QUYỂN V: THANH HẢI BAO LA (THE END)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 156: Tự do vạn tuế

Mây đen che khuất mặt trời khiến bốn bề chìm trong u ám, gió Bắc điên cuồng quét qua trên chiến trường.

Thời gian trôi qua một cách chậm chạp, gió đầu thu mang theo hàn khí đặc trưng của phương Bắc càn quét khắp nơi. Từ rạng sáng đến giữa trưa, từ giữa trưa đến hoàng hôn, máu tươi đã nhuộm đỏ bình nguyên Hỏa Lôi, hỏa vân hoa nở càng thêm rực rỡ, đẹp một cách yêu diễm. Vô số sinh mạng lúc sáng vẫn còn cười nói hiện nằm la liệt trên nền đất lạnh lẽo như băng.

Mặt đất đã mất đi màu sắc vốn có, diều hâu quanh quẩn trên không trung, không ngừng lao xuống thỏa thuê hưởng thụ bữa thịnh yến hiếm có này. Xác chết rải đầy bình nguyên, thương binh lê lết giữa biển thi thể, đau đớn gào thét, thanh âm bi thương như sói hoang vừa lạc đàn. Nhưng nhiều hơn nữa chính là những quân sĩ không còn sức để kêu, chỉ có thể nằm vật vờ trên mặt đất chờ chết, thỉnh thoảng bị quân y đang tìm kiếm người sống sót đá vào thì mới khẽ hừ một tiếng, biểu hiện mình vẫn chưa chết.

Đến đêm thì trời đổ mưa phùn lất phất, nước mưa lạnh giá rơi trên chiến trường, hắt lên những thi thể còn đang cháy trong chiến hào, khiến khói trắng bốc lên xèo xèo.

Trình Viễn giẫm lên đống thi thể mà đi, nhiều năm chinh chiến sa trường khiến khuôn mặt ẻo lả nhưng âm u của hắn như được phủ thêm một tầng bền bỉ kiên quyết. Phần đùi được băng bó sơ sài bằng vải bố trắng do bị trúng tên khiến bước chân của hắn có hơi khập khiễng.

Dưới bầu trời chiều, trên sườn núi không cao, bóng dáng áo đen đang đứng dưới một gốc Hồ Dương, trên đỉnh đầu là ưng kỳ Bắc Yến nhẹ bay phấp phới, dưới chân là cỏ khô vàng úa cuốn qua theo từng cơn gió, thỉnh thoảng tạo thành những vòng xoáy nhỏ. Ánh mắt thăm thẳm của nam nhân tựa như đang chăm chú nhìn gì đó, nhưng cũng như lướt qua chiến trường, lướt qua đồng tuyết mênh mông mà nhìn về phía chân trời đầy mây...

Sau một thoáng sững sờ, Trình Viễn im lặng đứng yên tại chỗ, không tiếp tục tiến lên nữa.

"Trình Viễn đó à? Lên đây đi." Yến Tuân hờ hững lên tiếng, cũng không hề quay đầu lại.

Trình Viễn đi lên sườn núi, khom người quỳ một chân xuống đất, trầm giọng nói: "Khởi bẩm bệ hạ, Tú lệ quân đã đột phá phòng tuyến Đông Nam của Huyền Vũ quân rồi, Huyền Vũ tướng quân điều thêm hai đại đội vẫn không ngăn được thế công của Sở đại nhân. Kỵ binh Tú lệ quân vòng qua thế công trực diện của cấm quân, trực tiếp chọc thủng cánh trái đội quân của Huyền Vũ tướng quân, mở đường chạy ra. Lúc chúng ta chỉnh đốn binh mã xong, muốn ngăn cản thì đã muộn, bọn họ đã chạy về phía Tây Bắc rồi."

Yến Tuân chỉ lẳng lặng gật đầu, không nói tiếng nào. Trình Viễn liếm liếm cánh môi khô nứt, tiếp tục nói: "Có điều, mạt tướng đã truyền tin cho Cao tướng quân và Lục tướng quân, bảo bọn họ đi lối tắt cản đường. Binh đoàn số 1 sẽ cử ra ba vạn quân mai phục ở nội cảnh Tây Bắc, cũng đã sắp xếp xong quân binh đón đầu ở Long Ngâm Quan, thủy lộ thông đến Biện Đường cũng bị chúng ta canh chừng nghiêm ngặt, Tú lệ quân có mọc thêm cánh cũng chạy không thoát."

Yến Tuân vẫn im lìm đứng đó, tựa như không hề nghe thấy gì. Trình Viễn hơi căng thẳng, nhỏ giọng hỏi dò: "Bệ hạ?"

"Nói tiếp đi."

"Quân ta thương vong nặng nề, đại đội 7 của binh đoàn số 3 đã bị tiêu diệt hoàn toàn, đội trưởng của đại độ 4, đại đội 8, đại đội 11 đều tử trận, binh sĩ dưới trướng cũng tử thương hơn phân nửa. Tướng quân Đỗ Nhược Lâm của đại đội 13 từ chối tác chiến, chỉ huy đã bị tạm giam nhưng binh lính hạ tầng vẫn không chịu nghe lệnh tham chiến. Giữ bọn họ ở đây chẳng những không có tác dụng mà còn hại chúng ta phải cử binh trông chừng nữa...

Yến Tuân nghe đến đây mới xoay đầu lại, khẽ nhướng mày, trầm giọng hỏi: "Từ chối tác chiến?"

"V...vâng, đúng vậy." Trình Viễn nuốt *ực* một cái rồi lựa lời phân bua, "Binh sĩ của đại đội 13 đều xuất thân từ cao nguyên Thượng Thận."

Gió lạnh khiến mưa phùn tạt lên sống mũi cao thẳng của Yến Tuân, hắn chậm rãi gật đầu rồi không nói thêm gì nữa.

"Bệ hạ, bắt giữ Tú lệ quân chỉ còn là vấn đề thời gian thôi. Nhưng mạt tướng có một câu, không biết có nên hỏi hay không."

Mặt Yến Tuân vẫn không chút thay đổi, "Nói đi."

"Vâng, nếu quân ta thành công bao vây Sở đại nhân, xin hỏi bệ hạ, chúng ta nên dùng phương thức tấn công thế nào ạ? Toàn lực công kích hay kéo dài thời gian chờ đối phương mệt mỏi, tiêu diệt hay bắt sống? Xin bệ hạ nói rõ."

Gió bên tai như chợt mạnh hơn, nam nhân lẳng lặng đứng yên, mặc cho gió lạnh tạt lên thân thể, vạt áo bay múa phần phật. Chiến trường xa xa vẫn còn thấp thoáng ánh lửa, kịch chiến cả một ngày đã tước đi nhuệ khí của binh lính, hiện tại, chỉ còn cảm giác mệt mỏi rã rời cùng hình ảnh giáp trụ rách nát.

Hai vạn cấm vệ quân, sau đó còn được chi viện bởi ba đại đội, vậy mà vẫn thất bại trước chín ngàn Tú lệ quân tìm đường chạy trốn. Dưới sự chỉ huy của Sở Kiều, Tú lệ quân tựa như lưỡi đao nhỏ, linh hoạt sắc bén gọt phá vòng vây của hắn, chuyện mà ba vạn Hỏa vân quân của Hoàn Hoàn không thể, nhưng nàng lại dễ dàng làm được.

Hắn không thể không thừa nhận, trên phương diện quân sự, A Sở quả thực chính là thiên tài hiếm có. Nàng luôn có thể khống chế cục diện chiến trận trong tay mình, uy tín cùng địa vị của nàng trong quân đội, ngay cả hắn cũng không bì kịp.

Yến Tuân chậm rãi thở hắt ra một hơi, đáy lòng như bị sóng biển vùi dập. Hiện tại, hắn không rõ mình nên thấy may mắn vì nàng đã chạy thoát, vì bản thân không bị tình cảm chi phối làm lỡ chuyện, hay là nên khổ sở vì nàng rốt cuộc đã rời bỏ hắn, không bao giờ quay đầu lại nữa?

Cảm giác trào phúng dần dâng cao trong lòng khiến Yến Tuân bất giác cười lạnh, hắn hờ hững đưa mắt sang nhìn Trình Viễn, bất chợt hỏi: "Trình Viễn, có biết tại sao nhiều người khuyên ta chớ nên trọng dụng ngươi nhưng ta vẫn bỏ ngoài tai không?"

Trình Viễn nghe hỏi liền kinh hoảng quỳ xuống, dập đầu nói: "Được bệ hạ ưu ái, mạt tướng chết muôn lần cũng không đủ báo đáp."

"Bởi vì ngươi rất giống ta khi trước."

Trình Viễn ngẩng đầu lên, kinh ngạc nhìn Yến Tuân.

"Ta biết, cha mẹ cùng toàn bộ thân nhân của ngươi đều đã chết trong chiến tranh, vợ và muội muội ngươi thì bị binh lính Đại Hạ bắt làm quân kỹ, ca ca ngươi cũng là tướng lĩnh của Đại Đồng, nhưng lại bị giết bởi sát thủ của hội."

Hai mắt Trình Viễn dần đỏ lên, hắn quỳ trên mặt đất, không nói bất kỳ chữ nào, hai môi trắng bệch.

"Ta biết ngươi muốn gì, cũng giống như ta, ta cũng biết mình đang mong muốn điều gì." Yến Tuân ngước lên nhìn ráng chiều đỏ như máu đang dần bị mây đen nơi chân trời lấn át, khẽ nhếch môi, từ tốn nói: "Trong lòng ai cũng ấp ủ mơ ước, nhưng muốn hoàn thành tâm nguyện thì trước tiên phải còn sống. Bằng không, chết rồi thì có bao nhiêu tâm nguyện cũng đều bị bỏ dở."

Trình Viễn đột nhiên cảm thấy khóe mắt nóng lên, lúc nhận ra thì nước mắt đã che phủ tầm mắt. Nam nhân bị toàn Bắc Yến mắng là tiểu nhân bỉ ổi siết chặt nắm tay, đầu cúi gằm.

Một bóng diều hâu xẹt qua trên không trung, Yến Tuân ngẩng lên nhìn nó, ánh mắt xa xăm dần mất đi tiêu cự. Hắn trầm mặc hồi lâu, cuối cùng trầm giọng nói: "Sức chiến đấu của Tú lệ quân quá mạnh mẽ, không nên đối đầu trực diện, hãy mở cửa biên giới, vờ lộ tin ra cho Triệu Dương và Ngụy Thư Diệp. Mùa đông sắp đến rồi, để A Sở thay chúng ta phá vỡ thế giằng co giữa Bắc Yến và Đại Hạ đi vậy."

Trình Viễn thoáng kinh hãi, tâm tư thâm sâu như hắn cũng khó che nổi vẻ khiếp sợ trên mặt. Một lúc lâu sau, hắn mới nhỏ giọng nói: "Quân Hạ đóng ở Nhạn Minh Quan hiện giờ đều là giáp binh hạng nặng, còn bên Sở đại nhân đều là khinh kỵ binh, mạt tướng không nghĩ Đại Hạ có thể kịp thời bày trận cản đường Sở đại nhân."

"Thế thì hãy trì hoãn bước chân của nàng." Dứt lời, Yến Tuân liền xoay người đi về phía thành Bắc Sóc sừng sững, chiến mã toàn thân đen tuyền đi theo bên cạnh.

Nắng chiều hắt lên người nam nhân, đổ xuống một cái bóng thật dài, dư âm câu nói sau cùng của hắn theo gió bay quanh quất trên thảo nguyên, "Truyền tin cho dân chúng ở Bắc Sóc, Thượng Thận, Hồi Sơn, bảo rằng Tú lệ đại nhân của bọn họ sắp sửa rời khỏi Bắc Yến."

Một cơn cuồng phong hất tung vạt áo nam nhân, bảo kiếm bên hông phản chiếu nắng chiều ánh lên màu đỏ rực rỡ, hắn nặng nề đi từng bước một, chậm rãi tiến vào thành trì to lớn nhưng tựa như lao tù kia, ở đó, có vô số xiềng xích bằng vàng đang chờ khóa chặt hắn lại. Khoảng đen nơi chân trời dần lan rộng, tiếng diều hâu thê lương vẫn văng vẳng trên không trung, như âm thanh của thần chết đang bao phủ khắp bầu trời bình nguyên Hỏa Lôi.

A Sở, ta đã từng nói, tất cả mọi người có thể phản bội ta, chỉ có muội là không thể, bởi vì muội chính là ánh sáng duy nhất chiếu rọi thế giới tối tăm của ta.

Hôm nay, mặt trời của ta đã không còn nữa.

Bốn bề thọ địch, tứ cố vô thân, đến khi không còn đường chạy, liệu muội có nhớ đến ta không?

A Sở, ta sẽ ở phía sau dõi mắt nhìn muội.

................................................................................................

Chiến trận ập đến một cách đột ngột, không hề có dấu hiệu báo trước, các tuyến quân Bắc Yến vẫn luôn giữ khoảng cách với Tú lệ quân nên ban đầu Sở Kiều còn ôm ảo tưởng rằng Yến Tuân không đành lòng xuống tay với mình. Thế nhưng, lúc nhìn thấy dân chúng tay xách nách mang dẫn theo con cái đứng bên ngoài Long Ngâm Quan, nàng thấy mình như chìm trong hầm băng sâu vạn trượng, hoàn toàn tuyệt vọng.

Trong nắng sớm, người dân líu ríu rồng rắn xếp thành một hàng dài vô tận, có người đẩy xe ngựa lớn chất đầy đủ hòm nhỏ hòm to, nồi niêu xong chảo va chạm vào nhau kêu *leng keng*, có người vung roi lùa đàn trâu bầy cừu vào hàng, phụ nữ ôm con nhỏ khóc oa oa, bất đắc dĩ phải ngồi xuống trên đá cuội ven đường cởi áo cho bọn bú, cũng có người gánh đầy khoai ngô đi theo làm lương thực dọc đường.

Mệt mỏi, cực nhọc, hoảng loạn, trên mặt bá tính hiện đủ loại sắc thái khác nhau. Nhưng khi nhìn thấy cờ xí của Tú lệ quân, bọn họ đều không hẹn cùng nhau hô lên mừng rỡ, lập tức chen nhau tiến lên, hướng về phía đội quân vừa đến, kêu to: "Đại nhân đến rồi! Đại nhân ở đây này!"

Một ông lão râu tóc bạc trắng dẫn cháu chắt mình chen lên, mặt bọn trẻ đều đã đỏ bừng vì lạnh, hăng hái hỏi Sở Kiều: "Đại nhân, chúng ta đi đâu vậy?"

"Phải đó, đại nhân, chúng ta đi đâu vậy?"

"Mặc kệ là đi đâu, chúng ta đều theo cùng, không để đại nhân đi một mình đâu."

"Đại nhân, sao đi mà cũng không nói trước một tiếng vậy? Làm ta không kịp thu hoạch cả hoa màu, nhưng cũng may là ta nhanh chân, bằng không thì không đuổi kịp rồi."

...

Các chiến sĩ của Tú lệ quân đứng giữa bình nguyên trống trải, không ai nói gì, không hẹn mà cùng quay đầu lại nhìn Sở Kiều. Thiếu nữ khoác áo choàng xanh thẫm ngồi trên lưng ngựa, thân mình cao thẳng như một cây thương sắc bén. Nét mặt trầm tĩnh, không chút dao động của nàng khiến các chiến sĩ bất giác yên lòng...

Không phải lo, đại nhân luôn tính toán như thần, nhất định đã sớm có dự trù.

"Đại nhân." Hạ Tiêu thúc ngựa chạy lên, gọi nhỏ bên tai nàng.

Sở Kiều chậm rãi quay đầu đi, khoảng cách giữa hai người họ đủ gần để Hạ Tiêu nhận ra vẻ hoảng hốt mơ hồ xẹt qua trong mắt nàng, trong lòng hắn đột nhiên sinh ra một tia buồn bã cùng thương tiếc. Sau nhiều năm ở cùng, hắn đã không còn chấp nhất dựa dẫm vào năng lực của người thiếu nữ trước mặt một cách mù quáng như ban đầu nữa. Hai năm qua, hắn chứng kiến nàng sa sút tinh thần, nhìn thấy nàng khóc, thấy được sự mềm yếu của nàng, biết được nàng cũng có lúc mờ mịt không biết nên làm gì. Nàng không phải là chiến thần bất bại như trong lời đồn, rất nhiều lúc, nàng chỉ là một cô gái trẻ tuổi cố chấp ngây ngốc nhận quá nhiều trách nhiệm cùng áp lực lên vai, thậm chí muốn khóc cũng chỉ dám trốn vào một góc không người lặng lẽ rơi lệ. Nhưng tất cả những điều này không hề ảnh hưởng đến lòng trung thành của hắn đối với nàng, ngược lại còn khiến hắn sinh ra một loại tình cảm phức tạp, như người thân, như huynh trưởng, như thuộc hạ, hay tri kỷ...

Nam nhân đưa tay ra, không nặng không nhẹ đặt lên vai nàng, trầm giọng nói: "Đại nhân, có Hạ Tiêu ở đây."

Đúng vậy, Hạ Tiêu vẫn còn đây, Tú lệ quân cũng ở đây, nàng không chỉ có một mình.

Nhưng ngay sau đó, hướng Nhạn Minh Quan đột nhiên xuất hiện bụi tung mù mịt, thám báo hối hả chạy về hồi báo: "Đại nhân, hai mươi dặm trước mặt, Triệu Dương đích thân thống lĩnh mười vạn đại quân đang gấp rút tiến về phía này, nếu bây giờ chúng ta bước ra khỏi cửa khẩu Long Ngâm Quan, tất sẽ rơi vào phục kích của bọn họ."

Nghe xong, Sở Kiều quả thực muốn cười to thành tiếng.

Yến Tuân à Yến Tuân, thủ đoạn quả thật tinh diệu!

Mở cửa khẩu nhường đường, không để hao phí một binh tốt nào, dùng dân chúng trì hoãn tốc độ của kỵ binh bên nàng, mượn tay Đại Hạ ngáng đường nàng. Đại Hạ có nghi ngờ tính xác thực của tin tức thì cũng không thể để nàng tự nhiên dẫn Tú lệ quân tiến vào lãnh thổ của bọn họ, mà e cho dù bọn họ biết rõ Yến Tuân có mục đích khác, cũng không thể bước ra nghênh chiến.

Hắn thấu hiểu tâm tư dân chúng Thượng Thận và Hồi Sơn, thấu hiểu suy nghĩ của nàng, đối với cách nghĩ của Triệu Dương thì càng rõ ràng hơn nữa.

Trên chiến trường, nàng có thể dựa vào chiến thuật cùng kiến thức binh pháp cao minh giành chiến thắng được một hai trận quy mô nhỏ. Nhưng nếu tính đến khả năng mưu tính lòng người, sự khôn khéo trong việc lợi dụng tình thế hay tâm cơ thâm sâu, nàng còn kém Yến Tuân rất xa.

Dân chúng cũng phát hiện phía Đông xuất hiện khói bụi ngập trời, hoang mang dần lan rộng trong đám đông, cho dù bọn họ vẫn còn hết sức tin tưởng, một lòng tâm niệm 'có đại nhân ở đây, không việc gì phải sợ', nhưng nghĩ đến Đại Hạ binh cường tướng mạnh, còn Tú lệ quân bất quá chỉ có chín ngàn người, bọn họ liền bắt đầu tỏ vẻ băn khoăn.

Hạ Tiêu quay người hướng về phía Long Ngâm Quan, có chiến sĩ hô to: "Binh lính giữ thành, xin hãy mở cửa thành để dân chúng vào!"

Kêu gọi hết ba lần thì mới có người hé đầu ra, từ tốn đáp: "Bệ hạ có lệnh, muốn vào thì xin mời binh sĩ Tú lệ quân vào thành trước."

"Quân Hạ sắp đến nơi rồi, xin hãy để dân chúng vào thành trước!"

"Bệ hạ có lệnh, mời binh sĩ Tú lệ quân vào thành trước!"

Cùng một câu đáp lời đơn điệu, lặp đi lặp lại không đổi. Cuồng phong chợt thổi mạnh, hất bụi đất bay tán loạn trên không trung, Sở Kiều ngước lên nhìn chiến kỳ hắc ưng cắm trên cổng Long Ngâm Quan, bất giác siết chặt nắm tay.

"Đại nhân?" Có binh sĩ thấp giọng gọi.

"Đại nhân!" Tiếng gọi càng lúc càng lớn, càng ngày càng có nhiều người vây quanh Sở Kiều.

"Đại nhân, làm sao bây giờ?" Dân chúng bắt đầu có người hoảng hốt lên tiếng hỏi. Đám trẻ con bị không khí căng thẳng dọa, không khỏi sợ hãi òa khóc.

"Đại nhân, làm sao đây?"

"Đại nhân, kẻ địch sắp đến rồi."

"Đại nhân, vào thành tránh địch một lúc cũng được mà."

"Đại nhân, trở về xin lỗi bệ hạ đi, ngài nhất định sẽ tha thứ cho đại nhân."

"Đại nhân, chúng ta thề quyết tử chiến, xin đại nhân cứ ra lệnh!"

"Đại nhân, đại nhân, đại nhân..."

Yến Tuân, đây chính là cái ngươi muốn đấy sao?

Sở Kiều ngước lên nhìn bầu trời cao rộng, cười lạnh lùng, chút yếu mềm do dự còn sót lại tận đáy lòng đều bị hiện thực đập tan.

Yến Tuân, ngươi đang hy vọng nhìn thấy gì vậy? Thấy ta tứ cố vô thân? Thấy ta bốn bề thọ địch? Thấy ta biến thành con chó vừa mất đi nơi nương tựa, bất đắc dĩ phải cụp đuôi hoảng hốt chạy về Bắc Yến, sau đó mừng rỡ vẫy đuôi với ngươi?

Yến Tuân, người đã quá xem thường ta.

"Các tướng sĩ, tất cả chuyện xảy ra mấy ngày vừa qua, tin rằng mọi người đều thấy được." Sở Kiều thẳng lưng ngồi trên lưng ngựa, giơ tay ra hiệu đám đông yên tĩnh lại, sau đó chậm rãi nói: "Vua của chúng ta, hoàng đế Bắc Yến đã phản bội lời thề từng lập với giang sơn Bắc Yến, chối bỏ mọi hứa hẹn từng lập trên đỉnh Hồi Sơn, hài cốt của dân chúng Trường Khánh vẫn còn đó, Đại Đồng Hành trung thành thì bị hoàng đế tận diệt. Ô tiên sinh, Vũ cô nương, Hoàn Hoàn quận chúa đều đã chết, Thương Biên tướng quân, Duệ Hi tướng quân, A Đồ thiếu tướng cũng bỏ mình vì dã tâm của thượng tầng Bắc Yến, hiện tại, lưỡi đao của hoàng đế cũng đã hướng về phía chúng ta. Các chiến sĩ, trước mặt mọi ngươi bây giờ là mười vạn đại quân của Đại Hạ đang sẵn sàng chờ đón chúng ta. Sau lưng chúng ta chính là đại quân Bắc Yến đã biến chất, bọn họ cũng đã chuẩn bị xong, chỉ chờ phỉ nhổ lên đầu chúng ta, cười nhạo chúng ta hèn nhát vô dụng. Còn bên cạnh chúng ta, là dân chúng bị chính nước mình lừa gạt, ruồng bỏ. Các chiến sĩ, chúng ta nên hướng về đâu?"

Giọng nói lạnh lùng lanh lảnh vang trên bình nguyên hoang vu, không ai nói tiếng nào, tất cả đều ngẩng đầu lên, dùng ánh mắc sáng rực nhìn Sở Kiều.

Sở Kiều đột nhiên nhảy xuống khỏi lưng ngựa, chỉ tay vào đám lính canh giữa Long Ngâm Quan, cao giọng hỏi: "Quay đầu lại làm tay sai cho kẻ độc tài, chịu cười nhạo bởi bọn người phản bội lời thề? Ruồng bỏ người dân của chúng ta, một mình chạy trốn? Hay là xông thẳng về phía kẻ địch đông gấp hai mươi lần chúng ta, giành lại tôn nghiêm cùng vinh quang của một người lính?"

Sở Kiều ngẩng đầu lên, hét to: "Các chiến sĩ! Các ngươi có muốn sống không?"

"Thưa muốn!" Bất kể là binh lính hay dân chúng, tất cả đều trăm miệng một lời. Tiếng rống vang vọng khắp tầng trời, kinh động cả chim chóc bay ngang.

"Các ngươi nguyện làm phản đồ sao?"

"Không hề!"

"Giữa cái chết và làm phản đồ, các ngươi chọn cái gì?"

Tất cả cao giọng hô to: "Thề không phản bội Đại Đồng!"

Sở Kiều đứng ngược gió, giơ tay hét to: "Các chiến sĩ, các hương thân, xin hãy theo ta, lắng nghe hiệu lệnh của ta! Nếu đã phải chết, hãy để chúng ta dùng máu tươi bảo vệ vinh quang của Đại Đồng! Dẫu đầu có rơi, máu có chảy, tín ngưỡng của chúng ta vĩnh viễn bất diệt, mãi mãi tồn tại. Bắc Yến vạn tuế! Đại Đồng vạn tuế! Tự do vạn tuế!"

Ngàn vạn cánh tay đồng loạt giơ lên không trung, tiếng gầm như núi thở biển rền vang vọng bốn phía: "Đại nhân vạn tuế!"  


Chương 157: Bi ca ngút ngàn

Năm nay mùa đông đến rất sớm, mới tháng 9 trời đã giáng tuyết, tuyết rơi từng tầng phủ trắng lớp cỏ vừa nhú sau mưa.

Quân Hạ lại lùi binh, hiện đã bước sang ngày thứ ba kể từ khi Tú lệ quân bị vây khốn, bằng quy mô quân đội của đối phương, tiến độ tấn công này quả thật không như dự đoán. Triệu Dương chỉ một mực thận trọng vây quanh bên ngoài Long Ngâm Quan, ngăn cản Sở Kiều tiến vào lãnh thổ Đại Hạ chứ không hề có ý tấn công.

Hiện tại, tâm trạng hắn rất phức tạp, tấn công thì sợ mắc bẫy, nhưng hắn cũng sợ sẽ thật sự mất cơ hội giết chết Sở Kiều. Dù sao thì trong hai năm qua, tin Yến Tuân và Sở Kiều bất hòa đã sớm lan ra khắp nơi, Triệu Dương không thể nào không hay biết.

Đêm xuống, gió càng lúc càng mạnh, Sở Kiều đứng trên dốc núi nhìn ra chiến trường hoang tàn ở xa xa. Gió Nam ấm áp phả lên mặt nàng, khiến mái tóc dài xinh đẹp bay múa như cánh bướm.

Liên tục chiến tranh suốt ba năm qua, Long Ngâm Quan hiện đã được bồi đắp cao hơn Nhạn Minh Quan cả mấy trượng. Giữa hai cửa khẩu là một bình nguyên trống trải, cỏ mọc cao vút, tuyết rơi bám vào ngọn cỏ trắng xóa, mỗi khi có gió thổi qua, thảm cỏ dợn sóng như mặt biển trắng, phản chiếu ánh trăng màu bạc, đẹp đến chói mắt. Có đàn quạ bay xẹt qua, một con chúi xuống trong bụi cỏ quắp lên vật gì đó, sắc trắng thoáng lóe lên rồi mất dạng.

Chỉ nhìn thoáng qua Sở Kiều cũng nhận ra đó là cái gì, nàng lại đưa mắt về phía biển cỏ phủ tuyết kia, bi thương cùng chán ghét chậm rãi dâng lên từ đáy lòng.

Thảm cỏ ngút ngàn này đã chôn vùi bao nhiêu xương trắng bên dưới?

Chiến tranh chính là một cái miệng khổng lồ háu ăn có khả năng cắn nuốt vô số sinh mạng chỉ trong thời gian ngắn. Nơi nào nó đi qua, nơi đó chỉ còn lại hình ảnh nhà tan cửa nát, gió lạnh heo hút, âm u như chốn địa ngục.

Và nàng, có phải cũng chính là lưỡi đao tiếp tay cho nó hay không?

"A Sở..." Trong bóng tối, phảng phất như có tiếng thì thầm đang khẽ gọi nàng: "A Sở ơi..."

Đó chính là âm thanh nàng từng nghe rất nhiều năm trước, thiếu niên rúc vào cạnh nàng, phủ thêm chăn cho nàng, nhẹ giọng hỏi: "A Sở, muội có lạnh không?"

Năm đó, gió vừa mạnh vừa lạnh thấu xương...

Bóng chim bay qua sông, trước mặt là đồng tuyết bao la, trải dài ngàn dặm.

Có lẽ, đời người chính là một ván cờ chưa kết, đường hướng mông lung không rõ, bốn bề trắc trở, người chơi cờ không biết khi nào nên tấn công, khi nào nên thu tay. Lúc mới bắt đầu ván cờ, người chơi nào cũng ra sức hạ cờ, nhưng đôi khi, dù ngươi đã tận lực hết mình thì đến phút cuối vẫn càng lúc càng xa thắng lợi.

Sở Kiều chậm rãi nhắm mắt lại, trong đầu chợt xẹt qua rất nhiều hình bóng, Ô tiên sinh chính trực ôn hòa, Vũ cô nương điềm tĩnh mà cơ trí, Hoàn Hoàn hoạt bát hồn nhiên, Tiểu Hòa lương thiện trung hậu, Tiết Trí Viễn không màng mạng sống cảnh báo cho nàng, Văn Dương vì bảo vệ quân kỳ mà bị xử tử; Phong Thịnh, Mộ Dung và Ô Đan Du vung đao liều mình lao vào giữa vòng vây địch rồi bị chết dưới mưa tên, các chiến sĩ Tú lệ quân, dù còn sống hay đã chết; bá tính ở Thượng Thận và Hồi Sơn; thậm chí cả Tào Mạnh Đồng tự sát để tạ tội và những trưởng lão Đại Đồng cổ hủ kia...

Các chiến sĩ của nàng, hành quân mà trong tay không lương thảo cũng không tiếp tế, phải dẫn theo ngàn vạn dân chúng tay không tấc sắt ngay giữa trời đông lạnh giá. Từng phút một trôi qua, gót sắt kẻ địch đã dần không còn kiên nhẫn, trẻ em la khóc vì đói, mây đen tụ ở chân trời, không khí ngưng đọng, báo hiệu bão tuyết sắp đến.

Sở Kiều ngẩng đầu lên nhìn bầu trời bao la vô tận, như mơ hồ thấy được một đôi mắt khác, ánh mắt lặng lẽ nhìn nàng đã vĩnh viễn chìm dưới đáy hồ băng. Khi đó, mọi lạnh lùng cùng tức giận từng hiện hữu trong đôi mắt đó đều tan biến, thay vào đó là sự bình thản như đã nhìn thấu mọi chuyện, chỉ còn vấn vương lời dặn: Phải sống...

Ta biết rồi...

Sở Kiều khẽ cong khóe môi, ngước lên nhìn tầng trời cao rộng, mỉm một nụ cười rồi nhẹ giọng nói: "Ta sẽ kiên trì đến cùng..."

Dứt lời, nàng quay đầu lại nhìn quân doanh trải dài trước mặt, lẳng lặng nói: "Ta sẽ bảo vệ tất cả đến cùng..."

................................................................................................

Mùa thu năm 778 theo lịch Bạch Thương, quân Hạ lần đầu tiên chủ động bao vây Long Ngâm Quan, gần mười ba vạn binh mã từ bốn phương tám hướng kéo đến tụ tập quanh Long Ngâm Quan. Dựa vào các loại vũ khí tầm xa tầm gần không ngừng được vận chuyển đến, báo hiệu nơi này sắp sửa diễn ra trận chiến với quy mô cực lớn.

Lần này tuy vẫn là đối mặt với Sở Kiều, người từng đánh bại mình trên cả hai mặt trận ở Xích Độ và Bắc Sóc năm đó, nhưng Triệu Dương không hề lo lắng. Đầu tiên, Long Ngâm Quan rất gần với Nhạn Minh Quan, hắn lại chuẩn bị quân binh đâu vào đó, nếu phát hiện là bẫy thì cũng không mất quá nhiều thời gian liền có thể quay trở về. Thứ hai, lần này Sở Kiều không có thành trì để phòng thủ, cũng không có cung nỏ tầm xa, chỉ bằng chín ngàn khinh kỵ binh Tú lệ quân và một đám người già yếu bệnh tật muốn đối đầu với hơn mười vạn quân toàn binh giáp hạng nặng của hắn, quả thực chính là tự tìm đường chết. Thứ ba, trinh sát cài ở Bắc Yến cuối cùng đã trở về báo tin, bảy ngày trước, Yến Tuân và Sở Kiều quả thực từng đụng độ ở ngoài thành Bắc Sóc, chết hơn vạn người. Hơn nữa, hiện tại các nhân vật chủ chốt của Đại Đồng Hành đều đã chết sạch, chỉ còn lại một mình Sở Kiều. Nếu Yến Tuân làm tất cả những chuyện này chỉ để giăng bẫy đánh lừa Đại Hạ thì... Triệu Dương chỉ có thể nói, thủ đoạn độc ác tàn nhẫn của Yến Tuân đã đạt đến tầng cao mới, không ai bì kịp rồi.

Ngày 18 tháng 9, lúc trời chỉ mới hừng sáng, sương mù còn giăng dày đặc thì trống trận đột nhiên gióng lên từng hồi vang dội, phá tan sự tĩnh lặng của buổi sớm, mạnh mẽ dội vào trái tim thấp thỏm của Tú lệ quân và chúng bá tính.

Nắng sớm mới xuyên qua màn sương trắng, rọi lên bình nguyên mênh mông bát ngát, hàng hà sa số giáp quân Đại Hạ trải dài như đại dương đi từng bước thình thịch, tiếng động đinh tai nhức óc vang vọng cả một vùng. Dân chúng hoảng hốt la lên, túm tụm vào nhau kinh hoàng giữa bình nguyên mênh mông. Nhân số hai bên, tựa như cát bụi so sánh với núi đá.

"Trời ơi!" Có người nhỏ giọng cảm thán: "Cái gì vậy, tuyết lở à?"

"Chuẩn bị!" Đối diện chợt vang lên một tiếng hô sắc bén, theo sau đó là từng hàng bộ binh tiến lên phía trước kỵ binh, khuỵu một chân quỳ trên mặt đất, bày tư thế sẵn sàng.

"Ném!"

Trường thương lập tức vun vút bay lên không trung, vẽ một đường cong hoàn mỹ rồi lao thẳng xuống dưới. Một đàn chim xấu số vô tình bay ngang bị mưa thương xuyên thủng, máu tươi bắn tung tóe ngay giữa trời, lông vũ bay tán loạn. Dân chúng dưới đất vừa hoảng sợ há miệng, chưa kịp thét lên thì mưa thương đã lao xuống.

Bốn phía nhất thời vang vọng tiếng kêu gào tuyệt vọng xen lẫn tiếng ngựa hí, thê lương như một bản bi ca xuyên thấu trời xanh.

"Toàn quân dàn hàng! Xung phong!" Giữa tình cảnh mưa tanh gió máu đó, Sở Kiều vững vàng ngồi trên lưng ngựa, tay giơ cao chiến đao, một mình một ngựa lao lên trước tiên.

Tú lệ quân nhìn thấy cũng lập tức xông lên theo nàng, không một ai lộ vẻ do dự hay chần chừ. Trên mặt các chiến sĩ cũng có ít nhiều sợ hãi, nhưng bọn họ vẫn không hề lùi bước.

Hạ Tiêu bảo vệ bên cạnh Sở Kiều, lớn tiếng hô: "Các huynh đệ, không thể để bọn chúng tiến đến gần dân chúng thêm một bước nào nữa!"

"Xung phong!" Tiếng hét đinh tai nhức óc của các chiến sĩ khiến người nghe nhiệt huyết sôi trào.

Toàn thể người có mặt đều sững sờ, từ dân chúng Bắc Yến vừa cất tiếng kêu hét tuyệt vọng cho đến đại quân Bắc Yến đứng chờ theo dõi diễn biến trên cổng Long Ngâm Quan và binh tướng của Đại Hạ, bao gồm cả Triệu Dương. Không ai ngờ được, chỉ với quân số ít ỏi nhường đó mà Sở Kiều lại dám trực diện tấn công đại quân hơn mười vạn người của hắn, đối diện với biển đao gươm của địch mà không chút e dè. Sau thoáng bất ngờ, khi bình tâm nghĩ lại thì bọn họ mới nhận ra, địa thế nơi này là bình nguyên trống trải không chỗ phòng thủ, nếu để quân Hạ áp sát cửa khẩu sẽ liên lụy đến dân chúng, Sở Kiều đã lựa chọn làm như vậy, chính là vì muốn bảo vệ phụ nữ và trẻ em vô tội sau lưng mình.

Triệu Dương thoáng chấn động, một tia hoảng hốt chợt xẹt qua trong mắt, nhìn Tú lệ quân được thiếu nữ áo xanh dẫn đầu càng ngày càng tiến lại gần, máu trong người hắn dần nóng lên.

"Chúng tướng sĩ! Chẳng lẽ dũng khí của các ngươi còn không bằng một nữ nhân sao?" Vị thống soái trẻ tuổi của Đại Hạ quát to: "Toàn quân xung phong!"

Trong nháy mắt, biển người khoác giáp đen chợt gào to, đồng loạt lao lên theo khẩu hiệu xung phong, vạt chiến bào tung bay trong cuồng phong, khí thế như đại dương nổi bão.

"Tản ra! Dàn trận!" Sở Kiều ra lệnh.

Nhưng cái gọi là dàn trận của Tú lệ quân chỉ là sắp thành một hàng ngang thật dài đón đầu đại quân của địch. Chín ngàn chiến sĩ mặc chiến giáp đen, sánh vai nhau tạo thành một vòng tròn che trọn Long Ngâm Quan ở phía sau, kỳ hiệu hình mây lửa trên đầu vai đỏ rực dưới ánh mặt trời. Tay thủ chiến đao trước người, hai chân kẹp chặt bụng ngựa, bọn họ nhìn vó ngựa mịt mù bụi của đại quân ở đối diện, sắc mặt bình tĩnh và trầm mặc như đá.

Đây quả thực là điên cuồng tự sát!

Binh mã Đại Hạ càng lúc càng gần, bụi đất mù mịt, gần đến mức như nghe được hơi thở phì phò từ mũi ngựa. Cuối cùng, hai đội quân mạnh mẽ lao vào nhau, cuồng phong ngập trời, máu thịt cùng đao sắc tương giao, tiếng vũ khí va chạm chấn động cùng một lúc. Từng đợt tấn công liên tiếp không ngừng, bốn phía vung vẩy máu tươi, phòng tuyến mỏng manh như bị đá to vùi dập, máu tươi cùng tứ chi đứt đoạn chính là những gì còn lại sau mỗi tiếng gào thét thê thảm.

Chiến trận kịch liệt khiến không gian như chìm trong bóng đêm u ám, ánh mắt các chiến sĩ tràn ngập máu tanh, mặt đất dần chất đống thi thể. Tiếng đao kiếm, tiếng vó ngựa, tiếng gào thét, tiếng kêu rên thê thảm, tiếng mắng chửi cuồng nộ cùng tiếng hô hào xung phong hòa lẫn nhau thành một âm thanh hỗn tạp chói tai đến không chịu nổi. Đao kiếm va chạm tóe lửa, người bị thương dần đã không còn cảm giác đau, thôi rên rỉ lại vùng lên tiếp tục đánh chém. Nền tuyết trắng đã không còn nguyên dạng, mặt đất trải đầy tứ chi, lưỡi đao sứt mẻ cùng trường thương gãy khúc, máu tươi hòa với tuyết tạo thành lớp bùn nhão đỏ tươi. Ánh mắt các chiến sĩ bị máu che mờ đã không còn nhìn rõ phía trước, trong đầu chỉ còn duy nhất một suy nghĩ, đó chính là: giết, giết và giết! Những lời thiếu nữ nói trước khi lâm trận vẫn quanh quẩn bên tai bọn họ: Ai để kẻ địch công phá phòng tuyến sẽ chính là tội nhân của Tú lệ quân!

Vũ khí đã gãy thì xông lên cắn đứt cổ kẻ địch, không còn chiến mã thì chặt chân ngựa đối phương, kéo bọn chúng xuống cùng.

Tràng diện càng lúc càng kịch liệt, Hạ Tiêu cởi phăng áo giáp nặng nề, vung đao chém đứt đầu một gã quân Hạ. Máu tươi bắn lên mặt nhưng hắn vẫn không buồn để ý, tiếp tục tìm mục tiêu kế tiếp. Bộ dạng hung hãn không ngại chết đó đã khiến đối phương sợ hãi, kẻ địch xunh quanh đều nao núng lùi lại, không muốn trực diện đối đầu với hắn.

Khả năng chiến đấu của mỗi chiến sĩ của Tú lệ quân đều mạnh mẽ hơn người thường, bọn họ đứng đó, tựa như những cỗ máy chiến đấu vĩnh viễn không biết mệt mỏi. Cho dù ngực có bị đâm thủng, đùi có bị chém phải, một tay có bị chặt đứt thì bọn họ vẫn như không hề có chút cảm giác. Có chiến sĩ bụng bị rạch ngang, phần ruột đổ cả ra ngoài nhưng vẫn tiếp tục xông lên phía trước.

Binh sĩ Đại Hạ bị chấn động, đây quả thực không phải người, đúng vậy, đối thủ của bọn họ đã không còn là người, là một lũ điên, một đám ma quỷ thì đúng hơn.

Triệu Dương nghiến răng căm giận. Lại là thế này, tại sao vẫn như vậy? Dường như lần nào cũng vậy, hắn không hiểu, nữ nhân kia rốt cuộc có ma lực gì, nàng ta rốt cuộc có chỗ nào đáng cho những tướng sĩ kia liều mình đến vậy? Có được mãnh tướng cường binh như thế chính là mơ ước xa vời của bất kỳ quân nhân nào, loại mong muốn đó, tiền bạc không mua được, quyền thế không với tới, uy hiếp cũng hoài công. Nhưng nàng ta lại dễ dàng làm được.

Trống trận dồn dập, đạo quân này ngã xuống lại có đạo quân khác tiến vào chiến trường đẫm máu kia. Bình nguyên ngập thi thể, nền đất đã không còn thẩm thấu nổi khiến máu tươi chảy quanh co như suối nhỏ dưới đống xác người. Chúng tướng sĩ Đại Hạ lòng rối như tơ vò, cho dù phía trước có là tường đồng vách sắt thì lúc này cũng nên bị đục thủng rồi mới phải, tại sao cái phòng tuyến rõ ràng lung lay như sắp sụp đổ kia vẫn còn đứng đó, mặc cho bọn họ công kích hết lần này đến lần khác?

Ba đội kỵ binh trang bị giáp hạng nặng đã bị tiêu diệt hoàn toàn, năm đoàn bộ binh cũng bị đánh cho tan tác. Trước mặt phòng tuyến kia, thi thể người đã chất cao gần ba thước tựa như một bờ tường thấp bé, chiến trận kéo dài từ sáng sớm đến giữa trưa nhưng vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc, và phòng tuyến thoạt nhìn mỏng manh kia lại như càng lúc càng khó chọc thủng.

Triệu Dương biết, đó là vì binh sĩ bên hắn đã chùn chân e ngại, đối mặt với phương thức tác chiến điên cuồng như tự sát kia, ngay cả hắn cũng cảm thấy mạch máu ở thái dương đang đập thình thịch.

Trời đất âm u đến cùng cực, mặt trời một mực ẩn sau tầng mây đen, như cũng không nỡ tiếp tục chứng kiến cảnh tượng giết chóc tuyệt vọng bên dưới.

Triệu Dương thậm chí đang hoài nghi, có khi nào đây chính là quỷ kế của Bắc Yến? Đối phương muốn áp đảo tinh thần trước rồi mới đồng loạt tấn công nên mới cố ý dùng lực lượng tinh nhuệ như vậy? Nhưng nếu là thế, vì sao đến giờ vẫn không thấy đại quân phía sau cửa khẩu cử người chi viện?

Suy nghĩ đủ đường cũng không hiểu được, khi ý chí chiến đấu của binh sĩ đang dần giảm sút, Triệu Dương bắt đầu sinh ra sợ hãi. Cứ coi như là Đại Hạ nhất định thắng trận này đi, nhưng kết quả bọn họ sẽ được cái gì chứ? Chín ngàn thi thể của Tú lệ quân? Thắng một trận mà phải chật vật đến như vậy, ý muốn giết chết Sở Kiều nhằm tiêu diệt kẻ địch khó đối phó nhất của Bắc Yến của hắn lúc này đã không còn cuồng nhiệt như trước nữa.

Ngay trước khi mặt trời lặn, kèn lệnh báo hiệu rút quân của Đại Hạ rốt cuộc cũng vang lên, đám binh sĩ đồng loạt hoan hô một tiếng rồi hối hả thối lui, nhanh như thủy triều rút.

Và khi ấy, Tú lệ quân đã không ai còn sức truy kích. Cơ hồ là cùng một khắc quân Hạ rời khỏi chiến trường, các chiến sĩ Tú lê quân đồng loạt ngã xuống, tựa như bờ đê cuối cùng cũng sụp đổ sau khi chống đỡ cơn lũ to.

Triệu Dương nhanh chóng phát hiện tình hình, ngay lập tức quả quyết quay đầu ngựa lại, hạ lệnh nổi kèn hiệu xung phong rồi một mình một ngựa chạy ngược lại, vừa thúc ngựa vừa lớn tiếng hô: "Các tướng sĩ, mau theo ta!"

Binh sĩ Đại Hạ cuống cuồng quay đầu lại thì phát hiện phòng tuyến tường đồng vách sắt ngăn cản mình khi nãy đã biến mất. Chỉ cần có chút trí khôn thì ai cũng có thể hiểu rõ, Tú lệ quân đối đầu với kẻ địch đông hơn gấp hai mươi lần đã sớm thế suy sức yếu, vừa thấy đối phương rút lui liền lập tức ngã quỵ.

Đây quả thực là cơ hội ngàn năm một thuở!

Vì vậy, đại quân liền đồng loạt quay đầu ngựa, theo chân Triệu Dương xung phong.

"Toàn quân tập hợp!" Trong tiếng gió Bắc vù vù, một giọng nữ trong trẻo chậm rãi vang lên, âm thanh không nhỏ nhưng vẫn rõ ràng truyền vào trong tai mỗi người.

Sau đó, trước ánh mắt không thể tin của binh lính Đại Hạ, đội ngũ kia lại từng người một lảo đảo bò dậy. Ai cũng giáp trụ rách vỡ, sắc mặt trắng bệch, đứng cao thấp không đồng đều, chiến đao trong tay đã sứt mẻ, đội ngũ lê tấm thân đã sớm rã rời, chậm rãi tiến về vị trí của mình, vai kề vai, từ một người, hai, ba, mười, trăm rồi đến ngàn người...

Mơ hồ như một bức tranh được phục chế từng nét một, các chiến sĩ người đầy máu lại một nữa đứng lên, lảo đảo xếp thành tường chắn. Bức tường kia thoạt nhìn lung lay như một làn gió thổi cũng có thể đẩy ngã nó, nhưng khi tất cả đứng chung lại, sống lưng bọn họ liền bất chợt trở nên thẳng tắp, tựa như cổ thụ tạo nên cánh rừng, trở nên sừng sững như núi cao.

Hạ Tiêu đứng trước phòng tuyến, mạnh mẽ giơ cao chiến đao ra hiệu, hơn ngàn chiến sĩ đồng loạt hét to: "Chiến đấu vì tự do!"

Tiếng hét đó to rõ như sấm sét đánh xuống bình nguyên, chấn động vạnvật, át mọi tiếng hô xung phong cùng tiếng kèn hiệu của đối phương. Bước chân quân Hạ không tự chủ đều khựng lại, đáy lòng đột nhiên sinh ra cảm giác tuyệt vọng đáng sợ 'Có đánh cũng không thắng được.'

Không rõ là ai sinh ra ý nghĩ này trước tiên, nhưng thoáng cái nó đã lan truyền khắp toàn quân thông qua ánh mắt bọn họ nhìn nhau. Đứng trước kẻ địch toàn thân đầy máu, giáp trụ vỡ nát nhưng vẫn vô cùng kiên quyết kia, tướng sĩ Đại Hạ đều bất giác vừa sợ hãi vừa tôn kính.

Triệu Dương trầm mặc đứng yên tại chỗ, nhìn thiếu nữ toàn thân nhuộm máu, nhìn bóng dáng thẳng tắp tựa ngọn thương của nàng mà cảm thấy kính trọng tận đáy lòng. Triệu Dương nhảy xuống khỏi lưng ngựa, cởi mũ giáp xuống, cuối cùng, bóng dáng cao quý của hắn cúi thấp lưng chào một cái thật long trọng, ngay ở trước mặt mười vạn đại quân Hạ, trước mặt chín ngàn Tú lệ quân, trước mặt mấy vạn bá tính Bắc Yến ngàn vạn ánh mắt phía sau Long Ngâm Quan.

Binh sĩ Đại Hạ cũng theo chủ soái mình lặp lại động tác này. Đối mặt với những con người mình từng mắng là phản đồ này, bọn họ kính nể cúi chào rồi hầu như là cùng một lúc, lặp lại khẩu hiểu xung phong của đối phương: "Chiến đấu vì tự do!"

Quân Hạ rầm rập rời đi, để lại sau lưng chiến trường điêu tàn, gió thu lướt qua trên bình nguyên đầy máu, tất cả như một giấc mộng vô thực.

Tú lệ quân không ai động đậy, vẫn đứng nguyên tại chỗ như còn e ngại Đại Hạ lại đổi ý quay đầu một lần nữa.

Sở Kiếu kéo chiến đao nặng trịch, chậm rãi tiến lên phía trước, sắc mặt nàng trắng bệch như tuyết, màu xanh trên áo đã bị thay bởi màu máu, cũng không rõ là máu của nàng hay máu của người khác. Chúng binh sĩ cũng nhìn nàng, ánh mắt ngơ ngác như vẫn chưa tin quân Hạ đã rút lui.

Thiếu nữ đứng đó, gió thổi bay tóc mai tán loạn trên vầng trán mịn, phả lên luôn mặt xinh đẹp đã sớm lấm lem, nàng cất giọng khàn khàn, làm động tác giống như Triệu Dương, cúi mình thật thấp chào các tướng sĩ của mình, nói rõ ràng từng chữ một: "Các chiến sĩ, chúng ta thắng rồi."

Một tiếng nấc đột nhiên vang lên từ phía sau, sau đó liền ào ạt như đê vỡ, càng lúc càng lớn, đó là dân chúng được bọn họ che chở, hiện tại, đang rơi lệ đầy mặt chạy về phía này.

Dưới sự hướng dẫn của Hạ Tiêu, Tú lệ quân cũng đồng loạt khom lưng hành lễ với Sở Kiều, cất tiếng vang vọng: "Đại nhân cực khổ rồi."

"Mọi người cũng vậy." Trong không gian u ám bởi mặt trời bị che khuất, Sở Kiều đứng dậy, nước mặt lặng lẽ chảy xuống mặt.

................................................................................................

Quân Hạ đã không còn liều mạng tấn công nhưng cũng không nới vòng vây để bọn họ rời đi. Tú lệ quân bây giờ mới chính thức rơi vào tình huống hai đầu bị vây khốn. Triệu Dương hiện tại đã có thể khẳng định tin tức là chính xác, Sở Kiều quả thật đã trở mặt với Yến Tuân, bọn họ muốn rời khỏi Bắc Yến, mà cửa Long Ngâm Quan vẫn một mực đóng kín. Trừ khi chọn thủy lộ Nam Cương đi đến Biện Đường, bằng không bọn họ cũng chỉ có thể xuyên qua phòng tuyến Nhạn Môn Quan mà thôi, trong khi đó, Yến Tuân lại phong bế hoàn toàn thủy lộ Nam Cương.

Tin tức quả thật chính xác.

Ngày 20 tháng 9, trời bắt đầu giáng tuyết. Bão tuyết không lớn lắm nhưng lại rơi suốt hai ngày không ngừng. Lương thực dự trữ của Tú lệ quân đã cạn kiệt, nếu không nhờ dân chúng mang theo lương thực thì bọn họ đã sớm chịu đói. Lều trại đều được phân cho người già, phụ nữ và trẻ em, mỗi lều nhét đến hơn ba mươi người nhưng mỗi ngày vẫn có người già và trẻ em bị chết cóng trong đêm. Hành quân vội vã nên không mang theo thuốc trị thương, các chiến sĩ bị thương không có thuốc, thậm chí cũng không có được một chút nước ấm rửa vết thương. Sở Kiều chỉ có thể trơ mắt nhìn giá buốt cùng thương thế tước đi sinh mạng của thuộc hạ, những người mà ngay cả đại quân đồ sộ của địch cũng không thể quật ngã.

Mỗi khi thấy có người chết đi, thấy trẻ con khóc lóc vì đói vì lạnh, nàng chỉ hận không lập tức chạy đến trước Long Ngâm Quan, dập đầu xin lỗi Yến Tuân, cầu hắn cứu những con người vô tội này.

Trên môi bất giác nở một nụ cười bất đắc dĩ, Sở Kiều cảm thấy toàn thân rã rời không còn chút khí lực. Yến Tuân quả nhiên là người hiểu rõ nhược điểm của nàng nhất trên đời này, hắn biết, Sở Kiều nàng không sợ Đại Hạ, không sợ chiến tranh, không sợ giết chóc, không sợ chết, điều duy nhất nàng sợ, chính là để người nàng yêu mến bỏ mạng vô ích vì mình.

Hai ngày nay, nàng đã bốn lần dẫn binh tiến sâu vào Nhạn Minh Quan, nhưng đều không công mà phải lui. Bởi Triệu Dương một mực giữ vững phòng thủ, không nghênh chiến nhưng vẫn chú ý đến bọn họ, chỉ cần bọn họ tiến đến gần liền có mưa tên đón chào, kết quả lại có thêm mấy sinh mạng vô tội ngã xuống.

Tối ngày 22 tháng 9, trời nổi bão tuyết, nhiệt độ đột ngột giảm mạnh, từng cơn gió lạnh thấu xương không ngừng quét qua, chỉ gần nửa ngày đã có hơn năm mươi binh sĩ cùng tám mươi dân chúng bị chết cóng. Rốt cuộc đã có người không chịu nổi nữa, một người phụ nữ khoảng hơn bốn mươi tuổi đột nhiên rời khỏi doanh trại Tú lệ quân, ngay sau đó, càng lúc càng có nhiều người chạy theo, lũ lượt như một cơn hồng thủy, lảo đảo hướng về phía Long Ngâm Quan.

Sống chết trước mắt, nỗi sợ hãi với cái chết rốt cuộc đã chiến thắng lương tâm, bọn họ rốt cuộc rời bỏ các chiến sĩ vẫn liều mạng bảo vệ mình, chạy về phía bổn thổ.

Tú lệ quân im lặng đứng một bên, không ai lên tiếng cũng không ai ngăn cản, bọn họ chỉ trầm mặc nhìn người dân khóc lóc rời khỏi mình.

Một ông lão tóc hoa râm chạy đến trước mặt Sở Kiều, trong lòng ông có một đứa trẻ chỉ còn chút hơi tàn, xấu hổ ngước lên nhìn Sở Kiều, muốn nói gì đó nhưng chỉ có thể bật ra vài tiếng khóc nghẹn ngào.

Mặt đứa trẻ đã trắng bệch, Sở Kiều biết, nếu không được sưởi ấm, rất nhanh đứa bé sẽ không cầm cự nổi nữa.

Cổ họng như bị nghẹn lại, nàng không tức giận, không bi thương, cũng không hề hận bọn họ bội bạc.

Thân là quân nhân lại không thể bảo vệ người dân ủng hộ mình, chỉ có thể nhìn bọn họ chết oan uổng, nàng không còn lời nào để nói, cũng không đành lòng nhìn ánh mắt áy náy của ông lão kia. Bởi đối với họ, nàng còn áy náy nhiều hơn. Vì thế, nàng chỉ có thể lẳng lặng cúi đầu, dùng sự im lặng biểu đạt tâm tình của mình.

Thật xin lỗi.

Cửa Long Ngâm Quan vẫn kép kín, đèn trên đầu thành dần sáng lên, bên dưới cửa khẩu, vô số người già, trẻ con, phụ nữ tụ tập, lớn tiếng xin mở cửa,giọng cầu khẩn của bọn họ, xen lẫn nỗi tuyệt vòng cùng sợ hãi cùng cực. Nói cho cùng thì bọn họ rốt cuộc cũng chỉ là người dân bình thường, chẳng qua chỉ hy vọng có thể sống tốt hơn một chút mà thôi.

Tuyết rơi càng lúc càng nhiều, đổ trắng cả một vùng, đầu thành có tiếng quát lớn: "Không được đến gần! Mau lui lại! Lui lại!"

Nhưng không ai để ý đến binh sĩ nọ, tiếng quát của hắn đã bị tiếng gào khóc của dân chúng lấn át, người dân không ngừng đập lên cửa thành, vừa đập vừa khóc to: "Mở cửa! Mở cửa! Chúng ta là con dân Bắc Yến, vì sao lại không mở cửa cho chúng ta vào?"

Tiếng gào khóc xuyên thấu trời cao, binh lính trấn giữ Long Ngâm Quan không khỏi hóa đá. Chiến trận hai ngày trước bọn họ đều thấy rõ, nên bây giờ không một ai nguyện ý cầm vũ khí chĩa vào chiến hữu cũ của mình cả. Hiện tại, nhìn thấy dân chúng kêu gào, bọn họ lại càng thêm rối rắm, không biết phải làm thế nào mới đúng.

"Mở cửa ra!" Dân chúng điên cuồng đập cửa, người ngã xuống liền có người khác liều mạng xông lên, giẫm đạp lên nhau.

Tiếng kêu khóc thảm thiết vang dậy trên bình nguyên, trời đất trắng toát màu tuyết buốt giá, tiêu điều đến cực độ.

"Lùi lại! Bằng không bọn ta sẽ bắn tên!" Binh lính trên tường thành cao giọng răn đe.

"Chớ bắn! Chúng ta chính là dân Bắc Yến!"

"Cầu xin các người! Hãy cứu con ta!" Người phụ nữ chạy đầu tiên quỳ rạp trên đất, hai tay giơ cao đứa trẻ mới sinh còn trong tã lót, kêu khóc thảm thiết: "Không cần cứu ta! Nhưng xin các người hãy cứu con ta!"

"Mở cửa! Mau mở cửa cho chúng ta vào!"

...

"Sở đại nhân!" Binh lính trên đầu thành lớn tiếng hô: "Xin hãy quay lại! Người không quay lại chúng ta sẽ không thể mở cửa thành! Bệ hạ có lệnh, chỉ cần người chịu trở lại, mọi chuyện cũ đều sẽ được bỏ qua!"

"Sở đại nhân! Tất cả mọi chuyện sẽ được bỏ qua!" Hơn trăm binh sĩ giữ thành cùng nhau hô to, âm thanh vang vọng như sấm giáng xuống bình nguyên mênh mông.

Dân chúng như tìm được cứu tinh, có người đột nhiên quay người về phía Tú lệ quân, quỳ xuống khóc to: "Đại nhân! Xin hãy trở về!"

"Đại nhân! Xin cứu chúng ta, quay lại đi!"

"Đại nhân! Xin hãy trở về nhận lỗi với bệ hạ!"

"Đại nhân!" Người phụ nữ kia chạy trở về, trong lúc vội vã bị vấp liền ngã lăn ra trên mặt đất, đứa bé trong lòng bị đụng đau liền khóc váng lên, tiếng khóc của bé nghe vô cùng đau lòng (tại tự nhiên e thấy cái phrase này rất Tàu, k hợp cảnh), đau còn hơn cả mũi thương đao của quân Hạ, "Đại nhân, cầu xin người cứu con ta! Đại nhân, cầu xin người, xin người hãy cứu con ta với!"

Trời đất đen kịt, tuyết rơi lạnh đến cùng cực, Tú lệ quân lặng lẽ đứng yên, trầm mặc nhìn chủ soái của mình.

Tim Sở Kiều như bị xâu xé vỡ tan thành từng mảnh vụn, môi dưới bị nàng cắn chặt đến tóe máu, hai tay lạnh như băng, đầu ngón tay khẽ run run.

Yến Tuân, Yến Tuân, ngươi đã sớm biết sẽ như vậy, có đúng không?

Ngươi đã sớm dự liệu hết mọi chuyện có đúng không? Hiện giờ ngươi đang đứng ngoài thành Bắc Sóc, im lặng chờ ta trở về dập đầu nhận tội với ngươi, có đúng không?

Bên tai không ngừng vang lên tiếng khóc lóc thảm thiết, ngàn vạn dân chúng đang quỳ trước mặt nàng, liên tục dập đầu với nàng, lớn tiếng cầu xin nàng. Những người mà mới mấy ngày trước vẫn còn giơ cao nắm đấm thề tận hiến với nàng, quả quyết hô to khẩu hiệu 'Tự do vạn tuế', nhưng hiện tại, cũng chính là đang khẩn thiết cầu xin nàng quay về nhận tội với Yến Tuân.

Hiện thực tàn nhẫn, nhưng nàng lại không thể làm gì khác.

Hai mắt nàng khô khốc, không thể chảy thêm giọt nước mắt nào nữa, cảm giác khổ sở đang giày vò trong lòng. Số mệnh không ngừng đẩy nàng đến bờ vực tuyệt vọng, tựa như mỗi bước đi đều không tránh khỏi phải đụng đầu toạc máu.

"Đại nhân." Hạ Tiêu kiên định đi đến đứng sau lưng Sở Kiều, lo lắng nhìn nàng. Ánh mắt hắn nhìn nàng, mơ hồ ẩn chứa sự đau lòng cùng thương hại.

"Đại nhân..." Hạ Tiêu muốn nói lời an ủi nhưng lại không biết mở lời thế nào. Diễn biến hoang đường cùng nực cười đến như vậy, thế giới rộng lớn nhường này, nhưng bọn họ lại không biết nên đi hướng nào mới phải...

"Hạ Tiêu..." Sở Kiều cúi xuống thở dài, cảm giác như máu trong người đều đã đóng băng, nàng tuyệt vọng như muốn chết đi, nhưng vẫn kiên cường hạ lệnh: "Truyền lệnh cho toàn quân, chúng ta..."

Ngay lúc đó, phía sau đột nhiên truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập, các chiến sĩ Tú lệ quân lập tức quay đầu lại, liền nhìn thấy chiến kỳ Đại Hạ đang phấp phới tiến dần về phía họ.

Triệu Dương đang dẫn quân quay lại tấn công bọn họ!

"Truyền lệnh cho toàn quân! Theo ta đón đầu kẻ địch!"

Lần đầu tiên trong đời, Sở Kiều lại cảm thấy quân Hạ đáng yêu như vậy. Nàng không rõ mình nghĩ vậy có đúng không, nhưng nàng chỉ muốn nhắm mắt bỏ qua không nhìn tới nữa, giống đà điểu có thể cắm đầu xuống đất trốn tránh mọi chuyện. Đại Hạ lại dẫn binh tấn công, không thể bận tâm chuyện khác nữa, nàng phải quay đầu nghênh đón địch! Và cùng lúc đó, từ tận đáy lòng, nàng cũng lặng lẽ cảm ơn ông trời đã không bắt nàng đưa ra quyết định khiến nàng đau khổ đến cùng cực kia, cho dù vì thế mà nàng sẽ phải trả giá rất đắt.

................................................................................................

"Điện hạ! Toàn quân đã sẵn sàng! Có thể tấn công bất cứ lúc nào!"

"Không cần!" Triệu Dương điềm tĩnh nói: "Chúng ta chẳng qua chỉ diễu binh một vòng mà thôi."

"Dạ?" Gã tướng dưới trướng ngẩn ra, hỏi lại: "Tại sao?"

Triệu Dương im lặng một lúc lâu, ánh mắt thâm trầm nhìn chăm chú vào màn đêm mịt mù, hồi sau mới thấp giọng nói: "Không thể để nàng trở lại Bắc Yến."

Cứ như vậy suốt cả đêm, Đại Hạ coi Long Ngâm Quan như sân diễu binh của mình, thỉnh thoảng lại đi ra chạy một vòng, chạy xong lại rút trở về. Mãi đến khi tia sáng đầu tiên xuất hiện xua tan màn đêm, bão tuyết ngừng thổi thì tiếng kèn rút quân mới rốt cuộc vang lên.

Sở Kiều mang các chiến sĩ mệt mỏi trở lại doanh địa, đón bọn họ là ánh mắt trầm mặc của vô số bá tính cùng từng dãy thi thể được xếp đặt ngay ngắn trước doanh trại. Những con người hôm qua hãy còn sống hiện tại nằm đó, như đàn cá rời khỏi nước, không chút sinh khí, tuyết lạnh phủ lên mặt họ, bao trùm vẻ mặt còn hằn vẻ tức giận cùng đau đớn cực hạn.

Thấy chiến trường đã trở nên bình lặng, dần dần có người chậm rãi rời khỏi doanh trại, dòng người đông dần, từ khe nước biến thành dòng suối, từ dòng suối biến thành sông, từ sông nhỏ biến thành biển cả mênh mông. Bọn họ không đi về phía Long Ngâm Quan mà hướng về phía Nhạn Môn Quan của Đại Hạ,

"Quay lại!" Bình An đứng cạnh Sở Kiều đột nhiên lớn tiếng kêu lên, cậu bước ra cố gắng kéo những người kia rồi lại bị họ đẩy ngã. Cậu nằm trên mặt đất nhưng vẫn cố nói to: "Trở về! Đừng đi!"

Không ai nghe lời Bình An nói.

Mọi người dần đi xa, lúc đến trước mặt quân đội của Triệu Dương thì đều giơ cao hai tay tỏ ý đầu hàng, nói rõ mình chỉ là dân thường. Trong đại đội có người bước ra bảo bọn họ quỳ, ngàn vạn dân chúng liền tức thì quỳ xuống, giơ cao hai tay, rối rít dập đầu.

Nghe được tiếng khóc đè nén cùng tiếng cười đắc ý của quân Hạ vọng lại từ xa, các chiến sĩ Tú lệ quân sững sờ đứng chết trân. Có người lặng lẽ rơi lệ, nhưng không ai nói lời nào. Bọn họ có thể nói gì chứ? Khích lệ những người dân tay không tấc sắt kia đi chém giết kẻ địch? Hay nói rằng bọn họ nhất định sẽ được cứu?

Bão tuyết lại nổi lên, tim Sở Kiều càng lúc càng cứng lạnh như băng giá dưới đáy hồ sâu, ánh mắt nàng trở nên mơ hồ, trước mắt chỉ có chiến kỳ bay múa, hỏa vân đỏ chập chờn.

Trong không khí tiêu điều, mùa đông năm 778 cuối cùng cũng đến.  


Chương 158: Thanh Hải vương

Ngày 25 tháng 9, gió giật mãnh liệt, tuyết rơi kín trời.

Trong ngoài cung điện đã bị tuyết phủ lấp, đèn lồng đã sớm được treo lên, cung nhân thị nữ mặc áo bông dày thả màn che tuyết xuống, màn lụa trắng bị gió thổi bay bay, nhẹ nhàng quét lên lớp bụi trên mặt đất.

Trong điện không hề thắp đèn, chỉ có một vài ngọn đèn cầy đang lặng lẽ cháy, phát ra ánh sáng nhờ nhờ.

Trên linh đường rộng lớn, một bóng dáng cao gầy đang lẳng lặng ngồi trong bóng tối, ánh nến lúc mờ lúc tỏ hắt lên người khiến nét mặt hắn nhìn không rõ, chỉ thấy trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh ngổn ngang vò rượu.

Hắn chưa bao giờ thích uống rượu, nhưng hôm nay, hắn đã ngồi trong này suốt ba ngày liền, uống rượu không ngừng.

Ba ngày, đại điện Càn Lăng đã ngập trong mùi rượu, vò rượu chất đống thành núi nhỏ, nhưng vì sao hắn vẫn chưa say?

Cuồng phong bên ngoài vẫn cuồn cuộn, bão tuyết bay tán loạn, trong điện lờ mờ ánh nến khiến không gian càng thêm u tĩnh, nam nhân lẳng lặng ngồi một mình, nhưng bên tai vẫn như phảng phất nghe được tiếng trống trận *tùng tùng* nơi biên quan, nghe được tiếng đao sắc chém vào gió lạnh của các chiến sĩ cùng tiếng gào thê lương của dân chúng hướng về cố hương, cảm nhận được máu tươi đang đổ ra, bao phủ tường thành vĩ ngạn của Long Ngâm Quan, bao phủ vạt cỏ xanh từng dùng để nuôi gia súc của bình nguyên lộng gió, và chôn vùi chút tình cảm cuối cùng giữa bọn họ.

Đúng vậy, hắn chưa từng say, hắn vẫn vô cùng tỉnh táo, rõ ràng cảm nhận được sự trầm luân cùng vây hãm của bản thân.

Trong thoáng chốc, hắn đột nhiên nhớ lại một đêm hè rất nhiều năm trước, trong một gian phòng chật hẹp muỗi vo ve của cung Thịnh Kim, không khí trong phòng oi bức đến không chịu nổi. Lúc đó, A Sở thường trở về rất trễ, bởi vì đám ma ma phòng bếp vốn thích sai nàng làm đủ mọi chuyện, nên ngày nào hắn cũng khoác áo ra đứng ở trước cửa Oanh Ca viện chờ nàng về. Đêm mùa hè trăng vừa tròn vừa sáng, đỉnh đầu có muỗi bay vo ve nhưng hắn lại cảm thấy lòng vô cùng thanh thản. Chờ chán thì hắn sẽ ngồi xuống bậc cửa, lấy ra một thanh gỗ mài lên phiến đá trên đất.

A Sở đã lớn, tóc mọc rất dài rồi nên hắn muốn làm cho nàng một cây trâm.

Lúc A Sở về tới thì trời đã rất khuya, hôm đó nàng không càu nhàu vì sao hắn còn chưa ngủ như mọi ngày mà lại thần thần bí bí từ sau lưng lấy ra một cái chén nhỏ trong suốt thả vào trong tay hắn. Chén nhỏ được đẽo bằng băng, vành chén khắc hoa văn lưu ly tinh xảo, ở giữa là đá bào cùng hoa quả cắt nhỏ đủ loại. Đá được bào rất nhuyễn, trắng toát lành lạnh như tuyết mùa đông ở Bắc Yến vậy.

Lúc đó, hắn cầm chén băng trong tay, mơ hồ nhớ lại năm đó khi cha mẹ còn sống, mùa hè mẹ sẽ luôn tự mình đẽo băng làm đá bào cho bọn họ. Hắn cực kỳ thích nên luôn giữ chặt chén băng, cả Nhị tỷ cũng không giành được, nhưng càng giữ chặt thì chén băng càng nhanh tan, cuối cùng chỉ còn lại một vũng nước mà thôi.

Hắn ngẩng đầu lên, xuyên qua chén băng nhìn cô bé đứng đối diện mình. Năm đó A Sở mới chỉ mười tuổi, vóc người còn rất thấp bé, nàng cũng đang cười tít mắt với hắn, trên người nàng mặc y phục vải thô màu lam, trên trán đeo dây chuỗi thả một đóa hoa nhỏ màu đỏ xuống trên mi tâm dành cho cung nữ Đại Hạ, khuôn mặt nhỏ xíu, hai má hồng hồng. Do cầm chén băng một lúc lâu nên tay nàng đã đỏ bừng, nhưng hai mắt sáng long lanh như sao, đến trăng tròn trên cao cũng không bì kịp. Hình ảnh đó đã lấn át mọi ưu thương, xua tan tất cả mây đen trong lòng hắn.

Lúc ấy, Yến Tuân đã thề nhất định phải mau trưởng thành, nhất định phải đối xử tốt với người trước mặt cả đời, vĩnh viễn không để người khác ức hiếp nàng. Hắn muốn cho nàng cuộc sống nhung lụa như công chúa, khi đó tất cả mọi tâm nguyện và suy nghĩ trong đầu đều là dành cho nàng.

Thời gian thấm thoắt trôi qua, năm tháng như cánh tay vô tình che phủ ký ức cùng lời thề năm xưa. Có đôi khi, hắn cảm thấy, cuộc đời hắn thật giống như cái chén bằng băng cuối cùng cũng sẽ tan thành nước kia, gia đình, cha mẹ, huynh trưởng cùng tỷ muội, ân sư, chiến hữu, người yêu cuối cùng đều sẽ rời xa hắn, như chén băng tan thành nước, nước tan ra sẽ nhanh chóng thẩm thấu xuống nền đất rồi biến mất, có níu kéo đến mấy cũng không lưu giữ được.

Yến Tuân ngẩng đầu lên, trước mặt là linh đường chôn quần áo và di vật của cha mẹ cùng thân nhân. Linh đường nguy nga rộng lớn nhưng chỉ cất giữ ít xiêm y cùng đồ vật thường dùng, đầu của bọn họ đến nay vẫn còn bị giữ trong miếu tội thần ở Đại Hạ, còn thân thể thì đã sớm vào bụng sói hoang từ lâu.

Nam nhân cầm ly rượu lên uống ực, chất rượu cay trôi xuống họng, nóng bỏng như than cháy. Gió nhẹ chợt luồn vào trong đại điện khiến màn lụa lay động, nhìn thoáng qua trông như ống tay áo của vũ cơ đang nhảy múa, yểu điệu như làn nước. Ánh mắt hắn vẫn rất thanh tỉnh, ngũ quan tuấn tú nhưng hơi thất sắc, đáy mắt như có mây mù che phủ. Nhìn kỹ thì bên tóc mai như có lẫn vài sợi bạc, trong ánh nến, sườn mặt nam nhân càng thêm vẻ tang thương.

Chỉ mới hai năm mà hắn đã mệt mỏi đến như vậy.

Cuộc đời hắn quả thật như một mê cung, mỗi bước đi đều phải đối mặt với vô số ngã rẽ, dần dần người bên cạnh hắn đều ít đi. Cả người làm bạn tận lúc bắt đầu cũng đã chọn con đường riêng.

"Phụ thân." Nam nhân bật thốt ra hai chữ, tựa như một hòn đá nhỏ vừa phá tan mặt hồ tĩnh lặng, "Phụ thân, người gạt ta."

Yến Tuân ngẩng lên nhìn bức họa trên linh đường, hình họa phụ thân rất sống động. Hắn nhìn người cha mình sùng bái thuở nhỏ, lẳng lặng nói: "Người nói Bắc Yến là nơi yên bình, giàu có và phồn vinh nhất thiên hạ, người nói tất cả những điều người làm đều là để con cháu đời sau nở mày nở mặt, nhưng người sai rồi, cải cách của người đã phá hủy Bắc Yến, không những phá hủy bản thân mà còn phá hủy cả dòng họ Yến thị. Tám năm ở hoàng thành, ta đắm chìm trong ảo tưởng và sự tín nhiệm đó để sống sót, nhưng sau khi thập tử nhất sinh tìm được đường trở về Bắc Yến, người có biết ta đã thất vọng đến mức nào không?"

Trong điện tĩnh lặng như tờ, Yến Tuân lẳng lặng nhìn hình phụ thân, trầm giọng tiếp lời: "Bốn bề đều là vách đá, khắp nơi đều là sương tuyết giá lạnh. Phụ thân, người muốn an phận trong góc nhỏ của bản thân, coi đó là đào nguyên thế ngoại, có biết mình ngây thơ đến mức nào không? Cho nên hoàng đế mới không tha cho người, thiên hạ không tha cho người, ngay cả thuộc hạ cũng phản bội người, đơn giản vì phụ thân không có thực lực, không có thực lực thì làm sao có thể hoàn thành chuyện mà cả đế vương cũng không làm được kia?"

"Phụ thân, ta giết Ô tiên sinh và Vũ cô nương, chỉ vì bọn họ một mực làm theo di chí của người, trở thành chướng ngại vật trên đường đi của ta. Ta đã từng cho bọn họ cơ hội, nhưng đáng tiếc, bọn họ lại không chịu quý trọng. Ta giết Hoàn Hoàn, chỉ vì Đại Đồng muốn ủng hộ nàng lên làm quân chủ thay thế ta, chỉ cần nàng còn sống, Đại Đồng sẽ không từ bỏ hy vọng. Ta giết các lão thuộc hạ cũ kia của người, chỉ vì bọn họ mắt nhìn thiển cận mà vẫn khăng khăng nắm giữ trọng quyền. Ta giết rất nhiều người nhưng cũng càng lúc càng tiến gần đến giấc mộng của mình hơn."

Yến Tuân ngửa đầu uống cạn ly rượu, sau đó rót thêm một chén tưới lên mặt đất, chậm rãi nói từng chữ một: "Phụ thân, ta nhất định sẽ không giống người."

Yến Tuân vươn mình đứng dậy, xoay người rời đi, vạt áo quét qua tầng bụi mỏng trên đại điện, bước chân vừa kiên định vừa mạnh mẽ. Ánh nến chiếu lên bóng lưng để lại một cái bóng thật dài trên mặt đất. Sau lưng hắn chính là linh vị các bậc trung trinh của Bắc Yến, có phụ mẫu, có huynh trưởng cùng liệt tổ liệt tông Yến thị, còn có các trung thần tướng lĩnh của Bắc Yến, có Ô tiên sinh, Vũ cô nương, Tiểu Hòa, Hoàn Hoàn, Thương Biên, Duệ Hi, A Đồ, thậm chí cả các tướng sĩ liều mình để bảo vệ Bắc Sóc như Ô Đan Du và Phong Thịnh...

Nhiều ánh mắt như vậy đang lẳng lặng nhìn theo bóng lưng dần rời đi của hắn, trả lại sự tĩnh mịch cho nơi yên nghỉ của người đã khuất.

Bước chân của hắn vô cùng vững vàng, không hề có chút do dự hay hối hận.

Gió rét bên ngoài phả lên mặt, ánh mắt đen nhánh của Yến Tuân càng thêm thâm thúy, hắn đang nhớ lại buổi chiều rời khỏi thành Chân Hoàng, A Sở không chút từ nan trở về cứu Tây Nam trấn phủ sứ đang bị vây khốn trong đế đô. Có lẽ là từ lúc đó, hắn đã mơ hồ đoán được kết cục của ngày hôm nay. Hai người có lý tưởng và tín ngưỡng khác biệt, không cách nào dung hòa. Vì vậy, càng đi càng xa, cuối cùng sẽ không tránh khỏi bước lên hai con đường khác nhau.

Mơ ước muốn thành, phải trả giá rất nhiều.

Mà cái giá hắn phải trả, chính là việc không bao giờ còn là người trong trí nhớ của nàng nữa...

Cảm giác vô lực rã rời đều bị hắn lặng lẽ đè nén toàn bộ...

A Sở, khoảnh khắc muội rời đi, ta cũng biết cả đời này muội nhất định sẽ không thể đi cùng ta. Muội đã định sẽ đi trong ánh sáng, nhưng ta thì suốt kiếp cũng thoát không khỏi núi thây biển máu này. Ta không cách nào bay cao cùng muội nên mới muốn bẻ gãy cánh của muội, hòng giữ muội lại bên mình. Nhưng ta rốt cuộc vẫn thất bại...

"A Sở..." Tiếng nói trầm thấp nhẹ quanh quẩn trong đại điện trống trải, tựa như tia sáng xuyên qua gió Bắc lạnh lùng. Nam nhân đứng trước cửa đại điện, ánh trăng chiếu lên sườn mặt tô rõ thần sắc tái nhợt một cách dị thường.

Yến Tuân chậm rãi nhắm mắt lại, sắc mặt vẫn bình tĩnh nhưng mi tâm bất giác nhẹ chau, mặt như có sương mù dần bao phủ, "A Sở... muội còn trở lại không..."

Ánh trăng lạnh như sương, mây mù nhẹ lơ lửng trên tầng không, Hồi Sơn cao ngất không một bóng chim, nam nhân đứng trên đỉnh núi, quét mắt nhìn khắp lãnh thổ Bắc Yến, lẳng lặng tự trả lời: Có lẽ nàng sẽ không trở về nữa.

"Bệ hạ!" A Tinh đẩy thị vệ ra, lảo đảo chạy đến quỳ xuống trên mặt đất, kích động nói: "Bệ hạ, xin hãy cứu cô nương! Bão tuyết đã phong kín lối vào Long Ngâm Quan, mặt khác thì bị Đại Hạ vây khốn nhiều ngày, cô nương sắp không cầm cự nổi nữa rồi!"

Yến Tuân chỉ ngước mắt nhìn lên dãy núi đồ sộ trước mặt, lâm vào trầm tư.

"Bệ hạ, cô nương đi theo ngài nhiều năm như vậy, vào sinh ra tử, một lòng một dạ, chiến công của cô nương, ai cũng nhìn thấy. Bệ hạ, ngài thật sự nhẫn tâm giết cô nương sao? Ngài đã quên lời mình từng nói sao?"

Hai mắt đã đỏ ửng, A Tinh không ngừng dập đầu xuống đất, trầm giọng nói: "Bệ hạ, cầu xin ngài, xin hãy mở lòng, cầu xin ngài..."

"A Tinh." Tựa như lúc này mới phát hiện ra sự hiện hữu của A Tinh, Yến Tuân đột nhiên nhíu mày, mở miệng hỏi: "Ta phải làm gì để cứu nàng?"

A Tinh nghe hỏi liền mừng rỡ, vội vàng đáp: "Xin hãy mở cửa Long Ngâm Quan, phái binh ra khỏi thành trợ giúp cô nương..."

A Tinh còn chưa nói hết thì Yến Tuân đã khẽ cau mày, "Ngươi cảm thấy, ta mở Long Ngâm Quan ra, nàng sẽ trở về sao?"

A Tinh nhất thời sửng sốt, im lặng suy nghĩ hồi lâu mới lẩm bẩm: "Vậy, vậy xin hãy rút mọi canh phòng ở thủy lộ Nam Cương thông với Biện Đường, để cô nương xuôi Nam mà đi."

"Xuôi Nam?" Ngữ khí của Yến Tuân vô cùng bình tĩnh, nghe không hề có chút dao động, hắn nhẹ nhàng hỏi ngược lại: "Đi rồi nàng sẽ không bao giờ trở về nữa, có đúng không?"

A Tinh trợn mắt há hốc mồm, nói không ra lời nữa.

Yến Tuân khẽ nhếch môi, nhẹ giọng nói: "Nói vậy, có phải ta sẽ vĩnh viễn mất đi nàng?"

Ban đêm lạnh lẽo, A Tinh chợt cảm thấy toàn thân như bị khí lạnh ngấm vào, suy nghĩ hồi lâu, hắn đột nhiên đứng bật dậy, xoay người chạy đi, vừa chạy vừa nói to: "Thuộc hạ đi khuyên cô nương trở về!"

Yến Tuân không ngăn cản A Tinh, mà thậm chí cũng không nhìn theo, hắn chỉ lẳng lặng đứng đó. Trời chợt xuất hiện mây đen che khuất vầng trăng, lại sắp có tuyết rơi...

A Sở sắp không cầm cự được nữa rồi? Nha đầu ngốc đó, vì sao vẫn chưa quay lại? Hắn cau mày nghĩ.

Hiện tại, hắn như một đứa trẻ đơn thuần đang tự lừa mình dối người, tìm mọi cách gạt bỏ nhân tố chính trị, cho rằng bọn họ đang thỉnh thoảng giận dỗi gây gổ như thuở bé mà thôi. Hắn tức giận lầm bầm: Tại sao còn chưa trở lại? Bên ngoài lạnh như vậy...

Nếu có thể quay lại quá khứ, A Sở, muội có chọn ở cùng ta nữa không? Khi đó, muội có ngờ mình sẽ lâm vào cục diện như bây giờ không? Nỗi hận của muội đối với ta bây giờ, sâu đến đâu vậy?

"Bệ hạ." Sau lưng vang lên một giọng nam trầm thấp, Trình Viễn quỳ xuống, vẫn bộ dạng cung kính muôn thuở, lên tiếng: "Xin hãy hạ lệnh mở cửa thủy lộ, để Sở đại nhân rời đi."

Yến Tuân thoáng sững sờ, quay đầu lại nhìn Trình Viễn, "Sao vậy? Sao cả ngươi cũng đến cầu xin cho nàng?"

"Không phải vì Sở đại nhân." Trình Viễn bình tĩnh nói: "Thuộc hạ là vì bệ hạ."

Dứt lời hắn lại dập đầu xuống đất, kiên định nói: "Bệ hạ, xin hãy cho bản thân một con đường sống."

Tim Yến Tuân chợt như bị ai đâm thủng, đau đến cực độ.

"Nếu Sở đại nhân chết trong tay bệ hạ, cả đời này bệ hạ sẽ không cười nổi. Bệ hạ cũng từng nói, trong lòng ai cũng ấp ủ mơ ước, nhưng muốn hoàn thành tâm nguyện thì trước tiên phải còn sống, sống mới còn hy vọng. Bằng không, chết rồi thì có bao nhiêu tâm nguyện cũng đều phải bỏ dở."

Yến Tuân im lặng hồi lâu, bóng dáng cao lớn của hắn đứng trên đỉnh núi, gió lạnh thổi tung vạt áo lông tựa như chiến ưng đang giương cánh chuẩn bị bay.

"Trình Viễn, tại sao lại nói những lời này với ta, ngươi chẳng phải chưa từng có giao hảo với A Sở sao?"

"Thuộc hạ và Sở Đại nhân chưa từng có qua lại, lúc trước thuộc hạ thậm chí còn đắc tội với Sở đại nhân nữa. Chẳng qua khi đó chỉ là vì bị buộc đến đường cùng, để tự vệ nên muốn đẩy nàng vào chỗ chết. Hiện tại Sở đại nhân đã không còn sức uy hiếp thuộc hạ nên thuộc hạ cũng không muốn thấy nàng chết."

"Và quan trọng nhất là..." Trình Viễn ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mắt Yến Tuân, trầm giọng nói: "Thuộc hạ không hy vọng chuyện này trở thành gông xiềng trong tim bệ hạ. Thế gian này, chỉ bệ hạ mới có thể giúp thuộc hạ đạt thành tâm nguyện, cũng chỉ bệ hạ mới có thể khiến thuộc hạ chân chính thần phục. Lòng trung của thuộc hạ đối với bệ hạ tuyệt không thay đổi, cho dù bệ hạ phạm lỗi tày trời, bị cả thế gian vứt bỏ thì thuộc hạ cũng nguyện đi theo bệ hạ cho đến thân thể thành tro. Bệ hạ muốn giết sạch người trong thiên hạ, thuộc hạ sẽ là người đầu tiên vung đao, bệ hạ muốn dùng thi thể lấp đầy biển Đông, thuộc hạ sẽ là người đầu tiên chém đầu mình ném xuống. Thuộc hạ nửa đời luồn cúi, làm kẻ vô sỉ bất nghĩa chỉ vì vẫn chưa tìm được người chân chính đáng giá để đi theo. Nhưng hôm nay thuộc hạ đã tìm được, bệ hạ chính là hy vọng, là tín ngưỡng của thuộc hạ, vì vậy, thuộc hạ không hy vọng bệ hạ sống cả quãng đời còn lại trong hối hận."

"Bệ hạ, xin hãy để nàng đi."

Dòng ký ức đột nhiên sôi trào, trong nháy mắt, Yến Tuân chợt nhớ lại tất cả những gì đã trải qua suốt mười năm qua. Cuối cùng dòng ký ức đó đều hội tụ thành một hình ảnh ở ngay trước mắt, đứa bé gái bò dậy từ trong vũng máu, dùng ánh mắt tràn đầy thù hận nhìn bản thể thiếu niên của hắn.

Tim khẽ nhói đau, hắn mỉm cười, nhẹ đưa tay lên như muốn vuốt ve khuôn mặt, vuốt ve tóc mai rối bời của hình ảnh cô bé trong ký ức.

Hắn sẽ vĩnh viễn nhớ kỹ ánh mắt bất khuất kia.

Hắn cuối cùng cũng phải...

Nam nhân chậm rãi nhắm hai mắt lại, từ từ chặt bỏ từng đoạn ký ức, chặt đứt mọi tình yêu cùng tâm niệm của bản thân mà cảm thấy tim chảy máu đầm đìa.

"Truyền lệnh bảo Khâu tướng quân mở thủy lộ Nam Cương, thả bọn họ đi..."

"Bệ hạ!" Một tiếng thét chói tai đột nhiên truyền đến, lính truyền tin lảo đảo bò lên bậc thềm, vừa chạy vừa kêu to: "Biên cương cấp báo! Biên cương cấp báo!"

Yến Tuân cùng Trình Viễn đồng thời quay đầu lại, nhìn thấy gã lính truyền tin hoảng hốt quỳ xuống, dâng thư lên báo cáo: "Phó tướng Tề Thiếu Khiêm canh giữ thủy lộ Nam Cương gửi thư cấp báo: Ngày 16 tháng 9, thủy lộ Nam Cương thình lình bị tập kích, đồng thời, cảnh nội Bắc Yến cũng xuất hiện kẻ địch không rõ lai lịch ngăn cản mọi đường truyền tin tức, liên tiếp đánh chiếm mười ba châu quận của ta. Chủ soái thủy lộ Nam Cương là Khâu tướng quân đã tử trận, toàn bộ tướng lĩnh từ cấp thiếu tướng trở lên cũng đều chết trận, thương vong lên đến hơn ba vạn người. Hoàng hôn hôm qua, thủy lộ bị công phá, chúng ta giao chiến với kẻ địch bị yếu thế, thuộc hạ khó khăn lắm mới lấy được con chiến mã cuối cùng đột phá vòng vây chạy về báo tin cho bệ hạ. Khâu tướng quân có cố trấn giữ cương vị, tuy chiến đấu đến chết nhưng cũng không thể bảo toàn quân uy Bắc Yến ta. Năm vạn binh sĩ đóng quân ở thủy lộ Nam Cương đều đã thất thủ."

"Đã xảy ra chuyện gì? Ngày 17 tháng 9 thủy lộ bị tập kích, tại sao chúng ta không hề có chút tin tức nào?" Trình Viễn đứng bật dậy, tức giận hỏi.

Viên lính truyền tin sợ hãi trả lời: "Tất cả quan binh đều bị vây hãm trong cảnh nội, kẻ địch thế công hung hãn, liên tiếp công phá mấy châu quận liền kề, chúng thần căn bản không kịp thời đưa tin."

"Vậy quan viên cùng dân chúng ở các quận huyện phụ cận mé Tây Nam cũng không một ai phát giác sao? Sao lại để chiến báo bị trì hoãn đến độ này?"

Lính truyền tin cẩn thận ngước mắt lên lén nhìn Yến Tuân một cái, thật lâu sau mới nhỏ giọng đáp: "Đa phần mé Tây Nam đều thuộc cao nguyên Thượng Thận, chưa kể mười phần đã hết chín phần bỏ nhà đi theo Sở đại nhân, cho dù có người ở lại, bọn họ nghe nói có kẻ địch từ bên ngoài muốn tới cứu Sở đại nhân, ít ra họ cũng không giúp che giấu, nhưng căn bản không một ai thèm báo lên trên. Thậm chí tất cả quan viên địa phương còn bị dân chúng trói gô lại hết."

"Cái gì?" Trình Viễn giận dữ quát to: "Bọn chúng muốn làm gì chứ? Muốn tạo phản à? Quân đội thì sao? Binh lính đâu? Đều chết hết cả rồi sao? Thấy chỉ huy của mình bị ngu dân bắt trói mà chẳng thèm quan tâm?"

"Chuyện... chuyện này.... Thuộc hạ nghe nói, quân địa phương lén phụ trợ quân địch tấn công thủy lộ, còn cung cấp tin tình báo cặn kẽ. Bằng không thủy lộ Nam Cương sẽ không thất thủ dễ dàng như vậy."

"Có lý nào lại như vậy?"

"Hiện tại thế nào rồi?" Một giọng nói trầm thấp đột nhiên vang lên, Trình Viễn vội vàng quay đầu lại, nhìn thấy Yến Tuân không chút dao động chậm rãi hỏi: "Thủy lộ bị công phá, hiện tại tình hình ra sao?"

Lính truyền tin đầu đầy mồ hôi, quỳ xuống run rẩy nói: "Thuộc hạ nhận được tin tức, thủy quân Biện Đường không rõ vì sao hay tin từ trước, đã sớm chầu chực bên ngoài, cửa khẩu vừa mở liền bỏ thuyền tràn lên bờ, hiện tại đã áp sát Long Ngâm Quan rồi."

"Là ai lĩnh binh?"

"Dạ, là đại hoàng của Biện Đường."

"Tất cả bao nhiêu nhân mã?"

"Không dưới hai mươi vạn."

Khoảng cách gần khiến Yến Tuân nghe được tiếng hít vào sợ hãi của Trình Viễn bên cạnh. Nam nhân chậm rãi nheo hai mắt, khôi phục lại vẻ uy nghi của bậc đế vương, tựa như người vừa đứng trên đỉnh núi nhìn ra bầu trời xa xăm không phải là hắn.

"Lý Sách tự mình lĩnh binh đến?"

"Lập tức chỉnh đốn binh mã, binh đoàn số 1 và binh đoàn số 2, toàn bộ theo ta đến Long Ngâm Quan!"

Ba canh giờ sau, đại quân Bắc Yến nhanh chóng tụ tập dưới chân Hồi Sơn. Hồi Sơn là dãy núi bọc quanh cao nguyên Thượng Thận, cách thủy lộ Nam Cương không quá nửa ngày đi ngựa, cách Long Ngâm Quan cũng không quá xa. Yến Tuân cưỡi trên lưng ngựa, vạt áo lông đen tuyền bị gió thổi bay phần phật. Trình Viễn theo ở bên cạnh, nhỏ giọng hỏi: "Bệ hạ, kẻ địch tấn công cửa khẩu ngày 16 tháng 9 là người của Biện Đường sao?"

"Không phải." Yến Tuân lắc đầu, ánh mắt chợt trở nên thâm trầm, "Từ Biện Đường đến Bắc Yến xa xôi cách trở, cho dù Lý Sách nhận được tin ngay ngày ta và A Sở xảy ra xung đột ở cao nguyên Thượng Thận cũng không thể chạy đến cửa khẩu chỉ trong vòng mười sáu ngày. Nói như vậy, là nhóm người khác được tin, trước âm thầm báo tin cho Biện Đường, sau mới dẫn quân tấn công thủy lộ, mở đường cho quân đội Biện Đường."

Trình Viễn cau mày, "Vậy thì là ai mới được? Đại Hạ? Không thể nào."

"Là ai à?" Ánh mắt chợt trở nên lạnh như băng, Yến Tuân chậm rãi hỏi: "Còn ai có thể dễ dàng xuất hiện trong cảnh nội Bắc Yến ta như vậy?"

Trình Viễn cả kinh, thất thanh kêu lên: "Thanh Hải vương?"

"Thanh Hải vương." Yến Tuân rít ba chữ này qua kẽ răng, cuối cùng thản nhiên nói: "Cuối cùng cũng có cơ hội gặp mặt."

Sao mai trên trời khẽ lóe, trời dần hừng sáng.

"Bệ hạ!" Xa xa truyền đến tiếng cấp báo, một gã lính truyền tin gấp gáp thúc ngựa chạy lại, lớn tiếng hô to: "Mười dặm phía trước phát hiện quân địch không rõ lai lịch."

"Bao nhiêu người?"

"Kẻ địch kéo dài từ bờ Nam sang bờ Bắc, phong tỏa đường đi của quân ta, dài đến mười dặm, mười ba sư đoàn bộ binh, tám sư đoàn kỵ binh, mười bảy đội giáp binh, chưa kể cung tiễn cùng phòng thủ không rõ, khoảng mười lăm vạn trở lên."

Trong khoảnh khắc, tất cả mọi người đều không nhịn được mà thét lên kinh hãi. Nhân số khổng lồ như vậy lại im lặng không tiếng động xuất hiện trong cảnh nội Bắc Yến. Nếu hôm nay không vô tình phát hiện, cục diện sẽ trở nên đáng sợ đến cỡ nào?

Không như những người khác, Yến Tuân không hề lo lắng, hắn biết, đối phương xuất hiện ở đây chính là để ngáng đường quân hắn, tranh thủ thời gian cho Lý Sách rút về Biện Đường. Hắn như mơ hồ đoán được thân phận của đối phương, tuy trong lòng có không cam tâm và kinh ngạc, nhưng nhiều hơn hết chính là cảm giác sảng khoái.

Cũng tốt, hắn đã sớm biết sẽ có ngày này, là kẻ địch thì thống khoái đánh một trận cho rõ ràng vậy. Người của hắn, hắn có thể tha, nhưng tuyệt đối không để cho người khác cứu!

Sương sớm chậm rãi bao trùm cả vùng đất, đội quân giáp đen uy vũ chậm rãi hành quân. Yến Tuân khoác áo choàng đen, im lặng thúc ngựa đi lên phía trước. Nhìn thấy đối phương cũng xuất hiện một bóng dáng tuấn tú cao ráo bước ra khỏi hàng ngũ.

Mặc dù xa như vậy nhưng Yến Tuân vẫn lập tức nhận ra thân phận của đối phương. Tầm mắt hai người giao nhau trong khoảnh khắc, Yến Tuân cười nhạt, khẽ nhướng mày, trầm giọng nói: "Đã lâu không gặp!"


Chương 159: Biển người lớp lớp

Sở Kiều bị đánh thức bởi tiếng vó ngựa ồn ào tựa sấm, nhanh như vũ bão.

Ba ngày không có gì bỏ bụng ngoại trừ nước tuyết cộng thêm cái lạnh cắt da cắt thịt, Sở Kiều hiện tại đã như nỏ mất đà. Nàng cầm lấy đao lao ra khỏi doanh trướng, bên ngoài sáng rực ánh đuốc, trước mặt là vó ngựa cuồn cuộn như xới tung cả một vùng, tiếng huyên náo vang bên tai không ngừng.

Nàng nghe được có người gọi to tên mình, quay đầu lại thì thấy Hạ Tiêu hai mắt đỏ ngầu, môi đang mấp máy nói gì đó. Thân thể Hạ Tiêu đầy máu, không rõ là máu của hắn hay của người đang đuổi giết hắn.

Sở Kiều cảm thấy đầu kêu *ong ong* không ngừng, không rõ bản thân đang nghĩ gì, muốn cố nghe xem Hạ Tiêu nói gì nhưng làm thế nào cũng nghe không hiểu...

Đây đã là lần thứ tư Triệu Dương tập kích doanh trại. Đại Hạ dường như cũng đã không còn kiên nhẫn, bên tai đều là tiếng chém giết, hộ vệ bên cạnh nàng lần lượt ngã xuống. Càng ngày càng có nhiều kẻ xông về phía này, ào ạt tựa thủy triều. Một hộ vệ lao đến chắn trước người Sở Kiều, tên nhọn xuyên qua đầu người đó rồi dừng lại trước mũi nàng, máu tươi nhỏ xuống từng giọt.

"Bảo vệ đại nhân!" Có ai đó cao giọng hô to, nhưng binh lính ở xa đã không đến kịp, khắp nơi đều là xác binh lính, máu nhuộm đỏ mặt đất.

Gió lạnh thấu xương, tuyết rơi trắng trời, Sở Kiều tự nhủ, đã không còn đường lui thì cứ như vậy đi. Nàng nhẹ gật đầu, khàn giọng lẩm bẩm: "Cứ vậy đi, cứ như vậy..."

Mưa tên chi chít bay ngập trời, xé gió kêu *vùn vụt*. Sở Kiều ngẩng đầu lên nhìn màn tên chết chóc bay đến gần, nhất thời có hơi hoảng hốt.

Nàng có lẽ sắp chết rồi.

Trong khoảnh khắc, thời gian như ngừng lại, ký ức cuồn cuộn quay về, nàng nhớ lại cuộc đời mình, được tổ chức chọn ra từ cô nhi viện, trải qua mười năm khổ luyện, thi vào học viện quân sự rồi gia nhập sở tình báo, liên tục ám sát, nằm vùng, cuối cùng hy sinh vì nước, sau đó đi đến thời loạn thế này, lại một lần nữa trải qua khoảng thời gian mười năm giành giật sự sống.

Sở Kiều đột nhiên cảm thấy vô cùng mệt mỏi, mệt mỏi đến độ chỉ muốn buông xuôi bỏ mặc tất cả. Những năm gần đây, cho dù đối mặt với tuyệt cảnh thế nào, nàng chưa từng thôi hy vọng cầu sinh, nhưng hiện tại nàng lại bỗng nhiên không muốn tiếp tục chém giết nữa. Trong đầu không ngừng quanh quẩn suy nghĩ, nàng mệt quá rồi, cứ vậy đi, cứ thế này nghỉ ngơi cũng tốt...

"Đại nhân!" Hạ Tiêu trừng muốn nứt mắt khi thấy Sở Kiều đứng yên tại chỗ, ngẩng đầu nhìn mưa tên lao về phía mình mà không hề tránh né, thân thể sững ra như một trụ băng.

Hạ Tiêu cảm thấy tim như bị xé nát, hắn điên cuồng vung đao, kẻ địch hai bên không ngừng ngã xuống, máu tươi bắn đầy người hắn. Nhưng đối phương liên tục xông lên như thủy triều, ngăn cản bước chân hắn, hắn trốn không thoát, bứt không ra, chỉ có thể trơ mắt nhìn mưa tên lao vun vút về phía nàng.

Tất cả quân lính Bắc Yến trên cổng Long Ngâm Quan cũng trợn tròn mắt nhìn hình ảnh này. Một binh sĩ trẻ tuổi tái xanh mặt, nhũn chân khuỵu xuống trên mặt đất, nhìn thiếu nữ mặt tái nhợt, bi thương khóc to: "Sở đại nhân!"

Hắn cũng là binh sĩ xuất thân từ cao nguyên Thượng Thận, cũng có cha mẹ tỷ muội được Sở Kiều cứu ra khỏi trại nô lệ. Nhưng hắn lại là một kẻ nhát gan, trong khi Tú lệ quân chiến đấu bên ngoài, hắn không dám lên tiếng. Thời điểm Đại Hạ liên tục tập kích doanh trại, hắn không dám lên tiếng. Bão tuyết càn quét doanh trại, hắn không dám lên tiếng. Lúc dân chúng gào khóc ở dưới thành, hắn cũng không dám lên tiếng. Nhưng giờ phút này, lời mẫu thân lại quanh quẩn trong đầu, "Ăn quả nhớ người trồng cây, Sở đại nhân chính là ân nhân của chúng ta."

Trên cổng Long Ngâm Quan vang dậy tiếng kêu gào rung động cả bình nguyên, khiến tuyết bay càng thêm hỗn độn.

Nửa tháng này, toàn Bắc Yến đã được chứng kiến một quân đội trung dũng không ai bì kịp. Còn hiện tại, cả trời đất cùng chứng kiến giọt nước mắt chua cay của một cô gái.

Mưa tên bay lên cao, cuối cùng vẽ một vòng cung trên không trung rồi lao thẳng xuống dưới, khí lực cùng tốc độ được đẩy lên cao nhất.

Tất cả mở to mắt, vạt áo của Sở Kiều bị gió tốc lên, nàng hơi nheo mắt, tóc mai bay tán loạn trên trán, đầu óc vốn trống rỗng lại chợt xuất hiện một đôi mắt đang chăm chú nhìn nàng, người đó đang mở miệng nói với nàng: phải sống, phải sống...

Sở Kiều mỉm cười, nụ cười nhợt nhạt tựa sương.

Ta rốt cuộc đã không kiên trì nổi nữa rồi, ta tới tìm ngươi có được không?

Thế rồi, âm thanh xé gió đột nhiên vang lên, phía tây Long Ngâm Quan chợt xuất hiện vô số bóng đen đu dây nhảy xuống, trên trăm thanh loan đao lập tức bay ra, lao thẳng về phía mưa tên đang rơi xuống từ trên cao.

Thoáng chốc toàn trường liền trở nên náo loạn, những bóng đen nhanh chóng đạp tuyết xông ra, lộ rõ là một nhóm người mặc y phục xanh sẫm, thân thủ vừa nhanh vừa mạnh, bước chân nhảy vọt như mãnh thú, dưới ánh đuốc, trên mặt có hình xăm đỏ sậm, ánh mắt sáng quắc như sói, dũng mãnh tấn công quân Hạ đang còn ngơ ngẩn.

Quân Hạ còn chưa kịp phản ứng thì hướng tây nam lại truyền đến tiếng động long trời, mặt tuyết bị vó ngựa hất tung, thiên quân vạn mã xông đến trong tiếng trống trận dồn dập. Kỵ binh tinh nhuệ ào đến, khoái đao vung ra bốn phía, chiêu thức sắc bén, đằng đằng sát khí, binh sĩ cùng khoái mã đều trang bị ngân giáp cùng lưỡi đao đen như mực, rõ ràng là quân sĩ Biện Đường.

Một bóng giáp bạc xông thẳng vào trận địa, vị đế vương trẻ tuổi đột nhiên ôm lấy Sở Kiều lên ngựa chạy ra khỏi trung tâm chiến trận, vòng tay siết chặt tựa như muốn bóp nát nàng. Mặt giáp của hắn lạnh lẽ như băng, hơi thở nặng nề phả ra khí trắng. Tiếng chém giết bên tai xa dần, hàng vạn hàng nghìn ánh đuốc sáng ngời chạy theo hai người, ấm áp như mặt trời ban trưa.

Cuồng phong dịu dần, bên tai liên tục vang lên tiếng trầm thấp của Lý Sách, giọng điệu của hắn điềm tĩnh nhưng vẫn ẩn chứa chút lo sợ mơ hồ. Nam nhân nhẹ nhàng lặp đi lặp lại: "Không sao rồi, không có chuyện gì nữa rồi..."

Sở Kiều không hề muốn khóc, đáy lòng vẫn còn chìm trong hoảng hốt, nhưng trước mặt như cảnh mộng khiến nàng bất giác rơi lệ, những giọt nước mắt lăn dài trên mặt giáp trước ngực Lý Sách. Nàng nhắm mắt lại, trong đầu như có hình ảnh trăm ngọn núi lửa bùng nổ, tro bụi và nham thạch hừng hực không ngừng thiêu rụi mọi thứ, cuốn vạn vật chìm xuống vực sâu không đáy.

Nàng có rất nhiều lời muốn nói, nhưng khi mở miệng chỉ có thể phát ra tiếng nức nở vô nghĩa.

Lý Sách, ngươi biết không? Ô tiên sinh chết rồi, Vũ cô nương chết rồi, rất nhiều người đã chết. Yến Tuân đã giết rất nhiều người, ngươi nói xem, hắn có giết luôn cả ta không?

Lý Sách, Gia Cát Nguyệt cũng đã chết, là ta hại chết hắn, ngươi có biết không, là ta hại chết hắn.

Lý Sách, ngươi nói rất đúng, Bắc Yến thật sự rất lạnh, lạnh đến mức con người cũng bị chết tâm, lời thề cũng bị đóng thành băng.

Bốn phía đột nhiên biến thành trắng xóa, Sở Kiều chậm rãi tựa vào ngực Lý Sách, mệt mỏi lịm đi. Lý Sách cúi đầu nhìn người trong lòng, nhìn khuôn mặt gầy gò tái nhợt của nàng mà thấy lòng như phát điên. Nghĩ lại lúc vừa đuổi tới, nhìn thấy mưa tên ngập trời bắn về phía nàng, hắn đã sợ đến cuồng dại, nếu hắn đến chậm một bước, chỉ một bước thôi...

Gió lạnh tạt lên người cả hai, Lý Sách cởi áo lông xuống bọc Sở Kiều vào trong ngực. Nàng thật gầy, cuộn trong lòng hắn, nhỏ bé như một đứa trẻ vậy.

Lý Sách ngẩng đầu lên nhìn bão tuyết bay đầy trời, nhìn đại quân Hạ đằng đằng sát khí trước mặt, nhìn Long Ngâm Quan sừng sững ở đối diện, không kìm được nỗi tức giận đang dâng lên trong lòng.

Yến Tuân, ngươi nhẫn tâm đến vậy sao?

Ngươi nhẫn tâm đến nước này?

"Thánh thượng, Đại Hạ cử người đến chất vấn vì sao Đại Đường chúng ta lại nhúng tay vào nội chính của Đại Hạ, thuộc hạ nên trả lời thế nào ạ?" Thị vệ xuống ngựa chạy đến hỏi.

Lý Sách ôm chặt Sở Kiều, lạnh lùng đáp lời: "Nói với Triệu Dương, Lý Sách ta muốn mang người đi, muốn gì thì mời đến Đường Kinh tìm, ta sẽ đợi."

"Thánh thượng, đã dẫn người đến." Thiết Do tiến lên, theo sau hắn là một nam tử trung niên có hình xăm đỏ thẫm, chính là thủ lĩnh đám người ra tay cứu Sở Kiều khỏi mưa tên khi nãy.

Sắc mặt chợt trở nên hòa hoãn hơn, Lý Sách gật đầu nói: "Đã phiền các ngươi rồi."

Nam nhân có hình xăm trên mặt cúi đầu đáp lời: "Chúng ta ít người, nếu không có bệ hạ thì Sở đại nhân đã gặp nguy rồi."

"Cũng nhờ các ngươi kịp thời ra tay cứu giúp, món nợ lần tay trẫm sẽ ghi nhớ, ngày khác nếu có cơ hội nhất định sẽ hồi đáp."

"Không dám, tại hạ cũng chỉ phụng mệnh làm việc."

Lý Sách khẽ nhướng mày, thử dò hỏi: "Chủ nhân ngươi là...?"

"Chủ nhân chúng ta đã ngăn chân đại quân Bắc Yến, cũng đã sắp xếp tiếp ứng ở cửa khẩu, mời bệ hạ mau lên đường, chúng ta sẽ ở phía sau cản đường kẻ địch cho ngài."

Lý Sách chậm rãi gật đầu, ánh mắt thoáng trở nên thâm trầm, thấp giọng nói: "Đại ân không cách nào đền đáp, các ngươi hãy bảo trọng." Dứt lời liền mang đại quân Biện Đường cùng binh sĩ còn sống sót của Tú lệ quân cấp tốc rời đi.

Binh lính canh giữ Long Ngâm Quan hiện giờ có không đến sáu vạn, bọn họ chỉ có thể trơ mắt nhìn Lý Sách dẫn hai mươi vạn đại quân đường hoàng xông đến rồi đường hoàng rời đi, nhất thời không biết có nên ra khỏi thành truy kích hay không. Tướng chỉ huy quân thủ thành do dự một lúc lâu, cuối cùng cắn răng nói: "Mau lên, mau đi xin chỉ thị của bệ hạ."

Chúng binh lính nghe lệnh thì thở ra một hơi, may quá, chờ xin chỉ thị trở về thì đám sát tinh kia đã biến đi từ đời nào rồi.

Không đến nửa canh giờ sau, đại quân của Lý Sách cũng đến được cửa khẩu, một đội ngũ chừng hai ngàn người đang lẳng lặng chờ sẵn. Người của Lý Sách đi qua trao đổi mấy câu, đội ngũ kia để lại một chiếc xe ngựa rồi lập tức rời đi.

Thiết Do trở lại bẩm báo: "Bọn họ nói, đã chuẩn bị sẵn ngựa và lương thực đủ cho chúng ta đi tiếp hai mươi dặm đường nữa, còn nói Bắc Yến lạnh lẽo, xe ngựa là để bệ hạ ngồi cho ấm."

Vén rèm xe lên thì thấy khoang xe rộng rãi, trải đệm gấm êm mịn, sàn xe bằng sắt, phía dưới có đặt hai chậu than nên bên trong ấm áp như trời xuân. Một góc xe còn có một bếp lò nhỏ, cái âu trên lò đang bốc khói, mở ra thì thấy là cháo gà nhân sâm còn nóng hổi.

"Bệ hạ, Thanh Hải vương này rốt cuộc là thần thánh phương nào vậy? Lần này hắn ra quân ồ ạt như vậy, thật sự chỉ muốn cho Biện Đường chúng ta một nhân tình thôi sao?"

Lý Sách lẳng lặng nhìn âu cháo gà kia, hồi lâu cũng không nói gì. Sở Kiều được đặt nằm trên nệm, khuôn mặt nhỏ tái xanh đến đáng thương, tựa như cảm giác được khí ấm, nàng nhẹ thở ra một hơi rồi cuộn mình lại như một chú thỏ con, dần chìm vào giấc ngủ say.

"Thiết Do, nếu là ngươi, người nào sẽ vì ngươi làm tất cả những chuyện này?"

Thiết Do thoáng ngây ra, nghĩ nửa ngày mới chậm rãi nói: "E chỉ có mẹ thần mà thôi, ngay cả vợ thần cũng chưa chắc sẽ làm được."

Lý Sách nhẹ cong khóe môi mỉm một nụ cười rồi nói: "Đúng vậy, người có thể làm như vậy vốn không nhiều."

"Bệ hạ biết là ai sao?"

"Ừ." Lý Sách gật đầu, quay lại nhìn dãy núi hùng vĩ chìm trong tuyết trắng ở xa xa, nói giọng lấp lửng: "Nếu lúc trước chỉ hơi nghi ngờ thì bây giờ đã có thể khẳng định."

Vận mệnh khó lường, mỗi người đều có số kiếp riêng của mình. Nếu số đã định, hắn cần gì phải vạch trần chung cuộc?

Lý Sách nhẹ mỉm cười, dáng vẻ hào sảng thoáng ẩn chứa chút tang thương.

Gia Cát Nguyệt, ta quả thật không bì kịp ngươi.

.................................................................................................

Trước lúc bình minh thì bão tuyết rốt cuộc cũng dừng lại, nhưng mặt trời vẫn chưa ló dạng nên bốn bề vẫn còn chìm trong âm u. Trên đỉnh núi cao ngất, nam nhân khoác trường bào xanh thẫm, giơ cánh tay để tuyết quyên đáp xuống. Loại chim có tiếng hung dữ nhất Thanh Hải này lại ngoan ngoãn đậu lên tay nam nhân, tuyết quyên toàn thân trắng toát, chỉ riêng ba chiếc lông dài ở đuôi là có màu đỏ tươi xinh đẹp như máu.

Mở thư ra, một dòng chữ khó coi như cũ đập vào mắt: Đường hoàng đã mang binh theo thủy lộ trở về, vô sự, chớ nhớ nhung.

Sắc mặt nam nhân vẫn hết sức bình tĩnh, ánh mắt vẫn trong trẻo nhất quán như cũ. Hắn dĩ nhiên nghe được ý chế giễu của thuộc hạ đối với mình. Ai vô sự chứ? Ai chớ nhớ nhung chứ?

Nam nhân nhấc bút hồi đáp: Không cần quay về, chết ở đó đi.

Viên tướng trẻ tuổi nhận lấy thư liền vui vẻ cười đến lộ hai hàm răng trắng noãn, hắn phất tay nói với đám thuộc hạ đang kêu khổ thấu trời: "Rút, rút lui thôi, chúng ta về nhà nào."

"Thất tướng quân, nhớ vợ sao?" Một hán tử khoảng hơn bốn mươi cười to, vai hắn trúng tên cũng chỉ vừa được băng bó xong, hiện tại lại cười ha ha như không có chuyện gì, hình xăm con rắn trên bắp tay khẽ động đậy khi hắn cười.

"Cút! Lão côn đồ, rủa lão cả đời cũng không biết mùi vị tương tư là gì."

"Mẹ nó chứ, đám Bắc Yến khốn kiếp kia đúng là dữ thật!" Một gã tướng khoảng hơn ba mươi đi tới, trời cực lạnh nhưng hắn lại mặc áo hở nửa phần vai, trước ngực còn lộ băng vải trắng, hiển nhiên cũng vừa bị thương, "Ông đây có tranh đoạt vợ với bọn chúng đâu, mụ nội bọn chúng, vậy mà lại cứ liều mạng lao vào ông."

Người được gọi là Thất tướng quân cười nói: "Ngươi không có đoạt vợ với bọn bọn họ, nhưng chủ tử thì có. Đi thôi, chúng ta cũng không phải tới đây chỉ để đánh trận. Nhớ dặn Khiết Lang sắp xếp ổn thỏa đường lui, mỗi người đều biết vị trí của mình rồi đấy, chuẩn bị rút lui thôi."

Người bị Thất tướng quân mắng là lão côn đồ hậm hực đứng dậy, vừa đi về vị trí của mình vừa lầm bầm: "Ta đây cảm thấy chủ tử đánh trận này thật không thỏa đáng, chưa kịp nhìn vợ một cái đã để người khác đoạt đi, có phải chúng ta đánh không lại bọn chúng đâu, thật tình, đi chuyến này bị lỗ rồi."

Đám người dần rời đi, Thất tướng quân đứng yên tại chỗ, nghe người nọ nói thì thoáng sửng sốt, im lặng suy nghĩ một chút mới nhẹ giọng nói: "Thiếu gia chỉ không muốn đánh cược tính mạng của người nọ thôi."

Đúng vậy, trong tình hình đó, càng kéo dài thời gian thì càng không có lợi cho người nọ. Cho dù đánh thắng mà người nọ không an toàn thì có ý nghĩa gì?

Thất tướng quân nhớ đến người vừa nhìn thấy trên chiến trường, đôi mắt trẻ tuổi thoáng nheo lại, lộ ra chút hận ý. Món nợ này, sớm muộn gì cũng phải được thanh toán.

................................................................................................

Lúc Lý Sách mang Sở Kiều lên thuyền thì đã là buối sáng của ba ngày sau, mặt trời vừa mới mọc, đường chân trời tỏa sáng rực rỡ. Bầu trời trong xanh không một gợn mây, thủy lộ Nam Cương nằm ở phía tây nam đại lục, khí hậu vô cùng ôn hòa, nước sông êm đềm, xanh ngắt một màu.

Thuyền lớn xuất phát trước tiên, pháo hiệu rền vang chân trời, hơn ngàn chiến thuyền nhổ neo rời bến, khiến mặt sông cuồn cuộn sóng. Trải tầm mắt là vô số cánh buồm trắng tinh treo giữa nền trời màu thiên thanh.

"Xuất phát ~" Thiết Do cao giọng hô to, giọng điệu kéo dài mang theo sự phấn khởi được về nhà.

Lý Sách đứng ở đuôi thuyền, một thân hoa phục rộng rãi màu xanh biếc, ngũ quan tuấn tú tà mị, phong thái hào sảng bất kham. Hắn hơi ngước lên nhìn rặng núi cao ở xa xa, như thoáng thấy được một bóng dáng cao ngất trên đỉnh núi.

Thời tiết thay đổi, mặt sông như có gió thổi từ đỉnh núi xuống, mang theo hương tuyết trong trẻo cùng mùi cỏ xanh thơm ngát.

Lý Sách đột nhiên nở một nụ cười giảo hoạt như hồ ly, để lộ hàm răng sáng bóng. Sau đó, trước ánh mắt kinh hãi của toàn thể thuộc hạ, hắn hướng về phía đỉnh núi phất một chiếc hôn gió vô cùng nồng nhiệt.

Đám thuộc hạ đều lộ vẻ mặt 囧, Thiết Do sầu não hỏi: "Bệ hạ nhìn thấy thôn nữ lên núi đốn củi hay sao vậy?"

Lý Sách quay lại, vui vẻ nói to: "Í! Làm sao ngươi biết?"

Mọi người bất đắc dĩ thở dài: Bệ hạ, ai lại không biết chứ?

Mặt sông êm đềm, thuyền căng buồm đón gió lướt băng băng. Mặt trời vừa lên, tỏa ánh sáng ấm áp ra bốn phía.

Trên đỉnh núi, nam tử lẳng lặng đứng đó, nhìn thấy rõ ràng động tác khiêu khích của Lý Sách thì khẽ nhíu mày, nhưng vẫn không quay đầu rời đi.

Thuyền dần đi xa nhưng hắn vẫn đứng yên một chỗ, gió trên đỉnh núi thật yên bình, không bi thương cũng không u sầu. Gió núi thanh tĩnh thổi qua người hắn, khiến vạt áo cùng cái bóng trên mặt đất khẽ lay động, không khí hòa lẫn mùi cây cỏ cùng núi rừng và hương tuyết trong trẻo, vô cùng dễ chịu.

Trong thoáng chốc, nam tử chợt nhớ đến ánh mắt của nàng, ký ức lại dâng trào như cỏ dại mọc lan tràn sau mưa, thần sắc hắn trở nên ôn hòa, thoáng chút ngơ ngẩn mất hồn.

Cho đến giờ, hắn vẫn không cần nàng biết đến sự hiện hữu của mình. Nếu có thể, hắn nguyện ý nằm xuống trải đường, thầm lặng đưa nàng đến chốn yên bình.

Đó là ngày 29 tháng 9 năm 778, ngay mùa hoa cúc nở rộ ở kinh đô Biện Đường, toàn thành như rợp trong màu vàng rực.

Đoàn thuyền xuôi Nam, chậm rãi lướt về phía kinh đô xa hoa.  


Chương 160: Chỉ nguyện khanh bình yên

Thu qua đông tới, chẳng qua ở đất nước ấm áp như Biện Đường, khí hậu mùa thu và mùa đông cũng không khác biệt lắm. Chỉ có hoa cúc đã úa tàn trên đầu cành, mỗi lần có gió thổi qua là cánh hoa lại rụng lả tả, theo gió xoáy cuộn tròn trên mặt đất.

Sở Kiều lại đang nằm mơ, trong mộng nàng thấy mình đang cưỡi ngựa chạy trên hoang nguyên, mặt trời trên đầu tỏa sáng rực rỡ, gió mạnh từ chân trời lướt qua khiến đồng cỏ vàng nhấp nhô như mặt biển gợn sóng. Trong ánh nắng cuối ngày, thiếu niên vui vẻ thúc ngựa chạy băng băng, trên mặt vẫn mang nụ cười sáng chói, chính là dáng vẻ trong trí nhớ ban đầu của nàng. Mặt đất tràn ngập hỏa vân hoa, ánh lên màu đỏ yêu diễm, vó ngựa hất bông tuyết bay ngập trời, bên tai vẫn thấp thoáng tiếng cười phóng khoáng của thiếu niên, hắn đang gọi nàng: A Sở, mau đuổi theo ta nào!

Nàng liền chạy theo hắn, ánh mặt trời nóng rực hắt lên người nàng, gió thổi vù vù bên tai, trước mắt tràn ngập ánh sáng hy vọng, hệt như trong ảo tưởng suốt tám năm ở trong thành Chân Hoàng nàng luôn tâm tâm niệm niệm.

Nhưng ngay khoảnh khắc nàng sắp nắm lấy tay thiếu niên, trời đất bỗng nhiên tối sầm, bão tuyết chợt bao phủ mọi ánh sáng hy vọng. Người thiếu niên phóng khoáng chợt trưởng thành, dùng vẻ mặt lạnh lùng đứng trước mặt nàng, phía sau là vô số binh sĩ Bắc Yến khoác giáp đen tuyền. Nam nhân cùng các chiến sĩ của mình bước qua người nàng mà đi, nàng hoảng hốt quay đầu lại, chỉ thấy phía sau chính là chiến trường nhuộm máu, mặt băng nứt toác, nước lạnh tràn ra bốn phía. Nàng nhảy xuống hồ sâu, rốt cuộc lại nhìn thấy đôi mắt cô tịch kia, khóe môi lạnh như băng của hắn nhẹ nhàng hôn lên môi nàng, lướt qua tóc mai nàng. Tay hắn rất lớn, rất mạnh mẽ, từ từ kéo tay nàng ra, đẩy hy vọng sống sót vào tay nàng.

Mặt trời lại trở nên chói mắt, lòng bàn tay nàng như có lửa, đau như có ai khắc chữ lên đó.

Trước mắt chợt tràn ngập máu tươi, sông núi lần lượt sụp đổ, bình nguyên trong trí nhớ xuất hiện vết nứt toạc, nước biển phun ra bốn phía. Nàng một thân một mình đứng nhìn liệt hỏa thiêu trụi cánh đồng cỏ vàng, nhìn bão tuyết cùng nước biển vùi lấp bình nguyên, chôn vùi cả người nàng.

Nàng mệt mỏi quá rồi, không còn sức lực nữa. Cuối cùng nàng nhắm mắt lại, buông tay mặc cho bản thân chìm xuống bùn sâu không đáy.

................................................................................................

Lúc Sở Kiều tỉnh lại thì mưa phùn vừa mới tạnh, mặt trăng ló ra khỏi tầng mây, vẩy ánh sáng dìu dịu lên khắp tẩm điện của Mật Hà cư, ý thu nhuốm vàng tán ngô đồng, nước mưa nhỏ từng giọt tí tách xuống trên mặt đất.

Đại điện trống trải không một bóng người, giống như toàn bộ người trên thế gian đều đã chết, chỉ còn một mình nàng mà thôi.

Sở Kiều chậm rãi ngồi dậy, thân thể chơi vơi như đang trên mặt biển, cả người ướt đẫm mồ hôi. Gió thổi tới, vừa lạnh vừa khô, nhưng lại khiến nàng cảm nhận được, mình vẫn còn sống.

Từ phía điện Nhu Phúc truyền đến tiếng đàn sáo tưng bừng, là dạ yến do phi tần của Lý Sách tổ chức. Ở đây mỗi tối đều có ca múa long trọng vô cùng huyên náo.

Sau khi cứu Sở Kiều trở về, toàn bộ triều đình Biện Đường liền ùn ùn dâng tấu vạch tội, văn võ bá quan cả ngày khóc lóc can gián, nhưng Lý Sách vẫn một mực thi trừng mắt với bọn họ suốt gần mười ngày, cuối cùng trong một buổi lâm triều, hắn một cước đạp đổ long ỷ, tức giận quát cái gì không muốn làm hoàng đế nữa, ai thích thì làm đi.

Bá quan bị dọa sợ, lập tức quỳ suốt hai ngày ngoài Trường Tín cung vời vị hoàng đế vừa lên ngôi không tới mấy năm này trở lại thượng vị. Từ đó trở đi, không còn ai dám đề cập hay xỏ xiên nửa chữ đến chuyện của Sở Kiều nữa.

Cũng may biểu hiện sau đó của Lý Sách cũng khiến mọi người thở phào. Trừ mấy lần đầu ngự y chẩn bệnh cho nàng thì hắn còn phá lệ dụng tâm thăm hỏi, về sau hắn lại khôi phục bộ dáng phong lưu trêu hoa ghẹo nguyệt, lại cứ hai ngày một tiệc nhỏ, ba ngày một đại yến. Thấy vậy, chúng ngôn quan cuối cùng cũng thả lỏng, thầm nhủ, xem ra hồ ly tinh đến từ Bắc Yến này cũng không có bao nhiêu sức quyến rũ, hoàng đế đi cứu nàng, chắc cũng chỉ là nhất thời tâm huyết dâng trào mà thôi.

................................................................................................

Biết Lý Sách tiến vào nhưng Sở Kiều vẫn không lên tiếng. Hắn thì cho rằng nàng vẫn còn ngủ, cố ý làm ra vẻ rón rén như ăn trộm, khiến cho đám tiểu nha đầu ngoài cửa phải che miệng cười trộm, không dám cười thành tiếng.

Lúc vén rèm lên, liếc nhìn thấy Sở Kiều ngồi trên giường thì Lý Sách có hơi sững sờ, nhưng ngay sau đó liền cười tít mắt xán tới, đưa ra một cái rổ mây tinh xảo, bộ dáng như đang hiến vật quý, cười nói: "Có người dâng quả lựu, muốn ăn không?"

Sở Kiều không nói gì, ánh mắt vẫn còn hoảng hốt như chưa tỉnh mộng.

Lý Sách ngồi bên cạnh, nhìn khuôn mặt vẫn còn tái xanh của nàng, mi tâm thoáng nhíu lại rồi nhanh chóng thả lỏng. Hắn lấy một quả lựu ra, đích thân lột vỏ bóc ra từng hạt lựu đỏ thẫm như trân châu, tươi cười quay sang Sở Kiều, đưa hạt lựu đến bên khóe miệng nàng, há môi bảo: "Kiều Kiều, há ra nào, giống ta nè, a~"

"Lý Sách, ta đã khỏe." Giọng nàng rất nhẹ, rất bình tĩnh.

Mỗi lần nhìn Sở Kiều, Lý Sách thỉnh thoảng sẽ có ảo giác như ba năm trước, nàng thọ thương được đưa vào cung Kim Ngô chạy chữa, không có gì thay đổi. Nhưng rất nhanh hắn liền phát hiện, nàng thật ra không giống trước, không còn là thiếu nữ tràn đầy lý tưởng cùng hoài bão lúc xưa nữa, không còn là thiếu nữ mắt luôn lấp lánh hy vọng như nhắc đến tên nam nhân nào đó, ngay cả ánh mắt nàng, cũng không còn lấp lánh như xưa, hiện tại nó ảm đạm như bị phủ bởi một tầng sương dày.

"Ừ, đã khỏe rồi."

"Ta muốn rời đi."

Lý Sách dường như không hề kinh ngạc khi nghe nàng nói những lời này, ngược lại còn vui vẻ cười hỏi: "Vậy nàng muốn đi đâu đây?"

Sở Kiều mờ mịt lắc đầu, thành thật nói: "Ta vẫn chưa biết, nhưng thế gian lớn như vậy, nhất định sẽ có chỗ cho ta đi. Nếu cuối cùng vẫn không được thì ta sẽ đến quan ngoại ở."

"Nàng đến quan ngoại hay ở lại đây, có gì khác nhau sao?"

"Lý Sách, Đại Hạ sẽ không bỏ qua cho ta, ngươi giữ ta lại sớm muộn gì cũng gặp đại họa. Ta giết vô số lính Hạ, hai lần khiến bọn họ chinh Bắc không công mà phải lui, còn chính tay giết chết Tam hoàng tử Triệu Tề của bọn họ. Trước mắt Đại Hạ và Biện Đường không có chiến sự, nhưng đến khi bọn họ ra tay thì ngươi sẽ gặp phiền toái không nhỏ."

Lý Sách không trả lời mà chỉ lẳng lặng nhìn Sở Kiều, vẻ cợt nhả trong mắt dần thối lui nhường chỗ cho sự tĩnh lặng như nước. Hồi lâu sau hắn mới thấp giọng nói: "Nàng ghi thù với Gia Cát Nguyệt vì đám trẻ Kinh gia, vì báo đáp ân tình cho Yến Tuân mà theo hắn vào cung Thịnh Kim chật vật cầu sinh suốt tám năm. Nàng mấy lần vào sinh ra tử để bảo vệ dân chúng Bắc Yến, bất hòa với Yến Tuân vì Tây Nam trấn phủ sứ, vì Gia Cát Nguyệt ở ẩn hai năm, cuối cùng vì Đại Đồng Hành mà đoạn tuyệt với Yến Tuân. Bây giờ, nàng còn muốn đến tái ngoại chỉ vì không muốn liên lụy ta sao?"

Chất giọng trong trẻo trở nên trầm khàn, ẩn chứa sự mệt mỏi khó nén, hắn lặng lẽ hỏi: "Kiều Kiều, cả đời này của nàng, có bao giờ thử nghĩ cho mình không?"

Sở Kiều chợt ngây ra, gió đêm luồn vào thổi lên tóc mai cùng vạt áo của nàng. Lý Sách nhẹ đưa tay áp đầu Sở Kiều vào ngực mình, cái ôm cực kỳ dịu dàng, không hề vương chút dục vọng. Hắn thở dài một hơi rồi thấp giọng nói: "Kiều Kiều, trên đời có rất nhiều cách sống. Từ cả đời nghèo khổ đến vinh hoa thịnh vượng, nhàn nhã vô dục vô cầu hay xa hoa lãng phí đều là những cách sống khác nhau. Nhưng vì sao nàng luôn chọn cho bản thân con đường gian nan nhất thế? Nàng nhìn dáng vẻ của mình đi, một người dân tầm thường nhất góc phố cũng không mệt mỏi như nàng, cũng có cuộc sống tốt hơn nàng."

Bên tai quanh quẩn giọng nói chậm rãi của Lý Sách, Sở Kiều tựa vào trong lòng hắn, mọi suy nghĩ đều như đình trệ. Thật vậy chăng? Nhưng một thường dân nơi góc phố sẽ không có nghiệt duyên nặng như thế, sẽ không có ràng buộc nhiều như vậy. Vì vậy nên dù có bị phản bội hay phụ lòng, bị lừa gạt hay bỏ rơi, cũng sẽ không đau đớn cùng cực, thương tích đầy người như nàng bây giờ.

Ánh trăng lặng lẽ len qua cửa sổ chiếu lên vai hai người, Sở Kiều đột nhiên cảm thấy vô cùng rã rời.

Nhưng Lý Sách à, ta mất mười một năm cố sức leo một ngọn núi vì được người cho biết trên đỉnh núi có một đóa tuyết liên, nhưng sau khi tiêu hao hết sức lực, leo đến nơi lại phát hiện đỉnh núi trơ trụi, cái gì cũng không có. Ta đã đổi mạng vô số lần để leo lên được đỉnh núi cao chót vót đó, nhưng đổi lại là nỗi thất vọng lớn như thế, ngươi nói xem, ta phải làm thế nào mới có thể leo xuống?

"Kiều Kiều, hy vọng nằm trong tay mỗi người, nàng tự mình buông bỏ thì không ai có thể giúp được nàng cả."

................................................................................................................................

Từng ngày trôi qua, đã vào đông nhưng giá rét tựa như chưa từng hiện hữu ở Biện Đường. Sở Kiều cuối cùng vẫn không danh không phận ở lại cung Kim Ngô, nhưng ở nơi cung đình hoa lệ này, ít ỏi nhất lại chính là nữ tử không danh phận, cộng thêm danh tiếng hiển hách lúc trước của bản thân, thành ra không một ai dám tới phiền nhiễu Sở Kiều.

Ngoài dự đoán, Đại Hạ không hề đến buộc giao người như trong tưởng tượng. Bọn họ cứ như đã nhận định Sở Kiều là phế nhân vậy, mọi ân oán khi trước đều xóa bỏ, thậm chí một sứ giả đến chất vấn cũng không có.

Sở Kiều cũng cảm thấy điều này rất không bình thường, thân phận nàng hiện giờ tựa như tù binh Nhật năm xưa vậy. Với tâm tình phẫn hận nôn nao phản chiến của Đại Hạ, sao lại dễ dàng bỏ qua cơ hội tóm lấy kẻ thù sa cơ là nàng?

Đi hỏi Mai Hương thì cô nàng liền dõng dạc nói: "Bọn chúng mà dám đến thì em sẽ bảo Hạ thống lĩnh chém rụng hết đầu bọn chúng."

Tiểu nha hoàn Thu Tuệ vừa được Lý Sách phái đến tươi cười đặt chén tuyết lê chưng xuống, đắc ý tiếp lời: "Mai Hương tỷ nói rất đúng, hơn nữa, bệ hạ đối xử với cô nương tốt như vậy, ai không sợ chết dám tới đây hô to gọi nhỏ chứ?"

Sở Kiều lắc đầu nhưng trong lòng vẫn còn hơi lo lắng, cảm thấy mọi chuyện không đơn giản như vậy, chẳng lẽ Lý Sách bị Đại Hạ buộc đáp ứng điều kiện gì sao?

Thiền Nhi chợt rụt cổ nói: "Em lại nghe nói, Đại Tư Mã gì đó của Đại Hạ đang cố sức giao hảo với Biện Đường chúng ta, cho nên Đại Hạ mới không đến gây chuyện với cô nương."

Đại Tư Mã?

Sở Kiều thoáng cau mày, Đại Tư Mã là vị trí nguyên lão đứng đầu hội trưởng lão của Đại Hạ, Ngụy Quang thật sự muốn tha cho nàng?

Nàng đã khá lâu không thăm hỏi chuyện thế ngoại rồi, mặc cho bên ngoài có hỗn loạn đến đâu, nàng luôn thành thật nghe theo lời Lý Sách cả ngày ở trong Mật Hà cư sống một cuộc sống bình thường yên ả.

Nửa đời nàng đã cột chặt với Yến Tuân, luôn đi trong màn sương cùng gió tanh mưa máu, kinh qua bao đao quang kiếm ảnh, hôm nay cuối cùng cũng đến đường cùng, không còn lối đi và cũng không đi nổi nữa.

Về sau nàng cũng từng hỏi Lý Sách vì sao Đại Hạ không đến đòi người. Lúc đó Lý Sách đang hăng hái cho nàng xem danh sách tuyển tú năm nay, nghe hỏi thì ngẩng lên ném sang một ánh mắt mị hoặc, cười vô lại: "Không chừng là vì Hạ hoàng vẫn còn ôm ảo tưởng với ta."

Cho dù tình hình có không ổn đến mức nào, Sở Kiều cũng không nhịn được phì cười một tiếng, lắc đầu bỏ qua rồi cùng hắn săm soi bản danh sách dài gần ba thước kia, nhìn các thiếu nữ tuổi tác không khác nàng lắm nhưng mày mục lại tràn đầy vẻ phong tình, cảm thấy quả thực là một thế giới khác.

Trước khi rời đi, Lý Sách dừng ở bậc cửa, đột nhiên quay lại cười nói với Sở Kiều: "Kiều Kiều, tỉ mỉ nghĩ lại xem, trên đời này còn ai tốt với nàng như vậy, cam tâm tình nguyện tất cả vì nàng, vì nàng vào sinh ra tử, vì nàng tán gia bại sản, vì nàng vứt bỏ mọi thứ, ngay lúc nàng nguy nan ra tay cứu giúp cũng không để nàng biết. Người như vậy vốn không nhiều đâu, phải suy nghĩ kỹ một chút, thông suốt rồi thì báo ta biết, ta sẽ chuẩn bị đồ cưới cho nàng, sau đó long trọng gả nàng ra đi."

Tán ngô đồng đỏ rực che khuất mặt trời, tia nắng xuyên qua tầng lá chiếu vào nội điện vàng son.

Sở Kiều đứng giữa đại điện thanh tĩnh, cẩn thận ngẫm nghĩ câu nói của Lý Sách trước khi rời đi, cẩn thận xem xét lại trận chiến sau cùng ở Bắc Yến, lúc tấn công, lúc phòng thủ, lúc lui binh, là ai đã che chở cho mình, ai có thể ngăn cản đại quân, ai có thể kịp thời báo tin cho Lý Sách, ai mới có thể ung dung ra vào cảnh nội Bắc Yến dễ dàng như vậy, còn nữa, ai mới có thể tốt với nàng đến như vậy...

Hồi ức phủ bụi trong đầu trỗi dậy từng chút một, tựa như vô vàn dây leo cuốn lấy nàng treo lên cao.

Vầng trăng trên cao hơi chếch về hướng Tây, vắt ngang ngọn cây, phủ ánh sáng nhu hòa lên vạn vật.

Trăng tàn thì mặt trời lên, một ngày mới lại đến.

Sở Kiều đã đứng như vậy suốt đêm, không ngừng tìm cách chứng thực suy nghĩ kinh người trong đầu. Dần dần, ánh mắt nàng như có ánh sáng, nước mắt trong trẻo trào ra khỏi viền mắt, từng giọt lóng lánh như châu ngọc nhưng không hề ẩn chứa bi thương. Cảm giác vui mừng và hy vọng như bao phủ tâm trí nàng, khiến thân thể nàng không nhịn được mà run rẩy.

Khi tia nắng sớm đầu tiên chiếu vào gian phòng, hắt lên khuôn mặt tái nhợt của Sở Kiều, nàng chợt mỉm một nụ cười trong trẻo như một đứa trẻ, cười mà nước mắt chảy ướt cả mặt.

................................................................................................................................

Ngày Sở Kiều rời khỏi cung Kim Ngô, trời vẫn mưa lất phất. Không hề nói lời từ biệt với Lý Sách, nàng chỉ mang theo một tay nải đơn giản, một mình cưỡi ngựa ra khỏi cửa Chính Dương, mưa rả rích thấm ướt vai nhưng toàn thân nàng lại như bừng bừng sức sống.

Lý Sách vẫn là một hoàng đế tùy hứng như cũ, hiện tại hắn đang ngồi trên nóc chính điện quốc tử, bóng dáng mặc trường sam đỏ thẫm ngồi vắt vẻo trên mái ngói cong cong, bên dưới là đám đại thần đang lo lắng gào khóc nhưng hắn vẫn như không nghe thấy. Gió Nam ấm áp hất tung vạt áo giấu ám tiễn phía dưới, hắn dõi mắt nhìn ra quảng trường Tường Vi ở xa xa, bóng dáng áo vàng của thiếu nữ cưỡi trên bạch mã vẫn nổi bật giữa hai hàng ngô đồng lá đỏ, rực rỡ như một bức họa hoa mỹ.

Bốn tháng, cũng đã đủ rồi.

Lý Sách khẽ cười, nâng tiêu lên thổi một khúc nhạc khoan khoái đưa tiễn Sở Kiều. Tiếng tiêu trong vắt, uyển chuyển như tiếng sơn ca bao trùm lên tòa cung điện hào nhoáng phồn hoa, lướt trên hành lang vắng vẻ, băng trên tường thành đỏ tía, luồn qua cửa cung nguy nga vàng son, theo bóng dáng của nàng đi về phía chân trời rộng lớn.

Tương trợ trên Mi Sơn, bị gia tộc trừng phạt, suýt nữa chôn vùi tiền đồ.

Ở thành Cống Duyệt, vứt bỏ đường lui, vứt bỏ sinh mạng, bị quốc gia ruồng bỏ, bị gia tộc trục xuất, bị hàng vạn hàng nghìn dân chúng thóa mạ, chết cũng không được vào tông miếu, chân chính trở thành phản tặc của toàn đế quốc.

Vùng lên từ trong tuyệt cảnh, dùng hai bàn tay trắng thay đổi càn khôn ở Thanh Hải, oai dũng uy hiếp cả đại lục. Thời cơ chưa đến nhưng vẫn xua quân tiến công, chỉ vì cứu mạng hồng nhan.

Trong lúc Đại Hạ lăm lăm đao sắc nhăm nhe Biện Đường, trong lúc Bắc Yến phát binh chinh Đông để rửa mối hận đoạt hồng nhan nhưng lại cam nguyện vứt bỏ cơ nghiệp vinh quang trở về cố thổ, dùng trăm vạn hùng binh làm vật cược... Cuối cùng lại được đền bù như ý nguyện...

Gia Cát Nguyệt, ta vẫn cho rằng bản thân là người điên cuồng nhất trên đời này, nhưng đối mặt với ngươi, ta cuối cùng cũng biết mình nông cạn đến mức nào...

Lý Sách yếu ớt cười thầm, tranh đoạt với một người điên, thắng thế nào được?

Tất cả chúng ta đều là con cờ được trời cao an bày từ trước, vùng vẫy thế nào cũng không thoát, Yến Tuân cũng vậy... nhưng chỉ có ngươi là đủ dũng khí hết lần này đến lần khác thoát ra, đủ dũng khí hết lần này đến lần khác nhảy vào xoáy nước.

Ta cuối cùng đã bại dưới tay ngươi, thua một cách tâm phục khẩu phục.

Tiếng tiêu chợt trở nên cao vút, âm điệu vô cùng vui vẻ, đối lập với tiếng khóc lóc của đủ loại quan lại bên dưới quả thực hơi buồn cười. Tôn Đệ đứng dưới mái điện, nhìn lên bóng dáng thoạt nhìn đại nghịch bất đạo kia, nhìn hắn được bao phủ trong khúc nhạc tươi sáng nhưng lại đơn độc dị thường.

Gió thổi qua con đường dẫn đến cung điện, dội lên tường thành cao ngất hai bên, thoang thoảng mùi hương trong trẻo từ bên ngoài.

Dưới nắng sớm ấm áp, không gian như có gì đó nhẹ lay động, phá tan màn sương tịch mịch của đêm khuya, khiến lớp bụi mờ phủ trên cung điện bay lên, phiêu du trong không trung.

Hắn vẫn luôn như vậy, luôn dùng ánh mắt nửa say nửa tỉnh quan sát mọi chuyển biến trên thế gian này...

Màn đêm dần buông xuống, tiếng khóc lóc cũng đã tắt, có mấy cựu thần bị kinh hãi quá độ ngất đi, đã bị khiêng xuống từ lâu. Toàn cung điện được bao phủ trong ánh đèn xa hoa, hàng trăm ngàn ô cửa sổ bừng lên, lẳng lặng rọi sáng mọi vật.

Lý Sách bước từng bước xuống thang, đám quan lại nhào đến, khóc lóc nói cái gì bệ hạ phải chú ý thân thể, chớ hành động tùy hứng như vậy nữa, vân vân...

"Chư khanh quả nhiên hết lòng hết dạ vì trẫm, hôm nay trẫm đã suy nghĩ thông suốt rồi. Các ái khanh hãy mau bình thân."

Chúng quan lại nhất thời nước mắt như mưa, cảm thán cuối cùng hoàng thượng cũng giác ngộ rồi.

"Để cẩn thận suy xét lại hành vi cùng lời lẽ của mình, trẫm quyết định không lâm triều ba ngày. Tất cả về nhà tự mình suy ngẫm đi, nghiên cứu quốc đạo rồi tới nói cho trẫm nghe."

Dứt lời, Lý Sách liền nghênh ngang rời đi trong ánh mắt còn ngu ngơ của đông đảo đại thần, đi được vài bước hắn lại vội vã quay lại ra lệnh cho nội thị: "À quên, mau đi chuẩn bị yến tiệc cho suốt ba ngày tới, nhớ mang tất cả tú nữ trúng tuyển năm nay đến điện Nhu Phúc nữa đấy."

Tất cả im bặt, vị đế vương trẻ tuổi vừa rời đi vừa cười to một cách đắc ý.

Nếu vận mạng đã định chúng ta sẽ như phù du lao vào ánh sáng tìm kiếm mục tiêu cả đời thì...

Kiều Kiều, mong nàng có thể là con phù du duy nhất thoát khỏi vòng xoáy điên cuồng này. 


Chương 161: Trong ánh đèn mông lung

Ra khỏi Bạch Chỉ Quan sẽ chính là lãnh thổ Đại Hạ, tuy hiện tại đã là cuối đông nhưng thành Hiền Dương tọa lạc ở phía Tây Nam nên khí hậu vẫn rất ôn hòa. Lúc Sở Kiều ra khỏi cửa khẩu thì trời vẫn còn mưa.

Dãy núi xanh nhạt ở xa xa chìm trong màn mưa trắng xóa, dòng sông uốn lượn trôi lững lờ, hoàng hôn trên hoang nguyên đặc biệt đẹp, ánh sáng đỏ au phản chiếu trên mặt sông như dát hồng mọi vật. Chân trời thấp thoáng trăng non vừa nhú, gió nhẹ phe phẩy qua lại khiến thảm cỏ vàng rì rào như tiếng đại dương hát.

Đứng trên con đường dẫn đến thành Hiền Dương , Sở Kiều đột nhiên có hơi do dự không biết có nên vào thành hay không. Hơn mười năm qua cuộc đời nàng như một bức họa đơn sắc, tám năm đầu u ám như đêm không trăng, ba năm sau do máu tươi và vết đao vẽ thành. Hiện tại đột nhiên tháo bỏ mọi gông xiềng, nàng lại không biết nên đi đâu.

Mọi kích động ban đầu đã dần biến mất, thay vào đó là khí lạnh thanh tỉnh thần trí của nàng. Nếu thật như nàng nghĩ, thân phận hiện giờ của hắn sao có thể qua lại với người như nàng? Nàng đã mấy lần đẩy hắn vào hiểm cảnh, bây giờ lại muốn hại hắn mất tất cả sao? Còn nếu không như nàng nghĩ thì lời Lý Sách nói cũng chỉ ám chỉ là Yến Tuân muốn thả nàng đi sao?

Nhưng nàng bây giờ, cả dũng khí mở miệng hỏi một câu cũng không có.

Cuối cùng Sở Kiều vẫn quyết định lưu lại trong thành Hiền Dương, nàng thuê một khuôn viện nhỏ hẻo lánh, trước viện có mọc hai gốc liễu hiện đã trụi lá, thân cành khô vàng.

Thoáng cái đã qua bảy tám ngày, lại sắp cuối năm, trong thành Hiền Dương đã bắt đầu giăng đèn kết hoa, không khí vui mừng lan tỏa khắp nơi. Chủ nhà ở sát bên thấy Sở Kiều một thân một mình thì đã hai ba lần muốn mời nàng cùng đón năm mới, nhưng lại bị nàng lịch sự từ chối.

Lại thêm ba ngày trôi qua, hôm nay là tết Nguyên Tiêu, sáng sớm có tuyết rơi lất phất, nhưng bông tuyết còn chưa chạm đất đã tan thành nước, tạo thành một tầng sương đọng trên lá cây. Đỉnh núi xa xa thì đã trắng xóa một màu, chân núi lại xanh rì, ngô đồng trong thành đỏ hơn cả màu nắng, cảnh sắc vô cùng tươi đẹp.

Chủ nhà là một người phụ nữ hơn ba mươi tuổi, dáng vóc tròn trịa, mặt mày phúc hậu, dưới gối có một trai một gái, trượng phu là tiên sinh dạy học của một thư quán tư nhân trong thành, gia cảnh cũng coi như là khá giả. Đứa bé gái kia dường như rất thích Sở Kiều nên mỗi ngày đi qua nhà nàng đều nghểnh cổ nhìn vào trong, ca ca cô bé thấy vậy thì thỉnh thoảng làm bệ đỡ cho cô bé nhón chân qua bờ tường nhìn trộm một chút.

Khi đêm xuống, Sở Kiều ngại chủ nhà lại sang mời cơm nên đã ra ngoài từ trước.

Trời vẫn còn chưa tối hẳn, hoa đăng trên phố cũng chưa sáng mà trên đường đã hết sức tấp nập. Bốn phía đều là người qua người lại, hai bên đường đầy ắp gánh hàng rong, đồ ăn thức uống, đèn lồng đủ loại. Sở Kiều không thích chốn đông người nên chọn con phố vắng vẻ hơn mà đi.

Dịp lễ Nguyên Tiêu nên chúng phu nhân tiểu thư ngày thường ít lộ diện cũng líu ríu ra ngoài chơi, trên đường nhìn chỗ nào cũng dễ dàng thấy được mấy cỗ xe ngựa sang trọng. Từng chiếc từng chiếc chạy qua chạy lại bên người Sở Kiều, tiếng cười vui vẻ theo gió Nam ấm áp bay xa, tô thêm vẻ thanh bình.

Giữa đám đông ăn mặc tươi tắn đẹp đẽ, phục sức của Sở Kiều lại vô cùng đơn giản. Nhưng dù sao cũng là vải vóc trong hoàng cung Biện Đường, so với đồ thường dân dùng thì tinh xảo hơn nhiều, áo lụa màu hồng nhạt phối cùng la quần xanh nhạt thêu chìm hình hoa ngọc lan, xa xa nhìn lại, mỗi bước chân vô cùng uyển chuyển. Cộng thêm khí chất thanh tĩnh đặc biệt, một mình Sở Kiều đi lại trên con đường rợp bóng ngô đồng đã thu hút không ít ánh mắt của chúng thư sinh công tử đi ngang. Cũng có người muốn đến gần bắt chuyện, nhưng vừa đến trước mặt nàng thì lại do dự, cảm thấy khí chất lạnh lùng đạm mạc kia của nàng cũng không phải là giả, và chủ yếu là ánh mắt nặng nề xa xăm của nàng đã khiến bọn họ chùn chân, lúc bọn họ tỉnh lại thì nàng đã đi xa.

Trời bắt đầu tối, hoàng hôn tắt hẳn, trăng tròn nhẹ nhú, trời thưa thớt ánh sao, ánh trăng yếu ớt xuyên qua tán lá rải bóng lên đầu vai thiếu nữ.

Đây cũng không phải là lần đầu tiên Sở Kiều đến thành Hiền Dương. Ba năm trước, nàng dẫn binh chạy khỏi thành Chân Hoàng, gặp được hai huynh muội Triệu Tung và Triệu Thuần bị nạn giữa đường, sau vì hộ tống bọn họ mà bị đuổi giết, rồi ở tại nơi này bị bắt làm nô lệ cùng với Lương Thiếu Khanh, sau lại bị bán vào Chiêm phủ, nhưng nhờ thế mà tìm được ba tỷ muội Kinh Tử Tô.

Năm tháng trôi qua như nước, Triệu Tung nhiều năm không tin tức, vị hoàng tử năm đó hô phong hoán vũ nay đã sớm vì tàn tật phải rời khỏi chính trường Đại Hạ. Triệu Thuần thì còn thê thảm hơn, từng bước chìm sâu dưới bùn, nay không biết thân đã ở phương nào. Còn Kinh Tử Tô thì đã trở thành u hồn thời loạn mà không ai nhớ thương.

Sở Kiều khẽ nhếch môi, nụ cười của nàng rất nhạt, ý cười chưa đến đáy mắt đã tan biến như sương khói, chỉ còn lại bi thương vô bờ.

Có lẽ, chỉ có người như Lương Thiếu Khanh mới có được cuộc sống khoái hoạt, thế gian này, người hiểu quá nhiều, biết quá nhiều sẽ không bao giờ được vui vẻ.

Xa xa sáng rực ánh đèn lồng, đỏ xanh vàng tím đủ màu, lấp lánh chói mắt. Tiếng pháo đì đùng khiến đám trẻ con thích chí cười vang, người bán hàng rong cao giọng mời chào, các cô nương ăn vận xinh đẹp không ngừng cười nói khúc khích. Gió từ bờ hồ thổi đến, đường phố đông đúc nhưng Sở Kiều lại không cảm thấy được chút ấm áp nào.

Hội đèn đêm Nguyên Tiêu, đã là chuyện rất xa...

Sở Kiều quay đầu nhìn, ánh mắt như xuyên qua thời gian không gian dừng lại ở hình ảnh khi xưa. Chú ngựa con đỏ thẫm, bé gái mặc áo lông trắng tay cầm chiếc đèn hình thỏ cũng màu trắng, chậm rãi đi theo sau lưng thiếu niên. Thiếu niên quay đầu lại, ánh mắt của hắn rất điềm tĩnh cũng rất thanh lãnh. Lúc ấy, nàng cho rằng đó là một ánh mắt vô tình tàn nhẫn, không chút độ ấm, đôi con ngươi trong suốt tựa gương phản chiếu mọi thứ, ánh mắt luôn cao cao tại thượng, khinh thường nhìn xuống chúng sinh.

Nhưng bây giờ nhớ lại, nàng như nhìn được đến đáy mắt hắn, như có thể thấy chút tang thương luôn bị che giấu bên trong đôi con ngươi sâu thẳm kia...

Nếu như không có hội đèn đêm đó, không có pháo nổ làm chấn kinh ngựa của nàng, khiến nàng không bị chở ra ngoài thành, không cùng Yến Tuân lội tuyết một đêm... mọi chuyện liệu có thay đổi, không như bây giờ không?

Có lẽ là không. Nàng có lẽ vẫn nắm chặt cán đao quay đầu lại, hắn có lẽ vẫn phản bội lời thề của mình. Tất cả có lẽ vẫn theo vòng xoáy của số mệnh, không ai thoát ra được.

Nhưng ít nhất, nếu không có một màn bị thất lạc, hôm nay ký ức của nàng, đêm Nguyên Tiêu đó có lẽ không chỉ có một bóng lưng mơ hồ cùng một chiếc đèn hình thỏ trắng mà thôi...

Bất tri bất giác Sở Kiều đã đi một đoạn rất xa, đi đến trước một gốc cây vừa to vừa cao mọc bên bờ hồ. Nhìn thân cây cũng có thể đoán tuổi thọ tối thiểu ba bốn chục năm, trên tán lá buộc đầy vải đỏ cùng hình giấy đủ màu. Đây là mê tín của dân chúng nông thôn, bọn họ tin rằng trong mỗi gốc cổ thụ đều có thần cư ngụ, tuổi thọ cây càng lớn thì chức vị của thần càng cao. Cho nên gốc cây như thế này sẽ thường xuyên có dân chúng đến lễ bái, cầu xin mọi chuyện thuận lợi, người thân được bình an.

Sở Kiều đứng dưới tàng cây, đáy lòng chợt dâng lên một cảm xúc không rõ. Nàng không biết trên tàng cây có gì nhưng chỉ lẳng lặng ngẩng đầu lên nhìn thật lâu, hai mắt khẽ nheo, vẻ mặt không buồn không vui, tầm mắt tựa như muốn xuyên qua bụi thời gian tìm lại chuyện cũ.

Sở Kiều không biết, ba năm trước sau khi nàng bị Chiêm phủ mua đi, từng có một người cưỡi ngựa đi ngang nơi này. Hôm đó trời xanh mây trắng, nam nhân cũng lẳng lặng đứng dưới tàng cây này như nàng hiện giờ. Khi đó, hắn và nàng đã lỡ mất nhau.

Sở Kiều đưa tay lên ngựa, sờ vào ngọc bội giấu trong áo, đột nhiên trở nên thất thần.

Ngọc bội này là nàng đoạt được từ trên người Gia Cát Nguyệt khi hai người giao chiến trong quý phủ của thành thủ thành Ổ Bành. Sau khi phát hiện ra nàng giả mạo vũ cơ, hắn còn giơ tay hướng nàng đòi ngọc. Lúc đó, nàng còn đang tức giận nên thuận miệng nói đã ném vào trong hồ rồi, hại hạ nhân trong phủ bận rộn cả đêm ngụp lặn nhưng vẫn hoài công.

Ngày rời thành đi Bắc Yến, thần xui quỷ khiến nàng lại mang theo nó.

Thời gian thấm thoắt trôi qua, ký ức tựa vẫn sáng trong tựa gương.

Quanh đi quẩn lại, thì ra dây mơ rễ má giữa hắn và nàng nhiều như vậy. Khoảng cách núi sông không thể cắt đứt, thời gian năm tháng cũng không, âm dương cũng không, chỉ có quốc thù nợ nước ngăn trở bọn họ mà thôi. Và nàng bây giờ, không có cả tư cách lẫn dũng khí đến gần hắn.

Thoáng chốc, trong đầu như có ngàn vạn suy nghĩ tràn vào, Sở Kiều nhắm hai mắt lại, vung tay ném ngọc bội lên ngọn cây.

Thế sự trêu ngươi, đến cuối cùng nàng và hắn vẫn chẳng là gì của nhau.

Khi Sở Kiều quay người chuẩn bị muốn rời đi thì bên tai bất chợt vang lên một tiếng *đinh* trong trẻo, như có thiếu nữ vừa đặt ngón tay thon dài của mình lên dây cổ cầm nhẹ khảy một tiếng, âm thanh êm tai ngân dài trong đêm, len lỏi vào tâm can người nghe. Nàng hốt hoảng xoay đầu lại, hai miếng ngọc sáng loáng tuột khỏi tán cây, vừa vặn rơi xuống trên tay nàng.

Chất ngọc trắng muốt, trơn bóng nhẵn mịn, cả hình thức và độ lớn đều giống hệt nhau, là một đôi ngọc bội song sinh.

Sở Kiều sững ra, máu trong tim như sôi lên, cảm xúc cuồn cuộn khiến tim nàng như muốn vỡ ra, cổ họng thít lại đau đớn, khóe mắt nóng bỏng mờ hơi sương. Nàng nhắm mắt lại, cố hết sức mới có thể đè ép cảm giác chua xót đang chực dâng trào.

Trong đầu như thấp thoáng thấy được một bóng dáng đứng dưới gốc cây. Nam nhân vạt áo phiêu dật, mày mục như vẽ, mang vẻ mặt khó tả bằng lời ném ngọc bội lên tán cây rồi thúc ngựa xoay người lại, chậm rãi rời xa gốc cổ cây cầu an này...

Hai mắt cay xè nhưng lệ vẫn không hề rơi, Sở Kiều im lặng đứng đó, mặc cho thời gian trôi qua. Ánh đèn lồng lấp loáng xẹt qua người, trên mặt hồ đông nghịt thuyền hoa lững lờ trôi, tiếng cười đùa của trẻ con văng vẳng bên tai nhưng nàng như vẫn còn trong mộng. Mãi đến khi một người bán đèn gánh hàng đi ngang qua, nàng mới giật mình tỉnh lại.

Vẫn màu đó, vẫn hình dáng đáng yêu, thật giống chiếc đèn nàng từng sở hữu. Sở Kiều lẳng lặng ngắm chiếc đèn, tầm mắt không hề dao động. Cho đến khi người bán hàng sốt ruột, nhướng mày hỏi: "Ta nói này cô nương, cô rốt cuộc có muốn mua hay không vậy?"


Sở Kiều hốt hoảng móc tiền ra trả rồi cầm chiếc đèn hình thỏ đứng giữa đường, bóng lưng đơn độc, vẻ mặt mờ mịt như một đứa trẻ bị lạc.

Dòng người không ngừng tuôn chảy trên phố, Sở Kiều thất thần đi giữa đám đông, bên cạnh đều là người người vui vẻ nói cười, tiếng trống tiếng chiêng vang vang. Con đường sáng rực ánh đèn lồng đủ màu, không gian pha lẫn vô số mùi hương, mùi thơm nức của thịt nướng, hương phấn son nồng nàn của chúng thiên kim tiểu thư, và cả mùi hàn mai mới nở. Đủ loại hoạt động vui chơi, thả hoa đăng, đoán đố đèn, xiếc tạp kỹ, ca múa nhạc, tất cả tạo thành một khung cảnh vô cùng vui vẻ náo nhiệt.

Sở Kiều nhìn thẳng phía trước, một mình len lỏi giữa dòng người qua lại, cẩn thận giữ chiếc đèn trong tay không để nó bị đụng hỏng.

Ánh đèn phù hoa hai bên đường phản chiếu lên mặt nàng, lộ rõ vẻ mặt cô tịch cùng bóng dáng đơn độc, khiến nàng như cách xa hình ảnh náo nhiệt xung quanh.

Có người nhìn thấy nàng nhưng cũng có người không có thời gian chú ý đến nàng, Sở Kiều cứ như vậy lặng lẽ đi trên phố, không hề để tâm đến càng lúc càng có nhiều ánh mắt đang nhìn về phía mình. Nàng cứ đi mãi về phía trước, nhưng cuối cùng vẫn không rõ bản thân đến cùng là muốn đi đâu.

Nến trong đèn rốt cuộc cũng cháy gần hết, ánh đèn hai bên đường cũng mờ dần, Sở Kiều đi đến bên bờ hồ, cẩn thận thả chiếc đèn xuống trên mặt hồ, nước hồ làm ướt mép váy nhưng nàng vẫn không bận tâm. Hàng liễu buông rủ chạm qua mặt ngưa ngứa, gió nhẹ chợt nổi lên, vô số cành liễu đong đưa tựa như dây xích, uyển chuyển quấn lên bờ vai nàng.

Gia Cát Nguyệt, cả đời này của ta phải nợ ngươi rồi. Nếu như có thể, kiếp sau xin gặp nhau đúng lúc hơn.

Ngón tay trắng muốt khẽ đẩy, chiếc đèn hình thỏ bập bềnh trôi ra xa theo gợn sóng lan tỏa, cuối cùng hòa nhập với biển hoa đăng trôi nổi giữa hồ.

Sở Kiều đứng dậy, hai mắt vẫn chăm chú nhìn ra giữa hồ. Gió đêm thổi lên mặt nàng, sắc lạnh như tên nhọn vừa xẹt qua tim nàng. Xung quanh tràn ngập sắc màu nhưng ánh sáng trong tim nàng lại như ngọn đèn đang trôi ra xa kia, nến hết đèn sẽ tắt. Nàng đã quyết định tự tay bóp nát hy vọng kia, lặng lẽ bao phủ thế giới của mình bởi một màu xám.

Thế rồi đột nhiên, một gợn sóng to chợt đánh về phía chiếc đèn bé nhỏ, con thuyền hoa đầu rồng rẽ nước lướt qua, mái chèo đảo mạnh khiến sóng càng to. Chiếc đèn nhỏ chao đảo dữ dội, chuẩn bị chìm xuống nước.

Chẳng rõ vì sao, trái tim đã chết lặng của Sở Kiều lại đột nhiên căng thẳng, nàng không tự chủ tiến lên, hàng mày khẽ nhíu như đang lo lắng cho chiếc đèn nhỏ.

Cùng lúc đó, một hoa đăng lớn hơn chợt trôi đến, vừa vặn móc phải hoa đăng của Sở Kiều. Hai chiếc đèn quấn vào nhau, xoay tròn vài vòng, hoa đăng to hơn đã ngoài ý muốn che chắn phần lớn sóng nước cho hoa đăng nhỏ. Cuối cùng, cả hai chiếc cùng nhau trôi về một bờ hồ yên tĩnh hơn. Chiếc đèn lớn kia cũng là đèn hình thỏ, một lớn một nhỏ dựa vào nhau, nhìn vô cùng hài hòa. Có đèn lớn cản bớt gió, chiếc đèn nhỏ dường như sáng hơn, dịu dàng chiếu sáng bờ hồ yên ả.

Sở Kiều khẽ thở phào, tuy biết rằng đèn cuối cùng cũng phải tắt, nhưng có thể sáng thêm được một lúc vẫn tốt hơn.

Hàng mày vừa nhíu chậm rãi giãn ra, Sở Kiều nhẹ thở ra rồi lơ đãng nhìn sang bờ hồ bên kia, bất giác nhìn thấy một bóng dáng luôn xuất hiện trong tâm trí suốt hai năm qua...

Cả người như bị điện giật, Sở Kiều sững sờ đứng chết trân. Dường như nàng vừa nhìn thấy hắn, gió đêm vẫn mềm mại như năm đó, bóng dáng áo trắng tinh khôi, tóc đen như mực, môi đỏ tựa son, ánh mắt sâu thẳm chỉ lẳng lặng nhìn đã lấn át toàn bộ hàng ngàn hàng vạn ánh đèn trong thế giới của nàng.

Thuyền rồng lại lững lờ lướt ngang, xuyên qua màn lụa đỏ thẫm bay bay trong gió, bốn mắt như xuyên qua khoảng cách thiên sơn vạn thủy tìm lại nhau. Trong khoảnh khắc, thời gian như đảo lộn, hình ảnh trước mắt và trong hồi ức như hòa làm một, hư hư thực thực.

Hắn cũng đang lẳng lặng nhìn nàng, trong tay cũng đang cầm một thanh gỗ treo đèn như nàng. Ánh mắt sâu thẳm như xuyên thấu mọi vật, mọi vui buồn tan hợp tựa như là chuyện của kiếp trước, vượt qua mọi khó khăn cách trở, cuối cùng đến nơi này, đọng lại trên ngọn hoa đèn sáng rực rỡ kia.

Trong một khắc, phía sau hai người như chợt bốc lên hàng vạn cột khói lửa máu tanh, soi rõ ánh mắt đang giao nhau của bọn họ.

Sở Kiều nhìn hắn bằng ánh mắt mà hắn chưa từng nhìn thấy bao giờ, hắn thậm chí cũng không biết phải nên dùng từ ngữ gì hình dung mới đúng. Giống như người đi trên sa mạc nhìn thấy ảo ảnh, giống như đứa trẻ bị lạc tìm lại được quê hương, như không thể tin nhưng lại chẳng nỡ rời mắt, khao khát nhưng lại biết làm thế nào cũng không có được. Đó là hơn sáu trăm đêm mong đợi, thế rồi kỳ vọng ấy lại bị tia nắng mặt trời đầu tiên của ngày hôm sau dập tắt.

Nàng hé môi tựa như muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng vẫn không nói ra lời. Cánh môi hồng khẽ run rẩy, hé ra rồi lại mím chặt nhưng sau cùng lại cong lên thành một nụ cười rực rỡ. Ý cười còn chưa lan đến đáy mắt thì hai hàng nước mắt đã rơi xuống, thấm ướt đẫm khuôn mặt chứa chan tang thương xen lẫn mừng rỡ của nàng.

Thuyền rồng vừa tản đi, Sở Kiều đột nhiên nhấc chân chạy như điên về phía người mà nàng đã tránh né, từ chối cả đời. Trong lúc chạy, nàng bất giác không kìm nén được hoảng hốt trong lòng, sợ hãi đó chỉ là ảo ảnh tâm trí bản thân tạo ra mà thôi, chỉ cần đụng vào thì sẽ lập tức tan biến.

Thiếu nữ chạy cuống cuồng khiến người đi đường đều kỳ quái nhìn sang, nhưng nàng cũng không hề bận tâm. Vạt áo hồng nhạt tung bay theo mỗi bước chân, gió lướt qua hai tai, nàng chạy qua bờ hồ, xuyên qua rừng mai, băng qua cầu đá, vượt qua rặng liễu, lúc gần đến lại dừng chân thở hổn hển, cảm thấy tất cả như một giấc mộng phù hoa không chân thật khiến lòng người hoảng hốt.

Gia Cát Nguyệt vẫn chăm chú nhìn nàng, ánh mắt thanh tĩnh như bao lấy cả người nàng, ẩn chứa sự thương tiếc nhàn nhạt.

Một đám đông đột nhiên đi ngang qua giữa bọn họ.

Sở Kiều đột nhiên sợ hãi, không giống như khi đối diện với cái chết, không giống như khi lưu lạc bốn phương, mười mấy năm qua, chỉ duy nhất hai lần tâm trí kiên định của nàng xuất hiện cảm giác khủng hoảng như thế này. Lần đầu tiên là khi hắn chìm xuống hồ băng sâu thẳm, lần thứ hai, chính là bây giờ.

Nàng liều lĩnh chạy đến nắm chặt vạt áo hắn, mặc kệ đám đông chen lấn thế nào cũng không buông tay.

Trên tay chợt truyền đến cảm giác nóng ấm, bàn tay nàng vừa được ai đó nắm chặt.

Trong ánh đèn rực rỡ, nàng tiến đến gần hắn hơn. Hắn cũng dùng hai tay mình che chắn cho nàng một không gian an tĩnh. Hai bên chen chúc người qua người lại, nàng cách hắn rất gần, gần đến mức có thể cảm nhận được hơi thở của hắn. Ánh mắt đen nhánh của nàng nhìn hắn chăm chăm, tựa như muốn hằn sâu lên mặt hắn.

Nước mắt bắt đầu trào ra, nàng cố trấn tĩnh nhưng vẫn không nhịn được run rẩy giơ tay ra, tựa như muốn chạm lên mặt hắn.

Mày kiếm sắc bén, ánh mắt cao ngạo thanh tĩnh không vương khói lửa, lạnh lùng nhưng luôn dõi theo nàng, đôi môi luôn nói lời cay nghiệt không như biểu hiện cao ngạo hờ hững bề ngoài của hắn...

Đáp án nàng vẫn tìm kiếm ngay ở trước mắt nhưng nàng lại cảm thấy toàn thân vô lực, trước ngực thít chặt. Dưới chân đột nhiên mềm nhũn khiến nàng chợt chao đảo.

Hắn nhanh tay lẹ mắt đỡ eo nàng. Khoảnh khắc thân thể tiếp xúc, năm tháng tang thương như lại trôi qua trước mắt. Tiếng nấc bị đè nén rất lâu rốt cuộc bật khỏi môi Sở Kiều. Hắn siết nàng vào lòng, nước mắt của nàng rơi xuống trên ngực, xuyên qua lớp áo thấm ướt cả trái tim hắn.

"Sao lại gạt ta? Sao không đến gặp ta? Ta tưởng huynh đã chết..." Sở Kiều nghẹn ngào, toàn thân run rẩy từng hồi theo tiếng nức nở, không ngừng thổn thức, "Ta tưởng huynh đã chết..."

Gia Cát Nguyệt nhếch môi, vẫn không nói lời nào. Hắn đi ngàn dặm cũng không phải để mong gặp được nàng mà chỉ hy vọng có thể gần nàng hơn một chút.

Và cổ thành Hiền Dương chính là thành trì gần với Biện Đường nhất...

Đã mấy lần mở miệng nhưng vẫn không biết nên đối mặt với nàng như thế nào, tay chân cũng bất giác trở nên luống cuống, cuối cùng hắn áp chế hàng vạn hàng nghìn suy nghĩ phức tạp trong đầu xuống, nhẹ vỗ vỗ lên lưng nàng, lấy lại thần sắc bình thản vốn có, cố ra vẻ không kiên nhẫn nói: "Đừng khóc nữa, ta vẫn chưa chết."

"Chưa chết sao không biết đến tìm ta!" Sở Kiều đẩy hắn ra, nước mắt vẫn rơi lã chã, "Cũng không biết gửi thư sao?"

Ở trước mặt hắn, nàng chưa từng rơi lệ cũng chưa từng luống cuống như hiện giờ. Trong thoáng chốc, mọi hiểm nguy gian khổ đều chợt tan biến như mây khói, vô số lần tìm được đường sống trong chỗ chết suốt hai năm qua cũng trở nên không đáng kể.

Gia Cát Nguyệt bá đạo đưa tay ra gọi nàng: "Lại đây."

Sở Kiều quẹt nước mắt trên mặt, lần đầu tiên trong đời không muốn chống lại hắn, cả người nhào vào lòng hắn, vừa khóc vừa mắng: "Đồ điên này!"

Băng qua khoảng cách muôn sông nghìn núi cùng oán thù quốc gia, vượt qua ngăn trở của sống chết, khi bỗng nhiên quay đầu lại, người nọ đang đứng giữa ánh đèn mông lung. 


Chương 162: Còn sống thật tốt quá

Một đêm này Sở Kiều đã ngủ rất say, cả người như được ngâm trong nước ấm.

Trong lúc mơ màng, Sở Kiều như nhớ đến lúc còn ở chung ký túc xá sở tình báo với mấy người Tiểu Thi và Miêu Nhi. Sáng sớm có tuyết rơi nên nàng lười không muốn dậy. Tiểu Thi đưa bàn tay lạnh như băng vỗ vỗ lên mặt nàng ra hiệu đã đến lúc rời giường, nhưng nàng chỉ càu nhàu mấy tiếng rồi lại rúc vào trong chăn. Con nhóc Miêu Nhi xấu xa thấy vậy liền giật phăng chăn của nàng, sau đó đứng cạnh giường cười ha hả. Tiểu Hoàng thì đang ngồi trước bàn phấn, vừa trang điểm vừa bấm điện thoại gọi đồ ăn sáng.

Năm đó các nàng còn rất trẻ, ai cũng tươi tắn, tràn đầy sức sống như chú cá con vừa bơi ra đến biển lớn.

Ý thức dần quay lại, cảm nhận được trên mặt có khí lạnh, Sở Kiều chậm rãi mở mắt ra.

Nam nhân đang thong dong đứng trước mặt nàng, nhưng sắc mặt thì vô cùng quạu quọ, "Có biết đã là giờ nào rồi không?"

Trong một thoáng, Sở Kiều còn tưởng rằng mình hoa mắt, đầu óc vẫn còn lơ mơ chưa tỉnh ngủ nên mở to hai mắt nhìn hắn trân trân, đầu mày khẽ nhíu.

Dáng vẻ nghiêm túc kia của nàng khiến Gia Cát Nguyệt nuốt xuống mấy lời định nói. Hắn vừa xoay người định rời đi thì cảm giác vạt áo bị kéo căng, cúi đầu nhìn thì thấy một bàn tay nhỏ bé nắm chặt góc áo mình, dùng sức đến mức các đốt ngón tay đều trắng bệch.

Dần dần nhớ lại chuyện đêm qua, mặt Sở Kiều đột nhiên đỏ rực, nàng buông vạt áo hắn ra, ngồi bật dậy nhìn ra ngoài, nhất thời ngẩn ngơ, kinh ngạc hỏi: "Sao trời bên ngoài lại tối như vậy?"

Gia Cát Nguyệt phẫn nộ liếc nàng một cái rồi xoay người đi đến bên bàn thắp nến lên.

Còn dám hỏi hắn?

Tối hôm qua sau khi hai người chia tay, Gia Cát Nguyệt đã trở về chỗ của mình. Bởi vì lần này là âm thầm đến đây nên hắn không đến quan dịch mà chọn ngụ tại một trạch viện tư nhân. Hắn thức cả đêm không ngủ, chỉ một lòng chờ đến sáng ngày hôm sau, song đợi cả buổi mà chẳng thấy ai tìm đến cửa. Hắn ôm một bụng bực bội tự nhủ, không thèm đi tìm đấy, để xem ai đó có tới tìm mình trước hay không. Nhưng mãi đến khi mặt trời đã khuất núi mà trước cửa vẫn vắng tanh, hắn rốt cuộc không nhịn được, bỏ mặc tùy tùng một mình chạy đến đẩy cửa nhà nàng. Vừa vào phòng liền nhìn thấy nàng đang ôm gối say sưa trong mộng đẹp, còn hắn thì trằn trọc cả đêm, hỏi sao không muốn nổi điên?

Sở Kiều sao biết được tâm tư của ai đó, nàng dụi dụi mắt ngồi dậy, vuốt vuốt tóc rối trên trán, thần thái có hơi lúng túng, máy móc buột miệng hỏi: "Tới chi vậy?" Vừa dứt lời, trong phòng liền trở nên im ắng lạ thường.

Sở Kiều tự biết lỡ miệng, cúi đầu không lên tiếng.

Cả hai dường như cũng chẳng ai biết nên đối mặt ra sao với không khí ngượng ngập hiện tại, cũng không biết nên nói gì mới phải.

Trăng ngoài cửa sổ vừa tròn vừa sáng, phủ ánh bạc xuống khắp nơi khiến mặt đất như có một lớp tuyết mỏng mịn.

"Sao lại chạy đến Hiền Dương?" Gia Cát Nguyệt đột nhiên lên tiếng hỏi.

Sở Kiều hơi ngẩn ra, đáy lòng chợt có chút hoảng hốt. Những năm gần đây, nàng rất ít khi bối rối như thế này, dẫu phải đối mặt với đại quân đông nghìn nghịt của Đại Hạ thì nàng vẫn luôn hết sức trấn tĩnh. Nhưng khi đối mặt với hắn, sự bình thản thường lệ của nàng đều không cánh mà bay, trong lòng như có nai con nhảy loạn.

"Ta..." Sở Kiều ho khan một tiếng, ra vẻ thản nhiên nói: "Có chút chuyện phải làm."

"Ổn thỏa rồi?"

"Cũng... cũng gần xong."

"Thế bao giờ đi?"

"Một hai ngày nữa."

"Một hai ngày? Là ngày mai hay ngày kia?"

Sở Kiều đột nhiên quạu, sẵng giọng: "Ngày mai."

"Thế à?" Gia Cát Nguyệt gật đầu, ngồi xuống bàn rót nửa chén trà lạnh, nhưng chỉ cầm chén trà lắc lắc chứ không uống.

Sở Kiều nhướng mày nhìn hắn chằm chằm, hỏi: "Còn ngươi?"

"Ta? Ta thì sao?"

"Đến Hiền Dương làm gì? Bao giờ đi?"

Gia Cát Nguyệt cười nhạt, hai năm tôi luyện dường như đã khiến nam nhân này càng thêm gian xảo, hắn tỉnh rụi gật đầu đáp: "Tới du ngoạn, vài ngày nữa mới đi."

Dứt lời, hắn đứng dậy dợm bước ra ngoài, vừa đi vừa nói: "Nếu ngày mai phải đi rồi thì ta không quấy rầy nữa, nàng nghỉ ngơi cho tốt đi."

"Này!" Sở Kiều luống cuống đứng dậy, không tự chủ buột miệng kêu lên: "Đứng lại."

Gia Cát Nguyệt quay đầu lại, vô cùng bình tĩnh hỏi: "Còn chuyện gì sao?"

Người này nhất định là cố ý!

Đôi mắt đen to tròn của Sở Kiều nhìn Gia Cát Nguyệt chằm chằm, một hồi sau nàng hơi cúi đầu, nói giọng nhỏ như muỗi: "Thật ra thì ta cũng không phải vội đi cho lắm." Rồi như sợ ai đó hiểu lầm, vội vàng bồi thêm một câu: "Dù sao thì tạm thời cũng không có chuyện gì gấp phải về liền."

"Ra thế." Gia Cát Nguyệt gật gù, cầm lấy ngoại bào đưa cho Sở Kiều, ý tứ thâm sâu nở một nụ cười, "Mau rửa mặt, hôm nay là đêm Trung Nguyên, sẽ náo nhiệt hơn cả hôm qua."

Không rõ có phải thật như Gia Cát Nguyệt nói hay do tâm tình thay đổi mà Sở Kiều quả thực thấy phố xá đêm nay tấp nập hơn tối qua rất nhiều.

Hoa thơm nở rộ bốn phía, cây cành đong đưa, hai bên hồ thoang thoảng gió mát trong lành khiến tinh thần người đi dạo vô cùng sảng khoái, số nhóm tạp kỹ biễu diễn cũng nhiều hơn đêm qua. Trên đường gặp phải một đứa bé ăn mày, Sở Kiều mủi lòng móc ra mười lá vàng cho cậu. Cậu bé cầm lấy mà ngây người, nếu chi tiêu tiết kiệm thì số tiền này đủ cho một nhà bình thường sống đến hơn mười năm.

Gia Cát Nguyệt đi bên cạnh buột miệng cảm thán: "Ra tay thực hào phóng."

Sở Kiều quay lại trừng mắt với hắn một cái rồi giễu cợt: "Không giống mấy kẻ càng giàu càng keo kiệt, bổn cô nương vốn có lòng thương người."

Mặc dù biết rõ người trong lời nàng là chỉ mình, nhưng Gia Cát Nguyệt nghe nói lại thấy tâm tình khoan khoái.

Lòng thương người à? Như thế nào mới gọi là có lòng thương người?

Nam nhân có tính ganh đua nào đó thong thả tiến lên, thong thả móc ra một tấm ngân phiếu, trên ngân phiếu có đóng dấu của tiền trang tư nhân Thần Nguyệt, giấy trắng mực đen ghi rõ hai trăm lượng vàng.

"Chớ làm ăn mày nữa, mua một trang viên làm viên ngoại đi." Dứt lời thì nghênh ngang rời đi trong ánh mắt kinh hãi của Sở Kiều và đứa bé ăn mày.

Sở Kiều vội vã đuổi theo sau, nghi ngờ đánh giá hắn từ trên xuống dưới một lượt.

Gia Cát Nguyệt trừng mắt nhìn nàng, "Nhìn cái gì?"

"Không ngờ ngươi cũng có lúc lương tâm lên tiếng, sao hả, tiền nhiều quá nên ngứa tay à?"

Gia Cát Nguyệt khẽ hừ, "Chuyện nàng không ngờ còn nhiều lắm."

Đi thêm được hai bước, bụng Sở Kiều bắt đầu phát tiếng biểu tình, cũng khó trách, nàng đã không ăn gì cả ngày nay.

Gia Cát Nguyệt dường như rất thông thuộc nơi này, liệt kê một hơi tên mấy tửu lầu tiệm ăn nổi tiếng ở Hiền Dương. Chẳng ngờ Sở Kiều lại thuận chân tạt vào một quán nhỏ ven đường.

Nam nhân yêu cầu cao nào đó dĩ nhiên không tình nguyện, nhưng chưa kịp lên tiếng phản đối thì Sở Kiều đã ngồi xuống. Tiểu nhị ân cần chạy lại, nàng gọi một lèo hai bát mì hành*, nửa cân thịt bò, một đĩa lạc, gọi luôn một bình rượu có cái tên vô cùng thanh nhã là Lục Nguyệt Tây Sương do tiểu nhị giới thiệu.

Gia Cát Nguyệt kỳ quái liếc nàng, hỏi: "Chẳng phải không uống rượu sao?"

Động tác so đũa của Sở Kiều hơi khựng lại, ngay sau đó mỉm cười nói: "Trước kia sợ uống rượu sẽ làm hỏng việc, hiện giờ chỉ có một mình nhàn rỗi, không cần chú ý nhiều như vậy nữa."

Gia Cát Nguyệt nhướng mày, vươn tay lấy ly rượu bên tay nàng, trầm giọng nói: "Đừng uống."

Sở Kiều cũng không cố chấp, thẳng sống lưng lên, nhỏ giọng lầm bầm: "Bày đặt giả vờ."

Tiểu nhị nhanh chóng bưng thức ăn lên, chất rượu không được trong lắm, nếm thử thì thấy quả nhiên cũng không ngon lành gì, có lẽ đặt cái tên văn vẻ để lừa người ngoại đạo mà thôi. Thức ăn cũng vậy, rất bình thường, được cái khẩu phần rất rộng rãi. Sở Kiều đói meo đói mốc nhưng cũng chỉ ăn được nửa bát liền ăn hết nổi.

Hai người đứng dậy, nhìn thấy bên cạnh có một đám nhóc ăn mày mặt mũi lem luốc đang trông mong ngó chừng nửa bát mì còn dư, nước miếng cũng sắp nhễu ra.

Gia Cát Nguyệt quay lại ném cho chủ quán một nén bạc, nói: "Cho bọn chúng mỗi người một bát."

Chủ quán lập tức vui vẻ đáp ứng, Sở Kiều nghi ngờ nhìn hắn, hỏi: "Giả trang Bồ Tát thành nghiện luôn rồi à?"

Một bé trai khoảng mười hai mười ba tuổi thấy hai người bọn họ y phục sang quý, ra tay rộng rãi, bộ dáng thoạt nhìn cũng dễ nói chuyện thì tươi cười xán về phía Gia Cát Nguyệt, "Xin đại lão gia hào phóng thưởng cho ít rượu uống thử."

Gia Cát Nguyệt có chút hứng thú liếc cậu bé, quay đầu cho chủ quán thêm ít tiền rồi nói: "Cho nó một vò, không được pha thêm nước. Nếu nó uống không xong thì bữa cơm này coi như không phải do ta mời. Ngươi cứ trực tiếp đánh cho một trận rồi giải nó đi gặp quan."

Thằng bé biết có rượu uống thử thì hết sức phấn khởi, hớn hở đi theo chủ quán.

Sở Kiều chắc lưỡi, "Thằng bé còn nhỏ như vậy, làm sao uống hết một vò?"

"Không cho thử thì vĩnh viễn nó cũng không biết đó là cái gì." Gia Cát Nguyệt thản nhiên nói: "Ăn quả đắng một lần thì sau này mới nhớ lâu."

Sở Kiều nghe đáp thì hơi sửng sốt, bước chân lỡ mất một nhịp nên rơi lại phía sau hắn. Gia Cát Nguyệt đi hai bước không thấy nàng đi theo thì quay đầu lại, cau mày hỏi: "Đi thôi, còn nghĩ cái gì thế?"

Sở Kiều thoáng bần thần rồi vội vàng cất bước đuổi theo.

Ăn quả đắng một lần thì sau này mới nhớ lâu.

Gia Cát Nguyệt, ngươi đã bao nhiêu lần ăn quả đắng rồi? Vì sao vẫn không nhớ?

Đang suy nghĩ thì trên má đột nhiên truyền đến cảm giác rát bỏng, kèm theo đó là tiếng pháo nổ bụp ngay sát trên đỉnh đầu, Sở Kiều giật mình, đang định ngẩng lên nhìn thì cả người đã bị kéo mạnh sang một bên.

Gia Cát Nguyệt chỉ kéo một cái đã lưu loát ôm ai đó vào lòng, dưới chân cũng lùi lại mấy bước, hai mắt khẽ híp, mặt lộ vẻ tức giận, "Sao rồi? Có bị thương không?"

Sở Kiều ngẩng đầu lên nhìn, thì ra là tầng hai của tửu lâu bên đường vừa đốt pháo trúc mà không chú ý có người đi lại bên dưới hay không. Ngoài nàng ra thì có mấy người khác cũng bị vạ lây, đứng dưới lầu mắng mỏ om sòm, nhưng đều bị tiếng pháo lấn át.

Gia Cát Nguyệt kéo cánh tay đang ôm một bên mặt của Sở Kiều xuống, nhìn thấy phần da hơi đỏ hồng thì không khỏi sầm mặt.

"Không sao, cũng không đau." Sở Kiều không quen bị nhìn chăm chú như vậy, hơi dùng sức muốn rút bàn tay bị hắn nắm ra nhưng ai đó vẫn nắm chặt không suy suyển, mạnh đến nỗi nàng như có thể cảm nhận được vết chai trên lòng bàn tay nóng ấm của hắn.

"Thật sự không sao mà." Nàng lúng túng nói: "Không có bị thương."

"Nữ nhân coi trọng dung mạo của mình biết bao nhiêu, còn nàng thì lại không thèm để ý." Gia Cát Nguyệt không mặn không nhạt nói một câu, giọng điệu nghe thật muốn đánh nhưng Sở Kiều cũng biết được hắn là có ý tốt.

Có điều, nàng còn chưa kịp so đo thì lại nghe thấy hắn bồi thêm một câu, "Bất quá khuôn mặt này của nàng, có bị đốt hỏng thì cũng chả có gì khác biệt."

Sở Kiều sửng sốt, người này nói chưa được ba câu thì bệnh độc miệng lại tái phát rồi, thế là bắt đầu trả đũa, "Biết chỉ có ngươi là đẹp rồi."

Không ngờ Gia Cát Nguyệt lại làm vẻ mặt 'dĩ nhiên rồi', sau đó liền xoay người đi đến tửu lâu kia. Sở Kiều còn đang lo lắng không biết cái tên thù dai này có đi đánh nhau với người ta vì chuyện cỏn con này không thì lại thấy hắn quay trở về sau khi đứng ngó tửu lâu một hồi. Nàng tiến lên mấy bước, hỏi: "Ngươi qua đó làm gì vậy?"

"Ghi nhớ tên."

Sở Kiều chắc lưỡi, "Đúng là đồ dễ ghi thù!"

Gia Cát Nguyệt nhướng mày, "Nghĩ đi đâu vậy? Ta ngửi mùi rượu của tửu lâu này rất thơm nên chỉ định mai đến dùng cơm mà thôi."

Sở Kiều một bụng buồn bực, trước kia không phải thế này, sao bây giờ lần nào nói chuyện cũng là nàng ở thế hạ phong? Nàng cau có đi theo sau mà không nhìn thấy khóe mắt nam nhân phía trước chậm rãi dâng lên vẻ đắc ý.

Gió đêm thanh tĩnh, thỉnh thoảng có hàng rong hai bên đường tiến lên chào mời, thậm chí đi được vài đoạn lại có bé gái bán hoa chạy lại luôn miệng khen ngợi Sở Kiều xinh đẹp, thuyết phục Gia Cát Nguyệt mua hoa tặng vợ.

Gia Cát Nguyệt bình thản nhận hết mọi hiểu lầm, bình thản mua hết ba lẵng hoa rồi dúi cả cho Sở Kiều cầm, một mình hắn thoải mái đi lại ở phía trước, để Sở Kiều tay xách nách mang lò dò đi theo sau như một tiểu nha hoàn. Người trên phố đi ngang đều không khỏi liếc nhìn hai người một cái, dần dần mấy đứa bé bán hoa đều không tiếp cận bọn họ nữa. Thế là sau một hồi, Sở Kiều đã từ địa vị thê tử rớt xuống thành người hầu rồi. Thi thoảng có tiếng nghị luận của người xung quanh vọng vào tai nàng, "Xem kìa, vị công tử kia thật là tuấn tú, ngay cả nha hoàn tùy thân cũng xinh xắn như vậy."

Sở Kiều ảo não cau mày, nàng rất giống nha hoàn sao? Đã hơn mười năm rồi, sao vẫn còn như nha hoàn của hắn?

Bên hồ gió hơi mạnh hơn, hai người đi dọc theo bờ hồ, nơi này khá yên tĩnh, không có ai khác. Bước chân hai người càng lúc càng chậm nhưng không ai mở miệng nói tiếng nào, tựa như không đành lòng phá tan không khí thanh tĩnh khó có được này. Từ tối qua đến giờ, bọn họ không ai đề cập đến chuyện của hai năm vừa qua. Vận mạng đột nhiên để bọn họ trùng phùng tại đây, cách xa Đại Hạ, cách xa Bắc Yến, không có quyền mưu tranh đấu, không có ngươi lừa ta gạt, được bao bọc bởi cuộc sống bình yên an nhàn của người dân nơi này, ngay cả không khí như cũng trong lành hơn nơi khác, tinh thần hai người như được thả lỏng, không ai muốn nhắc đến những chuyện máu tanh mưu mô kia cả.

Trên mặt hồ thoang thoảng gió nhẹ khiến bóng trăng khẽ lung lay rồi vỡ ra thành từng mảnh nhỏ.

Bất tri bất giác, hai người đã đi đến dưới gốc cổ thụ kia. Gia Cát Nguyệt không tự chủ dừng bước, ngước lên nhìn tán cây xòe rộng, thời gian hai năm dần dần lướt qua trong đầu, cuối cùng đọng lại trong khoảnh khắc này.

Sở Kiều nhìn bóng dáng cao lớn tuấn tú trước mặt, cảm thấy vẻ cao ngạo lạnh lùng đầu mày vốn có của hắn đã biến mất, thay vào đó là sự bình thản thong dong, thế nhưng nhìn kỹ lại thì vẫn có thể nhận ra chút tang thương ẩn hiện nơi đáy mắt.

Thoát khỏi tuyệt cảnh, bị đất nước quay lưng, bị gia tộc vứt bỏ, bất đắc dĩ thân mang tiếng xấu, chỉ trong hai năm xây dựng được cơ nghiệp đồ sộ, có thể nào chỉ gói gọn trong một câu 'Ta vẫn chưa chết' như vậy?

Mấy hôm nay, nàng cũng dần dần được nghe kể lại hết chuyện ngày đó.

Sau khi Sở Kiều theo Lý Sách đến Biện Đường, Đại Hạ từng bảy lần gửi thư yêu cầu Lý Sách giao nàng ra. Yến Tuân cũng mài đao soàn soạt lĩnh binh đến Biện Đường, ở biên cảnh Tây Bắc giáp với Biện Đường đã đánh hết mấy trận. Cuối cùng Ngụy Quang tự mình ra mặt, dẫn Tây Nam quân mới thành lập đến Biện Đường gây áp lực cho Lý Sách. Cho dù khắp thiên hạ ai cũng biết Đại Hạ hiện tại không dám chính thức động binh với Biện Đường, nhưng nội bộ triều đình Biện Đường lại hết sức bất mãn với hành động này của Lý Sách, thậm chí có người còn mấy lần định xông vào cung bắt ả họa thủy là Sở Kiều đem giao nộp cho rảnh nợ.

Khi đó Lý Sách tuy có thể cứng rắn bảo vệ Sở Kiều, nhưng lại tuyệt không thể bảo hộ Tú lệ quân, trừ phi Biện Đường muốn quyết liệt ra mặt với Đại Hạ.

Ngay lúc ấy, Thanh Hải vương ở ngoại cảnh đại lục lại đột nhiên tiếp cận biên giới Đại Hạ, phái sứ giả đi thông báo xin dâng lãnh thổ tám nghìn dặm của mình sáp nhập vào bản đồ Đại Hạ. Đến đây, người tài trong thiên hạ mới biết được, thì ra Thanh Hải vương danh chấn đại lục chính là Tứ thiếu gia của Gia Cát gia đã bỏ mình ở Bắc Yến hai năm trước – Gia Cát Nguyệt.

Chuyện sau đó liền dễ đoán, Gia Cát Nguyệt trở lại đế đô, bằng thế lực quân sự mạnh mẽ của mình và sự ủng hộ của Gia Cát gia dễ dàng áp đảo Ngụy Quang, thay thế vị trí đứng đầu hội trưởng lão của ông ta, trở thành tân Đại Tư Mã của Đại Hạ rồi thản nhiên dẹp sách lược áp lực với Biện Đường sang một bên.

Sở Kiều thật sự không muốn nghĩ xem bên dưới đề tài buôn chuyện đầu phố này đã ẩn chứa bao nhiêu gió tanh mưa máu. Hai người bọn họ đều là người sống sót từ trong biển máu, biết được biển này nông sâu thế nào, ngoài mặt nhìn gió êm sóng lặng nhưng bên dưới kịch liệt sóng gió ra sao.

Mặt hồ đầy những ngọn hoa đăng sắp tắt đang cố cháy bùng lên lần cuối, Sở Kiều ngẩng đầu lên nhìn Gia Cát Nguyệt, đáy mắt thoáng ẩn hiện vẻ chua xót, trầm giọng nói: "Nghe nói mỗi gốc tùng đều có thần linh cư ngụ, cây có tuổi thọ càng cao thì càng hiển linh, chỉ cần dâng tặng vật tùy thân mình quý nhất thì có thể cầu phúc cho người nhà, xin cho bằng hữu được bình an, không biết có phải đúng như vậy hay không."

Gia Cát Nguyệt vẫn lẳng lặng đứng yên, không nói gì.

"Ngươi có tin không?" Sở Kiều thấp giọng hỏi.

Gia Cát Nguyệt chậm rãi nheo mắt lại, từ tốn nói: "Không tin."

Sở Kiều nhìn hắn, khẽ nhếch môi mỉm một nụ cười không rõ là vui hay buồn. Không tin thật à?

Nàng giơ tay lên, năm ngón tay dài trắng nõn chậm rãi mở ra, ánh mắt chợt lấp lánh như sao trời, khóe môi hơi cong lên, nhẹ giọng hỏi: "Thật sự không tin sao?"

Gia Cát Nguyệt cúi đầu, vừa liếc qua liền nhìn thấy hai khối ngọc bội trắng muốt kia, năm tháng trong quá khứ lại xẹt qua trong đầu khiến cả người hắn như bị đóng đinh ngay tại chỗ.

"Gia Cát Nguyệt, ta vốn cho rằng đã không còn cơ hội nữa." Sở Kiều cười dịu dàng, hai mắt cong cong, khóe mắt như có lệ vương, cánh môi hơi run run, "Ta vốn cho rằng cả đời này không còn cơ hội hoàn trả ân tình cho ngươi nữa."

Trong bóng đêm thâm trầm, bóng dáng Gia Cát Nguyệt đột nhiên tỏa ra áp lực khiến người khác hít thở không thông. Hắn nhìn nàng một cách chăm chú, đôi con ngươi đen nhánh trở nên sâu không lường được. Không nói một lời, hắn cứ như vậy nhìn nàng, tựa như muốn xuyên qua nàng tìm tòi cái gì đó.

Rồi đột nhiên, hắn nặng nề thở ra một cái thật dài, đưa hai tay nắm lấy hai đầu vai nàng, lẳng lặng buông ra một câu: "Ai cần nàng trả?"

Nước mắt Sở Kiều rốt cuộc cũng trào ra, nàng rúc vào trong ngực hắn, trong đầu có vô vàn lời không biết phải nói thế nào. Sở Kiều lặng lẽ nhắm mắt lại, cảm nhận mùi hương quen thuộc trên người hắn mơ hồ quanh quẩn ở đầu chóp mũi, ấm áp dịu dàng bao phủ toàn thân nàng. Gió đêm lãng đãng phả lên người bọn họ, xa xa là tiếng người huyên náo, lần đầu tiên trong đời, Sở Kiều cảm thấy bầu không khí vui vẻ kia lại gần mình như vậy, gần như trong gang tấc, chỉ cần hít thở là có thể cảm nhận được.

"Gia Cát Nguyệt," Sở Kiều đột nhiên ngẩng đầu lên, cong môi cười với hắn mà mặt vẫn chan hòa nước mắt, "Còn sống thật tốt quá."

Gia Cát Nguyệt nghe thấy thì thoáng xót xa, trên đời này không còn ai có thể hiểu rõ bốn chữ này hơn hai người bọn họ nữa. Hắn dịu dàng cúi đầu hôn lên trán nàng, thì thầm lặp lại: "Ừm, cảm giác còn sống thật tốt."

Xa xa thấp thoáng ánh đèn, năm mới đã rất gần, thành Hiền Dương năm nay, tất cả như vừa được đổi mới.


Chương 163: Giấc mộng kê vàng*

*Trích từ điển cố trong truyện "Chẩm Trung Ký" thời Đường kể chuyện một chàng trai gặp một đạo sĩ trong một quán trọ. Đạo sĩ cho chàng trai một chiếc gối bảo ngủ đi. Bấy giờ chủ quán đang nấu một nồi cơm kê vàng, chàng trai nằm mộng thấy mình được làm quan, hưởng phú quý, nhưng khi tỉnh dậy, cơm kê vàng vẫn chưa chín, sau ví với sự vỡ mộng.

Đầu tháng giêng là dạ yến mừng xuân, điện Tử Tiêu rợp trong ánh đèn, sơn hào hải vị bày khắp nơi, vạt váy của vũ cơ tung bay như mây.

Triệu Dương mặc y phục gấm đen tuyền thêu hình rồng bằng chỉ vàng, vạt áo còn ẩn hiện hoa văn nhật nguyệt bằng chỉ ngũ sắc, đầu đội cao quan* bằng vàng có chín tua ngọc, tư thái oai hùng, mày kiếm dài tận tóc mai, mỉm cười ngồi ở vị trí cao nhất bên trái đế vị, ung dung khoản đãi văn võ bá quan cả triều.

*Cao quan có chín tua ngọc


Hôm nay chính là xuân yến của Đại Hạ. Cho dù bên ngoài trời đông giá rét tràn ngập bão tuyết, chiến sự ở Tây Bắc vẫn còn tiếp diễn, dị tộc ở Đông Bắc lại có động thái đòi độc lập, mùa màng thất thu, lũ lụt khắp nơi, văn võ trên triều không ngừng ngấm ngầm công kích nhau, thì sự xa hoa ở triều đình Đại Hạ vẫn không suy giảm, đèn đuốc vẫn sáng choang, rượu ngon thịt thơm vẫn tràn ngập, mỹ nhân yến anh vẫn dập dìu. Thủ lĩnh các đại khu ở Bạch Chỉ, Tây Liêu, Triều Qua, Diêu Huyện, Bắc Hải, Đông Kim, cùng với phiên vương các nơi, tướng soái trong triều, gia chủ các thế gia, nhân ngày lễ, vua thần tụ tập ở một nơi tạo ra khung cảnh 'mưa thuận gió hòa'.

Hôm nay không ai muốn đề cập đến chuyện chiến sự đáng phiền cùng đấu tranh mưu quyền kia, rượu vào thì gan cũng to ra, kẻ địch ngày thường cũng bá cổ quàng vai ngồi với nhau, vui đùa mỹ nhân như hoa như ngọc trong lòng, đội vũ cơ trên đại điện ra sức ca múa vũ khúc mừng thái bình. Văn võ quý tộc thỉnh thoảng lại quay về phía vương vị giơ cao ly rượu, không phải kính chủ vị mà là kính vị Thập tứ hoàng tử còn trẻ mà đã cầm trọng quyền kia.

Nếu ba năm trước đây, có lẽ không ai ngờ sẽ có một ngày như thế này, kể cả lão cáo già tự cho bản thân có ánh mắt sắc bén là Ngụy Quang cũng không ngờ được, thiếu niên khi xưa còn vẫy vùng trong vũng bùn chỉ trong ba năm ngắn ngủi đã một bước lên trời, đường hoàng ngồi lên vị trí này.

Nhưng cũng khó trách, hiện tại hoàng thất Đại Hạ tàn lụi, Triệu Tề và Triệu Giác đã chết, Triệu Triệt bị lưu đày, Triệu Tung trở thành người tàn phế, duy chỉ còn lại vị Thập tứ hoàng tử này có thể gánh vác giang sơn Đại Hạ, cho nên cả Ngụy phiệt cũng đành quỳ gối dưới chân Triệu Dương, toàn tâm toàn ý phụ tá hắn thượng vị.

Thủ lĩnh Triều Qua tiến lên mời rượu Triệu Dương đang ngồi trên cao, Triệu Dương lạnh nhạt nâng chén, khẽ gật đầu rồi uống cạn chén. Gã tướng lĩnh trấn giữ Triều Qua lại huyên thuyên bày tỏ kính ý và lòng trung một hồi, cuối cùng nhận được một cái gật đầu nhẹ bâng của Triệu Dương mới hớn hở quay về chỗ ngồi.

Trong ánh nến lung linh, một đám vũ cơ mới bước lên đại điện, tay áo giơ cao, vòng eo mềm mại uyển chuyển như rắn, nhất thời thu hút sự chú ý của đám đông.

Triệu Dương âm thầm cong khóe môi nở một nụ cười rất nhạt, không dễ nhận ra.

Hắn còn nhớ rất rõ gã tướng kia, bốn năm trước, cũng ngay trên đại điện này, khi đó bởi vì địa vị thấp, hắn được sắp ngồi phía dưới, trên đường đi mời rượu Triệu Tề, gã tướng kia đã bất cẩn giẫm lên áo choàng của hắn khiến rượu trong chén sánh ra ngoài, bắn đầy người hắn. Nhưng gã tướng kia cũng chỉ nhướng mày nhìn hắn, sau đó khinh thường hừ lạnh một tiếng rồi phủi tay bỏ đi.

Sau bốn năm, thái độ của gã tướng này lại thay đổi nhiều như vậy, vô cùng lễ độ và khách khí.

Đúng là nhân sinh thay đổi, người xung quanh cũng thay đổi theo.

Triệu Dương hơi quay đầu, liếc khóe mắt về phía vương vị thoáng ẩn thoáng hiện trong ánh nến kia. Hắn nhìn hồi lâu, thần sắc dần dần trở nên mông lung, hiện tại hắn đang ngồi ở đây, tầm mắt bao quát cả đại điện, tiếng ca tụng tràn ngập bên tai, đột nhiên cảm thấy, vị trí từng cách hắn rất xa lại gần như vậy, chỉ giơ tay là có thể chạm đến. Nhưng khi điệu vũ vừa ngừng, hắn lại quyết đoán quay đầu đi, vẻ mông lung trên mặt tan biến, lấy lại thần sắc khi nãy.

Ánh trăng bên ngoài rải lên thềm cửa đại điện, gió nhẹ thổi khiến góc rèm lụa đung đưa, một thị vệ đột nhiên khịt khịt mũi, quay sang hỏi thị vệ bên cạnh: "Sao tự nhiên lại có mùi khói nhỉ?"

Thị vệ kia cũng hít hít mấy cái, nhưng lại lắc đầu, "Ngươi bị ảo giác à?"

"Nhầm rồi sao?" Thị vệ không dám thắc mắc nữa, nơi này là nội viện hoàng gia, lại đang có xuân yến, ai dám cả gan đốt lửa ở gần đây chứ?

Ánh trăng xuyên qua đại điện, theo gió luồn vào cửa cung thâm sâu, tổ miếu quanh năm bị khóa hiện đang bốc lên một cột khói, tro nhang đốt để tiễn năm cũ vừa bị cuốn lên cao liền bị gió lạnh xé tan thành từng mảnh nhỏ.

Sâu trong đại điện mờ tối, đế vị đúc bằng bảo thạch cẩn minh châu lấp lánh, tựa như xua tan vẻ tĩnh mịch chết chóc, thế nhưng lại không ngăn được tầng tro bụi vất vưởng như oan hồn bất tán xung quanh.

Người hiện giờ vốn nên có mặt trên điện Tử Tiêu, hoàng đế Triệu Chính Đức lại đang ngồi một mình trong tổ miếu vắng lặng, đối điện ông là một linh đường nguy nga lộng lẫy, trên linh đường bày chi chít linh vị, cao đến tận nóc, như muôn vàn đôi mắt đang lẳng lặng nhìn ông. Năm tháng trôi qua, gió lạnh luồn qua linh vị, phát ra âm thanh u u như tiếng nói từ hoàng tuyền.

Một tiếng *keng* giòn tan đột nhiên vang lên phá vỡ sự im lặng trong điện, cái chén lưu ly trong tay hoàng đế vừa rơi xuống trên mặt đất, vỡ vụn thành bảy tám mảnh, chất rượu nho đỏ tươi chảy tràn ra, tỏa ra hương thơm ngọt ngào.

Âm thanh đó đã đánh thức vị hoàng đế đang dựa vào ghế ngủ say, ông mơ hồ mở mắt ra, khóe môi nhăn nheo mỉm một nụ cười rồi nhẹ giọng nói: "Lại đến quấy trẫm nữa rồi."

Ngữ khí rất dịu dàng, thậm chí còn mang theo ý cười, nhưng ở trong hoàn cảnh hiện tại lại vô cùng quỷ dị và lạnh lẽo. Tiểu thái giám khẽ run một cái, cẩn thận liếc mắt nhìn vào bên trong, nhưng liền bị lão thái giám đạp mạnh một cước, "Cút ra ngoài đi."

Tiểu thái giám vội vàng quỳ sụp xuống, sợ đến mức không dám thở mạnh, sau đó lập tức bò ra ngoài.

Lão thái giám bưng bình rượu lên, chậm rãi đi đến cạnh vương vị rót đầy một chén khác cho hoàng đế, dùng giọng nhỏ nhẹ đặc trưng của thái giám nói: "Hoàng thượng, hoàng hậu nương nương lại đến đùa với ngài nữa sao?"

"Ừ." Hoàng đế quay đầu lại cười nói: "Ngươi cũng biết rồi đấy, nàng là chúa thích quậy phá, tính tình tùy hứng như vậy, làm gì có chút phong phạm mẫu nghi chứ?"

Lão thái giám cũng không cười, chỉ đều giọng trả lời: "Hoàng thượng nói vậy, để hoàng hậu nương nương nghe được lại giận dỗi đấy."

Hoàng đế cười to, sau đó đổi tư thế ngồi thoải mái hơn, tựa lưng vào long ỷ to rộng, nhẹ nhàng nói: "Ta đi xem nàng có dỗi không." Nói xong lại nhắm mắt lại.

Mấy năm nay hoàng cung không ngừng có thay đổi lớn, Mục Hợp hoàng hậu đã qua đời từ lâu nhưng hậu vị vẫn còn để trống, mà trước Mục Hợp hoàng hậu, hoàng đế từng sắc phong mấy vị khác, cũng chẳng rõ 'nàng' trong lời ông là chỉ ai.

Lão thái giám cúi đầu, mặc kệ mảnh chén vỡ đầy đất mà chỉ nhặt một cọng cỏ rất nhỏ bị lẫn trong rượu lên, cẩn thận bỏ vào một chiếc hộp bằng vàng rồi lui vào đứng trong góc, sắc áo đen tuyền như hòa làm một với bóng đêm.

Giờ lành đã đến, chúng cung nhân lũ lượt xuyên qua cửa cung lần lượt thắp sáng toàn bộ nến trong cung, thoáng cái đã xóa tan vẻ tăm tối tịch mịch của thâm cung, khiến tòa cung điện trở nên rực rỡ như một viên minh châu. Tiếng cười nói náo nhiệt cùng tiếng chúc tụng hoàng đế lan truyền như sóng biển, hòa tan trong tiếng chuông ngân nga, hàng nghìn bá quan văn võ xếp thành hàng dài, từ bên trong điện Tử Tiêu kéo ra tận cổng cung, câu tung hô 'vạn thọ vô cương' chấn động cả bầu trời hoàng thành. Có bóng chim đen đột nhiên xẹt qua, một thị vệ trẻ tuổi vô tâm buột miệng kêu 'quạ đen kìa', liền lập tức bị trưởng thị vệ bên cạnh đá một cước, "Đồ ngu! Đó là hỉ thước*!"

*Hỉ thước = chim khách, người xưa cho rằng chim khách báo tin vui

Thành Chân Hoàng hôm đó vừa nổi bão tuyết mịt mù, trong mơ màng, hoàng đế khẽ nhíu mày, nhẹ giọng nói: "An Phúc, ai ầm ĩ bên ngoài vậy, bảo bọn họ nhỏ tiếng một chút."

Lão thái giám đứng trong tối nhỏ giọng đáp: "Hoàng thượng, đó là chúng đại thần ở điện Tử Tiêu thỉnh an ngài đấy."

"Thỉnh an phụ hoàng à?" Hoàng đế như đã uống say, lẩm bẩm, "Nói với Thế Thành, tan tiệc thì chờ ta một lát."

Lão thái giám gật đầu, "Dạ."

Đó là chuyện rất nhiều năm trước, cụ thể là bao nhiêu năm thì cả hoàng đế cũng đã quên.

Năm đó hoàng đế còn chưa phải là hoàng đế, chỉ là một vị hoàng tử không được sủng ái, có mẹ là một mỹ nhân từ Thanh Khâu đưa đến. Sau hai lần sinh nở, mỹ nhân kia dường như liền bị trượng phu quên lãng, ông và mẫu thân cùng nhau lặng lẽ sống qua ngày, tự sinh tự diệt không ai buồn để tâm, cho nên phụ hoàng thậm chí còn quên mất việc ban tên chữ cho ông.

Đến khi ông được bảy tuổi, cần phải nhập học thì hoàng gia mới rốt cuộc nhớ tới sự hiện hữu của ông. Ông nhớ rõ, lúc tổng quản thái giám đến báo cho phụ hoàng, phụ hoàng đang ngủ trưa trong tẩm cung với Hoa phi, người được sủng ái nhất bấy giờ, ông và mẫu thân cũng chỉ có thể quỳ trên sàn đá lạnh như băng trong điện chờ, quỳ gần hai tiếng phụ hoàng mới tỉnh lại. Phụ hoàng nằm trong vòng tay trắng như tuyết, mịn như ngọc của Hoa phi, hơi nhíu mày nhìn đôi mẫu tử xa lạ bên ngoài màn lụa tựa như đang cố hồi tưởng đến dáng vẻ của bọn họ, cuối cùng chỉ mỉm cười buông một câu: "Cứ dùng một chữ 'Húc*' đi."

*Húc (煦) có nghĩa là ấm áp

Mẫu thân qua đời, sáng sớm ngày thứ hai phát hiện thì thân thể đã cứng ngắc. Ông mặc chiếc áo mỏng manh đứng ở hành lang nhìn mẫu thân bị cuốn trong một tấm vải trắng mang ra ngoài, gió buổi sáng hơi lạnh, tốc tấm vải lên để lộ vầng trán của mẫu thân, trắng bệch như giấy tuyên thành thượng hạng.

Ông quay đầu đi, nước mắt lăn dài trên khuôn mặt nhỏ bé, chảy xuống cổ lành lạnh. Ông vội vàng lau nước mắt, mẫu thân tuy có công sinh thành nhưng bởi vì thân phận thấp kém nên không có phân vị, không được tính là mẫu phi của ông, trên gia phả hoàng thất, mẫu phi của ông chính là hoàng hậu ở cung Chiêu Dương, không phải người phụ nữ vừa chết kia, ông không được đau lòng.

Sau đó ông được dẫn đến cung Chiêu Dương, ba con trai của hoàng hậu đều đã xuất cung lập phủ riêng rồi nên ông mới có cơ hội được hoàng hậu nuôi dưỡng. Đám cung nhân trước kia coi thường ông đều ríu rít chúc mừng, nói cái gì đã sớm nhìn ra điện hạ là rồng trong biển người, đại phú đại quý, hiện tại đến lúc lột xác lên trời, thật sự là một chuyện mừng, phải vui vẻ lên.

Trong tiếng chúc mừng của mọi người, trên điện Phượng Minh của cung Chiêu Dương, ông chân thành dập đầu. Khi đó, ông nghĩ, mẫu thân đã chết rồi, được hoàng hậu mang về nuôi là một chuyện đáng mừng, sau đó ông liền nở nụ cười, cười mà nước mắt chảy ướt cả mặt.

Hoàng hậu nhướng mày nhìn ông một lúc rồi trầm giọng bảo mau dẫn xuống, sau này không có chuyện thì không cần ngày ngày tới thỉnh an, hoàng hậu không thích nụ cười của ông.

Xế chiều ngày đó, ông gặp được Thế Thành, con trai của Nhị hoàng thúc là Bắc Yến vương. Khi đó Bắc Yến vương chưa đổi họ Yến, vẫn còn là họ Triệu, chỉ là luôn ở tại đất phong Bắc Yến mà thôi. Thế Thành nhìn thấy ông, lập tức vui vẻ chạy tới nói to: "Đệ cũng từng uống sữa của Thư Hòa mỹ nhân đấy."

Sau hôm đó, Thế Thành liền cả ngày theo quấy nhiễu ông, bất kể là ăn cơm hay ngủ nghê đều chạy theo sau lưng ông, ai dám tỏ sắc mặt với ông liền bị Thế Thành xô ngã. Năm đó tiểu tử kia tuy ít tuổi nhưng sức lực lại không nhỏ, ngay cả một đại hán cao to giữ thành do hoàng huynh bố trí cũng bị tiểu tử kia đẩy ngã nhào. Từ đó về sau, không thấy ai trêu chọc Cửu hoàng tử nữa.

Nhưng ông vẫn cảm thấy tiểu tử kia rất phiền, ông không thích nụ cười trên mặt hắn, cảm thấy nụ cười đó quá giả tạo, không giống như đám người trong cung, cười rất nhạt, rất lạnh lẽo, còn nụ cười của Thế Thành thì quá trong trẻo, ông không nhìn được chút âm u nào. Ông luôn tự nói với bản thân, tiểu tử này quá giảo hoạt, che giấu tài tình thật, cần tránh xa.

Có một lần bị theo đuổi đến phiền, ông liền nói với hắn, tối gặp ở hầm băng, không gặp không về. Thế Thành vui vẻ vỗ ngực nói đại trượng phu Bắc Yến không nuốt lời, còn định cắt máu ăn thề, may mà bị ông kịp thời cản lại. Ông cũng chẳng đau giùm hắn gì đó, chẳng qua thân là hoàng tử, tự làm bản thân bị thương sẽ bị phạt.

Kết quả ngày thứ hai, quả nhiên không thấy Thế Thành lộ diện. Bắc Yến thế tử mất tích, cả hoàng cung như phát điên, ai cũng đổ xô đi tìm, gần như lật tung từng tấc đất, kinh động đến cả hoàng hậu cùng phụ hàng. Đám thị vệ cả ngày chạy ngược chạy xuôi, tiếng chân rầm rập như đòi mạng từng bước bóp chặt tim ông.

Ông cực kỳ sợ hãi, ông biết Thế Thành ở đâu nhưng lại không dám nói. Ở trong hầm băng một ngày một đêm, nhất định đã sớm bị đông chết, ông cũng sợ, sợ Thế Thành còn sống, nếu người khác biết được Thế Thành chạy đến hầm băng là do ông xui, ông sẽ gặp đại họa.

Tối hôm đó, cuối cùng có cung nữ đi lấy băng phát hiện Yến thế tử bị đông cứng trong hầm băng, chúng thái y lũ lượt qua cửa, than thở Bắc Yến thế tử e không ổn rồi, mau báo cho Bắc Yến vương.

Lúc ấy, ông nấp sau cột đại điện, lặng lẽ cầu khẩn: Mau... mau chết đi. Đừng sống lại.

Nhưng Thế Thành vẫn qua khỏi, hơn một tháng sau liền hoàn toàn hồi phục. Bắc Yến vương biết chuyện còn cười lớn, nói khí hậu ở Bắc Yến băng hàn, Thế Thành từ nhỏ đã chơi đùa trong nước tuyết cả canh giờ liền, chút lạnh lẽo đó vẫn có thể chịu được.

Một tháng đó ông luôn sống trong sợ hãi, ngày nào cũng gặp ác mộng làm cho giật mình tỉnh giấc lúc nửa đêm, sợ sẽ bất tri bất giác chết đi giống như người phụ nữ đã sinh ra ông, sau đó bị quấn vải trắng mang ra khỏi cung.

Nhưng sau khi bình phục, Thế Thành lại lén đến tìm ông, trừng mắt hỏi: "Hôm đó huynh bị gì vậy? Tại sao không đến?"

Lúc ấy, ông đã sửng sốt, vô vàn lý do chắp vá nghĩ suốt nhiều ngày đều tan biến, đầu óc trống rỗng, một chữ cũng nghĩ không ra, ông ấp úng hồi lâu, cuối cùng chỉ thấp giọng nói một câu: Ta quên mất.

Thế Thành cười ha ha, nói hắn cũng biết ông không cố ý, nói xong liền như chợt nhớ ra cái gì, vội vã thấp giọng dặn ông tuyệt đối không để người khác biết, bằng không ông sẽ gặp họa.

Khi đó Thế Thành mới bảy tuổi, hiếu động như một chú nghé con vùng Tây Bắc, đôi mắt trong trẻo luôn mở to, kiễng chân mới đứng đến tai ông.

Hơn nhiều năm sau, ông có hỏi Thế Thành, chẳng lẽ chưa từng giận, chưa từng nghi ngờ ông sao?

Yến Thế Thành khi ấy đã là một thiếu niên, kỳ quái nhìn ông một cái, nhướng mày hỏi lại: "Đệ sao lại nghi ngờ Húc ca? Chúng ta là cùng uống sữa của một người mà lớn lên đấy."

Đúng vậy, Thế Thành được sinh ra ở kinh thành, Yến vương phi không đủ sữa, đúng lúc Thư Hòa mỹ nhân, mẫu thân hắn lần thứ hai hạ sinh ra một bào thai chết. Vì vậy Thế Thành liền được ôm sang chỗ Thư Hòa mỹ nhân cho bú, có điều cũng chỉ có mấy ngày mà thôi.

Năm tháng trôi qua, bọn họ như một một mầm cây gặp gió liền lớn, chớp mắt đã trở thành nam tử cường tráng. Trời sáng hai người liền cùng nhau tập võ, cùng nhau cưỡi ngựa, cùng nhau bắn tên, cùng nhau diễn tập binh pháp, cùng nhau nhập ngũ, như hình với bóng. Tâm tình của ông cũng dần tươi sáng hơn, thỉnh thoảng còn có thể cùng với Mông Điền trêu ghẹo cung nhân một hai câu. Mãi đến năm đó, khi theo hoàng thúc xuôi Nam, trong khung cảnh nước non hữu tình, ông gặp được một người đã thay đổi cuộc đời bọn họ. Số mạng như một dòng nước chảy xiết, một khi rơi vào dòng chảy sẽ không có lối thoát.

Đến nay ông vẫn còn nhớ rất rõ, ngày ấy, ông, Thế Thành và Mông Điền lén rời khỏi dịch quán đi thăm thú thắng cảnh. Hôm đó trời xanh trong vời vợi, thời tiết vô cùng đẹp, mặt trời trên cao thong thả tỏa nắng ấm xuống vạn vật, thiếu nữ chống mái chèo đứng ở mui thuyền, y phục xanh nhạt như hòa làm một với nền trời, dung nhan xinh đẹp, hai mắt long lanh như châu ngọc thượng hạng. Nàng chân trần đứng đó, ống quần xắn cao để lộ một đoạn bắp chân trắng muốt, cười ngoắc ngoắc ba người bọn họ, nói giọng trong trẻo như tiếng chuông bạc: "Này! Ba anh cao to, cần đi thuyền không?"

Đã nhiều năm như vậy, lâu đến mức ông cho rằng mình quên gần hết rồi, quên thời gian, quên địa điểm, quên nụ cười cùng dung nhan năm đó, nhưng vĩnh viễn cũng không thể quên giọng nói kia. Ông nhìn thiếu nữ thong thả chèo thuyền đến gần, khẩn trương đến mức lòng bàn tay cũng rịn mồ hôi, muốn nói gì đó nhưng mở miệng không ra.

Ngay sau đó liền nghe Thế Thành bên cạnh cười to, "Này, tiểu nha đầu, thuyền nhỏ như vậy chở nổi cả ba người chúng ta sao?"

Chuyện ngày đó như một tảng đá to bị ném vào trong dòng thời gian, kích lên vô số gợn sóng trắng xóa. Có lẽ, có rất nhiều chuyện vừa bắt đầu đã mang kết cục được định sẵn từ trước.

Chiến sự nổ ra, ông rốt cuộc bị buộc bước lên con đường sinh tử. Trên con đường đó, ông khó khăn đi từng bước một, người cản đường ông đã chết, người bảo vệ ông cũng đã chết, có người tay không tấc sắt, không còn gì để làm nhưng cũng lao mình vào vòng xoáy, cuối cùng đều chết hết trong chiến loạn.

Chỉ có Thế Thành vẫn một mực dẫn dắt quân Bắc Yến đi theo sau ông. Cho đến giờ, mỗi khi nhắm mắt lại, bên tai ông như vẫn có thể nghe được giọng nói trẻ tuổi của cậu thiếu niên:

Húc ca, đệ đến rồi!

Húc ca, không việc gì phải sợ bọn chúng, cùng lắm thì đồng quy vu tận.

Húc ca, bất luận ra sao thì huynh cũng phải sống, huynh sống thì mới có thể báo thù cho các huynh đệ đã ngã xuống.

Húc ca, làm đế vương phải vì dân vì thiện, chỉ cần huynh nhớ những lời này, đệ chết cũng đáng.

Húc ca, ai dám bất trung với huynh, đệ sẽ chém hắn!

Húc ca, Húc ca, Húc ca...

Đám đông như biển quỳ lạy ở trước mặt ông, hô vang 'vạn tuế', ông mặc long bào vàng rực, đi từng bước lên tổ miếu nhận vương vị Đại Hạ. Chỗ ngồi của hậu viện, nhét bên trong bộ phượng bào dành cho Thái hậu chỉ có một khối ngọc bội, đó chính là di vật của mẫu thân, khối ngọc nhỏ xíu, nhỏ như phần dũng khí ít ỏi năm đó của ông vậy.

Trong đại điện tranh tối tranh sáng, gió thiu thiu thổi, hoàng đế cảm thấy hơi lạnh, chậm rãi mở mắt ra.

Lão thái giám từ phía sau đi đến phủ thêm áo choàng nhưng ông lại hờn dỗi ném nó xuống đất, nhướng mày hỏi: "Sao tên tiểu tử Yến Tuân kia còn chưa đánh tới đây vậy?"

Lão thái giám cũng không kinh sợ khi nghe hỏi, chỉ nhẹ giọng nói: "Hoàng thượng, Bắc Yến vương hiện giờ vẫn còn đang ở bên ngoài Nhạn Minh Quan."

"Đúng là vô dụng, nếu là Thế Thành thì đã công phá cửa khẩu từ lâu rồi. Thanh niên bây giờ đúng là chẳng có mấy người dùng được." Hoàng đế lắc đầu đứng dậy, lộ dáng vẻ rất chi là tiếc hận.

"A Sanh không tin ta sẽ không giết tiểu tử kia, được thì nhanh gọi hắn tới cho A Sanh nhìn một chút."Hoàng đế hơi khom lưng, nhẹ giọng lầm bầm.

Trên chiếc bàn nhỏ có vô số chén rỗng, chất rượu màu đỏ kia được ủ từ một loại cỏ tên là Hoàng Lương (Hoàng Lương = kê vàng), ngàn vàng khó mua được, tương truyền chỉ cần một chút cũng có thể khiến tâm trí lâng lâng, mơ thấy mộng đẹp. Chính vì nó quá quý giá, muốn mơ một giấc mộng đẹp mà phải tốn rất nhiều tiền, cho nên quyền quý đương thời cũng khó có được. Nhưng trong tòa cung điện này, đâu đâu cũng có thể thấy loại cỏ này sinh trưởng.

"An Phúc, ngươi nói xem, làm hoàng đế mệt như vậy, vì sao bọn chúng vẫn luôn muốn tranh đoạt để làm thế?" Hoàng đế đột nhiên quay đầu lại hỏi.

Lão thái giám cúi đầu im lặng không lên tiếng. Hoàng đế không chờ nghe câu trả lời đã xoay người đi xa. Ánh trăng bên ngoài mông lung như sương, lấp lánh một cách chói mắt.

Hoàng thượng, đó là vì bọn họ chưa từng làm thử nên không biết. Ngay cả ngài, sau khi rượu Hoàng Lương tan đi, chẳng phải cũng một lòng muốn bảo vệ giang sơn vạn dặm của mình đó sao?

Nhân sinh giống như ván cờ, mỗi người là một con cờ, tung hoành ngang dọc một trận, cuối cùng ai mới có thể thoát ra đây?

Bên ngoài lại nổi gió to, kéo tuyết bay mù mịt, bóng dáng đơn độc dần khuất dạng.  


Chương 164: Gió Bắc ẩn tình

Sau trận tuyết lớn, thời tiết càng thêm lạnh giá. Gió lớn không ngừng xoáy tròn trên không trung.

Ráng hồng giăng đầy trời, tuyết đọng trên mặt đất bị gió cuốn lên cao rồi rơi lả tả xuống trên mái ngói cung Sóc Phương ở Lạc Thành.

Hôm nay là dịp săn mùa đông của Bắc Yến, chiến sự ở phía Đông tạm thời ngưng lại, người Khuyển Nhung ở phương Bắc cũng đã bị đánh lui, binh sĩ đều phấn khởi trở về nội cảnh, chuẩn bị đón năm mới.

Sáng sớm, hàng quán hai bên đường Ngũ Huyên đều đóng cửa, cả con đường được rải cát vàng tránh cho bánh xe ngựa bị băng tuyết làm trơn trượt, xa xa nhìn lại rực rỡ óng ánh như dát vàng. Hai bên đường đều được giăng màn lụa, thường dân đã sớm được di tản, văn võ bá quan quỳ thành hai hàng, thủ vệ chậm rãi bước đi, trật tự dẫn đường cho đoàn xe ngựa lũ lượt lăn bánh, màn xe hoa lệ như lấn át cả ánh mặt trời trên cao.

Nhìn cảnh này, mấy lão nhân có trí nhớ tốt đều bất giác nhớ lại buổi săn mùa Đông hơn mười hai năm trước.

Tây thành Trung Khâu chính là trường săn thú hàng năm của Bắc Yến vương, bình nguyên rộng bát ngàn này tọa lạc ở trung tâm dãy Lạc Nhật, kề sát phía nam Hồi Sơn, đất ở đây đỏ quạch, cũng không rõ vì sao nó có màu như thế, tựa như bị máu tươi thấm đẫm nhuộm thành vậy.

Yến Tuân khoác áo lông chồn ngồi trên vương vị cao cao, trước mặt là bóng người trùng trùng, xa xa nhìn lại tựa như một cánh ưng đen thẫm. Đám quan lại thấp thỏm quỳ dưới vương liễn, không dám ngẩng đầu nhìn lên mặc cho đầu gối cứng ngắc vì lạnh. Chỉ có A Tinh lặng lẽ ngước lên, vẫn không thấy rõ mặt Yến Tuân.

"Trang đại nhân." Một giọng nói rét lạnh đột nhiên vang lên.

Một ông lão tuổi khoảng năm mươi giật mình, da mặt khẽ run run, chậm rãi đứng lên đi ra quỳ ở chính giữa, kính cẩn đáp lời: "Bệ hạ có gì căn dặn?"

"Không có gì, chẳng qua gần đây có được đồ chơi thú vị, muốn mời Trang đại nhân cùng thưởng ngoạn." Giọng nói của Yến Tuân mang theo ý cười, có hơi mong đợi của trẻ con đang nổi hứng muốn trêu đùa ai đó.

Trang đại nhân quỳ rạp xuống sát đất, các đốt ngón tay trắng bệch, mi tâm nhíu chặt, nhưng vẫn bình tĩnh đáp: "Đa ta bệ hạ đã nghĩ tới cựu thần."

Yến Tuần cười một tiếng, ánh mắt ẩn chứa sự giễu cợt, lười biếng vung tay lên, ra lệnh: "Mang ra đây."

Chuỗi âm thanh *lọc cọc* liên tục vang lên, một chiếc xe ngựa được kéo vào trường săn, mui xe được bao kín bằng vải thô đen kịt, mơ hồ nghe được bên trong có tiếng động nhỏ. Tất cả tò mò quay sang nhìn cỗ xe ngựa, toàn trường im lặng như tờ, chỉ nghe được tiếng hít thở kìm nén.

Một tiếng *cộp* đột nhiên vang lên khiến mọi người đồng loạt kinh ngạc, thì ra là Yến Tuân đang ngồi trên vương vị, buồn chán nên gõ cán roi lên thành ghế bằng vàng ròng, tạo thành từng tiếng *cộp, cộp, cộp* đều đặn...

Tất cả đều nín thở không nói chuyện, một thị vệ khoảng hơn ba mươi đi đến trước cỗ xe ngựa, vung tay lên kéo tấm vải đen xuống.

Tiếng hô kinh ngạc liên tục vang lên khắp toàn trường, ai cũng lộ vẻ kinh hoảng nhưng không dám lên tiếng chất vấn.

Trên cỗ xe kia là một nhóm thiếu nữ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, tướng mạo cực kỳ xinh đẹp. Trời lạnh nên các nàng đều co lại thành một cụm, mặt ai cũng trắng bệch, hai tay bị trói chặt, trên người không một mảnh vải.

Trang đại nhân nhìn thoáng qua liền chết trân ngay tại chỗ, thời tiết cực lạnh nhưng trên trán ông lại bắt đầu rịn ướt mồ hôi.

Phía sau vang lên tiếng cười của Yến Tuân, vị đế vương trẻ tuổi dường như đang vừa ăn vừa nhắm rượu, nói giọng vô cùng thản nhiên: "Trang đại nhân là trụ cột của Bắc Yến, mấy năm qua đối với trẫm có ơn không ít, mũi tên đầu tiên hôm nay xin nhường cho đại nhân vậy."

Cửa lồng tre trên xe ngựa được mở ra, đám binh sĩ thô lỗ tiến lên đấm đá đuổi các thiếu nữ xuống. Các nàng đi chân trần, giẫm lên mặt tuyết lạnh lẽo, không lâu sau chân liền sưng đỏ cả lên.

"Chạy! Mau chạy cho ta!" Đám binh sĩ hung hăng quất roi, để lại trên những tấm lưng trắng nõn kia mấy đường đỏ tươi, kéo theo tiếng la hét chói tai. Các thiếu nữ mặc kệ đau đớn, cuống cuồng ôm vết thương trên người chạy trốn.

Thị vệ mang cung tên đến cho Trang đại nhân, Yến Tuân ở sau lưng lạnh nhạt thúc giục: "Trang đại nhân, nhanh lên đi chứ."

Trang đại nhân xanh mặt, môi không chút huyết sắc, ông chậm rãi lắp tên, chậm rãi căng dây cung, các ngón tay run rẩy kịch liệt.

Các thiếu nữ chạy trên bình nguyên, thân thể trẻ trung lấp loáng dưới ánh mặt trời. Tựa như cảm nhận được nguy cơ, bọn họ kinh hoàng quay đầu lại, nhìn thấy bóng dáng đang tiến lên thì thoáng cái ngây người ra.

Một mũi tên bay *vèo* tới, tuy nhiên lại không chút khí lực, bay được một đoạn ngắn đã rơi xuống trên mặt đất.

"Trang đại nhân, bản lĩnh của ông dường như không chỉ có vậy." Yến Tuân thong thả nói, đuôi mắt khẽ nhếch lên liếc về phía Trang đại nhân, cái nhìn vô cùng ung dung nhưng lại tựa như xuyên thấu tâm tư ông ta.

Trang đại nhân đứng yên tại chỗ, muốn nói nhưng một âm thanh cũng không thể phát ra, cả người run rẩy dữ dội. Bên dưới có quan viên nhỏ giọng nghị luận: "Nghe nói mấy ngày trước trong cung có một cung nữ muốn hành thích bệ hạ, chẳng lẽ bọn họ đều là...?"

"Trình Viễn, nếu Trang đại nhân tuổi cao sức yếu thì ngươi lên đi."

"Đa tạ bệ hạ cất nhắc." Một tướng lĩnh áo xanh bước ra, vững vàng nhận cung, *véo* một tiếng, mũi tên xẹt qua liền xuyên qua người thiếu nữ ở xa nhất. Thiếu nữ thảm thiết kêu to một tiếng, máu trước ngực phun thành vòi, bắn xuống mặt tuyết đỏ lòm.

Các thiếu nữ còn lại nhìn thấy thì sợ hãi cực độ, có người còn ngồi bệch xuống tại chỗ khóc rống, một người đột nhiên chạy về phía Trang đại nhân, vừa chạy vừa la to: "Tiên sinh, xin cứu ta! Xin cứu ta! Trang tiên sinh, ta là... Á!"

Trước khi tiếng thét thảm thiết đó vang lên, cách thiếu nữ nọ không xa có một thiếu nữ khác đột nhiên lao đến chụp lấy cổ thiếu nữ đang gào khóc, xoắn một cái đã vặn gãy cổ nàng ta.

"Chết thì chết, sao có thể cầu xin kẻ địch, đồ vô dụng!" Thiếu nữ đứng thẳng người lên, mặt tái nhợt nhưng hai mắt lại sắc lạnh như dao, lạnh lùng nhìn thẳng về phía vương vị, trên người không mảnh vải nhưng nàng vẫn không chút nao núng, trầm giọng nói: "Chúng ta là tín đồ của Đại Đồng, phàm là tiểu nhân phản bội Đại Đồng chắc chắn sẽ chết không có chỗ chôn!" Dứt lời lập tức đâm đầu vào một tảng đá bên dưới vương liễn, máu phun ra, thân thể liền mềm oặt không nhúc nhích nữa.

Biến đổi này đã khiến tất cả đờ người không kịp phản ứng, binh lính hối hả chạy đến thăm dò, sau mới quay lại báo cáo: "Bệ hạ, vẫn còn hơi thở."

Yến Tuân 'ừm' một tiếng, cũng không nói muốn xử phạt ra sao. Chẳng rõ vì sao, ánh mắt của cô gái vừa rồi rất quen thuộc, ký ức cũ thoáng chốc lại dâng trào, hắn nhướng mày lạnh lùng nhìn tràng diện máu me, đột nhiên mất sạch toàn bộ hứng thú, vì vậy chỉ phất tay một cái, đám thị vệ lập tức tiến lên, tiếng kêu thảm thiết vang vọng toàn trường. Một chốc sau, đám thiếu nữ đã không còn ai sống sót.

"Buổi săn bắt đầu, còn đám người này thì mang xuống cho chó ăn hết đi." Yến Tuân lạnh nhạt ra lệnh, thị vệ hơi sững sờ, do dự hỏi: "Vậy còn người đang hấp hối?"

Còn sống?

Một tia sáng chợt xẹt qua trong mắt Yến Tuân, trong đầu lại xuất hiện hình ảnh kia, ánh mắt quật cường của đứa bé gái kia tựa như đang nhìn thẳng vào hắn, khiến hắn bất giác rùng mình.

"Bệ hạ?" Trình Viễn gọi nhỏ.

Yến Tuân ngẩng đầu lên, thấy toàn trường đang nhìn mình chằm chằm thì không khỏi hơi nhíu mày, lạnh giọng nói: "Đều mang xuống hết."

"Dừng tay!" Trang đại nhân đột nhiên quát to, chạy đến quỳ cạnh thiếu nữ vừa tự vẫn kia, gào to: "Con ơi, đều do cha hại con!"

Yến Tuân đưa lưng về phía ông, khóe môi mỉm một nụ cười lạnh như băng, đám thị vệ đồng loạt chạy đến bắt trói Trang đại nhân, những người khác thì kéo thi thể thiếu nữ kia về phía chuồng chó, để lại trên mặt tuyết một vệt máu đỏ tươi thật dài.

"Yến Tuân! Đồ lang sói kia, ta thành quỷ cũng không tha cho ngươi! Ngươi sẽ chết không tử tế!" Tiếng mắng chửi vang vọng sau lưng, thị vệ nhìn thấy thì tức giận đạp một cước, làm gãy không ít răng trong miệng Trang đại nhân.

Yến Tuân lạnh lùng đi về phía trước, sau lưng là vô số văn võ bá quan vẫn còn thấp thỏm quỳ trên mặt đất. Hắn khinh thường cong môi nở một nụ cười không thể lạnh hơn nữa.

Chưa được sống thoải mái thì sao phải so đo chết thế nào?

Cuồng phong thổi đến khiến vạt áo lông của hắn tung bay phần phật, tựa như một đôi cánh ưng đang giương ra, chực bay đi.

Địa thế phương Bắc trống trải, bình nguyên rộng mênh mông, tiết xuân vẫn chưa về, mùa đông năm nay dường như dài hơn thường lệ.

... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... ...... .....

Bên ngoài gió thổi vù vù, mang theo hơi tuyết giá lạnh của phương Bắc luồn vào mọi ngõ ngách của cung Sóc Phương.

Đại điện trống trải hết sức yên tĩnh, màn lụa bay bay, gió luồn vào thổi tắt vài ngọn nến nhưng không ai dám tiến lên thắp lại.

Nam tử mặc cẩm bào ngồi bên một ngọn nến còn sáng, một tay đỡ trán tựa như đang ngủ, ngũ quan rõ ràng, thoạt nhìn còn rất trẻ nhưng dưới ánh nến vẫn có thể thấy rõ bên thái dương có vài sợi hoa râm, thỉnh thoảng phản chiếu ánh nến phát ra tia sáng màu bạc.

Trên cái bàn ăn khổng lồ cỡ phòng ngủ của một nhà bình thường bày đầy các món ăn quý hiếm: vịt bát bảo, súp vây cá, hồng mai châu hương, thịt thỏ xào ớt khô, bánh chẻo ngậm sữa, tường long song phi, đùi ếch xào cay, bồ câu nhồi, phật thủ kim quyển, chim cút quay, gà trân châu, canh cá nấu sữa, hải sâm sốt dầu, cá rán một lửa, đậu hũ đài sen, bông cải xào nấm.

*Vịt bát bảo là món ăn truyền thống nổi tiếng của dân tộc Hán sống ở khu vực Thượng Hải, nguyên liệu gồm có vịt (chính), gạo nếp, đậu Hà Lan, chân giò hun khói, tôm nõn, măng, hạt dẻ, sò khô, nấm khô, gà.
**Hồng mai châu hương (thịt gà cuộn tôm)
****Phật thủ kim quyển: thịt băm cuốn hành
***** Đậu hũ đài sen: đậu hũ hấp với đậu

Một bàn thức ăn không hề bị đụng đến, tô canh vốn nóng sốt cũng đã nguội lạnh, váng mỡ đóng thành lớp trên bề mặt, mùi thơm tan biến từ lâu, chỉ còn chút màu sắc nhợt nhạt vì bị đông lạnh.

Hai vũ cơ Đông Hồ mặc y phục lụa màu mật, cổ tay cổ chân có đeo chuông bạc làm nổi bật làn da trắng như tuyết, vô cùng xinh đẹp. Thế nhưng hiện tại bọn họ lại đang run rẩy quỳ trên mặt đất, ngay cả đầu cũng không dám ngẩng lên, cứ như vậy kéo dài gần hơn ba canh giờ.

Hôm nay là xuân yến, cũng chính là tiệc mừng năm mới trong dân gian, không giống với hoàng cung Đại Hạ náo nhiệt, cung Sóc Phương lại chìm trong tĩnh mịch khôn cùng. Chúng ngự trù hao tâm tổn trí nấu nướng nhưng không có ai thưởng thức, mùi thức ăn lãng đãng theo gió một chút rồi tan trong không khí.

Lúc A Tinh tiến vào, bước chân khá mạnh nên đã đánh thức nam nhân đang ngồi một mình kia.

Yến Tuân hơi chau mày rồi chậm rãi mở mắt ra, ánh nến nhờ nhờ trong điện khiến mặt nam nhân thoắt sáng thoát tối, chỉ có đôi mắt lạnh lùng đen như mực của hắn là vẫn rõ ràng.

"Bệ hạ." A Tinh quỳ xuống trầm giọng nói: "Có thư của Phong gia."

Trong không trung như thoang thoảng mùi rượu, nhìn lại thì thấy trên bàn ngổn ngang ly rượu, chảy ướt cả vạt áo nam nhân đang ngồi.

Yến Tuân nhận lấy thư, im lặng đọc qua, mi tâm khẽ nhíu nhưng ánh mắt vẫn hết sức bình tĩnh.

Đối diện Yến Tuân có bày một bộ chén đũa sạch sẽ. A Tinh biết hắn đang đợi ai, cũng biết, người nọ có thể vĩnh viễn sẽ không trở về.

Đồng hồ cát vừa đổi đầu, Yến Tuân từ tốn ngẩng đầu lên, chỉ có mười mấy chữ nhưng hắn lại đọc vô cùng chậm, tựa như muốn ghi khắc từng chữ một.

Qua hồi lâu, hắn đặt thư lên bàn, dùng bầu rượu chặn lại, cầm đũa bạc lên rồi bắt đầu dùng cơm.

"Bệ hạ." A Tinh cau mày nói: "Thức ăn đã nguội, để thuộc hạ bảo người đổi một bàn mới cho ngài."

Yến Tuân không nói lời nào, chỉ lẳng lặng phất phất tay, ra hiệu bảo hắn lui ra.

A Tinh hơi cuống lên, tiếp tục nói: "Gần đây thân thể bệ hạ không khỏe lắm, đại phu đã dặn không được ăn đồ lạnh."

Nhưng Yến Tuân vẫn không ngẩng đầu lên, chậm rãi ăn từng đũa một, mỗi gắp đều rất to. Vũ cơ đang quỳ gượng đứng lên, lảo đảo suýt ngã nhưng vẫn vội vàng chạy đến đẩy những đĩa thức ăn ở xa lại gần hắn hơn. Sáp nến chảy xuống từng giọt, tim nến đỏ hồng tựa máu, tiếng gió thổi khiến phong linh treo ở cửa điện phát ra âm thanh đinh đang vui tai.

Yến Tuân một mực lặng lẽ ngồi ăn, ăn sạch cả những đĩa thức ăn vũ cơ đẩy lại gần. Ánh nến hắt lên người hắn, đổ xuống một cái bóng thật gầy, đổ dài trên nền đá đen lạnh lẽo.

A Tinh đột nhiên thấy chua xót, chợt nhớ lại thời điểm hai năm trước, lúc tỉnh lại trong biệt viện ở thành Vân Bích, Sở Kiều cũng từng bình tĩnh ăn hết một bàn cơm canh, cũng từng lộ ra biểu tình lạnh lẽo, từng đũa từng đũa một như cố nuốt xuống mọi bi thương y như vậy.

Hốc mắt chợt cay cay, A Tinh không rõ, tại sao trải qua nhiều khó khăn khổ nạn như vậy cũng chịu được, nhưng khi sắp đạt được mục tiêu lại lùi bước, cuối cùng lại trở thành cục diện như hiện giờ?

Nhưng hắn không dám hỏi, chỉ có thể lặng lẽ đứng nhìn như một kẻ ngốc.

"Khụ khụ ~" Nam nhân ở chủ vị đột nhiên ho khan, âm thanh mới đầu còn rất nhẹ, sau dần lớn hơn. Tiếng ho văng vẳng trong đại điện trống trải, thấm đẫm cảm giác mệt mỏi.

Vũ cơ sợ hãi, vội vã rút khăn ra, một vũ cơ khác cũng run rẩy tìm nước, nhưng nhìn tới nhìn lui khắp bàn thì chỉ có rượu.

Yến Tuân cầm lấy khăn che miệng ho mạnh, sống lưng gập lại, cong như một con tôm.

Vũ cơ đột nhiên 'Á' một tiếng, Yến Tuân quay đầu sang liếc nhìn một cái, ánh mắt lạnh như băng liền khiến nàng sợ hãi rụt cổ lại, lập tức cúi đầu thật thấp, không dám ngẩng lên nữa.

"Bệ hạ, có phải bị lạnh không, thuộc hạ cho truyền thái y nhé?"

"Không cần." Giọng Yến Tuân nhuốm vẻ mệt mỏi nhưng thần sắc hắn vẫn bình thản như cũ, giọng điệu lạnh tanh, một chữ thừa cũng không có.

"Rót rượu." Hắn lạnh nhạt ra lệnh, vũ cơ đứng xa hơn thấp thỏm ngẩng lên, cuối cùng vẫn lấy hết dũng khí run rẩy nhẹ giọng nói: "Bệ hạ bị lạnh rồi, hay... hay là đừng uống nữa."

Yến Tuân khẽ nghiêng đầu, ánh mắt mang theo chút nghiền ngẫm nhìn nàng, cũng lạnh đi không ít. Vũ cơ còn lại lập tức run bắn, liên tục nháy mắt với nàng, sợ bản thân cũng vì vậy mà bị liên lụy.

Vũ cơ vừa lên tiếng bị nhìn đến run rẩy, nhưng vẫn đánh bạo nói: "Bệ hạ, uống... uống rượu sẽ hại thân."

Uống rượu không những hại thân còn dễ hỏng việc, chỉ có đồ vô dụng mới mượn rượu tiêu sầu.

Trong đầu đột nhiên văng vẳng một giọng nói trong trẻo, Yến Tuân thoáng ngây ra, tâm trí lập tức bay thật xa, dọc theo đường hầm thời gian hồi tưởng lại chuyện cũ. Hắn suy nghĩ một chút, cuối cùng từ tốn gật đầu, nói: "Ừ, vậy đi lấy trà cho ta."

Vũ cơ chỉ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, nghe vậy liền vội vàng gật đầu, lắc chiếc eo thon vui mừng chạy ra ngoài.

Trên đại điện lại trở nên im lìm, Yến Tuân nhẹ giọng nói với A Tinh: "Ngươi lui xuống đi."

A Tinh do dự hỏi lại: "Bệ hạ, thật sự không cần thái y đến nhìn một chút sao?"

"Không cần." Yến Tuân lẳng lặng lắc đầu, thần sắc vô cùng bình tĩnh, tựa như chưa hề có gì xảy ra.

A Tinh hơi liếc mắt nhìn qua phong thư trên bàn, mấy chữ trên đó khiến hắn thoáng kinh hãi, lập tức cúi xuống, nhẹ giọng nói: "Vậy bệ hạ nhớ nghỉ ngơi sớm.

Không có ai đáp lời, A Tinh xoay người lại, nhấc chân bước đi trên sàn điện trống trải, màn lụa hai bên nhẹ bay bay, để lộ cột điện điêu khắc hình phi điểu ngũ sắc, trên lưng phi điểu có hai nữ tử ngồi quay lưng lại với nhau, một người áo rộng bồng bềnh, trước bụng nhô cao, người còn lại cầm trường thương, ánh mắt sắc bén, chính là song thần của Bắc Yến.

"Bệ hạ, uống chút trà đi!"

Sau lưng đột nhiên truyền tiếng kêu thất thanh xen lẫn tiếng nức nở, "Nô tỳ đáng chết, đã làm ướt thư, nô tỳ đáng chết."

"Không sao." Giọng nam trầm thấp lẳng lặng vang lên, "Ướt rồi thì ném đi."

... Đã vào biệt viện của Gia Cát Nguyệt ở Hiền Dương... không thể tiếp tục giám thị... không làm tròn chức trách...

A Tinh im lặng nghĩ tới mấy chữ vô tình đọc được kia, gió như mang theo mùi vị từ Hiền Dương xa xôi bay vào cung Sóc Phương.

A Tinh kéo cửa điện nặng nề ra, chậm rãi bước ra ngoài. Màn đêm bên ngoài vô cùng thanh lãnh, dân chúng Bắc Yến đã không còn tâm trạng mừng năm mới, chiến tranh, sưu thuế, lao dịch, chết chóc cùng máu tanh tựa như bao trùm cả cao nguyên. Mất đi Ô tiên sinh và Tú lệ tướng quân, chính quyền thiết huyết này càng thêm lạnh lẽo, lạnh đến mức tê liệt thần kinh của mọi người, bọn họ cũng chỉ có thể e dè trải qua mỗi ngày, dần dần đè nén chút mong đợi vô vọng sâu xuống tận đáy lòng.

A Tinh đi thẳng đến cửa cung Cửu Trọng mới rút bội kiếm ra. Trước cửa cung nhuốm đầy máu, mấy thi thể nằm trên đất, người lỗ chỗ vết thương.

Thị vệ hoàng cung đang kéo hai thi thể lên một cỗ xe nhỏ, nói với thị vệ đánh xe: "Nhanh lôi ra ngoài, trời sáng các đại thần sẽ đến thỉnh an đấy."

"Đã xảy ra chuyện gì?" A Tinh hỏi.

"Là dư nghiệt của Đại Đồng." Một binh sĩ cũng xuất thân từ Đại Đồng e dè nói: "Tối nay đã hai lượt rồi, cái chết của Trang đại nhân càng khiến bọn họ hung tợn hơn, cầm đao xông đến tận đây."

A Tinh khẽ nhíu mày, nhìn tình hình này thì không phải là hung tợn, mà là tuyệt vọng tự sát thì đúng hơn. Hầu hết thủ lĩnh của Đại Đồng đều đã bị bệ hạ tiêu trừ gần hết, tổ chức có nền tảng mấy trăm năm, nhiều năm như vậy vẫn chưa có ai có thể chân chính diệt trừ, không ngờ lại điêu tàn trong tay người mình từng ủng hộ.

"Phải cẩn thận canh phòng đấy."

"Xin tướng quân yên tâm." Một gã thị vệ cười nói: "Chúng ta năm đó đều do Sở đại nhân dạy dỗ, có mấy người chúng thuộc hạ ở đây, một con muỗi cũng đừng mong lọt vào." Vừa dứt lời, người nọ như ý thức mình vừa nói sai, Sở Kiều đã phản bội Bắc Yến, sao có thể gọi là đại nhân nữa chứ?

"Tướng quân, tiểu nhân, tiểu nhân..."

A Tinh không nói gì, xoay người im lặng rời đi, ánh trăng chiếu lên bóng lưng hắn, trắng lóa.

Cả Bắc Yến đều nhớ thương nàng, không chỉ riêng mấy người này.

Số mệnh đã rẽ sang một lối khác, giống như tên rời cung, đã bắn ra thì không thể thu hồi.

A Tinh nhẹ lắc đầu, xốc lại áo lông trên vai để cố lưu giữ thêm chút hơi ấm.  


Chương 165: Cao tay bày kế

Nạp Lan Hồng Diệp bị tiếng mưa lúc hừng đông làm cho tỉnh giấc, trên đại điện vắng vẻ chỉ có mình nàng nằm trên giường, cung trang bằng lụa xanh trên người ướt sũng mồ hôi, gió luồn vào khiến sống lưng gai gai. Tay chân hơi tê dại, nàng nhẹ chà xát một lúc nhưng vẫn cảm thấy đầu ngón tay lạnh như băng.

Trên thư án cạnh giường có một bức thư được vuốt phẳng, góc giấy hơi sờn chứng tỏ nó đã được mân mê rất nhiều lần.

Nạp Lan Hồng Diệp đưa ánh mắt mông lung nhìn ra bên ngoài, từng hạt mưa rơi xuống bệ cửa kêu *tí tách*, màn lụa nhẹ nhàng đong đưa, uyển chuyển như vòng eo thon của vũ cơ.

"Tình thế nguy cấp, hiền đệ có ba con đường. Một, khống chế Nạp Lan thị, phế ấu đế, giam lỏng Trưởng công chúa, giết Tấn Giang vương, nhanh chóng nắm giữ binh quyền của Hoài Tống. Hai, cầu hôn Trưởng công chúa, dùng tư cách nhiếp chính vương đối kháng với Tấn Giang vương, vứt bỏ các tỉnh phía Đông để bảo vệ kinh đô và các vùng lân cận. Ba, cầu cứu Đại Hạ bằng phương thức hòa thân, nhưng tuyệt đối không thể dính dáng đến hoàng tộc, phòng ngừa Đại Hạ xảy ra biến cố đổi chủ. Cần chọn người tay nắm binh quyền, tuổi tác tương đương, xuất thân thế gia, bối cảnh hùng mạnh, quyền cao chức trọng, hơn nữa phải là người mà Hạ hoàng và triều đình cố kỵ. Sau khi hôn sự được công bố, Tấn Giang vương nhất định sẽ không dám tùy tiện dấy binh tấn công kinh đô, chờ cho lũ mùa xuân qua đi thì lập tức dẫn binh đánh phía Đông, trừ sạch mối họa này."

Không cần thắp đèn nhìn, từng câu từng chữ đã sớm khắc ghi trong đầu, Nạp Lan Hồng Diệp lẳng lặng tựa vào đầu giường, ánh mắt thăm thẳm như giếng cổ.

Thật ra thì còn một biện pháp nữa, đó chính là liên hôn với Bắc Yến, như vậy không những có thể tiêu trừ nguy cơ Tấn Giang vương làm phản mà còn giúp Bắc Yến có thêm trợ lực, hai nước một Đông một Tây cùng tấn công Đại Hạ.

Thế nhưng, người nọ ngay cả nghĩ cũng chưa từng nghĩ đến.

Tay nắm binh quyền, tuổi tác tương đương, xuất thân thế gia, bối cảnh hùng mạnh, quyền cao chức trọng, hơn nữa phải là người mà Hạ hoàng và triều đình cố kỵ...

Nam nhân như vậy, thiên hạ có được mấy người?

Nạp Lan Hồng Diệp nhếch môi nở một nụ cười lạnh nhạt.

Nghĩa huynh, huynh đúng là vẫn chưa thể buông tay...

Chiến tranh với Bắc Yến, Đông Bắc xuất hiện dị tộc nổi dậy, lục đục giữa các phe phái nội bộ, hoàng thất Đại Hạ rõ ràng đang lực bất tòng tâm. So với Đại Hạ, Hoài Tống nhiều năm bay không có chiến sự, quan hệ với Biện Đường cũng không quá căng thẳng, quốc khố đầy ắp, mậu dịch phồn vinh, Đại Hạ tuyệt đối sẽ không bỏ qua cơ hội bắt tay với một đồng minh tốt như vậy.

Thế nhưng, vị này không những nắm giữ binh lực hùng hậu, đảm nhiệm chức Đại Tư Mã dưới một người trên vạn người, mà gia tộc chống lưng cũng là hạng nhất, vị đế vương không ngai tung hoành Thanh Hải kia sao có thể dễ dàng mặc cho người khác thao túng?

Sau hai trận đại chiến giữa Bắc Yến và Đại Hạ, thiên hạ có ai không biết Tứ thiếu gia Gia Cát gia ôm ấp một mối cuồng si với Tú lệ tướng quân?

Đứng giữa giang sơn và mỹ nhân, Gia Cát Nguyệt đã chọn cái gì, có lẽ trong mắt người thường đều rõ cả. Nhưng nàng biết, việc hòa thân này nhất định sẽ không thành, chẳng phải vì nàng hiểu Gia Cát Nguyệt, phải nói là bởi vì nàng quá hiểu Yến Tuân thì đúng hơn.

Huynh làm sao có thể ngồi nhìn tình địch có thêm trợ giúp rồi trở thành nhiếp chính vương của Hoài Tống cơ chứ? Huynh đưa ra đề nghị như vậy, trong lòng ắt hẳn đã khẳng định người nọ sẽ không mặc cho huynh định đoạt...

Huynh đề nghị như vậy, chẳng qua chỉ để tạm thời kéo dài thời gian, không để Tấn Giang vương dấy binh mà thôi, hơn nữa còn có thể ly gián Gia Cát Nguyệt với hoàng tộc Đại Hạ, đẩy hắn lên đầu ngọn gió, khiến hắn vô duyên vô cớ đắc tội với Hạ hoàng. Không chỉ thế, nếu Gia Cát Nguyệt dám công khai cự tuyệt cầu thân, các sản nghiệp của Gia Cát gia trên lãnh thổ Hoài Tống dĩ nhiên sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ, địa vị của Gia Cát Nguyệt trong gia tộc cũng sẽ vì vậy mà tuột dốc không phanh. Cho dù hắn là phiên vương duy nhất nắm giữ chức vị đứng đầu hội trưởng lão thì cũng phải chịu đả kích mạnh mẽ.

Và rạn nứt giữa Thanh Hải và Đại Hạ sẽ chính là đòn bẩy giúp Bắc Yến bật lên.

Dây mơ rễ má trong những mưu kế này, nàng đã sớm thông suốt từ lâu, chỉ chẳng qua chưa muốn hành động mà thôi.

Nghĩa huynh quả nhiên lợi hại, chỉ đôi ba câu liền có thể bày ra kế hoạch dấy lên một trận náo loạn cho Đại Hạ. Điều duy nhất huynh ấy không ngờ đến, có lẽ là chuyện hiền đệ Huyền Mặc của huynh ấy và Trưởng công chúa Hoài Tống chính là một người.

Trong bóng tối mờ nhạt, Nạp Lan Hồng Diệp khẽ nheo mắt, trong đôi mắt xinh đẹp thoáng xuất hiện chút dao động.

Suy nghĩ trong đầu không ngừng lưu chuyển, nàng liên tục tự nói với bản thân, huynh ấy không biết Huyền Mặc là Nạp Lan Hồng Diệp, nếu biết, nhất định sẽ không xem nàng như một con cờ.

Thế nhưng, sâu thẳm trong lòng nàng lại nảy sinh một cảm giác khổ sở đến cùng cực.

Dù sao đi nữa, huynh ấy chính là đang yêu cầu nàng gả cho người khác.

Huynh mưu cao trí tuyệt như vậy, đã kết nghĩa mười hai năm nhưng vẫn sơ suất thế sao? Thân phận thực của Huyền Mặc, huynh chưa từng nhìn ra sao?

Đầu ngón tay đột nhiên dùng sức, Nạp Lan Hồng Diệp vo tròn lá thư, chậm rãi thì thầm từng chữ một: "Nếu huynh đã có ý đó, vậy đệ cũng không ngại giúp huynh một tay."

................................................................................................................................

Gần đây thành Chân Hoàng không được yên bình cho lắm. Sau khi nhận được thư cầu thân từ Hoài Tống, toàn thành thoáng cái đã nổi lên vô số sóng ngầm.

Chuyện công chúa một nước gả cho thần tử một nước khác cũng không hẳn là chưa từng xảy ra, nhưng đó đều chẳng qua là vì đối tượng cầu thân không có hoàng tử thích hợp nên mới phải làm như vậy. Còn hiện giờ, Đại Hạ không thiếu hoàng tử đủ tuổi mà vẫn chưa kết hôn, Triệu Triệt hay Triệu Dương đều là thanh niên tài tuấn, nhất là Triệu Dương, địa vị vững chắc, tay nắm trọng quyền, quả thực chính là đối tượng sáng giá nhất Đại Hạ.

Trong khi đó, Hoài Tống hiện đã khác xưa, Nạp Lan Hòa Thanh vẫn còn nằm nôi, quyền hành đều nằm trong tay Nạp Lan Hồng Diệp, nàng tiếng là công chúa, thật ra thì đã như nữ hoàng Hoài Tống từ lâu, vì vậy phò mã tương lai của nàng vô cùng có khả năng trở thành nhiếp chính vương. Trong tình hình loạn loạc thi nhau nổi lên, triều đình bất ổn cộng thêm uy hiếp từ ngoại thích, không thể không nói, cho dù không nguyện ý thì Hoài Tống đi nước cờ này quả thực vô cùng hợp tình hợp lý.

Có điều, khi đặc phái viên Hoài Tống đứng giữa chính điện Đại Hạ xướng tên của Gia Cát Nguyệt, toàn bộ quân thần lại bị chấn động thêm một lần nữa.

Hai năm trước, sau khi tin Gia Cát Nguyệt thất thủ ở Nhạn Minh Quan rồi bỏ mình được lan rộng, thanh danh của hắn cũng đã theo đó rơi xuống vực sâu không đáy. Không ngờ chỉ hai năm sau, người này lại nhanh chóng gầy dựng binh lực ở Thanh Hải rồi vinh quang dẫn binh trở về cố quốc, nhảy vọt lên thành người có quyền thế nhất toàn triều, ngay cả Triệu Dương cũng phải nể mặt ba phần. Hôm nay công chúa Hoài Tống lại đột nhiên tự mình đưa tới cửa, nếu Gia Cát Nguyệt thật sự thành công trở thành phò mã của Trưởng công chúa Hoài Tống, thế lực của Gia Cát gia chắc chắn sẽ lại một bước lên trời. Trong tay nắm giữ đất phong vốn có và binh quyền ở Thanh Hải, tài năng lại khuynh đảo, nay có thêm trợ lực từ Hoài Tống, Gia Cát Nguyệt chắc chắn sẽ trở thành quyền thần hạng nhất ở Đại Hạ, dễ dàng đưa Gia Cát gia vượt lên cả Mục Hợp thị lúc còn trên đỉnh cao khi xưa.

Hậu quả đáng sợ rõ rành rành ngay trước mắt nhưng hoàng thất Triệu thị lại không cách nào từ chối củ khoai nóng bỏng tay này.

Chưa cần nói đến tình hình kinh tế nước nhà và chiến sự ở Tây Bắc, cứ nhìn mấy trận Bắc phạt trước đó thì biết, Bắc Yến rõ ràng có quan hệ ít nhiều gì đó với cả Biện Đường và Hoài Tống. Hiện tại Sở Kiều và Tú lệ quân đã rời khỏi Bắc Yến, quan hệ với Biện Đường cũng theo đó mà tan rã, nhưng còn Hoài Tống thì sao? Nếu chiến tranh toàn diện giữa Bắc Yến và Đại Hạ nổ ra, Hoài Tống sẽ có động thái thế nào? Trưởng công chúa của Hoài Tống gả cho Gia Cát Nguyệt sẽ có ảnh hưởng ra sao đến cục diện?

Dẫu biết rõ phía trước là một mê trận không đoán được thì Đại Hạ vẫn không thể không đâm đầu vào. Dù sao thì chiến sự ở Tây Bắc cũng không phải là rất cấp bách, gần tháng nữa tuyết sẽ tan thành lũ, đại quân Bắc Yến sẽ bị cầm chân.

Xế chiều hôm đó, thánh chỉ của hoàng đế, mật thư từ gia tộc cùng với tình báo của riêng Gia Cát Nguyệt đã lần lượt rời khỏi thành Chân Hoàng, theo ba đường khác nhau nhưng đều hướng về phía dãy Noãn Thủy mà đi.

........................................................................................................................

Triệu Dương ngồi trong đại sảnh thưởng trà, trên sàn trải thảm lông dày, không khí thoang thoảng huân hương thượng hạng, nắng bên ngoài chiếu vào khiến khuôn mặt anh tuấn của hắn bừng thêm vẻ oai hùng.

Thập lục hoàng tử Triệu Tường ngồi bên cạnh đang buồn chán chơi đùa với một con vẹt. Chú vẹt kia không ngừng nhảy nhót mổ thóc trong lòng bàn tay Triệu Tường mà vẫn không thèm mở miệng nói một chữ, khiến hắn thỉnh thoảng lại không nhịn được mắng nó vài câu.

"Thập lục đệ, đệ có cái nhìn thế nào về chuyện này?" Triệu Dương đột nhiên lên tiếng hỏi.

Triệu Tường cũng không quay đầu lại, chỉ lười biếng hỏi: "Chuyện gì mới được?"

"Chuyện công chúa Hoài Tống muốn hòa thân với Đại Hạ."

Triệu Tường nghe vậy liền quay phắt lại, nộ khí bừng bừng nói to: "Lão tứ của Gia Cát gia kia đúng là quá tốt số, tưởng đã chết lại mang về một đội quân đông mấy chục vạn, hôm nay lại có vận đào hoa từ trên trời rơi xuống như vậy, đúng là tức chết người khác mà."

Triệu Dương lại không hề có chút tức giận, chỉ bình thản nói: "Thật sự chỉ là tốt số thôi sao?"

Triệu Tường vẫn chưa hiểu ý trong lời huynh trưởng của mình, bực bội tiếp lời: "Theo lý mà nói, công chúa Hoài Tống muốn hòa thân thì cũng nên chọn Thập tứ ca mới đúng, tệ hơn thì cũng còn lão Thất, sao có thể tới phiên tên Gia Cát Nguyệt kia chứ? Nghe nói đám người ở Thanh Hải gọi hắn là Thanh Hải vương, theo đệ thấy, sau khi hắn trở thành nhiếp chính vương của Hoài Tống, tương lai hoàng đế Hoài Tống chắc chắn sẽ mang họ Gia Cát thôi. Thập tứ ca, huynh nói xem, có khi nào Đại Hạ chúng ta bị Hoài Tống tính kế không?"

Triệu Dương phì cười, nói: "Tính kế như vậy không khỏi quá thất sách rồi, có điều, tương lai e hoàng đế Hoài Tống họ Gia Cát sẽ khiến người ta đau đầu hơn nhiều so với hoàng đế Hoài Tống họ Nạp Lan."

Triệu Tường ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: "Bất quá, theo đệ thấy, Gia Cát Nguyệt tuy có hơi quái gở kỳ cục nhưng không hẳn là xấu, cũng là một người trung quân ái quốc."

"Trung quân ái quốc?" Triệu Dương liếc nhìn Triệu Tường, trầm giọng hỏi lại: "Đệ cảm thấy vậy?"

"Đệ từng có một thời gian ngắn chung đụng với hắn ở Thượng Võ Đường, Gia Cát Nguyệt tâm cao khí ngạo nhưng là người kiên cường, không giống đám con cháu thế gia còn lại, làm gì cũng có chủ kiến, đệ thấy hắn rất có tố chất phò tá đế vương."

"Phò tá đế vương?" Triệu Dương lắc đầu, "Người như hắn nào phải dạng người chịu đứng dưới kẻ khác? Có trung quân ái quốc cũng không phải trung với quân như ta và đệ."

Triệu Tường ngẩn ra, đưa ánh mắt nghi hoặc nhìn về phía Triệu Dương.

Triệu Dương cũng không giải thích, chỉ thản nhiên nói: "Chuyện này tuyệt đối không đơn giản như vậy, đích thị có cao thủ phía sau bày kế cho Nạp Lan thị, có điều..."

Hắn đột nhiên cười lạnh một tiếng, "Tất cả mọi người đều cho rằng đây là vận tốt từ trên trời rơi xuống, nhưng Gia Cát Nguyệt chưa hẳn sẽ nghĩ vậy. Cuối cùng cũng có người dám đụng đến vảy ngược của hắn, bản thân ta cũng thật mong chờ nhìn xem vị Thanh Hải vương này sẽ có phản ứng thế nào khi biết chuyện."

Bình nguyên lại nổi gió như điềm báo sắp có bão.  


Chương 166: Sớm sớm chiều chiều

Thời gian trôi qua lặng lẽ tựa như bị ai âm thầm trộm đi.

Lúc không có người, Sở Kiều thỉnh thoảng sẽ thất thần cả buổi, lẳng lặng nhìn mặt trời mọc lên ở hướng Đông rồi lặn về phía Tây, màn đêm buông xuống, năm mới đến rồi lại đi, thời gian như dòng nước lặng lẽ chảy qua kẽ tay, làm thế nào cũng không níu giữ được.

Mọi kích động ban đầu dần qua đi, cuộc sống lại bắt đầu trở về quỹ đạo cũ, trên bầu trời bao la, đàn chim sải cánh bay về phương Bắc. Nàng thầm nghĩ, bọn chúng có lẽ là đang bay về nhà.

Sở Kiều đã chuyển vào ở trong biệt viện của Gia Cát Nguyệt, cũng chẳng với nguyên cớ hay lý do gì, Gia Cát Nguyệt chỉ hỏi nàng có muốn cùng hắn đón năm mới không, nàng suy nghĩ một chút thì gật đầu đồng ý.

Lễ mừng năm mới của bọn họ thật sự rất đơn giản.

Không có ca múa cung đình xa hoa, không nhiều lời chúc tụng sáo rỗng, cũng không cẩm tú mỹ thực, nhưng lại mang cảm giác yên bình hiếm có, vô cùng an nhiên tự tại.

Mấy ngày qua Sở Kiều và Gia Cát Nguyệt đã đi rất nhiều nơi, len lỏi qua từng con hẻm vắng, băng qua ngôi miếu cổ xưa, ăn hàng ngoài đường, chen chúc tham dự hội miếu, cùng nhau ngắm pháo hoa giao thừa rất lâu...

Tiếng pháo trúc đì đùng kia vẫn giòn giã tựa như hai năm trước, nàng đứng giữa con đường đầy bóng người, sáng rực đèn hoa đăng.

Sở Kiều tận hưởng cảm giác vui vẻ đã lâu không xuất hiện. Trong ánh đèn rực rỡ, hắn đứng trước mặt nàng, giúp nàng che chắn khỏi bị chen lấn, thỉnh thoảng quay lại cau mày to giọng mắng nàng chớ ngây ngô nhìn xung quanh như trẻ con như vậy có được không.

Pháo hoa bay vụt lên trời cao rồi nổ tung thành muôn vàn đóa hoa ngũ sắc, dư quang hắt lên mặt Gia Cát Nguyệt, đẹp vô cùng.

Đúng vậy, thật sự rất đẹp.

Sở Kiều quả thật không biết dùng từ nào khác để hình dung cảnh tượng trước mắt. Nàng tựa như chỉ vừa mới bị gió nơi chiến trường cuốn vào một thế giới kỳ quái, nàng nhìn thấy pháo hoa rực rỡ, hồ nước ấm áp, người dân vui vầy, và một Gia Cát Nguyệt đã buông bỏ mọi phòng bị cùng gút mắc. Nam nhân từng trừng to mắt nhìn nàng, rút đao chĩa về phía nàng, thế rồi lại giang tay bảo vệ, vì nàng không màng sống chết, hắn bây giờ đang còn sống, đang đứng trước mặt nàng, chau mày khiển trách nàng. Sở Kiều đột nhiên cảm thấy, khoảng thời gian này tựa như vừa lấy cắp được từ trong tay ông trời, mỗi một giây đều vô cùng trân quý.

Bốn phía chìm trong hoa lửa muôn màu, nhưng ánh mắt của nàng chỉ có một bóng người.

Tựa như mạch nước tạo thành bởi khối băng ngầm dưới đáy biển sâu tan ra, bất chợt dâng trào khiến tứ chi nàng lạnh lẽo, đại não chết lặng.

Tựa như nhân sinh trở nên rực rỡ trước đường cùng, nàng đứng trước cổng hoàng tuyền, nhìn sang phía ngũ sắc phồn hoa ở bờ bên kia, thầm nghĩ, đó có lẽ chính là cuộc sống mới.

Cho dù nhìn thấy nhưng lại cảm thấy nó thật sự rất xa vời.

.....................................................................................................................

Hai người trở về biệt viện.

Cửa phòng nửa đóng nửa mở, Gia Cát Nguyệt đứng trong sân, ánh trăng chiếu lên thân người khiến đóa cẩm tú to lớn thêu bằng chỉ vàng trên vạt áo xanh thẫm của hắn như tỏa sáng lấp lánh.

Hắn nhìn nàng, tựa như muốn nói gì đó nhưng hồi lâu vẫn không lên tiếng.

Ngoài sân rợp trong ánh trăng mông lung, tiếng chiêng trống náo nhiệt trên quảng trường cách đây mấy con phố văng vẳng bên tai, vô cùng tưng bừng. Cho dù không nhìn thấy thì Sở Kiều vẫn có thể mường tượng ra hình ảnh dân chúng đang cùng nhau vui vẻ nhảy múa.

Dường như đã rất lâu, rồi như chỉ trong một thoáng ngắn ngủi, hắn đột nhiên mở miệng, "Đi ngủ đi."

Sở Kiều gật đầu, rất bình thản mỉm cười, "Ngươi cũng vậy."

Cửa phòng nhẹ nhàng được khép lại, chậm rãi ngăn trở ánh trăng bên ngoài, trong phòng dần dần chỉ còn lại bóng tối tịch mịch.

Sở Kiều dựa lưng vào cửa, các ngón tay vẫn còn đặt trên chốt cửa. Người bên ngoài đã lâu vẫn chưa rời đi, gió đêm thổi qua khiến tán cây bên cửa sổ đung đưa kêu xào xạc, để lại những cái bóng chập chờn lên khung cửa sổ.

Đồng hồ cát chậm rãi đổi đầu, bên ngoài cuối cùng cũng vang lên tiếng bước chân rời đi, rất chậm nhưng càng lúc càng xa dần, càng lúc càng nhỏ.

Gió ngoài cửa đột nhiên trở lớn, luồn qua khe cửa thổi vào phòng, lành lạnh. Sở Kiều tựa đầu lên cửa phòng, trong bóng tối, chậm rãi nhắm mắt lại.

................................................................................................................................

Lúc Gia Cát Nguyệt về đến phòng, Nguyệt Thất vừa mới nhận được thư của Tiểu Phi, vui vẻ cất thư vào trong tay áo, nhìn thấy chủ tử cũng không thể che giấu tâm tình đang hết sức phấn khởi của mình.

"Tiểu Phi gửi thư à?"

"Dạ." Nguyệt Thất cười ha ha, nói: "Hải Nhi đã đầy tháng rồi."

Nhiều năm sánh vai chiến đấu, Gia Cát Nguyệt và Nguyệt Thất tuy mang danh chủ tớ, kỳ thực đã không khác gì huynh đệ. Nhớ đến trước khi đi, Tiểu Phi đúng là mới sinh quý tử cho Nguyệt Thất, Gia Cát Nguyệt không khỏi mỉm cười nói: "Chờ ta trở về sẽ chuẩn bị một phần đại lễ cho con của ngươi."

Nguyệt Thất cười nói: "Đa tạ thiếu gia."

"Mặc Nhi khỏe không?"

"Thưa, tất cả đều ổn." Nguyệt Thất lanh lảnh đáp lời, cậu nhóc Âu Dương Mặc được Gia Cát Nguyệt mang về khi xưa bây giờ đang được Tiểu Phi nuôi dưỡng, đối với đứa trẻ trong một đêm mất hết thân nhân, đây có lẽ mới là an bày tốt nhất.

"Đã bắt đầu theo Bạch phu tử học thuật châm cứu, thiên phú cực cao."

"Chủ nhân, Phong tướng quân gửi thư đến." Phương Chử từ bên ngoài đi vào, sau khi Nguyệt Thất bắt đầu lĩnh binh xông pha mặt trận thì Phương Chử liền trở thành thị vệ bên người Gia Cát Nguyệt. Phương Chử xuất thân từ Thanh Hải, cha mẹ cũng là do tổ tiên đắc tội người khác nên bị đày ra khỏi đại lục, sau khi đầu nhập dưới trướng Gia Cát Nguyệt đã một đường theo hắn trở về Đại Hạ, là một người trầm mặc ít lời, nhưng so tính bền bỉ kiên trì thì tuyệt đối không phải hạng thường, ngay cả Nguyệt Thất cũng phải kính nể vài phần.

Mở phong thư được niêm kỹ ra, Gia Cát Nguyệt mặt không đổi sắc nhìn qua một lượt, sau đó đưa cho Nguyệt Thất, đợi Nguyệt Thất đọc xong rồi mới trầm giọng hỏi: "Ngươi nghĩ thế nào?"

"Triệu Dương tuyệt đối sẽ không buông tay dễ dàng như vậy, một khi Thất điện hạ trở về nước liên thủ với thiếu gia, thế lực hắn thành lập suốt hai năm qua sẽ bị lung lay. Ngụy Quang đã già, Ngụy Thư Diệp lại có tâm tư khác, hắn không thể không đề phòng."

Gia Cát Nguyệt bình thản gật đầu, nhẹ giọng nói: "Người này chẳng những thức thời mà còn có tâm tư sâu kín, không khỏi có tính toán từ sớm."

"Chúng ta nên làm gì bây giờ?"

"Cứ theo kế hoạch mà làm, dặn Hứa Dương và Đa Lưu cẩn thận. Triệu Dương hiện giờ không gây được gió to gì đâu, thay vì bận tâm hắn, không bằng chú ý phía Bắc Yến nhiều hơn một chút."

Nguyệt Thất gật đầu, Gia Cát Nguyệt lại hỏi: "Tiến độ của việc vận chuyển thế nào rồi?"

"Thiếu gia yên tâm, tất cả người làm của Thần Nguyệt đều đang dốc sức, Chiêu Minh Công và Lương tiên sinh đã âm thầm chiêu mộ đông đảo nhân tài các ngành, hoàng đế Biện Đường cũng rất chú tâm chuyện chúng ta nhờ vả, tự mình phái Tôn đại nhân trợ giúp, huống chi năm nay lại được mùa, không cần phải dựa vào tiếp tế từ đại lục nữa."

Gia Cát Nguyệt gật đầu, "Mọi chuyện trong nhà vẫn ổn chứ?"

Chủ sự ở Thanh Hải hiện giờ là Phương Quang Tiềm, thúc thúc ruột của Phương Chử, cũng là thuộc hạ của Gia Cát Nguyệt ở Thanh Hải, Phương Chử mặt không chút thay đổi đáp lời: "Hôm qua thúc thúc có gửi thư báo mọi chuyện trong nhà đều ổn, tất cả mọi người đều đang trông chủ nhân trở về."

"Ừ." Gia Cát Nguyệt nhẹ gật đầu rồi nói: "Bảo tất cả gia tăng tiến độ, không còn nhiều thời gian nữa rồi, sau khi xong chuyện bên này, chúng ta sẽ trở về."

Phương Chử gật đầu tỏ vẻ đã rõ, sau đó cúi đầu lui ra ngoài.

Chờ Phương Chử đi, Nguyệt Thất mới hơi cau mày, nói: "Thiếu gia, thuộc hạ không hiểu."

"Ta biết ngươi muốn nói gì."

Ánh trăng trong trẻo rơi lên đầu vai, tô thêm vẻ lạnh lùng trên mặt nam nhân, đôi mắt phượng thâm trầm khẽ nheo, thần sắc bình thản như muôn thuở.

"Ngươi muốn hỏi, vì sao không thừa dịp Đại Hạ nội loạn, thế gia điêu tàn, cường địch bên ngoài lăm le, là thời cơ tốt để khởi binh, khống chế gia tộc rồi thay thế Triệu thị, có đúng không?"

Nguyệt Thất cả kinh, lập tức quỳ xuống, nhưng vẫn thẳng thắn nói: "Thuộc hạ lớn mật, nhưng thuộc hạ đúng là có nghĩ như vậy. Đại Hạ bất nhân, gia tộc cũng bất nghĩa, hai năm qua thiếu gia đã chịu bao khuất nhục, vì sao còn phải giúp đỡ bọn họ? Cùng lắm thì chúng ta trở về Thanh Hải, cô nương bây giờ dù sao cũng đã ở đây, chúng ta không phải sợ bọn họ uy hiếp. Thanh Hải đất rộng nhiều của, cho dù là cả đại lục Tây Mông cũng chưa chắc đủ để khiến chúng ta e ngại."

Nguyệt Thất nói một hơi, hồi lâu vẫn không nghe thấy tiếng Gia Cát Nguyệt thì đánh bạo ngẩng đầu lên, chỉ thấy Gia Cát Nguyệt đang ngước lên nhìn trời, trên khuôn mặt tuấn tú như bị bao phủ bởi bóng tối nặng nề, hai hàng lông mày nhíu chặt, nhuốm đầy năm tháng tang thương.

"Nguyệt Thất, gia tộc có không tốt thì cũng là nơi chúng ta lớn lên từ nhỏ, Đại Hạ không tốt thì cũng là cố thổ của chúng ta. Bây giờ cố quốc chìm trong loạn trong giặc ngoài, người dân lầm than, ta và ngươi sao có thể nhẫn tâm dấy thêm lửa khói trên mảnh đất đã hoang tàn này nữa?"

Nguyệt Thất nghe vậy, còn đang ngây người thì lại nghe Gia Cát Nguyệt nói tiếp: "Huống chi, ơn nghĩa của Triệu Triệt đối với ta, cũng không phải là nông."

Gia Cát Nguyệt dứt lời liền rời đi, để lại Nguyệt Thất vẫn sững sờ đứng đó, tỉ mỉ suy tư lời Gia Cát Nguyệt vừa nói.

Hắn không rõ cảm giác trong lòng là gì, trong tiềm thức cũng biết thiếu gia nói đúng, nhưng hễ nghĩ đến tất cả khuất nhục dồn nén suốt hai năm qua, làm sao cũng không thể xua tan cảm giác bi phẫn cùng bất bình tích tụ trong ngực. Chẳng lẽ thiếu gia thật sự không hề bận tâm?

Gia Cát Nguyệt đương nhiên có bận tâm.

Bên trong gian phòng tối mịt bật lên một tiếng cười rất khẽ.

Sao có thể không bận tâm, những tháng ngày chật vật cầu sinh lúc còn bé? Sao có thể không bận tâm, khi lòng đầy hoài bão nhưng cuối cùng lại bị đả kích không còn manh giáp? Sao có thể không bận tâm, sau thập tử nhất sinh, thứ đón chào hắn khi trở về lại chính là vô số sỉ nhục và châm biếm?

Không quên được, chết cũng không thể quên.

Hắn không muốn nói ra cảm nhận khi nãy, là lời của Nguyệt Thất đã khơi lên sóng lớn kịch liệt trong lòng hắn.

Nam nhi giữ tâm như sắt cho đến chết, cả đời bôn ba là vì sao? Còn gì nữa ngoài kiến công lập nghiệp? Còn gì nữa ngoài vượt lên mọi người, đứng trên tất cả, hô vân hoán vũ, một lời hiệu triệu trăm người?

Đối với nam nhân, tất cả những điều này đều là một loại hấp dẫn chết người, tựa như chất gây nghiện, vĩnh viễn cũng không cai bỏ được.

Sau khi tìm được đường sống từ trong chỗ chết, đổi lại là sự tuyệt tình, bị gán tiếng xấu, bị đất nước bị gia tộc vứt bỏ, thoáng chốc đã trở thành tiêu điểm công kích của cả Đại Hạ. Hắn không phải thánh nhân, sao có thể không oán hận?

Có lẽ đúng như lời Sở Kiều nói trước bia mộ, lúc nhìn Đại Hạ bại dưới thế công của Bắc Yến, đáy lòng hắn cũng không khỏi có chút hả lòng hả dạ. Khi Đại Hạ nội bộ xào xáo, hắn đã từng nghĩ đến chuyện xua binh Đông tiến, thay thế Đại Hạ, dùng vũ lực rửa sạch mọi sỉ nhục, nhìn phản ứng của những kẻ hèn hạ từng giẫm lên đầu hắn lúc trước.

Nhưng khoảnh khắc chuẩn bị lên đường, hắn đã lui bước.

Trên bình nguyên Thanh Hải đầy những con người vẫn còn ăn không đủ no mặc không đủ ấm đang dùng ánh mắt tha thiết nhìn hắn, những con người đã từng khẳng khái cưu mang khi hắn cùng đường, đang trông chờ hắn giúp bọn họ bình an trải qua mùa đông.

Đúng vậy, hắn không cách nào đi nói với Nguyệt Thất, không cách nào đi nói với những thuộc hạ đầu phục mình. Bọn họ nhất định sẽ trợn tròn mắt nhìn hắn, sau đó hỏi hắn: Thiếu gia, thật sự vì mấy tên nhà quê này mà buông tha việc đánh chiếm Tây Mông phồn hoa sao?

Đúng vậy, bất quá chỉ là con cháu đời sau của một đám nô tù đời đời sống ở tái ngoại, chỉ là mấy tên nhà quê không được thánh nhân cải giáo mà thôi. Nếu là trước kia, hắn có thể cũng sẽ nghĩ như vậy, hơn nữa còn hừ lạnh giễu cợt, đại trượng phu phải cầm được buông được, chí lớn bay xa, không thể chần chừ do dự như bọn đàn bà con gái. Nhưng cuối cùng đã có thứ thay đổi hắn, khi hắn bị cả thiên hạ ruồng bỏ, đã có người mở cửa đón hắn vào, dù đó là một cánh cửa cũ kỹ, một gian phòng dột nát, nhưng hắn đã ở trong đó, được chia sẻ một bát cháo ấm áp nhất từ trước đến giờ.

Khi đó, hắn đột nhiên thông hiểu Sở Kiều, hiểu được thiếu nữ luôn kiên định bảo hắn hãy chờ xem.

Nói đến phải cảm tạ ông trời, nếu như không có cơ duyên kia, hắn có thể vĩnh viễn cũng không hiểu được nàng, sẽ không hiểu được niềm vui khi có thể bảo hộ cùng gầy dựng người khác. Hắn ngạc nhiên phát hiện, loại vui sướng này không hề kém so với chinh phục cùng phá hủy.

Về phần Đại Hạ, về phần oán thù, về phần tranh đoạt Tây Mông...

Hắn chậm rãi nhắm mắt lại, bản thân hắn tự biết cái gì mới là thứ quan trọng nhất.

Đúng vậy, hắn vẫn phải đi tranh đoạt, đi đọ sức, dùng năng lực của mình bảo vệ thứ bản thân quý trọng, vẫn phải vững tâm đối đầu với mưu tính của những kẻ có tâm tư, vẫn phải ra chiến trường đối mặt với những kẻ không đồng chính kiến.

Ngay cả khi quyết định không đánh chiếm Đại Hạ, hắn vẫn không muốn ngồi yên nhìn cố quốc suy bại rồi rơi vào tay người khác.

Huống chi, hắn hôm nay đã không còn cách nào lui bước nữa, khi hắn dẫn binh ra khỏi Thùy Vi Quan, khi hắn tiếp nhận chức vị Đại Tư Mã của Đại Hạ, khi hắn dốc sức cản trở chiến cuộc giữa Đại Hạ và Biện Đường, kết cục của mọi chuyện đã được định sẵn.

Nhớ đến năm đó khi cùng đồ mạt lộ, hắn và Triệu Triệt đã đứng giữa đất trời giá rét ở Đông Hồ cùng nhau hạ lời thề, trong mắt hai người đều thấp thoáng một tia lạnh lẽo cực độ.

Thế nhưng, bây giờ trong màn sương lạnh lẽo đó lại chợt xuất hiện một đôi mắt đen bình tĩnh, ánh mắt kia nhìn rất ôn hòa, tuy nhiên nó lại chất chứa vẻ bi thương không thể che giấu.

Gia Cát Nguyệt lặng lẽ nhắm mắt lại, ngón tay vuốt ve thành chén trà bằng sứ trắng.

Hắn nhẹ mỉm cười, nụ cười khổ sở, lạnh lẽo tựa băng tuyết.

Tất cả đã kết thúc khi còn chưa bắt đầu, bọn họ vốn luôn như vậy, gặp nhau không đúng lúc, rời đi không đúng lúc, vận mệnh đã đẩy bọn họ đi lên con đường không thấy lối, sánh vai mò mẫm đi từng bước một.

Trong phòng tối mịt, ánh trăng trong trẻo xuyên qua cửa sổ chiếu vào, lạnh lùng hắt lên người Gia Cát Nguyệt. Nói cho cùng thì vẫn chỉ là một nam nhân mới hơn hai mươi tuổi, dẫu có trải qua nhiều trắc trở gian khổ, hắn thỉnh thoảng vẫn sẽ mơ thấy mình bách chiến bách thắng trở về, lập được chiến công hiển hách, sau đó đi đến trước mặt người trong lòng, ung dung nói một câu: Tất cả đều cho nàng!

Thế nhưng, tất cả cuối cùng chỉ có thể là một giấc mộng mà thôi.

Gia Cát Nguyệt dựa lên lưng ghế, khóe môi nở một nụ cười nhẹ bẫng. 


Chương 167: Nam Bắc ngược đầu

Tối hôm đó, mãi đến hừng đông Gia Cát Nguyệt mới mệt mỏi lên giường nằm, thần trí dần bay xa, mơ hồ thấy được những hình ảnh đã quên lãng từ lâu.

Trong tăm tối, hắn tựa như thấy được vô số quang ảnh lưu chuyển bên cạnh, nước lạnh thấu xương, toàn thân hắn cũng gần như bị đông cứng.

Một cánh tay trắng bệch bắt lấy tay hắn, liều mạng kéo hắn bơi về phía trước, máu tươi không ngừng trào ra, hòa tan trong làn nước giá băng.

Nguyệt Cửu đỏ bừng hốc mắt, vừa kéo hắn vừa liên tục rẽ nước. Ánh mặt trời xuyên qua tầng băng khiến làn nước sáng một cách mờ ảo, hắn mơ hồ nghe được bên trên truyền đến tiếng hô, rất lớn, rất vang vọng, xuyên qua nước truyền vào tai hắn, rõ ràng một cách dị thường: Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Hắn biết, bọn chúng cho rằng hắn đã chết, đấy là tiếng tung hô của chiến sĩ Bắc Yến dành cho Yến Tuân.

Âm thanh tựa như thủy triều càng lúc càng lớn, trừ âm thanh kia, cái gì hắn cũng không nghe được. Hắn đã bại bởi tay người khác, từ nhỏ đến lớn, hắn chưa bao giờ thua thê thảm như vậy, bây giờ chỉ e cả hắn cũng phải bỏ mạng tại đây.

Âm thanh dần xa, thân thể hắn đã sớm mất sạch nhiệt độ, máu như đều đông cứng, tứ chi không còn chút khí lực.

Đột nhiên, một tiếng *binh* mạnh mẽ truyền đến trong tai. Hắn ngẩng đầu lên, nhìn thấy Nguyệt Cửu đang ra sức dùng đầu mình dộng vào mặt băng.

*Binh! Binh! Binh!*

Tiếng động như ngũ lôi giáng vào tim hắn, đầu của viên thị vệ bật máu, máu tươi liền nhanh chóng tan ra trong nước.

Sắc mặt Nguyệt Cửu trắng hơn cả tuyết, môi không còn chút màu sắc, tựa như quỷ vừa bò ra khỏi hầm mộ. Tay chân đã cứng ngắc nhưng hắn vẫn không ngừng khoa nước, bơi xuống rồi lại trồi lên, cứ như vậy hết lần này đến lần khác...

*Binh! Binh! Binh!*

Khoảnh khắc đó, đáy lòng hắn như bầu trời bị tầng mây đen che phủ xuất hiện một lỗ hổng để ánh nắng tươi đẹp rọi vào. Hắn chợt bừng tỉnh, đó là thuộc hạ của hắn, từ bốn tuổi đã vào nhà hắn, cho đến nay, bọn họ chết vì hắn đều là lẽ thường, hắn cũng chưa bao giờ cảm thấy có gì không đúng. Nhưng trong một khắc đó, hắn lại nhớ đến rất lâu trước đó, có một đứa bé gái từng nói với hắn, cô bé có khuôn mặt xinh xắn nhưng lại mang ánh mắt lạnh lùng, gằn từng chữ nói với hắn: "Không ai trời sinh đã là nô lệ."

Không ai trời sinh đã là nô lệ.

Sau một tiếng *binh* nữa, máu tươi đột nhiên túa ra nhiều hơn, bốn bề là nước nhưng hắn vẫn có thể cảm nhận được mùi máu nồng sực.

Thân thể bỗng nhiên tràn đầy khí lực, hắn bơi lên, đẩy Nguyệt Cửu đầu đầy máu sang một bên, tay nắm lấy chủy thủ của Sở Kiều, ra sức đục.

"Ta không thể chết!" Hắn thấp giọng tự nói với mình.

"Ta không thể chết, ta còn rất nhiều tâm nguyện còn chưa hoàn thành."

Phổi như muốn nổ tung, thân thể gần như đông cứng, vết thương trước ngực không ngừng ứa máu nhưng hắn vẫn đấu tranh cầu sinh.

Ta không thể chết! Ta không thể chết! Không thể chết!

*Rắc!*

Tầng băng chợt rạn nứt rồi vỡ vụn, thay đổi áp suất đột ngột lập tức đẩy cả người hắn lên, ánh mặt trời rực rỡ đến chói mắt, không khí trong lành đập vào mặt, hắn hối hả hít vào từng ngụm, chỉ hận không thể móc phổi ra mà thở.

"Nguyệt Cửu!" Hắn hô to: "Chúng ta thoát rồi!"

Nhìn quanh vẫn không thấy Nguyệt Cửu, hắn lại lặn xuống, rốt cuộc tìm được thi thể của Nguyệt Cửu ở đáy hồ.

Viên kiếm khách trẻ tuổi thân đầy vết thương, mặt tái xanh đến rợn người, hai mắt trừng lớn, tóc tai tán loạn, đỉnh đầu toàn máu đen. Hắn cực khổ kéo Nguyệt Cửu lên, cố gắng ép ngực, chà xát mặt, chà xát tay Nguyệt Cửu, miệng không ngừng kêu: "Tỉnh lại! Ta lệnh cho ngươi, mau tỉnh lại!"

Cả đời Gia Cát Nguyệt, chưa từng nước mắt lã chã như vậy, nhưng hôm đó, hắn đã rơi lệ vì một gia nô. Trên đồng tuyết mênh mông bát ngát, hắn đã rống lên như một con sói bi thương.

Ba ngày sau, hắn cuối cùng gặp lại Nguyệt Thất bị nạn không chết.

Viên thị vệ trung thành mang theo nhóm Nguyệt Vệ mai phục tại Bắc Yến còn sót lại, đã tìm kiếm hắn ở lân cận hồ Xích Thủy hết ba ngày ba đêm, số người bị chết rét vì lặn xuống hồ đã lên đến hơn hai mươi người.

Sau đó, bọn họ mang hắn khi ấy nửa sống nửa chết lên núi Ngoại Long dưỡng thương đến tận nửa năm sau mới hồi phục, nhưng lúc tỉnh dậy, chờ đón hắn lại chính là tin tức kinh người từ đế đô.

Sáng hôm đó, nhóm người Nguyệt Thất lần lượt tiến vào báo cáo tin tức cho hắn nghe, từ lúc mặt trời mới lên mãi đến khi mặt trời lặn. Sư phụ đi tới nhìn tấm bản đồ Tây Mông treo trước mặt hắn, hờ hững hỏi: "Con định thế nào?"

Đã nhiều năm như vậy, đó là lần đầu tiên hắn cảm thấy mờ mịt như hiện giờ, hắn ngẩng đầu lên, hỏi: "Sư phụ, ta không còn đường để đi nữa."

Ông lão râu tóc hoa râm hiền lành mỉm cười, sau đó vung một chưởng đánh nát bản đồ đại lục Tây Mông, lẳng lặng nói: "Nếu không còn đường thì hãy tự mình mở đường cho bản thân."

Hắn nghi hoặc nhìn lại, Đại Hạ, Bắc Yến, Biện Đường và Hoài Tống đều bị một chưởng của sư phụ đánh nát, trên tấm bản đồ xuất hiện một lỗ hổng trống trơn, chỉ còn tái ngoại Khuyển Nhung, hải vực Đông Nam và phương Tây bao la.

"Con à, nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên*, làm sao con biết tấm bản đồ này chỉ lớn chừng này?"
* Ý chỉ người tài có người tài hơn

Sáng sớm ngày thứ hai, hắn nhận được một tin mới, tháng trước Đại Lý viện thẩm tra, cuối cùng tội của Mông Phong cũng bị định, nàng bị đày đi Thanh Hải, bây giờ e đã đến Thùy Vi Quan rồi.

Thế rồi mọi thứ như hòa tan trong ánh sáng chói lòa, những ngày tháng tối tăm lạnh lẽo như băng, loan đao trong tay hắn không ngừng vung lên, không ngừng đấu tranh với vận mệnh. Máu tươi bao trùm trước mắt, hắn cuối cùng tìm được chân lý của cuộc sống đã mất từ lâu.

........................................................................................................................

Sáng hôm sau, khoái mã từ thành Chân Hoàng đột nhiên xông vào biệt viện của Gia Cát Nguyệt, binh sĩ mặt phong trần, da môi khô nứt, áo choàng rách bươm, dính đầy cát vàng.

Nhìn sắc mặt của mọi người đều không quá tốt, Sở Kiều chợt hiểu ra gì đó, lẳng lặng đứng dậy rời khỏi phòng ăn.

Nửa canh giờ sau, Gia Cát Nguyệt chuẩn bị rời đi.

Sở Kiều đưa tiễn ra đến tận cửa thành Bắc. Ngoài thành trời hơi lạnh, Sở Kiều khoác áo choàng xanh, viền cổ lông trắng bao quanh khuôn mặt trắng mịn của nàng, thoạt nhìn vô cùng trang nhã xinh đẹp.

Đi đến đình Thập Lý ngoài thành, nhóm người Nguyệt Thất thức thời thối lui chỉ để lại hai người bọn họ. Gia Cát Nguyệt không nói một lời xuống ngựa, Sở Kiều theo ở sau lưng. Ngôi đình hoang vắng mọc đầy cỏ dại, lớp sơn trên cột đình đều đã bong tróc, bảng hiệu nghiêng lệch, thoạt nhìn vô cùng điêu tàn.

"Ta phải đi rồi." Gia Cát Nguyệt xoay người lại, lẳng lặng nhìn nàng, cất giọng rất nhẹ.

"Ừ." Sở Kiều gật đầu, "Đi đường cẩn thận."

Gia Cát Nguyệt hơi nhíu mày, bọn họ dường như luôn như thế này, sau khi mọi kích động lúc mới gặp lại qua đi, hai người càng thêm xa cách cùng lạnh nhạt. Tựa như ai cũng không rõ nên đối xử với đối phương ra sao ngoài mấy lời chào hỏi vụn vặt.

"Sau khi ta đi, nàng muốn đi đâu?"

"Ta? Có lẽ sẽ đi Biện Đường một chuyến trước."

"Sau đó thì sao?"

"Sau đó?" Sở Kiều thoáng chau mày, suy nghĩ một lúc mới cười nói: "Cũng chưa biết, có lẽ sẽ đi ngao du một thời gian, ở đâu có đồ ăn ngon, ở đâu có cảnh đẹp thì dừng chân thăm thú, sao biết trước được."

Một trận gió chợt thổi qua, tiếng *đinh đang* thanh thúy vang lên, Sở Kiều và Gia Cát Nguyệt đồng thời ngẩng đầu lên nhìn. Thì ra ngôi đình cũ nát này vẫn còn treo một chuỗi chuông gió, chuông gió bị nắng mưa làm cho rỉ sét bạc màu từ lâu, nhưng âm thanh vẫn còn rất trong trẻo dễ nghe.

"Nàng... có đi Bắc Yến không?"

Sở Kiều lẳng lặng cười, "Ta đã ở đó rất nhiều năm, có bao nhiêu cảnh đẹp đều đã đi xem hết rồi. Huống chi, hiện tại thân thể ta không tốt, không chịu được cái rét của phương Bắc nữa, có lẽ ngay cả thành Chân Hoàng cũng không dám đi."

Gia Cát Nguyệt gật đầu, dường như cũng hiểu được cái gì, động tác chợt trở nên cứng ngắc, mấy lời còn chôn trong lòng cũng không nói ra được nữa.

Những ngày qua tựa như hoa nở trên mặt biển, tạm bợ mơ hồ như một giấc mộng, thời gian qua đi, cũng sẽ tan biến mà thôi. Hai người bọn họ, luôn là không đúng lúc, ngay cả bây giờ đứng ở đây, cũng là một loại cưỡng cầu bất đắc dĩ. Kết cục đã được định trước, giống như cát mịn trong tay, càng muốn nắm bắt thì trượt khỏi tay càng nhanh hơn.

Gia Cát Nguyệt xoay người đi ra ngoài, sắc mặt vẫn cô ngạo và thanh lãnh như xưa, không có ý định nói thêm câu nào nữa.

"Gia Cát Nguyệt!" Sau lưng Gia Cát Nguyệt đột nhiên vang lên một âm thanh mềm nhẹ, vạt áo hắn cũng đồng thời bị một bàn tay nhỏ nhắn lành lạnh nắm lại, vẫn vẻ cố chấp rất quen thuộc kia.

"Cảm ơn ngươi." Sở Kiều thì thầm, giọng nói hơi nghèn nghẹt nhưng vẫn liền mạch, "Ta vốn tưởng đời này không còn cơ hội nói cảm ơn ngươi nữa, nhưng nhờ ông trời phù hộ, ngươi cuối cùng vẫn bình an vô sự."

Nàng khẽ mỉm cười, "Gia Cát Nguyệt, cả đời ta bị trói buộc bởi nhiều thứ, ta đã làm rất nhiều chuyện, đi rất nhiều đường, có đúng cũng có sai, nhưng ta chưa bao giờ hối hận, ta hiểu rõ lòng mình, không để nợ bất kỳ ai, ngoại trừ ngươi, ta đã thiếu ngươi quá nhiều, nhiều đến mức có làm thế nào cũng không trả đủ. Hôm nay ngươi bình an trở về, ta vốn nên đi theo ngươi, dùng cả đời còn lại hoàn trả ân tình của ngươi. Nhưng ta hiện giờ đã không còn là ta lúc xưa, sau khi trải qua mọi chuyện, ta đã không còn dũng khí đối đầu với những binh giao tranh đấu kia nữa. Tú lệ tướng quân của Bắc Yến đã chết, hiện tại còn sống chỉ là một nữ nhân bình thường đã mất lý tưởng, không có năng lực đứng cạnh ngươi."

Bên tai vẫn *đinh đang* tiếng chuông gió, thời gian hiện tại như ngừng trôi, số mệnh quanh đi quẩn lại tựa một trò chơi liên tục đùa bỡn thế nhân vô năng.

Từ phía sau, Sở Kiều đột nhiên nhích đến gần, giang rộng hai tay vòng lên ôm lấy lưng Gia Cát Nguyệt, chỉ thêu trên cẩm bào làm nổi bật cổ tay trắng trẻo của nàng. Gió thổi phe phất, nàng từ từ siết chặt vòng tay, chậm rãi áp mặt lên lưng hắn.

Một giọt lệ chảy ra khỏi khóe mắt, lăn dài trên má rồi rơi xuống lưng áo xanh đen của nam nhân, khiến nơi đó trở nên sẫm màu hơn.

"Gia Cát Nguyệt, thật xin lỗi." Giọng nàng rất nhỏ, trong gió Bắc nghe như tiếng trẻ con khóc nỉ non.

Không trung chợt có tuyết rơi, nhưng bông tuyết còn chưa chạm đất thì đã tan mất, lẳng lặng thấm ướt đầu vai hai người.

Khoảng cách gần đến mức có thể nghe được hô hấp của nhau, đây là lần đầu tiên nàng chủ động ôm hắn. Năm tháng như dòng nước chảy, gặp rồi lại chia ly, chia ly rồi lại tái ngộ, vừa mới bắt đầu thì số mệnh đã trêu đùa với bọn họ. Trải qua bao nhiêu năm tháng nhưng gió tanh mưa máu cuối cùng vẫn như gông xiềng khóa chặt lấy hai người.

Một đàn chim xẹt qua không trung rồi bay về phía chân trời, đàn chim bay thành hàng đều đặn sải cánh hướng về phía Nam, thoáng chốc đã xa dần rồi mất dạng.

Sở Kiều rốt cuộc thả lỏng vòng ôm rồi rút tay về, y phục của hắn thật lạnh, khiến tay nàng cũng lạnh theo, lưng hắn vẫn thẳng tắp, tựa như gốc cổ thụ không gì trên thế gian có thể đốn ngã. Hắn vẫn cao lớn tuấn tú như vậy, khí tức vẫn lạnh lẽo như muốn đóng băng không khí xung quanh.

Hai cánh tay chợt trở nên thừa thãi, Sở Kiều mấp máy khóe môi, nở một nụ cười thật nhạt, "Bảo trọng."

Phương xa đột nhiên nổi gió to khiến chuông gió *đing đang* liên hồi. Gia Cát Nguyệt bước ra khỏi đình, gót giày tinh xảo giẫm trên lớp cỏ vàng khô khiến chúng gãy vụn, gió thổi qua, bay tan tác. Hắn nhảy lên lưng ngựa, chúng Nguyệt Vệ vung mạnh roi, hô to khẩu hiệu lên đường, vó ngựa tung bay phá vỡ sự yên tĩnh trên đường núi, vô số vạt áo choàng phấp phới tựa như chiến kỳ đồng loạt hướng về phía Bắc mà đi.

Hắn không hề quay đầu lại, dáng vẻ anh tuấn và kiêu ngạo ngồi trên lưng ngựa, áo choàng xanh thẫm bay múa, tóc đen như mực hòa trong gió lạnh, càng lúc càng xa, cuối cùng biến mất trong bụi cát cuồn cuộn...

Sương sớm còn chưa tan, vây trắng xóa cuối con đường, cỏ khô hai bên đường bị gió xoáy cuốn bay tan tác.

Sở Kiều đột nhiên nhớ lại rất lâu khi trước, trên cao nguyên Bắc Yến, nàng và Tú lệ quân bị Trình Viễn tính kế rồi lọt vào vòng vây của Đại Hạ.

Buổi tối hôm đó nàng cũng chăm chú nhìn theo bóng lưng hắn như hiện giờ, lẳng lặng nhìn hắn dần dần biến mất trong đồng tuyết mịt mù. Khi đó, hắn cũng không hề quay đầu lại, nhưng lại đi rất chậm, tay dắt ngựa, người mặc áo lông dày sụ, bão tuyết rơi không ngừng, rơi nặng cả mi mắt, trời vô cùng lạnh, lạnh đến mức khiến người ta phải rơi lệ.

Chớp mắt mà đã nhiều năm như vậy.

Mặt trời nhô lên xua tan màn sương sớm, trên đường bắt đầu xuất hiện người bán hàng rong cùng người đi đường qua lại, tiếng động huyên náo cả một vùng.

Rồi mặt trời dần lên trên đỉnh đầu, đã có rất nhiều đội nhân mã đi ngang qua, có cả xe ngựa của tiểu thư nhà quan đi bái Phật, có tiêu đội giang hồ áp tải hàng, có hiệp khách áo trắng thường thấy trong tiểu thuyết võ hiệp, nhìn thấy nàng đứng trong đình, thậm chí còn có người tiến lên chào hỏi trêu đùa phong lưu.

Nhưng cái gì nàng cũng không nhìn thấy, nàng chỉ lẳng lặng đứng đó, tiếng động xung quanh càng lớn thì nàng lại thấy không khí như càng cô tịch. Mặt trời lên cao rồi lại rơi xuống, vầng trăng cong cong như một chiếc móc bạc chậm rãi nhô lên, tỏa ra ánh sáng trong trẻo lạnh lùng.

Xung quanh dần trở nên vắng lặng, chỉ còn lại một mình Sở Kiều, tay chân nàng đều đã chết lặng, đêm càng lúc càng sâu, bóng tối bao phủ vạn vật, cả đường về và đường phía trước đều tối tăm không rõ lối.

Sở Kiều hít một hơi thật sâu, cúi đầu lắc lắc cần cổ đã cứng ngắc, mọi khổ sở trong lòng hóa thành một tiếng thở dài không được phát ra, chỉ chậm rãi được nuốt ngược trở về.

Gió nhẹ thổi qua trên đồng hoang khiến bãi cỏ kêu xào xạc, nàng chợt cảm thấy vô cùng trống trải, chuyện cũ như nước lại lần lượt trôi qua trong đầu rồi đi xa, chỉ còn lại một khoảng không trống rỗng. Mười năm sinh tử, cuối cùng tất cả đều trở thành một khoảng không mờ sương, như gió luồn qua đầu ngón tay, muốn bắt cũng chỉ hoài công.

Nàng đột nhiên nhớ lại mấy lời của rất nhiều năm về trước.

"Tiểu Hoàng, cậu nhiều đàn ông như vậy, rốt cuộc thích ai thế?"

Tiểu Hoàng đang giũa móng tay, nghe hỏi thì nhướng mày cười hỏi: "Mình? Chẳng rõ nữa, mà chưa kể, bọn họ có ai xứng với mình chứ?"

"Tiểu Thi, còn cậu? Định cả đời quấn lấy anh chàng tiến sĩ kia sao?"

Tiểu Thi vừa mới dọn cơm mình vừa nấu lên, cười ngọt ngào: "Ừ, thế thì sao?"

"Cẩn thận một chút, cậu nuôi tên đó ăn học, coi chừng sau này hắn công thành danh toại sẽ đá cậu đấy."

"Còn lâu mới có chuyện đó." Tiểu Thi lườm Miêu Nhi, "Cậu thì sao, nếu sau này bị người trong lòng đá, cậu sẽ làm thế nào?"

"Dám à?" Miêu Nhi bật đứng lên ghế sô pha, bộ dạng hùng hổ nói: "Nếu hắn dám làm vậy mình sẽ thiến hắn, sau đó bắt đầu công cuộc lôi hồ ly tinh ra ánh sáng để giày xéo."

Tiểu Hoàng khinh thường hừ một cái, "Cậu làm được sao?"

"Dám xem thường à? Tối nay sẽ bán cậu vào nhà chứa cho biết mùi."

"Được thôi." Tiểu Hoàng uể oải vươn vai, "Mình cũng đang định tới Amsterdam thi lấy chứng nhận nghề nghiệp đấy, nhớ báo cho lão già nhà mình trước một tiếng."

"Sở Kiều thì sao?" Tiểu Thi dùng nĩa ăn lô bánh bao nhỏ vừa ra lò, dùng vai huých nàng, híp mắt cười hỏi: "Sở Kiều sẽ làm gì khi có người mình thích?"

Lúc ấy nàng đang chỉnh sửa tài liệu cho nhiệm vụ sắp tới, nghe hỏi thì có hơi ngẩn ra, sau đó liền cười nói: "Mình cũng không biết."

"Sao lại không biết?" Miêu Nhi nhón một cái bánh trên dĩa của Tiểu Thi, khịt mũi, "Hừ, không được qua loa cho xong, mau thành thật khai báo."

"Mình à?" Sở Kiều im lặng suy nghĩ một chút rồi mỉm cười nói: "Chắc sẽ đối xử với người đó thật tốt."

"Tốt cỡ nào?"

Sở Kiều khi ấy còn rất trẻ, đã quay đầu nhìn ra bầu trời đêm bên ngoài, nghiêng đầu ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng mới nhẹ giọng nói: "Rất rất tốt."

Rất rất tốt...

Sở Kiều xoay người kéo cương ngựa, chú ngựa ngoan ngoãn đi đến, nhẹ nhàng cọ cọ mặt nàng, mắt lộ chút lo lắng.

"Ha ha." Bị cọ ngứa, Sở Kiều không khỏi bật cười một tiếng. Đây là Lưu Tinh, Gia Cát Nguyệt đã nuôi nó nhiều năm, bây giờ được trả lại cho nàng, vẫn còn thân thiết như xưa.

Nàng đưa tay đẩy nó ra, hơi khàn giọng nói: "Lưu Tinh, chớ quậy nữa."

Khi ống tay áo không cẩn thận quẹt trúng mặt, Sở Kiều mới sửng sốt nhận ra mặt mình đầy nước mắt. Nàng quay đầu nhìn Lưu Tinh, chú ngựa đang hất đầu về phía Bắc, thở phì phì, tựa như muốn chở nàng đi đuổi theo người nào đó.

"Được rồi, được rồi." Nàng vuốt ve đầu chú ngựa, áp mặt lên cổ nó dịu dàng trấn an nó. So với ngựa chiến thì Lưu Tinh cũng đã hơi già, giống như trái tim hiện tại của nàng vậy, đã già cỗi và đầy thương tích.

"Chúng ta đi thôi." Sở Kiều ngồi lên lưng Lưu Tinh, thúc ngựa chậm rãi đi về phía Nam.

Trăng sáng chiếu lên người nàng kéo thành một cái bóng thật dài, chim rừng đang ngủ đêm bị vó ngựa của nàng kinh động, bay nháo nhác. Thân ảnh thiếu nữ càng lúc càng nhỏ dần, cuối cùng khuất dạng sau sườn núi quanh co. 


Chương 168: Bình nguyên nổi gió

Trước cơn bão lớn luôn là khoảng yên bình đến dị thường. Đầu tháng giêng, năm mới vừa đến nên toàn thành Chân Hoàng chìm đắm trong tiếng cười nói hân hoan. Trận tuyết to rơi một đêm đã phủ trắng thành, kéo dài đến vạn dặm. Ngoài thành chợt xuất hiện một nhóm nhân mã nhanh chóng phi về phía cổng thành, từ xa thủ thành đã thận trọng giơ tay kính chào theo nghi thức quân đội, mãi đến khi vó ngựa biến mất ở cuối con phố dài.

Gia Cát Nguyệt theo cửa sau vào phủ, nô tài trong Thanh Sơn viện đều đã chuẩn bị xong từ nhiều ngày trước, người bên ngoài vào hỏi thăm đều bị từ chối khéo. Gia Cát Nguyệt mặt không đổi sắc bước vào viện, cởi áo khoác lông xuống ném cho Hoàn Nhi rồi trầm giọng hỏi: "Người đang ở đâu?"

"Dạ, đang ở bên trong, đã đợi thiếu gia lâu rồi."

Cửa phòng bị đẩy ra, mùi đàn hương lan tỏa khắp nơi, một nam tử áo đen đứng dậy. Nam tử dáng vẻ tuấn tú, thần sắc kiên định, ánh mắt sắc bén, khí tức trầm ổn nhưng vẫn không mất vẻ ung dung phóng khoáng.

Ánh mắt hai người giao nhau, khóe môi luôn lạnh nhạt như băng sương của Gia Cát Nguyệt đột nhiên cong lên nở một nụ cười nhàn nhạt, hắn tiến lên một bước, hai người thân mật vỗ vai đối phương rồi ôm chầm lấy nhau.

"Đi đường thuận lợi chứ?" Gia Cát Nguyệt cởi bảo kiếm bên hông ra, ngồi xuống trên ghế, thoải mái nâng chén trà trước mặt nam tử nọ lên uống một hớp rồi mở miệng hỏi.

Triệu Triệt mỉm cười, nhiều năm sinh sống nơi biên quan, trải qua bao khó khăn thiếu thốn đã khiến nam nhân này thêm mấy phần phóng khoáng tiêu sái, ánh mắt trầm ổn và thâm thúy hơn, không còn bóng dáng của vị hoàng tử kiêu ngạo hống hách khi xưa nữa, "Vẫn ổn, chỉ là không quen mùi phấn hương trong thành, vừa nãy đi ngang qua phố Thập Hoa, bị nhảy mũi hết mấy bận."

Gia Cát Nguyệt nghe nói thì bật cười, "Mấy lời này may mà nói cho ta nghe, nếu là người khác thì chắc đã muốn hung hăng đánh điện hạ một trận rồi."

Triệu Triệt đoạt loại chén trà của mình, liếc mắt đánh giá Gia Cát Nguyệt một lượt rồi thong thả nói: "Lúc này mà còn có thể nói cười như vậy, xem ra thủ đoạn của vị ở Bắc Yến kia không hề khiến ngươi bận tâm."

Gia Cát Nguyệt đang uống trà, nhướng mày mỉm cười nói: "Điện hạ cũng cảm thấy là do bên đó động tay động chân?"

"Rõ ràng như thế mà còn phải hỏi?" Triệu Triệt cười lạnh, "Trận Bắc Phạt đầu tiên, Hoài Tống bí mật viện trợ lương thảo cùng quân nhu cho Bắc Yến, để Bắc Yến mượn thủy lộ Nam Cương đi vòng đến Tây Bắc. Lần Bắc Phạt thứ hai, Hoài Tống nhiều lần đúng lúc tiến hành luyện diễu binh ở biên giới phía Đông để phân tán sự chú ý của chúng ta đối với Bắc Yến. Bắc Yến và Hoài Tống tuyệt đối có phương thức liên lạc bí mật mà không ai biết, chỉ là ta vẫn chưa rõ đến tột cùng là ai mới có thể tác động Nạp Lan trưởng công chúa ra mặt phối hợp với Bắc Yến thi triển kế sách giật dây như vậy."

"Không cần biết là ai, chỉ cần biết mưu đồ đích thực của bọn họ thì cũng dễ đối phó thôi." Gia Cát Nguyệt hờ hững nói, tựa như không thích thú việc phải phí thời gian vào đề tài này cho lắm, rồi thuận miệng tiếp lời hỏi: "Tình hình Đông Bắc gần đây ra sao, điện hạ chuẩn bị thế nào rồi?"

Nói đến thế cục Đông Bắc, trên mặt Triệu Triệt không tự chủ lộ vài phần kiêu ngạo, ung dung nói: "Ngươi không cần phải lo lắng, Đông Bắc do ta quản đã sớm vững vàng như thép, thương đạo Nhu Lan đã được khai thông, đã bắt đầu mua bán với người Hồ người Nga ở Tây Vực. Đông Bắc đất đai rộng rãi, hoang sơ nhưng màu mỡ, người dân không những chất phác mà còn anh dũng. Chúng ta đã bí mật xây dựng suốt hai năm, hiện giờ toàn Đông Hồ đều nằm trong tay ta, cũng đạt được chút thành tựu bước đầu, tin rằng không quá năm ba năm nữa sẽ phát triển không kém bổn thổ Đại Hạ."

"Điện hạ âm thầm di dời dân chúng, phía trên không phát hiện sao?"

"Chuyện này nhắc đến đúng là khổ cho Ngụy Thư Diệp, cũng nhờ có hắn ở trên triều chu toàn cho ta, cộng thêm Đông Hồ quả thực quá xa xôi, lại bị dãy Bạch Nga ngăn trở, dân chúng ở đó lại hỗn tạp nên trước giờ vẫn không được phía trên coi trọng."

Gia Cát Nguyệt gật đầu, trầm giọng nói: "Vậy thì tốt."

Triệu Triệt thở dài, vỗ vỗ vai Gia Cát Nguyệt, ánh mắt thoáng xẹt qua chút tang thương rồi trở lại bình thường, mỉm cười nói: "Ngươi cũng xem như tận tâm tận lực với Đông Hồ, nếu có thời gian thì đến thăm một chút, ngươi và A Nhu cũng đã lâu không gặp rồi."

Gia Cát Nguyệt nghe nói liền nhếch môi cười, trêu đùa: "Vậy phải chờ xem công lực của điện hạ thế nào, nếu nàng nhìn thấy ta còn la hét đòi giết đòi báo thù thì xin miễn, ta đây cũng không dám tự mình đi tìm rủi ro đâu."

Triệu Triệt cười to, "Ngươi làm nhiều việc ác, bị báo ứng như thế cũng đáng đời."

Lò than cháy bập bùng tỏa hơi ấm khắp phòng, thời gian như nước chảy, thoáng cái mà đã hai năm, hai nam nhân từng trắng tay lại có cơ hội ngồi cùng một nơi, không khỏi sinh ra cảm khái nhân sinh phù du.

Năm đó Triệu Dương thất bại trong trận Bắc Phạt lần thứ nhất, Triệu Tề chết thảm, đế quốc cùng đường liền dứt khoát ném Gia Cát Nguyệt và Triệu Triệt ra chiến trường. Hai người mang tàn binh bại tướng còn sót lại một đường hành quân đến thẳng Nhạn Minh Quan tiến hành phản kích, bắt đầu trận Bắc Phạt lần hai.

Suốt một năm, bọn họ từ tử địch suốt ngày hằm hè đã dần dần trở thành chiến hữu thân cận. Cuộc chiến tàn khốc đẫm máu kia đã hun đúc nên tình hữu nghị bền vững như sắt thép giữa các nam nhân, cũng như đã trui trèn nên mối đồng minh kiên cố nhất đại lục Tây Mông. Cùng trải qua quan lộ gập ghềnh khó dò, hai người không khó phát hiện bọn họ có cùng nhận thức, từ ban đầu dò xét, phòng bị rồi dần đến kinh ngạc, thưởng thức, tin tưởng lẫn nhau, thậm chí còn nhiều lần cùng sinh cùng tử.

Đến khi Gia Cát Nguyệt bị dồn ép phải chạy đến thành Cống Duyệt, sống chết không rõ còn Triệu Triệt bị đế đô tước binh quyền thì bọn họ mới tạm thời mất liên lạc với nhau.

Sau khi trở lại thành Chân Hoàng, Triệu Triệt cũng không hề hối hả phủi sạch quan hệ với Gia Cát Nguyệt, ngược lại vẫn thúc đốc nhân mã của mình ở Bắc Yến ra sức tìm kiếm cứu hộ, hơn nữa còn ở trên triều cố vãn hồi danh dự cho Gia Cát Nguyệt. Thế nhưng chuyện xảy ra hết sức đột ngột, dưới tình cảnh văn võ cả triều đều phẫn nộ, Triệu Triệt không thể tránh khỏi bị liên lụy, cuối cùng bị đày đi trấn thủ biên cương Đông Bắc cằn cỗi cực hàn.

Nhân tình thoáng ấm rồi lại thoáng lạnh lại một lần nữa khiến cho Triệu Triệt nhìn rõ sự bỉ ổi thối nát của vương triều Đại Hạ. Nhìn tình cảnh cha mẹ huynh đệ vẫn có thể sát hại lẫn nhau, hắn chán nản lên đường đi Đông Bắc, khi gần đến nơi lại gặp được Gia Cát Nguyệt từ vạn dặm xa xôi đuổi đến.

Đứng giữa trời băng đất tuyết lộng gió, hai vị công tử thế gia mất đi tất cả đã cùng nhau lập lời thề son sắt, cũng như đồng lòng sẽ tương trợ khi đất nước lâm nguy.

Khi ấy, bọn họ một Bắc một Tây, tích cực bôn tẩu, giúp đỡ lẫn nhau, cùng phấn đấu vì nhiệt huyết sâu tận xương dành cho cố quốc. Và Triệu Triệt cũng biết, sở dĩ Gia Cát Nguyệt vẫn một lòng ủng hộ Đại Hạ, nhiều lần trợ giúp Đại Hạ trong chiến trận với Bắc Yến, chủ yếu là vì ân tình với mình.

Gia Cát Nguyệt là một người trong nóng ngoài lạnh, ân huệ nhỏ nhất từ người khác cũng sẽ khiến hắn ghi tạc trong tim.

"Bệnh của hoàng thượng thế nào rồi?"

Triệu Triệt bất giác nhướng mày, hờ hững nói: "Đang trong tình trạng nguy kịch, có lẽ không chống đỡ được lâu nữa."

Gia Cát Nguyệt hơi nhíu mày, trầm giọng nói: "Chúng ta vẫn cần thêm thời gian."

Triệu Triệt gật đầu, sau đó khẽ mỉm cười, "Có điều cũng chưa thể khẳng định, mấy năm trước thái y cũng nói ông ta đang nguy kịch, không còn nhiều thời gian, nhưng đã nhiều năm như vậy, ông ta vẫn là người sống thọ nhất, thân là đế vương một nước, sẽ không chết dễ dàng như vậy đâu."

Gia Cát Nguyệt xoay đầu lại, cau mày nói: "Ông ta dù sao cũng là phụ thân của điện hạ."

"Vậy sao, chỉ e ta và ông ta chỉ có cái danh phụ tử mà thôi, còn không thì giống quân thần hơn. Ban đầu nếu không có Ngụy Thư Diệp cầu xin, không chừng ngay cả cơ hội bị đày đi biên cương ta cũng không có, mà trực tiếp bị kéo lên đài Cửu U xử trảm rồi. Tất cả mọi người đều rõ, ông ta ngoài mặt giả mù sa mưa, nhưng thật ra là là người tàn nhẫn hơn ai hết."

Hai năm bươn chải nơi tái ngoại đã khiến Triệu Triệt thêm vài phần trầm ổn, hắn nhìn sang Gia Cát Nguyệt, lẳng lặng hỏi: "Còn ngươi, định ứng phó với chuyện lần này thế nào?"

Gia Cát Nguyệt nhướng mày nhìn sang, "Điện hạ nói thử xem?"

"Muốn nghe thì ta nói, chi bằng ngươi cứ đồng ý kết thân với công chúa Hoài Tống kia, xem bọn họ sẽ có phản ứng ra sao. Không phải bọn họ đang phỏng đoán ngươi sẽ cự tuyệt hôn sự sao, cho bọn họ thất vọng đi vậy."

Gia Cát Nguyệt thoáng nhíu mày, dĩ bất biến ứng vạn biến* quả thực là phương pháp tốt nhất, có điều... Hắn khẽ nhếch môi mỉm cười, thần sắc vẫn ung dung, cũng không đáp lời.
*Dĩ bất biến ứng vạn biến: lấy bình tĩnh chống lại ngàn biến động, lòng ta không "biến" thì ắt không còn bất cứ "vạn biến" nào lung lạc được ta.

"Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản*, e ngươi bây giờ chính là là đang như vậy. Chuyện đã đến giờ mà ngươi vẫn chưa chết tâm sao?"
*Tình yêu nam nữ quyến luyến với nhau không rời thì sẽ khiến ý phí phấn đấu của nam nhân tiêu tan.

Gia Cát Nguyệt tránh né không trả lời, chỉ nói: "Cũng không hẳn chỉ có cách này, nếu bọn họ đã muốn đùa thì ta đùa bọn họ một phen vậy, vừa vặn thu hút sự chú ý của người khác, cho điện hạ một cơ hội."

Triệu Triệt trầm giọng nói: "Bọn họ lần này dụng tâm như vậy mà ngươi vẫn tìm được kẽ hở thoát thân à?"

"Không có kẽ hở?" Gia Cát Nguyệt cong môi cười lạnh, "Vậy thì tạo kẽ hở chui ra."

Triệu Triệt gật đầu rồi nhanh chóng đứng dậy, tay đặt lên chuôi kiếm, trường bào đen thẫm trên người tăng thêm vẻ uy vũ, hắn trầm giọng chậm rãi nói: "Bày mưu tính kế mãi cũng vô ích, cuối cùng vẫn phải dựa vào đao kiếm nói chuyện mà thôi. Lão Tứ, chúng ta không còn như lúc trước, nếu không được thì không cần phải nhẫn nhịn, cứ thoải mái để lộ thực lực, sẽ không ai dám miễn cưỡng ngươi."

Gia Cát Nguyệt cười nói: "Sao lại nói ta như nữ tử nhu nhược bị bức ép như vậy? Ý tốt của điện hạ ta xin ghi nhớ, lần này điện hạ liều mạng vào thành, hành sự phải cẩn thận."

Triệu Triệt nói: "Ít nhất cũng phải gặp mặt ngươi một lần."

Ngoài cửa vang lên tiếng gõ cửa thật nhỏ, Nguyệt Thất thấp giọng báo: "Thiếu gia, lão gia đã biết người trở lại, trong cung cũng phái người triệu thiếu gia vào cung."

Triệu Triệt cầm áo lông khoác lên người, lật mũ trùm kín đầu không lộ mặt, trầm giọng nói: "Ta đi đây, một mình ngươi phải cẩn thận."

"Điện hạ cũng vậy, hãy dùng mật đạo mà đi, bảo trọng."

Hai người gật đầu với nhau, Triệu Triệt kéo cửa theo mấy người Hoàn Nhi rời đi, khuất dạng trong gió tuyết đầy trời.

"Thiếu gia." Nguyệt Thất đi vào, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt đứng trong phòng, sắc mặt trầm tĩnh, không rõ là đang nghĩ gì.

Cảm giác có bằng hữu quả nhiên thật tốt.

Hắn từ trước đến nay luôn là người xa cách khó gần, ngay cả với huynh đệ trong gia tộc cũng không có chút tình cảm thân cận. Hiện tại trong thành canh phòng cẩn mật như vậy mà Triệu Triệt vẫn có thể mạo hiểm đến gặp hắn, thật sự không khỏi khiến hắn cảm động.

"Thiếu gia? Thời gian không còn sớm." Nguyệt Thất nhắc nhở.

Gia Cát Nguyệt đột nhiên khẽ cười một tiếng, sau đó trầm giọng nói: "Chuẩn bị xe."

Nguyệt Thất nhất thời sửng sốt, "Thiếu gia muốn đi đâu?"

"Vào triều."

"Vào triều?" Nguyệt Thất sững sờ hỏi: "Thiếu gia không cần tắm rửa thay y phục rồi mới diện thánh sao? Hơn nữa, thiếu gia là Tư Mã, võ tướng không thể ngồi xe, nên cưỡi ngựa mới đúng."

Gia Cát Nguyệt cúi đầu, trong mắt chậm rãi lộ ra vẻ lạnh lẽo bức người, khinh thường chậm rãi nói: "Ta không chỉ là Tư Mã của Đại Hạ mà còn là phiên vương tay cầm năm mươi vạn binh mã Thanh Hải, ta nghĩ bọn họ chắc đã quên điểm này rồi."

Ánh mặt trời xuyên thủng tầng mây, Gia Cát Nguyệt bước ra khỏi phòng, Phương Chử ở phía sau khoác áo lông lên vai hắn. Mười tám cánh cổng lớn của Gia Cát gia đồng thời được mở rộng đón chào ánh sáng, Gia Cát Nguyệt mặt như quan ngọc, môi đỏ như chu sa, sống lưng thẳng tắp, ung dung rời khỏi phủ Gia Cát. Ngoài cửa phủ có nhóm quan viên đứng tụ một chỗ, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt đi ra lập tức chen lên, các Nguyệt Vệ liền bước ra, một mực giữ khoảng cách một trượng ngăn bọn họ với Gia Cát Nguyệt.

Gia Cát Nguyệt mắt nhìn thẳng, giẫm lên bục đá ngồi vào cỗ xe ngựa tráng lệ được kéo bởi tám bảo mã, lẳng lặng ra lệnh: "Đi."

"Thiếu gia muốn đi đâu ạ?" Phu xe quay đầu hỏi.

Phương Chử mặt không đổi sắc bình tĩnh trả lời thay, "Cung Thịnh Kim."

Gió lạnh luồn vào trong xe, Gia Cát Nguyệt trầm tĩnh tựa vào thành xe lót nệm mềm.

Bản lĩnh khuấy đục nước của hắn chưa bao giờ kém, đã như vậy thì hắn sẽ khiến cho ván cờ này càng thêm khó đoán, ai cũng đừng mong chỉ lo cho thân mình, đứng ngoài cuộc bàng quan nhìn.


Chương 169: Người thương đi xa

Bóng đêm phủ xuống, vòng ngoài buổi yến tiệc còn chưa dứt thì vòng trong đã bắt đầu. Biện Đường dẫu có khí hậu ôn hòa nhưng vào tháng giêng vẫn khá lạnh, ban đêm gió thổi, khoác áo choàng vẫn bị hàn khí làm lạnh sống lưng. Vừa quá trưa thì trời đổ mưa rả rích mãi tận đêm mới dừng, cho nên không khí khi đêm đến càng thêm lạnh lẽo.

Trời lạnh nhưng chúng phu nhân vẫn đầu tóc vấn cao, xiêm y lả lướt thản nhiên để lộ gần nửa khuôn ngực trắng như tuyết, ánh mắt mị hoặc đưa tình. Thỉnh thoảng có phu nhân to gan, trên đường tiến lên mời rượu còn cố tình vén váy để lộ một phần bắp chân nhẵn mịn.

Lý Sách đã uống rất nhiều rượu, híp mắt dựa vào lưng ghế êm ái. Cửa điện Nhu Phúc mở rộng, đại sảnh rực rỡ ánh đèn, nhạc sư giữa điện gảy đàn, tiếng nhạc du dương uyển chuyển theo gió đêm xoay chuyển khắp nội điện. Nhóm vũ cơ uốn lượn eo thon, đôi chân thon dài không ngừng khiêu khích, mồ hôi rịn ra phủ lên làn da óng mịn như mật ong. Một vũ cơ to gan xoay một vòng lớn rồi thuận thế nằm vào lòng Lý Sách, đuôi mắt nhướng cao, đôi môi nũng nịu khẽ dẩu, cần cổ thon dài, xiêm y mỏng manh không che nổi hai bầu ngực tròn.

Vũ cơ nọ giơ cánh tay trắng nõn bưng ly rượu nho thơm nồng lên, cổ tay nhẹ nghiêng chén khiến rượu đổ xuống phần cổ duyên dáng, sau đó chảy xuống giữa hai đồi tuyết trắng.

"Hoàng thượng, ngài say rồi sao?" Quả nhiên mỹ nhân hiếm có, thân hình mềm mại không xương của vũ cơ cọ cọ trong lòng Lý Sách, đôi môi son khẽ hé, nũng nịu thỏ thẻ, vừa nói vừa luồn tay vào trong vạt áo hắn, đi nửa đường thì dừng lại, khẽ nhướng đuôi mắt khiêu khích nhìn lên.

Vũ cơ này chính là phu nhân Tử Minh được sủng ái nhất cung Kim Ngô một năm nay. Lý Sách tính phong lưu, chưa bao giờ sủng ái người nào quá một tháng, nhưng vị phu nhân xuất thân từ một thế gia suy tàn này lại thịnh sủng không suy suốt cả năm, có thể thấy được người này có sức quyến rũ đặc biệt đến cỡ nào.

Lý Sách nhướng ánh mắt ngà ngà say nhìn xuống, hắn mặc cẩm bào tím quý giá, cổ áo viền lông chồn đen nhánh, vạt áo mở rộng để lộ một phần ngực, vô cùng tà mị.

Theo thói quen, nam nhân khẽ nheo mắt, mi tâm hơi chau lại, đáy mắt thoáng dao động, dáng vẻ như một con hồ ly đang suy tư.

Chúng vũ cơ trẻ tuổi trên điện vẫn xoay tròn vũ điệu Đông Hồ, động tác phóng khoáng càn rỡ, y phục lụa mỏng trên người chỉ đủ che những chỗ kín, phần da thịt để hở rịn ướt mồ hôi.

"Hoàng thượng, người đã nửa tháng không đến điện Nhu Phúc, có phải chưa gì đã muốn quên nô gia rồi không?" Phu nhân Tử Minh nhẹ nhàng rướn mặt lên, sóng mắt long lanh nhìn Lý Sách, thần thái mê hoặc tựa yêu tinh.

Ánh mắt Lý Sách như đã ngà ngà say, nhưng giữa mi tâm vẫn rõ ràng hơi chau.

Móng tay sơn đỏ của nữ tử lướt qua phần bụng nam nhân, nhẹ nhàng xoa xoa mi tâm hắn, thỏ thẻ bên tai hắn, hơi thở thơm ngát hương lan, "Có ai đó làm hoàng thượng không vui sao?"

Lý Sách cong môi, lẳng lặng nở một nụ cười rồi đưa tay ôm vòng eo nhỏ nhắn, vuốt ve phần da thịt trắng mịn của phu nhân Tử Minh, cười nói: "Tiểu yêu tinh."

"Tối nay hoàng thượng có nhẫn tâm để Minh Nhi phòng đơn gối chiếc nữa không?"

Trên mặt Lý Sách thoáng lộ ra một tia hoảng hốt, trong đầu lặng lẽ hiện lên một hình bóng. Hắn phiền não nhíu mày, bất giác không thể duy trì vẻ thong dong vốn có.

Hắn đã điên nửa tháng rồi, còn muốn tiếp tục điên nữa sao?

Lý Sách quay đầu nhìn khuôn mặt mỹ lệ của phu nhân Tử Minh, đáy lòng chợt dâng lên sự khó chịu lấn át một loại cảm xúc khó tả bằng lời, vừa như khổ tâm, vừa như khát vọng, khiến mọi vui buồn thống khoái gì đó đều bay biến. Nhưng chỉ trong thoáng chốc, hắn lại nở nụ cười tà mị, khôi phục thần sắc thường ngày, mỉm cười nói: "Trẫm có khi nào mà không thương hương tiếc ngọc cơ chứ?"

"Hoàng thượng." Từ ngoài điện đột nhiên truyền vào một giọng nói vô cùng bình tĩnh khiến Lý Sách ngẩng đầu lên nhìn. Thiết Do đang đứng ngoài cửa, bộ giáp trụ trên người hoàn toàn đối lập với đại điện hoa lệ, hắn cười một tiếng chào hỏi rồi không hề để ý đến vẻ mặt của chúng nữ nhân xung quanh, quỳ xuống lanh lảnh cất tiếng nói: "Hoàng thượng, Sở cô nương đã trở lại."

Lý Sách thoáng sửng sốt, vẻ mặt vẫn không đổi nhưng ly rượu trong tay lại khẽ nghiêng, khiến rượu trong chén suýt nữa thì đổ ra ngoài.

Xa xa văng vẳng tiếng người thánh thót, âm điệu ngân dài tựa như một khúc hát du dương. Gió từ bên kia mặt hồ thổi qua mang theo khí lạnh cùng hương thơm nhàn nhạt, thân hình cao thon, mái tóc đen nhánh, ánh đèn rực rỡ của đại điện khiến Lý Sách tuấn tú một cách dị thường.

"Từ lúc nào?"

"Mới vừa nãy thôi."

"Bây giờ đang ở đâu?"

"Đã trở về Mật Hà cư rồi ạ."

"Đi thôi." Lý Sách đứng dậy rồi bước ra ngoài.

Thiết Do thoáng ngớ ra rồi vội vàng hỏi: "Hoàng thượng muốn đi đâu?"

"Mật Hà cư." Tiếng nói của Lý Sách văng vẳng trong màn đêm thấm đẫm mùi vị xa hoa, Thiết Do lập tức hối hả mang các thị vệ chạy theo.

Phu nhân Tử Minh chậm rãi đứng dậy, vạt áo lụa mỏng nhẹ nhàng phe phẩy trong gió đêm, nhưng vẻ phong tình quyến rũ như vừa rồi đã không còn. Nàng điềm nhiên nhìn theo bóng dáng dần rời xa của Lý Sách, ánh mắt lấp lánh một cách lạnh lùng, không vui cũng không buồn.

"Phu nhân." Thị nữ cẩn thận tiến lên gọi.

Phu nhân cầm lấy áo choàng trong tay thị nữ khoác lên người, lẳng lặng khoát tay, "Lui xuống hết đi."

Chúng cung nhân đều tản đi, gian điện mờ ảo huân hương cùng mùi rượu thơm nồng, thoáng cái chỉ còn lại nhạc sư đang xướng nốt bài hát còn dang dở.

Sen trong hồ đã sớm tàn lụi, tán ngô đồng trước cửa cũng đã rụng hết lá, vầng trăng khuyết trên cao lặng lẽ vẩy ánh sáng bạc xuống trên thềm đá bóng bẩy.

................................................................................................................................

Rèm cửa bị vén lên phát ra tiếng động *loạt xoạt* rất khẽ, Thu Tuệ gác đêm ngoài phòng giật mình tỉnh giấc. Lý Sách ra hiệu chớ lên tiếng khiến tiểu nha hoàn lập tức cúi đầu quỳ xuống, không dám nói tiếng nào.

Trời trở lạnh nên cửa sổ trong phòng đều được đóng kín, nhưng ánh trăng bàng bạc vẫn có thể luồn qua khe cửa chiếu vào phòng. Sở Kiều đang ngủ, chăn gấm đắp kín người, chỉ để lộ cái đầu nhỏ nhắn, chân mày thả lỏng, thần thái cũng mang vẻ bình yên hiếm thấy. Lý Sách tựa vào khung cửa, hơi nghiêng đầu đứng đó, nhất thời không hề nhúc nhích.

Xem ra, người nọ thật sự đúng là lựa chọn tốt nhất cho nàng.

Không có gánh nặng cùng trách nhiệm nặng nề, cũng chẳng có hận thù và chấp niệm sâu sắc, có thể ung dung nói đi là đi.

Lý Sách trầm ngâm nhìn, trong ánh sáng mờ mờ, ánh mắt của hắn lướt qua vầng trán trắng trẻo mịn màng, rơi vào phần tóc đen bóng bên thái dương nàng. Gió chợt nổi lên, ngoài cửa sổ loáng thoáng bóng cây chập chờn, tựa như bàn tay thiếu nữ đang dịu dàng vuốt ve tòa cung điện tĩnh lặng này.

"Dường như cô nương rất mệt, vừa trở về liền đi ngủ ngay." Ở bên ngoài, Thu Tuệ thì thầm với Thiết Do, tiếng nói rất nhỏ nhưng vẫn truyền vào trong tai Lý Sách.

Lý Sách vẫn đứng đó, tựa như vỡ lẽ chuyện gì. Chậu than trong góc phòng lẳng lặng tỏa ra hơi ấm, dạ oanh trên nhánh cây ngoài cửa sổ cất một tiếng hót trong trẻo, nghe thực êm tai.

"Bất kể là thế nào, mệt thì cứ nghỉ ngơi đi." Nam tử nhẹ nhàng buông một câu rồi xoay người ra ngoài, tiếng bước chân của hắn văng vẳng khiến trong điện càng thêm trống trải.

Tiếng bước chân xa dần, Sở Kiều chậm rãi mở mắt ra, trong bóng tối, ánh mắt của nàng càng thêm nặng nề, đầu ngón tay níu chặt chăn gấm, dùng sức đến mức trắng bệch.

Chỉ lát sau, điện Nhu Phúc lại truyền ra tiếng đàn sáo du dương, so với vừa rồi còn tưng bừng hơn.

Đêm càng lúc càng lạnh, nàng từ từ nhắm mắt lại.

Quả thực đã mệt rồi...

.....................................................................................................................

Ba ngày sau, Sở Kiều quyết định rời khỏi Đường Kinh. Không kinh động đến bất kỳ ai, nàng chỉ dẫn theo Mai Hương, trước khi đi cũng có đến chào Lý Sách một tiếng.

Ban đầu Lý Sách cũng chẳng nói sẽ đưa tiễn, nhưng khi xe ngựa của nàng rời khỏi cổng thành, lại thấy dưới tán ngô đồng xa xa có bày một bàn trà tươm tất, Lý Sách đang đứng sau đám người Thiết Do và Tôn Đệ, thấy nàng đến, bọn họ đều đồng loạt lên tiếng chào hỏi.

Chúng thị vệ tản đi, Lý Sách và Sở Kiều ngồi xuống bên bàn trà, sau khi nàng trở lại Biện Đường, đây là lần đầu tiên bọn họ chính thức nói chuyện với nhau.

"Định đi đâu thế?"

"Không biết."

Nhìn thấy ánh mắt hoài nghi của Lý Sách, Sở Kiều đột nhiên bật cười, "Đừng nhìn ta như vậy, không gạt ngươi đâu, ta thật sự không biết đi đâu."

"Không biết mà vẫn muốn đi?"

"Ừ, muốn ra ngoài thăm thú đây đó." Sở Kiều hít một hơi thật sâu, mỉm cười nhìn cảnh vật nên thơ xung quanh, thong thả nói: "Ngươi nhìn đi, trời sắp ấm áp hơn rồi, Tây Mông rộng lớn như vậy, ta trước giờ vẫn không có cơ hội du ngoạn, lần này xem như rốt cuộc có thể thả lỏng tâm tư mà đi."

Lý Sách thuần thục pha trà, vừa làm vừa nói một cách chân thành: "Dự định đi bao lâu?"

"Chưa biết, xem tâm tình thế nào mới tính, không chừng ngày nào đó nghèo không xu dính túi phải trở về tìm ngươi lừa bữa cơm, cho nên ngươi phải làm hoàng đế cho tốt, chớ để ta trở lại thì không còn chỗ ở nhờ đấy."

Lý Sách nghe vậy thì vội vàng cầm lấy phong bì nằm ở góc bàn, rút ra một xấp ngân phiếu, lấy hơn phân nửa nhét vào trong ngực, lầm bầm: "Nghèo đến không xu dính túi mới trở lại? Thế thì không thể cho quá nhiều tiền, bằng không ai biết đến lúc trở về thì đã trở thành bà già lọm khọm rồi."

Sở Kiều bật cười, "Xem đức hạnh của ngươi kìa, có chỗ nào giống hoàng đế chứ?"

"Có quy định làm hoàng đế thì không được phép keo kiệt sao? Nàng không biết ta sống kham khổ thế nào đâu, ta vừa muốn tiêu pha nhiều một tí thì đám lão già kia liền cả ngày bám đuôi khóc than cái gì phía Đông hạn hán phía Tây có người chết đói, chỉ hận không thể bắt ta ngày ngày gặm cải trắng cho qua bữa mà thôi, cả đám thần tử mà chẳng có nổi một ai tốt. Chút tiền này đều là ta bóp bụng dành dụm được đấy, nàng không biết ơn thì thôi, còn ở đó chê cười?"

Bầu trời ở Biện Đường vừa cao rộng vừa hết sức quang đãng, trải dài vạn dặm không một bóng mây, ánh mặt trời rọi vào đôi mắt như hồ ly của Lý Sách, nhìn càng thêm giảo hoạt.

Sở Kiều không khỏi thở dài giùm cho toàn bộ văn võ bá quan của Biện Đường, "Gặp phải vị hoàng đế như ngươi, không biết bọn họ đã tổn hết bao nhiêu năm tuổi thọ rồi."

Lý Sách than ngắn thở dài một bận rồi lắc đầu, "Kiều Kiều thực ác mà, không nói tiếng nào đã dứt khoát rời đi như vậy, đám Hạ Tiêu nhất định sẽ liều mạng với ta."

Nghe nhắc đến Hạ Tiêu, Sở Kiều cũng chợt ngẩn ra, suy nghĩ một lúc lâu mới chậm rãi nói: "Lý Sách, các tướng sĩ của Tú lệ quân phải phó thác cho ngươi rồi."

"Bọn họ đều là nam nhân, nàng phó thác cho ta làm gì?"

Sở Kiều cũng không buồn để tâm đến lời lẽ càn rỡ của hắn, tiếp tục nói: "Mấy tháng nay ta vẫn luôn nghĩ, ta đến cùng có phải đã sai lầm rồi hay không? Đều do ta quá ngây thơ, tự cho rằng mình có thể thay đổi xã hội này, tự tin bản thân có thể thành lập một chế độ mới tốt hơn. Không phải như khẩu hiệu thiên hạ đại đồng của Đại Đồng Hành, ta chỉ muốn người nghèo có cơm ăn áo mặc, không cần phải nô dịch người khác, hy vọng giai cấp cầm quyền như các ngươi có thể thiết lập được điều luật, bất kể là ai thì cũng không được tùy tiện giết người. Ta biết, xã hội không thể thay đổi nhanh như vậy, nhưng ít nhất phải có người thử cố tạo đường, chỉ cần đi được một bước nhỏ thì sớm muộn gì cũng sẽ có bước dài hơn.
Lúc mới bắt đầu, ta cũng không có lý tưởng vĩ đại như vậy, ta chỉ là muốn bỏ chạy, an ổn sống cuộc sống của mình. Nhưng ta lại quen biết Yến Tuân, những lời tán dương Bắc Yến từ miệng Yến Tuân đã khiến ta bừng bừng sức sống, khiến ta nghĩ rằng, bản thân đi đến thế giới tối tăm này có lẽ có nguyên do riêng, có lẽ đều là thiên ý. Thế nhưng, bây giờ nguyện vọng của ta tan vỡ, chính là vì ta quá kiêu ngạo, ta cho rằng bản thân rất giỏi, khả năng rất cao, có thể thay đổi mọi chuyện, có thể bảo vệ rất nhiều người. Nhưng đến cuối cùng ta mới nhận ra, sức lực của bản thân ta thật ra rất nhỏ bé, người thân và bằng hữu đều lần lượt rời bỏ ta, ta chẳng những không bảo vệ được bọn họ mà còn hại chết rất nhiều người."

Lý Sách hơi chau mày, vừa định lên tiếng thì lại bị Sở Kiều ngăn cản, nàng nhìn thẳng vào mắt hắn, lẳng lặng nói: "Lý Sách, ta không phải là một lãnh tụ tốt, các chiến sĩ của Tú lệ quân không có tín ngưỡng của riêng mình, tính ngưỡng của bọn họ chính là sự tin tưởng dành cho ta. Nhưng sự tồn tại của ta lại hết lần này đến lần khác đẩy bọn họ vào hiểm nguy cùng chiến tranh loạn lạc, khiến bọn họ đổ máu mất mạng, mà những điều ta từng hứa hẹn với họ, một xã hội mới cùng cuộc sống tốt đẹp, mãi mãi không thể thành hiện thực. Ta chỉ cứu bọn họ một lần, không thể ích kỷ muốn bọn họ bán mạng đấu tranh vì mình như vậy. Ta thậm chí từng nghĩ, nếu như lúc đầu ta nghe theo Yến Tuân giải tán Tú lệ quân, có lẽ sẽ không chết nhiều người như vậy, những người đó, nếu còn sống thì bây giờ có thể đã kết hôn, sống một cách an ổn rồi."

Giọng Sở Kiều dần trở nên nghẹn ngào, nàng mím môi, hốc mắt hơi ửng đỏ, nhưng vẫn cười nói: "Đâu phải ai cũng nhất định cần làm nên nghiệp lớn gì đó, trưởng thành cưới vợ rồi sinh con, vui vẻ đến già cũng là một cách sống. Chỉ tiếc, ta tỉnh ngộ quá muộn, người đã chết thì có làm gì cũng không thể sống lại, tay ta đã nhuốm đầy máu tanh, rửa thế nào cũng không sạch."

"Kiều Kiều?" Lý Sách nhíu chặt mày, trầm giọng nói: "Không phải lỗi của nàng."

"Nhưng trách nhiệm vẫn là ở ta, trốn tránh không khỏi." Sở Kiều thấp giọng nói: "Bọn họ tin tưởng ta, một lòng đi theo ta nhưng ta lại không thể bảo vệ bọn họ, rất nhiều người đã chết mà ta thậm chí cũng không cách nào an táng thi thể họ tử tế. Ngươi có biết không, hằng đêm ta vẫn có thể nghe được tiếng gào khóc của bọn họ, bọn họ nói muốn trở về nhà, muốn gặp cha mẹ của mình, bọn họ đều chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi, vốn nên ở nhà tận hưởng sự thương yêu chiều chuộng của cha mẹ, nhưng lại bởi vì ta mà phải vùi thân trong đồng hoang gió rét."

Mặt Lý Sách không còn vẻ bông đùa thường ngày, hắn lo lắng nhìn nàng, tim khẽ nhói đau.

"Lý Sách, hãy giúp chăm sóc bọn họ thật tốt. Nếu ngươi không yên tâm thì có thể giải tán đội ngũ, cho phép bọn họ ở lại Biện Đường, an bài công việc nhẹ nhàng một chút, để bọn họ cưới vợ sinh con, sống một cuộc sống thoải mái, không cần phải ra chiến trường nữa. Đối với binh lính mà nói, trên chiến trường không có thắng lợi, thắng lợi đều thuộc về tướng quân, cái mà binh lính đối mặt, chẳng qua chỉ có chém giết và chết chóc mà thôi."

Lý Sách khó nhọc gật đầu, hắn nhìn sắc mặt tái xanh cùng thân hình gầy gò của người trước mặt, nhẹ giọng hỏi: "Vậy còn nàng? Còn hận Yến Tuân không? Còn có thể trở lại bên cạnh hắn không?"

"Đã không còn hận nữa." Sở Kiều khẽ lắc đầu, bình tĩnh mỉm một nụ cười nhẹ nhàng như gió xuân tháng ba, "Thật thì tất cả đều không biết, y mới là người khổ nhất. Ta tận mắt nhìn thấy nỗi hận cùng sự thống khổ mà y phải chịu, chứng kiến mọi sự khuất nhục mà y từng trải qua, người ngoài đều không cách nào hiểu được hận thù trong lòng y sâu đến cỡ nào. Là ta không thể khoan dung được, hôm nay y đã chọn phương thức này, cho dù có sai thì cũng là do vận mệnh đẩy y vào con đường ấy. Ai cũng có quyền chọn đường mình muốn đi, đó là con đường của y, cho dù không cách nào chấp nhận thì ta vẫn tôn trọng sự lựa chọn của y. Trên thế gian này, ai có thể hoàn toàn đúng, ai mới hoàn toàn sai? Chỉ là hai người chúng ta đều có sự cố chấp cùng kiên trì riêng của bản thân, không thể tiếp tục đồng hành nữa nhưng cũng không nhất định phải đối nghịch thành thù."

"Vậy còn Gia Cát Nguyệt? Tại sao nàng không đi với hắn? Hắn đã vì nàng làm nhiều chuyện như vậy... nàng không yêu hắn sao?"

"Yêu? Có lẽ cũng có." Sở Kiều khẽ cười, "Ta thật ra cũng không rõ sao mới chân chính gọi là yêu, nhưng dẫu yêu cũng đâu nhất định phải ở cùng nhau, có nhiều khi, buông tay cũng là một loại yêu."

Sở Kiều hơi ngước mặt lên, gió phả lên vầng trán mịn màng của nàng. Trong nháy mắt đó, Lý Sách tựa như bắt gặp một tia sáng lóe lên trong đôi mắt thản nhiên của nàng, đẹp đến độ khiến người nhìn mê mẩn.

"Hắn dù sao cũng là đại tư mã của Đại Hạ, không khác gì bộ trưởng bộ quốc phòng của một nước, sao có thể ở cùng với người như ta."

Nàng lại lẩm bẩm, "Lý Sách, ta biết, chỉ cần ta nguyện ý, hắn sẽ vì ta mà vứt bỏ mọi vinh hiển. Nhưng đó có phải là lựa chọn tốt nhất không? Hắn chịu bao khổ nạn cùng đau đớn, cuối cùng mới có thể đập vỡ mọi khuất nhục áp đặt lên đầu mình để bước lên vị trí hiện tại. Hắn và ta không giống nhau, cho dù quốc gia hủ bại, gia tộc tàn nhẫn, hắn vẫn là người có nhà có quê hương, đương nhiên sẽ có một loại ý thức trách nhiệm, cho dù nó cũng chính là gánh nặng áp đảo mọi tình cảm khác. Nếu bây giờ chỉ vì ta mà bắt hắn phải rũ bỏ mọi thứ, theo ta lưu lạc khắp chốn, ngươi cảm thấy về sau hắn sẽ thật sự vui vẻ sao? Sẽ không, hắn là nam nhân, nam nhân hẳn có vùng trời của riêng mình, theo dòng thời gian, khi hắn dần già đi, tương lai hắn sẽ hiểu rõ mọi thứ, cũng sẽ cảm thấy may mắn vì đã không chọn sai."

"Huồng hồ, ta cũng đã mệt mỏi rồi." Sở Kiều cúi đầu xuống, mỉm cười nhìn về phía Lý Sách, "Ta đã bôn ba hơn mười năm, không còn dũng khí tiếp tục đi trên con đường mà bản thân không thấy rõ điểm cuối nữa. Ta rốt cuộc cũng chỉ là một nữ nhân, cũng sẽ có thời điểm muốn dừng chân nghỉ ngơi."

"Kiều Kiều." Lý Sách thở dài, bất đắc dĩ nói: "Ta có làm gì cũng không ngăn được nàng đi, có đúng không? Nàng đã quyết tâm rồi, có đúng không?"

"Ừ." Sở Kiều nói rất chân thành: "Không cần lo lắng cho ta, ta sẽ ổn thôi. Thế giới này không phải chỉ có hoàng thân quốc thích hay quý tộc thế gia nắm trọng quyền mới sống được, ta sẽ làm một thường dân, không có gánh nặng, không có trách nhiệm, sống một cuộc sống thật yên bình. Mỗi ngày trôi qua một cách nhẹ nhàng, muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi, cuộc sống tự do tự tại như thế, ta đã mong ước rất nhiều năm rồi."

"Vậy nàng có trở lại không? Thỉnh thoảng trở lại thăm ta?"

"Dĩ nhiên." Sở Kiều bật cười, nói giọng đương nhiên, "Ngươi là bằng hữu quan trọng nhất của ta mà."

Lý Sách cười khổ, đưa tay vuốt phần tóc bị gió thổi rối của nàng, nói: "Cái đồ cứng đầu này, khiến ta cũng đa sầu đa cảm theo."

Sở Kiều đứng dậy đi đến bên cạnh Lý Sách, Lý Sách cũng đứng dậy, Sở Kiều giang hai tay ra ôm lấy hắn, nhẹ giọng nói: "Lý Sách, ta đi đây. Tây Mông càng ngày càng loạn, ngươi nhớ giữ mình, đừng để ta phải lo lắng."

Trong lòng rất buồn bã nhưng Lý Sách vẫn giữ giọng điệu thản nhiên, "Ta có thể xảy ra chuyện gì chứ? Ta đường đường là đại hoàng của Biện Đường, ai động đến ta? Chưa kể, nam nhân anh tuấn tuyệt luân như ta, ai dám phí của trời mà chà đạp ta chứ, cả thiên hạ cũng chỉ có mình nàng mới không có mắt nhìn hàng tốt như vậy thôi."

Sở Kiều không khỏi phì cười, "Đúng, đúng, ngươi anh tuấn tuyệt luân nhất thế gian, Leonardo gặp ngươi cũng phải xấu hổ nhảy lầu tự sát được chưa?"

"Leonardo là ai? Cái tên thực kỳ quái, người phiên* à?" Lý Sách cau mày hỏi.

*Người phiên: người ngoại biên, thuộc một vùng đất khác

Sở Kiều bật cười lớn, "Ừ, là một người phiên rất tuấn tú."

"Đi so sánh ta với người phiên, quả thực không ra thể thống gì mà."

Sở Kiều ha ha cười to, tiếng cười quanh quẩn trong không trung, bao phủ lấy hai người.

"Không còn sớm nữa, ta đi đây." Sở Kiều không cưỡi ngựa mà thuê một chiếc xe ngựa ngồi cùng với Mai Hương.

Lý Sách mỉm cười, một thân trường bào đỏ thẫm đứng dưới gốc ngô đồng, thoạt nhìn đúng thật như lời hắn nói, vô cùng anh tuấn tuyệt luân, "Kiều Kiều, đi đường cẩn thận, trước ba mươi tuổi mà vẫn không ai thèm lấy thì có thể trở về tìm ta."

Sở Kiều lên xe rồi vén rèm thò đầu ra, phất tay nói: "Nhờ lời vàng miệng ngọc của ngươi, ta nhất định sẽ tìm được nơi gửi gắm bản thân trước ba mươi."

Rèm cửa xanh thẫm phủ xuống, xe ngựa lăn bánh, càng lúc càng xa, cuối cùng biến mất ở cuối con đường rợp bóng ngô đồng.

"Hoàng thượng, có cần phái người đi theo bảo vệ Sở cô nương không?" Tôn Đệ tiến đến, trầm ngâm một lúc lâu rồi thấp giọng hỏi.

"Không cần." Lý Sách nhẹ lắc đầu rồi xoay người đi về phía cổng thành.

Ai cũng có quyền lựa chọn cuộc sống mà mình muốn. Kiều Kiều, nàng đi đi.


Chương 170: Cuộc sống điền viên

"Vượt sông mất 42 ngày, sau khi chiếm được những thành phố lớn như Nam Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, toàn bộ hai tỉnh Giang Tô, An Huy và phần lớn Giang Tây, Hồ Bắc, Phúc Kiến, để giải phóng toàn bộ Hoa Đông rồi đến Hoa Nam, tiến quân về phía Tây Nam chính là điều kiện tiên quyết."

Khuôn viện ngập trong ánh hoàng hôn, chân trời đỏ rực, ngay cả gốc đa già xù xì cũng như bị nhuộm đỏ. Tháng sáu, trời càng lúc càng nóng, cho dù trong viện có hồ nước thì không khí vẫn rất oi bức.

"Được rồi, nói đến khô miệng luôn, mấy đứa này, chỉ biết quấn lấy tiểu thư là giỏi." Mai Hương bưng một bát sứ đi ra, nàng mặc một bộ y phục thoải mái, ống tay xắn cao đến tận khuỷu, vừa đi vừa dài giọng rao: "Nước ô mai ướp lạnh đây, ai muốn khôôôôôôôông..."

Thanh Thanh nghe vậy liền nhỏm dậy, vỗ tay hoan hô: "Woah! Có nước ô mai uống!" Dứt lời liền vội vàng chạy vào bếp phụ bê nước ra.

"Tiểu thư, em có dùng băng trong hầm ướp lạnh, uống rất mát, người thử xem."

Sau khi rời hỏi Đường Kinh, Sở Kiều không cho Mai Hương gọi mình đại nhân nữa, vốn muốn Mai Hương xem mình như tỷ muội mà xưng hô, nhưng nàng lại chết sống không chịu làm theo. Sở Kiều không thể làm gì khác ngoài để mặc nàng gọi mình tiểu thư.

Nắng chiều vô cùng ấm áp, Sở Kiều không giống như đám người Mai Hương, so với ngày hè ở thế kỷ 21, nhiệt độ bây giờ nhiều nhất cũng chỉ như xuân thu ở kiếp trước thôi, có điều nước ô mai Mai Hương làm quả thực rất ngon, không thể không uống.

"Tỷ tỷ, chỗ đó không phải có phi cơ sao? Tại sao không trực tiếp dùng phi cơ bay qua? Sao còn phải dùng thuyền sang sông nữa?"

Một cánh bướm bay đến, chập chờn lượn quanh khóm lan trong vườn, Sở Kiều ngồi dưới gốc đa, thân mặc áo ngắn tay màu lam nhạt, phía dưới là một chiếc váy dài màu trắng ngà, nhìn vừa thanh lịch vừa thoải mái, "Đa Cát, giải thích cho Bình An nghe đi."

Đa Cát đăm chiêu suy nghĩ một thoáng rồi để chén nước xuống, nói với bộ dạng như rất từng trải: "Phi cơ hẳn là vật hiếm, rất quý giá. Nhưng Tưởng nguyên soái được phương Tây chống lưng nên sở hữu không quân hùng mạnh, còn Mao nguyên soái thì không có sự ủng hộ của nước ngoài, lại tác chiến trong thời gian dài, lại không chọn thành phố lớn làm căn cứ địa, không có trang bị quân sự tiên tiến là chuyện bình thường, vì vậy phe bọn họ có lẽ cũng chẳng có phi cơ hay không quân."

Sở Kiều bưng chén hớp một ngụm, nước ô mai lành lạnh chảy qua cuống họng, mát đến tận phổi. Nàng cười nói: "Đa Cát nói rất đúng, thời điểm đó sức sản xuất không cao, Mao nguyên soái cũng không có thế lực không quân, ban đầu đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến bọn họ phải chịu thương vong cực lớn."

Bình An đột nhiên cảm thán, "Tỷ tỷ, nước Trung Quốc mà tỷ nói, thật lợi hại, y như trong truyện cổ thần thoại vậy. Có thể bay lên trời, có đại pháo bắn một phát là oanh tạc cả một tòa nhà, nếu như bọn họ chạy tới đánh Tây Mông của chúng ta, chỉ cần cho pháo binh nã một phát cũng đủ đánh bại chúng ta. Thiết võ quân của Đại Hạ hay Hắc ưng quân của Bắc Yến gì đó đều không phải là đối thủ."

"Đó đều là thần thoại thôi." Thanh Thanh bĩu đôi môi đỏ ửng vì nước lạnh, vừa tiếp tục nhâm nhi nước ô mai vừa nói: "Thế giới chúng ta sao có vật đáng sợ như vậy chứ?"

Sở Kiều không nói mà chỉ lẳng lặng mỉm cười, Mai Hương rót thêm một chén nước ô mai đưa đến, nàng đón lấy cầm trong tay, cảm nhận hơi lạnh xuyên qua đầu ngón tay lan ra toàn thân, vô cùng dễ chịu.

"Chưa chắc." Đa Cát lắc đầu, hoài nghi nói: "Ba trăm năm trước, đại lục Tây Mông chúng ta còn chưa có thuyền to, hải phận chưa từng xuất hiện chiến tranh. Nhưng bây giờ đại lục đã có thương đội có thể gióng thuyền đến tận chỗ người phiên xa xôi. Chưa kể đến đồ sắt, năm trăm năm trước, tổ tiên chúng ta đánh giặc đều dùng vũ khí bằng đồng, đao kiếm gì đó đều rất mềm, lúc đó làm gì có ai nghĩ đến chuyện rèn ra kiếm sắt như hôm nay? Đó là chưa nói đến những thứ như giấy và vải vóc, trước kia con người đều dùng đá khắc chữ, dùng trúc cuốn lại thành sách, dùng da thú làm y phục, còn bây giờ thì sao? Cho nên phải nói, kỹ thuật luôn phát triển không ngừng, có lẽ qua mấy trăm năm nữa, hoặc mấy ngàn năm nữa, chưa biết chừng sẽ thật sự xuất hiện phi cơ có thể bay lên trời như tiểu thư nói, có thể có đại pháo bắn một phát làm nát vụn một gian phòng."

Sở Kiều nghe nói thì vui vẻ nhìn Đa Cát, khen ngợi, "Vẫn là Đa Cát biết nhìn xa."

Đa Cát thường ngày luôn trầm tĩnh như ông cụ non, nhưng hễ đối mặt với Sở Kiều liền xấu hổ đỏ mặt. Cậu gãi đầu, ngây ngô cười nói: "Tiểu thư, có mấy chỗ Đa Cát vẫn chưa rõ lắm."

Sở Kiều hứng thú nhìn cậu, "Nói nghe thử xem."

"Đầu tiên, ta cảm thấy nguyên lý của đại pháo và đạn hỏa tỷ tỷ chế ra lúc còn ở Bắc Yến có chỗ tương đồng, cũng rất giống pháo trúc bán ở chợ. Không biết chúng có liên quan gì không?"

Sở Kiều càng thêm vui mừng, gật đầu xác nhận rồi mỉm cười nói: "Đa Cát thật thông minh, đích thực là có điểm chung, pháo trúc là hỏa lực dạng thô sơ nhất, nguyên lý cũng giống như đạn hỏa. Chỉ có điều, đạn hỏa mượn sức của mảnh băng khi nổ nên mới có uy lực lớn hơn, còn muốn đạt đến trình độ của đại pháo thì cần kỹ thuật chế tác tỉ mỉ cực cao, với kỹ thật rèn sắt hiện giờ của chúng ta thì rất khó làm được."

Bình An và Thanh Thanh rõ ràng nghe không hiểu nhưng cũng gật đầu hùa theo. Đa Cát im lặng suy nghĩ một lát rồi lại ngước lên hỏi: "Tiểu thư kể về những loại vũ khí này, ta vẫn cảm thấy không giống như thuận miệng kể chuyện thần thoại mà thôi, hẳn là có nguyên do gì đó, chỉ là tạm thời vẫn chưa nghĩ ra."

Cậu chau mày, dáng vẻ vô cùng đăm chiêu thực giống một ông cụ non, đột nhiên lại hỏi: "Tiểu thư, hôm qua người bảo chúng ta trở về suy nghĩ nguyên nhân thất bại và thắng lợi của Tưởng nguyên soái và Mao nguyên soái, ta cũng có vài ý kiến, không biết có đúng hay không?"

Sở Kiều khích lệ cậu, "Nói thử ta nghe xem nào."

Đa Cát yên lặng một lúc lâu như đang do dự gì đó, cuối cùng lấy hết dũng khí mới mở miệng nói: "Ta cảm thấy Mao nguyên soái có thể chiến thắng, chủ yếu là vì được dân chúng ủng hộ."

Cậu vừa dứt lời thì Bình An lập tức phản đối, "Không đúng, không đúng. Phải do gã Tưởng nguyên soái kia quá ngu mới đúng, thuộc hạ đều ôm tâm tư riêng, quân đội đông nhưng lại chia năm xẻ bảy, cuối cùng đều phản bội ông ta, bằng không ông ta đã không thua."

Sở Kiều quay sang nhìn Bình An, lẳng lặng hỏi: "Vậy em có nghĩ vì sao thuộc hạ của Tưởng nguyên soái lại phản bội ông ta không?"

"Bởi vì..." Bình An thoáng ngẩn ra, vốn định nói vì Tưởng nguyên soái quá ngu ngốc, nhưng nghĩ kỹ thì lại thấy có gì không đúng, ấp úng một hồi mới nói: "Bởi vì bên phe của Mao nguyên soái đông đúc, bọn họ sợ nên mới làm phản."

"Vậy tại sao bên Mao nguyên soái lại trở nên đông như vậy? Phải biết rằng lúc chiến tranh vừa bắt đầu, quân số giữa hai bên cách biệt rất lớn."

Bình An nhất thời á khẩu, quanh co một hồi vẫn không nói được nguyên do.

Đa Cát ở bên cạnh đỡ lời: "Ta cảm thấy, có vài chuyện Mao nguyên soái đã làm thật sự vô cùng anh minh."

Cậu thành thật phân tích tiếp: "Mao nguyên soái đã sử dụng phương thức tác chiến cực kỳ cao minh. Lúc mới bắt đầu chiến tranh, ông ta liền bỏ thành lớn trở về nông thôn, hơn nữa còn tiến hành cải cách ruộng đất, phân đất cho người dân. Làm như vậy, dân chúng tự nhiên sẽ ủng hộ ông ta, cũng hy vọng ông ta có thể làm hoàng đế, nên sẽ đồng loạt chạy đến đầu quân, dần dần quân đội của ông ta trở nên càng lúc càng đông, còn của Tưởng nguyên soái thì càng ngày càng ít. Cho dù vũ khí lạc hậu nhưng nhờ có nhiều người, qua thời gian dài tất nhiên sẽ chiếm ưu thế. Chưa kể, Mao nguyên soái trị quân nghiêm minh, tuyệt đối không cho phép binh lính làm hại dân chúng, trong quân đoàn kết một lòng, tất cả đồng tâm hiệp lực cho nên mới có sức mạnh lớn như vậy. Còn về phần thuộc hạ của Tưởng nguyên soái, đa phần đều là tham quan, quân kỷ không nghiêm, nội bộ hỗn loạn, cấp dưới không ngừng tranh quyền đoạt thế. Quân đội như vậy, ban đầu có thể có ưu thế nhờ vào trang bị và số lượng, nhưng về sau sớm muộn gì cũng sẽ thất bại."

Đa Cát nói xong, thấy Sở Kiều không nói gì thì nhất thời có hơi lo lắng, tưởng mình nói gì sai nên vội vàng bổ sung: "Ta cũng cảm thấy, hai người bọn họ không phải chỉ đối kháng về mặt quân sự, mà còn là đối đầu về tư tưởng, đại diện cho hai giai cấp, một là quan viên quý tộc, còn lại là bá tính thường dân. Cũng... cũng giống như cuộc chiến giữa Bắc Yến vương và Đại Đồng Hành vậy."

Cậu vừa nói xong thì lập tức nhận ra mình vừa lỡ lời. Mai Hương đang bóc vỏ hạt sen, nghe nói thì vội vàng quay sang ra dấu với cậu. Nhưng Bình An bên cạnh lại không nhận được ám hiệu, còn thuận miệng hỏi tới: "Vậy tại sao bên Ô tiên sinh lại thua?"

Sở Kiều nhìn Đa Cát, hơi ngây người. Nàng vẫn biết Đa Cát thông minh nhưng lại không ngờ cậu lại thông minh đến bậc này. Nàng chỉ chẳng qua kể một chuyện xưa mà cậu lại có thể qua đó nhìn thấu bản chất của chiến tranh.

Sở Kiều kinh ngạc gật đầu, quay sang nói với Đa Cát: "Mặc dù không hoàn toàn chính xác, nhưng em có thể nghĩ đến mấy điểm này đã là rất giỏi rồi."

Nàng như không hề bận tâm đến việc Đa Cát nhắc đến Yến Tuân, ngược lại còn tỉ mỉ giải thích: "Bất đồng chiến thuật hay tư tưởng chiến đấu đều bắt nguồn từ thế cuộc và sức sản xuất của xã hội thời đó. Đại Đồng Hành không thể so sánh với chính quyền của Mao nguyên soái, Đại Đồng không có tầng lớp lãnh đạo kiên định, nội bộ chưa nhất quán thì không thể xác định tư tưởng và đường hướng, lại không nhiều người có tầm nhìn về chiến lực quân sự. Ngoài ra, Bắc Yến không giống như Hoa Hạ*, không kể đến sức sản xuất thấp, Bắc Yến chưa từng trải nghiệm việc bị dị tộc xâm lược, nội bộ chính quyền vẫn chưa tan rã hoàn toàn, thể chế xã hội vẫn còn đó, dân trí chưa được khai sáng, người dân vẫn chưa biết cách mạng là gì, cũng không biết bản thân có thể đứng dậy đối kháng áp bức đè xuống đầu mình, cho nên bọn họ dĩ nhiên sẽ không toàn tâm toàn ý ủng hộ Đại Đồng Hành. Đa Cát nói rất hay, cuộc chiến trong chuyện ta kể, ngoài mặt là sự tranh đấu quyền lãnh đạo giữa hai thế lực, trên thực tế chính là sự đối kháng giữa hai tư tưởng. Dân chúng Bắc Yến, bản thân bọn họ còn chưa hề có ý thức về tự do thì làm sao có thể mượn lực dân chúng đối đầu với Bắc Yến vương? Vì vậy, thất bại là kết cục đã sớm được định trước của Đại Đồng Hành rồi."
*Hoa Hạ là tên cũ chỉ đất nước Trung Quốc

Ba người nghe nói thì liên tục gật đầu, mặc dù Thanh Thanh và Bình An căn bản chẳng hiểu gì cả.

Đa Cát cẩn thận suy ngẫm, tựa như muốn ghi tạc từng lời Sở Kiều nói vào lòng. Một lúc lâu sau, cậu đột nhiên trở nên mất tinh thần, chán nản hỏi Sở Kiều: "Tiểu thư, theo như lời người nói thì, thể chế mà Mao nguyên soái muốn thành lập, căn bản không thích hợp với xã hội hiện tại của chúng ta, có đúng không?"

"Ừ."

"Vậy tự do bình đẳng gì đó đều chỉ như mộng ước phù du mà thôi."

Nhìn thấy dáng vẻ như đưa đám của cậu thiếu niên, Sở Kiều khẽ cười, dịu dàng nói: "Cũng không hẳn, lưu truyền tư tưởng không phải là chuyện một sớm một chiều. Tất cả đều cần một người mở đường, hôm nay em không thể khích lệ toàn bộ người trong thiên hạ cùng em hoàn thành nó, nhưng em vẫn có thể thử ảnh hưởng một nhóm người, truyền bá tư tưởng này ra ngoài. Giống như một mồi lửa dần dần lan ra, lửa lan trên đồng cỏ, một ngày nào đó sẽ khiến cả cánh đồng bốc cháy."

Đa Cát thoáng sững sờ rồi buột miệng hỏi: "Tiểu thư, những lời này của người, có thể viết thành sách không?"

Sở Kiều vỗ vỗ đầu cậu, cười nói: "Trẻ con rất dễ dạy ."

Đa Cát vui vẻ hoan hô một tiếng, cậu rất ít khi có hành động trẻ con như vậy, hết sức kích động nói: "Ta hiểu rồi, chiến tranh chỉ là mồi dẫn, cách mạng cần nền tảng, xã hội muốn tiến bộ thì đầu tiên phải truyền bá tư tưởng trước."

Mai Hương tiến đến đưa cho cậu chén nước ô mai, nhướng mày nói: "Xem em cao hứng chưa kìa, đầu đầy mồ hôi. Trước khi bắt đầu truyền bá tư tưởng thì uống nước ô mai đi đã, không nước hết lạnh thì uổng phí tâm huyết của ta."

Tất cả nghe nói thì đồng loạt cười thành tiếng, khuôn mặt tuấn tú của Đa Cát hơi đỏ lên, ngượng ngùng ngồi xuống.

Trời tối hẳn, Sở Kiều trở về phòng, bọn Bình An chơi đùa thêm một lúc mới trở về đi ngủ.

Đêm khuya có mưa nhẹ, Sở Kiều tựa bên cửa sổ nhìn ra màn mưa lất phất bên ngoài, thấy phòng Đa Cát vẫn còn sáng đèn thì không khỏi mỉm một nụ cười.

Nháy mắt mà một năm rưỡi đã trôi qua.

Ngày đó sau khi rời khỏi Đường Kinh, nàng đi chưa được bao xa đã bị ba đứa nhóc vốn đang ở trong Mật Hà cư đuổi kịp, bất đắc dĩ phải dẫn bọn họ theo cùng.

Bởi vì tay chân đùm đề trẻ con như vậy, Sở Kiều đành từ bỏ mơ ước phiêu bạc tứ phương của mình. Nàng đến phía nam Biện Đường, tìm một thành trì nhỏ yên tĩnh nhưng có phong cảnh xinh đẹp lưu lại. Nơi này khí hậu ấm áp, cuộc sống yên bình, bởi vì gần với hoàng lăng ở Mi Sơn nên trị an rất tốt, ít có cường đạo thổ phỉ.

Hơn nữa nơi này còn là quê hương của lão tiên sinh Nho giáo nổi danh thông thái khắp Biện Đường là Thẩm Mặc Bạch, nên thường xuyên có thư sinh tìm đến bái kiến Thẩm tiên sinh, thuận đường thăm thú cảnh sắc sơn thủy tựa tranh vẽ của tòa thành nhỏ bé này.

Qua một thời gian dài, thành trì này liền được đổi tên thành thành Học Phủ.

Sau khi Sở Kiều dẫn nhóm Mai Hương vào thành liền mua một khách điếm bắt đầu kinh doanh.

Một là để che giấu tai mắt người đời, dù sao thì một nữ nhân mang theo một nha hoàn cùng ba đứa trẻ mà sống thoải mái thật sự có hơi nổi bật. Hai là cũng để có việc làm tìm vui, nếu cả ngày chỉ ăn với ngủ thì quả thực sẽ chán chết.

Mặc dù kiếm tiền không phải là mục đích chính nhưng nhờ phương thức quản lý mới lạ, điều kiện vệ sinh ưu việt và vị trí đắc địa mà khách điếm Học Tử của Sở Kiều dần trở nên nổi tiếng. Phàm là du khách từ bên ngoài vào thành sẽ chọn khách điếm của nàng làm nơi dừng chân đầu tiên, nhất là hai mùa thi xuân thu, luôn chật ních người, làm ăn hết sức phát đạt.

Thời gian trôi qua như bay, có một hôm chải tóc khi vừa tỉnh dậy, Sở Kiều đột nhiên phát hiện thái dương có tóc bạc. Mai Hương càu nhàu nói là vì nàng không ăn ngủ tử tế. Sở Kiều mỉm cười, quay sang nhìn tóc mai bên còn lại, cũng có vài sợi bạc.

Thân xác già yếu là chuyện không ai tránh được, cho dù hiện tại chỉ mới hai mươi mốt, nhưng nhiều năm bôn ba chiến trường và vô số lần phiêu bạc nơi băng thiên tuyết địa đã khiến thân thể trẻ tuổi của Sở Kiều mắc nhiều chứng bệnh. Những vết thương cũ mỗi lần trở trời sẽ đau thấu xương, đầu gối và các khớp ngón tay sẽ như bị vùi trong tuyết, luôn cứng lạnh như băng, tuy cực nhỏ nhưng khóe mắt nàng đã bắt đầu xuất hiện nếp nhăn, tinh thần cũng càng ngày càng xấu, hơi lao lực liền sẽ mệt mỏi muốn ngủ.

Sở Kiều chân chính trở thành một ấm thuốc, toàn thân chỗ nào cũng có vấn đề, gần như tháng nào bệnh cảm sốt cũng đến viếng thăm. Nhiều khi nằm trên giường, cảm nhận bệnh tật hành hạ, nàng thậm chí từng không biết thân thể này có phải của mình hay không, cảm giác toàn thân cứng ngắc như tượng gỗ bị va đập sắp vỡ vụn thành từng mảnh nhỏ.

Cũng may nhịp độ cuộc sống đã trở nên bình ổn, không còn chiến tranh máu lửa, không còn cảnh chết chóc tàn khốc, không còn mưu đồ ám chiêu khó lường, lòng nàng dần trở nên yên tĩnh tựa như một hồ nước, qua biến động cũng sẽ trở lại trạng thái phẳng lặng.

Hơn một năm này, nàng rất ít khi thăm hỏi thế sự bên ngoài. Nhưng bởi vì bản chất của việc kinh doanh khách điếm, người đến người đi không ngừng, hơn nữa bọn nhỏ thấy hứng thú nên nàng cũng nghe được khá nhiều tin tức.

Ví như hôn sự của Tứ công tử Gia Cát gia và Trưởng công chúa Nạp Lan Hồng Diệp của Hoài Tống. Nghe nói sau khi trở lại Đại Hạ, Gia Cát Nguyệt đã rất sảng khoái đồng ý hôn sự này. Nhưng khi quần thần Đại Hạ đang vỗ tay ăn mừng thì Gia Cát thiếu gia lại móc ra một tờ hôn thiếp, tuyên bố bản thân đã có chính thê ở Thanh Hải, theo tổ huấn thì cho dù Nạp Lan trưởng công chúa vào cửa cũng chỉ có thể làm thiếp, có sinh con cũng chỉ được nâng lên thành thứ phu nhân.

Sứ giả Hoài Tống nghe nói liền tức giận quát mắng mấy câu rồi bỏ về. Sự kiện vốn như tảng đá kích ngàn con sóng dưới bàn tay cao minh của Gia Cát Nguyệt liền trở thành cục sỏi ném vào hồ, thoáng cái đã chìm nghỉm trong gió êm sóng lặng.

Kế đó, là chuyện Thất hoàng tử Triệu Triệt được Gia Cát đại tư mã toàn lực ủng hộ trở về từ biên cương phía Bắc, mang theo năm mươi vạn nô lệ kỵ binh tù binh sau khi bình định phản loạn mở rộng biên giới. Triệu Triệt và Gia Cát nguyệt một xướng một họa, dễ dàng phá hủy vị thế độc tôn của Triệu Dương trên triều.

Cùng lúc đó, Bắc Yến tất nhiên không có ngày lành, Biện Đường đóng cửa thủy lộ Nam Cương ngăn trở thông thương kinh tế giữa Bắc Yến và Hoài Tống, mà Bắc Yến tạm thời lại không có năng lực gây chiến với Biện Đường, Thanh Hải và Đại Hạ hai mặt giáp công đã đủ khiến Bắc Yến khổ nói không hết rồi.

Cũng may Triệu Dương đang bận bịu tranh quyền với Triệu Triệt nên không quá chú trọng binh lực ở Nhạn Minh Quan như trước, suốt hơn một năm cũng chỉ có một lần tổ chức công kích quy mô lớn, thế nhưng cũng chỉ bao quanh Long Ngâm Quan có hai ngày liền thu binh, rõ ràng là chỉ làm cho có lệ.

Thế cục trên đại lục càng lúc càng trở nên khó lường.

Có lẽ Triệu Dương cũng hiểu được, nếu không có uy hiếp từ Bắc Yến, quân đội ở Thanh Hải của Gia Cát Nguyệt sẽ trực tiếp vượt qua Long Ngâm Quan tràn vào hoàng đô Đại Hạ. Khi đó, chỉ dựa vào Tây nam quân của hắn thì không cách gì có thể địch lại hai người Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt.

Vì vậy, nếu nhìn theo hướng khác, hắn và Yến Tuân bất giác lại trở thành đồng minh.

Thế sự đôi khi lại khiến người đời không thể tưởng tượng nổi.

Và chuyện khiến chúng văn nhân thi giả say sưa đàm luận thời gian qua, chính là đại hôn xa hoa của Bắc Yến vương Yến Tuân.

Đầu năm ngoái, hôn lễ của Yến Tuân được cử hành xa hoa ở nội cung Sóc Phương, con gái duy nhất của mười tám vị trọng thần đồng loạt lấy phi vị nhập cung, nhất thời khiến hậu cung trở nên vô cùng náo nhiệt. Tiệc mừng kéo dài suốt mười tám ngày, dân chúng Bắc Yến thi nhau đến trước cung Sóc Phương lễ bái, long trọng nhất từ trước đến giờ, khiến người nhìn mãn nhãn.

Ngày thứ hai của hôn lễ, cung Nạp Đạt trên đỉnh Lạc Nhật rốt cuộc cũng được xây dựng xong, người may mắn đến sớm được chiêm ngưỡng nó đều trầm trồ kêu kỳ quan. Chúng văn nhân thi giả trở về đều đua nhau sáng tác thi văn ca ngợi tòa cung điện lộng lẫy kia.

Nghe nói, cung Nạp Đạt trên núi Lạc Nhật được xây dựng trên sườn núi, một bên là vách đá, mặt còn lại là thác nước nóng tuôn chảy, hoa cỏ lơ lửng trên không trung, suối rượu uốn lượn thơm nồng mười dặm, vách tường bằng đá trắng khảm bạc phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh. Khối kiến trúc rực rỡ như nơi ở của thần, ngay cả cung Kim Ngô có hơn ngàn năm lịch sử của Biện Đường cũng không sánh bằng.

*Cảm hứng từ vườn treo Babylon (một trong 7 kỳ quan thời cổ đại): vườn có 7 bậc thềm, đều là một vườn riêng, từ đó mà có tên gọi theo số nhiều là "những vườn treo". Hơn nữa, cả 7 bậc thềm tạo nên một thể thống nhất. Ở vành ngoài mỗi bậc thềm người ta trồng các loại cây leo bò từ bậc thềm này sang bậc thềm khác và liên kết cả 7 vườn riêng lẻ thành một quần thể duy nhất. Quần thể này nom giống như một quả núi xanh mọc thẳng đứng lên với một khối rậm rì những cây, bụi, hàng rào cây xanh và hoa trông như đang treo hoặc bốc hơi, từ đó mà có tên gọi là "vườn treo".

Toàn bộ người trong thiên hạ đều biết đây là tòa cung điện mà Bắc Yến vương xây dành cho người mình yêu là Tú Lệ tướng quân. Nhưng từ bốn năm trước khi Tú Lệ tướng quân và Bắc Yến vương đoạn tuyệt với nhau trên bình nguyên Hỏa Lôi, tin tức về cô gái xuất thân nô lệ, điểm chung duy nhất giữa Bắc Yến vương, đại tư mã của Đại Hạ và hoàng đế Biện Đường, người phát động chiến tranh tam quốc truyền kỳ đã bặt vô tăm tích, hoàn toàn biến mất khỏi bản đồ chính trị của đại lục Tây Mông.

Có người nói, nàng đã gả cho hoàng thất Biện Đường, đổi tên đổi họ rồi ở lại bên cạnh hoàng đế. Cũng có người nói, nàng chính là vị chính thê mà đại tư mã của Đại Hạ là Gia Cát Nguyệt từng công bố với thiên hạ, hiện giờ đang ở Thanh Hải tiếp tục lãnh đạo binh lính thay cho hắn. Thậm chí có người nói, nàng đã trở lại Bắc Yến, hiện giờ đang ngụ trong hành cung Nạp Đạt tráng lệ kia.

Thế nhưng, tất cả lời đồn đều chỉ là suy đoán suông, không ai biết được, cô gái trong truyền thuyết kia đang ở tại một thành nhỏ phía nam Biện Đường kinh doanh khách điếm, mỗi buổi sớm đều đi tản bộ ven hồ, thỉnh thoảng cùng mấy người già ở đó đánh cờ nói chuyện giết thời gian.

Cuộc sống chợt trở nên vô cùng đơn giản, đa phần nàng không hề nghĩ ngợi gì nhiều, nhưng thỉnh thoảng cũng sẽ nhớ đến rất nhiều năm trước, trong một đình viện rách nát, nàng từng kể cho thiếu niên nghe câu chuyện xa xưa về vị quốc vương xây dựng cho người phụ nữ mình yêu một khu vườn treo. Cung điện có thác nước nóng, có vườn hoa ngũ sắc lơ lửng trên không trung, có suối rượu hương thơm bay mười dặm, tường điện bằng đá trắng khảm bạc phản chiếu ánh sáng. Khu vườn này về sau trở thành di sản thế giới, tượng trưng cho tình yêu vĩnh viễn không thay đổi của quốc vương đối với người vợ yêu của mình.

Nửa đời người trôi qua, có người dừng chân, có người lướt qua, có người quên mất xuất thân của mình, có người mất đi phương hướng, cho dù thỉnh thoảng hồi ức có khơi gợi lại cũng chẳng thể vãn hồi tình cảm đã mất.

Hạt mưa vỗ lên bụi chuối bên cửa sổ, lại là một đêm không ngủ.

Hừng sáng Sở Kiều mới chợp mắt, khi tỉnh lại thì mặt trời đã lên cao. Mai Hương bây giờ đã là chủ quản sự của khách điếm nên luôn bận bịu nhiều chuyện, hôm nay con trai cưới vợ nên Ngô đại nương quét dọn nấu nướng trong viện cũng không có trong sân.

Đẩy cửa sổ ra, trời bên ngoài trong xanh không một gợn mây, trên tán cây dong trong sân có hai chú chim hoàng anh đang líu ríu không ngừng.

Sở Kiều thay một chiếc áo ngắn màu xanh nhạt, phía dưới mặc la quần tím nhạt, tóc búi lỏng, thoạt nhìn vô cùng thoải mái. Nàng đẩy cửa ra ngoài, nhìn thấy Đa Cát đang ngồi trên chiếc bàn đá trong sân viết cái gì đó, Thanh Thanh ngồi bên cạnh phe phẩy quạt, dáng vẻ buồn ngủ đến díp mắt nhưng vẫn cố chịu. Bình An như thường lệ không có nhà, cũng chẳng rõ lại chạy đi đâu chơi rồi.

Năm nay Đa Cát đã mười tám, cao ráo tuấn tú, không giống người Bắc Yến trưởng thành trên thảo nguyên mà giống thư sinh nho nhã ở Giang Nam hơn, ở thời đại này thì vừa vặn đến tuổi cưới vợ sinh con rồi.

Thanh Thanh cũng đã mười lăm, tiểu nha đầu ngây thơ vẫn một mực theo sau mông người ta như một cái đuôi nhỏ.

"Tỷ tỷ!" Nghe tiếng động, Thanh Thanh lập tức mở mắt ra vui vẻ kêu lên.

"Tiểu thư dậy rồi." Đa Cát đứng lên, vội vàng thu hồi giấy tờ trên bàn đá, ngượng ngùng lui về phía sau một bước.

Sở Kiều biết cậu đang làm gì nhưng cũng không nói toạc ra, chỉ đi tới sửa sang vạt áo xộc xệch cho cậu, nhíu mày nói: "Nghiên cứu nâng cao tri thức không phải là chuyện một ngày hai ngày, tối qua mấy giờ mới ngủ mà hôm nay còn dậy sớm như vậy?"

Đa Cát bối rối, cậu thanh niên mười tám tuổi cúi đầu như một đứa trẻ vừa biết sai, ngủ không đủ giấc nên vành mắt cậu đen thui như mắt gấu trúc.

"Phải đấy!" Thanh Thanh ở bên cạnh cũng lập tức lên án: "Ngày nào cũng ngồi đây viết lách, không chịu đi chơi với muội."

"Thanh Thanh, Đa Cát!" Bình Anh vừa chạy vào vừa gọi to, nhìn thấy Sở Kiều liền vui vẻ nói luôn: "Tỷ tỷ, hôm nay là hội hoa sen, bên ngoài náo nhiệt lắm, hoa sen trong hồ Xuân Hà chỉ một đêm đã nở trắng hồ, tỷ không đi xem sao?"

Thanh Thanh nghe nói lập tức sáng mắt lên, nhưng quay lại nhìn thì đụng phải vẻ mặt thản nhiên của Đa Cát, nói rõ cậu không mặn mà chuyện ra ngoài chơi cho lắm.

Sở Kiều nhìn thấy thì mỉm cười nói: "Được, chúng ta đi tham gia náo nhiệt một hôm vậy."

Đa Cát cau mày, "Trên đường nhất định có rất nhiều người, thân thể tiểu thư lại không tốt"

"Đa Cát! Hiếm khi tỷ tỷ muốn ra ngoài giải sầu, chớ có làm người khác mất hứng như vậy chứ." Thanh Thanh đẩy đẩy tay cậu, phụng phịu nói.

Đa Cát bất đắc dĩ nói: "Vậy tiểu thư chờ một chút, ta đi đổi y phục rồi đi cùng mọi người."

Thanh Thanh và Bình An hớn hở vỗ tay, dáng vẻ như hai đứa trẻ còn chưa lớn.

Bốn người nhanh chóng ra khỏi cửa, Đa Cát đã đổi một bộ trường sam xanh nhạt nho nhã, thoạt nhìn vô cùng anh tuấn. Cậu bung dù trúc che cho Sở Kiều khỏi ánh nắng trưa gay gắt, hai người sánh vai đi cùng nhìn như một bức tranh. Thanh Thanh vác theo một chiếc rổ nhỏ đựng trà ướp lạnh và ít bánh ngọt đi sau như một tiểu nha hoàn.

Cô bé hơi chau mày nhìn Đa Cát và Sở Kiều, đột nhiên lớn tiếng nói: "Tỷ tỷ, sau này muội không búi tóc hai bên nữa."

Nhóm người đang bước đi, nghe cô bé nói thì đồng loạt sửng sốt.

"Búi tóc hai bên giống con nít lắm, muội đã mười lăm tuổi rồi, phải ra dáng một tí."

Sở Kiều không khỏi phì cười, biết rõ tâm tư Thanh Thanh nên cũng cười nói: "Ừ nhỉ, Thanh Thanh cũng đã lớn, có thể lấy chồng rồi."

Bình An quay lại *hừ* một tiếng, day ngón tay vào trán muội muội, "Đồ mặt dày không biết xấu hổ."

Hai đứa trẻ nhất thời lại cãi nhau ỏm tỏi, rượt chạy tán loạn.

Hôm nay là hội hoa sen, toàn bộ sen trong hồ Xuân Hà đều nở rộ, trắng muốt cả hồ, mỗi khi có gió thổi lại thơm ngát cả vùng. Hương sen ngọt ngào, mặt nước trong xanh, gió thổi vi vu, cánh hoa phớt hồng, đẹp vô cùng.

Hôm nay tâm tình của Sở Kiều rất tốt, nàng nói muốn thuê thuyền dạo hồ, Thanh Thanh và Bình An dĩ nhiên vui vẻ tán thành, Đa Cát cũng không đành làm Sở Kiều mất hứng. Bốn người lên thuyền, Đa Cát đứng ở đuôi thuyền nhẹ dùng sức đẩy, con thuyền nhỏ từ từ rời bờ, len lỏi qua tán lá sen xanh rì.

Thuyền lướt nước thật êm, Thanh Thanh ngồi ở mũi thuyền thích thú lấy tay vén lá sen ra, lục bình chập chờn hai bên mạn thuyền, tiếng người trò chuyện văng vẳng đâu đó không xa, gió mát phe phẩy qua tóc mai, lên vành tai.

Bình An hăm hở hái đài sen cột thành từng bó lớn, cậu vốn không ăn hạt sen nhưng lại chết sống hái như đang giành giật với người khác. Chỉ một chốc sau trên thuyền đã xanh ngắt toàn đài sen.

Sở Kiều cảm thấy tâm tư rộng mở, nàng hít một hơi thật sâu rồi thở mạnh ra, phổi như được thanh lọc, thân thể cũng nhẹ đi vài phần.

"A! Có cá!" Thanh Thanh đột nhiên kêu to, Bình An vội vàng nhìn sang, một chú cá chép đỏ son quẫy đuôi nhảy lên rồi rơi *tõm* xuống, khiến nước bắn đầy hết lên mặt bọn họ.

Đa Cát nhìn Thanh Thanh và Bình An đùa giỡn ở đầu thuyền thì bất giác cũng cười theo, cậu chậm rãi khua mái chèo, mặt nước phản chiếu bóng dáng cao ráo của cậu, vạt áo bồng bềnh, phong thái tiêu sái, đã ra dáng một công tử văn nhã rồi.

Sở Kiều nhìn ba người, cười dịu dàng.

Cả ba đều đã trưởng thành rồi, chỉ có mình nàng vẫn luôn coi bọn họ như trẻ con thôi.

"Đa Cát, em rời nhà cũng gần hai năm rồi, không muốn hồi hương thăm nhà một chút sao?"

Đa Cát nghe hỏi thì thoáng sững sờ, gượng gạo cười nói: "Chờ một thời gian nữa xem thế nào đã."

Sở Kiều gật đầu, trầm ngâm nói: "Cũng đúng, hiện giờ chiến sự ở biên cảnh phức tạp khó đoán, đích thực là không tiện đi lại."

"Phải." Đa Cát gật đầu nói: "Dù sao thì nội cảnh Bắc Yến cũng không có chiến tranh, cha mẹ ta sống ở dưới chân Hồi Sơn đã mấy chục năm rồi, đến nay vẫn bình an vô sự nên ta cũng yên tâm. Nhưng tiểu thư và bọn Bình An có một thân một mình, ta làm sao có thể yên tâm mà đi được."

Sở Kiều nhất thời sửng sốt, không khỏi cười nói: "Thằng nhóc nhà em không yên tâm cái gì chứ?"

Đa Cát lắc đầu, không nói nguyên nhân mà chỉ lẩm bẩm: "Nói gì thì nói vẫn không yên lòng."

"Ha ha, hái được rồi!" Thanh Thanh đột nhiên cười to, tay cầm đóa hoa sen thật to, đứng bật dậy nói với Sở Kiều: "Tỷ tỷ, đẹp không này?" Vừa nói vừa định chạy về phía nàng.

Sở Kiều cả kinh, vội vàng kêu: "Thanh Thanh, cẩn thận!"

Nàng vừa dứt lời thì con thuyền nhỏ liền lập tức chao đảo.

"Thanh Thanh, mau ngồi xuống!" Bình An hét lên.

Con thuyền chao đảo càng lúc càng dữ dội, Thanh Thanh thất kinh kêu lớn. Con thuyền nghiêng hẳn sang một bên, Đa Cát buông mái chèo trong tay ra, nhào đến kéo lấy Sở Kiều đang sắp rơi vào trong nước lại. *Tõm* một tiếng, Thanh Thanh rốt cuộc rơi xuống nước.

Nước bắn tung tóe, Bình An cũng lập tức nhảy theo, nhanh chóng chụp được Thanh Thanh.

"Bình An, đưa tay đây." Đa Cát giơ tay ra, cùng Bình An đưa Thanh Thanh lên thuyền. Tiểu nha đầu bị dọa đến tái mét, run rẩy nép vào lòng Sở Kiều, cắn môi để không khóc thành tiếng.

"Đần chết đi được!" Bình An mắng.

Thanh Thanh nghe mắng, lập tức mếu miệng khóc lên.

"Bình An, chớ nói thế." Đa Cát khiển trách, "Thanh Thanh còn nhỏ."

Sở Kiều vỗ vỗ lưng Thanh Thanh, cười nói: "Nha đầu ngốc, em không phải biết bơi sao? Khóc cái gì?"

Thanh Thanh nghe nói thì chợt ngây ra, quên cả khóc, lát sau mới bẽn lẽn cười nói: "Muội quên mất."

Bình An không nhịn được la to: "Đúng là đần chết được mà!"

May là đang mùa hè, y phục vải nhẹ mỏng nên ngồi một lúc thì đã khô. Có điều bị một trận như vậy nên bọn họ cũng mất hứng, quyết định lên bờ quay về nhà.

Ai ngờ vừa lên bờ thì một đám năm sáu nam tử mặt mũi lưu manh đột nhiên đi tới, lúc đi ngang qua nhóm người, một gã đột nhiên ăn gan hùm mật gấu đưa tay muốn sờ mặt Sở Kiều.

Với thân thủ như Sở Kiều, sao có thể để gã dễ dàng như ý nguyện, nàng chỉ lắc mình một cái đã khiến gã kia chụp hụt.

"Ối chà?" Gã nam tử nọ mặc trường bào thư sinh màu trắng nhưng giọng điệu lại vô cùng cợt nhả vô lại, gã híp mắt quay sang cười nói với mấy gã còn lại: "Tiểu nương tử này thực trơn mịn!"

Cả bọn nghe nói đều đồng loạt phá lên cười ha hả.

Sở Kiều vừa mới khẽ cau mày thì Thanh Thanh đã đột nhiên tiến lên một bước, tức giận mắng: "Không biết xấu hổ! Các người muốn chết à!"

Gã nọ lúc nãy không chú ý đến Thanh Thanh, bây giờ nhìn thấy cô bé thì càng thêm vui vẻ, cười to nói: "Thêm một nàng tư sắc không tồi, tuy còn hơi non nhưng cũng vòng nào ra vòng đó."

"Tỷ tỷ?" Bình An tức đến đỏ bừng mặt, quay đầu lại nhìn Sở Kiều.

Sở Kiều bất đắc dĩ thở dài, trầm giọng nói: "Cẩn thận một chút, chớ làm lớn chuyện quá."

Bình An hoan hô một tiếng rồi không đợi mấy gã kia kịp phản ứng đã lao đến như một chú cọp con.

Sau hai tiếng *răng rắc* và cảm giác đau đớn ập đến, gã nam tử kia bay vèo sang một bên như một bao cát, ngực vừa bị đập một đòn thật mạnh.

Thanh Thanh thấy ca ca động thủ thì liền ném cái rổ nhỏ trong tay xuống, cũng xông lên. Đằng sau mấy gã nam tử kia có hơn mười hạ nhân theo hộ vệ, thấy chủ tử bị đánh thì cũng hối hả chạy tới. Thanh Thanh chỉ vung chân một cái đã đạp ngã hai gã hộ vệ, cùng lúc đưa tay bắt lấy tay một gã khác, nhanh như chớp xoay người ném gã qua vai mà vẫn nắm chặt tay gã khiến tay gã nọ bị trật khớp, kéo theo một tiếng kêu thảm thiết như heo bị mổ.

Bình An đạp vào eo một gã khác, lấy đà nhảy lên dùng hai chân giữa chặt cằm gã nọ vặn một cái, một giây sau gã đã nằm xụi lơ trên mặt đất.

Người tụ lại xem càng lúc càng đông, Thanh Thanh dù sao cũng là lần đầu tiên chân chính động thủ với người khác, dần dần có hơi yếu thế, nhưng cũng may có Bình An thân thủ không tệ hỗ trợ, đánh đâu thắng đó. Chỉ thoáng sau mặt đất đã nằm gần năm sáu người, mất sạch khả năng chiến đấu.

Cùng lúc đó, có mấy gã chú ý đến Sở Kiều và Đa Cát đang đứng một bên nhìn, lén lút áp sát hai người định kiếm lợi. Nhưng còn chưa kịp làm gì thì trước mắt như có cái bóng xẹt qua....

Vung tay! Chế trụ! Vặn!

Đa Cát vẫn còn đứng yên tại chỗ, một bước cũng không động đậy thì bên tai đã nghe thấy tiếng xương gãy. Gã người hầu kia nằm trên mặt đất, ôm cánh tay bị gãy kêu la thảm thiết không ngừng.

"Hây yaaaaa!" Thanh Thanh hét to một tiếng rồi tung mình lên đá vào ngực một gã đang định tấn công Bình An khiến gã loạng choạng mấy bước rồi gục xuống đất, không bò dậy nổi nữa.

Lúc tên cuối cùng ngã xuống, con đường không lớn đã ngổn ngang mười mấy người nằm, không ai có thể bò dậy được.

Thanh Thanh đắc ý phủi tay, hừ mũi nói: "Đáng đời! Lần này cho các ngươi một bài học, xem về sau còn dám làm chuyện xấu nữa không."

Dân chúng tụ tập hóng chuyện nhất thời đồng loạt hoan hô khen ngợi. Bình An còn đang đắc ý, đảo mắt nhìn thấy Sở Kiều và Đa Cát cùng nhau rời đi thì vội vã kéo Thanh Thanh chạy theo.

Đám đông nhìn theo mấy người bọn họ rời đi, không khỏi e ngại cảm thán.

Dưới gốc liễu cạnh bờ hồ, một công tử khoảng hai mươi sáu hai mươi bảy mặc trường sam trắng tinh, lẳng lặng nhìn theo hướng bọn Sở Kiều vừa đi, thật lâu vẫn không rời đi.

Sau khi về đến nhà, bốn người nhìn thấy Mai Hương đang đứng trước cửa chờ với bộ dạng mong ngóng. Nàng thấy bọn họ liền vội vàng chạy đến, lại bắt đầu càm ràm.

Đa Cát nhanh chóng kể lại chiến tích của bọn họ hôm nay, rốt cuộc khiến mặt Mai Hương thoắt trắng thoắt hồng một trận, thế là lại mắng Bình An và Thanh Thanh là yêu tinh chuyên gây chuyện.

Bữa tối có bốn món ăn một món canh, rau thịt đầy đủ, năm người cùng nhau ngồi ăn. Ngô đại nương không ở trong viện nên Mai Hương có dịp xuống bếp, Sở Kiều bị nàng buộc ăn hết một bát cơm đầy mới được tha.

Đến đêm cả bọn ngồi dưới gốc đa tám chuyện hóng mát, Sở Kiều hôm nay ra ngoài nên hơi mệt, nghe câu được câu không, cũng không tham gia nói chuyện.

Mai Hương vừa thêu thùa vừa nói: "Hôm nay có một chuyện lạ, Hoa bà bà ở phố Đông chạy tới tìm ta, nói muốn làm mai cho con trai duy nhất của Tống tiên sinh trường tư thục ở phía nam thành, bị ta trực tiếp cự tuyệt rồi."

Thanh Thanh nghe vậy thì cười váng lên: "Ha ha ha, cóc mà đòi ăn thịt thiên nga, con trai nhà bọn họ là thứ gì mà cũng dám mơ tưởng đến tỷ tỷ."

Mai Hương ngẩng đầu lên nhìn cô bé, kỳ quái hỏi: "Ta nói bọn họ muốn cưới tiểu thư hồi nào?"

"Hả? Chẳng lẽ nhìn trúng Mai tỷ sao?"

Mai Hương giơ tay vỗ đầu Thanh Thanh một cái, nói: "Nha đầu ngốc, người ta là để ý muội mới cho người đến làm mai."

Mai Hương vừa dứt lời thì mặt Thanh Thanh lập tức đỏ ửng, cô bé vội vàng mắng: "Khốn kiếp! Lần sau gặp mặt gã con của Tống lão đầu, muội sẽ chặt đứt chân hắn!"

"Muội có người đế ý là may rồi, còn ở đó già mồm cái gì." Bình An đang gặm táo, thuận miệng ném ra một câu.

Nhưng Mai Hương lại lắc đầu, nói: "Thật ra thì con trai của Tống tiên sinh không tệ, cũng là người có công danh, còn hết sức văn vẻ lịch sự, nghe nói mùa thu năm nay sẽ tham gia đại khảo rồi. Có điều muốn lấy Thanh Thanh thì không được, Đa Cát năm nay cũng đã mười tám, chờ Thanh Thanh sang năm cập kê thì làm tiệc mừng cho hai đứa được rồi."

Mai Hương vừa dứt lời thì tất cả đồng loạt sửng sốt, Thanh Thanh mặt đỏ như sắp bật máu, đầu cúi gằm, không còn lớn tiếng phản bác như lúc nãy.

Đa Cát thì thoáng nhăn mày, không tự nhiên nói: "Mai tỷ, ai bảo ta và Thanh Thanh muốn thành hôn?"

Mai Hương nhướng mày, nói: "Còn phải hỏi sao? Ai chẳng biết?"

Đa Cát đứng dậy, bình tĩnh nói: "Ta lại không biết." Dứt lời liền xoay người trở về phòng.

Tất cả đều ngẩn người, không biết nói gì mới phải, ngay cả Bình An cũng há to miệng ngây ra.

Thanh Thanh đỏ mắt, đứng bật dậy chạy về phòng mình.

"Ta... ta có nói gì sai sao?" Mai Hương trợn mắt há hốc mồm, cũng vội vàng đứng lên đi đến phòng Thanh Thanh.

"Tỷ tỷ, chuyện gì vậy?"

Sở Kiều quay đầu nhìn sân viện trống trải, không đáp lời.

Gió đêm mang theo hơi ấm, tiếng ve sầu rền vang nghe thật não nề.

Đến khuya chợt có người gõ cửa phòng Sở Kiều, Sở Kiều còn chưa ngủ, khoác áo vào rồi ra mở cửa, đập vào mắt là khuôn mặt đầy nước mắt của Thanh Thanh đang đứng trước cửa.

Nhìn thấy Sở Kiều, tiểu nha đầu đột nhiên nhào vào lòng nàng, thương tâm khóc to.

Sở Kiều kéo nàng vào phòng, vỗ về an ủi mãi nhưng Thanh Thanh vẫn không ngừng khóc, cũng không nói gì. Khoảng một canh giờ sau, cô bé mới dịu lại, tuy vẫn còn thút thít mấy tiếng.

"Được rồi, đừng khóc nữa, Đa Cát chỉ nói đùa một câu thôi."

Thanh Thanh đứng dậy, gạt nước mắt trên mặt, lắc đầu nói: "Không phải đùa đâu."

Sở Kiều dĩ nhiên hiểu, nhưng không đành lòng khiến cô bé buồn nên vẫn an ủi: "Chớ suy nghĩ nhiều."

"Thật ra muội biết." Thanh Thanh cúi đầu, lẩm bẩm: "Đa Cát không thích muội, người trong lòng Đa Cát là tỷ tỷ."

Sở Kiều sửng sốt, cau mày nói: "Em nói bậy gì đó?"

"Muội không nói bậy." Thanh Thanh ngẩng đầu lên, khuôn mặt nhỏ đầy nước mắt nhìn hết sức đáng thương. Cô bé bướng bỉnh nói: "Muội có gặp Đa Cát lén giấu hình tỷ tỷ dưới gối."

Sở Kiều nhíu mày chặt hơn, hồi lâu cũng không nói gì.

"Nhưng muội cũng biết tỷ tỷ không thích Đa Cát, người trong lòng tỷ tỷ chính là người đã đưa ngọc bội cho tỷ tỷ." Tiểu nha đầu nói xong, lau nước mắt rồi chạy ra khỏi phòng.

Trăng ngoài cửa sổ vừa lớn vừa tròn, ánh trăng chiếu qua cửa sổ rọi sáng bừng cả gian phòng. Khối ngọc bội trắng như tuyết trên gối bắt ánh trăng, càng thêm sáng bóng.

Sau một đêm không ngủ, sáng sớm hôm sau đã có người gõ cửa tiểu viện. Một thư đồng áo xanh cung kính cúi chào rồi lễ phép nói: "Xin hỏi chủ nhân có nhà không? Công tử nhà ta có việc cầu kiến."  


Chương 171: Trùng phùng giữa đường

Rèm trướng được nhấc lên, ánh nắng sáng rỡ cùng mùi thịt nướng bên ngoài tràn vào, Thanh Thanh nhướng mày trở mình rồi mơ màng mở mắt ra, vẫn chưa tỉnh hẳn. Gió buổi sớm mang theo hương vị tươi mát luồn vào, nhất thời xua tan không khí đượm mùi thuốc trong trướng.

Sở Kiều vẫn không ngẩng đầu lên, một tay đỡ trán, tay còn lại kẹp một con cờ bằng mã não đen đặt xuống bàn cờ bạch ngọc kêu cái *cạch*, âm thanh đơn điệu ẩn chứa chút phiền muộn. Nàng như vẫn đang chìm đắm trong ván cờ chằng chịt đường lối, mỗi nước đều chần chừ rất lâu mới hạ cờ.

"Tiểu thư, tất cả mọi người đã chuẩn bị xong." Đa Cát đứng ngoài cửa, thấp giọng báo.

Mi tâm Sở Kiều chau lại thành hình chữ xuyên (川), tiếng Đa Cát văng vẳng trong lều nhưng nàng vẫn chậm chạp không có phản ứng. Trong lúc Đa Cát còn đang cho rằng nàng không nghe định lặp lại một lần nữa thì nàng lại đột nhiên đẩy bàn cờ sang một bên, quay đầu lại trầm giọng nói: "Nói với mọi người chuẩn bị sẵn sàng, bắt đầu từ hôm nay chúng ta sẽ lên đường cả ngày lẫn đêm."

Hôm qua bọn họ đã rời khỏi thành Học Phủ, bây giờ đang trên đường đến Đường Kinh.

Nửa tháng trước, con trai độc nhất của đại Nho gia Thẩm Mặc Bạch là Thẩm Tuấn đột nhiên viếng thăm, điểm danh nói muốn gặp Sở Hồi.

Sở Lâm là tên Đa Cát dùng khi đi lại trên phía Đông đại lục, tên chữ là Sở Hồi, Hồi trong Hồi Sơn. Thẩm Tuấn muốn gặp Đa Cát cũng chẳng phải là chuyện to tát gì, dù sao thì một năm nay sự thông thái của Đa Cát đã sớm lan xa khắp thành Học Phủ, nhưng chuyện phát sinh sau đó mới khiến Sở Kiều trở nên cảnh giác.

Theo lời Đa Cát thì Thẩm Tuấn vô cùng coi trọng cuốn 'Đạo Tế Thế' mà cậu đang biên soạn gần đây, thậm chí vừa đọc xong liền viết thư cho phụ thân ngay trong đêm, khiến Thẩm Mặc Bạch lúc ấy đang nhậm chức ở Mi Sơn lập tức quay trở về thành Học Phủ, còn kiên quyết lưu Đa Cát ở lại trong phủ liên tiếp ba ngày, ý ẩn trong lời như muốn chiêu nạp cậu.

Mọi chuyện vốn cũng chẳng có gì đáng nói, một học giả yêu thích hậu bối tài hoa muốn nâng đỡ là chuyện thường thấy. Nhưng nửa tháng sau, khi Thẩm Mặc Bạch đột ngột dẫn Đa Cát yết kiến một người thì Sở Kiều mới cảm nhận được nguy cơ.

Người nọ tuổi còn trẻ, khí độ ung dung, thân phận thần bí, ngay cả đại học giả như Thẩm Mặc Bạch cũng phải hết sức cung kính hữu lễ. Ngoài ra, theo hình dáng mà Đa Cát mô tả lại, Sở Kiều mơ hồ nhớ đến một người nàng chỉ gặp qua một lần. Hồi tưởng lại những lời đồn đại nghe được gần đây, Sở Kiều càng có linh cảm bất an khác thường. Ba ngày sau, nàng quyết định trở về phương Bắc, tìm gặp Lý Sách một lần để chứng thực lo lắng trong lòng.

Đoàn người đi hai ngày thì đến được Tú Lĩnh, đường núi uốn lượn, một bên là bờ suối cỏ non mọc dày, một bên là rừng thông bạt ngàn, nếu không phải đang mang tâm trạng thấp thỏm thì nơi này đúng là một nơi an dưỡng tốt.

Nhưng đến đêm ngày thứ ba thì hành trình của bọn Sở Kiều lại bị gián đoạn bởi một trận mưa lớn.

Đường núi trắc trở, mặt đất bị nước biến thành bùn nhão càng thêm khó đi. Đoàn người khó khăn lắm mới đến được bờ sông thì lại phát hiện mưa lũ đã cuốn trôi chiếc cầu dây duy nhất nối hai bờ sông. Trước mặt còn có một đội ngũ cũng muốn qua sông đang gấp rút sửa cầu, nhưng nhân số chỉ có hơn ba mươi người nên tiến độ vô cùng chậm chạp.

Trước mắt chỉ có hai con đường, một là quay lại đi đường vòng xuyên qua Hoài Tống để đến Biện Đường, nhưng như vậy sẽ khiến lộ trình kéo dài thêm mười ngày so với dự kiến. Hai là chờ cầu sửa xong rồi qua sông.

Sở Kiều cho nhóm hộ vệ thuê để đánh xe mỗi người thêm mười lượng bạc, khiến bọn họ lập tức hăng hái gia nhập đội ngũ đang sửa chữa cầu kia.

Một chốc sau, Đa Cát đến cạnh xe ngựa của nàng báo: "Tiểu thư, đối phương phái người đến cảm ơn chúng ta."

Sở Kiều thấy đối phương cũng không có ý bắt chuyện dông dài thì cũng thấy thoải mái, nhẹ gật đầu nói: "Em quay lại nói với bọn họ, là người đi cùng một đường, đều muốn qua sông cả, không cần cảm ơn."

Trời nhanh chóng sập tối, phía chân trời văng vẳng tiếng sấm, không khí oi bức dị thường. Sở Kiều nhẹ vén rèm cửa xe ngựa lên, nhìn thấy bầu trời phía tây đen kịt, e không lâu nữa sẽ lại có một trận mưa to.

Mai Hương chỉ huy hạ nhân nấu cháo thịt, Sở Kiều thấy đội ngũ bên kia đều tập trung sửa cầu, chỉ có cỗ xe ngựa được buộc dưới gốc thông già là không hề có động tĩnh. Cỗ xe được bao phủ trong ánh sáng đỏ au của hoàng hôn, gió nhẹ thổi khiến rèm xe thi thoảng bị lật lên, để lộ mũi giày gấm trắng thêu chỉ vàng, loại giày mà chỉ có người đại phú đại quý mới có thể sử dụng.

Mai Hương kêu gọi nhóm hộ vệ nhà mình về ăn cháo. Sở Kiều cũng dặn nàng đưa phần cháo còn dư cho người phía đối diện. Không ngờ sau lúc trở lại, Mai Hương còn cầm theo một bao giấy dầu lớn, mở ra thì thấy bên trong là điểm tâm và bánh bơ thượng hạng các loại, ngoài ra còn có hai tảng thịt bò khô thật to.

"Thật đúng là người biết báo ơn." Mai Hương cười tít mắt nhón lấy một khối bánh lên mũi hít hà, nói: "Mùi giống bánh ngàn lớp của Ngư Phúc Ký ở Bạch Thủy Quan. Tiểu thư, người nhìn thử xem, xem có giống loại bánh chúng ta nhập về từ Bạch Thủy không?"

Sở Kiều nhướng mày nhận lấy, nhìn qua một chút rồi lẳng lặng nói: "Không giống, bánh chúng ta thường nhập không xốp giòn như vậy. Loại bánh cao cấp này không chịu được vận chuyển đường xa, có lẽ đối phương cũng chỉ tiện đường mua ăn thôi."

Mai Hương nghe nói thì chặc lưỡi, mấy năm nay cơm áo không lo nhưng dù sao cũng vốn xuất thuân nghèo khổ, nàng lẩm bẩm cảm thán: "Điểm tâm mắc như vậy mà cũng đưa tặng chúng ta, đúng là nhà giàu xài sang mà."

Thanh Thanh bị cảm nhẹ mấy ngày nay nên luôn ngủ vùi, ngửi được mùi thơm liền mở mắt ra, chưa nhìn rõ là gì đã kêu Mai Hương: "Mai tỷ, muội muốn ăn."

"Nhóm người này lai lịch không rõ, vẫn nên cẩn thận phòng bị thì hơn. Mai Hương, tìm chỗ kín đáo ném mấy thứ này đi, chớ ăn."

Mai Hương thoáng sững sờ, nhưng ngay sau đó lập tức gật đầu, "Tiểu thư nói rất đúng."

Sấm chớp đì đùng, gió giật dữ dội nhưng trời sập tối thì lại dịu đi. Khi trời hoàn toàn tối hẳn thì cầu gỗ đã được tu bổ xong.

Nhóm người kia dường như đang gấp lên đường, một người đi qua chào hỏi với Đa Cát một tiếng rồi rời đi trước.

Sở Kiều cũng không muốn kéo dài thời gian nữa, sau khi nhóm người kia qua sông thì liền lập tức dẫn người qua sông.

Lúc đi ngang gốc thông, bọn họ vô tình nhìn thấy bát sứ đựng cháo thịt Mai Hương đưa sang khi nãy bị đặt lẫn trong lùm cỏ, cháo bên trong vẫn còn nguyên, thu hút không ít chuột vui sướng chạy đến ăn.

Sở Kiều thả rèm cửa sổ xuống, lẳng lặng tựa vào đệm lưng, mi tâm chậm rãi nhíu lại.

Qua nửa đêm thì đoàn người cuối cùng cũng ra khỏi dãy núi, tiến vào thảo nguyên bằng phẳng. Người dẫn đường nói nơi này thuộc tỉnh Du Du, qua khỏi đây là núi Tịch Chiếu, sau ngọn núi này chính là thành Thu Phong phồn hoa nhất khu vực tây nam của Biện Đường. Phía Đông thành Thu Phong là Đường Kinh, hướng Bắc là Bạch Thủy Quan, qua khỏi Bạch Thủy Quan chính là lãnh thổ Đại Hạ.

Mấy ngày liền phải bôn ba đường núi, bây giờ thấy được bình nguyên bằng phẳng, mọi người ai cũng phấn chấn hẳn lên.

Bình nguyên trống trải bát ngát, nhìn thấy gốc cây ở xa xa, thoạt nhìn không xa lắm nhưng muốn đến nơi thì phải cưỡi ngựa chạy mất cả ngày. Đoàn người băng qua bình nguyên hết hai ngày, cuối cùng mới đặt chân đến dãy Tịch Chiếu.

Dãy núi này không những có cái tên cực đẹp (Tịch Chiếu có nghĩa là nắng hoàng hôn) mà còn sở hữu cảnh sắc tuyệt vời. Dãy núi bao gồm vài ngọn núi trùng điệp đứng đối xứng, được rừng thông xanh biếc và muôn vàn loài hoa điểm xuyết, từ trên ngọn núi cao nhất còn có một thác nước đổ trắng xóa, nhìn từ xa như một dải lụa trắng, hơi nước bốc lên tạo thành cầu vồng, tựa như tiên cảnh.

Do gần với thành Thu Phong nên đường núi nơi này được khai phá cực kỳ rộng rãi, hai chiếc xe ngựa chạy song song vẫn thoải mái.

Mặt trời ngả về tây, ráng chiều rực rỡ nhuộm đỏ không gian, khiến rừng thông cũng ửng hồng, sắc hoa càng thêm tươi thắm, vượn hót chim kêu, cảnh đẹp không bút mực nào tả xiết, quả nhiên không hổ danh hai chữ 'Tịch Chiếu.'

Tối hôm đó, Sở Kiều hạ lệnh tạm dừng chân tại một sơn cốc. Chúng hạ nhân nghe lệnh thì đồng loạt hoan hô, bọn họ đi đường liên tục mấy ngày không nghỉ, ai cũng đã mệt nhoài từ lâu.

Nhưng còn chưa kịp ngủ thì tai lại nghe được tiếng sói tru truyền đến từ xa, tiếng tru kéo dài khiến người nghe sởn gai ốc.

Thanh Thanh mặt tái mét, núp trong lều, nhắm tịt mắt nép vào lòng Mai Hương, cố thế nào cũng không ngủ được.

Sở Kiều cũng không khỏi có hơi lo lắng, sói hoang ở vùng tây nam hung ác có tiếng, bọn họ hiện giờ ít người, đa phần đều là hộ vệ tầm thường và phu xe thuê về, trong đội ngũ lại có phụ nữ trẻ con, nếu bị sói tấn công, hậu quả sẽ rất thê thảm. Nàng gọi Đa Cát và Bình An đến dặn dò mấy câu, bảo tất cả phải chuẩn bị sẵn sàng thì mới yên tâm chút ít.

Nhưng vừa qua nửa đêm thì tiếng sói tru càng lúc càng nhiều, xen lẫn là tiếng nam nhân quát tháo.

Sở Kiều ra khỏi lều, khoác thêm áo rồi dặn Bình An trông chừng khu lều, sau đó mang theo Đa Cát và mười hộ vệ đi đến hướng phát ra âm thanh.

Nhóm người mới băng qua một sườn núi thì mùi máu tươi tanh nồng đã xộc vào mũi. Nhìn kỹ là một sơn cốc trũng thấp, đàn sói hoang có trên trăm con đang tập trung tấn công một đội nhân mã. Đội người không đông nhưng ai cũng có thân thủ mạnh mẽ, chém giết hết sức hung hãn, nhìn qua liền biết không phải dạng dễ trêu chọc. Bầy sói càng tấn công càng say máu, nhe răng nanh trắng ởn, ỷ vào số đông nên cũng không hề sợ hãi.

Không gian đầy mùi máu tanh nồng và tiếng kêu thét thảm thiết, thật khiến người nhìn lạnh sống lưng.

"Tiểu thư?" Đa Cát cau mày, trầm giọng nói: "Đàn sói quá đông, nếu bọn người này không địch lại thì chúng ta cũng sẽ không thể thoát thân."

Sở Kiều gật đầu, nói: "Tất cả chuẩn bị."

Đám phu xe hộ vệ làm thuê này cũng là người giang hồ hằng năm bôn ba bên ngoài, tuy không sánh được với quân đội chính quy nhưng gan cũng không nhỏ. Bọn họ giương cung lên, Đa Cát âm trầm ra lệnh: "Bắn!"

Hỏa tiễn liên tiếp được bắn ra, đàn sói bị tập kích từ sau lưng, thoáng cái đã có mười con ngã xuống. Đàn sói giận dữ quay lại lao về phía bọn Sở Kiều, tốc độ cực nhanh, mấy bước đã phóng đến trước mặt bọn họ.

Đa Cát nhanh tay lẹ mắt nhấc thùng dầu thông lên hắt về phía trước rồi ném đuốc xuống, một con đường lửa cao gần ba trượng bốc lên. Vài con sói không kịp dừng lại lao thẳng vào ngọn lửa, gào rú thảm thiết.

Sói vốn sợ lửa nên thế công nhất thời trở nên hỗn loạn, đội người kia thấy có tương trợ thì thêm khí thế, mấy người đứng đầu hét to một tiếng, cầm đao xông lên chém giết.

Sói hoang ở khu vực tây nam quả nhiên hung hãn như lời đồn, vẫn cố ác chiến thêm hơn một canh giờ nữa mới hoảng hốt bỏ chạy, trước khi đi còn rống lên mấy tiếng thị uy, tỏ vẻ sẽ trở lại báo thù.

Mặt đất đầy xác sói, tanh hôi đến khinh khủng.

Dưới sơn cốc có người cao giọng hô: "Vị bằng hữu vừa ra tay tương trợ trên kia, chủ nhân nhà ta xin đa tạ chư vị đã ra tay nghĩa hiệp!"

Đa Cát nghe tiếng thì hơi sững sờ, cố nhìn kỹ nhưng bị cây cối rậm rạp ngăn tầm mắt, trời lại tối mịt nên chỉ đành to giọng đáp lại: "Là Tào đại ca sao? Chúng ta đã từng gặp nhau ở bờ sông."

Đối phương im lặng một chốc rồi đột nhiên cười to, "Thì ra là Cát tiểu ca, ta bây giờ có hơi không tiện, sau này nhất định sẽ đến bái tạ đại ân của Cát tiểu ca."

Đa Cát gấp rút nói: "Tào đại ca không cần đa lễ, bị thương sao? Có thuốc trị thương không?"

"Thương thế vặt vãnh không đáng nhắc đến, tiểu ca không cần bận tâm."

Sở Kiều nghe ra sự cảnh giác trong giọng nói của đối phương, nhẹ nhàng kéo tay áo Đa Cát rồi chỉ chỉ về phía lều trại của mình ra hiệu.

Đa Cát hiểu ra, lập tức nói: "Vậy tiểu đệ xin đi trước, Tào đại ca bảo trọng."

Lúc trở lại trại, Bình An đang bồn chồn gần chết, nhìn thấy Sở Kiều liền nhào tới hỏi han: "Tỷ tỷ, có bị thương không?"

"Không có chuyện gì." Sở Kiều lắc đầu, nói với đám Đa Cát: "Tối nay mọi người có chợp mắt cũng phải dè chừng, để đuốc sáng cả đêm, tên lửa và dầu thông phải chuẩn bị sẵn sàng. Sói hoang vốn thù dai, phải cẩn thận bọn chúng đến trả thù."

Mọi người gật đầu, Sở Kiều trở về lều, thấy Thanh Thanh đã ngủ.

Mai Hương cởi áo choàng cho nàng, nhỏ giọng nói: "Để Đa Cát đi là được, sao tiểu thư phải tự mình đi vậy?"

Sở Kiều lắc đầu, mi tâm vẫn nhíu chặt, nói: "Mấy ngày qua ta luôn thấp thỏm không yên, không rõ là đã xảy ra chuyện gì không hay nữa."

"Tiểu thư đang lo cho bệ hạ Biện Đường sao? Người yên tâm đi, Đường hoàng thông minh khôn khéo như vậy, hạng tiểu nhân sao có thể dễ dàng được như ý."

Sở Kiều nhẹ giọng thở dài, đón lấy chén trà sâm Mai Hương đưa đến, nước trà nóng hổi nhưng vẫn không sưởi ấm được hai bàn tay lạnh như băng của nàng, "Chỉ hy vọng là thế."

Chẳng rõ vì sao, nàng đột nhiên nghĩ đến đội nhân mã dưới sơn cốc kia, trong lòng lại dâng lên chút lo lắng, bất giác buộc miệng hỏi: "Mai Hương, thuốc trị thương lần trước mua từ Hạnh Lâm Đường còn không?"

Mai Hương nhất thời sửng sốt, gấp gáp hỏi: "Ai bị thương, là tiểu thư sao?"

"Không phải." Sở Kiều vội lắc đầu, nói: "Không có ai bị thương hết." Nói rồi liền ảo não nằm xuống.

Mai Hương vẫn còn sợ hãi nhìn Sở Kiều một lượt, tựa như nghi ngờ nàng lừa mình.

Nàng làm sao thế này?

Sở Kiều hơi nhăn mày tự hỏi.

Sáng sớm ngày thứ hai, nhóm Sở Kiều vừa đi được một đoạn đã thấy một đội nhân mã đang lẳng lặng đứng chờ phía trước, dĩ nhiên chính là đám người tối hôm qua.

Một nam tử trung niên khoảng hơn ba mươi tiến đến khách khí nói vài câu với Đa Cát rồi đến trước xe ngựa của Sở Kiều, cúi chào nói: "Chủ nhân nhà ta đa tạ tiểu thư đã chi viện, vốn không nên vô lễ đường đột nhưng có ân phải trả, đành lớn mật hỏi danh tính của tiểu thư, kính xin tiểu thư thứ lỗi."

Sở Kiều hơi chau mày, trầm giọng nói: "Gặp chuyện bất bình tương trợ là việc phải đạo, không cần đa lễ."

Người nọ nghe nói thì thoáng sững sờ, lập tức hỏi lại: "Vẫn chưa được biết phương danh của tiểu thư."

"Các ngươi thực kỳ quái, chủ nhân nhà ngươi chỉ phái ngươi ra mặt, rõ ràng không muốn để lộ thân phận, thế sao còn nhất định hỏi xuất thân của ta? Gặp gỡ trên đường, giúp đỡ nhau là chuyện bình thường, nếu đã không tin tưởng đối phương hoặc đang có chuyện quan trọng phải làm thì sao không lập tức lên đường đi, còn ở chỗ này nhiều lời làm cái gì, không thấy phiền à?"

Người nọ nhất thời trợn mắt há hốc mồm, không ngờ sẽ bị Sở Kiều trực tiếp trách móc như vậy, ngây ra một lúc rồi lui xuống.

Chỉ chốc sau, đội ngũ phía trước nhanh chóng rời đi.

Thanh Thanh chắc lưỡi nói: "Tỷ tỷ thật lợi hại!"

Sở Kiều thở dài tựa vào đệm lưng.

Lợi hại gì chứ, nàng chỉ không muốn lãng phí thời gian với bọn họ mà thôi, qua thêm một ngày thì nàng càng thêm lo lắng, huống chi đối phương còn mang đến cảm giác bức bối lo âu như vậy. Nàng rõ ràng cảm nhận được bọn họ cũng không phải người bình thường, trong tình hình hiện giờ, bớt được chuyện nào hay chuyện đó, vẫn nên cẩn thận thì hơn.

Nhưng chưa đi được nửa ngày thì lại có chuyện ngăn cản bước chân của bọn họ. Bây giờ, ngay cả chậm lụt như Bình An cũng thấy có gì đó không đúng.

Sơn đạo chật hẹp bị vô số cây gãy cùng đá lở chất đống chắn ngang, cao hơn nửa thân người, xe ngựa tuyệt đối không thể tiến qua, rõ ràng là triền núi bị mưa to mấy hôm trước làm sạt lở. Nhưng trùng hợp quá nhiều lần khiến không ai còn nguyện ý tin tưởng lý do đơn giản này nữa.

Đội nhân mã đứng ở phía trước nhìn đám người Sở Kiều đang chậm rãi đến gần, đáy mắt không hề che giấu địch ý.

Mà Đa Cát và Bình An cũng nghi ngờ nhíu mày, tay tự động đặt lên chuôi kiếm đeo bên hông.

Trời xanh mây trắng, chim hót véo von, trời nắm ấm áp, không gian rất quang đãng nhưng lại ẩn chứa sự căng thẳng kỳ dị. Không người nào tiến lên dọn dẹp đất đá ngáng đường, mà lại nhìn nhau chằm chằm, hồi lâu cũng không ai tiến thêm bước nào.

"Thật trùng hợp." Nam nhân họ Tào nọ cười lạnh một tiếng rồi chậm rãi lên tiếng.

Bình An cau mày, định lên tiếng thì bị Đa Cát kéo lại. Đa Cát hơi nhíu mày, lạnh nhạt cười nói: "Quả nhiên trùng hợp, mấy ngày nay nhiều lần cùng Tào đại ca trải qua hoạn nạn, ngay cả ta không tin ông trời cũng không thể không nói một câu, thiên ý quả khó lường."

"Theo ta thấy thì chả phải thiên ý gì sất, e là có người rắp tâm giở trò thì đúng hơn."

Bình An cả giận quát lại: "Ngươi nói ai chứ?"

Tào đại ca lạnh lùng bật lại: "Các ngươi là ai? Người của Hoa Hạ sao?"

"Ta thấy các ngươi mới không giống người tốt!" Bình An tức giận quát to, tiến lên rút phăng kiếm ra, chuẩn bị động thủ.

Đối phương nhìn thấy liền đồng loạt xuất đao, ngay lúc đó một tia chớp bạc lóe lên đánh về phía chuôi kiếm của Bình An khiến bảo kiếm rơi *cạch* xuống đất, theo sau là giọng nữ trong trẻo, "Bình An, không được lỗ mãng."

Tựa như hồ nước đang sôi trào bị nước lạnh dội vào, thoáng cái đã bình thường trở lại.

Bốn phía tĩnh lặng như tờ, đến mức có thể nghe rõ từng tiếng hít thở.

Một cơn gió nhẹ nổi lên, quét qua trên mặt tất cả, rừng thông ở xa xa dao động tựa như ngàn con sóng nhấp nhô, chim chóc bay vụt lên không trung, cất tiếng hót réo rắt.

Chợt có tiếng *lạo xạo* rất nhỏ vang lên, tựa như là tiếng động do đế giày giẫm lên đá sỏi. Rèm cửa xanh thẫm được vén lên, đám người nam tử họ Tào kinh ngạc kêu lên: "Chủ nhân?"

Người nọ không nói một lời, trực tiếp đi về phía xe ngựa của Sở Kiều.

Đa Cát nhăn mày, quát lớn: "Đứng lại!"

Nhưng người nọ vẫn không hề để ý, Đa Cát đặt tay lên chuôi kiếm, mày kiếm nhướng cao, nhanh chóng rút kiếm. Nhưng cậu chỉ vừa rút được một nửa thì người nọ đã lao đến, tốc độ nhanh đến đáng sợ, đoạt lấy kiếm của Đa Cát rồi thuận tay ném sang một bên.

Đa Cát lập tức giận đến đỏ mặt, hừ một tiếng định lao đến dùng tay đánh nhưng người nọ vẫn bình thản không chút e ngại, nhanh chóng đến trước xe ngựa của Sở Kiều, đưa tay muốn vèn rèm xe lên.

Khoảnh khắc rèm xe được nhấc lên, gió mát cùng ánh mặt trời sáng lóa phả lên mặt, Sở Kiều đã thủ sẵn nỏ trên tay, vừa khai hỏa thì lập tức trở nên sững sờ.

Cùng lúc đó, Đa Cát ở phía sau cũng lao đến, năm ngón tay cong lại hướng về phía họng người nọ. Ba năm được Sở Kiều chỉ dạy, một chiêu này của cậu tuyệt đối có thể lấy mạng kẻ địch.

Song người nọ không động cũng không tránh, thân mặc trường sam xanh nhạt hoa văn hình mây, mày kiếm mắt sáng, vô cùng tuấn tú. Hắn đứng nguyên tại chỗ, hai mắt thản nhiên nhìn Sở Kiều, thần sắc trong mắt nhất thời khó phân biệt vui buồn, tịch mịch thâm trầm như đầm sâu không đáy.

Tên rời nỏ sượt qua thái dương nam tử, sít sao xẹt ngang bả vai Đa Cát rồi bắn về phía sau, vừa nhanh vừa đầy sát khí, trong nháy mắt đã khiến tất cả cứng người.

"Đa Cát, lui xuống đi." Sở Kiều lẳng lặng nói, giọng điệu nhẹ nhàng như mang theo uy lực không thể thách thức.

Đa Cát cau mày, kêu lên: "Tiểu thư?"

Sở Kiều hơi nhướng mày, không nói mà chỉ quay sang nhìn khiến Đa Cát nhất thời ngẩn ra, cuối cùng đành chậm rãi lui lại, chẳng qua vẫn không cam tâm nhìn chằm chằm nam nhân đứng trước xe.

Gió phương nam dịu mát say người, thời tiết tốt đến mức khó tin, một chú chim hoàng anh đậu xuống trên tán cây, cất tiếng hót lảnh lót. Dưới ánh nắng, cánh rừng một bên sườn núi như càng xanh hơn, được tô điểm bởi hoa cỏ đủ màu, đẹp đẽ kỳ vĩ như một bức tranh.

Gió nhẹ phe phẩy khiến vạt áo nam tử khẽ lay động, mang theo hương lan nhàn nhạt riêng biệt mà không phải loại huân hương của bọn công tử nhà giàu tầm thường sử dụng, càng làm nổi bật khí chất thanh tĩnh tựa tuyết kia.

"A!" Thanh Thanh ngồi phía sau Sở Kiều đột nhiên đưa tay chỉ về phía eo nam nhân, kêu lên: "Ngọc bội của hắn giống hệt của tỷ tỷ!"

Chất ngọc trắng muốt, mượt mà bóng loáng, nam tử đứng ngược gió, ngọc bội giắt bên hông bắt sáng, lóe lên lấp lánh.

Vẻ căng thẳng trên mặt Sở Kiều dần dịu đi, trong lúc tất cả mọi người vẫn đang bất động không lên tiếng, nàng đột nhiên giơ tay đặt lên bả vai nam tử làm điểm tựa rồi nhảy xuống khỏi xe ngựa, ôn hòa cười nói với đám Bình An và Đa Cát: "Chớ lo lắng nữa, nhanh chóng cùng nhau khai thông đường phía trước đi."

"Dạ?" Bình An mở to hai mắt nhìn Sở Kiều rồi lại quay sang nhìn nam tử nọ, cuối cùng ngây ngốc hỏi: "Tỷ tỷ, hai người biết nhau sao?"

"Ừ." Sở Kiều thong thả gật đầu, thần sắc mơ hồ mang theo vẻ nhẹ nhõm vui vẻ.

Bình An rất muốn hỏi người nọ là ai, chẳng ngờ cậu còn chưa kịp mở miệng thì đã bắt gặp ánh mắt lạnh nhạt của nam nhân vừa ném qua, không quá nghiêm nghị nhưng lại lạnh lùng tựa băng tuyết, như hắn đang rất không kiên nhẫn nghe cậu lải nhải nhiều lời thêm chút nào nữa.

Đám người Tào đại ca nhìn thấy liền lập tức cúi xuống, đồng loạt lấy dụng cụ bắt đầu khai thông đường.

Sở Kiều quay sang nói với nam tử: "Đi theo ta." Dứt lời liền đi ngược về phía sau.

"Tiểu thư!" Đa Cát vội vàng tiến lên ngăn ở trước người Sở Kiều, trầm giọng hỏi: "Người định đi làm gì?"

Sở Kiều nói: "Đa Cát, chớ có lo lắng, đây là bằng hữu của ta."

Đa Cát nghi ngờ nhìn nam tử nọ, thấy hắn hơi nhíu mày, lạnh nhạt quét mắt nhìn cậu một cái, ánh mắt trong trẻo tựa như mặt hồ đóng băng, lạnh lùng dị thường.

Ánh mắt kia lạnh nhạt và cao ngạo đến khó tả, phải là người từng trải, kinh qua qua bao chông gai của cuộc đời để ngồi lên cao mới có được ánh mắt như vậy. Đa Cát nhất thời cảm thấy như có một chậu nước lạnh vừa xối xuống đỉnh đầu mình, khiến sống lưng không khỏi run rẩy, khi khoảnh khắc đó qua đi, đảo mắt nhìn lại thì Sở Kiều và người nọ đã đi xa.

Hôm nay trời rất đẹp, xanh trong thoáng đãng, vạn vật được bao trùm bởi ánh nắng vàng óng. Hai người một trước một sau thoáng cái đã đi đến cạnh một cái hồ nhỏ trên núi, thác nước từ trên cao không ngừng tuôn xối xả xuống hồ tung bọt trắng xóa, bọt nước bắt ánh nắng lấp lánh đủ màu tựa như muôn vàn châu ngọc lơ lửng trong không trung.

Sở Kiều quay đầu lại nhìn nam nhân trước mặt, hơn một năm không gặp, hắn tựa như không có gì thay đồi, vẫn tuấn tú cao ngạo như xưa. Nàng hé môi muốn nói gì đó nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu, cuối cùng thiên ngôn vạn ngữ đều hóa thành một nụ cười yếu ớt, cũng không rõ là đang cười bản thân hay cười người khác.

"Cười cái gì?" Gia Cát Nguyệt vẫn giữ bộ dạng chớ lại gần kia, hắn hơi chau mày, tựa như đang rất khó chịu khi cùng nàng đứng ở đây.

"Không có gì." Sở Kiều lắc đầu, cười nói: "Dường như lần nào gặp lại ngươi cũng trong tình huống vô cùng kỳ quái."

Gia Cát Nguyệt quay đầu nhìn đi hướng khác, vẫn là động thái dứt khoát quen thuộc kia.

"Ngươi đến đây làm gì?"

Gia Cát Nguyệt trực tiếp cho nàng một đáp án mơ hồ, "Làm việc."

"Ra thế." Sở Kiều gật đầu, hỏi tiếp: "Bây giờ phải trở về?"

"Ừ."

Sau đó, hai người đứng yên đó, không ai nói thêm gì nữa.

Chớp mắt mà đã gần hai năm, trong thời gian vừa qua, hắn không ngừng hô phong hoán vũ trên triều, thay đổi càn khôn, đã trở thành một trong những người có thế lực nhất đại lục. Sở Kiều ở tít phía nam Biện Đường xa xôi nhưng vẫn thỉnh thoảng nghe được tin tức của hắn, và lần nào cũng cảm thấy hoảng hốt một cách lạ kỳ. Có lúc nàng còn thậm chí hoài nghi, không rõ người mình biết và nam nhân quyết đoán sát phạt trong lời đồn của người dân rốt cuộc có phải là một hay không?

Nàng cũng lần lượt nghe được tin đồn đến từ Thanh Hải.

Nghe nói nơi đó mặc dù là thuộc địa của Đại Hạ, nhưng lại thi hành chế độ quan lại tự do, quan lại không được đề cử từ giai cấp trung tầng trở lên mà được chọn thông qua khoa cử, thường dân cũng có cơ hội dự khảo. Nghe nói nơi đó đặt ra luật pháp mới, khuyến khích nông canh, xây dựng thủy lợi, có chính sách bảo vệ sản xuất và mua bán, thương nhân ở đại lục lớn gan cũng dần bắt đầu chạy đến thiết lập mối quan hệ mua bán với Thanh Hải rồi. Nghe nói, nơi đó đã hủy bỏ chế độ nô lệ, nhà giàu có thể mua gia nô, nhưng chỉ cần gia nô đồng ý xuất tiền chuộc thân thì có thể thoát khỏi nô tịch. Hơn nữa, còn có luật cấm tùy tiện sát hại gia nô, bằng không sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Nghe nói, nơi đó là một địa vực rộng lớn, không hoang vu khô cằn như trong truyền thuyết, nhân khẩu đông đúc, hiện giờ phồn vinh sung túc không kém thành trì lớn trên đại lục.

Cũng nghe nói, xú danh của Thanh Hải vương bây giờ đã lan xa, hắn bị lén gọi là thổ phỉ tư mã chứ không còn là đại tư mã nữa vì hàng năm liên tục vơ vét tiền bạc, lương thực và các loại vật liệu vận chuyển đến Thanh Hải. Bởi vì tháng nào Thanh Hải cũng gửi báo cáo có hạn hán lũ lụt bão tuyết đủ loại lên triều, nói rằng dân chúng không áo mặc không có cơm ăn, yêu cầu triều đình xuất bạc cứu nạn.

Hết lần này đến lần khác, đồ cứu tế vừa rời khỏi thành Chân Hoàng liền bị tuồn vào thị trường đổi thành bạc rồi trắng trợn được đưa đến Thanh Hải. Hiện tại hơn nửa binh lực của Bắc Yến đã bị Thanh Hải kiềm chế, Đại Hạ căn bản không dám trở mặt nên không thể làm gì khác hơn là mặc hắn tùy ý tung hoành.

Nghe nói, nam nhân này được người dân Thanh Hải xưng là 'quân phụ', bị dân chúng Tây Mông mắng là 'thổ phỉ', bị quan lại Đại Hạ gọi là 'quỷ hút máu'. Ngay cả bằng hữu tốt kiêm đồng minh tốt của hắn là Thất hoàng tử Triệu Triệt cũng phải lựa lời khuyên nhủ: Đừng làm quá, ngươi ăn thịt thì cũng phải chừa canh cho bọn họ húp chứ.

Nghe nói, tuy dân chúng Tây Mông hận hắn thấu xương, nhưng bây giờ càng lúc càng có nhiều người lớn gan âm thầm chuẩn bị dọn nhà đến Thanh Hải. Cho nên ngày nào ở Thùy Vi Quan cũng đầy ắp thường dân len lén tìm đường chạy vào Thanh Hải.

Đám trưởng lão Đại Hạ tức giận mắng hắn cố ý dung túng cho quan binh ở Thanh Hải lười biếng không làm tròn trách nhiệm, để mặc dân chúng đại lục chạy vào Thanh Hải.

Nhưng mắng thế nào thì hắn cũng chỉ vô tội nhún vai, nói rằng Bắc Yến hung hãn, chỗ hắn không có thừa binh lực gánh thêm trách nhiệm, muốn hạn chế chuyện này thì đưa hắn mười vạn lượng vàng để chiêu mộ thêm quân cho Thanh Hải...

Song bây giờ nhìn thấy hắn, tất cả mọi tin đồn kia đều biến mất khỏi tâm trí Sở Kiều, nhẹ nhàng như mây bay.

Hắn vẫn là hắn, không phải đại tư mã kiêm Thanh Hải vương, không phải vị quân phụ kinh tài tuyệt diễm của Thanh Hải, cũng không phải gã quỷ hút máu vô sỉ gian xảo của Đại Hạ. Hắn vẫn là nam nhân lạnh lùng cao ngạo, thỉnh thoảng lại bốc đồng tùy hứng kia, là Gia Cát thiếu gia đã mấy lần cùng nàng trải qua sinh tử, mấy lần cứu nàng khỏi cơn nguy nan.

Cảm giác bùi ngùi đột nhiên dâng lên, dần dần lấn át sự kích động cùng vui sướng khi nhìn thấy hắn ban đầu, Sở Kiều nhìn hắn, vẫn anh tuấn như xưa, vẫn lạnh lùng như khối băng vậy, nhưng khóe mắt đã mơ hồ đeo theo vẻ mệt mỏi khó nhận ra.

Nàng lẳng lặng hé môi, nhẹ giọng nói: "Mới hơn một năm không gặp, ngươi đã già rồi."


Gia Cát Nguyệt nghe nói thì đột nhiên ngây ra, vẻ gió sương ẩn chứa trong mắt tan biến, hắn cúi đầu nhìn Sở Kiều, thấy dung nhan nàng vẫn như cũ, chỉ có dáng vẻ là gầy thêm mấy phần.

Hắn năm nay mới hai mươi sáu tuổi, nói thế nào cũng không thể gọi là già. Nhưng mọi cực khổ mệt nhọc suốt mấy năm qua và những năm tháng rong ruổi chinh phạt trên chiến trường tanh mùi máu trước đó đều đọng lại trên khóe mắt hắn. Một chữ 'già' của nàng lại khiến mọi chuyện như lại một lần nữa lướt qua trong ánh mắt tang thương của hắn.

Là những đêm thức trắng bên ngọn nến hay dưới ánh trăng lạnh, là những đêm trằn trọc suy tư, là thời gian rèn luyện gian khổ, là những khoảnh khắc cô độc nghênh đón bão táp mưa sa.

Ngoài mặt vẫn như cũ, nhưng tâm đã mỏi mệt lắm rồi.

Trải qua những ngần ấy chuyện, làm sao có thể không già đi chứ?

Gia Cát Nguyệt nhìn nàng, mọi bực tức dồn nén hơn một năm đều tan biến, ngay cả cảm giác hờn dỗi trẻ con muốn phát tác cũng đều lắng dịu sau một câu nói này của nàng.

"Hơn một năm này, ngươi có khỏe không?"

"Đều ổn, vẫn còn sống." Gia Cát Nguyệt lạnh nhạt đáp. Lời lẽ tuy khó nghe nhưng giọng điệu đã không còn lạnh lùng như trong quá khứ. Sở Kiều cũng biết, hắn không phải đối đáp mỉa mai với mình mà thật sự đang cảm khái. Có lẽ chỉ có bọn họ mới nhận thức được, không có gì tốt hơn vẫn còn sống trên đời.

"Ta cũng rất tốt." Gia Cát Nguyệt không hỏi nhưng Sở Kiều vẫn tự nói: "Ta mở một khách điếm, sống rất thoải mái."

"Ta biết." Gia Cát Nguyệt hờ hững trả lời.

Sở Kiều sửng sốt, ngước lên nhìn hắn, "Ngươi biết?"

"Ta từng đến ngụ lại tại khách điếm của nàng ba lần." Sở Kiều còn đang ngây dại thì lại nghe Gia Cát Nguyệt trầm giọng tiếp lời: "Hơn một năm rồi, nàng đã nghĩ thông suốt chưa?"

"Nghĩ... Nghĩ thông cái gì?"

Nam tử chậm rãi nhíu mày, dáng vẻ như đang nói 'giả vờ hay thật', "Nàng thật sự định cả đời ở đó kinh doanh khách điếm?"

Sở Kiều trừng mắt, á khẩu không biết trả lời thế nào, thật ra thì nàng đúng là có dự định như vậy.

"Hay là thật sự định trước ba mươi tuổi tùy tiện tìm ai đó phó thác chung thân?"

Sở Kiều quýnh quáng, "Ai nói ngươi biết?"

"Còn có thể là ai nữa?" Gia Cát Nguyệt nói: "Dĩ nhiên là Lý Sách. Vẫn chưa biết à? Xuân Vũ lâu đối diện khách điếm của nàng là hắn mở, còn Tứ Hải các đằng sau là của ta mở."

Sở Kiều kinh ngạc đến nói không ra lời, bất giác nhớ đến hai tụ điểm ế ẩm ở trước và sau khách điếm nhà mình. Trước đây nàng còn rất đắc chí vì cho rằng khách điếm của mình giành hết khách của bọn họ, không ngờ đều là do một tay của hai vị cao nhân này thao túng.

Đột nhiên nghĩ đến một chuyện, Sở Kiều ngước lên hỏi: "Vậy ngay từ đầu ngươi đã biết thân phận của chúng ta rồi?"

"Không biết." Gia Cát Nguyệt đáp gọn lỏn, thấy vẻ mặt không tin của Sở Kiều thì không nhịn được nói thêm:"Tuy từng đến đó, nhưng ta chưa từng nhìn thấy mấy người các nàng."

Đúng vậy, hơn một năm này nàng luôn ru rú trong nhà, đích thực là rất ít đi ra ngoài.

"Lần này ra ngoài để làm gì?"

Sở Kiều không biết nên nói sao, dù gì cũng là quốc sự của Lý Sách, cho cũng chỉ nói qua loa: "Đi Đường Kinh."

"Hừ..." Gia Cát Nguyệt hừ lạnh một tiếng.

Gần chỗ hai người đứng có một gốc tử đằng và vài khóm đỗ quyên, mỗi lần có gió thổi qua, hương hoa nhàn nhạt lại theo gió quanh quẩn nơi đầu chóp mũi, khiến tâm hồn lâng lâng.

"Thiếu gia." Nam tử họ Tào đứng ở xa bẩm báo: "Đường đã được dọn thông, có thể đi rồi."

Gia Cát Nguyệt cũng không lên tiếng đáp, chỉ lẳng lặng đứng đó, hồi lâu sau mới như không nhịn được bầu không khí áp suất thấp giữa hai người, xoay người định rời đi.

"Gia Cát Nguyệt!" Sở Kiều đột nhiên kêu lên: "Lần sau đến thành Học Phủ, có thể đến tìm ta."

"Không rảnh tới đó." Gia Cát Nguyệt lạnh lùng đáp, chậm rãi xoay người lại, vẻ mặt u ám, nói: "Ta phải trở về Thanh Hải, nàng có đi theo ta không?"

Lúc hắn nói ra những lời này, khẩu khí tự nhiên hệt như khi người quen gặp nhau sẽ hỏi đối phương ăn gì chưa vậy. Còn Sở Kiều thì chỉ biết ngây người nhìn hắn. Vẫn luôn như vậy, nàng luôn có thể ung dung ứng phó với mọi chuyện, chỉ duy khi đối mặt với hắn, trí khôn của nàng đều sẽ biến sạch.

Sở Kiều ngơ ngác nhìn Gia Cát Nguyệt, tựa như đang chờ hắn nói thêm câu gì đó chứng thực lời hắn vừa nói không phải có ý như nàng nghĩ.

"Lý Sách bảo nàng chỉ biết phát triển cơ bắp, đầu óc thì chậm lụt không ai bằng, quả thực không sai. Hắn nói nàng khi đó vừa trải qua biến cố lớn, khuyên ta cho nàng thêm chút thời gian." Gia Cát Nguyệt bình tĩnh nói:"Bây giờ đã nghĩ thông chưa? Đi theo ta được chưa?"

"Nhưng ngươi, ngươi là tư mã của Đại Hạ, còn gia tộc..."

"Không cần nàng quan tâm mấy chuyện đó." Gia Cát Nguyệt cau mày, trầm giọng nói: "Chỉ cần trả lời có đồng ý đi theo ta hay không."

Một đàn chim bay qua, hai đàn chim bay qua, rất nhiều đàn chim bay qua đầu, Sở Kiều vẫn không nói gì.

Gia Cát Nguyệt đột nhiên tức giận sẵn giọng hỏi: "Rốt cuộc có đi hay không?"

"Ta đi! Ta đi! Ta đi!" Sở Kiều liên tục nói to.

Hai người đứng đó, ai cũng mặt đỏ tía tai vì mới to tiếng. Giọng của cả hai vang vọng lên vách núi ở bốn phía, càng tô thêm vẻ yên tĩnh đến đáng sợ của nơi này.

"Gặp lại ở đây cũng vừa hay, đỡ mắc công ta phải chạy đến thành Học Phủ tìm." Nam nhân cao ngạo nào đó cố ý ra vẻ như không buồn để tâm, tựa như tất cả đều nằm trong lòng bàn tay của hắn, nhưng lại quên mất bản thân bình thường ít khi nhiều lời giải thích này nọ.

"Đừng chạy loạn nữa, trở về ổ của mình mà nằm đi. Ta làm xong chuyện sẽ phái người đến đón nàng." Nói xong, hắn liền ưu nhã xoay người rời đi.

"Dù sao đến Thanh hải cũng có thể mở khách điếm kiếm sống." Sau lưng đột nhiên truyền đến một câu như vậy, khiến Gia Cát Nguyệt mạnh mẽ quay phắt lại, nhìn Sở Kiều chằm chằm, mặt lộ biểu tình như muốn bóp chết nàng.

Chân trời có mây trắng trôi lững lờ, chú chim nhỏ ló đầu ra khỏi tán lá, tựa như đang thăm dò xem không khí căng thẳng chỗ hai con người kia đã hết chưa, dáng vẻ hết sức tò mò.

.......................................................................................................................

Lúc Sở Kiều trở về trong xe ngựa thì Mai Hương đang cười tít mắt chờ nàng. Thanh Thanh còn lộ liễu hơn, cười đến ngoác cả mồm. Sở Kiều dĩ nhiên hiểu tâm tư cô bé đang vui vẻ vì cái gì, chỉ không muốn nói ra thôi. Chuyện xảy ra ngày hôm nay quả thực hết sức bất ngờ, Sở Kiều bình thản ngồi xuống nhưng tim trong ngực vẫn còn đập thình thịch.

Có phải nàng quá vọng động rồi không?

"Tiểu thư." Mai Hương lót thêm nệm cho nàng, cười nói: "Trên đời này, không phải chuyện gì cũng cần dùng lý trí suy xét. Em cảm thấy, tiểu thư trước kia quá mức bình tĩnh, đôi khi bình tĩnh đến độ lạnh lùng. Thỉnh thoảng vọng động một lần cũng chẳng có gì xấu cả."

Sở Kiều kinh ngạc quay lại nhìn Mai Hương, không ngờ Mai Hương lại có sự quan sát sắc bén như vậy.

Mai Hương hi hi cười nói: "Tiểu thư không biết sao, người bây giờ nghĩ gì đều viết lên mặt hết rồi. So với trước kia thì Mai Hương thích tiểu thư của hiện tại hơn."

Xe ngựa bắt đầu lăn bánh, Đa Cát chau mày chạy đến hỏi: "Tiểu thư, chúng ta sẽ đi cùng những người đó sao?"

"Dĩ nhiên rồi!" Thanh Thanh vén rèm lên đáp: "Dĩ nhiên phải đi chung, tương lai sẽ ở cùng nữa đấy!" Nói xong liền khúc khích thả rèm xuống.

Mai Hương rót cho Sở Kiều một chén trà sâm, nhẹ thở ra rồi dịu dàng nói: "Tiểu thư, không phải ai cũng có thể chờ một người hết năm này đến năm khác. Có một số chuyện, nếu không biết nắm bắt đúng lúc, tương lai xảy ra biến cố thì người sẽ phải hối hận."

Gió mát luồn qua rèm xe thổi vào trong, nhẹ nhàng êm dịu như bàn tay người mẹ. Trời xanh thăm thẳm, thoáng có cánh chim xuyên qua tầng mây, mải miết bay về phía chân trời. 


Chương 172: Chờ chàng trở lại

Sở Kiều ngồi bên thềm đá nhìn lên biển mây trên cao, hoa trong sân đều nở rộ, cánh hồng nhị vàng, vô cùng rực rỡ.

Tiểu nhị của khách điếm đang lăng xăng pha trà trên cái bàn đặt giữa sân. Tiểu nhị là một cậu bé chỉ khoảng mười ba mười bốn tuổi, phong thái nhanh nhẹn vui vẻ, Đa Cát và Bình An cũng đang ngồi một bên, tán gẫu với cậu ta.

Sở Kiều nghe bọn họ nói từ phong cảnh núi non xuyên lục địa, con đường hiểm trở ở tận Nam Cương, Tàng kiếm các ở Đại Hạ, núi Ô Nha ở Biện Đường cho đến bão tuyết trên Hồi Sơn ở Bắc Yến, đề tài càng lúc càng phong phú. Thanh Thanh ở trong phòng nhâm nhi mứt quả nghe náo nhiệt cũng ló đầu chạy ra tham gia.

Mai Hương ngồi dưới một gốc nhãn luồn chuỗi ngọc, ngón tay cử động thoăn thắt khiến người nhìn hoa cả mắt.

Trời dần tối, trong viện bắt đầu thắp đèn xua tan bóng đêm. Thanh Thanh đi đến phòng bếp bưng về mấy chén băng, trong chén chứa các loại trái cây đủ màu được đông lạnh, vô cùng thích mắt.

Trận mưa to lúc trước đã phá hủy cầu treo dẫn đến thành Thu Phong, khiến bọn Sở Kiều đành phải lưu lại trong thành hai ngày mới có thể tiếp tục đi về phía Bắc.

Hiện tại bọn họ đang ngụ tại một khách điếm được xây trên sườn núi, tiểu điếm bao gồm một dãy phòng liền kề, nằm lọt thỏm giữa cây xanh và hoa cỏ trùng điệp, xa xa nhìn lại tựa như một cánh rừng nhỏ.

Phòng của Sở Kiều tọa lạc trên một vách đá cao, cửa phòng hướng về hướng tây. Ông chủ nơi này xem ra cũng là một người tao nhã, bởi vì nơi này gần với núi Tịch Chiếu nên liền đặt tên gian phòng này là Tịch Chiếu viện, từ đây nhìn ra ráng chiều hướng tây, phong cảnh đẹp không tả xiết.

Gia Cát Nguyệt ngụ trong Quy Tàng lầu ở bên cạnh, xế chiều hôm qua hắn đã phái thuộc hạ và thị vệ giúp quan phủ dựng lại cầu treo, xem ra thật sự là có việc gấp, cần phải lập tức trở về.

Lúc trưa trời đổ mưa mãi đến chiều mới tạnh, khiến cỏ cây trong viện thêm xanh mướt, xen lẫn màu hoa càng đẹp hơn.

Sở Kiều mặc một bộ váy trắng ngà, mái tóc đen nhánh được búi lỏng sau ót, một cây trâm gỗ cài ngang để giữ búi tóc, thoạt nhìn rất thoải mái nhẹ nhàng.

Tối nay trăng vừa tròn vừa sáng, Sở Kiều lẳng lặng nhìn trăng, đột nhiên nhớ ra cũng sắp đến Trung Thu rồi, có điều nơi này không có thông lệ chơi Trung Thu như ở kiếp trước.

Tương đương với tết Trung Thu, ở đây có tết Bạch Nguyệt, bắt nguồn từ một ca khúc, lúc còn trong quân đội Sở Kiều cũng từng nghe qua. Lời bài hát nói về một nam nhân cưỡi ngựa lên đường đánh giặc, chinh chiến nhiều năm, từ tiểu binh trở thành đội trưởng, từ đội trưởng thành tướng quân, cuối cùng khi hắn thành công đẩy lùi giặc ngoại xâm trở về, lại phát hiện nhà cửa đã sụp đổ, thê tử thì bị bắt đi, cha mẹ và con cái cũng đã chết vì đói, xương cốt đã sớm hóa thành tro bụi, ngay cả mộ phần cũng không có.

Nàng còn nhớ rõ câu cuối cùng trong bài hát: Ánh trăng soi sáng lòng người, giục người mau trở về cố hương.

Từ đó trở đi, tết Bạch Nguyệt trở thành ngày lễ mừng trăng tròn, nhắc nhở dân chúng quý trọng người thân, chớ vì được mất trước mắt mà bỏ qua tình thân, để đến khi không còn cách vãn hồi thì mới hối hận.

Ánh trăng soi sáng lòng người, giục người mau trở về cố hương.

"Hay quá." Mai Hương dừng tay, ngẩng lên nhìn Sở Kiều, cười nói: "Trước giờ chưa từng nghe tiểu thư hát đấy."

Sở Kiều thoáng ngẩn ra, bây giờ mới phát hiện nàng đã vô tình ngâm nga thành tiếng.

"Bài hát hay quá, tiểu thư có hiểu ý nghĩa của ca từ trong bài hát này không?"

Sở Kiều hơi nghiêng đầu, "Gần đây Mai Hương thích giảng đạo nhỉ?"

"Em không đi học nên cũng chỉ biết mấy đạo lý đơn giản mà thôi, sao so được với học vấn thâm sâu của tiểu thư chứ." Mai Hương cười hì hì rồi tiếp lời: "Nhưng đôi khi, biết càng nhiều thì đầu càng loạn, vô tình sẽ không nhận ra mấy đạo lý đơn giản nhất."

"Ngày qua ngày như dòng nước trôi, nhìn ra đầu thôn vẫn không thấy bóng phu lang. Phu lang đang bảo vệ biên cương, ngoại nhân đạp cửa nhà, con không đồ mặc, mẹ cha chịu đói. Trời cao hoàng đế xa, tướng quân không ở cố hương, thôn trưởng ác độc chính là vua. Mưa gió bão bùng, tuyết lạnh tràn vào nhà. Ánh trăng soi sáng lòng người, giục người mau trở về cố hương." Mai Hương nở một nụ cười dịu dàng, lẳng lặng tựa vào gốc cây ngân nga hát. Vài đóa hoa li ti rụng xuống quanh chỗ nàng ngồi, ánh trăng sáng rọi lên chuỗi ngọc đang xâu dở trên tay nàng khiến nó lấp lánh một cách khác thường.

Cùng lúc đó, xa xa chợt vọng lại tiếng sáo du dương. Khoảng cách quá xa nên tiếng sáo nghe như có như không, nhưng âm điệu trầm bổng, da diết đó vẫn khiến người nghe nao lòng.

Đám người Bình An vốn còn đang trò chuyện rôm rả, nghe thấy tiếng sáo liền đồng loạt ngừng nói. Đa Cát ngồi thẳng lưng lên, đưa ánh mắt thán phục về phía phát ra tiếng sáo, Thanh Thanh không hiểu âm luật cũng ngồi im dỏng tai lắng nghe.

Mai Hương đứng dậy quay người trở về phòng, lúc đi ra còn cầm theo một chiếc áo choàng trắng nhẹ nhàng khoác lên vai Sở Kiều, cười nói: "Tiểu thư đã lo lắng bôn ba suốt mấy ngày nay rồi, cũng nên thả lỏng một bữa. Khách điếm này có cảnh sắc không tệ, tối nay vừa dịp trăng tròn, tiểu thư ra ngoài đi dạo đi."

Sở Kiều quay đầu lại, thấy Mai Hương cũng đang nhìn nàng, trong mắt mơ hồ ẩn chứa chút khích lệ...

"Mai Hương..." Sở Kiều muốn nói gì đó nhưng cuối cùng vẫn không nói ra khỏi miệng.

Mai Hương nói: "Tiểu thư, Mai Hương không hiểu nhiều, đại nghĩa thiên hạ hay tín niệm tín ngưỡng gì đó em đều không rõ, em chỉ hi vọng tiểu thư có thể vui vẻ sống. Tiểu thư là người tốt, bài hát kia không phải dành cho người."

Ánh trăng chiếu vào trên mặt Sở Kiều, nàng thoáng sững sờ, không khỏi nhớ đến nửa đoạn còn lại của bài hát kia...

~ Núi xanh đông hạ hai mùa, tuyết trắng phiêu đãng, đường về lạc trong trời đất mênh mông. Con chết vì dịch, cha mẹ không có ăn, vợ bán mình đổi cơm. Phu lang có chí, không cam lòng kiếp nghèo rời đi, mười năm chờ đợi, tóc mai đã sớm nhuốm sương. Thế sự nhiều trói buộc, năm tháng nào có thương ai, không cầu giàu sang, chỉ mong một túp lều có đôi ta. ~

"Mai Hương, đi đổi áo khoác màu xanh nhạt cho ta."

Mai Hương hơi ngây ra, khó hiểu nhìn nàng.

Sở Kiều đột nhiên phì cười, đứng dậy nói: "Cả ngày không phải trắng thì là đen, giống như đưa tang vậy."

........................................................................................................................

Ánh trăng rọi lên vạn vật, Sở Kiều lẳng lặng đi trong vườn, trong đầu như lại thấy năm tháng lần lượt trôi qua, như khoảng trời mênh mông có đàn cò trắng bay lượn quanh quẩn, thanh tĩnh như một bức tranh thủy mặc. Tất cả màu sắc từ rực rỡ đến ảm đạm đều dần nhạt đi, cuối cùng hóa thành một vũng nước chìm xuống tận đáy lòng.

Ân oán, ràng buộc, hận thù, khúc mắc, tương trợ, nắm tay, sinh tử, trùng phùng, vùng vẫy, vui mừng, ly biệt, thất vọng...

Cứ mỗi bước đi, trước mắt nàng sẽ lại hiện ra vô số hình ảnh ám ảnh nặng nề. Có thù hận quốc gia, có ân hoán cá nhân, có ơn nghĩa chưa hoàn trả, có chấp niệm, có cảm xúc bị đè nén và ẩn nhẫn nhiều năm chực phá vỡ mọi gông xiềng.

Đủ loại tình cảm vốn bị chôn sâu trong đáy lòng, rốt cuộc đã bị lời ca bình dị kia kích động, dần dần bộc phát ra ngoài...

Lòng nàng hiện giờ như một hồ nước được lý trí đóng kết tầng băng bảo vệ trên mặt hồ, trấn áp mọi tình cảm không nên có bên dưới.

Một năm, hai năm, rất nhiều năm rồi.

Hậu viện có tiểu đình được xây giữa một hồ nước nhỏ, cột gỗ cũng đã hơi cũ, chủ khách điếm dụng tâm trồng mấy khóm đỗ quyên cùng tử đằng quanh đình, còn thiết kế cho dây leo mọc quấn quanh bốn góc cột, khiến tiểu đình thêm phần thanh nhã.

Gia Cát Nguyệt mặc trường sam tím nhạt, thoải mái ngồi trên bậc thang dẫn lên đình, một chân co một chân duỗi, lưng tựa vào một cột đình, vài sợi tóc đen như mực buông thả xuống hai bên thái dương, vẫn cực kỳ tuấn tú như xưa. Hắn cầm một một thanh sáo trúc xanh thẫm ngang môi, thổi từng làn điệu trầm bổng, không u oán não lòng cũng không chí khí ngất trời, ngược lại như một thiếu niên đang trên đường hồi hương, bất chợt có hứng thổi sáo giết thời gian, âm điệu đầy khoan khoái. Khóm đỗ quyên cạnh hắn đung đưa trong gió như đang đùa nghịch với nhau.

Sở Kiều lẳng lặng đứng đó, không động cũng không nói, gió thổi qua khiến vạt áo choàng xanh nhạt của nàng lay động, uyển chuyển như cành liễu đầu xuân.

Dường như nàng chưa từng nhìn hắn kỹ như vậy, năm tháng trôi qua, nàng từng tự trách bản thân bất hạnh, nhưng bây giờ nghĩ lại, ít ra so với vị tướng quân trong bài hát kia thì nàng may mắn hơn rất nhiều. Không có nhà thì đã sao, người thân cận của nàng còn sống, mà người nàng yêu cũng thế, chỉ cần nàng nguyện ý quay đầu thì liền có thể chạm tay chàng.

Ngay cả khi hai người cách nhau vạn dặm, thì chàng vẫn kiên định đi từng bước về phía nàng, với sự tùy hứng và cố chấp khác thường lần lượt phá tan từng rào chắn mở đường cho nàng.

Mặt hồ đóng băng chậm rãi xuất hiện vết nứt, Sở Kiều cảm nhận được lý trí trong đầu đang dần vỡ vụn, nàng tự nói với bản thân: Cứ buông thả bản thân một lần thử xem.

Dù sao thì nàng cũng chưa từng buông thả lần nào trong suốt nhiều năm qua.

Tiếng sáo đột nhiên ngừng lại, nam nhân nghiêng đầu, nhìn thấy cô gái áo xanh đang lẳng lặng đứng dưới gốc hoa quế thì thoáng thất thần.

"Sao lại đến đây?"

"Ngươi có thể đến, còn ta không thể sao?" Sở Kiều cười đáp, đi đến đá chân Gia Cát Nguyệt, nói gọn lỏn:"Nhường chỗ."

Nam nhân rút một chân về, nàng liền thuận thế ngồi xuống. Ánh trăng phản chiếu mặt hồ chiếu lên mặt nàng, lóng lánh một cách dịu dàng.

"Gia Cát Nguyệt, ngày mai sửa xong cầu ngươi sẽ trở về Đại Hạ đúng không?"

Gia Cát Nguyệt gật đầu, hơi ngạc nhiên nhìn nàng, hỏi: "Sao thế?"

"Vậy chừng nào mới đến tìm ta?"

Một tia kinh ngạc hiện lên trong mắt nam nhân, hắn khó hiểu nhìn nàng đánh giá, tựa như đang tự hỏi không biết nàng đang có âm mưu gì.

"Đợi đến khi Hạ hoàng chết sao? Hay muốn chờ đến khi Triệu Triệt lên ngôi? Đến lúc đó, ngươi có thể? trở về sao?"

Sở Kiều ngồi trên thềm đá, mũ áo khoác ôm lấy cổ, nàng chống tay nâng cằm nhìn ra mặt hồ loang loáng ánh trăng một lúc, đột nhiên quay sang nói: "Gia Cát Nguyệt, ta hát một bài cho ngươi nghe nhé."

Ánh mắt nàng trong trẻo như một đứa trẻ chưa qua sự đời, nàng lẳng lặng nhìn hắn, lẳng lặng cười, ánh mắt như trong rất nhiều giấc mộng của hắn, không có vẩn đục, không có bóng hình của bất kỳ ai khác, chỉ soi bóng của một mình hắn.

Hắn cũng chẳng rõ mình gật đầu thế nào, chỉ thấy nàng vui vẻ giơ tay xoa xoa hai má, ánh trăng duyên dáng dát bạc lên da mặt mịn màng của nàng. Giọng nàng rất nhẹ, cũng rất uyển chuyển, dịu dàng như sóng biển vỗ về bờ cát, chậm rãi đi vào lòng hắn.

~ Trước đây, rất rất lâu trước đây, khi chàng thuộc về em và em thuộc về chàng. Cũng rất rất lâu trước đây, chàng rời xa em, bay đi rất xa. Ngoài kia, thế giới thật mới mẻ, cũng thật xa lạ. Em ở đây vẫn chân thành cầu chúc cho chàng. Mỗi khi mặt trời ngả về phía tây, ta luôn ở đây hi vọng, dù trời mưa hay nắng, em vẫn đang chờ chàng trở về. ~

*Phỏng theo bài hát 'Thế giới bên ngoài' do Mặc Văn Úy trình bày. Có thể nghe thử ở đây:https://nhac.pro.vn/bai-hat/the-gioi-ben-ngoai-mac-van-uy.co1t.html

Tiếng hát theo gió đêm quanh quẩn trong tiểu đình tràn ngập hương đỗ quyên. Sở Kiều quay đầu lại, mắt lấp lánh như sao trời. Nàng đưa tay ra, cẩn thận chậm rãi nhích đến gần tay Gia Cát Nguyệt, không dứt khoát tuyệt tình như trong quá khứ, nàng tựa như một thiếu nữ lần đầu rung động, căng thẳng đến mức các đầu ngón tay đều run run. Nàng nhẹ chạm lên tay nam nhân, sau đó, nhẹ nhàng nắm lấy các ngón tay của hắn, cảm thấy chúng mát lạnh như nước vậy.

Gia Cát Nguyệt quay đầu nhìn nàng, mặt lộ vẻ sửng sốt. Gió đêm thổi qua giữa bọn họ, hương hoa lẫn trong không khí thơm đến ngất ngây. Hai người cứ thế ngồi trên bậc thềm, hai tay đan chặt, không ai nói tiếng nào.

Từ luôn ở thế đối lập rồi dần dần đến gần nhau hơn, giờ phút này, bọn họ dường như vẫn hơi mơ hồ về lập trường của bản thân dành cho đối phương.

Gia Cát Nguyệt có hơi buồn cười, nhưng hắn cũng cảm giác được lúc này tuyệt đối không thể cười, cho nên rất nghiêm túc nhướng mày, ánh mắt thâm trầm sâu xa.

Đã quyết tâm rồi nên Sở Kiều trở nên rất thoải mái, nàng kéo tay Gia Cát Nguyệt, mở to mắt hỏi: "Gia Cát Nguyệt, Thanh Hải có tốt không?"

"Hửm?" Nam nhân thoáng sửng sốt rồi đáp: "Cũng được."

"Vậy có đẹp không?"

Người nào đó không hề có tế bào lãng mạn trả lời một cách phũ phàng: "Có mấy chỗ cũng tạm."

"Thanh Hải lạnh không?"

"Mùa hè không lạnh, mùa đông lạnh."

Sở Kiều mong mỏi nói: "Dân chúng ở đó nhất định rất thật thà chất phác."

"Nàng là đồ ngốc à, ở đâu mà không có kẻ xấu? Quạ trên thế gian có con nào không đen, ai mà chẳng có tư tâm?"

"Vậy sao?" Sở Kiều rốt cuộc bắt đầu hơi nhíu mày, "Nói vậy Thanh Hải cũng không phải rất tốt."

"Ta nói ở đó rất tốt hồi nào?"

Sở Kiều hết nước nói, đây là lời nam nhân nên nói trước khi muốn dụ nữ nhân bỏ theo mình sao?

"Có điều ở đó có một chuyện rất tốt."

Sở Kiều hỏi: "Chuyện gì?"

Gia Cát Nguyệt cười rất đắc ý, "Nơi đó thuộc về ta."

Gia Cát Nguyệt tự mình cười đắc ý, sau phát hiện người nào đó không hùa theo, đành bực bội nín thinh.

"Tinh Nhi, từ khi nào thế?"

Sở Kiều thoáng ngây ra, quay lại hỏi: "Gì cơ?"

Gia Cát Nguyệt im lặng trong chốc lát, tựa như có gì đó rất khó mở lời, mi tâm nhíu chặt, hồi lâu mới nói: "Từ khi nào nàng không còn hận ta nữa?"

"Ai bảo ta không còn hận?" Sở Kiều hậm hực chỉ chỉ đầu mình, "Vẫn còn khắc ghi trong này đây."

Gia Cát Nguyệt khinh thường liếc nàng một cái, "Khẩu thị tâm phi."

Ánh trăng bao trùm bốn phía, rất nhiều lúc, có những chuyện chỉ cần mấy câu nói, chỉ mấy cử chỉ nho nhỏ là đủ tỏ ý, nhưng để đi được đến bước này thì phải mất rất nhiều năm.

Tán hoa quế lay động trong gió, Gia Cát Nguyệt cũng tự nhiên trở lại nắm tay Sở Kiều, lặng lẽ bao trọn bàn tay lạnh như băng của nàng trong tay mình.

Nhiều năm khổ sở, nhiều năm chấp nhất, tựa như chỉ để chờ đợi một cử chỉ này mà thôi.

Hắn quay đầu sang một hướng không để người khác nhìn được, khẽ cong môi nở một nụ cười vui vẻ.

.....................................................................................................................

Sang ngày hôm sau, cầu treo rốt cuộc cũng được sửa xong, đoàn người rời khỏi thành Thu Phong, đi thuyền vượt qua sông Mục Lăng, tiến vào địa phận của quận Khâu Sa thì mỗi người một ngả.

Hai đội xe ngừng lại, Gia Cát Nguyệt và Sở Kiều đứng ở trước đội ngũ. Hôm nay thời tiết rất quang đãng, bầu trời trong xanh.

Gia Cát Nguyệt lạnh lẽo nhìn về phía Bắc, nói: "Ta đi đây."

"Ừ." Sở Kiều gật đầu, "Đi đi."

"Ít cùng gã Lý Sách kia lang thang lêu lổng chút đi, rảnh rỗi không có gì làm thì trở về khách điếm của nàng ấy."

"Ai lang thang lêu lổng chứ?" Sở Kiều cau mày hỏi vặn lại.

"Hừ."

"Gia Cát Nguyệt, chúng ta sắp phải xa nhau rồi, không thể ăn nói nhẹ nhàng chút chừa ấn tượng tốt cho đối phương sao?"

Gia Cát Nguyệt không tự nhiên hừ một tiếng, "Từ trước đến giờ nàng có lưu ấn tượng gì tốt cho ta sao?"

Sở Kiều tức giận tiến tới cấu hắn một cái, "Chàng có lương tâm không vậy? Ban đầu là ai khóc lóc cầu xin ta hả?"

Bị Sở Kiều cấu đau, Gia Cát Nguyệt cũng nổi giận, "Họ Sở kia, ta khóc lóc cầu xin hồi nào chứ?"

Ủa, không có sao?

Sở Kiều ngẫm lại, ừ, hình như không có thật.

Nhưng hành động cử chỉ cũng đâu khác lắm, sao vừa đắc thủ liền tỏ thái độ rồi? Huống chi hiện giờ cũng chưa tính là đắc thủ mà?

Nàng trừng mắt liếc hắn một cái, "Ờ, cứ tiếp tục ra vẻ đi."

Dùng dằng một hồi, cảm xúc buồn bã khi phải biệt ly cũng nhạt dần.

Dù sao thì nàng cuối cùng cũng đã tiến thêm được một bước, có đúng không?

Ít nhất, đã có thể thoải mái nói đùa với nhau rồi.

"Ta nói thật lòng đấy." Gia Cát Nguyệt đột nhiên trở nên nghiêm túc, "Ít cùng Lý Sách chạy lung tung, cũng chớ nhúng tay vào quốc sự của Biện Đường, ta phát hiện nàng là người thực thích xen vào chuyện của người khác."

Xen vào chuyện của người khác?

Sở Kiều nhìn hắn chằm chằm, khó chịu nói: "Lúc trước ta chỉ muốn đến nhắc nhở hắn vài câu mà thôi."

"Vậy còn bây giờ? Đi làm gì?"

Sở Kiều bực tức nói: "Thì sắp rời khỏi Biện Đường nên đến từ biệt hắn không được sao?"

Sắp rời khỏi Biện Đường? Đi đâu cơ chứ?

Tâm tình của Gia Cát Nguyệt liền thay đổi khá hơn nhiều, đồng thời cũng chợt trở nên hơi mất tự nhiên, âm lượng bất giác nhỏ hơn nhiều, "Nói gì thì nói, cẩn thận một chút, tên Lý Sách kia cũng không phải người tốt đẹp gì."

Sở Kiều lắc đầu, vô cùng cảm khái nói: "So ra thì e chàng còn tệ hơn cả hắn."

"Nàng nói cái gì?" Gia Cát Nguyệt thẹn quá hóa giận, rống to.

Sở Kiều giơ tay lên tỏ ý không muốn đôi co với hắn nữa, "Còn không đi thì trời tối bây giờ, chàng không muốn lên đường nhưng ta thì muốn đấy."

Gia Cát Nguyệt mím môi hồi lâu rồi đột nhiên móc từ trong ngực ra một cái chuông tạc bằng đá trắng, thoạt nhìn hết sức bình thường. Hắn đưa chuông đến sát miệng Sở Kiều, nói: "Bài hát nàng hát tối qua, hát lại một lần nữa đi."

Sở Kiều sửng sốt, hỏi: "Tại sao?"

Mặt Gia Cát Nguyệt đột nhiên ửng đỏ, nhìn hết sức đáng yêu, nhưng hắn vẫn cau mày nói: "Hỏi han nhiều như vậy làm cái gì, bảo nàng hát thì cứ hát đi."

"Muốn hát cũng phải cần có hứng chứ, bây giờ ta đang không vui, không muốn hát."

Gia Cát Nguyệt ném cho nàng ánh mắt muốn giết người rèn luyện được từ nhiều năm qua, nhìn chằm chằm, hồi lâu cũng không di dời tầm mắt.

Sở Kiều bị nhìn đến chột dạ, nhỏ giọng nói: "Xung quanh đang có rất nhiều người, ta hát ở đây thì tất cả đều nghe thấy, còn mặt mũi làm người được sao?"

Miễn cưỡng chấp nhận giải thích này, Gia Cát Nguyệt đành nói: "Vậy nói mấy câu về phía nó đi."

"Nói cái gì?"

Người nào đó gần như là nghiến răng nghiến lợi mà nói: "Gì cũng được."

Sở Kiều lập tức hướng về cái chuông kia nói to: "Gia Cát Nguyệt là đồ khốn!"

Âm thanh lập tức khiến đông đảo tùy tùng trợn tròn mắt.

Gia Cát Nguyệt nổi giận, quay đầu bỏ đi. Sở Kiều biết mình đã đùa hơi quá trớn nên liền vội vàng đuổi theo kéo tay hắn, cúi xuống nói vào cái chuông nhỏ: "Nhớ kỹ, ta đang chờ đấy."

Chỉ một câu nhưng lập tức thành công dập tắt hỏa khí của nam nhân, thật ra thì hắn là người rất dễ dỗ.

"Đây là cái gì vậy?" Sở Kiều tò mò sờ sờ, nhìn giống đá nhưng không phải, cũng không phải là ngọc, thủ công tinh tế, nhìn sơ giống chuông nhưng vành chuông lại gấp khúc tựa như lỗ tai người.

Gia Cát Nguyệt lờ đi câu hỏi của nàng, chỉ nói: "Mau đi đi, lằng nhằng quá."

Đúng là đồ không biết lý lẽ, sao lúc nào cũng là nàng chịu mắng?

Hai người đi tới chỗ xe ngựa, cuối cùng cũng đến lúc chia tay, Sở Kiều không nhịn được nghiêm túc dặn dò:"Hành sự nhớ cẩn thận."

Gia Cát Nguyệt hờ hững xua tay rồi bình tĩnh lên ngựa, khôi phục dáng vẻ ngạo nghễ cao cao tại thượng cùng lạnh nhạt như nước vốn có, "Nhớ kỹ lời ta nói đấy." Dứt lời liền nghênh ngang rời đi trong vòng vây của nhóm hộ vệ.

Sở Kiều vẫn đứng yên tại chỗ nhìn theo mãi đến khi nhóm người khuất dạng.

Thanh Thanh tiến lại gần, mặt lộ vẻ si mê, lẩm bẩm: "Tỷ tỷ, tỷ phu hơi lạnh lùng nhưng oách quá trời."

Đa Cát cau mày, dáng vẻ như rất không kiên nhẫn, trầm giọng nói: "Thanh Thanh, không được nói lung tung."

"Muội cứ nói đấy thì sao!" Thanh Thanh quay đầu lại nhìn cậu chằm chằm, vừa làm mặt quỷ vừa nói to: "Cho huynh tức chết."

"Đa Cát, em có biết gì về vật này không?" Sở Kiều miêu tả lại hình dáng của cái chuông vừa nãy cho Đa Cát nghe.

Đa Cát hơi nhíu mày, im lặng suy nghĩ một hồi mới nói: "Tiểu thư, theo lời người tả thì đó chính là chuông tương tri. Trong sách có ghi lại, vật này là một trong ba bảo vật của tộc Phong Ngữ sống tại phía tây nam đại lục, người tộc Phong Ngữ có thủ công khéo léo, tinh thông bí thuật chế tác cơ giới, chuông tương tri chính là do tộc trưởng đời thứ 8 của tộc Phong Ngữ đích thân chế tạo ra. Nghe nói chỉ cần hướng về phía chuông nói lớn thì tiếng nói sẽ được lưu lại trong chuông, mỗi khi có gió thổi thì sẽ phát lại, ngay cả giọng điệu người nói cũng sẽ được giữ nguyên. Chẳng qua tộc Phong Ngữ trước giờ hành tung bí ẩn, đã từ rất nhiều năm bặt vô tăm tích nên chuông tương tri cũng thất lạc từ lâu. Tiểu thư nhìn thấy vật này ở đâu, có nghe được chuông phát ra âm thanh không?"

Sở Kiều ngây người, vó ngựa sau lưng đã biến mất, chỉ còn lại một đám bụi đường lơ lửng trên không trung,"Chuông tương tri?"

.....................................................................................................................

Thời tiết ấm áp không có gió, nhưng nếu cưỡi ngựa chạy vẫn bị gió tạt qua người, lay động chiếc chuông nhỏ đeo trên cổ nam nhân,

Nhớ kỹ, ta đang chờ đấy.

Tiếng thì thầm dịu dàng quanh quẩn bên tai, êm đềm như mặt hồ trong suốt, khiến khóe môi hắn bất giác cong lên, nhưng ý cười còn chưa lan đến đáy mắt thì một âm thanh chói tai đã vang lên.

Gia Cát Nguyệt là đồ khốn!

Âm thanh lần này lớn đến mức khiến toàn bộ thị vệ đang thúc ngựa chạy như điên giật bắn người, kinh hãi dừng ngựa nhìn về phía hắn.

Trong thoáng chốc, sắc mặt Gia Cát Nguyệt liền trở nên khó coi đến cùng cực.

.....................................................................................................................

Ở hướng đông, bên trong cỗ xe ngựa được bọc vải xanh đang lọc cọc đi trên đường núi, Sở Kiều vẫn còn đang trầm tư lẩm bẩm, "Đó chẳng phải là máy ghi âm sao?"

"Tỷ tỷ, máy ghi âm là cái gì?" Thanh Thanh sán đến gần, chớp mắt hỏi. Kể từ khi nhìn thấy Gia Cát Nguyệt, tâm tình của tiểu nha đầu liền tốt như chưa từng tốt hơn, lập tức trở lại đeo bám Sở Kiều như trước.

Sở Kiều nghe hỏi thì cũng nhiệt tình giải thích cho cô bé nghe: "Máy ghi âm là..."

Mai Hương ngồi trong góc khác, nhìn Sở Kiều đan giảng giải nguyên lý của máy ghi âm cho Thanh Thanh nghe, không khỏi khẽ mỉm cười.

Nhân sinh luôn là như vậy, người trong cuộc luôn u mê không rõ, chỉ có người ngoài cuộc mới tỉnh táo. Rất nhiều chuyện vốn không phức tạp như đã tưởng, nhưng bởi vì chút chấp niệm trong lòng sẽ lãng phí rất nhiều thời gian. Dẫu là người thông tuệ đến đâu thì chỉ cần là chuyện liên quan đến bản thân sẽ vẫn luống cuống không biết phải làm sao.

Rất nhiều lúc, chỉ cần bước thêm một bước thì tương lai sẽ xuất hiện thay đổi nghiêng trời lệch đất.

........................................................................................................................

"Đường còn dài, có lẽ sẽ lại có biến cố khác, nàng có sợ không?"

Gió thổi qua mặt hồ tĩnh lặng, vẽ lên vô số gợn sóng thật nhỏ.

Sở Kiều tựa đầu lên vai hắn, hương đỗ quyên thơm ngát xộc vào mũi, nàng cất giọng rất nhẹ, tất cả ma chướng trong lòng như vừa bị phá nát, cuối cùng kết lại thành hai chữ ngắn ngủi, "Không sợ."

Hắn mỉm cười, vòng tay qua ôm eo Sở Kiều. Hai người đã ngồi như thế mãi đến khi trời sáng. 


Chương 173: Đại Đường biến động

Bạo loạn đến không hề báo trước, tựa như một hồ nước lạnh đột ngột sôi sùng sục, khiến người ở trong còn chưa kịp phản ứng thì đã bị nấu chín.

Đoàn người mới tới được Hàm Thủy thì chiến tranh đã nổ ra, thiết kỵ chạy ngược chạy xuôi, thành trì bị phá hủy, gia viên bị thiêu đốt, ruộng tốt bát ngàn khi xưa hóa thành đồng cỏ cháy đen, vật dụng trôi theo dòng phù sa vàng óng, hai bên đường đi lúc nào cũng đầy thi thể dân chúng chết vì chiến loạn, xác thối rữa trong thời tiết mùa hè cực kỳ hôi thối.

Lạc vương khởi binh bắt đầu từ Mi Sơn, bá tính không muốn trở thành loạn thần tặc tử nên hối hả dời nhà đến phía đông, song chạy đến Hàm Thủy mới phát hiện người cai quản Hàm Thủy là Từ Tố, tộc huynh của thứ phi Lạc vương. Cửa khẩu thủy lộ bị phong tỏa, Hàm Thủy Quan đã trở thành chiến tuyến ngăn cách mặt đông và mặt tay, chia giang sơn Biện Đường thành hai nửa.

Hành trình của nhóm người Sở Kiều vì vậy mà bị trì hoãn, chiến loạn đã ở ngay trước mắt, cho dù có năng lực như nàng cũng khó xoay chuyển được thế cục.

Khu vực Hàn Thủy tụ tập rất đông dân chúng, nhiều người chết nên chưa đến nửa tháng, trong thành đã nổ ra dịch bệnh. Nhà giàu có thì khóa chặt cửa, gia đinh tuần tra canh chừng vòng ngoài, khách điếm tửu lâu đều đóng cửa, muốn mua thức ăn cũng không được. Nhóm người Sở Kiều đành phải ra ngoài thành dựng lều ngụ tạm, cũng may trước khi đi xa bọn họ đã chuẩn bị lương khô đầy đủ.

Mỗi ngày trôi qua, các loại đồn đại lần lượt truyền đến tai, đều do Đa Cát và Bình An mạo hiểm vào thành dò hỏi, nhưng cũng chẳng thám thính được tin tức gì hữu dụng.

Đủ loại tin đồn khác nhau, có người nói Lý Sách ở mặt đông đã chỉnh đốn xong tám mươi vạn thiết kỵ cùng tinh binh, đang chuẩn bị đánh đến Hàm Thủy. Có người nói mấy hôm trước Lạc vương ở Quân Sơn đã đánh cho quân đóng ở Nam Hoài thua tơi tả, Khương Chiết, Phí Thành, Nam Vượng, An Tức và Mi Sơn đều lần lượt bị vây hãm. Quân đội quốc gia chết gần hơn nửa, còn lại đều đầu hàng, chưa tới năm ngày nữa thì đại quân của Lạc vương sẽ chiếm giữ toàn bộ khu vực Hàm Thủy.

Có người nói, nhà giàu phía tây nam đều đang rối rít quyên góp tiền bạc và lương thực để ủng hộ Lạc vương soán ngôi hôn quân, thậm chí còn phái thân binh gia nhập quân khởi nghĩa, khiến cho số quân bên Lạc vương đã lên đến trăm vạn người. Thậm chí còn xuất hiện thuyết pháp hoang đường như Lý Sách hiện tại không có mặt ở Đường Kinh mà muốn dẫn hậu cung phi tần trốn đến cảnh nội Đại Hạ, được Hoài Tống giúp đỡ thuyền bè nên bây giờ đã lênh đênh giữa biển rồi.

Người dân ở Hàm Thủy ai cũng thấp thỏm không yên, dẫu cho mấy lời đồn kia không hoàn toàn chính xác thì dựa vào việc gần đây dân chạy nạn càng lúc càng ít đi, không ai chối được sự thật là quân đội của Lạc vương quả thực đang ngày một tiến đến gần.

Qua thêm bảy ngày nữa, đại quân của Lạc vương cuối cùng cũng đến hẻm núi Kỳ Bách, chỉ cách Hàm Thủy hơn tám mươi dặm, nhưng ngoài dự tính là bọn họ lại dừng chân tại đó, không hề có dự tính hợp mặt với tướng quân Từ Tố cai quản Hàm Thủy. Mà dường như Hàm Thủy cũng không có vẻ gì là sẽ kết đồng minh với Lạc vương. Tây thạc quân của đế quốc bị kẹp ở giữa, không biết phải đi đâu.

Chiến sự nhất thời trở nên căng thẳng khó đoán.

Lúc này, Tây thạc quân mới nhận thấy có gì đó không bình thường. Tướng quân Từ Tố là đại tướng từng dưới trướng của Mộ Dung lão tướng quân khi xưa, nếu hắn theo đại nghĩa chịu đứng về phía Lý Sách thì sẽ tăng mạnh phần thắng cho người thừa kế danh chính ngôn thuận của Biện Đường.

Cứ như vậy, giằng co hết bốn ngày, thủ lĩnh Tây thạc quân là Lục Bính Khoan dẫn ba vạn binh mã (30,000) tiến đến hẻm núi Kỳ Bách chân chính đụng độ với đại quân của Lạc vương. Trận đánh hết sức dữ dội, tuy thương vong nặng nề nhưng bọn họ cũng đã dũng mãnh phá được phòng tuyến của Lạc vương, chạy đến Hàm Thủy nương tựa Từ Tố. Hành động này không cần nói cũng hiểu, dĩ nhiên là muốn kết hợp với quân đội ở Hàm Thủy bảo vệ kinh đô.

Nhưng ngay lúc đó, trong sự hãi hùng của cả đại lục Tây Mông, một trận tru diệt thảm thiết đã diễn ra mà không hề báo trước.

Chỉ trong một đêm, Từ Tố đã giết sạch một vạn ba ngàn (13,000) tướng sĩ còn sống sót của Lục Bính Khoan, sông Hàm Thủy nhuộm đỏ máu tươi, kéo dài ba mươi dặm đến tận hạ du vẫn còn đỏ ngầu, thi thể chất đống cao tựa đê.

Hàm Thủy Quan cả ngày diều hâu lượn lờ trên đầu, đến đêm thì vang vọng tiếng dã thú cắn xé tranh giành xác người, tràng diện khủng khiếp như một cơn ác mộng tồi tệ nhất.

Ba ngày sau, tin Từ Tố thành khẩn mở cửa đón mười lăm vạn đại quân (150,000) của Lạc vương vào thành được truyền ra. Ngay sau ngày đó, được binh lính ủng hộ, Lạc vương khoác hoàng bào, lễ bái tổ tiên rồi đăng cơ, lấy hiệu là Cảnh Hành.

Hai ngày sau, hai mươi vạn quân (200,000) ở Mi Sơn đã đến được Hàm Thủy, hợp với mười tám vạn quân (180,000) canh giữ Hàm Thủy của Từ Tố, binh lực của Lạc vương đã lên đến con số sáu mươi vạn (600,000).

Khi đó, Biện Đường xảy ra cục diện hai hoàng đế ngự trị ở hai đầu đất nước, được ngăn cách bởi một con sông.

Mười ngày sau, dường như cũng không chịu được nhục nhã như vậy nữa, hoàng đế Lý Sách của Biện Đường cuối cùng ban bố văn thư dẹp loạn, lời lẽ hết sức kịch liệt, cũng tự mình ngự giá thân chinh, thống lĩnh chín vạn Trung ương quân, mười một vạn Đông nam quân và hai mươi vạn Sói binh rầm rập tiến đến Hàm Thủy.

Chiến sự trở nên căng thẳng đến cực độ.

Sáng ngày 9 tháng 8, Lạc vương đăng đài giỗ tổ, dâng hương tế cờ rồi mang thân binh cùng mười lăm vạn quân Mi Sơn sang sông, để lại năm vạn quân Mi Sơn cùng Từ Tố trấn thủ Hàm Thủy. Song quân bên Lý Sách lại co đầu rút cổ trong doanh trại, chậm chạp không dám nghênh chiến. Liên tục năm ngày mà chỉ có vài lần cho khoảng hơn trăm người ra ngoài tham chiến, mà đánh trận gì chứ, nói là kéo bè kéo lũ đi mắng chửi thì đúng hơn. Nhất thời tên tuổi của Lý Sách liền biến thành trò cười ở Biện Đường, cả thiên hạ đều biết chuyện Đường hoàng sợ Lạc vương nên ở lỳ trong doanh trại không dám ra nghênh chiến.

Nhưng khi tất cả còn đang cho rằng Lý Sách sắp sửa mất đi giang sơn thì Sở Kiều lại đột nhiên dặn Mai Hương thu dọn hành trang chuẩn bị vào kinh.

Mai Hương không hiểu, thắc mắc lúc này làm sao có thể đi được.

Sở Kiều về phía đại doanh của Từ Tố, ánh mắt thoáng trở nên mông lung. Nàng đang nhớ lại buổi chiều hôm Tây thạc quân bị tiêu diệt toàn bộ, tiếng kêu thét thảm thiết vang dội màng nhĩ, kéo dài cả đêm không ngừng, "Trận chiến này sắp kết thúc rồi."

Ngày 17 tháng 8, dáng vẻ ủ rũ lúc trước của quân đội chính quy đột nhiên tan biến không còn, đại quân đồng loạt ra trận, chân chính đụng độ với quân của Lạc vương tại thành Hồ Lâm.

Chiến trận kéo dài một ngày một đêm mà không bên nào lui bước. Bọn họ đều biết, trận đánh này quyết định sở hữu hoàng quyền, bên thắng sẽ vàng ngọc tại thân, còn bên thua sẽ trở thành tội phạm bị tịch thu tài sản, tiếng xấu muôn đời, cho nên ai cũng anh dũng ra sức chém giết.

Lúc trận chiến đi đến thời điểm mấu chốt thì tướng quân Từ Tố lại đột nhiên xuất hiện trên chiến trường khiến đại quân phe Lạc vương hoan hô như sấm động. Nhưng bọn họ còn chưa dứt tiếng cười thì đại quân do Từ Tố dẫn dắt lại đột nhiên vung đao đánh thẳng vào hậu phương của Lạc vương.

Ngày 20 tháng 8, quân Lạc vương bại trận, chết hơn bốn vạn người, còn lại đều đầu hàng.

Được hai ngàn thân vệ hộ tống, Lạc vương chạy trốn đến Hàm Thủy, tới nơi thì phát hiện năm vạn tướng sĩ Mi Sơn ở lại đây đều đã bỏ mạng. Lạc vương cùng đường, đứng bên bờ Hàm Thủy nhìn nước sông chảy cuồn cuộn, thở dài nói ông trời không chiều ta, cuối cùng rút kiếm tự vận. Từ đó, tên tuổi Cảnh Hành đế tại vị chỉ được mười một ngày đã lặng lẽ biến mất hoàn toàn khỏi sách sử Biện Đường, tựa như chưa từng xuất hiện vậy.

Ngày 21 tháng 8, quân đội chính quy bắt đầu truy đuổi dư đảng của Lạc vương, trực tiếp tiêu diệt hơn ba trăm đại tộc ở mé tây nam, nữ sung làm quân kỹ, nam bị quất roi rồi chém đầu. Tựa hồ chỉ trong một đêm, hầu như toàn bộ thị tộc lớn ở phía tây nam đều bị trừ tận gốc. Gió thu thổi qua khiến khung cảnh hỗn độn càng thêm thê lương.

Ngày 27 tháng 8, Đường hoàng khải hoàn trở về kinh. Tướng quân Từ Tố vẫn tiếp tục bình định tiêu diệt dư đảng của phản loạn, máu tươi đổ xuống, bắt đầu từ phía tây nam Mi Sơn rồi lan ra khắp toàn bộ lãnh thổ của Biện Đường.

Ngày 4 tháng 9, Đường hoàng hạ ý chỉ đem phân nửa tài vật thu được các đại tộc ở tây nam phân chia đều ra cho các quận huyện nhỏ bị vạ lây bởi chiến loạn, hơn nữa còn giảm miễn thuế trong năm năm tới để cho khu vực tây nam có thời gian hồi phục. Vì vậy chỉ trong khoảng thời gian ngắn, danh tiếng của Lý Sách được nâng cao đến đột đỉnh. Các thường dân mất thân nhân, mất nhà cửa vì chiến loạn đột nhiên biết được mình còn sống sót, không khỏi cảm động đến rơi nước mắt, thi nhau khấu tạ ân đức của hoàng đế.

Sáng ngày 9 tháng 9, Sở Kiều dẫn bọn Bình An Đa Cát lên đường, ngồi thuyền qua sông Hàm Thủy tiếp tục đi đến Đường Kinh.

Biện Đường vẫn là Biện Đường khi xưa, trời vẫn xanh vẫn mây trắng, gió nam vẫn vô cùng mát mẻ, chỉ là đã thiếu vắng những chiến sĩ từng ngã xuống trên chiến trường mà thôi.

........................................................................................................................

Ngày 15 tháng 9, vầng trăng ngoài cửa sổ tròn vành vạnh, tựa như một chiếc khay tròn được đúc bằng ngọc thượng hạng. Hàng ngô đồng ngoài điện dần ngả vàng, rì rào mỗi khi có gió thổi qua.

Hoàng cung như được bao trùm bởi một bầu không khí thanh lãnh, rèm lụa trắng treo khắp nơi, nến trắng cháy tỏ, tỏa ra ánh sáng dịu dàng.

Sở Kiều chậm rãi đi theo sau thị vệ, cung Kim Ngô vẫn rộng lớn như cũ, nhưng không có tiếng đàn sáo tưng bừng cùng eo thon tay ngọc múa uyển chuyển, cung điện nguy nga này chợt trở nên vô cùng trống trải.

Ống tay áo chạm vào vạt áo hai bên theo từng bước chân kêu *loạt xoạt*, không gian thực tĩnh lặng, trên cao văng vẳng tiếng quạ kêu, ngẩng đầu lên cũng chỉ có thể nhìn thấy đầu thần thú chạm trổ trên mái hiên. Hoàng hôn dần bao trùm vạn vật, lặng lẽ như sương, trong điện tỏa hương lượn lờ, Sở Kiều rũ mắt xuống, tai như văng vẳng nghe được tiếng niệm kinh của chúng tăng lữ, khiến lòng người thêm trống trải.

Mật Hà cư vẫn không có gì thay đổi, ngô đồng vây quanh, mặt hồ sen đen kịt, văng vẳng tiếng ve kêu *u u*. Ánh trăng mông lung trải xuống, gió đêm mang theo hơi nước luồn qua cửa sổ thổi vào điện khiến chiếc chuông gió đã cũ treo bên cửa sổ phát ra âm thanh *leng keng*, trong trẻo tựa tiếng băng vỡ.

Lý Sách ngồi giữa khung cảnh màn lụa tung bay, bên cạnh là một chiếc bàn bằng gỗ nhỏ cùng với hai tấm đệm cói, trên bàn có một cái bình ngọc và hai ly rượu nhỏ trắng muốt.

Màn lụa bay múa theo gió như đùa giỡn với nhau trong đại điện yên tĩnh, mái tóc đen xõa dài, người mặc cẩm bào tím thẫm thêu hoa văn hình mây xếp lớp màu xanh đậm nhạt theo từng tầng, đường may tinh xảo, kiểu dáng đặc trưng dành cho hoàng gia Biện Đường, khuôn mặt như bạch ngọc lấp loáng ánh trăng, Lý Sách lẳng lặng ngồi đó, nhìn như một bức tranh tĩnh.

Sở Kiều đứng ở bậc cửa, nhất thời không biết có nên bước vào không.

Một cơn gió đêm lại thổi đến, Lý Sách quay đầu lại, mặt hướng thẳng về phía ánh trăng đang rọi vào, khẽ nheo mắt lại, vẫn dáng vẻ hồ ly cùng nụ cười nhạt kia, nhẹ giọng nói: "Nàng đến rồi."

Giọng của hắn vô cùng bình thản nhưng lại khiến lòng Sở Kiều đau xót. Năm tháng qua đi, lần lượt xảy ra nhiều chuyện như vậy, nhanh đến mức khiến nàng hồi hồn không kịp. Nàng nhìn hắn, hắn vẫn mang dáng vẻ cợt nhả càn rỡ như khi nàng rời đi, và vẫn có thể nhìn thấu mọi chuyện, nhưng nàng lại mơ hồ cảm thấy có mấy phần xa lạ, điều này khiến nàng thoáng xót xa.

Sở Kiều tiến đến ngồi xuống cạnh Lý Sách, môi mím chặt, vành mắt ửng đỏ.

Lý Sách xoa đầu nàng, như thường lệ cố ý làm rối búi tóc đang chỉnh tề của nàng, cười nói: "Làm gì mà mặt như đưa đám thế? Ta có chết đâu."

Hắn càng cười như vậy, Sở Kiền càng thấy khó chịu hơn, nhưng vẫn cố nặn ra một nụ cười, gật đầu nói:"Không có sao thì tốt rồi."

Qua khe cửa sổ khép hờ, thấp thoáng thấy được những đóa sen nở cuối mùa trong hồ.

Lý Sách cúi đầu, lẳng lặng di di ly rượu nhỏ trên bàn.

"Y là loạn thần tặc tử nên không thể nhập hoàng lăng, ta đã chôn y trên núi La Phù."

Một trận gió nhẹ lại thổi vào khiến chuông gió *leng keng* liên tục. Chuông gió kia tuy đã cũ nhưng điêu khắc tinh xảo, dầm sương dãi nắng nhiều năm mà màu sắc vẫn còn sáng rõ.

Lý Sách lẳng lặng uống cạn ly rượu rồi bình thản nói tiếp: "Phù Nhi cũng được chôn ở đấy."

Hắn ngẩng đầu lên, khóe miệng khẽ cong, sắc mặt mông lung nhưng ánh mắt ẩn chứa một tia sắc rất nhỏ,"Không thể cùng sinh ra nhưng được chết cùng huyệt, cuối cùng cũng không uổng công y tử chiến đến cùng."

Trong điện lại trở nên yên tĩnh, Sở Kiều ngồi cạnh Lý Sách, lẳng lặng cùng hắn uống hết chén này đến chén khác. Nàng không ngồi vào vị trí đối điện, bởi nàng biết chỗ đó không phải dành cho nàng.

Trong điện chỉ một có một ngọn nến, bên ngoài trăng sáng tỏ, Lý Sách đang đợi một người vĩnh viễn cũng không đến được.

"Ta biết y sẽ làm phản." Lý Sách vẫn tự độc thoại, Sở Kiều vẫn không nói tiếng nào. Nàng biết hắn không cần có người trả lời, cái hắn cần bây giờ chẳng qua chỉ là một người có thể lắng nghe mà thôi.

"Ta đợi y đã rất nhiều năm rồi, ta vẫn nuôi tí hy vọng nhỏ nhoi, hy vọng y có thể bất chợt hồi tâm không tạo phản nữa."

Lý Sách nở nụ cười tự giễu, ngửa đầu uống cạn thêm một ly rượu nữa rồi quay sang cười nói với Sở Kiều:"Nàng biết không, từ nhỏ Lý Lạc đã không thông minh bằng ta, binh pháp võ nghệ cũng vậy, duy chỉ có thi văn thì hơn hẳn ta. Khi còn bé, y từng nói hy vọng sau khi trưởng thành có thể trở thành một đại nho gia uyên bác, tìm một nơi có cảnh sắc đẹp lập phủ rồi bắt tay biên soạn một bộ sách sử tường tận nhất đại lục Tây Mông."

Mi tâm khẽ nhíu lại như muốn bóp nát ánh trăng đang tuôn rơi trên khuôn mặt anh tuấn, hắn lẳng lặng nói:"Thật ra thì y không biết, ngày ta đăng cơ làm thái tử đã cho xây sử quán ở thành An Thanh, chỉ tiếc là sau khi Phù Nhi chết đi, ta đã không còn cơ hội nói cho y biết."

Hắn đột nhiên cau mày thật chặt, giọng điệu ẩn ẩn sự căm tức, lời lẽ như chui ra từ kẽ răng, "Nàng nói xem, vì sao y nhất định phải làm phản chứ?"

Chén rượu bị dằn mạnh xuống bàn vỡ thành hai nửa, mảnh vỡ sắc bén cứa vào kẽ tay hắn, máu bắn ra tung tóe, tựa như những đóa hải đường rực rỡ.

Sở Kiều đột nhiên nhớ lại thời điểm nhiều năm trước, cũng tại cung điện này, trong đêm thu, bên dưới tán ngô đồng, nam tử mặc trường bào xanh lẳng lặng đứng đó, ánh mắt nhu hòa, nói với nàng: "Ta là Lạc vương."

Trong thoáng chốc, tro bụi thời gian như bị gió nhẹ khuấy động. Rất nhiều năm trước, nơi này từng có ba đứa trẻ cùng nhau chơi đùa, tiếng cười của bọn họ ấm áp như gió hè tháng sáu, đẩy lùi màn sương mù thường xuyên bao phủ cung Kim Ngô vắng lặng, xua tan vẻ âm u sâu không lường được trong nơi được gọi là nhà của các bậc đế vương này.

...................................................................................................................

"Phù Nhi, đã nói rồi đấy, hôm nay phải làm vợ ta, hôm qua hôm kia đều là hoàng thúc, hôm nay phải đến phiên ta chứ."

"Không muốn!"

"Tại sao? Muội nói chuyện sao không có lý lẽ gì hết vậy?"

"Không muốn chính là không muốn!"

"Hừ, ta sẽ đi nói với phụ hoàng, bây giờ lập tức cưới muội vào cửa luôn."

"Không muốn, không muốn! Ta đã nói không là không!"

"Á! Nha đầu chết tiệt, sao lại cắn ta?"

"Được rồi, hai người chớ chộn rộn nữa, đến giờ đi thư phòng học rồi."

"Lạc ca ca, thái tử ăn hiếp muội."

"Ca ca cái gì chứ? Phải gọi là hoàng thúc! Hoàng thúc, Phù Nhi không ổn, mắc chứng đụng đâu cắn đó, ta phải đến y quán tìm thái y, hôm nay không thể đi học."

........................................................................................................................


Đêm lạnh như nước, quang ảnh tươi sáng của ngày xưa dần tan biến, chỉ còn lại không gian nhợt nhạt ánh trăng. Mùa hè oi bức nhưng không khí nơi này lại khiến sống lưng lành lạnh, tinh thần suy sụp.

Sau khi uống rất nhiều rượu, cuối cùng Lý Sách loạng choạng đi ra khỏi Mật Hà cư.

Sở Kiều đứng trước cửa sổ, nhìn theo bóng dáng đơn độc của hắn chậm rãi biến mất trong dãy ngô đồng rợp ánh trăng, cảm thấy trong lòng trống rỗng, như mặt hồ đóng băng vừa bị bể nát.

Tranh giành hoàng quyền từ trước đến giờ luôn thấm đẫm máu tanh, không phải ngươi chết thì ta mất mạng.

Giống như Bắc Yến và Đại Hạ, không cách nào có thể hòa hoãn trở lại.

Nàng đột nhiên nhớ đến Yến Tuân, nhớ đến tâm tình của mình khi hắn giết chết đám người Ô tiên sinh.

Dẫu hoàn cảnh có hơi khác nhưng chung quy cũng là tranh đoạt quyền lực mà thôi. Hôm nay Lý Sách thương tâm khổ sở vì Lạc vương chết, như vậy liệu Yến Tuân có từng vì hành động ngày đó mà hối hận không?

Tiếng hét giận dữ tuyệt vọng của Hoàn Hoàn lúc xưa và tiếng gào thảm thiết của Tây thạc quân mấy ngày trước như hòa làm một, không ngừng văng vẳng trong đầu nàng.

Trên con đường đi đến quyền lực, cuối cùng chỉ duy nhất một người có thể bước lên đỉnh cao tuyệt đối, và trước đó đã có ngàn vạn thân người ngã xuống trên con đường này.

Trên mặt bàn gỗ còn vương vài giọt rượu, được ánh trăng phản chiếu càng thêm lấp lánh trong suốt.

Ở đó có một dây chuông gió bị bụi đất bám cứng. Nếu cô nương có thời gian thì cho cung nhân lấy xuống lau chùi. Gió mùa thu dìu dịu, âm thanh của cái chuông đó trong trẻo rất dễ nghe.

Trong đầu lại vang lên một giọng nói nhẹ nhàng, Sở Kiều chậm rãi đi đến đụng vào cái chuông gió nọ. *Phựt* một tiếng, sợi dây treo chuông gió chợt đứt, khiến cái chuông rơi vào trong ao sen, bọt nước bắn nhẹ, tạo ra từng vòng gợn sóng nhàn nhạt.  


Chương 174: Hỗ dữ không ăn thịt con

Ngày 20 tháng 8 năm 780, Lạc vương Lý Lạc khởi binh thất bại ngay tại Hàm Thủy, ngày 11 tháng 9 cùng năm, ba con trai và hai con gái của Lý Lạc đồng thời bị định tội chết tại đài Ngô Đồng trên Mi Sơn, hai mươi mốt đại tướng trợ lực cho Lý Lạc chịu hình phạt chém ngang người, do thượng tướng quân Từ Tố tự mình giám trảm. Kết quả của chỉ một chiếu lệnh giáng xuống chính là mấy chục u hồn.

Hôm đó, Mai Hương đi vào từ ngoài điện, trên người còn vương vài cánh hoa trắng muốt, thần sắc có hơi sững sờ. Thu Tuệ gọi mấy tiếng nàng mới hồi hồn, thất thần nói: "Nghe nói vừa mới tìm được thứ phi Từ thị của Lạc vương."

Từ thị? Muội muội Từ Bội Trữ của Từ Tố?

Thu Tuệ lập tức vỗ ngực thở phào, "Cuối cùng cũng tìm được rồi, nghe nói đại tướng quân Từ Tố mất cha mất mẹ từ nhỏ, chỉ có một muội muội, cả hai sống nương tựa lẫn nhau nên tướng quân hết sức yêu thương người muội muội này. Hiện giờ tướng quân trải qua bao khó khăn mới lập được công lao lớn như vậy, nhưng nếu Từ tiểu thư gặp bất trắc thì thật là đáng tiếc."

Mai Hương hơi chau mày, sắc mặt như có sương mù bao phủ, ánh nến sáng loáng từ cây nến to bằng cánh tay khiến mặt nàng hơi tái nhợt. Nàng hạ thấp giọng, cất tiếng rất khẽ như tiếng chim non giữa tiết trời gió lớn, "Nghe nói Từ thị được tìm thấy trên núi La Phù, nàng treo cổ trên một cành cây khô, hai chân đã bị sói hoang gặm cụt."

Thu Tuệ 'A' một tiếng thật to, sắc mặt thoáng chốc trở nên trắng bệch.

Lòng Sở Kiều chợt chùng xuống, cảm giác lạnh lẽo ùa đến, tựa như làn khói trắng nhạt bốc lên từ lư hương, nhẹ nhàng nhưng luôn vấn vương trong không trung, làm sao cũng không xóa bỏ được.

Ánh trăng lạnh như nước, điện Nhu Phúc ở xa xa lại nổi lên tiếng ca múa cùng đàn sáo nhộn nhịp. Phu nhân Tử Minh hiện giờ đã là Nhu phi, trở thành người có phẩm vị cùng quyền thế cao nhất trong hậu cung của Lý Sách. Mấy hôm trước nàng được thái y viện chẩn đoán đã mang thai, hai ngày nữa sẽ đến hành cung dưỡng thai.

Đêm dài mải miết, âm thanh ở xa xa thoáng ẩn chứa sự tịch mịch khó tả, khiến đêm càng như dài vô tận.

Cứ như thế lại nửa tháng trôi qua, hạ đi thu về, sau mấy trận mưa dai dẳng, không khí đã trở nên ướt lạnh như băng. Hồ sen thưa thớt hoa, chỉ còn trơ cành và lá, cung Kim Ngô hiện giờ đã không còn ai có tâm trạng dẫn nước từ ôn tuyền duy trì hoa nở nữa.

Khu vực tây nam bị ảnh hưởng nặng bởi chiến loạn, thành Học Phủ lại gần kề với Mi Sơn nên khách điếm Học Tử mà Sở Kiều dốc lòng gầy dựng cũng đã bị phá hủy trong chiến lửa, chỉ còn một đống đổ nát hoang tàn. Bọn Mai Hương và Thanh Thanh nghe nói đều không khỏi buồn bã, tuy Lý Sách nói có thể giúp xây lại khách điếm nhưng Sở Kiều đã không còn hứng thú. Dù sao thì nàng cũng chẳng ở lại Tây Mông thêm bao lâu nữa.

Vì vậy Sở Kiều vẫn ở lại trong cung Kim Ngô, ngày ngày nhìn ánh nắng lướt qua khung cửa sơn son thếp vàng, lặng lẽ đếm thời gian qua.

Nàng rất ít khi nhìn thấy Lý Sách, tuy chuyện của Lạc vương cũng ít nhiều khiến binh lực Biện Đường có hao hụt, nhưng sau khi diệt trừ hết các thị tộc lớn ở tây nam, quốc khố không những được bù đầy mà còn không ngừng phát triển thêm. Và theo đó, dường như tính cách của Lý Sách cũng thay đổi một trăm tám chục độ, trở nên vô cùng bận rộn, ngay cả ca múa đàn sáo ở hậu cung cũng rất lâu rồi không nghe thấy nữa.

Sắc thu càng lúc càng đậm, lại thêm hai tháng nữa trôi qua. Sáng sớm Sở Kiều đẩy cửa sổ ra, phát hiện bên ngoài được bao phủ bởi một lớp tuyết thật mỏng, tán ngô đồng bên cửa sổ ướt đẫm sương. Ở thành Học Phủ không có tuyết nên bọn Mai Hương nhìn thấy đều rất vui vẻ, Thanh Thanh hăng hái dẫn một đám tiểu cung nữ đi vọc tuyết, cô bé khoác một chiếc áo choàng đỏ rực, làm nổi bật khuôn mặt ngây thơ đáng yêu.

Lại vừa có thư của Gia Cát Nguyệt.

Mấy tháng nay do Biện Đường có chiến sự mà áp lực của Lý Sách đè lên biên quan Đại Hạ cũng giảm bớt khá nhiều, nên Triệu Dương có cơ hội thở phào một chút. Tháng trước, Triệu Dương lấy cớ ra ngoài luyện binh, lặng lẽ dẫn Tây nam quân chiếm giữ Tây đại doanh cách thành Chân Hoàng ba mươi dặm về phía tây. Lúc ấy phía Bắc vừa trải qua một trận đại tuyết nên Triệu Triệt không có mặt ở kinh đô, Gia Cát Nguyệt nhanh chóng quyết định mang năm ngàn Thanh Hải cấm vệ chạy đến Tây đại doanh, giằng co với Triệu Dương hết gần ba canh giờ, nếu không có Ngụy Thư Diệp kịp thời chạy đến thì rất có thể đã xảy ra chuyện lớn rồi.

Nhưng những chuyện này không hề được nhắc đến trong thư Gia Cát Nguyệt gửi đến, Sở Kiều biết được là do nghe Thiết Do kể. Nghĩ đến chuyện hắn dùng năm ngàn người đối đầu với ba vạn Tây nam quân, nàng không khỏi cảm thấy sống lưng rịn ra mồ hôi lạnh.

Hạ hoàng như chỉ còn ít hơi tàn, ông ta đã hơn hai tháng chưa lên triều, cuộc chiến tranh giành hoàng quyền ở Đại Hạ càng lúc càng căng thẳng, chỉ cần hơi sơ sẩy sẽ dẫn đến mạng vong. Lúc rảnh rỗi Sở Kiều sẽ vớ hai cuốn kinh đến Phật đường, một là để giết thời gian, hai là để giúp tâm tình yên tĩnh, cuối cùng là để cầu bình an cho người nào đó.

Phật đường hương khói lượn lờ, nhìn pho tượng Phật nghiêm trang trước mặt, Sở Kiều đột nhiên nhớ tới vị hoàng hậu Biện Đường từng có duyên gặp mặt một lần trước đây. Hôm đó là sau giờ Ngọ, người phụ nữ ôn hòa kia đang lặng lẽ nhìn nàng, rất hòa nhã nói muốn nàng đi khuyên nhủ Lý Sách, chớ để hắn dựng tượng Phật Hoan Hỉ làm hỏng chốn Phật đường.

Chẳng ngờ thoáng cái mà vị thái tử tùy hứng càn rỡ khi đó đã trở thành hoàng đế Đại Đường nắm quyền sinh sát trong tay rồi.

Thu Tuệ bây giờ đã là cô cô chưởng quản ở Mật Hà cư, tiểu nha đầu lớn lên từ trong cung cấm nên tai tinh mắt sáng, thỉnh thoảng nghi hoặc nhìn nhìn Sở Kiều, cau mày nhỏ giọng nói: "Lần này gặp lại cô nương, cảm giác cô nương so với lúc trước có gì đó thay đổi."

Sở Kiều nhẹ nhướng mi, hỏi: "Ồ? Khác thế nào?"

Thu Tuệ khẽ cười, cầm lược sừng trâu đến chải tóc cho Sở Kiều, lẳng lặng nói: "Lần trước cô nương trở về từ Bắc Yến nhìn như thân cây khô kiệt cuối hạ, còn hôm nay lại như đã vừa qua khỏi mùa đông."

"Vậy sao?" Sở Kiều nghiêng đầu, luồn tay vào mái tóc dày mượt vuốt nhẹ. Dung nhan phản chiếu trong gương như nhành liễu bên bờ hồ vừa vượt qua được mùa đông giá rét, vẻ mệt mỏi hằn nơi đáy mắt đã không còn, giống như mười năm bôn ba chỉ tựa một giấc mộng thoáng qua. Hôm nay được yên ổn ngụ trong cung Kim Ngô, ngoảnh đầu nhìn lại ngày tháng sóng gió trong quá khứ, bất giác cảm thán bản thân cuối cùng cũng có thể trải qua một khoảng thời gian an bình.

Đến cuối năm, Sở Kiều rốt cuộc gặp lại Hạ Tiêu.

Gió đông se lạnh, nàng khoác áo choàng lông màu bạc, cùng Mai Hương băng qua lâm viên để đến đình Bách Triết, đúng lúc gặp Hạ Tiêu vừa mới ra khỏi điện Nghĩa Tâm.

Hạ Tiêu hiện giờ là chưởng sự bộ binh của nam doanh Biện Đường, cấp bậc quan tam phẩm, khá được Lý Sách trọng dụng nên cũng thường xuyên ra vào hậu cung.

Kể từ khi Sở Kiều không từ mà biệt, đây là lần đầu hai người gặp lại, đột nhiên nhìn thấy nhau khiến bọn họ cũng không khỏi có hơi lúng túng. Hạ Tiêu mấp máy môi, khẩu hình như muốn gọi nhưng hai tiếng 'đại nhân' cuối cùng vẫn không ra khỏi miệng, đổi thành 'Sở cô nương'.

Sở Kiều phẩy tay ra hiệu cho hạ nhân lui xuống, chỉ dẫn theo Mai Hương bước vào đình Bách Triết.

Hạ Tiêu mặc triều phục xanh đen, dáng vóc anh tuấn trầm ổn, thấp thoáng vẻ phong độ nhờ kinh qua bao hung hiểm.

Mai Hương đứng bên ngoài, gió thổi vào đình khiến vạt áo choàng của Sở Kiều khẽ lay động. Nàng chỉ đứng đó đón gió, thật lâu vẫn không nói gì. Tiểu đình được xây trên vị trí khá cao, nhìn xuống mặt hồ trong xanh, cạnh đình có trạm trổ tạo thành thác nước chảy xuống hồ, nước chảy phát ra âm thanh *ào ào* đều đặn.

Sau lưng vang lên giọng nói lặng lẽ không chút gợn sóng của Hạ Tiêu, "Nơi này gió lớn, thân thể cô nương không được tốt, vẫn nên sớm trở về thì hơn."

"Gió ở Bắc Yến không phải còn mạnh hơn ở đây sao?" Sở Kiều quay đầu lại, sắc mặt vô cùng bình tĩnh, đôi mắt sâu thẳm khiến người khác nhìn không thấu, "Hạ Tiêu, ngươi có đang trách ta không?"

Hạ Tiêu cúi đầu đáp: "Thuộc hạ không dám."

"Ngươi nói không dám thì chính là đang trách rồi." Sở Kiều khổ sở cười một tiếng, nụ cười chỉ thoáng lướt qua khóe miệng rồi biến mất, "Bất kể là ngươi có tin hay không, nhưng ta và ngươi kề vai chiến đấu nhiều năm, ta luôn coi ngươi là bằng hữu tốt nhất, ta rời đi cũng không phải vì muốn bỏ rơi các ngươi."

"Ta hiểu." Hạ Tiêu đột nhiên ngẩng đầu lên, ánh mắt trước sau như một vẫn hết sức bình tĩnh, không hề mang vẻ oai phong lẫm liệt như trên chiến trường, hắn lẳng lặng nói: "Ta chưa bao giờ trách cứ người. Ta hiểu, người làm vậy chỉ vì nghĩ cho chúng ta, muốn an bài một con đường tốt nhất cho chúng ta mà thôi."

Đây là lần đầu tiên Hạ Tiêu xưng hô ngang hàng với Sở Kiều, hắn lặng lẽ nhìn nàng, chậm rãi nói: "Mấy năm nay, ta vẫn tận mắt nhìn người trải qua mọi chuyện, hiểu được nỗi khổ trong lòng người . Có lúc ta còn nghĩ, lúc đầu đều do ta đã quá ích kỷ, nếu ta sớm có thể thông suốt mọi chuyện thì tuyệt đối sẽ không để người bị bức đến tình cảnh như thế. Cho dù Tây Nam trấn phủ sứ phải trở thành trộm cướp hay bị tiêu diệt cũng không nên để người gánh chịu trách nhiệm, đối chọi với Bắc Yến vương để rồi phải ra đi đến nước này."

Sở Kiều lắc đầu, muốn nói giữa nàng và Yến Tuân có mâu thuẫn không thể tháo gỡ, cho dù không có Tây Nam trấn phủ sứ thì cũng sẽ có nguyên nhân khác, xảy ra bất hòa là chuyện tất yếu, chẳng qua là sớm hay muộn mà thôi.

Nhưng Hạ Tiêu không chờ nàng mở miệng đã trực tiếp nói: "Dù sao thìngười cũng chỉ là một cô gái còn trẻ tuổi, chỉ là lúc đó chúng ta đều hồ đồ không nghĩ đến."

Hắn ngẩng đầu lên, nở một nụ cười hết sức dịu dàng, ánh mắt tựa như trưởng bối nhìn hậu bối, điềm tĩnh nói: "Hoàng thượng nói, chỉ khi hoàn toàn bỏ lại quá khứ ở sau lưng thì người mới có thể thực sự thanh thản. Ta không gọi người là 'đại nhân' chẳng phải vì vẫn còn oán hận, mà hy vọng người có thể quên món nợ này đi, thoải mái sống cho bản thân một lần."

Nước mưa đọng trên lá cây rơi *tong* xuống mũi giày trắng tinh của Sở Kiều, mi tâm nàng khẽ chau lại, đáy lòng dâng lên sự cảm động xen lẫn chua xót khó nói nên lời.

"Tuy Biện Đường ấm áp nhưng hôm nay trời khá lạnh, người vẫn sớm nên trở về đi." Dứt lời Hạ Tiêu liền tránh sang một bên nhường đường.

Sở Kiều đột nhiên kêu lên: "Hạ đại ca."

Hạ Tiêu sửng sốt, ngẩng đầu lên nhìn nàng.

Sở Kiều lẳng lặng nói: "Ta và huynh bầu bạn nhiều năm, nhiều lần đồng sinh cộng tử, ta và huynh không chỉ là chiến hữu mà còn là người thân của nhau."

Gió thổi qua lâm viên kêu *xào xạc*, khóe mắt Hạ Tiêu thoáng run rẩy. Một lúc sau, hắn vẫn giữ tư thái bình tĩnh như cũ, lặng lẽ lui lại một bước, trầm giọng nói: "Ta sắp đến khu vực tây nam nhậm chức rồi, có lẽ sẽ không còn cơ hội gặp nhau nữa."

Hạ Tiêu quả nhiên đã biết.

Sở Kiều nhìn bóng dáng đứng im lìm của Hạ Tiêu, cổ họng nghèn nghẹn chút chua xót. Nàng lẳng lặng gật đầu, buông một câu 'Huynh bảo trọng' rồi xoay người ra khỏi đình.

Nhưng vừa đi được mấy bước thì nàng lại chợt nghe thấy giọng nói trầm tĩnh của Hạ Tiêu vang lên ở sau lưng, "Tiểu Kiều, đi đường cẩn thận."

Sở Kiều lập tức quay đầu lại, nhìn thấy Hạ Tiêu vẫn đứng yên tại chỗ, gió lạnh thổi lên y phục hắn, triều phục xanh đen thêu hoa văn sóng biển, hông thắt đai lưng màu xanh nhạt, đai lưng đã sờn cũ, chính là chiếc đai lưng trong bộ quân phục của Tú lệ quân năm đó. Nam nhân lẳng lặng đứng đó, đầu cũng không hề quay lại, tựa như câu vừa rồi không phải do hắn nói ra.

Sở Kiều đứng im chỉ một lúc, cuối cùng xoay người rẽ sang hướng khác. Đi vòng vo thêm mấy vòng, lâm viên rốt cuộc cũng khuất dạng, Sở Kiều ngẩng đầu lên nhìn mới phát hiện bản thân vô tình đi tới núi Phất Lan bên ngoài điện Nhu Phúc. Gọi là núi nhưng thật ra thì là một đồi đá giả được đắp bằng bạch ngọc tinh khiết, dưới ánh nắng lóng lánh dị thường, có thể nói là một kỳ quang trong cung Kim Ngô. Nhưng giờ phút này nhìn ngọn núi trắng toát trước mắt, Sở Kiều chỉ cảm thấy lòng tràn ngập lãnh ý, cảm xúc này tựa như xúc tu đang từng chút một quấn lấy nàng.

"Tiểu thư?" Mai Hương lo lắng gọi.

Sở Kiều không nói gì, thoáng ngưng thần nhìn vài gốc mai vàng trên ngọn núi giả, rồi lại như xuyên qua nó nhìn ra khoảng không vô tận trước mắt.

"Tiểu thư, trên đời này ai cũng có tâm ý của riêng mình, nhưng người cũng chỉ có một trái tim, không thể bao dung được nhiều người như vậy đâu." Lời của Mai Hương vang lên bên tai nhưng Sở Kiều vẫn như không nghe thấy. Gió chợt nổi mạnh, Sở Kiều đột nhiên cảm thấy khổ sở đến nói không nên lời.

"Hạ thống lĩnh đi theo người nhiều năm như vậy, qua một thời gian nữa huynh ấy nhất định sẽ hiểu, thiên hạ có buổi tiệc nào không tàn, người không nên quá thương tâm."

Sở Kiều xoay đầu lại, đột nhiên giơ tay vỗ vai Mai Hương, nhẹ giọng nói: "Mai Hương, nếu em muốn thì hãy đi theo huynh ấy đi."

Sở Kiều cảm giác rõ ràng thân thể Mai Hương đột nhiên giật bắn người, sống lưng cứng ngắc như chú thỏ bị kinh động. Hồi lâu sau, một đôi tay vòng qua lưng ôm lấy Sở Kiều, Mai Hương lẳng lặng nói bên tai nàng:"Tuy quyến luyến Hạ thống lĩnh nhưng em lại càng không muốn xa tiểu thư hơn."

Nắng sau giờ Ngọ rọi chóng chang xuống trên mặt đất, trời xanh thăm thẳm, không một áng mây.

"Tiểu thư chớ nên vì người khác mà khổ sở nữa, Gia Cát thiếu gia tuy không hẳn là một người tốt, nhưng cũng là người duy nhất trên đời này toàn tâm toàn ý vì tiểu thư, chịu giết người phóng hỏa, xả thân thành ma vì tiểu thư. Người như vậy, đốt đèn cũng không tìm được người thứ hai đâu." Mai Hương đột nhiên bật cười, "Mà có lẽ Hạ thống lĩnh cũng đã nhận ra, nên cũng nghĩ giống em vậy, loại chuyện này không thể miễn cưỡng. Em và huynh ấy cuối cùng cũng sẽ có nhân duyên của riêng mình thôi."

Bầu trời tự do rộng lớn chính là thứ mà nàng đã ao ước nhiều năm.

Sở Kiều ngẩng đầu lên, như mơ hồ nhìn thấy đôi mắt của người nọ, triều đình Đại Hạ mưa to gió lớn như vậy, chàng vẫn ổn chứ?

.....................................................................................................................

Đảo mắt lại sắp đến năm mới.

Năm nay xảy ra chiến loạn, có lẽ là để xua tan không khí ảm đạm của hậu chiến, dưới đủ loại tấu sớ cầu xin của các quan loại, Lý Sách hạ lệnh vung tay chi tiêu tổ chức xuân yến linh đình.

Ngày 27 tháng chạp, Lý Sách mở tiệc chiêu đãi quân thần trên đại điện Quốc Tử, nhắc lại chiến tích một năm vừa qua, khen thưởng cho người có công, thưởng cho quan tam phẩm trở lên vinh hạnh được ngồi dự yến trong cùng một điện, thậm chí còn tự tay sáng tác một bài thơ ca tụng công đức của mình, sau đó dặn nội thị sao chép nhiều bản rồi tặng cho triều thần mỗi người một bộ.

Hậu cung cũng giăng đèn kết hoa, tiệc rượu được bày từ điện Tĩnh Tâm đến thẳng cung Thượng Thanh, vải lụa và đèn lồng được kết thành chữ vạn thọ vô cương và giang sơn vĩnh cố, nổi bật trên tường xanh ngói đỏ, vô cùng rực rỡ tráng lệ.

Lý Sách đã mấy lần đến mời nàng cùng dự tiệc nhưng Sở Kiều không thích ồn ào nên đều nhẹ giọng từ chối, chỉ dặn dò cung nữ hạ nhân trong Mật Hà cư quét dọn, chuẩn bị ít thức ăn và vật dụng chờ đón giao thừa.

Ngày 28 tháng chạp, từng cỗ xe ngựa bọc vải gấm xanh lũ lượt tiến vào cửa chính cung Kim Ngô, sau khi trình giấy thông báo thì một đường chạy thẳng đến trước cổng Mật Hà cư. Đoàn xe ngựa dừng lại, từng rương đồ được khiêng xuống oanh động cả hậu cung, tất cả cung nữ hạ nhân đều không khỏi tranh nhau chạy đến Mật Hà cư tìm hiểu xem đến cùng là chuyện gì, thậm chí còn có vài vị phu nhân thiếu kiên nhẫn cũng cất công chạy đến.

Hai mươi cỗ xe, gần hai trăm rương hòm lớn nhỏ, sau khi nắp rương được mở ra, ánh mắt mọi người đều trở nên sáng lấp lánh. Ngọc bích, hóa thạch, hồng ngọc, mắt mèo, bạch ngọc, đông châu, tơ lụa, vật dụng bằng da, đồ cổ, tranh chữ vân vân và vân vân, phàm là đồ quý giá con người có thể tưởng tượng ra như đều được bày ở trước mắt. Không chỉ thế, còn có cả mấy thứ nữ nhân thích như trâm cài, chuỗi ngọc, y phục, giày thêu, trang sức đeo tay, cái gì cần có đều có. Vật trang hoàng thì có hoa san hô cao gần ba trượng, lan thảo quý hiếm, bình phong được khảm bằng dạ minh châu có thể tự phát sáng trong đêm, còn có mấy đồ vật kỳ lạ từ hải ngoại như quẹt diêm, ống nhòm, mặt gương, đồng hồ, y phục của phụ nữ người phiên, đặc sản đất Hồ, dược liệu quý ngang vàng, vân vân.

Khiến người ta không biết nên khóc hay cười hơn hết là mấy loại thổ sản xù xì, thoạt nhìn tương tự khoai loang. Sở Kiều cầm lên xem xét một lúc mới vỡ lẽ, thì ra là giống dưa đất mà Gia Cát Nguyệt từng miêu tả trong thư gửi cho mình, thử đưa lên mũi thì ngửi thấy mùi thơm dìu dịu. Trong lòng nàng chợt như có dòng nước mật chảy qua, cảm thấy tất cả châu ngọc cộng lại cũng không bằng mấy quả dưa đất xấu xí này.

Có lẽ dân bản xứ biết Thanh Hải vương cần vật này liền vô cùng dụng tâm, chẳng những vừa to vừa mọng, mà trên mỗi trái dưa còn được quấn chỉ đỏ tỉ mỉ, thoạt nhìn quả thực hơi tức cười.

Thư gửi cho nàng được đặt trong hòm đựng dưa, Sở Kiều cầm thư lên mở ra, nhìn thấy nét chữ thanh mảnh viết kín cả trang giấy.

Chàng luôn như vậy, cho dù viết thư cũng bằng giọng không được tự nhiên, viết từ thời tiết, sang chính trị rồi đến kinh tế địa phương, đọc cứ như thư trao tay giữa hai vị nguyên thủ quốc gia vậy. Chỉ có ở cuối thư sẽ luôn có một câu nhắc nhở: Chú ý cửa nẻo, đi ngủ phải cẩn thận đóng chặt cửa sổ, canh phòng tiểu nhân.

Có một lần Lý Sách đọc được thư liền tức suýt chết, to tiếng mắng Gia Cát Nguyệt lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, dám nói xấu sau lưng người khác. Nhưng nhìn Lý Sách vẫn len lén đọc tiếp thì Sở Kiều lại cảm thấy hai người này quả thực đúng như trẻ con vậy, khẩu thị tâm phi.

Thư lần này cũng viết rất dài, sau mở đầu ngắn ngủi là lại bắt đầu văn chương lai láng, có thể tưởng tượng người nọ là im lặng suy nghĩ một lúc lâu mới chấp bút viết một hơi. Đến gần cuối, dường như đầu bút đã khô phải chấm mực viết tiếp nên nét mực của câu cuối rất đậm, "Bận việc nên không thể cùng đón năm mới, ngày hoa nở sang năm nhất định sẽ thực hiện lời hứa, chờ ta."

Xung quanh là tiếng cảm thán ồn ào nhưng Sở Kiều lại cảm thấy bốn phía thật yên bình, gió thổi không tiếng động, tiếng chim hót ríu rít cùng tiếng lá cây xào xạc. Ngày đông hàn se lạnh nhưng trong lòng lại ấm áp như xuân về.

Tối hôm đó, Sở Kiều, Mai Hương, Thanh Thanh, Đa Cát, Bình An, cộng thêm Thu Tuệ và nhóm cung nữ trong Mật Hà cư cùng đón giao thừa. Sở Kiều tự mình xuống bếp, kỹ thuật nấu nướng bình thường nhưng nàng lại dùng phương thức chế biến theo kiểu ở hiện đại khiến tất cả sửng sốt kinh ngạc. Lúc mới bắt đầu mọi người còn hơi e dè, dần dần cũng thoải mái hơn. Ở Mật Hà cư ít nam nhân, Đa Cát tuấn tú hiền hòa, Bình An lanh lợi liến thoắng, chọc đám tiểu nha hoàn không ngừng cười rộ lên.

Đến nửa đêm, bên ngoài vang lên tiếng pháo *đì đùng*. Sở Kiều và đám cung nhân chạy ra ngoài, đứng dưới gốc hoa quế ngước đầu nhìn loạt pháo hoa rực rỡ đầy trời, ánh sáng ngũ sắc rọi xuống mặt họ, thần thái ai cũng hết sức vui vẻ phấn khởi.

Mấy người Bình An và Thanh Thanh dẫn bọn tiểu nha hoàn cùng đốt pháo trúc. Tiếng *lạch tạch* vui tai ầm ĩ trong Mật Hà cư, đứng giữa đám người, Sở Kiều đưa tay bịt hai tai, mặt hồng hồng vì lạnh, cả người chìm trong chiếc áo choàng lông xù, nhìn nhỏ nhắn như một đứa trẻ còn chưa lớn.

Đến thế giới này đã bao nhiêu năm rồi, tuy người trong lòng không ở bên cạnh, nhưng đây là đêm giao thừa vui vẻ nhất của nàng, rất yên bình và nhẹ nhàng.

Ngoài sân vẫn ồn ào tiếng cười đùa, Sở Kiều ngồi xuống thư án, cầm bút vẽ hai nhân vật hoạt hình chibi, người thật nhỏ mà đầu thật to, một thanh tú linh hoạt, một nghiêm túc cứng nhắc, cả hai đang đứng sánh vai trên một sườn núi cao cao, ngơ ngẩn nhìn ra xa xa, vẻ mặt ngốc ngốc hết sức đáng yêu. Trước mặt bọn họ là một thảo nguyên rộng lớn, dê bò tụ thành đàn, xa hơn một chút là biển xanh lấp lánh.

Cuối cùng nàng còn cẩn thận viết thêm hai chữ ở bên dưới: Sẽ chờ chàng.

Không dặn dò cũng không hỏi thăm thêm nữa. Sở Kiều cảm thấy mình nên tỏ ra ích kỷ một lần, cũng nên thành thực với bản thân một lần, hơn hết nữa là nên thử tin tưởng vào tương lai.

Đặt bút xuống, Sở Kiều bỏ thư vào phong bì niêm lại rồi đi ra ngoài tìm bọn Mai Hương. Ai ngờ vừa bước ra ngoài thì một cơn mưa cánh hoa đã rơi lả tả xuống trên người, trên đầu nàng. Mọi người đồng loạt cười to, tiếng cười như xuyên qua ánh pháo hoa đầy trời lan ra khắp cung Kim Ngô.

Mùa đông ở Biện Đường luôn rất ngắn, nháy mắt đã là tháng ba.

Mấy ngày trước có tin tức từ Hoài Tống, Tấn Giang vương lấy cớ thân thể Tống hoàng khác thường, dẫn đám quan viên ủng hộ mình yêu cầu thái y viện công bố tình hình thân thể của hoàng đế, bị Nạp Lan Hồng Diệp trực tiếp cự tuyệt liền dẫn đến một trận náo loạn.

Lý Sách khi biết tin thì thoáng nhíu mày, nói: "Nếu thực sự không có chuyện gì thì sao không thể để thái y công bố để lấp miệng đám người đó?"

Sở Kiều cũng không đáp lời, nếu cả nàng cũng mơ hồ đoán được gì đó thì e hiện tại đang có vô số ánh mắt chăm chăm hướng đến Hoài Tống. Không biết cô gái một mình chống đỡ Nạp Lan thị nhiều năm kia sẽ ứng phó thế nào với đủ loại ám tiễn đang chĩa về phía mình đây.

Nàng bất giác nhớ lại hàng chữ thanh mảnh nhưng ngả nghiêng vô tình nhìn được trên bức thư ở Bắc Yến rất nhiều năm trước: 'Sơn hữu mộc hề, mộc hữu chi, tâm duyệt quân hề, quân bất tri.'

Ngay cả bề ngoài nhìn kiên định bền bỉ như sắt cuối cùng cũng có lúc buồn bã khổ sở, ai mới có thể vĩnh viễn cứng rắn như ban đầu chứ?

Ngày 9 tháng 3, con trai thứ hai của Lý Sách là Lý Kiều An mới ba tuổi qua đời vì bệnh thương hàn. Lúc biết chuyện, Lý Sách đang trên đường đi thị sát tiến độ xây đê điều, được tin liền vội vã trở về nhưng cũng chỉ kịp nhìn thấy thi thể của cậu bé.

Lý Sách hiện tại có hai trai một gái, con trai lớn nhất sáu tuổi, con gái bốn tuổi, đứa bé vừa chết là con trai của phu nhân Nam Vân. Sau khi con trai chết, phu nhân Nam Vân bi thương liền ngã bệnh không dậy nổi, ba ngày sau cũng buông tay rời thế gian.

Đứa bé vừa chết dù sao cũng còn nhỏ nên không thể bỏ vào quan tài chôn nên chỉ đành hỏa táng ở Nam Thiên tự rồi gửi trong miếu.

Đêm đó Lý Sách uống rất nhiều rượu, cũng là lần đầu tiên Sở Kiều nhìn thấy hắn say. Trước kia bất kể là thế nào, Lý Sách luôn giữ được thần trí thanh tỉnh, cho dù uống đến đi không vững thì ánh mắt hắn vẫn luôn lạnh lẽo như nước.

Tối hôm đó, hắn đã nắm tay Sở Kiều, hỏi đi hỏi lại một câu: "Có phải vì ta đã quá tàn bạo không? Có phải vì ta đã giết quá nhiều người không?" Lực tay của hắn mạnh đến mức khiến cổ tay Sở Kiều đau nhức.

Trong đại điện cực kỳ yên tĩnh, gió đêm thổi vào se lạnh, hất tung bụi mờ trên mặt đất. Tiếng ếch kêu văng vẳng càng tô thêm vẻ tĩnh mịch của màn đêm, ngọn nến trong góc điện chảy từng giọt sáp đỏ xuống giá cắm, một giọt nước mắt lẳng lặng trượt khỏi khóe mắt Sở Kiều, không tiếng động rơi xuống mặt đất.

Sang hôm sau, Lý Sách phong phu nhân Nam Vân làm Vân phi, cho nhập hoàng lăng, để người thân trong gia tộc tham dự tang lễ trọng thể.

Đảo mắt đã sang tháng năm, phu nhân Tử Minh lúc trước đi hành cung an thai hồi cung, nàng sinh được con trai nên đường hoàng trở về. Lý Sách ban cho đứa bé tên Thanh Vinh, phong tước vị là Vinh vương, nâng phu nhân Tử Minh lên thành quý phi, đứng đầu ba phi vị.

Chúng cung nhân hiện đều đang nghị luận về vị quý phi nương nương này, nói nàng mới tiến cung đã sinh được con trai, nhanh chóng bò lên phi vị, sau đó nữa chính là hậu vị rồi.

Nhưng cũng có người nói nàng xuất thân hàn vi, gia tộc suy tàn, có phụ thân là tội thần, huynh trưởng của nàng cho dù dần dần có uy thế trên triều thì vẫn là người có tật, tuyệt đối không thể lên địa vị cao. Không có sự ủng hộ của mẫu tộc, Minh quý phi khó lòng làm nên chuyện.

Đối với chuyện hậu cung Lý Sách, Sở Kiều không muốn hỏi thăm mà thường ngày cũng rất ít chú ý, nhưng có hôm chợt nghĩ tới một chuyện nên mới hỏi Thu Tuệ: "Đại điển sắc phong quý phi sao không nhìn thấy thái hậu?"

Thu Tuệ đáp: "Sau khi tiên hoàng qua đời, thái hậu liền rời cung đến ở tại An Ẩn tự, đã nhiều năm chưa hồi cung."

Sở Kiều lúc này mới hiểu ra, nhớ đến vị thái hậu cả đời đa truân kia thì cũng không khỏi cảm thán một trận.

Tháng tư vừa qua thì Biện Đường liền chìm trong gió xuân ấm áp. Mấy hôm trước Gia Cát Nguyệt có phái người đưa đến cho nàng một đôi chim đất Hồ rất xinh đẹp, sắc lông rực rỡ đến chói mắt. Nghe nói loại chim này sinh trưởng thành đôi, nếu một con chết thì con còn lại tuyệt đối sẽ không sống một mình.

Sở Kiều mỗi ngày đều tự mình cho chúng ăn, còn đổi tên chúng thành chim bỉ dực (chim liền cánh), vô cùng yêu thích. Có một con dường như cũng rất quyến luyến nàng, đến mức cho dù mở cửa lồng tre cũng không bay xa, chỉ quanh quẩn trong đại điện, thỉnh thoảng tới đậu trên vai nàng, dùng cổ cọ cọ mặt nàng. Còn một con thì hết sức bạo dạn, luôn bay loạn khắp điện, chọc cho đám tiểu nha hoàn cười ha hả.

Lý Sách hình như cũng rất thích đôi chim này, thi thoảng luôn đến chơi với chúng.

Có một đêm, Sở Kiều đang ngủ thì đột nhiên cảm giác như có người đang nhìn mình, vừa mở mắt ra ngồi dậy thì nhất thời rơi vào trong một lồng ngực rắn chắc.

Hơi thở nam tử rất quen thuộc, hô hấp trầm thấp nặng nề phả vào cổ nàng, nồng nặc mùi rượu. Hắn ôm nàng rất chặt, như dùng hết toàn lực mà ôm khiến nàng suýt kêu lên vì đau. Sở Kiều không giãy giụa cũng không nói lời nào, xuyên qua lớp vải lạnh như băng, nàng như có thể cảm nhận được sự tịch mịch cùng thống khổ của hắn, chỉ nhẹ nhàng giơ tay vỗ vỗ lên lưng hắn.

Ánh trăng ảm đạm rơi trên người bọn họ, áo bào đỏ rực của nam tử thêu hình rồng tinh xảo, mũi thêu thật mảnh như hòa làm một với nền đỏ, khiến hình rồng như nhuốm máu toàn thân.

Một lúc sau, Lý Sách dần buông nàng ra, mùi rượu bao phủ quanh hai người.

Sở Kiều cẩn thận hỏi: "Lý Sách, ngươi tưởng ta là nàng ấy sao?"

Lý Sách sửng sốt, quay lại nhìn Sở Kiều, khẽ nhướng mày.

Sở Kiều đột nhiên có hơi lúng túng, dáng vẻ như đứa trẻ vừa nhìn thấy bí mật của người khác, nhỏ giọng nói:"Ta nghe bọn hạ nhân nói, nơi này là chỗ Phù công chúa ở trước đây."

Lý Sách nhìn nàng chằm chằm, ánh mắt thăm thẳm như giếng cổ ngàn năm, ẩn chứa đầy thâm ý. Khi đó Sở Kiều quả thực không cách nào hiểu được ánh mắt của hắn, chỉ cảm thấy bị hắn nhìn như vậy thực khó chịu, cũng có hơi lo lắng.

Lý Sách đột nhiên khẽ cười một tiếng, sau đó lười biếng dài giọng trêu: "Vóc người của Phù Nhi tốt hơn nàng nhiều."

Đêm hôm đó, Lý Sách rời khỏi Mật Hà cư đi đến điện Nhu Phúc của Minh quý phi. Hắn vừa ra khỏi đại điện thì Sở Kiều nhìn thấy một vật phản chiếu ánh trăng sáng lấp lánh, nhận ra là ngọc ban chỉ* của Lý Sách liền vội chàng chạy đến cửa sổ hét lớn: "Lý hồ ly! Ban chỉ của ngươi!"

*Ngọc ban chỉ (nhẫn đeo ngón cái)

Lý Sách quay đầu lại cười với nàng, dưới ánh trăng nụ cười kia tuấn mỹ đến mức khiến người nhìn hoa mắt,"Đêm xuân một khắc đáng ngàn vàn, mai ta sẽ đến lấy sau!" Dứt lời liền tiếp tục đi về phía điện Nhu Phúc.

Sở Kiều cầm ban chỉ, ra sức trừng mắt liếc tên hoàng đế càn rỡ này, lúc xoay người đi vào trong thì lại bất cẩn đá phải ngưỡng cửa nhô ra, đau nhói đến tận tim, nàng cau mày ngồi xuống xem xét thì phát hiện ngón chân chảy rất nhiều máu, thấm đỏ cả ống quần trắng tinh.

Đáy lòng nàng đột nhiên nảy sinh cảm giác hoảng hốt.

Khoảng canh tư (1 ~ 3 giờ sáng), bên ngoài chợt vang lên tiếng bước chân dồn dập, Sở Kiều vốn thấy bất an nên ngủ không sâu, liền lập tức nhỏm dậy. Mai Hương và Thu Tuệ đồng thời vọt vào điện, ai cũng mặt trắng bệch, cùng lúc nói: "Hoàng thượng bị hành thích!"

Trong bóng đêm, ban chỉ bằng bạch ngọc trắng muốt đột nhiên rơi *cạch* xuống trên mặt đất, không vỡ mà chỉ bị mẻ một góc, lăn vào một góc điện.

Lúc Sở Kiều chạy đến điện Nghĩa Tâm thì ngoài điện đã đầy một đám người đang khóc rống, toàn bộ thái y viện đều có mặt, nhìn thấy từng chậu máu không ngừng được bưng ra ngoài, tim nàng như bị đao khoét, đau đến tận xương tủy.

Thu Tuệ nói Lý Sách bị đâm lúc ở cùng Minh quý phi, thích khách là một thái giám đã già, ông ta tự xưng Lạc vương là ân nhân của mình, đắc thủ xong liền không đợi thị vệ truy hỏi, lập tức cắn lưỡi tự sát.

Sở Kiều siết chặt nắm tay, nàng bây giờ không thể tiến vào trong điện, ngay cả tư cách ở ngoài quỳ khóc cũng không có. Nàng nghi ngờ nhíu chặt mày liễu, điện Nhu Phúc canh phòng cẩn mật, hộ vệ bên cạnh Lý Sách lại đều là cao thủ hàng đầu, một lão thái giám lai lịch không rõ sao có thể lẻn vào điện, hơn nữa còn hành thích thành công? Đó là chưa kể đến thân thủ của chính Lý Sách, nhất định không thể có chuyện người lạ đến gần mà không phát giác.

Sở Kiều nhìn ra xa xa, trên quảng trường trước đại điện có một cô gái đang một mình quỳ ở đó, tóc tai rối bời. Nàng ta đưa lưng về phía này nên Sở Kiều nhìn không thấy mặt.

Thu Tuệ nói nhỏ đó chính là Minh quý phi, từ lúc xảy ra chuyện đến giờ vẫn quỳ ở đó.

Lúc này, cửa đại điện đột nhiên mở ra, Tôn Đệ cùng các thần tử trung thành tiến lên khẩn trương hỏi:"Thương thế của hoàng thượng thế nào rồi?"

Lão thái y dẫn đầu lau mồ hôi bên thái dương, nói: "Không còn an nguy đến tính mạng nữa, nhưng vẫn cần phải tĩnh dưỡng."

Lão thái y vừa dứt lời thì đám tần phi liền thở phào, sau đó lại khóc váng lên, Minh quý phi quỳ trên quảng trường nghe nói cũng mềm nhũn người rồi chợt ngất xỉu.

"Tôn đại nhân, hoàng thượng muốn gặp ngài." Lão thái y nói thêm, sau đó đảo mắt một vòng, nhìn thấy Sở Kiều thì nói luôn: "Cả vị cô nương này nữa."

Vô số ánh mắt lập tức chĩa về phía Sở Kiều, nàng hít một hơi thật sâu, trầm tĩnh bước ra chào Tôn Đệ, sau đó cùng hắn đi vào đại điện trong ánh mắt soi mói của tất cả mọi người.

Trong đại điện gió thổi không loạt, nặng nề mùi thuốc, Tôn Đệ vào trước, một lúc lâu sau mới đi ra nói Sở Kiều: "Tinh thần của hoàng thượng không được tốt lắm, nhớ nói ngắn gọn."

"Hiểu rồi." Sở Kiều gật đầu rồi tiến vào trong điện.

Xuyên qua từng tầng màn lụa, Lý Sách đang nằm trên một cái long sàng khổng lồ, khí sắc quả thực rất xấu. Sở Kiều chưa từng nhìn thấy Lý Sách tệ như vậy, mặt tái nhợt, hốc mắt xanh đen, môi trắng không còn chút máu. Hắn đang nhìn nàng chằm chằm, ánh mắt như có hơi thất thần.

Lúc Sở Kiều bắt đầu kinh hoảng thì Lý Sách lại đột nhiên nở một nụ cười cổ quái, nói giọng hơi khàn nhưng giọng điệu vẫn hết sức thản nhiên: "Dọa chết mọi người rồi."

Năm tháng như vừa đảo ngược, hai người như chợt nhớ đến ngày mới gặp nhau, vị thái tử trẻ tuổi bị nàng túm xuống đấm cho mấy quyền đến sưng mặt sưng mũi, nhưng hắn vẫn vừa miệng kêu ối oái, vừa cười cổ quái nhìn nàng, hệt như một tên lưu manh không tim không phổi vậy.

"Lý Sách..." Sở Kiều run giọng gọi, trước ngực hắn là một vết đâm thật sâu, chỉ lệch một tấc thì sẽ ngay tim, nàng hoảng hốt nhìn hắn, muốn đến cầm tay hắn rồi lại không dám, chỉ luôn miệng lẩm bẩm: "Không sao rồi, từ từ dưỡng lành vậy."

"Vốn..." Lý Sách nói giọng đứt quãng: "Vốn định mấy ngày nữa đích thân chuẩn bị hồi môn cho nàng, bây giờ đành phải cho tên Tôn Đệ kia được lợi rồi, không biết, không biết hắn có tham ô không nữa."

Sở Kiều miễn cưỡng mỉm cười, dịu dàng nói: "Yên tâm, ta sẽ đi trông chừng hắn."

"Ừ." Lý Sách dừng như đã không còn sức, chỉ nói mấy câu mà sắc mặt lại trắng thêm một phần.

Sở Kiều vội vàng nói: "Ngươi mau nghỉ ngơi, không nên nói nữa."

"Kiều Kiều, ở lại đây với ta đi."

"Được." Sở Kiều vội vàng gật đầu, "Ta không đi đâu hết, ở lại đây với ngươi."

Lý Sách từ từ lịm đi. Qua mấy lần thái y vào đổi thuốc, Sở Kiều tận mắt nhìn thấy vết thương kia thì càng thêm nghi ngờ, có điều bây giờ không phải là lúc xử lý chuyện này.

Ba ngày sau, thương thế của Lý Sách có chuyển biến tốt đẹp, sắc mặt cũng khá hơn trước nhiều.

Lúc sáng Sở Kiều đang ngồi trong điện quạt cho Lý Sách thì chợt nghe bên ngoài truyền vào một trận xôn xao. Nàng cau mày nhìn ra, Thu Tuệ vội vàng chạy vào nhỏ giọng nói bên tai nàng: "Thái hậu hồi cung rồi."

Sở Kiều cả kinh, vội vàng đi ra ngoài. Nàng còn chưa ra khỏi cửa điện Nghĩa Tâm thì phượng giá của thái hậu đã rồng rắn tiến vào. Nàng thỉnh an thái hậu rồi theo kiệu trở lại trong điện. Thị nữ vén màn lên, thái hậu mặc y phục màu xanh mộc mạc. Sở Kiều ngẩng đầu lên, nhìn thấy thái hậu thì không khỏi kinh ngạc trong lòng, chỉ mới mấy năm không gặp nhưng thái hậu lại như biến thành người khác, trở nên già nua đến không còn hình dáng, tóc bạc trắng, mặt đầy nếp nhăn, hốc mắt lõm sâu, đỏ ửng.

Thái hậu vừa xuống kiệu liền lập tức rơi lệ, bi thương hỏi: "Sách Nhi của ta đâu? Sách Nhi của ta thế nào rồi?"

"Khởi bẩm thái hậu, hoàng thượng đã không có gì đáng ngại, chỉ cần phải tĩnh dưỡng."

Thái hậu vừa khóc vừa mắng: "Đám nô tài các ngươi rốt cuộc hầu hạ thế nào hả? Nếu hoàng đế có chuyện thì ta sẽ cho tất cả các ngươi chôn cùng!" Dứt lời liền đi vào điện Nghĩa Tâm.

Chúng cung nhân đều bị dọa đến sợ hãi quỳ rạp xuống trên mặt đất, không dám ngẩng đầu lên. Không ai dám cản đường thái hậu, Sở Kiều đi theo sau lưng bà đi vào trong điện. Lý Sách vẫn còn đang ngủ, thái hậu nhìn thấy hắn liền rơi lệ lã chã, run rẩy tiến lên như muốn sờ mặt hắn.

Một cung nữ bên cạnh thái hậu đi đến trước mặt Sở Kiều, cau mày hỏi: "Ngươi là ai? Sao lại ở đây? Thái hậu đến thăm hoàng thượng, người không phận sự mau lui ra."

Mai Hương cau mày, vừa định lên tiếng thì Sở Kiều đã kéo tay áo nàng, gật đầu nói: "Đã rõ." Dứt lời liền dẫn mấy người Mai Hương lui ra khỏi điện Nghĩa Tâm.

"Tiểu thư? Là hoàng thượng bảo người ở lại bên cạnh mà."

Sở Kiều thở dài, nói: "Mẫu thân người ta trở lại, chúng ta còn lý do gì tiếp tục ở lại chứ?"

Thu Tuệ ở bên cạnh đột nhiên lên tiếng: "Không ngờ thái hậu vẫn còn đau lòng cho hoàng thượng."

Đúng lúc Tôn Đệ đi đến, nhìn thấy Sở Kiều thì hơi sững sờ, hỏi: "Sao không cô nương lại không ở trong điện Nghĩa Tâm?"

Mai Hương cướp lời: "Thái hậu trở lại liền đuổi tiểu thư chúng ta ra ngoài!"

"Thái hậu?" Tôn Đệ nghe nói thì kinh ngạc, lập tức xoay người đi về phía điện Nghĩa Tâm, trầm giọng nói: "Là ai đón thái hậu về? Tin tức hoàng thượng bị đâm không hề được truyền ra bên ngoài, làm sao thái hậu biết mà quay lại?"

Cùng lúc đó, trong điện Nghĩa Tâm đột nhiên truyền ra một tiếng thét chói tai, Tôn Đệ và Sở Kiều đồng thời sửng sốt, lập tức đẩy cửa điện cùng nhau xông vào.

Chỉ thấy thái hậu đang cầm một chủy thủ, mặt đầu máu, thần sắc thê lương, không còn chút bóng dáng của người phụ nữ hiền từ khi xưa. Bà đứng trước giường, mặt vặn vẹo tựa như ma quỷ, khàn giọng hét: "Giết ngươi! Ta phải giết ngươi báo thù cho Lạc Nhi!"

Trong đầu Sở Kiều chợt trống rỗng, tựa như vừa có gió tuyết phương bắc quét qua.  


Chương 175: Hải đường vẫn như xưa

Nắng sau giờ Ngọ rọi thẳng vào giữa đại điện, rực rỡ đến mức chói mắt. Bốn phía hỗn loạn thành đoàn, có người hô to, có người gào thét, có người hoảng hốt đi gọi thái y, thị vệ xông vào điện, mũi thương nhọn phản chiếu sàn điện bóng bẩy sáng loáng.

Sở Kiều đứng nguyên tại chỗ, hai mắt trừng to như không hề cảm nhận được ánh nắng chói chang. Mặt trời bên ngoài như đang phủ băng xuống trên người nàng, hàn khí lan tỏa, lạnh đến tận xương, tim đập dồn dập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cổ họng thắt nghẹn khiến hít thở không thông.

Toàn thân thái hậu nhuộm đỏ máu tươi, trên khuôn mặt tái nhợt hằn vẻ điên cuồng bệnh hoạn, ánh mắt dữ tợn. Bà ta bị thị vệ khống chế cũng không giãy giụa, chỉ lạnh lùng cất giọng nói chứa đầy hận ý: "Các ngươi đều là súc sinh đáng chết, ta đã giết hắn rồi, bây giờ đến lượt ngươi. Ta phải báo thù cho trượng phu và con trai ta."

Khoảnh khắc đó, Sở Kiều chợt bắt gặp ánh mắt của Lý Sách. Và đây là lần đầu tiên nàng thấy có thể xuyên qua ánh mắt đó nhìn thấu lòng hắn, không thong dong, không thâm thúy, không mơ hồ khó đoán như trong quá khứ. Khoảnh khắc đó, nàng rõ ràng thấy được mọi hỉ nộ ai lạc trong đôi mắt thăm thẳm như đầm sâu kia, thấy được mọi cảm xúc bị đè nén của hắn, cũng như vẻ thê lương như đồng tuyết hiu quạnh ngoài biên quan.

Lý Sách nằm đó, máu từ miệng vết thương ào ra như suối, nhuộm đỏ vạt áo xanh nhạt. Hắn lẳng lặng nhìn mẹ mình, đáy mắt không có sự sợ hãi, không có căm hận, chỉ có vẻ mệt mỏi cùng cực bao trùm trên khuôn mặt tuấn tú.

Ngoài cửa chợt nổi gió to, lay động màn lụa trong điện. Mặt đất loang đầy máu, vô số bóng người nhào đến, người cầm máu, người chữa trị, ngoài điện lại vang lên tiếng hét thất thanh của chúng hậu phi. Tất cả mọi chuyện trước mắt Sở Kiều đang diễn ra như một vở kịch câm, nàng không nhìn thấy gì, cũng không nghe được gì, chỉ ngơ ngác nhìn Lý Sách, chăm chú nhìn ánh mắt hắn, cảm nhận lạnh giá đang dần xâm chiếm lòng mình.

Nàng đột nhiên nhớ lại lần đi săn trên cao nguyên Bắc Yến rồi bất chợt bị kẹt giữa cơn bão tuyết ập đến đột ngột, một con sói cái bị đói lâu, khó khăn lắm mới bắt được một con nai con nên vô cùng khoái chí xé thịt ăn. Con của nó dò dẫm ở một bên, lặng lẽ đi đến cắn một miếng nhỏ. Sói cái lập tức nổi giận, vung móng vuốt tát sói con. Chú sói con bị cào liền chạy ra nấp sau gốc cây, sợ hãi nhìn mẹ kêu ư ử, không dám tiến lên nữa. Ánh mắt của nó ưu thương tựa như một đứa trẻ bị quẳng đi.

Có người đến kéo nàng nhưng nàng vẫn cố chấp không chịu đi, dưới chân như mọc rễ, làm thế nào cũng không nhấc bước được.

Sở Kiều đột nhiên sợ hãi, máu trong người như dần lạnh đi, khiến ngón tay không kiềm được khẽ run rẩy. Nàng không muốn ra ngoài, những vũng máu đỏ kia như muốn chọc thủng mắt nàng, nàng sợ ra ngoài rồi sẽ không thể đi vào nữa.

Càng lúc càng có nhiều người tiến đến lôi kéo nàng, ở bên tai nàng nói to cái gì đó, ống tay áo bằng lụa không chịu nổi sức kéo rách toạc. Sở Kiều đột nhiên hất tay tất cả mọi người xung quanh rồi chạy vào trong.

"Giữ nàng lại!" Có thị vệ thất thanh kêu lên, thêm rất nhiều người chạy về phía Sở Kiều.

"Buông nàng ra..." Một giọng nói trầm khàn đột nhiên vang lên, Lý Sách gắng gượng nhỏm dậy chỉ về phía Sở Kiều, trước ngực ướt đẫm máu tươi.

"Hoàng thượng! Xin đừng cử động!" Liên tiếp có tiếng kêu hoảng hốt vang lên.

Lý Sách nghiêng người ngã sang một bên, phun ra một búng máu tươi. Sở Kiều như vừa rơi xuống đầm băng, cảm giác rét lạnh từ sống lưng dần lan đến tứ chi. Cửa điện bị đóng lại ngăn ánh mặt trời bên ngoài. Trước khi cửa đóng lại hoàn toàn, nàng đứng cùng đám người bên ngoài, không thể nhìn thấy mặt Lý Sách nữa, chỉ thấy được một cánh tay buông thõng xuống chăn, cánh tay xanh đến rợn người, không chút huyết sắc.

Mặt trời dần lên đỉnh rồi lại dần lặn về phía tây, vầng trăng cong cong treo ngang ngọn cây, tỏa ánh sáng bàng bạc khắp khoảng đất trước điện Nghĩa Tâm. Đồng hồ cát đã đổi đầu không biết bao nhiêu lần, cát từ từ trút xuống, tựa như sinh mạng của thân thể dưới chăn kia, đang từ từ cạn dần.

Bên tai chợt nghe thấy tiếng khóc nghẹn ngào của một lão thái y tóc hoa râm, sau tấm màn lụa mờ ảo, bóng dáng mảnh mai của Sở Kiều chợt khuỵu xuống, trước khi mắt tối sầm đi, nàng chỉ có thể loáng thoáng nhìn thấy ánh nến đỏ chập chờn.

Lúc tỉnh lại thì xung quanh đã trở nên vô cùng tĩnh mịch, trong thoáng chốc Sở Kiều còn tưởng là mình đang nằm mơ, song nhìn thấy vẻ mặt nặng nề của Mai Hương thì tim nàng lại nhói đau, không kịp đi giầy đã vén chăn muốn nhảy khỏi giường.

"Sở cô nương?" Bên ngoài có tiếng gọi hối hả. Sở Kiều vội vàng chạy chân không ra ngoài, mặt tái nhợt không chút huyết sắc.

Tôn Đệ nhìn nàng, thần sắc vô cùng thê lương, hắn lẳng lặng cúi đầu, nhẹ giọng nói: "Hoàng thượng muốn gặp cô nương."

Điện Nghĩa Tâm yên tĩnh không một tiếng động, Sở Kiều xuyên qua từng tầng màn lụa đi thẳng đến trước long sàng của Lý Sách, mơ hồ cảm thấy hắn gần như đã hòa làm một với đại điện trống vắng này.

Nàng quỳ xuống bên giường, chậm rãi đưa ngón tay lạnh như băng ra chạm vào hắn, cảm nhận da thịt hắn còn lạnh hơn cả mình, tựa như cao nguyên Bắc Yến quanh năm tuyết rơi, sông băng ngàn năm không thay đổi vậy.

Nàng cất giọng rất nhẹ, tiếng nói quanh quẩn trong đại điện im ắng tựa cánh bướm, "Lý Sách, ta đến thăm ngươi đây."

Lông mi Lý Sách khẽ run run rồi nhấc lên, ánh mắt sâu thẳm lẳng lặng nhìn nàng, như mơ hồ ẩn chứa rất nhiều tâm tình. Hắn khó nhọc vươn tay ra vẫy vẫy nàng, mỉm cười gọi: "Kiều Kiều."

Nước mắt tràn mi, Sở Kiều nắm lấy tay Lý Sách. Chỉ mới mấy ngày mà hắn đã gầy đi nhiều như vậy, bàn tay đầy những xương là xương. Cảm giác chua xót dâng lên đến cổ khiến nàng nghẹn ngào không nói được tiếng nào, nước mắt lã chã rơi xuống trên mặt.

Mi tâm khẽ chau lại, Lý Sách giơ tay nhẹ nhàng lau nước mắt hai bên má lạnh như băng của nàng, mỉm cười nói: "Chớ khóc..."

"Đều tại ta." Nước mắt vẫn không ngừng rơi, Sở Kiều nấc lên: "Ta đã đáp ứng sẽ ở cạnh ngươi, ta vốn không nên ra ngoài."

Lý Sách chợt khẽ cười, nằm ngửa ra trên giường nhìn hoa văn rối rắm trên đỉnh đầu, vô số chữ vạn thọ vô cương bằng chỉ vàng được thêu khắp long sàng. Hắn bình thản nói, giọng không có hề có chút oán hận nào,"Sao có thể trách nàng, đó là mẫu hậu của ta, ai..."

Lý Sách đột nhiên thở hổn hển, giọng nói càng thêm yếu ớt. Sở Kiều kinh hoảng muốn bật dậy gọi thái y lại bị hắn kéo lại, lực tay mạnh đến mức không ngờ được là của một người đang bị trọng thương.

"Ai có thể ngờ được chứ?"

Đúng vậy, ai có thể ngờ được.

Gió đêm thổi qua tán cây kêu *xào xạc*. Xa xa văng vẳng tiếng nức nở của chúng hậu phi.

"Ta vốn... vốn muốn đích thân tiễn nàng xuất giá, nhưng bây giờ... e... e không thể rồi."

"Không được." Sở Kiều đột nhiên cố chấp nói to, đại điện trống rỗng khiến tiếng nàng trở nên văng vẳng, cố sức nắm chặt tay Lý Sách như đang muốn tranh đoạt hắn với ai đó, "Ngươi không được phép có chuyện gì!"

Lý Sách nhìn nàng, đột nhiên cười yếu ớt, nụ cười đó tựa như mũi dao đâm vào tim nàng. Sở Kiều kinh hoảng, nước mắt lại ào ra, chảy cả vào miệng, khổ sở lắp bắp: "Lý Sách, đừng đi, đừng đi có được không?"

Nàng hoảng hốt níu tay hắn, tựa như một đứa trẻ sắp bị bỏ rơi, "Ngươi đi rồi thì ta làm sao bây giờ? Ta xảy ra chuyện, ai sẽ tới giúp ta? Ta không có chỗ để đi, ai sẽ cho ta ăn chùa ở chùa?"

Đáy mắt Lý Sách hiện lên ý cười kỳ lạ, ra vẻ tức giận lầm bầm: "Thì ra nàng chỉ coi ta là chỗ tiếp tế miễn phí mà thôi."

Sở Kiều bất lực nhìn hắn, lòng đau như bị đục khoét.

Lý Sách cất giọng tĩnh lặng như mặt hồ, "Ta đã phái người báo cho Gia Cát Tứ, sẽ... sẽ có người đưa nàng đi gặp hắn. Nàng... nàng hãy ngoan ngoãn đi với hắn đi."

Sở Kiều cắn môi dưới, Lý Sách vẫn tiếp tục nói, giọng đứt quãng, "Sau... này đừng cậy mạnh nữa, cũng... chớ giở tính ương bướng như trẻ con nữa."

Màn đêm tịch mịch lạnh lẽo như đầm nước, Lý Sách nhíu chặt mi tâm, như ngọn lửa bị gió kinh động, hai mắt chợt không nhìn rõ nữa, gượng nhìn Sở Kiều, nói: "Kiều Kiều, đỡ ta dậy."

Sở Kiều hoảng hốt, lập tức lắc đầu lia lịa, nhưng lời còn chưa ra khỏi miệng thì ánh mắt cố chấp và kiên định của Lý Sách khiến nàng đành đau lòng cẩn thận đỡ hắn đến ngồi xuống trên chiếc ghế cạnh cửa sổ. Lý Sách mặc trường bào đỏ thẫm, vạt áo thêu hình rồng uy vũ, dáng vẻ hệt như lúc họ gặp nhau lần đầu.

"Kiều Kiều, tóc ta bị rối rồi."

Sở Kiều 'ừ' một tiếng rồi cầm lược chải tóc cho hắn, răng lược bằng bạch ngọc luồn vào mái tóc đen như mực, lướt qua thái dương trắng bệch, một lần rồi lại một lần, tựa như đang đếm những năm tháng bọn họ đã quen biết nhau. Tay nàng càng lúc càng run rẩy nhưng hắn vẫn như không biết, chưa hề quay đầu lại.

Chải tóc xong, Lý Sách nghiêng mặt qua, ha ha cười hỏi: "Thấy sao hả?"

Ánh mắt sâu thăm thẳm, ánh trăng xuyên qua cửa sổ rọi lên mặt khiến thần sắc hắn trở nên mơ hồ. Hắn vẫn tuấn lãng như cũ, mắt phượng hẹp dài, sống mũi cao thẳng, ngũ quan như ngọc ẩn chứa khí tức vương giả. Chẳng qua tử khí nơi mi tâm đang dần lan rộng, sắc mặt đã trắng bệch tựa như bạch ngọc.

Sở Kiều miễn cưỡng gật đầu, cười nói: "Đẹp trai điên đảo."

Lý Sách nhướng mày, hỏi: "Đang khen ta đó à?"

Thấy Sở Kiều gật đầu hắn mới vui vẻ cười.

"Lý Sách." Sở Kiều cố nén bi thương trong lòng, khẽ hỏi: "Ngươi còn tâm nguyện gì không?"

"Tâm nguyện?" Lý Sách chau mày như có điều suy nghĩ, nhưng hồi lâu lại khẽ cười, "Không có."

Hô hấp chợt trở nên hơi dồn dập, Lý Sách vươn tay về phía nàng, nhẹ giọng nói: "Kiều Kiều, để ta ôm nàng một cái."

Gió bên ngoài đột nhiên trở lớn đẩy cửa sổ mở rộng, ánh trăng tràn vào khiến sàn điện lấp lánh tựa tuyết. Gió như phảng phất hương sen từ hồ Thái Thanh ở xa xa, trước ngực Sở Kiều như bị nghẹn ứ, đau đớn một cách dữ dội. Nàng quỳ trên mặt đất, nửa người lọt thỏm trong lòng Lý Sách, nước mắt rơi *lộp bộp* thấm xuống áo hắn.

Hơi thở trên đỉnh đầu nhẹ dần rồi mất hẳn, ánh trăng vẫn bao phủ hai người bọn họ. Thấp thoáng tựa như trở lại rất nhiều năm trước, nam tử tà mị áo đỏ rực, tóc đen nhánh từ trên trời giáng xuống trên lưng ngựa của nàng, hà hơi nói vào tai nàng: "Còn chưa chịu dừng lại sao?"

Năm tháng trôi qua như một giấc mộng, phồn hoa tan đi, còn sót lại chỉ có cảm xúc chua xót nhợt nhạt.

Ánh mắt Sở Kiều trống rỗng, lạnh lẽo vô hồn, nàng gượng đứng dậy quay đầu nhìn lại. Lý Sách vẫn lẳng lặng ngồi trên ghế, đầu hơi nghiêng, tựa như chỉ đang thiếp đi.

Vẻ rực rỡ hào nhoáng trong trí nhớ dần mờ đi, hắn hiện tại lại cô độc nhường này, như đang lặng lẽ hòa làm một với màn đêm.

Cửa cung đột ngột bị đẩy ra khiến ánh trăng tràn vào khắp đại điện, ngoài cửa quỳ chi chít hậu phi, trọng thần và cung nhân.

Tôn Đệ nhìn nàng, ánh mắt như đang run rẩy dò hỏi.

Sở Kiều thất thần nhìn Tôn Đệ, toàn thân như chết lặng, cuối cùng vẫn chậm rãi gật đầu.

"Hoàng thượng băng hà ~~!!" Tiếng gào khóc thê thiết đồng thời bật ra, vang vọng tận trời cao. Trên dưới hậu cung đều là tiếng nức nở bi thương, chuông tang vang lên đánh tan sương mù đêm khuya.

Sở Kiều ngước mặt lên trời, gió lạnh thổi lên người nàng, trên tầng trời bao la, nàng như thấy được một khuôn mặt, mũi cao môi mỏng, đuôi mắt dài khẽ nhướng, giảo hoạt như một con hồ ly đang cười...

Một cung nhân hối hả băng qua hành lang chạy đến trước mặt Tôn Đệ nhỏ giọng báo cáo. Bọn họ đứng ở xa nên tiếng nói đều bị gió đánh tan, nhưng có mấy lời đủ ý vẫn rơi vào trong tai Sở Kiều, "Chuông tang vừa vang lên... đụng đầu vào cạnh bàn... máu bắn đầy sàn... đã đứt hơi... dù sao cũng là thái hậu..."

Năm tháng tựa sương tuyết, máu tanh và nước mắt lại một lần nữa đổ xuống chốn thâm cung đã chôn vùi không biết bao nhiêu sinh mạng này.

.....................................................................................................................

Cảnh vật Đường Kinh vẫn tươi đẹp như xưa, gió nhẹ mang theo hương sen tươi mát từ mặt hồ thổi đến, hàng liễu hai bên đường lay động, uyển chuyển như chiếc eo thon mềm mại của vũ cơ.

Hoàng hôn, đàn chim mệt mỏi bay về tổ sau một ngày kiếm ăn, ráng chiều đỏ như máu nhuộm hồng chân trời bao la.

Biện Đường có quốc tang nên tất cả mọi người đều mặc y phục đơn sắc tím, ngay cả đèn lồng treo trên đường cũng được bao lại bằng vải trắng. Khắp mọi ngõ phố đều bị bao trùm bởi không khí tiêu điều. Sắc trời dần thẫm lại, vầng trăng tròn trịa dần trồi lên ngang ngọn cây, tỏa ánh sáng vằng vặc.

Hôm nay là lễ Bạch Nguyệt, đã một tháng kể từ khi Lý Sách qua đời.

Gia Cát Nguyệt đã nhiều lần phái thuộc hạ đến đón nhưng Sở Kiều vẫn cố chấp ở lại, trong đầu vẫn còn canh cánh một ý niệm khiến nàng không cách nào rời đi. Nửa đêm giật mình tỉnh giấc, hai thái dương luôn đầm đìa mồ hôi lạnh. Lý Sách không còn nên tất cả tiếng đàn sáo ca múa trong cung cũng bặt tăm. Cung Kim Ngô rộng lớn thoáng chốc trở nên tĩnh mịch đến đáng sợ, thậm chí đi trên hành lang cũng có thể nghe được tiếng tim mình đập thình thịch. Mỗi giây phút trôi qua đều như đang nhắc nhở nàng, có một số chuyện nàng vẫn chưa làm.

Nàng và Lý Sách từng đi qua con đường này.

Đêm đó nàng vừa hôn mê tỉnh lại, Lý Sách giống như đứa trẻ dắt tay nàng chạy lung tung trong hoàng cung, xuyên qua cửa cung Cửu Trọng, xuyên qua hoa viên Lâm Lang, xuyên qua ngọn giả sơn bằng đá trắng rồi ra khỏi cửa cung. Hai người cưỡi cùng một con ngựa, Lý Sách ngồi phía trước hớn hở chỉ đường, thỉnh thoảng còn quay lại cười nhạo bọn thị vệ đang nóng ruột như kiến bò trên chảo lửa.

Chớp mắt trôi qua, cảnh còn người mất, mọi thứ như đã đổi khác, không còn sót lại chút gì.

Phố xá hôm nay không còn tấp nập như ngày đó, chỉ có mấy cửa tiệm còn mở cửa nhưng cũng rất vắng vẻ. Đang có quốc tang nên tất cả mọi lễ lạc đều bị hủy bỏ, người dân cũng ở nhà không ra ngoài. Không có khách đi đường nên chúng tiểu thương cũng không bày hàng. Con phố vốn chật chội chợt trở nên rộng rãi dị thường, thỉnh thoảng có lá khô bị gió thổi bay tán loạn, cuốn vào vạt áo nàng.

Sở Kiều đi một lúc lâu thì đến nơi có tiệm ăn nhỏ lần trước. Không ngờ bọn họ vẫn còn mở cửa, chỉ là không có khách nào. Chủ quán đang ngồi gật gà trên ghế nhìn thấy nàng đi vào thì nhất thời sửng sốt, nhảy dựng dậy, cẩn thận nhìn nàng mấy lần mới lăng xăng kéo ghế mời nàng ngồi xuống.

Cô chủ hàng vẫn vậy, thời gian dường như không hề lưu lại dấu vết trên mặt nàng, vẫn khí chất thanh tĩnh trong trẻo như xưa. Cô chủ đi đến trước mặt Sở Kiều, ánh mắt không có tiêu cự hướng về phía nàng, cười nói: "Cô nương đã rất lâu không đến rồi."

Sở Kiều thoáng sững sờ, hỏi lại: "Cô còn nhớ ta?"

"Là tướng công nhận ra, cất công chạy đến nói ta biết." Cô chủ hàng hồn nhiên cười, chỉ vào trượng phu đang đứng sau lưng nàng. Nam tử đỏ mặt cười ngượng ngùng, lộ ra hàm răng đều trắng noãn.

"Đại công tử đâu? Cũng mấy tháng không thấy ngài ấy đến rồi." Cô chủ hàng đột nhiên hỏi, hai mắt cong cong tựa như trăng lưỡi liềm. Đầu phố chợt nổi gió khiến tấm màn chắn trước tiệm bị hất lên, nam tử kia vội vàng tiến lên một bước chắn gió cát cho vợ, động tác vô cùng tự nhiên.

Sở Kiều nhìn mà thoáng ngây người, lại chợt nghe cô chủ gọi: "Cô nương? Cô nương?"

Sở Kiều hồi tỉnh, nhẹ nhàng nở một nụ cười, đáp lời: "Hắn đã rời nhà đi xa rồi."

"Ra vậy." Cô chủ hàng gật đầu hỏi tiếp: "Thế bao giờ mới trở lại?"

Lá rụng chất thành đống, gió thu lại quét ngang sân, lòng Sở Kiều lạnh đi từng chút một, sắc mặt càng lúc càng trắng, cổ họng cũng nghèn nghẹn mấy phần. Nàng suy nghĩ một chút rồi mới nhẹ giọng nói: "Hắn đi lần này chắc sẽ không trở về nữa."

Cô chủ hàng không nhìn thấy vẻ mặt của Sở Kiều, định hỏi tiếp thì lại bị trượng phu kéo kéo tay. Nàng nhất thời hiểu ra, liền xoay người rời đi, chốc lát sau bưng đến một bát mì nóng hổi, còn có một đĩa thịt bò, nửa đĩa sủi cảo tôm, từ xa đã ngửi được mùi giấm kích thích dịch vị.

Sở Kiều cầm đũa lên, lấy khăn lau qua rồi bắt đầu ăn từng đũa một.

Mì sợi nóng hổi, trên mặt có rắc dầu mè và hành xắt nhỏ, rất thơm. Sở Kiều ăn rất chậm, nàng đã lâu không ăn ngon miệng như vậy, dịch chua trong dạ dày theo phản ứng không ngừng tiết ra.

"Sủi cảo tôm sắp nguội rồi." Bên cạnh đột nhiên vang lên một giọng nói trong trẻo, Sở Kiều quay đầu lại thì thấy là từ một cô bé khoảng hơn mười tuổi, dung mạo nhìn rất quen. Nàng ngẩng lên nhìn thoáng qua cô chủ hàng bên kia, nhất thời nhớ ra cô bé này, thử gọi: "Thiến Nhi?"

Cô bé hơi cau mày, thành thật hỏi: "Tỷ tỷ biết ta?"

Sở Kiều mỉm cười, không nói gì. Cô bé kia ngoan ngoãn ngồi lên ghế, hỏi: "Tỷ tỷ trước kia từng tới nhà ta ăn cơm?"

"Ừ." Sở Kiều gật đầu.

Cô bé kia lại hỏi: "Tỷ tỷ kể chuyện xưa cho ta nghe được không?"

Sở Kiều không khỏi phì cười, đưa tay vuốt tóc cô bé, nói: "Em vẫn thích nghe chuyện xưa như vậy nhỉ."

"Vậy để ta kể cho tỷ tỷ nghe nhé?"

"Ta từng nghe chuyện xưa của em rồi."

"Là chuyện xưa mới." Cô bé mân mê đầu ngón tay, nói: "Ta mới vừa học được từ mấy tháng trước thôi."

Sở Kiều đành bất đắc dĩ gật đầu, "Vậy em kể nghe thử xem nào."

Cô bé lại móc từ trong áo ra hai tượng đất nhỏ, có điều lần này tượng được nặn hết sức tỉ mỉ, mặt mũi cũng thành hình, có sắc thái rõ ràng, nhìn rất sống động, coi ra cũng không hề kém tay nghề của nghệ nhân trong cung. Cô bé cầm một tượng đất lên, trịnh trọng nói: "Đây là đại hoàng đế."

Lời mở đầu y vậy, chẳng qua đại hoàng đế đã thay hình đổi dạng, thân mặt bộ y phục nhỏ xíu bằng lụa vàng, kim quan buộc tóc, ngũ quan tuấn tú như người thật.

Cô bé cầm tượng đất mặc y phục vải bông trắng còn lại lên, nói: "Đây là tiểu cô nương."

Cô bé đều giọng kể: "Có một lần, đại hoàng đế đi sứ nước khác gặp được tiểu cô nương này. Tiểu cô nương biết võ công, hung hăng đánh đại hoàng đế bầm người. Đại hoàng đế rất tức giận, vốn muốn chỉnh sửa nàng một trận cho hả giận, nhưng về sau xảy ra một chuyện khiến đại hoàng đế chuyển sang thích nàng."

Mấy năm không gặp, tài kể chuyện của cô bé rõ ràng nâng cao khá nhiều, cô bé ngẩng lên cười hỏi Sở Kiều:"Tỷ tỷ có muốn biết là chuyện gì không?"

Sở Kiều siết đôi đũa cầm trong tay, đầu ngón tay lạnh như băng, thẫn thờ gật đầu.

Cô bé đắc ý nói tiếp: "Có một lần bọn họ gặp phải người xấu, tiểu cô nương lương thiện hết lần này đến lần khác cứu giúp đại hoàng đế. Đại hoàng đế nghĩ nghĩ, tiểu cô nương này thật nghĩa hiệp, muốn lấy nàng về nhà cùng nhau vui vẻ sống ghê."

"Đáng tiếc, tiểu cô nương không thích đại hoàng đế mà thích một người khác. Sau đó nàng đi theo người kia." Cô bé móc ra một tượng đất khác, vẫn là cái tượng đất cô bé dùng khi xưa, rách tơi rách tả, ngay cả miếng vải giắt ngang hông cũng mất tiêu, để tồng ngồng như vậy, tượng đất này cầm mộc côn, bộ dạng ngu ngốc khỏi phải nói.

"Nhưng người kia không những bá đạo, xấu, nghèo lại còn thích ức hiếp kẻ khác, nói thế nào cũng không phải người tốt. Về sau tiểu cô nương tỉnh ngộ, nhanh chóng rời khỏi người kia."

Cô bé lại móc ra thêm một tượng đất nữa, vẫn là cái tượng giống Harry Potter cưỡi chổi lúc trước, "Tiểu cô nương chuyển sang thích người này, nhưng người này cũng không ổn, kiêu ngạo, hay tự cho mình là đúng, ỷ thế hiếp người, còn rất rất rất xấu. Nói nhỏ cho tỷ biết nhé, dựa vào quan hệ mật thiết giữa hắn với hoàng tử nước hắn, hình như hắn còn bị bệnh đồng tính nữa, nói sao cũng chỉ là một đồ điên."

Cô bé thở dài một hơi, cảm thán: "Cuối cùng tiểu cô nương lớn lên thành đại cô nương, rốt cuộc nhận ra sai lầm của bản thân, cho nên dứt khoát bỏ rơi người này, trở lại tìm đại hoàng đế. Đại hoàng đế không những tuấn tú mà còn có tiền, phong độ, lương thiện lại yêu ai thì yêu hết mình. Đại cô nương hối hận, khóc lóc nói muốn gả cho đại hoàng đế, ngày ngày chầu chực trước cửa nhà đại hoàng đế, sống chết muốn làm vợ người ta. Cuối cùng đại hoàng đế vì thương hại nên mới đồng ý cưới nàng."

Cô bé cất hai tượng đất khác vào túi, trên bàn chỉ còn lại hai tượng đất được chế tác hoàn mỹ, tít mắt cười nói: "Không lâu sau, hai người thành hôn, vui vẻ sống cùng nhau, sinh được rất nhiều con cái, con trai tuấn tú như đại hoàng đế, còn gái cũng xinh đẹp giống đại hoàng đế. Bọn họ rất hạnh phúc, mãi đến khi tóc bạc trắng, răng rụng sạch, thần tiên trên trời biết chuyện liền cho bọn họ thành tiên, để bọn họ đời đời kiếp kiếp ở cùng nhau, vĩnh viễn không xa rời."

Cảm xúc bi thương ùa lên đại não, vành mắt cay xè, Sở Kiều lên tiếng hỏi, giọng khàn khàn tựa như không phải của mình, "Chuyện xưa này là ai kể em nghe thế?"

"Là đại công tử thường đến nhà ta ăn mì kể, thế nào, tỷ thấy hay không?"

Trời đột nhiên nổi gió, Sở Kiều lấy ống tay áo che mặt, nhẹ quay đầu đi. Cô bé quan tâm hỏi: "Tỷ tỷ bị bụi vào mắt à?"

Sở Kiều không lên tiếng nên cô bé cho rằng nàng thật sự bị bụi vào mắt, vội vàng nói: "Tỷ chờ một chút, ta đi lấy dầu cải cho tỷ bôi đỡ xót." Dứt lời liền lập tức nhảy xuống ghế chạy vào trong.

Lúc cô bé quay lại thì chỗ ngồi đã không còn ai, trên bàn có một túi vàng nặng trịch.

.....................................................................................................................

Đường phố vắng vẻ không một bóng người, không có biểu diễn tạp kỹ, không có người bán dạo, không có ca múa. Mặt hồ lặng yên như tờ, cũng không thấy bóng dáng thuyền hoa qua lại. Con đường trống trải chỉ có mình Sở Kiều đang thất thần bước đi.

Đi ngang qua một cửa hàng bán kẹo, Sở Kiều khựng lại một thoáng rồi đi vào mua rất nhiều đồ ăn vặt, đều là những món Lý Sách từng mua cho nàng, có kẹo mạch nha, táo tàu, bánh hoa quế, hạt dẻ, đựng đầy một túi.

Nàng vừa đi vừa ăn, từ từ hồi tưởng lại câu chuyện cô bé kia vừa kể, liên tục rơi lệ, nước mắt chảy vào miệng bị nàng nuốt xuống toàn bộ cùng với mấy món đồ ngọt mà mùi vị vừa mặn vừa chát vẫn nổi bật.

Từng mảnh vụn ký ức như quanh quẩn trong đầu...

"Vậy nàng phải làm sao đền đáp cho thỏa đáng, ân cứu mạng không thể qua loa đáp trả là xong. Bằng không thì đừng đi nữa, ở lại Biện Đường lấy thân báo đáp đi." Hắn từng đứng trước mặt nàng, cười cười nói ra những lời này.

Nàng bị Triệu Dương vây hãm, hắn khoác khôi giáp, phi ngựa ngày đêm chạy đến cứu nguy, cau mày ôm nàng vào trong lòng, nhẹ giọng lặp đi lặp lại: "Không sao rồi, không có chuyện gì nữa rồi..."

Thời điểm nàng nản lòng thoái chí, hắn mang giỏ lựu chạy đến an ủi nàng: "Kiều Kiều, vì sao không tự tha cho bản thân một con đường?"

Thâm cung lạnh lẽo, hắn say rượu tìm đến, ôm chầm lấy nàng trong lúc ý loạn tình mê, nhưng cuối cùng lại khẽ cười trêu nàng: "Vóc người của Phù Nhi hấp dẫn hơn nàng nhiều."

Đến giờ Sở Kiều vẫn không rõ, đáy lòng tựa như có cấm kỵ nào đó không thể chạm vào, nàng không biết mình thật sự chẳng hề cảm giác được, hay chỉ luôn lừa mình dối người mà thôi.

Vầng trăng trải ánh bạc xuống khắp mặt đường, hàng hải đường nở đỏ thẫm ven đường vẫn diễm lệ như xưa, gió thổi qua khiến cánh hoa rơi lả tả xuống trên mặt và y phục Sở Kiều.

Trong khoảng sân tràn ngập ánh nắng của Mật Hà cư, hai người sóng vai ngồi dưới gốc hải đường vừa được mang về cung, nàng nhăn mặt nhìn Lý Sách đang hăng hái xem xét hình các tú nữ vừa được chọn, thắc mắc:"Lý hồ ly, ngươi có từng thích ai không vậy?"

"Dĩ nhiên là có!" Lý Sách nhướng mày, hết sức thành thật nói: "Tối qua ta rất thích Vũ Nhi ở cung Nhiễm Ly, da dẻ nàng mịn như lụa vậy, nhất là đôi chân thon dài kia, có thể so với..."

"Nín giùm đi!" Sở Kiều lập tức ngắt lời hắn: "Không phải loại 'thích' đó, ý ta là giống, giống như..."

Lý Sách liếc nhìn nàng, thực khinh thường nói: "Định nói là giống như đồ khốn Gia Cát Tứ kia thích nàng à?"

Sở Kiều đỏ mặt, sẵn giọng nói: "Phải thì sao?"

"Thì thôi chứ sao!" Lý Sách khẽ hừ rồi cúi đầu tiếp tục nhìn hình tú nữ, một lúc sau, hắn lại đột nhiên 'ừ' một tiếng.

Sở Kiều sửng sốt, hỏi lại: "Ngươi 'ừ' cái gì?"

Lý Sách mất kiên nhẫn nói: "Chẳng phải nàng hỏi ta có từng thích ai giống như Gia Cát Tứ thích nàng sao? Ta mới trả lời rồi đấy."

"Hả? Người từng thích người nào đó à, sao ta không biết?"

Lý Sách ngửa mặt lên trời cười ha hả, "Tâm tư bổn hoàng đế há có thể dễ dàng bị nàng nhìn thấu như vậy? Bằng không thì mặt mũi của bổn hoàng đế biết ném đi đâu bây giờ?"

Sở Kiều tò mò hỏi tiếp: "Vậy người ngươi thích là người thế nào thế?"

"Chẳng ra sao cả." Lý Sách nói giọng cà rỡn, "Vóc dáng bình thường, tính tình cũng chẳng tốt, lại còn thích để tâm vào chuyện vụn vặt không đáng kể. Nhưng quan trọng nhất là trong lòng nàng có người khác rồi, không để ý đến ta."

"Hả?" Sở Kiều thoáng sững sờ, theo bản năng hỏi tiếp: "Vậy sao ngươi không nói với nàng?"

Lý Sách ung dung cười nói: "Ta thích ai thì muốn để trong lòng, nói ra làm gì? Huống chi..." Nói đến đây, giọng điệu của hắn chợt chậm lại. Gió từ hồ Thái Thanh thổi qua thái dương, hắn ngẩng lên nhìn ra mặt hồ xa xa, ánh mắt thoáng trở nên mông lung, "Huống chi có lẽ cả đời này của ta sẽ chẳng có cơ hội nói với nàng đâu."

Sau khi nghe nói xong, Sở Kiều lẳng lặng nhìn hắn, tựa như xuyên qua ánh mắt mông lung kia nhìn ra rất xa. Khi đó, người đầu tiên nàng nghĩ đến chính là Phù công chúa Mộ Dung Phù đã treo cổ trên cây ngô đồng, vì Lạc vương mà tự vẫn ngay trong ngày cưới với Lý Sách.

Lúc ấy, nàng không khỏi cảm thấy thương hại hắn, nghĩ thầm: Nếu không có sự kiện kia, có lẽ hắn đã không trở thành người tùy tiện như hiện giờ.

Còn bây giờ...

Khóe mắt lại có chất lỏng nóng hổi chảy xuống trên mặt, gió thổi lên người lạnh đến tận xương, hoa hải đường đỏ au rụng xuống khỏi cành, cánh hoa bị gió cuốn lên cao, bay lả tả như một trận mưa hồng.



Chương 176: Đại Đường phồn vinh

Màn lụa trong cung đều được thay bằng màu trắng, hoàng đế và thái hậu băng hà trong cùng một đêm, chuông tang vang vọng khắp hoàng cung liên tiếp bảy bảy bốn mươi chín ngày, cả nước khóc tang.

Ngày linh cữu của Lý Sách được đưa đến chôn ở hoàng lăng cũng là ngày Sở Kiều chuyển ra khỏi cung Kim Ngô. Hôm đó là một buổi chiều mùa thu tĩnh lặng, bầu trời cao rộng mênh mông. Nàng mặc y phục bằng lụa trắng, đứng trên cổng Tây Lan, từ trên cao đưa mắt nhìn đội ngũ đưa tang kéo thành hàng dài quanh co dần dần biến mất sau khúc quanh trên sườn núi.

Nắng chiều nhuộm vàng mặt đất, trường ngựa trên hoang nguyên bên ngoài Đường Kinh mọc đầy cỏ dại, lay động rào rạc theo gió tựa như từng đợt sóng biển vàng óng dập dìu. Ánh hoàng hôn giăng kín bốn phía, chim tước bay về phía nam, chân trời đỏ rực như lửa, Sở Kiều đứng ngược nắng, bóng đổ thật dài xuống trên cổng thành đã sừng sững đứng đó suốt mấy trăm năm của Đường Kinh.

Lý Sách, thứ lỗi cho ta không thể đưa tiễn, chuyến này đi xa như vậy, mong ngươi thượng lộ bình an.

Mặt trời dần dần xuống núi được trăng tròn leo lên đỉnh núi thế chỗ, ánh trăng thanh lãnh vẩy lên vạt áo cùng gò má tái nhợt của Sở Kiều, mông lung như sương tuyết. Hơi lạnh đêm thu khiến hốc mũi buốt buốt khi hít thở, cảm giác chua xót dần lấp đầy trước ngực nàng rồi từ từ lan ra toàn thân, trong lòng như có bão tuyết mịt mù càn quét.

Mai Hương tiến lên, nhỏ giọng nói: "Tiểu thư, chúng ta đi thôi."

Sở Kiều nhìn ra sơn đạo thêm một lần cuối rồi xoay người sang hướng khác, hoàng cung nguy nga đứng sừng sững trước mắt tựa như mãnh thú trấn giữ một cõi, đang há to cái miệng khổng lồ đỏ lòm, chuẩn bị cắn nuốt chút tự do còn sót lại của nàng.

Bụi đất nhẹ nhàng tung lên theo từng bước chân, trên không trung có bóng chim sải rộng đôi cánh bay ngang, Sở Kiều đi từng bước xuống khỏi đài cao, biết rõ bản thân đang bước vào một vũng bùn sâu không thấy đáy nhưng vẫn vô cùng quả quyết. Sau lưng nàng là hoang nguyên rộng bát ngát, xa hơn nữa là núi non trùng điệp và thành trì phồn hoa nối tiếp nhau, sau đó nữa chính là biên quan rồi đến lãnh thổ Đại Hạ.

Sông núi vạn dặm, giang sơn gấm vóc, nàng cuối cùng vẫn không thoát khỏi ràng buộc của thế sự, cuối cùng vẫn như phù du buộc phải trôi theo dòng nước.

Một chiếc xe ngựa im lìm đậu dưới cổng thành, Tôn Đệ kính cẩn đứng bên cạnh, nhìn thấy nàng đi đến thì nhỏ giọng nói: "Cô nương, xin mời lên xe."

"Ta muốn tự mình đi." Sở Kiều lặng lẽ nói, sắc mặt vô cùng bình tĩnh, không còn chút dao động buồn bã nào.

Mai Hương vừa định lên tiếng thì Tôn Đệ đã đưa đèn lồng cầm trong tay cho nàng, trầm giọng nói: "Ban đêm đường khó đi, cô nương nhớ về sớm."

Chiếc đèn cung đình được chế tác từ loại giấy thượng hạng tỏa ra ánh sáng nhàn nhạt, Sở Kiều nhẹ gật đầu, cầm lấy đèn rồi xoay người rời đi. Mai Hương nóng ruột muốn theo sau lại bị kéo lại, Tôn Đệ khẽ lắc đầu tỏ ý ngăn nàng. Vầng trăng trên cao lặng lẽ vẩy ánh sáng lên người cô gái đang dần đi xa, khiến thân thể nàng tựa như bị bao phủ bởi một tầng sương khói, thấp thoáng hòa làm một với bóng đêm.

Hôm nay là ngày linh cữu của Lý Sách được đưa đến nơi an táng, trên đường không một bóng người, chỉ có hàng hải đường đung đưa trong gió, thi thoảng rải mưa cánh hoa xuống trên mặt đất.

"Kiều Kiều, Kiều Kiều..."

Nàng mơ hồ lại nghe thấy có tiếng nói liên tiếp gọi mình, đôi mắt giảo hoạt như hồ ly của nam tử đang hướng về phía này, tươi cười nhìn nàng.

Như mặt gương xuất hiện bóng mờ, sương mù dần bao phủ lên khuôn mặt tái nhợt của nam tử, tại khoảnh khắc cuối cùng, hắn dựa vào lưng ghế, môi nở nụ cười yếu ớt, nhẹ nhàng dang tay ra gọi nàng: "Kiều Kiều, để ta ôm nàng một cái."

Một giọt nước mắt lăn dài trên má, nàng cũng không lau đi, chỉ lẳng lặng tiếp tục cất bước. Chiếc đèn trên tay tỏa ra ánh sáng trắng mờ mờ, trông như vầng trăng ở trên cao.

Mười năm sinh tử, nửa đời chìm trong sóng gió, nàng tựa như khóm lục bình nhấp nhô giữa con sóng, hôm nay cuối cùng vẫn bị đẩy đến con đường cùng. Sau khi mọi đau khổ, ràng buộc, bất đắc dĩ, chấp niệm và cay đắng trong quá khứ qua đi, bây giờ nàng vẫn phải tiếp tục chiến đấu với vận mệnh mình.

Một giọt nước mắt rơi vào đèn, cùng lúc đó lại có một trận gió thổi qua khiến đèn lồng tắt ngấm, chỉ còn khói nhạt lượn lờ trên tim đèn.

Sở Kiều hít sâu một hơi, ném chiếc đèn lồng xuống đất, thẳng lưng lên rồi tiếp tục đi về phía trước.

Nàng thề đây chính là giọt nước mắt cuối cùng của đời mình, từ nay về sau, cho dù chảy cạn giọt máu cuối cùng trong người, nàng cũng sẽ không bao giờ bất lực rơi lệ như vậy nữa.

Trước mắt đột nhiên sáng rỡ, từ xa nhìn lại, thì ra là một tòa phủ đệ tráng lệ đèn đuốc sáng trưng, nổi bần bật cả một khu.

Tôn Đệ mặc thường phục đứng trước cửa, lặng lẽ cầm đèn chờ nàng trở về, "Cô nương đã nghĩ thông rồi?"

Sở Kiều nhìn hắn, ánh trăng bạc rải đầy trên mặt đất, nàng lẳng lặng gật đầu, trầm giọng nói: "Đã rất thông suốt rồi."

Tôn Đệ mỉm cười, đưa chiếc đèn trong tay cho nàng, cười nói: "Ban đêm đường khó đi, đèn này để cô nương dùng chiếu sáng đường đi."

"Đèn lồng có thể bị gió thổi tắt, nhưng đèn trong tim thì không." Sở Kiều lướt qua Tôn Đệ tiến vào tòa phủ đệ nguy nga, trầm giọng nói: "Từ nay về sau, hai mắt ta chính là đèn lồng của ta, tâm chính là tim đèn."

Khoảnh khắc cửa son được đẩy ra, ánh đèn rực rỡ bên trong ào ra như thiêu đốt ánh mắt nàng. Con đường lót bằng đá cẩm thạch nối liền cửa chính đến tận tiền sảnh, hồ nước trong vắt ở hai bên, lầu các nối liền, tường chạm trổ đủ màu, màn lụa đính ngọc, hành lang thếp vàng, cảnh sắc đượm ý xuân khiến người nhìn say lòng.

Thu Tuệ tiến đến, cung kính nói: "Năm đó sau khi cô nương rời đi, hoàng thượng liền bắt đầu cho xây tòa phủ đệ này, xây dựng suốt hai năm bây giờ mới hoàn thành."

Hai hàng nô bộc qùy ở hai bên nhìn thấy Sở Kiều đều đồng loạt dập đầu, cao giọng thỉnh an.

Sở Kiều đi thẳng vào trong, trần chính sảnh bằng gỗ đàn hương được khảm vô số minh châu khổng lồ, trong đêm sáng rỡ như ánh trăng rằm. Cột sảnh được khắc hình chim loan ngũ sắc nạm vàng, dưới ánh nến càng thêm lấp lánh. Lò hương vàng chạm rỗng* hình hoa ngọc lan, hương thơm xông vào mũi khiến nàng bất giác nhớ đến buổi tối rất nhiều năm trước kia, Lý Sách nổi hứng đoạt lấy trâm ngọc lan của cung nữ cài lên tóc nàng.

*Lò hương chạm rỗng

"Sở thị xuất thân danh môn, đức độ lễ nghĩa, tài cao học rộng, khiêm tốn hiền lành, đặc biệt sắc phong ............., vĩnh phúc dài lâu." Phía dưới là ấn ngọc tỷ đã được Lý Sách đóng dấu sẵn, có điều chỗ tên phong hào lại bị để trống.

Tôn Đệ tiến đến, hạ giọng nói: "Hôm đó hoàng thượng còn chưa nghĩ ra phong hào cho quận chúa, sau khi thương nghị hết mấy lượt, ty lễ viện đề cử lên mấy tên nhưng đều bị hoàng thượng bác bỏ, cho nên đến giờ vẫn để trống. Hoàng thượng vốn định sau này từ từ nghĩ rồi mới quyết định, không ngờ đã không còn cơ hội nữa."

Sở Kiều đứng im lìm, ánh nến mông lung hắt lên một bên má tái nhợt của nàng, khóe môi mím lại, bàn tay nắm chặt đến mức các khớp đều trắng bệch.

Trong sảnh đầy những rương hòm, đủ loại bảo vật trân quý. Đây chính là của hồi môn hắn chuẩn bị cho nàng, đã được đặt ở đây nhiều năm rồi.

Vành mắt lại hơi cay cay, mi tâm không nhịn được lại chau, nàng nhàn nhạt cất tiếng: "Nếu còn chưa hạ chiếu thì không cần nhắc đến danh xưng quận chúa này nữa."

Tôn Đệ gật đầu, "Cô nương nói phải. Đêm đã khuya, mời cô nương nghỉ ngơi sớm, tại hạ xin cáo từ." Dứt lời liền xoay người rời đi.

Cửa phủ hoa lệ chậm rãi được khép lại nhưng vẫn phát ra một tiếng *ầm* như sấm, khiến bụi đất bị thổi bay là đà trên mặt đất.

Mai Hương cầm một phong thư đi tới, mi tâm hơi chau, nhỏ giọng nói: "Tiểu thư, Gia Cát thiếu gia lại gửi thư."

Đáy mắt Sở Kiều thoáng dao động, nàng nhận lấy thư nhưng cũng không mở ra, lòng bàn tay đổ mồ hôi hơi thấm ướt phong thư.

Mai Hương cau mày nói: "Tiểu thư, đây đã là bức thứ chín rồi, nếu người vẫn không hồi âm thì Gia Cát thiếu gia sẽ sốt ruột chết mất."

Sở Kiều lặng lẽ ngồi xuống, không nói tiếng nào, bình tĩnh nhìn ngọn nến bên cửa sổ, thật lâu vẫn chưa hết thẫn thờ.

Bắc Yến lại vừa khai chiến với Đại Hạ, đã đánh hết bốn trận ở Nhạn Minh Quan, chiến tuyến đã lan đến tận lãnh thổ của Ba Đồ Cáp. Triệu Dương bắt tay với Mộc thị ở Lĩnh Nam và Cảnh tiểu vương gia Cảnh Hàm toàn quyền nắm giữ binh mã Tây Nam quân, đối đầu với Kiêu kỵ binh của Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt trên đài Phượng Hoàng, tình hình hết sức căng thẳng.

Hạ hoàng bệnh kéo dài, đã một năm không vào triều, Ngụy Quang cũng cáo ốm không quản chính sự, chẳng ai biết con cáo già này đang dự tính điều gì. Thế cục ở Đại Hạ bây giờ như một hồ nước sôi lăn tăn, chỉ cần bỏ thêm một cục than thì sẽ ùng ục sôi trào. Hiện tại, không bên nào được phép có bất kỳ hành động khinh suất thiếu suy nghĩ nào.

Nàng hiểu được điểm này thì sao chàng lại có thể không rõ?

Mai Hương không nhịn được hỏi: "Tiểu Thư, bây giờ chúng ta rốt cuộc đang làm gì vậy?"

Sở Kiều từ tốn nhìn sang, thần sắc như có sương lạnh bao phủ, trầm giọng nói chỉ một từ: "Chờ."

Qua ngày thứ hai, đại điển đăng cơ của tân đế được cử hành.

Trên long ỷ vàng rực trong đại điện Quốc Tử là một đứa bé nhỏ tuổi ngồi ngay ngắn, phía sau buông rèm chấp chính là hai nữ tử y phục hoa lệ, theo thứ tự là mẫu phi của hoàng trưởng tử, Viên thái hậu, và thái phi Chiêm thị.

Trong đại điện rộng lớn còn có thái phó Chiêm Tử Du vừa được nâng lên làm nhiếp chính vương im lặng ngồi một bên, triều phục đen tuyền thêu bàn long sáu ngón, mão quan cao ngất, khóe môi ẩn chứa ý cười lạnh nhạt như nước, không chút dao động.

Hậu vị đã bỏ trống nhiều năm, bản thân Lý Sách cũng không có tỷ muội hay huynh đệ nào khác, hôm nay đột ngột băng hà, thái hậu cũng không còn, chúng đại thần chỉ có thể tuân theo di chiếu của hắn mà nâng hoàng trưởng tử Lý Tu Nghi lên ngôi. Nhưng mẫu phi Viên thị của hoàng trưởng tử vốn xuất thân cung nữ ở hoán y cục*, không đủ tư cách chấp chính, nên người hiện tại có phân vị cao nhất trong hậu cung là Minh thái phi liền thuận lý thành chương** trở thành dưỡng mẫu của tân đế, cùng phụ chính với Viên thái hậu.

*Hoán y cục = nơi giặt giũ quần áo
** Thuận lý thành chương = chuyện hiển nhiên

Hoàng đế chỉ mới sáu tuổi, thái hậu và thái phi buông rèm chấp chính, hoàng quyền dĩ nhiên trở thành hư danh. Viên thị từ nhỏ vì gia tộc thất thế mà bị đưa vào cung làm tỳ nữ, thân tộc gia quyến không còn ai khác, nên quyền lực triều chính nhất thời đều rơi vào trong tay đôi huynh muội Chiêm gia vốn từng bị Biện Đường trục xuất trước đó.

Thế cục thay đổi đột ngột, tựa như thủy lưu dưới mặt băng, bề ngoài nhìn không thấy gì nhưng thực chất lại cuồn cuộn mãnh liệt, có thể không chút tiếng động dìm chết bất kỳ ai bị cuốn vào.

Nhóm sủng thần của tiền triều do Tôn Đệ dẫn đầu đều không tránh khỏi bị chèn ép, lần lượt bị gán tội là vây cánh của Lạc vương rồi bị đưa vào Thượng Lý viện thẩm tra. Toàn bộ cung nhân ở bên cạnh Lý Sách hôm hắn ra đi đều bị chém đầu, tất cả tần phi phu nhân vũ cơ cấp vị thấp đều bị đưa đến xuất gia ở An Hóa tự trên Phật Sơn.

Đợt cải chính mạnh mẽ tựa như một cơn gió thu cuốn sạch lá vàng quét ngang triều đình Biện Đường, bất kỳ lời dị nghị đối kháng nào cũng bị lưỡi kiếm sắc bén chặt đứt không chút khoan nhượng.

Dưới sự đàn áp dữ dội như thế, đám lão thần còn do dự ban đầu chỉ trong thời gian ngắn liền lập tức hối hả quay ngoắt một trăm tám mươi độ, sau mỗi ngày lâm triều đều thi nhau chạy đến gõ cửa phủ của nhiếp chính vương Chiêm Tử Du, hết lời nịnh nọt chân chó.

Có điều, ngoài dự liệu của Sở Kiều, trong tình huống như vậy, người đầu tiên đứng ra phản đối lại chính là Liễu các lão từng nhiều lần đối nghịch với Lý Sách.

Đầu tháng 9, trước cổng cung Kim Ngô, Liễu các lão chặn đường xa giá của huynh muội Chiêm gia, lớn tiếng mắng mỏ bọn họ là loạn thần tặc tử đảo loạn triều cường, còn nêu rõ nghi ngờ của mình về chuyện tiên hoàng bị hành thích ở điện Nhu Phúc ngày đó đều do một tay bọn họ sắp đặt, vu tội Chiêm Tử Du và Chiêm Tử Minh rắp tâm mưu sát tiên đế, đáng bị chém đầu. Nói xong, ông liền lao mình vào mũi đao của một hộ vệ, trước khi chết còn hô to vương hiệu của Lý Sách, máu tươi bắn đầy một khoảng sân.

Lúc ấy Chiêm Tử Du vẫn một mực an vị trong xe, từ đầu đến cuối không hề lộ diện, đến khi thi thể của Liễu các lão bị khiêng đi, hắn mới thản nhiên bước xuống, còn ném ra xấp ngân phiếu trị giá ba trăm lượng vàng cho con cháu Liễu gia đến nhặt xác, bảo bọn họ mau an táng lão phụ nhà mình.

Sở Kiều nghe được tin này lúc đang dùng bữa, là Đa Cát đến thông báo, cánh tay hơi khựng lại khiến canh sen trong chén hơi sánh ra ngoài. Nàng nghe được cũng chỉ im lặng trầm tư, hồi lâu cũng không nói gì.

Buổi tối hôm đó, cửa sổ phòng Sở Kiều đã sáng đèn suốt đêm. Đa Cát ngồi bên bàn đá trong sân, hông đeo túi rượu bằng da dê, cả đêm không về phòng ngủ.

Chuyện của Liễu các lão được truyền ra ngoài đã dấy lên một trận hỗn loạn không nhỏ, thư sinh các nơi đều tụ tập đến Đường Kinh, liên tục viết văn tự dài mấy vạn chữ, thông qua người có địa vị gửi vào triều, yêu cầu Thượng Lý viện, Tam Ti phủ và Hình bộ nghiêm trị hung thủ giết người, trả lại trong sạch cho triều chính Biện Đường.

Nhưng chỉ hai ngày sau, Chiêm Tử Du phái Trung ương quân ra bắt nhốt toàn bộ nhóm thư sinh đệ đơn kiến nghị, nhất thời khiến thiên lao của Thượng Lý viện chật ních, đủ loại âm thanh phẫn nộ truyền ra. Chúng viện phán của Thượng Lý viện sầu khổ đến xin chỉ thị của Chiêm Tử Du thì chỉ nghe được vị nhiếp chính vương trẻ tuổi kia lạnh nhạt buông ra một câu: "Chẳng phải sườn núi Hoàng Tuyền ở ngoại thành vẫn còn chỗ sao?"

Mặt viên viện phán tóc bạc phơ nhất thời trắng bệch, sườn núi Hoàng Tuyền ở ngoại thành chính là bãi tha ma, nhiếp chính vương nói thế, ngụ ý là gì không giải thích thêm cũng hiểu được.

Xế chiều hôm đó, thiên lao của Thượng Lý viện bất ngờ bị cháy khiến hơn phân nửa phạm nhân bị chết cháy, vô số thi thể trẻ tuổi bị vứt ra sườn núi Hoàng Tuyền, ngay cả cỗ quan tài cũng không có, cứ như vậy phơi mình giữa trời, trở thành bữa ăn khuya cho đám hổ sói gần đó. Còn Thượng Lý viện chỉ giao ra hai gã lính canh ngục vì uống rượu mà chểnh mảng trách nhiệm là xong chuyện.

Ngày 27 tháng 9, gió trở lớn, thu thêm nồng.

Buổi lâm triều hôm nay không giống như thường lệ, hoàn toàn do nhiếp chính vương Chiêm Tử Du toàn quyền, buông rèm chấp chính cũng chỉ có mình Chiêm Tử Minh. Ngự y thông báo tiểu hoàng đế bị cảm, hôm nay không thể vào triều, thái hậu phải ở cạnh chăm sóc nên buổi lâm triều hôm nay sẽ do thái phi chủ trì.

Quần thần còn chưa kịp có phản ứng thì nội thị đã mang một bảo tọa rực rỡ lên đặt kế vương tọa*. Bảo tọa có chạm trổ hình mãng long chín đuôi tinh xảo, nhìn thoáng qua không khác gì hình bàn long trên vương tọa.
*Vương tọa = tương tự long ỷ, là ghế dành cho vua ngồi

Nội thị truyền chỉ còn ca tụng công đức của Chiêm Tử Du một phen mới lấy thánh chỉ ra đọc to, nói cái gì bảo tọa này là hoàng đế tự mình sai người thiết kế vì thương tiếc nhiếp chính vương Chiêm Tử Du thân có bệnh, sau này vào triều có thể ngồi ở chỗ này, hơn nữa còn ban tặng điện Lăng Tiêu trong cung Kim Ngô, để hắn khỏi phải mỗi ngày bôn ba vào triều nữa.

Chiêm Tử Du một lòng từ chối, nhưng cuối cùng cũng bị tất cả hết lòng khuyên nhủ đành bất đắc dĩ ngồi lên bảo tọa kia, quần thần bái phục bên dưới, ai nhìn qua cũng cảm thấy vị nhiếp chính vương kia tựa như sánh ngang với ngôi vị hoàng đế, uy nghiêm rực rỡ đến chói mắt.

Tối hôm đó, Sở Kiều để thư tín vừa nhận được xuống, thở ra một hơi thật dài rồi nói với Thiết Do: "Hồi cung thăm hoàng đế thôi, đến lúc rồi."

Buổi tối của ba ngày sau, cung Kim Ngô chợt vọng ra tiếng động ầm ĩ đánh thức tất cả mọi người, quan lại và dân chúng đều chạy ra khỏi cửa ngẩng đầu nhìn về phía phát ra âm thanh. Chỉ thấy hướng cung Kim Ngô sáng rực ánh đuốc như có hỏa hoạn, cùng với tiếng gào thét truyền vào tai, thê lương như tiếng ma quỷ khóc.

Khoảnh khắc đó, mặt tất cả mọi người đều xám ngoét như tro, người dân nhát gan thì ôm vợ con chạy vào phòng đóng chặt cửa, sợ bị vạ lây. Chỉ có vài viên quan vẫn hoảng hốt nhìn về phía cửa cung, miệng không ngừng lẩm bẩm: "E lại có chính biến nữa rồi."

Lúc canh ba, cửa cung bị phá, Lục Doãn Khê cả người dính đầy máu cầm kiếm xông ra, sau lưng là ba ngàn Sói binh anh dũng, trầm giọng nói với Sở Kiều đứng trước cổng Thái An: "Cô nương, đã đánh hạ điện Lăng Tiêu."

Bầu trời đen kịt, Sở Kiều mặc trường bào đen thêu chim loan bằng chỉ vàng, ngũ quan như bạch ngọc, xinh đẹp bức người, sau lưng là một vạn chiến sĩ Tú lệ quân. Hạ Tiêu bình tĩnh cưỡi chiến mã đi bên cạnh, cẩn thận bảo vệ nàng, quân kỳ trắng hình mây đỏ bay phấp phới trên đầu. Ban đêm gió lớn, trời u ám không trăng cũng không sao, ánh đuốc đỏ rực chiếu lên mặt Sở Kiều, tô thêm ánh mắt sắc bén tựa lưỡi kiếm, thần thái nhìn không rõ buồn vui.

"Vào cung." Giọng nói lành lạnh vang lên như chém vào không khí.

Gió chợt nổi lớn thổi tung vạt áo choàng của Sở Kiều, nàng hơi ngước cằm, hai mắt khẽ nheo lại, nhẹ đánh chân vào bụng ngựa, chậm rãi tiến vào cung điện nguy nga tráng lệ trước mặt.

Lúc gã thị vệ cuối cùng ở điện Lăng Tiêu ngã xuống thì hỏa hoạn ở phía tây hoàng cung đã được dập tắt, Bình An dẫn binh lính chạy đến báo cáo, đáy mắt cậu bé lóe lên vẻ kiên định sắc bén vốn chỉ có ở người trưởng thành. Sau lưng Sở Kiều là hơn vạn thi thể hỗn độn của điện Lăng Tiêu. Nàng thúc ngựa đi lên bậc thềm bằng bạch ngọc, bảng hiệu cung của nhiếp chính vương mà chúng cung nhân thường ngày đi ngang cũng không dám ngẩng lên nhìn ngã chỏng chơ trên mặt đất, bị vó ngựa của nàng giẫm lên vỡ tan thành từng mảnh.

Một tên nội thị giỏi quan sát sắc mặt vội vàng chạy đến quỳ xuống cao giọng cung nghênh đại tướng quân xuống ngựa. Sở Kiều lạnh lùng nhìn gã một cái rồi giẫm lên lưng hắn xuống ngựa, chậm rãi bước về phía cổng cung uy nghiêm.

Cửa cung đột nhiên được mở rộng, mùi đàn hương theo gió lạnh phả lên mặt, lên áo choàng đen thẫm của Sở Kiều, khiến bội kiếm nơi thắt lưng càng thêm lạnh lẽo, như kim châm đâm vào đáy lòng nàng. Trong đại điện rộng rãi vắng vẻ, Chiêm Tử Du đang ngồi một mình, thoáng nhìn vẫn như nhiều năm trước, nam tử áo xanh ngồi xe lăn, một mình trên mũi thuyền nhìn ra sông, cả người như tắm trong ánh trăng bàng bạc, ánh mắt xa xăm như núi cao, cất chất giọng thuần hậu thanh nhã hỏi: "Người nào ở bên đó?

Gió theo cửa sổ thổi vào trong thổi rơi một tờ giấy tuyên thành có hoa văn hình rồng xuống đất, hẳn là vật ngự dụng hoàng đế dùng để viết thánh chỉ.

Sở Kiều đi vào điện, giẫm lên tờ thánh chỉ kia, lạnh nhạt nhìn người trước mặt, lẳng lặng nói: "Ta đến để lấy mạng ngươi."

Chiêm Tử Du mỉm cười, hờ hững nói: "Không ngờ lại là ngươi."

"Trí giả thiên lự, tất hữu nhất thất*, nhưng một người sa cơ nghèo túng như ngươi chỉ trong năm năm đã có thể bò lên vị trí cao như thế, quả thật không dễ dàng." Sở Kiều lạnh nhạt nói, vẻ mặt bình tĩnh không chút dao động.

*Nguyên văn là trí giả thiên lự, tất hữu nhất thất; ngu giả thiên lự, tất hữu nhất đắc. Tạm dịch: kẻ khôn nghĩ ngàn việc, ắt có một việc sai; kẻ ngu nghĩ ngàn việc, ắt có một việc đúng. Là danh ngôn của mưu sĩ Lý Tả Xa, cháu nội của Lý Mục – danh tướng nước Triệu thời Chiến Quốc.

Chiêm Tử Du cười nói: "Lời này của ngươi là đang khen ngợi ta đấy sao? Không tệ, có được một lời khen của Tú Lệ tướng quân vang danh khắp thiên hạ cũng không dễ."

Sở Kiều lạnh nhạt hỏi: "Ngươi còn tâm nguyện gì?"

Vẻ cô đơn đột nhiên lướt qua trên mặt Chiêm Tử Du, hắn khẽ nhíu mày, nói như rất không cam lòng: "Không thể ngồi xe do tám ngựa kéo thì vẫn chưa cam tâm."

Sở Kiều nghe nói thì thoáng sững sờ, không khỏi nhớ lại câu nói đùa từng nói với Chiêm Tử Du năm đó. Lúc ấy hai người đang tán gẫu, Chiêm Tử Du nói điều nuối tiếc nhất đời này chính là không thể cưỡi ngựa nữa, Sở Kiều nghe nói thì mỉm cười an ủi nói hắn có thể ngồi xe do tám ngựa kéo, cũng oai phong không kém. Khi đó Chiêm Tử Du khẽ mỉm cười, trách nàng hồ đồ, chỉ có hoàng đế mới được ngồi xe tám ngựa kéo, hắn mà ngồi thì chẳng phải muốn tạo phản sao?

Thời gian trôi qua như nước, trong thoáng chốc tất cả mọi chuyện đều như bóng trăng trong nước, động một cái đều không còn tăm tích.

"Sở tướng quân, vì sao Lý gia có thể nắm giữ giang sơn này còn ta lại không thể? Chẳng phải thiên hạ này ban đầu cũng do tiền triều Lý gia đoạt từ tay bọn ta sao? Tại sao vào trong tay bọn họ là chuyện đương nhiên, còn vào tay ta thì ta lại là loạn thần tặc tử?" Chiêm Tử Du nhíu mày, hơi ngẩng lên nhìn trần điện cao cao, kiêu ngạo nói tiếp: "Huống chi, thứ Lý gia thiếu ta, ta lấy về thì có gì sai chứ?"

Sở Kiều bình thản nói: "Ân oán giữa các ngươi không có quan hệ gì với ta." Nàng chậm rãi tiến lên, gót giày gõ lên sàn điện đều đặn như tiếng trống canh, vang dội khắp bốn vách đại điện, "Ngươi đã hại chết người ta yêu quý, ta phải giết ngươi trả thù."

Bảo kiếm sắc bén chậm rãi rời vỏ, lóe lên ánh sáng trong trẻo như trăng bạc, lạnh lùng hắt lên mặt người vừa rút nó ra, "Ngươi còn lời gì muốn nói nữa?"

"Tha cho muội muội ta, nàng làm tất cả mọi chuyện đều vì ta."

Sở Kiều nhìn hắn, hồi lâu cũng không nói, đáy mắt chậm rãi hiện lên vẻ chua xót. Gió bên ngoài thổi vào điện làm lay động vạt áo bào của hai người, nhìn tựa như vũng mực Huy Châu đen tuyền đang dập dềnh.

"Thật xin lỗi, không thể được." Cuối cùng nàng lạnh lùng buông một câu rồi vung bảo kiếm chém ngang.

Khoảnh khắc đó, trong đầu nàng lại chợt nhớ đến buổi tối rất nhiều năm trước, Chiêm Tử Du từng cười nhạt nói với nàng: "Ngươi nói cũng không sai, bất quá người trong cuộc thường nhìn không thấu, gặp được cơ hội liền không nhịn được mà muốn thử một lần."

Muốn thử một lần...

Máu tươi phún ra, bắn đầy lên vạt áo Sở Kiều rồi nhanh chóng thấm xuống, hòa làm một với sắc áo đen thẫm.

Sở Kiều cúi người nhặt đầu người trên mặt đất lên. Nam nhân ngũ quan như ngọc, thần sắc ôn hòa như đang ngủ, chỉ là phần cổ bị đứt lìa ướt đẫm máu tươi, nhìn vô cùng dữ tợn.

Nàng ném đầu người vào trong ngực một ngã thị vệ, trầm giọng nói: "Treo lên cửa cung, cho đám Trung ương quân đang tấn công vào đây nhìn một chút đi." Nói xong liền ra khỏi điện Lăng Tiêu, tung mình nhảy lên lưng ngựa, hô: "Đến điện Nhu Phúc."

Không biết từ khi nào mà trăng lại nhú ra khỏi tầng mây dày, phủ ánh sáng bàng bạc trong trẻo lên mọi vật. Điện Lăng Tiêu trở nên tĩnh lặng sau khi các binh sĩ mặc giáp vội vàng rời đi, chỉ còn lại đống thi thể nằm đầy trên đất. Trên không trung văng vẳng tiếng quạ kêu, vỗ cánh kêu *phần phật* tựa như thần chết phất cờ trước khi hành sự. Trên đại điện trống trải, thi thể không đầu vẫn lẳng lặng ngồi trên bảo tọa chạm trổ hình mãng long, thoáng nhìn cực kỳ rợn người.

.....................................................................................................................

Chiến trận ở điện Nhu Phúc hiện cũng đã kết thúc, Thiết Do và Tôn Đệ cùng nhau bước đến, trên người cả hai cũng đầy vết máu, có thể biết được đã đánh chém kịch liệt đến mức nào.

Sở Kiều nhảy xuống ngựa, nói với Tôn Đệ: "Ngươi vất vả rồi."

Tôn Đệ bật cười, "Không sao. Có điều đồ ăn trong ngục quá kém, làm ta phải chịu đói nên gầy hết một vòng rồi đây."

"Cô nương, đã bắt được Chiêm thái phi." Thiết Do trầm giọng báo.

Sở Kiều nhướng mày, "Hoàng đế vẫn ổn chứ?"

Thiết Do hơi nhíu mày, "Hoàng thượng vẫn ổn, chỉ hơi bị kinh sợ một chút thôi."

"Thế thì tốt." Sở Kiều thở phào một hơi mới hỏi: "Vậy sao ngươi còn đăm chiêu ủ dột như vậy?"

"Viên thái hậu mất rồi, lúc chúng ta xông vào, thái hậu tưởng rằng là người của Chiêm thái phi, không để chúng ta kịp thanh minh đã đập đầu tự sát."

Sở Kiều nghe nói thì lập tức nhăn mặt, không ngờ Viên thị lại nhát gan đến vậy, uổng công nàng hết lòng an bày đường sống cho hai mẹ con bọn họ, chưa nói tiếng nào đã tìm đường chết rồi.

"Cô nương." Tôn Đệ tiến lên, trầm giọng nói: "Huynh muội Chiêm gia ám sát tiên hoàng, kết bè phái mưu sát hoàng thượng để đưa Vinh vương lên ngôi, chứng cứ đều được thu thập đầy đủ ở đây, ngày mai có thể công bố thiên hạ, chiếu cáo tội lỗi của bọn chúng rồi."

Sở Kiều từ tốn nhận lấy, chỉ là mấy trang giấy mỏng nhưng nàng lại cảm thấy nặng ngàn cân.

"Để ta ra ngoài! Đám nô tài các ngươi, mau thả ta ra!" Một tiếng hét chói tai đột nhiên truyền đến. Điện Nhu Phúc tráng lệ lúc xưa hiện chỉ còn một mảnh hoang tàn, sau trận hỏa hoạn, bốn phía đều là gạch vỡ bụi đất. Chiêm Tử Minh mặc loan bào đỏ thẫm, đang ra sức vùng ra khỏi sự khống chế của hai cung nhân lực lưỡng, hai mắt nàng đỏ bừng, vẻ xinh đẹp cao quý lúc trước đều biến sạch, không còn sót lại chút gì.

Vừa nhìn thấy đám người Sở Kiều và Tôn Đệ, Chiêm Tử Minh chợt sững sờ, hai mắt trừng lớn như vừa nhận ra Sở Kiều là ai, đột nhiên điên cuồng cất tiếng cười to, "Thì ra là ngươi!"

Sở Kiều cũng không đáp lời, chỉ lẳng lặng nhìn Chiêm Tử Minh. Nhiều năm trôi qua, không ngờ lại gặp nhau ở đây, cô gái luôn dõi mắt theo huynh trưởng năm ấy đã không còn, bây giờ đứng ở đây chỉ là một người điên mà thôi.

"Tam ca của ta đâu?" Nàng đột nhiên lớn tiếng hỏi.

Sở Kiều mặt không đổi sắc chậm rãi nói: "Chết rồi."

Chiêm Tử Minh đột nhiên ngây người, tựa như không ngờ ngày này lại đến sớm như vậy. Hồi lâu sau, nàng đột nhiên bật cười, tiếng cười thê lương như tiếng dạ ưng gào giữa đêm khuya, ánh mắt dần trở nên thất thần nhìn về phía Sở Kiều, tuyệt vọng hỏi: "Ngươi giết huynh ấy rồi?"

"Phải."

"Được, được lắm, người hắn nhìn trúng quả nhiên không tệ. Khó trách hậu cung trên dưới ba ngàn người nhưng hắn chỉ thật lòng với một mình ngươi."

Sở Kiều lạnh lùng nhìn nữ tử phục sức lộng lẫy nhưng đang cười một cách điên cuồng trước mắt, ánh mắt bất giác lộ vẻ bi ai và thương hại, như vừa xuyên qua dáng vẻ bề ngoài xinh đẹp mà nhìn thấy được đáy lòng nàng ta.

"Ngươi định xử trí Vinh Nhi ra sao?"

"Thằng bé không chỉ là con ngươi mà còn là con của Lý Sách, ta sẽ chăm sóc nó thật tốt."

Chiêm Tử Minh gật đầu, cười khổ sở: "Cũng tốt, tay ta đã dính đầy máu, hại cả hắn, nếu không phải vì Tam ca thì ta đã không muốn sống từ lâu, ngươi ra tay đi."

Trong nháy mắt đó, Sở Kiều đột nhiên nhìn thấy được sự dằn vặt đau đớn qua nụ cười thê lương của nàng. Chiêm Tử Minh ngưỡng mộ ca ca từ nhỏ nên bất chấp mọi thứ làm theo an bày của Chiêm Tử Du, nhưng về sau nàng lại không tự chủ dần động lòng với Lý Sách, phần tình cảm này có lẽ ngay cả chính nàng ta cũng không ý thức được, mãi đến khi ám sát hắn theo kế hoạch thì mới đột nhiên nhận ra. Ngày đó, nàng quỳ ngoài điện Nghĩa Tâm, sự bi thương và đau khổ không hề giống giả vờ. Chỉ tiếc, cả hai nam nhân nàng yêu, một chưa bao giờ yêu nàng, một không thể yêu nàng, cuối cùng chỉ có một kết cục đáng buồn như hiện tại.

"Ban rượu độc và lụa trắng cho Chiêm thái phi." Sở Kiều buông một câu rồi xoay người đi ra khỏi điện.

Bên ngoài gió thổi khá to, đêm tối như triều cường cuốn lấy nàng, cửa cung Kim Ngô sáng rỡ ánh đèn, tiếng kêu thét đã dần tiêu tan, trên không trung thi thoảng nghe được tiếng chim đêm rít lên thê thiết. Mùi bụi đất, mùi chém giết cùng mùi chết chóc từ vô số tử thi trong nháy mắt ập đến, bao trùm lên nàng.

Sở Kiều tay cầm ngân kiếm, trường bào đen nhuốm máu, sau lưng là ngàn vạn ánh lửa và các chiến sĩ mặc giáp đen, lạnh lùng nhìn đăm đăm về phía chân trời tối đen. Ở đó chính là phương Bắc xa xôi, vùng đất giá lạnh đến tận xương, nàng nhìn mà không hề chớp mắt, tựa như đang nhìn người nào đó nhưng trong đôi con ngươi chỉ có một màu đen trầm lặng.

"Chiêm thái phi qua đời ~!!" Thái giám dài giọng hô to.

Khoảnh khắc mặt trời ló dạng, trong nháy mắt xé rách tầng mây đen kịt. Đêm có dài đằng đẵng đến đâu cuối cùng cũng sẽ trôi qua, nhưng bóng đen trong lòng phải làm sao mới xua đi được?

Vận mệnh tựa như một ngọn lửa lớn, tất cả những nguyện vọng bé nhỏ, tất cả mong đợi về tương lai của nàng cuối cùng đều bị đốt cháy thành tro trong trận lửa này. Lửa tàn cũng là lúc nàng rũ bỏ mọi mềm yếu, bi thương, thiện lương trong lòng, chân chính trở nên kiên cường, một lòng bảo vệ những gì mình yêu quý.

Bất luận kẻ nào dám có gan xâm phạm thứ nàng muốn bảo vệ nhất định đều phải trả giá đắt.

"Cô cô!" Âm thanh non nớt đột nhiên truyền vào tai, một bóng dáng nhỏ xíu chợt nhào đến ôm chân Sở Kiều. Tiểu hoàng đế khóc đến mặt mũi đều đỏ ửng, "Mẫu hậu chết rồi! Cô cô, mẫu hậu của Nghi Nhi chết rồi!"

Đứa trẻ còn rất nhỏ nhưng ngũ quan đã sớm lộ vẻ tuấn tú, hoàn toàn là bản sao của Lý Sách. Sở Kiều ngồi xổm xuống ôm thằng bé vào lòng, toàn thân nàng trên dưới đều lạnh lẽo, duy chỉ có nơi ngực là thực ấm áp.

Đây là con trai, là giang sơn của Lý Sách, nơi này là nhà của Lý Sách. Hắn bảo vệ nàng nhiều năm như vậy, hôm nay đổi lại đến phiên nàng bảo vệ hắn.

"Nghi Nhi đừng sợ, có cô cô ở đây với con."

"Tiểu thư." Mai Hương lặng lẽ đi đến, trong tay ôm một đứa trẻ còn quấn tã.

Sở Kiều đứng dậy, chậm rãi tiến lại nhìn Lý Thanh Vinh, con trai của Chiêm Tử Minh. Đứa trẻ vừa ra đời đã được sắc phong Vinh vương hiện đang ngủ hết sức yên bình, không hề biết bởi vì sự ra đời của mình mà giang sơn này đã xảy ra một trận gió tanh mưa máu. Phụ thân và mẫu thân cậu bé đều lần lượt ra đi, để lại một cảnh hoang tàn và giang sơn bấp bênh.

"Tiểu thư, người nhìn Tam điện hạ ngủ ngon chưa này." Mai Hương thích trẻ con nên vô cùng vui vẻ ôm Vinh vương đến cho Sở Kiều nhìn.

Sở Kiều đưa tay ôm đứa bé, cậu bé bị động nên thức dậy, không nhịn được ngáp to một cái, mắt nhắm mắt mở nhìn Sở Kiều, đôi mắt hệt như của Lý Sách.

Hốc mắt cay cay suýt nữa thì rơi lệ, Sở Kiều siết chặt đứa trẻ vào lòng, áp mặt mình lên khuôn mặt nhỏ bé của cậu bé, lòng chợt trống rỗng.

"Đại nhân, con trai Liễu Nguyên Tông của Liễu các lão dẫn các đại thần văn võ đến cửa cổng Thái An hỏi thăm đã xảy ra chuyện gì? Muốn biết tình hình của hoàng thượng?"

Sở Kiều ngẩng đầu lên, ánh mắt lại trở nên lạnh lùng, trầm giọng nói với Hạ Tiêu: "Nói với các vị đại nhân, nhiếp chính vương Chiêm Tử Du và Chiêm thái phi cùng nhau mưu hại hoàng thượng hòng soán vị, Viên thái hậu bất hạnh bỏ mình bởi loạn quân, hoàng thượng bình an vô sự, kẻ ác đã đền tội, chư vị đại nhân không phải lo lắng."

Hạ Tiêu vâng lệnh ra ngoài, chốc lát sau phía cửa cung liền vang vọng âm thanh chúc tụng vạn tuế. Thị vệ báo lại: "Trước lòng tận hiến của Liễu Nguyên Tông, văn võ cả triều đều thi nhau tỏ vẻ thần phục. Chiến sự ở cửa nam, cửa bắc và cửa Kiền Quang đều đã ngừng, tướng sĩ Trung ương quân đã bị bắt trói, đang chờ đại nhân xử trí."

...............................................................................................................

Cửa cung được mở rộng, dưới thềm ngọc là hàng ngàn tướng sĩ cùng văn võ cả triều, vầng thái dương đỏ rực nơi chân trời, tỏa sáng bốn phía. Sở Kiều ôm Vinh vương, nắm tay tiểu hoàng đế đi từng bước lên vị trí cao nhất trên chính điện.

Tiếng hô 'Ngô hoàng vạn tuế' vang vọng khắp đại điện, nắng sớm vẩy lên vạt áo đen như mực của Sở Kiều, chiến kỳ trắng hình mây đỏ phấp phới trên khoảng sân trước điện, thấp thoáng nhìn được hai chữ 'Tú Lệ'.

"Cô cô." Tiểu hoàng đế e dè gọi, chỉ vào long ỷ bằng vàng khối trước mặt, chau mày nói: "Nghi Nhi không muốn ngồi ở đó."

Sở Kiều ngồi xổm người xuống, dịu dàng vuốt mặt cậu bé, nhẹ giọng nói: "Nghi Nhi, đó là chỗ ngồi mà thiên thiên vạn vạn người dùng máu tươi và xương trắng đắp thành, là số mạng của con. Phụ hoàng và mẫu hậu con đều vì nó mà chết, giang sơn Đại Đường hiện đang đặt trên vai con, ánh mắt của tổ tiên ở trên trời đều đang nhìn con, trách nhiệm nặng nề như vậy, con không thể lui bước."

Tiểu hoàng đế bị lời Sở Kiều nói dọa sợ, kéo kéo ống tay áo nàng, "Vậy cô cô thì sao? Cô cô cũng không cần Nghi Nhi luôn sao?"

Sở Kiều nâng cậu bé lên đặt xuống long ỷ, lặng lẽ nói: "Cô cô không đi đâu cả, cô cô sẽ ở bên cạnh Nghi Nhi."

Sở Kiều xoay người nép sang một bên, văn võ bá quan đồng loạt quỳ xuống, cất tiếng 'vạn tuế' vang dội, kinh động cả đàn chim bay ngang.

Chúng quan lại bên dưới cũng không rõ bản thân hiện giờ đang hành lễ với ai, là tiểu hoàng đế đang ngồi trên long ỷ hay cô gái trẻ tuổi tay nắm giữ hai đại quân hùng mạnh là Sói binh và Tú lệ quân kia. Đủ loại tâm cơ nhất thời rục rịch trong triều, tựa như trăm ngàn năm qua, chưa hề có khoảnh khắc yên bình thực sự nào.

Người rồi cũng trở về với cát bụi, cờ đã hạ tất không còn đường lui.

Lý Sách, ngươi hãy yên tâm.  


Chương 177: Tú Lệ hoàng phi

Ngày thu se lạnh, ngay cả gió cũng đượm hương cúc lành lạnh trong trẻo. Hoa sen trong hồ Thái Thanh đã sớm tàn lụi, lá ngô đồng rụng đầy bên bờ hồ. Trong đại điện tĩnh lặng như mặt hồ, tiếng nói của Tôn Đệ tựa như làn hương đang quanh quẩn bên lò hương đúc bằng đồng đỏ, càng tô thêm vẻ tịch mịch của không gian,"Uẩn Khang công chúa, Hoa Dương phu nhân, Nhữ Nam vương phi, Đoan Khánh vương phi, Tĩnh An vương phi đều lần lượt dâng tấu chương xin được vào cung nuôi dưỡng hoàng thượng. Nhữ Nam vương, Đoan Khánh vương, Tĩnh An vương, Tư Đồ tướng quân, An phò mã, Vân quận mã cũng tỏ ý đồng lòng. Trong triều trước mắt được chia thành hai phe, phần lớn võ tướng ủng hộ Tĩnh An vương còn các quan văn thì đề nghị ba vị vương phi cùng nhau nuôi dưỡng hoàng thượng, để ba vị vương gia cùng giám quốc phụ chính."

Có cơn gió thổi qua khiến bóng cây ngoài cửa sổ lay động dữ dội, Sở Kiều ngồi trên ghế mềm, người mặc cẩm bào trắng dùng trong nhà, một tay gác lên bệ cửa sổ, tay còn lại chống cằm nhìn vầng trăng treo ngang hàng ngô đồng, ống tay áo rộng rãi buông lơi để lộ một đoạn cánh tay trắng như tuyết, hai mắt trầm tĩnh nhìn không rõ đang nghĩ gì.

"Phiêu kỵ tướng quân của binh bộ là Tạ Húc dẫn theo bảy vạn nam quân, hiện đã đến chân núi Tịch Chiếu, ít ngày nữa sẽ vào kinh. Tạ Húc từng là gia nô trong phủ Tĩnh An vương, hôm nay lại dẫn binh đến như vậy, không thể không phòng. Ta đã cảnh báo cho tướng quân Từ Tố ở Hàm Thủy cẩn thận đề phòng. Nếu Tạ Húc muốn đến bái kiến tân đế thì chỉ có thể một mình qua sông, không được phép mang theo binh lính."

"Tạ Húc?" Sở Kiều tựa người vào bệ cửa, cũng không quay đầu lại mà chỉ lẳng lặng nói: "Lúc trước Lạc vương tạo phản cũng không thấy hắn tỏ lòng trung quân ái quốc, hôm nay sao lại sốt sắng như vậy?"

Tôn Đệ trầm giọng nói: "Danh không chính tất ngôn không thuận, khó trách văn võ cả triều có dị tâm."

Sở Kiều chuyển mắt nhìn Tôn Đệ chằm chằm, hiểu rõ hắn muốn nói gì nhưng cuối cùng cũng chẳng cho hắn đáp án thiết thực gì, lại lẳng lặng quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thật lâu vẫn không lên tiếng.

"Ngoài ra, con trai của Liễu các lão là Liễu Nguyên Tông từng âm thầm đi tìm ta, tỏ ý khi có cơ hội thích hợp sẽ liên lạc các bộ hạ cũ của Liễu thị giúp đại nhân một tay, chỉ có điều vẫn cần thời cơ và danh xưng phù hợp nữa."

Ngoài điện chợt vang lên tiếng bước chân dồn dập, hai người đồng loạt quay lại, chỉ thấy tiểu hoàng đế mặc áo bào vàng rực, mặt đầy nước mắt nước mũi chạy chân trần vào điện, rồi lập tức nhào vào lòng sở Kiều, khóc nức nở. Hai ma ma chạy theo sau nhìn thấy Sở Kiều và Tôn Đệ liền vội vàng quỳ xuống.

Cậu bé đưa hai cánh tay nhỏ xíu ôm chặt eo Sở Kiều, vừa khóc vừa la: "Cô cô! Mẫu phi tới tìm Nghi Nhi, mẫu phi tới tìm Nghi Nhi!"

Sở Kiều thương xót kéo tay tiểu hoàng đế ra, lấy khăn tay lau nước mắt cho cậu bé, dịu dàng hỏi: "Hoàng thượng vừa nằm mơ sao?"

Cậu bé mếu máo: "Trên đầu mẫu phi toàn máu, dính hết cả lên người Nghi Nhi."

Sở Kiều an ủi cậu bé, "Hoàng thượng đừng sợ, chỉ là mơ thôi, không phải thật. Thái hậu khi còn sống thương hoàng thượng như vậy thì sao có thể hù dọa hoàng thượng chứ?"

"Cô cô..." Lý Tu Nghi vẫn ôm chặt lấy Sở Kiều, nói sao cũng không chịu buông tay.

Tôn Đệ nhìn hoàng đế, không khỏi thương tiếc nói: "Hoàng thượng còn nhỏ như vậy, nếu rơi vào tay người có dụng ý không tốt không biết sẽ chịu khổ thế nào nữa."

Đáy lòng Sở Kiều chợt sinh ra một tia phiền muộn, không buồn nhìn tới Tôn Đệ, chỉ lạnh lùng trầm giọng nói: "Đã khuya lắm rồi, đại nhân không nên tiếp tục ở trong cung nữa. Mai Hương, tiễn khách."

Tôn Đệ cũng không tức giận, cung kính thi lễ với Sở Kiều một cái rồi thản nhiên xoay người rời đi.

Mai Hương nhìn theo bóng lưng Tôn Đệ, mặt hơi lộ chút bực bội, chờ hắn đi khỏi mới tức giận nói: "Tiểu thư chớ nghe hắn nói nhảm, cùng lắm thì chờ Tứ thiếu gia đến rồi chúng ta mang theo tiểu bệ hạ cùng đi."

Sở Kiều còn chưa trả lời thì Lý Tu Nghi trong lòng nàng đã ngẩng lên hỏi: "Cô cô định đi đâu vậy?"

Sở Kiều cúi đầu nhìn con ngươi đen láy của cậu bé, thấp thoáng qua đó nhìn thấy hình bóng của một người khác. Hôm đó tuyết bay đầy trời, gió rét sắc tựa đao, hắn mặc kệ mọi phản đối cùng chất vấn của cả triều mang đại quân chạy đến cứu nàng, áo giáp trên người hắn thật lạnh, nhưng lại như núi cao chắn mọi mưa gió cho nàng, vững chãi như tường đồng, vĩnh viễn cũng không ngã xuống.

Nàng im lặng ôm chặt cậu bé vào lòng, không đáp.

Nến trong góc cháy bập bùng, đêm trong thâm cung luôn rất dài.

..................................................................................................................

Cửa Thái An chậm rãi hé ra, Tôn Đệ thong thả bước ra ngoài.

Thiết Do đứng trong góc tối nhìn thấy hắn cũng chậm rãi đi ra. Tôn Đệ mỉm cười nhìn hắn, thản nhiên hỏi:"Thiết thống lĩnh tìm ta uống rượu à?"

"Viên thái hậu là do ngươi giết?" Thiết Do đột nhiên trầm giọng hỏi, ánh mắt tĩnh lặng như nước.

Tôn Đệ không hề đổi sắc mặt, khóe môi khẽ nhếch nở một nụ cười nhạt, hỏi lại: "Thiết thống lĩnh nói lời ấy là có ý gì? Viên thái hậu đập đầu vào tường tự vẫn, hậu cung trên dưới đều thấy rõ, ngươi cũng tận mắt nhìn thấy mà, liên quan gì đến ta chứ?"

Thiết Do nhíu mày, giọng điệu vẫn hết sức lạnh lùng, "Thanh Nguyên nói tối hôm trước ngày Chiêm gia bức vua thoái vị, ngươi ở trong ngục từng gửi ra ngoài một phong thư, chỉ rõ là phải giao cho Viên thái hậu. Viên thái hậu đọc xong thư liền đi tới tẩm cung của hoàng thượng, ở lại đó đến tận lúc chính biến. Thị nữ hầu hạ nói Viên thái hậu khóc suốt đêm, ngay cả cơm cũng không ăn. Ngươi đến cùng đã nói gì với thái hậu?"

"Ta có thể nói gì chứ, đơn giản là dặn dò thái hậu cẩn thận đề phòng huynh muội Chiêm gia thôi."

Thiết Do đột nhiên tiến lên hai bước, chăm chú nhìn vào mắt Tôn Đệ, trầm giọng nói: "Vậy vì sao ngươi phải bí mật xử tử tiểu thái giám đưa thư cho ngươi? Tối qua còn lấy cớ thanh tẩy nội cung rà soát điện Nghĩa Tâm?"

Sắc mặt Tôn Đệ chợt lạnh đi, đột nhiên quay người sang chỗ khác, lạnh lùng nói: "Ta không rõ ngươi đang nói cái gì." Dứt lời liền nhấc chân muốn rời đi.

"Tôn Đệ!" Thiết Do bỗng hét lớn khiến cho thị vệ ở xa xa đều đồng loạt nhìn về phía này, vì kìm ném mà trước ngực phập phồng, thấp giọng nói: "Nếu không muốn người khác biết thì đừng làm, trong cung có trăm ngàn ánh mắt, ngươi cho rằng không ai biết sao?"

Ánh trăng bàng bạc vẩy lên vạt áo Tôn Đệ, trên người quý công tử trẻ tuổi tỏa ra thần thái thong dong tự nhiên nhưng vẫn không che giấu được hào quang vốn có.

Hắn từ từ xoay người lại, lẳng lặng nhìn Thiết Do, trầm giọng gằn từng chữ một, "Thiết Do, ngươi có xuất thân gì, còn nhớ rõ không?"

Thiết Do thoáng sững sờ, trên mặt đột nhiên hiện lên một tia xa cách, lạnh lùng nói: "Thiết Do xuất thân dân đen, dĩ nhiên không thể đánh đồng với Tôn đại nhân."

"Ta không hỏi chuyện này." Tôn Đệ lạnh nhạt nói, ánh trăng chiếu lên khuôn mặt tuấn tú tà mị của hắn, "Ta muốn hỏi, ngươi chẳng lẽ đã quên ân đức của hoàng thượng đối với mình rồi sao?"

Thiết Do sửng sốt, nhưng ngay sau đó liền lạnh lùng hỏi lại: "Giết mẫu phi duy nhất của tiểu hoàng đế, kích thích triều đình nổi dị tâm, chẳng lẽ đó đều là hành động báo đáp ân đức hoàng thượng của ngươi?"

"Không thì còn có thể thế nào? Để tiểu hoàng đế đăng cơ, Viên thái hậu phụ chính? Hừ, nếu là vậy thì không tới ba năm, giang sơn Đại Đường sẽ đổi sang họ Chu của Tĩnh An vương rồi." Khóe miệng Tôn Đệ ẩn hiện một nụ cười lạnh, ánh mắt giảo hoạt như hồ ly, "Chính xác, trước khi chết hoàng thượng đã sớm đoán sẽ có cục diện như hiện giờ, cũng đã chuẩn bị xong các chỉ thị cùng an bài thỏa đáng. Chỉ là ta vẫn một mực không muốn làm theo. Ta chính là muốn để triều đình loạn đến như vậy, muốn gã loạn thần Chiêm Tử Du kia chết trong tay Tú lệ tướng quân, để nàng lập được chiến công cho Biện Đường. Cho dù ngày đó Viên thái hậu không tự sát thì sau này ta cũng sẽ giết nàng ta. Coi như nàng ta thông minh, tự biết bản lĩnh của mình rồi lựa chọn đường lui, tính ra cũng giảm cho ta rất nhiều phiền toái, triều chính cũng là do ta cố tình khuấy đục. Chỉ có đẩy cục diện đến nước này thì Sở đại nhân mới có thể ra mặt vì Biện Đường, mới không đi theo Gia Cát Nguyệt mà rời khỏi Biện Đường."

Thiết Do nghe nói mà trợn mắt há hốc mồm, tường thành ngói đỏ của cung điện chợt trở nên nặng nề đến nghẹt thở, trên không trung chợt có tiếng chim đêm cất tiếng kêu chói tai. Thiết Do nhíu chặt mày, há miệng hồi lâu mới thảng thốt nói một câu: "Ngươi điên rồi!"

"Không, ta không điên." Tôn Đệ ngẩng đầu lên, đưa ánh mắc sắc bén nhìn bầu trời phương bắc xa xôi, vạt áo bị gió hất tung, sống lưng thẳng tắp như trường thương, nói: "Ngươi không nghe thấy à? Phương bắc đã vang lên trống trận, trăm quan quân đang chầu chực ở Nhạn Minh Quan chờ đánh, Đại Hạ đã sắp sụp đổ, Yến Tuân ở Bắc Yến không những dã tâm bừng bừng mà còn là người tài thao vũ lược có một không hai, lòng dạ lại độc ác không ai bằng. Đại Hạ có thể chống đỡ đến tận giờ đều là nhờ có đại quân Thanh Hải của Gia Cát Nguyệt không ngừng uy hiếp biên quan Bắc Yến. Nếu Gia Cát Nguyệt rời đi, dựa vào một mình Triệu Triệt thì sao có thể đối đầu với Bắc Yến? Ngoài ra triều đình Đại Hạ lại không ngừng có lục đục nội bộ, thế gia thị tộc đều làm theo ý mình, Triệu Dương cũng không phải hạng người chịu cúi đầu trước người khác. Một khi Đại Hạ bị công phá, trở ngại phía bắc Biện Đường sẽ bị khai thông, đến lúc đó phía tây có Bắc Yến chính diện tấn công, phía đông có Nạp Lan Hồng Diệp đã bắt tay với Yến Tuân từ sớm, nội bộ còn có Tĩnh An vương thèm thuồng vương vị. Đến lúc đó, Đại Đường ta còn có đường sống sao?"

Thiết Do còn đang ngây người thì lại nghe Tôn Đệ tiếp lời: "Lạc vương khởi binh khiến Đại Đường thương vong nặng nề, sau khi hoàng thượng qua đời, tà tâm muốn thay thế Lý gia trong triều vẫn chưa bị dẹp bỏ hoàn toàn. Chỉ cần thế cục kiềng bốn chân* vẫn được giữ vững thì chúng ta vẫn còn sức cầm cự. Nhưng khi cục diện này bị phá vỡ, khi Đại Hạ bại dưới tay Bắc Yến cũng chính là lúc Đại Đường chúng ta diệt vong. Hoàng thượng đối với hai người chúng ta ân nặng như núi, hiện tại ngài đã không còn, ta và ngươi lẽ nào có thể ngồi nhìn cơ nghiệp ngàn năm của Đại Đường bị hủy hoại chỉ trong chốc lát?"

*Chỉ Bắc Yến, Đại Hạ, Biện Đường và Hoài Tống kiềm chế lẫn nhau.

"Nhưng, nhưng cũng không nhất thiết phải giết Viên thái hậu, nàng ta dù sao cũng là phi tử của hoàng thượng, còn là mẫu thân của tiểu hoàng đế!" Thiết Do lớn tiếng đến mức mặt đỏ bừng.

"Chỉ là một nữ nhân vô dụng." Tôn Đệ khinh thường hừ lạnh một tiếng rồi trầm giọng nói: "Hiện tại chỉ cần giữ được Đại Hạ thì chúng ta vẫn còn cơ hội. Nếu trước khi Bắc Yến tiêu diệt Đại Hạ mà chúng ta vẫn chưa thể thâu tóm Hoài Tống thì tương lai khẳng định sẽ rơi vào tình trạng đầu đuôi đều là địch."

Vừa dứt lời, trong mắt Tôn Đệ chợt dấy lên một tia lửa nóng, hắn xoay người lại chăm chú nhìn Thiết Do, trầm giọng nói: "Chỉ cần Sở đại nhân còn ở lại Đại Đường ta thêm ngày nào, Gia Cát Nguyệt sẽ không thể rời khỏi Đại Hạ trở về Thanh Hải thêm ngày đó. Chỉ cần hắn không đi thì Yến Tuân sẽ không thể rút binh khỏi Thùy Vi Quan tập trung tấn công Nhạn Minh Quan. Đại Hạ không vong thì chúng ta vẫn còn thời gian chuẩn bị. Hơn nữa, dựa vào quan hệ của Sở đại nhân và hai người Yến Tuân, Gia Cát Nguyệt, chỉ cần Sở đại nhân còn ở đây, cả Bắc Yến và Đại Hạ ít nhiều gì cũng sẽ lo nghĩ cho Biện Đường ta mấy phần, chúng ta không cần phải lo lắng cho đế vị của tiểu hoàng đế, đám người Tĩnh An vương muốn ra tay cũng phải cố kỵ hai nước này mấy phần. Huống chi khả năng chiến đấu của Tú lệ quân cực kỳ mạnh mẽ, lại trung thành nhất nhất, không hề thua kém Sói binh của hoàng thượng, bọn họ sẽ là sự bảo vệ tốt nhất cho tiểu hoàng đế. Bản thân Sở đại nhân lại là một thiên tài quân sự, được cả Đại Đồng Hành tôn sùng, có thể nhờ cậy được. Nàng và hoàng thượng tình thâm nghĩa nặng, bản thân không có thân tộc gia quyến gì, làm người lại không có dã tâm, nhân vật có khả năng phụ chính tốt như vậy, khắp thế gian còn có thể tìm ra người thứ hai sao?"

Thiết Do bị nói đến mức á khẩu không biết trả lời thế nào, chỉ có thể ngây người nhìn Tôn Đệ, tựa như không nhận ra người trước mặt chính là chiến hữu của mình.

Tôn Đệ nhìn hắn, lẳng lặng nói: "Nếu ngươi muốn thấy cơ nghiệp của Đại Đường bị hủy hoại chỉ trong tích tắc, muốn làm tội nhân thiên cổ của Đại Đường thì cứ việc đem lời ta vừa nói kể lại cho người khác. Cùng là chiến hữu lâu năm, ta sẽ không trách ngươi, có trách thì trách ta không thể tính toán ngọn nguồn mà thôi."

"Nhưng, nhưng ngươi muốn Sở đại nhân... ngươi làm vậy chẳng phải sẽ khiến nàng bị lỡ chung thân đại sự sao?"

Tôn Đệ lắc đầu cười một tiếng, vỗ vỗ vai Thiết Do, thản nhiên nói: "Tuy ta tin tưởng Sở đại nhân không có dã tâm nhưng lại không thể không đề phòng kẻ khác. Nếu tương lai Gia Cát Nguyệt thật sự khăng khăng cưới nàng, chẳng lẽ ta còn muốn để phu nhân của Thanh Hải vương tiếp tục ở lại Đại Đường ta giám quốc sao?"

Trăng trên cao không ngừng rải bạc xuống trên mặt đất, nam tử xoay người rời đi, từ xa bỏ lại một câu nói hờ hững, ẩn chứa vài phần thê lương khó tả, "Đi đường đế vương sao có thể mang lòng dạ đàn bà? Chốn địa ngục không ai dám vào thì hãy để ta một mình tự đi..."

Gió thổi qua khiến bóng trăng nghiêng nghiêng, thu nhuốm vàng hàng ngô đồng, không gian một mảnh tĩnh mịch.

....................................................................................................................

Mật Hà cư từ trước đến nay vẫn luôn rất yên tĩnh, thế nhưng hiện giờ nó lại trở thành nơi có nhân khí nhất cung Kim Ngô, ít nhất ở đây còn có người sống qua lại nói cười, trong khi những nơi khác nghe nói cả đêm cũng không có con chim nào dám bay ngang.

Cung Kim Ngô đột nhiên trầm lắng hẳn, không còn ca múa, không còn yến tiệc, không còn bóng dáng vũ cơ Đồng Hồ tròng mắt xanh lam, da óng ánh như mật ong, lại càng không có tiếng đàn sáo thâu đêm suốt sáng. Hoàng cung trở nên tịch mịch đến nỗi cả dạ oanh cũng thức thời bay khỏi chốn này, lúc đi lại trên hành lang còn có thể nghe được tiếng thở của bản thân. Tất cả mọi người im lìm đếm từng ngày trôi qua, tựa như e ngại lỡ tay gây ra tiếng động gì sẽ kinh động đến những vong linh vừa chết còn lẩn quẩn đâu đây. Màn lụa trắng lay động theo gió tựa như cánh tay tuyết trắng của thiếu nữ, hình bóng của phồn hoa cẩm tú ngày xưa thấp thoáng thoảng qua, nhưng chỉ trong giây lát liền tan biến trong màn bụi nhờ nhờ.

Mọi thứ như đều đang nhớ nhung hắn, bao gồm cả hàng ngô đồng chập chờn trong gió, mỗi một viên ngói và mỗi một đình viện giả sơn của nơi này.

Tiểu hoàng đế đang nằm trên giường Sở Kiều chỉ vừa thiếp đi, ngày đó tận mắt nhìn thấy Viên thái hậu tự vẫn đã để lại bóng ma trong lòng cậu bé, hiện tại cậu bé vẫn nhíu chặt mày, tựa như ngủ rồi mà vẫn còn sợ. Tiểu Vinh vương nằm trong cái nôi bên cạnh lại ngủ vô cùng ngon lành, khóe miệng hơi vểnh, thần thái y hệt phụ thân.

Sở Kiều ngồi trước cửa sổ, thần sắc tĩnh lặng. Đèn cầy trong góc im lìm cháy, sáp nến chảy xuống bị lửa hơ nóng, hồng rực lên như giọt nước mắt thiếu nữ rơi trên đôi má hây hây.

Trên tay nàng là một chồng thư thật dày, niêm phong vẫn còn nguyên, chưa hề được mở ra.

Nàng đã ngồi như thế khoảng hơn hai canh giờ rồi.

Lời của Tôn Đệ lại quanh quẩn trong đầu, nàng chậm rãi quay đầu lại nhìn hai đứa trẻ còn bé bỏng, đáy lòng không khỏi dâng lên cảm giác mờ mịt.

Đây đã là phong thư thứ mười ba, chàng hẳn đang rất nóng lòng, nếu không phải thế cục Đại Hạ đang rối ren vạn phần thì chắc đã sớm tự mình chạy đến đây.

Khóe môi Sở Kiều chợt mỉm một nụ cười rất nhạt, trong đầu tưởng tượng ra khuôn mặt tức giận của người nào đó, chân mày chắc là đang nhíu chặt hết cỡ, mắt nhìn nàng chăm chăm, môi mím thành một đường thẳng, dáng vẻ như một đứa trẻ đang phụng phịu vậy.

Trong thư viết gì nhỉ? Tức giận mắng mỏ? Oán trách hay là lo lắng dặn dò nhỉ? Chắc là đều có cả.

Nhưng nàng lại không muốn mở thư ra đọc, con đường trước mặt lạnh lẽo như băng, nàng không thể quay đầu nhìn ánh lửa trên ngã rẽ khác, nàng sợ mình nhìn thấy rồi thì sẽ không còn dũng khí đi tiếp nữa. Nhiệt độ trước ngực lạnh đi từng chút một, dần dần ngưng tụ thành băng đông cứng tim nàng.

Nàng lại thoáng nhớ đến lời chàng nói với mình đêm đó, hôm ấy ánh trăng sáng rực, gió nồng nàn hương hoa quế, khuôn mặt tuấn tú của chàng quay sang nhìn nàng, từ tốn hỏi: "Đường còn dài, có lẽ sẽ lại có biến cố khác, nàng có sợ không?"

Hôm đó gió rất dịu nhẹ, tiết trời vô cùng mát mẻ, ống tay áo của nàng phe phẩy trong gió tựa như cánh bướm chỉ chực bay lên. Lúc ấy nàng đã vứt bỏ hết mọi khúc mắc, lẳng lặng cười đáp mình không sợ. Chàng nghe thấy thì cười ôn hòa, không ngượng ngập, không giận dỗi, không đấu khẩu, đó là lần đầu tiên chàng nở nụ cười xuất phát từ đáy lòng với nàng. Sau đó, dưới ánh trăng trong trẻo, chàng chậm rãi cúi đầu xuống hôn lên môi nàng, tay siết chặt eo nàng, dịu dàng ve vuốt bờ môi mềm mại, thỏa thích mút vị ngọt đã mơ ước nhiều năm.

Nhưng mộng ước còn chưa bắt đầu thì đã phải kết thúc.

Số mệnh không ngừng trêu ngươi, năm tháng tựa như lưỡi dao xẻo từng thớ thịt nàng, tựa như ngọn lửa từ thời hồng hoang cháy mãi không tắt, không ngừng thiêu đốt bình yên của nàng.

Sở Kiều chậm rãi đưa tay cầm lấy xấp thư đưa lên ngọn nến. Giấy chậm rãi bắt lửa, phần bị cháy từ từ hóa thành tro bụi.

"Tiểu thư!" Mai Hương mang bữa khuya đi vào, nhìn thấy thì hoảng hốt chạy đến hất ngã giá nến, kinh ngạc hỏi nàng: "Người làm gì vậy?"

Sở Kiều không đáp mà chỉ lặng lẽ nhìn xấp thư đã bị cháy hơn nửa, phần chưa cháy hết thì cũng vàng vọt cong queo, ám đầy bụi đen.

"Tiểu thư!" Mai Hương kinh ngạc trợn tròn mắt, đột ngột nắm lấy hai bả vai gầy của Sở Kiều, lo lắng hỏi:"Đừng nói là người định làm theo lời của Tôn Đệ chứ?"

Sở Kiều lẳng lặng ngước lên nhìn Mai Hương. Mai Hương chợt cảm thấy ánh mắt của Sở Kiều như không còn chút sức sống, biến thành nhợt nhạt như nước. Nàng hốt hoảng nắm tay Sở Kiều, sốt ruột nói: "Tiểu thư, người chớ có giả ngốc với Mai Hương. Đây là chuyện chung thân cả đời, tuy Đường hoàng rất tốt với tiểu thư nhưng ngài ấy đã mất, người chỉ là một nữ tử, cớ gì lại muốn người gánh vác giang sơn Đại Đường?"

Sở Kiều vẫn im lìm không nói tiếng nào, Mai Hương sốt ruột đến mức trán bắt đầu rịn mồ hôi, hốc mắt cũng đã ngập nước, nàng nghẹn ngào nói: "Tiểu thư, người không thể lại phụ bạc chân tình của Tứ thiếu gia. Tiểu thư tuyệt đối không được đồng ý, người mau tỉnh lại, chớ có giả ngốc nữa!"

Một cơn gió đột nhiên thổi vào phòng, thổi bay bụi tro ám trên xấp thư bị đốt nham nhở, dưới ánh nến mơ hồ có thể thấy được nét chữ rắn rỏi trên phần giấy còn chưa cháy hết: Hết thảy đều phải đợi ta...

Chờ chàng...

Ánh mắt Sở Kiều thoáng mơ hồ nhưng không hề có nước mắt chảy xuống, ngọn nến bị hất ngã dưới chân vẫn lẳng lặng tỏa ánh sáng nhợt nhạt. Ngực nàng đau nhói đến nói không nên lời.

"Tiểu thư!" Mai Hương đột nhiên quỳ phịch xuống trên mặt đất, bật khóc thành tiếng.

Đứa trẻ trên giường bị giật mình tỉnh giấc, mơ màng ngồi dậy, nhìn thấy Mai Hương khóc thì cũng hơi sợ hãi, sững sờ nhìn Sở Kiều rồi giang đôi tay nhỏ bé ra, nhỏ giọng kêu: "Cô cô."

Tiếng gọi của tiểu hoàng đế đã khuấy động sự tĩnh lặng trong lòng nàng, Sở Kiều đứng dậy định đi đến cạnh cậu bé thì gấu váy lại bị ai đó kéo lại. Mai Hương mắt đẫm lệ ngước lên nhìn nàng, buồn bã nói: "Tiểu thư, người sống hà cớ gì phải sống chỉ vì người đã chết chứ?"

Bước chân Sở Kiều nhất thời khựng lại, nàng sững sờ quay đầu nhìn đôi mắt đỏ hồng của Mai Hương, cánh tay không tự chủ bắt đầu run rẩy.

"Tiểu thư, người không thể phụ bạc Tứ thiếu gia nữa, người không thể." Mai Hương lệ rơi lã chã, bi thương nói: "Người đã quên lời bài hát kia rồi sao? Ánh trăng soi sáng lòng người, giục người mau trở về cố hương. Tiểu thư, nhất định phải để mất đi rồi mới hối hận sao? Hôm nay người muốn hoàn trả ân tình của Đường hoàng, làm sao biết ngày khác còn cơ hội bù đắp cho Tứ thiếu gia? Người đã mất rồi, không lý nào lại muốn người còn sống vì mình mà vĩnh viễn sống trong khổ sở cùng đau đớn cả quãng đời còn lại."

Mai Hương liên tục dập đầu xuống trên mặt đất, nói to: "Tiểu thư, xin hãy đi cùng Tứ thiếu gia, Mai Hương cầu xin người!"

"Kẻ xấu!" Lý Tu Nghi đột nhiên nhảy xuống giường chạy đến xô Mai Hương, dùng sức kéo tóc nàng, vừa đánh vừa vừa mắng to: "Kẻ xấu! Ngươi là kẻ xấu! Không được cướp cô cô của ta, không được xui cô cô rời bỏ ta! Đồ xấu xa!"

Sở Kiều vội vàng ôm Lý Tu Nghi vào ngực, cậu bé vẫn giãy giụa không chịu thôi, hai mắt đầy hận ý nhìn Mai Hương chằm chằm, tựa như chú sói con vừa mất mẹ.

"Đồ xấu xa! Nghi Nhi đã mất phụ hoàng và mẫu phi, ngươi còn muốn đoạt mất cô cô, đồ xấu xa!"

Lời của cậu bé tựa như mũi đao đâm thẳng vào tim Sở Kiều, trước ngực như tụ máu chỉ chực phun ra. Lý Thanh Vinh cũng bị đánh thức, đảo mắt nhìn mấy người trong phòng, chợt nhìn thấy tiểu ca ca của mình đang khóc thì cũng ngoác miệng khóc to. Nhũ mẫu bên ngoài vội vàng chạy vào, cũng không dám nhiều lời mà chỉ ôm lấy tiểu vương gia mang đi cho bú.

Trong điện chập chờn ánh nến, bóng ngô đồng ngoài cửa sổ lay động theo gió, đêm khuya tĩnh lặng, ngoại trừ tiếng trẻ con khóc thì Sở Kiều chẳng nghe thấy âm thanh nào khác.

"Tứ thiếu gia gì chứ?" Khuôn mặt nhỏ bé của Lý Tu Nghi đột nhiên đanh lại, cậu bé đẩy Sở Kiều ra, chạy đến cầm bảo kiếm đầu giường của Sở Kiều rút ra, đằng đằng sát khí hét to: "Dám cướp cô cô của ta, ta muốn đi giết hắn!"

"Nghi Nhi!" Sở Kiều giật lấy thanh kiếm, tức giận quát lớn: "Con làm gì vậy?"

Miệng tiểu hoàng đế méo xệch, nước mắt cuồn cuộn ào ra, cậu bé khóc to: "Cô cô không cần Nghi Nhi nữa, Nghi Nhi biết mà, cô cô muốn đi, cô cô không cần Nghi Nhi nữa!"

Sở Kiều chán nản khuỵu xuống ôm cậu bé vào ngực, lòng đau như bị lăng trì, nghẹn ngào nói không thành tiếng.

"Cô cô đừng đi." Tiểu hoàng đế giơ đôi tay nhỏ bé ôm lưng nàng, hu hu khóc: "Nghi Nhi sẽ nhanh chóng lớn lên, Nghi Nhi sẽ bảo vệ cô cô giống như phụ hoàng, cô cô đừng đi."

Ngoài cửa đột nhiên xuất hiện một bé gái vô cùng xinh xắn nhưng bộ váy ngủ trên người lại rất xộc xệch, cô bé ngây ngốc đứng ở bậc cửa, khuôn mặt nhỏ mũm mĩm trắng nõn, hai mắt to tròn đen láy, long lanh như nước.

Lý Tu Nghi nhìn thấy cô bé thì vùng ra khỏi ngực Sở Kiều, chạy đến kéo tay cô bé, vừa khóc vừa nói: "Tiêu Tiêu mau dập đầu với cô cô, dập đầu cầu xin thì cô cô sẽ không đi nữa."

Cô bé chính là con gái của Lý Sách, năm nay mới bốn tuổi. Vì trong cung gần đây không được yên bình nên Sở Kiều mới mang cả ba bé vào sống trong Mật Hà cư, chỉ có Tiêu Tiêu quen ngủ cùng nhũ mẫu nên mới ngủ ở phòng bên cạnh.

Tiêu Tiêu ngơ ngác, cũng chẳng rõ cô bé nghe hiểu lời ca ca nói hay không mà vẫn đứng ngây ra, không nhúc nhích.

Lý Tu Nghi nhất thời tức giận hét to: "Bảo muội quỳ xuống dập đầu đó! Không nghe thấy à?"

Tiêu Tiêu *oa* một tiếng khóc to rồi quỳ xuống, hai cánh tay nhỏ xíu chống trên mặt đất, vừa dập đầu vừa nức nở: "Tiêu Tiêu sẽ không phá nữa, Tiêu Tiêu không dám nữa đâu, cô cô, hu hu..."

Sở Kiều kéo Lý Tu Nghi đang định quỳ xuống và Tiêu Tiêu ôm vào lòng, cảm giác chua xót lan tràn trong ngực.

"Cô cô không đi, cô cô sẽ không đi đâu hết." Nàng nặng nề nói từng chữ một.

Hai đứa trẻ vùi đầu vào ngực nàng khóc thật to, tiếng khóc của chúng vang vọng trong đại điện trống trải, cùng lúc đó bên ngoài nổi lên tiếng trống canh, cả hai âm thanh hòa làm một quanh quẩn trong đêm thu da diết niềm thương nhớ.

Mai Hương nhìn ba người ôm nhau, lòng như chùng xuống vực sâu không đáy. Nàng ngồi yên không động đậy, khẽ nghiêng đầu quay mặt sang chỗ khác, nước mắt chảy xuống rơi vào trong miệng, vừa mặn vừa chát như hoàng liên, cuối cùng nở một nụ cười bất đắc dĩ, "Là số mạng sao?"

.................................................................................................................

Sang ngày thứ hai, lúc Tôn Đệ tìm đến thì Sở Kiều đã chỉnh trang xong, cung trang đỏ thẫm, cổ áo viền vàng thêu hoa văn bách hợp, thoạt nhìn vô cùng lộng lẫy.

Tôn Đệ nhìn thấy thì thoáng sững sờ, một lát sau mới hé môi cười, lẳng lặng nói: "Xem ra cô nương đã nghĩ thông suốt."

Cô gái ngồi trên chủ vị, nắng sớm chiếu lên người nàng, mơ hồ ánh lên một vầng hào quang chói lọi khiến người khác không dám nhìn thẳng. Y phục hoa lệ nhưng không hề khiến anh khí giữa đầu mày bị suy giảm, ngược lại càng tô thêm phong thái thản nhiên của nàng.

Sở Kiều nhìn Tôn Đệ chằm chằm, chậm rãi cất chất giọng trong trẻo lạnh lùng: "Ít nhất cũng không làm Tôn đại nhân thất vọng."

Tôn Đệ thất thời ngẩn ra, nhưng sau đó vẫn bình tĩnh cúi đầu đáp: "Cô nương nói quá lời."

Sở Kiều không muốn nhiều lời nữa, lạnh lùng khoát tay, "Trong lòng Tôn đại nhân hẳn đã có dự tính phải nên làm thế nào, mọi chuyện đều giao cho ngươi đi."

"Vâng, thần nhất định sẽ không phụ sự nhờ vả của người."

Thoáng cái mà đã sửa xưng hô luôn rồi, Sở Kiều quay đầu sang hướng khác, muốn cười lạnh cũng thấy khó khăn.

Tôn Đệ do dự một lúc rồi thử hỏi dò: "Ba hôm nữa chính là ngày hoàng đạo."

"Ba ngày?" Sở Kiều khẽ chau mày, "Kịp sao?"

"Không việc gì, thần sẽ đốc thúc Lễ bộ và Công bộ gấp rút chuẩn bị."

"Vậy còn thánh chỉ và chiếu thư?"

Tôn Đệ mỉm cười, vô cùng đắc ý nói: "Cô nương quên rồi sao? Tiên đế vẫn chưa điền tôn hiệu trên chiếu thư sắc phong quận chúa của cô nương, chỉ cần chỉnh sửa một chút là xong. Thời gian và bút tích cũng không sai, dù sao cũng là do tiên đế tự tay viết, cộng thêm uy thế hiện giờ của cô nương, sẽ không người nào dám có nửa lời dị nghị."

"Suy tính cũng thực chu toàn." Sở Kiều không mặn không nhạt buông một câu.

Tôn Đệ chợt thấy lạnh sống lưng, vội vàng thấp giọng nói: "Vậy thần xin lui xuống chuẩn bị."

"Ừ." Sở Kiều lạnh nhạt gật đầu, thần sắc đượm vẻ mệt mỏi.

Tôn Đệ nhanh chóng xoay người rời đi, lúc hắn vừa bước chân ra khỏi bậc cửa thì bên tai đột nhiên nghe được một tiếng nói rất nhẹ: "Đây là lần cuối cùng."

Thoáng khựng chân, Tôn Đệ quay lại nhìn thì thấy Sở Kiều đã lui vào bên trong.

Chẳng lẽ là nghe nhầm?

Mày kiếm chíu chặt rồi nhanh chóng giãn ra, Tôn Đệ đột nhiên bật cười một tiếng, ngước mặt lên nhìn bầu trời cao rộng bên ngoài, dường như lại nhìn thấy khuôn mặt yêu mị của người nọ đang ha ha cười với mình.

"Ta làm như vậy chắc người nọ cũng sẽ rất vui lòng, cho dù ngoài mặt có ra vẻ chính nghĩa đàng hoàng thế nào thì nhất định đang mở cờ trong bụng." Tôn Đệ hít một hơi thật sâu, sau đó lặng lẽ nhắm mắt lại.

Bất kể bị hận đến đâu, chỉ cần giữ được huyết mạch của người nọ, phải trả giá nào cũng đáng.

Đầu tháng 10, cung Kim Ngô công bố di chiếu của tiên hoàng, sắc phong Tú lệ tướng quân Sở Kiều làm hoàng quý phi, chấp chưởng Phượng ấn, thánh chỉ cũng nói rõ, chỉ cần nàng sinh hạ hoàng tử thì sẽ được nâng làm hoàng hậu của Đại Đường.

Ngày tháng viết chỉ là ba tháng trước, lúc Lý Sách vẫn còn sống. Đạo thánh chỉ này đã biến Sở Kiều thành nữ nhân duy nhất vừa được sắc phong liền vinh dự trở thành thái hoàng quý phi. Và còn khiến người trong thiên hạ đều biết, vị Tú lệ hoàng phi này sẽ không bao giờ có thể mang thai con của Lý Sách, cho nên cả đời cũng chỉ có thể làm thái hoàng quý phi.

Đại điển sắc phong được ấn định vào ba ngày sau, màn đen lập tức được treo đầy trong Đường Kinh, Lễ bộ cũng đẩy nhanh tiến độ chế tác bộ phượng bào màu đen duy nhất trong lịch sử ngàn năm của Biện Đường, quan viên các nơi cũng hối hả chuẩn bị lễ vật, từng đoàn xe ngựa rồng rắn chen qua đường núi chạy về phía kinh thành.

Tất cả mọi người đều đang chờ đợi đại điển sắc phong ba ngày sau, ánh mắt các nước đều tề tụ về một phía, người đời lại một lần nữa bị chấn kinh. Bởi vì ai cũng biết, không chỉ là sắc phong hoàng phi, cô gái này còn sẽ là chủ nhân chân chính của Biện Đường trong mười năm tới. Không ai ngờ cô gái xuất thân nô lệ Đại Hạ khi xưa sẽ có được duyên kỳ ngộ như vậy, từng bước một bước lên đỉnh cao quyền lực.

Lúc Yến Tuân đang mở tiệc chiêu đãi khách trong cung thì biết được tin, là Phong Trí lặng lẽ tiến tới thì thầm bên tai hắn. Nghe xong, Yến Tuân liền biến sắc, ly rượu trong tay đột ngột nghiêng sang một bên khiến rượu thơm chảy ướt vạt áo bào đen thẫm.

Đám khách nhân khẽ mỉm cười, không khỏi tò mò, "Đại vương sao thế?"

Yến Tuân thản nhiên cười một tiếng, lắc đầu nói: "Con ngựa già trẫm nuôi nhiều năm vừa chết, thật ngại quá, đã làm kinh động đến quý sứ."

"Thì ra là vì một con ngựa." Đám khách cười ha hả, "Bắc Yến đất rộng nhiều của, sau này thâu tóm thêm Đại Hạ nữa thì thiên hạ này đều nằm trong tay của đại vương rồi, đến lúc đó còn thiếu gì nữa. Có điều nếu đại vương thích bảo mã thì ta sẽ lập tức phái người trở về đưa đến một ngàn chiến mã thượng đẳng cho đại vương, chúc đại vương chinh đông thuận lợi, đánh đâu thắng đó."

Tiếng cười vang vọng trong cung Sóc Phương, quanh quẩn lan xa trên cao nguyên Bắc Yến. Trời đất mênh mông, vận mệnh luôn là một mũi tên chỉ có tiến chứ không có lùi, một khi đã rời cung thì sẽ không bao giờ có thể quay lại nữa.

Đêm hôm đó, Yến Tuân dẫn theo tùy tùng đi lên hành cung Nạp Đạt trên đỉnh Lạc Nhật. Cung điện xa hoa tựa phù vân, hắn ngồi xuống bên hồ nước trong cung Vân Hải, rất lâu cũng không trở ra. Mặt trời lên rồi lại xuống núi, hoàng hôn rực lửa đỏ thẫm như hoa lửa mọc trên bình nguyên Hỏa Lôi.

Rượu mạnh không ngừng rót xuống cổ họng, tầm mắt nam nhân dần trở nên mông lung, không còn bóng dáng của cái nhìn sắc bén thường ngày. Bên cạnh không còn ai khác, hắn có thể cho phép tâm trí mình nghỉ ngơi một ngày.

A Sở, làm vợ ta nhé.

Ừ...

Ta sẽ vĩnh viễn đối xử tốt với nàng.

A Sở, sau khi chiến sự ở phía đông kết thúc, chúng ta thành thân đi.

A Sở, mưa gió đều đã qua mà chúng ta vẫn còn ở bên nhau.

Ai cũng thay đổi, chỉ chúng ta vẫn không đổi.

Chỉ chúng ta vẫn không đổi...

Trong cung Vân Hải chợt vang ra tiếng cười nhẹ, Phong Trí hơi sững sờ nghiêng đầu nhìn vào trong, chỉ ngửi được mùi rượu nồng nặc. Bệ hạ trước giờ không uống rượu, nhưng kể từ khi người nọ bỏ đi, rượu đã trở thành vật thiết yếu ở nơi này.

Nhớ đến người nọ, mũi Phong Trí lại cay cay.

Quả thật là hai con người đáng thương, trải qua bao khó khăn, sống sót từ mưa tên hầm chông, nhưng cuối cùng lại không ai có được bình an thực sự.

Gió ở Bắc Yến dần lạnh hơn, mùa đông sắp đến rồi.

.................................................................................................................

Cùng lúc đó, cửa khẩu Hiền Dương vừa xuất hiện một nhóm người. Mấy nam nhân mặt đầy gió sương dắt ngựa đi tới, trầm giọng nói: "Tin tức vừa đến, không ai biết thiếu gia không có nhà cả. Thất gia cũng dặn dò thiếu gia cứ yên tâm làm chuyện của mình, miễn trong vòng mười ngày trở về là được."

Nam tử áo tím khẽ nhướng mày, nhanh chóng tung mình lên lưng ngựa, trên mặt vẫn còn vương gió bụi.

"Lộ trình đến Đường Kinh, nếu đi tắt thì chỉ cần ba ngày, có điều dọc đường không hề có thành trấn gì nên đường xá sẽ hơi gồ ghề."

"Thời gian không nhiều, chúng ta đi đường tắt."

Một tùy tùng quay sang nói với nam tử áo tím: "Thiếu gia, có cần chuẩn bị một chiếc xe ngựa không? Người đã nhiều ngày không ngủ rồi."

"Không cần." Nam tử áo tím lắc đầu, trầm giọng hỏi: "Đường Kinh có tin tức gì mới không?"

"Sau khi cô nương tiêu diệt bè đảng của Chiêm Tử Du thì triều đình dần an ổn trở lại, nhưng tương lai chuyện ai sẽ phụ chính vẫn còn là vấn đề tranh chấp nóng bỏng. Có điều đây dù gì cũng là chuyện nội chính của Biện Đường, không liên quan tới cô nương."

Nam tử gật đầu, "Đi thôi."

Tùy tùng sau lưng nam tử lần lượt lên ngựa, vó ngựa tung lên, thoáng cái đã biến mất cuối con đường, đoàn người ngay sau đó chạy ra khỏi cổng tây thành Hiền Dương, thẳng tiến đường núi hẻo lánh.

Một canh giờ sau, sứ giả hoàng cung tiến vào thành Hiền Dương tuyên cáo thánh chỉ sắc phong Sở Kiều làm Tú lệ hoàng quý phi. Thủ phủ thành Hiền Dương quỳ xuống bái lạy rồi vội vàng trở về phủ huy động các phú hộ trong thành chuẩn bị lễ vật chúc mừng tân chủ tử.

Cách nhau thời gian ngắn ngủi nhưng lại là thay đổi long trời lở đất, vận mệnh vốn luôn khó ngờ.

Năm tháng thoi đưa, mười năm chỉ như một giấc mộng. Thoáng cái bọn họ đã không còn là cô bé búi tóc hai bên và thiếu niên cố chấp của ngày xưa. Năm tháng đã giăng ra vô số khoảng cách giữa hai người, hận nhà, thù nước, tình yêu, chiến tranh, chông gai, ly biệt, sinh tử, nhưng cuối cùng vẫn không thể cắt đứt chữ tình và nghĩa kết nối hai người họ, tựa như khi xé một cuộn vải gấm, có dùng sức mạnh đến mấy cũng không thể xé đứt hoàn toàn vô số sợi chỉ kết nối thành vải.

Một cơn gió từ Bắc Yến xa xôi xuyên qua lãnh thổ Đại Hạ rộng lớn, lướt ngang Biện Đường mênh mông ý thu cuối mùa, ve vuốt Hoài Tống phồn hoa rồi hướng đến biển cả xanh rì ở phía đông, cuối cùng lẫn vào trong bọt sóng trắng xóa.

Đường còn dài, có lẽ sẽ lại có biến cố khác, nàng có sợ không?

Không sợ.

Nhớ kỹ, ta đang chờ đấy.

Những ký ức ấm áp cuối cùng vẫn bị cuốn vào trong gió tanh mưa máu vô tận, ánh sáng từ lưỡi đao kiếm lấn át mọi cảm giác hạnh phúc cùng mong chờ ban đầu, vạch rõ sự thật lạnh lùng, phân cách thế cục hiện tại và mong ước thành hai nửa không bao giờ có thể dung hợp.

Vó ngựa cuồn cuộn đi ngày đi đêm, cổ thành Đường Kinh thoáng cái đã ở trước mắt.  


Chương 178: Lấy giang sơn làm vật cược

Tin tức Tú Lệ tướng quân được phong làm hoàng phi chỉ trong một đêm đã lan truyền khắp lãnh thổ Biện Đường. Thận Nam, Điền Tây, Việt Lâm và Vân Mạc đồng loạt tỏ ý phản đối, nhất là khu vực phía nam Biện Đường, Tĩnh An vương, Đoan Khánh vương và Hoa Dương đại công đều lần lượt khởi binh.

Lúc Lạc vương làm phản hay lúc huynh muội Chiêm thị tự ý chuyên chính, những nhóm thân thích hoàng tộc này không hề lộ mặt, nhưng nay lại rối rít giương cao khẩu hiệu trừ yêu nữ bảo vệ vua, tập hợp mười tám vạn Nam quân rầm rập chạy về phía Đường Kinh. Quan phủ các quận thành dọc đường đều không mở cửa cho bọn họ vào cũng không dám cho người ra mặt ngăn cản.

Tôn Đệ sớm dự liệu được chuyện này nên trước đó đã điều hai mươi vạn Đông quân do tướng quân Từ Tố dẫn dắt bày rào cản ở Hàm Thủy Quan, để mười vạn Sói binh bảo vệ đế đô, các nẻo đường núi đều có đặt trạm kiểm soát nghiêm ngặt. Đế đô chân chính trở thành khối sắt mưa bắn không thủng, kiếm chém không xuyên, tựa như mãnh hổ đang lẳng lặng nằm chờ kẻ địch muốn xâm phạm lãnh thổ của mình.

Tất cả đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, chỉ còn chờ đại điển phong phi ba ngày sau nữa thôi.

Gió thu đìu hiu, để bảo đảm an ninh cho lễ sắc phong cử hành trên đài Phượng Du, mấy ngày nay Đường Kinh đã thực hành lệnh cấm đi lại vào ban đêm. Vì vậy phố đêm trống trải không một bóng người, gió thu thổi lá rụng cuốn quanh gốc ngô đồng rồi bay lên cao, trong đêm tối nhìn tựa như vô số bướm vàng vỗ cánh.

Phủ Tư không*, nam tử mặc y phục thị vệ trong cung quỳ trên mặt đất, cao giọng báo cáo: "Tối qua Sở đại nhân và Mai Hương cô nương to tiếng với nhau, kinh động đến cả tiểu hoàng đế và Tiêu công chúa, sau đó nô tài chính tai nghe Sở đại nhân hứa với hoàng thượng sẽ không rời khỏi Đại Đường."

*Tam tư xuất phát từ thời hậu Hán (Đông Hán), bao gồm:

– Ðại Tư Mã: Chức quan tổng chỉ huy binh mã.

– Ðại Tư Ðồ: Chức quan coi về lễ giáo học hành.

– Ðại Tư Không: Chức quan coi về việc điều luật, dân chúng.

Tôn Đệ khẽ nhướng mày, cười hỏi: "Chính tai ngươi nghe rõ ràng?"

"Thưa phải, Mai Hương khóc rất to, tiểu hoàng đế thậm chí rút cả kiếm ra, Sở đại nhân còn đốt luôn thư của Tư mã Đại Hạ nữa."

"Sáng nay Mai Hương đi lúc nào thế?"

"Trời còn chưa sáng đã gọi người tên Đa Cát đưa đi rồi, Sở đại nhân nói nàng muốn trở về thành Học Phủ."

Tôn Đệ gật đầu, hồi lâu sau mới trầm giọng nói: "Đi rồi cũng tốt, ở lại sẽ trở thành vật cản trở."

Nam tử đứng dậy lấy ra hai thanh vàng đặt trên bàn, lạnh lùng nói: "Trở về làm tốt nhiệm vụ của ngươi, ta sẽ không bạc đãi."

"Đa tạ Tôn đại nhân!"

Sau khi thị vệ lui ra, Tôn Đệ gọi một người hầu thân cận đến, cân nhắc một lúc mới từ tốn nói: "Ngươi hãy lập tức dẫn người ra khỏi thành tìm kiếm tung tích thị nữ thiếp thân của Sở đại nhân, nếu nàng ấy thật sự trở về thành Học Phủ thì âm thầm đi theo hộ tống. Còn nếu nàng ấy đổi đầu đi hướng khác thì ngươi biết phải làm gì rồi đấy."

Người nọ thấp giọng đáp: "Thuộc hạ tuân lệnh." Nói xong lập tức đi ra ngoài, một lát sau liền có tiếng ngựa hí xa dần ở cuối con phố dài.

Tôn Đệ đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài, vầng trăng trên trời cong cong tựa như hàng mày của thiếu nữ.

"Mong rằng... mọi chuyện đều thuận lợi."

Hai ngày bình yên trôi qua, ngoại trừ ban đầu có mấy học giả ở Hàn lâm viện và vài ngự sử ở Ngự sử đài lên tiếng phản đối kịch liệt chuyện sắc phong thì văn võ trên triều đều im lặng không nói gì. Mà cũng chẳng phải vì khuất phục uy quyền của Tôn Đệ, bọn họ chỉ là e ngại binh quyền trong tay Sở Kiều. Tôn Đệ còn chưa kịp đích thân bắt giữ mấy lão cựu thần cổ hủ kia thì không ngờ Tú lệ quân đã đi trước một bước tống toàn bộ vào đại lao rồi.

Lúc biết tin Tôn Đệ cũng có hơi lo lắng, những người này tuy cố chấp nhưng dù sao cũng là thần tử thực sự trung thành với Đại Đường. Tú lệ quân coi Sở Kiều như thần, không biết sẽ trị tội bọn họ thế nào.

Hắn từng vì chuyện này tiến cung, hy vọng có thể khuyên nhủ vị thái hoàng phi giám quốc này mấy câu, kết quả lại ngậm bồ hòn trở về. Hắn đoán mấy chuyện mình làm lúc trước có lẽ đã bị Sở Kiều biết rồi nên cũng không dám quá nóng nảy, chỉ đành âm thầm căn dặn người để ý mấy cựu thần kia.

Tối nay nhất định sẽ là một đêm không yên giấc, bởi vì ngày mai sẽ là đại điển sắc phong của Sở Kiều, cũng là lần đầu tiên từ khi lập quốc Biện Đường tiến hành lễ rước dâu mà hoàng đế không còn sống. Lễ bộ làm việc sáng đêm cố gắng hoàn thiện đài Phượng Du, còn chúng quan lại thì đều biết thân biết phận ngồi yên trong nhà. Không ai đoán được sau ngày mai Đại Đường sẽ như thế nào, không biết cô gái có quan hệ mật thiết với mấy người đứng đầu các quốc gia còn lại này sẽ dẫn đắt tương lai Biện Đường về đâu. Nàng đến cùng là trung thần hay là đạo tặc cướp quyền, nàng muốn giữ nguyên chế độ vốn có hay thành lập chính quyền Đại Đồng như Bắc Yến khi xưa? Chẳng ai biết.

Sau ngày mai, chủ nhân Đại Đường còn có thể mang họ Lý sao?

Tối nay, vô số người đều đang tự hỏi như thế.

....................................................................................................................

Quân doanh của Tú lệ quân vô cùng yên tĩnh, các chiến sĩ không hề có chút mảy may dao động đối với sự xôn xao bên ngoài. Ánh trăng trong trẻo bao trùm doanh trại rộng lớn, trường thao luyện vắng vẻ không một bóng người.

Rèm trướng của Hạ Tiêu khẽ động, một người khoác áo choàng đen, đầu đội mũ trùm bước vào.

Hạ Tiêu đang ngồi trước án uống rượu, trên người mặc áo vải nâu, tóc thả không búi, vạt áo mở rộng lộ ra da thịt rắn chắc màu đồng, dáng vẻ tùy tiện phóng khoáng ngày thường khó gặp. Nhìn thấy người đi vào, hắn khẽ cau mày, cũng không lên tiếng.

Người vừa đi vào giở mũ trùm ra để lộ khuôn mặt xinh đẹp, mỉm cười nói: "Ta nhớ đêm khuya uống rượu trong doanh trại là phạm quân quy mà nhỉ."

Hạ Tiêu nhìn thấy nàng cũng không nói gì, chỉ cúi đầu tiếp tục uống rượu.

Sở Kiều tiến lên khoanh chân ngồi xuống đối diện với hắn, ngước lên hỏi: "Không mời ta một chén sao?"

Hạ Tiêu tiện tay ném một cái chén không sang, Sở Kiều cũng không giận, thản nhiên rót rượu vào chén, ngửa cổ uống cạn, chất rượu cay nồng tựa lửa nóng xộc vào óc.

Nàng khẽ nhíu mày, nói: "Rượu mạnh thật."

Thấy Hạ Tiêu vẫn không nói lời nào, nàng ra giả vờ hơi nghiêm nghị, hỏi: "Ta không tự mình đến thì huynh sẽ vĩnh viễn không đến gặp ta có phải không?"

Hạ Tiêu nhướng mày, đảo mắt một vòng lên mặt nàng rồi chợt trầm giọng hỏi: "Sao bây giờ người vẫn còn cười được thế?"

"Cớ gì không thể? So với lúc chúng ta phòng thủ Bắc Sóc, tình hình bây giờ chẳng phải tốt hơn nhiều sao?"

Hạ Tiêu nhìn nàng chằm chằm một lúc, cuồi cùng thở dài quay đầu đi, nói: "Phải, tốt hơn nhiều. Đại quyền trong tay, chuẩn bị thượng vị, đúng là tốt hơn rất nhiều."

Sở Kiều hơi nghiêng người về phía trước, ánh mắt lấp lánh như sao, bực bội hỏi: "Hạ Tiêu, huynh cũng nghĩ ta như thế à?"

Mặc dù đáy lòng hiểu rõ nhưng làm sao cũng không tiêu trừ được chút lửa giận này, Hạ Tiêu quay lại nhìn thẳng vào mắt nàng, thần sắc lạnh như băng, ẩn chứa sự tức giận cũng như đau lòng.

Sở Kiều chồm người qua mặt bàn, nhẹ giọng thì thầm bên tai người đối diện mình.

Mới đầu Hạ Tiêu còn chưa chú tâm, thoáng sau liền lập tức biến sắc, ngẩng phắt đầu lên, khiếp sợ nhìn cô gái gan to bằng trời trước mặt.

"Hạ Tiêu." Sở Kiều mỉm cười nhìn hắn, giọng điệu mang theo sự trịnh trọng cùng bĩnh tĩnh hơn hẳn những lần trước đây, "Huynh có chịu giúp ta không?"

Vị tướng quân trẻ tuổi im lặng hồi lâu, cuối cùng khóe miệng dần cong lên, vươn tay ra. Tựa như rất nhiều lần suốt mấy năm qua, hai người đột nhiên đập tay vào nhau, sau đó giơ cao nắm đấm.

.......................................................................................................................

Trong bóng đêm thanh lãnh, một đội nhân mã đang phi hối hả trên con đường núi hoang vu bên ngoài Đường Kinh. Phía trước đột nhiên xuất hiện một bóng người thúc ngựa chạy về phía họ, nam tử áo tím đi đầu kìm cương ngựa lại.

Người đối diện vốn đang chạy như điên, chợt liếc thấy hắn thì nhất thời biến sắc, đủ loại cảm xúc, kinh ngạc, vui sướng rồi không thể tin, lần lượt lướt qua trên mặt, cuối cùng nhảy *phóc* xuống khỏi lưng ngựa, quỳ xuống trên mặt đất khóc to: "Tứ thiếu gia!"

Tối nay đúng là một đêm không thích hợp để an giấc, khi mà đủ loại mưu tính đang được bày ra chờ đón buổi lễ long trọng ngày mai.

Đêm nay thật dài.

.................................................................................................................

Hừng đông, chân trời đỏ ửng, mặt trời dần nhô lên chiếu sáng thế gian.

Đại điện Quốc Tử.

Nhữ Nam vương tóc bạc phơ run rẩy tuyên đọc di chiếu của tiên hoàng rồi run rẩy quỳ xuống trên thềm ngọc trước đại điện. Sở Kiều mặc cát phục bằng gấm Thái Vân thêu hoa văn loan phượng cưỡi mây, vạt váy kết vàng điểm ngọc thành mười tám con chim phượng, eo mang đai lưng nạm ngọc tím, là hôn lễ với người đã khuất nên cát phục dùng màu tối làm sắc chủ đạo, hoa văn thêu nổi cũng là màu xanh đen, tím than, đỏ thẫm, đen bóng, lam sẫm và nâu đậm, viền áo bằng chỉ bạc, hoa văn loan phượng tường vân tuyền một màu đen, trang sức chủ yếu bằng trân châu đen, đá nguyệt quang và điền ngọc. Nhìn thoáng qua, vẻ trang trọng cùng khí tức lạnh lẽo từ trên người nàng đều khiến người khác không dám nhìn thẳng.

Từ đại điện Quốc Tử, loan giá bắt đầu lăn bánh qua quảng trường Chương Ngự, đài Bích Thụ Thiên, quảng trường Tường Vi, cổng Quỳnh Hoa, cổng Thái Khanh, cổng Thái An rồi ra khỏi cung Kim Ngô, tiến vào đường cái Thanh Vân chủ yếu dành cho hào môn thế gia trong kinh sinh sống, sau đó vòng qua đường Thiên Khải, trực chỉ đến đài Phượng Du phía trước thái miếu.

Trên đường đi, dân chúng quỳ đầy hai bên, nhìn thấy loan giá đều hô to 'thiên tuế' rồi cúi đầu sát đất. Bụi đất tung lên tựa như cơn gió lốc màu vàng.

Cuối thu cây trụi lá, kinh đô Biện Đường chìm trong sắc cờ đen, bầu trời trong xanh lồng lộng, vầng thái dương tỏa sáng khắp nơi. Quang cảnh tựa một bức tranh sơn thủy mỹ lệ, vẻ phồn hoa thịnh vượng như bụi mờ chất lớp che phủ tàn dư của mấy trận máu tanh trên thành trì này.

Loan giá dừng lại, đài Phượng Du được xây trên ba trăm sáu mươi sáu bậc thang bằng bạch ngọc, cao gần trăm trượng. Đứng trên đài nhìn xuống có thể bao quát toàn bộ Đường Kinh, kể cả cung Kim Ngô nguy nga tựa như cũng bị nó giẫm dưới chân.

"Sở thị xuất thân danh môn, đức độ lễ nghĩa, tài cao học rộng, khiêm tốn hiền lành, thục huệ thiện lương, nay đặc biệt sắc phong làm hoàng quý phi, toàn quyền phụ chính giám quốc, vĩnh phúc dài lâu."

Âm thanh tuyên chỉ trang nghiêm quanh quẩn trên không trung, mũ phượng bằng vàng ròng nằm ngay ngắn trên chiếc bàn trước tổ miếu, phượng ấn, bút son, ngọc tỷ lần lượt được đặt bên cạnh. Chúng tượng trưng cho quyền hành mà người cả thiên hạ đang dõi mắt nhìn vào, chỉ cần tiến lên một bước cầm chúng trong tay, thì thế gian sẽ không còn ai có thể dễ dàng động đến nàng.

Sở Kiều đứng trên đài Phượng Du cao cao, phía dưới là hàng vạn hàng ngàn bóng dáng quỳ san sát với đủ loại ánh mắt đang nhìn nàng, có ghen ghét, có oán độc, có sợ hãi, có e dè, có bàng hoàng, cũng có chút kỳ vọng tha thiết, nhưng hoàn toàn không có chút ấm áp nào. Thềm ngọc dưới chân lạnh buốt, trên đầu mặt trời sáng rực nhưng nàng vẫn thấy toàn thân như chìm trong băng hàn.

Lễ bộ thượng thư quỳ gối trước mặt nàng, tay bưng khay đựng ấn tín hoàng kim. Đầu lão cựu thần thất tuần cúi thật thấp, đầu gối khẽ run run vì tuổi già.

Một cơn gió lớn chợt thổi qua, chân trời chợt xuất hiện hùng ưng kết thành đàn bay xẹt ngang. Sở Kiều ngẩng đầu lên, trước mắt nàng là cổng thành sừng sững, tường sắt đỏ thắm, thành lâu cao vút, tòa thành trì có tuổi đời hơn ngàn năm này như đang chăm chú nhìn nàng, chờ đợi một khoảnh khắc mang tính lịch sử.

Chỉ cần đưa tay ra, nàng chỉ cần đưa tay ra nhận lấy thì một phần tư thiên hạ này sẽ nằm trong tay nàng.

Trong một khắc, nàng như chợt nhìn thấy đôi mắt kia, trong trẻo lạnh lùng nhưng cũng cực nóng, cùng nét chữ rồng phượng viết: Hết thảy đều phải đợi ta!

Hết . thảy . đều . phải . đợi . ta!

Kèn hiệu sắc phong đột nhiên đồng loạt vang lên, hùng tráng như có ngàn vạn đàn thú cùng lúc rống to.

....................................................................................................................

Hướng bắc bên ngoài Đường Kinh, một con chiến mã đứng ở đầu cầu, cỏ thu khô vàng bị gió thổi tung lên không trung, mặt trời buổi sớm rải vàng lên khắp bình nguyên rộng lớn.

Nam tử mặc y phục tím toàn thân, ngọc quan búi tóc, ngũ quan tuấn tú, ánh mắt thăm thẳm như hồ sâu, trầm tĩnh không chút gợn sóng.

Gió chợt nổi lớn hơn, chiếc chuông gió be bé đeo trên cổ nam tử khẽ lay động, một giọng nữ uyển chuyển vang lên: "Nhớ kỹ, ta đang chờ đấy."

Ta đang chờ... ta đang chờ...

Nắng sớm xuyên qua tầng mây mở ra vô số con đường ánh sáng từ trên cao, vạn vật như được đổi mới, đẹp đến ngây ngất.

Cổng thành phía nam Đường Kinh đột vang lên một tiếng *ầm* thật lớn, chấn động đến tận chỗ thái miếu.

Chân trời phía nam bốc lên bụi mù dữ dội, che khuất cả nắng sớm vừa rọi xuống, có tiếng binh lính hoảng hốt kêu to: "Tĩnh An vương tập kích kinh thành! Đại tướng quân Từ Tố phản bội theo địch! Quân của Tĩnh An vương đã chuẩn bị vào thành! Đại tướng quân Từ Tố phản bội theo địch rồi!"

Trong nháy mắt, toàn thành lập tức náo loạn, mặt ai cũng xám ngoét. Tôn Đệ đứng dưới đài, sắc mặt biến trắng bệch.

Lễ bộ thượng thư ngã ngồi ra trên đất, phượng ấn trong khay rơi xuống trên thềm bạch ngọc, sắc vàng lấp lánh dưới nắng.

Sở Kiều đi từng bước xuống đài, đến đứng trước mặt Tôn Đệ. Tôn Đệ ngẩng đầu lên nhìn nàng chằm chằm, ánh mắt vừa kinh hãi vừa bàng hoàng không nói nên lời.

"Tôn đại nhân." Sở Kiều móc ra một tờ giấy, trên giấy liệt kê một dãy dài tên tuổi của các đại quan trong triều, "Đây là danh sách các đại thần trong kinh bí mật liên lạc với Tĩnh An vương chuẩn bị tạo phản trong khoảng thời gian này, phiền ngươi nhanh chóng đi xử lý."

Sở Kiều vừa dứt lời, vô số đại thần quỳ trước đài lập tức tái mặt. Tôn Đệ sững sờ nhận lấy, nghi hoặc nhìn nàng, dường như đến giờ hắn mới nhìn rõ cô gái trước mặt.

"Ta phải lập tức lĩnh binh ra nghênh chiến với Tĩnh An vương, an nguy của hoàng thượng và dân chúng trong thành xin phó thác cho ngươi."

"Nhưng trong kinh và mấy vùng lân cận chỉ có khoảng mười lăm vạn quân, còn quân số bên địch..."

Sở Kiều ngắt lời hắn, "Chúng ta còn có Từ đại tướng quân."

"Từ đại tướng quân không phải đã..."

"Đây cũng chẳng phải lần đầu Từ đại tướng quân diễn màn kịch này."

Tôn Đệ nhất thời ngây người, sững sờ nhìn Sở Kiều tiện tay xé toạc bộ cát phục tráng lệ trên người, lộ ra khôi giáp màu bạc bên trong, châu ngọc cài trên đầu cũng bị rút ra ném xuống đất. Nàng dùng một dải vải xanh đen cột gọn tóc, phóng lên lưng chiến mã vừa được Hạ Tiêu dắt đến rồi dẫn tướng sĩ Tú lệ quân rầm rập rời đi.

Mười lăm vạn quân thủ thành đã sớm dàn trận đón địch bên ngoài hoàng thành, cô gái mặc giáp bạc, vẻ lạnh lùng băng giá trên mặt được thay bằng anh khí ngất trời, khiến toàn thân nàng rực rỡ sáng chói như phượng hoàng vừa dục hỏa trùng sinh. Nàng vung trường kiếm, ngẩng đầu nhìn lên thành, quát to: "Mở cổng thành!"

Khoảnh khắc đó, trời đất như chào đón ánh sáng đầu tiên, chói lóa rực rỡ đến mức khiến người nhìn xúc động phải rơi lệ.

Cổng thành sừng sững chậm rãi mở rộng, hàng vạn vó ngựa hất tung bụi rầm rập chạy về phía chiến trướng cách đó mười dặm.

Thế gian là lò tôi luyện, vạn vật là than trong lò, thời loạn thế sinh minh chủ, và nàng chính là thanh kiếm sắc mà mọi minh chủ đều mơ ước.

Gió không ngừng tạt qua bên tai, Sở Kiều lại một lần nữa nhớ lại lời Lý Sách nói với mình trước khi chết:

Sau khi ta chết, triều đình chắc chắn đại loạn, huynh muội Chiêm thị chỉ là hổ giấy mà thôi, thân thích hoàng thất mới chính là sói dữ thật sự. Tôn Đệ hành sự thường hay quá khích, nếu có dị động thì chớ nghe theo hắn. Cầm ban chỉ ta đưa nàng lúc trước đến Hàm Thủy, Từ Tố nhìn thấy nó sẽ nghe theo hiệu lệnh của nàng, Sói binh của Thiết Do cũng sẽ nghe nàng chỉ huy.

Kiều Kiều, nàng đã sống nửa đời trong ràng buộc rồi, nếu cái chết của ta lại khiến nàng bị quẩn chân thì ta ở dưới cửu tuyền cũng nhắm mắt không yên.

Không được để ta thất vọng đấy...

Khóe mắt lại cay xè, Sở Kiều mím chặt môi, ra sức quất roi thúc ngựa. Trên bình nguyên ở phía trước, binh lính hai phe đã bắt đầu giao chiến. Từ Tố khoác giáp toàn thân, oai vũ tựa chiến thần, tay cầm đại đao, sau lưng đeo khẩu hiện 'giết phản tặc, giết gian thần', tiến lên trước làm gương cho binh sĩ.

Sói binh hét to một tiếng 'Giết' đinh tai nhức óc. Trên bình nguyên bao la rộng lớn, trận chiến giành quyền trị vì Đại Đường cuối cùng cũng nổ ra.

....................................................................................................................

Ngày 8 tháng 10 năm Vĩnh Quân, Vương vờ đăng vị, dụ Tĩnh An vương, Đoan Khánh vương và Hoa Dương đại công dẫn mười tám vạn binh sĩ chạy đến Hàm Thủy Quan chuẩn bị làm phản. Trên đường đi lần lượt thu được phó tướng Cấm tắc doanh ở Thận Nam là Phương Hoài Hải, thượng tướng Tây quân ở Điền Tây là Điền Nhữ Cổ, phó thống lĩnh Lưu Mộ Bạch ở Tịch Chiếu, tham tướng Chu Cảnh ở Hoài Thành và đại tướng Từ Tố ở Hàm Thủy về dưới trướng, thế như chẻ tre thẳng tiến đến kinh đô. Vương được tin liền cởi cát phục, khoác giáp trụ, mở cổng Nam Xương, dẫn quân nghênh đón địch.

Phương Hoài Hải, Điền Nhữ Cổ, Lưu Mộ Bạch, Chu Cảnh và Từ Tố nhìn thấy chiến kỳ của Vương liền đồng loạt giơ cao cờ chống phản loạn, quay sang tấn công phản quân. Vương lĩnh binh tham chiến, giết chết hơn ba vạn kẻ địch, còn lại đều bắt sống. Tĩnh An vương Chu Doãn chết dưới kiếm của Từ tướng quân, thọ năm mươi bảy tuổi.

Hai ngày sau, Vương đưa trả phượng ấn, dùng lý do thân phận nữ nhi không dám cầm quyền, quỳ trước thái miếu xin tiên hoàng thu hồi mệnh lệnh đã ban. Hôm sau Vĩnh Quân đế đến, cảm kích ơn nghĩa của Vương đối với Lý thị, đặc biệt chuẩn tấu bỏ phẩm vị hoàng quý phi, đổi lại tước vương nhất đẳng, vương vị đời trước truyền cho đời sau, ban tặng sách ngọc, mãng bào nhất phẩm và phong hào Tú Lệ.

—Trích 'Sử thi Biện Đường · Tú Lệ vương truyền kỳ', cuốn 127 —

....................................................................................................................

Sở Kiều mặc y phục trắng ngà, lẳng lặng đứng trước cửa cung. Sắc trời ngả vàng, chim bay về rừng, cả người nàng như được bao trong ánh hoàng hôn, thoạt nhìn vô cùng bình thản nhẹ nhàng, không còn bóng dáng gì của vẻ sắc bén cùng anh khí khi rong ruổi trên chiến trường.

Xe ngựa dành cho Đại tư không vừa ra khỏi cung, nhìn thấy Sở Kiều liền dừng lại. Tôn Đệ chậm rãi xuống xe, nhìn nàng thì có hơi ngắc ngứ, nhất thời không biết nên mở lời thế nào. Hắn đắn đo vấn đề xưng hô một lúc, lại nhìn bộ dạng cười thong dong của nàng, cuối cùng vẫn phải cúi đầu gọi: "Sở đại nhân."

"Tú lệ quân đều đã ở lại Biện Đường an cư lạc nghiệp, sinh con dưỡng cái, không còn là quân đội riêng của ta nữa. Ta đã phó thác Tú lệ quân cho Tôn đại nhân thì bản thân ta đã không còn là thống soái của bọn họ, không dám tiếp tục nhận danh xưng 'đại nhân'."

Sở Kiều mỉm cười nói tiếp: "Cũng đến lúc thả mấy vị đại nhân hôm đó công khai phản đối sắc phong ra rồi. Hoàng thượng đăng vị lúc còn bé, phải nhân cơ hội thu mua lòng thần tử, cho nên ta sẽ không thay hoàng thượng viết chiếu thư thả người đâu. Sau khi ta đi, Tôn đại nhân cũng chớ bận việc mà quên mất mấy trung thần còn bị giam trong Thượng lý viện đấy."

Tôn Đệ đáp: "Thần sẽ ghi nhớ lời dạy của đại nhân."

"Tôn đại nhân, mấy lời vừa rồi là do Tú Lệ vương của Đại Đường nói với ngươi, còn bây giờ là Sở Kiều ta có mấy lời muốn nói."

Tôn Đệ thoáng sửng sốt, từ từ ngẩng đầu lên, nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp của cô gái đứng đối diện mình thì trên mặt lộ thần sắc khó tả, không tự chủ gật đầu, "Xin lắng nghe."

"Ngươi cũng biết, đi trên con đường của đế vương, vĩnh viễn không thể mang lòng dạ đàn bà. Vì vậy, ta là hoàng phi hay thân vương của Đại Đường cũng sẽ không có ảnh hưởng gì đến khuynh hướng chính trị ở Bắc Yến và Đại Hạ. Thời cơ chín muồi thì đại chiến tất xảy ra, tuyệt đối sẽ không vì quan hệ cá nhân mà bị trì hoãn. Tuy các thế lực phản đối ở Biện Đường hiện giờ đều đã bị tiêu diệt, nhưng các ngươi cũng không thể khinh suất. Chiến tranh giữa Đại Hạ và Bắc Yến là chuyện đã định, tương lai thiên hạ đi về phía nào, cả ta và ngươi đều không thể phỏng đoán cũng không thể thay đổi cục diện. Chúng ta chỉ có thể tự mình toàn lực bảo vệ huyết mạch của Lý Sách và cơ nghiệp thiên cổ của Đại Đường mà thôi."

Tôn Đệ nhìn Sở Kiều, mi tâm khẽ chau, mặt lộ chút áy náy, thấp giọng hỏi: "Sở đại nhân, ta từng tính toán người như thế, vì sao còn giao trọng trách giám quốc vào tay ta?"

Sở Kiều mỉm cười, thản nhiên nói: "Có ba nguyên nhân. Một, kinh thành và ngoại thành có Thiết Do canh giữ, xa hơn có binh mã của tướng quân Từ Tố trông coi, bọn họ đều là thần tử trung thành. Ngươi chỉ là quan văn, nắm quyền phụ chính cũng không có nghĩa là có thể thể điều binh, ngươi lại không có thân phận hoàng thất, muốn tạo phản thì hoàn toàn không danh chính ngôn thuận, không có binh quyền lẫn hoàng quyền, tất sẽ không thành công."

Ánh hoàng hôn chiếu xuống tựa như đang phủ bụi hồng lấp lánh lên mặt Sở Kiều, nàng tiếp tục nói: "Hai, Đường Kinh vừa mới trải qua mấy trận đại chiến, người dân cần nghỉ ngơi dưỡng sức. Lạc vương và Tĩnh An vương lần lượt rơi đài, uy danh hoàng thất hiện đang thịnh vượng, ngươi không được lòng dân thì sẽ không cách nào phát động người dân theo mình binh biến, cả thời cơ và dư luận đều không có."

"Và nguyên nhân thứ ba là..." Sở Kiều cong môi, ánh mắt chợt trở nên ranh mãnh như hồ ly, lấp lánh tựa sao trời, khúc khích cười nói: "Ta tin ngươi."

Tim đột nhiên lỗi nhịp, Tôn Đệ nhìn Sở Kiều trân trân, tựa như không tin vào lỗ tai mình.

"Ta tin ngươi, Lý Sách cũng tin ngươi. Tuy ngươi hành sự đôi khi quái gở cực đoan, nhưng lại là thần tử trung thành với Lý gia nhất Đại Đường. Lý Sách trước khi chết đã chọn ngươi là ứng viên phụ chính đầu tiên, ta cũng hoàn toàn tán thành."

Nàng móc từ trong ngực ra hai phong thư giao cho Tôn Đệ, nói: "Đây là thư do Thất hoàng tử Triệu Triệt của Đại Hạ và Thanh Hải vương Gia Cát Nguyệt tự tay viết, bày tỏ nguyện ý kết đồng minh với Biện Đường. Vị thế chính trị của ngươi được thế lực hai bên ủng hộ tuyệt đối, không cần phải cố kỵ kẻ khác làm áp lực với mình. Ta cũng sẽ toàn lực ủng hộ ngươi, tin tưởng ngươi nhất định sẽ có thể nuôi dưỡng hoàng đế trưởng thành nên người."

Tôn Đệ run run nhận lấy hai phong thư kia mà cảm thấy chúng nặng như núi. Hắn đột nhiên quỳ xuống trước mặt Sở Kiều, trầm giọng nói: "Xin đại nhân yên tâm, Tôn Đệ xin thề tận hiến với Lý gia và Đại Đường, nếu Đại Đường có gì bất trắc, ta nguyện lấy cái chết tạ tội."

"Tôn đại nhân chớ nói vậy." Sở Kiều đỡ Tôn Đệ dậy, lẳng lặng nhìn hắn rồi thành khẩn nói: "Bằng hữu của Lý Sách cũng chính là bằng hữu của ta, Lý Sách tin tưởng ngươi, ta cũng sẽ tin tưởng ngươi."

Hoàng hôn đỏ rực như máu, Tôn Đệ đứng trên tường thành lộng gió nhìn theo Sở Kiều được đám người Hạ Tiêu và Bình An hộ tống rời đi, để lại cái bóng thật dài trên bình nguyên rợp cỏ vàng. Thiếu nữ xinh đẹp vung cao roi, tựa như một chú ưng đứng trước cửa lồng giam, vạt áo bào trắng phần phật trong gió như đôi cánh chim khổng lồ.

Nàng chính là một hùng ưng không ai có thể chặt cánh, trừ chính bản thân nàng thì không người nào có thể buộc nàng ngừng sải cánh bay trên bầu trời cao.

Đến đây thì Tôn Đệ chợt hiểu được vì sao người nọ lại cố chấp nhiều năm đến vậy. Thế gian có người này, quả thật như mặt trời rọi sáng trời đất.

Hắn ngẩng đầu lên, hít một hơi thật sâu, bất chợt như lại thấy được người bạn thân thiết mỉm một nụ cười cà rỡn, mặt gian tà đến gần bên tai mình, he he thì thầm: "Ngươi đoán thử xem da thịt trên người Tam tiểu thư nhà Hồ đại nhân trắng trẻo nõn nà đến cỡ nào?"

Gió thu lồng lộng, lá vàng tung bay, trời thu tiêu điều nhưng cũng là mùa thu hoạch.

....................................................................................................................

Trên đầu cầu, Gia Cát Nguyệt một thân cẩm bào ngồi trên lưng ngựa.

Phương Chử trầm giọng báo: "Chủ nhân, Sở cô nương đến."

Lời vừa dứt, đường chân trời liền xuất hiện một đội nhân mã, thiếu nữ đi đầu mặc y phục tuyền trắng, mỉm cười thúc ngựa chạy đến.

"Tiểu thư!" Mai Hương vốn đang ngồi trên một tảng đá bên cạnh, nhìn thấy Sở Kiều thì lập tức mừng rỡ nhỏm dậy, Đa Cát cũng vui vẻ tiến lên đón. Nhóm người thoáng cái đã chạy đến trước mặt bọn họ, Sở Kiều nhảy xuống khỏi lưng ngựa. Mai Hương nhào đến ôm lấy nàng, vừa khóc vừa nói: "Tiểu thư, em cứ tưởng người lại gạt em, em cứ tưởng người sẽ không tới."

Đám người Bình An và Thanh Thanh cũng vui vẻ chạy đến tụ họp với Đa Cát, hỏi han đủ chuyện. Bình An tường thuật lại trận đại chiến ngày đó, lời lẽ vô cùng sinh động, dáng vẻ như rất đắc ý. Hạ Tiêu không có gia quyến và cũng không muốn ở lại Biện Đường nên chọn đi theo Sở Kiều. Hắn và mấy người Nguyệt Thất tuy chưa từng gặp nhau nhưng đã sớm nghe thấy đại danh của đối phương, nên chỉ chốc lát đã trở nên thân quen.

Chỉ có Gia Cát Nguyệt vẫn xanh mặt đứng yên tại chỗ, lạnh lùng nhìn Sở Kiều và Mai Hương nắm tay nắm chân, răng nghiến đến sắp nát vụn.

Rốt cuộc nhận ra ánh mắt dữ tợn của người nào đó đã lâu không gặp, Sở Kiều mới tươi cười đi về phía hắn. Gia Cát Nguyệt vừa mới động thì nàng đã lập tức biết điều giơ cao hai tay, hét to: "Đầu hàng! Đây là lần cuối cùng! Ta bảo đảm!"

Gia Cát Nguyệt muốn giáo huấn người nào đó một chút, nhưng giơ tay một hồi vẫn không biết xuống tay vào đâu, nhìn bộ dáng rụt đầu rụt cổ mắt nhắm tịt của nàng thì lại có hơi không tự nhiên, cả giận nói: "Làm gì vậy, sao không đỡ?"

Sở Kiều mở mắt ra, chu môi ra vẻ đáng thương, "Thì đang nhận lỗi chứ sao nữa."

"Còn biết mình sai?" Gia Cát Nguyệt lườm một cái, mặc kệ ánh mắt hóng chuyện của đám thuộc hạ xung quanh, đưa tay nhéo nhéo hai má bầu bĩnh của Sở Kiều, trầm giọng hỏi: "Dám không trả lời thư của ta, gan to ra rồi phải không?"

"Ta có rảnh đâu!" Sở Kiều đau khổ biện minh cho bản thân.

"Không rảnh trả lời thư mà có thời gian đốt thư của ta?"

Sở Kiều ngước mặt lên, tiếp tục biện hộ cho mình: "Nếu không làm ra bộ dạng khổ sở âu sầu như vậy, sao có thể khiến Tôn Đệ tin là thật. Hắn không tin thì đám người Tĩnh An vương sẽ càng không tin."

"Cho nên ngay cả Mai Hương nàng cũng gạt?" Gia Cát Nguyệt nhìn Sở Kiều chằm chằm, tiếp tục truy tới cùng: "Nàng khẳng định mình lúc đó thật sự không có ý định kia? Khẳng định không phải ngay phút cuối phát hiện lương tâm hổ thẹn mới đổi ý?"

"Sao có thể chứ?" Sở Kiều uất ức kêu to: "Ta là người không có lập trường kiên định như vậy sao?" Nói xong liền quay sang xung quanh tìm kiếm sự ủng hộ, nhưng lại phát hiện toàn bộ người phe mình đều rất thức thời quay lưng với nàng, còn liên tục gật đầu như đang muốn nói: Chính xác không sai!

Sở Kiều trắng mắt liếc bọn họ một cái rồi vội vàng hướng về vị đại gia tương lai sẽ cho nàng cơm ăn áo mặc, phân trần: "Chớ tin bọn họ, ý chí cách mạng của ta năm đó đứng đầu toàn quân đấy."

Gia Cát Nguyệt lườm nàng, hừ mũi nói: "Coi như nàng thức thời, bằng không ta liền kéo binh đánh sập hang ổ của Lý Sách để xem nàng còn có thể làm hoàng phi của ai nữa."

Khoác lác hay lắm, làm được thì hẵng nói.

Sở Kiều nhủ thầm trong bụng như vậy, nhưng ngoài mặt vẫn biết điều nói: "Đã bảo là không có rồi mà. Ta nói thì sẽ giữ lời, tuyệt đối không đổi ý."

Gia Cát Nguyệt rất không có tiền đồ nhớ lại lời nàng nói hôm đó thì lòng tự tôn của nam nhân liền được xoa dịu.

Trong cỗ xe ngựa đi theo đám Sở Kiều đột nhiên vang ra một tiếng *Oa!* thật lớn khiến nhóm người Gia Cát Nguyệt sửng sốt. Sở Kiều vội vàng chạy tới vén rèm xe lên, nhũ mẫu ôm một đứa bé khoảng bốn năm tháng tuổi bước ra. Đứa bé kia dĩ nhiên vừa mới tỉnh dậy, bắt đầu công tác thường ngày phải làm là: Khóc.

Sở Kiều nhanh chóng đón lấy đứa bé từ tay nhũ mẫu vào lòng, dỗ dành vô cùng chuyên nghiệp.

"Cái gì đây?" Sắc mặt Gia Cát Nguyệt lập tức trở nên âm trầm, lạnh lùng hỏi.

Sở Kiều ngạc nhiên nhìn hắn một cái rồi trả lời với giọng đương nhiên: "Con nít."

"Ta biết." Ngữ khí của Gia Cát Nguyệt càng lúc càng nghe không thuận, hỏi như sắp bùng nổ: "Là con ai?"

Chợt nhớ ra vẫn chưa giải thích với mọi người, Sở Kiều liền nói: "Đây là con thứ ba của Lý Sách, tên thằng bé là Lý Thanh Vinh, nhưng sau này chắc chúng ta phải đổi tên khác cho bé rồi. Mẹ thằng bé là Chiêm Tử Minh, trước khi Lý Sách qua đời có gửi gắm bé cho ta, nói rằng sau này sợ bé sẽ bị người trong cung hãm hại, bảo ta dẫn thằng bé xuất cung."

"Con trai của Lý Sách?" Gia Cát Nguyệt chau mày tiến lên xem xét, đứa bé môi hồng răng trắng, tròng mắt đen láy, đang cau có bĩu môi níu chặt vạt áo của Sở Kiều, quả nhiên rất giống vị cố nhân đã qua đời kia.

Nhìn thằng bé xong, hắn cũng chợt thấy hơi xúc động, vừa định lên tiếng nói chuyện thì đứa bé kia đột nhiên liếc thấy hắn, đôi con ngươi be bé đảo một vòng rồi cuối cùng buông ra một tiếng khóc kinh thiên động địa đến quỷ thần cũng phải khiếp vía, tay chân khua loạn xạ, dáng vẻ vô cùng khó chịu.

"Sao vậy? Sao lại khóc dữ đến vậy?" Sở Kiều bối rối hỏi.

Mai Hương cũng chạy lại, hỏi nhũ mẫu đứng cạnh: "Hay tại bé đói bụng?"

Nhũ mẫu vội vàng lắc đầu, nói chỉ mới vừa cho bé bú xong cách đây không lâu. Mai Hương sờ sờ tã bé, vẫn còn khô ráo.

Sở Kiều như đột nhiên có thần giao cách cảm, quay lại nói với Gia Cát Nguyệt: "Hình như thằng bé ghét chàng."

Gia Cát Nguyệt giận xanh mặt, tức tối nói: "Tại sao lại ghét ta?"

"Chàng thử đi ra xa một chút xem."

Người nào đó vô cùng không thể tiếp nhận sự thật, nhíu mày kiếm, nói: "Tại sao? Ta có đụng chạm gì nó đâu?"

"Người có nhân duyên không tốt thường bị trẻ con ghét, không chừng chàng chính là vậy."

"Đúng đó tỷ phu, mau đứng xa ra một chút, hình như Vinh Nhi thấy tỷ phu đáng sợ nên mới khóc." Thanh Thanh ở một bên thêm dầu vào lửa.

"Sao có thể chứ?" Nguyệt Thất yếu ớt phản bác, một lòng ủng hộ chủ tử của mình, "Thật ra thì thiếu gia nhìn cũng rất bình dị dễ gần mà..." Chỉ tiếc lá gan quá bé nên càng nói giọng càng nhỏ dần.

Cuối cùng Gia Cát Nguyệt vẫn bị mọi người đuổi ra xa. Quả nhiên hắn vừa khuất dạng thì Lý Thanh Vinh đang khóc rống liền ngưng bặt, tuy vẫn còn thút thít nhưng mặt đã tươi tắn hơn nhiều, một chốc sau tiếng khóc liền bị thay bằng tiếng cười khanh khách. Thì ra là thằng bé với tay nắm chuôi kiếm của Nguyệt Thất không được liền phẫn hận ra sức cắn vai hắn.

Gia Cát Nguyệt ngồi trên một tảng đá ở xa nhìn đám người, oán thầm trong bụng: Tiểu tử chết bầm, cùng một giuộc với cha ngươi.

Một lát sau, Sở Kiều vui vẻ chạy đến ngồi xuống cạnh hắn.

Phía bên kia, đám người Nguyệt Thất đầu đội trời chân đạp đất nhưng lại luống cuống tay chân vì một đứa con nít. Lát sau đã nghe Mai Hương chỉ vào Phương Chử còn đang ngơ ngơ, kêu lên: "Thằng bé té bây giờ, đặt tay ở đây này, trời ơi, ta bảo ngươi đỡ ở chỗ này, ngươi lại đỡ đi đâu vậy!"

Sở Kiều ôm tay Gia Cát Nguyệt, nghiêng đầu tựa vào vai hắn, thở ra một hơi thật dài rồi nói: "Cuối cùng cũng kết thúc."

"Mệt không?"

"Vẫn ổn." Sở Kiều nhắm mắt lại, nắng chiều rọi xuống khiến mặt nàng thêm hồng nhuận, "Có điều sợ chàng lo lắng nên luôn một mực đốc thúc bản thân phải nhanh lên."

Gia Cát Nguyệt vẫn còn oán giận nên tiếp tục truy hỏi: "Tại sao không đọc thư của ta?"

"Ta cũng không biết mình có thể thành công hay không?" Nàng dịu dàng ngẩng đầu lên nhìn Gia Cát Nguyệt, cười nói: "Lúc đó bản thân ta cũng không có lòng tin, sợ sẽ thất bại, sợ sẽ chết, sợ xem thư của chàng rồi sẽ không còn dũng khí tiếp tục nữa."

Nụ cười trên mặt Sở Kiều tươi tắn như hoa, nàng trước giờ rất ít khi cười thoải mái như vậy, không vướng mắc, không khắc khoải, "Chàng là chỗ yếu trong tim ta, sẽ làm ta không thể tiếp tục kiên cường."

Gia Cát Nguyệt nhìn nàng, sắc mặt dần trở nên nhu hòa. Hắn vươn tay ra ôm eo nàng, nhẹ giọng nói: "Ở bên cạnh ta nàng không cần phải kiên cường." Dứt lời thì cúi xuống hôn lên môi nàng.

"Ối! Ngượng chết đi được!" Thanh Thanh chợt hét lên chói tai.

Trời đất mênh mông, thu cuối mùa nhuộm vàng khắp nơi. Gió từ đằng xa thổi đến, chiếc chuông nhỏ lay động, phát ra tiếng nói dịu dàng: Nhớ kỹ, ta đang chờ đấy.

Ta đang chờ chàng, ta đang chờ chàng, vĩnh viễn sẽ chờ chàng...

"Gia Cát Nguyệt, sao chàng không vào thành vậy? Lúc sắc phong ta mặc cát phục đẹp cực kỳ đấy!

"Chờ đi, tương lai sẽ cho nàng bộ khác còn đẹp hơn."

"Nói phải giữ lời đó."

"Nhất định."

"Thành giao!"  


Chương 179: Thẳng thắn bộc lộ

Sở Kiều chưa bao giờ nhìn thấy Gia Cát Nguyệt ngủ nhiều như vậy, ở Thương Châu vừa lên thuyền thì hắn liền ngủ suốt một ngày một đêm, nàng vào phòng cũng không biết. Nguyệt Thất nói, từ lúc rời khỏi thành Chân Hoàng đến giờ, hắn chưa ngủ trọn đêm nào, đến Hiền Dương chuyển sang đi đường bộ thậm chí còn không chợp mắt, nên hiện giờ có lẽ đã mệt mỏi đến cùng cực.

Thêm vào đó, dường như thân thể Gia Cát Nguyệt cũng không được tốt lắm, đi đường mấy ngày, nàng từng tìm được ít thuốc viên đen thui trong phòng riêng của hắn, cầm ra ngoài hỏi Nguyệt Thất thì cũng chỉ nhận được câu trả lời qua loa. Đi hỏi Đa Cát có chút hiểu biết về dược liệu thì lại nghe cậu đoán là do Gia Cát Nguyệt vất vả quá độ, máu huyết thiếu hụt, hàn khí xâm nhập.

Vất vả quá độ, hàn khí xâm nhập...

Sở Kiều ngồi trên chiếc ghế ở cạnh cửa sổ suy tư. Con thuyền này được đóng rất chắc, thời tiết lại đẹp nên lướt đi rất êm. Có đóng cửa sổ lại thì vẫn có thể qua khe cửa nhìn thấy trời trong nước xanh lướt qua bên ngoài.

Nàng chợt nhớ đến đoạn thời gian bị Triệu Thuần truy đuổi phải chạy đến Biện Đường, nàng và Lương mọt sách bị người Chiêm gia mua về làm nô lệ. Lúc đó nàng đang bị thương, Lương mọt sách chạy ra ngoài lấy cơm cho nàng nên trong khoang thuyền thường xuyên chỉ có một mình nàng, ngày ngày xuyên qua khung cửa sổ duy nhất nhìn phong cảnh bên ngoài. Có một hôm trời mưa rất to, như mơ hồ nghe thấy tiếng hí của Lưu Tinh, nàng hoảng hốt mở tung cửa sổ nhìn ra ngoài thì nhận ra thuyền đã rời bến, càng lúc càng xa bờ.

Lúc ấy huynh muội Chiêm Tử Du và Chiêm Tử Minh vẫn còn là người của một gia tộc sa sút, Lý Sách vẫn còn là thái tử tùy tiện náo động Đường Kinh, đám người Ô tiên sinh và Vũ cô nương vẫn đang ra sức phấn đấu vì lý tưởng của mình, Yến Tuân vẫn là người bạn và người yêu cùng nàng lớn lên từ nhỏ. Lúc ấy, cả nàng cũng tràn đầy lòng tin đối với tương lai, tự tin cho rằng có thể dựa vào sức của bản thân, cùng với sự giúp đỡ của nhóm bạn bè cùng chí hướng, sẽ có thể thay đổi tình trạng hoang tàn loạn lạc của thế gian.

Đáng tiếc, thời gian quả thực vẫn là vũ khí giết người vô tình nhất trên đời. Lý Sách không còn, Ô tiên sinh bị bắn chết, Vũ cô nương ra đi trong lòng nàng, Chiêm Tử Du hại chết tất cả người thân chỉ vì dã tâm của bản thân. Bằng hữu cùng chí hướng thực ra cũng không trung trinh một lòng như nàng đã tưởng, trước cám dỗ của hoàng quyền, rất nhiều người dần rời bỏ nàng, ngay cả Yến Tuân cũng ngày càng xa cách, cuối cùng trở thành người dưng không quen biết.

Đứng trước giang sơn, trước bá nghiệp, lý tưởng đều biến thành tro bay theo gió, mọi thề nguyền cũng như lá cuối thu, gió thổi liền bay sạch.

Đúng vậy, ai có thể vĩnh viễn không thay đổi chứ? Ngay cả nàng hôm nay, chẳng phải cũng đã khác xưa sao?

Nàng nhẹ quay đầu lại, Gia Cát Nguyệt vẫn đang ngủ. Nam nhân cố chấp này khi ngủ cũng nổi bật như vậy, mày vẫn nhíu, đôi con ngươi sâu thẳm đã bị mí mắt che phủ, thế nhưng lại càng làm nổi bật ngũ quan tinh tế, sống mũi cao thẳng, môi rất mỏng, đường nét rõ ràng.

Nghe nói nam nhân có tướng mạo như vậy trước giờ luôn là người bạc tình, hay suy tính thiệt hơn. Nhưng chỉ có người này là lại chấp nhất như vậy, để tâm đến từng chuyện nhỏ nhặt nhất, cố chấp đến mức khiến người khác đau lòng.

Trước đó Gia Cát Nguyệt có hỏi nàng từ đầu đã có ý định kia hay là phút cuối lương tâm cắn rứt mới đổi ý. Thật ra thì đến bây giờ chính nàng cũng không biết đáp án, lòng người là một mê cung thay đổi khó lường, khi đối mặt với vấn đề, ngươi có thể suy tính đến mấy trăm phương án, lúc này định thế nàynhưng một khắc sau cũng có thể đổi khác.

Nàng cảm thấy được, dường như bản thân cũng đã thay đổi. Nếu là Sở Kiều trước kia thì chắc chắn sẽ ở lại Đường Kinh, cho dù không thật sự trở thành hoàng phi của Lý Sách thì cũng sẽ lấy thân phận khách khanh* ở lại trong cung che chở cho con cái của Lý Sách bình an lớn lên.

*Khách khanh = từ cổ dùng để chỉ những người ở các nước chư hầu làm quan ở bổn quốc

Thế nhưng, trải qua nhiều năm như vậy, nàng đúng là vẫn còn chấp niệm không buông tay được.

Triều đình Biện Đường nhiều sóng gió, nhưng là loại sóng gió không dồn dập dữ dội ngoài mặt như ở Đại Hạ hay Bắc Yến, đó là loại sóng ngầm vô hình, được ẩn giấu dưới tầng tầng mưu kế cùng gió nam ấm áp, có thể giết người bất cứ lúc nào.

Nàng từng được chính miệng một lão thái y trong cung cho biết, phụ thân Lý Sách chết cũng là do mẫu thân hắn.

Đã rất nhiều năm, bà luôn cố gắng hại chết Đường hoàng, dùng đủ mọi loại thủ đoạn tồi tệ nhất: đầu độc, ám sát... Cũng có mấy lần suýt thành công nhưng lão hoàng đế luôn che giấu cho bà, không để lộ ra ngoài. Ông đã từng tức giận dùng Lý Lạc để uy hiếp bà, bắt mẫu tộc của bà làm con tin, trắng trợn sủng ái phi tần khác, cấm túc bà, thậm chí còn ba lần đày bà vào lãnh cung. Nhưng ông vẫn không thắng được trái tim mình, về già ông giải tán toàn bộ cung phi, chỉ chừa lại một mình bà, yêu thương chăm sóc bà có thừa, mà bà cũng hình như dần được cảm hóa, đó là những năm ông thấy mình hạnh phúc nhất.

Nhưng cuối cùng ông vẫn chết trên tay của bà. Ăn phải độc khi mớm thuốc cho bà, phát độc mà chết.

Lúc đó ông mới biết được, thì ra bà đã sớm có ý chết. Nhiều năm qua, mỗi ngày bà luôn nuốt một ít độc khiến thân thể suy yếu. Lúc ngã bệnh, trước khi ông vào phòng, bã đã uống sẵn thuốc giải rồi ngậm đủ loại kỳ độc trong miệng, chờ đợi ông sơ ý để hạ thủ.

Đường hoàng cuối cùng vẫn chết, chết trong tay nữ nhân ông yêu cả đời. Mặc dù ông đề phòng cả đời nhưng cuối cùng vẫn không thắng được sự kiên nhẫn của bà. Song ông vẫn không đành lòng giết bà, chỉ lưu lại di chiếu buộc bà xuất cung đến An Ẩn tự lễ Phật, cả đời không được bước vào cung nửa bước. Người ngoài chỉ nói hoàng đế và hoàng hậu phu thê tình thâm, không hề biết hoàng đế làm vậy chỉ vì muốn bảo vệ đứa con trai duy nhất của mình.

Nhưng bí ẩn cung đình này vẫn bị Chiêm Tử Du biết được thông qua Chiêm quý phi. Sau khi ám sát Lý Sách bất thành, Chiêm Tử Du đã tự mình mang thái hậu ra khỏi An Ẩn tự, âm thầm đưa vào cung, mượn tay người phụ nữ không ai có thể đề phòng này giết chết Lý Sách.

Diêu thái hậu biết tin Lý Sách chết liền lập tức tự sát. Sở Kiều không rõ tâm tình của bà khi ấy là như thế nào, là sung sướng vì đã báo được thù hay là cảm giác hối hận bất đắc dĩ sau khi giết chính con mình? Người này cố chấp đến mức cực đoan, vì nợ máu năm đó mà bất chấp tất cả, đích thân giết chết hai nam nhân yêu thương mình nhất đời. Không rõ ở khoảnh khắc cuối cùng, bà có cười thành tiếng vì đã được toại nguyện hay không?

Có lẽ là không, dù sao thì trả được thù cho trượng phu và con trai, bà cũng đồng thời giết chết một trượng phu và đứa con khác. Một đoạn ân oán tình thù này đã chôn vùi cuộc sống của biết bao người.

Sau khi Diêu hoàng hậu chết, bà được mang đến hợp táng cùng Hi Tông hoàng đế. Bọn họ khi còn sống không ngừng tranh đấu, ám toán, mưu sát, căm hận, ân oán dây đưa suốt cả đời, cuối cùng lại làm bạn với nhau trong hoàng lăng vắng lặng, không người nào, không thế lực nào có thể tách hai người ra nữa.

Sở Kiều không rõ năm đó đã xảy ra chuyện gì, cũng không hiểu vì sao Diêu hoàng hậu lại có hận ý đang sợ như vậy. Nhưng đôi lúc nàng vẫn cảm thấy, có lẽ tận đáy lòng Diêu hoàng hậu vẫn có tình mẫu tử đối với Lý Sách. Nàng vẫn còn nhớ rõ hôm đó, sau giờ Ngọ nắng chói chang, người phụ nữ có diện mạo ôn hòa khẽ chau mày nói với nàng: "Hắn nói muốn thờ phật Hoan Hỉ, haiz, ta thật sự... Ngươi có rảnh thì lựa lời khuyên nhủ hắn, hắn dù sao cũng là thái tử, không thể càn quấy như vậy được."

Chẳng qua, cái chết của Lạc vương cuối cùng đã tiêu hủy chút tình thương này. Lý trí bà rốt cuộc vẫn bị tâm ma của bản thân cắn nuốt, cuối cùng táng thân trong chốn hoàng cung ăn thịt người này.

Sau khi Lý Sách chết, triều chính không yên, trong có quyền thần làm loạn, ngoài có hoàng thân thèm thuồng. Sở Kiều lúc đó, bằng binh lực trong kinh và Tú lệ quân cũng có thể áp chế Trung ương quân và tiêu diệt huynh muội Chiêm Tử Du.

Nhưng như vậy đám người Tĩnh An vương sẽ tuyệt đối không khởi binh. Đối với tiểu hoàng đế, giữ lại đám phiên vương này sớm muộn gì cũng như nuôi hổ trong nhà. Nhưng tân đế vừa lên ngôi, tối kỵ nhất là giết chóc vô tội vạ. Cho nên Sở Kiều mới tương kế tựu kế, trước để Chiêm Tử Du tự ý chiếm quyền rồi nhanh chóng trừ bỏ, mượn công bình loạn cộng thêm kích thích Tôn Đệ ủng hộ nàng được phong phi, khiến đám người Tĩnh An vương rục rịch dấy binh, sau đó mới thông qua sắp đặt của Lý Sách trước khi chết một lần giải quyết nguy cơ nội loạn tiềm ẩn trong hai mươi năm tới của Biệt Đường. Hai mươi năm nữa thì Nghi Nhi đã trưởng thành, sẽ đủ năng lực ứng phó mưa gió rồi.

Có điều khi ấy nàng cũng không hẳn không có ý định ở lại bảo vệ Biện Đường sau khi bình loạn.

Tối hôm đó, Thanh Thanh lấy ra hai quả dưa đất Gia Cát Nguyệt phái người đưa tới đem nướng. Hương vị rất thơm, thơm đến mức khiến tim nàng mềm nhũn.

Thanh Thanh ngồi trên băng ghế ngoài sân lột vỏ dưa, vừa cẩn thận lột vừa lầm bầm: "Thanh Hải nhất định rất lạnh, bằng không vỏ dưa này đâu có dày như vậy."

Nghe thấy, tim nàng chợt nhói đau, trong đầu lại nhớ đến cảnh ở hồ băng ngày đó, khuôn mặt trắng bệch của Gia Cát Nguyệt, hắn liên tục viết lên tay nàng dòng chữ: Phải sống... phải sống...

Lòng người như mê cung thay đổi khó lường, nhưng dẫu trong đầu ngươi có mấy trăm ngàn suy tính thì cuối cùng cũng chỉ đưa ra duy nhất một quyết định. Bất kể tương lai sẽ hối hận hay không, ít nhất nàng đã một lần chiều theo con tim mình.

Sau lưng chợt vang lên tiếng *sột soạt*, cửa sổ cùng lúc bị gió thổi mở rộng, kéo màn cửa tung lên, cắt đứt dòng suy tư của Sở Kiều. Nàng quay đầu lại, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt đã tỉnh dậy từ bao giờ, đang nghiêng người tựa lên đầu giường nhìn nàng, trên người hắn mặc trường sam trắng tuyết, thần thái tươi tỉnh, vẻ lạnh lẽo thường ngày đã được thay bằng vẻ ôn hòa ấm áp.

Thấy nàng quay lại, hắn nhẹ nhàng vẫy vẫy, ra hiệu bảo nàng đi qua.

Sở Kiều đi đến rót cho hắn một chén trà, thuận miệng hỏi: "Ngủ ngon chứ?"

"Ừ." Hắn uống một hớp trà, đáp: "Nếu không có ai đó lén vào phòng ta than dài thở ngắn thì còn ngủ ngon hơn nữa."

Sở Kiều đỏ mặt, lườm hắn một cái rồi hỏi: "Có đói không?"

Hắn gật đầu, nói: "Lúc mới tỉnh có hơi đói, giờ đỡ hơn rồi."

Sở Kiều đứng dậy, nói: "Chàng đã ngủ một ngày một đêm rồi, không ăn không uống thì dĩ nhiên là đói. Để ta đi dặn phòng bếp chuẩn bị cho chàng ít thức ăn."

"Không cần." Gia Cát Nguyệt đột nhiên nắm tay nàng kéo ngồi xuống giường, nói: "Ngồi với ta một lúc đã."

Sở Kiều mỉm cười, ngoan ngoãn ngồi xuống cạnh hắn.

"Thấy nàng ngây người một lúc lâu, nghĩ gì thế?" Gia Cát Nguyệt tự nhiên giữ tay nàng, cũng không buông ra.

Sở Kiều lắc đầu, "Chút chuyện cũ mà thôi."

Khóe môi hàm chứa ý cười, Gia Cát Nguyệt thong thả tựa vào đầu giường giương mắt nhìn nàng, thản nhiên nói: "Hiếm khi rãnh rỗi không có gì làm, có thể nghe chút chuyện xưa của nàng."

Sở Kiều nhìn hắn, bất giác nảy sinh một ý định tinh quái. Nàng hơi chau mày, nhìn thẳng vào mắt hắn, từ tốn nói: "Ta từng làm rất nhiều chuyện sai, hết lần này đến lần khác có lỗi với một người, bây giờ nhớ lại, cảm thấy rất hối hận."

Gia Cát Nguyệt sửng sốt, không ngờ nàng lại nói đến chuyện này bây giờ, lập tức nhìn nàng chằm chằm, sắc mặt cũng trở nên trịnh trọng hơn.

Sở Kiều nói tiếp: "Người đó luôn đối xử với ta rất tốt, nhưng ta lại cho rằng đó là chuyện hiển nhiên, cứ thế mà ích kỷ dựa dẫm vào sự ấm áp và giúp đỡ của hắn. Nhiều năm qua, hắn mấy lần vào sinh ra tử vì ta, bất kể trong hoàn cảnh khốn cùng đến đâu cũng không bao giờ bỏ rơi ta, luôn cho ta hy vọng trong lúc tuyệt vọng nhất, giúp đỡ ta vượt qua mọi khó khăn mà không đòi hỏi bất kỳ điều kiện gì. Trong khi đó ta lại không đền đáp gì được cho hắn, hơn nữa còn hết lần này đến lần khác mặc kệ hắn."

Gia Cát Nguyệt nhìn nàng, khóe miệng dần cong lên nở một nụ cười, vết chai trong lòng bàn tay hắn nhẹ cọ cọ ngón tay nàng, "Bây giờ biết hối hận thì đền đáp vẫn còn kịp."

Sở Kiều nhìn hắn, mắt long lanh như chực khóc, rầu rĩ nói: "Nhưng ta lại sợ người đó oán trách ta."

Ánh mắt từ từ dâng lên chút cảm động cùng yêu thương, Gia Cát Nguyệt buông tay nàng ta, chậm rãi giơ lên vuốt ve mặt nàng, cười nói: "Ai nỡ trách nàng chứ?"

"Thật sao?" Sở Kiều mở to hai mắt, ranh mãnh hỏi: "Chàng cảm thấy Hạ Tiêu thật sự sẽ không trách ta sao? Huynh ấy đi theo ta nhiều năm như vậy, ta thậm chí còn từng bỏ rơi huynh ấy nữa, huynh ấy sắp ba mươi rồi mà ngay cả một thê thiếp cũng không có..." Lúc nói mấy chữ cuối, nàng rốt cuộc không nhịn được nữa, phì cười thành tiếng.

Lúc này Gia Cát Nguyệt mới biết mình bị mắc lừa, lập tức kéo nàng vào lòng, siết cằm nàng, hung dữ nói:"Dám đùa giỡn ta?"

Sở Kiều cười nói: "Ai bảo chàng tự mình đa tình."

Gia Cát Nguyệt lườm nàng, một tia sáng chợt xẹt qua trong mắt hắn, khí tức trở nên nguy hiểm như lang sói, gian tà cười nói: "Nhà ai dạy dỗ ra một nữ nhân không có quy củ vậy hả?"

"Nhà ai à? Còn ai nữa ngoài Gia Cát thiếu gia ở Thanh Sơn viện?" Sở Kiều nói: "Chàng quên ban đầu chính chàng xung phong dạy ta viết chữ rồi sao?"

"Ồ?" Gia Cát Nguyệt cố ý kéo dài giọng, gật gù, "Ta quả thật đã quên rồi, xem ra phải dạy dỗ lại một lần, tránh cho về sau nàng lại không biết lớn nhỏ."

Vừa dứt lời, Gia Cát Nguyệt đột nhiên cúi người ngậm lấy môi Sở Kiều. Hơi thở nóng hổi không chút lưu tình quấn quít môi nàng, cánh tay giữ eo nàng càng lúc càng siết chặt. Bờ môi lạnh như băng ấm dần lên, đôi môi bị mở ra mà nàng không hề có chút sức lực nào để kháng cự. Đầu lưỡi quấn quít, vừa mát lạnh như suối ngọt vừa nóng bỏng như lửa than.

Gia Cát Nguyệt híp mắt nhìn người trong lòng, che giấu vẻ thâm trầm nơi đáy mắt, rồi đột nhiên dùng sức đẩy nàng nằm xuống trên giường. Sở Kiều chỉ kịp kinh ngạc *á* một tiếng, âm cuối đều bị ai đó nuốt mất.

"Giờ đã hiểu chưa?"

Sở Kiều nhìn người nào đó chằm chằm, chà chà đôi môi đã hơi sưng, tức tối nói: "Gia pháp nhà chàng đó à?"

"Chưa hẳn." Gia Cát Nguyệt cười nhạt, ngạo nghễ hất hàm nói: "Còn gia pháp kịch liệt hơn nữa, có muốn thử không?"

Sở Kiều nheo mắt nhìn nam nhân xấu xa không chịu nổi trước mặt, đột nhiên vùng lên đè hắn xuống, thè lưỡi liếm môi hắn một cái. Gia Cát Nguyệt thoáng sửng sốt, còn chưa kịp phản ứng thì cằm đã bị người trên ngực hung hăng cắn một cái thật mạnh.

Gia Cát Nguyệt nhất thời *oái* to, lập tức lấy tay sờ cằm, chưa chảy máu nhưng đã lưu lại dấu răng sâu hoắm.

"Hừ, đừng tưởng ta sẽ sợ chàng!" Sở Kiều dứ dứ quả đấm thị uy, trịch trượng nói.

Gia Cát Nguyệt bật dậy nói: "Nha đầu chết tiệt, mới mấy năm mà đã phách lối như vậy, phải tử tế dạy dỗ một trận mới được."

Nhưng hắn còn chưa túm được Sở Kiều thì nàng đã nhanh hơn một bước, nhảy phắt xuống khỏi giường, chạy bay ra tới cửa, cười nói: "Cho ta là đồ ngốc sao? Bye bye, không cần tiễn!" Nói xong liền mở cửa phòng ra.

Cửa phòng bị mở ra đột ngột nên bọn Thanh Thanh và Bình An đang tựa vào cửa hóng chuyện bị mất đà, lập tức ngã nhào vào trong. Cả một đám lăn lê bò càng trên mặt đất, suýt xoa luôn miệng, mặt hết đỏ rồi trắng, lúng túng lên tiếng chào hỏi hai người.

Sở Kiều làm tướng quân chỉ huy hơn trăm vạn đại quân đánh đâu thắng đó nhưng lại chưa bao giờ xấu hổ như bây giờ, nàng đỏ bừng mặt nhìn Thanh Thanh và Bình An, không ngờ trong đám còn có cả Nguyệt Thất, tức giận nói: "Nguyệt Thất, ngươi mà cũng theo hai đứa này làm trò à?"

"Ha ha, ta... ta chỉ vô tình đi ngang qua, tiện đường nên ghé vào định gọi hai người ra ăn cơm mà thôi, ha ha..." Nguyệt Thất đứng dậy, ra vẻ ta đây là người đàng hoàng, vừa gật đầu vừa đi ra ngoài, ha ha cười nói:"Các người cứ tiếp tục, tiếp tục đi."

Dứt lời, hắn liền chạy ra ngoài, trước khi đi còn quay ngoắt lại giơ nắm đấm với Gia Cát Nguyệt, nói to:"Thiếu gia cố lên!" Nói xong lập tức bỏ chạy.

Thanh Thanh tí tởn chạy tới, ngọt ngào gọi hai tiếng 'tỷ phu', khiến Gia Cát Nguyệt phởn chí, tiện tay rút ra một thanh chủy thủ tinh xảo nạm hồng ngọc, sảng khoái thưởng cho cô em vợ rất thức thời này.

Bình An vừa liếc thấy cũng lập tức học theo, bên cạnh Gia Cát Nguyệt không còn thứ gì khác nên đành đáp ứng sau khi về lại thành Chân Hoàng sẽ cho hắn tùy thích chọn bất kỳ bảo mã nào trong chuồng.

Cả hai lập tức vui vẻ tung hô: "Tỷ phu vạn tuế."

Sở Kiều nhìn mà phát cáu, đến cùng là ai nói Gia Cát Nguyệt là người cứng nhắc không biết uyển chuyển vậy hả? Không nói đến bản lĩnh trên quan trường, chuyện mua chuộc lòng người hắn cũng có kém ai đâu?

Bữa tối nhanh chóng được làm xong, hiện tại đang ở ngoài, lại có cả trẻ con nên bọn họ liền tùy ý cho dọn một bàn lớn, tất cả cùng nhau dùng cơm. Đám người Nguyệt Thất chỉ còn hơi e dè, Thanh Thanh và Bình An thì khỏi nói, hoạt bát luôn cả phần người khác, Hạ Tiêu cũng rất thoải mái nói chuyện với mấy người Nguyệt Thất. Chỉ có Đa Cát là vẫn mang dáng vẻ trầm lặng như cũ, Thanh Thanh nói với cậu mười câu, cậu cũng chỉ đáp không hơn một câu.

Cơm nước xong thì trời đã sập tối, Nguyệt Thất nói bọn họ đã đến Thương Lĩnh, hai ngày nữa sẽ cập bến huyện Hộ. Sở Kiều nghe nói thì thoáng sững sờ, huyện Hộ, nói vậy bọn họ đã rất gần thành Chân Hoàng rồi.

Buổi chiều gió trở lớn hơn, nàng ngồi ở đuôi thuyền nhìn mặt trời lặn, ánh hoàng hôn nhuộm đỏ mặt sông.

Thời gian qua thật nhanh, mới đó mà nàng đã trải qua mười bốn mùa đông ở thế giới này rồi. Nhiều lúc nhớ đến kiếp trước, nàng cũng không rõ bản thân rốt cuộc là người hiện đại xuyên không hay là người cổ đại có trí nhớ thời hiện đại nữa. Chuyện trước kia cứ như một giấc mộng, thoắt đến rồi lại thoắt đi.

Nàng nhớ tới bản thân kiếp trước chết rồi được sống lại ở đây, như vậy sau khi Lý Sách chết, có khi nào cũng đến nơi khác tiếp tục sống hay không? Ô tiên sinh và Vũ cô nương, Hoàn Hoàn và Tiểu Hòa, sau khi chết bọn họ có còn gặp lại nhau không, có còn nhớ ra đối phương không? Cả Kinh Tử Tô nữa, thật hy vọng tỷ ấy có thể đến thời hiện đại, vui vẻ mà sống.

Sở Kiều ngồi một chỗ nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, trong lòng dần trở nên trống trải. Nàng ngẩng đầu lên nhìn trời chiều, tựa như có thể nhìn thấy Lý Sách đang nheo mắt nhìn nàng, cười nói: "Ăn nhiều thịt một chút, vóc người quá kém."

"Đang nghĩ gì thế?" Sau lưng đột nhiên vang lên giọng của Gia Cát Nguyệt.

Sở Kiều quay đầu lại, chỉ thấy hắn ung dung đi đến gần, trên người mặc trường bào tím thêu chìm hoa văn chữ 'Phúc'*, y phục mặc nhà rất bình thường nhưng khoác vào người hắn vẫn tô lên khí chất đặc biệt hơn người, vô cùng tuấn tú.

*Chữ 'phúc': 福

Thấy Sở Kiều tròn mắt nhìn mình trân trân, Gia Cát Nguyệt bất giác nhíu mày, hơi không tự nhiên nói: "Nhìn cái gì đấy, y hệt đồ ngốc." Dứt lời thì ngồi xuống bên cạnh nàng.

Bọt sóng trắng như tuyết quấn quít quanh đuôi thuyền, chim bay từng đàn về phía chân trời, không trung tràn ngập mây hồng, gió sông thổi ống tay áo hai người bay phần phật, tựa như cánh bướm.

"Tinh Nhi, vì sao lại đổi tên thành Sở Kiều?" Gia Cát Nguyệt đột nhiên lên tiếng hỏi.

Sở Kiều xoay đầu lại, cười nói: "Bởi vì ta không phải là Kinh Nguyệt Nhi, ta vốn tên là Sở Kiều, sau chết đi, sau đó, ừm, phải nói sao nhỉ, nói theo cách của người ở đây là hồn ta nhập vào thân xác của Kinh Nguyệt Nhi, cho nên sau khi bỏ chạy ra ngoài, ta muốn lấy lại tên cũ."

Gia Cát Nguyệt không ngờ nàng sẽ trả lời như vậy nên ngây người một lúc lâu, vẻ mặt vô cùng kinh ngạc. Lát sau hắn mới lẩm bẩm hỏi: "Vậy lúc ta nhìn thấy nàng lần đầu tiên..."

"Lúc đó ta chỉ vừa nhập thân được mấy ngày, đang định bỏ trốn."

Gia Cát Nguyệt gật đầu, sau đó cúi đầu suy tư, tựa như đang toàn lực xem xét độ chân thật của chuyện vừa nghe.

"Này, đừng nói chàng thật sự tin lời ta vừa nói đấy?" Đến phiên Sở Kiều sững sờ.

Chuyện quỷ quái không thực như vậy, làm gì có ai tin được chứ? Còn nhớ lúc nhỏ nàng cũng từng kể cho Yến Tuân nghe một lần, khi ấy Yến Tuân cũng chỉ là một cậu nhóc chưa trưởng thành, nghe xong liền cho rằng nàng bị sốt nên đầu óc hồ đồ, lập tức đi sắc thuốc bắt nàng uống cạn. Từ đó về sau, nàng chưa bao giờ lặp lại chuyện này nữa.

"Ta tin."

"Hả?"

Gia Cát Nguyệt khó hiểu nhìn nàng, mi tâm khẽ nhíu, "Tại sao không thể tin? Ta từng cho người điều tra nàng, đám hạ nhân đều nói sau khi nàng trở về từ trò săn người kia, tính tình liền thay đổi hoàn toàn. Lúc ấy ta còn tưởng rằng nàng bị sợ hãi quá độ nên mới đổi tính, bây giờ xét lại, giải thích của nàng nghe hợp lý hơn nhiều."

Gia Cát thiếu gia vốn bí hiểm khó dò vô cùng sảng khoái chấp nhận cái nguyên nhân còn bí hiểm hơn mình, gật gù nói: "Thì ra là như vậy, lúc đó ta còn cảm thấy hết sức kỳ quái, ngay cả ta lúc bảy tám tuổi cũng không thể có tâm cơ và thủ đoạn như vậy, thì ra khi ấy nàng vốn không phải là một đứa trẻ tám tuổi. Phải rồi, đừng nói trước khi chết nàng vốn là một bà lão bảy tám chục tuổi đấy nhé?"

Sở Kiều có chút không theo kịp tư duy của người bên cạnh, ngờ nghệch đáp: "Lúc đó ta hai... hai mươi bảy tuổi."

"Hai mươi bảy?" Gia Cát Nguyệt nhíu mày, có hơi không vui hỏi tiếp: "Lớn như vậy hẳn đã thành thân, sinh con rồi?"

"Không có." Sở Kiều thành thật trả lời: "Ở chỗ của ta, hai mươi bảy tuổi cũng không tính là lớn, ở đó thịnh hành chuyện kết hôn muộn."

"Quê hương của nàng ở đâu? Biện Đường? Đại Hạ? Nàng quan tâm Bắc Yến như vậy, là người Bắc Yến sao?"Nói đến đây, Gia Cát Nguyệt đột nhiên biến sắc, khẩn trương nói: "Chẳng lẽ là mẹ của Yến Tuân? À, không thể nào, thời gian không khớp, phải là người lớn tuổi hơn nữa."

Sở Kiều khóc không ra nước mắt, "Quê hương ta là một thế giới khác, không cùng thời không với nơi này, là hai không gian song song, không có tương giao, không những cách biệt không gian mà còn cách biệt cả thời gian, không liên quan đến nhau, ừm, chàng hiểu chưa?"

Nàng cố gắng giải thích, khoa tay múa chân muốn tìm một ví dụ tương đương nhưng vẫn không tìm được từ ngữ thích hợp. Có điều, nàng đã đánh giá thấp năng lực tư duy của Gia Cát thiếu gia rồi.

Gia Cát Nguyệt khẽ nhíu mày, hỏi: "Nàng muốn nói, giống như một cây táo, ở chỗ chúng ta là mùa xuân trổ lá, còn ở chỗ của nàng là mùa thu kết trái?"

Sở Kiều sửng sốt, không ngờ hắn có thể hiểu được đến đây, vội vàng vui vẻ nói: "Đúng phân nửa, bởi vì không chỉ có khác biệt thời gian mà còn cả không gian nữa, chàng hiểu không? Không gian chính là..."

"Ừm." Gia Cát Nguyệt gật đầu, thuận miệng nói: "Chỗ chúng ta là cây táo mùa xuân, còn chỗ của nàng là cây quýt mùa thu, đúng không?"

Sở Kiều nghệt mặt ra hồi lâu, cuối cùng mới ngây ngốc gật đầu, "Đúng."

Gia Cát Nguyệt quay đầu ra nhìn nước sông chảy cuồn cuộn, im lặng không nói nữa. Hoàng hôn phản chiếu lên mặt hắn, lấp lánh ánh hồng.

Sở Kiều không khỏi cảm khái trong bụng, đúng là định lực thật lớn, không hổ là người có trí tuệ lớn quen tính đại sự, trầm tĩnh biết bao nhiêu, không hề tò mò hỏi lung tung. Chẳng giống mấy tên quê mùa trong tiểu thuyết xuyên không, biết chuyện đều hỏi 'Người chỗ các ngươi hình dạng ra sao?', 'Người chỗ các ngươi có mấy con mắt?", hay là 'Người chỗ các ngươi có phải giống dã thú không, trên người có rất nhiều lông?'.Giống như chỉ có người thế giới bọn họ mới xứng có hai con mắt cùng một lỗ mũi, còn người bên ngoài nhất định phải lông lá đầy người, miệng đầy răng. Chỉ có bọn họ mới ưu việt, người thế giới khác đều là dã thú hết ráo.

Thần thái như vậy mới thực sự là bình tĩnh ung dung, như vậy mới thực sự là núi thái sơn sụp đổ mà mặt cũng không đổi sắc, như vậy mới thực sự là được không hỉ mất không bi, như vậy mới thực sự là không quan tâm thiệt hơn, tâm tư như trăng sáng...

"Người chỗ nàng có hình dạng ra sao?"

Sở Kiều: "......"

"Người chỗ nàng có mấy con mắt?" Người nào đó sau một lúc im lặng, cuối cùng hồi hồn, bắt đầu hứng thú hỏi: "Người chỗ nàng có phải giống dã thú không, trên người có rất nhiều lông*? Ta từng gặp được một người như vậy ở Nam Cương, hành vi cử chỉ rất kỳ quặc, chẳng lẽ là họ hàng xa của các nàng?"

*Anh đang ám chỉ còn khỉ / dã nhân

Sở Kiều hít một hơi thật sâu lên tinh thần rồi bắt đầu bài học giáo dục kiến thức vỡ lòng về thế giới mới.

Nói đến miệng đắng lưỡi khô, tận khi mặt trời khuất bóng, trăng treo tít trên cao, vẩy ánh sáng dìu dịu xuống trên mặt sông. Gió đêm thổi hây hây, Sở Kiều bất chợt tức cảnh sinh tình, thì thầm: "Trên biển sinh trăng sáng, soi sáng khắp muôn phương*."

*Trích bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn của Trương Cửu Linh (bản dịch của Khương Hữu Dụng:

Trên biển sinh trăng sáng

Soi sáng khắp muôn phương

Đêm dài ai sầu mong

Thâu canh dấy tương tư

Nến tắt, ánh trăng tỏ

Khoát áo thấm hơi sương

Chẳng thể vốc trăng tặng

Thôi đành hẹn trong mơ.

Nhưng Gia Cát Nguyệt lại tạt xô nước lạnh, "Ngữ cảnh không đúng, đây là sông chứ không phải biển."

Sở Kiều cau mày, sửa lại: "Vậy thì trên sông sinh trăng sáng."

Gia Cát Nguyệt nghi ngờ nhìn nàng, hỏi: "Nhất định không phải nàng sáng tác mà là của người bên thế giới kia có đúng không, nàng lấy trộm à?"

Sở Kiều lại một lần nữa khóc không ra nước mắt, mặt mũi đỏ ửng, đúng là không nên nói ra chuyện này mà. Nhìn đi, chẳng có gì tốt cả, chỉ thêm xấu mặt...

"Tinh Nhi." Hai người im lặng một lúc thì Gia Cát Nguyệt đột nhiên lên tiếng gọi, nàng 'ừ' một tiếng đáp lời, hắn lại nói thêm một câu không đầu không đuôi: "Ta bất kể nàng là ai."

Mới đầu Sở Kiều còn lơ mơ không rõ, cẩn thận ngẫm lại thì chợt hiểu ra, gật đầu cười nói: "Biết rồi, sao đi nữa thì ta vẫn là Tinh Nhi của chàng."

Gia Cát Nguyệt chợt khựng lại, cúi đầu dùng ánh mắt sáng quắc nhìn nàng. Sở Kiều tự nói xong cũng hối hận đã lỡ miệng, gò má lập tức đỏ ửng, vừa định cúi đầu che giấu sự ngượng ngùng thì Gia Cát Nguyệt đã vươn tay nâng cằm nàng lên, đáy mắt lấp lánh ý cười, nói: "Nói lại lần nữa."

Sở Kiều lảng tránh ánh mắt của hắn, ậm ờ trả lời: "Nói cái gì?"

"Lặp lại câu nàng vừa nói khi nãy." Gia Cát Nguyệt quả quyết nói, trong mắt như có lửa, không quá nóng bỏng nhưng lại cực kỳ lấp lánh.

"Ta là của chàng, chàng cũng phải là của ta." Sở Kiều thu hết dũng khí, bình tĩnh nói: "Cả đời này của ta, cái gì cũng có thể hy sinh, nhưng chỉ có hai thứ, bất kể là dưới tình huống nào cũng không thể tùy tiện buông thả. Một là tín ngưỡng và nguyên tắc sống, hai là hôn nhân và thân thể. Chàng muốn toàn bộ con người ta thì cũng phải giao toàn bộ bản thân chàng cho ta."

Gia Cát Nguyệt nhướng mày, nhìn nàng bằng ánh mắt mập mờ, gian manh hỏi lại: "Toàn bộ?"

"Đi chết đi." Sở Kiều đẩy vai hắn, quay đầu sang chỗ khác, "Không đứng đắn chút nào."

"Tinh Nhi." Gia Cát Nguyệt giang rộng tay ôm Sở Kiều vào lòng, bao phủ nàng trong hơi thở nam tính ấm áp của mình, thì thầm: "Ta rất vui, thực sự rất vui."

Sở Kiều tựa vào ngực Gia Cát Nguyệt, trong lòng dâng lên cảm giác yên bình trước giờ chưa từng có, cũng quay lại ôm lấy hắn, nhẹ giọng nói: "Chúng ta đừng xa nhau nữa."

Gia Cát Nguyệt hỏi: "Cùng ta đến thành Chân Hoàng, nàng không sợ sao?"

"So với chuyện đó, ta sợ xa chàng hơn. Lần nào chúng ta xa nhau cũng đều xảy ra chuyện lớn, giống như lần vừa rồi, ta từng tưởng không còn được gặp lại chàng nữa."

Khi ấy tình hình hỗn loạn ở Đường Kinh buộc nàng phải quyết chiến đến cùng, tựa như đang đi trên lớp băng mỏng, chỉ cần một phút không cẩn thận thì sẽ rơi vào tay kẻ địch. Chiêm Tử Du ngang nhiên nắm giữ trọng quyền nên trận chiến trước cổng Thái An ngập trong máu tanh. Sau khi thánh chỉ phong phi được truyền ra, hằng đêm đều có sát thủ xâm nhập hoàng cung hòng giết chết nàng, sau đó lại tử chiến với hơn mười vạn quân địch. Lúc ấy chẳng cảm nhận được gì, nhưng giờ nghĩ lại thì không khỏi đổ mồ hôi lạnh.

Gia Cát Nguyệt siết chặt vòng tay, trầm giọng nói: "Sau này không phải sợ nữa.

Trăng sáng rực rỡ, hai người lẳng lặng ngồi đó một lúc lâu.

Sau khi trở về phòng, Gia Cát Nguyệt lại ngồi trên giường cau mày ngẫm nghĩ thêm một hồi, cảm thấy Sở Kiều nói rất đúng, thấy mình cũng nên tìm thời gian thích hợp để cả hai có thể hoàn toàn thuộc về đối phương.

Không sai, đi đêm lắm có ngày gặp ma, ngủ nhiều khó tránh việc nằm mộng, hành sự nên nhanh gọn lẹ, giải quyết vấn đề cũng nên một lần dứt khoát. Phải tìm cơ hội nấu gạo thành cơm... triệt để để hắn thuộc về nàng... toàn bộ...

Đến hơn nửa đêm, hắn đột nhiên đứng dậy, đi hai vòng trong phòng rồi quyết định: khỏi cần tìm nữa, hôm nay chính là thời điểm tốt nhất rồi.  


Chương 180: Động phòng hoa chúc

Gia Cát Nguyệt từ trước đến giờ là người làm việc theo kế hoạch, một khi quyết định chuyện gì thì sẽ cẩn thận đề ra phương án hành động thiết thực, sau đó mới bắt đầu áp dụng từng bước một, bất kể xảy ra chuyện gì thì cũng không thay đổi ý định.

Cho nên sau khi quyết định, hắn tắm rửa sạch sẽ, thay y phục mới đến trước gương ngắm nghía, nhìn thấy trong gương phản chiếu một nam nhân mày kiếm mắt sáng, tuấn tú bất phàm, oai hùng lẫm liệt thì hết sức hài lòng. Nhưng sau đó hắn lại cảm thấy hơi căng thẳng, cho nên đành ngồi xuống uống hớp trà lấy lại tinh thần. Nước trà đã nguội, ngón tay thon dài xoay xoay chén trà bằng sứ Thanh Hoa trong tay, ánh nến trong phòng xuyên qua lớp sứ mỏng manh khiến mặt sứ tựa như lớp băng mỏng vừa được đông kết lúc đầu đông.

Gia Cát Nguyệt tựa người lên lưng ghế, cẩn thận sắp xếp ngôn từ và hành động, rõ ràng từng câu một, vô cùng kỹ lưỡng, sau đó lại vạch ra đủ loại tình huống đối phương sẽ trả lời thế nào và mình sẽ đối đáp ra sao. Tóm lại, mục tiêu chính là từng chút một chuyển đề tài, tạo không khí ám muội, tuyệt đối nắm lấy quyền chủ động trong tay, sau đó không dấu vết để mọi chuyện diễn ra một cách tự nhiên.

Ổn rồi, không còn vấn để gì nữa.

Gia Cát Nguyệt đặt chén trà xuống bàn rồi đứng dậy, chẳng ngờ vừa đến cửa thì cửa phòng đã bị đẩy ra.

Sở Kiều đứng trước cửa phòng, vẫn là y phục trắng ngà lúc nãy. Ánh đèn ấm áp trong hành lang phản chiếu lên khuôn mặt nhỏ bé khiến mặt nàng như bừng sáng.

Trong tay cầm một cái bát còn bốc khói, nàng ngẩng mặt lên, dùng ánh mắt trắng đen rõ ràng nhìn hắn từ trên xuống dưới một lượt, hơi nhíu mày tỏ vẻ hơi ngạc nhiên, hỏi: "Nửa đêm rồi mà chàng còn ăn mặc như vậy, định đi đâu thế?"

Gia Cát Nguyệt hơi sững sờ, tình huống này hình như nằm ngoài dự tính của hắn.

Có điều năng lực ứng biến của Gia Cát thiếu gia vốn không tệ, lập tức nghiêm nghị đáp: "Ban ngày ngủ nhiều nên giờ không ngủ được, muốn ra ngoài đi dạo một lát."

"Càng gần phương bắc thì thời tiết càng lúc càng lạnh, ban đêm gió lớn, chàng lại ăn mặc phong phanh như vậy, chớ nên đi lung tung thì hơn." Sở Kiều đi thẳng vào trong phòng, để cái bát xuống trên bàn rồi nói: "Lúc nãy thấy chàng ăn không được bao nhiêu, ta mang ít đồ ăn khuya để chàng lót dạ này."

Gia Cát Nguyệt đi đến, nhìn thấy là một bát cháo trắng rất bình thường thì liếc nàng một cái, "Chỉ có vậy?"

Sở Kiều trừng mắt nhìn hắn, "Có ăn là may rồi, còn kén chọn cái gì." Dứt lời thì đi đến vỗ vỗ đầu hắn như đang dỗ dành cún con, vô cùng chân thành nói: "Ăn xong thì nghỉ ngơi sớm đi, đừng đi lung tung nữa." Nói xong liền xoay người rời đi.

Gia Cát Nguyệt ngẩn người. Chuyện quái gì thế này? Kế hoạch bị đảo lộn, con mồi đã tự mình đến cửa mà mình lại để nàng ung dung đi mất sao?

Còn ăn uống gì nữa chứ?

Hắn đứng dậy ra khỏi phòng.

Vốn phải che giấu hành tung nên lần này bọn họ chọn thuyền cũng không quá lớn, hành lang hẹp chỉ đủ cho một người đi lại. Ánh đèn trên hành lang lúc mờ lúc tỏ, trường sam xanh nhạt thêu hoa văn tường vân bắt ánh sáng ấm áp khiến vóc dáng cao ráo của Gia Cát Nguyệt càng thêm tuấn tú xuất trần.

Hắn chậm rãi đi từng bước một. Con thuyền nhỏ lênh đênh giữa cảnh sông nước mênh mông, tựa như buổi sáng mưa xuân rất nhiều năm trước kia, hắn đứng bên bờ sông nhìn con thuyền càng lúc càng xa bờ. Khi ấy trời đất cũng mờ ảo lạnh lẽo như hiện giờ, chỉ có ngọn lửa trong lòng hắn là vẫn cháy hừng hực như chưa bao giờ tắt, mắt hắn vĩnh viễn dõi theo nàng, từ lúc bé, dần lớn lên, rồi cho đến ngày hôm nay.

Phía trước đột nhiên truyền đến tiếng hát khiến bước chân Gia Cát Nguyệt vừa tới trước phòng Sở Kiều thoáng khựng lại. Cửa phòng không khóa, từ bên trong le lói hắt ra ánh sáng ấm áp. Hắn đứng trước cửa, lặng lẽ lắng nghe giọng nữ hát dịu dàng hòa lẫn tiếng ê a của trẻ con.

Bên dưới hai ngọn nến sáng trưng, Sở Kiều ngồi xổm cạnh một chiếc bồn nhỏ bằng gỗ mun, vạt váy trắng tinh quết trên mặt đất, tay áo xắn cao, đang tắm cho con trai nhỏ của Lý Sách.

Vinh Nhi vô cùng mũm mĩm, tuy bé còn nhỏ nhưng vẫn nhìn ra ngũ quan y hệt cha mình, hai mắt cong cong hơi xếch như mắt hồ ly, khi cười liền không nhìn thấy tròng trắng.

Cậu bé đang ngồi trong bồn gỗ, tay cầm một chuỗi lục lạc huơ huơ kêu *leng keng* rất vui tai, tay còn lại ra sức vỗ nước theo tiết tấu khiến nước bắn ướt gần hết y phục của Sở Kiều. Mỗi lần nàng suýt xoa tránh né, cậu bé đều thích chí vỗ tay, cười khanh khách.

"Vinh Nhi, không được phá nữa." Sở Kiều vờ răn đe nhưng cậu bé vẫn không ngừng khua tay múa chân, khiến nước trong bồn bị văng ra ngoài hết hơn nửa.

"Đừng nghịch ngợm thế chứ, đến cha con cũng không có đáng ghét như vậy." Nửa người Sở Kiều đã ướt sũng, nhỏ nước *tỏng tỏng*. Vinh Nhi ngước lên kêu *a a* mấy tiếng, tựa như đang phản bác lời nàng vừa nói.

"Con nhìn con xem có chút dáng vẻ nào của một thân vương không hả?"

"A nha nha nha..."

"Mới nói một câu mà đã có ý kiến rồi?"

"A nha nha nha..."

"Thôi được rồi, cô cô hát cho con nghe một bài nhé?"

Cậu bé chớp chớp mắt, ngước lên nhìn nàng, đưa cánh tay mập ú níu chặt vạt áo của Sở Kiều lấy đà, chết sống đòi leo ra khỏi bồn, dùng hành động thực tế biểu thị việc ghét bỏ tắm rửa, cũng như không chút hứng thú với chuyện nghe nàng ca hát gì đó.

Nhưng Sở Kiều đang có hứng nên làm như không nhìn thấy, vỗ vỗ đầu cậu bé rồi nói: "Cô cô sắp hát đấy, lắng nghe cho kỹ."

"A nha nha nha..."

"You are my sunshine, my only sunshine

You make me happy when skies are grey

You never know, dear, how much I love you

Please don't take my sunshine away.*"

*Từ bài 'You are my sunshine' của Johnny Cash, có thể nghe từ đây:https://musicpleer.cc/#!b7841e87a8fbb8684f0fec1bc50da0b6

Tiếng hát trong trẻo lẳng lặng phiêu đãng trong không gian ấm áp ánh nến, dịu dàng như thôi miên người nghe. Cô gái váy trắng ngồi xổm trên mặt đất, mái tóc dài xõa kín bờ vai thon gầy, tay giữ lấy một đứa trẻ mũm mĩm trong chiếc bồn gỗ đen như mun.

Cô gái hát vô cùng nhập tâm nhưng đứa bé trong bồn lại không chút để ý, tay chân hai người cuốn lấy nhau, một liều chết muốn trèo ra ngoài, một mạnh bạo giữ chặt tay chân người kia nhưng miệng vẫn thốt ra âm điệu du dương. Không ai hiểu được nàng đang hát cái gì, chỉ cảm thấy hơi tương tự mấy tiếng *ê a* của Vinh Nhi, nghe vô cùng kỳ quái. Nhưng âm thanh dịu dàng kia vẫn khiến người nghe cảm nhận được tình cảm thân thiết chân thành, như của một người mẹ đang âu yếm con trẻ.

*Ào* một tiếng, chiếc bồn gỗ rốt cuộc bị lật nhào, Vinh Nhi bò ra ngoài, đắc ý cười khanh khách, hai mắt cong cong y hệt cha mình.

Trong phòng vô cùng bừa bộn, y phục Sở Kiều giờ đã hoàn toàn ướt sũng. Nàng hơi thất thần nhìn Vinh Nhi, tựa như xuyên qua bé thấy được Lý Sách, nên trừng mắt hậm hực nói: "Đã đi rồi mà còn để lại thằng nhóc này ức hiếp ta."

Vinh Nhi vừa cười khanh khách vừa lúc lắc cái mông trắng mập bò ra ngoài cửa. Sở Kiều định đưa tay kéo bé lại thì nhìn thấy nam nhân đang đứng tựa lên khung cửa.

Nam nhân có lẽ đã đứng đó một lúc lâu, ánh đèn từ hành lang hắt lên khuôn mặt tuấn tú, ánh mắt sâu thẳm, da rất sáng nhưng không phải loại trắng nhợt của thư sinh yếu ớt mà là loại trắng trẻo của quý tộc giàu sang, tinh khiết như bạch ngọc thượng hạng. Hắn đứng tựa vào cửa, hứng thú nhìn nàng, khóe miệng không cười nhưng đầu mày cuối mắt lại đầy ý cười.

Trong thoáng chốc, Sở Kiều chợt có hơi quẫn bách, hình như nàng vừa bị soái ca mê hoặc rồi.

Vinh Nhi lúc lắc cặp mông trắng múp mấy cái đã bò đến cạnh cửa, thấy khách không mời mà đến thì ngẩng đầu một góc chín mươi độ nhìn lên, cũng chẳng rõ có phải vì phát hiện bản thân còn không cao tới ống giày của đối phương hay không mà vốn định chó cậy thế chủ gào lên hai tiếng thị uy, nhưng rồi liền đổi thành thức thời im lặng. Bé ngẫm nghĩ, ngoái đầu nhìn nhìn Sở Kiều rồi lại quay sang nhìn Gia Cát Nguyệt, sau tiếp tục nhìn đến cái nôi nhỏ trong góc phòng của mình, nội tâm đấu tranh kịch liệt một lúc. Cuối cùng bé phát ra một âm thanh tương tự như tiếng thở dài, đưa tay kéo kéo vạt áo của Gia Cát Nguyệt. Gia Cát Nguyệt cúi đầu nhìn bé, thấy bé đang chỉ đoản kiếm đính ngọc bích hắn giắt bên hông, liên tục *ê a*.

Đoản kiếm này là trang sức người nào đó cố tình giắt theo để phối hợp với y phục trên người tối nay, dưới ánh đèn ngọc bích khảm trên vỏ kiếm lấp lánh dị thường. Gia Cát Nguyệt tháo đoản kiếm xuống đưa cho cậu bé.

Vinh Nhi cầm đoản kiếm đưa lên miệng ngậm, chưa mọc răng nên cũng chẳng gặm được gì. Nhưng bé vẫn nắm chặt nó trong tay, tiếp tục bò ra khỏi cửa, bò thẳng đến trước gian phòng sát bên phòng của Sở Kiều, sau đó dùng cẳng chân nhỏ mũm mĩm đạp cửa *bình bịch*.

Mai Hương ngái ngủ mở cửa ra, nhìn thấy Vinh Nhi thì vui vẻ kêu lên, nhanh chóng cúi xuống bế bé lên, vì cảm thấy kỳ quái nên bước sang phòng Sở Kiều định hỏi thăm thì chợt nhìn thấy Gia Cát Nguyệt. Khuôn mặt đang tươi cười của Mai Hương đột ngột đỏ ửng, cô nàng nhẹ gật đầu với Gia Cát Nguyệt ra vẻ hiểu rõ rồi lập tức ôm Vinh Nhi vào phòng đóng cửa lại.

Chướng ngại đã bị đẩy đi như thế.

Gia Cát Nguyệt thầm nghĩ, tiểu tử kia tuy có hơi đáng ghét nhưng dưới loại tình huống này thì cũng biết điều y như cha nó vậy.

Gia Cát thiếu gia đường hoàng bước vào trong cứ như đây là phòng của mình, còn vô cùng thản nhiên đóng cửa phòng lại, sau đó mới từ tốn đi đến trước mặt Sở Kiều, từ trên cao nhìn xuống nàng, giơ tay ra, nói: "Vẫn chưa chịu đứng dậy à?"

Sở Kiều hơi ngượng ngùng, ảo não nhíu mày, bản thân rốt cuộc sao thế này? Thật sự là bị sắc đẹp mê hoặc à?

Nàng cũng không vươn tay ra mà muốn tự mình đứng lên, ai ngờ vừa mới nhỏm dậy thì chợt trượt chân bởi sàn nhà ướt nước, lập tức *á* một tiếng, chưa kịp đứng vững thì đã chuẩn bị ngã nhào.

Đau đớn trong dự đoán không thấy đâu, thì ra Gia Cát Nguyệt đã nhanh tay đỡ lấy nàng, bàn tay ấm áp của hắn áp lên phần eo bị lộ ra vì y phục xộc xệch của nàng. Chỗ được y phục che thì cũng đã bị thấm nước, vải ướt dán sát vào da thịt để lộ đường cong uyển chuyển, vô cùng mị hoặc.

Ngồi xổm một thời gian nên hai chân Sở Kiều hiện đã tê rần, Gia Cát Nguyệt bế nàng lên đi đến đặt xuống trên giường. Tóc và y phục nàng đều ướt sũng, nhỏ nước *tí tách*, tựa như người vừa bị nhét vào bồn gỗ tắm rửa là nàng mới đúng.

Gia Cát Nguyệt cầm chăn trên giường trùm kín người Sở Kiều, nói: "Chớ để bị cảm lạnh."

Ánh nến mờ ảo trong phòng khiến khuôn mặt nam nhân trở nên mông lung không thật. Gia Cát Nguyệt với lấy một chiếc khăn đi đến trước mặt Sở Kiều, không nói tiếng nào bắt đầu cẩn thận lau tóc cho nàng, động tác vô cùng nhẹ nhàng.

Lòng bàn tay Sở Kiều hơi rịn mồ hôi, bị bọc trong tấm chăn dày cộm khiến nàng cảm thấy không khí trong phòng dường như trở nên hơi nóng, mặc dù người nàng vẫn đang ướt sũng. Vài sợi tóc lòa xòa trước trán che bớt tầm nhìn, nàng chỉ có thể thấy vạt trường bào xanh nhạt, từng cụm hoa văn hình mây thêu trên vạt áo khiến người nhìn hoa mắt.

"Vừa rồi hát bài gì thế?" Gia Cát Nguyệt đột nhiên lên tiếng hỏi, giọng điệu ôn nhu mang theo chất giọng khàn khàn nam tính quanh quẩn bên tai Sở Kiều.

Nàng ngẩng đầu lên nhìn khuôn mặt cực kỳ anh tuấn của người đối diện, mùi hương dễ chịu trên người hắn khiến nàng thoải mái đến mức muốn thiếp đi.

Gia Cát Nguyệt thấy nàng không đáp lời thì hơi nhíu mày gọi: "Tinh Nhi?"

"You are my sunshine."

Gia Cát Nguyệt sửng sốt, hỏi lại: "Là ngôn ngữ của quê hương nàng?"

"Ừ." Sở Kiều thành thật gật đầu.

"Hát lại một lần nữa cho ta nghe."

Giọng nói của Gia Cát Nguyệt tối nay tựa như có ma lực, khiến Sở Kiều không hề muốn đấu khẩu với chàng như bình thường. Nàng từ từ hít sâu hai hơi, chậm rãi cất chất giọng dịu dàng trong trẻo, tựa như âm thanh của hạt mưa đầu xuân rơi xuống hồ sen, dấy lên từng đợt sóng nhẹ.

"You are my sunshine, my only sunshine,

You make me happy when skies are grey."

Giọng hát tựa như được chắp cánh, chậm rãi lướt qua năm tháng trong quá khứ. Từ lần đầu gặp nhau rồi day dứt trong hận thù chém giết, cuộc sống tựa như một đồng cỏ dại chôn giấu vô số cạm bẫy, không biết đâu mới là nơi cất giữ hy vọng.

Chàng đứng trước mặt nàng, tỉ mỉ lau tóc cho nàng, ngón tay thon dài chậm rãi luồn qua mái tóc đen óng mượt như rẽ nước, tạo nên vô số gợn sóng thời gian. Chất liệu trường sam của chàng rất mềm mại, nàng tựa đầu ngang hông chàng, nhỏ giọng thì thầm bài hát mình thích nhất ở kiếp trước.

"You'll never know, dear, how much I love you,

Please don't take my sunshine away."

Không khí ấm áp trong phòng khiến nàng nhớ lại khoảng thời gian sống trong cô nhi viện Thánh Lạc An rất nhiều năm trước.

Viện trưởng là một lão binh kỳ cựu sống sót sau tám năm kháng chiến trên chiến trường Triều Tiên, ông bị mất một chân nhưng vẫn có thể phá hủy phi cơ của người Mỹ. Sau khi giải ngũ, ông cầm tiền lương trở về cố hương xây dựng cô nhi viện, nhận nuôi những đứa trẻ không cha không mẹ.

Sở Kiều không giống những cô nhi khác, nàng may mắn được viện trưởng coi như cháu gái ruột thịt, tốt bụng tảo tần nuôi nàng ăn học, ông còn nhờ cậy bạn bè để nàng vào học trường quân đội, nhập ngũ với ước mơ bảo vệ quốc gia.

Nàng cũng không phụ kỳ vọng của ông, dần dần trưởng thành một cách vững vàng, có thành tích ưu việt, không những thông minh linh hoạt mà còn hết sức lương thiện chính trực. Sau khi tốt nhiệp nàng gia nhập quân đội, đi lên vị trí chỉ huy rồi tiến vào sở tình báo. Con đường tương lai thênh thang cứ thế mở rộng chờ nàng ung dung bước đi.

Từ lúc nàng còn rất nhỏ, ông đã luôn dặn dò nàng , làm một quân nhân thì phải biết trung quân ái quốc, phải bảo vệ quốc gia, bảo vệ người dân, bảo vệ kẻ yếu. Ông còn kể nàng nghe rất nhiều chuyện xưa khi còn ở trong quân đội, chỉ dạy nàng làm sao lấy được lòng tin của người khác và tác phong sinh hoạt ngày thường cần có. Tựa như một mầm cây, nàng dần dần lớn lên dưới sự chăm bẵm tưới táp của ông. Nàng thậm chí còn nhớ rõ bộ mặt vui vẻ của ông lúc nàng hoàn thành nhiệm vụ lần đầu tiên, cầm khen thưởng trở về. Khuôn mặt đầy nếp nhăn sáng bừng dưới ánh mặt trời, ông cười đến không khép miệng được, ôm nàng vào lòng, vỗ đầu gọi cháu gái ngoan.

Đó là giai đoạn vui vẻ nhất đời nàng, có người thân yêu thương ở bên cạnh, một lòng ủng hộ hoài bão ước mơ của nàng.

Lúc còn trẻ ông nàng từng đi du học ở Anh nên rất giỏi ngoại ngữ. Ông dạy nàng Anh văn, dạy nàng lễ nghi của phương Tây, còn dạy nàng nhảy điệu waltz nữa.

Trái, phải, trái, phải, chụm chân, đi ba bước. Lặp lại...

Ông cũng dạy nàng hát.

"The other night, dear, as I lay sleeping,

I dreamed I held you in my arms.

When I awoke, dear, I was mistaken,

Please don't take my sunshine away."

Sở Kiều đột nhiên giơ tay ôm lấy hông Gia Cát Nguyệt. Ánh nến mờ ảo tựa như từng vầng sáng lan rộng, nhảy múa khắp gian phòng. Bầu trời ngoài cửa sổ lấp lánh muôn vàn tinh tú, con thuyền nhẹ trôi trên mặt nước, cảnh sắc núi non hai bên bờ chậm rãi lướt qua, thấp thoáng tiếng gió.

"Tinh Nhi." Gia Cát Nguyệt cúi đầu hỏi: "Bài hát này có nghĩa gì vậy?"

Chẳng rõ vì sao, Sở Kiều chợt hơi đỏ mặt, cúi đầu không đáp.

Trên đầu có hơi thở ấm áp phả xuống, lồng ngực nam nhân hơi run run, Sở Kiều biết, chàng đang cười, không phát ra tiếng nhưng nàng vẫn biết được.

"Âm điệu rất hay." Gia Cát Nguyệt ngồi xổm xuống nhìn thẳng vào mặt nàng, cười nói: "Ta rất thích."

Sở Kiều không dám nhìn vào mắt Gia Cát Nguyệt nên tìm cách đổi chủ đề: "Trễ thế này sao còn tới đây?"

"Ta nhớ một người nên không ngủ được." Gia Cát Nguyệt đột nhiên nói như vậy khiến Sở Kiều hơi sững sờ, nhất thời không biết nói sao.

"Người đó rất đáng yêu, nhưng có điều hơi ngốc, ta hơi sơ sẩy không trông chừng thì liền tự tổn thương bản thân, hơn nữa còn dễ bị lạc đường, dễ bị người khác cướp đi. Thế nên cho dù ta ở rất gần người đó thì vẫn không an tâm, không nhìn thấy liền thấp thỏm ngủ chẳng yên."

Sở Kiều đỏ mặt tới tận mang tai, rụt rè ngẩng lên nhìn Gia Cát Nguyệt một cái rồi nhỏ giọng phản bác: "Làm gì có chuyện ngốc như chàng nói chứ?""

"Còn ngốc hơn cả lời ta nói." Đáy mắt Gia Cát Nguyệt lấp láp ánh sáng, chợt cất tiếng cười vang: "Thật sự không biết tên Lý Sách kia làm sao sinh được một tiểu tử được hoan nghênh như vậy nữa, ngay cả ta cũng bị cho ra rìa."

Sở Kiều sửng sốt, nhận ra mình vừa bị chơi xỏ thì lập tức vung quả đấm lên muốn đánh, nhưng lại bị Gia Cát Nguyệt bắt được. Bàn tay của chàng vừa to vừa ấm áp, bao trọn lấy nắm tay nhỏ nhắn của nàng, mạnh mẽ đến mức tay nàng không nhúc nhích được chút nào.

Gia Cát Nguyệt chậm rãi áp sát, ánh mắt thăm thẳm như đầm sâu, che giấu vô số gợn sóng bên trong. Giọng nói trầm khàn của hắn phả lên một bên tai Sở Kiều, "Trừng phạt tội dám đùa bỡn ta lúc sáng." Dứt lời liền cúi xuống tiến gần môi nàng.

Sở Kiều chợt căng thẳng đến mức toàn thân cứng đờ, tuy đã sống qua hai kiếp người, cũng không hẳn là không có kinh nghiệm hôn, song chẳng rõ vì sao mà mỗi lần đối mặt với Gia Cát Nguyệt, nàng luôn vô cùng khẩn trương, luống cuống tới độ tay chân để đâu cũng không biết.

Nhưng nhắm mắt chờ hồi lâu cũng không thấy động tĩnh gì, nàng dè dặt hé mắt ra, lập tức phát hiện người nào đó đang nheo mắt nhìn, thấy nàng mở mắt ra thì sáp lại gần, gần đến mức hơi thở ấm áp đều phả lên mặt nàng, "Đang chờ ta hôn nàng đó à?"

"Gia Cát Nguyệt!" Sở Kiều tức giận xô mạnh, "Chàng ức hiếp người quá đáng!"

Gia Cát Nguyệt đột nhiên ôm lấy Sở Kiều, bằng tốc độ nhanh và dứt khoát đến đáng kinh ngạc kéo chăn bông cùng khăn mặt phủ trên người và đầu nàng sang một bên rồi dùng một tay giữ lấy mặt nàng, mạnh mẽ hôn xuống, tay còn lại siết chặt nàng, tựa như muốn khảm cả người nàng vào người mình. Nụ hôn của chàng lạnh như băng trong khi mặt nàng thì nóng bừng bừng, hô hấp của chàng vừa nhanh vừa nặng, tay chàng siết chặt bên eo nàng, thân thể hai người dán sát vào nhau, đến mức có thể nghe được nhịp tim của đối phương.

Một lần, hai lần rồi ba lần...

"Sở Kiều." Gia Cát Nguyệt mở mắt ra, đột nhiên gọi tên nàng, trong mắt như có lửa cháy dữ dội, đều giọng nói từng chữ một: "Thành thân với ta nhé."

Sở Kiều nhất thời ngây người, ánh nến chiếu lên mặt Gia Cát Nguyệt khiến mặt chàng nửa sáng nửa tối, thoạt nhìn mơ hồ không thực. Hình như tai vừa nghe nhầm gì thì phải, nàng chợt có hơi luống cuống, hé môi muốn nói nhưng lại không biết nên trả lời thế nào.

"Tinh Nhi." Chàng vẫn nhìn nàng chăm chú, đổi lại gọi bằng cái tên chỉ dành riêng cho chàng gọi.

Tâm trí đã bắt đầu trở nên mơ hồ, nàng vô thức đáp lời: "Dạ?"

"Ta yêu nàng."

Đỉnh đầu như vừa bị một quả bom oanh tạc, Sở Kiều cảm giác được mặt mình nóng rực, nhiệt độ nhanh chóng lan ra toàn thân, tư duy như vừa bị rơi vào vũng bùn, thoáng cái đã chìm nghỉm. Nàng ngơ ngác nhìn chàng, trong ngực nảy sinh một cảm giác sung sướng pha lẫn bối rối không thể diễn tả chực nhảy ra, khiến nàng phải đưa tay lên ngực, như thể nếu không chắn lại thì những cảm giác đó sẽ bùng nổ.

"Đã yêu từ rất lâu rồi, nàng có biết không?" Gia Cát Nguyệt đều giọng hỏi nàng, bình thản giống như hai người họ đang bàn chuyện của người khác vậy, không hề có chút bối rối nào.

Sở Kiều gật đầu, "Biết."

"Vậy còn nàng?" Ánh mắt sáng quắc của Gia Cát Nguyệt khiến Sở Kiều cảm thấy như sắp chết ngạt đến nơi.

Nàng lấy hết dũng khí, lí nhí đáp: "Ta cũng vậy."

Người nào đó vẫn không hài lòng, cười hỏi tiếp: "Nàng cũng cái gì?"

Sở Kiều bất giác oán trách sao con thuyền này lại nhỏ như vậy, sao gian phòng này lại chật chội như vậy, nóng đến mức nàng hít thở không thông.

"Nói." Người nào đó bá đạo nâng cằm nàng lên, hỏi lại: "Nàng cũng thế nào?"

"Ta cũng vậy..." Sở Kiều khẽ siết nắm tay, nói một hơi: "Ta cũng yêu chàng."

Ta cũng yêu chàng...

Âm thanh rất nhỏ, rất nhẹ nhưng nhanh chóng xuyên qua bóng tối thắp sáng nụ cười trên mặt Gia Cát Nguyệt, chàng dịu dàng cúi xuống hôn lên trán nàng, hỏi: "Từ lúc nào?"

Lúc nào?

Cũng chẳng rõ, có lẽ là lần gặp lại dưới chân núi Tịch Chiếu, có lẽ là lần trùng phùng trong đêm hoa đăng ở Hiền Dương, có lẽ là khoảnh khắc dưới hồ băng Thiên Trượng, khi chàng thì thầm nhắn nhủ nàng phải 'sống sót'...

Mà cũng có thể là lâu hơn nữa, là từ cái ôm trong hoàng lăng trên Mi Sơn, là lúc hai người quần ẩu ám muội trong thành Ổ Bành, là đoạn thời gian sóng vai chiến đấu chung đường đến Biện Đường, là lần cứu nàng khỏi tay Triệu Thuần ở Đường Kinh.

Hay là ngược dòng thời gian đến mười năm trước, trong gian phòng tràn ngập hương hoa lan, thiếu niên dùng chiếc khăn tay trắng tinh lau nước mắt nước mũi cho nàng. Từng khoảnh khắc, từng bước một, chàng và sự tùy tiện, cố chấp của mình đã ngang ngược tiến vào chiếm giữ tim nàng.

Chẳng báo trước, cũng chẳng hỏi nàng có đồng ý hay không.

"Không biết." Sở Kiều đưa tay nhẹ xoa xoa mi tâm hơi nhíu vì không hài lòng của chàng, "Hình như là từ rất lâu rồi, lâu đến mức bản thân ta cũng không nhớ rõ là lúc nào."

Nàng nép vào ngực chàng, dịu dàng nói: "Có lẽ là rất nhiều lần, mỗi lần một chút, nhớ không hết."

"Đúng là đồ ngốc." Gia Cát Nguyệt ôm nàng, đột nhiên cười nói: "Thật ra thì chính ta cũng không biết."

Đúng vậy, tình yêu luôn đến một cách âm thầm, đến khi ngươi phát hiện thì nó đã ghim sâu trong tim rồi.

Gia Cát Nguyệt cúi đầu hôn nàng, từ trán, xuống môi, đến mặt, vành tai, cổ, xương quai xanh thanh mảnh...

Người Sở Kiều càng lúc càng mềm đi, cuối cùng dựa hẳn vào thân thể nóng rực của Gia Cát Nguyệt. Cánh tay bên hông nhẹ nhàng di động, chậm rãi thắp lửa đốt cháy chút lý trí còn sót lại của nàng.

Sở Kiều chợt *Á* một tiếng kinh ngạc, cả người đột nhiên bị bế bổng lên đặt xuống trên giường.

Y phục đã ướt hết nửa, mặc cũng chẳng khác không mặc là bao.

Chàng chăm chú nhìn nàng, mi tâm khẽ chau như đang suy tư gì đó, nhưng ánh mắt vẫn hết sức nóng bỏng.

Hơi thở nặng nề cúi xuống sát bên tai, vành tai nhẹ nhàng bị mút lấy khiến toàn thân nàng như có dòng điện chạy qua. Dây lưng trên chiếc eo thon bị kéo nhẹ khiến vạt áo mở rộng, để lộ chiếc yếm trắng xinh xắn có thêu một chú chim nhỏ màu vàng.

Bờ vai mịn màng hở ra, lành lạnh. Ngón tay thon dài nhẹ nhàng lướt qua sau cổ nàng, run rẩy rút dây buộc khiến chiếc yếm trượt xuống. Sở Kiều hốt hoảng, theo bản năng kéo lại thì nghe thấy đỉnh đầu vang lên một tiếng cười khẽ, "Ngượng sao?"

Sở Kiều muốn tránh nhưng chỉ hoài công, đành ngây ngốc chỉ vào ngọn nến ở chân giường, ấp úng nói một cách đáng thương: "Thổi nến đi có được không?"

Gia Cát Nguyệt vẫn như cũ, cười không nghe tiếng, nhưng vẫn có thể thấy được khóe miệng đang cong lên rõ ràng.

Không gian yên tĩnh không tiếng động, chỉ có thể thỉnh thoảng nghe được tiếng chim đêm nhào xuống mặt sông bắt mồi.

Chàng đỡ eo Sở Kiều, thì thầm bên tai nàng: "Đừng sợ."

Nụ hôn của chàng lại rơi xuống trên da thịt lụa mịn khiến nàng hoảng hốt, toàn thân dần tê dại rồi trở nên nóng hổi. Từng lớp y phục chậm rãi bị cởi ra, để lộ thân thể duyên dáng yêu kiều bên trong. Mịn màng, trắng nõn tựa ngọc lưu ly, như một pho tượng điêu khắc tinh xảo, toát ra sức sống trẻ trung bất tận. Chàng dịu dàng hôn từng tấc một trên thân thể nàng, thân thể hai người áp vào nhau, nóng bỏng như lửa.

Sở Kiều thẹn thùng muốn vùi mặt vào ngực Gia Cát Nguyệt thì đột ngột nhìn thấy vết sẹo dữ tợn trước ngực và phía vai hắn, cả người nàng chợt lạnh đi, bất giác rùng mình một cái.

Gia Cát Nguyệt cảm nhận được liền vội vàng đưa tay che mắt nàng, thấp giọng nói: "Đừng nhìn."

Sở Kiều kéo tay Gia Cát Nguyệt ra, run rẩy sờ lên mấy vết sẹo rồi áp mặt vào ngực chàng, nước mắt chảy ra thấm ướt phần da thịt không lành lặn.

Gia Cát Nguyệt nhẹ nhàng ôm Sở Kiều vào lòng, không nói gì mà chỉ lẳng lặng nhìn nàng khóc.

Ngày Lý Sách được hạ táng, nàng từng thề sẽ không bao giờ rơi lệ nữa. Nhưng giờ phút này nhìn thấy vết thương trên người chàng, nhìn vết tích của thương thế mà chàng phải chịu vì mình, lòng nàng đau đớn đến tột cùng. Nàng ôm chàng thật chặt, giống như sợ rằng chỉ cần buông lỏng tay thì chàng sẽ biến mất vậy. Giống như lúc ở hồ băng khi trước, nàng vừa buông tay thì lập tức không còn nhìn thấy chàng nữa.

"Gia Cát Nguyệt, thật xin lỗi." Nàng vừa khóc vừa nói.

"Ngốc." Gia Cát Nguyệt hôn lên tóc nàng, cười nói: "Ta vì nàng mà bị hủy dung, nàng phải chịu trách nhiệm với ta đấy."

Sở Kiều vừa nức nở vừa cãi lại: "Bị thương ở vai với trên ngực mà, không tính... không tính là bị hủy dung."

Gia Cát Nguyệt phì cười, đáy mắt đen thăm thẳm phản chiếu bóng hình yêu kiều như hoa sen, dịu dàng hôn lên khuôn mặt đầy nước mắt của nàng, thấp giọng thì thầm: "Mặc kệ, nàng vẫn phải chịu trách nhiệm."

Vòng tay ôm của chàng mạnh đến mức khiến nàng hơi đau, nhưng cảm giác đau đớn đã sớm bị dung hòa bởi hạnh phúc mênh mông như đại dương.

Thật tốt quá, hai người bọn họ vẫn còn có thể đi đến ngày hôm nay. Trước đó không lâu nàng từng cho rằng ánh sáng của nàng đã bị chôn vùi dưới hồ băng lạnh lẽo rồi, làm sao cũng không thể tìm lại nữa.

Quấn quýt càng lúc càng sâu, mồ hôi rịn ướt trán, không còn tiếng người nào khác bốn bề chỉ có tiếng sóng nước rì rào. Thời gian ngưng đọng, gió cũng ngừng lại, tựa như tô điểm thêm cho sự hiện hữu của hai người bọn họ.

Cảm giác đau nhói chợt ập đến, Sở Kiều cong người lên, không kìm được *ưm* khẽ, một dòng máu nóng chảy ra giữa hai chân, đỏ tươi như chu sa.

Gia Cát Nguyệt khựng người lại, trên mặt lộ vẻ không thể tin. Chàng chăm chú nhìn nàng, tựa như muốn xuyên qua tầng tầng sương mù chứng thực chuyện gì đó, sững sờ không nói nên lời. Mặt Sở Kiều hồng rực, môi cũng sưng đỏ, bị nhìn như vậy thì bất giác kéo áo che ngực.

Gia Cát Nguyệt đột nhiên nở nụ cười, Sở Kiều chưa từng thấy chàng cười vui vẻ như vậy bao giờ, bắt đầu chỉ là một cái nhếch môi khẽ, nhưng dần chuyển sang cười thành tiếng, âm thanh càng lúc càng lớn, lớn đến mức khiến nàng phải vội vàng giơ tay ra cố bịt miệng chàng lại.

Chàng vùi đầu vào hõm vai nàng, thấp giọng nói: "Tinh Nhi, ta rất vui, rất rất vui."

Sở Kiều vòng cánh tay mảnh khảnh qua hông Gia Cát Nguyệt, trong ánh nến yếu ớt sắp tắt, nàng sung sướng mỉm cười, thầm nghĩ, đây có lẽ chính là đêm động phòng hoa chúc của mình.

Giữa bọn họ có nhiều cách trở không kể xiết, nhưng sau khi trải qua bao nhiêu chuyện, qua nhiều năm như vậy, hận nước thù nhà, sinh tử biệt ly, thời gian và không gian, kiếp này và kiếp trước, hai người lại có thể từng bước một đi đến ngày hôm nay.

*Chú thích chữ Nguyệt trong tên của nam chính: Nguyệt ở đây không phải là "月" Nguyệt trong ánh trăng mà Nguyệt trong chữ "玥". 玥 là tên một loại thần châu trong truyền thuyết Trung Quốc thời cổ đại được ghép từ 2 chữ "王" (vương) và "月" (trăng). Có 2 truyền thuyết:

1: mắt phải của thần Bàn Cổ. Thần Bàn Cổ (còn được gọi là Bàn Cổ Vương) sau khi chết hóa thân: hơi thở biến thành cơn gió, âm thanh biến thành sấm sét, mắt trái biến thành mặt trời, mắt phải biến thành mặt trăng...

2: truyền thuyết Thiếu Hạo (1 vị vua huyền thoại của trung quốc) ra đời, có phượng hoàng ngũ sắc dẫn theo trăm điểu đến trước sân, lúc ấy phượng hoàng ngậm một quả hạch thả vào trong tay Thiếu Hạo. Đột nhiên mặt đất chấn động, Cùng Tang (tên đô thành) ngả nghiêng, quả hạch nứt ra, một viên thần châu tỏa sáng rực rỡ xuất hiện. Mọi người dân vô cùng vui mừng, ánh sáng sao Thái Bạch – tượng chưng cho điềm lành phản chiếu từ hạt châu trong sáng như ánh trăng, được cho là vật mà trời ban cho quân vương, lấy tên cho thần châu là "玥" , tên hiệu của Thiếu Hạo là "phượng điểu thị" (chim phượng hoàng)  


Chương 181: Kim phong ngọc lộ

Gần sáng thì trời đột ngột đổ mưa, hạt mưa rơi trên ván thuyền kêu *tí tách*, con thuyền hơi chao đảo nhưng vẫn chậm rãi lướt qua núi non trùng điệp ở hai bên. Không trung văng vẳng tiếng gió tới lui, cơn mưa cuối thu lành lạnh trút nước xuống dòng sông thanh tịch.

Sở Kiều chợt giật mình tỉnh giấc, tóc đen rơi tán loạn trên cổ, mặt hồng hồng hơi ngái ngủ, da thịt như lụa vùi trong chăn ấm, cánh tay mảnh khảnh trắng trẻo vươn ra sờ soạng, bên cạnh trống không, lạnh như băng. Cảm giác mơ màng lập tức biến mất, nàng ngồi bật dậy, trong phòng không còn ai ngoài nàng.

Nàng đột nhiên thấy hơi hoảng hốt, vội vã lật chăn xuống giường, nhưng vừa đặt chân xuống đất thì đầu gối chợt nhũn ra, cảm giác đau đớn mơ hồ ở hạ thân nhanh chóng truyền khắp cơ thể, tựa như đang nhắc nhở nàng về đêm qua.

Sở Kiều vơ lấy trường bào màu lam bên giường khoác vào người, buộc hờ dây lưng ngang vòng eo mảnh khảnh, cầm theo một chiếc dù trúc rồi mở cửa phòng đi ra ngoài. Bên ngoài hơi lạnh, mưa phùn phủ kín trời, bị gió thổi bay lất phất, nghịch ngợm vương lên tà áo nàng. Nàng hối hả chạy trên boong tàu trống trải, bốn bề tối tăm, hai bên bờ núi non cao vút, thỉnh thoảng nghe được tiếng vượn kêu nỉ non.

Gia Cát Nguyệt đang đứng ở mũi thuyền, và dường như đã đứng đó rất lâu, bóng dáng khoác trường bào tuyền trắng cao ngất, đón gió khiến vạt váo bay phần phật. Nghe được tiếng chân, hắn quay đầu lại, nhìn thấy Sở Kiều thì cũng không kinh ngạc, chỉ đưa tay về phía nàng, lẳng lặng nói: "Tới đây."

Sở Kiều vội vã chạy đến che dù cho hắn, tuy mưa phùn rất nhẹ nhưng đứng lâu dưới mưa cũng sẽ ướt. Nhìn y phục hắn đã sớm ướt sũng, nàng khẽ chau mày, trách: "Không thấy trời đang mưa sao?"

Gió thổi qua dãy núi phát ra âm thanh nỉ non, ống tay áo bồng bềnh nhảy múa, Gia Cát Nguyệt nắm tay Sở Kiều, các ngón tay thon dài nhưng mạnh mẽ rồi đột nhiên ôm nàng vào lòng, cứ thế lẳng lặng ôm mà không nói tiếng nào. Lực ôm không lớn nhưng lại khiến nàng thấy mình như bị vây trong lồng thép, không dám mảy may động đậy dù chỉ một chút.

"Gia Cát Nguyệt?" Thời gian lặng lẽ trôi qua, nàng nhỏ giọng gọi: "Chàng sao vậy?"

"Không có gì." Giọng nói rất bình tĩnh, dịu dàng như một mặt hồ yên ả. Vài năm không gặp, nam tử cứng nhắc ương ngạnh ngày xưa dường như trưởng thành hơn, ánh mắt càng thêm trầm lắng, loại trầm lắng chỉ xuất hiện ở người từng trải qua nhiều tang thương. Giọng nói dịu dàng nhưng luôn ẩn chứa vô số lớp băng ngầm cùng gợn sóng bên dưới, ngoài mặt vui buồn không lộ, khiến người khác nhìn không ra là đang nghĩ gì.

"Tinh Nhi, thiệt thòi cho nàng rồi." Hắn đột nhiên nói một câu không đầu không đuôi như vậy.

Sở Kiều nghi ngờ nhíu mày, hỏi lại: "Chàng đang nói cái gì vậy?"

"Là ta không phải." Gia Cát Nguyệt lẳng lặng cong môi cười, nụ cười trong trẻo như của một đứa trẻ, nhẹ vỗ vỗ mặt nàng, nói: "Sau này nhất định sẽ bù đắp lại cho nàng."

"Gia Cát Nguyệt, chàng rốt cuộc làm sao vậy?" Sở Kiều chợt hơi căng thẳng, vội vàng túm tay áo của Gia Cát Nguyệt, ngước lên nói: "Thiệt thòi gì chứ, là ta nguyện ý mà."

Gia Cát Nguyệt khẽ cười một tiếng, ưu nhã vòng tay ôm Sở Kiều vào lòng, tựa cằm lên đỉnh đầu nàng, dịu dàng tựa như đang ôm một món đồ bằng sứ.

Có mấy lời không nói ra cứ thế mà theo gió hòa tan trong màn mưa phùn.

Hắn vẫn cho mình tốt hơn Yến Tuân nhiều, nàng ở cạnh mình mới được hạnh phúc, mới được che chở đúng nghĩa.

Nhưng qua đêm nay, hắn mới nhận ra bản thân thật ra không bằng người kia. Mười năm bên nhau, Yến Tuân đích thật là quân tử, trong khi đó hắn lại ôm ấp tư tâm như vậy.

Nhưng biết phải làm sao bây giờ?

Đối với chuyện của nàng, cho tới giờ hắn vẫn chưa từng thấy tự tin. Hạnh phúc càng gần hắn càng sợ hãi, cho nên mới bất giác nổi tư tâm, tham lam muốn nhiều hơn, nhiều hơn nữa, bao nhiêu cũng không đủ.

Có lúc hắn từng cười nhạo bản thân, không ngờ Gia Cát Nguyệt hắn mà cũng có ngày hôm nay?

Hắn vốn là một người biết suy tính thiệt hơn, trong mắt hắn, nghiệp bá, giang sơn và tài phú gì đó chẳng qua chỉ là một canh bạc, tính toán đặt để chỉ trong nháy mắt. Chỉ có nàng là hắn không cách nào dám đánh cược.

Sở Kiều tựa vào lòng hắn, vẫn còn nhỏ giọng lẩm bẩm tựa như muốn an ủi hắn, "Ta không sao, là bản thân ta nguyện ý mà."

Gia Cát Nguyệt giơ tay bịt miệng nàng lại, sau đó bế bổng nàng lên trở về phòng.

Sở Kiều *a* một tiếng nhỏ, dù trúc rơi trên mặt đất, mưa phùn tạt vào mặt lạnh buốt. Nàng nằm trong vòng tay của hắn, thấp giọng kháng nghị: "Thả ta xuống đi, bị bọn Mai Hương nhìn thấy thì hỏng bét!"

Gia Cát Nguyệt cúi xuống, bá đạo nói: "Câm miệng."

Sở Kiều nhướng mày, ương bướng cãi lại: "Còn lâu."

Gia Cát Nguyệt khẽ cười, vẫn là kiểu cười không thành tiếng như cũ, sau đó cúi xuống ngậm lấy môi nàng, triền miên quấn quýt không ngừng. Hắn cứ như vậy đứng trước cửa phòng, bên dưới bầu trời đêm công khai hôn nàng, mãi đến khi Sở Kiều toàn thân vô lực, thở hổn hển thì mới dời môi.

Hắn nhìn nàng, mỉm nụ cười mơ hồ mang theo vẻ đắc ý, khiêu khích: "Ta có biện pháp khiến nàng im lặng."

Sở Kiều vội vàng đưa tay che đôi môi nhỏ xinh đã sưng đỏ, hậm hực mở to đôi mắt đen tròn, im lặng tỏ ý phản kháng.

Gia Cát Nguyệt khẽ cười, ôm nàng đi vào phòng. Cũng may trời chưa sáng nên tất cả mọi người vẫn còn ngủ, dọc đường không đụng phải ai.

Vừa vào phòng, Sở Kiều lập tức nhảy xuống, bày tư thế phòng vệ nhìn Gia Cát Nguyệt chằm chằm, thấy hắn thản nhiên cởi áo nới dây lưng thì không khỏi mặt đỏ tới mang tai.

Gia Cát Nguyệt đột nhiên khẽ cười, chậm rãi tiến tới thì thầm bên tai nàng: "Còn đau không?"

Mặt Sở Kiều đã đỏ đến sắp bật máu, nàng rõ ràng có thể chỉ huy trăm vạn đại quân ra trận giết địch, nhưng lúc đối diện với loại chuyện này thì liền trở thành tiểu cô nương da mặt mỏng hơn giấy, chỉ một câu cũng có thể khiến nàng luống cuống tay chân.

Gia Cát Nguyệt ôm lấy nàng từ phía sau, gian xảo trượt tay xuống phía dưới. Sở Kiều luống cuống vội vàng giữ chặt bàn tay không an phận kia, khiến nó dừng lại trên phần bụng mềm mại của mình.

"Thế nào rồi?" Gia Cát Nguyệt lại hỏi: "Ta đang hỏi nàng đấy? Còn đau không?"

Sở Kiều quẫn bách, lắc đầu lia lịa như một chú thỏ đang hoảng hốt.

Gia Cát Nguyệt mỉm cười, trên mặt xẹt qua vẻ gian tà, cố ý cúi xuống thấp giọng thì thầm bên tai nàng: "Thật sự không còn đau?"

Nàng cuống quít gật đầu.

"Vậy chúng ta tiếp tục."

"Hả?" Sở Kiều kinh ngạc, miệng há to đủ nhét được một quả trứng gà.

Gia Cát Nguyệt bật cười thành tiếng, cúi xuống ôm nàng lên đặt xuống trên giường. Sở Kiều cũng không rõ bản thân mình rốt cuộc là thế nào nữa? Thân thủ linh hoạt hay võ nghệ của nàng đâu cả rồi? Tại sao chàng vừa áp đến gần là cả người nàng liền mềm nhũn không chút khí lực thế này?

Sở Kiều ngẩn ngơ nhìn khuôn mặt chàng dần phóng đại ở trước mắt, sống mũi cao thẳng, môi mỏng khẽ nhếch, ánh mắt tà mị, làn da nhẵn mịn, đẹp đến điên đảo chúng sinh. Cứ như thế, nàng ngây người mặc cho chàng chiếm lĩnh đôi môi anh đào của mình, cảm giác tê dại tận xương tủy ập đến, hàm răng bị trêu chọc phải hé ra, mở lối cho đầu lưỡi tiến vào thăm dò. Nụ hôn từ dịu dàng dần trở nên kịch liệt, nàng cũng từ ngây ngô thụ động bắt đầu thử nghênh đón. Toàn thân run rẩy, hô hấp rối loạn, cuối cùng nàng vẫn bại trận trước thủ đoạn trêu đùa của đối phương, nhũn người tựa vào lòng chàng, cảm thấy cả người như đang tan ra thành nước, không thể khống chế.

Áo ngoài bị cởi ra chẳng biết từ khi nào, chỉ còn lại tiểu y be bé, để lộ hai chân thon dài cùng cánh tay trắng mịn màng.

Song hắn lại đột ngột kéo chăn phủ lên người nàng, hôn lên trán nàng, ôm nàng vào lòng, khàn giọng cười nói: "Được rồi, ngủ đi."

Sở Kiều sửng sốt, ngơ ngác hỏi lại: "Ngủ?"

"Sao hả?" Gia Cát Nguyệt dùng một tay đỡ đầu, nghiêng người nhìn khuôn mặt ửng hồng của nàng, cười trêu: "Nàng không muốn?"

"Muốn!" Sở Kiều lập tức lớn tiếng đáp, còn khoa trương ngáp một cái rõ to, tỏ vẻ bản thân cũng đang rất buồn ngủ.

Gia Cát Nguyệt nằm xuống ôm lấy nàng. Hắn vốn cũng chẳng định làm gì, nàng dù sao cũng là lần đầu tiên, không thể nhanh như vậy liền có thể tiếp nhận trận mây mưa thứ hai. Vừa nãy hắn suýt nữa đã không thể dừng lại, còn tiếp tục nữa thì nguy, đành phải nhắm mắt lại, nói: "Vậy thì ngủ đi."

Nhưng người nào đó trong ngực lại không biết an phận, một hồi thì động động cánh tay, một hồi thì đổi tư thế, như một chú cún con hiếu động ngọ nguậy loạn xị.

Gia Cát Nguyệt khẽ nhíu mày, trong bụng lại nhen nhúm phát hỏa làm sao cũng không dập tắt được, đành lên tiếng hỏi: "Sao vậy?"

"Chàng... chàng không trở về phòng mình sao?" Sở Kiều ngẩng lên, đưa ánh mắt đáng thương nhìn Gia Cát Nguyệt, mặt hồng hồng, "Rủi sáng mai bị bọn Mai Hương bắt gặp thì làm sao? Bình An và Thanh Thanh vẫn còn là trẻ con đấy."

Gia Cát Nguyệt vẫn cau mày, "Bọn chúng bao tuổi rồi, còn là trẻ con gì nữa? Quên rồi à, lúc ở thành Ổ Bành, nàng bằng tuổi bọn chúng nhưng suýt nữa đã cường bạo ta."

"Ta nào có?" Liên quan đến danh dự cá nhân, Sở Kiều lập tức phản bác, "Chàng ngậm máu phun người!"

"Còn chối?" Gia Cát Nguyệt hừ mũi, "Nàng giả trang thành vũ cơ Điền đại nhân dâng cho ta, cố tình ăn mặc hở hang xuất hiện trước mặt ta, không phải muốn lợi dụng ta thì còn gì nữa?"

"Gia Cát Nguyệt, chàng...."

"Nàng có thể lớn tiếng thêm chút nữa, khỏi đợi đến ngày mai, bây giờ để bọn họ biết luôn cũng được."

Sở Kiều vội vàng hạ giọng, hung dữ lườm đối phương, nghiến răng trèo trẹo, "Khi đó ta phải cứu người, ai biết được đó là phòng của chàng chứ? Chàng rõ ràng tường tận tiền căn hậu quả, đừng có giả ngơ với ta."

"Hừ!" Gia Cát Nguyệt không nhịn được liếc nàng một cái, vẻ mặt như đang nói: Biết ngay nàng sẽ chối bay chối biến mà!

Sở Kiều thấy Gia Cát Nguyệt không nói lời nào thì tức đến thở hổn hển, đẩy đẩy hắn mấy cái, nói: "Này! Chàng về phòng ngủ đi, cái giường này nhỏ như vậy, bị chàng chiếm chỗ, ta ngủ không ngon."

Cái giường đủ cho bốn người nằm mà còn chê nhỏ? Gia Cát Nguyệt mặc kệ nàng lải nhải, tiếp tục nhắm mắt ngủ.

"Này! Mau trở về phòng mình đi, có thể nào cứ nằm lỳ trên giường người ta vậy hả?" Thấy Gia Cát Nguyệt vẫn bất động như núi, Sở Kiều tức tối ngồi dậy, ôm quần áo định rời giường. Nhưng vừa bò qua khỏi thân hình của ai đó đang nằm ngoài thì eo chợt bị kéo lại, nàng mất đà ngã nằm lên trên ngực của Gia Cát Nguyệt.

Đáy mắt lóe lên vài tia lửa, người nào đó âm trầm nheo mắt nhìn nàng, lạnh lùng nói: "Hình như nàng còn rất sung sức, không muốn ngủ có đúng không?"

"Làm gì có chuyện đó! Không hề!"

Đến cậu nhóc Lý Thanh Vinh mà còn biết nhìn sắc mặt người khác, lớn đầu như Sở Kiều dĩ nhiên cũng biết tiến lùi lúc nào. Nàng nhanh chóng nhận ra tất cả mọi kháng nghị hay chạy trốn gì đó bây giờ là nỗ lực không thực tế, cho nên vội vàng ngoan ngoãn nằm xuống, đưa lưng về phía Gia Cát Nguyệt, không dám nói thêm tiếng nào, cố gắng bình ổn hơi thở lại như chuẩn bị thiếp đi.

Trong phòng tĩnh lặng không một tiếng động, bốn bề tối mịt, chỉ có tiếng mưa rơi trên ván thuyền kêu *tí tách*.

Một cánh tay nhẹ nhàng đưa qua ôm ngang eo nàng, hơi thở nam tính phả đến gần, dịu dàng hôn lên vành tai nàng, trầm giọng nói: "Tinh Nhi, ta muốn từ nay về sau, tối nào cũng có thể ôm nàng ngủ như vậy, đừng đuổi ta đi nữa."

Tim nàng chợt tan ra thành một vũng nước ấm. Thật khó tưởng tượng người như hắn lại có thể nói ra những lời như vậy. Nàng cảm thấy lòng hơi chua xót, đưa tay ra nắm lấy tay chàng, cảm thấy đầu ngón tay chàng hơi lạnh thì kéo lên môi, nhẹ nhàng cúi xuống hôn.

Đêm vẫn còn dài, Sở Kiều cứ thế ngủ thiếp đi trong vòng tay của Gia Cát Nguyệt. Trong giấc ngủ, nàng dường như mơ thấy một khoảng trời bao la rộng lớn, hồ nước trong xanh, thảo nguyên tươi tốt, một nhóm trẻ con mặc đồ trắng đang nắm tay nhau nhảy múa, vui vẻ hát vang:

"You are my sunshine, my only sunshine,

You make me happy when skies are grey.

You'll never know, dear, how much I love you,

Please don't take my sunshine away."

Gia Cát Nguyệt, chàng chính là ánh sáng của ta, là vầng thái dương không bao giờ có thể thay thế của ta.

.....................................................................................................................

Ngủ muộn thì tất nhiên sẽ dậy muộn.

Nghe thấy cửa phòng bị đập mạnh, Sở Kiều hoảng hốt mở mắt ra. Gia Cát Nguyệt y trang chỉnh tề đứng trước cửa sổ, trong tay cầm một bộ y phục màu lam nhạt, cười nói: "Mai Hương đã đến gọi cửa mấy lần rồi, còn không ngồi dậy thì cô nàng sẽ đạp cửa xông vào đấy."

Sở Kiều cuống quít mặc quần áo vào, sau đó rón rén đi đến hé cửa chỉ đủ để thò đầu ra, cười ngây ngô: "Ha ha, Mai Hương đó à? Chào buổi sáng."

"Tiểu thư, sắp trưa rồi còn chào buổi sáng gì nữa, chúng ta chuẩn bị cập bờ đấy." Trước cửa, Mai Hương hùng hổ đứng chống nạnh, Thanh Thanh ôm con trai của Lý Sách đứng bên cạnh đảo mắt cố nhìn vào trong, như đột nhiên trở nên vô cùng hứng thú với phòng của Sở Kiều. Vinh Nhi giơ bàn tay múp míp bấu véo mặt của Thanh Thanh, miệng kêu *ê a*, cũng không biết là muốn nói gì.

"Hở? Vậy à?" Sở Kiều cười ha ha, "Ờ, gần đây không được khỏe lắm, không ngờ lại mệt đến mức ngủ quên, thật kỳ quái, ha ha."

"Phải đó, thật là kỳ quái." Thanh Thanh ở một bên nhe răng cười he he, vẻ mặt vô cùng tinh quái.

"Tiểu thư đứng đây làm gì vậy, em mang nước đến đây, người không định rửa mặt à?"

Sở Kiều đưa tay nhấc lấy thùng nước dưới chân Mai Hương, cố ra vẻ thản nhiên nói: "Ta tự mình mang vào."

Mai Hương chau mày, "Tiểu thư, người sao vậy?"

"Ta chẳng sao cả, em bận bịu nhiều việc nên chắc cũng mệt rồi, mau đi nghỉ đi."

Mai Hương tận tụy với công tác của mình vẫn không chịu buông tha: "Em còn phải dọn phòng cho tiểu thư nữa."

"Không cần, không cần. Hôm nay ta thấy tinh thần rất sảng khoái, ta tự mình thu dọn là được." Dứt lời liền không chờ Mai Hương nói thêm câu nào nữa, Sở Kiều lập tức rụt đầu lại đóng chặt cửa phòng, sau đó rón rén dán tai lên cửa sổ, cẩn thận lắng nghe động tĩnh bên ngoài. Chờ cho Mai Hương và Thanh Thanh đi xa, nàng mới thở phào một hơi thật dài.

Gia Cát Nguyệt nằm trên giường, bộ dáng vô cùng thong dong, "Nhìn nàng xem, lén lút rón rén như ăn trộm."

Sở Kiều trừng mắt liếc sang một cái rồi đi nhanh đến kéo tay hắn, "Thừa dịp không có ai, chàng mau về phòng mình đi."

"Không đi." Gia Cát Nguyệt dứt khoát cự tuyệt, "Trừ khi nàng hầu hạ ta rửa mặt."

Sở Kiều suy sụp ra mặt, "Làm ơn đi có được không?"

"Không làm thì ta không đi."

"Gia Cát Nguyệt, chàng..." Sở Kiều nghiến răng nghiến lợi một lúc, cuối cùng vẫn phải đi tới chậu nước, lấy khăn nhúng nước, hùng hổ xắn cao ống tay như chuẩn bị ra trận rồi hùng hổ quay lại đứng trước mặt Gia Cát Nguyệt, dùng sức lau loạn xạ trên mặt hắn.

Gia Cát Nguyệt hơi nhăn mặt nhưng cũng không nói gì, vẫn giữ dáng vẻ cười cười mị hoặc như cũ. Thấy vậy Sở Kiều chợt có chút không nỡ, cuối cùng thì thở dài một hơi, động tác cũng trở nên dịu dàng hơn.

Nắng ấm xuyên qua cửa sổ chiếu lên người cả hai, thời gian tựa như lùi lại hơn mười năm trước, trong Thanh Sơn viện, nàng mỗi ngày đều phải dậy rất sớm, bưng chậu nước đã được ủ trầm hương từ sớm vào phòng hầu hạ người này rời giường, hầu hạ hắn rửa mặt, hầu hạ hắn mặc y phục mang giày, còn phải hầu hạ hắn ăn cơm uống trà nữa.

"Nhìn đi, khó khăn lắm mới đi được một vòng lớn, cuối cùng vẫn trở về kiếp nô tỳ này." Sở Kiều ủ rũ nói.

Gia Cát Nguyệt phì cười, nói: "Có câu lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, đã vốn là người của ta thì có chạy trời cũng không thoát."

Sở Kiều nhìn hắn chằm chằm, mắng: "Ở đâu ra loại lập luận giẻ rách đó chứ."

Đánh răng súc miệng xong, y phục cũng chỉnh trang tử tế, Sở Kiều kéo tay Gia Cát Nguyệt đẩy tới cửa, "Mau đi đi, nhanh lên!"

Gia Cát Nguyệt quay lại liếc nàng, "Nha đầu vô lương tâm, một đêm phu thê ân nghĩa trăm ngày, còn nàng mới sang hôm sau đã trở mặt rồi!"

"Đi nhanh giùm! Mau trở trở về phòng mình đi!"

"Thiếu gia!" Một tiếng kêu khoái trá đột nhiên vang lên khiến Sở Kiều sợ bay mất hồn vía, quay ngoắt lại thì thấy Nguyệt Thất đứng ở ngoài cửa sổ, tươi cười chào nàng: "Sáng sớm có tới phòng thiếu gia, không thấy thiếu gia trong phòng liền đoán được tối qua thiếu gia nghỉ trong phòng của cô nương."

Bình An đứng sau lưng Nguyệt Thất, đằng sau hình như còn rất nhiều người khác, khoảng cách khá xa nên cũng không biết cậu đang nói chuyện với ai, nhưng vẫn loáng thoáng nghe được mấy câu như: "Tỷ tỷ xem như đã gả ra ngoài rồi, sau này không cần phải nghe lải nhải nữa."

Cùng lúc đó, cửa phòng *kẽo kẹt* bị đẩy ra, Mai Hương dẫn Thanh Thanh tiến vào, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt thì thi lễ một cái, quy củ gọi Tứ thiếu gia rồi đi về phía giường Sở Kiều, chuẩn bị thu dọn chăn gối.

Sở Kiều nhất thời nhớ ra trên giường còn có vết máu không thể để người khác nhìn thấy, đang định đi ngăn cản thì Thanh Thanh lại bưng một chén canh đến, nói nhỏ bên tai nàng: "Mai Hương tỷ cố ý dặn phòng bếp hầm canh này, nói là để bổ sung khí huyết, tỷ tỷ mau uống đi."

Sở Kiều choáng váng, mặt đỏ như muốn bật máu.

Gia Cát Nguyệt thản nhiên đi tới nhận lấy chén canh kia đưa đến môi Sở Kiều, cười nói: "Quả nhiên là đồ tốt, Tinh Nhi, mau uống đi."

..................................................................................................................

Xế chiều ngày hôm đó, con thuyền cập bến quận Lan Lăng mua thêm ít thức ăn vật dụng rồi tiếp tục rời bến đi thêm hai ngày, cuối cùng đến được huyện Hộ. Mọi người lục đục lên bờ, tuy đã vào cảnh nội Đại Hạ nhưng dường như hành sự của đám người Nguyệt Thất càng thêm cẩn thận. Vừa tới cửa khẩu thì đã có khoảng hơn năm trăm hộ vệ chờ sẵn, tất cả phụ nữ đều đổi nam trang, đi lẫn vào trong đội ngũ lên xe ngựa, mọi cử động đều hết sức âm thầm lặng lẽ.

Sở Kiều nhìn thấy trong đội hộ vệ của Gia Cát Nguyệt có khá nhiều người có hình xăm trên mặt, biết phần lớn bọn họ đều là tội dân lưu vong ở Thanh Hải thì cũng hơi yên lòng phần nào. Những người này đa phần đều thân mang tội của tổ tiên, không quá trung thành với đại lục, hơn nữa hằng năm bươn chải nơi Thanh Hải khắc nghiệt nên thân thủ rất mạnh mẽ, lại nhất nhất trung thành với Gia Cát Nguyệt, có bọn họ thì không phải lo về vấn đề an toàn nữa.

Đoàn xe ngựa đi đến quận Bảo Lâm, ba nghìn binh sĩ Thanh Hải đóng giáp trấn giữ trước cổng, trong đó có một ngàn người mặc giáp da màu xanh đen, dáng vẻ hùng hổ sắc bén, bền bỉ phong trần, vừa nhìn liền biết đều là người luyện võ.

Nguyệt Thất đắc ý nói bọn họ đều là thuộc hạ dưới trướng của mình, là sư đoàn số 7 tinh nhuệ nhất Thanh Hải. Đây chỉ mới là một nhóm nhỏ, đa số đội ngũ hiện đang ở Thùy Vi Quan và bên trong thành Chân Hoàng.

Bọn họ ngủ lại tại quận Bảo Lâm một đêm, hôm sau bắt đầu lên đường trở về thành Chân Hoàng, xế chiều thì thấy được thành trì nguy nga tráng lệ kia.

Một khoảng trời đất mênh mông lộng gió, cỏ khô bay cuồn cuộn trên không trung.

Đây chính là khí trời Đại Hạ, là gió Đại Hạ, là tiết thu lành lạnh của Đại Hạ, tất cả vẫn như cũ. Sở Kiều vén rèm xe lên nhìn cổng thành sừng sững phía trước, dưới ánh hoàng hôn, tường thành ánh lên một màu đỏ thê lương như máu.

Nàng lại thoáng nhớ đến khoảng thời gian trước, thời gian nàng và Yến Tuân nương tựa lẫn nhau sống trong cái lồng giam to lớn này, căm thù tất cả mọi thứ, hận không xuất hiện một cơn đại hồng thủy ập đến cuốn sạch toàn bộ phồn hoa nơi này. Bọn họ đã dồn hết tâm huyết, liều chết mở đường máu, một lòng mong mỏi được thoát khỏi cái lồng chim giam cầm mình suốt tám năm.

Nhưng hôm nay nàng lại một lần nữa cam tâm tình nguyện quay trở về, bước chân qua cánh cổng thành sừng sững đến mức khiến người khác hít thở không thông này.

Sáu năm trước, nàng vì một nam nhân rời khỏi đây, sáu năm sau, nàng lại vì một nam nhân khác trở về đây.

Vận mệnh thật kỳ diệu, biến đổi khó lường, mỗi bước đi đều không thể đoán được cái gì đang chờ đợi phía trước, việc duy nhất ngươi có thể làm là tiếp tục đi, mãi khi đến đích thì thôi.

Đầu ngón tay chợt hơi lạnh, bên tai gió thổi kêu *vù vù*.

Một cánh tay đột nhiên vòng qua sau lưng ôm lấy nàng, tiếng của Gia Cát Nguyệt vang lên, giọng vô cùng nhẹ, nhẹ đến mức khiến người nghe cảm thấy bình an, "Đừng sợ, có ta đây."

Sở Kiều mỉm cười, trước khi đương đầu với bất cứ chuyện gì, chàng hình như luôn nói ra câu này. Nàng tựa vào lòng chàng, hít thật sâu mùi hương trên người chàng rồi chậm rãi nhắm mắt lại.

Nàng chỉ cần nắm chặt tay chàng, nắm thật chặt, vĩnh viễn không buông ra nữa.

Hoàng thành đã không còn phồn hoa như xưa, trời chưa tối mà đường phố đã vắng người. Vài người đi đường nhìn thấy đoàn xe của Gia Cát Nguyệt đều nhanh chóng dạt ra né tránh, hình ảnh dòng người tấp nập trong đêm hoa đăng năm đó đã không còn.

Xe ngựa vòng qua phố Hiên Hoa, quẹo vào ngõ Bạch Vi rồi đi thẳng đến phía tây thành. Sở Kiều ngạc nhiên hỏi: "Không trở về phủ Gia Cát sao?"

Gia Cát Nguyệt phì cười, "Ta hiện giờ là Đại tư mã chấp chưởng Binh bộ của Đại Hạ, dĩ nhiên là phải ở trong phủ Tư mã của mình rồi."

Sở Kiều nghe nói thì nhất thời thả lỏng, không tự chủ lộ ra một nụ cười.

Gia Cát Nguyệt cười trêu nàng, "Vui buồn gì đều lộ ra hết trên mặt, sao xứng với danh hiệu Tú Lệ vương chứ?"

"Ở trước mặt chàng thì sao còn phải giả vờ che giấu?" Sở Kiều thản nhiên đáp.

Gia Cát Nguyệt thoáng sững ra, ngay sau đó liền ôm nàng, khen ngợi: "Nói rất hay."

Đường vắng nên xe ngựa đi khá nhanh, chỉ chốc lát sau đã đến phủ Tư mã tọa lạc ở bên hồ Bích Liễu. Trước kia Sở Kiều từng đi ngang tòa nhà này, nó vốn là biệt viện của hoàng gia, hết sức tráng lệ. Đến phủ xe ngựa cũng không dừng lại, cứ thế mà chạy thẳng vào sâu bên trong, mãi đến khi chúng binh lính lần lượt rời đi thì Sở Kiều mới theo Gia Cát Nguyệt xuống xe.

Liếc mắt Sở Kiều liền thấy được Hoàn Nhi đang đỏ mắt đứng ở đằng xa. Hoàn Nhi nhìn thấy nàng thì nước mắt lập tức rơi ào ạt. Mặc dù không còn là sân viện của ngày xưa nhưng người trong sân đều là người cũ. Sở Kiều cũng có chút bùi ngùi, Hoàn Nhi nhanh chóng chạy tới, vén váy chuẩn bị dập đầu thỉnh an.

Sở Kiều cuống quít giơ tay ra muốn đỡ thì Gia Cát Nguyệt đã ngăn lại, nói: "Sau này nàng chính là chủ mẫu trong phủ, bọn họ dập đầu với nàng cũng là chuyện phải đạo."

Nghe hắn nói thế, toàn bộ nha hoàn hạ nhân trên dưới đều quy củ dập đầu với Sở Kiều, nói to: "Thỉnh an thiếu phu nhân."

Sở Kiều đỡ Hoàn Nhi dậy. Nhiều năm không gặp, Hoàn Nhi đã lớn lên thành một cô nương thanh tú lanh lợi, hiện giờ cô nàng chính là đại nha hoàn trong phủ, cai quản một trăm tám mươi tiểu nha hoàn.

Hoàn Nhi vừa lau nước mắt vừa nói: "Nô tỳ biết ngay phu nhân sớm muộn gì cũng sẽ trở lại nên đã thu dọn xong phòng của phu nhân từ sớm, mấy năm nay vẫn giữ nguyên dạng."

Sở Kiều bị gọi 'phu nhân' thì cũng hơi xấu hổ. Nhưng Gia Cát Nguyệt ở một bên lại thản nhiên đáp lời: "Gian phòng kia cứ để trống, trực tiếp mang đồ đạc của nàng đến phòng ta."

Tất cả nghe nói thì đồng thời hiểu ra. Hoàn Nhi vội vàng chỉ huy bọn nha hoàn dỡ hành lý của Sở Kiều xuống xe. Mai Hương và Thanh Thanh cũng phụ giúp một tay, một đám cô nương vừa làm vừa ríu rít luôn miệng.

"Đi với ta." Gia Cát Nguyệt cúi xuống nói nhỏ bên tai Sở Kiều rồi dắt tay nàng đi về phía trước.

Hoàng hôn tắt dần nhường chỗ cho bóng đêm khôn cùng, vầng trăng lưỡi liềm treo ở chân trời xa xa, tỏa ra ánh sáng xanh nhàn nhạt. Ánh đèn lồng treo hai bên đường hắt lên trường bào xanh đen của Gia Cát Nguyệt, bàn tay đang nắm tay nàng rất ấm áp. Hai người không ai nói gì, chỉ lẳng lặng mà đi. Gió thổi đến mang theo hơi nước lành lạnh từ hồ Bích Liễu, tươi mát vô cùng dễ chịu. Ống tay áo của hắn thỉnh thoảng lại cọ vào ống tay áo tuyền trắng của Sở Kiều, phát ra tiếng *sột xoạt* rất khẽ.

Không gian tràn ngập hương hoa, không quá nồng nàn nhưng nơi nào cũng có. Là mùi hương lan thảo pha lẫn hương đỗ quyên.

Gia Cát Nguyệt từ trước đến giờ luôn là người biết hưởng thụ. Tài phú tích lũy mấy trăm năm khiến gia tộc Gia Cát không hề giống như bọn nhà giàu mới nổi, tư chất phú quý như từ trong xương đi ra. Mỗi một góc sân một bụi cây đều là quý giá khó nhận ra.

Cánh cổng bằng gỗ lim chạm rỗng khắc hoa ra, đập vào mắt chính là một tẩm điện trang nhã, không tráng lệ chói mắt nhưng lại tinh tế cực độ, khiến người khó tính mấy cũng không tìm được điểm nào để chê trách. Trên sàn lót thảm mềm thật dày, bước lên hệt như đi trên mây, án thư, bàn trà, tranh chữ, bình cổ trang trí theo phong cách cổ xưa đều rất tao nhã thoát tục. Màn lụa trắng quấn quanh hàng cột gỗ khắc thần điểu cưỡi mây kéo dài đến tận nội phòng.

"Mệt không?" Gia Cát Nguyệt cúi đầu nhìn nàng, nhẹ giọng hỏi.

Sở Kiều lắc đầu, ôm bụng nói: "Chỉ thấy đói thôi."

Tiểu nha hoàn mặc váy hồng ở một bên vội vàng thưa: "Thức ăn đã chuẩn bị xong, thiếu gia và phu nhân có muốn đến phòng ăn ngay bây giờ không?"

Gia Cát Nguyệt lắc đầu, nói với Sở Kiều: "Ta còn có việc, không thể ăn cùng nàng."

Sở Kiều gật đầu, "Chàng bận thì cứ đi làm việc đi."

"Hạ nhân đang chuẩn bị ngựa, một lát nữa mới đi." Dứt lời chàng liền ôm lấy Sở Kiều, hoa văn thêu trên áo cọ cọ lên mặt nàng, hơi ngứa.

Bên tai nàng chợt vang lên giọng nói pha lẫn chút ảo não của ai đó, "Tinh Nhi, nàng cuối cùng cũng đến đây."

Sở Kiều cười cười, cũng quay lại ôm lấy Gia Cát Nguyệt, đáy lòng dâng lên cảm giác thỏa mãn nói không nên lời. Mùi huân hương thượng hạng trong phòng dễ chịu đến mức khiến người ta muốn nhắm mắt ngủ một giấc thật thỏa thích.

"Tối nay ở đây chờ ta về."

Sở Kiều thoáng đỏ mặt, ngẩng lên nhìn Gia Cát Nguyệt, cười nói: "Vậy chàng nhớ trở về sớm một chút."

Gia Cát Nguyệt gật đầu, nghe hạ nhân vào thông báo ngựa đã được chuẩn bị xong thì quay sang nói với nàng: "Ta đến chỗ của Thất điện hạ một chuyến, nàng cứ dùng bữa tối trước, lên giường nghỉ ngơi sớm một chút."

"Ừ." Sở Kiều nhón mũi chân hôn nhẹ lên môi chàng một cái, ngượng ngùng nói: "Đi đường cẩn thận."

Một tia vui mừng hiện ra nơi đáy mắt, Gia Cát Nguyệt dùng sức ôm siết lấy nàng một cái rồi buông tay, xoay người đi ra ngoài.

Sở Kiều đi theo Gia Cát Nguyệt ra cửa, gió chợt nổi lớn hất tung vạt áo trắng tinh của nàng. Nàng tựa lên khung cửa, mỉm cười nhìn chàng dần khuất dạng trong bóng tối.

Thật ra thì thành Chân Hoàng cũng không đáng sợ như nàng đã tưởng.

Xa xa truyền đến tiếng hô hoán ngạc nhiên của Thanh Thanh và Bình An, cũng không rõ là xảy ra chuyện gì mà bọn họ phá lên cười vui vẻ khiến khóe miệng nàng cũng bất giác cong lên.

Ừ, rất tốt, nơi này thật sự rất tốt.

Dùng bữa tối xong, Sở Kiều được thị nữ hầu hạ tắm rửa sạch sẽ. Bọn Mai Hương đi đường mệt mỏi nhưng vẫn còn Vinh Nhi nên Mai Hương phải mang hai nhũ mẫu đi xem bé. Chúng hạ nhân không biết nên cứ tưởng bé là con của Gia Cát Nguyệt và Sở Kiều sinh ra ở ngoài, cho nên chăm sóc vô cùng chu đáo.

Phòng tắm của Gia Cát Nguyệt lớn đến không tưởng, toàn bộ xây bằng bạch ngọc, trên trần có đính hơn trăm viên trân châu, chỉ một ngọn nến cũng đủ khiến cả gian phòng sáng trưng như ban ngày. Nước tắm là ôn tuyền dẫn xuống từ Thương Sơn, được rắc hoa cùng thảo dược ngự dụng, thơm nức mũi. Để đề phòng trơn trượt, đáy bể tắm còn được chạm trổ hoa tường vi cỡ lớn, xa hoa đến cực hạn.

Hoàn Nhi kể lại, sau khi được hoàng đế ban thưởng cho nơi này làm phủ đệ, Gia Cát Nguyệt có đến xem trước, đi tham quan xong một vòng liền nói: "Về sau rời đi, nơi này có thể bán được với giá rất tốt."

Sở Kiều nghe nói thì buột miệng phì cười, xem ra tin đồn Đại tư mã là quỷ hút máu thật sự không phải giả.

Tắm rửa xong, nàng khoác một chiếc áo lụa trắng tinh, đi chân trần trở về phòng ngủ.

Ban đầu Hoàn Nhi còn hơi mất tự nhiên, sau thấy Sở Kiều dễ gần thì cũng dần buông lỏng, bạo dạn gọi nàng Tinh Nhi luôn miệng. Hoàn Nhi cũng đem hết chuyện vặt vãnh của Gia Cát Nguyệt mấy năm nay kể lại một lượt. Có điều nói đến chuyện nào cũng chỉ quy về một chuyện, đó chính là may mắn nàng biết quay đầu trở lại, kịp thời trở về bên cạnh thiếu gia quả thực là quyết định sáng suốt, thần phật trên trời cũng phải ganh tỵ với nàng.

Sở Kiều cười cười, lẳng lặng lắng nghe Hoàn Nhi huyên thuyên liên tục, chuyện Gia Cát Nguyệt mấy năm nay thủ thân như ngọc, không gần nữ sắc thế nào, chuyện đám tiểu thư kia hối hận xanh ruột ra sao, Gia Cát Nguyệt mỗi ngày đều nhớ nhung nàng thế nào, mỗi lần nghe được tin tức của nàng, nhận được thư nàng thì vui vẻ đến đâu, thậm chí còn ngủ không ngon vì quá hưng phấn, công hiệu hơn thuốc bổ mấy chục lần. Rồi đến chuyện Gia Cát Nguyệt lúc trước thê thảm đến cỡ nào, bị người khác xa lánh, thân thể đầy thương tích, địa vị bị chà đạp ra sao.

Dần dần, cô nàng liền chuyển thành vừa kể vừa khóc, lại bắt đầu lải nhải cái gì thiếu gia rất tốt, nàng tuyệt đối đừng rời khỏi thiếu gia nữa, thiếu gia thật sự thích nàng...

Bên trong gian phòng nồng nàn hương lan thảo, Sở Kiều ngồi trên chiếc giường mềm mại, im lặng lắng nghe từng câu chuyện, chỉ cảm thấy quá khứ như lại trôi qua trước mắt.

Nhìn xem, chàng thích nàng, cả thiên hạ đều biết, ngay cả một nha hoàn cũng thấy rõ ràng như vậy. Chỉ có nàng, hết lần này đến lần khác, phải qua nhiều năm như vậy mới có thể nhận ra.

Lát sau, bên ngoài có người nhẹ gõ cửa, hạ nhân báo rằng có phu nhân của Thất tướng quân tới.

Hoàn Nhi vội vàng nhỏm dậy đứng sang một bên, chốc lát sau, một cô gái mi thanh mục tú, người mặc chiếc váy màu vàng nhạt trang nhã đi đến, khi cười sẽ lộ ra hai lúm đồng tiền, tay cô gái có dắt một đứa trẻ khoảng hơn mười tuổi, nhìn thấy Sở Kiều thì cúi người chuẩn bị hành lễ.

Sở Kiều vội vàng nâng nàng dậy, cười nói: "Không ngờ vận khí của Nguyệt Thất lại tốt như vậy, có thể cưới được một người vợ xinh đẹp thế này."

Tiểu Phi khẽ cười, lộ ra hai cái răng thỏ đáng yêu, quay sang nói với đứa bé bên cạnh: "Mặc Nhi, mau gọi mẫu thân."

Đứa bé kia ngước lên nhìn Sở Kiều, ngây ra một thoáng rồi đột nhiên giang tay ra ôm chân nàng, lớn tiếng gọi: "Tỷ tỷ cuối cùng cũng đến thăm đệ."

Sở Kiều sửng sốt, cúi đầu nhìn kỹ thì thấy đứa trẻ này rất đáng yêu, người mặc một chiếc áo ngắn rộng rãi màu xanh biếc, đôi mắt trong veo nhìn thấy nàng thì lấp lánh vui mừng.

Cậu bé nói to: "Tỷ tỷ không nhận ra đệ à, đệ là Mặc Nhi đây."

Bây giờ Sở Kiều mới chợt nhớ ra, đây chính là cậu bé Âu Dương Mặc mà nàng và Gia Cát Nguyệt cứu thoát khi trên đường đến Đường Kinh. Thoáng cái đã hơn sáu năm, đứa bé nhỏ xíu ngày xưa nay đã lớn như vậy rồi.

Nàng vội vàng ôm lấy cậu bé, mừng rỡ nói: "Mặc Nhi đã cao như vậy rồi, thật sự là nhận không ra."

Mặc Nhi thân thiết ôm nàng, nói: "Tỷ tỷ đã đi đâu vậy? Nhiều năm như vậy cũng không chịu đến thăm đệ. Nếu không phải phụ thân thường xuyên nhắc đến thì không chừng Mặc Nhi đã quên mất tỷ tỷ rồi."

"Phụ thân?" Sở Kiều nhướng mày, nghi ngờ nhìn sang hai người bên cạnh.

Tiểu Phi vội vàng nói với cậu bé: "Không được kêu bậy, phải gọi là mẫu thân."

Mặc Nhi nhìn Sở Kiều, hỏi: "Tỷ tỷ gả cho phụ thân ta rồi sao?"

""Phụ thân đệ là ai?"

"Phụ thân đệ là Đại tư mã của Đại Hạ, tỷ tỷ không biết sao?"

Hoàn Nhi nhanh nhảu giải thích: "Sau khi thiếu gia trở về đã nhận tiểu chủ tử làm nghĩa tử."

Sở Kiều lúc này mới vỡ lẽ. Nàng hàn huyên với Mặc Nhi và Tiểu Phi thêm một hồi mới biết được Tiểu Phi đã sinh cho Nguyệt Thất hai đứa con. Tính cách hai vợ chồng nhà này quả thực hoàn toàn trái ngược nhau, Tiểu Phi rất dễ xấu hổ, nói vài câu sẽ đỏ mặt, thật sự rất đáng yêu.

Hôm nay Sở Kiều mới trở về nên bọn họ không tiện ngồi lâu, trò chuyện thêm chút nữa thì Tiểu Phi dẫn Mặc Nhi trở về. Trước khi đi Mặc Nhi nằng nặc bắt Sở Kiều phải hứa đến thăm cậu, giống như sợ vừa quay người đi thì nàng sẽ bỏ đi vậy.

Ba người đi rồi mà Gia Cát Nguyệt vẫn chưa về, Sở Kiều thấy hơi mệt nên dứt khoát cho thị nữ lui xuống, lên giường nghỉ ngơi. Mấy năm nay thân thể nàng vẫn không tốt, đi đường mấy ngày qua đã rút cạn sức lực của nàng.

Nằm trên nệm giường mềm mại, Sở Kiều chậm rãi nhắm mắt lại ngủ thiếp đi.

Không biết đã qua bao lâu, nàng mơ màng cảm giác được có người đang hôn mình nhưng vẫn cố chấp không muốn tỉnh lại, chỉ *ừm* một tiếng rồi lăn vào bên trong. Một cánh tay lành lạnh ôm lấy nàng, hơi thở ấm áp phả bên tai mang theo tiếng cười rất khẽ.

Trên cổ càng lúc càng ngứa khiến nàng không nhịn được chau mày mở mắt ra. Gia Cát Nguyệt mặc y phục ngủ màu tím nhạt đang nằm nghiêng trên giường, đôi mắt đen như mực nhìn nàng chằm chằm, cười nói:"Tính cảnh giác đâu cả rồi, bị người khác sờ soạn cũng không biết, còn là Tinh Nhi mà ta biết sao?"

Sở Kiều mỉm cười, vòng tay qua cổ hắn, nói: "Đều tại thân thủ của tiểu tặc này quá tốt, luôn tới vô ảnh đi vô tung nên ta không bắt được chút dấu vết nào."

Gia Cát Nguyệt khẽ cười một tiếng, cúi xuống hôn trán nàng rồi hỏi: "Ngủ ngon không?"

"Cũng được." Sở Kiều tựa vào ngực hắn, ranh mãnh nói: "Chàng không trở lại làm phiền thì còn ngủ ngon hơn."

Gia Cát Nguyệt cười mắng: "Mấy ngày không dạy dỗ liền muốn nhảy lên đầu ta ngồi rồi à, xem ra phải cho nàng nếm chút gia pháp mới được." Nói xong liền vung tay lên.

Sở Kiều bị động tác đột ngột của hắn dọa sợ nên nhắm tịt hai mắt lại, nhưng đợi một hồi cũng không thấy cái gọi là gia pháp rơi xuống người, mở mắt ra thì thấy Gia Cát Nguyệt vẫn đang ung dung nhìn mình, không khỏi thắc mắc: "Chẳng phải muốn thi hành gia pháp à? Sao không động thủ?"

Gia Cát Nguyệt ôm lấy Sở Kiều, cúi đầu hôn lên cổ nàng, tay đồng thời bận rộn kéo thắt lưng nàng, vạt áo rơi xuống để lộ bả vai trắng như tuyết. Hắn chậm rãi áp lên người nàng, thấp giọng nói: "Ta nào nỡ."

Trên giá com hình đôi hạc trên bàn có một đôi nến đỏ đang lẳng lặng cháy, ngọn nến được giấy mỏng bao phủ, khiến ánh sáng thêm phần dịu dàng mờ ảo.

Sở Kiều đã trải qua đêm đầu tiên trở lại thành Chân Hoàng trong vòng tay ấm áp triền miên như vậy.



Chương 182: Lần lượt gặp lại cố nhân

Đối với Sở Kiều, mùa thu năm nay như trôi qua trong mật ngọt, phủ Tư mã thưa thớt lá thu nhưng lại chìm trong biển cúc vàng nở rộ, khiến quang cảnh trong phủ càng thêm tráng lệ. Ngày tháng chậm rãi trôi qua, hương vị ngọt ngào ấm áp như mùa xuân tháng ba luôn vương vấn trong không trung, mãi cũng không tan đi.

Nhân dịp lễ hội mùa thu, Sở Kiều theo Gia Cát Nguyệt rời phủ lên núi Hương Chi cách đó ba mươi dặm du ngoạn, thuận tiện ghé vào An Nguyên tự lễ bái.

Tuy từng sống ở thành Chân Hoàng bảy tám năm nhưng Sở Kiều chưa từng có cơ hội đi thăm các di tích hay thắng cảnh nội ngoại hoàng thành. Một là do thân phận không tiện, hai là cũng không có tâm trạng đi chơi. Song hôm nay nàng đã bỏ lại mọi tang thương lại sau lưng, cũng đã không còn ôm ấp chuyện cũ trong lòng, thế là bắt đầu muốn đi nhìn ngó đây đó.

Hôm nay thời tiết cực kỳ đẹp, trời trong xanh, gió mát phe phẩy, vô cùng khoan khoái lòng người. Sở Kiều mặc y phục gấm màu xanh nhạt thêu bách điệp, khoác áo choàng nhung, dẫn theo một đám người hớn hở vì được ra ngoài chơi, thong thả lên đường.

Núi Hương Chi tọa lạc ở phía nam thành Chân Hoàng, đứng sừng sững giữa một bình nguyên trống trải, đỉnh núi quanh năm không đổi luôn trắng toát, như một con rồng vươn đầu lên mây. Con đường lên núi được vây trong rừng phong rậm rạp, từ trên nhìn xuống, khung cảnh như chìm trong biển lá đỏ như lửa, đẹp không sao tả xiết. Hôm nay là lễ hội mùa thu nên nhà giàu trong thành đều lũ lượt lên núi ngắm cảnh, tiếng cười đùa vui vẻ theo suốt đường đi, vô cùng náo nhiệt.

Thanh Thanh và Bình An dẫn Mặc Nhi chạy trước, luôn miệng hò hét xem ai chạy nhanh hơn. Hạ Tiêu, Đa Cát và nhóm Nguyệt vệ đi ở hai bên trái phải. Nguyệt Thất nhân dịp lễ hội, muốn bù đắp cho vợ hiền nhà mình nên cũng dẫn Tiểu Phi theo.

Gia Cát Nguyệt dắt tay Sở Kiều, thỉnh thoảng kể vài chuyện xưa, không khí hết sức vui vẻ. Hiếm khi vị thiếu gia đại nhân này có được tâm trạng tốt nên mọi người cũng thoải mái tham gia nói chuyện. Nhóm người đi quanh hai người tựa như tinh tú vây quanh mặt trăng. Du khách đi ngang đều không khỏi nhìn sang, thắc mắc không biết là quý nhân nhà ai xuất hành.

Gia Cát Nguyệt luôn rất bận rộn, vừa là Tư mã bộ binh của Đại Hạ vừa là phiên vương Thanh Hải, hiện giờ chàng cơ hồ đã trở thành người có tiếng nói nhất Gia Cát gia, chức vụ cao thì trách nhiệm nhiều, ngoài sự vụ trong triều thì còn phải thời thời khắc khắc đề phòng Triệu Dương và Bắc Yến trong ngoài tập kích. Mấy ngày nay, tuy ngày nào chàng cũng đúng giờ trở về ăn cơm cùng Sở Kiều, cùng nàng đi nghỉ ngơi, nhưng đêm khuya tỉnh giấc đều không thấy chàng bên cạnh, đẩy cửa sổ ra liền có thể nhìn thấy thư phòng sáng đèn trắng đêm.

Mấy chuyện này nàng luôn làm ra vẻ không biết, tiếp tục trở về giường ngủ, sáng hôm sau chỉ cười hỏi chàng ngủ ngon không, nhìn chàng mắt thâm quầng cười đáp lời rằng ngủ rất ngon.

Thân thể Gia Cát Nguyệt cũng không tốt như bề ngoài, năm đó bị thương nặng như vậy còn ngâm mình trong hồ băng thật lâu, có thể sống sót thì phải cảm tạ ông trời thương tình, chuyện này đã để lại di chứng, mỗi khi trời trở lạnh thì bệnh tình càng rõ rệt hơn.

Mưa mùa thu rất lạnh, mỗi khi trời giăng đầy mây đen thì sắc mặt chàng sẽ rất tệ. Có một lần tỉnh giấc vào nửa đêm, nàng nghe được tiếng thở khó nhọc của chàng, cổ rịn mồ hôi lạnh, sống lưng ướt đẫm khiến y phục dán chặt vào da thịt.

Lúc đó, Sở Kiều vẫn im lặng không nói gì, trong bóng tối nàng mở to mắt nhìn dạ minh châu đính trên trần, siết chặt nắm tay, môi mím đến trắng bệch, chậm rãi đếm đồng hồ nước lẳng lặng chờ trời sáng. Sáng hôm sau, nàng liền lập tức cho người mang thêm chậu than vào phòng, thậm chí còn dụng tâm chỉ huy một đám thợ chỉnh sửa gian phòng để giữ khí ấm, sau mười ngày thì biến phòng ngủ thành như hỏa lò vậy.

Sáng hôm qua lúc ăn điểm tâm, Thanh Thanh và Bình An có nhắn đến lễ hội mùa thu trên núi náo nhiệt đến thế nào, nàng cũng chỉ thuận miệng phụ họa hai câu. Vậy mà Gia Cát Nguyệt lại ghi nhớ, lúc đó không nói gì nhưng hôm sau lại viện cớ có chuyện phải lên núi bái Phật, sẵn tiện dẫn nàng theo du ngoạn.

Qua nhiều năm như vậy, Gia Cát Nguyệt vốn là một người kiêu ngạo cố chấp, chưa bao giờ tin thần tin phật. Bị nàng cười nhạo, chàng lại quay sang cười cười, thần bí nói cái gì Phật khác có thể không vái lạy, nhưng có một Phật nhất định phải lễ bái.

Lúc đoàn người Sở Kiều tiến vào thiên điện của An Nguyên tự, mặt nàng lập tức đỏ ửng. Bọn Thanh Thanh cười ha hả, chỉ có Tiểu Phi là thành kính dập đầu, hơn nữa còn quay lại nhìn chằm chằm một đám tiểu bối bất kính không mời mà đến này.

Hương nhang lượn lờ trong đại điện trang nghiêm, tượng Quan Âm Tống Tử* được đặt ngay ngắn trên Phật đường rực rỡ ánh nắng. Gia Cát Nguyệt cúi xuống thì thầm bên tai nàng, giọng điệu ẩn chứa ý cười ấm áp, "Bái Phật phải thành tâm."

*Quan Âm Tống Tử tượng trưng cho con cái thịnh vượng.

Sở Kiều quay đầu lại, nhìn thấy hai mắt hắn sáng ngời, môi điểm nụ cười, pha lẫn chút thật tình rồi lại có chút nghịch nghợm của trẻ con.

Nàng xoay người lại, thản nhiên quỳ xuống, chắp tay trước ngực, trong lòng mặc niệm lời khấn mà ngàn vạn phụ nữ từng đến đây cầu xin, sau đó chống tay lên bồ đoàn*, thành tâm vái lạy.

*Bồ đoàn: tấm đệm lót trên mặt đất dùng để thiền, quỳ lạy.

Lạy lần một, cầu bồ tát phù hộ chàng khỏe mạnh, gặp dữ hóa lành.

Lạy lần hai, cầu bồ tát phù hộ hai chúng con được bình an ở cùng nhau, không phải cách xa nữa.

Lạy lần ba, cầu bồ tát ban phước cho chúng con sinh được một đứa trẻ khỏe mạnh.

Sở Kiều thành kính dập đầu từng cái một, trên mặt mang vẻ thỏa mãn cùng bình yên trước nay chưa từng có.

Bồ tát, ngài đã phù hộ cho nhiều người như vậy, hôm nay mong ngài có thể nghe được ước nguyện của con.

Thanh Thanh và Mặc Nhi ở đằng sau cười giỡn không ngừng, Tiểu Phi thì đang tận tình khuyên bảo bọn họ tôn trọng Phật đường. Ở một góc, Hạ Tiêu và đám người Nguyệt Thất đang nhàn nhã đứng nói chuyện phiếm, nói đến chuyện một thiếu úy trong doanh trại đi hoa lâu bị vợ bắt quả tang, bị rượt chạy trên đường thì đồng loạt cười ha hả.

Cuối thu trời hơi lạnh, bầu trời cao vời vợi, Sở Kiều quỳ trong thiên điện, ngẩng lên nhìn tượng Quan Âm, cảm thấy lòng vô cùng yên bình. Tất cả gió tanh mưa máu trong trí nhớ như đã là dĩ vãng rất xa, tâm trí nàng chưa bao giờ tĩnh lặng như ngày hôm nay.

Gia Cát Nguyệt đỡ Sở Kiều dậy, hai tay ôm ngang eo nàng, đôi môi lành lạnh hôn nhẹ lên mi tâm nàng, dịu dàng nở nụ cười.

Thanh Thanh tinh mắt, lập tức kéo Tiểu Phi, miệng tía lia: "Thất tẩu, Thất tẩu, tẩu mau nhìn kìa, tỷ tỷ với tỷ phu mới đang thất kính với Phật!"

Tất cả nghe được đều thấp giọng cười trộm. Gia Cát Nguyệt vẫn trơ mặt làm lơ, còn Sở Kiều thì đỏ mặt, nhẹ đẩy hắn ra, nhưng tay vẫn nắm chặt tay hắn.

"Có muốn ở lại ăn đồ chay không?" Gia Cát Nguyệt hỏi nàng.

Sở Kiều còn chưa kịp đáp thì nhìn thấy Bình An ở một bên đang ra sức nháy mắt với mình, lập tức hiểu ý nói:"Xuống núi thôi, đám người chúng ta dẫn theo đều là động vật ăn thịt, vẫn không nên miễn cưỡng bọn họ học đòi văn vẻ thì hơn."

Mặc Nhi nhe răng cười he he, Bình An lập tức hớn hở chạy đến ca ngợi đồ ăn ở Đắc Nguyệt lâu mỹ vị ra sao, Thanh Thanh ở bên cạnh cũng ra sức phụ họa. Gia Cát Nguyệt gõ lên đầu Bình An một cái, cười mắng một câu 'tiểu tử thối' rồi dẫn mọi người rời khỏi Phật đường nghiêm trang.

Sau khi bỏ ra một số lớn tiền hương hỏa, tăng nhân trong tự chuẩn bị cho bọn họ một khuôn viện yên tĩnh nghỉ ngơi tạm. Bọn Nguyệt Thất đi chuẩn bị xe ngựa, để lại Gia Cát Nguyệt và mấy người Sở Kiều ngồi giữa khung cảnh đầy lá phong, nhàn nhã thưởng trà.

Mới ngồi một lát thì Tiểu Phi đã thấp thỏm không yên. Sở Kiều tưởng Tiểu Phi có chuyện khó nói thì kéo nàng ấy đến thiên viện. Chẳng ngờ cô nàng ngượng ngùng hồi lâu, cuối cùng mới đỏ mặt nói cho Sở Kiều biết rằng trong miếu Quan Âm Tống Tử có một thầy tướng số xem bói vô cùng chính xác, còn bán dược rất linh nghiệm. Nàng hai lần sinh được con trai đều nhờ uống thuốc của ông thầy nọ. Nhưng nói sao thì Nguyệt Thất và thiếu gia cũng không tin nên chỉ có thể lén đi mua.

Sở Kiều dĩ nhiên không tin mấy chuyện tướng số linh dược gì đó, thầm nhủ trong bụng, sinh được con trai là công lao của Nguyệt Thất, liên quan gì tới ông thầy kia chứ? Nhưng thấy Tiểu Phi khẩn khoản như thế thì cũng không nỡ cự tuyệt, nàng đành viện cớ nói với Gia Cát Nguyệt một tiếng rồi cùng Tiểu Phi đi đến gian hàng của ông thầy tướng số bên bìa rừng thông.

Ông thầy tướng số kia râu tóc bạc trắng, vóc dáng cao gầy thong dong, nhìn cũng có mấy phần tiên phong đạo cốt.

Ông thầy nhìn thấy Sở Kiều liền lập tức nói nàng là người đại phú đại quý, chỉ là cuộc sống có nhiều ràng buộc vướng mắc, chỉ cần nàng thành tâm hướng Phật thì tự nhiên sẽ có phương pháp hóa giải. Tiểu Phi liên tục gật gù, không ngừng nháy mắt với Sở Kiều như muốn nói: Thấy chưa, lời của tiên sinh nói thật chính xác.

Nhưng Sở Kiều thì biết tỏng mánh khóe của mấy người hành nghề này, ai sống trên đời mà chẳng có vài chuyện phiền lòng, còn về phần đại phú đại quý, chỉ cần nhìn quần áo trên người bọn họ cũng có thể dễ dàng đoán ra được.

Tiểu Phi ngồi xổm xuống trước quầy hàng, say sưa rút thăm bói vận may vận rủi. Sở Kiều đang buồn chán đứng cạnh chờ thì chợt thoáng thấy một bóng dáng quen thuộc, khiến nàng sững sờ đứng chết trân tại chỗ.

Ngẫm nghĩ một lúc, nàng cúi đầu dặn dò Tiểu Phi mấy câu rồi lặng lẽ đi về hướng người nọ.

Chớp mắt đã sáu năm không gặp.

Giữa rừng thông đỏ lửa, người nọ một thân áo trắng đơn giản, thần thái tươi sáng phóng khoáng năm xưa đã không còn. Gió thu thổi qua lay động ống tay áo trống rỗng, phe phẩy như nhành liễu trước gió.

"Điện hạ, có khát nước không?" Một thị tùng khoảng mười tám mười chín tuổi đi đến, người mặc nam trang nhưng qua giọng nói trong trẻo liền có thể nhận ra là một thiếu nữ, nàng đưa lưng về phía Sở Kiều nên không nhìn rõ mặt.

Triệu Tung xoay người lại, khuôn mặt từng phúng phính không buồn không lo hiện tại đã trở nên xương xương, vóc dáng vẫn cao ráo nhưng lộ ra vẻ mệt mỏi cùng cô đơn, vẻ tinh nghịch liến thoắng đã được thay bằng vẻ điềm tĩnh như giếng cổ trăm năm. Mới hơn hai mươi tuổi mà tóc mai hai bên thái dương đã hoa râm.

Hắn lắc đầu, bình thản nói: "Ta muốn đi dạo một mình."

Thiếu nữ kia vẫn không nhúc nhích, chỉ hơi cúi đầu, nắm chặt túi nước trong tay. Gió thổi qua sườn mặt nghiêng nghiêng của nàng, mơ hồ có hơi quen thuộc. Nàng đột nhiên ngẩng đầu lên nhìn Triệu Tung, nhẹ giọng hỏi: "Điện hạ đang chờ ai vậy?"

Một thoáng dao động xẹt qua trên mặt Triệu Tung, hắn cau mày nói: "Nàng muốn nói gì?"

"Điện hạ đã rất lâu không xuất phủ, vì sao hôm nay lại đột nhiên có hứng như vậy?"

Mi tâm Triệu Tung nhíu chặt hơn, hắn nhìn thẳng vào mắt cô thiếu nữ một lúc, cuối cùng xoay người rời đi.

Thiếu nữ hoảng hốt, vội vàng đuổi theo kéo tay áo Triệu Tung, bi thương nói: "Điện hạ quên lời của Thập tứ điện hạ rồi sao?"

Triệu Tung bị nàng lôi kéo, chậm rãi xoay đầu lại dùng ánh mắt như đầm sâu nhìn cô thiếu nữ mặc nam trang kia, trầm giọng nói: "Vô Tâm, cũng chẳng phải trên đời này tất cả mọi người đều nợ nàng, có cần nung nấu nỗi hận lâu đến như vậy không?" Dứt lời liền xoay người đi vào rừng phong.

Thiếu nữ đứng xoay lưng về phía Sở Kiều ngây người tại chỗ, thân hình mảnh khảnh như có thể bị gió cuốn đi bất cứ lúc nào dần dần bị bao phủ trong vẻ cô đơn tĩnh mịch. Nàng cứ đứng yên như vậy một lúc thật lâu, cuối cùng nhẹ nâng tay áo chà lên má như đang lau gì đó rồi nhấc chân đuổi theo hướng Triệu Tung vừa rời đi.

Chim tước trong rừng cất tiếng hót réo rắt, Sở Kiều như mơ hồ nhìn thấy hình ảnh của rất nhiều năm trước, thiếu niên mặc y phục xanh ngọc thêu chim tước ngũ sắc, trong tay cầm một cái roi ngựa nhỏ, đắc ý nói với nàng: "Trong tất cả hạ nhân ở đây, ta thấy ngươi thuận mắt nhất, ta sẽ phong cho ngươi làm đại tướng giữ cửa chỗ ta, thế nào hả?"

Một cơn gió thổi qua, nàng đột nhiên thấy lạnh lẽo.

Đâu đó vang lên tiếng Tiểu Phi gọi tên nàng, Sở Kiều phục hồi tinh thần, nắm tay bà mẹ tốt sinh hai con trai vẫn chưa thấy đủ, chậm rãi quay trở về.

Đi dạo hơn nửa ngày tất cả đều đã thấm mệt, trên đường xuống núi mọi người đều ngồi yên trong xe ngựa. Gia Cát Nguyệt thấy nàng ủ rũ thì cau mày hỏi nàng có phải bị mệt không. Sở Kiều gật đầu *ừm* một tiếng rồi tựa đầu lên vai hắn, cố gắng nhắm mắt lại nhưng làm sao cũng không ngủ được.

Gia Cát Nguyệt nắm tay nàng, thấy tay nàng lạnh như băng thì thoáng lo lắng, dặn Nguyệt Thất cho xe chạy nhanh hơn một chút.

"Triệu Triệt sắp thành thân rồi."

Sở Kiều sửng sốt ngẩng đầu lên. Gia Cát Nguyệt cười cười, nói tiếp: "Mấy năm nay vận số hắn luôn không tốt, sắp sửa già đến nơi mới rước được người về nhà. Nàng không quen biết tân nương nhưng gặp rồi chắc sẽ thích. Nàng ấy là con gái út của thủ lĩnh Đông Hồ, tên Hoàn Nhan Nhu. Mặc dù tên có chữ 'nhu' nhưng tính tình tuyệt đối không dính dáng đến gì đến hai chữ 'ôn nhu', ngược lại là một nha đầu ngang ngược lớn lối, có điều tâm địa lương thiện đơn thuần. Người vào kinh rồi thì ta sẽ dẫn nàng đi gặp."

Sở Kiều gật đầu, chợt nhớ tới chuyện gì đó, nhưng cuối cùng vẫn không nói ra.

Sau lễ hội mùa thu, thời tiết bắt đầu lạnh đi, mặt hồ dần đóng băng, sau một trận bão tuyết, trời đất liền bị bao phủ bởi một màu trắng xóa. Ai cũng lười ra ngoài, chỉ muốn ở trong phòng vùi mình vào chăn ấm.

Mấy ngày nay, phủ Tư mã người đến người đi không ngừng, Gia Cát Nguyệt dường như càng bận rộn hơn, ngay cả Nguyệt Thất cũng mất dạng không thấy. Nghe Tiểu Phi nói là bị Gia Cát Nguyệt phái ra làm việc đã bảy tám ngày rồi.

Tối hôm đó Sở Kiều lơ đãng hỏi thăm một câu, Gia Cát Nguyệt lại làm ra vẻ huyền bí, nói là sắp sửa cho nàng một bất ngờ lớn.

Bất ngờ rất nhanh được hé lộ, ba ngày sau, Tôn Đệ ở Biện Đường phái người đến thành Chân Hoàng đưa cho nàng một phong thư riêng cùng công văn chính thức của triều đình.

Thì ra là Đại tư mã của Đại Hạ cho người đến Biện Đường cầu hôn Tú Lệ vương, sính lễ cũng được đưa vào cung Kim Ngô luôn rồi.

Lúc Sở Kiều nhận được tin thì Gia Cát Nguyệt đang nhàn nhã nằm trên giường, một tay chống đầu, như cười như không liếc nhìn nàng.

Sở Kiều đi đến trước mặt hắn, chìa lá thư ra hỏi: "Thế này là thế nào?"

Gia Cát Nguyệt thản nhiên đáp: "Còn thế nào nữa? Trai lớn lấy vợ gái lớn gả chồng là chuyện theo lẽ thường nhất trên đời."

Sở Kiều cau mày, "Nhưng thân phận ta khó xử như vậy, với địa vị của chàng hiện giờ, chẳng lẽ triều đình không chỉ trích?"

Gia Cát Nguyệt cười một tiếng, khinh thường nói: "Gia Cát Nguyệt ta thành thân thì liên quan gì đến bọn họ mà chỉ trích với không chỉ trích?"

Trong lòng như có dòng nước ấm chảy qua, nụ cười không kìm được tràn ra khỏi khóe môi, Sở Kiều ngồi xổm xuống tựa đầu lên đùi Gia Cát Nguyệt, hồi lâu cũng không nhúc nhích.

Gia Cát Nguyệt ngồi dậy ôm nàng vào lòng, cúi đầu dùng cằm cọ cọ tóc nàng, nhẹ giọng nói: "Ta mong ước đã nhiều năm như vậy, làm sao có thể để nàng lặng yên không tiếng động mà vào cửa nhà ta chứ? Nhất định phải chiêu cáo toàn thiên hạ, để cho mọi người biết nàng là người của ta."

Sau đó trong phủ chợt trở nên vô cùng bận rộn. Sở Kiều không rõ Gia Cát Nguyệt đã dùng thủ đoạn cùng phương pháp gì, chỉ trong một đêm mà giai cấp thượng tầng ở thành Chân Hoàng tựa như đã bị mất sạch trí nhớ vậy, chẳng ai nhớ được nàng từng hỗ trợ Yến Tuân đánh đốt thành Chân Hoàng trước khi rời khỏi đây, chẳng ai nhớ được nàng đã hai lần đập tan quân Bắc Phạt của Đại Hạ, thậm chí còn không nhớ nàng từng đích thân giết chết Tam hoàng tử Triệu Tề.

Mấy ngày liên tiếp đều có quý phu nhân của các thế gia lần lượt tới bái phỏng, đủ loại quà cáp như nước chảy vào trong phủ Tư mã. Ngay cả đám đại thần không về phe Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt cũng thi nhau tặng lễ vật lấy lòng.

Đầu tháng 12, cung Thịnh Kim đột nhiên truyền ra tin tức Hạ hoàng nguy kịch, muốn Gia Cát Nguyệt tiến cung hầu hạ.

Theo lý thì khi hoàng đế bệnh nặng, có gọi thì phải gọi hoàng tử và thân vương vào hầu hạ chứ chẳng ai gọi đại thần bao giờ. Nhưng hoàng đế đang hấp hối, không biết sẽ đi lúc nào nên chẳng ai đoán được sẽ xảy ra chuyện gì. Cảnh tiểu vương gia, Mộc tiểu công gia ở Lĩnh Nam và thế tử phiên vương các nơi thi nhau xin vào cung, lúc này mà để Triệu Triệt một mình trong cung đúng là không khôn ngoan. Bất đắc dĩ Gia Cát Nguyệt đành phải đồng ý vào cung. Thật ra thì hoàng đế đang hấp hối, làm gì có hơi sức ý kiến muốn ai hầu hạ, chỉ là đám người Triệu Dương không yên tâm để Gia Cát Nguyệt thong dong bên ngoài vào lúc này mà thôi. Vì vậy, cung Thịnh Kim đột nhiên trở nên náo nhiệt phi thường, tất cả thế lực cầm quyền ở Đại Hạ đều tụ tập cùng một chỗ.

Vào cái đêm mà tất cả đầu lĩnh quốc gia tiến cung, quân Đông Hồ đóng ở tây thành lại nảy sinh xung đột với thân vệ của Cảnh tiểu vương gia, cụ thể là vì nguyên nhân gì thì chẳng ai rõ. Khi Sở Kiều bị tiếng ồn ào đánh thức thì bầu trời phía tây đã đỏ rực, tiếng kêu thét rung trời. Binh sĩ xin vào cung báo tin đều bị ngăn ở cửa cung, hiển nhiên là có người cố ý dung túng.

Nửa canh giờ sau, xung đột càng lúc càng lan rộng, thân binh của Mộc tiểu công gia cũng gia nhập vòng chiến. Vậy mà đội duy trì trật tự ở thành Chân Hoàng vẫn bình chân như vại, bất kể cho dân chúng ở tây thành có khóc than đến đâu thị bọn họ vẫn án binh bất động, khoanh tay đứng nhìn binh mã hai bên sống mái với nhau.

Nhân cơ hội này, vô số bang phái lưu manh lớn nhỏ trong thành liền thừa nước đục thả câu, cướp phá một hồi vẫn không thấy ai để ý thì càng thêm hung hãn. Tiếng kêu khóc vang dậy khắp thành, người dân đều run rẩy trốn trong nhà, không biết khi nào thì đến phiên mình.

Sở Kiều dặn dò thị vệ trong phủ cẩn thận canh phòng, đóng chặt cửa phủ, tuyệt đối không ra ngoài nửa bước. Hạ Tiêu và nhóm thân vệ Nguyệt Lục của Gia Cát Nguyệt cùng nhau chịu trách nhiệm phòng ngự trong phủ.

Không đầy một chốc sau, trước cửa đột nhiên sáng rực ánh đuốc, tựa như đang có đông đảo binh mã bao vây bên ngoài. Nhóm người Nguyệt Lục nghiến răng nghiến lợi, xắn tay áo rút đao ra, dáng vẻ như chuẩn bị liều mạng. Nhưng Sở Kiều cảm thấy kỳ quái nên lập tức ngăn bọn họ lại, chỉ để Hạ Tiêu ra ngoài thám thính tin tức.

Hạ Tiêu nhanh chóng trở về, cười báo lại với Sở Kiều là Đốc sát quân của quan phủ nhận mật lệnh đến bảo vệ phủ Tư mã. Thoáng sau thì tiếng động ầm ĩ ở bốn phía đã nhỏ hơn nhiều, có lẽ là tác dụng của đội quân này. Có điều khi nàng hỏi Nguyệt Lục thì viên thị vệ lại gãi đầu, nghi ngờ nói rằng hắn chưa bao giờ nghe nói đến Đốc sát quân gì đó.

Khoảng canh hai thì ở cửa chính đột nhiên nổi lên một trận xôn xao, Sở Kiều vừa mới ra khỏi phòng thì nhìn thấy Gia Cát Nguyệt khoác áo lông tím thẫm vội vã đi đến, hỏi han: "Không làm nàng sợ chứ?"

Sở Kiều cười nói: "Chàng cho rằng ta bằng giấy hay sao? Lúc ta ở ngoài giết người phóng hỏa thì chàng còn chưa đầu thai làm người đấy."

Gia Cát Nguyệt nâng chén trà lên uống một hớp, gượng cười cười rồi ngồi xuống.

Sở Kiều hỏi: "Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?"

Sở Kiều từ trước đến giờ rất hiếm khi hỏi thăm Gia Cát Nguyệt chính sự của Đại Hạ. Một là thân phận của nàng thật sự không nên biết quá nhiều, hai là nàng cũng không có tinh lực xen vào chuyện của người khác. Nhưng chuyện xảy ra tối nay quả thực có khiến nàng hơi bận tâm.

Gia Cát Nguyệt ngẩng đầu lên, nhìn thấy vẻ mặt lo lắng của nàng thì thoáng áy náy, nắm lấy bàn tay lạnh như băng của nàng rồi nói: "Là đám người Cảnh Hàm gây rối, cổng nam cũng bị người của Triệu Dương khống chế, ta phải thoát ra từ cổng bắc nên hơi chậm trễ."

"Gây rối có ích lợi gì cho bọn họ chứ? Vạn nhất lớn chuyện, hội trưởng lão nhất định sẽ đuổi biên quân trở về biên giới, khi ấy chẳng phải bọn họ sẽ trắng tay ra về sao?"

Gia Cát Nguyệt cười lạnh, "Bọn chúng chính là muốn như vậy."

Sở Kiều nhíu mày, nghĩ thông liên hệ trong chuyện này thì không khỏi thở dài, nói: "Nguy hiểm thật, may mà chàng nhanh chóng ra ngoài."

Gia Cát Nguyệt vỗ vỗ mặt nàng, an ủi: "Đừng sợ, ta vẫn chưa đến mức mắc bẫy bởi loại thủ đoạn này."

Cuộc tranh giành hoàng vị giữa Triệu Triệt và Triệu Dương, cơ bản cũng chính là trận đối đầu của Tây nam quân và quân Đông Hồ. Triệu Dương được Cảnh Hàm và Mộc tiểu công gia trợ giúp thì Triệu Triệt cũng có Gia Cát Nguyệt là cánh tay phải. Hiện tại Hạ hoàng đang nguy kịch, biên quân các nơi đều theo chủ đến trấn giữ kinh đô, biên quân đóng trại ở đế đô vốn đã không hợp quy củ, nếu còn xảy ra hỗn loạn thì chắc chắn sẽ bị xua trở về lãnh thổ của mình. Bất kể là Triệu Triệt, Gia Cát Nguyệt hay Cảnh Hàm, thực lực chính đều nằm ở biên quân, chỉ có Triệu Dương là nắm trong tay Kiêu kỵ binh chính thức đóng ở trong kinh. Ba vạn Kiêu kỵ binh này trên chiến trường có thể là ít ỏi không đáng kể, nhưng nếu toàn bộ biên quân đều bị xua về thuộc địa, Kiêu kỵ binh sẽ trở thành binh lực mạnh nhất đế đô. Lúc đó, nếu Triệu Triệt không theo quân Đông Hồ trở về phương Bắc, chắc chắn sẽ rơi vào tay Triệu Dương, còn nếu hắn trở về thuộc địa thì vị trí kế nhiệm Hạ hoàng khẳng định nằm gọn trong túi của Triệu Dương.

Hạ hoàng bệnh nguy kịch kéo dài một năm thì suốt một năm này, hầu như là ngày nào thành Chân Hoàng cũng diễn ra tiết mục tương tự như hôm nay. Sở Kiều cũng là người dụng binh, dĩ nhiên hiểu được lợi hại trong chuyện này.

Nàng bước tới trấn an Gia Cát Nguyệt, "Chàng phải hết sức cẩn thận, không cần lo cho ta. Trong phủ nhiều thị vệ, cho dù bị một vạn người tấn công thì cũng có thể cầm cự hơn hai canh giờ, lần sau đừng chia quân tới bảo vệ ta nữa."

Gia Cát Nguyệt nghe vậy thì kinh ngạc hỏi lại: "Ta chia quân về phủ hồi nào?"

Sở Kiều sững sờ, "Vừa rồi quan phủ có điều Đốc sát quân tới bảo vệ phủ chúng ta suốt hơn hai canh giờ."

Gia Cát Nguyệt nhíu chặt mi tâm, suy nghĩ hồi lâu mới lắc đầu, nói: "Đó không phải là người của ta."

Sở Kiều nghi hoặc nhìn hắn, vẻ mặt hết sức nghiêm trọng.

Gia Cát Nguyệt mỉm cười, nắm tay nàng, nói: "Không sao, bọn họ hẳn không có ác ý."

"Là người của Ngụy Thư Diệp sao?"

"Nếu ta đoán không sai thì có lẽ là người của Triệu Thập Tam."

Trong ngực Sở Kiều như bị tuyết bám vào, thoáng cái đã lạnh như băng. Gia Cát Nguyệt trầm giọng nói tiếp:"Hoàng đế đang nguy kịch, người có thế lực trong thành đều đang ở trong cung, người lúc này không ở trong cung mà có năng lực điều động quan phủ cũng chỉ có hắn."

Ánh mắt Gia Cát Nguyệt lộ ra một tia ngưng trọng, chậm rãi nói: "Đã lâu như vậy, ta đúng là đã quên mất người này."

Trong phòng lượn lờ huân hương, nơi này được sửa lại giữ nhiệt rất tốt nên mặc một lớp áo mỏng cũng đủ ấm. Thế nhưng Sở Kiều lại cảm thấy cảm giác lạnh lẽo từ sống lưng lan tràn đến tứ chi rồi xông thẳng lên đại não.

Triệu Tung, Thập tam hoàng tử, bị Yến Tuân chặt đứt một tay, huynh trưởng của hắn chết dưới tay nàng, mẫu tộc bị nàng và Yến Tuân bày kế lật đổ. Vị hoàng tử từng có tiếng tăm nhất đế đô hiện tại đã bị người khác quên lãng đến độ này? Ngay cả vào cung hầu hạ hoàng đế hấp hối cũng không có phần của hắn?

Gia Cát Nguyệt ôm Sở Kiều vào lòng, nhìn thấy dáng vẻ thất thần của nàng thì đau lòng, nhẹ giọng bảo:"Tinh Nhi, hay là ta đưa nàng đến Thanh Hải trước nhé?"

Sở Kiều vẫn còn thẫn thờ như không nghe thấy, đến khi Gia Cát Nguyệt lặp lại lần nữa thì nàng mới vội vàng lắc đầu, cuống quít nắm ống tay áo hắn, nói to: "Ta không đi đâu hết!" Nói xong thì ngước lên nhìn hắn chằm chằm, dáng vẻ quật cường cố chấp như một chú sư tử con.

Gia Cát Nguyệt thở dài bất đắc dĩ, vòng tay ôm lấy nàng, thấp giọng nói: "Không lâu nữa đâu."

Đúng vậy, không lâu nữa đâu. Lần nào chư vị đại thần và các hoàng tử diện kiến hoàng đế xong đều trở về nói với người thân cùng thuộc hạ nhà mình: Không lâu nữa đâu, hoàng thượng chẳng còn được bao nhiêu thời gian, bây giờ chỉ đếm được từng ngày thôi.

Nhưng ngày qua ngày, hết hoàng đế bị méo miệng, hoàng đế không còn tỉnh táo, không nhận biết người khác rồi đến hoàng đế ăn uống không được...

Nghe qua thì Hạ hoàng giống như chỉ còn một hơi thở, khoảnh khắc sau sẽ lập tức xuôi tay rời khỏi nhân gian về trời vậy. Nhưng trời càng lúc càng rét, bão tuyết đổ xuống trắng xóa bốn bề, mùa xuân cận kề mà hoàng đế vẫn còn sống, chẳng những chưa chết mà nghe nói thi thoảng còn có thể nói trọn mấy câu, thi thoảng còn mở mắt ra, uống vài muỗng canh.

Không ai biết tấm thân già nua kia đang cầm cự vì cái gì. Hạ hoàng tựa như còn tâm nguyện gì chưa tròn, như đang chờ đợi ai đó, cứ như vậy sống lay lắt, không chịu chết đi, không chịu nhắm mắt.

Không khí trong kinh cũng vì vậy mà luôn trong tình trạng căng thẳng cực độ. Bởi vì không nắm chắc mọi thứ nên chẳng ai dám có gan khởi binh hành thích vua. Thành Chân Hoàng như một cây cung kéo căng, chỉ cần một tiếng động sẽ dẫn đến mưa tên ngập trời. Ngay cả trẻ con mới sinh cũng không dám khóc to trong đêm.

Sáng hôm nay, Gia Cát Nguyệt vừa vào triều thì chợt có người tới gõ cửa phủ.

Thiếu nữ toàn thân phủ áo choàng lông chồn trắng muốt đứng giữa trời tuyết, con ngươi đen nhánh, môi đỏ tươi, thanh lệ thoát tục như một bức họa.

Mặt trời mùa đông treo rất cao, ánh nắng tựa như rọi đến từ một thế giới khác, yếu ớt không chút độ ấm. Sở Kiều khoác áo choàng xanh nhạt đứng ngược gió, ngây người nhìn thiếu nữ trước mặt, thật lâu cũng không nhúc nhích.

Thiếu nữ mỉm một nụ cười rất nhạt, chậm rãi đi đến trước mặt Sở Kiều, thản nhiên nói: "Lục tỷ, không nhận ra ta sao? Tiểu Bát đây."

Đứa bé gái từng quỳ bên cạnh nàng dưới ánh trăng trong trẻo lạnh lùng, thân thể bé xíu gầy gò như chú sói con thiếu sữa không ngừng dập đầu, thề trước thi thể của các tỷ tỷ ca ca mình, bảo bọn họ chờ, chờ cô bé lớn lên nhất định báo thù cho bọn họ.

Thời gian trôi qua như trận gió, chớp mắt đã không còn bóng dáng. Thoáng cái mà đã mười bốn năm.

Sở Kiều nhớ tối hôm đó, nàng trốn trong đám đông, nghe tiếng cô bé gào khóc gọi tên nàng, gọi nàng đến cứu cô bé. Nhưng đến cuối cùng nàng vẫn không bước ra, để rồi sau đó chỉ có thể lặng lẽ mượn lúc mây đen che kín ánh trăng, đoạt lại từng mẩu thi thể từ trong miệng chó hoang, ngay cả một tấm chiếu an táng cũng không có, chỉ có thể thả từng mẩu thi thể xuống lòng hồ lạnh lẽo.

Mười bốn năm, mười bốn năm, nàng cho rằng Tiểu Bát đã chết, từng vô số lần mơ thấy dáng vẻ quật cường của cô bé, nàng tự trách bản thân suốt mười bốn năm, và cũng vì vậy mà hận Gia Cát Nguyệt lâu đến như vậy.

Hốc mắt nóng lên chực rơi lệ, Sở Kiều vươn tay ra, khóe môi nhẹ nở nụ cười, nhưng nụ cười ấy, ngoài vui mừng còn có lẫn theo sự khổ sở chua xót.

Tiểu Bát cầm tay nàng, thản nhiên cười nói: "Ta lợi hại nhỉ, vẫn còn sống, không ngờ có phải không?"

Hai người cùng nhau vào phòng, Tiểu Bát dường như rất quen thuộc nơi này, tự nhiên đi một vòng rồi ngồi xuống trên góc giường, hít một hơi thật sâu, cười nói: "Gia Cát Tứ vẫn có thói quen thích dùng hương trầm thủy như vậy."

Nàng nhìn quanh, thuận miệng nói thêm mấy câu, đều là thói quen sinh hoạt của Gia Cát Nguyệt, sau đó còn cầm một quả lựu lên mân mê trong tay.

Sở Kiều nhìn nàng, thiên ngôn vạn ngữ đều đọng trong miệng, không biết bắt đầu hỏi từ đâu.

Tiểu Bát cười với nàng, nói: "Lục tỷ không cần kinh ngạc, ngày đó người bị chó hoang cắn chết không phải là ta, trước lúc hành hình phu quân của tỷ đã đổi ta với người khác, hơn nữa còn nuôi dưỡng ta nhiều năm. Ta và hắn có ân có oán, hôm nay ta đến đây cũng không phải để ép tỷ thực hiện lời hứa ngày đó, bởi vì chính ta cũng đã sớm buông bỏ ý niệm báo thù rồi."

Trong phòng đột nhiên có gió luồn vào, khiến màn lụa góc tường khẽ lay động, ánh mặt trời xuyên qua chợt trở nên chói chang khiến Sở Kiều bất giác phải nheo mắt lại, không nhìn rõ mặt của người đối diện.

Sở Kiều nhìn Tiểu Bát, trong lòng chợt dâng một cảm giác xa lạ không thể diễn tả. Nàng suy nghĩ một lúc, cuối cùng vẫn nhẹ giọng hỏi: "Tiểu Bát, mấy năm nay muội sống tốt không?"

"Cũng tạm được." Tiểu Bát lơ đãng nói: "Gia Cát Tứ đối với ta cũng không tệ lắm, có lẽ là nhờ dính hào quang của tỷ. Lúc hắn đến chỗ Ngọa Long tiên sinh bái sư, cũng có dẫn ta theo, cho phép ta học chữ, có điều luôn hạn chế tự do của ta, ta bỏ trốn mấy lần đều bị hắn bắt lại. Cứ như vậy qua nhiều năm, mãi đến khi..."

Nói đến đây, Tiểu Bát nhướng mắt nhìn Sở Kiều một cái rồi bật cười, nói: "Mãi đến khi bên ngoài truyền về tin hắn chết ở Bắc Yến, hắn bị Gia Cát gia trục xuất, hạ nhân trong Thanh Sơn viện đều bị đuổi ra khỏi nhà thì ta mới được tự do. Sau đó ta lang thang ở bên ngoài, thân nữ đơn côi, lại chẳng có tay nghề gì để kiếm sống, ta liền lưu lạc chốn phong trần. Bươn chải trong thanh lâu hơn một năm thì gặp được Thập tam điện hạ, vẫn là nhờ phúc của Lục tỷ, bởi vì diện mạo giống tỷ nên thoáng cái đã được điện hạ chú ý, bây giờ thân phận của ta là gia nô trong vương phủ. Ha ha, lăn lộn nhiều năm như vậy mà vẫn chỉ là một đứa nô lệ, có điều đãi ngộ được nâng cao hơn chút."

Sở Kiều lẳng lặng nghe Tiểu Bát nói chuyện cũ bằng giọng điệu thờ ơ, nghe nàng nhắc đến Triệu Tung, nhớ đến cô gái mặc nam trang trên núi Hương Chi nhìn thấy mấy ngày trước thì không khỏi khẽ nhíu mày, trầm giọng hỏi: "Muội đã sớm biết ta ở thành Chân Hoàng, vì sao không đến tìm ta?"

"Tìm tỷ để làm gì?" Tiểu Bát ném sang một cái nhìn sắc lẹm, lạnh lùng nở một nụ cười giễu cợt, từ tốn nói:"Lục tỷ hôm nay có thân phận cao quý, vừa là Tú Lệ tướng quân của Bắc Yến, vừa là Tú Lệ vương của Biện Đường, lại sắp sửa trở thành Tư mã phu nhân của Đại Hạ. Ta chỉ là một nô lệ bé nhỏ, tùy tiện chạy tới làm thân chẳng phải sẽ khiến Lục tỷ mất mặt sao?"

Ánh mắt của Tiểu Bát cực kỳ lạnh lùng, hơn nữa khi nói đến bốn chữ 'Tư mã phu nhân' thì trong mắt tựa như tóe lửa.

Lư hương trong góc nhẹ nhàng tỏa ra làn khói lượn lờ, hòa lẫn với ánh nắng tạo thành một dải lụa vàng mềm mại như nước trên không trung. Gian phòng yên tĩnh như tờ, Sở Kiều lặng lẽ nhìn Tiểu Bát, ngọn lửa trong lòng dần nguội đi từng chút một, lời đã đến khóe môi nhưng cuối cùng đều bị nuốt xuống bụng. Trong đầu như có bão tuyết bao phủ, mịt mù và giá lạnh.

Sở Kiều nghe được mình cất giọng bình tĩnh hỏi: "Vậy vì sao hôm nay lại đến?"

"Điện hạ sắp phải đi, ta muốn cầu tỷ xin cho ta văn thư giải trừ nô tịch, để ta có thể đi theo điện hạ."

Sở Kiều thoáng kinh ngạc, "Triệu Tung sắp phải đi đâu?"

"Còn có thể đi đâu? Đi Yến Tắc trông trường ngựa, đường đường là thân vương Đại Hạ, hoàng tử do hoàng hậu thân sinh mà lại bị biếm đi coi sóc trường ngựa." Biểu tình trên mặt Tiểu Bát chợt trở nên tối tăm, nàng lạnh lùng nói, từng câu chữ như chen qua khẽ răng, giọng điệu chứa đựng sự tức giận không thể áp chế.

"Tại sao?"

"Còn có thể tại sao ngoài vì tỷ?" Tiểu Bát quay đầu lại, lạnh lùng nói: "Sau khi bị chó Bắc Yến chặt đứt một cánh tay, điện hạ luôn giấu mình trong phủ, không còn màng đến phân tranh trong triều hay cuộc chiến đoạt hoàng vị. Các hoàng tử khác bận rộn tranh quyền đoạt lợi nên cũng chẳng ai chú ý đến ngài. Nhưng mấy hôm trước ngài lại điều động binh mã của quan phủ, hơn nữa còn rõ ràng công khai là để bảo vệ các người. Tỷ cho rằng Thập tứ điện hạ còn có thể để ngài tiếp tục giữ thân phận như vậy ở lại kinh thành sao?"

Tay Sở Kiều lạnh lẽo tột độ, đầu kêu ong ong, giọng nói sắc lạnh và giận dữ của Tiểu Bát vang ở bên tai, "Ta không cầu tỷ nghĩ cách để điện hạ được ở lại kinh, chỉ cầu tỷ giúp ta xin một tờ văn thư. Điện hạ không chịu mang ta theo thì ta sẽ tự mình đi theo, ít nhất cũng có thể sớm hôm hầu hạ cơm nước, để ngài không phải cô đơn một mình trên đường. Điện hạ có ơn với ta, ta tuyệt đối sẽ không như hạng người vong ân phụ nghĩa, lấy oán trả ơn."

Một lúc lâu sau Sở Kiều mới ngẩng đầu lên, chăm chú nhìn khuôn mặt xinh đẹp của Tiểu Bát, điềm tĩnh nói:"Tiểu Bát, muội nhất định phải rạch ròi xa cách với ta như vậy?"

"Lục tỷ nói gì vậy, người có thân phận gì, còn Tiểu Bát có thân phận gì, sao dám trèo cao? Huống chi..."

"Nếu muội còn nói những lời này thì mời rời khỏi đây ngay lập tức cho ta, khỏi cầu xin gì nữa, coi như ta không có người muội muội này!" Sở Kiều đột nhiên tức giận nói to.

Tiểu Bát sững người, ngơ ngác nhìn Sở Kiều, nhất thời một câu cũng không nói nên lời.

"Muội đang oán cái gì? Đang giận cái gì? Oán ta ban đầu không thể bảo vệ muội, không thể dẫn muội đi? Hay là giận ta không báo thù cho Hiệp Tương và Lâm Tích, hơn nữa còn nhận kẻ thù làm chồng?" Sở Kiều nén giận nói tiếp: "Những năm qua, muội cực khổ, ta chưa chắc đã sung sướng. Ta tưởng muội đã chết, tự trách bản thân suốt mười bốn năm, bây giờ muội tìm đến tận cửa nói những lời chế giễu trào phúng để biểu đạt tình tỷ muội đó à?"

Nắng trưa chiếu qua cửa sổ để lại vô số cái bóng loang lổ trên mặt đất, Sở Kiều đứng dậy, lạnh lùng nhìn Tiểu Bát: "Đã mười bốn năm, thời gian này xảy ra bao nhiêu chuyện? Trong đầu muội chỉ toàn nghĩ đến bất hạnh cùng bi ai của bản thân, sau đó đều đổ tội hết lên đầu người khác. Ta thật nghi ngờ, muội có thật sự là người muội muội dũng cảm kiên cường của ta năm đó không vậy? Muội tự lấy tên Vô Tâm, chẳng lẽ cũng thật sự không có tâm luôn sao?"

Tiểu Bát đứng chết trân tại chỗ, mặt tái nhợt. Sở Kiều đột nhiên cảm thấy mệt mỏi vô cùng, sức lực như thoáng cái liền bị rút cạn.

Nàng chậm rãi xoay người sang chỗ khác, lạnh nhạt nói: "Muội đi đi, chuyện của Triệu Tung ta sẽ tìm cách xử lý." Dứt lời thì đi về phòng.

Một lúc lâu sau Tiểu Bát mới rời đi, Sở Kiều xuyên qua khe cửa sổ nhìn nàng được mấy người Mai Hương đưa ra khỏi phủ Tư mã. Bóng lưng rất gầy, y phục truyền trắng khiến nàng như hòa làm một với màn tuyết mịt mù.

Nhớ đến lời Tiểu Bát vừa nói, bị giam lỏng, một mình lang thang, lưu lạc chốn phong trần...

Sở Kiều cắn chặt môi, cảm giác thống khổ dần lấp đầy tim. Nàng cứ thế một mình ngồi bên cửa sổ, mãi đến khi hoàng hôn buông xuống.

Gia Cát Nguyệt ôm lấy nàng từ phía sau, thấp giọng nói, giọng điệu mang theo chút trách cứ, "Tối rồi sao còn chưa dùng bữa?"

Sở Kiều thuận thế tựa vào trong ngực Gia Cát Nguyệt, cả người đột nhiên buông lỏng, tựa như chú cá mắc cạn vừa được thả vào trong nước. Nàng cầm tay hắn, bàn tay thật lớn, có thể bao trọn bàn tay nhỏ bé của nàng. Nàng ũ rũ không muốn nói chuyện, cứ như vậy lật xem lòng bàn tay hắn, tỉ mỉ đếm từng vết chai.

"Tiểu Bát đến có phải không?"

"Ừ." Sở Kiều gật đầu, "Chàng đã biết từ sớm, vì sao không nói ta biết?"

"Có định nói, nhưng vẫn không tìm được cơ hội." Gia Cát Nguyệt cười cười, hơi bất đắc dĩ nói: "Bất kể nàng có tin hay không, trong lòng ta vẫn luôn canh cánh chuyện này, tựa như một loại tâm bệnh vậy. Dù sao thì những năm đó, ta đối xử với muội ấy cũng không thể nói là quá tốt, muội ấy bỏ trốn mấy lần, ta bắt về đều đánh một trận. Ta năm đó tính tình vẫn còn cổ quái, cứu xong lại không muốn thả đi, một mực giam lỏng muội ấy. Lúc tâm trạng tốt thì dạy muội ấy học chữ, tập võ. Lúc tâm trạng không tốt, nhìn thấy muội ấy lớn lên giống nàng thì càng mặt nặng mặt nhẹ. Mấy năm sống trên núi, ta không mang theo thị nữ, chỉ để muội ấy hầu hạ bên người. Bây giờ nghĩ lại, tính tình muội ấy cổ quái như vậy, có lẽ đa phần là tại ta."

"Tiểu Bát đã ở cạnh Triệu Tung bao lâu rồi?"

"Có lẽ khoảng hai ba năm." Gia Cát Nguyệt nhớ lại, "Nghe nói rất được Triệu Tung yêu chiều, muội ấy từng hại chết một sủng cơ trong phủ nhưng Triệu Tung cũng không trách tội."

Sở Kiều im lặng một hồi mới chậm rãi nói: "Tiểu Bát hình như có ý với Triệu Tung."

Gia Cát Nguyệt cười nói: "Bất kể muội ấy có ý với ai, chỉ cần nàng không tức giận với ta là được."

"Còn chuyện Triệu Tung là thế nào vậy?"

"Nàng yên tâm, Triệu Dương muốn một tay che trời còn phải hỏi xem chúng ta có cho phép hay không. Chỉ là ta cảm thấy Triệu Tung rời khỏi kinh cũng không có gì không tốt. Hoàng thành sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra đại loạn, hắn rời khỏi đây sẽ an toàn hơn là ở lại."

Sở Kiều cũng từng nghĩ đến vấn đề này, nên cau mày hỏi: "Vậy làm sao bây giờ?"

"Ta dự định để hắn đến Khương Hồ, thứ nhất, ở đó gần phía Bắc, thuộc phạm vi thế lực của Triệu Triệt. Thứ hai, ở đó tụ tập đông đảo người Khương, kinh tế sung túc, đời sống người dân khá cao, khí hậu gần biển nên rất ôn hòa."

Sở Kiều gật đầu, "Vậy cứ làm theo lời chàng đi."

"Ừ, ngày mai ta sẽ sắp xếp chuyện này. Nàng có muốn đưa tiễn, gặp mặt hắn một lần không?"

Sở Kiều im lặng suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng lắc đầu, "Không cần, hắn có lẽ cũng chẳng muốn gặp ta đâu."

Gia Cát Nguyệt vẫn nói: "Nhưng ta cảm thấy nàng vẫn nên đi gặp hắn một lần."

Thấy Sở Kiều ngẩng đầu lên, cau mày nhìn mình, Gia Cát Nguyệt bật cười, nói: "Đừng nhìn ta như vậy, ta không có ý gì khác, chỉ không muốn nàng mãi tự oán trách bản thân như vậy. Chuyện năm đó không thể trách nàng."

Năm đó?

Ánh mắt Sở Kiều dần trở nên mông lung, trong đầu lại thoáng hiện lên hình ảnh trên núi Hương Chi ngày ấy, nam tử lẳng lặng đứng giữa bốn bề ngập lá phong, một ống tay áo trống rỗng, bay phần phật trong gió.

Ký ức phủ bụi lại bị đào lên, cảnh còn người mất, chỉ có rừng lá phong là vẫn vĩnh viễn không đổi.


Chương 185: sống Chết Không Rời

Sau một đêm tuyết rơi, hoàng thành như chìm trong khoảng trời trắng mênh mông. Sáng sớm đẩy cửa phòng ra, tuyết đã dày gần đến gối mà gió vẫn thổi rất gắt, khiến người đi bên ngoài đều mở mắt không ra. Mặt trời còn chưa lên, binh sĩ thủ thành ngáp dài ngáp ngắn, cửa thành nặng nề chậm rãi được mở hé ra, dân chúng chờ bên ngoài và bên trong liền ùa đến.

Một cỗ xe ngựa bằng gỗ mun, *lộc cộc* lăn bánh trên nền tuyết trắng, để lại hai đường rãnh sâu hoắm. Cổ xe ngựa bọc vải xanh đơn giản an phận xếp hàng sau dân chúng, binh lính giữ cổng cho rằng chẳng phải xe của người quyền quý trong thành, cho nên cũng thu phí qua cổng theo lẽ thường, còn bỡn cợt nói mấy câu ra oai với phu xe.

Khoảng hơn một canh giờ sau cỗ xe mới ra khỏi hoàng thành. Mặt trời lười biếng nhú lên khỏi đường chân trời, nắng sớm xua tan màn sương mù dày đặc. Chim muông đã di trú về phía nam từ lâu, chỉ còn lại ít giống tuyết ưng chịu rét giỏi, thỉnh thoảng bay qua, kêu lên một tiếng rồi mất hút trong tầng mây, âm thanh kéo dài văng vẳng trên đồng tuyết mênh mông.

Xe ngựa chạy đến dãy Yết Mã bên ngoài thành thì nhìn thấy một thiếu nữ đang lẳng lặng đứng chờ trên cầu Dương Quan. Nàng mặc áo lông trắng muốt, giày cưỡi ngựa màu xanh ngọc, mi mục như họa, có lẽ đã đứng ngoài trời tuyết khá lâu nên khuôn mặt đỏ ửng vì lạnh, khiến vẻ lạnh lùng sắc sảo thường ngày nhiều hơn một phần dịu dàng. Thấy cỗ xe ngựa, nàng mỉm cười tiến lên một bước, chú ngựa sau lưng nàng cũng ngoan ngoãn đi theo chủ nhân.

Phu xe là một thiếu niên trẻ tuổi, nhiều lắm cũng chỉ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, nhìn thấy nàng thì dường như hơi kinh ngạc, lập tức quay đầu nói gì đó với người trong xe. Một cánh tay gầy gò nhẹ vén màn xe lên, để lộ khuôn mặt tuấn tú của nam tử cùng đôi mày đang nhíu chặt.

"Tại sao lại đến đây?" Giọng nói của Triệu Tung đã không còn vẻ tươi sáng của năm đó mà trở nên trầm thấp, điềm tĩnh như mặt nước không chút gợn sóng.

Còn nhớ lần đầu tiên nàng gặp chàng, chàng đã có dáng vẻ này, luôn bình tĩnh, ôn hòa, hờ hững với tất cả mọi chuyện. Chàng dần dần lui khỏi vũ đài chính trị của Đại Hạ, từ một đích tử* phong hoa vô hạn lại biến thành một người bị đày đi xa mà không một ai đưa tiễn như ngày hôm nay.

*Đích tử = con trai do vợ chính sinh ra, trong trường hợp này là hoàng hậu.

Trừ nàng ra, có lẽ toàn bộ hoàng thành cũng không còn ai nhớ đến chàng.

Tiểu Bát lẳng lặng cười, khóe miệng luôn mang theo vẻ cay đắng thành thói quen. Nàng đi lại gần xe ngựa, rất tự nhiên giao cương ngựa cho cậu phu xe trẻ tuổi, nói: "A Giang, buộc thêm ngựa vào xe đi."

Triệu Tung khẽ cau mày, trầm giọng hỏi: "Nàng làm gì vậy?"

Tiểu Bát quay sang cười với Triệu Tung, ánh mắt trong trẻo không chút gợn sóng, thản nhiên nói: "Dĩ nhiên là muốn đi với ngài."

Mi tâm vẫn nhíu chặt, sắc mặt của Triệu Tung đã sầm xuống, lộ ra vẻ không kiên nhẫn hiếm thấy, "Vô Tâm, chớ càn quấy."

Tiểu Bát hiện giờ lấy tên Vô Tâm, Vô Tâm đồng nghĩa với không có trái tim.

Cuộc đời này của nàng, đã vô số lần bị gọi bằng những cái tên khác nhau. Thời gian ở Kinh gia nàng đã không còn nhớ rõ, thân nhân trong ấn tượng chỉ có mấy người Hiệp Tương và Lâm Tích mà thôi. Khi đó vì còn quá bé, lại không phải là con của phu nhân chính thất cho nên chẳng ai nhớ được tên nàng là gì, sau khi Kinh gia bị diệt vong, người ta dựa theo độ tuổi của nàng và các ca ca tỷ tỷ khác mà gọi Tiểu Thất, Tiểu Bát, Tiểu Cửu, theo thứ tự số như gia súc trong chuồng, còn không bằng cả chiến mã thuần chủng có tên riêng.

Sau đó nàng được Gia Cát Nguyệt cứu, theo hắn đi bái Ngọa Long tiên sinh làm thầy, sống trên núi gần bảy năm tròn. Trong mấy năm đó, nàng có một cái tên khác, nhưng Gia Cát Nguyệt dùng tên này gọi nàng chỉ vì sợ người khác biết được thân phận của nàng, nói đi nói lại, chủ yếu cũng là bởi muốn bảo vệ cho vị tỷ tỷ đang ở trong cung Thịnh Kim của nàng,

Khoảnh khắc được tin Gia Cát Nguyệt chết, nàng đã khóc. Và qua nhiều năm như vậy, đó vẫn là việc làm khiến nàng không thể tha thứ cho bản thân nhất, vì nàng đã rơi lệ vì nam nhân đã hại chết huynh đệ tỷ muội của nàng, hơn nữa còn giam cầm nàng hơn mười năm.

Đến bây giờ nàng vẫn còn nhớ rõ buổi sáng hôm tin dữ truyền đến phủ Gia Cát, Nguyệt Thập Tam người đầy bụi đất ào qua cổng chính Thanh Sơn viện, đuổi theo sau là hạ nhân của chủ viện, trước con mắt kinh ngạc của bọn họ, nhanh chóng lục soát trên dưới Thanh Sơn viện một lượt. Sau đó lần lượt có quan sai từ Thượng luật viện, bộ khoái từ nha môn, quan viên của hội trưởng lão thi nhau trút tội lên đầu người nam nhân vốn kiêu ngạo kia, dùng đủ lời chỉ trích hắn không làm tròn trách nhiệm, tư thông với địch, làm chậm trễ tin tình báo, khinh thường quân kỷ, hại quân đội tổn thất nặng nề, thậm chí có cả tội phản quốc.

Thanh Sơn viện từ địa vị cao nhất trong phủ Gia Cát thoáng cái đã rớt thẳng xuống vực sâu không đáy. Các Nguyệt vệ tản ra khắp nơi tìm đến bằng hữu môn phiệt và huynh đệ tỷ muội của Gia Cát Nguyệt, cầu xin bọn họ giúp đỡ rửa oan cho hắn, cầu xin bọn họ dẫn binh đến Bắc Yến tiếp tục tìm kiếm hắn, bất kể thứ tìm được có thể chỉ là một thi thể không sự sống. Thế nhưng, đối mặt với sự thất bại trên chiến trường, đối mặt với sự chỉ trích cùng phản đối của cả nước, ngoại trừ Thất hoàng tử Triệu Triệt cũng thất thế vì chiến dịch này thì không còn ai nguyện ý vươn tay tương trợ. Đến thiếu chủ Ngụy phiệt là Ngụy Thư Diệp cũng treo lệnh từ chối tiếp khách, không muốn gặp bộ hạ cũ trung thành của Gia Cát Nguyệt.

Cuối cùng, ngay cả Triệu Triệt cũng bị đày đi phương Bắc, thi thể Gia Cát Nguyệt được bọn người ở Bắc Yến vớt lên, Gia Cát gia tuy nguyện ý trả tiền chuộc thi thể về nhưng lại trục xuất hắn ra khỏi gia phả ngay sau đó. Gia Cát Mục Thanh tự mình thi hành phán xét của hội trưởng lão, dùng roi quất nát thi thể con mình để bày tỏ quyết tâm và lòng trung trinh. Thi thể đầy vết roi của Gia Cát Nguyệt cũng không được an táng trong phần mộ tổ tiên mà bị vứt ra bãi tha ma. Tên tuổi hắn bị hàng vạn hàng nghìn người đời lôi ra để phỉ báng, bị khai trừ quân doanh. Trước khi thi thể hắn được mang về Đại Hạ, nữ hạ nhân trong Thanh Sơn viện các nàng đã sớm bị đuổi ra khỏi phủ, qua nhiều lần mua đi bán lại, cuối cùng phải lưu lạc chốn phong trần.

Cho dù đã nhiều năm như vậy, nhưng mỗi lần đêm xuống, nàng vẫn có thể nghe được tiếng cười đùa của nơi buôn son bán phấn kia. Khi đó, vì nàng khăng khăng chết cũng không chịu tiếp khách, bà chủ kỹ viện đã tìm hai gã tráng đinh tới phá thân nàng. Trong gian phòng chứa củi tồi tàn, hai gã đàn ông kia vừa vào phòng đã hối hả cởi quần để lộ hạ thân xấu xí, nhe răng cười hềnh hệch lao tới xé quần áo nàng, khoảng cách gần đến nỗi nàng có thể nhìn rõ hàm răng ố vàng của hai gã, có thể ngửi được hơi thở đầy mùi rượu từ miệng hai gã.

Sức của hai gã rất lớn, lớn đến mức mọi giãy giụa đều hoài công, tuy nàng từng theo Gia Cát Nguyệt luyện võ học cưỡi ngựa, nhưng mọi chiêu thức đều vô hiệu dưới tác dụng của thuốc mê. Cuối cùng nàng chỉ có thể đờ đẫn nhìn bọn chúng xé nát quần áo mình, nhìn bộ mặt ghê tởm của bọn chúng càng lúc càng gần. Trong gian phòng kế bên chính là Lan Nhi – một nha hoàn trong Thanh Sơn viện, kế bên nữa là Tri Hiểu – con gái của nhũ mẫu Gia Cát Nguyệt, tiếng gào khóc của các nàng hòa lẫn với tiếng cười thô bỉ của đám đàn ông. Nàng vốn cho rằng trải qua bấy nhiêu biến cố, tim nàng đã sớm chai sạn, lòng đã đủ kiên cường, nàng vốn cho rằng mình có đủ dũng khí cùng tự tôn không cần phải cầu xin bọn người vô sỉ kia. Nhưng khoảnh khắc hạ thân bị đâm rách, cảm giác đau đớn truyền ra toàn thân, nước mắt tủi nhục vẫn trào ra khỏi hốc mắt nàng, và cũng giống như những thiếu nữ khác trong Thanh Sơn viện, nàng cũng khóc gọi tên của nam nhân kia.

Nàng khóc gào gọi Gia Cát Nguyệt đến cứu mình, điên cuồng mắng chửi hai gã đàn ông kia, nói thiếu gia nàng sẽ báo thù cho nàng, tất cả chúng sẽ chết không tử tế.

Nhưng hai gã kia chỉ cười khẩy, tàn nhẫn nói cho nàng biết, Gia Cát Nguyệt đã chết ở Bắc Yến rồi, bây giờ thi thể hắn đã nằm trong bụng chó hoang rồi.

Khoảnh khắc nghe tin, nàng đã khóc vô cùng tuyệt vọng. Nàng đột nhiên nhớ lại rất nhiều chuyện trong quá khứ, hắn dạy nàng viết chữ, dạy nàng cưỡi ngựa, dạy nàng binh pháp, dạy nàng võ nghệ phòng thân. Cũng có lúc, nàng chẳng cần phải làm gì, hắn chỉ gọi nàng đến ngồi cạnh, nàng mỉa mai khiêu khích thế nào hắn cũng mặc kệ, chỉ lẳng lặng uống rượu, thỉnh thoảng không nhịn được trừng mắt nhìn nàng một cái.

Hắn giết chết Lâm Tích, hắn hại chết Tiểu Thất, hắn giam cầm nàng mười năm, tra tấn nàng, mắng nàng, hắn và nàng có mối thù không đội trời chung. Nhưng hắn lại chưa từng làm nhục nàng, còn mấy lần cứu nàng khỏi cái chết cận kề, cho nàng chỗ ở, cho nàng cái ăn cái mặc, bất kể thân phận của nàng khó xử đến thế nào. Dù nàng biết tất cả những chăm sóc này vốn nên thuộc về ai, nhưng cũng không thể chối bỏ sự thật rằng hắn đang bảo vệ nàng. Từ lúc nàng còn là một đứa bé với hai bàn tay trắng lưu lạc ở chốn dầu sôi lửa bỏng, hắn đã luôn bảo vệ nàng, đã bảo vệ nhiều năm như vậy.

Và ở thời điểm nhục nhã nhất trong đời, nàng đã theo bản năng gọi tên hắn, vứt bỏ cốt khí mà mong đợi hắn có thể đến cứu nàng.

Nhưng cuối cùng hắn vẫn không đến, nam nhân đó đã chết, vì tỷ tỷ nàng mà chết, táng thân trong băng thiên tuyết địa ở Bắc Yến, chết dưới móng sắt của đại quân Bắc Yến.

Tối hôm đó, nàng đã tuyệt vọng gào khóc tựa như chú sói con bị mất mẹ, nằm vùi trên mặt đất bẩn thỉu mà khóc, khóc cho đến khi giọng bể nát.

Thế nhưng nàng chỉ khóc một đêm, sau đêm đó, không giống như Tri Hiểu quyết liệt tự kết liễu mạng sống, không giống như Lan Nhi sầu khổ rồi bệnh chết, nàng dường như chợt được khai sáng, bắt đầu học cầm kỳ thư họa, học làm sao để quyến rũ nam nhân, học tất cả mọi kỹ xảo cùng kiến thức cần có để tồn tại được ở nơi này. Đã không thể trông cậy vào người khác thì chỉ có thể dựa vào chính mình, nếu số mệnh đã định phải ở lại đây thì phải nghĩ cách làm sao để cuộc sống được tốt hơn, nếu đã làm thì nàng phải làm cô nương đầu bảng.

Hai tháng sau, nàng đích thân bày mưu hãm hại hai gã tráng đinh từng xâm phạm mình. Nàng đứng nhìn hai gã chết ngay trước mặt mà trong lòng dâng lên cảm giác khoan khoái điên cuồng đến mức không thể diễn tả bằng lời.

Nàng vốn cho rằng cuộc đời này của mình sẽ tiếp tục như thế, tựa như một vũng nước tù, càng lúc càng hôi thối.

Thế nhưng, nàng lại gặp gỡ người đó.

Hôm đó nàng cùng một gã phú thương đi du hồ, lão già hơn năm mươi bụng béo ị kia quả thực là một đồ điên, trên thuyền hoa, trước mặt con mắt của bao người mà lão một mực đòi cởi quần áo của nàng. Trong lúc hoảng hốt, nàng bất cẩn cào trầy mặt lão, thế là lão giận dữ, lập tức kêu người ném nàng xuống hồ.

Thành Chân Hoàng tháng năm vẫn rất lạnh, băng chỉ vừa mới tan nên nước hồ cực kỳ lạnh. Nàng mặc áo xống nặng nề, tay chân cứng nhắc vì lạnh nên không bơi lên được, cứ như vậy từ từ chìm xuống, cảm thấy xung quanh từ từ tối đi. Mặt trời dần rời xa, nàng không nhìn thấy trời, không nhìn thấy mây, xung quanh chỉ có làn nước lạnh lẽo như băng, hô hấp càng ngày càng chậm đi. Trước khi ngất đi, nàng đột nhiên nghĩ đến một chuyện, lúc Gia Cát Nguyệt chết có phải cũng cảm thấy như nàng hiện giờ? Xung quanh rất lạnh, chỉ có trong ngực là còn chút hơi ấm, nhưng lại rõ ràng cảm nhận được nhiệt độ kia cũng đang tắt dần.

Nhưng ngay khoảnh khắc chuẩn bị mất đi ý thức, có ai đó chợt ôm lấy eo nàng, kéo nàng về phía ánh sáng, không biết qua bao lâu thì nàng được đẩy lên khỏi mặt nước. Ánh mặt trời sáng chói mắt, nàng ho khan từng hồi một, thoát chết trong gang tấc khiến nàng xúc động đến ứa lệ. Triệu Tung đứng bên cạnh, đang nói chuyện với tiểu thư đồng cả người ướt sũng. Thấy nàng nhìn sang thì cũng quay đầu lại, đôi mắt điềm tĩnh khi nhìn rõ mặt nàng dường như thoáng hơi giật mình, nhưng chàng cũng chỉ hơi cau mày, cười nói: "Thật khéo quá, cô nương rất giống một vị cố nhân của ta."

Lúc ấy chàng rõ ràng là đang cười, nhưng nàng lại cảm nhận được sự đơn độc và thống khổ trong lời chàng, tựa như chú chim nhạn không thể bay đến phương nam tránh rét trước khi đông về bởi vì bệnh tật, chỉ có thể nhìn theo đồng loại rời bỏ mình. Ánh mắt điềm tĩnh nhưng lại thê lương như một đồng cỏ hoang vu, khiến người khác bất giác dấy lên lòng thương cảm.

Thế là nàng được chàng mang đi. Tuy là một thân vương thất thế nhưng chàng dù sao vẫn là hoàng thân quốc thích, nếu muốn nàng vẫn có thể có thân phận mới, có tự do mình đã mơ ước hơn mười năm, nhưng đến cuối cùng nàng vẫn tự nguyện dùng nô tịch tiến vào vương phủ của chàng. Chàng biết rồi cũng không ngăn cản nàng, chỉ điềm tĩnh nhìn nàng, tôn trọng lựa chọn của nàng.

Thoáng cái mà đã nhiều năm như vậy.

Nàng nói không rõ tình cảm đối với Gia Cát Nguyệt là gì, nhưng qua chừng đó thời gian cùng chuyển biến, mọi hận thù và quyến luyến như đã không còn ranh giới, cuối cùng biến thành một loại tình cảm vô cùng phức tạp, nàng không hiểu được mà cũng không muốn tìm hiểu. Nhưng nàng biết rõ cảm xúc của mình dành cho Triệu Tung, không phải báo ân cũng không phải cảm kích, chỉ đơn giản là muốn ở chùng chàng, hy vọng ánh mắt của chàng có thể nhìn về phía mình, hy vọng trong lòng chàng có mình. Nhưng cả tâm nguyện nhỏ nhoi này dường như cũng khó lòng được thỏa mãn.

Cuộc đời này của nàng từng yêu hai nam nhân, nhưng cả hai người đều yêu cùng một nữ nhân khác, mà cô gái đó lại chính là vị tỷ tỷ từng có đại ân với nàng.

Vận mệnh, thật sự có rất nhiều chuyện khôi hài.

Vì vậy mà suốt những năm tháng dài đằng đẵng, trong trí nhớ của nàng luôn hằn sâu một bóng dáng kiên cường dũng cảm, luôn có nhiều cảm xúc phức tạp đối với người tỷ tỷ kia. Cho nên, lúc nhìn thấy tỷ tỷ, nàng đã gần như không thể khống chế được lý trí của mình.

Có điều, những chuyện đó đã không còn đáng kể nữa. Tất cả đều đã qua rồi, nàng bây giờ muốn đi theo chàng, những thứ khác cứ để chúng tan thành mây khói đi.

Thân phận khác biệt thì sao? Tàn hoa bại liễu thì sao? Lòng chàng có người khác thì sao? Nàng muốn đi theo chàng, dù trở ngại có thể ngăn trở nàng, nhưng tuyệt đối không thể khiến nàng từ bỏ quyết tâm.

Nàng ngẩng đầu lên, suốt bốn năm, đây là lần đầu tiên nàng mặc y phục nữ đứng trước mặt chàng, lần đầu tiên tỉ mỉ điểm trang đến đối mặt với vị hoàng tử thân phận cao quý nhưng thất thế này. Ánh mắt sáng ngời trên khuôn mặt xinh đẹp, nàng nhoẻn môi cười rạng rỡ, nói: "Không phải ta càn quấy, ta chỉ muốn đi cùng ngài mà thôi."

Triệu Tung lạnh lùng cự tuyệt, "Đi theo ta làm gì? Mau trở về đi!"

Tiểu Bát cũng không buồn nhìn, trực tiếp rút đoản đao ra đưa cho hắn, thản nhiên nói: "Ngài cứ một đao giết chết ta đi."

Triệu Tung nhăn mặt, quay sang nói với thư đồng: "A Giang, đuổi nàng ấy xuống xe."

"Mời tự nhiên." Tiểu Bát ung dung phe phẩy văn tự trong tay, thoải mái nói: "Dù sao ta cũng có giấy phép rời thành, lại có văn tự chứng minh thân phận, đã không còn là nô lệ bị hạn chế đi lại nữa. Có lộ phí và ngựa trong tay, ngài đuổi thì ta đi, nhưng không thể cấm ta đi theo sau. Ta có thể cứ vậy mà cùng đường đến Khương Hồ, ngài mặc kệ ta thì ta có thể tìm chỗ nào gần gần nghỉ ngơi. Tuy ngài là hoàng tử Đại Hạ, nhưng không có nghĩa là được quyền cấm cản một thường dân tuân thủ kỷ cương như ta ra ngoài du ngoạn."

Tiểu Bát thản nhiên nhìn Triệu Tung, vẻ mặt vô cùng tự tại, không chút khó chịu bất an, cũng không hề có điểm kinh hoảng luống cuống nào. Nàng cứ như vậy ngước nhìn hắn, ánh mắt trong trẻo không dao động, chiếc cằm thon thon khẽ hất lên, dáng vẻ bướng bỉnh vừa giống như một đứa trẻ đang giận dỗi lại vừa như con bạc bốc đồng.

Triệu Tung nhìn nàng, đột nhiên cảm thấy chua xót. Qua nhiều năm như vậy, dường như đây là lần đầu tiên hắn không qua nàng nhìn thấy bóng dáng của người nọ mà chân thật nhìn thẳng vào dáng vẻ kiên quyết quật cường của thiếu nữ trước mặt. Hắn lẳng lặng nói, giọng điệu trầm khàn như gió thu quét qua đống lá khô, mang theo vẻ tiêu điều thê lương, "Nàng rốt cuộc có biết hay không, bước chân ra khỏi thành Chân Hoàng, ta đã không còn là thân vương Đại Hạ nữa."

Tim Tiểu Bát chợt như bị đao nhẹ cứa, nhoi nhói đau. Nàng nhìn vẻ mặt cô đơn của Triệu Tung, trong ngực dần dấy lên một ngọn lửa. Thần sắc vẫn không biểu hiện điều gì, nàng hừ lạnh một tiếng, thờ ơ nói: "Là ai thì liên quan gì đến ta? Không cho ngồi chung xe thì thôi, ta tự mình đi đằng sau." Dứt lời lập tức nhỏm người định nhảy xuống xe.

Ngay lúc đó, cổ tay nhỏ nhắn của nàng chợt bị ai đó bắt lấy, các ngón tay dài xương xương dùng lực nên hơi trắng, lòng bàn tay đầy vết chai, tuy là tai trái nhưng lại linh hoạt dị thường.

"Coi như ta chưa nói gì." Một giọng nói trầm khàn lẳng lặng vang lên, Triệu Tung bất đắc dĩ phẩy tay, "A Giang, đi thôi."

A Giang sửng sốt, còn đang cứng mồm cứng lưỡi thì Tiểu Bát tiến lên cốc một cái lên trán cậu, khẽ quát:"Còn không mau đi? Chờ chủ tử ngươi đổi ý đuổi ta đi sao?"

A Giang thật thà cười mấy tiếng rồi vung roi lên. Cỗ xe ngựa chậm rãi lăn bánh, ánh sớm lấp lánh phủ xuống bốn phía.

Rời khỏi thành Chân Hoàng, rời khỏi Đại Hạ, chàng không còn là thân vương Đại Hạ, nàng cũng không còn là danh kỹ đứng đầu kinh thành một thời. Cát thuộc về cát, đất về với đất, cảm tạ ông trời đã trả cho bọn họ một cơ hội tìm lại cuộc đời mới trước khi bão táp đến.

Từ trong rừng hồ dương rậm rạp, một cô gái khoác áo choàng xanh đen thúc ngựa đi ra, Hạ Tiêu đi không xa phía sau. Lần lượt có mấy tiêu đội đi qua trên đường, bụi đất dấy lên mù mịt nhưng nàng vẫn như không nhìn thấy, chỉ một mực dõi mắt nhìn theo cỗ xe ngựa bọc vải xanh dần đi xa, thật lâu cũng không nói gì.

Tạm biệt, người bạn từ thuở bé của nàng. Tạm biệt, muội muội của nàng. Tạm biệt, hai con người nàng có lỗi nhất cuộc đời này.

Mặt trời dần lên cao, gió Bắc vẫn rít gào bốn phía. Sở Kiều chậm rãi thu hồi tầm mắt, lẳng lặng ngẩng đầu lên.

Đây là Đại Hạ, là mùi vị của Đại Hạ, là gió Đại Hạ, là quá khứ và tương lại của nàng, người nên đi đã đi rồi, người ở lại phải tiếp tục đối mặt với cuộc sống. Bất kể là khốn cảnh hay nghịch cảnh, bất kể con đường trước mắt có gập ghềnh chông gai đến thế nào, mỗi người bọn họ đều có trách nhiệm phải gánh vác, có người luôn chờ đợi mình, cũng có người mình muốn bảo vệ.

Nàng xoay người lại đối mặt với thành trì nguy nga sừng sững ở nơi xa, ở đó có vô số đình đài thủy tạ, có vô số cung điện tráng lệ, có hằng hà quyền lợi cùng dã tâm, cũng có hằng hà mưu kế cũng ám chiêu.

Trước đó không lâu, nàng từng chán ghét tất cả những gì thuộc về nơi này, nhưng bây giờ nàng lại cam tâm tình nguyện bước vào cái lồng giam khổng lồ này, cũng giống như muội muội nàng tự nguyện làm nô lệ, đây đều là con đường các nàng chọn cho mình. Đó là chiến trường của nàng, nhưng nàng không hề cô đơn một mình, bởi vì trong chiếc lồng giam đó, luôn luôn có một người vĩnh viễn chờ đợi nàng.

Như đôi chim liền cánh, sống chết không rời.

"Hây!" Sở Kiều quát to một tiếng rồi thúc ngựa phi nước đại. Gió lạnh thổi qua bên tai hóa thành sương khói rồi lặng lẽ biến mất.


Chương 186: Không Sợ Khi Có Chàng

Chớp mắt liền đến cuối năm, tuy một năm này cũng không được tính là mưa thuận gió hòa, nhưng trong ngoài thành Chân Hoàng vẫn tràn ngập không khí tưng bừng đón năm mới. Nửa tháng nữa là xuân yến nên phủ doãn đã dỡ bỏ lệnh cấm đi lại ban đêm ở hoàng thành, hội trưởng lão còn hạ lệnh giảm miễn thuế năm sau cho thương nhân để khuyến khích mua bán, thúc đẩy kinh tế phát triển, đồng thời lấy danh nghĩa của hoàng đế truyền chỉ lệnh cho chúng quan viện ở các tỉnh thành khác vào kinh triều bái, cũng ban thưởng khen ngợi rất hậu hĩnh cho các quan viên có thành tích xuất chúng.

Cứ như thế, chưa quá ba ngày thì thành Chân Hoàng đã khôi phục vẻ náo nhiệt của ngày xưa. Được quan phủ khích lệ, lễ hội tất niên năm nay vô cùng xa hoa, phú hộ các nơi lần lượt vào kinh, tạo thành khung cảnh phồn hoa cẩm tú, ca múa tưng bừng. Bất kể thế cục bên ngoài hỗn loạn đến đâu, chiến sự ở biên quan căng thẳng đến thế nào thì người dân đế đô vẫn đắm chìm trong mộng ảo do thiên triều dệt nên.

Gió lạnh xuyên qua màn cửa mang theo hương vị ấm áp của phương nam rồi bay về phía bắc xa xôi.

Cùng với tình hình chiến sự với Bắc Yến ở biên giới Tây Bắc càng ngày càng căng thẳng thì Gia Cát Nguyệt cũng ngủ càng lúc càng muộn, có nhiều hôm còn thức trắng đêm. Nến trong thư phòng chảy xuống chất đầy trên giá, rọi lên khuôn mặt càng lúc càng đăm chiêu của chàng, sống lưng cao ngất, thẳng tắp như một ngọn trường thương.

Ba ngày trước, Sở Kiều rốt cuộc gặp lại Triệu Triệt.

Lúc đó có bão tuyết liên tục bốn ngày nên lớp tuyết trên mặt đất đã dày gần hai thước, hầu như không thể đi lại. Mấy năm nay thân thể Sở Kiều vẫn luôn không tốt mỗi khi trời trở rét, nên nàng càng không muốn ra khỏi cửa, cả ngày giấu mình trong phòng ngủ.

Tối hôm đó, từ xa đã nghe được tiếng cười của Gia Cát Nguyệt, Sở Kiều trở mình trên giường, khẽ nhíu mày, vừa hé mắt ra thì cảm giác được khí lạnh ập đến phải rùng mình một cái, kéo chăn bọc quanh người rồi nhỏm người dậy. Ngay sau đó, Gia Cát Nguyệt vén màn lên, cười nói với nàng: "Tinh Nhi, nhìn xem ai đến này?"

Triệu Triệt ngược sáng đi vào, người mặc trường bào tuyền đen, không có bất kỳ hoa văn hay vật phẩm trang sức gì, toàn thân như được bao phủ trong khí tức điềm tĩnh. Hắn vẫn như xưa, ngoài việc hình như cao hơn một chút, gầy đi một tí thì khuôn mặt không hề thay đổi, nhưng sự cao ngạo cùng ngông nghênh trong mắt năm đó đã được thay bằng vẻ điềm tĩnh trầm lắng, cho dù là đang cười thì nụ cười kia vẫn ẩn chứa ba phần xa cách phòng bị. Hắn bình thản chào hỏi nàng, vẫn cùng một kiểu, khẽ gật đầu rồi cười nhạt: "Cuối cùng cũng gặp lại."

Phòng bếp liên tục đưa thức ăn lên, Triệu Triệt có mang theo rượu của người Khương từ phương bắc, vị rất cay, vừa mở nắp ra thì mùi rượu thơm nồng đã xộc vào mũi.

Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt cùng nhau uống rượu trò chuyện, ngoại trừ vài chuyện chính sự thì cũng thỉnh thoảng chọc ghẹo chế giễu nhau mấy bận, nhưng không khí vô cùng vui vẻ ôn hòa.

Gia Cát Nguyệt có rất ít bạn bè, trên đời này, có thể ngồi nói chuyện với chàng như vậy, có lẽ trừ người này ra thì không còn ai khác nữa. Sở Kiều im lặng ngồi một bên, thi thoảng nhấp ngụm rượu, nghe bọn họ nói về những chuyện xưa, chuyện lúc còn trẻ ở Giảng Vũ Đường nhìn nhau không thuận mắt thế nào, lớn lên thì ai cũng mắt đặt trên đầu, mãi đến khi xảy ra chiến sự, triều đình rung chuyển, đế quốc lung lay thì bọn họ mới dần tiến gần nhau hơn.

Xuất thân cao quý như nhau, thân phận bất phàm như nhau, lòng đều mang hoài bão, bụng đều có tài thao vĩ lược. Hai thiếu niên hào hùng, hết lần này đến lần khác bị đất nước bị gia tộc ruồng rẫy vì chối bỏ thế tục. Cùng cao ngạo cực đoan, tùy hứng cố chấp như nhau, đều là kẻ phản bội trong mắt gia tộc vì nâng đỡ người ngoại tộc. Cùng chào đời và lớn lên trong nhung lụa, cùng bò dậy từ vũng bùn, từng bước trở về trung tâm quyền lực. Chẳng qua, lòng dạ dù cứng rắn như sắt thì vẫn ôm ấp nhiệt huyết nam nhân, tình bạn giữa nam nhân, rất nhiều lúc không cần nói ra cũng hiểu được.

Sở Kiều lẳng lặng ngồi nhìn hai người, Gia Cát Nguyệt hiếm khi hào hứng như vậy, nàng cũng chưa từng thấy bộ dạng phóng khoáng bất kham này của Triệu Triệt.

Trong một thoáng, nàng tựa như nhìn thấy hai gốc bạch dương dầm mưa dãi nắng, vai kề vai từ từ trở thành cổ thụ cao chọc trời.

Trong đầu bất giác xuất hiện một bóng dáng khác, trong những năm tháng tăm tối đó, khi Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt còn chưa sánh vai chìm nổi trong thế sự vô lường thì nàng cũng từng cùng một người sánh vai vượt qua mọi chông gai. Chỉ có điều bọn họ cuối cùng lại không thể cùng đến một đích.

Tối hôm đó Gia Cát Nguyệt đã uống đến say mèm, tửu lượng của chàng trước giờ không quá tốt, luôn tự biết giới hạn của bản thân mà dừng lại đúng lúc. Chỉ là hôm nay gặp lại bằng hữu nên chàng mới có hơi buông thả.

Nhưng Sở Kiều lại biết, là vì chàng đã quá mệt mỏi rồi.

Mấy ngày nay, khu vực Tây Bắc bão tuyết hoành hành không ngừng, mùa màng ở Tây Nam bị thất thu, một phần ba đế quốc chìm trong lũ lụt, lương thực vật dụng triều đình đưa đến tiếp tế cho nạn dân đều bị quan lại địa phương và thế gia đại tộc bòn rút không còn gì. Triệu Dương là người nắm quyền ở phía tây nhưng lại dung túng thuộc hạ công khai tham ô nhằm lấy lòng giai cấp thượng tầng, tranh thủ sự ủng hộ của bọn họ. Không đến nửa tháng mà phía tây đã chết hơn hai mươi vạn dân, hơn trăm vạn dân chúng ngàn dặm xa xôi chạy nạn đến phía nam, phía đông, thậm chí còn có người chạy đến Tây Bắc. Rất đông dân chúng kéo đến tụ tập ở trước Nhạn Minh Quan, Đường Hộ Quan và Diệu Quan, mỗi ngày đều có hàng trăm hàng ngàn người chết vì đói và rét. Nhưng đế đô tình nguyện tổn hao vàng bạc sửa chữa cung điện chuẩn bị cho xuân yến chứ không nguyện ý phân phát lương thực, tranh thủ cho người dân một con đường sống.

Gia Cát Nguyệt đã viết hơn mười tấu chương can gián, nhưng trừ ít quan lại không có thực quyền thì văn võ cả triều không một ai nguyện ý ủng hộ hắn. Tấu chương của hắn bị xếp xó, bị dẹp sang một bên, quan lại triều đình chạy theo tiếng gọi hưởng lạc, hội trưởng lão như bị sâu mọt đục mắt, chỉ có thể nhìn đến mảnh đất lớn cỡ một bàn tay, thoải mái nhận lấy lời ca tụng công đức của quan viên địa phương, còn lại đều làm như không thấy thực trạng thiên tai.

Gia Cát Nguyệt nói ở địa phương bị thiên tai nghiêm trọng, dân chúng phía tây đã chết hai mươi vạn. Bọn họ lại nói Đại Hạ bốn bề thái bình, người dân vui vẻ an hưởng, cuộc sống sung túc, chỉ trích hắn xàm ngôn.

Gia Cát Nguyệt nói số dân chúng tụ tập ở Nhạn Minh Quan, Đường Hộ Quan và Diệu Quan đã lên đến vài chục vạn, một khi người dân cùng đường nổi dậy, chắc chắn sẽ trở thành đại họa. Bọn họ lại nói phòng thủ ở ba nơi đó kiên cố cỡ nào, ngoài quan ngoại là hoang nguyên rộng ngàn dặm, người dân biên thành đêm ngủ không cần đóng cửa, một bóng trộm cướp cũng không thấy.

Gia Cát Nguyệt nói tồn vong của Đại Hạ ở ngay trước mắt, hội trưởng lão lừa mình dối người, triều đình vô lương, quan viên địa phương tham ô vô tội vạ, nếu không trừng phạt thì ắt xảy ra đại loạn. Bọn họ lại vu ngược rằng hắn vô liêm sỉ, cố tình nhiễu loạn triều đình, muốn tự mình chuyên quyền.

Trên triều ngày nào cũng có khẩu chiến, nước miếng văng tứ tung, trong khi đó ở dân gian người chết càng lúc càng nhiều. Bọn họ tùy tiện lấy ra một bức thư do đô đốc Lũng Tây gửi đến, trong thư toàn lời lẽ khen ngợi công đức của triều đình, hoàng đế nhân từ bác ái, Đại Hạ phồn vinh lớn mạnh, sau đó trách cứ hắn không có chứng cứ mà dám phỉ báng trọng thần trong triều.

Chứng cứ? Còn cần chứng cứ?

Nàng từng nghe thấy Gia Cát Nguyệt ở trong thư phòng giận dữ mắng chửi bọn tướng lĩnh biên quan, tức đến mặt xanh mét, hai mắt lộ hung quang.

Dân chúng chạy nạn tụ tập đông nghịt trước ba cửa khẩu bọn họ làm như không thấy, khu vực phía tây la liệt xác người bọn họ làm như không thấy, tiếng gào khóc chấn động trời đất bọn họ làm như không nghe. Hôm nay bọn họ dùng một bức thư ca tụng công đức tùy tiện lấy được ở một địa phương nào đó tự lừa mình dối người, vậy mà còn mặt dày hướng hắn đòi chứng cứ?

Tối hôm đó, trước khi ngủ Gia Cát Nguyệt đã trầm mặc hồi lâu, sau đó nghiến răng nghiến lợi nói bên tai nàng rằng chàng chỉ hận không thể dùng một đao chém chết hết đám sâu mọt kia.

Lúc nói câu đó, giọng điệu của chàng trầm khàn, đè nén đến mức Sở Kiều đột nhiên cảm thấy sống lưng ớn lạnh. Nàng đưa tay ôm ngang hông chàng, sờ lên tay chàng, cảm thấy cả người chàng đang căng lên vì giận, nắm tay siết chặt, lạnh lẽo như băng.

Nhưng Sở Kiều cũng biết, chàng chỉ có thể nhất thời nói ra miệng vậy thôi. Ngay cả quyền thế nghiêng trời như chàng, địa vị bất phàm như chàng, tay nắm binh quyền như chàng, ngay cả khi bản thân và gia tộc đã ngoảnh mặt làm người dưng thì vẫn có chút chuyện, có mấy người, có những trách nhiệm cả chàng vẫn bất đắc dĩ không thể bỏ mặc.

Hạ hoàng trước đó vẫn luôn trầm lặng, tuy vậy mấy ngày nay sức khỏe hoàng đế đã dần tốt hơn, thỉnh thoảng còn có thể vào triều để ý chính sự. Đối với vị hoàng đế thâm tàng bất lộ nhiều năm này, không ai dám có nửa điểm khinh thường. Bao nhiêu năm qua, Hạ hoàng dường như luôn giữ dáng vẻ như vậy, lúc nào cũng thờ ơ không quan tâm, nhưng chỉ cần có người hơi bước qua giới hạn thì chắc chắn sẽ có kết cuộc diệt vong. Sự kiện vua sư tử Bắc Yến bị chém cả nhà, bị tịch thu gia sản mười bốn năm trước chính là một ví dụ đẫm máu.

Thế nhưng bây giờ ai cũng có cùng một ý nghĩ, hoàng đế dù sao cũng đã già, ông ta không phải thần tiên, không thể sống mãi mà không chết. Hiện tại cuộc chiến tranh giành hoàng vị chỉ còn lại Triệu Triệt và Triệu Dương, ai có thể lấy lòng hoàng đế, ai làm hoàng đế vui lòng thì sẽ có nhiều phần thắng hơn. Cho nên, hoàng đế khó khăn lắm mới vui vẻ được một chút nhờ bức thư ca tụng công đức kia, có ai dám sát phong cảnh mang tình hình thiên tai ở phía tây chạy đến phá hoại tâm tình của hoàng đế chứ? Cả Triệu Triệt cũng không khỏi e dè miệng lưỡi của đám thế gia đại tộc ở khu vực phía tây.

Lúc đó Triệu Triệt không có mặt trong thành, Gia Cát Nguyệt đành phải tự mình chống đỡ, không ngừng vận động từ Hộ bộ, bộ lương thực đến thương nhân giàu có trong thành tích chút bạc ít ỏi và lương thực chuyển đến ba cửa khẩu, nhưng thế nào thì cũng như muối bỏ biển.

Có một lần, lúc binh tướng ở Diệu Quan đang phân phát lương thực thì xảy ra chuyện, không đủ gạo nên cháo nấu rất loãng, một binh sĩ nhất thời nặng lời với dân chúng oán trách bọn họ phát cháo như nước lã nên dẫn đến xung đột. Cuộc ẩu đả khiến binh sĩ tử vong hơn ba mươi người, dân chúng cũng mất mạng hơn năm mươi, bị thương gần trăm người.

Lúc Nguyệt Thất đến báo tin thì Gia Cát Nguyệt đang ở trong thư phòng, trùng hợp Sở Kiều cũng ở đó. Nàng từ trước đến giờ không hỏi đến chính sự của Gia Cát Nguyệt, nhưng thỉnh thoảng có nghe được chút ít, mà Gia Cát Nguyệt cũng chưa bao giờ giấu nàng. Đám quan lại nhân chuyện này đã chỉ trích công kích Gia Cát Nguyệt hết lời, dân chúng ở Diệu Quan mắng chửi cùng oán hận Gia Cát Nguyệt ra sao, tất cả đều được Nguyệt Thất báo lại đầu đuôi. Những người đó mắng hắn tham ô lương thảo tiếp tế, mắng hắn cẩu quan, quỷ hút máu, lòng dạ hiểm độc, mắng hắn tàn sát dân chúng, mắng hắn lòng dạ lang sói, rủa hắn đoạn tử tuyệt tôn.

Gia Cát Nguyệt lắng nghe mà mặt không đổi sắc, chỉ hơi liếc mắt ra hiệu không được giấu giếm mỗi khi Nguyệt Thất chần chừ không muốn nói tiếp.

Nguyệt Thất đi rồi mà Sở Kiều vẫn không dám đến gần Gia Cát Nguyệt. Chiều hôm đó nắng rất chói mắt, chàng ngồi trên ghế, im lặng uống trà, tựa như chưa từng xảy ra chuyện gì. Nhưng Sở Kiều nhìn thấy được phía đáy chén trà hơi nhỏ nước, chén trà trong tay Gia Cát Nguyệt đã bị chàng bóp mạnh đến mức rạn nứt.

Đúng vậy, bọn họ sắp chết rồi, bọn họ đói quá rồi, thiên tai nhân họa lần lượt ập xuống, bọn họ đã không còn đường sống mà quan phủ còn tham ô, còn vơ vét của cải, bọn họ dĩ nhiên sẽ mắng. Nhưng bọn họ lại không biết, triều đình đã ngầm mắt nhắm mắt mở cho qua chuyện này, không ai buồn phái người đến địa phương tra xét, mọi sự kiện hỗn loạn ẩu đả đều bị mạnh mẽ ém nhẹm. Lý do được đưa ra là, chuyện gì cũng phải chờ đến sau xuân yến mới có thể thượng tấu.

Bọn họ không biết, mỗi hạt gạo mỗi chén cháo bọn họ có được hiện giờ đều là do Gia Cát Nguyệt bán sạch sản nghiệp ở nơi khác mới gom góp được. Chàng là người kiêu hãnh như vậy nhưng lại hạ mình đi nhờ cậy đám thương nhân trong kinh thành, cầu xin họ chung tay giúp đỡ người dân vượt qua một năm mất mùa này.

Chàng mệt mỏi quá rồi, mệt đến mức muốn buông xuôi tất cả, thế nên mới mượn rượu tìm quên, mắng hoàng đế ngu xuẩn, triều đình bất lương, mắng Triệu Dương là đồ ngu, còn tuyên bố tối nay phải chặt đầu Triệu Dương xuống.

Gia Cát Nguyệt uống đến say khướt.

Tối đó, Sở Kiều tự mình đưa Triệu Triệt cũng đã lúy túy xuất phủ. Nhưng vừa ra khỏi cổng chính, vị hoàng tử vốn chân nọ xọ chân kia lại chợt đứng thẳng người lên, đáy mắt không còn chút men say, tỉnh táo nói với nàng: "Trở vào đi, chăm sóc hắn cho tốt."

Sở Kiều lẳng lặng nhìn Triệu Triệt, không nói một lời.

Sắc mặt Triệu Triệt vô cùng thanh tỉnh, bọn họ cứ thế đứng đối diện nhau, mơ hồ như trở lại rất nhiều năm trước, khi Đại Hạ vẫn còn hùng mạnh, có thể nói là đứng đầu tam quốc. Hắn là đứa con tâm đắc nhất của hoàng đế, còn nàng là nữ giáo đầu vừa được hoàng đế tự mình bổ nhiệm. Khi đó, nàng đứng dưới màn đêm đen nhánh, đối mặt với tiếng chém giết rền vang ngoài doanh trại, lạnh nhạt nói với hắn: "Bây giờ ngươi ra khỏi đại doanh chính là tự tìm đường chết."

Thế sự ly kỳ, lúc đó bọn họ một lòng ám toán nhau, phòng bị lẫn nhau, sao có thể ngờ sẽ có một ngày cùng chung chiến tuyến, trở thành chiến hữu của nhau?

"Tình thế đã đến nước này, cả ta cũng không thể nhúng tay, nếu cứ tiếp tục thì sẽ phải đối nghịch với toàn bộ giai cấp thượng tầng của Đại Hạ. Chúng ta bây giờ vẫn chưa đủ thực lực làm vậy." Triệu Triệt trầm giọng nói, trên mặt vẫn không chút gợn sóng.

Sở Kiều cũng không nhìn hắn, nhưng vừa xoay người định đi thì Triệu Triệt đột nhiên gọi tên nàng. Nàng quay đầu lại, nhìn thấy hắn rất chân thành nói với mình: "Lão Tứ là người tốt, chớ phụ lòng hắn."

Hai mắt Sở Kiều dần nheo lại thành một đường, che giấu cái nhìn sắc bén như gươm bên trong, nàng nhẹ giọng đáp lời: "Ngươi cũng vậy."

Một câu mơ hồ không rõ.

Ngươi cũng vậy? Cũng vậy cái gì? Cũng là người tốt?

Dĩ nhiên không phải, Triệu Triệt biết Sở Kiều muốn nói gì, nhưng trước khi hắn trả lời thì nàng đã xoay người rời đi, bóng lưng nàng mảnh mai, yếu ớt tựa như một cơn gió cũng có thể thổi bay.

Chàng là người tốt, ngươi cũng đừng phụ lòng chàng.

Bầu trời đen nhánh trải đầy tinh tú lấp lánh, gió từ xa thổi tới, Triệu Triệt hít một hơi thật sâu, như thậm chí có thể ngửi được mùi vị đói khổ từ phía tây truyền đến.

..................................................................................................................

Lúc Sở Kiều trở về phòng thì hạ nhân đã lui xuống hết, cả Gia Cát Nguyệt vốn say mềm trên giường cũng không thấy bóng dáng. Nàng đi thẳng đến thư phòng, quả nhiên vừa mở cửa ra thì đã thấy chàng ngồi ngay ngắn trước thư án, ánh mắt thanh tỉnh, tay múa bút thành văn.

Nàng im lặng đứng đó thật lâu, chờ chàng viết xong, bỏ thư vào niêm kín thì mới chậm rãi đi tới, kéo tay chàng ra, sau đó lẳng lặng ngồi xuống gối đầu lên đùi chàng, không nói tiếng nào.

Nến trong phòng lặng lẽ cháy, thỉnh thoảng xẹt ra tia lửa kêu *tí tách*. Lò hương tỏa khói lượn lờ, những ngón tay thon dài của Gia Cát Nguyệt nhẹ nhàng luồn qua mái tóc dài mượt của Sở Kiều.

"Tinh Nhi." Chàng thấp giọng gọi tên nàng, giọng nói đượm vẻ mệt mỏi đến cùng cực. Chàng chỉ gọi một tiếng như thế rồi không nói gì nữa.

Sở Kiều nghiêng mặt nằm lên đùi Gia Cát Nguyệt, chóp mũi đều là mùi hương quen thuộc của chàng, nhỏ nhẹ nói với hắn, giọng nói dịu dàng của của nàng tựa như con sóng nhỏ, lẳng lặng quanh quẩn bên trong phòng, "Ta đều hiểu mà."

Đầu gối của chàng thoáng run nhẹ, sau đó, bàn tay đang nắm tay nàng càng siết chặt hơn.

Đúng vậy, nàng hiểu hết. Hiểu hết mọi vất vả của chàng, hiểu hết mọi mệt mỏi của chàng, hiểu chàng đã thất vọng thế nào đối với đất nước này, hiểu chàng chán ghét tất cả những người xung quanh nhiều đến đâu.

Hoàng đế u mê, các hoàng tử chỉ mải mê tranh đấu, quan lại vô năng, cơ cấu quốc gia gần như mục ruỗng toàn bộ. Trải qua bao chiến tranh khổ nạn, tận mắt nhìn thấy sự khổ sở của dân chúng hạ tầng, trở về từ vùng đất hoang dã cằn cỗi, Gia Cát Nguyệt càng thấy rõ bộ mặt ghê tởm của đám quan lại, nhận ra đất nước này đã hủ bại đến thế nào.

Hắn vẫn khăng khăng là một phần tử trong cuộc chiến đoạt vị này, chẳng qua là vì còn ôm ấp hy vọng sau khi Triệu Triệt thượng vị sẽ thay đổi tất cả những cách nghĩ của hoàng tộc. Nhưng trước khi làm được chuyện đó, người dân phải làm sao mới có thể vượt qua mùa đông giá rét này đây? Hắn thậm chí còn không biết, lúc bọn họ đứng trên đống xương trắng của kẻ địch, đánh bại hết cả chướng ngại, đất nước này sẽ còn sót lại những gì?

Kinh tế bị phá hủy, dân chúng lầm than, quân đội tổn thất, còn sót lại có lẽ chỉ có bọn họ, nguy cơ tứ phía, quang cảnh hoang tàn và thiên thiên vạn vạn thi thể chôn cùng với đất nước này.

Quyền mưu, cái gọi là quyền mưu chính là sau khi tranh đoạt xong, tất cả đều bị hủy diệt. Cái giá nặng nề như vậy, bọn họ gánh nổi không?

"Tinh Nhi, ta thật sự không phải là một người tốt." Trước lúc bình minh, Gia Cát Nguyệt đã nhẹ giọng nói một câu như vậy.

..................................................................................................................

Năm ngày sau đó là những chuỗi ngày u ám chấn động cả Đại Hạ và đại lục Tây Mông.

Dân chúng tụ tập ở ba cửa khẩu rốt cuộc cũng nổi dậy làm loạn, bọn họ công phá cửa chính của các thế gia phía tây, đoạt lấy lương thực. Vì đói, bọn họ phải ăn xin, ăn xin không được thì ăn cắp, ăn cáp không được thì cướp bóc, cướp bóc không được, bọn họ cuối cùng cũng tạo phản.

Quan bức dân, dân không thể không phản.

Mấy chục vạn dân đen tay không tấc sắt, chỉ dùng gậy gộc và đá cuội ném vỡ cửa nhà các thế gia, khu vực Lũng Tây bốc khói đen mù trời, vô số người đã chết trong trận hỗn loạn này. Quan binh ở Lũng Tây trước sự công phá của nạn dân tựa như hình nhân giấy, yếu ớt như cọng lúa. Bất kể quan binh địa phương dâng tấu kêu gào nói loạn dân hung hãn cỡ nào, bên trong có cao nhân chỉ đạo ra sao thì cũng chẳng ai tin tưởng, tất cả chỉ cho rằng đó đều là ngụy biện cho sự vô năng của bọn họ.

Ngay cả gã đô đốc mới dâng tấu ca tụng công đức triều đình lúc trước cũng kinh hoảng rối rít cầu cứu. Nhưng đám quan lại ở đế đô làm sao dám để hoàng đế biết được việc này, mới ca ngợi dân thái an sinh giờ bảo dân làm loạn? Đùa à? Cho nên bọn họ cũng chỉ có thể bí mật điều động quân đội đi bình loạn mà thôi.

Nhưng Đại tư mã Gia Cát Nguyệt lại nói: "Đế quốc bốn bề yên bình, dân chúng Lũng Tây vừa mới dâng thư ca ngợi triều đình sao có thể nào đại nghịch bất đạo làm phản chứ? Chuyện này cần tra xét thêm."

Thế là chuyện điều binh bị kéo dài, mặc cho tình hình ở Lũng Tây càng lúc càng cấp bách. Ngày 24 tháng 12, một con khoái mã chạy vào kinh, gã binh sĩ người đầy máu tươi, tay cầm thư cầu cứu của đô đốc Lũng Tây là Tào Trường Thanh, hộc máu ngã xuống ngay trước điện Vinh Hoa.

Thành Chân Hoàng như rung chuyển, hoàng đế tức giận mắng chửi Trung thư lệnh và đủ loại quan lại, cũng cắt bỏ phong hào Tây nam hầu của Triệu Dương ngay tại chỗ. Nhưng Triệu Triệt cũng không chiếm được lợi ích nào từ chuyện này, ngược lại là do Thập thất hoàng tử Triệu Nghĩa trước giờ vẫn thân tàng bất lộ thống lĩnh Tây nam quân rời kinh đi dẹp loạn. Gia Cát Nguyệt vì không nhanh chóng xuất binh bình loạn nên cũng bị hoàng đế phạt ở trong nhà tự kiểm điểm. Triệu Triệt mấy lần đến cầu xin cho hắn cũng bị hoàng đế đuổi đi.

Song Sở Kiều lại biết trận náo loạn này từ đâu đến, lúc Triệu Triệt tìm đến phủ Tư mã, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt thì lập tức giận dữ mắng hắn là người điên. Gia Cát Nguyệt chỉ bật cười, nói như đinh đóng cột rằng mình chỉ muốn lưu lại chút vốn liếng để sau này Triệu Triệt đăng vị còn có cái để trị vì. Bằng không tất cả đều chết hết thì hắn làm hoàng đế để cai trị ai?

Trận nổi loạn ở Lũng Tây đã khiến vô số người chết lẫn bị thương, thế gia phú hộ ở nơi này bị tiêu diệt hết bảy tám phần, thường dân chết gần tám vạn. Nhưng theo lời Gia Cát Nguyệt nói thì chết tám vạn còn hơn là mấy trăm vạn, ván cược này tính ra vẫn đáng giá.

Đúng vậy, đúng thật là đáng giá. Thế gia ở phía tây nam diệt vong gần hết, thế lực của Mộc tiểu công gia bị tổn hại nghiêm trọng, Cảnh Hàm cũng bị ảnh hưởng, Triệu Dương bị hoàng đế khiển trách, tịch thu binh quyền. Triệu Triệt tuy không được lợi gì nhưng cũng không tổn hao gì. Chỉ có Gia Cát Nguyệt là bị cấm cửa trong nhà, tạm thời thối lui khỏi võ đài chính trị của Đại Hạ.

Tất cả đều diễn ra theo trình tự kế hoạch của Gia Cát Nguyệt. Nhưng Sở Kiều vẫn nhớ được rõ ràng, mấy ngày đó, mỗi lần nghe đến tin tức dân chúng bị tàn sát, những gia tộc chính trực bị vạ lây chết cả nhà, binh lính thủ thành bị tiêu diệt, dân chúng vào rừng làm giặc... thì đêm đó chàng đều không ngủ được, trong lòng như có lửa đốt. Mấy ngày đó, chỉ cần có chút sơ sẩy gì, nếu số nhân mã chàng bí mật phái ra bình ổn loạn dân không thể thành công tránh né binh lính địa phương, không thể phát động ít quân lính địa phương tạo phản, số người chết nhất định không chỉ dừng lại ở tám vạn, toàn bộ khu vực tây nam nhất định sẽ chìm trong khỏi lửa chiến tranh, hậu quả sẽ không tưởng.

Bọn họ nói đúng, chàng thật sự là một người điên.

Sở Kiều lo lắng chàng bị biếm quyền mà mất ý chí, chàng lại an ủi nàng rằng: rốt cuộc cũng có thể ở nhà nghỉ ngơi chơi với nàng một thời gian.

Xuân yến rốt cuộc cũng đến, cổng chính và khoảng sân trước phủ Tư mã từng quyền thế nhất triều hiện hết sức vắng vẻ, nhưng không khí bên trong lại đầy ắp tiếng cười.

Tuy khu vực tây nam có chiến loạn nhưng vẫn không ảnh hưởng gì đến sự náo nhiệt phồn hoa ở đế đô khi xuân yến cận kề. Phố lớn phố nhỏ đều tấp nập người đi, quan phủ tổ chức đốt pháo hoa trên quảng trường Tử Vi, tiếng cười của người dân xuyên qua tường ngói dày nặng, theo gió nhẹ nhàng truyền vào trong tòa phủ đệ canh phòng cẩn mật của Đại tư mã.

Từ ba ngày trước Gia Cát Nguyệt đã ra lệnh cho hạ nhân trong phủ bắt đầu trang hoàng đón năm mới, đèn lồng đỏ được treo quanh hành lang gấp khúc, song cửa được sơn đỏ, đám nha hoàn khéo tay tỉ mỉ cắt đủ loại hình giấy dán lên cửa sổ, có Đông Hải Thọ Tinh, Tây Lăng Lộc Thọ, Bát Tiên Quá Hải, Quan Âm Tống Tử, tất cả đều rất tinh xảo tỉ mỉ. Hoa được mang ra khỏi nhà kính bày biện khắp phủ, đủ sắc đủ loại, thơm ngát không gian. Các hạ nhân cũng đổi xiêm y mới, hồng đỏ rực rỡ, nhìn rất vui mắt.

Gia Cát Nguyệt khôi phục cuộc sống ở Thanh Sơn viện rất nhiều năm trước. Hắn luôn là người biết tự ràng buộc bản thân, sinh hoạt rất điều độ, không như đám con cháu thế gia hễ có thời gian thì đi thả ưng, cưỡi ngựa, luyện võ. Hiện tại không bị bó buộc chính sự, cuộc sống trở nên nhàn hạ hơn rất nhiều, đều đặn điều dưỡng thân thể, rảnh rỗi thì đi chăm hoa, ngoài ra còn bị Sở Kiều bắt dậy sớm rèn luyện. Hai người mỗi sáng cùng nhau tỷ thí, vũ khí là đao thương gậy gộc đủ cả, lần nào cũng dẫn đến toàn bộ hạ nhân trong phủ kéo tới nhìn trộm. Lâu dần không thấy Gia Cát Nguyệt có phản ứng, gan của bọn hạ nhân cũng to hơn, thỉnh thoảng thấy hai người thi triển mấy chiêu đặc sắc thì còn rối rít vỗ tay trầm trồ tán thưởng.

Cuộc sống cứ thế nhẹ nhàng trôi qua, tựa như trung tâm cơn bão, luôn tĩnh lặng đến mức đáng sợ.

Năm mới đã đến trong bầu không khí lặng lẽ như vậy, Sở Kiều thay một bộ y phục mới rồi ngồi xuống trước gương chải tóc, sắc đỏ rực rỡ khiến người mặc nó như bừng sáng tựa bình minh mùa xuân vậy. Gia Cát Nguyệt đứng sau lưng nàng, bộ trường sam màu xanh khói trên người tô thêm vẻ tuấn tú bức người. Chàng tiện tay cầm lên một chiếc trâm ngọc trai, thuần thục búi gọn mái tóc đen mượt của nàng lại rồi cắm trâm vào.

Sở Kiều nhìn mình trong gương, nhất thời có hơi hoảng hốt khó tin. Hình như nàng chưa bao giờ nhìn thấy mình như vậy, từ lúc còn rất nhỏ, nàng luôn cố chấp cho rằng phụ nữ mặc đồ đỏ nhìn rất thô tục. Sau này lại thường xuyên bôn ba chiến trường, nàng càng không có tâm trạng sửa soạn điểm trang. Nhưng hôm nay nàng ăn mặc như vậy, hai má hồng hồng như hoa đào, sóng mắt như hồ thu, ngay cả đầu mày khóe môi cũng không che giấu được vẻ hạnh phúc và thoải mái.

Thì ra nói mặc đồ đỏ là thô tục, chẳng qua chỉ do lúc đó không có tâm trạng mà thôi.

Mai Hương đứng một bên cười tít mắt nhìn nàng, mặt tràn đầy ý cười. Nhưng Gia Cát Nguyệt lại thủng thỉnh đi ra phía trước, nhìn vào gương cười một tiếng rồi nói: "Thật là nghiêng nước nghiêng thành."

Sở Kiều xấu hổ đẩy chàng ra, lỗ tai cũng đã đỏ ửng, nói: "Làm gì khoa trương đến vậy, chớ nói nhảm."

Gia Cát Nguyệt nhướng mắt nhìn nàng, cười nói: "Ta đang nói chính mình, hình như nàng nghĩ nhiều quá rồi."

Sở Kiều giận dữ muốn đưa tay cấu chàng. Gia Cát Nguyệt nhanh lẹ tránh được, quay sang nói với Mai Hương: "Nhìn tiểu thư của các ngươi kìa, ta không khen nàng đẹp nàng liền thẹn quá hóa giận."

Mai Hương cười toe toét, cũng không phản bác. Nắng sớm bên ngoài vô cùng ấm áp, xa xa văng vẳng tiếng pháo đì đùng.

Nhiều năm như vậy, đây là năm mới thư thái nhất của Sở Kiều. Nàng tự mình xuống bếp dạy hạ nhân gói sủi cảo, thậm chí còn muốn lôi kéo Gia Cát Nguyệt cùng làm. Nhưng người nào đó theo chủ nghĩa đàn ông trịnh trọng khinh bỉ nhìn nàng một cái rồi phủi tay bỏ đi.

Ăn bữa cơm tất niên xong, đốt pháo trúc rồi thắp sáng hoa đăng, Gia Cát Nguyệt ăn được miếng sủi cảo có nhân táo đỏ, đám hạ nhân liền rối rít tới chúc mừng hắn năm mới đại cát. Hắn vui vẻ liền hào phóng thưởng to, khiến khắp phủ đều là tiếng tạ ơn hớn hở. Cửa phủ vẫn đóng chặt, bất kỳ ai đến đều bị chặn bên ngoài. Đến nửa đêm, Triệu Triệt phái người đưa đến hai vò rượu ngon, Sở Kiều và Gia Cát Nguyệt cùng nhau đối ẩm. Sở Kiều uống đến đầu óc mơ hồ, loạng choạng ngã vào lòng Gia Cát Nguyệt.

Bọn hạ nhân ở ngoài sân đốt pháo tưng bừng, cười nói vô cùng vui vẻ. Sở Kiều như mơ màng nhìn thấy khuôn mặt cười như hồ ly của Lý Sách, nàng với tay ra nhưng lại bắt hụt.

Nàng thật sự đã say nhưng đầu óc vẫn còn rất tỉnh táo. Nàng bất giác lại nhớ đến những năm gần đây, nhớ đến Tiểu Thi, nhớ đến Miêu Nhi, nhớ đến Tiểu Hoàng, nhớ đến Lý Dương, nhớ đến các đồng nghiệp ở sở tình báo, nhớ đến người ông tóc bạc của mình, nhớ lại khoảng thời gian bôn ba gian khổ mấy năm nay, nhớ lại mấy lần lẩn quẩn giữa sống chết, nhớ đến Ô tiên sinh, nhớ đến Vũ cô nương, nhớ đến Kinh Tử Tô, nhớ đến rất nhiều người đã chết cũng như còn sống, nhớ đến Lý Sách, thậm chí nhớ đến cả Yến Tuân...

Hạnh phúc đến quá đột ngột khiến nàng cảm thấy mình như đang nằm mơ.

Nàng rúc trong lòng Gia Cát Nguyệt, chóp mũi đều là mùi đỗ quyên dễ chịu trên người chàng. Hốc mắt chợt cay cay, nàng ngẩng đầu lên nhìn sườn mặt nghiêng nghiêng của chàng, nói mà hai mắt đột nhiên sáng ngời: "Gia Cát Nguyệt, ta yêu chàng."

Gia Cát Nguyệt sửng sốt, cúi xuống nhìn nàng. Xung quanh hai người đều là hạ nhân, tiếng của nàng rất lớn, áp đảo cả tiếng pháo *đì đùng*. Tất cả mọi người kinh ngạc quay lại nhìn nàng nhưng nàng hoàn toàn không để ý, vẫn to giọng lặp lại: "Gia Cát Nguyệt, ta yêu chàng."

Một cơn gió thổi qua, có người thấp giọng cười trộm, tiếng cười đùa của Thanh Thanh và Mặc Nhi ở xa xa truyền lại. Mặt nàng đỏ hồng, hai mắt long lanh như có nước, ánh mắt nhìn thẳng vào mắt chàng. Điều dưỡng hơn nửa năm, nàng tựa như trở lại kiều diễm như lúc mười bảy mười tám. Nàng cứ như vậy nhìn chàng chằm chằm, cười híp mắt, trên mặt chỉ thiếu viết thêm hai chữ 'hạnh phúc' thật to mà thôi.

Nàng đột ngột *A* một tiếng, cả người đã bị bế bổng lên. Trong ánh mắt trợn tròn của mọi người, Gia Cát Nguyệt bỏ mặc bàn thức ăn chỉ mới đụng vài miếng, ôm Sở Kiều trở về phòng ngủ.

Áo ngủ gấm trên giường cũng là đồ mới tinh, toàn bộ đều mang sắc đỏ rực rỡ, mặt vải thêu thùa tinh xảo, có uyên ương nghịch nước, có Ngưu Lang Chức Nữ, có hỉ thước bắc thành cầu, có Quan Âm Tống Tử, khắp gian phòng đều là không khí ngọt ngào.

Ánh mắt đen như mực hiện lên một tia dục hỏa, Gia Cát Nguyệt nới cổ áo, hung hăng nhìn Sở Kiều, nghiến răng nói: "Tiểu yêu tinh, không bao giờ cho nàng uống rượu nữa." Dứt lời liền cúi đầu hôn mạnh lên môi nàng.

Hô hấp của chàng càng lúc càng trở nên dồn dập, tựa như một ngọn lửa bốc cháy hừng hực khiến nàng tan chảy.

Khóe mắt lộ ý cười, nàng vòng tay ôm lấy chàng, nồng nhiệt đáp lại.

Màn lụa buông xuống, trước mắt Sở Kiều hiện lên muôn màu muôn sắc. Bên tai vẫn văng vẳng tiếng cười nói náo nhiệt ở ngoài sân.

Sinh mạng vốn khúc khuỷu khó dò, ngươi không biết lúc nào sóng gió sẽ đến, sóng to bao nhiêu, liệu có thể vùi dập những điều trước mắt hay không. Tất cả tình cảm phải khổ sở đè nén khi trước, tất cả những lời nói chôn giấu bao năm, tất cả cảm xúc ẩn sâu trong lòng, cuối cùng cũng có cơ hội bộc lộ rồi.

Thế sự khó lường, điều nàng có thể làm chính là quý trọng những gì đang có.

Phía sau màn lụa tung bay, nàng nằm trên nệm mềm, bấu chặt lấy thân thể chàng, mồ hôi rịn khắp người, toàn thân mệt mỏi một cách thỏa mãn. Nàng nép vào lòng chàng, vuốt ve bờ vai của chàng, nhìn ra cửa sổ cách đó không xa, như mơ hồ thấy được phía sau màn pháo hoa đẹp đẽ chính là một bầu trời u ám, đẫm máu đầy chết chóc.

Bất kể tương lai có ra sao, nàng đều không sợ hãi.


Chương 187: Nghĩa Trang Yến Thị

Lại đến tết Nguyên Tiêu, cung Thịnh Kim chuẩn bị tiệc rượu linh đình, có lẽ vì muốn xoa dịu cảm giác buồn bực do trận bạo loạn hồi cuối năm mang tới mà dạ tiệc tối nay càng thêm phô trương, ngay cả tội thần bị phạt bế môn như Gia Cát Nguyệt cũng nhận được thiệp mời. Nếu là bình thường thì hắn có thể tùy tiện tìm lý do cáo ốm, nhưng nếu bây giờ làm thế thì sẽ khó tránh bị người có dụng ý xấu nhân đó vu hại. Vì vậy đêm xuống, Gia Cát Nguyệt đành khoác triều phục vào cung, phục sức và xe cộ cũng hết sức đơn giản, cố không để quá nổi bật.

Sở Kiều ngây ngốc ở trong phòng, dạo gần đây trời lạnh nên nàng hay buồn ngủ, dễ mệt mỏi, cả ngày chỉ ăn rồi ngủ, người cũng đầy đặn hơn.

Ngoài cửa đột nhiên truyền vào tiếng nói líu ríu, cửa phòng bị đẩy ra, Mặc Nhi e dè bước vào đi tới cạnh Sở Kiều, sắc mặt có hơi căng thẳng, cái mũi nhỏ đỏ ửng vì lạnh.

"Mặc Nhi, có chuyện gì sao?"

Mặc Nhi do dự một lúc, quay đầu nhìn ra cửa, hồi lâu sau mới nhỏ giọng hỏi: "Mẫu thân, hôm nay chúng ta không ra ngoài sao?"

Tính ra thì Sở Kiều cũng chỉ lớn hơn Mặc Nhi có mười tuổi, ban đầu nàng nghe cậu bé luôn miệng 'mẫu thân' này 'mẫu thân' nọ với mình còn thấy hơi không tự nhiên, nhưng sau cũng dần quen.

Nàng ngồi thẳng người lên, nhíu mày hỏi: "Ra ngoài? Đi đâu mới được?"

"Hôm nay là tết Nguyên Tiêu mà, bên ngoài có hội miếu, có cả hội hoa đăng nữa." Trong mắt Mặc Nhi thoáng lộ ra một tia hưng phấn.

Sở Kiều quay đầu nhìn thì thấy ngoài cửa còn có vài bóng dáng đang thập thò ngó vào trong này. Mấy ngày nay Gia Cát Nguyệt bị phạt bế môn nên người trong phủ cũng rất ít khi ra ngoài. Nàng bẹo má Mặc Nhi một cái rồi cười nói: "Được, chúng ta ra ngoài chơi."

Đại lục Tây Mông rất rộng lớn, dựa theo cách tính ở hiện đại thì chắc khoảng hơn bốn mươi triệu km2 *, tương đương với năm nước Trung Quốc gộp lại. Vùng đất này có lịch sử nhiều năm, tuy nhiều lần xảy ra chiến loạn nhưng nhân khẩu vẫn rất đông đúc. Thành Chân Hoàng là kinh đô của Đại Hạ nên mật độ dân cư hết sức dày đặc.

Sở Kiều và đám người cùng đi trên đường, bốn phía rực rỡ ánh đèn, đủ loại hoa đăng đua nhau khoe sắc, thu hút ánh mắt của người đi đường. Người dân trong thành từ nam đến nữ, từ già đến trẻ đều túa ra đường tham gia lễ hội. Các gánh biểu diễn tạp kỹ hò hét, người bán hàng rong chào mời, cảnh tượng vô cùng náo nhiệt.

Tết Nguyên Tiêu năm nay náo nhiệt hơn so với năm trước, tiếng người cười nói cộng thêm tiếng chiêng trống ồn ào cả một khoảng trời.

Bọn nhỏ chơi đùa đến quên trời quên đất, nhưng mới qua hơn một canh giờ thì bão tuyết đột ngột ập đến. Gió bắc gào rú xé rách hàng hoa đăng treo bên đường. Thanh Thanh hét to mấy tiếng giục mọi người lên xe ngựa, các thị vệ vung roi nhanh chóng đánh xe trở về phủ. Nhưng gió càng lúc càng lớn, đi đến một đoạn đường vắng vẻ thì một con ngựa kéo xe bị tuột dây cương, chạy sổng mất.

Nguyệt Thập Tam chạy đến nói rằng gió tuyết quá mạnh, trước nên tìm chỗ tránh tạm đã.

Sở Kiều gật đầu đồng ý. Vừa dịp nhìn thấy bên đường có một ngôi nhà lớn, đoàn người lập tức chạy đến gõ cửa, nhưng đến gần thì mới phát hiện đây chính là miếu an thần của vua sư tử Bắc Yến.

Yến Thế Thành tuy xuất thân vương tộc nhưng vì bị đế quốc gán tội danh phản tặc nên không được an táng trong tông miếu. Nơi này trên danh nghĩa là miếu an thần, trên thực tế thì chính là một cái nghĩa trang, không chỉ có quan tài của Yến Thế Thành và gia quyến, còn có cả quan tài của thường dân ở gần đây. Lúc đầu triều đình còn phái binh sĩ nghiêm cẩn canh phòng ở đây, nhưng sau khi Yến Tuân trở lại Bắc Yến thì không còn thấy tử sĩ Đại Đồng Hành đến cướp lại thi thể nữa. Vì vậy nơi này càng lúc càng vắng vẻ, triều đình cũng không nguyện ý hao tốn binh lực vì một đống xương trắng nữa.

Đoàn người đi vào sảnh chính, bọn hộ vệ đốt nến cùng đuốc tìm được, nhanh chóng rọi sáng gian phòng. Trong đại sảnh bày chi chít linh vị và hơn hai mươi cỗ quan tài, ánh nến tù mù tô thêm vẻ âm u của nơi này.

Thanh Thanh sợ đến mặt trắng bệch, trốn sau lưng Đa Cát, níu chặt tay áo cậu, không còn hoạt bát như ngày thường.

Mai Hương cười trêu cô nàng: "Không ngờ tiểu thư Thanh Thanh của chúng ta cũng biết sợ hãi, ta cứ tưởng muội là hỗn thế ma vương, không sợ trời không sợ đất đấy."

Mọi người nghe nói đều đồng loạt cười to, khiến không khí nhất thời dễ chịu hơn nhiều.

Vinh Nhi đã sắp tròn một tuổi, cả ngày bi bô tập nói, chập chững đi tới đi lui như một chú vịt con vừa nở. Hôm nay bé mặc một chiếc áo bông đỏ chót có thêu chữ 'phúc', huơ huơ cánh tay mũm mĩm, ngáp một cái thật to rồi rúc vào trong lòng Sở Kiều tìm tư thế thoải mái nhắm mắt ngủ.

Sở Kiều đứng dậy giao Vinh Nhi cho Mai Hương, khẽ nói: "Ta ra ngoài một chuyến."

"Tiểu thư, bên ngoài rất lạnh, người muốn đi đâu vậy?"

Sở Kiều bảo Mai Hương đưa đến một hộp thức ăn, cầm lấy đèn lồng rồi nói: "Ta sang bên cạnh nhìn một chút thôi, không cần đi theo ta." Dứt lời thì đi ra ngoài.

Bên ngoài gió lớn kinh người, Sở Kiều sống trên đại lục Tây Mông gần mười lăm năm nhưng cũng chưa từng nhìn thấy gió mạnh như vậy. Đèn lồng trong tay tắt phụt, áo lông trên người cũng bị gió tốc cao, tuyết lạnh tạt vào mặt đau rát. Sở Kiều giữ chặt cổ áo, khó khăn đi từng bước một, đi hồi lâu thì đến trước một gian phòng tan hoang, chậm rãi đẩy cánh cửa ra.

Gió thổi vào trong khiến lớp bụi dày trên sàn bị thổi tung, Sở Kiều ho khan mấy tiếng, nhanh chóng đóng cửa phòng lại, cũng tiện tay kéo một chiếc ghế đến chắn cửa.

Căn phòng chìm trong vẻ tĩnh lặng chết chóc, dường như bên trong còn lạnh lẽo hơn cả bên ngoài, mái ngói trên trần bị thủng lỗ chỗ, gió thổi vào kêu *vù vù*. Bốn phía tối đen như mực nhưng Sở Kiều dường như rất quen thuộc với nơi này. Nàng móc từ trong góc ra một cái đánh lửa, chậm rãi thắp sáng toàn bộ nến ở đây.

Trong phòng có bốn cỗ quan tài, không có linh vị, không có nhan đèn, không có cả bài vị. Xung quanh đầy cỏ dại và rác rưởi, vài cái bánh bao lạnh cứng, có thể thấy được nơi này đã bị biến thành chỗ dừng chân của ăn mày.

Sở Kiều đặt hộp thức ăn xuống một bên rồi xắn tay áo bắt đầu quét dọn. Động tác của nàng rất nhanh nhẹn, không có dụng cụ nên nàng nhặt ít rơm rạ bó lại thành chổi, nhanh chóng quét hết rác bẩn ra ngoài, quét cả mạng nhện, khiến gian phòng nhìn sạch sẽ hơn rất nhiều. Nàng chậm rãi lấy từng đĩa đồ ăn trong hộp ra bày trên mặt đất, sau đó quỳ xuống vái lạy vài cái.

Đúng vậy, bốn cỗ quan tài này thuộc về phụ thân, hai vị huynh trưởng và một vị tỷ tỷ của Yến Tuân. Những năm đó, mỗi lần đến ngày giỗ của Yến vương, nàng và Yến Tuân luôn trốn đến đây tế bái, khi đó nơi này vẫn còn có quan binh canh chừng chặt chẽ, bọn họ muốn lẻn vào phải tốn rất nhiều công sức. Vậy mà bây giờ nó lại trở nên hoang tàn đến vậy.

Kể từ khi trở lại thành Chân Hoàng, nàng chưa từng có ý định đến đây bái tế, không ngờ hôm nay trời lại run rủi, đây có lẽ cũng là một loại duyên phận.

Không có nhang đèn thì dùng huân hương thay thế, không có giấy tiền vàng thì dùng lụa đốt thay, không có rượu ngon thì dùng một bình sữa dê và hai bình trà.

Yến vương điện hạ, ta lại đến thăm ngài đây.

Nàng đứng dậy, hai đầu gối bám đầy bụi đất. Bông tuyết qua lỗ thủng trên nóc rơi vào phòng, phủ lên nắp quan tài. Nàng lẳng lặng nhìn bốn cỗ quan tài, cố gắng hồi tưởng lại những cái đầu đầy máu nhìn thấy khi xưa, lòng thoáng thấy thê lương.

Trước khi bão tuyết tàn phá xuống Lũng Tây thì đã càn quét qua Bắc Yến. Nhà cửa của dân chúng bị gió thổi sập, Lạc thành bị ảnh hưởng còn nặng hơn, hàng vạn dê bò ở Thượng Thận đều bị chết rét, người dân đói ăn, Bắc Yến tràn ngập nguy cơ.

Vậy mà trong lúc quan viên ở Đại Hạ vỗ tay ăn mừng thì Bắc Yến lại âm thầm triệu tập mười vạn binh tướng ở Long Ngâm Quan, băng qua cao nguyên Lan Hà, vượt qua dãy Mộ Lang cao hơn sáu ngàn thước so với mặt nước biển, vòng qua Đường Hộ Quan, tiến thẳng vào cảnh nội Biện Đường, đột ngột tập kích cửa khẩu, cướp đoạt hơn hai mươi vạn đấu lương thực rồi trở về Bắc Yến bằng khí thế sét đánh không kịp bưng tai, cả chiến dịch không tốn hơn bốn ngày. Đến khi chiến báo ở biên giới đến được Đường Kinh thì số binh tướng kia đã trở về đến Long Ngâm Quan, còn đánh xong hai trận với quân Hạ muốn nhân lúc Bắc Yến cháy nhà vào hôi của.

Sự kiện này giống như một giọt dầu nhỏ vào chảo nước đang sôi, nổi lên sóng gió kịch liệt.

Đại Hạ và Biện Đường cùng giận dữ nhưng lại chẳng làm gì được Yến Tuân, đám Ngự sử của Đại Hạ múa bút thành văn, mắng Bắc Yến quả nhiên xuất thân thổ phỉ, trời sinh quen thói đốt giết cướp bóc, không phải là người. Chúng học sĩ ở Biện Đường cũng lửa hận hừng hực, xối máu chó lên đầu tám đời tổ tông của Yến Tuân mà mắng, kích động đến mức suýt sùi bọt mép.

Có điều bọn họ cũng chỉ có thể làm thế mà thôi. Long Ngâm Quan phòng thủ kiên cố, binh tướng lại hung hãn như hổ sói, dưới tình hình hiện giờ, bọn họ không bị tiến đánh đã làmừng lắm rồi, ai dám tới tận cửa khiêu khích Bắc Yến chứ?

Lúc nghe được tin này, Sở Kiều không khỏi cười lạnh, có lẽ câu nói mềm sợ cứng, cứng sợ liều, chính là có ý này.

Gia Cát Nguyệt thì vẫn giữ bộ dạng thờ ơ như cũ, không thèm để ý đến mấy lời hô hào đòi đánh của đám quan lại trên triều. Người nào chả biết Đại Hạ bây giờ còn chưa lo xong thân mình, tranh giành giữa các vị hoàng tử đã đến giai đoạn cao trào, ai có thời gian đi đánh đánh chém chém với bên ngoài chứ? Nói thì rất mạnh miệng, nhưng nếu hắn thật sự điều động binh mã kéo ra Nhạn Minh Quan, e mấy lão già kia mới giống như trong tấu chương của bọn họ, lấy cái chết để can gián.

Lúc biết tin hắn cũng chỉ hơi kinh ngạc, nói không ngờ Yến Tuân lại có thể làm như vậy.

Thật ra thì đâu chỉ có Gia Cát Nguyệt, e toàn bộ đại lục cũng chẳng ai ngờ được.

Dù sao thì trước đó Yến Tuân cũng từng đem cả Bắc Yến làm vật cược, lấy trăm vạn quân dân là mồi nhử dẫn dụ quân Hạ vào lãnh thổ của mình rồi xua binh đánh phía đông. Không lâu sau đó còn thẳng tay đàn áp mọi thế lực chống đối, hoàn toàn tiêu diệt Đại Đồng Hành từng che chở bồi dưỡng mình, không nhân nhượng giết cả người từng là thầy mình.

Vì vậy, chẳng ai ngờ được hắn sẽ vì dân chúng Bắc Yến mà mạo hiểm lớn như vậy.

Ngay cả Sở Kiều cũng nghĩ không ra vì sao.

Có điều, cũng may thống lĩnh ở Đường Hộ Quan vốn là nghĩa tử của Tĩnh An vương, tuy sau khi Tĩnh An vương bị đánh bại, hắn kịp thời vào kinh bày tỏ lòng trung, nhưng người này nắm giữ binh quyền, lại canh giữ vị trí quan trọng với Biện Đường như vậy, quả thật vẫn không thể khiến người khác hoàn toàn yên lòng. Lần này Yến Tuân dẫn quân trừ khử hắn, tính ra với Biện Đường cũng chẳng phải là tổn thất một tướng tài.

Về phần chút ít lương thảo bị cướp đi kia...

Sở Kiều khẽ nhíu mi tâm, trong đầu lại hồi tưởng đến cao nguyên Thượng Thân nàng từng sinh sống nhiều năm, và cả những người dân hiền lành chất phác kia...

Thủ đoạn của Yến Tuân càng ngày càng lợi hại, che giấu thâm sâu, hành động nhanh nhẹn dứt khoát, điều động hơn vạn binh tướng mà không để lọt một tiếng gió, đánh bất ngờ, một kích trúng hồng tâm. Bàn về thủ đoạn, tầm nhìn, lòng can đảm, có thể nói là đứng đầu đương thời. Chỉ cần hắn còn ở Bắc Yến, Đại Hạ đừng mơ công phá được Long Ngâm Quan, cho dù là Triệu Triệt tự mình xuất quân thì cũng chưa chắc nắm được phần thắng hoàn toàn. Triệu Triệt có thể hơn ở phương diện chiến thuật, binh lực, tình báo, vũ khí hay tiếp tế hậu cần, nhưng nếu nói đến thủ đoạn tàn nhẫn, sự nhẫn nại kiên trì, hắn tuyệt đối không bì kịp Yến Tuân.

Sự đáng sợ của Yến Tuân trên chiến trường là ở chỗ hắn có thể hoàn hảo lợi dụng tất cả yếu tố xung quanh làm điểm hỗ trợ giành lấy chiến thắng. Và khả năng kích động lòng người của hắn cũng đã hơn hẳn người khác một bậc.

Hiện giờ, người có thể đánh ngang với Yến Tuân, có lẽ cũng chỉ có Gia Cát Nguyệt mà thôi. Yến Tuân hơn ở phần tàn nhẫn ngoan độc còn Gia Cát Nguyệt thắng ở phần thâm sâu lắm kế. Nếu hai người này có thể thẳng thắn đánh một trận mà không phải vướng bận phiền hà ở hậu phương bổn quốc, ắt hẳn sẽ tạo thành một cuộc chiến truyền kỳ trên sách sử.

Nàng nhẹ lắc đầu, tuy chán ghét những ngày tháng chìm đắm trong chiến tranh, nhưng thỉnh thoảng vẫn không tự chủ được, nghe được ít tin tức thì liền vạch ra tình huống đại khái, sau đó diễn giải, tính toán, bố trí đường hướng. Tựa như một người yêu cờ tha thiết, tuy đã bỏ cờ nhưng trong đầu vẫn còn mường tượng các thế đánh.

Chẳng qua ván cờ này, nàng thật sự không biết mình rốt cuộc hy vọng ai sẽ chiến thắng.

Sâu trong thâm thâm, cho dù không còn hòa hảo với Yến Tuân thì nàng cũng không hy vọng nhìn thấy hắn từ thịnh thành suy.

Vì vậy khi biết Yến Tuân thành công tập kích Đường Hộ Quan, nàng vẫn có chút mừng thầm, hoàn toàn không để ý mình chính là Tú Lệ vương của Biện Đường.

Sở Kiều tự giễu cười một tiếng, ngay cả nàng cũng không phải ngoại lệ. Mọi ân oán tình thù gì đó, qua thời gian đều chỉ còn là một bóng lưng mơ hồ, một đôi mắt âm lãnh và một cánh tay cầm kiếm.

Là ai phụ bạc ai, ai thiếu nợ ai, thật sự có thể nói rõ sao?

Hai người bọn họ, tuy không thể tay chung tay thì cũng không nhất định phải ngươi chết ta sống.

Gió bên ngoài đột nhiên trở lớn, đập vào cửa kêu *kẽo kẹt*, đẩy cái ghế chắn ngang cửa ra. Nàng tưởng là gió, vừa quay đầu định đi chắn chặt lại thì cửa phòng chợt bị mở ra, một bóng người khoác áo choàng đen đứng trước cửa, phía sau chỉ có một tùy tùng áo xanh.

Người nọ đứng ngược sáng không rõ mặt, chỉ thấy được một đôi mắt đen thẳm như vực sâu đang nhìn thẳng vào nàng. 

........................................................................................................ 

Ánh mắt như vậy, Sở Kiều thậm chí còn tưởng rằng mình vừa nhìn thấy Yến Tuân.

Bên ngoài tối mịt không chút ánh trăng, chỉ có gió tuyết đầy trời, phả vào mặt lạnh buốt như mũi đao. Người nọ đứng đó, áo choàng phủ kín người, chỉ để lộ đôi mắt thâm thúy nhìn nàng chằm chằm. Vài ngọn nến thưa thớt trong phòng đều bị gió thổi tắt, chỉ có ánh sáng xanh nhàn nhạt phản chiếu từ nền tuyết, tô thêm áp lực nặng nề tỏa ra từ bóng dáng kia.

Như rất lâu, nhưng cũng vừa như chỉ một thoáng qua, người nọ chậm rãi nhấc chân bước vào, đầu hơi cúi, dáng vẻ mơ hồ lộ ra vẻ mệt mỏi, bàn tay gầy gò xương xẩu đưa lên che miệng, ho khan một tiếng.

Cửa phòng bị đóng lại, ba người cùng đứng khiến linh đường hơi chật chội. Người tùy tùng lưng còng mặc áo xanh nhanh chóng thắp lại nến, ánh sáng nhờ nhờ chiếu lên tóc mai hoa râm cùng bàn tay nhăn nheo bên dưới áo choàng.

Băng ghế nhỏ Sở Kiều dùng để chắn cửa khi nãy được người tùy tùng lau sạch sẽ, người nọ vừa ho khan vừa ngồi xuống, lưng hơi khòm, thấp thoáng nhận ra được bên dưới lớp áo kia là thân thể suy nhược đến cỡ nào.

Sở Kiều vẫn đứng yên tại chỗ, từ lúc bọn họ bước vào vẫn không nói gì. Nàng có hơi hoài nghi, một người bệnh gầy gò ốm yếu như vậy sao lại có thể khiến nàng thoáng chấn kinh, thậm chí còn cho là Yến Tuân đích thân đến nữa.

Viên tùy tùng lui ra đứng cạnh cửa, cả người như ẩn trong một góc tối, cúi đầu im lìm như một tảng đá.

Trong phòng nhờ nhờ ánh nến, gió luồn qua chỗ hổng trên trần kêu *vù vù* khiến ngọn nến chập chờn như muốn tắt. Người nọ chợt ngẩng đầu lên, đưa con ngươi sâu thẳm nhìn nàng, đột ngột lên tiếng: "Tối nay gió tuyết thật dữ dội."

Sở Kiều sửng sốt, chẳng rõ vì sao mà khi đối mặt với người này, nàng cảm giác có chút căng thẳng không nói nên lời. Tựa như từ trên người đối phương tỏa ra một áp lực vô hình, dần dần tràn ngập khắp phòng, khiến hô hấp cũng khó khăn hơn.

"Vâng, đúng là rất lớn." Nàng gật đầu, lẳng lặng đáp lời.

"Đã nhiều năm không có gió tuyết mạnh như vậy rồi." Người nọ hẳn đã rất nhiều tuổi, giọng nói lộ ra vẻ già nua cùng mệt mỏi không cách nào che giấu, "Ngay cả mùa đông mười lăm năm trước cũng không có gió tuyết lớn như thế, đốn ngã cả cây hòe già trước cổng phủ doãn."

Mười lăm năm trước...

Chính là cái năm Yến Tuân tan cửa nát nhà, mùa đông rét lạnh đến cùng cực, bọn họ co ro trong dịch quán tồi tàn ở nam thành, đốt rụi toàn bộ đồ đạc trong phòng vẫn bị lạnh đến nứt da nứt thịt.

"Hội hoa đăng năm nay có náo nhiệt không?" Người nọ tự nhiên hỏi, tựa như bọn họ là bằng hữu đã lâu không gặp vậy.

Sở Kiều hơi nghiêng đầu đáp: "Ông trời không phối hợp nên hội hoa đăng bị gián đoạn. Lão tiên sinh cũng đến ngắm hoa đăng rồi bị gió tuyết níu chân ở đây sao?"

Người nọ thấp giọng cười một tiếng rồi nói: "Thân thể ta thế này thì còn đi ngắm hoa đăng gì chứ?"

Sở Kiều chớp mi, trầm giọng hỏi: "Nói vậy tiên sinh đặc biệt đến đây là để tế bái Yến lão vương gia sao?"

Tuy không nhìn rõ mặt của ngươi nọ, nhưng Sở Kiều vẫn có thể nhận ra ông lẳng lặng mỉm một nụ cười.

Xa xa chợt vọng đến một hồi chuông ngân dài, đó là mười tám tiếng chuông báo hiệu giờ lành. Lúc này trên đài Thiên Trình trong cung Thịnh Kim, Khâm thiên giám sẽ chủ trì cho các cao tăng dâng hương lễ bái Phật, tụng kinh cầu bình an, xin cho sang năm được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Nghe thấy hồi chuông, Sở Kiều nhẹ nhàng quay đầu nhìn về phía phát ra tiếng chuông, thoáng hơi thất thần.

"Nghĩa trang này hoang vắng như vậy, ngươi thân nữ một mình ở đây không sợ sao?"

Sở Kiều quay đầu nhìn người nọ, biết rõ có thể ngang nhiên tiến vào đây mà không bị đám Nguyệt Thập Tam phát giác thì tuyệt đối không phải người bình thường. Tuy đã lần lượt loại bỏ hết những người có thể tới đây vào lúc này, nhưng Sở Kiều vẫn không tìm được nhân vật nào có khả năng này, nàng không khỏi càng lúc càng nghi hoặc nhưng trên mặt vẫn không biểu hiện gì, chỉ thản nhiên cười nói: "Trong lòng ngay thẳng thì không có gì phải sợ, so với lòng dạ con người thì mấy thứ gọi là du hồn dã quỷ hiền lành hơn không biết bao nhiêu lần."

"Trong lòng ngay thẳng?" Ngươi nọ hơi cao giọng, cười nói: "Trên đời này, người có thể chân chính gánh được bốn chữ này, còn được mấy người?"

"Tự mình cảm thấy gánh được là đủ." Sở Kiều vẫn đứng nguyên tại chỗ, áo choàng lông trên người bên dưới ánh nến càng thêm tinh khôi, khuôn mặt như bừng lên trong ánh sáng nhờ nhờ, lẳng lặng tiếp lời: "Là người cả đời làm thanh quan, trung với xã tắc, liêm chính ngay thẳng. Là người xuất thân tầm thường bé mọn, vất vả kiếm sống nhưng không bao giờ phạm pháp. Chỉ cần trong lòng không có vướng mắc thì sẽ gánh được hai chữ 'ngay thẳng' này. Chỉ cần lòng hướng về bình yên, tự mình quyết tâm thì không phải là không thể."

Người nọ khẽ nhướng mày, một cơn gió chợt ào vào thổi bụi đất bay lên, nhẹ bám vào vạt áo hai người. Ông trầm tư một thoáng, sau đó mỉm cười nói: "Nói có đạo lý."

"Bên ngoài gió tuyết lớn như vậy, lão tiên sinh đêm tối tìm đến, là vì lòng có vướng mắc sao?"

"Người đã già, khó tránh khỏi dễ nhớ đến chuyện vặt lúc trẻ."

Một cơn cuồng phong mở bật cửa ra, thổi tắt toàn bộ nến trong phòng. Viên tùy tùng hoảng hốt, tuy tuổi đã lớn nhưng thân thủ vẫn rất linh hoạt, nhanh chóng đóng cửa rồi định đi thắp lại đèn. Người nọ giương mắt nhìn về phía cỗ quan tài ẩn mình trong bóng tối thăm thẳm, thu lại nụ cười, khoát tay nói: "Cứ để vậy đi."

Trong phòng rất yên tĩnh, nghe được rõ ràng tiếng gió gào rú bên ngoài. Hai mắt dần thích ứng với bóng tối, dựa vào ánh sáng phản chiếu trên nền tuyết cũng mơ hồ thấy được bóng dáng người đối diện.

Người nọ cởi áo khoác ra, nói: "Chắc hắn không muốn nhìn thấy ta."

"Ta có mang rượu đến, uống với ta một chén đi."

Không đợi Sở Kiều trả lời thì lão tùy tùng phía sau đã tiến lên, trải một tấm lụa xuống trên mặt đất, bày ra hai ly rượu, một chiếc bình ngọc trắng muốt, chất ngọc ánh lên trong bóng tối. Bình khẽ nghiêng, hai chén nhỏ được rót đầy, hương rượu tỏa ra bốn phía. Lão tùy tùng dùng hai tay dâng một chén đưa cho Sở Kiều.

Sở Kiều ngửi qua, liền nói: "Là Thanh Nữ Kiều ở Thanh Khâu."

Người nọ cười tán thưởng, "Khứu giác tốt."

Sở Kiều mỉm cười, "Tiểu bối tửu lượng không cao nhưng ngửi mùi đoán tên thì khá lành nghề." Nói xong nàng rút từ trên đầu một chiếc trâm bạc nhúng vào trong chén, nhẹ ngửi đầu trâm rồi mới yên tâm uống cạn, "Quả nhiên là rượu ngon."

Người nọ cũng không bận tâm chuyện nàng công khai nghiệm độc ngay ở trước mặt mình, ngược lại còn thích thú nói: "Đưa trâm của ngươi cho ta mượn dùng chút."

Sở Kiều thoáng ngạc nhiên, hỏi lại: "Rượu do mình mang đến mà tiền bối còn không yên tâm?"

"Cẩn thận một chút không bao giờ thừa."

Người nọ học theo Sở Kiều nhúng đầu trâm vào ly rượu, lấy ra bật lửa đốt rồi nhìn hồi lâu mới ngửa đầu uống rượu.

Sở Kiều bật cười, "Tiền bối làm như vậy, ngược lại càng thêm không an toàn."

Người nọ hơi kinh ngạc hỏi: "Tại sao?"

"Không phải loại độc nào cũng có thể dùng bạc nghiệm ra, huống chi trong quá trình đưa trâm cho tiền bối, ta có rất nhiều biện pháp hạ độc vào trâm. Mà cho dù là không dùng độc, tiền bối ở gần ta như vậy, chẳng lẽ không sợ ta là thích khách sao?"

Người nọ nhìn nàng, không hề có chút sợ hãi, ngược lại rất bình thản hỏi: "Vậy ngươi là thích khách à?"

"Ta nói không phải, tiền bối tin sao?"

Người nọ nhướng mày, tựa như đang cố ngẫm nghĩ, hồi lâu sau mới nói: "Không tin lắm."

Sở Kiều bật cười, "Đúng đó, hôm nay nông dân muốn ăn gà nên sẽ không giết heo, nhưng cũng không có nghĩa là ngày mai cũng không giết heo."

"Ngươi so sánh ta với heo?"

"Không dám." Sở Kiều lắc đầu, "Người như tiền bối, ba phần giống sói, ba phần giống rắn, bốn phần còn lại thì nhìn không ra, nói chung không phải là người dễ đùa."

Người nọ quay sang lão tùy tùng đứng ở cửa, cười nói: "Nhìn miệng lưỡi của nha đầu này đi, còn độc địa hơn mấy trăm lần so với ngòi bút của Ngự sử đài nữa."

Người nọ dường như rất vui vẻ, thoải mái bảo Sở Kiều ngồi xuống uống rượu với mình. Gió tuyết bên ngoài càng lúc càng lớn, Sở Kiều kéo thêm một cái ghế nhỏ sang, lau sạch rồi ngồi xuống, từ tốn uống rượu với ông.

Không gian tối mịt mù, chỉ có trên nóc nhà nhờ nhờ ánh sáng phản chiếu khi gió tuyết thổi qua.

Rượu này thơm mê người, chỉ cần uống một chén thì sẽ muốn uống chén thứ hai. Cho dù không có độc thì uống nhiều sẽ say. Không biết qua bao lâu, Sở Kiều dần thấy mơ hồ, nàng tựa người ra phía sau, tay chống lên thành ghế, chậm rãi nhắm mắt lại, nói chuyện với người nọ mà câu được câu không. Dường như bọn họ đã nói rất nhiều, rất rất nhiều, nhưng nàng đều không nhớ rõ. Trong lòng vô cùng tĩnh lặng, như có dòng nước nhẹ nhàng quét qua tay, qua mặt nàng.

Nàng như nhìn thấy hình ảnh lúc còn bé, ông nàng ôm nàng, tỉ mỉ dạy nàng Thái tổ trường quyền*, dạy nàng chiêu Cầm nã thủ**, dạy nàng nhận thức vị trí huyệt đạo quan trọng, dạy nàng sử dụng đủ loại vũ khí. Mỗi sáng nàng phải đứng dưới cờ lặp lại lời tuyên thệ ông bắt nàng thuộc nằm lòng. Lúc đó nàng chỉ mới mấy tuổi nhưng vẫn hết sức nghiêm túc, thẳng người đứng sau lưng người ông đã già nhưng vẫn hết sức cường tráng, lớn tiếng nói từng chữ một: "Một lòng trung với nước nhà, trung với nhân dân, lúc cần phải tự nguyện hy sinh vì tổ quốc, vì nhân dân..."

*Thái tổ trường quyền = Thái Tổ Trường Quyền là Thiếu Lâm tuyệt học, bộ quyền pháp này, phong cách đặc biệt, không có quy tắc nhất định, chiêu thức rõ ràng dứt khoát, nhịp chân linh hoạt, hành quyền quá bộ, đánh mạnh, trong cận chiến, có thể bùng nổ uy lực cực mạnh.

*Cầm nã thủ = cách ra quyền bằng mười ngón tay. Khác với chỉ công khi đánh phải giương thẳng ngón tay ra, trong phép đánh cầm nã thủ, ngón tay phải khum lại. Bí quyết của cầm nã thủ thu gọn trong tám chữ: câu, giật, buông, bắt, chộp, điểm, khóa, đẩy. Ba chữ cầm nã thủ có nghĩa đơn giản là thủ pháp sử dụng mười ngón tay để bắt giữ, vô hiệu hóa đối thủ.

Hình ảnh thay đổi, chuyển thành khung cảnh thâm cung lạnh lẽo, trăng trên đỉnh đầu rất tròn rất sáng, thiếu niên đứng trước mặt nàng, nhìn thấy chiếc trâm trên tóc nàng thì mím môi, giận dỗi quay đi. Nàng thấy vậy liền vội vàng lấy trâm xuống, khẩn trương chạy đến dỗ dành hắn, nói là do Triệu Thập Tam nằng nặc bắt nàng cầm, nàng không hề thích nó. Hồi lâu, thiếu niên mới ngượng ngùng đưa ra một chiếc trâm gỗ thô sơ, hình như là dùng mẩu đồng gọt thành, chỉ là một thanh gỗ trơ trụi, không có bất kỳ hình thù trang trí gì. Ngón tay của thiếu niên cũng hơi bị rách da, vài chỗ còn ứa máu, dùng vải băng lại sơ sài.

Sau đó, một đôi mắt như mắt hồ ly hiện ra, nam nhân mặc y phục đỏ thẫm ngồi trong thủy các đón gió, tiêu sái thổi trường tiêu. Một bầy thiếu nữ y phục rực rỡ vây quanh hắn, ánh mắt si mê như vừa uống hết hai vò nữ nhi hồng. Nhìn thấy nàng từ xa, hắn đột ngột đứng dậy, ra sức vẫy tay với nàng, kêu to: "Kiều Kiều! Kiều Kiều! Mau qua đây~!"

Hình ảnh lại thay đổi, không trung phủ đầy sương khói và ánh sáng, quang ảnh xoay tròn rồi tụ lại thành hình dáng một nam nhân cao ngạo tuấn tú, khung cảnh giống như trong đêm hội hoa đăng ba năm trước, hắn đang giận dỗi vì nàng không chịu cùng hắn đến Thanh Hải. Hắn hậm hực đi trước, không thèm nghe nàng giải thích, trước khi đi còn to tiếng mắng nàng ngốc, mắng nàng hết thuốc chữa. Trong lúc tức giận, nàng nhặt một hòn đá lên ném về phía hắn, vừa hay trúng ngay đầu hắn, khiến hắn mặt xanh mét, quay phắt lại hung dữ nhìn nàng chằm chằm.

Sau đó, trên con thuyền êm đềm trôi theo dòng nước, hai người ôm nhau đứng trong màn mưa bụi lất phất, hắn thì thầm bên tai nàng: "Ta rất vui, chưa từng vui như vậy bao giờ..."

Ngay lúc đó, bên tai chợt văng vẳng một tiếng trẻ con trong trẻo, "Sau cùng, hắn chết, hắn cũng chết, nàng thương tâm rời đi, sau đó nàng cũng chết, chỉ còn lại một mình hắn."

Phải rồi, nàng đang nằm mơ, Lý Sách đã chết, đã bị mẹ mình tự tay giết chết, đã chết trong lòng nàng, trước ngực hắn ướt đẫm máu tươi. Nàng còn chạm vào thân thể và bờ mi lạnh lẽo như băng của hắn, hắn tựa vào vai nàng mà chết, không bao giờ có thể gọi tên nàng nữa, không bao giờ có thể đưa tay nhéo mặt nàng nữa, không bao giờ có thể nửa đêm trèo cửa sổ nhảy vào phòng nàng nữa, không bao giờ có thể lén đọc thư Gia Cát Nguyệt viết cho nàng nữa, khi nàng khổ sở không bao giờ có thể dịu dàng nhìn nàng, ôm nàng vào lòng rồi nói: Đừng sợ, đừng sợ. Còn có ta ở đây, còn có cả Gia Cát Tứ nữa. Cho dù là tiểu tử Yến Tuân kia cũng không thể tổn thương đến nàng.

Trời đất mịt mù gió bắc, tuyết đỏ như máu không ngừng đổ xuống, nàng nhìn thấy Gia Cát Nguyệt và Yến Tuân đối đầu với nhau trên chiến trường, nàng nhìn thấy hàng vạn hàng ngàn người hồn lìa khỏi xác, nàng nghe được tiếng gió rít gào thê lương, nhìn thấy bầu trời bị rách toạc, máu tươi trào ra từ khe rách, tuôn xối xả xuống chiến trường. Nàng nhìn thấy Gia Cát Nguyệt ngã xuống, da thịt trên lưng nứt ra, chính là vết thương do nàng đâm rất nhiều năm trước, một thanh kiếm lạnh lẽo đâm vào giữa ngực. Nàng nhìn thấy Yến Tuân cầm lưỡi kiếm dài ba thước đứng trên đống thi thể, mưa tên bắn đến đen kịt trời. Hắn đứng ở nơi cao nhất, dưới chân không ngừng chảy xuống chất lỏng đỏ lòm, trên người cắm đầy tên nhọn nhưng vẫn không ngã xuống.

Thiên quân vạn mã ập đến, tất cả mọi hình ảnh chợt tan vỡ, đao gươm Khuyển Nhung chém vụn bản đồ Tây Mông. Nàng quỳ gối bên hồ băng Thiên Trượng, nhìn trời đất sụp đổ chỉ trong nháy mắt, bên tai vang vọng từng lời từng chữ của hắn: Phải sống, phải sống, sống tiếp...

............................................................................................................

Nước mắt ào ra khỏi khóe mi, chảy xuống cằm, rơi trên áo lông trắng tinh khôi của Sở Kiều.

Người nọ đứng trước mặt nàng, trên mặt không còn nụ cười khi nãy, thay vào đó là vẻ lạnh nhạt xa cách. Ông quay sang hỏi lão tùy tùng: "Là nàng sao?"

Lão tùy tùng khom người, vẫn là bộ dáng khúm núm muôn thuở, thấp giọng đáp: "Thưa phải, chính là nàng."

Người nọ mỉm cười nhưng đáy mắt không hề có chút ý cười, "Không ngờ lại gặp được ở đây."

Lão tùy tùng vẫn khom người, cũng không đáp lời. Người nọ trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên đưa đầu ngón tay quẹt qua má Sở Kiều, cảm nhận được chất lỏng lạnh như băng trên mặt nàng thì nhất thời sửng sốt.

"An Phúc, có ai uống rượu Hoàng Lương rồi mà vẫn còn có thể khóc sao?"

Trong gian phòng tối mịt, lão tùy tùng dường như cũng không nhận ra cô gái ngồi trên ghế kia đang khóc. Lão vội vàng thắp một ngọn nến rồi cầm nến đến trước người Sở Kiều, cẩn thận nhìn qua thì cũng ngây người.

Từng giọt nước mắt lặng lẽ lăn dài trên má, cứ như vậy không tiếng động rơi xuống, tựa như chuỗi trân châu bị dứt.

An Phúc thoáng chấn kinh, hồi lâu sau mới chậm rãi nói: "Nô tài cho tới nay chưa từng nghe nói có người uống rượu Hoàng Lương rồi mà vẫn khóc được, trong lòng cô gái này có lẽ chôn giấu rất nhiều đau khổ." Nói xong câu này, lão hơi nhíu mày, tựa như có điều gì khó hiểu, "Thân phận tôn quý như vậy mà cũng có điều khổ sở sao?"

Người nọ nghe hỏi thì mỉm cười, thản nhiên nói: "Càng hạnh phúc thì sẽ càng sợ có ngày mất đi nó. Trong lòng đứa trẻ này, e rằng có nỗi sợ hãi mà ngay cả nàng ta cũng không khống chế được."

"Bệ hạ, thời gian không còn sớm nữa, chúng ta nên trở về rồi."

Người nọ gật đầu, khoác áo choàng lên đi ra ngoài, ra tới cửa thì đột nhiên quay đầu lại, nhìn cỗ quan tài bên trong chằm chằm, "Thế Thành, ngươi nói xem, Đại Hạ còn tồn tại được mấy năm nữa?"

Gió bên ngoài vẫn thổi rất mạnh, bóng dáng của ông chợt lộ ra vẻ cô đơn khó tả. Ông đột nhiên ho khan mấy tiếng, vừa mỉm cười vừa mở cửa phòng đi ra ngoài.

Ngọn nến sắp tàn thoáng chao đảo trong gió, nhưng vẫn không tắt.

Cô gái mặc y phục trắng ngồi tựa lưng vào ghế, đầu hơi nghiêng sang một bên, nước mắt lặng lẽ chảy hết giọt này đến giọt khác.

.........................................................................................................

Không biết đã qua bao lâu, bên cạnh tựa như có người đang nói chuyện, Sở Kiều khẽ chau mày, ánh đèn hơi chói mắt, tiếng hô mừng rỡ của Mai Hương vang lên: "Tỉnh rồi, tỉnh rồi, thật tốt quá."

Sở Kiều chớp mắt, nhìn thấy Mai Hương đang đứng bên cạnh, Hoàn Nhi cầm một chiếc đèn lồng cũng đứng sát một bên, khẩn trương nhìn nàng.

"Tiểu thư, người làm sao vậy?"

Sở Kiều nhìn quanh một vòng, nhận ra bóng dáng người nọ đã sớm không thấy, không khỏi có hơi thất thần, nói qua loa: "Không có gì, chỉ không cẩn thận ngủ quên mà thôi."

Mai Hương không kìm được trách móc: "Ở đây lạnh như vậy mà tiểu thư còn ngủ gục được?"

"Xem phu nhân có vẻ quá mệt rồi, gió tuyết bên ngoài cũng dịu bớt nhiều, chúng ta nhanh chóng về phủ đi."

Đoàn người lên xe trở về, Vinh Nhi vẫn ngủ ngon lành, Mặc Nhi cũng nép vào lòng Thanh Thanh, mở mắt không lên.

Trận bão tuyết đã phá tan hội hoa đăng vốn náo nhiệt, trên đường trở về, khắp nơi đều có xác đèn bị gió xé rách tơi tả, đường phố trống trải đến thê lương. Sở Kiều vén màn xe lên nhìn lại nghĩa trang ở xa xa, chỉ thấy một mảnh tối tăm mịt mù, không một ngọn đèn, chỉ còn chiếc đèn lồng trắng nhờ nhờ treo trước cửa là còn nguyên, cũng không rõ nó làm sao sống sót qua khỏi trận bão tuyết kia.

Trở về đến phủ thì trời đã khuya, Nguyệt Lục chờ ở trước cửa, nhìn thấy mấy người bọn họ thì nhất thời thở phào một hơi thật dài, lập tức tiến lên nói Gia Cát Nguyệt đã trở về từ sớm, đã ra ngoài tìm nàng mấy bận rồi.

Sở Kiều vội vàng đi vào phủ, đến chính sảnh cởi áo choàng lông giao cho hạ nhân rồi rón rén đi tới phòng ngủ.

Trở về từ bên ngoài lạnh lẽo, sự ấm áp trong nhà càng thêm rõ rệt. Trong phòng rất yên tĩnh, hương trầm thủy lượn lờ trên lò hương, nàng lẳng lặng đi đến bên giường, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt mặt hơi ửng hồng, để nguyên quần áo nằm trên giường, ngủ mà vẫn nhíu chặt mày, tựa như đang tức giận chuyện gì đó.

Hô hấp của hắn hơi nặng nề, có thể ngửi được mùi rượu nồng nặc. Tửu lượng của Gia Cát Nguyệt từ trước đến giờ không quá tốt, tối nay có lẽ đã uống rất nhiều rượu nên mới ngủ quên như thế này.

Trên cột giường bằng gỗ lim có treo một chiếc đèn lồng chế tác khéo léo, hai mắt đỏ son, đôi tai thật dài, là một cái đèn hình thỏ xinh xắn.

Sở Kiều cởi giày ra, nghiêng người nằm xuống cạnh Gia Cát Nguyệt, hít thở mùi hương trên người hắn, lắng nghe hơi thở trầm thấp của hắn, cõi lòng lạnh lẽo dần ấm lại.

Nàng vòng tay qua hông hắn, gạt đi hình ảnh tuyệt vọng trong mơ.

Sẽ không, tuyệt đối sẽ không.

Bọn họ sẽ mãi ở bên nhau, sẽ vui vẻ mà sống. Bọn họ sẽ có con, một nhà sẽ cùng nhau rời khỏi nơi này, bắt đầu cuộc sống cho riêng mình.

Nhất định như vậy, nhất định...

...............................................................................................................

Sau xuân yến, Đại Hạ càng lúc càng xuống dốc, loạn Lũng Tây lan rộng, đi lại trên đường bất kỳ lúc nào cũng thấy được cảnh buôn bán vợ con đổi lương thực mà sống. Triều đình đành ban bố công văn trợ giúp thiên tai ra ngoài, Hạ hoàng cũng đã vét cạn quốc khố. Nhưng Đại Hạ hiện tại như cường quốc có tiếng mà không có miếng, chiến tranh tựa như mãnh thú háu ăn không ngừng há to cái miệng khổng lồ, chỉ trong mấy năm ngắn ngủi mà đã rúc rỉa một cường quốc chỉ còn cái vỏ không.

Có điều Bắc Yến cũng không hơn gì, tuy nhờ có lương thảo cướp về từ Biện Đường tạm thời qua được mùa đông giá rét này, nhưng hiện tại vẫn khó khăn trùng trùng. Dưới tình hình này, đầu năm biên quan cũng chẳng xảy ra chiến sự quy mô lớn nào. Bất kể là Bắc Yến muốn đông tiến hay Đại Hạ muốn phạt bắc cũng đều bị trận thiên tai này cầm chân.

Đầu tháng ba, một tin tức từ Bắc Yến được đưa đến kinh thành, khiến Sở Kiều lại bắt đầu lo lắng.

Thật ra tin tức cũng chẳng có gì đáng nói, chỉ nói đến chuyện Yến Tuân muốn tiến hành buôn bán với Đại Hạ ở biên cương, dùng ngựa cùng quặng sắt đổi lấy lương thực, trà, muối và vải vóc của Đại Hạ.

Chuyện này tất nhiên đã khiến triều đình Đại Hạ cười to một trận, bọn họ cười nhạo Bắc Yến nghèo đến phát điên rồi, lại muốn buôn bán thông thương với Đại Hạ. Bọn họ thiếu hụt chiến mã và quặng sắt thì vẫn có thể mua bán với Biện Đường và Hoài Tống. Bắc Yến thì khác, Biện Đường đóng cửa khẩu thì chỉ có thể tìm tới Đại Hạ mà thôi.

Đại Hạ dĩ nhiên cự tuyệt thông thương với Bắc Yến, Ngự sử đài và Trung thư lệnh lần đầu liên thủ, nhanh chóng viết thành một bài diễn văn dài thườn thượt châm biếm chuyện này, chế giễu Yến Tuân suy nghĩ viển vông, không biết trời cao đất rộng.

Sự kiện này đối với hai nước Hạ – Yến mà nói cũng chẳng phải đại sự gì, nhưng lại chỉ rõ tình cảnh xuống dốc và điêu tàn của Bắc Yến. Mặc dù Đại Hạ cũng chẳng khá hơn, nhưng nhìn dáng vẻ kẻ thù còn bất lực túng quẫn hơn mình, ý chí của đám quan lại Đại Hạ liền được nâng cao, một đám học sĩ suốt ngày điên cuồng hô hào tiêu diệt Bắc Yến, làm như chỉ cần bọn họ phất tay một cái thì Bắc Yến sẽ biến mất vậy. Ngay cả vài hoàng thân quốc thích ở xa cũng viết thư gửi cho Gia Cát Nguyệt, yêu cầu hắn lập tức điều binh tấn công Bắc Yến, nhanh chóng tiêu trừ tận gốc mối họa này.

Gia Cát Nguyệt lạnh lùng nhìn đám quan tướng trên triều vung tay múa chân, không khỏi cười giễu cợt: "Thủ đoạn của Yến Tuân không hẳn là quá cao minh, nhưng thật sự là hốt thuốc đúng bệnh, chỉ nói mấy câu mà đã khiến trên dưới toàn thành Chân Hoàng điên cuồng như vậy."

Lúc hắn nói lời này, Sở Kiều chỉ cảm thấy hãi hùng khiếp vía. Suy nghĩ của Gia Cát Nguyệt đã cao hơn hẳn một bậc so với người thường, biết Yến Tuân là cố ý tỏ ra yếu thế, muốn dẫn dụ Đại Hạ xuất quân tấn công. Nhưng Sở Kiều và Yến Tuân qua lại nhiều năm, nàng rõ bản tính của Yến Tuân hơn ai hết, người này cho dù phải bỏ mạng nơi sa trường cũng tuyệt đối không tỏ ra yếu thế trước kẻ thù bao giờ. Chỉ vì muốn khiến kẻ địch lơ là mất cảnh giác, đáng để người nọ hy sinh nhiều như vậy sao?

Đông qua xuân đến, hoa đã nở rộ nhưng gió lạnh vẫn chậm rãi không tan. Mở cửa sổ ra vẫn có thể nhìn thấy băng tuyết bao trùm.

Năm nay mùa đông hình như đặc biệt rất dài.  


Chương 189: Sinh Mạng Mới Giữa Thời Loạn

Cả đời này, Nạp Lan Hồng Diệp chưa từng nhìn thấy bão tuyết thực sự bao giờ.

Bầu trời đêm thưa thớt sao khiến mặt trăng càng thêm sáng lóa, tuyết rơi ào ào như thác đổ, phản chiếu ánh trăng lấp lánh dị thường.

Nàng đứng trên đỉnh Bạch Đài lộng gió, vạt áo bào bị gió thổi *phần phật* tựa chú ưng đập cánh muốn bay lên, mái tóc dài bay tán loạn sau lưng như lưới nhện phủ tung. Ở xa xa là một tòa cung điện nguy nga kỳ vĩ ẩn mình bên dưới màn đêm mịt mù, cạnh song cửa bằng đá đen như thấp thoáng thấy được một bóng dáng cao ngất, khoảng cách quá xa nên nhìn không rõ mặt mũi, nhưng từ sống lưng thẳng tắp kia liền có thể đoán được là một quân nhân, hơn nữa còn rất trẻ tuổi.

Nàng đã đứng như vậy rất lâu rồi.

Huyền Mặc ở phía sau vẫn không lên tiếng, chỉ lẳng lặng nhìn nàng đứng đó, nhìn ánh trăng dần bao phủ toàn thân nàng. Màn đêm thực yên tĩnh, xung quanh im lìm không một tiếng động, chỉ có tiếng gió thổi vạt áo nàng kêu *phần phật*, mang theo hương bạch lan chậm rãi quanh quẩn nơi chóp mũi của hắn.

Huyền Mặc chợt nhớ đến rất nhiều năm trước khi bản thân vẫn còn là một đứa trẻ, hắn đi theo phụ thân tham gia hội săn, nhờ vào tài bắn cung mà nổi bật trong đám con cháu của hoàng thân quốc thích, được tất cả mọi người tán dương. Nhưng một bóng dáng mặc cung trang vàng óng bất chợt thúc ngựa ào vào trong sân, thiếu nữ bắn ra liên tiếp ba tiễn trúng giữa hồng tâm rồi quay đầu lại kiêu ngạo nhìn hắn, nói: "Không phục thì đến tỉ thí một trận?"

Hoàng đế ngồi trên vương vị cười to, nói: "Nữ nhi của trẫm quả thực không hề thua kém nam nhi!"

Những vương công quý tộc khác luôn miệng khen ngợi công chúa lợi hại, chỉ có hắn vẫn lẳng lặng đứng yên, ngẩng đầu nhìn bóng dáng bé nhỏ ngồi trên lưng ngựa. Hôm đó trời nắng đẹp, gió mát dìu dịu, ánh mặt trời chiếu lên khuôn mặt xinh xắn khiến hai mắt nàng như thêm rạng rỡ, trong ngực hắn như có lửa, ống tay áo bay bay trong gió, vuốt ve da thịt hơi ngứa ngáy. Hắn cứ thế đứng ngây ra trước mặt cô bé kia, tựa như đã mất khả năng nói chuyện.

Chớp mắt mà đã nhiều năm như vậy, hắn luôn nhìn lên bóng dáng rực rỡ chói mắt của nàng như đã thành thói quen, luôn đứng từ xa nhìn nàng dần lớn lên, nhìn nàng càng lúc càng kiên cường hơn, nhìn nàng ngã quỵ rồi lại gượng dậy, nhìn nàng từng bước đi lên đỉnh quyền lực.

Thời gian trôi qua nhanh như nước chảy qua kẽ tay, dễ dàng mài mòn mọi cố chấp cùng bướng bỉnh thời niên thiếu, những ý niệm viển vông chôn giấu tận đáy lòng qua nhiều năm, tất cả cơ hội đều bị bão cát mang tên vận mệnh chôn vùi, biến mất trong phong trần cuồn cuộn.

"Huyền Mặc." Nạp Lan Hồng Diệp đột nhiên khẽ gọi, trong không gian trống trải mịt mù tuyết, tiếng nói nghe thật xa xăm. Nàng không hề quay đầu lại mà vẫn nhìn đăm đăm về phía cung điện rực rỡ ánh đèn kia, thì thầm hỏi: "Ta sai lầm rồi sao?"

"Điện hạ không hề làm sai."

Nạp Lan Hồng Diệp khẽ cười, lắc đầu nói: "Chỉ e ta thực sự đã sai rồi. Tào thái phó nói đúng, ta cõng rắn cắn gà nhà, giang sơn Hoài Tống sớm muộn gì cũng sẽ diệt vong."

"Hoàng đế bị bệnh như vậy, huyết mạch Nạp Lan thị đã không còn ai khác có thể cáng đáng giang sơn."

"Ai nói không có?" Khóe môi Nạp Lan Hồng Diệp nở một nụ cười lạnh lùng, bình tĩnh nói như trần thuật: "Tấn Giang vương, An Lập vương, Giang Hoài vương chẳng phải cũng có tư cách thừa kế sao?"

Nàng nói không sai, khi hương khói hoàng thất không thể tiếp tục thì đế vị sẽ do thân thích hoàng gia kế thừa, chẳng qua...

Huyền Mặc không nói gì nữa, không gian trên Bạch Đài vô cùng tĩnh mịch, gió theo hành lang luồn vào mang theo hơi nước ẩm ướt, cho dù là mùa hè vẫn hết sức lạnh lẽo.

"Nói cho cùng thì đều do tư tâm quá nặng mà thôi, trong lòng ta vĩnh viễn luôn là nhà trước rồi mới đến nước." Nạp Lan Hồng Diệp rơi vào trầm tư, ánh mắt trở nên xa xăm. Nhiều năm trên địa vị cao đã khiến vẻ ngây thơ thuần khiết vốn có sớm biến mất, tuy tỉnh thoảng nàng cũng có hành động hơi tùy hứng, nhưng tất cả đều không bì kịp sự cố chấp hằn sâu trong lòng.

Nhớ đến thời gian gần đây, nhớ đến những hành vi và sắc mặt của đám thân thích hoàng thất kia, ánh mắt nàng chợt không tự chủ hiện ra vẻ lạnh lùng sắc bén đến cực độ.

Nạp Lan thị lập quốc đã mấy trăm năm, tổ tiên bọn họ đã đổ bao nhiêu máu và mồ hôi cho giang sơn vạn dặm này. Hoài Tống là do Nạp Lan thị của nàng dùng xương và máu đắp thành, là do nàng hơn mười năm dốc hết tâm huyết bảo vệ. Đám người đó chẳng qua chỉ là lũ sâu mọt ngồi mát ăn bát vàng, có tư cách gì ngồi lên đế vị chứ?

"Quốc gia này là do Nạp Lan thị một tay lập nên, là do tổ tiên ta dùng máu gìn giữ, cho dù phải mất thì cũng chỉ có thể mất trong tay con cháu Nạp Lan thị. Người khác không xứng." Nạp Lan Hồng Diệp lẳng lặng nói, ánh trăng loang loáng chiếu lên người nàng, thoạt nhìn lạnh lẽo như băng, "Gửi thông cáo chính thức cho Yến Tuân, nói ta đồng ý đề nghị của y, chỉ xin y tuân thủ lời hứa, đối xử tử tế với con dân Hoài Tống, người thừa kế sự nghiệp thống nhất thiên hạ nhất định phải là con do ta sinh ra, ngoài ra, ta cũng muốn đầu của Thái Bình vương."

Một đám mây bay đến che khuất mặt trăng khiến không gian chợt tối đi, trong bóng đêm dường như có gì đó vừa vỡ vụn, các mảnh vỡ nhanh chóng bị gió thổi bay, phiêu tán đến chân trời góc biển.

Huyền Mặc gật đầu, lặng lẽ đáp: "Thuộc hạ tuân lệnh."

Nạp Lan Hồng Diệp trầm mặc một lúc rồi đột nhiên mở miệng nói: "Lệnh cho Tư mã chỉnh đốn tam quân, chuẩn bị để có thể xuất binh đến Đại Hạ chi viện Bắc Yến bất cứ lúc nào."

Trong bóng tối, Huyền Mặc ngẩng phắt đầu lên, hai mắt nhìn nàng chăm chăm hiện ra vài tia khiếp sợ cũng như vẻ không dám tin.

Nạp Lan Hồng Diệp như không hề để ý đến sự chấn động của Huyền Mặc, ngược lại vẫn vô cùng bình tĩnh nói: "Huyền Mặc, Đông Hải lại có thổ phỉ xâm phạm, lần này phải phiền huynh đi bảo vệ biên cương phía Đông rồi."

Trong khoảnh khắc, Bạch Đài trở nên im ắng không một tiếng động, sống lưng Huyền Mặc cao thẳng vững chãi tựa như một gốc hồ dương. Hắn nhìn nàng chăm chăm, ánh mắt như xuyên qua thời gian dài mười mấy năm, cuối cũng đọng lại trong khoảnh khắc tĩnh lặng này.

Là bằng hữu thời niên thiếu, thân là thế tử của một thân vương nhưng hắn lại nguyện làm cận vệ của nàng, để có thể ngày ngày nhìn thấy bóng dáng ngây thơ yêu kiều kia.

Hoàng đế băng hà, hắn quỳ ba ngày ba đêm trước cửa phòng phụ thân, khổ sở khuyên nhủ phụ thân từ bỏ ý định mưu phản, một lòng phò tá ấu đế và Trưởng công chúa là nàng.

Đã nhiều năm như vậy, hắn luôn đứng sau lưng nàng, nghe theo mọi mệnh lệnh của nàng, là thủ hạ, là thần tử trung thành đáng tin nhất của nàng. Thậm chí khi nàng ban hôn cho hắn với con gái của đại thần quyền thế, hắn cũng chưa từng nửa lời phản bác.

Mà hiện tại, đế vị bấp bênh, giang sơn Đại Tống nguy ngập, thiết kỵ Bắc Yến sắp tràn vào, nàng lại muốn hắn đến biên cương diệt trừ thổ phỉ.

Nhưng chỉ nháy mắt đã nghĩ thông suốt mọi khúc mắc trong mệnh lệnh này, ánh mắt dần bình tĩnh lại, Huyền Mặc khôi phục dáng vẻ tĩnh lặng trước đó, quỳ xuống trầm giọng đáp: "Vi thần tuân lệnh."

Cứ như vậy, cảm giác căng thẳng đến tột cùng trong lòng Nạp Lan Hồng Diệp chợt tan biến ngay khoảnh khắc Huyền Mặc quỳ xuống nói câu 'Vi thần tuân lệnh' kia, nàng xoay người lại, dung mạo thanh tú, mày ngài khéo léo như vẽ, đoan trang diễm lệ đến mức khiến người khác không dám nhìn thẳng.

Cảm thấy cần phải giải thích thêm, nàng nói: "Giữa Bắc Yến và Đại Hạ nhất định sẽ xảy ra một trận ác chiến, chiến trường không có mắt, huynh là người duy nhất ta có thể tin tưởng, ta không muốn huynh xảy ra bất trắc gì."

Huyền Mặc vẫn cúi đầu, bình tĩnh nói: "Vi thần hiểu."

Nạp Lan Hồng Diệp hít sâu một hơi rồi khẽ cười, "Được rồi, huynh đứng lên đi, giữa ta và huynh không cần câu nệ lễ tiết."

Huyền Mặc vẫn không nhúc nhích, trên đầu là vầng trăng bàng bạc, thi thoảng có cánh chim đêm bay xẹt qua, gió đêm thổi tay áo phồng căng, hoa văn mãng long chín ngón sống động chập chờn. Cấp bậc quân thần tựa như lưỡi đao sắc lạnh không ngừng cứa vào da thịt khiến máu chảy đầm đìa.

Hắn từ tốn móc từ trong ngực ra hai tấm lệnh bài để xuống trên thềm đá của Bạch Đài. Nạp Lan Hồng Diệp nhìn thấy thì chau mày, vừa định lên tiếng thì giọng nói đều đều của Huyền Mặc đã vang lên: "Vi thần đi chuyến này không biết khi nào mới có thể trở về, xin giao lại binh phù điều động Kinh Kỳ quân và Huyền Tự quân cho điện hạ."

Nạp Lan Hồng Diệp định từ chối, nhưng vừa chạm mắt đến hai tấm lệnh bài kia thì chợt ngẩn người. Kinh kỳ quân vốn thuộc về Binh bộ, năm đó nàng và Huyền Mặc liên thủ đánh bại Binh bộ thượng thư, thu quyền điều động Kinh kỳ quân vào trong tay, mấy năm nay vẫn luôn do Huyền Mặc chỉ huy, còn Huyền Tự quân thì chính là thân binh do Huyền Mặc đích thân bồi dưỡng, lực chiến đấu cực kỳ mạnh mẽ, cũng được coi là đội quân lợi hại nhất Hoài Tống.

Như có quỷ thần xui khiến, nàng tiến đến đỡ Huyền Mặc dậy, cười nói: "Được, ta sẽ cất giùm huynh, chờ huynh trở lại sẽ hoàn trả."

Vóc dáng Huyền Mặc vốn cao ráo, đứng cạnh Nạp Lan Hồng Diệp thì cao hơn hẳn một cái đầu, ánh mắt tựa hồ sâu của hắn lẳng lặng nhìn nàng, không bất kính nhưng lại hơi lớn mật.

Nạp Lan Hồng Diệp ngước lên, môi nhoẻn một nụ cười ôn hòa, ánh mắt lấp lánh rạng rỡ.

"Tuy Thái Bình vương đã bỏ trốn, nhưng đám người Tấn Giang vương cũng không dễ đối phó, sau khi vi thần đi, điện hạ một mình phải bảo trọng."

Nạp Lan Hồng Diệp mỉm cười nói: "Huyền Mặc, huynh đã biết ta bao nhiêu năm rồi mà vẫn không yên tâm về cách hành sự của ta?"

Huyền Mặc cúi đầu nói: "Điện hạ là bậc kỳ tài, vi thần đã lỡ lời."

"Được rồi, không cần ăn nói khách sáo như vậy nữa, ta và huynh quen biết nhiều năm, vẫn luôn giúp đỡ tương trợ nhau, quan hệ quân thần đã sớm chuyển thành bạn thân từ lâu rồi. Ta hứa với huynh, bất kể tương lai Hoài Tống đi về đâu, chỉ cần ngày nào ta còn nắm quyền trong tay, thì ngày đó phủ Huyền vương sẽ vinh sủng không ngừng."

Đầu ngón tay thoáng lạnh đi, sương đêm chậm rãi thấm qua làn áo, Huyền Mặc khom người nói: "Đa tạ điện hạ, đêm đã khuya, nếu không còn chuyện gì khác thì vi thần xin cáo lui."

Nạp Lan Hồng Diệp vốn còn muốn dặn dò thêm mấy câu nhưng lại không biết nên mở lời thế nào, đành gật đầu nói: "Ban đêm trời tối, bảo hạ nhân cầm đèn lồng dẫn đường cho huynh."

"Vâng, vi thần đã rõ." Dứt lời, Huyền Mặc hành lễ với Nạp Lan Hồng Diệp rồi xoay người đi ra hành lang dẫn đến Bạch Đài.

Ánh trăng xuyên qua từng ô vuông dọc theo thông đạo chiếu lên bóng lưng cao thẳng dần xa, Huyền Mặc vững vàng đi từng bước một trên hành lang thoắt tối thoắt sáng. Một lúc lâu sau, hắn rời khỏi Bạch Đài, chậm rãi hòa mình trong bóng đêm mênh mông của quảng trường rộng lớn. Từ trên đài cao, Nạp Lan Hồng Diệp chỉ có thể thấy được một cái bóng mơ hồ.

Gió đêm thổi lên tóc mai của Nạp Lan Hồng Diệp, nàng lẳng lặng đứng yên, thật lâu vẫn không động, tựa như một pho tương bạch ngọc.

Nàng đang nhớ lại lúc còn rất nhỏ, Đông Hải bị hải tặc quấy nhiễu, phụ hoàng tự mình lĩnh binh xuất chinh, khi đó Hoài Tống binh lực cường thịnh, đất nước giàu có phồn vinh. Không rõ vì sao có nhiều tướng tài như vậy mà phụ hoàng vẫn muốn đích thân ra trận, nàng đã níu ống tay áo của phụ hoàng, ngơ ngác hỏi: "Phụ hoàng, sao người phải đích thân xuất chinh vậy?"

Nghe nàng hỏi câu đó, ánh mắt phụ hoàng chợt trở nên xa xăm như đại dương không bến bờ, khiến người khác nhìn không thấy điểm dừng. Phụ hoàng yêu thương vỗ vỗ đầu nàng, nhẹ giọng nói: "Không vì sao cả, chỉ là có một số chuyện, con không tự mình gánh thì sẽ chẳng có ai gánh giùm cả."

Lúc ấy, nàng nghe mà không hề hiểu, nhưng hiện tại, nàng đột nhiên hiểu ra.

Sống trên đời, mỗi người đều có chỗ bắc đất dĩ của riêng mình, mỗi người đều có cái khó không thể vượt qua.

Nàng sơ ý để vây cánh của Bình An vương thành công hạ độc tiểu hoàng đế, đứa trẻ đáng thương này chẳng những bị điếc từ khi mới sinh mà thời giờ cũng không còn được bao nhiêu vì bị trúng độc. Sau khi hoàng đế băng hà, Hoài Tống nhất định xảy ra đại loạn, đám người Tấn Giang vương và Hoài An vương ắt hẳn sẽ rục rịch ngóc đầu dậy. Đến lúc đó, huyết mạch của Nạp Lan thị suy tàn là chuyện không thể nghi ngờ.

Nàng không cam lòng, mấy năm này nàng đã dốc hết tâm huyết xử lý chính sự, hết lòng phụ tá ấu đế. Trong khi đó, những thân thích hoàng tộc kia đều mong đợi nàng chết đi. Tổ tiên nàng đổ máu gìn giữ giang sơn, chẳng lẽ chỉ để dâng không cho bọn họ? Nhiều năm tâm huyết của nàng, sao có thể để giang sơn của dòng họ nàng rơi vào trong tay bọn họ?

Trong tình cảnh Biện Đường nội loạn, Hoài Tống nội loạn, Đại Hạ càng tồi tệ hơn, Bắc Yến xưng bá thiên hạ đã là chuyện không thể tránh khỏi. Thay vì đợi Thanh Nhi qua đời, chờ nhìn đất nước rơi vào tay đám thân thích bụng dạ khó lường kia, không bằng dùng giang sơn này làm lễ vật đổi lấy bình an cho con dân Hoài Tống và huyết mạch của Nạp Lan thị nàng. Dù sao nàng vẫn còn mẫu thân đang bệnh nặng, Dục Nhi vẫn còn ba nữ nhi còn bé bỏng, và cả những cựu thần một mực trung thành với hoàng thất kia...

Không bằng cứ đáp ứng đề nghị của y, như thế tôn nghiêm của Nạp Lan thị sẽ được bảo toàn. Hai nước kết đồng minh mưu đồ bá nghiệp, huống hồ, đây chẳng phải là nguyện vọng nàng đã chời đợi nhiều năm đấy sao?

Cửa cung mở rộng, bóng lưng của Huyền Mặc dần dần biến mất trong bóng tối khôn cùng.

Nàng đột nhiên cảm thấy hoảng hốt, tựa như vừa mất đi vật gì đó rất quý giá.

Bảo Huyền Mặc đi bình loạn biên giới phía đông cũng là cách làm bất đắc dĩ. Trước mắt binh lính đều đang phản đối Hoài Tống đánh trận này, nếu không dùng vũ lực cứng rắn sẽ chẳng thể khiến cấp dưới theo lệnh. Huyền Mặc từ trước đến nay chưởng binh khoan hồng độ lượng, rất khó hoàn thành nhiệm vụ này. Hắn ở lại chỉ là vật cản, không thể đốc thúc toàn quân phối hợp với Bắc Yến.

Huống chi, sự kiện Thái Bình vương làm phản lần này cũng đã khiến nàng hiểu được tầm quan trọng của binh quyền. Uy tín của Huyền Mặc trong quân đội là thứ nàng không bao giờ có thể bì kịp, thời bình nàng còn có thể dựa vào hoàng quyền nắm giữ hắn trong tay, nhưng trong tình hình hỗn loạn như giờ, nàng không thể không đề phòng.

Chỉ mong hắn sẽ không trách nàng.

.....................................................................................................................

Huyền Mặc lẳng lặng bước đi trên con đường trống trải, thị vệ thân cận Khương Ngô cẩn trọng đi theo bên cạnh, xe ngựa lăn bánh *lọc cọc* theo ở phía sau.

Trưởng công chúa tín nhiệm Huyền vương nên phủ Huyền vương rất gần hoàng cung. Chưa đến phủ nhưng từ xa đã nhìn thấy ánh đèn lồng sáng sủa trước cửa, tất cả đều là đèn lồng đỏ tỏa ra ánh sáng vô cùng ấm áp.

"Vương gia về rồi." Vương phi Ngọc Thụ bước ra, y phục xanh nhạt toàn thân bên dưới ánh đèn tô thêm khí chất trang nhã điềm tĩnh, nàng nhận lấy đèn lồng trong tay Huyền Mặc, kinh ngạc hỏi nhỏ: "Vương gia cầm đèn lồng mà lại không đốt sao?"

Huyền Mặc thoáng ngẩn ra, nhìn lại thì mới nhận ra chiếc đèn lồng màu trắng không hề được đốt lên, ánh sáng từ những ngọn đèn khác chiếu lên khiến chất giấy trắng chợt trở nên mỏng manh dễ vỡ như thủy tinh, chỉ cần chạm nhẹ liền sẽ vỡ tan.

Hắn nhẹ giọng đáp một câu 'quên mất' rồi đi vào phủ.

Ngọc Thụ cầm áo choàng định khoác lên vai Huyền Mặc thì không cẩn thận chạm vào tay hắn, không khỏi hoảng hốt kêu to: "Sao tay vương gia lại lạnh như băng vậy?"

Huyền Mặc hờ hững nói: "Không việc gì." Dứt lời liền trực tiếp đi đến thư phòng.

Ngọc Thụ đứng nguyên tại chỗ nhìn nhìn theo bóng lưng Huyền Mặc thoáng cái đã biến mất sau vườn hoa, chiếc áo choàng trong tay bị gió thổi tung bay như một con diều.

"Vương phi?" Nha hoàn thiếp thân đứng bên cạnh thoáng hơi lúng túng, nhỏ giọng gọi: "Ban đêm gió lớn, xin vương phi mau về phòng kẻo bệnh."

Ngọc Thụ chậm rãi gật đầu, khi xoay người lại thì vẫn mang dáng vẻ dịu dàng muôn thuở, mỉm cười ra lệnh:"Vương gia trễ như vậy mới trở về, nhất định là đang đói, em đến phòng bếp dặn đầu bếp làm ít thức ăn khuya cho vương gia lót dạ đi."

Nha hoàn bất đắc dĩ gật đầu, "Dạ, nô tỳ đi liền. Vương phi cũng nên đi nghỉ sớm, thân thể người không tốt, không nên cố thức quá khuya."

Ngọc Thụ cũng không đáp lời mà vẫn giục: "Em mau đi đi."

Nha hoàn rời đi, Ngọc Thụ quay đầu nhìn qua hành lang gấp khúc, hướng về phía thư phòng sáng ánh nến, trước cửa sổ là một bóng dáng tuấn tú xuất trần. Nàng đứng nhìn một lúc lâu, cuối cùng thì chợt nhoẻn cười, dẫn những nha hoàn còn lại đến phòng trà. Ở đó vừa có được mấy hộp trà ngon, nàng muốn đi pha một ít cho chàng nếm thử.

Trong thư phòng, Huyền Mặc trải rộng một tờ giấy tuyên thành thượng hạng, chấm đầu bút lông vào nghiên mực, giơ cao bút nhưng hồi lâu vẫn chưa hạ xuống. Một giọt mực rơi xuống điểm một chấm thật đen trên mặt giấy trắng tinh nhưng hắn vẫn không hề phát giác, tựa như đang miên man nghĩ gì đó.

Khương Ngô đứng bên cạnh cẩn thận lên tiếng hỏi: "Vương gia, thuộc hạ đổi một tờ giấy khác cho người nhé?"

Huyền Mặc cúi đầu nhìn, sau đó bình tĩnh vo tròn tờ giấy rồi tùy ý ném xuống đất.

Khương Ngô không khỏi rụt cổ lại, hắn hầu hạ Huyền Mặc đã bảy tám năm, vô cùng hiểu tính tình của vị chủ tử vui buồn cũng không lộ này. Theo dáng vẻ như giờ, chắc chắn là đang vô cùng khó chịu.

Huyền Mặc ném tờ giấy cũ đi liền lấy ra một tờ khác, nhìn mặt giấy trống không hồi lâu rồi mới cúi đầu bắt đầu viết, viết cực nhanh, chỉ một chốc mà đã viết đầy tấm giấy. Sau khi viết xong, hắn cuộn lại giao cho Khương Ngô, dặn: "Sáng sớm ngày mai đến lễ bộ đưa cho Vu đại nhân, bảo ông ấy phái người gửi đến Bạch Chỉ Quan, đích thân giao cho Yến Tuân."

Khương Ngô sửng sốt, trong bụng đánh thót một cái, nhưng vẫn gật đầu đáp: "Thuộc hạ tuân lệnh." Nói xong thấy chủ tử không nói gì thêm thì lặng lẽ lui ra ngoài.

Phong thư đã được niêm kỹ, Khương Ngô dĩ nhiên không dám tự tiện mở ra xem. Hắn vừa đi vừa thắc mắc, nghe đồn hoàng thất cố ý liên hôn với Bắc Yến, đừng nói là thật chứ? Nếu là thật, vậy sau này vua Hoài Tống sẽ là họ Nạp Lan hay họ Yến đây? Chẳng lẽ mấy ngày trước Thái Bình vương đã hành thích thành công, giết được tiểu hoàng đế sao?

Tâm tư của những đại nhân vật kia dĩ nhiên không tới phiên hắn tùy ý phỏng đoán. Khương Ngô ngẫm nghĩ một hồi liền thôi không nghĩ nữa, sau đó bị mùi thơm ở phòng bếp hấp dẫn liền chạy đến đó.

Huyền Mặc ngồi trong thư phòng, tựa lưng vào lưng ghế khắc hình cửu long, chậm rãi nhắm hai mắt lại.

Tin Bắc Yến kết thân với Hoài Tống nhanh chóng truyền ra khắp đại lục Tây Mông. Trong thời điểm hỗn loạn như hiện tại, hôn sự này đã nói rõ quan hệ đồng minh giữa Bắc Yến và Hoài Tống. Rất nhanh sau đó, thủy quân của Hoài Tống lần lượt tụ tập ở cửa biển Hoàng Phủ, chăm chăm dõi mắt nhìn Đại Hạ tựa như sẵn sàng cùng Bắc Yến tiến quân bất cứ lúc nào.

Tối hôm đó, Bạch Chỉ Quan chìm trong vẻ tĩnh mịch lạnh lẽo như băng. Kể từ khi quân Bắc Yến chiếm đóng cửa khẩu, vẻ phồn hoa vốn có ở nơi này đã mất dạng không còn tung tích.

Khoảng canh hai, một nhóm người giả dạng quân lính mặc giáp đen lặng lẽ áp sát cửa khẩu.

Sở Kiều đi lẫn trong đội ngũ, lại một lần nữa lặp lại kế hoạch hành động lần này.

Đầu tiên, chuẩn xác đánh lén, nhất định phải gọn gàng hạ gục bất kỳ người nào có khả năng phát ra báo động hay uy hiếp bọn họ. Thứ hai, sau khi nhóm 1 tạo ra hỗn loạn, nhóm 2 ở hướng đông bắc xua ngựa ra khỏi chuồng đánh lạc hướng binh lính canh phòng, dàn cảnh quân Hạ bất ngờ đột kích. Thứ ba, những người còn lại chờ ngoài thành, vừa sẵn sàng tiếp ứng cho chiến hữu, vừa nhân dịp hỗn loạn chạy qua cửa khẩu.

Thời gian trôi qua từng giây, khoảnh khắc tiếng trống canh ba vang lên, Hạ Kỳ dẫn nhóm 1 nhanh chóng áp sát Bạch Chỉ Quan. Cùng lúc đó, nhóm 2 cũng tiến thẳng về phía đông bắc, nơi tất cả ngựa chiến được nhốt giữ.

Trong bóng tối, Hạ Kỳ mang theo các chiến sĩ Tú lệ quân tinh nhuệ nhất nhanh chóng khuất dạng. Sở Kiều và các thân vệ chờ trong rừng, nàng lẳng lặng cân nhắc toàn bộ kế hoạch lại một lần nữa, cố tìm xem còn điểm sơ hở nào không.

Một lần, hai lần, ba lần.

Tốt rồi, không còn vấn đề gì nữa.

Sở Kiều hít sâu một hơi rồi lẳng lặng chờ đợi tín hiệu.

Khoảng hơn nửa canh giờ sau, hướng đông bắc đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa tung trời xen lẫn tiếng binh sĩ gào thét như sấm, đuôi đàn ngựa đều bị buộc thêm nhánh cây khiến bụi mù tung tứ tán che khuất ánh trăng, nhìn qua như có vài chục vạn nhân mã đang ập đến. Trên tường thành Bạch Chỉ Quan lập tức vang lên tiếng trống báo hiệu, sự chú ý của tất cả binh lính đều hướng về phía đông bắc. Rất nhanh sau đó cửa thành hướng đông bắc của Bạch Chỉ Quan hé mở, hai đội thám báo lặng lẽ vọt ra, nhưng bọn họ còn chưa kịp chạy xa thì đã bị Tú lệ quân mai phục bên ngoài tiêu diệt gọn.

Lại thêm nửa canh giờ nữa trôi qua, khi nhìn thấy bên trong lóe lên ánh lửa, Sở Kiều đứng bật dậy, trầm giọng nói: "Đã đến giờ, đi thôi!"

Sở Kiều dẫn nhóm thuộc hạ lên chiếc bè đã được chuẩn bị trước bên bờ sông Xích Thủy, theo thủy lộ chèo hết tốc lực về phía Biện Đường.

Quân Bắc Yến đều do kỵ binh và giáp binh hợp thành, không hề có thủy quân. Bọn họ chỉ mới tiếp quản Bạch Chỉ Quan, dĩ nhiên không thể canh phòng toàn bộ thủy vực rộng lớn trong thời gian ngắn như vậy, nói chi đến hiện giờ trong ngoài đều có kẻ địch tập kích. Trong tình hình như vậy, đi đường thủy chính là lối vào Biện Đường tốt nhất.

Nhưng mới vừa đi được khoảng thời gian không đến một nén nhang thì phía trước chợt vang lên tiếng nước xao động mạnh mẽ. Sở Kiều giương cung, thả tên trong nháy mắt, mũi tên bay ra kéo theo một tiếng hét thảm trong bóng tối. Ngay sau đó, mấy trăm ngọn đuốc nhất thời bùng sáng, chiếu rõ hơn năm chiếc thuyền chiến.

Trường thương phóng đến từ bốn phương tám hướng, một gã binh sĩ Bắc Yến đứng ở đầu thuyền, liên tục huơ đao hô to: "Phản tặc chịu chết đi!"

Tên nhọn của mười mấy chiến thuyền đi đầu đều chĩa vào đám người Sở Kiều, gã thống lĩnh phất mạnh chiến đao, mưa tên lập tức rời cung lao đến.

"Nhảy!" Hạ Tiêu rống to.

Một giây sau, Tú lệ quân đồng loạt bỏ bè nhảy xuống sông Xích Thủy, bè bị tên cắm chi chít nhưng không hề vương giọt máu nào.

"Thống lĩnh, bọn chúng nhảy xuống sông rồi!" Một người kêu to, nhưng rất nhanh sau đó liền có người cuống cuồng hét lên: "Tướng quân! Thuyền bị rỉ nước!"

Ngay sau đó, vô số tiếng kêu hoảng hốt liên tiếp vang lên, rất nhiều chiến thuyền bị thủng đáy khiến nước sông tràn vào. Thoáng cái đã có ba chiến thuyền loại nhỏ bị chìm, binh lính trên thuyền lóp ngóp ôm lấy ít nhành cây thân gỗ trôi trên sông, ánh đuốc chập chờn, tiếng kêu gào tán loạn, cảnh tượng vô cùng hỗn loạn.

"Bọn chúng ở dưới nước!" Gã tướng quân kia giận dữ quát to: "Dùng nỏ đá, dùng trường mâu đâm chết bọn chúng! Mau đâm chết bọn chúng!"

"Tướng quân, không được đâu, dưới sông còn có người của chúng ta."

"Cút!"

Gã thân binh bị mắng nhưng vẫn không từ bỏ, vừa định hô to thì lại bị chiến hữu kéo sang một bên cho nên hết sức bất bình nói: "Nhưng bệ hạ đã nói phải bắt sống!"

Những người khác gấp gáp nói: "Bắt sống? Người chết rồi chưa chắc bắt được, giờ còn muốn bắt sống?"

Mặt sông sáng rực ánh đuốc, nỏ đá xếp thành hàng.

Gã tướng quân phẫn nộ quát to một tiếng ra hiệu, nỏ đá và trường thương liên tục bắn ra như mưa xuống sông, khiến mặt sông nhất thời nổ lên vô số bọt sóng màu đỏ quạch. Hết đợt công kích này đến đợt công kích khác, mãi đến khi mặt nước dần yên tĩnh trở lại. Chiếc bè gỗ của nhóm người Sở Kiều đã bị bắn tan nát, mảnh gỗ vụn dập dềnh tụ lại dưới đáy thuyền quân Bắc Yến.

Sau khi được lệnh dừng bắn, đám thủy quân Bắc Yến nghi ngờ nhìn mặt sông tĩnh lặng, cau mày hỏi: "Bọn chúng chết hết rồi sao? Sao vẫn chưa thấy xác nổi lên?"

"Nhìn kìa!" Không rõ là ai đột nhiên la lên, tất cả quay đầu nhìn thì thấy rất xa phía sau thuyền của mình lần lượt xuất hiện chi chít đầu người. Những người đó nổi lềnh bềnh trên mặt nước, vừa cởi áo ra vừa tụ lại một chỗ, chỉ một chốc sau đã theo dòng nước trôi đi càng lúc càng xa.

Gã tướng quân kinh ngạc mở to mắt nhìn, tức giận hỏi: "Đó là cái gì?"

Một lão binh nhiều kinh nghiệm nghi ngờ phỏng đoán: "Hình như là bè da dê."

"Mau đuổi theo!"

"Tướng quân, thuyền chúng ta bị bè gỗ vỡ cản đường, tạm thời không thể di chuyển."

Gã tướng quân đứng chết trân tại chỗ, gã có ưu thế thuyền cao người đông và vũ khí lợi hại nhưng cuối cùng vẫn để kẻ địch nghênh ngang thoát khỏi tay. Gần sáu vạn thủy quân Bắc Yến đứng trên chiến thuyền khổng lồ nhìn theo bóng đối phương dần biến mất trong bóng đêm mịt mù, hồi lâu vẫn chưa thôi thẫn thờ.

Sau khi hợp lại với nhóm Hạ Kỳ, Sở Kiều thống kê sơ qua nhân số thì phát hiện bên mình tổn thất hơn ba ngàn chiến sĩ. Trong đó có hai ngàn người là mất mạng dưới nỏ đá và trường thương của quân Bắc Yến. Đổi bằng cái giá này chính là toàn bộ Tú lệ quân và Sói binh đều thuận lợi vượt qua Bạch Chỉ Quan, quả thực là thắng lợi không thể ngờ. Có điều đây chưa phải là điểm cuối, bọn họ thành công vượt qua Bạch Chỉ Quan nhưng cũng đồng thời thu hút sự chú ý của quân Bắc Yến, trong khi đó, đại đa phần lãnh thổ lân cận Bạch Chỉ Quan hiện giờ đều do kẻ địch khống chế.

Sở Kiều quả quyết dẫn quân vào rừng, chọn đường núi mà đi. Đi được hai ngày, bọn họ lần đầu tiên đụng độ quân phe địch, trong ba ngày, hai bên giằng co giao chiến hơn hai mươi lần, phần lớn đều kết thúc bằng thắng lợi của Tú lệ quân. Dù sao đi nữa, so với quân Bắc Yến sở trường tấn công bằng kỵ binh, Tú lệ quân thông thạo nhất là dã chiến và tập kích cự ly gần. Dưới sự lãnh đạo của Sở Kiều, đoàn người vừa đánh vừa chạy, nhanh chóng tiến gần đến khu vực do hoàng thất Biện Đường cai quản.

Thế nhưng, ngay lúc bọn họ chuẩn bị rời khỏi sơn lộ áp sát địa phận Hàm Thủy thì Bắc Yến lại đột nhiên phóng hỏa đốt núi. Lửa cháy suốt bốn ngày, lan khắp các khu vực lân cận, liên lụy cả thôn trang gần đó, tử thương vô số. Sở Kiều bất đắc dĩ đành phải dẫn binh rời khỏi sơn lộ, vì phải tránh lửa cháy nên bọn họ đã đi chệch khỏi lộ trình hơn ba trăm dặm. Tuy Sói binh quen thuộc địa hình nhưng sáng sớm ngày thứ hai bọn họ lại chạm trán với truy binh của Bắc Yến.

Đến địa phận thành Lập Khang, đôi bên trực diện đánh một trận, đều thương vong nặng nề. Sở Kiều dẫn ba ngàn tinh binh đánh sâu vào doanh trại địch, trong lúc giằng co chủ soái địch không may bị tên lạc bắn trúng, sinh tử không rõ. Nhưng quân Bắc Yến quả không hổ là đội quân hạng nhất đại lục, chủ soái bị thương nhưng đội hình quân không hề hỗn loạn, vừa đánh vừa lui, vô cùng kiên cường.

Quân số cồng kềnh sẽ mất đi tính cơ động, đánh xong trận ở thành Lập Khang, Sở Kiều quyết đoán chia quân thành mười phân đội nhỏ, mỗi đội bốn ngàn người, cách nhau không đến bốn ngàn dặm thành hình cánh quạt*, dùng ngựa chiếm được trong mấy trận đánh trước đó, phi thẳng đến Hàm Thủy Quan.

*Dàn thế hình cánh quạt:

Nhưng vừa đến quận Nam Ly thì Sở Kiều lại đột ngột ngã bệnh. Trên thực tế, từ năm ngày trước nàng đã cảm thấy thân thể không ổn, bụng liên tục đau quặn, cả người hầm hập như phát sốt, đầu choáng váng, nôn khan không ngừng, tay chân rã rời không sức lực. Nhưng vì chiến sự khẩn cấp, nàng vẫn ngoan cường cầm cự cho đến giờ. Sau khi thoát khỏi tầm đuổi bắt của quân Bắc Yến, nàng cuối cùng cũng ngã quỵ.

Hạ Tiêu mặc kệ mọi phản đối của Sở Kiều, để tất cả binh sĩ chờ ngoài thành, mang nàng vào thành Nam Ly.

Tuy Biện Đường xảy ra nội chiến, Bắc Yến cũng mượn đường quét qua, nhưng độ hư hại vẫn kém xa so với Đại Hạ. Mấy thành trì lớn vẫn hết sức phồn vinh, ngoại trừ hàng hóa tăng giá khá cao vì chiến tranh thì không bị ảnh hưởng gì khác.

Hạ Tiêu đã ra ngoài tìm đại phu, Sở Kiều vốn luôn buồn ngủ hiện tại lại không ngủ được. Nàng nằm trên một chiếc giường sạch sẽ, thất thần nhìn lên màn giường trên đầu, suy nghĩ lẳng lặng bay xa.

Lúc quân Bắc Yến đuổi giết bọn họ, miệng không ngừng gọi 'phản tặc', có lẽ đã biết thân phận của nàng. Không sai, dựa vào trí khôn của Yến Tuân, hẳn đã sớm đoán được người có thể liều chết vượt qua cửa khẩu bây giờ, chỉ có Tú Lệ vương nàng mà thôi.

Nói cách khác, Yến Tuân đã hạ sát tâm đối với nàng.

Cũng đúng, Yến Tuân bây giờ đã kết thành đồng minh với Tĩnh An vương phi, nàng lại muốn dẫn binh trợ giúp Lý Tu Nghi, thân là thủ lĩnh ở Bạch Chỉ Quan, y dĩ nhiên sẽ phải giúp đỡ đồng minh cản đường nàng. Nơi chiến trường thậm chí còn không tính đến quan hệ cha con, nói chi là bọn họ?

Nàng hiểu rất rõ đạo lý này.

Yến Tuân càng lúc càng có phong phạm của một bá chủ, không những sát phạt quyết đoán mà còn hết sức can đảm cẩn trọng, thủ đoạn lại kinh người. Y bây giờ đã không còn là thiếu niên ẩn nhẫn co mình trong cung Thịnh Kim mười mấy năm trước, không cần nhìn sắc mặt của bất kỳ ai nữa.

Đại phu nhanh chóng được dẫn đến, Hạ Tiêu đứng phía sau, mặt căng thẳng nhìn đại phu thăm mạch cho Sở Kiều.

Lão đại phu râu bạc phơ trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên cười nói: "Chúc mừng, chúc mừng, phu nhân của ngài đã có tin vui."

Hạ Tiêu thoáng sửng sốt, ngay sau đó lập tức đỏ bừng mặt, cuống cuồng phân bua với lão đại phu: "Chớ nói bậy, đây là phu nhân nhà ta, ta chỉ là hộ vệ."

Lão đại phu nghe nói liền vội vàng xin lỗi, cười nói rằng thấy Hạ Tiêu khẩn trương như vậy nên mới tưởng lầm hắn là cha của đứa trẻ.

Trong lúc Hạ Tiêu và lão đại phu đối đáp qua lại thì Sở Kiều vẫn còn ngây người tựa như vừa bị một đao bổ trúng đầu, miệng há to, thật lâu cũng chẳng nói được câu nào.

Lão đại phu vừa nói gì? Có tin vui? Nàng mang thai?

Sở Kiều không thể tin nhìn lão đại phu, hỏi lại: "Ông vừa nói gì? Có thể nói lại một lần nữa không?"

"Phu nhân thật sự quá sơ ý rồi, sao lại không cảm nhận được gì cả khi cái thai đã ba tháng rồi? Ngoài ra, thể chất phu nhân đang rất yếu, mạch tượng hỗn loạn, nếu không tịnh dưỡng thì thai nhi sẽ bị nguy hiểm đấy."

Ba tháng?

Sở Kiều cúi đầu nhìn phần bụng vẫn bằng phẳng của mình. Nàng làm sao có thể mang thai được? Thời gian qua nàng liên tục chiến đấu, ngâm nước sông, cưỡi ngựa xông pha mưa tên biển đao, làm sao trong bụng nàng có thể có một đứa trẻ chứ?

"Ta sẽ viết cho phu nhân một phương thuốc dưỡng thai, phu nhân nhớ uống đều đặn, sau đó phải an tâm tịnh dưỡng, tuyệt đối không thể lặn lội đường xa, để bản thân mệt nhọc." Lão đại phu an ủi thêm mấy câu rồi cùng Hạ Tiêu đi ra ngoài.

Sở Kiều vẫn thất thần ngồi trên giường. Mấy tháng nay liên tục có tin dữ, không ngừng phải đối đầu với chiến sự căng thẳng, không ngờ nàng lại có thể mang thai trong hoàn cảnh như vậy.

Sở Kiều run rẩy đưa tay lên bụng, tựa như có thể cảm nhận được một sinh mạng đang lớn dần ở đó. Khóe mắt đột nhiên ươn ướt, nàng nhẹ cắn môi dưới, tiếng nức nở dừng ở cổ họng, lặng lẽ rơi lệ.

Nguyệt, ta đã mang thai con của chàng.

Chúng ta có con rồi.

Màn đêm dần phủ xuống, Hạ Tiêu đi vào thắp nến lên, mua ít thức ăn và canh bổ khí huyết mang đến bên giường Sở Kiều, lẳng lặng hỏi: "Đại nhân, chúng ta vẫn đi Đường Kinh sao? Hay là trực tiếp đổi hướng trở về Thanh Hải đi?"

Sở Kiều ngẩng lên nhìn hắn đăm đăm, không nói gì.

"Đại nhân, thân thể người bây giờ không thích hợp xông pha mặt trận nữa, người không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho Tứ thiếu gia và đứa trẻ trong bụng."

Sở Kiều nghe đến đó thì chấn động, cúi nhìn bụng mình, vẫn im lặng không nói. Thật lâu sau, nàng mới ngẩng đầu lên, nhẹ giọng nói: "Hạ Tiêu, ta đã lừa thằng bé một lần rồi."

Hạ Tiêu sửng sốt, không biết nàng đang nói ai nên hỏi lại: "Đại nhân nói gì cơ?"

"Ta đã lừa thắng bé một lần rồi." Sở Kiều đưa ánh mắt mông lung nhìn ngọn nến trên bàn, "Ta từng hứa sẽ ở lại bảo vệ thằng bé, không để người khác ức hiếp thằng bé, nhưng cuối cùng ta lại không làm được. Thằng bé đã không còn cha còn mẹ, ta nghĩ cho con mình, nhưng ai sẽ nghĩ cho thằng bé?"

Đến đây Hạ Tiêu mới hiểu Sở Kiều là đang nói đến Lý Tu Nghi – tiểu hoàng đế của Biện Đường, hắn cau mày nói: "Đại nhân, cục diện hiện giờ đã không còn như trước, sức lực của một mình người sẽ chẳng thể thay đổi được gì. Cho dù lúc trước người không rời khỏi Biện Đường thì cũng chưa hẳn có thể ngăn được chuyện xảy ra ngày hôm này. Thân thể người không tốt, chớ nên suy nghĩ quá nhiều, đừng ôm đồm mọi chuyện lên người mình nữa."

Sở Kiều ngẩng đầu lên, hít một hơi thật sâu, "Hạ Tiêu, trên đời này, ai cũng có những trách nhiệm không thể trốn tránh."

Nàng lẳng lặng nói tiếp: "Ta đã nhận quá nhiều ân nghĩa từ Lý Sách và Biện Đường, hiện tại đã đến lúc hoàn trả. Nếu ta để mặc đứa trẻ kia rơi vào hiểm cảnh, có lẽ cả đứa con trong bụng cũng sẽ xem thường ta."

Nàng ngồi dậy mang giày vào, đi đến bàn bắt đầu ăn cơm, ăn xong liền tự giác uống cạn chén thuốc. Bên dưới ánh nến, vóc dáng nàng vẫn hết sức gầy gò, không hề nhìn ra là người đã mang thai ba tháng.

"Yên tâm đi, sẽ không sao đâu."

Hạ Tiêu nhìn nàng, nhất thời không rõ nàng đang nói ai, là chính nàng, là đứa bé trong bụng nàng hay là Đường hoàng Lý Tu Nghi.

Gió đêm lành lạnh lay động cành liễu ngoài cửa sổ. Cảnh sắc Biện Đường vẫn như cũ, nhưng hơi thở của chiến tranh đã rất gần.

Cùng lúc đó, bên trong đại trướng ở Bạch Chỉ Quan, Yến Tuân mặc trường bào tuyền đen ngồi trên giường, phía dưới là hơn mười mỹ nhân trẻ tuổi vừa được phú thương địa phương đưa đến. Tất cả đều mặc xiêm y lụa mỏng, nửa hở nửa kín vô cùng mê người. Thỉnh thoảng cũng có thiếu nữ bạo dạn ngước lên lén nhìn nam tử quyền khuynh thiên hạ kia. Chỉ tiếc ánh mắt của hắn chưa bao giờ liếc về phía bọn họ dù chỉ một lần.

"Bệ hạ, chúng ta đã bố trí binh lực ổn thỏa, nhất định sẽ một mẻ diệt gọn Tú lệ quân ngay tại Hàm Thủy Quan."

"Người đâu!" Yến Tuân đột nhiên ngẩng đầu lên, vẫy tay với thân binh bên ngoài, "Lôi xuống đánh hai mươi côn!"

Thân binh lập tức kéo gã quan tham mưu lôi ra ngoài. Gã nọ không biết bản thân đã nói gì sai, cuống quít xưng tội nhưng không hề dám cầu xin tha thứ. Một lát sau, bên ngoài vang lên tiếng la hét thảm thiết, đám thiếu nữ quỳ trên mặt đất sợ hãi đến mặt trắng bệch, không ai dám ngẩng đầu lên nữa.

"Một mẻ diệt gọn..." Yến Tuân hờ hững lặp lại bốn chữ này, giọng điệu không nghe rõ buồn vui. Ánh nến chiếu lên khuôn mặt tuấn tú, mông lung như có tầng giấy vàng che phủ.

Bắc Yến vương cứ thế nghiêng mình nằm trên giường nhắm mắt lại, mặc kệ đám giai nhân yêu kiều quỳ phía dưới, nhanh chóng chìm vào giấc mộng.

Một đêm này, hai con người cách nhau mấy ngàn dặm nhưng đều thì thầm cùng một câu nói: "Chỉ mong không phải gặp lại."

Trong giấc ngủ chập chờn, khung cảnh rất nhiều năm trước như được tái hiện, bên dưới mái hiên rách nát, đứa bé gái mặc y phục hồng nhạt ngồi bên ngọn nến tù mù, xoa xoa bàn tay rồi áp lên khuôn mặt đỏ ửng, vừa vá quần áo vừa nói với thiếu niên ngồi bên cạnh: "Sa trường không có phụ tử, tất cả đều vì lợi ích của quốc gia, cho dù đối phương là huynh đệ ruột thịt cũng không thể lùi bước. Cái này không phải trong Tùy Đường Diễn Nghĩa, ta đang nói đến lịch sử nhà Đường, là chính sử đấy, huynh nghe rõ chưa?"

"Chính sử của ai? Sao ta chưa từng nghe nói đến?"

"Nghe hiểu là được rồi, chỉ cần học hỏi cái hay thôi, không cần biết là sử của ai."

"Nếu muội là Lý Thế Dân, muội cũng giết đại ca của mình sao?*"

"Dĩ nhiên, tha hắn sống để hắn đến giết ta à? Chẳng phải vừa kể huynh nghe rồi sao, về sau bọn họ không còn tình nghĩa gì cả. Phải rồi, huynh thì sao, chẳng lẽ sẽ không xuống tay?"

Thiếu niên im lặng suy nghĩ một chốc rồi đột nhiên nói: "Nếu là ta, lúc tấn công Lưu Chu Vũ** đã ra tay giết luôn rồi."

*Sự biến cửa Huyền Vũ (玄武門之變, Huyền Vũ môn chi biến) là sự kiện tranh giành quyền lực diễn ra vào ngày 2 tháng 7 năm 626 khi Tần vương Lý Thế Dân, một người con trai của Đường Cao Tổ (vị hoàng đế sáng lập nhà Đường), trong cuộc đua giành ngôi vị với anh mình là Thái tử Lý Kiến Thành đã tổ chức một cuộc phục kích trước cửa Huyền Vũ, trên con đường tới cung của Đường Cao Tổ, giết chết Lý Kiến Thành cùng em là Tề vương Lý Nguyên Cát. Sau khi biết chuyện, Đường Cao Tổ đã truyền ngôi cho Lý Thế Dân, tức Đường Thái Tông, còn mình làm Thái thượng hoàng cho đến hết đời.

**Lưu Chu Vũ là Định Dương khả hãn của Đông Đột Quyết nổi dậy năm 616. Sau trận này, cha của Lý Thế dân mới khởi binh lập ra đời Đường, và lập anh trai của Lý Thế Dân là Lý Kiến Thành làm thái tử. Ý Yến Tuân là giết mối hại từ trong trứng nước.

Đứa bé gái thoáng sửng sốt rồi giơ ngón tay cái lên nói: "Huynh lợi hại."

Ký ức cứ thế dần chìm vào trong màn đêm thăm thẳm, tất cả cảm xúc và tình cảm còn sót lại cũng vô thanh vô thức bị cuốn theo...

Sang ngày thứ hai, một người bí mật rồi khỏi Bạch Chỉ Quan, thúc ngựa đi thẳng đến Hàm Chỉ Quan, nơi hiện giờ có mười vạn tinh binh Bắc Yến đóng giữ, một là để trợ giúp Tĩnh An vương phi, hai cũng là phòng ngừa, bảo vệ đường lui cho quân chủ lực.

Cùng một ngày, Sở Kiều tụ hợp với Tú lệ quân và Sói binh bên ngoài quận Nam Ly. Bốn vạn người cùng giơ cao chiến đao nhìn như rừng gươm sắc.

"Hàm Thủy Quan cắt ngang thông lộ duy nhất dẫn đến tây bắc, chúng ta không công phá được Hàm Thủy thì sẽ không cách nào đến Đường Kinh chi viện cho hoàng thượng." Sở Kiều chỉ vào địa đồ, khoanh một vòng tròn quanh Hàm Thủy Quan, trầm giọng nói: "Đây chính là trận đánh sinh tử quyết định thế cục."  


Chương 190: Trùng Phùng

Bầu trời u ám, mưa không ngừng trút xuống.

Lân cận Hàm Thủy Quan có một đồng cỏ cao hơn đầu người, vô số tiếng sấm *đì đùng* lướt qua mặt sông, rồi đột ngột giáng sét *ầm ầm*, đốn gãy gốc cây du hơn trăm tuổi, khiến, làm bị thương hai binh sĩ Bắc Yến trong phiên gác. Một hộ dân ở phía đông thành bị sét đánh gãy xà ngang, bảy nhân khẩu trong nhà đều bị trần nhà sập xuống đè chết, thi thể nát như tương.

Đó chính là sự kiện đổ máu đầu tiên trong cuộc chiến ở Hàm Thủy Quan, không có chém giết nhưng lại đủ khiến bầu không khí vốn đã căng thẳng càng thêm khó thở. Dân chúng Hàm Thủy trốn rịt trong nhà, cho dù là ban ngày cũng không ai dám ra khỏi cửa. Mưa to đổ xuống con đường trống trải không một bóng người, chỉ có ít cỏ vàng bay *lạo xạo* trên mặt đất. Cỏ bị nước mưa làm ướt nên cũng bay không xa, vừa mới nương theo gió ngóc đầu lên đã bị hạt mưa đè xuống.

Trời đã mưa to liên tiếp mười một ngày, mực nước sông ở Hàm Thủy dâng cao, thời tiết dị thường, chim chóc cuống cuồng bay về phương bắc, mỗi đêm trên hoang nguyên đều văng vẳng nghe được tiếng sói hoang tru dài, thê lương tựa tiếng chuông tang. Người có tuổi trong thành nói rằng một mùa hè thời Hiếu Tông hoàng đế cũng xảy ra mưa to sấm sét không ngừng như bây giờ. Năm đó đại tướng quân Tiết Lệ của Biện Đường dẫn bốn mươi vạn quân tấn công Đại Hạ, vượt qua Hàm Thủy Quan trong thời tiết dị thường như thế rồi thẳng hướng bắc, bằng khí thế như chẻ tre công phá Bạch Chỉ Quan, đánh sâu vào nội cảnh Đại Hạ. Nhưng trong lúc Biện Đường háo hức chờ đợi chiến thắng, rửa sạch nỗi nhục bị Đại Hạ chiếm đoạt lãnh thổ thì vua sư tử Bắc Yến lại đột ngột xuất binh đập tan quân Đường, đích thân giết chết tướng quân Tiết Lệ vốn có danh bách chiến bách thắng, lại một lần nữa phá hủy hùng tâm xưng bá của Biện Đường.

Năm đó sông Xích Thủy nhuộm đỏ máu tươi, mặt sông ở Hàm Thủy lềnh bềnh thi thể kéo dài đến vài chục dặm. Sói hoang thi nhau nhảy xuống chỗ nước cạn kéo xác người lên bờ, đánh chén đến no say.

Đã mấy chục năm nhưng trận thảm chiến kia vẫn còn in rõ trong đầu những người có tuổi. Hiện tại, vua sư tử Bắc Yến đã chết từ lâu, mộ tướng quân Tiết Lệ đã sớm xanh cỏ, Biện Đường dần xuống dốc, nội bộ Đại Hạ phân tranh không ngừng, cảnh còn người mất, nhưng ưng kỳ Bắc Yến lại một lẫn nữa tung bay trên bầu trời Bạch Chỉ Quan, trải dài một đường quanh co, bay phần phật trên đầu thành Hàm Thủy.

Đầu tháng 5, Yến Tuân đáp ứng thỉnh cầu của Tĩnh An vương phi, tự mình dẫn binh đến Hàm Thủy đối kháng với số ít Tú lệ quân vẫn còn kiên cường trấn giữ ở đây, giành thấy ưu thế cho phản quân ở phía đông Biện Đường. Nhưng một ngày sau, Tú lệ quân do Sở Kiều chỉ huy đã xuất hiện ở quận Ngụy Liêu nằm ở phía tây Hàm Thủy, khiến thành trì nhỏ bé vốn không ai chú ý này chợt trở thành điểm nóng, thu hút ánh mắt của cả Biện Đường và toàn bộ đại lục Tây Mông. Chiến kỳ trắng hình mây đỏ bay phấp phới trên cổng thành thấp bé, Sở Kiều khoác giáp tự mình duyệt binh. Binh sĩ Biện Đường từng bị đánh bại ở Hàm Thủy được tin liền rối rít chạy tới Ngụy Liêu, chư hầu trung thành với hoàng thất ở nơi khác cũng nhanh chóng áp tải lương thảo đến chi viện. Chưa đến ba ngày mà binh số của Tú lệ quân đã lên đến chín vạn, và vẫn tiếp tục tăng không ngừng.

Sau khi Tĩnh An vương phi đột ngột dấy binh làm phản, đây là lần đầu tiên hoàng gia Biện Đường chính thức giương cao chiến kỳ chinh phạt phản đồ, cũng như tỏ rõ thái độ quyết liệt với đồng minh hùng mạnh của Tĩnh An vương phi là Bắc Yến.

Trước cục diện đối đầu căng thẳng đó, tất cả mọi người như ngừng thở, im lặng chờ đợi cơn bão chiến tranh tanh mùi máu kéo đến.

Ngày 14 tháng 5, mưa dầm đột nhiên ngừng lại nhưng mực nước sông Hàm Thủy vẫn còn cao đến kinh người và giữ nguyên như vậy suốt sáu ngày sau đó, khiến cho sự nhẫn nại của hai phe dần bị đẩy đến giới hạn cuối cùng. Tuy thống soái hai bên đều rõ không thể tránh khỏi việc đối đầu, nhưng vẫn một mực án binh bất động. Kiềm giữ mấy chục vạn quân trong khoảng cách gần như vậy, bọn họ hiểu đó là hành vi nguy hiểm đến cỡ nào. Bầu không khí căng thẳng cực độ bao phủ khắp địa phận Hàm Thủy, chỉ một sơ sẩy cũng có thể khiến người ta trở tay không kịp.

Bất kể Sở Kiều và Yến Tuân cẩn thận canh phòng đến đâu thì vẫn bị thám báo của đối phương thăm dò được, vì vậy mà phương pháp tác chiến cũng bị chỉnh sửa liên tục. Cuối cùng, bọn họ lại không hẹn mà cùng quyết định phương hướng và thời điểm hành động. Nhưng chẳng ai ngờ, lần đụng độ đầu tiên lại xảy ra vì một nguyên nhân khiến cả hai người bối rối không kịp trở tay.

Trưa mười bốn ngày sau, thái thú Mạc Húc của quận Võ Lăng vượt núi băng đèo, thận trọng tránh thoát tầng tầng chốt canh phòng của địch, áp tải năm vạn đấu lương thảo xuyên qua bình nguyên Hà Nguyên tìm đến đại bản doanh của Sở Kiều ở Ngụy Liêu.

Thái thú Mạc Húc sinh ra và lớn lên ở Biện Đường, tổ tiên từng theo Đường hoàng đời đầu chinh chiến khắp nơi, đời trước cũng có nhiều người được phong hầu bái tướng, có điều truyền qua nhiều đời, Mạc gia hiện giờ đã không còn phong quang như xưa. Nhưng nhìn thấy cảnh tượng nước nhà lâm nguy, vị thái thú tuổi đã hơn thất tuần lại tự mình dẫn binh mang theo lương thảo đến giúp Sở Kiều, muốn cống hiến một phần công sức cho đất nước.

Song mới đến bờ sông Thiết Tuyến, bọn họ lại bất ngờ đụng độ số ít quân binh đắp đê của Bắc Yến. Sông Thiết Tuyến là một nhánh nhỏ của sông Hàm Thủy, ba ngàn quân binh này là do Yến Tuân phái đi tu sửa bờ đê ở bờ sông phòng lũ ập vào đại bản doanh ở hạ du. Mạc thái thú dè dặt trong từng bước chân lại sơ ý bị số quân binh này phát hiện, đành phải động đao thương. Tiếng đánh chém ồn ào đã kinh động đến các thám báo đi trinh sát xa gần. Không đến nửa canh giờ sau, quân đội hai bên lần lượt kéo đến, chính thức triển khai thế trận.

Sở Kiều nhận được tin lúc đang ở trong đại doanh cùng các tướng soái bàn bạc đường đi cho chiến lược ngày mai, tin tức đến đột ngột khiến người luôn bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh như nàng cũng không tránh khỏi ngẩn người một lúc.

Một viên tướng Biện Đường cau mày nói: "Điện hạ, chúng ta nên lập tức phái người tiếp ứng bảo bọn họ rút lui. Công tác chuẩn bị bên ta vẫn chưa xong, sông Thiết Tuyến lại rất gần đại bản doanh quân Bắc Yến, không thể mạo hiểm."

Nhưng Sở Kiều lại lắc đầu, trầm giọng nói: "Chúng ta chưa kịp chuẩn bị thì Bắc Yến có đủ thời gian chuẩn bị sao? Theo tin nhận được từ thám báo thì chuyện xảy ra rất đột ngột, hoàn toàn ngoài dự đoán của hai bên, bất kể là chúng ta hay Bắc Yến đều không hề có chuẩn bị trước."

"Nhưng..."

"Hạ Kỳ, ngươi lập tức mang hai vạn bộ binh đến sông Thiết Tuyến, trận chiến đầu tiên của quân ta phải nhờ ngươi mở màn rồi."

Hạ Kỳ sửng sốt hỏi lại: "Hai vạn bộ binh?"

Sở Kiều gật đầu, "Phải."

"Nhưng nhân số bên ta phần lớn là kỵ binh và giáp binh, bộ binh chỉ có chưa đến tám ngàn."

"Vậy thì bỏ lại ngựa, nhớ kỹ, mỗi người phải mang theo ít nhất ba thanh đao, không thể mang giáp sắt, giáp da là được."

Hạ Kỳ vẫn còn cau mày khó hiểu, nhưng thấy Sở Kiều không hề có ý nói đùa thì gật đầu tỏ vẻ đã rõ, vác chiến đao nhanh chóng ra ngoài.

Viên tướng Biện Đường lên tiếng đầu tiên nhìn theo Hạ Kỳ ra ngoài, hỏi: "Điện hạ, chỉ hai vạn có đủ không? Tại sao không phái thêm nữa? Sông Thiết Tuyến dù sao cũng rất gần với đại bản doanh của Bắc Yến, tốc độ điều binh tiếp viện sẽ nhanh hơn chúng ta nhiều."

Sở Kiều lắc đầu, ánh mắt sắc bén trở nên thâm trầm, lẳng lặng nói: "Không cần, hai vạn là đủ rồi."

..................................................................................................................

Tiếng bước chân rầm rập khiến mặt đất rúng động không ngừng. Trong nháy mắt, trận địa đã đông nghìn nghịt người, binh sĩ không đợi nhìn thấy rõ mặt đối phương đã rút đao ra xông đến.

Mưa lớn liên tục mấy ngày đã khiến mặt đất bị xói mòn lồi lõm đầy bùn, gây ra cản trở không nhỏ, thế nhưng nhân mã hai bên vẫn điên cuồng lao vào nhau, tiếng đao kiếm va chạm ù tai như sấm.

Mạc thái thú tuổi đã hơn thất tuần ngồi trên lưng ngựa, mặt đỏ bừng, tay lăm lăm chiến đao. Thân binh kéo cương ngựa van nài kêu ông mau chạy đều bị hất ngã. Lão thái thú giơ cao đại đao, hô to một câu 'giết địch phục quốc' rồi thúc ngựa xông lên làm gương cho binh sĩ, người đã trúng hơn mười mũi tên nhưng ông vẫn không lùi bước. Thuộc hạ của ông theo sát sau lưng, bao gồm con trai, cháu trai hơn ba mươi tuổi, thậm chí có cả chắt trai chưa tròn mười sáu.

Lúc Hạ Kỳ dẫn người chạy đến thì cuộc chiến đã gần kết thúc, binh sĩ quận Võ Lăng tuy được sự anh dũng của tướng soái phe mình khích lệ, chỉ bằng thực lực của vài ngàn người vẫn kiên cường đối chọi với mấy vạn kỵ binh của địch, nhưng đến giờ cũng đã như nỏ hết đà. Hạ Kỳ không nói hai lời lập tức dẫn binh xông vào trận địa. Trải qua trận giày xéo trước đó, lớp bùn đất dưới chân càng thêm đặc quánh, biến toàn bộ khu vực sông Thiết Tuyến thành bãi đầm lầy. Vó ngựa bị lún sâu nên kỵ binh Bắc Yến đành phải bất đắc dĩ bỏ ngựa ứng chiến với bộ binh của Hạ Kỳ. Nhưng ưu thế của kỵ binh mang giáp là thúc ngựa xung phong trên thảo nguyên, còn đánh đánh chém chém trên mặt đất lún bùn như hiện giờ, bộ giáp trên người đã trở thành cản trở, khiến bọn họ không thể cử động linh hoạt.

Người ngã ngựa đổ, tiếng chém giết cùng tiếng kêu thảm thiết hòa lẫn với nhau khiến tràng diện trở nên hỗn loạn đến cùng cực. Máu thịt nát vụn, ánh đao loang loáng, sát khí hừng hực, mặt trời bị mây đen che khuất, diều hâu gào thét trên bầu trời đỏ quạch.

Quân Bắc Yến rốt cuộc cũng nhận ra điểm yếu của phe mình, có binh sĩ nhanh trí cũng muốn cởi giáp trên người xuống, nhưng tình huống nguy cấp như hiện tại sao có thể cho phép bất kỳ giây phút phân tâm nào, binh sĩ kia còn chưa kịp cởi giáp thì đã đầu lìa khỏi cổ.

Bên trong chủ trướng của Yến Tuân...

Sông Thiết Tuyến rất gần đại bản doanh của Bắc Yến nên tất cả tin tức chiến sự ở đó đều được cập nhật với tốc độ nhanh nhất. Nhưng cũng chính vì vậy mà khi Yến Tuân nhận được chiến báo, đám tướng soái bên ngoài nghe được tiếng chém giết, tưởng rằng có người tập kích nên chưa kịp bẩm báo lên cấp trên đã nhanh chóng phái kỵ binh đi trợ giúp. Đến khi Yến Tuân muốn thu hồi nhóm kỵ binh kia thì đã không còn kịp, nhân mã hai bên đã bắt đầu hỗn chiến.

Ban đầu tướng soái trong doanh trại còn chế giễu Tú lệ quân không biết tự lượng sức mình, song rất nhanh sau đó, theo từng chiến báo được truyền về, sắc mặt bọn họ càng ngày càng xấu đi. Có người chủ động xin được dẫn dắt bộ binh ra trợ giúp nhưng Yến Tuân đều lạnh lùng lắc đầu.

Đã quá muộn, bờ sông Thiết Tuyến là một dải đất bồi nhỏ hẹp, tụ tập gần năm vạn nhân mã đã là quá nhiều, bây giờ có tăng thêm viện binh cũng chỉ để hy sinh vô ích.

Nhưng cũng thể vô cớ để mặc hao binh tổn tướng như vậy, đây là trận đánh đầu tiên, nếu thua sẽ gây ảnh hưởng cực nghiêm trọng đến sĩ khí, đối với chiến cuộc sau này cũng tiêu cực không ít.

Vì vậy, Yến Tuân nhanh chóng ra lệnh cho toàn quân chuẩn bị trực diện tấn công Ngụy Liêu.

Đêm xuống, vầng trăng nhô lên, tỏa sáng xuống sườn núi trơ trụi, hơi sương mông lung bao phủ toàn bộ Hàm Thủy. Một gã tham mưu đã vào can gián mấy lần, nói rằng Hàm Thủy có lợi thế phòng thủ cực kỳ tốt, bọn họ chỉ cần giữ chặt nơi này là đủ, chớ nên chủ động tấn công để hao phí binh lực.

Ban đầu Yến Tuân còn không để ý đến gã tham mưu nọ, về sau không chịu được phiền nhiễu liền trực tiếp lệnh cho thân vệ trói gã lại nhốt vào hầm ngục. Bên tai không còn tiếng lải nhải, hắn cuối cùng mới có thể bình tâm đánh giá vị trí của cửa khẩu không tính là rất hùng vĩ này.

Gã tham mưu vừa rồi không rõ, rất nhiều người khác cũng không rõ, thậm chí cả đông đảo tướng soái theo hắn vào nam ra bắc có lẽ cũng không rõ ý định hiện giờ của hắn.

Tú lệ quân tấn công đích xác là để giải vây đế đô khỏi sự vây hãm của Tĩnh An vương phi, bọn họ muốn đến Đường Kinh thì nhất định phải vượt qua Hàm Thủy Quan. Vì vậy, chỉ cần tiếp tục trấn thủ Hàm Thủy Quan, tất sẽ không tránh khỏi phải đánh một trận với Tú lệ quân. Và so với phòng thủ, tấn công dĩ nhiên sẽ tổn thất nhiều hơn.

Bây giờ hắn chủ động hạ lệnh tấn công đối phương, tất có rất nhiều người cảm thấy khó hiểu.

Đó là bởi vì chỉ có mình hắn hiểu rõ thế cục trước mắt, Hàm Thủy Quan chính là cửa khẩu quan trọng nhất của Biện Đường, đây cũng là thành trì có nhiều nhân khẩu nhất đại lục Tây Mông, đạt đến con số hơn trăm vạn. Bắc Yến có thể dễ dàng chiếm lĩnh nơi này không gặp bất kỳ phản kháng nào, một là vì danh tiếng tàn nhẫn lạm sát lúc bọn họ đánh vào Đại Hạ khi trước, hai là vì cho đến giờ, quân Bắc Yến chưa từng thua trận nào, cứ thế chiếm giữ từng thành trấn một. Vì hai nguyên nhân này mà người dân ở Hàm Thủy Quan mới sợ hãi không dám vùng lên.

Nhưng hắn biết, chỉ bằng binh lực của hắn và Tĩnh An vương phi, sẽ không thể nào hoàn toàn đập tan lực lượng vũ trang của Biện Đường. Lạc vương bày mưu lập kế hơn mười năm còn bị đánh bại, hôm nay chỉ mình hắn cùng chừng này binh lực, làm sao tiêu diệt được được đất nước với hơn ngàn năm lịch sử này. Hắn hiểu rất rõ, hiện tại ở phía tây Hàm Thủy Quan đang có mười mấy tuyến quân binh Đại Đường đang im lìm nhìn về phía này chờ đợi, khi hắn và Tú lệ quân đánh nhau tới mỏi mệt, bọn họ chắc hắn sẽ ào đến.

Chính vì vậy, kết quả của trận chiến ở sông Thiết Tuyến vô cùng quan trọng, quy mô không lớn nhưng lại chính là thất bại không thể ngụy biện. Bây giờ cũng chỉ có thể dùng một chiến dịch lớn hơn che giấu thất bại này, thêm vào đó, hắn chủ động xuất quân công kích cũng có thể để kẻ địch đang rình rập thấy rõ thực lực của Bắc Yến.

"A Sở, trận đánh ở sông Thiết Tuyến, bất kể có phải là vô tâm cắm liễu hay không, nhưng chính muội là người tưới nước khiến liễu mọc cao*."

*Trích từ thành ngữ 'Hữu ý tài hoa hoa bất phát, Vô tâm sáp liễu liễu thành âm' – 有意栽花花不发,无心插柳柳成阴 – có ý trồng hoa hoa không nở, vô tâm cắm cành liễu xuống đất liễu mọc rợp thành bóng râm. Dùng để ám chỉ không chuyện gì được như mong đợi, lên kế hoạch thì thất bại, thành công lại đến từ thứ không ngờ.

................................................................................................

Bên dưới bầu trời đêm thăm thẳm, Yến Tuân ngồi trên vương liễn*, chiến xa được kéo với tám chiến mã Bắc Yến thuần chủng lông đen nhánh, người mặc mãng bào tuyền đen như mực. Hắn hơi nâng cằm, nheo mắt nhìn thành trì ẩn trong bóng tối ở xa xa.

*Chiến xa dành cho vua

Một vũ cơ quyến rũ quỳ cạnh vương liễn, lưng áo hở hoàn toàn để lộ da thịt óng mịn như mật ong, nàng ta ngẩng đầu lên, giơ cao ly rượu nho thượng hạng trong tay, yêu kiều cười nói: "Cầu chúc đại vương kỳ khai đắc thắng*, thành công bằm thây ả tiện nhân trong thành, nâng cao uy danh của Bắc Yến ta."

*Vừa xuất quân đã chiến thắng giòn giã


Yến Tuân thản nhiên liếc nhìn nàng ta một cái, khẽ cong khóe môi nở một nụ cười nhạt rồi hỡ hững hỏi: "Ngươi là con dân của Bắc Yến ta?"

Vũ cơ kia thoáng sửng sốt, nhưng cũng lập tức đáp lời: "Thiếp vốn là dân Hàm Thủy, nhưng đã kính ngưỡng uy danh của đại vương đã lâu. Hôm nay thiếp may mắn được trở thành người của đại vương, dĩ nhiên cũng chính là người dân Yến Bắc."

Ý cười ở đáy mắt Yến Tuân càng thêm rõ rệt, hắn cười nói: "Đất nước của ngươi bị ta đánh chiếm, đồng bào của ngươi bị ta tàn sát mà ngươi vẫn nói ngươi là người của ta, xem ra ngươi quả thật rất trung thành."

Vũ cơ kia được khen thì vô cùng hớn hở, vội vàng tranh thủ bồi thêm: "Thiếp dĩ nhiên là người của đại vương, chỉ cần đại vương muốn, thiếp nguyện ý vì đại vương làm bất cứ chuyện gì."

""Bất cứ chuyện gì?" Yến Tuân khẽ nhướng mày.

"Vâng." Vũ cơ mở to đôi mắt long lanh như nước, chúm chím cánh môi đầy đặn như có thể bấm ra mật, nghiêng eo thon áp ngực lên đùi Yến Tuân, thẽ thọt: "Bất cứ chuyện gì."

Yến Tuân cười to rồi nói với thị vệ ở hai bên: "Nàng ta bảo sẽ vì ta làm bất cứ chuyện gì, sao có thể không thành toàn cho nàng ta chứ? Lúc tấn công Ngụy Liêu, để nàng ta xông lên trước tiên đi."

Hắn vừa dứt lời, thị vệ hai bên lập tức tiến đến nhấc vũ cơ nọ lên. Vũ cơ tái mặt, cuống quít hét to: "Đại vương! Đại vương tha mạng! Thiếp thân nữ yếu đuối, sao có thể ra trận giết địch được! Đại vương tha mạng!"

Ả vũ cơ cứ thế bị lôi đi, Yến Tuân tựa người vào lưng ghế, lẳng lặng xoay xoay ly rượu nho trong tay, lẩm bẩm lặp lại: "Bất cứ chuyện gì?"

Hắn chợt bật ra một tiếng cười lạnh.

Cùng lúc đó, bên trong thành Ngụy Liêu, một bóng dáng mảnh khảnh yếu ớt mặc chiến giáp đứng trên cổng thành cao ngất, dõi mắt nhìn ra xa. Ánh đuốc chiếu rọi khiến đường chân trời sáng rõ như ban ngày.

Nàng biết, Yến Tuân đang ở đâu đó giữa hàng vạn hàng nghìn ánh đuốc kia. Từ khi nàng dứt áo ra đi mấy năm trước, hôm nay chính là lần đầu bọn họ gặp lại nhau.

Nàng vốn nên nghĩ tới sẽ có ngày hôm nay. Vận mệnh luôn như một đứa trẻ bướng bỉnh khó chiều, luôn thích bày ra những trò chơi oái ăm.

Sở Kiều chậm rãi ngẩng đầu lên, gió đêm thổi lên thân thể nàng, hất tung lọn tóc hai bên thái dương. Ánh đuốc khiến bầu trời trở nên đỏ rực lửa, tựa như rất nhiều năm trước, bọn họ từng vai kề vai, nắm chặt chiến đao chém nát cửa lồng giam, mở đường máu thoát ra ngoài.

Nếu sớm đoán được sẽ có ngày hôm nay, khi đó liệu bọn họ còn có thể nắm tay nhau vào sinh ra tử không?

Nàng chậm rãi nhắm mắt lại, vẻ kiên định hằn rõ trên khuôn mặt xinh đẹp. Thế sự như con sóng to trong biển rộng, chẳng ai ngờ khi nào nó sẽ ập đến.

Sở Kiều siết chặt cán đao, trước mắt dần hiện lên hình ảnh của nam nhân có đôi mắt sáng rực như mắt sói. Vẫn là cuồng phong gào rít bên tai, bóng đêm thâm trầm vô tận, vẫn khung cảnh máu lửa cùng mưa tên dày đặc như lúc đó...

Một tiếng *ầm* đột nhiên vang lên, đuốc đỏ ngập trời, tiếng trống trận dội vào trước ngực, cả vùng đất như cũng chấn động theo từng nhịp trống.

Hạ Tiêu giương cao cự nỏ, kéo căng dây nỏ rồi chợt buông tay, mũi tên rời nỏ lao đi tựa một ngôi sao băng. Cùng lúc đó, trong đội ngũ của đối phương cũng có một mũi tên bén nhọn bắn ra với tốc độ nhanh hơn tên của Hạ Tiêu. Sau khi đụng độ, tên của Hạ Tiêu bị gãy nát nhưng mũi tên kia vẫn không giảm tốc độ, rít gió lao vùn vụt.

Sở Kiều nhìn thấy thì lập tức móc phi đao ra ném mạnh về phía mũi tên, phi đao và mũi tên chạm nhau, cùng lúc rơi xuống.

Quân đội hai bên đồng thời vang lên tiếng hoan hô tung trời.

Đứng giữa đội quân đông đảo, Yến Tuân thả cung xuống, chậm rãi ngẩng đầu lên.  


Chương 191: Thiên Hạ Ở Trước Mắt, Nắm Hay Buông? (Đại Kết Cục)

Hương hoa tường vi phiêu đãng trong gió đêm, không trung tĩnh lặng như tờ, Sở Kiều đứng trên tường thành cao, ánh mắt xuyên qua rừng đao lạnh lẽo, cuối cùng dừng lại trên người Yến Tuân. Năm tháng trôi qua bên tai *ào ào* tựa nước lũ, nghe như tiếng hùng ưng rít gào giữa hoang nguyên mênh mông.

Hắc kỳ trên đầu Yến Tuân đón gió bay phần phật, như hòa làm một với nền trời thăm thẳm không một ánh sao, không gian nóng rực ánh đuốc, đỏ hồng như màu máu. Yến Tuân đứng trên vương liễn vàng chói lọi, tay cầm cánh cung khổng lồ cũng bằng vàng, khiến mãng bào đen tuyền trên người càng thêm nổi bật, hai hàng mày dài tận tóc mai. Hắn ngẩng đầu lên, mắt phượng hơi nheo, lẳng lặng nhìn chăm chăm vào hình bóng quen thuộc trong trí nhớ.

Chiến trường đầy gươm đao tĩnh lặng đến mức đáng sợ, tất cả như ngừng hô hấp, cảm nhận từng hồi trống trận nện vào sống lưng, khuấy đảo máu trong người sôi trào.

Thời gian như ngưng đọng, hai vị chủ soái lẳng lặng nhìn đối phương, tầm mắt không hề dao động.

Và rồi, đại quân hai bên đột ngột ào đến như thủy triều, chính thức khai trận. Kỵ binh đồng loạt giương cao cung, tên nhọn xé gió lao *vun vút* về phía đối phương. Ngay từ lúc bắt đầu, thế trận đã bộc lộ toàn bộ mặt tàn nhẫn khốc liệt nhất của chiến tranh. Tiếng gào thảm thiết cùng tiếng rên rỉ đau đớn hòa quyện thành một chuỗi âm thanh hỗn tạp.

Chiến mã rít chói tai, đá lăn ào ạo xuống từ sườn núi, chiến đao loang loáng, mây đen che phủ mặt trăng, tựa như cả trời đất cũng nhắm chặt mắt, không nguyện chứng kiến cảnh tượng tàn khốc phía dưới.

................................................................................................

Trải qua một ngày một đêm chém giết, cửa thành phía đông Ngụy Liêu đột nhiên mở rộng, Tú lệ quân nhân dịp quân Bắc Yến đổi phiên tác chiến giục ngựa vọt ra khỏi thành, chạy thẳng đến bờ sông Thiết Tuyến. Đường đến bờ sông chật hẹp, mặt đất lại lún bùn nên quân Bắc Yến trên đường truy đuổi đành phải bỏ ngựa mà đi, nhưng khi bọn họ đuổi đến nơi thì Tú lệ quân đã lên bè da dê rời bờ, mượn dòng nước chảy xiết nhanh chóng rời đi.

"Đại nhân cẩn thận!"

"Bệ hạ cẩn thận!"

Hầu như là đồng thời, cả Yến Tuân và Sở Kiều đều nâng cung lên, tên nhọn cùng lúc rời cung lao vút về phía đối phương, chạm nhau rơi thẳng xuống nước, khiến thân vệ bên cạnh hai người hốt hoảng hô to.

Giữa con sông rộng lớn, Sở Kiều đứng trên bè nhìn thẳng về phía Yến Tuân.

Nàng biết, trận chiến vừa rồi chỉ là đánh cho ra vẻ, Yến Tuân hiểu rõ sẽ không thể nào ngăn cản nàng.

Yến Tuân chọn kết đồng minh với Tĩnh An vương phi nên phải giúp phản quân trấn thủ Hàm Thủy, nhưng nếu Tĩnh An vương phi thật sự đánh hạ Đường Kinh, thành công để hậu duệ của Tĩnh An vương ngồi lên đế vị thì đường lui của quân Bắc Yến tất sẽ bị bịt kín. Vì thế, trận đánh này hắn không thể thắng, nhưng cũng không thể để thua quá dễ dàng.

Yến Tuân vẫn cần nàng kéo dài nội chiến ở Biện Đường, cần nàng đến giữ cho Đường Hộ Quan vẫn mở rộng.

Ánh đuốc rọi sáng bừng mặt sông, hừng đông ở phía chân trời như một bảng màu pha trộn giữa đen đỏ và cam, nhìn vô cùng dữ tợn và ma mị. Bờ sông lộng gió khiến muôn vàn ngọn lửa như đang nhảy múa trong không trung.

Yến Tuân ngồi vững vàng trên lưng ngựa trong khi chiến mã bất an không ngừng giẫm đạp vó xuống mặt bùn. Sống lưng hắn vẫn thẳng tắp như xưa, toàn thân tỏa ra loại khí tức đế vương, tựa như một vị lãnh chúa bóng đêm uy quyền. Ánh mắt sắc bén lướt qua mặt sông nhìn ra xa xa, dừng trên bóng dáng mảnh khảnh nhưng vĩnh viễn luôn kiên cường ở đối diện. Gió đêm thổi tung mái tóc đen dài hai bên thái dương của nàng, bộ giáp bạc vấy máu như lấp lánh dưới ánh lửa hồng, nàng đứng đó, cách mặt sông hừng hực ánh lửa, cũng đang lẳng lặng nhìn hắn.

Tại khoảnh khắc ánh mắt hai người chạm nhau, hồi ức trong đầu Yến Tuân chợt như mặt băng xuất hiện một vết nứt, hắn thậm chí có thể nghe được tiếng *rắc* rất khẽ đó. Và từ chỗ nứt, dòng nước lạnh giá không ngừng rỉ ra.

Đã bao lâu rồi? Dường như đã lâu lắm rồi, lâu đến mức hắn hầu như đã không còn nhớ rõ nữa.

Cũng là một đêm tối mịt như hiện giờ, cũng là sau một trận chiến khốc liệt, nàng cũng dùng đôi mắt đó, cũng cách một khoảng sông mênh mông lẳng lặng nhìn hắn. Ánh lửa trong thành Chân Hoàng hừng hực ở chân trời, tiếng hét sung sướng của quân Bắc Yến ngân dài trên hoang nguyên rộng lớn, bọn họ từng quyết liệt quay đầu đi về hai hướng ngược lại, quyết tâm làm theo những gì con tim mách bảo là đúng.

*Xem lại chương 078, khi Sở Kiều quyết định quay trở về cứu quân Tây Nam trấn phủ sứ, để Yến Tuân qua sông một mình.

Có lẽ từ rất lâu về trước, ông trời đã sớm định bọn họ là hai ngôi sao băng thuộc hai quỹ tích ngược đầu, ban đầu xuất phát cùng một điểm, nhưng lại dần đổi hướng, càng lúc càng xa vì những điểm giao thoa tưởng chừng vô thưởng vô phạt với các số mệnh khác, cuối cùng đi theo quỹ đạo riêng của mình.

Bên kia sông, Sở Kiều cầm đao đứng trên lưng ngựa, lẳng lặng nhìn dòng nước chảy xiết. Sông Hàm Thủy đã chôn vùi ngàn vạn sinh mạng trong con nước mênh mông. Thế gian như lò luyện, còn vạt vật chính là củi than. Thứ bị ngọn lửa cắn nuốt đốt trụi chính là máu tươi và hy vọng của dân chúng, và cả những tín ngưỡng trái ngược nhau.

Nàng nhìn Yến Tuân, trăm ngàn ý niệm bỗng chốc như cát bụi trở về với đất. Mười vạn binh giáp như tan biến khỏi tầm mắt, chỉ còn lại hình ảnh cao ngạo của nam tử áo đen với ánh mắt tựa sói đứng giữ khoảng trời rộng lớn. Giống như rất nhiều năm trước trên đài Cửu U, nam tử từng bước bò dậy khỏi vũng máu, phía sau không có một ai nhưng lại tỏa ra khí thế đủ để hủy diệt bầu không khí thê lương trên đài.

"Đại nhân!" Bình An chạy đến, cả người xộc xệch, hai mắt đỏ ửng, nói bằng giọng mũi nghèn nghẹn: "Chúng ta đã mất hơn sáu ngàn huynh đệ trong trận chiến này."

Sở Kiều cúi đầu xuống nhìn, trên mặt cậu thiếu niên còn vương vết máu chưa khô, nàng cảm nhận được Bình An đã trưởng thành. Trải qua mấy trận chinh chiến đầy máu tanh, ánh mắt của cậu đã không còn trong trẻo nữa.

"Bình An, muốn đạt thành mục đích thì phải trả giá rất đắt." Tú Lệ tướng quân lẳng lặng nhìn ra rừng đuốc ở xa xa, hồi lâu sau mới thấp giọng nói: "Hòa bình chân chính chỉ có thể được đổi bằng chiến tranh."

Bình An nửa hiểu nửa không, lẩm nhẩm hỏi lại: "Hòa bình chân chính?"

"Phải, ta nhìn không ra, em có lẽ cũng nhìn không ra, nhưng cuối cùng sẽ có người nhận ra."

Sở Kiều ngẩng đầu lên, nhìn lần cuối về phía Hàm Thủy Quan. Lửa trên sông đã tắt dần, để lại tầng khói lượn lờ như sương. Chân trời phía đông thấp thoáng ánh vàng, người nọ mặc chiến giáp đen tuyền, vạt áo choàng bay phần phật trong gió đêm. Khoảng xách xa nhìn không rõ dung mạo nhưng nàng vẫn có thể tưởng tượng rõ ràng từng đường nét. Là dáng vẻ cùng dung mạo của người từng ngồi trên lưng ngựa bắn một mũi tên thẳng về phía nàng trong một buổi trưa trên trường săn rất nhiều năm trước. Khi đó, người nọ cứu nàng một mạng, và nàng đã đi theo y hơn mười năm.

Sở Kiều nắm chặt cổ tay phải, nơi đó có một miếng bảo vệ tay bằng sắt, tên nhọn hay đao sắc đều không thể bắn thủng. Đây chính là quà Triệu Tung tặng nàng, có một cặp, nàng đã đưa cho Yến Tuân một miếng.

Cuối cùng, nàng dứt khoát quay đầu đi, giơ cao roi thúc ngựa chạy nước đại, không hề ngoái lại nhìn về phía sau thêm lần nào nữa.

Bên bờ kia của sông Hàm Thủy, Yến Tuân cũng quay đầu ngựa đi. Một tướng lĩnh tiến đến hỏi: "Bệ hạ, chúng ta không đuổi theo sao?"

Yến Tuân không nói lời nào, trực tiếp lướt qua người hắn, đi xa rồi mới hờ hững buông một câu: "Lui binh."

Đại quân kéo đi nhanh như thủy triều rút, mặt trời nhú lên khỏi đường chân trời, lẳng lặng rải ánh sáng khắp thế gian. Hai đại quân đi ngược đầu, càng lúc càng xa.

................................................................................................

Quỳ bên trong đại trướng trống trải là một vị tướng quân mặc giáp. Ông đã quỳ ở đây như vậy rất lâu rồi. Mặt trời lên cao rồi lại đi xuống, đêm tối buông mình khiến bên trong đại trướng trở nên tối mịt, qua ánh sáng thỉnh thoảng lóe lên từ ngọc đông châu đính trên áo lông mơ hồ thấy được nét mặt nam tử ngồi trước mặt.

Sau khi trở về từ sông Thiết Tuyến, người nọ vẫn không nói gì, chỉ lẳng lặng ngồi như vậy, tựa như quên hết mọi chuyện xung quanh mình. Thảm cỏ xanh ngoài trướng dập dền lay động đưa mùi cỏ thanh mát lẫn vào trong gió đêm. Tháng 5, Biện Đường đang vào mùa hè nên ban đêm văng vẳng tiếng ve kêu trong trẻo, cỏ trên hoang nguyên mọc cao hơn nửa người, đom đóm đậu trên đầu ngọn cỏ tỏa ra ánh sáng yếu ớt, lập lòe trong đêm.

Trong đại trướng tĩnh lặng như tờ, người mặc giáp tướng quân không dám động đậy, không dám thở mạnh, thậm chí cũng không dám đi thắp đèn. Ông không phải là nguyên lão trong quân đội Bắc Yến, lại càng không phải là bộ hạ kỳ cựu. Kỳ thực, những người đi theo Yến Bắc vương từ những ngày mới khởi binh đến nay đã không còn được mấy người, hiện giờ binh tướng trong quân đội đều là những người kiếm sống vì nghiệp cầm đao thương. Bệ hạ tuy thâm trầm khó dò nhưng lại thưởng phạt rõ ràng, đặt nặng công lao trên chiến trường. Chỉ cần ngươi dám đánh dám giết, không sợ không có cơ hội thăng tiến.

Vị tướng quân quỳ trong trướng họ Mục, tổ tiên cũng được coi là dòng dõi thư hương, tuy gia tộc đến thời này đã xuống dốc nhưng ông ta cũng là người hiểu biết chữ nghĩa, khá thông thạo binh pháp. Nhờ vậy nên ông ta mới có thể từng bước thăng cấp, chỉ trong vài năm ngắn ngủi đã trở thành một trong những vị tướng chủ chốt của quân Bắc Yến.

Chẳng giống những người khác, Mục tướng quân cảm thấy bệ hạ không phải là người tàn nhẫn như trong truyền thuyết. Đúng là bệ hạ từng giết thầy, giết muội muội, giết toàn bộ Đại Đồng Hành từng nâng đỡ mình nhiều năm, nhưng thế thì sao? Người có liên quan tới những người đó sẽ cảm thấy bệ hạ vong ân phụ nghĩa, mắng bệ hạ lòng đầy dã tâm, nhưng người ngoài như ông lại thấy rất rõ, Đại Đồng Hành không thông quân sự cũng không am hiểu chính sự, cơ cấu nội bộ phức tạp, chỉ biết tranh đoạt quyền lợi, tình trạng nội đấu kết bè kết đảng vô cùng nghiêm trọng. Bọn họ chiếm cứ Bắc Yến bao nhiêu năm nhưng chẳng làm được gì nhiều, phía bắc có Khuyển Nhưng quấy nhiễu, phía đông bị Đại Hạ quản chế, bọn họ không thể bảo vệ dân chúng nhưng lại muốn nắm giữ chính quyền. Đối với đám người như vậy, nếu bệ hạ không dùng vũ lực và thủ đoạn cứng rắn, e chỉ tiếp tục khiến tổ chức hỗn loạn và tiêu cực này ngày càng nhiều.

Người làm đại sự, giết mấy người thì tính là gì chứ?

Từ xưa đến nay, tranh giành quyền thế có khi nào không máu chảy thành sông?

Cùng một sự việc, đế vương luôn phải có cách nhìn nhận khác với dân thường, luôn phải chọn lựa giữa đại cục và tư tình.

Vì vậy mà Mục tướng quân thật sự chẳng có hảo cảm gì với Tú Lệ tướng quân. Theo cách nghĩ của ông, nữ nhân thì có bổn sự gì thành được nghiệp lớn chứ?

"Mục Lãng." Một giọng nói trầm khàn đột nhiên vang lên trong đại trướng trống trải. Mục Lãng vừa nhanh nhảu thẳng sống lưng lên thì đã nghe người kia tiếp lời: "Truyền tin cho Trình Viễn, bảo hắn thả lỏng canh gác ở cửa khẩu Nguyên Độ. Tú lệ quân muốn qua cửa khẩu thì cứ cho bọn họ đi qua. Để quân của Tĩnh An vương phi giải quyết."

"Dạ."

"Ngoài ra, bảo hắn không nên tấn công quân của Triệu Dương, hãy toàn lực công kích Triệu Triệt, bằng mọi giá phải tiêu hủy lương thảo của quân Triệu Triệt."

"Dạ." Mục Lãng nhanh chóng đáp lời: "Thuộc hạ sẽ lập tức phái người truyền tin đến Bạch Chỉ Quan."

Yến Tuân lắc đầu, trong bóng tối không nhìn rõ sắc mặt, "Không cần, sáng mai đi cũng được, không phải vội."

Mục Lãng hơi ngẩn ra, chiến sự khẩn cấp, sao lại không vội? Có điều Yến Tuân đã nói vậy, ông cũng không dám phản bác, chỉ lẳng lặng quỳ tại chỗ, không nói thêm lời nào.

"Đến đây, cùng ta uống một chén." Yến Tuân hơi khom người rót rượu, dưới ánh sáng yếu ớt của dạ minh châu, thần sắc Bắc Yến vương có mấy phần uể oải. Mục Lãng kinh sợ vì đột ngột được ưu ái, vội vàng tiến lên đỡ lấy ly rượu rồi đứng yên tại chỗ.

Yến Tuân tiện tay chỉ vào chỗ ghế bên cạnh, nói: "Ngồi đi, chớ đứng ngây ra đó nữa."

Mục Lãng dè dặt ngồi xuống, uống một hơi cạn sạch rồi nói: "Đa tạ bệ hạ ban rượu."

Yến Tuân cũng ngửa đầu uống cạn, Mục Lãng vội vàng rót thêm rượu thì lại nghe Yến Tuân cười nhạt, "Đã lâu không có người uống rượu cùng rồi, trước kia là vì hoàn cảnh nên không thể uống rượu, hiện tại không còn gì ngăn trở nhưng người ta muốn cùng đối ẩm đã không còn."

Cánh tay nâng bình rượu của Mục Lãng khẽ run lên, ông ta là người thông minh, từ lúc Yến Tuân hạ lệnh ngừng truy đuổi Tú lệ quân, ông ta đã cảm thấy có gì không đúng, bây giờ nghe vậy thì càng cảm thấy hình như bản thân vừa nghe thấy những lời không nên nghe.

"Nào." Yến Tuân tùy ý nói, nâng ly rượu chạm nhẹ vào chén của Mục Lãng, chất rượu nho đỏ sánh ra dính vào ngón tay cũng không để ý, một hơi uống cạn. Chỉ chốc sau, một bình rượu lớn đã vơi hơn phân nửa.

Tối nay Yến Tuân đã nói rất nhiều, tựa như tất cả lời của mấy tháng qua gộp lại cũng không nhiều bằng. Hắn hỏi Mục Lãng từ tình hình lương thảo đến trong nhà ông có mấy người, cha mẹ vẫn khỏe mạnh chứ, có mấy đứa con, có từng đi học không, cưới bao nhiêu thê thiếp, thậm chí còn hỏi quân kỹ trong doanh trại có xinh đẹp hay không.

Mục Lãng đêm nay cũng hết sức chấn động, trước kia không có cơ hội tiếp cận Yến Tuân, những gì biết về vị Bắc Yến vương uy quyền này đều là nghe lại được từ người khác. Hôm nay chứng kiến được dáng vẻ bình dị gần gũi như thế này của bệ hạ, ông càng cảm thấy bản thân lúc đầu không hề chọn sai, càng cảm thấy nữ nhân có gan phản bội bệ hạ đầu nhập Biện Đường kia đúng là không đồ biết tốt xấu.

Hai người cứ thế hàn huyên đến tận khuya. Ba tiếng trống canh đều đặn vang lên, Yến Tuân đã ngà ngà say, tựa lên đầu giường tiếp tục nói mấy chuyện vặt vãnh, tiếng nói càng lúc càng nhỏ dần rồi ngưng hẳn. Mục Lãng tưởng rằng Yến Tuân đã ngủ, cầm áo ngủ gấm bên giường đắp lên người hắn rồi cẩn thận lui ra khỏi đại trướng.

Bên trong đại trướng rất yên tĩnh, tiếng ngâm nga văng vẳng của binh sĩ từ rất xa vọng lại, quanh quẩn trong không trung, chất chứa cảm giác thê lương lạnh lẽo. Nam tử trên giường chợt mở mắt ra, đôi con ngươi đen nhánh thanh tĩnh như nước, không hề có chút men say.

Hắn lại chỉ có một mình rồi.

Bốn phía vô cùng trống trải, không một bóng người, bên ngoài gió thổi *vù vù*, rõ ràng là gió hè ấm áp, nhưng chẳng hiểu vì sao, khi luồn vào trong trướng lại mang theo chút lành lạnh. Hắn nằm trên chiếc giường rộng rãi, áo ngủ bằng gấm, màn châu lay động phát ra âm thanh réo rắt, lư hương chầm chậm tỏa ra mùi hương dễ chịu có tác dụng an thần.

Giường chăn hoa lệ, đêm hè ấm áp, nhưng cuối cùng hắn lại chỉ có một mình. Hệt như buổi tối của rất nhiều năm trước, nàng ngồi thuyền xuôi nam trong khi hắn đứng trên cổng thành Bắc Sóc nhìn ra giang sơn rộng lớn phủ đầy tuyết mà bản thân đã dày công xây đắp. Nàng cuối cùng đã thoát khỏi vòng tay của hắn, rời bỏ hắn mà đi.

Thật ra thì từ lúc còn rất nhỏ, hắn đã dự liệu được kết cục này.

Nàng luôn là một người thiện lương chính nghĩa, bất kể rơi vào khốn cảnh ngặt nghèo đến cỡ nào, dẫu người có đầy thương tích thì nàng vẫn giữ chặt hy vọng và hoài bão đối với tương lai. Ban đầu là hắn không ngừng động viên nàng, nhưng dần dần lại biến thành là nàng khích lệ hắn. Nàng miêu tả tương lai của hai người, nói cho hắn biết lý tưởng và hoài bão của nàng, chia sẻ chính kiến của nàng cho hắn nghe. Nàng luôn bình tĩnh, kiên cường tìm biện pháp giải quyết trong mọi hoàn cảnh. Nàng dạy hắn đao pháp và tiễn kỹ, dạy hắn binh pháp mưu lược, Ô Đạo Nhai trên danh nghĩa là thầy nhưng những gì hắn học được từ nàng còn nhiều hơn.

Nàng chính là thầy, là bạn, là người thân, là chỗ dựa của hắn, cũng chính là người phụ nữ duy nhất hắn yêu cả đời này.

Thế nhưng, càng gần gũi, càng hiểu rõ nàng thì hắn càng bất an. Không biết bắt đầu từ khi nào, hắn đột nhiên ý thức được, dường như cuối cùng sẽ có một ngày bọn họ mỗi người một ngả, cuối cùng sẽ có ngày nàng rời khỏi hắn.

Là từ lúc nào cảm nhận được?

Có lẽ là lúc thấy nàng tỏ vẻ thương cảm cho nô lệ, có lẽ là lúc thấy nàng và Triệu Tung càng lúc càng thân thiết, có lẽ là lúc nàng giảng giải cho hắn nghe thế nào mới là một xã hội phồn vinh an bình, cũng có lẽ là sớm hơn, hắn nhớ không rõ nữa rồi. Hắn chẳng qua chỉ mơ hồ nhận ra, tương lai cuối cùng sẽ có ngày hắn làm nàng thất vọng, hắn sẽ khiến nàng tổn thương, sẽ phá hủy phần tin tưởng và dựa dẫm quý giá mà nàng dành cho mình.

Chính vì thế, hắn đã tìm cách gạt nàng ra khỏi con đường mình chuẩn bị đi lên, muốn nàng rời khỏi quân doanh, không muốn để nàng nhìn thấy hai tay hắn nhuốm đầy máu, không muốn để nàng thấy hắn vì đạt được mục đích mà không từ bất kỳ thủ đoạn tàn nhẫn nào.

Hắn không phải là người thợ săn tìm cách bẽ gãy đôi cánh trắng của chú ưng oai hùng, hắn chỉ là một con cú quen với mỗi bóng đêm, sau khi đêm dài qua đi, trời hừng sáng thì hắn sẽ bắt đầu sợ hãi.

Trong bóng tối, Yến Tuân chợt cất một tiếng cười trầm thấp, ánh mắt trở nên mông lung.

Nhớ lại khi còn bé, cậu thiếu niên vì cảm thấy bất an nên từng hỏi cô bé: "Muội sẽ vĩnh viễn ở cùng ta, phải không?"

Cô bé ngẩng lên nhìn hắn, nở nụ cười tươi tắn, "Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ?"

Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ? Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ? Sẽ không, có đúng không...

Yến Tuân nhắm mắt lại, câu hỏi kia văng vẳng trong đầu, dư âm kéo dài mãi không nguôi.

Ta muốn dành cho muội những gì tốt nhất.

Nhưng thứ ta cho là tốt nhất lại không phải là điều muội mong muốn.

Yến Tuân lẳng lặng cởi sợi dây buộc ở cổ tay, miếng bảo vệ bằng sắt rơi *cạch* xuống mặt đất, dưới ánh sáng yếu ớt của dạ minh châu, ánh kim loại chợt lóe lên rồi tắt hẳn.

Đó là vật Triệu Tung tặng nàng, vốn là một cặp, nàng đưa cho hắn một cái, và hắn đã đeo nó mười mấy năm rồi.

"Lúc quyết định bước lên con đường này, ta cũng biết đời này muội nhất định sẽ không thể nào thuộc về ta. Muội là người của ánh sáng, còn ta lại có mục tiêu cần đổi bằng máu tanh, thế nên ta mới làm mọi cách muốn muội thần phục ta, nghe lệnh ta, đi theo sau lưng ta. Đáng tiếc, ta vẫn thất bại."

Trong bóng tối, nam tử lặng lẽ nở một nụ cười.

Để đạt được mục đích thì cần phải trả giá. Hắn đã bỏ ra cái giá mình phải trả rồi.

"Chẳng ai hy vọng sống một đời bình thường cả, vấn đề là khi cơ hội ở ngay trước mắt, ngươi có dám bắt lấy hay không mà thôi." Trong bóng tối, nam tử khàn giọng thì thầm. Tựa như một lão nhân đã trải qua mấy kiếp luân hồi, hắn uể oải nằm trên chiếc giường hoa lệ phủ đầy chăn gấm và áo lông quý giá, bình rượu trên chiếc bàn gần đó đổ ngả nghiêng, rượu chảy ra ướt mặt bàn, tỏa ra mùi thơm làm say lòng người.

................................................................................................

"Gia Cát Nguyệt, ngươi có dám hay không?"

"Ta không làm được." Gia Cát Nguyệt nhìn thẳng vào mặt người đối diện, trầm tĩnh đáp.

Gia Cát Mục Thanh đầu đầy tóc bạc, da dẻ nhăn nheo, mấy năm ngắn ngủi như đã cuốn sạch tuổi xuân của một nam tử trung niên, ông ta hiện tại như một đầm nước tĩnh mịch, không chút sự sống. Duy chỉ có đôi mắt vẫn còn vẻ điên cuồng, nhìn chằm chằm con trai mình.

"Triệu Triệt đã thất bại, Triệu Dương sẽ không cầm cự thêm được bao lâu nữa, khắp Đại Hạ hiện giờ chỉ một mình ngươi có thể thay đổi cục diện. Nếu bây giờ chúng ta loại bỏ Triệu Dương, khiến hắn suy sụp vì thất bại, sau đó ngươi chỉ cần vung tay hô hào thì thiên hạ sẽ rào rào hưởng ứng, khi ấy ngươi sẽ chính là người đứng đầu Đại Hạ. Chỉ cần đồng lòng, Gia Cát gia chúng ta sẽ có thể đập tan Bắc Yến trong vòng mười năm tới, thống nhất thiên hạ, đi lên địa vị chí tôn."

Hai mắt Gia Cát Mục Thanh long lên, đỏ ửng như mắt dã thú, ông ta nhìn thẳng vào mặt Gia Cát Nguyệt, nắm lấy vai hắn, lớn tiếng nói: "Tứ Nhi, số phận của Đại Hạ, tương lai của Gia Cát gia chúng ta, tất cả đều dựa vào quyết định của ngươi!"

Gia Cát Nguyệt lẳng lặng nhìn phụ thân mình, thật lâu vẫn không nói.

Phụ thân đã già, không còn là người đứng đầu gia tộc khiến kẻ khác thèm thuồng nữa. Ông trở nên mê hư danh, trở nên ngu xuẩn, cũng trở nên điên cuồng rồi.

Cả đời này, Gia Cát Nguyệt hình như chưa bao giờ thân cận với phụ thân mình. Mất mẹ từ lúc nhỏ, hắn đã sớm một thân một mình tự tìm chỗ đứng trong gia tộc Gia Cát, lặng lẽ như một cái bóng. Đến khi lớn lên, dựa vào sự nỗ lực của bản thân, hắn dần trở nên nổi bật giữa đám huynh đệ cùng thế hệ, mới được người cha đông đảo con cái này liếc nhìn nhiều thêm mấy lần.

Nhưng khi hắn thất thế, bị thương, bị đẩy vào cảnh thập tử nhất sinh, gia tộc lại không chút dung tình vứt bỏ hắn.

Khi hắn lại nắm quyền, mang lại vinh quang cho gia tộc thì bọn họ lại chọn huynh trưởng của hắn, muốn đẩy hắn vào chỗ chết.

Nhưng hắn lại không thể nào vì oán hận mà hoàn toàn cắt đứt với bọn họ.

Đúng như lời Ngụy Thư Diệp nói, dẫu chán ghét thân phận đến đâu thì bọn họ vẫn không thể chối bỏ sự thật rằng mình là con cháu thế gia, từ nhỏ đã hưởng thụ vinh quang do gia tộc mang đến thì bọn họ phải gánh vác trách nhiệm của con cháu thế gia.

Người này cuối cùng vẫn là phụ thân của hắn, là người sinh ra hắn, dạy dỗ hắn, từng vui vẻ vì hắn được thành tích cao, từng phấn khởi khi hắn thăng tiến. Tuy ông từng tàn nhẫn tuyệt tình nhưng vẫn là người cho hắn cuộc sống nhung lụa yên bình thời niên thiếu. Khi hắn còn nhỏ không thể bảo vệ bản thân, thì ông chính là người cáng đáng mọi chuyện, bảo vệ tất cả mọi người trong gia tộc, bao gồm cả hắn.

"Phụ thân, ta không làm được." Gia Cát Nguyệt lui về phía sau một bước, cúi đầu thật thấp hành lễ với phụ thân mình, "Bàn tay con người cũng chỉ lớn được đến vậy, không thể nắm giữ hết mọi thứ."

Ngọn nến dao động khiến ánh sáng như nhảy múa trên khuôn mặt tuấn tú, Gia Cát Nguyệt bình tĩnh nhìn Gia Cát Mục Thanh, lẳng lặng nói: "Ta cảm kích công ơn nuôi dưỡng của phụ thân, nhưng ta không làm được chuyện này."

"Đại Hạ không có ta thì vẫn còn những tướng soái khác, phụ thân không có ta thì vẫn còn những người con khác, nhưng Tinh Nhi không có ta thì không còn ai khác cả."

Hắn lại khom mình cúi chào người phụ thân có công sinh thành, nuôi dưỡng hắn, cũng như từng bỏ rơi hắn và muốn giết hắn, bình tĩnh nói: "Xin phụ thân bảo trọng."

Gia Cát Nguyệt dứt lời liền xoay người rời đi, ánh nến hắt lên bóng lưng hắn, tô thêm dáng vóc cao lớn cùng kiên định. Gia Cát Mục Thanh ngơ ngác nhìn con trai mình, ánh mắt ảm đạm, môi hé ra, hai tay vẫn giữ tư thế đặt lên vai người khác.

Ông ta đột nhiên ý thức được, dường như bắt đầu từ lúc này, ông đã vĩnh viễn mất đứa con trai này. Đứa con trai từng được ông ta coi trọng, được ông ta gửi gắm kỳ vọng nhưng lại khiến ông ta thất vọng, bị ông ta quất roi, bị ông ta vứt bỏ, bị ông ta trục xuất, bị ông ta cho người ám sát.

Gió bên ngoài lùa vào phòng, thổi lên thái dương tóc hoa râm, lướt qua sống lưng đã hơi còng của Gia Cát Mục Thanh, ông ta chợt cảm thấy cả người như lại già thêm mấy tuổi, khó nhọc nâng tay nhưng vẫn không thể níu kéo dòng thời gian vô tình chỉ có đi tiếp chứ không có quay lại kia.

Gia Cát Nguyệt chậm rãi đi từng bước một, hắn biết, một khi đã quay lưng rời đi, hắn sẽ không thể quay lại, ra khỏi cánh cửa này, tất cả tình thân máu mủ đều sẽ cạn khô, bá nghiệp tan tành. Nhưng hắn đều không màng, dù phải chọn một lần nữa, hắn cũng sẽ không thay đổi quyết định. Hắn muốn dùng giang sơn và thiên hạ này để nói cho nàng biết, đến tột cùng cái gì mới là thứ hắn quan tâm.

Không phải là bá nghiệp, không phải là lưu tên sử sách, cũng không phải là bước lên ngôi cửu đỉnh rồi một mình nhìn xuống trăm họ.

Thứ hắn muốn chỉ là sự bình an của nàng, chỉ là đặt nàng ở nơi hắn có thể nhìn thấy, nhìn nàng sống thật tốt.

Bởi vì có người muốn bảo vệ nên hắn mới liên tục nỗ lực làm bản thân mạnh mẽ hơn. Nếu người đó không còn, vậy làm tất cả những chuyện này còn ý nghĩa gì nữa chứ?

Cả đời hắn, tuyệt đối không làm chuyện sẽ khiến bản thân hối hận.

Gia Cát Nguyệt bước đi giữa doanh trại tràn ngập ánh trăng, gió lạnh thổi lên mặt khiến hắn thấy thanh tỉnh kỳ lạ.

Thiên hạ vẫn còn đó, chẳng đi đâu mà phải vội giành đoạt. Quân đội tan rã vẫn có thể gầy dựng lại. Nhưng người chết rồi thì sẽ thẳng thể nào sống lại.

Lời Triệu Triệt nói trước khi đi lại một lần nữa quanh quẩn bên tai hắn: "Nhận rõ điều mình muốn, sống cho bản thân một lần."

Bằng hữu của hắn sau khi bị huynh đệ bán đứng, hai mặt thụ địch, quân đội tan rã nhưng vẫn ngàn dặm xa xôi chạy đến gặp hắn, chỉ để nói một câu không liên quan gì đến đại cục như vậy.

Binh sĩ đã tụ tập sẵn sàng bên ngoài doanh trại, đang chờ lệnh xuất phát. Gia Cát Nguyệt hít một hơi thật sâu, nhanh chân tiến tới, tung mình nhảy lên lưng ngựa, hô to: "Lên đường!"

Cỏ khô và bụi đất bay mù mịt, tiếng vó ngựa *rầm rập* thẳng tiến về phía kinh đô cổ kính của Biện Đường.

Giang sơn vạn dặm, hoàng quyền vinh hiển ở ngay trước mắt.

Không phải hắn không dám, chỉ là không muốn đánh đổi.

................................................................................................

Tại trạm kiểm soát cuối cùng ở cực bắc, tuy đã là tháng 5 nhưng nơi này vẫn chìm trong bão tuyết, gió thổi ập vào mặt, rét buốt như bị đao cứa.

"Đi thôi." Triệu Triệt quay lại, mỉm cười nói với Ngụy Thư Diệp. Tuy đang trong quẫn cảnh nhưng nụ cười vẫn chứa đầy vẻ tự tin.

Ngụy Thư Diệp mặt đầy phong trần mệt mỏi, nhưng khi ngẩng lên nhìn Triệu Triệt thì cũng mang vẻ tự tin không chút nghi ngờ.

Dưới sự tấn công điên cuồng của quân Bắc Yến bằng chiến thuật biển người không ngừng rút rỉa quân số đối phương, lại bị quân đội không mấy tiêu hao của Triệu Dương công kích hậu quân áp tải lương, cả viện quân của Gia Cát Nguyệt cũng bị cản trở, Triệu Triệt lâm vào tình thế nguy hiểm, quân số giảm sút không ngừng, cuối cùng đành phải lui quân, bỏ lại mười ba tỉnh thành.

Khi bọn họ tụ tập đủ binh số, chuẩn bị phản công thì lại bị thuộc hạ phản bội, bán tin tình báo cho địch, nhận ra thì quân phe mình đã lâm vào tình trạng bốn bề thọ địch, không đường thoát.

Hôm đó, vị hoàng tử bách chiến bách thắng đứng trên ngọn đồi hoang tàn im lặng hồi lâu, cuối cùng chán nản buông chiến đao, quay lại nói với Ngụy Thư Diệp: "Chúng ta thua rồi."

Lúc ấy, tất cả tướng soái đi theo sau đều bật khóc, ngay cả Ngụy thiếu chủ từ trước đến nay luôn cao ngạo cũng chẳng kìm được nước mắt không cam lòng.

Không phải là không có phần thắng, không phải là không có cơ hội khôi phục thực lực phản công. Bọn họ can trường chiến đấu trên mọi mặt trận của tổ quốc, có quyết tâm cùng dũng khí sẵn sàng hy sinh bất cứ lúc nào.

Thế nhưng, bọn họ vẫn thất bại.

Không phải thua bởi tay địch trên chiến trường, mà là thua bởi sự ám toán của người cùng phe.

Cùng một lúc, bọn họ phải đối đầu với kẻ địch mạch mẽ nhất lịch sử, và cả tình cảnh suy tàn tồi tệ nhất mấy trăm năm qua của đất nước.

Vị hoàng tử trẻ tuổi ngẩng cao đầu, chiến mã bồn chồn gõ móng lên mặt đất phủ tuyết của phương bắc. Bước qua cửa khẩu sẽ không còn là lãnh thổ Đại Hạ nữa, lẫn trong bão tuyết mù mịt sẽ không còn bóng dáng cờ hiệu của Đại Hạ nữa.

Triệu Triệt nhìn lên bầu trời cao vời vợi, lẳng lặng nói: "Triệu thị sẽ không vong, chỉ cần là nơi có mặt trời mọc thì sẽ có con cháu của Triệu thị."

Dứt lời, hắn liền giương cao roi, thúc ngựa phi thẳng về phía trước. Quân đội cũng *rầm rập* theo sau, lần lượt qua khỏi biên giới, xông thẳng về phía bão tuyết cuồn cuộn.

Triệt Triệt siết chặt nắm tay, ánh mắt sắc bén tựa đao, môi khẽ mấp máy mấy chữ, không thành tiếng nhưng hết sức kiên định: Ta sẽ còn trở lại...

................................................................................................

Tại cổng thành Đường Kinh.

"Đại nhân!" Hạ Tiêu hét to, hai mắt đỏ bừng: "Thuộc hạ không đồng ý!"

"Hạ thống lĩnh, đây là mệnh lệnh.", Sở Kiều nhìn người thuộc hạ bản thân tin tưởng nhất, gằn giọng nói từng chữ một.

"Đại nhân, người hãy hộ tống Đường hoàng rời thành, để thuộc hạ ở lại cản đường địch."

Phía sau là tiếng vó ngựa *rầm rập* như sấm, Tĩnh An vương phi thống lĩnh đội quân đông gấp mười lần bọn họ đang tiến đến, khí thế mạnh mẽ như lũ lớn, không gì có thể ngăn cản.

Sở Kiều lạnh giọng hỏi: "Huynh làm được sao?"

Hạ Tiêu cau mày một thoáng rồi nói to: "Thuộc hạ thề chết sẽ..."

"Huynh có chết cũng không thế ngăn được." Sở Kiều đột nhiên cao giọng ngắt lời.

Hạ Tiêu nghe vậy, sắc mặt chợt trở nên tái nhợt, vừa định lên tiếng thì Sở Kiều lại cướp lời: "Hiện tại Đường Kinh đã bị bao vây bốn phía, bên ngoài có mấy chục vạn quân Bắc Yến phong tỏa, khí thế đủ khiến quân đội Biện Đường đóng ở các nơi chùn tay, sẽ không có ai chi viện cho chúng ta. Quân cả nước bây giờ do ta chỉ huy, ánh mắt kẻ địch dĩ nhiên sẽ đều ở trên người ta, chỉ cần ta còn đứng trên cổng thành thì bọn họ sẽ không dám chia binh truy kích. Nhưng nếu ta rời đi, bọn họ nhất định sẽ ngừng tấn công kinh thành, chuyển sang toàn lực truy kích theo sau. Đến lúc đó, chúng ta sẽ lâm vào tình trạng không có thành trì cố thủ, trước có quân Bắc Yến, sau có quân của Tĩnh An vương phi, sẽ chết còn thảm hơn!"

Hạ Tiêu không nghĩ tới điều này nên chỉ có thể cau mày nghe mà chẳng nói được tiếng nào.

"Hạ Tiêu, cầu xin huynh mang bọn trẻ chạy trước. Cả đời này của ta nhận đại ân từ Lý Sách, không bao giờ có thể trả hết. Hiện giờ ta đã không thể giúp hắn giữ nước thì ít nhất phải bảo vệ được hậu nhân của hắn."

Hạ Tiêu bi thương nhìn Sở Kiều chằm chằm một lúc rồi chợt mở miệng khẩn khoản: "Đại nhân, xin cho người khác đi đi, để ta có thể ở lại bên cạnh bảo vệ người được không?"

Sở Kiều lắc đầu, nhẹ giọng nói: "Ta không tin tưởng người nào khác cả."

Ánh mắt Hạ Tiêu nhìn Sở Kiều nóng rực tựa dung nham. Bao nhiêu năm cùng vào sinh ra tử, bao nhiêu năm sánh vai đồng hành, hắn ở cạnh nàng nhiều hơn ai hết, phần tình cảm nam nữ từng nảy mầm, theo dòng thời gian, đã dần thay đổi thành tình thân.

Cô gái trước mắt kiên cường, dũng cảm, thiện lương, chân thành nhưng cũng có lúc e dè sợ hãi, cũng có lúc mờ mịt không biết đi đường nào, cũng có lúc yếu ớt vùi mặt vào lòng hắn khóc to. Hai người bọn họ là chiến hữu, là bằng hữu, là thân thân, nàng vừa là chủ tử vừa là muội muội của hắn.

Trong ánh đuốc nóng hừng hực, Hạ Tiêu đột nhiên giơ tay ôm lấy Sở Kiều, nghiến răng nói: "Bảo trọng!"

"Huynh cũng bảo trọng!"

Hạ Tiêu tung mình nhảy lên chiến mã, Lý Tu Nghi ngồi trong ngực hắn nhoài người ra gọi to: "Cô cô! Cô cô!"

Hạ Tiêu kéo cậu bé lại, dùng áo choàng trùm kín cả người cậu rồi quả quyết dẫn đội tinh binh xông thẳng ra khỏi cửa thành phía nam, không hề quay đầu lại nhìn Sở Kiều thêm cái nào. Cũng cùng một lúc, cửa thành hai phía đông tây mở rộng, quân đội Biện Đường ùa ra giao chiến với kẻ địch.

"Cung thủ chuẩn bị!" Hạ Kỳ hét to: "Bắn!"

Hoang nguyên rộng lớn tựa như cối xay khổng lồ không ngừng cắn nuốt sinh mạng của binh sĩ hai bên. Trường thương và lưỡi đao loang loáng, vó ngựa cuồn cuộn như sấm.

Sở Kiều đứng trên cổng thành nhìn trận chiến, những hình ảnh trong ký ức lần lượt lướt qua trong đầu.

Nàng là người của hai thế giới, đã làm rất nhiều chuyện, gặp rất nhiều người, có chuyện làm đúng nhưng cũng có chuyện làm sai, từng bỏ lỡ cũng từng cô phụ người khác. Nhưng vô luận thế nào, bất kể là trong tình thế gì, nàng chưa bao giờ làm trái với tín niệm của bản thân.

Trong thời điểm sinh mạng bấp bênh như hiện giờ, nàng nhắm mắt lại, vô số bóng người lần lượt lướt qua, người nàng yêu, người nàng hận, người nàng phụ lòng, người nàng tổn thương, cuối cùng tụ lại thành một bóng dáng tuấn tú đang đứng trên đầu mũi thuyền lộng gió. Chàng quay đầu lại, dùng ánh mắt chan chứa thâm tình nhìn nàng.

"Nguyệt, ta yêu chàng." Sở Kiều thì thầm. Gió chợt nổi lớn thổi qua hai bên tóc mai, trời chiều đỏ như máu, âm thanh chiến trận lẫn trong tiếng gió ào ạt như thủy triều, rúng động cả cổng thành cổ kính, đinh tai nhức óc.

Nàng đặt tay lên phần bụng đã hơi nhô lên. Đây chính là hy vọng của nàng, khiến nàng có dũng khí đứng ở đây, giúp nàng kiên cường chống chọi với mọi thứ.

Khoảng cách xa như vậy, chàng chắc hẳn nghe không thấy.

Nảng mỉm cười ngẩng lên nhìn bầu trời bao la, "Nguyệt, ta yêu chàng ~!"

Nhưng ta cuối cùng cũng không thể ở bên chàng đến già.

Khóe mắt chợt cay cay, một dòng nước mắt trượt ra, thấm vào hai bên tóc mai.

Sở Kiều rút chiến đao ra, tất cả quân địch đang tập trung lao về phía cổng thành nàng đứng. Hạ Tiêu đã mở đường máu thoát đi rồi, bên tai vang dội tiếng la hét, đỉnh đầu là chiến kỳ trắng hình mây đỏ bay phần phật, sắc đỏ vô cùng nổi bật giữa hoang nguyên cuồn cuộn cát vàng, đỏ như ánh sáng hy vọng từ mặt trời.

Nàng quay đầu lại, lần lượt lướt mắt qua những chiến sĩ trẻ tuổi trước mặt.

Các chiến sĩ của Tú lệ quân nổi tiếng khắp thiên hạ, qua nhiều năm như vậy, những con người kiên cường này đã theo nàng liên tục chiến đấu trên đủ loại chiến trường từ nam đến bắc, chưa từng sợ hãi lùi bước.

Cuộc chiến ở thành Chân Hoàng, ở Tây Bắc, ở thành Xích Độ, ở thành Bắc Sóc, ở hồ Thiên Trượng, ở bình nguyên Hỏa Lôi, ở Long Ngâm Quan, ở Đường Kinh, ở Bạch Chỉ Quan, ở sông Thiết Tuyến...

Bảy năm, đội quân này đã dùng chiến tính anh dũng chứng minh lòng trung thành cho cả đại lục Tây Mông nhìn thấy, không phân biệt quốc gia, không phân biệt phe phái, không chiến đấu vì lệnh của bất kỳ ai, bọn họ chỉ chiến đấu vì nàng, vì lương tâm của mình.

Từng nhóm một ngã xuống rồi lại có nhiều người hơn xông lên, bất kể bọn họ có bao nhiêu nặng tình đối với quốc gia mà mình đang xả thân bảo vệ, bất kể cố quốc của bọn họ chỉ cách đây khoảng vạn dặm, bất kể chờ đợi phía trước là cái gì, bọn họ chỉ cần một lý do, chỉ cần mệnh lệnh của một người, chỉ cần có người nọ đứng trước mặt thì sự trung thành của bọn họ sẽ như băng ngầm dưới hồ sâu vạn trượng, dù núi lở sông cạn, xương thịt hóa thành tro cũng sẽ không dao động.

Không cần diễn thuyết rung động lòng người, không cần diễn văn cổ vũ tinh thần, cô gái trẻ tuổi cởi mũ giáp xuống để lộ mái tóc dài đen nhánh, hai mắt sáng như sao trời nhìn về phía binh sĩ, nàng mỉm cười với binh sĩ của mình, vung cao chiến đao trong tay.

"Chiến đấu vì tự do!" Hai ngàn tinh binh của Tú lệ quân hô cao khẩu hiệu xung phong.

Ngay sau đó, một tiếng *ầm* vang lên, cổng thành Đường Kinh cổ kính cuối cùng cũng đổ. Kẻ địch ào vào như thủy triều kèm theo tiếng hô hào điên cuồng.

Cuồng phong nổi lên, Sở Kiều cao giọng nói to: "Chư vị đi trước, ta sẽ theo sau."

"Đại nhân! Mạt tướng xin đi trước!" Một viên tướng cười lớn rồi nhảy lên lưng ngựa, giơ cao chiến đao, quát to: "Chiến đấu vì tự do!"

Các chiến sĩ Tú lệ quân cũng vung đao chạy theo viên tướng nọ, miệng hô to: "Giết!!!!!"

Trời chiều phủ xuống hoang nguyên, thiết kỵ tung hoành khắp nơi, đao kiếm như rừng. Gió thổi qua chiến trường khốc liệt, các chiến sĩ can trường múa đao, người trước ngã xuống người sau tiến lên, liên tục như sóng triều.

Toàn Đường Kinh ngập trong lửa chiến tranh, trăm năm trước, chiến kỳ hình hoa tường vi của Biện Đường từng bao trùm khắp đại lục, đứng đầu bốn phương, tính về diện tích lãnh thổ hay ý chí chiến đầu, Biện Đường từng không thua ai. Nhưng hôm nay nhìn xuống trên chiến trường, giáp trụ vỡ nát, chiến kỳ rách tả tơi, trên đỉnh cung điện bốc đầy khói đen, chết chóc bao phủ khắp đường phố hoa lệ, bên tai đều là tiếng ngựa hí thê lương cùng tiếng gào khóc của dân chúng...

Sở Kiều ngẩng đầu nhìn về phía tây, mặt trời đỏ au đang dần chìm xuống.

Đây là mảnh đất chôn cất những chiến sĩ khảng khái không sợ chết, chiến đấu bằng tất cả nhiệt huyết. Đời sau của bọn họ, dù đã dùng toàn lực vẫn không thể ngăn cản sự suy tàn của đế quốc.

Lịch sử huy hoàng, vinh quang cùng mộng tưởng trăm ngàn năm qua, hôm nay nàng tận mắt chứng kiến đế quốc vĩ đại này đi đến hồi kết.

Ráng chiều chiếu lên khuôn mặt tái nhợt, Sở Kiều hít một hơi thật sâu rồi nhắm mắt lại, trong đầu lại hiện lên một đôi mắt như mắt hồ ly kia.

Lý Sách, ta đã làm hết sức rồi.

Trên đời này không phải tất cả mọi thứ ngươi suy tính đều tuyệt đối chính xác, nhưng có lẽ lúc ấy, ngươi đã không còn lựa chọn nào khác.

Nguyệt, hẹn gặp lại ở kiếp sau.

Lại thêm một chiếc thang dây được ném tới, quân địch không ngừng bò lên, Sở Kiều vứt vỏ đao, xông về phía trước.

"Bảo vệ đại nhân!" Các chiến sĩ Tú lệ quân xông đến chắn ở trước người Sở Kiều.

Chiến sĩ Tú lệ quân dưới thành đều lăm lăm chiến đao, dàn trận ngay ngắn, không chút sợ hãi đánh sâu vào hàng ngũ của địch. Mặt trời đã khuất núi, sắc trời đỏ rực bao phủ bốn phía, chiếu lên những khuôn mặt lấm máu của các chiến sĩ càng thêm yêu dị, khiến con ngươi bọn họ càng thêm hồng. Bọn họ là một đội quân chứng kiến nhiều kỳ tích, bọn họ lấy ít thắng nhiều, thành công tử thủ thành Bắc Sóc khỏi liên quân đông gần trăm vạn người của Đại Hạ. Ở Long Ngâm Quan, bọn họ từng sóng vai đứng thành hàng, ngăn cản được thiết kỵ hùng mạnh của Triệu Dương.

Tiếng 'Giết' rung trời át mọi âm thanh. Tiếng ngựa kêu, tiếng đao kiếm vao chạm, tiếng giáp trụ xộc xệch cùng với khói đen mịt trời, tứ chi và máu văng tứ tung, thi thể ngã xuống bị vó ngựa chà đạp tạo nên khung cảnh chiến tranh tàn khốc đến cùng cực.

Mưa tên che phủ tia sáng ban ngày cuối cùng trên bầu trời, binh sĩ địch không kịp kêu một tiếng đã bị tên xuyên thủng. Chết chóc hiện hữu ở khắp mọi nơi. Các chiến sĩ giơ cao lưỡi đao đầy máu, quên hết mọi thứ, chỉ nhớ một động tác, đó là chém giết. Người bị thương ngã xuống, chưa kịp bò dậy đã bị ngựa từ phía sau ập đến giẫm đến nát đầu, óc văng tung tóe.

Đây quả thực là một cơn ác mộng đáng sợ vây hãm tất cả người có mặt nơi này, không ai có thể thoát ra được.

Cổng thành bị phá nhưng quân địch vẫn không thể tiến vào do thi thể chồng chất ngán ngang đường vào. Sở Kiều cầm đao đứng giữa đám đông, máu tươi nhuộm đỏ áo giáp, hô hấp dần trở nên dồn dập nhưng đao pháp càng lúc càng sắc bén.

Cầm cự thêm được khắc nào thì Hạ Tiêu sẽ có thể chạy xa hơn khắc ấy.

Sắc trời càng lúc càng thẫm lại, màn đêm chậm rãi buông xuống. Bốn phía đều là tiếng kêu thét, Sở Kiều càng lúc càng mệt mỏi, động tác không còn linh hoạt nữa, ngay cả lực công kích cũng yếu nhiều, nhưng khi bị tấn công vẫn toàn lực bảo vệ phần bụng.

Một gã quân địch nhân lúc len lén nhích đến gần, bên dưới ánh đuốc, đột nhiên nhìn rõ khuôn mặt thanh tú cùng chiến giáp khác biệt trên người Sở Kiều thì sửng sốt, lập tức nhận ra thân phận của nàng, liền há to miệng định thông báo cho người khác.

Tựa như là cùng một lúc, gã nọ không kịp nói tiếng nào đã *Á* một tiếng thảm thiết. Ánh đao bổ xuống với tốc độ nhanh không tưởng, máu bắn ra, gã nọ nặng nề ngã xuống, phía vai đứt lìa, thi thể góp phần xây thêm cho bức tường bằng xác chết kia.

Quân địch ngoài cửa thành kinh sợ đứng ngây ra tại chỗ nhìn bóng dáng mảnh khảnh trước mắt.

Sở Kiều đứng đó, một tay giơ cao chiến đao. Thính lực của nàng hiện tại nhạy bén đến kinh người, tựa như có thể nghe được tiếng gió thổi, nghe được tiếng máu nhỏ giọt, nghe được tiếng hít thở vì sợ hãi của đối phương, nghe được cả tiếng tim đập *thình thịch* của bản thân.

Không ai nhận ra, nàng đã mệt mỏi, mệt đến mức chỉ muốn nhắm mắt lại, mặc cho bóng tối bao phủ mình.

Ngã xuống đi, không cần gắng gượng nữa.

Hạ Tiêu có lẽ đã chạy xa rồi, đã mang tiểu hoàng đế rời thành tập hợp với viện binh của Tôn Đệ rồi, huyết mạch của Lý Sách sẽ được an toàn.

Gắng gượng nữa cũng chẳng ích gì, ngủ một lát đi, nàng làm đủ rồi.

Dưới chân dần nhũn ra, trước mắt bắt đầu choáng váng.

Ngay lúc đó, thế công của địch đột nhiên khựng lại rồi lần lượt thối lui. Phía đối diện vang lên tiếng la hét hối hả của gã lính truyền tin, khoảng cách quá xa nghe không rõ, chỉ thấy hắn rối rít múa ngọn đuốc như đang muốn ra hiệu chuyện gì đó.

Trận thế của địch bắt đầu hỗn loạn.

"Đại nhân?" Một tiểu binh còn sống sót bên cạnh Sở Kiều hoài nghi nhìn về phía nàng.

Sở Kiều ngây người một giây rồi như chợt hiểu ra, không nói tiếng nào liền lập tức chạy lên đầu thành.

"Đại nhân! Có viện quân!" Sở Kiều còn chưa lên được đầu thành thì một viên lính truyền tin lảo đảo chạy đến quỳ xuống trước mặt nàng, mặt đỏ ửng vì kích động, nói to: "Có viện quân!"

Sở Kiều cũng chẳng quan tâm đến lời của cậu lính truyền tin, vẫn nhanh chân chạy lên đầu thành, trước cổng thành vang lên tiếng ồn như sấm, tất cả chiến sĩ Biện Đường và Tú lệ quân đều đang vỗ tay hoan hô.

Phía đường chân trời xuất hiện một đường đen, ban đầu chỉ như một dòng suối mỏng manh, nhưng chỉ thoáng sau đã mở rộng thành một đại dương bao la. Vô số binh sĩ tay cầm đao, thân mặc giáp da màu xanh, ào ạt xông đến bằng khí thế tựa con lốc.

"Giết!!!!!!!!!"

"Là Thanh hải quân!"

Không rõ là ai hô lên trước tiên, ngay sau đó tất cả đều rối rít kêu to. Chúng binh sĩ vừa tìm được đường sống trong chỗ chết ôm nhau rơi lệ, vui sướng hoan hô. Tiếng hô xung phong đinh tai nhức óc của Thanh hải quân như lời đáp lại.

"Đại nhân! Chúng ta được cứu rồi! Đại Đường được cứu rồi!" Thống lĩnh của Sói binh người đầy máu xông đến, hưng phấn nói to với Sở Kiều: "Thanh Hải vương đang dẫn binh đến đây!"

Nhưng Sở Kiều không hề lên tiếng trả lời, nàng đứng im không nhúc nhích trên cổng thành đầy khói lửa, chiến đao buông rơi bên người, lẳng lặng rơi lệ.

................................................................................................

Bên bờ sông Hàm Thủy.

Dẫu cách rất xa nhưng quân Bắc Yến vẫn nghe được tiếng chém giết từ phía đông.

Mục Lãng tiến lên nói với Yến Tuân đang ngồi trên lưng ngựa: "Bệ hạ, chúng ta nên lên đường rồi."

Yến Tuân nhẹ gật đầu nhưng lại không hề động đậy, mắt vẫn chăm chú nhìn về phía đông hừng hực ánh lửa, vẻ mặt rối rắm khó dò.

Người nọ cuối cùng vẫn đến.

Chẳng rõ vì sao, cảm giác căng thẳng trong đáy lòng chợt biến mất, đổi lại thành sự trống rỗng đến cùng cực.

Trong tiềm thức, hắn không hi vọng nàng chết.

Nhưng lại không hi vọng người nọ sẽ đến.

Giang sơn hay mỹ nhân, từ xưa đến giờ luôn là lựa chọn nan giải.

Thứ hắn không thể buông tay, nhưng người khác lại có thể.

"Bệ hạ, sau khi Gia Cát Nguyệt rời khỏi Đại Hạ, quân ta liền lập tức tấn công Nhạn Minh Quan, hiện giờ Lục tướng quân đã công phá được cửa khẩu rồi."

"Bệ hạ, Triệu Triệt đã mang tàn binh bại tướng rời khỏi cửa khẩu phương bắc, Trình Viễn tướng quân thừa thắng xông lên, hiện đã chiếm lĩnh toàn bộ mười tám thành tỉnh khu vực đông bắc Đại Hạ."

"Bệ hạ, nội cảnh Đại Hạ bây giờ chỉ còn mỗi quân đội của Triệu Dương, hiện đang trấn giữ ở lân cận núi Phương Thốn."

"Bệ hạ..."

Trong thoáng chốc, Yến Tuân không hề nghe thấy lời nào, bên tai chỉ văng vẳng tiếng nói trong trẻo của rất nhiều năm trước. Đứa bé gái nở nụ cười tươi như hoa, hơi nhón chân giơ ngón tay chỉ chỉ vào lồng ngực hắn, cười hỏi: "Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ?"

Huynh sẽ không ức hiếp ta chứ?

Sẽ không, có đúng không...

Cuồng phong nổi lên, hai chú chiến ưng quanh quẩn trên đầu, phát ra tiếng rít chói tai.

Yến Tuân quay đầu lại, chợt thoáng ngơ ngẩn.

Người khác đã chọn lựa xong, hắn cũng nên tiếp tục lộ trình mình đã xác định từ trước. Bất kể chờ đón trước mắt là gì thì đó cũng chính là con đường hắn chọn cho bản thân.

Đời người ngắn ngủi, thời gian trôi qua không chờ ai, không được phép để nữ nhi tình trường quấn chân, không được phép do dự, không được phép xao lãng, không được phép hối hận quay đầu...

Trong lòng lại lẩm nhẩm tổ huấn của Yến thị, nghĩ đến cảnh tượng phụ mẫu bị Triệu thị trục xuất khỏi gia phả rất nhiều năm trước, cảnh bọn họ bị giết hại một cách tàn nhẫn trên cao nguyên Bắc Yến...

Từ nay về sau, lãnh thổ Đại Hạ sẽ do ưng kỳ Bắc Yến làm chủ, con dân Đại Hạ sẽ quỳ dưới chân hắn, sẽ tuân theo mệnh lệnh của hắn, tôn hắn làm vua. Cảnh tượng hiển hách đó, chỉ một người phụ nữ sao có thể sánh bằng, hắn không hối hận, tuyệt đối không hối hận.

Yến Tuân thúc ngựa tiến lên đi đầu, sau lưng là thiên quân vạn mã tựa như một đại dương trùng điệp.

Mục Lãng ở phía sau nhìn theo bóng dáng dần đi xa của Bắc Yến vương, chợt cảm thấy nam nhân này thật đơn độc.

Bóng tối dần nuốt chửng mọi hình ảnh xung quanh Yến Tuân, chỉ lộ ra sống lưng kiên định, thẳng tắp như trường thương.

................................................................................................

Bên trong Đường Kinh vang dậy tiếng hoan hô.

Sở Kiều đứng trước cổng thành, phía sau là vô số dân chúng cùng binh lính.

Gia Cát Nguyệt nhảy xuống khỏi lưng ngựa, cả người đầy gió bụi, vạt áo choàng xanh nhuộm máu khô biến thành màu đen thẫm.

"Chàng tới làm gì vậy?"

"Tới thu hồi vật thuộc về mình."

Hai mắt lại ửng đỏ, Sở Kiều mím chặt môi cố nén cảm giác cay cay nơi khóe mắt, tiến lên đấm nhẹ lên ngực Gia Cát Nguyệt, nhỏ giọng nói: "Ngốc."

Gia Cát Nguyệt giơ tay ôm nàng vào lòng, cười nói: "Tinh Nhi, theo ta về Thanh Hải đi."

Sở Kiều nằm trong lòng Gia Cát Nguyệt, nước mắt không kiềm được ào ra, thấm ướt áo hắn.

Nắng sớm rọi xuống bao phủ lấy hai người bọn họ, hắn nắm tay nàng, lòng bàn tay ấm áp mạnh mẽ, tựa như cả đời cũng không buông ra.

Nước mắt vẫn tuôn rơi không ngừng, Sở Kiều gật đầu thật mạnh.

Sau đó, nàng nhón chân nói bên tai hắn, giọng rất nhỏ nhưng chất chứa sự vui sướng không gì sánh được, "Nguyệt, ta có mang rồi."

................................................................................................

Trời đất rộng lớn, thời gian trôi qua như nước chảy, những gì nên kết thúc đều đã kết thúc, tương lai vẫn là một con đường không điểm kết.

Nhưng dẫu cho phía trước có khó lường bao nhiêu thì mùa xuân vẫn đến, gió vẫn trở nên ấm áp và vạn vật vẫn sinh sôi.

HOÀN CHÍNH VĂN

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro