về việc này ngay lập tức. Một lần nữa, ta lại thấy có sự hiện diện của một kẻ đồng lõa ở hiện trường. Với cái chân gỗ, Johnathan không tài nào leo lên đến căn phòng quá cao của Bartholomew. Thế là hắn đem theo một tên đồng phạm khá bí mật, tên này có thể leo trèo dễ dàng nhưng lại dẫm chân trần vào chất mộc du. Do đó, mới nhờ đến chú Toby, và nhờ đến một bác sỹ hưởng nửa lương với gót chân bị hỏng phải khập khiễng đi dạo 6 dặm đường. 

- Thế thì chính tên tòng phạm, chứ không phải Johnathan đã phát khùng lên, nếu tôi cứ xét theo phong cách mà hắn ta đã đi đi lại lại trong căn phòng khi đã vào được. Hắn chẳng có thù oán gì với Bartholomew Sholto, có lẽ hắn ta chỉ muốn nhét giẻ vào miệng và trói ông này lại. Thật tình thì anh chàng này chẳng muốn tự mắc dây thòng lọng vào cổ tí nào! Nhưng hắn đã không thể ngăn ngừa những bản năng man rợ của tên tòng phạm bùng ra; và sau đó thuốc độc đã có tác dụng. Thế là Johnathan để lại chữ ký của mình, đem kho báu xuống và thoát ra cũng bằng lối như trước. Đó là diễn biến các sự cố đã xảy ra mà tôi có thể giải đáp được. Còn nói về dáng đi của hắn ta, thì chắc là hắn cũng đã có tuổi và nước da khá sẫm vì phải thọ án trong một lò lửa như vùng Andaman. Còn tầm thước của hắn thì tôi có thể tính ra dễ dàng theo chiều dài bước sải của hắn, và ta cũng được biết là hắn có để râu cằm. Bộ râu này là điều duy nhất khiến Thaddeus Sholto phải hoảng sợ khi trông thấy hắn ở cửa sổ. Ngoài ra... 

- Thế còn tên tòng phạm? 

- Ồ, chẳng có gì là bí ẩn cả? Nhưng rồi thì anh cũng sẽ biết thôi... Chà, không khí ban mai mới dịu mát làm sao? Kìa anh hãy nhìn lên xem đám mây nhỏ bé kia: nó bồng bềnh trông tựa chiếc lông hồng nhô ra từ một con chim hồng hạc khổng lồ nào đó. Giờ đây, viền đỏ của đĩa mặt trời đang nhô ra khỏi lớp mây trùm lên thành phố London. Mảnh mặt trời nay chiếu sáng cho khá nhiều người đấy, nhưng chẳng có ai, tôi dám đánh cuộc như thế, lại nhận lãnh một sứ mạng lạ lùng như chúng ta! Chúng ta mới nhỏ bé làm sao, với những tham vọng thấp hèn cũng như những sức mạnh to lớn sơ khai của thiên nhiên. Sao, thế nào, anh đã tiến bộ gì trong việc nghiên cứu Jean Paul[1]? 

- À cũng tạm. Tôi đã trở lại gặp ông ấy qua Carlyle[2]. 

- À, thế là lần theo con suối lên đến nguồn. Ông này đã nêu ra một nhận xét khá lạ lùng song rất sâu sắc: bằng chứng đầu tiên về tầm vóc vĩ đại của con người là sự nhận thức về mức độ hèn kém của mình. Đấy, anh thấy không, điều này hàm ngụ một khả năng so sánh và đánh giá mà chính tự bản thân nó cũng đã là một bằng chứng về tính cao quý của con người. Richter[3] khiến ta phải suy nghĩ nhiều đấy! Chắc là anh không có súng ngắn? 

- Tôi có chiếc gậy. 

- Có khả năng là ta sẽ cần dùng đến một dụng cụ đại loại như thế, nếu ta vào được tận hang ổ của chúng. Tôi giao Johnathan cho anh, còn tên kia, nếu có tỏ ra hung dữ, tôi sẽ hạ hắn ngay tại chỗ! 

Vừa nói anh vừa lấy khẩu súng ngắn của mình ra, cho hai viên đạn vào rồi nhét lại trong túi áo vét bên phải. 

Trong lúc đó, chú Toby hướng dẫn chúng tôi dọc theo những con lộ, hai bên là làng mạc đưa về London. Và giờ đây, chúng tôi đi vào những đường phố thật sự với đám phu bến tàu và công nhân đi đến nơi làm việc. Mấy bà nội trợ ăn mặc xuềnh xoàng mở những ô cửa kéo và quét bậc thang lối ra vào. Từ những quán rượu, người ta đã thấy bước ra những đám đàn ông dáng đi thô bạo, vừa đi vừa lấy tay áo quệt hàm râu sau chầu nhậu buổi sáng. Mấy con chó thảm hại lang thang ngạc nhiên nhìn chúng tôi nhưng Toby cứ bước lên tới trước chẳng ngó ngang ngó dọc, múi chúi xuống đất, thỉnh thoảng lại rít lên báo hiệu một mùi mới đâu đây. 

Chúng tôi đã băng qua khu Streatham, Brixton, Camberwell, và bây giờ chúng tôi đang ở khu hẻm Kennington; thế là chúng tôi đã đi qua những con đường ngang, về phía đông khu Oval. Những kẻ chúng tôi săn đuổi dường như đã dùng một lộ 

trình ngoằn ngoèo quanh co, có lẽ là để tránh bị tìm ra. Không một lần nào chúng dùng con đường chính nếu có đường nhỏ song song. Đầu khu hẻm Kennington, chúng rẽ trái băng phố Bond và phố Miles. Chú Toby dừng lại nơi phố Miles, rẽ vào Quảng trường Hiệp sĩ. Rồi nó chạy lui chạy tới, một tai dựng lên, tai kia kụp xuống, đúng là hình ảnh của sự bất định ở loài chó? Sau cùng, nó lại rảo bước vòng quanh, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu nhìn chúng tôi, như thể mong chúng tôi hiểu giùm cho nỗi bối rối của nó. 

- Con chó mắc dịch này sao thế - Holmes càu nhàu - Chắc chắn là chúng không dùng xe mà ít ra chúng cũng không cỡi khinh khí cầu rồi! 

- Có lẽ chúng đã dừng lại đây trong chốc lát? - Tôi gợi ý. 

- À được lắm: kìa nó lại bước đi tiếp! - Bạn tôi nói giọng nhẹ nhõm. 

Thật thế, Toby lại tiếp tục lần theo dấu vết đánh hơi. Nó còn đi quanh thêm một vòng nữa, khịt khịt mũi, rồi bỗng tỏ ra quả quyết. Giờ đây nó phóng tới trước bằng một sức mạnh và quyết tâm mà trước đó nó chưa hề có. Mùi mộc du có vẻ rõ rệt hơn trước, bởi nó chẳng cần đánh hơi mặt đất. Nó giật mạnh dây xích lên và tìm cách chạy đi. Cứ nhìn ánh mắt sáng rỡ của Holmes là cũng có thể biết được rằng anh đang nghĩ là cuộc hành trình của chúng tôi sắp sửa chấm dứt. 

Giờ đây lộ trình của chúng tôi dắt chúng tôi qua phố Nine Elms. Chúng tôi đến xưởng gỗ "Broderick và Nelson", nằm ngay sau quán rượu "White Eagle". Đến đó, chú chó dưới cơn kích động dữ dội, chạy bổ vào xưởng mộc bằng lối bên hông, nơi đây thợ cưa đã bắt tay vào việc rồi. Không ngừng kéo sợi dây xích lên, Toby chạy băng qua đống mạt cưa và dăm bào, đâm bổ vào một lối đi, len lỏi giữa hai đống gỗ. Sau cùng rít lên một tiếng đắc thắng, nó nhảy phốc lên cái thùng lớn đang còn nằm trên chiếc xe vừa mới đưa đến. Lưỡi thõng xuống, mắt long lanh, Toby ngồi chễm chệ trên nắp thùng, nhìn chúng tôi hết người này qua người khác, rõ ràng muốn tìm một sự tán đồng ở chúng tôi. Ván thùng tô-nô và bánh xe của chiếc goòng được phết lên bằng một thứ nước đen ngòm, và bầu không khí quanh đó nồng nặc mùi mộc du. 

Shelock Holmes và tôi nhìn nhau chưng hửng, rồi đột nhiên bật cười không sao nhịn được.

Chương 8

Nghĩa binh ở phố Baker

- Thế thì - Tôi hỏi - Toby đã nhầm lẫn? 

- Nó đã làm đúng điều ta đòi hỏi nó - Holmes vừa nói vừa đưa con chó xuống khỏi thùng và kéo nó ra khỏi xưởng gỗ - Nếu anh chịu nghĩ đến lượng mộc du chuyên chở tại London trong một ngày, thì không có gì phải ngạc nhiên, nếu đường theo dấu vết của chúng ta bị tắc nghẽn. Hôm nay con đường này được sử dụng nhiều lắm. Chú Toby khốn khổ chẳng có gì đáng quở trách cả. 

- Tôi nghĩ ta phải quay trở lại từ dấu vết thứ nhất thôi. 

- Đúng thế. Cũng may là con đường không đến nỗi dài lắm. Điều đánh lạc hướng con chó ở góc Quảng trường Hiệp sĩ dĩ nhiên là do sự kiện hai con đường gặp nhau, đã gặp nhau rồi tách xa nhau về hướng đối nghịch. Chúng ta đã đi theo hướng sai. Giờ chỉ còn lần theo hướng kia thôi. 

Việc này chẳng có gì khó khăn. Khi quay trở lại nơi nó đã lầm đường, Toby quanh một vòng tròn lớn rồi phóng theo hướng mới. 

- Cần phải trông chừng sao cho nó không đưa ta đến địa điểm xuất phát của một cái thùng đựng mộc du khác - Tôi lưu ý. 

- Vâng, tôi đã nghĩ đến điều đó. Nhưng anh cũng thấy rằng nó đứng yên trên lề đường trong khi có một chiếc xe chở mộc du mới chạy ngang qua. Không, anh Watson à, lần này thì ta đi đúng đường rồi. 

Hướng này dẫn về phía sông, ngang qua Quảng trường Belmont và phố Hoàng tử. Khi đến cuối phố Broad, nó đâm thẳng xuống bờ sông, nơi có một khúc cầu nhỏ bằng gỗ. Toby dắt chúng ta đến đầu cầu,và cứ đứng đây rên ư ử trước dòng sông 

đen ngòm. 

- Ta thật không may - Holmes nói - Bọn chúng đã tẩu thoát bằng tàu rồi. 

Nhiều tàu và thuyền nhẹ bồng bềnh trên nước bên chiếc tàu gỗ. Chúng tôi dắt Toby đến từng chiếc một, nó ra sức đánh hơi nhưng chẳng có kết quả gì. Cách chiếc cầu tàu thô sơ không xa, có một ngôi nhà gạch nhỏ. Ở cửa sổ thứ hai trên một tấm biển gỗ trên có ghi hàng chữ lớn "Mordecai Smith" và bên dưới "Cho mướn tàu theo giờ hoặc ngày". Một tấm biển thứ hai treo bên cửa ra vào cho biết 

căn nhà còn có thêm một chiếc thuyền máy chạy bằng hơi nước. Thật vậy, tôi thấy có một đống than lớn cạnh cầu tàu. Holmes xem xét khu vực bằng cái nhìn chán ngán. 

- Bậy thật, bậy thật! - Anh nói - Mấy tên này khôn lanh hơn tôi nghĩ. Có vẻ như chúng đã khỏa lấp được dấu vết của chúng rồi. Tôi e rằng chúng đã tuân theo một phương án được bàn bạc kỹ lưỡng trước đó. 

Anh tiến lại gần nhà vừa lúc cửa mở. Một cậu bé tóc quăn khoảng 6 tuổi chạy ùa ra, theo sau là một người đàn bà khỏe mạnh, gương mặt hồng hào, tay cầm chiếc khăn xốp. 

- Jack, trở lại đây mẹ rửa ráy cho! Bà gọi lớn. Có lại đây không nào, đồ quỷ sứ! Nếu bố mày về mà trông thấy mày như thế thì chắc chắn ông ấy sẽ la toáng lên cho mà xem... 

- Chà cậu bé xinh quá! - Holmes nói lớn như thế xác lập vị trí chiến lược của đôi bên - Có thể nào tưởng tượng được đôi má hồng đến thế không? Này cậu Jack, cậu thích cái gì nào? 

- Vâng, nếu được thì cháu thích có 2 shilling. Cậu bé tuyệt vời đáp sau một hồi suy nghĩ. 

- Thế thì đây! Bắt lấy này. Quả thật bà có cả một kho tàng tinh khôi đấy, bà Smith ạ. 

- Xin Chúc phù hộ ông, thưa ông! Nó còn hơn thế nữa kia! Nhưng lắm lúc nó cũng làm cho tôi đến phát điên lên, nhất là khi nhà tôi phải đi vắng nhiều ngày. 

- Thế ông nhà đi vắng? - Holmes hỏi, giọng thất vọng - Tiếc quá, tôi lại có ý muốn tiếp chuyện với ông. 

- Ông ấy ra đi từ sáng hôm qua, thưa ông.Và cũng phải nói thật là tôi đang bắt đầu lo ngại. A, mà nếu là về chuyện thuê tàu, thưa ông, thì chắc là tôi có thể giúp ông được. 

- Tôi muốn thuê chiếc thuyền máy chạy hơi nước của ông nhà. 

- Thế thì thưa ông, tiếc quá, ông ấy đã ra đi bằng chính chiếc thuyền ấy. Thật ra tôi cũng ngạc nhiên, vì nó chỉ có vừa đủ than để đi đến Woolwich và trở về thôi. Nếu ông nhà tôi đi bằng chiếc xà lan chở hàng, tôi cũng chẳng lo lắng gì: công việc làm ăn đôi khi kéo ông đến mãi tận Gravesend và khi nào ở đấy bận nhiều công chuyện, ông cũng thường lưu lại tại đó. Nhưng với chiếc thuyền máy không đủ than thì phỏng làm được việc gì? 

- Ông nhà có thể kiếm mua than ở một bến tàu nào đó khi xuôi sông. 

- Có thể như thế thật, thưa ông, nhưng đó không phải là thói quen của ông ấy. Đã nhiều lần tôi nghe ông la lối chửi rủa vì những món tiền người ta đòi để lấy vài bao than. Vả lại, tôi không ưa được cái lão chân gỗ với cái lối ăn nói lạ hoắc. Lão ta có cái đầu trông không vào được tí nào! Sao mà lúc nào lão cũng rảo quanh đây thế? 

- Người đàn ông chân gỗ - Holmes hỏi bằng giọng ngạc nhiên một cách ngây thơ. 

- Vâng, thưa ông, một gã đàn ông khuôn mặt xạm đen trông đến là giống khỉ! Hắn đến gặp nhà tôi nhiều lần. Chính hắn đã đánh thức ông ấy dậy, đêm hôm kia. Có điều lạ hơn nữa là nhà tôi biết hắn ta sẽ đến, vì ông đã đổ đầy nước vào nồi supde trên chiếc đò máy. Tôi chẳng quanh co gì, thưa ông, thật tôi lo quá chừng! 

- Nhưng, thưa bà Smith thân mến, dầu sao bà chẳng việc gì phải lo ngại cả - Holmes nhún vai nói - Nhưng trước hết, làm sao bà có thể bảo người đến đêm ấy chính là gã đàn ông chân gỗ? Tôi không hiểu sao bà lại có thể quả quyết như vậy. 

- Chính giọng nói của hắn, thưa ông. Tôi biết giọng nói của hắn, nó nghe như khản đục. Hắn gõ vào cửa sổ, lúc ấy vào khoảng ba giờ sáng: "Ê, trong kia, thức dậy đi" - hắn bảo "đã đến giờ đổi phiên gác rồi đấy". Ông nhà tôi đánh thức Jim, con trai cả chúng tôi, và thế là họ ra đi, không buồn nói với tôi một lời. Tôi nghe rõ cả tiếng chân gỗ ầm vang trên đá lát đường. 

- Còn tên chân gỗ kia, hắn đến một mình sao? - Thưa ông, tôi không thể nói chắc chắn được. Tôi chẳng nghe thấy có giọng nói ai khác. 

- Tôi tiếc lắm, bà Smith à. Tôi cần một chiếc đò máy, và tôi đã nghe người ta nói tốt về chiếc... à, mà chiếc đò máy ấy tên là gì nhỉ? 

- "The Aurora", thưa ông. 

- A! Có phải đó là chiếc đò máy cũ kỹ sơn màu xanh lục, có viền một đường vàng và đáy rất rộng? 

- Không phải thế đâu! Nó là một trong những chiếc tàu thon dài nhất đang chạy trên sông. Và nó được sơn mới lại tuyền đen với hai viền đỏ. 

- Cám ơn. Tôi mong bà sẽ sớm nhận được tin tức của ông nhà. Tôi sắp sửa xuôi sông đây, và nếu tôi thấy chiếc "The Aurora", tôi sẽ cho vị chủ tàu biết là bà đang lo lắng. Bà vừa nói ống khói tàu màu đen? 

- Không, thưa ông. Đen với một đường viền màu trắng. 

- À, hẳn nhiên rồi! Hai bên mới màu đen. Xin chào bà, bà Smith! Người lái đò và chiếc đò của anh ta kia rồi, Watson. Ta hãy nhờ đưa qua sông. 

- Với những người thuộc loại này - Holmes nói tiếp khi chúng tôi ngồi vào thuyền gần chỗ lái tàu - điều quan trọng là đừng bao giờ cho họ có cơ hội nghĩ rằng những điều họ thuật lại cho ta có một tầm mức trọng yếu nào đó. Nếu không, họ sẽ ngậm miệng hến ngay. Nhưng, ngược lại, bạn cứ giả vờ nghe họ một cách miễn cưỡng, bạn mới may mắn được biết những điều bạn muốn biết. 

- Dầu sao ta đã biết được ta sẽ phải làm những gì rồi - Tôi nói. - Vậy kế hoạch anh như thế nào? 

- Mướn một chiếc đò máy rồi xuôi dòng sông để tìm ra chiếc "The Aurora". 

- Nhưng, thưa ông bạn thân mến của tôi ơi, đó mới thật là công tác khổng lồ. Chiếc đò máy kia có thể cập vào bất cứ cầu tàu nào bên bờ sông từ giữa đây và Greenwich. Qua khỏi cầu, những điểm cập tàu tạo thành một mê lộ dài hàng dặm. Anh sẽ phải mất toi không biết bao nhiêu ngày mới có thể thám hiểm tất cả được. 

- Nếu thế thì ta nhờ đến cảnh sát vậy. 

- Không đâu. Chắc hẳn là tôi sẽ liên hệ với Athelney Jones, nhưng chỉ vào lúc sau cùng thôi. Anh ta không phải là người tệ, và tôi chẳng muốn làm bất cứ điều gì có thể gây nguy hại cho anh ấy về mặt nghề nghiệp. Nhưng tôi thích hành động một mình hơn, nhất là hiện nay công việc của ta đã tiến triển rất nhiều. 

- Hay là ta có thể đăng vào mục rao vặt trên báo, hỏi thăm những chỉ dẫn ở những người bảo vệ các bến tàu. 

- Mỗi lúc một tệ hơn. "Các bạn" của chúng ta lúc bấy giờ biết ngay là chúng ta đang truy nã họ gắt gao và họ sẽ rời khỏi nước này ngay. Tất nhiên, dầu sao họ cũng sẽ ra đi thôi, nhưng chừng nào họ còn cảm thấy tuyệt đối an toàn, họ sẽ chẳng vội vã gì đâu. Quyết tâm của chàng thám tử Jones sẽ giúp ta trong việc 

này. Các nhật báo chắc chắn sẽ trình bày quan điểm của anh ấy, và mấy tên đào thoát của chúng ta sẽ tin là cảnh sát đang lầm đường. 

- Vậy ta làm gì đây? - Tôi hỏi khi chúng tôi lên bờ, gần Trại giam Millbank. 

- Ta sẽ lên chiếc xe ngựa kia, về nhà, gọi bữa ăn, rồi đi nằm một tiếng. Rất có khả năng là đêm tới đây ta sẽ phải thức suốt. Bác xà ích ơi, hãy cho chúng tôi xuống trạm bưu điện đầu tiên trên đường. Chú Toby vẫn còn đắc dụng cho chúng ta, ta hãy giữ nó lại. 

Xe ngựa dừng trước bưu điện phố Great Peter và Holmes xuống gửi một bức điện tín. 

- Theo anh thì tôi đã gửi điện cho ai? Anh hỏi tôi lúc trở ra. 

- Tôi thật chẳng nghĩ ra đâu. 

- Anh có còn nhớ phòng cảnh sát đặc biệt phố Baker không? Tôi đã có nhờ đến họ trong vụ Jefferson Hope. 

- Vâng, có. Thế rồi sao? 

- Thì đây, đúng là một bài toán điển hình mà sự giúp đỡ của họ có thể rất quý báu cho ta. Nếu họ thất bại, tôi có cách khác. Nhưng trước hết tôi thử nghiệm cách này xem sao. Bức điện tín của tôi gửi đến chàng trung úy nhỏ bé của ta, tên gọi Wiggins. Tôi nghĩ anh ta và các bạn sẽ đến thăm ta trước khi ta dùng xong bữa điểm tâm. 

Bấy giờ vào khoảng 8 giờ rưỡi và các sự cố trong đêm bắt đầu có tác dụng nặng nề. Tôi mệt mỏi ê ẩm, đầu óc rối bời. Để chịu đựng được, tôi không có được cái nhiệt tình nghề nghiệp của anh bạn tôi; vả chăng tôi không tài nào xem xét vấn đề một cách trừu tượng như là một bài toán có tính tri thức đơn thuần. Về phần Bartholomew, tôi được nghe thiên hạ nói nhiều điều không tốt về ông ta, còn những kẻ hạ sát ông ta cũng không gây nơi tôi mối ác cảm quá lắm. Nhưng nói đến kho báu thì lại là chuyện khác. Kho báu ấy, trên nguyên tắc, là sở hữu của cô Mortan toàn bộ hay một phần. Chừng nào còn cơ may tìm lại nó được thì tôi sẵn sàng cống hiến cả mạng sống của tôi. Nhưng nếu thế thì thành công của chúng tôi có lẽ sẽ đưa cô ta mãi mãi ra khỏi tầm tay của tôi. Song mối tình của tôi, nếu để cho một suy nghĩ như thế ảnh hưởng đến thì hóa ra chẳng quá vị kỷ và nhỏ nhen sao! Holmes có thể hành động vào việc bắt giữ tội phạm. Còn tôi, tôi lại có một lý do 10 lần mạnh hơn để lấy lại kho báu 

Về đến phố Baker, sau khi tắm và thay áo quần, tôi cảm thấy khoan khoái vô cùng. Khi bước xuống phòng, tôi thấy bữa điểm tâm đã dọn xong, và Holmes đang pha cà phê. 

- Người ta đang bàn tán về vụ án - Anh vừa nói vừa chỉ vào tờ báo đã lật ra - Một nhà báo có tài ở khắp mọi nơi và chàng Jones có thừa quyết tâm và đầy nghị lực đã thu xếp nội vụ giữa hai người. Nhưng chắc anh đã phải ngấy chán với câu chuyện này rồi! Hãy dùng món trứng thịt muối đi đã. 

Tôi chụp lấy tờ báo và đọc bài ngắn dưới nhan đề "Một vụ án bí ẩn tại Thượng Norwood" (báo Standard). 

"Hôm qua, vào khoảng nửa đêm ông Bartholomew, cư ngụ tại biệt trang Pondicherry, Thượng Norwood, đã được người ta tìm thấy chết trong phòng riêng. Tình huống xảy ra cho thấy đây là một hành động tội ác. Theo chỗ chúng tôi được biết, trên thi thể nạn nhân người ta không tìm thấy một dấu vết hung bạo nào. Nhưng một bộ sưu tập quý giá gồm những châu báu Ấn Độ do người quá cố khả kính thừa hưởng của thân phụ đã biến mất. Tội ác do ông Shelock Holmes và bác sỹ Watson là hai người đã đến căn nhà cùng với Thaddeus Sholto, em của người quá cố, phát hiện. Một dịp may đặc biệt đã khiến ông Athelney Jones, nhà thám tử nổi danh của Sở cảnh sát trung ương có mặt tại Ty cảnh sát Norwood. Nhờ thế ông đã có mặt tại hiện trường sau khi có lệnh báo động chưa đầy nửa tiếng đồng hồ. Kinh nghiệm và tài ba của ông ta hướng ngay vào việc truy tầm tội phạm. Kết quả tốt đẹp là người em của nạn nhân, Thaddeus Sholto, bà quản gia Bernston, người đầu bếp Ấn Độ tên Lal Rao, và người gác cổng McMurdo đều bị bắt. 

Thật vậy, rõ ràng là một hay nhiều tên trộm đó phải biết rõ ngôi nhà. Những hiểu biết kỹ thuật lừng danh của ông Jones kết hợp với những biệt tài cũng nổi tiếng không kém của ông, đã giúp ông chứng minh một cách không thể bác bỏ được là bọn cướp không thể nào xâm nhập được bằng cửa ra vào, hoặc bằng cửa sổ. Chúng đã leo lên mái nhà, đột nhập bằng cửa trổ trên mái chui xuống căn phòng ăn thông với gian phòng nơi tìm thấy tử thi. Thế là người ta dứt khoát gạt bỏ giả thiết một vụ đánh cắp đơn thuần do những kẻ lạ mặt. Hành động chóng vánh và quả quyết của đại diện pháp luật tỏ rõ rằng trong những trường hợp như thế, ta có lợi lớn nếu giao cuộc điều tra cho một bộ óc duy nhất, mạnh mẽ và làm chủ phương tiện của mình. Ta không thể không nghĩ rằng một kết quả như vậy cống hiến một luận cứ có trọng lượng thám tử của ta. Lúc bấy giờ những người này sẽ 

được tiếp xúc chặt chẽ hơn và có hiệu quả hơn với những vụ mà họ phải điều tra". 

- Tuyệt diệu, phải không? - Holmes vừa nói vừa mỉm cười nâng tách cà phê - Anh nghĩ thế nào? 

- Tôi nghĩ suýt nữa chúng ta cũng bị bắt. 

- Ý kiến tôi cũng thế. Chắc tôi không dám chịu trách nhiệm về sự tự do của chúng ta nếu đột nhiên anh ta lại nổi cơn quyết liệt khác. 

Đúng ngay lúc ấy cả ngôi nhà vang lên tiếng chuông kéo dài. Chúng tôi nghe thấy bà Hudson, chủ nhà trọ , thốt lên những lời ta thán và những câu mắng mỏ gay gắt. 

- Trời đất! - Tôi vừa kêu lên vừa đứng dậy khỏi ghế - Anh Holmes à, tôi nghĩ chắc họ đến bắt ta đấy. 

- Không, không đến nỗi khủng khiếp như thế đâu! Tôi nhận ra ngay đội cảnh sát trợ lý của tôi mà, đám nghĩa binh Baker đấy. 

Thật thế, tiếng la hét đinh tai và tiếng chân không chạy vội vàng dội trong cầu thang, và 12, 13 đứa bé lang thang, nhớp nhúa, rách rưới chạy ùa vào phòng. Tôi nhận thấy mặc dầu sự xâm nhập có ồn ào thật, nhưng chứng tỏ có kỷ luật. Chúng lập tức đứng xếp thành nàng, và đứng trước chúng tôi là những khuôn mặt trẻ con linh hoạt vui vẻ. Sau đó, một đứa trong bọn chúng bước lên với một vẻ uể oải bề trên trông thật buồn cười, so với lứa tuổi của cậu. Đúng là một chú ngáo ộp. 

- Đã nhận rõ tín hiệu của ông, thưa ông - Nó báo cáo - Cháu đưa tụi nó lại gặp ông đầy đủ. Phí tổn chuyên chở tính tất cả là 3 shilling[1] 6 pence. 

- Đây, Holmes vừa nói vừa lấy tiền ra - Bận sau cháu chỉ việc nghe các bản báo cáo, rồi báo lại cho chú là được rồi. Chú không muốn các cháu đến đông như thế này nữa. Tuy thế, tiện đây, chú cũng muốn tất cả đều nghe rõ lệnh công tác của chú. Chú muốn tìm ra nơi đậu của một chiếc đò máy tên "The Aurora". 

Tên người chủ là Mordecai Smith. Đò chắc là đã xuôi sông và ngừng lại đâu đó. Nó màu đen, hai bên có viền màu đỏ. Ống khói cũng màu đen và có một vạch trắng. Một trong các cháu phải trụ lại bến của Mordecai Smith, đối diện với Millbank để xem ông ấy có trở về không. Số còn lại chia nhau hai bờ sông, và 

mỗi cháu phải làm tròn trách nhiệm của mình một cách chu đáo. Hễ có tin gì, là cho chú biết ngay. Chú nói rõ tất cả rồi chứ? 

- Vâng, thưa Chef[2]! Wiggins đáp. 

- Giá cả như thường lệ, lại thêm một guinea cho ai tìm thấy chiếc đò máy kia. Đây, tiền công một ngày chú đưa trước. Và bây giờ, bắt tay vào việc đi! 

Anh trao cho mỗi đưa một shilling, thế là đám trẻ tuôn xuống cầu thang. Chỉ một lát sau, tôi đã thấy chúng chạy dài theo con đường. 

- Nếu chiếc đò mày còn trên mặt nước, lũ trẻ sẽ tìm thấy thôi! - Holmes nói và đứng dậy khỏi bàn. 

Anh đốt ống điếu. 

- Chúng có thể đi khắp mọi nơi, thấy tất cả và nghe tất cả. Tôi tin rằng chúng sẽ tìm thấy chiếc đò trước tối nay. Trong khi chờ đợi, ta chẳng làm được gì đâu. Muốn lần lại dấu vết, ta phải tìm thấy chiếc "The Aurora" hoặc Mordecai Smith. 

- Tôi chắc là Toby sẽ được một bữa no nê với bữa ăn còn lại của chúng ta. Anh có đi nghỉ không, anh Holmes? 

- Không, tôi không thấy mệt. Tạng người tôi kể cũng lạ. Tôi nhớ chưa có lần nào bị mệt mỏi vì công việc. Ngược lại, nhàn rỗi khiến tôi kiệt sức hoàn toàn. Tôi đi hút chút đỉnh và suy nghĩ về cái vụ án lạ lùng đã đưa đến cho chúng ta một thân chủ thật là duyên dáng. Nếu có nhiệm vụ nào dễ dàng, thì đó chính là nhiệm vụ của chúng ta. Những người có chân gỗ đâu phải là nhiều lắm. Còn về tên kia, tôi nghĩ hắn ta tuyệt đối là duy nhất trong chủng loại. 

- Lại còn tên kia nữa? 

- Tôi không có ý chơi trò ú tim với anh đâu, Watson à. Tuy nhiên anh chắc cũng có một chút ý kiến chứ, phải không nào? Ta hãy xem lại các dữ kiện: đôi chân không nhỏ thó, mấy ngón chân không bao giờ bị ép trong giày, cái chuỳ bằng đá, tính nhanh nhẹn kỳ lạ, những mũi tên tẩm độc. 

- Một người man di! - Tôi buột miệng kêu lớn - Có lẽ đó là một trong số những người Ấn mà Jonathan Small đã cộng tác? 

- Đáng ngờ lắm - Anh nói - Tôi đã nghĩ đến cách giải thích này lúc trông thấy thứ vũ khí lạ lùng kia. Song những dấu chân kỳ quặc đã khiến tôi phải xét lại vấn đề một số dân cư Ấn Độ quả thật dáng người nhỏ, nhưng không người nào lại có thể để lại dấu chân như thế. Người Ấn có bàn chân dài và thon; người Hồi giáo có khác là ngón chân cái tách hẳn mấy ngón khác, vì họ mang dép có quai kẹp giữa ngón cái và ngón thứ hai. Hơn nữa những mũi tên kia chỉ có thể duy nhất được bắn ra bằng ống đồng. Thế thì anh chàng man di của chúng ta có thể từ đâu đến? 

- Từ Nam Mỹ chăng? Tôi thử nói liều. 

Holmes với tay lên kệ sách, và lấy xuống một cuốn sách dày cộm. 

- "Đây là cuốn thứ nhất của bộ bách khoa đang được xuất bản. Ta có thể xem nó là hiện đại nhất. Ta đọc thấy gì nào?" 

Quần đảo Andaman nằm cách đảo Sumatra 340 dặm về phía Bắc, trong vịnh Bengal"Hừm! Hừm!". Còn gì đây? Xem nào: khí hậu ẩm thấp, đá ngầm san 

hô, cảng Blair, trại tù khổ sai quân đội, đảo Rutland, đồn điền bông. A, đây rồi! 

Dân bản xứ quần đảo Andaman có thể tự hào là dân tộc nhỏ nhất trên quả đất mặc dầu một số nhà nhân chủng học dành danh vị này cho bộ tộc Bushmen ở châu Phi, bộ tộc da đỏ Digger ở Châu Mỹ và bộ tộc Terra del Fuegians. Chiều cao trung bình của họ không quá 4 feet, nhưng nhiều người trưởng thành có thể tạng bình thường lại còn thấp hơn nữa. Bộ tộc này có tính bạo tàn và khó tính. Nhưng khi ta đã chiếm được cảm tình của họ thì họ có thể rất hết lòng hết dạ với ta". 

Xin anh nhớ cho điều đó, Watson ạ. Bây giờ hãy nghe nốt đoạn tiếp 

"Ngoại diện của họ rất ghê khiếp. Đầu thì to tướng chẳng ra hình thù gì, mắt nhỏ, đường nét trên mặt thì biến hình, tay chân nhỏ thó. Họ tàn bạo và khó tính đến nỗi Chính quyền Anh đã thất bại trong mọi cố gắng để lấy được lòng tin của họ. Từ thuở nào họ vẫn là nỗi hãi hùng cho những người bị đắm tàu mà họ tàn sát bằng chùy đá hoặc tên tẩm độc. Những cuộc tàn sát này luôn kết thúc bằng một bữa tiệc thịt người". 

Thế đó, một dân tộc hữu nghị và hiếu hòa Watson ạ! Nếu anh man di của chúng ta được tha hồ hành động thì vụ án này sẽ có một diễn biến còn khủng khiếp hơn 

nhiều. Tuy thế, tôi nghĩ rằng ngay đến bây giờ Johnathan sẽ tiếc húi hụi nếu không dùng tên man di này. 

- Nhưng bằng cách nào mà hắn kiếm ra được một tên tòng phạm cỡ đó? 

- À, tôi cũng không thể nói anh rõ thêm hơn nữa! Tuy nhiên, ta đã xác định được là Small đã cư ngụ tại đảo Andaman; thế có gì là lạ nếu hắn có một người bạn là dân bản xứ. Ta sẽ hiểu biết tất cả điều đó vào đúng thời điểm, tôi chắc chắn như vậy. Thôi đi, Watson. Trông anh rã rời quá rồi, ngả lưng trên tràng kỷ chốc lát đi, thử xem tôi có thể đưa anh vào giấc ngủ được không. 

Anh lấy cây violon và bắt đầu dạo trong khi tôi nằm nghỉ. Đó là một điệu nhạc mơ mộng êm ái chắc hẳn do anh sáng tác vì anh biết sáng tác tùy hứng với rất nhiều tài năng. Tôi mơ hồ hình dung đôi tay gầy guộc, nét mặt chăm chú của anh. Sau đó, tưởng chừng như tôi xa dần trong yên ổn, bồng bềnh trên mặt biển âm thanh, để rồi bước vào vùng mộng ảo có khuôn mặt xinh xinh của Mary Morstan nghiêng trên tôi.

Chương 9

Sợi dây xích đứt

Mãi đến xế chiều tôi mới thức giấc, khoái hoạt và tươi tỉnh hẳn lên. Shelock vẫn còn ngồi đó, như lúc tôi bắt đầu ngủ; nhưng anh đã đặt cây vĩ cầm qua một bên để chúi mũi vào một cuốn sách. Anh ngước mắt lên khi nghe thấy tôi động đậy, và tôi nhận thấy trên khuôn mặt anh vẻ ủ rũ lo lắng. 

- Anh ngủ say lắm? - Anh nói - Tôi chỉ ngại tiếng nói chuyện làm anh thức giấc... 

- Tôi chẳng nghe gì cả. Mà anh có nhận tin tức gì chứ? 

- Không. Thế mới thật đáng tiếc. Tôi thú thật là tôi ngạc nhiên và thất vọng. Thế mà tôi đã hy vọng đến giờ này tôi sẽ được biết chút gì đó... Wiggins có đến báo cáo: chẳng có gì. Chẳng có dấu vết gì về chiếc đò máy. Trắc trở này làm tôi điên tiết lên mất, bởi mỗi giờ trôi qua là một giờ quan trọng. 

- Tôi có thể giúp anh được gì không? Giờ thì tôi cảm thấy khỏe khoắn lắm rồi, và sẵn sàng làm một chuyến trinh sát ban đêm khác nữa. 

- Không. Ta không thể làm gì khác hơn là chờ đợi. Nếu chúng ta đi, một tín hiệu có thề đến trong lúc chúng ta vắng mặt, do đó phí thời gian. Anh muốn làm gì thì cứ làm. Riêng tôi, tôi ở nhà để canh chừng. 

- Thế thì tôi qua Camberwell thăm bà Cecil Forrester. Bà ta nói trước với tôi vào hôm qua. 

- Bà Cecil Forrester thật không? Holmes hỏi với nụ cười trong ánh mắt. 

- À cả cô Morstan nữa, dĩ nhiên! Cả hai đều nóng lòng muốn biết những chuyện đã xảy ra. 

- Nếu ở vào địa vị anh, tôi sẽ không cho họ biết quá nhiều - Holmes nói - Ta không thể hoàn toàn tin cậy phụ nữ, dầu là những phụ nữ tốt nhất. 

Thật tình tôi muốn phản đối cái ý kiến đáng ghét ấy, song tôi cưỡng lại được sự cám dỗ đó. 

- Tôi sẽ trở về sau một, hai tiếng đồng hồ thôi, anh biết mà. 

- Tốt. Chúc anh may mắn nhé. À mà này, tiện thể anh qua bên kia sông, phiền anh mang trả chú Toby nhé? Rất có thể là nó không còn giúp ích ta được gì nữa đâu. 

Thế là tôi bắt con chó đem trả lại cho nhà tự nhiên học ở hẻm Pinchin, kèm theo nửa đồng sovereign. Đến Camberwell, tôi gặp cô Morstan hơi mệt mỏi vì những phiêu lưu ngày hôm trước, nhưng vẫn nôn nóng trông tin. Và bà Forrester cũng tò 

như cô ta. Tôi thuật lại với họ tất cả những việc chúng tôi đã làm, chỉ bỏ qua các chi tiết không nên kể trong tấn thảm kịch. Chẳng hạn như thuật lại cái chết của ông Sholto, song không nói gì đến những tình huống của cái chết ấy. Câu chuyện của tôi, dầu đã gạn lọc, cũng còn làm cho họ sững sờ và run sợ. 

- Thật là cả một pho tiểu thuyết - Bà Forrester thốt lên - Một phụ nữ bị thiệt hại quyền lợi một kho báu trị giá nửa triệu, một tên ăn thịt người da đen, một tên phản phúc chân gỗ. Đầy đủ nhân vật, tình tiết còn ly kỳ hơn cả con rống hung dữ hoặc tên phản bội theo truyền thống. 

- Và còn hai chàng hiệp sĩ bảo vệ chính nghĩa nữa chứ. - Cô Morstan nói thêm và nhìn tôi dịu dàng. 

- Cô Mary, khi nghĩ cả gia sản của cô tùy thuộc kết quả của công cuộc truy tầm này, tôi chắc cô cũng không hân hoan gì mấy? Hãy thử nghĩ xem, làm chủ một tài sản như thế, mọi người phủ phục dưới chân mà phải qua bao nhiêu chuyện. 

Tim tôi hơi đập mạnh vui mừng khi nhận thấy rằng tình huống này có vẻ như không gây nên một ảnh hưởng đặc biệt nào ở người thiếu nữ. Trái lại, nàng ngả đầu ra phía sau một cách tự hào, tưởng như sự việc chẳng có gì lý thú đối với nàng. 

- Tôi lo là lo cho ông Thaddeus Sholto! - Nàng bảo - Ngoài ra chẳng có gì thực sự quan trọng. Tôi thấy ông ấy đã xử sự rất ngay thẳng và tốt bụng trong mọi trường hợp. Bổn phận chúng ta là minh oan cho ông ấy khỏi lời buộc tội khủng khiếp mà thiếu cơ sở kia. 

Bóng chiều đã ngả dài lúc tôi rời Camberwell và mãi đến tối mịt tôi mới về đến phố Baker. Cạnh chiếc ghế bành của bạn tôi chỉ còn lại cuốn sách và ống điếu của anh. Tôi đảo mắt nhìn quanh, hy vọng anh để lại cho tôi đôi chữ nhưng tôi chẳng thấy gì. 

- Chắc ông Shelock Holmes đi vắng? Tôi hỏi bà Hudson khi bà ấy lên đóng cửa. 

- Không, thưa ông. Ông ấy đã lên phòng riêng. Ông biết không - Bà hạ thấp giọng thì thầm tiếp - Tôi lo cho sức khỏe của ông ấy quá. 

- Nhưng tại sao thế. Bà Hudson? 

- Này nhé, thưa ông, ông ấy lạ lùng thế nào ấy! Sau khi ông đi, ông ấy bắt đầu sải bước không ngừng trong gian phòng, dọc ngang, ngang dọc, tôi phải nhức đầu đi được. Thế rồi tôi lại nghe ông ấy nói một mình. Mỗi lần có ai gõ cửa, ông đến bậc thềm cửa hỏi: "Ai thế, bà Hudson?" Bây giờ thì ông tự giam mình trong phòng, nhưng tôi vẫn còn nghe ông rảo bước như trước. Mong rằng ông ấy không ngã bệnh, thưa ông. Tôi đã đánh bạo gợi ý cho ông một liều thuốc an thần, nhưng ông ấy quay ngoắt lại với một ánh nhìn thế nào ấy. Tôi không biết là tôi đã ra khỏi phòng bằng cách nào nữa. 

- Tôi nghĩ là bà không có gì phải lo lắng cả, bà Hudson ạ. Cũng đã có lần tôi thấy anh ấy như vậy. Anh ấy đang có chút chuyện bực mình đấy thôi. 

Trong lúc tìm cách trấn an bà chủ nhà tốt bụng, bản thân tôi cũng không khỏi lo ngại khi thỉnh thoảng nghe tiếng chân nhẹ nhàng của Shelock Holmes âm vang trong suốt đêm dài ấy. Tôi hiểu cái tình trạng bất động ngoài ý muốn ấy hành hạ anh ấy như thế nào. Đến bữa điểm tâm, trông anh hốc hác sút kém hẳn. Hai điểm sốt đỏ hiện lên trên gò má. 

- Anh đang tự làm kiệt sức đấy, anh bạn ơi. Tôi nghe anh sải bước trong phòng suốt cả đêm - Tôi nhận xét. 

- Tôi không tài nào ngủ được - Anh đáp - Bài toán quỷ quái này làm tôi hao mòn mất. Quả thật là ngu xuẩn phải dừng lại bởi một trở ngại thật không ra gì trong khi cả phần còn lại đều đã vượt qua. Tôi biết rõ các nhân vật, chiếc đò máy, tất cả mọi điều cần thiết. Ấy vậy mà chẳng thu được một tin tức nào cả. Tôi đã tung các cơ quan khác vào dấu vết truy tầm; tôi đã vận dụng mọi phương tiện trong quyền hạn của tôi. Hai bên bờ sông được lục soát kỹ; chẳng một kết quả nào. Và bà Smith chẳng có tin tức nào về đức ông chồng. Chắc tôi sẽ phải kết luận chúng đã đánh đắm chiếc tàu. Nhưng giả thiết nêu lên có khá nhiều biện bác. 

- Nếu bà Smith đưa ta vào lầm đường thì sao? 

- Không, tôi nghĩ có thể gạt ra ngoài giả thiết này. Những cuộc điều tra tôi đã tiến hành xác nhận quả thật có một chiếc đò máy theo như đã mô tả. 

- Có thể là nó đã ngược dòng sông? 

- Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Một toán người đi tìm sẽ đi ngược bờ sông lên đến tận Richmond! Nếu hôm nay ta không được gì, thì chính tôi ngày mai sẽ ra trận để tìm kiếm bọn kìa chứ không phải chiếc tàu nữa. Nhưng chắc chắn ta sẽ nhận 

được tin. Chắc chắn! 

Ấy thế mà chúng tôi chẳng nhận được gì ráo. Không một chữ của Wiggins hoặc của các cơ quan báo chí. Phần lớn báo chí đều có bài viết về tấn thảm kịch ở Norwood? Tất cả đều có vẻ không mấy thiện cảm với ông Thaddeus Sholto đáng thương. Tuy nhiên chẳng có chi tiết nào mới lạ, ngoại trừ việc điều tra tư pháp trước bồi thẩm sẽ tiến hành ngày hôm sau. Cũng trong tối đó, tôi đi bộ đến Camberwell thuật lại cho hai người đàn bà những cố gắng vô bổ của chúng tôi. Lúc trở về, tôi thấy Holmes thất vọng và có phần cau có. Anh chẳng buồn trả lời những câu hỏi của tôi và suốt buổi tối miệt mài với việc phân chất hóa học khó lòng hiểu nổi. Có cả những nồi cổ cong phải đun nóng và chưng cất hơi tỏa ra một mùi khiến tôi phải bỏ trốn ra khỏi phòng. Tờ mờ sáng vẫn nghe thấy tiếng lách cách các ống nghiệm va chạm nhau; vậy là anh vẫn còn bận bịu với những cuộc thử nghiệm nặng mùi. 

Thình lình tôi vụt choàng tỉnh dậy. Qua ánh bình minh, tôi ngạc nhiên thấy anh đứng cạnh giường. Anh mặc một bộ đồ thủy thủ thô sơ và thắt quanh cổ chiếc khăn quàng đỏ đã sờn. 

- Tôi đi về phía sông, Watson à! - Anh bảo - Tôi suy đi nghĩ lại mãi về vấn đề. Tôi chỉ thấy có một lối thoát. Dầu sao cũng nên mang nó ra thử xem. 

- Vậy tôi có thể đi với anh chứ? - Tôi nói. 

- Không. Ở lại đây thay mặt tôi, anh được việc hơn. Tôi tiếc là phải đi, bởi vì trận đấu bước vào giai đoạn mà một tín hiệu nào đó có thể gởi đến cho ta trong ngày, mặc dầu chiều hôm qua Wiggins có phần bi quan. Tôi nhờ anh mở tất cả thư từ, điện tín và mọi thứ khác gởi tên tôi và nhờ anh xử lý hộ trong trường hợp ta nhận được tin tức. Tôi có thể trông cậy ở anh chứ? 

- Chắc chắn rồi! 

- Tôi e rằng anh sẽ không gởi điện tín được cho tôi đâu vì tôi không thề cho anh biết tôi sẽ ở đâu. Tuy nhiên, nếu may mắn, tôi sẽ không đi vắng lâu lắm đâu. Dầu sao, chắc tôi cũng sẽ biết được chút gì đó trước khi trở về. 

Vào buổi chiều tầm, tôi vẫn chưa có tin tức gì của Holmes cả. Nhưng đến lúc mở tờ báo Standard, tôi mới thấy rằng vụ án đã có những diễn biến mới. Nhật báo này viết: 

"Về tấn thảm kịch Thượng Norwood, chúng tôi có lý do tin rằng nội vụ còn phức tạp và bí ẩn hơn ta nghĩ lúc ban đầu. Một cuộc điều tra sâu sát chứng minh ông Thaddeus Sholto hoàn toàn không thể nào can dự vào vụ việc. Ông đã được thả cùng với bà quản gia Bernstone tối qua. Tuy nhiên, dường như cảnh sát đã tìm ra vết tích những thủ phạm thực sự. Chính ông Athelney Jones, thuộc Scotland Yard, bằng óc sáng suốt và quyết đoán mà ai cũng biết, là người tiến hành điều tra. Người ta chờ đợi những vụ bắt giữ khác trong tương lai gần đây". 

- Hay đấy! Tôi nghĩ - Anh bạn Sholto được tự do. Nhưng còn "đầu mối dấu vết mới" như thế nào. Nghe giống như một công thức quy ước được mang ra sử dụng mỗi khi cảnh sát lầm lẫn. 

Tôi đặt tờ báo lên bàn vừa lúc tôi nhận thấy một mẩu tin đáng chú ý trong mục quảng cáo rao vặt. 

"Người thất lạc: 

Tìm ông Mordecai Smith, chủ tàu, và con trai Jim, đã rời khỏi bến của Smith vào khoảng 3 giờ sáng, thứ Ba vừa rồi, trong một chiếc thuyền máy "The Aurora" chạy bằng hơi nước, sơn màu đen với băng đỏ, ống khói đen với một băng trắng. Sẽ tặng 5 đồng cho người nào có thể cung cấp tin tức liên quan đến Mordecai Smith và chiếc đò máy "The Aurora". Xin liên hệ với bà Smith, tại bến đò Smith, hoặc tại nhà số 221B, phố Baker". 

Rõ ràng đây là việc làm của Holmes, địa chỉ ở phố Baker đủ để biện giải điều này. Tôi thấy mục rao vặt được thảo ra rất khôn khéo. Vì những kẻ chạy trốn có thể đọc đến mà không thấy gì khác hơn là nỗi lo lắng rất dễ hiểu của một người vợ về sự vắng mặt quá lâu của chồng. 

Ngày chờ đợi dài thật. Cứ mỗi lúc có ai gõ cửa, hoặc có tiếng chân ai vang lên ngoài phố, tôi cứ nghĩ Holmes trở về, hoặc có người đem lại tin tức. Tôi thử đọc sách, nhưng ý nghĩ lại cứ bay về cuộc tìm kiếm lạ lùng của chúng tôi, về hai tên cướp chẳng giống nhau chút nào. Có khi nào, tôi thắc mắc tự hỏi, lập luận của bạn tôi chứa đựng một sai lầm to lớn nào không? Anh không thể là nạn nhân một ảo tưởng dai dẳng sao? Đầu óc linh hoạt và tính toán của anh ấy không thể xây dựng nên một giả thiết kỳ quặc trên những tiền đề sai lạc sao? Tôi chưa bao giờ thấy anh lầm lẫn. Tuy nhiên, bộ óc tinh tế nhất đôi khi cũng có thể lầm như thường. Holmes rất có thể là nạn nhân của lối lý luận sắc sảo của chính anh. Phải chăng anh có chiều hướng thích lối giải thích lạ lùng trong khi một cách giải thích dễ dàng lại ở trong tầm nhìn. Mặt khác bản thân tôi đã chứng kiến các sự việc và theo dõi lối diễn dịch của anh. Nhìn lại hàng loạt sự cố liên kết với nhau (một số lớn tự chúng thì tầm thường, song tất cả đều nhắm về một hướng) tôi không thể không nghĩ rằng cứ cho là cách giải thích của Holmes có sai lệch chăng nữa, thì chân lý cũng vẫn khiến ta phải ngạc nhiên. 

Đến ba giờ chiều, chuông cửa reo vang. Tôi nghe một giọng nói hách dịch ở phòng ngoài. Thật ngạc nhiên làm sao khi tôi thấy đích thân ông Athelney Jones bước vào! Chà ông ta rất khác với vị giáo sư của lương tri, áp chế và cộc cằn, người đã nắm lấy vụ án với bao nhiêu là tự tin tại Thượng Norwood! Ông đã biểu lộ với tôi một sự ôn hòa thật là bất ngờ. Thiếu điều ông hạ mình xin lỗi tôi. 

- Chào ông? Chào ông! Ông ta bắt đầu - Ông Shelock Holmes chắc là đi vắng! 

- Vâng, và tôi cũng không biết anh ấy về vào giờ nào. Chắc ông muốn chờ anh ấy? Nếu thế, mời ông ngồi nghỉ vào ghế bành này và dùng một điếu xì gà. 

- Cảm ơn, tôi không đòi hỏi gì hơn - Ông nói và lau trán với chiếc mùi soa rộng màu đỏ. 

- Ông dùng một ly whisky với soda hé? 

- Vâng, xin cho tôi nửa ly thôi. Mùa này mới thế mà đã rất nóng rồi đấy. Lại còn những lo nghĩ nó dồn dập đến với tôi... Chắc ông cũng biết qua cách giải thích của tôi về vụ Norwood! 

- Tôi nhớ là ông đã phát biểu rồi. 

- Vâng. Thế mà, bác sỹ ạ, tôi phải duyệt lại. Ông có tin rằng tôi đã bủa kín ông Sholto trong lưới của tôi thì đùng một cái, ông ấy thoát ra được bằng cái lỗ hổng ở giữa. Ông ấy đã dựng được một bằng chứng không chê trách vào đâu được. Từ lúc rời khỏi phòng người anh, ông ấy không lúc nào ở một mình. Vậy không thể nào ông ấy là người trèo lên mái nhà và chui qua cửa sổ trên mái. Thật là một vụ án tối mù mù, tăm tiếng nghề nghiệp của tôi ảnh hưởng vào đấy rất nhiều. Tôi rất mong có người giúp đỡ tôi đôi chút. 

- Ai trong chúng ta đôi khi cũng phải cần đến điều đó - Tôi lạnh lùng đáp lại. 

- Bạn ông, ông Shelock Holmes, là một con người tuyệt vời ông ạ! Ông ta nói tiếp bằng giọng thân tình khản đặc - Đó là một người không biết đến thất bại. Ngày còn trẻ, tôi từng thấy ông ấy đảm trách một số lớn vụ án, và tôi chưa thấy có vụ nào mà ông ấy không làm sáng tỏ được. Ông ta dùng những phương pháp thật đặc biệt. Có lẽ hơi vội để phát biểu thành lý thuyết... Nhưng nói chung, ông ấy có thể là một thanh tra cảnh sát đầy hứa hẹn. Tôi chẳng ngại gì mà nói thẳng ra điều đó. Sáng nay ông ấy có gửi cho tôi một bức điện. Theo tôi hiểu, ông ấy nắm được một số bằng chứng về vụ Sholto. Bức điện ấy đây. 

Ông lấy bức điện tín trong túi ra đưa cho tôi. Nó được đánh đi từ Poplar, lúc 12 giờ trưa. Bức điện viết: "Đến ngay phố Baker. Đợi tôi nếu tôi không về kịp. Tôi đang theo sát băng Sholto. Ông có thể đến với chúng tôi tối nay nếu muốn tham dự màn chót". 

- Tốt quá. Anh ấy phăng ra được đầu dây rồi - Tôi nói. 

- A, thế ông ấy cũng lầm lẫn sao? - Jones nói lớn, giọng thỏa mãn thấy rõ - Ngay những bậc tài ba nhất trong chúng ta đôi khi cũng lầm lạc. Cuộc đuổi bắt của ông ta tất nhiên có thể chứng tỏ là vô bổ; nhưng với tư cách một viên chức pháp luật nhiệm vụ của tôi là không để lọt qua một cơ hội nào cả... Tôi nghe có ai ở cửa. Có lẽ là ông ta chăng? 

Tiếng chân bước nặng nề, loạng choạng trên cầu thang cùng với tiếng thở phì phò: người khách bước lên một cách khó nhọc. Một đôi lần, bước chân nghe ngập ngừng, sau cùng một người đàn ông xuất hiện ở thềm cửa rồi bước vào. Hình dạng bề ngoài thật phù hợp với tiếng động ông ấy tạo ra: đó là một người đàn ông đứng tuổi, mặc bộ đồ thủy thủ và một chiếc áo vét cũ kỹ cài nút lên tận cổ. Ông đi gù lưng, đầu gối run rẩy, thở khó nhọc rõ ràng vì bệnh hen suyễn. Ông ta tựa vào chiếc gậy bằng gỗ sồi đôi vai rướn lên để cố hít không khí vào phổi. Chiếc khăn quàng che lấy cổ và trên khuôn mặt, tôi chỉ nhận thấy rõ cặp mắt sẫm linh hoạt với đôi chân mày trắng và hàng ria mép dài màu xám. Toàn bộ cho ta cảm giác đó là một sĩ quan hàng hải luống tuổi sống trong cảnh nghèo nàn. 

- Nào, ông bạn muốn gì? - Tôi nói. 

Ông ta nhìn quanh chầm chậm với sự thận trọng của người già, rồi quyết định cất tiếng: 

- Ông Shelock Holmes có nhà không ạ? 

- Không, nhưng tôi thay mặt anh ấy. Nếu ông có gì nhắn gởi cho anh ấy. Có phải là về chiếc đò máy của Mordecai Smith chăng? 

- Đúng. Tôi biết nó ở đâu. Tôi cũng biết những người ông ta tìm kiếm ở đâu. Và tôi cũng biết luôn kho báu ở đâu. Tôi biết tất cả mọi chuyện. 

- Thế thì xin ông cho tôi rõ đi, tôi sẽ nói lại với anh ấy. 

- Tôi chỉ muốn nói với đích thân ông ấy thôi - Ông già nhắc lại giọng bướng bỉnh. 

- Thế thì ông phải đợi anh ấy vậy! 

- Không, không! Không ai có thể làm tôi phải phí mất cả một ngày. Nếu ông Holmes không có đây thế thì ông Holmes sẽ phải lo liệu lấy một mình! Cả hai người đều trông khó tin cậy. Tôi không có gì để nói hết. 

Ông già liền đi về phía cửa, kéo lết đôi chân, nhưng Athelney Jones cản đường lão lại. 

- Chờ chút, ông bạn già! - Ông nói - Ông nắm giữ tin tức quan trọng, ông không có quyền bỏ đi. Dầu ông muốn hay không, chúng tôi cũng giữ ông lại đây cho đến lúc bạn chúng tôi trở về. 

Lão già chập choạng nhảy bổ tới, nhưng Athelney Jones dùng đôi vai lực lưỡng tì vào cửa, lão già thấy mọi kháng cự đều vô ích. 

- Đối xử với thiên hạ kiểu gì mà lạ lùng vậy? - Lão vừa kêu lên, vừa lấy gậy nện xuống nền nhà - Tôi đến đây để gặp một người, cả hai ông tôi chưa từng gặp bao giờ mà lại đối xử với tôi như thế hả? 

- Thì cũng chẳng có thiệt thòi gì cho ông đâu! Chúng tôi sẽ đền bù ông về chỗ thời giờ ông mất. Ông ngồi đây đi, trên ghế tràng kỷ này. Ông không phải đợi lâu đâu. 

Lão già miễn cưỡng nghe theo, ngồi xuống. Jones và tôi đốt lại điếu xì gà và câu chuyện giữa chúng tôi lại tiếp tục không mảy may bận tâm đến ông già nữa. 

- Tôi nghĩ các ông cũng nên mời tôi một điếu xì gà chứ - Giọng Holmes vang lên đột ngột. 

Chúng tôi giật nảy mình. Đích thị là Holmes đang ngồi cạnh chúng tôi, mặt lộ vẻ thích thú nhẹ nhàng. 

- "Holmes" - Tôi kêu lên - Anh đấy à? Thế còn ông kia đâu rồi? 

- Thì lão ấy đây này! - Anh nói và chỉ vào đống tóc bạc. - Toàn bộ lão ấy ở đây này: mớ tóc giả, ria mép, lông mày, tất cả đều còn đây. Tôi cứ nghĩ sự cải trang của tôi cũng tạm được, nhưng không ngờ nó lại đạt một cách chói lọi như vậy. 

- A, đồ xỏ lá - Jones thốt lên giọng hớn hở - Ông có thể trở thành diễn viên kịch đấy, mà là diễn viên kịch ngoại hạng nữa là khác. Tiếng ho đúng là tiếng ho nghe trong những căn nhà ổ chuột, và đôi chân lảo đảo ông phô trương đáng giá 10 bảng một tuần đấy. Ít ra, tôi cũng nhận ra được ánh nhìn quen thuộc trong cặp mắt đó. Ông thấy không, ông Holmes, chúng tôi đâu có để ông thoát khỏi tay chúng tôi dễ như thế đâu! 

- Tôi đã làm việc suốt cả ngày dưới bộ cải trang này - Holmes vừa nói vừa châm điếu xì gà - Chả là ông biết đấy, nhiều người chung quanh bắt đầu nhận ra tôi, nhất là từ khi anh bạn chúng ta buồn tình cho đăng một vài câu chuyện trong đó tên tôi được nêu lên quá rõ ràng. Ông đã nhận được điện của tôi chứ? 

- Vâng, chính nó đưa tôi đến đây. 

- Công việc của ông tiến hành tốt chứ? 

- Tất cả đều sụp đổ. Tôi đã phải thả hai người tù ra, và chẳng có bằng cớ gì chống hai người còn lại. 

- Ông chớ lo. Chúng tôi sẽ giao cho ông tên khác để thay vào. Nhưng với điều kiện ông nhận những chỉ thị của tôi. Tôi xin nhường lại cho ông tất cả công lao về mặt chính quyền, đổi lại ông phải hành động theo lời tôi yêu cầu. Đồng ý chứ? 

- Hoàn toàn thôi, miễn ông giúp tôi tìm ra những kẻ phạm tội. 

- Được. Tuy nhiên, trước hết tôi muốn một chiếc tàu cảnh sát, tàu máy hơi nước, sẵn sàng dưới bến Westminster vào lúc 7 giờ tối nay. 

- Dễ thôi. Lúc nào cũng có sẵn một chiếc quanh đó. Tôi có thể qua phố gọi điện thoại cho chắc. 

- Tiếp đó, tôi cần hai người lực lưỡng, dự phòng có gặp kháng cự. 

- Trên tàu sẽ có hai, ba người như thế. Còn gì nữa không? 

- Khi bắt được bọn gian, ông để lại kho báu cho chúng tôi. Tôi nghĩ bạn tôi hiện có mặt tại đây sẽ vô cùng vui sướng khi trao kho báu lại cho cô gái là người theo pháp luật được hưởng phân nửa. Ta hãy để cô ta là người đầu tiên được mở kho báu ra. Phải thế không Watson? 

- Tôi rất vinh dự. 

- Thật là một thủ tục không hợp lệ tý nào - Jones vừa nói vừa lắc đầu - Tuy nhiên, bởi mọi cái trong vụ này đều không hợp lệ... Tôi nghĩ ta chỉ cần nhắm mắt làm ngơ là được. Nhưng sau đó kho báu phải được trao lại cho chính quyền cho đến lúc kết thúc cuộc điều tra chính thức. 

- Tất nhiên. Còn gì bình thường hơn nữa? Còn một điểm: tôi muốn chính Johnathan Small cho tôi một số chi tiết. Ông biết tôi muốn tiến hành cuộc điều tra đến tận cùng và làm sáng tỏ những góc cạnh nhỏ nhặt nhất của một vụ án. Ông có gì phản đối nếu gặp người ấy bán chính thức không? Cuộc hội kiến này có thể là tại đây hoặc ở nơi khác, bởi lẽ người này sẽ được canh giữ cẩn thận. 

- Vâng, nói thật thì ông làm chủ tình hình. Tôi không có một bằng chứng nào về sự hiện hữu của tên Johnathan Small đó cả. Tuy nhiên tôi vẫn chưa thấy rằng bằng cách nào tôi có thể từ chối ông cuộc diện kiến ấy nếu ông bắt được y. 

- Thế là chúng ta đều nhất trí về mấy vấn đề ấy chứ? 

- Hoàn toàn. Còn gì nữa không? 

- Vâng, còn, nhưng chỉ là để mời ông dùng bữa tối với chúng tôi. Trong nửa tiếng đồng hồ nữa, bữa ăn sẽ sẵn sàng. Tôi có sò, một cặp gà lôi và một ít rượu chát trắng hảo hạng. Watson à, anh chưa bao giờ biết tài nội trợ của tôi đâu!

Chương 10

Hết đời tên dân đảo

Bữa ăn thật vui vẻ. Khi nào anh muốn, Holmes là một tay nói chuyện tài tình; tối hôm ấy, anh muốn như thế. Dường như anh ở trong tình trạng phấn chấn hứng khởi vả tỏ ra rất hoạt bát. Chuyển nhanh từ chủ đề này sang chủ đề khác, những vở kịch thời Trung cổ, những cây đàn violone của Stradivarius, Phật giáo tại Srilanca[1], tàu chiến trong tương lai, anh thảo luận mỗi đề tài này tưởng như đã từng nghiên cứu kỹ lưỡng. Tính tình vui vẻ lúc ấy hoàn toàn khác hẳn vẻ thiểu não hai ngày trước. Athelney Jones thì tỏ ra lịch thiệp trong những giờ giải lao ấy và tham dự buổi ăn tối rất vui vẻ. Phần tôi, tôi thấy nhẹ nhõm khi nghĩ rằng chúng tôi đã đến gần chỗ kết thúc vụ án và cũng để mình xuôi theo niềm vui dễ lây của Holmes. 

Trong suốt bữa ăn, không một ai trong chúng tôi đề cập đến thảm kịch đã kết hợp chúng tôi lại lúc ấy. Khi bàn ăn được dọn dẹp, Holmes liếc nhìn đồng hồ và rót 3 ly rượu. 

- Một tuần rượu để chúc chuyến đi nho nhỏ của chúng ta thành công! - Anh ra lệnh - Và bây giờ đã đến lúc lên đường. Watson, anh có súng ngắn không? 

- Tôi có khẩu súng cũ trong bàn giấy. 

- Anh nên mang nó theo. Phải dự kiến mọi tình huống. Tôi thoáng thấy xe đợi ở cửa. Tôi đã gọi hẹn lúc 6 giờ rưỡi. 

Khoảng sau 7 giờ, chúng tôi đến bến Westminster. Bằng con mắt lành nghề, Holmes xem xét chiếc đò máy đang đợi chúng tôi. 

- Có dấu hiệu gì cho biết nó thuộc cảnh sát? 

- Vâng, có. Có ngọn đèn xanh bên hông. 

- Thế thì phải gỡ nó ra. 

Sau khi đã cải tiến chút đỉnh như thế, chúng tôi ngồi vào tàu và người ta nhổ neo. Jones, Holmes và tôi ngồi phía sau. Một người đứng ở đầu lái, một người đứng máy và hai viên thanh tra cảnh sát vạm vỡ ở phía trước. 

- Ta đi đâu đây - Jones hỏi. 

- Đến Tower[2]. Nói họ ngừng trước Ụ tàu Jacobson. 

Rõ ràng chiếc tàu của chúng tôi chạy rất nhanh. Chúng tôi qua mặt từng đoàn xà lan chất đầy hàng, nhanh tưởng như những đoàn đang bỏ neo. Holmes nở một nụ cười thỏa mãn khi thấy tàu chúng tôi đuổi kịp một chiếc tàu máy khác và để nó lại phía sau. 

- Ta phải có khả năng đuổi kịp bất cứ ai trên đoạn sông này - Anh nói. 

- Có thể là hơi nói ngoa nhưng không có nhiều đò máy có khả năng bỏ rơi chúng ta đâu. 

- Ta phải đuổi chân chiếc "The Aurora" vốn nổi tiếng phóng nhanh như giống hải âu. Tôi sẽ giải thích bằng cách nào tôi đã tìm thấy chiếc "The Aurora", Watson. Anh còn nhớ tơi bực mình hết sức vì bị cản trở bởi một việc khó khăn cỏn con chứ? 

- Có. 

- Thế này nhé. Lúc vùi đầu vào việc phân tích hóa chất, trí óc tôi được hoàn toàn thanh thản. Một trong những chính khách lớn nhất của ta có nói cách nghỉ ngơi tốt nhất là thay đổi công việc làm. Ấy thế mà đúng đấy! Khi tôi thành công việc hòa tan hydrocarbon, một công trình tôi nghiên cứu từ trước, tôi quay về vấn đề Sholto và một lần nữa duyệt xét lại toàn bộ vấn đề. Đám trẻ con của tôi lục soát không kết quả con sông - ngược cũng như xuôi giòng. Chiếc đò máy không nằm tại một bến đò nào mà cũng không trở về bến của nó. Bị đánh đắm để xóa mọi dấu vết là điều khó có thể xảy ra. Tuy nhiên tôi vẫn giữ lại giả thuyết này trong đầu trường hợp cần đến nó. Tôi biết cái anh chàng Small kia là một người khá mưu mô xảo quyệt nhưng tôi không tin hắn có đủ tinh vi. Sau đó, tôi nghĩ đến việc là hắn chắc đã ở tại London một thời gian, bằng chứng là hắn kiểm soát chặt chẽ khu biệt trang Pondicherry. Như vậy hắn rất khó lòng mà bỏ đi tức khắc được. Hắn cần một khoảng thời gian nào đó, dầu chỉ là một ngày để thanh toán công việc. Ít ra những điều này cũng có thể xảy ra. 

- Tôi lại thấy có vẻ khá độc đoán - Tôi nói - Điều có thể xảy ra hơn là hắn đã thu xếp mọi sự trước khi ra tay chứ. 

- Không, tôi không nghĩ như vậy. Hang ổ của hắn là một nơi trú ẩn quý báu quá nên hắn không thể nghĩ đến việc rời bỏ nơi đó trước khi chắc chắn có thể tìm ra một nơi khác. Rồi lại còn mặt này nữa của vấn đề: Jonathan chắc phải nghĩ đến hình dáng khác thường khó lòng che mắt của tên tòng phạm, dù có cho y ăn mặc cách nào chăng nữa cũng có thể gợi trí tò mò và còn có thể khiến một số người liên hệ đến tấn thảm kịch ở Norwood nữa. Hắn đủ thông minh để nghĩ đến điều đó. Bọn chúng rời khỏi nhà vào ban đêm và Small phải trở về trước rạng sáng. Thế mà khi chúng đến nơi chiếc đò đậu thì đã quá 3 giờ sáng; còn một tiếng đồng hồ nữa là ngày sẽ tỏ, thiên hạ bắt đầu đi lại... Tôi kết luận bằng lối suy diễn là chúng không đi xa lắm đâu. Chúng trả tiền hậu hĩ cho Small để ông này kín miệng và giữ chiếc đò máy sẵn sàng cho cuộc đào tẩu sau cùng; và chúng hấp tấp trở về nhà cùng với kho báu. Hai, ba ngày sau, sau khi xem xét kỹ báo chí trình bày sự việc như thế nào, và đã kiểm tra xem chúng có bị nghi ngờ gì không, chúng sẽ ra đi bằng đò máy, nhờ bóng đêm che chở, về chiếc tàu nào đó thả neo tại Gravesend hoặc Down. Chắc chắn bọn chúng đã lấy vé đi Mỹ hoặc các xứ thuộc địa. 

-Thế còn chiếc đò máy? Chúng đâu có thể mang theo! 

- Đồng ý! Thế là tôi nhất quyết chiếc đò máy không ở đâu xa dầu tìm không thấy. Tôi tự đặt vào địa vị Small và nhìn vấn đề theo góc cạnh của chính hắn. Có lẽ hắn cũng ý thức mối hiểm nguy nếu đưa đò về bến chính hoặc giữ nó lại tại một bến nào đó, nếu cảnh sát phăng ra dấu vết của hắn. Thế thì làm sao vừa che giấu chiếc tàu đồng thời giữ nó trong tầm tay sẵn sàng để sử dụng. Tôi sẽ xử trí ra sao ở vào địa vị của hắn và trong những hoàn cảnh tương tự? Tôi tìm kiếm và chỉ thấy có một cách duy nhất là giao chiếc tàu cho một xưởng đóng tàu hoặc sửa chữa, với lời dặn thay đổi đôi chút. Như thế là chiếc tàu nằm trong một hãng nào đó, và được che giấu kỹ. Tuy nhiên, trong vài tiếng đồng hồ nữa nó lại thuộc quyền sử dụng của tôi. 

- Nghe ra khá đơn giản đấy. 

- Â y chính những điều rất đơn giản mới có nhiều cơ hội nhất để qua mắt thế gian. Tôi quyết định mang suy nghĩ này ra ứng dụng thử xem. Mặc vào người bộ áo quần thủy thủ vô hại này, tôi liền đi điều tra trong tất cả các xưởng xuôi sông, không kết quả trong 15 xưởng. Nhưng đến xưởng thứ 16, xưởng của Jacobson, tôi được biết chiếc "The Aurora" được giao cho họ 2 ngày trước đó do một người đi chân gỗ than phiền về bánh lái tàu. "Cái bánh lái ấy chẳng có sao cả". Viên đốc công bảo tôi thế - "Kìa, chiếc đò máy ấy kia kìa, chiếc có những vạch đỏ". 

Vừa lúc ấy, ai xuất hiện? Thì chính Mordecai Smith, người chủ mất tích. Ông ta say bí tỷ. Dĩ nhiên tôi không thể nhận ra nếu ông ta đừng đem tên mình và tên chiếc tàu ra mà gào lên đến vỡ họng: "Tôi cần nó đúng 8 giờ, anh nghe rõ chứ? Tôi có hai vị không chờ đợi được đâu đấy". 

- Bọn chúng chắc đã chu cấp rộng rãi cho Smith. Y thừa thãi tiền và phân phát những đồng shilling thoải mái cho thợ thuyền. Tôi theo y bén gót trong một thời gian, nhưng y lại biến mất trong một quán rượu. Thế là tôi trở về xưởng và trên đường gặp một chú trinh sát của tôi, tôi đặt nó canh chừng cạnh chiếc đò máy. Tôi bảo nó đứng ngay cạnh bờ sông và vẫy khăn tay khi thấy chúng chạy. Bố trí như vậy quả là điều lạ lùng nếu chúng tôi không tóm gọn được cả bọn và kho báu. 

- Dầu có phải đúng là bọn ấy hay không chăng nữa, thì ông cũng đã chuẩn bị mọi thứ rất kỹ càng - Jones nói - Nhưng nếu tôi đảm trách vụ này, tôi sẽ lập một vành đai cảnh sát quanh ụ tàu của Jacobson và bắt chúng ngay lúc chúng trở về. 

- Nghĩa là chẳng bao giờ. Vì Small là một tay khá quỷ quyệt. Hắn sẽ cho người thám thính, và nếu có động tĩnh gì là hắn sẽ lẩn trốn trong một tuần lễ. 

- Nhưng anh có thể bám gót Mordecai Smith và từ đó phát hiện ra nơi ẩn nấp của chúng - Tôi biện bác lại. 

- Nếu thế, tôi sẽ mất cả một ngày. Tôi tin rằng chẳng có lấy một phần trăm may mắn để Smith biết được nơi ẩn nấp của chúng. Tại sao y lại đi thắc mắc này nọ trong khi y được trả công rất hậu và nhận thả cửa? Chúng sẽ truyền đến y những 

chỉ thị. Không anh ạ, tôi đã nghĩ kỹ đủ các phương cách hành động và cách này là tốt nhất. 

Trong lúc trao đổi, chúng tôi đã vượt qua một loạt những cây cầu bắc qua sông Thames. Lúc chúng tôi vào đến trung tâm thành phố, những tia nắng cuối cùng nhuộm vàng cây thập tự trên nóc nhà thờ St. Paul. Hoàng hôn trải rộng trước khi chúng tôi đến Tháp London. 

- Đây là ụ tàu của Jacobson - Holmes vừa nói vừa chỉ vào đám lố nhố chằng chịt những cột buồm dây thừng bên phía Surrey - Ta hãy chạy lên xuống dọc sông với tốc độ giảm. Ta chạy tuần tra nấp theo sau đoàn xà lan kia. 

Anh lấy cặp ống nhòm trong túi ra và quan sát bờ bên kia một hồi. 

- Tôi trông thấy chú trinh sát ở vị trí rồi - Anh tiếp - Nhưng nó không vẫy mù-soa. 

- Hay chúng ta đi xuống dọc sông một chút rồi đợi chúng tại đó - Jones vồn vã đề nghị. 

Giờ thì chúng tôi đều nôn nóng; ngay cả mấy cảnh sát viên và thợ máy là những người chỉ có một ý niệm rất mơ hồ về những gì đang chờ đợi chúng tôi. 

- Ta không được quyền phạm một sai sót nào, dầu nhỏ nhất - Holmes đáp - Rất có thể là chúng xuôi sông, dĩ nhiên, nhưng chẳng có gì là chắc cả. Từ vị trí chúng ta có thể kiểm soát lối ra vào các xưởng, ngược lại chúng khó lòng nhận ra chúng ta. Đêm nay trời trong sáng và ta sẽ có đủ ánh sáng cần thiết. Anh có thấy đám người chen chúc vội vã ở chân cột đèn đằng kia không? 

- Họ rời xưởng. Đã hết giờ làm việc. 

- Trông họ thật gớm ghiếc nếu cứ nghĩ người nào cũng ẩn giấu một tia nhỏ vô luận nào đó trong đầu. Nhưng, ta lại không được quyền nghĩ thế: ta không thể phát biểu cái "có lẽ" một cách võ đoán được. Con người là một bí hiểm đến lạ lùng. 

- Có ai đó nói rằng con người là một con thú mang xác người - Tôi bảo anh ấy. 

- Về điểm này, Winwood Reade thật tuyệt. Ông ấy nhận xét rằng con người nếu tách riêng ra là một bài toán nát óc không giải nổi, nhưng đứng giữa đám đông, nó lại biến thành một chính xác có tính toán học. Chẳng hạn, anh không thể tiên đoán kẻ này kẻ nọ sẽ làm gì, chúng anh có thể dự kiến một nhóm người sẽ cư xử ra sao. Cá nhân thì thay đổi, song trung bình các cá nhân lại bất biến. Nhà thống kê học nói thế đấy. Ờ mà kìa, chẳng phải tôi vừa trông thấy chiếc khăn tay đó sao? Kia kìa: có cái gì trăng trắng đang động đậy. 

- Đúng, chú trinh sát của anh đó - Tôi kêu lớn - tôi thấy nó rất rõ. 

- Và kìa, chiếc "The Aurora". Nó phóng nhanh như quỷ sứ. Ê thợ máy, mở hết tốc lực nhanh đi nào. Hướng về chiếc đò máy có ánh đèn màu vàng kia. Trời đất? Thật hết chịu nổi nếu nó nhanh hơn ta. 

Nó len lỏi giữa lối ra vào xưởng, lách mình qua giữa hai, ba chiếc tàu nhỏ hơn. Nó đã đạt lên tốc độ tối đa, hay gần như thế, trước khi có thể trông thấy nó. Xả hết hơi, giờ nó xuôi sông nép theo khá gần bờ, Jones nhìn theo nó, lắc đầu. 

- Nó chạy nhanh quá - Ông nói - Tôi e rằng ta không bắt kịp nó đâu. 

- Phải đuổi kịp nó chứ? - Holmes kêu lớn - Cho đầy nước vào nồi súp de đi, thợ máy! Hãy bám theo chúng, phải đạt năng suất tối đa vào! Phải đuổi bắt kịp chúng nó, dầu có phải đốt cháy tàu ta! 

Đến lượt chúng tôi bắt đầu gia tăng tốc độ. Nồi súp-de gầm rít, mấy máy cực mạnh thở phì phì và rung lên như con tim kim khí khổng lồ. Mũi tàu sắc nhọn rẽ nước ném ra hai bên hai lớp sóng gào thét. Cứ mỗi nhịp máy nổ, con tàu lái nhảy chồm lên rung chuyển như con vật sống động. Phía trước, ngọn đèn lồng màu vàng quét một tia sáng dài lung linh. Một vệt tối trên sóng nước chỉ rõ vị trí của chiếc "The Aurora". Bọt trắng sôi sục phía sau nó cho biết tốc độ điên cuồng của nó. Chúng tôi đâm bổ tới trước nhanh hơn. Chúng tôi qua mặt đoàn xà lan, tàu kéo, tàu buôn, lướt nhẹ qua chiếc này, bọc vòng chiếc kia. Từ trong bóng tối vọt lên những tiếng la hét gọi réo theo chúng tôi. 

- Đốt lửa lò thêm nữa các bạn, đốt thêm lên đi - Holmes hét lớn, nhìn vào buồng máy bên dưới. Nồi súp-de đỏ rực chiếu sóng lên khuôn mặt nóng nảy của anh - Nạp hết hơi nước vào! 

- Tôi nghĩ ta đã bắt kịp nó tí đỉnh rồi đó - Jones nói, mắt không rời chiếc "The Aurora". 

- Chắc thế rồi - Tôi nói - Trong ít phút nữa ta bắt kịp nó thôi. 

Đúng vào lúc đó, một chiếc tàu kéo ba chiếc xà lan xen vào giữa chúng tôi, như có một vị thần tai ác nào cố tình đặt nó vào đấy. Chúng tôi chỉ có thể tránh khỏi sự va chạm bằng cách kéo mạnh hết cỡ chiếc bánh lái. Thời gian vòng qua đoàn tàu và bẻ lái hướng về những kẻ chạy trốn đủ cho chiếc "The Aurora" lấn tới 

thêm 200 yard. Tuy nhiên nó vẫn còn trong tầm nhìn. 

Ánh hoàng hôn mờ đục nhường chỗ cho ánh sao soi sáng trên bầu trời đêm, sức mạnh khổng lồ ném chúng tôi về phía trước khiến vỏ tàu mỏng nhẹ của chúng tôi rung lên và nghiến rít. Chúng tôi chạy băng qua vực, vượt qua khu bến tàu Tây Ấn, chạy xuống dọc theo khúc sông Deptford rồi quay mũi lên sau khi vòng qua Isle of Dogs. Jones chụp được chiếc "The Aurora" trong chụm tia sáng của chiếc đèn pha; chúng tôi trông thấy rõ bóng người trên boong. Một người ngồi phía đuôi tàu, ôm giữ hai chân một vệt đen và cúi mình lên đó. Nằm cạnh hắn là một khối đen mờ trông giống như con chó giống miền Đất Mới. Cậu bé Smith giữ cần lái trong lúc cha nó lưng trần, bóng, nổi rõ trước lò lửa đỏ rực, tiếp than từng xẻng lớn theo một nhịp độ khủng khiếp. Có lẽ thoạt đầu bọn chúng chưa rõ ý định của chúng tôi, nhưng đến lúc thấy chúng tôi bắt chước chúng theo từng khúc quanh, từng lối ngoằn ngoèo thì chúng không còn ngờ vực gì nữa. Đến Greenwich chúng tôi cách sau tàu chúng độ 300 bộ[3]. Đến Blackwall, chỉ còn cách 250 bộ. Trong cuộc đời sôi nổi của tôi, tôi đã săn bắn nhiều thú tại nhiều nước, nhưng môn thể thao đó chưa bao giờ tạo cho tôi cái kích động man rợ trong cuộc săn đuổi người giữa dòng sông Thames này. Cứ đều đặn, từng yard, từng yard, chúng tôi có thể nghe rõ tiếng máy tàu thở hổn hển và đập ầm ầm. Người trên boong vẫn ngồi xổm, đôi tay cử động tưởng như đang bận vào việc gì đó. Thỉnh thoảng hắn lại lấy mắt đo khoảng cách giữa chúng tôi đang giảm xuống một cách khắc nghiệt. Jones gọi chúng. Chúng tôi chỉ còn cách nhau bốn thân tàu. Hai chiếc vẫn chạy với một tốc độ kinh khủng. 

Trước mặt chúng tôi, dòng sông trải rộng mênh mông, bên này bờ là vùng Barking và bên kia là những đầm lầy Plumstead hoang vắng. Nghe chúng tôi gọi, người trên boong nhảy nhổm dậy, đưa hai nắm tay lên và chửi thề với giọng khàn đặc. Hắn có tầm vóc rất vạm vỡ. Lúc đứng thẳng đối diện với chúng tôi, hai chân soạn ra để dữ thăng bằng, tôi có thể thấy từ vế trở xuống chi là cái chân gỗ. Nghe tiếng la hét giận dữ của hắn, cái khối đen ngòm bên cạnh hàn bắt đầu cử động. Khối đen ấy biến thành một con người nhỏ da đen, một con người bé nhỏ mà tôi chưa từng thấy. Nó có cái đầu dị dạng và một mớ tóc rối bời. Holmes đã rút khẩu súng ngắn của anh ra khi trông thấy sinh vật quái dị ấy, và tôi bắt chước theo. Gã man di quấn quanh mình một thứ áo choàng màu sẫm hay cái mền gì đó, chỉ để hở cái mặt, nhưng cái mặt ấy đủ khiến ta không ngủ được. Đường nét trên mặt hằn sâu tính hung bạo súc vật. Cặp mắt ti hí long lanh rực lên một thứ ánh sáng tối tăm. Đôi môi méo xệch thành cái nhếch mép ghê tởm. Răng hắn nghiến vào nhau, đánh vào nhau lập cập khi thấy chúng tôi với vẻ giận dữ thú vật. 

- Cứ nổ súng nếu nó đưa tay lên - Holmes bảo khẽ. 

Lúc này chúng tôi cách nhau chưa được một thân tàu và gần bắt được con mồi. Bây giờ tôi vẫn còn thấy rõ như in hai người đứng trong ánh đáng ngọn đèn chúng tôi: tên da trắng chân dang rộng, gào thét những câu chửi rủa và tên lùn dị tướng với bộ mặt gớm ghiếc, hàm răng vàng khè rắn chắc như muốn ngoạm lấy chúng tôi. 

Thật may là chúng tôi trông thấy nó rõ ràng đến thế. Vì ngay dưới mắt chúng tôi, nó rút từ dưới mền ra một khúc gỗ ngắn tròn, trông giống cây thước kẻ học trò và đưa lên miệng. Hai khẩu súng ngắn của chúng tôi cùng nổ một lúc. Nó quay người, dang hai tay lên trời rồi ngã xuống về một bên, rơi xuống dòng nước, kèm theo tiếng nấc nghẹn. Tôi thoáng thấy cặp mắt đầy đe dọa giữa lớp sóng bạc. Nhưng cùng lúc đó, tên chân gỗ nhoài người về bánh lái và bẻ hết cỡ. Chiếc đò máy xoay mình chạy thẳng về phía bờ nam, vừa lúc chúng tôi qua mặt nó, chỉ nhích qua vài feet là va vào nó. Một lúc sau, chúng tôi đổi hướng chạy, nhưng chúng đã gần đến bên kia bờ. Đó là một vùng đất hoang vu, tiêu điều. Mảnh trăng chiếu ngời trên vùng đất rộng, đầm lầy, đầy ao hồ nước đọng và loài cây cỏ úng thối. Sau một tiếng va mạnh, chiếc đò máy mắc cạn lên bờ sình lầy, mũi tàu dốc ngược lên, đuôi chìm xuống nước. Tên tôi phạm chạy trốn nhảy ra khỏi tàu, nhưng cái chân gỗ lún sâu trong đất nhão. Hắn vùng vây, vặn mình đủ cách: vô ích! Hắn chẳng nhích lên hoặc lùi xuống được lấy một bước. Gào thét trong cơn giận dữ bất lực, hắn dùng cái chân kia điên cuồng đập vào bùn. Nhưng những cố gắng chỉ làm cho chiếc chân gỗ lún sâu thêm. Khi đó máy chúng tôi đỗ ngay sát hắn ta, hắn bị neo chặt trong bùn đến nỗi chúng tôi phải buộc một vòng dây quanh ngực mới kéo được hắn lên về phía chúng tôi y như một con cá. Hai cha con Smith ngồi trên đò, nét mặt cau có, nhưng vẫn ngoan ngoãn bước lên tàu chúng tôi khi Jones ra lệnh. Rồi lại phải kéo chiếc "The Aurora" theo chúng tôi. 

Trên boong tàu là một chiếc hộp sắt chế tạo tại Ấn Độ. Đó dĩ nhiên là cái hộp đựng cái kho báu đã gây tang tóc cho Sholto. Nó rất nặng và chúng tôi phải chở nó rất cẩn thận trong khoang tàu chúng tôi. Ổ khóa không có chìa. Chạy chầm chậm ngược dòng sông, chúng tôi quét đèn chiếu chung quanh nhưng chẳng thấy dấu vết con quái vật bé tí. Đâu đó dưới đáy sông Thames, trong sình lầy, yên nghỉ nắm xương của gã du khách lạ lùng đó. 

- Hãy nhìn vào đây mà xem này! Holmes vừa nói vừa chỉ vào cửa buồng hầm tàu - Thật vừa đúng lúc ta nhanh tay với hai khẩu súng ngắn. 

Thật vậy, ngay phía sau chỗ chúng tôi đứng lúc nãy có ghim một mũi tên giết người mà ta đã biết quá rõ. Chắc nó đã bay đến giữa chúng tôi vừa lúc chúng tôi nổ súng. Holmes, theo cung cách điềm tĩnh của anh, chỉ mỉm cười nhún vai. Riêng phần tôi thú thật là tôi vẫn còn xúc động nghĩ đến cái chết khủng khiếp mà chúng tôi đã thoát khỏi trong chân tơ kẽ tóc đêm ấy.

Chương 11

Kho báu ARGA

Người tù của chúng tôi ngồi trong khoang tàu trước chiếc hộp sắt, mà để chiếm hữu nó, y đã phải chờ đợi bao lâu nay và chiến đấu hung hãn. Y có cái nhìn táo bạo, nước da rám nắng. Khuôn mặt ngang dọc những đường nhăn. Nét mặt hằn sâu màu đồng hun thể hiện cuộc sống dạn dày sương gió. Cái cằm râu rậm sừng sỏ chứng tỏ y không phải là người có thể dễ dàng gạt khỏi mục tiêu đã nhắm. Y trạc tuổi 50. Mái tóc đen quăn lốm đốm rất nhiều sợi bạc. Bình thường, khuôn mặt cũng không đến nỗi nào. Nhưng hàng mày rậm và cái cằm nhô hẳn ra tạo cho bắn vẻ khủng khiếp trong cơn giận dữ. Hắn ngồi, đôi tay bị còng, đầu cúi gằm, cặp mắt lanh lợi chớp chớp nhìn về cái hộp - Nguyên nhân mọi tội ác của hắn. Trong tư thế cứng nhắc có tự chế, tôi nghĩ và phân biệt được nhiều nét buồn rầu hơn là giận dữ. Một lần y ngước mắt nhìn tôi và trong ánh mắt tưởng 

như có tia châm biếm.... 

- Này, ông Johnathan Small, tôi tiếc là công việc lại kết thúc như thế này - Holmes vừa nói vừa châm một điếu xì gà. 

- Thế còn tôi đây, thưa ông - Đáp lại - Tôi không nghĩ tôi sẽ tìm ra cách tự minh oan cho mình khỏi vụ án này. Thế nhưng tôi có thể thề với ông trên kinh thánh là tôi không hề đụng vào ông Sholto. Chính Tonga, con chó địa ngục ấy đã phóng ra một trong những mũi tên độc địa của nó đấy. Tôi tuyệt đối không nhúng tay vào, thưa ông! Tôi rất ân hận y như ông ta là người trong gia đình tôi vậy. Tôi đã dùng một mẩu dây tẩn cho con quỷ nhỏ ấy một trận rồi; nhưng trước sự đã rồi, tôi không còn cách gì cứu vãn được nữa. 

- Này, hãy hút một điếu xì gà đi! - Holmes bảo - Và ông cũng nên uống một ngụm whisky, ông ướt đẫm cả người rồi. Nhưng mà này, ông nói tôi biết làm sao ông hy vọng một người nhỏ yếu như tên da đen ấy lại có thể bắt giữ được ông Sholto trong khi ông trèo lên bằng dây? 

- Dường như ông cũng biết rõ như ông đã có mặt tại đó, thưa ông. Mặc dù thật ra ông đã đến khi không còn ai. Tôi biết khá rõ những thói quen trong nhà, và ông Sholto thường xuống lầu dùng cơm tối vào giờ đó. Tôi không muốn giấu diếm gì trong vụ này. Cách biện hộ tốt nhất của tôi vẫn là nói lên sự thật đơn thuần. Phải chi là viên thiếu tá già kia, tôi đã đưa hắn ta qua bên kia thế giới mà lòng nhẹ nhõm, tôi sẽ ung dung cắt cổ y, cũng ung dung như tôi hút điếu xì gà này vậy! Xui thật. Cứ nghĩ tôi sẽ bị kết án vì ông Sholto em! Thật tình tôi chẳng có lý do gì 

để gây gổ với ông ấy! 

- Ông Athelney Jones, thuộc Scotland Yard, sẽ chịu trách nhiệm về ông. Ông ấy đưa ông về nhà tôi. Tôi xin ông thuật lại chân thật câu chuyện. Nếu ông tuyệt đối thành thật, nếu ông chẳng giấu diếm gì, tôi hy vọng có thể giúp ông được. Tôi nghĩ tôi có thể dẫn chứng rằng chất độc tác dụng nhanh đến độ nạn nhân chết ngay trước khi ông bước vào phòng. 

- Về việc này thì đúng như vậy, thưa ông. 

Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ bị chấn động như thế khi tôi thấy ông ta, đầu quẹo trên vai, nhìn tôi với nụ cười diễu gớm ghiếc khi tôi vào bằng cửa sổ. Điều này làm tôi rất xúc động, thưa ông! Chắc là tôi đã giết Tonga nếu nó không bỏ trốn đi 

trước. Ấy chính vì thế mà nó để lại cái chùy đá và một số tên, theo như lời nó nói. Tôi chắc là việc này đã giúp ông tìm ra dấu vết chúng tôi, phải thế không ạ? Mặc dầu tôi không thấy ra được bằng cách nào ông đã theo dõi chúng tôi được đến tận cùng. Tôi không đem lòng oán giận ông đâu, ông biết cho. Nhưng có điều lạ là tôi thì ngồi đây, trong khi tôi có quyền lợi chính đáng chiếm hữu nửa triệu đồng... Tôi đã dùng nửa cuộc đời thứ nhất của tôi để xây một cái đập trong vùng Andaman; phần đời còn lại tôi có cơ hội tốt để đào hầm ở Dartmoor! Cái ngày tôi gặp tên lái buôn Achmet và kho báu Arga quả thật là một ngày tai họa! Thưa ông, cái kho báu ấy tự thuở nào vẫn là điềm bất hạnh cho những ai nắm giữ nó. Tên lái buôn thì bị ám sát. Còn thiếu tá Sholto thì sống trong nỗi sợ hãi và ô nhục. Riêng tôi, kho báu ấy chỉ mang lại cho tôi cả một cuộc sống nô lệ. 

Lúc đó, Athelney Jones thò cái đầu tròn của ông ta vào: 

- Ơ, đúng là một cuộc hội họp gia đình! - Ông thốt lên - ông Holmes ạ, tôi nghĩ tôi sẽ nếm thử chút whisky của ông. Thế là ta có quyền khen tặng lẫn nhau. Tiếc là ta không bắt sống được tên kia Nhưng lúc ấy nào ta đâu có quyền chọn lựa! Dầu sao, ông Holmes ạ, ông cũng thừa nhận là ta tóm họ vừa đúng lúc. Ta đã phải xả hết tốc lực. 

- Khởi đầu tốt thì chung cuộc cũng tốt thôi, - Holmes nói - Nhưng tôi không ngờ chiếc "The Aurora" lại nhanh thế! 

- Smith nói chiếc đò máy của y là một trong những chiếc nhanh nhất trên sông, và nếu có thêm người phụ ở buồng máy thì không bao giờ ta đuổi kịp. Y thề chẳng hay biết gì về vụ án mạng ở Norwood cả. 

- Đúng đấy! - Người tù của chúng tôi buột miệng nói lớn - Tôi chẳng tiết lộ điều gì với y. Tôi chọn chiếc đò máy của y vì nghe nói nó chạy như gió. Nhưng chỉ có thế thôi. Tôi trả tiền y rất hậu, và có hứa cho y một phần thưởng xứng đáng nếu y đưa chúng tôi ra tàu Esmeralda đang đậu tại Gravesend, để khởi hành đi Brasil. 

- Thế nếu y không làm gì đáng chê trách, thì chẳng có gì tai hại xảy ra cho y cả. Bắt tội phạm thì ta khá nhanh tay, nhưng kết án thì ta chậm hơn. 

Thật là tức cười khi thấy Jones cứ làm ra vẻ quan trọng khi mọi việc bắt bớ đã xong. Tôi thoáng thấy một nụ cười phớt qua khuôn mặt Shelock Holmes, sự thay đổi thái độ này không qua được mắt anh. 

- Ta sắp đến cầu Vauxhall - Jones nói - Bác sỹ Watson, tôi đưa ông lên bờ cùng với cái hộp đựng kho báu. Khỏi cần nói với ông rằng như vậy là tôi nhận lãnh một trách nhiệm rất nặng nề, bởi vì hoàn toàn không nằm trong nguyên tắc. Nhưng ta đã thỏa thuận về điểm này rồi; tôi không tự mâu thuẫn đâu. Tuy nhiên bổn phận tôi buộc tôi phải cho một viên thanh tra hộ tống bác sỹ, vì giá trị to lớn của cái hộp. Chắc hẳn ông sẽ đi bằng xe? 

- Vâng, tôi đi nhờ. 

- Thật tiếc là không có chìa khóa để ta có thể tiến hành việc liệt kê sơ khởi. Các ông sẽ phải phá ổ khóa. Này, Small, chìa khóa đâu rồi? 

- Dưới đáy sông. 

- Hừm? Thật là vô ích khi ông gây thêm cho chúng tôi cái trở ngại đó nữa. Ông đã tạo cho chúng tôi khá nhiều rắc rối rồi. Dầu sao, bác sỹ à, tôi không cần dặn dò ông là phải rất cẩn thận. Bác sỹ hãy đem cái hộp về phố Baker. Chúng tôi đợi bác sỹ tại đó trước khi đi đến kho tang vật. 

Họ bỏ tôi xuống Vauxhall, tôi và cái hộp sắt nặng trịch, cộng thêm một viên thanh tra khỏe mạnh và dễ mến. Một chiếc xe đưa chúng tôi đến nhà bà Cecil Forrester trong không đầy 15 phút. Bà bồi phòng tỏ vẻ ngạc nhiên về cuộc viếng thăm muộn màng như thế; bà giải thích là bà Forrester tối ấy đi vắng và có lẽ sẽ về rất muộn. Nhưng cô Morstan có ở phòng khách. Tôi nhờ người đưa vào phòng khách với cái hộp. Viên thanh tra đồng ý ngồi lại trong xe. 

Cô Morstan ngồi cạnh cửa sồ để mở, mặc một chiếc áo trắng mờ đục nổi bật nhờ đường viền màu đỏ thắm ở cổ và ở thắt lưng. Dưới cái chao đèn, ánh sáng dịu tỏa chiếu đều đặn đến khuôn mặt thanh tú và những lọn tóc quăn mượt mà óng ánh của cô. Tựa lưng vào chiếc ghế mây, một tay buông về một phía, dáng cô trông sầu não, trầm tư. Nhưng khi nghe tôi vào, cô đứng hẳn dậy và đôi má xanh xao phớt hồng vì ngạc nhiên và vui mừng. 

- Tôi có nghe rõ tiếng xe ngừng trước cửa - Cô nói - Tôi nghĩ bà Forrester trở về quá sớm, không ngờ lại là ông. Ông mang lại cho tôi tin gì vậy? 

- Còn hơn là "tin" nữa kia! - Tôi nói. 

Rồi tôi đặt cái hộp lên bàn. 

Tim tôi nặng trĩu, nhưng tôi cố làm ra vui vẻ: 

- Tôi mang đến cho cô cái còn qúy hơn tất cả tin tức trên thế giới này. Tôi mang đến cho cô một gia tài. 

Cô liếc nhìn chiếc hộp. 

- Vậy đây là kho báu đấy? - Cô hỏi. 

Giọng cô thoáng vẻ thờ ơ khó tả. 

- Vâng, kho báu to lớn xứ Arga đấy! Một nửa về ông Thaddeus Sholto, nửa kia thuộc về cô. Mỗi người có khoảng chừng 200.000 đồng. Cô có hình dung ra điều đó là như thế nào không? Ở nước Anh hiếm có phụ nữ nào giàu hơn cô đấy. Không tuyệt vời sao? 

Có lẽ tôi hơi quá lời trong những biểu lộ niềm hân hoan, và giọng những lời tán tụng của tôi không hoàn toàn có sức thuyết phục, tôi thấy cô khẽ nhướng mày và nhìn tôi với vẻ lạ lùng. 

- Nếu tôi có được - Cô nói - Chính là nhờ ông chứ gì? 

- Không đâu! - Tôi đáp - Không phải nhờ tôi, mà là nhờ anh bạn Shelock Holmes của tôi. Với tất cả thiện chí tốt nhất trên đời, tôi cũng không tài nào gỡ rối cái mớ bòng bong ấy được. Vả chăng suýt nữa là chúng tôi làm mất kho báu ấy vào phút chót... 

- Mời ông ngồi, bác sỹ Watson. Xin bác sỹ cho tôi nghe trọn câu chuyện đi. 

Tôi thuật lại cho cô vắn tắt những sự việc y như chúng diễn tiến từ lúc tôi gặp cô ta. Cái phương pháp truy tầm mới mẻ Holmes đã dùng, việc phát hiện ra chiếc "The Aurora", sự xuất hiện của Jones, những công việc chuẩn bị, cuộc đuổi bắt điên cuồng trên sông Thames. Mắt sáng ngời, môi rung rung, cô lắng nghe những câu chuyện mạo hiểm của chúng tôi. Lúc tôi nói đến cái mũi tên nhắm trật chúng tôi trong đường tơ kẽ tóc mặt cô biến sắc nhợt nhạt, tưởng như cô sắp sửa ngất xỉu. 

- Không sao đâu? - Cô thì thào, khi tôi đưa cho cô ly nước - Chỉ hơi khó chịu tí thôi; thật là một chấn động khi tôi hiểu ra rằng tôi đã đặt các bạn bè tôi vào một sự nguy hiểm kinh khiếp đến thế. 

- Bây giờ mọi chuyện đã qua rồi - Tôi đáp - Ta hãy gạt sang một bên những chi tiết buồn thảm ấy đi. Ta hãy nói đến một cái gì vui vẻ hơn: kho báu đây rồi. Còn có gì vui hơn? Tôi được phép mang nó theo nghĩ rằng cô sẽ hài lòng là người đầu 

tiên được trông thấy nó. 

- Tôi thích lắm chứ! - Cô nói. 

Giọng cô thiếu sự vồn vã. Nhưng có lẽ cô nghĩ có phần thiếu lịch sự nếu tỏ ra hững hờ trước một chiến tích khó mà giành giựt đến thế. 

- Chiếc hộp đẹp quá - Cô vừa nói vừa xem xét nó - Tôi đoán nó được chế tạo tại Ấn Độ? 

- Vâng, tại Benares. 

- Lại nặng đến thế! Cô thốt lên và nâng thử nó - Chỉ riêng cái hộp thôi cũng đủ có giá trị rồi. Thế chìa khóa đâu rồi? 

- Small đã ném nó xuống sông Thames rồi - Tôi đáp - Có lẽ phải mượn que củi của bà Forrester thôi. 

Ở mặt trước chiếc hộp có một cái móc chắc chắn hình ông Phật ngồi. Tôi tìm cách nhét lần que củi vào bên dưới, và tạo một lực đòn bảy. Ô khóa bung ra với một tiếng "cắc" nghe rõ. Tay run rẩy, tôi mở nắp ra. Cả hai chúng tôi rất đỗi kinh ngạc: 

Chiếc hộp trống trơn. 

Nó nặng đến thế thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Một lớp sắt luyện dày gần 2 inch, bao bọc nó hoàn toàn. Nó được chế tạo kỹ lưỡng, đồ sộ vững chắc. Chiếc hộp chắc chắn được chế ra với mục đích đựng những vật quý giá. Nhưng bên trong, chẳng có lấy một mẩu nhỏ nào, không có lấy mảnh kim loại hoặc đá quý. Chiếc hộp tuyệt đối và hoàn toàn trống rỗng. 

- Kho báu mất rồi - Cô Morstan nói với giọng điềm tĩnh lạ thường. 

Nghe câu nói ấy và hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó, tưởng như cái bóng u ám đè nặng xa khuất khỏi hồn tôi. Trước kia tôi chưa thấy hết cái kho báu Arga đè nặng trên tôi đến mức nào. 

Tôi chỉ ý thức ra được điều này vào lúc kết cục kho báu bị gạt ra ngoài. Thật là vị kỷ, hẳn nhiên rồi. Tôi thật bất chính và độc ác. Nhưng lúc bấy giờ tôi chỉ nghĩ đến một điều duy nhất: giữa hai chúng tôi bức tường vàng đã không còn nữa. 

- Cám ơn, chúa tôi! - Tôi thốt lên tự đáy lòng mình. 

Cô nở một nụ cười thoáng qua rồi nhìn tôi vẻ tra vấn: 

- Tại sao bác sỹ lại nói thế? 

- Bởi vì giờ đây em lại ở trong tầm tay anh - Tôi nói, tay tôi đặt lên tay nàng - Bởi vì, Mary ơi, anh yêu em: yêu em chân thành như chưa có người đàn ông nào yêu một phụ nữ như thế. Bởi vì cái kho báu ấy với tất cả của cải của em khiến anh không thốt nên lời được. Bây giờ nó mất đi rồi anh mới nói được với em là anh yêu em biết chừng nào. Đấy, tại sao anh lại nói: "Cám ơn, chúa tôi". 

- Thế thì em cũng nói: "Cám ơn, chúa tôi" - nàng thì thầm. 

Có một kẻ nào đó chắc chắn đã đánh mất một kho báu vào đêm đó; nhưng riêng tôi, tôi vừa mới được một kho báu khác.

Chương 12

Cuộc đời kỳ lạ của Jonathan Small

Ông thanh tra vẫn kiên nhẫn ngồi chờ tôi trong xe. Khi tôi đem cái hộp ra cho ông, thì nét mặt ông tối sầm lại. 

- Thế thì mất công toi phần thưởng! - Ông làu nhàu. 

- Ông Thaddeus Sholto giàu lắm! dù không tìm lại được hộp châu báu, ông ấy cũng sẽ đền bù công khó nhọc của các ông- Tôi nói. 

- Công việc chẳng ra gì! - Ông lắc đầu chán nản - Ông Athelney cũng sẽ thấy thế. 

Quả thật thám tử Athelney Jones khi tôi cho ông ta xem chiếc hộp trống rỗng. Cả ba người: Holmes, tên tù và Athelney vừa mới tới. Họ thay đổi chương trình và quyết định trình diện tại đồn cảnh sát trên đường đi. Holmes nằm ườn trên ghế bành với vẻ uể oải thường lệ trong khi Jonathan ngồi thẳng người. Lúc tôi mở chiếc hộp hắn cười phá lên. 

- Đây là một trong những tội lỗi của anh đấy, Small! - Athelney Jones giận dữ nói. 

- Số châu báu đó là của tội. Khi tôi và ba thằng tù lại không được hưởng nó, thì tôi không cho ai chiếm nó cả. Dấu hiệu bộ tứ luôn tồn tại giữa chúng tôi. Đâu phải chúng tôi giết Achmet, rồi để cho bọn Sholto hay Morstan làm giàu! Các ông sẽ tìm thấy kho báu ở chỗ chiếc chìa khoá và thằng Tonga. 

- Anh đừng hòng đánh lừa chúng tôi! - Athelney nghiêm nghị nói - Nếu anh ném kho tàng xuống sông, hẳn anh sẽ ném nguyên cả hộp. 

- Ném như vậy thì dễ dàng thật, nhung cũng dễ cho các ông tìm nó - Anh ta bác lại với vẻ ranh ma - Người có đủ khôn khéo bắt được tôi thì cũng có đủ khôn khéo để mò một cái hộp sắt, Nhưng khi tôi rải châu báu trên một khúc sông dài 5 dặm thì khó đấy. 

- Anh đã sai lầm nghiêm trọng. Nếu anh giúp đỡ công lý thì anh sẽ được khoan hồng - Viên thám tử nói. 

- Công lý! Một nền công lý đệp đẽ! Số của cải đó thuộc về ai, nếu không thuộc về chúng tôi? Tôi đây. Hai mươi năm dài đằng đẵng trên các đầm lầy, làm việc suốt ngày, bị bọn coi tù hànhh hạ, suốt đêm bị cùm chân, bị muỗi đốt, run bần bật vì sốt rét.... 

Jonathan đã thoát ra khỏi cái vẻ lầm lìcủa gã. Để mặc cho tình cảm lôi cuốn, gã tuôn ra hàng tràng, mắt toé lửa, tay vung vẩy khiến hai chiếc vòng khua loảng xoảng. 

- Anh quên rằng chúng tôi kông biết gì về chuyện đó - Holmes điềm đạm nói - Khi chưa nghe câu chuện của đời anh thì chúng tôi không thể nói rằng lẻ phải có ở về phía anh hay không. 

- Thưa ông, ông đã đối xử với tôi rất tốt. Cho nên, tuy chính ông đã bắt tôi, nhưng tôi không giận ông! Đấy là luật chơi... Tôi thấy ông không có gì phải giấu giếm, câu chuyện đời mình. Vâng, cám ơn, xin đẩy ly về phía tôi, tôi khát cháy cổ rồi. 

"Tôi ra đời gần Preshore, trong hạt Worcestershire. Dân cư ở đấy là những trại chủ khá giả, quen biết nhau và yêu thương nhau. Trái lại, tôi là một kẻ vong mạng. Vào năm 18 tuổi, tôi bị dính vào một cuộc ẩu đả ầm ĩ vì một cô gái, cuối cùng tôi phải đăng vào lính, đi Ấn Độ mới thoát được. Một hôm, tôi đi tắm ở sông Hằng. Điều may mắn là John Holder, viên trung sĩ trong đại đội tôi, cũng xuống tắm. Tôi đang bơi ở giữa sông thì một con cá sấu cắn tiện đứt chân tôi. Tôi ngất lịm và sắp chìm nghỉm thì Holder dìu tôi vào bờ. Sau năm tháng điều trị, tôi xuất viện với cái chân gỗ. 

Lúc đó, tôi chỉ còn là một kẻ tàn tật vô dụng, chưa đầy hai mươi tuổi. Ngày kia, có một người nào đó tên là Abel White đi tìm một đốc công để giám sát nhân công bản xứ và đôn đốc họ làm việc trong đồn điền. Ông ta là bạn của đại tá chỉ huy đơn vị tôi. Ông đại tá nồng nhiệt giúp tôi chỗ làm đó. Phần lớn thời gian làm việc là ngồi trên mình ngựa nên cái chân cụt không cản trở gì lắm. Tôi dong ruổi khắp đồn điền, giám sát công nhân và bắt tại trận những tên trốn việc . Lương bổng hậu, có chổ ăn ở tiện nghi . Nói chung , tôi không có gì phàn nàn nếu cứ sống nốt quãng đời còn lại ở cái đồn điền đó . Ông Abel là một người nhân hậu .Ông thường tới thăm tôi và chúng tôi vừa hàn huyên vừa ngồi hút cùng một cối thuốc. 

Nhưng rồi, cuộc nổi loạn bỗng bùng lên. Khắp xứ sôi sục như địa ngục với hai trăm ngàn con quỷ đen ngòm. Đồn điền của chúng tôi nằm ở Muttra giáp giới với các tỉnh Tây Bắc. Đêm đêm, bầu trời rực sáng anh lửa từ các đám cháy. Ngày ngày, hàng ngàn gia đình người Âu trẩy qua cửa chúng tôi, tiến về phía Arga, nơi có đồn binh gần nhất. Abel là một người bướng bỉnh, ông tin chắc rằng người ta đã phóng đại tầm vóc cuộc nổi loạn, và tin tưởng cuộc nổi loạn sẽ chóng tàn. Ngồi dưới mái hiên, ông bình thản nhấm nháp ly whisky, rít từng hơi thuốc, trong khi cả xứ tràn ngập khói lửa! Dĩ nhiên, Dawson và tôi vẫn ở cạnh ông. Vợ chồng ông Dawson lo việc trong nom nhà cửa và giữ sổ sách. Ngày hôm ấy, tôi phải đi kiểm tra một đồn điền khá xa. Buổi chiều khi tôi thong thả trở về thì thấy dưới hố có một đống gì đó. Tôi tới gần và lạnh toát cả người khi nhận ra đó là vợ của Dawson. Đi một đoạn nữa, tôi thấy Dawson nằm úp mặt xuống đất, trong tay là khẩu súng lục đã hết đạn. Phía trước anh ta là xác chết của bốn người Cipayes chồng chất lênnhau. Tôi giục ngựa chạy thục mạng. Tôi thấy một đám khói dày bốc lên từ nhà ông Abel. Lúc đó tôi hiểu tôi không còn giúp đỡ gì cho chủ của tôi được nữa. Hàng trăm người đen đúa, lưng khoác áo choàng đỏ, nhảy nhót, gào rú quanh ngôi nhà bốc lửa. Một vài tên đưa tay chỉ tôi, và hai viên đạn rít bênh tai tôi. Tôi băng qua cánh đồng và tới được Arga vào lúc nửa đêm. 

Ở Arga có tiểu đoàn 3 khinh binh người Bengale, vài người Sikhs, hai phân đội kỵ binh và một pháo đội. Một đội quân tình nguyện gồm các thương gia và tư chức được thành lập, tôi với chiếc chân gỗ cũng gia nhập vào đó. Đầu tháng 7, chúng tôi đã ra khỏi thành, chạm trán và đẩy lui quân nổi loạn được một lúc, nhưng vì thiếu đạn nên lại phải rút lui, co lại trong thành. 

Arga là một thành phố lớn tràn ngập những kẻ cuồng tín. Giữa những ngõ hẻm chật hẹp, ngoằn ngoèo, nhúm người ít ỏi chúng tôi không đủ sức chống giữ. Vì vậy ông tư lệnh quyết định cho chúng tôi vượt sông, vào cố thủ trong cổ thành Arga. Cổ thành rộng nhiều mẫu tây. Từ trướng đến nay, người ta bỏ mặc nó cho bọ cạp và rắn rết. Ở đó có những căn phòng rộng lớn vắng ngắt, những lối đi ngoằn ngoèo và một hệ thống hành lang phức tạp len lỏi khắp mọi ngõ ngách. 

Phía trước cổ thành có một con sông dùng để bảo vệ nó. nhưng phí sau và hai bên hông thì có rất nhiều cửa, nên cần có người canh giữ. Mà quân số chúng tôi lại ít, chỉ đủ người để kiểm soát các góc thành và điều khiển các khẩu pháo. Vì vậy không thể tổ chức một toán lính canh ở mỗi vọng gác trong vô số cửa ngầm. Một phân đội trù bị được tổ chức ở trung tâm cổ thành và mỗi cổng thành được một người da trắng và hai ba thổ dân canh gác. Tôi có nhiệm vụ canh gác tại một cửa ngầm hèo lánh ở cánh Tây Nam. Tôi chỉ huy hai người lính Sikhs. Tôi phải bắn pháo hiệu trong trường hợp khẩn cấp để phân đội trung tâm đến tiếp ứng. Nhưng phân đội ở cách vị trí của tôi trên 200 bộ, con đường lại bị cắt bởi nhưng hành lang và lối đi ngoằn ngoèo, nên tôi nghĩ họ khó có thể tiếp ứng kịp thời trong trường hợp chúng tôi bị tấn công. 

Trong hai đêm đầu tiên, tôi canh gác cùng với hai tên lính vạm vỡ có ánh mắt dữ tợn là Mahomet Singh và Abdullah Khan. Họ nói tiếng Anh khá sõi. Về phần tôi, đứng trên vọng gác, tôi nhìn con sông uốn lượn ở phía dưới và ánh đèn nhấp nhánh trong thành phố. Tiếng trống, tiếng la hét, gào rú của đám loạn quân nhắc cho tôi nhớ rằng mối đe dọa đang rình rập từ bên kia sông. Cứ mỗi hai giờ, một sĩ quan đi kiểm tra một vòng, để biết chắc là mọi sự vẫn tốt đẹp. 

Đêm thứ ba, thời tiết u ám. Mưa nhỏ và lạnh thấu xương. Nhiều lần tôi cố gạ chuyện với hai người Sikhs, nhưng không kết quả. Vào lúc 2 giờ sáng, tôi rút ống điếu và dựng cây súng bên cạnh, sửa soạn hút thuốc. Thoáng một cái, hai tên ấy nhào lên người tôi. Một tên đoạt súng, chĩa vào người tôi, tên kia rút ra một lưỡi dao lớn kê vào cổ họng tôi, rít lên rằng nó sẽ giết tôi, nếu tôi nhúc nhích. 

Ý nghĩ đầu tiên của tối là chúng đã thông đồng với quân nổi loạn, và chúng sẽ tấn công vào thành. Nếu cửa ngầm do tôi canh giữ lọt vào tay quân Cipayes thì cả cổ thành sẽ mất, phụ nữ và trẻ con sẽ không tránh được số phận thảm khốc. Một tên thì thầm: "Không được làm ồn! Không có gì phải lo cho bọn trong thành! Không có bọn chó nổi loạn ở phía này đâu". Giọng anh ta có vẻ thật thàn. Tôi im lặng chờ xem họ muốn gì. 

- Thưa ngài, ngài hãy nghe cho kỹ! - Abdullah Khan nói - Bây giờ ngài phải lựa chọn: hoặc đứng về phe chúng tôi hoặc bị giết. Ngài có 3 phút để quyết định, trước khi toán tuần tra đi qua. 

- Tôi quyết định thế nào được khi các anh không cho biết các anh muốn gì! Nếu sự việc có đụng chạm đến sự an nguy của cái thành, thì tôi thà chết còn hơn. 

- Hoàn toàn không liên quan gì đến cái thành! Chúng tôi yêu cầu ngài làm giàu! Ngài sẽ được một phần tư kho tàng. 

- Kho tàng nào? 

- Vậy ngài hãy thề trên vong linh của cha ngài, trên danh dự của mẹ ngài, trên thánh giá của tôn giáo ngài, là sẽ không tố cáo chúng tôi, không đánh giết chúng tôi, cả lúc này và cả về sau nữa. 

- Tôi sẽ thề với điều kiện là thành này không bị nguy. 

- Vậy, tôi và bạn tôi, xin thề rằng kho tàng sẽ được chia đều cho bốn chúng ta. 

- Nhưng chúng ta chỉ có ba người! 

- Còn phần của Dost Akbar nữa. Mahomet Singh, anh ra canh ở chỗ cửa ngầm đi! Tôi sẽ kể hết cho ngài nghe. 

Ở phía bắc có một tiểu vương rất giàu có. Khi cuộc nổi loạn bùng nổ, ông ta thu xếp để được lòng phe người Cipayes và cả phe người Anh. Ông ta giữ vàng và bạc lại trong lâu đài, nhưng giấu ngọc ngà châu báu trong một hộp sắt và giao cho một người đày tớ trung thành. Người này sẽ tới đây giả dạng một thương gia và lo việc cất giữ kho châu báu, chơ hoà bình trở lại. Như vậy, nếu phe nổi loạn thành công, ông ta sẽ giữ được số vàng. Nhưng nếu người Anh thắng, ông ta sẽ giữ được số châu báu. Sau khi sắp đặt như thế, ông ta công khai đứng về phía người Cipayes hiện đang thắng thế ở kế cận tiểu quốc của ông ta. Người thương gia giả mạo với cái tên Achmet kia hiện giờ đang ở trong thành phố Arga, và muốn vào thành này. Y đi chung với người anh em với tôi là Dost Akbar, Dost Akbar hứa đêm nay sẽ đưa y đến đây. 

Tên thương gia kia có sống hay chết, đối với tôi nào có quan trọng gì. Lúc đó tôi tưởng tượng ra tất cả những việc tôi có thể làm khi trở về quê cũ, mọi người sẽ kinh ngạc khi thấy thằng bé vô tích sự ngày xưa, nay trở về với cái túi đầy vàng. 

- Ngài hãy suy nghĩ kỹ mà xem. Nếu ông tư lệnh bắt được tên thương gia, y sẽ bị xử bắn và kho tàng sẽ bị chính phủ sung công. Nhưng nếu chúng ta tóm được y, chúng ta sẽ chiếm được kho tàng. Sẽ không ai biết chuyện này. Có nguy hiểm gì đâu chứ? 

- Tôi đồng ý đứng về phía các anh! 

- Như thế mới tốt chứ! - Anh ta vừa nói vừa trao khẩu súng lại cho tôi - Ngài thấy rằng chúng tôi tin cậy ngài ... Giờ đây, chúng ta chỉ còn chờ người thương gia kia tới. 

- Người anh em của anh biết những việc anh sắp làm không? 

- Chính anh ta nghĩ ra kế hoạch này. Giờ ngày hãy ra canh cùng với Mahomet Singh đi! 

Trời vẫn mưa. Gió mùa đã bắt đầu. Những đám mây nặng và u ám bay tản mạn khắp bầu trời. Thật khó nhìn xa hơn một tầm đá ném. Ở dưới cửa ngầm, nơi chúng tôi canh giữ có một cái hào, nhưng ở vài chỗ hầu như đã cạn, nên người ta có thể vượt qua dễ dàng. Thình lìnhtôi thấy có ánh đèn ở phía bên kia hào. Ánh đèn biến mất sau các mô đất rồi lại hiện ra, và tiến về phía chúng tôi. 

- Họ đây rồi! - Tôi kêu lên. 

- Ngài sẽ hô khẩu lệnh dừng lại như lệ thường - Abdullah Khan thì thầm - Ngài sẽ ra lệnh cho chúng tôi tới gặp họ, chúng tôi sẽ " coi sóc" họ, còn ngài sẽ soi đèn để chúng tôi kiểm tra xem có đúng là nguời đó không. 

Từ xa, ánh đèn tiến tới, chao đảo, đôi lúc dừng lại như ngập ngừng rồi tiếp tục đi tới. Sau cùng chúng tôi đã nhìn rõ dược hai bóng người ở phía bên kia hào. Tôi để cho họ tuột xuống bờ dốc đứng, bì bõm lội qua chỗ hào có nước, leo lên nửa chừng dốc rồi mới hô lệnh dừng lại. 

- Ai đó? - Tôi hô lên, cơ hồ muốn nghẹn thở. 

- Những người bạn! - Một người đáp lại. 

Tôi đưa đèn ra, rọi lên người họ. Người thứ nhất là một người Sikhs khổng lồ, có hàm râu đen nhánh. Người kia thấp bé, mập tròn, đầu quấn khăn vàng, tayy mang một cái tráp bọc trong khăn. Anh ta run rẩy, sợ sệt, không ngớt dáo dát nhìn bốn phía như một con chuột vừa ra khì tổ. Lúc anh ta nhận ra tôi là người Âu, anhh ta kêu lên nho nhỏ, mừng rỡ và chạy về phía tôi. 

- Xin Ngài che chở cho tôi! - Anh ta hổn hển nói- Tôi đã bị cướp, bị đánh đập, bị lừa phỉnh, vì tôi là bạn của người Anh. 

- Trong bọc có cái gì vậy? - Tôi hỏi. 

- Một cái hộp sắt. Nó chỉ chứa một hai món đồ gia đình. Tuy nhiên tôi sẽ hậu tạ ngài. Thưa ngài trẻ tuổi, ngài và quan Tổng trấn nữa, nếu quan Tổng trấn có lòng tốt cho tôi trú ẩn ở đây. 

- Đưa anh ta tới trạm gác chính - Tôi ra lệnh. 

Hai tên línhh Sikhs kèm anh ta đi, còn tên khổng lồ thì theo sau. Họ đi vào con đường tối. Tôi ở lại trên tường thành với cây đèn. Tôi nghe tiếng bước châncủa họ vang trên hành lang dài vắng lặng. Bất chợt, tiếng bước chân im bặt. rồi có tiếng kêu, tiếng động mơ hồ của một cuộc vật lộn, tiếng đấm đá. Một lúc sau, tôi kinh hoàng nghe tiếng buớc chân gấp gáp đi về phía tôi, tiếng thở hổn hển của một người đang cố chạy trốn. Tôi hướng ánh đèn xuống thấp, dọc theo con đường thẳng và thấy người mập tròn lúc nãy chạy nhanh như gió, mặt đầy máu. Gã khổng lồ người Sikhs bám theo bén gót, nhảy nhót như một con hổ, con dao trong tay. Gã thương gia bỏ xa tên người Sikhs. Tôi biết rằng nếu ra được chỗ trống, anh ta sẽ chạy thoát. Lòng tôi thương xót anh ta, nhưng cái ý nghĩ về kho tàng làm cho tim tôi cứng lại. Tôi dùng cây súng ngáng chân anh ta, khiến anh ta ngã lăn tròn như một con thỏ trúng đạn. Trước khi anh ta đứng dậy được, tên người Sikhs nhào lên... Như các ông đã thấy, tôi đã kể lại sự việc một cách trung thực, dù có lợi cho tôi hay không. 

Jonathan nín bặt, và đưa cả hai tay bị còng đón ly uýt-ki. Tôi phải thú nhận rằng con người này gây cho tôi một cảm giác kinh tởm, không chỉ vì vụ sát nhân được thực hiện một cách lạnh lùng và còn vì thái độ rất tự nhiên lúc anh ta thuật chuyện. Holmes và Athelney thì ngồi chồm tới trước, có vẻ như bị câu chuyện cuốn hút, nhưng vẻ kinh tởm cũng hiện rõ trên khuôn mặt họ. 

- Tiếp tục câu chuyện của anh đi! - Holmes ra lệnh. 

- Abdullah, Akbar và tôi mang xác hắn đi. Mahomet Singh ở lại canh. Những tên người Sikhs đã chuẩn bị chỗ chôn xác chết ở trong một gian phòng rộng đã sụp đổ vài chỗ, cách đó một quãng, qua những lối đi ngoằn ngoèo. Mặt đất nền đã sụp xuống, tạo thành một cái huyệt tự nhiên. Chúng tôi đặt xác Achmet xuống, lấy gạch vụn phủ lên. Rồi quay trở lại. "Cái tráp châu báu" vẫn nằm ở chỗ người thương gia bị sát hại. Một cái chìa khoá buộc vào cái tráp bằng một sợi dây lụa. Chúng tôi mở tráp ra và ánh đèn chiếu lên đống báu vật trông giống y như tôi đã từng mơ thấy hoặc đọc được trong các truyện thần thoại. sau khi đã nhìn ngắm chán chê, chúng tôi trút cái tráp ra dể đếm. Trong tráp có một trăm bốn mươi ba viên kim cương hạng đẹp nhất, và chín mươi bảy viên ngọc lục bảo, một trăm bảy mươi viên hồng ngọc, hai trăm mười viên kim ngọc, sáu mươi mốt viên mã não và một số lớn đá quý khác... Chúng tôi đặt tất cả vào tráp và mang về cửa ngầm để cho Mahomet Singh coi qua. Ở đó, lời thể giữa chúng tôi được long trọng lặp lại. Chúng tôi thỏa thuận sẽ giấu kín số châu báu ở một chỗ an toàn cho tới khi hoà bình trở lại trên đất nước, au đó mới chia đều nhau. Ngay lúc đó thì không nên chia, vì nếu chúng tôi giàu có thì sẽ bị nghi ngờ; ngoài ra chúng tôi cũng không có nhà cửa hay một chỗ nào có thể dấu chúng được. Thế là chúng tôi mang cái tráp tới gian phòng chôn xác Achmet, đào một cái hốc trong bức tường còn vững chãi nhất, đặt cái tráp vào, rồi phủ gạch lên. ngày hôm sau, tôi vẽ bốn bức hoạ đồ, đưa cho mỗi người một bức, đánh dấu bộ tứ ở dưới. Sau khi ngài Wilson chiếm thủ đô Delhi và huân tước Colin giải toả thành Lucknow, thì quân nổi loạn bị đánh bật ra khỏi Agra. 

Hoà bình trở về trên đất nước, bốn chúng tôi hy vọng vào cái ngày chúng tôi có thể mang theo kho báu. Nhưng vị tiểu vương vốn là người đa nghi. Trong khi sai Achmet làm việc cho mình; ông ta cũng phái một người khác theo dõi Achmet. Đêm đó người này thấy Achmet qua cửa ngầm , vào luỹ thành. Nghĩ rằng Achmet đã tìm dược nơi trú ẩn, ngày hôm sau người này mới vào thành, nhưng không tìm ra bóng dáng Achmet. Anh ta lấy làm lạ, mới nói cho một viên đội biết. Viên đội đem câu chuyện thuật lại cho ông thiếu tá. Người ta tổ chức một cuộc truy tìm và khám phá ra xác chết. Vậy là cả bốn đứa chúng tôi bị bắt và bị kết án vì tội giết người. Vấn đề châu báu không được nêu ra trong phiên xử. Vị tiểu vương đã bị bắt và bị lưu đày, và không ai quan tâm đến vấn đề này nữa. Ba người Sikhs bị tù chung thân, tôi bị kết án tử hình, sau đó bản án của tôi được sửa lại thành tù chung thân. 

Cả bốn chúng tôi bị cùm chân, hàng ngày phải lãnh những viên đá, cái đấm của bất kỳ tên cai tù nào, phải uống nước lã và ăn cơm hẩm. Nhưng chúng tôi vẫn đứng vững, chờ đợi một ngày mai tốt đẹp hơn. 

Cuối cùng thì những ngày mai tốt đẹp đã hiện ra. Tôi được chuyển tới Agra tới Madras rồi từ đó chuyển tời đảo Blair trong quần đảo Andamans. Trại tù này nhốt rất ít người da trắng nên chẳng bao lâu tôi được ưu đãi. Người ta để cho tôi được thong thả. Đó là một nơi buồn tẻ, bị bệnh sốt rét hoành hành, bao quanh là rừng già đầy thổ dân bán khai luôn sẳn sàng bắn một mũi tên tẩm độc vào người da trắng. Chúng tôi phải đào hào, đắp nền nhà, tu bổ đồn điền và làm hàng chục thứ công việc khác. Trong số các công việc đó tôi được giao nhiệm vụ phân phác thuốc men. Lúc nào tôi cũng mong muốn vượt ngục. Nhưng đảo cách xa đất liền hàng trăm kilômét, và vùng đó ít khi có gió. Việc vượt ngục là rất khó. Ông bác sĩ của trại tù là một người còn trẻ và hiền hậu. Buổi tối, các sĩ quan trẻ thường tụ họp tại nhà ông để đánh bài. Bệnh xá nằm cạnh phòng họ. Khi cảm thấy cô đơn, tôi thường tắt đèn bệnh xá và ngồi cạnh quầy thuốc để nghe họ nòi chuyện và xem họ chơi bài. Trong bọn họ có thiếu tá Sholto, đại uý Morstan, trung uý Bromley Brown, cả ba chỉ huy các đơn vị bản xứ. Viên y sĩ cũng có mặt cùng với hai hay ba viên chức trại giam. Mấy viên chức này là những tay chơi giỏi, có những nước bài khéo. 

Đêm đêm, khi rời khỏi sòng bạc, các sĩ quan lại nghèo đi một chút. Thiếu tá Sholto thua nặng nhất. Chẳng bao lâu ông phải ký giấy nợ. Ông đi lang thang suốt ngày, mặt tối sầm, và bắt đầu uống rượu. Một đêm kia, tôi đang ngồi trong lều thì đại uý Morstan và ông ta đi về nhà, ngang qua chỗ tôi. 

- Thế là hết đại uý ạ! - Ông ta thở dài lúc đi qua lều tôi - Tôi phải từ chức thôi. Tôi sạt nghiệp! 

- Đừng nói dại thế, ông bạn già! - Viên đại uý vừa nói vừa vỗ vai bạn - Tôi cũng gặp vận rủi nhưng.... 

Tôi chỉ nghe được có như vậy, và điều đó làm tôi suy nghĩ. Hai ngày sau, viên thiếu tá đang đi thơ thẩn trên bờ biển, tôi liền thử thời vận: 

- Thưa thiếu tá, tôi muốn xin ý kiến thiếu tá. 

- Chuyện gì thế? 

- Thưa Ngài, tôi muốn hỏi Ngài là tôi phải trao một kho tàng bí mật lại cho ai. Tôi biết chỗ dấu hơn nửa triệu đồng bảng. Việc làm đó có đáng cho tôi được giảm hình phạt không? 

- Nửa triệu hả? - Ông ta lẩm bẩm vừa quan sát tôi chăm chú, xem tôi có nghiêm chỉnh không. 

- Thưa Ngài, ít nhất thì cũng được vậy. Điều đáng lưu ý là chủ nhân thực sự của nó đã bị phát vãng, nên ai chiếm được thì hưởng. 

- Trao cho chính phủ! - Ông ta lắp bắp. 

Nhưng ông ta nói ra điều đó với cái vẻ quá ít tin tưởng, khiến tôi nghĩ rằng tôi đã thắng. 

- Thưa Ngài, Ngài nghĩ rằng tôi phải báo cáo mọi chi tiết cho quan toàn quyền?- Tôi thản nhiên hỏi. 

- À à, đừng hấp tấp! Hãy kể cho tôi nghe đã. Sự việc thế nào? 

Tôi nói hết cho ông ta, tất nhiên có thay đổi một vài chi tiết để ông ta không xác định được địa điểm. Khi tôi kể xong, ông ta ngồi im lặng , đôi môi mím chặt. 

- Việc này rất quan trọng - Cuối cùng ông ta nói - Chớ có nói với ai. Tôi sẽ gặp lại anh. 

Bốn mươi tám giờ sau, đại uý Morstan và ông ta cầm đèn tới tìm tôi vào lúc rất khuya. 

- Tôi muốn ông đại uý nghe chính miệng anh kể lại câu chuyện.- Ông thiếu tá nói. 

Tôi thuật lại câu chuyện một lần nữa. 

- Có vẻ đúng sự thật đấy, phải không? Có đáng cho ta mạo hiểm không? - Thiếu tá hỏi. 

Đại uý Morstan gật đầu đồng ý. Thiếu tá nói: 

- Ông bạn tôi và tôi đã bàn nhau và chúng tôi kết luận rằng câu chuyện bí mật này không liên quan gì đến chính phủ. Nó chỉ can hệ đến một mình anh và anh có quyền thu xếp theo ý riêng. Vấn đề đặt ra bây giờ là hoàn cảnh của anh thôi. Có lẽ chúng tôi sẽ cùng thảo luận xem chúng ta có thể thoả thuận như thế nào. 

Ông ta cố tỏ ra dửng dưng, nhưng đôi mắt ông ta lộ rõ vẻ tham muốn và khích động. 

- Thưa các Ngài, một người trong hoàn cảnh của tôi chỉ có thể yêu cầu một điều duy nhất! - Tôi trả lời, cũng cố tỏ ra bình thản, nhưng thật ra cũng bị kích động - Tôi yêu cầu các Ngài giúp tìm lại tự do cho tôi và ba người bạn. Chúng toi sẽ chia cho hai Ngài một phần năm số châu báu. 

- Hừ, một phần năm! Không hấp dẫn lắm! 

- Năm chục ngàn bảng cho mỗi người, thưa Ngài! 

- Nhưng chúng tôi trả tự do cho các anh bằng cách nào đây? Anh đói hỏi điều không thể được! 

- Không đâu thưa Ngài - Tôi trả lời - Trở ngại duy nhất trong cuộc vượt ngục của chúng tôi là không tìm đâu ra một chiếc thuyền đủ sức vượt biển. Ở Calcutta có nhiều du thuyền nhỏ, rất hợp cho công việc của chúng tôi. Các Ngài chỉ cần đưa về đây một chiếc. Ban đêm chúng tôi sẽ lên tàu, còn các Ngài không phải làm gì hơn là thả chúng tôi xuống tại một nơi nào đó dọc bờ biển Ấn Độ. 

- Nếu chỉ một mình anh - Ông ta lẩm bẩm. 

- Hoặc cả bốn chúng tôi, hoặc không ai cả! Chúng tôi đã thề rồi. 

- Anh thấy đấy, Morstan - Viên thiếu tá nói - Jonathan biết giữ lời hứa. Anh ta trung thành với bạn bè. Tôi nghĩ rằng ta có thể tin tưởng anh ta. 

- Đây là một công việc bẩn thỉu! - Viên Đại uý nói - Nhưng, như anh nói, tiền kiếm được sẽ giúp chúng ta trả nợ. 

- Vậy thì chúng thôi sẽ cố thoả mãn các điều kiện của anh, anh Jonathan. Nhưng, trước hết chúng tôi phải biết chắc là câu chuyện đó có thật. Cho tôi biết chỗ giấu cái tráp. Tôi sẽ xin nghỉ phép, sẽ theo tàu tiếp tế để đến tận nơi xem xét. 

- Xin hãy thong thả! - Tôi phản đối, vì khi họ càng nôn nóng thì tôi càng trở nên bình thản hơn - Tôi phải hỏi ý kiến của ba người bạn. Tôi đã nói với các Ngài, hoặc cả bốn chúng tôi hoặc không ai cả? 

- Lố bịch quá! - Ông ta kêu lên - Ba thằng mọi đen thì có liên quan gì đến giao kèo giữa chúng ta? 

- Đen hay đỏ gì thì họ cũng là bạn của tôi, và chúng tôi hành động chung nhau. 

Trong cuộc gặp gỡ thứ nhì có Mahomet Singh, Abdullah Khan và Dost Akbar. Chúng tôi đã bàn cãi và thoả thuận như sau: "Chúng tôi cho hai viên sĩ quan mỗi người một bức địa đồ. Thiếu tá Sholto sẽ đi Ấn Độ để kiểm tra sự việc. Nếu tìm được chiếc tráp, ông ta để yên nó ở đấy và tới chúng tôi một chiếc du thuyền nhỏ đầy đủ lương thực cho cuộc vượt ngục. Sau đó, thiếu tá Sơn- tô trở về nhiệm sở còn đại uý Morstan thì xin nghỉ phép để đi gặp chúng tôi ở Agra. Cuộc chia kho tàng sẽ diễn ra ở đó. Đại uý sẽ nhận phần mình và phần của Sholto". Những lời thề long trọng nhất đánh dấu cho thoả hiệp của chúng tôi! suốt đêm đó tôi vẽ hai bức địa đồ cho họ, nhưng tên Sơn- tô bỉ ổi đó đi Ấn Độ và không bao giờ quay trở lại. Tên khốn nạn đã cuỗm đi số châu báu. Kể từ ngày đó, tôi chỉ sống để trả thù. Tôi chỉ còn một ý nghĩ trong đầu: vượt ngục, và tìm giết hắn. Một bữa nọ, bác sĩ Somerton ốm, phải nằm nghỉ. Đám tù nhân đi rừng về mang một thổ dân tới cho tôi. Hắn mắc bệnh rất nặng, đã tới một nơi hẻo lánh nằm chờ chết. Tôi chữa cho anh ta khỏi bệnh. Hai tháng sau, anh ta đi lại được. Nhưng vì quyến luyến tôi, anh ta miễn cưỡng đi về rừng và không ngớt quay lại quanh lều tôi. 

Đó là Tonga. Tonga có một chiếc thuyền lớn và điều khiển thuyền rất giỏi. Lúc đó, tôi thoáng nghĩ tới một cuộc vượt ngục. Tôi liền đem chuyện đó nói với anh ta, dặn phải đem thuyền tới một bến tạm, không có người canh giữ, vào lúc đêm tối. Tonga cũng phải chở theo nhiều túi nước dừa khô và khoai lang. Tonga rất thực thà và trung thành. Anh ta đưa thuyền đến chỗ ấn định. Nhưng tình cờ lại có một lính canh ở đấy. Đó là thằng Pathan hèn hạ, luôn tìm cách nhục mạ và làm hại tôi, súng vắt chéo ngang lưng. Tôi nhìn nhanh tìm một cục đá có thể đập vỡ đầu hắn, nhưng chẳng tìm đâu ra. 

Tôi bỗng có một ý nghĩ lạ. Tôi lẳng lặng ngồi xuống và tháo cái chân gỗ ra. Nhảy ba bước thật dài, tôi nhào lên người hắn. Hắn đưa súng lên vai, nhưng tôi đã đập chiếc chân gỗ lên mặt và làm vỡ sọ hắn. Tôi ngồi dậy, lên thuyền. Một giờ sau chúng tôi đã ở giữa biển. Tonga đã chất lên thuyền những gì anh ta có, kể cả thần thánh của anh ta nữa. Chúng tôi cho thuyền đi trong mười một ngày thì được một chiếc tàu vớt. 

Cuối cùng, chúng tôi đặt chân tới Anh quốc. Tìm ra chỗ trú ẩn của Sholto cũng chẳng khó khăn gì. Tôi liên hệ với một người có thể giúp tôi. Chẳng bao lâu tôi biết Sholto vẫn còn giữ số châu báu. Tôi tìm mọi cách tiếp cận y. Nhưng y rất đa nghi và quỷ quyệt, luôn luôn có hai cựu võ sĩ và một người hầu bên cạnh, chưa kể các con trai y nữa. 

Một ngày kia, hay tin y hấp hối, tôi đâm bổ vào vườn hoa của y. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy y nằm trên giường, hai đứa con y đứng hai bên. Tôi sắp sửa nhảy xổ vào, liều mạng với cả ba. Nhưng tôi nhìn thấy quai hàm hắn trễ xuống, và tôi biết y vừa chết. Đêm đó, thừa lúc vắng người, tôi lẻn vào phòng y, lục lọi giấy tờ, hy vọng tìm thấy một chỉ dẫn nào đó liên quan đến số châu báu. Nhưng chẳng có gì cả. Tôi quay về, lòng cay đắng và sôi sục. Nhưng trước khi đi, tôi nghĩ rằng những người bạn Sikhs của tôi hẳn sẽ hài lòng nếu tôi để lại dấu hiệu chứng tỏ lòng thù hận của chúng tôi. Vì vậy tôi khắc dấu hiệu bộ tứ, và gắn vào ngực y. 

Trong thời gian đó, để kiếm sống, chúng tôi phải bôn ba khắp các hội chợ và nhiều nơi khác, đem Tonga ra làm trò cho công chúng xem. Tonga nuốt thịt sống, nhảy những điệu múa chiến tranh. Bao giờ chúng tôi cũng kiếm được đầy mũ tiền trong các buổi trình diễn. Tôi cũng thường xuyên nhận được tin tức của biệt thự Pondicherry. Vài năm trôi qua mà chẳng xảy ra chuyện gì quan trọng, tôi vẫn dò tìm số châu báu. Cuối cùng tôi biết được cái tráp giấu ở phía trên phòng thí nghiệm của Sholto. Tôi lập tức chạy tới nơi và kiểm tra địa thế. Tôi thấy rõ là với chiếc chân gỗ, tôi không tài nào đu mình lên đó được. Cái cửa sổ trên mái gợi cho tôi một giải pháp: Tonga sẽ dễ dàng chui qua cửa sổ. Tính toán giờ giấc ăn tối của Sholto xong, tôi đưa người bạn nhỏ của tôi tới, cột vào lưng anh ta một sợi dây dài. Anh ta leo trèo như một con mèo và thoát một cái đã ở trên mái nhà. Nhưng rủi thay! Bartholomew Sholto vẫn còn ở trong phòng, chuyện rủi ro đó làm cho hắn ta mất mạng. Tonga tưởng rằng đã giết hắn ta có nghĩa là làm được một việc rất tài giỏi, nên khi tôi lọt được vào phòng, anh ta hãnh diện như một con công đang khoe mã. Anh ta kinh ngạc khi tôi quật ngã anh ta, lấy dây định trói anh ta và mắng anh ta là đồ quỷ khát máu. Tôi lấy cái tráp, thòng dây thả xuống qua cửa sổ, cũng theo đường đó thoát xuống. Rồi Tonga kéo dây lên, đóng cửa sổ và theo đường cũ thoát ra. 

Tôi nghe có một thuỷ thủ khoe tốc độ của chiếc tàu Rạng Đông của lão Smith. Tôi nghĩ là chúng tôi cần chiếc tàu đó để chạy trốn. Thế nên tôi thu xếp với lão Smith: "để lão đưa chúng tôi ra tới tàu lớn". 

- Câu chuyện đáng chú ý thật! - Sherlock Holmes nói:- Tình tiết ăn khớp nhau hoàn toàn. Phần cuối câu chuyện của anh không cho tôi biết thêm điều gì mới mẻ, trừ chi tiết là anh mang sợi dây tới, trước đây tôi không biết điều đó. Tiện đây tôi muốn nói thêm, tôi cứ tưởng Tonga đã sử dụng hết số tên độc, không ngờ anh ta vẫn còn phóng một mũi về phía chúng tôi. 

- Chỉ còn một mũi cuối cùng trong ống xì đồng. 

- À, chắc vậy! Tôi không nghĩ đến chuyện đó. 

- Các ông còn điều gì hỏi nữa không? - Tên tù nhân nhã nhặn hỏi. 

- Tôi cho là xong rồi, cám ơn anh! 

- Này Holmes! - Thám tử Athelney nói - Tôi chỉ an tâm khi tên tù này được nhốt sau song sắt! Xe dành cho anh ta nằm dưới đường. Xin cảm ơn hai bạn, chúc hai bạn ngon giấc! 

Khi tất cả đã đi hết, tôi nói: 

- Thế là tấn kịch nhỏ của chúng ta đã đến hồi kết thúc. Nhưng này Holmes, tôi e đây là vụ cuối cùng mà chúng ta cùng thực hiện chung: Tôi và Morstan sẽ làm lễ thành hôn. 

Holmes buông ra một tiếng càu nhàu. 

- Anh có lý do gì để phản đối sự lựa chọn này - Tôi đáp hơi khó chịu. 

- Hoàn toàn không: cô ấy là một trong số những người phụ nữ duyên dáng nhất mà tôi đã biết. Có lẽ cô ấy sẽ rất có ích trong loại công việc của chúng ta. Nhưng tình yêu thì thuộc về cảm xúc, má tính cảm xúc luôn luôn đối lập với lý trí lạnh lùng và xác thực, là đức tính mà tôi cho là cao hơn hết. Về phần tôi, tôi không bao giờ lấy vợ vì sợ rằng phán đoán của tôi vì thế mà sai lệch. 

- Tôi mong rằng trí khôn của tôi sẽ vượt qua được cuộc thử thách này. Nhưng anh có vẻ mệt mỏi rồi đấy, anh bạn!

Bí ẩn ở thung lũng Boscombe

Vào một buổi sáng khi hai vợ chồng tôi đang điểm tâm chợt con hầu chạy vào đưa cho tôi bức điện của Sherlock Holmes, nội dung bức điện như thế này: 

"Cậu có thể vắng nhà vài ngày được không? Tớ được mời đến miền Tây nước Anh vì một câu chuyện đau đớn đã xảy ra ở thung lũng Boscombe. Rất sung sướng nếu cậu cùng đi với tớ. Thời tiết rất tuyệt. Chúng ta sẽ đi từ ga Paddington vào lúc 11 giờ 15 phút". 

"Anh sẽ đi chứ?" Vợ tôi âu yếm nhìn tôi và hỏi. 

"Anh chưa biết nữa. Hiện anh có nhiều bệnh nhân quá..." 

"Ồ, ngài Anstruther sẽ tiếp nhận hết, lo gì! Trong thời gian gần đây anh không được khỏe lắm. Cuộc dạo chơi này sẽ bổ ích cho anh đấy. Hơn nữa anh bao giờ cũng quan tâm đến từng công việc của anh Sherlock Holmes kia mà?!" 

Kinh nghiệm trong những năm sống hoang dã tại Afghanistan đã làm cho tôi cứng cáp chai sạn trong những chuyến đi tham quan dài ngày. Đồ đạc của tôi rất giản đơn vì vậy tôi ngoi lên chiếc xe ngựa sớm hơn dự định và phóng nhanh ra ga Paddington. 

Sherlock Holmes đang đi dọc theo chỗ đợi tàu. Bộ quần áo đi đường màu nâu với cái mũ nỉ làm cho thân hình gầy, cao của anh càng gầy nhom và dài ngoằng ra. 

"Thật tuyệt khi cậu đã đến, Watson ạ" Holmes nói "Tớ rất mừng khi bên cạnh tớ là một người mà tớ hoàn toàn tin cậy. Cảnh sát địa phương đã bất lực, hoặc đi theo hướng sai lầm. Cậu nhảy lên chiếm hai chỗ trong góc toa, còn tớ chạy lấy hai cái vé." 

Khi chúng tôi ngồi yên vị trong toa tàu, Holmes lấy báo ra đọc, thỉnh thoảng anh dừng lại ghi chép và nghĩ ngợi. Tàu đến ga Reading. Bỗng Sherlock vò nát tất cả giấy tờ lại một nắm và ném vào gói hành lý. 

"Cậu đã nghe nói gì về câu chuyện này chưa?" anh hỏi. 

"Chưa nghe. Đã mấy ngày nay tớ chưa hề ngó tới một tờ báo!" 

"Các báo xuất bản ở London đều đăng rất cụ thể. Tớ vừa mới đọc lướt qua để hiểu rõ ràng hơn. Nhưng hình như đó là một trường hợp không phức tạp lắm, nhưng người ta cho là rất khó giải quyết." 

"Những lời cậu nói nghe mới ngược đời làm sao!" 

"Nhưng đó là sự thật. Trong ngược đời thường có những căn cứ để làm sáng tỏ chân lý, vụ án càng đơn giản bao nhiêu thì càng khó phá bấy nhiêu. Ở trường hợp này quan trọng là chứng cớ chống lại con trai của kẻ bị giết." 

"Tức là có vụ giết người à?" 

"Họ cho là như vậy. Còn tớ thì chưa khẳng định khi tớ chưa tìm hiểu cụ thể sự việc. Tớ chỉ giải thích được cho cậu trong chừng mực nào đó về tình trạng hiện nay mà tớ biết được. 

Thung lũng Boscombe là vùng nông thôn gần thị trấn Ross, thuộc miền Herefordshire. Một chủ đồn điền lớn nhất vùng ở vùng ấy là ngài John Turner. Ông ta đã làm giàu bên Áo và vài năm trước đây đã trở về tổ quốc. Ông ta cho ngài Charles McCarthy thuê một trang trại của mình, trang trại Hatherley - người này trước kia cũng sống ở bên Áo. Họ quen nhau trong những năm bôn ba đất khách quê người và khi thay đổi môi trường sống họ vẫn quan hệ với nhau như những người bạn. Thực ra mà nói ngài Turner giầu có hơn, còn ngài McCarthy thì mướn ruộng đất của ngài Turner, nhưng quan hệ của họ vẫn thân thiết. Ngài McCarthy có một cậu con trai khoảng 17-18 tuổi; còn ngài Turner thì có một cô con gái độc nhất cũng trạc tuổi như vậy. Cả hai người cha ấy đều góa vợ. Họ có vẻ như muốn lẩn, tránh giao thiệp với những gia đình khác và sống rất tách biệt, mặc dù họ rất yêu thích thể thao và thường tham gia đua ngựa. Ngài McCarthy chỉ thuê một người hầu trai và một người hầu gái. Ngài Turner giầu có hơn nên thuê nửa tá người hầu. Đó là tất cả những gì tớ biết về hai gia đình ấy. Còn bây giờ là những điều đã xảy ra với họ. 

Vào, ngày mùng 3 tháng 6, có nghĩa là vào hôm thứ hai. vừa rồi, ngài McCarthy đi đến Hatherley vào lúc 15 giờ chiều rồi sau đó ra hồ Boscombe. Đấy là một cái hồ không lớn lắm, hồ này do một con suốt nhỏ đổ vào, con suối ấy chảy dọc theo thung lũng Boscombe. Buổi sáng ông ta ra thị trấn Ross và có nói với người hầu là ông ta rất vội vì đúng 15 giờ có cuộc hẹn hò rất quan trọng. Sau cuộc hẹn không thấy ông ta trở về nữa. Từ trang trại Hatherley đến hồ Boscombe khoảng một phần tư dặm[1]. Trong lúc ông ta đi đến đây thì có hai người nhìn thấy. Người thứ nhất là một bà già không thấy nhắc tên trên báo. Còn người thứ hai là ông William Crowder, người kiểm lâm của ngài Turner. Cả hai nhân chứng này đều nói rằng ngài McCarthy chỉ đi có một mình. Người kiểm lâm còn bổ sung một chi tiết nữa là, sau cuộc gặp gỡ McCarthy cha không lâu, thì anh ta lại nhìn thấy James McCarthy. Anh chàng này mang theo khẩu súng săn bên mình. Người gác rừng khẳng định là chắc chắn người con trai cũng đi theo gót cha. Người gác rừng hoàn toàn quên biến cuộc gặp gỡ kia, nhưng đến tối khi nghe câu chuyện đau đớn xảy ra thì anh ta bỗng nhớ tất cả. 

Hồ Boscombe được bao bọc bởi một khu rừng rậm rạp, xung quanh bờ lau sậy mọc um tùm. Cô bé Patience Moran 14 tuổi, con người bảo vệ rừng, trong lúc hái hoa ở khu rừng bên cạnh đã nhìn thấy hai cha con nhà McCarthy đang cãi nhau gay gắt. Cô ta nghe thấy tiếng quát của ông bố như tát nước, còn người con trai giơ tay lên như định dọa đánh bố mình. Cô bé hoảng sợ trước cảnh tượng như vậy và vội vàng chạy về nhà kể lại cho bố mẹ nghe những gì đã xảy ra. Cô bé kể xong câu chuyện đó được một lát thì người con trai McCarthy lao đến gặp người gác rừng anh ta thều thào rằng vừa thấy bố mình bị sát hại và nhờ người gác rừng ra giúp một tay. Anh ta hoảng sợ mất bình tĩnh, trên người không súng, không mũ và ở cánh tay phải có dính những vệt máu còn mới nguyên. Người gác rừng nhanh chóng đi theo anh ta đến chỗ người bị giết. Xác chết nằm sõng sượt trên bãi cỏ gần mép nước. Sọ người chết bị dập dập bởi một thứ vũ khí nặng và tà đầu. Những vết thương kiểu ấy chỉ có thể do báng súng gây ra, khẩu súng săn của anh con trai vứt lăn lóc cách thi hài chỉ vài ba bước. Trước những tang chứng đó, người con trai bị bắt ngay lập tức. Vào ngày thứ ba người ta đã buộc tội sơ bộ: "Một vụ giết người có chủ tâm". Vào hôm thứ tư cậu McCarthy phải ngồi ghế bị cáo của tòa sơ thẩm huyện Ross Công việc chưa ngã ngũ ra sao còn phải đợi ngày ra tòa chung thẩm. Tất cả những sự kiện và dữ kiện ấy thì cảnh sát an ninh đã nắm đầy đủ hết." 

"Khó lòng mà tưởng tượng nổi, quả là một sự việc hèn hạ và bi ổi!" Tôi nhận xét "Đây là trường hợp mà bằng chứng gián tiếp đủ vạch mặt kẻ phạm pháp, tớ chưa thấy bao giờ." 

"Mọi chứng cớ gián tiếp đều dễ đánh lừa lắm." Holmes đăm chiêu "Nó có thể chứng minh theo một hướng rõ ràng; nhưng nếu cậu có khả năng phân tích những dẫn chứng ấy, thì cậu có thể phát hiện ra những chứng cứ này thường không dẫn chúng ta đi đến chân lý, mà đi vào một hướng phi chân lý. Chắc chắn giờ đây sự việc đang dồi chống lại người con trai; loại trừ khả năng chính cậu ta là kẻ phạm pháp thật sự. Tuy thế vẫn có người làm chứng cho sự vô tội của cậu ta. Đó là nàng Turner - con gái ngài Turner. Tiểu thư đã nhờ thanh tra Lestrade bào chữa cho bị cáo. Ngài Lestrade cho rằng bào chữa trong trường hợp này sẽ rất khó, vì vậy ông ta chuyển nó đến tôi và nhờ tôi giải quyết giúp. Thế là có hai thám tử hiện đang trên đường phóng tới miền Tây với tốc độ 50 dặm một giờ, để đến sáng mai có thể đàng hoàng ăn điểm tâm tại nhà." 

"Tớ chỉ ngại," Tôi nói "từ một dữ kiện buộc tội đã qua rồi, khả năng giành thắng lợi trong vụ này của cậu sẽ bị hạn chế." 

"Những sự kiện, hiển nhiên không thể che mờ tất cả" Holmes vừa cười vừa nói "Nhưng, nếu chúng ta cũng có khả năng tìm được những chứng cứ hiển nhiên không thể chối cãi được như thế thì sao. Biết đâu chúng nó sẽ có ích cho ngài Lestrade. Cậu đã hiểu tớ quá rồi, trong suy nghĩ cậu đừng cho tớ là kẻ khoác lác. Tớ hoặc là sử dụng những dữ kiện do Lestrade thu thập được, hoặc là tớ bác bỏ hoàn toàn: bởi vì ngài Lestrade không hiểu một tí gì hết. Chỉ cần ví dụ như thế này: Tớ biết buồng ngủ của cậu quay về phía bên phải, nhưng chắc chắn ngài Lestrade chưa biết điều đó." 

"Quả thật như thế thì có sao đâu?..." 

"Anh bạn thân mến của tôi ơi! Tớ với cậu quen nhau đã lâu và tớ rất rõ tính cẩn thận của cậu. Mỗi buổi sáng cậu đều cạo râu dưới ánh sáng mặt trời - Phía bên trái khuôn mặt của cậu cạo không được tốt bằng phía bên phải. Điều đó chứng tỏ 

bên má phải cậu được ánh sáng chiếu nhiều hơn bên má trái. Cậu là một con người cẩn thận, ăn mặc chải chuốt, cho nên khi quan sát thấy như vậy tớ đã có kết luận đúng đắn. Tớ chỉ ví dụ thế thôi, một ví dụ đơn giản về quan sát để rút ra những kết luận. Nghề nghiệp của tớ chỉ gói gọn trong mấy thứ ấy và có thể nó rất cần thiết cho công việc sắp đến của chúng ta. Có một vài chi tiết nhỏ mọn được làm sáng tỏ trong lúc hỏi cung cậu con trai làm cho tớ chú ý." 

"Cậu chú ý cái gì?" 

"Người ta đã đến bắt McCarthy con sau đó một chút khi anh ta đã về đến trang trại Hatherley, khi cảnh sát đọc lệnh bắt, anh ta nói rằng - điều đó không làm anh ta ngạc nhiên chút nào, vì anh ta đáng bị trừng phạt. Lời của anh ta mang tính 

chất phục tùng. Điều đó đã làm tiêu tan những nghi ngờ của người thẩm vấn." 

"Một sự thú nhận tội lỗi!" Tôi thốt lên. 

"Không đâu, sau đó anh ta mới bào chữa cho sự trong sạch của mình." 

"Nhưng những lời bào chữa xuất hiện sau những chứng cớ xác đáng đến khủng khiếp như vậy, càng làm họ nghi ngờ thêm." 

"Ngược lại," Holmes nói "đó chính là một, đốm sáng duy nhất mà tớ hy vọng sẽ nhìn thấy từ trong đám mây đen. Chính chàng trai kia cũng không thể ngờ rằng tai họa đang giáng xuống đầu cậu ta. Nếu anh ta giả vờ làm bộ ngạc nhiên và chống đối khi được tin mình bị bắt, thì điều đó, càng vạch mặt kẻ dối trá mà thôi. Bởi vì mọi sự công phẫn trong bối cảnh phức tạp như vậy chỉ là một sự giả dối trắng trợn. Thái độ bàng quan, thờ ơ của anh ta trong giây phút bị bắt, hoặc nói lên anh ta vô tội hoặc ngược lại, nó vạch trần tính từ chủ có ý định và lòng 

kiên nghị của anh ta. Khi anh ta nói anh ta bị bắt là điều hiển nhiên mà thôi, vì anh ta đã quên mất, nghĩa vụ làm con của mình, đã dám lăng mạ cha mình, còn định đánh nữa. Câu trả lời ấy nói lên sự ăn năn hối hận, lương tâm anh ta bị vò xé, điều này làm cho tớ nghĩ anh ta là người trong sạch hơn là một kẻ giết người." 

Tôi ngao ngán lắc đầu. 

"Nhiều người đã bị treo cổ vì những bằng chứng nhỏ như thế." Tôi nhận xét. 

"Đúng như vậy, và trong số họ cũng có nhiều người bị treo cổ oan ức." 

"Thế cậu đã có cách gì để cứu vớt chàng thanh niên kia chưa?" 

"Chưa có gì đặc biệt để giúp cho ngài luật sư bào chữa cho anh ta cả mặc dù rằng có đôi chút hy vọng. Đây cậu đọc xem có tìm thấy gì không?!" 

Anh lấy trong cặp ra vài tờ báo địa phương, lật qua mấy trang rồi chỉ cho tôi mấy dòng tự khai của anh bạn trẻ McCarthy. Tôi ngồi vào một góc toa tàu và chăm chú đọc tờ báo. 

"Ngài James McCarthy được gọi lên chất vấn. Anh ta khai: 

- Tôi vắng mặt ở nhà ba ngày đêm; những ngày này tôi ở Bristol và trở về nhà vào đúng hôm thứ hai tuần vừa rồi, ngày mùng ba khi tôi về tới nhà thì không thấy cha tôi ở nhà; người hầu gái nói lại rằng cha tôi đi ra thị trấn Ross cùng với gã đánh xe ngựa John Cobb. Một lúc sau tôi nghe thấy tiếng kêu của cỗ xe ngựa trước nhà, và nhìn qua cửa sổ tôi thấy cha tôi đang rất vội ở ngoài sân; tôi không biết cha tôi đi về hướng nào. Tôi vớ lấy khẩu súng săn của mình quyết định đi đến hồ Boscombe để săn thỏ ở bãi đất bỏ hoang nằm bên kia bờ hồ. Trên đường đi tôi có gặp bác coi rừng William Crowder, như điều bác nói trong bản tường trình, tuy nhiên bác ta đã nhầm cho rằng tôi có ý định chạy theo cha tôi. Tôi không biết là cha tôi đang đi phía trước. Khi cách hồ chừng một trăm bước, tôi nghe thấy tiếng kêu "Kô..ê..." tiếng mà cha con tôi vẫn thường hay gọi nhau. Tôi liền chạy đến chỗ phát ra tiếng gọi ấy và tôi nhìn thấy cha tôi đang đứng cạnh hồ. Cha tôi rất ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi và hỏi một cách giận dữ rằng tôi làm gì ở dây? Cuộc nói chuyện đi đến chỗ gay gắt suýt nữa thì xảy ra ẩu đả, vì cha tôi là một người rất nóng tính. Khi cảm thấy cha tôi không thể kìm chế được cơn giận nữa, tôi quyết định chuồn về trang trại Hatherley. Khi đã đi được một quãng[2], tôi bỗng nghe thấy tiếng kêu lạnh buốt xương sống, thế là tôi lập tức quay trở lại. Tôi nhìn thấy cha tôi nằm sõng xoài trên mặt đất. Ở đâu có một vết thương gớm ghiếc, toang hoác miệng, cha tôi đang thoi thóp thở. Khẩu súng săn trên vai tôi rơi xuống lúc nào không hay, tôi nâng đầu cha tôi lên, nhưng trong khoảng tích tắc ấy cha tôi đã ngừng thở. Tôi quỳ gối bên thi hài vài phút đồng hồ, sau đó tôi chạy đến gặp người gác rừng của ngài Turner nhờ bác ta giúp một tay, vì ngôi nhà của bác ấy gần hơn cả. Khi quay lại chỗ cha tôi, tôi không nhìn thấy ai cả, do vậy tôi không biết được ai đã giết cha tôi. Ở đây, rất ít người biết cha tôi, bởi tính tình của cha tôi xưa nay rất ngại tiếp xúc với mọi người xung quanh. Nhưng tôi cũng biết là cha tôi hiện nay không có kẻ thù. 

Thẩm phán: - Cha anh nói gì với anh trước lúc tắt thở không? 

Bị cáo: Cha tôi có lắp bắp mấy tiếng không rõ, tôi chỉ nghe thấy một từ hình như là "a rat"[3] 

Thẩm phán: Điều gì đã làm cho anh và cha anh cãi nhau? 

Bị cáo: - Tôi không thể nói chuyện đó ra đây được. 

Thẩm phán: - Rất tiếc là tôi buộc anh phải trả lời. 

Bị cáo: - Nhưng tôi không thể trả lời câu hỏi đó. Tôi thề với ngài là câu chuyện của chúng tôi không hề liên quan đến câu chuyện đau đớn đó. 

Thẩm phán: - Quan tòa sẽ quyết định chuyện đó. Tôi chỉ nói cho anh biết việc từ chối câu trả lời sẽ bất lợi cho anh. 

Bị cáo: - Tôi sẽ không bao giờ trả lời chuyện ấy đâu. 

Thẩm phán: - Cha con anh thường dùng tiếng "Kô..ê..." để nói với nhau phải không? 

Bị cáo: - Vâng. 

Thẩm phán: - Có nghĩa là, cha anh đã phát ra tiếng ấy trước khi ông biết anh đã từ Bristol trở về có phải không? 

Bị cáo: - Tôi không biết nữa. 

Chánh án: - Anh không phát hiện một dấu hiệu nghi vấn gì khi anh chạy đến chỗ bố anh bị nạn à? 

Bị cáo: - Tôi không phát hiện được cái gì rõ rệt hết. 

Thẩm phán: - Thế nghĩa là thế nào? 

Bị cáo: - Tôi hồi hộp và sợ hãi đến nỗi khi chạy ra khỏi khu rừng, tôi chỉ nghĩ đến cha tôi, ngoài ra không còn chú ý gì nữa. Tôi chỉ mang máng nhớ là bên trái có một vật gì, hình như là tấm khăn choàng. Khi tôi đứng lên khỏi cha tôi, tôi nhìn quanh tìm vật ấy, nhưng nó đã biến mất. 

- Anh có cho là vật ấy biến mất trước lúc anh chạy đi nhờ người giúp chăng? 

- Vâng. 

- Anh cố nhớ xem vật ấy là cái gì? 

- Không, tôi chỉ cảm thấy có vật gì đó, thế thôi. 

- Vật đó cách chỗ người chết bao xa? 

- Khoảng mười bước chân. 

- Và cách với góc rừng bao xa? 

- Gần bằng nhau. 

- Có nghĩa vật ấy cách anh khoảng hai mươi bước chân? 

- Vâng, nhưng tôi quay lưng về phía nó. 

Cuộc hỏi cung được kết thúc ở đây". 

"Tớ thấy vào cuối cuộc hỏi cung, ngài thẩm phán hơi khắt khe với anh chàng McCarthy." Tôi nói, sau khi đã đọc xong những dòng ghi trên báo "Ông ta chứng minh những mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo là hoàn toàn có căn cứ. Tại sao 

người cha gọi tên con khi biết con mình hoàn toàn không có mặt? Ngay cả chuyện cậu con trai từ chối không cung khai về nội dung câu chuyện giữa anh ta với người bố. Sau cùng là lời thốt ra khó hiểu của người bố khi sắp chết. Ngài thẩm phán nhận xét tất cả đều hết sức chống lại anh ta." 

Holmes đổi tư thế ngồi, vui vẻ nói: 

"Cậu và ngài thẩm phán cùng đau đầu vào chuyện không đâu: trong khi đó thì vứt bỏ hết cái có lợi cho anh ta. Chẳng nhẽ cậu không thấy anh ta diễn đạt lúc thì quá nhiều, lúc thì quá ít ư? Quá ít - vì McCarthy trai trẻ không thể bịa ra một nguyên nhân nào về chuyện cãi cọ với bố. Nếu anh ta giải thích cho ngài chánh án thì tội anh ta sẽ được nhẹ hơn. Quá nhiều - Vì anh ta có thể bịa đặt ra "con chuột cống" của kẻ hấp hối và chuyện chiếc áo tự nhiên biến mất. Tớ có nhận xét như thế này: những gì McCarthy con khai đều là sự thật. Hãy xem giả thiết ấy sẽ 

dẫn chúng ta đi đến đâu? Chúng ta tạm dừng câu chuyện, vì chúng ta chưa đi đến nơi xảy ra án mạng. Hai chúng ta sẽ dùng bữa ăn sáng thứ hai ở Swindon. Chỉ còn 20 phút nữa chúng ta sẽ đến." 

Tàu đã vượt qua thung lũng Stroud và chạy vào thị trấn bé nhỏ Ross. Lúc này đã gần 16 giờ. Ra đón chúng tôi ở sân ga là một con người cẩn thận, có cặp mắt tinh ranh như loài cú vọ. Anh ta mặc chiếc áo khoác màu xám và đi ủng cao gót phù hợp với vùng nông thôn này. Tôi nhận ra đó chính là ngài Lestrade từ Scotland Yard đến. Chúng tôi cùng anh ta đi đến "Hereford Arms". Ở đây, người ta đã chuẩn bị phòng ngủ cho chúng tôi. 

"Tôi đăng ký một cỗ xe ngựa rồi," Sau khi uống một chén trà, ngài Lestrade nói. "Tôi đã biết cách thức làm việc của ngài, ngài không thể ngồi yên được khi chưa trực tiếp đến chỗ xảy ra vụ án mạng." 

"Ngài chỉ quá khen đấy thôi." Holmes trả lời "Bây giờ tất cả mọi việc đều phụ thuộc vào kết quả chỉ của phong vũ biểu." 

Lestrade kinh ngạc, không hiểu gì. 

"Tôi hoàn toàn không hiểu ý của ngài." Anh ta nói. 

"Phong vũ biểu chỉ bao nhiêu? 29 hả? Sẽ không có gió trên bầu trời không có một gợn mây - có nghĩa là không có mưa. Chúng ta cần hút vài điếu đã. Ghế đệm ở đây cũng tươm tất sạch sẽ hơn bất kỳ khách sạn nào ở nông thôn. Tôi sẽ không dùng đến cỗ xe của ngài trong buổi chiều hôm nay." 

Lestrade cười trịch thượng và nói: 

"Chắc ngài đã đi đến một kết luận thì phải vì ngài đã đọc hết bản luận tội đăng trên báo? Sự việc quá rõ ràng, rõ như tôi thấy ngài. Càng nhìn càng rõ thêm. Nhưng tất nhiên không nên từ chối lời thỉnh cầu của một cô gái đẹp và đáng yêu như thế? Cô ta cô nghe nói về ngài và hy vọng ngài sẽ bào chữa cho bị cáo; mặc dù đã nhiều lần tôi nói cho cô ta biết là ngài cũng đang khoanh tay không thể làm hơn những gì mà tôi đã gắng hết sức. Xe của cô nàng đã đến đây!" 

Trong lúc Lestrade đang thao thao bất tuyệt thì một người con gái duyên dáng bước vào phòng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai đẹp như cô ta! Cặp mắt xanh biếc, đôi môi hé mở dịu dàng, đôi má ửng hồng, trông cô xinh xắn và dễ thương làm 

sao?! Nỗi lo lắng làm cho cô gái quên cả e dè. 

"Ôi! Thưa ngài Sherlock Holmes?" Cô ta thốt lên đưa cặp mắt đẹp như mơ nhìn từ Sherlock sang tôi và cuối cùng bằng linh tính đặc biệt, của giới phụ nữ, cô ta dừng mắt lại ở chỗ bạn tôi "Tôi rất sung sướng vì ngài đã có mặt ở đây! Tôi đến đây để nói cho ngài rõ câu chuyện. Tôi tin là James vô tội. Ngài hãy bắt đầu công việc, khi tôi nói cho ngài rõ. Ngài đừng nghi ngờ gì hết dù chỉ trong một phút thôi. Tôi kết bạn với anh ấy từ thời thơ ấu kia, nên tôi hiểu anh ấy hơn ai hết, tôi biết những nhược điếm của anh ấy. James nhân ái đến nỗi không làm đau đến cả một con ruồi. Những ai quen biết anh ấy đều cho lời buộc tội là hoàn toàn phi lý." 

"Tôi hy vọng, chúng tôi sẽ bào chữa được cho anh ấy, thưa tiểu thư Turner xinh đẹp?" Holmes nói "Tiểu thư hãy tin tưởng tôi sẽ làm hết sức của mình." 

"Ngài đã đọc được những lời buộc tội ấy chưa? Ngài có ý kiến gì không? Ngài có thấy một tia hy vọng nào không? Ngài tin là anh ấy vô tội chứ?" 

"Tôi cho rằng rất có thể." 

"Thế là anh ấy sẽ được tha!" Cô gái vui mừng ra mặt và ngẩng cao đầu, đưa cặp mắt dò hỏi nhìn ngài Lestrade "Ngài có nghe thấy gì không? Giờ thì tôi có thể hy vọng được rồi." 

Lestrade nhún vai nói: 

"Tôi chỉ sợ anh bạn của tôi hơi vội vã trong lời kết luận của mình." 

"Nhưng ông ấy nói đúng. Tôi tin ông ấy! James không thể là tên giết người. Còn chuyện dính dáng đến vụ cãi cọ với cha anh ấy tôi biết hết. Và nguyên nhân nào khiến cho anh ấy không nói với ngài thẩm phán vì chuyện này có dính líu đến tôi." 

"Như thế nào thưa tiểu thư?" Holmes hỏi. 

"Bây giờ là lúc tôi không phải dấu giếm cái gì hết. Vì tôi mà James đã có những bất đồng với cha anh ấy. Cha của James thì muốn chúng tôi lấy nhau. Chúng tôi yêu nhau, như anh em ruột thịt. Nhưng anh ấy, tất nhiên, còn quá trẻ, chưa hiểu gì về cuộc đời... và... và... Nói tóm lại, anh ấy chưa muốn cưới vợ. Vì thế mà có cuộc cãi cọ kia. Tôi tin tưởng rằng đó là một trong những nguyên nhân của cuộc cãi vã." 

"Ý kiến cha tiểu thư như thế nào?" Holmes hỏi "Ông ấy có muốn hai người lấy nhau không?" 

"Cha tôi rất phản đối. Ngoài cha của James ra thì không ai ủng hộ cuộc hôn nhân này cả." 

Holmes ném cái nhìn dò xét lên khuôn mặt cô gái làm cô ta ngượng ngùng đó bừng cả mặt. 

"Xin cám ơn tiểu thư về nguồn tin mới mẻ." Holmes nói "Ngày mai tôi có thể gặp cha của tiểu thư không, nếu ngày mai tôi ghé thăm?!" 

"Tôi e rằng bác sỹ sẽ không cho gặp?!" 

"Bác sỹ ư?" 

"Vâng, chẳng lẽ ngài không biết sao? Trong những năm gần đây, cha tôi hay ốm lắt nhắt, nhưng cũng đủ làm cho cha tôi kiệt sức hoàn toàn. Cha tôi chỉ nằm suốt ngày, còn ngài bác sỹ Willows nói: Cha tôi bị chấn thương sọ não vì bị kích động mạnh. Ngài McCarthy là người duy nhất ở đây biết được cha tôi trong thời gian ở Victoria xa xôi." 

"Sao? Cha của tiểu thư đã từng ở Victoria hả?" 

"Vâng, cha tôi tham gia vào đoàn tìm kiếm." 

"Tôi hiểu. Ngài Turner đã làm giàu tại những mỏ vàng có phải không, thưa tiểu thư?" 

"Vâng, đúng thế, thưa ngài." 

"Xin cảm ơn tiểu thư. Tiểu thư giúp cho tôi rất nhiều." 

"Ngày mai, nếu có tin tức gì mới ngài hãy làm ơn cho tôi biết với! Chắc ngài sẽ đến gặp anh James ở trại giam phải không? Nếu gặp ngài hãy nói giúp rằng tôi bao giờ cũng tin là anh ấy vô tội." 

"Tiểu thư cứ an tâm, thế nào tôi cũng nói lại điều đó." 

"Tôi phải về nhà gấp. Cha tôi hiện đang nguy kịch và cần có tôi bên cạnh. Xin tạm biệt ngài, cầu chúa phù hộ cho ngài trong công việc." 

Cô gái vội vã bước ra khỏi phòng và chúng tôi nghe tiếng cỗ xe đang xa dần. 

"Tôi ngượng thay cho ngài, ngài Holmes ạ!" Lestrade nói với giọng đàn anh, sau một phút im lặng "Ngài hy vọng làm gì chứ?! Không phải tôi lo quá xa đâu, nhưng ngài làm như vậy quả là liều lĩnh." 

"Tôi đã lần ra được hướng để giúp cho James McCarthy" Holmes nói "Ngài có giấp phép vào thăm trại giam không?" 

"Có đây nhưng chỉ dùng cho hai người thôi." 

"Như vậy, tôi sẽ thay đổi chương trình là không đi đâu nữa. Chúng ta có kịp thời gian đi đến trại giam Hereford để thăm tù nhân không?" 

"Hoàn toàn kịp." 

"Chúng ta cùng đi? Watson, tớ sợ cậu buồn nhưng chỉ sau hai giờ tớ sẽ quay về đây." 

Tôi tiễn họ ra bến xe. Sau đó đi bách bộ dọc các đường phố của thị trấn. Rồi quay về khách sạn, tôi nằm xuống salon và lấy cuốn tiểu thuyết ra đọc. Nhưng cuốn sách không ăn nhập với câu chuyện đáng thương đang hiện ra trước mắt tôi. Tôi 

nhận thấy tất cả mọi ý nghĩ của mình lúc này đều quay về thực tại. Tôi ném cuốn sách vào góc phòng và thử ôn lại trình tự, suy luận về những sự kiện. Cứ cho những lời khai của chàng thanh niên kia là đúng đi, thì liệu có con quỷ nào lọt vào khoảnh khắc ngắn ngủi giữa lúc chàng trai đi khỏi và chạy lại với tiếng kêu của người cha. Ai vào đây? Điều này thật là kinh khủng, đáng sợ. Tôi là bác sỹ, công việc sẽ được rõ ràng hơn, nếu tôi đưa xem xét những vết thương. Tôi gọi điện và đề nghị cung cấp cho tôi tất cả những số liệu và kết quả của cuộc giải phẫu giám định đầy đủ nhất. 

Trong bản kết luận của nhà giải phẫu cho biết: xương đỉnh phía sau và phần trái của xương chẩm bị vỡ do một cú giáng rất mạnh bằng một vũ khí không nhọn. Tôi tự sờ lên đầu mình để kiểm tra, không còn nghi ngờ gì nữa, cú đánh như vậy chỉ có thể thực hiện từ phía sau lưng nạn nhân. Điều này sẽ biện hộ phần nào cho bị cáo, vì trong lúc cãi nhau người ta nhìn thấy anh ta đứng đối diện với người cha: Cần phải nói cho Holmes biết điểm này. Tôi nhớ đến từ "a rat", có ý nghĩa gì nhỉ. Trong trường hợp này thì không phải là lời nói mê. Con người trước lúc chết vì bị đánh bất ngờ, không bao giờ nói mê cả. Chẳng lẽ, ông ta muốn giải thích tại sao ông ta chết? 

Ông ta muốn nói điều gì? Tôi cố gắng hết sức để tìm ra một lời lý giải thích hợp. Tôi nhớ lại trường hợp chiếc áo xám ma quỷ. Nếu đúng như vậy thì có một kẻ thứ ba đã bỏ quên chiếc áo khi bỏ chạy và liều lĩnh quay lại lấy ngay sau lưng cậu con trai, cách cậu ta chỉ 20 bước chân. Toàn bộ câu chuyện này là một vấn đề khó hiểu và khó tin! 

Lời nhận xét của Lestrade không làm cho tôi kinh ngạc, nhưng tôi tin vào tầm nhìn xa trông rộng của Holmes nên tôi không mất hy vọng. Đến lúc này tôi có cảm giác là Holmes đã tóm được một vài chi tiết để củng cố lương tâm của mình về sự trong trắng, vô tội của James. 

Khi Holmes về thì trời đã tối từ lâu. Anh đi một mình vì Lestrade nghỉ lại ngoài thành phố. 

"Phong vũ biểu vẫn chưa chịu hạ tí nào." Anh ngồi xuống và nói "Chỉ cầu sao cho trời đừng có mưa vào lúc chúng mình chưa đến nơi xảy ra án mạng? Con người cần phải dồn sức lực, trí tuệ và nhiệt tình vào công việc nhân đạo. Thật lòng mà nói tớ cũng chưa hứng thú bắt tay ngay vào công việc vì tớ rất mệt sau một huyến đi xa như vậy. Tớ đã gặp anh chàng McCarthy rồi." 

"Gặp anh ta, cậu có hiểu thêm gì không?" 

"Không có gì mới cả." 

"Sự việc không sáng sủa à?" 

"Tuyệt nhiên không. Lúc đầu tớ có ý nghĩ là anh ta đã biết rõ họ tên kẻ sát nhân, nhưng muốn giấu. Đến giờ thì tớ khẳng định là chính anh ta cũng đang thắc mắc như mọi người khác. McCarthy không phải là người khôn ngoan cho lắm, song rất dễ thương. Tớ có cảm nghĩ anh ta là người tốt." 

"Tôi không tán thành quan điểm của anh ta," tôi nhận xét "Nếu đó là sự thật thì tại sao anh ta không chịu cưới cô tiểu thư Turner kiều diễm kia làm vợ." 

"Cũng vì thế mà xảy ra câu chuyện đáng tiếc! Anh ta yêu tiểu thư Turner chân thành tha thiết, và say đắm. Nhưng cậu thử nghĩ xem? Anh ta đã làm gì cách đây hai năm, khi còn là một thằng con nít mới lớn, lúc ấy tiểu thư Turner đang học ở 

trường nội trú, cậu biết không? Thằng ngốc ấy bị rơi vào tay một cô gái bán hàng ở Bristol và dại đột đăng ký kết hôn với cô ta. Về chuyện này thì không một ai biết cả. Cậu thử tưởng tượng xem, đối với anh ta thật là đau đớn khi phải nghe hoài những lời trách móc của người cha! Nỗi tuyệt vọng bao trùm, ám ảnh anh ta, khi anh ta giang hai tay lên trời cầu cứu để trả lời đề nghị của cha anh ta là kết hôn với tiểu thư Turner. Mặt khác, anh ta hết khả năng tự bào chữa rồi, và người cha, theo mọi người nói là kẻ hẹp hòi, đố kỵ, sẽ đuổi cậu ta ra khỏi nhà nếu biết được tất cả sự thật. Chàng thanh niên đã sống với người vợ của mình ở Bristol trong ba ngày cuối cùng, nhưng người cha không biết cậu ta ở đâu. Hãy ghi nhớ kỹ điểm ấy. 

Điều này rất quan trọng. Trong cái rủi lại có cái may. Cô bán hàng khi nghe tin chồng mình bị kết tội nặng và có thể không lâu sẽ bị treo cổ nên đã bỏ anh ta ngay lập tức. Cô ta tự thú nhận trong một bức thư gửi cho chồng là từ lâu cô ta đã có một người chồng chính thức khác ở Bermuda; cô ta trắng trợn tuyên bố giữa cô ta và James McCarthy không hề có sự ràng buộc nào hết. Tớ nghĩ tin ấy phần nào đền bù nỗi đau khổ của cậu Mark McCarthy." 

"Nếu cậu ấy vô tội thì ai là thủ phạm gây án mạng?" 

"Đúng, kẻ giết người là ai? Tớ lưu ý cho cậu hai điểm sau đây: thứ nhất - Người đã khuất cần gặp ai đó bên hồ, người đó không thể là con trai ông ta được, bởi người con trai đã đi khỏi không biết bao giờ mới về. Thứ hai - Người cha gọi "Kô..ê..." trước khi ông tà nhìn thấy con trai. Đó là nút chính, nhờ nó mà chúng ta làm thấy đổi được tình thế. Còn bây giờ hãy nói đến những sáng tác mới của George Meredith nếu như cậu thích. Hay để những công việc thứ yếu khác đến mai." 

Đúng như Holmes mong muốn, hôm sau trời không mưa. 

Sáng nay trời quang đãng không một bóng mây. Vào lúc 9 giờ Lestrade đến đón chúng tôi đi trên cỗ xe ngựa, chúng tôi tiến về trang trại Hatherley và từ đó đi bộ đến hồ Boscombe. 

"Có một tin quan trọng," Lestrade nói "nghe nói là ngài Turner ốm nặng đến nỗi khó lòng mà qua được." 

"Hình như ông ấy già lắm phải không?" Holmes hỏi. 

"Khoảng 60 tuổi, nhưng ông ta mất sức từ ngày ở đoàn tìm kiếm và từ lâu đã mang bệnh hiểm nghèo. Ông ta là bạn cũ của ngài McCarthy, hơn thế còn là ân nhân nữa. Tôi được biết ngài Turner không lấy tiền thuê trại Hatherley của ngài McCarthy." 

"Ồ! Điều này rất lý thú đấy các vị ạ?" Holmes bỗng reo lên. 

"Vâng, ngài Turner giúp đỡ ngài McCarthy bằng mọi biện pháp có thể được. Ở đây mọi người đều nói là ngài Turner đối xử với bạn rất tốt." 

"Sao ngài lại nghĩ thế?! Ngài không lấy làm lạ là ngài McCarthy không giầu có gì mà lại tính đến chuyện cưới cô tiểu thư Turner xinh đẹp - người thừa kế duy nhất gia tài kếch sù cho con trai? Ngài biết rồi đấy ông Turner đâu có chấp nhận cuộc hôn nhân ấy theo như tiểu thư Turner đã nói. Ngài có thể rút ra kết luận gì bằng phương pháp suy diễn." 

"Chúng tôi đã suy diễn và rút ra những kết luận logic nhất." Lestrade nói và nháy mắt ra hiệu cho tôi "Ngài cứ tiếp tục sử dụng các dữ kiện ấy, nó có thể đi xa chân lý để rơi vào thế giới hão huyền." 

"Sự thật thì bao giờ cũng là sự thật." Holmels nói "Ngài sử dụng dữ kiện không tốt lắm." 

"Tôi chỉ nhấn mạnh một dữ kiện, mà đối với ngài thì khó hiểu." Lestrade nói. 

"Dữ kiện nào?" 

"Là McCarthy cha đón nhận cái chết bi thảm của mình từ McCarthy con, còn tất cả mọi giả thiết khác bác bỏ nó - chỉ là vệt sáng trăng." 

"Nhưng dù sao vệt sáng trăng còn sáng hơn sương mù?" Holmes vừa cười vừa nói "Nếu tôi không nhầm thì bên trái kia là trang trại Hatherley." 

"Đúng, chính nó." 

Đó là một ngôi nhà hai tầng khang trang đầy đủ tiện nghi, mái bằng đá, rêu bám từng mảng lớn ở mặt tiền sảnh. Những tấm rèm thả xuống bịt kín mít các cửa sổ trông rất ảm đạm; những ống khói đã mấy hôm nay không có khói bay. Những cái đó đã làm cho ngôi nhà trở nên hiu quạnh; dường như án mạng đang phủ lên, đè nén mấy bức tường với tất cả sức phá hoại ghê gớm của nó. 

Chúng tôi gọi cửa. Người hầu gái, theo yêu cầu của Holmes, chỉ cho chúng tôi đôi giày của chủ nhân đã mang trong ngày hôm ấy, và đôi giày của cậu con trai đã mang. Holmes ngồi đo từng li từng tí đôi giày; sau đó anh đề nghị người ta dẫn 

chúng tôi ra sân, từ đó chúng tôi đi theo đường mòn quanh co uốn khúc dẫn đến hồ Boscombe. 

Holmes biến đổi hoàn toàn khi anh lôi mọi người theo những dấu vết bẩn thỉu. Những người đã từng biết ngài thám tử lừng danh ở hẻm Baker, lúc này chắc không thể nhận ra anh được. Anh ta ủ dột, mặt hơi phớt hồng, cặp mắt lấp lánh dưới hàng mi đen chạy dài.  

Đầu anh cúi xuống, cặp vai nhô lên, đôi môi cắn chặt: trên cái cổ gân guốc hằn rõ những đường mạch máu xanh. Hai lỗ mũi của anh phồng lên như cặp mũi của những nhà đi săn thú lão luyện. 

Anh say mê công việc đến nỗi không trả lời bất cứ câu hỏi nào, hoặc nếu có chỉ nhấm nhẳn cho qua chuyện. Anh đi âm thầm, nhưng rất nhanh theo lối mòn xuyên qua một cánh rừng và đồng cỏ tới hồ Boscombe. Đó là vùng đầm lầy trước kia nay đã khô ráo giống như cả vùng thung lũng. Trên lối mòn, hai bên có 

những loại cỏ dại thấp mọc dày xuất hiện những dấu vết dẫm nát. Holmes lúc thì vội vội vàng vàng, lúc thì dừng hẳn lại. Có một lần anh bất thình lình quay lại và đi ngược vài ba bước. 

Lestrade và tôi theo dõi anh từng bước. Lestrade thì quan sát với thái độ thờ ơ, khinh khinh ra mặt, còn tôi luôn luôn theo sát Sherlock với sự hứng thú trong lòng, bởi tôi dám khẳng định là mỗi động tác của anh đều dẫn tới một kết cục tốt đẹp. 

Hồ Boscombe rộng chừng 50 yards[4], lau sậy bao bọc xung quanh. Nó kéo dài trên ranh giới của trang trại Hatherley và địa hạt của ngài Turner giàu có. Ở phía xa, nơi khu rừng chạy dài đến tận bờ xa tắp, thấp thoáng những ngọn tháp nhọn đỏ 

chót. Ở phía Hatherley khu rừng rất rậm rạp, um tùm; chỉ có một khoảng đất hẹp, rộng chừng hai mươi bước là có cỏ dại mọc và một số cây sậy còn sót lại bao quanh. Lestrade chỉ cho chúng tôi chính xác nơi nạn nhân ngã xuống. Mảnh đất chỗ ấy bị dẫm nát đến nỗi tôi dễ dàng nhận ra ngay nơi nằm của người bị giết. 

Còn những gì liên quan thì Holmes quan sát rất kỹ lưỡng. Holmes chăm chú nhìn kỹ đám cỏ bị xéo nát. Anh chạy đi chạy lại, sau đó lại gần người bạn đồng hành với chúng tôi: 

"Ngài đã làm những gì ở đây?" 

"Tôi đã cào xới khắp bãi cỏ, tìm kiếm một loại vũ khí và những chứng cớ khác, nhưng ngài đã thấy đấy..." 

"Thôi đủ rồi. Tôi không có nhiều thời giờ! Dấu chân trái của ngài hiện lên khắp nơi. Thậm chí con chuột chù cũng có thể đánh hơi được điều đó. Còn đến chỗ đám lau sậy thì dấu vết biến mất. Nếu tôi đến đây trước khi bị đàn bò dẫm nát thì mọi việc sẽ đơn giản! Những người ra đây đã làm loạn xị ngậu mọi dấu vết xung quanh chỗ nạn nhân chừng 6 hoặc 7 feets[5]." 

Holmes lấy kính lúp ra rồi nằm xuống tấm vải không thấm nước để quan sát và thì thầm nói với bản thân mình hơn là nói với chúng tôi. 

"Đây là dấu vết của anh chàng McCarthy, anh ta đã đi qua đây hai lần và một lần chạy nhanh đến nỗi vết giầy hầu như khó nhìn thấy, những vết còn lại thì rất rõ. Những dấu vết này khẳng định cho lời khai của anh ta. Chàng thanh niên chạy 

đến nhìn thấy cha mình đang nằm gục trên mặt đất. Tiếp theo là những dấu chân của người cha đi lui đi tới. Cái gì thế này? À, dấu vết của báng súng khi người con đứng và dựng súng xuống nghe cha nói. Còn đây nữa? Cái gì nhỉ? Có một người đi rón rén trên đầu các ngón chân! Đây là đôi giày không bình thường, hình như hình vuông?! Hắn đến rồi chuồn khỏi, rồi lại đến, chắc là để lấy chiếc áo. Nhưng hắn từ đâu đến?" 

Holmes chạy đi chạy lại quan sát, đôi lúc mất dấu vết, đôi lúc nhìn thấy. Trong lúc đó chúng tôi chưa đi vào bìa rừng, dưới bóng một cây bạch dương to già cỗi, Holmes đã bắt được các dấu vết, anh nhẹ nhàng nằm xuống. Bỗng anh reo lên sung sướng. Holmes nằm yên rất lâu, lật đi lật lại những chiếc lá cây và cành cây khô queo, nhặt bỏ vào phong bì một vật gì đó giống như là bụi đất. Anh thận trọng nhìn qua kính lúp một chiếc vỏ cây, một hòn đá có cạnh không đều nhau. Anh cầm hòn đá lên và ngắm nghía vẻ thỏa mãn, sau đó anh theo lối mòn dẫn đến một con đường ở đây mọi dấu vết bị xóa sạch. 

"Hòn đá này quan trọng đấy." Anh nhận xét khi đã quay lại với giọng nói bình thường "Ngôi nhà xam xám phía bên phải kia có lẽ là nhà của người gác rừng. Tôi sẽ ghé lại chỗ ngài Moran để nói vài lời và viết một bức thư. Rồi chúng ta sẽ về khách sạn trước bữa ăn sáng thứ hai. Hai người cứ đi đến xe ngựa trước, tôi sẽ tới sau." 

Sau 10 phút, chúng tôi về tới thị trấn Ross. Hòn đá nhặt được ở trong khu rừng vẫn nằm trong tay Holmes. 

"Vật này có thể sẽ làm cho ngài chú ý, thưa ngài Lestrade." Holmes chìa hòn đá ra "Đây chính là vũ khí mà kẻ sát nhân đã dùng." 

"Tôi không nhìn thấy vết tích nào cả?!" 

"Đúng, không có." 

"Vậy làm sao ngài quả đoán như thế?" 

"Vì dưới hòn đá này cỏ vẫn mọc bình thường. Có nghĩa nó nằm chỉ vẻn vẹn có vài ngày. Còn xung quanh không thấy dấu chỗ hòn đá được nhặt lên. Hòn đá này tương xứng với những thương tích. Không có dấu vết của loại vũ khí nào khác." 

"Ai là kẻ sát nhân?" 

"Đó là một người cao to, thuận tay trái và bị thọt chân phải. Hắn mang giày đi săn, đế to và mặc bành tô xám. Hút thuốc Ấn Độ bằng tẩu, ở trong túi thì có chiếc dao cùn gấp cán. Có nhiều đặc điểm nữa, nhưng như thế cũng đủ cho chúng ta tìm kiếm." 

Lestrade cười mỉm. 

"Đáng tiếc, đến bây giờ tôi vẫn là kẻ hoài nghi." Ông ta nói "Mọi giả thiết của ngài đều chí lý, nhưng chúng ta cần làm việc với đạo luật của Hoàng gia nước Anh." 

"Chúng tôi sẽ tìm thấy." Holmes bình tĩnh trả lời "Ngài có cách của ngài, tôi có phương pháp của tôi. Thật tuyệt vời, có thể hôm nay tôi sẽ về London trong chuyến tàu tối." 

"Ngài bỏ dở công việc ư?" 

"Không, mọi việc đã sáng tỏ." 

"Bí mật là gì?" 

"Chiếc màn bí mật đã được vén lên." 

"Ai là kẻ sát nhân?" 

"Kẻ mà tôi vừa mô tả." 

"Nhưng hắn là ai?" 

"Ồ, có khó gì đâu, dân cư ở đây không nhiều nhặn gì." 

Lestrade nhún vai: 

"Tôi là con người thực tế." Ông ta nói "Không thể tìm kiếm một người chỉ thọt chân phải và thuận tay trái. Chắc tôi sẽ bị cả vùng Scotland chế nhạo mất thôi. 

"Được," Holmes điềm đạm trả lời "Tôi sẽ cho ngài biết mọi khả năng để tìm ra điều bí mật. Tôi không cần che giấu, còn ngài có lẽ sẽ khám phá ra vụ án khó hiểu này." 

Sau khi từ biệt ngài Lestrade, chúng tôi quay về căn buồng của mình, ở đây bữa ăn sáng thứ hai đã dọn sẵn. Holmes im lặng, trầm ngâm suy nghĩ. Khuôn mặt của anh buồn rười rượi, giống như khuôn mặt của một người rơi vào tình trạng khó giải quyết. 

"Hãy nghe đây Watson," Anh nói, khi người hầu đã dọn xong mọi thứ trên bàn ăn "Cậu ngồi vào kia, tớ sẽ kể cho cậu nghe một số điều tớ biết. Không hiểu tớ phải làm gì bây giờ? Tớ muốn nghe ở cậu một lời khuyên. Cậu hãy hút thuốc đi, tớ sẽ bắt đầu." 

"Nào, kể đi." 

"Trong khi nghiên cứu công việc, tớ nhận thấy có hai điểm trong bản tường trình của anh chàng McCarthy làm tớ chú ý; tớ cho là điểm đó có lợi cho anh ta, còn cậu thì cho là có hại. Thứ nhất là: Người cha đã kêu "Kô..ê..." trước khi nhìn thấy con trai của mình; thứ hai là: cha anh ta nói tới con chuột trong cơn hấp hối. 

Cậu nên hiểu, người cha nói lắp bắp vài từ, nhưng người con chỉ nghe được có một. Công cuộc khám phá của chúng ta xuất phát từ hai điểm này. Tớ nghĩ những điều chàng thanh niên khai trên đều đúng với sự thật một trăm phần trăm." 

"Tiếng gọi "Kô..ê..." là gì?" 

"Rõ ràng ông ta không gọi con trai. Vì ông nghĩ con ông vẫn ở Bristol. Người con nghe thấy tiếng gọi rất tình cờ. Tiếng "Kô..ê..." để gọi người đã hẹn gặp ông ta. Từ "Kô..ê..." là từ của người Áo, nó chỉ dùng giữa những người Áo với nhau mà thôi. Đó là điều chứng minh xác đáng cho giả thiết rằng, người mà McCarthy hẹn gặp ở hồ Boscombe phải là một người Áo." 

"Nhưng còn chuyện "con chuột cống"?"[6] 

Sherlock Holmes lôi trong túi ra tờ giấy gấp làm tư rồi cẩn thận trải nó ra bàn, "Đây là tấm bản đồ bang Victoria." Anh nói. 

"Tối hôm qua tớ đã đánh điện đến Bristol và nhờ họ gửi cho tấm bản đồ này." Holmes lấy tay che một phần tấm bán đồ "Cậu đọc đi" Anh đề nghị. 

"ARAT." 

"Còn bây giờ?" Anh nhấc tay lên. 

"BALLARAT" 

"Hoàn toàn đúng. Đây chính là từ mà người hấp hối thốt ra, nhưng anh con trai chỉ kịp nghe có hai âm tiết cuối cùng. Nạn nhân cố gượng nói tên kẻ giết người và tên đó là Ballarat." 

"Thật tuyệt diệu!" Tôi thốt lên. 

"Không nghi ngờ gì nữa, vòng vây đã khép kín. Chiếc áo choàng màu xám của tên tội phạm là bằng chứng thứ ba. Nhưng điều chưa biết này đã biến mất, và xuất hiện một người Áo mặc bành tô màu xám nào đấy từ Ballarat tới." 

"Sự thể sẽ ra sao?" 

"Chắc chắn, hắn là người địa phương ở đây; vì bên cạnh hồ ngoài trang ấp ấy ra, không còn gì nữa. Người lạ không đi đến đấy làm gì." 

"Tất nhiên." 

"Sau đó là cuộc khám nghiệm hiện trường của chúng ta. Trong khi xem xét nền đất, tớ đã phát hiện thêm một số chứng cớ mà tớ đã nói cho lão Lestrade nghe tuy không quan trọng lắm. Những chứng cớ này chỉ có liên quan tới việc mô tả hình dáng kẻ phạm tội mà thôi." 

"Nhưng bằng cách nào mà cậu phát hiện được?" 

"Cậu quá quen phương pháp của tớ rồi! Nó dựa trên sự so sánh tất cả dữ kiện không đáng kể." 

"Về tầm vóc của tên sát nhân cậu phán đoán gần đúng dựa nào bước chân, hoặc đôi giày, nhưng cũng có thể dựa trên những dấu vết để lại; phải không?" 

"Đúng, một loại giày không bình thường." 

"Sao cậu biết hắn bị thọt?" 

"Dấu chân phải không được rõ nhừ dấu chân trái. Bàn chân phải dẫm nhẹ hơn. Tại sao? Chỉ vì hắn bị thọt." 

"Còn chuyện hắn thuận tay trái?" 

"Chính cậu đã kinh ngạc với đặc điểm vết thương mà người phẫu thuật mô tả. Nạn nhân bị một cú giáng bất ngờ từ phía sau lưng; nhưng ở bên trái. Ai có thể làm được? Nếu như không thuận tay trái?! Trong lúc hai cha con đang nói chuyện 

với nhau, thì thủ phạm núp sau thân cây. Thậm chí hắn còn hút thuốc. Tớ đã tìm thấy tàn thuốc lá, và nhờ khiếu phân biệt các loại thuốc của mình tớ đã xác định được hắn đã hút loại thuốc của Ấn Độ. Cậu biết đấy, tớ đã nghiên cứu về thuốc lá và có viết một bài báo nói về tro của 140 loại thuốc lá khác nhau, kể cả thuốc điếu cũng như thuốc tẩu. Sau khi phát hiện ra tàn thuốc lá, tớ quan sát xung quanh, và tìm thấy mẩu thuốc còn lại mà hắn đã vứt. Đó là loại thuốc của Ấn Độ, sản xuất tại Rotterdam." 

"Còn cái tẩu?" 

"Tớ nhận thấy mẩu thuốc không bị ngậm, suy ra hắn đã dùng tẩu. Phần cuối của điếu thuốc bị cắt, nhưng nhát cắt không sắc gọn, mà nham nhở, vì thế tớ quả quyết dao của hắn bị cùn." 

"Holmes," Tôi nói "Cậu đã giăng xung quanh tên tội phạm một tấm lưới, hắn không thể chui ra được và cậu sẽ cứu thoát chàng thanh niên vô tội kia. Cậu sẽ tháo chiếc nút thòng lọng khỏi cổ anh ta. Tớ đã hình dung được tất cả những dẫn 

chứng của cậu đã tụ điểm vào ai rồi. Tên của kẻ giết người là..." 

"Ngài John Turner đến." Người hầu phòng báo, sau khi mở cửa phòng chúng tôi và dẫn người khách vào. Thân hình của kẻ vừa vào thật khác thường, dáng đi chậm chậm, khập khiễng; đôi vai buông xuống làm cho ông trông khắc khổ già nua; còn bộ mặt trông gớm ghiếc và thô tục; tấm thân đồ sộ thì toát lên một 

sức mạnh khôn lường của con người kỳ dị ấy. Bộ râu để dài xồm xoàm, mái tóc bạc trắng phủ kín gáy lởm chởm, cặp lông mày rậm đã làm cho ông ta có vẻ kiêu kỳ và mãn nguyện. Mặt ông xám xịt, còn môi và hai cánh mũi thì nhợt nhạt xanh tái. Thoạt nhìn tôi biết ngay ông đã mắc một thứ bệnh kinh niên khó chữa khỏi. 

"Mời ngài ngồi." Holmes đề nghị nhẹ nhàng "Chắc ngài đã nhận được bức thư của tôi?" 

"Vâng, người gác rừng đã mang đến. Ngài muốn gặp tôi ở đây để tránh bớt sự lôi thôi." 

"Tôi nghĩ rằng, sẽ có chuyển biến nếu tôi phát biểu tại phiên tòa." 

"Ngài cần tôi ư?" 

Turner nhìn chằm chằm vào anh bạn của tôi. Trong đôi mắt mệt mỏi của ông chứa đựng nỗi tuyệt vọng, dường như ông đã đoán được câu trả lời cho câu hỏi của mình. 

"Vâng," Holmes nói nhỏ nhẹ, cái nhìn của anh đã thay cho câu trả lời "Vấn đề là như thế. Tôi đã biết hết câu chuyện về ngài McCarthy rồi." 

Ông già dang hai tay ôm lấy mặt. 

"Các ngài hãy làm ơn giúp tôi?" Ông ta kêu lên tuyệt vọng "Tôi sẽ không thể để cho chàng trai kia chết đâu? Tôi sẽ nói hết sự thật trong phiên tòa phúc thẩm.[7]" 

"Rất hân hạnh được nghe." Holmes nói lạnh lùng. 

"Từ lâu tôi muốn phơi bày tất cả, nhưng còn đứa con gái thân yêu của tôi. Chuyện này sẽ làm trái tim nó tan nát mất, nó sẽ đau khổ và sẽ không sống nói khi tôi bị bắt." 

"Có thể không xảy ra chuyện đó đâu." Holmes an ủi. 

"Có thể như vậy sao?" 

"Tôi không phải là kẻ thừa hành chính thức. Cô con gái của ngài cần sự có mặt của tôi, cho nên tôi phải làm mọi việc vì lợi ích của cô ta. Ngài hiểu cho: chàng McCarthy kia cần được tự do ngay bây giờ." 

"Tôi ở gần cửa địa ngục lắm rồi," Ông Turner nói "Tôi bị bệnh đái đường đã lâu. Bác sỹ nói không biết tôi có sống được một tháng nữa hay không. Dẫu sao tôi cũng muốn được chết dưới mái nhà của mình, hơn là phải chết trong tù." 

Holmes đứng dậy, đi đến bàn viết cầm cây bút và tờ giấy: 

"Ngài hãy kể tất cả những gì đã xảy ra," Anh đề nghị "Còn tôi viết lại vắn tắt, ngài sẽ ký vào đó và Watson là người làm chứng. Tôi chỉ công bố lời tự thú của ngài trong trường hợp cần thiết nhất thôi, để cứu tính mạng chàng trai McCarthy. Ngược lại tôi hứa với ngài sẽ không dùng biện pháp ấy." 

"Được," Ông già trả lời "Có lẽ tôi không còn sống đến phiên tòa phúc thẩm[8] đâu. Cho nên điều kiện của ngài không làm cho tôi lo lắng. Tôi chỉ muốn đỡ cho Alice khỏi đòn khủng khiếp. Tôi sẽ kể cho ngài nghe tất cả... việc kéo dài thì lâu nhưng tôi sẽ kể vắn tắt: 

.. Ngài chưa được biết tay McCarthy đã khuất đâu. Đó là một con quỷ hiện hình, tôi thề với ngài hắn đúng như thế. Cầu chúa hãy cứu thoát ngài khỏi bàn tay thép dơ bẩn của hắn! Hai chục năm cuối cùng của đời tôi, tôi bị hắn kìm kẹp và chi phối. Hắn đã đầu độc toàn bộ cuộc đời của tôi. Trước hết tôi sẽ kể vì sao tôi lại rơi vào nanh vuốt kìm kẹp của hắn. 

Câu chuyện này xảy ra vào đầu những năm 60[9] trong thời kỳ tìm vàng. Thời đó tôi còn là một cậu bé thiếu suy nghĩ, nóng nảy sẵn sàng lao vào bất cứ việc gì. Tôi lọt vào băng của những người xấu và bắt đầu cuộc đời rượu chè be bét. Tôi sống một cuộc sống lang thang nay đây mai đó như một hiệp khách giang hồ. Bọn tôi có sáu người, chúng tôi đã trải qua cuộc đời hoang dã, phóng đãng, ngày này qua tháng khác chúng tôi đột nhập vào các bến xe, nhà ga, chặn đứng từng đoàn xe ở dọc đường để cướp bóc. Lúc ấy người ta gọi tôi là Black Jack ở Ballarat. Bạn bè ngày ấy của tôi cho đến bây giờ vẫn nhớ tôi với cái tên Ballarat. 

Hôm đó có một đoàn hộ tống áp tải vàng từ Ballarat đến Melbourne. Chúng tôi đã tổ chức cuộc tấn công, có sáu người áp tải canh giữ xe vàng. Chúng tôi cũng có sáu người. Thế là xảy ra một trận cướp bóc, giết người thật tàn ác và quá khủng khiếp. 

Loạt súng đầu tiên chúng tôi hạ thủ. Nhưng khi thu chiến lợi phẩm thì chúng tôi còn có ba người. Tôi chĩa súng vào thái dương tên xà ích - Người ấy là McCarthy. Lúc ấy tôi giết hắn luôn thì hay quá! Nhưng tôi đã thương hại, mặc dù tôi nhận 

thấy hắn nhìn tôi bằng cặp mắt ti hí gian ác, dường như muốn ghi nhớ bộ mặt của tôi. Chúng tôi đã cướp được một số vàng đáng kể, trở thành những người giầu có và hồi hương về Anh quốc, không bị một ai nghi ngờ. Ở đây tôi đã vĩnh viễn từ bỏ 

những người bạn xưa của mình để bắt đầu cuộc đời no đủ và yên ấm. 

Tôi mua cơ ngơi này và cố gắng bằng những đồng tiền của mình làm những công việc từ thiện nhỏ để chuộc lại quá khứ đen tối của mình. Trong thời gian đó tôi lấy vợ, cô ta chết trong lúc còn quá trẻ và đã để lại cho tôi con bé Alice dịu dàng nết 

na. Thậm chí khi Alice còn bé bỏng, bàn tay múp míp nhỏ xíu của nó đã giữ chân tôi trên con đường làm ăn lương thiện hơn bất cứ cái gì trên thế giới này. Tôi đã vĩnh viễn chôn vùi quá khứ của mình. Mọi việc đều trôi chảy, tốt đẹp khi tôi chưa bị rơi vào tay của McCarthy. 

Một lần tôi ra thành phố để giải quyết công chuyện tiền nong và bất ngờ tôi gặp McCarthy ở góc phố Regent. Trên người hắn không có cả áo bành tô, không giày dép gì hết. 

"Thế là chúng ta lại gặp nhau, Jack." hắn nói và chìa tay nắm lấy tay tôi "Từ nay chúng ta sẽ không phải xa nhau nữa. Tớ đi không phải một mình mà mang theo cả thằng con, cậu cần phải quan tâm giúp đỡ tớ. Ngược lại cậu biết đấy: Nước Anh là một nước tuyệt vời, ở đấy luật pháp mạnh lắm. Ngoài ra khắp nơi còn có đội tuần tra cảnh sát". 

Thế là hắn cùng với thằng con trai đi đến miền Tây sinh sống, và tôi không thể nào thoát khỏi con người đáng sợ ấy được. Bọn họ sống trên mảnh đất của tôi không phải mất tiền. Tôi không có phút giây nào thanh thản, không được nghỉ ngơi và luôn luôn nơm nớp lo sợ cái quá khứ của mình bị vạch ra. 

Nơi nào tôi đến tôi cũng gặp bộ mặt đắc chí và ranh ma của hắn. Khi đứa con gái của tôi trưởng thành thì nỗi lo sợ của tôi tăng thêm, bởi vì hắn biết rằng: Đối với tôi điều đáng sợ nhất, còn sợ hơn cảnh sát là con gái tôi biết quá khứ của tôi. Không có cái gì mà hắn không muốn, không đòi hỏi, hắn bắt tôi cấp đất, cấp nhà, cấp tiền, đó mới là yêu cầu nhỏ nhất, trong khi chưa nói đến những đòi hỏi khác. Hắn đòi luôn cả Alice cho con trai hắn. Mọi người đều biết con bệnh hiểm nghèo của tôi, hắn dự tính khả năng tuyệt diệu là thằng con của hắn sẽ chiếm toàn bộ 

gia sản của tôi. Nhưng lần này tôi cương quyết, tôi không thể cho phép cái giống đáng nguyền rủa ấy kết hôn với con gái tôi cho dù ở trong ý nghĩ. 

Tôi và hắn hẹn gặp nhau ở khoảng giữa hai nhà sát bờ hồ để trao đổi mọi chuyện. Nhưng khi tới chỗ hẹn tôi nhìn thấy hắn đang nói chuyện với con trai. Tôi đứng đợi sau gốc cây và lấy thuốc ra hút, chờ hắn. Trong khi nghe những lời hắn nói với con trai, trong tôi trào lên sự tức giận, máu sôi lên tôi không thể chịu đựng được nữa. Hắn ép buộc thằng con phải cưới con gái tôi làm vợ, tuyệt nhiên không hề đếm xỉa đến con gái tôi có chấp thuận hay không, cứ như con gái tôi là đứa con gái làm tiền. 

Tôi phát điên lên khi nghĩ là tất cả những gì tôi yêu quý sẽ phải lọt vào tay con người ấy. Tôi không thể chặt đứt gông cùm trói buộc hay sao? Tôi sắp chết vì tuyệt vọng, mặc dù lý trí tôi vẫn rất minh mẫn và tay chân còn khỏe mạnh, tôi hiểu rằng, cuộc đời tôi như thêm là hết. Nhưng còn tên tuổi tôi, còn đứa con gái cưng của tôi? Tôi sẽ cứu vớt được cả hai, nếu như tôi buộc lão McCarthy giữ mồm giữ miệng... Tôi đã giết nó, ngài Holmes ạ... Tôi giết nó, lần này thì tôi không tha. Tôi là kẻ trọng tội nhưng chẳng lẽ cuộc đời đầy rẫy bất công, đau thương này không thể chuộc được lỗi lầm hay sao? Tôi đã phạm tội nhưng cứ nghĩ con gái tôi bị rơi vào cạm bẫy là tôi không thể chịu được. Tôi giết hắn, lương tâm không hề cắn rứt tôi đã vứt bỏ một tên độc địa kinh tởm nhất. Thằng con trai chạy lại, tôi 

kịp trốn vào rừng, nhưng buộc phải quay lại để nhặt chiếc áo bành tô đánh rơi... Đó là sự thật hoàn toàn, thưa các ngài, tất cả những gì đã xảy ra chỉ có thế." 

"Tôi không kết tội ngài" Holmes thủ thỉ, trong khi ông già ký vào tờ khai "Tôi thiết nghĩ chúng tôi không phải đưa chuyện này ra tòa." 

"Tôi cầu mong như thế. Thưa ngài! Ngài sẽ giải quyết như thế nào?" 

"Tình trạng sức khỏe của ngài không quan trọng. Ngài biết đấy, sắp tới ngày phải có mặt tại phiên tòa. Tôi sẽ giữ kín lời thú nhận của ngài. Chỉ trong trường hợp McCarthy bị kết tội tôi mới buộc lòng phải sử dụng. Nếu anh ta trắng án, dù ngài còn sống hay đã chết thì sẽ không một ai biết điều bí mật của ngài. Nó chỉ ở trong chúng tôi và ngài." 

"Xin tạm biệt!" Ông già trịnh trọng nói "Khi nào đến lúc lâm chung, tôi sẽ nhẹ nhõm với ý nghĩ là ngài đã xoa dịu tâm hồn tôi." 

Lảo đảo đứng lên, tấm thân đồ sộ rung rung, ông già chậm chạp nặng nề bước ra khỏi phòng, chân đi cà nhắc. 

"Chúng ta thật bất hạnh." Holmes thốt lên sau một hồi im lặng khá lâu "Vì sao số phận cứ đùa giỡn với tạo hóa lại không giúp đỡ những con người khốn khổ này?" 

Phiên tòa phúc thẩm đã xử trắng án cậu thanh niên James McCarthy nhờ những dẫn cứ, biện luận hùng hồn của Holmes. Ngài Turner già yếu sống thêm được bảy tháng nữa kể từ khi đến gặp chúng tôi. Hiện nay ông ta đã khuất. Chàng và Alice có thể sống yên vui hạnh phúc mà không hề biết gì về những đám mây ảm đạm của bầu trời dĩ vãng xa xôi.

Nhà quý tộc độc thân

Câu chuyện xảy ra trước ngày cưới của tôi vài tuần, vào những ngày tôi còn ở chung với Holmes tại phố Barker. Một hôm, sau lần đi dạo buổi chiều trở về nhà, anh thấy một lá thư trên bàn. Hôm ấy tôi ở lì trong phòng suốt ngày vì trời bổng đổ mưa đột ngột với những cơn gió lớn. Ngồi thu mình trên ghế bành, với những đống nhật báo vây quanh, tôi đọc miết tờ này sang tờ khác. Đọc mãi cũng chán, tôi bèn ném chúng sang một bên và nằm ườn ra, quan sát cái phong bì nằm trên bàn, và tự hỏi không biết người đàn ông quý tộc gửi thư cho Holmes là ai? 

- Đây là một lá thư đúng điệu - Tôi nhận xét khi anh bước vào phòng - Những lá thư buổi sáng của anh thường là của người bán cá hay một nhân viên thuế quan. 

- Vâng, thư từ giao dịch của tôi rất là đa dạng và lá thư nào có vẻ khiêm nhường hơn, thường là thú vị hơn. Lá thư này coi bộ là một lá thư mời xã giao mà mình không mong đợi, đi dự thì cũng khổ mà không đi cũng khổ. 

Anh xé thư và nhìn vào tờ giấy. 

- Ồ, coi vậy nó cũng hứa hẹn một vụ hấp dẫn đấy. 

- Không phải thư mời xã giao chứ? 

- Thuần tuý nghề nghiệp. 

- Của một thân chủ quý tộc? 

- Một trong những nhà quý tộc được trọng vọng tại nước Anh. 

- Tôi mừng cho anh đấy. 

- Watson ạ, cái địa vị của ông ta không làm cho tôi quan tâm bằng cái sự việc của ông ta. Gần đây anh chịu khó đọc báo lắm, đúng không? 

- Hình như thế, tôi chẳng có việc gì để làm cả. 

- Tôi chỉ đọc những tin tức hình sự và mục rao vặt. Mục sau thì luôn luôn hữu ích. Nhưng nếu anh theo dõi sát những biến cố gần đây, hẳn là anh đã đọc các bài viết về ngài Simon và đám cưới của ông ta? 

- Vâng, với sự quan tâm sâu sắc! 

- Tốt! Lá thư này là của ngài Simon. Tôi sẽ đọc cho anh nghe và đổi lại, anh phải lật những tờ báo đó và cho tôi biết những gì có liên quan đến vụ này. 

"Ông Sherlock Holmes thân mến, 

Huân tước Backwater bảo tôi rằng, tôi có thể tin cậy vào sự xét đoán, sự kín đáo và sự tế nhị của ông. Bởi vậy, tôi đã quyết tâm thỉnh ý ông về biến cố đau lòng có dính líu đến hôn lễ của tôi. Ông Lestrade đang bắt tay vào vấn đề này, nhưng ông ta nói ông ta không phản đối gì, nếu có sự cộng tác của ông. Tôi sẽ đến chỗ ông vào bốn giờ chiều, nếu ông có một cái hẹn nào vào thời điểm ấy, mong ông hãy hoãn lại, vì đây là một vấn đề vô cùng quan trọng. 

Kính chào ông! 

Robert St.Simon" 

Thư được viết từ lâu đài Grosvenor bằng bút lông ngỗng, và ngài quý tộc đã không may bị giây một tí mực ở phía ngoài ngón tay phải nhỏ bé của ông ta - Holmes nhận xét, khi anh xếp thư lại. 

- Ông ta hẹn bốn giờ chiều, mà bây giờ đã ba giờ. Chỉ một tiếng đồng hồ nữa, ông ta sẽ đến đây. 

- Vậy thì, tôi còn một chút thời gian để nắm một số sự kiện về vụ này. Nhờ anh giở những tờ báo ấy ra và sắp xếp những mẫu tin theo thứ tự thời gian, trong khi đó, tôi sẽ nhìn xem thân chủ của tôi là ai. 

Anh nhấc ra một quyển sách có bìa đỏ từ một dãy sách tham khảo bên cạnh lò sưởi. 

- Đây rồi, - Anh nói, ngồi xuống và đặt sách trên đầu gối - Robert Walsingham de Vere St. Simon, con trai thứ hai của Quận công Balmoral. Hừm! sinh năm 1846, bốn mươi bốn tuổi. Đã giữ chức Thứ trưởng tại thuộc địa trong chính quyền cũ. Vị Quận công Balmoral đã từng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao... Hừ! Chả có gì bổ ích lắm ở đây. Anh Watson, chắc là tôi phải quanh sang anh, để tìm thấy một cái gì vững chải hơn, hãy cho tôi những tin tức mà anh đã chọn từ trong các tờ báo. 

- Đây là mẫu tin đầu tiên. Nó nằm trong mục "việc riêng" của tờ Bưu Điện Buổi Sáng, phát hành cách đây vài tuần. 

"Một cuộc hôn nhân đã được sắp xếp, và sẽ - nếu lời đồn đại là đúng sự thật - được cử hành rất nhanh chóng giữa ngài Robert St. Simon, con trai thứ hai của Quận công Balmoral và cô Hatty Doran, con gái độc nhất của ông Aloysius Doran. Esq., thành phố San Francisco, tiểu bang California, nước Mỹ". 

- Rất súc tích và đi thẳng vào vấn đề - Holmes nhận xét, duỗi đôi chân khẳng khiu về phía lò sưởi. 

- Có một đoạn nói rõ hơn về chuyện này trên một tờ báo của tần lớp thượng lưu: "Chẳng bao lâu nữa sẽ kéo một hồi còi báo động trên thị trường hôn nhân, bởi vì sự tự do hôn nhân, bởi vì sự tự do kinh doanh hiện nay cho thấy"hàng nội hóa" của chúng ta đã thua kém nặng nề . Dần dần, sự quản lý của dòng họ quý tộc của nước Anh đang chuyển vào tay "những cô em họ" chúng ta ở bên kia bờ Đại Tây Dương. Trong tuần qua, một dấu cộng quan trọng vừa mới được thêm vào danh sách những "báu vật" vừa mới bị mang đi bởi "những kẻ xâm lăng xinh đẹp" này. Ngài Simon, người mà hơn 20 năm qua đã chứng tỏ là ở ngoài tầm cây cung của vị thần ái tình bé nhỏ, bây giờ đã báo tin ông ta sắp kết hôn với cô Doran, con gái của nhà triệu phú bang California. Của hồi môn của cô ta lên tới hàng triệu dollars, và trong tương lai còn hứa hẹn nhiều hơn nữa. Bởi vì, trong những năm qua, Quận công Balmoral đã phải bán đi những bức tranh của ông, bởi vì ngài Simon không có tài sản riêng nào, ngoại trừ một ít bất động sản". 

- Có gì khác nữa không? - Holmes hỏi. 

- Vâng, còn nhiều. Có một đoạn ngắn trên tờ Bưu Điện Buổi Sáng nói rằng đây sẽ là một cuộc hôn nhân tuyệt vời lặng lẽ, sẽ được cử hành tại nhà thờ Saint - George, quảng trường Hanover, chỉ có vài bạn hữu thân tình được mời, và rồi họ sẽ trở về biệt thự Lancaster Gate. Hai ngày sau đó, có một lời báo tin vắn tắt, rằng hôn lễ đã cử hành và rằng tuần trăng mật sẽ được trải qua tại nhà của huân tước Backwater, gần Petersfiled. Đây là những tin vắn tắt xuất hiện trước khi cô dâu biến mất. 

- Trước cái gì? - Holmes hỏi, giật mình. 

- Cô dâu mất tích. 

- Cô ta biến mất từ bao giờ? 

- Tại buổi điểm tâm trong ngày cưới. 

- Quả thật, nó hấp dẫn hơn ta tưởng. Đúng y như kịch. 

- Vâng, nó vẻ hơi khác thường. 

- Hãy cho tôi biết những chi tiết. 

- Những chi tiết ấy rất thiếu sót. 

- Có lẽ thế. Nhưng chúng ta có thể làm cho chúng bớt thiếu sót hơn. 

- Có một bài trên tờ báo buổi sáng, ra ngày hôm qua. Đề mục: "Biến cố độc đáo tại một đám cưới thời thượng." 

"Gia đình ngài Simon đã sửng sốt trươc những diễn biến liên quan đến đám cưới của ông ta. Hôn lễ được cử hành tại nhà thờ Saint George, quảng trường Hanover, rất lặng lẽ. Không có ai tham dự ngoài bố của cô dâu, bố mẹ chú rể, huân tước Backwater, huân tước Eustace, tiểu thư Clara St. Simon (em trai và em gái chú rể), phu nhân Alicia Whittington. Sau đó, những người dự lễ đến nhà ông Doran Aloysius Doran ở Lancaster Gate để dự bữa tiệc điểm tâm. Dường như có một người đàn bà đến quấy rối. Bà ta cố ra sức xô đẩy vào nhà, phân bua rằng bà cần nói chuyện với chú rể. Giằng co một hồi lâu,người quản gia và người hầu mới tống khứ được bà ta. May mắn thay, trước đó cô dâu đã vào nhà, và đã ngồi dùng điểm tâm với mọi người khác. Nhưng bỗng nhiên cô dâu nói rằng cô thấy khó ở và lùi về phòng mình. Lâu quá không thấy cô ta ra, mọi người bắt đầu bàn tán. Cha cô vội vàng đi tìm và được người tớ gái cho biết cô vừa mới lên phòng, thì liền chộp áo choàng và mũ bon-nê, rồi vội vã xuống cầu thang. Một trong những người hầu gái nói rằng, ông ta đã thấy một người phụ nữ từ trong nhà đi ra, ăn mặc y như thế. Nhưng ông ta lại không dám chắc chắn đó là cô chủ, vì tin rằng cô đang dùng bữa với mọi người. Khi thấy đúng là con gái mình đã biến mất, ông Doran cùng chú rể đi báo với cảnh sát, các cuộc điều tra tiến hành ráo riết. Tuy vậy, cho đến gần hết đêm qua vẫn chưa tìm ra dấu vết của cô dâu. Có tin đồn về chuyện phá đám trong vụ này. Người ta nói, cảnh sát đã bắt giữ người đàn bà gây rối, vì họ tin rằng do ghen tuông hoặc do một động cơ nào đó, bà ta có thế dính líu vào sự mất tích của cô dâu". 

- Tất cả chỉ có thế? 

- Có thêm một mẩu tin vắn trên một tờ báo buổi sáng khác. Nó cũng có một đôi điều đáng chú ý. 

- Đó là...? 

- Cô Flora Millar, người đàn bà gây rối, đã bị bắt. Hình như xưa kia cô ta là một vũ nữ đã quen với chú rể cách đây vài năm. Không có chi tiết đặc biệt nào khác. 

- Tôi sẽ không bỏ qua trường hợp này. Nhưng sẽ có chuông cửa reo đấy. Anh Watson, đừng bỏ đi đấy nhé. 

- Thưa, có ngài Simon đến - Chú tiểu đồng của chúng tôi báo tin và mở tung cửa lớn. 

Một người đàn ông bước vào, khuôn mặt khá điển trai của một người có học. Mũi cao, nét mặt xanh xao, có một chút hờn dỗi. Đôi mắt mở to, nhìn không chớp. Phong thái anh ta nhanh nhẹn, thế nhưng dáng vẻ bên ngoài lại gây cho ta ấn tượng về tuổi già. Vì khi bước đi , ông hơi gù về phía trước và đầu gối hơi cong. Khi ông ta giở mũ, ta có thể thấy mớ tóc hoa râm ở phía mép ngoài, và hơi hói ở trên đỉnh đầu. Y phục được chăm sóc quá kỹ lưỡng đến mức đỏm dáng: cổ áo cao, áo choàng đen, áo gi-lê trắng, bao tay vàng, giày da hảo hạng và ghệt có màu nhạt. 

- Xin chào ngài -Holmes nói, đứng lên cúi chào - Mời ngài ngồi. Đây là bạn và là người cộng sự của tôi, bác sĩ Watson. 

- Ông Holmes ạ. Tôi đã bị đánh vào chỗ đau nhất. Tôi hiểu rằng ông đã xử lý nhiều vụ tế nhị thuộc loại này, chúng tôi cho rằng khó có một vụ nào xảy ra trong một giai cấp như giai cấp của tôi. 

- Mới đây một vị vua có vấn đề thuộc loại đó. 

-Ồ, thật thế ư? Vua nào thế? 

- Vua xứ Scandinavia. 

- Ồ, ông ta mất vợ rồi chứ? 

- Xin ngài hiểu cho. Tôi giữ bí mật những sự việc của những thân chủ khác, cũng như tôi sẽ làm như thế, đối với việc của ngài. 

- Đúng lắm! Ông bỏ lỗi cho nhé. 

- Không có gì... Tôi đã tìm hiểu những gì có trong báo chí. Chưa biết thêm gì hơn. Tôi có thể xem như bài báo này viết đúng sự thật. 

Thân chủ của tôi liếc nhìn qua nó. 

- Vâng, đúng như bài báo đã viết. 

- Nhưng cần phải bổ sung nhiều, trước khi có thể xác lập một giả thiết. 

- Xin ông cứ việc hỏi. 

- Ngài gặp cô Hatty Doran lần đầu tiên vào lúc nào ? 

- Tại San Francisco, cách đây một năm. 

- Ngài du lịch sang nước Mỹ? 

- Vâng. 

- Lúc ấy, ngài đã có ý định kết hôn chưa? 

- Chưa. 

- Nhưng ông bà đối xử thân mật với nhau? 

- Tôi thích được gần nàng, và nàng có thể thấy như thế. 

- Cha cô ấy rất giàu? 

- Có thể nói ông ta là người giàu nhất. 

- Ông ta làm giàu bằng cách nào? 

- Khai thác mỏ vàng. Một vài năm trước đây, ông ta chưa có gì cả. Rồi ông ta tìm thấy mỏ vàng, đầu tư vào nó và càng ngày càng phất lên. 

- Hiện giờ, ngài có ấn tượng gì về tính cách của người phụ nữ trẻ đó? 

Nhà quý tộc đu đưa cặp kính và nhìn chằm chằm vào lò sưởi. 

- Trước khi cha nàng trở nên giàu có, nàng đã hai mươi tuổi. Trong thời gian đó, nàng chạy rông tự do trong các trại mỏ, lang thang qua rừng, qua núi; nàng được giáo dục bởi thiên nhiên nhiều hơn là bởi trường học. Nàng là con người mà tại Anh, chúng tôi gọi là tomboy. Tâm hồn nàng như núi lửa. Nàng quyết định rất nhanh chóng và không sợ hãi trong việc thực hiện những quyết định của mình. Mặt khác, hẳn là tôi đã không trao cho nàng cái tên mà tôi có vinh dự được mang - Ông ta hắng giọng một cách đĩnh đạc - nếu tôi không cho rắng, nàng là một phụ nữ quý tộc, rằng nàng có khả năng tự quên mình một cách dũng cảm, và rằng bất cứ cái gì đê mạt thì không phù hợp với bản thân của nàng. 

- Ông có ảnh của cô ấy chứ? 

- Có. 

Ông ta mở một cái hộp hình trái tim và cho chúng tôi xem khuôn mặt chụp thẳng của một người phụ nữ rất xinh đẹp. Holmes nhìn chăm chú một hồi lâu. Rồi anh đóng nắp hộp và trao lại cho nhà quý tộc. 

- Rồi cô ấy đến Luân Đôn, và hai người nối lại duyên tình với nhau? 

- Vâng, vừa rồi cha nàng đưa nàng đến nghỉ mùa đông tại Luân Đôn. Tôi gặp nàng một đôi lần, đính hôn với nàng và đã làm lễ cưới. Theo tôi biết, cô ấy có một món tiền hồi môn đáng kể. 

- Một món tiền khá. Nhưng không nhiều hơn số tiền hồi môn bình thường trong gia đình tôi. 

- Lễ cưới đã xong, vậy thì món hồi môn đã đến tay cô ấy rồi chứ? 

- Tôi thật sự không hỏi han gì đến chuyện ấy cả. 

- Đương nhiên như thế. Ông có gặp cô Doran vào hôm trước đám cưới không? 

- Có. 

- Cô ấy có phấn khởi không? 

- Chưa bao giờ nàng vui hơn. 

- Đó là một điều đáng chú ý! Thế còn vào buổi sáng trong ngày cưới. 

- Nàng cũng tươi như hoa. 

- Ngài thấy có gì thay đổi nơi cô ấy không? 

- Ồ, lúc đó tôi thấy nàng gắt gỏng. Song chuyện ấy quá nhỏ, có lẽ nó không ăn nhập gì tới vụ mất tích này. 

- Dù thế, ngài cũng nên cho chúng tôi biết. 

- Ồ, đấy là chuyện trẻ con thôi mà. Nàng đánh rơi bó hoa khi chúng tôi đi về phía phòng cưới. Lúc đó nàng đi qua cái ghế dài ở phía trước, và bó hoa rơi vào trong cái ghế dài ấy. Người đàn ông ngồi trên ghế trao nó lại cho nàng, và trông nó vẫn bình thường, không bị hư hỏng gì cả. Thế nhưng, sau đó khi tôi nói chuyện ấy với nàng thì nàng lại xẵng giọng, có vẻ bực tức vô lý về cái chuyện nhỏ nhặt đó. 

- Thật ư? Ngài nói là lúc ấy có vài người đi lễ ở đó? 

-Vâng. Không thể mời họ ra, khi nhà thờ mở cửa. 

- Người đàn ông này không phải là người bạn của vợ ngài chứ? 

- Không. Trông anh ta cũng bình thường. Tôi chả có để ý gì đến cái bề ngoài của anh ta cả. Nhưng thưa ông, chúng ta đã đi xa vấn đề rồi. 

- Vậy là từ nhà thờ trở về, phu nhân kém vui hơn. Cô ấy đã làm gì khi bước vào nhà cha mình? 

- Tôi thấy nàng nói chuyện với cô tớ gái. 

- Cô ta tên gì. 

- Alice. Cô ta là người Mỹ và đến từ California cùng với nàng. 

- Một cô tớ gái thân tín? 

- Còn hơn thế nữa. 

- Cô ấy nói chuyện với Alice bao lâu? 

- Một vài phút. Tôi không để ý. 

- Ngài không nghe họ nói gì ư? 

- Nàng nói một cái gì đó về sự "tiếm đoạt"[1]. Nàng có thoái quen dùng tiếng lóng theo kiểu đó. Tôi không hiểu mô tê gì cả. 

- Sau khi nói chuyện với cô tớ gái, phu nhân làm gì? 

- Nàng bước vào phòng điểm tâm. 

- Cùng với ngài. 

- Không. Một mình. Rồi, sau khi chúng tôi đã ngồi xuống trong vài phút, nàng vội vã đứng dậy, nói lí nhí một điều gì đó, rồi ra khỏi phòng. Và không trở lại nữa. 

- Nhưng cô tớ gái khai rằng vợ ngài vào phòng, khoác một áo choàng rộng lên cái áo cô dâu, đội mũ rồi đi ra ngoài. 

- Đúng như thế. Và sau đó, người ta thấy nàng đi vào công viên Hyde cùng với cô Flora Millar, người đã làm náo loạn buổi sáng hôm đó. 

- Tôi muốn biết thêm một vài điều cụ thể về người đàn bà này, và mối quan hệ giữa ngài và cô ta. 

Nhà quý tộc nhún vai và nhướn mày lên: 

- Tôi có quan hệ thân mật một thời gian với người vũ nữ này. Nhưng tính tình cô ta cực kỳ nóng nảy. Cô ta đã viết cho tôi những là thư khủng khiếp, khi nghe tin tôi sắp lấy vợ. Thật tình mà nói, sở dĩ hôn lễ phải được cử hành lặng lẽ như thế là vì tôi sợ sẽ có một vụ gây rối trong nhà thờ. 

- Phu nhân có nghe thấy việc này không? 

- Không. 

- Và sau đó, người ta thấy cô ấy đi với người đàn bà này? 

- Vâng. Đó là điều mà cảnh sát xem như là một chi tiết quan trọng. Người ta nghĩ rằng Flora đã nhử vợ tôi ra, và giăng cho nàng một cái bẫy. 

- Vâng, có thể như vậy. 

- Ông cũng nghe như thế ư? 

- Tôi không nói chắc chắn là thế. Nhưng chính ngài không nghĩ là có thể ư? 

- Tôi không nghĩ là Flora làm đau một con ruồi. 

- Nhưng sự ghen tuông sẽ làm biến đổi tính cách con người. Vậy, theo ngài, ngài nghĩ thế nào? 

- Theo tôi, nàng đã bị chấn động tâm lý, nên đã gây ra một vài rối loạn thần kinh cho vợ tôi. 

- Tóm lại, cô ấy đã bất thần trở nên loạn trí? 

- Ồ, thực thế. 

- Thưa ngài, bây giờ tôi gần đã có tất cả những dữ kiện mà tôi cần. Xin hỏi thêm một câu cuối cùng: Ngài có ngồi ở bàn điểm tâm, để có thể nhìn ra ngoài cửa sổ không? 

- Chúng tôi có thể nhìn thấy phía bên kia đường và công viên. 

- Đúng y như thế. Vậy thì, bây giờ ngài có thể ra về. Tôi sẽ liên hệ với ngài sau. 

- Mong ông giải quyết được vấn đề. 

- Tôi đã giải quyết xong. 

- Vậy thì vợ tôi đang ở đâu? 

- Tôi nói, là tôi đã giải quyết xong. 

- Vậy thì tôi đang ở đâu? 

- Tôi sẽ nhanh chóng nói cho ngài biết. 

Người đàn ông lắc đầu: 

- Có lẽ, việc ấy phải đòi hỏi những đầu óc khôn ngoan hơn ông và tôi - Ông ta nói, rồi cúi đầu chào kiểu cách, bước ra khỏi phòng. 

- Ông ấy đã có lòng tốt khi đặt cái đầu tôi ngang hàng với cái đầu của ông ta - Holmes cười nói - Ta phải uống một ly whisky pha soda và hút một điếu xì gà sau cuộc "thẩm vấn" như thế này. Tôi đã có câu kết luận về vụ này trước khi thân chủ của chúng ta bước vào phòng. 

- Thật thế ư? 

- Tất cả mọi sự xét của tôi chẳng qua là để kiểm tra lại cho chắc chắn mà thôi. 

- Tôi cũng đã nghe tất cả những gì anh đã nghe. Nhưng tại sao tôi lại không phát hiện ra điều gì nhỉ? 

- Anh đã nghe, nhưng anh ta không biết nhiều trường hợp tương tự như thế đã xảy ra ở nơi này, nơi kia. Ồ, tay Lestrade đang đến kìa! Anh sẽ thấy một con lật đật hảo hạng có những điếu xì gà trong hộp. 

Người thám tử nhà nước đeo cà vạt trông như một thuỷ thủ, cầm một cái túi vải. Với một lời chào ngắn ngủi, ông ta ngồi xuống và đốt điếu thuốc xì gà đã được trao cho ông. Holmes nhấp nháy mắt hỏi: 

- Có chuyện gì thế? Nom ông có vẻ bất mãn? 

- Tôi chưa hài lòng. Đó là cái vụ án liên hệ đến ngài Simon. 

- Thật sư? Ông làm tôi kinh ngạc đấy. 

- Chưa bao giờ có một vụ nào phức tạp như thế! Mọi đầu mối đều đã tuột khỏi tay tôi. Tôi đã làm việc về vụ án đó suốt cả ngày. 

-Và hình như nó làm cho ông đổ nhiều mồ hôi thì phải - Holmes nói, đặt tay lên vai ông. 

- Vâng, tôi đã lê lết cả ngày trên đại lộ Serpentine. 

- Để làm gì vậy? 

- Để tìm xác của phu nhân Simon. 

Sherlock Holmes tựa mình ra sau và cười ha hả: 

- Ông có lê lết tại cái bể nước trên quảng trường Trafalgar không? 

- Ông muốn nói gì? 

- Bởi vì, biết đâu ông lại chẳng tìm thấy xác phu nhân ở đó? 

Lestrade bắn một tia nhìn giận dữ vào bạn tôi. 

- Ông làm như ông đã biết hết mọi chuyện về vụ này. 

- Vừa mới nghe các sự kiện, là tôi đã biết hết rồi. 

- Vậy là đại lộ Serpentine không đóng vai trò nào trong vụ này ư? 

- Không. 

- Vậy tại sao tôi lại tìm thấy cái này ở đó? 

Ông ta mở cái túi vải và xổ tung ra trên sàn một chiếc áo cưới bằng lụa, một đôi giày xa tanh trắng, mộ vòng hoa cô dâu, một tấm mạng che mặt. Tất cả đều đẫm nước. Ông đặt chiếc áo cưới lên trên đóng quần áo. 

- Đấy, có một vấn đề khó khăn để ông giải quyết, thưa ông Sherlock Holmes! 

- Ồ, quả thế! - Holmes nói, thổi vào không khí những vòng tròn khói thuốc - Ông đã đưa chúng tôi về từ đại lộ Serpentine đấy ư? 

- Không. Chúng tôi lềnh bềnh gần bờ được một người giữ công viên phát hiện. Và theo tôi, nếu y phục ở đó thì cái xác chắc cũng gần đâu đó thôi. 

- Bằng một lập luận thông minh kiểu đó, thì xác mọi người có thể tìm thấy gần chiếc tủ áo của họ. Xin làm ơn cho tôi biết, qua những thứ này, ông gì vọng đạt tới cái gì? 

- Đạt tới một chứng cứ nào đó dính líu đến cô Flora Millar trong vụ mất tích. 

- Ông sẽ thấy khó khăn đấy. 

- Holmes ạ, chỉ trong hai phút mà ông đã phạm tới hai sai lầm. Cài áo choàng này thực sự có dính líu đến cô Flora Millar - Lestrade nói, giọng cay đắng. 

- Dính líu như thế nào? 

- Trên cái áo có một cái túi. Trong cái túi có một cái ví nhỏ. Trong ví là một mảnh giấy. Xem đây! - Ông ta đặt mạnh nó xuống bàn trước mặt Holmes, rồi đọc lớn: - "Tôi sẽ gặp cô khi tất cả đã sẵn sàng. Hãy đến ngay F.H.M."[2]. Giả thiết của tôi, là phu nhân Simon đã bị nhử bởi cô Flora Millar và cô ta phải chịu trách nhiệm về sự mất tích của cô dâu. Mảnh giấy này, có chữ ký của cô ta, chắc chắn đã nhét vào tay của cô dâu ở cửa lớn, và nó đã lôi cuốn cô dâu vào trong tầm hành động của họ. 

- Tốt lắm, ông bạn thân mến - Holmes cười nói - Quả thật là ông rất thông minh. Cho tôi xem tí nào? 

Anh lơ đãng cầm mảnh giấy, nhưng bỗng nhiên anh chú ý thật sự, và khẽ kêu lên một tiếng kêu thoả mãn. 

- Đây quả thật sự là một điều quan trọng. 

- Hà! Ông cũng thấy thế ư? 

- Cực kỳ quan trọng. Chúc mừng ông. 

Lestrade nhỏm dậy, ra vẻ đắc chí và cúi đầu xuống để nhìn. 

- Ông xem nhầm mặt rồi! - Ông ta hét lên. 

- Trái lại, đây mới đúng mặt của nó. 

- Đúng mặt? Ông điên rồi ư? Những dòng chữ viết bằng bút chì bên đây này. 

- Và mặt này có vẻ như là một cái hóa đơn khách sạn, khiến cho tôi quan tâm sâu sắc. 

- Tôi đã xem rồi. Không có gì trong đó cả: "Ngày 4 tháng 10, Phòng: 8 shilling; Điểm tâm: 2 shilling 6 pence; Cocktail: 1 shilling; Bữa trưa: 2 shilling 5 pence; Rượu sherry: 8 pence". Tôi không thấy có gì trong đó cả. 

- Rất có thể là không. Mặc dầu vậy, nó cũng rất quan trọng. Còn về những dòng chữ, chúng rất quan trọng, hay ít ra là những chữ đầu viết tắt. Vậy, xin chúc mừng ông một lần nữa. 

- Tôi đã phí mất quá nhiều thời giờ rồi - Lestrade nói, đứng lên - Tôi tin tưởng vào những giờ lao động khó nhọc, chứ không phải ngồi bên cạnh lò sưởi để dệt nên những lý thuyết đẹp đẽ! Chào nhé, ông Holmes! Và chúng ta sẽ xem, ai là người đến tận đáy của vấn đề trước. 

Ông ta thu thập đống quần áo trên sàn, nhét chúng vào cái túi xách , rồi đi ra cửa. 

Ngay khi ông ta đóng cửa, Holmes đứng dậy và mặc áo khoác: 

- Có một cái gì đó cần lưu ý trong những điều không ta vừa nói. Bởi vậy, tôi phải đi ngay. 

Tới 5 giờ chiều, Sherlock Holmes vẫn chưa về. Lúc 6 giờ có một người đàn ông và một thanh niên mang một cái hộp dẹt lớn đến. Họ mở hộp ra và dọn một bữa ăn tối ngon lành trên đi-văng của chúng tôi. Có một cặp chim đã gà, một chim trĩ, bánh pa-tê gan, một vài chai rượu lâu năm. Sau khi đặt những thứ xa xỉ này lên trên bàn, hai người khác này bước ra, giống như những vị thần trong truyện Nghìn lẻ một đêm, không một lời giải thích, trừ một điều là những thứ này đã được trả tiền xong và được đưa tới địa chỉ này. 

Gần 9 giờ tối, Sherlock Holmes nhanh nhẹn bước vào trong phòng. Nét mặt anh lộ vẻ nghiêm trang, nhưng có một tia sáng lộ trong mắt anh. 

- Người ta đã dọn bữa ăn tối rồi đấy nhỉ? - Anh nói - rồi xoa tay vào nhau. 

- Hình như anh có khách? Người ta đã dọn 5 phần ăn. 

- Vâng, Tôi đoán sẽ có khách ghé thăm. Tôi không hiểu sao ngài Simon chưa đến. Hình như có bước chân ông ta trên cầu thang. 

Đúng là thân chủ của chúng ta đang vội vã bước vào, đung đưa cặp kính một cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và có nét lo lắng trên gương mặt. 

- Thư báo tin đã đến ngài rồi chứ? Holmes hỏi. 

- Vâng, nội dung của nó làm tôi vô cùng sửng sốt. Ông có đủ chứng cớ để chứng minh cho những điều ông nói không? 

- Chứng cớ tốt nhất có thể có được. 

Nhà quý tộc buông mình xuống ghế và đưa tay xoa lên trán. 

- Công tước sẽ nói gì - Ông ta nói thì thào - Khi ngài thấy một người trong dòng họ phải chịu nhục nhã như thế này. 

- Đấy chỉ là một tai nạn thuần tuý, không hề có sự sỉ nhục nào. 

- Ông nghĩ vậy, nhưng tôi lại quan niệm một cách khác. 

- Ông nghĩ vậy, nhưng chúng tôi lại quan niệm một cách khác. 

- Tôi không thấy ai đáng trách cả. Người phụ nữ ấy khó lòng làm khác ơn, mặc dù nó là điều đáng tiếc. Trước một tình huống như thế mà nàng lại không có mẹ bên cạnh, không có ai khuyên bảo. 

- Đó là một cái tát, thưa ông, một cái tát công khai - Ông ta nói, gõ ngón tay lên bàn. 

- Thưa ngài, phải thông cảm cho cô gái đáng thương này. Cô ấy gặp phải một tình huống quá bất ngờ. 

- Làm sao thông cảm được. Quả thật tôi rất giận. Tôi bị lợi dụng. 

- Hình như có chuông đấy. Vâng, có những bước chân ở đầu cầu thang. Tôi biết tôi không thể thuyết phục được ông, nên tôi đã đưa tới đây một người, hy vọng ông ta sẽ thành công. 

Holmes mở cửa và đưa vào một người đàn ông và một phụ nữ: 

- Thưa ngài Simon. Xin giới thiệu với ngài đây là ông bà Francis Hay Moulton.Còn người phụ nữ này, tôi nghĩ ngài đã gặp. 

Ngay khi thấy những người mới đến này, thân chủ chúng tôi đã nhảy chồm lên và đứng thẳng người, mắt nhìn xuống đất và tay thọc vào ngực chiếc áo khoác, một bức tranh nói lên danh dự bị thương tổn. Người phụ nữ đã bước nhanh về phía trước, chìa tay ra cho ông ta, nhưng ông ta không chịu ngước nhìn lên. 

- Chắc anh giận em lắm, phải không Robert? Vâng, anh giận như vậy là đúng lắm? 

- Xin chớ phân trần với tôi - ngài Simon cay đắng nói. 

- Vâng, em có lỗi. Lẽ ra, em phải nói cho anh trước khi em đi, nhưng từ lúc em thấy anh Frank xuất hiện, em khôngcòn biết em làm gì, nói gì nữa. 

- Thưa bà Moulton, có lẽ tôi và anh Watson nên lánh, trong khi bà giải thích chuyện này? - Holmes nói. 

- Nếu được phép nêu ý kiến - Người đàn ông lạ mặt nói - Tôi xin phát biểu một đôi điều! Chúng ta đã giữ chuyện bí mật này khá lâu rồi. Theo ý tôi, tôi muốn cả Châu Âu và nước Mỹ được nghe thực trạng của vấn đề. 

Đó là một người đàn ông nhỏ thó, rám nắng, rắn rỏi, râu cạo nhẵn nhụi, với gương mặt sắc sảo và phong thái tỉnh táo. 

- Vậy thì, em sẽ kể câu chuyện của chúng ta ngay sau đây - Người phụ nữ nói - Năm 1884, anh Frank và tôi đã gặp nhau ở McQuire, gần dãy Rocky, là nơi cha tôi đang khai thác quặng mỏ. Chúng tôi đã bí mật đính hôn với nhau. Nhưng một hôm, cha tôi đào được mỏ vàng và giàu lên, trong khi anh ấy ấy ngày càng thất bại. Bởi vậy, cha tôi không muốn cuộc đính hôn dài lâu hơn nữa, ông bèn đưa tôi đến San Francisco. Nhưng anh không chịu bỏ cuộc. anh ấy theo tôi đến đó, chúng tôi gặp nhau mà cha tôi không hề hay biết gì. Frank nói rằng anh sẽ đi xa để xây dựng cơ nghiệp và chỉ trở về đón tôi khi nào anh đã giàu bằng cha tôi. Tôi hứa sẽ chờ đợi anh ấy đến trọn đời, và thề nguyền là không lấy ai khác, một khi anh ấy còn sống. Anh ấy nói: "Tại sao chúng mình không cưới nhau ngay đi? Để anh được yên tâm về em. Và anh sẽ không công khai nhận anh là chồng của em, cho đến khi anh trở về". Chúng tôi bàn chuyện đó. Anh ấy đã nhờ một ông mục sư làm lễ cưới ngay tại đó, rồi ra đi tìm sự nghiệp, còn tôi trở lại với cha tôi. 

Sau đó, tôi được tin anh ở Montana, rồi có tin anh thăm dò quặng tại Arizona, rồi nghe tin anh đến New Mexico. Sau đó, trên báo có đăng một bài dài, nói về một trại mỏ đã bị dân da đỏ tấn công, và có tên anh trong danh sách những người bị giết. Tôi ngất đi, tưởng đã chết, rồi nằm liệt giường mấy tháng sau đó. Cha tôi nghĩ rằng tôi bị suy nhược thần kinh, đưa tôi đến bác sĩ này, bác sĩ nọ. Hơn một năm trời không có tin tức gì Frank, đến nổi là tôi tin chắc là anh đã chết thật rồi. thế rồi ngài Simon đến San Francisco, rồi chúng tôi sang London và một cuộc hôn nhân đã được sắp xếp. Cha tôi rất hài lòng, nhưng tôi không thể nào quên Frank. 

Tuy vậy, nếu tôi kết hôn với ngài Simon thì tôi đã hoàn thành bổn phận làm con. Tôi đã đi đến nhà thờ với dự định trở thành một người vợ tốt, theo khả năng mà tôi có được. Nhưng ngay khi tôi bước đến gần bàn thờ, tôi nhìn lên thấy Frank đang đứng ở hàng ghế đầu tiên. Thoạt đầu, tôi nghĩ đó là bóng ma anh ấy hiện về, nhưng khi nhìn lại một lần nữa, rõ ràng anh ấy còn sống. Tôi thấy trời đất đang quay cuồng, và những lời nói của vị giáo sĩ giống như tiếng ong bay vù vù bên tai tôi. Tôi liếc ra phía sau, nhìn anh một lần nữa, thấy anh đưa ngón tay lên môi để bảo tôi im. Rồi tôi thấy anh ngoệch ngoạc trên một mảnh giấy. Khi đi qua cái ghế dài mà anh đang đứng, tôi ném bó qua cho anh, và anh tuồn mảnh giấy vào đó rồi trả lại bó hoa cho tôi. Đó chỉ là một dòng chữ yêu cầu tôi theo anh khi nào anh ra dấu hiệu. Tôi quyết tâm làm theo bất cử chỉ thị nào của anh. 

Khi trở lại họ nhà gái, tôi kể chuyện đó cho cô tớ gái của tôi, cô ta đã từng biết Frank từ khi còn ở California và đã từng là bạn của anh ấy. Tôi nhờ cô ta chuẩn bị cho tôi một vài thứ đồ đạc và áo khoác. Tôi biết, lẽ ra tôi phải nói cho Robert biết, nhưng thật là khó khăn khi có mặt mẹ anh ấy và tất cả những người quý tộc khác. Tôi quyết định là chạy trốn trước, giải thích sau. Tôi ngồi ở bàn chưa tới mười phút, thì thấy Frank xuất hiện ở cửa sổ, phía bên kia đuờng. Anh vẫy tay ra hiệu cho tôi, và bắt đầu bước vào công viên. Tôi lẻn về phòng, thay vội quần áo, rồi đi theo anh. 

Có một người đàn bàn đến nói với tôi một cái gì đó về Robert. Qua một đôi điều nghe được, thì dường như Robert cũng có một bí mật nho nhỏ nào đó. Nhưng tôi tìm cách thoát khỏi cô ta, chẳng bao lâu tôi theo kịp Frank, cùng nhau đi lên xe ngựa đi đến một chỗ trọ mà anh đã thuê sẵn và đó mới quả thật đúng là đám cưới của chúng tôi sau bao năm xa cách. Thì ra Frank tuy bị da đỏ bắt làm tù binh, nhưng anh đã trốn thoát, và đến San Francisco. Tại đây, biết tôi đã theo cha đến nước Anh, Frank cũng sang theo, sau cùng đã tìm gặp tôi đúng vào buổi sáng hôm đó. 

- Tôi đọc tin đó trên một tờ báo - Người Mỹ giải thích - Nó cho tôi biết tên cô dâu, chú rể và nhà thờ, nhưng không nói cô dâu sống ở đâu. 

Người phụ nữ kể tiếp. 

- Rồi chúng tôi bàn bạc xem là nên làm cái gì. Anh ấy muốn công khai chuyện này ra, nhưng tôi ngại quá. Tôi tính chỉ nên gởi vài dòng cho cha tôi, cho ông biết là tôi vẫn còn sống. Thế thôi, Bởi vậy, anh ấy cầm lấy đồ cưới làm thành một gói, ném vào một nơi nào đó để phi tang. Hẳn là ngày mai chúng tôi đã lên đường sang Paris, nếu chiều nay, ông Holmes không đến chỗ chúng tôi. Ông Holmes đã chỉ rõ cho chúng tôi thấy rằng tôi sai và Frank đúng, và rằng chúng tôi giữ bí mật như vậy là không phải. Và ông Holmes hứa cho chúng tôi một cơ hội để nói chuyện với ngài Simon. Vì thế mà chúng tôi đã đến đây. Anh Robert, bây giờ anh đã nghe tất cả rồi. Em rất tiếc là đã làm cho anh đau khổ, và em hy vọng rằng anh sẽ không nghĩ quá xấu về em. 

Người phụ nữ ngừng nói. Cho tới lúc này, ngài Simon vẫn chưa giảm đi thái độ cứng cỏi, nhưng đôi mày nhíu lại và đôi môi mím chặt. 

- Xin lỗi quý vị, tôi không quen bàn những chuyện riêng tư một cách công khai như thế này. 

- Vậy là, anh không tha lỗi cho em ư? Anh không bắt tay trước khi em đi sao? 

- Nếu cô muốn. 

Ông ta chìa tay ra, lạnh nhạt nắm lấy bàn tay của người phụ nữ. 

- Tôi đã hy vọng rằng thế nào ngài cũng sẽ lưu lạidùng bữa ăn thân mật với chúng tôi - Holmes nói. 

- Có lẽ ông nói hơi quá đấy. Tôi làm sao vui cho được. Bây cho phép tôi đươc chúc tất cả quý vị một đêm ngon giấc. Xin chào!- Huân tước Simon liếc nhìn mọi người trước khi bước ra khỏi phòng. 

- Còn tôi thì tin rằng ông sẽ làm tên tuổi của tôi và của công ty ông trở nên nổi tiếng. - Holmes quay sang nói với người đàn ông - Những cuộc tiếp xúc với người Mỹ, thưa ông Moulton, làm tôi luôn tin tưởng, trong một ngày không xa, con của ông bà sẽ trở nên nổi tiếng ở nhiều quốc gia bởi sự phát triển của Tập đoàn "Jack với Sao và Vạch"[3]. 

- Vụ này quả thật là hấp dẫn - Holmes nói, khi các vị khách đã ra về - Bởi vì nó giúp ta thấy rất rõ ràng, một sự việc mà thoạt đầu dường như không thể giải thích được, thật ra là vô cùng giản dị! Không có gì hợp tự nhiên hơn là những sự việc mà người phụ nữa đã kể. 

- Ngay từ đầu,anh đã đi đúng hướng chứ? - Tôi hỏi. 

- Từ đầu, tôi thấy có hai sự kiện rất rõ ràng, Một người phụ nữ đó sẵn sàng dự phần nghi lễ tại nhà thờ. Hai là, chỉ sau đó mấy phút, cô ta đã ân hận về việc đó. Như vậy là có một cái gì đó đã xảy ra trong buổi sáng, nó làm thay đổi ý định của cô ta. Đó là cái gì? Hẳn là cô ta đã không nói chuyện với người lạ nào, vì có chú rể bên cạnh. Vậy thì, phải chăng cô ta đã nhìn thấy một ai đó? Nếu có, hẳn phải là một người đến từ nước Mỹ, bởi vì cô ta mới sống tại Anh một thời gian quá ngắn, nên không thể có một người Anh nào có thể gây cho cô ta một ảnh hưởng quá sâu sắc, đến nổi chỉ nhìn thấy anh ta cũng đủ làm cho cô ta thay đổi hẳn kế hoạch. Bằng phương pháp loại trừ, tôi đã đi đến kết luận rằng, có thể là cô ta đã nhìn thấy một người Mỹ. Vậy thì, người Mỹ này là ai, và tại sao anh ta lại có ảnh hưởng quá lớn đến cô ta như vậy? Có thể đó là một người tình? Có thể đó là một người chồng? Tôi biết, thời niên thiếu cô ta đã sinh sống trong khung cảnh hoang dã, dưới những điều kiện đặc biệt. Tôi đã biết đó trước khi ngài Simon kể. Khi ông ta cho biết có một người đàn ông trong ghế dài, về sự thay đổi trong thái độ của cô dâu, về việc đánh rơi bó hoa (một phương pháp trao đổi tin tức khá rõ ràng) về sự cầu cứu đến cô tớ gái tin cẩn, về cái từ "tiếm đoạt" rất có ý nghĩa (theo cách nói của những người khai thác mỏ, thì "tiếm đoạt" nghĩa là chiếm hữu một cái gì mà chủ quyền thuộc về người khác). Với những sự kiện đã kể trên, thì toàn bộ vấn đề đã quá rõ ràng. Cô ấy đã đi theo người tình, hoặc là người chồng cũ của cô ta. 

- Và anh đã làm cách nào để tìm thấy họ? 

- Kể ra thì cũng khó. Nhưng may nhờ cái hóa đơn khách sạn của ngài Lestrade, ông ta cầm nó trong tay, mà không biết giá trị của nó. Những chữ viết tắt dĩ nhiên là vô cùng quan trọng, nhưng cái quan trọng hơn, là biết được họ đang ở tại một khách sạn thuộc loại sang nhất tại London. 

- Làm thế nào anh biết được? 

- Cái giá tiền nơi hóa đơn, 8 shillings cho cái gường, và 8 pence cho một ly rượu sherry[4], chừng ấy cũng đủ thấy đó là một trong những khách sạn sang nhất. Tại London chả có mấy khách sạn như thế. Tại khách sạn thứ hai mà tôi đến thăm, qua sổ đăng ký, tôi biết rằng Francis H. Moulton, người Mỹ, chỉ mới rời khách sạn này ngày hôm trước, khi nhìn qua những món mà anh ta phải trả, tôi thấy khớp với những món trong hóa đơn của ngài Lestrade. Anh ta yêu cầu thư từ gởi về khách sạn, xin chuyển lại số 226 quảng trường Gordon. Tôi tìm đến địa chỉ ấy, và may mắn gặp đôi uyên ương. Tôi đánh bạo cho họ một lời khuyên của một người cha, vạch rõ cho họ thấy rằng mọi sự sẽ tốt hơn nếu họ cho dư luận rộng rãi, nhất là ngài Simon, biết sự thật. Tôi mời họ đến đây để gặp ông ta, và như anh thấy đó, tôi buộc ông ta phải đến. 

- Nhưng kết quả không tốt lắm. Ông ta cư xử không mấy lịch sự - Tôi nhận xét. 

- Nhưng mà, Watson ạ - Holmes mỉm cười nói - Có lẽ anh cũng không thể nào lịch sự được, nếu anh lâm vào cảnh ngộ của ông ta. Phải vất vả lắm mới làm được đám cưới, thế rồi, đùng một cái, thấy mình mất tất cả chì lẫn chài. Chúng ta xét đoán ngài một cách thông cảm hơn, và hãy cám ơn số mệnh đã không bắt ta phải chịu một cảnh ngộ oái oăm như vậy. Đẩy cái ghế của anh ta lại gần đây và trao cho tôi cái đàn vĩ cầm, vì vấn đề duy nhất mà chúng ta phải giải quyết bây giờ là làm thế nào sống qua những buổi chiều mùa thu ảm đạm này.

Ngón tay cái của viên kỹ sư

Từ ngày quen nhau, trong số những vụ án mà anh bạn tôi, Sherlock Holmes xử lý, chỉ có 2 vụ mà tôi là người dẫn tới anh, đó là vụ Ngón tay cái của ông Hatherley và Cơn điên của Đại tá Warburton. Trong số đó, vụ thứ hai có thế là một cơ hội tốt hơn cho nhà quan sát phát huy sự sắc sảo và sáng tạo, nhưng vụ thứ nhất lại kỳ lạ ngay từ khi bắt đầu, và diễn biến của nó hấp dẫn đến nổi đáng được ghi lại hơn cả, mặc dù vụ án này không cho anh bạn tôi nhiều cơ hội vận dụng khả năng suy luận tài ba mà nhờ đó anh đã gặt hái được nhiều thành công rực rỡ. Tôi tin chắc rằng câu chuyện này đã được hơn một lần kể lại trân các báo, nhưng cũng giống như tất cả các bài tường thuật khác, chỉ với một "khung chữ" in vỏn vẹn trong nửa cột báo thì ấn tượng về nó thật kém xa nếu bạn tận mắt chứng kiến quá trình sự thật dần dần được hé mở, và điều bí ẩn dần dần biến mất khi mà mỗi khám phá mới điều là một bước tiến tới sự thật hoàn hảo. Toàn bộ câu chuyện lúc đó đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc đến nổi hai năm sau cũng không hề phai nhạt. 

Câu chuyện mà tôi sắp kể đây diễn ra vào mùa hè năm 1889, không lâu sao đám cưới của tôi. Tôi vừa mới trở lại làm việc ở phòng khám và cuối cùng cũng phải bỏ lại Holmes trong căn nhà ở phố Baker, mặc dù vẫn thường xuyên tới thăm và thỉnh thoảng còn thuyết phục anh từ bỏ những thói quen lúi xùi để đến thăm chúng tôi. Tôi cũng rất bận rộn, và vì chỗ tôi ở không xa ga Paddington lắm nên tôi cũng có vài bệnh nhân là nhân viên làm việc ở đó. Có một người được tôi chữa khỏi căn bệnh nan y hành hạ, không bao giờ chán việc quảng cáo về năng lực của tôi và luôn luôn giới thiệu tôi cho bất kỳ người bệnh nào mà ta quen biết. 

Vào một buồi sáng, khoảng 7 giờ, tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng đập cửa của bà giúp việc. Bà báo cho tôi có hai người đàn ông đến từ Paddington và đang tôi ở phòng khám. Tôi vội vã thay quần áo vì kinh nghiệm cho thấy, những trường hợp tai nạn đường sắt hiếm khi là những ca bình thường. Tôi chạy vội xuống nhà, cũng là lúc người cộng tác cũ của tôi, anh bảo vệ, bước ra khỏi phòng và đóng chặt cánh cửa lại. 

- Tôi đã đưa anh ta đến đây rồi - anh ta thì thầm, chỉ tay ra phía sau - anh ta ổn rồi". 

- Có chuyện gì vậy? - Tôi hỏi thế vì thái độ của anh ta cứ như là vừa mới nhốt một sinh vật lạ vào phòng tôi vậy. 

- Đó là một bệnh nhân mới - anh ta vẫn thì thào - Tôi nghĩ rằng tôi phải đích thân đưa anh ta đến đây nếu không anh ta sẽ ngã giữa đường mất. Anh ta đã tới được đây rồi, hoàn toàn bình an vô sự. Tôi phải đi bây giờ, thưa bác sĩ, tôi cũng như ông, đều có việc của mình. 

Và anh ta bỏ đi, vội vã, không kịp để cho tôi nói lời cảm ơn. Tôi bước vào phòng khám và thấy một quý ông ngồi bên cạnh bàn làm việc. Anh ta mặc bộ comlê bằng vải tuýt-xô, và chiếc mũ vải mềm anh ta vừa đặt lên chồng sách của tôi. Một bàn tay được quấn bằng khăn mùi xoa có lầm tấm những vệt máu loang. Anh ta còn trẻ, không quá 25 tuổi, tôi đoán vậy. Anh ta có khuôn mặt mạnh mẽ, đầu nam tính nhưng sắc mặt thì tái nhợt đi, điều đó tạo cho tôi ấn tượng về một người vừa bị kích động mạnh mà phải dùng toàn bộ sức mạnh ý chí để tự chủ được chính mình. 

- Tôi xin lỗi vì đã gõ cửa phòng khám của ông quá sớm, thưa bác sĩ - anh ta nói - nhưng tôi vừa bị một tai nạn nghiêm trọng đêm qua. Tôi đến đây bằng chuyến tàu sáng, tôi tìm bác sĩ ngay tại ga Paddington. Một anh bạn rất tốt bụng đã đưa tôi đến tận đây. Tôi đưa cho bà giúp việc tấm danh thiếp của mình, và bà ấy đã để nó trên bàn. 

Tôi cầm danh thiếp lên, đọc qua 'Ông Victor Hatherley, kỹ sư thuỷ lực học, 16A phố Victoria, (tầng 3)". Đó là tên, nghề nghiệp và địa chỉ của vị khách mới tới. 

- Tôi xin lỗi vì đã để anh chờ - tôi nói và ngồi xuống ghế của mình - Tôi hiểu là anh vừa trải qua một chuyến đi qua đêm nhàm chán. 

- Ồ không, đêm qua của tôi không thể gọi là nhàm chán được. - Anh ta phá lên cười sặc sụa, tỏ ra rất vui vẻ, lại còn ngả người ra ghế cười đến nỗi tất cả nhưng dụng cụ y tế của tôi đều rung theo người anh ta vì trận cười đó. 

- Đủ rồi! - Tôi hét lên - Bình tĩnh lại nào! 

Tôi rót cho anh ta ít nước lọc. Nhưng cũng vô ích. Anh ta dường như bị kiệt sức vì trận cười bộc phát đó. Bây giờ thì phút kích động đã qua, anh ta trở lại với chính mình, chán nản và nhợt nhạt. 

- Tôi hành động như một thằng ngốc vậy - Anh ta nói trong tiếng thở hổn hển. 

- Không sao. Anh uống đi. - Tôi rót thêm một ít rượu mạnh vào nước, hai má anh ta đã hồng hào trở lại. 

- Thế này tốt hơn rồi - Anh ta nói - Còn bây giờ, thưa bác sĩ, xin ông vui lòng khám giúp tôi ngón tay cái, hay chính xác hơn là cái chỗ mà ngón cái của tôi đã từng ở đó. 

Anh ta tháo bỏ chiếc khăn và giơ tay ra. Thậm chí thần kinh thép như tôi còn thấy khiếp sợ khi nhìn vào nó. Chỉ còn bốn ngón tay với một mẫu xương nhầy nhụa máu đỏ ở nơi mà trước đây từng là ngón cái. Chắc hẳn là nó đã bị gãy hay bị chặt ra khỏi bàn tay. 

- Lạy chúa! - Tôi kêu lên - Một vết thương nghiêm trọng! Chắc là anh mất nhiều máu lắm!. 

- Vâng thưa bác sĩ. Tôi đã ngất xủi khi mọi chuyện xảy ra, và nghĩ mình sẽ bị mất cảm giác trong một thời gian dài. Khi tỉnh lại, tôi thấy máu vẫn chảy nên quyết định buộc khăn vào cổ tay và thắt chặt nút lại. 

- Tuyệt! Lẽ ra anh phải là bác sĩ mới đúng. 

- Cái đó thuộc về lĩnh vực thuỷ lực học, ông biết đấy, đó là nghề nghiệp của tôi. 

Tôi kiểm tra vết thương: 

- Vết thương này bị gây ra bởi một vật nặng và sắc. 

- Một vật giống như một con dao phay - anh ta nói. 

- Một tay nạn tôi đoán thế. 

- Hoàn toàn không. 

- Cái gì?! Một vụ tấn công với ý định giết người à? 

- Đúng, hoàn toàn có chủ ý. 

- Anh làm tôi sợ quá đấy! 

Tôi lau chùi vết thương, rửa sạch nó và cuối cùng băng lại bằng băng khử trùng. Anh ta nằm xuống mà không hề nhăn mặt, mặc dù anh ta cố mím môi vì đau suốt từ đầu đến giờ. 

- Anh ta cảm thấy thế nào rồi? - Tôi hỏi khi đã băng bó xong. 

- Vô cùng tai hại! Rượu và bông băng của ông làm cho tôi cảm thấy như một người khác. Tôi rất yếu, nhưng tôi đã vượt qua quá nhiều chuyện. 

- Có lẽ anh không nên nói chuyện này. Rõ ràng là nó quá sức chịu đựng đối với thần kinh của anh. 

- Ồ không! Tôi sẽ còn phải trình báo với cảnh sát, nhưng thật ra nếu không có bằng chứng thuyết phục là vết thương này thì chính tôi cũng sẽ ngạc nhiên nếu họ tin vào sự trình báo của tôi. Vì quả thật, nó rất bất thường, mà lại không có nhiều bằng chứng đủ để kể lại một cách mạch lạc, thậm chí nếu họ có tin tôi thì những cứ tôi đưa ra cũng quá mờ nhạt, đến nổi tôi không biết công lý có được thực hiện không? 

- Ha! - Tôi khẽ kêu lên - Nếu nó là một vấn đề mà anh thật sự muốn được giải quyết thì tôi chân thành khuyên anh đến tìm bạn tôi, Sherlock Holmes, trước khi tìm đến cảnh sát. 

- Ồ, tôi đã nghe tiếng ông ấy - người khách của tôi trả lời - và tôi rất mừng nếu ông ấy chịu giúp tôi, mặc dù rất tự nhiên là tôi vẫn phải nhờ đến cảnh sát. Ông có thể giới thiệu tôi với ông ấy không? 

- Tôi sẽ làm hơn thế nữa. Tôi sẽ đưa anh đến tận nơi. 

- Tôi rất biết ơn ông. 

- Chúng tôi sẽ gọi một cỗ xe ngựa và cùng đi. Có lẽ chúng ta sẽ đến kịp bữa sáng. Anh có đồng ý không? 

- Vâng, tôi sẽ không thể thấy thoải mái khi chưa kể được câu chuyện của tôi. 

- Thế thì chúng ta đi thôi. 

Tôi chạy vội lên gác, giải thích ngắn gọn sự việc cho vợ tôi biết và 5 phút sau, tôi đã ở trong xe ngựa, chạy thẳng tới phố Baker cùng với người khách mới quen. 

Sherlock Holmes, đúng như tôi nghĩ, mặc bộ áo khoác ở nhà, miệng ngậm tẩu thuốc, đang ngồi uể oải trong phòng khách đọc mục Trò chuyện của tờ The Times. Chiếc gạt tàn còn đầy thuốc của những lần hút trước, một thói quen trước bữa sáng của anh. Tất cả diễn ra chỉ ở một góc kệ lò sưởi. Anh đón chúng tôi bằng một thái độ ân cần, trầm tĩnh vốn có và gọi cho chúng tôi món thịt muối và trứng, rồi cùng dùng bữa. Ăn xong, anh mời vị khách ra ghế bành, đặt cái gối dưới đầu anh ta và để cốc rượu mạnh có pha lẫn nước trong tầm tay anh ta. 

- Có thể dễ dàng nhận ra rằng chuyện của anh không phải là chuyện bình thường, anh Hatherley - anh nói. - Hãy cầu nguyện, cứ nghỉ tự nhiên như ở nhà mình. Hãy kể cho chúng tôi nghe những gì anh có thể, nếu mệt thì thôi và cố giữ gìn sức khoẻ. 

- Cám ơn ông. - bệnh nhân của tôi nói - nhưng tôi đã cảm thấy khá hơn từ lúc bác sĩ băng bó cho tôi, tôi nghĩ rằng bữa sáng của bác sĩ Watson đã hoàn thành nốt việc chữa trị. Tôi sẽ cố không làm mất thời giờ quý báu của ông, vì vậy tôi sẽ bắt đầu ngay câu chuyện kỳ lạ của mình. 

Holmes ngồi trong chiếc ghế bành to với bộ mặt tỏ ra chán chường và hờ hững, cố che giấu bản chất hứng thú và tò mò bên trong. Còn tôi thì ngồi đối diện với anh và chúng tôi im lặng lắng nghe câu chuyện kỳ lạ mà vị khách kể lại từng chi tiết. 

"Các ông phải biết rằng - anh ta nói - tôi là một đứa trẻ mồ côi, sống độc thân trong khu nhà trọ ở London. Chuyên môn của tôi là kỹ sư thuỷ lực học, và tôi đã tích luỹ được một vốn kinh nghiệm đáng kể trong công việc suốt thời gian 7 năm thử việc cho Công ty Venner và Matheson, một doanh nghiệp nổi tiếng ở Greenwich. Hai năm trước đây, sau khi đã thu xếp thời gian và cũng được hưởng món tiền thừa kế ít ỏi từ người cha tội nghiệp, tôi quyết định bắt đầu sự nghiệp riêng của mình và lập văn phòng làm việc trên phố Victoria. 

"Tôi cho rằng bất kỳ ai khi mới bắt đầu tự lập trong sự nghiệp cũng đều dễ cảm thấy nản lòng. Đối với tôi thì đều đó càng đúng. Trong suốt 2 năm, tôi chỉ có nổi 3 lần kiểm tra máy và một công việc nhỏ, và đó là tất cả những gì nghề nghiệp đem lại cho tôi. Tổng thu nhập của tôi chỉ có 27 bảng 10 xu. Hàng ngày, từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều, tôi chỉ biết ngồi đợi trong căn phòng nhỏ cho đến khi nhụt chí, và bắt đầu tin rằng tôi sẽ không bao giờ có khách hàng nữa. 

"Tuy nhiên, đến hôm qua, khi tôi đang định rời văn phòng thì thư ký của tôi bước vào báo có một quý ông đang đợi tôi. Anh ta còn còn đưa cho tôi danh thiếp của vị khách với cái tên "Đại tá Lysander Stark". Theo sát gót là ông đại tá, một người đàn ông cao lớn nhưng gầy đét. Tôi không hình dung được có ai gầy đến thế. Cả khuôn mặt ông ta chỉ nhìn thấy mũi và cằm, còn da ở hai bên má thì bị kéo căng ra bởi xương gò má nhô lên quá cao. Nhưng khuôn mặt hốc hác đó dường như là bẩm sinh và không hề có bệnh, vì mắt ông ta rất sáng, bước đi nhanh nhẹn và tác phong rất dứt khoát. Ông ta ăn mặc đơn giản nhưng gọn gàng, còn về tuổi tác của ông ta, tôi đóan là gần 40 hơn là 30. 

"Ông Hatherley phải không? - ông ta phát âm giống người Đức - Tôi được biết, thưa ông Hatherley, ông là người không chỉ thành thạo về chuyên môn mà còn rất thận trọng và có khả năng giữ bí mật". 

Tôi nghiêng mình, cảm thấy hãnh diện như bất kỳ một chàng trai trẻ nào khác khi được khen như vậy. "Tôi có thể biết ai đã cho tôi những đức tính tốt đến như vậy không, thưa ngài?". 

"Ồ, có lẽ tôi không nên được tiết lộ điều đó vào lúc này. Tôi còn được biết ông là một trẻ mồ côi và đang sống độc thân ở London." 

"Đúng vậy! - Tôi trả lời - Nhưng xin ngài thứ lỗi nếu tôi nói rằng tất cả những điều này không liên quan gì đến khả năng chuyên môn của tôi. Tôi hiểu rằng ông tới đây vì muốn nói chuyện công việc?" 

"Không có gì phải nghi ngờ về điều đó. Nhưng rồi ông sẽ thấy những gì tôi nói đều có mục đích cả. Tôi có một công việc cho ông, nhưng ông phải tuyệt đối giữ bí mật - tuyệt đối bí mật, ông hiểu chứ. Và dĩ nhiên chúng tôi trông chờ điều đó ở một người sống một mình hơn là người sống trong sự đùm bọc của gia đình". 

"Nếu tôi hứa sẽ giữ bí mật, - tôi nói - thì ngài có thể hoàn toàn tin tưởng vào điều đó". 

Khi tôi nói điều này, ông ta nhìn tôi với ánh mắt ngờ vực và thắc mắc nhất mà tôi từng thấy. 

"Thế ông có hứa không?" - cuối cùng ông ta nói. 

"Vâng, tôi hứa". 

"Đảm bảo tuyệt đối im lặng trước, trong và sau khi công việc kết thúc chứ? Không một sự tiết lộ nào về công việc, cả trong lời nói và chữ viết chứ?". 

"Tôi đã hứa rồi?". 

"Rất tốt" - Ông ta đột ngột đứng bật dậy, băng qua căn phòng như một tia chớp mà đẩy mạnh cửa. Hành lang bên ngoài hoàn toàn vắng lặng. 

"Thế này thì ổn rồi, - ông ta nói khi quay trở lại - Tôi biết có những người thư ký thỉnh thoảng rất tò mò về công việc của người chủ. Giờ thì chúng ta có thể nói chuyện an tâm rồi". Ông ta kéo ghế lại sát bên tôi và bắt đầu nhìn tôi vẫn với ánh mắt nhìn hoài nghi đầy bí ẩn. 

Một cảm giác ghê sợ hay cái gì tương tự như nỗi sợ hãi bắt đầu dâng lên trong tôi vì cái trò kỳ quái của người đàn ông chỉ có da bọc xương này. Thậm chí cả nỗi lo mất khách hàng cũng không thể khiến tôi khỏi sốt ruột. 

"Tôi mong ngài bắt đầu công việc cho - tôi nói - Thời gian của tôi là vàng bạc". Chúa tha tội cho tôi vì câu nói sau cùng đó, nhưng từ ngữ cứ trôi tuột khỏi môi tôi vậy. 

"50 đồng vàng cho một đêm làm việc có vừa ý ông không?" - ông ta hỏi. 

"Thế thì thật tuyệt". 

"Tôi nói một đêm làm việc, nhưng có lẽ môt giờ thì đúng hơn. Đơn giản, tôi chỉ muốn biết ý kiến của ông về một cổ máy nén thủy lực bị trật bánh ray. Chỉ cần ông chỉ cho chúng tôi được chỗ sai sót, chúng tôi sẽ tự sửa lại nó. Ông nghĩ thế nào về một công việc như vậy?". 

"Công việc có vẻ nhẹ nhàng và trả lại công lại hậu hĩnh". 

"Cũng có giá cả thôi. Chúng tôi muốn ông đi ngay đêm nay bằng chuyến tàu cuối cùng". 

"Đến đâu?". 

"Đến Eyford, ở Berkshire. Đó là một thị trấn nhỏ gần biên giới giáp ranh với Oxfordshire, và cách Reading 7 dặm. Có một chuyển tàu đi từ ga Paddington, nó sẽ đưa ông tới đó lúc 11 giờ 15". 

"Rất tốt". 

"Tôi sẽ đi xe ngựa đến đón ông". 

"Phải đi xe ngựa kia à?" 

"Vâng, chỗ của chung tôi cách xa thị trấn. Nó cách ga Eyford khoảng 7 dặm". 

"Thế thì khó có thể tới nơi trước nửa đêm. Tôi cho rằng sẽ không kịp bắt tàu trở về. Tôi bắt buộc phải ở lại một đêm". 

"Vâng, chúng tôi có thể dễ dàng thu xếp chỗ ngả lưng cho ông". 

"Thế thì lạ lùng thật. Tôi không thể tới đó vào giờ khác thuận tiện hơn sao?" 

"Chúng tôi đã xem xét kỹ rồi, tốt nhất là ông nên đi muộn. Những gì chúng tôi trả cho ông, một người trẻ tuổi và không có tiếng tăm, là để bồi thường cho những cái bất tiện như thế. Với số tiền ấy chúng tôi có thể hỏi ý kiến của những chuyên gia hàng đầu trong ngành của ông. Dĩ nhiên, nếu ông muốn rút lui thì vẫn còn đủ thời gian đấy". 

Tôi nghĩ tới 50 đồng vàng và tới chuyện số tiền ấy sẽ có ích với tôi đến thế nào. "Không sao - tôi nói - Tôi sẽ rất vui lòng thụ hiện theo yêu cầu của ngài. Tuy vậy, tôi chỉ muốn hiểu rõ thêm chút nữa về công việc mà ngài muốn tôi làm". 

"Cũng thế thôi. Cũng là hợp tự nhiên khi ông thấy tò mò về bí mật mà chúng tôi yêu cầu ông giữ kín. Tôi cũng không mong ông sẽ làm việc gì mà không biết tường tận về nó. Liệu chúng ta có thể yên tâm rằng không bị nghe lén chứ?" 

"Hoàn toàn yên tâm". 

"Chuyện là thế này. Có lẽ ông cũng biết đất sét là một tài nguyên có giá trị, và chỉ có thể được tìm thấy ở một hoăc hai nơi trên đất nước Anh?" 

"Tôi cũng nghe vậy". 

"Không lâu trước đây, tôi mua một ngôi nhà vườn nhỏ, rất nhỏ, cách Reading khoảng 10 dặm. Tôi đã thật sự may mắn khi khám phá được một mỏ đất sét ở một trong những thửa vườn của tôi. Tuy nhiên, khi đi kiểm tra nó, tôi phát hiện ra mỏ của tôi chỉ là một mỏ nhỏ, và nó là đường thông giữa hai mỏ lớn hơn rất nhiều ở bên trái và bên phải, nhưng cả hai đều thuộc đất của người hàng xóm. Những con người chân chất này hoàn toàn không biết rằng đất của học có chứa một thứ quý tương tự như mỏ vàng. Như một lẽ tự nhiên, tôi rất muốn mua lại mảnh đất của họ kịp phát hiện ra giá trị thực của nó, nhưng thật không may, tôi không đủ khả năng tài chính để làm việc này. Dù vậy, tôi vẫn tiết lộ bí mật này cho một vài người bạn và họ gợi ý rằng chúng tôi nên giấu kín và bí mật khai thác khu mỏ nhỏ của chúng tôi, và bằng cách đó chúng tôi có thể kiếm đủ tiền để mua lại mảnh đất của những người hàng xóm. Chúng tôi đã thực hiện kế hoạch này được một thời gian và để trợ giúp việc khai thác, chúng tôi đã chế tạo một máy nén thuỷ lực. Cái máy này, như tôi đã giải thích, đã bị hỏng, chúng tôi cần lời khuyên cùa ông về việc sửa chữa nó. Chúng tôi bảo vệ bí mật này rất nghiêm ngặt, nhưng một khi ai đã biết có kỹ sư thuỷ lực đến ngôi nhà nhỏ của chúng tôi, họ sẽ nghi ngờ, và sau đó, nếu sự thật bị phơi bày thì sẽ không cơ hội mua lại những cánh đồng đó để tiếp tục kế hoạch của chúng tôi. Đó là nguyên nhân vì sao tôi muốn ông hứa không nói cho ai biết việc ông tới Eyford đêm nay. Tôi hy vọng mọi chuyện rõ ràng với ông rồi chứ?". 

"Tôi sẽ làm theo lời ngài. - Tôi nói - Điều duy nhất tôi không thể hiểu nổi là một cái máy nén thuỷ lực thì có tác dụng gì trong việc khai thác đất sét, bởi vì đất sét có thể dễ dàng lấy ra khỏi mỏ như lấy những viên sỏi vậy". 

"À, chúng tôi có cách của chúng tôi. Chúng tôi đóng đất sét thành gạch để có thể vận chuyển mà không bị phát hiện ra nó. Tôi đã làm ông tin tôi rồi. ông Hatherley ạ, và tôi cũng đã cho ông thấy tôi tin ông như thế nào?". Ông ta đứng vậy và nói "Tôi sẽ đợi ông ở Eyford lúc 11 giờ 15". 

"Chắc chắn tôi sẽ tới". 

"Và không hề nói một lời, ông ta nhìn thẳng vào tôi rất lâu bằng ánh mắt dò hỏi, sau đó siết chặt tay tôi trong cái bắt tay lạnh giá và nhớp nhát rồi vội vã ra về. 

"Thế đấy, khi tôi bình tâm nghĩ lại tất cả chuyện này, tôi đã rất sửng sốt, chắc hai ông cũng hiểu được lý do, về công việc bất chợt được giao cho tôi. Một mặt, tất nhiên là tôi rất mừng vì khoản tiền công ít nhất cũng đã gấp 10 lần những gì mà tôi có thể đặt giá cho một dịch vụ của mình, và có thể là đơn đặt hàng này sẽ kéo theo những mối hàng khác. Mặc khác, khuôn mặt và thái độ của người khách hàng đã gây một ấn tượng không tốt trong tôi, và tôi có thể nghĩ rằng lý do ông ta đưa ra về mỏ đất sét đã đủ để giải thích cho việc tôi cần phải đến vào lúc nửa đêm, và cho nỗi lo lắng tột độ của ông ta về việc tôi có thể kể cho người khác biết chuyện vặt vãnh này. Dẫu sao, tôi cũng rủ bỏ được mọi nổi lo sợ, ăn vội bữa ăn đêm, tới ga Padddington và lên đường, hoàn toàn tuân theo yêu cầu của vị khách. 

Tới Reading tôi không những phải đổi xe ngựa mà còn phải đổi ga. Dù vậy, tôi vẫn kịp bắt chuyến tàu cuối cùng tới Eyford và có mặt ở nhà ga tối tăm đó sau 11 giờ đêm. Tôi là hành khách duy nhất ra đường lúc đó, khắp sân ga không có ai trừ người khu khuân vác đang gà gật. Tuy nhiên, khi đi qua cửa xếp, tôi trông thấy vị khách ban sáng đang đứng chờ trong một góc tối ở bên kia đường. Không nói một lời, ông ta nắm tay tôi, kéo vội đến một chiếc xe ngựa đã mở cửa sẵn. Ông ta đóng hai bên cửa rồi vỗ vào thành xe, thế là cỗ xe chạy hết tốc lực. 

"Một ngựa kéo thôi à?". Holmes ngắt lời 

"Vâng chỉ một ngựa kéo". 

"Anh có thấy màu lông của nó không?" 

"Có, tôi nhìn thấy nhờ một chút ánh sáng đèn khi tôi bước lên xe. Nó màu hạt dẻ". 

"Trông nó mệt mỏi hay sung sức?". 

"Ồ rất sung sức và bóng mượt". 

"Cần cảm ơn anh. Tôi xin lỗi vì đã ngắt lời anh. Hãy tiếp tục câu chuyện thú vị của anh đi". 

"Chúng tôi cứ đi mãi, ít nhất là một tiếng. Đại tá Lysander Stark đã nói chỉ phải đi có 7 dặm, nhưng tôi nghĩ với tốc độ và thời gian chúng tôi đi thì quãng đường cũng phải dài gần 12 dặm. Ông ta ngồi bên cạnh tôi, từ đầu đến cuối không nói một lời nào, và tôi nhận thấy rằng hơn một lần tôi thấy ông ta nhìn tôi rất căng thẳng. Con đường đoạn này có vẻ không tốt lắm vì chúng tôi bị lắc lư và xóc dữ dội. Tôi cố nhìn ra ngoài cửa sổ để mong thấy một cái gì đó ở nơi chúng tôi đang đi qua, nhưng cửa được làm bằng kính mờ và tôi không thể thấy gì ngoài mấy vệt sáng mờ vụt qua. Thi thỉnh thoảng tôi đánh liều phá tan sự im lặng của chuyến đi, nhưng ông đại tá chỉ trả lời nhát gừng và cuộc nói chuyện nhanh chóng lắng xuống. Cuối cùng, đoạn đường xóc cũng hết vì xe chạy rất êm trên đường trải sỏi. Cỗ xe dừng lại. Đại tá Lysander Star bật dậy, tôi theo ông xuống xe, lập tức cả hai lọt vào một cánh cổng có mái che rộng phía trước. Chúng tôi bước xuống xe ngựa đi ngay vào tiền sảnh, vì thế tôi không kịp nhìn vào bao quát mặt tiền của ngôi nhà. Ngay khi vừa bước qua bậc cửa, cánh cửa đã sập mạnh lại sau lưng chúng tôi và tôi nghe loáng thoáng tiếng lạo xạo của bánh xe ngựa lăn trên đường. 

Trong nhà tối như mực, viên đại tá luống cuống tìm diêm và thì thào điều gì đó. Đột nhiên cánh cửa cuối hành lang bật mở, một vết sáng dài màu vàng lan dần đến chỗ chúng tôi. Nó lớn dần, và một phụ nữ xuất hiện với một cây đèn trên tay, giơ cao quá đầu và nhìn chúng tôi dò xét. Tôi có thể thấy cô ta rất đẹp, và nhờ ánh sáng của cây đèn chiếu vào bộ váy sẫm màu của cô ta mà tôi biết được nó được may bởi một loại vải đắt tiền. Cô ta nói gì đó bằng tiếng nước ngoài, nghe như câu hỏi, và khi người đồng hành của tôi trả lời bằng giọng khàn khàn nhát gừng, cô ta giật mình, suýt đánh rơi cây đèn. Đại tá Stark tiến tới chỗ cô ta, nói thầm điều gì đó đẩy cô ta vào phòng mà cô ấy vừa bước ra. Còn ông ta thì lại phía chúng tôi với cây đèn trên tay. 

"Xin ông vui lòng đợi ở đây ít phút" - Ông ta nói rồi đi đến mở một cánh cửa khác. Đó là một căn phòng yên ắng, nhỏ và bài trí đơn giản với một cái bàn tròn đặt ở giữa, trên bàn có một vài cuốn sách tiếng Đức. Đại tá Stark đặt cái đèn lên cái kệ cạnh cửa ra vào. "Tôi sẽ không để ông chờ lâu đâu" - Ông ta nói và biến mất vào bóng tối. 

"Tôi liếc qua mấy cuốn sách trên bàn, mặc dù không biết tiếng Đức, tôi vẫn có thể đoán được hai cuốn trong số đó là luận án khoa học và những cuốn khác là tập thơ. Rồi tôi đi lại phía cửa sổ với hy vọng có thể ngắm nhìn, dù chỉ một phút, miền quê này, nhưng một bộ cửa chớp bằng gỗ sồi với những chắn song chắc chắn sẽ được lắp vào đó. Ngôi nhà hoàn toàn tĩnh lặng. Chỉ có tiếng tích tắc của một chiếc đồng hồ cũ treo đâu đ1o ngoài hành lang, ngoài ra mọi vật đều im lặng đến chết người. Một cảm giác lo lắng mơ hồ bắt đầu dâng lên trong tôi. Những người Đức này là ai, và làm gì ở ngôi nhà kỳ lạ và cách biệt này? Còn đây là đâu? Tôi đang ở cách Eyford khoảng 10 dặm, đó là những gì tôi biết, nhưng về phía bắc, nam, đông hay tây thì tôi không thể xác định được. Vì Reading và có thể là những thị trấn lớn khác đều nằm trong bán kính đó nên ngôi nhà không thể xác định chắc chắn. Nhưng chăc chắn là chúng tôi đã ở một vùng nông thôn vì không gian ở đây yên ắng tuyệt đối. Tôi đi lại trong phòng, lẩm nhẩm một giai điệu để lấy tinh thần, tự nhủ rằng tôi sẽ kiếm được 50 đồng vàng nếu hoàn thành vụ này. 

Bất chợt, cánh cửa phòng bật mở mà không hề có một chút tiếng động nào báo hiệu trước, ngay cả giữa không gian hoàn toàn tĩnh mịch. Môt phụ nữ đang đứng đó, đằng sau là bóng tối bao trùm, ánh sáng vàng từ cây đèn của tôi hắt lên khuôn mặt đẹp như đầy vẻ lo lắng của cô ta. Chỉ nhìn qua nhưng tôi đã nhận thấy sự sợ hãi và ánh nhìn lạnh lùng xoáy vào tôi. Cô ta giơ một ngón tay ra hiệu cho tôi im lặng và thì thầm với tôi vài từ tiếng Anh rời rạc, mắt liếc chừng về khoảng tối phía sau. 

"Tôi sẽ đi - dường như cô ta vất vả lắm mới nói được một cách bình tĩnh - Tôi sẽ đi. Tôi sẽ không ở lại đây đâu. Ông chẳng làm được gì đâu". 

"Nhưng thưa cô, tôi còn chưa làm đựoc cái việc mà vì nó mà tôi mới tới đây. Tôi không thể bỏ đi khi chưa nhìn thấy cái máy". 

"Nó không đáng để ông phải đợi đâu- Cô ta tiếp tục - Ông có thể đi ra qua lối cửa ra vào, không ai cản trở ông đâu". Sau đó, chỉ thấy tôi chỉ mỉm cười và lắc đầu, cô ta bất ngờ bước đến chắp hai tay vào "Vì Chúa!" - cô ta thì thào - "Ông hãy đi khỏi đây ngay trước khi quá muộn!". 

"Nhưng tôi bẩm sinh đã là người bướng bỉnh, và tôi lại càng sẵn sàng bắt tay vào công việc hơn khi có một trở ngại nào đó. Tôi đã nghĩ về 50 đồng vàng tiền công, về chuyến đi buồn tẻ và về một đêm không mấy làm vui vẻ phía trước. Chẳng nhẽ tôi phải làm tất cả những thứ đó chẳng vì cái gì sao? Tại sao phải trốn đi khi chưa bắt đầu công việcvà khi không có khoản tiền công mà lẽ ra phải được trả? Người phụ nữ này, theo tôi nghĩ, có lẽ là quá lo lắng. Do vậy, mặc dù thái độ của cô ta đã làm cho tôi hơi dao động, nhưng sự kiên nhẫn của tôi vẫn khiến tôi lắc đầu và nhất quyết ở lại. Cô ta dường như định tiếp tục van xin tôi thì cánh của bật mở phía trên đầu chúng tôi, tiếp theo là tiếng bước chân trên cầu thang. Cô ta lắng nghe một lúc, phác một cử chỉ tuyệt vọng rồi vội vã bỏ đi, cũng không có một tiếng động như lúc đến. 

Những người mới tới là Đại tá Lysnader Stark và một người đàn ông thấp đậm với bộ râu sóc mọc ra từ những vết ngấn hai cằm, người đó được giới thiệu là ông Ferguson. 

"Đây là thư ký và quản lý của tôi - Viên đại tá nói - Mà, tôi nhớ là mình đã đóng cửa, tôi sợ ông bị lạnh". 

"Trái lại - Tôi nói - Chính tôi đã mớ cửa vì tôi thấy trong phòng hơi ngột ngạt". 

Ông ta hứng tia nhìn hoài nghi về phía tôi" Có lẽ chúng ta nên tiến hành công việc bây giời thôi - Ông ta nói - Ông Ferguson đây và tôi sẽ đưa ông lên xem xét cái máy". 

"Tôi có cần phải đội mũ vào không?" 

"Ồ không cần, nó ở ngay trong nhà tôi thôi". 

"Cái gì, các ông đào đất sét trong nhà sao?" 

"Không, không. Đây chỉ là chỗ chúng tôi nén đất. Nhưng đừng để tâm đến chuyện đó. Những gì chúng tôi muốn ông làm là kiểm tra cái máy và cho chúng tôi biết nó bị hỏng ở đâu." 

Chúng tôi cùng lên gác, viên đại đi trước soi đèn, viên quản lý to béo theo sau và cuối cùng là tôi. Ngôi nhà có kiến trúc kiểu cổ với hành lang, cầu thang xoắn hẹp và những cửa ra vào thấp nhỏ mà những bệ cửa đã mòn đi do đã bao nhiêu thế hệ bước qua. Không có thảm và cũng không có dấu hiệu của thứ đồ đạc nào trên này, tường thì tróc vữa và loang lổ những chỗ ẩm ướt màu xanh. Tôi cố gắng tỏ ra không để tâm nhưng vẫn không quên được lời cảnh báo của người phụ nữ, mặc dù tôi có vẻ đã coi thường và bỏ qua chúng, cũng như luôn để mắt tới hai người đồng hành của tôi. Ông Ferguson có vẻ là người hay rầu rĩ và trầm lặng, nhưng ít ra tôi cũng đoán được rằng ông ta là một người cộng sự của viên đại tá. 

Đại tá Lysander Stark dừng lại trước một cánh cửa thấp, đã được mở khoá. Bên trong là một căn phòng hình vuông nhỏ tới mức ba chúng tôi không thế vào cùng lúc được. Ferguson đứng ngoài, còn viên đại tá dẫn tôi vào. 

"Bây giờ chúng ta đang ở trong cái máy nén đó, và sẽ không may cho chúng ta nếu có ai đó khởi động máy. Trần cửa căn phòng nhỏ này thực chất là phần cuối của cái pít-tông, nó sẽ bị ấn xuống bằng sức ép nặng hàng tấn của trần nhà bằng kim loại. Các cột nước nhỏ xung quanh nhận sức ép đó sẽ truyền và nhân nó lên theo cách đã quá quen thuộc với ông rồi. Chiếc máy đã từng hoạt động tốt, nhưng có một số hoạt động không hiệu quả làm mất đi một ít sức mạnh của nó. Có lẽ ông sẽ vui lòng kiểm tra giúp chúng tôi và chỉ cho chúng tôi biết cách sửa chữa. 

"Tôi lấy cây đèn từ tay ông ta và kiểm tra lại toàn bộ cỗ máy". Đó là một cỗ máy khổng lồ có thể thực hiện một lực ép lớn khủng khiếp.Ngay lập tức tôi thoáng nghe có tiếng rò rỉ rất khẽ của nước chảy qua xi-lanh. Kiểm tra qua một lần, tôi phát hiện ra những cao su quấn quanh cần điều khiển đã bị co lại không còn khớp với phích cắm nữa. Tôi chỉ cho khách hàng của tôi thấy đây rõ ràng là nguyên nhân làm giảm hiệu quả của máy. Ông ta chăm chú theo dõi nhận xét của tôi và hỏi cách sửa chữa nó. Sau khi đã giải thích cho họ rõ, tôi trở lại căn phòng chính của cỗ máy và chăm chú ngắm nhìn nó để thoả mãn trí tò mò. Rõ ràng câu chuyện về đất sét chỉ là chuyện bịa đặt vì thật lố bịch nếu một cỗ máy mạnh mẽ như thế lại được chế tạo cho mục đích không tương xứng như vậy. Các bức tường được làm bằng gỗ, nhưng sàn lại làm bằng những mảnh sắt lớn, và khi xét kỹ, tôi thấy có lớp vỏ bằng kim loại phủ hết bề mặt của nó. Tôi đang cúi rạp người xuống để xem chính xác nó là gì thì nghe thấy những lời thì thào bằng tiếng Đức và nhìn thấy khuôn mặt xanh xao của viên đại tá đang nhìn tôi. 

"Ông đang làm gì đó?" - Ông ta hỏi tôi. 

Tôi rất bực mình vì đã bị lừa bởi một câu chuyện bịp bợm mà ông ta kể cho tôi. 

"Tôi đang chiêm ngưỡng đất sét của ông- tôi nói - Tôi nghĩ rằng tôi sẽ có thể có những lời khuyên tốt hơn cho ông và cỗ máy của ông nếu tôi biết được mục đích thực sự của nó". 

Đúng lúc ấy, tôi chợt thấy hối hận về sự hấp tấp của mình khi nói ra những lời đó. Mặt ông ta đanh lại, từ đôi mắt xám lóe lên sự hăm dọa. 

"Tốt thôi! - Ông ta nói - Ông sẽ biết tất cả về cỗ máy". Ông ta lùi một bước, sập cửa lại và xoay chìa khoá. Tôi lao đến, kéo mạnh nấm đấm cửa nhưng nó quá chắc chắn. Tôi ra sức đá và đập cửa, nhưng đều vô dụng. "Này!- tôi gào lên - Này! Ngài đại tá! Thả tôi ra!". 

Và lúc đó, giữa không gian yên ắng bất chợt tôi nghe thấy một âm thanh làm tim tôi thắt lại. Đó là tiếng lạch cạch của cần đòn bẩy và tiếng róc rách của nước chảy qua xi-lanh. Ông ta đã khởi động cỗ máy. Cây đèn vẫn đặt trên sàn nhà, đúng chỗ tôi đã để khi kiểm tra ống máng. Nhờ ánh sáng của nó mà tôi có thể thấy mảng trần nhà đen ngòm đang dần hạ xuống đầu tôi, chậm rãi, giật cục nhưng hơn ai hết, tôi hiểu là với sức ép đó nó có thể nghiền tôi nát bét chỉ trong vòng một phút. Tôi lồng lộn, la hét và đập cửa và cào cấu vào ổ khóa. Tôi van xin viên đại tá thả tôi ra, nhưng tiếng máy ầm ì tàn nhẫn đã nhấn chìm những tiếng la hét của tôi. Trần nhà chỉ còn cách đầu tôi khoảng một hai sải, và chỉ cần với tay lên là tôi có thể chạm vào bề mặt cứng và ráp của nó. Đúng lúc đó, trong đầu tôi lại lóe lên ý nghĩa rằng sự đau đớn trong cái chết của tôi phụ thuộc rất nhiều vào vị trí tôi chết. Nếu tôi nằm sấp thì toàn bột trọng lượng sẽ đè lên xương sống của tôi, và tôi sợ phát khiếp khi nghĩ đến cái xương sống sẽ bị nghiền nát. Cách khác dễ dàng hơn có lẽ là lấy hết can đảm nằm ngửa, nhìn lên cái bóng đèn chết chóc đang ập xuống người tôi. Lúc đó tôi không còn có thể đứng thẳng được. Bất chợt, tôi trông thấy một tia hy vọng sốt sót, một lối thoát. 

Như tôi đã kể, mặc dù sàn và trần nhà làm bằng sắt, nhưng các bức tường lại bằng gỗ. Khi tôi tuyệt vọng tìm quanh, tôi đã thấy một khe sáng màu vàng bé xíu giữ hai thành gỗ đang lớ dần, lớn dần khi một tầm ván nhỉ bị dẩy ra phía sau. Ngay lập tức tôi nhào tới và lách người qua tấm ván. Mảnh ván đóng lại sau lưng tôi, những tiếng loảng xoảng của cây đèn, và ngay sau đó là tiếng va chạm của hai tấm kim loại đã cho tôi biết tôi đã thoát chết trong gang tấc, và kẻ hở giúp tôi thoát ra hẹp đến mức nào. 

Tôi sực tỉnh bởi một bàn tay nắm cổ tay tôi giật mạnh và tôi thấy mình đang nằm trên nền đá của một hành lang nhỏ, trong khi một người phụ nữ đang cúi xuống bên tôi, lay mạnh người tôi bằng tay trái, còn tay phải cầm cây nến. Đó chính là người phụ nữ tốt bụng đã cảnh báo tôi lúc trước mà tôi cố tình lờ đi. 

"Chạy đi, chạy đi! - Cô ta kêu không ra hơi - Họ sẽ đến đây bây giờ. Họ sẽ biết ông không ở trong đó. Đừng có lãng phí thời gian nữa, chạy đi!". 

Lần này, tôi không còn coi thường lời khuyên của cô ta nữa. Tôi chạy tập tễnh theo cô ta dọc hành lang xuống cầu thang xoắn, dẫn tới một lối đi rộng và đúng lúc chúng tôi đến nới tì có tiếng chân chạy rầm tập và tiếng la hét của hai người, một vọng ra từ tầng chúng tôi đang đứng và một từ tầng dưới. Người dẫn đường giúp tôi dừng lại và có vẻ như không biết làm sao. Sau đó cô ta đẩy cánh cửa dẫn vào một buồng ngủ, ngoài cửa sổ trăng sáng vằng vặc." 

"Đó là cơ hội duy nhất của ông- Cô ta nói - Nó hơi cao nhưng ông cũng có thể nhảy xuống được" 

Vừa nói, cô ta vừa nhìn vào cuối lối đi. Ở đó tôi thấy đại tá Lysander Stark đang chạy lại với chiếc đèn lồng và một vũ khí trong giống như một con dao phay. Tôi lao qua buồng ngủ, đẩy mạnh cửa sổ và phía dưới cao không dưới 30 sải. Tôi leo lên bệ cửa nhưng còn chần chừ chưa nhảy ngay, cho đến khi tôi đã chạm tới ranh giới gữa sự sống và kẻ đuổi theo tôi. Nếu cô ta gặp nguy hiểm thì dù bất cứ giá nào tôi cũng quay lại cứu cô ta. Ý nghĩ đó chỉ kịp thoáng qua trong đầu tôi khi viên đại tá đuổi tới cửa ra vào, lao qua cô ta, hất cánh tay đang cố níu ông ta lại của cô ta. 

"Fritz! Fritz! - cô ta hét lên bằng tiếng Anh - Hãy nhớ lời hứa của anh lần trước. Anh sẽ nói sẽ không bao giờ lặp lại nữa. Ông ta sẽ giữ im lặng! Ôi ông ta sẽ im lặng mà!" 

"Em điên rồi Elise! - Ông ta quát, cô vùng ra khỏi cô - Em sẽ làm hỏng việc mất thôi. Ông ta đã biết quá nhiều. Hãy để anh đi, anh đã nói rồi đấy!". Ông ta đã đẩy cô sang một bên và chạy cửa sổ, chém tôi bằng một thứ vũ khí nặng nề. Tôi đã buộc phải trèo xuống và đang bám tay vào bậu cửa, treo mình lơ lửng. Khi ông ta chém, tôi cảm thấy đau buốt, nới lỏng dần tay ra và rơi xuống khu vườn bên dưới. 

Tôi chỉ hơi xây xát chứ không bị đau bởi cú ngã, vì vậy tôi tự gượng dậy và khó nhọc chạy trốn, len lỏi giữa các bụi cây vì tôi hiểu rằng mối nguy hiểm vẫn còn đang ở rất gần. Tuy nhiên, một cảm giác choáng váng và rã rời bao trùm lấy tôi. Tôi liếc xuống bàn tay đang đau nhói và đến lúc đó mới biết ngón tay cái của mình đã bị chặt đứt. Từ chỗ vết thương, máu tuôn ra xối xả. Tôi gắng gượng buộc khăn quanh chỗ vết thương, nhưng lúc đó tai tôi bị ù đi và liền sau đó, tôi lăn ra bất tỉnh giữa hai bụi hoa hồng.  

Tôi không biết mình đã ngất đi bao lâu, nhưng chắc hẳn là một thời gian dài vì khi tôi tỉnh dậy, mặt trăng đã lặn, trời đã sáng rõ. Quần áo tôi ướt sũng sương đêm, còn tay áo thì ướt sũng máu từ vết thương chỗ ngón tay cái. Cảm giác đau buốt làm tôi nhớ lại cuộc phiêu lưu từ hồi đêm, và tôi lại vùng dậy vì cảm thấy nguy hiểm chưa thực sự lùi xa. Nhưng trước sự sửng sốt của tôi, chẳng có ngôi nhà lẫn vườn nào đấy cả. Tôi đã đang nằm bên lề đường cao tốc, và phía dưới kia là dãy nhà dài. khi tôi đến nơi tôi mới nhận ra đó chính là nhà ga mà tôi đã đến đêm hôm trước. Nếu không phải vì vết thương trên tay thì chỉ riêng những chuyện xảy ra suốt những giờ phút kinh hoàng vừa qua có lẽ chỉ có thể là cơn ác mộng. 

Hơi ngạc nhiên, tôi đi vào nhà ga và hỏi về chuyến tàu sáng. Gần một tiếng nữa sẽ có một chuyến đi tới Reading. Tôi nhận ra người khuân vác đêm qua vẫn đang làm việc như khi tôi tới. Tôi hỏi anh ta có biết gì về đại tá Lysander Stark không? Cái tên hoàn toàn xa lạ với anh ta. Tôi hỏi anh ta có trông thấy cỗ xe ngựa đã đợi tôi đêm qua không? Anh ta cũng trả lời là không thấy. Tôi còn hỏi có đồn cảnh sát nào gần đây không và được biết có một đồn cảnh sát cách đó 3 dặm. 

"Tôi không thể đi xa thế được. Tôi rất mệt và yếu. Tôi quyết định đến lúc về thị trấn sẽ kể lại câu chuyện này cho cảnh sát. Tôi đến nơi thì đã hơn 6 giờ rưỡi, và việc đầu tiên phải làm là tìm một bác sĩ băng bó lại vết thương, và ông bác sĩ tốt bụng này đã đưa tôi đến tận đây. Đó là tất cả mọi chuyện, tôi sẽ làm theo những gì ông khuyên tôi". 

Cả hai chúng tôi đều phải ngồi im sau khi nghe câu chuyện kỳ lạ này. Lát sau, Sherlock Holmes lôi từ giá sách cồng kềnh của anh xuống một cuốn sách mà trong đó mà trong đó có những mẫu tin anh cắt ra từ báo chí. 

- Trong này có một thông báo mà tôi nghĩ sẽ làm anh hứng thú - Holmes nói - Một năm trước đó đã được in trên các báo.Anh nghe nhé: 

"Ông Eremiah Hayling, 26 tuổi, kỹ sư thủy lực học đã mất tích ngày mùng 9 tháng này. Ông rời nhà lúc 10 giờ đêm và từ đó không có tin tức gì. Khi đi, ông ta mặc. .."v v... 

Ha, nó trùng với lần gần đây nhất viên đại tá muốn kiểm tra lại cỗ máy của ông ta. Tôi bắt đầu có hứng thú rồi đấy. 

- Lạy chúa tôi! - Bệnh nhân của tôi kêu lên - Điều đó cũng giải thích điều mà cô gái đã nói. 

- Không nghi ngờ điều gì nữa. Rõ ràng là viên đại tá là một kẻ lạnh lùng và tàn bạo, hắn không muốn có gì cản trở kế hoạch của hắn, giống như bọ cướp biển sẽ không để ai sống sót trên con tàu chúng cướp được. Bây giờ mỗi giây phút đều rất quý báu, vì vậy nếu ông đồng ý thì chúng ta sẽ cùng tới Scotland Yard và khởi hành tới Eyford. 

Khoảng 3 giờ sau chúng tôi đã ở trên đoàn tàu chạy từ Reading tới làng Berkshine nhỏ bé. Tất cả chúng tôi gồm có Sherlock Holmes, người kỷ sư thủy lực, thanh tra Bradstreet của Scoland Yard, một cảnh sát mặc thường phục. Bradstreet vừa trải ra trước mặt mọi người một tấm bản đồ khu vực và đang bận rộn với việc vẽ một vòng tròn bằng com-pa, tâm là Eyford. 

- Nhìn này - Ông ta nói - Đây là vòng tròn bán kính 10 dặm quanh ngôi làng. Địa điểm chúng ta cần phải tìm là một chỗ nào đó gần đường kẻ. Anh đã nói là 10 dặm phải không?. 

- Vâng, khoảng 1 giờ đi xe ngựa. 

- Và anh cho rằng rắng họ đã đưa anh đi vượt qua quãng đường đó quay trở về khi anh bất tỉnh sao? 

- Chắc chắn họ đã làm vậy. Tôi nhớ mang máng là đã được xốc lên và thả xuống ở đâu đó. 

- Điều tôi không hiểu nổi - tôi nói - là tại sao họ lại thả cho anh khi họ thấy anh bất tỉnh trong vườn. Có lẽ chúng nể lời van xin của người phụ nữ đó. 

- Tôi không nghĩ thế. Tôi chưa bao giờ thấy ai có bộ mặt không chút mủi lòng như vậy. 

- Rồi chúng tôi sẽ sớm tìm ra lý do thôi. - Bradstreet nói - Đây, tôi đã vẽ xong vòng tròn, giá mình biết được câu chuyện chúng ta đang điều tra xảy ra ở điểm nào trên đó. 

- Tôi nghĩ tôi có thể chỉ đích danh chỗ đó. - Holmes trầm ngâm nói. 

- Thật không? - Viên thanh tra reo lên - Ông đã suy luận được rồi kia à? Đến đây xem chúng ta có cùng ý tưởng không nhé. Tôi nghĩ là ở phía nam, vì khu này rất hoang vắng. 

- Còn tôi cho nó ở phía đông. - người bệnh nhân nói. 

- Tôi là cho là ở phía tây. - Viên cảnh sát mặc thường phục nhận định - Ở đó có vài ngôi nhà nhỏ tĩnh mịch. 

- Còn tôi nghĩa là phía Bắc - Tôi nói - bởi vì đó không có đồi núi, mà anh bạn của chúng ta thì nói không thấy cỗ xe ngựa lên dốc lần nào. 

- Thế đấy! - Viên thanh tra cười và nói - Có quá nhiều ý kiến khác nhau. Mọi người bỏ phiếu cho ai đây?. 

- Các ngài đều nhầm cả. 

- Nhưng không nhầm tất cả được. 

- Thế mà có thể đấy. Đây là ý kiến của tôi - Holmes đặt ngón tay vào chính giữa vòng tròn - Đây chính là nơi chúng ta sẽ tìm họ. 

- Thế còn chuyến đi dài 12 dặm thì sao? - Hatherley sửng sốt. 

- 6 dặm đi và 6 dặm về. Không có gì đơn giản hơn thế.Chính anh nói rằng con ngựa khoẻ khắn và bóng mượt khi anh tới nơi mà. Làm sao nó khoẻ thế được khi chạy hết quãng đường khó khăn dài 12 dặm? 

- Đây đúng là trò đánh lạc hướng - Beadstreet trông có vẻ trầm ngâm - Không còn nghi ngờ gì về hành vi phạm pháp của băng nhóm này. 

- Hoàn toàn không - Holmes nói - Chúng là bọn đúc tiền giả với quy mô lớn, và đã dùng cỗ máy với mục đích trộn chất liệu thay thế cho bạc. 

- Chúng tôi được biết có một băng nhóm làm chuyện này - Viên thanh tra nói - Chúng đã biến đồng tiền nửa curon thành đồng 1000. Chúng tôi đã lần theo dấu vết của chúng đến tận Reading nhưng rồi mất hẳn vì chúng đã xóa dấu vết bằng cách làm chúng tôi nghĩ rằng bọn chúng đã giải nghệ. Nhưng giờ thì nhờ dịp may này, tôi cho rằng chúng tôi sẽ tóm được chúng. 

Nhưng viên thanh tra đã nhầm vì băng tội phạm đó cuối cùng đã thoát khỏi sự trừng phạt của công lý. Khi chúng tôi tới được ga Eyford,chúng tôi thấy một cột khói khổng lồ bốc lên từ sau những lùm cây nhỏ ngay cạnh đó, bay lơ lửng trên mặt đất giống như một chiếc lông vũ của con đà điểu không lồ. 

- Một ngôi nhà bị cháy à? - Bradstreet hỏi khi đoàn toàn hú còi tiếp tục chuyển bánh. 

- Đúng vậy thưa ngài. - Người quản lý ga đáp 

- Ngọn lửa bùng lên từ bao giờ? 

- Hình như từ đêm qua thưa ngài, nhưng nó càng lúc càng như cháy to, toàn bộ căn nhà chìm trong biển lửa. 

- Đó là nhà ai vậy? 

- Của bác sĩ Becher. 

- Có phải - người kỹ sư ngắt lời - đó là một người Đức gầy gò với cái mũi dài và nhọn không? 

Người quản lý ga cười xòa khi trả lời: 

- Không phải, thưa ông. Bác sĩ Becher là người Anh, và ở cái xứ đạo này không có ai có cái áo gi-lê đẹp hơn của ông ta. Nhưng có một người đàn ông sống cùng với ông ta, theo tôi hiểu đó là một bệnh nhân người nước ngoài, có lẽ đến cả con bò Bershine cũng không làm gì nổi ông ta. 

Người quản lý chưa kịp nói hết câu thì tất cả chúng tôi đã đồng loạt kịp chạy về hướng đám cháy. Con đường nhỏ dẫn lên đỉnh một ngọn đồi thấp và trước mắt chúng tôi là toà nhà rộng lớn quét vôi trắng, lửa vẫn phụt ra từ tất cả các khe hở và cửa sổ, trong lúc đó, 3 xe cứu hỏa ở trong vườn vẫn đang cố gắng để dập tắt ngọn lửa. 

- Đúng là nó rồi! - Hatherley kêu lên sửng sốt - Có cả con đường trải sỏi, và cả những bụi hồng mà tôi đã nằm lên... Cửa sổ thứ hai là chỗ mà tôi đã nhảy xuống. 

- Vậy là chí ít anh cũng đã trả thù được chúng - Holmes nói - Không nghi ngờ gì nữa, cây đèn dầu anh để lại trong máy nén đã bắt lửa vào những bức tường gỗ, còn chúng thì quá chú tâm vào việc kiếm anh nên không phát hiện ra đám cháy kịp thời. Bây giờ thì anh hãy cố mở to mắt mà tìm những "người bạn" của anh đêm qua trong đám đông kia, mặc dù tôi sợ họ đã cao chạy bay xa từ lâu rồi. 

Và nỗi lo ngại của Holmes đã trở thành hiện thực vì từ đó đến nay không hề có tin tức nào về người phụ nữ xinh đẹp, gã người Đức dữ tợn hay người đàn ông người Anh trầm tĩnh. Sáng sớm hôm đó, một người nông dân bắt gặp một cỗ xe ngựa, trong đó có chở một vài người và những chiếc hòm rất cồng kềnh lao nhanh về hướng Reading, nhưng đến đó thì mọi dấu vết của những kẻ trốn chạy đều biến mất, và bộ óc thông minh kiệt xuất của Holmes cũng chịu không tìm ra một manh mối nào mà chúng ẩn náu. Những người lính cứu hỏa đã rùng mình hoảng sợ với cách bày trí lạ lùng trong căn nhà, và còn khiếp sợ hơn nữa khi tìm thấy ngón tay mới bị cắt lăn lóc trên bậu cửa sổ tầng hai. Khi mặt trời lặn, những nỗ lực của họ cuối cùng cũng có kết quả, ngọn lửa đã bị thuần phục nhưng rồi cả mái nhà cũng sụp xuống, và cả ngôi nhà chỉ còn lại đống đổ nát. Trừ mấy cái xi-lanh khổng lồ và đường ống sắt thì không còn sót lại một chút dấu vết nào của cỗ máy đã gây ra kinh hoàng cho viên kỹ sư. Những đống niken và thiếc lớn được tìm thấy trong nhà kho, nhưng tuyệt nhiên không có một đồng xu nào, điều này giải thích cho sự hiện diện của những chiếc hòm cồng kềnh đã được đề cập bên trên. 

Bằng cách nào mà người kỹ sư thủy lực của chúng ta được đưa từ khu vườn tới nơi anh ta tỉnh lại có lẽ sẽ mãi mãi là một điều bí ẩn nếu như không nhờ lớp đất mùn xốp đã cho chúng tôi biết toàn bộ câu chuyện. Rõ ràng anh ra đã được đưa đi bởi hai người, một người có bàn chân rất nhỏ và người kia có bàn chân rất to bình thường. Tóm lại, rất có thể gã đàn ông kia người Anh trầm tĩnh, người có vẻ đỡ tàn bạo và băng giá hơn người cộng tác của hắn, đã giúp người phụ nữ đưa người kỹ sư đang bất tỉnh, thoát nạn. 

- Chà, - người kỹ sư nói vẻ tiếc rẻ khi chúng tôi lên tàu trở về Luân Đôn, - đó quả là một công việc kinh khủng! Tôi đã mất ngón tay cái và mất cả 50 đồng vàng tiền công, vậy mà tôi đã được những gì chứ? 

- Một vố nhớ đời. - Holmes nói và cười phá lên - Về một khía cạnh nào đó thì nó rất có giá trị, anh biết đấy, anh chỉ cần kể lại câu chuyện và thế là sẽ trở nên nổi tiếng bởi lần thoát chết ngoạn mục đó.

Vụ tai tiếng của xứ Bohemia

Với Sherlock Holmes, cô ấy luôn là một người phụ nữ. Tôi ít khi nghe thấy anh đề cập đến cô ấy dưới hình thức khác. Trong mắt anh, cô ấy vượt hơn hẳn mọi người khác bởi vẻ nữ tính. Đó không phải là một tình cảm yêu đương dành cho Irène Adler. Đó là một cảm xúc trái ngược lại với sự điềm tĩnh, lạnh lùng và chính xác đến tuyệt đối của Holmes. Tôi biết anh đã từng có những lý luận sắc bén và sự quan sát tinh tế không ai có được nhưng chính cảm xúc ấy đã làm anh sai lạc. Anh không còn nói đến cảm xúc lãng mạn và cũng thôi những lời chế nhạo. 

Gần đây tôi ít gặp Holmes. Từ khi tôi lấy vợ, chúng tôi sống mỗi người một ngả. niềm hạnh phúc riêng tư tuyệt vời, những mối quan tâm về gia đình hiện lên xung quanh một người lần đầu tiên làm chủ cơ ngơi của mình, cũng đủ chiến hết sự chú ý của tôi. Trong khi đó, Holmes vẫn ở tại phố Baker, vùi đầu vào đống sách cũ của mình, hết tuần này sang tuần khác, mang hết khả năng và tài quan sát của mình để tháo gỡ những vụ án mà cảnh sát đã đầu hàng. 

Đêm 20 tháng Ba năm 1888, tôi đang trở về nhà sau một chuyến đi thăm bệnh ngang qua phố Baker. Khi đi qua cánh cửa nhà quen thuộc, bỗng nhiên tôi muốn gặp Holmes. Phòng anh đèn sáng sáng choang, và khi nhìn lênn, tôi thấy cái dáng gầy gầy đi qua hai lần, bóng in lên tấm rèm. Anh bước đi nhanh nhẹn, hăm hở, đầu cuối xuống ngực, hai tay bắt chéo sau lưng. Tôi rung chuông và được đưa vào căn phòng mà xưa kia tôi đã chiếm một phần. 

Không nói một lời, anh vẫy tôi đến chiếc ghế bành, ném cho tôi hộp thuốc xì gà và trỏ vào chiếc lò ga trong góc. Rồi anh đứng trước lò sưởi, nhìn tôi từ đầu đến chân. 

- Hôn nhân hợp với cậu đấy, Watson ạ. Cậu đã lên 7 cân rưỡi kể từ lần sau cùng ta gặp nhau. 

- Bảy thôi. 

- Quả thế. Lẽ ra tớ phải suy nghĩ thêm một chút. Cậu chưa nói cho tớ biết là cậu đã hành nghề trở lại đấy nhé! 

- Phải. 

- Mới đây cậu bị ướt sũng; cậu có một cô hầu gái vụng về và bất cẩn nhất trên đời. 

- Đúng là hôm thứ năm, tớ có đi bộ ở vùng quê, nhưng mà tớ đã thay quần áo rồi. Còn về người giúp việc, cô ta quả thật bất trị, và nhà tớ đã cho cô ta nghỉ việc. Nhưng, cậu suy diễn như thế nào? 

Anh cười khúc khích và xoa hai bàn tay vào nhau: 

- Phía bên trong chiếc giầy chân trái của cậu có sáu nhát cắt gần như song song với nhau. Rõ ràng là những đường cắt đó gây ra do một người bất cẩn khi chà xát xung quanh mép gót giầy để lau bùn. Như thế chứng tỏ, cậu vừa gặp thời tiết xấu, vừa có một cô hầu gái rất kém. Còn về chuyện hành nghề thì...Nếu có một người nào đó bước vào phòng tớ mà có mùi iode với một chấm nitrate bạc trên ngón tay trỏ của bàn tay phải và một chỗ phình ra trên cái mũ chóp cao - cho thấy nơi ông ta đã gắn cái ống nghe - thì tớ sẽ là một thằng ngu nếu không nói ngay được rằng ông ta là đồ đệ của Hippocrate. 

Tôi không thể nhịn cười. 

- Khi cậu đưa ra những ký lẽ, thì sự thể luôn luôn hiện ra với tớ một cách giản dị đến mức buồn cười, thậm chí tớ nghĩ là mình cũng tự suy diễn được dễ dàng. Tuy vậy, mỗi lần cậu đưa ra một ví dụ mới, thì tớ lại hoàn toàn mù tịt nếu cậu không giảng giải phương pháp của cậu. Tớ không nhìn thấy sự việc như cậu chăng? 

- Có chứ, - Holmes trả lời, vừa châm điếu thuốc vừa ngả mình xuống ghế - Cậu có nhìn thấy nhưng cậu không quan sát. Ví dụ, cậu thường thấy những bậc thang từ hành lang lên đến phòng này chứ? 

- Thường thấy. 

- Thường như thế nào? 

- Ồ, có đến hàng trăm lần. 

- Vậy nó có bao nhiêu bậc? 

- Bao nhiêu ư? Tớ không biết? 

- Đó, thấy chưa? Cậu đã thấy nhưng cậu không quan sát. Còn tớ, tớ biết chắc có 17 bậc vì tớ vừa thấy vừa quan sát nữa. Tiện thể, cậu xem, có thề cậu sẽ thích thú đấy - Anh ném cho tôi một tờ giấy dày màu hồng đang nằm mở ra trên bàn - Nó đến trong chuyến thư vừa rồi. hãy đọc to lên.Mảnh giấy không đề ngày thàng, không có cả chữ ký và địa chỉ 

"Sẽ đến thăm ông tối nay, vào lúc 8 giờ kém 15. Một người đàn ông muốn hỏi ý kiến ông về một vấn đề rất quan trọng. Những việc làm mới đây của ông nhằm phục vụ cho một trong những dòng hoàng tộc ở châu Âu đã cho thấy ông là một người đáng tin cậy. Thành tích này của ông chúng tôi đã từ khắp nơi nghe thấy... Vậy ông hãy ở trong phòng ông vào giờ đó, và xin đừng phật ý nếu người khác của ông mang mặt nạ." 

- Đây quả thực là một vụ bí hiểm. Theo cậu, nó có ý nghĩa gì? 

- Hiện tớ chưa có dữ kiện. Lập giả thuyết khi chưa có dữ kiện là một sai lầm nghiêm trọng. Còn về mảnh giấy này, cậu có suy diễn gì không? 

Tôi quan sát mảnh giấy và chữ viết 

- Người đàn ông này có vẻ khá giả - Tôi nhận xét, cố gắng bắt chước tiến trình lý luận của Holmes - Thứ giấy này rất đắt giá. Chất giấy bền và cứng một cách đặc biệt.- 

Đặc biệt. Đúng như thế, không phải là giấy sản xuất tại Anh. Đưa lên ánh sáng thử xem. 

Tôi làm theo lời anh và thấy một chữ "E" lớn với một chữ "g" nhỏ, chữ "P" và một chữ "G" lớn với một chữ "t" nhỏ lồng vào nhau 

- Cậu suy ra được điều gì? 

- Chắc chắn là tên nhà sản xuất. 

- Không phải đâu. Chữ "G" và chữ "t' là viết tắt của "Gesellschaft", tiếng Đức có nghĩa là "Công ty". Nó giống như ta thường dùng chữ "Co." vậy. "P" dĩ nhiên thay cho "Papier". Bây giờ đến chữ "Eg.". Tra trong Từ điển địa lý xem sao.- Anh lấy xuống một quyền sách to tướng từ trên kệ sách - Eglow, Eglonizt... Đây rồi, Egria. Một vùng nói tiếng Đức, tại xứ Bohemia, cách Carlasd không xa. Nổi tiếng nhờ Wallensten tạ thế tại đó, và nhờ có rất nhiều nhà máy thủy tinh, nhà máy giấy. Ha ha, bạn ơi, bạn có thấy gì không? 

- Giấy sản xuất tại Bohemia. 

- Chính xác. Và người đàn ông viết những dòng chữ này là một người Đức. Cậu có thấy cấu trúc câu "Thành tích này của ông chúng tôi đã từ khắp nơi nghe thấy". Người Pháp và người Nga không có cách viết như vậy. Chỉ có người Đức mới sử dụng động từ ở cuối câu. Bởi vậy, bây giờ chỉ cần tìm xem cái gã người Đức thích đeo mặt nạ này muốn gì. 

Trong khi anh nói, có tiếng vó ngựa lọc cọc và tiếng xe nghiến trên mặt đường, theo sau là tiếng chuông giệt mạnh. Holmes húyt sáo: 

- Một cặp, theo tiếng động - Anh nói, nhìn ra cửa sổ - Một xe song mã và một cặp ngựa đẹp. Vụ này kiếm được khá tiềng đấy, Watson ạ. 

- Thôi, tớ xin phép cáo từ vậy. 

- Bạn ơi, cứ ngồi đây. Vụ này hứa hẹn đấy. Bỏ qua rất phí. 

- Nhưng còn ông khách của cậu ... 

- Đừng bận tâm đến ông ta. Có lẽ tớ cần sự trợ giúp của cậu và ông ta cũng thế. Hãy ngồi xuống đi và theo dõi xem. 

Tiếng bước chân chậm rãi và nặng nề vang lên trên cầu thang và nơi hành lang, ngừng lại ngay phía ngoài cửa lớn. Rồi tiếng gõ mạnh. đầy uy quyền. 

- Xin mời vào - Holmes nói. 

Một người đàn ông bước vào. Ông ta cao gần 6 feet rưỡi, có bộ ngực và tay chân to lớn của một chàng Hercules. Y phục đắt tiền, diêm dúa, một cái áo choàng dài màu xanh đậm, choàng qua hai vai, được thêu bằng lụa màu ngọn lửa. Giầy ủng cao lưng chừng bắp đùi, ống ủng được viền bằng lông thú đắt tiền. Ông cầm trên tay một chiếc mũ rộng vành, đeo mặt nạ che phần trên mặt, kéo dài xuống tận hai gò má. 

- Ông nhận được mảnh giấy của tôi rồi chứ? - Ông ta hỏi bằng giọng trầm, khàn khàn, phát âm rõ rệt là giọng Đức, ông ta nhìn tôi rồi lại nhìn Holmes, hình như không biết phải nói với ai. 

- Xin mời ông ngồi. Đây là bạn và là người cộng sự của tôi, bác sĩ Watson. Tôi được hân hạnh hầu chuyện với ai thế nhỉ? 

- Ông có thể gọi tôi là Bá tước Von Kramm, quý tộc xứ Bohemia. Tôi hiểu rằng, vị này, bạn ông là một người đáng trọng, người tôi có thể tin cậy, phó thác một vấn đề vô cùng trọng đại. Nếu không đúng như thế, thì tôi muốn nói chuyện với một mình ông thôi. 

Tôi nhổm dậy để đi, nhưng Holmes chộp lấy cổ tay tôi và đẩy tôi trở lại ghế. 

- Ông có thể nói trước mặt anh bạn này bất cứ điều gì ông có thể nói với tôi. 

Vị bá tước nhún đôi vai to lớn của ông ta. 

- Vậy thì, trước hết tôi buộc lòng phải xin hai ông giữ hoàn toàn bí mật chuyện này trong vòng hai năm, sau thời gian đó, vấn đề sẽ không quan trọng nữa. 

- Tôi xin hứa - Holmes nói. 

- Xin các ông thông cảm cho việc tôi phải dùng cái mặt nạ này. Con người uy nghi lẫm liệt, chủ của tôi, muốn rằng kẻ thay mặt cho ông phải giữ bí mật chân tướng, và tôi ccó thể thú thật ngay rằng cái tước hiệu mà tôi tự xưng khi nãy, thì không hoàn toàn chính xác là tước hiệu của chính tôi. 

- Tôi biết - Holmes nói giọng tỉnh bơ. 

- Nói trắng ra, vấn đề này có liên quan đến dòng họ Ormstein vĩ đại, những vị vua kế thừa của xứ Bohemia. 

- Điều này, tôi cũng đã biết - Holmes nói nhỏ, ngồi xuống ghế bành và nhắm mắt lại. 

Vị khách của chúng tôi lộ vẻ kinh ngạc liếc nhìn người đàn ông có dáng điệu mệt mỏi, uể oải đang ngồi trước mặt ông ta. Holmes từ từ mở mắt ra và nhìn ông khách to lớn của anh bằng cái nhìn cau có. 

- Nếu Bệ hạ chịu khó nhún mình để trình bày sự việc của ngài, thì tôi mới có thể phục vụ ngài tốt hơn. 

Người đàn ông nhảy lên khỏi ghế và chậm rãi đi lại trong phòng với vẻ hốt hoảng tột độ. Rồi với một cử chỉ tuyệt vọng, ông ta xé ta cái mặt nạ và liệng nó xuống đất. 

- Ông nói đúng - Ông ta kêu lên - Ta là vua. Tại sao ta lại phải tìm cách che dấu điều đó? 

- Đúng thế. Tại sao phải dấu?- Holmes thì thào - Bệ hạ không nói thì tôi cũng đã biết tôi đang hân hạnh hầu chuyện với ngài Wilhelm Gottsreich Sigismond von Ormstein, Đại Công tước xứ Cassel- Falstein, vua kế vị xứ Bohemia. 

- Nhưng xin các ông thông cảm cho - Vị khách nói. Ông ta lại ngồi xuống và đưa tay xoa lên vầng trán - Xin các ông hiểu cho, tôi không quen đích thân làm một công việc như thế này. Song vấn đề quá tế nhị đến mức tôi không thể giao phó cho một ai. Tôi đi thẳng từ Praha đến đây để nghe lời khuyên của các ông 

- Vậy xin bệ hạ hãy trình bày câu chuyện - Holmes nói, lại nhắm mắt lại. 

- Tóm tắt câu chuyện như thế này: Năm năm trước đây, trong một lần thăm viếng Vacsava, tôi đã làm quen với Irène Adler. Cái tên đó chắc không xa lạ với ông. 

- Bác sĩ làm ơn tra giùm tôi quyển danh mục - Holmes nói trong lúc vẫn nhắm mắt 

Đã nhiều năm nay, anh đã thiết lập được một hệ thống hồ sơ, gồm những mục nó về người và việc, đền nỗi khó có một đề tài nào hoặc một nhân vật nào mà anh không thể cung cấp ngay tư liệu. 

- Đưa tôi xem nào - Holmes nói - Hừm! "Sinh tại New Jersey năm 1858. Giọng nữ trầm. Hừm...La Scala, vai nữ chính của Nhà hát Opera Hoàng gia Vacsava. Vâng, đã rời rời sân khấu. ha! Đang sống tại London". Đúng thế, theo tôi biết thì bệ hạ đã dan díu với cô gái trẻ này, đã viết những lá thư tai hại, và bây giờ muốn lấy lại những lá thư ấy, đúng không? 

- Đúng vậy. Nhưng làm thế nào... 

- Có hôn nhân bí mật không? 

- Không. 

- Có giấy tờ pháp lý nào không? 

- Không. 

- Vậy thì nếu cô ta trưng ra những lá thư nọ để tống tiền hoặc với một mục đích khác thì cô ta sẽ chứng minh sự xác thực của chúng như thế nào? 

- Có chữ viết. 

- Úi chà! Có thể giả mạo. 

- Loại giấy viết riêng của tôi. 

- Có thể đánh cắp. 

- Con dấu của tôi. 

- Có thể bắt chước. 

- Tấm hình của tôi. 

- Có thể mua. 

- Chúng tôi chụp chung trên tấm ảnh đấy. 

- Ôi chao! Thật tai hại! Bệ hạ đã phạm phải một sự hớ hênh thật đáng tiếc. 

- Tôi đã yêu điên cuồng. 

- Ngài đã tự hại mình một cách nghiêm trọng. 

- Lúc ấy tôi chỉ là một hoàng thái tử trẻ mới có 30 tuổi. 

- Phải lấy lại. 

- Chúng tôi đã cố hết sức, nhưng đều thất bại. 

- Bệ hạ phải chi tiền. Phải mua lại nó. 

- Cô ta không bán. 

- Vậy phải đánh cắp. 

- Đã 5 lần thực hiện phương án đó. Hai lần tôi thuê những tên trộm lục soát nhà cô ta. Một lần chúng tôi đánh lạc hướng hành lý của cô ta khi cô ta đi du lịch. Hai lần cô ta bị đột kích, nhưng tất cả đều không có kết quả. 

- Không thấy tăm hơi tấm ảnh đâu cả? 

- Hoàn toàn không. 

- Thật là một vấn đề khá rắc rối đối với tôi - Holmes cười, nói. 

- Nhưng đối với tôi, đó là một vấn đền nghiêm trọng - Vị khách trách móc. 

- Cô ta dự định làm gì với tấm ảnh. 

- Để làm hại tôi. 

- Nhưng bằng cách nào? 

- Tôi sắp cưới vợ. 

- Tôi đã nghe chuyện đó. 

- Tôi sắp cưới Clotilde Lothman von Saxe- Meningen, con gái thứ hai của vua Scandinavia. Chắc ông cũng biết lễ giáo khe khắc của gia đình này. Bản thân này cũng là một người nhạy cảm. 

- Còn Irène Adler? 

- Cô ta dọa sẽ gửi tấm ảnh cho gia đình vợ tôi, và tôi biết chắc cô ta sẽ làm. Cô ta có khuôn mặt của một người phụ nữ đẹp nhất nhưng lại có khối óc của một người đàn ông cương quyết nhất. 

- Ngài có chắc là cô ta chưa gửi nó đi. 

- Chắc chắn. 

- Tại sao? 

- Cô ta nói rằng sẽ gửi nó đi vào ngày mà lễ đính hôn được công bố. Đó sẽ là ngày thứ Hai tuần tới. 

- Vậy thì chúng ta chỉ còn có 3 ngày. Bệ hạ vẫn còn lưu lại London chứ? 

- Chắc chắn rồi. Ông sẽ tìm thấy tôi tại khách sạn Langham dưới tên bá tước Von Kramm. 

- Vậy thì tôi sẽ gửi cho ngài một vài dòng để thông báo tiến trình công việc. 

- Xin cho tôi biết tin. Tôi rất sốt ruột. 

- Còn chuyện thù lao thế nào? Thưa ngài? 

- Ông sẽ nhận được ngân phiếu trắng. 

- Tuyệt đối? 

- Tôi chịu mất một địa phận vương quốc của tôi để có tấm ảnh đó. 

- Còn việc chi tiêu hiện giờ? 

Ông vua lấy một cái túi bằng da sơn dương từ bên dưới áo choàng và đặt nó lên bàn. 

- Có ba trăm pound bằng tiền vàng và bảy trăm tiền giấy. 

Holmes nguệch ngoạc ký vào một tờ biên nhận trong quyển sổ tay của anh và trao lại cho ông ta. 

- Còn địa chỉ của cô ta? 

- Biệt thự Briony Lodge, đại lộ Serpentine, St. John s Wood. 

- Một câu hỏi nữa. Tấm ảnh to cỡ cái tráp đựng nữ trang. 

- Đúng thế. 

- Bây giờ, xin tạm biệt Bệ hạ. Tôi sẽ có ngay những tin tức tốt. 

Khi chiếc xe chạy khuất xuống phố, anh nói: 

- Tạm biệt nhé, Watson, chiều mai hãy ghé tôi, lúc ba giờ chiều. Tôi muốn bàn bạc vấn đề nho nhỏ này với anh. 

Đúng ba giờ chiều, tôi đã ở phố Baker nhưng Holmes chưa trở lại. Bà chủ nhà báo cho tôi biết, sáng nay anh đã rời nhà sau tám giờ một chút. Tôi ngồi xuống cạnh lò sưởi, có ý đợi anh. Tôi đã quan tâm sâu sắc đến cuộc điều tra này. Gần bốn giờ chiều thì cửa lớn mở và một tay giữ ngựa có dáng say rượu, tóc tai bờm xờm và có râu mép, mặt đỏ bừng, áo quần xộc xệch bước vào. Mặc dù rất quen thuộc với khả năng hoá trang tuyệt. diệu của Holmes, nhưng phải nhìn đi nhìn lại ba lượt tôi mới chắc chắn đó là anh. Với một cái gật đầu, anh biến mất vào phòng ngủ, năm phút sau anh hiện ra trong bộ đồ bằng vải tuýt chỉnh tề, như thường lệ. Đặt hai tay vào túi, anh duỗi chân ra đằng trước lò sưởi và cười ha hả trong vài phút. 

- Ồ! - Anh kêu lên, rồi cười sặc sụa, cho đến khi nằm rũ ra trong ghế. 

- Cái gì thế, anh bạn? 

- Thật buồn cười. Tôi chắc là anh sẽ không bao giờ đoán được là tôi đã sử dụng buổi sáng như thế nào, và sau cùng tôi đã làm gì. 

- Có lẽ anh đã quan sát những thói quen và ngôi nhà của Irène. 

- Đúng như vậy. Nhưng tiến trình thì hơi khác thường. Tôi rời nhà sau tám giờ một chút đóng vai một anh chàng thất nghiệp. Chẳng bao lâu tôi tìm thấy biệt thự của cô ta. Đó là một biệt thự nhỏ, xinh, có vườn phía sau, mặt tiền được xây nhô ra tận đường cái, có hai tầng. Cửa sổ có ổ khoá tròn. Phòng khách ở phía bên phải, trang bị tiện nghi với những cửa sổ dài xuống gần tới sát sàn, chốt cửa dễ mở. Phía sau không có gì đáng chú ý, trừ ra những cửa sổ nhỏ nơi hành lang, đứng từ nóc cái nhà để xe ngựa có thể với tới. Tôi đi xung quanh ngôi nhà, quan sát nó từ mọi vị trí, nhưng không ghi nhận dược một cái gì đáng kể.Tôi đi thơ thẩn xuống phố và phát hiện ra một cái chuồng ngựa trong một con hẻm chạy xuống cạnh một bờ tường của khu vườn. Tôi giúp những gã giữ ngựa một tay để họ tắm ngựa. Về khoản thù lao, tôi nhận được hai xu, một ly rượu pha, hai mồi thuốc lá và những tin tức mà tôi muốn biết về cô ta. 

- Còn cô ta thì thế nào? 

- Ồ! "Đó là người phụ nữ kiều diễm nhất trên hành tinh". Những người ở xóm chuồng ngựa nói như vậy. Cô ta sống lặng lẽ, hát tại những buổi hoà nhạc, mỗi ngày đánh xe ra khỏi nhà lúc năm giờ sáng, và trở về lúc bảy giờ đúng. Ít khi ra khỏi nhà vào những giờ khác, trừ khi đi hát. Chỉ có một người khách nam giới, nhưng anh ta đến thường xuyên. Đó là ông Norton. Khi tôi đã nghe hết những gì mà tôi cần biết, tôi bắt đầu đi tới đi lui gần biệt thự một lần nữa và xem xét các kế hoạch của tôi. Anh chàng Norton này đến thăm một ngày hai lần với mục đích gì? Phải chăng Irène là thân chủ của anh ta, là bạn, là người yêu? Nếu là thân chủ, có lẽ cô ta đã giao tấm hình cho anh ta giữ. Nếu là bạn thì ít có khả năng đó. 

Tôi phân vân, không biết nên tiếp tục công việc ở nhà cô gái, hay quay sang anh chàng luật sư. Tôi đang cân nhắc mọi vấn đề trong đầu, thì một xe song mã chạy đến biệt thự, cô ta và một gã đàn ông nhảy ra, rất vội vàng, bảo tài xế đợi. Bà quản gia mở cửa, anh ta chạy vụt vào với cái vẻ hoàn toàn tự nhiên như ở nhà mình.Anh ta ở trong nhà khoảng nửa tiếng, tôi có thể thấy anh ta nơi cửa sổ phòng khách, đi đi lại lại, nói năng rối rít và vẫy cánh tay. Về phần cô ta, tôi không nghe thấy gì. Bỗng anh ta hiện ra, trông có vẻ bồn chồn hơn trước. Khi bước lên xe ngựa, anh ta kéo một cái đồng hồ vàng từ trong túi ra và nhìn vào nó, ra dáng sốt ruột. 

"Chạy nhanh, thật nhanh lên" - Anh ta quát to - "Đến ngay nhà thờ Sainte Monique. Nửa đồng guinée, nếu có thể đến trong hai mươi phút?". Xe chạy đi. 

Khi tôi đang tự hỏi có nên theo họ không, thì một chiếc xe nhỏ bé, xinh xắn từ đường hẻm chạy lên. Xe vừa đến nơi thì cô ta chạy bắn ra từ cửa hành lang và nhảy lên xe. 

"Đến nhà thờ Sainte Monique" - Cô ta kêu lên - "Nửa đồng souverain nếu đến đó trong hai mươi phút?" 

Tôi đang tự hỏi, không biết nên chạy theo xe hay leo lên phía sau xe thì có một chiếc xe băng qua đường phố. Bác tài xế nhìn hai lần vào ông khách rách rưới, nhưng tôi đã nhảy vào xe trước khi bác ta phản đối. 

"Đến nhà thờ Sainte Monique" - Tôi nói - "Nửa đồng souverain, nếu đến đó trong hai mươi phút?". Lúc ấy là mười hai giờ kém hai mươi. 

Khi tôi đến, hai chiếc xe với những con ngựa đang thở phì phì và đang ở trước cửa lớn. Tôi trả tiền xe và vội vã đi vào nhà thờ.Trong nhà thờ không có ai ngoài hai người và một ông linh mục. Hình như ông linh mục đang giảng cho họ một điều gì đó. Ba người đứng thành hình một cái nút thắt phía trước bàn thờ. Tôi đi thơ thẩn nơi lối đi hai bên như bất cứ một gã nhàn rỗi nào tình cờ bước vào nhà thờ. Bỗng nhiên, ba người tại bàn thờ quay lại nhìn tôi và Norton chạy ba chân bốn cẳng về phía tôi. 

"Cám ơn Chúa" - Anh ta kêu lên - "Có bác là đủ. Xin bác làm ơn đến đây." 

"Cái gì vậy?" - Tôi hỏi. 

"Xin bác đến giùm cho. Chỉ ba phút thôi. Nếu không thì không đúng phép". 

Tôi gần như bị lôi đến bàn thờ. Trước khi biết mình đang ở đâu, tôi thấy mình lẩm bẩm những câu trả lời (đã được thì thầm vào tai tôi) và thề thốt về những điều mà tôi chẳng biết ất giáp gì cả. 

Nói chung, tôi là người làm chứng cho cuộc hôn lễ giữa cô dâu và chú rể. Dường như lễ cưới của họ có một cái gì đó chưa đúng phép và ông linh mục dứt khoát từ chối làm phép cưới mà không có một nhân chứng bất kỳ nào đó; sự xuất hiện của tôi khiến cho chú rể khỏi mất công chạy ra phố kiếm một chàng phù rể. Cô dâu trao cho tôi một đồng souverain và tôi có ý đeo nó lên dây đồng hồ để kỷ niệm. 

- Đây là một điều bất ngờ, một bước ngoặt của sự việc và rồi cái gì đã xảy ra? - Tôi hỏi. 

- Có vẻ như họ sắp lên đường ngay lập tức, và bởi thế, tôi phải có những biện pháp rất gấp rút và thích hợp. Tại cửa lớn nhà thờ, họ chia tay nhau. "Em sẽ đi xe ra công viên vào lúc năm giờ như thường lệ", cô ta nói, khi chia tay. Tôi không nghe thấy gì nữa. Họ đi xe về hai hướng khác nhau, và tôi cũng đi để thu xếp công việc của mình. 

- Thu xếp cái gì thế? 

- Vài miếng bít tết nguội và một ly nước - Anh nói, tay rung chuông - Tôi bận quá không nghĩ đến chuyện ăn uống. Chiều nay, chắc còn bận rộn hơn nữa. Nhân thể tôi cần được anh giúp đỡ? 

- Rất thú vị. 

- Anh không ngại làm chuyện phi pháp chứ? 

- Hoàn toàn không! 

- Có thể bị bắt giữ, chịu được chứ? 

- Nếu vì một mục đích tốt đẹp. 

- Ồ, mục đích rất tuyệt diệu! 

- Vậy thì sẵn sàng. 

- Tôi rất tin anh. 

- Nhưng anh cần gì ở tôi? 

- Xin lỗi, tôi phải bàn chuyện đó trong khi ăn. Trong hai tiếng đồng hồ nữa, chúng ta sẽ ở hiện trường. Cô Irène sẽ trở về nhà lúc bảy giờ. Chúng ta phải có mặt tại đó để gặp cô ta. 

- Rồi làm gì nữa? 

- Anh cứ để việc đấy cho tôi . Anh không được can thiệp, dù xảy ra chuyện gì đi nữa. Anh hiểu chứ? 

- Hiểu. 

- Công việc bắt đầu khi người ta đưa tôi vào nhà cô ta. Bốn, năm phút sau dó, cửa sổ phòng khách sẽ mở ra. Anh sẽ đứng trụ gần sát cánh cửa sổ mở ấy. 

- Vâng. 

- Anh phải theo dõi tôi luôn. 

- Vâng. 

- Và khi tôi đưa bàn tay lên, anh sẽ ném vào phòng cái mà tôi trao cho anh, và cùng lúc ấy, anh kêu báo động: "cháy, cháy!". 

- Hoàn toàn rõ. 

- Chả có gì khủng khiếp - Anh nói, lấy trong túi ra một cuộn tròn có hình điếu xì gà - Đây là một thứ lựu đạn khói bình thường. Công tác của anh chỉ có thế. Khi anh kêu báo động cháy, nhiều người khác sẽ tiếp tục kêu báo động. Rồi sau đó anh có thể đi bộ đến cuối phố, chờ tôi trong mười phút. 

- Những chuyện đó tôi làm được. 

- Tuyệt lắm! 

Anh biến mất vào phòng ngủ, một vài phút sau hiện ra trong vai một mục sư Tin lành chất phác và dễ mến. Cái mũ đen rộng thùng thình, cà vạt trắng, nụ cười dễ mến, thái độ sốt sắng, ân cần ít ai bì. 

Trời đã hoàng hôn và những ngọn đèn mới được thắp sáng lúc chúng tôi đi đi lại lại phía trước biệt thự. Có một nhóm đàn ông ăn mặc xốc xếch đang hút thuốc và cười đùa, trong một góc có một thợ mài kéo với cái bánh xe của ông ta, hai người gác dan đứng đùa giỡn với một cô vú trẻ, và dăm bảy chàng thanh niên ăn vận bảnh bao đang thơ thẩn lui tới, miệng ngậm xì gà. 

- Anh thấy đó. Bây giờ tấm ảnh trở thành một con dao hai lưỡi. Cô ta không thích ông Norton nhìn thấy nó, cũng như vị vua không muốn vợ sắp cưới của ông ta nhìn thấy. Bây giờ, câu hỏi là chúng ta phải tìm tấm ảnh ở đâu? 

- Nó ở đâu? 

- Nó quá lớn, khó giấu vào áo phụ nữ, chắc cô thì không mang nó bên mình. 

- Vậy nó ở đâu? 

- Nơi người chủ nhà băng hoặc người luật sư. Nhưng phụ nữ chỉ tin tưởng vào chính mình. Vả lại, cô ta đã quyết tâm sử dụng nó trong một vài ngày tới đây, vậy nó phải ở cái nơi mà cô ta có thể lấy được dễ dàng: ngay trong nhà cô ta. 

- Nhưng đã hai lần người ta tìm cách đánh cắp nó rồi kia mà. 

- Ồ, họ không biết cách tìm. 

- Nhưng anh sẽ tìm bằng cách nào? 

- Tôi sẽ không cần tìm. 

- Vậy thì... 

- Tôi buộc cô ta phải chỉ chỗ cất giấu tấm hình. 

- Nhưng, cô ta sẽ từ chối. 

- Cô ta không thể từ chối. Kia kìa, xe cô ta đến đấy! Nhớ lời tôi dặn nhé. 

Khi anh nói, ánh đèn bên hông của một chiếc xe ngựa chiếu ra từ một khúc quẹo của đại lộ. Khi xe đỗ lại, một trong những tên lang thang từ góc phố nhào ra để mở cánh cửa, với hy vọng kiếm được một chút cháo, nhưng lại bị một tên khác chen lấn, hắn ta cũng đã lao tới cùng với một mục đích như vậy. Một cuộc xô xát dữ dội xảy ra. Hai gã gác dan nhảy vào hỗ trợ một tên, còn người thợ mài kéo trợ lực tên kia. Cô gái vừa xuống xe đã bị kẹt vào giữa đám đông. Bọn đàn ông mặt đỏ nhừ đang đánh loạn xạ vào nhau bằng tay và gậy. Holmes nhào vào đám đông để che chở cho người phụ nữ. Nhưng vừa đến gần cô ta thì anh kêu lên một tiếng và ngã xuống, máu chảy ròng ròng xuống mặt. Hai gã gác dan hoảng hốt, bỏ chạy về một phía, và những tên vô lại chạy về phía bên kia, trong khi đó, một số người ăn vận bảnh bao - từ nãy giờ đứng ngoài quan sát - ùa vào trợ giúp người phụ nữ và chăm sóc kẻ bị thương. Irène vội vã đi lên những bậc cấp, song vẫn đứng ở bậc cấp trên cùng, nhìn ra đường phố. 

- Ông ta có bị thương không? - Cô ta hỏi. 

- Ông ấy chết rồi? - Một vài giọng kêu lên. 

- Không, không, ông ta còn thoi thóp - Một người khác quát to - Nhưng ông ta sẽ chết trước khi đến bệnh viện. 

- Ông ta rất dũng cảm - Một người phụ nữ nói - Hẳn chúng nó đã lấy mất cái ví và cái đồng hồ của bà ta, nếu ông ấy không đến cứu. Đó là một bọn cướp táo tợn. À, bây giờ, ông ta đang thở. 

- Không thể để ông ta nằm trên đường phố được. Chúng tôi có thể đưa ông ta vào nhà không, thưa bà? 

- Được xin đi lối này! 

Holmes được đưa vào biệt thự và đặt nằm trong phòng chính, trong khi tôi vẫn quan sát diễn biến từ bên cạnh cửa sổ. Đèn đã được thắp sáng, nhưng các tấm rèm chưa được vén lên, để tôi có thể thấy Holmes nằm trên đi- văng. Trong đời, tôi chưa bao giờ thấy xấu hổ cho bằng khi nhìn thấy người phụ nữ xinh đẹp này, người mà tôi đang âm mưu gài bẫy để chống lại. Cũng thật xấu hổ khi thấy sự tử tế và ân cần biểu lộ ra trong việc chăm sóc kẻ bị thương. Song, nếu rút khỏi vai trò mà Holmes đã giao phó cho tôi, thì tôi lại phản bạn. Tôi lấy quả lựu đạn khói ra khỏi cái áo choàng dài và rộng. Dù sao đi nữa, chúng tôi cũng không gây thương tích cho cô ta. Chúng tôi chỉ ngăn chặn, không cho cô ta làm hại đến người khác thôi. 

Holmes đã ngồi dậy trên đi- văng, tôi thấy anh ra hiệu như một người đang cần không khí. Một cô tớ gái chạy băng tới và mở tung cửa sổ. Cùng lúc ấy tôi thấy anh đưa tay lên. Tôi liền ném quả lựu đạn khói vào phòng và kêu lên: "Cháy! Cháy!". Ngay lập tức đám đông đang đứng đó cùng đồng thanh kêu to: "Cháy! Cháy!". Những dám khói dày đặc cuồn cuộn dâng lên trong phòng và tuôn ra ngoài. Tôi thoáng thấy những bóng người chạy vụt đi, một lát sau đó, nghe giọng nói của Holmes từ bên trong, trấn an mọi người rằng đó chỉ là báo động nhầm. Len lỏi qua đám đông đang hò hét, tôi tìm đường đến góc phố. Mười phút sau, tôi sung sướng thấy cánh tay Holmes đang trong tay tôi. Chúng tôi đi nhanh và im lặng trong một vài phút cho đến khi xuống tới một trong những đường phố yên tĩnh. 

- Anh hành động rất tốt. 

- Anh có tấm ảnh rồi ư? 

- Tôi đã biết nó ở đâu. 

- Làm sao anh biết. 

- Cô ấy chỉ cho tôi, tôi đã nói rồi mà. 

- Tôi vẫn chưa hiểu gì. 

- Anh đã thấy, mọi người trên phố đều là người của tôi. 

- Tôi cũng đoán như thế. 

- Khi cuộc ẩu đả nổ ra, tôi để một chút thuốc màu đỏ trong lòng bàn tay. Tôi chạy vụt ra phía trước, ngã xuống, đập tay lên mặt. 

- Điều ấy, tôi cũng đoán được. 

- Cô ta buộc phải cho tôi vào phòng khách. Tấm ảnh có khả năng nằm giữa phòng ngủ và phòng khách. Người ta đặt tôi lên cái đi- văng. Tôi ra hiệu cần không khí, họ buộc phải mở cửa sổ, và anh đã có cơ hội để hành động. 

- Việc ấy giúp anh như thế nào? 

- Khi người phụ nữ nghĩ rằng ngôi nhà cô ta đang cháy, theo bản năng, cô ta sẽ lao tới cái mà cô ta cho là quý nhất. Một phụ nữ có chồng thì chộp lấy đứa con, cô chưa chồng thì với lấy hộp nữ trang; đối với Irène, cô ta chạy tới dể cứu lấy tấm ảnh. Báo động cháy đã được thực hiện một cách đáng khâm phục. Khói và tiếng reo hò cũng đủ lay động một bộ thần kinh bằng thép. Tấm ảnh ở trong một góc phía sau tấm pa- nô trượt, chính ngay trên dây chuông bên phải. Thoắt một cái cô ta đã ở đó, và tôi kêu to rằng đó là báo động nhầm, cô ta đặt nó vào chỗ cũ, liếc nhìn quả lựu đạn, chạy vội ra khỏi phòng. Tôi đứng dậy, nói lời cáo từ và thoát ra khỏi nhà. Tôi lưỡng lự, không biết có nên lấy tấm ảnh ngay hay không, nhưng người tài xế đã đi vào, ông ta nhìn tôi một cách chăm chú... 

- Và bây giờ? 

- Bọn mình sẽ ghé thăm thân chủ của chúng ta. Có thể nhà vua sẽ thoả mãn khi ngài tự tay lấy lại nó. 

- Bao giờ anh đến đó? 

- Lúc tám giờ sáng mai. Cô ta sẽ chưa dậy, nhờ vậy mà chúng ta rảnh tay để hành động. Tôi phải đánh điện cho nhà vua ngay. 

Chúng tôi đã về tới phố Baker và đã ngừng lại ở cửa lớn. Holmes đang lục túi tìm chìa khoá thì có một người đi ngang qua nói: 

- Chào ông Sherlock Holmes, chúc ông ngủ ngon.Lúc đó có dăm bảy người trên vệ đường, nhưng lời chào hình như đến từ một chàng trai mảnh khảnh trong chiếc áo choàng dài vừa mới vội vã đi qua. 

- Tôi đã có lần nghe giọng nói ấy - Holmes nói, trố mắt nhìn xuống đường phố mờ mờ ánh đèn - Bây giờ, tôi đang tự hỏi, người ấy là ai? 

Đêm ấy tôi ngủ tại phố Baker. Sáng hôm sau, khi chúng úng tôi đang ăn điểm tâm, thì nhà vua chạy vụt vào phòng. 

- Ông đã lấy được nó? - Ông ta kêu lên, nắm chặt hai vai Holmes. 

- Chưa đâu. 

- Nhưng có hy vọng? 

- Có. 

- Vậy thì đi. Xe của tôi đang đợi. 

- Tốt lắm! 

Chúng tôi xuống cầu thang, lên xe ngựa tiến về biệt thự của cô gái. 

- Nàng đã lấy chồng. 

- Lấy chồng? Bao giờ vậy? 

- Hôm qua. 

- Nhưng lấy ai? 

- Một luật sư người Anh. 

- Cô ta không yêu anh ta chứ? 

- Tôi hy vọng là cô ta yêu anh ta. 

- Tại sao lại hy vọng? 

- Bởi vì chuyện ấy sẽ tránh cho Bệ hạ mọi chuyện rắc rối trong tương lai. Nếu người phụ nữ ấy yêu chồng, tức là nàng không yêu Bệ hạ. Nếu nàng đã không yêu Bệ hạ, thì không có lý do gì mà nàng lại can thiệp vào kế hoạch của Bệ hạ. 

- Đúng vậy! Ồ, nếu tôi chọn cô ta làm hoàng hậu, thì cô ta sẽ là một vị hoàng hậu tuyệt vời biết bao? 

Ông ta lại chìm vào im lặng trầm tư, một sự im lặng chỉ bị phá vỡ khi xe chạy đến nơi. 

Cửa biệt thự mở ra. Một người đàn bà đứng tuổi đang đứng trên những bậc thềm. Bà ta nhìn chúng tôi bằng cái nhìn giễu cợt khi chúng tôi từ trên xe bước xuống. 

- Ông là Sherlock Holmes, phải không? 

- Tôi là Holmes - Bạn tôi đáp và nhìn bà ta bằng một cái nhìn dò hỏi, sửng sốt. 

- Thật chẳng sai? Bà chủ tôi bảo rằng thế nào ông cũng ghé đến. Sáng nay ông bà chủ tôi đã lên đường sang châu Âu. 

- Cái gì? - Holmes lảo đảo muốn ngã ra - Cô ta đã rời nước Anh? 

- Vâng! Không bao giờ trở lại nữa. 

- Còn giấy tờ? - Ông vua hỏi, giọng khàn khàn - Tất cả đều bị mất rồi ư? 

- Chúng ta vào xem. 

Anh đi băng qua bà quản gia và chạy vội vào phòng khách. Theo sau là nhà vua và tôi. Đồ đạc tung toé khắp nơi, những cái kệ trống rỗng, những ngăn kéo mở, hình như người phụ nữ đã lục lọi một cách vội vã trước khi ra đi. Holmes lao tới cái dây chuông, kéo cái cửa pa- nô trượt xuống và thọc tay vào, kéo ra một tấm ảnh và một lá thư. Đó là tấm ảnh của chính nàng Irène Adler mặc dạ phục. 

Lá thư gửi cho "Ngài Sherlock Holmes". 

"Ông Sherlock Holmes thân mến, 

Thật ra ông đã hành động rất khéo léo. Ông hoàn toàn đánh lừa được tôi. Cho đến sau khi nghe báo động lửa, tôi vẫn không mảy may ngờ vực. Nhưng, khi tôi đã phát hiện ra tôi đã tự làm lộ chuyện của mình thì tôi bắt đầu suy nghĩ. Từ mấy tháng trước, người ta đã báo cho tôi biết, phải đề phòng ông. Tôi đã được báo tin rằng nếu nhà vua thuê một thám tử, thì chắc chắn người đó phải là ông. Và người ta đã cho tôi địa chỉ của ông. Thế mà, sau cùng ông vẫn buộc tôi phải tiết lộ cho ông cái mà ông muôn biết. Thậm chí, sau khi bắt đầu ngờ vực tôi cũng thấy khó mà nghĩ xấu về ông mục sư tốt bụng. 

Nhưng ông biết đấy, tôi cũng đã được huấn luyện trong nghề diễn viên. Y phục nam giới đối với tôi chẳng có gì xa lạ. Trước đây, tôi thường cải trang để sinh hoạt thoải mái hơn. Nhờ có bác tài xế canh chừng ông, tôi chạy lên tầng trên, mặc y phục của đàn ông rồi theo đến nhà của ông để biết chắc chắn rằng ông đang theo dõi tôi. Hơi liều lĩnh một chút, tôi đã chào ông, chúc ông ngủ ngon giấc, rồi đi đến Temple để gặp chồng tôi. Cảhai chúng tôi đều nghĩ rằng, tốt nhất là tẩu thoát còn hơn ở lại mà bị theo đuổi bởi một đối thủ kinh khủng như ông. Như vậy, ông sẽ tìm thấy chiếc hộc trống không. Còn về tấm ảnh, thân chủ của ông có thể yên tâm. Tôi đang yêu và được yêu bởi một người tốt hơn ông ta. Nhà vua có thể làm những gì mà ông ta muốn, và sẽ không gặp một cản trở nào về phía người phụ nữ mà ông ta đã đối xử tàn tệ. Tôi giữ tấm ảnh chỉ để tự vệ như một thứ vũ khí để chống lại toan tính nào mà ông ta có thể thực hiện được trong tương lai. Tôi để lại một tấm ảnh mà ông ta có thể muốn giữ. Xin chân thành chào ông, ông Sherlock Holmes thân mến! 

Irène Norton, nhũ danh Adler". 

- Thật là một phụ nữ phi thường - Vua xứ Bohemia kêu lên, khi cả ba chúng tôi đã đọc xong lá thư - Cô ta không được ở vào giai cấp của tôi, là một điều rất đáng tiếc? 

- Tôi rất tiếc là không đưa sự việc của ngài đến một kết cục thành công hơn - Holmes nói. 

- Trái lại! Không có gì thành công hơn. Tôi biết rằng lời nói của cô ta chắc như đinh đóng cột. Tấm ảnh đó bây giờ an toàn như thể nó nằm trong lửa vậy. 

- Tôi rất vui khi nghe Bệ hạ nói vậy. 

- Tôi mang ơn ông vô cùng. Xin nói cho tôi biết, tôi có thể đền ơn ông như thế nào? Cái nhẫn này... 

Ông ta tháo cái nhẫn ngọc ra khỏi ngón tay và đặt nó giữa lòng bàn tay. 

- Bệ hạ có một thứ mà tôi cho là quý hơn thế nữa. 

- Ông chỉ cần nói ra. 

- Tấm ảnh này? 

Nhà vua trố mắt nhìn anh, kinh ngạc. 

- Tấm ảnh của Irène à? Sẵn sàng thôi, nếu ông muốn. 

- Xin cám ơn Bệ hạ. Vậy thì, vấn đề đã kết thúc. Tôi trân trọng chúc Bệ hạ một buổi sáng tốt đẹp. 

Holmes cúi chào, và quay đi không nhìn thấy bàn tay nhà vua chìa ra cho anh. 

Xưa nay, anh vẫn thường lấy chuyện thông minh của phụ nữ ra mà đùa cợt. Nhưng gần đây, tôi không nghe anh làm việc đó nữa. Mỗi khi nói về Irène, hoặc khi anh nhắc đến tấm ảnh của nàng, anh luôn luôn gọi nàng bằng danh hiệu cao quý: "Người Phụ Nữ".

Một vụ mất tích kỳ lạ

- Bạn thân mến! - Sherlock Holmes nói khi chúng tôi ngồi cạnh lò sưởi trong căn hộ tại phố Baker - Cuộc sống là sự bí ẩn hơn bất cứ cái gì mà con người có thể khám phá. Chúng ta không thể cảm nhận mọi thứ mà thật sự chỉ là những biểu hiện nhỏ của sự tồn tại. Nếu chúng ta có thể bay ra khỏi cửa sổ, bay lượn trên thành phố này, hãy nhìn vào bên trong những ngôi nhà, nơi những điều bất thường đang xảy ra, sự trùng hợp ngẫu nhiên, các kế hoạch được xếp đặt, những ý kiến mâu thuẫn, móc xích những sự kiện và liên kết chúng lại. Cuối cùng, nó giúp ta hình dung thói quen và thấy trước được kết quả của sự việc. 

- Tuy thế, tôi lại không tin tưởng vào điều đó - Tôi trả lời - Nhiều vụ án được phanh phui trên báo chí đều dựa vào các quy tắc, trần trụi và thô kệch. Theo các báo cáo cảnh sát, sự hiện thực đẩy tới giới hạn tột cùng của nó, và hiệu quả. Nó tường thuật từng yếu tố trực tiếp, không hấp dẫn mà cũng không nghệ thuật. 

- Một sự chọn lọc và sự thận trọng nhất định sẽ sản sinh một hiệu ứng hiện thực - Holmes nhận xét - Đấy chính là cái tồn tại trong các báo cáo của cảnh sát, nơi có quá nhiều sự căng thẳng, có lẽ, ở trên tính vô vị của thẩm phán hơn là ở trên những chi tiết, nơi một người quan sát thấy được bản chất liên kết sống còn của toàn bộ vấn đề. Dựa theo đó, mọi thứ sẽ trở nên không có gì là khác thường. 

Tôi cười và lắc đầu 

- Tôi có thể hiểu suy nghĩ của anh. - Tôi nói. - Tất nhiên, trong vị trí cố vấn và người giúp đỡ không chính thức của mọi người mang đầy màu sắc huyền thoại, trên cả ba lục địa, anh được cho là bí ẩn và kỳ quái. Nhưng ở đây - Tôi nhặt một tờ báo buổi sáng từ dưới nền nhà - Chúng ta thử xem. Tôi đọc ngay tiêu đề đầu tiên nhá. "Một người chồng ngược đãi vợ". Trên nửa cột in, nhưng tôi không cần đọc cũng có thể biết nội dung. Trong này, thể nào cũng có những thứ "người đàn bà khác", "nghiện rượu", "đấm đá", "bầm tím", "em gái xinh xắn", "bà chủ nhà"... Chả có cái gì là hấp dẫn cả. 

- Thật vậy, ví dụ của anh là một trường hợp không may cho lý lẽ của anh, - Holmes nói. Anh cầm lấy tờ báo và đọc tiếp xuống dưới - Đây là vụ ly dị của nhà Dundas, và trên cơ bản những thông tin của nó, tôi sẽ viết lại và liên kết các sự việc mà không đụng đến các yếu tố trên. "Người chồng không nghiện rượu và không có người phụ nữ khác. Vấn đề than phiền là anh ta thường có thói quen khi nổi nóng trong mỗi bữa ăn thì lại lấy hàm răng giả của anh ta và ném vào vợ của anh ta". Nào, có được không? Đây không phải là những yếu tố kích thích trí tưởng tượng đối với một người kể chuyện trung bình. Hút thuốc nhé, bác sĩ. Và anh cũng thấy là bản tường thuật của tôi không nằm trong ví dụ của anh. 

Anh cầm lấy cái hộp đựng thuốc lá bằng vàng. Một viên ngọc tím lớn được khảm trên nắp. Nó hoàn toàn tương phản với cách bài trí đơn giản của căn nhà mà trước đây tôi đã có dịp mô tả. 

- A, - anh nói, - Tôi quên mất là mấy tuần rồi chúng ta không gặp nhau. Đó là một vật kỷ niệm nho nhỏ của ông vua xứ Bohemia đã tặng cho trong vụ Irène Adler. 

- Còn cái nhẫn? - Tôi hỏi, liếc nhìn vật lấp lánh ở trên ngón tay anh ấy. 

- Nó là vật gia bảo của một gia đình Hà Lan từng là thân chủ của tôi, tiếc là tôi không thể tiết lộ cho anh được, dù rằng qua đó anh có thể bổ sung vào bộ sưu tập của anh một hoặc hai vụ án nữa. 

- Lúc này anh có một vụ nào không? - Tôi hỏi với vẻ quan tâm. 

- Cả một tá, toàn là những vụ không quan trọng nên chúng không có một chút hứng thú nào cả. Thường thường chỉ trong những vụ quan trọng, chúng ta mới thi thố được óc quan sát và khả năng phân tích nguyên nhân và hậu quả, khi tội ác càng lớn thì nguyên nhân lại càng giản dị, dễ hiểu, đó là nguyên tắc... Nhưng có lẽ chỉ trong vài phút nữa, chúng ta sẽ có một nữ thân chủ. 

Holmes rời khỏi ghế bành, đến đứng sau bức mành, hướng mắt xuống con đường ảm đạm. Nhìn qua vai anh, tôi thấy một thiếu phụ, thân hình đẫy đà, đang đứng trên lề đường đối diện. Nàng đội nón rộng vành được trang điểm bằng một chiếc lông chim lớn, màu đỏ. Nàng nhìn lên cửa sổ phòng chúng tôi với một vẻ do dự. Thân hình nàng đong đưa. Thình lình, nàng chạy băng qua đường và tiếng chuông cửa reo vang. 

- Tôi đã từng biết loại triệu chứng này rồi - Holmes nói, vừa ném tàn thuốc lá vào lò sưởi - Người thiếu nữ này đang ở trong một tình trạng bối rối vì một vấn đề tình yêu. Nàng muốn được giúp đỡ, nhưng không biết có thổ lộ câu chuyện của mình ra chăng. 

Có tiếng gõ cửa, và người hầu vào thông báo có cô Mary Sutherland đến. Holmes lịch sự đón tiếp nàng. Anh đóng cửa lại, mời nàng ngồi: 

- Thưa cô, với cặp kính cận, cô có cực nhọc lắm không, khi phải đánh máy quá nhiều? 

- Đó là lúc đầu, bây giờ tôi có thể đánh máy mà không cần nhìn vào bàn máy. 

Nàng trả lời một cách tự động, không chú ý đến tính cách đặc biệt của nó. Nhưng vừa nói xong, nàng bỗng giật nẩy mình, đưa mắt nhìn bạn tôi với một vẻ kinh ngạc: 

- Ông Holmes! Phải chăng người ta đã nói với ông về tôi? Nếu không, làm sao ông có thể biết được điều đó? 

- Không có gì quan trọng cả! - Holmes cười đáp - Nghề nghiệp bắt buộc tôi phải biết nhiều điều... Vả lại, nếu không, thì cô đâu có đến đây tìm tôi? 

- Thưa ông, tôi đến tìm ông do lời giới thiệu của bà Etherege ông đã tìm ra được chồng của bà ấy một cách dễ dàng, trong khi mọi người, kể cả cảnh sát, đều cho là ông ta đã chết? Ô, thưa ông Holmes! Tôi không giàu, nhưng mỗi năm tôi được hưởng 100 bảng, ngoài ra tôi còn có tiền công đánh máy. Tôi sẵn sàng trả cho ông bao nhiêu cũng được, miễn là ông tìm ra ông Hosmer Angel giùm tôi. 

- Vì sao cô có vẻ quá hấp tấp vậy? - Holmes đan mười đầu ngón tay vào nhau, và đưa mắt nhìn lên trần nhà. 

Một lần nữa, nàng lại biểu lộ một sự kinh ngạc đến sửng sốt. 

- Ông Windibank, cha của tôi, chẳng quan tâm âm gì đến việc này cả. Ông ấy không muốn tôi báo cảnh sát, cũng không muốn tôi đến gặp ông. Ông ấy nói rằng việc này không có gì nghiêm trọng. Tôi đã nổi giận và chạy thẳng đến ông. 

Holmes hỏi: 

- Cha của cô à? Chắc là cha dượng của cô chăng? 

- Phải! Tôi gọi ông ấy bằng cha, nhưng ông ấy chỉ lớn hơn tôi có năm tuổi. 

- Mẹ cô vẫn còn sống chứ? 

- Vâng. Bà rất khoẻ mạnh. Thưa ông, tôi không được vừa lòng khi thấy mẹ tôi tái giá quá sớm, nhất là tái giá với người đàn ông kém hơn bà đến 15 tuổi. Cha ruột tôi là thợ sửa ống và đặt ống ở Tottenham Court Road. Ông để lại cả một cơ xưởng trị giá 4.700 bảng đang hoạt động tốt. Mẹ tôi tiếp tục điều khiển cơ xưởng này với sự phụ tá của người đốc công là ông Hardy. Nhưng khi bà gặp ông Windibank, bà liền bán cơ xưởng và theo về với ông ấy. 

- Phải chăng số lợi tức hàng năm của cô là do cơ nghiệp của cha cô để lại? 

- Ồ không. Đó là gia tài của chú Ned ở Auckland. Đó là những cổ phiếu New Zealand trị giá tổng cộng 2.500 bảng, với 4,5% tiền lời. Tôi chỉ lãnh số tiền lời đó thôi. 

- Câu chuyện của cô làm cho tôi thích thú. Xem nào! Như thế, mỗi năm cô lãnh được 100 bảng, và tiền công đánh máy. Với hai số tiền ấy, một thiếu nữ độc thân có thể sống thoải mái, thỉnh thoảng đi du lịch hoặc mua sắm một vài món đồ, phải không? 

- Vâng! Nhưng hiện giờ tôi còn ở chung với mẹ tôi và ông Windibank. Do đó tôi để cho hai ông bà hưởng số tiền lời ấy, cho đến khi nào tôi có gia đình riêng. Cứ mỗi quý, ông Windibank đi lãnh số tiền lời của tôi đem về cho mẹ tôi. Còn tôi tôi chỉ tiêu xài số tiền đánh máy. 

- Cô đã cho tôi biết rất rõ ràng về tình trạng của cô - Holmes nói - Và bây giờ, đây là bác sĩ Watson, bạn thân của tôi. Cô đừng e ngại gì cả, cứ tự nhiên kể lại cuộc giao thiệp giữa cô và ông Hosmer . 

Đôi má của nàng hơi ửng đỏ một chút: 

- Khi cha tôi còn sống, các công nhân khí đốt thường gửi thiếp mời cả gia đình tôi đến khiêu vũ. Còn bây giờ họ gửi thiếp mời mẹ tôi và tôi. Ông Windibank chăng bao giờ muốn chúng tôi đi đâu cả. Lần này, tôi nhất quyết đi dự! Ông tìm đủ cách để bác bỏ. Sau cùng, thấy tôi không chịu đổi ý ông ta bèn lên đường đi Pháp công tác cho công ty của ông ta. Mẹ tôi và tôi bảo ông Hardy đưa chúng tôi đi dự buổi khiêu vũ; và tôi đã gặp anh Hosmer ở đó. 

- Từ Pháp trở về, ông bố dượng rất giận dữ khi được biết cô đã dự buổi khiêu vũ hôm đó? 

- Ồ không. Ông ta chỉ cười và nhún vai. Ông ta còn nói rằng không nên cấm một người phụ nữ làm điều gì họ thích, bởi vì có cấm thì họ cũng vẫn làm. 

- Tốt. 

- Ngày hôm sau, Hosmer đến thăm chúng tôi, sau đó chúng tôi có gặp lại ông ấy một lần nữa... Nghĩa là, chúng tôi đã gặp nhau hai lần và đi dạo với nhau. Nhưng khi cha dượng tôi trở về, Hosmer không thể đến nhà thăm tôi nữa. 

- Sao vậy? 

- Bởi vì, cha dượng tôi không thích khách khứa đến nhà. Nhưng tôi nói với mẹ tôi rằng tôi muốn có gia đình. 

- Ông Hosmer không tìm cách gặp lại cô sao? 

- Thế này: cha dượng tôi lại phải đi Pháp trong một tuần lễ. Hosmer viết thư nói rằng nên chờ đợi cho cha dượng tôi đi đã rồi hãy gặp nhau. Trong thời gian chờ đợi, chúng tôi vẫn viết thư cho nhau. Mỗi buổi sáng, tôi đích thân ra hộp thư lấy thư, do đó cha dượng tôi chẳng hay biết gì cả. 

- Vào thời gian đó, cô đã hứa hôn với ông Hosmer chưa? 

- Ồ có, chúng tôi đã hứa hôn với nhau ngay từ buổi đi dạo đầu tiên. Hosmer là thủ quỹ trong một văn phòng ở phố Leadenhall và... 

- Văn phòng nào? 

- Thưa ông, đây chính là điều làm cho tôi hoang mang nhất: tôi không tiết đó là văn phòng nào. 

- Vậy thì thì ông ấy ở đâu? 

- Anh ấy ngủ ngay tại chỗ làm việc. 

- Cô không biết địa chỉ của ông ấy? 

- Không. Tôi chỉ biết đó là phố Leadenhall. 

- Vậy, cô gửi thư đến địa chỉ nào? 

- Đến bưu điện phố Leadenhall, hộp thư lưu trữ. Anh ấy bảo rằng nếu tôi gửi thư đến văn phòng, thì anh ấy sẽ bị các bạn đồng nghiệp chế nhạo. Tôi đề nghị sẽ đánh máy những bức thư của tôi; giống như những bức thư của anh ấy gửi cho tôi vậy. Nhưng anh ấy không chịu, bảo rằng khi đọc những bức thư do chính tay tôi viết, anh ấy có cảm giác như được ở gần bên tôi. Thưa ông Holmes, điều này chứng tỏ anh ấy yêu thương tôi đến mức nào, và luôn luôn quan tâm đến những chi tiết nhỏ. 

- Rất hay! Cô có thể nhớ lại những chi tiết nhỏ nào khác về ông Hosmer không? 

- Thưa, đó là một thanh niên rất nhút nhát. Vì thế, anh ấy thích đi dạo vào một buổi tối hơn là ngay giữa ban ngày. Anh ấy rất nhu mì, ngay cả đến tiếng nói cũng nhỏ nhẹ, dường như lúc nhỏ có bị chứng viêm họng làm cho cổ họng bị yếu đi, do đó anh ấy có một giọng nói hơi thì thầm... không được rõ ràng lắm... Luôn ăn mặc đàng hoàng, sạch sẽ và giản dị... Mắt của anh ấy cũng không được tốt: lúc nào anh ấy cũng phải mang một cặp kính màu. 

- Tốt lắm! Và chuyện gì đã xảy ra khi cha cô trở về? 

- Trước đó, anh Hosmer đến đề nghị cử hành hôn lễ trước khi cha dượng tôi trở về. Anh ấy có vẻ gấp rút lắm, anh ấy bảo tôi đặt bàn tay lên quyển Kinh thánh, hứa rằng sau này dẫu cho có chuyện gì xảy ra, tôi sẽ vẫn luôn luôn trung thành với anh ấy. Mẹ tôi cho rằng đó là một dấu hiệu đẹp đẽ của tình yêu. Ngay từ lúc đầu, mẹ tôi đã có thiện cảm với anh ấy, tôi hỏi cha dượng tôi có ý kiến gì về việc này, bà hứa sẽ dàn xếp với ông ấy, điều này không làm cho tôi thích lắm. Tại sao tôi lại phải xin phép cha dượng tôi để kết hôn. Nhưng tôi cũng viết thư cho ông ấy ở Bordeaux, nơi công ty ông ấy có văn phòng đại diện. Lá thư được gửi trả lại cho tôi ngay trong buổi sáng ngày hôn lễ. 

- Ông ấy không chịu nhận thư à? 

- Không, ông ấy lên đường đi Anh trước khi lá thư đến Bordeaux. 

- Thật không may mắn! Vậy là hôn lễ đã được dự tính cử hành vào ngày thứ sáu vừa qua? 

- Vâng, hôn lễ đã được dự tính cử hành ở nhà thờ St. Saviour s, gần King s Cross và sau đó chúng tôi sẽ dự bữa ăn trưa gia đình tại khách sạn St. Pancras. Hosmer đến nhà đón chúng tôi. Anh đỡ mẹ tôi và tôi lên chiếc xe ngựa có mui, còn anh thì nhảy lên một chiếc khác đang đậu gần đấy. Xe của chúng tôi đến nhà thờ trước. Khi chiếc xe ngựa của anh ấy hiện ra, chúng tôi trông đợi anh Hosmer xuống xe, nhưng trông mãi chẳng thấy. Người đánh xe quay đầu nhìn vào bên trong xe: anh Hosmer đã biến mất. Người đánh xe bảo rằng ông ta chẳng hiểu gì cả, rằng chính mắt ông ta đã trông thấy người khách nhảy lên xe... Chuyện này đã xảy ra hôm thứ sáu vừa qua, và cho đến nay tôi vẫn không được một tin tức gì cả về anh Hosmer. 

- Tôi có cảm giác rằng cô đã bị lừa gạt một cách hết sức bỉ ổi - Holmes nói. 

- Ồ không, thưa ông. Anh ấy quá tốt và quá ngay thật. Này nhé! Suốt cả buổi sáng hôm đó, anh ấy không ngừng lặp đi lặp lại với tôi rằng dẫu cho có chuyện gì xảy ra, tôi phải luôn luôn trung thành với anh ấy, rằng dẫu có một biến cố bất ngờ nào chia cách hai chúng tôi, tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi là của anh ấy, và sớm hay muộn gì anh ấy cũng sẽ tìm lại với tôi. Có lẽ đây là một cuộc nói chuyện thật kỳ dị trong một buổi sáng của ngày hôn lễ. Nhưng những sự việc xảy ra sau đó đã cho chúng ta thấy tất cả ý nghĩa của nó! 

- Như thế theo ý cô thì Hosmer đã gặp phải một tai nạn bất ngờ 

- Thưa phải. 

- Nhưng cô không hề biết gì về cái điều nguy hiểm mà ông ấy đã tiên đoán. 

- Hoàn toàn không. 

- Mẹ cô đã phản ứng như thế nào trong vụ này? 

- Bà rất giận dữ. Bà bảo tôi đừng bao giờ nhắc đến cái tên ấy trước mặt bà nữa. 

- Cô có cho cha dượng biết việc này không? 

- Có. Ông ấy cũng cho rằng có một điều gì đó đã xảy ra. Và ông ấy bảo đảm rằng chỉ trong thời gian ngắn, tôi sẽ được biết tin tức về Hosmer. Ông ấy nói với tôi: "Không có lý do gì một người đàn ông đã đưa con đến tận ngưỡng cửa nhà thờ rồi lại bỏ rơi con một cách ngang xương như vậy?". Thưa ông, tại sao chuyện này lại có thể xảy ra? 

- Tôi sẽ giải quyết vụ này - Holmes nói, vừa đứng dậy - Tôi tin chắc sẽ đạt được kết quả. Nhưng trước mắt, cô hãy cố gắng xóa bỏ cái tên Hosmer ra khỏi tâm trí của cô, hãy quên ông ta một cách hoàn toàn, cũng như ông ta đã hoàn toàn ra khỏi cuộc đời của cô. 

- Vậy... ông nghĩ rằng tôi sẽ không còn gặp lại anh ấy nữa? 

- Không. 

- Nhưng điều gì đã xảy ra cho anh ấy? 

- Tôi sẽ trả lời câu hỏi này sau. Tôi muốn có một bản mô tả đúng đắn hình dạng của ông ấy, và một trong số những lá thư của ông ta. 

- Trên báo Saturday s Chronicle thứ bảy vừa qua có đăng một bản tin "Tìm người mất tích" với những chi tiết về hình dạng của anh ấy. Đây là bản tin được cắt ra và bốn lá thư của anh ấy. 

- Cảm ơn cô. Địa chỉ của cô? 

- 31, Lion Place, Camberwell. 

- Ông Hosmer không hề cho cô biết địa chỉ của ông ấy. Còn cha dượng của cô, ông ấy làm việc ở đâu? 

- Ông ấy làm đại diện thương mại cho công ty Westhouse & Marbank ở phố Fenchurch. 

- Cảm ơn cô. Lời tường thuật của cô rất rõ ràng và đầy đủ. Xin cô nhớ lời khuyên của tôi: "Hãy quên đi tất cả câu chuyện này, đừng bao giờ để nó ám ảnh cuộc đời của cô nữa". 

- Cám ơn ông, thưa ông Holmes. Nhưng không thể được. Tôi phải tin tưởng anh Hosmer. 

Mặc dầu trông nàng có vẻ xoàng xĩnh với chiếc mũ rộng vành kỳ dị và gương mặt hợi ngây ngô chất phác, tấm lòng chung thủy của nàng có một cái gì cao quý làm cho người ta phaả kính trọng. Nàng đặt xấp thư của nàng lên bàn và ra về sau khi hứa sẽ trở lại bất cứ lúc nào chúng tôi cần đến nàng. 

Holmes ngồi im lặng một lúc lâu: hai bàn tay đan nhà, hai chân duỗi thẳng, nhìn đăm đăm trên trần nhà. Rồi anh cúi xuống, cầm lấy cái tẩu đất cũ của anh ấy và mồi thuốc. Sau khi rít một hơi thuốc, anh dựa thẳng người vào ghế bành, một làn khói nhạt tỏa ra, vẻ mặt chìm đắm trong suy tư. 

- Thiếu nữ đó là một sự nghiên cứu khá thú vị. - anh nói - Tôi nghĩ là cô ấy thú vị hơn là vấn đề nhỏ bé của cô ấy. Nào, nhân tiện, anh tìm giúp tôi một bộ hồ sơ cũ. Vụ án Andover hồi năm 1877, và một vụ tương tự ở The Hague hồi năm ngoái. Về ý tưởng thì xưa rồi, tuy nhiên, cũng có một vài chi tiết mới. Trừ phi chính thiếu nữ ấy là bổ ích. 

Tôi đưa ra một nhận xét: 

- Anh đã đọc thấy nơi nàng vô số những điều mà tôi hoàn toàn không thấy được. 

- Không phải là không thấy được, chỉ vì anh không chú ý đến chúng đấy thôi, anh không biết nhìn, chính vì thế mà anh không nắm được cái chính yếu. Nào, bây giờ anh hãy thử mô tả lại nàng cho tôi xem đi. 

- Nàng đội một chiếc nón rộng vành màu xám đá, được trang trí bằng một cọng lông chim màu đỏ gạch. Chiếc áo jacket màu đen có gắn những hạt ngọc trai cũng màu đen. Nàng mặc một chiếc áo dài nâu, sẫm hơn màu cà phê, cổ áo và hai cánh tay áo có một miếng vải lông nhỏ màu đỏ tía. Đôi găng tay màu xám, bị mòn ở ngón trỏ bên mặt. Tôi không quan sát đôi giày của nàng. nàng mang một đôi bông tai nhỏ bằng vàng. 

Holmes vỗ tay khen ngợi, tuy giọng nói của anh có vẻ hơi chế nhạo. 

- Watson, anh tiến bộ nhiều đấy! Sự thật, anh gần như không bỏ sót chi tiết nào cả, ngoại trừ một chi tiết khá quan trọng. Nhưng tôi khen anh đã có cái nhìn đúng về màu sắc. Anh đừng bao giờ tin tưởng vào cái cảm giác tổng quát đầu tiên của mình, mà phải tập trung sự chú ý vào những chi tiết. Khi tôi quan sát một phụ nữ, trước hết tôi nhìn vào hai cánh tay áo. Anh đã nhận xét đúng, nàng có miếng vải lông trên hai cánh tay áo, và vải lông là một yếu tố có ích, bởi vì nó giữ được những dấu vết. Nếu chú ý hơn chút nữa, anh sẽ thấy cái lằn nếp đôi ở phía bên trên cổ tay áo một chút, nơi mà người đánh máy tựa tay vào bàn. Kế đó, quan sát gương mặt nàng, tôi để ý dấu vết của một chiếc kính cặp mũi, tôi bèn đưa ra một nhận xét về tình trạng cận thị của nàng và về chiếc máy đánh chữ, một nhận xét khiến cho nàng phải kinh ngạc vì nó trúng phóc. 

- Tôi cũng kinh ngạc nữa. 

- Sau đó, nhìn đôi giày, tôi phải ngạc nhiên và chú ý. Đó là đôi giày bốt cao cổ, nhưng một chiếc thì chỉ được cài ở hai nút phía dưới, còn chiếc kia thì chỉ được cài ở nút thứ nhất, thứ bà và thứ năm. Khi anh thấy một thiếu nữ ăn mặt sang trọng như thế mà lại ra đường với một đôi giày chưa được cài nút đàng hoàng, anh sẽ đoán biết nàng đã ra đi một cách rất vội vã... 

- Còn gì nữa không? - Tôi rất quan tâm đến những suy luận sắc bén của Holmes. 

- Tôi nhớ rằng cô ấy đã viết trước khi đi nhưng sau khi đã ăn vận xong xuôi. Anh có thể thấy găng tay bị mòn phía bên phải nhưng lại không để ý rằng cả ngón tay lẫn găng tay đều bị lấm mực. Cô ấy đã viết rất vội vã và nhúng bút quá sâu vào bình mực. Điều đó chỉ mới xảy ra sáng nay thôi. Còn nhiều điều thú vị khác nữa, nhưng bây giờ xin anh vui lòng đọc cho tôi bản tin rao vặt mô tả hình dạng của Hosmer. 

Tôi đưa miếng báo cắt đến gần đèn và đọc: 

"Một người đàn ông tên Hosmer Angel đã mất tích vào buổi sáng ngày 14. Cao gần 1 mét 70, thân hình cân đối, nước da vàng, tóe đen, đầu hơi hói, râu mép và râu má rậm. Mang kính màu. giọng nói hơi khó nghe...". 

- Như vậy đủ rồi - Holmes nói - Bây giờ chúng ta hãy xem qua những lá thư... Nội dung của chúng xoàng xĩnh đến phát chán và không cho chúng ta biết gì cả về ông Hosmer. Tuy nhiên, có một chi tiết đáng chú ý... 

- Tất cả những lá thư đó đều được đánh máy... 

- Đúng, nhưng đây là chi tiết quan trọng nhất: ngay cả chữ ký cũng được đánh máy. Bạn hãy xem hai chữ "Hosmer" được đánh máy rất rõ ràng ở phía dưới lá thư. Có ghi ngày tháng, nhưng địa chỉ thì chỉ được ghi một cách mơ hồ là phố Leadenhall. Cái chi tiết về chữ ký này có một ý nghĩa rất quan trọng. 

- Ý nghĩa như thế nào? 

- Có lý nào anh không nhận thấy tầm quan trọng cua nó. 

- Có lẽ ông Hosmer làm thế là để có thể chối bỏ chữ ký của mình trong trường hợp bị đưa ra tòa về tội đơn phương hủy bỏ hôn ước. 

- Không phải như thế. Nhưng tôi chỉ cần viết hai lá thư là sẽ giải quyết xong vấn đề. Lá thứ nhất gửi cho một công ty ở trung tâm thương nghiệp London, lá thứ nhì gửi cho người cha dượng của Sutherland, yêu cầu ông ấy đến gặp chúng ta vào lúc 6 giờ chiều ngày mai. Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy tạm thời xếp cái vấn đề nhỏ bé này vào ngăn tủ và khoá lại. 

Suốt cả ngày hôm sau, tôi mắc bận săn sóc cho một bệnh nhân rất nặng. Mãi đến gần 6 giờ chiều tôi mới được rảnh, liền nhảy lên một chiếc xe ngựa. Khi tôi bước vào, anh đang nằm gọn lỏn trong chiếc ghế bành ngủ gà ngủ gật. Chung quanh anh ngổn ngang vô số những chai lọ, ống nghiệm, và một mùi acid clohidric còn phản phất trong không khí. 

- Thế nào, bạn đã tìm ra chưa? - Tôi hỏi. 

- Tìm ra rồi! Đó là chất Sufat barium. 

- Không, không, tôi muốn hỏi cái vụ bí mật của ông Hosmer kia. 

- À, cái vụ bí mật đó hả? Thế mà tôi cứ tưởng anh hỏi kết quả những thí nghiệm hóa học. Cái vụ đó chả có gì là bí mật cả. Điều làm cho tôi bực tức là trong trường hợp này không có điều luật nào được trù liệu để trừng phạt tên đểu giả đó. 

- Vậy hắn là ai? Và tại sao hắn đã bỏ rơi nàng? 

Holmes mở miệng toan trả lời thì có tiếng bước chân ngoài hành lang và tiếng gõ cửa. 

- Đó là cha dượng của cô Sutherland. Ông ta đã trả lời rằng ông ta sẽ đến đây vào lúc 6 giờ. Xin mời vào. 

Khách là một người đàn ông vạm vỡ, cao trung bình, trạc 30 tuổi. Gương mặt vàng nhạt, trụi lủi, không có râu mép , râu cằm hay râu má gì cả . Ông ta có một vẻ dịu dàng giả tạo. Đôi mắt xám, rất linh hoạt và sắc sảo ném một cái nhìn dò hỏi về phía chúng tôi. Đoạn ông ta đặt nón lên chiếc tủ buýp-phê, hơi nghiêng mình một chút và ngồi xuống chiếc ghế gần nhất. 

- Xin chào ông Windibank. Có phải lá thư đánh máy, xác nhận ông bằng lòng đến đây gặp chúng tôi, là của ông không? 

- Thưa ông, phải. Tôi đến hơi trễ một chút nhưng tôi không làm chủ được thì giờ. Tôi rất lấy làm tiếc rằng con tôi đã đến quấy rầy ông vì cái việc nhỏ nhặt này. Thật vậy, tôi thấy không nên đem chuyện xấu của gia đình mình phơi bày ra cho người ngoài biết. Dĩ nhiên, ông chỉ là một thám tử tư, không dính líu gì cả với cảnh sát, nhưng dẫu sao tôi cũng không thích thấy người ta làm rùm beng lên chung quanh một chuyện của gia đình tôi. Hơn nữa, những chi phí này rất là vô ích, bởi vì làm sao ông có thể tìm ra được anh chàng Hosmer. 

- Trái lại. Tôi sẽ tìm ra được ông Hosmer. 

Ông Windibank giật nẩy mình, để rơi đôi găng tay xuống sàn nhà. 

- Tôi rất mừng được nghe ông báo tin này. 

- Điều đáng ngạc nhiên, là những máy đánh chữ cũng có cá tính riêng biệt của chúng! Những chữ của chúng đánh ra không bao giờ y hệt nhau. Có những chữ có vẻ mòn hơn những chữ khác, có những chữ chỉ mòn có một bên... Này ông, trong lá thư đánh máy của ông gửi cho tôi, tôi nhận thấy trên tất cả những chữ "e" đều có một vết nhòe nhỏ, và tất cả những chữ "t" đều có dấu gạch ngang hơi mờ. Tôi còn đếm được 14 đặc điểm khác, nhưng hai đặc điểm vừa kể, là nổi bật nhất. 

- Ở văn phòng, chúng tôi sử dụng cái máy chữ đó để đánh tất cả những thư tín của chúng tôi, chắc chắn là nó không còn được tốt lắm. 

Trong khi trả lời, đôi mắt sắc sảo của ông ta nhìn Holmes đăm đăm. 

- Và bây giờ, tôi sẽ trình bày cho ông xem một trường hợp thật là thú vị. Đây, bốn lá thư đều được đánh máy. Trong mỗi lá thư, bên trên những chữ "e" đều có những vết nhòe nhỏ, và tất cả những chữ "t" đều có dấu gạch ngang không được rõ. Nếu ông chịu khó lấy chiếc kính lúp của tôi để xem, tôi sẽ chỉ cho ông thấy 14 đặc điểm khác mà tôi đã nói với ông lúc nãy. 

ông Windibank liền đứng phắt lên và chụp lấy chiếc nón của ông ta. 

- Ông Holmes, tôi không có thì giờ rảnh để nói những chuyện tầm phào! Nếu ông có thể bắt gặp được ông Hosmer thì hãy cứ bắt đi, rồi báo tin cho tôi biết. 

- Chắc chắn là như thế? - Holmes đáp, vừa lẹ làng đứng lên khoá trái cửa lại - Ông nên biết rằng tôi đã bắt được Hosmer rồi. 

- Sao? Ở đâu? - Ông Windibank kêu lên bằng một giọng thảng thốt, gương mặt nhợt nhạt nhìn dáo dác khắp chung quanh như một con chuột bị sa bẫy. 

- Ồ không sao... Không sao cả! - Holmes đáp bằng một giọng ngọt lịm - Ông Windibank, bây giờ ông không còn cách nào để thoát được nữa. Tất cả đều đã quá rõ ràng. Nào! Bây giờ ông hãy ngồi xuống và chúng ta sẽ nói chuyện với nhau! 

Ông Windibank ngồi phịch xuống. Gương mặt tái mét, trán ướt đẫm mồ hôi. 

- Pháp... pháp luật không thể làm gì được tôi! - Ông ta nói lắp bắp. 

- Có thể là pháp luật không làm gì được ông. Nhưng hành động của ông thật là vô cùng đê tiện, tàn nhẫn và ích kỷ.... Tôi sẽ kể lại sự việc từ đầu đến cuối và nếu tôi có sai chỗ nào thì ông cứ việc sửa. 

Ông Windibank ngồi thu mình trong chiếc ghế bành, hoàn toàn mất hết tinh thần. Holmes bắt đầu nói, hai tay thọc vào túi quần, hai chân gác lên góc lò sưởi. 

- Người đàn ông đó đã kết hôn với một người đàn bà lớn tuổi hơn ông ta rất nhiều, chỉ vì tiền. Người đàn bà có một cô con gái riêng còn đang sống chung trong nhà với họ, và cặp vợ chồng đó được hưởng số tiền 100 đồng bảng, lợi tức hằng năm của cô gái. Đó là một số tiền khá lớn đối với họ, và họ muốn được hưởng nó mãi mãi. Dĩ nhiên, khi cô gái lập gia đình riêng, người cha dượng sẽ không còn được hưởng số tiền đó nữa, ông ta bèn tìm cách ngăn cản việc lập gia đình của cô gái. 

Thoạt đầu, ông ta ngăn cấm không cho nàng giao thiệp với những chàng trai cùng lứa tuổi. Nhưng sự ngăn cấm này không có hiệu lực được lâu. Một hôm, cô gái nổi lên chống lại sự độc đoán của người cha dượng, và báo cho ông ta biết quyết định của nàng đi dự một buổi khiêu vũ. Trước tình thế này, đầu óc thông minh của người cha dượng liền nghi ra một kế: với sự đồng loã giúp đỡ của bà vợ và lợi dụng tình trạng cận thị của cô gái, ông ta bèn cải trang thành một người đàn ông khác. 

Mang một cặp kính màu, đeo một bộ râu giả, và biến giọng nói bình thường của mình thành một giọng nói thì thầm êm dịu, ông ta đến dự buổi khiêu vũ, làm quen với cô gái và tự giới thiệu mình là Hosmer, thế là người cha dượng đã đóng vai trò một kẻ si tình cô con gái riêng của vợ mình, để gạt ra ngoài bất cứ anh chàng nào muốn lăm le tán tỉnh cô. 

- Lúc đầu, đó chỉ là một trò đùa mà thôi - ông Windibank nói bằng một giọng rên rỉ - Vợ tôi và tôi, chúng tôi không ngờ cô ấy lại có một tâm hồn dễ say mê đến thế. 

- Có lẽ! Nhưng dầu sao, nàng cũng đã say mê ông Hosmer. Tin rằng người cha dượng đang ở bên Pháp, nàng không hề nghĩ có một sự sắp xếp giữa bà mẹ và ông ta để lừa gạt nàng. Và nàng còn say mê ông Hosmer nhiều hơn khi thấy chính mẹ nàng cũng tỏ ra rất có thiện cảm với ông ta. Sau đó hai người đã có những cuộc gặp gỡ, những cuộc đi dạo thân mật và đã đính hôn với nhau. Tuy nhiên sự lừa gạt không thể kéo dài mãi mãi được. Ông Hosmer bèn nghĩ ra một cách kết thúc vụ này như là một bi kịch đột ngột và bí mật, cố ý gây cho cô gái một ấn tượng sâu xa, một xúc động mạnh mẽ để cô không còn nghĩ đến bất cứ một người đàn ông nào khác trong tương lai. Do đó mới có cái màn ông Hosmer yêu cầu cô gái đặt tay lên quyển Kinh thánh thề trọn đời thuỷ chung với ông ta, và cũng do đó mới có những lời nói bóng gió của ông Hosmer về một biến cố bất ngờ có thể xảy ra làm cho hai người phải xa nhau. Ngay trong buổi sáng ngày hôn lễ, Hosmer muốn làm cho cô Sutherland phải yêu thương mình trọn đời, và đặt cô trong tình trạng hoang mang về số phận của người hôn phu mất tích. Mục đích của ông ta là làm cho cô không nghe lời tán tỉnh của bất cứ một người đàn ông nào, ít nhất là trong vòng 10 năm nữa, như thế ông ta sẽ còn được hưởng 100 bảng trong một thời gian nữa. Ông ta đưa nàng đến tận cửa nhà thờ, đến đó tấn bi kịch lừa gạt phải chấm dứt. Chuyện phóng mình ra khỏi chiếc xe ngựa đang chạy thong thả không có gì là khó khăn hết. Ông Windibank, tôi thuật lại câu chuyện từ đầu đến cuối như vậy có sai chỗ nào không? 

Trong khi Holmes mải mê nói, ông Windibank đã trấn tĩnh trở lại. Ông ta đứng lên, cất tiếng cười gằn: 

- Ông Holmes, có thể là ông không sai lầm. Nhưng ông đã thông minh đến thế thì chắc phải hiểu rằng, trong lúc này, nếu có kẻ nào phạm pháp thì đó là ông, chứ không phài là tôi. Từ đầu đến cuối, tôi không hề phạm một điều gì mà pháp luật có thể can thiệp được. Nhưng ông, cho tới khi nào ông vẫn còn khoá chặt cửa phòng này, ông có thể bị thưa về tội hành hung và giam giữ người trái phép. 

- Đúng vậy, ông không có điều gì phạm pháp luật cả - Holmes đáp, vừa mở rộng cửa phòng ra - Mặc dầu vậy, ông vẫn đáng bị đánh đòn; nếu cô gái đó có một người anh hay một người bạn trai, chắc chắn ông sẽ bị một trận đòn nhừ tử. 

Cái cười ngạo nghễ và chọc tức của Windibank làm cho Holmes nổi cơn giận dữ. Anh nói như hét: 

- Hãy nếm thử cây gậy này. 

Anh với tay chụp lấy cây gậy ở gần bên, nhưng gã lưu manh đã ba chân bốn cẳng chạy xuống cầu thang, rồi có tiếng cánh cửa ra vào của ngôi nhà đóng sầm lại. Đứng bên cửa sổ nhìn xuống, chúng tôi thấy gã đang chạy như bay trên lề đường. 

- Đúng là một tên đểu giả mặt dày! - Holmes nói, rồi phá lên cười và buông mình xuống một chiếc ghế bành - Tên này trong tương lai gần sẽ còn phạm thêm nhiều tội ác nữa, cuối cùng thì hắn cũng sẽ đi đến cây cột trreo cổ thôi! Vụ này kể ra cũng không phải là không thú vị. 

- Tuy nhiên tôi thú thật rằng tôi không theo kịp được những suy diễn của anh trong vụ này. 

- Này nhé! Ngay từ lúc đầu, tôi thấy rõ là cái ông Hosmer đó có một thái độ rất kỳ quặc. Và tôi cũng thấy rõ là người duy nhất hưởng lợi trong vụ này là người cha dượng. Thế nhưng hai người đàn ông đó không bao giờ gặp mặt nhau cả. Khi một người xuất hiện thì người kia biến mất; sự kiện này là một chi tiết hướng dẫn rất quan trọng! Và rồi cặp kính màu, bộ râu giả, giọng nói khác lạ với giọng nói của một người bình thường... Khi xem xét đến nhung lá thư đánh máy với chữ ký cũng được đánh máy, tôi thấy những nghi ngờ của tôi là đúng; người gửi những lá thư đó muốn che giấu chữ viết của mình mà cô gái đã quá quen thuộc. Tất cả những chi tiết rời rạc này được sắp xếp lại và phối hợp với nhung chi tiết khác, dẫn dắt sự suy luận của tôi vào một chiều hướng duy nhất. 

- Và anh đã kiểm chứng nhung chi tiết đó như thế nào. 

- Tôi biết ông Windibank làm việc cho công ty Westhouse & Marbank ở Frenchurch. Tôi có bản mô tả hình dạng của Hosmer do cô Sutherland trao cho. Tôi bắt đầu loại bỏ tất cả những gì có thể ngụy tạo được: cặp kính màu, bộ râu, giọng nói, và gửi bản mô tả hình dạng đó đến công ty, yêu cầu họ vui lòng cho tôi biết trong số những người đại diện thương mại của họ có ai phù hợp với hình dạng này không. 

Trước đó, tôi đã chú ý đến những đặc điểm của những lá thư đánh máy, và tôi viết cho Windibank một lá thư gửi ngay đến công ty của ông ta, yêu cầu ông ta đến gặp tôi. Như tôi đã đoán trước, ông ta trả lời tôi bằng một lá thư đánh máy, và lá thư này cũng có những đặc điểm y hệt như những đặc điểm mà tôi đã nhận xét nơi bốn lá thư kia. Đồng thời, tôi cũng nhận được của công ty Westhouse & Marbank một lá thư xác nhận rằng bản mô tả hình dạng của tôi gửi đến hoàn toàn phù hợp với hình dạng của ông Windibank. Tất cả sự việc chỉ giản dị có thế thôi. 

- Còn cô Sutherland. 

- Nếu tôi nói sự thật cho cô ấy biết, cô ấy sẽ không tin đâu. Bạn có nhớ một câu tục ngữ của người Ba Tư không: "Vào hang cọp để bắt cọp con là một điều nguy hiểm; nhưng làm cho một người đàn bà mất hết những ảo tưởng của họ lại càng nguy hiểm hơn".

Người đàn ông môi trề

Một đêm tháng 6 năm 1889, có chuông cửa reo. Tôi nhổm dậy trên ghế, còn vợ tôi thì đặt đồ may vá xuống, khẽ nhăn mặt, bực mình. 

- Một bệnh nhân! Anh sẽ phải đi thôi - Nàng nói. 

Tôi rên rỉ, vì vừa mới trở về sau một ngày mỏi mệt. Có tiếng cửa mở, một vài tiếng nói vội vã và sau đó là những bước chân hối hả. Cửa lớn mở tung ra và một người phụ nữ mặc đồ sẫm màu, che mặt bằng một tấm mạng, bước vào phòng. 

- Xin thứ lỗi cho tôi vì đã gọi cửa vào giờ này - Bà ta bắt đầu nói. Rồi, không kìm được nữa, bà chạy về phía trước, quàng tay lên cổ vợ tôi và khóc nức nở trên vai nàng - Tôi đang có chuyện chẳng lành, rất cần một sự trợ giúp, dù nhỏ bé! 

- Ồ, chị! - Vợ tôi nói, kéo tấm mạng của người khách lên - À! Chị Kate đây mà? 

- Tôi không biết phải làm gì, nên tôi đến chỗ các em. 

- Chị đến đây là tốt lắm. Bây giờ, chị uống nước rồi kể cho em nghe. Ồ, em có nên mời anh ấy đi nghỉ không nhỉ? 

- Ồ, không đâu! Chị cần lời khuyên và sự trợ giúp của bác sĩ nữa. Đấy là chuyện về anh Isa. Đã hai ngày nay, anh ấy không về nhà. Chị rất lo! 

Đây không phải là lần đầu tiên chị Kate nói với chúng tôi về chồng chị. Gần đây, anh thường lui tới một động phù dung ở phía nam thành phố. Từ trước tới giờ, cơn say thuốc chỉ kéo dài khoảng một ngày, và anh trở về nhà vào buổi chiều, chân tay co giật, áo quần lếch thếch. Nhưng hiện giờ, đã 48 tiếng đồng hồ rồi và có lẽ anh đang nằm đó, giữa bọn người cặn bã của bến tàu. 

"Có thể tìm thấy anh ấy ở đó", chị ấy chắc thế, "tại quán Bar of Gold, trong hẻm Thượng Swandam". Nhưng chị phải làm gì? Làm thế nào mà một người phụ nữ trẻ và rụt rè như chị, lại có thể đến một nơi như thế, để đem chồng mình ra khỏi những tên vô lại. Chỉ có một lối thoát. Tôi phải hộ tống chị đến chỗ ấy? Và rồi xét cho kỹ thì chị có nên đến đấy không? Tôi là cố vấn y học cho Isa Whitney và với tư cách đó, tôi có ảnh hưởng đối với anh ta. Tôi dễ dàng xoay xở nếu tôi đi một mình. Tôi hứa với chị, tôi sẽ đưa anh ta về nhà trong vòng hai tiếng đồng hồ, nếu quả thật anh ta đang ở đó. Thế là khoảng mười phút sau, tôi đã ngồi trên xe ngựa chạy bon bon. 

Hẻm Swandam là một ngõ hẻm mạt hạng nằm ẩn khuất phía sau những cầu tàu cao chạy thẳng từ phía bắc của con sông đến phía đông cầu London. Trong khoảng giữa từ cái cửa hàng bán quần áo tới một quán rượu, tôi tìm thấy cái động phù dung đó. Cho xe đợi ở bên ngoài, tôi đi xuống những bậc thềm trũng sâu ở giữa bởi những bước chân lên xuống liên tục của con nghiện. Qua ánh sáng chập chờn của cây đèn dầu treo phía trên cửa lớn, tôi tìm thấy cái chốt và mò mẫm đi vào một căn phòng dài, thấp, nồng nặc mùi khói thuốc. 

Xuyên qua bóng tối mờ mờ có thể thấy những thân người đang nằm trong những tư thế lạ lùng, đôi vai cúi xuống, đầu gối cong lại, đầu ngả ra sau, cằm ngửa lên trời, đây đó một con mắt lạc tròng, lờ đờ quay ra nhìn người mới đến. Từ phía trong những bóng đen toả ra những vòng ánh sáng lập loè, khi tỏ khi mờ. Hầu hết nằm yên lặng, nhưng một vài người nói lảm nhảm một mình, những người khác nói chuyện với nhau bằng giọng thấp, đơn điệu, kỳ dị. Cuộc đàm thoại của họ tuôn ra trong một lát, rồi bỗng nhiên chìm vào im lặng, mỗi người lẩm bẩm những ý nghĩ của chính mình, chẳng lưu tâm đến những lời của người bên cạnh. Phía bên kia là một lò than hồng, bên cạnh nó, trên một cái ghế đẩu gỗ ba chân có một người đàn ông ngồi. Đó là một ông già cao, gầy gò, quai hàm tựa trên hai nắm tay, cùi chỏ đặt trên đầu gối, trố mắt nhìn vào lò sưởi. 

Khi tôi bước vào, một người hầu Mã Lai vội vã vẫy tôi đến một cái giường ngủ để trống. 

- Tôi muốn nói chuyện với ông Isa Whitney. 

Có một sự chuyển động và một tiếng kêu từ bên phải của tôi, nhìn qua bóng tối nhờ nhờ, tôi thấy Isa đang trố mắt nhìn ra phía tôi. 

- Trời ơi! Watson đấy à? - Anh ta nói, run rẩy một cách tội nghiệp - Watson, mấy giờ rồi nhỉ? 

- Gần 11 giờ đêm. 

- Ngày nào thế? 

- Thứ sáu, 19-6. 

- Trời đất! Tôi vẫn nghĩ là thứ tư đấy. Đúng là thứ tư. Sao anh lại nói dối tôi làm gì? 

Anh ta úp mặt xuống hai cánh tay và bắt đầu khóc nức nở. 

- Hôm nay là thứ sáu. Vợ anh đợi anh đã hai ngày rồi. Lẽ ra, anh phải biết xấu hổ chứ? 

- Tôi không nhớ là thứ mấy. Nhưng tôi sẽ đi về với anh. Ôi, Kate bé bỏng của tôi. Đưa tay anh cho tôi. Có xe chứ? 

- Xe đang đợi. 

- Vậy thì chúng ta đi về. 

Tôi bước xuống lối đi hẹp giữa hai hàng người đang nằm. Khi tôi đi ngang qua một gã đàn ông cao ngồi cạnh lò than, tôi cảm thấy có một cái giật mạnh vào áo sơ mi của tôi, rồi nghe tiếng thì thào: "Hãy đi ngang qua tôi, rồi quay lại nhìn tôi". Tôi liếc nhìn xuống. Những lời đó, chỉ có thể cất lên từ ông già ở bên cạnh tôi, nhưng bây giờ ông ta vẫn ngồi trầm tư như trước. Tôi bước tới hai bước rồi nhìn lại. Phải cố gắng lắm tôi mới ngăn được một tiếng kêu kinh ngạc. Ông ta đã quay lưng để cho không ai có thể nhìn thấy mình, ngoài tôi ra. Dáng người ông ta đã mập ra, những nếp nhăn đã biến đi, đôi mắt lờ đờ đã sáng hẳn lên, và kia, ngồi bên cạnh lò sưởi và nhe răng cười: chính là Holmes. Anh khẽ ra hiệu cho tôi đến gần anh, và ngay lập tức, xoay nửa người về phía đám người nọ, trở lại thành một ông già run cầm cập, miệng há hốc. 

- Holmes! Anh vào đây để làm gì? - Tôi thì thầm. 

- Nói nhỏ một chút. Tai tôi thính lắm. Anh hãy tống hắn đi nơi khác, tôi muốn nói chuyện với anh... 

- Xe đợi ở ngoài. 

- Vậy, cho hắn đi bằng xe đó đi, rồi viết mấy chữ cho bà xã anh, nói rằng anh đang giúp tôi. Anh cứ đợi bên ngoài. Năm phút nữa, tôi sẽ ra. 

Trong một vài phút, tôi đã viết xong lá thư cho nhà tôi, trả tiền xe cho Isa, dẫn anh ta ra xe; chỉ một lát sau, một dáng người già nua, ốm yếu hiện ra từ động phù dung. Ông ta kéo lê chân, gù lưng và một bàn chân đi cà nhắc. Rồi, bỗng người ấy nhanh nhẹn liếc nhìn ra phía sau, vươn người ra và bật lên một chuỗi cười hể hả. 

- Này Watson, tôi ngạc nhiên khi thấy anh ở đó. 

- Tôi đến để tìm một người bạn. 

- Còn tôi, để kiếm một kẻ thù. 

- Một kẻ thù? 

- Vâng, một trong những con mồi. Tôi hy vọng tìm thấy một đầu mối trong những lời lảm nhảm rời rạc của những dân nghiện này. Cái động đó chính là cái bẫy giết người ghê gớm nhất trong suốt dọc bờ sông, và tôi e rằng ông Neville St. Clair đã vào đó mà không bao giờ trở ra nữa. Những cái bẫy của chúng ta sẽ đặt ở đây. 

Anh đặt hai ngón tay trỏ vào giữa hai hàm răng và huýt sáo lanh lảnh. Tín hiệu ấy được đáp lại bằng một tiếng huýt sáo tương tự đằng xa, tiếp theo ngay sau đó là tiếng bánh xe lọc cọc và tiếng vó ngựa. 

- Bây giờ, anh sẽ đi với tôi chứ? 

- Nếu tôi giúp ích được. 

- Ồ, một người bạn tin cẩn luôn luôn có ích, và một người chép sử biên niên còn hữu ích hơn. Phòng của tôi tại biệt thự Tuyết Tùng[1], có hai giường. 

- Biệt thự Tuyết Tùng? 

- Vâng. Đó là nhà ông St. Clair. Tôi đang ở đò để điều tra vụ này. 

- Nó ở đâu? 

- Gần thôn Lee, thuộc hạt Kent. 

- Lát nữa đây anh sẽ biết mọi chuyện. Nhảy lên đi! Được rồi bác xà ích. Đây là tiền công của bác. Hãy đợi tôi ngày mai, vào khoảng 11 giờ. Chào nhé! 

Anh quất roi và xe chúng tôi lao đi, băng qua những đường phố tối tăm, vắng vẻ và vô tận, những đường phố này rộng dần ra cho đến khi xe băng qua một cái cầu lớn có tay vịn, dưới đó là con sông đen thẫm chảy lờ đờ. Phía bên kia là những đống gạch, vôi vữa, sự yên lặng của chúng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng bước chân nặng nề, đều đặn của người cảnh sát, hay những bài hát và tiếng quát tháo của bọn người nhậu nhẹt say sưa về muộn. Một đám mây nặng nề trôi lơ lửng qua bầu trời va một, hai ngôi sao nhấp nháy mờ mờ đây đó xuyên qua những khe hở của đám mây. Holmes yên lặng cầm cương, đầu cúi xuống ngực, với dáng vẻ của một người đang đắm chìm trong suy tư. Tôi ngồi bên anh, tò mò muốn biết cuộc truy tìm này là cái gì, nhưng lại không dám làm gián đoạn dòng suy tưởng của anh. Chúng tôi đã đi được năm, bảy dặm và bắt đầu đi đến mép vành đai của một biệt thự ngoại ô, bỗng nhiên anh lắc mình nhún vai và châm tẩu với cái vẻ của một người thoả mãn. 

- Anh Watson, tôi không biết đêm nay mình phải nói cái gì với người đàn bà này. 

- Anh quên là tôi chưa biết gì về chuyện đó. 

- Được, tôi sẽ kể rành rọt cho anh nghe, và may ra, anh có thể giúp tôi. 

- Anh kể đi. 

- Cách đây một vài năm, vào tháng 5-1884, một gã đàn ông tên là Neville St. Clair đến Lee. Ông ta có vẻ khá giả. Ông ta mua một cái biệt thự lớn, và sống một cách đúng điệu. Dần dà, ông làm bạn với xóm giềng. Năm 1887, ông ta cưới con gái của một người nấu rượu địa phương, bà ta sinh được hai con. Ông ta không có nghề nghiệp, nhưng có cổ phần tại một vài công ty, và thường lên phố vào buổi sáng, trở về nhà vào lúc 5 giờ 14 chiều. Bấy giờ ông ta 37 tuổi. Đó là một người điều độ, một người chồng tốt, một người cha thương con và là một con người được mọi người xung quanh yêu mến. Tôi có thể nói thêm rằng mặc dù số tiền nợ của ông ta hiện nay là 88 bảng 10 shilling. Nhưng ông ta có 220 bảng trong ngân hàng Capital and Counties Bank. Vì vậy, vấn đề tiền bạc không làm ông ta lo nghĩ nhiều. Thứ hai tuần trước, ông lên phố sớm hơn thường lệ. Trước khi đi, ông bảo rằng ông có hai việc quan trọng phải làm, và hứa sẽ đem về cho con trai một cái hộp có những hòn gạch nhỏ để chơi. Thế rồi, do một tình cờ run rủi, vào đúng ngày thứ hai đó, sau khi ông ta đi một lát, bà vợ nhận được một bức điện tín, báo tin rằng bà có một gói quà nhỏ đang nằm tại văn phòng của Công ty đóng tàu Aberdeen. Ăn cơm trưa xong bà lên phố, mua sắm vài đồ vặt trên đường đi tới Công ty; sau đó, bà nhận gói hàng và đúng 4 giờ 35, bà đi bộ xuyên qua hẻm Swandam, trên đường trở lại nhà ga. Anh có theo dõi được không? 

- Rất rõ ràng. 

- Ngày thứ hai ấy cực kỳ nóng bức. Bà St. Clair đi bộ chậm rãi, liếc nhìn quanh để tìm một chiếc xe ngựa. Trong khi bà đi bộ theo đường này xuống hẻm Swandam, bỗng nhiên bà nghe một tiếng kêu, bà lạnh cả người khi thấy chồng bà đang nhìn xuống bà và hình như ông đang vẫy gọi bà từ cửa sổ tầng lầu thứ hai. Cánh cửa sổ mở và bà thấy rõ chồng mình đang hốt hoảng, ông ta vẫy gọi bà một cách điên dại rồi biến mất khỏi cửa sổ một cách bất ngờ, đến nỗi bà cảm thấy dường như ông ta đã bị kéo lùi lại bằng một sức mạnh không cưỡng được. Một điểm kỳ lạ đập vào mắt bà: chồng bà vẫn mặc áo khoác đen, như lúc ra đi, nhưng bà không thấy cổ áo sơ mi hay cà vạt đâu cả. 

Bà chạy vội xuống bậc thang rồi chạy băng qua phòng phía trước, cố leo lên cầu thang đến tầng một. Thế nhưng, tại chân cầu thang, bà gặp tên chủ nhà vô lại[2], hắn cùng với một gã tây chân Đan Mạch đẩy bà ta ra ngoài đường phố. Lòng tràn ngập những mối ngờ vực và sợ hãi, bà lao xuống con hẻm và khi chạy tới đường Fresno, bà gặp một cảnh sát và một người thanh tra. Những người này hộ tống bà trở lại, và đi vào cái phòng hồi nãy có ông St. Clair. Họ không thấy ông ta đâu cả, trừ một gã tàn tật có gương mặt gớm ghiếc. Gã này và tên vô lại đều thề độc rằng suốt cả buổi chiều không có ai ở trong phòng phía trước. Bọn này phản đối một cách quá quyết liệt, đến nỗi vị thanh tra trở nên ngờ vực, nhưng bỗng nhiên bà St. Clair kêu lên một tiếng sửng sốt, nhảy chồm tới một cái hộp gỗ nhỏ nằm trên bàn và mở tung cái nắp ra. Từ trong đó đổ ra những hòn gạch nhỏ cho trẻ con chơi. Đó là món đồ chơi mà ông St. Clair đã hứa đem về nhà. 

Sự phát hiện này cùng với sự bối rối hiện ra trên gương mặt gã tàn tật, khiến cho ông thanh tra thấy vấn đề rất nghiêm trọng. Lập tức, họ mở cuộc khám xét. Căn phòng phía trước được trang bị như một phòng khách, nó dẫn vào một phòng ngủ nhỏ, nhìn ra một bến tàu. Giữa bến tàu và cửa sổ phòng ngủ là một con lạch cạn, khi thuỷ triều rút, người ta nhìn thấy đáy, nhưng khi thuỷ triều lên, mực nước cao tới 4,5 feet. Cửa sổ phòng ngủ thì rộng và được mở từ phía bên dưới. Trên bậu cửa sổ có nhiều vết máu, một vài giọt rơi trên sàn gỗ của giường ngủ. Phía sau cái màn cửa của căn phòng phía trước, người ta thấy toàn bộ áo quần của ông St. Clair, trừ cái áo khoác: giày, ủng, bít tất, mũ và đồng hồ đeo tay. Trên mọi thứ đồ vật; không có dấu hiệu nào của sự hành hung. Rõ ràng là ông ta đã đi ra ngoài cửa sổ, vì người ta không thấy có lối ra nào khác, những vết máu cho thấy ông ta đã bị lâm nguy hơn là đã trốn thoát? 

Tên chủ nhà vô lại là một người có tiền án, nhưng theo lời kể của bà St. Clair, thì hắn chỉ có thể là một kẻ tòng phạm, vì sau khi bà trông thấy chồng tại cửa sổ được vài phút thì hắn xuất hiện ở chân cầu thang. Hắn phản đối, bảo rằng hắn không biết gì về những việc làm của Hugh Boone, người khách cư trú tại đó. Hắn cũng nói rằng hắn không thể nào giải thích được sự hiện diện của những áo quần của người đàn ông mất tích. 

Gã tàn tật Hugh Boone sống trên tầng hai của động phù dung. Những ai lên thành phố nhiều lần đều quen với cái gương mặt gớm ghiếc của hắn. Hắn ăn mày chuyên nghiệp, nhưng giả bộ bán diêm. Hắn chiếm một góc nhỏ trên đường Threadneedle làm chỗ ngồi hàng ngày, chân bắt chéo, một hộp diêm nhỏ trên đầu gối. Trông hắn rất tội nghiệp, vì thế mà những đồng xu rơi như mưa xuống cái mũ da bên cạnh hắn. Tôi đã quan sát gã này hơn một lần trước khi nghi đến chuyện làm quen với tư cách bạn đồng nghiệp. Đây là người mà bây giờ chúng ta biết là một kẻ cư trú thường xuyên tại động phù dung, và cũng là người cuối cùng đã nhìn thấy St. Clair. 

- Nhưng một gã tàn tật đơn thương độc mã thì làm gì được một người đàn ông còn trẻ tuổi? 

- Hắn ta chỉ đi cà nhắc thôi, trông hắn khoẻ mạnh và ăn uống đầy đủ. Kinh nghiệm y học cho biết rằng nhược điểm nơi một chân thường được bù lại bằng một sức mạnh phi thường ở những nơi khác. 

- Anh cứ kể tiếp. 

- Bà St. Clair đã ngất đi khi thấy máu trên cửa sổ và được cảnh sát đưa về nhà. Thanh tra Barton xem xét hiện trường rất kỹ nhưng không thấy một tia sáng nào. Cảnh sát không bắt giữ Boone ngay, để cho hắn có một vài phút liên hệ với tên chủ nhà, nhưng sai lầm này đã được sửa chữa, hắn đã bị bắt và lục soát, nhưng không tìm thấy cái gì có thể buộc tội hắn. Đúng là có vài vết máu trên tay áo sơ mi phía bên phải của hắn, nhưng hắn chỉ vào ngón tay đeo nhẫn, có vết đứt. Hắn còn nói thêm, trước đó không lâu hắn đã đứng tại cửa sổ, những vết máu ở đó, cũng là máu của hắn. Về điều bà St. Clair xác nhận rằng bà đã thấy chồng mình tại cửa sổ, hắn nói rằng có lẽ bà ta nhìn nhầm đó thôi. Hắn được đưa tới đồn cảnh sát, trong khi đó viên thanh tra ở lại hiện trường chờ nước rút xuống. 

Khi nước rút xuống, họ không thấy ông St. Clair, mà thấy cái áo khoác của ông ta. Và đố anh biết, họ thấy gì trong những túi áo? 

- Tôi không thể tưởng tượng được. 

- Mọi túi áo đều đầy tiền kim loại: có tất cả 421 penny và 270 đồng nửa penny. Thảo nào mà nó đã không bị nước cuốn đi. Giữa cái bến tàu và cái động, nước xoáy dữ dội. Có lẽ cái áo nặng trĩu đã nằm lại trong khi cái cơ thể trần truồng đã bị nước cuốn vào con sông... 

- Nhưng, tất cả những y phục khác đều được tìm thấy ở trong phòng. Chả lẽ ông ta chỉ mặc mỗi cái áo khoác? 

- Không bạn ạ. Có thể là các sự kiện chỉ mới được nhìn thấy một cách khá hời hợt. Giả thử rằng gã Boone này đã ném St. Clair qua cửa sổ và không có ai trông thấy. Rồi, hắn sẽ làm gì? Phải thủ tiêu cái y phục! Hắn chộp lấy cái áo khoác, nhưng chỉ sắp ném nó ra, hắn bỗng thấy rằng cái áo sẽ không chìm xuống. Thời gian rất gấp rút, vì hắn đã nghe tiếng xô xát ở dưới cầu thang khi người vợ cố sức chống cự để leo lên. 

Hắn lao tới một cái góc bí mật nào đó, nơi hắn đã tích luỹ thành quả "lao động" của hắn, nhét những đồng xu vào đầy các túi áo để chắc chắn là nó sẽ chìm xuống. 

Hắn ném nó ra, và hắn định ném luôn những thứ khác nửa, nhưng không kịp. Hắn chỉ còn đủ thời gian để đóng cửa sổ khi cảnh sát xuất hiện. 

- Lý luận nghe được lắm. 

- Vâng, chúng ta sẽ xem đó như là một giả thiết tạm thời, vì chưa có giả thiết nào tốt hơn. Cảnh sát thấy hắn chưa có tiền án nào cả. Cuộc sống của hắn có vẻ như là một cuộc sống lặng lẽ và vô tội. Hiện nay vấn đề ngừng ở đó, và những câu hỏi cần phải được trả lời: St. Clair đã làm gì trong động phù dung? Tại đó, chuyện gì đã xảy đến cho ông ta? Và Boone có dính líu gì tới vụ mất tích của ông ta chăng? 

Bây giờ chúng ta đang ở vùng ngoại ô của Lee. Vậy là chúng ta đã đi ngang qua ba hạt của nước Anh trong chuyến đi ngắn này. Anh thấy làn ánh sáng giữa hai cái cây chứ? Đó là biệt thự Tuyết Tùng, bên cạnh cái đèn là một người đàn bà. 

- Tại sao anh không điều tra vụ này từ phố Baker? 

- Bởi vì có nhiều cuộc thăm dò phải thực hiện ở đây. Bà St. Clair đã có lòng tốt dành riêng cho tôi phòng hai giường. Tôi không muốn gặp bà khi chưa có tin gì về người chồng. Đến rồi! 

Xe chúng tôi đậu lại đằng trước một biệt thự lớn. Cậu bé giữ ngựa đã chạy tới đầu con ngựa. Tôi nhảy xuống theo Holmes lên lối đi rải đá nhỏ, ngoằn ngoèo dẫn đến nhà. Khi chúng tôi đến gần, cửa mở tung ra, một người đàn bà tóc hung đứng bên cạnh cửa. Bà đứng đó, dáng người nổi bật lên trong làn ánh sáng chói loà, một tay vịn cửa, tay kia đưa lên lưng chừng, ra vẻ trông ngóng, thân người bà hơi cúi xuống, đầu và mặt nhô ra, đôi môi hé mở, đôi mắt thiết tha như dò hỏi. 

- Thế nào? - Bà kêu lên. 

Bà cất lên một tiếng rên rỉ khi bà thấy bạn tôi lắc đầu và nhún vai. 

- Không có tin vui? 

- Không. 

- Không có tin buồn? 

- Không. 

- Xin mời vào. Sau một ngày dài, chắc các ông đã mệt? 

- Đây là bạn tôi, bác sĩ Watson. Anh ấy đã giúp tôi rất nhiều trong dăm bảy trường hợp, và hôm nay, tôi may mắn kéo anh cùng đi. 

- Tôi sung sướng được gặp ông - Bà nói, nồng nhiệt nắm lấy tay tôi - Tôi chắc là ông sẽ thông cảm cho những sơ suất trong lúc bối rối. 

- Thưa bà. Xin bà khỏi cần khách sáo. Nếu tôi có thể giúp được gì cho bà, tôi sẽ rất vui sướng. 

- Bây giờ, ông Holmes ạ - Người đàn bà nói, khi chúng tôi bước vào phòng ăn sáng - Tôi rất muốn hỏi ông một hai câu hỏi thẳng thắn và mong nhận được một câu trả lời thẳng thắn. 

- Chắc chắn là được, thưa bà. 

- Tận thâm tâm ông, ông có nghĩ rằng anh ấy còn sống không? 

Sherlock Holmes dường như bối rối vì câu hỏi này. 

- Xin hãy thành thật! - Bà lặp lại, đứng trên tấm thảm và nhìn anh chăm chú khi anh dựa lùi trong ghế. 

- Thành thật mà nói, thưa bà, tôi không biết. 

- Ông nghĩ rằng anh ấy đã chết? 

- Vâng. 

- Bị ám sát? 

- Tôi không nói thế. Có lẽ... 

- Thế anh ấy chết vào ngày nào? 

- Vào thứ hai. 

- Vậy tại sao hôm nay tôi lại nhận được một lá thư của anh ấy? 

Sherlock Holmes nhảy ra khỏi ghế, dường như anh bị sửng sốt. 

- Làm sao? 

- Vâng, mới hôm nay - Bà mỉm cười, đưa một mảnh giấy lên cao. 

- Tôi xem được chứ? 

- Chắc chắn rồi. 

Anh hăm hở giật nó ra khỏi tay bà, đưa cây đèn lại gần và chăm chú quan sát. Tôi cũng rời ghế và chăm chú nhìn nó qua vai anh. Bì thư làm bằng giấy rất xấu, dấu bưu điện nơi gửi là Gravesend, ghi ngày gửi là chính ngày hôm đó. 

- Chữ viết xấu. Chắc chắn không phải là chữ viết của chồng bà. 

- Không, những thứ bên trong thì đúng là của anh ấy. 

- Tôi nhận thấy rằng người đề bì thư hẳn đã phải đi hỏi địa chỉ. 

- Sao ông lại nói thế? 

- Cái tên người nhận thư thì viết bằng mực đen tuyền, tự nó khô đi. Còn địa chỉ thì có màu xam xám, chứng tỏ rằng giấy thấm đã được dùng đến. Nếu tất cả được viết một lượt, rồi áp giấy thấm, thì sẽ không có chữ nào đậm, chữ nào lợt. Người này viết xong cái tên, ngưng lại một thời gian rồi mới viết địa chỉ, điều ấy có nghĩa là người đề bao thư không biết địa chỉ của bà. Bây giờ, ta hãy xem lá thư. Hừ! Có một vật gì ở đây? 

- À! Cái nhẫn của anh ấy. 

- Bà tin rằng chính bàn tay ông ấy viết? 

- Khi anh ấy viết vội, nét chữ không giống nét chữ bình thường, tuy vậy tôi biết rõ nó. 

- "Em chớ có lo sợ gì cả. Mọi việc sẽ tốt đẹp. Có một sai lầm cần phải đính chính. Hãy kiên nhẫn đợi chờ anh. Neville". Thư được một người có ngón tay cái bẩn viết trên một tờ giấy trắng. Phong bì được dán hồ bởi một người đã từng nhai thuốc lá và bà có chắc là bàn tay của chồng bà không? 

- Không nghi ngờ gì cả chính ông ấy đã viết những dòng chữ đó. 

- Và chúng được gửi đi hôm nay tại Gravesend. Thưa bà, những đám mây đã tan dần, nhưng tôi không dám nói là tai hoạ đã qua. 

- Nhưng chắc chắn là anh ấy còn sống. 

- Trừ phi đây là một sự giả mạo khéo léo để đánh lạc hướng chúng ta. Cái nhẫn không chứng tỏ được điều gì. Người ta có thể đánh cắp của ông ấy. 

- Không. Chính là nét chữ của anh ấy mà? 

- Rất có thể. Tuy thế, có thể là nó được viết vào ngày thứ hai nhưng hôm nay mới gửi đi. 

- Có thể như thế. 

- Như vậy, trong khoảng thời gian ở giữa hai sự việc đó có nhiều chuyện đã xảy ra. 

- Ồ, ông Holmes ạ, giữa chúng tôi có một mối đồng cảm sâu sắc, cho nên nếu có gì không lành xảy đến cho anh ấy, hẳn là tôi đã biết. Vào cái ngày sau cùng, khi anh ấy bị đứt tay trong phòng ngủ, thế mà đang ở trong phòng ăn, tôi chạy vụt lên cầu thang tức khắc, biết chắc chắn rằng có một cái gì đó đã xảy ra. Tôi đã cảm nhận được ngay dù chỉ là chuyện vặt vãnh như thế, thì lẽ nào tôi lại không hay biết gì về cái chết của chồng tôi. 

- Vâng, trực giác của người phụ nữ đôi khi có giá trị hơn sự suy luận, phân tích. Và trong vụ lá thư này, chắc chắn bà có một vài bằng chứng ủng hộ cho quan điểm của bà. Nhưng nếu chồng bà còn sống và có thể viết thư, thì tại sao ông ấy lại phải ở xa bà? 

- Tôi không thể hiểu được. 

- Ngày thứ hai, ông ấy không nói gì trước khi đi chứ? 

- Không. 

- Bà có ngạc nhiên khi thấy ông ấy tại hẻm Swandam. 

- Rất kinh ngạc. 

- Cánh cửa sổ mở? 

- Vâng. 

- Vậy thì, có thể là ông ấy đã gọi bà? 

- Có lẽ 

- Theo tôi hiểu, ông ấy chỉ kêu ú ớ, đúng không? 

- Vâng. 

- Một tiếng gọi cầu cứu, bà có nghĩ thế không? 

- Vâng, anh ấy vẫy tay. 

- Nhưng cũng có thể đó là một tiếng kêu kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc, khi bất ngờ thấy bà, cũng có thể khiến ông ấy đưa hai tay lên? 

- Có thể. 

- Và bà nghĩ rằng ông ấy bị ai đó kéo lui ra đằng sau? 

- Anh ấy biến đi quá đột ngột. 

- Bà không thấy ai khác trong phòng chứ? 

- Nhưng gã đàn ông nọ đã thú nhận rằng hắn ta có mặt ở đó còn tên vô lại thì ở chân cầu thang. 

- Đúng thế. Chồng bà ăn mặc bình thường? 

- Nhưng không có cổ áo sơ mi hay cravat. Tôi thấy cái cổ trần trụi của anh ấy. 

- Có bao giờ ông ấy nói về hẻm Swandam không? 

- Không. 

- Cám ơn bà. Đó là những điều cơ bản mà tôi muốn được biết chính xác. Bây giờ hãy ăn một chút rồi đi nghỉ, ngày mai chúng ta sẽ bận suốt ngày. 

Một phòng rộng, tiện nghi, có hai giường đã được dành riêng cho chúng tôi, và tôi nhanh chóng chui vào trong chăn. Giờ đây, Holmes đang chuẩn bị cho một đêm không ngủ. Anh cởi áo khoác và áo gi-lê, mặc vào một áo ngủ màu thiên thanh, rồi đi xung quanh phòng, thu nhặt những chiếc gối và đệm từ ghế xô pha và ghế bành. Với những vật này, anh chồng chất chúng lại rồi ngồi lên, hai chân bắt chéo. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn, tôi thấy anh ngồi đó, mắt lơ đãng nhìn lên góc trần nhà. Anh ngồi yên lặng, không nhúc nhích, ánh sáng chiếu lên dáng người anh, nom như một con quạ già. Anh cứ ngồi như thế đến khi tôi ngủ thiếp đi, và anh vẫn còn ngồi như thế khi một tiếng kêu bất thần đảnh thức tôi dậy, mặt trời đã chiếu vào trong căn phòng. 

- Watson, anh thức rồi chứ? 

- Vâng. 

- Thích dạo buổi sáng chứ? 

- Thích. 

- Chưa ai dậy, nhưng tôi biết chỗ cậu bé giữ ngựa. 

Khi mặc quần áo, tôi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Chỉ mới 4 giờ 25. Thảo nào chưa có ai dậy cả. Tôi chuẩn bị chưa xong thì Holmes đã trở lại, báo tin là cậu bé đang chuẩn bị ngựa. 

- Tôi muốn kiểm tra lại cái lý thuyết nhỏ của tôi - Anh nói và đi giày ủng vào chân - Watson ạ, tôi là một trong những thằng ngốc nghếch nhất châu Âu. Nhưng bây giờ tôi đã có chìa khoá để mở vụ này. 

- Nó ở đâu? - Tôi mỉm cười hỏi. 

- Ở trong phòng tắm. Tôi vừa mới có mặt ở đấy, và đã lấy nó ra, đặt nó vào trong cái túi này, nhanh lên bạn ơi 

Chúng tôi rón rén xuống cầu thang và đi ra ngoài. Trên đường có một xe độc mã với cậu bé giữ ngựa đang đợi. Cả hai chúng tôi phóng lên, và xe lao xuống đường London. Một vài xe bò vùng quê đang rục rịch, mang rau cỏ đến thành phố, nhưng những ngôi nhà hai bên đường vẫn im lặng và vô hồn. 

- Xét về một số điểm thì đây là một vụ độc đáo - Holmes nói, thúc ngựa chạy nước kiệu - Thú thật với anh tôi đã mù như cú ngày, nhưng thà học sự khôn ngoan chậm một chút còn hơn là không bao giờ. 

Sherlock Holmes quen thuộc với lực lượng cảnh sát, vì thế mà hai cảnh sát tại cửa nhà tù giơ tay chào anh. Một người giữ đầu con ngựa, trong khi người kia dẫn chúng tôi vào. 

- Ai trực thế? - Holmes hỏi. 

- Thưa ông, thanh tra Bradstreet. 

- À, chào ông Bradstreet, ông mạnh khoẻ chứ? 

Một viên chức khổ người cao, to béo, đã đi xuống lối đi lát đá, đầu đội mũ lưỡi trai chóp nhọn và áo gi-lê có khuy khuyết rùa. 

- Tôi muốn giúp việc ông - Holmes nói. 

- Được thôi. Xin vào phòng tôi. 

Đó là một phòng nhỏ kiểu văn phòng, với một quyển sổ cái to tướng ở trên bàn, và một điện thoại nhô ra từ bức tường. Viên thanh tra ngồi vào bàn giấy. 

- Tôi có thể giúp gì cho ông, ông Holmes? 

- Tôi đến là vì cái gã ăn mày tên Boone này. 

- Vâng. Hắn đã bị trả về khám, đợi thẩm vấn tiếp. 

- Tôi nghe nói như thế. Hắn có ở đây chứ. 

- Trong nhà giam. 

- Hắn có quậy không. 

- Ồ, hắn chả gây phiền hà gì cả. Chỉ mỗi cái tội là quá dơ dáy. 

- Dơ dáy? 

- Vâng. Mặt mày hắn đen như lọ nồi. Vâng, khi nào vụ án của hắn được giải quyết xong, hắn sẽ phải tắm đều đặn trong tù. Nếu trông thấy hắn, chắc ông cũng sẽ nghĩ như tôi. 

- Tôi muốn gặp hắn. 

- Dễ thôi. Đi lối này. Ông có thể gửi lại cái túi xách. 

- Không! Tôi xin mang nó theo. 

- Được thôi. 

Ông ta dẫn chúng tôi xuống một hành lang, mở một cánh cửa cài then, đi xuống một cầu thang quanh co, và đưa chúng tôi đến một hành lang quét vôi trắng với một hàng cửa lớn ở mỗi phía. 

- Hắn ở phòng thứ ba, phía bên phải. Đây rồi - Vị thanh tra nói. Ông ta đẩy lùi tấm ván ở phần trên của cửa lớn và liếc nhìn vào. - Hắn đang ngủ. 

Cả hai chúng tôi đặt mắt vào tấm lưới sắt. Người tù ngủ say, mặt quay về phía chúng tôi, thở chậm và nặng nề. Đó là một gã đàn ông tầm thước, ăn mặc xơ xác, bẩn thỉu, phù hợp với nghề của hắn, những lớp cáu ghét che phủ khuôn mặt cũng không thể che giấu được cái vẻ xấu xí khủng khiếp của hắn. Một vệt rộng từ cái sẹo cũ băng qua mặt từ mắt tới cằm vết sẹo làm cho môi trên trề ra làm lộ rõ ba cái răng. Một mớ tóc đỏ quạch chảy xuống ngang qua mắt và trán. 

- Hắn đẹp trai đấy chứ. - Vị thanh tra nhận xét. 

- Đương nhiên là hắn cần tắm - Holmes nói - Tôi cũng nghĩ là hắn sẽ cần tắm nên đã mạn phép mang theo những thứ này. 

- Hê, hê! Ông hóm hỉnh quá đấy? - Vị thanh tra cười khúc khích. 

- Lát nữa đây, chúng ta sẽ biến hắn thành một vật đáng nể trọng hơn. 

- Vâng, ông cứ tự nhiên. 

Ông ta đút chìa khoá vào ổ khoá và tất cả chúng tôi nhẹ nhàng bước vào xà lim. Kẻ đang ngủ xoay nghiêng mình, rồi lại ngủ ngon lành. Holmes cúi xuống cái bình nước, thấm nước vào cái bọt biển, rồi chùi lại lằn ngang qua và dọc xuống mặt người tù. 

- Xin giới thiệu với ông - Anh nói to - Đây là ông Neville St. Clair. 

Khuôn mặt của người đàn ông tróc ra dưới cái bọt biển. Cái màu nâu thô kệch đã bay đi. Bay đi cả cái sẹo khủng khiếp chạy ngang qua mặt, và cái môi trề. Một cái giật mạnh nữa làm bay đi mớ tóc đỏ và ngồi dậy trên giường là một người đàn ông tóc đen và da mịn, đang dụi mắt và ngỡ ngàng nhìn xung quanh. Rồi bỗng nhiên, hắn kêu thét lên một tiếng và buông mình xuống, úp mặt vào gối. 

- Đúng là người đàn ông bị mất tích. Tôi đã biết mặt ông ta qua tấm ảnh - Viên thanh tra nói. 

Người tù quay đầu với cái vẻ bất cần của một kẻ đã liều mình cho số mệnh: 

- Cứ cho là thế. Và hãy cho biết, tôi đã phạm tội gì? 

- Cái tội đã thủ tiêu ông St. Clair. Ồ, không thể buộc cho anh cái tội đó, chỉ có thể buộc về cái tội "tự ám sát" cái tên cúng cơm của mình thôi - Vị thanh tra nhe răng cười - Vâng. Tôi đã công tác trong ngành cảnh sát 27 năm, nhưng vụ này đúng là số một.  

- Nếu tôi tên là St. Clair, thì rõ ràng tôi không phạm một tội ác nào cả. Và như thế, tôi đã bị bắt giữ trái phép. 

- Không phải tội ác, nhưng anh đã phạm phải một lầm lẫn - Holmes nói - Lẽ ra anh nên tin tưởng vợ anh hơn.  

- Vấn đề không phải là vợ tôi, mà chính là các con tôi - Người tù rên rỉ - Xin Chúa cứu giúp tôi. Tôi không thể để cho không xấu hổ về cha chúng. Lạy Chúa! Thật xấu hổ quá sức. Tôi có thể làm gì bây giờ? 

Sherlock Holmes ngồi xuống bên cạnh và dịu dàng vỗ nhẹ lên vai ông ta. 

- Nếu ông thuyết phục được cơ quan cảnh sát tin rằng không có ai kiện tụng gì ông, thì không có lý do gì những chi tiết này sẽ được đăng trên báo. Vụ này sẽ không được đem ra xử nữa. 

- Xin Chúa ban phúc lành cho ông. Tôi thà là chịu tù tội, thậm chí bị xử tử, còn hơn là để cái bí mật này phơi ra, làm nhơ nhuốc các con tôi. Các ông là những người đầu tiên nghe câu chuyện này của tôi. 

"Cha tôi là một thầy giáo tại Chesterfield. Thời trẻ tuổi, tôi hay đi đây đi đó, làm diễn viên và sau cùng trở thành phóng viên của một tờ báo tại London. Một hôm, ông chủ bút muốn có một loạt bài viết về chuyện ăn xin tại thành phố và tôi tình nguyện cung cấp những bài ấy. 

Chính là nhờ đóng vai một gã ăn xin, tôi đã viết được các bài báo theo yêu cầu của ông chủ bút. Khi còn là một diễn viên, tôi đã học các bí quyết hoá trang. Thế là tôi vẽ mặt, và để cho gương mặt trông càng tội nghiệp càng tốt, tôi tạo ra một cái sẹo và một cái môi trề bằng một miếng băng dán có màu da thịt. Rồi với một cái đầu tóc đỏ và một bộ quần áo phù hợp, tôi đến nhà ga tại khu vực đông đúc nhất của thành phố, bề ngoài là một người bán diêm, nhưng thực nhất là một kẻ ăn xin. Tôi thử hành nghề trong 7 tiếng đồng hồ, và khi tôi trở về nhà vào buổi chiều, tôi thấy mình đã kiếm được 4 bảng 26 shilling. 

Tôi tiếp tục viết báo và không quan tâm gì tới chuyện đó nữa, cho tới một thời gian sau, tôi đã vay 25 bảng và tới ngày phải trả nợ. Tôi không biết xoay đâu ra tiền. Thế rồi một ý tưởng chợt đến với tôi. Tôi xin chủ nợ hoãn lại cho nửa tháng, xin ông chủ tờ báo cho tôi nghỉ mười ngày và cải trang lên thành phố ăn xin. Trong mười ngày, tôi đã trả xong món nợ. 

Vâng, các ông thấy đó, thật là khó mà trở lại làm một công việc nặng nhọc để có lương 2 bảng một tuần. Đó là một cuộc chiến đấu trường kỳ giữa danh dự và tiền bạc, nhưng sau cùng, tiền đã thắng. Tôi đã bỏ nghề phóng viên, ngày này sang ngày khác, tôi ngồi lại một góc phố để cho cái thân thể tàn tạ giả tạo này làm mủi lòng người và nhét đầy xu. Chỉ có một người biết bí mật của tôi. Hắn là chủ động phù dung, nơi mà tôi thường cư trú. Gã này được tôi trả tiền phòng rất hậu, thế bí mật của tôi được hắn giữ kín. 

Rất nhanh chóng, tôi kiếm được nhiều tiền. Tôi không nghĩ rằng bất cứ người ăn xin nào cũng kiếm được 700 bảng một năm như tôi , mà thường là ít hơn bởi tôi có được những ưu thế đặc biệt. Mỗi ngày, những đồng xu càng rơi vào tôi nhiều hơn, nhanh chóng xóa nhòa ký ức về cái ngày tồi tệ, khi mà tôi quyết định bỏ công việc 2 bảng một tuần. 

Càng nhiều tiền, tôi càng có nhiều tham vọng. Tôi mua một cái nhà tại vùng quê và cưới vợ. Không ai nghi ngờ về cái nghề thực của tôi. Vợ tôi chỉ biết rằng tôi có công ăn việc làm tại thành phố, nhưng không rõ là nghề gì. Thứ hai tuần trước, sau khi hành nghề xong và đang thay đổi y phục, tôi nhìn ra cửa sổ, thấy vợ tôi đang đứng ngoài đường phố, mắt dán chặt lên người tôi. Tôi kêu lên một tiếng kinh ngạc, đưa tay lên che mặt rồi chạy đến tên chủ động, nài nỉ hắn đừng cho ai đi lên phòng tôi. Tôi nghe giọng nói của vợ tôi dưới cầu thang. Tôi nhanh chóng cởi bỏ quần áo, mặc vội bộ đồ ăn xin, và hoá trang như cũ. Vợ tôi không nhận ra tôi. Nhưng rồi, tôi bỗng thấy rằng người ta có thể lục soát phòng tôi và những áo quần để lại sẽ làm lộ diện tôi. Tôi mở tung cửa sổ, vì quá sức, tôi đã làm chảy máu vết đứt mà tôi mới bị lúc sáng trong phòng ngủ. Tôi chộp lấy cái áo khoác, để những đồng xu ăn xin vào đó. Tôi ném nó qua cửa sổ. Chưa kịp ném nốt những  

áo quần khác thì tôi nghe có tiếng của cảnh sát dưới gác, trong một vài phút sau đó, tôi thấy mình bị bắt giữ tội ám sát ông St. Clair thay vì bị nhận diện. 

Biết rằng nhà tôi sẽ vô cùng lo lắng, tôi cởi cái nhẫn và lén trao nó cho tên chủ nhà vào lúc không có ai canh chừng cùng với vài dòng nguệch ngoạc, báo cho nhà tôi biết là không có gì phải lo sợ cả. 

- Lá thư mới đến tay bà ấy hôm qua - Holmes nói. 

- Trời ơi! Suốt cả tuần nay, nhà tôi đã lo lắng biết bao. 

- Cảnh sát đã theo dõi gã chủ động này. Và tôi hoàn toàn hiểu rằng hắn ta khó lòng gửi thư mà không bị phát giác. Có lẽ hắn giao nó cho một khách hàng nào đó và anh chàng này quên khuấy đi, để chậm một vài hôm - Viên Thanh tra Bradstreet nói. 

- Đúng thế. Nhưng có bao giờ, ông bị phạt về tội ăn xin chưa? - Holmes hỏi. 

- Nhiều lần. Nhưng bị phạt thì có nghĩa lý gì đối với tôi! 

- Nhưng bây giờ thì phải chấm dứt đi thôi. Nếu muốn cảnh sát ém nhẹm vụ này, thì phải thủ tiêu cái gã Hugh Boone đó nhé. - Bradstreet nói. 

- Tôi xin thề bằng những lời thề trang trọng nhất. 

- Trong trường hợp đó, tôi nghĩ có lẽ không cần phải đi thêm một bước nào nữa trong việc điều tra. Nhưng nếu người ta lại phát hiện ra ông hành nghề một lần nữa, thì lúc ấy mọi sự sẽ bị phanh phui - Holmes nói.

Vùng đất "Những cây đẻ đỏ"

Bên ngoài, làn sương mù dày đặc lơ lửng giữa những dãy nhà xám xịt. Cửa sổ nhà đối diện hiện ra những vết đen lờ mờ, không ra hình thù gì rõ rệt. Ngọn đèn khí đốt chiếu sáng mấy chiếc đĩa sứ và bộ đồ ăn vẫn còn trên bàn. Sherlock Holmes vẫn giữ im lặng, không ngừng lật những trang bố cáo trong các tờ báo. Cuối cùng anh không lục lọi nữa mà ngắm nghía ngọn lửa nhảy múa trong lò sưởi, rồi nói: 

- Anh không đáng bị gán cho là một người chuyên viết truyện "giật gân", bởi vì phần lớn những vụ án mà anh đề cập tới thì không phải là những vụ hình sự. Các câu chuyện nhỏ về ông vua xứ Bohemia, chuyện tình của tiểu thư Mary Sutherland, chuyện người đàn ông môi trề và lễ thành hôn của nhà quý tộc độc thân... không nhất thiết thuộc phạm vi pháp luật. Nhưng nếu tránh các chuyện giật gân, thì sẽ rơi vào chỗ tầm thường. 

- Trong các truyện do tôi viết, các đoạn kết thì có thể là tầm thường, nhưng phương pháp viết thì vừa mới lạ vừa thú vị. 

- Chà chà! Anh bạn thân mến, phải chăng bây giờ độc giả lại chịu khó để ý tới những tia sáng tinh tế của phép phân tích và phép diễn dịch? Nhưng nếu anh rơi vào chỗ tầm thường, tôi cũng không thể trách anh được, và hiện nay, đâu còn những vụ quan trọng nữa. Giờ đây cái nghề hèn mọn của tôi đang biến thành công việc tìm kiếm những đồ vật thất lạc hoặc làm cố vấn cho các công chức về hưu. Như ngày hôm nay đây, cái thư này cho ông biết tôi đã "hết thời" rồi. Anh hãy đọc đi! 

"Thưa ông Holmes thân mến, 

Tôi rất cần ý kiên của ông để quyết định xem nên nhận hay từ chối một chỗ dạy trẻ. Nếu không có gì phiền ông, tôi sẽ đến gặp ông vào lúc 10 giờ 30 ngày mai. Chúc ông mạnh khoẻ. 

Violette Hunter". 

- Anh quen biết cô này chớ? - Tôi hỏi. 

- Tôi đấy à? Đâu có. 

- Đã mười giờ rưỡi rồi. 

- Vâng. Cô ta đang gọi cửa. 

- Việc này có thể đáng chú ý hơn anh tưởng. Anh có nhớ vụ "con ngỗng" không. Lúc đầu nó như một chuyện khôi hài, sau đó phát triển thành một cuộc điều tra công phu. Lần này cũng dễ như vậy lắm. 

- Hãy hy vọng thế! Nhưng sự ngờ vực của chúng ta sẽ sáng tỏ ngay thôi, vì cô ta đã tới. 

Cửa mở và một thiếu nữ bước vào. Cô ta ăn mặc giản dị nhưng duyên dáng. Gương mặt lanh lợi lấm tấm những nốt tàn nhang. Tóc cô vàng óng. Cử chỉ của cô cho thấy cô là người tháo vát. Khi bạn tôi đứng lên chào, cô nói ngay: 

- Xin tha lỗi đã làm phiền ông. Nhưng tôi vừa gặp một chuyện lạ lùng, mà tôi không có bà con hay bạn bè để hỏi ý kiến. Thế là tôi nghĩ tới ông. C lẽ ông vui lòng chỉ bảo tôi cách hành động? 

- Thưa cô, mời cô ngồi đã. Tôi rất sung sướng được phục vụ cô. 

Tôi nhận thấy là Holmes có ấn tượng tốt về ngôn ngữ và cử chỉ của người khách hàng. Đầu tiên anh ta quan sát theo thói quen cố hữu, rồi mới ngồi xuống, nghe trình bày. 

"Tôi đã làm nghề dạy trẻ suốt 5 năm trong gia đình đại tá Spence Munro. Cách đây hai tháng, đại tá được bổ nhiệm đến Halifax, Nova Scotia. Ông đem theo các con nhỏ đến Mỹ, nên tôi thất nghiệp. Tôi đăng báo tìm việc, gửi thư đến các nơi đăng tin tìm người. Tất cả đều không có kết quả. Sau cùng, tiền dành dụm đã cạn, tôi không còn biết phải làm 

gì nữa. Ở khu West End có cơ sở Westaway chuyên tìm việc cho người dạy trẻ. Mỗi tuần một lần, tôi tới đó xem có chỗ nào không. Cô Stoper là người quản lý cơ sở này, cô làm việc trong văn phòng nhỏ, những người lạ tìm việc ngồi trong phòng đợi, lần lượt được đưa vào. Cô Stoper nghiên cứu các hồ sơ rồi tìm chỗ phù hợp cho mỗi người. 

Tuần vừa rồi, tôi được đưa vào văn phòng đó như thường lệ. Nhưng lần này ở trong phòng, ngoài cô Stoper ra, còn có một người đàn ông rất béo, khuôn mặt tươi cười với một cái cằm rất to; ông ta mang kính, nhìn đăm đăm những người bước vào phòng. Khi trông thấy tôi, ông ta đứng phắt lên và quay sang cô Stoper: 

- Thật thích hợp! Tôi không mơ ước gì hơn nữa! Tuyệt vời! Tuyệt vời! - ông ta xoa tay mừng rỡ. - Cô tìm việc làm, phải không? 

- Thưa ông, vâng. 

- Cô là người dạy trẻ? 

- Thưa ông, vâng. 

- Lương cô bao nhiêu? 

- Đại tá Spence Munro trả tôi bốn bảng một tháng. 

- Ồ! Cái tên lợi dụng! Cái tên bóc lột! - ông ta xoa xoa tay, rồi vung vẩy tay, giận sôi sùng sục - Tại sao có những kẻ lại có thể trả số lương tệ mạt như vậy cho một người xuất sắc và hoàn bị như cô? 

- Về sự hoàn bị, có lẽ không được như ông mong mỏi. Một chút tiếng Pháp, một chút tiếng Đức, âm nhạc và trẻ... 

- Suýt suýt! Chuyện đó chỉ là phụ. Điểm chính yếu là thế này: cô có cái vẻ của một tiểu thư đài các. Nếu cô không được thế, cô không xứng đáng làm người giáo dục cho một đứa trẻ có thể đóng một vai trò đáng kể trong lịch sử nước này. Nếu ngược lại, thì tại sao lại có những người nhẫn tâm trả cho cô cái đồng lương chết đói đó? Thưa cô, tôi sẽ trả cho cô lương khởi điểm ở nhà tôi là 100 bảng một năm. 

Nói xong, con người hào phóng ấy mở ví và rút ra một tờ giấy bạc: 

- Tôi cũng có thói quen ứng trước một nửa tiền lương để các tiểu thư có thể trang trải phí tổn di chuyển và mua sắm áo quần - ông ta vừa nói vừa mỉm cười rất khả ái, đến nỗi đôi mắt ông ta thu nhỏ lại thành hai điểm sáng giữa khối mỡ trắng bệch. 

Tôi hầu như chưa hề gặp một người nhiệt thành và lịch thiệp hơn ông ta. Tôi đang thiếu nợ: số tiền ứng trước thật đúng lúc! Nhưng dù sao một sự giao dịch như vậy cũng có vẻ bất thường, nên tôi muốn biết thêm cho rõ, trước khi nhận lời. 

- Tôi có thể biết ông ở đâu không? 

- Tại hạt Hampshire. Một mảnh đất nhỏ đẹp mê hồn. "Những cây dẻ đỏ[1]" cách Winchester 5 dặm. Thưa cô, đó là một xứ sở xinh đẹp, và nhà tôi là ngôi nhà đáng yêu nhất trong số những ngôi nhà xưa trong quận. 

- Công việc của tôi như thế nào? 

- Tôi chỉ có một thằng bé vừa lên 6. À, nếu cô thấy được cái cách nó dùng đôi dép hạ những con gián? Trước khi nó nhíu mày, đã có ba con bị hạ. 

Ông ta dựa ngửa vào ghế và lại cười, nụ cười làm cho đôi mắt như mất hút trong khối thịt phì nộn. Tôi hơi ngạc nhiên về trò chơi mà cậu bé ưa thích, nhưng tiếng cười của ông bố khiến tôi nghĩ rằng có lẽ ông ta chỉ đùa thôi. 

- Tôi chỉ phải chăm nom cho một mình cậu bé thôi chứ? - Tôi hỏi lại. 

- Ồ không! Không phải chỉ có thế, thưa cô thân mến! Cô còn phải tuân lệnh vợ tôi, tất nhiên đó luôn luôn là những mệnh lệnh mà một thiếu nữ có phẩm hạnh có thể tuân theo, và tôi chắc là một người thông minh như cô đã đoán được. Đâu có gì khó, phải không cô? 

- Tôi rất sung sướng được phục vụ ông bà. 

- Tuyệt. Nhưng, nhân tiện, xin nói về trang phục. Vợ chồng tôi là những người kỳ cục, nhưng tốt bụng. Nếu chúng tôi yêu cầu cô mặc một cái áo nào đó vào một ngày nào đó thì cô không phản đối chứ. 

- Thưa ông, không. - Tôi trả lời, hơi ngơ ngác. 

- Hoặc yêu cầu cô ngồi chỗ này thay vì chỗ kia, hoặc ngồi chỗ kia hay vì chỗ này, cô không coi là bị xúc phạm chớ? 

- Ồ không đâu? 

- Và yêu cầu cô cắt tóc ngắn? 

- Thưa ông, tôi có một mái tóc màu hạt dẻ. Mọi người đều khen là rất đẹp. Tôi sợ rằng điều này không thể được, thưa ông. 

- Còn tôi, tôi sợ rằng đây là điều chính yếu. Đó là một sở thích nho nhỏ của vợ tôi. Vậy, cô sẽ cắt tóc chứ? 

- Thưa ông, tôi sẽ không cắt tóc! 

- A, tốt! Thôi chúng ta không bàn nữa... Thật đáng tiếc. Thưa cô Stoper, trong trường hợp này, tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm một ứng cử viên khác. 

Trong suốt thời gian chúng tôi thảo luận, cô quản lý chúi mũi vào đống hồ sơ và không hề mở miệng. Nhưng tới lúc đó, cô ta nhìn tôi với vẻ thù ghét, khiến tôi hiểu ngay rằng việc tôi từ chối sẽ làm cho cô ta mất một số tiền hoa hồng béo bở. Cô ta hỏi tôi:  

- Cô có muốn chúng tôi giữ tên cô trong sổ đăng ký không? 

- Vâng, thưa cô Stoper. 

- Cô đã từ chối những đề nghị tuyệt vời! Cô chớ mong chúng tôi mất thì giờ tìm cho cô một việc khác. Chào cô, cô Hunter! - CÔ Stoper ấn chuông và người ta đưa tôi ra. 

Tôi trở về. Khi tôi kiểm lại số thực phẩm trong nhà, khi tôi thấy hai hay ba tờ hoá đơn trên bàn, tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng tôi đã làm một điều ngu xuẩn. Ít có cô dạy trẻ nào được trả 100 bảng một năm... vả chăng, bộ tóc dài của tôi có giúp ích gì cho tôi đâu. Nhiều phụ nữ đã cắt tóc ngắn, thế mà họ chẳng xấu đi chút nào. 

Ngày hôm sau, tôi tự coi mình là một con ngốc. 

Hôm sau nữa, tôi chắc chắn là tôi đã làm một điều dại dột. Vào lúc tôi dẹp bỏ lòng tự ái, định trở lại cơ sở tìm việc hỏi xem chỗ đó còn trống không, thì tôi nhận được một bức thư. Tôi xin đọc ông nghe: 

"Những cây dẻ đỏ, Winchester, 

Thưa cô Hunter thân mến. 

Cô Stoper đã có nhã ý cho tôi địa chỉ của cô, nên tôi viết thu này cho cô, hỏi xem cô có xét lại quyết định trước đây không. Nhà tôi rất muốn cô đến đây, vì qua sự mô tả của tôi, bà ấy rất thích cô. Chúng tôi sẵn sàng trả cho cô 30 bảng mỗi quý. Vậy là 120 bảng một năm, ấy là để đền bù những bất tiện nho nhỏ do tính kỳ quặc của chúng tôi gây ra cho cô. Dù sao, đó cũng không phải là những đòi hỏi quá đáng! Nhà tôi rất thích màu xanh và bà ấy muốn cô mặc áo màu này mỗi sáng. Tuy nhiên, cô không cần bỏ tiền mua sắm, vì chúng tôi có sẵn một cái như thế trước đây của con gái tôi. Alice hiện nay đang ở Philadelphia. 

Mặt khác, về chỗ ngồi hay nơi cô đi đứng, chúng tôi sẽ chỉ cho cô, cô sẽ không gặp bất tiện gì đầu. Về bộ tóc, tôi rất tiếc nhưng tôi cương quyết giữ nguyên quyết định. Tôi hy vọng rằng số thù lao tăng lên sẽ đền bù được sự mất mát đó! Về phần đứa bé, công việc của cô sẽ rất nhẹ nhàng. Cô cố gắng đến với chúng tôi nhé, tôi sẽ đem xe đón cô ở Winchester. Xin cho tôi biết giờ xe lửa khởi hành. 

Chúc cô mạnh khoẻ. 

Jephro Rucastle" 

Đó là nội dung bức thư. Và tôi đã quyết định nhận lời. Tuy vậy, trước khi lao vào khoảng không, tôi muốn ông cho một lời khuyên. 

- Nhưng, thưa cô, nếu cô đã quyết định rồi thì đâu còn vấn đề gì nữa! 

- Có phải là ông khuyên tôi nên từ chối? 

- Đó không phải là chỗ tôi mơ ước cho cô em gái của tôi, nếu tôi có một đứa em gái. 

- Điều đó có nghĩa gì, thưa ông Holmes? 

- Chẳng có một dữ kiện nào cả, nên tôi không thể nói gì hơn. Nhưng có lẽ cô cũng có ý kiến riêng chứ? 

- Tôi thấy ông Rucastle có vẻ là người tốt và lịch thiệp, nhưng có lẽ vợ chồng họ có những sở thích ngông cuồng nên ông ta nhượng bộ cho gia đình được êm ấm và để tránh những bất trắc có thể buộc phải đưa bà Rucastle vào viện an dưỡng. Giả thiết của tôi có vô lý không? 

- Chẳng những không vô lý; mà còn là giả thiết có nhiều khả năng nhất. xem xét về mọi mặt thì một cô gái trẻ hẳn không lấy gì làm dễ chịu trong gia đình này. 

- Nhưng còn tiền lương, ông Holmes ơi! 

- Vâng, đúng vậy. Tiền thù lao cao, rất cao! Chính điều đó làm cho tôi khó chịu! Tại sao họ lại trả cho cô 120 bảng. Trong khi họ có thể mướn bất kỳ ai với giá 40 bảng? 

- Bởi vậy tôi đã rất có lý, khi đến đây hỏi ý kiến của ông. Tôi yên tâm biết bao khi ông biết sẽ ủng hộ tôi. 

- Tôi ủng hộ cô! Tôi sẽ hết sức chú ý tới câu chuyện này. Hãy thật lòng nói cho tôi biết cô có cảm thấy bất an, hay nguy hiểm gì không? 

- Nguy hiểm? Ông dự đoán có nguy hiểm? 

Holmes lắc đầu, nghiêm nghị nói: 

- Nguy hiểm không còn nữa, nếu ta nhận diện được nó. Nói vắn tắt, bất kỳ lúc nào, dù ngày hay đêm, hễ cô gửi một điện tín là tôi sẽ tức tốc tới đó ngay. 

- Như vậy, tôi an tâm. 

Cô gái đứng dậy, mặt rạng rỡ: 

- Tôi ra đi với tinh thần thư thái. Tôi sẽ viết thư ngay cho ông Rucastle; chiều nay tôi đi cắt tóc; ngày mai tôi sẽ có mặt ở Winchester. 

Cô nói lời cám ơn, chúc sức khoẻ, rồi ra về. Lắng nghe tiếng chân nhanh nhẹn, vững chắc của cô gái đang đi xuống cầu thang, tôi nói: 

- Ít ra cô ta cũng có vẻ biết cách xoay xở. 

- Chỉ trong một thời gian ngắn thôi, cô ta sẽ cầu cứu với chúng ta. 

Mười lăm ngày đã trôi qua. Trong thời gian này, tâm trí tôi cứ hướng về "Những cây dẻ đỏ". Tôi tự nhủ cô gái đang dấn thân vào một cuộc phiêu lưu kỳ lạ biết bao. Số tiền lương cao bất thường, những điều kiện kỳ quặc, công việc nhẹ nhàng (theo lời người cha hứa), tất cả những cái đò cho thấy một điều gì đó không bình thường. Điều gì đó là do tính tình kỳ quặc hay có một âm mưu? Ông kia là một kẻ thương người hay là một tên vô lại? Về phần Holmes, tôi nhận thấy đôi khi anh trầm ngâm hàng mấy giờ liền. Và mỗi khi tôi nhắc tới cô gái, anh khoát tay ngắt lời: "Tôi chờ tin tức. Những dữ kiện! Không thể làm bánh nếu không có bột?". Anh rít lên nho nhỏ rằng nếu là em gái thì anh không chịu để cô nhận một chỗ làrn như vậy. 

Chúng tôi nhận được điện tín vào một buổi tối, bấy giờ đã khuya. Holmes mở phong bì, liếc qua bức điện tín rồi ném cho tôi: 

- Anh hãy kiểm tra lại giờ tàu chạy. 

Bức điện tín rất ngắn: 

"Vui lòng có mặt ở khách sạn "Thiên nga đen" ở Winehester lúc 12 giờ trưa. Tôi kiệt sức. Hunter". 

Khi tôi đọc xong, Holmes hỏi: 

- Anh đi với tôi chứ? 

- Tôi không mong mỏi gì hơn. 

- Vậy cho tôi biết giờ tàu khởi hành. 

- Có một chuyến lúc 9 giờ rưỡi tới Winchester lúc 11 giờ rưỡi. 

- Tốt lắm. 

Vào lúc 11 giờ ngày hôm sau, chúng tôi đã gần tới thủ đô của nước Anh. Holmes nấp sau một đống nhật báo suốt cuộc hành trình, nhưng sau khi qua khỏi địa phận Hampshire, anh chui ra ngắm cảnh. Bầu trời xanh nhạt, những đám mây trong, trôi êm ả từ tây sang đông, mặt trời chói lọi, có thể ngửi thấy mùi nhựa sống trong không khí. Vạn vật mời gọi con người hoạt động. Trên những cánh đồng trải dài đến các ngọn đồi quanh Aldershot, những mái ngói đỏ tươi hoặc trắng xám của các trang trại in hình lên màu xanh lá mới. 

- Tươi mát và xinh đẹp tuyệt vời, có phải không? - Tôi bất giác thốt lên, với sự phấn khởi của người thường giam mình trong thành phố. Holmes khẽ gật đầu. 

- Anh có biết không, Watson. Đầu óc tôi bị ám ảnh đến nỗi cứ nhìn mọi vật dưới khía cạnh nghề nghiệp. Tôi cũng nhìn thấy những ngôi nhà đó như anh, nhưng chỉ có một ý nghĩ độc nhất ở trong đầu tôi. Chúng ở lẻ loi quá, hẻo lánh quá, nên tội ác xảy ra ở đây dễ dàng thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật. 

- Trời đất ơi! - Tôi nói lớn, giận hờn - Tại sao anh lại ghép chung tội ác với những tổ ấm thân thiết kia? 

- Những ngôi nhà như vậy luôn luôn làm tôi kinh sợ. Dựa theo kinh nghiệm, tôi có cảm giác những con hẻm tồi tàn nhất ở Luân Đôn còn ít chứa chấp tội lỗi hơn cánh đồng xinh tươi này! 

- Anh làm tôi kinh hãi đấy, Holmes. 

- Lý do thật hiển nhiên. ở thành thị, áp lực của dư luận có thể làm được điều mà pháp luật phải bó tay. Không có nơi nào ở Luân Đôn mà tiếng kêu than của một đứa trẻ bị hành hạ, tiếng đấm đá của một anh chàng say sưa lại không làm nổi dậy lòng bất bình của hàng xóm. Và bộ máy pháp luật ở gần người dân đến nỗi một lời tố giác yếu ớt cũng buộc nó phải vận động: từ chỗ phạm tội tới vành móng ngựa chỉ có một bước ngắn; còn những ngôi nhà lẻ loi này, anh hãy nhìn kỹ đi? Mỗi nhà rào kín trong khu đất của mình, trong đó phần đông là những người nghèo khó, không thông hiểu pháp luật. Những hành vi thô bạo có thể diễn ra tự do mà không ai hay biết. Nếu cô gái đang cầu cứu chúng ta đang sống ở Winchester thì tôi không lo ngại gì hết. Năm dặm ngăn cách cô ta với thành phố làm tôi không yên. Chỉ còn may một điều là bản thân Hunter chưa bị đe doạ... 

- Chắc chắn Hunter không bị đe doạ! Nếu cô tới gặp chúng ta ở Winehester được, thì có nghĩa là cô còn được tự do đi lại. 

- Đúng vậy. 

- Vậy thì có vấn đề gì? Anh có thể giải thích cho tôi không? 

- Tôi có cả thảy bảy giải pháp riêng biệt, mỗi giải đáp phù hợp với những sự kiện như chúng ta đã biết, chỉ còn phải tìm xem giải đáp nào là đúng. A! Đây là tháp chuông nhà thờ lớn, chúng ta sắp gặp cô em rồi. 

Khách sạn "Thiên nga đen" là một quán trọ nổi tiếng, gần nhà ga. Chúng tôi gặp ngay cô giáo, và bữa điểm tâm đã sẵn sàng. Cô reo lên: 

- Tôi sung sướng biết bao, khi thấy các ông tới. Các ông thật tốt! Nói thật tình, tôi không biết phải làm sao nữa, nên mới cầu cứu. 

- Nói ngay chuyện gì đã xảy ra! 

- Vâng. Tôi phải nói gấp vì tôi phải trở về trước ba giờ 

- Cô hãy kể theo thứ tự - Holmes nói, vừa ngồi duỗi đôi chân quá khổ về phía lò sưởi, chuẩn bị tư thế thoải mái để nghe chuyện. 

- Trước hết, tôi phải nói là tôi không hề bị hai ông bà ấy ngược đãi. Nhưng tôi không hiểu nổi họ, và tôi lo ngại. 

- Cô không hiểu cái gì? 

- Nguyên nhân hành động của họ... 

"Khi tôi tới đây thì ông Rucastle đã có mặt với chiếc xe, và đưa tôi về. "Những cây dẻ đỏ"quả là một địa điểm tuyệt vời, nhưng ngôi nhà thì không đẹp, nó là một khối vuông đồ sộ loang lổ. Chung quanh là ruộng, những rừng cây mọc ở cả ba phía. Phía còn lại là một cánh đồng dốc thoai thoải chạy xuống quan lộ đi Southampton, con đường này vòng lại cách cổng trước độ 100 yard. Miếng đất đó thuộc sở hữu của ông Rucastle, còn rừng cây là của huân tước Southerton. Mấy đám cây dẻ đỏ mọc trước cổng, nên trang trại được gọi là "Những cây dẻ đỏ". 

Ông chủ giới thiệu tôi với bà chủ và cậu con vào buổi chiều. Và tôi đã lầm, thưa ông Holmes: bà Rucastle không phải là người điên. Bà ít nói, mặt trắng bệch, trẻ hơn ông chồng nhiều. Nghe họ nói chuyện, tôi biết họ lấy nhau đã bảy năm, rằng lúc đó ông ta goá vợ và đứa con duy nhất của người vợ trước là cô gái đang sống ở Philadelphia. Ông Rucastle cho tôi biết sở dĩ cô ấy bỏ đi vì không hoà thuận với kế mẫu. Vì cô ấy chỉ vào khoảng 20 tuổi nên tôi hiểu là cô ta không cảm thấy thoải mái với người dì ghẻ của mình. Bà Rucastle không có cảm tình mà cũng không ác cảm với tôi. Rõ ràng bà ta rất yêu chồng và đứa bé. Ông chủ rất lịch sự với vợ, dường như họ rất hoà hợp và hạnh phúc. Tuy thế, bà ấy giấu kín một nỗi u sầu bí mật. Bà thường ngồi trầm tư, ánh mắt buồn rầu. Nhiều lần tôi thấy bà khóc một mình. Tôi tưởng bà khổ tâm vì tính nết của đứa con hư đốn. Thì giờ của nó dành cho những ham mê man dại xen với những cơn hờn dỗi. Thú tiêu khiển ưa chuộng nhất của nó là hành hạ những con vật yếu đuối: nó bắt chuột nhắt, những con chim nhỏ và côn trùng. Nhưng tôi không muốn dài dòng về chú bé này vì thực sự nó ít liên quan đến câu chuyện của tôi." 

- Tôi muốn biết hết mọi chi tiết, cả những chi tiết mà cô thấy là vô vị. 

- "Điều bực bội duy nhất ở trong nhà này, là thái độ của hai gia nhân: họ là một cặp vợ chồng. Anh chồng Toller là một người thô lỗ, có mái tóc hoa râm, lúc nào cũng sặc sụa mùi rượu. Bà vợ là một người cao lớn, mạnh mẽ và là một người đàn bà khó ưa. 

Trong hai ngày đầu, cuộc sống thật dễ chịu. Sáng sớm ngày thứ ba, bà chủ xuống nhà ngay sau khi ăn điểm tâm. Bà thì thầm vài tiếng bên tai ông chồng. 

- Ừ, ừ! - ông chồng vừa trả lời vợ vừa quay sang tôi - Thưa cô Hunter, chúng tôi rất biết ơn cô đã cắt tóc ngắn. Bây giờ chúng ta sẽ thử xem cái áo màu xanh kim quýt có vừa với cô không. Cái áo trên giường của cô. 

Cái áo đã có người mặc qua. Tuy vậy, nó rất vừa vặn với khổ người tôi. Hai ông bà Rucastle đều rất hài lòng. Họ chờ tôi trong phòng khách có ba cửa sổ lớn. Một chiếc ghế đã được đặt sẵn gần bên cửa sổ giữa, lưng ghế quay ra phía ngoài ánh sáng. Họ yêu cầu tôi ngồi lên đó. Bấy giờ ông Rucastle vừa đi ngang dọc phòng khách vừa kể lể những chuyện khôi hài mà tôi chưa bao giờ được nghe. Tôi cười nôn ruột. Bà chủ chỉ mỉm cười vài lần. Bà ngồi khoanh tay trước ngực, mắt buồn bã, lo âu. Khoảng một giờ sau, ông thấy đã tới giờ làm việc, nói rằng tôi có thể đi thay áo và dạy học. 

Hai ngày sau, cảnh đó lại diễn ra tương tự. Một lần nữa, tôi lại đi thay áo, một lần nữa người ta lại yêu cầu tôi ngồi gần cửa sổ. Và một lần nữa tôi lại cười chảy nước mắt vì những câu chuyện của ông chủ. Rồi ông đưa cho tôi một quyển tiểu thuyết, khẽ xoay chiếc ghế tôi đang ngồi cho tôi khỏi chói mắt và yêu cầu tôi đọc to lên. Tôi bắt đầu đọc chừng 14 phút, ông bảo tôi dừng lại, và ra lệnh cho tôi đi thay áo. 

Tôi để ý là họ hết sức quan tâm về việc phải ngồi quay lưng về phía cửa sổ. Tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ. Sẵn cái gương cầm tay của tôi bị vỡ, tôi lấy một mảnh giấu trong khăn tay. Ngay giữa một tràng cười, tôi đưa khăn lên ngang mắt và khéo léo nhìn xem có cái gì ở phía sau lưng mình. Tôi thất vọng: chẳng có gì cả. 

Lần thứ hai, tôi thấy một người đàn ông trên đường đã nhìn trộm tôi. 

- Một người bạn của cô, phải không? - ông chủ hỏi. 

- Không đâu! Tôi không quen ai ở đây. 

- Chúa ơi! Trơ tráo thật! Tôi xin cô quay lại và ra hiệu cho anh ta đi đi! 

- Làm như không nhìn thấy anh ta có hay hơn không? - Tôi đưa ra ý kiến. 

- Không, không nên! Anh ta sẽ la cà mãi ở đây. Tôi xin cô, cô hãy quay lại và ra hiệu cho anh ta đi đi! Làm như thế này này! 

Tôi làm theo lời ông ta trong khi bà chủ kéo rèm. 

Chuyện đó cách đây một tuần. Từ ngày đó chưa bao giờ tôi lại phải ngồi bên cửa sổ, chưa bao giờ tôi phải mặc chiếc áo xanh và chưa bao giờ tôi thấy lại người đàn ông." 

- Cứ tiếp tục đi cô giáo. - Holmes nói - Câu chuyện hứa hẹn nhiều điều hấp dẫn. 

"Ngay hôm tôi tới, ông Rucastle có dẫn tôi đến một gian nhà phụ, bên cạnh nhà bếp. Khi tới gần, tôi nghe có tiếng xích sắt khua và tiếng một con vật to đang trở mình. 

- Cô hãy nhìn vào xem! Nó có đẹp không? - ông Rucastle chỉ vào một khe hở giữa hai tấm ván. Tôi nhìn vào, thấy một cặp mắt sáng và một hình thù mơ hồ trong bóng tối. 

- Đừng sợ! - ông chủ vừa nói vừa cười khi tôi lùi lại một bước - Đó là Carlo, con chó chăn bò. Nó chỉ tuân lệnh lão Toller. Chúng tôi chỉ cho nó ăn mỗi ngày một bữa, nên nó rất hung dữ. Ban đêm, Toller mới thả nó ra. Vô phúc cho tên lang thang nào bén mảng vào nhà tôi. Ban đêm, cô chớ có ra khỏi nhà, có thể nguy hiểm đấy. 

Hai đêm sau, vào lúc 2 giờ sáng, tôi tình cờ nhìn qua cửa sổ, trăng sáng vằng vặc, lối đi trước nhà lung linh ánh bạc. Vẻ đẹp bình yên của cảnh vật xâm chiếm tâm hồn tôi, nhưng tôi vẫn nhận biết có cái gì đó cựa quậy trong đám cây dẻ. Khi cái hình thù đó ra khỏi bóng cây, tôi thấy rõ đó là một con chó khổng lồ, to bằng một con bê, răng nanh dài, mõm đen, gầy trơ xương. Nó bằng ngang lối đi và mất hút vào bóng tối. Tôi lạnh toát cả người. 

Bây giờ tôi xin kể ông nghe một chuyện kỳ dị. Như ông biết, tôi đã cắt tóc ở London và mang những lọn tóc đó theo, kết lại thành một cuộn. Một buổi tối, lúc thằng bé đã đi ngủ, tôi xem xét đồ đạc trong phòng và sắp xếp lại quần áo. Có một cái tủ cũ, hai ngăn trên trống và không khoá, ngăn dưới cùng khoá kín. Tôi xếp quần áo vài hai ngăn trống mà vẫn còn thừa nên tôi hơi bực bội, vì không sử dụng ngăn thứ ba được. Tôi tự nhủ có lẽ người ta đã khoá tủ do lơ đãng, nên tôi lấy chùm chìa riêng mở thử. 

Cái chìa đầu tiên đã mở được ngay: trong ngăn kéo đó chỉ chứa một vật duy nhất: bộ tóc. Tôi cầm lên, quan sát. Cũng một màu hơi đặc biệt, cũng mai mại. Nhưng đột nhiên tôi biết ngay đó không phải là tóc của tôi, vì làm sao nó lại ở đây được? Tay run run, tôi mở rương và thấy bộ tóc của mình vẫn còn nguyên ở đáy rương. Tôi đặt hai bộ tóc bên nhau và thấy chúng giống hệt. Tôi suy nghĩ mãi mà vẫn không hiểu gì cả. Tôi đặt "bộ tóc lạ" vào chỗ cũ và không hé môi với ai về chuyện này. Sự thật, tôi đã có lỗi khi mở một cái ngăn kéo có khoá. 

Thưa ông Holmes, ông có thể nhận thấy rằng tôi có óc quan sát tự nhiên. Vì vậy nên chẳng bao lâu tôi đã thuộc lòng sơ đồ ngôi nhà. Có một căn phòng dường như không có người ở, ở đó có một cánh cửa đối diện với cửa phòng của vợ chồng Toller, nhưng luôn luôn khoá. Một bữa, khi lên thang gác, tôi chạm mặt ông Rucastle đang từ phòng đó đi ra, tay nắm chìa khoá và nét mặt hầm hầm; ông khoá cửa, và đi qua mặt tôi, không nói một lời, dường như không nhìn thấy tôi vậy. 

Việc đó làm tôi đâm ra tò mò, vì vậy khi dẫn thằng bé đi chơi, tôi đi về phía có thể nhìn thấy các cửa sổ của dãy phòng đó. Có bốn cửa sổ: ba cái thì đầy bụi bặm, còn cái thứ tư có cửa chớp kín. Rõ ràng là góc nhà này bị bỏ hoang. Khi tôi lang thang ở đó thì ông Rucastle đi về phía tôi: vẻ tươi cười vui vẻ đã trở lại. 

- Xin bỏ lỗi cho tôi khi đi ngang qua cô lúc nãy mà không chào cô. Lúc đó tôi bận quá. 

- Thưa ông, không có gì ạ? Nhân đây tôi có nhận xét ông có nhiều phòng bỏ trống quá, một phòng trong số đó có cả cửa chớp che kín nữa. 

- Nhiếp ảnh là một trong số những say mê của tôi. Phòng tối đặt ở đó. Nhưng, thưa cô thân mến, cô thật là inột người có mắt quan sát. Ai có thể tin được? Ai có thể tin được chứ? 

Ông ta nói bằng giọng đùa cợt, nhưng đôi mắt ông ta nhìn tôi chằm chằm không có vẻ đùa cợt tí nào: ông ta đã nghi ngờ 

Từ lúc tôi hiểu rằng cái gì đó ở trong các gian phòng kia thì tôi chỉ còn mơ tới chúng. Tôi có linh cảm rằng nếu tôi đột nhập vào nơi đó, tôi sẽ làm được một điều rất tốt, rất thiện. 

Cơ hội đến vào ngày hôm qua. Tôi phải cho ông biết là không chỉ một mình ông Rucastle có việc gì phải làm trong mấy gian phòng vắng đó, mà cả vợ chồng ông Toller cũng có đến đó. Tôi đã thấy Toller mang vào đó một túi vải đen lớn. Gần đây, ông ta uống rượu nhiều và chiều qua ông ta say mèm. Khi lên thang gác, tôi thấy chìa khoá cắm ở cánh cửa đó. Chắc chắn ông ta đã bỏ quên Tôi có một cơ hội tuyệt vời: ông và bà Rucastle đang ở dưới nhà với cậu con. Tôi nhẹ nhàng vặn khoá, mở cánh cửa và lướt thẳng tới đầu kia. 

Trước mặt tôi là một hành lang trần trụi, sàn không lót thảm mà tường cũng không dán giấy. Cuối hành lang là một góc ngoặt. Sau góc ngoặt có ba cánh cửa liên tiếp. Cửa thứ nhất và cửa thứ ba thì mở ngỏ, phòng trống, dơ bẩn và u ám. Phòng giữa có khoá: một cái nhíp xe chặn ngang cửa, một đầu móc vào một cái vòng gắn trong tường, đầu kia được buộc dây. Bản thân cánh cửa thì có khoá, nhưng không có chìa khoá trong ổ khoá. Cánh cửa được chặn kỹ đó ứng đúng với cửa sổ có cửa chớp bị bịt kín phía ngoài. Qua khe hở dưới cửa, tôi thấy là phòng có ánh sáng. Hiển nhiên là có một khung cửa kính ở trên cao để cho ánh sáng lọt vào phòng. Trong lúc tôi đang loay hoay trước cánh cửa hắc ám đó, tự hỏi bên trong căn phòng chứa đựng một bí mật gì, thì thình lình tôi nghe có tiếng bước chân trong phòng và qua khe hở dưới cửa, tôi có thể phân biệt được một cái bóng đang đi tới đi lui. Lúc đó tôi sợ quá, tôi quay lưng bỏ chạy. Tôi chạy như có một bàn tay khủng khiếp cố tóm lấy tôi. Tôi vượt qua hết hành lang, đâm bổ ra cửa và... ngã vào tay ông Rucastle. 

- Nào, nào! Thế ra là cô? - ông vừa nói vừa cười - Khi tôi thấy cửa mở, tôi đã ngờ là cô. 

- Tôi sợ quá, tôi sợ quá! - Tôi hổn hển nói. 

- Ồ, cô thân mến! Tiểu thư thân mến! Nào, việc gì mà cô sợ hãi quá vậy?- Giọng ông ta quá mơn trớn, quá ngọt ngào khiến tôi cảnh giác. 

- Tôi dại dột đi vào cái chái vắng vẻ này. Trong đó tối và yên lặng quá, nên tôi đâm sợ. ôi, trong đó yên lặng đến rợn người? 

- Chỉ có vậy thôi ư? - ông ta dò xét. 

- Còn thế nào nữa? Ông cho là thế nào? 

- Tại sao cô nghĩ rằng cửa này được khoá kín? 

- Tôi không biết gì chuyện cửa nẻo cả. 

- Tôi khoá cửa chỉ là để những kẻ vô can khỏi chúi mũi vào đấy. Cô hiểu không? - ông ta vẫn tiếp tục mỉm cười một cách khả ái. 

- Nếu tôi biết thế, thì... 

- Tốt lắm. Bây giờ thì cô biết rồi. Nếu cô còn đặt chân tới sau cánh cửa này nữa, thì... - Lúc đó nụ cười của ông ta biến thành một cái nhếch mép giận dữ, và ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân với bộ mặt của một con quỷ - Thì... tôi sẽ cho con chó ăn thịt cô đấy! 

Tôi kinh hoàng đến nỗi không nhớ tôi đã làm gì nữa. Tôi nghĩ là tôi đã chạy nhào về phòng. Tôi không còn nhớ gì hết. Nằm trên giường mà tôi run rẩy cả người. Tất cả mọi người đều làm tôi sợ hãi: ngôi nhà, ông chồng, bà vợ, hai người gia nhân và cả cậu con nữa. Hiển nhiên là tôi có thể bỏ trốn, nhưng sự tò mò cũng mạnh mẽ như sự sợ hãi vậy. Vì thế sau khi gửi cho ông một điện tín, lòng tôi rất nhẹ nhõm. Khi về tới nhà, một mối lo khủng khiếp nảy sinh, nếu họ thả con chó rồi thì sao? Nhưng tôi nhớ là Toller đang say bí tỉ, và anh ta là người duy nhất trong nhà có thể sai khiến con vật và có phận sự thả nó ra. Thế là tôi chuồn êm vào nhà và đêm qua hầu như tôi không ngủ vì quá vui mừng với ý nghĩ là ông sắp tới đây. Sáng nay họ để tôi đi Winchester mà không làm khó dễ gì; tôi chỉ phải trở về trước ba giờ, vì ông bà Rucastle sẽ vắng nhà cả buổi tôi và tôi phải trông nom cậu con. 

Holmes và tôi bị câu chuyện lạ lùng thu hết tâm trí. Khi cô Hunter kết thúc câu chuyện, bạn tôi đứng dậy, thọc tay vào túi áo, đi tới đi lui khắp phòng, nét mặt rất trầm trọng. 

- Gã Toller vẫn còn say chứ? 

- Vâng. Tôi nghe vợ ông ta phàn nàn với bà Rucastle là chẳng hỏi han gì ông ta được cả. 

- Tối nay ông bà sẽ ra khỏi nhà? 

- Vâng. 

- Nhà có hầm và có khoá? 

- Vâng, có hầm rượu. 

- Cô đã hành động như một cô gái can đảm và nhạy cảm. Cô có nghĩ là cô có thể làm thêm một việc nữa không? 

- Tôi sẽ cố. Tôi phải làm gì? 

- Tôi và bạn tôi đây sẽ tới điềntrang "Những cây dẻ đỏ" lúc bảy giờ tối. Lúc đó vợ chồng ông Rucastle đã ra khỏi nhà và lão Toller thì vô dụng, tôi hy vọng thế. Chỉ còn bà Toller có khả năng báo động. Nếu cô dụ được bà ta xuống hầm rượu và nhốt bà ta dưới đó, thì công việc của chúng ta dễ dàng đi rất nhiều! 

- Tôi sẽ làm được. 

- Hoan hô! Trong trường hợp này, chúng ta sẽ giải quyết vấn đề tận gốc. Chắc chắn chí có một lời giải thích cho trường hợp của cô: Cô được đưa tới "Những cây dẻ đỏ" để thay thế cho một người. Cô giống người đó và người đó đang bị giam cầm. Người bị giam trong phòng kia chắc chắn là tiểu thư Alice. Tóc cô ấy cắt ngắn, và bộ tóc trong ngăn kéo thứ ba là tóc của Alice. Người đàn ông trên đường có thể là một người bạn, có thể là hôn phu của Alice. Cô mặc chiếc áo xanh của Alice, tóc cũng giống như Aliee và có cử chỉ xua đuổi anh ta, nên anh chàng kia tin rằng Alice không còn yêu anh ta nữa. Đêm đêm, con chó chăn bò được thả ra là để ngăn mọi cuộc tiếp xúc với cô gái. Mọi chi tiết hoàn toàn sáng tỏ. Điểm quan trọng trong câu chuyện này là thái độ của cậu con trai. 

- Chuyện đó có gì đáng chú ý? - Tôi hỏi. 

- Anh Watson, nếu người ta có thể nghiên cứu cha mẹ để đoán ra các khuynh hướng của một đứa bé, thì người ta cũng có thể nghiên cứu đứa bé mà "hiểu được" cha mẹ nó. Những khuynh hướng độc ác của thằng bé này, có thể đã được kế thừa từ người cha "thơn thớt nói cười" của nó, hoặc từ mẹ nó. Chính vì thế mà ta có thể tiên liệu rằng cô gái đáng thương đang bị giam cầm có thể phải chịu nhiều khổ sở. 

- Tôi chắn chắn rằng ông nói đúng, ông Holmes - Cô giáo kêu lên - Bây giờ tôi mới nhớ lại nhiều sự kiện chứng tỏ ông đã lần tới được điểm mấu chốt. Mau lên, đừng mất thì giờ nữa. Chúng ta phải cứu cô gái đó! 

Bảy giờ chúng tôi có mặt ở đám cây dẻ đỏ. Cô giáo tươi cười tiếp đón chúng tôi. 

- Cô đã thu xếp được chưa? - Holmes hỏi. Một tiếng động trầm trầm, mơ hồ phát ra từ dưới lòng đất. 

- Các ông vừa nghe bà Toller cử động dưới hầm rượu đó. Còn chồng bà ta thì đang ngáy ầm ĩ trong nhà bếp. Chìa khoá đây. 

- Tuyệt vời! - Holmes phấn khởi nói - Cô dẫn đường. 

Chúng tôi lên cầu thang, mở cánh cửa cấm, đi theo một hành lang và tới trước eăn phòng mà cô giáo đã mô tả. Holmes cắt dây và gạt thanh sắt chặn sang một bên. Lấy chìa khoá thử mở cửa, nhưng không mở được. 

Bên trong không có một tiếng động. Sự im lặng đó làm mặt Holmes tối sầm lại. Anh nói: 

- Chúng ta tới quá trễ! Cô đừng vào, Watson, anh kê vai phụ đẩy cánh cửa với tôi. 

Cánh cửa đã bị mọt ăn nên chúng tôi phá ra dễ dàng. Chúng tôi cùng lao vào phòng. Phòng trống trơn. Khung cửa kính trên cao mở rộng: người nữ tù đã đi rồi. 

- Đáng giận thật! Tên tinh ma ấy đã đoán được ý định của cô Hunter nên đã dời tù nhân đi chỗ khác - Holmes nói. 

- Nhưng bằng cách nào? 

- Qua khung cửa kính. Ta sẽ qua đó xem. 

Holmes đu mình lên mái nhà, nhanh như một con sóc. 

- Đây rồi - Anh la lên - Có một cái thang dài đưa xuống hầm rượu. Tôi hiểu ra rồi. 

- Không thể thế được? - Cô giáo nói - Lúc ông bà ấy ra đi thì không có cái thang ở đó. 

- Vậy thì ông ta đã trở lại và ông ta đã dựng cái thang. Tôi đã nói rằng ông ta là một người nguy hiểm mà! Anh Watson, anh lên đạn khẩu súng đi, ông ta đang tới kìa. 

Holmes vừa dứt lời thì một người đàn ông xuất hiện ở cửa: một người to mập, có vẻ rất khoẻ mạnh, tay cầm một cây gậy bự. Khi trông thấy ông ta, cô Hunter rú lên, nhưng Holmes đã nhảy tới, đối mặt với ông ta. 

- Này, tên cướp. Con gái của anh đâu? 

Con người to bự kia nhìn quanh mình, rồi nhìn lên khung cửa kính. ông ta thét: 

- Chính ta mới có quyền hỏi các người. Quân trộm cướp! Quân gián điệp và trộm cướp! Ta bắt được chúng bay rồi. Chúng bay đang ở trong tay ra! Được lắm, ta sẽ lo cho chúng bay. 

Ông ta tháo lui và chạy xuống thang. 

- Ông ta đem chó đến! - Cô giáo rên rỉ. 

- Tôi có súng. - Tôi nói, để trấn an cô. 

- Đóng cửa lại! - Holmes la lên. 

Chúng tôi chạy xuống thang. Vừa tới cửa thì nghe có tiếng chó sủa, rồi có tiếng gào khủng khiếp và tiếng vật lộn ầm ầm. Một người đứng tuổi, gương mặt đỏ gay và tay chân run rẩy đang lảo đảo tiến ra từ một cửa hàng. 

- Trời ơi! Ai đã thả con chó ra rồi? - ông ta kêu thét lên - Đã hai ngày nay nó chưa ăn. Mau lên, mau lên kẻo trễ mất. 

Holmes và tôi lao ra ngoài và chạy vòng ngôi nhà. Toller chạy theo sau. Cái mõm đen ngòm của con vật đang cắn vào cổ họng của ông Rucastle. Tôi nhảy tới bắn vỡ sọ con vật. Chúng tôi phải khó nhọc lắm mới gỡ người chủ nhà ra khỏi hàm răng của con chó và mang ông ta vào nhà, đặt lên trường kỷ. Toller giờ đã tỉnh rượu. Tôi bảo Toller thả vợ anh ta ra, và săn sóc cho ông Rucastle. Bỗng nhiên cánh cửa bật mở: một người đàn bà dữ tợn đi vào. 

- Bà Toller! - Cô giáo la lên. 

- Phải. Ông Rucastle đã thả tôi ra khi ông ấy vừa quay về nhà. Thật là đáng tiếc, thưa cô Hunter, cô đã mất thì giờ vô ích! 

- Tôi thấy dường như bà Toller biết rõ câu chuyện hơn bất cứ ai ở đây - Holmes nói. 

- Phải, tôi biết rõ và tôi sẵn sàng nói ra tất cả. 

- Vậy, mời bà ngồi đây và nói đi. Còn vài điểm tôi chưa chắc lắm. 

- Có lẽ tôi đã kể cho các ông nghe sớm hơn nếu tôi không bị kẹt ở hầm rượu. Khi vụ này ra trước pháp luật xin các ông nhớ cho rằng tôi là người duy nhất đứng về phía các ông và tôi cũng là bạn của cô Alice. 

"Chưa bao giờ cô Alice được sung sướng ở trong căn nhà này. Nhất là từ khi cha cô tái giá. Người ta khinh rẻ cô, cô không có quyền có ý kiến. Nhưng mọi chuyện hỏng cả khi cô gặp gỡ ông Fowler ở nhà bạn bè. Theo chỗ tôi biết, cô Alice có một phần tài sản thừa kế do mẹ cô để lại, nhưng cô giao quyền lợi của mình cho người cha. Người cha biết rằng ông ta không gặp khó khăn gì với cô con gái. Nhưng nếu cô lấy chồng và nếu người chồng đòi hỏi những quyền lợi hợp pháp của mình, thì ông bố sẽ sạt nghiệp. Vì vậy ông ấy ép cô gái ký một văn tự nhượng mọi quyền lợi cho cha, dù cô có lấy chồng hay không. Khi cô ấy từ chối, ông quát mắng một trận đến nỗi cô gái uất ức và ngã bệnh suýt chết. Rồi cô bình phục, từ đó cô như một cái bóng, và người ta đã cắt tóc cô. Nhưng tất cả những chuyện đó không làm thay đổi tình cảm của chàng trai. 

- Cảm ơn bà có lòng tốt cho biết nội vụ một cách rành mạch - Holmes nói - Tôi có thể suy ra phần sau của câu chuyện: Sau đó người cha quyết định giam cô gái vào một chỗ kín đáo, phải không? 

- Thưa ông, đúng vậy. 

- Và ông ta đưa cô Hunter từ London về đây để tìm cách tống khứ anh chàng cứng cổ Fowler phải không? 

- Thưa ông, đúng vậy. 

- Nhưng cái gã si tình tài giỏi ấy đã bao vây nhà này, anh ta có gặp bà, đã thuyết phục bà, dùng lời lẽ cảm động hoặc đe doạ, cuối cùng đã làm cho bà thấy được là quyền lợi của anh ta cũng có nghĩa là quyền lợi của bà. 

- Ông Fowler là một người rất lễ độ, rộng lượng - Bà Toller thản nhiên xác nhận. 

- Và anh ta sắp đặt để cho bà thực hiện: làm sao cho ông Toller luôn luôn say mèm, làm sao cho có được một cái thang vào lúc ông bà chủ vắng nhà, có phải không? 

- Chính xác như vậy. 

- Xin cảm ơn bà. Bà đã làm sáng tỏ mọi chuyện. Kìa bà Rucastle đã về, cùng với một ông y sĩ. Hãy để cho họ săn sóc ông Rucastle, còn chúng ta đưa cô Hunter trở lại London. 

Vậy là câu chuyện bí ẩn về "Những cây dẻ đỏ" kết thúc. Ông Rucastle vẫn còn sống, nhưng ông ta chỉ còn là một cái bóng vật vờ, phải nương tựa vào bà vợ. Họ vẫn giữ những gia nhân cũ tại nhà. Ông Fowler và Alice đã lấy nhau và sang lập nghiệp ở đảo Mauritius. Cô Hunter thì điều khiển một trường tư thục ở Walsall và tôi tin rằng cô sẽ thành công.

TẤN THẢM KỊCH CỦA TÀU KOROSKO

Dịch giả : Trung Khâm

Chương 1

(The tragedy of the "Korosko")

Có lẽ công chúng sẽ tự hỏi tại sao các báo chí không bao giờ kể lại câu chuyện những hành khách trên tàu Korosko. Ở vào một thời đại như thời đại của chúng ta, khi mà các hãng thông tin, báo chí nhìn soi mói vào khắp vũ trụ để tìm tòi những chuyện giật gân, thật không thể tin được là sự bí ẩn đã che đậy được lâu như vậy một sự cố quốc tế có tầm quan trọng như thế. Ta đành phải nói rằng sự kín tiếng này đã có cơ sở trên những lý do hết sức giá trị, cả về mặt chính trị lẫn về mặt riêng tư. Tuy nhiên, một số người nào đó đã biết rõ các sự việc, một lập luận của những người này đã xuất hiện ngay cả trong một nhật báo tỉnh lẻ và nó đã lôi theo ngay tức thì một bài cải chính. Bây giờ đây là những sự việc được ghi chép dưới dạng một bài thuật sự. Sự chính xác của chúng được bảo đảm bởi những lời khai báo được đưa ra qua sự tuyên thệ của đại tá Cochrane Cochrane, thuộc câu lạc bộ Lục quân và Hải quân, bởi các lá thư của cô Adams, ở Boston, Mass, cũng như bởi lời khai chúng thu lượm được trong quá trình điều tra mật của chính phủ được thực hiện ở Le Caire với đại úy Archer, và những lính cưỡi lạc đà người Ai Cập. Ông James Stephens đã khước từ việc thông báo cho chúng tôi lập luận về sự vụ của ông ấy trên giấy trắng mực đen; nhưng vì các bản in thử của tập sách này đã được gửi cho ông ấy xem, vì ông ấy đã không đưa ra một sự đính chính hay xóa bỏ nào, chúng tôi có quyền giả thiết là ông ấy đã không nêu ra được một sự sai trái cụ thể nào, và những sự phản kháng của ông ấy đối với sự công bố của chúng tôi đã xuất phát phần lớn từ những sự thận trọng, áy náy riêng tư. 

Tàu Korosko có một cái bụng chìm dưới nước hình mai rùa, mũi tàu phình ra, phần lái tàu tròn, tầm nước là tám mươi cen-ti-mét và trắc diện bằng một cái bàn là (bàn ủi). Ngày 13 tháng 2 năm l895, nó nhổ neo từ Shellal, ở gần thác nước thứ nhất, để đi tới Quadi-Halfa. Tôi có được bản danh sách những hành khách của chiếc tàu tuần dương này; đây là bản danh sách đó: 

Ðại tá Cochrane Cochrane _ Luân đôn 

Ông Cecil Brown __________ Luân đôn 

John H Headingly _________ Boston, Hoa kỳ 

Cô Adams _________________ Boston, Hoa kỳ 

Cô S. Adams ______________ Worcester, Mass, Hoa kỳ 

Ông Fardet _______________ Paris 

Ông và Bà Belmont ________ Dublin 

James Stephens ___________ Manchester 

Giáo sĩ John Stuart ______ Birmingham 

Bà Shlesinger,cô vú em và 1 đứa nhỏ __ Florence 

Ðó là những du khách khởi hành từ Shellal, với ý 

định là đi ba trăm ba mươi cây số ngược dòng sông Nil của nước Nubie, quãng sông ngăn cách thác nước thứ nhất và thác nước thứ hai. 

Nước Nubie này, một xứ sở kỳ lạ! Chiều ngang của nó thay đổi trong khoảng vài cây số và vài mét, vì cái tên của nó chỉ được dùng cho một dải đất hẹp cầy cấy được. Với một màu xanh lục, không có bề dày và với những cây cọ mọc bao quanh, nó chạy dài ở mỗi bên của con sông rộng màu cà phê. Ở tít xa kia, trên bờ thuộc nước Libye, là chỗ khởi đầu của sa mạc hoang dã chạy dài trên suốt bề ngang của Châu Phi. Trên bờ bên kia, một phong cảnh cũng hoang vu như vậy tỏa rộng ra tới mãi Hồng Hải xa xôi. Nằm vào giữa hai miền mênh mông cằn cỗi này, nước Nubie trải dài ra dọc theo con sông như một con giun đất xanh rì. Ở nhiều chỗ nó bị đứt đoạn: tại đó sông Nil chảy vào giữa, những hòn núi đen xì và rạn nứt vì trời nắng; những đụn cát di động màu cam là vật để trang trí cho các thung lũng. Ở khắp nơi người ta phát hiện ra các dấu vết của những giống người đã mất tích và những nền văn minh đã bị chìm ngập. Những ngôi mộ kỳ dị in dấu trên các sườn đồi hoặc nổi bật lên trước chân trời; các Kim Tự Tháp, những mộ xây bằng đá, những khối đá dùng làm mộ chí, nhưng ở khắp mọi nơi, toàn là mồ mả. Nơi này, nơi nọ, khi con tàu đi vòng quanh một mũi đất có nhiều núi, người ta nhìn thấy ở trên đỉnh cao một thành phố bỏ hoang, những cái nhà, những bức tường thành, những bờ lũy; ánh nắng xuyên qua các cửa sổ hoặc các lỗ hổng vuông. Người ta biết rằng thành phố đã được xây dựng bởi người La-mã, hoặc bởi người Ai Cập; có điều là tên nó và nguồn gốc của nó đã bị mất đi không còn cứu vãn được. Người ta thấy sửng sốt; người ta tự hỏi tại sao một giống người, dù họ là giống người nào đi nữa, lại đi xây dựng trong một cảnh hoang vắng thô lỗ như thế này. Người ta phải chấp nhận một cách khó khăn, cái thuyết theo đó thì các kiến trúc này không có mục đích nào khác hơn là bảo vệ lối vào vùng đồng bằng phì nhiêu chống lại bọn đạo tặc và bọn man rợ ở miền Nam. Nhưng dù sao thì chúng vẫn còn đứng nguyên, những thành thị im lìm và dữ tợn này; và ở đỉnh các ngọn núi, ta có thể nhìn thấy những nấm mộ ở đó các cư dân của chúng đã được chôn cất, nhìn từ xa chúng giống như những cửa sổ nhỏ của một chiếc thiết giáp hạm. Ðó là miền bí ẩn, không sinh khí mà những du khách đi ngược dòng sông tới biên giới Ai Cập đã đi qua trong lúc vừa hút thuốc, vừa nói chuyện dông dài, vừa tán tỉnh nhau. 

Những hành khách trên tàu Korosko đã rất ăn ý với nhau. Họ đã tất cả cùng nhau đi gần hết đoạn đường từ Le Caire tới Assouan; sông Nil có khả năng làm xúc động được tất cả mọi thứ lãnh đạm kể cả thứ bền bỉ nhất: sự lãnh đạm của dân Anh. Họ đã có một dịp may bất ngờ: nhóm họ đã không có một kẻ tính nết khó chịu, một kẻ mà ở trên một con tàu nhỏ cũng đủ làm hỏng sự vui thích của mọi người. Trên một chiếc tàu chỉ quan trọng hơn chiếc tàu phụ lớn đôi chút thì một kẻ quấy rầy, một kẻ trơ tráo, một kẻ càu nhàu làm mưa làm gió với tất cả hành khách. May mắn thay chiếc Korosko đã không chở trên tàu một người nào giống như một kẻ quấy rầy cả. Ðại tá Cochrane Cochrane, một trong các sĩ quan mà chính phủ Anh, đúng như qui luật, đã tuyên bố là không có khả năng trong ngành hiện dịch ở một độ tuổi nào đó, và đã chứng tỏ giá trị của qui luật bằng cách cống hiến phần còn lại của đời họ để đi thám hiểm nước Maroc hay đi săn bắn sư tử ở Somalie. Nước da nâu, đứng rất ngay ngắn, ông đại tá đã tự ý biểu hiện lối xã giao lễ độ, nhưng cái nhìn của ông có vẻ lạnh lùng của một nhiệm vụ điều tra; rất kỹ càng trong lối ăn mặc, chính xác trong các thói quen, ông là một người quí phái tới tận đầu móng tay. Thực hành sự chán ghét của người Anh đối với việc thổ lộ tâm tình, ông đã tự giới hạn mình trong một sự thận trọng mà thoạt nhìn có vẻ như sự lãnh đạm thờ ơ, nhưng đôi khi ông thấy khó chịu phải che dấu lòng tốt và những tình cảm của con người là những thứ có ảnh hưởng tới các hành động của ông. Ðối với những bạn đồng hành của ông, ông đã gợi lên nhiều sự tôn kính hơn là lòng cảm mến; thật sự tất cả mọi người đều có cảm tưởng rằng ông không phải là người để cho sự liên hệ trong một chuyến tàu nảy sinh ra thành tình bạn. Tuy nhiên, một khi đã được đồng ý thì tình bạn này sẽ trở thành một bộ phận của bản thân ông. Râu mép ông đã lốm đốm bạc, trông rất ra vẻ nhà binh, nhưng ông giữ được mái tóc đen một cách khác thường ở vào tuổi ông. Trong khi trò chuyện không bao giờ ông nhắc tới rất nhiều chiến dịch trong đó ông đã tỏ ra xuất sắc; ông giải thích sự kín đáo này bằng cách nói rằng chúng đã diễn ra từ hồi khởi đầu kỷ nguyên của Nữ hoàng Victoria, và ông đã hiến tế sự vinh quang về binh nghiệp của ông lên bàn thờ của thời thanh xuân bất diệt của ông. 

Ông Cecil Brown (tôi lấy các danh tính theo thứ tự của bản danh sách) là một nhà ngoại giao trẻ tuổi thuộc về một tòa đại sứ ở trên lục địa; chưa hoàn toàn đoạn tuyệt hẳn với phong thái ở Oxford, ông đã phạm phải chút ít lỗi lầm vì sự tỉ mỉ thái quá, nhưng sự nói chuyện của ông thì rất thú vị và chứng tỏ một trình độ văn hóa vững chắc. Ông có một bộ mặt xinh đẹp, buồn bã, một bộ ria mép nhỏ mà ông bôi sáp một cách kỹ càng ở các đầu chót, một giọng nói trầm trầm, và một sự lơi là về tâm tính mà một lối mỉm cười duyên dáng đủ đền bù lại mỗi khi ông đi quá trớn trong tính tình kỳ lạ của ông. Ông đã cố gắng kiềm chế những nhiệt tình ấu trĩ rất tự nhiên của ông bằng một sự hoài nghi có tính cách đùa cợt; trong trạng huống này ông bất chấp sự thật hiển nhiên để nói ra những ý nghĩ làm phật lòng người vừa mới gặp. Trong chuyến du hành, ông đã mang theo những sách của Walter Pater, và suốt cả ngày ông ngồi lại trong căn lều vải với một cuốn tiểu thuyết và một cuốn tập vẽ để bên mình, trên một cái ghế đẩu. Tư cách riêng của ông đã không cho phép ông tán tỉnh làm quen với những người khác, nhưng nếu các bạn đường của ông muốn tới nói chuyện với ông, thì ông tỏ ra vừa lịch sự, vừa khả ái. 

Những người Mỹ đã lập thành một nhóm riêng biệt. Vốn quê quán ở Nowvelle-angletrre và tốt nghiệp tại Harvard (một đại học danh tiếng ở Mỹ), John H Headingly bổ sung sự học vấn của mình bằng cuộc du lịch thế giới. Ông đã tượng trưng một cách toàn hảo cho người thanh niên Mỹ, sinh động, có đầu óc quan sát, nghiêm túc, thèm khát sự hiểu biết, và gần như không bị các thành kiến trói buộc, sôi động với một tình cảm đẹp đẽ về tôn giáo, không một chút đầu óc bè phái hẹp hòi, ông giữ đầu óc lạnh lùng ở giữa những cơn giông tố thình lình của tuổi thanh xuân. Ông có vẻ kém trí thức hơn nhà ngoại giao của Oxford, nhưng thật sự ra ông còn trí thức hơn nữa, vì những cảm xúc sâu sắc hơn của ông đã bù lại cho những kiến thức ít phần chính xác. Cô Adams là cô của cô Sadie Adams : một người con gái già ở Boston, nhỏ bé, đầy nghị lực, với bộ mặt khó thương, cô đã đè nén một cách khó khăn sự trìu mến lớn lao chưa bao giờ được dùng tới; đây là lần đầu tiên cô rời khỏi nước Mỹ, và trong tất cả các nhiệm vụ có một nhiệm vụ làm cô say mê, kéo Ðông - Phương lên ngang hàng với Massa Chusetts. Vừa mới đặt chân lên đất Ai Cập, cô đã thấy rằng nước này cần được khai hóa; cô lo lắng về chuyện này một cách nóng nảy. Những con lừa lưng bị tróc da, những con chó đói, những con ruồi bám quanh mắt lũ trẻ nhỏ, những đứa bé trần truồng, những kẻ hành khất quấy rầy, những người đàn bà quần áo tả tơi, tất cả đều như thách thức lương tâm cô; do đó cô đã dũng cảm lao mình vào một công cuộc cải cách. Tuy nhiên vì cô không nói được một chữ của ngôn ngữ bản xứ. và vì cô không thể làm cho người ta hiểu được cô, nên chuyến đi ngược dòng sông Nil của cô đã để Ðông - Phương ở lại gần như trong tình trạng mà cô đã phát hiện ra nó, nhưng ngược lại đã cung cấp cho các bạn đồng hành của cô nhiều đề tài để vui đùa. Cháu gái Sadie của cô, người đã cùng chia sẻ với bà Belmont danh dự là nữ hành khách được ưa chuộng nhất trên tàu Korosko, không phải là người cuối cùng thích bông đùa giải khuây về chuyện này. Rất trẻ, vừa mới rời khỏi trường Smith College, cô còn giữ được phần lớn những tính tốt và tính xấu của tuổi ấu thơ, cô có một sự thành thật và một niềm tin hơi ngây thơ, sự ngay thẳng ngây thơ, sự dũng cảm, và cả tính nói nhiều và sự bất kính của lứa tuổi cô, nhưng ngay các tính xấu này cũng làm người ta vui thích, càng vui thích hơn khi mà cô con gái cao lớn và xinh đẹp này có vẻ già hơn là tuổi tác thật sự của cô, vì những lon tóc thấp viền quanh tai cô và những đường nét no đầy của thân mình cô. Tiếng xột xoạt của váy cô, giọng nói cương quyết và thành thật, tiếng cười vui tai của cô bao giờ cũng được hoan nghênh trên tàu Korosko. Ông đại tá biểu lộ tính lịch sự hào hiệp với cô, và nhà ngoại giao của Oxford thôi không còn hoa mĩ lòe loẹt khi cô Sadie Adams ngồi bên cạnh ông. 

Chúng tôi sẽ nói ngắn gọn hơn về những hành khách khác. Có vài người tỏ ta đặc sắc hơn những người khác, nhưng tất cả bọn họ đều đứng đắn và có tư cách đàng hoàng. Ông Fardet, một người Pháp hiền hòa mặc dầu có tính hay tranh luận, chủ trì những định kiến liên quan tới các mưu đồ chính trị của nước Anh, và sự bất hợp pháp của vị thế của nước này tại Ai Cập. Ông Belmont, một người Ái-nhĩ-lan khỏe mạnh với mái tóc hoa râm, là người đã thắng hầu hết các cuộc thi bắn súng ở Wimbledon và Bisky; ông mang theo bà vợ, một người đầy sức quyến rũ và đài các, rất tao nhã, và vui vẻ một cách tế nhị như tính tình mọi người dân ở Ái Nhĩ Lan. Bà Shlesinger, một goá phụ ở độ tuổi trung bình, hiền hòa và nhu mì, người chỉ chăm chú vào đứa con sáu tuổi của mình. Giáo sĩ John Stuart là một vị mục sư phi quốc giáo ở Birmingham, thuộc trưởng lão giáo phái hay tự trị giáo đoàn. Ông được tạo hóa phú cho một sự phì nộn đáng nể kèm theo một sự chậm chạp lề mề; ông cũng có một cái vốn hài hước giản dị, mà theo những tin tức tôi được biết, đã làm cho ông trở thành một nhà truyền giáo thành công và một diễn giả hữu hiệu khi ông nói trên các diễn đài cực cấp tiến, mặc dù ông bị bệnh suyễn. 

Sau hết là ông James Stephens một luật sư ở Manchester (một người trong số các cộng sự viên của hãng Hickson, Ward và Stephens), người đi du lịch để làm tiêu tan hết các hậu quả của một bệnh cúm tệ hại. Stephens là người tự thân lập thân, ông đã bắt đầu từ việc lau rửa những hòn gạch vuông của công ty trước khi điều khiển công việc, trong ba mươi năm trời, ông đã tận tụy với một công việc khô khan, chuyên môn, và ông chỉ sống để làm vừa lòng những thân chủ cũ và lôì kéo những thân chủ mới. Tinh thần và linh hồn ông đều thấm nhuần chủ nghĩa hình thức và sự nghiêm ngặt của luật pháp mà ông có nhiệm vụ phải giải thích. Tuy vậy tính tình của ông cũng không thiếu sự cao cả và lòng trắc ẩn; nhưng các đức tính này đã bắt đầu tàn úa, cũng như tất cả các tính tốt của con người đã tàn úa ở chốn thị thành. Ông làm việc theo thói quen, và sống độc thân, ông không quan tâm tới một điều gì khác; tâm hồn ông đã chai lì, giống như thân mình một vị nữ tu thời Trung Cổ đôi khi ngẫu nhiên ông bị đau ốm, tạo hóa đã xô đẩy, tống xuất ông ra khỏi nơi ẩn náu của ông, và ném ông vào thế giới bao la, xa cách Manchester và cái thư viện đầy những chứng điển, tiền lệ được đóng bằng da bê. Lúc đầu ông rất nhớ tiếc cái thư viện đó. Rồi dần dà mắt ông được mở rộng, và ông cảm thấy một cách mơ hồ rằng công việc của ông quá tầm thường bên cạnh cái vũ trụ kỳ diệu, đa dạng, không thể giải thích được này, mà ông đã không biết gì tới. Ngay cả có lúc ông đã tự hỏi liệu cái lúc ngưng nghỉ này trong nghề nghiệp của ông có thể tỏ ra quan trọng hơn chính bản thân nghề nghiệp của ông không. Những lợi ích mới tràn ngập lòng ông, và vị luật gia gần năm mươi tuổi này cảm thấy trong ông bùng lên những ngọn lửa cuối cùng của một thủơ thanh xuân mà việc đọc quá nhiều sách vở đã làm tắc nghẹt. Ông rất ương bướng không chịu nhìn nhận rằng các phong cách của ông lúc nào cũng khô khan, khúc chiết và ông đã dùng một ngôn ngữ hơi mô phạm. Tuy nhiên ông đẵ đọc, đã suy ngẫm và nhận xét; ông gạch ngang dưới hàng chữ và ghi chú sách của Bredeker, cũng như thời trước ông đã gạch ngang dưới hàng và ghi chú các sách về luật của ông. Ông đã lên tàu ở Le Caire, và ông đã kết thân với cô Adams và cháu gái cô ấy. Lối nói năng thành thật và sự mạnh dạn của cô thiếu nữ Mỹ làm ông thích thú; để đáp lại, Sadie đã dành cho ông sự kết hợp của lòng tôn trọng và lòng thương do các kiến thức và các sự giới hạn của ông. Thế là họ trở thành những người bạn thân, và người ta mỉm cười khi nhìn thấy bộ mặt u ám của vị luật sư và khuôn mặt rạng rỡ của cô thiếu nữ cúi xuống trên cùng một quyển sách chỉ nam. 

Con tàu Korosko nhỏ bé chạy ngược dòng sông Nil trong khi tung lên những luồng khói và bọt nước. Với năm hải lý một giờ, nó đã gây ra nhiều tiếng ồn và nhiều trắc trở hơn là một con tàu xuyên Ðại Tây Dương lúc ganh đua giành kỷ lục. Trên boong tàu, dưới tấm lều vải dày, cái tiểu gia đình của các hành khách ngồi ở đó, thường thường là sau vài giờ đồng hồ, con tàu tấp vào bờ để cho hành khách thăm viếng một loạt các đền đài mới thấy. Nhưng các cảnh hoang tàn đã trở nên mỗi lúc mỗi kém cổ kính đi, những du khách là những người đã được thỏa mãn ở Gizeh và Sakara khi ngắm nghía những đền đài cổ xưa nhất được con người xây dựng lên, đã bắt đầu chán nản với những ngôi đền mới có nhiều lắm là vào lúc khởi đầu kỷ nguyên cơ đốc giáo. Ở Ai Cập, người ta khó tìm ra những cảnh hoang tàn mà ở bất cứ nước nào khác đã là một nơi được sự sùng bái lạ thường. Do đó các du khách chỉ có những cái nhìn uể oải dành cho nghệ thuật nửa phần Hy Lạp của những hình chạm nổi ở Nubie; họ leo lên chóp đỉnh của tàu Korosko để xem cảnh mặt trời mọc trên sa mạc hoang vu của Ðông Phương; họ đồng tình cảm phục ngôi đền lớn Abon-Simbel, vì một chủng tộc cổ xưa đã đào vào một quả núi như đào một cục phô mai vậy. Sau cùng, buổi chiều của ngày thứ tư trong cuộc du hành, họ tới Quadi-Halfa, thành phố biên thùy, với vài giờ chậm trễ gây ra bởi một sự trục trặc nhỏ trong các máy móc. Quadi-Halfa cũng là một thành phố có quân trú phòng. Sáng hôm sau, họ phải đi du ngoạn trên núi Abousir lừng danh, ở đó người ta có được một cái nhìn tuyệt mĩ trên 

thác nước thứ hai. Lúc tám giờ rưỡi, khi các hành khách đang ngồi trên boong sau bữa ăn tối, thì Mansoor, người thông ngôn, một người Syrie lai ở Copte, đi tới để loan báo, như mỗi buổi tối, chương trình của ngày hôm sau. 

Anh ta nói : 

- Thưa các quí bà và các quí ông, ngày mai xin quí vị chớ quên thức dậy vào tiếng kẻng đầu tiên để cho cuộc du ngoạn được kết thúc vào buổi trưa. Khi chúng ta tới chỗ những con lừa đang chờ đợi chúng ta thì chúng ta sẽ cưỡi chúng để đi sâu vào sa mạc tám cây số; chúng ta sẽ đi qua trước một ngôi đền của Ammonra, đã có từ triều đại thứ mười tám, rồi chúng ta sẽ tới núi Abousir mà sự lừng danh là độc nhất vô nhị. Khi quí vị tới nơi, quí vị sẽ thấy rằng quí vị đang ở chỗ ranh giới của nền văn minh, ngoài ra, đi thêm vài cây số xa hơn nữa, quí vị sẽ thấy mình ở trong xứ sở của các tu sĩ Hồi giáo; quí vị sẽ rõ điều này khi quí vị lên tới ngọn núi cao. Từ trên đó, quí vị sẽ thấy rõ thác nước thứ hai trong một khung cảnh gồm đủ mọi vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên. Tất cả các danh nhân trên thế giới đều đã khắc tên tuổi họ trên đá; vậy xin quí vị đừng bỏ qua nghi lễ này... 

Mansoor chờ đợi một tiếng cười nhỏ bị kìm hãm lại; anh ta nghiêng mình khi nghe thấy tiếng cười. 

-...Quí vị sẽ trở lại Quadi-Hafta sau đó, ở đó quí vị sẽ trải qua hai giờ với đàn quân lạc đà; quí vị sẽ dự khán sự trải lông các con vật, quí vị sẽ đi một vòng ở hiệu tạp phẩm. Tôi kính chúc quí vị một đêm vui vẻ và tốt đẹp. 

Những cái răng trắng ởn của anh ta lóng lánh trước ánh đèn; rồi cái quần dài sậm màu, cái áo vét ngắn may theo kiểu ăng-lê và cái khăn bịt đầu đỏ của anh ta nối tiếp nhau mà biến dạng ở chân cầu thang. Tiếng rì rầm nói chuyện, mà sự xuất hiện của anh ta đã làm gián đoạn, lại tiếp nối rôm rả hơn. 

CÔ Sadie Adams nói: 

- Ông Stephens ạ, tôi trông cậy vào ông để biết được mọi thứ ở Abousir. Tôi rất thích biết rõ vật mà tôi nhìn khi tôi đang nhìn nó, chớ không phải sáu giờ sau đó trong phòng của tôi trên tàu. Chẳng hạn, tôi đã không nhớ được bao nhiêu về Abon-simbel và những bức bích họa, mặc dù hòm qua tôi đã nhìn thấy chúng. 

"Tôi thì không bao giờ hy vọng biết được chuyện gì" bà cô của nàng nói. "Khi tôi trở về bình an vô sự trong Ðại lộ Commonwealth, và khi không còn anh thông ngôn nào để xô đẩy tôi, tôi sẽ có nhiều thì giờ để đọc sách, lúc đó tôi có thể say mê và mong muốn trở lại nơi này. Nhưng ông Stephens ạ, ông thật sự rất đáng yêu khi đã cố gắng cung cấp các tài liệu cho chúng tôi". 

"Tôi nghĩ rằng bà và cô muốn có vài tin tức chính xác vì vậy tôi đã soạn thảo cho bà và cô một bản tóm tắt nhỏ" Stephens trả lời và đưa cho Sadie một tờ giấy.  

Nàng liếc mắt nhìn vào tờ giấy dưới ánh sáng của ngọn đèn trên boong tàu và tiếng cười trẻ trung của nàng lan ra thành một tràng cười lớn. 

Nàng đọc. 

- Re Abousir! Này ông hiểu từ Re là cái gì hả ông Stephens? Ông đã viết "Re Ramses II" trên tờ giấy cuối cùng mà ông đã đưa cho tôi mà! 

Stephens nói. 

- Cô Sadie ạ, đó là một thói quen mà tôi mắc phải. Một tục lệ trong nghề nghiệp mà tôi làm khi người ta viết một giác thư. 

- Một cái gì hở ông Stephens? 

- Một giác thư... Một bị vong lục, nếu cô thích vậy. Chúng tôi viết Re này hay Re nọ, để chỉ ra vật gì mà chúng tôi nói tới. "Tôi cũng muốn tin rằng đó là một phương pháp tốt", Sadie nói, "Nhưng đối với tôi nó có vẻ hơi lạ, khi nó được áp dụng vào các phong cảnh hay vào các vị hoàng đế Ai Cập Re Cheops... Ông không thấy như thế là buồn cười à?" 

- Không, tôi không thể nói là tôi thấy nó buồn cười. 

Cô thiếu nữ nói lẩm bẩm: 

- Tôi tự hỏi có phải người Anh có ít tinh thần hài hước hơn người Mỹ không, hoặc có phải đó là một dạng hài hước khác chăng? 

Nàng có một lối phát biểu ý kiến trầm tĩnh, trừu tượng, nàng cho người ta một cảm tưởng là nàng suy tưởng rất cao xa. 

-...Tôi tin rằng họ có ít tính hài hước hơn, nhưng khi người ta suy nghĩ kỹ thì Dickens, Thackeray, Barrie và một số các nhà văn hài hước khác mà chúng ta cảm phục đều là người Anh. Hơn nữa, ở rạp hát, tôi chưa từng bao giờ nghe một công chúng cười lớn hơn là công chúng ở Luân Ðôn. Nghe đây: chúng tôi có ở đằng sau chúng tôi một khán giả mà mỗi lúc ông ta cười đã gây ra một luồng không khí mạnh đến nỗi cô tôi phải quay lại để nhìn xem có phải một cái cửa đã bị để ngỏ không. Nhưng ông đã sử dụng một vài thành ngữ buồn cười đấy, ông Stephens ạ! 

- Cô Sadie, cô còn thấy cái gì buồn cười nữa? 

- Này nhé, khi ông gởi cho tôi cái vé vào thăm ngôi đền và tấm thiệp nhỏ ông đã khởi đầu lá thư: "Kèm theo đây, xin vui lòng tìm ra...". Và ở cuối lá thư, ông đã ghi giữa hai ngoặc đơn "Hai tấm vé đính liền nhau". 

- Thưa cô, đó là những công thức hiện hành trong các việc giao dịch. 

"Trong các việc giao dịch!", Sadie nhắc lại, giả bộ làm ra vẻ nghiêm trọng. 

Một sư yên lặng đột ngột. 

"Có một điều mà tôi mong muốn!" cô Adams dõng dạc nói với một dạng cứng cỏi và lanh lảnh để che dấu trái tim hiền dịu của cô. "Ðó là việc được gặp Quốc hội của nước này và được trình bày với họ một số sự việc. Một đạo luật bắt buộc việc sử dụng thuốc đau mắt nước sẽ là một trong các kiến nghị của tôi. Một kiến nghị nữa là hủy bỏ những thứ mạng che mặt mày, là thứ đã biến đổi các phụ nữ thành những kiện bông có dùi lỗ để làm hai mắt" 

Sadie nói : 

- Tôi không hiểu tại sao họ lại đeo mạng che mặt. Cho tới ngày mà tôi thấy được một người kéo mạng che mặt của cô ta lên. Lúc đó thì tôi đã hiểu! 

Cô Adams bực bội kêu lên. 

- Họ làm tôi mệt mỏi, những người phụ nữ này! Cũng như truyền giảng về nghĩa vụ, về phép lịch sự và về sự thanh khiết cho một khúc gỗ vậy! Còn nhớ không, ông Stephens mới hôm qua thôi ở Abou-simbel, tôi đi qua trước một trong các căn nhà của họ (nếu ông có thể gọi là căn nhà cái đống bùn đó); tôi thấy hai đứa bé con trên bậc cửa với một đống ruồi thường lệ chung quanh hai mắt chúng, và những lỗ thủng lớn trên những cái áo dài nhỏ bé, nghèo nàn, màu xanh của chúng! Tôi từ trên con lừa tụt xuống; tôi xắn tay áo lên; tôi lấy khăn mùi xoa lau mặt cho chúng; tôi khâu lại áo cho chúng. Trong xứ sở này, khi lên khỏi tàu giá để tôi mang theo một hộp đồ may vá chắc còn tốt hơn là mang theo một cái dù trắng, ông Stephens ạ! Thế là tôi phấn khởi với công việc và tôi đi vào trong nhà. Cái nhà mới tệ làm sao! Tôi lùa những người ở trong đó ra ngoài và tôi dọn dẹp như một cô đầy tớ. Tôi đã không còn nhìn thấy đền Abou-Simbel như là tôi đã chưa bao giờ rời khỏi Boston. Ngược lại, tôi đã trông thấy nhiều bụi bặm và cáu bẩn trong một căn nhà lớn như một cái buồng tắm ở New York, hơn là trong bất kỳ một căn hộ nào ở Mỹ. Giữa cái khoảnh khắc mà tôi xắn tay áo lên với cái khoảnh khắc mà tôi ra đi, với bộ mặt đen như đám khói này, đã không mất hơn một giờ đồng hồ; có lẽ tối đa là một tiếng rưỡi! Nhưng tôi đã để lại cái nhà này sạch sẽ cũng như một cái hộp mới. Tôi có mang theo một tờ báo New York Herald tôi trải nó lên trên cái kệ của họ. Và này, ông Stephens, tôi đi rửa tay ở bên ngoài, và khi tôi trở vào, lũ trẻ con vẫn còn những con mắt bám đầy ruồi, và chúng không thay đổi gì cả, trừ việc mỗi đứa đội trên đầu một cái mũ nhỏ của lính sen đầm làm bằng tờ báo New York Herald của tôi. Nhưng Sadie này, sắp mười giờ rồi, và cuộc du ngoạn ngày mai khởi hành sớm đó! 

"Thật là tuyệt đẹp, bầu trời đỏ tía và những ngôi sao lớn bàng bạc!" Sadie lẩm bẩm nói "Hãy nhìn bãi sa mạc im lìm, và những bóng đen của các ngọn núi. Thật là đáng sợ!" Nhưng cũng khủng khiếp nữa. Khi người ta nghĩ rằng chúng ta đang thật sự ở chỗ rìa của nền văn minh, như anh thông ngôn vừa mới nói, không có gì khác hơn là sự man rợ và máu chảy tràn trề ở nơi xa kia mà chòm sao chữ thập chiếu sáng một cách quá đẹp này; người ta có cảm tưởng là đang đứng trong thế thăng bằng trên miệng một ngọn núi lửa!" 

"Suỵt, Sadie! con ơi, chớ có nói nhảm nhí!" người cô kêu lên. "Con có thể gây ra mối lo sợ cho những ai nghe thấy con nói đó". 

- Nhưng cô ơi, chính cô không cảm thấy điều đó à? Hãy nhìn bãi sa mạc lớn này, nó biến mất trong đêm tối mịt mù. Cô hãy nghe tiếng sì sào buồn bã của cơn gió đang thổi bên trén! Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một quang cảnh thiêng liêng hơn! 

- Cô lấy làm sung sướng là sau cùng chúng ta đã tìm thấy một điều gì làm cho cháu trở nên trang nghiêm, cháu thân mến ạ! Ðôi khi cô nghĩ... nhân danh những người còn sống, điều đó là gì vậy? 

Từ một nơi nào đó giữa các bóng đen của những ngọn núi, ở phía bên kia mặt nước, một tiếng kêu sắc nhọn vang lên. Tiếng kêu vút lên trên bầu trời đầy sao, và chấm dứt bằng sự tắt nghẹn đi trong một thứ rên rỉ ai oán. 

"Ðó chỉ là một con chó rừng, cô Adams ạ" Stephens giải thích. "Tôi đã nghe thấy một con chó rừng kêu như vậy khi chúng tôi đi xem tượng Sphinx dưới ánh trăng sáng. 

Nhưng cô gái Mỹ đã đứng lên, nét mặt cô biểu lộ một sự bối rối sâu đậm. 

Cô nói. 

- Nếu có một chuyến du lịch nữa, cô sẽ không xuống quá phía bên kia Assouan. Cô không biết cái gì đã xui khiến cô đưa cháu đến tận nơi này, Sadie ạ, mẹ cháu sẽ nghĩ rằng cô đã hoàn toàn điên rồ, và nếu có một sự cố rắc rối nào xảy ra thì chắc không bao giờ cô còn dám nhìn thấy mặt mẹ cháu nữa. Cô đã nhìn thấy trên con sông này tất cả những gì mà cô muốn nhìn; cô muốn quay trở về Le Caire ngay. 

Sadie phản đối: 

- Ô kìa. cô ơi! Nhút nhát như vậy thật chẳng giống cô một chút nào! 

- Sadie này, cô không biết cô có những tính gì, nếu không phải là những dây thần kinh bị căng thẳng, và cái con thú kêu meo meo ở đằng kia là quá lắm rồi. Cô tự an ủi khi nghĩ rằng ngày mai chúng ta sẽ quay về sau khi xem ngọn núi này hoặc ngôi đền này, cô không biết hơn nữa. Cô đã chán ngấy với núi non và đền đài rồi. Ông Stephens ơi! Tôi sẽ rất sung sướng nếu tôi không nhìn thấy thêm một trái núi, một ngôi đền nào nữa trong suốt đời tôi. Lại đây, Sadie! Chúc ngủ ngon! 

- Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon, Cô Adams! 

Bà cô và người cháu gái trở về phòng của họ. 

Ông Fardet thầm thì to nhỏ nói chuyện vãn với Headingly, chàng thanh niên vừa tốt nghiệp ở Harvard giữa hai hơi thuốc lá, ông cúi khom người xuống để giải bày tâm sự với ông ta. 

"Những tu sĩ Hồi giáo à, ông Headingly?" ông nói với một thứ tiếng Anh tuyệt hảo, nhưng thường tách rời các vần như phần lớn những người Pháp. "Nhưng không có các tu sĩ Hồi giáo đâu. Những tu sĩ Hồi giáo không hiện hữu mà!". 

Ông người Mũ trả lời: 

- Tôi thì tôi tin rằng sa mạc đầy rẫy các tu sĩ Hồi giáo đó. Ông Fardet ném một cái nhìn xéo tới chỗ mà đóm lửa đỏ của điếu xì gà của đại tá Cochrane đang lập lòe trong bóng tối mù mịt. Ông nói lẩm bẩm. 

- Ông là người Mỹ, và ông không thích người Anh. Tất cả mọi người trên lục địa đều biết rằng người Mỹ hận thù người Anh. 

- "Thú thật" Headingly nói với một giọng thong thả và chín chắn. 

"Tôi không chối cãi là chúng tôi đã có những xích mích nhỏ, và một số người trong các đồng bào của tôi nhất là những người gốc gác Ái Nhĩ Lan, là những người bài Anh một cách điên cuồng; tuy nhiên đại đa số người Mỹ không nghĩ một điều gì xấu về mẫu quốc. Ðôi khi những người Anh có thể làm chúng tôi tức giận, nhưng họ là người trong gia đình chúng tôi, không bao giờ chúng tôi quên điều đó." 

Ông người Pháp nói: 

- Cho là thế đi! Ít nhất tôi đã có thể thổ lộ tâm tình với ông vì tôi không thể nói thế với những người khác mà không làm họ phật ý. Và tôi nhắc lại rằng không làm gì có những tu sĩ Hồi giáo. Những tu sĩ Hồi giáo đã được bịa đặt ra bởi Lord Cromer năm 1885. 

Headingly kêu lên. 

- Ông nói năng không nghiêm chỉnh đấy! 

- Ðó là một việc ai cũng biết ở Paris; nó đã được công bố bởi tờ La Patrie và những nhật báo thạo tín khác. 

- Nhưng chuyện này là quan trọng đó! ông Fardet này, có phải từ việc này ông muốn nói rằng cuộc bao vây Khartoun và cái chết của Gordon, và tất cả những chuyện còn lại đều thuộc về một sự bịp bợm lớn lao không? 

- Tôi không chối cãi là một vụ bạo động đã xảy ra, nhưng vụ đó chỉ là một sự cố địa phương, ông hiểu chứ? Một sự cố đã bị quên lãng từ lâu rồi. Từ đó nước Soudan đã được hưởng một nền hòa bình thật sự. 

- Nhưng, thưa ông Fardet, tôi có nghe nói về những vụ cướp bóc và tôi đã đọc những báo cáo về các trận đánh nhau nữa, khi người Ả Rập toan tính xâm chiếm Ai Cập. Ngày hôm kia chúng ta đã vượt khỏi Toski; anh thông ngôn đã nói cho chúng ta biết là một trận đánh đã diễn ra ở đó. Việc này cũng là bịp bợm? 

- Hừm, ông bạn của tôi ơi, ông không biết người Anh đâu! Ông nhìn thấy họ hút ống píp và nét mặt rạng rỡ, rồi ông nói: "Ðây thật là những người dũng cảm, những con người giản dị, những người không làm thương tổn cả đến một con ruồi!" Nhưng lúc nào họ cũng đắn đo suy nghĩ, họ rình rập, họ thảo ra những kế hoạch. "Ðây là nước Ai Cập yếu kém, họ nói. Chúng ta hãy tới đó!" 

và họ chồm vào nước này như một con chim âu chồm lên một miếng bánh. Cả thế giới lên tiếng phản kháng. "Các ông không có quyền gì trên nước Ai Cập. Các ông cút đi!" Nhưng nước Anh đã bắt đầu thiết lập trật tự khắp nơi, giống hệt như cô Adams tốt bụng kia khi cô ấy chiếm cứ căn nhà một người Ả Rập. "Các ông cút đi!". mọi người trên thế giới nhắc lại câu nói "nhất định rồi, nước Anh đáp lại. Hãy đợi một phút thôi, để tôi có thì giờ làm cho tất cả đều sạch sẽ và gọn ghẽ". Rồi thế giới chờ đợi trong một năm hay hai năm, rồi họ lại nhắc nhở "Các ông hãy cút đi!" Và nước Anh lại trả lời: "Hãy kiên nhẫn một chút: có sự lộn xộn ở Khartoum; khi nào sự yên tĩnh được vãn hồi, tôi sẽ rất hài lòng để đi khỏi". Và thế giới kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng khi sự lộn xộn ở Khartoum đã chấm dứt, thế giới lại đòi nước Anh phải ra đi. Nước Anh hỏi: "Làm sao tôi có thể ra đi khi còn những vụ cướp bóc và những trận chiến đang diễn ra? Nếu tôi đi khỏi thì Ai Cập sẽ làm mồi cho lũ man di!" Và thế giới lấy làm kinh ngạc: "Không có những vụ cướp bóc, không có cả những trận đánh nhau!" Lúc đó nước Anh nói: "À, không có thật à?" Và trong tuần lễ sau đó báo chí của họ đã tràn đầy những bài tường thuật về các trận đột kích và các cuộc chinh phạt của các tu sĩ Hồi giáo. Không phải tất cả chúng tôi đều mù, ông Headingly ạ! Chúng tôi hiểu rất rõ cách thức người ta xếp đặt các công việc: một vài tên Bédonins, một khoản tiền thưởng nhỏ, nhưng viên đạn không đầu chì, và hãy chú ý một vụ cướp bóc! 

"Ðược, được!" ông người Mỹ nói "Tôi lấy làm hân hạnh, được biết sự thật về vụ này, vì nó thường làm cho tôi quan tâm tới, nhưng trong vụ này thì nước Anh được lợi lộc gì?" 

- Thưa ông, một đất nước. 

- Tôi biết. Ông muốn nói là chẳng hạn là có một quan thuế biểu ưu đãi cho các hàng hóa của nước Anh phải không? 

- Thưa ông, không ạ. Quan thuế biểu giống nhau cho tất cả mọi nước. 

- Vậy thì hẳn là người Anh đã ký được các hợp đồng? 

- Thưa ông, đúng như vậy. 

- Thí dụ con đường sắt mà người ta làm dọc theo con sông và nó chảy ngang qua nước này đã là đối tượng một hợp đồng béo bở cho một công ty Anh phải không? 

Ông Fardet có đầu óc tưởng tượng, nhưng ông ấy là người thật thà. 

- Thưa ông, đó là một công ty của người Pháp đã ký được hợp đồng làm con đường sắt. 

Ông người Mỹ ngạc nhiên, ông nói: 

- Người Anh không có vẻ là đã kiếm được nhiều lợi lộc so với những khó khăn mà họ phải gánh chịu. Nhưng cuối cùng họ cũng phải hưởng được một vài mối lợi gián tiếp, chẳng hạn chắc chắn là Ai Cập phải trả tiền phí tổn cho tất cả những binh lính mặc y phục màu đỏ đó ở Le Caire chứ gì? 

- Thưa ông, Ai Cập à? Không, những binh lính đó do nước Anh trả lương. 

- Ðược rồi, không phải nhiệm vụ của tôi để nói với người Anh rằng họ làm cách nào để điều hành các quyền lợi của họ, nhưng tôi có cảm tưởng là họ tự làm khổ mình rất nhiều cho những thứ chẳng đáng bao nhiêu ! Nếu họ thích duy trì trật tự và bảo vệ biên cương với giá một cuộc chiến liên miên chống lại các tu sĩ Hồi giáo, thì tôi không hiểu tại sao có người lại lấy việc này ra để công kích. Sự thịnh vượng của đất nước đã gia tăng một cách đáng kể từ khi họ đến đây: những bản thống kê về sự thu nhập đã chứng tỏ điều này. Người ta cũng bảo đảm với tôi rằng hiện nay những dân nghèo đã được thừa nhận quyền lợi, điều này chưa từn bao giờ đã đến với họ. 

"Nhưng nếu vậy thì họ ở đây làm gì?" ông người Pháp tức tối la lên. "Họ hãy trở về hải đảo của họ đi! chúng ta không thể dung thứ được việc họ cứ lan tràn như vậy trên khắp thế giới". 

- Dĩ nhiên là người Mỹ chúng tôi, chúng tôi sống ở nước chúng tôi trên mảnh đất của riêng chúng tôi, chúng tôi thấy khó chịu phải nhìn nhận rằng các ông, những dân tộc âu châu, lúc nào các ông cũng tràn lan, vào những nước khác là những nước hoàn toàn xa lạ với các ông. Tất nhiên chúng tôi dám mạnh miệng nói như vậy, vì dân tộc chúng tôi có nhiều đất đai hơn sự cần thiết. Khi nào chúng tôi bắt đầu thặng dư dân số, chúng tôi cũng sẽ phải tiến hành các cuộc thôn tính. Nhưng hiện giờ thì chỉ riêng ở Bắc Phi thôi đã thấy nước Ý ở Abyssinie, nước Anh ở Ai Cập, nước Pháp ở Algerie... 

Ông Fardet nói lớn tiếng: 

- Nước Pháp! nhưng Algerie là thuộc về nước Pháp! Thưa ông, ông cười à? Tôi rất hân hạnh chúc ông một đêm ngủ ngon! 

Bực bội trong lòng tự tôn ái quốc bị xúc phạm, ông đứng dậy đi về phòng mình.

Chương 2

(The tragedy of the "Korosko")

Người đàn ông Mỹ ngẩn ngơ một lát ông muốn lên bộ để gửi bưu điện bài tường thuật về những cảm tưởng trong chuyến du hành mà ông thường gửi hàng ngày cho chị gái ông, nhưng những điếu xì gà của đại tá Cochrane và Cecil Brown vẫn còn đỏ lập lòe ở đầu bên kia của boong tàu, và ông thì lúc nào cũng rình rập để lấy các tin tức. Ông không biết cách làm thế nào xen vào cuộc đàm thoại của họ, nhưng ông đại tá đã đẩy lại phía ông một cái ghế đẩu và gọi ông. 

- Headingly, lại đây! Ðây là nơi lý tưởng cho một sự giải độc. Tôi tin chắc rằng Fardet vừa mới nói với ông về chính trị. 

"Tôi luôn luôn nhận ra lối đề cập tới vấn đề chính trị quốc tế của ông ấy, chỉ cần trông thấy ông ấy cúi vai xuống để xông vào những cuộc bàn bạc thân mật", nhà ngoại giao sang trọng nói. "Nhưng đó là một sự xuẩn ngốc quá chừng vào một buổi tối như tối hôm nay! Mặt trăng mọc trên sa mạc thế này hứa hẹn với chúng ta một bầu trời đêm kỳ diệu màu xanh và trắng bạc. Trong một bản nhạc của Mendel-Sohn đã có một tình cảm hình như bao gồm được tất cả những điều đó: một sự cảm xúc về vô biên, về sự nhắc nhở, tiếng gió hú bên các khoảng không vô tận. Âm nhạc là nghệ thuật diễn dịch các cảm hứng vi diệu mà các từ ngữ không diễn tả được". 

Ông người Mỹ đã ra nhận xét: 

- Ðêm hôm nay tôi thấy phong cảnh có vẻ man rợ hơn, dữ tợn hơn bao giờ hết. Nó cho tói cảm giác của một sức mạnh tàn nhẫn, giống hệt như Ðại Tây Dương vào một ngày lạnh lẽo và u ám của mùa đông. Có lẽ cảm giác này nảy sinh ở việc là chúng ta biết rằng chúng ta đang ở chỗ ranh giới cùng cực của tất cả các loại pháp luật và các nền văn minh. Thưa đại tá Cochrane, theo ý ông thì chúng ta còn cách những tu sĩ Hồi giáo bao xa? 

Vị đại tá trả lời. 

- Trên mạn bờ thuộc Ả Rập, chúng ta có đồn binh Ai Cập ở Sarras vào khoảng sáu mươi cây số về phía Nam của chúng ta. Bên ngoài nơi đó là những miền đất rất hoang vu nằm dài một trăm cây số trước mặt đồn canh của các tu sĩ Hồi giáo ở Akashek. Nhưng ở bờ bên kia thì không có một vật gì giữa họ và chúng ta. 

- Abousir nằm ngay trên bờ bên đó phải không? 

- Phải. Ðó là lý do tại sao hồi năm ngoái chuyến du hành đã bị ngăn cấm. Nhưng bây giờ thì sự yên tĩnh đã trở lại. 

- Ai có thể ngăn không cho bọn tu sĩ Hồi giáo tràn vào nơi này? 

"Hoàn toàn không có gì cả"!. Cecil Brown đáp lại với một giọng hững hờ. 

- Không có gì cả, ngoại trừ sự sợ hãi. Chắc chắn là họ có thể đến không khó khăn gì! Nhưng sự trở về sẽ nguy hiểm hơn: những con lạc đà kiệt sức của họ sẽ là những mồi ngon cho những con ngựa khỏe mạnh của đạo quân đồn trú ở Ouadi-Halfa. Họ cũng biết rõ điều này như chúng ta vậy : đó là lý do tại sao không bao giờ họ dám liều lĩnh làm việc đó. 

Brown nói lớn: 

- Suy luận về một cảm giác sợ hãi của những tu sĩ Hồi giáo là một điều không hợp lý. Không bao giờ chúng ta được quên rằng họ không tuân theo các động lực giống như những dân tộc khác. Họ đông người và mong mỏi được chết, và họ nhất trí tin tưởng một cách mù quáng vào định mệnh, người ta có thể coi họ là một sự ngoan cố tột cùng của tất cả các điều dị đoan, và chính đó là bằng chứng cho thấy sự cuồng tín và dị đoan đã dẫn con người thẳng tới tình trạng man rợ! 

Ông người Mỹ hỏi: 

- Ông có tin rằng dân tộc này tiêu biểu cho một sự đe dọa thật sự đối với Ai Cập không? Tôi đã từng nghe thấy nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn như ông Fardet, ông ấy không nghĩ rằng mối hiểm nguy là rất cấp bách. 

Ðại tá Cochrane trả lời, sau một sự yên lặng ngắn ngủi. 

- Tôi không phải là người giàu có, nhưng tôi sẵn sàng đánh cuộc tất cả những gì mà tôi có là trong ba năm sau khi các sĩ quan Anh đi khỏi, những tu sĩ Hồi giáo sẽ tới bờ biển Ðịa Trung Hải. Lúc đó thì nền văn minh Ai Cập sẽ ra sao? Hàng trăm triệu bạc đã được đầu tư vào nước này sẽ ra sao? Và những đền đài mà cả thế giới đều ngưỡng mộ và sùng kính và đó là những công trình quí giá nhất của cổ thời sẽ ra sao? 

Headingly cười lớn phản đối: 

- Này, ông Ðại tá! Không phải là ông cũng định nói rằng họ sẽ phá hủy các Kim Tự Tháp đấy chứ? 

- Không thể đoán trước được là họ sẽ làm gì! Không có một kẻ bài trừ thánh tượng nào lại điên cuồng hơn là một tên Hồi giáo cuồng tín. Trong cuộc xâm nhập cuối cùng của họ vào Ai Cập, các tu sĩ Hồi giáo đã đốt cháy thư viện ở Alexandrie: Ông biết rằng kinh Coran đã cấm đoán tất cả mọi sự hình dung cái mặt của con người. Do đó dưới mắt họ một pho tượng là một vật chống tôn giáo. Và bọn người man rợ này coi các cảm tính của Âu Châu như một điều xui xẻo. Ngược lại: họ càng lăng nhục chúng thì họ càng khoan khoái. Tượng Sphinx sẽ bị hạ xuống, pho tượng Colorse sẽ bị hạ xuống! Giống hệt như ở nước Anh, trước các quân lính của Cromwell, các vị thánh đều bị quăng xuống đất. 

"Ta hãy xét kỹ một chút" Headingly nói với sự chậm chạp chín chắn của ông ấy. "Ta hãy chấp nhận rằng bọn tu sĩ Hồi giáo có đủ khả năng chinh phục Ai Cập và ta cũng chấp nhận là người Anh các ông ngăn cản họ làm việc đó. Nhưng vì lý do nào mà các ông chi ra nhiều triệu đô la đó và các ông hy sinh bao nhiêu sinh mạng người Anh như vậy? Các ông kiếm được bao nhiêu lợi lộc hơn là nước Pháp, nước Ðức hoặc bất cứ một nước nào không gánh chịu một sự rủi ro nào và không tiêu tốn một xu nào? 

Cecil Brown trả lời: 

- Nhiều người Anh hiền lành cũng đặt ra câu hỏi như vậy. Theo ý tôi thì từ khá lâu rồi chúng tôi đã là những viên cảnh sát của thế giới: chúng tôi đã quét sạch bọn kẻ cướp và bọn buôn nô lệ khỏi các đại dương; hiện nay chúng tôi giải phóng trái đất khỏi tay các tu sĩ Hồi giáo và tất cả những lũ giặc cướp đe dọa nền văn minh. Nếu những người Kurdes quấy rối trật tự công cộng ở Tiểu Á-tế-á, nhân dân trên thế giới muốn biết rằng tại sao Anh Quốc lại không trừng trị họ. Nếu xảy ra một cuộc binh biến ở Ai Cập hay ở Soudan, cũng vẫn là Anh Quốc có nhiệm vụ dẹp tan nó. Và tất cả công việc đó giữa những lời nói xấu cùng một giọng điệu khắp nơi, giống như một nhân viên cảnh sát đã nghe thấy khi anh ta bắt giữ một tên côn đồ trong một ngõ hẻm tối tăm. Chúng tôl chỉ nhận được những lời nói xấu và không có một lời cám ơn nào. Tại sao phải kiên trì như thế? Tốt nhất là ta nên để cho Âu Châu tự mình hoàn thành cái công việc bạc bẽo này. 

"Thú thật là" đại tá Cochrane nói trong khi bắt chéo chân lên và khom mình về phía trước với vẻ cương quyết của một người đã có một ý kiến vững vàng "tôi không đồng ý với ông một chút nào, ông Brown ạ! và tôi cho rằng sự hẹp hòi trong lý luận của ông không phù hợp với những bổn phận của Anh Quốc. Tôi nghĩ rằng đằng sau các quyền lợi quốc gia, đằng sau công việc ngoại giao và tất cả mọi thứ còn lại, còn có một mãnh lực chủ đạo nữa (thực sự là một thiên mệnh) là điều từ xưa vẫn luôn luôn gạn lọc lấy phần tinh hoa nhất của mỗi dân tộc và dùng nó để làm điều tốt đẹp cho cả loài người. Khi một dân tộc thôi không tuân theo điều này tức là nó đã cằn cỗi để nằm trong cơn bệnh hoạn vài ba thế kỷ, như kiểu nước Tây Ban Nha hay nước Hy-Lạp: đó là vì những phẩm chất tốt đã rời bỏ họ, một người hay một quốc gia không phải chỉ được sinh ra trên trái đất này để làm việc gì thích thú hay việc gì mang lại lợi lộc. Thường khi người ta đòi hỏi chúng ta phải làm những việc vừa buồn chán, vừa tốn kém, nhưng nếu công việc là chính đáng thì chúng ta phải tiến lên và không lẩn tránh... " 

Headingly gật đầu tán thành. 

-... Mỗi nước có một sứ mạng riêng của mình ! Nước Ðức thì vượt trội trong tư tưởng trừu tượng; nước Pháp thì trong văn chương, trong nghệ thuật và sự thanh lịch. Nhưng các ông và chúng tôi (tất cả những người nói tiếng Anh đều ở trên một con tàu), chúng ta có trong giới thượng lưu của chúng ta một quan niệm cao cả hơn về tinh thần đạo đức và về nhiệm vụ chung so với bất kỳ một dân tộc nào khác mà đó là hai đức tính cần phải có để dẫn dắt một chủng tộc yếu kém hơn. Các ông không thể giúp đỡ các dân tộc yếu kém bằng tư tưởng trừu tượng hoặc bằng các nghệ thuật mua vui, nhưng chỉ có thể bằng cái tinh thần đạo đức này, nó giữ thăng bằng cho cán cân công lý và nó tự giữ được trong trắng, tránh khỏi mọi hoen ố. Ðó là cách mà chúng tôi cai trị Ấn Ðộ. Chúng tôi đã tới nơi đó bởi kết quả của một thứ luật thiên nhiên, giống hệt như không khí ùa vào để lấp kín một chỗ trống. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, đi ngược lại với quyền lợi trực tiếp của chúng tôi và bất chấp những ý định có sẵn của chúng tói, chúng tôi đã bị đưa đẩy tới chỗ phải làm cùng một việc như vậy. Ðiều này rồi sẽ đến với cả các ông đó: áp lực của định mệnh sẽ ép buộc các ông phải điều khiển tất cả Mỹ Châu, từ Mễ Tây Cơ cho tới mũi Horn. 

Headingly bật ra một tràng huýt gió. 

"Những anh ái quốc cuồng tín hẹp hòi của chúng tôi sẽ rất sung sướng được nghe ông nói đấy, đại tá Cochrane ạ!", ông ta nói. "Họ bỏ phiếu cho ông ở Thượng viện và sẽ làm ông trở thành một ủy viên của ủy ban ngoại vụ đấy!" 

- Thế giới thì nhỏ bé, và mỗi ngày nó một thu nhỏ hơn. Nó tạo ra một cơ thể duy nhất: sự thối mục ở một địa phương sẽ có thể lan truyền và làm ung thối tất cả toàn thể. Trên trái đất không có chỗ cho những chính phủ gian lận, không làm tròn những lời cam kết, chuyên chế, vô trách nhiệm. Sự tồn tại của họ bao giờ cũng là nguồn gốc của các vụ lộn xộn và hiểm nguy. Nhưng nhiều chủng tộc có vẻ như quá bất lực trong sự tiến bộ khiến ta không thể hy vọng một ngày nào đó họ có được một chính quyền tốt. Vậy thì ta phải làm gì? Ngày xưa Thượng đế giải quyết vấn đề bằng sự tận diệt một Attila, một Tamerlan đã tỉa bớt những cành yếu kém nhất. Ngày nay thì những qui luật ít nghiêm ngặt hơn đã được thay vào đó: những Phó Vương ở Trung Á và những Quốc gia bảo hộ ở Ấn Ðộ là bằng chứng về điều này. Vì công cuộc này phải được hoàn thành, và bởi vì chúng tôi là những người có trang bị tốt nhất để thành công trong việc này, tôi nghĩ rằng bác - khước chúng tôi sẽ là một sự hèn nhát và một tội ác. 

Ông người Mỹ phản đối. 

- Nhưng ai giải quyết vấn đề để biết rằng các ông có phải là những người được trang bị tốt nhất để can thiệp hay không? Bất kỳ một quốc gia ăn cướp nào cũng có thể sử dụng chiêu bài này để thôn tính toàn thể trái đất. 

- Chính những biến có sẽ giải quyết vấn đề. Những biến cố tàn khốc và không thể tránh được. Thí dụ ông hãy xem vụ Ai Cập đó. Vào năm 1881, ở nước chúng tôi không ai nghĩ tới việc can thiệp ở Ai Cập. Vậy mà năm 1882 chúng tôi đã chiếm giữ nước này. Sự tiếp diễn của các biến cố không để cho chúng tôi một sự lựa chọn. Một vụ tàn sát trong các phố ở Alexandrie, việc bố trí các súng đại bác để xua đuổi hạm đội của chúng tôi đang có mặt tại đó để làm tròn các trách vụ thiêng liêng của - một thỏa ước, như ông đã biết đó, đã khơi ngòi cho cuộc oanh kích. Cuộc oanh kích đã khai mào cho một cuộc đổ quân nhằm giải cứu thành phố khỏi bị hủy diệt. Cuộc đổ bộ dẫn tới sự mở rộng các cuộc hành quân... Và chúng tôi đang ở đây để trông nom, săn sóc đất nước này. Khi những vụ lộn xộn bùng lên, chúng tói đã khẩn cầu, năn nỉ người Pháp và nhiều nước khác tới giúp chúng tôi vãn hồi trật tự : họ đều ngoảnh mặt làm lơ, nhưng họ đã sẵn sàng để công kích chúng tôi. Khi chúng tôi định ra khỏi cái tổ ong vò vẽ này thì vụ nổi loạn của các tu sĩ Hồi giáo bùng ra, và chúng tôi đã phải trụ lại một cách vững chắc hơn bao giờ hết. Chúng tôi đã không đòi hỏi nhiệm vụ này; nhưng khi chúng tôi bị bắt buộc phải hoàn thành nó, thì ít nhất chúng tôi cũng phải làm cho tốt. Chúng tôi đã thiết lập công lý, thanh lọc bộ máy cai trị, bảo vệ những dân nghèo. Nước Ai Cập, đã tiến bộ nhiều hơn trong vòng mười hai năm qua, so với suốt cuộc xâm lăng của Hồi giáo từ thế kỷ mười bảy. Ngoài số lương của hai trăm người, những người này lại tiêu tiền của họ ở ngay trong nước Anh Quốc đã không lấy đi một cách trực tiếp hay gián tiếp, một xu nào trong suốt công cuộc này. Tôi không tin rằng ông lại có thể tìm ra trong lịch sử một sự nghiệp thành công tốt đẹp và vị tha hơn thế. 

Headingly hít một hơi thuốc lá trong khi suy nghĩ. 

"Ở Boston có một ngôi nhà gần với nhà chúng tôi" ông nói, "đã làm hư hại tất cả vẻ đẹp trên vùng biển. Những cái ghế bành cũ nát quăng bừa bãi trên sân đất trước nhà, những bức tường sụp đổ, khu vườn là một bãi bụi hoang, nhưng tôi không nghĩ rằng những người hàng xóm có ý định xâm nhập bằng bạo lực để cư ngụ tại đó và để xếp đặt các đồ vật theo sở thích của họ". 

Ông đại tá hỏi: 

- Nhưng nếu ngôi nhà bốc cháy thì sao? 

Headingly cười lớn và đứng lên ông nói. 

- Thưa ông đại tá, trường hợp này không được tiên liệu bởi chủ thuyết Monroe! Tôi bắt đầu nhận thức được rằng nước Ai Cập hiện đại cũng hoàn toàn thú vị như nước Ai Cập cổ đại và rằng vua Ramsès đệ nhị đã không phải là người đàn ông cuối cùng sống ở nước này. 

Ðến lượt họ, cả hai người Anh cùng đứng lên. 

- Phải, đó là một sự mỉa mai của định mệnh đã xui khiến những cư dân một hòn đảo nhỏ trên Ðại Tây Dương cai trị mảnh đất của các vị Hoàng đế Ai Cập". Cecil Brown đưa ra lời nhận xét. "Ðến lượt chúng ta, chúng ta sẽ tự tàn lụi, và chúng ta sẽ không để lại một kỷ niệm đặc biệt nào trong số những chủng tộc khác nhau đã cai trị đất nước này, vì người Anh không có thói quen khắc các hành động của họ lên đá. Những dấu vết của một hệ thống thoát nước ở Le Caire chắc chắn sẽ là vết tích duy nhất của sự dừng chân của chúng tôi ở đây. Vậy mà rất có thể là sau đây một ngàn năm những nhà khảo cổ sẽ cho rằng công trình này đã được thực hiện bởi triều đại Hyksos. Nhưng kìa những bạn đồng hành khác của chúng ta đi dạo chơi thành phố đã trở về rồi. 

Thật vậy, ở phía dưới họ, họ đã nghe thấy giọng nói Ái Nhĩ Lan êm ái của bà Belmont và tiếng nói trầm trầm của ông chồng bà. Ông Stuart vị mục sư to lớn của Birmingham đang tranh cãi về vấn đề những đồng bạc với một anh chàng dắt lừa lắm mồm; những ý kiến và lời khuyên can tuôn ra từ khắp mọi phía. Rồi sự thỏa thuận được dàn xếp xong, tiếng ồn ào giảm dần, những người về muộn leo lên cầu thang, những tiếng "Chúc ngủ ngon" được trao đổi, những cánh cửa sập mạnh và con tàu nhỏ trở lại yên lặng trong bóng tối của bờ cao của con sông. Ở bên kia cái điểm cùng cực này của nền văn minh và sự tiện nghi, trải dài một bãi sa mạc vô biên, man rợ, vĩnh cửu, màu rơm dưới ánh trăng, lốm đốm những bóng đen xì của những dãy núi.

Chương 3

"Đứng lại! Lui lại" viên hoa tiêu người bản xứ quát bảo anh thợ máy người Âu Châu. 

Cái phần mũi phình ra của con tàu xẹp xuống trên vũng bùn trơn tuột màu nâu, và dòng nước đã đẩy con tàu đi song song với bờ sông. Ngay sau khi cái cầu phao dài được thả xuống, sáu người lính lực lưỡng của đoàn hộ tống người Soudan đã bắt tay vào công việc. Dưới ánh sáng trong trẻo của buổi ban mai, họ có dáng bộ rất đẹp, với những bộ đồng phục màu xanh nhạt viền vàng và những chiếc mũ ca rô màu đỏ và vàng. Trên bờ sông, những con lừa được sắp đứng thành hàng, và lũ trẻ con làm ngột ngạt không khí với những tiếng reo hò của chúng. Những lời reo hò này là dành cho người nào bằng một kiểu cách bén nhọn nhất biểu dương được các phẩm chất của con lừa của mình và dèm pha các phẩm chất của con bên cạnh. 

Ðại tá Cochrane và ông Belmont cùng đứng trên mũi tàu, họ đội cái mũ trắng rộng vành cùng với cái khăn che mặt của khánh du lịch. Cô Adams và người cháu gái đứng tựa vào tấm lan can tàu bên cạnh họ. 

Ông đại tá nói: 

- Tôi lấy làm tiếc rằng quí phu nhân đã không cùng đi với chúng ta, ông Belmont ạ. 

- Tôi nghĩ rằng hôm qua bà ấy đã bị ngã nắng qua loa; bà ấy nhức đầu lắm. 

Ông ấy có giọng nói của cái bóng của ông ấy : mạnh mẽ và mập mạp. 

"Tôi tình nguyện ở lại để bầu bạn với bà ấy, ông Belmont ạ" cô gái già người Mỹ nói. "Nhưng tôi nghe nói là bà Shlesinger thấy cuộc du ngoạn quá dài và bà ấy có nhiều thư từ phải viết để hôm nay gửi bưu điện, như vậy là bà Belmont sẽ không cảm thấy quá đơn độc nữa". 

- Cô rất khả ái, cô Adams ạ. Có lẽ chúng tói sẽ quay về vào lúc hai giờ đó. 

- Chắc vậy không? 

- Chắc chắn mà. Chúng tôi không mang theo bữa ăn sáng. Chúng tôi sẽ đói ngấu! 

"Phải, tôi có cảm tưởng là chúng tôi sẽ chạy xô tới một cốc rượu vang Rhin và nước có hơi" ông đại tá phát biểu đồng tình. "Bụi ở sa mạc sẽ làm cho chúng tôi thấy thứ rượu vang tệ nhất cũng khoái khẩu rồi!" 

"Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông!" Mansoor, anh thông ngôn đang đi tới và nói lớn (người ta có thể nói đó là một vị linh mục với cái áo dài của anh ta bay phất phới trước gió và bộ mặt cạo nhẵn nhụi của anh ta) "Chúng ta phải khởi hành sớm để tránh cái nóng buổi trưa...". 

Cái nhìn trìu mến của anh lướt qua nhóm du khách ít ỏi. 

- Cô Adams, xin cô hãy đeo kính màu vào, vì trong sa mạc sự phản xạ rất mạnh. À, ông Stuart, tôi đã dành cho ông một con lừa! Một con lừa hảo hạng đấy, thưa ông, con lừa mà tôi thường vẫn để dành cho vị khách nào cường tráng nhất. Quí vị không cần đem theo vé. Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông, xin quí vị vui lòng! 

Người này nối theo người nọ, các du khách đi qua cầu tàu. Ông Stephens đi đầu, người gầy gò, khô khỏng, nghiêm nghị, đầu đội một cái mũ rơm, quyển sách hướng dẫn cắp trong cánh tay, ông giúp cho cô Sadie và bà cô của nàng leo lên bờ và tiếng cười của cô thiếu nữ vang lên tươi mát và trong trẻo khi quyển sách hướng dẫn tuột ra và rơi xuống rìa vũng bùn. Ông Belmont và đại tá Cochrane đi theo sau, những cái vành mũ của họ chạm vào nhau vì họ tranh luận với nhau về các ưu điểm của các loại súng Mauser, Lebel và Lee-Metford. Ðằng sau họ Cecil Brown bước đi một cách lơ đãng, với cái nhìn châm chọc, lặng lẽ. Vị mục sư cao lớn dùng thì giờ để leo lên đỉnh cao của bờ dốc. Vừa leo vừa càu nhàu về thân hình phì nộn của ông. 

"Tôi thuộc vào loại những người mang tất cả mọi thứ ở phía trước họ", ông vừa rên rỉ vừa nhăn nhó nhìn thân thể tròn vo của ông. Những lời nói đùa của chính ông đã làm ông tươi tỉnh lại và ông cố nén một tiếng cười nhỏ. 

Headingly, người cao và gầy, lưng hơi gù, và Fardet, người dân thành phố Paris, người thích lý luận, là hai người đi sau cùng. 

Người đàn ông Pháp thì thầm với ông người Mỹ. 

- Ông thấy đó, hôm nay chúng ta có một toán hộ tống! 

- Vâng, tôi đã nhận ra việc này. 

- Hừm! Tại sao lại không có một toán hộ tống giữa Paris và Versailles? Sự trang tri là một phần của căn phòng, ông Headingly ạ. Không ai bị lầm đâu, nhưng với căn phòng đó thì phải có sự trang trí này. Này, anh thông ngôn, tại sao chúng ta phải dẫn theo những anh lính kỳ cục đó? 

Vai trò của người thông ngôn là làm vui lòng tất cả mọi người, do đó anh ta thận trọng nhìn quanh mình trước khi trả lời; anh muốn biết chắc rằng mấy người Anh không nghe thấy anh ta nói. 

- Thưa ông, đúng là buồn cười đó! Nhưng ông muốn gì? Ðó là lệnh chính thức của giới chức Ai Cập. 

Ông người Pháp kêu lên. 

- Các giới chức Ai Cập à? Ý anh muốn nói các giới chức Anh hả! Lúc nào cũng là những người Anh đó! 

Trong khi đó, các du khách đã chọn xong lừa, ngựa của họ, và những chiếc bóng của họ ngồi trên lưng ngựa nổi bật trên nền trời màu xanh xẫm. Belmont ngồi một cách ngay ngắn, vững vàng trên một con lừa trắng bé nhỏ, vung vẩy cái mũ với bà vợ ông ấy vừa đi ra trên boong con tàu Korosko. Cochrane giữ rất thẳng người, với một cách ngồi nghiêm ngặt của nhà binh: hai bàn tay thấp xuống, đầu ngẩng cao lên, hai gót chân chỉ xuống đất. Bên cạnh ông, nhà ngoại giao trẻ, người đã được đào tạo ở Oxford, đang quan sát phong cảnh với một cái nhìn nặng nề và cao ngạo, như thể ông ta nghi ngờ sự đáng kính của sa mạc nói riêng và của vũ trụ nói chung. Ở phía sau, các du khách khác tiến bước theo hàng dọc, dọc theo bờ dốc, khi thì vất vả ít nhiều, khi thì thoải mái đôi chút. Mỗi con lừa đều có một người dắt: những thằng nhỏ vừa ồn ào, vừa chai lì. Trên boong tàu màu chì, chiếc khăn mùi xoa của bà Belmont vẫn còn nhấp nhánh. Dòng sông nâu vẽ ra những vòng lớn tới tận tám cây số đằng xa; những đồn canh trắng, vuông ở trên những trái núi đen xì và lởm chởm chỉ rõ miền ven của Ouadi-Halfa, nơi mà các du khách đã ra đi buổi sáng. 

Sadie kêu lên một cách vui thích: 

- Không phải là kỳ diệu hả? Tôi có một con lừa chỉ thích phi nước đại thôi, và các vị nhìn đây, cái yên của tôi mới sang trọng làm sao! Các vị đã từng nhìn thấy cái gì tinh xảo hơn những các hột kết thành chuỗi này và những thứ nhỏ nhặt khác quấn quanh cổ nó không? Chắc ông phải làm một bản bị vong lục về con lừa đó, ông Stephens ạ! Tôi sử dụng từ ngữ pháp lý có đúng không đó? 

Stephens quay lại phía khuôn mặt xinh đẹp, sinh động đang nhìn ông dưới cái nón rơm đỏm dáng và ông rất muốn nói chính nàng mới là kỳ diệu, nhưng ông rất sợ làm phật lòng nàng và làm tan vỡ sự thân mật vui vẻ của họ nên thay vì tất cả những lời khen ngợi, ông chỉ tặng nàng một nụ cười. 

Ông nói: 

- Cô có vẻ rất sung sướng! 

- Xem kìa! Ai có thể không cảm thấy sung sướng với không khí khô ráo và lành mạnh này, bầu trời xanh này, bãi cát vàng lạo xạo này, và một con lừa tuyệt diệu để chở bạn đi? Tôi đã có đủ tất cả mọi thứ cần có để làm cho tôi sung sướng! 

- Tất cả mọi thứ? 

- Tóm lại, tất cả mọi thứ tôi cần có trong lúc này. 

- Tôi nghĩ là cô không biết thế nào là buồn bã phải không? 

- À, khi tôi cảm thấy buồn khổ, tôi buồn khổ quá đi, không thể nói sự buồn tủi nên lời! Trong bao nhiêu ngày, hết ngày này tới ngày khác, tôi đã không ngừng khóc ở Smith College; các cô con gái khác hỏi nhau tại sao tôi khóc và tại sao tôi không muốn nói với họ lý do mà tôi phải khóc. Lý do thật sự là chính tôi cũng không biết tại sao tôi khóc. Ông biết đó; đôi khi một bóng đen lớn tới lơ lửng bên trên người ông, ông không biết một chút gì về nó cả; nhưng ông chỉ còn có cách là tự xét lại mình và tự cảm thấy buồn khổ thôi. 

- Nhưng cô đã không bao giờ có một lý do thật sự để buồn rầu mà? 

- Không, ông Stephens ạ. Suốt cả đời tôi, tôi đã có rất nhiều thời kỳ tốt đẹp khiến cho khi tôi nhìn lại phía sau, tôi không tin là tôi đã từng có một lý do thật sự để buồn phiền. 

- Ðược rồi, cô Sadie này, tôi hết lòng hy vọng rằng cô vẫn sẽ có thể nói điều này khi cô tới độ tuổi của bà cô của cô. Nhưng tôi nghe thấy tiếng bà ấy gọi chúng ta! 

"Ông Stephens này, tôi muốn ông trừng trị tên dắt lừa của tôi bằng cái roi của ông nếu hắn còn đánh con vật khốn khổ của tôi!", cô Adams nói lớn, vì cô đã vớ phải một con lừa cao lớn chỉ có da bọc xương. "Nè, anh thông ngôn! nói với thằng ranh con này là tôi sẽ không dung thứ việc nó hành hạ những con vật: nó phải biết hổ thẹn chứ! Nó trưng ra với tôi những nụ cười như là một tấm hình quảng cáo của thợ làm răng vậy. Ông Stephens, ông có tin rằng nếu tôi đan một đôi bít tất len cho anh lính da đen này, thì anh ấy sẽ được phép mang không? Tên quỷ khốn khổ này chỉ có những băng vải quấn quanh chân!" 

"Ðó là những cái xà cạp, cô Adams ạ" đại tá Cochrane quay lại giải thích. "Ở Ấn Ðộ chúng tôi đã nhận thấy rằng không có thứ gì tốt hơn để làm cho việc đi bộ được dễ dàng. Ðối với một người lính thì những cái xà cạp đượ ưa thích hơn những bít tất len rất nhiều". 

- Vậy thì chúng ta không nói tới chuyện đó nữa! nhưng người ta nói một con ngựa bị thương. Tôi thấy chúng ta rất oai vệ với đoàn hộ tống có võ trang này. Nhưng ông Fardet khẳng định với tôi rằng chúng ta không có gì phải lo sợ cả. 

"Ít nhất đó là ý kiến riêng của tôi, thưa cô!" người đàn ông Pháp vội vã đính chính. "Rất có thể là đại tá Cochrane lại có một ý kiến khác biệt" 

"Ý kiến của ông Fardet trái ngược với ý kiến của những sĩ quan chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh ngoài biên giới", vị đại tá lạnh lùng trả lời. "Nhưng tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều đồng ý để thấy rằng sự hiện diện của những người lính này sẽ đóng góp thêm vào sự tráng lệ của khung cảnh". 

Bên phía tay phải của họ, sa mạc kéo dài những luống cát mềm mại mấp mô của nó, trông giống như những cồn cát bao quanh một cái biển cổ xưa đã bị quén lãng. Khi các du khách leo lên những cồn cát này, từ trên cao họ nhìn thấy những chóp đỉnh đen xì của những núi lửa kỳ quái đứng sững trên bờ sông về phía Libye. Những người lính tiến lên bằng những bước mau lẹ, khẩu súng lăm lăm trong tay, lúc thì những bóng của họ hiện lên trên các đỉnh cao, lúc thì chúng mất dạng trong các hang hõm. 

"Họ được tuyển mộ ở đâu vậy?" Sadie hỏi. "Họ có cùng một màu da như những người gác thang máy ở Mỹ". 

"Tôi đã nghĩ là cô sẽ đặt với tôi một câu hỏi về họ". Ông Stephens nói, ông là người không bao giờ hài lòng hơn là khi đoán trước được một ý nguyện của cô gái Mỹ xinh đẹp. "Sáng hôm nay tôi đã thực hiện một vài sự sưu khảo trong thư viện của con tàu. Ðây này... Ré.. Tôi muốn nói: Vấn đề những người lính da đen. Theo những điều ghi chép của tôi, họ thuộc về tiểu đoàn mười người Soudan trong quân đội Ai Cập. Họ được tuyển mộ trong các bộ lạc da đen Dinkas và Shilluks sinh sống ở miền Nam của xứ sở các thầy tu Hồi giáo, gần đường xích đạo". 

"Làm cách nào mà các tân binh có thể đi qua xứ sở của những thầy tu Hồi giáo?" Headingly hỏi. 

"Tôi nghĩ họ đã không gặp quá nhiều khó khăn đâu". Ông Fardet nói lẩm bẩm và nháy mắt với người đàn ông Mỹ. 

- Những chiến binh lão luyện là những người sống sót của hai tiểu đoàn già nua lính da đen. Một vài người đã phục vụ dưới quyền của Gordon ở Khartoum và họ đã dành được một huy chương ở đó, những người khác thì phần lớn là các đào binh của đạo quân ở Mahdi. 

Cô Adams nói: 

- Thú thật là khi mà chúng ta không cần tới sự phục vụ của họ thì trông họ cũng khá dễ thương trong bộ đồng phục xanh dương này. Nhưng khi gặp sự bực bội, tôi tưởng rằng ta nên cầu chúc cho họ đỡ phần trang trí đi và trắng hơn lên một chút!" 

"Tôi không tin chắc ở điều đó, thưa cô", ông đại tá trả lời. "Tôi đã nhìn thấy những người này trên trận địa; người ta có thể tin ở sự dũng cảm của họ trong khói lửa" 

"Nhưng này, tôi thích tin ở ông qua lời nói chứ không phải qua việc thực hiện một kinh nghiệm!" cô Adams tuyên bố với một giọng làm mọi người mỉm cười. 

Con đường chảy dài theo bờ sông Nil, nước sông bị xao động bởi những xoáy nước dưới sâu, chảy theo sức mạnh của những thác nước ở thượng nguồn. Có chỗ đà chảy của dòng nước bị vỡ tung vì một tảng đá đen xì óng ánh ướt sũng những bọt nước. Ở trên cao hơn, các du khách nhìn thấy rõ ràng sự lấp lánh như bạc của những cái thác nước, những bờ sông đã bắt đầu hóa thành những bờ dốc thẳng đứng. Chẳng bao lâu một núi đá hình bán nguyệt hiện ra sừng sững. Người thông ngôn đã không cần phải nói rõ đó là ngôi đền có tên trong chương trình du ngoạn của họ. Một con đường bằng phẳng dẫn tới ngôi đền. Những con lừa đi vào con đường với nước kiệu nhỏ, ở giữa những tảng đá đen trên nền màu cam, những khúc cột chỉ thẳng lên trời, cũng như một quãng tường thành còn sót lại có mang những dòng chữ, cứ theo màu da xám xịt của nó và sự vững chãi của nó thì hình như nó đã được tạo ra bởi tạo hóa chứ không phải bởi con người. Chàng thông ngôn Mansoor đã xuống ngựa và đợi cho những người đi chậm bắt kịp anh ta. 

"Thưa quí ông và quí bà ngôi đền này", anh nói lớn với điệu bộ một nhân viên đấu giá đang chuẩn bị lần rao giá cuối cùng, "là một kiểu mẫu mỹ thuật rất đẹp dưới triều đại thứ mười tám. Ðây là khuôn ảnh của Hoàng đế Thotmes Ðệ Tam!" anh lấy cán roi ngựa chỉ vào những chữ tượng hình khắc sâu trong vách đá. "Ngài đã sống sáu trăm năm trước chúa cơ đốc, và tấm bia ký này là để kỷ niệm chuyến du ngoạn đắc thắng của ngài ở Mesopotamie. Trên những hình chạm nổi kia chúng ta có lịch sử của ngài, từ thuở ngài sống với mẹ cho tới khi ngài hồi cung với những tù nhân bị cột vào xe của ngài. Chỗ này quí vị trông thấy ngài được tấn phong bởi Ai Cập Hạ, và chỗ kia bởi Ai Cập Thượng, nước đã dâng một thánh lễ lên thần Ammon-Ra, để tôn vinh chiến thắng của ngài. Chỗ này những tù nhân đứng trước mặt ngài, và mỗi tên đều bị ngài cắt mất bàn tay phải. Trong góc kia, quí vị nhìn thấy một đống nhỏ, chỉ nguyên những bàn tay phải. 

"Lạy chúa tôi, chắc tôi không muốn có mặt ở nơi này vào thời gian đó!" cô Adams nói. 

"Này, không có gì thay đổi cả!" Cecil Brown đưa ra nhận xét. "Ðông phương bao giờ cũng là Ðông phương. Tôi không nghi ngờ chút nào rằng, cách chỗ mà hiện giờ cô đang đứng chừng một trăm năm mươi cây số hoặc có thể là ít hơn thế nữa... " 

"Ông hãy im đi!" ông đại tá nói nhỏ. 

Các du khách đi dọc theo bức tường thành trong khi ngẩng đầu lên và hất những cái mũ lớn của họ ra phía sau. Ðằng sau họ mặt trời đổ vào bức tường cổ xưa này một ánh sáng màu đồng và chiếu lên các tảng đá những cái bóng đen của các du khách lẫn lộn với những chiến binh da đen. Cái bóng đồ sộ của cha John Stuart ở Birmingham trong một lúc bao trùm cả ông vua ngoại đạo và vị thượng đế mà ông tôn thờ. 

"Cái gì đây?" ông hỏi với giọng sắc nhọn trong khi giơ thẳng cái ba tôn màu vàng ở Assouan lên. 

"Một con trâu nước" anh thông ngôn trả lời. 

Và tất cả các du khách cố nén một tiếng cười nhỏ vì con vật này có một nét nào đó của ông Stuart. 

"Nhưng nó không lớn hơn một con heo con!" ông phản đối. "Hãy nhìn kìa, ông vua xiên nó trên ngọn giáo một cách dễ dàng". 

"Nó đã được vẽ rất nhỏ, để chứng tỏ rằng so sánh với nhà vua nó chỉ là một vật bé nhỏ" anh thông ngôn giải thích. "cũng như quí vị có thể trông thấy các tù nhân chỉ đứng tới đầu gối nhà vua; đó không phải vì ông ấy có một thân hình đồ sộ mà vì ông ấy có rất nhiều quyền lực hơn họ. Xin hãy nhìn nữa đây, ông ấy to hơn con ngựa của ông ấy vì ông ấy là vua và một con ngựa chỉ là một con ngựa. Một thí dụ nữa: những người đàn bà bé bỏng mà quí vị nhận ra ở chỗ này hay chỗ khác đều là những người vợ tầm thường của ông ấy!" 

"Thật đẹp mặt!" Cô Adams la lên với sự giận dữ. "Nếu người ta khắc được linh hồn của vị vua này, thì hẳn ta phải có một cái kính hiển vi để xem cái linh hồn đó. Liệu ta có thể chấp nhận được rằng ông ấy đã cho phép các bà vợ ông ấy được trưng bày ra theo cái cách thật lố bịch này không?" 

"Nếu ông ấy sống vào thời đại chúng ta" ông người Pháp nói. "thì trong lĩnh vực này ông ấy sẽ vấp phải nhiều khó khăn hơn là ông ấy đã từng gặp phải ở Mésopotamie. Nhưng thời gian sẽ đem lại những sự phục hận. Có thể là rồi đây chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà cường tráng và người chồng bé nhỏ tầm thường của bà ta, phải không?" 

Cecil Brown và Headingly đứng ở phía sau, vì những lời bình luân điên đảo thị phi của anh thông ngôn và những câu nói dông dài vô bổ của các du khách đã làm ngột ngạt cảm giác về sự trang nghiêm của họ. Họ lặng lẽ đứng nhìn cái đám rước kỳ quái của những chiếc mũ che nắng và những chiếc khăn trùm đầu màu xanh này diễu hành trước bức tường thành xám xì cổ lỗ. Bên trên đầu họ hai con chim sẻ quạt vừa bay chập chững vừa gọi nhau ở giữa những cây cột trụ đổ nát hoang tàn. 

"Ðó có phải là một sự báng bổ không?" cuối cùng người đàn ông xuất thân từ Oxford lẩm bẩm nói. 

"Này, tôi hài lòng với cảm tưởng của ông! Nó tương hợp với ý của tôi" Headingly trả lời. "Tôi không biết rõ người ta phải tiếp cận loạt sự vật này như thế nào, một khi ta chấp nhận rằng họ phải tiếp cận chúng, nhưng chắc chắn đây không phải là cách đúng. Tóm lại tôi ưa thích những cảnh hoang phế mà tôi chưa nhìn thấy hơn là những cảnh mà tôi đã thấy... ". 

Nhà ngoại giao trẻ ném cho ông ta một cái nhìn đầy nhiệt tình, mỉm cười, nhưng rồi ông lấy lại ngay bộ mặt của con người đã quá chai lì. 

"... Tôi có một tấm bản đồ" ông người Mỹ nói tiếp, "Ðôi khi ở rất xa mọi sinh vật, ở tận giữa bãi sa mạc, không có nước, không có đường mòn, tôi đọc thấy "phế tích" hay "di tích một đền đài". Ngôi đền của Jupiter Ammon chẳng hạn, một trong những đền đài danh tiếng nhất trên thế giới lại ở cách xa hàng trăm cây số với bất cứ một vật nào. Ðó là những phế tích hẻo lánh bị che dấu, tồn tại qua nhiều thế kỷ, làm kích động trí tưởng tượng của con người. Nhưng khi tôi xuất trình một tấm vé ở ngoài cửa và khi tôi đi vào như tôi đã đi vào trong gánh xiếc Barnum, thì tất cả vẻ thơ mộng, tất cả sự vi diện đều tan biến". 

"Hoàn toàn đúng! " Cecil Brown trả lời trong khi nhìn ra sa mạc bằng một con mắt ảm đạm và khắt khe. "Nếu người ta có thể đi chơi ở đây một mình thôi, do sự tình cờ mà đi tới, và trong sự hiu quạnh hoàn toàn đứng trước những bức phù điêu kỳ quặc này thì thật là không thể cưỡng được. Có lẽ người ta sẽ muốn quỳ lạy trong sự kinh hãi và cảm mến. Nhưng khi Belmont rít cái ống vổ kếch xù của ông ấy, khi Stuart bắt người ta phải nghe cái giọng khò khè hen suyễn của ông ấy, khi cô Sadie Adams phá lên cười...". 

" Và khi con chim cà cưỡng thông ngôn này đọc bài của anh ấy!" Headingly thở dài. "Tôi chỉ có một mong muốn, ngồi im lặng và suy ngẫm, tôi đã không bao giờ thỏa mãn được sự mong muốn đó. Ðã có lúc tôi gần phạm phải tội sát nhân khi tôi đang đứng trước Kim Tự Tháp lớn và tôi đã không có thể hưởng được một khoảnh khắc yên tĩnh, vì người ta đã làm tôi điên đầu lên với những lời rao hàng. Tôi đã nện cho gã bán hàng một cái đá, cái đá này suýt nữa đã giết chết hắn ta trên mũi giày! Khi tôi nghĩ rằng tôi đã thực hiện một chuyến đi từ Mỹ Châu để xem Kim Tự Tháp, và một khi đứng trước nó, tôi đã chẳng thấy gì tốt đẹp hơn là việc tặng cho anh chàng người Ả Rập một cái đá!" 

Người cựu sinh viên Oxford cười một cách dịu dàng. Ông nói: 

- Họ lại lên đường kìa! 

Rồi họ thúc những con lừa của họ đi về phía trước để đi vào phía sau đám rước buồn cười này, bây giờ thì đám rước đi vào giữa những núi đá lớn, giữa những ngọn đồi lởm chởm đá. Một con đường nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo len lỏi giữa những tảng đá. Phía sau các du khách chân trời bị che khuất bởi những ngọn đồi khác trông đen ngòm và kỳ quái như những đống bã quặng ở một cái giếng khai mỏ. Sự yên lặng ngự trị trong toán người. Nét mặt thường ngày vui vẻ của Sadie sa sầm lại như để suy ngẫm về sự phũ phàng của tạo hóa. Ðoàn hộ tống xích lại gần nhau, tiến bước theo hàng một. Ông đại tá và Belmont vẫn phi ngựa đi tiên phong. 

"Ông Belmont, ông có biết không?" ông đại tá hạ thấp giọng nói. "Có lẽ ông sẽ cho tôi là ngu ngốc, nhưng tôi không thích cái chuyến du ngoạn nhỏ nhặt này". 

Belmont phát ra một tiếng cười gằn nhỏ. 

"Từ trong phòng của tàu Korosko nhìn ra thì mọi thứ đều có vẻ hoàn hảo. Bây giờ khi chúng ta ở đây chúng ta cảm thấy một cách mơ hồ một cái gì đó trong không khí", ông ta nói. "Tuy nhiên tuần lễ nào các du khách cũng tới đây, và chưa từng bao giờ xảy ra một sự cố nhỏ nhặt nào". 

"Tôi tự ý chấp nhận các sự rủi ro khi tôi đi trên con đường của chiến tranh", ông đại tá trả lời. "Chiến tranh rất thành thật, người ta biết rằng với nó thì người ta phải chạm trán với cái gì. Nhưng khi ta dẫn theo các phụ nữ, và khi ta được ban tặng một toán hộ tống tồl tệ như toán này, thì đúng là chơi đùa với lửa! Tất nhiên là có chín mươi chín phần trăm vận may là mọi việc sẽ suông sẻ, nhưng nếu điều trái ngược xảy ra... Tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó! Ðiều đáng khen là họ hoàn toàn không biết rằng xứ sở này rất nguy hiểm". 

"Tôi à, tôi rất thích những cái áo dài của người Anh để đi bộ đường dài, ông Stephens ạ!" Sadie cất tiếng nói đằng sau họ. "nhưng với một cái áo dài để mặc buổi chiều thì tôi tin rằng các thợ may người Pháp có nhiều kiểu cách hơn là các đồng nghiệp người Anh của họ. Những người tạo mẫu thời trang của các ông có những sở thích nghiêm ngặt, và họ ít biết khai thác những dây băng và những cái nơ". 

Ông đại tá mỉm cười. 

"Dù sao thì cô ấy cũng có một tâm hồn trong sáng!" ông nói với Belmont. "Tôi sẽ không nhắc lại với ai điều mà tôi vừa nói với ông, và tôi hy vọng rằng những nỗi lo sợ của tôi sẽ tự phơi bày ra là không có cơ sở vững chắc". 

Belmont trả lời: 

- Xin ông hiểu cho là tôi cũng tưởng tượng rằng những băng đảng thầy tu Hồi giáo đang đi trộm cướp kiếm mồi nhưng sẽ không thể có chuyện là chúng đợi đúng cái ngày mà chúng ta đi qua nơi này. 

- Biết rằng một cuộc quảng cáo rầm rộ đã được tung ra về các sự di chuyển của chúng ta và rằng mọi người đều biết trước một tuần các cuộc du ngoạn được xếp đặt cho chương trình của chúng ta, thì sự trùng hợp sẽ không có gì là kỳ lạ! 

"Sự rủi ro một phần trăm, ông đã nói mà!" Belmont lẩm bẩm nói, trong thâm tâm ông thấy vui thích khi biết rằng bà vợ ông được an toàn trên con tàu. 

Chả mấy lúc họ ra khỏi vùng ngổn ngang sỏi đá, chỗ làm cản trở bước đi của những con lừa, bây giờ thì bãi cát vàng, mịn trải dài ra cho tới chân quả đồi hình chóp đứng sững trước mặt họ. "Ây-a! Ây-a!" những người dắt lừa vừa quát vừa lấy roi đánh vào mông các con vật, những con vật này chạy nước đại và lao mình vào trong cánh đồng. Chúng chỉ dừng lại ở dưới chân con đường nhỏ leo lên núi, theo lệnh của anh thông ngôn. 

- Thưa quí bà và quí ông, bây giờ chúng ta đã tới chân ngọn núi Abousir lừng danh. Ðứng trên đỉnh núi này, quí vị sẽ phát hiện ra một toàn cảnh rất đa dạng, nhưng trước hết quí vị sẽ nhận thấy trên vách đá các bậc vĩ nhân đã khắc tên của họ vào đá, những vị này đã đi qua đây trong các cuộc hành trình của họ, có khi còn trước cả lúc Chúa Ki Tô giáng sinh. 

"Ông có Moise không?" Cô Adams hỏi: 

"Cô ơi, cô làm cháu kinh ngạc đó!" Sadie kêu lên. 

- Tại sao, hở cháu cưng? Ngài ở nước Ai Cập, đó là một bậc vĩ nhân, rất có thể là ngài đã du ngoạn ở nơi này.  

"Rất có thể là tên của Moise có ở đó, cũng như tên của Hérodote", anh thông ngôn tuyên bố một cách nghiêm trọng, "nhưng cả hai đều đã phải gánh chịu sự phũ phàng của thời gian, ngược lại ở đằng kia, trên tảng đá màu nâu, quí vị sẽ đọc thấy tên của Belzoni. Trên cao hơn là tên của Gordon. Không có một nhân vật nổi tiếng nào ở Soudom mà quí vị không thể tìm thấy tên nếu quí vị chịu khó tìm một chút. Và bây giờ, với sự cho phép của quí vị chúng ta sẽ để những con lừa ở đó để đi bộ leo lên bằng con đường này, từ trên đỉnh núi quí vị sẽ nhìn thấy con sông và sa mạc...". 

Sau hai hay ba phút leo trèo các du khách đã tới chỗ bằng phẳng hình bán nguyệt nằm trên ngọn núi. Phía dưới chân họ, ở một bên, một ghềnh đá đen xì đứng thẳng, cao tới năm chục mét, cắm sâu xuống những xoáy nước sủi bọt của sông Nil. Tiếng ầm ì inh tai của con sông và tiếng rít lên của nước sông chảy ồ ạt giữa các tảng núi đá vang lên một cách quái dị trong không khí oi nóng và im lìm. Ðằng xa ở thượng nguồn hay hạ nguồn, họ trông thấy dòng sông rộng tới bốn trăm mét, mạnh mẽ, sâu thẳm và gần như đen kịt. Ở mạn bên kia, trải ra một khoảng bao la hoang vu, đó đây rải rác những tảng đá đen xì, vốn là những thứ đá vụn do sông Nil mang tới khi nó chảy tràn khỏi lòng sông. Không một nơi nào có vết tích của đời sống con người. 

"Ở đằng kia", người thông ngôn chỉ về hướng Ðông "là con đường quân sự đi từ Ouadi-Halfa tới Sarras. Sarras ở về phía Nam, dưới cái núi đen này. Hai quả núi xanh mà quí vị trông thấy ở chân trời đều nằm trong sứ Dongola, cách Sarras hơn một trăm cây số. Con đường xe lửa dài sáu mươi lăm cây số, nhưng nó đã chịu thiệt hại nhiều vì bọn thầy tu Hồi giáo, bọn này rất thích chế biến các đường rầy thành những ngọn giáo. Chúng cũng rất thích những sợi dây của máy điện báo. Bây giờ nếu quí vị muốn quay trở về, tôi sẽ giải thích với quí vị những gì quí vị sẽ có thể nhìn thấy ở mạn bên kia...". 

Ðó là một toàn cảnh mà ta không thể quên được sau khi đã nhìn thấy một lần. Cái dải sa mạc hoang dã và liên tu bất tận này có phải là thuộc về một hành tinh đã tiêu mòn và nguội lạnh hay thuộc về trái đất khoan dung của chúng ta? Nó kéo dài cho tới một đám sương mù nhẹ màu tím có vẻ như là chỗ tận cùng của thế giới. Ở lớp thứ nhất, cát có một màu vàng đẹp rực rỡ mà nắng làm thành chói lòa. Sáu người lính trung thành da đen dừng lại ở phía dưới, họ im lìm bất động tựa vào những khẩu súng của họ, mỗi người chiếu ra một cái bóng có vẻ cũng chắc nịch như chính con người của họ vậy. Ở bên ngoài cái cánh đồng vàng hoe này những đống cặn kim loại đen xì xếp thành từng hàng, được phân cách nhau bởi những thung lũng cát thổ hoàng. Những đống cặn kim loại này bị che lấp bởi những quả đồi cao hơn và có hình dạng kỳ quái hơn, những quả đồi này xếp thành tầng và kề sát nhau cho tới lúc tan biến vào trong màn sương mù xa xôi, tím ngắt. Trong những quả đồi này, không quả nào có được một độ cao đáng kể; quả cao nhất có thể được một trăm năm mươi hay hai trăm mét; nhưng các chóp đỉnh hình răng cưa của chúng, những vách dựng đứng bằng đá đã bị nắng nung chín đã cho chúng một vẻ tàn bạo, khủng khiếp. 

"...Bãi sa mạc của nước Libye" anh thông ngôn loan báo trong lúc giơ tay lên một cách kiêu hãnh. "Một sa mạc lớn nhất thế giới. Giả dụ quí vị đi từ chỗ này về hướng Tây, và quí vị không rẽ ngang về hướng Bắc hay về hướng Nam, thì những cái nhà đầu tiên mà quí vị nhìn thấy sẽ là những căn nhà ở nước Mỹ. Thưa cô Adams, tôi nghĩ rằng sự giả thiết này làm cho cô nhớ nhà phải không?". 

Nhưng cô gái già người Mỹ đã không nghe anh nói nữa. Sadie đã nắm lấy cánh tay cô và với bàn tay kia nàng chỉ cho cô một vật gì trong bãi sa mạc. 

"Ồ, đây là mức tột độ của sự mỹ lệ!", cô kêu lên, mặt đỏ bừng vì bị khích động. "Ông Stephens, hãy nhìn kìa! Chỉ còn thiếu một vật nữa là quang cảnh được hoàn hảo! Hãy nhìn những người ngồi trên lưng lạc đà đang nhô ra từ các ngọn đồi!". 

Lúc đó tất cả bọn họ đều trông thấy một hàng dài những kỵ binh quấn khăn đỏ đang thúc những con lạc đà ra khỏi một khe núi. Một sự im lặng chụp xuống, im lặng quá đến nỗi họ có thể nghe rõ được tiếng vo ve của những con ruồi. Ðại tá Cochrane vừa bật một que diêm, rồi ông đứng im bất động không nghĩ tới việc châm lửa vào điếu thuốc lá, và ngọn lửa làm bỏng các ngón tay ông, Belmont huýt sáo qua các khe răng. Anh thông ngôn đứng há hốc mồm ra, cặp môi béo mọng và đỏ thắm của anh ta, trở nên xám ngoẹt. Những người khác nhìn nhau, khó chịu trước màn phụ diễn bất ngờ của chương trình. Ông đại tá phá tan sự im lặng. 

Ông nói: 

- Ông Belmont này, nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng đây là một phần trăm sự rủi ro đã xuất hiện đó!

Chương 4

"Mansoor, thế này là nghĩa làm sao?" Belmont kêu lớn với một giọng thô lỗ, "những người đó là ai, và tại sao anh đứng hai mắt trợn trừng như thể anh đã hóa thành pho tượng bằng muối vậy?" 

Anh thông ngôn, trước khi trả lời, thè lưỡi liếm vào cặp môi khô khan của anh ta . Anh ta nói ấp úng: "Tôi không biết họ là ai". 

"Họ là ai?" ông người Pháp quát lớn. "Anh chỉ cần nhìn cho rõ. Đó là những người có võ trang cưỡi lạc đà: những người Bédouins như là những người mà chính quyền trên biên giới thường thuê mướn". 

"Xin ơn trên phù hộ, có lẽ ông ấy nói đúng, Cochrane ạ!" Belmont quay lại phía viên đại tá và nói: " Tại sao những người kia lại không phải là những bằng hữu?" 

"Chúng ta không có bằng hữu trên bờ bên này của sông Nil", ông đại tá trả lời với một giọng quả quyết. "Tôi hoàn toàn biết chắc về việc đó. Chúng ta sẽ sai lầm khi tự lừa dối mình. Chúng ta phải chuẩn bị cho điều tệ hại nhất". 

Bất kể những lời nói này, các du khách vẫn im lìm bất động, đứng sát vào nhau và nhìn xuống cánh đồng. Sự kinh động bất ngờ này đã làm họ điếng người, họ đang sống trong một giấc mộng không có bản ngã của họ, mơ hồ và phi thực tại. Những kỵ binh đã đi ra từ một khe núi ở cách con đường họ vừa đi qua chừng một ngàn năm trăm mét, như thế là chúng đã cắt hết đường rút lui của họ. Theo như đám bụi bốc lên và chiều dài của đám người thì người ta có thể nói là cả một đoàn quân đang xuất hiện từ những quả đồi. Thật tình thì bảy mươi người cưỡi trên lưng lạc đà cũng che phủ được một mảng đất lớn. 

Sau khi chúng đã tới cánh đồng cát, chúng xếp thành hàng và sau một hồi kèn chát chúa chúng xông lên theo hàng ngang, những cái bóng sặc sỡ nhiều màu của chúng chao đảo trên những cái yên của chúng; cát bốc tung lên thành một đám mây vàng lăn theo dưới chân những con lạc đà. Vừa nhìn thấy những sự việc này, sáu anh lính da đen đã lùi lại và ẩn mình trên sườn đồi đằng sau những tảng đá, như những binh sĩ đã thành thạo trong việc tập luyện, những hộp cơ bẩrn kêu lách cách cùng một lúc khi viên hạ sĩ ra lịnh cho họ nạp đạn vào súng. 

Sự hoảng hốt đầu tiên của các du khách lúc đó đã nhường chỗ cho sự thi triển lớn lao về nghị lực, vừa cuồng nhiệt, vừa bất lực. Tất cả bọn họ đều bắt đầu chạy trên khoảng đất bằng trong sự vội vã không có mục đích, trông họ giống như một đàn gà vịt bị hoảng sợ trong sân chuồng. Họ đã không có thể quyết định nhìn nhận là họ không còn một phương cách nào để thoát hiểm cả. Đã nhiều lần họ cúi xuống bên trên cái mép của ghềnh đá lớn đâm sâu xuống sông Nil, nhưng người trẻ nhất và người táo bạo nhất trong nhóm họ cũng không bao giờ có thể tụt xuống chiều cao của cái vách đá nhẵn thín này. Hai người đàn bà níu chặt lấy tay của Mansoor trong lúc anh này run lẩy bẩy, như thể các cô cho là anh ta phải chính thức chịu trách nhiệm về sự an toàn của mọi người. Stephens, người đại diện cho thân chủ trước tòa án, không rời khỏi Sadle Adams và nói thầm thì như một cái máy hát: "Đừng sợ cô Sadle ạ! Đừng sợ!" việc này cũng không ngăn cản được ngay chính ông ta đang run rẩy cả chân tay. Ông Fardet dậm chân, láy đi láy lại những chữ "r" khi lúng búng nói những câu không ai hiểu được và ném những cái nhìn bực bội vào các bạn đồng hành, ông thấy mình đã bị họ phản bội một phần nào đó. Ông mục sư to lớn đứng rất ngay ngắn dưới cái dù của ông và cặp mắt to, hoảng sợ của ông đang quan sát sự di chuyển của những gã kỵ binh. Cecil Brown đang xoắn bộ ria ngắn của ông; ông tái người đi nhưng vẫn có vẻ khinh khỉnh. Ông đại tá, Belmont và nhà khoa bảng trẻ tuổi của Harward vận giữ được sự điềm tĩnh; họ là những người có nhiều thủ đoạn. 

"Tốt nhất là chúng ta cùng đứng lại với nhau", ông đại tá nói, "không còn cách nào để tránh khỏi bọn chúng, do đó tốt nhất là chúng ta đừng rời xa nhau". 

"Chúng đứng lại" Belmont loan báo. 

"Vì chúng quan sát chúng ta, chúng bịết chắc rằng chúng ta nằm trong quyền sinh sát của chúng; do đó chúng không vội vã. Tôi không nhìn thấy điều gì mà chúng ta sẽ có thể làm được". 

"Nếu chúng ta dấu các phụ nữ đi có được không?" Headingly đề nghị. "Chắc chắn là chúng không biết chúng ta có bao nhiêu người. Khi chúng đã bắt được chúng ta rồi, các phụ nữ sẽ có thể ra khỏi nơi ẩn nấp và trở lại tàu thủy". 

"Tuyệt diệu!" ông đại tá kêu lên. "Cô Adams, xin cô vui lòng lại đây. Mansoor, hãy mời các bà tới chỗ này! Không còn một giây phút nào để bỏ mất nữa". 

Một phần của khoảng đất bằng không thể nhìn thấy được từ bên dưới, những người đàn ông cuống cuồng dựng lên một chỗ trú ẩn nhỏ bằng những tảng đá, những tảng đá thì không thiếu; không cần phải lâu la gì để dựng nghiêng một tảng đá lớn nhất vào một núi đá; và theo lối đó làm thành một thứ mái che, rồi lấp kín hai bên bằng hai tảng đả khác cùng một màu với núi đá; thoạt mới nhìn chỗ ẩn nấp không quá lộ liễu đâu. Hai người đàn bà chui vào chỗ ẩn nấp và ngồi xuống. Sadie ôm choàng lấy bà cô trong hai cánh tay. Khi đã dựng xong chỗ trú ẩn, những nguời đàn ông đi ra nhìn những việc đang diễn ra trong cánh đồng với một tấm lòng nhẹ nhõm hơn. Lúc tới gần rìa của khoảng đất bằng, họ nghe thấy những phát súng đầu tiên; đó là toán hộ tống của họ bắn; nhưng những phát súng rời rạc đó đã mau chóng bị nhận chìm trong một tiếng ầm ì inh tai, và không khí tràn đầy tiếng rít của những viên đạn. Tất cả các du khách đều nằm nép xuống sau các tảng đá, ngoại trừ anh chàng người Pháp thì cứ tiếp tục dậm chân và lấy tay đấm mạnh vào cái mũ rơm của mình. Belmont và Cochrane bò xuống nơi mà những người lính Soudan đang bắn một cách bình tĩnh và theo đúng phương pháp, với những khẩu súng kê trên các tảng đá. 

Bọn nghười Ả - Rập dừng lại ở khoảng năm trăm mét, sự ung dung trong các cử động của chúng chứng tỏ rằng chúng đã biết rõ tình thế tuyệt vọng của các du khách. Chúng chỉ dừng lại để đếm số du khách trước khi xông lên tấn công, một phần lớn bọn chúng ngồi trên mông lạc đà mà bắn, nhưng một vài tên đã tụt xuống đất và quì xuống. Những vết trắng nhỏ, lung linh của chúng hiện rõ ràng trên những sắc vàng của hậu cảnh. Lúc thì chúng bắn lẻ tẻ, lúc thì chúng bắn hàng loạt. Quả đồi kêu gầm gừ như một bọng ong; những viên đạn văng vào núi đá với một tiếng khô khan. 

"Ông đứng phơi mình ra như vậy chẳng có ích lợi gì đâu", Belmont nói. 

Ông kéo ông đại tá vào phía sau một tảng đá lớn, gồ ghề, nơi đã có ba người lính Soudan ẩn núp. 

"Một viên đạn là điều mà chúng ta có thể hy vọng là tốt nhất", Cochrane trả lời với một nụ cười ảm đạm. "Belmont ạ, tôi thật là ngu ngốc quá chừng khi không phản đối một cách cương quyết hơn cuộc du ngoạn kỳ cục này! Tôi hoàn toàn xứng đáng với những gì xảy ra 

với tôi, nhưng khi tôi nghĩ tới những người bất hạnh kia, họ không nghi ngờ tới một chút hiểm nguy nào..." 

- Tôi giả thiết rằng chúng ta không thể hy vọng có sự giải cứu? 

- Không có một chút nào. 

- Ông có nghĩ rằng những tràng súng này có thể gợi ý cho những toán quân ở Ouadl-Halfa tới đây không? 

- Ờ, nếu chúng ta không trở về, tàu thủy sẽ báo động! 

- Và trong thời gian đó chúng ta sẽ ở đâu? 

"Norah khốn khổ của tôi! Em bé Norah khốn khổ!" Belmont nói lẩm bẩm đằng sau bộ ria mép lốm đốm bạc của ông. 

Sau một lúc yên lặng, ông hỏi: 

- Ông Cochrane này, theo ý ông thì chúng sẽ làm gì với bọn ta? 

- Chúng sẽ cắt cổ họng chúng ta, hoặc đưa chúng ta tới Khartoun để làm nô lệ. Tôi không biết trong hai cách đó thì cách nào dễ chịu hơn. Kìa dù sao thì một người trong bọn chúng ta cũng đã rũ sạch hết phiền muộn rồi ! 

Anh lính đang bắn bên cạnh họ vừa ngã ngồi phệt xuống, đầu anh ta gục xuống giữa hai đầu gối. Anh ta vừa bị một viên đạn bắn trúng giữa đầu. Anh ấy không động đậy nữa. Anh ấy không thốt ra một tiếng rên rỉ nào. Các bạn của anh cúi xuống bên trên xác của anh, rồi họ nhún vai và lại quay đầu về phía những tên Ả Rập. Belmont lượm lấy khẩu súng của người chết cũng như cái bao đạn của anh. 

"Hơn ba bì đạn. Cochrane ạ!" ông nói và để ba khúc đồng nhỏ lên lòng bàn tay. "Chúng ta đã để cho họ bắn quá sớm và bắn nhiều quá. Lẽ ra chúng ta phải đợi cho bọn thầy tu xông lên tấn công đã". 

"Ông đã nổi tiếng là xạ thủ thuợng thặng đó, Belmont ạ !" ông đại tá lẩm bẩm nói. "Ông không tin là ông sẽ có thể bắn hạ được tên chỉ huy của bọn chúng à?" 

- Tên đó là thằng nào ? 

- Tôi nghĩ nó là tên đang ngồi trên con lạc đà trắng ở bên phải. Tên đó đang nhìn về phía chúng ta, lấy hai bàn tay che lên mắt. 

Belmont nạp đạn vào súng và điều chỉnh thước ngắm. Ông nói: 

- Ánh sáng xấu quá khó mà ước định khoảng cách. Được, tôi sẽ thử ở khoảng năm trăm mét!... 

Ông bắn, nhưng không có gì nhúc nhích cả, cả con lạc đà trắng, cả người ngồi trên lưng nó. 

-... ông có trông thấy cát bay lên không ? 

- Không, tôi không trông thấy gì cả. 

- Tôi chắc rằng tôi đã bắn quá xa. 

- Hãy thử lại một lần nữa đi. 

Belmont ngắm với một sự tin chắc hoàn toàn, nhưng con lạc đà và tên chỉ huy vẫn không động đậy. Phát thứ ba chắc đã đi qua gần hơn, vì con vật nhích nhiều bước về bên phải như kiểu nó muốn di chuyển. Belmont ném khẩu súng hết đạn xuống trong khi thốt ra một tràng than chán nản. 

"Đúng là tự cái ánh sáng chết tiệt này ! " ông nói lớn, mặt đỏ bừng vì bực bội. "Cứ cho rằng tôi đã bắn uổng ba bì đạn! Ở Bisley thì chắc tôi đã bắn rơi cái khăn của nó rồi, nhưng sự phản quang chết tiệt này... Điều gì đã xảy ra với anh chàng người Pháp?". 

Ông Fardet dậm chân trên bãi cát với bộ điệu một người vừa bị ong vò vẽ đốt 

"Đồ chết toi!", ông gào lên. "Đồ chết toi!". 

Những cái răng trắng ởn của ông lóng lánh dưới bộ ria mép đen. Ông vặn xoắn một cách dữ dội bàn tay phải của ông và máu chảy dọc theo các ngón tay của ông. Một viên đạn đã làm sượt cổ tay ông. Headingly phóng mình ra khỏi nơi trú ấn mà ông đã nấp, chắc chắn là ông có ý định bắt buộc anh chàng người Pháp nằm xuống mặt đất, nhưng ông chưa đi được ba bước thì một viên đạn đã bắn vào lưng ông, ông ngã gục xuống giữa những hòn đá. Ông muốn đứng dậy, ông lảo đảo, rồi lại ngã xuống cùng một chỗ đó. Ông vùng vẫy tứ chi như một con ngựa bị gãy lưng vậy. 

"Chúng bắn trúng rồi!" ông ấp úng nói. 

Ông đại tá chạy tới cứu ông, nhưng Headingly không động đậy nữa, đôi má trắng bệch của ông tì lên những hòn đá đen xì. Một năm trước đây, khi ông đi dạo chơi dưới những cây du của trường Cambridge, không bao giờ ông nghĩ rằng cuộc đời trần thế của ông sẽ bị chặt đứt trong sa mạc Libye bởi viên đạn của một tên hồi giáo cuồng tín. 

Tiếng súng của toán hộ tống đã ngưng, những người lính đã hết đạn. Một người lính thứ hai đã bị giết, và một người thứ ba, người làm chức năng của hạ sĩ, đã bị một viên đạn vào đùi, anh ta ngồi trên một mảnh đá và băng bó vết thuơng với vẻ nghiêm trọng, chăm chú của một bà già đang cố gắng gắn lại những mảnh của một cái đĩa bị vỡ. Ba người khác cắm lưỡi lê lên nòng súng, họ quyết tâm bán mạng sống của họ càng đắt giá càng tốt. 

"Chúng nó tới!" Belmont kêu lớn, ông đang quan sát cánh đồng. 

"Được, chúng cứ tới đi!" ông đại tá trả lời trong khi cho hai bàn tay vào túi quần. "Ồ, lũ súc sinh! Lũ súc sinh chết toi!l". 

Chính số phận, những tên dắt lừa khốn khổ đã làm mất sự điềm tĩnh của người quân nhân già. Trong lúc những phát súng được bắn qua, bắn lại, lũ trẻ bụi đời nằm chất đống lên nhau, làm thành một nhóm người đáng thuơng giữa các tảng đá, dưới chân đồi. Khi chúng nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo xung kích, chúng nghĩ rằng chúng có nguy cơ trở thành những nạn nhân đầu tiên; thế là chúng nhảy tót lên lưng lừa, miệng thì gào thét vì sợ hãi, và chúng tìm cách chạy trốn qua cánh đồng. Nhưng tám hay mười kỵ binh đứng gác bên hông đã tiến lên trong lúc súng nổ. Chúng xông ngay vào lũ trẻ dắt lừa và chém chúng thành từng mảnh với một sự hung bạo lạnh lùng, một thằng nhỏ bụi đời chạy thoát khỏi bọn truy sát được một lúc, nhờ những bước chân dài của chúng, nhưng con lạc đà cuối cùng cũng bắt kịp con lừa của nó, con lừa này không còn trẻ trung nữa, và một tên Ả-Rập đã phóng ngọn giáo của y cắm sâu vào cái lưng đang cúi xuống. Những cái xác bé nhỏ mặc đồ trắng trông giống như một đàn cừu đang gặm cỏ trong bãi sa mạc. 

Nhưng các du khách đã không có thì giờ để thuơng xót cho số phận những đứa bé dắt lừa. Chính ngay cả ông đại tá, sau sự bùng nổ của cơn giận dữ, ông cũng quên ngay bọn chúng. Bọn kỵ binh của toán tiền phong đã cho những con lạc đà phi xuống tới chân đồi; ở đó chúng nhảy xuống đất, và để mặc cho những con vật quì phục xuống một cách lặng lẽ, chúng tiến bước trên con đường nhỏ dẫn tới chỗ đất bằng. Chúng có năm mươi tên nhảy nhót từ tảng đá này sang tảng đá nọ. Không một phát súng, không chậm trễ, chúng tràn ngập ba người lính da đen, giết chết một người, và dẫm lên hai người khác, rồi chúng xuất hiện trên nền đất bằng, nơi đó một cuộc chống cự bất ngờ đã chặn chúng lại một lúc. 

Đứng sát vào với nhau, các du khách đang chờ đợi bọn Ả Rập tới, mỗi người một tâm trạng khác nhau. Ông đại tá, tay đút trong túi quần, đang gắng gỏi huýt sáo miệng, mặc dù môi ông đã khô khổng. Belmont thì khoanh tay đứng tay vào một tảng đá, đầu cúi gằm, ông cau mày một vẻ bực bội, trí não con người đã được sinh ra như vậy, cho nên anh chàng người Ái Nhĩ Lan cảm thấy bối rối vì ba viên đạn đã mất và vì một tì vết vào danh tiếng xa thủ thuợng thặng hơn là vì cái số phận đang chờ đợi ông. Cecil Brown đứng thẳng người, cứng nhắc, nôn nóng kéo những cái đầu của những sợi râu mép lưa thưa. Ông Fardet vừa làu bàu vừa nhìn cái cổ tay đầy máu me của ông. Ông Stephens lắc đầu trong lúc suy nghĩ tới sự bất lực cực nhọc của ông và tiêu biểu khá đúng cho cái trật tự và luật pháp đang bị nhạo báng. 

Ông Stuart, lúc nào cũng được che kín bởi cái dù của ông, thì có một bộ mặt lầm lì và một cái nhìn chăm chú. Headingly thì nằm bất động trên tảng đá : cái mũ của ông đã rơi mất; ông có vẻ rất trẻ với mái tóc vàng hoe bù xù và những đường nét rất rõ ràng. Anh chàng thông ngôn thì ngồi trên một hòn đá và vặn xoắn hai bàn tay một cách bồn chồn, nôn nóng. Đó là tình trạng của họ mà bọn Ả Rập đã bắt gặp trên lòng đường khi chúng tràn ra. 

Và rồi trong lúc những tên xung kích đầu tiên xông tới để bắt những nạn nhân của chúng thì một sự cố hoàn toàn bất ngờ đã chặn chúng lại. Từ lúc nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo, vị mục sư to béo của Birmingham đã cho người ta ấn tượng một người toàn thân bị cứng đơ. Ông đã không nhúc nhích, ông đã không há miệng ra nhưng bất thình lình ông nhảy chồm lên với một khí lực vừa dũng mãnh, vừa oai hùng. Phải chăng ông đã bị thúc đẩy bởi ruột thứ cuồng điên nảy sinh từ sự hoảng sợ? Dòng máu của một vị tổ tiên đã đột ngột thức dậy trong các mạch máu của ông chăng? Sự thật là ông đã phát ra một tiếng kêu man dại, cướp lấy một cây gậy và bắt đầu đánh những tên Ả Rập với một sự hung hãn còn dữ tợn hơn cả sự hung hãn của chúng. Một người trong các nhân chứng của cảnh này đã khẳng định với tôi rằng trong tất cả những hình ảnh đã làm sáng rực ký ức của ông, không có hình ảnh nào được lưu lại rõ ràng hơn cái hình ảnh của con người to lớn này, mình đẫm mồ hôi và nhảy nhót với một sự mau lẹ không thể tưởng tượng được, dùng hết tay này tới tay khác đánh vào những tên Ả Rập vừa thoái lui, vừa la hét om sòm. Rồi từ phía sau một tảng đá một ngọn giáo bay từ thấp lên cao, và vị mục sư ngã quị xuống, rồi cả đàn những tên xung kích chạy ùa ra dẫm lên trên xác ông để bắt giữ các du khách. Những con dao lấp lóe sáng, nhưng bàn tay thô cục nắm lấy cổ tay họ và cổ họ, họ bị xô đẩy và đem đi một cách thô bạo trên con đường nhỏ, mà phía dưới nó những con lạc đà đang đứng đợi.  

"Quốc vương vạn tuế!" Tù trưởng vạn tuế!" anh chàng người Pháp kêu lên trong lúc vung vẩy cái bàn tay không bị trói của anh ta. 

Một nhát báng súng vào lưng bắt ông ta im lặng. 

Vào lúc này thì cái nhóm nhỏ các khách du ngoạn đang đứng dưới chân núi Abousir, nếu bọn người Ả Rập không vung vẩy những khẩu súng của chúng thì họ đã có thể tưởng rằng họ bị sa vào tay những tên man rợ của thế kỷ thứ bảy. Thật sự không có một chút gì khác biệt giữa những kẻ bắt cóc họ với những chiến binh của sa mạc là những người đầu tiên đã mang biểu tượng lưỡi liềm ra ngoài nước Ả Rập. Đông phương là bất biến. Những tên kẻ cướp thầy tu Hồi giáo vẫn không kém dũng cảm, kém hung bạo, kém cuồng tín hơn là tổ tiên của chúng. Chúng đứng thành vòng tròn, tựa lên những khẩu súng hay những ngọn giáo của chúng, và ngắm nghía những kẻ bị bắt với những cái khăn đỏ thắt nút quanh cổ và quanh đầu, đến nỗi mà những cái nhìn hung hãn của chúng nom như toé lên từ một cái khung đỏ sẫm, những đôi giày màu vàng bằng da sống, một cái áo dài trắng với những mảnh nâu và vuông ghép lại với nhau. Tất cả bọn chúng đều được vỏ trang bằng súng, một tên trong bọn chúng nó một cái tù và đeo dưới nách. Một nửa trong bọn chúng là người da đen: hai gã đàn ông đẹp trai, mình đầy bắp thịt, những chàng Hercules da đen chính cống. Những tên Ả Rập bagarras họp thành một nửa kia; người nhỏ bé, da nâu khô khan, nóng nẩy, với những con mắt hung ác và những cặp môi mỏng dính. Tên chỉ huy cũng là một tên Bagarra nhưng y to lớn hơn những đồng bào của y, và một chòm râu đen dài xuống tới ngực y; dưới cặp lông mày rậm rạp đen xì đôi mắt lạnh lùng và cương nghị của y sáng long lanh như thủy tinh trong khi y kiểm tra các tù nhân của y. Ông Stuart đã được khiêng xuống phía dưới; ông đã bị mất cái mũ, ông vẫn còn bộ mặt đỏ bừng vì giận dữ, và ở một chỗ cái quần của ông bị dính vào cẳng chân. Hai người lính Soudan còn sống sót, những y phục màu xanh đầy các vết máu, đang đứng yên, không nhúc nhích và rất chăm chú, bên cạnh cái nhóm người xơ xác này. 

Tên chỉ huy lần lượt nhìn vào mặt họ, từng người một trong khi lấy tay vuốt ve bộ râu của y. Sau đó y thốt ra mấy tiếng với một giọng khàn khàn, oai vệ, và Mansoor bước ra, lưng khom xuống và những lòng bàn tay cầu khẩn. Bao giờ cũng có một cái gì đó hài hước trong cái váy của hắn kêu xột xoạt trước ngọn gió và trong cái kiểu áo tơi không có tay che phủ hai vai của hắn; nhưng lúc này, dưới ánh nắng buổi trưa, ở giữa vòng vây của những bộ mặt hung tợn, cái bóng của hắn đã cho thêm vào cảnh trí môt phần bổ sung kỳ cục của sự kinh hoàng. Chàng thông ngôn chào đi, chào lại như một con búp bê máy trước khi đột ngột ngã lăn ra, mặt úp xuống đất, sau một câu nói ngắn ngủi của tên chỉ huy. Anh ta vùi kín trán và hai bàn tay vào trong cát. 

" Thế là nghĩa làm sao, Cochrane?" Belmont hỏi. "Tại sao hắn lại làm cho người ta chú ý như vậy nhỉ?" 

Ông đại tá trả lời: 

- Theo chỗ tôi hiểu thì tất cả đều chấm dứt với chúng ta. 

"Nhưng thật là vô lý!" anh chàng người Pháp bị hoàn toàn khích động, kêu lớn lên. "Tại sao những người kia lại làm cho tôi phải đau khổ, dù là một chút ít thôi? Tôi chưa bao giờ làm hại họ cả. Ngược lại, lúc nào tôi cũng đã là bạn của họ. Nếu tôi có thể nói chuyện với họ, tôi sẽ làm cho họ hiểu được tôi. Ê này anh thông ngôn! Mansoor!..." 

Những điệu bộ đầy nhiệt tình của ông Fardet đã lôi kéo sự chú ý của tên chỉ huy bagarra. Tên này lại phát ra một câu hỏi ngắn gọn. Mansoor quì gối dưới chân y, trả lời y. 

-... Nói với ông ấy rằng tôi là người Pháp, anh thông ngôn! nói với ông ấy rằng tôi là một người bạn của Quốc Vương, nói với ông ấy rằng các đồng bào của tôi không bao giờ có xích mích với ông ấy, mà những kẻ thù của ông ấy cũng là kẻ thù của chúng tôi! 

Mansoor nói: 

- Ông chỉ huy hỏi ông theo tôn giáo nào. Ông ấy nói Quốc vương không cần chút nào tới tình bạn của những kẻ ngoại đạo và những kẻ vô tín ngưỡng. 

- Hãy giải thích cho ông ấy rằng ở Pháp chúng tôi coi tất cả các tôn giáo đều tốt cả. 

- Ông chỉ huy nói rằng chỉ có con chó báng bổ tôn giáo và đứa con trai của một con chó mới khẳng định rằng tất cả mọi tôn giáo cũng đều tốt như nhau. Ông ấy nói rằng nếu ông đích thực là bạn của Quốc Vương, thì ông sẽ tiếp nhận kinh Coran và sẽ trở thành ngay tại nơi đây một tín đồ chân chính. Trong trường hợp đó, ông ấy sẽ gởi ông về Khartoum bình an vô sự. 

- Nếu không thì sao? 

- Nếu không thì ông sẽ chiu chung số phận với những người khác. 

- Vậy thì hãy trình lên ông chỉ huy những lời chúc tụng của tôi và nói với ông ấy rằng người Pháp không có thói tục thay đổi tôn giáo dưới sự cưỡng ép. 

Viên chỉ huy nói ra một vài tiếng, rồi quay lại bàn bạc với một tên Ả Rập thấp lùn đứng bên cạnh y. 

"Ông ấy nói, thưa ông Fardet" anh chàng thông ngôn nói tiếp, "nếu ông còn nói nữa thì ông ấy sẽ làm ông biến thành một miếng thịt băm để cho chó ăn. Xin ông đừng nói gì thêm làm cho ông ấy nổi giận, vì ông ấy đang quyết định số phận của chúng ta". 

"Hắn là ai vậy?" ông đại tá hỏi. 

- Ali Vabrahim. Chính là người năm ngoái đã mở cuộc hành quân vào làng của người Nubie và là người đã tàn sát tất cả dân làng ở đó. 

"Tôi đã nghe nói tới hắn ta", ông đại tá nói. Hắn ta đã nổi danh là một trong những tên trùm thầy tu Hồi giáo gan dạ nhất và cuồng tín nhất. Cảm ơn Thượng đế là các phụ nữ đã không lọt vào tay chúng!" 

Hai tên Ả Rập trao đổi vài câu với sự dè dặt khắc khổ làm người ta kinh ngạc trong một chủng tộc ở miền Nam, chúng quay lại phía anh thông ngôn vẫn còn quì gối trên bãi cát. Chúng đưa ra nhiều câu hỏi linh tinh về các tù nhân trong khi chỉ chỏ hết người này tới người nọ. Chúng lại bàn bạc với nhau một lần nữa, và sau cùng thì chúng nói với Mansoor một vài tiếng, cùng lúc kèm theo một cử chỉ khinh mạn bằng bàn tay để biểu thị rằng y có thể dịch những câu này cho các du khách. 

"Thưa Quí vị, ta hãy tạ ơn trời, vì tôi tin rằng chúng ta được thoát nạn trong lúc này!" Mansoor nói thì thào trong khi chùi cái trán lem luốc cát của y. "Ali Wad lbrahim nói rằng một kẻ vô tín ngưỡng chỉ đáng lãnh một nhát kiếm của người con trai của đấng tiên tri, nhưng đấng bề trên Omdurman cho rằng có số vàng mà gia đình các quí vị trả cho các quí vị thì tốt hơn. Cho tới khi nộp khoản tiền chuộc đó, quí vị sẽ có thể làm việc như những người nô lệ của Quốc Vương trừ khi ngài quyết định bắt quí vị phải chết. Quí vị sẽ leo lên lưng lạc đà và quí vị sẽ cùng đi với đoàn quân. 

Chờ tới khi chấm dứt việc thông dịch, tên chỉ huy ra một cái lệnh ngắn gọn, một tên da đen bước một bước về phía trước và giơ cao lên một thanh gươm mũi cong, dài. Anh chàng thông ngôn co dúm người lại như một con thỏ khi trông thấy một con chồn đen và y lại phủ phục xuống trên bãi cát. 

"Việc gì xảy ra vậy, Cochrane?" Cecil Brown hỏi. Quả thực viên đại tá đã từng phục vụ ở Đông Phương và ông là người duy nhất trong bọn du khách đã có một vài hiểu biết về tiếng Ả Rập. 

- Theo chỗ mà tôi hiểu được thì hắn ta nói giữ lại mạng sống của anh thông ngôn thật là vô ích, vì không có ai quan tâm tới chuyện trả tiền chuộc cho anh ta, và anh ta lại quá mập để làm một tên nô lệ tốt. 

"Rõ tội nghiệp!" Brown kêu lên "Này, Cochrane, hãy nói với bọn chúng tha mạng cho anh ta. Chúng ta sẽ không để cho anh ấy bị sát hại trước mắt chúng ta chứ? Báo cho chúng biết là chúng ta sẽ gom góp tiền bạc trong chúng ta. Tôi đồng ý với bất cứ một số tiền phải chăng nào". 

"Tôi cũng tham gia cho tới giới hạn các khả năng của tôi". Belmont la lớn. 

"Chúng ta sẽ ký một tờ bảo chứng", ông luật sư nói. "Nếu tôi có được một tờ giấy và một cái bút chì, tôi sẽ thảo văn bản trong một lát, và tên chỉ huy này sẽ có thể tin vào hiệu lực của nó". 

Nhưng tiếng Ả Rập của ông đại tá còn kém quá và chính Mansoor thì lại quá hoảng sợ không còn hiểu được cái đề nghị mà anh ta là đối tượng. Tên da đen nhìn lão chỉ huy để hỏi ý kiến, rồi cái tay dài thòng, đen đúa của y dãn ra. Nhưng anh chàng thông ngôn gào lên một câu làm nhát chém ngừng lại, tên chỉ huy và gã phụ tá bước tới gần hắn. Những tên khác làm thành một vòng tròn chung quanh con người đang phủ phục van xin lòng thương. 

Ông đại tá không hiểu nguyên do của sự thay đổi đột ngột này, nhưng một bản năng đã cảnh báo Stephens làm ông tái mét đi vì hoảng sợ. 

"Ôi đồ khốn kiếp! " ông la lớn mặt tái nhợt đi. "Câm miệng mi lại, đồ khốn nạn! Im miệng đi! thà rằng chết... Phải, chết một ngàn lần!" 

Đã quá trễ rồi. Những du khách đã đoán ra với phương sách đê tiện nào tên hèn nhát hy vọng cứu vãn mạng sống của hắn; hắn sẽ tiết lộ những người đàn bà. Họ nhìn tên chỉ huy, mà nét mặt để lộ ra sự khinh bỉ của một con người dũng cảm, ra một dấu hiệu cao ngạo 

tỏ sư ưng thuận; rồi Mansoor nói một cách vội vã trong lúc chỉ lên đỉnh núi! Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, hơn mười tên chiến binh leo lên con đường nhỏ và trở lại chỗ nền phẳng; tới đó các du khách không còn nhìn thấy chúng nữa, họ nghe thấy một tiếng kêu sắc nhọn, một tiếng gào thét kéo dài của sự kinh ngạc và khủng khiếp. Một vài lát sau bọn man rợ tái hiện, chúng đi vây quanh hai người đàn bà. Sadle là người có đôi chân nhanh nhẹ nên đi xuống sườn đồi cùng với những tên đi đầu và cổ vũ người cô bằng cách quay đầu nhìn lại phía bà ấy! Người con gái già vùng vẫy chống cự giữa bọn chiến binh mặc đồ trắng, nàng có dáng điệu một con gà nhép bị lôi ra khỏi ổ. 

Cặp mắt đen của tên chỉ huy, thản nhiên trước cảnh tượng của cô Adams, nhưng lại bốc lửa lên khi y nhìn thấy cô thiếu nữ. Theo lệnh của y, các tù nhân được dẫn tới chỗ những con lạc đà đang quì gối. Họ đã bị lục soát, các vật dụng trong túi họ được ném vào một cái bao mà Aail Wad Ibrahim đã tự tay mình lấy dây buộc lại. 

"Này Cochrane" Belmont thì thầm nói. "chúng đã không phát hiện được khẩu súng lục nhỏ mà lúc nào tôi cũng mang trong người. Nếu tôi bắn hạ tên không ngôn khốn kiếp kia về tội đã tố cáo các phụ nữ có được không?" 

Ông đại tá lắc đầu. 

"Tốt nhất là ông hãy giữ nó đấy". Ông trả lời với một giọng ảm đạm "Các phụ nữ sẽ có thể rất cần tới nó trước khi kết thúc mọi chuyện này!".

Chương 5

Những con lạc đà lông trắng hay màu hạt dẻ đang quì gối thành một hàng; những quai hàm của chúng luôn động đậy để nhai một cách nhịp nhàng và những cái đầu diễm lệ của chúng quay về bên phải hay bên trái với một bộ điệu õng ẹo. Đó là đặc điểm của phần lớn những con vật cao quí, là những con vật chính cống để chạy ở nước Ả Rập, chúng có những cái chân mảnh dẻ và cái cổ nhỏ là những thứ chứng thực cho chủng loại của chúng. Nhưng chúng cũng được kèm theo một vài con vật chậm chạp hơn, năng nề hơn, được nuôi nấng tồi tệ và trên da những con vật này ta còn nhìn thấy những vết sẹo đen của những trận đánh nhau từ trước. Lúc đi thì chúng chuyên chở lương thực và những túi da đựng nước uống của bọn kẻ cướp, được trút bỏ các vật nặng trên mình, các vật này được san sẻ ngay cho những con lạc đà khỏe mạnh, chúng lặng lẽ tiếp nhận những tù nhân. Chỉ có một mình ông Stuart là bị trói tay thôi : bọn người Ả Rập đã biết rằng đó là một giáo sĩ và vốn có thói quen liên kết tôn giáo với bạo lực, chúng thấy cơn nóng giận của ông là hoàn toàn bình thuờng thôi, tuy nhiên chúng đã coi ông như một kẻ nguy hiểm nhất và liều lĩnh nhất trong toán tù nhân của chúng. Ngược lại, những người khác không phải là đối tượng của một biện pháp phòng ngừa nào, hơn nữa sự chậm chạp của những con vật họ cưỡi sẽ ngăn cản mọi hy vọng đào thoát của họ. Trước những lời quát tháo của bọn Ả Rập, những con lạc đà đứng lên và đám rước dài chuyển động, quay lưng về phía con sông hiền hậu, đám rước hướng về phía đám sương mù tím lóng lánh bao quanh bãi sa mạc vừa rùng rợn vừa xinh đẹp, với màu sắc sặc sỡ như một tấm da cọp có màu đen và vàng ửng. 

Đại tá Cochrane là người duy nhất trong đám du khách đã từng nếm mùi di chuyển trên lưng lạc đà. Những người bạn đường của ông thấy mình bị nhấc bổng lên khá cao bên trên mặt đất, với sự lắc lư quái dị của con vật, cộng với sự thiếu vững vàng của cái yên làm họ nôn mửa, và sợ hãi. Nhưng sự khó chịu về thể xác này không thấm thía gì so với cơn lốc trong đầu óc họ, một cái vực thẳm vừa được đào ra giữa quá khứ và hiện tại của họ. Được đào ra một cách mau lẹ quá, bất ngờ quá! Trước đây chưa đầy một giờ họ còn ở trên đỉnh núi Abousir cười nói huyên thuyên hay càu nhàu với sự nóng bức hay lũ ruồi. Headingly đã công kích dữ dội những màu sắc thái quá của tạo hóa, làm sao mà có khi nào họ sẽ quên được sự tái nhợt của đôi má của ông ấy khi ông ấy bị đánh chết nằm bất động trên núi đá đen xì? Sadic đã thuyết giảng về những chiếc áo dài và những quần áo, lúc này thì nàng đang bám chặt lấy cái núm của cái yên bằng gỗ, gần như phát điên cuồng, với tất cả hy vọng chỉ còn là ngôi sao đỏ của sự tự sát đang mọc lên trong bộ não non trẻ của nàng. Về lòng nhân đạo, về sự hợp lý, về cách lập luận, những điểm đó không còn là vấn đề nữa: chỉ có sự hạ nhục phũ phàng của bạo lực là còn lại. Trong lúc này tàu thủy của họ đang đậu phía sau mỏm đá thứ nhì, đang đợi họ ở nơi đó, tàu thủy của họ, những căn phòng của họ, quần áo tinh khiết, những cái cốc óng ánh, quyển tiểu thuyết sau cùng hợp thời trang, những tờ báo ở Luân Đôn. Họ không cần phải có một cố gắng lớn lao về trí tưởng tượng để hình dung ra cái lều vải trắng, bà Shlesinger dưới cái mũ màu vàng của bà ấy, và bà Belmont nằm duỗl dài trên cái ghế dài! Phải, nó gần như hiện ra trong tầm mắt của họ, cái mảnh nhỏ bé đang nổi bập bềnh này của tổ quốc họ, và cứ mỗi bước chân không đều đặn, lặng lẽ là những con lạc đà lại làm cho họ cách xa con tàu một cách tuyệt vọng. Ngay cả buổi sáng hôm ấy, hình như đấng tối cao đã tỏ ra tốt bụng với họ! Và đời sống thoải mái biết bao! Có thể là hơi nhàm một chút, nhưng rất thư thái, rất an nhàn, còn bây giờ thì... 

Cái khăn đỏ, những cái áo với nhiều mảnh chắp nối, những đôi giày vàng đã báo cho ông đại tá biết rằng những người này không hợp thành một bọn cướp của dân du mục, mà chúng thuộc về đạo quân chính qui của Quốc Vương. Càng đi vào sâu trong sa mạc, chúng càng tỏ ra là chúng có một kỷ luật thô bạo cần thiết cho nhiệm vụ của chúng. Cách môt ngàn năm trăm mét về phía trước và ở mỗi bên sườn, những tên xích hầu của chúng lặn vào và lại hiện ra ở giữa những cồn cát vàng. Ail Wad lbrahim dẫn đầu đoàn người, viên phụ tá của hắn chỉ huy toán hậu vệ. Đám rước kéo dài trên hai trăm mét, với nhóm nhỏ những tù nhân ở quãng giữa. Vì bọn Ả Rập không tìm cách cách li họ với nhau, ông Stephens đã có thể lướt con lạc đà của ông vào giữa những con lạc đà của hai cô gái. 

"Chớ nản lòng, cô Adams ạ!" ông nói. "Rõ ràng đây là một sự lăng nhục không thể tha thứ được, nhưng không nghi ngờ gì là sẽ có những biện pháp thích ứng để dàn xếp công việc. Tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ không phải chịu đựng một thứ gì trầm trọng hơn là một vài sự bực bội tạm thời. Nếu không có tên đạo tặc Mansoor, thì không ai phát hiện ra các cô!". 

Chỉ trong thời gian một giờ đồng hồ cô gái già ở thành phố Boston đã thay đổi một cách đáng thương: cô đã trở thành một bà lão rất già. Cặp má nâu của cô hõm xuống, cặp mắt cô long lanh một cách dữ tợn và không ngừng nhìn vào Sadie với sự lo sợ, những tai hoạ thường thường gây ra các kỳ tích của sự bất tư kỷ: tất cả những con người này đang đi tới số mạng của họ, đều đã vứt bỏ tất cả sự phù phiếm, tất cả lòng vị kỷ, mỗi người chỉ nghĩ tới người khác. Sadie thì nghĩ tới bà cô của nàng, bà này lại nghĩ tới Sadie. Bọn đàn ông nghĩ tới những phụ nữ, Belmont nghĩ tới bà Belmont, nhưng ông cũng nghĩ tới việc khác nữa, vì ông đã dẫn con lạc đà của ông tới độ cao bằng con lạc đà của cô Adams. 

"Tôi có một điều muốn nói với cô" , ông thầm thì nói. "Chúng ta có nguy cơ là sắp phải xa nhau, do đó ta nên thực hiện những sự xếp đặt mà không để mất thì giờ". 

"Xa nhau!" cô Adams rên rỉ. 

- Nói nhỏ chứ, vì cái thằng quỉ Mansoor kia có thể phản bội chúng ta một lần nữa. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không phải xa nhau, nhưng đó là một việc có thể xảy ra. Chúng ta phải chuẩn bị cho sự tệ hại nhất. Thí dụ chúng sẽ có thể quyết định trừ khử những đàn ông và giữ các cô lại. 

Cô Adams rùng mình: 

- Tôi phải làm gì? Cầu xin Thuợng đế, ông hãy nói cho tôi biết là tôi phải làm gì, ông Belmont! Tôi là một phụ nữ già, tôi đã sống. Nếu chỉ có một mình tôi bị liên luỵ tôi sẽ có thể chịu đựng tất cả. Nhưng còn Sadie! Tôi đã hoàn toàn phát điên lên khi tôi nghĩ tới nó, mẹ nó đang chờ nó ở nhà, và tôi thì... 

Cô chắp hai bàn tay nhỏ nhắn, gầy gò vào nhau trong một sự lo âu không thể diễn tả được. 

"Hãy luồn một tay vào trong áo choàng của cô", Belmont nói trong khi cho con lạc đà của ông đứng sát vào con lạc đà của cô gái già người Mỹ. "Chớ để nó rơi mất. Đó! Bây giờ hãy giấu nó bên trong áo dài của cô. Cô sê luôn luôn có một cái chìa khóa để mở cho cô bất kỳ một cái cửa nào". 

Cô Adams sờ vào cái vật mà ông ta mới đưa cho cô và thoạt đầu cô nhìn ông với sự kinh hoàng. Rồi cô cắn môi và lắc cái đầu khắc khổ của cô với sự bất đồng ý. Cuối cùng thì cô nhét khẩu súng nhỏ dưới áo dài của cô, và cô tiếp tục tiến lên, tâm hồn trong một cơn bão tố. Có phải đúng là cô ấy không, cô Eliza Adams ở Boston, người đã sống một cuộc đời chật hẹp nhưng sung sướng giữa căn nhà êm ấm của cô ở Đại lộ Commonwealth và giáo đường trưởng lão phái ở Tremont không? Kia kìa, cô đang ngồi chót vót trên một con lạc đà, bàn tay úp chặt trên một cái báng súng lục, và đang cân nhắc trong đầu sự biện minh cho một vụ sát nhân. Hỡi ôi cõi đời, cõi đời phản phúc, làm thế nào để đặt lòng tin vào mi? Khi mi phô bày những bộ mặt tồi tệ của mi với chúng ta thì chúng ta có thể đối phó được, nhưng khi mà mi làm ra bộ dịu dàng nhất và trơn tru nhất là khi mà chúng ta phải e sợ mi nhiều hơn. 

"Cô Sadie ạ, cùng lắm thì chỉ là vấn đề tiền chuộc thôi", Stephens nói trong khi diễn tả sự trái ngược với điều mà ông đang thật sự suy nghĩ. Ngoài ra chúng ta vẫn còn ở rất gần Ai Cập và ở xa xứ sở bọn thầy tu Hồi giáo. Cô có thể tin chắc rằng sự truy lùng sẽ được thực hiện một cách ráo riết. Điều cần thiết là cô phải cố sức đừng để mất lòng can đảm, và phải hy vọng rằng mọi sự rồi sẽ qua đi một cách tốt đẹp". 

"Không, ông Stephens ạ, tôi không sợ!" Sadie trả lời trong lúc quay về phía ông một bộ mặt trắng bệch, sự kiện này đã phủ nhận những lời nói của cô. "Chúng ta đang nằm trong tay Thuợng đế, và chắc chắn là Ngài sẽ không độc ác với chúng ta. Khi các sự việc diễn tiến tốt đẹp thì người ta dễ dàng nói chắc rằng người ta tin tưởng ở Ngài, nhưng bây giờ sự thử thách có tính chất quyết định đang tới gần, nếu Ngài có ở trần cao kia, đằng sau khoảng trời xanh... 

"Ngài ở trên cao kia!" một tiếng nói ở phía sau họ đáp lời. Đó là vị mục sư ở Birmingham, người vừa theo kịp nhóm họ. Hai bàn tay bị trói của ông bám chặt lấy cái yên và ông lắc qua, lắc lại cái thân hình béo xị ở mỗi bước đi của con lạc đà, máu chảy nhỏ giọt ở cẳng chân bị thương của ông, và những con ruồi bám chặt vào đó, ánh nắng thiêu đốt của sa mạc giội lên đầu ông vì trong lúc đánh lộn ông đã đánh mất cái mũ và cái dù của ông. Sự khởi dầu của cơn sốt nóng lạnh đã làm hơi ửng hồng cặp má đồ sộ xanh mét của ông, mắt ông long lanh, với các bạn đồng hành của ông thì bao giờ ông cũng có vẻ với tầm thuờng. Lúc này thì ông đã biến đổi, ông đã trở thành thanh khiết, linh diệu và hăng say. Ông đã trở thành dũng mãnh một cách quá kỳ lạ khiến cho chỉ cần nhìn vào ông mà những người khác cũng cảm thấy dũng mãnh hơn lên. Ông nói về sự sống và sự chết, về hiện tại và về những hy vọng về tương lai của họ, đám mây đen của sự khốn khổ của họ đã bắt đầu thủng rách và để một tia ánh sáng lọt qua. Cecil Brown nhún vai, vì không phải chỉ trong một giờ đồng hồ mà ông thay đối được các tín niệm của cả đời ông, nhưng số người còn lại của cái nhóm nhỏ này, kể cả Fardet, đều cảm thấy động tâm và tăng thêm nghị lực. Mọi người đều bỏ mũ ra khi ông cầu nguyện. Ông đại tá lấy khăn quàng cổ bằng lụa đỏ của mình làm ra môt cái khăn đội đầu và nài nỉ ông Stuart hãy quấn nó lên đầu. Với bộ y phục tăng lữ và cái khăn sặc sỡ này, trông ông giống như một người nghiêm nghị mà lại hóa trang để đùa với lũ trẻ con. 

Rồi sự hành hạ bất khả kháng của sự khát nước tới góp thêm vào với những cơn nôn mửa do bước đi của những con lạc đà gây ra, nắng như thiêu đốt; ánh nắng phản chiếu trên bãi cát vàng; cánh đồng rộng lớn sáng long lanh đến độ mà họ có cảm tưởng là cỡi ngựa đi 

trên một lớp kim loại đang bị nung chảy thành chất lỏng. Môi họ khô queo như bị nóng cháy, và lưỡi họ thì như là một tiếng da khô. Khi họ nói chuyện với nhau, họ nói một cách cứng đơ kỳ quặc vì họ chỉ phát âm được các nguyên âm là không cần cố gắng thôi. Cô Adams 

cúi đầu xuống, cái mũ lớn đã che khuất bộ mặt của cô. 

Sadie nói: 

- Cô tôi sẽ ngất xỉu nếu người ta không cho cô ấy uống nước. Ông Stephens ơi, chúng ta không thể làm được một việc gì cả à? 

Bọn thầy tu Hồi giáo đang ở gần đó đều là bọn bagarras, ngoại trừ một tên da đen mà bộ mặt còn mang dấu vết của một bệnh đậu mùa mới lành. Hắn có vẻ ít hung ác hơn lũ bạn người Ả Rập của hắn, do đó Stephens đã đánh liều chạm vào khuỷu tay hắn và lần lượt chỉ cho hắn cái túi da đựng nước và cô gái già. Tên da đen lắc đầu một cách không đồng ý, nhưng hắn ném một cái nhìn đầy ý nghĩa vào những tên Ả Rập như thể muốn nói rằng nếu không có chúng ở đó thì hắn sẽ xử sự một cách khác. Rồi hắn đặt ngón tay trỏ đen đúa của hẳn lên ngực hắn. 

"Tippy Tilly" hắn nói. 

"Là cái gì?" đại tá Cochrane hỏi. 

"Tippy Tilly" , tên da đen nhắc lại, hạ thấp giọng như thể hắn không muốn để cho lũ bạn của hắn nghe thấy. 

Ông đại tá lắc đầu. 

"Rõ ràng là tiếng Ả Rập của tôi quá tệ. Tôi không hiểu hắn muốn nói gì", ông càu nhàu. 

"Tippy Tilly. Hicks Pacha", tên da đen nhắc lại. 

"Tôi nghĩ rằng hắn không muốn làm hại chúng ta, nhưng tôi không hiểu một tiếng nào trong ngôn ngữ của hắn", ông đại tá nói với Belmont. "Ông không nghĩ rằng hắn muốn nói tên hắn là Tippy Tilly và hắn đã giết chết Hicks Pacha chứ?" 

Tên da đen nhe những cái răng lớn, trắng ởn ra khi hắn nghe thấy nhắc lại những từ mà hắn đã dùng. 

Hắn nói: 

- Aiwa, Tippy Tilly, Bimbashi Mormer... Boum! 

"Đúng rồi! tôi hiểu rồi" Belmont nói lớn. Hắn cố sức nói tiếng Anh Tippy Tilly, đó là gần như tiếng pháo binh Ai Cập. Hắn đã phục vụ trong pháo binh Ai Cập dưới quyền Bimbashi Mortimer. Hắn đã bị bắt làm tù binh khi Hicks Pacha bị tiêu diệt và hắn đã trở thành thầy tu Hồi giáo để giữ lấy mạng sống của hắn. Hãy hỏi hắn xem tôi có lầm không!". 

Ông đại tá nói vài tiếng và nhận được một câu trả lời nhưng hai tên Ả Rập tiến lại gần, tên da đen im tiếng và thúc lạc đà bước nhanh. 

"Ông nói đúng", ông đại tá nói. "Tên da den này không muốn làm hại chúng ta một chút nào, và hắn thích chiến đấu cho Phó Vương Ai Cập hơn là cho Quốc Vương. Tôi không biết là bằng cách nào hắn sẽ có thể giúp đỡ chúng ta, nhưng tôi đã từng ở trong những tình thế tệ hại hơn trong hợp này, tuy nhiên tôi vẫn thoát nạn được. Tóm lại, không phải là chúng ta đã ở ngoài tầm tấn kích, và những người truy kích còn có thể bắt kịp chúng ta trong bốn mươi tám giờ nữa ". 

Belmont làm những con toán với sự chính xác thường lệ của ông. 

"Khi chúng ta ở trên núi thì vào khoảng gần trưa", ông nói. "Ở trên tàu người ta bắt đầu lo lắng khi thấy chúng ta không trở về vào lúc hai giờ" 

"Đúng", ông đại tá ngắt lời. "Chúng ta phải ăn điểm tâm lúc hai giờ. Tôi nhớ rằng tôi đã nói là khi trở về tôi sẽ uống rượu... Ồ, lạy Chúa, tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó nữa!". 

"Viên thiếu tá là một ông già nhu nhược", Belmont nói tiếp. "Nhưng tôi có lòng tin tuyệt đối vào sự mẫn nhuệ và tinh thần cương quyết của vợ tôi. Bà ấy sẽ đòi phải ban hành lệnh báo động. Giả thiết là họ đã lên đường lúc hai giờ rưỡi, thì họ sẽ tới Ouadi-Halfa lúc ba giờ, vì họ di theo dòng nước. Phải mất bao nhiêu thì giờ để cho đoàn quân cỡi lạc đà rục rịch di chuyển?". 

- Ta hãy tính là một giờ đi. 

- Thêm vào một giờ để chúng qua sông. Chúng sẽ tới núi Abousir vào lúc sáu giờ, và chúng sẽ thấy đường đi ngay tức thì. Vào lúc đó là sự truy lùng sẽ bắt đầu. Chúng ta chỉ đi trước có bốn giờ, và trong những con lạc đà này một vài con đã mệt lử. Chúng ta còn có thể 

được giải thoát, Cochrane ạ ! 

- Phải, có thể một vài người trong bọn chúng ta. Nhưng tôi không nghĩ rằng ông mục sư còn sống đuợc tới sáng mai, cả cô Adams nữa. Không phải họ được sinh ra cho cái loại phiêu lưu, mạo hiểm này. Hơn nữa, chớ quên rằng bọn người này thường có thói ám sát các tù 

nhân khi những người này tìm cách trốn khỏi tay chúng. Belmont này, trong trường hợp mà ông thoát hiểm, chớ không phải là tôi, tôi có một vấn đề để áp mà tôi sẽ nhờ ông thanh toán thay tôi. 

Họ tiến lại gần nhau để nói rõ hơn về các chi tiết của công việc. 

Tên da đen tự đặt tên mình là Tippy Tilly đã tìm cách lén đưa một mảnh vải ướt sũng nước vào tay ông Stephens và cô Adams có thể làm ướt cặp môi. Một vài giọt nước này đã ban cho cô một sức mạnh mới, một khi qua khỏi sự chấn động đầu tiên, cái bản chất hăng hái, dẻo dai của cô lại y nguyên như trước. 

"Ông Stephens này, những người này không có vẻ muốn làm hại chúng ta", cô nhận xét. "Họ phải có một tôn giáo giống hệt như chúng ta; chắc chắn là họ cũng thấy là xấu những gì mà chúng ta coi là xấu...". 

Stephens lắc đầu không trả lời. Ông đã chứng kiến sự tàn sát những tên dắt lừa, việc mà cô gái già người Mỹ không nhìn thấy. 

"... có lẽ" cô nói tiếp, "chúng ta được cử tới chỗ họ để dẫn dắt họ theo một con đường tốt hơn. Có lẽ chúng ta được cử ra để hoàn thành một công trình tốt đẹp trong nước họ". 

Nếu cô cháu gái không có mặt tại đó thì cái tính tình dũng cảm, táo bạo của cô đã tìm được sự ủy lạo trong cái khả năng thực hiện một cuộc truyền giảng phúc âm rực rỡ ở Khartoum, hay sự biến đổi Omdurman thành cái mẫu nhỏ của một thành phố ở Nouvelle-Angleterru với những đại lộ rộng lớn. 

"Cô có biết cháu đang không ngừng nghĩ tới một điều gì không?" Sadie hỏi. "Cô có nhớ tới ngôi đền mà chúng ta đã xem vào lúc nào nhỉ? Phải rồi, đó là vào sáng hôm nay!" 

Cả ba người đều thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc. Phải, họ đã xem ngôi đền đó ngay buổi sáng hôm nay, vậy mà ký ức hình như xuất hiện từ một quá khứ xa xôi, mờ mịt, biến cố xảy ra trong đời họ càng đột ngột và sâu đậm, thì những ý nghĩ của họ càng đi theo một chiều huớng khác biệt. Họ ngồi trên lưng lạc đà di chuyển trong sự yên lặng, cho tới lúc Stephens nhắc nhở Sadie là nàng chưa nói hết câu nói của nàng. 

- À phải! Tôi muốn nói về những hình chạm nổi ở ngôi đền. Ông có nhớ đoàn tù nhân khốn khổ bị kéo lê dưới chân vị Đại Vương không? Và hình như họ bị hạ sát giữa bọn chiến binh dẫn giải họ thì phải? Ai có thể nghĩ rằng chưa đầy ba giờ nữa chúng ta sẽ gặp cùng một 

số phận như vậy! và ông Headingly ... 

Nàng lấy tay che mặt và khóc òa. 

"Sadie, cháu đừng buồn tủi như thế!" người cô thì thào nói. "Cháu có nhớ những điều mà ông mục sư đã nói không, tất cả chúng ta đều nằm trong lòng bàn tay của thượng đế. Ông Stephens, ông nghĩ rằng chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu?" 

Cái mép đỏ của cuốn sách chỉ nam còn thò ra trên cái túi của ông luật sư, vì bọn người dã man đã không cho nó là đáng quan tâm. Ông vuốt ve nó bằng một cái nhìn. 

- Nếu chúng để tôi giữ nó cho tới chặng dừng chân sau tôi sẽ chỉ cho cô xem vài trang. Trong khi chờ đợi tôi có một kiến thức tổng quát về nước này, vì hôm kia tôi đã vẽ một bản đồ nhỏ. Sông Nil chảy từ Nam tới Bắc. Vậy là chúng ta phải đi thẳng tới phía Tây. Tôi cho là khi đi dọc theo quá gần bờ sông chúng sợ bị truy kích. Tôi nhớ là có một con đường cho các đoàn xe, con đường này chạy song hành với sông Nil, vào khoảng một trăm cây số ở bên trong đất liền. Nếu chúng ta tiếp tục đi theo huớng này trong một ngày nữa thì chúng ta sẽ gặp con đường đó. Nếu tôi không lầm thì nó chảy ngang qua một dãy giếng nước khởi đầu từ Asslout, về phía Ai Cập, để chảy tới mạn bên kia trong lãnh thổ của bọn thầy tu Hồi giáo, cũng có thể...  

Ông bị cắt ngang bởi một giọng nói sắc nhọn bất thần tuôn ra một tràng những từ ngữ không có mạch lac, mà cùng chẳng có ý nghĩa. Hai má của ông Stuart trở nên đỏ hồng, cặp mắt thất thần của ông sáng rực và vừa di chuyển trên lưng lạc đà, ông vừa nói những lời lảm nhảm không ai hiểu được. Đấng tạo hóa từ mẫu! Ngài không để cho lũ con của ngài phải chịu đựng quá nhiều sự hành hạ. "Thế là đủ rồi! ngài nói. Cái chân bị thuơng này, những cái vảy trên môi này, sự kinh sợ này, sự chán chường này... Này, hãy thoát ra một chốc lát, cho tới khi thể xác người lại trở thành nơi cư ngụ được!" Và ngài dẫn dắt linh hồn vào cảnh Nát bàn của sự nhiệt cuồng, trong lúc các tế bào chỉnh trang vá víu bên trong ngõ hầu mọi thứ được ở tình trạng hoàn hảo hơn để đón linh hồn trở về. Khi bạn nhìn thấy tấm màn của sự hung ác mà tạo hóa dựng lên, thì bạn hãy cố gắng kéo nó lên, khi đó bạn sẽ kinh ngạc phát hiện ra một bộ mặt khả ái và rất từ bi. 

Bọn Ả Rập quan sát cơn đột biến bất ngờ của ông mục sư với vẻ hoài nghi, thật ra nó đi gần tới chỗ điên cuồng mà đối với họ bệnh điên là một điều siêu nhiên và đáng sợ. Một tên trong bọn chúng tách khỏi hàng để đi nhận lệnh của tù trưởng. Khi hắn trở lại, hắn nói với những tên bạn của hắn, rồi hai tên Ả Rập đi vây quanh gần con lạc đà của ông mục sư để giữ cho ông này khỏi ngã. Anh chàng da đen tốt bụng lướt tới bên ông đại tá và nói thì thầm vào tai ông hai hoặc ba câu. 

"Belmont này, chúng ta sắp dừng chân đó" , Cochrane loan báo. 

- Cám ơn Thượng đế! Chúng sẽ cho bọn ta uống nước. Chúng ta không thể tiếp tục như thế này! 

Tôi đã nói với Tippy Tilly là nếu y giúp đỡ chúng ta, chúng ta sẽ cho y làm bimbashi khi chúng ta đưa y trở lại Ai Cập. Tôi nghĩ là y không đòi hỏi gì hơn đâu, mà y cũng sẽ phải có quyền hành chứ. Này Belmont, hãy quay đầu lại và nhìn con sông kìa! 

Cho tới lúc này con đường của họ đã đi qua một khoảng bãi cát có rải rác những núi đá với các sông núi đen xì và lởm chởm; bây giờ thì nó chạy tới một cánh đồng khô cằn, chia thành nhiều thung lũng, phủ đầy những đá cuội tròn vo, những đợt sóng trập trùng lên xuống của địa hình kéo dài tới những ngọn đồi tím ngắt tận chân trời; chúng đều đặn quá, dài quá, nâu quân, khiến ta có thể tưởng chúng là những đợt sóng tối om của một cơn sóng khổng lồ đã bị đông đặc lại. Thỉnh thoảng một túm cỏ xanh nhỏ bé của lạc đà mọc lên giữa những tảng đá. Phía trước các tù nhân, không còn gì khác ngoài cái cánh đồng màu nâu và những ngọn đồi màu tím này. Đằng sau họ, trước hết là những núi đá lởm chởm đen xì mà họ vừa đi qua với những thung lung cát vàng ối, nhưng xa hơn, xa hơn rất nhiều, một đường màu xanh nhỏ nhắn chỉ rõ dòng sông Nil. Bên cạnh sự đơn điệu hoang dã này, đối với họ màu xanh lục ấy có vẻ tươi mát và kỳ diệu biết bao! Họ cũng nhận ra ngọn núi cao Abousir, ngọn núi mắc dịch đã gây ra sự tổn thất của họ. Ở đằng xa kia, con sông vạch ra những khúc quanh co óng ánh của nó. Ôi, cái thứ chất lỏng long lanh này. Ôi, những bản năng thô cục, sơ khai đã trỗi dậy ngay trong tâm hồn họ! Họ đã đánh mất gia đình, đánh mất tổ quốc, đánh mất tự do, nhưng họ đã quên tất cả để chỉ còn nghĩ tới thứ nước này. Trong cơn mê sảng, ông Stuart kêu lớn đòi những quả cam, nghe tiếng ông kêu thật là rùng rợn. Chỉ có một mình anh chàng thô lỗ người Ái Nhĩ Lan là vượt được lên trên con thú vật: cái đoạn sông mà ông đang ngắm chắc phải ở gần Ouadi-Halfa và chắc chắn là vợ ông đang ở chỗ đó. Ông kéo chụp mũ xuống bên trên mắt và miệng nhằn sợi râu mép đã bạc. 

Mặt trời chậm chạp ngả về phương Tây, bóng của họ kéo dài ra trên con đuờng hẹp. Trời đã mát hơn, gió sa mạc đã nổi lên và thổi vi vu bên trên cánh đồng. Tên tù trưởng gọi tên phụ tá, cả hai đều nhìn kỹ các nơi phụ cận, lấy bàn tay che lên hai mắt, chắc chắn là chúng đang tìm một nơi để nghỉ chân. Rồi, thốt lên một tiếng gầm gừ thỏa mãn, con lạc đà của tên chỉ huy quì xuống trên các đầu gối, rồi tới trên các cổ chân và để bụng của nó lên mặt đất. Tất cả những con lạc đà đi tới chỗ cao của nó đều bắt chước nó, và đều nằm xuống trên cùng một hàng ngang. Các kỵ binh đặt chân xuống đất và bày ra trước mắt những con lạc đà các thức để ăn, nhưng trên các miếng vải, vì một con lạc đà giống tốt không bao giờ ăn trên mặt đất ngay chỗ nó đứng. Trong những con mắt hiền lành của các con vật, trong cung cách điềm tĩnh khi ăn, trong điệu bộ khoan đại của chúng, có một thứ gì là duyên dáng, là thuộc vẻ nữ tính: chúng gợi ra một cách không thế chối cãi được hình ảnh một buổi cắm trại của những cô gái già ở giữa bãi sa mạc của nước Libye. 

Những tù nhân được để tự do trong các cử động của họ, làm sao mà họ có thể nghĩ tới việc đào thoát ở giữa cánh đồng bao la này? Tên tù trưởng bước lại gần, nhìn họ với những con mắt hắc ám, trong khi lấy các ngón tay chải chòm râu của y. Trong lúc run lẩy bẩy, cô Adams phát hiện ra là cái nhìn của tên chỉ huy quay trở lại dính chặt vào Sadie. Rồi, thấy rõ tình cảnh thể chất của họ, y phát ra một mệnh lệnh, một tên da đen mang tới một túi nước và rót cho mỗi người một nửa chén. Nước thì nóng, đầy bùn, nó có mùi vị của da thuộc, nhưng với khẩu-cái khô queo của họ, nó có vẻ ngon ngọt biết bao! 

Tên tù trưởng nói một vài tiếng khô khan với gã thông ngôn rồi đi khỏi. 

"Thưa quí bà quí ông!... " Mansoor bắt đầu. Hắn định tự ý lấy lại vẻ quan trọng của hắn, nhưng trước một thứ tia sáng nào đó trong cặp mắt của ông đại tá hắn khởi đầu một bài biện hộ dài cho cách cư xử của hắn. Hắn rên rỉ: 

-... Làm thế nào mà tôi có thể hành động khác đi được, với lưỡi gươm kề vào cổ họng? 

"Nếu một ngày nào chúng ta trở lại Ai Cập, tôi hứa là sẽ cho anh một sợi dây thừng quấn vào cổ?" ông đại tá làu bàu một cách hung hãn. Trong khi chờ đợi... 

"Đúng lắm thưa ông đại tá!" Belmont cắt ngang. "Nhưng vì lợi ích của bản thân chúng ta, chúng ta phải biết là tên chỉ huy đã nói những gì". 

- Đối với riêng tôi, tôi không còn muốn dính líu gì với đồ chó má này nữa! 

- Tôi nghĩ đó là ta đi quá xa rồi. Chúng ta không thể tự cho phép mình làm ngơ những điều mà tên chỉ huy đã nói. 

Cochrane nhún vai. Những sự thiếu thốn, đói khát đã làm cho ông trở nên hay bực bội. Ông phải cắn môi lại để kìm lại một câu trả lời chua chát. Ông đi xa ra một cách thong thả. 

- Tôi thấy rằng hắn có vẻ dễ chịu hơn trước đôi chút. Hắn nói rằng khi nào còn có nước thì các vị sẽ có phần của các vị, nhưng nước đã không có nhiều. Hắn cũng nói rằng ngày mai chúng ta sẽ tới các giếng nước ở Selimah, và rằng mọi người sẽ có nhiều nước để uống, 

kể cả những con lạc đà. 

- Hắn không nói rõ với anh là chúng ta sẽ ở lại nơi này bao lâu à? 

- Một sự nghỉ chân rất ngắn, hắn nói với tôi, rồi sau đó lại lên đường! Ồ, ông Belmont!... 

"Im lặng!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan càu nhàu nói. Belmont lại bắt đầu tính toán những thời hạn và những khoảng cách. Nếu tất cả mọi việc đều diễn ra như đã dự trù, nếu bà vợ ông đã rũ sạch được sự biếng nhát của viên thuyền trưởng để cho sự báo động được ban hành ở Ouadi-Haffa, thì những người truy lùng đã được tung ra theo dấu vết của bọn họ. Đạo quân cưỡi lạc đà hay đoàn kỵ binh Ai Cập di chuyển tốt và nhanh dưới ánh trăng hơn là dưới ánh sáng mặt trời. Ông biết rằng ở Ouadi-halfa người ta có tục lệ là lúc nào cũng giữ ít nhất một nửa trung đội kỵ binh trong tình trạng báo động. Ông đã ăn uống thâu đêm suốt sáng ở câu lạc bộ, và các sĩ quan đã giảng giải cho ông biết cách thức mà bán trung đội ky binh này trong trường hợp khẩn cấp có thể đánh xuyên thẳng ngay tức thì. Họ đã chỉ cho ông thấy những nơi dự trữ nước, thức ăn làm sẵn ở bên cạnh mỗi con vật và ông đã cảm phục sự chu đáo dành cho các việc chuẩn bị này mà không lúc nào nghĩ rằng ông sẽ có thể cần tới chúng. Muốn cho cả một đội đến trú cùng di chuyển thì phải tính tới một giờ sớm sủa. Có thể là sáng ngày hôm sau... 

Những sự suy tư của ông bị cắt ngang một cách thê thảm, vùng vẫy như một thằng điên, ông đại tá xuất hiện trên đỉnh một cồn cát ở gần nhất, với một tên Ả Rập đeo cứng ở mỗi cổ tay ông. Mặt ông đỏ bừng vì giận giữ và lo sợ. 

"Lũ sát nhân khốn kiếp!" ông la lớn. "Belmont ơi, chúng đã giết chết Cecil Brown rồi!" 

Đây là sự việc đã xảy ra. Trong con tức giận, ông đại tá đã đi tới ngọn đồi gần nhất, trong thung lũng nhỏ ông chợt nhìn thấy một toán lạc đà và nhiều người đang tức giận nói lớn tiếng. Brown đang đứng ở giữa đám chiến binh; ông xanh mét, có một cái nhìn nặng nề, nhưng lúc nào ông cũng xoắn bộ ria mép và ông giả bộ ra một tư thế lơ là. Ông đã bị lục soát, nhưng bây giờ chúng có vẻ quyết định lột hết quần áo của ông với hy vọng tìm ra một vật gì mà ông còn dấu diếm. Một tên da đen xấu xí với những chiếc khoen đeo tai, nhăn mặt một cách giận dữ trước vẻ mặt bất động của nhà ngoại giao trẻ. Trong thâm tâm của mình, ông đại tá cho sự trầm tĩnh không thể lay chuyển được này là phi nhân tính và anh hùng. Quần áo của Cecil Brown đã bị cởi hết cúc, cái bàn tay kếch xù của tên da đen bay tới cổ ông ta và xé tung áo sơ mi của ông cho tới thắt lưng. Nghe tiếng rách soạt này và thấy sự đụng chạm của những ngón tay thô kệch đó, người thị dân này, cái sản phẩm hoàn thiện của thế kỷ thứ mười chín bèn đoạn tuyệt ngay với các nguyên tắc của ông: ông trở thành một tên man rợ trước mặt một tên man rợ khác. Mặt ông đỏ bừng, môi ông mím lại, răng ông nghiến kèn kẹt, mắt ông đỏ ngầu. Ông chồm lên tên da đen và đánh vào mắt y nhiều lần. Ông đánh như một cô con gái, cánh tay tròn trĩnh và bàn tay xòe ra. Thoạt đầu bị hoảng sợ vì cơn điên dại bất chợt đó, tên da đen lùi lại, rốt hắn bật ra một tiếng cười gằn, rút một con dao từ ống tay áo thùng thình của hắn ra và phạt từ dưới lên trên dưới cái cánh tay đang quay cuồng. Brown ngã người xuống và bắt đầu ho, ông ho như một người bị nghẹn trong bữa ăn, hết cơn này tới cơn khác, không thể ngừng được. Cặp má của ông mà sự phẫn nộ đã làm đỏ ửng đã dần dần phủ màu tái nhợt của chết chóc. Cổ họng ông để lọt ra vài tiếng "ong-óc". Ông đặt một bàn tay lên miệng và nằm lăn xuống. Tên da đen phát ra một tiếng gầm gừ khinh bỉ và nhét con dao vào tay áo trong lúc ông đại tá điên cuồng trong cơn thịnh nộ bất lực đã để cho lũ người đứng xem nắm lấy và dẫn trở lại chỗ các bạn đồng hành đang hoang mang của ông. Chúng trói tay ông lại và ông ngồi gần bên vị mục sư bất cần ước lệ lúc nào cũng mê sảng. 

Như vậy là Headingly đã chết, và Cecil Brown cũng đã chết. Những người sống sót nhìn nhau với những con mắt đờ đẫn, như thể cố sức dò tìm những quyết định của số phận và tiên đoán xem người nào trong bọn họ sẽ là nạn nhân sắp tới. Trong mười du khách thì hai người đã chết và một người điên. Nhất định là những ngày nghỉ của họ đã kết thúc rất tệ. 

Fardet, anh chàng người Pháp ngồi riêng một mình. Ông tì cằm trên hai bàn tay và những khuỷu tay trên đầu gối ông đang ngắm nhìn bãi sa mạc. Đột nhiên Belmont nhìn thấy ông ta giật nảy người và dỏng tai lên như một con chó nghe thấy tiếng bước chân của một kẻ lạ, Rồi, đan những ngón tay vào nhau, Farđet khom mình về phía trước và mắt nhìn ngấu nghiến những ngọn đồi đen xì ở mạn Đông mà họ vừa vượt qua, Belmont trông theo hướng nhìn của ông ta, và... Đúng, đúng! một vật gì đang động đậy ở phía đó ? Kim loại lóng lánh, một cái áo trắng bay phấp phới, một tên thầy tu Hồi giáo đi tuần tra bên hông doanh trại quay con lạc đà của hắn trở lại hai lần ra hiệu báo động, rồi bắn một phát súng chỉ thiên. Trống vang của phát súng chưa tắt lịm hẳn mà tất cả những tên Ả Rập và tất cả những tên da đen đều đã nhảy lên yên và thúc những con lạc đà đứng dậy, chúng thong thả đi về phía mà lệnh báo động đã được phát ra. Nhiều người có võ trang vây quanh các tù nhân, không quên lắp những bì đạn vào những khẩu súng trường của chúng để khuyên họ hãy đứng yên. 

"Lạy trời, đó là những người cưỡi trên lưng lạc đà!" Cochrane kêu lên, trong ông tất cả mọi ưu lo đều tan biến. "Chắc chắn là những người của chúng ta!" 

Trong sự hoang mang đều khắp, ông đã tự cởi trói cho hai bàn tay. 

"Tôi không tin rằng họ lại nhanh chóng đến như thế" Belmont lẩm bẩm nói, hai mắt ông sáng rực lên. "Tôi không trông đợi họ ít nhất là trước hai hay ba giờ. Hoan hô ông Fardet, như thế tốt hơn, phải không ?" 

"Hoan hô! Hoan hô! Tốt một cách kỳ diệu! người Anh muôn năm! người Anh muôn năm!" anh chàng người Pháp kêu to, toàn thân bị kích động. 

Một đoàn lạc đà từ trong các núi đá mà ra. 

"nghe đây, Belmont" ông đại tá nói lớn, "Chắc chắn là lũ kẻ cắp này sẽ muốn hạ sát chúng ta nếu công việc của chúng không trôi chảy. Tôi biết phong tục của chúng, và chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng. Ông có muốn nhảy tới tấn công thằng chột mắt không? Tôi, tôi sẽ bắt thằng da đen cao lớn, nếu hai cánh tay tôi có thể ôm vòng thân mình nó. Stephens, ông sẽ làm việc gì ông có thể làm được. Còn ông, Fardet, ông đã hiểu lời tôi nói chứ? Phải hoàn toàn đặt những tên cướp này ra ngoài tình trạng làm hại chúng ta trước khi chúng có thể làm tổn thương chúng ta. Còn anh, anh thông ngôn, hãy nói cho hai người lính Soudan biết... nhưng, nhưng... " 

Giọng ông trảm xuống, ông nuốt nước miếng. 

" Đó là những tên Ả Rập" ông nói. 

Và không ai nhận ra giọng nói của ông nữa. 

Trong tất cả cái ngày khủng khiếp này, đây là lúc khủng khiếp nhất. Ông Stuart, con người vui vẻ, nằm dài trên những hòn đá sỏi, tựa lưng vào hông con lạc đà của ông và ông nín những tiếng cười nhỏ mỗi khi các tế bào bên trong người ông bận rộn một cách vui vẻ để tái lập trật tự trong thân thể ông. Bộ mặt hồng hào, tươi tắn của ông toát ra vẻ thánh thiện nhưng với những người khác sự tuyệt vọng thật vô cùng! những người đàn bà oà lên khóc thổn thức, những người đàn ông thì núp náu trong một sự yên lặng còn tệ hơn là khóc lóc. Ông Fardet thì khổ sở vì những cơn nấc cụt, ngã sụm xuống, mặt úp xuống đất. 

Bọn Ả Rập bắn súng chỉ thiên để chúc mừng sự may mắn cho các bạn của chúng. Bọn này phi lạc đà chạy trên cánh đồng trống, đáp lại bằng những loạt súng và vung vẩy những cây giáo của chúng. Cái toán mới này không đông bằng toán thứ nhất; nó không có tới quá ba mươi ky binh, chúng mang cùng một thứ khăn đỏ và những chiếc áo chắp nối nhiều mảnh. Một tên trong bọn chúng vác một lá cờ trắng nhỏ có trang hoàng một bản văn thêu màu đỏ. Nhưng sự chú tâm của các du khách, bất thần bị lôi cuốn bởi một vật khác. Lòng họ có cùng một điều lo sợ như nhau, cùng một sự xung động đã chế ngự sự im lặng. Ở giữa đám chiến binh của sa mạc một bóng trắng lảo đảo trên một con lạc đà. 

"Chúng có ai đi với chúng vậy?" cuối cùng Stephens nói lớn. "Hãy nhìn kìa, cô Adams! Ta phải nói đó là một phụ nữ!". 

Quả thực một hình dáng người hình như được đặt trên một con lạc đà, nhưng khó mà đặt cho hình dáng đó một cái tên. Khi hai toán người gập nhau, những kỵ binh tan hàng. Lúc đó thì các tù nhân mới hiểu. 

- Đó là một người đàn bà da trắng! 

- Tàu thủy đã bị tấn công. 

Belmont thốt ra một tiếng kêu như xé rách màn đêm. Ông gào lên, 

- Norah, em yêu của tôi! Chớ để mất lòng can đảm! Tôi ở đây và mọi sự đều tốt đẹp.

Chương 6

Thế là tàu Korosko đã bị tấn công và chiếm đoạt; do đó những cơ may giải cứu mà họ tính toán (tất cả những con toán phức tạp về giờ giấc và khoảng cách) cũng tỏ ra hư huyễn như một ảo ảnh. Sự báo động sẽ không được loan ra ở Ouadi-halfa trước khi các nhà chức trách thấy rằng con tàu đã không trở về trong buổi tối. Vậy thì vào giờ này của buổi hoàng hôn khi mà sông Nil chỉ còn là một cái dải mỏng màu xanh dương ở rất xa đằng sau họ, chắc chắn là sự truy lùng chưa khởi sự. Và chỉ một trăm năm mươi cây số nữa thôi. có thể còn ít hơn nữa. đã chia cách họ với xứ sở của bọn thầy tu Hồi giáo. Hầu như không còn chút hy vọng nào là các lực lượng Ai Cập kịp thời gặp được họ. Khi đó một sự chán nản âm thầm, ảm đạm đã chiếm ngự các tù nhân, ngoại trừ Belmont mà bọn Ả Rập phải kiềm chế vì ông muốn chạy tới cứu vợ. 

Hai đôi quân đã nhập lại với nhau. Lũ Ả Rập trao đổi những lời chào và lời tán tụng một cách nghiêm trọng và oai vệ, trong khi bọn da đen cười, la lối. nói huyên thuyên với sự vui tính hồn nhiên mà kinh Coran đã bất lực không cải tạo được. Tên chỉ huy của bọn mới tới là một ông già mũi to, khoằm và có chòm râu bạc. hình dáng gầy gò. khổ hạnh, thô lỗ, hung bạo, điệu bộ rất võ biền. Anh thông ngôn rên rỉ khi nhận ra ông ta. Y giơ hai tay lên trời và lắc đầu, rõ ràng là y đã phát hiện ra một viễn cảnh mới của những sự bực bội. 

"Đó là tù trưởng Abderrahman" y nói. "Bây giờ thì tôi sợ rằng khi tới Khartoum chúng ta không còn sống nữa!" 

Chỉ có một mình đai tá Cochrane là biết hắn qua lời đồn đãi: hắn nổi tiếng là một con quái vật của sự tàn ác và cuồng tin. là một tên hồi giáo khùng điên, là một nhà truyền giáo và một chiến sĩ không bao giờ ngần ngại khi áp dụng những chủ thuyết hung tàn của kinh 

Coran cho tới chung cuộc của chúng... Lão khởi đầu bằng việc chuyện trò với tù trưởng Wad Ibrahlm, những con lạc đà của chúng đứng sát vào nhau. Chòm râu đen hòa lẫn với chòm râu bạc. Rồi cả hai tên cùng quay nhìn về phía toán tù nhân khốn khổ. Tên đàn em cung cấp rất nhiều lời giảng giải cho tên lớn tuổi, tên này lắng nghe, vẻ nghiêm trọng và không mảy may xúc động. 

"Cái ông già có bộ râu trắng là ai vậy?" Cô Adams hỏi, cô là người đầu tiên đã trấn tĩnh lại sau cơn thất vọng. "Ông ta có dáng điệu rất phi phàm". 

"Đó là tên chỉ huy mới" Cochrane đáp. 

- Ông không muốn nói là hắn có cấp bậc cao hơn tên kia chứ? 

-"Có thưa cô" anh thông ngôn nói "Hiện nay hắn là vị chỉ huy tối cao" 

- Được như thế càng tốt! Hắn làm tôi nhớ tới ông già Mathews của giáo hội trưởng lão vào thời mục sư Scott. Cái lão chỉ huy có bộ râu đen và cái nhìn sáng rực như than hồng không nói với tôi một điều gì có giá trị cả. Sadie này, cháu cưng của cô. cháu cảm thấy dễ chịu hơn với sự mát mẻ phải không? 

- Vâng thưa cô. Xin cô chớ bận tâm tới chuyện của cháu, chính cô, thì cô cảm thấy thế nào? 

-Thực ra cô nhiều tin tưởng hơn lúc nãy. Cô đã cho cháu một tấm gương xấu Sadie ạ, cô đã bị hoàn toàn choáng váng bởi sự đột ngột của tất cả cuộc phiêu lưu này, rồi cô nghĩ tới mẹ cháu. Bà ấy đã giao phó cháu cho cô và cô tự hỏi bà ấy nghĩ thế nào khi nhìn thấy cả 

hai cô cháu mình. Cô nghĩ là sẽ có một vài tiêu đề đặt bên trên trong tờ Boston Herald! Và cô đánh cá rằng một người nào đó sẽ phải viết những bài tường thuật! 

-"Ông Stuart đáng thương" Sadie kêu lên khi lại nghe thấy cơn mê sảng đơn điệu của ông mục sư. "Cô ơi. lại đây! Thử xem chúng ta có thể làm được điều gì cho ông ấy không". 

"Tôi lo sợ về chuyện của bà Shlesmger và đứa con của bà ấy" đại tá Cochrane nói "Ông Belmont này. tôi nhìn thấy rõ bà vợ ông, nhưng không nhìn thấy ai khác nữa". 

Chúng dẩn bà ấy tới đây". Belmont kêu lên. "Cám ơn Thượng đế! Chúng ta sẽ biết hết mọi chuyện. Norah, chúng đã không làm tổn hại mình chứ, tôi hy vọng...?" 

Ông chạy tới chỗ bà vợ, và hôn bàn tay bà chìa ra để ông đỡ bà, từ trên lưng lạc đà xuống. 

Cặp mắt xám hiền hậu và bộ mặt dịu dàng, trầm tĩnh của người đàn bà Ái Nhĩ Lan mang lại đôi chút khuây khỏa và hy vọng cho các tù nhân. Đây là một người phụ nữ công giáo thuần thành; mà tôn giáo của Giáo hội La Mã là một sự trợ lực tuyệt hảo trong giờ phút hiểm nghèo. Với bà, với ông đại tá là người theo Anh quốc giáo, với ông mục sư không theo nghi thức, với những phụ nữ Mỹ theo phái trưởng lão, và ngay cả với hai người Soudan ngoan đạo, dưới những phương diện khác nhau của nó, tôn giáo đã làm cùng một nhiệm vụ: nó không ngừng nhắc nhở rằng điều xấu xa mà con người có thể gây ra là điều rất nhỏ nhặt, và rằng bất kể sự khắc nghiệt bề ngoài, trên những con đường của Chúa, chúng ta không có điều gì tốt và khôn ngoan để làm hơn là cứ tự để cho cái Bàn Tay Vĩ đai dẫn dắt chúng ta. Những người bạn trong hoạn nạn này không có cùng chung một giáo 

điều. Nhưng họ có lòng dũng cảm sâu đậm và lòng tin số mạng an- nhiên, cần thiết là những thứ đã tạo ra cái khuôn khổ cổ xưa của tôn giáo, những giáo điều mới đã mọc lên như loài rêu phù du trên mặt tảng đá hoa cương. 

"Các ban khốn khổ! " người phụ nữ ái Nhĩ Lan nói lớn "tôi thấy rằng các bạn đã chịu khổ hơn tôi rất nhiều. Thật vậy đó anh John yêu quý ạ, tôi hoàn toàn khỏe mạnh mà ngay cả tôi không bị khát nữa, vì trên chúng tôi đã đổ đầy nước vào các túi da ở sông Nil, và tôi đã uống thỏa thuê theo ý thích. Nhưng tôi không trông thấy ông Headingly, cả ông Brown nữa. Và ông Stuart khốn khổ! ông ấy ra thế nào rồi? 

"Headingly và Brown không còn biết ưu phiền nữa", ông chồng bà trả lời. "Norah này, mình không biết rằng hôm nay chúng tôi đã tạ ơn Thượng đế bao nhiêu lần về việc mình đã không cùng đi với chúng tôi! Vậy mà mình cung lại ở đây!" 

-Tôi sẽ ở nơi nào tốt hơn là ở bên cạnh chồng tôi? Tôi thích một trăm lần, một ngàn lần ở đây hơn là được an toàn ở Ouadl-halfa. 

-Thành phố có được báo động không?" ông đại tá hỏi. 

- Một cái ca nô đã trốn thoát được. Bà Shlesinger, con bà ấy và người vú nuôi đã ngồi trên ca nô đó. Khi bọn Ả Rập tấn công chúng tôi thì tôi ở bên dưới. Những người ở trên boong đã có thì giờ nhảy lên ca nô. Tôi không biết họ có bị thương không vì bọn Ả Rập đã bắn 

theo trong một lúc lâu. 

"Thật vậy à?" Belmont kêu lên "như thế đoàn quân trú phòng phải nghe thấy tiếng súng bắn, ông nghĩ thế nào. ông Cochrane? Từ bốn giờ rồi họ phải được tung ra trên con đường của chúng ta! Từng phút một chúng ta có thể hy vọng trông thấy xuất hiện trên đỉnh đồi kia cái mũ cứng của một sĩ quan Anh! 

Nhưng những sự thất vọng liên tiếp đã làm cho ông đại tá thành hoài nghi. 

"Nếu họ không tới với lực lượng mạnh" ông đáp, " thì tốt hơn là họ đừng tới nữa. Bọn kẻ cướp này là những tên lính tinh nhuê và những tên chỉ huy giỏi, và trên chính địa thế của chúng, chúng sẽ kháng cự kịch liệt... " 

Đột nhiên ông ngừng lại và nhìn về phía bọn Ả Rập. "...Lạy Chúa tôi!" ông lẩm bẩm nói. "Cái cảnh này rất đáng xem!" 

Mặt trời to lớn, đỏ rực đã dấu một nửa cái đĩa của nó đằng sau đám sương mù tím lịm ở chân trời. Lúc này là giờ cầu nguyện của người Ả Rập. Một nền văn minh cổ đại hơn và thông thái hơn phải quay về hướng chân trời huy hoàng này và thờ phụng nó, nhưng những đứa con mọi rợ của sa mạc vốn có một tính chất cao quí hơn những người Ba Tư phong nhã, họ đặt tinh thần cao hơn vật chất. Vì vậy họ cầu kinh trong khi quay lưng về phía mặt trời và hướng mặt họ về phía ngôi đền chính của tôn giáo họ. Đó là cách họ cầu nguyện, những kẻ cuồng tín đó! Say sưa một cách sâu xa, với những cặp mắt long lanh và nét mặt rạng rỡ họ đứng lên, quì xuống, trán họ chạm vào tấm thảm để cầu kinh. Khi nhìn thấy một sự sùng kính như thế, ai còn dám nghi ngờ sự hiện hữu của một thế lực lớn lao trên toàn thế giới, phản động nhưng khủng khiếp, có sẵn trong tay hàng trăm triệu đứa con ở giữa mũi Juby và những ranh giới của nước Trung Hoa? Nếu một ngày nào cùng một luồng gió đó đốt cháy họ, nếu một binh gia vĩ đại hay một nhà cai trị vĩ đại đứng lên để tổ chức họ, họ sẽ chẳng phải là khí cụ mà Đấng tối cao quét sạch miền Nam Châu Âu, nơi đã suy tàn, thối nât, ích kỷ, không có dũng khí, như chuyện đã xảy ra một ngàn hai trăm năm trước, để dọn chỗ sạch sẻ cho một chủng tộc tốt đẹp hơn. 

Khi họ đứng dậy, một hồi tù và vang lên; lúc đó các tù nhân hiểu rằng sau khi đã đi suốt cả ngày, họ sẽ phải đi suốt cả đêm. Belmont càu nhàu, vì ông đã hy vọng là những người giải cứu sẽ theo kịp họ trước lúc nhổ trại, nhưng những người khác thì đều đã quá sẵn sàng, để tuân theo sự không thể tránh được. Họ nhận được mỗi người một cái bánh dẹp của dân Ả Rập, rồi để làm tăng thêm phần sảng khoái, một chén nước thứ hai lấy từ những túi da của toán quân thứ nhì. Nếu xác thịt biết tuân lệnh của linh hồn một cách cũng dễ dàng như linh hồn tuân lệnh xác thịt thì trái đất đã là một thiên đường rồi! một khi các nhu cầu về thể chất đã được thỏa mãn, họ lấy lại can đảm và lại leo lên lưng những con lạc đà trong khi chấp nhận một cách độ lượng hơn cái khía cạnh lãng mạn của cuộc phiêu lưu khủng khiếp của họ. Ông Stuart cứ đeo đuổi những lời lảm nhảm trẻ con trên bãi cát ngay cả bọn Ả Rập cũng không nghĩ tới việc đặt ông ngồi lại trên yên lạc đà. Trong bóng đêm đang đổ xuống, bộ mặt to phì của ông ngẩng lên trời làm thành một vệt trắng. 

"Anh thông ngôn!" ông đại tá quát lớn. "Nói với chúng là chúng bỏ quên ông Stuart". 

"Thưa ông vô ích thôi!" Mansoor đáp lại. "Họ nói rằng ông ấy mập quá, và họ không đem ông ấy đi xa hơn nữa. Họ nói là ông ấy sắp chết rồi, như thế bận tâm tới ông ấy có ích gì?". 

Cochrane la lớn: 

- Không đem ông ấy đi! Thế nào! nhưng ông ấy sẽ chết đói và chết khát! ông tù trưởng đâu?... 

Ông gọi lão Ả Rập có bộ râu đen với cái giọng mà ông đã dùng để quở mắng một tên dắt lừa đến trễ. Tên chỉ huy không thèm trả lời ông, nhưng hắn nói hai hay ba tiếng với một trong những tên chiến binh, và tên này đánh vào mạng sườn ông đại tá một nhát báng súng. Người lính già ngã xấp xuống rồi được nâng lên yên lạc đà, gần như bất động. Những người đàn bà lại bắt đầu khóc; những người đàn ông thì lủng bủng những câu nguyền rủa và xiết chặt những nắm tay, họ có thể làm được việc gì trong cái địa ngục của sự bất công và những cách đối xử tàn tệ này? Belmont tìm khẩu súng lục nhỏ của ông, nhưng ông nhớ ra là óng đã giao nó cho cô Adams. Nếu ông còn giữ nó thì tên tù trưởng đã bị hạ sát rồi, nhưng tất cả các du khách đều sẽ bị tàn sát hết. 

Khi tiếp tục lên đường, họ thấy hiện ra trước mặt họ một trong những hiện tượng hy hữu nhất của sa mạc Ai Cập; đúng thực là các tình huống đã làm cho họ chẳng còn bụng dạ nào để thưởng thức cái đẹp. Khi mặt trời đã biến dạng, chân trời còn giữ lại một sắc tím như màu đá đen, nhưng bây giờ thì màn sương mù đó mỗi lúc mỗi trở thành sáng sủa, một bình minh giả hiệu hiện lên. Họ có thể cho là một vừng mặt trời đang lúng liếng mọc trở lại trong bầu trời theo con đường mà nó vừa lặn xuống. Một tấm màn màu hồng lơ lửng bên trên phía Tây đã trang hoàng cho cái rìa phía trên của nó bằng những ánh phản quang có màu xanh tươi mát và trang nhã, nhưng các màu sắc đó đã từ từ hòa tan vào một màu xám mờ mờ khởi đầu cho màn đêm. Trước đây hai mươi bốn giờ, ngồi trên những cái ghế dài hoặc những cái ghế đẩu, họ bàn luận về chính trị trên boong tàu Korosko, dưới ánh sáng những ngôi sao Mười hai giờ trước đây, họ ăn điểm tâm trước khi khởi hành cho cuộc du ngoạn cuối cùng của họ. Rồi từ lúc đó, họ đã khám phá ra cả một thế giới của những cảm giác mới lạ. Họ đã bị xô xuống từ đỉnh cao của sự sung túc với sự phũ phàng làm sao! Cũng là những ngôi sao bạc này, cũng là mảnh trăng lưỡi liềm này, nhưng giữa quá khứ và hiện tại đã có một hố sâu làm sao! Những con lạc đà cũng di chuyển lặng lẽ như những bóng ma vậy. Phía trước các tù nhân, phía sau họ những tên Ả Rập cũng không gây ồn ào nhiều hơn là những con vật chúng cưỡi. Không chỗ nào có một tiếng ồn. Không một chút tiếng ồn. Rồi thình lình từ rất xa về, phía sau, một tiếng người cất lên trong sa mạc, một tiếng mạnh, vo vo, không theo nhạc điệu mấy ti, dần dà một điệp khúc toát ra từ trong tiếng hát xa xăm ấy, các tù nhân có thể phân biệt ra trong điệp khúc ấy những câu: 

"Ban đêm chúng ta dựng cái lều di động của chúng ta, 

Chưa tới một ngày trước lúc trở về của chúng ta... " 

Ông Stuart đã hồi phục thần trí rồi, hoặc đây chỉ là sự ngẫu nhlên trong cơn mê sảng mà ông đã chọn khúc ca này? Các bạn của ông quay nhìn lại, mắt đẫm lệ, họ biết chắc rằng người lữ hành này đã ở rất gần ngày trở về rồi... Tiếng hát dần dà thấp giọng xuống, nó chấm dứt bằng cách chìm ngập trong cái im lặng bao la của sa mạc. 

"Ông bạn già thân mến, tôi hy vọng là ông không bị thương chứ?" Belmont vừa hỏi vừa đặt một bàn tay lên đầu gối ông đại tá. 

Cochrane ngồi dậy, nhưng ông còn thở hổn hển. 

- Tôi hoàn toàn bình phục rồi. Xin ông vui lòng chỉ cho tôi thấy kẻ nào đã đánh tôi? 

- Tên ăn cướp đứng trước mặt ông, tên mà con lạc đà của nó đứng ngang tầm con lạc đà của Fardet đó. 

- Tên thanh niên với bộ ria mép... Với ánh sáng này tôi không phân biệt được nó rõ ràng, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ nhận ra nó lúc ban ngày. Cám ơn Belmont! 

- Tôi nghĩ rằng nó đã đâm gãy xương sườn của ông. 

- Không, nó đã cắt đứt hơi thở của tôi, tất cả cơ thể. 

- Người ông chắc phải bằng sắt! Đó là một đòn khủng khiếp. Làm thế nào mà ông có thể hồi phục nhanh quá như vậy? 

Ông đại tá gãi cổ và nói hơi lúng búng khi trả lời. 

- Ông bạn Belmont thân mến, sự thật là... Tôi tin chắc rằng việc này sẽ chỉ có hai chúng ta biết... nhất là đừng nhắc lại việc đó với các đàn bà!... Nhưng tôi có đôi chút già hơn điều mà tôi nhìn nhận, và thà rằng để mất phong thái quân cách là thứ lúc nào cũng quí giá với tôi, tôi... 

"Ông mặc áo nịt ngực à, lạy Chúa tôi!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan kêu lên. 

"Thật tình, đó là một sự hỗ trợ nhân tạo!" ông đại tá nói một cách khô khan, và ông lái cuộc đàm thoại sang các sự may rủi của ngày hôm sau. " 

Những người còn sống sót còn nhìn thấy trong những giấc mơ của họ cái đêm dài phải đi trong sa mạc ấy. Hơn nữa tất cả đều là một thứ mộng mơ: sự im lặng mà họ thấy trên những cái chân có sức đàn hồi của lũ lạc đà, và những cái bóng lờ mờ, chuyển động đang lắc lư ở bên trái và ở bên phải họ. Vũ trụ hình như được treo lơ lửng trước mặt họ như một cái mặt đồng hồ khổng lồ. Một ngôi sao lấp lánh ngay tại cuối con đường của họ. Thời gian mà họ nhắm mắt lại, và lại mở mắt ra, một ngôi sao khác đã sáng rực lên bên dưới ngôi sao trước. Giờ này sang giờ khác, làn nước bao la của các vì sao vẫn trôi đi một cách chậm chạp trên cái nền màu xanh dương của trời đêm, những thế giới và những hệ thống thiên thể trôi giạt một cách uy nghi bên trên đầu họ, để làm đầy vòm trời mà sự hoành tráng đã an ủi một cách mơ hồ những người bị bắt, nhất là số phận riêng của họ và bản thân con người của họ hình như quá nhỏ nhoi bên cạnh một sự triển khai các uy lực như vậy, muốn diễn hành trên bầu trời, đám rước lớn của các tinh tú phải bắt đầu bằng việc leo lên nó, rồi đứng lại gần như bất động theo hàng dọc, và cuối cùng thì tụt xuống một cách không vội vã cho tới lúc về mạn đông hiện ra ánh sáng lạnh lẽo, đầu tiên, và khi các tù nhân bị sững sờ vì những gì mà nó làm cho họ thấy ở những bộ mặt của họ. 

Ban ngày đã hành hạ họ bằng sự nóng bức, ban đêm đem lại cho họ một cái lạnh còn khó chịu đựng hơn. Bọn Ả Rập cuộn mình trong những cái chăn và trùm khăn lên đầu. Các tù nhân thì lạnh run lên, xoa tay vào nhau để làm cho người ấm lên. Cô Adams là người khổ sở nhất vì sự gầy còm và sự huyết mạch lưu thông xấu do tuổi tác của cô. Stephens cởi cái áo choàng của ông ra và khoác lên vai cô. Ông đi bên cạnh Sadie, miệng huýt sáo và lẩm nhẩm hát để làm cho cô nghĩ là bà cô của cô đã làm cho ông nhẹ nhõm khi chấp nhận việc mang hộ cái áo choàng của ông, nhưng ông đã gây quá nhiều tiếng ồn khiến người ta khó mà tin được là ông không bị rét lạnh. Tuy nhiên, thật tình thì ông cảm thấy đỡ lạnh hơn những người khác, vì ngọn lửa xưa cũ đang đốt cháy trái tim ông, và một niềm hân hoan kỳ dị hòa nhập lẫn lộn với những sự bất hạnh của ông, ông không thể nói cuộc phiêu lưu này là sự tệ hại nhất trong các điều tệ hại hay nó là một ân huệ lớn lao nhất của đời ông. Khi ở trên tàu, sự trẻ trung của Sadie, nhan sắc của nàng, sự thông minh của nàng và tính tình của nàng đã không cho phép ông hy vọng điều gì hơn là một lòng khoan dung từ ái đối với ông. Nhưng lúc này ông cảm thấy đối với nàng ông không phải là vô dụng; ông biết rằng mỗi giờ mới tới đều thúc đẩy nàng phải nhờ cậy vào ông nhiều hơn như người bảo vệ tự nhiên của nàng, và nhất là (nhất là!) ông đã phát hiện ra nhân cách riêng của ông; ông bắt đầu hiểu là đằng sau tất cả những tập quán của luật pháp, những thứ đã tạo ra cho ông một bản chất giả tạo, một con người mạnh mẽ và hoàn toàn đáng tin cậy đã hiện hữu thật sự. Một tia sáng nhỏ về lòng tôn kính cá nhân đã làm máu ông nóng lại. Thời trẻ trung, ông đã làm hư hỏng tuổi thanh xuân, nhưng lúc này thì nó bùng lên như một bông hoa nở muộn. 

"Ông Stephens ạ, đó là tôi tin rằng ông đang vui thích lắm!" Sadie nói với ông bằng một giọng chua chát. 

Ông trả lời. 

-Tôi sẽ không đi tới chỗ khẳng định là tôi vui thích. Nhưng tôi hoàn toàn tin chắc rằng tôi không muốn rời xa cô ở đây. 

Ông chưa từng bao giờ dịu dàng như thế trong lời nói; cô thiếu nữ nhìn ông, kinh ngạc. 

-Tôi nghĩ rằng cho tới lúc này tôi đã là một người con gái rất ác độc" nàng nói, sau một lúc im lặng. "Bởi vì chính bản thân tôi được sung sướng, không bao giờ tôi nghĩ tới những người khốn khổ. Cuộc phiêu lưu này làm cho tôi nhìn thấy các sự việc dưới một ánh sáng khác. Nếu tôi thoát nạn, tôi sẽ hoàn hảo hơn trong tương lai, đứng đắn hơn, chín chắn hơn". 

- Và tôi cũng vậy, tôi sẽ hoàn hảo hơn. Tôi giả sử rằng chính vì điều đó mà chúng ta phải trải qua cuộc phiêu lưu này. Hãy cho như là nó đã làm nổi bật các đức tính của tất cả các bạn bè chúng ta. Thí dụ hãy nói tới ông Stuart xấu số kia; đã có bao giờ chúng ta nghi ngờ tâm hồn cao cả và chung thủy của ông đâu? Và hãy nhìn Belmont và vợ ông ấy ở trước mặt chúng ta kìa, họ nắm tay nhau tiến bước, không sợ sệt, người này chỉ nghĩ tới người kia. Và Cochrane, người mà khi ở trên tàu lúc nào cũng cho người khác cảm tưởng rằng ông ta có một tâm hồn hẹp hòi đểu cáng! Hãy suy nghĩ về lòng dũng cảm và sự phẫn nộ vô tư lợi của ông khi một người trong bọn chúng ta bị ngược đãi. Cả Fardet cũng can đảm như một con sư tử. Tôi nghĩ là sự bất hạnh đã làm điều tốt lành cho tất cả chúng ta. 

Sadie thở dài. 

- Phải, nếu mọi vịêc đều kết thúc tốt đẹp, thì ông nói đúng. Nhưng nếu chúng ta phải chịu sự khổ cực nhiều tuần hay nhiều tháng với cái chết ở một bên, tôi không biết chúng ta sẽ mót nhặt lợi ích của sự tiến bộ của chúng ta ở đâu. Giả dụ rằng ông rút tỉa được lợi ích từ đó, ông sẽ làm gì? 

Ông luật sư ngần ngừ, nhưng các bản năng nghề nghiệp của ông vẫn còn mạnh mẽ. 

- Tôi sẽ xem có thể phát khởi quyền tố tụng được không, và kiện ai. Rất có thể là, kiện những kẻ đứng ra tổ chức đã đưa chúng ta tới núi Abousir. Nếu không thì phải kiện chính phủ Ai Cập về tội không bảo đảm được an ninh ở biên giới của họ. Đây là một vấn đề thú vị của luật pháp! Và cô Sadie, cô sẽ làm gì? 

Đây là lần đầu tiên ông đã không dùng từ "Cô" trước tên người con gái trẻ tuổi, nhưng nàng đang quá bận tâm nên không để ý tới điều này. 

Nàng nói: 

- Tôi se dịu dàng hơn với mọi người. Tôi sẽ cố gắng làm cho một người nào đó được sung sướng để nhớ lại những nỗi cực khổ mà tôi đã gánh chịu. 

- Trong đời cô, cô đã không làm điều gì khác ngoài việc đem lại sự sung sướng. Cô không thể tự ngăn cản được. 

Bóng tối đã giúp cho ông ra khỏi sự dè dặt vốn là thói quen của ông. 

- Cô cần sự thử thách thô bạo này ít hơn bất cứ người nào khác, làm thế nào để tính tình của cô có thể trở nên tốt như vậy? 

- Đúng là ông ít biết về tôi! Tôi là người rất khinh xuất, rất ích kỷ. 

- Ít nhất là cô không cần tới tất cả những cảm xúc mạnh mẽ đó: cô đã sinh động một cách đầy đủ rồi. Với tôi thì khác hẳn. 

- Ông Stephens, tại sao ông lại cần có những cảm xúc? 

- Bởi vì tất cả đều thích thú hơn là sự ngưng trệ. Ngay cả sự đau khổ cũng tốt hơn là sự ngưng trệ. Tôi vừa mới bắt đầu sống, cho tới lúc này tôi chỉ là một cái máy trên trái đất. Tôi chỉ có một ý tưởng trong đầu, và một người chỉ có một ý tưởng trong đầu không thực sự sống một chút nào. Đó là những gì mà tôi bắt đầu hiểu trong tất cả những năm tháng này, tôi chưa bao giờ xúc động cả. Chưa bao giờ một luồng cảm xúc chân thật của con người đã động chạm tới tôi. Tôi không có thì giờ để cảm xúc. Tôi đã ghi nhận những cảm xúc ở người khác, và tôi đã mơ hồ tự hỏi phải chăng trong tôi đã có một khuyết điểm ngăn cản không cho tôi được chia sẻ kinh nghiệm của các bạn trong đời. Nhưng những ngày vừa qua đã nói cho tôi biết là tôi có thể sống một cách thật sự, rằng tôi có thể có được những hy vọng nóng bỏng và những sự kinh hoàng chí tử, rằng tôi có thể hận thù, và tôi có thể... Tóm lại là tôi cô thể cảm nhận bất kỳ một tình cảm mạnh mẽ nào. Tôi được sinh ra ở đời. Có thể ngày mai tôi sẽ đứng trên bờ huyệt mộ, nhưng ít nhất tôi sẽ có thể tự nói với mình là tôi đã sống. 

- Và tại sao ông lại sống cuộc sống này ở Anh Quốc? 

- Tôi là con người có nhiều tham vọng. Tôi muốn thành đạt, và tôi phải nghĩ tới mẹ tôi và các chị em tôi. Cám ơn Thượng đế, trời đã sáng rồi. Trong chốc lát bà cô của cô và cô sẽ thôi không thấy lạnh nữa. 

- Và ông thì không có áo khoác ngoài! 

- Ồ, bộ máy tuần hoàn của tôi thật tuyệt hảo! Tôi thấy rất dễ chịu khi mặc sơ mi trần. 

Cái đêm dài lạnh rét, làm hao tốn sức lực đã đi qua. Bầu trời xanh đậm đã chuyển sang màu tím nhạt, những ngôi sao lớn nhất vẫn tiếp tục chiếu sáng. Phía sau cái ngói sao này, cái vạch màu xám của rạng đông đã bắt đầu gậm mòn bầu trời, đồng thời cũng tự tô điểm cho mình một màu hồng thanh nhã trong đó đã lung linh những tia sáng của vừng thái dương chưa xuất hiện. Bỗng chốc họ cảm thấy sức nóng của mặt trời ở trên lưng họ, ở trên bãi cát, những cái bóng dài đi trước họ, những thầy tu Hồi giáo bỏ những cái chăn của họ ra và bắt đầu nói ba hoa vui vẻ với nhau. Các tù nhân cũng bắt đầu hết cóng lạnh ngấu nghiến ăn những quả chà là mà người ta phân phát làm món điểm tâm. Đoàn người dừng lại, họ có quyền được mỗi người một chén nước. 

"Tôi có thể nói chuyện với ông được không, đại tá Cochrane?" anh chàng thông ngôn hỏi. 

"Không!" ông đại tá nói càu nhàu. 

- Nhưng là việc rất quan trọng! Có lẽ sự thoát hiểm của chúng ta tùy thuộc vào nó. 

Ông đại tâ chau mày lại, tay vuốt hàng ria mép. Cuối cùng ông nói: 

- Được, đó là việc gì? 

- Ông phải tin tưởng ở tôi, vì tôi cũng muốn trở về Ai Cập như ông! Một bên là vợ tôi, cái nhà của tôi, các con tôi, còn một bên là kiếp sống nô lệ. Ông không có lý do nào để nghi ngờ tôi. 

- Nói đi! 

- Ông biết tên da đen đã nói chuyện với ông chứ? Cái tên đi với Hlcks đó! 

- Rồi sao nữa? 

- Hắn đã nói chuyện với tôi hồi đêm. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với hắn. Hắn giải thích với tôi là ông không thể hiểu rõ ràng lời hắn nói, và hắn cũng hiểu rất ít lời ông nói. Đó là lý do tại sao hắn đến tìm tôi. 

- Hắn đã nói gì với anh? 

- Hắn nói với tôi là trong bọn Ả Rập có tám người lính Ai Cập, sáu tên da đen và hai tên nông dân. Hắn nói với tôi là hắn muốn có lời hứa của ông về một số tiền thưởng rất lớn nếu chúng giúp cho ông trốn thoát. 

- Đồng ý, chúng sẽ có tiền thưởng đó! 

- Chúng yêu cầu tôi một trăm bảng Ai Cập cho mỗi người. 

- Chúng sẽ có số tiền đó. 

- Tôi đã nói với hắn là tôi sẽ đặt vấn đề này với ông nhưng trước tiên tôi hãy trả lời về sự đồng ý của ông. 

- Chúng có ý định làm không? 

- Chúng còn chưa có thể hứa hẹn với tôi một điều gì cả nhưng chúng nghĩ sẽ đánh những con lạc đà của chúng đi gần với nhóm của ông, nhằm nắm lấy cơ hội đầu tiên khi nó xuất hiện. 

- Được, quay lại gặp hắn đi và hứa với hắn hai trăm bảng cho mỗi người nếu chúng giúp được chúng ta một cách hữu hiệu. Anh không nghĩ rằng chúng ta có thể mua được vài tên Ả Rập à? 

Mansoor lắc đầu. Hắn trả lời: 

- Làm thế việc này sẽ quá nguy hiểm. Nếu ta làm thử và nếu ta thất bại trong việc đó, thì đó sẽ là sự cáo chung của tất cả bọn chúng ta, tôi sẽ chuyển câu trả lời của ông cho hắn. 

Các tù trưởng dự kiến sẽ dừng chân tối đa là nửa giờ đồng hồ, nhưng những con lạc đà có đóng yên chở các tù nhân thì nhọc mệt quá khiến người ta không thể bắt chúng tiếp tục lên đường sau một lúc nghỉ ngơi ngắn ngủi như thế. Chúng đã duỗi dài những cái cổ to lớn của chúng lên bãi cát, đối với chúng hiện tượng này là triệu chứng cuối cùng của sự mệt mỏi. Hai lão chỉ huy xem xét chúng, lắc đầu, và lão già khủng khiếp quay bộ mặt gầy ốm của y về phía các tù nhân. Y nói với Mansoor anh chàng thông ngôn tái mặt đi khi nghe hắn nói. 

- Tù trưởng Abderrahman nói rằng nếu các ông không cải theo Hồi giáo, thì ông ấy sẽ không tốn công làm chậm trễ cuộc hành trình của tất cả đoàn chỉ vì có các ông. Ông ấy nói nếu không có các ông thì chúng tôi đã có thể đi nhanh hơn hai lần. Do đó ông ấy muốn biết dứt khoát là các ông có sẽ chấp nhận kinh Coran. 

Rồi, cùng một giọng nói đó, làm như hắn tiếp tục thông dịch, hắn nói thêm: 

-... Các ông sẽ làm được tốt hơn nhiều khi trả lời là có vì nếu các ông từ chối nhất định ông ấy sẽ giết tất cả mọi người. 

Những người tù bất hạnh nhìn nhau, hai tên tù trưởng quan sát họ với vẻ nghiêm trọng. 

Cochrane nói: 

- Về phần tôi, tôi thích chết ở đây hơn là làm nô lệ ở Khartoum. 

- Mình nói gì, Norah? 

- John ạ, nếu chúng ta cùng chết với nhau, tôi nghĩ là tôi sẽ không sợ. 

"Thật là kỳ cục nếu tôi phải chết vì một cái gì mà tôi đã không bao giờ tin tưởng" Farder tuyên bố. "Tuy nhiên danh dự của một người Pháp ngăn cấm hắn không được cải đạo theo cách này..." 

Ông đứng thẳng người lên, và đặt cái cổ tay bị thương của ông lên mạn trước áo gi-lê. Ông kêu to: 

- Tôi là người Cơ-đốc. Tôi vẫn là người Cơ-đốc, mỗi câu trong hai câu này đều là một sự nói dối dũng cảm. 

"Còn ông, ông Stephens?" Mansoor hỏi với một giọng cầu khẩn. "Nếu một người trong bọn các ông chịu cải đạo, có lẽ họ sẽ khoan nhượng hơn. Tôi thề với ông là chỉ làm những gì họ yêu cầu" 

"Không, không thể được!" ông luật sư bình thản trả lời. 

- Vậy còn cô, cô Sadie? cô nữa, cô Adams? các cô chỉ cần nói có ngay tức thì, là các cô được thoát nạn 

"Cô ơi, cô có nghĩ rằng chúng ta có thể nói có được không?" cô thiếu nữ ấp úng nói. "Có phải đó là một điều rất tệ nếu chúng ta nói từ ấy không?". 

Cô gái già ôm lấy cô thiếu nữ trong vòng tay. Cô thì thầm nói: 

- Không, không, cháu Sadie yêu quí của cô! Cháu sẽ dũng cảm! Sau đó cháu sẽ tự oán hận mình rất nhiều! Hãy để nguyên bàn tay trên người cô, cháu ngoan ạ, và hãy cầu nguyện đi nếu cháu cảm thấy sự dũng cảm xa rời cháu. Đừng quên rằng người cô Eliza tuổi tác của cháu lúc nào cũng sẽ dẫn dắt cháu trong bàn tay. 

Họ không thiếu lòng dũng cảm, những tay tài tử về các thú vui này! Tất cả mọi người đều nhìn thẳng vào cái chết và họ càng trông thấy nó đến gần thì họ càng ít sợ hãi nó. Họ còn thấy một cảm giác mơ hồ của sự hiếu kỳ, cũng như sự xốn xang của các dây thần kinh của một con bệnh khi sắp ngồi vào cái ghế của nha sĩ. Anh thông ngôn nhún hai tay và hai vai: anh đã cố gắng; và anh đã thất bại. Tù trưởng Abderrahman ra một cái lệnh cho một tên da đen, tên này chạy đi khỏi. 

"Tại sao y lại đòi lấy những cái kéo?" ông đại tá hỏi. 

"Y sẽ khảo đả các phụ nữ" Mansoor vừa trả lời, vừa phác họa cùng một cử chỉ của sự bất lực như trước. 

Sự kinh hoàng làm họ lạnh toát người. Cái chết trong trừu tượng là một chuyện, nhưng các chi tiết quá cụ thể lại là một chuyện khác. Tất cả bọn họ đều chấp nhận chịu đựng bất kỳ một điều gì, mỗi người trong thân xác riêng của họ, nhưng họ còn ái ngại cho nhau, những người đàn bà không nói gì cả, những người đàn ông bắt đầu 

cùng la hét. 

"Khẩu súng lục, cô Adams!" Belmont nói "Đưa nó cho tôi! Chúng tôi sẽ không chịu để cho cô bị tra tấn!" 

"Mansoor, lễ tiền cho chúng đi! Hãy dâng cho chúng tất cả những gì chúng muốn!" Stephens nói "Nghe đây, tôi sẽ cải đạo theo đạo Hồi nếu chúng hứa là không đụng tới các phụ nữ. Tóm lại, một trái vụ dưới sự cưỡng ép không có hiệu lực về mặt pháp luật. Nhưng tôi không muốn thấy các phụ nữ bị tra tấn!" 

"Không, hãy đợi một chút, Stephens!" ông đại tá nói. "Chúng ta không nên mất đảm lực. Tôi tin rằng tôi đã thấp thoáng nhìn thấy một cửa đi ra. Này anh thông ngôn, hãy nghe tôi nói đây: anh lại nói với con quỉ già có bộ râu trắng kia rằng chúng tôi không biết một chút gì về cái tôn giáo tạp pí lù của y. Hãy dịch câu đó một cách dịu dàng. Nói cho y biết là y không thể chờ đợi ở chúng tôi việc chúng tôi cải đạo trước khi chúng tôi biết đó là trò bịp bợm gì. Nói với y rằng nếu y bằng lòng giảng dạy cho chúng tôi thì chúng tôi sẽ tình nguyện nghe sự giáo huấn của y, và anh sẽ có thể nói thêm là một tôn giáo đã sản sinh ra những thứ chó má như y hoặc như thằng quỉ khác cô bộ râu đen kia, chắc chắn đáng được bọn chúng ta chú ý" 

Với sự trợ lực lớn của những cái khom lưng và những dáng điệu bộ tịch, anh chàng thông ngôn giảng giải rằng những người cơ đốc đã hoài nghi rồi, đã ở trên bờ của sự bội giáo, và chỉ cần một vài tia sáng mới để họ quyết định từ bỏ tôn giáo của họ. Hai lão tù trưởng vuốt râu với vẻ nghi ngờ. Rồi Abderrahman nói một vài tiếng, và cả hai tên cùng đi khỏi, một lát sau đó, tiếng tù và mới đoàn người tiếp tục lên đường. 

"Đây là điều mà ông ta đã nói" Mansoor giảng giải với các tù nhân. "Vào khoảng buổi trưa thì chúng ta sẽ tới những giếng nước, và chúng ta sẽ dừng chân. Vị thầy giảng riêng của ông ta, một người rất tử tế và rất thông thái sẽ tới giảng dạy cho các quí vị một giờ về tôn giáo. Sau buổi học này, quí vị sẽ bày tỏ ý kiến. Một khi quí vị đã có sự chọn lựa rồi, các tù trưởng sẽ phán xét xem quí vị sẽ đi Khartoum, hoặc quí vị sẽ bị giết chết. Đó là tiếng nói sau cùng của ông ta. 

- Chúng không nhận tiền chuộc à? 

- Chắc chắn là Wad Ibrahim sẽ nhận, nhưng tù trưởng Abderrahman thì khủng khiếp. Tôi khuyên quí vị nên nhượng bộ ông ta. 

- Chính bản thân anh, anh đã làm gì? Anh cũng là người theo đạo Cơ đốc mà? 

Mansoor đỏ mặt lên. 

- Sáng hôm qua tôi là người cơ đốc. Không chừng sáng mai tôi sẽ trở lại là người cơ đốc. Tôi phục vụ Chúa bao lâu mà những gì Người đòi hỏi có vẻ phải chăng đối với tôi, nhưng lần này thì rất khác. 

Hắn thúc con lạc đà của hắn với một sự tự do trong điệu bộ để chứng tỏ rằng cuộc đàm thoại của hắn đã tạo cho hắn một cấp bậc riêng trong đám tù nhân. 

Vậy là họ được hưởng một sự trì hoãn trong vài giờ, tuy nhiên cái bóng đen của tử thần đang chụp lên đầu họ. Vậy thì có cái gì trong cuộc sống mà chúng ta cứ phải cố níu lấy nó? Không phải những thú vui, vì những người mà cuộc đời đã là một chuỗi dài những đau khổ cũng lùi lại và khóc lóc khi vị tử thần từ bi chìa những cánh tay ủy lạo của ngài ra với họ. Không phải là xã hội, bởi vì chúng ta thay đổi toàn bộ các mối liên hệ của chúng ta tùy theo lề lối chúng ta tiến bước trên con đường rộng lớn mà mỗi cậu con trai, mỗi cô con gái của con người phải đi theo. Phải chăng đó là sự sợ hãi làm mất cái bản ngã của chúng ta, cái bản ngã thân thương mà chúng ta nghĩ là đã biết rất rõ, trong lúc nó luôn luôn làm ra những việc khiến chúng ta kinh ngạc? Tại sao người tự vẫn lại bám chặt một cách tuyệt vọng lấy cái cột chân cầu khi con sông nhận chìm hắn xuống? Phải chăng Tạo hóa sợ rằng các nghệ nhân mệt mỏi của ngài sẽ quăng dụng cụ và mở cuộc đình công, nên ngài mới phát minh ra cách này để giữ họ lại trong trách vụ hiện tại? Dù sao thì các du khách của tàu Korosko cũng đã bị phiền nhiễu và lăng nhục quá nhiều rồi: họ thấy vui thích được sống thêm vài giờ mới mẻ của sự đau khổ.

Chương 7

Trong khi họ tiến bước, không có gì chứng tỏ với các tù nhân là họ không đi quay trở lại những nơi mà họ đã đi qua hồi khuya tới buổi chiều khi mặt trời lên. Những quả đồi đen xẫm và cát vàng theo dọc bờ sông đã biến mất từ lâu rồi, họ thấy mình đang ở giữa một cánh đồng chập chùng, màu nâu với những hòn đá cuội tròn trịa, rải rác những cụm cỏ của lạc đà, và nó chạy dài mãi tới một dãy đồi tím, ở đằng xa trước mặt họ. Mặt trời còn chưa mọc khá cao để gây ra những ánh phản quang long lanh của miền nhiệt đới và cái phong cảnh mênh mông hiện ra với một sự rõ ràng tuyệt đối trong ánh sáng trong trẻo. Ðoàn người dài bước theo nhịp lê lết của những con lạc đà có đóng yên. Ở hai bên hông đoàn người, những tên lính do thám dừng lại ở mỗi chỗ gò cao, và xem xét chân trời phía đông trong lúc che mắt lại. 

"Theo ý ông thì chúng ta ở cách sông Nil bao nhiêu xa?" ông đại tá hỏi. 

Chính ông cũng luôn luôn ngoảnh lại để đo lường sự bao la của sa mạc. 

"Ít nhất là tám mươi cây số! " Belmont trả lời. "Không nhiều thế đâu!" ông đại tá cãi lại. "Chúng ta đã không đi quá mười lăm hay mười sáu giờ, và một con lạc đà không đi được trên bốn cây số một giờ nên nó không chạy nước kiệu. Ðiều này rút bớt khoảng cách chừng sáu mươi hay sáu mươi lăm cây số: tuy nhiên thật quá xa, tôi sợ thế, để cho chúng ta được giải cứu. Tôi không nghĩ rằng thời hạn ban cho chúng ta sẽ giúp chúng ta được điều gì lớn lao đâu. Chúng ta có gì để hy vọng? không có gì khác ngoài cái số mạng đang đợi chúng ta!" 

"Chớ có chán nản!" người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn. "Chuông báo chính ngọ chưa rung mà, phải làm nhu thể, Hamilton và Hedley, trong đạo binh lạc đà đều là những chàng trai dũng cảm, họ phải xông vào theo các dấu vết của chúng ta. Họ không có những con lạc đà đóng yên để làm họ phải chậm trễ, tôi cam đoan với ông! Tối hôm qua khi tôi dùng bữa với họ ở câu lạc bộ và khi họ giải thích với tôi cách thức họ chống trả lại một cuộc cướp bóc, tôi đã không nghĩ rằng tính mạng của chúng sẽ lệ thuộc vào họ". 

"Cũng được, chúng ta sẽ theo đuổi cuộc chơi cho tới cùng!" Cochrane nói. "Nhưng tôi không có nhiều hy vọng lắm. Tất nhiên là chúng ta sẽ phải làm ra bộ cứng cỏi trước các phụ nữ. Tôi nhận thấy rằng Tippy Tilly là một người đúng mực, vì năm tên da đen này và hai tên Ả Rập đen xạm kia đúng là những người bạn mà y đã nói với chúng ta. Họ không rời xa nhau, vẫn đứng ngang tầm với chúng ta; nhưng tôi tự hỏi họ sẽ có thể làm được điều gì để giúp chúng ta". 

"Tôi đã lấy lại khẩu súng lục của tôi rồi.... ", Belmont nói thầm thào. 

Ông nghiến răng và co giật hai quai hàm trước khi nói tiếp: 

- ...Nếu chúng liều mạng đùa với các phụ nữ, tôi nhất quyết hạ sát cả ba người trong bọn họ bằng chính tay tôi, sau đó chúng ta sẽ chết, linh hồn thanh thản hơn! 

"Ông là một anh chàng phong nhã!" ông đại tá lẩm bẩm. 

Họ im tiếng. Vả lại cũng không ai nói nhiều cả. Một cảm giác mơ hồ không thể diễn tả được đang tràn ngập tất cả bọn họ, làm như họ đã nuốt một viên ma túy. Bao giờ tạo hóa cũng cho ta một thứ thuốc an thần khi một cơn biến động khốc liệt đã kích thích quá nhiều thần kinh của ta, sự thanh thản an bình của nỗi tuyệt vọng đã chiếm ngự lòng họ. 

"Thật là đẹp một cách ma quỉ!" Cochrane thở dài khi nhìn chung quanh ông. "Tôi thường nghĩ rằng tôi thích được chết trong làn sương mù vàng, lành mạnh của Luân Ðôn, nhưng chúng ta sẽ có thể thấy sự tệ hại hơn". 

"Còn tôi, thì tôi thích chết trong lúc ngủ" Sadie nói. "Thật là một điều kỳ diệu khi thức dậy và thấy mình đang ở một thế giới khác! Ở đại học, Henry Smith luôn luôn nhắc nhở chúng tôi: "Ðừng nói với tôi một đêm tốt lành", mà hãy cầu chúc cho tôi "một buổi sáng tốt đẹp trong một thế giới hoàn mỹ". 

Bà cô theo thanh giáo của nàng lắc đầu. 

- Sadie này, trình diện trước đấng tối cao mà không có sự chuẩn bị thì thật là khủng khiếp! 

"Chính sự cô đơn của cái chết mới là khủng khiếp". Bà Belmont nói. "Nếu chúng ta cùng chết một lúc với tất cả những người mà chúng ta yêu mến thì chúng ta sẽ hình dung cái chết một cách đơn giản như một sự thay đổi chỗ ở". 

"Nếu sự bất hạnh xảy ra, chúng ta sẽ không bị cô độc" , ông chồng bà đính chính. "Tất cả chúng ta sẽ cùng đi với nhau, và ở thế giới bên kia chúng ta sẽ gặp Brown, Headingly và Stuart đang chờ đợi chúng ta". 

Người đàn ông Pháp nhún vai, ông không tin ở một kiếp sống khác sau cái chết, nhưng ông ghen tị với hai người công giáo về sự thanh thản trong lòng tin của họ. Ông cười thầm khi nghĩ tới các bạn ông ở tiệm cà phê Cubat sẽ nói gì nếu họ biết rằng ông đã hy sinh mạng sống trên bàn thờ của tín ngưỡng Cơ đốc, cái ý nghĩ này càng làm ông thấy vui vui, thì nó lại càng làm ông bực bội, việc này không ngăn cản ông săn sóc cái cổ tay bị thương của ông như một bà mẹ ấp ủ đứa bé đau ốm của bà. 

Ngang qua bãi sa mạc lởm chởm đá, một đường màu vàng dài và mỏng theo hướng từ Bắc tới Nam vừa mới hiện ra. Đó là một giải cát mà bề rộng không quá vài trăm mét và những chỗ phình lên cũng không vượt quá ba mét bề cao. Các tù nhân kinh ngạc khi thấy những tên Ả Rập ngắm nhìn nó với một nét mặt cực kỳ áy náy: khi chúng đi tới trước cái mép của nó, chúng dừng lại giống như khi chúng đứng trên bờ một con sông không lội qua được. Loại cát này rất nhẹ, nhiều bụi bặm, mổi luồng gió nhẹ cũng làm bay tung lên như một đám mây những con ruồi nhỏ, tù trưởng Abderrahman cố thúc con lạc đà của y vào bên trong, nhưng đi được hai hay ba bước thì con vật đứng khựng lại, rên rỉ vì khiếp sợ. Hai tên chỉ huy bàn bạc với nhau một lát, rồi đoàn người đi về hướng Bắc, để lại giải cát ở phía bên trái họ. 

"Có chuyện gì vậy?" Belmont hỏi anh thông ngôn. "Tại sao chúng ta không tiếp tục đi thẳng về hướng Tây?" 

"Cát di động", Mansoor trả lời. Thỉnh thoảng gió cuốn cát đi thành một vạch dài như cái vạch kia. Ngày mai nếu gió nổi lên, có lẽ sẽ không còn lại một hạt nào, nhưng tất cả đống cát kia sẽ du ngoạn trên không trung. Có lần một người Ả Rập bị buộc phải rẽ ngang ra tới tám mươi hay một trăm cây số để đi vòng qua một dải cát di động. Nếu y muốn bước qua nó thì con lạc đà của y sẽ bị gẫy chân, và chính y cũng sẽ bị hút vào và nuốt chửng". 

- Chiều dài của cái dải này là bao nhiêu? 

- Không ai biết gì về nó cả. 

- Này ông Cochrane, đó là diều thuận lợi cho chúng ta! Cuộc truy lùng càng dài thì những con lạc đà còn sung sức càng có nhiều cơ may. 

Ðã đến lần thứ một trăm Belmont quay đầu lại để quan sát chân trời phía sau họ: bãi sa mạc rộng lớn lúc nào cũng nâu và ảm đạm nhưng không có một chút lấp lánh của ánh thép, không có sự óng ánh của một cái mũ trắng. 

Chẳng mấy chốc họ đi tới chỗ tận cùng của vật chướng ngại đã ngăn cản bước tiến của họ về hướng Tây. Dải cát kéo dài trong khi co hẹp lại, khi nó trở thành đủ hẹp để có thể bước qua bằng một cái nhảy, tuy nhiên những người Ả Rập thích đi dọc theo nó trong nhiều trăm mét nữa hơn là đi qua nó. Nhưng khi những con lạc đà lại thấy mặt đất tốt và rắn trước mặt chúng thì chúng bị thúc chạy nước kiệu và những tù nhân bị lắc lư trong một thứ chòng chành và nghiêng ngả kết hợp với nhau. Thoạt đầu họ mỉm cười về chuyện này; nhưng trò chơi đã mau lẹ biến thành bi kịch khi bệnh "say lạc đà" khủng khiếp làm họ đau đớn khắp mình mẩy và xương sống. 

- Cô không chịu được nữa rồi, Sadie ạ! Cô Adams kêu lên. Cô đã làm những gì cô có thể làm. Cô sắp ngã đây này. 

- Không, cô ơi, không! Nếu cô để mình bị ngã thì cô sẽ gãy xương. Hãy cố gắng thêm một chút; có lẽ họ sắp dừng lại đó! 

- Cô hãy tựa người về đằng sau, ông đại tá nói, và nắm lấy mạn sau cái yên. Thế đó. Tư thế này làm dễ chịu... 

Ông tháo tấm mạng trên mũi của ông, buộc hai đầu lại và cột nó vào cái mấu phía trước của cái yên. 

- Luồn bàn chân cô vào cái vòng, như thể nó là một cái chân nâng... 

Sự thoải mái đến ngay tức thì. Stephens cũng làm việc đó cho Sadie. Nhưng sau đó một lát, một trong những con lạc đà sụm xuống vì mệt nhọc, trong một tiếng lách cách khô khan, những bàn chân nó xoạc ra như thể nó bị xé thành nhiều mảnh; đoàn lữ hành phải sử dụng lại một nước đi chừng mực hơn. 

- Ở đằng kia không phải là một dải cát di động nữa hay sao ? ông đại tá hỏi. 

- Không, đó là một dải trắng. Belmont trả lời. Này, Mansoor, cái gì ở đằng trước chúng ta thế? 

Anh thông ngôn lắc đầu. 

- Thưa ông, tôi không biết gì cả. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó. 

Từ Bắc tới Nam, một vạch trắng kéo dài ra, cũng thẳng tắp và rõ ràng như thể nó được kẻ bằng phấn. Nó rất mỏng, nhưng nó trải dài từ chân trời này tới chân trời kia. Tippy Tilly chỉ dẫn cho Mansoor. 

- Ðó là con đường lớn của những đoàn lữ hành, ông thông ngôn giải thích. 

- Vậy thì cái gì làm cho nó trắng như thế? 

- Những hài cốt. 

Thật không thể tin được, nhưng có thật! Khi họ đi tới gần, họ nhận thấy quả thực đó là một lối đi băng qua sa mạc, bị khoét sâu xuống bởi sự dẫm đạp của những con vật và những con người, và được cắm mốc một cách quá phong phú bằng những bộ xương người khiến cho người ta ấn tượng của một dải khăn trắng dài liên tu bất tận. Những con vật nằm duỗi dài, nom ghê gớm cắm mốc trên con đường, trong khi ở nhiều chỗ những dãy xương sườn nối tiếp nhau quá gần khiến người ta tính nói đó là cái xác của một con rắn quái dị. Con đường trắng lậpp lòe dưới ánh mặt trời như thể nó được lát bằng ngà. Từ mấy ngàn năm nay nó đã là con đường lớn xuyên qua sa mạc và tất cả những con vật của vô số kể các đoàn lữ hành đã chết ở đó đều được bảo tồn bởi không khí khô ráo và sát trùng. Do đó người ta không phải ngạc nhiên là không thể dẫm lên con đường mà không đồng thời dẫm lên những bộ xương của chúng. 

- Ðây hẳn là con đường mà tôi đã nói với cô, Stephens nói. Tôi nhớ là đã nói tới nó trên tấm bản đồ mà tôi đã vẽ cho cô, cô Adams ạ. Sách chỉ nam của Baedeker nói là nó đã không được sử dụng từ khi cuộc nổi loạn của bọn thầy tu Hồi giáo làm gián đoạn mọi việc buôn bán, nhưng nó là con đường chính cho phép da thú và nhựa cây ở Darfour đi xuống tới Ai Cập Hạ. 

Họ nhìn con đường với sự hững hờ: số phận của chính họ đã làm cho họ bận tâm khá nhiều rồi. Tới đó đoàn lữ hành đi theo hướng Nam bằng cách đi theo con đường cũ. Con đường Golgotha này (theo Kinh Thánh, đó là con đường mà Chúa Ki - Tô đi tới nơi bị hành quyết, con đường chết) thật đúng là con đường thích hợp với nỗi thống khổ đang chờ đợi họ. 

Giờ phút quyết định tới gần : số phận sắp đùa với họ. Bị kinh hoàng vì những viễn tượng rùng rợn mà ông hình dung ra đối với các phụ nữ, đại tá Cochrane, phải cố nén tính kiêu ngạo và cầu khẩn những lời khuyên của anh thông ngôn bội giáo, Mansoor là một tên đểu cáng và hèn nhát, nhưng vốn là người Ðông phương nên hắn hiểu tính tình của người Ả Rập. Sự trò chuyện đã làm dễ dàng việc giao dịch của hắn với bọn thầy tu Hồi giáo, và hắn đã làm cho chúng nói năng dông dài. Tâm tính cứng rắn và quý tộc của Cochrane nổi lên chống cự dữ dội với ý nghĩ đi cầu khẩn lời khuyên của một con người như thế; cuối cùng, khi ông quyết định làm việc đó, ông nói với một giọng khản khản nhất và ít hòa dịu nhất. 

- Anh biết rõ những tên kẻ cướp này, và anh có cùng một cách suy nghĩ về các biến cố như chúng, ông nói: Mục đích của chúng tôi là kéo dài tình trạng này trong hai mươi bốn giờ đồng hồ nữa. Một khi thời hạn đó trôi qua rồi, chúng tôi ít còn quan tâm "tới những gì: sẽ tới với chúng tôi nữa, vì chúng tôi sẽ không còn hy vọng được giải cứu nữa. Vậy làm cách nào để lần khân thêm được một ngày nữa? 

- Ông đã biết những gì tôi nghĩ về việc này, anh thông ngôn trả lời. Tôi đã nói với ông điều đó rồi. Nếu các ông làm như tôi, chắc chắn là các ông sẽ tới được Khartoum một cách yên ổn, khỏe mạnh. Bằng không thì các ông sẽ không còn sống để rời khỏi chỗ trạm dừng chân sắp tới của chúng ta. 

Cái mũi cong của ông đại tá lại vểnh lên và hai gò má gầy ốm của ông ửng đỏ. Ông lặng lẽ tiến bước trong một lúc, vì thời gian phục vụ ở Ấn Ðộ đã tạo cho ông một tính nết lì lợm, và những cuộc phiêu lưu mới đây lại bổ sung thêm cho ông đôi chút ranh mãnh. ông đợi tới lúc có thể nói chuyện một cách điềm tĩnh. 

- Hãy gác ý kiến đó sang một bên, cuối cùng ông nói. Có những việc có thể làm được và có những việc khác không thể làm được. Việc đó không thể làm được. 

- Ông chỉ cần làm giả bộ là cải giáo. 

- Việc đó đã nói nhiều rồi! 

Mansoor nhún vai. 

- Ông hỏi ý kiến tôi làm gì, nếu ông tức giận khi tôi cho ông biết ý kiến của tôi? Nếu ông không muốn hành động như lời tôi khuyên thì ông hãy cứ làm việc gì mà ông cho là phải đi. Ít nhất ông sẽ không thể nói là tôi đã không làm hết sức mình để cứu các ông. 

- Tôi không tức giận, ông đại tá trả lời với một giọng đỡ khô khan hơn. Nhưng như thế sẽ là hạ thấp chúng tôi tới quá mức mà chúng tôi có thể chịu đựng. Tôi nghĩ tới một việc khác. Có thể anh sẽ bằng lòng nói cho cái lão thầy tu và tên thầy giảng kia biết rằng chúng tôi đã bắt đầu nao núng. Với cái hố sâu mà chúng tôi đang bị lún xuống, tôi không nghĩ rằng hắn ta cho việc đó là bất bình thường. Rồi tới khi hắn ta tới giảng dạy cho chúng tôi, chúng tôi sẽ có thể đóng kịch giả vờ là quan tâm tới các bài giảng của hắn, yêu cầu hắn hoàn chỉnh sự học hỏi của chúng tôi và như vậy để kéo dài công việc trong hai mươi bốn tiếng hoặc bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Anh không nghĩ đó là ý kiến tốt nhất hay sao? 

- Các ông sẽ làm điều gì các ông muốn, Mansoor nói. Tôi chỉ cho các ông biết ý kiến của tôi một lần thôi. Nên ông muốn tôi nói với tên thầy giảng, tôi sẽ nói với hắn. Hắn là cái người nhỏ thó, tròn xoe, có vẻ hiền lành, có chòm râu bạc, ngồi trên con lạc đà màu hạt dẻ. Tôi có thể đoan chắc với ông rằng hắn đã nổi tiếng là một tay đạo sư giỏi trong việc cải đạo cho những kẻ vô tín ngưỡng, và danh tiếng của hắn là sự kiêu hãnh của hắn, và chắc chắn là hắn sẽ thích thấy các ông được tha chết, nếu hắn nghĩ rằng có cơ may cải giáo cho các ông theo đạo Hồi. 

- Nói với hắn rằng chúng tôi có tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón tiếp những hạt mầm tốt, ông đại tá khẩn khoản nói. Tôi không tin rằng ông mục sư sẽ còn sống tới lúc đó, nhưng vì ông đã chết nên chúng tôi có thể làm sự nhượng bộ này. Mansoor, đi tìm hắn đi và nếu anh làm việc tốt, chúng tôi sẽ quên những chuyện đã qua. Nhân tiện tôi hỏi, Tippy Tilly có nói gì với anh không?  

- Thưa ông, không. Hắn đã tụ tập những người của hắn ở quanh hắn, nhưng hắn vẫn chưa tìm ra cách để giúp các ông. 

- Tôi cũng chưa có cách gì cả. Anh đi gặp tên thầy giảng đi, trong khi tôi cho những người khác biết về kế hoạch của chúng ta. 

Tất cả các tù nhân đều tán thành kế hoạch của ông đại tá ngoại trừ cô gái già ở Tân Anh Cát Lợi (Nouvelle Angleterre trên đất Mỹ) là thẳng thắng bác bỏ việc giả vờ có một mối quan tâm nào đó với đạo Hồi. 

- Tôi nghĩ rằng tôi đã quá già để quỳ gối trước thần Baal! Cô nói. 

Trước những lời năn nỉ của ông đại tá, cuối cùng cô đã hứa là cô sẽ không biểu lộ sự phản đối về những gì mà các bạn cô sẽ có thể nói hay làm. 

- Và ai sẽ ra tranh luận với tên thầy giảng kia? Fardet hỏi. Ðiều quan trọng là cuộc tranh luận phải diễn ra một cách hết sức tự nhiên, vì nếu hắn cho rằng chúng ta chỉ cố tìm cách kéo dài thời gian, hắn sẽ từ chối không giảng dạy thêm cho chúng ta nữa. 

- Tôi thấy rằng, Cochrane sẽ phải đảm trách việc này bởi vì ý kiến xuất phát từ ông, Belmont nói. 

- Xin tha lỗi cho tôi! Người đàn ông Pháp nói lớn. Tôi không muốn nói điều gì chống lại ông bạn đại tá của chúng ta, nhưng không thể nào cùng một người mà lại vượt trội về mọi thứ được. Nếu ông ấy đảm trách việc này tức là đi thẳng tới sự thất bại; tên thầy giảng sẽ phát hiện ngay ra mánh khóe của ông đại tá. 

- Ông tin vậy à ? Ông đại tá hỏi với vẻ uy nghi. 

- Phải, ông bạn ạ, hắn sẽ đọc thấy ở ông! Cũng giống như phần lớn các đồng bào của ông, ông hoàn toàn thiếu cảm tình đối với các tư tưởng của những dân tộc khác, và đó chính là khuyết điểm lớn mà tôi thường trách cứ nước các ông. 

- Ồ, hãy dẹp chuyện chính trị đi! Belmont không nhịn được nữa. 

- Tôi không nói chuyện chính trị! Tôi nói chuyện thực tế. Làm cách nào mà đại tá Cochrane có thể làm cho tên thầy giảng tin rằng ông thực sự quan tâm tới tôn giáo của hắn, trong khi đối với hắn thì trên thế giới không còn một tôn giáo nào khác ngoài tôn giáo mà cái giáo phái nhỏ bé từng nuôi dạy hắn đã nhồi nhét cho hắn? Tôi xin nói thêm cho ông đại tá biết là tôi tin chắc rằng ông không có một chút tính nết nào của kẻ đạo đức giả. Ông sẽ không bao giờ có thể đóng màn kịch đủ khéo để đánh lừa tên Ả Rập đó!  

Ông đại tá có một cái lưng cứng cỏi và bộ mặt cương nghị của một người đang tự hỏi rằng ông có nên coi đó là bị sỉ nhục hay được tán tụng. 

- Vậy thì ông hãy đảm nhận cuộc tranh luận đi, nếu ông thích làm việc này, cuối cùng ông nói. Tôi rất sung sướng được thoát khỏi công việc khổ cực này. 

- Quả thật tôi nghĩ rằng tôi là người thích hợp nhất với nhiệm vụ này, vì tất cả các tôn giáo đều làm cho tôi quan tâm như nhau. Khi tôi tìm hiểu, thì thật sự là tôi mong muốn được hiểu biết, chứ không phải để đóng một vai trò. 

- Ðiều tốt nhất chắc chắn là việc ông Fardet đảm trách chuyện này, bà Belmont nói với một giọng quả quyết, giọng nói của bà đã tập hợp được sự nhất trí của mọi người. 

Mặt trời lúc này đã lên cao, và nó làm lóe sáng những bộ xương trắng cắm mốc trên đường. Khổ hình của sự khát nước lại hành hạ những tù nhân. Trong lúc họ bước đi, hình ảnh cái phòng trên tàu Korosko nhảy múa trước mặt họ như một ảo ảnh; họ nhìn thấy những khăn bàn ăn và những khăn mặt trắng tinh, cái thẻ của những chai rượu nho, những cái cổ dài của những cái chai, những chai nước có khí hơi. Sadie, người vẫn khỏe khoắn, tỉnh táo cho tới lúc này, bỗng nhiên lên một cơn u uất thật sự, và những tiếng cười vô cớ sắc nhọn của nàng đã làm các bạn đồng hành của nàng bực bội một cách khủng khiếp. Bà cô của nàng và ông Stephens cố hết sức làm nàng im tiếng cười, và sau một lát cô thiếu nữ kiệt sức, bị huyết áp lên cao, đã chìm vào trạng thái nửa chừng giữa giấc ngủ và sự hôn mê, chỉ còn níu lấy một cách lỏng lẻo cái núm của cái yên, chắc chắn là nàng sẽ ngã nếu nàng không được mọi người vây quanh nâng đỡ những con vật tải đồ cũng mệt mỏi như các người cưỡi chúng; những người này phải luôn tay kéo sợi dây thừng buộc vào đai bịt mồm, để ngăn không cho chúng quỵ xuống. Từ chân trời này tới chân trời nọ, trải dài cái vòm mông mênh của bầu trời xanh không một vết gợn; mặt trời lầm lì bò dọc theo cái lòng chảo dữ dội của nó. 

Họ vẫn đi dọc theo con đường mòn cũ, nhưng họ đi rất thong thả. Nhiều lần hai tên tù trưởng tới xem xét những con lạc đà chở các tù nhân, và chúng lắc đầu. Con vật chậm chạp nhất do một tên lính Soudan bị thương cưỡi; nó đi khập khiễng và nó chỉ giữ được ngang hàng với những con khác nhờ sự thêm sức của những nhát roi. Tù trưởng Wad Ibrnhim giơ súng lên, tì vào vai và bắn một phát đạn vào đầu nó. Người lính bị thương ngã xuống bên cạnh con vật hắn cưỡi. Những người bạn trong cơn bất hạnh quay đầu lại và thấy hắn lảo đảo đứng dậy. Ngay cùng lúc đó một tên baggara từ trên mình lạc đà nhảy xuống, thanh gươm trong tay. 

- Chớ có nhìn! Belmont nói lớn với các phụ nữ. 

Tất cả bọn họ đều quay đầu về hướng Nam. Họ không nghe thấy một tiếng ồn nào. Nhưng một lát sau tên baggara đuổi kịp bọn họ. Hắn chùi thanh gươm lên lông cổ con lạc đà của hắn, lúc đi qua hắn nở một nụ cười nham hiểm với họ, nhe tất cả hàm răng trắng ởn của hắn ra. Nhưng những con người đang ở mức độ thấp nhất trong sự khốn khổ của loài người ít nhất cũng có một sự bảo đảm về tương lai: nụ cười khả ố này sẽ làm cho họ phát run lên hai mươi bốn giờ trước đây, nhưng lúc này thì nó chỉ gợi lên trong lòng họ một sự bất cần khinh bỉ. 

Nếu họ mà ở trong tình trạng quan sát con đường mòn cũ kỹ của khách thương này với con mắt người du ngoạn thì họ đã chú ý tới rất nhiều điểm đáng quan tâm. Chỗ này, chỗ nọ còn thấy những cảnh hoang tàn suy sụp của những tòa lâu đài cổ, cổ quá đến nỗi chúng thách đố lịch sử, nhưng chúng đã được xây dựng vào thời một nền văn minh rất xa xưa với mục đích cung cấp cho các lữ khách một nơi tránh nắng và một chỗ trú ẩn chống lại bọn kẻ cướp. Những viên gạch đất bùn được dùng trong việc xây dựng chúng chứng tỏ rằng các vật liệu đã được chuyên chở từ sông Nil tới. Một lần đứng trên chóp đỉnh của một khu đất nhỏ gồ lên họ thấy một khúc cột bằng đá hoa cương đỏ ở Assouan bị gãy; nó được trang hoàng hình tượng có cánh của vị thượng đế Ai Cập với khuôn ảnh của hoàng đế Ramsès ÌI. Sau ba ngàn năm không có cách nào để tránh khỏi những dấu vết không thể xóa bỏ được của ông vua ham chiến trận! Ðối với các tù nhân khuôn ảnh này là một biểu tượng của hy vọng, dấu hiệu là họ vẫn chưa rời khỏi phạm vi ảnh hưởng của người Ai Cập. 

- Ngày xưa họ đã để danh thiếp lại, Belmont nói. Tại sao họ không tới để danh thiếp lại một lần nữa? 

Và mọi người đều gắng gượng mỉm cười. 

Rồi họ đi tới trước một quang cảnh nhìn rất đã mắt, chỗ này, chỗ nọ, trong nhữmg nơi đất lõm, ở hai bên con đường mòn, họ nhìn thấy một vài cọng cỏ, sự hiện diện này có nghĩa là nước không cách xa mặt đất. Ðột nhiên con đường mòn đi sâu vào một lòng chảo lớn, dưới đáy lòng chảo là một khu rừng nhỏ những cây cọ trông thật mê hồn và một bãi cỏ xanh rờn tráng lệ. Mặt trời chiếu sáng chan hòa cái vệt có màu sắc trong sáng và tươi tắn này, ánh nắng làm nó lóng lánh như một viên ngọc bích thuần khiết được nạm vào miếng đồng bóng loáng. Nhưng vẻ đẹp của ốc đảo không làm quên được những hứa hẹn chứa chất trong nó: nước, bóng mát, tất cả những thứ mà những kẻ lữ hành đã kiệt sức có thể mong ước. Ngay cả Sadie cũng tỉnh lại khi nàng nhìn thấy phong cảnh tươi tốt này, những con lạc đà mệt lử lại đứng lên và bắt đầu chạy nước kiệu trong khi thở hít khí trời. Sau sự khắc nghiệt tàn nhẫn của sa mạc, các tù nhân không thể nhìn thấy điều gì tốt đẹp hơn nữa. Họ ngắm nghía bãi cỏ trên đó những bóng đen của các cây cọ đổ dài, rồi họ ngẩng mặt lên nhìn những tàu lá xanh lớn nổi bật lên trong màu xanh của nền trời và họ quên đi cái chết cận kề của họ trước vẻ đẹp của Tạo hóa mà trong lòng của Người họ sắp trở về. 

Ở giữa rừng cây có bảy cái giếng; cần phải thêm vào đó hai cái vũng nhỏ chứa đầy môt thứ nước màu than bùn. Những con lạc đà và mọi người chạy xô tới uống lấy uống để. Sau đó bọn Ả Rập cột những con vật lại và trải chiếu dưới bóng cây để ngủ. Các tù nhân lãnh được một suất chà là và những cái bánh khô; họ được cho biết rằng họ có thể làm những gì họ muốn trong lúc nóng nực lúc ban ngày, và tên thầy giảng sẽ tới thăm họ trước khi mặt trời lặn. Các phụ nữ được hưởng bóng mát dày hơn của một cây keo; những người đàn ông thì nằm dài ra dưới những cây cọ. Những tàu lá xanh kêu sột soạt một cách nhẹ nhàng bên trên đầu họ. Họ nghe thấy tiếng líu lo không rành rọt của các giọng nói Ả Rập, tiếng dậm chân của những con lạc đà; rồi thì do kết quả của một phép lạ bí ẩn và không thể hiểu được, người thì thấy mình đang đứng trong một thung lũng xanh tươi ở Ái Nhĩ Lan, người khác thì trông thấy viên cảnh của đại lộ Commonwealth, người thứ ba thì đang ăn ở một cái bàn nhỏ trước pho tượng bán thân của Nelson tại Câu lạc bộ Lục quân và Hải quân và tiếng xào xạc của những tàu lá trở thành tiếng các xe cộ đang chạy ở trong Pall Mall (con đường ở đó có trò chơi dùng vồ gỗ đánh những trái bóng gỗ). Cứ như vậy tâm tri họ di lang thang mỗi người một phía trên con đường của những ký ức riêng tư, trong khi thể xác buồn thảm của họ nằm trơ bên nhau, dưới những cây cọ của một ốc đảo trong sa mạc nước Libye.

Chương 8

Đại tá Cochrane bị kéo ra khỏi giấc ngủ bởi một người nào đang lay vai ông. Mắt ông mở ra sát với khuôn mặt đen lo sợ của Tippy Tilly. Người cựu pháo thủ Ai Cập để một ngón tay cong queo của hắn lên cặp môi dày cui, và hắn không ngừng nhìn hết bên phải tới bên trái. "Nằm yên! Chớ động đậy!" Hắn nói thì thào bằng tiếng Ả Rập. Tôi sẽ nằm xuống bên cạnh ông; người ta sẽ không phân biệt được tôi với những người khác, ông có thể hiểu những gì tôi nói với ông không?" 

- Có, nếu anh nói thong thả 

- Được. Tôi không đặt nhiều lòng tin vào thằng cha Mansoor kia, tôi muốn nói chuyện trực tiếp với ông chỉ huy 

- Anh có điều gì muốn nói với tôi? 

- Tôi chờ đợi đã lâu cho tới lúc tất cả bọn chúng đã ngủ say. trong một giờ nữa chúng tôi sẽ đọc kinh buổi chiều. Trước hết đây là một khẩu súng lục, ông sẽ không thể nói là ông không có vũ khí. 

Đó là một khẩu súng kiểu cổ, nhưng ông đại tá thấy ngay là nó đã được nạp đạn. Ông luồn nó vào túi áo trong của áo mặc ngoài của ông. 

- Cám ơn! Xin hãy nói thật thong thả để tôi có thể hiểu được ạnh 

- Chúng tôi có tám người muốn trở về Ai Câp. Trong nhóm các ông, ông có bốn người đàn ông. Một người trong bọn chúng tôi, Mahomet Ali, đã cột tất cả mười hai con lạc đà. Đó là những con nhanh nhất, kể cả những con của hai tù trưởng. Có những tên canh gác, nhưng chúng đứng rải rác trong mỗi xưởnng. Mười hai con lạc đà đứng rất gần chỗ chúng tôi: phía sau cây keo. Nếu chúng ta cưỡi lên chúng và ra đi thì tôi nghĩ sẽ không có nhiều con khác có thể đuổi kịp chúng ta; ngoài ra những khẩu súng của chúng ta sẽ loại trừ chúng. Bọn lính gác không đủ nhiều để chặn bắt mười hai người chúng ta. Những túi da đựng nước đều còn đầy. Chúng ta sẽ có thể lại nhìn thấy sông Nil vào chiều nay. 

Ông đại tá không nắm vững được tất cả nhưng ông cũng hiểu khá đủ để cho niềm hy vọng lại trỗi dậy trong lòng ông. Cái ngày cuối cùng đã để lại dấu vết một cách khủng khiếp trên bộ mặt xanh mét của ông, tóc ông trở nên bạc hết. Người ta có thể nghĩ ông là cha của viên sĩ quan được chăm nom kỹ. Chúng đã đi dạo những bước chân quân cách trên boong tàu Korosko 

- Rất hay - ông nói - Nhưng còn những người đàn bà? 

Anh lính da đen nhún vai 

- Mặc kệ họ. - hắn nói - Một người thì đi Siria rồi. Và dù sao thì khi chúng ta trở về Ai Cập, chúng ta sẽ không thiếu đàn bà. Về phần những người này, sẽ không có gì nguy hiểm xảy ra với họ đâu. Họ sẽ được gởi tới hậu cung của Quốc vươg. 

- Anh nói những chuyện vớ vẩn. - ông đại tá tuyên bố một cách nghiêm khắc - Hoặc là chúng tôi mang những người đàn bà đi với chúng tôi, hoặc chúng tôi sẽ không đi. 

Anh lính da đen bực tức: 

- Tôi nghĩ là chính ông mới nói những chuyện vớ vẩn! - Hắn nói lớn. - Làm sao ông lại có thể đòi hỏi chúng tôi và các bạn của tôi phải dấn thân vào một cuộc mạo hiểm mà cuối cùng sẽ bị thất bại? Chúng tôi đã chờ đợi cơ hội nhiều năm rồi. Hôm nay cơ hội tới, ông lại bắt chúng tôi đuổi nó đi vì những người đàn bà! 

- Chúng tôi đã hứa với anh những gì nếu chúng tôi trở về được Ai Cập? - Cochrane hỏi 

- Hai trăm bảng Ai Cập và sẽ thăng cấp trong quân đội Tất cả trong lời hứa danh dự của một người Anh 

- Tốt lắm. Các anh sẽ lãnh được mỗi ngườl ba trăm bảng, nếu các anh triển khai một kế hoạch khác cho phép chúng tôi mang theo những người đàn bà. 

Tippy Tilly lấy tay gãi cái đầu tóc rậm bù xù của hắn với vẻ bối rối 

- Chắc chắn là chúng tôi sẽ có thể bịa ra một lý do nào đó để đem tới đây ba con lạc đà nhanh nhẹn khác. Nói thật ra còn ba con ngựa vẫn còn rất tốt trong đám những con được cột ở gần đống lửa. Nhưng làm thế nào để cho những người đàn bà cưỡi lên? Mà ngay cả khi chúng ta có thể nâng họ lên trên lưng chúng, chúng ta cũng biết chắc rằng họ sẽ ngã ngay khi những con vật bắt đầu phi nhanh Tôi cũng đã sợ rằng các ông, những người đàn ông, các ông cũng bị ngã, vì không phải là chuyện dễ để giữ được thăng bằng trên lưng một con lạc đà đang phi nước đại. Còn về những người đàn bà, đừng nói tới họ nữa? Không, chúng ta sẽ để những người đàn bà ở đây, và nếu các ông không muốn bỏ rơi họ, thì chúng tôi sẽ bỏ rơi tất cả các ông, và chúng tôi sẽ đi một mình 

- Được lắm? Hãy đi đi! ông đại tá nói một cách khô khan 

Và Cochrane lại nằm xuống để ngủ tiếp, ông biết rằng với những người Đông phương, chính kẻ im lặng không nói mới là kẻ đạt được mục đích. 

Tên da đen đi khỏi và bò tới chỗ một tên trong bọn bạn của hắn, Mahomet Ali, người trông coi lũ lạc đà. 

Cả hai tên bàn bạc một lúc, và cuối cùng thì người ta không từ bỏ một cách khinh suất ba trăm đồng tiền vàng 

Tên da đen trở lại chỗ ông đại tá, vẫn bằng cách bò choài 

- Mahomet Ali đồng ý. - hắn nói. - Hắn đã đi kiếm ba con lạc đà kia. Nhưng thật là điên rồ, và tất cả bọn chúng ta đều đi tới chỗ chết. Xin ông cùng đi với tôi, phải đánh thức những người đàn bà dậy và nói cho họ biết 

Ông đại tá lay các bạn của ông và thì thầm nói cho họ nghe về kế họạch của Tippy Tilly. Balmont và Fardet thì sẵn sàng đảm nhận bất cứ một sự rủi ro nào. Stephens là người đã hình dung một cách khá lạnh lùng viễn cảnh một cái chết thụ động. nay bị kinh họàng vì đề nghị của một hành đông tích cực để tránh cái chết; ông run rẩy tất cả chân tay, ông rút quyển sách chỉ nam ra và bắt đầu làm nhiệm vụ soạn thảo bản chúc thư của ông trên trang đầu quyển sách nhưng tay ông run đến nỗi chữ viết của ông không thể đọc được. Do một sự tập luyện kỳ cục của một linh thần pháp lý, cái chết, ngay cả có kèm theo nhiều bạo lực, nhưng được chấp nhận một cách điềm tĩnh vẫn có chỗ đứng trong trật tự hiện hữu của các sự vật. trong khi một cái chết đánh gục một người đang cưỡi lạc đà chạy một cách điên dại qua bãi sa mạc đối với ông có vẻ họàn toàn bất bình thường và hỗn lọan. Ông không sợ bị biến mất khỏi thế giới của những người sống. Nhưng ông sợ sự nhục nhã và sự thống khổ do một cuộc tranh đấu vô lý và uổng công chống lại cái chết làm nảy sinh 

Đại tá Cochrane và Tippy Tilly đi cùng tới chỗ bóng mát của cây keo lớn, nơi mà những phụ nữ đang nằm duỗi dài - Sadle và bà cô của nàng ôm nhau mà ngủ; đầu của cô thiếu nữ gối lên ngực bà già người Mỹ- Bà Belmont được đánh thức dậy; bà đồng ý ngay tức thì. 

- Nhưng các ông phải để tôi ở lại - CÔ Adams phản đối. - hãy nghĩ xem ở tuổl tôi thì còn quan trọng cái gì. 

- Không, cô Ellza. Không có cô cháu sẽ không đi! Cô đừng tưởng rằng cháu sẽ bỏ rơi cô! Cô thiếu nữ kêu lên. Hoặc là cô cùng đi với chúng cháu, hoặc là cả hai 

- Thôi đi cô, thôi đi! Đây không phải là lúc tranh cãi. - Ông đại tá nói xen vào một cách thô tục. - mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào mọi cố gắng của các cô. Các cô hiểu rõ rằng chúng tôi không thể bỏ rơi các cô vào tay lũ kẻ cướp này! 

- Nhưng tôi sợ bị ngã! 

- Tôi sẽ cột cô lại bằng cái khăn choàng của tội Tippy, bây giờ thì tôi nghĩ rằng chúng ta có thể bắt đầu thi hành kế hoạch 

Nhưng từ một lúc rồi anh lính da đen quan sát bãi sa mạc với một bộ mặt bối rối. Hắn quay lại và thốt ra một lời nguyền rủa 

- Trông kìa! - Hắn nói với giong bực bội. - ông đã nhìn thấy kết quả của tất cả sự ba hoa của các ông! Các ông đã làm hỏng cơ may của chúng tôi và của các ông. 

Một toán năm sáu người đàn ông cỡi lạc đà bỗng đột ngột xuất hiện trên bờ của lòng chảo; bóng của họ nổi bật lên rõ ràng trên nền trời lúc hoàng hôn. Họ phi nhanh và vung vẩy những khẩu súng trong tay. Một vài giây sau đó, tù và thổi lệnh báo động, và trại binh ồn ào lên như một đàn ong vỡ tổ. Ông đại tá chạy tới nhập bọn với các bạn bè, và Tippy Tilly chạy tới chỗ con lạc đà của hắn. Stephens có vẻ khoan khoái, Belmont thì nhăn nhó, ông Farde cáu kỉnh. 

- Đồ chó má! - ông kêu lên - Chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy kết cục của vụ này à? Sẽ không bao giờ chúng ta thoát khỏi bàn tay của những tên thày tu Hồi giáo. 

- Ồ đúng thật là những tên thầy tu Hồi giáo phải không? - ông đại tá nói với một giọng chua chát - Tôi thấy hình như ông đã thay đổi ý kiến. Tôi cứ tưởng bọn thày tu Hồi giáo là một sự bịa đặt của chính phủ Anh. Chúng con quỉ khốn khổ đã hết sức chịu đựng rồi 

Sự chế giễu của ông đại tá là một que diêm trong thùng thuốc nổ: người đàn ông Pháp nhảy chồm lên ông trong lúc tuôn ra hàng tràng lời chửi bới; ông ấy nắm lấy cổ họng Cochrane trước khi Belmont và Stephens có thể can thiệp và tách hai người ra 

- Nếu tóc ông không bạc - ông ấy la lên 

- Quỉ tha ma bắt ông đi! - ông đại tá gào lên 

- Nếu chúng ta phải chết, thì hãy chết như những người lịch sự, chứ không như lũ trẻ lang thang mất dạy. 

Belmont nói với vẻ đường họàng 

- Tôi chỉ nói rằng tôi vui thích là ông Fardet đã học được một điều gì đó trong cuộc phiêu lưu của ông. 

Ông đại tá trả lời, vẫn một giọng châm chọc 

- Im lặng lại. Cochrane! - Người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn - Tại sao ông cứ muốn dồn ông ta tới cùng đường 

- Belmont này, tôi chắc là ông quên thân phận của mình rồi. Tôi không cho phép bất cứ ai được nói với tôi bằng cái giọng đó 

- Vây thì hãy coi chừng những lời nói của ông! 

- Thưa quí ông, thưa quí ông, đây là các bà phụ nữ! - Stephens nói 

Đang sôi sục trong cơn giận dữ, ba người nín thinh và vừa đi bách bộ vừa lấy tay giật manh hàng ria mép. 

Khí sắc cáu kỉnh là một thứ rất hay lây, vì ngay chính cả Stephens cùng bắt đầu càu nhàu khi các bạn của ông đi qua, đi lại trước mắt ông. Họ đối diện với cơn nguy biến lớn nhất đời họ, bóng của tử thần đang bay lên bên trên đầu họ vậy mà họ tự để cho mình bị lôi cuốn vào những cuộc cãi cọ riêng tư mà nguyên nhân quá nhỏ nhặt đến nỗi họ không thể diễn tả ra bằng ngôn ngữ đươc. Hoạn nạn có thể mang tâm hồn con người lên tới những 

đỉnh cao nhưng càng lên cao thì cán cân càng không ngừng động đậy. 

Tuy nhiên ngay sau đó những nỗi khó khăn, một cấp độ khác đã nắm giữ sự chủ tâm của họ ở bên cạnh những cái giống một hội đồng chiến tranh đang nhóm họp. Hai tên tù trưởng lầm lì đang nghe bản báo cáo mà tên trong toán tuần tra liến thoắng trình bày. Các tù nhân nhận thấy đã hai, ba lần tên chỉ huy trẻ hơn lùa những ngón tay của hắn vào trong chòm râu đen dài một cách bực bội. 

- Tôi tin rằng đàn quân lạc đà đã đi truy lùng rồi, - Belmont nói. - Ngay cả họ không ở cách đây quá xa đâu. Ta có thể đoán thế bởi sự dao động này. 

- Có thể đúng đó. Có điều gì đó làm chúng xôn xao? 

- Kìa chúng đang ban hành mệnh lệnh. Lính gì đây? Ô này Mansoor, có việc gì thế? 

Anh thông ngôn bước rảo tới. một tia hy vọng làm rạng rỡ mắt hắn ta 

- Tôi tin rằng chúng đã trông thấy một điều gì làm chúng hoảng sợ. Chắc hẳn các binh lính Ai Cập đang đi truy sát chúng. Chúng đã ra lệnh đổ nước đầy các túi da và chuẩn bị sẵn sàng để khởi hành khi trời bắt đầu tối. Nhưng tôi cũng phải tập hợp các ông lại, vì tên thày dòng sắp tới để dạy giáo lý cho các ông. Tôi đã nói với hắn là các ông đã có cảm tình tốt với đạo Hồi. 

Mansoor đã giữ được những lời lẽ mà hắn thông thuộc tới mức độ nào? Không bao giờ ta biết được cả. Tuy nhiên, người thày giảng Hồi giáo cũng bước tới chỗ các tù nhân với một nụ cười của kẻ đang sắp làm một nhiệm vụ dễ dàng. Hắn bị chột mắt và mập ú. Nhưng chắc ngày xưa hắn phải mập hơn rất nhiều vì mặt hắn có nhiều nếp nhăn mỡ. Hắn có một khoảng râu bạc và ở trên đầu có một khăn xanh của những khách tới hành hương ở La Mecque. Một tay hắn cầm một tấm thảm nhỏ màu hạt dẻ, tay kia cầm một bản kinh Coran bằng giấy da cừu. Hắn trải tấm thảm của hắn lên mặt đất và mời Mansoor ngồi xuống bên hắn; rồi hắn lấy tay ra dấu vòng tròn cho các tù nhân làm thành một vòng tròn quanh hắn; cuối cùng hắn ra hlệu cho họ ngồi xuống. Con mắt độc nhất của hắn láo lơ nhìn vào mắt từng người một trong khi hắn trình bày những nguyên tắc của niềm tin mới hơn, thô bạo hơn, đam mê hơn của hắn. Họ chăm chú nghe và họ gật đầu môt cách ngụ ý mỗi khi Mansoor thông dịch lại khích lệ; cứ mỗi dấu hiệu đồng ý là những cử chỉ của tên thày giảng lại trở nên khả ái hơn và bài giảng của hắn thân thiết hơn. 

- Bởi vì tại sao các người lại đi tìm cái chết, hỡi những con chiên ngoan của ta. Trong khi tất cả những điều các ngươi được yêu cầu chỉ là vứt bỏ những gì sẽ đưa các ngươi vào hỏa ngục đời đời, và chấp nhận luật của đấng Allah như nó đã được viết ra bởi bậc tiên tri, chắc chắn là luật này sẽ đem lại cho các người những niềm vui không thể tưởng tượng được, đúng như đã được hứa hẹn trong cuốn sách của con lạc đà! Bởi vì người đã tuyển chọn đã nói gì? 

Rồi hắn đọc cho họ nghe một trong những bản giáo điều. những thứ mà được tất cả các tôn giáo đều lấy như là những luận cứ. 

- Hơn nữa chẳng phải rõ ràng là Thượng đế ở với chúng ta, bởi vì từ lúc khởi đầu, khi chúng ta chỉ có gậy gộc để chống lại súng ống của người Thổ Nhĩ Kỳ. Chiến thắng đã luôn luôn mỉm cười với chúng ta! Chẳng phải chúng ta đã chiếm El Obeid, chiếm Khatoum đã hủy diệt Hs, đã giết Gordon, đã thắng tất cả những kẻ động chạm tới chúng ta đấy. Trong những tình huống này làm sao người dám không tin là sự tốt lành ở về phía chúng ta? 

Trong lúc tên thầy giảng thuyết pháp với họ như thế, ông đại tá nhận thấy các tên thầy tu Hồi giáo lau chùi súng của chúng, đếm những viên đạn, và làm mọi việc chuẩn bị cho một trận đánh nhau. Hai tên tù trưởng bàn bạc với một vẻ nghiêm trọng. Tên trưởng tuần tra chỉ cho chúng súng của Ai Cập. Rõ ràng là một cơ hội giải cứu đã tới, với điều kiện là mọi việc có thể kéo dài thêm vài giờ nữa. Những con lạc đà chưa hồi phục sau cuộc hành trình dài của chúng. Nếu chiến binh lạc đà đã thật sự lên đường thì chắc chắn là họ sẽ bắt kịp chúng. 

- Vì lòng thương của Thượng đế, hãy cố gắng kéo dài cuộc chơi đi, Fardet ạ! - ông nói - Tôi tin rằng chúng ta có một vận may nếu quả bóng còn lăn trong một giờ nữa. 

Nhưng phẩm cách bị tổn thương của một người Pháp không nguôi ngoai được một cách dễ dàng. Ngồi tựa lưng vào cây cọ, ông Fardet cau cặp lông mày đen lại. Ông không nói gì, nhưng cứ tiếp tục gịât bộ ria mép cứng. 

- Tiếp tục đi, Fardet! Vận mạng của chúng ta tùy thuộc vào ông đó. - Belmont nói 

- Cochrane cứ làm việc đó đi. - Fardet cau có trả lời - ông ấy đã quá tùy tiện làm việc này rồi mà, cái ông đại tá Cochrane này! 

- Đô đốc Belmont nói như thể ông tìm cách làm cho một đứa bé hay hờn dỗi vui vẻ trở lại Tôi tin chắc rằng ông đại tá sẽ bịểu lộ sự hối tiếc của ông ấy về sự cố lúc nãy, và ông ấy sẽ nhìn nhận các sai lầm của ông. 

- Tôi sẽ chẳng làm gì về vụ đó cả! - ông đại tá càu nhàu nói 

- Ngoài ra, chuyện cãi vã của ông chỉ liên quan tới môt mình ông thôi. - Belmont nói tiếp. - Vì sự an toàn của cả bọn chúng ta mà chúng tôi muốn ông nói chuyện với tên thầy giảng. bởi vì tất cả chúng tôi đều cảm thấy ông là người có đủ tư cách nhất để làm việc này 

Nhưng người đàn ông Pháp chỉ nhún vai thôi. 

Tên thầy giảng nhìn họ, hết người này tới người nọ và nét mặt khả ái của hắn bắt đầu tối sầm lại; những nếp nhăn quanh miệng hắn xẹp xuống 

- Lũ vô đạo này muốn chơi trò đóng kịch với chúng ta hả? - Hắn hỏi anh thông ngôn - Tại sao chúng nói với nhau và không nói gì với ta cả? 

- Hắn nổi cáu rồi! - Cochrane thở dài - Có lẽ tốt nhất là tôi phải tự hy sinh tính mạng mình, vì thằng cha khốn kiếp người Pháp này làm dở dang chúng ta. 

Nhưng trí mẫn tiệp của một người đàn bà đã cứu vãn được tình thế. 

- Ông Fardet ạ. - bà Belmont nói. - Tôi tin chắc rằng ông một người Pháp. Do đó một người hào hiệp, có tinh thần mã thượng, ông sẽ không chịu để cho một sự tổn thương tới tình cảm của ông chống lại việc thi hành lời hứa của ông và việc chu toàn các bổn phận của ông đối với ba người đàn bà bất hạnh chứ? 

Fardet nhảy cẫng lên, ông đặt một bàn tay lên ngực 

- Thưa bà, bà đã hiểu rõ bản chất của tôi! - ông nói lớn. - Tôi không có thể bỏ rơi một người đàn bà. Tôi sẽ làm hết sức mình. Bây giờ, Mansoor, anh hãy nói với vị thánh nhân này rằng tôi muốn tranh luận với ông ta về các vấn đề cao siêu của tôn giáo của ông ta 

Và ông đã tranh luận với một sự xảo diệu làm các bạn của ông kinh ngạc ngẩn người ra. Ông dùng giọng điệu của một người cảm thấy mình bị lôi cuốn mạnh mẽ, nhưng còn bị một sư nghi ngại nhỏ níu lại và một khi sự nghi ngại nhỏ này được ông thầy giảng quét sạch. Ông lại đưa ra vài sự phản chống thứ yếu là những điều còn níu ông lại. Trong tất cả những sự ngoắt ngoéo của lý luận của ông, ông đã không quên đưa ra những lời tán tụng ông thày giảng Hồi giáo, ông còn đi cả tới việc tự xưng tụng là nhóm ông đã có sự may mắn gặp được một người tài trí như thế, một nhà toán học thông thái như thế. Những cái bọng thịt của tên thầy giảng bắt đầu rung lên vì đắc ý. Hắn tự để cho mình bị lôi cuốn vào hết sự phản bác này tới sự phản bác khác, rồi tới sự phản bác thứ ba rồi tới những lần khác nữa. Trong lúc đó màu xanh của da trời đã chuyển sang màu tím, những tàu lá xanh đã trở thành đen sẫm. Cuối cùng những vì sao hiện ra giữa những lá cọ 

- Về những gì thuộc về khoa học mà ông đã khen ngợi ta, hỡi con chiên của ta. - tên thày giảng nói để trả lời một lập luận của Fardet.- ta đã học ở đại học đường El Azaz ở Le Caire. Và ta biết ông ám chỉ tới điều gì. Nhưng khoa học của tín đồ không giống với khoa học của kẻ vô đạo, và chúng ta không được phép đi quá sâu vào những con đường của đấng Allah. Các tinh tú đều có một cái đuôi, ôi con chiên ngoan ngoãn của ta, và những tinh tú khác thì không có đuôi; nhưng có ích lợi gì đâu để tìm hiểu đó là những tinh tú nào? Thượng đế đã tạo ra tất cả những tinh tú đó, và chúng sống yên ổn trong bàn tay Ngài. Do đó, hỡi anh bạn của ta, chớ nên bám lấy cái thứ khoa học vô nghĩa của Tây phương nữa, và hãy hiểu rằng chỉ có môt sự khôn ngoan: đó là sự tuân theo ý muốn của đấng Allah như là bậc tiên tri được tuyển chọn của Ngài đã đặt ra trong sách này. Bây giờ 

thì ta thấy rằng các người đã sẵn sàng đến với đạo Hồi. Hỡi các con chiên của ta, đã tới giờ rồI, vì tiếng tù và báo hiệu là chúng ta sắp sửa tiếp tục lên đường, và ngài Tù trưởng Abdelahman siêu phàm đã ra lệnh rằng quyết định của các người phải đạt được trước khi chúng ta rời khỏi những giếng nước này 

- Tuy nhiên, thưa cha, vẫn còn nhiều điểm khác mà tôi rất mong sẽ tiếp nhận được một sự giáo huấn bổ sung. - người đàn ông Pháp nói - Thật tình đúng là một điều khoái trá khi được nghe sự khúc chiết của lời nói của ngài, sau những lời mơ hồ mà chúng tôi đã nghe ở những vị giáo sư khác 

Nhưng tên thầy giảng đã đứng dậy, và một tia nghi ngờ nhen nhóm lên trong con mắt độc nhất của y. 

- Một sự giáo huấn bổ sung như vậy sẽ được thực hiện cho các người sau đây - y nói, - vì chúng ta còn cùng đi với nhau tới tận Khartoum. Với ta đó sẽ là một niềm hân hoan khi thấy các người trên đường đi đã tăng thêm được sự khôn ngoan và đức hạnh. 

Y đi tới chỗ đống lửa, cúi xuống với sự chậm chạp oai vệ của một người phì nộn, rồi đi trở lại với hai cái que đã cháy ra than một nửa mà y đặt xuống thành hình chữ thập - Những tên thầy tu tập hợp lại khắp chung quanh để dự lễ kết nạp những tín đồ mới cải đạo trong giáo hội Hồi giáo. Ở bên trên họ những cái cổ dài và những cái đầu ngạo mạn của những con lạc đà đang lắc lư một cách thanh thản 

- Bây giờ - tên thày giảng nói tiếp, tiếng nói của y đã mất cái giọng hòa hoãn và khuyên lơn- đã tới giờ rồi. Trên mặt đất dày này ta đã dùng hai cái que này làm vật tượng trưng mơ hồ và dị đoan cho cái tôn giáo cũ của các người. Các người sẽ dẫm chân lên chúng, tức là dấu hiệu là các người đã từ bỏ đạo; các người sẽ hôn kinh Coran, tức là dấu hiệu là các người đã chấp nhận nó; và tất cả sự giáo huấn bổ sung và các người cần có sự ban cho các người sau này. 

Các tù nhân đã đứng dậy: bốn người đàn ông và ba người đàn bà này đang ở trong giờ phút quyết định của số phận họ. Có lẽ trong tất cả mọi người chỉ có cô Adam và bà Belmont là có lòng xác tín vững mạnh về tôn giáo. Cả bảy người bọn họ đều là những đứa con của thế giới này, và một vài người đã phủ nhận tất cả những gì được tượng trưng bởi cái biểu tượng đặt trên mặt đất kia. Nhưng lòng kiêu hãnh của người Âu Châu, lòng kiêu hãnh của giống da trắng đang sôi sục trong người họ và giữ họ lại trong tín ngưỡng của các đồng bào họ. Động lực nhân đạo? Động lực tội lỗi? Động lực phi Cơ đốc? Bất kể động lực nào; nó sẽ biến họ thành những chứng nhân tử vì đạo của tín ngưỡng Cơ đốc. Trong sự im lặng, trong sự căng thẳng thành kính của họ, môt tlếng động yếu ớt bỗng chốc vang lên tới tai họ. Tiếng sì sào của những tàu lá cọ bên trên đầu họ không ngăn cản được họ nghe thấy từ xa tiếng chân phi nhanh của một con lạc đà. 

- Đây là một việc gì đang tới. - Cochrane nói thì thào - Hay gắng chần chừ năm phút nữa, Fardet. 

Người đàn ông Pháp tiến lên một bước và chào một cách lễ độ bằng cánh tay bị thương của ông, ông có vẻ như sẵn sàng cho bất cứ điều gì 

- Anh lại nói với vị thánh nhân là tôi đã hoàn toàn sẵn sàng để cúi đầu trước lời giáo huấn của ông ấy. Và tôi cũng trả lời thay cho các bạn của tôi. - ông nói với anh thông ngôn. - Nhưng có một việc mà tôi muốn nhìn thấy ông ấy làm để loại bỏ tất cả những nghi ngại có thể còn vướng mắc trong lòng chúng tôi. Mỗi tôn giáo chân chính đầu tự chứng minh bằng các kỳ tích mà các môn đồ có thể thực hiện. Ngay chính tôi đây tôi chỉ là một tín đồ Cơ đốc thấp hèn, tôi cũng có thể làm được một vài phép như vào tư cách tôn giáo của tôi. Vậy thì ông, vì tôn giáo của ông cao siêu, chắc chắn là ông có thể thực hiện được nhiều hơn. Và tôi yêu cầu ông chứng tỏ cho chúng tôi thấy bằng một dấu hiệu Hồi giáo là tôn giáo.  

Bọn Ả Rập đã cố sức chứng tỏ là đàng hoàng và kín đáo, nhưng chúng cũng rất hiếu kỳ. Sự im lặng bao trùm lên những kẻ đang lắng nghe chứng tỏ rằng những lời nói của Fardet do Mansoor dịch lại đã làm chúng xúc động. 

- Những việc như thế đều nằm trong tay đấng Allah. - tên thầy giảng trả lời. - Chúng ta không có quyền đi ngược lại các luật lệ của Ngài. Nhưng nếu chính bản thân ngươi có các quyền năng mà ngươi tự gán cho mình, chúng ta sẽ vui lòng làm nhân chứng cho việc này. 

Người đàn ông Pháp tiến lên, giơ một bàn tay ra quả chà là lớn kếch sù ông nuốt chửng quả chà là này, và ngay sau đó lấy ra một quả khác từ khuỷu tay trái của ông. Ông đã thường chơi cái trò tiểu xảo này trên tàu Korosko, và các bạn đồng hành thường cười nhạo ông, vì ông đã không đủ khéo léo để lừa gạt được tinh thần phê phán của những người Âu Châu. Nhưng lúc này họ tự hỏi liệu cái trò ảo thuật này có phải là nhân tố quyết định mà số mạng của tất cả bọn họ đang tùy thuộc vào. Một tiếng xì xào của sự kinh ngạc nổi lên từ đám người Ả Rập, và tiếng xì xào tăng lên gấp đôi khi người đàn ông Pháp lấy ra từ lỗ mũi một con lạc đà một quả chà là khác và ném nó lên trên không, và không thấy nó rơi xuống nữa, hay ít nhất hình như nó không rơi xuống nữa. Cái ống tay áo rộng ngoác của ông đã nhìn thấy rất rõ với các bạn ông. Nhưng ánh sáng lúc chiều tà đã phù trợ cho cái tài để mua vui trong lúc trà dư tửu hậu của ông. Đám người dự khán đã quá say mê, quá vui thích đến nỗi họ chú ý rất ít tới một kỵ sĩ mà con lạc đà đang phi nước đại ở gia những cây cọ. Tất cả mọi việc sẽ có thể kết thúc đẹp đẽ nếu Fardet đang sảng khoái vì sự thành công, không muốn bắt đầu lại trò ảo thuật của ông. 

Quả chà là rơi ra khỏi bàn tay ông, và sự lừa bịp đã rõ ràng. Ông muốn chuyển ngay sang một trò khác, nhưng tên thầy giảng nói một vài tiếng và một tên Ả Rập đánh vào bả vai Fardet môt nhát cán giáo 

- Khá đủ trò trẻ nít rồi - Tên thầy giảng gầm lên trong cơn giận dữ. - Chúng ta là người lớn hay là trẻ nít mà để các ngươi lừa gạt bằng cách này? Đây là cây thánh giá kinh Coran, các ngươi quyết định thế nào? 

Fardet nhìn quanh mình với vẻ tuyệt vọng: 

- Tôi không thể làm gì hơn nữa, ông yêu cầu tôi năm phút, ông có năm phút rồi. - Ông nói với đại tá Cochrane. 

- Và có lẽ chúng cùng sẽ đủ đó, - ông đại tá trân lời - Những tên tù trưởng kia ... 

Tên kỵ sĩ mà họ đã nghe thấy từ xa đi về phía hai tên chỉ huy Ả Rập để trình chúng một báo cáo ngắn gọn trong khi lấy tay chỉ về hướng mà hắn vừa từ đó tới. Hai tên tù trưởng trao đổi vài câu. rồi đi tới chỗ những tên thầy tu đứng vây quanh các tù nhân. Lão già hung hăng giơ một bàn tay lên và nói một câu ngắn gọn với một gịong cục cằn; những tên Ả Rập đáp lại bằng một thứ tiếng như chó sủa; nom chúng giống như một lũ chó săn trước tên thợ săn chỉ huy đàn chó, ánh lửa lấp lánh trong cặp mắt hách dịch của y đã truyền sang những tên đang nhìn y. Tới lúc đó mới đong thở phát lộ ra sức mạnh và sự nguy hiểm của phong trào bởi những bộ mặt bị co rúm vì sự đam mê, vì những khí giới được vung vẩy trên tay này, vì những tâm hồn cuồng tín này; chúng không đòi hỏi gì khác ngoài một cái chết đẫm máu, với điều kiện là nhanh tay chúng trước hết phải được vấy máu 

- Các tù nhân có chịu theo lòng tin chân chính không? - Tù trưởng Abderrahman hỏi trong khi cặp mắt độc ác của y nhìn chòng choc vào họ 

Tên thày giảng đã có một danh tiếng tốt để gĩư gìn, hắn không chịu thú nhận sự thất bại 

- Chúng sẽ cải đạo khi ... 

- Này thầy giảng, hãy để việc này lại đó. 

Y phát ra một hiệu lệnh. Tất cả những tên Ả Rập đều nhảy lên lưng lạc đà. Tù trưởng Wadlbrahlm đi khỏi ngay tức thì cũng với phân nửa người của nhóm y. Những tên khác ngồi yên trên lạc đà, súng cầm trong tay. 

- Chuyện gì xảy ra vậy? - Belmont hỏi 

- Những toán quân của chúng ta kéo lên rồi! - ông đại tá kêu lên. - Nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng chúng ta sắp thoát nạn rồi. Toán quân lạc đà ở Ouadl-haifa tiến sâu vào theo dấu vết của chúng ta 

- Làm sao ông biết việc này? 

- Ông muốn rằng ai đã báo động cho họ như thế? 

- Ông đại tá, ông thật sự tin rằng chúng ta sắp được giải cứu à? - Sadle thổn thức nói 

Sự chìm đắm vào nỗi bất hạnh đã làm tê cóng thần kinh của họ đến mức hình như họ không có thể thấy được những cảm giác mạnh, nhưng sự hồi phục đột ngột của niềm hy vọng lại đem tới cho họ sự đau khổ và lo âu. Chính ngay Belmont cũng tràn đầy những nghi ngại. Lo sợ ông đã hy vọng ngược lại tất cả mọi hy vọng. Lúc này sự hiện thực của các ước mong của ông đã tới gần lại làm cho ông run sợ. 

- Tôi hy vọng là họ sẽ tới với quân số đông. - Ông nói. - Saprletl, nếu viên tư lệnh chỉ gởi tới một liên đội yếu ớt thì phải đưa ông ta ra hội đồng chiến tranh? Dù sao thì chúng ta cũng nằm trong tay của thượng đế. 

Bà vợ ông nói với vẻ bình tĩnh: 

- Anh John thân quý, hãy quỳ xuống với em; có lẽ đây là lần cuối cùng; vợ chồng ta hãy cầu nguyện cho dù ở trên trời hay ở dưới đất chúng ta cũng sẽ không xa cách nhau 

- Không! Xin các vị đừng quỳ! - ông đại tá hét lên lo sợ vì ông trông thấy tên thày giảng đang nhìn họ 

Đã quá trễ rồi. Hai người công giáo La Mã đã quỳ xuống và đã làm dấu thánh giá. Sự giận dữ làm đỏ bừng mặt tên thầy giảng Hồi giáo khi hắn nhìn thấy bằng chứng công khai về sự thất bại của hắn. Hắn quay đi và nói 

- Đứng lên. Hãy đứng dậy - tên Mansoor quát bảo - ông ấy xin phép giết các vị đó. 

- Thì hắn cứ việc làm việc gì hắn thích đi! - Người đàn ông bướng bỉnh Ái Nhĩ Lan trả lời - Chúng tôi sẽ đứng dậy khi các bài kinh của chúng tôi chấm dút, không đứng dậy trước! 

Tên tù trưởng vừa nghe tên thày giảng nói vừa phóng cái nhìn hắc ám của hắn vào hai cái bóng đang quỳ. Hắn ra những mệnh lệnh. Bốn con lạc đà được dẫn tới. Những con lạc đà chở đồ mà không được dùng để cưỡi vẫn không được đóng yên và vẫn ở lại chỗ mà chúng bị cột 

- Đừng có ngốc, Belmont! - ông đại tá nói lớn. - Tất cả đều tùy thuộc vào tâm trạng mà chúng ta sẽ tạo ra cho chúng. Đứng dậy đi, bà Belmont! Ông bà chỉ làm cho chúng đứng lên chống lại bọn ta. 

Người đàn ông Pháp nhún vai: 

- Trời ơi! - ông kêu lên - Sao lại có một dân tộc cố chấp như vậy kìa! 

Hai phụ nữ Mỹ cũng quỳ xuống bên cạnh bà Belmont 

- Họ giống như những con lạc đà, một con nằm xuống, tất cả những con khác nằm theo! Thật là kỳ cục! 

Nhưng ông Stephens cũng quỳ ở bên canh Sadle. Ông đã giấu bộ mặt phờ phạc vào hai bàn tay dài và gầy gò của ông. Chỉ còn ông đại tá và ông Fardet là vẫn đứng thẳng. Cochrane ném một cái nhìn dò hỏi cho người đàn ông Pháp 

- Dù thế nào, - ông nói. - người ta sẽ ngu ngốc khi cầu nguyện suốt cả đời, cũng như không cầu nguyên khi mà ta không còn điều gì khác để hy vọng ngoài lòng thương của đấng tối cao. 

Ông để thân mình khuỵu xuống trên hai đầu gối. 

Đứng thẳng như một người lính, những cam gục xuống ngực, người đàn ông Pháp nhìn các bạn của ông cầu nguyện, rồi đôi mắt ông chuyển sang những nét mặt bực tức của tên tù trưởng và tên thầy giảng 

- Đồ chó má! - ông làu bàu - Chúng nghĩ rằng một người Pháp lại có thể sợ hãi? 

Rồi vừa làm dấu thánh một cách đường hoàng công khai, ông vừa quỳ xuống bên cạnh các bạn của ông. Mình mẩy bẩn thỉu, khốn khổ, quần áo tả tơi, bảy tù nhân trong cái tư thế khúm núm dưới bóng tối của những cây cọ, đang chờ đợi số phận họ được định đoạt 

Tên tù trưởng quay lại nhìn tên thày giảng với một nụ cười mai mỉa để chỉ cho hắn thấy kết quả sự thuyết giáo của hắn. Rồi y ban ra một mệnh lệnh mới. Ngay tức thì bốn người đàn ông bị lũ thầy tu túm lấy và trói hai cổ tay lại. Fardet rú lên một tiếng vì sợi dây thừng nghiến vào vết thương của ông. Những người khác chịu đựng cái luật của kẻ mạnh hơn với vẻ hiên ngang 

- Các ông đã làm hỏng hết cả rồi! Tôi ngậm rằng chính tôi cũng đã bị các ông sát hại! - Mansoor vừa kêu la vừa vặn vẹo hai bàn tay. - Các phụ nữ sẽ leo lên ba con lạc đà này. 

- Không bao giờ? - Belmont phản kháng - Chúng tôi sẽ không để bị chia cách. 

Ông xông lên như một thằng điên, nhưng sự đói khát, thiếu thốn đã làm ông yếu đi, và hai tên Ả Rập khỏe mạnh nắm lấy tay gì ông lại. 

- John, đừng tự làm khổ mình. - bà vợ ông nói lớn trong khi chúng đẩy bà tới chỗ con lạc đà. - Không có sự tệ hại nào chờ đợi em đâu. Đừng cựa quậy nữa! Bằng không chúng sẽ giết anh đó! 

Bốn người đàn ông sợ run lên khi họ trông thấy những người đàn bà đang đi xa dần. Tất cả những sự lo sợ của họ đã không có một chút nào khi ở bên cạnh mấy người đàn bà. Sadle và bà cô của nàng có vẻ gần như ngất xỉu đi vì kinh họàng Chỉ có bà Belmont là còn giữ được nét mặt quả cảm. Một khi đã được nâng lên trên lưng những con lạc đà rồi, họ được đưa tới dưới cái cây mà bốn người đàn ông đang đứng ở phía sau 

- Tôi có một khẩu súng lục trong túi áo. - Belmont nói với bà vợ - Tôi sẽ hy sinh tính mạng để có thể đưa nó cho mình. 

- Cứ giữ lấy nó, john. nó còn có thể dùng được. Em không sợ gì cả. Từ lúc chúng ta cầu nguyện, em có cảm tưởng là các vị thần hộ mạng đang che chở cho chúng ta bằng những đôi cánh của các ngài 

Chính ngay bà trông cũng giống như một vị thần hộ mệnh vì bà đang quay lại phía cô Sadle run rẩy và thì thầm nói với cô một vài lời đầy hy vọng và khích lệ. 

Tên Ả Rập nhỏ bé, lùn chỉ huy toán hậu vệ của Wadlbrahlm đi tới gặp tên tù trưởng và tên thày giảng, cả ba tên vừa bàn bạc với nhau vừa liếc mắt nhìn về phía các tù nhân. Rồi một tên tù trưởng nói với Mansoor: 

- Ông chỉ huy muốn biết ai là người giàu nhất trong bọn các ông? - Tên thông ngôn nói 

Những ngón tay của hắn ngọ nguậy với một vẻ nóng nảy điên cuồng và hắn luôn luôn lau mồ hôi trên trán 

- Tại sao hắn lại muốn biết? - ông đại tá hỏi 

- Tôi không biết tại sao. 

- Nhưng đó là sự hiển nhiên mà! - ông Fardet nói lớn - Hắn muốn biết ai là người giàu nhất để giữ người đó lại hòng đòi tiền chuộc! 

- Tôi nghĩ là chúng ta phải cùng nhau xem xét vấn đề này - ông đại tá nói - ông Stephens này, chính ông nên khai ra, vì chắc chắn ông là người giàu nhất trong bọn. 

- Có thể vậy - ông luật sư trả lời - Nhưng bất kỳ trong trường hợp nào tôi cũng không mong được xếp vào một loại riêng biệt 

Tên tù trưởng lại cất tiếng với một giọng khắc nghiệt 

- Ông ấy nói - Mansoor thông dịch, - rằng những con lạc đà chở đồ đã mệt lử, và nay chỉ còn duy nhất một con là có thể tiếp tục lên đường. Ông ấy để thuộc quyền sử dụng của một người trong bọn các ông, và ông ấy để các ông có quyền lựa chon. Người giàu nhất trong bọn các ông sẽ được ưu tiên 

- Hãy trả lời hắn rằng tất cả bọn chúng ta đều giàu bằng nhau. 

- Trong trường hợp này, ông ấy nói là các ông phải chon ngay người nào sẽ có con lạc đà 

- Còn những người khác? 

Anh chàng nhún vai 

- Đuợc - ông đại tá nói- Này các bạn, nếu chỉ có một người trong bọn chúng ta được thọát nan, thì tôi nghĩ rằng các bạn sẽ đồng ý với tôi người đó sẽ là Belmont, bởi vì ông ấy đã có vợ. 

- Phải, phảI! Người đó phải là ông Belmont! - Fardet nói 

- Tôi cũng nghĩ thế - Stephens nói 

Nhưng người đàn ông Ái Nhĩ Lan không muốn nghe 

- Không, chia đều - ông nói lớn - Chúng ta sẽ cùng chết hoặc sẽ cùng được giải cứu tất cả, và quỷ sứ bắt kẻ nào thối chí! 

Một cuộc thi đấu ngoan mục về tính bất tự kỷ diễn ra sôi nổi. Một người nào đó nói rằng ông đại tá nên đi, vì ông là người già nhất. Cochrane trở nên giận dữ 

- Người ta có thể nghĩ rằng tôi là ông già tám mươi - ông phản đối - sự nhận xét này đã hoàn toàn lỗi thời rồi 

- Này. - Belmont nói. - tất cả chúng ta đều từ chối không 

- Đó không phải là điều khôn ngoan lắm! - Người đàn ông Pháp nói lớn - Các bạn hãy nghĩ xem! Thế là để cho các bà ở lại một mình à? Một người trong bọn ta phải ở gần các bà ấy để giúp ý kiến cho họ, đó là điều vô cùng tốt đẹp 

Họ nhìn nhau bối rối. Rõ ràng là Fardet đã nói đúng. Nhưng làm sao mà một người trong bọn họ lại có thể bỏ rơi các bạn của mình? Tên tù trưởng nói xen vào để đề nghị một giải pháp 

- Ông chỉ huy nói. - Mansoor nhắc lại. - nếu các ông không thể tự quyết định được: chỉ còn có cách dành sự quyết định lại cho đấng Allah và phải rút thăm 

- Tôi không thấy giải pháp nào tốt hơn nữa. - ông nói 

Ba người bạn của ông cũng đồng ý 

Lúc đó tên thầy giảng chìa ra cho họ bốn miếng vỏ cây cọ và giữ một đầu của chúng lại trong các ngón tay 

- Ông ấy nói ai rút được miếng dài nhất sẽ được cưỡi con lạc đà. - Mansoor thông dịch 

- Chúng ta đồng ý, một cách nghiêm chỉnh làm theo như vậy không? - Cochrane hỏi các bạn của ông 

Họ đều hứa sẽ làm vây 

Bọn thầy tu đã làm thành một vành bán nguyệt phía trước họ. Ngọn lửa trại chiếu ánh sáng đỏ của nó vào những diễn viên của màn kịch và vào các khán giả. Tên tù trưởng phòng rời mặt khỏi toán tù nhân. Đằng sau bốn người đàn ông là một hàng lính gác. Đằng sau những tên lính gác này là ba người đàn bà đang ngồi trên lưng lạc đà xem màn kịch. Với một nụ cười quái ác, tên thầy giảng đi tới gần Belmont. Người đàn ông Ái Nhĩ Lan không thể nào khỏi thốt ra một tiếng rên rỉ làm cho bà vợ của ông cũng rên rỉ theo, vì miếng vỏ cây ông rút được nhỏ xíu. Người đàn ông Pháp rút được một miếng dài hơn một chút. Ông đại tá rút được một miếng dài gấp hai lần cả hai miếng kia hợp lại. Miếng của Stephens cùng vào cỡ miếng của Belmont. Đại tá Cochrane là người thắng cuộc trong trò chơi xổ số khủng khiếp này 

- Tôi sẵn lòng đổi chỗ của tôi cho ông đó, ông Belmont ạ - ông lầm bầm nói - Tôi không có vợ cũng không có con. Họ hàng chỉ có vài người. Anh hãy đi với vợ ông đi! Tôi sẽ ở lại 

- Tuyệt đối là không. Một giao ước là một giao ước. Tất cả đều phải trung thực 

- Ông tù trưởng ra lệnh ông phải leo lên ngay tức thì. - Mansoor nói 

Một tên Ả Rập dẫn ông đại tá hai tay vẫn bị trói tới chỗ con lạc đà đang đứng. 

- Hắn sẽ ở với toán hậu vệ - tên tù trưởng nói với tên phụ tá của hắn - Anh cùng sẽ trông coi những người đàn bà cùng đi với anh 

- Còn con chó thông ngôn này? 

- Với những tên kia? 

- Và những tên kia? 

- Khử đi!

Chương 9

Vì không có ai trong ba tử tội hiểu tiếng Ả Rập cả, lệnh của tên tù trưởng sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với họ khi không có sự phiên dịch của Mansoor. Sau những trò phản phúc, những sự khom lưng, quỳ gối và sự bôi bác của hắn ta, anh chàng thông ngôn khốn khổ thấy rằng những sự lo sợ tệ hại của hắn sắp trở thành hiện thực. Vừa thốt ra một tiếng rú kinh họàng, con người khốn khổ đó vừa nằm phục xuống, mặt úp xuống đất và níu lấy vạt áo của tên tù trưởng. Tên này thấy khó mà gỡ ra khỏi sự nắm gĩư điên cuồng nên đã cho hắn một cái đá dữ dội. Cái khăn bịt đầu đỏ của anh thông ngôn bay tung lên trời. và Mansoor nằm rên rỉ và ẻo lả ngay tại chỗ mà cái đá của tên Ả Ráp vừa xô hắn tới Lúc đó trại binh tràn ngập một sự xao động điên cuồng. Tên tù trưởng già leo lên lưng con lạc đà của y. Một vài tên trong toán của y phóng đi không còn chờ đợi để nhập bọn với các bạn của chúng. Tên phụ tá béo lùn, tên thày giảng và hơn hai chục tên thầy tu vây quanh các tù nhân. Chúng vẫn còn đi bộ, vì chúng đã được lệnh hành quyết ba người tù. Khi nhìn chúng, Belmont, Stephens và ông Fardet biết rằng họ chỉ còn vài phút nữa để sống thôi. Tay họ vẫn còn bị trói, nhưng bọn lính canh đã thôi không gĩư tay họ nữa. Do đó cả ba người đều quay đầu lại để chào vĩnh biệt mấy người đàn bà 

- Bây giờ thì tất cả đều chết rồi, Norah ạ! - Belmont nói - Chúng tôi không có vận may, vì hy vọng đã tới rất gần. Mặc kệ! Chúng tôi đã làm hết sức mình 

Đây là lần đầu tiên bà vợ của ông bị suy sụp tinh thần. Bà khóc thổn thức, giấu mặt vào hai bàn tay 

- Đừng khóc, em yêu của anh ! Chúng ta đã cùng hưởng sung sướng rồi. Em hãy chuyển tất cả lòng kính mến của anh tới các bạn của chúng ta. Hãy nhớ lại cho anh kỷ niêm tốt đep của Amy Mocarthy và gia đình Bịessmgtn. Em sẽ có đầy đủ mọi thứ để sống nhưng anh muốn nhắc em nên hỏi ý kiến của Rodger trong việc đầu tư của em. Chớ quên điều đó ! 

- ôi John. không có anh em sẽ không sống được. 1 sự u buồn mà người đàn ông ái Nhĩ Lan cũng cảm thấy trong nỗi đãu buồn của bà vợ đã bắt ông khuất phục; ông gục đầu xuô ng và tựa nó trên cái hông đầy lông của con lạc đà. Cả hai vợ chồng cùng bắt đầu khóc.  

Trong lúc đó Stephens tiến lại gần Sadle. Trong bóng tối chang vạng của lúc họàng hôn, nàng trông thấy bộ mặt gày ốm và nghiêm trọng của ông ngẩng lên về phía mình 

- CÔ đừng lo sợ cho bà cô của cô, và cả cho cô nữa. Ông nói Tôi tin chắc rằng bà và cô sẽ được giải cứu: đại tá Cochrane sẽ săn sóc cho hai người. Những người Ai Cập không thể ở xa phía sau. Tôi hy vọng là bà và cô sẽ cô thể uống nước trước khi rời khỏi những cái giếng. Tôi rất muốn đưa cho bà cô của cô cái áo ngoài của tôi. vì chiều nay trời sẽ lạnh. Nhưng với những sợi dây trói này tôi nghĩ rằng tôi sẽ không thể cởi nó ra. Nói với bà ấy hay gĩư lại một ít bánh dự trữ để sáng 

Ông nói một cách rất bình tĩnh; người ta có thể nói đó là một người đang sắp xếp các chi tiết cho một cuộc đi cắm trại ngoài trời - một cảm gíac bất chấp. Sự mến phục lối cư xử điềm tĩnh của người đàn ông sắp phải chết đã tràn ngập trong tim sôi động của Sadle. 

- Ông thật là tử tế ! Nàng kêu lên Tôi chưa bao giờ gặp được một người như ông. Người ta nói về các vị thánh. nhưng lúc này ông đang đứng trên ngưỡng cửa 

tử thần, mà ông chỉ nghĩ tới chúng tôi ? 

- CÔ Sadle ạ, tôi muốn nói với cô một tiếng cuối cùng nếu cô cho phép. Như vậy tôi sẽ chết môt cách sung sướng hơn ! Nhiều khi tôi đã muốn nói với cô, nhưng tôi lại nghĩ có lẽ cô sẽ cười vào mũi tôi, vì không bao gìơ cô nhìn các sự việc môt cách quá nghiêm túc, phải vậy không? Với tính vui vẻ của cô thì việc đó cũng rất tự nhlên thôi, nhưng đối với tôi thì việc đó rất quan trong. Lúc này tôi đã là một người chết rồi, do đó những gì tôi nói không quan trọng lắm nữa. 

- ồ có chứ. ông Stephens 

- Tôi sẽ im tiếng, nếu vịệc nghe tôi nói làm cho cô khó chịu. Như tôi đã nói với cô, tôi sẽ chết sung sướng hơn. Nhưng tôi không muốn tỏ ra tôi là kẻ ích kỷ; nếu 

tôi nghĩ rằng những lời nói của tôi sau đây sẽ làm u ám cuộc sống của cô, hoặc sẽ trở thành một kỷ niệm tệ hại cho cô, tôi sẽ không nói một tiếng nào nữa. 

- ông muốn nói gì với tôi? 

- Một cách đơn giản là tôi yêu cô biết bao. Tôi đã mãi mãi yêu cô từ lúc ban đầu tôi đã cảm thấy mình là một người khác khi tôi đứng với cô. Nhưng thật là vớ vẩn, chắc chắn thế! Tôi biết rõ điều này. Tôi đã không nói gì cả. và tôi đã cố không làm cho tôi trở thành lố bịch: nhưng tôi muốn rằng cô biết việc đó, lúc này thì việc đó không còn quan trọng nữa. CÔ sẽ hiểu rằng tôi thật lòng yêu cô khi tôi nói với cô rằng nếu đó chỉ là việc tôi nhìn thấy cô khổ sở và lo lắng, thì hai ngày vừa qua. trong đó chúng ta đã không rời xa thau, đã là những ngày sung sướng nhất trong đời tôi. 

CÔ thiếu nữ vẫn tái mét, lăng lẽ, nhìn với con mắt ngạc nhiên bộ mặt đang quay về phía mặt nàng. Nàng không biết phải làm gì, nói gì trước mối tình đang tỏa ra ánh lửa quá sáng tỏ trong bóng tối của tử thần. Với trái tim thơ ấu của nàng. tất cả những điều này không thể hiểu được; tuy nhiên nàng cũng cảm thấy sự êm dịu 

và tươi đep của nó 

- Tôi sẽ không nói một điều gì khác với cô: Stephens nói tiếp - Tôi thấy là cô đang bối rối, nhưng tôi muốn cô phải biết. Bây gìơ thì cô biết rồi, tất cả đều tốt đẹp. Cám ơn cô đã nghe tôi nói một cách rất lịch sự và nhiều kiên nhẫn. Chào cô, cô Sadle bé nhỏ! Tôi không thể giơ bàn tay lên được; cô có thể hạ thấp bàn tay cô xuống được không? 

Nàng chìa một bàn tay ra cho ông Stephens đặt môi ông vào bàn tay nàng. Rồi ông quay đi, trở lại chỗ cũ giữa Belmont và Fardet. Trong suốt cuộc đời tranh đấu 

và thành công, chưa bao giờ ông cảm thấy một niềm hân hoan trầm lặng như gìơ phút này, khi mà ông sắp chết. Không có gì để tranh cãi về tình yêu. Nó là yếu tố thắm thiết nhất của đời sống con người . Nó là thứ làm lu mờ và biến đổi tất cả mọi yếu tố khác. Nó là yếu tố duy nhất đã được tuyệt đối vẹn toàn. Sự đau đớn trở thành 

một khọái lạc. Sự cùng quẫn trở thành một nguồn an ủi. Cái chết là tất cả sự êm ái khi mặt trăng óng ánh vàng này tô điểm hào quang cho một con tim. Trước mặt những tên sát nhân, Stephens có thể ca hát vui vẻ. Thật tình ông đã không có thì giờ để nghĩ tới chúng. Điều quan trọng, sự kỳ diệu và chân quý là nàng sẽ không còn coi ông như một người bạn tình cờ. Suốt cả cuộc đời, nàng sẽ nghĩ tới ông. Nàng sẽ biết 

Con lạc đà của đại tá Cohrane đi hơi xa xa phía bên, và viên sỹ quan già mà hai tay đã được cởi trói lặng nhìn quang cảnh và với tính bướng bỉnh cố hữu của ông, tự hỏi có thật sự phải từ bỏ mọi hy vọng không Ông biết chắc rằng bọn ả Rập tâp hợp hung quanh các nạn nhân vẫn ở đằng sau, còn những tên khác đã leo lên lưng lạc đà rồi sẽ phụ trách việc canh gĩư ba người đàn bà và ông. Ông không thể hiểu tại sao các bạn ông lại chưa bị chém cổ. Với sự tinh vi trong tính độc ác của người Đông phương, không chừng toán hậu vệ sẽ chờ cho tới lúc những lính Ai Cập tới thật gần mới ra tay 

chăng? Những cái xác còn nóng hổi của các nạn nhân sẽ là một sự lăng nhục đối với những kẻ truy sát chúng Phải. chác chắn sự giải thích này là đúng, ông đại tá đã 

từng nghe nói về những thủ đoạn như vậy. Nhưng trong trường hợp này sẽ không có quá mười hai tên ả Rập đi kèm các tù nhân. Trong bọn chúng không có tên nào có thể trở thành một đồng minh à? 

Nếu Tippy Tilly và sáu người trong bọn y có mặt tại đó? Và nếu Belmort có thể gỡ tay khỏi dây trói và cầm lấy khẩu súng lục của ông thì may ra họ có thể chạy thoát được. Ông đại tá vặn vẹo cái cổ nhưng lại càu nhàu thất vọng. Ánh lửa đã chỉ cho ông thấy những cái đầu của bọn lính canh. Bọn này tất cả đều là dân Ả Rập baggaras mà không ai có thể hy vọng ở lòng thương người hoặc ở việc chúng tự để cho mình bị hủ hóa. Chắc là Tippy Tilly và những tên khác đã phải đi trong toàn dẫn đầu. Đây là lần đầu tiên viên sĩ quan già đành bỏ rơi tất cả mọi hy vọng. 

- Tạm bịêt các bạn! Xin Thượng đế ban phước lành cho các bạn! ông nói lớn 

Một tên da đen tới kéo cái rọ mõm của con lạc đà của ông. Mấy người đàn bà tiến lên đằng sau ông, họ buồn khổ quá không thể nói năng gì. Đối với ba người đàn ông còn đứng lại thì sự khởi hành của họ lại là một sự nhức nhối trong lòng. 

- Tôi rất sung sướng là các bà ấy đã đi khỏi . Stephens nói từ đáy lòng mình 

- Phải, như thế còn tốt hơn - Fardet nói lớn - nhưng chúng ta còn phải đợi bao lâu nữa đây? 

- Rất lâu hơn nữa? Belmont trả lời với một giọng cay đắng 

Bọn Ả Rập vây kín quanh họ Ra tới rìa ốc đảo: ông đại tá và ba người đàn bà quay đầu lại phía những thân cây cọ. Họ nhìn thấy đống lửa đã tàn. Bên trên toán người ả Rập họ nhận ra ba cái mũ trắng. Rồi những con lạc đà của họ bắt đầu chạy nước kiệu. Khi họ liếc lại phía sau một cái nhìn cuối cùng, khu rừng cọ chỉ còn là một khối tối sẫm với sắc lập lòe mông lung của đôi chút ánh sáng ở khoảng gĩưa. 

Trong lúc họ nhìn với những con mắt khẩn cầu cái chấm đỏ trong lành tối tăm này thì họ cũng vượt qua cái bờ của lòng chảo; ngay tức thì bãi sa mạc mông mênh được 

ánh trăng soi sáng đã bao trùm lên họ với sự im lặng của nó. Và ốc đảo đã biến khỏi tầm nhìn của họ. Ở mọi phía bầu trời xanh êm như nhung lốm đốm những vì 

sao sà xuống phía bình nguyên bao la họang dã. Bầu trời và mặt đất đã trộn lẫn với nhau ở chân trời. Bị tuyệt vọng quá, những người đàn bà không còn đủ can đảm để nói chuyện nữa. Ông đại tá cũng im tiếng luôn: ông có thể nói cái gì đây? Bỗng dưng cả bốn người đều giật nẩy mình lên trên yên của họ, và Sadle sế nén một tiếng kêu buồn khổ. Trong bóng đêm một phát súng đã nổ phía sau họ. Có một phát nữa. Rồi nhiều phát nữa. Và cuối cùng thì những tiếng nổ ngưng hẳn 

- Có lẽ đó là những người Ai Cập, những cứu tinh của chúng ta ! - Bà Belmont kêu lên -Đại tá Cochrne. ông không tin rằng đó là những người Ai Cập à? 

- Có có ! Sadle ấp úng nói. Đó phải là những người 

ông đại tá đã lắng nghe một cách chăm chú, nhưng tất cả đều trở lại im lìm. Lúc đó, với một dáng điệu nghiêm trang, ông bộc lộ tâm tình. Ông nói: 

- Bà Belmont ạ, thật là vô ích khi chúng ta tự lừa dối mình. Chúng ta phải chấp nhận sự thật. Các bạn của chúng ta đã rời bỏ chúng ta, nhưng họ đã chết như những 

người dũng cảm. 

- Nhưng tại sao chúng lại bắn súng? Chúng đã có những ngon giáo của chúng mà . 

Bà run rẩy toàn thân: 

- Đúng thật vậy. - ông đại tá nói - Để đổi lấy bất kỳ vật gì trên đời tôi cũng không muốn làm mất niềm hy vọng thực tế của bà; nhưng ngược lại tốt nhất là dù sao 

hãy đặt cho chúng ta một sự thất vọng phũ phàng. Nếu chúng nghe thấy một cuộc tấn công thì chúng ta cũng phải nghe thấy một sự phản kích. Ngoài ra, nếu những 

lính Ai Cập đã tấn công, thì họ đã phải tấn công với lực lượng lớn. Thật thế. Như bà đã nói, đúng là hơi kỳ quái khi họ đã phí hoài những viên đạn. Lạy chúa tôi, hãy 

nhìn kìa. 

ông duớn thẳng tay về hướng Đông. Hai bóng người đang di chuyển trên sa mạc. Hai cái bóng lén lút mau lẹ của họ nổi bật rõ ràng hơn trên mặt đất. Họ trông thấy chúng leo lên và tụt xuống ở những nơi gồ lên, xẹp xuống của địa hình. Chúng biến đi và hiện ra sau đó dưới ánh sáng mập mờ. Chúng lẩn tránh bọn ả Rập. Rồi chúng 

dừng lại trên đỉnh một đồi cát. Lúc đó các tù nhân phân biệt được chúng một cách rõ ràng. Đó là hai người đàn ông ngồi trên lưng lạc đà; nhưng chúng ngồi bỏ chân ra 

hai bên, như một kỵ sĩ trên lưng ngựa vậy 

- Những lính cưỡi lạc đà của Ai Cập ! ông đại tá 

- Họ chỉ có hai người! Có Adams nói thầm thào với một giong thảm sầu 

- Đó chỉ là những tên xích hầu, thưa cô! Họ đã tung ra các toán tuần thám trên suốt bề rộng của sa mạc. và đây chỉ là một toán? Đại bộ phận lực lượng không ở cách xa quá mười lăm cây số. Họ sẽ cho lính báo động. Những người lính lạc đà già, dũng cảm! 

Ông đại tá dè dặt là thế, đúng mực là thế. mà cũng khó có thể nói ra lời, nhất là khi ông bực bội. Một ánh chớp đỏ chiếu sáng trên đỉnh cái đồi, rồi một cái chớp 

thứ hai. Tiếng súng nổ lốp đốp tiếp theo. Hai cái bóng tan biến một cách cũng lặng lẽ và mau lẹ như hai con cá hồi trong một dòng nước chảy mạnh. 

Bọn ả Rập đã dừng lại; chúng ngán ngẩm không muốn làm gián đoan cuộc hành trình để chạy đuổl theo hai cái bóng nọ. Nhưng bây gìơ thì chúng không còn gì để đuổi theo nữa, vì ở gĩưa những cồn cát nhấp nhô, những tên xích hầu đã có thể đi theo bất kỳ hướng nào. Tên tù trưởng phi nước đại quay trở lại, ra các mệnh lệnh. Những con lạc đà tăng tốc bước đi. Những hy vọng của các tù nhân khi đó đã bị loãng đi trong những cái lắc lư khủng khiếp mà họ phải chịu. Những người đàn bà cố hết sức bám chặt lấy cái núm yên, ông đại tá cũng gắng kiệt sức như họ. Nhưng ông luôn luôn rình rập một cách thèm thuồng dù là một dấu hiệu nhỏ nhặt của những người truy kích 

- Tôi nghĩ rằng, Tôi nghĩ rằng. bà Belmont nói - tôi trông thấy một vật gì đang động đậy phía trước 

Ông đại tá ngồi thẳng dậy trên yên và che mắt tránh ánh sáng trăng 

- Lạy chúa tôi, bà nói đúng đó. Ở đằng kia có người 

Lúc này thì ông nhìn thấy họ rất rõ ràng: ở phía trước mắt họ một dãy kỵ binh đang trải dài ra trên sa mạc. 

- Họ đi cùng một hướng với chúng ta - Bà Belmont kêu lên. bà có cặp mắt tinh hơn ông đại tá Cochrane cố nén một lời chửi thề trong hàng ria mép 

- Hãy nhìn những dấu vết trên mặt đất, ông nói - Chắc chắn đây là bọn tiền quân của chúng đã rời khỏi ốc đảo trước chúng ta Tên chỉ huy bắt chúng ta phải 

dùng nước bài chết người này để chúng ta bắt kịp chúng. 

Lúc hai bên tới gần nhau, họ nhìn thấy đó đúng là toán quân A Rập kia. Ngay sau đó tù trưởng Wad Ibrahlm tới gặp tù trưởng Abdenahman Chúng chỉ về hướng mà 

các xích hầu đã xuất hiên và lắc đầu; rõ ràng là chúng đã có nỗi bận tâm nghiêm trọng và những linh cảm xấu. Những chiến binh của sa mạc hợp thành một 

đạo duy nhất đang rục nịch đi về hàng chòm sao chổi thấp, ngay phía trước họ ở chân trời. Trong nhiều giờ lối chạy nước kiệu khủng khiếp này cứ tiếp tục. Những 

người đàn bà đang sắp ngất xỉu. Ông đại tá khích lệ họ gĩư vững tinh thần. và ông luôn luôn quay đãu lại để ngóng trông những người lính lạc đà. Máu đập mạnh trên thái dương của ông. Ông nói là ông nghe thấy tiếng trống đồng. Trong cơn mê 

sảng ông nhìn thấy những đám đông lính lạc đà Ai Cập đang cất bước. Suốt cả cái đêm dài vô tận đó, ông tung ra những tin tốt lành để rồi tức thì bị đính chính bởi các 

sự việc. Mặt trời lúc mọc lên cũng không tiết lộ được điều gì có thể an ủi được những kẻ khốn khổ 

Những người đàn bà bị kinh hoàng vì vẻ mặt của người bạn đường của họ. Ông không còn là vị sĩ quan xuất sắc đã cùng đi với họ từ Le CAire nữa! Hình như 

tuổi tác đã thình linh đổ ụp lên người ông. Mái tóc ông đã trở nên trắng như tuyết. Một bộ râu để đã ba ngày, cũng trắng như tóc ông đã làm lu mờ đường nét cương 

nghị và rõ ràng của cái cằm ông. Các gân máu trên mặt ông phồng căng lên; những nếp nhăn lên được khơi sâu Lưng ông còng xuống, đầu ông thấp đi, nhưng trong cơn 

mê sảng, mặc dù sự kiệt sức đang ở ngưỡng cửa của tử thần, ông vẫn gĩư được vẻ nghĩa hiệp và bao dung khi ông ngoảnh nhìn về phía ba người phụ nữ. Ông nói với 

họ những lời ngắn gọn, những lời an ủi hay những lời khuyên răn, ông luôn luôn nhìn về phía sau như hy vọng trông thấy sự tiếp cứu không bao giờ tới đó. 

Một giờ sau khi mặt trời mọc, đoàn người dừng lại. Đã có sự phân phát thức ăn và nước uống cho tất cả mọi người; sau đó đoàn người lại lên đường đi về phía Đông 

Nam nhưng với những bước đi khoan thai hơn; nó trải dài bốn trăm mét trên sa mạc. Cứ xem cái vẻ ngoài vô tư lự và những sự nói năng huyên thuyên của chúng thì 

chắc chắn là bọn ả Rập nghĩ rằng chúng đã vượt khỏi những kẻ truy kích chúng. Chúng có ý định quay trở lại sông Nil sau chuyến đi vòng vèo của chúng tới một nơi 

nằm khá xa phía trên những triền núi Ai Cấp. Phong cảnh biến đổi dần dần. Chả mấy chốc những hòn đá cuội đã nhường chỗ cho những núi đá kỳ quái, đen ngòm và cho 

cái thứ cây màu vàng cam mà các tù nhân đã nhìn thấy lúc khởi đầu chuyến đi thê thảm của họ ở bên phải và bên trái họ những quả đồi hình chóp, những khe sâu có 

bờ lởm chởm đá đứng dựng lên bên trên những thung lũng cát. Những con lạc đà tiến bước theo hàng một, đi vòng qua các tảng đá lên hoặc dùng những bàn chân mềm mại có chất dính như keo để leo lên những tảng đá có thể làm một con ngựa phải lùi bước. Đoàn người tiến bứơc một cách lặng lẽ và chậm chạp vào một đường 

đèo được bao quanh bởi những núi đá đen ngòm và cây vàng. bầu trời vẽ ra một vòng cầu hẹp bên trên khe núi 

CÔ Adams - người mà đêm dài lạnh lẽo đã thực sự làm cho tê cóng, nay đã bắt đầu hết cóng dưới cái nóng của mặt trời. Bà nhìn quanh mình và xoa hai bàn tay 

- Này. Sadle. - bà nói - cô nghĩ là đêm vừa qua cô đã nghe thấy tiếng cháu, và bây gìơ cô thấy là cháu đã khóc 

- Cháu suy nghĩ đó, cô ạ 

- Này. chúng ta phải cố gắng nghĩ tới những người khác, cháu cưng ạ. Chớ không phải đến bản thân chúng ta! 

- CÔ ơi cháu không nghĩ đến cháu đâu .. 

- Có phải đặc biệt đến một người nào không? 

- Đến ông Stephens, cô ạ. Ông ấy duyên dáng và dũng cảm biết bao! Khi cháu nghĩ tới lúc đứng giữa tất cả những tên sát nhân này mà ông vẫn thu xếp các chi 

tiết nhỏ nhặt cho chúng ta. Ông ấy còn định cởi áo khọác ngoài ra? Cô ạ, ông ấy là ông thánh và là vị anh hùng của cháu trong suốt cuộc đời này. 

- Thực tình ông ấy đã rũ sạch mọi ưu phiền rồi ! 

Cô Adams nói với sự cộc cằn của tuổi bà 

- Vậy thì cháu cũng muốn chết theo 

- CÔ không thấy việc đó sẽ có thể giúp được gì cho ông ấy 

- Cháu nghĩ rằng ông ấy sẽ có thể cảm thấy đỡ cô đơn. Sadle vừa nói vừa để cho cái cằm nhỏ nhắn mỹ miều của nàng trễ xuống. 

Trong sự im lặng trở lại, ông đại tá vố trán với một điệu bộ bối rối 

- Lạy Chúa tôi - ông kêu lên - Tôi phát điên lên 

Trong lúc ban đêm các người bạn phái nữ của ông đã thấy rõ là ông bị mê sảng, nhưng từ lúc tảng sáng ông có vẻ đã hồi phục tinh thần. Sự điên đảo vì cơn khủng 

họảng đột ngột này, các bà vẫn cố sẽ làm ông nguôi ngoai bằng những lời nói ngọt ngào 

- Điên rồi. tôi nói với các bà. Họàn toàn điên rồi! ông quát to lên với họ. Các bà có biết tôi vừa nhìn thấy cái gì không ? 

- Xin ông đừng sợ. Bà Belmont vừa trả lời vừa cho con lạc đà đi sát lại gần để dịu dàng đặt một bàn tay lên bàn tay ông. Không có gì là lạ về việc ông đã bị mệt mỏi. Ông đã không ngừng suy nghĩ và hành đông cho tất cả bọn chúng ta ! Chả mấy chốc chúng ta sẽ dừng chân, ngủ được một vài giờ sẽ làm ông hoàn toàn bình tĩnh. 

Nhưng ông đại tá lại nhìn lên trời và ông lại thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc 

- Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi nhìn thấy cái gì rõ ràng hơn nữa . ông làu bàu nói - Kìa trên mỏm núi ở phía tay phải chúng ta, ông Stuart khốn khổ với cái 

khăn phu-la đỏ của tôi quấn trên đầu, đúng hệt như lúc chúng ta rời xa ông ấy vậy. 

Ba người đàn bà ngẩng mặt nhìn về nơi mà ông đại tá chỉ họ. Và họ cùng thốt lên một tiếng kêu kinh hoàng Trên mạn bên phải của cái khe sâu khủng khiếp mà 

những con lạc đà đang leo lên, có một cái cạnh sắt đen ngòm chìa ra như một cái bao lơn có một chỗ nó nhô cao lên để tạo thành một thứ ngọn núi nhọn nhỏ. Và trên 

ngọn núi đó đứng sững một cái bóng đơn độc im lìm, y phuc họàn toàn màu đen, nhưng trên đầu lại đội khăn đỏ. Trong bãi sa mạc của nước Libye chắc chắn là không 

thể có hai cái bóng cùng to lớn và cũng thấp lùn như vậy, hai khuôn mặt cùng xanh xao như vậy ! Người đó cúi về phía trước và y hết sức chăm chú quan sát 

nơi đầu cùng của ngọn đèo. Người ta có thể nói đó là một bức hoạt họa của Napoléon! 

- Có thể nào đó là ông ta không? ông đại tá ấp úng. 

- Đúng là ông ấy. Đúng là ông ấy! Những người đàn bà xác nhận. Trông kìa, ông ấy nhìn về phía chúng ta và ông ấy ra hiệu cho chúng ta 

- Trời ơi? Chúng nó sẽ giết ông ấy! Cúi thấp xuống, đồ điên khùng. Nếu không các bà sẽ tự giết mình đó. 

Ông đại tá muốn gầm lên nhưng cổ họng ông khô quá không thể phát ra những tiếng gì khác ngoài tiếng oang Nhiều tên thầy tu cũng trông thấy như họ sự xuất 

hiện ly kỳ trên chóp núi; chúng đã cầm súng lên tay. Nhưng một cánh tay dài bất chợt giơ lên từ đằng sau vị mục sư ở Birmmgham. Một bàn tay nâu nắm lấy quần 

của ông, và ông biến mất như trong một trò ảo thuật. 

Ngay ở phía dưới, tù trưởng Abderrahman, sau khi nhảy lên một tảng đá lớn, bắt đầu la hét và vung vẩy cánh tay. Nhưng những lời quát tháo của hắn bị chìm đi trong 

một loạt dài những tiếng súng bắn ra từ hai bên bờ khe sâu. Ngọn núi có hình một pháo đài có những nòng súng nhô ra, những khăn bịt đầu màu đỏ xõa xuống bên trên những cái cò súng. Cả về mạn đầu cùng của ngọn đèovà phía trước mặt, những tia lửa tóe lên kèm theo những tiếng nổ khô khan. Bị bắn lia lịa ở mặt trước và ở hai 

bên; bọn kẻ cướp bị rơi vào một ổ phục kích. Tên tù trưởng gục xuống; hắn lại đứng lên môt cách khó khăn. Một vết máu lấm hoen bẩn bộ râu dài của hắn. Hắn không 

ngớt khoa chân múa tay và ra thêm nhiều mệnh lệnh. Nhưng những người của hắn tản mát mọi nơi không tuân lệnh hắn. Có những tên lại tụt xuống khe sâu để tránh 

khỏi bị làm bia đỡ đạn. Trái lại, những tên khác thì bị đẩy về phía trước bởi những tên đi sau của đoàn người. Một vài tên tụt xuống đất và toan leo lên chân núi đá. 

gươm tuốt trần để xung phong lên chiếm pháo đài. Nhưng xác chúng bị trúng đạn chết lăn long lóc từ tảng đá này tới tảng đá nọ cho tới chân đèo. Sự tác xạ không được chính xác lắm, một tên da đen đã có thể đứng lên tận trên cao, mà không bị bắn trúng. nhưng một nhát báng súng đã đánh vỡ đầu hắn. Tên tù trưởng 

đã ngã từ trên tảng đá của hắn xuống và hắn nằm không nhúc nhích trên mặt đất như một đống giẻ rách màu trắng và nâu hạt dẻ. Khi một phân nửa bọn A Rập đã bị loại khỏi cuộc chiến, những tên cuồng tín nhất phải nhìn nhận rằng không không còn giải pháp nào khác ngoài việc cấp tốc ra khỏi cái khe núi của tử thần này và quay trở lại sa mạc. Vậy là chúng quay lại và phóng nước đại chạy đi trên đường đèo. Thật là một sự khủng khiếp khi một con lạc đà phi nhanh trên một đia hình lởm chởm gồ ghề 

Sự kinh họàng đã chiếm hữu con vật. Bốn chân của nó cùng bay lên trên không trong một lúc. Những tiếng kêu rùng rợn của nó đi kèm theo những tiếng la hét của 

kẻ cưỡi nó đang nảy lên bên lưng nó. Tất cả những cảnh này kết hợp lại để tạo thành một hình ảnh mà những ai đã nhìn thấy một lần khó lòng quên được. Khi làn sóng những con lạc đà điên cuồng tràn qua trước mặt họ, mấy người đàn bà trông rằng gìơ phút cuối cùng của họ đã tới. nhưng ông đại tá đã đẩy con lạc đà của ông và những con của các bà vào gĩưa những tảng đá đen; phía bên ngoài những tên ả Rập đang rút lui. Những viên đạn rít lên trong không khí, rít lên trên những tảng đá chung quanh họ. 

- Hãy bình tĩnh! Chúng nó sẽ bỏ quên chúng ta. 

Ông đại tá thì thào nói. Ông đã trở lại là ông trong lúc này, lúc mà gìơ hành động đã điểm. Tôi rất muốn gặp Tippy Tilly hoặc một vài người trong đám bạn của y. Họ sẽ có thể giúp đỡ đắc lực cho chúng ta! 

Nhưng trong đám những kẻ chạy trốn đang phi nước đại trước mặt họ, ông không trông thấy người thủ pháo. May mắn thay, tất cả mọi người đều thấy rằng trong 

lúc vội vã rời khỏi khe núi, bọn thày tu đã không nghĩ tới những tù nhân của chúng nữa. Đại bộ phận của đoàn người đã đi xa rồl, chỉ còn môt vài tên tụt hậu phải chịu 

những loạt đạn bắn từ trên cao xuống. Tên cuối cùng là một tên baggara trẻ tuổl có ria mép đen và râu cằm để nhọn. Lúc đi qua hắn ngẩng đầu lên và tay vung gươm trong một điêu bộ bực tức mà không làm gì được nhắm vào những tên lính Ai Cập. Ngay lúc đó một viên đạn bắn trúng con lạc đà của hắn và con vật ngã 

quỵ trên mặt đất. Tên Ả Rập nhảy xuống đất, nắm lấy cái rọ mõm và lấy bản của thanh gươm đập một cách man rợ vào hông con lạc đà để bắt nó đứng lên. Nhưng 

cặp mắt lờ đờ của nó báo cho hắn biết rằng nó đã bị đánh đến chết. Mà ở trên sa mạc thì cái chết của một con lạc đà thường xảy ra ít lâu trước cái chết của người 

cưỡi nó. Tên baggara phóng ra chung quanh hắn những cái nhìn nảy lửa của con sư tử lúc cùng đường. Hai vết đỏ phơi ra trên nước da cam nâu của hắn. Nhưng hắn 

chẳng cau mày. Trông thấy các tù nhân hắn thốt lên một tràng kêu vui thích hung bạo và tung mình lại chỗ họ, tay vung vẩy thanh gươm trên đầu hắn. Cô Adams đứng ở gần hắn nhất. Khi bà thấy hắn xông tới, bà nhảy xuống khỏi lưng con lạc đà mà bà dùng làm vật để che chở cho bà. Tên ả Rập nhảy chồm lên một tảng đá và hắn muốn phóng một nhát đâm khủng khiếp vào bà Belmont nhưng ông đại tá đã chĩa súng luc của ông và bắn hắn phọt óc ra ngoài. Trong cơn tức giận điên dại, còn dữ dội hơn sự hấp hối của cái chết, tên A Rập tuy đã ngã xuống đất rồi mà vẫn tiếp tục dãy dụa trong một lúc và chém vung vít những nhát gươm vào không khí 

- Xin các bà đừng sợ nữa! ông đại tá nói lớn - Hắn chết thật rồi, tôi đoán chắc với các bà thế, tôi rất áy náy là đã tiến hành sự hành quyết hắn ở trước mặt các bà, nhưng con quỷ này rất nguy hiểm. Hơn nữa tôi cũng có một món nợ nhỏ phải thanh toán vớt hắn, vì hôm nọ hắn đã toan đâm thủng mạng sườn của tôi bằng khẩu rertlington của hắn. Tôi hy vọng rằng bà không tự gây thương tích cho mình chứ, bà Adams. Đợi một lát, tôi leo xuống. 

CÔ gái già Boston không hề hấn gì vì cô phòng bị ngã quá cao. Sadle, bà Belmont và đại tá Cochrane tự để mình tuột xuống trên những tảng đá. Bà Adams đứng thẳng người, vung vẩy một cách đắc thắng những mảnh còn lại của tấm khăn mỏng xanh lục của bà 

- Hoan hô Sadle? Hoan hô cô cháu cưng của ta ! Bà kêu to, chúng ta đã được giải cứu rồi. con ạ ! Dù sao thì chúng ta cùng đã được giải cứu rồi! 

- Nhờ ơn trên, đúng, chúng ta đã được giải cứu 

ông đại tá kêu lớn 

Nhưng Sadle đã học được lối nghĩ tới ngườii khác trong những ngày khủng khiếp này. Nàng ôm lấy bà Belmont và áp má nàng vào má của bà 

- ôi vi thần yêu quý của sự dịu hiền. nàng kêu lên. Làm sao mà chúng tôi còn có bụng dạ để vui đùa khi 

- Nhưng tôi không tin một tí gì về chuyện đó ! Người đàn bà dũng cảm xứ ái Nhĩ Lan trả lời nàng - Không. tôi không tin một chút nào về chuyện đó khi mà tôi 

chưa nhìn thấy xác của John. Nhưng nếu tôi trông thấy xác anh ấy thì cuộc đời tôi sẽ không muốn trông thấy một cái xác nào khác nữa! 

Lúc này khe núi đã được quét sạch hết những tên thầy tu cuối cùng. Phía bên trên đầu họ, trên hai vách cao của đường đèo, họ trông thấy những người Ai Cập: cao lớn, mảnh khảnh với những cái vai vuông vắn. Họ hiện rõ nét trên nền trời xanh và họ họàn toàn giống như các chiến binh được cham trổ trong các bức phù điêu 

cổ xưa. Họ đã buộc những con lạc đà của họ ở đáy khe sâu và họ vội vã đi gặp chúng. Một vài người lính đã bắt đầu đi vào đường đèo. Mắt họ sáng rực lên với sự 

khích động của chiến thắng và của sự truy kích. Một người Anh nhỏ thó với một bô ria mép hoe vàng và một vẻ lì lợm cưỡi lạc đà đi dẫn đầu ông dừng con lạc đà lại 

vào ngang tầm với các cựu tù nhân và chào các bà. Ông mang giày ống nâu và một dải đeo kiếm màu hung hung với những cái móc bằng thép trên bộ quân phục kaki 

- Lần này người ta đã tóm được chúng, và đã tóm khá tốt! - ông nói - Dĩ nhiên là rất vui thích đã có thể gíup đỡ được quý vị. Tôi hy vọng rằng các bà không đến nỗii vất vả lắm để thoát nạn. Đây không phải là môn thể thao rất dễ chịu đối với các bà. 

- Tôi đoán rằng ông ở Ouadl - Haifa phải không ? 

ông đại tá hỏi 

- Không. Chúng tôi thuộc về một toán khác. Chúng tôi là đội trú phòng ở Sarras. Chúng tôi đã gặp chúng trong ở mạc, chúng tôi đã đi vòng về phía trước chúng 

và toán ở Ouadl - Haifa thì chờ chúng ở phía sau. Tôi xin nói với ông. Hãy leo lên các tảng đá và ông sẽ nhìn thấy sự tiếp diễn của các trận đánh. Lần này sẽ là một trận hạ đo ván trong một hiệp duy nhất. 

- Chúng tôi còn bỏ lại ở chỗ những giếng nước một bộ phận của nhóm chúng tôi. Chúng tôi rất lo lắng cho số phận của họ ông không có tin tức nào về mạn áy à? 

Cochrane hỏi 

Viên sĩ quan trẻ trở nên nghiêm trọng và lắc đầu 

- Một chuyện bẩn thỉu - ông ấy nói - Khi ông đẩy những ngườl đó tới chỗ đường cùng, họ trở nên độc ác. Hãy để cho tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt nhiên 

không nghĩ là sẽ tìm thấy các ông còn sống. Tất cả những gì chúng tôi hy vọng chỉ là trả thù cho các ông 

- Không có người Anh nào khác đi với ông à ? 

- Archer chỉ huy chi đội đang ở trên kia kìa. Ông ấyy sẽ phải đi qua đây, vì tôi không tin rằng còn có con đường nào khác để đi xuống. Chúng tôi đã lượm được 

một người đồng bọn các bạn ông: một con chim ngộ nghĩnh với một cái mũi đỏ. Tôi hy vọng sẽ gặp lại ông sau này! Hẹn tái ngộ, thưa quý Bà! 

Ông cầm lấy cái mũ cứng của ông, dắt con lạc đà và phi nước kiệu để bắt kịp những binh lính của ông 

- Chúng ta không còn gì để làm tốt hơn là chờ cho mọi việc qua đi - ông đại tá nói 

Quả thực những quân lính phục kích trên các đỉnh vách đèo đều phải mượn đường đèo để đi ra. Đi theo hàng một, họ tiến bước, da đen hay da nâu, người Soudan 

và người Ai Cập, nhưng tất cả bọn họ đều có phong thái đẹp vì đạo quân lạc đà là đạo quân ưu tú của quân đội Ai Cập. Họ đeo một bao đạn lên trên ngực và khẩu súng ngang đùi. Một người đàn ông thân mình to lớn với bộ ria mép đen rậm nhìn xuống, ống nhòm cầm trong tay và cưỡi lạc đà đã đoạn hậu. 

- Hê-lô, Archer! ông đại tá gọi 

Viên sĩ quan nhìn vào mắt ông với một cái nhìn lạnh lùng trống rỗng như thể ông đại tá là người hoàn toàn xa lạ với ông ta 

- Tôi là Cochrane đây này! Chúng ta đã cùng đi du ngoạn với nhau . 

- Thưa ông, xin thứ lỗi - viên sĩ quan trả lời - Tôi có biết một đại tá Cochrane, nhưng không phải là ông, ông ấy cao hơn ông mười phân, tóc đen, và .. 

- Rất đúng - ông đại tá nói lớn, trong lòng không khỏi bực bội - Hãy sống vài ngày với bọn thày tu Hồi giáo, rồi ông sẽ thấy sau đó các bạn bè của ông có nhận 

ra ông không ? 

- Trời ơi. Cochrane. Đúng là ông thật à ? Chả bao giờ tôi lại tin là có chuyện này! Lạy Chúa, nỗi thống khổ của ông mới tệ hại làm sao! Tôi đã từng nghe nói nhiều người có thể bạc đầu trong một đêm. Nhưng ... 

- Được rồi - ông đại tá cắt ngang câu nói, mặt dỏ bừng - Cho phép tôi được đề nghị điều này, ông Archer ạ. Nếu ông có thể kiếm cho các bà này thứ gì để ăn và 

thứ gì để uống, thay vì bàn cãi về thể chất của cá nhân tôi thì ông sẽ chứng tỏ là ông không thiếu tinh thần thực tế. 

- Được lắm - đại úy Archer ưng thuận - ông ban Stuart của ông biết là ông ở đây và ông ấy sẽ mang một ít lương thực tới cho ông và các bà. Thức ăn sẽ ít thôi, 

thưa các bà. Nhưng chúng tôi không thể cống hiến thứ gì tốt hơn cho các bà. Ông Cochrane, ông là một quân nhân già. Xin ông hãy leo lên các tảng đá. vì ông sẽ 

nhìn thấy một cảnh đẹp. Tôi không có thì gìơ dừng lại, vì trong năm phút nữa chúng tôi sẽ tham chiến toàn bộ. Tôi có thể làm việc gì khác nữa cho ông trước khi lên đường không ? 

- Ông không có cái gì giống như một điếu xì gà à? ông đại tá hỏi 

Archer lấy từ trong cái túi da của ông ra một gói thuốc Paraga dày cộm và đưa cho ông cùng với mấy que diêm; rồi ông đi khỏi để nhập bọn với những người của ông. Cochrane ngồi dựa lưng vào một tảng đá, rít điếu xì gà một cách say sưa. Chính trong những lúc như thế này những dây thần kinh bị quá căng thẳng mới thấy 

biết ơn tất cả những đức tính của thuốc lá, thứ thuốc an thần đáng yêu này là thứ đã vừa tăng cường, vừa trấn an. Trong một lúc ông nhìn những vòng khói lãng đang 

xoay lòng vòng chung quanh ông, một sự uể oải dễ chịu chiếm ngự cái thân thể mệt mỏi của ông. Ba người dàn bà thì ngồi trên một tảng đá phẳng 

- Lạy Chúa, Sadie này. Cháu có vẻ thế nào nhỉ? 

CÔ Adams nói. cô đã hoàn toàn trở lại chính là cô. Mẹ cháu sẽ nói gì nếu bà ấy trông thấy cháu? Cháu có mái tóc đầy rơm rác và áo dài của cháu thật là quá bẩn thỉu 

đến phát sợ lên. 

- Cháu nghĩ là tất cả bọn chúng ta đều cần tắm rửa một chút. Sadle nói với một giọng mà sự êm dịu làm cho không ai nhận ra tiếng của nàng. Bà Belmont, 

lúc nào bà cũng xinh đẹp, nhưng xin bà cho phép tôi sắp lại cái áo dài cho bà . 

Cái nhìn của bà Belmonl đã bị chìm đi trong khoảng xa xăm. Bà lắc đầu một cách buồn bã và đẩy bàn tay của Sadle ra. 

- Tôi có vẻ ra sao cũng không có gì quan trọng tôi không nghĩ tới điều đó. - bà nói - Liệu cô có thể bận tâm về cái áo dài của cô, nếu cô đã bỏ lại sau lưng cô 

người đàn ông mà cô yêu quý. Như tôi đã bỏ lại người yêu quý của tôi không? 

- Tôi đã bắt đầu, Tôi đã bắt đầu nghĩ rằng tôi đã bỏ lại người đàn ông yêu quý của tôi - Cô Sadle khốn khổ nức nở khóc 

Và nàng giấu khuôn mặt nóng bỏng của nàng vào lòng lẻn mẫu của bà Belmont.

Chương 10 (chương kết)

Tất cả đạo quân lạc đà đã diễn hành trong khe núi mở cuộc truy kích bọn thầy tu Hồi giáo đang tháo lui . Trong một vài phút, những người được giải cứu đứng lại một mình. Nhưng chẳng mấy chốc một tiếng nói vui vẻ 

gọi họ. Một cái khăn quàng đầu màu đỏ đang nhảy nhót giữa những tảng đá, và cái đầu lạc đà to phè của vị mục sư bất phục quy tắc hiện ra. Ông tựa mình trên một ngọn glâo vì cái chân bị thương của ông, và cái nạng kiểu nhà binh này kết hợp với bộ y phục hòa bình của ông đã cho ông một hình thù bất tương hợp: người ta tưởng tượng đến một con cừu bỗng nhiên mọc ra những móng vuốt khủng khiếp. Hai tên da đen đi theo ông vác một cái lồ và một túi da đựng nước. 

- Ðừng nói gì cả! Ông nói lớn với họ, trong khi cập cẫng đi tới chỗ họ. Tôi biết một cách chính xác những gì các vị đang nghĩ ngợi. Chính tôi cũng đã ở trong trường hợp các vị. Ðem nước lại đây, Ali! Chỉ có nửa chén thôi, bà Adams ạ; các vị sẽ có thể uống thêm, một lát nữa đây. Ðến lượt bà, bà Belmont! Lạy Chúa, lạy Chúa, những linh hồn khốn khổ, tôi đau lòng biết bao vì các vị! Trong cái lồ có bánh và thịt, nhưng các vị nên ăn vừa phải khi mới bắt đầu... 

Ông khúc khích cười vui thích, ông vỗ tay trong khi nhìn họ ăn và uống. 

- ...Còn những người khác? Ông hỏi với tất cả vẻ nghiêm trọng vừa lấy lại của ông. 

Ông đại tá lắc đầu: 

- Chúng tôi đã bỏ họ ở lại chỗ những cái giếng. Tôi sợ rằng tất cả đều đã kết liễu với họ. 

- Suỵt, suỵt! Vị mục sư kêu lên với một giọng vang tai như muốn làm cho mọi người quên đi sự bối rối hiện ra trên nét mặt ông. Tất nhiên các vị cũng đã nghĩ là tất cả đều đã kết thúc với tôi rồi; thế mà tôi vẫn còn đây. Bà Belmont, chớ mất can đảm! Chắc chắn là số phận của ông chồng bà không tuyệt vọng hơn số phận của tôi đâu. 

- Khi tôi trông thấy ông đứng trên mỏm núi kia, tôi cứ tưởng rằng tôi bị mê sảng, ông đại tá nói. Nếu các bà đây đã không nhận ra ông như tôi thấy, thì không bao giờ tôi dám tin vào cặp mắt của tôi. 

- Tôi nghĩ rằng tôi đã xử sự rất tệ. Ðại úy Archer nói rằng suýt nữa tôi đã làm hỏng tất cả các kế hoạch của họ, rằng tôi đáng bị đưa ra hội đồng chiến tranh và bị xử bắn. Sự việc là khi tôi nghe thấy bọn Ả Rập đi qua ở phía dưới, tôi đã không thể kháng cự lại ý muốn biết xem các bạn cũ của tôi có cùng đi với chúng không? 

- Tôi hết sức kinh ngạc thấy rằng ông đã không bị xử bắn bên ngoài mọi hội đồng chiến tranh, ông đại tá nói. Ma quỷ đưa đường thế nào mà ông đến được đây? 

- Ðội quân lạc đà ở Quadi - Halfa đã tung ra đi theo con đường mòn của chúng ta lúc tôi bị bỏ lại, và họ đã nhặt được tôi trong sa mạc. Tôi đoán rằng tôi đã bị mê sảng, vì họ nói rằng họ đã nghe thấy tiếng tôi từ rất xa: hình như tôi đã gân cổ lên mà hát những bài thánh ca và thánh thi; chính là tiếng của tôi, với sự phù trợ của thượng đế, đã hướng dẫn họ tới chỗ tôi. Họ có một trạm cứu thương trên một con lạc đà; sáng hôm sau thì tôi bình phục. Chúng tôi bắt liên lạc với quân trú phòng ở Sarras, và tôi lại đi cùng với họ, vì có một y sĩ đi theo họ. Vết thương của tôi không hề hấn gì cả. Viên y sĩ khẳng định với tôi rằng tôi sẽ khỏe mạnh rất nhiều hơn sau vụ mất máu này. Và bây giờ các bạn ... 

Cặp mắt nâu, lớn của ông đã mất đi sự ranh mãnh và làm ra vẻ nghiêm trang, kính cẩn. 

- ...Tất cả bọn chúng ta đều ở trên ngưỡng cửa của tử thần, và những người bạn đồng hành thân mến của chúng ta có lẽ ngay cùng lúc đó cũng giống như chúng ta. Cái quyền lực đã cứu vớt chúng ta có thể cũng đã cứu vớt họ. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho sự việc được như vậy. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu bất kể những lời cầu nguyện của chúng ta, sự việc không được như vậy, thì chúng ta sẽ phải chấp nhận sự thật như là quyết định hoàn hảo nhất và khôn ngoan nhất của đấng bề trên. 

Ở giữa những tảng đá đen ngòm, tất cả năm người bọn họ đều quỳ xuống, và họ cầu nguyện như thể vài người trong bọn họ chưa từng bao giờ cầu nguyện trước đây. Thật thế, bàn luận về việc cầu nguyện với sự hời hợt và hoàn toàn có tính cách triết lý trên boong tàu Korosko là điều rất lý thú. Và thật không khó khăn gì để cảm thấy mình dũng mãnh và đầy lòng tự tin trong một cái ghế bành êm ái, trong lúc một tên Ả Rập đi quanh bàn dâng cà phê và rượu ngọt. Nhưng khi bất thần bị ném ra ngoài dòng đời bình lặng, họ bị tổn thương trước những sự thật khủng khiếp, rùng rợn của cuộc đời. Bị suy sụp vì nhọc mệt và sợ hãi, họ thấy cần phải bám víu vào một cái gì đó. Tin tưởng vào một định mệnh mù quáng và khắc nghiệt thật là khủng khiếp. Một quyền lực của sự nhu hòa, thao tác với trí thông minh nhằm vào một mục đích, một quyền lực sinh động, hữu hiệu, tách họ ra khỏi những lề lối tư tưởng thường nhật, trừ bỏ những thói quen bè phái nhỏ nhặt của họ, dẫn dắt họ vào một con đường tốt đẹp hơn, đó là những gì họ đã học và biết được trong những ngày kinh hoàng này. Những bàn tay vĩ đại đã khép lại trên con người họ, đã tạo cho họ những hình dạng mới, đã chuẩn bị cho họ đi vào một cuộc sống khác. Liệu cái quyền lực đó sẽ có thể không để tự mình mềm lòng bởi những sự van nài của con người không? Nó là tòa phúc thẩm tối cao mà loài người đau khổ có thể kêu cầu. Ðó là lý do tại sao tất cả bọn họ đều cùng nhau cầu nguyện, cũng như một gã si tình yêu đương hay một thi sĩ viết thơ với niềm sâu thẳm nhất của tâm hồn họ. Khi họ đứng dậy, họ nghiệm thấy cái cảm giác đặc biệt, phi lý của sự yên bình nội tâm và sự mãn nguyện mà chỉ có sự cầu nguyện mới có thể ban cho họ. 

- Im lặng! Cochrane nói. Hãy lắng nghe! 

Tiếng vang của một loạt súng lan ra trong khe núi hẹp. Nó được tiếp theo bởi một loạt khác, và nhiều loạt nữa. Ông đại tá dậm chân tức tối như một con ngựa già khi nghe thấy tiếng kèn săn và những tiếng sủa của đàn chó săn. 

- Chúng ta có thể trông thấy những gì đang diễn ra ở nơi nào? 

- Hãy tới đây! Tới đây, nếu ông vui lòng! Một con đường nhỏ leo lên tới đỉnh núi. Nếu các bà muốn theo tôi, tôi sẽ tránh cho các bà khỏi phải nhìn một cảnh tượng đau lòng. 

Ông mục sư dẫn các bà theo một cách để các bà không nhìn thấy những xác chết nằm ngổn ngang dưới đáy khe sâu. Từ bên trên các mỏm núi, toàn cảnh thật khác thường. Ở dưới chân họ là bãi sa mạc trải dài ra với những đợt lượn sóng; nhưng ở lớp thứ nhất đang diễn ra một cảnh mà chắc chắn là không bao giờ người ta quên được. Trong cái ánh sáng trong trẻo và khô khan này, trên một cái nền màu hung hung, những cái bóng người hiện ra cũng rõ ràng như những anh lính bằng chì trên một cái bàn vậy. 

Những tên thầy tu, hoặc đúng hơn là những kẻ còn lại, rút lui một cách chậm chạp thành một đám đông hỗn độn. Chúng không có vẻ gì là những kẻ bại trận. Những sự di chuyển của chúng được tính toán; nhưng chúng đã không ngừng thay đổi đội hình có vẻ như chúng đang ngập ngừng về chiến thuật phải theo. Sự rối rắm của chúng là chuyện bình thường thôi, vì những con lạc đà của chúng đều mệt lử, và chúng đang ở trong một tình thế gần như tuyệt vọng. Còn về phần những người ở Sarras, thì họ đã từ trong khe núi ùa ra, nhảy xuống đất và buộc những con lạc đà của họ từng nhóm bốn con một; các xạ thủ dàn ra thành một hàng dài, bao quanh là một làn khói; họ bắn hết loạt này tới loạt khác. Bọn Ả Rập chống trả một cách rời rạc. Nhưng những người đứng xem không còn quan tâm nhiều tới bọn thầy tu hay tới các xạ thủ ở Sarras nữa. Ở đằng xa trên bãi sa mạc, ba chi đoàn thuộc đạo quân lạc đà ở Quadi - Halfa đang tiến lên trong một đoàn dày đặc để rồi trong chốc lát mở rộng ra để làm thành một vành bán nguyệt lớn. Bọn Ả Rập bị kẹp vào giữa hai hỏa lực. 

- Lạy Chúa! Ông đại tá kêu lên. Hãy nhìn xem kìa. 

Trong cùng một lúc, những con lạc đà của bọn thầy tu đều quỳ xuống, và những người cưỡi trên lưng chúng nhảy xuống đất. Ở hàng đầu, đứng sừng sững cái bóng uy nghi của tù trưởng Wad Ibrahim. Y quỳ xuống một lát để cầu nguyện. Rồi y đứng lên, lấy một vật gì từ cái yên ra, đặt vật đó một cách thận trọng trên bãi cát và đứng lên trên, đứng rất ngay ngắn. 

- Một người dũng cảm! Ông đại tá kêu lên - Y đứng lên trên tấm da cừu của y. 

- Ông hiểu ra sao về việc này? Stuart hỏi. 

- Tất cả những người Ả Rập đều có một miếng da cừu để trên yên của họ. Khi một người Ả Rập thấy rằng tình thế của y đã hoàn toàn tuyệt vọng, và khi bất chấp mọi điều y cương quyết chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng, y lấy miếng da cừu ra và đứng lên nó cho tới khi chết. Nhìn kìa, tất cả bọn chúng đều đứng trên những miếng da cừu của chúng. Lúc này không có sự khoan dung của bên này hay bên kia! 

Màn kịch đến gần đoạn kết một cách nhanh chóng. Một vòng khói và lửa bao quanh những tên thầy tu Hồi giáo đang quỳ gối, chúng chống trả tận lực. Gọng kìm xiết lại. Bọn Ả Rập đã bị mất nhiều người, bọn còn lại tiếp tục bắn với một sự anh dũng bất khuất. Hơn mười cái xác bận đồ kaki đã chứng thực rằng những người Ai Cập cũng phải trả giá cho chiến thắng của họ. Một hồi kèn nổi lên trong đám quân lính ở Sarras; một hồi khác đáp lại trong đám quân lạc đà ở Quadi - Halfa. Những người này đã nhảy xuống đất và xếp thành hàng ngũ. Sau loạt súng cuối cùng, họ đi theo nhịp bước xung kích, trong khi thốt lên những tiếng la man rợ mà những dân da đen đã du nhập từ những miền bao la hoang dã của Phi Châu. Trong một phút, một cơn cuồng phong thật sự đã trộn lộn những ngọn giáo và những báng súng ở giữa một đám mây bụi mờ mịt. Rồi những tiếng kèn lại nổi lên. Nhưng binh lính Ai Cập lùi lại ngay tức thì để bố trí lại đội hình với sự quyết định nhanh chóng của một đạo quân có kỷ luật. Ở giữa bãi chiến trường, những tên cướp và tên chỉ huy của chúng nằm bất động, mỗi tên trên mảnh da cừu của hắn. Thế kỷ thứ mười chín đã trả thù cho thế kỷ thứ bảy. 

Ba người đàn bà đã nhìn quang cảnh với những con mắt đờ đẫn, kinh hoàng. Sadie và cô nàng khóc sướt mướt. Ông đại tá quay lại phía họ để nói một vài lời khích lệ, nhưng ông im tiếng trước vẻ mặt của bà Belmont, mặt bà cũng trắng bệch, cũng căng thẳng như thể được khắc trong một miếng ngà; bà có một cái nhìn không chớp mắt như thể là bà đang ở trong tình trạng xuất thần. 

- Trời ơi, bà Belmont, bà làm sao vậy? ông đại tá kêu lên. 

Thay cho câu trả lời, bà chỉ một chấm nhỏ trên sa mạc, ở đằng xa, ở nhiều cây số cách nơi giao tranh, một toán nhỏ những kỵ binh đang tiến tới. 

- Ðồ mắc dịch, đúng rồi! Kia có người đi tới. Họ là ai vậy?... 

Họ cố căng mắt lên mà nhìn, nhưng khoảng cách quá xa. Họ chỉ biết được một điều: đó là chừng hơn một chục người cưỡi lạc đà. 

- Ðó là những con quỷ dữ ở lại trong ốc đảo, Cochrane nói. Không thể là người nào khác. Niềm an ủi duy nhất của chúng ta là chúng sẽ không thể tránh khỏi số phận đang chờ đợi chúng. Chúng đang lao đầu vào tử địa. 

Nhưng bà Belmont vẫn tiếp tục nhìn với cùng một sự khẩn trương và cùng một nét mặt bằng ngà. Thình lình bà thốt lên một tiếng kêu vui thích và vung vẩy hai bàn tay. 

- Ðúng là họ rồi! Họ được giải cứu rồi! Ðúng là họ, ông đại tá, đúng là họ! Ôi, bà Adams, đúng là họ! 

Bà chạy nhảy lăng quăng trên đỉnh đồi. Mắt bà sáng rực lên như mắt một đứa trẻ đang bị khích động. 

Các bạn đồng hành của bà không muốn tin lời bà, vì họ không nhìn ra một vật nào chính xác cả; nhưng trong một vài trường hợp các giác quan của chúng ta trở nên sắc bén lạ thường. Người ta bảo rằng linh hồn và tâm trí đã ban cho chúng tất cả nguyên khí. Bà Belmont đã đi xuống con đường nhỏ gồ ghề đá sỏi để leo lên con lạc đà của bà, nhưng các bạn của bà vẫn chưa thấy điều gì đã mang lại cho bà tín điệp vui mừng này. Tuy nhiên, cuối cùng thì họ cũng phân biệt được trong nhóm người đang tiến tới ba cái chấm trắng long lanh dưới ánh mặt trời: ba chấm trắng đó chỉ có thể là ba cái mũ của những người âu. Ðến lượt họ, ông đại tá, bà Adams và Sadie đều đổ xô tới: họ nhận ra Belmont, Fardet, Stephens, anh thông ngôn Mansoor và người lính Soudan bị thương. Ðoàn hộ tống cùng đi với họ gồm có Tippy Tilly và những cựu quân nhân Ai Cập khác. Belmont ngả vào hai tay bà vợ ông; Fardet nắm lấy tay ông đại tá. 

- Nước Pháp muôn năm! Những người Anh muôn năm! Ông la lớn. Mọi sự đều tốt đẹp, có phải không, đại tá? A, lũ chó má! Cây thánh giá và những người cơ đốc giáo muôn năm! 

Sự vui mừng làm cho ông hoàn toàn mất hết mạch lạc trong những lời nói. 

Ông đại tá cũng tràn trề hồ hởi trong phạm vi mà bản chất của dân Anh Cát Lợi đã cho phép ông. Ông không thể khoa chân múa tay; nhưng ông bắt đầu cười khành khạch, đó là một chỉ dẫn của sự xúc cảm tột độ của ông. 

- Ông bạn thân, tôi rất hài lòng được gặp lại tất cả các ông. Tôi đã coi như các ông bị chết cả rồi. Chưa bao giờ tói được sung sướng thế này! Làm cách nào mà các ông đã có thể thoát nạn? 

- Chính ông đã làm tất cả mọi việc! 

- Tôi à? 

- Phải, ông bạn ơi, và khi tôi nghĩ tới việc tôi đã cãi vã với ông! Tôi thật là một kẻ vô ơn khốn nạn! 

- Nhưng tôi đã cứu ông bằng cách nào? 

- Ông đã bày mưu tất cả với anh chàng Tippy Tilly dũng cảm này, bằng cách hứa cho y tiền nếu y đưa chúng ta còn sống trở lại Ai Cập! Nhờ có bóng đêm, các bạn của y và y đã lẻn vào khu rừng cây cọ và họ ẩn núp ở đó. Khi ông đi rồi, họ đã bò tới với những khẩu súng và họ đã hạ sát những kẻ sắp hành quyết chúng tôi. Cái tên thầy giảng chết tiệt đó, tôi tiếc rằng họ đã giết hắn! Tôi tin rằng tôi sẽ có thể cải đạo cho hắn sang cơ đốc giáo. Và bây giờ, xin óng cho phép tôi được chạy tới ôm lấy cô Adams, vì Belmont đã có vợ của ông ấy, Stephens có Sadie; vì thế tôi thấy rõ ràng là cảm tình của cô Adams sẽ dành cho tôi 

Mười lăm ngày sau, chiếc tàu thủy được thuê riêng cho những người được cứu thoát đang vượt sóng ở phía Bắc Assiout. Sáng hôm sau họ phải tới Beliani, rồi từ đó đi tàu tốc hành tới Le Caire. Do đó đây là buổi tối cuối cùng mà họ chung sống với nhau. Bà Shlesinger và đứa con của bà, những người mới tránh khỏi những viên đạn của bọn Ả Rập, đã được đưa tới biên giới rồi. Cô Adams đã bị ốm nặng sau những ngày thiếu thốn, đói khát, và đây là lần đầu tiên cô được phép lên boong tàu sau bữa ăn tối. Cô ngồi trên một cái ghế dài, người gầy hơn, khắc khổ hơn, nom khả ái hơn bao giờ hết. Sadie đứng bên cô, choàng một cái mền lên vai cô. Ông Stephens mang cà phê tới và đặt nó trên một cái bàn nhỏ. Ở mạn bên kia boong tàu, Belmont và bà vợ ông đang ngồi, yên lặng và vui vẻ. Ông Fardet đứng tựa lưng vào bao lơn, ta thán về sự lơ là của chính phủ Anh trong việc tuần tra trên biên giới Ai Cập. Ông đại tá đứng trước mặt ông ta, người rất phẳng, và cái đầu có lửa của điếu xì gà lập lòe dưới hàng ria mép của ông. 

Nhưng điều gì đã xảy ra với ông đại tá? Bất cứ ai đã nhìn thấy người đàn ông già đã bị suy sụp trong bãi sa mạc Libye này cũng không thể nhận ra ông. Tất nhiên là bộ ria mép vẫn lốm đốm bạc, nhưng mái tóc của ông đã lấy lại màu đen bóng, cái màu đã gây được sự cảm mến của tất cả mọi người trong chuyến đi của cuộc hành trình. Lúc trở về tới Ouadi - Halfa, với một bộ mặt trơ như đá và một sự lạnh lùng hiếm thấy, ông đã tiếp nhận rất nhiều lời ủy lạo liên quan tới các hậu quả của thời gian ông sống với những tên thầy tu Hồi giáo. Rồi ông chạy về tự nhốt kín mình trong phòng của ông. Một giờ sau ông trở ra giống hệt như con người ông trước lúc bị cắt đứt hết mọi nguồn tiếp tế của nền văn minh. Và ông đã nhìn tất cả những ai đối diện với ông bằng một cách mà không ai dám đưa ra một nhận xét nhỏ nhoi nào về cái kỳ tích hiện đại này. Từ lúc này người ta chỉ có thể nói rằng nếu ông đại tá phải chạy, dù chỉ một trăm mét thôi, trong bãi sa mạc, thì ông vẫn mang theo trong cái túi bên trong áo ngoài của ông một cái chai đen nhỏ có dán một cái nhãn màu hồng. Nhưng những ai đã biết ông trong các tình huống mà một người đàn ông phải tự bộc lộ hoàn toàn thì đều nói rằng viên sĩ quan già đã có một trái tim và một trí óc trẻ trung, đó là một điều rất tự nhiên khi ông cố giữ những màu sắc trẻ trung. 

Trên boong tàu, sự yên tĩnh, sự ngưng nghỉ mới hoàn hảo làm sao! Không một tiếng động nào khác ngoài tiếng bì bọp của nước đập vào thành tàu. Những ánh phản quang đỏ cuối cùng của mặt trời lặn đang phản chiếu lại trong con sông. Những người được giải cứu nhìn thấy những con cò đứng một chân trên rìa những bờ sông lầy cát. Xa hơn nữa, những cây cọ đứng xếp hàng, thành một đám rước uy nghi. Những ngôi sao bạc còn lấp lánh; cũng chính những ngôi sao trong sáng, trầm lặng, tàn nhẫn mà họ vẫn thường ngước mắt lên nhìn trong những đêm dài của sự thống khổ của họ. 

- Bà Adams, bà xuống nơi nào ở Le Caire? Bà Belmont hỏi. 

- Tôi nghĩ là ở khách sạn Shepheard. 

- Còn ông, ông Stephens? 

- À, chắc chắn là ở khách sạn Shepheard rồi! 

- Chúng tôi xuống khách sạn Continental. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không mất liên lạc với nhau. 

- Bà Belmont ạ, không bao giờ tôi quên được bà, Sadie nói lớn. À, chắc bà sẽ phải tới Hoa Kỳ! Chúng tôi sẽ chuẩn bị cho bà một chuyến ở chơi tuyệt mỹ! 

Bà Belmont cười với sự duyên dáng cố hữu của bà. 

- Chúng tôi có những nhiệm vụ ở Ái Nhĩ Lan, và chúng tôi đã lơi là chúng từ ít lâu nay. Chồng tôi có việc của ông ấy, còn tôi thì tôi có căn nhà của tôi, và mọi việc đều hỏng cả. Hơn nữa, bà nói thêm với một giọng ranh mãnh, nếu chúng tôi đi Hoa Kỳ, rất có thể chúng tôi sẽ không gặp cô ở đó. 

- Tất cả bọn chúng ta sẽ phải lại gặp nhau nữa, Belmont nói, dù là chỉ để nói chuyện lại chút ít về những cuộc phiêu lưu của chúng ta. Việc này sẽ dễ dàng hơn trong một hay hai năm. Chúng vẫn còn rất gần gũi mà. 

- Tuy nhiên đối với tôi chúng có vẻ xa xôi lắm! Tôi thấy chúng như là một cơn ác mộng, bà vợ ông nói. Ðấng tối cao đã nhủ lòng thương làm nguôi đi những kỷ niệm đau buồn! Tôi có cảm tưởng là đã sống qua tất cả biến cố này trong một kiếp tiền sinh. 

Fardet giơ cái cánh tay mà chỗ cổ tay còn bị quấn băng lên. 

- Thể xác không thể cũng quên nhanh được như tinh thần, ông nói. Bà Belmont ạ, vụ này không có gì là một cơn ác mộng cả! 

- Thật là một điều tai hại khi một vài người được giải cứu và nhữmg người khác thì không! Sadie nói lớn. Chỉ cần có ông Brown và ông Headingly có mặt ở đây với chúng ta là tôi không còn ân hận gì nữa? Tại sao họ lại bị giết, mà không phải là chúng ta? 

Ông Stuart khập khiễng trên boong tàu đi tới, trong tay ông cầm một quyển sách lớn mở ngỏ. 

- Tại sao cái trái cây chín bị hái, và trái cây xanh thì bỏ lại? Ông nói để trả lời tiếng than van của cô thiếu nữ. Chúng ta không biết gì về tình trạng tinh thần của hai người bạn thân yêu, bất hạnh bị mất tích đó, nhưng người thợ làm vườn vĩ đại đã hái các trái cây của Ngài theo như sự hiểu biết của chính Ngài. Tôi xin đọc đoạn này để các bạn nghe... 

Một cây đèn được đặt trên bàn, ông ngồi bên cây đèn. Ánh sáng vàng vọt soi sáng cặp má đồ sộ của ông và những đoạn màu đỏ của quyển sách. Cái giọng mạnh mẽ, trầm tĩnh của ông làm át cả tiếng nước rì rào. 

- ..."Cầu xin phước lành cho họ, những người mà Chúa đã chuộc lại và giải thoát khỏi tay kẻ thù và tái hợp lại ở phương Ðông, ở phương Tây, ở phương Bắc và ở phương Nam. Họ đã bị lạc lõng trong sa mạc và họ đã không tìm thấy nơi trú chân tại đó. Bị đói, bị khát, họ đã mất can đảm và linh hồn họ đã suy sụp trong người họ. Vì vậy họ đã cầu khẩn Chúa, và Chúa đã giải thoát họ khỏi cơn hoạn nạn. Ngài đã dắt họ trên con đường thiện hảo, ngõ hầu họ có thể tìm lại thiên quốc, nơi mà họ đã từng cư ngụ. Ôi, cầu cho những người này có thể ca ngợi Chúa vì từ tâm của Ngài, và loan truyền các kỳ tích mà Ngài đã hoàn thành cho những con cái của loàn người!... " 

Vị mục sư gập sách lại. 

- ...Hình như những câu này đã được viết ra cho chúng ta; mặc dù chúng đã được viết từ hai ngàn năm nay. Bất cứ ở thời đại nào, con người đều bị bắt buộc phải nhìn nhận cái bàn tay đã dìu dắt họ. Về phần tôi, tôi không tin là sự hứng khởi đã được sinh ra từ hai ngàn năm nay, khi Tennyson viết với bao nỗi hăng say và lòng xác tín. 

"Ôi, chúng ta vẫn còn tin rằng điều thiện bất chấp mọi sự, sẽ là mục đích tối hậu của cái ác!" 

là ông đã nhắc lại cái tín điệp đã được truyền cho ông giống hệt như Ezéchiel, khi thế giới còn non trẻ hơn, đã nhắc lại một tín điệp sơ đẳng hơn và thô kệch hơn. 

- Tất cả những điều đó đều rất đẹp, ông Stuart ạ! Người đàn ông Pháp nói. Ông yêu cầu tôi ca ngợi Thượng đế vì Ngài đã làm tôi thoát khỏi hiểm nguy và đau khổ; nhưng điều tôi rất muốn biết là, khi Ngài đã cai quản mọi việc, tại sao Ngài lại đặt tôi vào giữa chốn đau khổ và hiểm nguy. Theo ý tôi, tôi có nhiều lý do để quở trách hơn là để ca ngợi. Ông sẽ không cám ơn tôi về việc tôi đã vớt ông từ dưới sông lên, nếu trước đó chính tôi đã đẩy ông xuống sông! Ðiều tối thiểu mà ông có thể đòi hỏi ở Thượng đế là Ngài phải chữa chạy những đau khổ mà chính bàn tay của Ngài đã gây ra cho ông. 

- Tôi không phủ nhận sự khó khăn, vị mục sư chậm rãi trả lời. Người nào không tìm cách tự lừa dối mình thì sẽ không phủ nhận sự khó khăn. Hãy xem Tennyson đã đương đầu với nó hăng hái thế nào cũng ngay trong bài thơ đó, bài thơ vĩ đại nhất, sâu sắc nhất và chắc chắn là hứng khởi nhất trong tất cả văn học nước Anh. Xin hãy nhớ lại kết quả mà nó đã gợi ý cho ông. 

"Tôi sẩy chân ở nơi mà tôi bước đi rất vững vàng 

Và tôi ngã xuống với gánh nặng ưu tư 

Trên những bực thềm của bàn thờ lớn của cõi đời này 

Nơi mà các bóng tối bay lên cao tới Thượng đế. 

Tôi xòe những bàn tay vụng về trong niềm tin, tôi rờ rẫm 

Tôi thu lượm bụi bặm và rơm rác, và tôi kêu gọi 

Người mà tôi cảm thấy là Thượng đế của muôn loài 

Và tôi hy vọng một cách yếu ớt vào một niềm hy vọng lớn hơn" 

Ðó là bí ẩn cốt lõi của những sự bí ẩn : Vấn đề tội lỗi và đau khổ, sự khó khăn lớn lao duy nhất mà nhà luân lý học phải giải quyết nếu y muốn biện minh cho sự đối xử của Thượng đế với con người. Xin hãy lấy trường hợp của chính chúng ta làm thí dụ. Chỉ nói riêng về bản thân tôi, tôi biết rõ những gì tôi đã sở đắc trong chuyến phiêu lưu này. Tôi nói ra điều này với tất cả lòng khiêm tốn, nhưng tôi phân biệt được rõ ràng hơn trước đây những bổn phận của tôi. Nó đã dạy tôi nên ít lơi là hơn khi nói điều gì mà tôi cảm thấy là điều thiện. 

- Còn tôi, Sadie nói lớn, nó đã dạy tôi nhiều điều hơn là quãng đời đã qua của tôi. Tôi đã học được nhiều, và cũng quên đi nhiều điều không nên nhớ. Tôi đã trở thành một con người khác. 

- Cho tới lúc này tôi chưa bao giờ hiểu được bản chất của chính tôi, Stephens nói. Hơn nữa tôi khó có thể nói rằng tôi đã có một bản chất để tìm hiểu. Tôi đã sống cho những gì không quan trọng, và tôi lơi là với những gì là cốt yếu! 

- Ồ, một sự rung chuyển nhẹ nhàng không bao giờ gây ra tệ hại! Ong đại tá nói. Một cái giường có nệm lông và bốn bữa ăn hàng ngày, chuyện đó chả có ích lợi gì cho một đấng nam nhi, cũng như cho một bọn quần thoa. 

- Cảm tưởng sâu xa của tôi là, bà Belmont nói xen vào, tất cả bọn chúng ta đều đã được nâng lên cao trong những ngày ở trong sa mạc này, hơn là những gì chúng ta đã làm từ trước hoặc những gì chúng ta sẽ làm sau này. Khi các tội lỗi của chúng ta được phán xét, chúng ta sẽ được tha thứ rất nhiều vì tình thương mà chúng ta đã chứng tỏ với nhau. 

Họ ngồi yên lặng trong khi những bóng xám tối đen lại và lũ chim nước vạch ra những chữ V lớn bên trên bề mặt óng ánh của con sông lớn. Một luồng gió lạnh nổi lên từ mạn Ðông; Stephens cúi xuống gần Sadie. 

- Cô có nhớ những gì cô đã hứa khi cô ở trong sa mạc không ? ông nói thì thào. 

- Ðiều gì vậy? 

- Cô đã nói rằng nếu cô được thoát nạn, trong tương lai cô sẽ cố gắng làm cho một người nào đó sung sướng. 

- Vậy thì tôi sẽ phải làm điều đó. 

- Thế là đã làm rồi, ông nói. 

Và những bàn tay họ nắm lấy nhau phía dưới cái bàn.

Thung lũng khủng khiếp

Phần I: Tấn thảm kịch ở lâu đài Birlstone

Chương 1

Tin báo

Holmes không đụng một tý nào đến bữa điểm tâm, cứ ngồi chống tay xuống bàn, ngắm nghía mãi một tờ giấy vừa lôi ở một bì thư ra. Anh đưa bì thư ra ánh sáng, chăm chú xem xét cả trong lẫn ngoài: 

- Tuồng chữ của thằng Porlock. Mặc dầu tôi chưa nhìn thấy tuồng chữ nó đến hai lần, nhưng chắc chắn đây là của nó. Nhưng thằng này mà phải gửi thư cho tôi thì nhất định là có chuyện quan trọng. 

- Porlock là ai vậy? - Tôi tò mò hỏi. 

- Porlock chỉ là một cái tên giả, một loại ký hiệu để nhận ra nhau thôi. Đằng sau cái tên ấy là một thằng tinh như ma. Đã có lần nó viết thư nói thẳng thừng rằng Porlock đâu có phải tên thật của nó, và nó thách tôi tìm xem nó là ai. Sở di tôi chú ý nhiều đến nó, không phải vì bản thân nó mà chính vì nó có liên quan đến một "đại nhân" mà tôi đang theo dõi. Thằng này cung giống như kiểu con chó rừng đi truớc con sư tử, một thằng người tý hon hợp tác với một tên khổng lồ vậy. Mà cái tên khổng lồ đó, chẳng những rất ghê gớm, mà còn khủng khiếp nữa kìa. Watson, đã có lần nào tôi nói với anh về giáo sư Moriarty chưa? 

- Tên tội phạm khoa học trứ danh ấy chứ gì? 

- Chết, anh mà gọi hắn như vậy, thì anh sẽ phải ra tòa. Mà chính cái chỗ đó mới là tuyệt đấy. Hắn, một thằng chủ mưu của tất cả những gì bẩn thỉu nhất đã xảy ra từ trước đến nay. Một bộ óc chỉ huy tất cả các tầng lớp cặn bã nhất của xã hội. 

Thế nhưng, không hề có một mối nghi ngờ, thậm chí không có cả một lời phê bình nhỏ nào có thể đụng đến lông chân hắn. Hắn đã che giấu những thủ đoạn của hắn khéo đến mức hắn có thể lôi anh ra tòa chỉ vì mấy câu nói vừa rồi, và tòa sẽ tịch thu hết số tiền lương hưu trí của anh để đền bù danh dự cho hắn. Nhưng rồi thế nào chúng ta cung phải đấu với hắn thôi. 

Tôi bốc lên: 

- Mong rằng lúc ấy, tôi sẽ có mặt bên cạnh anh. Nhưng mà anh dang nói về tên Porlock kia mà. 

- à, Porlock chính là một mắt xích trong sợi dây xích, gần mốc trung tâm đó. Cho đến bây giờ, Porlock là mắt xích yếu nhất của sợi xích. Sức bền của một sợi dây xích tùy thộc vào mắt yếu nhất của nó. Chính vì thế mà thằng Porlock là rất quan trọng đối với tôi, thằng này đôi lúc cung có ý trở lại con đuờng lương thiện, lại thêm, lâu lâu, tôi có gửi cho anh ta mươi bảng, thành ra đã có hai, ba lần, nó có báo cho tôi một vài tin tức có giá trị, các loại tin tức có thể giúp tôi biết trước và ngăn ngừa tội ác, nhưng không trừng phạt đuợc kẻ định gây ra. Chắc chắn là nếu có chìa khóa giải đuợc mật mã, thì lá thư này cũng là loại tin tức ấy đấy. 

Holmes trải tấm giấy lên bàn, tôi đứng dậy, đi lại đằng sau, nhìn qua trên vai anh và đọc đuợc những giòng chữ này: 

"534 C2 13 127 36 31 4 17 21 41 

DOUGLAS 109 293 5 37 BIRLSTONE 

26 BIRLSTONE 9 47 171" 

- Anh nghi gì thế, Holmes? 

- Tất nhiên đây là một cách để hắn báo tin cho tôi đấy. 

- Nhưng viết mật mã mà không cho chìa khóa giải thì có lợi ích gì? 

- Trong trường hợp cụ thể này, thì bức mật mã này đúng là không làm gì được. 

- Tại sao lại nói rằng "trong trường hợp cụ thể này" 

- Bởi vì có nhiều bức mật mã ta có thể đọc dễ dàng cung như đọc tin rao vặt trong báo vậy. Nhưng lần này... tôi đứng trước một cái gì có khác đây. Rõ ràng nó có liên hệ đến các chữ trong một trang của một cuốn sách nào đó. 

- Thế tại sao có hai chữ Douglas và Brilstone 

- Tại vì trong trang sách đó không có hai chữ này. 

- Thế thì tại sao nó lại không nói rõ tên cuốn sách? 

- Có ai cho cả mật mã lẫn chìa khó giải vào trong cùng một bì thư? Vì nếu thư bị đua nhầm người thì tiêu ngay. Cho nên chắc không lâu đâu, sẽ có một bức thư thứ hai nữa. 

Những dự đoán của Holmes đều đúng cả. Chỉ vài phút sau, người giúp việc mang đến cho chúng tôi bức thư chờ đợi. Holmes vừa xé bì thư vừa nhận xét: 

- "Cung cùng một thứ chữ, nhưng lần này thì lại ký tên nữa". Holmes vừa trải tờ giấy ra vừa nói một cách đắc thắng. "Này Watson ơi, chúng ta tiến lên đuợc rồi", nhưng vừa đọc đuợc vài dòng, trán Holmes bỗng nhăn lại. - Thế là bao hy vọng tan vỡ như bọt xà phòng, chỉ mong thằng Porlock không bị gãy cổ. 

Holmes đọc to bức thư cho tôi nghe: 

"Ông Holmes thân mến. trong vụ này tôi sẽ không mạo hiểm thêm nữa. Nó nguy hiểm quá. Thình lình lão đến, vào lúc tôi đã viết xong phong bì này với ý định báo cho ông biết cách giải mã, tôi đã giấu đuợc cái bì thư đi. Nhưng tôi đọc trong mắt lão, thấy lão nghi ngờ tôi. tôi xin ông hãy đốt bức mật mã đi, vì bây giờ nó chẳng còn có ích gì cho ông nữa" Fred Porlock." 

Holmes ngồi xuống, vò nát bức thư trong tay mắt nhìn sững vào ngọn lửa trong lò sưởi. 

"Có lẽ hắn tự biết là hắn đã phản bội chủ hắn, nên hắn tưởng tượng ra lời buộc tội trong mắt của lão kia". 

- Lão kia là lão giáo sư Moriarty? - Tôi hỏi. 

- Khi một tên trong cái băng này nói đến "lão ta" thì mọi người đều hiểu là ai rồi. Đối với bọn chúng, chỉ có một "lão ta" mà thôi. 

- Nhưng lão có thể làm gì đuợc? 

- Khi người ta là một trong những bội óc lớn nhất của Châu Âu và đuợc những quyền lực đen tối nhất sùng bái, thì người ta đã nắm trong tay những khả năng vô hạn. Porlock đang hoảng sợ. Anh đem so sánh chữ trong bức thư với chữ trên phong bì mà xem. Chữ ở cái phong bì thì viết rắn rỏi, còn trong bức thư thì run quá. 

- Thế hắn viết thư làm gì? Hắn chỉ việc bỏ rơi tất cả là xong. 

- Hắn sợ rằng nếu đột nhiên hắn lại câm bặt đi thì rồi mình sẽ đi điều tra xem tại sao, và điều đó có thể gây phiền phức cho hắn. 

- Anh nói có lý, lẽ di nhiên là... 

Tôi cầm bức mật mã lên quan sát thật cẩn thận: 

- ... Bực thật, một điều bí mật rất quan trọng đã đuợc viết trên mảnh giấy này, mà lại không làm sao đọc đuợc. 

Holmes đẩy mâm thức ăn ra, rồi đốt cái tẩu thuốc. 

- Anh thử xem lại. Liệu có một vài cho tiết nào đó mà cái bộ óc quỉ quái của anh đã để lọt lưới chăng? - Tôi đề nghị. 

- Nào, ta hãy xét bài toán này về phương diện lý trí thuần túy xem sao. Thằng Porlock nó chỉ cho ta là phải chiếu vào một cuốn sách nào đó. Đấy. Điểm bắt đầu là từ đấy. 

- Cung mơ hồ quá đi thôi. 

- Thì chúng ta làm cho rõ hơn? Chúng ta có những chỉ dẫn gì về cuốn sách này? 

- Chẳng có gì cả. 

- Ồ, ồ, bản mật mã bắt đầu từ con số 534 phải không? Ta đặt giả thiết đây là con số của trang sách. Như thế thì cuốn sách này khá dầy đấy. Thử xem có còn những chỉ dẫn nào nữa về cuốn sách này không? Mã hiệu thứ nhì là chữ C2. Anh nghi gì về chữ C2 này. 

- Chương 2, chắc thế. 

- Tôi ngờ là không phải, vì đã ghi số trang thì số chương không cần thiết nữa. Vả lại nếu trang 534 mà lại mới chỉ ở chương 2, thì bề dày của cuốn sách là không thể tưởng tượng đuợc. 

- Không phải chương 2, mà là cột - tôi kêu lên. 

- Hoan hô, sáng nay óc anh sáng chói như một ánh chớp vậy. Ta đã hình dung ra một cuốn sách dày, in hai cột, mỗi cột khá dài. Vì trong bản mật mã của ta có một chữ mang đến con số 203. Nếu đây không phải là một cuốn sách thường dùng, thì nó đã gửi cho mình cuốn đó. theo trong thu thì trước khi bị "lão kia" bắt 

gặp, nó có ý định gửi cho ta cái khóa giải mã ở ngay trên bì thư này. Điều này có nghia đây là một cuốn sách mà mình có thể dễ dàng có đuợc ngay. Một cuốn sách mà nó có, và nó nghi rằng mình cung có, nghia là một cuốn sách rất phổ biến. 

- Có lý lắm. 

- Vậy cái diện điều tra sẽ đuợc giới hạn vào một cuốn sách dầy, in hai cột, và thông dụng 

Tôi kêu lên một cách đắc thắng: 

- Cuốn Kinh Thánh. 

- Tốt, tốt. Nhưng mà không tốt lắm. Kinh Thánh thì có biết bao nhiêu là bản in khác nhau, làm sao mà Porlock biết đuợc là bản của nó với bản của mình có cùng một số trang như nhau. Không. Đây phải là một cuốn sách in đồng loạt, và Porlock phả biết chắc chắn rằng số trang 534 là có trong cuốn sách của mình kia. 

- Như thế là có thể thu nhỏ diện tích tìm kiếm lại nữa. 

- Đúng thế. Cuộc tìm kiếm của chúng ta hướng về những cuốn sách in hàng loạt mà nhà nào cung có. 

- Cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả". 

- Ngôn ngữ trong cuốn này quá khô khán., không dễ gì dùng những chữ ở trong đó để tạo nên một bức thơ. Chúng ta loại bỏ cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả". Cung loại bỏ cuốn tự điển vì những lý do đó. Thế thì còn gì nữa nào? 

- Một cuốn Lịch niên giám. 

- Xuất sắc. Nào ta thử xét cuốn Lịch niên giám xem, nó rất thông dụng, nó có đủ số trang đòi hỏi, nó in trên hai cột, ở quãng đầu thì ngôn ngữ của nó có hạn chế thật, nhưng phần cuối nó cung hùng biện lắm đấy... 

Holmes giật lấy cuốn sách để trên bàn. 

- Đây, trang 534 cột 2, mình thấy một bài văn tràng giang đại hải nói về nền thương mại và những tài nguyên của xứ Ấn Độ thuộc Anh, Watson, anh ghi các chữ này lại đi. Số 13 là chữ " Mahratta". Hứ, cái bắt đầu này có vẻ bất lợi rồi, chữ số 127 là "Chính phủ". cung còn có ý nghia một chút, nhưng chẳng có liên can gì đến chúng ta và giáo sư Moriarty cả. Bây giờ cứ thử nữa xem, Chính phủ làm gì? Than ôi, chữ sau là "lông heo" thôi thế là hết. Chúng ta đã thua cuộc ... 

Holmes nói với một giọng hài hước nhưng cay đắng. Nản lòng, tôi cung ra ngồi cạnh lò sưởi. Sự im lặng kéo dài, bỗng nhiên bị phá vỡ bởi một tiếng kêu của Holmes. Anh chạy vội đến chiếc tủ đứng và moi ra một cuốn sách dày cộm khác, bìa màu vàng. 

- Tại vì chúng ta muốn đi truớc thời đại. Hôm nay là ngày mùng 7 tháng giêng, cho nên chúng ta mới đi tra cứu một cuốn lịch niên giám năm mới. Nhưng chắc chắn là Porlock đã dùng một cuốn lịch năm ngoái, và có lẽ nó đã nói rõ cho chúng ta biết điều này nếu như nó viết đuợc lá thơ chỉ dẫn. Nào, thử xem cái trang 534 có cái gì nào? Số 13 là chữ "một". A, có vẻ hứa hẹn rồi. Số 127 là "nguy hiểm". 

Mắt Holmes long lanh lên. Những ngón tay thon nhọn của anh cứng đờ ra trong lúc anh lẩm bẩm đếm chữ. 

- À! Một nguy hiểm.. . Ghi lại đi Watson, ghi "một nguy hiểm... cấp bách... đang đe dọa một người tên là... ở đây chúng ta có chữ "Douglas" một người giàu có trong tỉnh Birlstone, lâu đài Birlstone. Xác thực khẩn cấp..."[1]. Đó Watson. Nếu anh bạn tạp hóa ở đầu phố mà có bán một vòng hoa thì tôi sẽ cho đi mua về để tự tặng thưởng cho mình. 

Tôi đọc lại bức thư kỳ lạ mà tôi đã ghi nguệch ngoạc trên giấy khi Holmes đang giải mã, và thở dài: 

- Vì sao lại tìm một cách phức tạp đến thế này để viết vài câu. 

- Trái lại, thằng Porlock đã hành động xuất sắc đấy. Nếu định tìm chữ trong một cột thôi thì sẽ khó mà tìm cho đủ chữ để nói hết ý nghi. Ở đây trái lại, nội dung thư là hoàn toàn rõ ràng. Người ta đang âm muu chống lại một người nào đó tên là Douglas, chắc chắn là một tay địa chủ giầu có ở tỉnh. Porlock biết đích xác là sự nguy hiểm rất cấp bách. (Nó không tìm thấy chữ "đích xác"[2] trong cột in chữ nên phải dùng chữ "xác thực"). 

- Chúng ta vừa làm đuợc một công trình kiệt tác về phân tích. 

Holmes vui như một nghệ si chân chính trước một tác phẩm thành công nhất của mình, và anh đang còn giữ một nụ cười trên môi, thì Billy mở cửa để cho viên thanh tra MacDonald của Scotland Yard bước vào. 

Chuyện này xảy ra vào những năm 80[3]. Vào thời ấy, Alec MacDonald là một trinh thám trẻ, năng nổ, cung đã có đôi chút thành tích trong một vài vụ án... Cả cái vóc người to lớn, cung chứng tỏ sức mạnh phi thường của anh ta. Trán rộng, đôi mắt sáng nằm sâu trong hai hốc mắt, lông mày rậm rì. Đó là một chàng trai ít nói, tính tình nghiêm nghị, đứng đắn. Holmes đã có dịp giúp anh ta thành công một đôi lần và không chịu nhận bất cứ một ơn huệ nào. Điều này giải thích đuợc tại sao người thanh tra xứ Ecosse này kính trọng và yêu mến anh bạn đồng nghiệp tài tử của mình. 

Holmes đon đả chào hỏi: 

- Ông là một loài chim dậy sớm, xin chúc ông nhiều may mắn trong khi đi săn sâu bọ sáng nay, nhưng tôi sợ rằng ông đến vào giờ này không khéo lại có một chuyện chẳng lành xảy ra. 

Viên thanh tra trẻ trả lời với một nụ cười tâm lý: 

- Ông Holmes, nếu ông thay chữ "tôi sợ rằng" bằng chữ "tôi mong rằng" thì có lẽ ông gần sự thật hơn. Không, tôi không hút thuốc đâu, cám ơn. Tôi phải lên đuờng ngay bây giờ, vì những giờ đầu tiên của một vụ án là những giờ có ích lợi nhất, nhưng... 

Viên thanh tra bỗng ngưng bặt, ông ta vừa thấy tờ giấy trên đó tôi đã ghi lại lời giải mã, ông ta há hốc mồm nhìn tờ giấy. 

- Douglas, Birlstone, thế này là thế nào, ông lấy những cái tên này ở đâu ra vậy? 

- Đây là một bức mật mã mà bác sỹ Watson và tôi vừa giải ra. Nhưng sao những cái tên này làm ông phải bối rối? 

- Một ông tên là Douglas ở lâu đài Birlstone vừa bị ám sát sáng hôm nay. - MacDonald nói.

--- 

[1]Nguyên văn bức thư: "THERE IS - DANGER - MAY - COME - VERY - SOON - ONE - NAME IS" - "DOUGLAS" - "RICH - COUNTRY - NOW - AT" - "BIRLSTONE" - "HOUSE" - "BIRLSTONE" - "CONFIDENCE - IS - PRESSING". 

[2] Nguyên văn: confident (đích xác) đồng âm với confidence (xác thực) - tiếng Anh 

[3] Thế kỷ XIX

Chương 2

Ông Sherlock Holmes diễn thuyết

Nói rằng một cái tin kỳ lạ như vậy làm anh ta phải bối rối hay xúc động thì là nói ngoa. Mặc dù là người không có tính độc ác, nhưng vì sống mãi trong những cái "giật gân thành ra cung chai người đi rồi. Và nếu những xúc cảm của anh có bị cùn nhụt đi thì trái lại sự thông minh của anh lại tăng thêm. 

Holmes nói lớn: 

- Phi thường. Thật phi thường. 

- Hình như ông không ngạc nhiên gì thì phải? 

- Tại sao tôi lại phải ngạc nhiên? Tôi nhận đuợc một bức thư nặc danh báo cho biết là có một sự nguy hiểm đang đe dọa một người nào đó. Rồi một giờ sau, tôi hay tin rằng sự nguy hiểm đó đã thành sự thật và người kia đã chết. Vậy thì tôi có chú ý, chớ không hề ngạc nhiên. 

Holmes kể lại cho viên thanh tra nghe chuyện chúng tôi vừa giải mã bức thư. MacDonald ngồi xuống hai tay đỡ lấy cằm, và hai con mắt chỉ còn như hai cái khe màu vàng. Ông ta nói: 

- Tôi định sáng nay sẽ đi xuống lâu đài. Tôi rẽ vào đây để hỏi xem ông có cùng đi không? Nhung bây giờ làm việc ở London có lẽ có kết quả hơn. 

- Tôi không nghĩ thế. - Holmes nói. 

- Ông hãy xem, chỉ ngày mai hay ngày kia thôi, là báo chí sẽ làm rùm beng lên về câu chuyện bí mật ở lâu đài đó. Nhung bí mật ở đâu kia chứ, vì ngay tại London, đã có người báo tin trước khi án mạng xảy ra. Vậy chúng ta hãy tóm cổ cái vị tiên tri ấy, thì mọi việc còn lại sẽ tuồn tuột theo ra cả thôi. 

- Chắc chắn là thế. Nhưng làm cách nào mà ông tóm cổ đuợc cái tên Porlock này? 

Dona lật ngược lá thư mà Holmes vừa đua cho anh ta. 

- Thùng thư ở trạm bưu điện Camberwell. Điều này cung không giúp đuợc gì? Theo ông thì cái tên này là tên giả? Có phải ông nói rằng ông có gửi tiền cho hắn ta phải không? 

- Hai lần. 

- Bằng cách nào? 

- Gửi qua bưu điện 

- Ông không bao giờ đi xem mặt người linh số tiền đó. 

- Không. 

Viên thanh tra tỏ ra hơi ngạc nhiên và khó chịu. 

- Tại sao lại không? 

- Bởi vì bao giờ tôi cung giữ đúng lời hứa, Khi hắn viết thư cho tôi lần đầu tiên, tôi đã hứa với hắn là sẽ không tìm cách theo dõi hắn. 

- Ông có nghi rằng có một người nào khác đằng sau hắn không? 

- Tôi không nghi, mà tôi biết chắc kia. 

- Cái vị giáo sư mà ông đã nói với tôi? 

- Đúng đấy. 

Vien thanh tra mỉm cười và nháy mắt với tôi 

- Ông Holmes ạ. Chính tôi đã đích thân điều tra về ông ta: mọi cái đều cho thấy rằng đây là một con người rất đáng kính, một nhà bác học đầy tài năng. 

- Tôi thật sung sướng thấy ông nêu lên những tài năng của ông ta. 

- Thật vậy, người ta chỉ còn biết cúi đầu kính chào ông ta mà thôi. Tôi có lần ngồi nói chuyện với ông ta về nguyệt thực, nhật thực, mà thật quái quỷ: tôi cung không hiểu bằng cách nào câu chuyện lại quay sang đến vấn đề đó. Nhung thực tình chỉ với một cái đèn và một quả địa cầu, ông ta đã cắt nghia tất cả cho tôi hiểu trong có một phút đồng hồ. Ông ta có cho tôi mượn một cuốn sách, nhưng nó quá cao đối với tôi. Ông ta có một bộ mặt nhẵn nhụi, mái tóc hoa râm, và cách ăn nói hoi trịnh trọng đủ để làm một ông bộ trưởng. 

Holmes phát ra một tiếng cười, xoa hai bàn tay vào nhau: 

- Thật là tuyệt, có phải cuộc đàm đạo mê ly và xúc động ấy là ở ngay trong buồng làm việc của giáo sư phải không? 

- Đúng thế. 

- Một căn phòng rất đẹp 

- Rất đẹp, đúng thế. 

- Ông ngồi trước bàn làm việc của ông ta 

- Vâng 

- Mặt trời chiếu vào mắt ông, còn mắt của giáo sư thì ở trong bóng tối. 

- Lúc đó à vào buổi tối, cái đèn quay về phía tôi 

- Tất nhiên là như thế. Ông có nhận thấy ở trên đầu chỗ giáo sư có treo một bức tranh không? 

- Vâng, bức tranh. Một người phụ nữ trẻ tuổi, hai tay ôm đầu và liếc nhìn xuống người xem tranh. 

- Tranh của Jean Baptiste Greuze đấy 

Viên thanh tra chăm chú nghe, Holmes ngả người vào lưng ghế, chụm đầu các ngón tay vào nhau, nói tiếp: 

- Jean Baptiste Greuze là một họa sỹ người Pháp sống vào khoảng 1750 đến 1800. Các nhà phê bình hiện đại đánh giá cao họa sỹ này. 

Hai mắt của viên thanh tra dãn ra: 

- Có lẽ tốt hơn hết là chúng ta hãy... 

Holmes cắt ngang ngay: 

- Tất cả những điều tôi nói với ông đều có một mối liên quan với cái bí mật của lâu đài Birlstone đấy. Thực ra, chúng ta đang đứng ở trung tâm của lối bí này. 

Dona miễn cưỡng mỉm cười và nhìn tôi: 

- Ông suy nghi có hơi nhanh quá. Ông nhảy mất một hay hai bước. Thành ra tôi không theo kịp ông nữa. Làm sao lại có thể có một mối liên hện giữa nhà họa sỹ của thế kỷ trước với vụ án này đuợc. 

- Sự kiện năm 1865 một bức tranh của Greuze đuợc La Jeune Fille a l Agneau đem ra bán đấu giá 1.200.000 franc, khoảng 40.000 bảng, không đủ làm chuyển bánh cả một đoàn tàu dài những suy nghi trong chất xám của ông sao? 

Không biết có phải là chuyển bánh không? Nhưng thấy viên thanh tra gãi đầu ghê quá, Holmes lại tiếp tục: 

- Lương giáo sư Moriarty là 700 bảng một năm. Vậy thì làm sao mà ông ta có thể mua đuợc bức tranh? 

Đoàn tàu của viên thanh tra bây giờ đang chạy hết tốc lực: 

- Thật hấp dẫn. Tôi rất thích nghe ông nói chuyện. 

Holmes mỉm cười. Anh ta rất khoái những sự tán thưởng ngây thơ như vậy. 

- Thế ở lâu đài đã xảy ra chuyện gì? Holmes hỏi. 

- Chúng ta có thì giờ ông ạ. Có một xe ngựa đợi tôi ở dưới đuờng kia. Về chuyện bức tranh.... Ông Holmes ạ, có lần ông đã khẳng định với tôi là ông chưa hề gặp mặt giáo sư bao giờ. 

- Đúng. Tôi chua hề gặp mặt ông ta. 

- Thế thì làm sao ông biết đuợc căn buồng của ông ta. 

- Tôi đã đến nhà ông ta ba lần: Hai lần tôi đã kiếm cớ ngồi chờ ông ta, và tôi đã đi khỏi trước khi ông ta về; Còn một lần... chính lần đó tôi đã tự cho phép tôi đọc qua những giấy tờ của ông ta và kết luận thật là bất ngờ. 

- Ông có tìm thấy một cái gì phạm pháp không? 

- Tuyệt đối không có. Chính điều đó làm tôi bối rối. Nhưng mà ông đã thấy tầm quan trọng của chi tiết bức tranh rồi chứ, chi tiết ấy nói lên rằng ông giáo sư rất giàu. Nhưng ông ta làm gì mà lại giàu thế? Ông ta không lấy vợ. Em ông ta là một người xếp ga quèn ở miền Tây. 

- Vậy thì sao? 

- Suy luận ra cung đon giản thôi. 

- Ông cho rằng ông giáo sư có những nguồn thu nhập lớn, và những nguồn này là bất hợp pháp phải không? 

- Đúng là như thế. Cái ý nghi này, tất nhiên không phải là chỉ có dựa trên bức họa của Greuze thôi, Tôi có cả tá những sợi tơ mong manh dẫn tôi đến trung tâm của màng nhện, là nơi con vật đó đứng im rình mồi. Sở di tôi nêu lên chuyện bức họa, cung chỉ vì nó nằm trong giới hạn tầm mắt của ông mà thôi. 

- Những điều ông vừa nói là hết sức đáng chú ý. Nhung nếu có thể, chúng ta thử đào sâu thêm một tý xem sao. Có phải ông ta đã làm giàu bằng mánh mung, lừa đảo làm bạc giả.... 

- Ông đã có bao giờ đọc một cái gì nói về Jonathan Wild chưa? 

- Có phải là tên của một nhân vật tiểu thuyết không không? Trong đó các ngài thám tử đều làm đuợc những việc rất kỳ diệu. 

- Jonathan Wild không phải là thám tử cung không là một nhân vật tiểu thuyết. Đó là một tên tội phạm bậc thầy đã sống vào khoảng năm 1750. Ông Mac, ông nên đọc lại tất cả những tài liệu ghi chép lại các vụ án. Tất cả mọi việc đều chỉ lặp lại mà thôi, kể cả lão giáo sư Moriarty nữa. Jonathan là sức mạnh của những tên tội phạm của London. Hắn đã bán bộ óc cho bọn này lấy 15% hoa hồng trong 

mỗi vụ. Tất cả những chuyện đã làm trước đây, sẽ còn đuợc làm lại nữa. Tôi sẽ kể cho ông nghe một vài việc về Moriarty mà có lẽ sẽ làm ông vui thích. 

- Tôi xin dỏng cả hai tai lên. 

- Tôi đã tìm hiểu đuợc ai là khâu đầu tiên của sợi xích. Một sợi dây xích mà đầu này là một tên tôi phạm thượng thặng, còn đầu kia là cả trăm tên ăn cắp, móc túi, những tên đi tống tiền, những tên bợm cờ bạc. ở giữa hai đầu sợi xích đó, là tất cả các loại tội ác. Tham mưu trưởng của bọn chúng là tên đại tá Sebastian Moran. Theo ông thì lão giáo sư trả lương cho hắn ta bao nhiêu tiền? 

- Tôi muốn biết điều đó lắm. 

- Sáu nghìn bảng một năm. Tôi cung Tôi cung tình cờ mà biết đuợc chi tiết này thôi. Ngài đại tá Moran lương còn cao hơn cả thủ tướng, những cái cái séc bình thường để trả tiền sinh hoạt trong nhà thôi. Nó đuợc trả vào tài khoản của sáu ngân hàng khác nhau. Chi tiết này có làm cho ông phải suy nghi không? 

- Tất nhiên cung đáng chú ý thật. Nhưng từ đó ông suy luận ra những gì? 

- Những gì à, là hắn không muốn ai bép xép gì về của cải của hắn, hắn có khoảng 20 tài khoản ở ngân hàng, và phần lớn tài sản của hắn thì ký gửi ở Pháp hoặc Đức. 

MacDonald ngồi lặng đi, chìm đắm trong một suy nghi sâu lắng, nhưng rồi cái óc thực tế xứ Ecosse lại kéo anh ta đứng lên. 

- Hiện giờ, thì lão ta có thể cứ tiếp tục. Ông đã kéo chúng tôi đi quá xa với những câu chuyện cổ tích của ông rồi. Tôi chỉ còn ghi nhận đuợc cái điều cốt yếu là có một sự liên hệ nào đó giữa giáo sư với tội ác. Vậy xin hỏi ông, liệu chúng ta có thể đi xa hon thế không? 

- Ông đã nói với chúng tôi rằng vụ án mạng này hiện giờ chưa giải thích đuợc. Nếu chúng ta giả thiết, rằng nguồn gốc của nó là như chúng ta đã nói, thì có thể phải xét đến hai động cơ khác nhau. Trước hết, Moriarty cai quản cái thế giới của lão bằng một cây roi sắt. Bộ luật hình của hắn chỉ gồm có một hình phạt: Xử tử. Như vậy có thể Douglas đã phản bội sếp của hắn. Hình phạt đã đuợc thi hành, và cái chết này sẽ thổi một luồng gió sợ hãi vào những tên còn sống trong băng của lão. 

- Đó là một gợi ý, thưa ông Holmes 

- Giả thiết thứ hai, là vụ án mạng đã đuợc Moriarty dựng lên như một vụ thông thường mà thôi. ở đó có mất gì không, ông Mac? 

- Tôi không nghe nói có mất gì cả. 

- Nếu có mất đồ thì điều này chống lại giả thiết thứ nhất và sẽ phù hợp hơn với giả thiết thứ hai. Moriarty có thể đã bị đẩy đến chỗ phải gây ra vụ án mạng này để chia phần, hoặc là hắn đã đuợc bọn nào đó thuê tiền để tổ chức vụ án. Cả hai khả năng này đều có thể cả. Nhưng dù sao, thì cung phải đến đó mới tìm đuợc lời giải. 

MacDonald bật đứng dậy, reo lên: 

- Vậy thì phải đi tới lâu đài Birlstone thôi. 

Holmes vừa thay áo vừa nói: 

- Trong khi đi đuờng, xin ông MacDonald kể lại cho chúng tôi nghe tất cả. 

Chữ "tất cả" này thật ra là quá ít ỏi. Nhưng cũng đủ để cho Holmes phải chăm chú nghe. Những chi tiết lặt vặt đã làm cho anh cứ xoa mãi hai tay vào nhau, mặt hồng hào hẳn lên. Chúng tôi vừa mới sống mấy tuần lễ quá tẻ nhạt, và hôm nay mới lại đứng trước một bí mật xứng đáng với những tài năng của Holmes. Viên thanh tra cung nói rõ rằng đây chỉ là những chi tiết anh ta lấy từ một bản báo cáo vội vã mới gửi theo chuyến tàu sớm nhất. Viên thanh tra địa phương đó là bạn của ông ta. Vì vậy ông ta đuợc tin rất sớm, khác hẳn với mọi lần. MacDonald đọc to cho chúng tôi nghe bức thư của Mason 

"Gửi thanh tra MacDonald 

Những tài liệu chính thức cần cho các bộ phận công tác của ông đã đuợc gửi trong một bao bì riêng. Thư này là gửi riêng cho một mình ông. Hãy điện ngay cho tôi biết ông đi chuyến tàu nào xuống đây để tôi ra đón. Đây là một bài toán sẽ làm cho ông phải đau đầu. Xin ông hãy xuống ngay. Nếu ông có thể mời đuợc cả ông Holmes thì hay quá. Thực tình, tôi thấy phức tạp quá". 

Holmes nhận xét: 

- Gớm, ông bạn của ông có vẻ sắc mắc nhỉ? 

- Vâng đúng thế, thưa ông. Mason xưa nay vẫn là con người tích cực lắm. 

- Đuợc. Thế ông có tin gì khác nữa không, ông Mac. 

- Không, khi nào đến nơi, Mason sẽ cho biết. 

- Thế thì tại sao ông lại biết Douglas bị ám sát. 

- Trong bản báo cáo chính thức có nêu tên Douglas và ghi rõ là đã bị giết bởi một viên đạn súng săn bắn vào giữa đầu. Cung có ghi cả giờ báo động là trước lúc nửa đêm hôm qua một chút. Báo cáo nói thêm là đây chắc chắn là một vụ án mạng rồi., nhưng chưa bắt giữ ai, và vụ án này có một vài khía cạnh kỳ lạ làm cho người ta phải bối rối. 

- Vâng, ông Mac, nếu ông cho phép thì chúng ta tạm ngưng ở đây. Hiện giờ thì tôi mới chỉ thấy có hai điều là: có một bộ óc lớn ở London và một cái xác chết ở Sussex. Vấn đề là phải tìm đuợc sợi dây xích nối hai cái này lại với nhau.

Chương 3

Tấn bi kịch ở Birlstone

Làng Brirlstone là một nơi thưa thớt những căn nhà nhỏ bé nửa gỗ, nửa gạch ở bìa phía bắc Sussex. Trong hàng thế kỷ trước, ngôi làng vẫn giữ nguyên phong cách cổ xưa, nhưng vào khoảng vài năm gần đây, đã có nhiều địa chủ giàu có đến dựng những biệt thự ở chung quanh. Trong các cánh rừng bọc theo bờ của khu rừng lớn Weald chạy dài mãi đến tận chân những ngọn đồi đá vôi ở bờ biển. 

Lâu đài nằm cách làng khoảng nửa dặm, trong một khu vườn cu nổi tiếng về những cây giẻ gai cực lớn. Một phần của tòa lâu đài này đã đuợc dựng lên từ thời Thập tự chinh lần thứ nhất. Năm 1534, một trận hỏa tai đã thiêu trụi tất cả. Một số gạch đá ám khói còn sót lại, đến triều vua James I, đã đuợc dùng để xây nên một tòa lâu đài khác trên nền của tòa lâu đài cu. Tòa lâu đài mới này với những đầu hồi chi chít và những khuôn cửa sổ có lắp những mảnh kích hình quả trám, gợi lại hình ảnh của nền kiến trúc vào thế kỷ thứ XVII. Về hai đuờng hào trước đây thì nay chỉ còn lại đuờng bên trong. Đuờng hào ngoài đã đuợc tát khô, và bây giờ trở thành một mảnh vườn trồng rau. Đuờng hào còn lại bao quanh cả tòa lâu đài dài, rộng đến 40 feet nhưng sâu chỉ vài feet. Nước trong hào là từ một dòng sông nhỏ chảy vào, nên không hôi thối. Những cửa sổ của tầng dưới cung chỉ cao hơn mặt nước khoảng 1 foot. Lối đi duy nhất để vào lâu đài là một cây cầu rút, đã hư hỏng từ lâu. Nhưng người chủ lâu đài hiện nay cho sửa chữa lại để buổi sáng thì hạ xuống, đến chiều tối lại rút lên: sự phục hồi lại truyền thống của thời phong kiến đã biến tòa nhà ban đêm thành một hòn đảo. 

Khi gia đình Douglas đến làm chủ tòa lâu đài này thì nó đang sắp đổ nát. Gia đình chỉ gồm hai người: John Douglas và vợ ông ta. 

John Douglas khoảng 50 tuổi, có một cái quai hàm thật khoẻ, nét mặt rắn rỏi, một bộ râu hoa râm, một đôi mắt xám rất sắc, vóc người lực lưỡng, dáng điệu cứng cỏi. Những gia đình lân cận có học thức hơn, đã tiếp đãi ông với một sự tò mò và có phần dè dặt, nhưng ông thì lại rất đuợc lòng người dân ở trong làng. Ông tham gia đóng góp rất rộng rãi vào tất cả mọi hoạt động ở địa phương, phụ trách các buổi hòa nhạc, và vốn có một giọng nam trầm, bao giờ ông cung sẵn sàng giúp vui bằng một bài hát thật hay. Hình như ông có khá nhiều tiền, và người ta đồn rằng ông đã làm giàu trong các mỏ vàng ở xứ Californiafornia. Điều đó thì không biết có đúng không, nhung chỉ cần nghe ông nói chuyện cung biết ông đã sống cả một phần đời ở bên Mỹ, người ta lại càng kính trọng ông hơn vì ông hoàn toàn coi thường sự nguy hiểm. Mặc dù cưỡi ngựa rất tồi, nhưng mỗi khi có những cuộc thi ngựa là thế nào ông cung tham dự, và cái tính bướng bỉnh đó đã đem lại cho ông mấy lần ngã ngựa đến kinh hồn. Khi bên nhà thờ bị cháy, lính cứu hỏa địa phương đã bó tay, ông một mình xông vào cứu những đồ đạc ra. Cứ như thế, trong vòng năm năm trời, Douglas trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Birlstone. 

Vợ ông ta cung đuợc bạn bè kính nể, ở đây, bà ít đi lại chơi bời. Nhưng số ít bạn bè này là đã quá đủ cho một bà chủ nhà vốn có tính dè dặt, và hình như chỉ để hết thời gian chú ý, săn sóc chồng. Người ta biết rằng bà phu nhân người Anh này thuộc tầng lớp xã hội thượng lưu, và đã làm bạn với ông ở London khi ông này góa vợ. Bà rất đẹp, vóc người cao lớn, thanh mảnh, tóc màu nâu, trẻ hơn chồng đến 20 tuổi, bà thường tỏ ra rất kín đáo về quá khứ của chồng mình. Hình như bà ta không hiểu biết gì nhiều lắm về ông ta. Một vài người còn thấy bà vợ có vẻ bồn chồn, lo lắng mỗi khi ông chồng về trễ. Trong một vùng nông thôn thanh bình như thế này, người ta rất thích thú bàn tán về những câu chuyện mách lẻo, và khi vụ án xảy ra thì dư luận càng xôn xao và cho rằng đúng là những điều nhận xét ấy có một ý nghia rất đặc biệt. 

Trong lâu đài còn có một nhân vật nữa, tuy không sống ở đó một cách thường xuyên. Đó là ông Cecil James Barker, ở biệt thự Hales, Hampstead. Cái dáng cao lênh khênh rất quen thuộc trong làng, vì ông ta hay đến lâu đài, và đuợc người ở đó quý mến lắm. Người ta nói rằng ông là người nhân chứng duy nhất biết về quá khứ của ông Douglas. Barker chắc chắn là một người Anh rồi, nhưng qua những câu chuyện của ông ta, thì có thể hiểu đuợc rằng, ông ta quen biết Douglas trước đây là ở bên Mỹ và lúc đó hai nguời sống với nhau thân thiết lắm. Hình như ông ta cũng giàu có lớn thì phải và hiện vẫn chưa lập gia đình. Ông ta trẻ hơn ông Douglas, chỉ trạc độ 45 tuổi là hết mức, người cao lớn, lưng thằng, thân hình nở nang, mặt mui nhẵn nhụi, không để râu. Ông ta có hai hàng lông mày đen nhánh và nhất là đôi mắt đen áp đảo người khác. 

Ông ta không đi săn, không cuỡi ngựa, suốt ngày cứ ngậm cái tẩu thuốc đi dạo chung quanh làng. Nếu không thì lại dong xe đi vào các vùng nông thôn với ông chủ nhà, và khi nào ông này vắng, thì với bà chủ nhà. Người đầu bếp Ames trong lâu đài nói "Đó là một vị thượng lưu vô tư hào phóng". Nhưng cũng bổ xung thêm "Nhưng thực tình, tôi không bao giờ lại dại dột muốn cãi lại ông ta. Ông ta rất nhiệt tình với ông Douglas, và cung không kém phần nhiệt tình với vợ ông Douglas." 

Còn đối với những người khác cùng ở trong lâu đài, thì tôi chỉ cần kể đến anh đầu bếp Ames, nhanh nhẹn, đứng đắn đáng kính; bà Allen tươi tắn phốp pháp, một tay giúp việc đắc lực cho bà chủ nhà. Còn sáu người gia nhân khác thì không dính dáng gì đến những sự kiện xảy ra trong đêm đó. 

Đồn cảnh sát địa phương được báo tin vào 12 giờ kém 15 phút đêm. Lúc đó là buổi trực của trung sỹ Wilson thuộc cảnh sát Sussex. Ông Barker, đã đến đập cửa và kéo chuông ầm ầm, báo tin rằng ông Douglas đã bị ám sát. Báo xong, ông lại vội vã trở về lâu đài. Sau khi đã báo lên thượng cấp, trung sỹ Wilson đến ngay hiện trường. Khi đến nơi, Wilson thấy chiếc cầu đã đuợc hạ xuống, các cửa sổ đều sáng đèn; và toàn thể lâu đài ở trong một tình trạng rối loạn. Các gia nhân, mặt mui xám ngoét, đứng sát vào nhau ở phòng ngoài, còn anh đầu bếp, cứ vặn hai bàn tay vào nhau trên bực cửa, chỉ một mình ông là có vẻ tự chủ và kìm đuợc nỗi xúc động. Ông mở cửa ở phòng ngoài, và mời trung si đi theo ông. Cùng lúc đó bác sỹ Wood ở trong làng, cung đến. Cả ba người bước vào căn phòng đã xảy ra tấn thảm kịch. Anh đầu bếp theo vào, đóng cửa lại. 

Nạn nhân nằm ngửa. chân tay duỗi thẳng ở giữa buồng, trên người chỉ có một cái áo choàng màu hồng, phủ ra ngoài bộ quần áo ngủ, chân đi giày vải. Vị bác sỹ cầm cây đèn đặt lên bàn và quỳ xuống bên cạnh xác chết; thoáng nhìn qua ông lắc đầu: Douglas đã chết. Một thứ vu khí kì lạ đuợc đặt tréo ngực ông ta: Đó là một khẩu súng ngắn mà nóng đã đuợc cưa ngắn đi, chỉ cách cò súng khoảng 1 foot. Trông rõ ràng là ông ta đã bị bắn rất gần, và bị trúng đạn vào ngay giữa mặt. Cả hai cò súng đã đuợc nối liền với nhau bằng một sợi dây thép, để lúc bắn thì cả hai nòng đều bắn một lượt làm cho sức công phá càng ghê gớm. 

Viên cảnh sát nói thất thanh: 

- Không ai đuợc sờ mó vào một tý gì ở đây, truớc khi cấp trên của tôi đến. 

Ông Barker nói dứt khoát: 

- Chưa có ai đụng vào đây cả, tất cả mọi vật đều vẫn y nguyên như lúc đầu. 

- Vào lúc mấy giờ? 

Viên trung si đã rút cuốn sổ tay ra. 

- Vào lúc 11 giờ rưỡi. Lúc đó tôi vẫn ngồi trước lò sưởi ở trong phòng tôi, thì nghe thấy tiếng nổ. Nổ không to lắm. Hình như có cái gì bịt kín lại vậy. Tôi vội đâm bổ xuống dưới nhà. Tôi nghi rằng từ trên đó xuống đến đây không quá 30 giây đồng hồ. 

- Lúc đó cửa có mở không? 

- Cửa mở, ông Douglas thì nằm đúng nhu thế này. Ngọn nến trong buồng vẫn cháy sáng ở trên bàn làm việc. Sau đó một chút thì chính tối đã thắp cây đèn lên. 

- Ông có trông thấy ai không? 

- Không. Tôi nghe thấy tiếng bà Douglas ở trên lầu chạy xuống sau tôi, và tôi đã ngăn bà lại để cho bà khỏi trông thấy cảnh thương tâm này. Bà hầu phòng Allen cung chạy đến và đã dìu bà chủ đi lên. Rồi anh đầu bếp Ames đến, và tôi với ông ta cùng đi vào trong phòng. 

- Tôi tưởng rằng cây cầu rút đêm nào cung kéo lên kia mà. 

- Đúng thế. Nhưng chính tôi đã hạ nó xuống để đi báo cho ông. 

- Nhung vậy thì tên sát nhân làm sao trốn ra đuợc. Phải đặt vấn đề khác đi thôi: Có thể là ông Douglas tự tử chăng? 

- Chúng tôi cung đã có nghi đến điều đó. Nhung ông xem đây này.... 

Ông Barker kéo tấm rèm để lộ một khuôn cửa sổ cao mở toang. 

- Và mời ông xem cái này nữa. 

Ông Barker đua cái đèn lại gần thành cửa sổ, nơi đó có một vết máu giống hệt như hình đế của một chiếc giầy. 

- Rõ ràng là có người đã trèo qua đây. 

- Có phải ông muốn nói rằng có người đã chạy trốn bằng cách vượt qua con hào này, phải không? Nhưng mà nếu chưa đầy nửa phút sau vụ án, ông đã có mặt ở đây, thì người ấy lúc đó còn phải đang lội nước. 

- Chắc chắn là như vậy. Ôi tiếc quá, không hiểu sao lúc đó tôi không nhẩy bổ ngay qua cửa sổ. Bị cái rèm cửa này che khuất, thành ra tôi không nghi ra nữa. 

Vị bác sỹ cung lẩm bẩm nói khẽ: 

- Tôi chưa bao giờ trông thấy một vết thương nát bấy ra như vậy. 

Viên trung si vẫn cứ ngắm mãi khuôn cửa sổ mở rộng. 

- Nhưng mà này, câu chuyện có người lội nước qua khe hào nghe thú vị thật, nhưng hắn làm cách nào để vào đuợc lâu đài, vì chiếc cầu rút đã bị kéo lên rồi mà. 

- À vâng. Đó, tất cả vấn đề là ở chỗ đó. - Ông Barker nói. 

- Thế mấy giờ thì người ta kéo cầu lên? 

- Lúc đó là gần 6 giờ chiều. - Ông Ames trả lời. 

- Tôi nghe nói là ở đây vẫn thường rút câu lên vào lúc mặt trời lặn. Như thế vào mùa này thì gần 4 giờ rưỡi hơn là gần 6 giờ chứ. - Viên trung si lại nhấn mạnh 

- Hôm nay bà chủ tiếp khách. Tôi không thể đụng đến cây cầu khi các vị khách chưa ra về. Chính tay tôi đã rút cây cầu lên. - Anh Ames giải thích 

- Nếu như có những người từ bên ngoài vào lâu đài thì họ phải đi qua cầu trước sau giờ, rồi trốn ở trong này, vì ông chủ mãi sau 11 giờ đêm mới bước vào căn buồng này 

- Đúng nhu thế. Đêm nào, trước khi đi ngủ, ông Douglas cung đi một vòng quanh lâu đài để xem đã tắt hết đèn chưa? Chính trong khi đi vòng như vậy, ông đã vào căn buồng này. Tên sát nhân đã đợi ông ta ở đây, và bắn thẳng vào ông ta. Rồi hắn trốn bằng cách leo qua cửa sổ, bỏ lại cây súng. - Barker giải thích. 

Viên trung si cúi xuống nhặt một mẩu bìa cứng ở bên cạnh xác chết trên có ghi 2 chữ "V. V." và một con số 341, chữ viết rất thô kệch. Ông ta giờ mẩu bìa lên hỏi: 

- Cái gì thế này? 

Ông Barker nhìn mẩu bìa một cách tò mò: 

- Tôi cung không để ý thấy nó. Có lẽ tên hung thủ lúc chạy trốn đã bỏ rơi lại. 

- V.V. 341. Tôi chẳng hiểu gì cả. 

Viên trung si cứ xoay đi xoay lại mãi mẩu bìa. 

- V.V.? Có lẽ là những chữ đầu tiên của một người nào đây chăng. Bác sỹ Wood, bác sỹ có cái gì đó. 

Ông bác sỹ đã nhặt đuợc một chiếc búa khá to trước lò sưởi. Ông Barker chỉ vào một hộp dính dầu bằng đồng trên mặt lò sưởi, giải thích: 

- Ngày hôm qua, ông Douglas có thay đổi chỗ treo mấy bức tranh. Tôi thấy ông ta đứng trên chiếc ghế này để treo bức tranh lớn bên trên. Việc đó cắt nghia tại sao lại có chiếc búa trên đây. 

Viên trung si gãi đầu ra vẻ khó nghi: 

- Có lẽ chúng ta nên để lại chiếc búa ở nơi tìm thấy nó thì hơn. Phải những cái đầu giỏi nhất ở Scotland Yard mới hiểu thấu đáo đuợc mọi việc. 

Rồi ông ta cầm lấy chiếc đèn từ từ đi quanh căn phòng. 

- Có người đã trốn ở đây, chắc chắn là như thế..... 

Viên trung si hạ cây đèn thấp xuống: ở một góc, thấy những vết giầy có dính bùn rất rõ. 

- Việc phát hiện này là phù hợp với gỉa thiết của ông, ông Barker ạ. Có thể là tên hung thủ đã vào lâu đài sau 4 giờ chiều khi những tấm rèm cửa sổ đã đuợc buông xuống; và trước 6 giờ, khi cây cầu đuợc rút lên. Nó lẩn ngay vào đây, trốn đằng sau bức rèm này. Rất có thể ý định của nó là vào ăn trộm, nhưng chẳng may ông Douglas lại bắt gặp nó, thế là nó giết ông ta và chạy trốn. 

- Tôi cung nghi gần giống như vậy. Nhưng ông có thấy rằng chúng ta đã mất bao nhiêu thời giờ quý báu rồi không? Tại sao chúng ta không kéo cả mọi người ra đi lùng sục khám xét khắp xung quanh, trước khi hung thủ có thể trốn thoát đuợc. - Barker đề nghị. 

Viên trung si cắn môi suy nghi một lát: 

- Không có chuyến tàu nào chạy trước 6 giờ sáng. Vậy nó không thế trốn thoát đi bằng đuờng tàu hoả. Nếu nó đi đuờng bộ thì với cái quần ướt sung, thế nào nó cung bị người ta để ý. Nhưng dù sao tôi cũng không thể rời khỏi đây đuợc trước khi có người đến thay tôi. 

Vị bác sỹ lại cầm lấy cây đèn để khám lại tử thi một lần nữa. Ông bỗng hỏi: 

- Cái vết này là cái gì đây. Nó có liên quan gì đến vụ án này không? 

Cánh tay áo bên phải của người chết đã đuợc kéo lên khuỷu tay, ở giữa cánh tay thấy nổi lên trên da hình màu nâu của một tam giác nằm trong một vòng tròn. 

Bác sỹ Wood nói: 

- "Đây không phải là một vết xăm. Tôi coi bộ như ngưòi này đã bị đánh dấu bằng một cái khuôn nung đỏ, giống như người ta đánh dấu đàn gia súc vậy." Bác sỹ nói thêm: "Thế này là thế nào?" 

- Tôi không hiểu đuợc. Có điều là từ 10 năm nay, tôi đã nhiều lần nhìn thấy cái dấu này trên tay ông Douglas. - ông Barker nói. 

- Tôi cung thấy nhiều lần khi ông chủ xắn tay áo lên. - Anh đầu bếp nói 

- Nếu như vậy thì nó không có dính dáng gì đến vụ án mạng này rồi. Nhưng dù sao thì nó cung thật kỳ lạ. Trong vụ này không có cái gì là bình thường cả. Tôi cung không hiểu bây giờ còn xảy ra những gì nữa đây - Viên trung si kết luận 

Anh đầu bếp vừa thốt kêu lên kinh ngạc và chỉ vào bàn tay duỗi thẳng của người chết, nói lắp bắp: 

- Nó tháo mất chiếc nhẫn cưới của ông rồi. 

- Cái gì? 

- Ông chủ tôi đeo chiếc nhẫn bằng vàng ở bên trong một chiếc nhẫn khác có gắn một hạt ngọc, chiếc nhẫn có hạt ngọc còn đây nhung chiếc nhẫn cưới thì biến mất. 

- Anh ấy nói đúng đấy. - Barker lên tiếng 

- Ông vừa khai là chiếc nhẫn cưới đeo ở trong chiếc nhẫn có gắn ngọc., - Viên trung si hỏi lại. 

- Thưa vâng. 

- Thế thì hung thủ đã tháo chiếc nhẫn có ngọc ra, rồi sau đó nó mới đoạt lấy chiếc nhẫn cưới, rồi lại đeo lại chiếc nhẫn có hạt ngọc vào tay người chết. 

- Như vậy đó. 

Viên trung si lắc đầu lia lịa: 

- Chúng ta hãy báo cáo tất cả về London. Ông Mason là một tay cừ khôi. Chưa bao giờ có một vụ án nào làm ông phải lúng túng cả. Còn về phần tôi, tôi xin thú nhận là vụ này vượt quá sức hiểu biết của tôi.

Chương 4

Tối mò

Ông Mason trông có vẻ bình tĩnh và thoải mái. Ông mặc một bộ quần áo vải tuýt rộng thùng thình, chân đi ghệt. Trông ông giống như một ông chủ trại cỡ nhỏ, một người gác rừng đã về hưu, hơn là giống một người đại diện cơ quan cảnh sát hình sự cấp tỉnh. 

Ông không ngừng nhắc đi nhắc lại: 

- Đây là một vụ án làm đau đầu đây, thưa ông MacDonald. Tôi mong rằng chúng ta sẽ làm tốt được nhiều việc, trước khi bọn ký giả rúc mũi vào cuộc điều tra làm hỏng hết các dấu vết. Có nhiều chi tiết có lẽ sẽ làm ông vui lòng, thưa ông Holmes. Cả đối với ông cũng thế, thưa ông bác sỹ Watson. Buồng của các ông đã được đăng ký trước ở khách sạn "Westville Arms". Thôi để bác khuân vác trông coi hành lý và xin mời các ông vui lòng đi theo tôi. 

Chỉ sau 10 phút là chúng tôi đã có phòng ở và 10 phút sau nữa, chúng tôi đã ngồi cả trong phòng khách của khách sạn. Ông MacDonald giở sổ tay ra ghi. Còn Holmes thì có dáng điệu của một nhà thực vật học vừa ngạc nhiên vừa ngắm nghía một bông hoa. Sau khi nghe xong câu chuyện, anh ta reo lên: 

- Tuyệt. Thật là tuyệt. Chưa có một vụ nào kỳ lạ như vụ này. 

Ông Mason hớn hở: 

- Vâng, tôi đã trình bày với các ông tất cả những gì mà thượng sỹ Wilson báo cáo với tôi. Thượng sĩ đã nắm được hết mọi sự kiện. 

Tôi đã có kiểm tra lại, suy nghĩ, và có bổ sung thêm chút ít. 

- Thế ông có biết thêm điều gì mới nữa không? - Holmes hỏi. 

- Trước hết, tôi xem xét chiếc búa, không tìm thấy một dấu vết gì của bạo lực cả. 

Ông thanh tra MacDonald lưu ý: 

- Trong nhiều vụ án mạng, nạn nhân bị đập bằng búa, mà trên chiếc búa có thấy dấu vết gì đâu. 

- Đúng như vậy. Sau đó tôi xem xét đến khẩu súng. Súng được lắp đạn ghém, hai cò súng được buộc với nhau, chỉ cần bóp cò thì cả hai viên đạn ở hai nòng để nổ một lúc. Nòng súng bị cưa ngắn đi, như vậy có thể dễ dàng mang nó theo dưới một áo khoác. Toàn bộ tên của nhà sản xuất thì không thấy có, nhưng trên những đường góc giữa hai nòng súng thấy còn lại chữ "PEN", các chữ khác thì bị cưa đi mất rồi. 

Holmes hỏi luôn" 

- Một chữ P hoa có vẽ hoa lá bên trên, và một chữ E, một chữ N nhỏ hơn có phải không ạ? 

- Đúng đấy ạ. 

- Hãng sản xuất súng Mỹ tên là "Pennsylvania Small Arms Company " 

Ông Mason nhìn Holmes với cặp mắt của một ông thầy thuốc nông thôn nhìn một đại chuyên gia trong ngành y tế. 

- Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là một khẩu súng Mỹ rồi. Tôi có đọc đâu đấy rằng súng săn cưa nòng, chính là một loại vũ khí thường dùng trong một số vùng nào đó ở bên Mỹ. Như vậy có rất nhiều khả năng là cái tên đã lọt vào trong lâu đài và đã giết ông chủ nhà là người Mỹ. 

Ông MacDonald gật gù: 

- Ông đi mau quá đấy, tôi chưa có chứng cớ gì để tin rằng có một kẻ lạ mặt đã lọt vào trong này. 

- Cửa sổ mở toang, vết máu trên thành cửa, mẩu bìa cứng, vết giày ở góc nhà, khẩu súng... 

- Mấy thứ đó chẳng có cái gì mà không bố trí trước được? Ông Douglas vốn là một người Mỹ, ông Barker cũng thế, vậy thì đâu nhất thiết phải đưa một người Mỹ khác từ ngoài lọt vào để giải thích những chi tiết Mỹ đó. 

- Ames, người đầu bếp... 

- Anh ta có đáng tin cậy không? 

- Anh ta đã ở với gia đình Douglas từ 5 năm nay. Anh ta chưa hề trông thấy khẩu súng này trong nhà. 

- Khẩu súng này không phải là thứ đem trưng bày cho mọi người thấy. Chính vì thế người ta mới đem cưa nòng của nó đi. Nó có thể đem cất giấu vào bất cứ một cái hộp nào. Làm sao anh Ames lại có thể đoán chắc được rằng trong nhà không có một khẩu súng loại này. 

- Nhưng dù sao thì tôi cũng chưa trông thấy nó bao giờ. 

MacDonald vẫn lắc đầu không chịu: 

- Tôi vẫn chưa tin là có một người lạ mặt vào đây. Tôi xin các ông hãy thử suy nghĩ xem hậu quả sẽ như thế nào khi giả thiết rằng khẩu súng này là do một người từ bên ngoài mang vào và người này đã hành động như các ông vừa nói. 

Holmes lấy cái giọng rất "chánh án" chỉ MacDonald, nói: 

- Ông Mac, tòa nghe lời khai của ông. 

- Hung thủ không phải là một tên ăn trộm tầm thường. Chuyện chiếc nhẫn và mẩu bìa cứng đã chứng tỏ rằng đây là một vụ giết người có âm mưu, vì một lý do cá nhân nào đó mà ta chưa rõ. 

- "Vậy hung thủ đã lẩn vào trong nhà với ý định gây ra một vụ án". Mason nói. "Hắn biết sẽ gặp khó khăn khi muốn thoát ra vì lâu đài được bao bọc bởi một đường hào đầy nước. Vậy thì hắn sẽ chọn thứ vũ khí gì? Chắc các vị sẽ trả lời tôi: Một vũ khí thầm lặng. Dùng vũ khí đó, thì sau khi gây ra án mạng, hắn có thể hy vọng chui nhanh qua cửa sổ, lội qua con hào rồi bình tĩnh chạy trốn. Như vậy, thì tôi có thể chấp nhận được, Còn nói hắn chọn một khẩu súng, trong khi hắn biết tiếng nổ sẽ làm cho mọi người trong nhà đổ xô đến và hắn sẽ bị phát hiện trưóc khi lội qua con hào.Liệu luận cứ này có lý không, thưa ông Holmes". 

Anh bạn tôi suy nghĩ một lát rồi đáp: 

- Tất nhiên là ông đã trình bày sự việc một cách không thể cãi được. Nhưng mà phải có chứng minh. Tôi xin phép được hỏi ông Mason, không biết ông có xem xét ngay bờ bên kia của đường hào để tìm dấu vết của một người từ dưới nưóc lội lên không? 

- ở đó không có một dấu vết nào. Bờ bên kia xây bằng đá, thành ra cũng khó thấy. 

- Không có một cái vết, không có một dấu in nào, không có gì cả hay sao? 

- Tuyệt đối không. 

- A, thế nếu bây giờ tất cả chúng ta cùng đi ngay ra đấy xem lại. 

- Tôi cũng định đề nghị như vậy. Nhưng có lẽ tốt hơn cả, tôi thông báo hết mọi chuyện để ông nắm trước khi ra đấy. 

Mason nhìn Holmes, không tin tưởng gì lắm. 

Ông thanh tra MacDonald nói: 

- Tôi đã có làm việc với ông Holmes và ông đã chịu vào cuộc với chúng ta rồi. 

Holmes cười tủm tỉm: 

- Tôi vào cuộc nhưng với quan niệm riêng của tôi về cách chơi. Tôi có chú ý đến một vụ nào cũng cốt là để giúp đỡ công lý và công việc của cảnh sát mà thôi. Nếu tôi có đứng ngoài cơ quan cảnh sát thì cũng chỉ vì cơ quan này gạt tôi ra ngoài. Nói rõ như thế rồi, tôi đòi hỏi quyền được làm việc theo những phương pháp riêng và khi nào thấy có thể được, tôi sẽ xin thông báo với ông những kết quả toàn bộ làm một lần, chứ không phải từng phần một. 

Ông Mason nói: 

- Chúng tôi rất hân hạnh về sự có mặt của ông, bác sỹ Watson, chúng tôi hy vọng rằng sau này chúng tôi sẽ được ông dành cho một chỗ trong những tác phẩm của ông. 

Chúng tôi đi xuôi xuống một con đường làng giữa hai hàng cây dương đã hớt ngọn. ở phía dưới hai cây cột bằng đá phủ rêu còn dấu vết của con sư tử đá ngày xưa. Sau một khúc quẹo gấp cuối cùng, chúng tôi trông thấy tòa nhà cổ thấp xây bằng gạch cũ. Tòa lâu đài đã qua ba thế kỷ, chứng kiến biết bao sự ra đời, bao lần đi xa trở về tổ ấm, bao nhiêu cuộc khiêu vũ, bao nhiêu cuộc hẹn hò. Nay những bức tường cổ kính này lại phải chứng kiến một tấn thảm kịch thương tâm. 

Mason chỉ cho chúng tôi: 

- Đó, cửa sổ đó. Cái cửa ở ngay bên phải sát cây cầu rút. Nó được mở toang ra đúng như trong đêm hôm qua. 

- Nó hẹp quá, làm sao một người chui qua được. 

- Tên hung thủ chắc không mập lắm. Ông và tôi, chúng ta đều chui qua được một cách dễ dàng. 

Holmes đi tới con hào, xem xét bãi cỏ cùng bờ đá. Mason nhắc lại: 

- Tôi đã xem kĩ lắm rồi, không có bất cứ một dấu vết gì chứng tỏ có một người từ dưới nước đi lên. 

- ở đây cứ luôn đục bùn thế này? 

- Thường thì nước có màu này. Giòng nước sông đưa phù sa vào. 

- Nó sâu bao nhiêu. 

- ở gần bờ thì khoảng 2 feet, còn giữa thì là 3. 

- Như vậy chúng ta có thể loại bỏ giả thiết là hắn bị chết đuối khi lội qua hào. 

- Trẻ con cũng không chết đuối. 

Chúng tôi bước qua chiếc cầu rút và một nhân vật xương xẩu ra mở cửa cho chúng tôi: Đó là Ames. Anh chàng vẫn còn run rẩy. Trung sĩ ngồi cạnh trong căn phòng xảy ra án mạng. Ông bác sỹ Wood đã về. Ông Mason hỏi: 

- Có gì mới không, thượng sĩ Wilson? 

- Thưa ông, không có gì. 

- Thế thì anh có thể về nhà. Khi nào cần anh, sẽ báo sau. Anh bảo anh đầu bếp hãy đi báo cho ông Barker, bà Douglas và bà hầu phòng rằng chúng tôi cần gặp họ. Bây giờ, tôi xin trình bày quan điểm riêng của tôi, sau đó các ông sẽ nói lên quan điểm của các ông... 

Cái ông cảnh sát ở tỉnh nhỏ này coi bộ mới đàng hoàng làm sao. Ông ta nắm rất vững mọi sự kiện và có một bộ óc sáng suốt, lạnh lùng, nhất định ông ta sẽ tiến rất xa về nghề nghiệp. Holmes nghe ông ta nói một cách chăm chú. 

- ... Đây là một vụ tự sát? Hay là một vụ ám sát? Nếu đây là một vụ tự sát thì chúng ta phải tin rằng người nay bắt đầu tháo chiếc nhẫn cưới của mình ra, đem giấu đi. Rồi người đó đi xuống đây, đặt đôi giày có dính bùn vào đằng sau bức rèm cửa để làm cho người ta tưởng là có ai đứng đợi ở đó, sau đó mở toang cửa sổ ra, bôi máu lên thành... 

Ông MacDonald cắt ngang: 

- Chúng ta có thể gạt bỏ giả thiết này. 

- Vậy thì đã xảy ra một án mạng. Chúng ta phải tìm xem hung thủ là người trong nhà hay từ ngoài vào. 

- Chúng tôi xin nghe lập luận của ông. 

- Trong cả hai trường hợp đó, chúng ta đều vấp phải những khó khăn to lớn. Nhưng không thể có một giả thiết thứ ba. Chỉ một trong hai giả thiết đó thôi. Trước hết chúng ta hãy giả thiết: hung thủ là người ở ngay trong lâu đài này. Chúng đã hạ ông Douglas trong một thời điểm mà tất cả mọi sự đều yên tĩnh, nhưng chưa ai ngủ cả. Mặt khác, chúng đã gây án mạng bằng một vũ khí lạ nhất và ầm ĩ nhất, để sau đó mọi người đều biết. Một vũ khí mà trước đó, chưa ai nhìn thấy ở trong nhà. Như vậy thật cũng khó tin quá. 

- Vâng khó tin thật. 

- Tất cả mọi lời khai đều khớp với sự kiện này. Sau khi báo động, chỉ chưa đầy một phút, thì mọi người đã có mặt ở hiện trường. Như vậy thì liệu các ông có tin được rằng trong một khoảng thời gian rất ngắn mà hung thủ đã làm rất nhiều việc: in các dấu chân trong góc nhà, mở cửa sổ, làm vấy máu lên thành cửa, rút chiếc nhẫn cưới ra rồi lại gắn vào .... 

Holmes tán thành: 

- Ông đặt vấn đề một cách rất rõ ràng.Tôi ngả theo quan điểm của ông. 

- Như vậy, chúng ta bắt buộc phải trở lại giả thiết do một người ở ngoài gây ra. Tên sát nhân đã lọt vào nhà trong khoảng thời gian từ 4 giờ rưỡi đến 6 giờ chiều. Hôm đó có tiếp khách, cửa mở rộng, nên không có gì ngăn được nó. Cũng có thể nó chỉ là một tên ăn trộm tầm thường thôi. Cũng có thể nó là một người có hận thù riêng gì với ông Douglas. Nó đã chui vào căn phòng này và đã trốn ở đằng sau bức rèm cửa. Nó đứng ở đó đến quá 11 giờ đêm. Vào giờ này ông Douglas bước vào phòng. Cuộc đối thoại với tên sát nhân rất ngắn ngủi, vì bà Douglas khai rằng chồng bà mới đi xuống chừng vài phút thôi là bà đã nghe thấy tiếng súng . 

- Cây nến cũng phù hợp với điều đó. - Holmes nói. 

- Đồng ý. Cây nến còn mới, chỉ cháy khoảng nửa inch, chắc ông ta đã đặt nó lên bản trước khi bị tấn công; nếu không, nó đã rơi xuống đất khi ông ta ngã. Điều này cũng chứng tỏ là ông ta không bị tấn công ngay khi vừa bước vào phòng. 

- Tất cả đều rõ ràng. 

- Bây giờ chúng ta có thể hình dung lại diễn biến của vụ án.: Ông Douglas bước vào phòng, đặt cây nến lên bàn. Một người từ sau bức rèm hiện ra. Hắn có mang cây súng. Hắn đòi chiếc nhẫn cưới. Ông Douglas đưa nhẫn cho hắn. Thế là hắn bắn ông Douglas vì ông này đã vớ được cái búa để trên thảm. Hắn bỏ rơi khẩu súng xuống, và cả mẩu bìa cứng có mang chữ "V.V 341". Rồi hắn chạy trốn qua cửa sổ và lội qua hào giữa lúc ông Barker phát hiện ra vụ án mạng. Ông nghĩ thế nào ông Holmes? 

- Rất hay, nhưng chưa thuyết phục được người nghe. 

Ông MacDonald kêu lên: 

- Ông bạn thân mến, tôi sẽ chứng minh cho ông thấy là nó sẽ hành động theo một cách khác. Tại sao nó dám dùng một khẩu súng sau khi nó biết rằng muốn thoát ra thì phải dùng một vũ khí thầm lặng. Nào, ông Holmes bây giờ xin ông cho biết ý kiến. 

Holmes hết liếc mắt từ phải qua trái rồi từ trái sang phải. Anh đứng dậy, đến quỳ bên xác chết. 

- Tôi muốn có thêm một vài sự kiện bổ xung, trước khi đi vào một giả thiết, thưa ông MacDonald. Những vết thương này thật là khủng khiếp. Chúng ta có thể cho anh đầu bếp vào đây một lát được không, các ông... Anh Ames, tôi chắc rằng anh đã được nhìn thấy nhiều lần cái hình rất kì lạ này, một tam giác trong một đường tròn, áp bằng sắt nung đỏ lên cẳng tay của ông Douglas phải không? 

- Vâng, thưa ông, nhiều lần ạ. 

- Anh có bao giờ nghe thấy một lời nói nào có thể giải thích được ý nghĩa của cái dấu ấy không? 

- Thưa ông, không. 

- Chắc lúc mới áp vào phải đau đớn lắm đấ., Rõ ràng là một vết bỏng. Này anh Ames, bây giờ tôi trông thấy một miếng băng dính ở dưới cằm ông Douglas. Anh có nhận thấy không? 

- Thưa ông có ạ. Sáng hôm qua, ông ấy đã bị đứt khi cạo mặt. 

- Ông ấy có hay bị đứt như vậy khi cạo mặt không? 

- Thưa ông, hầu như không. 

- Rất hay. Tất nhiên đây chỉ là một sự ngẫu nhiên thôi. Nếu không, nó chứng tỏ ông ta đang lo lắng về một mối nguy hiểm nào đó. Anh Ames, ngày hôm qua anh có nhận thấy có một cái gì đó khác thường trong sinh hoạt của ông chủ không? 

- Ông chủ tôi có hơi bồn chồn và cáu gắt. 

- à, thế thì. Hình như chúng ta đã tiến thêm được vài bước. Ông MacDonald, ông có muốn đích thân hỏi thêm gì nữa không? 

- Không, xin nhường cho những người cao minh hơn. 

- Vậy thì chúng ta quay sang mẩu bìa "V.V. 341". Đây là một loại bìa tồi, ở trong nhà có thứ bìa nào giống thế này không? 

- Thưa ông, không ạ. 

Holmes đi lại bên bàn giấy, lấy mỗi lọ mực, đổ vài giọt lên giấy thấm. 

- Những chữ này không phải viết ở đây rồi. Viết bằng mực đen, còn mực ở đây màu đỏ gạch, vả lại viết bằng một ngoì bút to nét, còn những ngòi bút ở đây đều nhỏ nét cả. 

- Không, những chữ này đã được viết ở nơi khác rồi. Anh Ames, anh có cho rằng những chữ này có ý nghĩa gì không? 

- Thưa ông, tôi không biết. 

- Ông nghĩ thế nào, ông MacDonald? 

- Nó làm tôi nghĩ đến một hội kín. Cái dấu ở trên cánh tay kia cũng thế. 

- Tôi cũng nghĩ như vậy. - Ông Mason lên tiếng. 

- Chúng ta chọn giả thiết đó. Một thành viên của một hội kín lọt vào trong lâu đài, chờ ông Douglas và bắn vỡ sọ ông ta, rồi trốn ra bằng đường hào, sau khi đã vứt lại bên cạnh nạn nhân một mẩu bìa cứng có ghi những chữ mà khi báo chí đăng lên sẽ báo tin cho các thành viên khác của hội biết rằng việc trả thù đã hoàn thành. Tất cả mọi cái đều khớp. 

- Nhưng tại sao lại dùng súng, mà không dùng bất cứ vũ khí nào khác? 

- Đúng thế. 

- Và tại sao chiếc nhẫn cưới lại biến mất? 

- Đồng ý. 

- Tại sao người ta lại chưa bắt được người nào? Bây giờ là 14 giờ rồi, tôi chắc rằng từ rạng đông đến giờ tất cả cảnh sát đang truy lùng một người lạ mặc quần áo ướt và lấm bùn. 

- Vâng, ông không nhầm, ông Holmes ạ. 

- Nếu hắn không có một nơi ẩn nấp ở gần đây, và nếu hắn không thay được quần áo, thì cảnh sát không để lọt lưới. ấy vậy mà cho đến giờ này, hắn đã lọt lưới thật.... 

Holmes đi lại phía cửa sổ, và rút chiếc kính lúp ra, xem xét vết máu trên thành cửa. 

- Đúng là vết in của một bàn chân. To hơn bình thường. Phải nói là giống như một bàn chân phẳng. Một điều kì lạ khác nữa: Cái vết chân dính bùn ở góc nhà kia lại có vẻ bình thường hơn vết này. Nói cho ngay ra, thì tất cả đều mờ nhạt không rõ ràng. Còn cái gì ở dưới gầm chiếc bàn con thế kia? 

- Những quả tạ của ông Douglas. - Ames đáp. 

- Chỉ thấy có một quả thôi, Còn quả kia đâu? 

- Thưa ông, tôi không biết. Có thể là chỉ có một quả thôi, Đã hàng tháng nay tôi không nhìn xuống đó. 

Holmes nói một cách trầm ngâm: 

- Một quả tạ .... 

Một tiếng gõ cửa đã ngắt lời anh. Một người đàn ông cao lớn, mặt cạo râu nhẵn nhụi, da rám nắng, trông thông minh, lanh lẹ bước vào. Đó là Barker. Đôi mắt quen ra lệnh của ông ta đảo nhìn chúng tôi một lượt. 

- Tôi xin lỗi đã làm gián đoạn cuộc họp, nhưng tôi muốn báo các ông một tin cuối cùng, 

- Đã bắt được rồi ư? 

- Chưa. Nhưng người ta đã tìm thấy chiếc xe đạp, hung thủ đã bỏ nó lại. Chỉ cách cửa ngoài chưa tới 100 yards. 

Mấy gia nhân cùng những người hiếu kì đang ngắm nghiá một chiếc xe đạp mà người ta vừa lôi ở trong một bụi cây ra. Cái túi sau yên xe đựng một chiếc cờ lê và một lọ dầu nhớt, nhưng không có một chỉ dẫn nào về người chủ của nó. ông thanh tra thở dài, nói: 

- Công việc sẽ đơn giản biết bao nếu xe này có mang biển số. Nhưng chúng ta sẽ biết được ngay chủ nó mang xe từ đâu đến. 

Nhưng mà, tại sao hắn lại vứt bỏ chiếc xe đạp? Làm thế, hắn không đi xa được. Ông Holmes này, hình như chúng ta chưa có được một tia sáng nào. 

- Chính tôi cũng đang tự hỏi như vậy. - Holmes đáp.

Chương 5

Những nhân vật của tấn thảm kịch

Khi chúng tôi bước ra khỏi phòng, ông Mason còn hỏi lại: 

- Các ông đã xem kỹ căn phòng này chưa? 

- Hiện nay thì đủ rồi. - ông thanh tra đáp. 

Holmes cũng gật đầu đồng ý. 

- Bây giờ thì chắc các ông muốn nghe lời khai của một vài người ở trong lâu đài này. Anh Ames, chúng tôi sẽ làm việc ở trong phòng ăn. Trước hết, anh hãy cho chúng tôi nghe tất cả những gì mà anh biết. 

Câu chuyện của anh đầu bếp kể lại đã thuyết phục được người nghe. Anh ta đã được nhận vào làm 5 năm trước đây, khi ông Douglas vừa đến ở Birlstone. Ông Douglas là một người có của và đàng hoàng, đã từng làm giàu trước đây ở bên Mỹ, ông tỏ ra là một ông chủ tốt và hào phóng, ông Douglas ra lệnh mỗi buổi chiều phải kéo cây cầu lên là để nối tiếp lại một phong tục cũ của tòa lâu đài cổ này. Ông rất ít khi đi London, và cũng ít khi rời khỏi làng. Nhưng một ngày, trước hôm xảy ra án mạng, ông đi lên Tunbridge Wells để mua sắm một ít đồ vật. Ngày hôm sau, chính Ames nhận xét thấy ông Douglas có vẻ hơi nóng nảy, cáu gắt và 

điều này thật là khác thường. Lúc xảy ra án mạng, Ames đang ở trong bếp, đang cất dọn các đồ chén bát. Chính lúc đó anh nghe tiếng kéo chuông thật mạnh, nhưng không nghe thấy tiếng súng nổ vì từ bếp lên đến căn phòng ấy còn phải qua một dãy hành lang dài và mấy lớp cửa đóng. Tiếng chuông quá mạnh cũng làm cho bà hầu phòng phải chạy ra, và hai người cùng chạy lên nhà trên. Khi đến chân cầu thang, thì bà Douglas ở trên lầu đang đi xuống. Không, bà ta không có dáng vội vàng. Và Ames có cảm giác là bà ta không bối rối. Khi bà Douglas xuống đến bậc cầu thang cuối cùng, thì ông Barker từ trong phòng chạy ra, ngăn bà lại và xin bà trở lên. Ông ấy kêu lên: 

- Chị hãy trở lên phòng ngay đi. Anh ấy đã chết rồi. Chị lên đi. 

Ông Barker phải nói mãi bà Douglas mới chịu lên phòng. Bà không khóc. Bà không làm ồn ào. Bà hầu phòng Allen đã dìu bà lên và ở trong phòng với bà. Ames và ông Barker lúc đó mới đi vào trong căn phòng. Bấy giờ ngọn nến không cháy, mà cây đèn lại cháy. Cả hai người nhìn qua cửa sổ, nhưng đêm tối đen như mực, và không nghe thấy gì cả. Họ đổ xô ra buồng ngoài và Ames đã hạ cây cầu rút xuống để ông Barker đi báo cảnh sát. 

Lời khai của bà hầu phòng Allen cũng khớp với lời khai của Ames. Buồng riêng của bà hầu phòng ở gần phía nhà trên hơn là chỗ bếp của Ames. Bà đang đi ngủ, thì nghe tiếng chuông kéo thật mạnh. Bà có hơi nặng tai. Không biết có phải vì thế mà bà không nghe thấy tiếng súng chăng? Khi ông Ames chạy lên nhà trên, thì bà cũng chạy theo ông ta. Bà có trong thấy ông Barker mặt bối rối từ trong phòng đi ra.Ông ta chạy đến trước mặt bà Douglas lúc đó ở trên cầu thang đi xuống. Ông ta năn nỉ mời bà Douglas đi lên, và bà ta có trả lời lại điều gì đó mà bà Allen nghe không rõ. Ông Barker ra lệnh cho bà: 

- Bà đưa bà chủ lên lầu đi. Và ở luôn đó với bà chủ. 

Bà đưa bà chủ lên lầu về phòng và cố khuyên bà chủ bình tĩnh lại. Bà Douglas, chân tay run bắn, nhưng cũng không muốn đi xuống nữa. Bà mặc chiếc áo khoác, ngồi vào bên lò sưởi, hai tay ôm lấy đầu. Bà Allen đã ở lại đó cả đêm với bà. 

Còn các gia nhân khác, thì họ đều đi ngủ cả, và chỉ được báo động trước lúc cảnh sát đến một chút thôi. 

Đến lượt ông Barker. Về những sự kiện xảy ra đêm hôm qua, ông cũng khai y như đã khai với trung sĩ Wilson. Riêng ông, ông tin rằng tên sát nhân đã trốn qua cửa sổ. Theo ông thì vết máu ở trên thành cửa sổ không cho phép người ta nhgi ngờ điều đó. Nhưng ông ta không hiểu vì sao hung thủ lại có thể biến đi được, hoặc tại sao nó lại không chịu trốn bằng xe đạp, nếu chiếc xe ấy là của nó. 

Về vụ án mạng này, ông có thể có một quan điểm rất rõ ràng. Ông Douglas là người Ailen di cư sang Mỹ từ thời còn thanh niên, đã làm ăn phát đạt và Barker đã quen biết ông ta ở California. Hai người chung vốn khai thác một cái mỏ, kết quả hết sức tốt đẹp. Đột nhiên Douglas bán lại phần của ông ta và trở về Anh. Lúc đó Barker vừa góa vợ. ít lâu sau, Barker chuyển hết tài sản ra thành tiền mặt rồi về London, vì thế hai người lại nối lại tình bạn cũ. Douglas làm cho Barker có cảm giác rằng có một mối nguy hiểm nào đó đang treo trên đầu mình, và Barker vẫn nghĩ rằng việc Douglas đột ngột rời bỏ California là có liên quan đến mối nguy hiểm đó. Barker tưởng tượng một hội kín nào đó, có mối thù không đội trời chung với Douglas. Chính một vài câu nói của Douglas đã làm nẩy nở ý nghĩ này trong đầu Barker, chứ bản thân Barker thì chưa bao giờ hỏi gì về cái hội kín này. Barker đoán rằng những chữ viết trên mẩu bìa cứng là có liên quan đến hội kín. 

Ông thanh tra MacDonald hỏi: 

- Ông đã sống với ông Douglas trong bao lâu ở California? 

- Khoảng 5 năm. 

- Lúc đó Douglas sống độc thân? 

- Góa vợ. 

- Bà vợ thứ nhất của Douglas là người nước nào? 

- Thụy Điển. Tôi có thấy ảnh của bà ta. Đó là một phụ nữ rất đẹp, chết trước khi chúng tôi quen nhau một năm. 

- Liệu ông có thể xác định được quá khứ của bà ta ở một vùng nào cụ thể bên Mỹ không? 

- Douglas có nói với tôi là ở Chicago. Ông ta biết rất rõ thành phố này và đã làm việc ở đó, Ông ta cũng có nói với tôi về những vùng mỏ khai thác than và sắt. 

- Ông Douglas có làm chính trị không? Cái hội kín này có mục đích chính trị không? 

- Không. Ông ấy không bao giờ để ý đến chính trị. 

- Ông có nghĩ rằng đây là một cái hội phạm pháp không? 

- Tuyệt đối không. Tôi chưa thấy một người nào lại thẳng thắn và dứt khoát như ông Douglas. 

- Ông có thể cho chúng tôi biết những chi tiết gì đặc biệt về cuộc đời của Douglas ở California được không? 

- Lúc đó ông ta sống ru rú trong khu mỏ và chỉ đi đến những nơi đông người khi nào đặc biệt lắm mà thôi. Khi ông ta đột ngột bỏ về Châu Âu, thì một tuần lễ sau có 6 người đến tìm ông ta. 

- Loại người như thế nào? 

- Những người trông có vẻ bất trị lắm. Họ kéo nhau đên khu mỏ và muốn biết Douglas đang ở đâu. Tôi nói là ông ta đã trở về Châu Âu và tôi không biết địa chỉ. 

- Họ là người Mỹ? Người California? 

- California thì tôi không biết. Nhưng người Mỹ thì chắc chắn rồi, không phải là dân thợ mỏ. 

- Cách đây có đến 6 năm không? 

- Gần 7 năm . 

- Thế mà hai ông đã sống với nhau 5 năm ở California. Vậy thì cái vụ hội kín này phải cách đây ít nhất đến 11 năm. 

- Đúng thế. 

- Một mối thù dai dẳng. 

- Tôi nghĩ rằng mối thù này lúc nào cũng lởn vởn trong đầu ông ta. 

- Khi một người cảm thấy mình bị đe dọa, thì người đó phải nhờ cảnh sát bảo vệ chứ? 

- Có thể đây là một mối nguy hiểm mà các cơ quan cảnh sát không làm gì được cũng nên, Nhưng có một điều này các ông cần phải biết: ông Douglas không khi nào đi ra ngoài lại không mang vũ khí. Nhưng hôm qua ông ấy lại mặc chiếc áo khoác ở nhà, và để súng ở trong buồng. Có lẽ vì thấy chiếc cầu rút đã kéo lên, nên ông ta cho thế là an toàn chăng? 

Ông MacDonald hỏi thêm: 

- Ông Douglas đã rời California đã 6 năm rồi. Đến năm sau thì ông cũng bỏ đi nốt phải không? 

- Vâng, đúng thế. 

- Ông ta lấy vợ khác từ 5 năm nay. Vậy thì ông trở về Anh vào lúc ông ta cưới vợ chứ? 

- Một tháng trước ngày cưới. Tôi là người làm chứng của ông ta. 

- Thế ông có quen biết bà Douglas trước khi cưới không? 

- Không. Tôi đã rời khỏi nước Anh từ 10 năm rồi. 

- Nhưng từ đó đến nay ông đã gặp bà ta nhiều lần rồi chứ? 

Barker nhìn ông thanh tra một cách hết sức nghiêm trang: 

- Tôi đã gặp ông ta nhiều lần, từ ngày cưới đến giờ. Còn nếu tôi có gặp bà ta đi nữa thì bới vì không thể ở trong nhà một người mà lại không biết đến vợ người đó. Nếu ông tưởng tượng rằng có một mối liên quan nào đó.... 

- Tôi chẳng tưởng tượng gì cả. Tôi có nhiệm vụ phải tìm tất cả những gì có thể liên quan đến vụ án. Nhưng tôi không muốn làm mất lòng ai. 

Barker đáp lại một cách khô khốc: 

- Có những cái tìm kiếm làm mất lòng người khác đấy, ông thanh tra à. 

- Chúng tôi chỉ muốn có các sự kiện. Nếu những sự việc này được trình bày ra đây một cách sáng tỏ, thì điều này chỉ có lợi cho ông, cho mọi người. Ông Douglas có hoàn toàn tán thành tình bạn của ông đối với với vợ ông ta không? 

Barker tái mặt, hai bàn tay nắm chặt vào nhau, nói to tiếng: 

- Ông không có quyền hỏi tôi những câu như vậy. Việc này có liên quan gì đến vụ án mà ông đang điều tra? 

- Tôi có phải nhắc lại câu hỏi này không, thưa ông? 

- Ông cứ nhắc lại, còn tôi, tôi không trả lời . 

- Ông có thể không trả lời, nhưng ông phải biết chính cái việc từ chối đã là một câu trả lời rồi. Bởi vì ông sẽ chịu trả lời nếu ông 

không có điều gì dấu diếm. 

Barker ngồi im lặng một lát, nét mặt căng thẳng. Rồi ông ta trở lại thư thái hơn, nhìn chúng tôi mỉm cười: 

- Thôi được, tôi thấy thật ra các ông cũng chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi. Tôi muốn nói với các ông rằng Douglas có một tính xấu là hay ghen. Ông ta rất quý mến tôi, Và ông ta cũng quý vợ ông ta lắm. Mỗi lần tôi đến đây, ông ta đều rất vui lòng. Lâu tôi không đến chơi là ông liền cho người đi gọi. Tuy vậy, khi ông thấy vợ ông và tôi ngồi nói chuyện với nhau thì ông ta nổi nóng đến mức nói tôi chẳng ra gì nữa. Đã nhiều lần tôi thề rằng sẽ không đặt chân đến đây nữa. Nhưng khi tôi hờn dỗi thì ông ấy lại viết cho tôi những bức thư rất dễ thương làm tôi không thể giận lâu hơn được nữa. Và sau đây là lời nói cương quyết của tôi: Không có một người phụ nữ nào lại yêu chồng và chung thủy như bà Douglas. 

Ông thanh tra MacDonald hỏi: 

- Ông có biết chiếc nhẫn cưới của nạn nhân đã bị rút ra khỏi ngón tay của người ấy không? 

- Hình như thế. 

- Tại sao ông lại nói là "hình như thế". Ông biết rõ đây là một việc có thật kia mà. 

Barker có vẻ lúng túng: 

- Khi tôi nói "hình như thế" là tôi muốn nói rằng cũng có thể chính nạn nhân đã tự mình rút chiếc nhẫn đó ra. 

- Việc chiếc nhẫn cưới biến mất, đã gợi ý cho mọi người thấy rằng có một mối liên quan nào đó giữa đám cưới của ông Douglas và vụ án này. Có phải không ông? 

Barker nhún vai trả lời: 

- Tôi sẽ không đi tìm xem nó gợi ý cái gì, nhưng nếu ông muốn ám chỉ rằng việc đó làm tổn thương đến danh dự bà Douglas thì..... 

Hai mắt ông ta long lanh sáng quắc, và ông ta phải dùng tất cả nghị lực để kìm hãm xúc cảm. 

- .... Thì ông đã đi lầm đường rồi đấy, Có thế thôi. 

Ông thanh tra MacDonald lạnh nhạt nói: 

- Tạm thời bây gì tôi không có gì hỏi thêm ông nữa... 

Holmes vội bác ngay: 

- Xin ông một chi tiết nhỏ, thưa ông Barker. Khi ông bước vào trong phòng, thì chỉ có một ngọn nến thắp để trên bàn, có phải không? 

- Vâng. 

- Chính nhờ ánh sáng của ngọn nến đó mà ông đã trông thấy là có một việc khủng khiếp vừa xảy ra,phải không? 

- Đúng thế. 

- Ông đã tức khắc kéo chuông ngay để báo động. 

- Vâng. 

- Và mọi người đã đổ ngay đến đấy chỉ sau một khoảng thời gian rất ngắn, Có phải không? 

- Chỉ sau không đầy một phút. 

- ấy thế mà khi mọi người vào đây lại thấy ngọn nến được tắt đi và ngọn đèn đã được thắp lên, như vậy có lạ lùng không ông? 

Một lần nữa, Barker lại tỏ ra hơi lúng túng. Ông ta im lặng một lát rồi mới trả lời: 

- Thưa ông tôi không thấy có gì lạ lùng. Ngọn nến chiếu ánh sáng lu mờ quá. ý nghĩ đầu tiên của tôi là phải có một ánh sáng tốt 

hơn. Cái đèn lúc đó để trên bàn, tôi đã thắp nó lên. 

- Và ông đã tắt ngọn nến đi. 

- Vâng. 

Holmes không hỏi thêm, và Barker - sau một cái nhìn thách thức về phía mỗi người chúng tôi, đã rời căn phòng đi ra. 

MacDonald viết một mảnh giấy nhỏ báo cho bà Douglas biết là ông sẽ lên gặp bà, nhưng bà đã trả lời là bà sẽ xuống. 

Đó là một phụ nữ khoảng 30 tuổi, cao lớn, rất đẹp, dáng điệu chín chắn, và hết sức tự chủ, khác hẳn với hình ảnh một người bi thảm và rã rời mà tôi hình dung ra trong đầu. Bà lần lượt nhìn chúng tôi, với một biểu hiện dò hỏi. Rồi đôi mắt dò hỏi đó, nhường chỗ cho một câu hỏi đột ngột: 

- Các ông đã tìm ra gì chưa? 

Trong giọng nói của bà chứa đựng sự sợ sệt nhiều hơn là niềm hy vọng. 

- Thưa bà, chúng tôi đã làm những việc cần làm. Xin bà cứ yên tâm. - MacDonald trả lời 

- Xin các ông đừng ngại tốn kém tiền bạc. - bà Douglas nói, giọng thều thào. 

- Không biết bà có đem lại cho chúng tôi một chút ít ánh sáng nào không? 

- Thưa, tôi sẵn sàng làm tất cả những gì mà các ông cần. 

- Ông Barker cho biết rằng bà không bước chân vào căn phòng xảy ra án mạng. 

- Vâng. Ông ta đã bắt tôi phải đi lên và trở về phòng riêng. 

- Bà nghe tiếng súng nổ, và bà đã tức khắc xuống ngay? 

- Tôi mặc áo khoác ngoài và tôi chạy xuống. 

- Từ lúc bà nghe tiếng nổ đến lúc ông Barker ngăn bà lại, mất khoảng bao nhiêu. 

- Có lẽ độ hai phút. Trong những lúc như vậy thật khó tính được thời gian. 

- Bà có thể dự tính được khoảng thời gian từ lúc chồng bà đi xuống nhà đến lúc bà nghe tiếng súng nổ không? 

- Thưa ông, chồng tôi đi từ buồng tắm ra nên tôi không nghe thấy tiếng anh ấy đi xuống. 

- Bà đã quen ông ấy ở Anh có phải không? 

- Thưa vâng, đã 5 năm rồi. 

- Bà có bao giờ nghe thấy ông ấy nói về một chuyện gì xảy ra ở bên Mỹ và dự cảm về một mối nguy hiểm nào không? 

Bà Douglas suy nghĩ lung lắm trước khi trả lời. Mãi một lúc sau bà mới nói: 

- Thưa có. Tôi vẫn có linh tính là có một sự nguy hiểm đe dọa chồng tôi. Anh không chịu bàn luận gì với tôi về việc này cả, vì anh ấy chủ tâm tránh cho tôi mọi sự sợ hãi. 

- Vậy làm sao bà lại biết được? 

Nét mặt bà Douglas hồng tươi hẳn lên trong một nụ cười: 

- Tôi biết được bí mật này là nhờ vào nhiều dấu hiệu: vì anh ấy không chịu nói gì với tôi về một vài quãng đời của anh khi còn ở bên Mỹ. Vì tôi thấy anh ấy có những biện pháp tự vệ riêng. Vì đôi lúc anh ấy không kiềm chế được và nói lỡ vài lời. Vì thấy cái cách anh ấy nhìn những người lạ mặt bất chợt đến đây. Tôi hoàn toàn chắc chắn là anh ấy có những kẻ thù ghê gớm, mà anh ấy cho là đang dò tìm tung tích của anh, và anh luôn luôn cảnh giác đề phòng. 

- Ông ấy đã lỡ mồm nói ra điều gì làm bà phải chú ý. - Holmes hỏi. 

- "Thung lũng khủng khiếp". Có một lần anh ấy dùng hình tượng này để nói với tôi. Khi tôi thấy anh ấy nghiêm nghị hơn bình thường, tôi có hỏi: "Có bao giờ chúng ta ra khỏi được cái "Thung lũng khủng khiếp" ấy không? " Và anh ấy đã trả lời rằng: "Có lẽ chúng ta không bao giờ ra khỏi được". 

- Tất nhiên là bà có hỏi ông nhà xem ông muốn nói gì bằng hình tượng "Thung lũng khủng khiếp". 

- Vâng, tôi có hỏi.Nhưng anh ấy sa sầm mặt lại và lắc đầu nói: "Cầu trời cho cái bóng ấy không bao giờ phủ cả lên em nữa". Đó là cái thung lũng thực sự chứ không phải là một hình tượng. Anh ấy đã sống ở đó và một sự khủng khiếp đã xảy ra có liên quan đến anh. 

- Thế ông ấy có nêu lên một người nào không? 

- Cách đây ba năm, anh ấy bị sốt cao. Trong cơn mê, anh ấy luôn luôn nhắc đến một tên người. Cái tên ấy là trưởng toán McGinty. Lúc anh ấy bình phục, tôi có hỏi trưởng toán McGinty là ai. Anh ấy cười trả lời: "Nhờ trời, nó chưa bao giờ làm trưởng cái toán của anh". Nhưng chắc có một mối liên hệ nào đó giữa người trưởng toán đó và thung lũng khủng khiếp. 

Ông thanh tra MacDonald nói: 

- Bà đã gặp ông Douglas trong nhà trọ một gia đình ở London và hai ông bà đã hứa hôn với nhau cũng ở đó. Trong việc lập gia đình, có một yếu tố nào bí mật hay cần phải giữ kín không? Hay là một yếu tố lãng mạn? 

- Lãng mạn à? Vâng, thưa có. Bao giờ thfi cũng có yếu tố lãng mạn. Không có cái gì là bí mật cả. 

- Ông ấy có tình địch không? 

- Thưa không. Lúc đó tôi hoàn toàn tự do. 

- Việc mất chiếc nhẫn cưới, có gợi cho bà một ý nghĩ gì không? Nếu kẻ thù cũ đã đến đây và ám hại ông, thì có lý nào chúng lại tháo chiếc nhẫn. 

TRong một thoáng, tôi chợt thấy một cái gì đó như là một nụ cười rất kín đáo trên đôi môi bà Douglas. Bà ta bình tĩnh trả lời: 

- Tôi tuyệt đối không hiểu gì cả. Thật là kỳ lạ. 

Ông Thanh tra nói: 

- Thưa bà, chúng tôi không giữ bà lâu hơn nữa và rất tiếc đã quấy rầy bà. Tất nhiên còn một số điều nữa phải xem xét thêm, nhưng 

chúng tôi sẽ xin kêu gọi sự giúp đỡ của bà khi nào cần thiết. 

Bà ta đứng lên, và tôi lại bất chợt một lần nữa thấy đôi mắt sắc sảo nhìn chúng tôi một cách dò hỏi. Rồi bước ra khỏi phòng ăn. 

Khi hai cánh cửa phòng đã khép lại, ông thanh tra MacDonald khe khẽ nói một cách trầm ngâm: "Một người đàn bà đẹp. Một người đàn bà rất đẹp. Cái tay Barker này là một người được phụ nữ ưa thích. Cậu ta công nhận rằng Douglas có tính hay ghen. Biết đâu rằng cái ghen này không phải là vô căn cứ. Rồi lại còn chuyện cái nhẫn cưới nữa. Chúng ta không thể coi thường chi tiết ấy được. Một người mà đã rút cái nhẫn cưới ra khỏi bàn tay của một xác chết. Ông nghĩ thế nào, ông Holmes". 

Holmes ngồi yên lặng, hai tay ôm đầu. Anh đứng dậy ra giật chuông, và khi người đầu bếp vào, anh hỏi: 

- Anh Ames, ông Barker hiện giờ ở đâu? 

- Thưa ông, để tôi đi xem. 

Một lát sau, anh ta trở lại báo cáo ông Barker hiện đang ở ngoài vườn. 

- Anh Ames, anh cố nhớ lại xem, đêm hôm qua khi anh vào gặp ông Barker thì ông ta đi gì ở chân? 

- Ông ta đi giày vải. Tôi đã mang giày da đến cho ông ta thay để đi báo cảnh sát. 

- Thế đôi giày vải ấy bây giờ ở đâu rồi? 

- Dưới gầm ghế ở phòng ngoài. 

- Rất tốt, việc phân biệt giữa những vết chân của ông Barker và của một người ở ngoài là rất quan trọng chứ? Anh có đồng ý không. 

- Thưa ông, vâng, tôi nhận thấy các vết chân của ông Barker đều đầy dấu máu. Nhưng cả những vết chân của tôi cũng thế. 

- Đó là điều bình thường, nếu căn cứ vào tình trạng căn buồng lúc đó. Chúng tôi lại sẽ gọi chuông khi nào cần đến anh. 

Vài phút sau chúng tôi đã trở lại căn buồng có án mạng. Holmes đã nhặt mang theo đôi giày vải để ở buồng ngoài, đôi giày đỏ lòm máu. 

Holmes cầm đôi giày ra đứng trước cửa sổ chăm chú xem xét, vừa xem vừa nói khẽ một mình. 

- Kỳ cục. Thực là kỳ cục. 

Anh ta nhẹ nhàng cúi xuống và đặt chiếc giày cải lên vết máu trên khung thành cửa sổ: KHớp đúng như in. Anh ta mỉm cười, nhìn mọi người. 

Ông thanh tra bối rối đến cực độ, hét lên như người điên: 

- Chính tay Barker này đã in dấu gìay trên thành cửa sổ. Nó rộng hơn một dấu chân bình thường. Tôi nhớ rằng ông đã có nói đây là một bàn chân phẳng. Bây giờ mới hiểu tại sao. Nhưng này ông Holmes, thế hắn định chơi cái trò gì đây? 

Holmes cũng nhắc lại một cách trầm ngâm: 

- Vâng, vâng. Trò gì nào? 

Mason tủm tỉm cười: xoa mãi hai bàn tay vào nhau với một niềm vui thích hoàn toàn có tính cách nghề nghiệp: 

- Tôi đã báo trước cho các ngài biết mà. Gay go hóc búa lắm chứ có phải chơi đâu.

Chương 6

Một tia sáng chợt loé

Trong khi ba nhà thám tử đi thẩm tra lại một số chi tiết, tôi đi dạo một vòng khu vườn ở bên hông lâu đài. Được bao quanh bởi những hàng cây thuỳ dương uy nghi, khu vườn có một bãi cỏ rất đẹp, ở giữa là một chiếc đồng hồ mặt trời cổ kính. Sự yên tĩnh ở đây làm cho thần kinh tôi như giãn hẳn ra. 

Đi về phía xa nhất của tòa lâu đài, những lùm cây mọc sát vào nhau làm thành một thứ hàng rào rất kín. Đằng sau hàng rào, có một chiếc ghế kê khuất hẳn, người đi từ phía lâu đài lại không thể nhìn thấy được. Đi gần đến đó, tôi chợt nghe tiếng nói của đàn ông, và một tiếng nói nhỏ của phụ nữ. Một lát sau khi đã đi vòng qua hàng rào, tôi trông thấy bà Douglas đang ngồi với ông Barker. Vẻ mặt của bà ta làm tôi phải kinh ngạc. Lúc nãy, bà tỏ ra nghiêm nghị và dè dặt bao nhiêu thì bây giờ, bà ta yêu đời bấy nhiêu; khuôn mặt vẫn còn rung lên trong sự thích thú vì câu nói vừa rồi của ông Barker. Ông ngồi nghiêng người ra phía trước, hai tay đan vào nhau, một nụ cười tươi làm rạng rỡ hẳn bộ mặt rắn rỏi. Khi trông thấy tôi, họ lấy lại nét mặt trang nghiêm, thì thầm với nhau câu gì đó, rồi Barker đứng dậy và tiến về phía tôi: 

- Thưa ông, có phải tôi đang được hân hạnh nói chuyện với bác sỹ Watson không? 

Tôi chào lại một cách lạnh nhạt. 

- Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đúng là ông, người mà ai ai cũng biết là bạn thân của ông Holmes. Bà Douglas mong muốn được thưa với ông một đôi điều. 

Tôi cau mày và đi theo ông ta. Hình ảnh của người chết lại hiện ra trong đầu tôi. Chỉ vài giờ sau tấn thảm kịch thì vợ và bạn của kẻ xấu số đã cười đùa vui vẻ với nhau. Tôi chào bà Douglas một cách dè dặt. 

- Tôi sợ rằng ông sẽ coi tôi là một người đàn bà không tốt. 

- Đó không phải là việc của tôi. - Tôi nhún vai, nói. 

- Có thể một ngày nào đấy, ông sẽ hiểu được rằng... 

- Cũng không cần thiết là bác sỹ Watson phải hiểu. Đúng như ông ta nói, đây không phải là việc của ông. - Ông Barker nói. 

- Đúng thế. Vì vậy tôi xin phép được tiếp tục đi dạo. 

- "Xin hãy khoan, bác sỹ Watson!". Bà Douglas kêu lên. "Ông hiểu biết ông Holmes và những mối quan hệ của ông ta với cơ quan cảnh sát hơn ai hết. Nếu có một sự việc nào đó đem nói riêng với ông ta, thì ông ta có luôn luôn đem báo cáo lại với các thám tử của chính quyền không?" 

- Xin hỏi ông Holmes làm việc riêng cho ông ta, hay ông ta làm việc cho cảnh sát? - Barker cũng nhấn mạnh thêm. 

- Tôi cũng không biết mình có đủ thẩm quyền để bàn về vấn đề này không. 

- Tôi van ông. Nếu ông mách cho chúng tôi điều này, thì ông sẽ giúp đỡ cho chúng tôi nhiều lắm. 

Trong giọng nói của bà chứa đựng một cái gì nghe thành thật quá, đến nỗi lúc đó tôi quên hết cái chuyện vô tâm của bà, và chỉ nghĩ cách làm sao cho bà vui lòng: 

- Ông Holmes là một nhà điều tra độc lập. Ông ấy tự làm chủ lấy mình và hoạt động theo sự suy nghĩ riêng của ông. Mặt khác, ông ấy cũng phải tỏ ra trung thực đối với những thám tử của nhà nước cùng làm việc trong một vụ án, và ông ấy sẽ không giấu diếm họ bất cứ một điều gì có thể giúp họ đưa các tội phạm ra trước công lý. Như vậy bà và ông nên hỏi thẳng ông Holmes. 

Nói thế rồi, tôi nhấc mũ lên chào và bỏ đi, để mặc họ ngồi đằng sau lùm cây. Khi tôi đi khỏi hàng rào và quay lại thì thấy họ vẫn đang bàn cãi và trông theo tôi. Khi tôi kể lại cho Holmes nghe câu chuyện vừa rồi, Holmes trả lời: "Tôi không mong ước được nghe những lời tâm sự của họ". 

Sau đó Holmes làm việc với hai đồng nghiệp suốt buổi chiều ở lâu đài và mãi 5 giờ mới về. Anh còn nhắc lại lần nữa: 

- Này Watson, không có tâm sự gì cả đấy nhé. Những tâm sự này sẽ trở nên rất cộm nếu sau này có sự bắt bớ về tội đồng lõa. 

- Sắp tiến đến bước đó rồi à? 

- Khi nào tôi tiêu diệt xong cái quả trứng thứ tư này, tôi sẽ nói cho anh biết tình hình hiện nay. Tôi không nói rằng chúng ta đã giải được bài toán. Còn xa đấy. Nhưng khi nào chúng ta tìm thấy quả tạ còn thiếu kia thì..... 

- Quả tạ à? 

- Tất cả vụ án này quay chung quanh cái quả tạ vắng mặt kia. Một quả tạ duy nhất. Anh hãy tưởng tượng có một nhà lực sĩ nào chỉ tập với một quả tạ thôi, trẹo cột sống. 

Anh ta nhai nhồm nhoàm cái bánh ngọt, hai mắt long lanh tinh nghịch: trông anh ăn ngon như thế cũng đủ hiểu là công việc tiến hành tốt rồi ; ăn xong, anh đến ngồi bên góc chiếc lò sưởi của quán trọ, bắt đầu nói: 

- Nói dối. Nói dối to bằng cái đình. Tất cả câu chuyện của Barker là nói dối. Nhưng câu chuỵên của Barker lại được bà Douglas công nhận. Vậy thì bà Douglas cũng nói dối. Bởi vậy, giờ đây chúng ta đang đứng trước bài toán này: Tại sao họ lại nói dối, và cái sự thật họ đã cố gắng che giấu là gì? Theo họ kể lại thì tên sát nhân chỉ có một khoảng thời gian chưa đầy một phút để tháo chiếc nhẫn thứ nhất ra, lấy chiếc nhẫn cưới, rồi đeo chiếc nhẫn thứ nhất vào tay nạn nhân. Chắc chắn là không bao giờ nó làm như vậy đâu. Sau đó nó lại còn nhớ để một mẩu bìa cứng bên cạnh xác chết nữa, không thể làm kịp. Cậu có nói rằng: chiếc nhẫn cưới đã 

được rút ra khỏi tay Douglas trước khi ông ta chết. Sự kiện cây nến cháy ít như vậy chứng tỏ cuộc đối thoại chắc phải là ngắn ngủi. Lại nữa một người can đảm, liều lĩnh như Douglas liệu có tháo ngay chiếc nhẫn cưới của mình đưa cho tên sát nhân khi tên này mới đòi lấy không? Không, tên sát nhân đã ở lại một mình với xác chết một thời gian nữa sau khi cây nến được thắp lên. Nhưng phát đạn là nguyên nhân đã gây ra cái chết. Vậy thì phát đạn này được bắn sớm hơn là người ta khai báo với chúng ta, vết máu ở trên thành cửa sổ, chính là do Barker đã cố tình tạo nên ở đó để đánh lừa cảnh sát. Hôm ấy, gia nhân trong lâu đài còn đi lại đến 10 giờ rưỡi đêm, vậy thì vụ án không thể xảy ra trước giờ đó được. Đến 11 giờ kém 15 thì họ đi ngủ, chỉ trừ có Ames lúc đó đang ở trong bếp. 

Chiều nay, sau khi anh đi về rồi, tôi có tiến hành một vài thử nghiệm: Khi tôi đóng kín các cửa lại, MacDonald gây ra nhiều tiếng động trong căn phòng có án mạng ; ở dưới bếp không ai nghe thấy cả. Nhưng đứng ở căn phòng riêng của bà hầu phòng thì lại khác: ở trong buồng của bà này, tôi vẫn nghe thoang thoảng tiếng người nói thật to ở nhà trên. Tiếng nổ của một phát súng chắc không lớn lắm, nhưng trong cái im lặng của ban đêm, thì ở căn buồng của bà Allen cũng có thể nghe thấy được. Bà ấy có nói là hơi nặng tai nhưng mặc dầu vậy bà ấy lại khai là có nghe thấy tiếng một cánh cửa đập nửa giờ trước khi có báo động. Nửa giờ trước khi báo động, nghĩa là vào lúc 11 giờ kém 15, chắc chắn là cái tiếng mà bà ta cho là tiếng đập cửa ấy, chính là tiếng súng và thời điểm 11 giờ kém 15 ấy chính là giờ xảy ra vụ án. Giả sử ông Barker và bà Douglas không giết người thì họ đã làm gì trong khoảng thời gian từ 11 giờ kém 15 (Là lúc họ nghe thấy tiếng súng và chạy từ trên lầu xuống) tới 11 giờ 15 (lúc họ giật chuông để báo động với gia nhân). Tại sao họ lại không báo động ngay? Khi trả lời được câu này, thì đã tiến được một bước lớn. 

- Tôi lại tin chắc là có một sự đồng lõa giữa hai con người này. Một người đàn bà phải tàn nhẫn đến thế nào thì mới có thể cười cợt như vậy khi chồng mới chết có vài tiếng đồng hồ. 

- Đúng thế. Ta ít thấy có người phụ nữ yêu chồng mà lại chỉ mới nghe một lời khuyên đơn giản như thế đã không vào nhìn xác của chồng. Đó, chỗ này đạo diễn có phần "yếu" quá, vì bất luận một nhà điều tra nào dù ngu đến đâu cũng phải chú ý đến việc ở đây thiếu hẳn những lời than khóc của phụ nữ. 

- Vậy thì Barker và bà Douglas là những thủ phạm của vụ án này phải không? 

Holmes rút cái tẩu thuốc ở mồm ra, dứ dứ vào tôi thở dài: 

- Nếu anh muốn nói rằng bà Douglas và Barker biết sự thật về vụ án mạng nhưng họ cố che giấu thì tôi đồng ý. Nhưng còn câu kết luận của anh, thì tôi thấy chưa đủ chứng minh. Phải chăng họ đã yêu nhau và đã quyết định phải ra tay? Không. Những người trong làng đã nói là tuyệt đối không có thế. Tất cả mọi cái đều chứng minh rằng gia đình Douglas rất thuận hòa êm ấm. 

Tôi nhanh chóng nhớ lại nét mặt tươi cười mà tôi đã bắt gặp trong khu vườn, nên cãi lại: 

- Về vấn đề này thì anh đã sai rồi. 

- Ừ thì ít nhất họ cũng cho ta cái cảm giác là họ thuận hòa với nhau. Như thế phải giả thiết rằng cái đôi thủ phạm kia gian giảo, đến mức vừa giết chồng, vừa đánh lừa được mọi người. Và trên đầu người bị giết đang treo lơ lửng một mối nguy hiểm nào đó ...  

- ồ ... Giả thiết về mối nguy hiểm này chỉ do một mình họ gợi ra mà thôi. 

Holmes có vẻ suy nghĩ: 

- Theo anh thì chẳng có mối nguy hiểm nào đe dọa Douglas, chẳng có thung lũng khủng khiếp. Họ bịa ra những chuyện đó để giải thích vụ án mạng. Rồi họ lại nghĩ ra việc bố trí một cái xe đạp giấu trong bụi cây để chứng tỏ có sự hiện diện của một kẻ lạ mặt. Cả vết máu trên thành cửa sổ cũng nằm trong ý nghĩ đó. Rồi lại cả mẩu bìa cứng, đáng lẽ ra có thể chuẩn bị ngay ở trong lâu đài. Tất cả những cái ấy đều khớp với giả thiết của anh. Nhưng ác cái lại có những góc cạnh khác cứ lòi ra. Tại sao có súng cưa nòng? Tại sao lại là súng Mỹ? Tại sao họ tin chắc là không ai nghe thấy tiếng súng? Anh có thể giải thích được cho tôi nghe không, Watson? 

- Xin chịu. 

- Nếu một người đàn bà cùng nhân tình âm mưu giết chồng, thì liệu họ có dại dột đến mức tháo chiếc nhẫn cưới ở tay người chết ra để "lạy ông tôi ở bụi này" không? Điều này liệu có thế xảy ra được không? 

- Không? 

- Lại còn thế này nữa: Nếu chính họ là những ngưòi giấu chiếc xe đạp trong bụi cây, thì tất họ cũng đủ tinh khôn để nghĩ rằng bất cứ một viên thám tử nào cũng hiểu đây là một động tác giả, vì chiếc xe đạp chính là cái mà một người chạy trốn cần đến trước nhất để thoát. 

- Chịu thôi. 

- Vậy chúng ta hãy giả thiết tay Douglas này có một bí mật đáng xấu hổ trong đời. Bí mật này đưa đến chỗ hắn bị ám sát bởi một người đi báo thù. Người này, vì một động cơ nào đó đã tháo chiếc nhẫn cưới của hắn. Ta cũng có thể giả thiết rằng mối thù này có từ thời Douglas lấy người vợ trước kia, thì mới giải thích được việc tháo nhẫn cưới. Trước khi hung thủ trốn thoát, thì Barker và bà Douglas ập vào phòng. Tên sát nhân nói với họ rằng nếu họ bị bắt, thì bí mật ghê gớm của Douglas sẽ bị đưa ra ánh sáng. Hai người buộc lòng phải để cho nó chạy trốn. Có lẽ họ đã hạ chiếc cầu xuống để cho nó chạy đi rồi lại kéo cầu lên. Tên sát nhân biết rằng đi bộ tốt hơn là dùng chiếc xe đạp, nên đã để lại chiếc xe đạp ở chỗ mà người ta khó phát hiện ra trước khi nó đã đi xa. Đến đây thì chúng ta vẫn còn ở trong phạm vi những điều có thể được, đúng không? 

Tôi trả lời một cách không tin tưởng lắm: 

- Tất nhiên là có thể được. 

- Tiếp tục nhé, sau khi đã để cho tên sát nhân trốn thoát, hai người kia biết mình đã lâm nguy, bởi vì làm sao chứng minh được rằng họ không giết Douglas hay không phải là đồng lõa của tên sát nhân. Thế rồi họ chọn một quyết định: Barker lấy chiếc giày vải, thấm máu in vết lên thành cửa sổ để gợi ý là tên sát nhân đã trốn ra theo con đường đó. Chắc chắn họ đã để chậm nửa giờ sau khi sự việc xảy ra, rồi mới báo động. 

- Làm cách nào để chứng minh được những điều đó. 

- Một mình tôi ở lại đây một đêm thì sẽ có kết quả. 

- Ở một mình suốt một đêm trong căn phòng xảy ra án mạng? 

- Tôi đã thu xếp với bạn Ames rồi. Tôi sẽ tới ngồi ở đó, và không khí trong phòng có lẽ sẽ gợi cho tôi nhiều ý nghĩ hay. à, mà này, anh có mang theo cái ô to gộc của anh đi đấy chứ. 

- Có, kia kìa. 

- Thế thì xin cho tôi mượn. 

- Được thôi. Nhưng ... nó có phải là một vũ khí đâu. 

- Không có gì nguy hiểm đâu. Bây giờ tôi chỉ còn chờ các vị đồng nghiệp chúng ta ở Tunbridge Wells về, họ lên đấy để xác minh chủ nhân của chiếc xe đạp đó. 

Trời tối mịt mới thấy ông thanh tra MacDonald và White Mason trở về. Họ vui mừng ra mặt, vì họ đã tiến lên một bước khá dài. 

- Chúng tôi đã xác minh được chiếc xe đạp và đã có được hình dạng của người chủ nó. - MacDonald nói. 

- Tôi xin hết lòng ca ngợi nhị vị - Holmes nói. 

- Cậu Ames khai là bữa trước hôm xảy ra án mạng, ông Douglas từ Tunbridge Wells về, có tỏ ra cáu kỉnh khác thường. Vậy chắc là khi ở đó, ông được biết có một mối nguy hiểm đang đe dọa mình. Như thế nếu có ai đến đây bằng xe đạp, thì người đó xuất phát từ Tunbridge Wells. Bọn tôi mang cái xe đạp đến đó cho các khách sạn xem. Chủ quán trọ "Eagle Commercial" nhận ra ngay là chiếc xe của một người Mỹ tên là Hargrave đến thuê buồng ở đó đã hai ngày rồi. Tất cả hành lý chỉ có chiếc xe đạp với một cái va ly nhỏ. Anh ta khai trong sổ đăng ký là từ London đến, nhưng không nói rõ địa chỉ. 

Holmes kêu lên vui sướng: 

- Hô, hô. Hai ông đã làm được một công việc hết sức tốt, trong khi tôi và ông bạn Watson cứ ngồi đây mà xây dựng hết thuyết nọ đến thuyết kia. Đấy, óc thực tiễn có lợi là như thế đó, ông MacDonald ạ. 

Ông thanh tra nở mày nở mặt, vui vẻ nói: 

- Vâng, ông nói đúng đó. 

Tôi nói với Holmes: 

- Nhưng sự phát hiện này cũng khớp với giả thiết của cậu kia mà. 

- Khớp mà không khớp. Ông MacDonald, ông có tìm thấy cái gì để xác minh được người ấy không? 

- Không có bất cứ một thứ giấy tờ, thư từ, giấu vết gì trên quần áo. Trên bàn của hắn, có một tấm bản đồ của vùng này. Sáng hôm qua, sau khi ăn điểm tâm xong, hắn ở khách sạn ra, lên xe đạp đi, thế là biến luôn. Không ai thấy hắn nữa. 

Mason ngắt ngang: 

- Đó. Chính chỗ này làm cho tôi thắc mắc đây ông Holmes ạ. Nếu tên này muốn làm cho người ta không chú ý đến hắn, thì hắn nên trở lại khách sạn và ở đấy như một người du lịch bình thường. Hắn thừa biết người chủ khách sạn phải báo cáo với cảnh sát về sự mất tích của hắn, và tất nhiên là người ta sẽ ráp sự mất tích của hắn với vụ án mạng. 

- Tất nhiên rồi, nhưng cho đến bây giờ nó vẫn chưa bị bắt. Mà các ông có nắm được hình dạng của nó không? 

MacDonald mở cuốn sổ tay ra: 

- Tôi đã ghi được những gì người ta nói với chúng tôi đây. Hắn cao khoảng 5 feet 9, cỡ 50 tuổi, tóc hơi hoa râm, râu cũng hoa râm, mũi két; về cái bộ mặt của hắn, mọi người đều mô tả là dữ dằn và đáng ngại. 

- Trời đất. Trừ cái điểm cuối cùng ra, thì phải nói là giống hệt một bức chân dung của chính Douglas. Tay này cũng khoảng hơn 50 tuổi, tóc cũng muối tiêu, râu cũng hoa râm, và cũng cao cỡ đó. Các ông có chi tiết nào khác nữa không? 

- Hắn mặc bộ quần áo mầu xám rộng thùng thình, một cái áo khoác màu vàng, ngắn và đội một cái mũ mềm. 

- Còn về khẩu súng? 

- Một khẩu súng dài có 2 feet có thể xếp được hoàn toàn trong chiếc va ly, và giấu dưới áo khoác. 

- Thế bây giờ các ông định ráp những tin tức mới này vào khung cảnh của vụ án như thế nào? 

MacDonald trả lời: 

- Hiện nay, chúng ta chỉ mới biết có một người Mỹ, tên là Hargrave, ngày hôm kia đến Tunbridge Wells với một chiếc xe đạp và một cái valy. Trong valy có một khẩu súng săn cưa nòng. Sáng hôm qua, hắn đi xe đạp tới làng Birslstone và đã giấu khẩu súng dưới áo khoác. Theo chỗ chúng ta biết, thì không ai trông thấy hắn đến đây. Nhưng hắn cũng không cần đi qua làng vẫn có thể đến được trước cổng sắt của lâu đài. Con đường hắn đi cũng có nhiều người cỡi xe đạp như hắn. Tôi đoán rằng, hắn đã giấu ngay chiếc xe đạp trong những bụi cây trúc đào. Bản thân hắn cũng nấp ở đó để rình ông Douglas ở lâu đài. ở trong nhà thì khẩu súng săn đúng là bất lợi, nhưng ở ngoài trời thì nó có hai ưu điểm rõ ràng: trước hết nó giết người được một cách chắc chắn, sau nữa sẽ không có ai để ý đến tiếng nổ, trong một vùng nông thôn có nhiều người đi săn. 

- Rất rõ ràng. - Holmes nói. 

- Nhưng ông Douglas lại không ra khỏi lâu đài. Vậy thì tên sát nhân có thể làm gì được bây giờ? Hắn bỏ chiếc xe đạp ở đó và chờ sẩm tối mới lần mò vào gần lâu đài. Hắn thấy cây cầu rút vẫn còn hạ xuống mà xung quanh thì vắng vẻ cả. Hắn liều đi vào, và chắc là có chuẩn bị trước một lý do gì đó để xin lỗi nếu có gặp người ở trong nhà. Hắn không gặp ai cả. Hắn lẻn vào cái phòng gần nhất và trốn sau bức rèm cửa. ở đó, hắn trông thấy cây cầu được rút lên, và hắn hiểu rằng sẽ phải lội qua hào để trốn ra. Hắn đợi đến 11 giờ 15. Đến giờ này, ông Douglas bước vào buồng. Hắn giết ông ta và chạy trốn. Hắn biết rằng chiếc xe đạp của hắn có thể bị những người trong khách sạn nhận ra được, vì thế hắn đã bỏ nó lại, và dùng một phương tiện giao thông khác để trở về London.  

- Rất rõ ràng. Nhưng tôi lại tin là án mạng đã xảy ra nửa giờ sớm hơn là người ta đã nói với chúng ta. Rằng bà Douglas và ông Barker đã cùng nhau che giấu một cái gì đó, đã giúp đỡ cho tên sát nhân trốn thoát, đã tạo ra những dấu vết để làm cho người ta tưởng là nó đã trốn qua đường cửa sổ, và có nhiều khả năng là họ đã hạ cây cầu rút xuống cho nó trốn. 

Hai nhà thám tử của nhà nước gật gù. ông thanh tra MacDonald nói: 

- Nếu cách nhìn của ông mà đúng, thì chúng ta chỉ chuyển từ một bí mật này sang một bí mật khác thôi. 

White Mason bổ sung: 

- Nhưng về một số mặt nào đó thì lại vấp phải một bí mật gay go hơn nữa. Bà Douglas chưa hề sang Mỹ. Vậy thì bà có thể liên hệ như thế nào với một tên sát nhân người Mỹ? 

- Tôi công nhận là có rất nhiều khó khăn. Tôi dự tính tối nay sẽ tiến hành cuộc điều tra theo cách riêng của tôi. 

- Chúng tôi có thể giúp ông được không, ông Holmes? 

- Không. Chỉ cần bóng tối và chiếc ô của bác sỹ Watson thôi, ông Ames sẽ giúp tôi một vài điều. 

Khi Holmess trở về phòng trọ, thì đêm đã khuya lắm rồi. Lúc Holmes mở cửa vào phòng, tôi hỏi nhỏ: 

- Thế nào Holmes, có thấy gì không? 

Holmes cầm một ngọn nến, cúi xuống thì thầm vào tai tôi: 

- Anh có sợ khi phải ngủ chung phòng với một thằng điên không? 

- Không. 

- Ồ, thế thì hạnh phúc cho anh đó. 

Thế rồi không nói thêm một lời nào nữa, anh ta chui vào chăn.

Chương 7

Giải đáp

Sáng hôm sau, chúng tôi đi gặp ông thanh tra MacDonald và thám tử Mason. Họ đang họp trong cơ quan cảnh sát địa phương. Đằng trước mặt họ, trên bàn có cả xấp những thư và điện tín đã đuợc xếp thứ tự cẩn thận. 

Holmes vui vẻ hỏi: 

- Vẫn trên đuờng đi tìm nhà cua rơ xe đạp chứ? Tin tức cuối cùng như thế nào? 

MacDonald buồn rầu chỉ tập thư tín, nói: 

- Người ta đã bắt hai chục người mặc áo khoác màu vàng ở khắp nơi. 

Holmes kêu lên với giọng chân thành: 

- Sáng nay, tôi đến đây để khuyên các bạn một lời. Lời khuyên này có thể tóm tắt trong ba chữ: "Bỏ vụ án". 

MacDonald và Mason vô cùng kinh ngạc. Mãi rồi ông thanh tra mới kêu lên đuợc: 

- Ông thấy vụ án này tuyệt vọng đến thế kia à? 

- Theo cách điều tra của các ông, thì sẽ không đi đến đích. Nhung chúng ta không đuợc phép tuyệt vọng trong khi đi tìm chân lý. 

- Thế cái tên đi xe đạp ấy thì sao? Nó có phải là một vật tưởng tượng ra đâu. Nhất định nó phải ở một nơi nào chứ? 

- Vâng, nó phải ở một nới nào đó, và chúng ta sẽ tìm thấy nó, trong một đuờng bán kính hẹp hơn nhiều. 

Ông thanh tra phản đối một cách bực tức rõ ràng: 

- Ông giấu chúng tôi một cái gì đó. Ông Holmes? 

- Ông MacDonald. Tôi chỉ giấu ông - trong một thời gian ngắn thôi - những gì tôi chưa thể cho ông biết đuợc. Tôi muốn thẩm tra lại một số chi tiết. Việc thẩm tra xong, lúc đó tôi sẽ trở về London sau khi đã thông báo với các ông tất cả kết quả tôi đã thu lượm đuọc. 

- Chiều hôm qua ông đồng ý trên những nét lớn với những kết quả của chúng tôi. Nhưng hôm nay thì hình như có chuyện gì xảy ra đã làm ông thay đổi hoàn toàn. 

- Vâng. Tối hôm qua tôi đã đến ở lâu đài trong mấy tiếng đồng hồ. 

- Thế thì sao? 

- Tôi có đọc một tài liệu ngắn về tòa lâu đài này. Tôi mua nó mấy xu ở quán bán thuốc lá trong làng. 

Holmes rút ở túi áo ngoài ra một tờ giấy nhỏ, có vẽ một bức hình thô sơ của tòa lâu đài cu. 

-... Những loại tài liệu như thế này mang đến nhiều hứng thú cho cuộc điều tra. Tôi xin phép đọc ông nghe một đoạn sau này: 

"Đuợc dựng lên trong năm thứ 5 của triều vua James I trên vị trí của một lâu đài cu cổ xưa hơn, lâu đài Birlstone là một trong những hình ảnh rất đẹp còn nguyên vẹn của loại phủ thất có hầm vào thời các vua James... 

- Ông định chế nhạo chúng tôi, ông Holmes? 

- Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông nổi cáu đấy. Thôi tôi không đọc nữa. Nhưng nếu tài liệu này có nói đến việc một ông đại tá của Quốc Hội đã chiếm lấy tòa lâu đài này vào năm 1644; việc nhà vua Charles có trốn tránh ở đây vài ngày trong thời kỳ nội chiến; và nhà vua Georges Đệ Nhị cung đã có ở đây... thì chắc ông sẽ đồng ý với tôi là những việc này có thể gợi cho chúng ta nhiều ý nghi liên hệ lắm. 

Nhà thám tử sốt sắng trả lời ngay: 

- Tôi đồng ý với ông về điều đó, ông sắp đến đích, nhung ông quá kín đáo. 

- Tối hôm qua, tôi có tới lâu đài. Tôi không gặp ông Barker, cung không gặp bà Douglas, nhưng tôi được biết rằng bà chủ lâu đài đã dùng bữa tối một cách rất ngon miệng. Tôi chỉ cần gặp anh Ames thôi, và anh ta đồng ý cho tôi ở lại một mình trong căn buồng xảy ra án mạng, và Ames cam đoan sẽ giữ kín về việc này. 

- Thế nào? ở lại bên cạnh cái ... 

- Không! Mọi vật đã đuợc dọn dẹp cả rồi. Vì vậy tôi đã sống một vài giờ rất có ích ở đó. 

- Có ích thế nào thưa ông? 

- Tôi đi tìm quả tạ còn thiếu. Và tôi sắp thấy nó. 

- Ở đâu vậy? 

- Xin để tôi tiếp tục tìm kiếm. 

Ông thanh tra càu nhàu: 

- Ông muốn thế nào, chúng tôi cung phải theo thế thôi. Nhưng bắt phải bỏ vụ án này đi, thì ... mà, tại sao lại phải bỏ? 

- Bởi mục đích cuộc điều tra của ông là... 

- Chúng tôi điều tra về vụ ám sát ông Douglas. 

- Vâng. Nhưng các ông đừng mất công đi tìm cái tên đi xe đạp. Chuyện đó không đi đến đâu cả. 

- Chúng tôi phải làm gì? 

- Tôi xin nói cặn kẽ, nếu các ông muốn. 

- Tôi sẽ làm theo lời khuyên của ông. 

- Thế còn ông, ông White Mason? 

Nhà thám tử địa phương có phần hơi ngơ ngác, phương pháp làm việc của Holmes hoàn toàn mới lạ đối với ông ta. 

- Vâng, ông thanh tra đã đồng ý, thì tôi cung đồng ý. 

- Hoan hô. Vậy hai ông hãy tổ chức một cuộc đi dạo chơi cho thật thoải mái. Người ta có nói với tôi rằng đứng từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy phong cảnh của cánh rừng Weald tuyệt đẹp. 

MacDonald nổi cáu, đứng phắt lên: 

- Ông Holmes, ông đã đi quá giới hạn của sự bông đùa rồi đó. 

Holmes vỗ nhè nhẹ vào vai ông ta: 

- Thôi đuợc! Thế thì xin tùy các ông, nhưng nhất định phải đến tìm tôi ở đây, truớc buổi tối nay. 

- Thật là quá lắm. 

- Bây giờ, trước khi tôi đi, tôi nhờ ông viết mấy chữ cho ông Barker. 

- Viết gì kia? 

- Xin mời ông viết "Thưa ông, chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi có nhiệm vụ phải tát cạn con đuờng hào để hy vọng có thể tìm thấy..." 

Ông thanh tra phản đối ngay: 

- Tôi đã đích thân tìm xem có cách gì tát cạn đuờng hào hay không, nhưng thấy không thể đuợc. 

- Xin ông cứ viết. 

- Thôi đuợc. Ông đọc tiếp đi. 

- "... một yếu tố mới có liên quan đến cuộc điều tra. Chúng tôi đã sắp sẵn cả. Sáng sớm mai, công nhân sẽ bắt tay vào việc đổi hướng dòng nước..." 

- Tôi nhắc lại với ông rằng không thể đuợc mà. 

- "... Chúng tôi thấy nên báo để ông biết trước". Vào khoảng độ 4 giờ chiều, ông cho người đua thu tận tay ông Barker. Đó cung là giờ chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây. Trong khi chờ đợi, ai muốn giải trí thế nào thì xin tùy thích, vì cuộc điều tra đang dẫm chân tại chỗ. 

Buổi tối, chúng tôi gặp lại nhau như đã quy định. Vẻ mặt Holmes rất nghiêm trang. Tôi thì tò mò, còn hai vị thám tử thì nghi ngờ ra mặt. 

Holmes bắt đầu một cách trịnh trọng: 

- Thưa các ông, bây giờ chúng ta phải tới đuợc chỗ đứng quan sát trước khi trời tối hẳn. Chúng ta nên đi ngay bây giờ. 

Chúng tôi đi dọc theo bờ ngoài khu vườn của lâu đài và đến trước một lỗ hổng trong hàng rào. Chúng tôi chui qua lỗ đó. Holmes dẫn chúng tôi đến đằng sau một bụi cây nhìn chếch sang phía cổng chính và cây cầu, lúc đó còn chưa rút lên. Holmes ngồi xổm sau bụi cây. Chúng tôi cung làm theo anh ta. 

MacDonald hỏi bằng một giọng bực tức: 

- Làm gì bây giờ đây? 

- Hãy kiên nhẫn và đừng gây ra tiếng động. 

- Ông nên thành thật với chúng tôi hơn. 

Holmes bật cười: 

- Ông MacDonald, tôi xin ông kiên nhẫn một chút, rồi tất cả sẽ sáng tỏ thôi. 

Đêm xuống dìm cả tòa lâu đài vào bóng tối. Một màn sương lạnh từ đuờng hào Baynes lên làm chúng tôi rét thấu xương. Trên khung cửa chính chỉ có một ngọn nến đuợc thắp, và trong căn buồng có án mạng cung có một ngọn đèn khác đang cháy, còn tất cả chung quanh tối đen nhu mực. 

Đột nhiên ông thanh tra lại cất tiếng hỏi: 

- Phải chờ bao lâu nữa, và chờ cái gì? 

- Tôi không biết phải chờ bao lâu. Nếu những tên tội phạm hoạt động đúng giờ giấc như những chuyến tàu chạy, thì đỡ cho chúng ta biết bao. Còn việc chúng ta chờ... à mà kìa, việc chúng ta chờ kia kìa. 

Trong khi Holmes nói, thì ánh sáng trong căn buồng đã bị che khuất đi bởi một người đi đi lại lại trước nó. Sau đó cửa sổ mở toang và bóng một người đàn ông nhô ra quan sát bóng tối. Hắn nhìn ngược nhìn xuôi trong mấy phút. Rồi cúi xuống và trong đêm khuya yên tinh, chúng tôi nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Tôi có cảm giác là người đó đang dìm một vật gì cầm trong tay xuống đuờng hào. Sau cùng anh ta kéo một vật gì lên: Một vật gì đó to, tròn, khi đuợc đem qua cửa sổ, nó che khuất cả ánh sáng ngọn đèn. 

Holmes kêu lên: 

- Nào, bây giờ. Ta vào đi. 

Chúng tôi chồm lên, líu ríu chạy theo Holmes. Holmes đã chạy tới chiếc cầu rút và giật chuông ầm i. ở phía bên kia cửa các chốt đuợc tháo ra. Ames hiện ra trong khung cửa, vẻ mặt ngơ ngác, Holmes chẳng nói chẳng rằng, gạt anh ta sang bên, rồi cùng ba chúng tôi xông vào căn buồng. 

Ngọn đèn dầu hỏa để trên bàn là nguồn ánh sáng mà chúng tôi trông thấy từ bên ngoài. Lúc này, nó đang ở trong tay của Barker, và ông ta đang huớng về phía chúng tôi. Nó chiếu lên một khuôn mặt cả quyết, cương nghị, một cặp mắt đe dọa thách thức. 

- Thế này là thế nào? Các ông tìm gì? 

Holmes nhìn chung quanh, rồi nhảy sổ tới một cái gói ướt sung có buộc dây để ở trên bàn. 

- Chúng tôi tìm cái này đây. Cái gói có một quả tạ mà ông vừa kéo ở dưới đáy hào lên. 

Barker kinh ngạc: 

- Vì sao ông lại biết có quả tạ trong ấy? 

- Bởi vì chính tôi đã để quả tạ ấy vào đó. 

- Ông đã để quả tạ vào đó? 

Holmes chữa lại: 

- Ông còn nhớ chứ, ông thanh tra, việc thiếu một quả tạ ngay từ đầu đã đập vào trí tôi. Khi nước thì gần kề ngay bên, mà lại thấy thiếu một vật nặng, thì có lẽ một vật gì đó đã đuợc nhận chìm xuống nước. Với sự giúp đỡ của anh Ames, tôi đã vào đuợc căn phòng này, và với chiếc ô của bác sỹ Watson, tôi đã vớt vật này lên và xem xét nó. Nhưng điều cơ bản là phải chứng minh đuợc ai đã dìm cái gói đó. Bức thơ của ông MacDonald báo trước ngày mai sẽ tát hào. Tin này bắt buộc người đã giấu cái gói đó phải chờ đêm tối, lôi nó lên. Vậy ông Barker, đã đến lúc ông phải giải thích. 

Holmes đặt cái gói còn ướt sung lên bàn và tháo dây ra. Đầu tiên anh lôi ra một quả tạ, kế đó là một đôi giày da mui vuông. 

- Giày kiểu Mỹ, như các ông thấy đấy. - Holmes nói. 

Sau đó anh ta để lên bàn một con dao dài còn nằm trong bao. Rồi anh ta giở ra một mớ quần áo, gồm một bộ quần áo lót, một đôi tất, một bộ quần áo bằng vải tuýt xám, và một cái áo khoác màu vàng. 

- Quần áo thì thường thôi. Chỉ có cái áo khoác là đáng chú ý. - Holmes nói. 

Anh nhẹ nhàng trải nó ra trước ánh sáng, những ngón tay dài lần theo các đuờng khâu. 

- Xem đây, túi trong của nó kéo dài mãi trong lần lót để có thể giấu đuợc một khẩu súng cưa nòng. Tên hiệu của người thợ may dính trên cổ áo dây: "Neale, thợ may, Vermissa, U.S.A". Tôi đã ở cả chiều hôm nay trong căn phòng đọc sách của ông hiệu trưởng trường, và đã học thêm đuợc một điều mới nữa: "Vermissa" là tên của một thành phố nhỏ ở trong thung lung nổi tiếng về các mỏ sắt và mỏ than tại Mỹ. Nếu tôi không quên, thì thưa ông Barker, chính ông đã có nói đến mối liên quan giữa những khu mỏ và người vợ trước của ông Douglas. Cho nên tôi suy luận từ đó ra rằng mấy chữ "V.V." trên miếng bìa cứng tìm thấy bên cạnh người chết có nghia là "Thung lung Vermissa"[1] và chính cái thung lung này đã cử một người mang cái chết đến tận đây. Tất cả những điều ấy đã đủ rõ ràng. Và bây giờ, đến lượt ông, thưa ông Barker. 

Trong lúc nghe Holmes trình bày, gương mặt Barker lần lượt hiện lên nét căm giận, kinh ngạc, buồn rầu, lúng túng. Cuối cùng ông ta lẩn trốn trong một thái độ mỉa mai và cười gằn: 

- Ông biết nhiều đến thế, thì xin ông cứ nói thêm cho chúng tôi nghe. 

- Tôi có thể nói thêm đuợc nữa, nhưng sẽ lịch sự hơn, nếu ông nói tiếp hộ cho tôi. 

- ồ, ông tưởng thế à? Nếu ở đây có một bí mật gì, thì cái đó không phải là bí mật của tôi, và tôi không thể nói ra cái bí mật của người khác. 

Ông thanh tra bình tinh: 

- Nếu ông nghi như vậy, thì bắt buộc chúng tôi phải canh giữ ông cho đến khi chúng tôi nhận đuợc trát bắt ông. 

Barker trả lời bằng giọng đầy thách thức: 

- Ông cứ làm. 

Sự đối chất hình như đã kết thúc. Bộ mặt rắn như đá hoa cương của Barker cho thấy rằng không có một sự đe dọa nào có thể bắt đuợc ông ta nói. Nhưng bà Douglas đã bước vào phòng. 

- Anh Barker, anh đã giúp chúng tôi quá nhiều rồi. 

Sherlock Holmes tán thành với một giọng nói rất nghiêm trang: 

- Tôi rất thông cảm với bà, và tôi xin khuyên bàn nên tự giác báo cáo tất cả với cảnh sát, chính tôi cung có lỗi vì đã không đáp ứng lời thỉnh cầu của bà, khi bà nói với bác sỹ Watson đây. Lúc đó tôi tin rằng bà là người có dính líu trực tiếp đến án mạng. Bây giờ tôi biết là không phải thế. 

Bà Douglas thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc khi nghe những lời nói cuối cùng của Holmes. 

Hai nhà thám tử và cả tôi nữa có lẽ cung đã kêu lên như thế, khi chúng tôi trông thấy một người như là trong bức tường hiện ra, đang buớc dần ra khỏi bóng tối, tiến về phía ánh đèn. Bà Douglas nhào vào, ôm lấy cổ người đó. Barker cung nắm chặt một cách trìu mến bàn tay của người đó. Bà Douglas nhắc đi nhắc lại: 

- Anh yêu quí, có lẽ thế này tốt hơn anh ạ. 

Holmes gật đầu tán thành: 

- Vâng, đúng đấy, thưa ông Douglas. 

Ông Douglas chớp chớp đôi mắt màu xám, một bộ râu cứng đã hoa râm; một cái cằm vuông nhô ra và một cái miệng nhậy cảm. Ông ta lần lượt nhìn chúng tôi, rồi bỗng tiến về phía tôi và đua cho tôi một tập giấy làm tôi hết sức ngạc nhiên. 

Ông ta nói bằng một giọng hết sức dễ chịu: 

- Tôi biết ông, bác sỹ Watson, chưa bao giờ ông có một câu chuyện giống như câu chuyện này. Tôi đã tự giam mình trong hai ngày, và đã lợi dụng những giờ có ánh sáng, trong cái lỗ chuột ấy, để viết lại toàn bộ sự việc. Đó là câu chuyện về "Thung lung khủng khiếp". 

Holmes xen vào: 

- Ông Douglas, đó là câu chuyện về quá khứ. Bây giờ chúng tôi muốn biết câu chuyện của hiện tại kia. 

- Ông sẽ đuợc nghe ngay bây giờ. Tôi có thể vừa hút thuốc, vừa nói đuợc không? Xin cảm ơn ông Holmes. 

Ông ta đứng dựa lưng vào lò sưởi, kéo những hơi thuốc dài. 

- Tôi có đuợc nghe nói nhiều về ông, ông Holmes. Tôi không nghi rằng có ngày tôi lại đuợc làm quen với ông. Nhưng khi ông đã đọc xong tất cả những cái này .... 

Ông ta chỉ vào tập giấy vừa đua cho tôi. 

- ... thì chắc chắn ông sẽ nói rằng tôi có đem lại cho ông một điều gì mới lạ. 

Ông thanh tra MacDonald vẫn không rời mắt nhìn Douglas, mãi rồi mới nói lên đuợc: 

- Chuyện này thật vượt quá sức hiểu biết của tôi, hai ngày nay chúng tôi điều tra về cái chết của ông, thì bây giờ ông như một bóng ma từ dưới mồ chui lên vậy. 

Holmes trách móc, chỉ về phía ông thanh tra: 

- Trong cái tài liệu mà tôi đã đua cho ông, có mô tả cái cách vua Charles đã ẩn náu trong lâu đài này. Một chỗ ẩn dùng trong thế kỷ thứ XVII rất có thể còn dùng đuợc trong ngày nay. 

Ông thanh tra nổi giận thật sự, hỏi lại: 

- Thế ông đã đóng kịch với chúng tôi từ bao lâu rồi, ông Holmes? 

- Chỉ mới từ tối hôm qua thôi. Vì phải đợi đến tối hôm nay mới có thể chứng minh đuợc điều này, nên tôi có mời quý ông nghỉ xả hơi một ngày. Khi đã thấy gói quần áo trong đuờng hào, tôi biết rằng xác chết kia không phải là xác của ông Douglas mà là của người đi xe đạp. Vì vậy tôi phải đi tìm nơi ông Douglas ẩn nấp, ông đã ẩn nấp dưới sự yểm trợ của vợ và bạn ông ta. 

- Ông lý luận rất đúng. Tôi hài lòng vì đã gạt bỏ đuợc những con chó vẫn đi tìm dấu chân tôi. Ông thanh tra, tôi sẽ nói hết: 

Có một vài người có nhiều lý do để căm thù tôi và sẵn sàng giết tôi. Chừng nào mà chúng còn sống, thì tôi không hề có an ninh. Chúng đã theo tôi từ Chicago đến California, rồi còn bắt buộc tôi, phải rời khỏi Châu Mỹ. Khi tôi cưới vợ và về sống ở đây, tôi đã tưởng những năm cuối của đời tôi là vô sự. Tôi chưa bao giờ nói rõ cho nhà tôi hiểu mọi chuyện vì nếu biết, nhà tôi cung sẽ luôn sống trong lo sợ... 

Douglas nắm chặt lấy tay vợ. 

- ... Thưa các ông, một ngày trước hôm xảy ra sự việc, tôi có đi Tunbridge Wells, và có gặp một người ở ngoài phố. Chỉ thoáng nhìn hắn thôi, tôi cung biết hắn là kẻ thù tệ hại nhất của tôi. Tôi trở về đây và tiến hành những biện pháp tự vệ. 

Tôi đã cảnh giác không bước chân ra đến ngoài vườn. Khi cây cầu đã đuợc kéo lên, tôi mới yên tâm hơn, nhưng, tôi không ngờ rằng nó đã lẻn vào trong lâu đài và chờ tôi ở đây. khi đi kiểm tra, vừa đặt chân vào căn buồng này thì tôi cảm thấy ngay có sự nguy hiểm. Tôi thấy một đôi giầy thò ra dưới bức rèm cửa sổ, và một giây đồng hồ sau, tôi thấy cả con người đang nấp ở đó. Lúc đó tôi chỉ có một cây nến cầm ở tay, nhưng cây đèn ở buồng ngoài cung chiếu sáng khá tốt. Tôi để cây nến xuống bàn, và nhảy đến chộp lấy cây búa trên lò sưởi. Cùng lúc đó hắn cung nhảy bổ vào tôi. Tôi trông thấy ánh lên một lưỡi dao nhọn, và tôi đã đập nó bằng một nhát búa quay ngang. Con dao rơi xuống sàn. Nó đã lanh lẹ vòng qua chiếc bàn và lôi ra một khẩu súng giấu dưới chiếc áo khoác. Tôi nghe thấy nó lên đạn, nhưng tôi đã nắm đuợc khẩu súng. Tôi nắm đuợc nòng súng. Tôi với nó vật lộn trong khoảng một hai phút gì đó. Nó không rời khẩu súng, nhưng nó đã để báng súng chúc xuống dưới. Không biết là tôi đã bóp cò, hay chính nó đụng phải cò. Chỉ biết rằng nó đã lãnh cả hai viên đạn vào mặt. 

Tôi đang đứng bám vào thành bàn thì anh Barker chạy vào. Tôi cung nghe thấy tiếng chân nhà tôi chạy đến nữa. Tôi ngăn nhà tôi lại. Tôi hứa với nhà tôi là sẽ lên với bà ấy ngay. Tôi nói đôi câu với anh Barker, và chỉ thoáng nhìn qua là anh đã hiểu hết tất cả mọi chuyện. Chúng tôi chờ gia nhân trong lâu đài chạy đến. Nhưng chẳng thấy ai đến cả. Lúc đó chúng tôi mới hiểu rằng không ai nghe thấy tiếng súng nổ, và chỉ có chúng tôi biết việc gì mới xảy ra thôi. Chính vào lúc này tôi chợt có ý kiến. Tôi vén cánh tay áo nó lên, và chúng tôi thấy ngay cái dấu hiệu của hội kín in trên đó, Đây các ông xem .... 

Douglas cung vén tay áo ngoài và tay áo sơ mi lên, chỉ cho chúng tôi thấy một cái hình tam giác màu nâu nằm trong một đuờng tròn, giống như cái hình chúng tôi đã thấy trên tay xác chết. 

- Khi tôi nhìn thấy cái dấu hiệu đó, tôi bắt đầu xếp đặt kế hoạch. Nó cung cỡ người như tôi, cũng tóc hoa râm và dáng dấp cung gần giống tôi. Còn về bộ mặt thì chẳng còn ai phân biệt ra đuợc nữa. Tôi trở lên phòng để lấy bộ quần áo, và 15 phút sau thì Barker và tôi đã mặc vào cho nó cái áo khoác ngoài của tôi, rồi đặt nó nằm như các ông đã thấy đấy. Chúng tôi bọc hết quần áo của nó vào trong một cái gói, rồi buộc thêm vào đó quả tạ, là vật nặng duy nhất mà tôi tìm thấy lúc bấy giờ, sau đó đem ném cả gói qua cửa sổ. Mẩu bìa cứng mà nó định để cạnh xác tôi, thì nay tôi đem để cạnh xác nó. Tôi đeo mấy cái nhẫn của tôi vào ngón 

tay nó, nhưng đến cái nhẫn cưới thì... 

Douglas chìa ra một bàn tay to lớn. 

- ... Từ ngày cưới nhà tôi đến giờ, tôi chưa hề tháo nó ra, và bây giờ có lẽ phải có một cái giua thì mới lấy nó ra đuợc. Tôi phải bóc cả miếng băng dính duới cằm của tôi và dán vào cùng một chỗ trên cái phần còn lại của đầu kẻ thù. Ông Holmes, mặc dù ông là người tinh khôn, nhưng ông cũng đã có lúc sơ ý: vì nếu ông dở miếng băng dính ấy lên, thì ông sẽ thấy ở dưới không có một dấu đứt nào cả. 

Tôi định ẩn náu trong ít lâu; rồi đi đến một nơi nào đó, nhà tôi sẽ đến sau, thì may ra tôi còn có thể sống yên ổn đuợc trong những ngày cuối cùng của đời mình. Bây giờ tôi có một điều muốn hỏi các ông: "Đối với luật pháp nước Anh, thì tội của tôi sẽ như thế nào?" 

Tất cả mọi người đều yên lặng. Mãi sau, Holmes mới lên tiếng: 

- Luật pháp nước Anh, nói chung, là một luật pháp đúng đắn. Luật pháp này sẽ công bằng đối với ông. Nhưng tôi muốn biết tại sao người đó lại biết ông ở đây, và hắn làm cách nào mà lọt đuợc vào căn buồng này. 

- Tôi hoàn toàn không biết. 

Holmes tái nhợt, rất nghiêm trọng, nói như thì thầm. 

- Như thế thì câu chuyện này chưa kết thúc đâu. Ông sẽ còn phải đuong đầu với những mối nguy hiểm còn ghê gớm hơn cả những kẻ thù của ông ở bên Mỹ nữa kìa. Xin ông hãy theo lời khuyên của tôi: Hãy hết sức cảnh giác.

Và bây giờ, xin mời các bạn độc giả hãy theo tôi rời lâu đài Birlstone, lùi về quá khứ 20 năm, vuợt qua một ngàn dặm về phía Tây, để nghe một câu chuyện lạ lùng và khủng khiếp. Và sau đó chúng ta sẽ trở lại gian buồng ở phố Baker, là nơi sẽ viết chương cuối của câu chuyện này.

Phần II: Những người tiên phong

Chương 8

Con người ấy

Ngày 4 tháng 2 năm 1875 tuyết phủ đầy các đường đèo của ngọn núi Gilmerton. Chiếc xe quét tuyết đã dọn sạch được con đường hoả xa nối liền các trung tâm mỏ than và sắt. Một con tàu đang ì ạch leo lên con đường đèo chạy từ tỉnh Stagville lên thị trấn Vermissa. Từ đó, đường tàu lại đổ xuống đến giao điểm của Bartons Crossing, Helmdale và vùng nông nghiệp Merton. Hàng dãy dài những toa xe goòng chất đầy than hoặc quặng sắt đã lôi kéo đến đây cả một số lớn những người nhiều ý chí. Mà vùng này hiểm ác thật. Những ngọn núi trọc, trắng xóa tuyết, nhô lên từ những cánh rừng tối tăm, rậm rạp đã tạo ra một thung lũng dài ngoằn ngoèo và lộng gió. Chính trong thung lũng này, con tàu đang bò dần lên, vừa đi vừa thở phì phò. 

Mấy ngọn đèn dầu hỏa mới vừa được thắp lên, trên toa hành khách thứ nhất có khoảng độ 20 hay 30 người. Phần đông họ là những thợ thuyền đi làm việc ở dưới thung lũng về. ít nhất cũng có đến mười, mười hai người mặt mũi nhem nhuốc, có đeo những cây đèn an toàn. Họ hút thuốc và nói chuyện rì rào, thỉnh thoảng liếc nhìn về phía hai người cảnh sát mặc sắc phục đang đứng ở đầu toa. Có cả một số nữ công nhân và vài ba người buôn bán ở địa phương.Nhưng ở một góc toa tàu, có một người trẻ tuổi ngồi một mình. 

Anh ta gần ba mươi tuổi, nước da tươi tắn, vóc người trung bình. Đôi mắt mầu xám mở to vừa khôn ngoan, vừa tinh nghịch lóng lánh sau cặp kính. Rõ ràng đây là một con người cởi mở và giản dị, nụ cười sẵn sàng nở trên môi. Mới thoạt nhìn thì như vậy. Nhưng quan sát kĩ thêm nữa, sẽ thấy một cái quai hàm rắn chắc và chung quanh đôi môi, những vết nhăn nghiêm nghị, chứng tỏ cái anh chàng trẻ tuổi người Ailen này cũng không phải là một tay vừa. 

Sau khi ba lần thử bắt chuyện với người thợ mỏ gần nhất, và chỉ nhận được vài tiếng trả lời càu nhàu, anh chàng đành ngồi yên, buồn bã nhìn qua cửa kính, ngắm một phong cảnh chẳng có gì thích thú. Đêm xuống dần, những tia lửa đỏ của các lò đúc lập lòe trên các sườn núi, soi sáng những đống than và xi quặng cùng những giếng mỏ. Rải rác đó đây, dọc theo đường tàu, những xóm nhà gỗ nhỏ đã bắt đầu lên đèn. Tàu dừng lại ở nhiều nơi, ở mỗi nơi lại có những toán thợ thuyền bước xuống. 

Người hành khách trẻ tuổi ngắm nhìn xứ sở u buồn này một cách vừa chăm chú vừa ghê sợ. Thỉnh thoảng anh ta lại lôi từ trong túi ra một phong thư dày cộm, đọc một vài đoạn rồi lại nghí ngóay vài chữ lên đó. Có một lần, anh ta lôi từ đằng sau chiếc thắt lưng ra một khẩu súng lục. Khi anh ta nghiêng nó về phía ánh sáng đèn, thì thấy rõ là khẩu súng đã lên đạn. Anh ta lại vội nhét nó vào trong túi áo. Một người thợ nói: 

- Này anh bạn, anh có vẻ chuẩn bị dữ quá đấy! 

Người trẻ tuổi mỉm cười, hơi lúng túng: 

- Đúng. ở chỗ tôi sống trước đây, đôi lúc cũng cần đến nó. 

- Thế anh ở đâu đến? 

- ở Chicago. 

- Anh chưa đến đây bao giờ? 

- Chưa. 

- Rồi sẽ thấy, ở đây anh cũng cần nó. 

- Thật không? 

- Anh chưa nghe gì ở đây à? 

- Chưa. 

- Thế mà tôi cứ tưởng là chuyện đã lan ra khắp xứ sở rồi chứ. Nhưng không lâu đâu, rồi anh sẽ biết hết. Thế tại sao anh lại đến cái thung lũng này? 

- Tôi tìm việc làm. 

- Anh có vào nghiệp đoàn không? 

- Có chứ. 

- Thế thì anh sẽ được toại nguyện. Anh có bạn bè không? 

- Chưa, nhưng sẽ có. 

- Nhờ đâu? 

- Tôi là hội viên của "Hội những Người Tự Do". Trong mỗi tỉnh đều có một chi hội. 

Người thợ sửng sốt, liếc nhìn những người cùng ngồi trong toa với cặp mắt ngờ vực. Nhưng những người thợ mỏ vẫn rì rào nói chuyện. Hai người cảnh sát thì ngủ gà, ngủ gật. Người thợ liền đứng dậy đi lại gần người trẻ tuổi, ngồi xuống bên cạnh anh ta, chìa tay ra và nói: 

- Vậy hãy bắt tay tôi đi. 

Họ trao đổi nhau một cái bắt tay theo một kiểu riêng nào đó. 

- Được rồi. Anh nói sự thật. Nhưng tôi muốn chắc chắn hơn kia... 

Người thợ giơ tay phải lên ngang tầm mắt phải, Anh trẻ tuổi vội giơ ngay tay trái lên ngang tầm mắt trái. Người thợ nói: 

- Những đêm đen tối rất khó chịu. 

Anh kia trả lời: 

- Phải, nhất là cho những người lạ mà phải đi lại. 

- Thôi đủ rồi, Tôi là Scanlan, chi nhánh 341, thung lũng Vermissa, sung sướng được gặp anh trong vùng này. 

- Cảm ơn. Tôi là John McMurdo, chi nhánh 29, Chicago. Toán trưởng: J.H.Scott. Tôi may mắn gặp được một môn huynh như anh. 

- Không ở đâu mà Hội lại phồn thịnh như ở Thung lũng này. Có điều tôi không hiểu được là tại sao một hội viên năng nổ như anh mà lại không tìm được việc làm ở Chicago. 

- ở đó, tôi có thể tìm được bất cứ việc nào mà tôi muốn. - McMurdo trả lời. 

- Thế thì tại sao anh lại bỏ đi? 

McMurdo mỉm cười trỏ người cảnh sát: 

- Hai ông cố nội này mà biết được lý do thì hẳn là vui lắm. 

- Chuyện lôi thôi à? - Scanlan thì thào. 

- Nặng. 

- Tù được không? 

- Chưa đủ. 

- Không phải án mạng chứ? 

McMurdo trả lời như một người vừa chợt nhận thấy rằng mình đã nói hơi quá: 

- Mình có những lý do để ra đi. Anh nghe đến thế là đủ rồi nhé. 

- Tôi không hỏi nữa. Tôi không muốn làm mất lòng anh mà. Các bạn ở đây sẽ không đánh giá xấu anh đâu. Thế bây giờ anh định đi đâu? 

- Đến Vermissa. 

- Còn ba ga nữa thì đến. Thế anh định ở đâu? 

McMurdo rút ra một chiếc bì thơ, đưa đến gần ngọn đèn: 

- Địa chỉ đây: Cụ Jacob Shafter. Đường Sheridan. Đây là một nhà nấu cơm trọ. Có người ở Chicago mách cho tôi. 

- Tôi không biết nhà trọ này. Vermissa không nằm trong khu của tôi. Tôi ở Hobson s Patch, ga sau là đến. Nhưng mà này, nếu anh có chuyện gì lôi thôi ở Vermissa, thì cứ đi thẳng đến nhà hội quán và vào tìm ông chủ McGinty. Ông ta là toán trưởng của chi nhánh Vermissa. Thôi tạm biệt, sẽ gặp lại nhau ở chi hội. 

McMurdo ngồi lại một mình với những ý nghĩ quay cuồng trong đầu. Đêm đã xuống hẳn. Trong khung cảnh tranh tối tranh sáng đó, những dáng người đen sẫm cúi xuống co, kéo, quay đi quay lại với những động tác của người máy, theo nhịp điệu những tiếng gầm gừ của sắt thép. 

Một tiếng nói bỗng cất lên: 

- Địa ngục có lẽ cũng giống thế này thôi. 

McMurdo quay lại: Một người cảnh sát đã đến ngồi bên cạnh anh và đang ngắm nhìn cái cảnh tượng khủng khiếp đó, Người cảnh sát kia gật đầu đáp lại. 

- Đúng. Nếu ở địa ngục mà có những con quỷ sứ dữ tợn hơn một số kẻ ở đây thì tôi sẽ rất ngạc nhiên. Anh mới về vùng này phải không? 

- Phải. - McMurdo trả lời. 

- Tôi khuyên anh hãy cẩn thận trong việc chọn bạn. Không nên kết bạn với Scanlan hay cái băng của hắn. 

- Đó là chuyện riêng của tôi, các anh can dự vào làm gì? 

McMurdo nhe hai hàm răng ra cười. 

Hai người cảnh sát ngạc nhiên khi thấy thiện chí của mình bị đáp lại một cách thô bạo. Một người nói: 

- Đấy là một lời báo động chỉ có lợi cho anh thôi. 

McMurdo vẫn cứ tái đi vì tức giận, hét lên: 

- Tôi không biết vùng này thật, nhưng tôi biết rằng mỗi lần mở miệng là các anh cứ khuyên với răn. 

- Thôi được, chúng tôi sẽ được biết anh rõ hơn, anh có vẻ "chịu chơi" lắm. 

Người cảnh sát kia bồi thêm: 

- Đúng, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, không lâu đâu. 

- Tên là Jack McMurdo. 

Hai người cảnh sát nhún vai và quay ra nói chuyện với nhau. Mấy phút sau, tàu từ từ vào một cái ga tối tăm, và nhiều người bước xuống, vì Vermissa là thị trấn lớn nhất trên tất cả tuyến đường. McMurdo cầm cái bọc lên. Khi anh sắp đi vào trong bóng tối của sân ga, thì một người thợ mỏ đến nắm lấy tay anh: 

- Đưa cái bọc đây tôi mang cho, và tôi sẽ chỉ đường cho anh. 

Khi hai người đi đến sân ga, ngang qua đám thợ mỏ, hàng loạt tiếng chào nổi lên. Thế là trước khi đặt chân xuống Vermissa, McMurdo đã trở thành một nhân vật nổi tiếng ở đó rồi. 

Đứng dưới thung lũng nhìn mấy đống lửa ngất trời cùng những đám khói dày đặc còn thấy một cái gì là hùng vĩ, ở đấy con người nhờ sức hai bàn tay và bộ óc đã đẽo gọt những ngọn núi bằng máy và dựng lên những công trình. Trái lại, về đến thị trấn, chỉ thấy toàn một sự nhớp nhúa và xấu xí. Đường phố chính đã bị xe cộ đi lại biến thành một thứ tuyết pha bùn nhão như hồ. Những cây dèn chỉ dùng để làm lộ ra những dãy nhà bằng gỗ, mặt tiền có một hàng lan can, tất cả đều nhếch nhác bẩn thỉu. Vào đến trung tâm thì một vài cửa hàng có thắp đèn sáng hơn, nhưng cả một đám nhà chỉ là những hàng cà phê và sòng bạc, để cho thợ mỏ đến 

vung phí tiền lương. 

Người đưa đường chỉ vào một cái quán rượu to, nói; 

- Đấy nhà hội quán đấy, McGinty là ông chủ. 

- Ông ta như thế nào? 

- Anh chưa bao giờ nghe nói đến ông ta? 

- Tôi mới đến. 

- Thế mà tôi cứ tưởng là khắp xứ này phải biết đến ông ta. Ông ta được đăng báo hoài mà. 

- Tại sao báo lại đăng tên ông ta? 

- ờ thì vì... 

Người thợ mỏ hạ giọng xuống nói nhỏ: 

-... Vì áp phe mà. 

- áp phe gì? 

- áp phe của những "Người Tiên Phong". 

- ừ, ở Chicago tôi cũng có đọc một cái gì đấy về những "Người Tiên Phong". Chúng nó là một bọn sát nhân, phải không? 

Người thợ mỏ hoảng hốt, nói lạc cả tiếng: 

- Anh muốn sống thì im ngay đi. Này anh, ở đâu mà ăn nói kiểu đó, thì không được đâu, đi mò tôm đó. 

- Không, tôi chỉ biết được đôi chút thôi. 

Anh ta liếc chung quanh, nhìn những bóng đen và đêm tối như là sợ hãi một sự nguy hiểm nào đó. 

- Nếu giết người có nghĩa là ám sát. Thì ở đây những vụ ám sát đem bán "xôn" cũng không hết. Nhưng anh đừng có dại dột mà đem cái tên của McGinty đi kèm với các vụ ám sát. Bởi vì ông ta không tha thứ cho bất cứ ai xì xào về ông ta. Đây căn nhà mà anh tìm ở lùi vào đằng sau đường phố một chút đó. 

McMurdo bắt tay người bạn mới: 

- Xin cám ơn anh. 

Anh ta đi lên con đường dẫn vào nhà, và gõ cửa. Hai cánh cửa mở ngay ra: trước mặt anh là một phụ nữ còn trẻ, đẹp kì lạ. Cô ta có dáng người xứ Thụy Điển, bộ tóc vàng óng lộng lẫy tương phản với đôi mắt đen nhánh. Cô ngạc nhiên nhìn người thanh niên lạ mặt, và sự lúng túng làm sắc mặt đỏ hồng lên, một đóa hoa tươi thắm nở trên một đống than xỉ. Anh mê mẩn ngắm cô gái, không nói được nên lời và cuối cùng cô ta phải lên tiếng: 

- Tôi tưởng là ba tôi về. Ông đến tìm ba tôi? Ba tôi lên phố, cũng sắp về. 

McMurdo vẫn cứ ngắm say sưa: 

- Thưa cô. Tôi không vội lắm, tôi đến đây để xin ở trọ. 

- Vậy xin mời ông vào. Tôi là Ettie Shafter, con gái ông Shafter. Má tôi đã mất, và chính tôi trông nom cái nhà trọ này. Ông có thể ngồi cạnh lò sưởi để chờ ba tôi về. à, mà kìa, ba tôi về tới rồi. 

Một người đàn ông nặng nề bước vào nhà. McMurdo giải thích ngắn gọn lý do anh đến đây. Ông già Shafter nhanh chóng đồng ý: 12 dollars mỗi tuần, trả tiền trước cả tiền ăn, tiền phòng.

Chương 9

Người trưởng toán

McMurdo là một người muốn ai cũng phải để ý đến mình. Chỉ sau một tuần lễ, anh ta đã trở thành nhân vật quan trọng nhất trong nhà trọ. Buổi tối, khi những người tá túc tại đây ngồi với nhau, thì anh chàng này luôn luôn có những chuyện khôi hài làm cho họ phải phá lên cười. Sức hấp dẫn riêng của anh làm tỏa sự vui vẻ ra xung quanh. Đối với những người đại diện cho pháp luật, anh tỏ thái độ khinh thường, làm cho những người trong nhà trọ hoặc là thích thú hoặc là lo ngại. 

Ngay từ khi mới đến trọ, anh đã công khai bộc lộ sự chiêm ngưỡng đối với cô thiếu nữ trong nhà rằng từ phút đầu tiên, cô gái đã chiếm hoàn toàn trái tim anh. Trong ngày thứ hai, anh nói thẳng rằng anh yêu cô ta, và từ đó, anh không ngừng nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc ấy. 

- Cô có người khác rồi à? Cô hãy bảo cái người ấy lo công việc riêng của anh ta đi. Còn tôi, tôi sẽ không để lỡ mất dịp may duy nhất của đời tôi. Ettie, hiện giờ cô có thể nói tiếng Không. Nhưng một ngày nào đó, rồi cô sẽ trả lời là: Có. Tôi còn trẻ, tôi đợi được. 

Đó là một gã si tình nguy hiểm, với tác phong Ailen trắng trợn, và những cử chỉ dịu dàng âu yếm đến mê người. Thêm nữa, anh ta được bao bọc trong một vòng hào quang của những chuyện phiêu lưu và bí mật, vòng hào quang dễ làm cho một phụ nữ phải chú ý, và từ đó dẫn đến tình yêu có xa gì. Anh ta kể về những thung lũng thanh bình, về hòn đảo xa vời đẹp như trong những chuyện thần tiên, về những ngọn núi hiền lành, những cánh đồng xanh muốt. Người ta có cảm giác là nhiều chuyện kỳ lạ đã xảy đến cho anh ta trong cái thành phố Chicago quá kỳ lạ, quá bí mật. Anh ta gợi lại với một vẻ trầm ngâm buồn rầu, một cuộc ra đi đột ngột, một cuộc chạy trốn vào nơi tận cùng của cái thung lũng âm u này. Ettie lắng nghe từng lời, đôi mắt nhung đen ánh lên một niềm thương xót và thông cảm. 

McMurdo làm kế toán. Anh bận suốt ngày, và cũng chưa có thì giờ đến trình diện ở chi nhánh của "Hội những người Tự Do". 

Scanlan đến nhà trọ cụ Shafter vào một buổi tối. Scanlan là một mẫu người nhỏ bé, láu táu, mặt lưỡi cày. Anh ta có vẻ vui lòng khi gặp lại McMurdo. Sau vài ngụm, anh ta đi vào lý do của việc đến thăm. 

- Này, McMurdo, sao anh chưa trình diện ông toán trưởng. 

- Tôi bận. 

- Làm gì thì làm, nhưng phải tới gặp McGinty ngay đi. Lẽ ra sau ngày anh đến, anh phải trình diện ỏ trụ sở Hội rồi, anh không được làm ăn bê bối với ông ta. 

McMurdo có vẻ ngạc nhiên. 

- Tôi là một hội viên đã hơn hai năm rồi. Sao lại phải đi trình diện gấp thế? 

- Ở Chicago thì không gấp như thế đâu. 

- Ở đây cũng là một Hội ấy chứ? 

- Cùng một Hội à? - Scanlan nhìn McMurdo trừng trừng, mắt anh ta lóe lên một tia sáng đe dọa. 

- Thế không phải là cùng một Hội sao? - McMurdo hỏi lại. 

- Một tháng nữa, chúng ta sẽ trở lại chuyện cùng hay không cùng này. Tôi nghe nói là bữa nọ trên tàu anh có đối đáp gì đó với mấy tay cảnh sát. 

- Sao anh biết? 

- Ồ tin tức bay đi mà. Ở đây tin tức bay đi nhanh lắm, tốt cũng có, xấu cũng có. Ồ! Anh sẽ là người lý tưởng của McGinty đó. 

- Sao vậy? Ông ta cũng ghét cảnh sát ư? 

Scanlan bật cười, đứng dậy: 

- Hãy đi gặp ông ta ngay đi. Nếu không, thì không phải ông ta ghét cảnh sát, mà là ghét anh đó. 

Cũng đêm hôm đó, ông già Thụy Điển mời anh chàng trẻ tuổi vào phòng ông. 

- Tôi có cảm giác là anh đang ve vãn con gái tôi. 

- Tôi yêu cô ấy. 

- Thế thì anh tốn công vô ích. Có người đã đến trước anh rồi. 

- Cô ấy đã nói với cháu như thế. 

- Con bé có nói với anh là ai không? 

- Cháu có hỏi nhưng cô ấy không nói. 

- Có lẽ nó không muốn làm anh phải sợ hãi đấy. 

- Làm cháu sợ hãi à? 

McMurdo đã bắt đầu nóng mặt. 

- Đúng đó,anh bạn. Nó là thằng Teddy Baldwin đó. 

- Cái thằng Teddy ấy là một thứ ma quái dữ dằn hay sao? 

- Nó là một trong những thằng chủ của bọn "Người Tiên Phong" đấy. 

- "Người Tiên Phong" à? Tại sao mọi người ở đây lại phải sợ chúng đến thế? 

Ông chủ trọ hạ thấp ngay giọng xuống. 

- "Người Tiên Phong" là hội viên của "Hội những Người Tự Do". 

Người trẻ tuổi giật mình. 

- Cháu cũng là hội viên của Hội ấy đây. 

- Anh à? Nếu tôi biết thế, thì tôi không cho anh vào nhà. Dù anh có trả tôi đến 100 dollars một tuần đi nữa. 

- Hội lập ra cốt để giúp đỡ lẫn nhau, và gây tình bạn tốt. Bác hãy đọc điều lệ của nó mà xem. 

- ở nơi khác thì như thế đó. Nhưng ở đây thì không. 

- ở đây nó thế nào? 

- Một bọn sát nhân. Thế thôi. 

McMurdo đáp lại bằng một nụ cười không tin: 

- Bác chứng minh được điều đó không? 

- Cả năm mươi vụ án mạng ở đây chưa đủ để chứng minh hay sao? Trong cùng thung lũng này không ai không biết những việc ấy. 

McMurdo nói rất nghiêm trang: 

- Thưa bác, cháu muốn bác rút lại những lời vừa nói, nếu không thì bác phải giải thích. 

- Tôi chỉ nhắc lại cho anh cái gì mà tất cả mọi người đều nói ở đây. Những người chủ của Hội thì cũng là những người chủ của bọn "Tiên Phong". Nếu ai làm gì phật ý Hội, thì bọn "Tiên Phong" sẽ ra tay ngay. 

- Cháu muốn có những chứng cớ thực sự kia. 

- Nếu anh còn ở lại Vermissa này, thì rồi anh sẽ có những chứng cớ. Nhưng tôi quên mất rằng anh cũng ở trong cái băng ấy, thì rồi anh cũng chẳng hơn gì bọn chúng đâu. Trong khi chờ đợi, thưa ông, xin ông đi tìm một nơi trọ khác. 

Thế là McMurdo bị kết án phải đi đày đến hai lần: đi đày khỏi căn buồng ấm cúng và đi đày xa người thiếu nữ. Anh đi tìm Ettie. 

- Ba em vừa mới đuổi anh. Nếu chỉ là chuyện căn buồng thôi thì anh có cần gì. Nhưng mà, anh không thể sống không có em được. 

- ồ, ông McMurdo. Xin ông đừng nói thế. Ông đã đến quá trễ. Em chưa hứa với hắn nhưng em cũng không thể hứa với người khác được. 

- Thế nếu anh là người đến trước, thì liệu anh có một tia hy vọng nào không? 

Cô gái úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở: 

- Em thề trước Thượng Đế là em muốn anh là người đầu tiên đến với em. 

McMurdo quỳ ngay xuống bên cô gái, thốt lên: 

- Anh van em, em hãy làm theo tiếng gọi của trái tim mình. 

McMurdo nắm lấy đôi bàn tay cô gái. 

- Em hãy nói rằng em là của anh, và chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng cuộc đời. 

- Nhưgn không phải ở đây chứ? 

- ở đây, ngay ở đây em ạ. 

- Không, không, anh... 

McMurdo ôm chặt cô gái vào trong tay. Cô gái không chống cự. 

- ở đây thì không được đâu anh. Nhưng... anh có thể đi với em được không? 

Một trận bão nội tâm, làm rung động nét mặt người thanh niên. Một lát sau, khuôn mặt trở lại rắn đanh 

- Không. Anh ở đây để bảo vệ em và chống với cả hoàn cầu. 

- Thế tại sao chúng ta không đi nơi khác. 

- Không, anh không thể đi được. 

- Tại sao? 

- Nếu chúng ta yêu nhau thì ai dám ngăn cản? 

- Anh mới đến đây nên anh không biết cái thằng Teddy đâu. Anh cũng không biết McGinty và bọn "Tiên Phong". 

- Anh đã sống giữa những con người dữ tợn, và bao giờ rồi cuối cùng chính chúng phải kiêng anh. Nếu bọn chúng đã phạm tội thì tại sao không ai đưa chúng ra trước pháp luật. 

- Không có ai dám ra làm chứng chống lại chúng: người nào làm như vậy, thì ngay trong tháng đó sẽ chết. 

- Có thể người ta tìm cách hại chúng và chúng không có cách gì để tự vệ chăng? 

- Ôi, em không muốn nghe anh nói như vậy. hắn cũng nói đúng như vậy đó... cái thằng ấy. 

- Thằng Teddy ấy à? à, nó nói như vậy có phải không? 

- Và vì vậy, mà em ghét nó. Em ghét nó nhưng em sợ nó. Cho nên em cứ phải tìm cách tránh né bằng những lời hứa nửa vời. Nhưng nếu anh chịu đi với em, thì chúng ta sẽ đưa ba em đi, và sống mãi mãi với nhau. 

Một lần nữa nét mặt người thanh niên lại hiện lên cuộc tranh đấu nội tâm dữ dội, và một lần nữa, một quyết định không gì lay chuyển nổi. 

- Sẽ không có gì nguy hại xảy đến cho em và ba em đâu.Còn về cái bọn độc ác kia, anh tự hỏi không biết rồi em có ngạc nhiên khi thấy rằng anh còn độc ác hơn cả đứa độc ác nhất trong bon chúng, trước khi chúng ta lấy nhau. 

- Không, em tin anh... tin suốt đời. 

Trên môi McMurdo nở một nụ cười cay đắng. 

- Em biết anh còn ít quá, em không thể đoán biết được những gì diễn ra trong tâm hồn anh đâu. Này, ai đến kìa? 

Hai cánh cửa buồng bật toang ra, và một người trẻ tuổi bước vào, dáng điệu dương dương tự đắc, hắn đẹp trai, ăn mặc đẹp đẽ. Vóc dáng và tuổi tác cũng vào cỡ của McMurdo. Dưới chiếc mũ phớt vành đen rộng, cặp mắt dữ tợn nhìn chăm chăm vào đôi trai gái đang ngồi cạnh lò sưởi. 

Ettie vội vàng đứng bật dây, hoảng hốt. 

- Tôi rất sung sướng được ông đến chơi, ông Teddy. Xin mời ông ngồi. 

Teddy hai tay chống nạnh, nhìn thẳng vào mặt McMurdo, hỏi: 

- Người này là ai? 

- Một người khách trọ mới. Ông McMurdo, ông cho phép tôi giới thiệu với ông, ông Teddy. 

Hai người thanh niên trao đổi một cái gật đầu lạnh nhạt. 

- Cô gái đã nói cho anh biết sự quan hệ của cô ta với tôi rồi chứ? 

- Tôi chẳng biết mối quan hệ nào giữa cô ta và anh cả. 

- Cô gái này là của tôi, và bây giờ thì anh đi chơi đi, ngoài kia trời dễ chịu lắm đấy. 

- Cám ơn. Lúc này tôi không thích đi chơi. 

- "Lại thế nữa kia". Đôi mắt của Teddy rừng rực lửa giận. "Thế chắc ông thích đánh nhau có phải không, thưa ông khách trọ?" 

McMurdo nhảy dựng lên: 

- Anh đã đoán đúng đấy. Chưa bao giờ anh lại có một lời nói đúng hơn thế nữa. 

Cô thiếu nữ kêu lên, sợ hãi: 

- Ôi, anh McMurdo. Ôi anh McMurdo. 

- ồ, người ta đã gọi nhau bằng anh rồi, nhanh quá nhỉ? 

- Anh Teddy. Xin anh hãy độ lượng mà tha lỗi cho anh ấy. 

McMurdo bình tĩnh nói: 

- Ettie, anh sẽ giải quyết chuyện này ổn thỏa thôi. Thưa ông Teddy, ông có thấy hứng thú mà đi dạo với tôi một vòng ngoài đường kia không? Trời ban đêm đẹp lắm, đúng như ông đã nói, ở đằng sau nhà bên cạnh này có một cái bãi trống, tiện lợi lắm, ông ạ. 

- Tôi sẽ trả món nợ này, mà không cần phải bẩn tay. Anh sẽ hối hận là đã đặt chân vào nhà này. 

- Sẽ à? Có ngay vẫn hơn chứ. 

- Tôi sẽ chọn giờ. Anh có thể để tôi thu xếp việc ấy cho. Này, nhìn đây. 

Teddy kéo ống tay áo lên và chỉ vào một dấu hiệu đặc biệt: một hình tam gíac nằm trong một đường tròn. 

- Anh có biết cái này là gì không? 

- Tôi không biết và cũng chẳng cần biết. 

- Thế thì rồi anh sẽ biết. Ettie sẽ chỉ dẫn cho anh. Con kia, mày sẽ quỳ xuống ,và van xin trở về với tao. Sau đó, mày sẽ biết tao trừng phạt mày như thế nào. Mày đã gieo..., thì tao sẽ cho mày gặt... 

Hắn giận dữ, nhìn hai người một lần cuối, rồi quay gót đi ra và dập cửa lại. 

Trong giây lát, McMurdo và người thiếu nữ đứng lặng đi. Nhưng rồi người thiếu nữ nhào tới ôm chặt lấy anh: 

- Ôi, anh McMurdo, anh can đảm biết bao nhiêu. Nhưng anh phải trốn ngay tối nay, nó sẽ giết anh. Em đã nhìn thấy trong mắt nó. Làm sao mà anh chống cự được với cả băng của chúng. 

McMurdo dịu dàng hôn người thiếu nữ và dìu cô ngồi xuống ghế 

- Em đừng có lo, Anh cũng là một hội viên trong Hội những Người Tự Do, anh đã nói với ba em rồi, và bây giờ anh cũng nói cho em biết nữa, đừng ghét bỏ anh. 

- Em không thể nào ghét bỏ anh được. Nhưng nếu anh cũng là một hội viên, tại sao anh không đến lấy lòng ông McGinty. ồ, anh đi ngay đi. 

- Anh cũng có ý đó. Em có thể nói với ba em là đêm nay anh còn về ngủ ở đây, nhưng ngày mai anh sẽ đi tìm một căn phòng khác. 

Quầy rượu của quán McGinty đông nghẹt khách gồm toàn những bọn hạ lưu của thị trấn. 

McGinty là nhân vật nổi tiếng, bên ngoài được che đậy bằng tác phong của một người vui tính sởi lởi. Nhưng bên trong, sự sợ hãi mà hắn gieo rắc không những ở thị trấn Vermissa, mà cả trên toàn bộ cái thung lũng này, đủ lôi kéo khách đến quán rượu của hắn rồi. 

McGinty đã được những bọn cướp, bọn lưu manh, bầu hắn giữ chức vụ Ùy viên Hội đồng Thành phố, và Quận trưởng Cảnh sát giao thông. Thuế má và các khoản tiền đóng góp rất lớn, những công trình công cộng thì bị bỏ bê, báo cáo trước nhân dân thì bị bóp méo sự thật Người dân thường bị bắt buộc phải câm miệng vì sợ bị tai họa. Thế là, năm này qua năm khác, quán rượu của ông ta đã phình ra đến mức đe dọa nuốt cả một góc của phố chợ. 

McMurdo đẩy cửa bước vào, chen giữa đám đông ồn ào, trong một bầu không khí ô nhiễm khói thuốc và sặc mùi rượu. Căn phòng được thắp đèn sáng choang. Những tấm gương lớn, khung mạ vàng, treo trên bốn bức tường phản chiếu và nhân lên gấp bội không biết bao nhiêu là đèn. Những người bồi rượu, tay áo sơ mi xắn lên đến khuỷu tới tấp pha rượu cho khách hàng. ở một đầu, đứng dựa mình vào quầy, là một người đàn ông cao lớn. Đó là McGinty. Ông ta có bộ tóc đen nhánh, dài như một cái bờm rủ xuống đến tận cổ, bộ râu nham nhở hai bên má, nước da mai mái của một người Italia, đôi mắt đen nhìn không chớp, trông rất dữ tợn. Tất cả phần còn lại, một thân hình cân đối, nét mặt thanh tú, tác phong cởi mở, phù hợp với dáng điệu vui tính và chịu chơi mà ông ta cố làm cho mọi người thấy rõ. Một người khách lạ sẽ nghĩ rằng đây là một tay làm ăn lương thiện. Nhưng khi đôi mắt hung bạo kia nhìn trừng trừng vào khách, thì người này bắt đầu run sợ, và cảm thấy mình đang đứng trước một thiên tai thực sự. 

Sau khi đã quan sát kỹ con người đó, McMurdo, cùi tay gặt một đám xu nịnh đang bao quanh. Đôi mắt táo bạo của người thanh niên như đóng đinh vào đôi mắt đen đang soi mói nhìn anh. 

- Này anh, tôi chưa hề thấy cái bản mặt của anh ở đây. 

- Tôi mới đến, thưa ông McGinty. 

- Nhưng không vì thế mà không biết thưa gởi với một người có chức vụ. 

Một người trong bọn xu nịnh vội giải thích: 

- Này anh, đây là ông hội đồng McGinty đó. 

- Rất tiếc, thưa ông hội đồng. Tôi chưa biết hết các tập quán ở đây. Nhưng người ta có khuyên tôi đến gặp ông. 

- Thế thì anh gặp tôi rồi đó. Anh thấy tôi thế nào? 

- ồ, nói ra bây giờ còn sớm quá. Nhưng nếu trái tim của ông cũng to như thân hình của ông, và tâm hồn ông cũng đẹp như ông, thì tôi tự thấy là bằng lòng rồi. 

Nghe câu trả lời đó, tên chủ quán đâm ra ngỡ ngàng, không biết nên cười cợt hay giữ một vẻ nghiêm trang với tên thanh niên này. 

Một lát sau, hắn mới quyết định. 

- Tổ mẹ, đúng là một kiểu ăn nói Ailen rồi. Thế ra tôn ông đã hài lòng về phần người ngợm của tôi rồi, phải không? 

- Chắc chắn thế. 

- Và người ta bảo anh đến gặp tôi. 

- Vâng. 

- Ai nói? 

- Môn huynh Scanlan, chi nhánh 341, của Vermissa. Tôi xin nâng ly mừng sức khỏe của ông, ông hội đồng. 

McMurdo vừa uống vừa giơ ngón tay út lên. McGinty chăm chú theo dõi anh ta và bỗng nhíu cặp mắt đen rậm lại nói: 

- ồ, ra thế đấy. Vậy thì tôi phải xét trường hợp của ông một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông... 

- ... McMurdo 

- Một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông McMurdo, vì ở đây không ai tin lời nói của ai cả. Xin mời qua đằng sau quầy này. 

ở đó có một căn phòng nhỏ với những thùng rượu xếp dọc theo tường. McGinty đóng cửa rồi ngồi lên một thùng, vừa cắn vào điếu xì gà vừa quan sát anh thanh niên. Hai phút trôi qua như thế. McMurdo chịu đựng cuộc thẩm tra này một cách vui vẻ. Anh ta đút một tay trong túi áo vét, còn một tay thì vân vê ria mép. Đột 

nhiên McGinty chồm người về phía trước và chìa ra một khẩu súng lục. 

- Này, thằng kia. Nếu mày định chơi tao thì cái này sẽ đưa mày sang thế giới bên kia ngay. 

McMurdo bình tĩnh trả lời: 

- Đón tiếp một môn huynh như thế này thì quả thật là kỳ cục, nhất là khi người ta lại là một trưởng toán trong chi nhánh của Hội những Người Tự Do. 

- Anh được nhập hội ở đâu? 

- Chi nhánh 29, Chicago 

- Bao giờ? 

- Ngày 24 tháng 6 năm 1871 

- Tên trưởng toán? 

- J.H.Scott. 

- Ai chịu trách nhiệm toàn khu? 

- Bartholomew Wilson. 

- Đến Vermissa làm gì? 

- Tôi cũng đi làm như ông 

- Anh đối đáp trơn tru lắm nhỉ? 

- Vâng, tôi không ngọng nghiụ. 

- Thế trong hành động, anh có lanh lẹ không? 

- Tôi nổi tiếng về việc ấy. 

- Rất tốt, anh sẽ được thử thách. Anh đã nghe nói đến chi nhánh ở đây bao giờ chưa? 

- Người ta nói với tôi rằng trước tiên phải là một con người đã, rồi sau mới thành một môn huynh được. 

- Đúng đó. Tại sao anh lại bỏ Chicago ra đi? 

- Ông đừng hòng bắt tôi khai. 

McGinty trố mắt ra nhìn. Hắn không quen nghe những câu trả lời như vậy. Câu này, hắn thấy nó thật ngộ nghĩnh. 

- Tại sao vậy? 

- Vì môn huynh không được phép nói dối với một môn huynh khác. 

- Nghĩa là sự thật không được tốt lắm chứ gì. 

- Nếu ông muốn hiểu như vậy, thì xin tùy ông. 

- Một người trưởng toán như tôi, chắc sẽ không đưa một ai vào trong chi nhánh Hội, khi chưa biết quá khứ của anh ta. 

McMurdo có vẻ lúng túng. Sau cùng, anh ta lôi ở túi áo trong ra một mảnh báo cũ, và còn hỏi lại: 

- Ông không phản thùng tôi chứ? 

- Mày mà còn nói cái kiểu ấy thì tao đập vỡ mặt mày ra bây giờ. 

McMurdo tỏ vẻ hối tiếc: 

- Tôi xin lỗi ông. Tôi nói mà không suy nghĩ. Tôi biết rằng ở trong tay ông thì tôi sẽ được an toàn. Ông hãy đọc mảnh báo này đi. 

McGinty đọc lướt qua bài báo đưa tin về vụ án mạng tên Jonas Pinto ở quán rượu Lake, phố Market, tại Chicago, đêm mồng 1 tháng giêng năm 1874. Hắn đưa trả lại mảnh báo cũ, hỏi: 

- Anh làm cái việc ấy à?... 

McMurdo trả lời bằng cái gật đầu. 

- Tại sao anh lại hạ nó? 

- Tôi giúp đỡ nhà nước đúc ra các đồng đô la. Có lẽ những đồng dollars của tôi làm ra, vàng không đủ tuổi như đồng dollars của Nhà nước, nhưng trông nó vẫn có vẻ xài được. Cái tên Pinto này giúp tôi tiêu thụ những đồng ấy. Một hôm nó nói rằng sẽ đi tố cáo tôi. Tôi hạ nó ngay, rồi đến đây. 

- Tại sao lại đến cái xứ than này? 

- Thấy báo nói ở đây người ta không khó tính lắm. 

McGinty bật cười. 

- Thế ra trước hết anh là một thằng làm bạc giả, rồi sau là một tên giết người, và anh nghĩ rằng đến đây anh sẽ được người ta đón tiếp tốt có phải không. 

- Vâng, đại khái là như vậy. 

- Thế bây giờ anh còn làm đươc những đồng dollars ấy không? 

McMurdo móc túi lấy ra mấy đồng tiền vàng đưa cho McGinty xem 

- Đây ông xem... 

- Thật không? Không nói đùa đấy chứ? 

McGinty soi các đồng tiền ra ánh sáng, để nó trên bàn tay to tướng. 

- Không thấy có gì khác cả. Tổ mẹ, thế này thì anh sẽ là một môn huynh đắc lực đây. ở đây chúng tôi cũng có thể nhận một vài tay đầu bò đầu bướu. 

- Thưa ông, tôi sẽ giữ được vị trí của tôi, trong cuộc tự vệ đó. 

- Thần kinh của anh có vẻ vững vàng lắm. Anh không xáo động khi tôi chĩa súng vào anh? 

- Lúc đó không phải tôi đang bị nguy hiểm. 

- Thế thì ai vậy? 

- Ông. 

McMurdo rút tronng túi áo vét ra một khẩu súng sáu đã lên đạn. 

- Tôi vẫn nhắm vào ông suốt trong thời gian vừa qua, tay tôi cũng không lanh kém gì ông đâu. 

Ông hội đồng đỏ mặt tía tai nhưng rồi bỗng phá lên cười. 

- Tôi có cảm giác một ngày nào đó, chi nhánh Hội ta rồi sẽ đươc kiêu hãnh về anh đó... Cái gì thế này. Chúng mày không thể để yên cho tao được nói chuyện đến năm phút với một vị khách quý hay sao? 

Người hầu bàn cúi đầu: 

- Xin lỗi ông hội đồng, có ông Teddy. Ông ấy muốn gặp ông gấp. 

Lời báo ấy là vô ích, Teddy đã hiện ra trong khung cửa. Hắn gặt người hầu ra rồi đóng cửa lại, và nhìn McMurdo bằng một cặp mắt nẩy lửa. 

- Thế là mày đã đến đây trước tao rồi hả? Được, ông hội đồng, tôi có câu chuyện muốn nói với ông về cái tên này. 

McMurdo nói như hét: 

- Thì mày nói ngay đi, nói ngay trước mặt tao nè. 

- Tao sẽ nói lúc nào tao cần nói, và nói theo cách của tao. 

McGinty từ trên thùng rượu nhảy xuống, can thiệp 

- Teddy, đây là một môn huynh mới đến, chúng ta không được đón tiếp anh ta như vậy. Hãy chìa tay ra làm lành với nhau đi. 

- Không đời nào. - Teddy hét lên 

- Tôi đã mời anh ta đấu với tôi bằng tay không, hoặc bằng bất cứ thứ vũ khí nào. Thưa ông hội đồng, bây giờ tôi xin để ông phân xử cho chúng tôi. 

- Thế giữa hai anh có chuyện gì vậy? 

- Một cô gái trẻ tuổi. 

- "Tự do à?" Ông trưởng toán nói tiếp. "Vì đây là giữa hai môn huynh trong cùng một chi nhánh hội, nên cô gái đó hoàn toàn tự do". 

- ồ, luật lệ của ông là như thế đấy hả? 

- Đúng, luật lệ của tao là như thế đấy, Teddy! 

McGinty nhìn hắn một cách hiểm ác, tiếp luôn: 

- Phải chăng mày định chống lại luật lệ ấy không? 

- Ông gạt ra ngoài một người vẫn đứng bên ông từ 5 năm nay, để ôm vào lòng một tên mà ông chưa bao giờ gặp mặt. Mẹ kiếp, đến kỳ phiếu sắp tới... 

Ông hội đồng chồm lên như một con hổ, khép chặt hai bàn tay vào quanh cổ tên kia và vật ngửa nó lên một thùng rượu. McMurdo can thiệp. Anh kéo ông hội đồng lại, làm ông ta thả tay ra. Teddy bị khuất phục. Hắn ngồi lên trên thùng rượu. 

- Teddy, đã từ lâu mày đáng được một trận như thế này. Ngày hôm nay thì mày nếm mùi sơ sơ rồi đó. Mày tưởng tượng rằng nếu tao không được bầu lại làm trưởng toán thì mày sẽ chiếm chỗ tao phải không? Rồi đây chi nhánh Hội sẽ định đoạt việc này. Nhưng chừng nào tao còn là trưởng toán, thì không một đứa nào được mở mồm ra chống lại những điều tao quyết định, nghe rõ chưa? 

Teddy vừa xoa cổ vừa lắp bắp nói: 

- Tôi có chống ông cái gì đâu. 

Thế là McGinty đột ngột trở lại ngay cái kiểu cách ra vẻ hồ hởi thường ngày của hắn: 

- ồ, nếu thế thì thôi. Chúng ta đều là bạn tốt với nhau cả. Và việc này coi như là xong. 

Lão lấy từ trong hốc tủ ra một chai champagne bật nút mở rượu, rót đầy vào ba cốc: 

- Nào, chúng ta hãy uống ly rượu hòa giải. Sau tuần rượu này, không có một cuộc cãi lộn nào nữa. Vậy thì bây giờ Teddy, hãy để tay trái của anh lên cổ tôi đi. 

Rồi lão nói tiếp: 

- Thưa ông, nghĩ sao khi bị xúc phạm? 

- "Những đám mây đều nặng nề". 

- "Nhưng chúng sẽ tan đi, để không bao giờ trở lại nữa". 

- "Và điều đó, tôi xin thề". 

Hai người uống cạn ly rượu, và nghi lễ đó lại diễn ra giữa Teddy và McMurdo 

McGinty xoa hai tay vui vẻ nói: 

- Được rồi. Thế là cuộc cãi lộn đã kết thúc. Nếu nó còn tái diễn thì các anh sẽ phải chịu sự trừng phạt của Hội. 

McMurdo chìa tay ra cho Teddy bắt: 

- Tôi thật không dám thế. Tôi dễ gây lộn, nhưng cũng dễ tha thứ. Người ta bảo đó là do giòng máu Ailen. Nhưng đối với tôi thế là xong, và tôi không có thù hằn gì cả. 

Teddy đành phải giơ tay ra bắt, vì đôi mắt của ông trưởng toán không rời hắn 

McGinty ôm lấy vai hai người, thở dài: 

- Thật không thể tưởng tượng được là mảnh gấu váy ấy lại có thể làm cho hai chàng trai của tôi đến phải trở thành đối thủ của nhau. Nhưng những chuyện này vượt ra ngoài thẩm quyền của một người trưởng toán rồi. Môn huynh McMurdo, anh được nhập vào chi nhánh 341. Chúng tôi thường hội họp vào tối thứ 7. Nếu anh đến dự, anh sẽ mãi mãi là một người Tự Do ở cái thung lũng này.

Chương 10

Chi nhánh 341 ở Vermissa

Ngay hôm sau, McMurdo dọn đến nhà một bà góa chồng tên là Widow MacNamara ở ven thị trấn. Scanlan ít lâu sau cũng có việc về Vermissa nên hai người đến ở chung với nhau. 

Bà chủ trọ đã già, tính kín đáo và biết điều. McMurdo và Scanlan ở đó không có ai khác cùng trọ nên có thể ăn nói, hoạt động rất tự do. Cụ Shafter cũng đồng ý để cho McMurdo khi nào muốn, cứ đến nhà dùng cơm, thành ra quan hệ của anh với Ettie không bị đứt đoạn, mà trái lại cứ ngày càng chặt chẽ, thân thiết hơn. 

McMurdo bày những cái khuôn dập bạc giả ra. Một vài môn huynh của chi nhánh được phép bí mật đến nhà anh, và khi ra về thì túi nặng những đồng bạc mới. Những người cùng làm với anh thường thắc mắc tại sao anh có tài như vậy, mà lại chịu hạ mình đi làm công. Anh trả lời rằng nếu anh không có những nguồn thu nhập chính đáng, thì cảnh sát sẽ điều tra về đời sống của anh ngay. 

Sau cuộc gặp mặt lần đầu tiên với McGinty, anh thường lui tới quán rượu để biết "những chàng trai". Đó là cái tên rất dễ thương mà bọn quỉ sứ trong khắp vùng này tự đặt cho mình. McMurdo nổi tiếng trong bọn chúng vì sự nóng nảy và về cách nói táo tợn của anh. 

Một buổi tối, khi quán rượu đang đông khách, thì có một người bước vào. Người đó mặc binh phục màu xanh và đội mũ lưỡi trai của cảnh sát vùng mỏ. Đây là một đơn vị đặc nhiệm đã được ban điều hành của các công ty hỏa xa, mỏ than và mỏ sắt cùng dựng lên để yểm trợ cho cảnh sát dân sự. Khi người đó vừa mở cửa vào, thì cả phòng bỗng im bặt, cả mấy trăm con mắt đều đổ dồn nhìn như xiên vào mặt anh ta. McGinty đứng sau quầy, không tỏ ra một chút ngạc nhiên nào khi thấy viên thanh tra ngồi vào giữa đám khách quen của ông ta. 

- Một ly whisky nguyên chất. à, ông hội đồng, hình như chúng ta chưa gặp nhau lần nào? 

- Anh là đại úy mới đến đây phải không? 

- Chính tôi. Chúng tôi kêu gọi ông và tất cả mọi công dân, hãy giúp đỡ chúng tôi giữ vững pháp luật và trật tự trong thị trấn này. Tôi là đại uý Marvin của Công ty than và sắt. 

- Không có ông, chúng tôi thu xếp còn tốt hơn đấy. Bởi vì chúng tôi có đội cảnh sát riêng. Ông chỉ là một công cụ tư bản, đến đây để quất roi gân bò và bắn giết những người công dân nghèo mà thôi. 

Viên sĩ quan cảnh sát cười: 

- Không nên cãi vã với nhau. 

Anh ta uống cạn ly rượu và sắp đi ra thì chợt trông thấy McMurdo đang đứng cười gằn gần đó. Anh ta vừa nhìn McMurdo từ trên xuống dưới vừa vui vẻ gọi: 

- à, một người quen cũ đây. 

McMurdo lảng ra. 

- Tôi chưa bao giờ là bạn của ông. 

Đại uý Ma-vin phá lên cười: 

- Một người quen không nhất thiết phải là một người bạn. Anh là McMurdo, ở Chicago. 

McMurdo nhún vai, đáp lời ngay: 

- Tôi không chối tên tôi, Anh tưởng tôi xấu hổ vì cái tên tôi à? 

- Nếu anh có cảm thấy xấu hổ về cái tên của anh, thì cũng có lý thôi. 

McMurdo đã nắm chặt lại thành hai nắm đấm và gầm lên: 

- Tôi yêu cầu ông phải giải thích những điều ông vừa mới nói? 

- Đừng có lên mặt anh chị với tôi. Trước khi tôi đến đây, tôi là một quan chức ở Chicago, và khi tôi trông thấy một thằng lưu manh của Chicago, tôi phải nhận ra được nó chứ. 

McMurdo tái nhợt người, thốt lên: 

- Chắc ông không phải là Marvin của Sở cảnh sát trung ương ở Chicago chứ? 

- Tôi luôn luôn vẫn là Marvin ấy đấy. Chúng tôi cũng vẫn chưa quên được cái thằng Pinto đã bị giết. 

- Tôi không giết nó. 

- Thế à? Thế thì cũng hơi lạ đó. Bởi vì cái chết của nó đỡ cho anh biết mấy. Nó mà khai ra được trước toà, thì anh đã vào chảo rang lâu rồi. Nhưng thôi, không nói chuyện quá khứ nữa. Này, tôi nói riêng với anh một chuyện đáng lẽ tôi không đươc phép nói ra: cái vụ ấy mà, về phần anh không có gì là rõ ràng đâu. Ngày mai anh có thể trở về Chicago, nếu anh muốn. Anh sẽ không bị phiền đâu. 

- Tôi ở đây tốt rồi, chẳng phải đi đâu cả. 

- ờ thì tuỳ, tôi đã mách nước cho anh, đáng lẽ anh nên có một lời cảm ơn mới phải. 

McMurdo trả lời một cách lạn nhạt: 

- Thì cứ cho là ông muốn làm cho tôi vui lòng đi, cám ơn. 

- Chừng nào mà tôi còn thấy anh trên con đường tốt thì tôi sẽ không nói gì. Nhưng nếu anh lại muốn dở trò, thì lúc đó sẽ là câu chuyện khác đấy. Thôi, chào anh. Chào ông hội đồng! 

Ma-vin bước ra khỏi quán rượu. Tin tức nhanh chóng loan ngay đi rằng McMurdo đã tác yêu tác quái ở Chicago. Trước đây, khi có người hỏi anh ta về việc này anh ta chỉ tránh né với nụ cười của một người không muốn ai làm rùm beng quá khứ của một câu chuyện chẳng đáng gì. Bây giờ câu chuyện đó đã được xác nhận chính thức. Những khách quen đến bao quanh và âu yếm bắt tay anh ta. Từ nay trở đi, anh đã có một vị trí xứng đáng trong tập thể. 

Một tối thứ bẩy, McMurdo được đưa ra trình diện trước hội viên trong chi nhánh. 

Cuộc họp được triệu tập trong một căn buồng rộng ở nhà hội quán. Khoảng 60 hội viên có mặt. Họ chỉ là một phần rất nhỏ của tổ chức thôi vì có nhiều chi nhánh khác hoạt động ở trong thung lũng cũng như ở phía sườn núi bên kia. Trong tất cả khu mỏ này, tổng số hội viên như vậy không dưới 500 tên. 

Những người tới họp, tập trung quanh một chiếc bàn dài trong căn buồng hoàn toàn trơ trụi, không có bất cứ một thứ trang trí nào. ở một phía có một cái bàn khác trên xếp đầy rượu và ly. Một số môn huynh đã để mắt liếc nhìn về phía đó. 

McGinty ngồi ở một đầu bàn, đầu đội một cái mũ bình thiên bằng nhung đen, vai khoác một tấm áo choàng bằng nhung đỏ. Những vị chức sắc cao cấp nhất của chi nhánh, trong số đó có Teddy, bao quanh ông ta. Người nào cũng có đeo một cái đay hay một huy chương chỉ rõ ngôi thứ và chức vụ. Phần đông trong số họ là những người tuổi, số còn lại gồm những thanh niên từ 18 đến 25 là những tay chân thừa hành. Trông mặt của các hội viên già, người ta cũng đoán thấy bên trong là những tâm hồn tàn bạo và bất trị, nhưng khi nhìn đến những người trẻ tuổi, thì không ai có thể ngờ được rằng những thanh niên này lại họp thành băng nhóm tội phạm. Đồi trụy đến tận gốc rễ, chúng cho rằng có xin xung phong đi thủ tiêu những người chưa bao giờ động chạm gì đến chúng, thì mới gọi là có can đảm và có tinh thần hiệp sĩ. Hồi đầu, chúng còn giữ bí mật về những hành động của chúng, nhưng vào thời xảy ra câu chuyện này thì chúng công khai khoe khoang thành tích. Trong 10 năm chưa một đứa nào trong bọn chúng phải chịu một án sát phạt nào. 

McMurdo đã được báo trước là sẽ có những lễ nghi chờ đợi anh ta. Anh được hai môn huynh đưa vào một căn buồng biệt lập. Qua tấm vách ngăn bằng ván, lọt vào tiếng ồn ào của nhiều người nói trong căn buồng hẹp. Một hay hai lần gì đó, anh nghe thấy nói đến tên anh. Hình như người ta đang kháo nhau về sự chấp nhận anh vào chi nhánh hội. Rồi một người bảo vệ, bước vào căn phòng anh đang đứng đợi và truyền cho hai người môn huynh biết: 

- Ngài trưởng toán ra lệnh hãy trói người này lại, bịt mắt và đưa vào trình diện. 

Cả ba người lột áo anh ra, vén tay áo sơ mi bên phải lên và trói giật cánh khuỷu anh ra đằng sau. Rồi họ đội lên đầu anh một chiếc mũ lưỡi trai may bằng thứ vải đen dày, và ấn sâu xuống cho đến che hết phần trên của mặt, anh được dẫn vào phòng họp. Anh có cảm giác là đêm tối đen như mực. Anh nghe tiếng thì thào của những người dự họp, rồi tiếng nói của McGinty: 

- McMurdo, anh đã là hội viên của Hội những Người Tự Do chưa? 

McMurdo gật đầu. 

- Chi nhánh của anh có phải là số 29 ở Chicago không? 

McMurdo lại gật đầu. 

- Những đêm đen tối rất khó chịu... 

- ... cho những người lạ mặt phải đi lại. 

- Những đám mây đều nặng nề 

- Một cơn bão sắp lại gần. 

- Các môn huynh đã thỏa mãn chưa?.... 

Có một tiếng rì rầm chứng tỏ sự đồng ý. 

- Môn huynh, anh đã đáp đúng được mật hiệu, chúng tôi biết anh thật sự là ngườ trong hội. Nhưng chúng tôi cũng muốn anh biết rằng trong khu vực này, chúng tôi có những nghi lễ và những điều bắt buộc đòi hỏi phải có lòng dũng cảm. Vậy anh có sẵn sàng để chịu đựng không? 

- Có. 

- Anh có can đảm không? 

- Có. 

- Hãy tiến lên một bước. 

Vừa nghe đến đây thì anh cảm thấy có hai mũi nhọn, cứng ở đằng trước mắt. Hai mũi nhọn này ấn vào hai mắt anh khiến anh có cảm giác là nếu tiến lên thêm thì hai mắt sẽ bị đâm thủng. Mặc dầu vậy, anh vẫn tiến lên một bước, và hai mũi nhọn biến mất. Anh nghe thấy những lời khen ngợi kín đáo. 

- Anh can đảm đấy. Nhưng liệu có chịu được sự đau đớn không? 

- Không kém bất kỳ ai. 

- Hãy thử thách. 

McMurdo đã phải sử dụng tất cả nghị lực mới không kêu thét lên: một sự đau đớn khủng khiếp vừa xiên qua cánh tay anh, suýt làm anh ngất xỉu. 

- Tôi có thể chịu được hơn thế nữa. 

Lần này thì tiếng vỗ tay nổ vang lên. Chưa bao giờ chi nhánh ở đây thấy một người mới nhập hội cương quyết hơn thế. Người ta nhấc cái mũ ở trên đầu xuống, và vỗ vào lưng anh đồm độp. Anh vẫn đứng im, chớp chớp mắt cười trong khi các môn huynh tới chúc mừng anh. 

McGinty nói: 

- Môn huynh McMurdo. Anh đã tuyên thệ giữ bí mật và trung thành, nhưng chắc anh biết rằng ai phản bội lời thề đó sẽ bị án tử hình tức khắc chứ? 

- Tôi biết. 

- Và anh có tuân theo lệnh của người toán trưởng trong bất kỳ hoàn cảnh nào không? 

- Có. 

- Vậy thì, nhân danh chi nhánh 341 của Vermissa, tôi mời anh được tham dự vào những nghi lễ và những đặc quyền của Hội. Môn huynh Scanlan, hãy cho chúng ta uống rượu đi. 

Có một người đem trả lại cho McMurdo chiếc áo vét. Trước khi mặc vào, anh xem xét lại chỗ cánh tay phải vẫn còn đau như xé: Một cái ấn bằng sắt nung đỏ đã in lên đấy hình một tam giác nằm trong một đường tròn. Những người đứng xung quanh cũng vén tay áo lên và chỉ cho anh xem dấu ấn của họ. 

- Chúng tôi cũng đã được nhận dấu ấn này, nhưng không ai dũng cảm được bằng anh đâu. 

- ồ, cũng không có gì ghê gớm lắm. - McMurdo trả lời. 

Mấy tuần rượu mừng lễ nhập hội đã xong, chi hội bắt đầu bàn đến một số vấn đề thường vụ. McGinty tuyên bố: 

- Việc thứ nhất của buổi họp đêm nay là bức thư của vị trưởng hạt Windle ở Merton, chi nhánh 249. Bức thư như sau: 

"Quý vị thân mến, có một việc nhỏ cần làm đối với Adrew Rae, ở công ty Rae Sturmash, chủ những mỏ bên cạnh. Chắc các vị chưa quên là chi nhánh các vị còn nợ chúng tôi về việc chúng tôi đã cử hai môn huynh đến để giúp các vị trong vụ tên cảnh sát, mùa thu vừa qua. 

Nếu các vị cử đến cho chúng tôi hai người tình nguyện, thì họ sẽ được người thủ quỹ Higgins của chi nhánh chúng tôi trông nom chu tất, và sẽ hướng dẫn họ cách hành động, ở đâu và lúc nào. Chào huynh đệ. J. W. Windle. D. M. A. 0. F." 

Ông Windle chưa bao giờ từ chối cho chúng ta vay một hoặc hai người khi chúng ta cần, thì bây giờ chúng ta cũng không thể từ chối ông ta. 

McGinty ngừng lại, đưa mắt nhìn khắp căn phòng. 

- Ai xung phong đi làm công việc này? 

Mấy thanh niên cùng giơ tay một lượt. Ông trưởng toán mỉm cười đồng ý. 

- Hổ Cormac, anh sẽ đi. Nếu anh cũng làm ăn tốt như lần trước thì mọi việc sẽ bình thường cả thôi. Cả anh nữa, Wilson. 

Người xung phong đó thắc mắc: 

- Nhưng tôi không có súng lục. 

- Đây là trận đầu tiêm của anh, có phải không? Thế thì phải bắt đầu bằng lễ chịu lửa đã. Còn súng lục, đến nơi sẽ có. Khi nào trở về, sẽ có ăn mừng trọng thể. 

- Thế còn tiền thưởng, lần này thì sao? - Cormac hỏi. 

- Tiền thưởng không phải là quan trọng. Anh ra tay vì danh dự mà. Khi nào công việc xong xuôi, người ta cũng sẽ vét được ở đáy két bạc một đôi đồng dollars cũ rích nào đó để trao cho anh. 

Wilson hỏi: 

- Cái người đó đã làm gì? 

- Chuyện đó không dính dáng gì đến chúng ta, công việc của chúng ta, là thay họ thanh toán nó, cũng như họ đã thay ta ở đây vậy. à cũng nhân đây nói luôn; tuần lễ sau sẽ có hai môn huynh của chi nhánh Merton đến đây để làm thay cho chúng ta một công việc nhỏ. 

Có người hỏi: 

- Ai đến thế? 

- Đừng nên đặt những loại câu hỏi như vậy. Anh chỉ cần biết đây là những người rất chịu chơi. 

Teddy kêu lên: 

- ở đây đang cần có những loại người ấy đấy. Dân chúng ở đây đã bắt đầu hơi coi thường rồi đó. Trong tuần trước ba người của chúng ta đã bị tên đốc công Blaker đuổi không cho làm nữa. Chúng ta mắc nợ với cái thằng này từ lâu rồi, bây giờ phải hoàn lại đủ cả vốn lẫn lãi cho nó thôi. 

McMurdo thì thầm vào tai người ngồi bên hỏi: 

- Hoàn vốn như thế nào? 

Người này phá lên cười: 

- Bằng một viên đạn súng săn chứ còn bằng cái gì nữa. Anh thấy những phương pháp của chúng tôi thế nào, môn huynh. 

McMurdo tỏ vẻ tán thành những phương pháp của cái hội giết người này. 

- Phương pháp hay quá. Một chàng trai không phải thỏ đế thì ở đây tốt quá đi chứ. 

Những người ngồi bên vỗ tay tán thưởng. ở đầu bàn đằng kia, ông toán trưởng hỏi với lại 

- Cái gì thế? 

- "Thưa ông", vị môn huynh nói, "McMurdo thấy phương pháp làm việc của chúng ta hợp với khẩu vị của anh ấy lắm". 

McMurdo đứng phắt ngay lên, trịnh trọng nói: 

- Thưa thầy kính mến, tôi muốn nói rằng, nếu thầy cần đến một người để làm một việc gì đó thì tôi sẽ tự coi như có danh dự lớn, nếu được thầy cho làm. 

Nhiều tiếng vỗ tay. Chỉ có một vài môn huynh trong hội là thấy anh ta đi có hơi quá nhanh. 

Viên thư ký Harraway, một lão già râu xám ngồi bên cạnh toán trưởng, can thiệp ngay: 

- Tôi đề nghị là môn huynh McMurdo chờ đợi khi nào chi nhánh cần đến. 

- Tất nhiên. Đó chính là điều mà tôi muốn nói. Tôi hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chi nhánh. - McMurdo đáp lại. 

Toán trưởng nói một cách an ủi: 

- Rồi sẽ đến lượt anh thôi, môn huynh. Chúng tôi nhận thấy anh là một con người cương nghị, và tin chắc rằng anh sẽ làm được những việc xuất sắc. Tối nay, nếu anh muốn, anh có thể tham dự vào một công việc nhỏ thôi. 

- Tôi xin chờ. 

- Bây giờ, trước hết tôi yêu cầu thủ quỹ cho chúng ta biết bản hạch toán tiền nong. Phải trả một số tiền kha khá cho người vợ góa của Jim. 

Một người ngồi bên McMurdo giải thích cho anh ta hiểu: 

- Jim đã bị giết tháng trước trong khi đang định hạ sát Chester Wilcox của Marley Creek. 

Thủ quĩ mở sổ sách ra trước mặt, nói: 

- Quỹ hiện nay rất phong phú, công ty Max Linder & Co. đã trả 500 dollars. Walker Brothers gửi đến 100 dollars, nhưng tôi đã tự ý gửi trả lại họ, để đòi 500 kia. Nếu từ nay đến thứ tư sau, mà tôi không có tin tức gì thì bộ cầu trục của họ có thể sẽ bị tai nạn. Năm ngoái chúng ta đã bắt buộc phải đốt cháy cái máy nghiền quặng của họ. Hiện nay chúng ta có vốn đủ để có thể đương đầu với bất 

cứ một yêu cầu nào. 

- Thế còn Archie Swindon thì sao? 

- Nó đã bán hết gia sản và đi khỏi khu vực rồi. Cái thằng quỷ già đó có để lại cho chúng ta một bức thư nói rằng thà nó đi làm nghề quét đường ỏ New York còn thú vị hơn là làm một chủ mỏ lớn để bị một băng cướp tống tiền khống chế. Quân chó đẻ, cũng may là nó đã đi khỏi đây trước khi bức thư đến tay chúng ta. 

Một người đã đứng tuổi, mặt mũi nhẵn nhụi có dáng hiền lành hỏi: 

- Thưa ông thủ quỹ, tôi có được phép xin ông cho chúng tôi biết ai đã mua cái lô đất của người mà ta vừa đuổi chạy khỏi khu này không? 

- Được, môn huynh Morris. Lô đất ấy đã do công ty hỏa xa State & Merton County mua. 

- Và ai đã mua lại những mỏ của Todman và của Lee đem bán đấu giá, năm ngoái cũng vì những lý do trên. 

- Cũng lại công ty hỏa xa. 

- Và ai đã mua lại những lò luyện của Manson, của Shuman, của Van Deher và của Atwood khi họ bỏ lại để chạy trốn. 

- Tất cả đều được công ty mỏ tổng hợp West Gilmerton mua lại hết. 

Toán trưởng can thiệp, hỏi lại: 

- Môn huynh Morris, tên tuổi của những người đã đứng tên mua không làm cho chúng ta phải quan tâm, vì không thể bê những cái bể là đó ra khỏi vùng này được kia mà. 

- Thưa thầy kính mến, với tất cả lòng tôn kính của tôi đối với thầy, tôi vẫn nghĩ rằng vấn đề này phải được chúng ta quan tâm nhiều hơn nữa. Như thế là trong mười năm nay, chúng ta vẫn tiếp tục dùng có một phương pháp thôi. Đó là chúng ta dần dần đuổi hết những nhà thầu nhỏ ra khỏi nơi đây. Kết quả là thế nào? Họ được thay thế bởi những công ty lớn, mà những giám đốc của các công ty đó thì ngự ở New York hay Philadelphia, và hoàn toàn coi thường những lời đe dọa của chúng ta. Những chú nhỏ không thể làm gì chúng ta được. Nhưng, khi những công ty lớn thấy chúng ta là vật chướng ngại giữa họ và số lãi, thì họ sẽ không từ bất cứ một cố gắng nào, để đưa chúng ta ra pháp luật. 

Mọi người im bặt, nét mặt sa sầm xuống. Từ trước đến giờ họ vẫn cảm thấy họ có uy lực đến mức không ai dám khiêu khích họ, và họ cho rằng họ vững như thành đồng. ý kiến của môn huynh đã làm dựng chân lông những con người bất trị nhất. 

Diễn giả nói tiếp: 

- Vì vậy, ý kiến của tôi là, chúng ta nên nới bớt tay đối với các chủ nhỏ. Ngày nào mà họ bắt buộc phải trốn chạy đi hết, thì ngày ấy quyền lực của Hội sẽ bị tan vỡ. 

Không phải sự thật nào cũng nên nói ra. Khi môn huynh Morris ngồi xuống, những tiếng kêu giận dữ đã nổi lên. McGinty đứng dậy, vừng trán bừng bừng. 

- Này môn huynh Morris, anh từ trước đến nay vẫn là người chuyên nói những điều gở dại. Chừng nào mà tất cả hội viên trong chi nhánh vẫn sát cánh với nhau, thì không có một thế lực nào làm hại đến chúng ta, những công ty lớn cũng sẽ cảm thấy được là trả tiền cho chúng ta sẽ đơn giản hơn là chọi với chúng ta. Và rồi họ cũng sẽ làm theo như các công ty nhỏ thôi. Còn bây giờ, thưa các môn huynh... 

McGinty bỏ cái mũ nhung đen và tấm đai xuống. 

- ... Chi hội chúng ta đã bàn xong mọi công việc tối nay, chúng ta chỉ còn một việc nhỏ nữa cần phải nói trước lúc chia tay. Nhưng bây giờ đã đến lúc chúng ta nghỉ xả hơi giải khát một chút và vui hát với nhau, như anh em trong một nhà. 

McMurdo có một giọng hát nam cao rất hay, anh hát bài "Em Mary, anh ngồi dưới dàn nho" và bài "Trên con sông lớn" và hốt hết các tình cảm của khán giả. Ai cũng đoán rằng rồi đây anh ta sẽ tiến bước lên những chức vụ cao nhất trong hội. Nhưng muốn làm một Người Tự Do trong cái hội này, cũng đòi hỏi phải có một vài đức tính khác nữa, McMurdo đã hiểu ra được điều đó trước khi buổi họp tối hôm ấy kết thúc. Chai rượu whisky đã được truyền tay đi mấy lần. Các chàng trai mặt đỏ như gấc, đã chín mùi để có thể làm bất cứ một việc gì. Ông trưởng toán tiếp tục: 

- Các cậu ơi, trong thành phố có một người đang cần một bài học. Đó là lão James Stanger của tờ báo Herald, gần đây hắn lại bắt đầu há cái mồm to tướng ra để chống lại chúng ta. 

Một tiếng rì rào đồng tình đáp lại, pha lẫn đâu đó là một vài câu chửi thề thô tục. McGinty rút ở trong túi áo ra một mẩu nhật trình và đọc 

"Pháp luật và Trật tự. 

Sự khủng bố đang ngự trị trong vùng than và sắt. Mười hai năm đã trôi qua từ khi xảy ra những vụ ám sát đầu tiên chứng tỏ có sự hiện diện của một tổ chức tội ác trong vùng chúng ta. Từ ngày đó đến nay, những vụ án mạng không một lúc nào ngừng và bây giờ đã lên đến một quy mô làm cho chúng ta trở thành một mối ô nhục của thế giới văn minh. Một tình trạng khủng bố và vô chính phủ sẽ được thiết lập dưới bóng thiêng liêng của lá cờ tự do hay sao? Người ta biết rõ những tên cầm đầu. Chúng đã hoạt động công khai trước mắt mọi người. Chúng ta sẽ còn phải chịu đựng tình trạng này bao nhiêu lâu nữa. Chúng ta sẽ sống...". 

Ông trưởng toán vứt mảnh báo xuống bàn. 

- Thôi đọc cái thứ văn chương này như thế là đủ rồi. Đó, nó nói về chúng ta như vậy đó. Câu hỏi tôi muốn đặt ra cho các bạn là: "Chúng ta sẽ nói gì với nó." 

Hàng tá tiếng thét hung dữ nổi lên: 

- Giết mẹ nó đi! 

Môn huynh Morris, cái người có bộ mặt hiền lành đó lại đứng lên, cãi lại: 

- Tôi đã nói với các môn huynh rằng: bàn tay chúng ta đập quá nặng xuống thung lũng này, và cũng chẳng còn lâu nữa sẽ đến cái ngày mà tất cả công dân trong vùng họp nhau lại để đè bẹp chúng ta. James là một ông già. ông ta được người trong thành phố và trong vùng kính trọng. Nếu các anh giết người này, thì cả nước sẽ náo động, cho đến khi chúng ta bị tiêu diệt hết mới thôi. 

McGinty rống lên: 

- Chúng tiêu diệt chúng ta bằng cách nào, thưa ngài Thỏ đế. Bằng cảnh sát chăng? Coi nào, một nửa số cảnh sát ăn lương của chúng ta, nửa kia thì sợ chúng ta như sợ cọp. Bằng tòa án chăng? Chúng ta đã thử nhiều lần rồi đó, hỏi có đi đến đâu không? 

Môn huynh Morris đáp lại: 

- Có một quan tòa tên là Lynch có thể tuyên án. 

- Tôi chỉ cần giơ một ngón tay lên, là có thể đưa về đây 200 người để dọn sạch thành phố này từ đầu đến cuối - McGinty nói 

Rồi bỗng ông ta chồm người về phía trước, vầng trán nhăn lại một cách dữ tợn, nói dằn từng tiếng: 

- Nghe đây, môn huynh Morris, tôi theo dõi anh từ lâu rồi. Bản thân anh không có một chút can đảm nào, nhưng anh lại cứ cố gắng phá hoại lòng can đảm ở người khác. Môn huynh Morris, khi nào mà tên anh được ghi trên chương trình nghị sự, thì ngày ấy sẽ là một ngày không tốt cho anh. 

Morris mặt nhợt nhạt, ngã ngồi xuống ghế, hai đầu gối nhũn ra như bông. Ông chìa một bàn tay run rẩy ra cầm lấy ly rượu uống cạn một hơi trước khi trả lời: 

- Thưa thầy tôn kính, tôi xin thầy thứ lỗi cho. Tôi xin tất cả các môn huynh thứ lỗi cho, nếu như tôi đã quá lời. Tôi là một hội viên trung thành và trung thực, tất cả các môn huynh đều biết chính vì sợ một biến cố có thể xảy ra, nên tôi mới phát biểu ý kiến như vậy. Nhưng tôi tin tưởng ở sự phán xét sáng suốt của thầy tôn kính hơn là tin tưởng ở sự nhận thức của tôi... Tôi xin hứa là từ giờ trở đi, tôi sẽ không bao giờ dám làm phật ý thầy nữa. 

Những nếp nhăn trên trán ngài trưởng toán dãn ra. 

- Được rồi, môn huynh Morris, tôi sẽ buồn nếu phải giảng cho anh một bài học, nhưng chừng nào mà tôi còn giữ chức vụ, thì chúng ta sẽ giữ vững sự thống nhất trong chi nhánh về lời nói và việc làm. Và bây giờ, hỡi các chàng trai... 

Ông trưởng toán nhìn một vòng khắp mặt những người đứng xung quanh. 

- Nếu James lãnh đủ những gì mà hắn đáng phải nhận, thì chúng ta sẽ bị phiền nhiều. Những thằng nhà báo kết với nhau lắm đấy. Nếu James bị hạ, tất cả các báo chí ở Hoa Kỳ sẽ đòi cảnh sát và quân đội can thiệp. Vậy các anh chỉ nên cho hắn một lời cảnh cáo nghiêm khắc mà thôi. Môn huynh Teddy, anh có thể gánh vác việc này được không? 

- Dĩ nhiên là được ạ. - Teddy phấn khởi trả lời. 

- Anh cần bao nhiêu người? 

- Độ 6 người. Thêm 2 người nữa để giữ cửa. 

- Tôi đã hứa để cho vị môn huynh mới của chúng ta được tham dự vào trận ra quân này.- McGinty nói. 

Teddy nhìn McMurdo với một cặp mắt chứng tỏ hắn chưa tha thứ một tí gì. Hắn trả lời bằng một giọng chua như giấm: 

- Thì để anh ta đi. Công việc làm xong sớm chừng nào hay chừng ấy. 

Hội nghị chia tay nhau giữa những tiếng la, hét và những bài hát say rượu. Quầy rượu bên ngoài vẫn còn đông khách, nhiều môn huynh cũng sà vào đó. Toán đi làm nhiệm vụ thì chia nhỏ ra. Bên ngoài rét lắm. Một mảnh trăng lưỡi liềm le lói trên bầu trời giá buốt và đầy sao. Các chàng trai tụ tập trong một mảnh sân đối diện với một tòa nhà lớn, giữa hai cửa sổ sáng choang có khắc hàng chữ vàng "Vemmissa Herald". Bên trong các máy in đang chạy đều đều. 

Teddy sẵng giọng hỏi McMurdo: 

- Anh kia, đứng đấy. Anh sẽ ở dưới này canh cửa và giữ đường thông suốt lúc chúng tôi ra. Còn những người khác theo tôi. Đừng sợ gì cả. 

McMurdo cùng một người khác đứng dưới nhà. Họ nghe thấy ở tầng lầu một những tiếng thét, tiếng kêu cứu, tiếng chân người chạy, và tiếng đập phá đồ đạc. Một lát sau, một người tóc hoa râm chạy ra cầu thang. Nhưng chưa chạy xa được, thì đã bị túm lại, và cặp kính rơi xuống chân McMurdo. Một tiếng người té ngã, tiếp theo là những tiếng rên rỉ. Người đó nằm sấp, mặt úp xuống. Sáu cây gậy cùng một lúc đánh tới tấp xuống. Đánh chán một lúc sau, chúng mới ngừng tay, Teddy vẫn ra sức đánh vào đầu nạn nhân. Máu đã chảy loang lổ cả vùng tóc bạc. Teddy cúi xuống định đánh một đòn cuối cùng, McMurdo nhảy bổ lên gác, gạt nó ra. 

- Mày định giết ông ta à. Thôi! 

- Cút. Mày làm gì thế này, lùi ra. 

Nó giơ cao cây gậy lên. Nhưng McMurdo đã rút súng, hét lên: 

- Nếu mày động đến tao, tao bắn bể đầu mày ngay. Lúc nãy ông trưởng toán đã ra lệnh là không được giết ông James. 

Một đứa trong bọn chúng tán thành: 

- Anh ấy nói đúng đó. 

Người đứng gác dưới nhà gọi vọng lên: 

- Thôi nhanh lên. Các anh muốn cả phố xông ra hay sao. 

Đúng là lúc ấy ở ngoài đường đã nghe thấy nhiều tiếng người kêu gọi nhốn nháo. Bọn lưu manh chạy vội xuống và tẩu thoát ra lối cửa. Khi chúng về đến hội quán thì một vài đứa lẩn ngay vào đám khách và thì thào vào tai McGinty. Những đứa khác, trong số đó có McMurdo thì tản ra trong các ngõ hẻm để về nhà.

Chương 11

Thung lũng khủng khiếp

Sáng sớm hôm sau, khi tỉnh dậy, McMurdo thấy đầu nhức như búa bổ. Cánh tay phải nơi dấu ấn sắt nung đỏ in vào bị cháy bỏng và sưng phồng lên, anh ăn điểm tâm rất trễ và không ra khỏi nhà. Anh viết một bức thư dài cho một người bạn. Rồi anh đọc lướt qua tờ Herald. Trong mục tin giờ chót "Tòa soạn báo Herald bị tấn công. Chủ bút bị thương nặng". Theo sau là một bài tường thuật ngắn về những sự việc mà anh biết rõ hơn ai hết. Bài báo kết thúc như sau: 

" Sự việc hiện nay đang được cảnh sát tra xét. Nhưng người ta cũng không hề hy vọng có kết quả gì hơn những vụ trước đây. Một số những tên côn đồ không phải là những người xa lạ. Chúng phải bị kết tội. Những bạn hữu rất đông đảo của James sẽ hết sức vui mừng khi nghe tin, tính mạng của ông không bị đe dọa". 

Dưới bài báo, một mục tin nhỏ thông báo một đội canh gác của cảnh sát vùng mỏ được vũ trang bằng súng, từ nay sẽ bảo vệ tòa soạn. 

McMurdo ném tờ báo xuống và đang đưa một tay lên đốt thuốc, thì có tiếng gõ cửa. Bà chủ trọ vào đưa cho anh một bức thư, mà một đứa nhỏ vừa cầm đến. Thư không ký tên, viết như sau: 

"Tôi muốn nói chuyện với ông, nhưng nói ở bên ngoài nhà ông. Ông có thể gặp tôi ở cạnh cột cờ trên đồi Miller. Nếu ông đến ngay bây giờ, tôi sẽ nói cho ông hay một điều quan trọng đối với ông và tôi". 

McMurdo đọc đi đọc lại bức thư và không thể đoán được ai là tác giả. Anh chần chừ suy nghĩ rồi quyết định phải làm cho sáng tỏ vấn đề. 

Đồi Miller là một công viên ở ngay trung tâm thành phố. Mùa hè có đông người dạo chơi, nhưng mùa lạnh thì vắng ngắt. Đứng trên đồi, người ta nhìn thấy không những cả thành phố mà cả vùng thung lũng nữa. McMurdo đi theo con đường dẫn lên một quán ăn, bên cạnh quán có một cột cờ, và dưới chân cột cờ là một người đàn ông mũ đội sụp xuống tận mắt, cổ áo khoác bẻ cao lên. Khi người nay qua lại, McMurdo nhận ra môn huynh Morris. Hai người trao đổi với nhau nghi thức của Hội. 

Ông già ngập ngừng nói như người đang dò dẫm đi lần từng bước. 

- Tôi xin cảm ơn ông đã đến. 

- Tại sao ông không ký tên dưới bức thư. 

- Thưa ông. Trong cái thời buổi này, không ai biết trước được hậu quả của bất cứ một việc gì. Mà cũng không biết có thể tin cậy được vào ai. 

- Dù sao cũng có thể tin cậy được ở các môn huynh trong cùng một chi nhánh chứ. 

- Không. Không thể tin được. Dù chúng ta có nói gì, thì tất cả đều đến tai của McGinty cả. 

McMurdo nói một cách trang nghiêm: 

- Tối hôm qua, tôi thề trung thành với ngài toán trưởng. Mà hôm nay ông lại đòi hỏi tôi phản bội lời thề đó sao? 

Morris buồn rầu nói thều thào: 

- Nếu ông nhìn sự việc như vậy, thì thôi, tôi rất tiếc đã quấy rầy ông. Tình hình đã đi đến chỗ tồi tệ đến nỗi hai Người Tự Do không dám trao đổi những ý nghĩ của mình với nhau nữa. 

McMurdo cảm thấy bớt căng thẳng hơn 

- Tôi là người mới tới đây, tôi không hay biết gì hết, nếu ông tin rằng việc ông định nói với tôi là có ích lợi thì tôi đến đây chính là để nghe ông. 

Morris cay đắng tiếp theo: 

- Để rồi mách lại tất cả với McGinty. 

Nhưng McMurdo vội nói ngay: 

- Ông đánh giá tôi không đúng. Tôi trung thành với chi nhánh Hội. Tôi đã nói dứt khoát với ông như vậy, nhưng tôi sẽ là một thằng khốn nạn nếu tôi đi kể lại với một người nào khác những điều ông tâm sự với tôi, nhưng ông chớ có mong ở tôi một sự giúp đỡ hay cảm tình. 

- Tối hôm qua tôi có cảm tưởng là ông đang cố rập theo khuôn mẫu của những tên tệ hại nhất trong cái băng này. Dù ông có xấu đến đâu đi nữa, thì ông cũng vẫn là một hội viên mới, lương tâm chưa bị đanh cứng lại. Vì vậy, mà tôi muốn nói chuyện với ông. 

- Ông định nói gì với tôi? 

- Khi ông gia nhập Hội ở Chicago, và khi ông tuyên thệ giữ lòng nhân ái, trung thành thì có bao giờ ông nghĩ, rằng điều đó sẽ dẫn ông đến tội ác không? 

- Hãy giả thiết đó là tội ác. 

Morris la lên, giọng nói xúc động: 

- Hãy giả thiết à?... Mới tối hôm qua đây thôi, đánh một người già bằng tuổi bố ông, như thế có phải là tội ác không? Nếu ông cho rằng đó không phải là tội ác, thì là cái gì vậy? 

- Có người nói đó là chiến tranh. Chiến tranh giữa hai giai cấp. Một cuộc chiến tranh tốc lực, không khoan nhượng. 

- Thế khi ông xin gia nhập Hội những Người Tự Do ở Chicago, lúc đó ông có nghĩ đến cuộc chiến tranh ấy không? 

- Không, lúc đó tôi không nghĩ như thế. 

- Tôi cũng vậy, khi tôi gia nhập Hội ở Philadelphia, Hội chỉ đơn giản là một hội ái hữu tương tế, một nơi đến để gặp gỡ bạn bè. Rồi tôi nghe nói đến vùng này. Tôi dọn đến đây với dự tính cải thiện hoàn cảnh của tôi. Vợ tôi và ba con tôi cũng đi theo tôi. Tôi mở một cửa hàng bán vải ở Phố Chợ và phát đạt lên. Rồi người ta biết tôi là một hội viên Hội những Người Tự Do, thế là tôi bắt buộc phải gia nhập vào chi nhánh ở địa phương. Tôi cũng có cái dấu hiệu ô nhục này trên cánh tay, và một cái gì còn tệ hại hơn nữa in bằng sắt nung đỏ vào tim. Tôi có thể làm gì được? Tất cả những gì tôi nói ra đều bị coi như một sự phản bội. Tôi không thể chạy trốn đi khỏi nơi này. Tất cả của cải của tôi là nằm trong cửa hàng. Nếu tôi xin ra khỏi Hội, thì đó là tự ký vào bản án tử hình, rồi còn vợ và các con tôi. 

Morris úp mặt vào hai bàn tay, và cả người đều run lên trong những tiếng khóc nức nở. 

- Ông quá yếu mềm đối với trò chơi này. Hoàn toàn không phải loại người thích hợp... 

- Trước đây tôi có một lương tâm và một tôn giáo. Chúng đã biến tôi thành một tên tội phạm, tôi đã bị chỉ định vào một vụ án mạng. Nếu tôi từ chối, tôi biết cái gì sẽ chờ đợi tôi. Tôi đã tham gia vào vụ án đó. Đó là một căn nhà hẻo lánh, ở cách đây 20 dặm, ở bên kia núi. Chúng cũng đặt tôi ngoài cửa như ông đêm hôm qua. Chúng không tin tôi. Chúng xông vào nhà. Và khi trở ra, thì tay chúng đầy máu. Chúng tôi bỏ đi, nhưng đằng sau tôi có tiếng một đứa trẻ la hét: Đó là một đứa bé trai, khoảng 5 tuổi, vừa chứng kiến bố nó bị giết ngay trước mắt nó. Tôi muốn ngất đi vì khủng khiếp, nhưng tôi vẫn phải giữ nụ cười trên mội, vì nếu không thì lần sau, chúng từ nhà tôi trở ra cũng với bàn tay đầy máu. Khi biết tôi là một hội viên, vị thầy tu rút phép thông công. Đó là tình trạng tôi bây giờ. Thế mà tôi thấy ông cũng đang trượt xuống cái dốc đó. Ông có sẵn sàng trở thành một tên giết người như chúng hay không. Hay chúng ta có thể làm được một cái gì để ngăn chặn chúng. 

- Thế ông định tố cáo chăng? 

- Ai mà dám làm một việc như vậy. Chỉ nghĩ trong đầu thôi cũng đã đủ mất mạng. 

- Được. Tôi thấy ông nghĩ ngợi quá nhiều. 

- Ông hãy nhìn thung lũng này. Ông có thấy những đám mây tỏa ra từ hàng trăm ống khói đang bao phủ trên nó không? Những đám mây tội ác còn nặng nề gấp hàng trăm lần: đang bao phủ trên những người dân. Đây là thung lũng của sự khủng khiếp. 

McMurdo trả lời một cách rất thản nhiên: 

- Thôi được, để khi nào tôi thấy nhiều hơn, tôi sẽ nói cho ông biết tôi nghĩ gì. Nhưng có một điều chắc chắn là ông nên dẹp cái cửa hàng của ông đi, càng sớm càng tốt. Những điều ông nói với tôi, chỉ hai người, tôi với ông biết mà thôi. Nhưng nếu tôi nghĩ rằng ông là một người chỉ điểm... 

- Không. 

- Thế thì thôi, ta ngừng lại ở đây. Tôi tin rằng ông đã nói với tôi vì có ý tốt. Bây giờ, tôi đi về đây. 

- Xin ông cho tôi nói với ông một điều nữa trước khi ông ra về. Rất có thể là có người trông thấy chúng ta đứng đây, và người ta muốn biết chúng ta nói gì với nhau. 

- ồ! Đúng. 

- ông sẽ nói rằng tôi muốn mời ông vào làm công trong cửa hàng của tôi. 

- Và tôi đã từ chối. Thôi môn huynh Morris, thế nhé, một ngày khác ta gặp lại. 

Buổi chiều hôm đó, trong lúc McMurdo đang ngồi hút thuốc và tự lự bên cạnh lò sưởi thì cửa mở, và trong khung cửa hiện lên cái bóng to tướng cả McGinty. Hắn làm dấu hiệu chào của Hội rồi đến ngồi trước McMurdo và nhìn anh trân trân không chớp mắt. Cái nhìn đó đã được đáp lại bởi một cái nhìn khác cũng không kém. 

Một lát sau, McGinty mới nói: 

- Tôi đến đây, không phải là để thăm anh, mà đến để xác định với anh một việc. 

McMurdo tỏ vẻ rất hân hoan về việc tới thăm bất ngờ này. Anh đứng dậy, ra mở tủ lấy một chai whisky. 

- Thưa ông Hội Đồng, tôi vui mừng được đón tiếp ông. Tôi không ngờ lại có vinh dự này. 

- Cái tay thế nào? 

McMurdo nhăn mặt: 

- Tôi sẽ không thể nào quên được. Nhưng việc đó cũng đáng ghi nhớ lắm. 

- Đúng. Thật đáng ghi nhớ đối với những người trung thành, những người hết lòng với Hội. Sáng nay anh nói gì với Morris. 

Câu hỏi đã được đặt ra một cách hết sức đột ngột cho nên phải trả lời ngay. McMurdo phá lên cười ngặt ngẽo. 

- Morris không biết rằng tôi có thể làm ăn ở đây, ngay trong nhà này thôi. Mà cũng không nên để cho hắn biết, vì tôi thấy hắn thắc mắc nhiều quá. Nhưng hắn là một lão già tốt bụng. Hắn tưởng tôi không có công ăn việc làm, nên muốn mời tôi về làm công trong cửa hàng bán vải. 

- ồ, ra thế đấy. 

- Vâng. 

- Thế anh đã từ chối chứ. 

- Dĩ nhiên. Tôi có thể kiếm được 10 lần hơn thế nữa với 4 giờ làm việc. 

- Đúng thế. Nhưng tôi là anh, tôi sẽ không đi lại với Morris. 

- Sao thế? 

- Bởi vì tôi bảo anh là không nên đến, giải thích thế là đủ rồi. 

- Có lẽ đối với phần đông những người khác thì đủ đấy, nhưng đối với tôi thì chưa đủ đâu. Nếu ông là một người biết người biết của, thì ông phải hiểu điều đó. 

McGinty như nhìn đóng đinh vào mặt McMurdo, bàn tay hắn bóp chặt ly rượu. Nhưng rồi hắn lại bật cười. 

- Đúng, anh không phải là một loại người bình thường. Anh muốn biết lý do tại sao không nên đi lại với Morris phải không? 

Được. Thế Morris có nói gì chống lại chi Hội không? 

- Không. 

- Có nói gì chống lại tôi không? 

- Không. 

- à, vậy là hắn không tin anh, hắn không phải là một người trung thành. Chúng tôi biết rõ hắn, và vẫn theo dõi hắn để chờ đến lúc nào đó sẽ cho hắn một bài học xứng đáng. Trong đàn cừu, không thể để một con cừu ghẻ lở như vậy được. Nếu anh đi lại với một tên phản bội, thì chúng tôi có thể nghĩ rằng anh cũng là một tên phản bội. Anh thấy không? 

- Tôi không thể nào gắn bó với hắn được, vì tôi không thích loại người như hắn. Còn cái chữ phản bội ông vừa gắn cho tôi nếu một người khác nói như vậy thì anh ta sẽ không đến một lần thứ hai nữa đâu. 

McGinty uống cạn ly rượu: 

- Đủ rồi đó. Tôi đến đây để cho anh một lời khuyên. Anh đã nghe lời khuyên đó rồi. Thế là xong. 

- Tôi muốn biết, ông làm cách nào mà biết được rằng tôi đã nói chuyện với Morris. 

McGinty mỉm cười: 

- Đừng bao giờ quên rằng, cuối cùng rồi tôi cũng sẽ biết tất cả mọi việc. Thôi, đến giờ rồi, và... 

Vừa lúc McGinty đứng lên định đi thì hai cánh cửa bị đẩy mạnh, bật tung ra, và ba cái đầu đội mũ lưỡi trai của cảnh sát, chăm chăm nhìn hai người. McMurdo vùng đứng dậy, định rút súng ra, nhưng hai khẩu đã chĩa thẳng vào anh. Anh thả tay xuống. Một người mặc binh phục bước vào. Đại uý Marvin ngúc ngắc cái đầu và mỉm cười nhìn McMurdo. 

- Tôi vẫn nghĩ rằng thế nào rồi ngài cũng giở trò mà! Ngài lưu manh McMurdo. Thôi lấy mũ đội vào, rồi đi theo tôi. 

McGinty can thiệp: 

- Đại uý sẽ phải trả giá đắt về cái trò bông đùa này. Sao ông dám tự tiện xông vào nhà người ta để dọa nạt những người lương thiện. 

- Ông Hội đồng, ông không dính gì đến chuyện này. Chúng tôi chỉ có chuyện đối với tên McMurdo này thôi. 

- Đây là một người bạn của tôi, và tôi bảo lãnh cho anh ta về những hành vi của anh. 

- Theo tất cả những điều người ta nói về ông, thì rồi một ngày nào đó, chính ông, ông cũng sẽ phải trả lời trước pháp luật... Tên này là một thằng lưu manh trước khi đến đây. Hiện nay nó cũng vẫn là một thằng lưu manh. Thượng sĩ (???), hãy nhắm súng vào nó, trong khi tôi tước vũ khí của nó. 

McMurdo lạnh lùng nói: 

- Đây, súng của tôi đây. 

- Trát bắt người của ông đâu. Tôi xin thề là ông sẽ biết tay tôi. - McGinty đe dọa. 

- Ông cứ hành động. 

- Tôi bị buộc tội gì? - McMurdo hỏi. 

- Dính líu vào vụ hành hung ở tòa soạn báo Herald. 

McGinty vừa cười vừa nói. 

- Người này tối hôm qua ở trong quán rượu của tôi. Anh ta đánh bài đến nửa đêm mới ra về. Tôi có cả tá người làm chứng có thể xác nhận việc này. 

- Đó là việc của ông. Ngày mai ông sẽ trình bày trước tòa. McMurdo, đi thôi. 

McGinty cố thu xếp để nói riêng với McMurdo mấy câu trước khi anh bị dẫn đi. 

- Thế còn cái?... 

McGinty giơ một ngón tay cái lên để ám chỉ cái máy dập tiền. McMurdo đã giấu kỹ nó dưới sàn nhà nên trả lời. 

- Yên trí. 

- Chúng ta sẽ sớm gặp nhau thôi. Tôi đi tìm thầy cãi. Chúng sẽ không giữ được anh lâu đâu. 

Đại uý Marvin xen vào: 

- Thượng sĩ (???), ông hãy canh gác kỹ tên tù này, và cho phép ông bắn bỏ nếu nó định giở trò gì ra, tôi đi khám buồng của nó. 

Người sĩ quan không tìm thấy cái máy làm bạc giả. Khi ở trên lầu xuống, anh ra lệnh dẫn McMurdo về đồn. Trời đã tối, gió thổi lạnh lẽo, đường xá vắng tanh. Chỉ có mổ vài người hiếu kỳ đi theo, và được bóng tối làm cho bạo dạn hơn, đã văng tục chửi thề tên tù đang bị dẫn đi. 

- Hãy đánh chết cái thằng "Tiên phong" này đi! Đánh chết đi! 

Họ cười đùa và nói khôi hài khi thấy cả đám bước vào trong đồn cảnh sát, Sau khi bị hỏi cung chiếu lệ, McMurdo bị dẫn tới một phòng giam. Anh gặp lại ở đây tên Teddy và ba tên tội phạm khác. Nhưng ngay ở trong bức thành trì của luật pháp này, bàn tay dài ngoằng của những Người Tự Do cũng vẫn vươn tới được. Buổi tối hôm đó, một người cai ngục mang rơm vào để chúng rải xuống sàn nhà ngủ cho ấm. Chúng moi từ bó rơm ra hai chai rượu, mấy cái ly và một cỗ bài. Chúng đã qua một đêm vui vẻ, không cảm thấy có một chút nào lo sợ đối với vụ xử án ngày hôm sau. 

Tại toà, trước những chứng cớ đưa ra, vị quan tòa đành chịu không thể tuyên án. Những người thợ nhà in công nhận rằng ánh sáng lúc đó nhấp nhem. Bản thân họ cũng không được tỉnh trí, nên họ ở trong tình trạng rất khó nói dứt khoát về nhận dạng những tên côn đồ... Đến khi họ bị ông luật sư hỏi vặn lại thì họ lại càng ấp úng hơn nữa. Nạn nhân cũng đã khai rằng ông ta bị tấn công quá đột ngột nên không thể xác định được một điều gì ngoài việc thấy tên đánh đầu tiên vào ông có một bộ râu mép. Ông nói thêm rằng bọn chúng chỉ là "Những Người Tiên Phong" thôi, vì ông ta không có ai khác là kẻ thù trong thành phố. Mặt khác, những lời làm chứng quả quyết của 6 công dân, trong số đó có McGinty đã chứng minh rằng những người bị buộc tội ở đây đã đánh bài tại nhà Hội quán đến tận một thời điểm sau vụ hành hung rất nhiều. 

Chúng đã được tha bổng. Đại uý Marvin và ngành cảnh sát bị khiển trách.

Chương 12

Giờ đen tối nhất

Sau phiên tòa, McMurdo càng nổi tiếng hơn. Những huynh trưởng trong chi nhánh bảo nhau: "Không ai có thể thay thế anh ta được khi có những vụ gay go". McGinty cũng công nhận rằng McMurdo là cánh tay đắc lực nhất. Hắn có cảm giác là đang nắm ở đâu đây một con chó săn cực kỳ hung ác. Tất nhiên để làm những việc lặt vặt thì hắn không thiếu những con chó con, nhưng nhìn xa trông rộng, hắn đã nhìn thấy trước được cái ngày mà hắn phải xua con chó dữ tợn này vào một con mồi xứng đáng với nó kia. Một vài môn huynh trong chi Hội, trong đó có Teddy đã đem lòng căm hờn, nhưng thầm lặng trong bụng. 

Nếu McMurdo đã chiếm được cảm tình của các bạn hữu, thì ở một nơi khác, anh lại mất hết. Bố của cô Ettie không muốn trông mặt anh nữa và cũng không cho anh bước chân vào nhà nữa. Ettie thì không từ bỏ anh được. Nhưng cô cũng tỉnh táo suy nghĩ về những hậu quả của một cuộc hôn nhân với một kẻ bị mọi người coi như một tên tội phạm. Một buổi sáng, cô quyết định đi gặp anh ta, cố gắng kéo anh ta ra khỏi những ảnh hưởng độc hại đang hút anh ta xuống vực thẳm. 

McMurdo đang ngồi trước bàn,quay lưng ra ngoài, trước mặt có một bức thư. Một ý nghĩ tinh nghịch thoáng qua đầu óc cô bé 19 tuổi này. Anh không nghe thấy cô mở cửa, nên cô nhón gót yên lặng đi đến sau lưng, nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai anh. 

Anh ta nhảy chồm lên như một con hổ, tay phải thì nắm lấy cổ cô, tay kia thì vò nát bức thư để trước mặt. Lúc đó anh mới kịp nhìn ra cô. Thế là sự ngạc nhiên và niềm vui tràn ngập đến thay sự hung bạo. Nhưng, sự hung bạo đã làm cho cô khiếp đảm phải lùi mãi đến bức tường phía sau lưng. 

McMurdo vừa lau mồ hôi trán vừa nói: 

- Em đấy à, lại đây, em yêu... 

McMurdo giang rộng hai tay ra phía trước. 

- Anh phải đền em. 

Ettie vẫn còn bàng hoàng vì nét mặt của McMurdo mà cô vừa phát hiện: Tất cả linh tính của phụ nữ đã mách bảo cho cô biết rằng đó không phải là sự sợ hãi bình thường của một người bị bất ngờ. Không, rõ ràng là sự sợ hãi của một người có tội. Cô la lên: 

- Anh làm sao thế. Tại sao anh lại sợ em đến như vậy. 

- Anh đang mải suy nghĩ về hàng trăm việc, thì em đến nhẹ nhàng quá, như những bước chân của một nàng tiên. 

- Không. Có cái gì hơn thế nữa kia. 

Một thoáng nghi ngờ xuyên qua tâm trí cô. 

- Hãy đưa cho em đọc cái thư anh đang viết đó. 

- Anh không thể đưa em đọc được. 

- Anh viết thư cho một người đàn bà khác rồi. Nếu không, tại sao anh lại không đưa cho em coi. 

- Anh chưa có vợ, anh thề trên thánh giá. 

- Thế tại sao anh không cho em coi thư. 

- Anh đã có lời thề với những người khác là sẽ không cho ai đọc bức thư đó, anh cũng không muốn phản bội những người đã tin anh, như anh không muốn phản bội em. Đây là một công việc của chi nhánh Hội, một công việc bí mật, ngay cả đối với em nữa. Và anh hoảng sợ tưởng đó là bàn tay của cảnh sát... 

Ettie tin lời McMurdo. Những chiếc hôn nồng cháy của anh đã xóa sạch hết sợ hãi và nghi ngờ. 

- Em hãy đến ngồi bên cạnh anh. Đây là một cái ngai vàng thật không xứng đáng với một nữ hoàng như em. 

- Làm sao có thể yên tâm được khi biết rằng anh đã nhập bọn với một lũ tội phạm. 

- Hãy tin rằng anh không đến nỗi xấu xa như em tưởng đâu. Bọn anh chỉ là những người đáng thương đang cố sức, the cách riêng của mình, bắt người khác phải tôn trọng những quyền lợi của mình. 

Ettie quàng hai tay vào cổ người yêu: 

- Hãy bỏ hết đi anh! Vì tình yêu, hãy bỏ hết đi! 

McMurdo ôm chặt cô vào lòng. 

- Làm sao anh có thể bỏ được, vì như thế là anh sẽ phản bội, và bỏ rơi bạn hữu. Mà dù bây giờ anh có muốn bỏ nữa cũng không thể được. Không bao giờ chi 

nhánh Hội lại để cho một hội viên rời bỏ mang theo tất cả những bí mật của Hội. 

- Em đã lo trước tất cả rồi. Ba có một ít tiền để dành được. Ba cũng ngán nơi này lắm rồi. Em sẵn sàng đi nơi khác. ở đó, chúng ta sẽ được an toàn. 

McMurdo bật cười: 

- Chi nhánh Hội có cánh tay dài lắm. Em tưởng bọn chúng không thể với tay từ đây tới Philadelphia hay New York sao? 

- Thì chúng ta đi về miền Tây, đi sang Anh, sang Đức; đi bất kỳ đâu cũng được, miễn là ra khỏi cái Thung lũng Khủng khiếp này. 

McMurdo chợt nghĩ đến môn huynh Morris. 

- Đây là lần thứ hai anh nghe nói đến cái tên Thung lũng Khủng khiếp đó. 

- Anh tưởng rằng thằng Teddy đã tha chúng ta à? Nếu nó không sợ anh, thì nó đã tiêu diệt chúng ta rồi. Mỗi lần gặp nó, chỉ cần nhìn đôi mắt hổ đói của nó, em phát run lên. 

- Nếu mà anh bắt được những lúc đó, anh sẽ dạy cho nó biết lễ phép. Nhưng em gái bé bỏng. Anh không thể đi khỏi nơi đây được. Nhưng anh sẽ tìm cách thoát khỏi những sự việc này một cách có danh dự. 

- Không có danh dự trong một việc như thế này đâu. 

- Trong vòng sáu tháng, anh sẽ tìm cách đi khỏi nơi đây mà không phải xấu hổ khi nhìn mặt người khác. 

- Sáu tháng à, chắc chắn nhé. 

- Có thể là bảy, tám tháng, nhưng tối đa, là trước một năm. 

Ettie không thể đòi hỏi thêm được. Cô ra về. Kể từ khi McMurdo xâm nhập vào đời cô, chưa bao giờ cô thấy trong lòng vui vẻ, nhẹ nhàng như hôm nay. 

McMurdo tưởng rẳng khi mình đã là một hội viên thực thụ, thì anh có thể biết được tất cả những hoạt động của Hội, nhưng chẳng bao lâu sau, anh khám phá ra rằng tổ chức này rộng lớn và phức tạp hơn một chi nhánh rất nhiều, chính McGinty cũng có nhiều chuyện không biết, vì có một vị chức sắc cao cấp hơn gọi là Uỷ nhiệm vùng đóng ở phía dưới đường xe lửa, có toàn quyền đối với nhiều chi nhánh. 

McMurdo có gặp hắn một lần. Trông hắn như một con chuột chù, dáng đi thì thậm thà thậm thụt, đôi mắt gian giảo chuyên nhìn ngang. Tên hắn là Evans Pott. Một hôm Scanlan, người bạn cùng trọ với McMurdo, nhận được mấy chữ của McGinty kèm theo một lá thư của Evans Pott. Ông "đại vương" báo cho McGinty biết rằng ông ta phái đến Vermissa hai người tên là Lawler và Andrews, với đầy đủ chỉ thị để hoạt động trong vùng. Và ông toán trưởng phải chịu trách nhiệm bố trí cho hai người đó được ăn, ở chu đáo cho đến giờ hành sự. McGinty viết thêm cho Scanlan là ông sẽ biết ơn Scanlan và McMurdo nếu hai vị này thu xếp để cho họ tới ở nhà trọ của bà quả phụ MacNamara. 

Họ đến ngay chiều hôm đó, mỗi người mang theo một cái bọc. Lawler là một người đứng tuổi, nét mặt khắc khổ, ít nói và dè dặt, có dáng của một tay đi giảng đạo rong. Andrews thì giống như một đứa trẻ mới lớn lên, mặt mũi cởi mở, vui vẻ, không khác gì một cậu học sinh đi nghỉ hè. Cả hai chỉ uống nước lã, nhưng đều là những tên giết người có hạng. Lawler đã thực hiện 17 vụ, Andrews 3 vụ. Chúng kể lại những thành tích cũ của chúng với một thứ kiêu hãnh giống như những người đã làm được nhiều việc tốt đẹp cho tập thể. Nhưng khi hỏi đến công việc chúng sắp làm, thì chúng lại tỏ ra kín đáo. 

- Chúng tôi đã được chọn đi, vì cả tôi lẫn thằng bé không ai biết uống rượu, vì thế chúng tôi sẽ không lỡ mồm lỡ miệng. Vậy các anh đừng giận chúng tôi, đó là vì phải tuân theo lệnh của ngài Uỷ nhiệm vùng. - Lawler giải thích. 

- Dĩ nhiên rồi. 

McMurdo vừa chửi thề vừa nói: 

- ở trong vùng này có gần nửa tá những đứa mà tôi sẵn sàng muốn cho đi mò giun. Không biết có phải thằng Jack Knox ở Ironhill là mục tiêu của các anh không? Tôi muốn trả giá rất đắt để được thấy nó lãnh đủ những gì mà nó đáng được nhận. 

- Không. Không phải nó đâu. 

- Hay là thằng Herman Strauss. 

- Cũng không phải nó. 

- ồ thôi, chúng tôi không thể bắt buộc các anh nói được. Nhưng mà đối với tôi nó ngứa ngáy chân tay thế nào ấy. 

Một buổi sáng, còn sớm lắm, McMurdo nghe thấy hai thằng nhón gót bước nhẹ xuống cầu thang, anh vội đánh thức Scanlan dậy và hai người nhanh chóng mặc áo. Khi họ xuống đến dưới nhà thì thấy cửa mở và hai thằng đi trước họ không xa. Họ liền thận trọng bước theo. 

Nhà trọ ở vùng gần ven thành phố, đi một lát thì đến một ngã tư ở giữa nông thôn. Có ba người đã chờ sẵn ở đó. Lawler và Andrews đứng nói chuyện với chúng một lát, rồi cả bọn lại kéo nhau đi. Từ ở chỗ đó có nhiều con đường dẫn đến những mỏ khác nhau. Bọn chúng đi vào con đường dẫn đến đồi Crow là một cái mỏ lớn của Josiah H. Dunn, người New England. 

Bây giờ trời đã sáng rõ. Thợ thuyền đang vội vã đi làm, hoặc đi lẻ tẻ hoặc nhập lại thành từng nhóm. McMurdo và Scanlan đi lẫn vào với họ. Sương mù dày đặc bao phủ tất cả. Một hồi còi xé tan bầu không khí: Đó là hiệu lệnh 10 phút trước khi những thang máy đưa thợ xuống hầm mỏ. 

Khi họ đến khoảng trống trước miệng giếng xuống mỏ thì ở đó đã có khoảng một trăm thợ mỏ đang đứng đợi, vừa đập chân vừa thổi các ngón tay cho đỡ rét. Bọn hung thủ đứng tụm lại trong bóng tối của nhà máy. Scanlan và McMurdo trèo lên một đống than xỉ để có thể nhìn rõ quang cảnh. Họ nhận ra kỹ sư mỏ tên là Menzies, từ trong nhà máy đi ra thổi một tiếng còi để ra lệnh cho thang máy xuống hầm. Vừa lúc đó, một người trẻ tuổi, cao lêu nghêu, tiến lại gần miệng giếng. Anh ta trông thấy đám người đứng im lặng cạnh nhà máy, mũ đội sụp xuống thấp, cổ áo thì kéo lên che kín cả mặt. Anh ta hướng về phía những người lạ mặt khả nghi và lớn tiếng hỏi: 

- Các anh là ai? Tại sao lại vào đây làm gì? 

Không có tiếng trả lời. Chỉ có thằng Andrews tiến lên một bước và bắn một phát vào bụng người đó. Cả trăm người thợ như vừa bị tê liệt hẳn. Người giám đốc mỏ ấn hai tay vào vết thương ở bụng và gập đôi người lại, chuệnh choạng định chạy đi, nhưng một phát đạn nữa làm anh ta ngã nghiêng xuống, tay chân quờ quạng trên mặt đất. Kỹ sư Menzies hét lên một tiếng, tay cầm mỏ lết xông vào, nhưng anh cũng lãnh hai viên đạn và chết ngay dưới chân chúng. Lúc đó đám đông thợ mỏ mới rùng rùng lên như một đợt sóng. Một vài người xông về phía bọn sát nhân. Nhưng hai khẩu súng bắn chỉ thiên như trút đạn phía trên đầu họ. Thế là mọi người đứng sững lại, rồi lùi dần và bắt đầu tản ra. Một số chạy thẳng hẳn về nhà. Khi những người dũng cảm nhất tập hợp lại được và chạy tới nhà máy, thì bọn sát nhân đã biến mất trong đám sương mù. 

Scanlan là McMurdo trở về nhà trọ. Scanlan có vẻ buồn rầu, McMurdo im lặng, suy nghĩ. 

Tối hôm đó có một buổi ăn mừng lớn ở chi nhánh Hội. Không những ăn mừng vụ ám sát người giám đốc và người kĩ sư mỏ ở đồi Crow, mà còn để ăn mừng một thắng lợi khác mà chi nhánh đã thực hiện được ở một nơi xa đây. Bây giờ mới rõ là Evans Pott cử hai người xuống Vermissa, thì đồng thời hắn cũng đòi hỏi Vermissa phải bí mật cử ba người lên trên hắn để thủ tiêu William Hales của Stake Royal, một trong những người chủ mẫu mực. Anh ta chỉ có cái tội là cứ thích có năng suất trong công việc nên đã đuổi một số tên sâu rượu và lười biếng, mà những tên này lại là hội viên của Hội. 

Bản án vừa được thi hành xong. Teddy hãnh diện ngồi chễm chệ trên ghế danh dự bên phải ông toán trưởng. Bộ mặt đỏ dừ, hai con mắt đỏ sọc máu, chứng tỏ hắn vừa qua một đêm trắng và uống nhiều rượu. Chúng đã rình nạn nhân trong khi người này đi về nhà vào buổi tối. Chúng phục trên đỉnh một quả đồi, đường đi khấp khểnh nên bắt buộc ngựa phải đi bước một. Nạn nhân mặc nhiều áo quá để chống rét nên không rút súng ra kịp. Cái xác đẫm máu được vứt lại trong đống tuyết để làm một lời cảnh cáo cho tất cả các ông chủ có trái tim sắt đá. 

Đó là một ngày trọng đại cho tất cả những Người Tiên Phong. Bóng tối đè nặng hơn nữa lên thung lũng khủng khiếp. McGinty đã nghĩ đến một trận tấn công mới chống những kẻ thù của ông ta. Đêm hôm đó, khi mọi người đã say sưa chia tay nhau ra về, ông ta ngóac McMurdo lại và đưa anh ta vào căn phòng gặp nhau lần đầu tiên. 

- Hãy nghe đây. Bây giờ tôi mới có một công việc xứng đáng với anh. 

- Tôi hãnh diện vì đã được ông chọn lựa. 

- Chúng ta không thể nào yên tâm chừng nào vụ Chester Wilcox chưa được giải quyết xong. 

- Nó là ai vậy? Nó ở đâu? 

McGinty bỏ điếu xì gà xuống, xé ở sổ tay ra một tờ giấy trên có vẽ một bản đồ sơ lược. 

- Nó là thằng đốc công chính của công ty thép Dike, thượng sĩ cũ, đã có đi đánh trận về. Chúng ta đã hai lần định hạ nó, nhưng không được may mắn và Jim đã bị nó hạ lại. Đây nhà nó đây, ở chơ vơ một mình tại ngã tư của công ty. Không nên đi đến đó ban ngày, nó có vũ khí, bắn nhanh và bắn giỏi. Nhưng ban đêm... Tóm lại, nó ở đó với vợ nó, ba đứa con và một người đầy tớ gái. Nếu đặt một gói chất nổ ở cửa nhà nó với một cái ngòi, thì xong hết mọi chuyện. 

- Người này đã làm gì? 

- Nó đã giết Jim Camaway 

- Tại sao nó lại giết Jim? 

- Một buổi tối Jim đi vào vùng nhà nó, thế là nó giết thôi. 

- ở đó có hai người đàn bà và ba đứa trẻ con. Có cần phải cho tất cả bọn này bay lên trời không? 

- Tất nhiên rồi. 

- Nhưng sợ con nó có tội gì đâu? 

- Ahh xì hơi rồi hay sao? 

- Hãy bình tĩnh, ông hội đồng. Tôi đã từ chối đâu. 

- Thế anh có thi hành mệnh lệnh không? 

- Tất nhiên. 

- Bao giờ? 

- Xin ông cho tôi một hay hai đêm, để tôi dò địa điểm cái nhà nó và lập một kế hoạch... 

McGinty chìa tay ra bắt tay McMurdo. 

- Tôi trông cậy ở anh. Các đòn cuối cùng này sẽ bắt chúng nó phải quỳ gối hết. 

Ngay đêm hôm đó, một mình McMurdo đến đấy để nghiên cứu địa hình. Mãi sáng bạch hôm sau mới trở về. Ngày hôm sau, anh hội ý với hai tên trợ thủ. Ngày hôm sau nữa, cả ba người tụ họp ở ngoài thành phố, mang theo đầy đủ thứ vũ khí. Một đứa mang theo một cái bọc đựng đầy thuốc nổ. Khoảng 2 giờ sáng thì cả bọn đến trước nhà Wilcox. Hôm ấy gió to lắm. Mây bay như chạy dưới một mảnh trăng hạ huyền. Chúng đã được báo trước là phải đề phòng những con chó giữ nhà nên chúng rất thận trọng tiến lại gần. Nhưng không thấy có tiếng động nào khác ngoài tiếng gió rít và tiếng cây lá xào xạc. McMurdo ghé sát tai vào cửa nghe, không thấy động tĩnh gì bên trong. Anh đặt gói thuốc nổ vào sát cửa, lấy dao thọc một lỗ và buộc ngòi vào. Sau khi anh đã châm ngòi, cả bọn vắt chân lên cổ mà chạy, được một quãng, vừa nằm rạp xuống một cái rãnh, thì nghe thấy tiếng nổ long trời lở đất, và căn nhà nọ sụp xuống. Công việc đã hoàn thành. Chưa bao giờ một sự thành công trọn vẹn như vậy được ghi nhận trong lịch sử biên niên của Hội. Nhưng than ôi bọc thuốc nổ chỉ làm sụp đổ một căn nhà rỗng không, và người thượng sĩ già vẫn tiếp tục giữ vững trật tự trong các mỏ của công ty Dike. 

McMurdo tỏ vẻ bực tức lắm. Anh nói: 

- Tôi thề là tôi sẽ hạ được nó. 

Toàn thể chi nhánh bỏ phiếu biểu quyết tín nhiệm anh. Rồi vụ Wilcox cũng nguôi ngoai đi. Nhưng vài tuần lễ sau, khi báo chí đăng tin, Wilcox đã phải đấu súng trong một vụ phục kích, thì ai cũng hiểu rằng đó là McMurdo quyết tâm hoàn thành một công việc còn đang dang dở. 

Đó! Hội những Người Tự Do đã lũng đoạn cả một vùng bằng sự khủng bố. Bóng tối trùm kín thung lũng khủng khiếp. 

Rồi mùa xuân đến với những bông hoa tươi thắm và tiếng hát của các con suối. Thiên nhiên bị bàn tay nặng nề của mùa đông giam giữ nay đã trỗi dậy. Nhưng không ở đâu có một tia hy vọng nào, cho những người đàn ông và đàn bà bị khống chế trong sự khủng bố. Trên đầu họ chưa bao giờ có những đám mây dày đặc sự đen tối và hãi hùng như vào đầu mùa hạ năm 1875 này.

Chương 13

Nguy hiểm

McMurdo đã được tôn lên địa vị của một phụ tá trong Hội. Anh đã trở thành tối cần thiết trong các buổi họp của Hội. Nhưng nếu anh càng nổi tiếng giữa đám Người Tự Do bao nhiêu, thì khi ra ngoài đường phố ở Vermissa, anh càng phải chịu đựng những cái nhìn có ngụ nhiều ý nghĩa bấy nhiêu. Mặc dù vẫn khiếp sợ nhưng những người dân ở Vermissa bây giờ đã bắt đầu hợp đoàn với nhau. Chi nhánh đã biết tin là... có những cuộc họp bí mật được triệu tập tại tòa soạn báo Herald, và những người bảo vệ pháp luật đã được phát đầy đủ súng ống. McGinty và cả bọn đều coi thường những tin tức này. Chúng cậy đông người, gan lỳ và võ trang tốt. Địch thủ của chúng thì tản mạn, lại không có thế lực. Đó là ý kiến đánh 

giá của McGinty, của McMurdo và của những tay cứng khác trong chi nhánh. 

Một buổi tối thứ bảy tháng năm, theo thường lệ, chi nhánh họp ở nhà hội quán, McMurdo đang sửa soạn sắp đi, thì môn huynh Morris chợt đến tìm anh với vầng trán lo âu, đôi mắt hoảng hốt. 

- Tôi có thể nói chuyện tự do với ông được không, ông McMurdo? 

- Dĩ nhiên. 

- Tôi không quên rằng đã có lần tôi trút cả bầu tâm sự với ông, và ông đã giữ kín cho tôi. 

- Nhưng sự yên lặng của tôi không có nghĩa là một sự tán thành những ý nghĩ của ông. 

- Tôi biết. Nhưng tôi có một điều bí mật ở đây... 

Anh ta để một tay lên ngực. 

- Một bí mật ngày đêm gặm nhấm tim tôi. Nếu tôi nói nó ra, thì chắc chắn nó sẽ gây thêm một vụ án mạng nữa. Nhưng nếu không nói, thì nó sẽ là hồi chuông báo tử cho tất cả chúng ta. 

Morris đang run bần bật. McMurdo rót một ly rượu whisky và đưa cho ông ta. 

- Đây là một liều thuốc cho ông. Bây giờ, ông hãy nói vì sao ông lo sợ đến thế. 

- Tôi nói một câu thôi: Có một thám tử đang dò theo dấu vết của chúng ta. 

McMurdo nhìn ông ta, kinh ngạc: 

- Thì ở đây lúc nào mà chẳng nhung nhúc những cảnh sát và thám tử. 

- Không. Đây không phải là một người ở trong vùng này. Ông có nghe nói đến những người của Pinkerton không? 

- Cái tên này có gợi cho tôi một cái gì đấy. 

- Đó! Đây không phải là một tổ chức muốn làm được việc, muốn có kết quả kia. Nếu một người của Pinkerton đang theo dõi công việc của chúng ta, thì chúng ta chắc chắn bị tiêu diệt mất. 

- Tất nhiên, 

- Nhưng tôi không phải là kẻ chỉ điểm người cần bị giết. Ôi! Tôi biết làm gì bây giờ? 

Morris đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, dáng điệu cực kỳ bối rối. Nhưng những lời nói của anh ta đã làm McMurdo xúc động. 

Anh nắm lấy hai vai Morris và lắc mạnh. 

- Không làm được gì cả, nếu cứ than khóc như một mụ già. Trước hết phải biết thằng đó là ai? Nó hiện ở đâu? Bằng cách nào ông lại biết nó có ở đây. Tại sao ông lại đến tìm tôi? 

- Tôi đã nói với ông rằng trước khi đến đây, tôi đã có một cửa hàng ở miền đông, tại đó tôi có nhiều bạn tốt. Một người trong bọn họ hiện làm việc ở sở Bưu điện. Ngày hôm qua tôi nhận được thư của anh ta. Đây cái đoạn ở trên đầu trang này. Ông có thể đọc được. 

"... ở vùng anh, bọn Tiên Phong hoạt động như thế nào? Chúng tôi đọc báo thấy nói nhiều về chúng nó lắm. Giữa chúng ta với nhau, tôi trông đợi tin tức của anh. Năm tập thể lớn và hai công ty hỏa xa đã đứng ra gánh vác việc này, và họ làm đến nơi đến chốn lắm. Họ muốn có những kết quả thực sự. Theo lệnh của họ, đích thân Pinkerton chỉ huy chiến dịch này và đã phái đến đó, thám tử giỏi nhất của ông ấy là Birdy Edwards. Người ta chờ đợi là ngày một ngày hai, cái bọc mủ ung nhọt ấy sẽ được chọc thủng ra". 

- Bây giờ mời ông đọc thêm phần tái bút. 

"Tất nhiên, tôi biết được những điều nói trên là vì công việc của tôi, cho nên anh đừng cho ai biết nhé. Họ dùng một thứ mật mã riêng, mà anh có thể đoán cả ngày cũng không hiểu gì hết". 

McMurdo ngồi lặng đi một lát, tay vẫn không rời bức thư. Màn sương mù thế là vừa tan hết, để lộ ra một vực thẳm trước mặt anh. 

- Có ai biết việc này nữa không? 

- Tôi không nói với ai cả. 

- Người bạn của ông có viết thư cho ai nữa không? 

- Anh ta có biết một hai người ở đây. 

- Hội viên của Hội à? 

- Hình như thế. 

- Người bạn ông có thể cho họ biết nhân dạng của tên Birdy này, và nhờ đó chúng ta sẽ có thể tìm ra nó. 

- Có thể lắm. Nhưng tôi tin rằng người bạn của tôi không biết mặt tên Birdy đó. Anh ta chỉ cho tôi biết những tin tức đã thu lượm được trong công việc của anh ta thôi. 

McMurdo nhảy dựng lên: 

- Tôi nắm được nó rồi. Chúng ta may mắn quá. Chúng ta sẽ thanh toán nó trước khi nó có thể làm hại được chúng ta. Này, ông Morris, ông có để tôi đảm nhiệm việc này không? 

- Tất nhiên rồi. 

- Ông yên tâm, cứ để một mình tôi xử trí. Tôi coi như cái thư này gửi đến cho chính tôi. Như thế đối với ông đã được chưa? 

- Tôi không dám đòi hỏi gì thêm nữa. 

- Thế thôi, chúng ta ngừng ở đây nhé. Bây giờ tôi xuống hội quán để họp đây, và rồi chúng ta sẽ cho tên Pinkerton này có dịp than khóc. 

- Ông không giết người thám tử đấy chứ? 

- Ông càng biết ít càng tốt. Xin ông đừng hỏi tôi nữa. 

Morris lắc đầu buồn bã: 

- Tôi có cảm giác là tay tôi đã vấy máu. 

McMurdo đáp lại với một nụ cười ghê rợn: 

- Tự vệ không phải là ám sát. Hoặc nó, hoặc chúng ta. 

McMurdo tuy mồm có vẻ cứng cỏi, nhưng những hành động của anh lại tỏ ra là anh thấy sự đe dọa rất nghiêm trọng. Trước khi ra khỏi nhà, anh đã hủy hết những giấy tờ gì có thể buộc tội anh. Nhưng hình như anh vẫn còn lo sợ một cái gì đó, nên trên đường đến hội quán, anh đã dừng lại trước cửa nhà trọ của cụ Shafter, khi anh gõ khẽ vào cửa thì Ettie chạy ra. Nhìn dáng điệu trang nghiêm 

của anh, cô biết rằng một mối nguy hiểm đang gần kề. 

- Có gì thế, anh đang bị nguy hiểm à? 

- Chưa nguy hiểm lắm. Nhưng chúng ta nên đi khỏi nơi đây trước khi nó trở thành tệ hại hơn. 

- Đi hả anh? 

- Chiều hôm nay anh nhận được một số tin tức, và thấy nhiều nguy hiểm đang chờ anh. 

- Cảnh sát à? 

- Không, anh đã dính líu quá sâu vào rồi, và bây giờ anh muốn rút ra khỏi đây không chậm trễ nữa. 

- Đó là con đường cứu nguy cho anh đó. 

Không một lời nói, Ettie đặt bàn tay mình vào tay người yêu. 

- Tốt lắm. Nhiều sự việc sắp xảy ra dồn dập trong vùng thung lũng này. Nhiều người trong bọn anh phải tự lo lấy thân mình. Nếu anh ra đi, em phải đi ngay với anh. 

- Em sẽ theo anh sau. 

- Không, em đi ngay cùng với anh. Anh có quen biết một bà con rất tốt, anh sẽ đưa em đến đó để chờ ngày làm lễ cưới. 

- Vâng, em sẽ đi. 

McMurdo đi tới nơi hội họp. Đến nơi, anh được chào đón một cách vui vẻ. Phòng họp đầy nghẹt người. Qua màn khói thuốc lá, anh trông thấy cái bờm tóc đen của ông trưởng toán, bộ mặt độc ác của thằng Teddy, cái tướng diều hâu của thư ký Harraway, cùng khoảng một tá những chức sắc cao cấp của chi nhánh. Anh mỉm cười khi nghĩ rằng tất cả bọn này rồi sẽ phải cuống cuồng lên vì cái tin anh đem đến. 

Ông chủ toạ cuộc họp tuyên bố: 

- Chúng tôi vui mừng thấy anh đến họp, môn huynh McMurdo. Chúng tôi đang bàn về một vụ rất khó phân giải. 

Một người ngồi kế bên nói cho anh hay: 

- Chuyện Lander và Egan đấy mà. Cả hai đều đòi tiền thưởng. Ai biết được đứa nào đã bắn viên đạn chủ yếu. 

McMurdo đứng dậy và giang tay ra. Nét mặt bất thường của anh chiếm hết sự chú ý của mọi người. Cả phòng họp im phăng phắc, McMurdo trịnh trọng nói: 

- Thưa sư huynh tôn kính, yêu cầu được thông báo khẩn cấp. 

McGinty nhắc lại: 

- Môn huynh McMurdo yêu cầu được thông báo khẩn cấp. Theo nội qui của chúng ta, thì đây là một quyền ưu tiên phải tôn trọng. Bây giờ môn huynh, chúng tôi nghe anh nói. 

McMurdo rút cái thư ở trong túi ra. 

- Thưa sư huynh tôn kính, và thưa các môn huynh, hôm nay tôi mang đến đây những tin tức không tốt. Tin đó là những công ty có quyền lực nhất, và giàu có nhất của xứ này đã họp nhau lại để tiêu diệt chúng ta. Ngay lúc này đây, một thám tử của Pinkerton, một người mang tên là Birdy Edwards đang hoạt động trong thung lũng, thu nhập những chứng cớ có thể tiêu diệt hết chúng ta. Đó là tình trạng mà tôi yêu cầu bàn bạc khẩn cấp. 

Cả hội nghị ngồi chết lặng đi, không ai nói câu nào. Một lát sau, chủ toạ mới lên tiếng: 

- Anh có chứng cớ gì không? 

- Chứng cớ ở trong bức thư này... 

Anh đọc đoạn thư cần thiết, rồi nói tiếp: 

- Đây là một vấn đề danh dự của tôi. Tôi không thể cho biết chi tiết hơn về bức thơ này, cũng không thể để cho mọi người chuyền tay nhau cùng đọc được. 

Một môn huynh đã có tuổi đứng dậy, nói: 

- Thưa ông chủ toạ, xin cho phép tôi được phát biểu. Tôi đã có nghe nói đến cái tên Birdy. Nó là phụ tá đắc lực của Pinkerton. 

- ở đây ai biết mặt nó? - McGinty hỏi. 

- Có. Tôi biết. - McMurdo trả lời. 

Một tiếng rì rầm ngạc nhiên truyền đi trong phòng họp. McMurdo tiếp tục nói với một nụ cười đắc thắng trên môi. 

- Nếu chúng ta hành động khôn ngoan và nhanh chóng thì chúng ta có thể thoát ra được bước nguy hiểm này. Nếu tôi có được sự tin tưởng và sự hỗ trỡ của chi nhánh thì các vị không có gì phải lo sợ nhiều nữa. 

- Chúng tôi có gì phải lo sợ, Nó biết gì về công việc của chúng ta. 

- Thưa ông hội đồng, ông có thể nói được như vậy nếu như ai cũng thanh liêm như ông. Nhưng người này có khả năng sử dụng 

hàng triệu bạc của bọn tư bản. Vậy ông thử nghĩ xem, ở trong tất cả các chi nhánh, há lại không có một môn huynh nào sa ngã 

trước bạc tiền? Tên thám tử này rồi ra cũng sẽ biết hết những bí mật của chúng ta. Chỉ có một môn thuốc để trị bệnh này mà thôi. 

Teddy nói dằn từng tiếng: 

- Không để cho nó ra khỏi thung lũng. 

McMurdo tán thành nhiệt liệt: 

- Hoan hô, môn huynh Teddy, anh đã nói rất đúng. 

- Bây giờ làm sao nhận ra nó? McMurdo nói một cách trang nghiêm: 

- Thưa ông trưởng toán. Đây là một vấn đề sinh tử, quá quan trọng để có thể đem ra bàn bạc rộng rãi. Tôi không nghi ngờ bất cứ một người nào trong chúng ta ở đây, nhưng nếu một câu nói chơi lọt đến tai người ấy, thì chúng ta không có một hy vọng nào khống chế được nó. Tôi muốn xin chi nhánh bầu ra một uỷ ban tín nhiệm. Tôi xin đề cử chính ông, ông chủ tọa, môn huynh Teddy và 5 môn huynh khác nữa. Lúc đo trước uỷ ban, tôi sẽ nói rõ về những gì tôi biết và các biện pháp nên theo. 

Đề nghị của McMurdo được chấp nhận ngay, và một uỷ ban được chỉ định. Ngoài McGinty và Teddy, còn có Harraway, Carter, Hổ Cormac và hai anh em Willaby. 

Buổi họp hàng tuần chấm dứt sớm hơn mọi lần trong sự buồn rầu, lo sợ. Lần đầu tiên thấy hiện lên trên bầu trời trong sáng của họ những đám mây đen của pháp luật. 

Khi mọi người đã ra về hết, trước mặt uỷ ban tín nhiệm, McGinty ra lệnh: 

- McMurdo, nói đi! 

Bảy người trong uỷ ban ngồi như những tượng đá lạnh lùng trong các ghế bành. 

- Birdy đang ở đây nhưng với cái tên khác. Nó lấy tên là Steve Wilson và hiện ở Hobson s Patch. 

- Sao anh biết? 

- Tôi ngẫu nhiên có nói chuyện với nó một lần mà không biết. Hồi đó tôi không nghĩ gì nhiều về Pinkerton, và có lẽ cũng đã quên hẳn cái tên ấy đi nếu không nhận được bức thư này. Nhưng bây giờ thì tôi chắc chắn là nó rồi. Tôi đã gặp nó hôm thứ tư vừa rồi trên chuyến tàu. Nó nói nó là ký giả của tờ New York. Tôi tin là thật. Nó muốn biết về những Người Tiên Phong, nói là để viết gửi về tòa soạn. Tất nhiên là tôi không hở ra một chuyện gì. Nó nói với tôi rằng: "Tôi sẽ trả tiền, mà trả giá rất đắt để có những chi tiết có thể làm vui lòng ông chủ báo của tôi". Tôi đã bịa ra cho nó nghe những điều mà tôi cho là nó sẽ thích thú. Sau đó nó đưa cho tôi một tờ giấy bạc 20 dollars và nói rằng: "Anh sẽ có mười lần hơn thế này, nếu anh tìm được cho tôi những thứ gì mà tôi cần". 

- Thế anh đã kể những gì với hắn 

- Tất cả những gì đến trong đầu tôi lúc ấy. 

- Tại sao anh biết nó không phải là nhà báo? 

- Khi xe chạy đến Hobson s Patch thì nó xuống tàu. Tôi cũng xuống. Cùng ngẫu nhiên khi tôi bước vào phòng bưu điện thì thấy nó từ trong đó đi ra. Người đánh điện tín nói với tôi rằng: "Coi này, tôi nghĩ có lẽ phải bắt hắn trả gấp đôi mới đúng". - Tôi trả lời "Tôi cũng nghĩ như ông". Thì ra nó đã viết được cả một tờ điện tín những câu đọc lên không ai hiểu gì cả. Người đánh điện nói ngày nào hắn cũng đánh đi những bức điện tối mò như thế. 

- Anh nói có lý. Thế bây giờ chúng ta phải làm gì? - McGinty nói. 

- Tại sao không xuống dưới đó mà thanh toán mẹ nó đi? - Một người hỏi. 

- Mà sớm chừng nào càng tốt chừng ấy. 

- Tôi sẽ đi ngay tức khắc nếu tôi biết nó ở đâu. Nó ở Hobson s Patch, nhưng không biết ở nhà nào. Nhưng tôi đã có sẵn một cái bẫy này, nếu các ông chịu nghe tôi... 

- Bẫy thế nào? 

- Ngày mai tôi sẽ đi Hobson s Patch. Tôi sẽ nhờ người đánh điện tín chỉ dẫn cho, và tôi sẽ tìm ra nó. Tôi sẽ nói với nó rằng tôi cũng là một hội viên của Hội những Người Tự Do, và muốn bán những bí mật của chi nhánh, nó sẽ vồ ngay. Tôi sẽ nói rằng các tài liệu hiện để ở nhà tôi, nhưng nếu ban ngày mà đến đấy lấy, thì thật là điên. Tôi sẽ hẹn đến 10 giờ đêm. Chắc nó đến thôi. 

- Rồi sao nữa? 

- Sau đó thì phần các ông muốn xử trí thế nào thì tuỳ. "Widow MacNamara s" là một căn nhà hẻo lánh. Bà chủ trọ của tôi là người tin cẩn được. Nếu nó hứa chắc với tôi là nó sẽ đến, thì tôi sẽ báo cho các ông biết và tôi muốn vào khoảng 9 giờ tối mai cả 7 ông phải có mặt ở nhà tôi. Nó sẽ sập bẫy. 

McGinty kết luận: 

- Đồng ý về tất cả kế hoạch. Chín giờ tối mai, chúng tôi sẽ đến nhà. Anh chỉ việc đóng cửa sau lưng nó, còn để mặc chúng tôi.

Chương 14

Birdy sập bẫy

Căn nhà nơi McMurdo ở trọ nằm ở ven thành phố và xa đuờng cái đi lại. Trong những trường hợp khác, bọn chủ mưu chỉ việc đua con mồi đến đấy, rồi trút đạn lên nạn nhân. Nhưng đây chính là một trường hợp ngoại lệ: còn cần phải rõ người kia đã biết những gì, làm cách nào mà biết, và đã truyền đi nhung tin tức gì. Nếu người thám tử đã làm xong công việc thu thập tài liệu, thì cần phải biết ai đã phản bội để xử trí tên ấy. 

McMurdo đi xuống Hobson s Patch như đã dự định trược. Buổi sáng hôm đó, hình như cảnh sát lại đặc biệt chú ý đến anh ta thì phải. Đại uý Marvin định tới nói chuyện với anh, khi anh đứng đợi tàu ở sân ga. Anh quay mặt đi không thèm trả lời. Đến chiều thì McMurdo trở về và tìm ngay McGinty ở nhà hội quán để báo tin: 

- Nó sẽ đến. 

- Hoan hô! 

Ông trưởng toán vỗ tay reo mừng: 

- Cậu có tin là nó biết gì nhiều lắm không? 

McMurdo gật đầu buồn bã: 

- Nó đã ở đây ít nhất là 6 tuần rồi. Nếu nó cứ vung tiền ra trong suốt thời gian vừa qua, thì nó cung đã thu đuợc không ít tin tức và đã gửi những tin ấy đi rồi. 

McGinty la lên: 

- Nhưng trong chi nhánh, mọi người đều vững vàng như thành đồng luỹ thép cả. Chỉ có cái thằng Morris ấy thôi. Nếu có một người nào đó đi tố gíac chúng ta thì chính là nó. Tôi muốn cho hai đứa đến nhà nó ngay trước tối hôm nay để cho nó một trận và đồng thời cung tra hỏi nó xem có biết thêm gì không. 

- Tôi không giấu ông là tôi cung có thương hại lão ấy, mà nếu lão ấy bị làm sao thì tôi cung có phần áy náy. Mặc dù lão có những cách nhìn không giống ông và tôi, nhưng tôi có cảm gíac lão không phải là một tên phản bội. Nhưng thôi, tôi đâu có dám can thiệp chuyện giữa ông và lão. 

- Tôi sẽ thanh toán nó 

- Nhưng xin ông hãy đợi cho đến ngày mai, không nên để cho người ta chú ý quá nhiều đến chúng ta trước khi giải quyết xong vụ Pinkerton. 

- Anh nói có lý. Và chúng ta sẽ bắt thằng Birdy phải khai rõ là nó đã nhận đuợc những tin tức từ người nào. Dù chúng ta có phải moi tim ra để bắt nó nói, cung phải làm cho kỳ đuợc. Nó có cảm thấy là bị gài bẫy không? 

- Tôi đã tóm đuợc điểm yếu của nó. Nó sẵn sàng đi từ đây đến New York, nếu có đuợc những tài liệu tốt. Tôi đã cầm tiền của nó... 

McMurdo rút ở trong túi ra một xấp giấy dollars 

- Nó sẽ đua cho tôi bấy nhiêu nữa khi nào nó thấy những tài liệu của tôi. 

- Tài liệu nào? 

- Tất nhiên tôi làm gì có tài tiệu. Nhưng tôi đã cho nó giỏ nước dãi ra khi nói đến những nội quy, những sổ thanh toán, những đon xin nhập hội. Hắn tin chắc rằng, trước khi đi khỏi nơi đây, hắn sẽ mò đuợc đến tận đáy của vấn đề. 

McGinty thì thầm với một giọng dễ sợ: 

-ừ, nó cung không nghi sai đâu. Thế nó có hỏi anh tại sao không mang những tài liệu đó đi theo luôn không? 

- Ai dại gì mang theo trong mình từng ấy tài liệu? Ngay mới buổi sáng hôm nay, đại uý Marvin còn muốn nói chuyện với tôi ở ngoài sân ga nữa kìa. 

- ừ, người ta cung đã có thuật lại với tôi như vậy. Tôi sợ rằng không khéo rồi cuối cùng chỉ có một mình anh sẽ phải gánh chịu tất cả sức nặng của vụ này. Sau khi thủ tiêu nó trong một cái giếng cu, chúng ta không thể gạt bỏ đuợc hai sự kiện là nó thì ở Hobson s Patch, mà hôm nay chính anh cung đi Hobson s Patch. 

- Ban đêm thì sẽ không có một ai trông thấy nó vào nhà tôi, và tôi cuộc rằng sẽ không ai trông thấy nó ở trong nhà tôi đi ra. Bây giờ xin ông Hội đồng nghe kỹ tôi nói đây. Các ông sẽ đến đây đúng giờ đã quy định. Mười giờ thì nó đến. Nó sẽ gõ cửa ba lần. Chính tôi sẽ ra mở cửa cho nó vào. Tôi đi đằng sau nó và sẽ khóa cửa lại. Thế là xong. 

-ừ, dễ như trở bàn tay thôi. 

- Nhưng chuyện tiếp theo mới là cần suy nghi. Nó có vu khí, ai cấm nó không biết cảnh giác và đề phòng. Ông hãy cứ tưởng tượng rằng tôi đua nó vào một căn buồng có 7 người đàn ông ngồi chờ nó, trong khi nó tưởng chỉ có một mình tôi thôi. Thế là sẽ nổ ra một cuộc đọ súng, và có thể có những cái không may xảy đến cho một vài anh em chúng ta. 

- Đúng. 

- Và tiếng súng có thể làm cho tất cả bọn cớm trong thành phố này đổ xô đến đây. 

- Anh nói có lý lắm. 

- Cho nên tôi định xếp đặt mọi việc như thế này. Các ông sẽ ngồi tất cả ở căn phòng lớn. Tôi mở cửa ngoài đuờng, đua nó vào buồng khách nhỏ bên cạnh cửa. Tôi sẽ để nó ngồi đó trong khi tôi đi vào lấy tài liệu. Tôi sẽ trở lại với một vài tài liệu giả. Trong khi nó đọc, tôi sẽ nhảy vào ôm chặt tay nó. Các ông sẽ nghe thấy tiếng tôi gọi và chạy ùa sang, xin các ông chạy nhanh nhanh cho một chút. 

- Kế hoạch thế tốt đấy. Chi nhánh Hội ta sẽ mang nợ anh nhiều lắm đấy. 

- Thưa ông Hội đồng, di nhên tôi không còn là một tên lính mới tò te nữa. 

Khi về đến nhà, anh bắt đầu vào việc chuẩn bị cho cái buối tối ghê gớm này. Trước hết anh đem khẩu súng ra lau chùi, bôi mỡ và lắp đạn. Rồi anh kiểm tra lại căn buồng nơi sẽ giương bẫy. Cuối cùng anh kể hết mọi chuyện cho Scanlan nghe và nói thêm: 

- Này Scanlan, đêm nay anh nên đi ngủ ở nơi khác. Trước sáng ngày mai, nơi đây sẽ có nhiều máu đấy. 

- Tôi sợ chi nhánh đánh giá tôi không tốt, chứ tôi rất muốn theo lời khuyên của anh. 

Bọn sát nhân đến đúng giờ đã định. Nhìn bề ngoài chúng có vẻ là những công dân ăn mặc đẹp đẽ, sạch sẽ. Nhưng nếu người nào biết xem tướng mặt, thì sẽ hiểu rằng Birdy ít có khả năng sống sót đuợc. Chủ nhà có để chai rượu whisky trên bàn, nên chúng vội vã nốc rượu ngay cho ấm bụng. Teddy và Cormac đã chuếnh choáng say rồi. Rượu hun đốt thêm sự độc ác tự nhiên của chúng. Cormac để tay gần cái bếp lò sưởi đã đuợc đốt lên. Nó nói: 

- Nóng thế này, đuợc đấy. 

Thằng Teddy hiểu ngay ý nghia của câu nói đó, gật gù tán thành: 

- ừ, đuợc, đem trói nó vào đây thì sự thật nào cung phải khạc ra hết. 

McMurdo nói: 

- Đừng lo. Chúng ta sẽ bắt nó phải khai. 

McMurdo, con người này có lẽ có những dây thần kinh bằng thép hay sao ấy. Tất cả công việc khó khăn nguy hiểm này là đặt trên hai vai anh ta, mà anh ta vẫn bình tinh, như không có gì xảy ra cả. 

Tên toán trưởng nói với McMurdo: 

- Một mình anh sẽ thu xếp riêng với nó. Chừng nào mà tay anh còn chưa nắm đuợc vào cổ nó, thì nó sẽ chưa biết sự có mặt của chúng tôi. 

- Có thể nó sẽ không đến. Có thể nó cảm thấy có có nguy hiểm. - Tên thư ký nói. 

- Thế nào nó cung đến. Nó ao ước đuợc đến đây cung không kém gì các ông ao ước đuợc thấy nó. Này, nghe xem. - McMurdo đáp. 

Chúng sững người lại, đứng im lặng như tượng đá. Ba tiếng gõ cửa vang lên ở cánh cửa ngoài đuờng. McMurdo giơ một tay lên để căn dặn phải thận trọng. Cả bảy cặp mắt cùng lóng lánh chung một ánh đắc thắng, cả bảy bàn tay đều đặt lên vu khí. 

- Không đuợc gây tiếng động nữa. - McMurdo thì thầm. 

Rồi anh bước ra khỏi phòng và đóng cửa kỹ lưỡng. Bọn sát nhân căng tai nghe ngóng. Chúng nhận thấy bước chân của McMurdo đi trên hành lang, rồi thấy anh mở cửa ngoài. Có vài lời chào đón trao đổi qua lại, sau đó chúng nghe thấy tiếng bước chân của một người đi rụt rè trong nhà, và một giọng nói mà chúng không quen biết. Một lát sau, một cánh cửa đập mạnh và có tiếng chìa khóa xoay. Thế là xong, con mồi đã sập bẫy. Hổ Cormac phá lên cười ghê rợn. McGinty vừa bắt nó im, vừa thì thào: 

- Đồ ngu, mày làm hỏng việc bây giờ. 

ở buồng bên, nghe có tiếng người nói chuyện, nói rất lâu. Rồi cửa mở. McMurdo hiện ra, một ngón tay để lên môi ra hiệu. 

Anh ta đi đến một đầu bàn và nhìn kỹ từng bộ mặt. Một sự thay đổi rất tế nhị xuất hiện ở anh ta, gương mặt lạnh lùng, rắn đanh lại, đôi mắt sâu đậm, long lanh sau cặp kính. Rõ ràng anh ta đã lột xác thành một người có uy quyền đối với người khác. Bọn sát nhân ngắm anh không chớp mắt, nhưng anh vẫn không nói gì. Chỉ nhìn chúng bằng cặp mắt rất kỳ lạ. 

Cuối cùng McGinty phải lên tiếng: 

- Thế nào. Thằng Birdy có ở đây không? 

McMurdo chậm rãi trả lời, dằn từng tiếng: 

- Có. Tao là Birdy đây. 

Muời giây đồng hồ trôi qua, sự im lặng sâu đậm đến nỗi người ta tưởng căn phòng này không có người. Bảy bộ mặt xám ngoét, quay nhìn về hướng con người đang chế ngự chúng. Trong tiếng kính bị bể vỡ, rèm cửa bị rứt tung và qua mỗi khung cửa sổ, những họng súng chia vào. McGinty rống lên như một con gấu bị thương, nhảy bổ ra phía cửa. Hắn chạm ngay vào mui súng và đôi mắt xanh của đại uý Marvin. Tên trưởng toán lùi lại, ngã ngồi xuống ghế. 

McMurdo gật đầu tán thành: 

- Ông Hội đồng, ông ngồi chỗ ấy tốt đấy. Còn mày, Teddy, nếu mày không cất tay ra khỏi khẩu súng thì mày sẽ không đuợc gặp mặt đao phủ đâu. Bỏ tay ra. Đó. Thế đuợc đấy. Có bốn mươi tay súng chung quanh ngôi nhà này. Marvin, hãy tước hết súng của chúng nó đi. 

Bọn giết người bị tước hết vu khí. Kinh ngạc, sợ hãi, buồn rầu, chúng vẫn ngồi cả chung quanh bàn. 

Người giương bẫy dõng dạc nói lớn: 

- Tao muốn nói với chúng mày một vài lời trước khi chia tay. Tao chính là Birdy của tổ chức Pinkerton đây, tao đến đây là để tiêu diệt chúng mày. Tao đã phải chơi một ván bài khó khăn và nguy hiểm. 

Bảy bộ mặt tái nhợt, sững sờ. Bảy cặp mắt trong đó cháy bỏng một mối căm hờn không bao giờ có thể dập tắt đuợc. 

- Chúng mày tưởng là ván bài chưa kết thúc phải không? Nó kết thúc rồi: ở đây bảy đứa và ngay đêm nay, 60 tay chân của chúng mày sẽ ngủ trong nhà tù. Khi đảm nhiệm vụ án này, tao không tin rằng trên đời này lại có cái hội như hội của chúng mày. Tao tưởng đó chủ là những chuyện phóng đại của một số nhà báo. Người ta nói với tao rằng tao sẽ phải chạm trán với những "Người Tự Do" vì thế tao đã đi đến Chicago đến trở thành một Người Tự Do. ở đó, tao thực sự tin rằng đúng là những chuyện phóng đại của báo chí, vì tao thấy Hội không có gì xấu xa, mà trái lại là đằng khác. Vì phải làm cho trọn vẹn cuộc điều tra, nên tao đã đến thung lung này. Khi đến đây tao mới hiểu rằng tao đã lầm. Cho nên tao đã ở lại đây để nghiên cứu vấn đề cho cặn kẽ. 

Tao chưa hề giết một người nào ở Chicago, tao chưa bao giờ làm bạc giả. Những đồng dollars tao đua cho chúng mày tiêu, nói là bạc giả nhưng chính là bạc thật. Thế là tao đuợc nhập vào cái chi nhánh địa ngục của chúng mày và cùng chúng mày bàn bạc những chuyện giết người. Cái đêm hôm tao đuợc nhập vào chi nhánh, chúng mày đi hành hung cụ James. Tao không báo kịp cho cụ biết. Nhưng tao đã giữ tay mày lại, Teddy, khi mày định giết ông cụ. Tao không cứu đuợc anh bạn Dunn và Menzies,vì tao không rõ sự việc, nhưng tao sẽ treo cổ những tên giết hai người đó. Tao đã báo tin cho Wilcox, để có thể cùng vợ và các con ông ta thoát đi khỏi, trước khi tao đặt thuốc nổ. Cung có nhiều vụ tao không thể báo trước cho nạn nhân biết. Nhưng rõ ràng đã có biết bao nhiêu lần những người mà chúng mày định ám hại đã trốn thoát. 

McGinty rít lên giữa hai hàm răng: 

- Thằng phản bội. 

- McGinty! Mày gọi tao là "phản bội", nhưng sẽ có hàng nghìn người khác gọi tao là "người tốt", đã xuống tận địa ngục để cứu họ lên, trong cái địa ngục này, tao cố sống cho đến khi nắm đuợc tất cả từng đứa một, từng bí mật trong lòng bàn tay này. Nhưng một bức thư đã khiến tao sắp bị lộ. Vì vậy tao phải hành động ngay tức khắc. Tao không còn nói gì thêm với chúng mày nữa. Thôi, bây giờ ông Marvin, ông hãy đem giam bọn này lại, Chuyện còn lại ta sẽ làm sau. 

Scanlan đuợc giao một chiếc phong bì dán kín mà anh ta có nhiệm vụ phải đua đến địa chỉ của Ettie. Sáng hôm sau, một cô gái trẻ đẹp và một người đàn ông khăn áo trùm kín người bước lên một chuyến tàu đặc biệt của công ty hỏa xa dành riêng cho họ, mở hết tốc lực rời khỏi một vùng đất đầy nguy hiểm. Mười ngày sau, họ làm lễ cưới ở Chicago. Cụ Shafter là người làm chứng trong cuộc hôn nhân đó. 

Vụ xử án những "Người Tiên Phong" đuợc tổ chức cực kỳ cẩn mật. Chúng cố chối cãi. Nhưng vô ích. McGinty và 8 tên phụ tá, chết trên đoạn đầu đài, 50 đứa khác ngồi tù. Thắng lợi của Birdy trọn vẹn và hoàn toàn. 

Nhưng thằng Teddy không phải lên đoạn đầu đài. Anh em thằng Willabys cung thế. Và một vài thằng hung thần khác cung thoát. Chúng bị giam giữ trong 10 năm, rồi chúng tìm đuợc tự do. Ngày chúng ra khỏi tù, Birdy biết rằng ông bắt đầu gặp khó khăn. 

Chúng ám sát hai lần, nhưng ông đều thoát. Ông phải rời Chicago, đổi tên để sinh sống ở California. Tại đây, Ettie từ trần. Một lần khác ông lại suýt bị giết. Mang một cái tên mới là Douglas, ông làm việc trong một hầm mỏ với một người hùn vốn tên là Barker, và trở nên giàu có. Có người báo rằng: bọn khát máu lại đánh hoi thấy dấu vết của ông rồi. Thế là ông vội vã xuống tàu trở về Anh, đổi tên là John Douglas, lấy vợ và sống như một nhà quý phái nông thôn tại vùng Sussex rồi sau đó tại lâu đài cổ này xảy ra câu chuyện như ta đã thấy.

Tác phẩm bậc thầy

Trước tòa đại hình, Douglas đuợc trắng án vì đã hành động trong hoàn cảnh tự vệ. Holmes viết thư cho bà vợ ông ta: "Bằng mọi giá, bà hãy đua ông ấy đi khỏi nước Anh. ở đây có những tổ chức còn mạnh hơn gấp bội những tổ chức mà ông đã thoát đuợc. Không thể nào có an toàn cho ông ở Anh quốc". 

Hai tháng đã trôi qua. Vụ án chìm dần vào di vãng. Một buổi sáng, có một bức thư khó hiểu đuợc nhét vào hòm thư của chúng tôi. 

"Ông Holmes đáng thuong của tôi ơi! Ôi... ôi..."[1] 

Bức thư nặc danh chỉ có mấy chữ đó thôi. Tôi bật cười. Holmes thì trở nên nghiêm trang: 

- Quỷ quái thật. 

Và anh ta ngồi lặng đi, vầng trán cau lại. 

Tối khuya hôm đó, bà Hudson bước vào, nói rằng có một vị khách muốn đuợc gặp ông Holmes về một vấn đề quan trọng. 

Người khách đuợc mời vào ngay: Đó là ông Barker. Với gương mặt căng thẳng, đôi mắt hoảng hốt, ông nói: 

- Tôi mang đến những tin tức xấu. 

- Đó là những điều tôi đang sợ đây. - Holmes nói 

- Ông nhận đuợc một bức điện? 

- Thư của người nhận đuợc bức điện đó. 

- Chuyện của ông Douglas. Người ta nói với tôi rằng tên thật của ông ta là Birdy. Hai ông bà ấy đã xuống tàu Panama đi Nam Phi từ ba tuần lễ rồi. Tối hôm qua, tàu đỗ lại ở Cape Town . Sáng nay, tôi nhận đuợc bức điện này của bà Douglas: "Jack mất tích dưới biển trong một trận bão ngoài khơi St. Helena. Không ai biết tai nạn xảy ra như thế nào." 

- Thì ra như vậy đó. Việc bố trí và dàn cảnh thật tuyệt vời. Holmes nói. 

- Ông không tin đây là một tai nạn? 

- Phải. 

- Thế thì Douglas đã bị mưu sát? 

- Phải. 

- Tôi cung nghi thế. Bọn Người Tiên Phong. 

Holmes ngắt lời: 

- Không phải đâu. Đây là một bàn tay bậc thầy kia. Đây không còn là một khẩu súng săn cua nòng, một khẩu súng lục. Mà là tác phẩm vi đại của một bậc thầy. Trông những nét bút tuyệt vời này, tôi có thể nhận ra ngay đây là tác phẩm của Moriarty. Vụ án mạng này không phải là sản phẩm của Mỹ quốc mà chính là của London đó. 

- Vì sao vậy? 

- Vì nó đã đuợc thực hiện bởi một người "bất bại". Một bộ óc lớn và một tổ chức khổng lồ dùng để thủ tiêu một người mà thôi. Khác nào dùng búa tạ để đập một hạt dẻ. Một sự phung phí năng lực quá cỡ, nhưng hạt dẻ đã bị đập nát bét. 

- Nhưng bậc thầy ấy sao lại dính líu vào vụ này đuợc. 

- Thằng Porlock chính là một trong những tay chân của bậc thầy đó, Nguời Mỹ rất khôn ngoan. Khi họ dự định đánh một trận ở Anh, thì họ nghi ngay đến việc hợp tác với một chuyên gia lớn về tội ác ở Anh. 

Mới đầu Moriarty chỉ huy động bộ máy của hắn để tìm ra Douglas. Rồi hắn chỉ dẫn cho hung thủ cách tiến hành công việc như thế nào cho tốt. Nhưng Teddy đi từ Mỹ sang đây đã thất bại. Bấy giờ Moriarty tự đứng ra đảm nhận việc này, và đã giải quyết nó bằng một tác phẩm bậc thầy. 

Barker đùng đùng nổi giận, nắm chặt bàn tay, tự đấm vào trán. 

- Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận điều đó u? Sẽ không có ai lên đến ngang tầm của tên ma vương này sao? 

Holmes chậm rãi trả lời: 

- Không. Tôi không nói rằng tên ma vương ấy sẽ không thể bị đánh bại. Nhưng ông phải để cho chúng tôi có thời gian... vâng, phải có thời gian. 

Chúng tôi ngồi lặng im. Đôi mắt tiên tri của Holmes vẫn như đang muốn chọc thủng bức màn tương lai.

VỤ ÁN Ở "BA ĐẦU HỒI"

Tôi cho rằng không có cuộc phiêu lưu nào của chúng tôi mà khởi sự một cách đột ngột và hồi hộp như vụ án ở biệt thự Ba đầu hồi. Tôi không gặp Homles đã ba ngày và tôi không biết anh ấy đang chuyển các hoạt động về hướng nào. Nhưng sáng hôm đó anh nói dữ lắm. Anh vừa mời tôi ngồi vào cái ghế bành cạnh lò sưởi, thì khách đến.  

Cửa mở, một gã da đen đồ sộ ào ào bước vào. Hắn mặc một bộ đồ màu xám, cà vạt màu da cam, khuôn mặt to, mũi xẹp, đôi mắt đầy ác cảm. Hắn lần lượt nhìn tôi, Homles.  

- Trong hai ông, ông nào là ông Homles?  

Homles giơ cao cái tẩu và uể oải cười nhoẻn miệng.  

- Ủa, ông đấy hả?  

Người khách bước nhẹ đi để vòng qua cái bàn.  

- Này, ông Homles, ông hãy đặt chân vào nơi khác thì hơn. Hãy để cho người ta tự giải quyết lấy nhưng công việc của họ, ông hiểu chưa?  

- Hãy tiếp tục nói nữa đi, tôi thích nghe ông nói.  

- Ờ, thích nghe hả? Tôi cho ông dựng tóc gáy thì sẽ bớt thích. Trước đây tôi đã hạ được một vài người cùng loại với ông. Và họ không hề thích được tôi chăm sóc. Nhìn cái này đây, ông Homles!  

Người khách đưa một quả đấm đồ sộ dưới mũi bạn tôi. Homles quan sát quả đấm đó kỹ, với vẻ chăm chú thật sự.  

- Ông bẩm sinh như vậy, hay là ông để nó mọc lên từ từ ?  

Có lẽ vì sự lạnh lùng như băng giá của Homles hoặc vì tiếng động nhẹ do tôi gây ra khi cầm cái que cời than lên, người khách hạ giọng.  

- Đó, tôi đã thẳng thắn cảnh cáo cho ông rồi đó. Tôi có một người bạn thân ở bên phía Harrow... Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ? Và anh ta không muốn ông làm kỳ đà cản mũi. Hiểu chưa? Ông không phải là luật pháp. Tôi cũng không phải là luật pháp. Nhưng nếu ông xen vào thì tôi cũng xen vào. Đừng quên điều đó.  

- Chính tôi cũng muốn gặp anh mấy bữa rày. Nhưng tôi không mời anh ngồi vì tôi không ưa cái mùi của anh. Anh có phải là Steve Dixie, biệt danh Máy nghiền không?  

- Chính là tôi. Tôi sẽ nhét cái tên đó vào họng ông, nếu ông làm gấy chân tôi.  

- Thật là uổng nếu ông mất một cái quyến rũ nhất của ông - Homles trả lời và nhìn vào đôi chân đồ sộ của khách. - Nhưng tôi hiện đang nghĩ tới cái chết của anh thanh niên Perkins trước cửa của bar Holborn... Ủa? Anh về à?  

Gã đen đua nhảy dựng lên rồi thối lui, gương mặt xám xịt.  

- Tôi không có thì giờ nghe ông lải nhải. Tôi dính dáng gì với thằng Perkins đó, ông Homles? Vào lúc nó bị rắc rồi, tôi đang tập dượt tại câu lạc bộ Bull Ring ở Birmingham.  

- Anh sẽ nói rõ chuyện đó với cảnh sát - Homles nới - Phần tôi, tôi đã theo dõi cả anh lẫn Barney Stockdale.  

- Ồ, ông Homles?...  

- Thôi đủ rồi! Đi đi! Khi tôi cần tới anh, tôi sẽ báo.  

- Xin kiếu! Tôi hy vọng ông không phiền về sự thăm viếng của tôi?  

- Cái đó còn tùy. Anh vui lòng cho biết ai sai anh tới?  

- Ồ, đâu có gì là bí mật, chính cái anh chàng mà ông vừa nêu tên đó.  

- Và ai ra lệnh cho nó sai anh tới đây?  

- Tôi thề là tôi không biết chi cả. Anh ấy chỉ bảo tôi: "Steve, anh hãy đi gặp ông Homles và báo cho ông ấy biết rằng tính mạng ông ấy sẽ lâm nguy nếu ông ấy đứng về phía Harrow".  

Vừa dứt lời, người khách hối hả chạy ra khỏi phòng. Homles cười thầm, rảy tro ra khỏi cái tẩu.  

- Tôi mừng là anh khỏi phải chê cái đầu quắn đó, anh Watson. Tuy nhiên nó chỉ là một người vô hại, có bắp thịt nhưng ngu dốt. Nó thuộc băng của Spencer John và có dự phần trong vài vụ nhớp nhúa mà tôi sẽ nhìn tới khi có thời gian. Trưởng trực tiếp của nó là Barney thì ma lanh hơn. Đó là một băng chuyên về tấn công, dọa nạt. Điều tôi muốn biết là ai đã chi tiền để giựt dây trong vụ này.  

- Nhưng tại sao hắn lại dọa anh?  

- Vì vụ Harrow Weald.  

- Tôi không biết tí gì về vụ đó.  

- Đây là bức thư của bà Maberley. Chúng ta sẽ điện thoại báo trước rồi đến đó ngay.  

Tôi đọc lá thư.  

"Thưa ông Holmes,  

Mấy bữa nay tôi gặp một loạt biến cố dị thường liên quan tới căn nhà này và tôi mong muốn được ông khuyên bảo. Ngày mai, tôi ở nhà suốt ngày. Xuống ga Weald, đi bộ một chút là tới. Dường như ông chồng vô vàn tiếc thương của tôi, Mortimer Maberley, từng là một trong những khách hàng của ông.  

Trân trọng  

Mary Maberley  

Biệt thự Ba đầu hồi,  

Harrow Weald"  

- Anh Watson, giờ đây, nếu anh rảnh, chúng ta đi xuống đó.  

Đó là một biệt thự bằng gỗ và gạch, cất trong đất riêng, vốn là một đồng cỏ. Ba cục u mảnh mai bên trên các cửa sổ cao biện minh cho cái tên ba đầu hồi. Đằng sau nhà, lưa thưa vài cây ngô cằn cỗi, toát ra sự nghèo nàn và thê lương. Tuy nhiên nhà đầy đủ đồ gỗ, và người đàn bà tiếp chúng tôi có vẻ là một người dễ thương, có tuổi, có học và lịch lãm.  

- Tôi nhớ ông nhà rất rõ, thưa bà! - Homles nói - Tuy nhiên lâu quá rồi nên tôi không còn nhớ là vụ việc vặt vãnh nào.  

- Có thể tên thằng Douglas, con trai tôi, quen thuộc với ông hơn?  

Homles chăm chú nhìn bà chủ nhà:  

- Chúa ơi! Bà là mẹ của Douglas Maberley ư? Tôi không quen anh ấy bao giờ. Tuy nhiên, toàn thể London đều biết tên anh ấy. Một người tuyệt diệu. Hiện giờ anh ấy ở đâu?  

- Cháu đã chết, thưa ông? Cháu được bổ nhiệm làm tùy viên sứ quán tại Roma, và chết ở đó hồi tháng rồi, vì chứng sưng phổi.  

- Xin thành thật chia buồn với bà. Tôi không ngờ anh ấy lại vắn số đến thế. Chưa bao giờ tôi biết một người yêu đời đến thế. Anh ấy sống cuồng nhiệt.  

- Quá cuồng vội, thưa ông Homles. Đó là nguyên nhân đưa đến cái chết. Ông còn nhớ cháu chớ: hào hoa, phong nhã cực kỳ. Tuy nhiên, ông không thấy cháu lúc nó u sầu, tuyệt vọng.  

- Thất tình ư?  

- Một con quỷ cái! Tuy nhiên hôm nay không phải tôi mời ông đến đây để than vãn về đứa con đáng thương ấy.  

- Thưa bà, bác sĩ Watson và tôi chờ lệnh bà.  

- Thưa ông Homles, nhiều biến cố rất dị thường đã diễn ra tại đây. Tôi dọn về nhà này được một năm, vì chủ trương ẩn dật nên tôi không quen nhiều với các láng giềng. Cách đây 3 ngày, tôi tiếp một nhân viên địa ốc. Ông ấy nói rằng một khách hàng của ông ấy rất thích căn nhà này. Nếu tôi bằng lòng thì vấn đề tiền bạc không phải là chuyện khó khăn. Tôi nhận thấy sự vận động này khá dị thường, vì xung quanh đây có biết bao nhà trống để bán hoặc cho thuê. Tuy nhiên, tôi có bị lôi cuốn bởi lời đề nghị đó. Tôi đưa ra một giá, cao hơn giá mua là 500 bảng. ông ấy không mặc cả, nhưng nói thêm rằng khách của ông thích mua luôn cả đồ gỗ và ông yêu cầu tôi ra giá. Một phần đồ gỗ đó là của gia đình để lại, rất tốt. Do đó, tôi làm tròn con số. Ông ấy chấp nhận ngay. Tôi luôn mơ được đi du lịch đó đây: lần này lời to; nhờ nó tôi sẽ có tiền sống đàng hoàng tới ngày chết.  

Hôm qua, nhân viên địa ốc đó quay lại với văn tự bán nhà làm sẵn. Tôi đưa cho luật sư của tôi là ông Sutro xem qua. Ông này nói: "Văn tự rất kỳ lạ. Bà phải thấy rằng nếu bà ký thì bà sẽ không có thể lấy ra được cái gì, kể cả các vật dụng cá nhân?"  

Khi nhân viên địa ốc quay lại vào buổi tối, tôi lưu ý ông ta về điều này, và tôi nhắc lại rằng tôi chỉ bán đồ gỗ mà thôi.  

- Không được. Giá mua gồm luôn vật dụng lặt vặt của cá nhân bà.  

- Cả quần áo và nữ trang của tôi nữa sao?  

- Chúng tôi chấp thuận cho bà linh động về các vật dụng cá nhân. Nhưng không một thứ gì lấy ra khỏi nhà mà không được kiểm trước vị khách hàng rất hào phóng của tôi. Tuy vậy, ông ấy có nhưng sở thích bệnh hoạn và lối xử sự quái dị. Đối với ông ta thì hoặc là có tất cả, hoặc là không có gì hết.  

- Như vậy thì, tôi chọn giải pháp. Không gì hết - Tôi nói với ông ta.  

Nội vụ ngừng tại đó, nhưng nó dị thường đến nỗi tôi nghĩ rằng... Một sự gián đoạn cũng quái dị lại xảy ra.  

Homles giơ tay lên cao, yêu cầu sự yên lặng.  

Rồi anh băng qua căn phòng, đột ngột mở cửa và kéo vào một người đàn bà cao lêu nghêu, da bọc xương. Bà này vùng vẫy như một con gà giò bị kéo ra khỏi chuồng.  

- Buông tôi ra? Ông làm gì thế - Mụ ấy la lên.  

- Chuyện gì vậy, Susan?  

- Thưa bà, tôi lên để hỏi các ông khách có ăn cơm trưa không, thì bị ông này vồ lấy.  

- Tôi biết chị này đứng đây hơn năm phút rồi, nhưng vì không muốn cắt ngang một bài tường thuật hấp dẫn. Chị có bị suyễn sơ sơ phải không, chị Susan. Hơi thở của chị quá to, làm sao nhận lãnh công tác loại này?  

Susan quay qua Homles với một cái nhìn u buồn, nhưng ngơ ngác.  

- Ông là ai? Ông sử dụng quyền gì mà quấy phá tôi như vậy?  

- Chỉ vì tôi muốn đặt một câu hỏi có sự hiện diện của chị. Thưa bà chủ, bà có tâm sự với ai về dự định viết thư và xin tham khảo ý kiến tôi hay không?  

- Không tâm sự với ai cả, thưa ông.  

- Ai đã bỏ cái thư đó?  

- Susan.  

- Đương nhiên rồi! Giờ đây, Susan, chị viết thư và báo trước cho ai biết về cái ý định của bà chủ mời tôi đến đây.  

- Ông nói sảng? Tôi không thông báo tin tức gì cho ai hết.  

- Nghe đây, Susan? Người bệnh suyễn thường không sống lâu. Nói láo thì sa địa ngục đó. Chị đã viết thư cho ai?  

- Susan - Bà chủ la lớn - Chị tệ lắm, chị đã phản bội tôi. Bây giờ tôi nhớ lại rằng chị có nói chuyện với ai đó tại hàng rào.  

- Chuyện riêng tư của tôi  

- Phải chăng với Barney Stockdale? - Homles hỏi.  

- Ủa, ông đã biết, sao còn hỏi?  

- Trước đây, tôi còn ngờ ngợ. Giờ đây, thì chắc chắn rồi. Này Susan, tôi sẽ biếu chị 12 bảng nếu chị tiết lộ người đứng đằng sau Barney.  

- Người ta cho tôi 1000 bảng mỗi lần. ông chỉ đề nghị có 10!  

- Một ông giàu sụ? Không phải hả? Chị cười à? Vậy là một bà rồi! Đúng rồi! Vậy chị có thể tiết lộ tên người đàn bà đó để lấy 10 bảng.  

- Phải gặp ông ở địa ngục trước đã?  

- Ồ, Susan! Chị nới gì kỳ lạ vậy.  

- Tôi đi đây. Tôi chán hết thảy mấy người. Mai tôi sẽ đến lấy va li  

Susan đi về hướng cửa.  

- Tạm biệt, Susan. Nhớ uống thuốc an thần nhé. Coi chừng đó?  

Homles nói tiếp và không còn tươi cười khi người đàn bà đã đóng mạnh cửa lại  

- Bọn họ làm việc khá nhanh: thư của bà mang dấu bưu điện 10 giờ tối. Susan thông báo ngay cho Barney, nhờ vậy Barney có thời giờ đi kiếm người chỉ huy, để nhận chỉ thị. Thưa bà, ai là chủ trước của căn nhà này?  

- Một sĩ quan hải quân hưu trí tên là Ferguson.  

- Bà có biết gì đặc biệt về ông này không  

- Thưa không.  

- Tôi nghi rằng ông ta đã chôn một cái gì tại đây. Thời đại này, khi cần giấu kho báu, người ta sử dụng két sắt tại ngân hàng. Nhưng trên trần thế mênh mông này luôn luôn có người lập dị.  

- Trước tiên, tôi nghĩ đến một kho tàng bị chôn. Tuy nhiên, tại sao lại cần đồ gỗ của bà? Bà có một bức họa của Rapheal hoặc một ấn bản đặc biệt nào về Shakespeare mà không hay biết?  

- Không, tôi chỉ có một bộ đồ trà cổ thôi!  

- Không hợp lý lắm! Tại sao chúng không công khai cái chúng muốn? Nếu chúng cần bộ ấm trà cổ thì chúng có thể đề nghị một mức giá hợp lý hơn là mua một mớ lằng nhằng. Không, tôi cho rằng có một cái gì đó bà có mà chính bà cũng không biết.  

- Tôi cũng nghĩ vậy - Tôi nói.  

- Bác sĩ Watson cũng đồng ý đấy.  

- Vậy, thưa ông Holmes, làm thế nào để biết được?  

- Bây giờ chúng ta thử phân tích các sự kiện để có thể tím ra các manh mối. Bà đã ở đây một năm rồi.  

- Cũng được gần 2 năm.  

- Tốt! Trong suốt thời gian đó, không ai hỏi han gì. Bây giờ, thình lình trong ba, bốn ngày nay lại có người yêu cầu. Điều đó có nghĩa là gì?  

- Chỉ có một ý - tôi nói - là vật đó mới chỉ ở trong nhà gần đây thôi.  

- Đúng rồi! Bây giờ, thưa bà Maberley, gần đầy có vật gì được gửi cho bà không?  

- Không. Tôi chưa hề mua sắm gì trong một năm nay.  

- Quả vậy! Điều đó rất đáng chú ý. Tốt, tôi nghĩ chúng ta đã có một manh mối có thể phát triển cho đến khi chúng ta có rõ ràng hơn dữ liệu. Luật sư của bà là người có khả năng chứ?  

- Ông Sutro là người rất khá.  

- Bà có người hầu gái nào khác, ngoài Susan không?  

- Tôi còn một cô hầu gái trẻ.  

- Bà hãy cố gắng mời luật sư Sutro ngủ một hoặc hai đêm tài nhà. Có thể bà cần được bảo vệ.  

- Vì sao vậy?  

- Tôi không thể phát hiện món đồ mà người ta muốn lấy, nên tôi phải đi từ đầu kia. Nói rõ hơn là tôi tìm nhân vật chính trong tấn kịch này. Ông nhân viên địa ốc có để lại địa chỉ không?  

- Chỉ có tên và nghề nghiệp. Haines-Johnson, nhân viên địa ốc và chuyên gia.  

- Có lẽ ta sẽ không tìm thấy tên ông ta trong Niên giám Danh thiếp. Vậy tôi đề nghị bà báo ngay cho tôi mọi diễn biến kế tiếp. Bà hãy tin tôi.  

Khi chúng tôi đi ngang qua cửa chính, đôi mắt Homles đập xuống mớ rương và va li chất đống trong một góc.  

- Milano, Lucerne. A! Hành lý này từ Ý gởi về?  

- Đó là đồ đạc của thằng Douglas đáng thương của tôi?  

- Bà chưa khui ra. Bà nhận về được bao lâu rồi?  

- Tuần trước.  

- Vậy mà bà đã nói với tôi rằng... Vậy là cái mắt xích mà tôi thiếu là đây rồi! Có thể mấy cái rương này chứa một đồ vật quý giá?  

- Không lẽ, thưa ông Homles. Douglas chỉ sống nhờ đồng lương và một khoản phụ cấp nhỏ. Làm sao nó có khả năng mua bán vật gì?  

Homles suy nghĩ hồi lâu.  

- Yêu cầu bà làm ngay cho? - Cuối cùng Homles nói - Hãy đưa mớ hành lý này lên phòng bà. Khám nghiệm chúng càng sớm càng tốt và nhớ lập bản kiểm kê. Mai tôi quay lại.  

Đúng là biệt thự "Ba đầu hồi" bị canh gác. Khi chúng tôi đi hết đường mòn ở nơi cao ráo thì gặp gã võ sĩ quyền Anh đang đứng núp trong bóng mát. Chúng tôi bị bất ngờ. Tại cái chỗ quạnh hiu này, nó có vẻ bất thường và dễ sợ. Homles thọc tay vào túi.  

- Ông kiếm súng lục hả, ông Homles?  

- Không đâu, bạn Steve. Kiếm chai dầu.  

- Ông là người kỳ lạ.  

- Tôi tin rằng anh không đùa với tôi, khi tôi nói chuyện rất đàng hoàng với anh. Sáng nay tôi đã cảnh cáo anh rồi mà.  

- Thưa ông, tôi luôn nhớ lời ông dặn và tôi không còn muốn nói tới vụ ông Perkins. Nếu tôi có thể giúp gì ông, tôi sẵn lòng thôi.  

- Vậy thì cho tôi biết ai đứng đằng sau vụ này.  

- Tôi thề trước Chúa, thưa ông Homles. Hồi sáng tôi đã nói sự thật. Tôi không biết đâu. Chủ tôi là Barney ra lệnh cho tôi. Thế thôi.  

- Vậy thì anh nhớ kỹ rằng cái bà trong nhà này và tất cả những gì dưới cái mái này đều đặt dưới sự che chở của tôi. Đừng quên nhé, bạn Steve!  

- Nghe rõ.  

- Tôi nghĩ rằng tôi đã làm cho hắn tự lo cứu mạng hắn, - Holmes nói khi chúng tôi tiếp tục đi - Giờ đây hắn sẽ bán đứng chủ hắn nếu hắn biết "người bí ẩn". May là tôi biết đường đi nước bước của băng Spencer John, mà Steve là thành viên. Đây là phần việc của Langdale Pike. Tôi phải đi tìm ông ta ngay.  

Holmes biệt tích luôn ngày đó, nhưng tôi biết anh ấy sử dụng thời gian này làm gì vì tôi biết Langdale Pike là ai. Ông ta là quyển từ điển sống về các vụ scandal trong xã hội. Ông ta lờ đờ ngồi hằng giờ trong một câu lạc bộ ở phố Saint James, và là một cái máy thu và phát tất cả các vụ động trời. Hình như thu nhập hàng tháng của ông ta là 4.000 bảng do đem bán các tin tức scandal cho các nhật báo. Đôi khi Holmes cũng cung cấp tin cho Langdale Pike. Để đền đáp, anh chàng này cũng thỉnh thoảng làm mật báo cho Holmes. Khi tôi gặp Holmes vào sáng sớm hôm sau, tôi thấy anh hoàn toàn thỏa mãn. Nhưng một bất ngờ lại xảy đến. Đó là cái điện tín với nội dung như sau:  

"Yêu cầu tới ngay. Nhà của khách hàng bị trộm. Đêm qua cảnh sát đã đến. Sutro".  

Holmes huýt sáo:  

- Biến động xảy ra nhanh hơn tôi dự kiến. Đằng sau nội vụ là một nhân vật quyền thế lớn, anh Watson à? Biến động này không làm tôi sửng sốt sau khi thu lượm tin tức xong. Đương nhiên ông Sutro này chỉ là một luật sư. Tiếc rằng tôi không nhờ anh ngủ lại để canh gác. Ông nội này tỏ ra cù lần quá. Thôi, ta đi tới Harrow Weald.  

Biệt thự "Ba đầu hồi", không còn là một cái nhà cao ngạo như hôm qua. Một nhóm vô công rồi nghề vây quanh hàng rào trong lúc hai cảnh sát viên khám xét hai cửa sổ và các bồn hoa. Vào trong nhà, chúng tôi được một người cao niên tóc hoa râm tiếp đón và tự giới thiệu là luật sư của bà Maberley. Ông thanh tra cảnh sát lăng xăng, chào mừng Holmes như bạn cố tri.  

- Tôi ngại rằng không có gì để phải nhờ đến cái tài xuất chúng của ông. Đây chỉ là một vụ trộm xoàng, thuộc phạm vi của đám cảnh sát xoàng xĩnh này.  

- Tôi tin chắc rằng nội vụ đang nằm trong tay của những người có thực tài - Holmes nói - Ông có tin rằng đây chỉ là một vụ trộm đơn thuần?  

- Đúng vậy. Chúng tôi biết khá rõ về các nghi can và chúng tôi biết phải tới đâu để tóm cổ chúng. Đó là cái băng Barney Stockdale với thằng mọi to con... chúng nó lảng vảng trong xóm này mấy bữa rày.  

- Hoan hô! Chúng đã lấy cắp những gì?  

- Hình như chúng không lấy gì nhiều. Bà Maberley và cả nhà bị bỏ thuốc mê. Nhưng bà ấy đến kìa.  

Bà chủ nhà có vẻ tái xanh và suy yếu, vịn vai người hầu đi vào phòng.  

- Ông đã cho tôi một lời khuyên rất đúng. Thưa ông Holmes - Bà vừa nói vừa cười một cách buồn thảm - Tiếc thay, tôi đâu có nghe theo. Tôi ngại không dám làm phiền luật sư Sutro và tôi không được bảo vệ.  

- Tôi mới nghe nói về điều đó sáng nay mà thôi? - ông luật sư nói lớn.  

- Ông Holmes có khuyên tôi mời một người bạn ngủ lại ban đêm. Tôi coi thường lời khuyên này. Do đó, tôi phải trả giá cho sự bất cẩn này.  

- Bà có vẻ khá mệt mỏi - Holmes nói - Tuy nhiên xin bà vui lòng kể lại cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện.  

- Tất cả đều được ghi trong này rồi - ông thanh tra cảnh sát vừa đập tay vào một cuốn sổ lớn vừa nói. Tuy nhiên nếu bà Maberley không quá mệt...  

- Thật ra thì cũng không có gì nhiều để mà tường thuật. Chắc chắn con nhỏ Susan đã vẽ đường đi nước bước cho bọn chúng! Chúng đi đứng như người trong nhà. Có một giây lát, tôi ý thức bị đặt miếng bông có thuốc mê trên miệng. Nhưng tôi quên hẳn thời gian bị hôn mê. Khi tôi tỉnh lại thì có một người đàn ông đứng bên cạnh, một người đàn ông khác đang đứng dậy cầm một cái gói lấy từ trong hành lý của con trai tôi. Mớ hành lý này bị mở một phần và rơi lung tung trên sàn nhà. Khi chúng chạy, tôi có nhảy lên và nắm tay được một đứa.  

- Bà đã làm một điều khá nguy hiểm - Ông thanh tra cảnh sát nói thầm.  

- Tôi bám vào nó, nhưng nó vuột ra và thằng kia đập tôi ngất xỉu. Mary nghe tiếng động, chạy ra cửa sổ báo động. Cảnh sát tới, nhưng bọn trộm đã cao bay xa chạy.  

- Chúng lấy gì?  

- Tôi tin rằng không có gì quý lắm đâu. Tôi chắc chắn không có cái gì đáng giá trong hành lý của con trai tôi.  

- Bọn chúng có để lại vết tích gì không?  

- Có một tờ giấy tôi giựt được từ thằng mà tôi nắm tay. Giấy nhàu nát dưới sàn nhà, nội dung do chính con trai tôi viết.  

- Tờ giấy này chả có ích lợi gì cho cuộc điều tra - ông thanh tra nói - Tuy nhiên vì nó có nằm trong tay của kẻ trộm...  

- Đúng thế - Holmes nói - Cho tôi xem thử?  

Ông thanh tra rút trong quyển sổ của ông một tờ giấy đã xếp lại  

- Không bao giờ tôi bỏ sót một chi tiết nào - Holmes nói một cách trịnh trọng - Trong 25 năm hành nghề, tôi đã học hỏi nhiều lắm. Có thể tìm thấy trong đó một dấu tay hoặc là một cái gì đó hữu ích.  

Holmes khám nghiệm tờ giấy.  

- Ông nghĩ sao, ông thanh tra?  

- Hình như là đoạn kết cuộc của một cuốn tiểu thuyết.  

- Chắc chắn là cái kết cuộc của một câu chuyện thường! - Holmes nêu ý kiến - Ông có để ý các con số trên đầu trang là 245. Vậy thì 244 trang kia đâu?  

- Tôi đoán kẻ trộm đã cuỗm rồi.  

- Dù sao cũng là chuyện lạ, kẻ trộm đục tường vào, chỉ để đánh cắp mớ giấy đáng vứt vào sọt rác. Ông có thắc mắc không, ông thanh tra?  

- Có chứ. Tôi cho rằng trong lúc vội vã, chúng đã gặp gì chôm nấy.  

- Tại sạo chúng lại để ý tới đồ đạc của con trai tôi? - Bà Maberley hỏi.  

- Tại vì không có gì đáng giá dưới tầng trệt thì phải lên lầu thử thời vận. Ông nghĩ sao, ông Holmes?  

- Tôi còn phải suy nghĩ thưa ông thanh tra. Hãy ra cửa sổ, Watson. 

Đứng cạnh nhau, chúng tôi cùng đọc tờ giấy. Bản văn bắt đầu ở giữa câu:  

"...mặt chảy máu lai láng vì bị cắt và bị đánh thương không thấm vào đâu so với sự rướm máu của con tim nó, khi nó thấy cái khuôn mặt kỳ diệu - cái khuôn mặt mà nó tôn thờ - chứng giám sự ưu tư và nhục nhã của nó. Cô ta cười nụ. Chúa ơi. Cô ta cười được? Đồ quỷ cái! Chính đó là lúc mối tình tắt lịm và nảy sinh sự thù hận. Con người phải sống vì một mục đích gì đó. Nếu tôi không sống để được nụ hôn của cô, cô nàng ơi, thì chắc hẳn cô sẽ bị tiêu vong vì sự phục thù quyết liệt của tôi".  

- Câu cú gì quá lạ lùng - Holmes cười và trả tờ giấy lại - Đang ở ngôi thứ ba (nó) rồi bỗng đột ngột chuyển ông ngôi thứ nhất (tôi). Tác giả mê viết tự thuật đến nỗi vào phút chót tưởng tượng mình là nhân vật chính.  

- Văn sọt rác! - ông thanh tra nói thì thầm rồi cất tờ giây vào cuốn sô - Ủa, ông về sao ông Holmes?  

- Nội vụ đã được nhà cầm quyền lưu tâm rồi tôi có lý do gì để nấn ná lâu hơn. Thưa bà Maberley, bà có nói với tôi rằng bà thích đi du lịch?  

- Đó là giấc mơ xưa nay của tôi.  

- Bà thích đi đâu?  

- Ồ, nếu có đủ tiền, tôi muốn đi khắp thế giới.  

- Bà thấy đúng đó. Hãy chu du thế giới! Xin tạm biệt bà. Có thể tối nay, bà sẽ nhận được một lá thư của tôi.  

Khi ra về, đi ngang cửa sổ, tôi thấy ông thanh tra cười và lắc đầu "có học thì phải điên điên?". Đó là cái mà tôi đọc được trên môi của ông thanh tra.  

- Anh Watson, giờ đây ta lên đường đi đến cái giai đoạn chót của chuyến đi ngắn này? - Holmes nói với tôi.  

Chúng tôi trở về khu trung tâm London.  

- Tôi nghĩ rằng vụ này có thể giải quyết thật nhanh, tuy nhiên tôi thích anh đi theo, bởi vì nên có nhân chứng khi thương lượng với một người đàn bà có tầm cỡ như Isadora Klein.  

Chúng tôi đi xe ngựa tới quảng trường Grossvener. Holmes đột ngột ra khỏi cơn suy tư:  

- Anh Watson, tôi đoán rằng trong trí anh mọi sự đã sáng như ban ngày rồi, phải không?  

- Chưa đâu! Tôi đoán rằng chúng ta đang đi tới người đàn bà giật dây chuyện này?  

- Đúng vậy? Cái tên Isadora Klein không nhắc cho anh nhớ tới cái gì sao? Nàng đẹp nghiêng nước nghiêng thành, là một người Tây Ban Nha thuần chủng, nàng có dòng máu của những nhà chinh phục. Nàng lấy Klein, lão già người Đức biệt danh là Vua Đường. Nhờ đó nàng nổi danh là người góa phụ đẹp nhất và giàu nhất thế giới. Nàng có phiêu lưu một lúc, có nhiều nhân tình, trong số đó có cả Douglas Maberley, một trong những chàng hào hoa phong nhã nhất của London. Theo lời đồn thì nàng và chàng có cái gì đậm đà hơn là một cuộc giao du ong bướm. Anh chàng này thì không thể là một con ong, con bướm, mà là một mẫu người cao đẹp, hy sinh tất cả và cũng đòi được hy sinh tất cả. Khốn thay, nàng thuộc loại đàn bà không chịu vấn vương. Sau khi thỏa mãn, là đoạn tuyệt. Nếu chàng ta u mê thì cô nàng biết cách mở mắt chàng.  

- Vậy đây là chuyện tình của Douglas?  

- Tôi mới nghe tin rằng nàng sẽ kết hôn với quận công Lomond, nhỏ tuổi hơn nàng rất nhiều. Mẹ của quận công có thể coi thường sự so le tuổi tác, nhưng bà không thể coi thường một scandal tình ái lăng nhăng. Do đó cô nàng cần phải... Mà, tới rồi?  

Đó là một trong những căn nhà đẹp nhất ở khu West End. Một người hầu đưa tay nhận danh thiếp của chúng tôi, cứng đơ như người máy rồi quay lại cho hay rằng nữ chủ đi vắng.  

- Được, - Holmes nói - Chúng tôi chờ vậy.  

- Đi vắng, có nghĩa là đi vắng với hai ông - Người máy nói.  

- Được - Holmes lặp lại - Có nghĩa là chúng tôi khỏi phải chờ lâu. Chú em vui lòng trình thiệp này cho nữ chủ của chú em.  

Holmes ngoáy vài ba chữ trên giấy, xếp lại rồi đưa cho người giúp việc.  

- Anh viết gì vậy?  

- Chỉ có năm chữ: "Vậy thì đến cảnh sát?" Tôi tin rằng nàng sẽ ra tiếp chúng ta.  

Một phút sau, chúng tôi được đưa vào phòng khách của cảnh 1001 đêm. Tôi nghĩ rằng nữ chủ đã tới cái tuổi mà sắc đẹp vô song phải sóng đôi với sự chiếu sáng mờ ảo. Khi chúng tôi bước vào, nàng đứng dậy khỏi tràng kỷ. Vóc dáng cao, đi đứng bệ vệ như nữ hoàng, khuôn mặt thì cực kỳ giả tạo, đôi mắt đen Tây Ban Nha sắc bén như dao.  

- Các ông đường đột như vầy để làm gì? Cái danh thiếp hỗn láo này có nghĩa gì. - Nàng hỏi và vẫy vẫy cái thiệp.  

- Thưa bà, tôi thấy khỏi cần giải thích. Tôi quá tôn kính trí thông minh tuyệt vời của bà. Mặc dù cái trí thông minh đó đã cùn đi mấy bữa nay!  

- Chuyện gì vậy, thưa ông?  

- Dễ thường mấy tên anh hùng rơm do bà thuê mướn có thể dọa nạt, ngăn cấm được tôi làm nhiệm vụ nghề nghiệp. Không ai dại gì chọn cái nghề như tôi nếu bẩm sinh họ không thích nguy hiểm. Phải chăng chính bà đã buộc tôi nghiên cứu vụ anh chàng thanh niên Douglas Maberley.  

- Tôi không hiểu gì về những lời ông vừa nói . Tôi có dính dáng gì đến mấy tay anh hùng rơm nào đó!  

Holmesquay mặt đi như mệt mỏi.  

- Rõ ràng là tôi đánh giá sai cái trí thông minh của bà. Thôi Xin tạm biệt.  

- Hãy đứng lại, ông đi đâu?  

- Tới Scotland Yard.  

Chúng tôi chưa ra tới cửa chính thì nàng đã chạy theo và nắm cánh tay của Holmes. Từ sắt thép nàng chuyển qua nhung lụa ngay.  

- Kính mời hai vị ngồi. Chúng ta nói chuyện thêm một chút nữa. Tôi cảm thấy tôi có thể thành thật với ông, thưa ông Holmes, ông có tình cảm của người quý phái. Bản năng đàn bà phát hiện điểm này nhanh lắm. Tôi muốn xem ông là bạn tri âm tri kỷ.  

- Tôi không thể hứa chuyện "có đi có lại", thưa bà. Tôi không phải là luật pháp, nhưng tôi đại diện cho lẽ phải trong chừng mực mà các khả năng khiêm nhường của tôi cho phép. Tôi sẵn sàng nghe bà và tôi sẽ cho bà biết tôi sẽ hành động ra sao.  

- Có lẽ tôi đã cực kỳ ngu muội khi sai người đi hù dọa một người dũng cảm như ông?  

- Thưa bà, cái ngu muội là bà đã tự đặt mình trong tay một băng lưu manh; sau này chúng có thể tống tiền bà, hoặc tố cáo bà.  

- Không, tôi không ngu muội đến thế! Vì tôi đã hứa sẽ thành thật với ông, tôi xin khẳng định với ông rằng ngoại trừ Barney và vợ nó là Susan, không ai khác biết danh tánh người giật dây. Hai đứa này, thì ai còn lạ gì...  

Nàng cười nụ, quẹo cái đầu làm dáng một cách vô cùng quyến rũ .  

- Tôi hiểu. Bà thử thách chúng rồi à?  

- Chúng nó là những con chó ngoan, lăng xăng chạy theo chủ.  

- Cái loại khốn nạn đó, không chóng thì chầy chúng sẽ cắn ngược lại chủ. Chúng sẽ bị bắt vì cái tội trộm. Cảnh sát đang truy lùng chúng.  

- Chúng phải gánh lấy hậu quả một mình thôi. Tôi không ra tòa vì vụ này đâu.  

- Trừ khi tôi đưa bà ra!  

- Không đâu, ông sẽ không làm như thế. Ông là người mã thượng. Chuyện bí mật của phụ nữ mà.  

- Trước tiên, bà phải trả lại cái bản thảo.  

Nàng bật cười và đi về hướng lò sưởi, lấy que cời than quậy tán loạn.  

- Phải trả lại à?  

Trong lúc đứng trước mặt chúng tôi với một nự cười thách thức, nàng có vẻ bướng bỉnh và hấp dẫn đến nỗi tôi đoán rằng trong đám tội phạm mà Holmes phải đương đầu, chỉ có nàng là người làm cho Holmes nhức đầu nhất, tuy rằng tôi biết rõ anh là người chai như đá.  

- Đó là điều làm cho đời bà tiêu tan - Holmes nói một cách lạnh lùng - Bà là người rất nhanh tay, nhưng trong vụ này, bà đi hơi xa.  

Nàng liệng que cời than, la to:  

- Ông thật là khắc nghiệt. Tôi xin phép kể hết câu chuyện.  

- Tôi cho rằng bà có quyền đó.  

- Nhưng tôi thiết nghĩ ông phải hiểu chuyện đó theo quan điểm của một người đàn bà đột ngột nhận chân rằng tất cả tham vọng của cuộc đời mình có thể bị tiêu tan vào phút chót. Một người đàn bà như thế có đáng trách hay không, lúc bà ấy xoay xở để tự vệ?  

- Tội gốc do ai phạm vậy?  

- Đồng ý với ông. Douglas đẹp trai thật đó, nhưng khốn thay nó không phù hợp với các dự tính của tôi. Nó muốn lấy tôi. Lấy tôi, thưa ông Holmes. Nó là một thằng trung lưu, nghèo kiết xác. Vì tôi trót trao thân, nó nghĩ rằng tôi phải mãi mãi là của nó. Không thể nào chịu đựng được Cuối cùng tôi phải làm cho nó hiểu?  

- Bằng cách thuê côn đồ hạ nó dưới cửa sổ của bà.  

- Ông có vẻ biết hết mọi việc. Đúng như thế! Barney và tay chân đã đuổi nó, và tôi nhìn nhận, đã xử sự hơi thô lỗ. Kế đó, nó làm gì? Không bao giờ tôi ngờ rằng một người đàn ông có thể trù tính một chuyện hèn hạ đến thế. Nó viết một cuốn sách trong đó nó tường thuật đời tư của nó. Đương nhiên, trong đó tôi là con sói, nó là con cừu non. Nó kể từng li từng tí, đương nhiên dưới nhưng tên khác. Tuy nhiên, ở London này ai mà không nhận ra chúng tôi? Ông thử xét xem?  

- Suy cho cùng, nó có quyền đó?  

- Như thể không khí Ý đã thâm nhập vào huyết quản của nó, tiêm vào máu cái nọc ác độc kỳ cựu của dân tộc Ý. Nó có viết thư cho tôi, có gởi cho tôi một bản thảo để tôi đau khổ vì lo sợ. Nó tiết lộ rằng nó có hai bản: một bản cho tôi và một bản cho nhà xuất bản.  

- Làm sao bà biết nhà xuất bản từ chối?  

- Tại vì tôi đã dò hỏi và biết nhà xuất bản là ai. Rồi thình lình ngay sau đó tôi nghe Douglas chết. Còn bản thảo kia có thể bị xuất bản, tôi cảm thấy không an tâm. Bản này chắc chắn nằm trong đồ đạc của Douglas sẽ được chở về trả cho mẹ nó. Tôi vận dụng ngay cái băng lưu manh. Susan xin vào làm tôi tớ cho bà Maberley. Tôi muốn hành động một cách lương thiện thôi. Thật thế, tôi sẵn sàng mua ngôi nhà với tất cả những thứ gì nó chứa. Tôi chấp thuận cái giá bà ấy đưa ra. Tôi chỉ dùng phương án hai khi mà phương án thứ nhất bị thất bại. Giờ đây, ông xét xem, dù rằng tôi quả có nghiệt ngã với Douglas, tôi có thể làm gì khác khi mà tương lai tôi lâm nguy?  

Holmes vươn vai.  

- Được. Tôi đoán rằng tôi sẽ thỏa hiệp với tội ác. Đi chu du thế giới hạng nhất tốn bao nhiêu, thưa bà?  

Người thiếu phụ trẻ nhìn anh ta với nét hoảng hốt.  

- Không hơn 5.000 bảng đâu.  

- Không, tôi không tin là đắt đến thế. Được Yêu cầu bà vui lòng ký một chi phiếu, với số tiền đó tôi sẽ lo gởi nó đến tận tay bà Maberley. Bà cần cho bà cụ đó đổi gió. Trong khi chờ đợi, bà...  

Holmes giơ một ngón tay cảnh cáo.  

- Coi chừng chơi dao có ngày đứt tay!

BÀ THUÊ NHÀ MANG MẠNG CHE

Suốt thời gian 23 năm hành nghề của Sherlock Holmes, tôi đã có 17 năm diễm phúc được cộng tác với anh, chọn lọc và lưu lại những ghi chép của anh ấy dưới một cách trình bày trong sáng hơn. Cũng hoàn toàn sai lạc nếu suy đoán rằng tất cả các vụ án mà Holmes điều tra đều là những cơ hội để anh ta tỏ rõ các năng khiếu đặc biệt về trực giác và quan sát của anh. Thường thường Holmes phải đổ mồ hôi mới hái được kết quả, nhưng đôi khi anh chỉ cúi xuống là có thể nhặt quả. Nhưng chính trong những vụ án mà Holmes khỏi phải trổ tài gì cả, ta mới thấy những trò bi thương nhất của loài người.  

Một buổi sáng cuối năm 1896, tôi nhận được thư khẩn cấp của Holmes mời tôi đến đường Baker ngay. Khi vào nhà, tôi thấy anh ngồi trong phòng sặc mùi thuốc lá trước một người đàn bà đứng tuổi có dáng dấp một bà chủ nhà trọ ở thủ đô. Holmes giới thiệu:  

- Anh Watson, đây là bà Merrilow ở quận South Brixton. Khói thuốc không làm phiền bà ấy đâu. Do đó anh có thể buông thả cái tật xấu của anh. Bà Merrilow có một câu chuyện rất hay để kể cho chúng ta nghe. Chuyện này có thể có những diễn biến mà anh cần chứng kiến.  

- Rất sẵn sàng!  

- Thưa bà, nếu tôi đi gặp bà Ronder như bà muốn, tôi cần có một nhân chứng. Do đó, bà phải thuyết phục bác sĩ Watson đây đi theo tôi.  

-Xin Chúa ban phước lành cho ông, thưa ông Holmes! - Bà chủ trọ nói lớn - Bà ấy rất cần gặp ông, cho nên ông có thể dẫn cả khu phố đi theo cũng được.  

- Khoảng một, hai giờ chiều nay chúng tôi sẽ ra đi. Chúng tôi phải rà soát xem đã nắm vững các yếu tố của bài toán chưa. Bà nói rằng bà Ronder ở trọ nhà bà bảy năm, nhưng bà chỉ nhìn thấy rõ mặt bà ấy có một lần duy nhất?  

- Là quá đủ, thưa ông Holmes!  

- Mặt bà ta nát bấy hết à?  

- Chúa ơi! Không thể gọi là cái mặt được. Người giao sữa cho tôi đứng ngoài cửa, nhìn thấy một lần: anh ta xúc động đến nỗi chai sữa tuột tay, đổ tứ tung. Hai ông hãy tưởng tượng thì biết mặt bà ấy ra sao! Khi tôi chợt nhìn thấy, bà ấy lập tức lấy tay che mặt ngay và nói: "Bà Merrilow, giờ đây thì bà đã hiểu tại sao tôi luôn luôn che mặt bằng tấm khăn voan".  

- Bà có biết tí gì về quá khứ của bà ấy không?  

- Không biết tí gì cả.  

- Khi dọn tới, bà ta không đưa ra một giấy tờ nào sao?  

- Không, thưa ông. Bà ta trả tiền mặt, lại trả trước rất nhiều, không hề cò kè. Vào thời buổi khó khăn này, một người nghèo túng như tôi không ngu dại bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng như thế!  

-Bà ấy có giải thích tại sao lại chọn nhà bà không?  

-Nhà tôi xa đường cái, tương đối khá vắng vẻ. Ngoài ra, tôi lại không chồng, con. Tôi đoán bà ấy đã thử nhiều chỗ khác rồi. Cuối cùng thì bà ấy thấy căn nhà tôi hợp với bà ấy hơn.  

- Bà có nói rằng bà ấy không để lộ mặt, trừ một trường hợp hoàn toàn ngẫu nhiên. Chuyện này khá dị thường đó. Do đó tôi hiểu vì sao bà tò mò.  

-Đâu phải, thưa ông! Đối với tôi khi mà tiền trọ thanh toán sòng phẳng... khó tìm một khách trọ bình lặng hơn, ít rắc rồi hơn.  

-Vậy thì động cơ nào thúc đẩy bà tới đây?  

- Sức khoẻ của bà ta, ông ạ. Dường như bà ta giữ một cái gì rất hãi hùng ở trong đầu. "Một sự giết người? Một cuộc ám sát?" Bà ấy la to về khuya như thế! Tiếng bà vang dội khắp nhà làm tôi sợ phát run! Sáng hôm sau, tôi tới thăm và nói: "Bà Ronder, nếu có điều gì u uất, bà nên tìm cha sở hoặc cảnh sát. Một trong hai người này sẽ giải quyết cho bà". Bà ấy đáp: "Xin đừng đề cập tới cảnh sát; còn cha sở thì không làm gì để thay đổi được quá khứ..." Rồi bà nói thêm: "Dù sao, tôi cũng nhẹ người nếu ai đó biết được sự thật trước khi tôi chết". Tôi bèn nói: "Nếu bà không muốn nhờ tới cảnh sát công thì bà hãy nhờ đến cái ông thám tử mà mọi người đều biết tiếng...". Bà đồng ý ngay: "Tôi cần loại người như thế! Tại sao tôi không nghĩ tới ông ấy sớm hơn? Bà vui lòng mời ông ấy đến đây. Nếu ông ta không chịu thì nhắc rằng tôi là Eugenia Ronder, vợ của Ronder, người dạy sư tử. Bà hãy nói như vậy, đồng thời cho ông ấy cái tên Abbas Parva". Bà ấy viết tên đó cho tôi rồi kết luận: "Cái tên này sẽ khiến ông ta tới, nếu ông ta đúng là người tôi tưởng tượng".  

-Tôi sẽ tới! - Holmes nói - Được rồi, bà Merrilow. Tôi phải nói chuyện với bác sĩ Watson đến trưa mới xong. Khoảng 3 giờ chiều chúng tôi sẽ có mặt tại nhà bà.  

Bà khách vừa ra khỏi nhà thì Sherlock Holmes nhào tới đống tài liệu chất dưới đất trong góc phòng. Vài phút sau, phòng khách xào xạc tiếng lật sách. Một tiếng hứ thoả mãn, báo cho tôi biết rằng Holmes đã tìm ra điều gì Anh ngồi bệt xuống nền nhà, xếp bằng giữa đống sách báo, trên đùi một tập báo đang mở rộng.  

- Hồi đó, tôi cũng đã ăn ngủ không ngon, anh Watson? Anh hãy nhìn vào lời ghi chép bên lề thì biết. Tôi chú thích rằng tôi cũng chả kết luận được gì cả. Nhưng tôi chắc chắn là cảnh sát tư pháp đã lầm. Anh còn nhớ thảm kịch Abbas Parva không?  

- Không còn nhớ tí gì cả.  

- Lúc đó, anh còn sống chung với tôi. Cảm giác cá nhân tôi lúc đó chắc chắn là rất sơ sài vì người ta không tìm ra được bằng chứng cụ thể nào. Ngoài ra, không bên nào thuê mướn tôi cả. Anh đọc mấy tờ báo này.  

- Đề nghị anh tóm lược trước.  

- Dễ thôi! Từ từ anh sẽ nhớ ra hết. Ronder là một trong những giám đốc của các đoàn xiếc thú nổi tiếng vào thời đó. Nhưng về sau Ronder đâm ra rượu chè nên toàn đoàn và cả bản thân ông ta đang xuống dốc, chính vào lúc đó thì thảm kịch xảy ra. Đoàn ngừng lại một đêm tại Abbas Parva, một làn nhỏ của vùng Berkshire, trên đường đến Wimbledon. Đoàn chỉ đóng trại, không trình diễn, vì dân số Abbas Parva quá ít, không đủ bù đắp chi phí buổi diễn. Trong những con thú, có một con sư tử Bắc Phi rất đẹp, tên là Vua Sahara. Ronder và vợ thường trổ tải trong chuồng nhất nó. Đây là một hình chụp trong một buổi trình diễn. Anh thấy rằng Ronder to như heo nọc trong lúc bà vợ lại tuyệt đẹp. Cuộc điều tra cho biết rằng vua Sahara đã có những biểu hiện đáng ngại từ lâu. Tuy nhiên vì thói quen của nghề nghiệp nên vợ chồng Ronder coi thường các triệu chứng đó. Mỗi đêm, hoặc Ronder, hoặc vợ anh ta đem thức ăn đến cho sư tử. Có khi hai người cùng đi, có khi chỉ một người. Không bao giờ họ để cho ai khác đi thay. Do đó, họ tin rằng con sư tử sẽ không bao giờ hung ác với những người vú nuôi nó. Đêm đó, cách đây 7 năm, cả hai cùng vào chuồng: Một tai nạn khủng khiếp xảy ra và các chi tiết của tai nạn này chưa bao giờ được soi sáng.  

Hình như toàn đoàn đều bị đánh thức vào giữa đêm bởi tiếng gào rống của con thú và tiếng la khủng khiếp của bà Ronder, mọi người hối hả cầm đèn chạy ra khỏi lều. Một cảnh tượng hãi hùng xuất hiện trước mặt họ: Ronder nằm sóng soài, sọ bị bể, da đầu bị tét, ở cách chuồng sư tử độ 10 yard và cửa chuồng mở toang. Gần cửa, bà Ronder nằm dưới chân con thú đang há miệng gào rống. Nó đã quào nát mặt bà đến nỗi ít ai tin là bà sẽ thoát chết. Nhiều nghệ sĩ của đoàn dưới sự hướng dẫn của Leonardo, lực sĩ, và anh hề Griggs dùng gậy lùa con sư tử vào chuồng. Người ta đoán rằng vợ chồng Ronder dự định vào chuồng, nhưng cửa mới mở, con thú đã nhảy ra vồ họ. Cuộc điều tra không phát hiện thêm điều gì, chỉ biết rằng bà vợ liên tục la lớn trong cơn mê sảng: "Đồ hèn, Đồ hèn", lúc được khiêng ra xe. Phải sáu tháng sau, bà mới lấy lại sức khoẻ để làm chứng. Nhưng cuộc điều tra bị xếp bỏ do phán quyết của toà cho rằng Ronder chết vì tai nạn.  

-Có giả thiết thứ hai à? - Tôi hỏi lớn.  

- Sao lại không? Anh chàng Edmunds, thuộc sở cảnh sát Berkshire có để ý đến vài chi tiết nhỏ. Chú bé này khá lắm! Sau đó chú lại thuyên chuyển qua Allahabad. Đấy là lý do tại sao lúc đó tôi để ý tới vụ án: Chú bé đến đây, hút thuốc và thảo luận.  

- Người gầy, tóc vàng.  

- Thấy chưa, từ từ anh nhớ lại mà!  

- Chú ấv để ý cái gì?  

-Tôi và chú ấy đều thắc mắc. Diễn lại sự việc thì thấy không ổn. Anh hãy đứng ở quan điểm con sư tử. Khi được thả ra, nó sẽ làm gì đây? Nó lao tới, nhảy một, hai cái là tới sát Ronder, Ronder quay lưng chạy thoát thân, nhưng con sư tử quật vào ót ông ấy làm ông ngã lăn. Nhưng thay vì tiếp tục thả rong chơi, sư tử lại quay trở lại tìm bà Ronder đứng gần cửa chuồng, cào nát mặt bà ta. Lại còn tiếng thét của bà ấy hình như trách ông chồng. Thử hỏi con người xấu số này làm được gì để cứu bà. Vậy, bà đã trách ai?  

- Lý luận đúng lắm.  

- Còn một chi tiết khác luôn ám ảnh tôi, khi tôi nhớ lại vụ án này. Dù ít đù nhiều chúng ta cũng biết rằng trong lúc con sư tử gào rống và bà Ronder la hét còn có một tiếng đàn ông la thất thanh.  

- Có lẽ là Ronder?  

- Làm sao được, cái sọ vỡ rồi, ông này không đủ sức để la to như thế. Ít nhất có đến hai nhân chứng xác nhận rằng có tiếng la khác của một người đàn ông, ngoài ông Ronder.  

- Tôi đoán rằng toàn trại đều la hét... Đối với phần còn lại, có lẽ tôi có thể giải thích được.  

-Thật ư?  

- Hai vợ chồng người dạy thú đứng cách chuồng 10 yard lúc con sư tử đi ra. Người chồng muốn chạy trốn thì bị quật nhào. Người vợ nảy ra sáng kiến chạy ngược vào chuồng, đó là cách duy nhất để ẩn náu. Ngay khi bà ấy đến cửa chuồng thì con thú đã vồ và quật ngã bà. Bà bực chồng vì ông này chạy trốn làm con thú bực dọc. Nếu cả hai đều trực diện với con thú thì có lẽ họ có thể dương oai được Đó là lý do tại sao bà ấy la "đồ hèn"!  

- Tuyệt hay, Watson! Nhưng miếng pha lê còn dính cọng rơm.  

- Cọng rơm nào?  

- Nếu cả hai người đều đứng cách chuồng đến 10 yard thì làm sao con sư tử ra được?  

- Có thể họ bị một kẻ thù mở cửa cho con thú ra.  

-Và tại sao con thú đã tấn công họ rất dã man trong lúc nó quá quen với họ, thường đùa giỡn với họ trong chuồng?  

- Có thể có một kẻ thù đã chọc giận nó trước rồi?  

Holmes suy tư một lúc.  

- Giả thiết của anh có cơ sở, anh Watson! Edmunds tiết lộ với tôi là khi đã uống rượu, Ronder quậy dữ lắm, hắn cầm roi rượt tất cả những ai dám cưỡng lại. Có thể xem các tiếng la "Đồ quái vật" mà bà Ronder thường la trong đêm khuya là những hồi tưởng liên quan đến những trò thô bạo của người chồng quá cố. Thôi, đoán già đoán non có ích gì, khi chúng ta chưa có đủ dữ kiện trong tay. Giờ đi ăn trước đã.  

Xe ngựa bỏ chúng tôi xuống trước nhà bà Merrilow. Bà ta đã đứng choán cửa chân chúng tôi lại, năn nỉ đừng nói hoặc làm điều gì để bà phải mất một người khách trọ sộp. Trấn an bà xong, chúng tôi đi theo bà, leo lên cầu thang có trải đệm đã xơ xác. Cửa phòng hôi mùi mốc vì không thoáng. Sau gần một đời nhốt thú dữ trong chuồng, ngày nay người khách trọ như bị định mạng trả miếng lúc xế chiều.  

Bà Ronder ngồi trên một ghế bành đã lung lay, trong một góc tối tăm. Mấy năm bỏ nghề làm dáng bà sồ sề ra. Tuy nhiên, với thân hình tròn trịa hấp dẫn hiện tại, cho thấy xưa kia bà là một phụ nữ đẹp cân đối. Chiếc khăn voan dày cộm che kín mặt mày, cắt ngang làn môi, để lộ một cái miệng tuyệt hảo và cái cằm trái xoan thanh tú. Giọng nói thanh tao cũng là yếu tố làm xao xuyến lòng người.  

- Tên của tôi đâu có xa lạ gì với ông, phải không ông Holmes? - Bà ấy nói - Tôi đoán rằng thế nào ông cũng đến.  

- Vâng, thưa bà. Nhưng tôi không hiểu tại sao bà biết tôi lưu ý đến chuyện của bà.  

- Tôi biết điều đó khi tôi bình phục lại và được ông Edmunds thẩm vấn. Tôi đâu có nói sự thật. Có lẽ tôi nên nói thật ngay từ lúc đó.  

-Tại sao bà lại nói dối với ông ấy?  

-Tại vì mạng sống của một người nào đó đang tuỳ thuộc vào lời khai của tôi. Tuy đó là một người không xứng đáng, nhưng tôi không muốn lương tâm tôi bị giày vò.  

- Bây giờ bà hết áy náy rồi chứ?  

- Hết rồi, vì người đó đã chết.  

-Vậy, tại sao bây giờ bà không tới cảnh sát khai hết những gì bà biết?  

- Tại vì còn một người nữa có liên quan. Đó là tôi. Tôi không thể chịu đựng được cái tai tiếng rùm beng. Tôi không còn sống bao lâu nữa, nhưng tôi muốn chết một cách thanh thản. Tôi muốn tìm một người có trí phán đoán đúng đắn lắng nghe tôi kể lại câu chuyện gớm ghiếc để khi tôi chết rồi, mọi chuyện đều được hiểu rõ ràng.  

- Bà quá khen tôi, thưa bà? Nhưng tôi là một người có trách nhiệm. Có thể sau khi nghe bà xưng tội, tôi lại thấy có bổn phận phải đi khai báo với cảnh sát.  

- Tôi không nghĩ như thế, ông Holmes. Tôi hiểu rõ tính khí và phương pháp làm việc của ông. Tôi đã theo dõi việc làm của ông từ mấy năm nay. Trong những ngày cuối cùng, cái thú độc nhất còn lại của tôi là đọc sách báo. Tôi sẽ có thể bị rắc rối, nhưng mặc kệ. Sau khi đã kể hết với ông, tâm trí tôi sẽ thanh thản.  

- Bạn tôi và tôi rất hân hạnh nghe bà nói.  

Bà ta đứng lên, tới hộc tủ lấy ra một tấm ảnh. Đó là ảnh của một lực sĩ, một diễn viên nhào lộn rất đẹp trai. Ông ta khoanh tay trên một bộ ngực nở nang, cười nhẹ dưới bộ râu ngạnh trê rậm rạp. Nụ cười của "một tay bẻ biết mấy cành thiên hương".  

- Leonardo đấy, - Bà ta nói.  

- Leonardo, người khổng lồ của gánh xiếc làm nhân chứng?  

- Đúng rồi. Còn đây, là ảnh chồng tôi. 

Một bộ mặt gớm ghiếc: một con heo phị, hay đúng hơn một con gấu mang mặt người. Ta thấy rõ ràng cái miệng sôi sục sự thô bạo. Còn đôi mắt ti hí hiếm có. Một loại đâm thuê chém mướn.  

- Hai ảnh này sẽ giúp các ông hiểu đời tôi. Tôi là nghệ sĩ nghèo của gánh xiếc, khôn lớn lên bằng cơm gạo của đoàn. Tôi nhảy vòng lúc chưa tới 10 tuổi. Với cái dục vọng của con người đàn ông đó, vào một ngày khốn nạn nọ, tôi trở thành đàn bà và tôi kết hôn với ông ấy. Kể từ đó tôi sống đời địa ngục. Ông ta là con quỷ có trọng trách hành hạ tôi. Mọi người trong đoàn đều hay biết. Ông ấy bỏ bê tôi, chạy theo những người đàn bà khác. Tôi mà than thì ông ấy trói lại, quất roi da. Mọi người đều thương hại tôi và nguyền rủa ông ta. Nhưng họ làm gì được? Họ sợ ông ấy như quỷ dữ. Lúc nào cũng hung tợn, còn khi say thì ông ta có thể giết người. Biết bao lần rắc rối với công lý vì đánh người hay bạc đãi thú. Nhưng vì ông giàu sụ nên tiền bạc đỡ qua cả. Các diễn viên thượng thặng bắt đầu xa lánh ông và đoàn xuống dốc, sống lay lắt qua ngày nhờ Leonardo, tôi, cùng chú bé hề Jimmy Griggs. Đâu còn gì thích thú để đùa cợt, nhưng thằng bé cũng cố gắng giữ trọn vai trò.  

Leonardo đi vào đời tôi ngày càng sâu. Anh ấy đẹp trai như ông đã thấy. So với chồng tôi, anh ấy là thiên thần. Anh ấy thương hại tôi, giúp đỡ tôi. Cuối cùng thâm tình biến thành tình yêu, càng ngày càng sâu đậm và đam mê. Cái tình yêu mà tôi luôn mơ tưởng nhưng không bao giờ hy vọng thụ hưởng. Chồng tôi nghi ngờ, nhưng đê hèn, ông ấy sợ Leonardo. Ông ấy trả thù bằng cách hành hạ tôi nhiều hơn. Một đêm nọ, do tôi la hét dữ dội nên Leonardo chạy tới xe vợ chồng tôi và suýt có thảm kịch xảy ra. Sau đó, tình nhân tôi và tôi thấy rõ rằng điều đó không thể tránh khỏi. Chồng tôi không đáng được sống.  

Leonardo tổ chức khéo lắm. Tôi không nói để trút bớt tội mình vì chúng tôi cùng quyết tâm làm mọi chuyện để cùng nhau lập lại cuộc đời.  

Anh ta làm một cái chuỳ có gắn năm đinh sắt dài ở đầu, giống hệt các vuốt sư tử nhằm giáng một đòn chí tử xuống Ronder mà cuộc khám nghiệm sẽ lầm lạc.  

Trời tối như mực khi vợ chồng tôi theo đúng lệ đem thức ăn cho sư tử. Leonardo núp sau chiếc xe kéo mà vợ chồng tôi phải đi qua trước khi đến chuồng. Anh ấy quá chậm nên khi chúng tôi đến gần chuồng, anh ấy mới sẵn sàng và rón rén lần mò đi theo. Tôi nghe tiếng chuỳ vung lên và chồng tôi ngã xuống. Tôi mừng một cách hoang dại và chạy tới mở khoá chuồng.  

"Và lúc này mới xảy ra chuyện kinh tởm cho tôi. Có lẽ hai ông cũng hiểu rằng thú dữ đánh hơi mùi máu rất nhanh và mùi máu đánh thức bản năng hung bạo của chúng. Ngay khi tôi vừa rút các song sắt, con sư tử nhào ra vồ lấy tôi. Leonardo đã có thể cứu tôi nếu anh ấy chạy tới lấy chuỳ đập. Nhưng anh ta mất bình tĩnh. Tôi nghe anh ta la rồi anh quay lưng chạy thoát thân... đúng ngay lúc nanh con thú cắm sâu vào mặt tôi. Hơi thở nồng nặc và hôi thối của con thú làm tôi gần chết ngáp nên tôi chỉ cảm thấy cái đau nhẹ. Tôi lấy tay gỡ hai cái hàm đồ sộ máu me của con thú vừa kêu cầu cứu. Tôi ý thức được toàn đoàn đều rung động và tôi nhớ rõ một nhóm người gồm Leonardo, Griggs và nhiều nữa kéo tôi ra khỏi vuốt con thú.  

Khi tôi bình phục, tôi soi kiếng và lúc đó tôi nguyền rủa con sư tử ... Tôi nguyền rủa nó không tiếc lời vì... nó không giết tôi luôn. Rồi tôi chỉ còn một nguyện vọng: che kín bộ mặt ghê tởm này và sống kín một nơi không thân bằng quyến thuộc nào phát hiện được. Chúng tôi im lặng hồi lâu. Rồi Holmes đưa bàn tay dài của anh ta ra vuốt bàn tay của Eugenia với một mối thông cảm.  

- Bà là người đáng thương? - Holmes nói - Định mệnh quả khắt khe, khó dò. Còn Leonardo thì sau này ra sao?  

- Tôi không gặp lại anh ấy và không được tin tức gì về anh ấy. Có lẽ tôi sai lầm khi đã buông tha anh ấy chăng Nhưng tình yêu của người đàn bà không dễ dàng tan biến. Tuy anh ấy bỏ cho tôi bị sư tử quào, tuy anh ấy bỏ chạy thoát thân, nhưng tôi không nhẫn tâm đưa anh ấy đoạn đầu đài. Về phần tôi, tôi không lo nghĩ những gì xảy ra cho tôi. Còn gì hãi hùng hơn cuộc đời hiện tại của tôi.  

- Ông ấy đã chết?  

- Anh ấy chết đuối tháng trước. Tôi biết tin này qua báo chí.  

- Sau vụ án mạng, ông ấy đã làm gì với cái chuỳ 5 đinh?  

- Thưa ông Holmes, tôi chẳng biết gì cả. Nhưng gần chỗ chúng tôi đóng trại có một cái hầm khai thác đá vôi, nước đọng thành ao sâu. Có lẽ nó chìm xuống đáy ao này.  

- Ồ, giờ đây thì nó đâu còn gì quan trọng nữa. Nội vụ đã xếp lại rồi.  

- Đúng thế! - người đàn bà lặp lại. - Nội vụ đã xếp lại rồi!  

Chúng tôi đã đứng lên để ra về. Đột ngột, Holmes quay về hướng người đàn bà đau khổ.  

- Cuộc đời của bà không thuộc quyền của bà đâu - Holmes nói - Bà phải bảo trọng nó!  

- Nó còn ích lợi cho ai?  

- Tại sao bà nói xàm thế! Một bệnh nhân cam chịu số phận là một cái gương quý giá nhất trong cuộc đời thiếu nhẫn nại này.  

Cách đối đáp của bà Ronder thật hãi hùng. Bà tháo khăn voan, bước ra ánh sáng:  

- Tôi tự hỏi không biết ông có chịu đựng được nó không?  

Thật là kinh tởm. Không có từ ngữ nào để mô tả cái khuôn mặt khi nó đã hoàn toàn tan nát. Hai con mắt long lanh cực đẹp giữa một cảnh hoang tàn rợn người. Holmes đưa hai tay lên trong cử chỉ thương hại và phản đối thái độ trắng trợn đến tàn nhẫn của người đàn bà. Hai ngày sau, khi tôi đến nhà, Holmes hãnh diện chỉ cho tôi một lọ dung dịch màu xanh lơ để trên lò sưởi. Tôi cầm lên xe. Lọ có dán nhãn "thuốc độc". Một mùi hạnh nhân dễ chịu toát ra khi tôi mở nút.  

- Acid pruxic?  

- Đúng rồi - Holmes đáp - Nó được gửi tới bằng đường bưu điện. "Tôi gửi tới ông cái cám dỗ tôi. Tôi nghe theo lời ông chỉ dạy". Đó là bức thư gửi kèm Watson à, tôi tin rằng chúng ta có thể nói ra tên của người đàn bà can đảm đã gửi bưu kiện này.

BA SINH VIÊN

Trong năm 1895, Sherlock Holmes và tôi tới ngụ tại một thành phố lớn có nhiều trường đại học. Lúc đó chúng tôi trọ trong một nhà cho thuê có đồ đạc, gần một thư viện, để Holmes nghiên cứu một đề tài mà anh thích. Một buổi tối, chúng tôi tiếp ông Hilton Soames, giám thị và giảng viên tại trường trung học St. Luke.  

- Thưa ông Holmes, một chuyện rất khổ tâm vừa xảy ra ở St. Luke. Và nếu không có sự may mắn đưa ông tới đây thì không biết xoay sở ra sao.  

- Tôi đang bận, và mong không bị mất tập trung. Tôi thật lòng muốn ông nhờ tới cảnh sát thì hơn.  

- Không. Không thể được! Khi luật pháp đã khởi động thì chẳng có cách gì làm cho nó ngừng lại. Mà nhà trường thì không muốn bị mang tai mang tiếng. Ông là người duy nhất có thể giúp chúng tôi, thưa ông Holmes.  

Tính nết Holmes đã không khá hơn kể từ khi anh rời bỏ bầu không khí quen thuộc của con đường Baker. Không có những cuốn sách to lớn, những cuộc phân tích hóa học, sự bừa bộn quen thuộc của anh, thì anh không được thoải mái. Vả chăng anh đã nhún vai để bày tỏ một sự không đồng ý. Ngay đó người khách không ngừng tuôn ra những câu nói hối hả.  

- Thưa ông Holmes, ngày mai bắt đầu cuộc thi lấy học bổng. Tôi là một trong số các giám khảo về môn tiếng Hy Lạp. Tôi chọn đề thi là một bài dịch khá dài mà chưa một thí sinh nào dịch qua. Bản văn được đem đi in. Tất nhiên là thí sinh nào biết được và chuẩn bị bài làm thì sẽ có nhiều hi vọng hơn. Chính vì thế mà chúng tôi luôn luôn giữ thật kỹ.  

Hôm nay, vào lúc 3 giờ, các bản in thử được nhà in gửi đến tôi. Tôi phải đọc lại thật cẩn thận để bản văn được hoàn toàn đúng ngữ pháp. Tới 4 giờ rưỡi, tôi vẫn đọc chưa xong. Thế mà tôi lại bận đi dự tiệc ở bên ngoài trường. Tôi để các bản in thử trên bàn giấy và vắng mặt khoảng một tiếng đồng hồ. Những cánh cửa ở trường là cửa kép: bên ngoài làm bằng gỗ sồi và bên trong là lớp thảm bồi. Khi trở về, tôi ngạc nhiên khi thấy có chìa khóa gắn trong ổ. Thoạt đầu tôi ngỡ là mình để quên chìa khóa! Nhưng tôi lục tìm trong các túi, chìa khóa của tôi vẫn ở trong túi. Cái chìa khóa thứ hai do người hầu của tôi, tên là Bannister giữ. Ông này đã sống với tôi suốt 10 năm và là người ngay thẳng. Chìa khóa đó, đúng là chìa khóa của ông ta. Ông ta đã vào phòng tôi để xem tôi có muốn uống trà không, và khi đi ra, ông đã để quên... Bannister hẳn đã vào trong phòng vài phút sau khi tôi đã đi ra ngoài. Trong bất cứ ngày nào khác, sự việc đó không có gì quan trọng. Nhưng hôm nay, thì nó rất là thảm hại.  

Nhìn lên bàn giấy, tôi thấy ngay là đã có người lục lọi giấy tờ của tôi. Những bản in thử in trên ba tờ giấy dài. Tôi đã để chúng cùng một chỗ. Và giờ đây tôi thấy ba tờ nằm ba nơi: một tờ nằm trên sàn nhà, một tờ ở gần cửa sổ và một tờ nằm ở vị trí cũ.  

Holmes hơi nhổm người dậy.  

- Tờ thứ nhất nằm trên sàn nhà, tờ thứ hai ở gần cửa sổ và tờ thứ ba nằm ở vị trí cũ? - Anh hỏi.  

- Đúng vậy, thưa ông Holmes. Ông làm tôi kinh ngạc đấy! Làm sao ôn gbiết được điều đấy?  

- Mong ông cứ tiếp tục câu chuyện.  

- Trong một lúc lâu, tôi tự nhủ là Bannister đã tự tiện xem giấy tờ của tôi. Ông ta đã đoan chắc với tôi là không. Vậy thì có ai đó, khi đi ngang trước cửa phòng tôi, thấy cái chìa khóa và đoán rằng tôi đi ra ngoài nên người đó bước vào xem các bản in thử. Thật là một điều tệ hại, khi mà một sinh viên được biết trước đề thi, một lợi thế lớn của anh ta trong cuộc đua giành học bổng với các bạn đồng học.  

Bannister gần như ngất đi khi chúng tôi khám phá ra rằng những bản in thử bị đổi chỗ. Tôi đã cho ông ta uống vài giọt brandy và để ông ta ngồi xuống ghế rồi khám xét thật tỉ mỉ căn phòng. Trên cái bàn nhỏ gần cửa sổ, tôi tìm thấy những miếng gỗ vỏ bút chì được gọt. Còn có một mẩu ruột bút chì bị gãy. Rõ ràng là kẻ ranh mãnh đã chép vội chép vàng bài thi. Vì luống cuống y đã làm gấy cây bút chì và đã gọt lại.  

- Tuyệt vời. Ông đã gặp may! - Holmes kêu lên.  

- Chưa hết. Tôi có một cái bàn rất mới, được phủ bằng lớp da màu đỏ rất đẹp. Mặt bàn thật trơn và sạch. Thế mà tôi đã bắt gặp một vết đứt dài 3 inch; không phải là vết xước mà là một vết đứt; ở trên mặt bàn có một cục bột đen nhỏ, trong đó có vài hạt nhỏ giống như là mạt cưa. Tôi tin chắc là những dấu vết đó do kẻ chép đề thi để lại. Tôi không thấy dấu chân nào mà cũng chẳng thấy dấu vết nào khác có thể tìm ra đó là ai. Giữa lúc tôi hoàn toàn nản chí thì sực nhớ ra ông đang ở trong thành phố này. Xin hãy giúp tôi, ông Holmes! Cuộc thi sẽ phải bị hoãn lại cho đến khi nào các đề thi mới được in xong. Tất nhiên tôi phải giải thích lý do bằng cách khai ra sự thật. Như vậy một vụ tai tiếng sẽ nổ ra. Tôi mong muốn được dàn xếp công việc theo cách kín đáo nhất.  

- Tôi rất sung sướng được lo vụ này - Holmes nói, đứng lên và mặc áo choàng ngoài vào - Có ai tới thăm ông sau khi những bản in thử được đem tới không?  

- Có. Daulat Ras, một sinh viên người Ấn ở cùng trong một cầu thang; anh ta đã vào phòng và hỏi tôi vài chi tiết về cuộc thi.  

- Anh ta là thí sinh?  

- Vâng.  

- Lúc đó các tờ giấy để trên bàn giấy của ông?  

- Nó còn được quấn thành cuộn.  

- Nhưng người ta có thể đoán ra đó là những bản in thử?  

- Chắc chắn là như vậy.  

- Không có người nào khác vào phòng ông hay sao?  

- Không.  

- Có ai đoán biết là các đề thi dang có tại đó?  

- Không một ai, ngoại trừ nhà in.  

- Ông Bannister cũng không biết chứ?  

- Phải. Tất cả mọi người đều không biết!  

- Bây giờ Bannister ở đâu?  

- Ông ta bị bệnh. Tôi để ông ta lại trong ghế bành. Tôi vội vàng đi tới đây.  

- Ông để cửa mở à?  

- Tôi cất giấy tờ vào trong ngăn tủ có khóa.  

- Nếu người sinh viên Ấn Độ mà không đoán biết cuộn giấy đó là những bản in thử thì người đụng tới đề thi là người đã tình cờ bắt gặp, mà trước đó, họ không hề biết là đề thi có mặt ở đó.  

- Dường như vậy.  

Holmes cười một cách khó hiểu. Anh nói:  

- Vậy thì, hãy tới nhà ông xem sao, thưa ông Soames.  

Căn phòng được dùng làm văn phòng của ông giáo có một cửa sổ thấp, gắn lưới sắt, nó nhìn ra cái sân cũ của trường. Một cửa ra vào mở ra trên cầu thang đá. ông giám học ở tầng một. Ba sinh viên ở các tầng trên, mỗi người một tầng. Khi chúng tôi tới hiện trường, gần như đã vào đêm. Holmes quan sát kỹ khuôn cửa sổ từ mé ngoài.  

Anh đứng nhón chân, nghển cái cổ dài ra mà ngó vào trong phòng.  

- Hắn đã vào trong phòng qua ngả cửa chính. Màng lưới sắt của cửa sổ ắt hẳn đã không cho y đi xuyên qua đây - Ông giám học nói.  

- Thật vậy sao? - Holmes nói khi ném một tia nhìn kỳ lạ về phía thân chủ - Thế thì chúng ta nên vào trong xem xét tiếp.  

Ông giám học mở cửa chính ra và dẫn chúng tôi vào trong văn phòng. Chúng tôi đứng lại trên ngưỡng cửa trong lúc Holmes quan sát tấm thảm, anh nói:  

- Ở đây chúng ta chẳng tìm ra được dấu vết nào. Trời quá khô ráo! Ông Bannister dường như đã bình phục. Ông đã để ông ấy lại trong ghế bành. Cái ghế nào?  

- Cái ghế gần bên cửa sổ.  

- Giờ đây các ông có thể vào được rồi - Holmes nói. - Tôi đã xem xong tấm thảm. Trước hết chúng ta hãy quan sát cái bàn nhỏ. Hiển nhiên là người nọ đã lấy những bản in thử, tờ này tiếp tờ kia. Người đó ngồi vào cái bàn nhỏ gần bên cửa sổ, bởi vì từ đó, hắn có thể canh chừng việc trở về qua ngả cửa chính mà bỏ trốn.  

- Sự thật thì hắn không thể làm thế. Bởi vì tôi trở về qua ngả cửa nhỏ, phía bên kia.  

- A, đó là điều rất hay! Xin hãy cho tôi xem ba tờ giấy thi. Không có dấu vết ngón tay. Không! Thoạt đầu hắn lấy tờ giấy này và đã chép. Hắn cần phải mất bao nhiêu thời gian để làm công việc này? Tối thiểu cũng mất 15 phút. Đoạn hắn vứt tờ giấy đã chép xong xuống đất, rồi lấy tờ thứ hai. Hắn hẳn đã chép được một nửa của tờ giấy thứ hai thì thấy ông về, nên hắn phải bỏ trốn, rất hấp tấp, bởi vì hắn không kịp xếp lại các tờ giấy này như cũ. Ông không nghe thấy những tiếng chân hối hả trên cầu thang khi ông trở về qua ngả cửa ngoài sao?  

- Không.  

- Hắn đã viết hết sức vội vã nên làm gấy đầu bút chì, và hắn phải vót lại. Điều này rất đáng chú ý, Watson. Cây bút chì này có một chiều dài bình thường và ruột bút chì thật mềm. Vỏ bên ngoài màu xanh đậm. Tên nhà sản xuất được khắc bằng chữ nhũ màu bạc. Cái mẩu còn lại dài gần 1 inch. Thưa ông Soames, hãy tìm một cây bút thuộc loại đó, và ông sẽ tìm ra được người cần tìm. Tôi còn dám nói rằng hắn có một con dao nhíp lớn, rất cùn.  

Ông giáo sư hơi bị choáng ngợp trước dòng thác những thông báo đó.  

- Tôi theo kịp ông về một số điểm, nhưng về cái chiều dài thì ...  

Holmes đưa cho ông ta coi một mẩu vỏ bút chì trên có những chữ NN mà không có bất cứ một chữ nào khác tiếp theo sau.  

- Ông thấy chứ?  

- Không ngay đến giờ đây cũng chưa ...  

- Anh Watson, những chữ NN này có thể là gì? Hai chữ cuối của một từ. Anh đã biết rằng Johann Faber là nhà sản xuất bút chì. Cây bút chì còn lại một khúc ngắn tiếp theo chữ Johann ...  

Anh nghiêng cái bàn nhỏ dưới ánh sáng đèn điện.  

- Nếu người đó viết trên giấy mỏng thì tôi sẽ tìm thấy dấu vết kiểu chữ của y trên cái mặt phẳng nhẵn bóng này. Nhưng không, tôi không thấy gì hết. Hãy thử xem cái bàn giấy của ông. Tôi đồ chừng đám nhỏ này là đống chất đen lợt mà ông đã nói với tôi. Hình chóp và rỗng. Ông nói đúng, những hạt mạt cưa ở bên trong. Điều này thật là đáng chú ý! Và vết đứt, đúng là một vết rách, bắt đầu bằng một vết xước mỏng và chấm dứt bằng một cái lỗ rách xơ ra. Cánh cửa này dẫn tới đâu?  

-Vào phòng ngủ của tôi.  

- Kể từ lúc xảy ra câu chuyện, ông có vào trong phòng đó lần nào không?  

- Không. Ngay tức khắc, tôi tới đằng nhà ông.  

-Tôi mong muốn được xem qua. Căn phòng thật duyên dáng, với cái kiểu kiến trúc cổ này! Chờ một chút, để tôi quan sát cái sàn nhà này... Tôi không thấy gì cả. Còn tấm ri-đô này? Ông treo quần áo ở đằng sau. Nếu ai đó muốn nấp trong căn phòng này thì y sẽ trốn vào đây, bởi cái giường thì quá thấp và phòng vệ sinh thì không đủ rộng. Chẳng có ai đâu, chắc vậy?  

Theo cái cách mà Holmes nhấc tấm ri-đô lên, tôi hiểu là anh sẵn sàng ứng phó với mọi sự. Thật ra, góc nhà đó không chứa đựng cái gì khác hơn là vài bộ quần áo treo trên những cái mắc áo. Holmes xoay gót và bất thình lình cúi xuống.  

- Này! Cái gì đây nhỉ? - Anh reo lên.  

Đó là một cái tháp nhỏ chất đen, giống hệt với cục nhỏ mà chúng tôi đã thấy trên bàn ở văn phòng. Holmes nhặt lên và quan sát nó.  

- Người khách của ông đã để lại những dấu vết ở trong phòng ngủ cũng như văn phòng ông đây này.  

- Hắn vào đây để làm gì?  

- Ông quay về theo một ngả mà hắn không tiên liệu được, và hắn chỉ được báo động khi ông đến trước cánh cửa. Hắn bèn quơ lấy tất cả những gì có thể tố giác hắn và hối hả chui vào phòng ngủ của ông đế trốn.  

- Vậy trong suất thời gian tôi nói chuyện với Bannister trong văn phòng, người đó đã ở trong phòng ngủ của tôi hay sao? Thưa ông Holmes, liệu có khả năng nào khác được chúng ông chưa quan sát cửa sổ phòng tôi.  

- Những ô vuông hình thoi, sườn bằng que chỉ, ba miếng kính rời, một xoay trên những bản lề khá lớn đủ cho một người có thể lách mình qua.  

- Đúng vậy. Và nó mở ra một góc sân. Người đó đã vào phòng qua ngả cửa sổ, để lại những dấu vết trong phòng mà y đã đi qua, đoạn bỏ theo cửa chính để ngỏ mà ra ngoài.  

Holmes lắc đầu nói:  

- Ông đã bảo với tôi rằng có ba sinh viên sử dụng cái cầu thang này và thường hay đi ngang trước cửa phòng ông?  

- Vâng.  

- Và cả ba đều dự thi? .  

- Vâng.  

- Ông có nghi ngờ người nào không?  

- Đây là một vấn đề rất tế nhị.  

- Tôi chẳng muốn phát biểu chút nào khi chưa có chứng cớ.  

- Tầng lầu một là anh Gilchrist, một người hoàn hảo và là một lực sĩ đẹp. Anh ta chơi trong đội bóng bầu dục và khúc côn cầu của nhà trường, là tay vô địch môn chạy vượt rào và nhảy xa. Thân phụ anh là ngài Jabez Gilchrist, một nhà quý tộc bị phá sản trên các trường đua ngựa. Người con trai đó nghèo nhưng làm việc chăm chỉ và thông minh. 

Tầng lầu hai là nơi Daulat Ras cư ngụ. Anh chàng Ấn Độ này rất trầm tĩnh và kín đáo. Anh học tập tốt, nhưng tiếng Hi Lạp thì yếu. Anh chăm học và có phương pháp.  

Tầng lầu chót có Miles McLaren. Anh ta rất siêng học, một trong những học sinh sáng suốt nhất của trường. Nhưng anh ta lại thất thường, nghịch ngợm, vô nguyên tắc. Trong năm thứ nhất, anh ta suýt bị đuổi học vì một vụ đánh bài. Trong suốt quý này, anh ta đã đi chơi rong và ắt hẳn anh phải nhắm tới kỳ thi với nỗi kinh hoàng.  

- Vậy là ông nghi anh ta?  

- Tôi không dám đi xa tới thế. Nhưng một người có hành vi như thế sẽ dễ bị người khác nghi ngờ.  

- Giờ đây, tôi muốn gặp ông Bannister.  

Đó là một người bé nhỏ, trạc 50 tuổi: Nước da trắng, không râu; tóc hoa râm, mặt tròn trịa, có thoáng qua những chứng giật gân mặt và các ngón tay cứ luôn luôn bắt chéo vào nhau rồi lại buông ra.  

- Chúng tôi đang điều tra về cái vụ không may mắn đó, Bannister! - Chủ ông ta nói.  

- Vâng, thưa ông.  

- Hẳn ông đã để cái chìa khóa lại trên cửa? - Holmes hỏi ông ta.  

- Vâng, thưa ông.  

- Phải chăng là sự khác thường, khi ông lơ đễnh đúng vào cái ngày mà những tài liệu lại để ở trong phòng?  

- Thật hoàn toàn đáng tiếc, thưa ông.  

- Ông vào đây lúc mấy giờ?  

- Khoảng bốn giờ rưỡi, giờ chủ tôi dùng trà.  

- Ông ở lại trong bao lâu?  

- Khi thấy ông chủ không có ở đây, tôi bỏ đi ngay.  

- Ông có nhìn vào các giấy tờ để trên bàn không?  

- Không, thưa ông.  

- Làm thế nào mà ông lại có thể để cái chìa khóa ở trong ổ khóa?  

- Tôi đang bưng khay trà. Tôi tự nhủ là sẽ quay lại lấy chìa. Thế rồi tôi quên luôn.  

- Cánh cửa bên ngoài có một bộ phận đóng tự động không?  

- Không, thưa ông!  

- Thế là nó vẫn mở suốt trong thời gian đó.  

- Vâng.  

- Bất cứ ai từ trong phòng cũng có thể đi ra bằng cửa đó.  

- Vâng.  

- Khi ông chủ trở về và cho gọi ông, thì ông rất bối rối?  

- Vâng. Tôi hầu hạ ở đây đã lâu và một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra. Tôi gần như bị ngất xỉu.  

- Tôi biết. Ông ngồi tại đâu khi ông bắt đầu cảm thấy khó thở?  

- Ở đây gần bên cánh cửa.  

- Thật là kỳ cục. Ông tới ngồi trong cái ghế bành đằng kia, trong góc này. Tại sao ông không ngồi ở những cái ghế khác?  

- Đối với tôi điều đó không có gì là quan trọng. Miễn sao tôi được ngồi xuống...  

- Tôi thật sự tin là anh ta không dính dấp vào vụ này, thưa ông Holmes - Giám học nói.  

- Ông vẫn ngồi đó khi chủ ông đã bỏ đi?  

- Chỉ trong một hay hai phút. Đoạn tôi đóng cửa lại rồi leo lên phòng tôi.  

- Cám ơn, thế là đủ - Holmes trả lời - Ồ, còn một điều này nữa: ông không nói với một trong ba sinh viên rằng có một biến cố vừa xảy ra chứ?  

- Tôi không nói một lời nào.  

- Rất tốt. Giờ đây, chúng ta hãy đi dạo trong chốc lát ngoài sân.  

Ba ô vuông màu vàng lấp lánh ánh sáng ở phía trên chúng tôi .  

- Ba con chim của ông đều đang ở trong tổ - Holmes nói khi ngước lên nhìn - Này chuyện gì xảy ra vậy? Một trong ba người tỏ ra khá dao động?  

Đó là người sinh viên Ấn Độ chợt hiện ra trên bức mành cửa. Anh ta đi đi lại lại trong phòng.  

- Tôi muốn được nhìn thấy họ gần hơn một chút - Holmes nói.  

- Dạ được. Mấy phòng đó nằm trong cái phần cổ xưa nhất của nhà trường và thỉnh thoảng chúng tôi đưa khách tới đó tham quan. Các ông hãy cùng đi với chúng tôi.  

- Cần nhất là đừng có gọi tên! - Holmes thì thầm khi chúng tôi gõ cửa phòng Gilchrist.  

Một thanh niên to con, dong dỏng cao, mái tóc màu gai, mở cửa và ngỏ lời chúc mừng khi được biết mục đích chuyến viếng thăm của chúng tôi. Phòng anh không thiếu những di tích của lối kiến trúc xưa. Holmes bị lôi cuốn mãnh liệt bởi một trong những di tích đó, khiến muốn anh vẽ lại trên cuốn sổ tay; anh làm gẫy bút chì, hỏi mượn chủ nhà một cái bút chì và sau cùng hỏi mượn một con dao nhíp dể gọt lại. Việc đó xảy ra trong phòng của người sinh viên Ấn Độ. Nhưng mưu toan thứ ba của chúng tôi bị thất bại. Cánh cửa không mở ra và chúng tôi chỉ nhận được một tràng những lời lẽ kém nhã nhặn.  

- Tôi cóc cần biết các ông là ai! Đi chỗ khác mà xem! Tôi bận học thi, các ông nghe rõ chưa?  

- Một người không vui tính - Người hướng dẫn chúng tôi nói, trong lúc xuống cầu thang - Tất nhiên anh ta không biết tôi là người đã gõ cửa. Tuy nhiên anh ta cư xử một cách bất lịch sự và đáng nghi ngờ.  

Câu trả lời của Holmes lại khá bất ngờ:  

- Ông có thể cho tôi biết chiều cao đích xác của anh ta không?  

- Anh ta cao hơn người Ấn Độ nhưng thấp hơn Gilchrist? Tôi nghĩ là 5 bộ 6...  

- Điều đó rất quan trọng. Và giờ đây, thưa ông Soames, xin chúc ông một đêm an lành - Holmes nói.  

Người hướng dẫn chúng tôi bày tỏ nỗi ngạc nhiên và lòng tuyệt vọng của ông.  

- Lẽ nào ông lại bỏ rơi ông một cách đột ngột đến thế. Ngày mai thi rồi. Tối nay tôi buộc phải làm một cái gì đó minh bạch, dứt khoát. Tôi không thể giữ nguyên kỳ thi nếu người ta đã đụng vào những bản in thử đó.  

- Hãy cứ giữ nguyên. Sáng mai tôi sẽ đến đây thật sớm và chúng ta sẽ bàn lại vấn đề. Rất có thể là lúc đó tôi đã nắm được những yếu tố mới, khả dĩ giúp ông thoát ra khỏi cảnh ngộ này. Từ đây tới đó, ông đừng thay đổi gì cả.  

- Được lắm, thưa ông Holmes.  

- Ông cứ yên tâm. Tôi đem về hai cục hình chóp đen cùng những mẩu vỏ bút chì. Xin chào ông.  

Khi ra tới sân, chúng tôi quan sát những khuôn cửa sổ một lần nữa. Người Ấn Độ vẫn tiếp tục sải bước trong phòng. Hai người kia thì không nhìn thấy. Khi ra tới đầu đường, Holmes hỏi:  

- Anh Watson, một trò chơi ba người. Anh hãy chọn lựa đi! Người nào?  

- Cái nhân vật thô bạo ở trên cao. Anh ta là người "có tiếng" hơn cả. Cái anh chàng Ấn Độ cũng khéo vờ vĩnh. Tại sao anh ta lại cứ sải bước trong phòng.  

- Rất nhiều người đi bách bộ để thử cố học thuộc lòng một cái gì đó.  

- Anh chàng đã nhìn chúng ta với sự chán ghét...  

- Nếu có một bọn người lạ đột nhập vào phòng anh vào buổi tối trước ngày thi, anh sẽ có thái độ như thế nào? Cái bút chì, con dao nhíp, tất cả đều được hết. Duy gã nọ là bắt tôi phải suy nghĩ.  

- Gã nào?  

- Bannister. Ông ta chơi trò gì?  

- Tôi có cảm tưởng rằng ông ta rất thật thà.  

- Cả tôi cũng thế. Và đó chính là điều khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao một người lương thiện đến thế mà lại...? Đây là một cửa hàng giấy bút lớn: Chúng ta tìm kiếm từ nơi này.  

Trong thành phố chỉ có bốn cửa hàng giấy bút lớn. Holmes đưa những mẩu vỏ bút chì ra và hỏi mua thứ bút đó. Lần nào người ta cũng đưa ra một thứ bút mà Holmes tìm kiếm. Bạn tôi nhún vai với một cử chỉ nhẫn nhục vui vẻ.  

- Không may rồi. Chúng ta chẳng đi tới đâu cả. Chín giờ rồi bạn ơi!  

Sau bữa ăn tối muộn màng, Holmes không đã động gì tới vụ đó nữa. Tám giờ sáng, anh vào phòng tôi.  

- Tới giờ đi St. Luke rồi. Anh có thể bỏ bữa điểm tâm được không?  

- Được thôi, có gì mới không?  

- Có.  

- Anh rút ra được những kết luận gì?  

- Tôi đã giải quyết xong vấn đề. Tôi ra khỏi giường hồi 6 giờ, làm việc cật lực trong hai tiếng đồng hồ và đi bộ 5 dặm đường để đi tìm một cái gì đó. Anh hãy coi cái này!  

Trên lòng bàn tay Holmes có ba cái chóp nhỏ bằng đất sét đen, sền sệt.  

- Ngày hôm qua chỉ có hai thôi mà?  

- Và sáng hôm nay, có thêm một cái nữa. Nơi xuất phát của cái thứ ba cũng là nơi xuất phát của hai cái kia. Nào, chúng ta hãy đi gặp ông bạn Soames.  

Ông thầy đáng thương đang ở trong một tình trạng bồn chồn trong phòng ngủ của ông. Chỉ còn vài giờ nữa là cuộc thi bắt đầu và ông còn đang tự hỏi không biết nên giải thích tất cả hay cứ để mặc cho kẻ phạm tội dự thi. Ông nhạy ùa về phía Holmes với hai cánh tay dang thẳng, nói:  

- Tôi sợ ông nản chí. Cuộc thi có tiến hành không?  

- Cứ tiến hành.  

- Nhưng, tên vô lại đã..?  

- Hắn sẽ không dự thi.  

- Ông biết hắn là ai?  

- Biết. Bởi vụ này cần phải được giữ kín, nên chúng ta sẽ lập ra một thứ như "tòa án đặc biệt" nhỏ. Mong ông ngồi đây, Watson ngồi vào đây. Tôi ngồi vào ghế bành của ông ở chính giữa. Chúng ta đủ oai nghiêm để làm cho một tâm hồn phạm tội phải sững người vì sợ hãi? Xin ông vui lòng gọi chuông.  

Bannister vào phòng và suýt té ngửa vì ngạc nhiên và hốt hoảng trước cảnh đó. Holmes nói với Bannister:  

- Mong ông vui lòng đóng cánh cửa đó lại. Giờ đây, ông hãy nói về việc đã xảy ra hôm qua.  

Bannister tái mét tới tận chân tóc:  

- Tôi đã thưa tất cả rồi.  

- Ông không còn gì để nói thêm sao?  

- Không, thưa ông.  

- Trong trường hợp này, tôi phải gợi ra với ông vài ý kiến. Ngày hôm qua khi ngồi trên cái ghế bành này, có phải ông đã chọn cái chỗ đó cất để ý che giấu một đồ vật có thể tiết lộ người đã vào phòng này không.  

Bộ mặt Bannister tím ngắt.  

- Không, thưa ông.  

- Đó chỉ là một gợi ý? - Holmes nói với giọng ngọt ngào - Tôi không có khả năng chứng minh điều đó. Nhưng có điều chắc chắn là ngay khi ông Soames vừa xoay lưng đi, thì ông đã đưa người trốn trong phòng ngủ ra ngoài.  

Bannister liếm cập môi khô:  

- Không có ai cả, thưa ông.  

- A! Thật đáng tiếc! Cho tới giây phút này, ông vẫn có thể nói ra sự thật, nhưng tôi biết là ông đã nói dối.  

Bộ mặt của Bannister chỉ còn bộc lộ một sự thách thức buồn bã.  

- Không có ai cả, thưa ông.  

- Coi nào, ông Bannister.  

- Không, thưa ông, không có ai cả.  

- Thôi được, ông hãy tời đứng gần bên cửa ra vào phòng ngủ. Bây giờ, thưa ông Soames, tôi mong ông leo lên phòng chàng trai Gilchrist, yêu cầu cậu ta xuống đây.  

Một lát sau, ông thầy cùng với cậu sinh viên bước vào. Đó là một thanh niên đẹp trai, lực lưỡng, mảnh và cao, mềm mại, dáng đi linh hoạt, vui mắt, anh ta có bộ mặt cởi mở. Cặp mắt xanh của anh chăm chú nhìn chúng tôi trước khi đặt lên Bannister với một dáng vẻ rụng rời.  

- Hãy đóng cửa lại - Holmes nói - Giờ đây, ông thấy là chúng ta hoàn toàn tách biệt với bên ngoài. Không một ai nghe chúng ta nói chuyện. Vậy thì chúng ta có thể nói chuyện với tất cả lòng thẳng thắn. Chúng tôi muốn biết, làm thế nào mà ông, một người trọng danh dự, lại phạm vào một lỗi lầm như trong ngày hôm qua?  

Chàng thanh niên lảo đảo và ném lên Bannister một tia nhìn oán trách.  

- Nhưng, thưa ông Gilchrist, tôi đã không nói gì hết - Người đầy tớ kêu lên.  

- Nhưng bây giờ thì ông đã nói - Holmes trả lời - Coi nào, chàng trai! Sau cái điều vừa thoát ra khỏi cổ họng Bannister, địa vị của ông hẳn là bớt đẹp. Ông chỉ còn có một cơ may: Thành thật nhận lỗi.  

Trong một lúc, Gilchrist giơ một bàn tay lên thử chế ngự mối cảnh xúc và bất thình lình anh ta quỳ gối xuống bên cạnh bàn, vùi mặt vào trong hai bàn tay và khóc nức nở. Holmes dịu dàng nói:  

- Coi nào, coi nào. Lỗi lầm là bản chất của con người, có thể anh thích để cho tôi nói thay anh? Anh sẽ đính chính nếu tôi bị lầm lẫn. Anh đồng ý chứ? Tốt. Thưa ông Soames, kể từ lúc ông nói rằng không có ai biết những bản in thử ở trong văn phòng ông, thì vụ này đã làm cho tôi thích thú. Chúng ta có thể gạt bỏ người thợ in, bởi vì nếu muốn, anh ta có thể chép những bản văn đó ngay trong nhà mình. Tôi cũng loại bỏ người Ấn Độ: Nếu những bản in thử còn quấn thành cuộn, anh ta không thể đoán được rằng, đó là cái gì. Mặt khác, có thể có sự trùng hợp như thế này: Một người nào đó đã vào trong văn phòng ông và tình cờ nhìn thấy đề thi đang nằm ở trên bàn! Tôi cũng gạt bỏ luôn giả thiết đó.  

Cái người vào đây phải là người đã biết nơi này đang có bản in thử. Vì sao người ấy biết được?  

Khi tôi tới gần bàn giấy của ông, tôi quan sát khung cửa sổ. Ông đã làm tôi cười khi ông tin rằng có một ai đó đã lẻn vào văn phòng bằng ngả đó. Một giả thiết như thế thật là phi lý. Tôi đã tính chiều cao cần thiết mà người đó có thể đi ngang cửa nhà này và người ấy phải biết trước loại giấy tờ nào đang nằm trên bàn ông. Tôi cao 6 bộ và chỉ cần hơi gắng sức là tôi đã trông thấy xấp giấy trên bàn. Vậy, nếu một trong ba sinh viên của ông, người có thân hình thật cao, là mục tiêu của sự tìm kiếm. Tuy nhiên, lúc đứng trong văn phòng, tôi không rút ra được điều gì, nhưng ông đã mô tả với tôi rằng Gilchrist là một nhà vô địch chạy vượt rào và nhảy xa . Thế là tôi hiểu tất cả. Nhưng tôi cần có những chứng cớ xác minh.  

Chàng thanh niên này đã tập nhảy suốt buổi chiều trên sân thể thao. Anh trở về, mang theo đôi giày nhảy, là thứ có gắn những mũi nhọn, như ông đã thấy. Khi đi ngang qua cửa phòng ông, nhờ thân hình cao, anh đã trông thấy nhưng bản in thử đó để trên bàn, còn trên cánh cửa thì có chìa khóa để quên. Một sự thôi thúc đẩy anh vào phòng và để xem coi đó có phải là đề thi của ngày hôm sau không? Nếu bị bắt gặp, anh có thể nói rằng anh tới để hỏi ông thầy một câu gì đó.  

Khi thấy đó đúng là đề thi, thì anh đành chịu thua sự cám dỗ. Anh để đôi giày có gắn mũi nhọn lên bàn. Thế anh đã để cái gì lên trên cái ghế bành kê gần bên cửa sổ này?  

- Đôi bao tay - Chàng trai trả lời.  

Holmes nhìn Bannister với tư thế của người thắng cuộc.  

- Anh đặt đôi găng tay lên thành ghế và lấy từng tờ giấy để chép lại. Anh nghĩ rằng ông thầy sẽ trở về qua lối cổng chính, và anh sẽ trông thấy. Thế nhưng ông thầy lại trở về qua cổng nhỏ. Bất thình lình, anh nghe thấy tiếng gõ của thầy ở đằng sau cánh cửa. Anh vội vàng quơ lấy đôi giày nhảy và bỏ trốn trong phòng ngủ, bỏ quên đôi bao tay trên thành ghế. Vết khắc trên mặt bàn in nhẹ ở một bên, nhưng lại hằn rõ trong hướng đi tới phòng ngủ. Điều đó cho thấy thủ phạm đã trốn trong phòng. Đất bám chung quanh một mũi nhọn vương lại trên bàn, một mẩu đất thứ hai tuột ra và rơi xuống trong phòng. Sáng nay tôi đã tới sân nhảy và thấy hố đó đầy thứ đất đen dính chắc này. Tôi mang về một ít và tôi cũng ghi nhận rằng người ta đã rắc mạt cưa lên trên mặt đất để các lực sĩ khỏi bị trượt chân. Tôi nói có đúng không, ông Gilchrist?  

Chàng sinh viên đứng lên.  

- Đúng, thưa ông.  

- Nhưng anh không có gì để nói thêm sao? - Ông Soames kêu lên.  

- Có, thưa thầy. Tôi có nhiều điều để nói thêm. Nhưng sự khám phá ra đó đã làm tôi kinh ngạc. Tôi có một lá thư gửi thầy. Tôi viết vào giữa một đêm mà lương tâm không yên ổn. Thư đó đây. Đây là câu đầu tiên: "Tôi quyết định không dự thi; người ta đã đề nghí với tôi một chỗ là trong sở cảnh sát ở Rhodésia; tôi sẽ sang Nam Phi ngay tức khắc".  

- Tôi thật sung sướng được biết anh không có ý định lợi dụng một sơ sót của tôi. Nhưng tại sao anh lại đổi ý?  

Gilchrist chỉ vào Bannister nói:  

- Đây là người đã đưa tôi trở lại con đường ngay thẳng.  

- Coi nào, Bannister! - Holmes kêu lên - Sau điều tôi vừa giải thích, ông hiểu rõ rằng chính ông đã để cho chàng trai này đi ra khỏi phòng, bởi ông đã ở lại một mình trong phòng và ông đã khóa cửa lại sau khi bỏ đi. Ông có muốn cho chúng tôi biết tại sao ông hành động như vậy không.  

- Thưa ông, một thời, tôi đã phục vụ như người quản gia nơi nhà thân phụ của chàng trai. Khi cụ bị phá sản, tôi trở thành nhân viên thuộc trường này, nhưng tôi không bao giờ quên được ông chủ cũ. Tôi đã chăm sóc con trai cụ hết sức mình để tưởng nhớ một thời êm đềm xa xưa. Hôm qua, khi tôi vào trong văn phòng này, cái đầu tiên mà tôi trông thấy, đó là đôi bao tay của cậu đặt trên ghế bành. Tôi biết, nếu ông giám học cũng trông thấy chúng, là cậu bị phát hiện. Thế nên tôi bèn "ngất xỉu" trên cái ghế bành này và không gì có thể làm tôi động đậy, mãi cho tới khi ông Soames đi ra. Người chủ trẻ của tôi đã rời khỏi chỗ ẩn nấp và thú nhận với tôi. Thuở xưa, tôi đã từng đặt cậu ấy ngồi trên đầu gối tôi. Về phần tôi, thật là tự nhiên khi tôi làm đủ mọi cách để cứu cậu ấy? Mặt khác, tôi nói với cậu rằng chẳng nên làm như thế. Ông có chê trách tôi không, thưa ông Holmes.  

Holmes đứng lên nồng nhiệt nói với Bannister và ông Soames rằng vấn đề đã được giải quyết êm đẹp. Quay sang chàng trai, Holmes tiếp:  

- Về phần anh, người bạn trẻ, tôi tin chắc rằng ở một chân trời xa xôi kia, một tương lai xán lạn đang chờ đón anh.

CÔ GÁI ÐI XE ÐẠP

Chúng tôi đã làm quen với cô Violet Smith vào ngày thứ Bảy, ngày 23-4-1895. Chuyến tới thăm của cô đã làm cho Holmes phật ý, bởi vì vào lúc đó anh đang bị ngập trong một vấn đề rắc rối của vụ John Vincent Harden, nhà triệu phú thuốc lá nổi tiếng. Anh luôn muốn tập trung giải quyết vụ án, không bị xao lãng bởi những việc khác. Nhưng cô gái cho biết chỉ có vũ lực mới có thể đuổi cô ra khỏi căn hộ chúng tôi, trước khi cô nói ra tất cả. Holmes đành mời cô ta ngồi xuồng.  

- Cô tới đây không phải vì vấn đề thuộc về sức khỏe. Một người đi xe đạp như cô hẳn phải có thừa sức mạnh.  

Ngạc nhiên, cô kiểm tra lại thân mình từ đầu đến chân.  

- Tôi thấy chỗ sần sùi nhẹ ở một gót chân, gây ra bởi sự chà sát với bàn đạp.  

- Vâng, tôi đi xe đạp nhiều, và điều này có liên quan tới việc đã đưa tôi tới đây.  

Bạn tôi nắm lấy bàn tay đã tháo bao tay của cô gái và quan sát nó với vẻ chăm chú.  

- Cô tha lỗi cho. Nhưng đó là điều thuộc phạm vi công việc của tôi - Anh nói, buông bàn tay cô ra - Suýt nữa thì tôi lầm cô với một thư ký. Cô không đánh máy, cô là nhạc sĩ. Anh thấy chứ, Watson, đầu ngón tay giống như cái bay? Ðó là một nét chung cho tất cả mọi nghề. Nhưng lại có tính tinh thần - Anh nói thêm khi dịu dàng nâng bàn tay về phía có ánh sáng - Tiểu thư đây là một nhạc sĩ.  

- Vâng, thưa ông Holmes. Tôi là cô giáo dạy nhạc...  

- ...Ở nông thôn, xét theo nước da mặt cô.  

- Vâng, ở gần Farnham, hạt Surrey.  

- Một vùng tuyệt đẹp và lý thú. Anh còn nhớ chứ, Watson? Nhưng, thưa cô Violet, chuyện gì đã xảy ra?  

- Cha tôi đã mất. Tên ông là James Smith, nhạc trưởng của nhà hát Imperial cổ xưa. Mẹ tôi và tôi không có một bà con thân thuộc nào còn sống, ngoại trừ chú tôi, ông Ralph Smith, là người bỏ sang châu Phi 25 năm trước và từ đó bặt tin. Khì cha tôi mất, chúng tôi rất nghèo khó. Nhưng một bữa, người ta báo cho chúng tôi biết là có một lời nhắn tin, đăng trên tờ Times, tìm địa chỉ của chúng tôi. Chúng tôi vội vã đến ngay văn phòng luật sư được đăng trong lời nhắn tin. Ở đó, chúng tôi gặp lại ông Carruthers và ông Woodley là hai người vừa từ Nam Phi trở về. Họ bảo rằng chú tôi là bạn họ, ông đã chết vài tháng trước đó trong cảnh nghèo khó và trước phút lâm chung, ông có yêu cầu họ tìm kiếm những người bà con, xem họ có túng bấn không. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên là ông chú đó, trong lúc còn sống, chẳng bao giờ quan tâm tới chúng tôi nay sao lại ân cần đến thế, ông Carruthers giải thích rằng chú tôi chỉ mới hay tin về cái chết của ông anh và rằng chú ấy cảm thấy có bổn phận đối với mẹ con tôi.  

- Xin lỗi - Holmes ngắt lời - Cuộc nói chuyện đó xảy ra từ bao giờ?  

- Từ tháng 12 năm ngoái. Cách nay 4 tháng.  

- Xin vui lòng kể tiếp.  

- Ông Woodley cho chúng tôi cái cảm tưởng về một nhân vật xấu. Ông ta luôn luôn nháy mắt với tôi... Ðó là một người trẻ tuổi, bộ mặt phì nộn có một hàng ria màu đỏ, mái tóc ép sát, chải một đường ngôi ngay chính giữa. Tôi dám nói là anh Cyril chẳng ưa gì khi thấy tôi gặp ông ta.  

- Ờ, thế ra ý trung nhân của cô tên là Cyril - Holmes cười, nói.  

Thiếu nữ đỏ mặt, rồi bắt đầu cười.  

- Vâng, Cyril Morton, kỹ sư điện. Chúng tôi sẽ làm lễ thành hôn vào cuối mùa hè. Ông Woodley là một người gây ác cảm một cách thảm hại, nhưng ông Carruthers thì dễ ưa hơn. Ông ta lớn tuổi hơn, tóc nâu, không để râu và rất kín đáo. Ông ta có những thái độ lịch sự và một nụ cười dễ thương. Ông ta hỏi về cuộc sống của chúng tôi, mời tôi dạy nhạc cho cô con gái của ông. Tôi trả lời là tôi không muốn xa mẹ tôi.  

Ông nói rằng tôi có thể trở về nhà vào cuối tuần. Ông đề nghị thù lao hàng năm là một trăm đồng bảng. Tôi đồng ý và tới nhà ông ta, ở Chiltern Grange, cách Farnham chừng 6 dặm.Ông Carruthers góa vợ, nhưng có một bà quản gia luống tuổi là bà Dixon, coi sóc công việc trong nhà. Con gái ông thật duyên dáng. ông rất yêu âm nhạc. Mỗi cuối tuần, tôi đều về thăm mẹ. Nhưng rồi gã Woodley ria đỏ tới sống với ông trong một tuần. Tuần đó đối với tôi dài như ba tháng. Hắn tán tỉnh tôi, khoe khoang của cải, bảo rằng nếu tôi ưng lấy hắn, thì tôi sẽ có những viên kim cương đẹp nhất London. Sau cùng, khi nghe trả lời rằng tôi không muốn có quan hệ gì với hắn thì hắn đã ôm chặt lấy tôi, thề sẽ không buông ra chừng nào tôi chưa hôn hắn. Lúc đó, ông chủ tôi vào phòng và giật tôi ra khỏi vòng tay con quỷ đó. Gã lưu manh quay lại xô chủ nhà ngã xuống và đánh ông bị thương. Ngày hôm sau, ông Carruthers tới ngỏ lời xin lỗi tôi và hứa rằng sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện tương tự như vậy. Kể từ đó, tôi không còn gặp lại con quỷ ấy nữa.  

Thưa ông Holmes, tuần nào cũng vậy, trưa thứ Bảy tôi đạp xe về tới nhà ga Farnham để đáp chuyến tàu 12 giờ 22 đi London. Từ Chiltern Grange đến Farnham có đoạn đường khoảng 1 dặm là trảng cỏ, nằm giữa cánh rừng vây bọc lâu đài Charlington. Không thể nào tìm thấy ở bất cứ nơi đâu một khúc đường hoang vu hơn nơi này. Không có một ai ở xung quanh đó cho đến đoạn đồi Crooksbury. Hai tuần trước, khi qua đó, lúc tình cờ quay đầu lại, tôi thấy một người đi xe đạp ở cách sau tôi chừng 200 yard. Đó là một người đàn ông trung niên và có râu ngắn. Tôi quay nhìn trở lại trước khi tới Farnham, nhưng người đó đã biến mất. Khi đi làm vào ngày thứ Hai, tôi lại thấy người đi xe đạp đó trên cùng đoạn đường ấy. Tuần vừa qua, tôi còn ngạc nhiên hơn nữa vì tôi lại thấy người đó vào trưa thứ Bảy và sáng thứ Hai. Chắc chắn là ông ta luôn luôn đạp sau tôi một khoảng cách nào đó. Thật là kỳ lạ! Tôi kể chuyện cho ông Carruthers nghe, ông tỏ ra quan tâm và sau đó bảo tôi rằng ông đã đặt mua một con ngựa và một cỗ xe độc mã nhẹ, để sau đó, tôi không còn đi trên những con đường hoang vắng mà không có người đi theo.  

Lẽ ra con ngựa và cỗ xe phải có trong tuần này rồi nhưng không rõ lý do gì mà hàng lại chưa được giao và tôi vẫn phải đạp xe đi tới nhà ga. Sáng hôm nay, khi tới ngang đoạn có cái khoảng trống, người đi xe đạp đã có mặt! Ông ta đứng cách tôi một khoảng khá xa, khiến tôi không thể nào phân biệt được rõ nét mặt ông ta. Nhưng tôi tin chắc đó là một người mà tôi chưa từng quen biết. Ông ta mặc đồ đen, đội mũ cát bằng da. Cái tôi trông thấy duy nhất là bộ râu đen của ông ta. Ngày hôm nay tôi không sợ hãi và bị óc tò mò thôi thúc. Tôi đạp chậm, ông ta cũng đạp chậm. Tôi ngừng lại, ông ta cũng ngừng lại. Tới một khúc quanh trên đường thình lình tôi đạp hết tốc lực, rồi ngay khi vừa qua khúc đường cong, tôi phanh gấp, xuống xe và chờ đợi. Nhưng ông ta không xuất hiện. Tôi quay trở lại và nhìn sang phía bên kia khúc quanh. Trải ra trước mắt tôi, trên 1 dặm đường, nhưng chẳng thấy ông ta đâu. Điều kỳ lạ hơn hết, chính là không có con đường phụ nào để ông ta trốn vào đó...  

Holmes cười rúc rích và xoa hai bàn tay vào nhau.  

- Thú vị thật! Từ lúc cô đi tới khúc quanh và lúc đứng nhìn con đường hoang vắng chừng mấy phút?  

- Hai hoặc ba phút.  

- Vậy thì người đó không thể bỏ trốn trên đường mà lại không bị trông thấy. Cô tin chắc rằng không có con đường phụ nào, không có chỗ rẽ nào?  

- Chắc chắn như vậy.  

- Vậy thì người đó đã theo một lối mòn ở bên phải hoặc bên trái con đường.  

- Chắc chắn không ở bên phía trảng cỏ, tôi ắt hẳn đã phải trông thấy ông ta.  

- Vậy thì theo phép loại suy, chúng ta đi tới kết luận là ông ta đã đi về hướng lâu đài Charlington nằm bên trong một thửa đất biệt lập ở phía bên kia con đường. Không có gì khác nữa chứ?  

- Không.  

Holmes giữ im lặng trong chốc lát.  

- Vị hôn phu của cô ở đâu?  

- Anh ấy làm việc tại Midland Electrical Company ở Coventry.  

- Ngẫu nhiên, có lần nào anh ấy tới thăm cô bất ngờ không?  

- Ồ, nếu có, thì tôi phải nhận ra anh ấy chứ!  

- Trước đó có nhiều người "để ý" tới cô không?  

- Trước khi tôi quen với Cyril, thì có?  

- Và từ đó đến nay?  

- Chỉ có cái con người thô bỉ nọ.  

- Không ai khác nữa sao?  

Cô gái lúng túng.  

- Ai? - Holmes hỏi.  

- Ồ, có thể là tôi hình dung ra những điều... không có thật. Dường như là... ông chủ tôi. Ông ấy quan tâm nhiều tới tôi. Buổi tối, tôi chơi đàn và tôi đệm cho ông ấy. Ông ấy không bao giờ thổ lộ điều gì. Nhưng đàn bà luôn đoán thấy...  

- A! - Holmes nói với một vẻ mặt nghiêm trọng - Ông ta làm gì để mưu sinh?  

- Ông ấy rất giàu có.  

- Không xe không ngựa mà?  

- Ít ra ông ta cũng sung túc. Mỗi tuần, ông ấy đi London hai hoặc ba lần, ông quan tâm nhiều tới những cổ phần mỏ vàng ở Nam Phi.  

- Cô cứ cho tôi biết rõ tất cả những yếu tố mới trong việc của cô. Lúc này, tôi rất bận, nhưng tôi vẫn cố gắng giúp cô. Trong khi chờ đợi, muốn làm điều gì, cô cần báo cho tôi biết trước. Xin chào, thưa cô.  

Khi cô ta đi rồi, Holmes bập từng hơi dài trên cái tẩu thuốc suy tư của mình.  

- Một cô gái xinh đẹp như vậy tất phải có nhiều người theo đuổi. Nhưng tại sao người ấy chỉ theo đuổi trên một đoạn đường hoang vắng. Ðây hẳn là một mối tình thầm lặng.  

- Ðiều kỳ lạ chính ở chỗ người theo đuổi lại chỉ xuất hiện trên một đoạn đường duy nhất.  

- Chính thế. Chúng ta phải tìm hiểu xem ai ở trong tòa nhà Charlington, quyền lợi nào để kết hợp Carruthers với Woodley, bởi vì hai người đó khác nhau như hai thái cực. Cũng cần khám phá xem vì sao họ tỏ ra quá chăm chú đến cô gái. Và còn điều này nữa, làm sao người ta dám trả cho một cô giáo dạy nhạc gấp đôi số thù lao bình thường, mà người đó lại không có xe, cũng không có ngựa, trong lúc nhà hắn cách nhà ga tới 6 dặm! Kỳ cục. Rất kỳ cục!  

- Anh đi tới đó chăng?  

- Không phải tôi, mà là anh. Rất có thể đây chỉ là một mối tình đầu thầm vụng, chẳng có tầm lợi ích nào, mà tôi thì đang dở dang công việc. Thứ Hai, anh sẽ tới Farnham rất sớm, nấp gần bên cái trảng, đích thân quan sát và anh sẽ hành động theo ý anh. Sau khi đã thu lượm tin tức về những người ở tòa nhà Charlington, anh sẽ trở về nói cho tôi biết.  

Sáng thứ Hai cô gái sẽ trở về bằng chuyến tàu rời Waterloo vào lúc 9 giờ 50. Vậy là tôi đáp chuyến tàu 9 giờ 13. Xuống ga Farnham, tôi đi tới trảng cỏ, con đường ngoằn ngoèo trên cái trảng rất quang đãng và một hàng rào những cây thông vây quanh một công viên tuyệt đẹp. Có một lối vào chính bằng đá, hai cây cột được đặt trên những biểu tượng huy hiệu đã xơ xác. Ngoài cái cổng cho xe ra vào này, tôi quan sát thấy nhiều chỗ trống giữa hàng rào từ đó mở ra nhiều lối mòn. Từ đường nhìn xuống thì không thấy ngôi nhà, nhưng dãy nhà phụ thì đã bị đổ nát.  

Cái trảng phủ đầy những bụi kim tước nở hoa rực rỡ dưới nắng sớm. Tôi đứng sau một bụi cây, từ đó, tôi có thể canh chừng cái cổng và một dải đường dài cả hai bên. Con đường hoang vắng. Nhưng một lát sau, tôi thấy một người đi xe đạp đến từ đường đối nghịch với đường mà tôi đã tới. Người đó mặc đồ đen, bộ râu đen. Khi ông ta tới đầu khu đất nhà Charlington thì xuống xe và dắt xe chui qua một lỗ hổng ở hàng rào, tôi không còn thấy ông ta nữa.  

Khoản 15 phút sau, một xe đạp khác hiện ra. Cô gái đến từ hướng nhà ga. Khi tới gần hàng rào, cô ngó nhìn chung quanh. Một lát sau, người đàn ông ló ra khỏi chỗ ẩn nấp, nhảy lên xe đạp và bám theo cô gái. Trong cái phong cảnh mênh mông, chỉ có hai bóng người chuyển động. Cô thiếu nữ ngồi thẳng trên xe và gã đàn ông đằng sau cô, còng lưng trên tay lái xe và mỗi cú nhấn lên bàn đạp có một cái gì lén lút. Thình lình cô gái quay ngược lại. Cô giảm bớt tốc độ. Người đàn ông chạy chậm. Cô ngừng lại, ông nọ cũng ngừng lại. Lúc đó cô gái quay ngược xe lại và đâm thẳng vào ông ta. Người đàn ông cũng nhanh nhẹn như cô và bỏ chạy hết tốc lực. Ngay sau đó, cô lại ngược lên con đường, đầu ngẩng cao, chẳng còn bận tâm tới con người thầm lặng theo dõi cô. Ông ta cũng quay trở lại, vẫn giữ cùng khoảng cách như trước, và khúc quanh của con đường che khuất hai người... Tôi nán lại trong chỗ ẩn nấp. Lát sau, người đàn ông lại hiện ra, ông đạp chậm chạp, đi ngang qua cái cổng rồi nhảy xuống xe, ở giữa những thân cây, bàn tay như đang nắn lại cái cà vạt, rồi lại leo lên xe và bỏ đi qua ngả dẫn đến ngôi nhà. Tôi chạy qua bên đường và núp vào tấm màn cây. Ðằng xa tôi nhận ra mơ hồ một ngôi nhà cổ xưa màu xám tua tủa những ống khói kiểu cổ. Lối đi vào băng ngang một lùm cây rậm rạp. Người đi xe đạp đã mất dạng.  

Tôi ra ga Farnham, lòng thanh thản. Nhà đại diện địa ốc ở địa phương không cho tôi biết một tin tức nào về tòa nhà Charlington và ông ta bảo tôi tới một công ty rất nổi tiếng ở Pall Mall. Trước khi trở về nhà, tôi ghé qua công ty đó và được nhân viên đón tiếp một cách lịch sự. Họ nói tôi tới muộn mất một chút, tòa nhà Charlington đã được ông Williamson thuê từ một tháng nay. Nhân viên cáo lỗi khi không thể cho tôi biết gì nhiều hơn về những công việc của thân chủ không dính dáng gì đến họ.  

Sherlock Holmes chăm chú nghe bản báo cáo, không nói một lời khen ngợi nhỏ bé nào. Trái lại bộ mặt anh càng lúc càng tối sầm lại theo đà câu chuyện kể.  

- Lẽ ra anh phải nấp đằng sau hàng giậu, như vậy anh đã thấy rõ cái nhân vật đáng chú ý đó. Thế nhưng anh lại đứng cách xa người đó cả trăm yard và anh cũng chẳng cho tôi biết gì hơn cô Smith. Cô gái tưởng người đó xa lạ đối với cô... Tôi tin chắc rằng cô biết rõ người đó. Nếu không, tại sao người đó lại cố ý không cho cô xáp tới gần. Người đó gò mình trên tay lái là để dấu cái mặt của mình! Anh Watson, anh đã xoay xở một cách thật là tồi. Lạ chưa! Người đó đi vào trong tòa nhà Charlington, rồi vì muốn biết người đó là ai, anh đã đi tới gặp một đại lý địa ốc tại London.  

- Ðúng ra tôi phải làm gì? - Tôi kêu lên với vẻ bực bội.  

- Phải tới quán rượu gần nhất. Ở đó người ta ba hoa đủ thứ trên đời và người ta kể cho anh biết tất cả những cái tên, từ tên người chủ nhà cho tới tên cô hầu rửa chén. Williamson! Cái tên ấy chẳng cho tôi biết gì hết. Nếu ông ta có tuổi thì ông ta chẳng thể chạy nước rút khi một thiếu nữ đuổi theo ông ta. Chuyến đi của anh chỉ là sự xác nhận những lời kể của cô gái. Có một mối liên hệ giữa người đi xe đạp và tòa lâu đài Charlington chăng? Xem nào, xem nào, đừng có tỏ ý giận dỗi như vậy! Từ nay đến thứ Bảy, chúng ta sẽ thu nhận được khá hơn, tôi sẽ đích thân mở vài cuộc điều tra nhỏ...  

Sáng hôm sau, chúng tôi nhận được thư của cô gái thuật lại vắn tắt những sự việc mà tôi đã chứng kiến. Nhưng tầm lợi ích của tờ giấy lại trong khoản tái bút.  

"Thưa ông Holmes, ông chủ tôi đã ngỏ lời cầu hôn với tôi óng ấy đã tiếp nhận lời từ chối của tôi với sự đứng đắn và tử tế. Nhưng tình huống đã hơi căng thẳng".  

- Cô gái nhỏ bé của chúng ta đã bị lún trong những làn nước sâu. - Holmes bình thản nói với vẻ ngẫm nghĩ - Vụ này dám triển khai khác hẳn với dự đoán ban đầu của tôi. Tôi đi tới đó.  

Holmes trở về nhà vào lúc tối khuya với một cái môi bị dập và trên trán có một cục u. Anh tươi cười:  

- Tôi đã tìm thấy cái quán ăn đó, và tới ngồi bên quầy rượu, tay chủ quán bép xép đã cho tôi biết tất cả những tin tức mà tôi muốn có Williamson là người có bộ râu trắng và ông sống một mình với vài gia nhân trong tòa lâu đài Charlington. Người ta nói rằng ông ấy đã từng là hoặc đang là mục sư. Nhưng kể từ khi ông tới đó, một hai việc xảy ra đã khiến cho thiên hạ nghi ngờ cái tính chất thầy tu của ông. Tôi có dò hỏi ở một tổ chức tăng lữ thì được biết đã có một người mang tên đó được thụ phong, nhưng đã bị lột áo từ lâu. Ngoài ra, chủ quán còn cho tôi biết, cứ cuối tuần lại có những người khách tới tòa nhà ("những kẻ ham mê, thưa ông") và đặc biệt một ông có bộ ria màu đỏ, sống luôn ở đó. Chúng tôi đang nói tới khúc quanh thú vị của câu chuyện thì có người tới quầy rượu. Chính "gã ria đỏ". Hắn ta uống bia ở phòng trong và đã nghe cuộc đối thoại của chúng tôi.  

- Anh là ai? Anh muốn gì? Tại sao anh lại đặt những câu hỏi đó.  

Gã có một lối nói thật nhanh, văn vẻ, đầy những tính thật kịch liệt. Gã chấm dứt tràng chửi rủa bằng một cú đánh tạt bằng mu bàn tay mà tôi không né kịp. Những phút tiếp theo sau đó là "quyền Anh chính thống" chống lại gã tiều phu đánh đấm loạn xạ. Tôi đã thoát ra như anh thấy đó. Còn gã Woodley thì phải về nhà bằng xe.  

Tối thứ Năm, chúng tôi lại nhận được một lá thư của thân chủ chúng tôi.  

"Thưa ông Holmes, tôi đã nghỉ dạy đàn nhà ông Carruthers. Những số lương cao không bù được cho những phiền muộn. Thứ Bảy này, tôi sẽ về London luôn. Sau cùng, ông Carruthers đã có chiếc xe nhỏ nhờ thế mà tôi sẽ bớt gặp nguy hiểm hồi đi đường.  

Cái lý do đích thực của sự bỏ việc là sự tái xuất hiện của gã Woodley ấy. Ông ta vẫn xấu xa đến gớm ghiếc, nhưng giờ đây ông ta còn khủng khiếp hơn nhiều. Thiên hạ đồn rằng ông ta đã gặp một tai nạn, mặt mày bị làm biến dạng. Tôi chỉ thoáng thấy ông ta qua thuôn cửa nầy, ở quanh quẩn trong vùng, bởi vì ông ta không ngủ ở đây, ấy thế mà sáng nay tôi nhìn thấy ông ta lẻn vào trong lùm cây. Tôi sẽ thích hơn nếu như có một con cọp được thả vào trong đó. Tôi không hiểu vì sao mà một người như ông Carruthers lại có thể chịu đựng nổi hắn một phút? Tóm lại, mọi nỗi phiền muộn của tôi sẽ chấm dứt vào thứ Bảy này.  

- Tôi hy vọng như thế, Watson ạ. - Holmes nói với vẻ nghiêm trọng - Một rắc rối đang vờn chung quanh cô gái đó, chúng ta nhất định không để cho ai làm hại cô trong chuyến đi cuối cùng này. Watson, chúng ta phải có mặt ở đó vào sáng thứ Bảy để có thể ra tay kịp thời.  

Cho tới lúc đó, tôi vẫn không coi câu chuyện này là quan trọng. Ðây đâu phải là lần đầu tiên mà một người đàn ông bám theo một thiếu nữ, và nếu người đó không đủ can đảm để ngỏ lời với cô gái, mà cũng chẳng dám xuất hiện trước cô ta thì đó không phải là kẻ đáng sợ. Tuy nhiên hắn chưa hề dùng bạo lực đối với cô gái, thậm chí hắn đã tới nhà Carruthers mà vẫn không lộ mặt ra để làm phiền cô ta. Người đàn ông đi xe đạp chắc chắn ở trong thành phần những người say mê "buổi cuối tuần" như lời người chủ quán đã nói. Nhưng ông ta là ai? Ông ta muốn gì? Cái bí mật là ở đó. Tuy nhiên, sự nghiêm túc trong thái độ của Holmes, cũng như việc anh nhét một khẩu súng vào trong túi trước khi đi Farnham, khiến cho tôi nghĩ rằng có thể một thảm trạng sắp xảy ra.  

Ðêm qua trời có mưa. Buổi sớm mai rực rỡ. Cái trảng dài mút tầm mắt bên một phía đường, rất đẹp, với những bụi kim ngân đang nở rộ hoa. Holmes và tôi vừa đi vừa hít sâu những ngụm lớn không khí trong lành. Trên một sườn đồi cao, nổi lên giữa đám cây sồi là một tòa nhà. Holmes chỉ tay về con đường đất màu đỏ, chạy ngoằn ngoèo giữa cái trảng màu nâu và cánh rừng màu xanh. Từ xa, một vết đen hiện ra, một cỗ xe chạy về hướng chúng tôi, Holmes thốt ra một tiếng reo sốt ruột:  

- Nếu đó là cỗ xe độc mã nhẹ, thì cô gái hẳn đã đáp một chuyến tàu sớm hơn. Watson, tôi e rằng cô ấy đã vượt qua cái góc nguy hiểm trước khi chúng ta gặp cô.  

Trong lúc leo lên triền dốc, chúng tôi không còn trông thấy cỗ xe ở mé dưới, nhưng chúng tôi tiến bước rất nhanh. Tôi đã bị tụt lại đằng sau Holmes. Anh đã bỏ xa tôi khoảng 100 yard khi anh chợt đứng sững lại, vung nắm đấm lên trong một cử chỉ đau đớn và tuyệt vọng. Cùng lúc đó hiện ra một cỗ xe độc mã trống rỗng do một con ngựa chạy nước kiệu, với những dây cương kéo lê dưới đất, đi ra khúc quanh và chạy nhanh về phía chúng tôi.  

- Muộn quá! Muộn mất rồi! - Holmes kêu lên khi hổn hển bước tới bên tôi - Tôi đã không đi chuyến tàu trước. Ðây là một vụ bắt cóc! Một vụ giết người! Chặn đường! Ghìm ngựa lại! Nhảy lên!  

Holmes cho ngựa quay đầu lại, bồi cho nó một cú roi thật mạnh và chúng tôi lao trên đường. Khi ra khỏi khúc quanh, khoảng giữa tòa nhà và cái trảng dài trước mặt chúng tôi, tôi nắm lấy cánh tay Holmes la lớn.  

- Người đó kìa!  

Một người đi xe đạp chạy về hướng chúng tôi như một tay đua. Bất chợt ông ngửng bộ mặt nhiều râu lên, và cặp mắt long lanh, nhìn chúng tôi chằm chặp.  

- Hãy dừng lại! - Ông ta kêu lên khi đặt ngang cái xe đạp như muốn chặn đường chúng tôi - Hãy ngừng lại! - Ông ta hét lên khi rút trong túi ra một khẩu súng lục - Hãy ngừng lại! Nếu không, tôi sẽ bắn chết con ngựa!  

Holmes quăng dây cương cho tôi, nhảy xuống xe, hỏi ngay:  

- Cô Violet Smith đâu?  

- Ông đang ở trong cỗ xe của cô ấy ông hẳn phải biết cô ấy đang ở đâu. - Người có râu trả lời.  

- Chúng tôi đã gặp chiếc xe này trên đường đi. Không có ai trên đó cả. Chúng tôi đã quay lại để tìm cách giúp cô ấy.  

- Làm sao bây giờ? - Người lạ kêu lên với vẻ tuyệt vọng. - Chúng bắt cô ấy, cái tên cướp Woodley và con người đê tiện kia? Lại đây ông bạn, lại đây! Chúng ta sẽ đi cứu cô ấy.  

Như một con thú bị hoảng hốt, ông ta chạy vùn vụt tới một lỗ hổng trong hàng giậu. Holmes theo sau ông và tôi theo sau Holmes.  

- Chúng đã đi qua lối này. - ông nói, tay chỉ vào dấu của những bàn chân in trên con đường mòn lầy. Ô, ô! Hãy dừng lại! Ai ở trong bụi cây này?  

Một chàng trai trạc 17 tuổi, ăn vận như một cậu giữ ngựa với quần đùi bằng da và chân đi ghệt, nằm co gập lại, trên đầu có một vết chém. Cậu ta bị ngất đi, nhưng còn sống. Tôi xem xét vết thương, cú chém chưa chạm tới xương.  

- Ðây là Peter. Chú ấy đưa cô ấy ra ga. Những tên cướp này đã chặn xe lại và đã đánh cậu ấy. Hãy để cậu ấy ở đây. Vết thương nhẹ, không sao đâu. Cần phải cứu cô ấy. - Người có râu đen nói.  

Chúng tôi vội chạy xuống con đường mòn ngoằn ngoèo giữa những thân cây, khi đã tới lùm cây bao quanh ngôi nhà thì Holmes ngăn chúng tôi lại.  

- Họ không vào nhà. Những dấu chân của họ quay sang hướng trái... Ở đây, bên cạnh những cây nguyệt quế.  

Trong khi anh nói, tiếng kêu xé tai của một phụ nữ thoát ra từ một khu rừng trước mặt chúng tôi. Tiếng kêu bị làm cho tắt đột ngột.  

- Qua ngả này. Qua ngả này. Bọn chúng đang ở trong sân. - Người lạ kêu lên khi xông vào những lùm cây. - Quân chó má! Bọn hèn mạt! Hãy theo tôi. Quý ông! Muộn mất rồi! Mẹ kiếp! 

Chúng tôi đột ngột nhập vào một khoảng rừng trống. Ở đầu đằng kia, dưới bóng một cây sồi già, có ba người đang tụ lại. Một thiếu nữ tái mét, miệng bị một tấm khăn bịt kín. Trước mặt cô là một gã côn đồ có hàm ria đỏ, hai chân đứng xoạc cẳng, một tay chống nạnh, tay kia vung vẩy một cái roi ngựa. Ðứng giữa hai người là một ông già râu xám, có choàng một cái áo lễ, chắc chắn là vừa làm xong nghi lễ kết hôn, bởi vì khi chúng tôi tới thì ông ta nhét cuốn kinh Thánh vào trong túi; ông vỗ tay nhiều lần thật mạnh lên lưng chàng rể.  

- Họ đã được làm lễ cưới - Tôi ấp úng.  

- Lại đây! - Người hướng dẫn chúng tôi kêu lên - Các ông hãy lại đây!  

Ông ta nhào vào trong chỗ rừng thưa, Holmes tôi bám theo sát gót. Cô gái lảo đảo vào thân cây, tìm một chỗ dựa. Mục sư Williamson cúi chào chúng tôi với thái độ mỉa mai và Woodley tiến lên phía trước, buông ra một tràng cười hớn hở.  

- Ðằng ấy có thể gỡ bộ râu ra, Bob. Tớ nhận ra đằng ấy. Ðằng ấy và mấy bồ của đằng ấy đến đúng lúc để tớ giới thiệu bà vợ tớ.  

Câu trả lời của người hướng dẫn thật là kỳ lạ. Ông gỡ bộ râu đen ra, ném nó xuống đất, chĩa khẩu súng vào tên cướp trẻ vừa bước lại gần ông vừa vung vẩy cây roi ngựa.  

- Phải. Ta là Bob Carruthers. Mi thừa biết là ta sẽ làm gì nếu mi ngược đãi cô ấy.  

- Muộn mất rồi, Bob. Cô ấy đã là vợ tôi.  

- Không, cô ấy là vợ góa của mi!  

Ông nổ súng một vết máu hiện ra trên áo gilet của Woodley. Hắn xoay tròn người, thốt ra một tiếng kêu và té bật ngửa xuống, mặt tái xanh. Ông mục sư tuôn ra một tràng chửi rủa thô tục và rút ra một khẩu súng lục, nhưng nòng súng của Holmes nằm trên gáy ông ta, trước đó một phần trăm giây.  

- Ðủ rồi - Holmes nói, giọng lạnh lùng - Hãy buông súng xuống. Phiền anh Watson lượm nó lên! Và dí sát đầu lão. Cám ơn ông Carruthers, hãy đưa khẩu súng cho tôi. Coi nào, hãy đưa đây!  

- Ông là ai?  

- Tôi là Sherlock Holmes.  

- Chúa ơi!  

- Tôi đại diện cho cảnh sát tới lúc họ đến đây. Lại gần đây, anh kia...  

Holmes gọi một người sai vặt ngơ ngác vừa ló đầu ra bên bờ khu rừng thưa.  

- Hãy lại đây. Hãy phi nước đại mà đem tờ giấy này tới Farnham.  

Anh viết nguệch ngoạc vài chữ trên một tờ giấy xé trong cuốn sổ tay ra.  

- Chú hãy đưa tờ giấy này cho một sĩ quan ở ty cảnh sát, tôi phải giữ quý khách này cho tới khi cảnh sát đến.  

Williamson và Carruthers khiêng Woodley vào trong nhà. Tôi đến đỡ cô gái đang kinh hoàng, rồi đến khám cho tên ria đỏ.  

- Y sẽ sống!  

- Thế nào - Carruthers kêu lên, nhảy ra khỏi ghế - Tôi lên gác kết liễu mạng sống của nó để cô thiếu nữ này, vị thiên thần này, khỏi bị ràng buộc suốt đời với tên vô lại.  

- Không bao giờ cô ấy là vợ của Woodley. Trước hết Williamson tiến hành một lễ cưới "không hợp lệ".  

- Tôi đã được thụ phong - "Mục sư" kêu lên.  

- Nhưng sau đó, ông đã hoàn tục...  

- Một ngày làm mục sư, trọn đời là mục sư.  

- Không ai nghĩ như thế. Lại còn giấy phép?  

- Nó hiện đang ở trong túi tôi.  

- Vậy là ông đã xoay ra một tờ giấy giả. Dầu sao đi nữa, một cuộc hôn nhân mà bị cưỡng ép thì không là một cuộc hôn nhân. Ðây là một hành vi phản bội rất nghiêm trọng như ông sẽ thấy. Ông sẽ có thời gian để suy tư về việc đó trong 10 năm, nếu như tôi nhớ đúng. Về phần ông, ông Carruthers, ông nên giữ yên khẩu súng ở trong túi.  

- Tôi bắt đầu tin như vậy, thưa ông Holmes. Nhưng tôi yêu cô ấy. Ðây là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng tôi biết thế nào là tình yêu... Tôi trở nên điên cuồng trước ý nghĩ là cô bị rơi vào tay tên vô lại nhất Nam Phi, kẻ bại hoại nhất từ Kimberley đến Johannesburg. Kể từ khi cô gái này vào giúp việc cho tôi thì tôi đã không dám để cô đi ngang ngôi nhà, nơi tôi biết hai tên cướp này đang trú ẩn. Tôi ngồi xe đạp đi theo để bảo vệ và giữ khoảng cách xa và tôi phải mang râu giả để cô không nhận được ra tôi.  

- Nhưng sao ông không báo cho cô ấy biết trước về nỗi nguy hiểm đang đe dọa cô ấy?  

- Tôi sợ cô ấy bỏ đi luôn. Dù cô ấy không yêu tôi, nhưng hàng ngày được nhìn thấy cô ở trong nhà, được nghe giọng nói của cô, thì tôi cũng đã hạnh phúc lắm rồi.  

- Ông gọi thứ tình cảm đó là tình yêu à? Ðó là lòng ích kỷ.  

- Có thể là cả hai cùng một lúc. Mặt khác, với tụi vô lại đang ở kế bên, tất nhiên cô ấy cần có một người bảo vệ trên đoạn đường vắng. Nhưng tới khi hai bức điện được gửi đi thì tôi biết là tôi buộc phải làm một cái gì đó.  

- Bức điện nào?  

Carruthers rút trong túi ra một bức điện tín.  

- Nó đây!  

Bức điện thật ngắn và rõ: "Lão già đã chết".  

- Hừm! - Holmes nói - Giờ đây thì tôi đã rõ mọi việc diễn tiến ra làm sao, vì sao bọn chúng buộc phải ra tay gấp sau khi có bức điện này. Nhưng trong lúc chờ đợi cảnh sát tới, có thể ông nói cho tôi biết thêm chăng?  

Lão thầy tu hoàn tục, vẫn còn khoác áo lễ, la lớn.  

- Bob, nếu tố giác, tao sẽ giết mày. Nếu mày bán đứng bạn bè cho cái tên cớm mặc thường phục này, thì mày có thể đánh dấu cái ngày hôm nay bằng một chữ thập đen.  

- Ðừng có nổi nóng, thưa ngài mục sư.  

Holmes ngắt lời trong lúc mồi một điếu thuốc lá.  

- Những điểm liên quan tới ngài đều đã sáng tỏ, tôi chỉ hỏi vài chi tiết để thỏa mãn óc tò mò mà thôi. Nhưng nếu ngài thấy khó trả lời, thì chính tôi sẽ kể lại câu chuyện. Thoạt đầu ba người trong bọn mấy người từ Nam Phi về đây để chơi trò vừa rồi. Ba người là Williamson, Carruthers và Woodley.  

- Hãy gạt tên tôi ra! - Lão già nói - Tôi chỉ quen biết hai người này từ hai tháng nay và chưa bao giờ tôi đặt chân sang Nam Phi cả. Hãy nhét cái đó vào trong tẩu của ông và hút nó đi, thưa ông bạ-gì-cũng-can-thiệp-vào (1).  

- Gã đã nói sự thật. - Carruthers xác nhận.  

- Các anh đã biết ông Ralph Smith bên Nam Phi. Và biết ông ta không còn sống được bao lâu nữa. Các ông đã tìm ra cô cháu gái ông ấy, là người sẽ được thừa hưởng gia tài... Ðúng thế không?  

Carruthers gật đầu, Williamson chửi thề.  

- Cô ấy là bà con gần với ông ta hơn cả, và các anh biết là ông già đó không làm bản chúc thư nào cả.  

- Ông ấy không biết đọc mà cũng không biết viết - Carruthers thì thào.  

- Thế là hai anh đi tìm người thừa kế gia tài. Các anh muốn rằng một trong hai người sẽ thành hôn với cô gái đó và người kia cũng sẽ được chia phần. Tôi không hiểu lý do nào mà Woodley lại được chỉ định làm người chồng.  

- Chúng tôi đã đánh bài trong chuyến đi. - Carruthers nói.  

- Ông đã thuê cô gái vào làm công trong nhà và Woodley phải cố tán tỉnh cô. Nhưng cô gái rất ghét anh ta. Mặt khác, thỏa hiệp của hai ông lại có phần khập khiễng, do việc ông si tình cô giáo. Ông không thể nào chịu đựng được cái ý nghĩ rằng tên côn đồ kia trở thành chồng cô ta.  

- Ðúng vậy!  

- Ðã xảy ra một cuộc cãi vã giữa hai người. Woodley đã bỏ ông mà đi, và y dàn dựng nhưng kế hoạch nóng mà không cho ông biết.  

- Phải. Từ đó, hễ khi nào có hắn là có tôi. Hắn đã thu thập được cái tên thầy tu hoàn tục này. Và tôi biết hai đứa đã thuê căn nhà này, bởi vì nó ở gần con đường mà cô gái phải đi qua để tới nhà ga. Chính vì thế nên tôi đã canh chừng cô gái. Ngày hôm kia, Woodley tới thăm tôi với bức điện là Ralph Smith đã qua đời. Hắn hỏi tôi có còn ý định giữ nguyên lời hứa của bản giao kèo không. Tôi trả lời: không. Hắn hỏi tôi có ý định kết hôn với cô gái và chia cho hắn cái phần cướp được không. Tôi trả lời là cô gái không chịu lấy tôi. Hắn bảo tôi: Trước hết, phải làm cho cô ta kết hôn, rồi sẽ tính sau. Tôi nói rằng không ai được dùng bạo lực đối với cô gái. Hắn bỏ đi, miệng không ngớt chửi thề. Tôi vội vàng đi lấy xe ngựa để đưa cô ra ga, nhưng vẫn đạp xe theo sau. Nhưng, cô đã vượt trước tôi và sự bất hạnh đã xảy ra.  

Holmes đứng lên, ném tàn thuốc vào lò sưởi.  

- Anh Watson, tôi đã thật xuẩn ngốc! Khi báo cáo, anh đã chỉ cho tôi thấy rằng anh đã trông thấy người đi xe đạp nắn lại cái cà vạt trong lùm cây, thì lẽ ra tôi phải thấy vấn đề ngay tức khắc. Tuy nhiên, chúng ta có thể khen ngợi lẫn nhau rằng mình đã đi đến kết quả cuối cùng của một vụ không kém tầm thường. Kìa, ba cảnh sát địa phương đang đi trong lối vào và có cả chú bé đánh xe ngựa nữa. Anh Watson, anh có thể khám sức khỏe cho cô Smith và bảo cô rằng chúng ta sẽ đưa cô về nhà mẹ cô. Một bức điện gửi cho một kỹ sư trẻ ở Midland là môn thuốc rất hữu hiệu. Về phần ông Carruthers, ông đã làm những gì có thể làm để chữa lại những tội lỗi của mình.  

- Ðây là danh thiếp của tôi, nếu như lời làm chứng của tôi mà có thể giúp ích cho ông được đôi phần trong vụ xử, thì tôi sẵn lòng tới.  

Cô Violet Smith đã được thừa kế một tài sản lớn, và giờ đây cô là bà Cyril Morton, phu nhân của người hùn vốn thứ nhất trong công ty Morton & Kenedy. Sau phiên tòa, Williamson ôm "bảy cuốn lịch", còn Woodley lãnh mười cuốn. Trong nhà đá, chúng có đủ thời giờ nhìn từng tờ giấy bay đi và suy ngẫm về các việc mình đã làm. Còn về Carruthers, tuy không có ghi lại, nhưng với việc tấn công Woodley, kẻ vô lại có tiếng, thì một án phạt nhẹ cũng là đủ để thực hiện công lý.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro