Mẩu truyện kinh dị số 01

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sớm chán chường với những lời lẩm bẩm từ cái mồm già điêu ngoa của bà Lore. Bằng cách thô lỗ nhất có thể (chí ít là theo tôi nghĩ), tôi cầm lấy cái đèn bàn, rọi thẳng vào mặt bà ta đồng thời nhoài người qua bàn, mặt cận mặt:

- Bà biết gì về những tấm ảnh này? – Tôi vừa nói vừa giơ ba bức hình lên.

Khuôn mặt của Lore dúm dó lại cả, các nếp nhăn như sóng biển xô nhau vào bờ là hai con mắt đang nhắm tịt lại bởi ánh đèn trắng. Nhưng cái miệng móm vẫn thốt ra những câu nói khó hiểu:

- Cánh cửa đã được mở rồi... Ngài đã mở cánh cửa rồi...

- Bà Lore Gilbreth, đề nghị bà hợp tác nghiêm túc. Bằng không tôi sẽ dùng đến biện pháp mạnh.

Mặt tôi đanh lại, cảm nhận được mạch máu đang nổi lên rõ rệt dưới lớp da dày đã qua bao mùa phong sương, hẳn giờ đây trông tôi thật khó coi. Đến là chịu, bản thân tôi chưa bao giờ cảm thấy bức bối như thế này. Đáp lại vẫn là những lời lầm bầm sáo rỗng:

- Thanh tẩy! Thanh tẩy!

[...]

Một tuần tưởng chừng dài đằng đẵng cuối cùng lại trôi như chó chạy ngoài đồng. Lần phá án này nhanh hơn tôi nghĩ. Từ việc hỏi cung và thu thập số liệu, đến cả truy vết hung thủ cũng dễ dàng hơn bao giờ hết. Tôi đánh con bán tải già về Coalmont trong niềm hân hoan, háo hức về nhà với Leslie – người vợ mến yêu của tôi cùng hai đứa nhóc con Anne và Dolly.

Trở về với căn nhà mái ngói đỏ nằm chỏng chơ bên mé thị trấn, từ đằng xa đã nghe thấy tiếng trẻ con nô đùa cùng đám khuyển, trong trẻo và tươi vui. Tôi de xe vào cái sân bé con con, Anne với Dolly bấy giờ đã lũ lượt chạy đến reo hò mừng tôi trở về sau chuyến đi xa. Hai chúng nó dang vòng tay nhỏ bé ấy đến ôm eo tôi, vùi mái đầu non nớt vào bụng rồi cạ cạ. Đáp lại, tôi đặt một nụ hôn lên trán các con. Xong công việc chào hỏi, tôi đi thẳng ngay vào bếp, nơi tôi đoán chắc người vợ của tôi đang ở đấy quần thảo với đống nho mới vừa thu hoạch:

- Em yêu, anh về rồi đây. – Câu nói vọt ra khỏi khoang miệng tôi như được lên sẵn dây cót khi vừa mới bước qua ngưỡng cửa phòng bếp.

Thật không ngoài dự đoán, Leslie đầu tóc rũ rượi dẫu em đã cố cột thật gọn gàng. Những cọng tóc bướng bỉnh vẫn rớt ra, lòa xòa, đâm vào mắt khiến người khó chịu cứ đôi lúc lại phải dừng công việc giã nho để vén tóc. Thế rồi lại xắn váy lên, chân trần giẫm lên những trái nho chín mọng mới hái. Leslie đón tôi trở về hờ hững hơn cả vì đã quá quen với những chuyến công tác xa của tôi. Em đứng như trời trồng trong chiếc thau đồng biểu thị "anh đến đây đi, em đang dở việc". Sau nụ hôn phớt, em chỉ tay vào đống đồ đã được gói ghém sẵn để ở góc bếp:

- Humbert anh yêu, em vừa may xong đồ mùa đông cho cha mẹ. Anh mang chúng sang cùng rượu nho cho họ luôn nhé.

- Được thôi. – Tôi đáp gọn lỏn, cố gắng ngăn cản nỗi bất bình trong lòng.

Chỉ là cha vợ tôi không có vẻ gì là yêu quý tôi, ngay từ những ngày đầu tiên. Còn Elphinstone cách đây gần ba tiếng đi xe, nghĩ đến thôi đã nản, tôi cũng đã lái xe cả ngày trời. Chép miệng, tôi mang đồ chất lên xe rồi một lần nữa đánh con bán tải già đến nhà cha mẹ vợ.

Tôi đỗ xe cái kịch trước cái cổng gỗ lỏng lẻo chỉ cao ngang bụng người, nhẹ nhàng đẩy cửa đi vào. Đứng lại trước cái cửa nhà bằng gỗ trông đến là nặng trịch, tôi đặt giỏ quần áo và mấy chai rượu xuống đất, tay cầm lấy ngóng cửa dập ba lần. Không phải chờ đợi quá lâu, cánh cửa hé mở, ánh sáng bên ngoài tràn vào kẽ hở nhỏ, soi sáng thứ bên trong - khuôn mặt khó ở của cha vợ tôi, ông Brewster. Trông người không lấy gì là phấn khởi với chuyến thăm hỏi bất chợt như thế này mà không có một lời báo trước mà đặc biệt khi người đó là Humbert, thằng con rể ông hằng ghét bỏ. Ông nói:

- Ồ, là anh đấy à, có chuyện gì không?

- Leslie bảo con mang cho người chút đồ mùa đông với rượu cha à. – Vừa nói, tôi vừa cầm đống đồ dưới đất lên.

- Rồi. Vào nhà đi.

Ít ra ông ta còn có chút lịch sự khi mời tôi vào nhà chơi chứ không để tôi đến đưa đồ rồi ra về như một gã nhân viên giao hàng không quen biết.

- Lore! Lore đâu? Ra đây. – Ông Brewster vang giọng gọi bà giúp việc.

Nhắc đến bà giúp việc, bà Lore, tôi không hiểu tại sao họ lại thuê một người gàn dở như thế để làm hết mọi việc trong nhà từ quét dọn đến nấu nướng, đã vậy còn hay lẩm bẩm quái quỷ gì đấy trong miệng.

Bà ta lò dò từ dưới bếp lên, bước từng bậc tam cấp với thái độ dửng dưng như không, cũng chẳng buồn tăng tốc khi nghe ông chủ mình gọi. Cái lưng gù làm cổ chìa về phía trước hệt như ngỗng, hai tay lăm le đan vào nhau như đang cầu nguyện gì đấy, miệng lẩm bẩm như đọc kinh. Trông mụ mới hèn mọn làm sao. Không buồn cho tôi một cái nhìn, Lore nhận lấy đồ rồi khuất dạng sau bức tường đá. Độ chừng mười phút sau xuất hiện với khay trà thơm phức trên tay, đặt xuống bàn nơi tôi và cha vợ đang yên vị.

Cha vợ tôi, ông Brewster như một pho tượng thần lùn, ngồi yên bất động, nom không hứng thú bắt chuyện với tôi. Tôi đành bầu bạn với tách trà trên tay, nhấp từng ngụm. Vừa uống vừa nhìn ngó đó đây đồ đạc trong nhà. Mọi thứ vẫn bày trí như cũ, không có gì đổi thay dù là nhỏ nhất. Từ cái lò sưởi to tướng, đến giá sách treo trên tường, cái ghế chõng mẹ vợ vẫn hay ngồi... Phải rồi, mẹ đâu rồi nhỉ? Đến giờ tôi mới để ý đến điều này, liền đánh liều hỏi cha vợ:

- Mẹ đi đâu rồi cha?

Đến lúc này sắc mặt ông mới thay đổi. Cơ mặt không giãn ra mà đã cau có nay lại càng trở nên quạu quọ, đến mức trừng mắt nhìn tôi như thể tôi vừa thốt ra một câu chửi thề chứ không phải câu hỏi. Thế rồi cha đưa tôi câu trả lời đầy mơ hồ:

- Mụ ta ngồi buôn chuyện ở cái chốn xó xỉnh nào rồi.

[...]

Ngồi mãi một chỗ không phải là thói quen của tôi, nghĩ đến thế tôi liền xin phép cha vợ, đứng dậy rồi đi loanh quanh trong vườn nhìn trời nhìn mây. Tôi không vội về, tự thưởng cho mình chút thời gian quý báu tận hưởng không khí trong lành nơi đây mà không lo ai quấy rầy. Rảo bước dạo quanh sân vườn hơn mười mét vuông với đủ loại rau hoa làm tôi thích thú chín phần. Phần còn lại có lẽ là sự khó chịu hay nói đúng hơn là khúc mắc khi bà Lore cứ nhìn chằm chằm vào nhất cử nhất động nơi tôi với con mắt dè chừng. Cảm giác như tôi là hạt sạn nằm trong mắt bà ta, dụi mãi chẳng hết. Trực giác mách bảo tôi có gì đó chẳng lành nhưng chỉ là ý nghĩ sượt qua đầu, tôi cũng không để tâm. Bà già giúp việc ấy không ưa tôi thì thú thật tôi cũng chẳng thích gì bà ấy. Thôi cứ mặc xác mà hửi chút mùi hoa vương lại trước khi trời chuyển đông.

Tôi chào tạm biệt để ra về lúc ánh chiều tà đã ngả sang màu cam cháy. Tra chiếc chìa khóa rỉ sét vào ổ, tôi lặp lại thao tác đề xe như hàng trăm, hàng vạn lần tôi vẫn làm. Tiếng động cơ nổ giòn tan rồi dần nhỏ lại và cuối cùng tắt ngúm trong sự ngỡ ngàng của chủ nó. Tôi khởi động lại lần thứ hai kết quả vẫn thế. Lần ba, lần bốn... Lúc này đây tôi mới biết tôi gặp rắc rối to rồi. Nếu không mau về sẽ trễ bữa tối với gia đình. Tôi liền leo xuống xe kiểm tra kỹ càng. Khổ nỗi, mặc kệ bao nhiêu cố gắng của tôi, thằng bạn già cỗi này vẫn trơ ra đó sau bao lần nổ máy. Tôi không biết việc này đã mất bao lâu, chỉ biết rằng khi tôi đã thấm mệt về thể xác lẫn tinh thần, nhìn xung quanh mới nhận ra trời đã chuyển tối lúc nào chẳng hay. Tôi đành quay số gọi thợ sửa xe với nỗi bất lực và cũng thật tuyệt vời làm sao khi họ đã về nhà nghỉ ngơi, không nhận khách buổi tối. Một đám người kỳ lạ! – Tôi nghĩ.

Tôi điện về cho vợ tôi với giọng thê lương:

- Em yêu à, xe anh gặp chút trục trặc, có lẽ đêm nay không về sớm được.

Đầu dây bên kia cũng hụt hẫng khi nghe tin:

- Vâng, em hiểu rồi. Anh cứ ở lại nhà cha mẹ đêm nay đi rồi mai hẵng về. Đừng đi xe trong đêm nguy hiểm.

Chúng tôi cúp máy sau thêm vài ba câu tỉ tê. Vậy là tối nay, không còn cách nào khác, tôi phải ở lại nhà cha mẹ vợ. Chắc sẽ rất dài đây...

[...]

Tôi leo lên giường ngủ sau khi ngấu nghiến xong cuốn sách ban nãy kiếm được trên kệ. Người tôi nay mệt lả sau những chuyến đi và sau một ngày thần kinh căng như dây đàn khi đối diện với người cha vợ kì quái. Trằn trọc trên chiếc giường gỗ cọt kẹt, tôi liên tục trở mình. Quái lạ, tôi không tài nào chợp mắt nổi. Hai con mắt cứ thao láo trong màn đêm tĩnh mịch. Tôi nhìn mơ hồ lên trần nhà phủ mạng nhện kia, đầu rỗng tuếch. Hẳn là do những ca trực khuya tôi đã sớm quen giấc. Lia qua cái đồng hồ quả lắc treo trên tường, mới gần một giờ sáng, chẳng thấm vào đâu khi tôi thường xuyên thức trắng.

Quá chán nản khi không biết phải làm gì cho qua đêm, tôi quyết định không nằm trên giường nữa mà đứng dậy đi dạo dưới vườn thêm lần nữa. Đúng là quyết định đúng đắn, có mấy loài hoa nở về đêm mà tôi không biết tên tỏa hương ngào ngạt. Đêm rồi mà bướm vẫn lượn, khung cảnh trông đến là nên thơ. Bỗng tôi dừng chân trước tầng hầm nhà ông bà Brewster mới chợt ngẫm lại mình chưa vào đó bao giờ vì tôi nghĩ trong ấy cũng chỉ đựng rượu với vài thứ đồ linh tinh cho mùa đông, có gì hay ho đâu mà vào. Dù gì cũng đang dư dả thời gian, tôi tháo chốt cửa, tiến vào hầm thăm thú.

Căn hầm sạch sẽ hơn tôi tưởng. Một cái bàn gỗ sồi dài hai mét đặt ở giữa gian phòng cùng mấy cái ghế con. Phía bên phải trữ củi khô, bên trái là kệ đựng rượu được kê sát chân tường. Trong ánh đèn vàng lờ mờ, những chai rượu hiện lên thật đẹp mắt mời gọi tôi đến ngắm. Tôi lướt mắt một lượt trên những chai vang từ năm 1898 rồi dừng lại khi thấy thứ gì đó không được ổn trong cách sắp xếp. Ba chai liền kề nhau trông có vẻ nhô ra hơn so với những đồng loại. Vốn là một người theo đuổi chủ nghĩa hoàn hảo, nhìn vậy thật không thuận mắt, liền đẩy lại cho thẳng hàng. Quái, như có gì cản ở phía sau làm chúng không tài nào nắn lại được. Người dấy lên nỗi bực dọc, tôi lấy hết xuống thì một quyển sách lạ lấp ló sau những chai rượu vang đỏ. Tôi cầm cuốn sách, xem qua xem lại, đầu chạy những câu hỏi vì sao. Bìa sách làm từ da dê, in dấu ấn kỳ lạ trên đó. Hai vòng tròn đan vào nhau cùng ngôi sao sáu cánh. Có cả những thù hình kỳ dị nhưng tôi chẳng thể đoán ra.

Bỏ qua phần bìa bên ngoài, tôi lật qua vài trang xem thử. Và tin được không. Đập vào mắt tôi là những nghi lễ cúng bái thần linh và vô vàn lời nhăng cuội khiến tôi phải lắc đầu ngao ngán. Ai lại đọc thứ vớ vẩn này, tôi nghĩ. Từ trong cuốn sách kỳ lạ rơi ra ba tấm hình. Tôi cúi xuống nhặt. Thứ được chụp trong bức hình khiến tôi khựng lại vài giây khi nhìn thấy.

Tôi lấy tay dụi dụi mắt mình, tưởng chừng đã hoa mắt, ấy vậy mà chúng lại tinh anh hơn bao giờ hết. Ba tấm hình chụp thi thể người phụ nữ mà không ai khác chính là mẹ vợ tôi, bà Brewster. Làm sao có thể nhầm lẫn được với mái tóc vàng xoăn, đôi môi dày cùng nốt ruồi bên má trái. Chỉ khác là giờ đây nước da bà trắng bệch, nơi cổ hằn một đường tím tái... Sang bức hình thứ hai đến là buồn nôn dù chỉ là được chụp lại. Cái xác đã bắt đầu mục rữa, loang lổ thịt thà cùng thứ nước màu trắng đục nhiễu ra bàn. Khắp người mẹ vợ tôi lúc nhúc giòi bọ. Chúng đến thưởng thức bữa tiệc thịnh soạn. Tấm cuối cùng, nếu không xem qua hai bức trước kia sẽ tưởng đây là vài miếng vỏ cây. Phải vậy, những thớ thịt cuối cùng đã khô cứng lại trên bộ khung xương trắng hếu, lũ giòi bọ cũng chán chê quẩy đít bỏ đi khỏi bàn tiệc. Đó là chút tàn dư còn sót lại, nhìn vào chẳng thể biết được trước đây từng là con người.

Tôi chăm chú nhìn kỹ những tấm hình rồi đối chiếu với chương số ba của sách: nghi thức thanh tẩy. Bà Lore với khúc gỗ trên tay đã làm gián đoạn sự tập trung cao độ của tôi. Từ phía sau, mụ toan giáng tôi một đòn vào gáy nhưng tôi đã sớm nhận ra được điều đó với trực giác nhanh nhạy này. Một tay đỡ đòn một tay cầm sách, một chân để trụ, còn dư chân trái, tôi lên gối vào bụng bà ta. Không kịp kêu la một tiếng, lão bà ngất xỉu tại chỗ. Ấy rồi tôi lấy sợi dây thừng dùng để bó củi trói tay bà ta lại và quay lại ngâm cứu chương ba đang còn dang dở.

Mặt trời đã lên cao, nhân viên sửa xe cuối cùng cũng tới. Một đêm với quá nhiều bất ngờ đến gõ cửa như thế đã vượt sức chịu đựng cho người đang chịu dày vò vì mệt mỏi như tôi. Tạm gác những cảm xúc tiêu cực ấy qua một bên, tôi cần phải làm lạnh cái đầu mình để đưa ra những quyết định chính xác. Không ngần ngại, tôi tiến đến hỏi mượn xe của họ, cốt là để nhanh chóng đưa mụ già Lore đến đồn cảnh sát tỉnh Elphinstone làm cho ra lẽ. Hai nhân viên, một người tráng kiện, đối nghịch với người còn lại cao lêu nghêu như một bộ xương di động. Các cậu ta thật tốt bụng. Không những cho tôi mượn chìa khóa, còn chúc tôi lên đường thượng lộ bình an.

Đoạn đường hôm nay sao lại khó chịu. Nắng chang chang như muốn thiêu đốt tất cả mọi thứ nơi hạ thế. Một thanh âm khe khẽ vang lên. Là Lore. Và bà ta đang cố gắng cựa quậy cơ thể già ở băng ghế sau. Tôi suýt chút nữa đã quên mất còn có người trên xe. Thiếu vắng tiếng lầm bầm đọc kinh của bà ta thật không quen chút nào.

Sở cảnh sát nơi pháp luật và tội ác cùng nhau xuất hiện. Những viên cảnh sát nhướn mày tỏ vẻ khi tôi đang đẩy bà giúp việc già vào buồng lấy lời khai sau khi xuất trình thẻ nghiệp vụ với cảnh sát trưởng ở đây.

Mụ Lore vẫn như thế, miệng vẫn đọc những chữ kinh trong cái giọng nhỏ như chuột nhắt ấy. Nheo mắt lại tôi ho vài tiếng, bắt đầu cuộc thẩm vấn dài tưởng chừng như vô tận ấy...

[...]

Sau khi lấy lời khai xong, tôi ra ngoài hút thuốc. Mọi thứ trong phòng cảnh sát thật bừa bộn và cũng thật nhộn nhịp. Trong khi những con người của pháp luật đang ra sức chống lại cái ác thì tôi lại ngồi đây để hút thuốc. Rít một hơi thật sâu cho khoang phổi ngập ngụa trong khói thuốc khiến tôi phần nào bình tĩnh lại trước vấn đề nghiêm trọng của vụ án. Từ sáng tới giờ cảm giác bối rối cùng khó chịu cứ đeo bám lấy tâm trí tôi như một con rắn không độc nhưng lằng nhằng và cứng đầu siết chặt thân thể và thâu tóm suy nghĩ. Làn da đầy vảy của loài động vật máu lạnh ấy thật đáng sợ, nó cọ vào từng dây thần kinh đang căng lên, chiếc lưỡi dài và ướt át phát ra thanh âm gây ức chế tinh thần. Nhắm mắt và thở một hơi dài, chuyện này cần phải thông báo với tất cả mọi người. Vậy còn Leslie? Em ấy sẽ ra sao nếu nghe được tin người thân hay nói đúng hơn là cha ruột mình là nghi phạm của một vụ giết người và nạn nhân ở đây không ai khác chính là mẹ? Vụ việc ở đây không chỉ dừng lại ở đó, nó còn mang một quy mô lớn hơn, một tổ chức, một giáo hội ngầm ở Elphinstone mà chắc chắn khi nhúng sâu vào điều tra sẽ còn rất nhiều đầu mối khác đang chờ đợi. Lắc nhẹ đầu để rủ bỏ suy nghĩ ấy ra khỏi đầu, tôi lại một lần hút thuốc và chờ đợi.

Cha vợ tôi, ông Brewster cuối cùng cũng được triệu tập tới để lấy lời khai. Người bước từng bước nặng nề và dè chừng lên bậc tam cấp của sở. Đằng sau là hai cảnh sát khác hộ tống.

Tôi đón cha tôi ngay cửa ra vào, dẫn ông đến gặp cậu Prudence, thanh tra trẻ đầy tiềm năng ở nơi đây mà tôi vừa mới làm việc cùng. Tôi yên tâm bàn giao lại vụ việc này cho cậu ta. Một phần là do tôi rất thích cách làm việc nhanh gọn không chút dư thừa, hai là tôi đang tránh né. Sẽ thật khó xử nếu con rể thẩm vấn cha vợ mình, tôi e rằng tôi sẽ đặt tình cảm lên trên lý trí mà quên đi công lý.
Chưa đầy nửa canh giờ Prudence đã đi ra khỏi phòng, quần áo vẫn chỉnh tề và mặt mũi vẫn xán lạn. Cậu ta đến ngay chỗ tôi đang đứng, đưa tôi giấy tờ ghi lời khai vừa lấy được từ cha tôi, đồng thời tóm tắt lại quá trình:

- Chuyện này có vẻ không đơn giản như ta nghĩ thưa anh Humbert. Ông Brewster được bà giúp việc Lore giới thiệu và gia nhập một giáo phái kín tên là Chiesa Morta, là một hội kín. Bọn họ thờ cúng vị thần tên là W. Người đứng đầu giáo hội sẽ chọn một người được chọn để mang tế cho vị thần ấy. Bằng cách cúng tế người sống, thần W sẽ xóa sạch tội lỗi cho họ. Các thành viên coi việc này là chìa khóa để tìm đến sự giải thoát cho sự nhơ bẩn. – Cậu nói một lèo như bài diễn thuyết mà không cần liếc nhìn giấy.

Thế rồi cậu ta nói tiếp:

- Cúng tế giống như cho thần "ăn" vậy. Phải đợi cho thần ăn hết sạch sẽ mới tiếp tục dâng vật tế tiếp theo lên. Vì vậy nên thi thể phải bị phân hủy hoàn toàn. Và việc này không diễn ra ở một nơi cụ thể. Họ luôn thay đổi địa điểm để không bị phát hiện. Không may lần đó vợ ông Brewster vì ngăn cản ông đến với giáo phái này đã được "kẻ đứng đầu" nhìn trúng và lấy luôn tầng hầm làm nơi thực hiện việc cúng tế thần W. Để biết tình trạng của người tế, họ luôn yêu cầu các thành viên chụp lại ba tấm hình. Lúc da đổi màu, thối rữa và khi quắt queo hoàn toàn rồi gửi lại. Cha anh rửa mỗi hai bản vì muốn lưu giữ chút hình ảnh cuối cùng của vợ mình.

Tôi đứng như trời trồng. Mắt chữ a mồm chữ o còn tai thì ù ù như có tiếng xay lúa.

[...]

Ba giờ ba mươi bảy phút chiều, tôi được gọi bởi cấp trên. Đúng như dự đoán, ông ấy nói về việc tôi không thể để điều tra về chuyện này. Pháp luật luôn dè chừng những người làm luật sư, công an... nếu họ có người thân là nghi phạm trong một vụ án.

- Anh sẽ được lấy lời khai ngay thôi, Humbert. – Prudence vỗ vai tôi rồi đưa tôi một ly cà phê đen.

Chà, lời khai, nói thật thì tôi không thích chuyện này tí nào vì những lúc như thế tôi chẳng khác nào một kẻ tình nghi và trong buồng lấy lời khai, điều hoà luôn ở mức mười đến mười hai độ.

Mùi máy điều hoà hoà lẫn mùi mồ hôi, tàn thuốc cùng khói ám trên tường tạo nên một không gian lạnh lẽo - buồng lấy lời khai.

[...]

Vừa bước chân ra khỏi phòng, tôi đi thẳng ra khỏi sở. Lúc đó trời đã chuyển màu, kết thúc cho một ngày dài. Con xe bán tải đã được sửa xong, nằm gọn ghẽ một góc trên bãi đậu. Tôi lên xe nhưng ngập ngừng nửa đi nửa không. Tôi không biết phải đối mặt như thế nào với vợ mình, về việc cha ruột cô ấy bị tình nghi là một kẻ giết người. Leslie sẽ hoảng loạn lắm, sẽ không còn giữ được vẻ điềm tĩnh thường ngày. Em sẽ dồn dập hỏi tôi về chuyện đó và cuối cùng vỡ lẽ mà òa khóc. Điều đó làm tôi cảm thấy sợ.

Trên đường đèo hiểm trở về lại với Coalmont, một bên là núi cheo leo phía còn lại là vực sâu chỉ thấy toàn cây là cây. Tôi đang thả dốc, định bụng giảm tốc độ nhưng tại sao thắng lại không ăn? Tôi ra sức đạp thắng chân trên con xe đang lao dốc với tốc độ hơn 80 cây số một giờ nhưng đành bất lực. Quay qua cầu cứu chiếc thắng tay cũng vô ích, ai đó đã bẻ gãy nó. Đầu tôi hiện lên hình ảnh của hai thanh niên sửa xe ban nãy. Phải rồi, đích thị là bọn chúng.

- Mẹ kiếp! – Tôi đập mạnh đầy tức tối vào vô lăng, chân vẫn ngoan cố đạp thắng.

[...]

"Ầm."

Một tiếng vang chạm mạnh và chiếc xe ô tô đã rơi xuống vực sâu thẳm. Im ắng. Không một ai biết thanh tra Humbert đã chết và ra đi như thế nào. Nếu biết họ cũng sẽ nghĩ đó là một tai nạn xe bình thường.

Quả cầu lửa đi ngủ trả lại màu đen trống rỗng cho các vì sao thỏa sức tô điểm. Một chiếc xe nhỏ dừng lại bên mép đường, nơi vừa có một sinh mạng biến mất. Là hai người nhân viên sửa xe, họ dùng dây thừng để trèo xuống vực. Ánh đèn pin le lói ẩn hiện trong màn đêm đặc quánh.

Xác của ông Humbert được tìm thấy trên một tảng đá lớn. Tuy gối cứu hộ đã bung ra nhưng sức văng quá lớn nên người một nơi xe một nơi. Hai chân gãy, chia ra hai bên cùng cánh tay trái bị quẹo ngược ra đằng sau, trông như một con búp bê bị đám trẻ chơi chán rồi vứt bỏ. Một cành cây xiên qua ngực là nguyên nhân tử vong - mất máu quá nhiều. Dòng máu đỏ đã khô và mùi sắt trong không khí cũng bớt nồng. Hai người nhìn nhau rồi xỏ đôi găng tay xám màu vào, khiêng cái xác không còn hình dạng ban đầu lên xe. Tiếng xe phóng nhanh rơi vào màu đen của bí mật.

Humbert Weber là người được chọn tiếp theo.

Idea from: 𝐄𝐏𝐑'𝐒 𝐎𝐂𝐓𝐎𝐁𝐄𝐑 𝐄𝐕𝐄𝐍𝐓

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro