Mục lục
Phần 1
TĂNG TỐC SỰ NGHIÊP CỦA BẠN:
TRỞ THÀNH MỘT CON NGƯỜI 80/20
1. Làm thế nào để trở thành một con người 80/20 8
2. Sự vươn lên của một cá nhân sáng tạo 25
Phần 2
CHÍN ĐIỂM CỐT LÕI CỦA
THÀNH CÔNG 80/20 TRONG CÔNG VIÊC
3. Sử dụng 20% sáng tạo nhất của bạn 55
4. Sinh sôi và biến đổi những ý tưởng lớn 76
5. Tìm kiếm những nguồn lợi nhuận quan trọng 103
6. Sử dụng Einstein 130
7. Tuyển chọn nhân tài 148
8. Sử dụng công ty hiện tại của bạn 179
9. Khai thác các công ty khác 211
10. Bảo vệ nguồn vốn 233
11. Phát triển Zigzag 253
Phần 1
Tăng tốc
sự nghiệp của bạn:
trở thành một
con người 80/20
1 Làm thế nào để trở thành
một con người 80/20
"Khi việc kinh doanh thay đổi, cá nhân chính là
người đem công cụ đến cho công ty".
Philip Harris, CEO, PJM Interconnection
"Ngày nay, gần như những bác thợ rèn ở các làng
mạc trên thế giới cũng có thể đóng các trục xe ở sân
nhà, gắn chúng với nhau và cạnh tranh với General
Motors. Và đó là những gì đang diễn ra theo đúng
nghĩa đen. Chúng ta có thể chứng minh điều đó qua
hệ điều hành Linux".
Paul Maritz, Phó Chủ tịch, Microsoft
"Trong tất cả mọi lĩnh vực, đơn vị chủ chốt của sự
sáng tạo giá trị chính là cá nhân... logic của những
chuỗi giá trị phi xây dựng được bao hàm trong giới
hạn của nó: cá nhân những người lao động (đơn vị
nhỏ nhất có thể trong một doanh nghiệp) bòn rút
những giá trị mà chỉ riêng mình họ tạo ra".
Philip Evans và Thomas S. Wurster,
Nhóm Cố vấn Boston
"Nếu bạn lấy đi 20 người quan trọng nhất của chúng
tôi, chúng tôi sẽ trở thành một công ty không quan
trọng nữa".
Bill Gates, Chủ tịch, Microsoft
"Vị hoàng đế trong tương lai sẽ là hoàng đế của ý
tưởng".
Winston Churchill
"Nếu trong tự nhiên có một điều gì khó bị tổn thương
hơn những tài sản duy lý khác thì đó chính là sức
mạnh của tư duy, hay còn gọi là ý tưởng".
Thomas JeffersonCó một cách mới để tạo ra sự giàu có tốt hơn con đường
truyền thống.Những cá nhân sáng tạo chính là trái tim của cuộc cách
mạng mới. Để tạo ra tài sản, những cá nhân sáng tạo quan
trọng hơn tập đoàn hay vốn.Cuộc cách mạng tuân theo một nguyên tắc đơn giản -
nguyên lý 80/20. Thành công xuất phát từ sự tập trung đặc
biệt vào một nhóm nhỏ những lực lượng rất quyền năng
hoạt động trong một lĩnh vực. Những lực lượng quan trọng
nhất mà nguyên lý 80/20 áp dụng chính là ý tưởng và cá
nhân. Nguyên lý này cũng áp dụng cho tất cả những "vật
liệu thô" khác của doanh nghiệp: khách hàng, đối tác, công
nghệ, sản phẩm, nhà cung cấp và vốn.Sự giàu có được bội nhân hiệu quả nhất bằng cách loại trừ
và sắp xếp lại các lĩnh vực, không phải qua những con
đường truyền thống như phối hợp hoạt động và tài sản.
Nhiều doanh nghiệp riêng rẽ được thành lập, được thai
nghén từ một ý tưởng sáng tạo mới của một cá nhân mới,
và chúng liên kết với nhau qua thị trường chứ không phải
qua cấp bậc và quy hoạch trung tâm.Cuộc cách mạng 80/20 có tầm quan trọng không kém ba
cuộc chuyển tiếp khác trong lịch sử kinh tế: cách mạng
nông nghiệp, cách mạng công nghiệp, và cách mạng quản
lý. Những cuộc cách mạng này dẫn đến những nền kinh tế
xã hội khác biệt nhau. Và có thể điều này sẽ xảy ra một lần
nữa trong hai thập niên tới.Có lẽ những thay đổi mầm mống nhất đã xảy ra - những
tập đoàn thành công nhất ngày nay đang xoay quanh một
số cá nhân. Tập đoàn phục vụ cho cá nhân chứ không phải
theo chiều ngược lại. Song điều này chưa xảy ra trên toàn
cầu. Hầu hết nền kinh tế - dù không phải những khu vực
có lợi nhuận cao nhất - vẫn tuân theo khuôn mẫu quản lý
cũ. Khi khuôn mẫu này chấm dứt, nền kinh tế sẽ thay đổi
đột ngột và cấp tiến. Chúng ta sẽ chứng kiến một sự chuyển
giao khổng lồ đưa sự giàu có từ các tổ chức, các doanh
nhân và những nhà đầu tư thụ động sang các cá nhân.Những cá nhân muốn làm giàu bằng cách trở thành một
phần trong cuộc cách mạng 80/20 có thể đi trước một bước.
Những bước này được mô tả đầy đủ trong Phần II.
Cuốn sách này nói về một cuộc cách mạng có thể thay đổi
cuộc đời của mỗi con người, những người đang làm thay đổi
thế giới. Tôi có thể gọi những nhà cách mạng đó là "những
con người 80/20", những người và những nhóm nhỏ đang sử
dụng nguyên lý 80/20 để tăng tốc sự nghiệp của họ và xây
dựng nên các doanh nghiệp. Có thể bạn đã là một con người
80/20 rồi mà không nhận ra điều đó. Nhưng nếu không, bạn
vẫn có thể có được mọi thứ bằng cách trở thành một con
người 80/20.
Nguyên lý 80/20, cuốn sách trước của tôi, đã trả lời hai câu
hỏi sau:Làm thế nào tôi có thể sử dụng nguyên lý 80/20 để tăng
thêm lợi nhuận cho công ty của mình?Làm thế nào tôi có thể sử dụng nguyên lý 80/20 để cá nhân
mình trở nên hiệu quả hơn?
Cuốn sách này sẽ trả lời một câu hỏi khác:Làm thế nào tôi có thể sử dụng nguyên lý 80/20 một cách
chuyên nghiệp, để tạo nên sự giàu có cho bản thân mình?
Đây là một cuốn sách nói về cá nhân trong công việc. Tôi
giải thích làm thế nào bạn có thể cực kỳ thành công trong sự
nghiệp của mình bằng cách tạo biến đổi trong bất cứ một
ngành nghề nào mà bạn đang làm việc. Bạn là một doanh
nhân, một nhà quản lý, một nhà quản trị, một nhân viên, hay
một người thất nghiệp... Không thành vấn đề. Bạn có thể sử
dụng phương pháp từng bước một được mô tả dưới đây để tổ
chức lại công việc hiện tại của bạn hay tạo nên một công việc
mới, sao cho bạn và những đồng sự thân thiết của bạn có thể
thu được lợi nhuận. Mục tiêu của tôi trước nhất là giúp đỡ
bạn, như một cá nhân, thứ hai là giúp các khách hàng và thứ
ba là giúp các tổ chức tập đoàn chỉ khi việc đó có ích cho bạn.
Hãy tăng tốc sự nghiệp của bạn - hãy sử dụng nguyên lý
80/20 để thành công nhiều hơn với công sức ít hơn.
Sơ lược lịch sử của nguyên lý 80/20
Năm 1897, nhà kinh tế người Ý Vilfredo Pareto (1848-1923)
phát hiện ra một khuôn mẫu thường xuyên trong việc phân
phối tài sản hay thu nhập, bất kể ở đất nước nào hay giai
đoạn thời gian nào. Sự phân phối bị nghiêng lệch hoàn toàn
về một đầu cuối lớn nhất: Một thiểu số nhỏ đem lại thu nhập
cao nhất luôn luôn chiếm phần lớn trong tổng số. Dần dần
Pareto có thể tiên đoán được kết quả chính xác trước khi xem
các dữ liệu.
Pareto rất hứng khởi với phát hiện của mình, và sau đó ông
tin rằng phát hiện này có tầm quan trọng rất lớn không chỉ
trong ngành kinh tế mà còn đối với toàn xã hội. Nhưng ông
chỉ có thể thu hút sự chú ý của một vài nhà kinh tế khác. Dù
ông có thể viết ra rõ ràng về những chủ đề ít trọng yếu hơn
nhưng trình bày của ông về "nguyên tắc Pareto" bị chôn vùi
dưới những ngôn ngữ học viện dài dòng và những công thức
đại số dày đặc.
Ý tưởng của Pareto chỉ bắt đầu được nhiều người biết đến
khi Joseph Moses Juran, một trong hai chuyên viên quản lý
chất lượng nổi tiếng nhất của thế kỷ hai mươi, đổi tên nó
thành "Quy luật Số Ít Quan yếu". Trong bộ sách "Sổ tay Quản
lý Chất lượng" năm 1951, ban đầu có ảnh hưởng rất lớn ở
Nhật và sau đó là ở phương Tây, Juran đối chiếu giữa "số
quan yếu" với "số nhiều vặt vãnh", cho thấy những sai sót v
chất lượng có thể được loại bỏ phần lớn, nhanh chóng và
tốn kém, bằng cách tập trung vào một số ít những nguyê
nhân gốc rễ quan trọng. Juran, chuyển đến sống ở Nhật va
năm 1954, đã dạy các nhà quản trị tại đây cách cải tiến ch
lượng và chức năng. Từ năm 1957 đến 1989, Nhật là nươ
phát triển nhanh hơn bất cứ một nền kinh tế công nghiệp na
khác trên thế giới.
Tại Mỹ và châu Âu những năm 1960, nguyên tắc Pareto bắt
đầu trở nên phổ biến với tên gọi "quy luật 80/20" hay "nguyên
lý 80/20". Dù không tuyệt đối chính xác nhưng nguyên tắc
này tỏ ra rất có sức thuyết phục. Các kỹ sư và các chuyên viên
máy tính bắt đầu sử dụng nguyên tắc này thường xuyên.
Nguyên lý 80/20 cho rằng có 80% kết quả xuất phát từ 20%
nguyên nhân. Đây là một "định luật" mang tính kinh nghiệm
đã được chứng minh trong kinh tế, kinh doanh, và cả những
khoa học liên ngành. Như vậy, hầu hết những gì tồn tại trong
vũ trụ này - những gì chúng ta làm, cũng như tất cả những
sức mạnh, tài nguyên, ý tưởng - đều có rất ít giá trị và đem
lại rất ít kết quả. Song một phần nhỏ lại làm việc cực kỳ tốt
và có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Không có phép thuật gì trong
80 và 20, vốn chỉ là những con số ước lượng. Vấn đề là thế
giới này không phải 50/50. Nỗ lực và tưởng thưởng không có
liên quan tuyến tính. Vũ trụ thật không đáng tin cậy.
Hầu hết vạn vật chỉ là những tiếng ồn vô nghĩa, song một
phần nhỏ của chúng lại có sức mạnh quyền năng và đạt hiệu
quả đến mức không ngờ. Tách ra những lực lượng sáng tạo
quyền năng này, bên trong và xung quanh chúng ta, và thế
là xong, chúng ta có thể rút tỉa được những gì tinh hoa nhất.
Vào năm 1963, IBM phát hiện ra 80% thời gian của một
máy tính được sử dụng để thực thi chưa đến 20% tập mã lệnh
hoạt động của nó. Các kỹ sư IBM đã viết lại tập mã này để làm
cho 20% chính yếu đó dễ sử dụng hơn và thân thiện với người
dùng hơn, và nhờ đó họ đã bảo vệ được vị trí đứng đầu trong
thị trường. Những tiến bộ phần mềm trong 30 năm qua - từ
Lotus đến Microsoft sang Linux - đã tận dụng và phát huy ý
tưởng này xa hơn nữa.
Năm 1997, tôi viết cuốn Nguyên lý 80/20, cuốn sách đầu
tiên về chủ đề này. Tôi chứng minh nguyên lý này có thể được
áp dụng không chỉ để giúp các tập đoàn kiểm soát kết quả
kinh doanh của họ mà còn giúp mọi người có thể cải thiện
cuộc sống. Để trở nên hiệu quả hơn hay có một cuộc sống
hạnh phúc hơn, hãy nhận ra tầm quan trọng của một số ít
những người hay những sự vật xung quanh mình. Nếu bạn
tập trung vào một số ít những gì có tác động lớn nhất đến
mình, bạn sẽ có thể có được những gì mình muốn. Bạn có thể
bội nhân hiệu quả làm việc và thậm chí là bội nhân hạnh
phúc của bạn. Đây là một lĩnh vực mới, do trước kia chưa ai
từng liên hệ nguyên lý này với sự thỏa mãn cá nhân cả.
Tôi đã gióng lên một tiếng chuông. Với nhiều độc giả trên
thế giới này có thể chứng thực, nguyên lý 80/20 là một cách
vô cùng hữu dụng để đạt được nhiều thành công hơn trong
cuộc sống.
Tuy nhiên, cuốn sách này nói về một chủ đề khác. Cuốn
Nguyên lý 80/20 cho thấy làm thế nào các công ty có thể sử
dụng nguyên lý này để định hướng kết quả kinh doanh, và
làm thế nào mỗi người có thể cải thiện cuộc sống cá nhân -
chứ không phải cuộc sống chuyên môn. Cuốn Con người 80/
20 liên hệ giữa nguyên lý 80/20 và sự phát triển của mỗi
con người, vốn chưa từng được đề cập đến trước đây. Nó giải
thích thế giới đang thay đổi như thế nào và chứng minh
nguyên lý 80/20 là một công cụ thực tế, quyền năng đến
mức ngạc nhiên, để mỗi người có thể tạo nên những điều mới
mẻ tuyệt vời.
Giá trị từ sự phát triển
Giai đoạn thú vị và giá trị nhất trong kinh doanh không
phải là giai đoạn duy trì những hoạt động đang tồn tại: hôm
nay tiếp tục làm tốt những gì đã làm hôm qua. Các tổ chức
thường duy trì hiện trạng rất tốt, nhưng nếu đó là tất cả
những gì chúng ta làm thì nền kinh tế sẽ không bao giờ phát
triển được.
Phát triển là quan trọng hơn cả. Phát triển có nghĩa là tạo
nên một cái gì đó mới mẻ và hữu ích. Sự phát triển, xét cho
cùng, luôn được định hướng bởi một người hay một nhóm
người, dù họ hoạt động trong những tập đoàn lớn đã được
thành lập nhiều năm hay trong những doanh nghiệp nhỏ mới
bắt đầu khởi xướng.
Một vũ khí mạnh mẽ nhất để phát triển doanh nghiệp chính
là nguyên lý 80/20, được vận dụng sáng tạo bởi một người
hay một nhóm người. Với nguyên lý 80/20, mỗi người có thể
bội nhân những sức mạnh quyền năng nhất xung quanh họ
- những sức mạnh hữu hình, nhưng đặc biệt là những sức
mạnh vô hình - khiến cả thế giới phải kinh ngạc với khả năng
cung cấp cho khách hàng nhiều hơn những gì họ yêu cầu với
ít hơn những gì họ muốn bỏ ra (tiền bạc, tài nguyên, thời gian,
không gian, sức lực).
Những con người 80/20 trong các tổ chức
Người ta thường chỉ phần nào nhận thức được những gì họ
có thể làm để tạo ra của cải và sự giàu có. Họ cũng có thể
không nhận thức được những gì mình đã và đang làm. Trong
cuốn sách này, bạn sẽ gặp một số người đang tạo ra những
tài sản khổng lồ cho người khác nhưng bản thân họ lại
không nhận ra điều đó. Họ là những con người 80/20, dù họ
vẫn chưa gặt hái được những phần thưởng tương xứng với
sức sáng tạo của mình. Họ nghĩ mình chỉ là một bánh răng
nhỏ trong một bộ máy tập đoàn, nhưng trên thực tế, họ là
tâm điểm tạo ra lợi nhuận và là trung tâm của sự phát triển
kinh tế.
Ngay cả khi bạn làm việc cho một tổ chức uy tín lớn, nếu
bạn nghĩ ra một cái gì mới phản ánh cá nhân và tư tưởng của
bạn, thì bạn chính là người tạo ra tài sản đầu tiên. Tuy nhiên,
thông thường, công ty bạn sẽ giữ hết phần lớn tài sản mà bạn
tạo ra. Một khi đã nhận ra sự chênh lệch này, bạn sẽ có thể
thu hẹp khoảng cách. Dù bạn nghỉ việc hay ở lại công ty, bạn
cũng cần có khả năng kiểm soát chính mình.
Những người có khả năng tạo ra tài sản - và biết rằng mình
có khả năng - có thể đưa ra những điều kiện của chính họ.
Tiền bạc là quan trọng, song điều mà hầu hết mọi người mong
muốn lại không phải là tiền bạc mà chính là hạnh phúc. Tiền
bạc là phương tiện đi đến hạnh phúc, nhưng nó không phải
là phương tiện chủ yếu. Điều mà hầu hết mọi người mong
muốn chính là khả năng kiểm soát cuộc sống của riêng mình.
Họ muốn có khả năng lựa chọn cuộc sống của mình: họ sẽ
làm nghề gì, họ cư xử với bạn bè và đồng nghiệp như thế nào,
những mối quan hệ cá nhân của họ tốt hay xấu, họ nghĩ về
bản thân mình ra sao.
Là một con người 80/20, điều bạn có được là quyền kiểm
soát cuộc sống của mình: cuộc sống công việc, cuộc sống cá
nhân, và những không gian giao thoa có thể đem đến thành
công hay gieo rắc thất vọng. Chẳng hạn như, bạn có thể có
khả năng thương lượng với sếp của mình một hợp đồng lao
động hoàn toàn khác với hợp đồng hiện tại. Có rất nhiều cơ
chế mới cho phép những con người 80/20 chơi trò "chân
trong chân ngoài", vừa duy trì các mối quan hệ và tiếp tục với
các đồng nghiệp nhưng cũng vừa có quyền sở hữu thật sự
trong một doanh nghiệp mới. Với nhiều con người 80/20,
những cơ chế song song này đặc biệt phù hợp hơn so với cơ
chế thay thế truyền thống, khi bạn buộc phải lựa chọn hoặc
tiếp tục làm việc như một nhân viên quèn, hoặc bắt đầu một
doanh nghiệp mới từ con số 0.
Tiền đề của tôi khá đơn giản - nếu bạn đang bổ sung thêm
những giá trị lớn cho công ty bạn, bạn nhận thức được điều đó
và bạn có thể chứng minh điều đó, thì bạn có thể đưa ra những
yêu cầu của mình một cách hợp lý. Bạn có thể đặt ra những
phần thưởng vật chất và phi vật chất cho mình, bởi vì dù bạn
đòi hỏi cái gì thì nó cũng không thể bằng những gì bạn đã đem
đến cho họ. Nếu quan điểm đơn giản này gây phiền hà cho
những thỏa thuận hiện tại thì khi bạn ra đi, đối với họ, mọi
chuyện sẽ càng tệ hại hơn. Bạn tạo ra - bạn kiểm soát.
Nguyên lý 80/20 là tâm điểm
của sự sáng tạo
Người ta thường nghĩ sáng tạo phần lớn là tài năng, hay
kinh nghiệm, hoặc có thể là do may mắn. Quan niệm đó là sai
lầm. Tài năng, kinh nghiệm và may mắn là những yếu tố chủ
chốt. Nhưng có một thứ còn quan trọng hơn, mạnh mẽ hơn,
quyền năng hơn, mà bạn có thể sử dụng để nâng cao hiệu
quả công việc sáng tạo của mình.
Nguyên lý 80/20 là trung tâm của tất cả mọi hoạt động sáng
tạo. Trong kinh doanh, đó là yếu tố đằng sau mọi sự cách tân,
mọi giá trị thặng dư. Đó là nguyên tắc của doanh nghiệp, công
thức tạo ra giá trị, không chỉ cho các doanh nhân mà còn cho
những nhà quản lý và các tổ chức nói chung.
Có những sức mạnh mãnh liệt nằm tiềm ẩn đằng sau mỗi
hành động sáng tạo. Chẳng hạn như việc trồng cây lương
thực, nguồn thức ăn phổ biến nhất và cũng là nguồn sống của
con người, xuyên suốt nhiều thế hệ. Điều gì khiến cây trồng
phát triển lên? Rõ ràng mưa là một yếu tố quan trọng. Cái gì
tạo ra mưa? Mây - nhưng có một số dạng mây đặc biệt tạo ra
nhiều mưa nhất, ở những thời điểm đặc biệt, những vị trí đặc
biệt. Đất màu cũng rất quan trọng. Độ màu mỡ của đất một
phần nhờ mưa, nhưng cũng còn những yếu tố khác, chẳng
hạn như độ đa dạng và số lượng của những loại cây cỏ và
động vật từng sống trên khu đất đó trước đây. Một số vùng
đất màu mỡ hơn những nơi khác - không chỉ tốt hơn một chút
hay tốt hơn hai ba lần mà có khi đến cả mười lần. Có một số
yếu tố luôn luôn quan trọng, và có một số yếu tố luôn luôn
góp phần lớn trong kết quả thu hoạch.
Sự sáng tạo có thể là không ý thức, như các đám mây, hay
có ý thức, như yếu tố con người. Lịch sử của chúng ta, đặc biệt
là ba thế kỷ vừa qua, đã chứng kiến con người có thể bội nhân
hiệu quả của những yếu tố thiên nhiên còn lại lên đến hàng
trăm, hàng ngàn, hoặc thậm chí hàng triệu lần. (Chúng ta
cũng có thể nhân lên những sức mạnh hủy diệt của tự nhiên,
nhưng hãy bỏ qua điều đó vào lúc này). Có ba phát minh vĩ
đại đã nâng cao dân số trên hành tinh chúng ta, cùng mức
sống của chúng ta.
Một là phát minh ra nông nghiệp vào khoảng 9000 năm
trước. Trước kia, tổ tiên chúng ta chỉ biết hái lượm cây dại và
săn bắt thú hoang. Việc nuôi trồng có chủ ý để lấy thức ăn đã
gia tăng đáng kể kích thước và độ phức tạp của xã hội loài
người.
Bước đột phá thứ hai là cuộc cách mạng nông nghiệp vào
thế kỷ XVIII và XIX, sự cơ khí hóa nông nghiệp và ứng dụng
kỹ thuật công nghiệp. Nếu 300 năm trước, phần lớn dân số
phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, chỉ để kiếm được vừa
đủ ăn thì ngày nay, trong thế giới phát triển, cũng số người
đó không phải làm việc trên cánh đồng. Nhưng sản lượng
nông nghiệp thì lại tăng lên gấp ngàn lần, đủ cung cấp cho
một lượng người lớn hơn nhiều, với số lượng lương thực ngày
càng nhiều và chất lượng càng cao.
Bước tiến vĩ đại thứ ba là cuộc cách mạng công nghiệp, sự
liên minh giữa khoa học và kinh doanh đã định nghĩa thế giới
hiện đại.
Những hành động sáng tạo phi thường có chủ đích ấy đã
diễn ra như thế nào? Chúng ta có thể mô tả theo nhiều cách,
nhưng trong bất cứ một sự sáng tạo có chủ đích nào cũng có
ba yếu tố chính.
Một là: Sáng tạo là sự sắp xếp lại những gì đang tồn tại.
"Không có gì mới dưới ánh mặt trời", theo Kinh Cựu ước. Phát
minh ra nông nghiệp vào khoảng 7000 năm trước Công nguyên
đã lấy những gì tồn tại sẵn trong thiên nhiên và sắp xếp lại
để giúp chúng đạt năng suất cao hơn một cách đầy kịch tính.
Cuộc cách mạng nông nghiệp sau năm 1750 đã sắp xếp lại
các yếu tố sản xuất cổ xưa với việc áp dụng phương tiện và
máy móc. Công nghệ sinh học ngày nay bắt chước những gì
tự nhiên đang làm và tăng tốc hơn với những trật tự mới. Cát
đã tồn tại từ bao đời nay, thừa thãi và gần như không có giá
trị gì; nhưng một con microchip làm từ hợp chất silic đyôxyt
từ cát lại vô cùng giá trị.
Đặc điểm thứ hai của sự sáng tạo có chủ đích là nó tận
dụng sức bật từ những lực lượng mạnh mẽ nhất có thể.
Thiên nhiên có vô số sức mạnh, kể cả từ các giống loài động
vật và từ những lực lượng vô tri (như mây chẳng hạn). Nhưng
chỉ một số trong đó thật sự hữu ích cho sự sáng tạo. Và trong
mỗi loại sức mạnh, có một phần nhỏ mạnh mẽ hơn nhiều và
hữu ích hơn nhiều so với số còn lại. Trong các loại cây, một
số loại rau củ có dinh dưỡng nhiều nhất. Trong các phương
pháp trồng trọt có một số phương pháp nổi trội nhất. Trong
tất cả các khu vực sản xuất, một số nơi có độ phì nhiêu màu
mỡ cao nhất.
Sự đột phá trong năng suất diễn ra khi phương pháp hiệu
quả nhất để làm một việc gì đó được đẩy bật cao hơn và xa
hơn nhờ quy mô, nguồn vốn, hay một kỹ thuật đặc biệt nào
đó. Sự đột phá bật ra từ tư duy và thử nghiệm. Lực lượng
mạnh mẽ nhất mà tư duy có thể thúc đẩy chính là bản thân
nó. Những gì vĩ đại được tạo ra khi ý tưởng thúc đẩy cả những
sức mạnh quyền năng nhất lẫn những ý tưởng khác mạnh
mẽ nhất.
Dưới đây là khía cạnh thứ ba và là khía cạnh thú vị nhất
của sự sáng tạo có ý thức: Sự sáng tạo diễn ra khi ý tưởng
và con người gặp nhau. Dĩ nhiên, nguyên liệu thô của sự
sáng tạo là vật chất, những thứ mà vũ trụ đã tạo sẵn cho
chúng ta. Nhưng cốt lõi của sự sáng tạo không phải là vật
chất mà là trí tuệ.
Ý tưởng về microchip không phải xuất phát từ những trò
chơi với cát trong sa mạc mà từ những trò chơi với các ý tưởng
liên quan. Sự sáng tạo đòi hỏi phải có ý tưởng và con người,
thường là mỗi bên một ít - và không quá nhiều. Tất cả những
đột phá khoa học vĩ đại đều có thể truy ngược về một số ý
tưởng sáng tạo đã được cân nhắc và sắp xếp lại bởi một người
hay một nhóm người. Tất cả những phát triển kinh tế cũng
phát triển theo một cách tương tự. Làm một việc gì đó theo
một cách khác, tạo ra một cái gì mới - tất cả những hành động
đó đều bắt đầu từ một ý tưởng. Ý tưởng thường bắt nguồn từ
một con người, và được cải tiến bởi một nhóm người.
Những sáng tạo trong kinh doanh còn có một đặc điểm
chung thứ tư: Nếu nó có thể tồn tại, dù chỉ trong một thời
gian, nghĩa là một sự cách tân kinh doanh phải nâng cao giá
trị cho khách hàng. Nó phải cung cấp một cái gì đó, đạt được
nhiều hơn và tốn kém ít hơn - hoặc cái gì đó tốt hơn, hoặc cái
gì đó chi phí thấp hơn, hoặc cái gì đó vừa tốt hơn vừa chi phí
thấp hơn - cho những khách hàng sẽ trả tiền cho nó. Tuy
nhiên, việc cung cấp món hàng A, với chất lượng tốt hơn và
chi phí rẻ hơn món hàng B, sẽ là vô nghĩa nếu khách hàng
không cần đến món hàng B, hoặc nếu có những biện pháp
khác tốt hơn nữa để nâng cao chất lượng của món hàng A.
Cả hai cuộc cách mạng nông nghiệp - cuộc cách mạng vào
khoảng năm 7000 trước Công nguyên và cuộc cách mạng vào
khoảng năm 1750-1850 sau Công nguyên - đều cung cấp
những nguồn lương thực chất lượng cao hơn với chi phí thấp
hơn nhiều. Bất cứ một chiếc xe nào bạn mua ngày nay cũng
có cái giá chỉ bằng một phần nhỏ của giá mua một chiếc xe,
đã điều chỉnh lạm phát tiền lương, vào 50 năm trước, nhưng
nó lại an toàn hơn, tiện nghi hơn và đầy những chức năng mới
với những hệ thống mạnh hơn hàng trăm hoặc thậm chí hàng
ngàn lần so với những gì tồn tại trên cả hành tinh này vào
thời gian đó. Chúng ta được nhiều hơn rất nhiều và mất ít hơn
rất nhiều.
Sự sáng tạo không phải là một quá trình huyền bí, không
giới hạn cho những thiên tài khoa học, những nhà phát minh
điên khùng hay những doanh nhân với tầm nhìn rộng biết
hết mọi thứ. Sự sáng tạo có thể được thiết kế xây dựng, nếu
bạn hiểu những gì có thể đưa đến sáng tạo. Con người và ý
tưởng đưa đến sáng tạo. Nó diễn ra theo những cách có thể
dự đoán và có thể lặp lại. Nếu hiểu rõ điều đó, chúng ta có
thể sáng tạo.
Trở thành một con người 80/20
Nguyên lý 80/20 cho phép bất cứ ai có tính quyết đoán, có
sự nhanh nhẹn, hay có quyết tâm in dấu chân mình lên thế
giới, có thể trở thành một con người 80/20. Để làm nên một
cái gì mới và được ưa thích, để cảm thấy bạn đã đạt được một
cái gì đó, để có được một vị thế và khả năng tự do chọn lựa
trong những lĩnh vực mới, cuốn sách này giúp bạn khám phá
khả năng cách mạng của mình.
2 Sự vươn lên của một cá nhân sáng tạo
"Hãy cho tôi một điểm tựa và một đòn bẩy, tôi
sẽ nâng bổng trái đất lên".
Archimedes
rước đây thế giới chưa bao giờ có được những "trái
T chín sáng tạo" nhiều như lúc này. Dù tiếp tục làm
việc cho công ty hiện tại, dù bắt đầu một công ty mới, hay dù
bạn đang dấn thân vào một cuộc-phiêu-lưu-một-người, bạn
vẫn có thể tạo ra những gì mà người khác mong muốn. Và nếu
làm được điều đó, bạn có thể giành được quyền kiểm soát
định mệnh của chính mình.
Thách thức của bạn là phải tạo ra nhiều, nhiều hơn nữa -
nhiều hơn những gì bạn đã tạo ra trước đây và nhiều hơn
những gì bạn nghĩ là có thể. Có một cách vô cùng mạnh mẽ
có thể giúp bạn làm được điều đó. Để tạo ra một cái gì mới
và giá trị, bạn phải thể hiện được tính cá nhân của mình và
phải sử dụng một trong những sức mạnh quyền năng nhất
thế giới, đó là nguyên lý 80/20. Bạn phải trở thành một con
người 80/20.
Sự vươn lên của một cá nhân sáng tạo
Kinh doanh và xã hội đang chuyển mình theo sự vươn lên
của cá nhân như một nguồn tài sản và nguyên tắc tổ chức của
cuộc sống. Đó là sự vươn lên của những con người 80/20. Đó
là cuộc cách mạng 80/20 - sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng
một hình thức mới thế kỷ XXI dựa trên những cá nhân trên
nền tảng đội nhóm.
Những con người 80/20 là những người thể hiện tính cá
nhân của mình để tạo ra những gì mới mẻ và hữu ích cho
người khác. Họ không phải là những người máy móc trông
nom những gì hiện tại, hay là những người xây dựng nên các
cơ chế mà trong đó, tập thể quan trọng hơn cá nhân.
Những con người và đội nhóm 80/20 rất linh động. Sự
trung thành tiên quyết của họ là với bản thân và những đội
nhóm nhỏ của họ chứ không phải một thể chế. Họ có thể xây
dựng nên những tổ chức lớn và giá trị, nhưng họ biết rằng tổ
chức đó được thành lập nên dành cho những cá nhân sáng
tạo chứ không phải ngược lại. Tổ chức là phương tiện chứ
không phải chủ nhân. Trên hết, tất cả những con người 80/
20 đều là những cá nhân có phong cách riêng. Và dù chỉ là
những cá nhân đơn lẻ nhưng họ có một ảnh hưởng vô cùng
sâu sắc.
Ai là những con người 80/20?
Những con người 80/20 có mặt trên khắp mọi lĩnh vực. Họ
xuất hiện trên mọi nẻo đường cuộc sống: chính trị, kinh doanh,
công tác xã hội, tổ chức phi lợi nhuận, thể thao, giải trí, truyền
thông.
Oprah Winfrey là một con người 80/20. Một số con người
80/20 khác chẳng hạn như: Jeff Bezos, David Bowie, Richard
Branson, Warren Buffett, Jim Clark, Bill Clinton, Larry Ellison,
Bill Gates, John Grisham, Andy Grove, Tom Hanks, Robert
Johnson, Michael Jordan, Nelson Mandela, Ronald Reagan,
Steven Spielberg. Vào thời đại của bà, Florence Nightingale
cũng là một con người 80/20. Và cả Christoforo Colombo,
Henry Ford, Isaac Newton, George Orwell, Mẹ Teresa, Sam
Walton cũng vậy.
Trái lại, tất cả những người điều hành các bộ máy tổ chức
trên thế giới - quân đội, nhà nước, các tổ chức kinh doanh -
và thừa hưởng những bộ máy đó mà không tạo ra hay thay
đổi chúng, thì không phải là những con người 80/20. Những
người thừa kế tài sản mà không phát triển chúng lên không
phải là những con người 80/20. Nữ hoàng Anh Elizabeth, ví
dụ, không phải là một con người 80/20. Gerald Ford, Al Gore
hay George W. Bush cũng không, mặc dù họ rất nổi tiếng. Hầu
hết những người có quyền lực nhưng không có cá tính trên thế
giới này đều không phải là những con người 80/20. Quyền lực
của họ nằm ở tổ chức chứ không phải con người. Họ là những
thành phần tinh hoa có thể thay thế chứ không phải là những
người sáng tạo cá nhân.
Những con người 80/20 có sáng tạo, và đó chính là lý do.
Không phải vì họ có tước vị hay vai trò chính thức - mà bởi
vì những gì họ làm, vì họ là những cá nhân chứ không phải
một thành phần trong một guồng máy.
Tất cả những doanh nhân thành công đều là những con
người 80/20. Các doanh nhân sử dụng tính cá nhân của họ
để tạo ra những gì mới mẻ, khác lạ và giá trị. Nhiều người
thuộc các lĩnh vực khác cũng làm tương tự như thế: nghệ sĩ,
nhà khoa học, nhà văn, phóng viên, các ngôi sao thể thao hay
màn bạc, những người tổ chức phong trào. Chúng ta có thể
nghĩ về họ như những doanh nhân trí tuệ, doanh nhân xã hội,
doanh nhân giải trí, doanh nhân thể thao. Nhưng về bản chất,
hai chữ "doanh nhân" vốn thuộc về việc kinh doanh, và mở
rộng ý nghĩa của chúng sang những lĩnh vực khác sẽ không
thỏa đáng lắm.
Ngay cả trong kinh doanh, hai chữ "doanh nhân" cũng gây
nhiều rắc rối, bởi vì sự sáng tạo trong kinh doanh không chỉ
hạn chế ở các doanh nhân. Nhiều nhà quản trị trong những
tổ chức lớn tạo ra những giá trị khổng lồ, với tư cách cá nhân.
Những nhà quản trị sáng tạo có thể tạo ra nhiều giá trị với tư
cách cá nhân hơn nhiều doanh nhân có thể làm được. Một
trong những thông điệp ngầm quan trọng của cuốn sách này
là những nhà quản trị sáng tạo gần như luôn luôn nhận được
ít hơn từ tổ chức của mình. Và nhiệm vụ của tôi là khuyến
khích những cá nhân như thế nắm bắt được những giá trị lớn
mà họ tạo ra. Với một số lượng nào đó các nhà quản trị sáng
tạo làm được điều này, toàn bộ cơ cấu nền kinh tế sẽ đột
nhiên thay đổi.
Những cá nhân sáng tạo
làm thay đổi thế giới
John Maynard Keynes, có lẽ là nhà kinh tế vĩ đại nhất của
thế kỷ XX, đã thừa nhận vai trò nòng cốt của những cá nhân
sáng tạo và chủ nghĩa lạc quan cá nhân trong việc tạo ra sự
phát triển và cách mạng kinh tế. Theo Keynes, kẻ thù của sự
phát triển chính là sự thiếu đầu tư dài hạn. Vì con người có
khả năng trở nên chống đối và tương lai là không chắc chắn
nên hiếm khi có sự đầu tư đầy đủ. Nền kinh tế chỉ có thể nhảy
vọt khi có những nguyên nhân đặc biệt - ví dụ như dòng vàng
tràn vào từ Tân Thế giới hay những phát minh đặc biệt như
máy hơi nước - khi các nhà kinh doanh cá nhân bỗng cảm
thấy tự tin mở rộng một cách bất thường.
Chúng ta có thể áp dụng quan điểm của Keynes rộng hơn.
Những cá nhân sáng tạo đã làm thay đổi thế giới theo đúng
nghĩa đen. Christoforo Colombo khám phá ra châu Mỹ, trực
tiếp và gián tiếp tạo nên một khối tài sản khổng lồ trao cho
các nhà cầm quyền châu Âu trên thế giới trong gần bốn thế
kỷ. Các nhà khoa học vĩ đại, từ Isaac Newton đến Charles
Darwin hay Albert Einstein, mở rộng và thay đổi chân trời tri
thức của chúng ta, nâng cao cái nhìn của chúng ta về vũ trụ
này và những tiềm năng của nó. Những nhà kinh doanh cá
nhân - như Andrew Carnergie, Henry Ford, Bill Gates, Konosuke
Matsushita, Akio Morita, hay Sam Walton - đã biến hóa cả một
nền công nghiệp. Con đường này khá gian nan và gai góc, khi
chúng ta loạng choạng tiến lên với sự can đảm phi thường của
những cá nhân sáng tạo.
Cá nhân và những nhóm nhỏ của họ chính là nguồn lực của
sự phát triển. Song đằng sau sự nở rộ của những cá nhân
thiên tài chính là hai điều kiện tối cần. Một là cái mà Keynes
gọi là "tinh thần động vật", cảm giác rằng vũ trụ này là một
sân chơi tuyệt vời mà chúng ta chỉ vừa mới bắt đầu khám
phá. Hai là sự áp dụng rộng rãi một tri thức khoa học: nguyên
lý 80/20.
Những con người sáng tạo
và nguyên lý 80/20
Hãy nghĩ đến hàng tỷ người trên thế giới, ngày nay và
xuyên suốt lịch sử. Rồi hãy nghĩ đến một số ít ỏi những người
có ảnh hưởng quan trọng đến thế giới, những nhà tư tưởng
lớn, những lãnh đạo tôn giáo, những người khám phá, những
người lính, những nhà khoa học, các nhà chính trị, các nghệ
sĩ... Cho dù chúng ta lập nên một danh sách như thế nào đi
nữa, số người thật sự có ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống
hàng ngày của chúng ta chỉ là một con số rất nhỏ so với hàng
tỷ người khác.
Có lẽ chưa tới 1% số người có ảnh hưởng đến hơn 99%
những người khác trên thế giới. Những cá nhân sáng tạo này
đã thay đổi tất cả những gì xảy ra trước đó và những gì hẳn
sẽ xảy ra nếu không có họ. Họ đã làm những điều đó không
phải với tư cách tập thể mà là với tư cách cá nhân: họ có
những quan điểm "bất thường", suy nghĩ "bất thường" và làm
những việc "bất thường".
Có phải một hội đồng lãnh đạo tôn giáo đã nghĩ ra Thiên
Chúa giáo hay Hồi giáo? Có phải tất cả những nhà lãnh đạo
châu Âu đều quyết định tài trợ cho một chuyến hành trình
vượt Đại Tây dương đi tìm vùng đất mới? Có phải một ủy ban
các nhà khoa học đã quyết định rằng trái đất tròn chứ không
phải dẹp, hay họ đã nghĩ ra định luật chuyển động của Newton,
thuyết tiến hóa của Darwin, hay thuyết tương đối của Einstein?
Tôi không nghĩ chúng ta có thể hiểu rõ về quá trình sáng
tạo của một con người diễn ra như thế nào. Trong cuốn sách
này, tôi trình bày một lý thuyết mới dựa trên nguyên lý 80/
20. Hiển nhiên những con người sáng tạo có thể tạo ra những
giá trị nhiều hơn những người trung bình gấp nhiều lần. Toán
học đằng sau nguyên lý 80/20 cho rằng với thiểu số những
con người sáng tạo, mỗi người có thể tạo ra năng suất cao hơn
một người trong đa số còn lại ít nhất là 16 lần. Quan điểm này
phù hợp với thực tế, nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra
được? Sự chênh lệch gấp 16 lần có đáng tin cậy hay không?
Đó là một sự khác biệt đầy kịch tính. Ngay cả những thiên tài
lỗi lạc nhất cũng không thông minh hơn người khác đến mức
16 lần.
Tôi nghĩ câu trả lời nằm ở giả định sai lầm của chúng ta khi
cho rằng trí thông minh trực tiếp tạo ra sự hiểu biết và giá trị.
Theo quan điểm của tôi, tài sản và sự phồn vinh được tạo ra
bởi những con người có sự tương tác với một "bội số sáng tạo
tài sản" có thể bội nhân tác động của trí thông minh và nỗ lực
cá nhân. Mắt xích ở đây chính là ý tưởng, hay chính là "bội
số sáng tạo tài sản" mà tôi muốn nói.
Những người tạo ra tài sản không phải là những nguồn giá
trị tuyệt đối; có những thứ còn cơ bản hơn thế nữa. Chúng ta
giống như những con cá giữa đại dương, một phần của một
dây chuyền hấp thu và tạo ra cuộc sống, sử dụng một thứ giá
trị nhất vũ trụ này - ý tưởng. Tất cả mọi ý tưởng đều cần phải
được hóa thân vào sản phẩm và dịch vụ. Chỉ có những cá
nhân và những nhóm nhỏ mới có thể tạo ra, xem trọng, phát
triển và hóa thân các ý tưởng vào thực tế kinh doanh. Sức
mạnh mà con người có được xuất phát chủ yếu từ ý tưởng và
từ việc họ sử dụng các ý tưởng đó như thế nào. Điều này rất
quan trọng vì chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu được ý tưởng
quan trọng đến mức nào, làm thế nào để lựa chọn giữa những
ý tưởng mạnh mẽ và những ý tưởng vụn vặt, làm thế nào để
kết hợp và thúc đẩy ý tưởng, và làm thế nào tiềm năng của
chúng có thể được giải phóng và hồi phục tốt nhất.
Như chúng ta đã thấy trong Chương 1, nguyên lý 80/20
cho chúng ta biết có một số ý tưởng có sức mạnh đặc biệt
hơn những ý tưởng khác. Albert Einstein nghĩ ra thuyết tương
đối không chỉ vì ông là một thiên tài mà còn vì ông đã
nghiền ngẫm những ý tưởng đặc biệt xuất phát từ vật lý
lượng tử. Ông biết nên lựa chọn và đào sâu những ý tưởng
nào cũng như làm thế nào để đem đến cho chúng những sức
bật mạnh mẽ.
Dù vẫn mang tính cá nhân và tính cảm hứng nhưng sự
sáng tạo của con người vẫn tuân theo một khuôn mẫu nhất
định. Khuôn mẫu đó có thể được mô tả bằng nguyên lý 80/
20. Bí quyết chính là hãy nhìn "bên dưới" hay "bên trên" bản
chất "trung bình" của thực tế và nhận định một số ít sức
mạnh thật sự mạnh mẽ và những ý tưởng đằng sau sự thành
công - để tập trung vào "số ít quan trọng" chứ không phải "số
nhiều vặt vãnh".
Bản thân sự sáng tạo không thể được đúc kết lại như công
thức nấu một món ăn. Sự hiểu biết và kiến thức của mỗi cá
nhân luôn luôn là điều thiết yếu. Song những ai có kiến thức
sâu sắc hay bản năng tuyệt vời về một lĩnh vực đặc biệt có thể
thúc đẩy quá trình sáng tạo này và tự tin hơn với một kết quả
tích cực, bằng cách sử dụng nguyên lý 80/20. Hiểu biết về
nguyên tắc này cho phép con người có thể sáng tạo nhiều
hơn, nhanh hơn, và gặp phải ít ngõ cụt hơn. Tôi thật sự hy
vọng rằng một khi sức mạnh của nguyên lý 80/20 được hiểu
rõ, nhiều người sẽ có thể tiến lên phía trước với nỗ lực tạo ra
một cái gì đó mới mẻ và giá trị. Thế giới không bao giờ có thể
có quá nhiều con người 80/20.
Những kinh nghiệm sáng tạo của riêng tôi thuộc lĩnh vực
kinh doanh. Hầu hết những trường hợp ví dụ của tôi nói về
những nhà sáng tạo trong kinh doanh. Chắc chắn bạn có thể
sử dụng cuốn sách này để giúp bạn tạo nên một cuộc phiêu
lưu kinh doanh mới, nhưng nguyên lý 80/20 có thể áp dụng
cho tất cả mọi lĩnh vực.
Cá nhân và những guồng máy
Một mối quan hệ cuối cùng và rất quan trọng giữa nguyên
lý 80/20 với những con người sáng tạo là khuynh hướng gần
đây thiên về cá nhân hơn là những guồng máy, thiên về những
con người sáng tạo hơn là những tổ chức thuộc về người khác.
Dù không phải mọi người đều đồng ý, và có vẻ như đây là một
sự khẳng định lạ lùng, nhưng tôi tin rằng chúng ta đang sống
trong một thế giới mà càng ngày càng thiên về các cá nhân.
Cá nhân, tôi muốn nói, là những người tạo ra tài sản và sự
thịnh vượng. Nhưng người ta thường không có cảm giác như
thế. Nếu chúng ta được hỏi: "Điều gì thúc đẩy nền kinh tế phát
triển?" hay "Cái gì tạo ra sự phồn vinh?", hầu hết mọi người sẽ
trả lời là: "những công ty lớn", "thị trường chứng khoán", "vốn",
"chính phủ" hay có thể là "những tổ chức tình nguyện". Rất ít
người có thể đưa ra câu trả lời "những cá nhân sáng tạo".
Nếu chúng ta quay ngược câu hỏi lại: "Sự phồn vinh được
tích lũy từ đâu?", hầu hết các nhà quan sát sẽ chỉ vào những
giá trị thị trường chói lóa đặt trên những tập đoàn lớn nhất
của chúng ta. Như tôi đã viết, bất chấp sự sụp đổ của một số
công nghệ và hầu hết những cổ phiếu Internet, Microsoft vẫn
có giá trị 286 tỷ đôla. Những tập đoàn hàng đầu của chúng
ta chưa bao giờ đạt giá trị cao hơn hiện nay, và bất chấp một
số thoái trào gần đây, hầu hết các thị trường chứng khoán
trên thế giới vẫn cao hơn so với 5 năm về trước, và nhiều lần
họ đạt mức cao hơn cả 30 năm về trước hay thậm chí là cao
nhất từ trước đến nay. Và trong mỗi thị trường, giá trị được
tập trung vào ngày càng ít chứng khoán. Những doanh nghiệp
lớn là nơi tập trung giá trị. Trong mỗi lĩnh vực đều có khoản
hai hoặc ba "siêu tập đoàn" điều khiển phần lớn thị trường.
Trong nền kinh tế toàn cầu, khi những con cá lớn ngày càng
lớn hơn và thu hút hết của cải tài sản, đâu là nơi cho những
cá nhân? Mỗi cá nhân phải biết tích hợp vào những tổ chức
mạnh mẽ, cả trong công việc lẫn trong cuộc sống hàng ngày.
Có phải thế không? Có cách nào khác để diễn dịch những
gì đang xảy ra?
Cá nhân: sức mạnh huyền bí vô hìnhđằng sau sự phát triển
Hãy xem nền kinh tế phát triển như thế nào. Có phải nó
phát triển nhờ những công ty lớn diễu hành tiến lên phía
trước, hay nhờ những công ty nhỏ vươn lên từ con số 0 để trở
thành những công ty lớn? Câu trả lời là rõ ràng. Nghiên cứu
của Hewlett-Packard và Ủy ban Chiến lược Tập đoàn cho thấy
khi các công ty bước vào danh sách Fortune 50 - danh sách
50 tập đoàn lớn nhất nước Mỹ - tốc độ phát triển của họ chậm
lại từ 9-29% một năm cho đến 3-4%. Xét về dài hạn, 91% số
công ty đủ lớn để bước vào danh sách Fortune 50 sau đó đều
chậm lại và không bao giờ có thể phát triển một cách đáng kể
nữa bất chấp mọi nỗ lực. Sáp nhập chính là bằng chứng cho
thấy những doanh nghiệp lớn không có khả năng phát triển,
chứ không phải ngược lại: Các công ty khổng lồ phải tăng
doanh thu bằng cách sáp nhập bởi vì họ không thể tự phát
triển hơn được.
Nền kinh tế phát triển vì những công ty nhỏ phát triển.
Đằng sau sự thành công của mỗi công ty nhỏ chính là cá
nhân hay những nhóm cá nhân. Cá nhân chính là trung tâm
sự phát triển của các công ty nhỏ. Nhưng hơn thế nữa: Ngày
nay, cá nhân thường cũng là trung tâm sự phát triển của
những công ty lớn.
Microsoft, một công ty mà 30 năm trước chưa từng tồn tại,
là một ví dụ. Hai mươi năm trước đây, giá trị của công ty này
hầu như chỉ là con số 0 so với ngày nay, 286 tỷ đôla. Liệu
Microsoft là bằng chứng cho quyền bá chủ tập đoàn hay cho
sức mạnh của cá nhân?
Microsoft trông như một siêu tập đoàn. Công ty này nổi
tiếng trên thị trường chứng khoán và suốt một thời gian dài,
đó là công ty giá trị nhất trên toàn thế giới. Nhưng đó không
phải là một tập đoàn lớn điển hình của thế kỷ XX. Tại Microsoft,
không hề có sự chia sẻ quyền sở hữu kiểm soát, dấu hiệu của
chủ nghĩa tư bản quản trị. Chủ tịch công ty này, Bill Gates, sở
hữu 12,3%, các giám đốc khác sở hữu 5%, và các nhân viên
của họ sở hữu hơn một phần ba. Microsoft được sáng lập bởi
một số ít những cá nhân sáng tạo và hoạt động phần lớn vì
lợi nhuận của họ. Nó được đưa lên thị trường chứng khoán
không phải vì Microsoft cần vốn hoạt động mà bởi vì con
đường đó sẽ giúp Bill Gates và những nhà sáng lập khác trở
nên giàu có hơn những con đường khác.
Trong mạng lưới toàn cầu, Warren Buffett là nhân vật thứ
hai sau Bill Gates. Buffett quản lý một tập đoàn thành công
nhất và lớn nhất nước Mỹ. Tuy nhiên, ông chỉ có một văn
phòng nhỏ xíu với một nhúm nhân viên và rất ít việc làm.
"Triết lý đầu tư của chúng tôi", ông nói, "những ranh giới của
sự mơ màng". Làm thế nào chỉ có một người, được hỗ trợ bởi
một nhóm ít ỏi, lại có thể tạo nên một tài sản lớn như thế?
Chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy?
Chúng ta không nhận ra rằng cách thức phát sinh tài sản
đã thay đổi gần như hoàn toàn trong 50 năm qua và với tốc
độ ngày càng tăng trong hai thập niên qua. Trước kia, các
công ty tập đoàn từng là những công cụ tập thể, khi hệ thống
này tạo ra tài sản và các nhà quản trị cá nhân có thể thay thế
cho nhau và có thể bị loại bỏ. Ngày nay, các công ty tập đoàn
là những công cụ cá nhân, được cá nhân sử dụng cho mục
đích riêng của họ. Những hệ thống này giờ đây đã có thể thay
thế được; thành phần duy nhất không thể loại bỏ chính là cá
nhân người tạo ra tài sản cùng một đội nhóm nhỏ của họ.
Cá nhân và nhóm nhỏ
Một cá nhân sáng tạo cần phải có một nhóm nhỏ, dù nhóm
này chỉ khoảng từ hai đến ba người. Vào năm 2001, công ty
tư vấn Accenture đã thực hiện một cuộc khảo sát lớn về chủ
đề quản trị doanh nghiệp trên gần 1000 quản trị viên. Cuộc
nghiên cứu này kết luận rằng hình ảnh thường thấy của một
doanh nhân cô đơn chỉ là tưởng tượng: "Quản trị kinh doanh
không phải là một cuộc theo đuổi đơn độc mà là sự kết hợp
chặt chẽ những gì có tầm quan trọng đặc biệt với mỗi quốc gia
hay tổ chức, bất kể quy mô kích thước ra sao".
Phát hiện của công ty Accenture cộng hưởng với kinh nghiệm
của những con người 80/20 mà chúng ta sẽ gặp trong suốt
cuốn sách này. Những con người 80/20 này có không gian
riêng của họ, nhưng họ không hề cô độc. Họ luôn có một
nhóm nhỏ các đối tác hay những người hỗ trợ. Một trong
những dấu hiệu đặc trưng của những con người 80/20 là sự
tập trung vào những điểm mạnh và ý thức được những yếu
điểm của mình. Những con người 80/20 cần được người khác
bổ khuyết cho những yếu điểm của họ; và họ chỉ có thể làm
việc hiệu quả với những người khác xung quanh.
Chủ nghĩa cá nhân hiện đại không phải sự lùi bước về thời
đại anh hùng ca của thế kỷ XIX hay thời của những nhà hiền
triết chính trị Victoria như John Stuart Mill. Chủ nghĩa cá
nhân mới công nhận bối cảnh kinh tế xã hội mà mỗi cá nhân
đang hoạt động và tầm quan trọng tột bực của nhóm hỗ trợ
họ.
Những con người có phong cách riêng luôn tôn trọng, khuyến
khích, và ủng hộ cái riêng của những người khác. Càng khác
biệt và càng có phong cách riêng, chúng ta lại càng phải dựa
vào những người khác với những đặc tính quan điểm hoàn
toàn khác để bổ khuyết cho chúng ta. Đó chính là sự phát
triển của môi trường và xã hội, với sự chuyên môn hóa và phụ
thuộc lẫn nhau nhiều hơn bao giờ hết. Sự sáng tạo thật sự đòi
hỏi phải giải phóng tinh thần con người và phát triển những
tiềm năng riêng biệt của mỗi cá nhân.
Xã hội mới của những cá nhân hợp tác
Chúng ta quen nghĩ rằng sự phồn vinh xuất phát từ những
tổ chức lớn mà cho dù có tự do hay cá nhân đến mấy đi nữa
cũng không thể tránh được hệ thống cấp bậc.
Suy nghĩ đó đã lỗi thời. Sự phát triển ngày nay xuất phát
từ cá nhân và những nhóm nhỏ, liên kết với các nhóm khác
có những kỹ năng bổ khuyết cho họ. Vị trí của các nhóm khác
này như thế nào - họ là một phần trong cùng tổ chức, họ là
một tổ chức khác, hay họ không thuộc một tổ chức nào cả -
điều này càng ngày càng không quan trọng.
Có một mạng lưới biến ảo đang chuyển động giữa những cá
nhân và nhóm riêng của họ trong quan hệ với những cá nhân
và những nhóm khác. Họ hợp tác với nhau không phải vì ai
bảo họ phải làm thế, không phải vì tinh thần tập thể, mà bởi
vì việc đó có lợi cho họ. Cá nhân hợp tác để làm giàu. Cái lợi
mà họ có được dựa trên sự chuyên môn hóa, và nói cho cùng,
chính là dựa trên cá nhân.
Nhân đây tôi muốn giới thiệu về một thuật ngữ mà tôi sẽ sử
dụng trong suốt phần còn lại của cuốn sách này. Khi tôi nói
về một "cá nhân", xin hãy hiểu rằng tôi đang muốn nói về "cá
nhân và đội nhóm của họ".
Không phải là châu chấu đá xe
Gần đây, Charles Handy có viết một cuốn sách nói về thế
giới của "châu chấu đá xe". "Xe" ở đây là những tổ chức lớn.
"Châu chấu" ở đây là những người mà ông gọi là "những
người độc lập", những tổ-chức-một-người như các nhà văn,
nhà tư vấn, nghệ sĩ... Ông nhận thấy số người độc lập này
ngày càng gia tăng, khi những người như ông rời bỏ các tổ
chức để trở thành những nhà kinh doanh độc lập. Handy đem
đến cho họ những lời khuyên hữu ích làm thế nào để tồn tại
bên ngoài một tổ chức.
Handy đã đúng khi nói rằng số lượng "châu chấu" đang
ngày càng gia tăng. Nhưng nếu chỉ nói như thế sẽ không hình
dung được tầm quan trọng của sự gia tăng đó. Nếu tất cả
những gì họ làm chỉ là rời tổ chức này rồi lại bán sức lao động
cho tổ chức khác thì nền kinh tế xã hội sẽ không thay đổi gì
nhiều. Chủ nghĩa cá nhân vẫn sẽ chỉ giới hạn bên lề của nền
kinh tế.
Những con người 80/20 không phải là "châu chấu". Những
con người 80/20 không phải là những tổ-chức-một-người.
Những con người 80/20 có hoài bão cao hơn là đem bán sức
lao động. Những con người 80/20 hợp tác với nhau, và với cả
"châu chấu" lẫn "xe", để tạo nên những tổ chức xã hội hay
những doanh nghiệp mới có siêu năng suất thật sự.
Những con người 80/20 không ngừng bổ sung thêm vào
dòng phát triển. Họ để lại những sản phẩm hay những tổ
chức có thể đem đến những sản phẩm hay những tổ chức
khác thậm chí còn tốt hơn.
Những con người 80/20 không phải là những con người
độc lập cô đơn. Họ hợp tác với những người khác để tạo nên
những tổ chức mới. Những tổ chức này không phải là "xe" mà
là một cái gì đó khác hơn. Có thể gọi chúng là "máy bay" nếu
bạn thích, miễn là một cái gì đó nhanh chóng và mạnh mẽ.
Nói cho cùng thì sự hoán dụ này cũng có thể bị loại bỏ. Mỗi
người là duy nhất, cũng như những tổ chức mà họ tạo ra cũng
là duy nhất. Những tổ chức 80/20 mới phản ánh cá tính của
mỗi cá nhân. Tổ chức phục vụ cho cá nhân chứ không phải
ngược lại. Những tổ chức 80/20 là kết quả của nỗ lực chung,
của cả nhóm cá nhân. Cá nhân kiểm soát sự tập trung này và
những giá trị thặng dư mà nó tạo ra.
Tại sao sự vươn lên của cá nhân
lại thú vị đến thế?
Tại sao tôi lại hứng thú với sự vươn lên của cá nhân? Một
phần vì đó là một cách nhìn hợp lý vào thực tế với những vấn
đề mà cho đến nay chúng ta vẫn còn đang vất vả tìm cách
thích nghi với những quan điểm và cách tư duy hiện tại của
chúng ta.
Ví dụ, vài năm qua người ta bàn tán rất nhiều về "tài sản
trí tuệ" và tầm quan trọng ngày càng tăng của nó so với tài
sản tài chính. Khái niệm này khá trực giác nhưng cũng rất
hữu ích, dù đồng vốn "thực" vẫn là mối quan tâm hàng ngày
của các CEO và thị trường tài chính.
Nghịch lý này có thể được giải thích như thế nào? Đơn giản
hãy nhận ra rằng tài sản trí tuệ thuộc về cá nhân chứ không
phải tập đoàn. Tài sản trí tuệ chỉ có thể được tạo ra bởi cá
nhân. Ngoài bằng sáng chế, thương hiệu và sự công nhận của
pháp luật (điều này luôn luôn rất quan trọng), tài sản trí tuệ
sẽ không có giá trị gì trừ phi chúng được đổi mới hàng tháng,
hàng tuần, hàng ngày.
Tầm quan trọng ngày càng tăng của tài sản trí tuệ có thể
góp phần giải thích tại sao quyền lực của cá nhân ngày càng
tăng trong khi sức mạnh của hệ thống tập đoàn ngày càng
giảm. Việc biến tài sản trí tuệ thành sở hữu tập đoàn, hay xem
như cả hai là một, cũng giống như đổ rượu mới vào bình cũ.
Những tài sản trí tuệ giá trị nhanh chóng trở thành những tài
sản thật sự do cá nhân nắm giữ. Ví dụ, những tài sản trí tuệ
mà Bill Gates tạo ra có thể xấp xỉ bằng giá trị cổ phần Microsoft
thuộc sở hữu cá nhân của ông.
Trước đây chưa bao giờ có nhiều cá nhân ghi dấu cá tính
của mình trên thế giới nhiều như hiện nay. Song tôi tin rằng
nếu đếm số người tạo nên những tài sản quan trọng và sự
phồn vinh thịnh vượng cho người khác, có lẽ chỉ có khoảng
10, 20, hay 100 người có thể làm điều đó.
Một trong những mục đích chính của tôi khi viết cuốn sách
này là để thuyết phục một số lớn cá nhân thử bắt tay vào tạo
nên một cái gì đó mới mẻ và giá trị hơn. Dù chỉ có rất ít người
sẽ thật sự làm việc này nhưng hầu hết mọi người đều có thể
làm, nếu họ thật sự muốn. Tôi sẽ mô tả làm thế nào để làm
được điều đó trong Phần II. Bạn sẽ rất hào hứng khi phát hiện
ra một cái gì mà mình có thể làm rất giỏi, phát hiện ra một ý
tưởng phù hợp với tài năng của mình và lại có thể áp dụng
tốt, phát hiện ra những người khác có thể làm việc với bạn để
phát triển ý tưởng đó và làm cho nó trở nên có giá trị đối với
khách hàng.
Trước đây, đại đa số mọi người cảm thấy việc tạo lập một
doanh nghiêp mới là vô cùng khó khăn hay thậm chí là không
thể được. Không có vốn, không có người quản lý, không có
công nghệ, không có ý tưởng. Những thành phần quan trọng
này đã bị độc quyền bởi các tập đoàn lớn. Hầu hết mọi người
không nhận ra rằng ngày nay, những rào chắn đó không còn
nữa. Họ nghĩ tạo lập một doanh nghiệp rất rủi ro và phiền
toái. Họ đã sai lầm. Những rào chắn đó xuất phát từ chính
bản thân họ trong một kỷ nguyên đã qua.
Nếu bạn muốn tạo ra một cái gì mới và giá trị, bạn hoàn
toàn có thể. Tất cả những gì bạn cần là những ý tưởng đúng
đắn, con người thích hợp, cùng sự quyết đoán và thông minh
vừa phải. (Quá thông minh thường cũng không tốt).
Một điểm rất quan trọng nữa là nhiều người tạo ra những
doanh nghiệp mới giá trị lại không được tưởng thưởng về điều
đó. Trong cuốn sách này bạn sẽ gặp nhiều ví dụ về các nhà
quản trị và những cá nhân sáng tạo khác thật sự làm nên sự
thay đổi - đôi khi có thể đo bằng hàng chục hay hàng trăm
triệu đôla - và bản thân họ hầu như không nhận được gì cả.
Đôi khi, vì lý do xã hội hay từ thiện, những nhà sáng tạo này
vui vẻ cho đi mà không nhận. Tuy nhiên, đa số họ là những
nhà quản lý làm việc trong các tập đoàn vị lợi, ở đây những
lợi nhuận mà họ làm ra phần lớn chảy vào túi các nhà đầu tư
thụ động.
Tại sao lại thế? Bởi vì những nhà sáng tạo này không nhận
thức được cá nhân họ đã tạo ra một giá trị lớn đến mức nào.
Họ nghĩ rằng tập đoàn của họ mới là nguồn tài sản cơ bản,
và họ nghĩ như thế là công bằng khi họ không nhận được gì
hơn một số lượng kha khá. Tôi hy vọng có thể thuyết phục
được những người này - bạn có thể là một trong số họ - sử
dụng sức mạnh của mình để có được một phần thưởng xứng
đáng với những gì họ đã tạo ra.
Nếu có một khoảng cách quá lớn giữa những người tạo ra
giá trị và những người được nhận giá trị, nền kinh tế sẽ bị bóp
méo và sự phát triển sẽ chậm hơn tốc độ mà lẽ ra nó có thể
có được. Nếu những cá nhân sáng tạo được tưởng thưởng
xứng đáng, họ sẽ tiếp tục sáng tạo thêm nhiều nhiều nữa, bởi
vì họ có cả động lực tinh thần lẫn vật chất. Và điều đó sẽ
khuyến khích những nhà sáng tạo khác tiếp tục tiến lên.
Một hiện tượng mới: Tỷ phú 80/20
Nguyên lý 80/20 đã tạo ra cả một hiện tượng mới: những
nhà tỷ phú 80/20. Những nhà lãnh đạo của các tập đoàn lớn
như Black Entertainment Television, Oracle hay Goldman Sachs
vừa là các nhà quản trị vừa là những ông chủ tỷ phú.
Với hầu hết mọi người, những tập đoàn này trông có vẻ
khác biệt với các tập đoàn khác như General Motors hay IBM
duy nhất ở giá trị cao hơn của chúng. Nhưng thật ra, những
tập đoàn mới do chính chủ nhân của chúng quản lý, nơi các
nhà quản trị sở hữu không phải là các tùy chọn hay những
số vốn nhỏ xíu mà là hàng tỷ đôla cổ phần, có một đặc điểm
rất đặc biệt. Chúng là công cụ của những người sáng lập, tác
động trực tiếp đến thị trường vốn không phải bằng số vốn mà
bằng giá trị cổ phần của chúng. Nếu không có nguyên lý 80/
20, những tập đoàn xoay-quanh-cá-nhân này hẳn không thể
tồn tại được.
Tôi nói ra điều này nghe có vẻ lố bịch, nhưng đó là sự thật:
Những gì Bill Gates và các nhà tỷ phú khác đã làm, bạn hoàn
toàn có thể làm được, dù có thể là ở một quy mô khiêm
nhường hơn. Bạn không cần phải là một thiên tài kỹ thuật.
Nhưng bạn cần phải biết cách sử dụng nguyên lý 80/20 một
cách sáng tạo.
Ưu thế thuộc về cá nhân chứ
không phải những tập đoàn lớn
Trong thế kỷ XX, nguyên lý 80/20 chủ yếu được sử dụng
bởi những tập đoàn lớn để củng cố vị trí độc tôn của họ trong
những thị trường được lựa chọn. Trong bất cứ một thị trường
nào, luôn luôn có chưa tới 20% tổng số công ty chiếm đến 80%
giá trị thị trường. Về cơ bản, mỗi thị trường toàn cầu có khoảng
2 hoặc 3 nhà sản xuất chiếm ưu thế tại Mỹ, và 1 hoặc 2 từ
các nước khác. Ví dụ, thị trường xe hơi chủ đạo tập trung vào
Ford, General Motors và Chrysler, với Toyota là một đối thủ
nước ngoài chính. Người ta thường nghĩ rằng nguyên lý 80/
20 sẽ thiên về sự tập trung và kích thước tập đoàn.
Tôi cũng không tránh khỏi giả định này. Khi tôi xuất bản
cuốn Nguyên lý 80/20 vào năm 1997, cuốn sách áp dụng
nguyên lý 80/20 cho công việc và cho con người, nhưng không
phải cho con người trong công việc. Phần áp dụng nguyên lý
80/20 trong công việc nói về các nhà quản trị áp dụng nguyên
tắc này cho lợi ích của tập đoàn hay công ty họ. Phần áp dụng
nguyên lý 80/20 cho con người nhằm khuyến khích chất lượng
cuộc sống và hiệu quả cá nhân chứ không phải nhằm phát
triển một doanh nghiệp với cá nhân là trung tâm.
Với cuốn Con người 80/20, chúng ta bước sang một thế giới
khác. Ở đây, một người có thể xoay chuyển một thị trường
hiện hữu bằng cách tập trung vào một phần nhỏ trong đó -
phần đem lại lợi nhuận nhiều nhất. Thay vì một công ty độc
quyền thị trường, chúng ta tìm kiếm 20% hữu lợi nhất có khả
năng phát sinh 80% lợi nhuận. Chúng ta có thể tìm thấy 20%
(hoặc 5% hay chỉ 1%) số khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên,
khu vực địa lý, sản phẩm và hoạt động... đem lại lợi nhuận
cao nhất. Ví dụ: Nếu toàn bộ lợi nhuận của bạn phát sinh từ
việc đóng nhãn sản phẩm thì tại sao phải quan tâm đến việc
sản xuất, phân phối hay tiếp thị làm gì?
Điều gì xảy ra trong thế giới mới này? Các thị trường cất
cánh. Những gì trước kia chỉ là một thị trường nay có thể trở
thành hàng chục hoặc hàng trăm, theo đúng nghĩa đen. Tuy
nhiên, đa số lợi nhuận được tạo ra chỉ ở một số, hoặc có thể
chỉ một hay hai, thị trường này.
Intel và Microsoft có thể kiếm được lợi nhuận ở nhiều thị
trường, nhưng họ lại tập trung vào việc sản xuất chip và phát
triển phần mềm, chừa lại tất cả những công việc nặng nhọc
khác - đại đa số khổng lồ của hoạt động vật lý và đầu tư trong
thị trường máy tính - cho các công ty khác.
Vì những tay chơi mới không cần tham gia mọi sản phẩm
hay mọi hoạt động nên họ có thể lựa chọn những sân chơi tốt
nhất cho mình. Một thiểu số hoạt động nhỏ có thể đem lại đa
số lợi nhuận. Và như vậy nguyên lý 80/20 không hề ủng hộ
những nhà độc tài cũ quy mô lớn hay những tập đoàn già cỗi
mà ngược lại, nó nghiêng về những cá nhân bắt đầu các
doanh nghiệp mới.
Tất cả những sự đầu tư nhỏ bé này có giá trị như thế nào,
khi một cá nhân khôn ngoan có thể áp dụng nguyên lý 80/
20 cùng một số vốn rất nhỏ để nắm bắt những điểm nóng
trong một thị trường? Đầu tư trở thành một cái bẫy. Một công
ty lớn và cơ cấu của nó trở thành nghĩa vụ chứ không phải tài
sản. Nguyên lý 80/20 mở cửa với tất cả các thế giới mới, đặc
biệt và ưu tiên cho những công ty nhỏ, những công ty mới, và
trên hết là cho các cá nhân.
Bản chất của nguyên lý 80/20 là nó bao quát toàn bộ khán
đài - ở mức trung bình - và tìm ra những chỗ ngồi tốt nhất
trong khán đài đó. Nó tìm kiếm những mảnh vụn nhỏ nhất có
thể nhưng lại mang giá trị lớn nhất có thể. Trong kinh doanh,
mảnh vụn nhỏ nhất của sự sáng tạo giá trị trở thành những
cá nhân giàu trí tưởng tượng - và giá trị lớn nhất có thể có
được nhờ cá nhân đó, thường là thông qua công ty hay tập
đoàn mà người đó sở hữu.
Có phải chúng ta đã đến gần
điểm mốc?
Một "điểm mốc" là nơi một sản phẩm, một khuynh hướng,
hay một thái độ, từ lúc còn bị hạn chế trong một nhóm tiểu văn
hóa hay một khu vực nhỏ bắt đầu biến đổi thành một hiện
tượng đại chúng. Điểm mốc là một ranh giới vô hình mà một
khi đã vượt qua, mọi thứ sẽ được thay đổi, có thể là mãi mãi.
Một căn bệnh, chẳng hạn như bệnh cúm hay bệnh AIDS, trở
thành một dịch bệnh. Quan hệ tình dục trước hôn nhân trở
thành một phần trong nền văn hóa của giới trẻ hiện nay. Nước
trở thành hơi nước. Điện thoại di động trở nên phổ thông.
Có phải sự vươn lên của cá nhân đã đến gần một điểm
mốc? Tôi nghĩ vậy.
Khuynh hướng tăng tốc của 20 năm qua - đặc biệt là sự
gắn kết giữa giá trị với tài sản và sở hữu, sự phát triển của gia
công và liên minh, sự tái xuất hiện của các nhà quản lý tự làm
chủ, và sự sáng tạo của những hệ thống kinh tế mới vượt qua
những ranh giới doanh nghiệp cá nhân - tất cả đều đem đến
sức mạnh và của cải cho những con người sáng tạo, và biểu
thị tiềm năng của một nền kinh tế khác biệt. Nếu chúng ta
không vượt qua điểm mốc, cá nhân sẽ làm giàu hay sẽ được
nhận những phần thưởng phi tiền tệ bên trong hệ thống kinh
tế quen thuộc của chúng ta.
Nhưng nếu chúng ta vượt qua điểm mốc, chuyện gì sẽ xảy
ra? Khi đó mọi thứ sẽ như thế nào?
Chúng ta không thể biết chắc được. Bản chất của sự chuyển
tiếp đầy kịch tính là chúng tạo ra một cái gì đó hoàn toàn
khác, không thể đoán trước bằng phương pháp loại suy đơn
giản những khuynh hướng trong quá khứ. Ai có thể biết được
việc trồng trọt và thuần hóa nuôi dưỡng thú vật sẽ dẫn đến
vua chúa, thầy tế và nông nô cũng như những kiến trúc và đế
chế vĩ đại? Ai có thể biết được xã hội phong kiến đó sẽ trở nên
lỗi thời và lạc hậu trước những bộ máy hơi nước? Hay ai có
thể biết được sự quản lý cần thiết ban đầu cho các đường sắt
sẽ dẫn đến những quy trình sản xuất hàng loạt, chiến tranh
toàn diện, bộ máy quan liêu và xã hội tiêu thụ?
Tuy nhiên, tôi linh cảm rằng chúng ta sẽ có thể nhìn thấy
những thay đổi bất ngờ. Tập trung nền kinh tế và xã hội xung
quanh cá nhân sẽ là một điều tốt. Nhưng nếu nó kích động sự
sụp đổ hàng loạt vĩnh viễn của các thị trường chứng khoán
trên thế giới thì sao? Không một sự thay đổi kinh tế xã hội lớn
nào có thể tránh được những tác động tiêu cực về một khía
cạnh nào đó.
Chuyển tiếp sang phần II
Phần II - chín điểm cốt lõi của thành công 80/20 trong công
việc - cho thấy bạn có thể tạo ra những gì mới mẻ và giá trị
như thế nào. Mỗi chương sẽ nói về một điểm. Trong phần II
này, bạn sẽ gặp rất nhiều con người 80/20 trong thế giới thực,
những con người sáng tạo đã kết hợp với những người khác
để tạo nên một sức mạnh thống nhất.
Phần 2
Chín điểm cốt lõi của
thành công 80/20
trong công việc
Đọc như thế nào là tốt nhất?
Trong phần II này, mỗi chương sẽ nói về một trong chí
điểm cốt lõi để đạt được thành công 80/20 trong công việ
Chương 3 đến Chương 6 tập trung vào việc xác định nhữn
lĩnh vực thích hợp với bạn và điều đó sẽ đem lại lợi nhuậ
khổng lồ cho bạn cũng như những người hỗ trợ bạn. Chún
ta sẽ khám phá:Lĩnh vực sáng tạo nhất của bạn (Chương 3)Ý tưởng mới tốt nhất cho việc kinh doanh (Chương 4)Những yếu tố quan trọng làm phát sinh siêu lợi nhuậ
(Chương 5)Thời gian có thể đem đến sự đổi mới như thế nào (Chương
Khi đọc, bạn hãy cố gắng tưởng tượng ra nhiều dự án m
mà bạn muốn tạo dựng. Vào cuối Chương 6, hẳn bạn đã c
thể mường tượng được một số doanh nghiệp tiềm năng mới v
quyết định mình nên xây dựng doanh nghiệp nào.
Nhưng đừng vội vàng kết luận. Có thể là bạn đã có sẵn mộ
dự án nào đó trong đầu. Từ từ đã. Hãy kiểm tra vô số khả năn
khác. Hãy chơi đùa và tung hứng những ý tưởng khác nhau
Chương 7 đến Chương 10 tập trung vào những thành phầ
chủ chốt để bắt đầu dự án mới của bạn:Con người (Chương 7)Công ty hiện tại của bạn (Chương 8)
Các công ty khác (Chương 9)Vốn (Chương 10)
Chương 11 hướng dẫn bạn làm thế nào để đạt đến giai
đoạn phát triển thứ hai và làm nên khúc khải hoàn.
Hãy đọc từng chương một và tập trung hoàn toàn cho nó.
Hãy nghiền ngẫm các ý tưởng và suy đi nghĩ lại về chúng
trước khi tiếp tục.
Hãy nhờ một người bạn hoặc một đồng sự kinh doanh tương
lai giúp đỡ bạn. Hãy tự mình đọc từng chương một, nhờ người
bạn hay người đồng sự đọc lại chương đó, và rồi hai người
hãy ngồi lại để chia sẻ và tổng kết những phát hiện của hai
người trong mỗi chương sách.
Hãy tận hưởng sự thách thức! Hãy chắp cánh cho khả năng
sáng tạo của bạn! Ngay bây giờ!
3 Sử dụng 20%
sáng tạo nhất của bạn
"Trên hết, hãy thành thật với bản thân
Nếu không thì bạn sẽ không thành thật với ai cả".
William Shakespeare, Hamlet
ãy thành thật với bản thân - nhưng bạn nên thành
H thật với "bản thân" nào?
Bản thân là người đã bỏ thời gian và đổ mồ hôi nước mắt
để không được gì cả ư? Bản thân là người luôn tuân theo
những khuôn mẫu hành vi tồi tệ ư? Bản thân là người luôn
theo sau đám đông, bỏ ra phần lớn hay toàn bộ thời gian để
thích nghi với ý hướng của người khác ư? Bản thân tự động
của chúng ta ư? Cái bản thân không thể đạt được gì hơn mức
bình thường? Cái bản thân không hề có chút gì cá nhân cả?
thân thật sự riêng biệt và hữu ích của chúng ta, bản thân duy
nhất của chúng ta, bản thân tích cực, giàu sáng tạo và tưởng
tượng phong phú của chúng ta, chiếm phần chưa đến 20% và
góp phần tạo nên hơn 80% hạnh phúc của chúng ta.
Trước tiên, chúng ta phải tìm kiếm bản thân này, để có thể
nhận thức được một số ít ỏi những phẩm chất quan trọng
sống còn bên trong mỗi người. Sau đó chúng ta phải nuôi
dưỡng và phát triển 20% này lên. Và chỉ có khi đó, chúng ta
mới có thể làm cho thế giới và chính mình giàu có hơn được.
20% đỉnh năng lực
Điều gì đã làm nên những nhà quản trị lớn hay các nhà
lãnh đạo vĩ đại? Các chuyên gia tâm lý gọi đó là những "đỉnh
cao năng lực", còn tôi gọi đó là "20% đỉnh năng lực". Một đỉnh
năng lực là một ưu điểm đặc trưng mạnh mẽ của mỗi người.
Vấn đề ở đây là phải huấn luyện và phát triển đỉnh năng lực
đó của bạn sao cho nó đạt đến mức tiêu chuẩn của Thế vận
hội Olympic.
Liệu các nhà tâm lý trong công ty bạn, những người có
quyền quyết định liệu bạn hay một ai khác trong danh sách
ứng viên ngắn ngủi sẽ giành được vị trí cao nhất, muốn tìm
kiếm những con người trung bình khá hay họ muốn những kẻ
lập dị? Đáng ngạc nhiên là họ lại thích loại người thứ hai hơn.
Các nhà tâm lý muốn có những tính cách bất thường, với một
vài điểm ưu việt tuyệt đối. Nếu bạn có được điều đó thì hẳn
họ sẽ không buồn quan tâm đến cả một danh sách dài những
việc mà bạn không làm tốt được.
Gurnek Bains, người đứng đầu YSC, một công ty hàng đầu
về tâm lý doanh nghiệp, giải thích: "Bất cứ một nhà lãnh đạo
quan trọng nào cũng không phải là một người khá đều. Họ là
những nhân vật rất đặc biệt, nếu không muốn nói là hơi lập
dị. Những viên giám đốc giỏi nhất có những đỉnh năng lực
xuất sắc và những điểm yếu cũng tồi tệ không kém".
Nhà tâm lý Michael Maccoby đồng ý với ý kiến trên. Ông lưu
ý về một số nhà lãnh đạo "siêu sao" ngày nay và sự không cân
xứng của họ: "Các nhà quản trị ngày nay - những siêu sao
như Bill Gates, Andy Grove, Steve Jobs, Jeff Bezos và Jack
Welch - thuê người đại diện, viết sách, chấp nhận những cuộc
phỏng vấn tự phát, và chủ động quảng cáo cho những triết lý
cá nhân của họ... [Họ] là những ví dụ gần gũi của loại cá tính
mà Sigmund Freud gọi là tính tự yêu mình".
Maccoby cho biết "những người tự yêu mình đầy năng lực"
như vậy có một tầm nhìn rộng lớn và lòng tự tin mãnh liệt, họ
có gần như mọi thứ ngoại trừ tinh thần đồng đội. Hầu hết họ
không được đánh giá cao về trí thông minh cảm xúc hay khả
năng lắng nghe người khác.
Khuyết điểm của họ được giải quyết bằng cách tìm những
người khác có khả năng trong những lĩnh vực đó. Không phải
tất cả những người 80/20 đều là "những kẻ ích kỷ tài giỏi",
nhưng nhiều siêu sao có thể trở thành siêu sao chính xác bởi
vì con người họ không cân bằng. Họ có 20% đỉnh năng lực đủ
mạnh để vượt qua tất cả, dù thật sự là những nhà lãnh đạo
thành công thuộc loại này luôn luôn có một nhóm người dọn
dẹp những thứ linh tinh xung quanh họ.
Gia công 80% của bạn
Một trong những khuynh hướng quan trọng gần đây trong
kinh doanh là gia công. Các công ty thực hiện gia công bằng
cách giao cho các công ty khác làm những việc mà họ không
muốn làm và/hoặc những việc đem lại lợi nhuận trên vốn
thấp. Trường hợp lý tưởng, các công ty cho gia công toàn bộ
"số nhiều vặt vãnh" 80% công việc và dồn hết sức vào "số ít
quan trọng" 20% điểm mạnh của họ.
Người ta cũng có thể làm tương tự như thế. Hãy tìm 20%
(hoặc ít hơn) những việc mà bạn đặc biệt giỏi, và nhờ người
khác làm những gì còn lại.
Ít nhất là trong một chừng mực nào đó, những người giàu
có và nổi tiếng luôn luôn làm như vậy. Bạn không bao giờ
nhìn thấy Madonna đứng xếp hàng mua đồ tại siêu thị hay ở
văn phòng thị thực. Những quan chức quan trọng có khuynh
hướng ít tốn thời gian kẹt xe hơn tất cả chúng ta. Các nhân
vật nổi tiếng sống thoải mái không hề gặp phải những chuyện
rác rưởi luôn khiến chúng ta càu nhàu (có thể tự họ cũng xả
rác đấy, nhưng đó là chuyện khác rồi).
Tất cả chúng ta đều có thể "xuất khẩu" phần lớn của chính
mình. Nếu bạn không giỏi một việc gì đó thì đừng làm. Hãy
tìm ai đó làm giúp bạn, hoặc hãy mặc kệ nó. Tại sao phải bỏ
công sức vất vả chỉ để đạt một kết quả tầm thường? Có những
cách tốt hơn để sử dụng thời gian, sức lực, và bản chất con
người của chính bạn.
Mỗi người có những 20% đỉnh năng lực khác nhau
Đây là một sự thật mà ai cũng biết nhưng ít ai chú ý. Trong
số hàng tỷ người trên thế giới, chỉ có những cặp song sinh
đồng nhất mới có cùng vật chất di truyền. Nhưng ngay cả
những cặp song sinh đồng nhất cũng có những kinh nghiệm
khác nhau, sự lĩnh hội khác nhau và tình cảm khác nhau.
Con người là sinh vật khác biệt và chuyên biệt nhất trong số
các giống loài trên thế giới. Cũng có những loài kiến và linh
dương rất "cá nhân", nhưng vấn đề cá tính đạt đến cực điểm
là ở loài người.
Nhưng hầu hết cuộc đời chúng ta lại phủ nhận cá tính của
mình và cố gắng giả vờ rằng mình cũng giống như mọi người
khác. Như thế có kỳ quặc không?
Những con người sáng tạo lại càng khác biệt hơn. Họ có cá
tính cao hơn. Chính xác hơn là: Họ sử dụng cá tính của mình
nhiều hơn. Họ nhận thức được nó. Họ dành nhiều không gian
cho nó. Họ trau dồi nó. Họ biết ở đâu nó có thể được sử dụng
hiệu quả nhất.
Những cá nhân sáng tạo ít chịu thích nghi. Họ ít chịu nhượng
bộ "thực tế", những thực tế được người khác ấn định vào thời
điểm đó.
George Bernard Shaw hiểu rõ điều đó: "Một người 'biết
chuyện' sẽ thích nghi bản thân với thế giới. Một người 'không
biết chuyện' luôn khăng khăng tìm cách làm cho thế giới phải
thích nghi với mình. Vì vậy, tất cả những tiến bộ đều phụ
thuộc vào những người không biết chuyện". Và định nghĩa
của "không biết chuyện" ở đây chính là "sáng tạo".
Nếu bạn muốn sáng tạo, trước tiên bạn phải tìm kiếm và
nuôi dưỡng 20% đỉnh năng lực của mình. Nếu bạn muốn tạo
nên một doanh nghiệp mới, đừng bắt đầu bằng cách suy nghĩ
về kinh doanh. Hãy bắt đầu bằng cách suy nghĩ về chính bản
thân mình.
Rachel: Điển hình của
một nhà quản lý 80/20
Rachel là một phụ nữ 50 tuổi. Mảnh mai và xinh đẹp, trông
bà trẻ hơn tuổi thật đến 10 tuổi. Bà đi xe đạp và nuôi vô số
mèo trong nhà. Bà bị say xe nếu xe chạy quá nhanh.
Trong 8 năm, bà là giám đốc điều hành của một công ty nổi
tiếng chuyên về quần áo nữ. Dưới sự quản lý của bà, doanh
số tăng gấp đôi và lợi nhuận tăng gấp 15 lần. Mức lợi nhuận
trên vốn của bà đến 50-60% và bà không hề xin thêm vốn;
toàn bộ số vốn mở rộng của bà đều được phát sinh nội bộ. Bà
đã đem đến cho công ty mẹ của mình vô số cổ tức.
Rachel tham gia công ty khi thương hiệu của họ gần như
đang ngắc ngoải. Bà đã nỗ lực hồi sinh và phát triển nó trở
lại. Bà đã khởi phát lại được hai thương hiệu từ con số không.
Trong một ngành kinh doanh công nghệ thấp như vậy,
những mối quan tâm của Rachel thực tế đến mức ngạc nhiên.
Không như các nhà cung cấp quần áo khác trong ngành, công
ty của bà đem gia công sản xuất tất cả mọi loại quần áo. Bà
nói: "Tại sao tôi lại phải tự mình sản xuất khi việc đó không
đem lại lợi nhuận bao nhiêu?". Sức cạnh tranh chính của bà
nằm ở khâu thiết kế và bán hàng, và cả hai khâu này đều
không cần nhiều vốn. Quần áo được đem bán lẻ thông qua
các cửa hàng. Rachel trả tiền thuê mặt bằng dựa trên lợi
nhuận thu được và không gian thuê chỗ, nhưng bà sử dụng
rất hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho các cửa hàng này. Bà thuê
một giám đốc thiết kế cực giỏi, song hầu hết công việc thiết kế
cũng vẫn được gởi gia công.
Rachel thu hút tôi vì nhiều lý do và chúng ta sẽ theo gót bà
trong suốt Phần II này. Điều tôi muốn nói ở đây là: Bà đã bắt
đầu như thế nào?
"Tôi nghỉ học từ rất sớm", bà giải thích. "Tôi không giỏi
được môn nào trừ môn toán. Tôi nghĩ lúc đó tôi chán học. Tôi
không thấy những môn học đó có gì liên quan với những gì
mình muốn làm trong tương lai cả".
Bà kể tiếp, "Tôi rất thích quần áo. Tuy nhiên, tôi không đủ
tiền mua nhiều quần áo đẹp, vì vậy nên tôi quyết định sẽ bán
thay vì mua chúng. Công việc đầu tiên của tôi là bán hàng cho
một hệ thống cửa hàng lớn ở Miami. Tôi thích không khí làm
việc ở đó. Chúng tôi như một gia đình lớn. Việc kinh doanh
luôn luôn thay đổi và luôn có những điều mới mẻ. Tôi bắt đầu
hiểu thế nào là "đẹp". Phong cách và thị hiếu là những chất
lượng mà bạn có thể phát triển được.
"Trong quá trình học hỏi, tôi chuyển từ cửa hàng này sang
cửa hàng khác. Đầu tiên là mỹ phẩm và nước hoa. Sau đó là
nữ trang. Kế đến là quần áo thời trang, phần nhiều từ châu
Âu, chẳng hạn như Mary Quant. Cuối cùng tôi được chuyển
đến phòng Thiết kế. Những bộ quần áo xinh đẹp tuyệt vời
bằng những chất liệu vô cùng đặc biệt với mức giá "trên trời".
Bán hàng cho những phụ nữ giàu có thật sự rất thú vị!
"Tôi không định làm chuyện đó. Đó không phải là công việc
của tôi, nhưng một ngày nọ, tôi rảnh rỗi ngồi đếm số lợi
nhuận biên sai mà chúng tôi thu được. Tôi nhìn các đơn hàng
và nhận ra có một số mặt hàng mang đến lợi nhuận nhiều
hơn. Đó gần như là những mặt hàng đắt giá nhất.
"Theo bản năng tự nhiên, những người có nhiều tiền luôn
muốn có những gì tốt nhất và không quan tâm đến giá cả. Tôi
nhớ lúc đó tôi đã nghĩ: 'Thật thú vị. Đó là mặt hàng đắt tiền
nhất, đem đến lợi nhuận cao nhất, trong khi việc bán chúng
cũng dễ dàng, đôi khi còn dễ bán hơn cả những mặt hàng rẻ
tiền'. Vì vậy, nếu cửa hàng của chúng tôi muốn có lời nhiều
hơn, chúng tôi nên tập trung hơn vào những mặt hàng này.
Nhưng bạn biết đấy, thực tế là lợi nhuận biên sai trên các mặt
hàng này cũng cao nhất, vì vậy nên chúng tôi thắng cả hai
phía. Chúng tôi bán được nhiều hơn, đồng thời lợi nhuận trên
từng đồng vốn của chúng tôi cũng nhiều hơn. Đó là lúc tôi
quyết định rằng mình sẽ luôn luôn bỏ nhiều công sức nhất
cho những mặt hàng có lợi nhuận cao nhất.
"Tôi lưu ý thấy một điều khác nữa. Quãng thời gian tệ hại
nhất là khi chúng tôi phải treo bảng hạ giá. Và chúng tôi luôn
phải bán hạ giá nhiều hơn mong đợi. Ý tôi là số lượng quần
áo bán hạ giá nhiều hơn và mức giá hạ cũng nhiều hơn, để
có thể nhanh chóng thoát khỏi chúng. Chúng ta luôn luôn quá
lạc quan, hay ít nhất là các giám đốc của chúng ta. Đôi khi tôi
tự hỏi nếu thế thì làm sao chúng ta có thể kiểm tiền được.
"Và lúc đó tôi đã tự nhủ rằng nếu tôi là một giám đốc, tôi
sẽ bi quan hơn. Tôi sẽ hy vọng bán được ít hơn với đúng giá,
và nhiều hơn với những lần hạ giá lớn. Như thế tôi sẽ kiếm
được lợi nhuận nhiều hơn mong đợi chứ không phải ít hơn.
"Bạn có thể nói là tôi quá mơ mộng viển vông. Một cô gái
không có thư giới thiệu và không có tiền thì sẽ chẳng bao giờ
trở thành giám đốc được. Nhưng tôi biết mình có thể làm
được. Tôi biết nếu trở thành giám đốc thì mình sẽ là một nữ
giám đốc tuyệt vời. Đó không phải là ba hoa, tôi chẳng bao giờ
nói gì với ai cả, kể cả người bạn thân nhất của mình. Nhưng
tôi biết mình có thể làm được điều đó. Tôi biết mình có khiếu
lựa chọn quần áo, và tôi biết mình có thể làm những con tính
cộng tốt hơn bất cứ ai khác. Tôi biết đó chính là tôi. Và tôi biết
tôi sẽ là 'tôi' nhiều hơn nữa nếu tôi có thể làm một giám đốc
quản lý chứ không phải một cô nhân viên bán hàng.
"Và cuối cùng tôi đã quyết định. 'Này Rachel', tôi tự nhủ,
'mày sẽ trở thành giám đốc'. Tôi rất thích câu chuyện về Cô
bé Lọ lem: 'Mày sẽ đi đến vũ hội'. Và thế là tôi đi. Giai đoạn
khó khăn nhất với sự nghiệp hiện tại của tôi chính là lúc đó.
Trời ạ, tôi đang thách thức số phận hay sao?"
Những người sáng tạo không bị ruồng bỏ
Rachel kể với tôi: "Quả là hơi kỳ quặc, nhưng tôi thật sự
cảm thấy là chính mình hơn khi ở nơi làm việc. Thật sự, ở đó
tôi cảm thấy mình là chính mình còn hơn cả ở nhà. Tôi có thể
bộc lộ mình nhiều hơn. Công việc, con người, và tôi... Mọi thứ
hòa quyện với nhau. Bạn nói sáng tạo là một việc khó khăn
ư? Tôi không đồng ý. Khi ở nơi làm việc, tôi thấy sáng tạo là
điều dễ nhất trên thế giới này".
Để phát huy khả năng sáng tạo, bạn phải là chính mình.
Nếu bạn làm việc cho một công ty mà bạn không được là
chính mình, bạn cũng có thể sáng tạo nhưng hiệu suất công
việc sẽ chỉ là gượng gạo khi bạn không thoải mái. Bạn có thể
làm được nhiều, nhiều hơn thế ở một nơi nào khác.
Hãy tưởng tượng một nơi mà bạn có thể làm việc đạt năng
suất cao nhất. Và hãy tạo ra nó!
Câu chuyện của Bjorn-Ingvar
Một trong các bạn thân của tôi có một anh bạn người Thụy
Điển tên là Bjorn-Ingvar. Vào đầu những năm 1980, người
này vui vẻ làm một giáo sư trợ giảng môn tiếng Anh ở Đại học
Gôteborg. Anh cũng là một thành viên tận tụy của giáo đoàn
nhà thờ Lutheran gần nơi anh ở. Nhà thờ thường in sách kinh
thánh để kiếm thêm thu nhập nhưng chỉ có thể thu được rất
ít tiền từ dịch vụ này. Vì Bjorn-Ingvar là một giáo sư nên nhà
thờ nhờ anh trông coi dịch vụ này không công những khi rảnh
rỗi. Bjorn-Ingvar đồng ý và kết hợp luôn việc đó với công việc
ở trường đại học của mình.
Bjorn-Ingvar nhanh chóng nhận ra ngành in ấn phụ thuộc
chủ yếu vào một số đầu sách đặc biệt ăn khách. Nhưng cuốn
sách kinh của anh sẽ không bao giờ đáp ứng được yêu cầu
này. Vì vậy nên anh tìm kiếm một hoặc hai đầu sách mà anh
có thể chọn được, dù chúng luôn mang khuynh hướng tôn
giáo. Và hóa ra Bjorn-Ingvar rất có tài trong việc lựa chọn
những cuốn sách tiềm năng.
Không lâu sau đó, công việc xuất bản bé nhỏ của nhà thờ
đòi hỏi nhiều thời gian hơn. Vì đây là một công việc tốt và thú
vị nên Bjorn-Ingvar quyết định bỏ công việc giảng dạy và
chấp nhận một số thù lao bé nhỏ của nhà thờ để dành toàn
thời gian quản lý việc xuất bản.
Nhà xuất bản của anh nhanh chóng trở nên nổi tiếng ở các
cửa hàng bán sách: Sách của Bjorn-Ingvar luôn luôn bán rất
chạy. Được khai thông kênh phân phối, anh bắt đầu tìm kiếm
những đầu sách tiếng Anh thành công mà anh có thể bán
được. Một lần nữa, vì anh chọn sách rất cẩn thận nên việc
kinh doanh tiếp tục thăng hoa và đem lại lợi nhuận cao.
Vào đầu những năm 1990, khi bạn tôi gặp anh, Bjorn-
Ingvar đang bắt đầu mua lại các nhà xuất bản Thụy Điển
khác, nhưng anh luôn chọn các NXB chuyên ngành, ví dụ như
Nhà xuất bản tài liệu hướng dẫn máy tính. Nhà xuất bản của
anh hiện nay lớn hơn rất nhiều so với quy mô ban đầu ở nhà
thờ. Không có vốn, không có cấu trúc tập đoàn, và bắt đầu
không có một nhà quản lý nào cả, Bjorn-Ingvar đã tạo nên
một doanh nghiệp trị giá hàng chục triệu đôla.
Dù vậy, số tiền mà Bjorn-Ingvar nhận được hàng tháng vẫn
không nhiều hơn số thù lao ban đầu, sau khi điều chỉnh lạm
phát, số tiền mà anh đã chấp nhận 10 năm trước cho việc
quản lý in ấn một vài cuốn kinh thánh. Số tiền đó cũng tương
đương mức lương của các mục sư nhà thờ, vốn thấp hơn
nhiều so với mức lương trung bình ở Thụy Điển. "Tôi làm việc
vì nhà thờ", anh nói với bạn tôi. "Nếu tôi có tạo ra một doanh
nghiệp trị giá hàng triệu đôla, liệu nó có giá trị bằng công việc
của một mục sư chăm sóc linh hồn con người hay không?"
Ngày nay, công ty mà Bjorn-Ingvar đã lập nên - Libris Media
AB - là một nhà xuất bản Thụy Điển lớn được điều hành bởi
các nhà quản lý chuyên nghiệp với những mức lương cực cao.
Bjorn-Ingvar đã rời nơi đây vài năm trước để thành lập một
nhà xuất bản nhỏ khác, lần này là cho chính mình. Nhưng rõ
ràng anh làm việc không phải vì tiền. Anh nói với bạn tôi:
"Đơn giản là tôi thích xây dựng doanh nghiệp. Tôi thích nhà
xuất bản mới này cũng như nhà xuất bản cũ của nhà thờ vào
những ngày đầu tiên. Điều tôi thật sự yêu thích là được làm
những việc mình có thể làm tốt, đó là tìm kiếm những đầu
sách đạt chất lượng cao và được công chúng chú ý"
Câu chuyện của Olivo
Olivo Boscariol là một người Pháp sinh tại Ý. Anh sống ở
Paris và làm nghề phục chế ảnh. Khi cậu con trai đầu lòng ra
đời, vợ chồng anh cần một ngôi nhà lớn hơn nên họ quyết
định chuyển đến Provins, một thị trấn nhỏ cổ xưa. Dù họ rất
thích cuộc sống tại đây nhưng cũng có một điều bất tiện:
không ai có nhu cầu phục chế ảnh cả.
Olivo liền tìm một công việc khác và cuối cùng anh kiếm
được một chân gác đêm tại viện bảo tàng của địa phương.
Những đêm không ngủ tại đây, anh dần bị cuốn hút vào
những viên gạch lát sàn từ thời Trung cổ của viện bảo tàng.
Anh không biết gì về gốm sứ cả, nhưng sau ba lần tìm cách
xin phép chính quyền địa phương, cùng với sự hỗ trợ của
công ty Saint Gobain, một công ty kinh doanh đa hàng hóa,
anh đã lập nên một cơ sở sản xuất thủ công những viên gạch
lát sàn sao chép mẫu mã của những viên gạch thời Trung cổ.
Tuy nhiên, lệnh cho phép của chính quyền nói rõ rằng anh chỉ
được thuê các nhân công, cũng như anh, trên mức thấp nhất
của trợ cấp thất nghiệp.
Đó là năm 1992. Hiện nay, doanh nghiệp của Olivo đã xuất
khẩu gạch sang Mỹ và Anh, cũng như có những hợp đồng lớn
cho các tòa cao ốc ở khắp nơi trên nước Pháp.
Dù việc kinh doanh rất thành công và gặt hái được nhiều
lợi nhuận nhưng đó vẫn không phải là mối quan tâm chính
của Olivo. "Tôi yêu thích chính bản thân những viên gạch",
anh nói, "và tôi biết doanh nghiệp của tôi chỉ phản ánh những
việc mà tôi có thể làm tốt nhất. Điều tôi hài lòng nhất ngày
nay là tôi có thể giúp những người thất nghiệp và gia đình họ
kiếm được công ăn việc làm. Tôi tìm kiếm những người mà
mọi người khác cho là những kẻ thất nghiệp rỗi hơi, nhưng tôi
biết họ có thể trở nên thích thú với các viên gạch. Nếu họ thích
những viên gạch, tôi biết họ có thể làm tốt công việc".
Olivo rất nhiệt tình giúp đỡ những người thất nghiệp tuyệt
vọng. "Hơn 9 năm qua", ông bảo tôi, "doanh nghiệp của tôi đã
cứu được 50 người như thế". "Cứu" là một từ hơi nặng, nhưng
thật sự đúng như thế. Ông nói: "Thường thì họ làm việc với tôi
khoảng hai hay ba năm, học hỏi kinh nghiệm rồi ra đi. Nhiều
người trong số họ bắt đầu những doanh nghiệp nhỏ của riêng
mình. Tôi luôn cầu mong họ sẽ làm những việc mà tôi đang
làm, sử dụng những người đang "mất hết hy vọng" vào những
công việc mà họ ưa thích và sản phẩm của họ cũng đem đến
niềm vui cho nhiều người khác".
Có lẽ vì sự sắp xếp Trung cổ này, Olivo đã khiến tôi nhớ lại
những người sáng lập ra trật tự nhà nước cổ đại. Họ cũng tập
trung vào 20% đỉnh năng lực của mình, theo đuổi niềm đam
mê và cứu lấy những người khác. Ngày nay, chúng ta xếp họ
vào loại những doanh nhân phi lợi nhuận. Việc xếp loại như
thế nào không quan trọng. Điều quan trọng là những người
như Olivo, Benedict, Francis và Dominic đã tạo ra những cái
mới và giá trị, phản ánh tầm nhìn và bản chất cá nhân của
chính họ.
Câu chuyện của Jamie
Với một người trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm, bạn sẽ không
thể mong đợi anh ta có thể làm nên điều gì khác biệt về mặt
kinh tế tại một nơi như British Broadcasting Corporation (BBC).
Đài Phát thanh Anh quốc BBC này lúc đó là một bộ máy quan
liêu vẫn còn thu tiền bản quyền, do chính phủ quy định, với
những người xem truyền hình tại Anh. Nhưng sức mạnh của
những con người 80/20 thậm chí có thể tác động đến những
ngóc ngách sâu thẳm nhất của BBC.
Khi Jamie Reeve, 30 tuổi, một người bạn và cựu đồng sự
kinh doanh của tôi, tham gia BBC vào giữa những năm 1990,
tôi nghĩ anh ta điên rồi, sớm muộn gì anh ta cũng sẽ phát
chán và sẽ không làm nên trò trống gì cả. Nhưng tôi đã không
tính đến 20% đỉnh năng lực của anh. Jamie rất đam mê hai
lĩnh vực: truyền thông và Internet. Vào đầu những năm 1990,
anh bảo tôi rằng trong tương lai, Internet sẽ trở nên rất quan
trọng đối với kinh doanh (và lúc đó tôi đã không tin anh ta).
Khi anh tham gia BBC, mục tiêu của anh - vốn không liên
quan gì với công việc của anh tại đó - là đưa nội dung của
BBC lên mạng để mọi người có thể xem trực tuyến.
"Có lẽ tôi vào khoảng thứ 105 trong hệ thống cấp bậc quản
lý của BBC", anh bảo tôi, "nhưng tôi biết John Birt, Tổng Giám
đốc, cũng là một con người sáng tạo, còn tôi thì có ý tưởng.
Chuyện gì xảy ra nếu tôi có thể tổ chức một chuyến đi cho ông
ta đến Thung lũng Silicon và Seattle, gặp gỡ những con người
luôn luôn chuyển động tại đó, và khiến ông ta cảm thấy thú
vị với những viễn cảnh mới?". Và Jamie không chỉ thành công
trong việc thuyết phục vị Tổng Giám đốc của anh về chuyến
đi mà trước sự ngạc nhiên của anh, John Birt còn khăng khăng
mời anh cùng đi với mình.
"Tôi sẽ không bao giờ quên được chuyến đi đó vào tháng 7-
1997", Jamie tiếp tục. "Tưởng tượng xem, ba người, John Birt,
Bill Gates và tôi, cùng nhau ngồi nói chuyện hơn hai giờ về
những gì Internet đang làm và nội dung của BBC giá trị đến
thế nào. Khi chúng tôi quay trở về, John đã hoàn toàn bị
thuyết phục".
Vào tháng 11-1997, BBC Online ra đời. Và hiện nay đó là
website thành công nhất bên ngoài nước Mỹ, với khoảng 10
triệu người sử dụng trên toàn thế giới và khoảng 300 triệu
trang in mỗi tháng. Các nhà quan sát trong ngành ước đoán
nếu BBC Online được đem rao bán, giá trị của nó sẽ khoảng
xấp xỉ 1 đến 2 tỷ đôla.
Cả Jamie lẫn John Birt đều đã rời BBC. John Birt nay là chủ
tịch quỹ vốn dự án chuyên ngành truyền thông Lynx, được
Virgin và Bear Stearns hỗ trợ, còn Jamie là một đồng sự của
ông.
Làm thế nào để sử dụng 20%
sáng tạo nhất của bạn?
1. Xác định 20% đỉnh năng lực của mình
Các nhà tâm lý nhấn mạnh rằng tự nhận thức là một việc
rất khó khăn, và có rất nhiều kỹ thuật để nâng cao khả năng
tự nhận thức. Song việc xác định 20% đỉnh năng lực của bạn
thì dễ dàng hơn nhiều so với nhận định toàn bộ 100% con
người mình. Có thể bạn không rõ lắm về những điểm yếu của
mình, nhưng bạn hoàn toàn có thể biết được những gì khiến
bạn phấn khích nhất!
Bằng mọi giá, hãy nhờ một công ty hướng nghiệp hay một
nhà tâm lý doanh nghiệp giúp đỡ bạn, nhưng dưới đây là một
số gợi ý và phản hồi từ các hiệp hội có thể đem đến cho bạn
ít nhất 80% câu trả lời.
Hãy tự hỏi mình những câu hỏi dưới đây và ghi lại câu trả
lời của bạn. Sau đó hãy lặp lại những câu hỏi này với khoảng
mười người hiểu rõ về bạn mà bạn tin là họ sẽ cho bạn câu
trả lời chính xác chẳng hạn như vợ/chồng/người yêu, bạn
thân, đồng nghiệp, ông chủ của bạn...
Bảng câu hỏi về 20% đỉnh năng lực
Câu hỏi Câu trả lời
Điều gì thật sự thú vị đối với bạn?
Bạn thật sự cảm thấy đam mê nhất với điều gì?
Hãy tưởng tượng bạn trở thànhmột người nổi tiếng. Bạn có thể
nổi tiếng trong lĩnh vực nào?
Bạn có điều gì đặc biệt nhất?
Bạn có cá tính nào đáng chú ý nhất?
Bạn có điều gì khác biệt nhất so với mọi người khác?
Bạn nghĩ bạn sẽ vui vẻ nhất và làm tốt nhất công việc gì?
Bạn giỏi nhất và giỏi hơn những người khác trong việc gì?
Bạn nghĩ mình thích hợp nhất với công việc gì?
Hãy nghĩ về một lĩnh vực đặc biệt nào đó mà bạn có thể
thành công xuất sắc, có thể không liên quan gì đến công
việc hiện nay của bạn. Hãy suy nghĩ sáng tạo, thậm chí không
cần phải hoàn toàn nghiêm túc.Nếu bạn bắt đầu một cuộc
phiêu lưu mới có khả năng thành công tột bực, đó sẽ là
gì?
Hãy sử dụng trí tưởng tượng của bạn.
2. Nuôi dưỡng 20% đỉnh năng lực của mình
Một khi bạn đã xác định được 20% đỉnh năng lực của bạn
là gì, bạn cần phải rèn luyện, phát triển và nuôi dưỡng nó cho
đến khi nó đạt đến mức tiêu chuẩn của Olympic. Với bất cứ
kỹ năng nào, việc rèn luyện hàng ngày vô cùng quan trọng.
Hãy làm nhiều hơn những gì bạn có thể làm tốt nhất. Hãy làm
nó mỗi ngày, bằng mọi cách. Hãy nghiên cứu, tìm tòi, thảo
luận, thí nghiệm - tất cả xoay quanh 20% đỉnh năng lực của
bạn. Hãy gặp gỡ những người có tài năng xuất sắc trong
những lĩnh vực tương tự. Hãy so sánh các ghi chú. Hãy thỏa
mãn lòng đam mê của mình. Hãy nhấn mạnh cách tiếp cận
đặc biệt của bạn để có thể tạo nên một phong cách độc nhất
vô nhị không thể bắt chước được.
20% đỉnh năng lực của bạn
và những cuộc phiêu lưu mới
Trong những chương tới, chúng ta sẽ thấy rằng bản chất
của "cơ hội kinh doanh" thường bị mọi người hiểu lầm nghiêm
trọng. Những vật liệu thô của thành công kinh doanh - ý
tưởng và con người - có thể tìm thấy khắp nơi. Nhưng luận
thuyết về 20% đỉnh năng lực cho rằng bạn không nên tìm
kiếm bất kỳ một cơ hội cũ kỹ nào, dù nó có tuyệt vời đến đâu
đi nữa.
Vấn đề là bạn phải tìm kiếm những lối mở đặc biệt mà bạn
có thể khai phá tốt hơn và sáng tạo hơn những người khác.
Nếu chỉ tìm kiếm những nỗ lực đem lại lợi nhuận cao thì vẫn
không đủ. Nếu chỉ tìm kiếm một cái gì đó mà bạn có thể làm
tốt nhất thì vẫn không đủ. Bạn phải tìm kiếm một cái gì đó
thích hợp với bạn hơn với bất cứ ai khác, một cái gì đó không
ai có thể làm tốt bằng bạn. Nếu không, ý tưởng mới lạ của bạn
sẽ dễ dàng bị đánh cắp, và tất cả mọi công sức bạn đã bỏ ra
đều sẽ trở thành "đổ sông đổ biển".
Thế còn 80-99% mà bạn
không giỏi thì sao?
Bạn cần những người khác: có thể là đồng sự, nhưng chắc
chắn phải là người hỗ trợ bạn. Sức mạnh Olympic của bạn -
con số 20%, hay thường gặp hơn là chỉ có 1% - đòi hỏi 80-99%
còn lại của bạn phải được người khác hỗ trợ. Để đạt hiệu quả
cao nhất, bạn cần có một nhóm nhỏ.
Tôi phải mất một thời gian mới nhận ra được điều này. Tôi
từng nghĩ rằng 20% là tất cả những gì mà chúng ta cần quan
tâm, nhưng giờ thì tôi biết rằng người ta không chỉ sống chỉ
với 20%. Như một nhà bình luận đã phát biểu về cuốn Nguyên
lý 80/20, lát thịt trong cái hamburger (20%) cần có miếng
bánh mì (80%), nếu không thì nó sẽ không còn là cái hamburger
nữa. Ngay cả cái hamburger cũng không vi phạm nguyên lý
80/20. Chúng ta tập trung nhiều vào 20% quan trọng, nhưng
chúng ta cần bảo đảm 80% còn lại cũng phải được chăm sóc,
bởi những người khác trong cùng một đội. 80% của tôi có thể
là 20% của bạn.
Trong trường hợp nào cũng vậy, thường rất khó nói chính
xác 20% của một người là gì, và cả 20% lẫn 80% đều thay đổi
theo thời gian khi chúng ta phát triển dần lên và khi môi
trường thay đổi. Điểm cốt yếu là phải nhận thức được 20% mới
đang dần xuất hiện bên trong chúng ta, và đặt ưu tiên cung
cấp sự hỗ trợ cho nó - từ bản thân lẫn từ đội nhóm của bạn.
Ở đây cũng có một khía cạnh tình cảm quan trọng. Con người
cần sự ủng hộ của xã hội. Cũng như các gen di truyền, 20%
của chúng ta cũng cần được bảo vệ, tạo hình và khuyến khích
phát triển trong những hoàn cảnh xã hội ổn định và thân
thiện.
Hãy chăm sóc đội nhóm của bạn: Nếu không phải là những
người đồng sự vô tư thì họ cũng được xem như những người
hỗ trợ chứ không phải những nhân viên dưới quyền. Thành
công của bạn cũng phải là thành công của họ - họ phải được
hưởng lợi khi trở thành một phần trong thế giới của bạn, cũng
như bạn được hưởng lợi vì họ là một phần của bạn.
Bạn có cần những người đồng sự không?
Bạn sẽ phải quyết định xem liệu thế mạnh của bạn có đủ
rộng để duy trì thành công trong lĩnh vực mà bạn lựa chọn
hay không.
Có một thử nghiệm nhỏ như sau: Nếu 20% đỉnh năng lực
của bạn là một nền tảng đủ mạnh cho một công cuộc kinh
doanh mới thành công thì bạn sẽ không cần những người
đồng sự. Còn nếu không thì bạn sẽ cần.
Ví dụ, cuộc phiêu lưu đầu tiên của tôi là mở một văn phòng
tư vấn quản lý chuyên về chiến lược kinh doanh. Tôi tin rằng
20% đỉnh năng lực của tôi nằm ở tầm nhìn chiến lược. Tôi có
thể trả lời những câu hỏi như: "Công ty này thật sự nên làm
gì?". Nhưng tôi không nghĩ đó là một nền tảng vững chắc cho
một công ty thành công có khả năng cạnh tranh với các công
ty nổi tiếng như McKinsey, Bain hay Boston Consulting. Cụ
thể hơn, có hai điều thiết yếu mà tôi không có: một là khả
năng thực hiện những công việc phân tích định lượng "điên
đầu" và huấn luyện các nhà tư vấn khác làm điều đó; và hai
là khả năng lãnh đạo, quản lý một công ty chuyên môn nghiêm
túc. Không có những thành phần này, tôi chỉ có thể thành
công với một văn phòng nhỏ cùng vài nhân viên bận rộn,
nhưng không thể xây dựng được một công ty lớn bền vững.
May mắn thay, tôi tìm được hai người đồng sự làm được những
việc mà tôi không thể làm: Iain Evans, một nhà phân tích tầm
cỡ thế giới, và Jim Lawrence, một nhà lãnh đạo với tài năng
theo tiêu chuẩn Olympic.
Nếu bạn cần những người đồng sự, 20% đỉnh năng lực của
họ sẽ là gì? Đặt ra câu hỏi này nghĩa là bạn đã có câu trả lời
rồi. 20% đỉnh năng lực của họ phải bao gồm những gì cần
thiết cho một thành công vô song của cuộc phiêu lưu mới mà
một mình bạn không thể chu toàn được.
Quyết định những gì cần tạo ra
Khi bạn đã xác định được sức mạnh của mình và của những
người đồng sự là gì, bạn đã sẵn sàng để tiếp tục và quyết định
xem mình sẽ tạo ra những gì. Chương 4 đến Chương 6 sẽ cho
thấy làm thế nào nguyên lý 80/20 có thể hướng dẫn bạn
trong lĩnh vực kinh doanh mà bạn lựa chọn.
4 Sinh sôi và biến đổi
những ý tưởng lớn
"Không một sức mạnh nào trên trái đất này
mạnh mẽ bằng một ý tưởng vào đúng thời điểm".
Victor Hugo
ọi doanh nghiệp đều có thể được mô tả bằng từ
M ngữ. Hay nói cách khác, ý tưởng đằng sau doanh
nghiệp đó chính là định nghĩa cơ bản nhất của nó. James
Champy đã diễn đạt quan điểm này khá sắc nét:
"Người ta thích nghĩ rằng các doanh nghiệp được
xây dựng trên những con số (như trong các đồ thị
phát triển), hay những sức mạnh (như trong sức
mạnh thị trường), hay các vật thể (sản phẩm), hoặc
thậm chí là cả xương thịt (con người). Nhưng đó là
một quan niệm sai lầm. Doanh nghiệp được tạo thành
từ ý tưởng - ý tưởng được thể hiện qua từ ngữ".
Champy hơi quá lời đấy. Các doanh nghiệp có tất cả những
thuộc tính đó cùng một lúc: Chúng là những con số, những
sức mạnh, những vật thể, con người, và ý tưởng. Doanh nghiệp
là những thực thể sống và không ngừng chuyển động mà
chúng ta có thể tạo ra và nắm bắt bằng tất cả những yếu tố
trên.
Tuy nhiên, nếu nhìn từ khía cạnh ý tưởng, bạn sẽ thấy
nhiều điều thú vị. Một ý tưởng có thể được diễn đạt bằng số
liệu, bằng công thức toán, bằng đồ thị, bằng tranh vẽ, hay
uyển chuyển nhất là bằng từ ngữ. Nếu số liệu là giai điệu thì
từ ngữ chính là ca từ của một doanh nghiệp.
Với những người ưa thích các biểu thức toán học, chúng ta
có thể viết là:
Doanh nghiệp = Ý tưởng + Số liệu
Doanh nghiệp = Ca từ + Giai điệu
Chương này sẽ tập trung vào ý tưởng đứng sau doanh
nghiệp: từ ngữ. (Chúng ta sẽ gặp lại các con số trong Chương
5). Khi áp dụng nguyên lý 80/20, chúng ta sẽ tìm kiếm trong
chương này một ý tưởng mới duy nhất cho cuộc phiêu lưu của
bạn. Điều này không khó như bạn nghĩ. Sự thật là trong bất
kỳ lĩnh vực kinh doanh nào cũng chỉ có một vài ý tưởng đặc
biệt mạnh mẽ mà thôi. Hãy bám vào một, hai hoặc ba ý tưởng
đó, tạo nên một biến thể thích ứng độc nhất với thị trường và
những khả năng của bạn, và thế là bạn có được phôi thai của
một doanh nghiệp mới thành công.
Chúng ta sẽ sử dụng logic suy diễn: Chúng ta bắt đầu bằng
một định luật thành công tổng quát, dựa trên các ý tưởng và
nguyên lý 80/20, và suy ra những biến thể của nó. Mục đích
tìm kiếm của chúng ta là một số ý tưởng đủ quyền năng để
đưa bạn đến thành công.
Kinh doanh dưới khía cạnh ý tưởng
Mọi doanh nghiệp đều phải bắt đầu bằng một ý tưởng. Ý
tưởng kinh doanh mới của bạn là gì? Và làm thế nào nguyên
lý 80/20 có thể giúp bạn đạt được điều đó?
Một phần năng động, hữu ích, tiến bộ của cuộc sống bao
gồm một thiểu số những lực lượng nhỏ nhưng lại có năng suất
cao đến mức ngạc nhiên và tạo ra gần như tất cả mọi thành
quả. Nhưng bản thân nguyên lý 80/20 cũng rất năng động,
nó luôn tạo ra những thành quả mới từ những thiểu số lực
lượng mới. Bên trong 20% hiệu quả đó cũng có 20% khác, và
bên trong 20% đó cũng có 20% khác nữa. Cùng với thời gian,
điều này càng trở nên hiển nhiên hơn. Sự cải thiện kỳ thú thật
sự diễn ra trên một chuỗi thời gian, khi quá trình đó không
ngừng lặp lại. Chất bán dẫn và microchip là những ví dụ rõ
nét: Những thành tựu không ngờ xuất phát từ một quá trình
thành công, chẳng hạn như quá trình thu nhỏ, được lặp đi lặp
lại không ngừng.
80% vụn vặt có vẻ như bỏ đi, nhưng nếu chúng ta xem đó
là một quá trình "động" chứ không "tĩnh", thì mỗi 80% đều
cần thiết. Nếu không có số nhiều vụn vặt này thì số ít quan
trọng không thể nổi bật lên được.
Cuộc sống là một cuộc thí nghiệm. Trừ phi đi hết mọi con
hẻm cụt, nếu không thì chúng ta sẽ không bao giờ biết được
rằng có những con hẻm không hề cụt chút nào. Chúng ta bị
kẹt trong một mê cung - nguyên lý 80/20 chính là tấm bảng
chỉ đường hướng dẫn lối ra cho chúng ta.
Sự lựa chọn của tự nhiên và "gen kinh doanh"
Bản chất của tự nhiên là thiếu hiệu quả, nhưng điều đó
không thành vấn đề. Hệ sinh thái phức tạp với vô số sinh vật
khác nhau đã phát triển như thế nào? Chúng đã trải qua hàng
tỷ tỷ mê cung và hẻm cụt, không kể xiết bao nhiêu sinh vật
đã sống và chết đi lãng phí, nhưng qua đó, từ từ, chầm chậm,
"số ít quan trọng" dần dần xuất hiện giữa "số nhiền vụn vặt".
Nhà sinh vật học Richard Dawkins ước tính lịch sử đã chứng
kiến "khoảng ba tỷ nhánh của dòng sông DNA", ba tỷ loài vật
khác nhau. Cứ mỗi 100 loài vật, 99 loài đã sống và đã tuyệt
chủng, chỉ còn lại một loài tồn tại cho đến ngày nay. Đây là
một mối quan hệ 99/1 - mỗi câu chuyện thành công tốn đến
99 bản nháp.
Lý thuyết kỳ diệu của Charles Darwin về sự lựa chọn của tự
nhiên vào năm 1859 chính là một điển hình cho thấy nguyên
lý 80/20 đã hoạt động như thế nào trong suốt mọi thời đại.
Số nhiều vụn vặt - những mẩu vật không thành công - đã
chết đi dọn đường cho một số ít quan trọng những mẩu thử
thành công. Những mẩu thử này sản sinh ra nhiều biến thể
khác, và môi trường lựa chọn một số ít trong chúng để tồn tại
rồi sản sinh nhiều biến thể khác nữa. Và cứ như thế, dây
chuyền này không bao giờ kết thúc.
Quá trình động 80/20 của sự lựa chọn tự nhiên là một biện
pháp khả thi bất ngờ để xem xét các ý tưởng. Gen di truyền
chính là động cơ thúc đẩy quá trình tái sinh của sự lựa chọn
tự nhiên. Thật sự gen thuần túy là các thông tin - chúng là
những ý tưởng - và các ý tưởng làm việc như các gen. Cũng
như cây cỏ và động vật, con người sẽ là những bộ máy vô
dụng nếu không có các gen thúc đẩy chúng ta. Tương tự, ý
tưởng - hay tôi có thể gọi là "gen kinh doanh" - chính là yếu
tố thúc đẩy sự thành công trong kinh doanh.
Gen kinh doanh là những gói thông tin kinh tế hữu ích,
những ý tưởng hữu ích cho việc kinh doanh. Bạn sẽ dễ dàng
thành công hơn trong cuộc sống nếu bạn có những gen tốt.
Những sinh vật riêng rẽ có được những gen tốt nếu chúng là
những phương tiện tốt nhất có thể để chứa các gen đó. Tương
tự, thành công trong kinh doanh xuất phát từ những ý tưởng
kinh doanh vĩ đại và từ những phương tiện tốt nhất có thể để
đưa những ý tưởng đó vào một thị trường chuyên môn.
Gen kinh doanh là những ý tưởng hữu ích về việc cung cấp
sản phẩm và dịch vụ cho khách hàng như thế nào, nên sử
dụng nhà cung cấp nào, làm thế nào để tạo ra những thứ
chào bán cho khách hàng, ý tưởng về việc phân phối sản
phẩm và các thứ đi kèm như thế nào, làm thế nào để tìm được
những người đồng sự và những nhân viên thích hợp rồi kết
hợp họ lại; làm thế nào để đạt được thặng dư kinh tế và mức
lãi trên vốn cao hơn mức có thể trước đây, và về bất cứ điều
gì khác định nghĩa một doanh nghiệp và đem đến cho nó tiềm
năng tạo ra tài sản.
Ý tưởng kinh doanh nào
là "số ít quan trọng"?
Điểm cốt yếu là phải xác định được những ý tưởng "số ít
quan trọng" có thể đem đến thành công cho bạn. Hai mặt của
một vấn đề: Một, bạn cần những ý tưởng lớn có thể tự chứng
minh chính mình. Hai, bạn cần những ý tưởng phù hợp với
20% đỉnh năng lực của bạn.
Những ý tưởng lớn luôn luôn tồn tại trong một dây chuyền
những ý tưởng thành công. Những ý tưởng thành công có rất
nhiều "cha mẹ" và "con cháu". Nơi tốt nhất để tìm kiếm ý
tưởng kinh doanh mới của bạn chính là thiểu số những ý
tưởng đã tự chứng minh sự thành công tột đỉnh của chúng -
giữa 20% hoặc ít hơn, trong "số ít quan trọng" các gen kinh
doanh. Sau đó, hãy làm thí nghiệm. Hãy ngắt ý tưởng đó
thành thật nhiều cách thực hiện khác nhau cho đến khi bạn
tìm thấy một số ít quan trọng những biến thể mà bạn cảm
thấy có khả năng thành công nhất.
Song những ý tưởng quan trọng sẽ chỉ ở lại với bạn nếu bạn
là phương tiện tốt nhất cho chúng. Nếu bạn không thể nắm
bắt và sử dụng chúng tốt hơn những người khác thì may mắn
sẽ rời bỏ bạn. Hãy lựa chọn những ý tưởng phù hợp nhất với
20% sáng tạo nhất của bạn, những ý tưởng có thể tìm thấy
định mệnh của chúng ở nơi bạn.
Cạnh tranh ở cấp độ ý tưởng
Sự cạnh tranh quan trọng nhất trong kinh doanh - sự sàng
lọc số nhiều vụn vặt và sự thắng lợi của số ít quan trọng -
diễn ra ngay ở cấp độ ý tưởng kinh doanh. Đây là một sự thật
với các sản phẩm, công nghệ, kỹ thuật quản lý, và mọi dạng
cạnh tranh nghiêm túc khác, những nơi có rất ít người chiến
thắng và rất nhiều kẻ thất bại, và những nơi mà những người
chiến thắng được thay thế bởi những phiên bản thậm chí còn
tốt hơn của chính họ.
Sự cạnh tranh thật sự trong bất cứ sản phẩm nào cũng
không phải là sự cạnh tranh giữa công ty này với công ty khác
hay sản phẩm này với sản phẩm khác mà chính là sự cạnh
tranh giữa các ý tưởng về sản phẩm. Để một sản phẩm ra đời
ngoài thị trường và có khả năng tồn tại, nhiều sản phẩm khác
đã bị loại bỏ trước khi lên đến bàn thiết kế, nhiều sản phẩm
đã chết trên bàn thiết kế, nhiều sản phẩm bị phá bỏ trong giai
đoạn phát triển, nhiều sản phẩm không vượt qua được thị
trường thử nghiệm, và nhiều sản phẩm không đạt mức đánh
giá khả năng khách hàng sẽ mua lại chúng.
Những sản phẩm thành công kết thúc tại bảo tàng
Những ý tưởng tốt đặc biệt dễ bị tổn thương trước hoạt
động của nguyên lý 80/20. Với mỗi ý tưởng tốt lại có những
phiên bản tốt hơn của chính nó, hay những biến thể khác
nhau phục vụ cùng một mục đích tương tự, chúng xuất hiện
và giết chết nguyên bản. Có lẽ một ý tưởng hữu ích nhất vào
đầu thế kỷ XX là chiếc xe Ford Model T: Bằng cách đem đến
sự tự do di chuyển cho tầng lớp trung lưu và những người lao
động bình thường, nó đã thay đổi xã hội. Điểm cốt yếu về
Model T, như David Hounshell, nhà sử học về sản xuất hàng
loạt, đã nhấn mạnh, nó "là một ý tưởng tốt cũng như một
chiếc xe tốt... một chiếc xe không đổi dành cho đám đông".
Ngày nay chúng ta có thể tìm thấy Model T ở đâu? Không
phải trên đường, mà là ở trong bảo tàng xe hơi. Vì sao vậy?
Không phải vì Model T thất bại - nó chết vì nó đã thành công.
Ý tưởng tuyệt vời này đã bị giết chết bởi hàng ngàn ý tưởng
khác mới hơn và tốt hơn, tất cả đều gần như xuất phát từ ý
tưởng đầu tiên, và tất cả đều nhắm đến giết chết ý tưởng cha
và các anh em của chúng. Vấn đề không phải là bản thân sản
phẩm hay công ty sản xuất nó mà chính là ý tưởng đằng sau
nó. Ý tưởng về sự chuyên chở bằng xe hơi thị trường hàng loạt
đã tìm được rất nhiều phương tiện khác đưa nó tiến lên.
Kết hợp và chia nhỏ
những ý tưởng trước
Mọi cách tân kinh doanh vĩ đại đều được xây dựng dựa trên
những ý tưởng vĩ đại trước đó, và được bổ sung thêm một
khúc ngoặc mới. Với chiếc xe Model T, nó bắt đầu bằng một
khái niệm thị trường: "Một chiếc xe không đổi dành cho đám
đông" được bán với giá rẻ. Henry Ford đã làm thế nào để tạo
nên một cái giá rẻ? Ông góp nhặt những ý tưởng đã thành
công ở các sản phẩm khác cho những người khác. Ông lấy ý
tưởng về quy mô sản xuất từ Andrew Carnegie, người đã chứng
minh được từ 30 năm trước đó rằng nếu bạn xây dựng những
nhà máy cán thép với quy mô lớn gấp nhiều lần những nhà
máy trước đó thì bạn có thể hạ bớt giá thành xuống chỉ còn
một phần nhỏ mức giá cũ. Khi xây dựng nhà máy xe hơi
khổng lồ của mình, khai trương vào ngày đầu năm mới của
năm 1910 tại Highland Park, Detroit, Ford đã kết hợp ba ý
tưởng từng được chứng minh thành công ở những lĩnh vực
khác: các băng chuyền những chi tiết phụ tùng, những máy
móc chuyên dụng cho từng đơn vị, và một kế hoạch chặt chẽ
để dây chuyền sản xuất được thực hiện trôi chảy. Không có
gì Henry Ford đã làm mà chưa từng đạt được những hiệu quả
lớn trước đó, trong những lĩnh vực khác. Nhưng việc áp dụng
lại ý tưởng của người khác không khiến ông bị thiệt thòi gì cả
trong thành công của mình. Tuy nhiên, như thế không có
nghĩa là nhiệm vụ của bạn sẽ nhẹ nhàng hơn bạn nghĩ.
Nếu bạn có một ý tưởng lớn và một mục tiêu xác định, bạn
có thể thừa hưởng những gen kinh doanh thành công ở những
nơi khác để áp dụng cho công cuộc của mình. Một phát biểu
của Charles Sorensen, đồng sự của Ford trong suốt 40 năm,
có thể đem đến hy vọng cho chúng ta:
"Henry Ford không có ý tưởng gì về sản xuất hàng
loạt cả. Ông muốn sản xuất thật nhiều xe hơi. Ông ấy
rất quyết tâm, nhưng cũng như nhiều người khác vào
thời điểm đó, ông ấy không biết phải làm thế nào...
Những công cụ cần thiết và dây chuyền lắp ráp cuối
cùng với những đầu vào tích hợp được thừa hưởng từ
một tổ chức đang tiếp tục thí nghiệm ngẫu hứng để
làm cho việc sản xuất đạt thành công cao hơn".
Việc chia nhỏ và thích ứng những ý tưởng thành công được
thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Nó bắt đầu từ trong
đầu bạn. Đâu là những biến thể có thể của một ý tưởng thăng
hoa mà chúng ta có thể mơ tới? Hầu hết những ý tưởng này
lúc đầu bị phản đối ngay lập tức vì chúng không khả thi,
không hấp dẫn, hoặc cả hai. Trong số những ý tưởng khả thi
và hấp dẫn, bạn sẽ muốn đem chúng đi hỏi ý kiến nhữn
người mà bạn tin cậy. Trong số những ý tưởng vượt qua được
quá trình này, có thể bạn sẽ phải làm một mẩu thử, bằng mô
tả hay mô hình, và thử nghiệm chúng trước những
khách hàng tiềm năng. Với những sản phẩm mới, bạn có thể
thực hiện những cuộc nghiên cứu thị trường, tập trung và
các nhóm khách hàng hoặc một thị trường thử nghiệm. Một
tưởng kinh doanh mới có thể được kiểm định bằng cách đưa
ra trước các nhà đầu tư hay những nhà tài trợ vốn khác.
Cơ hội thành công của bạn với doanh nghiệp mới sẽ đặc
biệt cao nếu bạn trả lời "đúng" với những điều sau:
Ý tưởng là biến thể của một ý tưởng đã từng chứng minh nó thành công.
Biến thể mà bạn quyết định theo đuổi là một trong một số rất lớn những biến thể tiềm năng khác. Nó đã tồn tại quamột quá trình lựa chọn kinh doanh nghiêm túc và đã chứngminh sự ưu việt của mình so với tất cả những biến thể khác.
Ý tưởng đó, dù là biến thể của một thành công, nhưng vẫn là độc nhất vô nhị - không ai khác đang theo đuổi nó.
Ý tưởng đó mang tính kinh tế cao hơn ý tưởng ban đầu
Tính kinh tế cao hơn có nghĩa là một sản phẩm hay dịch vụ
tốt hơn với cùng chi phí, hoặc một sản phẩm hay dịch vụ
tương tự với chi phí thấp hơn. Tính kinh tế cao hơn luôn
luôn đồng nghĩa với mức lợi nhuận trên vốn cao hơn.
Ý tưởng đó phù hợp với 20% đỉnh năng lực của bạn và cả đồng sự - nó phản ánh,
và có thể được củng cố, bởi những nét đặc trưng riêng của bạn.
Những đột biến trong ngành tư vấn
và gen kinh doanh đầu tiên:
"tư vấn quản lý"
Với bất cứ ai có hiểu biết về lĩnh vực tư vấn quản lý, cái tên
McKinsey là một phép thuật. McKinsey là công ty tư vấn trọng
vọng nhất và có lẽ là công ty có uy tín và thành công nhất thế
giới. Người của McKinsey luôn luôn viết chữ "Công ty" với chữ
"C" viết hoa khi nói về công ty của mình.
Có một người nổi tiếng tên là James O. McKinsey, song người
đã đưa McKinsey lên bản đồ chính là Marvin Bower (sinh năm
1903) vào những năm 1940. Ý tưởng của ông là ngành tư vấn
quản lý có thể là một ngành chuyên môn, cũng như luật pháp
và luật sư, và McKinsey có thể hiện thân cho những tiêu chuẩn
chuyên nghiệp cao nhất khi phục vụ khách hàng.
Ngày nay, điều đó có vẻ như một khát vọng kỳ quặc: ngành
tư vấn quản lý đã và đang phát triển rất tốt, còn các luật sư
thì đang bị dò xét về mặt đạo đức. Tuy nhiên, vào những năm
1930 và 1940, một chuyên gia tư vấn quản lý là một anh
chàng lạ hoắc và không đáng tin cậy. Trái lại, Bower khẳng
định rằng McKinsey phải biết đặt lợi ích của khách hàng lên
trên hết, trên cả lợi ích của Công ty hoặc của bản thân nhà tư
vấn. Dịch vụ khách hàng, chế độ bảo mật, tính chính trực và
khả năng phản ứng nhanh khi phục vụ khách hàng: Những
giá trị này được nhóm nòng cốt của McKinsey thuộc nằm lòng.
Nhưng Bower lấy những ý tưởng này từ đâu? "Tất cả" những
gì ông đã làm đều được "chiếm đoạt" từ một mô hình thành
công trong một lĩnh vực khác. Mọi khái niệm mà ông có, mọi
sự đổi mới về ngôn ngữ và hành vi, đều xuất phát từ ngành
luật. Trước Bower, các nhà tư vấn quản lý "làm công" cho
khách hàng. Ngược lại, các luật sư thì có "cam kết khách
hàng". Sau Bower, McKinsey cũng có được điều đó.
Thế là đủ. McKinsey trở nên đồng nghĩa với khái niệm tư
vấn quản lý chất lượng cao. Công ty này định nghĩa các thị
trường của họ là "phòng giám đốc", và trong những năm
1950 đến 1960, họ có "cam kết khách hàng" với hầu hết các
tập đoàn đa quốc gia lớn nhất trên thế giới. Mỗi cam kết do
một nhà quản lý giàu kinh nghiệm của McKinsey đứng đầu,
thường là một người nhìn thấy mọi thứ và làm được mọi thứ,
với một uy quyền được đánh dấu bằng mái tóc xám và một
bộ sưu tập nón đầy ấn tượng.
Đột biến thứ nhất: Gen "tư vấn chiến lược"
Năm 1963, giữa không gian mờ mịt, một ngôi sao mới ra
đời. Ngôi sao này chính là Nhóm Tham vấn Boston (The Boston
Consulting Group - BCG), và thật sự mọi chuyện diễn ra rất tình
cờ. Bruce Doolin Henderson (1915-92) vừa bị sa thải. Ông quyết
định sẽ thành lập một công ty tư vấn của chính mình, ban đầu
với câu khẩu hiệu: "Một người, một bàn và không thư ký".
Ý tưởng mới của Bruce là BCG sẽ tập trung chuyên môn hóa
vào "chiến lược" và thuê những sinh viên thông minh mới ra
trường làm bộ máy phân tích cho ông. Trước đó, "chiến lược"
không hề tồn tại như một chuyên ngành được thừa nhận.
Những gì Bruce đã làm là kết hợp hai công cụ quyền năng
nhưng ít được chú ý - nghiên cứu thị trường và phân tích tài
chính - để tạo nên chiến lược.
Việc nghiên cứu thị trường được thực hiện cho các bộ phận
tiếp thị, còn phân tích tài chính chuyên phục vụ cho bộ phận
kế toán. Chiến lược, theo Bruce, phải là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà quản lý. Ông đi sau thị trường của McKinsey
nhưng với một sản phẩm hoàn toàn mới và một phương pháp
mới để phân phối sản phẩm của mình - thông qua những nhà
phân tích trường học khoảng trên dưới 20 tuổi, chứ không
phải những bậc lão làng hay cáu kỉnh trong ngành.
Chiến lược là bất cứ cái gì mà Bruce và các đồng nghiệp của
ông cho là chiến lược. Họ sáng chế ra nó. Họ có độc quyền sở
hữu trí tuệ với nó. Họ là những nhà phát minh và là những
người truyền bá "gen kinh doanh" từ rất lâu trước khi thuật
ngữ này ra đời. Địa phận của họ là những ý tưởng về quản
lý. Ý tưởng sẽ thống trị thế giới. Bản cáo phó của Bruce trong
tờ Financial Times viết: "Rất ít người có ảnh hưởng nhiều đến
thế đối với kinh doanh quốc tế trong nửa sau của thế kỷ XX".
Đột biến thứ hai: Gen "quan hệ CEO"
Năm 1970, một nhóm các Phó chủ tịch cấp cao của BCG,
dẫn đầu bởi Bill Bain, đã rời BCG để sáng lập nên Bain &
Company. Bain đã bổ sung thêm một khía cạnh mới quan
trọng cho chuỗi DNA mà BCG sáng chế ra. Đó là gen "quan
hệ CEO". CEO ở đây là Chief Executive Officer, tức Tổng Giám
đốc điều hành.
Năm 1980, tôi rời BCG và tham gia Bain & Co. Điều khiến
tôi rất ngạc nhiên vào lúc đó, và mãi đến tận bây giờ, là làm
thế nào hai công ty này lại có thể quá giống nhau nhưng lại
quá khác biệt như vậy. Cùng sản phẩm, cùng loại nhân lực,
cùng loại khách hàng, cùng loại phân tích, cùng những văn
phòng sặc sỡ - nhưng với một công thức thương mại hoàn
toàn khác, dựa trên việc phục vụ cho lợi ích của các CEO, và
một phong cách nội bộ hoàn toàn khác, dựa trên kỷ luật, hệ
thống cấp bậc và tinh thần làm việc đội nhóm, trái với chủ
nghĩa cá nhân dựa trên thị trường vô chính phủ của BCG.
Kết quả mà họ thu được cũng rất khác biệt. Mặc dù sự phát
triển và lợi nhuận của BCG là nỗi ghen tỵ của hầu hết các
công ty khác nhưng chỉ trong vòng 10 năm đầu tiên, Bain đã
vượt xa BCG về cả hai mặt.
Gen kinh doanh ban đầu của McKinsey đã tìm thấy những
phương tiện mới để nó sinh sôi nảy nở: Ban đầu là BCG, kế
tiếp là Bain, sau đó là một loạt công ty tư vấn chiến lược mới
khác. Gen kinh doanh của McKinsey, BCG và Bain mạnh đến
mức không một công ty mới nào thừa hưởng các gen này bị
thất bại. Đó quả là một kỷ lục đáng chú ý. Nền "công nghiệp
tư vấn chiến lược" mà BCG bắt đầu vào năm 1963 đã phát
triển với tỷ lệ phát triển kép hàng năm vào khoảng 20% - một
kỷ lục kỳ diệu suốt gần 40 năm qua.
Đột biến thứ ba: Gen "nhân viên cấp thấp" và "tư vấn M&A"
Vào năm 1983, hai đồng sự khác của Bain và tôi rời công
ty này để thành lập một công ty riêng của chúng tôi, ban đầu
với tên gọi Công ty LEK Partnership (sau đó đổi thành Công
ty Tư vấn LEK). Vào thời gian khởi đầu, chúng tôi đã bắt
chước Bain & Co. đôi chút, song chúng tôi thấy rằng mình
không có đủ uy tín để tạo nên những mối quan hệ với các CEO
theo kiểu Bain. Vì vậy, chúng tôi buộc phải nghĩ ra sự khác
biệt của chính mình.
Mọi chuyện bắt đầu bằng một may mắn. Một năm sau khi
khai trương, chúng tôi nhận được rất nhiều yêu cầu nhưng lại
không có đủ người, vì vậy chúng tôi lao ra kiếm người như
điên. Chúng tôi đã cố tìm thuê 20 người có bằng cử nhân từ
những trường nổi tiếng thế giới như Harvard Business School
và 10 người 21 tuổi vừa tốt nghiệp Oxford và Cambridge. Tỷ
lệ hai nhà tư vấn trên một người trợ lý tư vấn là một tỷ lệ táo
bạo mà Bain đã đạt được. Việc thuê những người trẻ tuổi đã
đem đến một sức bật đặc biệt cho công việc này.
Tuy nhiên, chúng tôi gặp phải rất nhiều rủi ro trong việc
tìm kiếm những cử nhân đại học làm việc cho mình. Chúng
tôi đã chào mời rất nhiều người nhưng hầu như không ai
chấp nhận cả.
Mặt khác, có lẽ vì họ quá chuyên nghiệp nên hầu như
chúng tôi chỉ tìm được toàn những ứng cử viên xuất sắc
nhưng chưa tốt nghiệp. Họ không quan tâm chúng tôi là một
công ty mới, và họ xem như chúng tôi cùng cấp với McKinsey,
BCG, và Bain - một ý tưởng phi lý vào lúc đó. Chúng tôi đã
chào mời 30 người chưa tốt nghiệp. Ban đầu tôi nghĩ hẳn sẽ
không tới 10 người chấp nhận. Nhưng trên thực tế, có đến
28 người chấp nhận.
Cấu trúc nhân viên của chúng tôi khá kỳ quặc. Ba đồng sự,
bốn chuyên viên tư vấn, và gần 30 trợ lý tư vấn - ban đầu
không ai trong số này biết gì về kinh doanh hay chiến lược cả.
Chúng tôi có thể làm gì đây? Chúng tôi không thể đưa những
người trợ lý tư vấn này ra làm việc với khách hàng được.
Chúng tôi cần phải tìm cho những người trẻ tuổi này một việc
gì đó để làm.
Một điều mà họ có thể làm rất tốt, đó là phân tích những
đối thủ cạnh tranh của các khách hàng qua dữ liệu máy tính.
Công việc phân tích cạnh tranh nặng nhọc này chính là 20%
đỉnh năng lực của chúng tôi, trực tiếp phản ánh những kỹ
năng định lượng mà Iain Evans đã đào tạo cho toàn đội. Với
những chuyên gia trẻ tuổi ham học hỏi, đào tạo là một trong
những tiêu chí của một môi trường làm việc lý tưởng.
Không lâu sau đó, công ty chúng tôi có một bước ngoặt mới
- chúng tôi bước vào một thị trường khác béo bở hơn: thị
trường M&A. Cụ thể hơn, thị trường M&A, hay "Merger &
Acquisition", là một thị trường "dành cho những khách hàng
muốn mua lại và sáp nhập một công ty mà họ không hoàn
toàn hiểu rõ và muốn tìm hiểu nhiều hơn về nó". Chúng tôi
nghĩ ra một dịch vụ mới - phân tích doanh nghiệp trong tình
hình sáp nhập, giúp bảo vệ khách hàng trước những vấn đề
đau đầu như tấn công đấu thầu, chiến lược dành cho các công
ty tư nhân và tìm kiếm hỗ trợ ngân hàng. Sau đó dịch vụ này
tiếp tục sinh sôi thành nhiều dịch vụ M&A khác nữa.
Mọi chuyện phát triển đẹp như mơ. Chúng tôi phát triển
thêm bộ phận nhân viên, tăng doanh thu và lợi nhuận lên đến
mức 100% một năm trong suốt những năm 1980, và khi tôi
ra đi vào năm 1989, công ty đã có một nhóm chuyên gia hơn
300 người, với hệ thống văn phòng đại diện trên toàn thế giới
và mức lợi nhuận biên sai cao nhất trong lĩnh vực tư vấn.
Chúng tôi thật sự rất may mắn với những "gen di truyền"
mà mình được thừa hưởng và những con người đã làm nên
điều đó. Tại thời điểm đó, một cách vô thức, chúng tôi đã tiếp
tục nhân bản và nâng cao những gen kinh doanh mạnh mẽ
này. Chúng tôi đã tuân theo nguyên lý 80/20: Chọn ra một
công thức thành công, trải qua một số thí nghiệm, hủy bỏ
phần lớn chúng, và xây dựng một số ít biến thể quan trọng
có khả năng tìm được một thị trường tốt.
Những gen di truyền mới cho
một thị trường của Cô bé Lọ Lem
Giờ là một câu chuyện khác, khi những gen kinh doanh
quyền lực được đưa vào một thị trường mờ nhạt, một thị
trường bị hầu hết các nhà quan sát bỏ lỡ. Nếu bạn rơi vào một
thị trường đang xuống dốc, hãy bình tĩnh. Bạn có thể đưa vào
đó những ý tưởng thành công từ các thị trường khác.
Vào đầu những năm 1990, thị trường khách sạn 3 sao ở
Anh khá lộn xộn. Nhiều khách sạn thua lỗ và lợi nhuận kinh
doanh hiếm khi lên được trên 10%. Tất cả các công ty khách
sạn lớn đều hướng lên các thị trường cấp cao hơn - những
khách sạn 4 hoặc 5 sao.
Tôi bước vào thị trường đầy rủi ro này với một sự ngây thơ
khờ khạo. Tôi không biết gì về khách sạn cả. Thật ra, tôi đã
dùng khoản tiền bán cổ phần ở công ty Tư vấn LEK để mua
một khách sạn ngay khi thị trường này đang ở đỉnh điểm phát
triển. Và gần như ngay lập tức sau đó, tôi thấy khách sạn của
mình rơi từ mức lợi nhuận cao xuống mức thua lỗ báo động.
Với hy vọng cầu may, tôi tìm đến ba nhà tư vấn khách sạn và
họ nói có thể giúp tôi gia tăng lợi nhuận. Khi tôi giao cả khách
sạn của tôi cho họ, như một phép màu, họ vung cây đũa thần
lên và lợi nhuận khách sạn của tôi tăng lên. Tuy nhiên, vào
thời điểm đó, thị trường tư vấn khách sạn đang cạn kiệt. Lãi
suất lên đến đỉnh điểm, thời cơ quay trở lại, và những nhóm
lớn một lần nữa đánh hơi tìm mua các khách sạn quản lý tồi.
Các nhà tư vấn khách sạn có một công thức gia tăng lợi
nhuận khách sạn mà, theo họ, luôn luôn hiệu quả mọi nơi mọi
lúc. Tôi đã bỏ vốn mua một khách sạn và biến một công ty tư
vấn khách sạn thành một công ty sở hữu và quản lý khách
sạn. Nhóm này, sau đó được đổi tên thành Zoffany Hotels,
ngày nay có đến 10 khách sạn, mỗi khách sạn luôn đạt lợi
nhuận 30-40%, gần như thuộc loại cao nhất trong thị trường
này. Giá trị cổ phần giao dịch riêng của họ đã tăng từ 1 bảng
(Anh) lên đến 320 bảng.
Công thức Zoffany là kết quả của quá trình thử nghiệm và
điều chỉnh một số lớn những ý tưởng thành công từ nhiều
nhóm kinh doanh khách sạn thuộc thị trường 4-5 sao và từ
các lĩnh vực khác nữa. Công thức này có thể tóm gọn trong
một số ý chính sau:Tập trung vào một thị phần ít được chú ý, ở đây là những
khách sạn ba sao tại khu trung tâm của những thị trấn cấp
tỉnh.Khách sạn của chúng tôi phải có một thị phần tương đối
cao trong thị trường địa phương, nghĩa là không được có
một đối thủ cạnh tranh cùng loại nào trong vùng cả.Một kỷ luật "tài sản tư nhân" nghiêm ngặt khi mua khách
sạn: Zoffany chỉ mua nếu chúng tương đối rẻ so với các
mốc giá thị trường.Một cơ chế quản lý thoáng hơn cơ chế quản lý truyền thống
trong lĩnh vực này: Zoffany có một văn phòng trung tâm
nhỏ và không có cấp quản lý khu vực. Các quản lý điều
hành khách sạn báo cáo trực tiếp cho một trong hai lãnh
đạo chính của Zoffany.Tập trung vào các phòng ngủ hơn là các hoạt động khác
của khách sạn chẳng hạn như giặt ủi hay phòng ăn. Zoffany
mua những khách sạn mà chúng tôi có thể xây thêm phòng
ngủ, vì cho đến nay, đó vẫn là hoạt động thu lợi nhiều nhất
trong thị trường này.Phát triển với giá rẻ - Zoffany có thể xây thêm các phòng
ngủ mới với chi phí rẻ hơn nhiều so với các đối thủ cạnh
tranh khác nhờ các nhóm thợ xây dựng do một trong các
giám đốc của Zoffany quản lý.
Tổng hợp các ý kiến này thích hợp một cách lý tưởng với
những kỹ năng của hai nhà lãnh đạo Zoffany, Niall Caven và
Nick Sonley.
Câu chuyện của Scott
Scott Lutz, phó chủ tịch của một công ty kinh doanh tiếp thị,
là người đứng đầu phát triển nên một ý tưởng tuyệt vời vào
giữa những năm 1990. Sau khi công ty của ông, General Mills,
lấy được giấy phép kinh doanh Yoplait, một nhãn hiệu sữa
chua của Pháp, Scott nghĩ ra một ý kiến đơn giản nhưng xuất
sắc, đó là làm đông lạnh sữa chua và bỏ nó vào các ống tuýp;
khi đó món sữa chua này có thể ăn được ở mọi nơi mọi lúc.
Được khai trương từ sáu năm trước, Go-Gurt trở thành một
thành công kỳ diệu, nhất là với các khách hàng trẻ con. Tổng
thu nhập của công ty này vượt mức 100 triệu đôla, góp phần
đưa Yoplait lên vị trí hàng đầu trên thị trường, qua mặt cả
Danône, với thị phần trước đó gần như lớn gấp đôi Yoplait
tại Mỹ.
Go-Gurt đã kết hợp được hai ý tưởng thành công ban đầu:
sức hấp dẫn của món sữa chua như một loại bánh snack hiện
đại và lành mạnh; cùng với nhu cầu "gói, bịch", ăn xong rồi bỏ,
cho phép sản phẩm này cung cấp một trạm nhiên liệu không
ngừng cho bọn trẻ trong lúc chúng làm nhiều chuyện khác.
Bạn có thể tiếp nhận hai ý tưởng này và hòa trộn chúng
theo một cách mới nào khác để tạo ra một cái gì đó hấp dẫn
độc nhất vô nhị không?
Làm thế nào để tiếp nhận
và biến đổi những ý tưởng hay?
1. Khoanh vùng lĩnh vực của bạn
Hãy xác định lĩnh vực hoạt động của bạn. Hãy làm việc này
theo hai hướng. Trước nhất, hãy nghĩ xem bạn muốn bắt đầu
với loại công việc kinh doanh nào, và những ý tưởng nào đã tỏ
ra có hiệu quả nhất trong lĩnh vực đó từ trước tới nay.
Hãy thu thập và sắp xếp những ý tưởng hay trong nhiều lĩnh
vực khác nhau. Hãy nhớ lại Marvin Bower. Sẽ không ai trong
chúng ta nghe nói gì về McKinsey nếu Marvin chỉ tìm kiếm
những ý tưởng hay trong phạm vi lĩnh vực tư vấn. Thiên tài của
Marvin là ông đã nghĩ đến các công ty luật. Còn bạn thì sao?
Bạn có thể bắt chước những ngành nào hay những công ty triển
vọng nào khác? Hãy tìm kiếm một ý tưởng có thể áp dụng được
trong thị trường của bạn nhưng chưa ai nghĩ tới cả.
2. Tuyển lọc những ý tưởng hay
Hãy tìm kiếm những ý tưởng cơ bản có thể được kết hợp
theo nhiều cách mới. Để được tuyển chọn, mỗi ý tưởng phải
chứng tỏ mình là một trong "số ít quan trọng". Những công ty
sử dụng ý tưởng này phải có khả năng sinh lợi đến mức lạ
thường, ít nhất là trong lĩnh vực của ý tưởng đó. Bên cạnh đó,
nó phải chứng tỏ khả năng thu hút khách hàng hoặc khả
năng tinh chuẩn nền kinh tế hoặc cả hai. Nó phải cung cấp
được nhiều hơn với ít chi phí hơn. Hãy gạch bỏ tất cả những
gì không nằm trong 20% ý tưởng siêu lợi nhuận cao nhất.
Hãy cắt xén danh sách của bạn cho đến khi bạn chỉ còn
khoảng từ 3 đến 5 ý tưởng cuối cùng.
3. Pha ủ một mẻ rượu độc nhất vô nhị
Hãy cố gắng kết hợp các ý tưởng cho đến khi bạn tìm được
một ý tưởng mới độc nhất vô nhị mà bạn nghĩ sẽ có kết quả.
Trong một số trường hợp, câu trả lời sẽ rất hiển nhiên. Tôi
không biết liệu Marvin Bower có thình lình nhảy khỏi bồn tắm
và trần như nhộng chạy ra đường phố Chicago la toáng lên
"Eureka" hay không. Tôi không nghĩ tới nỗi đó, thậm chí có
thể ông còn không buồn để quên nón ở đâu đó nữa kia.
Nhưng hẳn là ông đã phải chơi đùa một đỗi với các ý tưởng
cơ bản của mình.
Một mẻ rượu độc nhất vô nhị cũng có thể bắt nguồn từ
không quá hai thành phần riêng biệt trước đó, giống như
Bruce Henderson đã kết hợp nghiên cứu thị trường với phân
tích tài chính.
Dù vậy, hãy chơi trò hoán vị. Nếu bạn có 5 ý tưởng và
muốn xem xét tất cả mọi khả năng kết hợp từng cặp ý tưởng
một, bạn sẽ có thể tìm được khoảng 10 cặp kết hợp mới. Nếu
bạn muốn kết hợp ba trong năm ý tưởng, bạn sẽ có 10 bộ ba
khả thi khác. Không phải tất cả những tập hợp này đều hợp
lý, nhưng cũng không phải tất cả những tập hợp này đều có
thể dễ dàng phát hiện được. Hãy viết ra tất cả những tập hợp
có thể.
Đừng bỏ qua bất cứ một hướng kết hợp nào mà bạn có thể
tưởng tượng được. Tôi có thể nghĩ ra 6 chiều hướng như sau:
Sản phẩm
Dịch vụ
Thời gian (để thiết kế hay phân phối một sản phẩm hay
dịch vụ)
Khách hang
Địa lý
Hoạt động (giá trị bổ sung, ví dụ như thiết kế, nghiên cứu,
khám phá, sản xuất, bán hàng, phân phối, hay bất cứ một
sự hoán đổi nào của những biến số này)
Hãy tìm cách rút ra một danh sách ngắn từ một đến ba ý
tưởng hay có khả năng xác định một cuộc kinh doanh mới
theo một chiều hướng thú vị, sáng tạo và độc nhất vô nhị
trong thị trường hiện tại.
4. Kiểm nghiệm
Hãy kiểm nghiệm danh sách ý tưởng của bạn với càng nhiều
người càng tốt (ngoại trừ các đối thủ cạnh tranh và những kẻ
ăn cắp ý tưởng). Nếu có ít nhất một ý tưởng của bạn tồn tại
được qua cuộc kiểm nghiệm này, hãy thử đưa nó ra một thị
trường thử nghiệm. Hãy làm một vài thí nghiệm quy mô nhỏ
để chứng thực cho những ý tưởng tuyệt vời của bạn.
5. Khẳng định nền kinh tế của một doanh nghiệp
80/20
Hãy kết hợp ca từ và âm nhạc (những con số, xem Chương
5) để xem chúng có ăn khớp với nhau không. Hãy nghiên cứu
những con số của ý tưởng đó. Trừ phi các con số chứng minh
được một mức lợi nhuận trên vốn cao và lợi nhuận biên sai
cao hơn những biến thể ban đầu của cùng ý tưởng, nếu không
thì ý tưởng tuyệt vời của bạn vẫn chưa thực sự là một ý tưởng
tuyệt vời.
6. Khám phá 20% mới bên trong 20%
Nếu mọi việc không diễn ra suôn sẻ như bạn mong muốn,
có thể là do bạn có được một vài thành phần của một ý tưởng
hay, nhưng món ăn của bạn hiện đang có quá nhiều hoặc quá
ít thành phần. Hãy thử rút ra hoặc thêm vào vài món cho đến
khi doanh nghiệp của bạn đạt đến mức lợi nhuận tiêu biểu
của một doanh nghiệp 80/20.
Ngay cả nếu mọi việc theo đúng kế hoạch, bạn hãy kiên
nhẫn tiếp tục một số thử nghiệm nữa nhằm nâng cấp công
thức thành công của mình. Luôn luôn có 20% sức mạnh siêu
thành công trong lòng một doanh nghiệp thành công. Chúng
ta sẽ quay lại điểm này trong Chương 11.
Hãy lặp lại bước 1-6 cho đến khi bạn hoàn toàn tự tin vào
ý tưởng tuyệt vời của mình. Sau đó hãy tìm kiếm một đội ngũ
giỏi và nguồn vốn đầu tư. Và thế là chúng ta bắt đầu!
Câu chuyện của Betfair
Thị trường chứng khoán đã tồn tại từ nhiều thế kỷ nay. Vậy
tại sao lại không có một thị trường cá cược? Andrew Black,
cháu nội của Ngài Cyril Black, một nghị sĩ quá cố của Đảng
Bảo thủ, người cương quyết phản đối việc cá cược, không thấy
lý do tại sao không cả. Ông Black con đã kết hợp với nhà ngân
hàng đầu tư trẻ Edward Wray thành lập nên công ty The
Sporting Exchange Limited.
Với tên thường gọi là Betfair, công ty này cho phép người ta
đánh cá với nhau mà không có sự can thiệp của những tay
bầu cá cược. Thông thường, một "nhà cái" sẽ được hưởng
phần lợi nhuận biên sai khoảng 15 - 20% cho mỗi vụ cá cược.
Mức biên sai trung bình của Betfair là 1,4%, có giảm cho
những người chiến thắng, như thế có nghĩa là giá trị mà những
người cá cược thu được thông qua công ty này sẽ lớn hơn rất
nhiều so với thông qua một tay bầu cá cược. Không chỉ như
thế - và đây là lần đầu tiên, một người bình thường như bạn
hay tôi có thể đánh cá là đội nào (hay con ngựa nào, đấu thủ
nào) sẽ không chiến thắng, thường thì việc này dễ hơn nhiều
so với việc chọn ra người chiến thắng.
Betfair còn có những dịch vụ đặc biệt dành riêng cho những
người hâm mộ nhiệt tình và các tay cờ bạc, đối tượng chính
của họ, cho phép những người khéo léo có thể thắng tiền
trong các trò cờ bạc, một điều mà trước đây hầu như không
thể. Công ty này, khai trương vào năm 2000, đã nhanh chóng
phát đạt thịnh vượng, với lượng giao dịch hàng năm hơn 3 tỷ
đôla và tiềm năng phát triển hơn 10% một tháng. Tôi cũng là
một nhà đầu tư của họ kiêm vai trò giám đốc đối ngoại. Tôi
nghĩ giá trị của Betfair hoàn toàn có thể lên đến vài tỷ đôla
trong vòng vài năm tới.
Betfair là một ý tưởng xuất sắc, được thực hiện với một ý chí
kiên cường. Dù vậy, xét về một khía cạnh nào đó, nó không
có gì khác ý tưởng về thị trường chứng khoán, một trong
những ý tưởng thành công nhất trong hai thế kỷ qua, và được
diễn dịch qua thị trường cá cược.
Liệu có một ý tưởng thành công nào đó đang đợi bạn áp
dụng nó vào một thị trường khác hay không?
Làm thế nào để biến đổi một ý tưởngvới cương vị một nhà quản lý:
Câu chuyện của Fritz
Không nhất thiết phải thành lập một công ty mới thì mới tạo
ra được những giá trị khổng lồ thông qua những ý tưởng mới.
Những con người 80/20 thường có thể tạo ra giá trị trong
chính tổ chức của họ. Một điển hình mà tôi nhớ nhất là vào
năm 1986, khi Fritz Landmann bắt đầu một tạp chí mới,
Federal Computer Week, khi đang làm việc cho công ty
International Data Group. Tờ tạp chí được phát hành trong
vòng hai tháng, có lẽ là một kỳ công chỉ vì Fritz có được hai
tài nguyên quan trọng: tiền và sự tự quản.
Bạn có thể nghĩ ra một cuộc phiêu lưu mới mà bạn có thể
tự khởi đầu trong phạm vi công ty của bạn không? Đừng lo
là họ sẽ không cho phép. Thay vì thế, hãy nghĩ ra ý tưởng,
phát triển kế hoạch - tôi sẽ hướng dẫn bạn nên làm thế nào
- và khi đó hãy hỏi họ. Nếu họ thật sự từ chối thì hãy đem ý
tưởng của bạn qua một công ty cạnh tranh khác hoặc hãy tự
mình bắt đầu.
Rachel: Điển hình của
một nhà quản lý 80/20
Rachel có những "gen kinh doanh" nào? Cũng như với
Zoffany, bà không có một yếu tố cá nhân nào đơn nhất cả,
nhưng bà có một sự kết hợp như sau:Am hiểu về các thị trường mục tiêu và những nhãn hiệu có
thể trở nên đồng nghĩa với các thị trường này.Những thiết kế từ các quốc gia đáng chú ý, kể cả Bangladesh,
Morocco và Estonia, sử dụng một mạng lưới những người
làm việc tự do, thường là từ các trường dạy thiết kế, nhằm
thiết kế những kiểu mẫu quần áo đặc biệt cho Rachel.Nắm vững kỹ thuật bán hàng ở các gian hàng, tạo nên một
mức lợi nhuận biên sai rất cao tính trên từng mét vuông đất
thuê.Luôn luôn tập trung vào lợi nhuận trên doanh thu và lợi
nhuận trên vốn, lưu ý đến từng hoạt động tiểu tiết.Cách tiếp cận thương mại, quản lý công việc kinh doanh
theo ước tính thực tế của giá bán, và vì thế đòi hỏi chi phí
sản phẩm phải thấp thì mới có thể phát sinh mức lợi nhuận
thực tế cao. Rachel giải thích: "Vì tất cả những đối thủ cạnh
tranh của tôi đều nghĩ rằng họ sẽ bán sản phẩm với giá
toàn phần nên những khi buộc phải giảm giá hay khuyến
mãi, mức lợi nhuận của họ bị ảnh hưởng nặng nề. Chúng
tôi thì ngược lại, ngay từ đầu chúng tôi đặt tư tưởng là có
thể mình sẽ thất bại và tôi giả sử mình chỉ bán được 40%
số quần áo với giá toàn phần mà thôi. Trong số còn lại, tôi
giả sử 60% sẽ được bán giảm giá 40%, 33% quần áo được
bán với "giá mão", còn 7% sẽ không bán được. Thường thì
chúng tôi có thể làm tốt hơn thế. Nhưng một tư tưởng như
thế có nghĩa là chúng tôi buộc phải tìm cách giảm chi phí
sản xuất để có thể duy trì lợi nhuận".
Rachel là một mẫu người luôn luôn tìm cách tiến lên. Mỗi
mùa đều đem đến những kiểu mẫu mới, những chủ đề mới,
màu sắc mới từ những nhà thiết kế mới. Mỗi năm đều có một
cuộc chinh phục mới nhằm gia tăng doanh thu bán hàng và
giảm bớt chi phí sản xuất.
"Tôi không nói là phải giảm chi phí sản xuất bằng mọi giá",
bà mỉm cười. "Có những giới hạn nhất định. Chính chi phí
hàng hóa mới cần phải giảm xuống. Mỗi năm tôi đều bảo các
nhà thiết kế của tôi là giá thành mỗi loại quần áo phải như thế
nào đó sao cho luôn luôn thấp hơn năm trước. Bản thân nhà
thiết kế cũng tham gia vào việc giảm giá, họ không chỉ là
những nghệ sĩ chỉ biết vẽ mây trên trời. Chúng tôi lựa chọn
vật liệu và tất cả những thứ khác mà bạn không thể tưởng
tượng được. Bạn biết đấy, khách hàng luôn muốn có được
nhiều hơn và bỏ ra ít hơn. Chúng tôi đã và đang làm điều đó
từ nhiều năm nay rồi".
5 Tìm kiếm
những nguồn lợi nhuận
quan trọng
"Người nào có thể làm mọi việc thì không làm
được việc gì cả".
Thomas Fuller (1654-1734)
guyên lý 80/20 sử dụng các con số để nhận định
N những nguồn lợi nhuận quan trọng có thể đem
đến thành công cho bạn. Cũng như âm nhạc là chuỗi kết hợp
các âm thanh hài hòa, những con số cho chúng ta biết khi nào
chúng ta đã sắp xếp lại việc kinh doanh của mình thành một
bản nhạc hoàn chỉnh.
Có rất ít doanh nghiệp hoàn toàn thành công về mọi mặt,
nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều có thể thu được lợi
nhuận ở một mảng kinh doanh nào đó. Nhiệm vụ của chúng
ta, sử dụng nguyên lý 80/20, là xác định những mảng sinh
lợi nhiều nhất của doanh nghiệp và sử dụng chúng như những
tảng đá nền cho những cơ hội mới, hoặc trong các tổ chức
đang tồn tại hoặc trong một cuộc phiêu lưu mới.
Việc sử dụng nguyên lý 80/20 để gia tăng lợi nhuận không
đòi hỏi bạn phải bắt đầu một doanh nghiệp mới. Bạn cũng có
thể đạt được kết quả tương tự khi bạn tổ chức lại một doanh
nghiệp sẵn có, với vai trò một nhà quản lý, để có thể sử dụng
nguồn vốn một cách hiệu quả hơn nhiều. Như tôi sẽ giải thích
sau, việc tổ chức lại không chỉ là những vấn đề mơ hồ như
"cải thiện" hay "cắt giảm chi phí" - nó đòi hỏi một cái nhìn
triệt để vào tất cả mọi thành phần của doanh nghiệp.
Mục tiêu của bạn là đạt đến một doanh nghiệp có sức hấp
dẫn và sinh lợi nhiều hơn gấp bội. Sự cải tổ này thường bao
gồm thay đổi cả khách hàng mục tiêu cơ bản - thường là bằng
cách "phân khúc" thành nhiều loại khách hàng khác nhau và
xác định một phân khúc mới nhỏ hơn nhưng hấp dẫn hơn thị
trường cũ - và thay đổi công thức kinh doanh hay cách thức
phục vụ các khách hàng mới này.
Các nhà quản lý hãy yên tâm rằng hầu như mọi doanh
nghiệp hiện tại đều có thể được tổ chức lại để đạt được lợi
nhuận cao hơn rất nhiều. Việc đó chỉ cần một chút trí tưởng
tượng - và một biện pháp tiếp cận dựa trên nguyên lý 80/20
để nhận định những phương thức đem lại lợi nhuận cao từ
nguồn vốn và các tài nguyên khác. Nếu bạn là một nhà quản
lý, khi bạn đọc chương này, hãy nghĩ xem làm thế nào bạn có
thể tổ chức lại doanh nghiệp của bạn để có thể bội nhân lợi
nhuận.
Khi những con người 80/20 nhắm đến những thị trường có
lợi nhất và những đầu vào hiệu quả nhất cho các doanh
nghiệp, và khi chúng ta đạt được những kết quả tăng vọt dựa
trên các con số - khi dòng lưu kim tương đối cao so với đầu
tư - thì nghĩa là chúng ta đã làm nên âm nhạc.
Trong Chương 4, chúng ta đã tung hứng các ý tưởng để
giúp bạn nhận ra cuộc phiêu lưu mới của mình. Trong chương
này, chúng ta sẽ làm việc với những con số, từ những phân
khúc sinh lời của các doanh nghiệp, để tìm kiếm những manh
mối bắt đầu cuộc phiêu lưu mới của mình. Chúng ta sẽ sử
dụng phương pháp quy nạp: Bằng cách nhận định một số ít
những nguồn lợi nhuận quan trọng trong các con số, chúng
ta sẽ có được những thành phần cần thiết cho một công thức
thành công mới. Hãy đắm mình với những con số trong một
lúc. Hãy cố gắng định hình doanh nghiệp mới của bạn, từ
dưới lên trên.
Tìm kiếm những nguồn lợi quan trọng
Thách thức với chúng ta là phải tìm kiếm một số ít những
sức mạnh quan trọng tạo nên tài sản trong bất cứ một lĩnh
vực nào. Nếu thử kiểm tra tài khoản của bất cứ một công ty
nào, bạn sẽ thấy rằng nó thu được một mức lợi nhuận nhất
định, giả sử là 15% lợi nhuận trên vốn. Đó là sự thật, nhưng
không phải là tất cả sự thật, và không phải là một sự thật thú
vị. Một số phần nhỏ của doanh nghiệp đó có thể kiếm được
đến 60% hay 70% lợi nhuận trên vốn, và một số đáng kể các
phần khác có thể đang bị thua lỗ.
Trong một năm tốt đẹp, nền kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng
khoảng 3%. Trong đó một số công ty có thể phát triển được
đến 20, 30, hay thậm chí 100%. Trong một công ty đang phát
triển với tốc độ 20%, có một số sản phẩm nhất định có thể đã
gia tăng gấp đôi doanh thu hàng năm của chúng.
Hãy nhìn quanh một văn phòng lớn. Có thể mọi người đều
có vẻ bận rộn làm việc, nhưng một số người có thể đang làm
việc hiệu quả từ 10 đến 20 lần so với những người khác.
Hãy nghĩ về cách sử dụng thời gian của bạn, một số việc
bạn làm, xét tương đối trên khoảng thời gian mà bạn bỏ ra để
làm chúng, sẽ có thể đem đến cho bạn những lợi ích nhiều
hơn từ 10 đến 20 lần so với những việc còn lại. Thậm chí một
số việc bạn làm còn có thể gây hại cho chính bạn.
Khi nghĩ về "những vật liệu thô" cho một doanh nghiệp mới
- những lĩnh vực sản phẩm hay dịch vụ mà bạn muốn bước
vào, loại khách hàng bạn muốn phục vụ, những giới hạn địa
lý của doanh nghiệp, những ý tưởng, công nghệ, và mô hình
kinh doanh mà bạn muốn sử dụng, những người mà bạn
muốn thuê và muốn cộng tác, những nhà cung cấp mà bạn
muốn có và những gì mà bạn muốn họ làm cho bạn - có hai
vấn đề rất quan trọng:Cái gì sẽ tạo nên nhiều lợi nhuận nhất mà ít tốn công sức
và tiền bạc nhất? Đây là câu hỏi phát sinh tài sản.Đâu là những sức mạnh mà tôi có được? Với mỗi loại sức
mạnh (sản phẩm và dịch vụ, khách hàng, v.v...), cái nào sẽ
tạo ra 80% đầu ra trên 20% đầu vào? Trong số đó, đâu là
số-ít-quan-trọng? Đây là câu hỏi về nguyên lý 80/20.
Thu hẹp thực tế
Thế giới giải quyết mọi việc chủ yếu dựa trên mức trung
bình. Tuy nhiên, mức trung bình thường gây nhiều ấn tượng
sai lầm. Nhiều thứ rất khác biệt lại bị "vơ đũa cả nắm". Vì hầu
hết mọi thứ đều bị xem như trung bình nên chúng ta bỏ lỡ
một số ít không hề trung bình chút nào cả.
Có vẻ như rất khó tìm được kết quả. Có vẻ như bạn cần một
quá trình phức tạp vất vả "mò kim đáy biển" thì mới tìm được
các kết quả đó. Song nếu nhìn sâu xuống bên dưới, chúng ta
sẽ thấy rằng trong khi hầu hết mọi thứ đều chỉ là nước chảy
qua cầu thì một số ít nguồn lực mạnh mẽ thật sự đang bình
thản lấp lánh ánh thành công.
Mỗi khi chúng ta nhìn thấy một cái gì đó - một ngành công
nghiệp, một thị trường, một tập đoàn, một công nghệ, một
nhóm người, một ý tưởng, một luận thuyết, hay bất cứ một
khía cạnh kinh doanh nào - chúng ta cũng không nên chấp
nhận nó với giá trị bề mặt. Thay vì thế, hãy thu hẹp thực tế
lại. Hãy nhìn xuống bên dưới bề mặt cho đến khi bạn tìm
được một số-ít-quan-trọng. Hãy xem xét khả năng biến chúng
thành một thành công rực rỡ.
Trong khi tìm kiếm số-ít-quan-trọng này, những gì chúng ta
đang làm thực chất đã hạ thấp mức trung bình xuống. Chúng
ta đang tách rời con số trung bình và tìm kiếm một số ít
những thành phần cực kỳ hiệu quả trong số trung bình đó:
20%, 5%, hay thậm chí chỉ 1% có khả năng đem đến hầu hết
kết quả đạt được.
Điều gì làm nên một công ty tư vấn
siêu lợi nhuận?
Là đồng chủ nhân của một công ty tư vấn, câu hỏi này
khiến tôi rất hứng thú. Làm thế nào nguyên lý 80/20 có thể
xác định được một số-ít-quan-trọng?
Các đồng sự của tôi giả thuyết rằng chúng ta nên tập trung
vào những dự án lớn. Có lẽ những dự án lớn này chính là số-
ít-quan-trọng. Điều này có thể là sự thật nếu 80% lợi nhuận
của bạn xuất phát từ những dự án lớn so với chỉ 20% từ
doanh số bán lẻ.
Sau khi tiến hành phân tích, tôi thấy rằng giả thuyết này chỉ
đúng một nửa. Thật sự những dự án lớn chiếm khoảng 21%
doanh thu nhưng chiếm đến một số đáng kể 56% lợi nhuận.
Tiền lời từ doanh thu các dự án lớn vào khoảng 46%, còn những
dự án nhỏ thì chưa tới 10%, như vậy các dự án lớn sinh lợi
nhiều hơn gấp 4 lần - chắc chắn đây là một điều nên lưu ý.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa tìm được mối quan hệ 80/20
ở đây: Phải còn nhiều điều khác nữa chứ không chỉ là khách
hàng nhỏ hay khách hàng lớn. Vì vậy nên câu hỏi mà tôi đặt
ra là: "Còn loại công việc nào khác mang đến siêu lợi nhuận
không?". Một câu trả lời là những khách hàng cũ, những người
mà chúng ta đã làm việc với họ liên tục trong hơn hai năm.
Phân tích cho thấy ở đây tồn tại một mối quan hệ 80/20! Các
khách hàng cũ chiếm khoảng 26% doanh thu, nhưng họ đem
lại đến 84% lợi nhuận, trong khi với những khách hàng thuộc
dạng trung bình (hơn 6 tháng làm việc liên tục nhưng chưa
đến 1 năm), mức lợi nhuận trên doanh thu là 13%, và với
những khách hàng mới thì doanh nghiệp thường bị lỗ 31%.
Chúng tôi đã tìm hiểu xem tại sao lại như vậy. Với những
khách hàng mới, bạn phải mất rất nhiều công sức để họ chịu
nhìn đến sản phẩm của bạn, sau đó bạn phải bỏ công giúp
họ tìm hiểu những gì đang xảy ra và phải cố gắng xây dựng
tín nhiệm thông qua những kết quả giao dịch. Ban đầu thì tất
cả những khách hàng mới đều hay nghi ngờ và nhạy cảm giá
cả. Nhưng với những khách hàng lâu năm, bạn có thể biết
được khi nào thì "thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Họ tin tưởng
bạn, và họ không muốn phải tìm đến những nhà cung cấp
khác vì có thể xảy ra nhiều rủi ro và chi phí tăng trong quá
trình tìm hiểu.
Tập trung vào những khách hàng cũ có vẻ như là một công
thức đình trệ: không có khách hàng mới, không có chi phí
mới. Nhưng đó là một tư duy thông thường. Tư duy 80/20
luôn tìm ra những biện pháp sáng tạo để nâng cao những sản
phẩm kinh doanh sinh lợi nhiều nhất. Vì vậy chúng tôi đã suy
ngẫm: Chuyện gì sẽ xảy ra nếu những người giỏi nhất trong
công ty, thay vì tập trung tìm kiếm khách hàng mới, chuyển
hướng sang phát triển các khách hàng cũ và biến toàn bộ
khách hàng trở thành những khách hàng "cũ". Mục tiêu của
chúng tôi được xác định lại: Giữ những khách hàng hiện tại
và tìm cách khai thác họ nhiều hơn.
Chúng tôi đã tìm ra số-ít-quan-trọng của mình: làm việc lâu
dài hơn và phát triển những khách hàng cũ lên tầm vóc cao
hơn. Số-ít-quan-trọng trở thành số-nhiều-quan-trọng, với những
kết quả mỹ mãn. Chúng tôi đạt mức lợi nhuận rất cao và mỗi
năm đều phát triển gấp đôi liên tục trong suốt sáu năm.
Số-ít-quan-trọng
của Filofax là gì?
Filofax gần như phá sản khi tôi và Robin Field vực nó dậy
vào năm 1990. Robin nói về những gì mà ông đã lập ra:
"Trong khi thiết kế và những đặc trưng của Filofax
vẫn dậm chân tại chỗ, tuyến sản phẩm tiếp tục phát
triển vượt khả năng kiểm soát. Khung bìa cơ bản có
thể áp dụng được cho rất nhiều kích cỡ và vô số loại
da - chủ yếu là hàng ngoại nhập. Bạn nói tên một
con vật, Filofax sẽ đưa ra vài ngàn loại bìa rời làm
từ da nó và tự hào đưa chúng vào catalog và kho
hàng. Tôi thậm chí không biết Karung là con gì,
nhưng tôi thừa hưởng được rất nhiều da của nó từ
năm 1990.
Tương tự, hãy nêu tên một cái gì đó: cây cầu, bộ cờ,
nghệ thuật chụp ảnh, quan sát chim muông, lướt
ván buồm..., và Filofax sẽ làm cho bạn một số phụ
trương chuyên gia, in thành hàng chục ngàn bản,
và đưa chúng vào kho kiểm kê...
Dĩ nhiên, kết quả là không chỉ một kho tồn trữ khổng
lồ vô dụng, không chỉ là một gánh nặng quản lý
cồng kềnh phức tạp, mà còn là sự lộn xộn hoàn toàn
với những người bán lẻ của chúng tôi".
Chúng tôi đã tập trung vào một số-ít-quan-trọng: 20% sản
phẩm và 20% khách hàng đem lại cho chúng tôi 80% lợi nhuận.
Trong vòng ba năm, Robin đã biến một mức thua lỗ lớn thành
15% lợi nhuận thực, trong khi tăng gấp bốn lần khối lượng
doanh thu. Giá cổ phiếu của công ty này tăng vọt từ 30 xu lên
hơn 200 xu.
Làm thế nào tranh thủ được
những số-ít-quan-trọng này?
Hãy phân loại thực tế thành ba loại chính: một là nhân viên
và đồng sự, hai là khách hàng, ba là những phân khúc dịch
vụ và sản phẩm. Với mỗi loại, hãy tìm ra những số ít sinh lợi
quan trọng: 20% đem đến cho bạn 80% lợi nhuận.
Ai là số ít nhân viên quan trọng?
Hãy nhận định những nhân viên siêu hiệu quả và siêu rẻ,
cùng những đặc điểm chung của họ.
Trong công ty tư vấn của tôi, việc này khá dễ dàng: Những
người ở dưới cùng trong hệ thống cấp bậc chuyên môn không
chỉ là những người rẻ nhất, họ cũng chính là những người
hiệu quả nhất.
Nhóm chuyên gia của chúng tôi được chia thành ba cấp.
Trên cùng là các đối tác và đồng sự. Kế đến là các nhà tư vấn,
thường vào khoảng trên dưới 30 tuổi và có bằng cấp cao. Lớp
dưới cùng gồm các trợ lý tư vấn hay các nhà nghiên cứu.
Những người này khoảng từ 21-25 tuổi, phần lớn chưa tốt
nghiệp và hầu hết công việc của họ là xử lý dữ liệu và thực
hiện phân tích trên máy tính.
Nhóm các đồng sự khá đắt giá; vì chúng ta sở hữu công ty
nên chúng ta sẽ muốn như vậy. Chi phí cho các chuyên viên
tư vấn thì ít hơn một chút. Ngày nay, họ bắt đầu với khoảng
100.000 đôla và nhiều người còn cao hơn thế. Bọn trẻ - xin lỗi,
các trợ lý tư vấn - thì thật sự là một món hời. Họ có một
nguồn sinh lực đáng ngạc nhiên. Họ thường làm việc đến 80-
90 giờ một tuần. Nếu tính theo giờ thì các trợ lý tư vấn còn
rẻ hơn cả thư ký.
Trong một công ty tư vấn, cũng như với các công ty luật,
bạn ra hóa đơn dựa trên số giờ mà bạn bỏ ra cho khách hàng.
Các trợ lý tư vấn rất hiệu quả về mặt này vì hai lý do. Thứ
nhất, chúng ta có thể ra hóa đơn cho họ dựa trên một mức
lương cao hơn nhiều lần (trên cơ bản 8 giờ một ngày) so với
những bộ phận khác - một dấu hiệu rõ ràng cho thấy họ phát
sinh nhiều tài sản hơn so với chi phí của họ. Và thứ hai, họ
làm việc nhiều giờ hơn. Bọn trẻ chính là số-ít-quan-trọng của
chúng tôi.
Hầu hết các công ty tư vấn đều phình ra ở đoạn giữa: có
một số đối tác ở lớp trên, rất đông nhà tư vấn ở giữa, và một
số ít trợ lý trẻ dưới cùng. Khi chúng tôi nhận ra những người
trợ lý tư vấn chính là số-ít-quan-trọng của mình, chúng tôi đã
biến họ thành số-nhiều-quan-trọng, lần đầu tiên trong lĩnh
vực của chúng tôi, xây dựng một kim tự tháp thật sự với một
số lớn nhân viên trẻ ở lớp dưới. Bọn trẻ trở thành nhóm
chuyên gia lớn nhất. Mức lợi nhuận của chúng tôi cũng cất
cánh vút lên.
Ai là số ít khách hàng quan trọng?
Như chúng ta đã biết ở trên, trong một công ty tư vấn,
những khách hàng đem đến lợi nhuận nhiều nhất chính là
những khách hàng cũ. Thường thì đây là một thực tế với bất
cứ ngành nghề nào. Đó là lý do tại sao những công ty có tỷ
lệ cân đối khách hàng cao thường đạt được mức lợi nhuận cao
hơn nhiều.
Trong một doanh nghiệp dịch vụ, lợi nhuận không phải là
điều kiện duy nhất để lựa chọn khách hàng. Sự hài lòng và
thỏa mãn chuyên môn của các đồng sự và các nhân viên khác
cũng rất quan trọng: Các công ty chuyên môn cạnh tranh
nhau về trình độ nhân viên cũng như về khách hàng. Một
công ty kế toán tại New Zealand mà tôi biết phân loại khách
hàng của họ theo những tiêu chí sau:Nhân viên có thích khách hàng đó khôngNhân viên có tôn trọng khách hàng đó khôngKhách hàng có tôn trọng nhân viên khôngKhách hàng có phàn nàn về chi phí khôngKhách hàng có thanh toán đúng hạn khôngKhách hàng có cơ hội tăng thêm hóa đơn không
1. Xác định những số ít khách hàng siêu lợi nhuận
Nếu bạn định bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới trong một
lĩnh vực đặc biệt nào đó - và bạn có thể muốn nghĩ đến một
số lĩnh vực tiềm năng mà bạn có thể làm - bạn sẽ muốn có
loại khách hàng nào? Khi xác định một số-ít-quan-trọng những
khách hàng đem lại lợi nhuận cao nhất, bạn có thể có được
một số manh mối giá trị để định hình cho cuộc kinh doanh
tương lai của mình.
Hãy tưởng tượng xem ai có thể nằm trong số ít khách hàng
siêu lợi nhuận của bạn theo những định hướng sau:Kích thước khách hàng (theo mức lợi nhuận đem đến cho
bạn)Độ lâu dài của khách hàngSố lượng mua trên từng đơn đặt hàng (những khách hàng
mua nhiều món một lúc, mặc dù không thường xuyên, cũng
thường đem lại lợi nhuận nhiều hơn)Sản phẩm hay dịch vụ chính mà họ mua (một số sản phẩm
sinh lợi cao hơn các sản phẩm khác)Độ phóng khoáng khi mua hàng. Có khi những người chỉ
mua một sản phẩm đem đến lợi nhuận cao hơn vì bạn có
một khách hàng trung thành với sản phẩm đó, hoặc vì bản
thân sản phẩm đó sinh lợi nhiều; nhưng cũng có khi những
khách hàng mua "đủ thứ" lại có lợi nhuận cao hơn vì họ trả
tiền nhiều hơn cho những món ít quan trọng.Khách hàng thông minh hay khờ khạo? Lười biếng hay siêng
năng? Những khách hàng thông minh đôi khi là những
khách hàng tốt nhất vì họ góp ý phát triển sản phẩm của
bạn và giúp bạn vượt qua các đối thủ cạnh tranh. Nhưng
những khách hàng lười biếng đôi khi cũng rất tuyệt vì họ
không quá nhạy cảm với giá cả. Nhiều ngân hàng kiếm lợi
khá nhiều từ các khách hàng lười biếng, chẳng hạn như có
những người gởi những khoản tiền lớn vào sổ tiết kiệm dù
lãi suất rất thấp.
Cấp cao hay cấp thấp? Với những sản phẩm hay dịch vụ
bán cho các tập đoàn khác, nhìn chung những khách hàng
sinh lợi nhiều nhất là những người cao cấp nhất trong tổ
chức. Các chủ tịch hội đồng quản trị thường là những khách
hàng tốt nhất.Cá tính khách hàng đôi khi cũng rất quan trọng. Một công
ty tư vấn mà tôi biết đã thận trọng nhắm đến những khách
hàng "hoang tưởng" vì họ sẽ đến tư vấn rất nhiều nếu họ
cảm thấy được an toàn, kể cả an toàn trước những đồng
nghiệp của họ!Với hàng tiêu dùng, hãy thử phân loại theo nhân khẩu học
bình thường (chẳng hạn như mức thu nhập) và tiêu chuẩn
sống (chẳng hạn như những người sẵn sàng chấp nhận rủi
ro so với những người tránh né rủi ro, hay những người
đam mê công nghệ kỹ thuật với những người ghét các thứ
cải tiến). Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi, những tiêu
chuẩn "đóng hộp" như vậy (đo lường bằng quảng cáo và
các bộ phận tiếp thị) hiếm khi tương quan với số-ít-quan-
trọng. Số-ít-quan-trọng thường nằm ở mỗi nơi một ít theo
cách phân loại này - điều đó khiến chúng trở nên quan
trọng nhưng lại khó phát hiện đối với các nhà tiếp thị.
Một lý do khiến số ít này trở nên rất quan trọng là vì các
nhà cung cấp không thẳng thừng nhắm đến họ. Nếu một số-
ít-quan-trọng trở nên hiển nhiên và liên tục bị quyến dụ bởi
hầu hết các nhà cung cấp thì họ sẽ không thể là những người
đem đến siêu lợi nhuận cho bạn về lâu dài được.
2. Xác định những khách hàng có tỷ lệ giá trị cao nhất so
với chi phí
Cùng một sản phẩm hay dịch vụ có thể có những giá trị rất
khác nhau với những khách hàng khác nhau. Đôi khi, những
nhánh sản phẩm dịch vụ nhỏ và rẻ tiền có thể được bán cho
những khách hàng cấp cao với một cái giá cao hơn rất nhiều.
Một trong những trường hợp dễ thấy nhất là chiến lược của
các nhà tư vấn Bain & Co. Như chúng ta đã thấy trong Chương
4, Bain được thành lập vào năm 1970 khi Bill Bain, một quan
chức cấp cao của The Boston Consulting Group, từ chức để
thành lập công ty riêng. Bain đã tái lập gần như y nguyên
khuôn mẫu ở BCG - sản phẩm, hay dịch vụ, hoàn toàn giống
nhau - nhưng đối tượng khách hàng mà ông nhắm đến là
những nhân vật hàng đầu ở bất cứ một tổ chức nào, các CEO,
nhất là những người mới lên. Thay vì bán các dự án cá nhân
cho những người đứng đầu một phòng ban hay các nhà quản
lý cấp cao khác, Bain bán các mối quan hệ đặc biệt xung
quanh nhiều dự án, tất cả đều được hỗ trợ bởi CEO.
Chương trình tư vấn của Bain thường trở thành một biện
pháp mà một vị chủ tịch mới lên sử dụng để ghi dấu ấn của
mình lên cả nhóm. Các dự án Bain cung cấp thông tin và kiến
thức xuyên suốt, cho phép một chủ tịch hội đồng quản trị có
thể nhanh chóng thực hiện những thay đổi triệt để. Hầu hết
các chủ tịch mới lên làm việc với Bain đều có thể gây ấn tượng
với thị trường tài chính và những cổ phiếu của họ dâng trào.
Những dịch vụ mà họ cung cấp không ngừng biến đổi; giá cả
cũng vậy. Tuy nhiên, sản phẩm của họ - quá trình tư vấn thật
sự, việc phân tích chi phí, khách hàng và đối thủ cạnh tranh
- vẫn không bị ảnh hưởng; chi phí đơn vị của chúng không hề
tăng lên. Lợi nhuận biên sai tăng và công ty phát triển.
Ngay từ khi bắt đầu, Bain đã trở thành một trong những
công ty tư vấn hàng đầu thế giới, bằng cách nhận định những
khách hàng có tỷ lệ giá trị cao nhất so với chi phí.
Bain từ chối làm việc với phần lớn những khách hàng mà
hầu hết các công ty tư vấn khác luôn muốn có được; họ sẽ
không làm việc cho các giám đốc tài chính, giám đốc tiếp thị,
hay thậm chí là những giám đốc điều hành bộ phận, cho dù
những công ty này có lớn đến mức nào đi nữa. Một chiến lược
phát triển loại bỏ hầu hết những khách hàng tư vấn tiềm năng
có thể thật kỳ quặc, nhưng nó minh chứng cho sức mạnh của
việc vứt bỏ tất cả và chỉ giữ lại một số-ít-quan-trọng mà thôi.
Với công ty kế toán New Zealand mà tôi nói trên, khi tập
trung vào những khách hàng sinh lợi nhiều nhất và "dễ thương"
nhất, họ đã thu hẹp phạm vi khách hàng của mình chỉ còn
một nửa. Song tầm mức hoạt động trên những khách hàng
còn lại này tăng lên gấp đôi và mức lợi nhuận thu được tăng
gấp bốn lần. Tinh thần nhân viên cũng phấn khích gấp bội.
Có vẻ thật quái gở khi bỗng dưng tình nguyện cắt đứt phân
nửa khách hàng của mình. Tuy nhiên, những sức mạnh sinh
lợi thật sự quan trọng đến mức chúng áp đảo toàn bộ số-
nhiều-vụn-vặt còn lại.
Đâu là số ít hoạt động, sản phẩm và dịch vụ
quan trọng?
Bên cạnh việc nhận định số ít khách hàng quan trọng, hãy
nhận định một số ít giá trị khác mà những khách hàng này
đánh giá cao. Sau đó hãy xem xét hạn chế các hoạt động của
bạn trong một số ít này.
Khi tìm kiếm một số-ít-quan-trọng những hoạt động, sản
phẩm và dịch vụ, bạn có thể nhìn thấy một vài dấu hiệu của
chúng từ những đối thủ phát triển mạnh mẽ nhất. Họ đã làm
điều gì khác?
Tuy nhiên, nếu chỉ bắt chước thì vẫn không đủ. Hãy nhớ,
những con người 80/20 phải tạo ra một cái gì mới và duy
nhất. Để kích thích sự sáng tạo của bạn, hãy áp dụng 7 yếu
tố sau cho 80/20 đỉnh năng lực của bạn và lĩnh vực kinh
doanh mà bạn hiểu biết rõ nhất. Hãy pha trộn và kết hợp
chúng nếu cần.
1. Suy nghĩ nhỏ
Đây là một phân khúc cổ điển, chỉ tập trung vào một phần
của một thị trường đang tồn tại.
Thị trường xe mô-tô ba bánh ở Mỹ và châu Âu từng là một
thị trường rất lớn, thống trị bởi những nhà sản xuất xe mô-tô
lớn như Harley-Davidson, Norton, và Triumph. Vào những
năm 1960, hãng Honda giới thiệu một loại xe máy 2 bánh nhỏ
hơn nhiều vào thị trường Mỹ, tạo ra một thị trường hoàn toàn
mới và hấp dẫn đối với nhiều người không quen xe mô-tô 3
bánh. Sau đó BMW tạo ra một phân khúc khác, với những
chiếc xe rộng và thoải mái dành cho những người có đôi bàn
tọa quá khổ.
2. Suy nghĩ lớn
Phân khúc lại, tạo ra một thị trường lớn hơn, hoặc bằng
cách kết hợp nhiều hơn một sản phẩm hay công nghệ hiện tại,
hoặc bằng cách đưa một sản phẩm hay công nghệ vào những
ứng dụng mới. Đây là một số ví dụ:Vào năm 1980, hãng sản xuất bán dẫn NEC của Mỹ quyết
định tạo nên một phân khúc mới dựa trên sự hội tụ của
máy tính và viễn thông. Trong vòng 8 năm, lợi nhuận của
họ đã tăng từ 10 tỷ đôla lên 22 tỷ đôla.Honda đã không đặt chiến lược của mình trên những phân
lớp thị trường truyền thống như xe mô-tô, máy cắt cỏ, xe
hơi, hay những thiết bị phát điện. Họ bước vào tất cả những
thị trường này với quyết tâm có được những bộ máy nhỏ tốt
nhất thế giới. Số-ít-quan-trọng mà Honda tập trung vào chính
là tay nghề không đối thủ của họ với những bộ máy nhỏ -
nói chính xác hơn là với những ống trụ đa cấp với van tự
điều chỉnh.Bain Capital trở thành công ty đầu tư tư nhân thành công
nhất thế giới bằng cách mở rộng định nghĩa của thị trường
này. Họ không chỉ đánh giá và tài trợ cho các giao dịch mà
còn đặt chiến lược cho các công ty đầu tư và giám sát việc
quản lý của họ. Trong 15 năm, Bain Capital trở thành công
ty đầu tư tư nhân thu được lợi nhuận nhiều nhất trên thế
giới, tăng gấp đôi giá trị đầu tư của họ mỗi năm.Bánh pizza giao tận nhà từng là một thị trường địa phương.
Việc mở rộng trong lĩnh vực này phụ thuộc vào giới hạn bạn
có thể đem cái bánh pizza đi bao xa mà nó vẫn còn nóng.
Domino's Pizza đã thành lập một doanh nghiệp quốc tế dựa
trên một công thức kinh doanh đặc biệt, bao gồm sử dụng
một loại phong thư độc quyền để giữ nóng chiếc bánh và
một mạng lưới phân phối năng động.
3. Suy nghĩ lên
Bất cứ nơi nào có một thị trường lớn, bạn đều có cơ hội tạo
ra một phân khúc đặc biệt dành riêng cho những khách hàng
thượng lưu giàu có.
Có thể thấy một số ví dụ như Ferrari, Rolex, thẻ thanh toán
American Express, các ngân hàng tư nhân, những nhãn hiệu
bia đắt tiền, v.v...
Toyota, một công ty với kỹ năng kỹ thuật siêu việt và sản
xuất chi phí thấp, đã phá vỡ thị trường xe sang trọng vào năm
1989 với nhãn hiệu Lexus. Họ cung cấp một sản phẩm lộng
lẫy, được giới thiệu qua một chiến dịch quảng cáo rầm rộ và
hiệu quả, nhưng giá mua chiếc xe được nâng cao hơn nhiều
so với những chi phí bổ sung. Vào năm 1992, hiệu xe Lexus
khá nhỏ so với tổng doanh số của Toyota - chỉ có 2% - nhưng
lại chiếm đến khoảng 30% lợi nhuận của Toyota.
4. Suy nghĩ về số đông
Bất cứ nơi nào có một thị trường dành riêng cho những
khách hàng giàu có, bạn đều có cơ hội tạo ra một thị trường
dành cho số đông bằng cách làm cho sản phẩm hay dịch vụ
của bạn đơn giản hơn, rẻ hơn, và với khối lượng nhiều hơn.
Một số ví dụ chẳng hạn như Ford Model T, những kỳ nghỉ
trọn gói, nhà hàng thức ăn nhanh, v.v...
5. Theo đuổi cách tân giá trị: Nhiều hơn với ít hơn
Đây là một phân loại rất phong phú. Hãy đem đến những
giá trị tốt hơn cho một phần mới của thị trường mà bạn vừa
xác định và tạo ra. Làm như thế nào? Cộng và trừ.
Cộng nghĩa là đem đến những gì tốt hơn hay những dịch vụ
cộng thêm, nhất là khi chúng được cung cấp với một cái giá
tương đối thấp.
Trừ nghĩa là không cung cấp một phần nào đó những gói
sản phẩm hay dịch vụ truyền thống.
Những kết hợp sản phẩm và dịch vụ mới đem đến giá trị lớn
hơn, nhưng chỉ với một phần thị trường cũ: khách hàng thích
những kết hợp sản phẩm và giá cả. Hãy thay đổi kết hợp của
bạn để hấp dẫn một nhóm khách hàng đặc biệt mà bạn xác
định nên:Formule 1, một dây chuyền khách sạn Pháp, cung cấp những
căn phòng khách sạn rẻ và nhỏ nhưng rất xuất sắc, yên
tĩnh và sạch sẽ với những cái giường lớn và tiện nghi. Các
phòng có thể điều biến và được sản xuất hàng loạt, bảo
đảm cách âm tốt và chi phí thấp. Nhưng bạn sẽ không tìm
thấy ghế bành, dịch vụ khuân vác, dịch vụ phòng hay tiếp
tân 24 giờ tại Formule 1.Southwest Airline cung cấp những chuyến bay giá vé thấp
và rất thường xuyên giữa những thành phố mà họ phục vụ,
thời gian kiểm tra lên máy bay chỉ 10 phút và soát vé tự
động tại cửa vào. Dịch vụ này nhanh gọn, đáng tin cậy, rẻ
tiền - và đem lại rất nhiều lợi nhuận. Làm thế nào như thế
được? Southwest không cung cấp nhiều dịch vụ đắt tiền mà
các chuyến bay truyền thống thường có. Họ không sử dụng
các sân bay lớn hay những tuyến đường dài, các túi vé qua
những địa điểm khác, không cho bạn ăn và cũng không có
những căn phòng dành riêng. Họ có một đội máy bay 737
tiêu chuẩn, giảm bớt chi phí bảo trì và thời gian đình hoãn.
Họ khuyến khích thanh toán trực tiếp, cắt giảm hoa hồng
cho các đại lý du lịch và giảm bớt số tài khoản nhận thanh
toán. Southwest tỏ ra hấp dẫn đặc biệt với một loại khách
du lịch nhất định, những người đánh giá cao các thỏa hiệp
mà họ đã làm.Ikea, nhà bán lẻ đồ gỗ gia dụng châu Âu, có thể bán các
mặt hàng đặc sắc với giá rẻ bằng cách để cho khách hàng
của nó, chủ yếu là những bậc cha mẹ trẻ, thực hiện những
công việc vất vả như lựa chọn, thanh toán, mang về nhà và
tự lắp ráp. Đổi lại, nó đem đến những gì họ cần: không chỉ
thiết kế sáng tạo và giá rẻ mà còn giờ đóng cửa trễ, dịch vụ
chăm sóc bọn trẻ ngay trong cửa hàng, phòng trưng bày lớn
và có thể nhận hàng trong kho ngay lập tức.Kinepolis, rạp chiếu bóng khổng lồ của Bỉ, cũng đã phát
triển một mô hình kinh doanh hấp dẫn các cặp đôi trẻ. Nó
nằm khá xa đường vành đai Brussels, với chỗ đậu xe miễn
phí (một sự đổi mới với châu Âu), 25 màn hình, tầm nhìn
không giới hạn, âm thanh nổi, và 7.600 chỗ ngồi rộng rãi.
Những người đi xem phim được thưởng thức những bộ phim
hay chọn lọc và không khí rạp phim thoải mái với giá thấp.
Song Kinepolis là một trường hợp ngoại lệ vì giá đất rẻ cũng
như tỷ lệ sử dụng cao.
6. Sử dụng kênh phân phối trực tiếp
Những kênh phân phối đòi hỏi phải có bất động sản, kho
hàng tại chỗ và dịch vụ cá nhân thường rất tốn kém. Những
kênh trực tiếp rẻ hơn và thường chính là một đầu mối để tạo
ra một cuộc phiêu lưu 80/20 mới.
Tập đoàn máy tính Dell đã đổi mới vào năm 1984 bằng
cách bán máy tính cá nhân trực tiếp cho người tiêu dùng, cắt
giảm mạng lưới phân phối đa cấp bằng cách nhận đặt hàng
qua thư, thư điện tử, fax và điện thoại. Các cuốn catalog chào
mời nhiều lựa chọn hơn có thể ở một cửa hàng máy tính thông
thường, nhưng cũng là một phương tiện tiết kiệm chi phí rất
lớn cho Dell vì hàng hóa được chuyển đi từ các nhà máy chỉ
khi có yêu cầu thật sự của khách hàng. Việc giảm bớt lượng
hàng tồn kho đã tiết kiệm được cho Dell đến 6% chi phí hàng
hóa; do vấn đề tồn kho máy tính đặc biệt khó giải quyết vì
công nghệ kỹ thuật luôn được cải tiến và giá cả không ngừng
giảm xuống. Dell có thể chào giá thấp hơn nhưng vẫn thu
được lợi nhuận cao hơn các nhà cung cấp truyền thống khác.
7.Tập trung vào những hoạt động có tỷ lệ giá trị cao nhất
so với chi phí
Hãy tìm những trái dâu ngon ngọt nhất. Hãy xác định những
phần nào sẽ đem lại lợi nhuận cao nhất trong chuỗi giá trị -
quá trình đưa một sản phẩm từ khái niệm cho đến nghiên
cứu, thiết kế, phát triển, tạo nhãn, sản xuất, bán và giao hàng
- và tập trung hoàn toàn vào những hoạt động sinh lợi đó.
Đâu là dấu hiệu để tìm ra những trái dâu ngọt? Hãy tìm
những hoạt động hấp dẫn khách hàng nhiều nhất nhưng
không cần nhiều vốn liếng. Thiết kế sản phẩm, tạo nhãn, và
bán hàng trực tiếp thường là những trái dâu ngọt. Sản xuất,
giao hàng và bán lẻ qua một mạng lưới cửa hàng cố định
thường là những trái chua.
Công ty tư vấn LEK tập trung chuyên môn hóa vào thể loại
tư vấn chiến lược với những nhà phân tích chi phí thấp, các
trợ lý tư vấn. Các nhà phân tích trẻ của chúng tôi không hoàn
toàn lý tưởng để nói chuyện với những khách hàng lớn tuổi,
nhưng họ rất thạo việc thu thập dữ liệu trên thị trường và các
đối thủ cạnh tranh.
Chúng tôi nhanh chóng nhận ra những nhà phân tích trẻ
của mình cũng rất thích hợp với việc thu thập dữ liệu về
những công ty có tiềm năng mua lại và sáp nhập. Không lâu
sau đó, chúng tôi phát triển một nhánh chuyên gia mới chuyên
đánh giá những cơ hội mua lại và sáp nhập của các công ty,
hay còn gọi là M&A (Mergers and Acquisitions). Vì công việc
M&A rất được các chủ tịch hội đồng quản trị ưa thích, và vì
chi phí cho việc sáp nhập hoàn toàn không bị tính vào bản kê
lời lỗ nên đó là một công việc rất nhạy cảm về mặt giá cả. Đây
là công thức trong mơ của chúng tôi: giá rất cao, chi phí rất
thấp, và lợi nhuận biên sai rất tuyệt vời.
Một ví dụ khác chính là Microsoft, chuyên chỉ làm việc trên
một tầng lớp sinh lợi nhiều nhất trong lĩnh vực máy tính, đó
là thiết kế hệ điều hành. Nike, chuyên thiết kế tạo nhãn cho
các loại giày vớ thể thao, thường ít ký hợp đồng trên những
hoạt động cần vốn nhiều và lợi nhuận thấp như sản xuất và
bán lẻ.
Rachel: Điển hình của
một nhà quản lý 80/20
Việc kinh doanh quần áo nữ của Rachel thu được lợi nhuận
rất cao nhờ những hoạt động số-ít-quan-trọng của mình. Thế
mạnh của họ là thiết kế sản phẩm, mua đi bán lại, và bán lẻ
giảm giá trong các cửa hàng. Được thực hiện khá tốt, những
hoạt động này đem đến lợi nhuận cao và giúp họ phát triển,
đồng thời chỉ đòi hỏi một số vốn tương đối thấp. Những số-
nhiều-vụn-vặt mà doanh nghiệp của Rachel tránh né bao gồm
sản xuất, tồn kho, và tự tổ chức hệ thống cửa hàng bán lẻ sản
phẩm...
Việc Rachel tập trung vào một số ít hoạt động tự nhiên dẫn
đến tập trung vào một số ít nhân viên, khách hàng và sản
phẩm nhất định. Tất cả những nhân viên giá trị nhất và được
trả lương cao nhất trong nhóm của Rachel đều trực tiếp làm
việc liên quan đến thiết kế và lựa chọn sản phẩm, bán hàng,
tiếp thị và liên hệ với khách hàng. Các sản phẩm của bà được
chia thành ba nhóm, mỗi nhóm có một thương hiệu riêng và
nhắm vào một nhóm đối tượng khách hàng riêng được xác
định rõ ràng, chẳng hạn như "nhóm phụ nữ công chức từ 25-
45 tuổi" hay "nhóm phụ nữ thấp hơn 1,6m".
Một bằng chứng rõ nét của sự tập trung vào số-ít-quan-
trọng này chính là những con số. Trong khi hầu hết các doanh
nghiệp cùng lĩnh vực với bà chỉ thu được từ 0-15% lợi nhuận
trên vốn thì bà thu được đến 50-65%. Trong khi nhiều doanh
nghiệp nhỏ có biểu đồ lợi nhuận ngang bằng hoặc gần như
ngang bằng với mức 0-5% một năm, Rachel đã đưa doanh
nghiệp của mình từ mức lợi nhuận 2 triệu đôla vào 8 năm
trước lên đến 30 triệu đôla vào hôm nay.
Khi xây dựng một danh sách ngắn những thành phần số-
ít-quan-trọng cho doanh nghiệp của chính bạn, hãy thêm vào
một câu hỏi cuối cùng: Doanh nghiệp mới của bạn có thể đạt
lợi nhuận cao bất thường và có thể phát triển nhanh đến mức
bất thường hay không? Trừ phi bạn hoàn toàn tự tin về điều
này và biết rõ tại sao, nếu không thì bạn sẽ không thể chắc
chắn được liệu doanh nghiệp của mình có phải là một trong
số ít những doanh nghiệp thành công mới hay không.
Kết hợp những quan điểm
từ trên xuống và từ dưới lên
về cuộc phiêu lưu mới của bạn
Nay bạn đã có thể so sánh những quan điểm về cuộc phiêu
lưu mới của bạn từ dưới lên so với những quan điểm từ trên
xuống mà bạn thu được trong Chương 4.
Trước tiên, hãy lấy những kết luận mà bạn rút ra được từ
chương này, dựa trên những nguồn lợi nhuận mà bạn nghĩ ra
về thị trường của bạn, và cố gắng diễn đạt bằng từ ngữ về ý
tưởng mà bạn dự định cho doanh nghiệp mới của mình.
Ví dụ như trong lĩnh vực tư vấn, chúng tôi đã xác định
trong chương này những nguồn siêu lợi nhuận như sau:
Những khách hàng cũ, những người mà công ty đã làm việc cho họ ít nhất 2 năm
Những khách hàng mới là các CEO
Những nhà tư vấn trẻ và kết cấu nhân viên nghiêng nặng phần dưới với những ưu thế của "bọn trẻ"
Tập trung đặc biệt vào một mảng sản phẩm mới - chiến
lược kinh doanh
Giờ thì, hãy lấy những ý tưởng bạn thu được từ Chương 4
- những doanh nghiệp khả thi mới dưới dạng ý tưởng - và
cố gắng kết hợp chúng với quan điểm mà bạn có được từ
chương này.
Với ví dụ về công ty tư vấn ở trên, những gì chúng ta đã biết
trong Chương 4 là những ý tưởng về tư vấn siêu lợi nhuận
như sau:
Tư vấn chuyên môn cho các ban giám đốc
Xác định sản phẩm mới là tư vấn về chiến lược kinh doanh
Ý tưởng về tư vấn chiến lược như một quá trình tạo quan hệ với các CEO Sử dụng sức bật tối đa của bộ phận nhân viên trẻ
Mảng sản phẩm mới: tư vấn chiến lược và tư vấn M&A -
mua lại và sáp nhập
Nếu chúng ta nghĩ về việc bắt đầu một doanh nghiệp tư vấn
mới, chúng ta hẳn sẽ hài lòng về sự trùng lặp giữa hai quan
điểm từ trên xuống và từ dưới lên. Một trong hai quan điểm
này đặt chúng ta vào đúng định hướng - nhưng sự tổng hợp
của cả hai sẽ đặt chúng ta vào vị trí tốt nhất.
Quan điểm lợi nhuận nhìn từ dưới lên nhấn mạnh tầm quan
trọng của những khách hàng lâu năm và qua đó sẽ chọn lựa
chỉ những khách hàng có tiềm năng làm việc lâu dài, và biến
đổi những dự án hiện tại thành những dự án mới với cùng
một khách hàng. Chúng ta hẳn sẽ bỏ qua điều này nếu chúng
ta chỉ chăm chú nhìn theo quan điểm từ trên xuống.
Quan điểm từ trên xuống nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc đổi mới sản phẩm tư vấn. Cũng như quan điểm từ dưới
lên, nó cho thấy nơi mà bạn muốn đến chính là văn phòng
của "sếp", và người khách hàng mà bạn muốn có là vị chủ tịch
hội đồng quản trị mới, và sản phẩm mà bạn muốn bán là một
biến thể nào đó của tư vấn chiến lược. Điều mà quan điểm
kinh doanh từ trên xuống chứng tỏ được là chúng ta cần có
sự cải tiến của chính mình - về mặt sản phẩm, khách hàng,
cấu trúc nhân viên, và/hoặc các quy trình - nhằm bồi đắp và
mở rộng những thành công trong quá khứ.
Vì vậy, nếu chúng ta bắt đầu một doanh nghiệp tư vấn mới,
có lẽ chúng ta sẽ có thể áp dụng tất cả những ý tưởng thành
công và những thành phần sinh lợi trong quá khứ và hiện tại,
nhưng bổ sung vào một tuyến sản phẩm hay quy trình mới.
Chúng ta có thể động não ra một vài ứng viên cho thành phần
còn thiếu này và tự hỏi:
Làm thế nào chúng ta có thể xác định ý tưởng này bằng từ
ngữ, để nó sẽ là một hậu duệ trực tiếp của những thành
công hiện tại nhưng vẫn có được những đặc điểm độc nhất
vô nhị của nó?
Nếu sau đó chúng ta cần thực hiện một phân tích từ dưới
lên, liệu phân tích này có đem lại cho chúng ta một kết quả
siêu lợi nhuận không? Liệu chúng ta có thể chắc chắn rằng tổng
thể doanh nghiệp của chúng ta cũng vậy không?
Trong khi mô tả quá trình này với bạn, tôi bỗng nghĩ ra một
ý tưởng tuyệt diệu cho một loại hình kinh doanh tư vấn mới
- nhưng tôi sẽ không nói với bạn đâu!
Doanh nghiệp tiềm năng mới có thích hợp với 20% đỉnh
năng lực của bạn không?
Giờ thì hãy kết hợp những phát hiện của bạn từ Chương 4
và 5 với Chương 3. Nếu bạn không phải là người giỏi nhất thế
giới trong lĩnh vực kinh doanh mà bạn dự định thì tốt hơn bạn
nên tìm kiếm thêm một vài ý tưởng khác, hoặc tìm một người
đồng sự mà ý tưởng của bạn hoàn toàn thích hợp với sứ mệnh
của anh ta.
Tuy nhiên, đừng vội khép lại những lựa chọn của mình. Vẫn
còn một khía cạnh kinh doanh nữa mà bạn có thể xem xét
trước khi kết tinh lĩnh vực lựa chọn của bạn: đó là thời gian.
Chương 6 sẽ cho thấy chúng ta có thể đạt được gì khi kết hợp
Vilfredo Pareto với Albert Einstein.
6 Sử dụng Einstein
"Với những người nguyên thủy, không gian là
một bí ẩn không kiểm soát được. Với những người
của công nghệ mới, thời gian cũng có một vai
trò tương tự".
Marshall McLuhan
lbert Einstein, một chàng thư ký nghèo trong một
A văn phòng Thụy Sĩ vào đầu thế kỷ XX, thường
dùng xe điện đi làm mỗi ngày ở Kramgasse, Berne. Anh tưởng
tượng rằng mình sẽ đi đến tháp đồng hồ này với tốc độ ánh
sáng. Giả sử những tia sáng phản chiếu hình ảnh của anh
đang đi với cùng tốc độ đó, liệu anh có thể nhìn thấy ảnh
mình trong chiếc gương của người tài xế không?
Cuối cùng, anh nhận ra không có gì trong tự nhiên xảy ra
đồng thời, chính xác vào cùng một thời điểm cả. Tốc độ ánh
sáng là tuyệt đối, nhưng thời gian và không gian là tương đối.
Cách nhìn thời gian và không gian tác động lẫn nhau.
Einstein đã thay đổi quan điểm của chúng ta về thế giới vật
lý. Theo quan điểm trước đây không gian có ba chiều. Thuyết
tương đối của Eisntein bị tranh cãi rất nhiều vào năm 1916
cho rằng thời gian không hề độc lập với không gian. Thời gian
có thể bị ảnh hưởng của trọng lực. Thời gian cũng như một
chiều không gian thứ tư. Thay vì ba chiều không gian, có bốn
chiều tương liên không gian - thời gian, trong đó thời gian
chính là chiều thứ tư.
Thuyết tương đối hoàn toàn phá vỡ những ý tưởng về "không
gian" và "thời gian". Theo Einstein, không gian và thời gian
không phải là những thực thể tự nhiên. Thay vì thế, chúng
đơn giản là những tác động tâm lý, một sản phẩm của thế giới
vật chất. Như Einstein nói: "Trước đây người ta tin rằng nếu tất
cả mọi vật chất đều biến mất vào vũ trụ, thời gian và không
gian vẫn sẽ tồn tại. Tuy nhiên, theo thuyết tương đối, thời gian
và không gian cũng sẽ biến mất cùng mọi vật". Chà!!!
Nếu bạn cảm thấy những điều này thật phức tạp thì hãy
tham gia cùng chúng tôi. Mặc dù khó khăn, nhiều nhà khoa
học đã bắt kịp Einstein và chứng minh ông đã đúng về cơ bản.
Song kinh doanh và những nỗ lực sáng tạo khác thì chưa đạt
được đến mức này. Chúng ta có một quan điểm tiền-Einstein
cho rằng thời gian là một chiều hoạt động riêng lẻ. Điều đó
đem đến cho những con người 80/20 một cơ hội tuyệt vời.
Thuyết tương đối thời gian hai chiều
có thể giúp bạn nhận định
cuộc phiêu lưu mới của mình
Đây là hai chủ đề có thể giúp bạn nhào nặn ý tưởng kinh
doanh của mình thành một hình thể độc nhất vô nhị. Đầu
tiên, trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống, thời gian
không phải là "cái khác". Nó là một phần của những vật chất
mà chúng ta tạo ra và cung cấp cho khách hàng. Nó là một
phần sản phẩm của chúng ta, một phần dịch vụ của chúng
ta, một phần nguyên liệu của chúng ta, một phần đầu ra của
chúng ta.
Vì vậy, chúng ta không nên tách biệt những gì chúng ta làm
cho khách hàng với thời gian chúng ta cần có để làm nên
chúng. Chúng ta không nên nghĩ đến sản phẩm hay dịch vụ
về một mặt, và thời gian là một mặt khác. Chúng ta nên nghĩ
về "sản phẩm-thời gian" và "dịch vụ-thời gian". Thời gian là
một phần mà chúng ta có thể cộng vào hay trừ ra.
Việc cung cấp một sản phẩm hay dịch vụ hiện có theo một
cách nhanh hơn có thể thay đổi toàn bộ tính kinh tế của nó
và đem đến cho bạn một ý tưởng kinh doanh mới tuyệt vời.
Thứ hai, khi nghĩ về thời gian như một chiều hướng riêng
biệt của cuộc sống, chúng ta sẽ nhanh chóng bị trượt vào
khuynh hướng cho rằng thời gian rất ngắn ngủi và có hạn, và
theo một khía cạnh nào đó, nó là kẻ thù của chúng ta, hay ít
nhất là một thứ tiện nghi cực kỳ khan hiếm. Nhưng thời gian
không hề như thế. Thời gian là một chiều trong cuộc sống và
kinh nghiệm của chúng ta. Thời gian là một phần tích hợp vào
những gì chúng ta làm và con người chúng ta là ai. Thời gian
là một chiều chính xác như không gian, một nơi mà chúng ta
có thể thể hiện bản thân và tạo ra những thứ giá trị cho người
khác và cho chính mình.
Với những người không quá nghèo hoặc không bị ngồi tù
thì chẳng có lý do gì phải nói rằng: "Tôi không có đủ không
gian vật lý để thể hiện bản thân; không có đủ không gian
trong cuộc sống của tôi". Nhưng người ta lại thường nói rằng:
"Tôi không có đủ thời gian để thể hiện bản thân; tôi không có
đủ thời gian để làm những gì mình muốn". Và dù câu sau
nghe có vẻ hợp lý hơn nhưng nó cũng hoàn toàn vô nghĩa.
Kết hợp Einstein và Pareto, chúng ta phát hiện ra rằng nếu
80% tài sản (hay những gì mong muốn) mà chúng ta tạo ra
chỉ cần tốn chưa đến 20% thời gian có thể, thì chúng ta không
hề thiếu thời gian. Với con người hay công ty cũng vậy, chúng
ta không hề thiếu thời gian. Chúng ta sử dụng thời gian của
chúng ta hợp lý nhất chỉ trong một phần nhỏ cuộc sống. Hầu
hết những gì chúng ta làm đều không thật sự có ý nghĩa gì cả.
Vấn đề nằm ở cách sử dụng thời gian vụn vặt của chúng ta
chứ không phải ở bản thân thời gian. Cơ bản hơn, vấn đề của
chúng ta chính là sự vụn vặt: chúng ta không phát triển được
hết những tiềm năng của mình.
Bất cứ một công ty hay một người nào cũng có thể đạt được
nhiều hơn rất nhiều và tốn thời gian ít hơn rất nhiều. Nguyên
lý 80/20 cho thấy bạn có thể chỉ cần làm việc hai ngày một
tuần và vẫn đạt được nhiều hơn những gì bạn đang làm hiện
nay đến 60%.
Hơn nữa, những gì chúng ta giỏi nhất, những hoạt động có
thể sử dụng thời gian của chúng ta hiệu quả nhất, phải xác
định công cuộc kinh doanh mới của bạn và biến nó thành độc
nhất vô nhị. Einstein củng cố ý tưởng về 20% đỉnh năng lực
và nhận định lại nó về mặt thời gian - giá trị lớn nhất mà
chúng ta cộng thêm vào những mẩu vụn thời gian nhỏ nhất
của chúng ta.
Làm thế nào để sử dụng Einstein?
Sản phẩm-Thời gian; Dịch vụ-Thời gian
1. Giảm bớt thời gian phân phối đến khách hàng
Một sản phẩm hay một dịch vụ được phân phối với lượng
thời gian gấp đôi hay lượng thời gian chỉ còn một nửa thì
không hề giống nhau. Việc giảm bớt thời gian phân phối thường
không chỉ khiến khách hàng hài lòng mà còn giúp bạn giảm
bớt chi phí - một thắng lợi hai chiều phản ánh mức lợi nhuận
biên sai cao hơn.
Có thể những hiểu biết về khía cạnh này sẽ giúp bạn định
hình doanh nghiệp của mình khác đi, hiệu quả hơn so với
những doanh nghiệp hiện tại. Nếu vậy, xin chúc mừng bạn!
"Gen kinh doanh" cách mạng thời gian đã vẽ nên cho bạn một
bức tranh về tương lai. Nếu những ý tưởng dưới đây không
đưa bạn đến một kế hoạch mới hoàn toàn, hay ít nhất là một
giả thuyết mới hoàn toàn cần được thử nghiệm, thì hẳn là bạn
đã sử dụng chúng không đúng đắn.
Với bất cứ doanh nghiệp nào bạn đang hoặc định sẽ làm,
hãy xác định 20% những hoạt động tốn 80% thời gian và
20% những hoạt động tốn 80% tổng chi phí của bạn (chúng
thường giống nhau)
Tìm hiểu xem bạn nên làm gì để cắt giảm lượng thời gian
này chỉ còn phân nửa. Quyết định xem chúng có đáng làm
hay không và chúng sẽ dẫn đến đâu.
Sau đó hãy lặp lại bài tập này (ít nhất trong đầu bạn) thêm
ba lần nữa. Bạn hẳn sẽ cắt giảm được lượng thời gian này
đến bốn lần, nghĩa là bây giờ nó chỉ còn chiếm khoảng hơn
6% so với trước kia. Sự cải thiện 16 lần này là điều mà
chúng ta mong đợi với nguyên lý 80/20 (tôi sẽ giải thích lý
do trong chương sau).
Hãy phân tích xem nếu theo kết quả của những thay đổi
này thì chi phí có được giảm xuống nhiều và khách hàng có
hài lòng hơn không. Nếu có, hãy tiến hành thay đổi. Hãy
làm sao cho những đối thủ cạnh tranh của bạn khó lòng bắt
chước được.
Tự phục vụ thường là một cách; một ý tưởng rất cũ nhưng
vẫn có một sức mạnh sáng kiến mãnh liệt. Bản chất của tự
phục vụ là bạn đem một số công việc - thường là những việc
tốn kém nhất hay tốn thời gian nhất - giao cho khách hàng.
Hãy nghĩ xem bạn tốn bao nhiêu thời gian và chi phí cho
việc lựa chọn, đóng gói và phân phối một đơn đặt hàng tạp
hóa hàng tuần - khi những cửa hàng tạp hóa trên mạng ra
đời. Trong trường hợp này, mạng Internet đã làm mọi thứ
chậm lại.
Những nhà sản xuất xe hơi và những nhà cung cấp trò chơi
điện tử khéo léo sử dụng khách hàng trong việc thiết kế và
kiểm định những sản phẩm mới. Thẻ ATM cho phép khách
hàng không phải mất thời gian xếp hàng, cung cấp tiền mặt
và nhiều dịch vụ khác nhanh chóng hơn và rẻ tiền hơn những
ngân hàng truyền thống. Các dây chuyền thức ăn nhanh nhờ
luôn khách hàng làm người phục vụ hay giao hàng. Những
công ty tư vấn khôn ngoan kết hợp hồ sơ khách hàng vào
trong dự án (nhưng nhớ là chỉ những công ty thực sự khôn
ngoan). Điều đó không chỉ hạ thấp chi phí mà còn cho phép
tổ chức của họ được trang bị tốt hơn trong tương lai.
Nhiều cửa hàng bán lẻ hiện nay cung cấp cho khách hàng
cả một hệ thống máy tính để khách hàng có thể tự tìm và đặt
hàng mà không cần người bán. Không phải tất cả mọi dạng
bán lẻ trực tiếp - sử dụng điện thoại, fax, mạng Internet và
catalog - đều tăng tốc việc phân phối dịch vụ và cắt giảm chi
phí, nhưng rất nhiều dạng có thể.
Một ví dụ thú vị đầy sáng tạo của tự phục vụ là một dạng
đánh bạc mới mà không cần người ghi số. Như đã nói trong
Chương 4, tôi là một nhà đầu tư kiêm giám đốc của Betfair,
cung cấp dịch vụ cá cược trực tiếp giữa người này với người
khác, với hoạt động giống như thị trường chứng khoán. Thị
trường cá cược cho phép khách hàng có thể đảm nhận vai trò
truyền thống của một người đánh cá - hay con bạc, hoặc -
đây là điểm sáng tạo - đảm nhận vai trò của người trung gian
- hay nhà cái. Và đây là lần đầu tiên, người đánh cá được
phép chọn con ngựa nào (hay đội bóng nào, con chó nào
v.v...) sẽ không chiến thắng trong cuộc thi; nếu họ đoán đúng,
họ sẽ thắng mà không cần phải đoán xem ai là người chiến
thắng cuộc thi.
Một kho tiền mặt được thiết lập để nâng cao những chọn lựa
dành cho người đánh cá, đồng thời cũng để giảm chi phí.
Betfair hoạt động trên mức lợi nhuận biên sai 1,4%, so với 15-
20% mà các tay ghi số truyền thống thường ăn của khách hàng.
Hoạt động tự phục vụ không hề có giới hạn, nếu có thì chỉ
là tưởng tượng. Bạn hãy thử nghĩ xem trong lĩnh vực của bạn,
nếu bạn để khách hàng tự phục vụ thì điều gì sẽ xảy ra?
Thời gian có thể tiết kiệm được bằng rất nhiều cách. Tôi đã
hoạt động trong ngành tư vấn gần hai thập niên. Khi tôi mới
bắt đầu, một dự án trung bình mất gần 9 tháng. Vào thời
điểm khi tôi giải nghệ, một dự án trung bình chỉ mất khoảng
3 tháng.
Tôi vẫn không chắc làm thế nào chúng tôi có thể tiết kiệm
được ngần ấy thời gian. Chắc chắn công nghệ mới và những
dữ liệu tài chính công khai đã giúp chúng tôi rất nhiều. Quan
trọng hơn là những kỹ thuật lập kế hoạch hướng các nhà tư
vấn tập trung vào những vấn đề chủ chốt và giảm bớt một
lượng thời gian khổng lồ bị "lãng phí" trong một dự án -
những công việc đi vào ngõ cụt và không thể đưa vào kết quả
trình bày cuối cùng cung cấp cho khách hàng. Cơ bản hơn
vẫn là sự cạnh tranh và tinh thần làm việc sẵn sàng của
những nhà tư vấn để "móc túi" khách hàng.
Một ví dụ khác là Belgo, một dây chuyền nhà hàng bắt đầu
ở London vào năm 1992. Nó đã trở thành một dây chuyền
thành công bao gồm những cửa hàng lớn theo mô hình của
một phòng ăn lớn ở một tu viện, với những người phục vụ ăn
mặc như những nhà sư và 200 loại bia khác nhau của Bỉ từ
những tu viện vô danh.
Belgo mang đến một bữa ăn vui nhộn với một cái giá khá rẻ.
"Thanh toán 20 bảng cho một bữa ăn trị giá 40 bảng", đó là
những gì mà những người cộng tác với tôi nhận xét. Nó trở nên
rất phổ biến và khi chúng tôi bán ra thị trường chứng khoán,
chúng tôi kiếm được đến 10 lần mức vốn ban đầu của mình.
Làm thế nào Belgo có thể cung cấp một giá trị lớn đến thế
mà vẫn có thể có lời? Họ đã biết tiết kiệm thời gian. Hệ thống
Belgo dựa vào việc dọn bàn rất nhanh. Hầu hết các nhà hàng
chỉ có một hoặc hai lượt khách một đêm, nhưng Belgo thường
có đến 7 hoặc 8. Tôi nói đùa với các đồng sự của mình rằng
có vẻ như chúng tôi đang sở hữu một nhà hàng thức ăn
nhanh vậy (họ không thích thú lắm, vì họ rất xem trọng chất
lượng thức ăn).
Các nhà hàng ở những vị trí trung tâm có mức chi phí cố
định rất cao: tiền thuê mặt bằng, tiền khấu hao, và một khoản
lớn chi phí dành cho nhân công. Phần nhiều các khoản chi
phí này dựa vào thời gian chứ không phải khối lượng. Nếu có
thể ép ngắn một khoảng thời gian nào đó, bạn sẽ có được một
khoản lợi nhuận dư ra.
Về mặt cắt giảm thời gian, Belgo vi phạm rất nhiều quy luật.
Thay vì một nhóm nhân viên ít ỏi, nhà hàng Belgo tràn ngập
người phục vụ; thậm chí nếu tính theo mật độ thì bạn sẽ thấy
số nhà sư trên mỗi mét vuông ở Belgo còn nhiều hơn cả ở một
tu viện đông đúc. Thay vì cho phép những người khách ăn
muốn ở lại đến bao lâu cũng được, các khách hàng đặt bàn
được biết họ chỉ được giữ bàn trong 90 phút, điều đó khuyến
khích mọi người đến đúng giờ hơn.
Belgo cung cấp một dịch vụ tức thời đặc biệt. Chúng tôi sử
dụng một hệ thống đặt hàng tự động. Khách hàng gọi nước
trong vòng một phút kể từ khi họ ngồi vào bàn, đặt thức ăn
trong vòng 3 phút và thức ăn được đưa đến chỉ trong vòng 5
phút sau khi khách hàng gọi xong. Để thực hiện sự phân phối
này, ngoài hệ thống đặt hàng tự động, chúng tôi có một nhà
bếp không vách ngăn và cả hai hệ thống đều hoạt động như
một cái đồng hồ. Hóa đơn được đưa ra cùng với món ăn cuối
cùng, hoặc trong vòng 15 phút trước thời gian dự tính khách
ra về. Thẻ tín dụng được xử lý trong vòng một phút sau khi
nhận được từ khách hàng.
Belgo là một nhà máy "đúng giờ". Nhiều người phê bình, và
một số khách hàng mới đến lần đầu, rất ghét việc đó. Nhưng
Belgo vẫn có nhiều khách hàng trung thành đến đây mỗi tuần
hoặc thậm chí mỗi ngày.
2. Kế hoạch cắt giảm thời gianHãy vẽ nên một sơ đồ hay một thiết kế về dòng hoạt động
cần thiết để phân phối sản phẩm và dịch vụ đến khách
hàng đo bằng thời gian.Hãy đóng khung những hoạt động chính có thể tăng thêm
giá trị cho sản phẩm, bảo đảm chúng được sắp xếp theo
đúng thứ tự. Dùng mũi tên nối các hoạt động này lại với
nhau.Bên cạnh mỗi khung hoạt động, ghi lại khoảng thời gian
dành cho mỗi hoạt động đó. Sau đó ghi thêm số thời gian
cần thiết giữa hai hoạt động ở kế bên mũi tên nối chúng lại.
Cộng tổng số thời gian kế bên khung hoạt động và số thời
gian kế bên mũi tên. Có hai cách để tăng tốc chúng. Một là
cắt giảm thời gian dành cho hoạt động, để tăng tốc hoạt
động thật sự cần làm. Hai là cắt giảm thời gian giữa các
hoạt động.
Thông thường, thời gian giữa các hoạt động sẽ tốn nhiều
hơn thời gian dành cho hoạt động đó. Nói cách khác, các công
ty thường tốn nhiều thời gian không phải để làm những gì mà
họ cần làm. Một nghiên cứu của Nhóm Tham vấn Boston thấy
rằng: "Thông thường, chưa đến 10% thời gian dành cho bất cứ
công việc gì trong một tổ chức là thật sự nhằm bổ sung giá trị.
Thời gian còn lại bị lãng phí vì những bước không cần thiết
hay những hoạt động mất cân bằng".
Tại Belgo, quá trình nhận đặt hàng của khách (thời gian
hoạt động) có thể được tăng tốc bằng cách kết hợp nhiều hoạt
động, chẳng hạn như mời khách vào chỗ ngồi và ngay lập tức
lấy món nước mà họ gọi. Nhưng quan trọng hơn là việc tiết
giảm thời gian giữa hoạt động này và hoạt động tiếp theo, tức
là hoạt động nhận đặt thức ăn. Ở những nhà hàng bình thường,
việc này mất khoảng 10-15 phút. Nhưng Belgo có thể giảm
xuống chỉ còn 2-3 phút.
Trong lĩnh vực tư vấn, cách tốt nhất để cắt giảm thời gian
là lên kế hoạch trước. Một công cụ rất hữu ích là các file trình
bày tình hình công việc viết bằng Microsoft PowerPoint mà
một khách hàng khi mới bắt đầu dự án cũng như khi kết thúc
dự án sẽ cần được xem. Trong quá trình làm việc, chúng tôi
liên tục cập nhật file này bằng cách sửa đổi những dữ liệu cũ,
xóa chúng đi nếu chúng không thích hợp nữa, hoặc bổ sung
thêm những dữ liệu mới. Điều lạ lùng là cơ chế này kích thích
chứ không hề giới hạn tính sáng tạo. Nó buộc chúng tôi phải
tiếp tục suy nghĩ về những câu trả lời có thể là gì.
Chúng tôi phát hiện ra rằng khi chúng tôi càng có ít thời
gian, khi kế hoạch bắt đầu càng quan trọng và gấp rút, thì
lượng phần trăm thời gian cần thiết để lên kế hoạch trước khi
hoạt động càng lớn.
Bạn có thể sử dụng thuyết tương đối thời gian để tinh chỉnh
ý tưởng kinh doanh của mình và làm cho doanh nghiệp tương
lai của mình độc đáo hơn không?
Thời gian là chủ đề của nguyên lý 80/20: Hãy kích
hoạt một cuộc cách mạng thời gian
Những con người 80/20 chính là trái tim của một cuộc phiêu
lưu mới. Ngược lại, một cuộc phiêu lưu mới cũng phải nằm
trong tim óc của những con người 80/20. Doanh nghiệp phải
phản ánh được những kỹ năng cá nhân và hoài bão của những
người sáng lập, những khía cạnh mà bạn đặc biệt tài giỏi.
1. Nhận định những hoạt động giá trị nhất của bạn
Với những công việc sáng tạo, một phần nhỏ thời gian gần
như luôn luôn dẫn đến hầu hết giá trị tạo ra. Ví dụ, một tia
suy nghĩ lóe lên có thể dẫn đến một lý thuyết khoa học mới
hoặc một ý tưởng kinh doanh mới.
Thậm chí nếu một tháng chúng ta chỉ nảy ra được một ý
tưởng thôi thì hẳn chúng ta cũng đã có thể bội nhân những
giá trị mà mình tạo ra trong tháng đó lên gấp nhiều lần. Và
điều đó xứng đáng để chúng ta suy nghĩ xem làm thế nào để
kích thích những tia chớp lóe đó. Những ý tưởng ban đầu đã
phát sinh như thế nào? Tại văn phòng ư? Trong bữa ăn trưa?
Khi đang đi dạo trong rừng? Khi đang nói chuyện với một
người nào đó? Khi đang thảo luận với khách hàng? Khi đang
chơi golf? Bất cứ điều gì bạn đã làm trước đây, hãy cố gắng
dành nhiều thời gian hơn cho nó và thử xem liệu những ý
tưởng mới có lóe lên hay không.
Theo định nghĩa này, những tia chớp lóe không thể khiến
chúng ta mất nhiều thời gian. Vì vậy, điều quan trọng là bạn
cần xác định xem, trong những hoạt động sử dụng thời gian
hàng ngày của chúng ta, đâu là một số ít những hoạt động giá
trị nhất.
Hãy nghĩ về 5 ngày làm việc trong một tuần. Nếu áp dụng
nguyên lý 80/20, những công việc không mất quá 8 giờ - 20%
- sẽ phát sinh ra 80% giá trị. Nếu bạn có thể nhận định những
hoạt động giá trị cao này và bỏ thêm một ngày nữa cho nó,
thì hai ngày sẽ đem đến cho bạn 160% giá trị trước đó. Trên
lý thuyết, hai ngày làm việc có thể trị giá 60% nhiều hơn 5
ngày làm việc hiện tại của bạn.
Một lựa chọn khác là vẫn làm việc 5 ngày, 2 ngày dành cho
những hoạt động giá trị cao và 3 ngày dành cho những hoạt
động giá trị thấp. Con số này sẽ có thể đem đến cho bạn gấp
175% giá trị của hôm nay.
Cột mốc cuối cùng sẽ là làm việc 5 ngày trên những hoạt
động giá trị cao, để hướng đến 400% giá trị.
Vấn đề là bạn phải loại bỏ được những cách sử dụng thời
gian giá trị thấp. Bạn phải chấm dứt những hoạt động này,
hoặc để người khác làm những việc đó.
2. Kết nối những hoạt động giá trị cao của bạn với lựa chọn
kinh doanh mới
Quan trọng hơn những con số là việc nhận định những hoạt
động giá trị độc nhất vô nhị của bạn, và mối quan hệ của
chúng với cuộc phiêu lưu mới của bạn. Liệu 20% đỉnh năng
lực của bạn - những khả năng giá trị vô song của riêng bạn
- có tương ứng với những gì mà bạn sắp tạo ra không? - Sự
tương thích này có tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với bạn
có thể tưởng tượng.
Trong Chương 4, tôi đã giới thiệu với bạn về Zoffany, doanh
nghiệp khách sạn của tôi, và sự kết hợp duy nhất của nó
trong những ý tưởng kinh doanh. Công thức Zoffany xuất
phát từ 20% đỉnh năng lực của những người lãnh đạo công ty
này. Niall Caven trước kia là một chủ ngân hàng đầu tư thường
xem việc sáp nhập khách sạn cũng giống như những tài sản
tư nhân: Mỗi khách sạn mới phải phát sinh được một tỷ lệ lợi
nhuận cao, điều này phụ thuộc rất nhiều vào giá mua ban
đầu của chúng. Kế hoạch phát triển, thường là xây thêm nhiều
phòng ngủ, cũng phải đem đến một tỷ lệ lợi nhuận cao; phạm
vi phát triển được định hướng bởi các con số.
Trái lại, Nick Sonley, một đồng sự khác của Zoffany, là một
nhà quản lý khách sạn xuất sắc và cực giỏi trong việc huấn
luyện các quản lý khách sạn, giao cho họ trách nhiệm chăm
sóc khách hàng và tối đa hóa lợi nhuận khách sạn của mình.
Ông cũng tham gia vào việc thiết kế và thực hiện những kế
hoạch cải thiện và mở rộng các khách sạn hạng nhất với chi
phí thấp, bằng cách cẩn thận lựa chọn và giám sát các nhà
thầu xây dựng địa phương.
Nói theo thuật ngữ quản lý, những đặc tính cạnh tranh cốt
lõi của Zoffany tương thích hoàn toàn với hai nhà quản lý 80/
20 của nó. Chúng tôi đã rất cố gắng để bảo đảm rằng Niall
và Nick dành phần lớn thời gian của họ cho một số-ít-quan-
trọng mà họ giỏi nhất. Nhưng trong trường hợp này, việc
phân bố thời gian chỉ là điều quan trọng thứ nhì mà thôi. Điều
quan trọng nhất là chúng tôi đã tạo ra chiến lược của Zoffany
dựa trên cách sử dụng thời gian hiệu quả nhất của họ. Điều
độc nhất và giá trị nhất ở hệ thống kinh doanh của Zoffany
chính là những gì độc nhất và giá trị nhất ở những người lãnh
đạo của nó.
Belgo cũng tương tự như vậy. Nó cũng có hai người sáng
lập, Denis Blais và André Plisnier. Denis rất đam mê thiết kế
và tạo nên một cái nhìn độc đáo cho Belgo: viễn tượng về
phòng ăn của một tu viện. Cả Denis và André đều mê đồ ăn
Bỉ đến phát cuồng, đặc biệt là những món ăn truyền thống,
"nông dân". André là một nhà quản lý nhà hàng kinh nghiệm,
hiểu rõ mối liên hệ giữa tốc độ và lợi nhuận; anh chính là
người tạo nên tư tưởng và quy trình của "nhà máy" Belgo. Dù
việc quản lý nhà hàng có rất nhiều công việc và trên thực tế,
họ không thể chọn lọc những hoạt động của mình, ít nhất là
trong những ngày đầu, dành cho những hoạt động giá trị cao,
nhưng điều chủ chốt về những hoạt động giá trị cao của họ
chính là những gì định nghĩa Belgo. Những kỹ năng giá trị cao
độc nhất vô nhị của họ đã khiến Belgo trở thành giá trị cao
độc nhất vô nhị.
Khi nhận định những hoạt động giá trị cao của bạn và của
những người đồng sự - những việc bạn làm có thể tạo nên
phần lớn tài sản - bạn không chỉ đang tìm hiểu xem cách sử
dụng thời gian của mình như thế nào. Quan trọng hơn, bạn
đang nghĩ ra một thiết kế mới cho cuộc phiêu lưu mới của
mình. Những gì khiến bạn và những đồng sự của bạn trở
thành những nhà sáng tạo tài giỏi độc nhất vô nhị cũng chính
là những gì khiến doanh nghiệp của bạn trở thành độc nhất
vô nhị và đạt đến mức siêu thành công.
Rachel: Điển hình của
một nhà quản lý 80/20
Rachel luôn luôn có vẻ thư giãn thoải mái. Khi tôi hỏi
những hoạt động giá trị nhất của bà là gì, bà trả lời lập tức:
"Thiết kế, quản lý lợi nhuận biên sai, tiếp thị, và lựa chọn
nhóm nhân viên hàng đầu. Tôi biết những gì sẽ có kết quả
với mỗi nhóm khách hàng, sản phẩm nào sẽ đi với nhãn
hiệu nào. Vì nhóm của tôi rất giỏi nên tôi có nhiều thời gian
rảnh rỗi".
"Tại sao chị lại nói là 'lựa chọn' nhóm nhân viên mà không
phải là 'quản lý' hay 'lãnh đạo' họ?"
"Lựa chọn, đúng vậy", bà giải thích. "Lãnh đạo, cũng có,
tôi nên làm thế; nhưng quản lý thì không. Họ tự quản lý
chính họ. Lãnh đạo nghĩa là chỉ ra một đường hướng đúng
đắn, nhưng những ý tưởng định hướng của chúng tôi xuất
phát từ mọi người trong nhóm, đó là một tập hợp. Anh thấy
đấy, những gì thật sự giá trị mà chúng tôi làm chính là
những ý tưởng của chúng tôi - những ý tưởng về sản phẩm
mới, ý tưởng cải thiện cách bán hàng, ý tưởng về những sản
phẩm chi phí thấp, những cách quản lý lợi nhuận tốt hơn.
Tôi có ý tưởng, nhưng Helena cũng có, Georgina cũng có, Bill
cũng có, nhiều người khác cũng có. Những việc tôi làm là tạo
nên một môi trường khuyến khích mọi người nghĩ ra ý tưởng,
sau đó chọn lọc và áp dụng chúng. Nếu chúng tôi quá khổ
sở với một quyết định nào đó, tôi biết mình nên loại bỏ nó.
Những ý tưởng tuyệt vời luôn luôn là những ý tưởng dễ dàng,
những ý tưởng tự phát, khi mà tất cả chúng ta đều nói 'đồng
ý' ngay lập tức".
Bạn đã biết cuộc phiêu lưu mới
của bạn là gì chưa?
Thời gian là một chiều vũ trụ, có quan hệ chặt chẽ với
những chiều không gian khác, chứ không phải một cái gì đó
tách biệt bên ngoài chúng.
Thời gian là một chiều kinh doanh, có quan hệ chặt chẽ với
những sản phẩm và dịch vụ mà chúng ta cung cấp và với tính
kinh tế của chúng, chứ không phải một cái gì đó tách biệt bên
ngoài.
Thời gian là một chiều của chính chúng ta, có quan hệ chặt
chẽ với những giá trị mà chúng ta tạo ra và những đặc tính
duy nhất mà chúng ta có được. Thời gian không phải nằm bên
ngoài chúng ta. Thời gian là một phần trong bộ công cụ của
những con người 80/20. Những gì chúng ta học nhanh hơn
người khác và lặp lại nhanh hơn người khác cũng chính là
những gì chúng ta giỏi hơn người khác.
Khả năng siêu năng suất trong Sản phẩm-Thời gian, Dịch
vụ-Thời gian và Kinh doanh-Thời gian chính là nền tảng của
một hệ thống kinh doanh siêu việt. Tốc độ và giá trị là một
chiều chứ không phải hai chiều. Bản thân tốc độ, chỉ có tốc
độ mà thôi, cũng thường là một thước đo giá trị. Những gì
định nghĩa giá trị không phải là keo kiệt với thời gian mà là
khả năng gây ấn tượng nhanh chóng. Những gì củng cố giá
trị là chất lượng của kỹ năng. Tốc độ nghiêng về kết quả hơn
là nguyên nhân của giá trị, nhưng dù vậy, đây vẫn là một sự
diễn đạt không hoàn hảo, vì nó đã chia rẽ giữa "tốc độ" và
"giá trị".
Những gì chúng ta lựa chọn làm cuộc phiêu lưu mới của
mình phải bộc lộ khả năng duy nhất của chúng ta và của
những người đồng sự trong việc tạo ra giá trị. Khả năng duy
nhất của mỗi cá nhân và của doanh nghiệp mà họ tạo ra cần
được đo lường cùng với một chiều thời gian-giá trị. Hãy lựa
chọn doanh nghiệp tương lai của bạn bằng cách nhận định
một hệ thống kinh doanh mới có thể đem đến một sản phẩm
siêu việt duy nhất của thời gian-giá trị, một sản phẩm mà
không ai khác có thể tạo ra được.
Chương 3-6 đã giúp bạn quyết định muốn thử một công
cuộc kinh doanh như thế nào chưa? Chương 7-10 sẽ giúp bạn
bắt đầu. Việc đó dễ hơn bạn tưởng.
7 Tuyển chọn nhân tài
"Đứng trên vai những người khổng lồ giúp tôi có
được một tầm nhìn xa hơn".
Sir Isaac Newton
Bất kỳ nhà đầu tư kinh doanh nào cũng biết rằng
không có gì quan trọng cho một dự án kinh doanh
mới hơn là yếu tố con người. Điều này đã được thực tế chứng
minh rất rõ, nhưng nó thể hiện như thế nào trong lý thuyết?
Nguyên lý 80/20 cho thấy có một sự khác biệt to lớn giữa
một số ít người tài năng nhất với những người còn lại - trong
một nhóm người cùng chức vụ, thông thường chưa đến 20%
sẽ mang lại nhiều hơn 80% kết quả.
Liệu điều này có chính xác và phù hợp với những gì chúng
ta biết về mối liên hệ giữa con người và sự thành công trong
kinh doanh không? Cho dù điều đó đúng hay sai thì đâu là
những gợi ý rất thực tiễn được rút ra từ những bài học kinh
nghiệm mà bấy lâu nay chúng ta đã bỏ quên?
Chương này hứa hẹn mang đến cho bạn những kết luận
đáng ngạc nhiên cả trong tư duy lẫn trong phương thức tạo
ra lợi nhuận.
Toán học điên đầu
Một trong các điều kiện giúp giá trị tăng thêm chính là
những cá nhân tài giỏi, và chắc hẳn bạn luôn mong chờ một
phép toán so sánh giữa những người xuất sắc nhất và các
thành viên còn lại của nhóm? Nhiều hơn 50%? Gấp hai lần giá
trị? Hay bốn lần? Nếu một người đáng giá gấp hai hay bốn lần
những người khác, rõ ràng họ xứng đáng nhận được những
phần thưởng giá trị nhằm đảm bảo cho công việc của họ.
Nhưng nguyên lý 80/20 lại đưa ra giả thuyết rằng 20%
những người tài giỏi nhất trong một nhóm có thể tạo ra giá trị
gấp mười sáu lần 80% còn lại. Tại sao lại là con số mười sáu?
Chúng ta hãy cùng áp dụng một ít toán học ở đây.
Nếu 20% người lao động có hiệu quả nhất tạo ra 80% giá trị,
và giả sử có tất cả 100 người cùng lao động trong một nhóm
thì một người trong số 20 người giỏi nhất sẽ tạo ra trung bình
4% giá trị (20% tạo ra 80% thì 1% tạo ra 80% chia 20% = 4). Bây
giờ, nếu 80% người lao động kém hiệu quả hơn tạo ra chỉ 20%
giá trị thì một người trong số họ sẽ tạo ra chỉ 0,25 đơn vị giá
trị (80% tạo ra 20% thì 1% tạo ra 20% chia 80% = 1/4).
Do đó tỷ lệ hiệu suất của 20% so với 80% là 4 chia cho 1/4 = 16 lần.
Phép tính này được diễn đạt như sau:
Nhóm quan trọng (20%) 80% kết quả
= 4,00
20% người
Nhóm vụn vặt (80%) 20% kết quả
= 0,25
80% người
4,00
Tỷ lệ của nhóm quan trọng trên nhóm vụn vặt = = 16
0,25
Sự khác biệt 16 lần này có đáng tin cậy không?
Sự chênh lệch trong đo lường trí tuệ tuân theo đường cong
hình chuông, chứ không phải theo sự sắp đặt của nguyên lý
80/20. Thực tế 20% những người tài giỏi nhất không thể thông
minh hơn gấp hai lần số còn lại huống chi là gấp 16 lần. Vậy
phải chăng điều này có nghĩa là nguyên lý 80/20 không thể
áp dụng cho con người?
Câu trả lời là "có" và "không". Rõ ràng nguyên lý 80/20
không thể áp dụng cho trí thông minh và do đó cũng không
thể áp dụng cho tài năng, vốn là một dạng của sự thông minh.
Tuy nhiên, cái mà hầu hết chúng ta quan tâm đến là sự thành
công và khả năng tạo ra của cải - về mặt kinh tế hơn là tâm
lý - và không nên bị cuốn hút bởi tài năng. Tài năng là một
thứ tuyệt vời, song nếu nó không được sử dụng để tạo ra của
cải hay sự thịnh vượng thì nó không phải là mục đích mà
chúng ta theo đuổi.
Nếu chúng ta quan tâm tới kinh tế, quan tâm tới sự thành
công, thì nguyên lý 80/20 với những kết quả lạ lùng, phản
trực giác, chướng tai gai mắt và thậm chí rất kì quặc đang
thực sự tồn tại. Nguyên lý 80/20 đã vượt ra khỏi những lý
thuyết hàn lâm của kinh tế học. Nó xuất hiện không phải bởi
vì các nhà kinh tế muốn ứng dụng nó, không phải bởi vì nó
tạo thành một số điểm nối kết thuận lợi trong các học thuyết
của họ, mà bởi vì nó hiển nhiên và có thể nhận thấy được
trong rất nhiều hiện tượng kinh tế.
Như nhà kinh tế Josef Steindl từng bình luận: "Trải qua một
thời gian dài, định luật Pareto (nguyên lý 80/20) đã tích lũy
dần các tình huống đặc sắc trong kinh tế, đây là định luật
được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn mà không ai có thể giải
thích được".
Phát hiện đầu tiên của Vilfredo Pareto dẫn tới nguyên lý 80/
20 dựa trên quan sát thu nhập và của cải thu được của nhiều
thành phố qua nhiều giai đoạn. Tính nhất quán trong quan
sát đã giúp ông tìm ra các con số ẩn chứa đằng sau nguyên
tắc ấy.
Chính sách thuế quân bình trong suốt một thế kỷ vẫn không
thể lật đổ được ảnh hưởng của nguyên lý 80/20 trong phân
phối thu nhập. 10% trội hơn trong dân số thế giới sẽ chiếm
70% thu nhập của nó và tạo ra 70% hàng hóa, dịch vụ cho nó.
Ở Hoa Kỳ, 5% dân số xuất sắc sở hữu lượng của cải bằng 60%
dân số còn lại. 20% những người giàu nhất nước Mỹ sở hữu
83,9% tài sản của quốc gia này.
Tác động ngày càng tăng của nguyên lý 80/20 lên mối
tương quan giữa các "siêu sao" với các ngành nghề, các lĩnh
vực công nghệ giải trí, thể thao cùng với khoản phí tổn liên
quan trong các ngành hay các tập đoàn kém thành công hơn
là minh chứng cho việc áp dụng nguyên lý 80/20 vào việc
tuyển dụng người lao động.
Qui luật Koch về
"Con người tạo ra của cải"
Bằng cách nào chúng ta có thể hòa hợp giữa tâm lý và kinh
tế, giữa đường cong hình chuông và sự phân bố 80/20? Cả
hai đều được sinh ra từ kinh nghiệm thực tế, và cả hai đều đã
được kiểm chứng.
Câu trả lời khá dễ hiểu. Đường cong hình chuông và nguyên
lý 80/20 ám chỉ những thứ khác nhau. Đường cong hình
chuông thường chỉ sự thông minh, tài năng, còn nguyên lý
80/20 lại chỉ về khả năng tạo dựng của cải, hạnh phúc của
con người.
Hai quan điểm này có thể diễn giải như sau:Tài năng không chưa đủ. Tài năng nếu không tạo ra được
của cải hay hạnh phúc thì đó là tài năng vô dụng. Chúng
ta nên tìm hiểu xem điều gì làm chuyển đổi tài năng thành
khả năng tạo ra của cải. Và chúng ta cần phải nắm được
"thuật giả kim" phi thường này.Trái với sự mong đợi và thậm chí trái với nhận thức về
những điều mà chúng ta thường cho là đúng và hợp lý,
nguyên lý 80/20 thật sự cho thấy sức mạnh tạo ra của cải
của các cá nhân. Một số phép tính được áp dụng vào nguyên
lý 80/20 đã cho thấy những người tạo ra sự giàu có thật sự
làm ra của cải nhiều hơn những người còn lại ít nhất 16 lần.
Như Michael Jordon, anh không tài giỏi hơn những người
chơi bóng rổ khác đến những 16 lần. Nhưng khả năng tạo ra
của cải của anh thì vượt xa con số 16 lần so với những người
khác.
Trong quá trình chuyển đổi tài năng thành của cải - biến
những năng khiếu trừu tượng thành các yếu tố kinh tế, tồn tại
một quá trình của tác dụng đòn bẩy kinh tế. Những điểm
khác biệt nhỏ trong tài năng đã dẫn đến sự khác biệt to lớn
trong khả năng tạo dựng của cải.
Do đó chúng ta có qui luật Koch về "Con người tạo ra của
cải":
Của cải = (Tài năng) (Bội số của khả năng tạo ra của cải)
Trong hai biến số trên, thì biến thứ hai là quan trọng hơn.
Thật vậy, khả năng tạo ra của cải rõ ràng làm thay đổi nhiều
thứ hơn tài năng.
Bội số của khả năng tạo ra của cải là gì?
Ở đây chúng ta đang nói tới những người bạn ở Chương 4,
những gen kinh doanh mạnh mẽ. Ý tưởng kết hợp với phương
tiện tạo thành tế bào của sức mạnh kinh tế, giúp cho Michael
Jordan làm chủ một trận đấu ngang tài ngang sức, làm cho
một sân vận động bình thường trở thành một "show" biểu
diễn của Michael Jordan, một quyển sách phối hợp được trí
tuệ và sự dí dỏm sẽ trở thành "bestseller".
Do đó chúng ta có thể phát biểu lại qui luật "Con người tạo
ra của cải" như sau:
Của cải = (Tài năng) (Gen Kinh doanh)
Ai cũng biết thông minh không dẫn đến sự giàu sang, vì
nếu thế thì các giáo sư đại học đều trở thành triệu phú cả.
Thường có điều gì đó hơi kỳ diệu khi một nhà kinh doanh rõ
ràng không tài giỏi hơn những nhà kinh doanh khác bỗng
trở nên giàu có. Sự giàu có cũng không thể được giải thích
bằng một quá trình lao động cật lực bởi lẽ có những người làm
việc chăm chỉ cả đời nhưng cũng không khá giả, cũng như
không thể coi đó là kết quả của sự may mắn vì mặc dù may
mắn hay cơ hội là một yếu tố quan trọng nhưng chúng chỉ là
một khái niệm trừu tượng không thể giải thích hay gây ảnh
hưởng được.
Câu trả lời nằm trong các gen kinh doanh mạnh mẽ. Mặc dù
chúng ta thường nghĩ rằng đó là do may mắn, nhưng vẫn có
một sự khác biệt chính yếu giữa những người "siêu" thành
công và những người còn lại. Và cho dù có hay không trực
giác cũng như tính cẩn trọng thì những người thành công vẫn
hiểu được sức mạnh quyền năng của gen kinh doanh.
Trước đây, điều này được lý giải chủ yếu dựa vào trực giác.
Ngày nay, bằng việc giải mã tính khoa học của sự thành công,
chúng ta có thể sắp đặt quá trình dẫn đến thành công một
cách chủ động hơn.
Vì sao các giảng viên ngữ văn đại học vốn là những sinh
viên giỏi lại kiếm được ít hơn những 16 lần các bạn cùng
trang lứa với họ vốn là những người kém thông minh hơn,
những người thường chọn các nghề về đầu tư ngân hàng hay
kinh doanh tư bản đầy rủi ro? Lời giải thích thật đơn giản:
đầu tư ngân hàng hay kinh doanh tư bản rủi ro có gen kinh
doanh mạnh mẽ trội hơn.
Một vài gen kinh doanh tỏ ra trội hơn những yếu tố khác.
Đó là yếu tố nào? Đó là những yếu tố có bội số tạo ra của cải
cao hơn. Ngay sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu và định
lượng những yếu tố này một cách khách quan.
Làm thế nào để chuyển đổi tài năng thành của cải?
Tài năng chuyển đổi thành của cải khi gặp được những gen
kinh doanh quyền năng và những yếu tố này sử dụng tài
năng vào các mục đích của chúng.
Nhóm người nào đáng để ta mặc cả hơn: nhóm cá nhân tài
năng hay nhóm cá nhân vụn vặt? Hãy tham khảo vài con số
sau để bạn có thể rút ra được kết luận cho mình.
Giả sử trong một nhóm cùng làm việc như nhau, số ít người
tài giỏi có thương số kỹ năng là 120 và số nhiều những người
vụn vặt còn lại là một trên 80. Để thu hút nhân tài, giả sử
chúng ta phải trả không những hơn 50% mà có khi đến 70%
cho giá trị của họ. Chúng ta cũng giả định rằng cá nhân tài
giỏi và cá nhân vụn vặt đều tích cực làm việc như nhau.
Trong một chừng mực nào đó, động cơ thúc đẩy làm việc và
sự cân bằng năng lực giữa các thành viên trong nhóm trái
nghịch với nhau. Tuy nhiên, đó là một giả định hợp lý khi bạn
luôn chỉ muốn tuyển được những nhân viên tích cực trong
mọi trường hợp. Một cách bất ngờ là có nhiều người vụn vặt
nhưng lại làm việc rất tích cực, điều này đôi khi làm cho ta
khó nhận ra sự vụn vặt của họ. Mặt khác nó cũng giúp bạn
dễ dàng nhận ra những người vốn có năng lực nhưng lại thờ
ơ với doanh nghiệp của bạn.
Đối mặt với việc này, cho dù bạn có mua chuộc được những
cá nhân tài năng cũng không có ý nghĩa gì.
Nhưng bạn đừng quên trong định luật Koch về khả năng
tạo ra của cải của con người vẫn còn một biến số khác: tố chất
kinh doanh - yếu tố dùng để chuyển đổi tài năng thành của
cải. Thật vậy, nó có thể áp dụng cho cả những người tài năng
lẫn vụn vặt. Nhưng có hợp lý không khi ta giả định rằng cả
người tài giỏi và người vụn vặt đều tạo ra lợi ích từ gen kinh
doanh mạnh mẽ như nhau? Liệu cả hai nhóm có khai thác
được hết giá trị của nó không? Hay nhóm người tài năng sẽ
lợi thế hơn trong việc nắm bắt được bản chất của gen kinh
doanh mạnh mẽ? Liệu giá trị họ tạo ra có gấp 10 lần những
người bình thường? Nói một cách khác, gen kinh doanh nếu
được sử dụng bởi một người tài năng có sinh ra được lợi ích
gấp 10 lần không?
Nếu vậy, kết quả có thể được viết lại như sau:
Giá trị cá nhân vụn vặt = 80 10 = 80
Giá trị cá nhân tài năng = 120 100 = 1200
Trong trường hợp này, một cá nhân tài năng sẽ tạo ra giá
trị gấp 15 lần một cá nhân vụn vặt khác (1200/80), cho dù
họ không hẳn thông minh hơn gấp đôi những người khác.
Điều này có khó tin chăng? Có lẽ vậy. Tôi đã chọn ra nhân
tố "10 lần" - lợi ích mà một người tài giỏi làm được từ gen kinh
doanh mạnh mẽ - một cách ngẫu nhiên. Và bạn hoặc có thể
tự đánh giá xem nó đáng tin cậy hay không.
Phép tính toán trên chỉ ra rằng một cá nhân tài năng có thể
tạo ra giá trị gấp 15 lần một người bình thường. Điều này gần
với con số 16 lần được nhắc đến trong nguyên lý 80/20. Mặc
dù lý lẽ của tôi có vẻ vòng quanh, song mối quan hệ này phải
được áp dụng nếu chúng ta tin rằng nguyên lý 80/20 được áp
dụng cho khả năng tạo ra của cải của con người. Và khi điều
này được chứng minh xác thực, thứ duy nhất trong sự tính
toán của tôi có thể sai là tỷ lệ tương đối giữa tài năng và nhân
tố "x" (bao gồm cả tố chất kinh doanh).
Bạn hoặc phải chấp nhận sự khác biệt trong năng lực giữa
các cá nhân còn lớn hơn cả những gì tôi đề cập - đó là những
điều mà suy nghĩ và các giác quan thông thường mách bảo
với chúng ta rằng đó không phải là sự thật, hoặc phải tin rằng
sự khác biệt trong lợi ích của tố chất kinh doanh xấp xỉ gấp
10 lần những gì tôi làm.
Dĩ nhiên, gấp 10 lần ở đây chỉ áp dụng đối với những gen
kinh doanh mạnh mẽ. Trong trường hợp cũng là gen kinh
doanh nhưng có thể không mạnh mẽ lắm thì chỉ cho ta giá trị
gấp khoảng 5 lần là nhiều. Vào cuối bảng phân loại, sức
mạnh của gen kinh doanh có thể thực sự rất cao, trong những
trường hợp cá biệt có thể lên đến hàng trăm hàng nghìn lần.
Ngay cả khi chỉ số IQ của Einstein là khoảng 200-300 thì tố
chất kinh doanh mà ông thể hiện - những ý tưởng khoa học
vốn là "nguyên vật liệu" cho ra đời thuyết tương đối, chắc
chắn phải là một quyền năng phi thường. Riêng khái niệm về
thiên tài, đó là những người có trí thông minh bẩm sinh vượt
trội hơn những người khác, chúng ta không thể giải thích
được giá trị vô cùng to lớn trong các thành quả do một thiên
tài tạo ra. Sự giải thích phải được tìm trong tác dụng của đòn
bẩy. Thiên tài, bất kể trong lĩnh vực khoa học hay kinh doanh,
đều cần được phát hiện và khai thác các gen kinh doanh
mạnh mẽ. Những khác biệt trong trí tuệ góp phần làm cho tài
sản của họ nhân lên gấp bội.
Tranh thủ nhân tài như thế nào
1. Những gợi ý thiết thực từ qui luật "Con người tạo ra của cải"
Tuyển được một nhân tài hẳn là phải tốt hơn tuyển một
người vụn vặt làm việc. Trong ví dụ mà tôi đã đề cập bên trên,
những người có năng lực trội hơn những đồng nghiệp khác
50% sẽ được trả 70% hoặc hơn. Cũng như trong tính toán mà
chúng ta đã thực hiện, nhân tài được giả thiết rằng sẽ tạo ra
giá trị gấp 15 lần những người khác.
Giả sử một người bình thường trị giá 50 đơn vị và một nhân
tài trị giá 85 đơn vị (hơn 70%).
Giá trị tính được cho một người bình thường = 80/50 = 1,6
Giá trị tính được cho một người tài năng = 1200/70 = 17,1;
nghĩa là hơn 10 lần giá trị cho một người bình thường.
Tài năng chỉ chuyển hóa thành khả năng tạo ra của cải
khi chúng ta áp dụng được các gen kinh doanh mạnh mẽ.
Trong một chừng mực nào đó, chính những tài năng mới sẽ
đưa đến quá trình này. Nhưng nhìn chung, các tài năng trẻ
chỉ là một sự kế thừa từ các gen kinh doanh, quá trình khai
thác họ để tạo ra giá trị đã sớm được thực hiện bởi những thế
hệ nhân tài trước đây - và nó đã được kết tinh lại trong từng
lĩnh vực công nghệ cụ thể, trong các tập đoàn hay các nhóm
cùng làm việc.
Điều này lý giải vì sao ngay từ ban đầu tài năng không phải
là yêu cầu bắt buộc để tạo ra giá trị. Và quan trọng hơn là nó
không xứng đáng với những thành quả giá trị của nó. Giá trị
thực sự được hình thành từ sự tương tác giữa tài năng và các
gen kinh doanh mạnh mẽ, vốn là những yếu tố có sẵn trong
các ngành nghề hoặc các tập đoàn. Gen kinh doanh rõ ràng
quan trọng hơn tài năng. Do đó tài năng có thể được trả nhiều
hơn giá trị thực của nó (trong ví dụ bên trên của tôi, người ta
có thể trả 70% cho 50% sự khác biệt trong năng lực) song vẫn
ít hơn phần của cải do môi trường kinh doanh tạo ra. Đây quả
là một tin tốt cho tất cả những ai quan tâm.
Những người đang làm nhân viên, đang làm việc hiệu quả
với những gen kinh doanh mạnh mẽ, cùng với một số bước
ngoặc quan trọng, có thể đánh cược với những ý tưởng này
trong một cuộc phiêu lưu mới thành công - họ sẽ trở thành
những con người 80/20.
2. Khai thác lý thuyết của cải/tài năng trong chứng khoán
Nhận ra một tài năng không khó khăn gì mấy. Hãy "săn" nó
trước khi những đối thủ của bạn "chộp" được và chuyển nó
thành khả năng tạo dựng của cải càng nhanh, càng nhiều
càng tốt. Hãy nhanh chóng tuyển dụng những dạng tài năng
có khả năng thực hiện những bước đột phá trong quá trình
tạo ra của cải.
Tài năng chỉ trở thành khả năng sinh ra của cải khi nó kết
hợp với những "gen kinh doanh" quyền năng. Khởi đầu, tài
năng có giá trị rất nhỏ, nhưng sau một thời gian, nó trở nên
lớn lao, mang lại những giá trị phi thường, và dần dần độc lập
với thân chủ của nó. Tài năng tích lũy giá trị như chính bản
thân nó và trở nên có ích cho những gen kinh doanh mạnh
mẽ. Những người tạo ra của cải nổi trội sẽ trở nên "lão luyện"
trong việc tiếp thu những gen kinh doanh giá trị đã được sử
dụng bởi chủ của họ hoặc hơn nữa là từ bên ngoài.
Thực tế, điều này không chỉ thuần túy là vấn đề tài năng. Nó
là vấn đề của sự thúc đẩy mang tính bản năng kết hợp với chỉ
duy nhất một kiểu tài năng. Và vấn đề chính là khả năng nhận
ra các gen kinh doanh thiết thực và biết cách vận dụng chúng
một cách đầy đủ. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi, việc sở
hữu các động lực tương đối là cực kỳ khó khăn. Cho dù tài
năng nhất thiết phải được chuyển hóa thành của cải, nhưng
chúng ta cũng không cần thiết phải trực tiếp sử dụng nó để
tạo ra của cải; tự nó sẽ thể hiện trong các kết quả đạt được.
Nhân tài hiếm khi được định giá đúng. Vào thời điểm ban
đầu, họ thường được trả giá rất cao. Và ngay khi họ bắt đầu
có khả năng tạo ra của cải thì lập tức mức thù lao mà họ nhận
được không còn xứng đáng với năng lực của họ nữa.
Cái giá của những người làm phát sinh của cải là một hàm
số giữa danh tiếng và sự tự tin. Cả hai kết hợp cùng nhau
nhưng không hề thể hiện được mối tương quan tuyệt đối.
Danh tiếng hiếm khi ngang bằng được với sức sản sinh của
cải. Trong vài năm đầu, lượng tài sản do những người có khả
năng tạo ra của cải đặc biệt làm ra vượt xa danh tiếng của họ.
Vài năm sau đó, mọi thứ hoàn toàn khác đối với một số nhân
tài cá biệt. Những người này hiếm khi giữ vai trò như một
người lao động bình thường. Một khi họ đã làm, họ sẽ thở
thành một người giá trị nhất trong muôn người.
3. Đánh giá cao những tài năng trẻ
Con người 80/20 cần biết cách phát hiện để "chộp" được
những tài năng trẻ, có tiềm năng tạo ra của cải, ngay trước khi
tiềm năng đó được đánh giá đúng. Lúc đầu, mọi thỏa thuận
đều thiên về phía các nhân tài này. Sau đó tìm cách chuyển
hóa các tài năng trẻ này thành những người làm phát sinh
của cải càng nhanh càng tốt. Ở giai đoạn này, người chủ 80/
20 nhất định sẽ thu được một món hời béo bở. Một người chủ
80/20 luôn biết rằng những người có khả năng tạo ra của cải
nhất định sẽ làm việc hiệu quả hơn rất nhiều lần so với đa số
nhân viên thạo nghề bình thường khác - trung bình khoảng
16 lần. Do đó, ông ta đặc biệt chú ý đến việc đào tạo và phát
triển những tài năng trẻ cho tới khi họ hấp thu hết những gen
kinh doanh mạnh mẽ và sống như những bản sao của nguyên
lý 80/20. Nếu một vài tài năng trẻ nào đó không trở thành
được những người làm ra của cải thì người chủ 80/20 đó đã
mắc phải sai sót khi tuyển dụng và ông cần phải sữa chữa sai
lầm này.
Giá trị tạo ra từ một tài năng trẻ tuổi luôn lớn hơn cái giá
mà anh ta được trả. Ví dụ như một thạc sĩ mới tốt nghiệp từ
viện Công nghệ Massachusetts năm 1998 được trả lương nhiều
hơn 60% so với năm 1994, trong khi một chuyên gia có 45
đến 54 tuổi nghề thật sự thất bại khi chỉ kiếm được 24% trong
suốt một phần tư thập kỷ qua (vào thời kỳ điều chỉnh lạm
phát của đồng đôla). Rõ ràng những người trẻ đang đắt giá
hơn những người lớn tuổi trong khi xét về giá trị tạo thành thì
người trẻ lại tạo ra được ít giá trị hơn những người lớn tuổi.
Tuy nhiên, thế hệ trẻ lại có khả năng tiếp thu các gen kinh
doanh mạnh mẽ tốt hơn và có khả năng khám phá được nhiều
điều mới lạ hơn.
Những nhân viên lớn tuổi có thể là một nhóm tự lựa chọn
lẫn nhau. Họ thường vẫn là những người làm công do thất bại
trong việc trở thành một người tạo ra sự giàu có, hay thất bại
trong việc nhận ra giá trị thực của chính mình, hoặc thất bại
trong việc tìm kiếm một phần thưởng xứng đáng với những
giá trị do mình làm ra. Những người rơi vào trong hai nhóm
cuối này là những ngoại lệ cực kỳ quan trọng. Hầu hết cả
cuốn sách này viết về họ. Họ đã học được cách tạo ra tài sản
nhưng vẫn chưa giữ được của cải và kiểm soát được cuộc sống
mà nó mang lại. Họ thất bại trong việc giữ lại những gì đáng
lẽ ra thuộc về họ.
Khi nguồn tài năng này trở nên đắt đỏ, hãy chuyển sang
một nguồn khác với nhiều đặc tính tương tự nhưng kém đắt
đỏ hơn.
Các cử nhân từng chiếm lợi thế, ngày nay thì họ đang được
trả giá quá cao. Cũng tương tự ở Anh: Tình trạng chảy máu
chất xám ở bên kia Đại Tây dương tạm ngưng do vài nguyên
nhân tốt đẹp. Những sinh viên vừa tốt nghiệp từng đáng giá
đến mức lạ kỳ, thì giờ đây họ đã "rẻ" hơn. Và lời khuyên của
tôi là hãy tìm kiếm những người có cùng "chất lượng" nhưng
thông minh và ít tốn kém hơn: tốt nghiệp từ các ngành ít "thời
thượng" (như nhân văn), những sinh viên bỏ học nửa chừng,
những người mới 18 tuổi nhưng thể hiện rất tốt trong các bài
kiểm tra, hoặc những người lao động từ các quốc gia "rẻ" hơn
nhưng phải là nơi có hệ thống giáo dục tốt như Ấn Độ, Nam
Phi hay New Zealand.
Tránh những nguồn tài năng mà đối thủ của bạn thường lui
tới. Các đối thủ của bạn ở đây là các công ty có các gen kinh
doanh (hay khả năng chuyển hóa tài năng thành của cải) tốt
hơn bạn.
Theo dõi tỷ lệ chuyển biến tài năng thành của cải của từng
nguồn nhân tài. So sánh tỷ lệ giữa giá trị với chi phí phải bỏ
ra, từ đó điều chỉnh sự tuyển dụng của bạn cho thích hợp.
Luôn luôn nên trả cho những người có năng lực nhiều hơn
họ mong đợi nhưng ít hơn giá trị thực của họ. Điều này cũng
giống như việc bạn để lại một số dư "an toàn" trong lúc chơi
chứng khoán nhằm tạo ra một giá trị thặng dư xứng đáng.
Hãy hào phóng sớm trước khi quá trễ.
Cuối cùng, định ra mức làm ra tiền trung bình, hoặc mức
tiềm năng trong công ty với từng nhân viên mới tìm được.
Nhiều người chủ có khuynh hướng tuyển những người mà với
họ ông ta cảm thấy thoải mái, những người không thích thử
thách tài năng của họ. Đây quả là một sai lầm lớn. Bạn nên
thuê những người giỏi nhất mà bạn tìm được, đặc biệt khi họ
giỏi hơn bạn hoặc có thể trở nên giỏi hơn chính bạn. Chỉ nên
thuê những người có tiềm năng trở thành những người đồng
sự của bạn. Thậm chí cuối cùng đến khi họ ra đi, bạn vẫn thu
được nhiều lợi ích từ họ.
Tóm lại:
Hãy tuyển dụng nguồn nhân tài trẻ tuổi, những người có
khả năng trở thành nguồn phát sinh của cải nhanh chóng.
Trong số các nguồn này, hãy tìm nguồn rẻ nhất; thị trường
của những người trẻ tuổi rất đa dạng và không hoàn hảo.
Ở mọi cấp độ của tài năng và tiềm năng sản sinh của cải,
hãy thiên về sự khiêm tốn và nên thận trọng với sự tự tin
thái quá. Những người thuộc thế hệ trước thường ở lại lâu
hơn sau khi họ đã trở thành những người tạo ra của cải
quyền năng.
Trả giá cao cho những nhân tài trẻ tuổi, những người mà
bạn có thể đào tạo thành công họ trong việc giúp bạn làm
ra của cải. Những người học việc đủ khả năng luôn rất đáng
giá, thậm chí ngay khi bạn phải trả lương rất cao. Hãy làm
cho họ gắn bó với công ty của bạn.
Hãy giúp đỡ những người tài năng nhưng thất bại trong
việc trở thành một nguồn phát sinh của cải tìm được một
việc làm tốt hơn ở một công ty khác, nơi mà một người chủ
khác có thể trả lương cao hơn cho họ.
Cẩn thận đoán nhận và tuyển dụng những nhân viên lớn
tuổi hơn, vốn là những người tạo nên của cải chính hiệu
nhưng lại không nhận ra hoặc không biết tận dụng giá trị
của mình.
Tuyển dụng nhằm mục đích nâng cao mức khả năng trung
bình trong công ty bạn. Hãy tuyển những người có tiềm
năng tạo ra của cải cao hơn chính bản thân bạn.
Làm thế nào giữ được nhân tài
Hãy tỏ ra hào phóng để tạo lòng trung thành cao nhất ở
những nhân viên có năng lực. Khi thương lượng với một người
trẻ tuổi có khả năng giúp bạn làm phát sinh của cải, dù bạn
rộng rãi đến đâu, bạn vẫn luôn là người được lợi hơn.
Bill Bain nhận ra giám đốc của một công ty tư vấn quản
trị có thói quen biến những siêu sao trẻ thành các đồng sự
của ông ta sớm cả năm trước khi họ có thể mong đợi điều đó.
Bill Bain biết thêm một bí quyết khác. Ông bảo họ rằng họ
sẽ trở thành đồng sự của ông khoảng sáu tháng trước khi
điều đó thật sự xảy ra. Do đó, ông có thể hưởng lợi từ những
cuộc thảo luận trước khi ông phải chi trả cho nó; sáu tháng
là một khoảng thời gian dài trong ngành tư vấn. Và ai trong
chúng ta, những người được hưởng lợi đều cảm thấy vô cùng
biết ơn Bill. Chi phí duy nhất mà ông phải chịu đó là việc ông
phải có quyết định sớm. Những "đồng sự" thường có khuynh
hướng bỏ qua sự thật rằng họ chỉ được một phần lợi ích rất
nhỏ trong mối quan hệ làm ăn này, và vì thế Bill chiếm hầu
hết lợi nhuận.
Nếu bạn mong muốn giữ được những người cộng tác xứng
đáng hơn là những nhân viên bình thường, hãy "hào phóng"
với họ. Hãy đảm bảo rằng bạn đưa ra một cái giá cao hơn
những người cộng tác với bạn trong tương lai mong đợi, hoặc
có lẽ cao hơn cả mức mà họ xứng đáng nhận được. Điều này
đặc biệt đúng nếu như bạn tuyển những người trẻ tuổi, thiếu
kinh nghiệm và chưa đạt được tiềm năng thật sự của họ. Khả
năng tạo ra của cải là một mục tiêu di chuyển được, nhưng lợi
ích phải chia cho những người đồng sự thì không. Do đó, cho
dù có trả lương cao cho họ trong hiện tại thì tương lai bạn vẫn
là người hưởng lợi.
Khi Jim Lawrence đưa ra đề xuất hợp tác với Iain Evans để
thành lập một tổ chức mà không lâu sau được đổi tên thành
The LEK Partnership (vào thời điểm tôi gia nhập), Jim đã đề
nghị nhận một mức lương bằng Iain, mặc dù thực chất Iain
không giỏi bằng và phải báo cáo công việc cho Jim. Quyết
định này nghe có vẻ hào phóng một cách thú vị, nhưng sau
này mọi người mới nhận ra rằng đó là một trong những quyết
định tuyệt vời nhất của Jim.
Tiền là vấn đề chính, nhưng tình bạn và sự thú vị cũng cần
được tính đến. Mặc dù đây là quan điểm thường gây nhiều
tranh cãi, song tôi vẫn cho rằng bạn nên tuyển dụng những
người mà bạn cảm thấy thích họ và họ cũng thích bạn.
Tính thú vị của công việc rất quan trọng vì những lý do
kinh tế cũng như phi kinh tế. Đầu tư vào tính chất thú vị trong
công việc là một khoản đầu tư tốt. Sự thú vị đem lại hiệu quả
cao. Nó đem lại mức lợi nhuận trên vốn cao, thậm chí cả đối
với lợi nhuận trên công việc quản trị. Sự thú vị là một món
hàng khá hời.
Tôi không có ý nói rằng bạn nên dẫn mọi người đi ăn uống
thịnh soạn thường xuyên hay sắp xếp những cuộc vui chơi
phù phiếm. Ý tôi là bạn nên dành thời gian cho việc giải trí
tiêu khiển, cả cho cá nhân lẫn tập thể trong kế hoạch làm việc,
và khi công việc mất đi sự thú vị, bạn nên cố gắng tìm ra lý
do và khắc phục nó. Nếu bạn nghĩ rằng mình không có khả
năng cho điều đó, vậy là bạn không có tính táo bạo của người
80/20. Nếu bạn vận dụng tốt nguyên lý 80/20, dù phải chi
trả nhiều song bạn vẫn thu được lợi nhuận cao và vẫn có thời
gian cho việc giải trí.
Như Rachel đã nói với tôi: "Công việc hoặc có thể nhàm
chán và đáng sợ, hoặc có thể rất thú vị. Khi tôi đến văn phòng
đại diện, mọi người ở đó đều thật sự tẻ nhạt. Tất cả đều mang
vẻ mặt phiền muộn, cau có cùng những buổi họp hành liên
miên. Khi tôi quay lại đây [về văn phòng của mình], mọi thứ
hoàn toàn khác. Tôi có thể bày tỏ chính mình, chúng tôi có thể
bày tỏ cảm xúc với nhau. Chúng tôi cùng nhau tạo ra những
điều thú vị. Chúng tôi quý mến nhau. Chúng tôi chắc chắn
rằng mình đang có một khoảng thời gian tốt đẹp. Chúng tôi
không cảm thấy điều gì đáng trách hay không thích hợp. Nếu
chúng tôi không hòa thuận với nhau như vậy, chúng tôi không
thể giữ cho mức lợi nhuận tăng đều hàng năm được".
Chu trình thuận lợi của sự sở hữu nhân tài
Khi đã có được một nhóm nhân tài quan trọng, điều đó
đồng nghĩa với việc bạn đã bước vào một chu trình thuận lợi.
Nó giúp bạn dễ dàng thu hút các nhân tài khác. Tiếng tăm
của công ty bạn được nâng cao. Tinh thần làm việc trở nên
phấn chấn, năng suất lao động và lợi nhuận nhờ đó cũng tăng
theo. Những đặc tính này giúp công ty bạn dễ dàng tranh thủ
được các cá nhân có khả năng tạo ra của cải mạnh hơn.
Những điều này lần lượt được cộng vào lợi nhuận, vào khả
năng tái đầu tư cho các hoạt động kinh doanh sinh lời..., cho
đến khi bạn trở nên tự mãn, ngạo mạn hay kém may mắn.
Dấu hiệu đầu tiên giúp bạn nhận ra chu trình thuận lợi này
đang trên đà sa sút không phải là doanh số hay lợi nhuận, mà
chính là sự ra đi của các nhân viên có năng lực. Một hoặc hai
người thì vẫn ổn, nhưng nhiều hơn thì chắc chắn đó không
còn là sự ngẫu nhiên. Cần có kế sách kịp thời để ngăn chặn
sự ra đi này.
Làm gì khi nhân tài ra đi
Nếu một hay hai người ra đi, hãy tuyển lại vài người có tiềm
năng khác và lần này "chăm sóc" họ kỹ hơn. Mục tiêu không
chỉ là nâng cao mức trung bình của công ty mà còn là cố gắng
tuyển những người có tiềm năng tốt hơn những người đã ra
đi. Trước mắt, điều này sẽ giúp nâng cao lợi nhuận của bạn.
Nếu số người ra đi nhiều hơn "một tí", việc này đáng để bạn
lo lắng. Hãy tìm hiểu xem lý do vì sao. Đừng chấp nhận các
câu trả lời theo phép lịch sự, bạn cần phải tìm ra nguyên nhân
thật sự. Nói chuyện với những người giỏi khác, trưng cầu ý
kiến của họ, làm theo những gì họ nói và hơn thế nữa.
Giá trị của những con người
lập dị
Giả thiết của sự chọn lọc tự nhiên và của các gen kinh
doanh cho chúng ta thấy rằng trong kinh doanh cũng như
trong cuộc sống nói chung, thành phần giữ vai trò chủ đạo rất
đa dạng. Sự đa dạng làm tăng hiệu quả. Tính đồng đều dẫn
đến sự kết thúc dứt điểm.
Hầu hết mọi người đều không thích sự đa dạng, đặc biệt
trong nhân sự. Người ta thường thích những người thích
mình. Ghi nhận tính phổ biến nhưng lại đặt các đồng nghiệp
vào tình thế làm họ bất ngờ với các quyết định tuyển dụng
của mình.
Chủ động tìm kiếm các ứng viên có lai lịch khác thường -
bất cứ ai làm cho công ty bạn trở nên đặc biệt: dân tộc thiểu
số, người đồng tính, người ngoại quốc, người giàu, người nghèo,
người không đủ tiêu chuẩn hay thừa tiêu chuẩn, người có văn
hóa, hay dân sống lề đường - và đặt ra một quy luật rằng cứ
ba (hay hai hoặc bốn) người được tuyển dụng thì có một người
có lý lịch đặc biệt. Tạo điều kiện để người lập dị đó hòa hợp
được với nhóm của bạn, nó có nghĩa là bạn phải phỏng vấn
nhiều người hơn nữa.
Dù bạn thích hay không, về phần tôi, đó là những đặc trưng
không thay đổi được. Không có làn sóng dân nhập cư, rõ ràng
Mỹ và châu Âu sẽ kém thịnh vượng hơn ngày nay.
Khi tuyển một người "đặc biệt", bạn phải chuẩn bị tinh thần
để giải quyết các vụ lộn xộn có thể xảy ra trong công ty: tìm
một chỗ nương tựa cho những người tuy có lai lịch khác thường
nhưng thật sự tài năng và tận tụy, những người thường không
có được các cơ hội trong công ty của bạn. Điển hình như ví
dụ của Bill Bain. Khi ông được Bruce Henderson tuyển vào
BCG từ những ngày đầu, Bill không có bất cứ một bằng cấp
kinh doanh nào, sự thật ông không biết gì về kinh doanh. Ông
chỉ là một người buôn bán sách kinh thánh và từng là một
người gây quỹ trong trường trung học. Vậy mà ông đã trở
thành một người tạo ra của cải vĩ đại nhất trong lĩnh vực tư
vấn suốt cả một thế hệ.
Hãy động viên sự "hội nhập" của những người khác thường
vào nhóm của bạn. Nhưng cần nhận thức được rằng sự hội
nhập không bao giờ là một quá trình dễ dàng và cần được
quản lý chặt chẽ. Đảm bảo rằng nhóm hiện tại của bạn và
người khác thường mới vào có đủ sự đồng cảm để cùng nhau
hợp tác trong công việc. Bạn phải chắc chắn rằng người mới
vào có thể hòa nhập hoàn toàn vào các quy trình làm việc
thông thường của công ty bạn, chứ không bị cô lập như một
trung tâm của sự chú ý.
Từ góc nhìn nhân văn:
Lý thuyết bộ tộc
Một lĩnh vực nghiên cứu mới của sự tiến triển tâm lý cho
rằng các điều kiện kinh tế đã thay đổi rất nhiều từ thời kỳ đồ
đá, nhưng nhân loại thì không. Không ai trong chúng ta ý
thức được vị trí của mình trong công việc; hay chính xác hơn
là chúng ta thường làm việc dựa trên cảm tính, tìm kiếm một
tập thể nào đó để thuộc về và chấp nhận vị trí tự nhiên của
mình trong cái tôn ti trật tự đó.
Con người có khuynh hướng sống thành bầy, thích dựa
dẫm. Chúng ta luôn muốn có một ai đó lãnh đạo. Chúng ta
luôn tỏ ra thân thiện với những thứ thuộc về tập thể nhỏ bé
của mình và nghi ngờ mọi điều đến từ bên ngoài. Chúng ta
luôn e ngại sự rủi ro. Chúng ta bỏ ngoài tai những lời phê
bình góp ý. Chúng ta thường đi đến kết luận dựa vào những
ấn tượng ban đầu. Tất cả những điều đó cho thấy con người
luôn muốn xác định những tập thể nhỏ bé, không nhiều hơn
khoảng 150 người, đó là những người mà ta có thể nhớ mặt,
nhớ tên. Vào thời kỳ đồ đá, những đặc tính này tạo điều kiện
thuận lợi để con người tồn tại. Ngày nay, nó thường là một
cạm bẫy.
Lưu ý rằng với hầu hết mọi người, tập thể ở đây không có
nghĩa là cả công ty, nhất là khi công ty đó khá lớn. Tập thể
thường chỉ là một phòng ban cụ thể nào đó mà chúng ta giao
tiếp hàng ngày và có cùng chung một mục đích. Chỉ trong
những doanh nghiệp mới thành lập, tập thể mới thường bao
gồm cả công ty.
Đâu là dấu hiệu của những con người 80/20?
Con người luôn thích một tập thể gắn bó và bạn phải tạo
ra được một tập thể như vậy, đó là những người quý mến
nhau và có thể cùng nhau làm việc tốt. Ở công ty tư vấn
LEK, chúng tôi luôn lấy yếu tố xã hội làm tiêu chí trong việc
tuyển chọn nhân sự: Liệu nhân viên của chúng tôi có hài
lòng với tuyển dụng mới không?
Bạn sẽ dễ dàng lôi kéo người ta ra khỏi công ty hiện tại của
họ nếu như họ tìm thấy ở công việc mới của bạn một tập
thể tốt hơn chỗ làm cũ. Ngược lại, nếu họ đang cảm thấy vui
vẻ với tập thể hiện tại thì việc lôi kéo họ sang chỗ của bạn
gần như bất khả thi.
Nếu như những người bạn muốn có mặt trong dự án kinh
doanh mới của mình đang làm việc vui vẻ cùng nhau trong
công ty của bạn thì đây là một cơ hội ngàn vàng để bạn
"đặt vấn đề" với tập đoàn của mình cho một dự án liên
doanh hay một giải pháp kết hợp (xem Chương 8).
Điều kiện lý tưởng cho một nhà lãnh đạo muốn thành lập
một dự án kinh doanh độc lập là có một tập thể trong công
ty hiện tại đang sẵn sàng chờ để được bạn lãnh đạo tới
"miền đất hứa". Điều này đã đúng với Moses thì cũng sẽ
đúng với bạn - nhưng chỉ khi nào tập thể đó thật sự cảm
thấy như vậy. Để tìm kiếm những lợi ích bổ sung, hãy lãnh
đạo mọi thứ từ phía sau.
Khi bạn đã có một sự nghiệp kinh doanh mới, hãy khai thác
lòng trung thành của tập thể. Một tập thể vui vẻ sẽ nối kết
mọi người lại với nhau. Nếu bạn muốn giữ những người
không thích hợp ở lại tập thể, hãy bỏ công sức giúp họ hòa
nhập: đảm bảo rằng họ có được ít nhất vài người bạn thân
thiết mà họ có thể làm việc ăn ý trong tập thể đó.
Sức mạnh và sự ưu việt của những người đồng sự
Đừng bao giờ nghĩ rằng bạn có thể không cần một tập thể.
Những nhà lãnh đạo cô độc nói chung thường do họ tự cắt
đứt quan hệ với những người xung quanh. Nếu bạn muốn
hạnh phúc cũng như sự thành đạt thì câu trả lời duy nhất là
bạn phải có ít nhất một người đồng sự tuyệt vời. Bạn cần một
ai đó để bổ sung cho những chỗ bạn còn thiếu sót, nhưng
quan trọng hơn là một người bạn chí cốt mà bạn có thể tin
tưởng, một ai đó để bạn chia sẻ hoài bão, chia sẻ những ngờ
vực và sự kém tự tin về bản thân, một ai đó cùng bạn chia sẻ
mọi thăng trầm, quanh co khúc khuỷu của chuyến tàu lượn
mà bạn đang theo, đó chính là công việc kinh doanh của bạn.
Đừng bao giờ bắt đầu một việc làm táo bạo nào mà không
có ít nhất một người đồng sự. Tôi không thể nghĩ ra một con
người 80/20 thành công và hạnh phúc nào trong số hàng
trăm người tôi quen biết mà không cần ít nhất một người bạn
kinh doanh thân cận. Trái lại, tôi có thể nhớ được khá nhiều
người lập dị, những người không cần đến một người đồng sự
trong kinh doanh. Một vài người trong số họ rất thành công,
nhưng không ai cảm thấy hạnh phúc và thỏa mãn.
Con số lý tưởng cho số người đồng sự thân tín là từ khoảng
hai đến bảy người. Nhiều hơn bảy người bạn sẽ mất đi sự thân
thiết và có thể sẽ hình thành một "bè lũ" nguy hiểm cho bạn.
Những người đồng sự là yếu tố chính yếu và khó kiếm nhất.
Và khi bạn đã có những người bạn cộng tác thật sự trong kinh
doanh, hãy gắng duy trì điều đó tốt nhất. Thực hiện các buổi
họp mặt kinh doanh hay cùng nhau đi du lịch đâu đó, thậm
chí ngay khi bạn cảm thấy nó dường như không có hiệu quả
gì mấy. Thăm viếng gia đình của các đồng sự bạn (hoặc mời
họ lại nhà mình) ít nhất một lần một tuần. Không ngừng làm
mới ý nghĩa của mối quan hệ này. Đối với sự thành công và
hạnh phúc của bạn thì không có gì quý giá cũng như cần thiết
hơn là có được một người đồng sự thân tín.
DNA kinh doanh
Có rất nhiều câu chuyện mơ hồ về "DNA" của một số công
ty đặc biệt. Đây là một phép ẩn dụ chứ không phải là một
thực thể vật lý. Các công ty mang tính duy nhất không chỉ vì
sự kết hợp các nhân viên của họ mà còn vì những gen kinh
doanh bên trong họ nữa. Và các gen kinh doanh thường tồn
tại với công ty lâu hơn cả con người.
Các đội nhóm, công ty, lĩnh vực công nghệ và thị trường
đều là những thực thể sống không ngừng sôi sục với các ảo
tưởng. Ảo tưởng chính là sự tương tác giữa các gen kinh doanh,
giữa các yếu tố và con người, và giữa con người với nhau. Các
công ty hiệu quả, ngành nghề cũng như thị trường hoạt động
chỉ đơn giản vì chúng đã được định hình. Các gen kinh doanh
kết dính lẫn nhau cùng với con người; con người lại kết dính
cùng nhau trong các gen kinh doanh mạnh mẽ.
Như một sự chọn lọc tự nhiên, quá trình tiến triển là không
ngừng và không thể đoán trước được. Phải có một sự không
ngừng thay đổi, cải tiến, loại trừ của các biến thể trội hơn
cũng như không ngừng phát sinh của một số biến thể tuy ít
nhưng thành công.
Đừng bao giờ tự khoác cho mình chiếc áo "blu" trắng và cho
rằng mình có thể biết rõ nguồn gốc di truyền của các hỗn hợp.
Bạn và tất cả những người đồng sự sẽ cùng tạo nên các hợp
chất trong ống nghiệm. Nếu bạn thành công, đó chẳng qua là
vì bạn đang nắm trong tay các gen kinh doanh tốt và sử
chúng một cách hiệu quả. Nếu những người cộng tác với bạn
tìm thấy một phương tiện nào đó tốt hơn thì xem như mọi thứ
kết thúc với bạn. Hoặc nếu các cá nhân tạo ra của cải giỏi
nhất của bạn nắm hết trong tay các gen kinh doanh và họ
nghĩ rằng họ có thể kiếm được nhiều hơn từ bên ngoài công
việc kinh doanh của bạn thì xem như bạn cũng kết thúc.
Hãy gìn giữ đúng người và đúng gen kinh doanh, bạn sẽ có
một sự nghiệp kinh doanh thuận lợi. Tính khiêm tốn, khôn
ngoan, sáng tạo, tính toán, may mắn, kinh nghiệm, tình bằng
hữu, tính hiện thực, khả năng làm việc với những người đồng
sự giỏi nhất - tất cả những yếu tố đó đều cần thiết để giữ cho
DNA của nhóm bạn tồn tại và phát triển tốt.
Câu chuyện của Anton và Jamie
Còn một quan điểm nữa về cách tranh thủ các nhân tài. Có
một mối liên hệ giữa những người làm ra tiền trẻ tuổi và
những người tương nhiệm nhiều kinh nghiệm hơn, những người
có thể rất giá trị. Mối quan hệ giữa người bảo trợ và người
được bảo trợ cũng quan trọng không kém, không chỉ trong
giới hạn công ty mà còn trải dài qua nhiều mối quan hệ làm
ăn. Người trẻ tuổi được chỉ bảo cách khai thác các gen kinh
doanh mạnh mẽ, đạt được sự tự tin, và dần dần học được
cách tạo ra của cải. Lúc đầu, phần lớn giá trị rơi vào tay người
bảo trợ, khi ấy, họ đang tạo ra nhiều giá trị hơn phần họ được
hưởng. Đến một lúc nào đó, con người trẻ tuổi ấy hoặc trở
thành một phần chính yếu trong công ty đó hoặc có thể ra đi
vì một sự nghiệp kinh doanh mới hứa hẹn hơn. Nhưng đó
không phải là phần kết của câu chuyện.
Anton và Jamie là những người bảo trợ ban đầu của tôi tại
công ty tư vấn LEK. Họ đã khởi đầu sự nghiệp kinh doanh
riêng của họ, Anton giữ nhiệm vụ hoàn tất các đơn đặt hàng
thương mại trực tiếp, còn Jamie trong vai trò một nhà đầu tư
kinh doanh (bạn đã gặp Jamie trong Chương 3). Chúng tôi
làm việc sát cánh với nhau và tiếp tục tạo ra lợi nhuận cho
nhau. Chúng tôi trao đổi các cơ hội đầu tư, dẫn đến các cơ hội
kinh doanh, và quan trọng hơn cả là tìm đến được những
người tài năng, những người có thể trở thành nguồn phát sinh
của cải cho chúng tôi.
Như hầu hết những con người 80/20, chúng tôi bắt đầu
thực hiện một loạt các lợi ích chung mang tính con người với
con người, và điều này chắc hẳn sẽ vẫn tiếp diễn mạnh mẽ
trong suốt một thời gian dài sau khi ba người chúng tôi thoát
khỏi bước ngoặc đáng kể này. Đây là mô hình của sự tạo
thành của cải trong nền kinh tế tương lai: một câu lạc bộ
những cá nhân giúp đỡ lẫn nhau để tìm ra và khai thác các ý
tưởng tạo ra của cải, bất chấp sự liên minh của các tập đoàn.
Rachel: Điển hình của
một nhà quản lý 80/20
Một lý do mà Rachel khiến tôi cảm thấy thích thú là bà đã
tạo ra của cải nhưng chưa giữ được nó cho mình. Rachel biết
mình tạo ra được của cải mặc dù bà luôn tính cẩn thận cả
phần của nhóm mình. Vì sao Rachel vẫn chưa bắt đầu được
sự nghiệp kinh doanh riêng của mình, hoặc định nghĩa lại các
điều khoản hợp đồng với tập đoàn của bà?
Khi tôi nói với bà về chuyện này thì Rachel lại tỏ ra phân vân.
Một mặt bà bày tỏ: "Tôi ghét việc mình đang có những công
việc rất thành công nhưng lại thuộc về tập đoàn, điều đó chẳng
khác nào tôi chẳng thành công gì cả". Mặt khác, bà lại lưỡng lự
khi tôi đề cập đến việc rời bỏ công ty nơi bà đang làm việc.
Năm 2001, bà trở thành một thành viên trong ban quản trị
của một công ty nhượng quyền. Ông chủ của Rachel và một
công ty cổ phần tư nhân đã đưa ra sáng kiến về công ty MBO.
Tuy nhiên, với tư cách là một giám đốc, chịu trách nhiệm hầu
hết các tài sản của công ty, Rachel có thể kiếm được khoảng
mười triệu đôla sau ba năm nếu như MBO phát triển đúng
theo như kế hoạch. Đổi lại, bà phải thực hiện được một dự án
đầu tư trị giá 60.000 đôla và chịu trách nhiệm một số bảo
đảm về mặt pháp lý.
Rachel vẫn tiếp tục đi cùng MBO, nhưng bà ghét sự bấp
bênh và quanh co của quá trình chuyển nhượng tài sản. Cuối
cùng, giao dịch này bị thất bại, bởi những lý do hoàn toàn
không liên quan đến Rachel hay công việc của bà. Liệu bà có
thất vọng không? "Một chút!", Rachel đáp, "nhưng tôi không
bao giờ muốn thực hiện lại quá trình đó một lần nữa".
"Quản trị các công ty nhượng quyền", bà nói tiếp, "rất tuyệt
vời nếu như tất cả những gì bạn quan tâm chỉ là tiền. Nhưng
tôi thì không phải thuộc mẫu người đó. Tôi thích tiền, nhưng
tôi đã có đủ rồi. Điều quan trọng với tôi bây giờ là chất lượng
của cuộc sống, phần đời làm việc và không làm việc của tôi.
Phần đời làm việc của tôi phụ thuộc vào những người làm việc
cùng tôi. Tôi không muốn phải báo cáo cho một nhà tư bản
đầu tư nào một lần nữa".
Tôi thử lần nữa. Mọi thứ Rachel nói có vẻ đúng, nhưng liệu
bà có thật sự cảm thấy hạnh phúc với những giao dịch mà bà
cùng những người đồng sự của mình có được ngày hôm nay
không. Tôi giải thích cặn kẽ số tài sản mà họ đã tạo ra. Tôi so
sánh chúng với những gì họ được trả. Liệu có phải họ đang
tự đánh lừa mình? Không bàn đến bản chất của đồng tiền,
liệu như thế có công bằng không?
"Nhóm của tôi cảm thấy như thế không công bằng. Văn
phòng đại diện làm họ khó chịu. Khi họ tuyển dụng một đầu
bếp người Pháp nấu ăn trưa, đó chính là điều nặng nề sau
cùng. Điều làm người của tôi cảm thấy bực mình là khoản tiền
mà một số người của văn phòng đại diện kiếm được, họ nghĩ
như thế không công bằng. Mức thưởng thì tốt. Họ có thể kiếm
được nhiều hơn ở một chỗ khác nhưng quan trọng là chúng
tôi thích làm việc cùng nhau. Hàng triệu, triệu đôla... đó không
phải là thứ họ nghĩ họ có thể lấy được. Họ không phải sinh ra
là con người của tài chính. Họ không sống vì những cơ hội đó".
"Hãy nhìn xem, MBO đã thu hút được họ, và họ rất thất
vọng khi nó thất bại. Họ cũng bối rối khi không ai từ văn
phòng đại diện nói lời xin lỗi. Tôi yên tâm hơn vì tôi cảm thấy
đó dường như là trách nhiệm của mình, mọi lợi nhuận phải
do tôi tạo ra. Tôi sẽ cảm thấy có trách nhiệm nếu Jason phải
thế chấp tài sản và bọn trẻ nhà Jayne học kém và tất cả mọi
thứ nếu như có điều gì không hay xảy ra. Những người ở công
ty đó không hề tìm đến tôi và giải thích hay giúp tôi yên lòng.
Đối mặt với sự chọn lựa giữa các nhà tư bản đầu tư và tình
hình hiện tại, tôi vẫn thích hiện tại hơn".
Tôi nói với Rachel rằng bà vẫn có một chọn lựa thứ ba. Và
chúng ta cũng sắp khám phá nó.
8 Sử dụng công ty hiện tại
của bạn
"Bất kể bạn làm việc ở đâu thì bạn cũng không
phải là một người làm công tầm thường. Bạn chỉ
làm việc cho một chủ - đó chính là bản thân
bạn... Không ai nợ bạn một sự nghiệp cả - bạn
làm chủ nó như một người sở hữu duy nhất".
Andy Grove - CEO - Tập đoàn Intel
Đ ây là lúc bạn nên nắm rõ thực lực của mình: nắm
rõ công việc kinh doanh mới mà bạn đang dự tính
làm và ai sẽ là người cộng tác với bạn. Bạn sẽ thực hiện việc
đó ở đâu? Bạn nên rời khỏi công ty hiện tại hay nên ở lại để
thực hiện kế hoạch của mình?
Liệu nguyên lý 80/20 có thể giúp bạn đưa ra quyết định
không? Vâng, nguyên lý 80/20 có thể giúp bạn tìm ra những
dự án kinh doanh siêu lợi nhuận, nơi mà lợi ích kinh tế thu
được rất cao trên cùng một lượng vốn tư bản. Nguyên lý 80/
20 cũng cho chúng ta thấy con người và những ý tưởng của
họ chính là chìa khóa dẫn đến thành công.
Vì thế, nếu bạn đã biết qua cách tạo ra những giá trị phi
thường - có lẽ sau khi thử nghiệm ngay tại công ty mình, để
tiếp tục ở lại đó, có lẽ bạn phải tự lừa dối bản thân. Nếu bạn
áp dụng nguyên lý 80/20 vào công ty đang làm, bạn sẽ thấy
mình đang bị nó bóc lột ghê gớm.
Khi con người 80/20 làm việc trong một tập đoàn nào đó
thì lợi nhuận mà họ mang về cho tập đoàn thường gấp 20 đến
200 lần so với phần thù lao mà họ nhận được. Bạn có thể đòi
hỏi công ty trả thêm cho mình tiền thưởng hay cổ phiếu,
nhưng hầu hết các tập đoàn thường không bao giờ trả công
xứng đáng với công sức mà con người 80/20 đã bỏ ra. Và khi
bạn càng tạo được nhiều của cải bằng nguyên lý 80/20 thì
thực trạng này càng trở nên khốc liệt hơn.
Do đó, để nhận được giá trị hợp lý, để tận hưởng được thành
quả lao động của mình, bạn không thể ở lại công ty hiện tại
mãi. Đây là một bước nhảy ngắn để đi đến quyết định rằng
bạn có nên tách ra để thành lập công ty riêng cho mình hay
không. Quyết định ở hay đi không chỉ đơn thuần dựa vào yếu
tố kinh tế. Yếu tố xã hội và sự suy xét cá nhân cũng cần được
quan tâm đến. Có thể bạn yêu thích môi trường làm việc cũng
như các đồng nghiệp ở đây. Có thể họ sẽ không tham gia vào
dự án kinh doanh liều lĩnh của bạn, hoặc có thể bạn là người
không thích sự mạo hiểm và hơn thua trên thương trường.
Nếu bạn quyết định ở lại công ty, điều đó vẫn tốt đẹp vì bạn
có thể tiếp tục tận hưởng những lợi ích mà họ trao cho bạn
đồng thời có thêm thời gian tích lũy kinh nghiệm cho bản
thân. Việc đi hay ở thật sự không phải là chọn lựa bắt buộc.
Bạn hoàn toàn có thể thực hiện cả hai việc này cùng lúc.
Nhảy cóc - Sự lựa chọn thứ ba
Jerry Bowskill, tác giả của một hình thức kinh doanh mới gọi
là "nhảy cóc", ông từng làm việc cho BT, một tập đoàn viễn
thông lớn ở Anh. Ông chia sẻ: "Nhận thấy ý tưởng của mình có
giá trị lớn, tôi cùng một nhóm bạn đã đi đến quyết định sau
cùng. Chúng tôi lợi dụng hai kỳ nghỉ phép của BT để soạn thảo
một đề án kinh doanh với sự giúp đỡ của vài người bạn là
thương nhân trong thành phố. Nhưng chúng tôi không có đủ
tiền thực hiện, và may mắn thay, Brightstar được thành lập
ngay khi chúng tôi chuẩn bị cầm cố tài sản của mình lần nữa".
Được thành lập trong một khuôn viên rộng khoảng 100
mẫu (Anh) tại Norkfolk - Anh, Brightstar được ví von như
"chiếc lồng nuôi trẻ thiếu tháng" mới của BT. Tại đây, những
nhân viên BT có đầu óc kinh doanh có thể mài dũa ý tưởng
của họ cùng với các nhà đầu tư kinh doanh, và sau đó ra
ngoài tìm kiếm những dự án kinh doanh mới.
Dường như đó là một giao dịch tốt đẹp cho cả nhóm của
Jerry Bowskill lẫn BT. Hơn hẳn việc tách ra một cách trực tiếp,
theo Jerry nói: "Chúng tôi đã quyết định cho mình cơ hội ở lại
với BT. Việc ở lại này tuy khiến công việc kinh doanh của
chúng tôi bị giới hạn ít nhiều, song bù lại nó sẽ trở nên lớn
mạnh hơn bởi chúng tôi nhận được sự hỗ trợ của BT cũng như
được quyền sử dụng các kênh phân phối của nó để tiếp thị.
Nếu không có Brightstar, chúng tôi đã nhất định rời khỏi BT
và vì vậy nó cũng sẽ không kiếm thêm được một đồng lợi
nhuận nào. Có rất nhiều bạn bè của chúng tôi trong hoàn
cảnh tương tự đã rời bỏ BT. Điều này cũng đang xảy ra giống
như với tất cả các ngành thuộc lĩnh vực công nghệ trong vài
năm trở lại đây".
"Chiếc lồng nuôi trẻ" này có phần hơi khác biệt một chút đối
với PriceWaterHouse Coopers - một công ty kiểm toán hàng
đầu. Không như BT, PWC tận dụng nguồn vốn trong các hoạt
động kém hiệu quả nhưng lại chiếm tới khoảng 30% lượng vốn
góp kinh doanh. Thú vị hơn là các chuyên gia sau khi tách
khỏi công ty vẫn luôn có đường hậu để quay trở lại PWC nếu
dự án kinh doanh của họ thất bại.
"Lồng nuôi trẻ" được hình thành nhằm tìm kiếm thêm lợi
nhuận cho các tập đoàn và hạn chế việc mất đi các cá nhân
sáng tạo trong công ty về lâu dài. Thực tế, mô hình "lồng nuôi
trẻ thiếu tháng" này đã được ứng dụng cho rất nhiều doanh
nghiệp, không phân biệt công nghệ cao, công nghệ thấp hay
phi công nghệ, nó đã được sử dụng phổ biến trong nhiều năm
trước khi những "chiếc lồng nuôi trẻ" thực sự mang tính kinh
doanh ra đời.
Câu chuyện của Rick
Trong phim "Công ty", Wilford Brimley trong vai William
Devasher tuy là trưởng bộ phận an ninh nhưng tính tình
không ngay thẳng và cực kỳ nham hiểm. Và điều này cũng
xảy ra với ông bạn người Mỹ của tôi - Rick Haller, khi ông
phải chịu đựng làm việc với những người gần giống như
Devasher/Brimley.
Tôi gặp Rick lần đầu vào năm 1979 khi đang là nhân viên
tư vấn cho công ty BCG. Lúc ấy, Rick đang điều hành một
ngân hàng giao dịch thương mại tại Libra, thuộc hệ thống liên
kết của nhiều ngân hàng trên thế giới được thành lập nhằm
mục đích cho các nước châu Mỹ La Tinh vay vốn. Rick là một
người giàu sáng tạo. Ông chính là người đã vực dậy ngân
hàng giao dịch thương mại ở Libra và vào năm 1980, lợi
nhuận thu được của nó là 25 triệu đôla, khoảng 50 đến 100%
vốn trung bình sử dụng.
Khi được phỏng vấn, Rick rất cởi mở kể cho tôi nghe những
bất bình của ông đối với Libra: "Ở đây, tôi làm ra tiền cho
họ, song cái mà tôi nhận được chỉ là một mức lương kha khá.
Điều này thật không công bằng! Nhưng với những cổ đông
như chúng tôi cộng thêm việc nắm rõ thói quan liêu chậm
chạp trong công ty, chỉ mất vài năm, tôi tin rằng Libra sẽ phải
trả giá!".
Năm 1980, cơ hội rời bỏ Libra của Rick cùng với khoảng hai
mươi nhân viên sáng giá nhất nhóm của ông đã đến khi các
cổ đông quyết định giải thể Libra. Tôi không khỏi bất ngờ khi
Rick tìm đến xin tôi lời khuyên về việc ông dự tính thành lập
công ty riêng.
Vấn đề mà nhóm của Rick gặp phải chính là nguồn vốn
dùng để hỗ trợ cho các khoản nợ trong giao dịch thương mại
cao hơn khả năng mà ông cùng nhóm bạn của mình có thể
đáp ứng. Hay nói khác hơn là ông cần một ngân hàng danh
tiếng bảo lãnh để những ngân hàng khác sẵn lòng chấp nhận
ông làm đối tác. Tuy nhiên, ông luôn biết rõ mình muốn gì: đó
là quyền làm chủ và quyền được hưởng những lợi nhuận
đáng có.
Và ông đã làm được. Ông thiết lập quan hệ với ngân hàng
đầu tư Morgan Grenfell (một ngân hàng lâu đời, sau đó đổi tên
là Deutsche Morgan Grenfell và hiện nay là Deutsche Bank).
Emerging Markets là một phần của DMG, được thành lập như
một "ngân hàng trong ngân hàng" và nhóm của Rick được
chia 23% lợi nhuận hàng năm trong khi không hề góp một
đồng vốn nào. Tôi ước chừng vào những năm 1980-1998 khi
Rick rời khỏi ngân hàng, nhóm của ông đã làm ra hàng trăm
triệu đôla lợi nhuận cho nó.
Câu chuyện của Richard
Câu chuyện sau đây không viết về tôi mà là chuyện kể về
một giám đốc ngân hàng đầu tư rất thành công ở Luân Đôn.
Trước khi về làm giám đốc điều hành cho một ngân hàng đầu
tư, Richard đã làm việc qua nhiều ngân hàng đầu tư khác
nhau. Từ khi chuyện tình cảm của ông dính vào các giao dịch
tài chính, ông đâm ra chán ghét những thủ tục hành chính
liên quan tới sếp của mình. Vì vậy, ông chuyển sang một ngân
hàng khác và tại đây, vào khoảng năm 1990 tôi đã có dịp đối
thoại nghiêm túc với ông về kế hoạch thành lập công ty. Câu
chuyện đại loại như sau:
Tôi: "Anh đã tạo ra rất nhiều giá trị to lớn. Vì sao anh không
tự mình mở một cửa hàng kinh doanh nhỏ để giữ lại toàn bộ
lợi nhuận cho mình?"
Richard: "Anh nói đúng! Tôi sẽ nghĩ về điều đó".
Nhưng cuối cùng ông đã quyết định không đi. Ông giải
thích: "Tôi không nghĩ đây là lúc thích hợp. Tôi luôn thấy khó
tin đối với dạng cửa hàng liên doanh tài chính. Cuối ngày,
khách hàng luôn thích tiền hơn là các văn bản báo cáo. Họ
muốn có những giao dịch mang tính tài chính để cảm thấy
yên tâm. Và ngân hàng với nguồn vốn dồi dào có thể dựa vào
đây để kiếm lợi - vì nó là nơi mà các cửa hàng kinh doanh nhỏ
luôn tìm đến".
Câu chuyện của Richard chứng tỏ rằng những người có khả
năng làm ra tiền luôn có thể tranh thủ ngay ông chủ của họ
để thực hiện các ý tưởng của mình. Bạn không cần phải có
nhiều người, như Rick đã làm. Bạn có thể thực hiện nó với tư
cách cá nhân, tự mình tạo ra lợi nhuận cho mình. Và điều này
thể hiện rõ nhất trong các ngân hàng đầu tư và tập đoàn tài
chính. Sự thú vị sẽ đến khi cùng một nguyên tắc được mở
rộng cho nhiều hình thức kinh doanh khác nhau.
Phải chăng mô hình công ty tư vấn
chỉ dành cho tương lai?
Kỹ nghệ tư vấn - nơi mà tôi đã bỏ ra cả tuổi trẻ của mình
cho lĩnh vực này, cung cấp một loại hình kinh doanh đa dạng.
Nó thú vị bởi lẽ mọi vấn đề mà công ty tư vấn phải đối mặt
thông thường đều xuất phát từ những hình thức kinh doanh
phổ biến và thực tế. Tư vấn viên là một dạng "công nhân tri
thức" - là những "quyển lý thuyết" sống. Các nhà tư vấn dễ
dàng tích lũy vốn kiến thức cho mình thông qua các công ty
mà họ đã làm, đó là điều hiển nhiên. Do đó, bất chấp bạn làm
trong lĩnh vực nào, nếu bạn muốn bắt đầu sự nghiệp kinh
doanh riêng thì bạn có thể học hỏi nhiều thứ từ những nhà tư
vấn, về kinh nghiệm cũng như các thuyết động viên cần thiết
để thúc đẩy doanh nghiệp và nhân viên của bạn phát triển.
Làm thế nào để "truất hữu" các chủ sở hữu
Khi Bruce Henderson thành lập nhóm BCG vào năm 1963,
ông đã ký kết với công ty "Boston Safe and Deposit" là một
công ty cung cấp phần lớn vốn lưu động cần thiết để đưa BCG
vào hoạt động. Vào đầu những năm 1970, khi BCG lên đến
đỉnh điểm thành công thì mâu thuẫn giữa các cá nhân sáng
tạo của công ty và ngân hàng cho họ vay vốn trở nên nghiêm
trọng hơn. Các chuyên gia BCG đưa ra giải pháp mua lại công
ty bằng chính tiền mặt của họ và thành lập "Phương án lựa
chọn dự phòng cho nhân viên" (Employee Stock Option Plan
- ESOP), với tất cả chuyên viên đều có thể tham gia.
Kết quả là BCG ngày nay hoạt động như một hiệp hội chuyên
nghiệp, chia sẻ lợi nhuận kiếm được cho đội ngũ nhân viên
nhưng vẫn giữ lại một phần đáng kể lợi nhuận mỗi năm dành
trả cho những kết quả vượt mong đợi như một cách trao
quyền cho một số cá nhân sáng tạo nào đó. Với phương pháp
đó, BCG có được một nguồn vốn lưu động để mở rộng kinh
doanh (hoặc giảm bớt lỗ lã trong những năm khó khăn), đồng
thời cũng dành một phần để khuyến khích các chuyên gia ở
lại. Những giám đốc lâu năm ở BCG kiếm được nhiều triệu
đôla cho một năm kinh doanh ở mức trung bình và vài chục
triệu đôla với những năm thắng lợi lớn. Nhưng họ không thể
có được hàng triệu đôla trong chốc lát bằng cách bán đi BCG.
Ai sở hữu các "công ty tri thức" (hay công ty tư vấn
kinh doanh)?
Khi một công ty chuyên môn bị bán đi, vài hội viên trong
đó có thể kiếm được hàng chục triệu đôla một cách nhanh
chóng. Như Goldman Sachs, sáng lập vào năm 1999, trị giá
khoảng 43 tỷ đôla. Hơn 60% số này sẽ thuộc về các thành viên
của nó.
Điều thú vị là Bruce Henderson, người sáng lập ra BCG, lại
nhận một phần lợi nhuận rất khiêm tốn từ BCG. Ông là một
tín đồ hết mực say mê thị trường tự do, nhưng không phải cho
bản thân ông.
"Khi thành lập BCG", một giám đốc lâu năm - Barry Jones
kể cho tôi nghe, "Bruce đã làm được một việc phi thường. Ông
trao cổ phần công ty cho các nhân viên thay vì giữ cho riêng
mình. Ông sáng lập BCG như một mô hình hình chóp ngược
- một cấu trúc "phẳng". Là một thành viên có thâm niên 18
năm, nhưng cổ phần của tôi chỉ gấp đôi một thành viên mới".
Tách khỏi BCG vào năm 1970, Bill Bain theo đuổi một mô
hình kinh doanh khác. Cho đến năm 1990, khi rút khỏi thương
trường, ông nắm trong tay phần lớn cổ phần của công ty Bain-
Co. Khi thị trường lâm vào cảnh suy thoái, công ty này được
bán lại cho nhóm chuyên viên của chính nó, vốn là những
người từng phải bỏ tiền ra cho các giao dịch bị lỗ. Bất chấp
sự khủng hoảng của thị trường, tương lai của Bain vẫn giữ
được sự cân bằng trong nhiều tháng. Bain-Co ngày nay là một
công ty hoạt động hiệu quả không kém gì BCG hay McKinsey.
McKinsey mới là trường hợp thú vị nhất. McKinsey được cổ
phần hóa vào khoảng năm 1990 và những nhà lãnh đạo của
nó từ những năm 1937 đã tuyên bố điều này không phải vì
ảnh hưởng kéo dài của Marvin Bower. Một số thành viên trẻ
của McKinsey đã tranh thủ vận động hành lang để tìm kiếm
thêm các hợp đồng làm ăn nhằm tạo thêm của cải cho họ.
Nhưng tính chính trực, kiên định của Bower đã cản trở điều
đó. Sau cùng, vào năm 1963, khi Bower về hưu, ông đã bán
lại cổ phần của mình cho công ty với giá kế toán, đây là
truyền thống mà bất cứ nhân viên nào về hưu cũng phải tuân
theo từ trước tới nay.
Năm 1983, LEK tách khỏi tập đoàn Bain-Co. Tôi và vài
người đồng sự khác bị Bain thưa kiện, có lẽ nhằm mục đích
ngăn chặn những người khác tiếp tục ra đi. Nhưng tôi lại thật
sự biết ơn Bain vì điều này. Nhờ đó mà chúng tôi nhận ra giá
trị tài sản của LEK (thực tế chúng tôi đã không làm gì sai, nên
chỉ vài tháng sau chúng tôi đã dàn xếp ổn thỏa với các luật
sư của Bain). Sáu năm sau, khi về hưu, tôi đã bán lại toàn bộ
cổ phần của mình cho các thành viên khác và thuyết phục
mọi người định giá cơ bản cho tài sản của LEK trên thị trường.
Tuy nhiên, hơn một thập kỷ sau đó, LEK vẫn không có dấu
hiệu khởi sắc.
Khi cơn sốt ".com" lên tới đỉnh điểm, nhiều người hoạt động
trong lĩnh vực công nghệ đã nghĩ rằng áp lực triển khai mảng
"kinh doanh điện tử" trong các công ty như McKinsey và BCG
sẽ không cưỡng lại được và do đó cần phải có các biện pháp
thiết thực để ngăn chặn tình trạng bỏ nghề nhằm chuyển
sang kinh doanh công nghệ thông tin. Điều này dẫn đến sự
thất bại trong việc định giá thị trường cổ phiếu Internet.
Khi một công ty chuyên môn đến hạn hay được sang nhượng
lại, các hội viên trong đó thật sự "kiếm chác" được một khoảng
kha khá. Họ làm được điều đó nhờ vào danh tiếng, thương
hiệu của công ty, vốn đã được gầy dựng qua nhiều thế hệ, và
như một điều tất yếu, họ phải đánh lừa những chuyên gia
trong tương lai. Có thể nói công ty tư vấn ngày nay gần như
một chế độ nhân tài hoàn hảo (một chế độ mà theo kinh
nghiệm của tôi thì không thật sự tốt đẹp nhưng vẫn đáng để
hướng tới).
Giả sử McKinsey không cổ phần hóa thì chắc chắn các hội
viên tương lai của McKinsey sẽ chia nhau phần lợi nhuận
hàng năm của nó. Ngược lại, nếu McKinsey trở thành công ty
đại chúng, nó sẽ phải công khai doanh thu và phần chi phí
phải trả cho các cổ đông. Do đó, các hội viên sẽ được trả ít
hơn. Họ sẽ được trả một mức thu nhập khá lý tưởng nhưng
bù lại sẽ không được hưởng phần lợi nhuận mà công ty thu
được. Điều này cũng xảy ra với tất cả chuyên gia trong công
ty, sự tiến bộ đối với tất cả các tập đoàn sẽ không còn hấp dẫn
như trước đây.
Đó là lý do vì sao khi thành viên trong một công ty chuyên
môn ra đi, những người ở cấp kế cận sẽ phải đảm trách phần
việc của cấp dưới. Và "tầng lớp trung gian" này rất thường
hay thay đổi. Không một công ty nào không phạm phải những
sai lầm thiếu sót. Và điều này thúc đẩy các công ty phải sớm
lập ra phương án cho "tầng lớp trung gian" này, nhưng những
việc có thể làm đôi khi không đủ. Với những công ty tư vấn
bình thường, việc một thành viên ra đi quả là một tin tức tồi tệ.
Trong những công ty chuyên môn chưa bị hết hạn hay hóa
giá, lợi nhuận của các chuyên gia lâu năm sẽ tăng dần lên, đôi
khi hơn cả giá trị do chính họ tạo ra. Các nhân viên cấp cao
của BCG, ngoài lợi nhuận kiếm được từ công ty, họ còn có
nguồn thu nhập thêm từ các hoạt động bên ngoài.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh mỗi năm
không hẳn là kết quả trực tiếp từ quá trình lao động của các
thành viên trong công ty. Trong các công ty lâu đời, giá trị
thương hiệu thực chất đã được gầy dựng và mở rộng từ rất lâu
và đây mới chính là yếu tố sinh ra lợi nhuận cho công ty. Bạn
của tôi - các nhân viên cấp cao ở BCG - đang thừa hưởng
những gì mà Bruce Henderson tạo ra.
Tương tự như vậy, một số khác ở McKinsey cũng đang hưởng
lợi từ thành quả của Marvin Bower. Các hội viên của BCG và
McKinsey không thể làm giàu nhanh chóng bằng cách bán đi
hai tập đoàn này, trái lại, họ có thể ở lại để thu lợi đều đặn
hàng năm.
Càng tiếp xúc với nhiều người ở mọi cấp độ trong các công
ty tham vấn, tôi nhận thấy tính ổn định và hấp dẫn của mô
hình liên kết nhiều công ty càng bộc lộ rõ ràng.
Câu chuyện của Barry
Barry Jones, một giám đốc lâu năm ở BCG, và cũng là một
đồng nghiệp thân của tôi trước đây, đã nêu lên một quan
điểm mà tôi cho là rất hợp lý. Ông nói: "Chúng tôi đang xây
dựng một môi trường hoàn hảo ở đây. Tôi đã làm việc ở đây
25 năm, và nếu bạn nói với tôi vào ngày đầu tiên khi tôi mới
vào làm rằng tôi sẽ ở đây trong chừng ấy năm, chắc chắn tôi
sẽ nói bạn thật điên rồ! Nhưng thật đáng kinh ngạc, sau 25
năm, tôi vẫn cảm thấy rất vui vẻ. Nơi đây thực sự như một gia
đình, một trường học, một tổ chức tuyệt vời."
"Vâng, tôi cảm thấy thực sự hài lòng. Tôi chắc rằng mình có
thể kiếm được nhiều tiền hơn nếu làm vài việc gì đó bên ngoài
mà tôi không thích, nhưng tiền không phải là sự khởi đầu
cũng như kết thúc trong cuộc đời bạn. Với tôi, hình thức liên
doanh tài chính và phong cách đoàn kết của BCG dễ chịu hơn
nhiều so với các công ty cổ phần trên sàn giao dịch chứng
khoán hay văn hóa chỉ biết đến lợi nhuận của các ngân hàng
đầu tư. Tại BCG, tôi cảm thấy như mình đang làm chủ chính
bản thân mình."
"BCG và thương hiệu của nó ngày càng trở nên có giá trị
hơn. Điều này mang lại mức sống thoải mái cho ban giám
đốc cũng như tạo ra sức lôi cuốn đối với đội ngũ chuyên gia
của chúng tôi - không chỉ những người đang làm việc cho
BCG mà còn những người mà chúng tôi muốn thu hút trong
tương lai. Ngay khi họ trở thành nhân viên của công ty, họ
cùng với đội ngũ nhân viên hiện tại sẽ làm cho BCG ngày
một giá trị hơn nữa".
"Bên cạnh đó là những lợi nhuận mang tính nhân văn khác,"
Barry tiếp tục, "cũng không kém phần quan trọng. Tôi có rất
nhiều bạn đang làm việc hoặc đã từng làm việc ở đây một thời
gian. Vợ của đồng nghiệp tôi lại là bạn của vợ tôi. Nói một
cách chuyên nghiệp, tôi thích cơ hội được làm những việc như
phát triển nguồn trí tuệ cho công ty - hiện tại tôi đang là đầu
não của chiến lược mà tôi cho là rất thực tiễn này. Điều này
thể hiện qua sự đầu tư vào thư viện công ty. Bạn không thể
có được nó nếu cứ lao đầu vào lợi nhuận thường niên. Công
việc ở BCG khá nặng nhọc và thời gian làm việc có thể nhiều
hơn, nhưng tôi không nghĩ nó căng thẳng. Bởi lẽ tinh thần liên
kết thể hiện rất mạnh mẽ và các đồng nghiệp luôn hỗ trợ lẫn
nhau trong BCG".
Tôi hỏi Barry liệu BCG có khi nào phải hóa giá không. "Rõ
ràng là không. Vì yếu tố môi trường, chúng tôi thật sự có xem
xét chuyện này vào hai năm trước nhưng đã nhanh chóng từ
bỏ ý nghĩ đó. Nếu chúng tôi bán công ty, chúng tôi sẽ phản
bội lại những gì mình từng tin tưởng cũng như tất cả những
gì tạo nên một BCG ngày nay. Nếu ai đó trong hội đồng đề
nghị bán BCG, khi ấy theo luật, mỗi thành viên sẽ bỏ phiếu,
và kết quả lấy theo ý kiến số đông. Những nhân viên trẻ muốn
làm việc ở đây cả đời, sao họ có thể bán rẻ BCG được? Và
những thành viên kỳ cựu nhận thức được rằng những gì họ
đang hưởng ngày nay là thành quả mà họ đã tạo ra trong quá
khứ. Hơn 80% cảm thấy có bổn phận phải duy trì BCG hơn là
phá hủy nó để đổi lấy một số tiền mà thực tế chúng tôi cũng
không cần".
Câu chuyện của Donna và Jeff
Sức mạnh của các chuyên gia trong công ty tư vấn hay
ngân hàng đầu tư được sánh ngang với những gì mà các nhà
quản trị có thể làm cho những doanh nghiệp thông thường,
miễn là họ nhận thức được giá trị mà mình cung cấp. Điển
hình là câu chuyện của Jeff và Donna Dubinsky, những người
sáng lập ra máy điện tử cá nhân PalmPilot.
Jeff và Donna yêu thích việc kiếm tiền. Năm 1995 Jeff và
Donna dừng chân tại tập đoàn US. Robotics với 44 triệu đôla
khởi điểm.
Ban đầu mọi việc diễn ra tốt đẹp. "US. Robotics để chúng tôi
điều hành Palm một cách độc lập. Họ giống như ngân hang
của chúng tôi hơn là một người chủ," Donna cho biết. Trước
sự ngạc nhiên của nhiều nhà tư bản, PalmPilot phất lên như
diều gặp gió. Nhưng sau đó, những bất lợi của việc sáp nhập
với một tập đoàn khác bắt đầu xuất hiện.
Năm 1996, US. Robotics rơi vào tay tập đoàn 3Com. 3Com
muốn lấy lại quyền điều hành PalmPilot như một cách thống
nhất quyền lực. Jeff và Donna mất đi quyền tự trị, và dĩ nhiên
kèm theo đó là một phần đáng kể lợi nhuận khi 3Com nghĩ
đến việc bán đi PalmPilot.
Điều này làm bùng nổ chiến tranh tâm lý giữa Jeff-Donna
và Eric Benhamou, CEO của 3Com. Jeff và Donna xin được
tách PalmPilot ra nhưng Eric không đời nào ưng thuận (năm
1998, PalmPilot là tiêu điểm sáng giá nhất trong tập đoàn
3Com). Tuy nhiên, Eric cũng ý thức được rằng Jeff và Donna
nắm giữ nhiều "con bài" tốt hơn và họ luôn có thể xây dựng
một đối thủ cạnh tranh lại PalmPilot bất cứ lúc nào.
Thật vậy, năm 1999, họ thành lập Handspring. Eric đồng ý
cấp giấy phép cho họ sử dụng hệ thống Palm, vì thật ra ông
cũng không còn chọn lựa nào khác. Donna nói: "3Com phải
chọn lựa giữa việc để chúng tôi sử dụng lại hệ thống Palm
hoặc chúng tôi sẽ tự xây dựng lại một hệ thống tương tự khác.
Và họ biết sẽ khôn ngoan hơn nếu họ dùng chúng tôi như
những người cộng tác hơn là những đối thủ cạnh tranh."
Điều mà Donna đã khéo léo không nói ra ở đây là Handspring
được thành lập nhằm mục đích tạo ra một sản phẩm thay thế
rẻ và tốt hơn Palm. Và như tôi đã đề cập ở trên, họ đang thực
hiện việc đó với một sự phô trương rầm rộ.
Chúng ta có thể học được gì từ Jeff và Donna?
Thật sai lầm khi giam cầm những con người 80/20 trong
một tập đoàn mà họ không có quyền điều khiển cũng như
không có quyền sở hữu những gì liên quan trực tiếp đến
công việc của họ. Điều này hoàn toàn không có lợi cho cả
đôi bên.Bất chấp mọi hoàn cảnh, những cá nhân sáng tạo như Jeff
và Donna luôn nắm trong tay lợi thế. Khi một cá nhân sáng
tạo nào đó quyết tâm giữ lại phần giá trị do chính họ tạo
ra thì công ty sẽ mất đi phần giá trị đó. Một tập đoàn lớn
có thể mua được ý tưởng, sản phẩm và bằng phát minh
sáng chế, nhưng nếu những nhân viên nòng cốt ra đi, sự
phát triển cũng sẽ đi theo.Một thỏa thuận "hai chiều" giữa những con người sáng tạo
và tập đoàn của họ theo kiểu Jeff-Donna làm thường kết
thúc có lợi cho đôi bên. Nhưng những người sáng tạo phải
có được quyền tự trị cũng như một điều khoản công bằng
trong chính công việc của họ.
Jerry, Rick, Richard, Bruce, Barry, Jeff
và Donna có ý nghĩa thế nào với bạn?
Ngoài cách thức truyền thống mà những người kinh doanh
thường làm - tìm cách sáp nhập vào các tập đoàn khác và từ
đó bắt đầu một sự nghiệp kinh doanh mới hoàn toàn độc lập
cho riêng mình - chúng ta có thể nhận thấy ít nhất tồn tại ba
cấu trúc kết hợp có thể sẽ hấp dẫn hơn đối với các nhà kinh
doanh tương lai. Nền tảng của những thành phần kết hợp này
về cơ bản vẫn là con người - chúng được điều khiển bởi những
con người 80/20 - nhưng lại kết hợp nhiều mặt của những
cấu trúc tiền hợp nhất:Cấu trúc hợp tác (giải pháp Barry Jones/BCG), khi các hội
viên mua lại doanh nghiệp từ chính người chủ của họ và
không sử dụng nguồn vốn từ việc bán cổ phiếu của công ty
ra ngoài. Cấu trúc hợp tác là một hình thức liên hiệp công
ty lâu đời nhưng vẫn còn được ứng dụng tốt trong nhiều
công ty kinh doanh tri thức, nơi có nhu cầu vốn thấp nhưng
nhu cầu giữ và thu hút những người tạo ra tài sản cao.Giải pháp chia lợi nhuận - giải pháp dành cho các công ty
mới thành lập trong lòng một công ty khác (giải pháp Kick
Haller/DMG). Công ty "con" ký kết một điều khoản về việc
phân chia lợi nhuận kiếm được; theo đó công ty "mẹ" sẽ
cung cấp vốn và thu một phần lợi nhuận hàng năm. Một
giải pháp tương tự có thể ứng dụng cho những cá nhân tạo
ra tài sản như Richard - người bạn làm cho một ngân hàng
đầu tư của tôi. Một biến thể khác là dạng liên doanh làm ăn
chính thức giữa một nhóm người có đầu óc kinh doanh với
một tập đoàn lâu đời (có thể đó là nơi bạn đang làm việc
hay một nơi thứ ba nào đó).Giải pháp "lồng nuôi trẻ" (cũng từng được gọi là kinh doanh
tập đoàn), khi những người có óc kinh doanh tìm thấy một
cơ hội kinh doanh mới và thuyết phục được công ty hiện tại
góp vốn vào (giải pháp của Jerry Bowskill/Nhảy cóc/BT).
Cho dù có hay không một chiếc "lồng nuôi trẻ" thì mô hình
này cũng cần thiết cho sự bành trướng của một tập đoàn.
Đây là chiếc cầu nối liên kết giữa tập đoàn lâu đời với doanh
nghiệp mới thành lập và giữ cho chúng luôn ổn định.
Làm thế nào để khởi đầu?
Hãy tự đặt ra ba câu hỏi sau:Những giải pháp tiềm năng nào là khả thi với bạn? Chúng có dễ hiểu với những người sẽ hợp tác với bạn không (ví dụ như đồng sự, giám đốc, chủ sở hữu công ty hay những nhà cung cấp vốn)?
Ngoài những lựa chọn đó, cấu trúc nào sẽ khả thi cho bạn
để tạo ra một cái gì đó giá trị nhất.
Giải pháp nào sẽ mang đến cho bạn sự hài lòng và thỏa
mãn cao nhất?
1. Bắt đầu một dự án kinh doanh mới
Khi đã hội đủ các điều kiện, rõ ràng bạn hoàn toàn có thể
bắt đầu một dự án kinh doanh mới. Mặt trái của việc này là
bạn phải rời bỏ công việc và công ty hiện tại của mình, bạn
cũng có thể phải chia tay với những khách hàng, công nghệ
và các đồng nghiệp thân cận. Nếu bạn sử dụng vốn từ người
khác, đặc biệt là từ các công ty đầu tư, thì những người kiểm
soát mới của bạn có thể còn đòi hỏi cao hơn cả những người
trước đây. Nhưng bù lại, bạn có sự nghiệp riêng của chính
mình. Bạn có thể điều hành công ty của mình theo bất cứ cách
nào miễn là công ty bạn đáp ứng được những mong đợi về tài
chính. Bạn sẽ giữ được nhiều hơn hoặc hầu hết giá trị do
chính mình tạo ra.
Việc quản lý mua bán cổ phiếu của công ty một mặt tùy
thuộc vào việc bạn có một nhà cung cấp luôn sẵn lòng với bạn
hay không, và mặt khác là bạn có thể tạo được lợi nhuận cao
cho mình và cho người cấp vốn của bạn không. Một loại hình
kinh doanh như vậy có thể được tóm tắt sơ lược như sau:
Lợi nhuận thấp phản ánh giá trị của một doanh nghiệp trên
thị trường thấp (giá trị trên thị trường chứng khoán của một
công ty được đánh giá bởi lợi nhuận của nó). Thông thường
trên thị trường nhìn chung, người ta không thích những
doanh nghiệp nhỏ với mức tăng trưởng chậm.
Tiềm năng sinh lời cao. Dòng lưu kim rất quan trọng để
tăng sức bật cho một doanh nghiệp bằng cách sử dụng vốn
vay. Một tỷ lệ vốn vay ngân hàng càng cao nghĩa là nhu cầu
cần huy động vốn từ việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư
càng thấp, điều này đồng nghĩa với việc bạn có cơ hội giữ
lại tỷ lệ lợi nhuận cao hơn cho mình và cho các giao dịch
của bạn. Hơn nữa, một doanh nghiệp có tỷ lệ vốn vay cao
sẽ phải đóng thuế ít hơn.
Tiềm năng tăng lợi nhuận và do đó gia tăng giá trị của công
ty khi nó được bán cho người khác.
Việc quản lý các công ty hóa giá, đặc biệt là ở những tập
đoàn lớn, có một nghịch lý. Những công ty tư nhân, nơi khởi
đầu và tài trợ cho các giao dịch kinh doanh, đòi hỏi một tỷ lệ
lợi nhuận cao hơn nhiều so với các cổ đông trên thị trường
chứng khoán. Khi đó thì làm thế nào họ có thể thắng được các
cổ đông trong những vụ đấu thầu mua lại công ty?
Câu trả lời nằm ở ba khía cạnh:
Họ dựa trên những giá trị tiềm ẩn của công ty. Những nhà
thu mua cổ phiếu của công ty luôn muốn mua với giá rẻ để
có lời. Theo một cách hiểu nào đó, thì việc mua quyền sở
hữu bằng cổ phiếu là sự thông đồng giữa ban quản trị và
các nhà tài phiệt tư nhân cấp vốn cho công ty thông qua
việc mua cổ phiếu nhằm trả cho chủ doanh nghiệp ít hơn
trong khi doanh nghiệp thực sự có giá trị.
Phương thức huy động vốn thông qua việc bán cổ phiếu gây
ra tác dụng đòn bẩy tốt hơn. Những công ty cổ phần hữu
hạn không thích vay nợ chồng chất. Các cổ đông không
thích nợ ngân hàng vì nó có thể động đến cổ tức của họ.
Các nhà quản trị không thích nợ vì nó là nguyên nhân
khiến họ mất ngủ hàng đêm. Nhưng trên thực tế, việc xoay
vốn bằng cách bán quyền sở hữu công ty thông qua cổ
phiếu thường mang lại nợ nhiều hơn vốn. Vốn thu được từ
việc bán cổ phần đắt hơn vốn thu được từ việc thế chấp tài
sản, nhưng số nợ vay lại rẻ hơn. Tỷ trọng chi phí trung bình
của vốn tư bản có thể thấp hơn trên sàn giao dịch chứng
khoán (nhưng dĩ nhiên rủi ro cao hơn). Tác dụng đòn bẩy
cao còn mang lại một lợi ích khác: tỷ lệ thuế nộp thấp.
Trong vài năm đầu, do được đánh thuế thấp nên phần lớn
lợi nhuận sẽ rơi vào lợi ích công ty.
Tồn tại động cơ thúc đẩy thú vị. Việc mua lại công ty thông
qua cổ phiếu làm cho mọi người chỉ tập trung vào kết quả
tài chính thu được, và nếu thất bại, hậu quả sẽ rất tồi tệ cho
tất cả mọi người. Trong các tập đoàn tiêu biểu, đặc biệt là
những tập đoàn có nhiều doanh nghiệp nhỏ bên trong, các
nhà quản trị điều hành từng phần riêng biệt luôn được cách
ly khỏi các rủi ro tài chính và không có quyền tự quyết
trước những diễn biến của thị trường.
Việc mua lại công ty vốn dĩ rất căng thẳng. Nhưng nếu gặp
điều kiện thuận lợi thì đây là một con đường tuyệt vời để làm
giàu.
Câu chuyện của Paul
Một người chưa từng phải lo lắng về việc giao dịch với các
nhà tài phiệt cho vay, đó chính là Paul Judge. Paul là bạn học
chung trường Wharton với tôi, tưởng như ông đã theo đuổi
một sự nghiệp cổ truyền: lập kế hoạch chiến lược cho công ty
Cadbury Schweppes. Năm 1986, Cadbury quyết định bán chi
nhánh Foods, chuyên kinh doanh trà Typhoo và mứt Hartley.
Paul đã thuyết phục chủ tịch hội đồng quản trị Dominic
Cadbury cho phép ông đấu thầu Foods cùng với ban quản trị
của nó. Cuộc bỏ thầu này khác thường ở chỗ Paul cùng các
giám đốc khác phải xoay xở gom tiền cho công việc kinh doanh
của mình mà không cần đến bất kỳ nguồn vốn nào từ các nhà
đầu tư hay từ thế chấp tài sản tư hữu (xem Chương 10).
Cuộc đấu thầu của Paul thắng lợi. Trong ba năm sau đó,
công ty MBO này hoạt động một cách phi thường dưới thương
hiệu mới là Premier. Chi phí chủ yếu được đánh giá trước đây
bởi ban giám đốc Foods bất ngờ trở thành giá trị thặng dư cho
nhu cầu của Premier. Nhiều sản phẩm mới được triển khai và
nhanh chóng giành được thị phần. Lãi suất thuần tăng từ
2,1% năm 1988 lên 8%. Lợi nhuận năm 1985 là 6,6 triệu bảng
nhưng sang đến năm 1988 là 31 triệu bảng. Paul và những
người đồng sự của ông mua công ty này với giá 97 triệu bảng
nhưng bán lại cho Hillsdown - một tập đoàn lớn - với giá 310
triệu bảng vào năm 1989.
Ai đã là người tạo ra giá trị này? Chính Paul và những người
bạn của ông! Ai là người được lợi? Paul, bạn của ông và Đại
học Cambridge. Một mình Paul đã tạo ra hơn 40 triệu bảng,
sau đó ông dùng phần lớn của cải này tài trợ cho Đại học
Cambridge xây dựng một toà nhà mới cực lớn mà ngày nay
gọi là Phân viện Judge.
Tôi sẽ chẳng bao giờ ngăn cản sự hăng hái của những người
có đầu óc kinh doanh như Paul thực hiện việc mua lại một
công ty nào đó bằng cổ phiếu hay thành lập một công ty kinh
doanh cho riêng mình. Nhìn chung, những biến chuyển này
có kết quả tốt đối với nền kinh tế xã hội bởi họ kích thích sự
thử nghiệm, họ làm giảm mức độ của sự quân bình trong nền
kinh tế và làm tăng tỷ lệ tăng trưởng của nó. Họ giúp khép lại
khoảng trống giữa những người tạo ra của cải và những người
được hưởng số của cải đó. Tôi biết rất nhiều người mà cuộc
sống của họ đã thay đổi hoàn toàn ngay khi việc mua lại công
ty thành công hay thất bại. Điều tuyệt diệu là họ đã làm điều
đó trong điều kiện lợi thế không cân xứng.
Nếu kế hoạch kinh doanh thành công, cuộc sống của chúng
ta sẽ được cải thiện. Bản thân số tiền có thể không làm bạn
hài lòng, nhưng sự mở rộng độc lập về tài chính sẽ giải phóng
bạn, giúp bạn có đủ điều kiện để thực hiện những dự án khác.
Thậm chí khi công việc kinh doanh thất bại, bạn có thể vẫn
có lời. Bạn sẽ học hỏi được nhiều thứ và luôn có thể làm lại
từ đầu theo một hướng đi khác - một chiến lược kinh doanh
khác, một kiểu tương tự với công việc bạn đã làm trước đây,
hay một sự nghiệp hoàn toàn mới. Bạn có thể nghèo hơn trước
đây về mặt tài chính nhưng chắc chắn sẽ giàu hơn về kinh
nghiệm, và bạn sẽ thấy được giá trị của sự trải nghiệm. Tôi
biết rất nhiều người, những người từng thất bại trong lần làm
ăn đầu tiên nhưng lại thành công rực rỡ sau đó.
Tuy nhiên, như Rachel, nhiều con người 80/20 đơn giản
không thích sự rắc rối, rủi ro, những ràng buộc về mặt pháp
luật, và họ mất đi sự hỗ trợ đang có khi tách ra kinh doanh
độc lập.
Giải pháp cho điều này là giảm bớt nhu cầu về vốn thông
qua việc sử dụng tiền tiết kiệm của bạn và tìm kiếm sự hỗ trợ
từ gia đình, bạn bè hay những nhà kinh doanh hào phóng. Áp
lực khởi đầu một dự án kinh doanh sẽ được giảm xuống.
Hơn nữa, còn có một lựa chọn khác, không phải là phổ quát
nhưng có thể sẽ tốt hơn cho những con người 80/20 và cho
xã hội: đó là bắt tay với công ty hiện tại của bạn hay công ty
khác. Giải pháp kết hợp (như Jerry Bowskill - "lồng nuôi trẻ",
Rick Haller - chia lợi nhuận, hay Barry Jones - cộng tác với
công ty) có thể rất hiệu quả nhưng lại làm giảm đáng kể sự
phiền phức, rủi ro hay những ràng buộc pháp luật cho bạn.
2. Tìm một giải pháp kết hợp
Giải pháp kết hợp rất có lợi cho cá nhân, bởi vì bằng cách
này, bạn được làm chủ ba phần tư hoặc có thể toàn bộ công
việc kinh doanh của mình với chi phí tài chính và cơ sở vật
chất chỉ bằng một nửa hoặc thậm chí ít hơn. Một thỏa thuận
chia lợi nhuận chắc chắn sẽ không đòi hỏi bạn phải thành lập
một cá thể độc lập hợp pháp. Một thỏa thuận liên hiệp công
ty hay dựa vào công ty mẹ sẽ không đòi hỏi bạn phải tốn kém
chi phí cho việc thuê mướn lao động nhằm thành lập công ty
mới cũng như không phải chia tay với bạn bè, đồng nghiệp
hay các hợp đồng kinh doanh đã có. Trong mọi trường hợp,
đề án kinh doanh của bạn sẽ giảm được những rủi ro về tài
chính do các công ty hợp tác sẽ bảo trợ một phần hay toàn
bộ, hoặc trực tiếp cấp cho bạn phân nửa nguồn vốn cần thiết.
Giải pháp kết hợp đồng thời cũng có lợi cho các tập đoàn
lâu đời, khi họ được chia lợi nhuận trên những lĩnh vực mà
trước đây họ chưa khai thác tới.
Giải pháp kết hợp đặc biệt còn tốt cho nền kinh tế và xã hội,
do nó cho phép con người thực hiện thêm nhiều hoạt động
kinh doanh hơn trước đây. Những ý tưởng tuyệt vời thoát khỏi
ranh giới hạn hẹp của công ty, nơi mà có thể tình hình kinh
doanh chưa một ngày sáng sủa. Lợi nhuận vượt qua khỏi
ngưỡng quân bình, và những người thực sự tạo ra của cải sẽ
được hưởng công sức lao động của mình nhiều hơn. Con người
kiểm soát cuộc sống lao động của mình nhiều hơn và cùng lúc
hoặc sau đó, họ hoàn toàn làm chủ cuộc đời mình. Thành
công của họ sẽ là nguồn động viên những người khác phấn
đấu để trở thành con người 80/20.
Thế giới của những con người 80/20 rộng mở hơn, ít bị đe
dọa, chèn ép hơn những nhà kinh doanh trước đây. Nhiều con
người 80/20 đã bắt tay với tập đoàn của họ và trong suốt thời
gian ấy, họ vẫn là một phần của tập đoàn đó. Và chắc chắn
sẽ có nhiều người sửa soạn hành trình cho mình hơn nếu họ
biết có những lựa chọn như vậy tồn tại. Nhất định họ sẽ làm.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải thận trọng. Một kế hoạch
kết hợp, thỏa thuận 80/20 với một tập đoàn hiện tại thường
bị các nhà quản trị cấp cao làm xáo trộn bởi rất nhiều sang
kiến tinh xảo. Tập trung vào lợi nhuận, thành quả của các
"hạt giống kinh doanh" trong tập đoàn, sự "đặc thù hóa tập
đoàn", và việc trao quyền điều hành cho các cá nhân hay đơn
vị... Tất cả những điều này nhằm mục đích làm hồi sinh và
tiếp thêm sức mạnh cho tập đoàn chứ không phải nhằm khuyến
khích các dự án kinh doanh. Tuy nhiên, những sáng kiến như
vậy nhìn chung vẫn có lợi hơn có hại. Họ có thể dễ dàng chấp
nhận hàng loạt những giải pháp kết hợp bao gồm nhiều dự án
kinh doanh mới trong đó. Nhưng cho đến khi họ thực hiện,
vẫn sẽ không có sự chấm dứt cơ bản nào đối với đường lối cũ.
Tập đoàn, chính nó sẽ giữ lại phần chủ yếu nhất của thành
quả sáng tạo và lợi nhuận thu được, chứ không phải là cá
nhân nào khác.
Có ba điểm phân biệt giữa những giao dịch 80/20 với sự
chuyển nhượng tập đoàn. Một dự án kinh doanh thật sự:
Được đề xuất bởi một cá nhân hay một nhóm người nào đó
chứ không phải xuất phát từ tập đoàn.
Có sự chuyển giao quyền sở hữu thật sự và một phần lợi tức
đáng kể rõ ràng cho những con người 80/20.
Để nhóm người mới tự do điều hành công việc kinh doanh
theo cách của họ. Tập đoàn chỉ sở hữu những tài sản lâu đời
như thương hiệu, bằng sáng chế hay các tài sản giá trị khác.
Nói ngắn gọn, nó được vận hành bởi những con người 80/
20 cho những con người 80/20.
Nơi nào có đa số hay tất cả giá trị thu được trong kinh
doanh rõ ràng thuộc về những cá nhân đang thực hiện nó,
như công ty tham vấn Barry Jones hay ngân hàng đầu tư Rick
Haller, thì nơi đó những nhóm người tạo ra giá trị sẽ nắm giữ
vị trí quan trọng, thực hiện việc thương lượng với các chủ sở
hữu hiện tại của nó hay với một công ty đối tác mới khác. BCG
tự mua quyền sở hữu của nó từ tập đoàn Boston Safe - Deposit
và trở thành một hiệp hội công ty. Nhóm của Rick Haller xuất
phát từ một ngân hàng này đến một ngân hàng khác và đã
làm nên sự nghiệp riêng của họ.
Tuy nhiên, trong mọi ngành thương mại, mối quan hệ giữa
một bên là sự đóng góp của một nhóm người và một bên là
của toàn thể tập đoàn thật sự không thể tách biệt rõ ràng.
Trên thực tế, điều đó cũng không đáng tranh cãi. Nó tùy thuộc
vào chủ sở hữu của tập đoàn và ban giám đốc sẽ là người đề
xuất mức thù lao thích hợp mà họ suy xét trong mối quan tâm
của chủ sở hữu, và nếu điều này không thỏa đáng dẫn đến
việc các cá nhân sáng tạo ra đi, thì đây chỉ là một tính toán
sai lầm của ban giám đốc.
Con người 80/20 kiểm soát chính số phận của họ. Nếu một
cá nhân hay một nhóm nào đó có đủ khả năng tạo ra của cải
rõ ràng - như Rick Haller và nhóm của ông, họ có thể tiến
hành thương lượng một giao dịch mang tính kinh doanh với
một tập đoàn thứ ba nào đó. Điển hình như thỏa thuận giữa
Rick với Morgan Grenfell, thậm chí công ty đối tác còn giữ vai
trò chính yếu trong việc cung cấp các thành phần mà nhóm
người này cần có, trong trường hợp của Rick là vốn tư bản và
sự bảo lãnh của một ngân hàng danh tiếng. Thỏa thuận có thể
được xây dựng dựa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Ngay
khi ngân hàng đầu tiên không đồng ý, Rick có thể tìm đến một
ngân hàng khác. Richard, giám đốc ngân hàng đầu tư, đã làm
và thậm chí một mình ông có thể xoay xở để giữ lại phần lớn
lợi nhuận do mình làm ra.
Đối với một cá nhân hay một nhóm người nào đó muốn bắt
đầu một sự nghiệp kinh doanh nhưng vẫn còn nghi ngờ về
các kỹ năng của mình khi rời khỏi công ty, vẫn có cách giúp
họ thực hiện dự án kinh doanh mới. Họ có thể làm được việc
đó bằng cách chiếm đoạt các ý tưởng, các nhân tố kinh doanh
nhằm có thể sử dụng để tạo ra của cải. Hầu hết những ý
tưởng này xuất hiện trong các tập đoàn nơi mà họ đang làm
việc, nhưng chúng không thuộc về bản thân tập đoàn đó. Ý
tưởng thuộc về ngành kinh doanh, chứ không thuộc về bất cứ
cá nhân nào.
Khi tôi và những người đồng sự bị ngăn cản thành lập một
công ty cạnh tranh với Bain-Co, điều tranh cãi sau cùng chỉ
là liệu chúng tôi có lấy đi những tài sản trí tuệ của họ hay
không. Nhưng chúng tôi đã thành công trong việc chứng minh
rằng tài sản trí tuệ của Bain thực chất dẫn xuất từ trong công
nghiệp "kinh doanh" nói chung và từ BCG nói riêng. Ý tưởng
mà chúng tôi đang sử dụng không thuộc về ai cả.
Câu chuyện của Gordon,
Mark và Richard
Nhiều người có đầu óc kinh doanh khởi nghiệp bằng cách
đúc kết một hình thức kinh doanh dưới cái nhìn của một
người lao động trong một công ty nào đó rồi sau đó bắt đầu
sự nghiệp của mình theo một khuynh hướng mới trên cùng
một đề tài. Sau đây là hai trường hợp mà tôi được biết:
Giáo sư Gordon Edge là người sáng lập ra Công ty PA
Technology - một bộ phận thuộc tập đoàn tư vấn quản trị PA.
Mặc dù là người sáng lập nhưng ông không có một quyền hợp
pháp nào. Những năm 1980, PA Technology đạt doanh thu
rất cao nhưng PA thì không. Gordon tuy là giám đốc lâu năm
của PA nhưng ông được trả lương rất thấp. Ai cũng cho rằng
ông sẽ là người giữ chức tổng giám đốc điều hành trong tương
lai của PA, nhưng cuối cùng một người khác đã được chọn.
Tuy vậy, với Gordon, đó lại là một điều may mắn.
Năm 1986, ông thành lập nhóm Generics. Gordon kể với tôi:
"Điểm khác biệt chính giữa Generics và PA Technology, và
cũng là lý do khiến tôi rời bỏ PA để thành lập Generics là, tôi
muốn khuyến khích những cá nhân thật sự có tài năng và đầu
tư vào quyền sở hữu trí tuệ. Ngày nay, Generics là một công
ty định giá chính trên thị trường chứng khoán London, với giá
thị trường gần 100 triệu bảng. Chúng tôi có tổng cộng 50
công ty trong danh mục vốn đầu tư và 15 trong số đó là các
công ty chuyên về phát minh và sáng chế. Chúng tôi cũng sở
hữu 15 bằng phát minh sáng chế ở đó". Một số lượng lớn các
tập đoàn, trong đó có cả Siemens ở Munich, ngày nay cũng sử
dụng mô hình trọng dụng nhân tài của Generics.
"Chúng tôi có thể không bao giờ làm được những gì mà
chúng tôi làm với Generics nếu như không có kinh nghiệm
trước đó ở PA", Gordon nói. "Mặc dù vậy, với tôi, điều quan
trọng là sự thử nghiệm với nhiều hơn nữa các mô hình kinh
doanh. Bạn học hỏi từ quá khứ và dùng nó làm nền tảng để
tạo ra những điều mới mẻ và thú vị sau đó."
Một ví dụ khác là Richard Burton và Mark Allin. Trước khi
bắt tay thành lập nhà xuất bản Capstone năm 1996, họ đã
từng làm việc cho nhiều nhà xuất bản riêng lẻ. "Tầm nhìn mà
chúng tôi dành cho Capstone là sự kết hợp từ những kinh
nghiệm trong quá trình làm việc cho nhiều công ty khác nhau,
cộng thêm một số ý tưởng riêng của chúng tôi. Từ đó chúng
tôi viết nên bộ sách hay về kinh doanh," Mark kể với tôi.
"Chúng tôi có thể sẽ không bao giờ có được một sự bắt đầu
hiệu quả như vậy nếu không có thử nghiệm nhiều lần trong
các công ty cũ của mình", Richard nói thêm. "Chúng tôi biết
rằng chúng tôi muốn làm điều đó. Không có gì lạ khi chúng
tôi muốn tự làm mọi thứ hơn là chỉ hưởng lợi nhuận từ những
công ty lớn. Ý tưởng mới là điều quan trọng".
Rachel: Điển hình của
một nhà quản lý 80/20
Về cơ bản, Rachel là một trường hợp tương tự: Gen kinh
doanh quan trọng giúp cho công việc kinh doanh của Rachel
thành công không thuộc về tập đoàn của bà. Ý tưởng "phân
nhỏ" thị trường, ý tưởng nhượng quyền bán lẻ lại cho các cửa
hàng khu vực, ý tưởng tổ chức hệ thống kinh doanh nhằm tối
thiểu hóa vốn tư bản sử dụng... - tất cả các ý tưởng phổ biến
này là những gen kinh doanh mạnh mẽ mà bất cứ ai cũng có
thể khai thác.
Nhưng những con người 80/20 dày dạn như Rachel và
nhóm của bà - những người đã có kinh nghiệm về sức mạnh
của những nguyên lý cơ bản, hiển nhiên sẽ có một lợi thế nào
đó. Họ biết rõ những người nào có khả năng tạo thêm nhiều
của cải bên ngoài tập đoàn, và cách để giao tiếp với những
con người đó.
Tập đoàn, nơi sở hữu các hoạt động kinh doanh của Rachel,
bị rơi vào một tình thế không mấy dễ dàng. Nó nắm quyền sở
hữu mọi hoạt động kinh doanh hiện tại nhưng không thể sở
hữu được ý tưởng lẫn con người - những người làm cho các
hoạt động kinh doanh ấy trở nên khả thi. Lâu dần, sự mặc cả
về quyền lực của cá nhân hay một nhóm cá nhân, sự đòi hỏi
được hưởng lợi nhuận thỏa đáng hơn, bắt đầu hình thành
trong hầu hết các tập đoàn.
Tôi nói đùa với Rachel rằng bà chỉ là 80% của một con người
80/20: "Chị đang bỏ lỡ 20% quan trọng, đó là quyền sở hữu
mà lẽ ra chị phải có cùng với những giá trị do mình tạo ra".
Tuy nhiên, cơ sở kinh doanh thật sự không thuộc về nhóm
của Rachel. Rachel có ba chọn lựa. Bà có thể tiếp tục ở lại làm
một nhân viên bình thường, nỗ lực tạo ra của cải cho công ty
với hy vọng được ghi nhận nhiều hơn và công ty hiểu rằng bà
có những kỹ năng mà người khác không có. Bà có thể thực
hiện một chiến lược kinh doanh theo kiểu truyền thống dựa
trên nguồn vốn mạo hiểm: ví dụ như sắp xếp mua lại quyền
sở hữu một chi nhánh nào đó rồi bắt đầu xây dựng sự nghiệp
từ đống hỗn độn ấy. Hoặc Rachel có thể theo đuổi một lộ trình
kết hợp, cố gắng tìm sự liên minh với tập đoàn hiện tại mà bà
đang làm hay với một tập đoàn mới thứ ba.
"Về lý thuyết, chiến lược kết hợp mà anh mô tả thực sự lôi
cuốn tôi", Rachel thừa nhận. "Nhưng trong thực tế, nó sẽ như
thế nào? Tôi phải giao dịch với ai?"
"Một chiều," tôi nói. "Nó sẽ là một thỏa thuận với ban giám
đốc tại tập đoàn nơi chị đang làm việc. Hiện tại, ban quản trị
ở đó chỉ để ý tới những mối quan tâm của các cổ đông. Họ sẽ
không để chị ra đi cùng với công việc làm ăn của họ trừ khi
chị mua lại nó, và tôi đã từng nghe chị nói về những cổ phần
tư nhân ở đó. Vì vậy, một giao dịch nằm trong mối quan tâm
của chị và các cổ đông sẽ là một dự án kinh doanh mới. Chị
sẽ phải tạo ra một cái gì đó độc lập với công việc chị đang làm.
Thực tế, chị cần phải kiếm thêm một vài người khác giúp chị
trám đầy những chỗ còn thiếu sót và một ê-kíp cùng chị triển
khai hành động. Công việc kinh doanh hiện tại vẫn phải được
tiếp tục để mang lại lợi nhuận cho chủ nó. Còn dự án kinh
doanh do chị đề xuất là một dự án hoàn toàn khác do chính
chị tạo nên nhằm sinh ra một nguồn lợi nhuận mới."
"Nhưng điều đó thật khó," Rachel ngắt lời. "Làm như vậy
chẳng khác nào vạch áo cho người xem lưng. Nếu chúng tôi
tuyên bố mọi kế hoạch phát triển của mình - về thương hiệu
mới cũng như hệ thống cửa hàng bán lẻ mới, tất cả những ý
tưởng đó sẽ thuộc về tập đoàn hiện thời của chúng tôi."
"Chị nói có phần đúng," tôi thừa nhận. "Tôi không chắc
chắn tuyệt đối. Ví dụ, tôi nghĩ chị có thể bắt đầu bằng một dự
án kinh doanh thuộc loại buôn bán, đặt hàng thông qua thư
điện tử hay Internet chẳng hạn. Công việc kinh doanh này sẽ
diễn ra bên cạnh công việc chị đang làm. Hoặc chị có thể tận
dụng những gen kinh doanh nổi trội trong thị trường hiện tại
để ứng dụng vào thị trường mới của chị - ví dụ đối với trang
phục nam, hay một ngành kinh doanh không liên quan đến
may mặc, hoặc triển khai tại một khu vực địa lý khác. Bất kì
dự án kinh doanh mới nào góp phần làm giàu thêm lợi nhuận
cho công ty cũng sẽ được coi như là một thắng lợi cho nhóm
của chị và cả ban giám đốc công ty hiện tại.
"Quan điểm của tôi là nếu chị thật sự đặt tâm huyết vào đó,
chị sẽ làm được nhiều hơn thế nữa. Nếu thế giới chỉ gói gọn
trong hai sự nghiệp kinh doanh thì một trong hai sẽ thuộc về
chị. Chị sẽ cần thêm vài người mới kết hợp cùng nhóm đồng
sự hiện tại để điều hành công việc kinh doanh mới này nhưng
mọi thứ rồi sẽ đi vào ổn định. Kinh nghiệm và những kỹ năng
thương mại sẽ tạo thành sức bật giúp chị tăng tốc sự nghiệp
kinh doanh của mình.
"Nếu chị không thể nghĩ ra được một dự án kinh doanh nào
khả thi, chị vẫn có một chọn lựa khác. Chị có thể cùng với một
vài đồng sự của mình đề nghị bắt tay với một tập đoàn thứ
ba nào đó để thành lập một vụ làm ăn mới - tương tự như
hoạt động kinh doanh trong công ty hiện tại nhưng không
cạnh trạnh trực tiếp với nó.
"Giả sử, nếu chị cho rằng hướng kinh doanh trang phục
nam là khả thi, thì việc liên kết với một công ty đã có sẵn
khách hàng quen thuộc hay kênh phân phối trên thị trường
có thể sẽ mang lại cho chị nhiều lợi thế hơn. Nếu chị thích ý
tưởng đặt hàng qua email, thì nó sẽ khả thi hơn khi chị hợp
tác với một công ty chuyên về lĩnh vực này và chị sẽ kinh
doanh những mặt hàng khác. Dĩ nhiên, những kỹ năng này
nếu được khai thác từ cá nhân sẽ rẻ hơn từ tập đoàn. Sự liên
kết sẽ đem lại nhiều lợi ích cho hoạt động kinh doanh hiện tại
lẫn hoạt động kinh doanh mới - nơi có sự đóng góp của nhóm
chị cũng như mỗi thành viên trong đó."
9 Khai thác các công ty khác
"Một trận dịch đã bùng phát ngay từ thuở ban
đầu của mọi thời đại mà thoạt nghe có vẻ vô lý
- dịch 'thừa mứa sản xuất'... Có quá nhiều nền
văn minh, quá nhiều phương tiện tồn tại, quá
nhiều ngành công nghiệp cũng như quá nhiều
giao dịch thương mại, buôn bán".
Karl Marx và Friedrich Engels
"Các xí nghiệp tăng trưởng khả năng sản xuất
quá nhiều đến nỗi những thị trường của nó không
còn đủ sức chứa để tiếp nhận sự cải tiến liên tục
trong hoạt động sản xuất nữa".
Larry Shulman - Nhóm Tham vấn Boston
ợi thế của những con người 80/20 là chỉ lựa chọn
L các hoạt động hay các phần của những thị trường
có khả năng sinh lời nhiều nhất. Đó là nơi mà với lượng vốn
và công sức quản trị cực tiểu, lợi nhuận được sinh ra cực đại.
Khi đã tìm ra những mảng thị trường này bằng một số ít các
hoạt động giới hạn, một con người 80/20 phải phục vụ khách
hàng trong phạm vi thị trường đó tốt hơn bất cứ ai khác. Vì
họ là những phần tử mang lại lợi nhuận nên bạn phải cung
cấp hàng hóa hay dịch vụ cho họ tốt hơn các đối thủ cạnh
tranh trên cơ sở đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp bạn.
"Tốt hơn" nghĩa là bạn phải đáp ứng được mọi nhu cầu của
khách hàng bất chấp sự đòi hỏi của họ và những khó khăn
kinh tế mà bạn đang gặp.
Tuy nhiên, sẽ ra sao nếu như những hoạt động sinh lợi
nhiều lại là những hình thức kinh doanh mà doanh nghiệp
của bạn không có hoặc không chuyên? Ví dụ, hầu hết lợi
nhuận mà khách sạn Zoffany thu được trong kinh doanh là
từ việc cho thuê phòng, và họ chịu mất một phần doanh thu
trong kinh doanh ăn uống. Nhưng thực tế, việc ăn uống đối
với khách thuê phòng cũng cần thiết như việc họ cần một chỗ
trọ. Vì thế Zoffany không thể chỉ cung cấp phòng trọ mà thôi.
Để giải quyết vấn đề trên, chúng ta có thể khoán hoạt động
kinh doanh không mong muốn đó cho người khác. Đó là cách
Zoffany đã làm với các nhà hàng của họ. Và đó cũng là cách
mà bạn phải làm đối với bất kỳ hoạt động nào mang lại lợi
nhuận nhiều nhất nhưng doanh nghiệp bạn không có. Nếu
những loại hình kinh doanh mà công ty bạn không có lại là
những lĩnh vực "béo bở" thì bạn phải khai thác các công ty
khác. Công ty khác chính là một công cụ đắc lực. Nhiệm vụ
của họ là giúp bạn thực hiện tất cả những lĩnh vực kinh
doanh mà bạn còn thiếu.
Điều gì xảy ra với các dự án kinh doanh cá nhân mà ta có
thể nhận thấy rõ ràng trong nền kinh tế nói chung? Nguyên
lý 80/20 cho rằng chỉ có một số ít hoạt động có thể nằm trong
"bể siêu lợi nhuận", nơi những con người 80/20 đang bơi lội.
Vậy ai sẽ là người vận hành phần còn lại của nền kinh tế?
Phải chăng là đại đa số các tập đoàn?
Thật vậy, chính những tập đoàn đang cùng nhau điều hành
nền kinh tế ngày nay. Phần lớn doanh thu rơi vào tay các tập
đoàn này. Nhưng lợi nhuận là thứ duy nhất sẽ không như
vậy. Hầu hết lợi nhuận sẽ thuộc về những con người 80/20.
Đã đến lúc tư duy của chúng ta phải thay đổi. Có lẽ ta đã
từng quen với suy nghĩ về mình như một con người nhỏ bé,
sống nhờ lòng tốt của những binh đoàn quân nhiều tướng
mạnh, một chú nhóc con đang xoay cuồng tìm một chỗ thích
hợp nhếch nhác bên cạnh những người khổng lồ to lớn. Hình
tượng này đã từng đúng suốt một thời kỳ, nhưng bây giờ thì
không còn đúng nữa. Chỗ thích hợp đó ngày nay không phải
là sự an ủi mà là phần thưởng đầu tiên cho những kẻ nhanh
chân. Đó chính là hình ảnh của Tom và Jerry: chú chuột sung
sướng đang tìm kiếm một cái hang nhỏ bé nhưng thoải mái,
nơi mà con mèo to béo không thể với tới được.
Chúng ta có thể ví những tập đoàn lớn mạnh như loài
khủng long ăn cỏ. Và vì sao các tập đoàn lớn lại sẵn sàng sử
dụng ta để ta có cơ hội tìm được nhiều lợi nhuận hơn họ?
"Dư thừa sản xuất" - hệ quả tất yếu
Chúng ta đang ở vào một thời điểm chín mùi. Khả năng sản
xuất cũng như nguồn vốn của các tập đoàn quá dồi dào đã
khiến tình trạng dư cung xảy ra trong sản xuất hàng hóa. Như
Larry Shulman, giám đốc Nhóm Tham vấn Boston, đã nói:
"Trải qua hơn một thập kỷ đầu tư vào công nghệ thông tin và
nhu yếu phẩm, cuối cùng sự thành công cũng đến".
Tuy nhiên khi công nghệ sản xuất này phát triển mạnh mẽ,
nó cũng trở thành một cái bẫy đối với các công ty trưởng
thành. Lợi ích thu được từ việc sản xuất liên tục trở thành vấn
đề hóc búa khi các doanh nghiệp tăng sản lượng trước nhu
cầu thị trường. Và họ đã làm thế. Dầu khí, xe hơi, công nghệ
"chip", thép, và nhiều thứ khác nữa mà bạn có thể kể tên
được, là những công nghệ đang có lượng cung gấp ba lần
lượng cầu. Điều này đối với những công ty dự trữ tiền mặt sẽ
gây ra nguy cơ lạm phát.
Tiền mặt, bản thân nó cũng là một vấn đề. Trước đây, các
công ty có nhiều tiền mặt thường đa dạng hóa dễ dàng. Không
chỉ riêng các CEO, mà các nhà phân tích đầu tư cũng nhận
thấy nguyên lý 80/20 một cách xác đáng đã gây ra trở ngại
cho vòng chu chuyển này. Shulman đã nêu lên thực trạng một
số doanh nghiệp ngày nay đang dùng lượng tiền mặt dư thừa
của họ để mua lại các doanh nghiệp cùng ngành khác, đặc
biệt là ở nước ngoài. Có vẻ như đó chỉ là một phần quá trình
toàn cầu hóa hợp lý. Nhưng trên thực tế, chính việc sở hữu
quá nhiều tiền mặt đã dẫn đến tình trạng này. Nhưng đó lại
là một câu chuyện khác.
Những con người 80/20 hưởng lợi từ sự dư thừa
sản xuất
Lợi nhuận từ việc dư thừa sản xuất này sẽ rơi vào tay các
doanh nghiệp mới - là các công ty đã có khách hàng riêng của
nó, không có khả năng sản xuất hay không nhất thiết phải
sản xuất nhưng có thể khoán cho các công ty khác các sản
phẩm mang lại lợi nhuận cao.
Đây là thị trường mua nhưng người mua không phải là
người tiêu dùng mà là các xí nghiệp trung gian, từ đó, sản
phẩm sẽ được bán cho người tiêu dùng hay cho các khách
hàng kinh doanh lợi nhuận khác.
Người ta nói Internet và năng suất vượt trội đang mang lại
sức mạnh cho khách hàng. Điều này đúng đến ba phần tư.
Những khách hàng mua lẻ được lợi từ sự lạm phát giá cả.
Những thương hiệu hoạt động kém hiệu quả sẽ sụp đổ, và
thiện ý tiêu dùng mang lại sự hỗ trợ cho nền kinh tế lúc thuận
lợi cũng như khi khó khăn chính là bằng chứng cho tính co
giãn của nguồn cung hàng hóa tiêu thụ. Từ những điều các
nhà phê bình kinh tế nói về sự tăng trưởng trong sức mạnh tiêu
thụ, có thể bạn cho rằng lợi nhuận của các nhà cung cấp hàng
hóa cũng sẽ giảm theo. Thực tế không phải như vậy, lợi nhuận
của họ hoàn toàn không đổi hoặc có khi còn đang gia tăng.
Phần doanh thu bị mất cho người tiêu dùng do giá thành
sản phẩm thấp hơn sẽ được nhà sản xuất lấy lại từ các nhà
cung cấp bằng cách ép giá bán nguyên vật liệu của họ. Người
thắng cuộc thật sự là những người mua công nghệ. Trong giao
dịch kinh doanh, doanh nghiệp có nhu cầu luôn tìm cách để
ép giá các nhà cung cấp đang gặp khó khăn trong nguồn dự
trữ. Các công ty thật sự giành phần thắng chính là các công
ty trung gian nhỏ nhưng tăng trưởng mạnh, là các công ty có
nhu cầu khách hàng tăng nhưng không có khả năng đáp ứng
nhu cầu đó. Cái mà trước đây là một tình thế khó xử của
những con người 80/20 thì bây giờ lại trở thành một hảo vận
trời cho.
Với một số ngành công nghiệp, người ta có thể không hoặc
chưa từng đòi hỏi những khả năng sản xuất mới trong nhiều
thập kỷ qua. Một sự nghiệp kinh doanh mới cần có nguồn vốn
lưu động, nhưng nguồn vốn này không nên đầu tư vào các
mặt hàng thiết yếu, vào các thứ dùng để tạo ra những thứ
khác. Có sẵn rồi một nguồn cung cấp cơ sở hạ tầng dồi dào,
quá nhiều vốn đã đóng băng trong đó. Có quá nhiều nhà
xưởng, máy móc, quá nhiều kho hàng, không gian bán lẻ,
thậm chí quá nhiều phòng thí nghiệm cho các công trình
nghiên cứu và phát triển.
Máy móc, cơ sở và nguồn nhân lực đã qua đào tạo, mọi thứ
đều sẵn sàng cho việc sản xuất. Có rất nhiều người để bạn tùy
ý sử dụng. Giám đốc những công ty lớn luôn thấy phấn khởi
với sự gia tăng các đơn đặt hàng từ mọi nguồn, bất chấp lợi
nhuận thu được từ các đơn hàng đó, hơn là phải đóng cửa cơ
sở sản xuất và sa thải nhân viên. Những nhà quản trị này sẽ
giao cho bạn toàn quyền sử dụng vốn, bí quyết sản xuất,
nhân viên, cũng như các mối quan hệ mà họ đã mất bao tâm
huyết, tiền bạc để gầy dựng hàng năm trời chỉ với một cái giá
rất "bèo".
Sự phát triển không dừng lại ở đó. Điều kiện phát triển, bất
kể tình trạng suy thoái, chưa bao giờ có nhiều thuận lợi như
hiện nay. Những gì đã thay đổi chỉ là sự tăng trưởng tự nhiên.
Quá trình phát triển từng đòi hỏi sự đầu tư vào khả năng sản
xuất, nhưng quá trình đó nay đã hoàn thành. Ngày nay, sự
phát triển cần đến những ý tưởng, nguồn cảm hứng, hình
thức kinh doanh mới lạ, sự đa dạng của các con đường dẫn
đến thành công, những dịch vụ mới mẻ và chất lượng cao
hơn. Bản chất của sự tăng trưởng từng là vật chất, nay còn có
thêm trí tuệ.
Với những con người 80/20 thì đây quả là một điều tuyệt
vời chưa từng có trong lịch sử thương mại. Lần đầu tiên các
nhà kinh doanh không cần thiết phải tạo ra cơ sở hạ tầng của
riêng họ. Bạn không cần có nhà xưởng, kho bãi, cửa hàng
buôn bán, văn phòng hay phòng thí nghiệm. Thậm chí bạn
không cần có nhãn hiệu riêng hay phải tiếp cận khách hàng.
Bạn có thể tận dụng tài sản của các công ty lâu đời và lớn hơn
bằng cách thuê mướn, chia doanh thu hay thỏa thuận trả tiền
cho phần tài sản mà bạn sử dụng. Tất cả những hình thức đó
nhằm tránh sự cần thiết của vốn.
Bạn cũng có thể mua phần tài sản hay hàng hóa dư thừa,
thậm chí mua cả doanh nghiệp theo tỷ lệ chi phí ban đầu.
Ngay khi bạn là một đối thủ cạnh tranh tiềm năng, bạn vẫn
có thể khai thác các công ty kinh doanh cùng ngành khác.
Plymouth Gin: Làm sao để
trở thành "chim tu hú"
Chim tu hú là loài chim không biết cách ấp trứng cũng như
nuôi dưỡng chim non. Thay vào đó, nó đặt trứng mình vào tổ
những loài chim khác. Những con chim bố mẹ này nuôi dưỡng
và bảo vệ chim tu hú con không chút nghi ngờ. Sau cùng, để
đáp lại sự hào phóng đó, chim tu hú con đá các anh chị em
"hờ" ra khỏi tổ hoặc biến chúng thành bữa ăn cho mình.
Plymouth Gin là một ví dụ. Ra đời từ 1793, suốt thời gian
nửa đầu thế kỷ XX, hương liệu Plymouth là hương liệu hàng
đầu ở Mỹ, châu Âu và một phần còn lại của đế chế Anh.
Hương liệu Plymouth được dùng để pha chế rượu gin hồng và
nhiều loại cocktail khác. Công ty sở hữu công nghệ sản xuất
Plymouth dần trở thành độc quyền: Hương liệu Dry London có
thể được sản xuất khắp nơi trên thế giới, nhưng Plymouth chỉ
được sản xuất duy nhất ở Plymouth - Anh.
Suốt những năm 80, Plymouth Gin lần lượt rơi vào tay
Whitbread, rồi đến Allied Lyons. Nằm trong danh mục vốn
đầu tư của Allied Lyons ngoài Plymouth còn có một loại hương
liệu rượu khác cũng đang được đánh giá rất cao - Beefeater.
Sau cùng, Allied quyết định loại bỏ Plymouth Gin hơn là phải
cùng lúc điều hành hai nhãn hiệu hàng đầu đang là đối thủ
của nhau.
Và điều đó đã tạo ra cơ hội tốt cho Plymouth. Vào năm
1996, doanh số bán được của hương liệu Plymouth không
đáng kể, nhưng các nhà máy rượu Plymouth vẫn còn đang
hoạt động với khả năng sản xuất rất cao. Chính vì thế, thay
vì đóng cửa Plymouth, Allied Domecq (tiền thân là Allied Lyons)
đã bán toàn bộ cơ sở, nhãn hiệu và các lò chưng cất cho tôi
cùng những người đồng sự của tôi với một giá rất thấp.
Năm năm sau, thế giới hương liệu thay đổi. Plymouth chiếm
ưu thế hơn Beefeater trong thị trường hương liệu Anh. Nhưng
điều này đã không làm Allied lo lắng. Mặc dù người Anh tiêu
thụ một lượng lớn rượu Gin, nhưng thị trường của vương quốc
Anh chỉ chiếm dưới 10% trong tổng số tiêu thụ thế giới. Nếu
như sự hồi sinh của Plymouth Gin chỉ giới hạn trong phạm vi
Anh quốc, thì nó quả không đáng ngại cho Beefeater, Tanqueray
hay Bombay Sapphire.
Tuy nhiên, vào năm 2000, trong một phiên đấu giá quốc tế,
Plymouth Gin tham gia vào chiến lược liên minh với Vin &
Sprit - một tập đoàn Thuỵ Sĩ đang sở hữu hương liệu Vodka
nguyên chất. Chúng tôi đã bán 50% hương liệu Plymouth cho
Vin & Sprit đổi lấy một số tiền mặt đáng kể cùng với việc đưa
Plymouth vào mạng lưới phân phối hương liệu nguyên chất
toàn cầu. Năm 2001, Vin & Sprit hợp tác kinh doanh với Jim
Bean và Maxxium, và tất nhiên Plymouth được tiếp thị hiệu
quả cũng như được chào bán khắp nơi trên thế giới.
Điều gì đã xảy ra? Tôi và các đồng sự khởi nghiệp bằng
cách mua lại một thương hiệu rượu có hơn 203 năm tuổi cùng
nhiều nhà máy rượu đang hoạt động từ một công ty hàng đầu
có công suất vượt trội. Không thể tưởng tượng được người ta
đã tốn bao nhiêu kinh phí để đầu tư xây dựng thương hiệu
cũng như cơ sở kinh doanh trong hơn hai thập kỷ qua, nhưng
con số chắc chắn phải lên đến hàng chục hoặc có khi hàng
trăm triệu đôla.
Những tập đoàn lớn đang phải hoạt động sản xuất quá tải
sẽ sẵn lòng san lại những việc kinh doanh kém hiệu quả hoặc
"vô lý", tùy theo cách nhìn nhận của bạn - với giá chuyển
nhượng rất thấp.
Những người đồng sự của tôi sau đó đã gầy dựng sự nghiệp
kinh doanh ở Anh để thu hút các tập đoàn công nghệ thức
uống hàng đầu khác. Bằng việc bắt tay giao dịch với Vin &
Sprit, chúng tôi khôi phục lại Plymouth Gin, đưa nó trở lại vị
trí hương liệu hàng đầu trên thế giới như trước đây - một vị
trí mang giá trị khổng lồ. Nếu Allied Domecq - chủ sở hữu của
Beefeater, và cũng là nơi bắt đầu của chúng tôi - nhận thấy
được tiềm năng này, hẳn ông sẽ rất hối hận vì đã bán thương
hiệu cũng như cơ sở Plymouth cho chúng tôi.
Chúng tôi thật sự không thể làm được gì nếu không có sự
giúp đỡ của công ty lâu đời đó. Nhưng thật ra họ cũng rất sẵn
lòng để làm việc đó. Vì sao các tập đoàn lớn lại tạo điều kiện
cho chúng ta có được những thành công ngoạn mục như vậy?
Câu chuyện của Bill
Trở lại những năm 80, Bill - một con người 80/20 - điều
hành một công ty nhỏ với lợi nhuận cũng rất khiêm tốn. Ông
làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Ông gặp khó
khăn trong việc xác định hướng thành công trong vô số định
hướng của công nghệ phần mềm. Do đó ông đã chia nhỏ đội
ngũ nhân viên của mình thành nhiều nhóm, nhóm làm việc
với DOS, nhóm làm OS/2, nhóm khác thì làm SCO Unix, một
số khác làm ứng dụng Mac, phần còn lại phát triển phần mềm
riêng cho chính công ty của ông. Dường như ông không có
lòng tin chắc chắn vào bất kỳ một định hướng nào có thể giúp
ông thắng được các đối thủ to lớn hơn mình.
Sau đó, Bill đã khéo léo thực hiện từng bước. Vào lúc sự
nghiệp đang ở cao trào, ông mang công ty nhỏ bé của mình
ra đánh cược khi liên minh hợp tác với IBM. Bill đưa ra thỏa
thuận rằng công ty của ông sẽ phát triển phần mềm trên máy
tính cá nhân cho IBM, nhưng không có giới hạn trong việc sử
dụng các phần mềm đó cho những máy tính khác. Quyết định
sử dụng "cấu trúc mở" đã giúp IBM đạt được sự tăng trưởng
phi thường trong doanh số trên máy tính cá nhân. Với hoạt
động kinh doanh công nghệ phần mềm, dù tổng doanh thu
thấp nhưng lợi nhuận thu được chiếm tỉ lệ rất cao trong đó,
đây quả là một món lợi hấp dẫn cho doanh nghiệp. Chính sự
hợp tác giữa Bill và IBM đã làm dịu lại vấn đề trên. Sau bước
chuyển đó, Bill Gates đã nhận ra bước ngoặc có thể đưa ông
trở thành người giàu nhất hành tinh.
IBM cuối cùng cũng nhận ra sự kỳ diệu ấy dù muộn màng.
Lẽ ra họ phải nhận thấy rằng trong sự liên minh ấy, Microsoft
thật sự là kẻ có lợi hơn IBM rất nhiều. IBM đã quá tập trung
vào công việc kinh doanh nội bộ mà bỏ quên các đối tác của
mình. Nếu họ nhất định xem việc mua lại một phần lớn
Microsoft như một điều kiện trong hợp đồng liên minh thì Bill
đã không thể từ chối. Có lẽ bởi vì Microsoft là một công ty quá
nhỏ để có thể làm bận tâm một tập đoàn thành công như IBM.
Bill Gates là ví dụ điển hình cho một hệ quả tất yếu. Cũng
như sự kiện Allied Domecq bán Plymouth Gin cho những con
người 80/20 một lần nữa cho thấy các công ty lớn và trưởng
thành đã giao dịch với những dự án kinh doanh nhỏ bé, tầm
thường nhưng mang lại nhiều triển vọng to lớn cho chủ sở
hữu nó về sau. Nói cách khác, các tập đoàn lớn dường như
thích được khai thác bởi những kẻ mới mẻ và nhỏ bé.
Rachel: Điển hình của
một nhà quản lý 80/20
Người bạn của chúng ta - Rachel - đã sử dụng những công
ty khác để sản xuất phần lớn sản phẩm, dịch vụ mà công ty
của bà cung cấp. Dự án được thực hiện bởi những nhà thiết
kế cá nhân hay các công ty nhỏ bên ngoài. Mọi hoạt động sản
xuất đều được hoàn thành bởi "thành phần thứ ba". Việc
buôn bán trong cửa hàng được coi sóc bởi người của Rachel,
mặc dù cửa hàng đó thuộc sở hữu và chịu sự điều hành của
các công ty khác. Rachel gặp nhiều hạn chế trong việc lặp lại
hệ thống, thực hiện chiến lược kinh doanh cũng như giao dịch
trực tiếp với khách hàng.
Rachel có thể tự làm những việc đó một mình với chính
công ty của bà. Vấn đề quan trọng duy nhất chỉ là thương
hiệu sản phẩm mà người chủ đã để lại cho bà khi khởi nghiệp.
Song, cũng như tấm gương của Plymouth Gin, chừng đó là đủ
để Rachel có thể gầy dựng sự nghiệp từ một thương hiệu
"chết". Bất chấp sản phẩm đó gần như không còn tiếng tăm
gì trên thị trường, bà đã xây dựng thêm ba thương hiệu hàng
hóa khác từ trong đống hỗn độn ấy.
Rachel đồng ý rằng: "Những gì mà tôi cần bây giờ là sự đảm
bảo và sự tự tin để trở thành thành viên của một tập đoàn lớn.
Tôi nhận thức được rằng tốt nhất là mình không nên dựa vào
nguồn lực của công ty đó hay cách thức hoạt động của nó. Tôi
phải xây dựng một đội ngũ nhân viên riêng và phải dựa trên
chính thực lực của mình, cũng như những đơn hàng nhắm
vào các công ty bên ngoài. Tôi cho rằng mình đang khai thác
các công ty khác và tất nhiên có thể hoàn thành việc đó dựa
trên chính khả năng tài chính của mình - nếu chúng tôi có
lòng tin và sự quyết tâm."
Theo đuổi sự phát triển
Quá tải không phải là lý do duy nhất của những tập đoàn lớn
để họ tìm kiếm sự cộng tác với những công ty nhỏ và non trẻ
hơn. Một nguyên nhân chính khác nữa là thiếu sự tăng trưởng.
Nếu chúng ta loại trừ những thành tựu thu được, hầu như
không tập đoàn thịnh vượng nào có mức tăng trưởng hơn 5%
mỗi năm. Dường như "tầm cỡ" và sức tăng trưởng luôn luôn
không đi cùng nhau.
Không có gì lạ khi nhiều công ty lớn muốn "bắt tay" hợp tác
với những dự án kinh doanh nhỏ, bởi lẽ thường thì đôi bên sẽ
cùng có lợi. Nhưng những con người 80/20 có lẽ là được lợi
hơn cả.
Trong những ngày đầu của công ty tư vấn LEK, chúng tôi
có rất ít khách hàng, vì thế chúng tôi đã hợp tác với công ty
tư vấn PA - một công ty lớn và lâu đời. Thỏa thuận rất đơn
giản. PA sử dụng mạng lưới hoạt động của nó để cung cấp
hướng dẫn và giới thiệu chúng tôi với khách hàng. Như một
thành viên của PA, các khách hàng của nó sẵn sàng chấp
nhận chúng tôi. Đổi lại, chúng tôi chia cho PA phân nửa lợi
nhuận kiếm được và một dòng sản phẩm mới đang phát triển.
Mọi việc diễn ra suôn sẻ. PA hướng tới việc khuếch trương
phạm vi hoạt động và hứa hẹn nhiều lợi nhuận. Mặc dù vậy,
họ chỉ giao cho chúng tôi một số ít khách hàng. Tuy nhiên, PA
đã phạm phải một sai lầm. Trong suốt thời gian đó, LEK vẫn
giữ lại thương hiệu riêng, ngày càng trở nên mạnh mẽ và ít
phụ thuộc vào PA hơn. Với mức tăng trưởng vượt bậc, chính
sự hợp tác với PA bấy giờ lại khiến khả năng đào tạo và huấn
luyện đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của chúng tôi bị kiềm
hãm. Cuối cùng, lợi nhuận mà PA thu về từ LEK không còn
tương xứng với những gì họ đã cung cấp cho chúng tôi nữa.
Khi LEK kết thúc quan hệ với PA cũng là lúc LEK giữ lại hết
tất cả khách hàng của PA.
Bài học thực tế: Hãy bắt tay với các tập đoàn lớn hơn, nơi
mà bạn có thể sử dụng chính sức mạnh của họ để chống lại
họ. Nhìn chung, các doanh nghiệp trẻ luôn thu được nhiều lợi
nhuận hơn từ việc hợp tác này và có thể "còn hơn thế nữa".
Chính vì vậy, các tập đoàn lớn nên cố gắng đàm phán một số
điều khoản công bằng trong việc phân chia cổ phần đối với
các doanh nghiệp nhỏ này. Nhưng là một con người 80/20,
bạn nên biết cách từ chối các thỏa thuận bất lợi này, cố giữ
cho giao dịch chỉ dựa trên sự phân chia doanh thu và lợi
nhuận để dễ bề chấm dứt hợp đồng về sau.
Liên minh rất hữu ích nhưng không phải là mãi mãi. Vì thế,
chúng ta chỉ nên "đính hôn" chứ đừng bao giờ "kết hôn".
Làm cách nào sử dụng
những công ty khác?
1. Xác định những thành phần thiếu sót trong những thị
trường bị bỏ quên.
Trong quá trình tìm hiểu để chọn ra một hướng kinh doanh
khả thi dựa trên sự hiểu biết về các công ty lớn hơn, bạn nên
cố gắng nghĩ tới những thành phần thiếu sót mà các công ty
đó đã bỏ quên. Các công ty "trưởng thành" 9/10 thường gặp
phải những bài toán hóc búa như: họ có nhiều hàng hóa, cơ
sở sản xuất, có khả năng xâm nhập thị trường, nhưng lại
thiếu tư duy để giải quyết hết mọi vấn đề cùng lúc. Nếu bạn
có thể tìm thấy những mảnh nhỏ bị bỏ quên trong trò chơi ráp
hình này, xem như bạn đã sẵn sàng cho một cuộc phiêu lưu
mới rồi đó.
Theo các nhà phân tích kinh tế, "thị trường bỏ quên" chính
là những cơ hội có khi rất thực tế và dễ nhận thấy, nhưng
chưa ai có sáng kiến thực hiện một việc gì đó táo bạo nhằm
điền vào những chỗ trống ấy. Và chỉ có con người mới làm
được điều này.
Con người có vốn kiến thức riêng, những kiến thức hoàn
toàn có thể là cơ sở cho một ý tưởng mới ra đời. Tuy nhiên vốn
kiến thức này không được tận dụng vì con người thường không
đủ sáng suốt để nghĩ ra một ý tưởng kinh doanh trong một
hoàn cảnh nhất định. Như F.A Hayek - nhà kinh tế học người
Úc đã giải thích vào năm 1945, do kiến thức cá nhân không
được khai thác đầy đủ, nên nền kinh tế đã không phát triển
nhanh như nó có thể:
"Điểm mấu chốt trong một trật tự kinh tế hợp lý là
những kiến thức hữu dụng trong từng hoàn cảnh
mà ta phải sử dụng không bao giờ tồn tại tập trung
với nhau. Trái lại, chúng được mỗi người sở hữu một
cách riêng lẻ, phân tán, đôi khi đó lại là những kiến
thức kém toàn vẹn và mâu thuẫn lẫn nhau. Vấn đề
kinh tế cấp bách của xã hội hiện nay là làm sao đảm
bảo cho các nguồn lực hữu dụng nhất đã có có thể
đến được với từng thành viên trong xã hội nhằm tận
dụng được toàn bộ kiến thức xã hội chứ không phải
chỉ của cá nhân mỗi người."
Việc có nên kết hợp hiểu biết của mình vào nguồn tài nguyên
kinh doanh đã có của tập đoàn mà bạn sáp nhập vào hay
không hoàn toàn tùy thuộc ở bạn.
Như trường hợp của Plymouth Gin, các đồng sự của tôi đã
biết cách cứu sống một thương hiệu đang "hấp hối". Những
nhà quản trị của Allied Domecq dù có những kỹ năng này
hay không, họ cũng đã không muốn sử dụng chúng. Đây
chính là một thành phần bị bỏ sót, những người đồng sự của
tôi đã phát hiện ra yếu tố này và giờ đây nó không còn bị bỏ
quên nữa.
Cũng như khách sạn thứ 2 và thứ 3 mà Zoffany mua lại
thuộc hệ thống khách sạn danh tiếng - Trust House Forte. Họ
bán chúng cho Zoffany với giá rất rẻ vì nó không còn khả
năng sinh lợi nhiều nữa. Trust House Forte hoạt động xung
quanh khu bảo tồn trong một thị trấn nhỏ, ít du khách, nhu
cầu trong thị trấn lại không đủ cho hai khách sạn này hoạt
động. Thành phần bị bỏ quên ở đây đơn giản chính là những
doanh nhân địa phương. Zoffany đã huấn luyện các nhà quản
trị của họ cách tìm kiếm nguồn khách hàng tiềm năng này.
Ước lượng trên doanh thu và số vốn đạt được, khách sạn này
là hai trong số những khách sạn có lợi nhuận cao nhất ở Anh.
Thiết nghĩ, việc đưa ra một giải pháp sẵn có cho những tập
đoàn đang hoạt động chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn nhiều so với
việc bạn phải bắt đầu một cái gì đó chưa định hình. Bạn
không cần phải phát minh ra một công thức mới, đơn giản
hơn, bạn chỉ cần mượn nó - các tài nguyên sẵn có trong
những công ty khác. Nó giống như một gói súp nhỏ, thay vì
thêm nước, bạn chỉ cần thêm ý tưởng hay một ít kỹ năng thiếu
sót nào đó là có thể dùng được.
Hãy thử làm một bài tập sau: Viết tên tất cả các tổ chức lớn
mà bạn biết vào bên trái một tờ giấy. Chính giữa, xác định
những điểm mà họ thiếu sót - đó là các hoạt động kinh doanh
họ có thể làm nhưng đã không làm hoặc có làm nhưng chưa
hiệu quả. Nếu yếu tố đó là một trong những gì bạn đang có
hoặc có thể tìm được bằng cách hợp tác với ai khác, khi đó
bạn hoàn toàn có thể bắt đầu một dự án kinh doanh mới.
Khi đã có danh sách các công ty như vậy, hãy tiếp cận xem
nó có thể cung cấp những gì bạn cần không. Nếu có, bạn có
thể thuê họ (với mức giá cố định hoặc chia doanh thu), mua
lại hoặc "bắt tay" cùng kinh doanh với công ty đó. Tóm lại, sự
lựa chọn các hình thức này tùy thuộc vào những gì bạn mong
muốn. Thuê sẽ tốt hơn mua hẳn vì nó ít rủi ro và tiết kiệm vốn
cho bạn hơn, và việc mua lại sẽ tốt hơn hợp tác nếu bạn
không muốn phải "hy sinh" một phần lợi nhuận sau này của
mình cho nó.
Để lựa chọn cách tiếp cận một công ty khác, hãy nghĩ xem
bạn có thể "giúp đỡ" nó như thế nào và phần lợi nhuận mà bạn
kiếm được trong tổng lợi nhuận của nó sẽ là bao nhiêu. Bạn
không cần cố nghĩ xem ai sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn từ
việc hợp tác này. Bạn luôn luôn có những sự chọn lựa khác.
2. Bám sát nguyên lý 80/20
Nguyên lý 80/20 "khắt khe" cho rằng với cùng lượng vốn và
công sức bỏ ra, bạn chỉ nên thực hiện những hoạt động nào
mang lại giá trị trả về cao nhất.
Nếu một hoạt động sinh lời thấp, bạn không nên làm hay
cung cấp dịch vụ đó. Nếu đó là một dịch vụ (hay hàng hóa)
cần thiết buộc phải đi kèm trong mua bán với khách hàng,
hãy để các công ty khác làm giúp bạn. Ngay cả những hình
thức kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận vẫn có thể tốt hơn
nữa nếu bạn thực hiện bằng cách sử dụng những nguồn lực
bên ngoài. Đó là những trường hợp như khi hoạt động kinh
doanh ấy tiêu tốn một nguồn tài nguyên mà bạn có thể sử dụng
nguồn tài nguyên này để tạo ra một giá trị lợi nhuận cao hơn.
Để xây dựng một khu nghỉ mát, bạn cần phải cung cấp
thêm một số sản phẩm hay dịch vụ nhất định cho khách
hàng. Những dịch vụ đi kèm sinh lợi cao là những dịch vụ mà
bạn chỉ tốn 20% (hay ít hơn) công sức nhưng thu được ít nhất
là 80% lợi nhuận. Với các hoạt động này, dịch vụ của bạn nhất
thiết phải khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh và phổ biến
hơn cho mọi khách hàng.
Tuy nhiên, việc sáp nhập với các công ty khác để làm ít việc
hơn và thu lợi nhuận cao hơn cũng là một mối nguy hiểm
đáng ngại. Nên nhớ rằng, ngưng làm một việc gì đó luôn khó
khăn hơn là đừng để nó xảy ra ngay từ đầu.
Hai điểm mấu chốt cản trở hoạt động kinh doanh phát triển
là vốn và lao động. Để sử dụng tối ưu hai yếu tố trên, hãy rà
soát lại từng điểm mà vốn và nhân lực đang được sử dụng.
Hãy cân nhắc xem việc không sử dụng nguồn nhân lực hay
vốn từ các công ty khác có mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho
bạn hơn không. Bạn chỉ nên sử dụng nguồn vốn và nhân lực
của mình đối với những hoạt động kinh doanh mà việc sử
dụng các công ty khác không cho lợi nhuận cao hơn hay chi
phí thấp hơn.
Trước đây, các dự án mới luôn cần nhiều người và vốn hơn
so với kế hoạch dự kiến ban đầu. Nhưng hiện nay, mỗi khi
nhìn vào một kế hoạch kinh doanh, tôi thường cắt giảm nguồn
vốn và nhân lực xuống đến 25% so với đề nghị mà vẫn không
làm giảm doanh thu hay lợi nhuận. Để làm được điều này,
bạn hãy nghĩ xem từng hành động triển khai có thật sự cần
thiết không, hay cân nhắc xem có nên sử dụng công ty nào
khác làm việc này cho bạn chăng.
Hãy bắt đầu theo cách riêng của bạn. Bất cứ khi nào ai đó
đề nghị hợp tác để tăng vốn, bạn hãy cân nhắc xem yêu cầu
đó có thật sự mang lại lợi nhuận cao hay không. Ngay khi nó
mang đến lợi nhuận cho bạn, hãy nghĩ xem bạn có khả năng
tìm được khoản lợi nhuận ấy từ một nơi khác không.
3.Tách khỏi sự phụ thuộc - cách "dứt điểm" những hợp
đồng dài hạn
Có hai loại giao dịch với nhóm đối tác thứ ba này. Một là
giao dịch "dứt điểm" như việc mua lại Plymouth Gin từ Allied
Domecq. Hai là giao dịch "lâu dài" như việc hợp tác kinh
doanh 50/50 giữa Plymouth Gin và Vin & Sprit.
Đối với kiểu làm ăn "dứt điểm", chất lượng của đối tác
không quan trọng. Khi trả giá xong, mọi việc sẽ kết thúc ở đó.
Trái lại, với những giao dịch mang tính lâu dài, hãy bắt đầu
bằng những thỏa thuận "lỏng lẻo" để từ đó bạn có thể dễ dàng
tách khỏi công ty "mẹ". Đừng bao giờ bán cổ phần doanh
nghiệp của bạn trừ khi bạn thật sự cần hoặc công ty mà bạn
sáp nhập rõ ràng mang lại lợi nhuận kinh tế rất cao trong
ngắn hạn cũng như dài hạn.
Với chiến lược hợp tác lâu dài thì chất lượng từ phía công
ty đối tác là yếu tố cần thiết. Nếu chọn lựa đúng, bạn có thể
đạt được 80% giá trị trong khi công ty bạn hợp tác chỉ thu
được ít hơn 20%.
Hãy "sưu tầm" danh sách các công ty "tầm cỡ" hơn bất cứ
nơi nào để có thể chắc chắn bạn luôn đi đầu trong việc lựa
chọn các đối tác sao cho có hiệu quả nhất. Nếu bạn "bị" một
công ty khác tiếp cận đề nghị hợp tác kinh doanh, hãy tìm
hiểu thấu đáo những doanh nghiệp tương tự có thể thay thế.
Biết đâu bạn sẽ tìm được một doanh nghiệp khác tốt hơn.
Trên thực tế, rõ ràng có nhiều công ty xứng đáng cho bạn sáp
nhập lâu dài hoặc ít nhất là trong một khoảng thời gian nhất
định. Nếu bạn dự định ở lại đó mãi, hãy "đối xử" với nó công
bằng hơn như cách mà nó đã mang lại lợi nhuận cho bạn.
4.Kết hợp những "chú chim" khác loài với nhau
Con người làm nên sự tăng trưởng kinh tế, điều này luôn
đúng trong tất cả doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp của bạn.
Tuy nhiên, phần lớn sự phát triển hay các tiềm năng phát
triển mà các công ty đang có chỉ được thực hiện bởi một số
ít cá nhân mà thôi. Việc phát hiện ra những người này rất khó
nhưng rất quan trọng. Khi đã tìm được, hãy tìm cách động
viên, thúc đẩy họ làm việc và bạn cũng đừng quá lo lắng rằng
họ sẽ chia phần lợi nhuận mà bạn luôn bị ám ảnh.
Như người bạn ở Hà Lan của tôi, Pieter, đã chia sẻ: "Trong
hợp đồng kinh doanh với ban quản trị của một công ty nhỏ
hơn, ngay khi bắt đầu, chúng tôi đã nhận định sai mục đích
hợp tác của họ. Tôi đã tưởng rằng họ sẽ "trở mặt" khi tìm thấy
một cơ hội lợi nhuận hấp dẫn. Nhưng sau đó tôi nhận ra cái
mà họ thích hơn chính là "tầm cỡ phát triển". Trên thực tế, tôi
phát hiện ra rằng vấn đề tài chính không phải là tất cả. Họ
thích được là thành viên của một dự án đang tăng trưởng
mạnh. Trước đây họ đã từng tham gia vào một dự án phát
triển rất lớn và bây giờ họ muốn thực hiện điều đó lần nữa.
Họ ham thích sự hào nhoáng, các chiến dịch quảng cáo rầm
rộ... và chỉ đơn giản thế thôi".
Nếu mối quan tâm của công ty hợp tác không phải là lợi
nhuận thì đây chính là một thuận lợi cho bạn triển khai hành
động, và từ đó bạn có khả năng chiếm được phần lớn lợi
nhuận từ các hoạt động sản xuất. Xác định được "điểm nóng"
của đối phương, bạn sẽ thấy đôi khi tất cả những gì họ muốn
chỉ đơn giản là sự thử thách mới trong công việc hay cảm giác
được góp phần vào những thành tựu to lớn. Hãy cố gắng làm
cho người mà bạn hợp tác thích bạn và cảm thấy công việc
của bạn cũng như của họ.
Con người là những cá thể khác nhau với những sở trường
khác nhau. Những "chú chim" cùng loài thường thích chung
sống với nhau, và thời cơ đến khi bạn kết hợp được những
"chú chim" khác loài, buộc chúng làm việc cùng nhau.
Để có được khối kiến thức chung đa dạng đòi hỏi sự liên kết
của nhiều con người khác nhau. Kết hợp được những con
người tài năng có mối quan hệ hời hợt với nhau bạn sẽ thấy
sức mạnh giá trị mà họ tạo ra hoàn toàn hơn hẳn một tập thể
đã có sẵn nhưng nghèo nàn tài nguyên, trí tuệ.
Trước khi bắt tay vào một sự nghiệp kinh doanh, bạn hãy
dành thời gian để "nhìn xa trông rộng", tuyển chọn ra một số
nhân tài hội đủ những giá trị và kinh nghiệm cần thiết để bổ
sung cho những gì bạn còn thiếu. Hãy tạm hoãn việc triển
khai kế hoạch lại cho đến khi bạn tìm được sự phối hợp hoàn
hảo tạo nên "thiên đường" cho sự thành công.
Con người 80/20 có thể làm gì?
Con người 80/20 thật may mắn khi hiện nay nhiều công ty
lớn và trưởng thành đang sẵn lòng hơn bao giờ hết để hợp tác
với những dự án nhỏ và mới mẻ hơn. Các tập đoàn lớn đang
chịu tình trạng sản xuất quá tải nhưng lại trì trệ trong mức
tăng trưởng sẽ dễ dàng cho bạn tiếp cận hơn các doanh nghiệp
có cùng tầm cỡ hoạt động với doanh nghiệp của bạn.
Tóm lại, để là một con người 80/20, bạn cần phải:
Ghi nhận và lựa chọn những hoạt động siêu lợi nhuận, siêu
đơn giản mà doanh nghiệp bạn không có.
Tận dụng các công ty khác để làm việc cho bạn.
Chọn đúng công ty để sáp nhập.
Săn lùng nhân tài trong các công ty này.
Thành công luôn xuất phát từ một số ít cá nhân, khi kiến thức khác nhau của
mỗi người được phối hợp sử dụng chính xác vào đúng thời
điểm thích hợp.
10 Bảo vệ nguồn vốn
"Sự thật là chúng ta không có nhiều tiền, do đó
những gì ta phải làm là suy nghĩ."
Giáo sư Ernest Rutherford,
tác giả học thuyết tách nguyên tử
on người 80/20 luôn biết cách khai thác tốt nguồn
C vốn. Họ là một trong số ít những người thường
khởi nghiệp với rất ít vốn, nhưng sẽ kết thúc dự án kinh
doanh bằng một kho tiền khổng lồ.
Câu chuyện của Christoforo
Việc tích lũy vốn xưa nay chưa từng dễ dàng. Thần hộ
mệnh của những con người 80/20 là Christoforo Colombo
(1446-1506), ông là người đã tạo ra giá trị to lớn nhất từ một
lượng vốn ít nhất.
Colombo đã thuyết phục mọi người rằng ông chỉ cần ba con
tàu nhỏ để thực hiện hành trình về phía Tây của Ấn Độ và tìm
ra một vùng đất mới trù phú, đó chính là châu Mỹ ngày nay.
Nhưng ông đã tốn nhiều công sức để quyên tiền cho cuộc
hành trình của mình hơn mức cần thiết.
Là một người Ý, ông cố gắng tìm kiếm nguồn tài trợ từ các
hoàng tử Ý. Thời đó, Ý bao gồm rất nhiều các tiểu vương quốc
nên ông có rất nhiều nhà tài trợ cho sự chọn lựa của mình. Và
ông quyết định đi khắp nước Ý, phác thảo kế hoạch của mình
cho vị vua này, bá tước nọ, nhưng không ngờ tất cả đều cho
rằng kế hoạch của ông thật điên rồ.
Dù giới công tước Anjou - Pháp đã từng nghe đến đề tài của
ông nhưng yêu cầu cấp vốn của Colombo vẫn bị từ chối.
Sau đó, ông hướng lòng thành tới hoàng đế Bồ Đào Nha,
nhưng vẫn không được chấp thuận.
Ông trình bày kế hoạch của mình cho các công tước xứ
Medina-Sedonia. Kết quả vẫn không khá hơn.
Kế tiếp, ông thử với các bá tước ở Medina-Celi. Thất bại, họ
cho rằng đó là một kế hoạch viển vông.
Rồi đến đức vua và hoàng hậu xứ Tây Ban Nha, họ cũng nói
"không" dù có phần lịch sự hơn.
Không phải là một người bỏ cuộc dễ dàng, vận may cuối
cùng cũng mỉm cười với Colombo. Năm 1492, trước sự thất
bại của Granada, thành trì Moors rơi vào tay người Tây Ban
Nha. Nhận thấy nữ hoàng Isabella đang trong tâm trạng phấn
khởi, ông quyết định thử lần nữa. Thành công! Sau mười tuần
lênh đênh trên biển, Colombo đã tìm thấy đất liền, đặt nụ hôn
mãn nguyện lên nó và đặt tên vùng đất này là San Salvador.
Ba bài học rút ra từ câu chuyện của Christoforo
Nếu dự án của bạn sẽ làm thay đổi thế giới và tạo ra một mức
lợi nhuận trên vốn cực lớn, đừng nản lòng khi gặp khó khăn.
Vốn không phải là một thứ hàng hóa trao đổi. Nó không
như bể rượu của liên minh châu Âu, có thể bị rút ra bởi những
kẻ táo bạo luôn "khát nước". Vốn thuộc về các nhà tư bản, do
đó, con người 80/20 cần phải biết cách hợp tác với những cá
nhân khác. Và mỗi người sẽ có phong cách thực hiện và những
chuẩn mực của riêng họ.
Bài học thứ ba của Christoforo là vốn cũng tuân theo nguyên
lý 80/20. Chỉ một phần nhỏ vốn được sử dụng thích hợp sẽ
mang lại hiệu quả sản xuất to lớn.
Chúng ta thường ngộ nhận về tầm quan trọng của vốn,
thực tế cho thấy nó không phải là nguyên nhân chính dẫn đến
thành công. Chi phí cho hành trình của Colombo chỉ chiếm
một phần rất nhỏ trong hàng trăm nghìn cung điện đồ sộ ở
châu Âu lúc bấy giờ. Cái đã tạo ra sự giàu có cho Colombo,
cho Tây Ban Nha và cho thế giới chính là ý tưởng và một con
người dám nghĩ dám làm, chứ không phải vốn.
Từ một ít vốn có thể sẽ tạo ra đa số của cải vật chất. Nhân
tố tạo nên sự gia tăng gấp bội này là ý tưởng và những con
người 80/20. Suốt hai thập kỷ qua, Tây Ban Nha đã đổ đầu
tư vào dự án Colombo. Và bất kỳ bá tước nào muốn "đầu cơ
vặt" đều có thể làm như vậy, điều này ngẫu nhiên đã làm lệch
hướng của tiến trình lịch sử.
Một số cú đột phá lớn tạo nên
sự phồn vinh cho xã hội
Trước thời kỳ hiện đại, trữ lượng của cải của thế giới rơi vào
tình trạng đình trệ kéo dài. Mức tăng trưởng kinh tế hàng năm
gần như bằng 0. Đây là hậu quả của việc dồn của cải xã hội
để theo đuổi những mục tiêu phi kinh tế. Ngân sách quốc gia
phần lớn bị tiêu xài bởi chính quyền và giới quý tộc; đổ vào
chiến tranh hay tín ngưỡng, kiện cáo hay xây dựng các cung
điện với những khu vườn xa hoa. Hầu hết những công trình
này đều rất lãng phí. Mặc dù có một số công trình để lại cho
người đời sau những giá trị nghệ thuật vô giá, nhưng nhìn
chung vẫn không làm cho nền kinh tế lúc bấy giờ phát triển
hơn. Của cải chuyển biến từ dạng này sang dạng khác nhưng
không hề được tích lũy.
Nền kinh tế chỉ bắt đầu tăng trưởng từ thế kỉ XIV, khi mà
một số ít ngân sách được chuyển hướng đầu tư vào thương
mại và công nghệ, dẫn đến sự phát triển công nghiệp. Những
dự án như Colombo cùng với tất cả các doanh nhân khác chỉ
sử dụng một tỷ lệ nhỏ vốn sẵn có của châu Âu nhưng lại là
nguồn gốc dẫn đến sự phát triển của nền kinh tế châu Âu. Các
công trình này đã mang lại thành tựu to lớn cho xã hội.
Khi chúng ta nói rằng nền kinh tế tăng trưởng 2% mỗi năm,
không có nghĩa là mọi doanh nghiệp đều tăng trưởng 2%. Một
số hoạt động kinh doanh lùi lại trong khi một số khác có thể
có mức tăng trưởng lên đến 20%, 50% hoặc thậm chí 100%.
Phần lớn sự phát triển đến từ thiểu số các hoạt động kinh
doanh, những doanh nghiệp này đã và đang phát triển rất
nhanh. Bản thân các doanh nghiệp luôn kinh doanh cùng lúc
rất nhiều sản phẩm, dịch vụ. Hầu hết chúng đều có mức tăng
trưởng chậm hoặc thậm chí là âm nhưng một số hoạt động
trong đó lại có tốc độ phát triển nhanh bất thường. Và khi
chúng ta đang ngập ngừng ở mức trung bình, ta sẽ nhận ra
một số nhỏ tăng trưởng ngoạn mục đã góp phần rất lớn vào
tỷ lệ tăng trưởng của toàn xã hội.
Vốn cũng vậy, chỉ có một số dự án mang lại lợi nhuận gấp
hàng trăm nghìn lần, còn lại hầu hết thường có giá trị rất nhỏ
hoặc đôi khi âm. Của cải được tích lũy thông qua một số ít
hoạt động sản xuất có hiệu quả, và thông qua biện pháp
phân phối nhiều vốn hơn cho những hoạt động có năng suất
cao hơn của những người sử dụng hiệu quả nhất: những con
người 80/20.
Vốn ngày nay ít gây trở ngại cho những con người
80/20 hơn
Mặc dù ngày nay các nhà tài phiệt đôi khi cũng mù quáng
như các công tước Anjou, Medina-Sedonia, các bá tước vùng
Medina-Celi trước đây cũng như các nhà tư vấn tài chính đa
phần xuất thân từ tầng lớp vương tôn quý tộc, nhưng thực tế
tôi phải nói rằng vẫn còn đó những tin tức tốt lành cho những
con người 80/20.
Việc tìm nguồn vốn hiện nay đã dễ dàng hơn trước kia rất
nhiều bởi sự phân chia lại nguồn vốn cho những cá nhân
sáng tạo. Hơn nữa, ngày nay, người ta cần ít vốn hơn để có
thể bắt đầu một dự án kinh doanh hứa hẹn nhiều tiềm năng
lợi nhuận to lớn.
Dưới thời Đế chế La Mã, cơ cấu kinh tế không được tổ chức
hướng tới đầu tư vào khoa học kỹ thuật. Cũng như tất cả các
xã hội tiền hiện đại khác, nền kinh tế của Đế chế La Mã chủ
yếu tập trung vào quân đội, chính trị, tập trung đẩy mạnh
nông nghiệp, và trong thời kỳ sắp sụp đổ lại quay sang tập
trung vào tôn giáo tín ngưỡng.
Lịch sử nhân loại cho thấy khi được đầu tư vào những dự
án kinh doanh triển vọng thì với 20% vốn ban đầu bạn có thể
tạo ra hơn 80% lợi nhuận. Tuy nhiên, hiện nay, mức độ tập
trung vào các dự án kinh doanh nhỏ lại cao hơn bao giờ hết
và mức tăng trưởng của thế giới cũng vậy.
Sự tăng trưởng sản xuất ngày càng trở nên ít phụ thuộc vào
vốn hơn. Trong nhiều thập kỷ qua, sự phát triển kinh tế phải
được đầu tư đúng mức, sự đầu tư đúng mức lại đòi hỏi phải có
nhiều vốn. Giữa thế kỉ XIX, Karx Marx phát minh ra chủ nghĩa
tư bản - một nền kinh tế chủ yếu tập trung xung quanh vốn.
Trong những năm 1850-1970, sự phát triển trở nên khó
khăn hơn cho những doanh nghiệp nhỏ. Đây là thời của các
công ty liên doanh, các tổ chức bề thế. Nguồn vốn ngày càng
khan hiếm và quy tụ về tay các tập đoàn lớn mạnh.
Nguồn cung cấp ngân sách trong các tập đoàn kinh doanh
vượt ra khỏi phạm vi cá nhân và gia đình. Trong khi phần lớn
các doanh nghiệp vào thế kỉ XIX chỉ ở cỡ vừa, cỡ quốc gia và
công ty gia đình, thì sang thế kỉ XX, hoạt động kinh doanh
được mở rộng trên nhiều quốc gia và có sự liên minh tài
chính. Các tập đoàn này được điều hành bởi một số nhà quản
trị - những người không phải chủ sở hữu tài sản. Vai trò của
thương gia ít quan trọng hơn nhà quản trị, vai trò của cá nhân
ít quan trọng hơn tập thể.
Nhiều nhà quan sát sắc sảo cho rằng tầng lớp thương nhân
đã hết thời. Nhà kinh tế học vĩ đại Joseph Schumpeter, năm
1942 đã viết một đoạn kết buồn cho tầng lớp thương nhân.
"Chức năng xã hội (của các doanh nghiệp nhỏ) đang
mất dần tầm quan trọng và có khuynh hướng ngày
càng giảm thêm ... Bản thân sự đổi mới đang đi vào
lối mòn. Khoa học kỹ thuật phát triển tạo ra đội ngũ
chuyên gia có khả năng kiểm soát được mọi vấn đề.
Yếu tố "cảm tính" trong thương mại đang dần mất
đi và thay vào đó là tính khoa học và sự chủ động.
Thói quan liêu bao cấp không chỉ "xóa xổ" các công
ty nhỏ và vừa, mà còn làm điêu đứng tầng lớp thương
nhân... Giai cấp tư sản không chỉ mất đi nguồn thu
nhập mà còn mất cả một điều vô cùng quan trọng
khác - vị trí trong xã hội".
Sức mạnh của nguyên lý 80/20 phát triển cho thấy vốn
ngày càng tách khỏi mối quan hệ với các tập đoàn to lớn của
nó trước đây.
Mối liên hệ giữa đầu tư và tăng trưởng vốn bị phá vỡ
Một số người có vốn kết hợp cùng những con người 80/20
đã tạo ra lợi nhuận kinh tế cao hơn mức trung bình mà các
công ty liên doanh đạt được. Một số nhà tư bản bắt đầu tìm
kiếm cơ hội đầu tư vào các dự án kinh doanh nhỏ nhưng siêu
lợi nhuận. Từ sau năm 1970, thực trạng này càng trở nên
"nóng bỏng" hơn. Mặc dù chỉ một phần nhỏ vốn thuộc sở hữu
tư nhân, nhưng chính nguồn vốn này đã tạo ra nhiều lợi ích
kinh tế to lớn.
Trước đây, sự phát triển kinh tế quả thật có quan hệ mật
thiết với các yếu tố vật chất. Nhiều công ty mới được xây dựng
kề bên nguồn cung cấp nguyên vật liệu hay nguồn cung cấp
năng lượng. Mãi đến 30 năm trở lại đây, người ta mới nhận
ra sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi sự tăng trưởng tương ứng
trong hàng hóa và sau đó là vốn. Sau những năm 1970, với
vai trò của một nhà tư vấn quản trị trẻ, tôi rút lại suy nghĩ về
sự can thiệp của xuất nhập khẩu trong giá trị và tỷ trọng của
nền kinh tế.
Bước tiến của nguyên lý 80/20 đã để lại ảnh hưởng đằng
sau. Ngày nay, không ai còn quan tâm đến tầm quan trọng
của thương mại. Alan Greenspan, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ, ước tính tỷ trọng GDP của Mỹ hiện nay xấp xỉ năm
1900 nhưng giá trị của nó đã tăng lên gấp 20 lần.
Cơ sở vật chất và công nghiệp nặng là những ngành đòi hỏi
đầu tư nhiều vốn. Công nghiệp nhẹ và dịch vụ thì ít hơn hoặc
gần như không cần. Với mỗi đôla bán được, so với 25 năm
trước, vốn bỏ ra ít hơn 20% và kết quả là tổng số vốn cần thiết
giảm gần 350 tỷ đôla.
Nguyên lý 80/20 đã phá vỡ ràng buộc giữa vốn đầu tư và
sức tăng trưởng kinh tế. Giữa năm 1994-2000, hoạt động sản
xuất ở Hoa Kỳ tăng 2,8% mỗi năm, nhiều hơn trước đây. Trong
đó, lĩnh vực công nghệ thông tin, vốn là một ngành không đòi
hỏi đầu tư nhiều vốn, đóng góp hơn phân nửa vào sự tăng
trưởng kinh tế đó. Trữ lượng ngân sách cho công nghệ thông
tin chiếm ít hơn 1% trong tổng ngân sách Hoa Kỳ. Con số này
biểu hiện mối quan hệ 50/1, là con số cực kỳ lý tưởng cho
nguyên lý 80/20.
Vốn không phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự phát
triển kinh tế ngày nay mà đó là công nghệ, ý tưởng và những
con người 80/20. Khoa học công nghệ đã tự giải phóng bản
thân nó khỏi sự lệ thuộc vào vốn. Nhà kinh tế học Lester
Thurow thừa nhận: "Nếu không có thử thách, Bessemer có thể
đã không tạo ra được sắt thép". Con người 80/20 không còn
cần những công cụ đắt tiền nữa.
Khái niệm "thương mại" giữa vốn và doanh nghiệp nhỏ
cũng thay đổi ít nhiều tùy theo mỗi người. Một số người vẫn
còn đánh giá cao tầm quan trọng của vốn, trong khi sức mạnh
thực sự nằm ở ý tưởng và cá nhân sáng tạo.
Ngày nay, để phát sinh ra của cải, vốn không còn là yếu tố
then chốt nữa. Thay vào đó là sự kết hợp giữa sức mạnh ý
tưởng, khả năng sáng tạo của con người và một lượng vốn vừa
đủ. Để thành công, vốn không chưa đủ, cái mà ta cần là "vốn
cộng": vốn + ý tưởng, vốn + con người 80/20.
Hai lý do cần thận trọng
Một là, việc tích lũy vốn có vẻ dễ dàng hơn trước đây, nhưng
thực tế vẫn có những khó khăn riêng của nó. Đã từng chứng
kiến hai mặt của vấn đề trong nhiều năm, tôi phải công nhận
rằng những người cung cấp vốn vẫn có thế lực hơn những
người cung cấp ý tưởng.
Hai là, con người 80/20 luôn cần một số vốn, thường nhiều
hơn họ dự tính để có thể thực hiện kế hoạch của mình.
Nhiều công ty mới bị phá sản chỉ bởi vì họ chi hết lượng tiền
mặt trong doanh nghiệp. Thời gian tồi tệ nhất cho việc tích lũy
vốn không phải là lúc khởi đầu. Đó là khi bạn nhận được tài
trợ nhưng đã cạn kiệt nguồn tiền mặt sẵn có.
Làm thế nào để sử dụng vốn?
1.Chỉ sử dụng vốn nếu bạn có thể bội nhân nó
Mỗi phần vốn bạn sử dụng cần phải được tăng lên gấp ba
lần hoặc hơn trong vòng một số năm nhất định. 20% vốn tạo
ra 80% lợi nhuận hay 80% vốn chỉ tạo ra 20% lợi nhuận. Chắc
chắn bạn không bao giờ muốn số vốn của mình là con số 80
trong trường hợp thứ hai.
Bạn có muốn tăng vốn của mình lên gấp bội? Hãy lập kế
hoạch kinh doanh để thấy được tổng lợi nhuận mà số vốn của
bạn có thể sinh ra. Ví dụ, nếu bạn tích lũy được một triệu đôla
tiền vốn ban đầu, liệu khi kế hoạch được triển khai bạn có thể
tạo ra lợi nhuận ít nhất là ba triệu đôla không?
Đây là tỷ lệ "tiền đổi tiền" mà các nhà đầu tư thường dùng.
Họ thích nhìn thấy tỷ lệ này tăng ít nhất ba lần, tốt hơn là
năm, mười hoặc cao hơn nữa.
Một cách kiểm tra khác mà các nhà đầu tư cũng thường áp
dụng là "tỷ lệ hoàn vốn nội tại" (IRR - "internal rate of return").
Công thức này đơn giản chỉ là phần trăm lãi kép trung bình
(lãi tính trên vốn cộng lãi của năm trước) của số vốn trong quá
trình sử dụng. Ví dụ, nếu lợi nhuận trên một triệu tiền vốn
ban đầu trong một năm là ba triệu thì IRR là 200% (lợi nhuận
là hai triệu, tức gấp đôi số vốn ban đầu). Nếu phải mất ba
năm để tạo ra được ba triệu từ một triệu thì IRR sẽ là 44%.
Để tính toán được IRR, bạn cần có một máy tính đặc biệt
hỗ trợ, nhưng bạn có thể kiểm tra nó bằng một cách đơn giản
hơn như sau:
Năm thứ nhất 1,00 triệu đôla 1,44 = 1,44 triệu đôla
Năm thứ hai 1,44 triệu đôla 1,44 = 2,07 triệu đôla
Năm thứ ba 2,07 triệu đôla 1,44 = 3,00 triệu đôla
Với một dự án kinh doanh mới, một nhà đầu tư tài chính có
khi yêu cầu IRR phải lên tới 50%. Để làm được điều đó, bạn
phải hoạt động hết công suất mỗi năm:
Năm thứ nhất 1,00 triệu đôla 1,5 = 1,5 triệu đôla
Năm thứ hai 1,50 triệu đôla 1,5 = 2,25 triệu đôla
Năm thứ ba 2,25 triệu đôla 1,5 = 3,38 triệu đôla
Năm thứ tư 3,38 triệu đôla 1,5 = 5,06 triệu đôla
Tổng lợi nhuận thu được từ dự án kinh doanh mới có thể
không khiến bạn hài lòng. Giả sử như sau ba năm hoạt động,
bạn chỉ thu được tỷ lệ "tiền đổi tiền" gấp 2 lần, nghĩa là IRR
chỉ bằng 26%. Nếu vậy, hãy chia nhỏ hoạt động kinh doanh
của bạn ra thành nhiều phần khác nhau: sản phẩm, nguồn
nguyên vật liệu, khách hàng, loại khách hàng, địa bàn hay
khoa học công nghệ. Hãy kiểm tra lợi nhuận của vốn thu được
(thông qua tỷ lệ "tiền đổi tiền" hay IRR) trên từng phần.
Ví dụ, bạn tính được lợi nhuận trong ba năm hoạt động như
sau:
Vốn Lợi nhuận
Sản phẩm A 0,5 triệu đôla 0,75 triệu đôla
Sản phẩm B 0,25 triệu đôla 1,5 triệu đôla
Sản phẩm C 0,25 triệu đôla - 0,25 triệu đôla
Tỷ lệ của ba sản phẩm này là:
Tiền-Tiền IRR
Sản phẩm A 1,5 lần 14%
Sản phẩm B 6 lần 82%
Sản phẩm C 0,25 lần Âm
Tổng/TB: 2 lần 26%
Rõ ràng bạn có thể quyết định loại bỏ sản phẩm A và C, tập
trung đầu tư vào sản phẩm B. Hãy luôn phân tích lợi nhuận
trên từng vùng vốn được sử dụng. Càng tính toán khít khao,
bạn sẽ càng giàu thêm.
2.Giảm nhu cầu vốn của bạn
Cắt giảm nhu cầu về vốn không có nghĩa là bạn phải giảm
quy mô kinh doanh. Cách để giảm nhu cầu về vốn là khai
thác các công ty khác. Giới hạn bớt các hình thức hoạt động
của bạn chứ không phải tham vọng của bạn.
Ứng với mỗi đơn vị chi phí, thông thường bạn nên có thêm
hai hay nhiều hơn số đơn vị chi phí từ bên ngoài. Nói cách
khác, tối thiểu hai phần ba chi phí của bạn nên nằm trong các
hàng hóa và dịch vụ được mua để dự trữ. Bằng cách này, đa
số vốn thực tế mà bạn sử dụng sẽ không nằm trong sổ sách
kế toán. Xuất khẩu ít nhất là hai phần ba nhu cầu vốn của
bạn, lý tưởng hơn là ba phần tư.
3.Tích lũy nhiều vốn hơn nhu cầu bạn cần
Vốn, có bao giờ dư thừa là lãng phí? Không.
1% vốn mà bạn không có ngay vào thời điểm quyết định đôi
khi là nguyên nhân gây ra 99% hoặc thậm chí 100% sự thiệt
hại cho việc kinh doanh của bạn.
Đừng bao giờ tin vào kế hoạch của bạn 100% bởi lẽ những
dự án kinh doanh mới luôn không thể đoán trước được diễn
biến. Tôi đồng ý rằng bạn nên cố gắng cắt giảm nhu cầu về
vốn của mình càng nhiều càng tốt thông qua việc chấp nhận
hợp tác với các công ty khác hoặc quyết định thay đổi cấu
trúc chính sách kinh doanh. Tuy nhiên, bạn nên cho phép
bản thân mình sai sót trong việc ước lượng nhu cầu vốn cần
thiết. Vì vậy, hãy tích lũy 1,5 triệu vốn cho mỗi 1 triệu bạn
nghĩ mình cần.
4.Tìm nguồn cung cấp vốn cho riêng bạn.
Thực tế, vốn không phải là một thứ hàng hóa với giá cả biến
đổi không ngừng. Để đổi được 20% vốn bạn sẽ mất đến 80%
chi phí. Con người 80/20 cần cân nhắc kỹ về việc tìm kiếm
nguồn cung cấp vốn và chi phí phải trả cho nó.
Sau đây là những nguồn cung cấp vốn chính được sắp xếp
theo thứ tự chi phí từ thấp tới cao:
Vốn "nhàn rỗi" trong các công ty khác (tận dụng các công
ty bên ngoài thực hiện giúp bạn một số hoạt động thiết yếu
nhưng không mang lại lợi nhuận cao).
Nguồn vốn từ các công ty muốn mượn dự án của bạn để
quảng cáo trước (đây là vốn không lưu động)
Tiền dành dụm của bạn.Vốn từ gia đình và bạn bè.
Nợ ngân hàng.Vốn từ chủ xí nghiệp bạn.
Vốn từ liên minh với các công ty khác.
Vốn quốc doanh (từ luân chuyển vốn trên thị trường)
Vốn từ những cá nhân giàu có.
Vốn từ các tập đoàn chuyên kinh doanh tài chính (ví dụ:
công ty bảo hiểm)
Vốn tư hữu (từ các kinh doanh đang phát triển)
Vốn đầu tư kinh doanh (từ các kinh doanh mới)
Phần trên danh sách này là những nguồn vốn mà bạn có
thể tiết kiệm được. Tận dụng được các nguồn vốn này bạn có
thể tiết kiệm được từ 10% đến 20% thu nhập của mình.
5.Tận dụng những nguồn vốn rẻ nhất từ bên ngoài
Hãy sử dụng vốn từ các công ty khác thông qua hợp đồng
để họ cung cấp giúp một số hoạt động kinh doanh, tận dụng
càng nhiều càng tốt vốn từ các người cho vay vốn. Sử dụng
tiền của khách hàng bằng cách tính trước chi phí; những đối
tác "tốt bụng" luôn sẵn lòng làm việc này đối với các doanh
nghiệp mới hoạt động, cộng thêm bạn có thể thuyết phục
khách hàng thanh toán trước hợp đồng (ví dụ như loại hình
thuê bao hay cung cấp dịch vụ). Với vai trò là người cố vấn
quản trị, tôi đã từng linh hoạt bằng cách yêu cầu được thanh
toán trước khi thực hiện công việc gì đó và hiếm khi chúng tôi
bị từ chối.
Vốn từ gia đình và bạn bè thường rẻ hơn và ít phiền phức
hơn từ các công ty trung gian. Bạn bè và gia đình ngày nay
dễ gần gũi và giúp đỡ bạn nhiệt tình hơn các thế hệ trước đây.
Chu trình kinh doanh kéo dài hơn và vốn thị trường nhiều
hơn đã tạo nên nhiều nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội.
Vay vốn từ ngân hàng thường có chi phí thấp, tỷ lệ trung
bình từ một đến ba phần trăm. Thông thường người ta vay
vốn ngân hàng bằng cách thế chấp nhà cửa. Nếu việc kinh
doanh thất bại, ngân hàng phát mãi nhà được thế chấp và khi
đó bạn cùng gia đình sẽ mất đi chỗ ở. Vì thế, để chắc ăn bạn
nên thế chấp chính tài sản thu được từ công việc kinh doanh,
đừng bao giờ thế chấp bằng các sở hữu cá nhân.
Một dự án hợp tác với chủ của bạn sẽ đặc biệt hấp dẫn nếu
như công ty ấy luôn sẵn lòng tài trợ cho các dự án triển vọng
mới. Vốn "nội bộ" (từ giám đốc) luôn rẻ hơn vốn từ bên ngoài,
chính vì thế nó đáng để bạn tận dụng và sẽ đem đến cho bạn
nhiều lợi ích hơn bạn nghĩ. Với vận may sẵn có, đôi khi chi phí
ban đầu cho dự án kinh doanh của bạn không đáng kể so với
lợi nhuận thu được.
Khi thương lượng với "sếp", hãy nhấn mạnh để ông ta thấy
rằng dự án và nhân viên của bạn thật sự tiềm năng. Tuy
nhiên, khi thỏa thuận về tỷ lệ phân chia lợi nhuận bạn nên cố
gắng đưa ra một con số cụ thể khả thi và đàm phán sao cho
ít nhất một phần ba lợi nhuận thuộc về nhóm bạn nếu như
công ty tài trợ hoàn toàn và nhiều hơn một phần ba nếu như
bạn cùng nhân viên mình có một phần vốn trong đó. Cố gắng
làm tốt hơn để lợi nhuận thực tế vượt xa con số bạn đã ước
lượng với công ty. Một trăm phần trăm lợi nhuận nên thuộc
về bạn. Nên biết rằng những nhà đầu tư kinh doanh không
thể "lội ngược dòng" và phải chấp nhận rủi ro để đạt được lợi
nhuận cao.
Cân nhắc nguồn tài trợ từ những cá nhân giàu có sẵn lòng
xuất vốn cho bạn kinh doanh. Một hợp đồng kinh doanh có
được từ các cá nhân có thể sẽ an toàn hơn từ sự đầu tư liều
lĩnh hay từ các cổ phần tư nhân.
Bên cạnh đó, các tập đoàn kinh doanh tài chính có thể rất
hấp dẫn. Ví dụ như khi hệ thống khách sạn muốn mở rộng
hoạt động, trước đây nó từng sử dụng ba nguồn ngân sách
chính là: vốn vay ngân hàng, cổ phần tư nhân và cổ phần
quốc doanh. Hiện nay xuất hiện thêm một loại hình vay vốn
mới: từ công ty bảo hiểm hay từ các quỹ tiền trợ cấp. Với
hình thức này, khách sạn có thể thanh toán những món nợ
ngắn hạn bằng cách trao đổi một phần lợi tức cố định trong
dài hạn.
Ngay khi đó là một dự án đầu tư kinh doanh thì việc thăm
dò và khảo sát giá cả để tìm ra phương án khả thi nhất vẫn
luôn cần thiết. Mỗi công ty khác nhau luôn có những đặc
trưng khác nhau, đặc biệt về công nghiệp, khoa học kỹ thuật,
loại hình kinh doanh và đội ngũ quản trị. Vốn đầu tư kinh
doanh và vốn cá nhân luôn luôn đắt đỏ, song nó có thể làm
bạn sửng sốt bởi sự đa dạng giữa các thỏa thuận có được trên
cùng một giao dịch.
Đừng bao giờ tự giam cầm bản thân mình trong bất kỳ công
ty nào như một sở hữu tiềm năng của nó cho dù bạn nhận
được thù lao xứng đáng. Hãy thử với ba hay bốn công ty khác
nhau để thấy được những gì họ có thể sẵn sàng trả cho bạn.
Ngay khi bạn gần chạm tới mục tiêu, hãy vẫn giữ cho mình
một chú ngựa khác để có thể tiếp tục cuộc đua về đích trong
trường hợp có sự cố. Điều này không chỉ là một sự thận trọng
khôn ngoan mà còn đảm bảo rằng bạn không bị "ép" vào
phút cuối. Chọn lựa được một nguồn vốn phù hợp nhất sẽ
giúp bạn cải thiện được điều kiện kinh doanh của mình.
Khi đàm phán với những chuyên gia đầu tư rủi ro, hãy nhớ
rằng họ là người nắm trong tay kinh nghiệm thương trường
cũng như vốn. Bạn chỉ có thể "nói quá" số vốn thật sự cần lên
một hoặc một số lần. Nhớ rằng họ là những người định giá các
dự án kinh doanh trong mỗi bữa ăn hàng ngày. Bạn cũng có
thể cân bằng lợi thế cho mình bằng cách mướn một luật sư
giàu kinh nghiệm hay một nhà tư vấn tài chính, người sẵn
sàng giúp bạn chỉ ra thực chất vấn đề trong vụ giao dịch đó.
Trong Chương 8, chúng ta đã từng biết đến Paul Judge,
người đã xoay xở để mua lại Premier Brands từ Cadbury
Schweppes với 97 triệu bảng. Câu chuyện của ông là một ví
dụ điển hình cho việc sử dụng nguồn vốn trị giá thấp nhất từ
bên ngoài.
Đứng trước nhu cầu cần một nguồn vốn rẻ như Paul Judge,
hầu hết chúng ta đều không do dự bán đi cổ phần tư nhân
của xí nghiệp. Tuy nhiên, Paul đã có ý tưởng khác, với 77 triệu
bảng có được từ việc thế chấp tài sản cho ngân hàng Bankers
Trust và Citybank (là những ngân hàng tầm thường) và 20
triệu bảng còn thiếu, ông đã tự mình xoay xở mọi thứ. Thay
vì tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi cá nhân và danh mục
đầu tư vốn kinh doanh, Paul đã nảy ra ý tưởng tuyệt vời mà
ngày nay được biết đến như một "sự khởi đầu của Judge".
Kenco - công ty cung cấp cà phê hàng đầu cho các nhà
hàng ở Anh, thuộc tập đoàn Premier, là công ty mà General
Foods khao khát chiếm được từ lâu. Kenco trị giá khoảng 15
triệu bảng. Paul đã bán hoạt động kinh doanh hiệu quả này
cho General Foods trước khi ông sở hữu nó bằng cách ứng
trước 20 triệu bảng mua lại Kenco khi các nhà quản trị của nó
đang cần tiền. Sau đó, ông cho General Foods cơ hội mua lại
Kenco chỉ với 9 triệu bảng, đổi lại nó phải đảm bảo trả 20 triệu
bảng mà ông đã ứng trước. Điều này có nghĩa là toàn bộ số tiền
mua lại Kenco chỉ chiếm 0,5% trên LIBOR, thay vì tiêu chuẩn lợi
nhuận đề ra là 35% mỗi năm cho các cổ phần tư nhân.
Paul và những giám đốc khác bằng cách đó đã sở hữu được
100% dự án kinh doanh mới mà không cần phải đầu tư kinh
doanh. Như đã đề cập ở trên, cá nhân Paul đã thu được hơn
40 triệu bảng khi Premier được bán cho người mua thương
hiệu ba năm sau đó. Trong vụ này, các nhà đầu tư rủi ro đã
bị liên lụy, lợi nhuận kinh tế chính thức mà Paul thu được
chắc chắn chỉ bằng một phần tư hay ít hơn số tiền ông bỏ túi.
6. Luôn nghĩ đến tiền mặt
Bất kỳ dự án kinh doanh nào cũng trông giống như độc
quyền hoặc giống như những trò chơi "kiếm tiền" trong máy
vi tính. Bắt đầu bằng một ít tiền mặt, mục tiêu của bạn là làm
sao cho lượng tiền này tăng lên gấp bội. Khả năng thực hiện
điều này chính là cách kiểm tra tốt nhất xem liệu bạn có đang
làm tăng giá trị lợi ích kinh tế không. Nỗi ám ảnh tiền không chỉ
có ở các quầy thu ngân mà còn là bài kiểm tra gay go đối với
con người 80/20 - là những con người tạo ra giá trị phi thường
từ việc kết hợp một ít vốn với những ý tưởng quyền năng.
Bạn nên thực hiện việc kiểm tra lại mối quan hệ giữa vốn
đã sử dụng và lợi nhuận thu được trên mỗi sản phẩm, hoạt
động, khách hàng, kênh phân phối và khu vực để tìm ra
những điểm siêu lợi nhuận hằng năm. Tập trung mở rộng
kinh doanh ở những điểm đó. Với phần còn lại, hãy tìm cách
tăng lợi nhuận hoặc ngưng đầu tư cho nó.
7. Xem người cấp vốn là một đồng sự đắc lực
Vốn cùng với các nhà cung cấp vốn không đơn thuần là một
sản phẩm mua bán. Nguyên lý 80/20 cũng được ứng dụng
cho các nguồn cung cấp vốn: Một số nhà cung cấp mang đến
cho bạn nhiều thành công hơn số khác.
Hãy chọn lựa đúng nguồn vốn. Nếu họ tán thành kế hoạch,
điều đó hẳn làm bạn tự tin hơn. Còn nếu họ phê bình thì chắc
chắn đã có sai sót đâu đó trong kế hoạch của bạn. Theo kinh
nghiệm của tôi, kỹ năng để tìm được nguồn cung ứng vốn
thích hợp thuộc về trực giác, đôi khi đó chỉ là nguồn vốn "tầm
thường". Hãy lắng nghe lý trí của bạn mách bảo và thăm dò
kỹ lưỡng các dấu hiệu thấy được.
Xem người cho bạn vay vốn như một đối tác thật sự. Bạn
hãy thực hiện nghĩa vụ của mình với họ một cách nghiêm túc.
Trình bày với họ về tình hình ngân quỹ, chiến lược cũng như
điều bạn đang mong muốn. Ngay khi bạn không thể làm được
điều gì, hãy thành thật và thoải mái với họ. Nếu bạn thấy có
gì đó không ổn trong hoạt động kinh doanh, hãy thông báo
cho họ biết sớm, đừng để đến khi quá trễ. Hãy tập trung nỗi
sợ hãi của mình lại, thẳng thắn nhìn nhận vấn đề, bạn sẽ
nhận được tiếng khôn ngoan và cẩn trọng trong công việc.
Nếu một sự việc tỏ ra thật sự đáng báo động, chắc chắn các
nhà cung cấp vốn cho bạn sẽ không hài lòng khi nhận được
thông tin muộn màng.
Theo cách nhìn nào đó, nhà cung cấp vốn cũng là một
thành phần kinh tế trong dự án kinh doanh của bạn. Bạn khởi
nghiệp kinh doanh với mong muốn gia tăng số vốn lên gấp
bội. Đây là việc của con người 80/20 - những người có trong
tay quyền năng về ý tưởng kinh doanh. Khi việc gì đó trở nên
xấu đi, điều đó có thể bởi vì ý tưởng kinh doanh của bạn
không thật sự "siêu phàm" như bạn nghĩ hoặc bởi vì bạn đã
không làm tốt như các đối thủ cạnh tranh của mình.
Lợi ích kinh tế thu được sẽ phản ánh rằng bạn có đang
thành công hay không và những người cung cấp vốn có thể
giúp bạn tìm ra lý do vì sao kết quả lại như vậy.
Duy trì tỷ số
Ý tưởng và con người 80/20 điều khiển quá trình hoạt động
kinh doanh. Vốn thể hiện mức độ thành công hay thất bại của
dự án kinh doanh đó. Một doanh nghiệp không thể gọi là hoạt
động tốt nếu như vốn ban đầu không tăng lên. Con người 80/
20 luôn biết cách tạo nên những giá trị kinh tế to lớn từ một
lượng vốn ban đầu ít ỏi.
Nghịch lý của nguyên lý 80/20 là nếu vốn trở nên quá rẻ
thì nó sẽ mất đi tính chất cơ bản của nó. Con người 80/20
không chỉ khai thác vốn mà còn phải quan tâm đến tính khan
hiếm của nó. Chi phí vốn cao là điều đáng khích lệ cho phép
con người 80/20 kỳ vọng vào sự thể hiện phi thường của nó.
Mỗi khi bạn cảm thấy vốn trở nên dư thừa, hãy dừng lại và
bắt đầu lại dự án kinh doanh của mình.
Chúng ta nên chân thành biết ơn những nhà đầu tư kinh
doanh vì họ đã làm cho vốn trở nên có giá trị và giữ cho giá
trị đó luôn ổn định.
11 Phát triển Zigzag
"Mỗi người thất bại hay thành công dường như
là do định mệnh đã an bài. Nhưng người ta vẫn
còn khả năng luồn lách chống chọi... và trong
toàn vũ trụ này, hoạt động thú vị duy nhất
chính là hoạt động luồn lách đó".
E. M. Forster
hử thách lớn nhất của một cá nhân 80/20 không
T phải là nghĩ ra một ý tưởng kinh doanh, không
phải là tập trung một đội nhóm, không phải là tìm kiếm
nguồn vốn, không phải là lúc khởi động một doanh nghiệp,
mà chính là khi doanh nghiệp đó đã thành công. Bạn sẽ làm
gì để phát triển nó một cách sáng tạo sao cho nó có thể phát
huy hết tất cả mọi tiềm năng của mình?
Đây chính là điểm khác biệt giữa tạo ra một khoản lợi nhuận
tốt - có thể gấp năm hay mười lần vốn - và tạo ra một khoản
siêu lợi nhuận - có thể gấp hàng chục cho đến hàng ngàn lần.
Một doanh nghiệp thu được lợi nhuận trên vốn gấp năm
lần, chẳng hạn như trong vòng 4 năm, thì hẳn sẽ có thể thu
được lợi nhuận gấp 25 lần trong vòng 8 năm. Trên cả hai giai
đoạn này, tỷ lệ lợi nhuận nội tại là khoảng 50%.
Nhưng sự khác biệt ở những con người 80/20 thậm chí có
thể còn cao hơn thế. Bạn có thể có 5 triệu đôla, giả sử sau 4
năm, hay 50 triệu đôla sau 8 năm nếu doanh nghiệp của bạn
tiếp tục ở mức siêu thành công.
Dĩ nhiên, vấn đề không chỉ là tiền bạc: Những con người
80/20 đã tạo ra một doanh nghiệp mới tuyệt vời như vậy sẽ
muốn nhìn thấy tương lai của nó xa hơn. Họ muốn các đồng
nghiệp của họ, kể cả những đồng nghiệp trẻ tuổi mới tuyển
dụng, có thể phát triển và giàu có. Họ muốn danh tiếng của
họ phát triển mở rộng và thành công lâu dài, góp phần vào
nền kinh tế, chứ không chỉ là một ngôi sao bùng sáng rồi
chợt tắt.
Liệu có phải là thành công không khi bạn bắt đầu một công
ty, phát triển nó một chút rồi nhanh chóng bán nó đi?
Một doanh nghiệp càng thành công trong khoảng từ 3 đến
5 năm đầu thì tương lai của nó sẽ càng tươi sáng - nếu nó có
thể duy trì đường đi của mình.
Tuy nhiên, việc duy trì một doanh nghiệp sáng giá tiếp tục
phát triển với tốc độ ban đầu sau hơn 3-5 năm đầu tiên không
phải là một việc dễ dàng. Trên thực tế, nếu bạn tiếp tục làm
đúng những việc đã giúp bạn thành công từ lúc khởi điểm thì
gần như chắc chắn bạn sẽ thất bại. Khi mọi chuyện xấu đi thì
việc thay đổi sẽ dễ dàng hơn. Khi mọi chuyện đang tốt đẹp,
việc thay đổi sẽ rất khó khăn - nhưng cũng rất quan trọng.
Điều gì có thể giúp bạn đạt đến giai đoạn phát triển thứ hai?
Con đường zigzag dẫn đến hũ vàng
Sự phát triển diễn ra theo hình zigzag. Để tìm một số thành
phần quan trọng trên thực tế mà doanh nghiệp của bạn đang
sử dụng - để tìm 20% đầu vào làm phát sinh 80% kết quả hoặc
hơn - bạn cần phải thử nghiệm và tìm hiểu.
Nguyên lý 80/20 là một nguyên tắc động. Nó hoạt động
trên cơ sở thời gian. 20% quan trọng ngày hôm nay có thể
không phải là 20% quan trọng của ngày mai nữa. Ngay cả nếu
vậy thì vẫn còn 20% quan trọng khác nằm trong 20% quan
trọng mà bạn đã biết. Có một mức giá trị cao hơn, một thiểu
số bên trong một thiểu số. Nhưng để tìm ra hạt ngọc này, bạn
sẽ phải vất vả vượt qua hàng núi việc lãng phí. Và ngược lại,
trong tổng số nhiều vụn vặt của bạn cũng vẫn tồn tại 20%
quan trọng.
Tiến hóa nhờ sự chọn lọc tự nhiên
Như chúng ta đã nói trong Chương 4, quá trình chọn lọc tự
nhiên phụ thuộc vào sự tái sản xuất, hay là sự sản xuất ra
một số lớn những phiên bản mới của các sản phẩm và hoạt
động thành công. Hầu hết những biến thể này sẽ thất bại.
Chúng phải được tạo ra với số lượng lớn và có vẻ như là
những con số lãng phí bởi vì không ai có thể nói trước được
những biến thể nào sẽ thành công vào những thời gian và nơi
chốn cụ thể nào.
Như Charles Darwin quan sát: "Thuận lợi nhỏ nhất trong
một thực thể so với những thực thể khác cạnh tranh với nó,
hay khả năng thích nghi tốt hơn trong những điều kiện môi
trường thay đổi dù là rất nhỏ, sẽ tạo nên sự cân bằng".
Song sự chọn lọc tự nhiên chỉ có thể hoạt động khi có một
thay đổi trong "điều kiện sống", chẳng hạn như khí hậu: "[Sự
thay đổi] rõ ràng sẽ nghiêng về hướng chọn lọc tự nhiên, bằng
cách cung cấp một cơ hội tốt hơn cho những biến thể có lợi
xảy ra; và trừ khi những biến thể có lợi xảy ra, nếu không thì
sự chọn lọc tự nhiên không thể làm gì được cả".
Những biến thể thành công trong tự nhiên sẽ sống lâu hơn
và tái tạo nhiều hơn. Sự sinh sản dồi dào này tiếp tục tạo ra
nhiều biến thể khác, hầu hết sẽ bị môi trường loại bỏ. Một số
ít thành công sẽ tiếp tục sinh sản mở rộng, và quá trình này
cứ thế tiếp diễn.
Câu chuyện của Sam
Sam Walton, người sáng lập Wal-Mart, từng nói: "Hầu hết
mọi việc tôi làm đều do tôi bắt chước những người khác".
Cũng như hầu hết những con người 80/20 khác, Walton rất
hào hứng trong việc bắt chước những ý tưởng thành công,
nhưng ông luôn áp dụng những ý tưởng này trong các lĩnh
vực mới và với những nét đặc trưng riêng của mình. Và ông
luôn luôn không ngừng đổi mới. Điểm đầu tiên mà Sam chú
ý là những thị trấn nông thôn nhỏ của Mỹ thường rất ít có
những cửa hàng bán lẻ. Các cửa hàng thường rất nhỏ và bán
hàng rất đắt. Ông quyết tâm khắc phục điều này.
Vào đầu những năm 1960, khi ông vào khoảng 40 tuổi,
Sam Walton trở thành người quản lý những cửa hàng bán lẻ
độc lập khác nhau trên nước Mỹ - và cũng rất giàu có. Nhưng
ông vẫn chưa thỏa mãn. Ông luôn theo đuổi một cái gì đó
nhiều hơn, mới mẻ hơn.
Một ngày nọ, ông đón hai chuyến xe buýt, vượt qua tổng
cộng 630 dặm đường, để theo đuổi một tin đồn. Ông nghe nói
về hai cửa hàng Ben Franklins ở Pipestone và Worthington,
Minnesota, có một hệ thống cửa hàng tự phục vụ. Điều ông
phát hiện ra là một quầy thu ngân trung tâm thay vì một
người tính tiền ở mỗi quầy hàng. Dịch vụ tự phục vụ có giá
rẻ hơn và cũng tiết kiệm thời gian hơn cho người bán hàng -
đồng thời lại gia tăng số hàng hóa bán được, vì người ta có
khuynh hướng bị xao lãng khỏi vấn đề giá cả. Ngay lập tức
Walton áp dụng dịch vụ tự phục vụ cho tất cả các cửa hàng
của mình.
Bất chấp những thành công đó, vào năm 1960, Walton tiếp
tục xem xét một giai đoạn phát triển thứ hai. Như ông viết lại
sau này: "Tôi muốn nói, sau 15 năm chúng tôi chỉ kiếm được
khoảng 1,4 triệu đôla với 15 cửa hàng... Tôi bắt đầu nhìn
quanh để xem có bất kỳ một ý tưởng nào khác có thể đem đến
nhiều lợi nhuận hơn một chút với những nỗ lực của chúng tôi
hay không".
Câu trả lời của Walton là xây dựng một cửa hàng giảm giá
lớn tại những địa điểm mới, thường là những thị trấn nhỏ mà
không ai tin rằng có thể có một thị trường đủ lớn cho một cửa
hàng giảm giá. Một lần nữa, hãy lưu ý khuôn mẫu này: một
ý tưởng đã chứng minh chính nó nhưng với một hoàn cảnh
mới. Sears và A&P đã từng kiếm được cả một gia tài nhờ
những cửa hàng giảm giá. Walton lấy ý tưởng đó và áp dụng
cho những thị trấn nhỏ.
Trung tâm Gia đình Walton đầu tiên mở cửa tại St. Robert,
Missouri, vào năm 1962. Chỉ có 1.500 người sinh sống tại
đây. Nhưng Sam lại mở một cửa hàng lớn với diện tích 13.000
bộ (foot) vuông. Nó hoạt động thành công đến mức ông nhanh
chóng mở rộng nó lên 20.000 bộ (foot) vuông. Chỉ trong vòng
một năm, tổng doanh thu của ông là 2 triệu đôla, nhiều hơn
cả một cửa hàng hoạt động trong hai năm trước đây trong số
15 cửa hàng của ông.
Sau đó Sam nhân rộng khái niệm này, mở cửa một Wal-Mart
đúng nghĩa đầu tiên tại Rogers, Arkansas, vào tháng 7-1962,
với những tấm bảng hiệu lớn: "Luôn luôn giá rẻ - Luôn luôn".
Sam đã tìm ra giai đoạn phát triển thứ hai của mình.
Nhân rộng chiến thắng
Như vậy, trong kinh doanh, vấn đề là những câu chuyện
thành công với những cơ hội lớn nhất và bổn phận phải tạo
ra một số lớn những biến thể của thành công. Hầu hết những
biến thể này sẽ thất bại. Một số ít trong chúng - và có thể tiên
đoán trước đó là một số nào - sẽ chiến thắng.
Vì vậy, nếu bạn có một doanh nghiệp thành công trong tay
nghĩa là bạn có bổn phận phải thử nghiệm nhân rộng nó. Đó
là biện pháp giúp bạn vươn đến giai đoạn thành công thứ hai
và kiếm được "hũ vàng" của mình.
Song chúng ta có thể quan sát điều gì với những doanh
nghiệp mới?Hầu hết những doanh nghiệp mới thành công đều dựa vào
vinh quang của họ và không biết mở rộng công thức thành
công của họ. Người ta thường giả sử là: Tại sao lại phải
quấy rối một con gà đẻ trứng vàng? Nhưng sớm muộn gì thì
công thức thành công này cũng sẽ không còn hiệu quả nữa.
Đến giai đoạn đó, chiều hướng phát triển của doanh nghiệp
mới được quan tâm và giá trị của nó sụt giảm đột ngột.Đôi khi người ta cũng làm một số thí nghiệm, nhưng thí
nghiệm này thất bại, hoặc không đạt được thành công như
công thức ban đầu. Vào giai đoạn đó, người chủ doanh
nghiệp thường sẽ tập trung mọi người lại và nói: "Tôi muốn
cho các bạn trẻ có cơ hội thử thách. Nhưng thị trường đã lên
tiếng. Vì vậy nên từ giờ trở đi chúng ta sẽ tiếp tục những
biện pháp cũ đã được chứng minh là thành công". Việc thử
nghiệm chấm dứt. Chặng đường thành công ban đầu đã có
hiệu quả trong một thời gian, nhưng sau đó thì mọi chuyện
không còn suôn sẻ như trước nữa...
Những người khởi xướng một doanh nghiệp thường
phá hỏng giai đoạn phát triển thứ hai
Vào năm 1910, 458.000 gia đình Mỹ có xe hơi. Mười năm
sau, con số này là 8.225.000. Henry Ford đã tạo ra thị trường
này và đến năm 1920 ông đã sở hữu phần lớn của nó. Nhưng
vào năm 1937, công ty Ford Motor rớt xuống vị trí thứ ba với
chỉ có 21% thị phần, so với 25% của Chrysler và 42% của
General Motors.
Tại sao vậy ? Bởi vì Henry Ford, nhà sáng tạo vĩ đại nhất
những năm 1900 và 1910, đã từ chối cải tiến vào năm 1920
và 1930. Ford có quá ít mẫu mới và biến thể mới so với những
đối thủ của mình.
Tôi đã nhìn thấy khuôn mẫu này nhiều lần đến mức tôi
thường cảm thấy thất vọng. Những con người 80/20 sẽ làm gì?
Một giải pháp yếm thế là bán nó đi ngay khi có những dấu
hiệu đầu tiên cho thấy sự phát triển đang bị chựng lại. Tuy
nhiên, có một lựa chọn tốt hơn. Hãy biến đổi công thức thành
công của bạn. Hãy kiên trì cho đến khi bạn đạt được một
thành công bất ngờ. Sau đó hãy tiếp tục cho đến khi nó không
còn hiệu quả như trước, và lại tiếp tục tạo ra một số lớn
những biến thể mới cho đến khi bạn thấy được một "hũ vàng"
khác một lần nữa.
Công ty Tư vấn LEK:
Những biến thể thành công của
những gen kinh doanh vượt trội
Như tôi đã nói trước đây, cuộc phiêu lưu đầu tiên của tôi là
cùng với hai người sáng lập một công ty tư vấn chiến lược. Tôi
bỏ vào đó hàng trăm ngàn đôla tiết kiệm để góp vốn. Sau 6
năm, con số này tăng lên đến 24 lần. Chúng tôi chưa bao giờ
thật sự cần đến tất cả số vốn này, nhưng nó giúp chúng tôi
ngủ ngon mỗi đêm.
Chúng tôi thừa hưởng được một gia tài tuyệt vời. Đầu tiên
chúng tôi bắt chước, sau đó chúng tôi thí nghiệm. Chúng tôi
thiết lập một hội đồng để cố phát triển những khái niệm mới.
Bước khởi đầu tốn kém này thất bại, cũng như rất nhiều thất
bại khác.
Không nản lòng, chúng tôi vẫn tiếp tục cố gắng. Chúng tôi
thuê nhiều nhân viên chưa có kinh nghiệm và thấy rằng họ có
thể thực hiện tốt công việc phân tích bằng máy tính tại văn
phòng. Một số khách hàng của chúng tôi gặp phải những nhà
thầu tiếp quản khó chịu. Chúng tôi bảo vệ khách hàng, sử
dụng những phân tích cạnh tranh để nghiên cứu các nhà thầu
này. Và bỗng nhiên, chúng tôi khám phá ra một sản phẩm
mới để phát triển danh tiếng của mình.
Filofax: Thành công, thất bại,
thành công, thất bại
Filofax là một trong những câu chuyện thành công ấn tượng
nhất của những năm 1980 nói về David Collischon. Ban đầu
ông phạm sai lầm khi thuê các nhà quản lý của những công
ty lớn và những người này khiến ông cạn kiệt với những chi
phí mà ông không thể gánh nổi. Trong tuyệt vọng, David tìm
đến tôi xin tài trợ và tìm đến một đồng sự của tôi, Robin Field,
về mặt quản lý.
Chúng tôi theo đuổi một chiến lược 80/20 cổ điển, cắt giảm
Filofax xuống chỉ còn một số ít sản phẩm và khách hàng đem
lại lợi nhuận cao. Chúng tôi giảm giá xuống gần bằng những
đối thủ cạnh tranh, và cắt giảm chi phí để chúng tôi có thể thu
được lợi nhuận cao hơn với mức giá mới. Sau đó chúng tôi đưa
ra những biến thể mới của những sản phẩm thành công nhất.
Chỉ trong vòng ba năm, dù đã cắt giảm phần lớn số lượng mặt
hàng nhưng khối lượng sản phẩm của chúng tôi tăng gấp
bốn lần và Filofax đạt đến một mức lợi nhuận trước đây chưa
từng có.
Sau ba năm, một trong những người cùng đầu tư với chúng
tôi đã rút lui và bán đi các cổ phiếu của ông - với cái giá gấp
bảy lần chi phí ban đầu.
Tôi và Robin thì không bán chúng đi. Đó là sai lầm đầu tiên
của chúng tôi. Sai lầm thứ hai là chúng tôi đã không tìm cách
đổi mới. Sai lầm thứ ba, chúng tôi chơi trò mua lại công ty.
Chúng tôi có một câu chuyện thành công mà mọi người đều
biết. Giá trị của Filofax tăng lên. Là những nhà tư vấn, chúng
tôi đã từng thấy điều này trước đó. Chúng tôi đã thấy những
nhà quản trị đầy tham vọng mua lại các công ty với giá rẻ và
như thế tự động nâng cao giá trị của công ty mà họ mua lại,
ngay cả khi không tạo ra bất cứ một thay đổi kinh tế cơ bản
nào trong công ty đó. Chúng tôi thích trò chơi này.
Chúng tôi đã bắt đầu một cách khờ khạo. Chúng tôi mua lại
6 công ty nhỏ, tất cả đều có liên quan đến việc kinh doanh
của Filofax. Tất cả đều được tăng giá trong thị trường chứng
khoán. Nhưng sau đó thì không còn công ty nào tương tự như
chúng tôi nữa. Hai công ty mua lại tiếp theo của chúng tôi là
hai công ty trong những lĩnh vực xa lạ và chúng tôi chỉ có thể
tăng thêm rất ít giá trị cho chúng.
Đây là một trò chơi đáng ngại. Trong hai hướng đa dạng
hóa, hướng thứ nhất đã tự lấy lại vốn chỉ trong vòng 30
tháng, nhưng hướng thứ hai, một công ty in thiệp chúc mừng
và là sự thay đổi lớn nhất của chúng tôi cho tới nay, bị suy
sụp thảm hại với cộng đồng tài chính. Nó thậm chí còn kéo
thấp giá cổ phiếu của chúng tôi. Nhưng các nhà phân tích thị
trường chứng khoán biết được gì? Chúng tôi sẽ chứng minh là
họ đã sai lầm.
Công ty in thiệp là một thảm họa. Tệ hơn, khi chơi trò mua
lại công ty, chúng tôi đã xao lãng công việc tại Filofax. Vì
chúng tôi không chú ý đổi mới nên quá trình phát triển đang
tiến dần đến điểm kết thúc. Những cổ phần của chúng tôi,
ban đầu mua với giá 13 đến 30 bảng, sau đó lên đến đỉnh
điểm 280 bảng, rồi lại tụt xuống dưới 150 bảng. Năm 1998,
chúng tôi bán công ty với giá 210 bảng, chỉ bằng cái giá
khoảng 5 năm trước đó.
Đây là một khoản lời kha khá, nhưng không phải là một
khoản siêu lợi nhuận. Chúng tôi đã không đạt được đến giai
đoạn phát triển thứ hai. Chúng tôi đã ngừng thử nghiệm.
Belgo: Một ý tưởng tuyệt vời nhưng
giai đoạn phát triển thứ hai bị phá hỏng
Trong Chương 6, tôi đã mô tả về thành công của Belgo,
những nhà hàng Bỉ được thiết kế như các phòng ăn trong tu
viện. Giờ thì tôi phải thú nhận thất bại của chúng tôi với dây
chuyền nhà hàng này.
Sau bốn năm, chúng tôi có được hai nhà hàng. Nhà hàng
thứ hai là một biến thể của nhà hàng thứ nhất và thậm chí
còn gặt hái được nhiều thành công hơn. Cả hai đều là những
nhà hàng lớn và đem lại mức lợi nhuận khổng lồ, nhưng khi
kết hợp lại thì chúng bị mất đi giá trị của mình.
Tôi biết chúng tôi phải phát triển, chúng tôi phải biến đổi.
Nhưng tôi không thể thuyết phục được những người đồng sự
của mình tạo nên những biến thể tân tiến mới. Họ không
ngừng khảo sát những địa điểm mới và lên kế hoạch cho
những ý tưởng mới, nhưng không một ý tưởng nào đạt kết
quả cả. Với một doanh nghiệp phát đạt, với mức lợi nhuận
trên vốn 50-100%, thật kỳ quặc khi chỉ có hai cơ sở. Đây có
thật sự là một doanh nghiệp phát triển cao với tiềm năng lớn
hay không?
Chúng tôi có một công thức phát triển mới: Chúng tôi gọi nó
là mini-Belgo, sau đó được mở cửa tại Bierodromes, những
nhà hàng nhỏ với khu vực quầy bar rất rộng. Bierodromes là
một thành công lớn, nhưng lại không thuộc quyền sở hữu của
chúng tôi.
Vì tôi và các đồng sự không thể thống nhất với nhau về kế
hoạch phát triển nên chúng tôi quyết định bán nó đi. Nó được
đưa ra thị trường chứng khoán. Tôi thu được mức lợi nhuận
gấp 17 lần, các đồng sự của tôi còn nhiều hơn thế nữa. Nhưng
chúng tôi đã phá hỏng giai đoạn phát triển thứ hai của nó.
Khi nhìn lại, giải pháp thật đơn giản đến mức tôi không thể
tin được là mình đã bỏ lỡ. Các đồng sự của tôi giỏi nhất về
mặt thiết kế và ý tưởng. Đó chính là 20% đỉnh năng lực của
họ. Họ thấy rằng công việc ở những địa điểm mới và chuẩn
bị nhà hàng sẵn sàng là một việc cực kỳ rắc rối.
Như vậy tại sao chúng tôi không tìm kiếm một người đồng
sự mới, người giỏi nhất đất nước này trong việc xây dựng nhà
hàng? Chúng tôi có thể dễ dàng làm được điều này. Chúng tôi
có tiền, có thương hiệu, có một công thức mới, có danh tiếng,
có sự đam mê, có gần như tất cả mọi thành phần cần thiết cho
giai đoạn phát triển thứ hai. Đây là một hũ vàng mà chúng tôi
đã bỏ lỡ, và tất cả những gì cần có chỉ là một con người 80/
20 phù hợp.
Khách sạn Zoffany: biến thể thứ hai
là một cấu trúc doanh nghiệp mới
Tôi bắt đầu những gì mà ngày nay được gọi là Khách sạn
Zoffany từ năm 1993. Như tôi đã viết, công thức mô tả trong
Chương 4 tiếp tục đạt hiệu quả cao, nhưng sẽ có một câu hỏi
về sự lâu dài của nó. Trong hai năm, chúng tôi đã nghiên cứu
một công thức Zoffany II.
Tính duy nhất của Zoffany nằm ở cấu trúc kinh doanh của
nó. Không có cấp quản lý trung gian; các đồng sự của tôi làm
việc trực tiếp với tổng giám đốc của mỗi khách sạn trong
nhóm. Họ huấn luyện các tổng giám đốc này theo công thức
kinh doanh của Zoffany.
Có đôi lúc chúng tôi lo không biết chúng tôi có thể tiếp tục
kiểu kinh doanh này được bao lâu nữa. Chúng tôi có hai đồng
sự làm việc và có 10 khách sạn. Có lẽ chúng tôi có thể lên đến
16 khách sạn với hai đồng sự, mỗi người giám sát 8 người
quản lý. Chúng tôi được chào bán một loạt 40 khách sạn với
mức giá hấp dẫn. Chúng tôi nên đối phó như thế nào? Liệu sự
mở rộng này có quá mức không?
Có thể. Nhưng một bước cải tiến của Zoffany là yêu cầu hai
người trong nhóm quản lý khách sạn coi sóc hai khách sạn
một lúc. Và cho đến lúc này, thử nghiệm này đạt kết quả đến
không ngờ. Chúng tôi đang định cho mỗi người trong họ sẽ
quản lý ba khách sạn một lúc và sẽ tiếp tục để xem chúng tôi
có thể thúc đẩy việc này đến bao xa; và đồng thời giao thêm
cho bốn quản lý khác mỗi người hai khách sạn.
Trong số 40 khách sạn mà có thể chúng tôi sẽ mua, chúng
tôi sẽ bán lại khoảng 12 khách sạn và để yên 20 cái khác
trong năm đầu tiên. Chúng tôi sẽ tập trung vào 8 khách sạn
hiện đang chiếm khoảng 80% lợi nhuận trong số 40 khách sạn
này (tình cờ, một mối quan hệ 80/20). Như thế chúng tôi sẽ
có 18 khách sạn (10 cái cũ và 8 cái mới) quản lý theo cách của
Zoffany. Nếu chúng tôi có thể để cho mỗi người quản lý kinh
nghiệm của Zoffany đảm nhận hai khách sạn thì có thể chúng
tôi sẽ đạt đến giai đoạn phát triển thứ hai.
Nhà xuất bản Capstone
và Plymouth Gin:
Biến thể chính là sự toàn cầu hóa
Với Nhà xuất bản Capstone và Plymouth Gin, chúng tôi tin
rằng giai đoạn phát triển thứ hai sẽ là tạo nên những biến thể
trên thế giới cho những chiến lược hiện tại trong nước. Để làm
được điều này, chúng tôi cần những đồng sự. Cổ phiếu của tôi
đã được bán với lợi nhuận gấp mười lần cho công ty John
Wiley & Sons. Plymouth Gin cũng đã kết hợp với các chủ nhân
của Absolut vodka.
Giai đoạn phát triển thứ hai
của bạn sẽ là gì?
Cho dù bạn là một nhà quản lý hay một doanh nhân, đừng
phạm những sai lầm mà tôi đã phạm phải, đó là sai lầm khi
ngỡ rằng một doanh nghiệp thành công có thể giữ nguyên
công thức thành công của mình vĩnh viễn. Trong vòng 3 hay
4 năm, hãy suy nghĩ về bước nhảy kế tiếp của mình, tiếp tục
xây dựng trên công thức thành công đó, đồng thời mở rộng và
biến đổi nó. Hãy kiên trì thử nghiệm cho đến khi bạn tìm được
một biến thể mà thị trường thật sự ưa thích.
Chính thành công, chứ không phải thất bại, mới là điều đòi
hỏi được thay đổi cấp thiết. Hãy tuân theo con đường của sự
chọn lọc tự nhiên. Nếu nó chưa hỏng, hãy sửa nó!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro