sống mãi với thủ đô - Nguyễn Huy Tưởng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cái toa cuối cùng của chuyến tàu Bắc đã len ra khỏi hàng rào địa phận nhà ga. Trần Văn nhìn theo cái khung vuông đen sẫm lại, nhoà đi. Chuyến tàu chở người mẹ bé nhỏ của anh về quê thế là đã rời Hà Nội. Trong lòng người con chưa hề xa mẹ lâu bao giờ có một sự trống rỗng đau đớn. Mấy ngày sắp chia tay, bà cụ lại đau mắt, ngụt ngoạt luôn, lúc nào cũng như khóc. Trong lúc hối hả thu xếp cho mẹ tản cư, anh quên khuấy không mua cho mẹ mấy lọ thuốc nhỏ mắt. Anh bứt rứt, môi mím lại, nước mắt rưng rưng. Anh bước về phía ga, nhưng rồi lại ngoảnh lại nhìn cái khoảng trống im lặng của hàng rào còn mù sương. Con tàu bây giờ đang chạy trên cái cầu cổng đục. Trong cái toa chật lèn như nêm cối, người mẹ với cái tay nải cũ, như lại trở về cái thời bán vải ngày xưa. Tai anh còn văng vẳng lời nói cuối cùng của mẹ: “Chú về nhớ. Vài hôm nữa yên hàn rồi đẻ lại ra”. Vài hôm nữa yên hàn? Mấy hôm nay, người Hà Nội tản cư rầm rập. Từ giã nhau, ai cũng nói cái câu đầu lưỡi ấy như để tin với nhau rằng những ý nghĩ tốt có thể chuyển dữ thành lành. Nhưng trong linh tính. Trần Văn thấy đây không phải là một cuộc chia tay trong dăm bữa nửa tháng. Giữa buổi tiễn đưa này và ngày gặp lại, có một cái gì mù mịt, xa lăng lắc, đầy những tai biến khôn lường. Anh càng thương mẹ, trong cái thương có lẫn nhiều cảm phục. Anh biết trong thâm tâm, bà cụ muốn anh cùng về quê. Chẳng có người mẹ nào muốn cho con chịu những thảm hoạ của chiến tranh. Nhưng bà cụ không ngăn anh vào tự vệ, và khi anh nói phải ở lại để chống giữ Thủ đô, mẹ chỉ dặn: “Cẩn thận đấy, chú ạ. Nhờ giời, Cụ Hồ điều đình được không phải đánh nhau thì là phúc nhất”. Ở đây, có cả cái tình của người mẹ chịu đựng chiều con, cả tấm lòng của một bà mẹ thấy việc con làm là phải và biết rằng nguy hiểm vẫn cứ phải để con làm. Mẹ đi rồi, Trần Văn có cảm tưởng như đẩy mẹ vào một cuộc sống phiêu lưu. Gần đây, những tin tức về đồng bào tản cư không lấy gì làm tốt đẹp lắm. Đã có vài vụ cướp bọc dọc đường. Nhiều người tiền lưng hết lại phải lộn ra. Báo Cứu quốc đã đăng nhiều bài nói về việc tổ chức làm ăn lâu dài cho bà con tản cư để có thể trường kì kháng chiến. Mẹ anh, chân yếu tay mềm, sẽ làm gì mà sinh sống. Nhưng gay go nhất vẫn là vấn đề chiến tranh. Nếu nổ ra ở Thủ đô thì tức khắc nó lan rộng ra toàn quốc. Bắc Ninh, quê mẹ, toàn đồng ruộng, mẹ sẽ chạy đi đâu. Ai sẽ giúp đỡ mẹ? Anh thầm trách Liêm, trong lúc này, không hề có một bức thư. Anh càng ghét người anh ruột. Hồi thuộc Pháp, Liêm làm tri huyện. Sau tổng khởi nghĩa, Liêm về ở cái đồn điền của bố mẹ vợ ở Phúc Yên, luôn mồm chửi cách mạng. Mẹ không bao giờ ở với Liêm quá hai ngày. Mẹ thường nói Liêm đủ phú quý rồi, không phải lo cho nữa. Sự thật, mẹ không ở được với con cả vì vợ Liêm hợm của khinh mẹ chồng. Trần Văn không những ghét anh mà còn khinh nữa. Liêm học gạo, đào mỏ, đút lót để thi đỗ. Từ khi làm quan, Liêm chỉ nói những chuyện cụ Hoàng, cụ Vi, cụ Hà, mua đồn điền này, tậu nhà nhọ. Khó chịu hơn cả là thỉnh thoảng hai anh em gặp nhau, Liêm thường tỏ vẻ thương hại em lẽo đẽo theo cái nghề dạy học tư bội bạc. Mặc dầu ghét anh, nhưng trong lúc bối rối Trần Văn cũng có bàn với mẹ hay là hẵng tạm về Phúc Yên. Ít ra mẹ còn có người để nương tựa. Mẹ lưỡng lự mãi, cuối cùng nói: “Thôi, tao về Bắc. Tao có mấy mẫu các cụ để lại, tao chẳng phải nhờ vả vợ chồng nó”.

Chuyến tàu Phòng đầy ăm ắp người cũng sắp chạy. Tiếng còi rú một hồi dài thất thanh. Một cái đầu tàu đang phì phì chạy một mình dồn những toa còn đẫm sương đêm cho chuyến tàu Nam. Lấp loáng đèn xanh đèn đỏ. Sân ga Hàng Cỏ đông một cách khác thường, hơn cả những giáp Tết. Gió lạnh lùa dọc theo cái nhà cầu cao rộng. Trong buổi sáng mờ mờ, những đường ray rộng bát ngát vì không có nhiều toa che lấp như mọi khi. Phu khuân vác chạy tới tấp. Những chiếc xe sắt chở hàng lộc cộc trên nền gach, nhấp nhô trong cái khoảng nửa tối nửa sáng. Giữa nhà cầu và ở hai bên, người đứng ngồi đen đặc. Hàng hoá phần lớn là những va li, hòm xiểng, khác với ngày thường toàn là những gồng gánh, thúng mủng, bồ con bồ lớn, lồng gà rọ lợn của những người buôn xuôi bán ngược. Không có những tiếng nói ồn ào. Chỉ có nhưng tiếng to nhỏ, thiết tha, những lời căn dặn thủ thỉ, những tiếng gọi nhau lo lắng, mệt mỏi:

- Lại đây khéo lạc đấy, con.

- Về đến nhà, mợ viết thư ngay cho ngoài này con khỏi lo.

- Đừng có đi đâu nhé. Mũ đỏ nó cán chết người ở Hàng Bông đấy. Đừng có lên phố Tràng Tiền nữa. Gạo đấy, thức ăn đấy, cứ ở nhà con nhé.

- Nó vào cả hiệu khách ở bờ sông tống tiền.

- Nhớ đến hỏi cho bà cái món họ nhà bà phán Hàng Phèn cháu nhé.

- Lạy giời, lạy Phật sao cho tai qua nạn khỏi.

- Trăm sự trông vào Cụ Hồ.

- Tết nhất đến nơi rồi.

- Chẳng biết về quê có được ở lâu không. Toạ thực sơn băng cụ ạ.

- Thấy nói bà sắp cho cô Ngân đi ở riêng.

- Ngày mai, ngày lành tháng tốt, tôi định lo cho cháu. Tình hình này, nhà cụ đốc lại xin hoãn. Nát cả lòng cả ruột vì con…

Số đông hành khách là người già, phụ nữ và trẻ con. Không bóng một chàng phong lưu công tử, tay không bận hành lí, ung dung đi bách bộ trên ke. Mấy nhân viên nhà ga đứng trước phòng giấy buồn tênh nhìn khách, tay che miệng ngáp vặt. Một tốp ba người vệ quốc quân, đang đứng chỉ trỏ như nhằm nơi bố trí. Họ đã mặc cái áo bông trấn thủ với những đường may hình quả trám, phảng phất như bức tranh bộ đội cầm ngang cây súng dựng ở các vườn hoa trong tuần lễ vận động may quần áo mùa đông binh sĩ vừa qua. Cái kiểu ăn mặc mới và gọn ghẽ này, còn lạ mắt đối với người Hà Nội, cộng với vẻ nghiêm nghị của mấy anh bộ đội, đã gợi trong trí tưởng tượng của Trần Văn cái không khí của chiến sự rồi.

Trần Văn len lỏi trong đám đông để tới cái cổng ra vào. Chợt anh trông thấy bà hai Vịnh và Trinh đứng trước phòng dây nói của nhà ga. Chỗ này tương đối thưa người. Anh định lờ đi thẳng. Nhưng bà cụ đã hỏi anh:

- Cậu giáo ra ga có việc gì đấy?

Anh không niềm nở lắm:

- Thưa cụ, tôi ra ga để tiễn đẻ tôi về Bắc.

Trinh khẽ gật đầu chào anh. Trần Văn ngạc nhiên. Từ mùa xuân năm kia, khi mối tình tan vỡ, thì họ đã như hai người xa lạ. Đôi khi gặp Trình ngồi ô tô nhà, hoặc với chồng hoặc một mình, Trần Văn quay ngoắt mặt đi, thường thường làm ra kẻ khinh khỉnh không để ý. Trinh thì ngồi sâu trong xe và nhìn thẳng. Trần Văn rất giận Trinh, nhưng lắm lúc anh lại thương hại. Trinh chỉ là một người đàn bà tầm thường như mọi người đàn bà tầm thường khác, ham danh ham giá, khoe khoang và ích kỉ. Thực tình thì họ cũng chẳng đang trách, vì sống trong một xã hội còn nặng nề về ngôi thứ, phần lớn người đàn bà Việt Nam lấy chồng, không phải vì giá trị thật của người ấy, mà vì cái bề ngoại địa vị nhiều hơn. Những đầu óc vụ lợi, đầy tính toán ấy làm sao có thể vươn tới những mối tình cao cả, bừng cháy, thiêu mình?

Cái vẻ đẹp và cái sang trọng cả Trinh bật nổi lên giữa đám đông người tản cư sầm tối. Lúc này, chẳng ai nghĩ đến ăn mặc. Người ta cảm thấy cái sang cái diện thật là chướng mắt đối với những người đang chuẩn bị đánh giặc, sống chết chẳng biết thế nào. Thực ra thì Trinh chỉ mặc một chiếc áo len dài màu đen, mặt xoa phấn nhẹ, đầu quàng một cái khăn mỏng màu hoa cà. Nhưng Trinh thuộc cái loại phụ nữ biết mình có dáng người làm tôn y phục nên ít dùng những trang sức giả tạo. Chính vì thế mà Trinh toát ra một thứ lịch sự tự nhiên khiến mọi người chú ý. Trần Văn lấy làm lạ thấy Trinh gần như không thay đổi gì, mặc dầu anh biết Trinh mới đẻ năm sáu tháng nay. Đứng nép sau người mẹ già, Trinh vẫn chỉ là cô gái nhỏ bé, ngoan ngoãn, nề nếp như hồi nào. Người con gái đi với mẹ là hình ảnh Trần Văn ưa thích. Trinh không dám nhìn anh, và anh cũng không nhìn Trinh. Nhưng thỉnh thoảng anh thấy lấp lánh sau lưng người mẹ, đôi măt quen quen, đôi măt to đen, tuyệt đẹp làm cho người ta quên những nhược điểm của cái trán hơi thấp, trên khuôn mặt trái xoan hơi gầy.

Trần Văn còn đang lưỡng lự không biết nên đi hay đứng lại thì bà cụ nói:

- Tôi về Nam đây, cậu ạ. Hoài của, cụ nhà đi chuyến tàu Bắc vừa rồi mà tôi không biết. Chẳng biết bao giờ mới được gặp cụ. Liệu có gì không?

Anh nói:

- Tôi cũng không biết thế nào. Nhưng các cụ tản cư là phải.

Anh định hỏi Trinh có về với bà cụ không, nhưng xem cung cách thì biết Trinh chỉ ra ga tiễn mẹ, anh lại thôi.

Bà cụ vẫy anh lại gần, lấm lét thì thầm, như nói một việc rất quan trọng:

- Cậu có vào tự vệ không?

- Đó là nhiệm vụ của mọi người thanh niên trong lúc này.

Trần Văn khó chịu về câu hỏi dớ dẩn của bà cụ. Bỗng Trinh hỏi mẹ:

- Tự vệ phải đánh nhau, sao các anh ấy thích vào mợ nhỉ?

Trần Văn cau mặt. Trinh không những tỏ ra thờ o với thời cục mà còn ngu nữa. Hồi yêu Trinh, anh tưởng Trinh thông minh, có ngờ đâu Trinh lại thảm đến thế này. Anh buồn cho Trinh. Cái mã ngoài sang trọng, thượng lưu thật ra chỉ để giấu một đời sống nghèo nàn, một tâm hồn đớn hèn. Anh liên tưởng nghĩ đến Bao, chồng Trinh. Một kĩ sư điện trẻ tuổi, nhà giàu, đi làm công cho Pháp, thế thôi. Bao cũng tầm thường như khá đông trí thức du học. Trở về nước, ông cử, ông nghè cuối cùng cũng chỉ thành mấy anh bác sĩ kiếm tiền, mấy anh trạng sư bẻm mép, chẳng có một tìm tòi, phát minh, sáng chế nào, chẳng băn khoăn gì về vận mạng Tổ quốc, về con người, về thời đại. Xã hội Việt Nam thường liệt họ vào hàng đại trí thức. Trần Văn cười thầm: trí thức không thể đánh giá theo bằng cấp. Nghĩ như thế, anh chợt bĩu môi. Ngán ngẫm và bực bội, anh chào bà Hai và Trinh, viện cớ là có việc gấp, rẽ đám đông ra khỏi ke.

Con đường Nam Bộ nằm ngang trước ga sao mà rộng vắng. Đại lộ Trần Hưng Đạo chạy dọc trước mắt hiu quạnh như trong canh khuya. Lá cây phủ kín lề đường không ai quét. Không có một dấu hiệu gì của sự sống. Trên nền trời xám ngoét, một con diều hâu bay lừ đừ như đứng nguyên một chỗ.

Một đám thanh niên mặc tây đi xích-lô từ phía hàng Hàng Lọng tới. Họ vội vã, hấp tấp, hốt hoảng. Họ cuống cuồng bước lên thềm, chạy vào ga lấy vé, mặt tái nhợt, hơi thở dốc ra. Trông thấy Trần Văn họ bẽn lẽn, xấu hổ, người cúi mặt xuống, người ngoảnh mặt đi. Trần Văn cười trong bụng. Chắc chắn họ cũng cùng một loại với mấy anh thanh niên theo gia đình đi tản cư mà anh gặp lúc nãy ở ngoài ke, các chàng phải giấu mặt đi để đồng bào khỏi trông thấy và xỉ vả là đồ hèn nhát.

Giữa cái nhục và cái hiên ngang ở lại Thủ đô, Trần Văn chọn cái thứ hai. Anh cảm thấy người anh nhẹ nhàng. Anh không phải bịn rịn vì mẹ nữa. Anh mừng thầm mẹ đã đi khỏi nơi nguy hiểm. Còn vợ con thì anh hoàn toàn không bị ràng buộc. Anh tự an ủi: “Nếu lấy Trinh thì bây giờ lúng túng đến chết. Càng may”. Anh hối hận đã quá nóng nảy với Trinh lúc nãy. Anh nghĩ: “Còn thù oán làm gì”. Tiếng còi của chuyến tàu Phòng rúc dài lưu luyến. Trần Văn quay lại như để chào những người Hà Nội ra đi. Anh xuống thềm, đi trên phố Hàng Lọng. Anh thấy mình thật lạ lùng, và tự hỏi sao mình lại trở về cái nơi mà mọi người phải chạy? Để chuốc lấy cái gì nếu không phải là một cuộc sống gian khổ và cái chết tất nhiên?

Trần Văn tới trước cổng trường, lòng anh se lại. Anh biết có một số học sinh nhớ lớp thỉnh thoảng lại đạp về thăm. Anh tới để gặp họ và để bảo ai không có việc gì thì nên đi ngay, ai muốn ở lại thì nên sung vào tự vệ. Nhanh thể để từ biệt cái nhà trường mà có lẽ không bao giờ anh còn tới dạy nữa. Trong đời dạy học tư của anh, trường này anh vừa ý nhất. Trường của đoàn thể, dạy theo một phương pháp mới, khác hẳn cái lối dạy hồi thuộc Pháp chỉ đẻ ra thêm một lũ nô lệ, đầu sai. Ông giám đốc, một nhà trí thức cách mạng, đã đến tận nhà anh mời anh dạy sử. Đối với nhà trường, anh có một cái ơn tri ngộ. Anh đã được giảng sử nước nhà bằng tiếng Việt Nam, một cách đường hoàng, không phải dè dặt, quanh co. Cách mạng Tháng Tám đã mở cho anh một cuộc đời mới. Anh đang phấn khởi thì tình hình chính trị bắt buộc nhà trường phải đóng cửa. Các bạn giáo sư đã đi cả rồi, học sinh thì tan tác mỗi người một ngả.

Cổng trường vắng ngắt. Cái bảng tên trường còn mới nguyên. Cách đây mươi hôm thôi, học sinh còn đến trường ríu rít như đàn chim. Trần Văn thấy nhớ cả những người chẳng có quan hệ gì với anh, nhưng đã làm nhộn nhịp cổng trường. Không biết họ đi đâu cả rồi, cái bà bún chả thơm lừng, cái anh bánh mì ba-tê chột mắt, cái cô sấu giầm kháu khỉnh, cái bà hàng quýt và hạt dẻ, cả cái anh chàng thuốc cao liến thoắng, biết võ Sơn Đông, thoắt tới thoắt đi như một khách giang hồ.

Đường Hàng Đẫy. Người vào thành phố thì ít, phần nhiều là người lớn, dáng đi vội vã. Người kéo ra ngoại ô thì nhiều, số đông là đàn bà, con trẻ, ngồi lặc lè trên những xích-lô, lút trong cái mớ hỗn độn bọc to, bọc nhỏ. Một chiếc cam-nhông chất đầy những chồng giấy chạy chồm chồm, theo sau là một cái xe khác chở những bộ phận của máy in. Ba chiếc xe bò lộc cộc nối nhau qua, cái chở những đồ thờ lóng lánh sơn vàng, cái chở những tủ sập gụ, tràng kỉ, lộ bộ, cái chở những đồ đồng, đồ sứ bọc kín, nhưng vẫn để lộ hình dáng bộ tam đa, con hạc chầu, tấm gương đồ sộ… Chuyến xe điện đi Hà Đông rít bánh trên đường ray, cũng chật ních người, ầm ầm chạy qua cổng trường. Một thanh niên mặc tây, đứng ở toa cuối cùng, đăm đăm nhìn vào trong phố. Người con gái lộng lẫy ở cái biệt thự đối diện với nhà trường, vẹo người nhăn mặt, xách một cái va-li không nặng lắm ra ô tô nhà đậu bên hè. Chị ta đánh rơi cái va-li, đưa bàn tay nhỏ lên ngắm và xuýt xoa, và giật mình kiểu cách nhìn một nhạc sĩ ôm một cây ghi-ta lom khom đi trong đám đông. Trần Văn thấy động lòng thương. Một tiếng ho sù sụ làm cho anh quay lại. Một ông già lê bước tới. Lão không có nón, không có mũ, tóc nửa màu đất, túm lại thành một búi cái đằng sau, nhỏ như một hòn bi. Mắt lão mờ dại như mắt người hấp hối, mồm há ra để đớp không khí, cổ chỉ còn hai miếng da mỏng như tờ giấy dính cằm. Vai lão đeo một cái đẫy nhỏ, lưng gãy gập cõng một đứa trẻ độ hai tuổi. Đứa trẻ ngủ, cái đầu ngoẹo xuống. Thảm nhất là nó lại chít một cái khăn đại tang còn mới. Ông cụ cứ loạng choạng, thỉnh thoảng dừng bước để thở, rồi lại thất thểu đi. Lão đi ra phía ngoại ô, và còn đi đâu nữa. Con cái lão đâu? Liệu lão có sống nổi mà nuôi đứa cháu không? Trần Văn nhìn theo trong đám bụi mù cái bóng ông già xiêu vẹo, mỏng manh như chiếc lá rụng bay theo cơn gió dữ.

*

* *

Ngót chục học sinh vui vẻ được gặp lại nhau trong lớp, sau nửa tháng xa cách. Người thì đã tản cư rồi lại lộn về Hà Nội. Người thì chẳng biết làm gì, đi lang thang các phố, rồi tạt qua trường. Quyên, mà bộ thiếu nữ tiền phong không còn hợp với cái dáng của người con gái đã đến thì, vừa ở Hoàn Long về. Một chị cán bộ đã giới thiệu Quyên vào làm mật mã, nhưng Quyên khóc xin thôi. Quyên cho là chị cán bộ khinh mình, vì Quyên thấy cái công tác được giao cho chẳng có gì là chiến đấu cả. Quyên nghĩ rằng đánh nhau thì phải nằm gai nếm mật, mặt trận thì phải là màn sương gối đất, chứ có đâu lại đi làm một công việc chẳng có gì là khó nhọc, ro ró ở một xó nhà. Loan, một học sinh tỉnh nhỏ mới ra Hà Nội, còn xúng xính trong bộ áo the cũ rích, thì phân vân chưa biết nên về hay nên ở. Về thì nhà túng, đông em, ở thì không biết ăn vào đâu. Để được học ở Hà Nội, anh đã phải làm nghề gập sách cho một nhà in, mà nhà in ấy đã tản cư rồi…

Sáng nhạt lùa vào lớp học xinh xinh. Mùi vôi tường nồng nồng man mát, mùi các cửa sổ mới sơn màu xanh tươi, thơm hăng hăng. Cái gì cũng mới cả, chẳng cái gì báo hiệu rằng nhà trường phải nghỉ. Cây bàng già trước phòng giám đốc vẫn như ngày nào, chốc chốc lại lìa những lá đỏ úa xuống cái sân nhỏ. Trong buổi sáng này, mấy người trẻ tuổi càng thấy nao nao cái niềm thiết tha muốn học, hoà với nỗi ngao ngán tiếc những ngày ngắn ngủi ở trường. Những ngày rực lên cái ánh sáng của ngày mai, bắt đầu những tình bạn mới, và ở một vài người đã gây gây cái hương vị kì lạ ngẩn ngơ của tình yêu nam nữ. Quyên thấy thương thương cái anh bạn đã từng rủ Quyên lên chơi vườn Bách thảo, nhưng Quyên không nhận lời. Không biết anh ta nay ở đâu rồi. Loan thì lừ đừ, ngơ ngác nhớ những người bạn cùng trường. Vì dè dặt anh đã không làm thân với họ. Tình cờ mấy người lại tụ tập ở đây, họ thấy như sống lại những ngày vui. Tay bắt mặt mừng rồi rít. Nhưng chỉ một thoáng thôi, câu chuyện lại trở về những vấn đề làm cho họ bận rộn trí óc và bứt rứt trong người. Một người nói:

- Tình hình ghê lắm rồi. Ở Hải Phòng nó lại vừa đổ bộ lên bốn trăm lính Đức. Hà Nội nó gây sự y như trước ngày nó đánh Hải Phòng. Chúng mình cứ loanh quanh thế này mãi ư?

Người khác nói:

- Đầu phố Khâm Thiên, mình đã đắp ụ cao, chôn những cây gỗ to như cột đình. Các cửa ô đều dựng chướng ngại vật xong cả rồi. Hôm qua, no cho xe đến phá ụ ở ô Cầu Rền, bê cả từng khúc gỗ. Nhưng tự vệ làm lại ngay.

Họ hỏi nhau:

- Mày đã vào tổ chức nào chưa?

- Biết vào tổ chức nào?

- Phải về nhập tự vệ ngay đi.

- Bọn cứu quốc ở trường này chẳng bào gì mình cả. Chúng nó chỉ toàn vào Giám họp kín với nhau.

- Trách chúng nó làm gì. Lúc này không nên trách ai cả. Chúng mình phải tự lo lấy thôi. Đứa nào chưa có công tác thì phải xin ngay đi, không có thì không kịp.Ngộ chốc nữa đánh nhau thì chúng mình trơ mắt ra ư?

Họ bàn với nhau việc chiến đấu như rủ nhau đi du lịch. Quyên hỏi một anh bạn:

- Thế anh đã vào đâu rồi?

- Mình đã xin với Uỷ ban bảo vệ khu phố vào tự vệ rồi. Đi gác tập trung rồi kia.

Anh nói cái danh từ Uỷ ban bảo vệ với một vẻ quan trọng đặc biệt. Cái danh từ mới mẻ ấy âm vang trong đầu óc mấy người như một cái gì lạ lùng, bí mật, với những chiến sĩ xương đồng da sắt, súng đạn đầy người, có tài chỉ huy quân sự và những mưu mẹo thần tình. Những người trong cái uỷ ban ghê gớm ấy chắc phải là những tay cách mạng lão luyện, một lời nói ra, hàng nghìn người phải nghe răm rắp. Quyên đứng lặng im không nói, trí đuổi theo cái hình ảnh ước mong của một người cách mạng nào. Người ấy đã phải bị đày ra Côn Đảo, đã phải vượt tù trốn về khu Giải phóng, và lúc này phải gánh vác những công việc lớn lao. Người chồng lí tưởng của chị có thể không còn trẻ nữa, nhưng chị sẽ yêu với tất cả lòng yêu của chị, chị sẽ hi sinh tất cả cho anh để bù lại trăm nghìn gian khổ mà anh đã phải chịu trong bao nhiêu năm.

Tiếng nói chuyện mỗi lúc một thiết tha, sôi nổi:

- Chia tay nhau thôi. Đứa nào về phố đứa ấy.

- Các anh ấy sẽ phát lựu đạn cho mà đánh nhau.

- Có phát súng lục không?

- Có chứ. Rồi còn học bắn nữa thì vừa.

- Nhiều đứa, cũng học sinh như mình thôi, mà bây giờ trông có vể chiến lắm rồi. Sao chúng nó tài thế nhỉ? Sao chúng mình chậm chạp thế này? Khắp nơi chuẩn bị, thế mà chúng mình còn ngồi đây nhỉ.

- Có thấy không. Chỗ nào cũng có khẩu hiệu: Cương quyết bảo vệ Thủ đô. Nghĩa là không để cho Pháp nó lấn nữa. Nghĩa là Chính phủ chủ chiến chứ không chủ hoà nữa. Hồ Chủ tịch đã tuyên bố đấy.

- Tuyên bố thế nào?

- Tuyên bố với phóng viên Paris-Saigon. Mày không đọc báo à? Cụ nói: đồng bào tôi và tôi thành thật muốn hoà bình. Nhưng dân tộc Việt Nam sẵn sàng chịu đựng tất cả chứ không chịu mất tự do.

- Đúng, đúng, nhớ ra rồi. Cụ nói thế nghĩa là lôi thôi là đánh chứ gì. Sốt ruột quá. Chúng mình lờ đờ thế nay thì còn học sinh Hà Nội cái gì.

Loan tuy mới ở tỉnh nhỏ ra học, nhưng anh cũng tự hào với bốn tiếng học sinh Hà Nội dễ thương ấy. Cái mơ ước của anh được học ở Hà Nội, nơi nghìn năm văn vật, nơi đầy ánh sáng và những người tài giỏi, anh mới đạt được. Tuy thời gian ở đây chưa được bốn tháng, nhưng Loan cũng tự coi mình như người chính cống Thủ đô. Anh rất sợ cái danh từ quan viên tỉnh lẻ. Cho nên để tán thành anh bạn, Loan khẽ gật đầu, sung sướng như được công nhận chính thức là học sinh Hà Nội. Niềm vui pha lẫn thẹn thò làm cho anh đỏ mặt. Loan là một thanh niên mà sự lớn lên của thân thể cũng chầm chậm, kín đáo như lời ăn tiếng nói. Anh thu mình giữa các bạn, bé nhỏ trong bộ áo the, lim dim đôi mắt sau đôi kính trắng gọng sắt, trông anh hiền lành, quê kệch và khôi hài. Anh đứng trầm ngâm nghe các bạn, trí tưởng tượng đưa anh từ cuộc đời còn thơm tho mùi sách vở tới những trận chiến đấu ngổn ngang xác giặc, và chính anh có thể chết dưới đống gạch ngói của phố xá điêu tàn. Anh muốn ở lại, mặc dầu anh chưa biết bấu víu vào đâu. Anh cảm thấy bơ vơ như con chim chích giữa cái thành phố rối tung.

Một học sinh, thuộc cái loại hay thu nhặt chuyện, say sưa kể những cái oai của học sinh Hà Nội xưa nay. Đám tang cụ Phan Chu Trinh với hàng vạn học sinh nam nữ, từ cái hồi anh chửa ra đời. Cụ cử Can mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục, ngay từ những ngày đầu thuộc Pháp, quăng chén rượu khóc cái nhục mất nước trước mặt học sinh. Rồi từ chuyện học sinh Hà Nội đánh trẻ con Tây, anh trợn trừng trợn trạo chuyển sang vụ học sinh đánh Phạm Quỳnh giữa ban ngày ban mặt ngay ở phố Hàng Gai, xé áo sa, giẫm nát gọng kính vàng, nhét cứt vào mồm thằng hót Tây khốn nạn. Các bạn há hốc mồm nghe nhà kể chuyện thao thao bất tuyệt nói lại những sự việc mà có người hoàn toàn chưa biết, có người đã nghe mang máng từ lâu. Họ gật gù thán phục, phút chốc lại rũ ra cười khoái chí, tâm hồn bay bổng trong cái thế giới học sinh yêu nước từ những thuở xa xôi nào. Được đà, anh kia đứng vào giữa mọi người, lại kể:

- Ngông như thế thì đúng là học sinh Hà Nội nhà ta rồi. Nhưng còn nhanh và mưu mẹo thì đây. Hồi ấy chúng mình còn bé, nhưng các cậu biết thằng toàn quyền Pát-ki-ê chứ. Nó mời thằng toàn quyền Nam Dương sang Hà Nội. Nó bắt các phố dựng cổng chào. Cái cổng chào phố Hàng Trống nhà tớ đồ sộ nhất. Hai thằng đều sắp đi qua. Mật thám cu-lít canh như chết. Thế mà có một học sinh mới mười bảy tuổi, vào trạc bọn mình bây giờ thôi, đốt phăng luôn cái cổng chào ấy vừa lúc chúng nó sắp đến. Chổi xể cháy phừng phừng. Chúng nó phải lộn lại. Pát-ki-ê chết cay chết đắng. Mật thám, cu-lít trơ mắt ếch, không bắt được ai. Tuyệt!

Mọi người ồ à, nhốn nháo, vui sướng trong cái phút đẹp đẽ của tuổi trẻ mà người ta tưởng như có thể làm được cả trời. Quyên nói theo người kể:

- Tuyệt!

Cái váy tím cũn cỡn làm cho chị thêm nhí nhảnh, nước da ngăm ngăm trông chị như một cô đầm đen. Quyên mũm mĩm, không đẹp, nhưng tươi vì cái miệng nhỏ có duyên, răng nhỏ và đều tăm tắp. Quyên nói:

- Ngày trước còn thế nữa là học sinh Hà Nội bây giờ.

- Bây giờ thì chĩa súng vào đầu nó chứ còn gì nữa.

Quyên vứt một gói hạt giống rau cải xuống đất, bĩu môi:

- Thế là hết giồng rau. Xin mãi mới được hạt giống. Bây giờ thì còn làm gì!

Một anh giơ cao bàn tay mở rộng, hô:

- Học sinh Hà Nội theo tôi. Chặn tay thằng Pháp lại.

Họ bước ra khỏi lớp, tiếng cười trong trẻo. Nhưng họ chưa đi ngay, còn la cà đi hết lớp này sang lớp khác, tiến vào phòng giáo sư, đứng ngắm cây bàng, rồi lại ra hành lang. Họ vẫn chưa muốn chia tay. Quyên nói:

- Lúc này mà đánh nhau thì chúng mình thế nào nhỉ?

Họ nhìn nhau, không nói, những vừng trán không một nếp nhăn, nhỏ lại tối đi. Loan tần ngần đứng trước tờ báo “Tiếng trường” mới ra được số hai. Anh giơ tay giữ tờ báo đã rách gần một nửa mà gió lộng cứ phần phật đánh. Quyên đến gần. Quá đát đàn bà, Loan lánh sang một bên và buông tay ra. Một nửa tờ báo gập xuống. Quyên kêu:

- Có dán lại không?

Quyên xuýt xoa như chính mình đau đớn. Quyên và Loan, có khuynh hướng văn chương, là biên tập viên chính của tờ báo. Tưởng mới như hôm qua, hình ảnh những ngày say sưa làm báo, những anh chị em tấp nập gửi bài cho toà soạn, những buổi đầu làm thơ, những phút chờ đợi tờ báo treo lên. Và cái vui Hồ Chủ tịch đến thăm trường. Cụ đứng đọc tờ báo rất lâu. Sáng hôm ấy, Quyên vắng mặt, buổi chiều đi học mới biết. Tối về, Quyên khóc không ăn cơm, đêm trằn trọc không ngủ.

Quyên vuốt ve nửa tờ báo rách, đưa nó lên áp vào tường, quay hỏi Loan:

- Bao giờ chúng mình lại làm báo tường? Đánh nhau thì còn làm thơ gì nữa, Loan nhỉ?

Loan cảm động nghe Quyên gọi chính tên mình, tiếng nói thấm vào lòng anh xao xuyến. Anh ấp úng nói không rõ, mặt anh đỏ ửng. Anh nhìn cái gói hạt giống rau cải, và anh thấy tiếc, anh nhặt lên. Một anh nói:

- Ừ, chúng mình rồi có đi học nữa không? Ngần này đứa rồi làm thế nào nhỉ?

Không ai trả lời được câu hỏi ấy. Quyên nhìn các bạn, mắt phảng phất cái ánh sáng hiền từ của mắt người mẹ mà người phụ nữ nào, dù còn ít tuổi, cũng có những lúc bừng lên. Quyên chìa một quyển sổ xin mọi người kí tên vào.

*

* *

Mấy người học sinh vây lấy Trần Văn vào giữa. Họ đăm đăm nhìn người giáo sư chỉ hơn họ dăm bảy tuổi. Người anh dong dỏng cao. Cái đầu húi theo lối bàn chải, trong có vẻ gọn gàng, nhanh nhẹn, tương phản với đôi mắt lờ đờ của một người mơ mộng nhiều hơn thực tế, tình cảm nhiều hơn lí trí. Lúc này, lũ trẻ muốn anh cười, vì anh có một nụ cười đặc biệt, nó làm cho vẻ mặt thường nghiêm khắc và buồn buồn của anh trở nên tươi tắn, hồn nhiên. Thấy lũ trẻ nhảy nhót chung quanh, anh cũng muốn cười, để truyền cho chúng một chút lạc quan, trong cái giây phút đầy những lo ngại và bất trắc. Nhưng anh thấy sao mà khó khăn. Anh nhìn khắp lượt. Anh đến, họ đều hớn hở. Những mắt mở to của ngần ấy thanh niên vẫn không giấu nổi cái ngơ ngác của hoang mang. Lớp học với người thầy giáo, giống như một cái bến yên ổn, nhưng họ vẫn chưa quên được những sóng gió bên ngoài. Anh nghe rối rít xung quanh những lời tâm sự, những câu hỏi đầy lo lắng về tình hình.

- Chúng em nhớ trường quá. Mới được hai tháng. Đang vui, đã phải nghỉ rồi. Chúng em muốn đi học. Có đánh nhau không hả anh? Đánh nhau có lâu không? Có cách gì không đánh mà thằng Pháp rút khỏi Hà Nội không? Gặp anh, em mừng quá. Anh bảo chúng em làm gì bây giờ? Đánh thì thắng chứ hả anh? Mình có xe tăng không? Quân mình ở chiến khu đã kéo về chưa? Còn anh, anh có ở Hà Nội không?

Bấy nhiêu câu hỏi dồn dập là ngần ấy bài tính đố mà chính anh cũng bí. Cũng như họ, anh chỉ là một kẻ bị trôi theo thời cuộc. Anh là một ông giáo chỉ chủ động trong việc giảng bài. Lúc này, Trần Văn thèm làm một người cán bộ nắm được tình hình, biết mình sẽ làm gì và đi đâu. Anh cảm thấy con người mới phải là con người, chẳng kể trường hợp nào, đều làm chủ được tình thế. Anh chỉ trả lời cái phần họ hỏi về anh. Anh nói:

- Tôi ở lại Hà Nội.

Mọi người reo lên:

- Thế thì vui quá…

- Sao các anh các chị còn ở đây?

Quyên nói:

- Chúng em cứ nhớ nhớ, không đến trường không chịu được.

- Tôi tưởng không nên quá nặng nề về tình cảm nữa. Nếu xảy ra…

Anh ngừng lại, không muốn nói đến hai tiếng chiến tranh. Anh vốn sợ những lời nói gở. Tự đáy lòng, anh ghét chiến tranh, ghét cả cái tên của nó. Anh gượng cười, nhìn lũ học sinh mà anh nghe rõ những tiếng thở đều đều. Anh nói:

- Tôi có cảm tưởng rằng tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng thêm. Lê-ông Bờ-lum lên, nói là không dùng chính sách bạo động, nhưng Mu-tê vẫn giữ nguyên chức vị và Đác-giăng-li-ơ lại sắp trở sang Đông Dương. Thằng đô đốc này sang thì hoà bình gì nữa. Nó còn ở Pa-ri mà đã cho cái tuần dương hạm lớn nhất của Pháp là Xa-voóc-nhăng đờ Bờ-ra-da cập bến Đà Nẵng. Hôm nay báo Cứu quốc lại đăng tin nó cho thêm một diệt ngư lôi nữa sang. Có tin tụi Pháp nói: “Ou libérer ou conquérir” (1). Nghĩa là nó cố sống cố chết cướp nước ta một lần nữa.

Anh không nén được tiếng thở dài. Những cặp mắt trong trẻo ngước nhìn anh như đang nghe giảng. Một lúc lâu im lặng. Người ta nghe rõ tiếng lá bàng rơi đầu nhà. Quyên bỗng nói:

- Chẳng đời nào mình chịu.

- Chúng ta không thể sống mãi trong nhục nhã được. Không biết bao giờ dân tộc ta mới hết nhục? Nó cướp của, tống tiền. Nó bắt đàn bà con gái. Nó giết người ta mà lại nói là: à bas les Viet minh, assassins (2). Biết bao giờ cho sức mạnh không thuộc về những kẻ đi áp bức, đi thống trị người khác.

Một người nói:

- Không hiểu làm sao người mình cứ khổ mãi, anh nhỉ?

Trần Văn mỉm cười, đau đớn:

- Cớ lẽ đến lượt chúng ta phải chịu đựng những nỗi khổ cuối cùng để rửa hết bao nhiêu những tủi nhục mà cha ông chúng ta và chính chúng ta đã mang nặng từ tám mươi năm nay.

- Thế thì chúng em sẵn sàng, nhục lắm rồi anh ạ.

Ngần ấy người thanh niên mắt long lanh như sắp xông lên chiến đấu. Trần Văn thoáng nghĩ đến Trinh và tự hỏi sao trong lúc mọi người đang lo cho số phận của Tổ quốc thì người đàn bà ấy lại có thể bàng quan và lạc hậu như thế được. Anh nhìn những người học trò của anh, mà cái sôi nổi làm cho anh thêm phấn khởi. Anh nói:

- Có lẽ nhục không đáng sợ, chỉ những kẻ không biết nhục mới đáng sợ thôi. Ông cha chúng ta cũng sâu sắc lắm. Chắc các anh chị đều biết rằng cái buổi sáng ngày 20-11-1873 khi quân Pháp đánh thành Hà Nội, đại bác của nó làm thủng một cái lỗ rất sâu ở Cửa Bắc. Hà Nội bị mất vào tay chúng nó. Ông cụ tôi kể lại rắng ít lâu sau, một đêm có một ông nhà nho leo lên lấp cái lỗ, và đề một bài thơ. Bài thơ ấy tôi không nhớ nữa, đại ý nói phải lấp cái lỗ kia để hàng ngày nhân dân khỏi phải trông thấy mà thêm nhục. Mấy hôm sau thì cái chỗ lấp bị moi ra để trơ cái lỗ đại bác cũ. Đến đêm, ông nhà nho lại lấp đi, và đề thơ mắng cái kẻ nào không biết nhục đã phá cái công việc chính đáng của ông. Mấy hôm sau, cái lỗ lại khoét ra như cũ, bên cạnh có đề mấy câu thơ hoạ lại khuyên không nên xoá cái vết ấy đi mà phải để đấy cho mọi người luôn luôn trông thấy cái nhục mà nghĩ việc cứu nước. Và cứ như thế, người chủ trương giấu cái sự thật nhục nhã, người chủ trương phơi trần nó ra, người nào cũng thấy mình yêu nước cả, người nào cũng cho mình làm là đúng. Hai bên cứ âm thầm cãi nhau như vậy. Mỗi buổi sáng lại thêm một bài thơ. Thơ cứ đối chọi nhau. Cuối cùng, ông thứ hai viết: cái lỗ đạn này không thể lấp được bằng đất bằng vôi, chỉ có thể lấp được bằng gươm bằng súng. Không biết ông lấp nghĩ thế nào vì sau đó Pháp nó biết và đem rào kín cồng thành…

Loan nghểnh cổ nhìn Trần Văn qua đôi kính trắng:

- Em thấy ông thứ hai đúng hơn.

Quyên vẫn chống hai tay lên cằm nghe chuyện, nói:

- Còn gì nữa hả anh? Hay quá, cả hai ông cùng yêu nước chứ.

Loan đỏ mặt:

- Đúng rồi. Nhưng sự thật dù tàn nhẫn đến đâu, cũng không nên giấu.

Nhiều người nhao nhao:

- Ông thứ hai đúng.

Trần Văn gật đầu, như khi nghe học trò trả lời những câu hỏi của anh. Anh nói:

- Tôi nghĩ lúc này là lúc chúng ta lấp cái nhục bằng gươm súng đấy. Và nếu vì quân Pháp mà chiến tranh xảy ra thì chúng ta sẽ cho chúng nó biết rằng chúng ta không phải là một giống hèn.

Loan nói:

- Mấy hôm nọ, em cũng định về quê. Nhưng bây giờ thì chúng em thấy cần phải ở lại. Anh cũng ở đây, thì chúng em còn lo gì nữa.

- Tất cả hay chỉ có anh Loan?

Quyên nhanh nhảu nói như sợ người khác cướp mất lời:

- Chúng em là học sinh Hà Nội. Học sinh Hà Nội mà lại tản cư thì nhục lắm. Ở Hà Nội có làm sao đi nữa cũng vẫn hơn. Lần này, em sẽ đến nhà chị Oanh xin cho công tác đấy, anh ạ. Anh biết chị Oanh chứ? Chị Oanh phố Nhà Thờ ấy mà.

- Tôi biết. Chị ấy hay đến họp với ông Quốc Vinh.

- Ông Quốc Vinh nào ạ?

- Ông ấy là Phó chủ tịch Uỷ ban bảo vệ Liên khu 1.

- Thế à. Hay quá nhỉ. Chắc ông ấy ghê lắm?

- Sao lại ghê?

- Thưa anh. Uỷ ban bảo vệ thì phải ghê lắm chứ ạ.

- Nhất định rồi. Nhất định rồi.

Mọi người nói xôn xao. Cái hăng hái bồng bột của mấy người học sinh truyền cho Trần Văn một niềm vui mới, cái vui của mọi người đã có công tác, hoà với cái tự hào đã quen một nhân vật quan trọng, một người trong đoàn thể. Thấy Loan rụt rè, anh hỏi:

- Loan muốn nói gì?

Loan lại càng đỏ mặt:

- Em muốn anh giới thiệu cho em một công việc gì. Em không thể đứng ngoài cuộc đời.

Trần Văn vốn yêu Loan, một anh học sinh tỉnh nhỏ, chăm học, ham đọc sách, đang âm thầm theo đuổi mộng văn chương. Anh hay chú ý đến những người có chí mà chưa thành đạt và cho rằng cái thời mò mẫm tìm đường là cái thời đẹp nhất của một đời người. Anh nói:

- Tôi giới thiệu với ông Quốc Vinh nhé.

- Vâng.

Mấy người học sinh khác tranh nhau nói:

- Anh giới thiệu chúng em với.

Trần Văn gật đầu một cách mơ hồ. Anh chợt thấy bất nhẫn, không muốn cho những người đang tuổi đi học kia phải xếp quyển vở lại để cầm một thứ võ khí nào đó, và không bao giờ trở lại dưới mái trường. Thấy Loan cuộn tròn một quyển vở trong tay, anh cầm lấy giở ra xem. Quyển vở còn ngót một nửa chưa chép bài. Sau cái phần đã chép, trên một trang giấy trắng, có viết hai câu xếp đặt như thơ: Học sinh Hà Nội – Sống chết không rời Hà Nội. Dưới đề ngày 17-12-1946, rồi đến một loạt chữ kí. Anh lần giở những trang còn nguyên chưa viết. Những trang giấy này đang dẫn người học sinh chăm chỉ vào thế giới hiểu biết đã phải ngừng lại ở đây. Loan sẽ thôi hay còn viết nữa, và viết cái gì? Mấy người học sinh sán lại gần anh. Chưa bao giờ anh thấy gần họ như lúc này. Các trái tim đều đập mạnh. Những hơi thở không đều, bay khe khẽ vào mặt, thổi nhè nhẹ bên tai anh. Ngót chục cái đầu xúm lại. Trần Văn muốn ghì chặt trong hai cánh tay những khối óc tươi trẻ kia đang mở ra, sạch như trời hé sáng. Anh thở dài, giao trả Loan quyển vở. Anh nhìn ra đường, nói:

- Chúng ta ra khỏi cái nhà trường của chúng ta thôi. Biết làm thế nào.

Ngoài cổng, một đơn vị bộ đội tiến vào lạch cạch súng ống. Người nào cũng đều còn trẻ. Trong thấy Trần Văn và bọn học sinh bước ra, một anh khẽ gật đầu chào, lễ phép nói:

- Chúng tôi được lệnh đến đóng ở đây.

Trần Văn nói, giọng nhẹ nhàng:

- Vâng. Các anh giữ trường cho chúng tôi nhé.

Chú thích:

(1) Hoặc là thả hoặc là cướp lại.

(2) Đả đảo bọn Việt Minh giết người.

Bầu trời Hà Nội đục nhờ nhờ.

Giá buốt. Tuy sáng đã lâu rồi, nhưng phố xá vẫn như mới thức. Trần Văn và Loan đứng ở vườn hoa Cửa Nam, nhìn những con đường Hàng Đẫy, Hàng Bông, Tràng Thi, Cột Cờ đổ lại. Văn nao nao nhớ cái buổi chiều mùa thu năm ngoái, khi anh cùng hàng vạn con người dự cuộc mít-tinh ở vườn hoa Ba Đình về qua đây. Tai anh còn văng vẳng những lời trong bản Tuyên ngôn Độc lập, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước một bể người cuồn cuộn, một rừng cờ rực đỏ. Ngai vàng của cái nhà Nguyễn ở Huế mà anh rất ghét đổ nhào. Xiềng xích của thực dân Pháp tan vỡ. Một chế độ mới mở ra. Trước đây, anh cứ nghĩ không biết đến bao giờ dân tộc Việt Nam mới ra khỏi vòng trói buộc. Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học nối tiếp nhau thất bại. Anh có ngờ đâu Cách mạng Tháng Tám nổ ra, nước Việt Nam nhỏ bé của anh ngang nhiên thành lập chế độ cộng hoà dân chủ đầu tiên ở châu Á, và chính anh lại được sống những ngày lớn lao ấy. Anh bàng hoàng như mê như say, mặt bừng bừng nóng. Anh nhảy nhót trên đường đầy ánh sáng của một mùa thu tuyệt đẹp. Anh ngẩng đầu ngắm lá cờ đỏ sao vàng trên đỉnh cột cờ, nhìn vòm trời xanh lồng lộng. Cây cối hai bên đường reo vui. Chung quanh toàn là đồng bào của anh. Không còn bóng một thằng Pháp ngạo nghễ, hống hách. Anh yêu tất cả mọi người, và anh nói rất nhiều. Anh đi suốt từ Ba Đình về Nhà Hát Lớn, rồi lại từ Nhà Hát Lớn trở về Ba Đình. Anh ngẩng đầu đến mỏi cổ, chân anh bước đến long gối. Nhưng anh cứ đi và mãi không muốn trở về. Tất cả người Hà Nội đều đổ ra đường. Người không quen nhau cũng gật đầu chào hỏi. Tiệc mở linh đình ở hầu hết các nhà mà cánh cửa mở toang. Người ta như bừng tỉnh một giấc ngủ triền miên. Vui đẹp lạ lùng, là những con đường sạch bóng quân thống trị dưới bầu trời Tổ quốc trong lành.

Những ngày vui sao ngắn ngủi. Anh lại đang sống những ngày ngột ngạt, nặng nề. Con đường không còn thênh thang như cái ngày ấy nữa. Anh nhìn lên phía Cột Cờ, nơi quân Pháp đóng. Không thấy động tĩnh gì, nhưng nơi ấy trông rờn rợn, chứa đầy những bất trắc, gợi lên trong lòng người sự bực bội tự nhiên trước cái vô lí của một ranh giới giả tạo. Các phố khác thì lác đác vẫn có người, nhưng họ đi lẻ tẻ, âm thầm và như bị đè nặng xuống. Cái thành phố già nua của anh, trải qua nhiều tàn phá của gió bão, nhiều đổi thay của xã hội, đã hơn một lần có những buổi sáng như hôm nay, lúc mà những sinh hoạt đầy màu sắc của hè đường đột nhiên im ắng, thì cũng là lúc người dân mới chú ý tới và yêu thương thêm những mái nhà nho nhỏ, ép vào nhau, im lìm trên nền trời, kề bên những hàng cây um tùm, ủ rũ, thì thầm trong những suy nghĩ và đàm luận muôn đời, để chịu đựng, chống chọi và cố vươn lên. Trần Văn nghĩ như vậy, và trong cái buổi sáng khô lạnh này, anh thấy các phố xá cũ kĩ, chen chúc, chẳng có gì đồ sộ, phủ một màu xám nham nhở, lại có cái đẹp riêng, sắt lại trong một vẻ buồn nghiêm nghị. Anh năm tay Loan, nói:

- Hà Nội đẹp nhất những lúc đau khổ này, Loan có thấy không?

Loan vâng khe khẽ một cách lễ phép. Loan còn dè dặt, do cái thói quen của một người tỉnh nhỏ, và cũng do cái lòng tôn kính tự nhiên đối với thầy. Nhưng Loan vui lắm. Trần Văn sẽ giới thiệu anh vào tự vệ. Anh sẽ đến một nơi trung tâm của Hà Nội. Có những quãng đường qua lại ta thường chẳng để ý, nhưng khi ta đi để tới một nơi ta vừa mong muốn vừa ngại ngùng, ở đấy cuộc đời ta sẽ có nhiều cái khác trước, thì ta có cảm tưởng như con đường ấy mới mẻ, dài ra, có nhiều thứ như ta chưa trông thấy bao giờ.

Vườn hoa Cửa Nam có cái sạch sẽ mịn mát của mùa khô. Bên cái bệ còn lại của tượng đầm xoè, tượng trưng của thống trị, đã bị nhân dân quẳng đi hồi Nhật đảo chính, một đám người khá đông xúm quanh một anh thợ nặn. Một quang cảnh tưởng như không còn nữa giữa cái Hà Nội đã ngửi thấy mùi tanh giá của chiến tranh. Người dân Hà Nội, hiếu kì và khao khát cái vui, đứng xem như để quên những mối lo nghĩ. Mấy đứa trẻ con len dưới chân người lớn để vào gần. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng trầm trồ khen ngợi cái tài khéo của anh thợ, tưởng như Hà Nội vẫn còn đang thời bình.

Tất cả cửa hàng của anh thợ chỉ gồm có một chiếc bàn vuông, nhỏ, bẩn thỉu với những chiếc chén đựng bột dẻo đủ màu sắc hàng mã: xanh lơ, xanh lá cây, đỏ thắm, hồng, vàng, tím, đen, trắng… Chiếc bàn nhỏ, nhẹ và sơ sài, có thể lăn đi cùng đường phố Hà Nội, nay thềm nhà này, mai bờ đường khác, là sân khấu của những vị anh hùng Tam quốc, Tây du. Mỗi vị anh hùng lớn bằng một ngón tay cái, được cắm dựng đứng trên đầu một que nứa vót nhọn. Những Quan Công, Lưu Bị, Trư Bát Giới, xanh đỏ tím vàng, đứng xếp thành hàng trên quầy. Anh thợ thản nhiên trổ tài. Mười ngón tay dính bột đủ màu sắc, thoăn thoắt như một cái máy nhỏ, cứ năm, sáu phút tạo được một anh hùng. Nhân vật nào cũng khá tinh xảo, những bàn tay nhỏ xíu ngoắt ngược lên một cách rất tuồng, những cử chỉ đưa chân đá chiếc áo giáp, bộ râu đẹp của Quan Công…

Trần Văn đang đứng xem, quay ra thấy Loan có vẻ chăm chú theo dõi anh thợ nặn, anh nói:

- Loan là nhà thơ, có thấy anh thợ có tài không?

Loan tủm tỉm cười không nói. Nhưng anh đang theo đuổi những ý nghĩ riêng. Người thợ có hoa tay thật, nhưng anh ta nặn như một cái máy. Quan Công nào cũng như Quan Công nào, đều giống nhau và không có hồn, hôm nay và ngày mai cũng mãi mãi thế thôi, không có gì đổi thay, không có gì mới mẻ. Sự cần thiết kiếm tiền đã làm hại nhiều người. Nhiều cái tài đã bị vùi đi trong đói khổ và vô học. Loan rùng mình nghĩ đến cái giả thuyết thằng Pháp có thể trở lại. Cuộc đời lại hắt hủi con người như cũ, tài anh thợ nặn rồi cũng chẳng nhích thêm lên. Bao nhiêu những tinh hoa khôn khéo sẽ chết dần mòn.

Anh thợ nặn chào hỏi năm lần bảy lượt chẳng thấy ai mua, mặt anh ỉu xìu. Anh định đẩy xe đi.

Một tiếng gọi dịu dàng. Trần Văn quay lại. Một thiếu nữ gánh hai sọt hoa cúc vàng ở phía Tràng Thi bước tới. Anh nhận ra Nhân. Nhân nghiêng đầu sát đòn gánh, không nhìn anh và hỏi khẽ:

- Anh đi đâu sớm thế?

- Tôi ra ga tiễn đẻ tôi về quê.

- Thế ạ.

Nhân dùng dằng như nửa muốn đi nửa muốn đứng lại. Ấy là một cô con gái trạc mười chín đôi mươi, mặc theo lối phụ nữ ngoại thành. Khăn vuông đen quặt đằng sau, áo dài phin nâu mỏng hở cổ để lộ cái áo cánh trắng và cái áo len đan màu xanh. Hai ống tay chét lại, tất cả y phục đều lẳn vào người. Bàn tay trái vịn hờ vào đòn gánh bật nổi cái nhẫn hình trái tim. Trần Văn hỏi:

- Cô đi đâu?

Nhân vẫn không nhìn anh, tay trỏ ra phía đầu Hàng Bông, in hình một Vệ quốc quân im lìm đứng gác. Nhân nói:

- Chúng em góp tiền ủng hộ các anh bộ đội. Chốc nữa em cũng lại gặp chị Oanh.

- Tốt lắm. Cô đi nhé.

Hè năm ngoái, anh có lên chơi Ngọc Hà mấy ngày với một người bạn cũng dạy học tư, và là anh ruột Nhân. Khi ấy Nhân mới lớn lên. Sau khi anh về, Nhân có một hôm xuống chơi, tặng anh hoa. Từ đó thỉnh thoảng vẫn qua lại. Trong những ngày gần đây, Nhân thường có mặt khắp nơi trong Liên khu, rất hăng hái trong những cuộc vận động mùa đông binh sĩ, quyên tiền, quyên gạo, quyên thịt ủng hộ bộ đội. Những người bạn tự vệ của Trần Văn thường gọi Nhân là cô Ngọc Hà, cô mắt nhung. Có người còn nói là Nhân có cảm tình đặc biệt với Văn, nhưng anh gạt ngay đi để khỏi có những chuyện hiểu lầm không lợi cho Nhân. Thực tình, anh đã thờ ơ với chuyện đàn bà. Đối với Nhân, anh giũ nguyên thái độ và tình cảm của một người anh. Anh giục Nhân:

- Cô đi nhé. Hôm nào rỗi, tôi lên chơi anh Sửu, xem hoa đào ngày Tết.

- Anh em nhắc đến anh luôn. Anh Sửu em bây giờ cũng bận họp tự vệ lắm. Đi, chị đi.

Nhân quay lại nói với một người đàn bà dáng quê mùa đã đứng tuổi, đầu chít khăn trắng quặt ngang, tay dắt một đứa trẻ, trạc chín mười tuổi. Người đàn bà chào Văn, mặt buồn rười rượi. Chú bé cắp một cái cặp da cũ đựng đầy những báo Cứu quốc, Dân thanh, Dân mới. Nó đội một cái mũ dạ tàng, mặc một áo dạ tây con đã vá ở hai khuỷu tay, quần đùi ka-ki vàng rộng lùng thùng, thắt lưng da giấu một quả lựu dạn. Tuy nó ăn mặc lam lũ, nhưng mặt nó bầu bĩnh, trắng trẻo, trông có vẻ thông minh lanh lợi, làm cho người ta nghĩ đến những đứa con nhà giàu. Nhân nói:

- Thắng chào anh Văn đi.

Văn hỏi em bé:

-Thắng đi bán báo à?

Em bé ngẩng mặt nhìn Văn cười, hai má phính đều lúm đồng tiền. Không rụt rè, em nói:

- Hôm nay, em vào bộ đội.

Mặt nó vênh lên, vẻ quan trọng. Người mẹ rơm rớm nước mắt quay mặt đi. Nhân nói với Văn:

- Đây là chị họ em; chị em bán xôi chè ở Hàng Da. Anh em đóng giày ở phố Hà Trung. Năm ngoái, anh em vào bộ đội Nam Tiến. Tháng bảy vừa rồi thì nhận được tin anh em hi sinh ở Ban Mê Thuột.

Người mẹ lấy vạt áo lau nước mắt và kể lể:

- Thưa ông, cháu nhớ bố quá. Cứ thấy các anh bộ đội là sán đến, bán báo cho các anh. Các anh cũng mến cháu. Thế rồi cháu đòi ở lại với các anh. Tôi đến gọi, cháu nằng nặc không chịu về. Ông trung đội trưởng yêu cháu lắm, nhận cháu là em nuôi.

Thắng lườm mẹ:

- Anh Dân, u cứ gọi ông trung đội trưởng mãi.

- Anh với mày, chứ u gọi là anh thế nào được. Mày cứ cãi u thế. Nhà chỉ có một mẹ một con, nhưng cháu đòi đi quá, tôi đành phải chiều cháu. Hôm qua, đến xin các anh cho cháu về một buổi cho đỡ nhớ, hôm nay phải dẫn cháu đi ngay.

Trần Văn hỏi:

- Thắng không nhớ u ư?

Thắng nói:

- Em vào bộ đội thì cai báo không bắt nạt được em nữa. Đi u đi.

Trần Văn cúi xuống nhìn quả lựu đạn. Thắng cài khuy lại, thẹn thò vì đấy là quả lựu đạn giả. Người mẹ mỉm cười. Thắng khoe:

- Anh Dân làm cho em đấy. Anh ấy gấp cả thuyền cho em nữa.

Văn móc túi lấy tiền mua cho em mấy tờ báo. Thắng bỗng reo to một tiếng, quăng cả tiền xuống đất, chạy lại với một người mặt bộ quần áo tím như thợ ở đầu Tràng Thi tiến lại. Thắng ôm choàng lấy người ấy:

- Anh Dân ơi, u em dẫn em đến. U em bằng lòng rồi.

Một cái cười rộng, thật thà nở trên môi dày của người áo vải tím mà Thắng kêu là Dân. Anh bế xốc Thắng lên, và chỉ trong nháy mắt, Thắng đã ngồi trên vai Dân. Anh làm ra bộ khom khom lưng và nhăn mặt:

- Úi chà, nặng quá, nặng quá. Xuống ngay, xuống ngay.

Nhưng hai bàn tay rất to của anh vẫn nắm lấy hai chân Thắng buông thõng trước ngực. Anh công kênh Thắng tới trước người mẹ và nói, tiếng rất to:

-Chào bà. À, chào cả cô Nhân. Úi, hoa cúc đẹp quá.

Người mẹ bảo con:

- Xuống chứ con.

Thắng nhảy phóc từ trên lưng Dân xuống, quả lựu đạn giả văng ra. Dân nhặt lên, cười để lộ hai hàm răng trắng muốt. Anh giậm giậm chân, doạ Thắng:

- Này nó nổ. Này nó nổ.

Anh thọc bàn tay rất lớn vào túi Thắng đút quả lựu đạn, và nói:

- Phê bình đồng chí nhá. Thôi để yên nó trong ấy không nó chạy mất.

Tất cả mọi người ở vườn hoa đều nhìn Dân và cười ròn tan. Dân là một thanh niên trạc ngoài hai mươi tuổi, vai rộng, người lớn. Một pho tượng lực sĩ nước da đen hồng, khuôn mặt trái xoan, lưỡng quyền hơi cao, đường nét gãy gọn, không bị thịt mỡ làm cho thô và nặng. Toàn thể toát ra một con người khoẻ mạnh, thật thà, giản dị, điểm đôi chút phớt đời. Anh là một thợ nguội, vốn người ngoài bãi, trước làm công cho hãng A.V.I.A.T. rồi sang hãng S.T.A.I., rồi thoát li để vào tự vệ chiến đấu thành. Sau khi học ở trường quân chính Bắc Sơn ra, Dân được chuyển sang bộ đội và hiện làm trung đội trưởng Vệ quốc quân bảo vệ khu vực Cửa Nam. Vì ban ngày sợ lộ nên mấy đêm hôm nay, Dân đi suốt dọc đường Tràng Thi, Hàng Khay để khoan các thân cây hai bên đường chuẩn bị đặt mìn nếu xảy ra tác chiến, và cũng để kiểm soát những lỗ cây đã khoan, vì quân Pháp đã cho một bọn Việt gian đi lấp lại các lỗ.

Người mẹ nói:

- Bố cháu mất rồi, cháu ở với các ông vậy, còn hơn để cháu ở nhà, tôi không trông nom được, cháu chỉ lêu lổng trèo me trèo sấu. Ở với các ông thì phải ngoan con nhớ.

Bà ta nắn lại cái mũ méo cho con :

- Trăm sự nhờ các ông. Bố cháu chỉ còn có nó.

Dân nói:

- Được ạ. Được ạ. Bà cứ yến tâm cho em Thắng ở đây. Anh ấy mất rồi, chúng tôi sẽ thay anh ấy bảo vệ em Thắng.

Trần Văn đưa tiền cho Thắng. Anh thợ nặn nói:

- Bà mua cho em một cái.

Anh nhổ một Quan Công chìa cho người mẹ:

- Quan ngài thì khước lắm. Đây, giống ngài như đúc. Mua cho em lấy may. Chả nói giấu gì bà, cũng là để kiếm ít tiền cho mẹ cháu về quê.

Dân hỏi:

- Thế còn ông?

- Cháu thì về thế nào. Phải ở lại chiến đấu chứ lị.

- Thế thì cho tôi một Quan ngài. Mặt đỏ râu dài, đẹp lắm, Thắng này.

Anh cầm cái tượng đưa cho Thắng, và lại cõng em lên vai, đi về trụ sở. Người mẹ và Nhân bước theo sau. Vóc người lực lưỡng của Dân nổi bật lên. Thấy người ta reo cười, anh lắc lư cái đầu thỉnh thoảng lại làm bộ suýt ngã. Một bà vừa cười vừa nói:

- Cái ông ấy đến hay.

Anh thơ nặn thu dọn đồ đạc và đẩy xe đi:

- Bộ đội lại chả vui. Không có bộ đội thì cũng chẳng bà con nào mua cho tôi lấy một cái. Các anh ấy tinh lắm, biết người biết của.

- Cái bà ấy gan quá, dám ủng hộ con cho bộ đội.

Anh thợ nặn đẩy xe đi, cái vườn hoa bỗng trở nên buồn tênh như sân đình dỡ rạp. Loan thấy thương người nghệ sĩ bình dân, và nhơ nhớ những trò vui đơn giản làm nhộn nhịp thêm, thân mật thêm những vườn hoa, những rìa hè, những đầu đường Hà Nội, đem lại chút giải trí cho những kẻ nghèo. Người ta ngơ ngác nhìn theo anh thợ nặn vô duyên, cái hình ảnh duy nhất còn lại của thời bình trong buổi sáng hôm nay. Một bà già nói:

- Khốn nạn, mua cho anh ta một cái thì phải.

Có những tiếng ầm ầm phía đường Cột Cờ đưa lại. Một đoàn xe gíp, háp-tờ-rắc tiến rầm rộ vào phố Tràng Thi. Một người đi xe đạp ở đầu phố bị một xe gíp thúc vào. Người ấy chỉ kịp nằm sóng xoài trên hè đường, lặng đi như một xác chết. Hết xe này đến xe khác lao đi chồm chồm, phố xá chung quanh rung chuyển, dọc đường Cột Cờ, Tràng Thi, bụi bốc như trong một cơn lốc rối mù. Xe chở toàn tụi Tây mũ đỏ, kèm theo mấy con nhà thổ, me tây lòe loẹt. Người ứ lại ở đầu phố Hàng Bông. Cả một đoàn xe điện chở đầy người tản cư cũng phải đỗ lại. Một thằng lính đội mũ sắt có dấu Cờ-roa đờ Lo-ren của quân Đờ Gôn ngang nhiên đứng ở ngã tư, ngăn không cho người qua lại.

Anh thợ nặn đứng sau lưng Trần Văn bật lên một tiếng chửi và nói một mình:

- Đánh Đức thua Đức, đánh Nhật thua Nhật, đánh đâu thua đấy, bắt nạt Việt Nam. Mẹ cha mày, bố mày cũng không dám đánh đêm.

Lời nói lỗ mãng nhưng dầy tự hào. Trần Văn quay lại cười, tỏ ý đồng tình. Đoàn xe vẫn rầm rầm đi, những thằng Tây đứng ngồi trên xe giơ lên những quả đấm doạ nạt. Văn nhìn con đường lúc này không còn là của anh nữa. Trống ngực anh đánh mạnh. Tay phải anh nắm chặt. Anh nói trong lòng: Không. Chúng mày sẽ không trở lại được đâu. Một người mẹ đã ủng hộ đứa con một của mình cho bộ đội. Những người học sinh lũ lượt xin vào tự vệ. Một anh thợ nặn bình thường cũng coi rẻ chúng mày. Với cái thái độ của một người chịu ảnh hưởng của nho giáo, thường coi khinh bạo lực, có thể đắc chí nhưng chỉ nhất thời, anh thấy mình cao hơn chúng nó. Dưới con mắt anh, bọn lính viễn chinh trông ngu độn và trẻ con một cách thảm hại. Anh bĩu môi, lẩm bẩm: Mọi bạo lực, mọi cường quyền mạnh đến như sấm như sét rồi cũng tan đi như bọt. Hạng Vũ, At-ti-la, Nã Phá Luân, Hít-le và Lơ-cờ-léc, tất cả, trước hay sau, chóng hay muộn, tất cả đều sụp đổ. Chỉ có nhân tâm là muôn thuở…

Anh cán bộ còn trẻ, bị tra tấn nhiều nên xanh lắm. Bọn mật thám dẫn anh ta ra Cửa Nam để chỉ cho chúng bắt một anh cán bộ khác đã hẹn anh ta gặp nhau ở đây, tức là Quốc Vinh. Bọn mật thám trà trộn vào với mọi người. Không ai nhận ra chúng. Hôm ấy cũng vào buổi sáng và cũng rét lắm. Quốc Vinh vừa đi tới. Chỉ một giây là có thể lộ. Vừa lúc ấy, xe điện ở Hàng Bông chạy xuống. Anh ta kêu: “Bọn mật thám muốn tao khai thì đây này”. Giữa lúc chúng nó khôngngờ, anh ta lao vào cái xe điện. Trông thương lắm. Bọn mật thám lủi rồi, dân chúng còn đứng ngẩn ngơ nhìn cái nơi mà một người cách mạng đã hi sinh để khỏi lộ đồng chí. Chưa bao giờ tôi xúc động như buổi sáng hôm ấy mà chính mình được chứng kiến. Biết bao nhiêu người đã hi sinh trên đất Hà Nội này mới có ngày nay.

Trần Văn mỉm cười, chua chát:

-Có điều là mình nhát sợ. Mình phục những người cộng sản thì có phục nhưng không dám nhìn. Những hi sinh của họ quá cái sức của mình. Chính trong cái khoảng thời gian ấy, Quốc Vinh đến tìm tôi…

Loan quay mặt lại nhìn anh, chờ đợi. Trần Văn nói:

- Nhưng tôi không dám đi hoạt động, vì sợ nguy hiểm. Cái tầm thường của mình là thấy con đường mà vẫn cứ quanh co!

Họ lặng lẽ bước trên con đường Tràng Thi lúc này không có xe chạy, chỉ lẻ tẻ có vài người đi vội vã. Lòng giận giặc, nỗi bực mình lẫn với ở Trần Văn cái bồi hồi của nhớ tiếc, gợi lên do những lá bàng tím đỏ đầy đường sột soạt dưới chân và mấy con chim đậu trên dây thép trong ánh bạc của khoảng cây trụi lá. Đây là một trong những con đường đẹp nhất của Hà Nội, mà những hàng cây hai bên cao hơn nhà gác làm cho Hà Nội đắm trong thiên nhiên, và khi lộc non chuyển sang xanh râm, hay khi hoa phượng nở, hay khi lá rụng thay cho tiếng ve sầu, người ta như trông thấy và nghe thấy sự tuần hoàn của vũ trụ. Trên con đường thi cử của ông cha khi xưa, một đêm hè, dưới vòm cây mát, Trần Văn và Trinh đã nói với nhau những lời tình tự ban đầu. Con đường lúc này trông đau thương quằn quại và như quấn lấy anh. Thư viện trung ương mà anh là người đến đọc sách thường xuyên, thì im lặng như ngôi đền, chỉ có lá bàng, lá đa rụng đều xuống những thảm cỏ, xuống mấy cái ghế đá lơ thơ ngoài vườn vắng. Trần Văn nói:

- Cái phần khó khăn nhất, những người cán bộ ấy đã làm. Chúng ta bây giờ không có lí do gì để từ chối cái phần của chúng ta. Không thể để mất tất cả những cái này một lần nữa…

Người đổ xô từ phố Tràng Tiền về Bờ Hồ. Một đám thanh niên đang đứng trước dãy hàng hoa bỏ trống, vất điếu thuốc lá hút dở, rảo bước đi về phía tháp Bảo Thiên. Mấy chú khách bán phá xa ôm hòm lạc, lom khom bò, mắt sợ hãi nhìn trước nhìn sau. Những người chạy về cắt không còn hột máu. Tiếng kêu, tiếng gọi ầm ầm, hoà lẫn với tiếng chân huỳnh huỵch, tiếng giày, tiếng dép, tiếng rung chuông xe đạp không ngớt, tiếng ếp ếp của những anh xích-lô thục mạng lao cái xe không. Và bao trùm là cái gì không thành tiếng, nhưng nó phóng đại gấp trăm, gấp nghìn mọi tiếng động, nó vang trong đầu óc những khi bừng bừng căng thẳng, như cái tang trống phẳng chỉ một tiếng đập nhỏ cũng rung lên rất mạnh.

Trần Văn định ra nhà Thông tin phố Tràng Tiền để xem tin tức. Anh vẫn theo dõi tình hình chiến sự ở Lạng Sơn, ở Hải Phòng, ở Đà Nẵng, nhất là tình hình chính phủ mới của Pháp. Có tin Moóc-li-e đòi chính phủ ta không được bảo dân chúng Hà Nội sửa soạn phòng thủ, và phải phá ngay những ụ dựng lên ở các phố. Và nghe đâu trong một buổi gặp gỡ chớp nhoáng với Moóc-li-e, ông Võ Nguyên Giáp đã không chấp nhận cái yêu sách của viên tướng ấy. Lí do rất chính đáng. Người dân Hà Nội phải tự bảo vệ trước những hành động khiêu khích của quân đội Pháp.

Khi Trần Văn và Loan tới đầu quán hàng hoa thì người càng đùn về, lúc nhúc như sau một trận đá bóng. Nhìn xuống phố Tràng Tiền, thoáng thấy đằng xa Nhà Hát Lớn, trên đỉnh nóc cao lá cờ đỏ vẫn bay. Nửa phố về phía nhà hát vắng tanh. Nửa phố về phía Bờ Hồ, người đông nghịt, tỏa ra hai bên phố Hàng Bài và đường Bờ Hồ. Bên kia đường, trong nhà Ta-véc Roay-an, mấy người bồi Việt Nam khom khom đứng bên các bàn lố nhố đầm và tây, phần lớn là nhà binh. Loan khó chịu sao còn có những thằng bồi phục dịch chúng nó trong lúc này. Chúng nó thản nhiên ngồi uống rượu, hút thuốc lá khói um. Nhìn những người chạy bên ngoài, một con đầm tóc khô như rơm, nhún vai. Một thằng Tây đập cái roi da vào ủng một cách an nhàn, bên chân nó là hai con chó săn vểnh tai nhọn hoắt.

Người ta níu lấy những người ở Tràng Tiền chạy lại. Tiếng hỏi đáp dồn dập:

- Tụi mũ đỏ giở cái trò gì nữa đấy?

- Nó phá nhà Thông tin Tràng Tiền.

- Sao nó lại phá?

- Ai biết được. Đang phát thanh, dân đang nghe tin tức thì nó vào đến mấy chục đứa. Bộ đội ngăn lại, nó đánh luôn. Nhân viên chạy hết. Nó xé tất cả các báo, các bản đồ, đập nát các máy. Chậu cảnh nó quăng hết. Nó phá sạch phòng triển lãm. Nó lấy giấy má đem đi.

- Thế là nó gây sự rồi à?

- Lúc ra, thấy ảnh Cụ, một thằng lấy lưỡi lê đâm nát. Một thằng trèo lên lấy cá cờ đi. Một thằng treo một lá cờ tam tài lên tường, rồi viết ở dưới: kẻ nào hạ lá cờ này, kẻ ấy phải đền mạng.

- Liên kiểm đâu? Sao để nó hoành hành thế?

Mấy người đang nói chuyện trước dãy hàng hoa, thì một thanh niên ở đâu nhảy vào. Đang đà nhảy, nhưng khi chân vừa tới đất thì anh đã đứng nguyên, người thẳng và mềm mại, nhẹ nhàng như con chim liệng xuống đất. Anh không đụng phải ai, nhưng cũng nói một câu xin lỗi kiểu cách. Anh có vẻ chú ý đến vụ Tràng Tiền, nhưng hỏi thì cũng chỉ hỏi như mọi người thôi. Anh vừa nghe vừa huýt con chó lài, một giống chó Lào Kay cao lớn và sạch, lông hung hung, cổ và lưng đen mượt. Theo một cái lườm trịch thượng và che chở của anh, con chó đứng im, không quẩn chân mọi người nữa.

Trông thấy Trần Văn, người thanh niên nháy mắt cười. Anh ta có đôi mắt quá bé so với cái mặt quá dài, miệng đầy răng, đặc biệt có hai cái răng nanh lộ liễu. Anh bỏ những người mà anh vừa nói chuyện, vừa nhảy vừa huýt sáo, vừa gọi:

- Lu lu, Lu lu.

Con chó nhảy chồm theo. Người thanh niên bắt chặt tay Trần Văn, tưởng như vặn nghiến, khiến cho Trần Văn nhăn mặt lại. Anh ta kéo Trần Văn ra một chỗ, tay ra hiệu như người câm nói chuyện. Loan thấy Trần Văn, vẻ tò mò, quay mặt ra phía hồ, như để tìm ai. Dưới bờ hồ, một người bé nhỏ đứng nhìn lên, thấy Trần Văn nhận ra mình, khẽ gật đầu và biến vào đám đông.

Một xe gíp phóng như bay từ phố Tràng Tiền lại. Nó đi sát cái bục của anh công an ở giữa ngã ba. Viên trật tự nhảy choàng xuống bục lánh sang một bên. Tên lái cứ phóng xe, không thèm ngoảnh mặt lại. Mắt mọi người bỗng trố ra, kinh hãi. Đằng sau thằng lái xe, một thằng mũ đỏ, vai lủng lẳng những dây thừng vàng, giữ riệt lấy một người còn trẻ, mặc toàn ka-ki, mặt mũi sưng vù. Người ta còn thoáng thấy cả ảnh Cụ Hồ và một lá cờ vò nát. Tiếng chân chạy ầm ầm. Một tiếng kêu thất thanh:

- Nó bắt anh thông tin rồi!

Người thanh niên bỏ Trần Văn, nhảy lên hè phố Hàng Khay, nói:

- Casse lui la gueule! (1)

Cái xe vừa đi qua. Nhanh như cắt, anh thanh niên thò tay vào túi áo ra-gờ-lăng, rút ra một khẩu súng lục nhỏ, chĩa vào cái xe định bắn. Một anh bộ đội giữ anh thanh niên lại và nói:

- Không nên mắc mưu khiêu khích của nó.

Người thanh niên mặt dài, trật cái mũ nhung đen, vò đầu:

- Nó chửi vào mặt mình mà cứ bảo tránh khiêu khích mãi.

Nhưng anh ta đã bị dìu lẫn vào trong đám đông đang tản dần ra. Hình như bọn Tây mũ đỏ bên kia đường Hàng Khay không nhận thấy cử chỉ của người thanh niên. Nhưng chúng cũng nhìn theo, vẻ ngờ ngợ. Một thằng nhún vai một cách rất lính tẩy. Nó đưa bàn tay chém vào cổ nó, ra vẻ dọa những người bên Bờ Hô, uốn lưỡi, gầm gừ dằn từng tiếng:

- Việt Minh, vermine! (2)

Rồi chúng tiếp tục đặt những dây điện thoại óng ánh vàng theo con đường Tràng Thi, Hàng Khay, Tràng Tiền.

Tự nhiên Loan thấy yêu cái anh chàng mặt dài kia mà Trần Văn cho biết tên là Nhật Tân. Nếu anh bắn vào trúng đầu thằng Tây ngồi xe gíp lúc nãy, thì Loan hả hê biết mấy.

Trần Văn kéo Loan đi. Bàn tay trong bàn tay lạnh giá của Trần Văn, Loan cảm động thấy mình được anh giữ gìn, che chở. Nhưng Loan khe khẽ rút tay ra, vừa vì ngượng, vừa vì thấy mình không đến nỗi bé bỏng quá để phải có người lớn dắt, nhất là trong lúc mọi người đang phải cứng cáp lên. Trần Văn lại cầm lấy tay Loan, nói nhỏ, nhưng giọng bực tức đến nghẹn ngào:

- Pháp nó đòi tước vũ khí của tự vệ. Ở Hải Phòng, nó đánh ta, cũng mở đầu bằng việc đòi giải tán tự vệ.

Loan hỏi:

- Mình có chịu không, thưa anh?

- Hội đồng Chính phủ đang bàn. Nhưng chịu thế nào được. Chính phủ đã hạ lệnh cho thanh niên sẵn sàng, tức là đã có thái độ cương quyết. Đối với chúng nó, không thể nói lẽ phải mãi được, mà phải cứng.

- Lúc nãy cứ để cho cái anh gì bắn chết mấy thằng có hơn không? Có khi nó sợ không dám làm già nữa. Cứ thế này mãi thì hoang mang lắm.

Vừa nói, Loan vừa chỉ vào Nhật Tân đi trước cách họ chừng năm sáu bước. Bên cạnh là cái anh nhỏ bé chỉ cao đến vai Nhật Tân. Nhật Tân hoa chân múa tay, con Lu lu chạy lên rồi lại quay xuống. Họ đi về phía Hàng Trống. Trần Văn giữ Loan lại, thở dài:

-Nóng gáy không được. Nó chỉ tìm cớ để đổ vạ cho mình. Mình thì khổ một cái là cứ phải giữ gìn. Nhục quá Câu Tiễn. Một người của nó bị giết, nó sẽ nói: Đấy tự vệ của anh thế đấy. Chúng tôi phải đảm bảo an ninh cho quân đội và kiều dân chúng tôi. Rồi nó sinh sự. Tám mươi năm nó cướp bóc nước mình, còn lạ gì cái dã tâm của nó.

- Cái ông cán bộ đi với Nhật Tân lúc nãy chào anh là ai đấy?

- À chính ông Quốc Vinh đấy.

- Ông Nguyễn Quốc Vinh đấy ư, anh? Bé nhỏ thế thôi à? Phó chủ tịch ủy ban bảo vệ mà trẻ thế ư, thưa anh?

Loan trông theo Nguyễn Quốc Vinh đi trước năm sáu bước, mà anh thoáng thấy gầy và xanh. Loan ngạc nhiên trước một sự thật hoàn toàn khác với quan niệm của anh. Qua những câu chuyện do Trần Văn kể lại trong khi đi đường, anh cho là cái nhân vật quan trọng ấy phải to lớn, vạm vỡ, đanh thép, theo đúng nghĩa một chiến sĩ cách mạng. Nhưng Loan lại nhớ đến những thiếu niên tướng quân nho nhã trong các tiểu thuyết Tàu có dưới trướng hàng trăm vạn binh và những tì tướng võ nghệ cao cường. Nghe tiếng kêu của Loan, Quốc Vinh quay lại. Lần này thì Loan thấy anh ta tiều tuỵ quá, mắt lại có vẻ lấm lét. Trần Văn nói như để giải thích về cái trẻ của Quốc Vinh:

- Người ta nói Chính phủ ta trẻ. Các bộ trưởng còn trẻ, huống chi là những cán bộ như ông này. Thế là tốt chứ, nghĩa là dân tộc mình còn trẻ…

Anh chưa nói hết câu, thì từ phía nhà Quốc hội tiến lại, hãi hùng như trong một cơn mộng dữ, một đám người to lớn, quần áo toàn một màu xám xịt. Chúng nói một thứ tiếng Tàu nặng trịch, cộc lốc, man rợ. Đứa thì đầu để trọc, đứa đội mũ bê-rê, có đứa đội cả cái thứ nón sơn vành rộng. Đứa thì đi giày Tây không đánh xi bao giờ, đứa thì đi giày Tàu vải đen, đứa thì đi hải sảo. Phần lớn đứa nào cũng đeo cái bao súng gỗ, nó càng làm tăng cái vẻ thô lỗ của chúng. Mặt đứa nào cũng to, với những nét nhăn của bọn hung đồ. Một đứa có một vết sâu hoắm làm lũng cả một bên má, vết sẹo tội lỗi của một tên tướng cướp. Chúng đi nghênh ngang, lộn xộn, hơi rượu bốc lên sặc sụa. Hình ảnh cục cằn, tục tĩu, ồn ào dâm ác của sòng bạc, của tàu ô, của hắc điếm, của những cuộc bắt cóc, chém giết vô tội vạ. Hình ảnh ghê tởm còn rớt lại của đạo quân Tàu trắng tiếp phòng những ngày đầu cách mạng còn in sâu trong kí ức của người Hà Nội đã trải qua nhiều cuộc hưng vong. Hình ảnh hãi hùng của những con quỷ đã gây nên bao nhiêu vụ tàn sát đẫm máu gần đây ở Hải Phòng. Mấy hôm nay, cái tin Pháp đưa rất nhiều thổ phỉ ở Phòng lên càng làm cho dân chúng xôn xao, lo sợ. Khi chúng đến gần Loan có một cảm giác lành lạnh, hôi hám tưởng như mình sắp gặp một điều gì chẳng lành.

Trần Văn nháy Loan rẽ ra phía bờ hồ. Lá rụng trên cái thảm cỏ sạch khô, mới hôm nào còn là những hầm trú ẩn đào trong những ngày chiến tranh vừa qua, gợi lên những tiếng còi báo động, rùng rợn, và ban đêm những cái bóng lạnh lẽo của những gái lữa làm tiền. Một buổi sáng mùa thu, chỉ cách đây vài tháng, khoảng cái ngày Trần Văn đến dạy ở trường mới, tất cả Hà Nội đã ra đây lấp các hầm hố. Trong buổi sáng ấy, Trần Văn tưởng như bóng ma chiến tranh sẽ không bao giờ còn trở lại nữa. Không ngờ, nó đang rầm rập đến sau lưng. Nhưng lần này thì không phải là một cuộc chiến tranh mà đối với nó, anh có thể là một người ngoài cuộc, mong bên này được, muốn bên kia thua như trong cuộc xung đột lớn trên thế giới vừa qua. Đây là một cuộc chiến đấu sống chết với cả khối Pháp, thổ phỉ, lê dương liên kết lại, trong đó anh phải là người dự cuộc và mặc dầu bỡ ngỡ, anh không thể trốn tránh. Từ lúc nãy đến giờ, sự xấu hổ tủi nhục cứ xoáy mãi vào lòng anh, làm cho anh tức thở và chốc chốc lại đau nhói. Anh muốn thoát ra, mà có cái gì cứ chập lấy anh. Anh muốn vươn lên, nó cứ đè anh xuống. Anh muốn bước nhanh, mà chân cứ nặng nề. Anh muốn thét lên một tiếng kêu to, nhưng miệng anh như ngậm sỏi, và khi anh nói ra, anh cảm thấy lời nói gượng gạo, nhạt nhẽo, rời rạc, đứt hơi. Nỗi giận càng phải kìm đi anh càng thấy mệt mỏi và bất lực. Trong trí anh, lộn xộn những hình ảnh của bọn mũ đỏ thâm thù, của bọn Tây đầm ngạo nghễ, của mấy thằng bồi hèn hạ, của lá cờ bị vò nát, của anh thông tin vô tội mà lúc này có lẽ chúng đang tra tấn trong khi đó có thể vợ anh ta đang rưng rức khóc thầm. Hai hàm răng rít lại, anh run run nghĩ đến cái phút sảng khoái được cầm một con dao sắc thọc sâu vào cổ một thằng giặc không cứ là đứa nào. Nhưng anh nhắm mắt lại, cảm thấy bàn tay mình yếu ớt, không quen. Trong uất ức, anh bỗng thấy chói lên những vinh quang của người anh hùng áo vải mà sự nghiệp cứu nước dính chặt với Hồ Gươm. Nhưng chúng chỉ lóe lên như ánh chớp. Anh vẫn đứng trước cái thực tế đau khổ là mấy thằng mũ đỏ đang chửi vào mặt anh, ngay bên cái hồ oanh liệt.

Lá rụng trên vai anh. Gió lạnh của Hồ Gươm phả vào mặt anh, làm cho anh dịu dịu. Nước hồ phẳng như gương, lá cây và váng nước xanh vẩn. Hàng liễu trên bờ phía Cầu Gỗ buông rủ những mành thấp thoáng như sương. Những con đường nhỏ lượn dưới bóng những cây cổ thụ quạnh hiu, cuốn bay vài tà áo màu còn sót lại. Cầu Thê Húc, khom khom, đã ngả màu hồng nhạt. Trấn Ba Đình ủ rũ thấp xuống như bị dình. Tất cả đều im lìm, chờ đợi. Những con rùa lịch sử, chiến thắng và hoà bình, không thấy bóng tăm trên mặt nước. Cả đến đàn cò, từ năm này qua năm khác, không bao giờ rời cây gạo thân cao thẳng vút và trắng toát cũng không xào xạc như mọi khi. Chúng đi đâu hay đã nằm im trong tổ. Cái hồ yêu dấu như cũng cảm thấy dân tộc đang gặp khó khăn, và lắng xuống lo âu.

Trần Văn chỉ cái tháp Rùa mốc rêu đứng giữa hồ, nói với Loan, như để tự an ủi:

- Loan có trông thấy không, lá cờ trên đỉnh tháp Rùa. Nếu không còn nó thì chẳng còn gì!

Bỗng có mấy tiếng súng nổ ở đâu gần lắm. Loan ríu lưỡi không nói được. Tiếng súng mỗi lúc một ran ran, oàng oàng, cục cục. Hai người chưa nhận ra được tiếng súng nào vào tiếng súng nào, chỉ có cảm tưởng hoang mang là đã có bắn nhau. Tiếng nổ mỗi lúc một dữ dội. Đã chiến tranh rồi ư? Trần Văn và Loan cắm đầu chạy. Chung quanh hồ, những bóng người lao đi trông trước trông sau. Chẳng thấy bóng bọn mũ đỏ, thổ phỉ đâu nữa. Một chiếc máy bay rè rè lượn trên đầu mọi người.

Không quen dậy sớm, nên khi trở về, Trinh lên ngay gác, vào buồng riêng định ngủ thêm. Bao đã đi làm, con Diễm còn ngủ. Chồng Trinh xếp đặt nhà ở theo đúng cái tiện nghi của một đời sống Âu hoá. Hai vợ chồng và con Diễm đều có buồng riêng. Trinh có thêm cả một phòng chứa những quần áo rất nhiều của mình. Nhà dưới là xa-lông, phòng ăn, và nơi làm việc của Bao, bồi, bếp, sốp-phơ ở nhà ngang.

Trinh không sao ngủ được, mấy lần đã định dậy, nhưng nghĩ chẳng có việc gì, nên vẫn nằm. Chị với lấy một cuốn Dekobra, nhưng mỏi tay và cóng buốt, chị lại bỏ sách cho tay vào trong chăn, lim dim mắt hưởng cái êm dịu của ấm áp và yên ổn. Từ khi lấy chồng, Trinh đã quen với một cuộc đời mà mình hoàn toàn không phải lo liệu. Bao không muốn Trinh phải bận vào một việc gì có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ và sắc đẹp của Trinh. Đối với Bao, không những Trinh có tình yêu mà còn có cả biết ơn và kính phục. Sau khi đoạn tuyệt với Trần Văn, Trinh cũng có nhiều lúc bứt rứt. Nhưng rồi ngày một ngày hai, trôi theo hạnh phúc của gia đình, câu chuyện cũ ấy như một mũi nhọn đã bị mài đi không xoáy vào lòng Trinh nữa. Vả lại, trong việc Trinh lấy Bao, mới đầu Trinh có cưỡng lại. Cũng như nhiều kẻ ích kỉ, lợi thì mình hưởng, nhưng trách nhiệm thì đổ cho người khác, Trinh thường tự bào chữa: Cuối cùng là mẹ quyết định chứ không phải Trinh. Khi có con rồi, Trinh càng yên tâm. Phận của Trinh đã được an bài như thế rồi.

Trinh là con một gia đình tầm thường. Bố Trinh làm nghề bán sách. Khi ông mất, bà Hai Vịnh mới ngót ba mươi. Nhưng bà ở vậy nuôi con. Trước bà đi buôn hàng tấm, sau mới được một cửa hàng quần áo cũ. Buôn bán cũng đủ ăn. Bị họ nhà chồng và cả họ nhà mình khinh rẻ, vì không có của, bà chỉ có một nguyện vọng thiết tha là Trinh sẽ sung sướng hơn mình. Bà dốt nát thì Trinh phải được đi học. Bà vất vả thì Trinh phải được an nhàn. Bà không có thừa tiền thì Trinh phải giàu có. Trinh chỉ có việc ăn và học. Bà đón cả thầy giáo về kèm cặp thêm cho Trinh. Trần Văn được bà tin cẩn trong công việc ấy. Văn hơn Trinh bốn tuổi. Trinh phục Trần Văn là người đứng đắn, tự học mà đỗ tú tài tây. Song song với sự tiến bộ trông thấy của Trinh, mối tình giữa hai người dần dần nảy nở. Vì là chỗ quen cũ với mẹ Trần Văn, bà Hai cũng muốn cho hai trẻ nên vợ nên chồng. Bà chưa vừa ý một điểm: Trần Văn chỉ là một cậu giáo trường tư. Thấy Trần Văn có đủ sức để đỗ bằng to, có lần bà đã khuyên anh nên dấn học thêm, nhưng anh chỉ cười. Mẹ Văn đã xin cho cưới, nhưng bà Hai muốn để cho Trinh đỗ cao đẳng tiểu học xong đã, Trinh còn đang học năm thứ tư. Thế rồi Bao ở Pháp về. Gặp Trinh trong một đám cưới, Bao chú ý ngay đến vẻ đẹp dịu dàng của Trinh mà Bao cho là rất phương Đông. Bao có đủ những điều kiện giàu sang mà bà Hai hằng mơ ước; nên không đầy nửa năm theo đuổi, anh lấy Trinh…

Trinh sống một cuộc đời đầy đủ, cách biệt với bên ngoài. Bạn bè cũng thưa dần. Có gặp Trinh, họ cũng không niềm nở lắm. Có người nói Trinh lấy được chồng sang, khinh chị em, có người lại thưỡi Trinh là bà hoàng đường Quan Thánh. Trinh được biết rằng Oanh, người bạn học cùng trường Đồng Khánh trước kia nói là Trinh nô lệ chồng. Những chuyện ấy không làm cho Trinh vui lắm, nhưng Trinh nghĩ: “Cho chúng nó nói. Đời ai người ấy lo. Lạ gì cái thói ghen ghét”. Trinh biết là bạn học có nhiều đứa hoạt động. Trinh lại càng xa. Một hôm, Trinh đọc một bài phóng sự về phụ nữ Thủ đô đăng trên trang phụ nữ của một số báo Cứu quốc, thấy nói chị em hăng hái lắm; người thì đi mượn ống tiêm để làm cứu thương; người thì huấn luyện một lớp tuyên truyền xung phong; ở ngoại ô lại có cả một chị đeo súng đứng gác kiểm soát giấy má những người qua lại… Trinh cho là đua đòi, là mốt mới. Những công việc ấy có một.cái gì trẻ con, khôi hài, lố lố. Hợp với tính chồng Trinh sợ tất cả những cái gì là pô-puy-lô (1). Tuy vậy, Trinh vẫn thấy ngượng mỗi khi gặp lại một đứa bạn học cũ. Trinh sợ chúng nó hỏi Trinh làm gì. Trinh sợ chúng nó nhắc lại những chuyện hồi đầu cách mạng năm ngoái. Trong những ngày rầm rộ ấy, Trinh đã tham gia cuộc biểu tình rất lớn phản đối phái bộ Anh, dịp quân Anh giúp Pháp trở về Nam Bộ. Trinh muốn quên hết cả để được sống cho mình, vì mình. Trong cái thế giới của Trinh rút lại chỉ còn mẹ, chồng và con Diễm.

Nhưng gần đây, tình hình bên ngoài cũng bắt đầu làm cho Trinh lo ngại. Bao không muốn để cho Trinh biết, sợ Trinh bận tâm vô ích. Mặc dầu vậy, một vài tin tức chung quanh vẫn cứ bay tới nơi Trinh ở, như những giọt nước nhỏ của một trận mưa rào lọt qua khe cửa kín. Trinh không dám hỏi Bao, sợ phiền chồng. Sau vụ Pháp đánh Hải Phòng, Trinh băn khoăn, Bao nói: “Nước Pháp tôn trọng chữ kí. Không có gì đâu”. Bạn bè của Bao đến chơi, cũng nói: “Nó chiếm Hải Phòng chứ không dám động đến Hà Nội. Hà Nội là Thủ đô”. Nhưng người ta đục nhà, đục cửa, người ta sắm súng ống. Năm lần bảy lượt, tự vệ đến từng nhà giục đàn bà trẻ con tản cư. Trước bà Hai còn nói: “Rồi lại như hồi đầu năm. Cụ Hồ sẽ thu xếp đâu vào đấy”. Thế rồi mấy hôm nay ngày nào bà cũng chạy đến bảo Trinh nên lo cho con về quê ngay. Nhiều bạn của Bao cũng cho gia đình đi. Trinh sốt ruột hỏi chồng. Bao gắt và nói: “Em không tin vào anh nữa à? Anh còn ở đây thì em lo cái gì?” Trong thâm tâm, Trinh cũng muốn rời Hà Nội ít bữa. Nhưng từ khi Bao gắt, và đây là lần đầu tiên Bao gắt, Trinh không muốn nói gì với Bao nữa. Trinh đành bàn với mẹ hãy về quê trước, xem thế nào rồi Trinh sẽ nói với Bao cho về sau.

Tiễn mẹ đi rồi, Trinh thấy như hẫng hẳn cuộc đời. Cái xã hội nhỏ bé của Trinh lại càng thu hẹp. Trinh tủi vì Bao không ra ga tiễn mẹ. Cuộc gặp gỡ với Trần Văn làm cho Trinh nghĩ ngợi thêm nhiều. Trinh ngược lên những ngày của mối tình đầu, trở lại cái buổi sáng hôm nay, bứt rứt không hiểu vì sao Trần Văn đang nói chuyện lại bỏ đi ngay. Kể từ khi Trinh đi lấy chồng, Trần Văn chưa hề có một lời trách móc, nhưng sự im lặng giữa hai người không bằng lòng nhau, thường đau đớn hơn là một sự bùng nổ. Từ chuyện Trần Văn, Trinh lại trở lại mối lo về tình hình Trinh không muốn nghĩ, nhưng mối lo cứ ùa tới. Tiếng khuân gỗ, tiếng reo hò đóng cọc của anh em tự vệ đang chuẩn bị phòng thủ ở dưới đường, bên ngõ Yên Ninh, ầm ầm đưa lên, làm cho Trinh nhức óc, và như làm rối cái buồng Trinh ở. Nó yên và ấm biết bao cái buồng lịch sự, quét vôi xanh sẫm, mà qua cái cửa sổ rộng rèm kép, ánh sáng gạn lọc rọi vào dịu như nhung tơ. Cái gương lớn trên bàn phấn phản chiếu cái giường gỗ lát kê trên tấm thảm lông dê. Trinh tự thấy mình đẹp đẽ giữa cái đống gối chăn thơm nhẹ, mớ tóc đen làm nổi cái màn trần tuyn trắng muốt. Tất cả đều tĩnh mịch, cái ghế phô-tơi nặng bên cái đèn cây góc phòng, những cái pouf (2) quanh cái bàn nhỏ màu cờ-rem sô-cô-la nhạt. Không có tranh, không có tượng làm loạn mắt. Chỉ có ảnh con Diễm treo tường, trên cái tủ sách nhỏ của Trinh. Một bó hoa hồng trong cái lẵng pha-lê Tiệp xinh xắn đặt trên nóc tủ gieo một niềm vui kín đáo vào gian buồng xinh đẹp. Trinh bâng khuâng trong cái không khí nhàn nhã, mà những đồ đạc như mơ, và quấn lấy chị. Nhưng Trinh vẫn cảm thấy có cái gì đang lay mạnh dưới giường. Chênh vênh như một cái cây người ta đang đẵn gốc, Trinh hoảng hốt, bịt tai để không nghe những tiếng động bên ngoài. Trinh úp mặt vào gối, buông một tiếng thở dài khuấy động cái buồng lặng lẽ.

Trinh đọc báo thấy đăng ở một góc mấy dòng vắn tắt: “Hãy đề phòng trường hợp lạc trẻ. Ngay từ bây giờ, mỗi gia đình chưa tản cư nên sẵn sàng đính vào áo, hoặc làm dây đeo tay, những mẩu vải ghi tên và họ các em, tên cha mẹ và địa chỉ gia đình để đề phòng những trường hợp lạc trẻ khi xảy ra chiến tranh”. Không phải là một tin quan trọng, mà sao Trinh lo sợ, tay chân run rẩy. Trinh bấm chuông gọi người vú em sang. Diễm ngồi trên tay người vú, một chiếc áo lông trắng phủ kín cả đầu và chân tay con bé, chỉ để lộ cái miệng, cái mũi và đôi mắt một mí giống Bao. Trông Diễm như một đứa trẻ Nhật. Hai bàn tay Diễm lút trong ống tay áo đập không khí một cách vụng dại, chân Diễm đạp nhoay nhoáy, miệng Diễm vừa reo vừa phun nước mưa. Trinh ngồi trên giường chìa tay đón con. Diễm hêu miệng ngóng chuyện. Trinh ôm con trong cánh tay nhỏ nhắn, áp má nó vào má mình. Người ta có cảm tưởng rằng đấy là hai chị em, vì Trinh trẻ một cách lạ lùng. Trong cảnh êm ấm Trinh không dám nhìn xuống đường. Nhưng bên kia, đầu ngõ Yên Ninh, Trinh vẫn có cái cảm giác là cái ụ đất với những cây gỗ lớn tua tủa đang sừng sững dâng lên. Nam nữ thanh niên đang tấp nập, rối rít, kẻ cuốc đất người kéo gỗ. Trinh nhắm mắt, nhưng cảnh cảnh tượng rối loạn ấy vẫn cứ quay cuồng làm cho Trinh chóng mặt. Trinh phân vân không biết cho Diễm đi hay ở lại, đeo dấu cho con hay không. Diễm khóc đòi đứng lên. Nó đã quen được ẵm trước cửa sổ để nhìn ra ngoài. Trinh nói: “Sợ lắm con ạ!”. Nó càng khóc, toài ra với người vú. Vú em hé cái rèm kép. Đầu ngõ Yên Ninh đen đặc những người đang đắp ụ.

Trinh giật mình. Tiếng máy bay ù ù, rè rè trên đầu. Trinh chưa kịp đưa Diễm cho vú em thì cái gác xinh xắn của Trinh rung lên. Máy bay là là các mái nhà, nghiêng cánh. Tiếng súng nổ vang động cái phố yên tĩnh. Trinh thoáng thấy trong ngõ Yên Ninh người ta chạy bắn vào hai bên hè. Một con bé đang ăn phở bị trúng đạn, ngã xuống, bát phở văng đi. Người vú một tay ẵm Diễm, một tay dắt Trinh, chạy xuống dưới nhà. Trinh ôm chầm lấy người vú, rên rỉ: “Làm thế nào bây giờ?”.

Hai đầu ngõ Yên Ninh bị vít lại. Xe tăng, háp-tờ-rắc của quân Pháp đỗ bên đường Quan Thánh, bắn phá cái ụ, bắn xả vào trong ngõ. Súng trường của tự vệ Yên Ninh lẻ tẻ bắn lại. Một tên lính Pháp đứng trên xe cam nhông ngã gục xuống đường. Một tiếng thét: “A mort les Viet Minh assassins!” (3). Những cây gỗ đã bị nhổ mang lên xe. Cái ụ đất bị san phẳng. Trọng pháo ở trong thành bắn sang yểm hộ. Ngôi chùa nhỏ ở trong ngõ đổ sụp. Tiếng súng của tự vệ im bặt. Hơn một chục lính mũ đỏ rầm rập tiến vào cái ngõ vắng tanh, bụi bốc mù rải rác mấy xác người nằm chết hai bên hè. Từ cái chùa đổ cuồn cuộn bốc lên một đám khói to. Bọn lính sục vào trụ sở của tự vệ ở đầu phố.

Một thằng lính thấy hút một thanh niên từ trụ sở chạy sang một cái nhà nhỏ không có gác. Nó lăm lăm khẩu súng đuổi theo. Cánh cửa mở ra, giữa tiếng kêu hãi hùng của một người đàn bà và hai đứa con luống cuống trong một gian nhà nhỏ tối mờ mờ, đồ đạc được thu dọn cả, chỉ còn trơ một cái giường. Nó hỏi Việt Minh, người mẹ không biết tiếng Pháp quỳ xuống chắp tay vái lia lịa, miệng van lạy: “Quan lớn làm phúc, tha cho mẹ con chúng tôi”. Tên lính hỏi dồn. Nó nắm lấy tóc người mẹ lôi dậy, gật gật đầu cười. Người mẹ tưởng như nó tha mình, ú ớ: “Trăm lạy quan lớn”. Nhưng tên lính cười gằn, lật mặt người mẹ ngửa ra đằng sau. Cái cổ tròn căng thẳng thoi thóp, gợn mấy đường gân xanh. Một bàn tay chới với nắm lấy cái bàn tay của đứa con trai lớn chừng năm tuổi. Đứa con gái nhỏ mới hai tuổi giẫy đành đạch hờn với mẹ, hai tay bíu vào cái gấu quần lụa trong: “Mợ ẵm con. Mợ ẵm con”. Tên lính tháo đôi hoa tai của người mẹ, thản nhiên đút vào túi. Mặt người đàn bà trắng như một tờ giấy, thân oãi cong lên. Môi tên lính rung rung. Nó tuốt lưỡi lê đâm gọn vào cái cổ, tay nắm tóc buông ra. Đầu người mẹ gieo mạnh xuống sàn gạch. Không một tiếng kêu. Lưỡi lê lại vung lên, đứa con lớn đứng bên xác mẹ vừa khóc vừa đưa hai bàn tay nhỏ bé lên đỡ. Một ánh chớp loáng. Hai bàn tay vụng dại nắm chầm lấy cái lưỡi lê đâm mạnh, thọc sâu vào ngực nó. Người thanh niên từ lúc nãy vẫn chúi dưới gầm giường, đến đây không chịu nổi, anh thét: “Quân dã man phát-xít!” Anh bò ra đứng phắt dậy, xông thẳng tới trước mặt tên lính, giáng một quả đấm vào ngực nó. Lưỡi lê trong tay nó bắn ra, rơi xuống gạch. Tên lính lùi lại. Đứa con gái không khóc nữa. Nó bò tới xác mẹ, rúc đầu vào nách, chân gác lên bụng, tay quờ lên má mẹ. Thấy tay nó đỏ lòm, nó lại khóc rít lên. Anh thanh niên lao cả người vào tên giặc. Nó vừa lùi vừa rút súng lục. Anh rú như điên: “Tao giết mày. Cả lò thằng Pháp chúng mày”. Bên ngoài, hai tên lính khác bước vào. Một đứa giơ giày đinh đá phốc vào mạng mỡ người thanh niên. Anh bị bắn vào tường. Vừa ôm bụng, vừa chửi rủa, anh gượng đứng lên. Tay anh quờ được cái âu trầu ném thẳng vào tên lính. Cái âu rơi đánh xoảng xuống đất. Chúng nó đã sấn lại. Một thằng nắm được tóc anh, một thằng giữ lấy hai tay anh, bẻ ngoặt sang sau. Đầu người thanh niên vênh lên, tóc rũ xuống che kín mặt. Tên lính đứng trước mặt anh, và thong thả tát vào hai má anh như mèo tát chuột, mồm nó làu bàu những tiếng Pháp thô tục. Chúng kéo anh đến giường, ấn anh nằm xuống, đè ngửa lên, lột hết áo ra. Anh giãy giụa một cách tuyệt vọng. Một thằng lấy cái âu trầu. đem đến đặt ở dưới đầu giường. Anh vùng đậy, chửi rủa. Chúng nó dằn anh xuống. Thằng lính lạnh lùng nói: “Mày đừng sợ. Tao không làm gì mày đâu. Mày xem, tao có làm gì mày đâu”. Nó vít đầu anh xuống. Chợt một lũ lính khác dẫn một đám dân phố đi qua. Thằng lính ê ê gọi vào. Tiếng cười của bọn lính cất lên như trong một đám tiệc. Chúng dồn mấy người già lên trước. Họ quay mặt đi, nhưng những bàn tay lông lá đã vặn những cái đầu quay lại phía đầu giường. Chân người thanh niên đạp mạnh, cáí bụng phập phồng. Hai hàm răng nghiến vào nhau kèn kẹt. Lưỡi lê đỏ máu của tên lính hung ác dứ dứ mấy cái rồi đâm phập vào cổ ằng ặc của người thanh niên. Nó xoay nghiêng cái cổ cho máu ồng ộc chảy xuống cái âu trầu. Mấy ông già run rẩy ngồi thụp xuống nhắm nghiền mắt lại. Một ông cụ râu tóc đều bạc xô một thằng Pháp đứng sau để chạy. Bên xác người mẹ, đứa con gái khóc bằn bặt không thành tiếng. Bỗng tên lính giết người kéo ông già râu bạc lại. Nó cầm cái âu đầy máu ngầu bọt, kề vào miệng cứng đờ của ông cụ, nói: “Mày húp đi, mày húp trước đi. Rồi chúng mày thay nhau mà húp”. Những tiếng cười của bọn giết người lại nổi lên trong cái gian nhà lênh láng máu…

Cuộc chém giết kéo dài cho đến quá trưa. Chúng quăng mấy cái đầu lâu ra giữa đường và lên xe kéo về Cửa Bắc. Một chiếc máy bay vẫn lượn sát các mái nhà. Tiếng khóc thảm thiết nổi lên trong cái ngõ đổ nát và cháy rừng rực. Người ta bới tìm xác của những người thân.

Một chú bé chừng tám chín tuổi chạy vào trong cái nhà đã xảy ra vụ thảm sát. Người ta đang lố nhố thu dọn. Một tự vệ ẵm đứa con gái đỏ lòm ở trong đi ra. Chú bé nhận ra em nó. Nó vồ lấy con bé, tay áo và áo sơ-mi của nó cũng bê bết máu. Người tự vệ nói: “Em hãy ẵm em bé di. Chốc nữa hãy về”. Nó nhòm vào trong nhà, khóc rống lên: “Mợ ơi! Mợ ơi!” Con bé hỏi anh: “Mợ đâu? Mợ đâu rồi?” Nó lại oà lên khóc, nhưng sợ một cái gì, nó lại nín. Thằng anh cõng đứa em, ngơ ngác đứng ở trước cửa nhà mà cái thềm hằn những vết chân đỏ nhợt. Chú bé thất thểu đi, hai tay giữ lấy hai chân em. Đầu con bé rũ xuống vai anh. Nó im thin thít bậm môi nuốt những dòng nước mắt đỏ. Chú bé đứng ngây nhìn vào trong nhà, chân nó giẫm lên đống gạch vụn. Người ta xúm lại chung quanh hai em. Thằng anh vẫn ngẩn ngơ hỏi: “Mợ em đâu?” Một bà cụ gạt nước mắt bế con bé, ủ nó bằng vạt áo bông cộc của mình và nói: “Chính phủ còn đợi gì? Để cho nó giết dân thế này”.

Tất cả những chuyện ấy, qua những lời thì thầm của người trong nhà, đều đến tai Trinh. Trinh chỉ biết chúi vào cái xó sâu nhất của cầu thang. Trinh rên rỉ, tay ôm lấy Diễm, chốc chốc lại gọi chồng. Trinh giận Bao và định bụng cứ về quê với mẹ dù Bao không cho phép.

Khi Bao về, Trinh vẫn như người mất trí. Trông thấy Bao, Trinh chỉ thở dài. Bao giục:

- Hãy tạm đến nhà bác Cự Lâm đã. Chúng nó có thể trở lại.

Trinh run rẩy bước ra khỏi nhà, lạnh buốt như người đang mặc ấm phải cởi áo ra. Mỗi bước chân đi, tưởng như là một bước nguy hiểm. Trinh lầm lì không nói, nhắm mắt không dám nhìn sang bên ngõ. Nhưng Trinh cũng thoáng thấy người ta đang cáng những xác người chết. Ngoài đầu ngõ, sau một ụ cát, một người tự vệ quen mặt vẫn bồng súng đứng gác, như không có chuyện gì xảy ra. Trinh ngẫm nghĩ: Không đánh được thì bày trò ra làm gì. Không đắp ụ thì làm gì mà nó giết! Trong xe, Bao ngồi bên Trinh, tay ôm vai vợ:

- Em không sợ. Anh sẽ kiếm một nơi yên ổn nhất để em ở. Ở đấy em sẽ chẳng biết lo sợ là gì.

Trinh ngả đầu vào vai chồng, và dịu dịu ngồi yên để Bao vuốt lại tóc cho mình. Chiếc xe Xi-tờ-rô-en chạy trên đường Quan Thánh nhốn nháo những người dắt díu, bồng bế nhau chạy. Anh sốp-phơ phải bóp còi inh ỏi, nhưng xe vẫn phải dừng lại luôn.

Chú thích

(1) Bình dân lôm lam, tầm thường

(2) Ghế đẩu thấp, không chân, có nệm

(3) Tàn sát bọn Việt Minh giết người!

- A-lô! A-lô! Thưa quốc dân đồng bào. Bộ chỉ huy Pháp đã lộ dã tâm bội ước của họ. Chúng âm mưu vi phạm Hiệp định sơ bộ mồng sáu tháng ba và Tạm ước mười bốn tháng chín mà Chính phủ Pháp đã long trọng kí với Chính phủ ta, công nhận nước ta là một nước tự do. Sau khi đánh chiếm Hải Phòng, từ đầu tháng này, chúng đã khiêu khích chúng ta ở ngay thủ đô Hà Nội. Từ những vụ tụi lính mũ đỏ được tung ra đi quấy rối các phố, cướp giật từng gói thuốc lá, từng quả chuối, từng chiếc bánh mì, thậm chí cướp cả hộp xi đánh giày của trẻ con, đấm đá những người tàn tật, hành khất, bắt cóc đàn bà, con gái, xông vào các hiệu ở bờ sông, Hàng Bông, Hàng Nón, cướp của tống tiền, từ những vụ lẻ tẻ ấy, chúng tiến lên những hành động trắng trợn như ở Gia Lâm xông vào làng cướp hai mươi chín con bò, ở nhà thông tin Tràng Tiền, chúng hạ quốc kì của ta, đâm nát ảnh Hồ Chủ tịch. Và sáng hôm nay, ngang ngược hơn nữa, chúng đã huy động cả máy bay, xe cơ giới gây ra vụ tàn sát ở ngõ Yên Ninh, Hàng Bún. Thưa quốc dân đồng bào…

Chiếc xe ô tô Rơ-nôn, sơn nguỵ trang màu đất và lá cây loang lổ, gợi lại cái hình ảnh của thời kì Nhật đóng, từ từ đi khắp các phố Hà Nội loan báo cái tin hung dữ. Mũi xe cắm một lá cờ đỏ sao vàng đuôi nheo viền đen. Hai thành xe, có hai biển vải trắng đen. Một bảng đề: Trả thù cho 23 đồng bào bị giết ở ngõ Yên Ninh! Một bên đề: Thanh niên sống chết với Thủ đô! Qua chiếc máy phóng thanh đặt bên cửa kính trước mặt, tiếng nói phụ nữ đưa ra, chua chua, đều đều. Xe chật lèn những thanh niên nam nữ, phần lớn là học sinh, kẻ mặc áo ka-ki, người mặc áo màu xanh đỏ. Người dân khu phố ngồi ở trong nhà nghe, hoặc mở cửa chạy ra đón cái xe, mặt người nào cũng rầu rầu sắt lại. Tin Yên Ninh đã truyền đi khắp thành phố như một luồng gió thổi qua. Hà Nội lầm lì, căm giận và lo sợ. Xe đi qua phố Cầu Gỗ xơ xác, tán loạn. Máy bay vẫn ầm ì trên đầu. Tiếng người phụ nữ cất lên:

- Quân Pháp đã bắt anh em tự vệ Yên Ninh phải phá ụ đi. Anh em không chịu, nhưng vẫn theo lệnh của Chính phủ, hết sức tránh khiêu khích. Khi chúng nổ súng rồi, anh em bắt buộc phải bắn lại… Hiện nay, ngõ Yên Ninh chìm trong đau thương, tang tóc. Nhưng có phải vì khủng bố mà anh em tự vệ mất tinh thần không? Không. Trật tự trong phố lại được trở lại, các ụ lại được dựng lên, tự vệ lại gác. Thanh niên Hà Nội là như thế đó. Đô đốc Đác-giăng-li-ơ nói rằng: Một luồng gió kinh hoàng chưa hết thổi trên nhân dân Việt Nam. Không. Không có một luồng gió kinh hoàng nào thổi lên nhân dân Việt Nam, như nó đã thổi trên nhân dân Pháp khi chúng đón quân Hít-le vào, khi chúng quăng súng ôm đầu chạy trong trước quân Nhật hồi mồng chín tháng ba năm ngoài.

Trong đám đông, một thanh niên mặt dài, nhảy lên kêu:

- Bravo! Bravo! (1)

Đấy là Nhật Tân. Anh mặc chiếc áo ra-gờ-lăng màu xám, phình ra ở hai bên hông, dưới gấy thò cái đầu vỏ thanh kiếm Nhật, mũ nhung đen che một bên mắt. Con Lu lu đứng bên anh. Tiếng người phụ nữ lại nói:

- Đồng bào yêu quý. Tình hình trở nên nghiêm trọng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh đợi lệnh Chính phủ. Ai không có việc gì, nhất là cụ già, trẻ em, thì nên thu xếp tản cư, không nên dùng dằng nữa. Hỡi anh chị em thanh niên. Tổ quốc đang chờ đợi chúng ta. Đối với những khủng bố của quân Pháp, chúng ta chỉ có một con đường: Sống chết với thành phố Hà Nội. Chỉ có sống cho ra sống hay chết trong danh dự. Không thể khác được. Dù ở trong tình thế nào, dù trong tay tôi chỉ có một thỏi sắt nhỏ, tôi vẫn phải xứng đáng là thanh niên Hà Nội, thủ đô của ba miền Việt Nam, thủ đô của một nước cộng hoà trẻ nhất thế giới. Sống chết với thủ đô, đấy là khẩu hiệu của chúng ta. Chúng ta phải như anh chính trị viên Đạo ở Nhà hát thành phố Hải Phòng, khi quân Pháp ập vào bắt anh giơ tay hàng, anh không giơ tay, và thét vào mặt bọn giặc: “Chúng ta là kẻ chiến thắng, không phải chiến bại”. Không hoang mang, không dao động, anh chị em hãy tích cực chuẩn bị. Thắng lợi nhất định về tay chúng ta.

Chiếc xe lại từ từ đi về phía Hàng Gai. Nhật Tân quay mặt vào hiệu cà phê ở ngã đường Cầu Gỗ rẽ vào Gia Ngư, Hàng Bạc, trước cửa chất năm sáu bao cát. Anh hất hàm hỏi một người:

- Thế nào, nghe rõ chưa Tân?

Người thanh niên là Tân nói:

- Nghe chứ.

Tân trạc ngoài hai mươi, trễ tràng trong trong bộ quần áo xanh trả, sơ-mi không đeo cờ-ra-vát. Nhật Tân là bạn thân của Tân. Để vĩnh viễn ghi mối tình bằng hữu nảy nở từ thuở bé, anh đã ghép tên bạn vào tên mình thành cái tên Nhật Tân mà bạn bè cũng như gia đình đều quen gọi. Nhật Tân lại hỏi:

- Mày nghĩ thế nào?

Tân mở hộp thuốc là Cờ-ra-ven A, lấy ra một điếu hút, cười nói với Nhật Tân:

- Để xem có thật không. Hay lại tuyên truyền…

Nhật Tân bước vào cửa, kéo cái mũ phớt xuống tận bên mắt phải theo thói quan nhà nghề của anh. Nhật Tân làm nhiệm vụ trinh sát. Các hiệu ăn, các hàng giải khát, cả những tiệm hút đều biết mặt anh, tên anh, biết cả công việc anh đang làm vì cái áo ra-gờ-lăng, con chó Lu lu của anh không giấu được ai cả. Nhưng anh vẫn tưởng tung tích của anh bí mật lắm, và lúc nào anh cũng làm ra vẻ li kì, bí hiểm của một nhà trinh thám đại tài. Công tác trinh sát rất hợp với cái tính lang thang của anh. Bạ chỗ nào anh cùng sà vào. Nhật Tân chỉ vào mặt bạn:

- Mày ăn nói như thế à? Nếu mày không muốn làm thì im đi cho người khác làm việc.

- Ít ra mày cũng phải trọng cái tự do của tao chứ.

- Tự do, tự do. Ôi tự do, biết bao nhiêu tội ác người ta gây nên vì mày. Tao rất trọng cái tự do của mày, nhưng tao không cho phép mày nói nhảm. Cả Hà Nội đang sôi lên, căm thù thằng Pháp, đau thương vì vụ thảm sát Yên Ninh mà anh bào là tuyên truyền à? Mon Dieu! Mon Dieu! (2)

Đôi mắt nhỏ của Nhật Tân hoe hoe đỏ. Anh dang hai cánh tay như người xem hướng, nhìn tất cả những người đang uống cà phê bước vào nói:

- Tuyên truyền hay là sự thật? Đứng về Pháp thì đấy là tuyên truyền, đứng về phía ta thì đấy là sự thật. Có khác gì những kẻ nói rằng vì ta phòng thủ, nên thằng Pháp nó khiêu khích. Sao không nói ngược lại vì nó khiêu khích, nên ta mới phải chuẩn bị? Sự thật đã rõ ràng như thế rồi, còn gì nữa. Máy bay của chúng nó vẫn ầm ầm trên đầu chúng ta đây này. Đã nghe rõ chưa? Đấy là sự thật hay tuyên truyền?

Anh đặt tay lên sườn, khuỳnh ra, nhìn ông chủ, hất hàm:

- Ông chủ, tôi hỏi ông, đấy là sự thật hay là tuyên truyền?

Chủ quán vừa nhìn khách vừa nhìn Nhật Tân:

- Vâng.

- Vâng là thế nào?

- Anh có nghe thấy không? Chúng tôi đang đục tường trong bếp. Và tôi, tôi sắp ra đắp ụ với anh em đây.

Đầu ngõ thông sang Gia Ngư, tự vệ đang đào rãnh xẻ ngang đường, hắt đất lên thành một cái ụ khá cao. Người ta đang hì hục đóng chắn ngang đường, chồng lên nhau đã cao ngang đầu. Một chiếc xe bò chở gỗ đến, giữa những tiếng reo hò của nam nữ. Ngoài phố Cầu Gỗ, xe tay chạy ùn ùn. Một bà ngồi trên xe, ngoái cổ lại, chào đám tự vệ đang tới tấp đào hầm, và nói:

- Các anh ở lại nhé. Giữ Hà Nội cho chúng tôi đấy.

Nhật Tân quay ra, đứng trước cửa, hoa tay rối rít và nói:

- Hoan hô đồng bào tản cư. Đồng bào cứ yên trí. Thanh niên chúng tôi cương quyết bảo vệ thủ đô. Sống chết với thủ đô.

- Cậu Nhật Tân đấy à? Cậu ở lại nhé. Chúng tôi phải về thế này cũng buồn lắm.

Đám tự vệ giơ tay chào. Một anh chỉ một thiếu nữ trên xe và nói:

- Thôi, con Bảo đi rồi!

Những người tản cư cũng vẫy tay. Họ ngoái cổ lại đằng sau quyến luyến. Một đám người đi bộ, kẻ gồng người gánh, kẻ bồng con, người bế cái. Một tiếng chửi: “Mả mẹ cái thằng Pháp. Tết nhất đến nơi rồi!” Mấy nữ sinh, áo màu tha thướt, đi len lỏi trong đám đông hỗn độn: họ đứng nép vào hè, lổng chổng những bao cát. Trên cái bãi rộng đầu phố Hàng Đào, từng tốp người đứng nói chuyện. Họ ngơ ngác trông trước trông sau. Xa nữa, Hồ Gươm vắng ngắt, lẻ tẻ vài bóng người vội vã. Đã quá trưa. Phố xá và đám đông ủ rũ dưới một bầu trời tro xám. Trông ra Bờ Hồ và dựa vào phố Cầu Gỗ, cái nhà đồ sộ, ba tầng của hiệu sách Nam Ký, đang xây dựng dở, với những tường gạch đỏ kệch, với những đà dáo tua tủa, chổng chơ, im lặng, càng làm cho khu phố thêm ngổn ngang, loét lở. Tiếng máy bay vẫn rì rì, mỗi lúc một rõ, rung chuyển bầu trời. Người ta rạp xuống. Một chiếc thám thính đen bay sạt trên các mái nhà, rú lên như ở trên cao lao xuống, rồi lại ngỏng đầu bay về phía Hồ Gươm, đuôi phụt ra một làn khói dài. Nhật Tân thét mọi người: “Không sợ, không sợ. Hãy tỏ cho chúng nó biết rằng chúng ta không sợ”. Chủ quán mặt tái không còn hột máu, hỏi: “Nó định làm gì?” Nhật Tân quay vào, và tự hào là người hiểu biết, anh nói: “Potez, thám thính. Trộ ai chứ không trộ được nguời Hà Nội. Nát ai?” Ở Hàng Đào, bỗng rẹt rẹt mấy tiếng súng. Người ta chạy nháo nhào. Một chiếc cam nhông chở lính mũ đỏ phóng ra, bụi bốc mù trên cái bãi rộng. Nhật Tân quay vào hỏi Tân:

- Tuyên truyền hay sự thật?

Tân vừa trả tiền chủ quán xong, tay ôm đầu con Lu lu bước ra. Anh nói:

- Thôi, không cãi nhau nữa nhé. Chịu ông rồi!

Tân vỗ vai Nhật Tân:

- Tao về đây.

- Mày nên nghĩ đi. Không thể nhởn nhơ được nữa đâu. Tao không thể coi mày là bạn nữa.

- Cũng được thôi. Quyền tự do của mọi người. Nhưng tao tin rằng không thể có đánh nhau. Thăng Long phi chiến địa. Sấm Trạng không có nói sai. Hà Nội mà đánh nhau thì tao chỉ buồn mà chết thôi. Thôi, khi khác.

Tân hích vào sườn Nhật tân, gọi cái xe hàng bước lên, quay lại:

- Đến chơi tao?

- Đi đi cho rảnh mắt.

- Tao còn một khẩu súng dành cho mày đấy.

Nhật Tân mỉm cười:

- Tao muốn mày bắn chứ không phải nhờ người khác bắn cho mày.

Anh lách qua cái ụ, vừa đi vừa lẩm bẩm chửi Tây. Anh nghiến răng: “Phải chơi chúng nó một mẻ. Không thể nhịn được nữa. Nhịn là nhục”. Mấy ngày hôm nay, anh chỉ mong giết được một thằng Pháp, chết cũng hả. Sau khi không làm được một “cú” liều ở Hàng Khay, Nhật Tân càng hậm hực. Trở về nhà bị Quốc Vinh phê bình, Nhật Tân chịu lỗi nhưng vẫn nói: “Ức đến hộc máu ra được”. Anh lại đi bát phố. Những tin về vụ Yên Ninh vừa đến tai anh thì cái ý muốn giết Tây lại trở lại thôi thúc anh. Trong công việc này anh muốn Tân cùng đi, vì Tân bắn giỏi. Hai anh em sẽ làm mưa làm gió một phen cho bọn Pháp biết tay. Nhật Tân vẫn tha thiết với cái lí tưởng đôi bạn thân cùng chiến đấu bên nhau. Nhưng thực tế thì lại trái với lòng mong mỏi của ấy. Từ khi quân Pháp khiêu khích ở Hà Nội, đã mấy lần Nhật Tân đến giục Tân vào tự vệ, nhưng Tân đều từ chối. Nhật Tân nói với Tân: “Tao không có mày như mất một cánh tay”. Anh buồn hơn nữa là thấy mỗi khi nói đến tên Tân thì rất nhiều người, kể cả những người bạn cũ, đều cười chế giễu. Ai cũng cho Tân chỉ là một anh công tử nhà giàu, ăn chơi trác táng. Vì thế, Nhật Tân lại càng muốn gột cái tiếng xấu ấy đi cho bạn. Hôm nay tình cờ lại gặp Tân, anh sung sướng nói một lần nữa với Tân. Nhưng Tân vẫn phớt. Nhật Tân bực mình, nghĩ: “Thôi kệ, để cho người ta khinh mày như con chó”. Nhưng anh lại tiếc: “Thế nào thì cũng phải bảo nó một lần nữa”.

Phố Gia Ngư, cái phố nhỏ không có cá tính, bà con nghèo của những phố Hàng Đào, Hàng Bạc, tự vệ đang lúi húi đào những hố tác chiến bên hè. Cuối cái ngõ thông ra Hàng Đào, nhầy nhụa, khai nồng suốt năm tháng, mấy thanh niên, thuộc lớp người lao động, gắt gỏng giục bọn nhà thổ ra đào hố. Đằng sau cửa nửa khép nửa mở, một ả ló ra ngoài cái mặt nhăn nhở, tóc chưa vấn xoã kín một bên má, nói một cách sốt sắng và sỗ sàng: “Chờ em thay cái quần đen đã, các anh nhá”. Trên đường phố, nhựa đã mòn, ngổn ngang những mô đất đen, úp sùm sụp, mới thoạt trông như những đầu lâu to nhỏ quăng đấy. Một cái biển giấy trắng cắm bên một cái nồi, đề một hàng chữ viết tay bằng mực đỏ, còn ướt, mực rỏ xuống như máu chảy: “Mồ chôn thực dân Pháp”. Được dịp chủ vắng nhà, một thằng nhỏ và một con sen, mỗi người xách một cái nồi đất vỡ, đuổi nhau đú đởn, rú lên những tiếng người sằng sặc. Để tỏ ra mình là người dân chủ, trong một xã hội mà mọi người đều bình đẳng, Nhật Tân niềm nở với họ: “Các anh các chị cũng chuẩn bị đấy à? Ai bảo đem nồi đất ra thế kia?” Thằng nhỏ nói: “Thưa cậu, các anh ấy bảo đấy ạ. Đâu trên Hàng Bún Tây nó đi rồi, thì các anh úp nồi như thế này, một lúc nó trở lại, xe tăng không dám xông xáo nữa”. Nhật Tân gật đầu huýt một tiếng sáo nhẹ. Con Lu lu đang cúi xuống hít hít một cái nồi đất. Anh ra hiệu cho nó đi. Mấy thím khách búi tóc cài trâm, ngồi trong khung của nhìn ra ngoài, mắt sợ hãi, vẻ mặt ngây thộn. Thấy các tường nhà Hoa kiều nào cũng dán những miếng giấy đỏ dài, viết chữ nho và vẽ lá cờ Thanh thiên bạch nhật, lại thấy các thím có vẻ an nhàn, Nhật Tân khó chịu. Anh nói to: “Này, có đọc báo không? Ở Hải Phòng, Tây nó giết cả nguời Tàu đấy”. Một thím nói: “Ừ, nó giết cả đấy, nó ác lắm kia mà”. Nhật Tân đắc chí, tiến về phía nhà mình. Xưởng gỗ trước mặt, còn đầy những súc gỗ chưa xẻ. Sờn, anh thợ xẻ, đang khoá trái cửa lại để đi ra đầu phố đắp ụ. Bên cạnh, trước miếu nhỏ, treo trên thân một cây si cổ thụ thâm thấp, sần sùi, vặn vẹo, rủ xuống những rễ non chi chít, mấy bà cụ, tay cầm những nén hương cháy, đang thì thầm khấn vái. Gió thổi hun hút, là là mặt đường, vờn trên những nồi đất im rờn rợn. Nhật Tân nghĩ thầm: “Người ta đang chuẩn bị đánh giặc thì các cụ đi lễ. Thần Phật nào đánh được thằng Tây, các cụ ơi!” Anh hét thất thanh: “Tây nó vào đấy, bà con ơi!” Các cụ chạy tán loạn, và anh vén mành chui tọt vào trong nhà.

Trong nhà, bà Ký, mẹ Nhật Tân đang ngồi khóc. Chị gái và năm đứa em gái Nhật Tân đứng xúm xít chung quanh. Va-li và các bọc để đầy trên giường. Thấy Nhật Tân về, bà Ký thở dài. Phượng, người chị gái nói:

- Em về vừa kịp, mợ không chịu đi này.

Nhật Tân quắc mắt. Là con trai lớn của một gia đình đông con gái, anh có một uy quyền đặc biệt trong nhà. Nhật Tân hỏi, giọng gia trưởng:

- Sao chưa đi?

Anh nhặt quả cam giấy bóc dở vứt trên giường, vừa ăn vừa nhằn hột, và nhả bã xuống đất. Phượng nói:

- Anh Quốc Vinh giục mợ mãi, mợ vẫn cứ dùng dằng. Nhỡ chuyến tàu tối thì làm thế nào?

Chị nói tên Quốc Vinh với vẻ ngượng nghịu âu yếm của một người vợ chưa cưới. Hai người đã đính hôn. Bà Ký định Tết ra khi Quốc Vinh đoạn tang mẹ, thì gả Phượng cho anh. Nhật Tân nói:

- Đánh nhau đến nơi rồi đấy. Mợ đi đi. Thằng Tuệ nó đâu?

Phượng nói:

- Em phải bảo nó. Nó không chịu về thì mợ cũng không về đâu.

- Nó đâu?

- Nó cứ luồn hết lỗ tường này sang lỗ tường khác, ăn cũng chả ăn, gọi về thì bảo là ở lại với anh Nhật Tân.

Bà Ký khóc. Bà vốn người nhu nhược, không bảo được con. Xưa kia bà rất sợ chồng và bây giờ bà rất sợ con. Ấy là người mẹ phó mặc cho bản thân của chúng và chỉ biết tin vào cái phúc đức của nhà mình thôi. Chúng tốt hay hư, là hoàn toàn do cái may rủi của cuộc đời. Con làm gì bà không dám ngăn cản. Con muốn gì bà chỉ biết cung đốn. Mới đây, nhà còn tám sào ruộng, bà cũng bán đi để mua một khẩu súng cho Nhật Tân. Bà bảo các em Nhật Tân:

- Đưa cam cho anh Nhật Tân.

Nhật Tân xem đồng hồ, đứng dậy:

- Để tôi đi tìm nó, thằng ranh con!

Một lúc, anh dẫn Tuệ về. Tuệ là một chú bé trạc mười ba, mười bốn tuổi. Đầu tóc, áo len, giày của Tuệ bạc trắng vì vôi. Nhật Tân kéo em trước mặt mẹ, nói:

- Tảo bảo thằng Tuệ. Mày phải về với mợ, hiểu chưa? Nhà có hai con trai thì chia ra. Tao ở, mày đi. Nếu tao chết thì mày còn sống. Im, không được nói. Nghe tao đây. Bao giờ lớn thì tao cho đi đánh giặc, bây giờ còn bé chưa biết gì, thì phải về với mợ cho mợ vui lòng. Thôi, đi thay quần áo, ra tàu.

Nhật Tân giục mọi người:

- Thu xếp đi. Mau lên, mau lên!

Bà Ký lại khóc. Anh nhảy cờ-la-két trước mặt mẹ và nói:

- Mợ ơi! Cứ coi như con đã chết hồi đi Nam tiến chứ gì. Mau lên, mợ.

Bà Ký gạt nước mắt:

- Mày cứ nói gở, tao ghê cả người.

- Sinh dữ, tử lành, mợ ạ.

Thấy Tuệ khóc thút thít, anh chạy lại phát mạnh vào đít em:

- Can đảm lên, can đảm nữa lên! Mày không chạy rống Bái công như mấy thằng tự vệ phố này là được rồi. Mày không phải là thằng hèn kia mà. Vui lên. Cười lên một tí nào, cậu cả.

Anh xách va-li ra cửa gọi xe ầm cả phố. Bà Ký nói:

- Trông nhà cho mợ, con nhớ.

- Vâng.

- Viết thư cho mợ.

- Vâng.

- Gạo nước sẵn cả rồi đấy. Cả tôm khô, mực, muối vừng…

- Vâng. Con biết rồi.

- Cô Hiền cô ấy lại ra đấy.

- Thế ạ.

- Liệu mà bảo nhau.

- Thôi được, mợ về. Chào cả nhà. Mau lên, không người ta vít hết các đường bây giờ. Tuệ ơi! Còn khóc không? Nhìn tao một cái nào. Úi kìa. Hãy còn nước mắt, không gentleman (3) nhớ. Chùi đi.

Mọi người ngoái cổ nhìn lại thì Nhật Tân đã quay đi. Con Lu lu ở trong nhà chạy vụt ra, nhảy quanh chủ mình, đớp đớp cái bàn tay của Nhật Tân giơ lên. Anh cúi xuống ôm cái cổ nó và nói:

- Bây giờ còn cậu cháu mình. Sống chết với Thủ đô, Lu lu nhé. Lu lu, Lu lu, Lu lu không phải là chó nữa. Bây giờ có một thứ chó mới, ấy là quân Pháp cắn càn.

Nhật Tân đẩy cửa một cái nhà kiểu cổ phố Hàng Bè. Anh chạy qua một cái sân nhỏ có một cái núi non bộ lớn, và rất nhiều những chậu cảnh chung quanh. Anh rón rén tiến vào nhà trong, và thấy chói loà một màu đỏ. Một phụ nữ kêu úi giời làm anh dừng lại. Đứng trên sập, Hiền đang soi vào một cái gương lớn. Hiền là một cô gái mới lớn lên, mặt bàu bàu hơi to với khổ người tầm thước. Chị mặc chiếc áo nhung đỏ, quần xa tanh là, chân đi hài con bướm vàng rung rinh. Đầu Hiền vấn một chiếc khăn nhung lam, cổ đeo kiềng vàng trơn. Chung quanh Hiền, treo lủng lẳng chiếc áo nhung lam, chiếc măng-tô màu tím sẫm và các áo len màu hoa dâu, màu vàng, màu đỏ. Dưới chân Hiền là những hộp phấn, hộp kem, ống sáp môi, các loại nước hoa và các thứ khăn mỏng dính như cánh chuồn. Trông thấy Nhật Tân, Hiền quăng cái quạt hồng xương trắng xuống giường, mỉm cười và rơm rớm nước mắt. Nhật Tân ngồi xuống cái ghế đẩu kê sát tường và nói:

- Anh hiểu rồi.

Lòng anh se lại. Ngay bên cạnh cái sập là một cái lỗ tường vừa mới đục. Anh thấy ái ngại cho Hiền. Họ đã bàn nhau, ngày cưới của họ sắp tới. Hiền sẽ mặc như Hiền đang mặc, và ngày lại mặt Hiền sẽ mặc chiếc áo nhung lam kia. Chỉ còn một tuần lễ nữa thì họ cưới thôi. Anh mỉm cười:

- Hiền nghĩ thế nào mà lại thắng bộ cưới vào thế? Buồn hay vui?

Hiền nói:

- Buồn lắm.

- Em có nghĩ rằng em sẽ không bao giờ được mặc bồ quần áo tân hôn kia không?

Hiền lắc đầu, kéo cái màn để thay quần áo. Nhật Tân nói:

- Sao Hiền đã tản cư lại trở về?

- Em nhớ Hà Nội quá. Em đưa thầy ra bến sông, thế rồi em quăng xe đạp đấy, em trở về. Em cấm anh bảo em tản cư đấy.

- Vụ Yên Ninh, Hàng Bún như thế mà Hiền không sợ à?

Hiền không nói, lúi húi thay quần áo cưới. Nhật Tân còn muốn ngắm người vợ tương lai của minh lộng lẫy trong bộ quần áo cưới, nhưng anh không dám ngỏ ý ấy ra. Anh ngồi cúi đầu suy nghĩ, tay vuôt cái lưng đen nhánh của con Lu lu đứng bên ghế, cái mõm kề lên đùi anh. Hiền là con một nhà buôn cau lớn, có họ xa với anh về đằng mẹ. Khi anh học năm thứ ba thành chung thì Hiền mới học năm thứ nhất. Từ sau đảo chính, Hiền ở nhà không đi học nữa, gần đây rục rịch đi học thì tình hình rắc rối lại thôi. Họ tuy yêu nhau nhưng chưa bao giờ sàm sỡ. Họ chỉ gửi cho nhau những cuốn sổ tay trong ấy ép những hoa những lá, những con bướm đẹp mà trong khi đi chơi những làng quanh Hà Nội hay về quê họ nhặt được và đem về làm kỉ niệm những ngày vui.

Nhật Tân nói:

- Nếu chiến tranh không xảy ra thì chúng mình cưới. Nếu xảy ra thì chúng mình đợi sau chiến tranh. Lo gì.

- Em ướm thế này thôi.

Hiền kéo màn về chỗ cũ. Chị đã búi tóc và mặc chiếc áo len dài ngày thường. Chưa bao giờ họ được gần nhau chỉ có hai đứa như thế này, trong gian nhà vắng lặng. Nhật Tân hỏi:

- Hiền ở lại làm gì?

- Em cấm anh bảo em tản cư kia mà. Em đã học tiêm, em sẽ đi làm cứu thương. Hoặc là em vào tuyên truyền. Khối việc. Anh ở đây, em cũng ở đây. Sống cùng sống, chết cùng chết.

- Tùy Hiền thôi. Nhưng anh vẫn giữ ý kiến là Hiền nên về.

- Không, em không thể nào xa anh được. Anh đừng bắt em xa anh. Em đi gặp các chị ấy đây.

- Ừ, cùng đi. Tất cả những cái này xếp lại, gửi về quê. Đánh nhau đã.

Nhật Tân giúp Hiền gấp quần áo cho vào hòm cưới, và treo hai cái áo nhung vào tủ. Họ bước ra. Anh chỉ cái lồng nhốt một con gà mái và hai con chim bồ câu, đặt dưới cái núi non bộ, hỏi:

- Đẻ không đem đi à?

- Chắc là vội, quên đi.

- Cất đi thôi, không có đứa nó lấy mất.

Anh xách lồng ra nhà ngoài, mở cánh cửa của cái bàn giấy, cho cả gà và chim vào. Hiền đem gạo lại. Họ rúc rích cười như đôi vợ chồng trẻ đầy những ngạc nhiên trước cuộc sống mới. Nhật Tân nói:

- Đủ lỗ thông hơi rồi. Nuôi thế này nó chóng béo lắm. Âu Mỹ họ toàn nuôi gà trong bóng tối. Hồi anh đi Nam tiến, đã nhiều lúc phải ăn rau tàu bay. Ở Hà Nội, chắc không bao giờ đến nỗi thế. Nhưng cứ phải đề phòng. Những thứ này bây giờ cần hơn đồ cưới của chúng ta. Hiền có thấy không? Thà hi sinh hết cả còn hơn nô lệ, Hiền ạ.

- Không có gì quý bằng tự do, anh nhỉ. Em không thể nào quên được những ngày Quốc khánh vừa qua, bày tiệc ra đường ăn uống. Em không thể nào quên được những ngày biểu tình hồi cách mạng, đoàn nữ sinh chúng em có hàng nghìn, đều để tóc thề, mặc toàn trắng, xinh lắm, đi đến đâu người ta hoan hô đến đấy.

- Đúng rồi. Đồng bào miền Nam khao khát ngày này lắm, mà họ gọi là đất tự do. Anh kể cho Hiền nghe, cái hồi vỡ mặt trận ở Ninh Hoà, quân Pháp sắp kéo đến. Đồng bào không ai ở lại. Từng đoàn người lũ lượt tản cư, theo nhau băng rừng, lội suối, đi tìm miền tự do. Có một bà cụ tám mươi tuổi cũng chống gậy đi. Mọi người bảo cụ: “Cụ đã già nua tuổi tác, nó dù có tàn ác đến đâu cũng không giết cụ làm gì. Cụ đừng đi cho vất vả. Đường đi nhọc nhằn, cụ sẽ chết dọc đường mất”. Bà cụ nói: “Cảm ơn các ông các bà có lòng thương. Nhưng tôi không ham sống làm gì nữa. Chỉ muốn đến những nơi nào không có Pháp, những nơi nào có ngọn cờ đỏ sao vàng”. Thế rồi bà cụ cứ đi. Sau mấy ngày bà cụ đi trong rừng, cụ đã kiệt sức quá. Cụ đã nằm chết bên cạnh đường mòn, lối lên Đèo Cả. Cụ đã chết trên con đường đi tới tự do đấy, Hiền ạ. Nhưng nét môi đã rụng hết răng như bằng lòng mình đã thở cái hơi cuối cùng ở trên một miền đất trong sạch, không có dấu chân Pháp. Anh đắp một nấm mồ chôn cụ, cài một mảnh giấy chẳng biết bây giờ có còn không, đề mấy dòng: “Mồ một bà cụ đi tìm tự do, Đèo Cả ngày 8-2-1946”. Đấy là những người sống chết với tự do. Chúng ta còn hơn họ, chúng ta đã được hưởng tự do rồi.

- Anh Nhật Tân, anh nói nữa đi.

Hiền bâng khuâng, tay khẽ vịn lên vai Nhật Tân. Hiền rất thích nghe anh kể lại những ngày Nam tiến. Cái áo ra-gơ-lăng xám của anh loà xoà, bao kiếm rê đi rê lại trên sàn gạch của cái gian nhà lạnh, ánh sáng nham nhở như buổi chiều…

Chú thích:

(1) Hoan hô

(2) Trời ơi

(3) Tiếng Anh nghĩa là lịch sự hào hiệp

Nhật Tân kéo cái mũ nhung đen xuống cho thêm bí mật, xốc cái cổ áo ra-gơ-lăng lên đến gáy, đánh diêm hút một điếu thuốc lá. Anh rẽ vào cái phố nhỏ thông sang Hàng Bạc. Đầu phố đang đào hào. Giữa phố tấp nập. Phòng trà, tiệm cà phê, hiệu phở, hiệu bánh cuốn, hiệu nem, vẫn mở cửa. Cửa hàng nào cũng đầy ứ xe đạp. Trong một tiệm cà phê, người ta bàn tán om sòm:

- Nó không đánh mình nó cũng chết. Mình không đánh nó cũng không sống được. Chẳng hiểu thế nào cả. Thôi, cứ biết còn được uống một cốc cà phê hôm nay.

- Chính phủ của Lê-ông Bờ-lum lên rồi. Bờ-lum là bạn thân của của Cụ.

- Chính trị thì không nói chuyện tình cảm. Toàn các xừ S.F.I.O. trong nội các mới thì ăn thua mẹ gì. “Mũi tẹt” vẫn hải ngoại. Đác-giăng-li-ơ sắp sang. Bên này Xanh-tơ-ny không gặp Cụ nữa. Liên kiểm Pháp không chịu đi chung với mình.

- Nay vụ Yên Ninh, mai vụ Yên Ninh, chết hết mất.

- Đánh đi cho nó biết tay. Ngoạm vào Hà Nội thì gãy răng. Hà Nội không như Hải Phòng. Hà Nội là ville tentaculaire (1), rắc rối hơn bất trận đồ của Khổng Minh.

- Lạ quá, không thấy Cụ nói gì cả.

- Chả có thế Việt gian nó lại rêu rao: Nếu chính phủ này bất lực không dám đánh Pháp thì rút lui đi, để dân bầu một chính phủ kháng chiến.

Nhật Tân liếc nhìn cái anh vừa nói, nghĩ bụng: “Chính mày chứ ai nữa”. Anh định bước vào trong tiệm. Một tiếng gọi. Anh quay lại. Đấy là Văn Việt, người uỷ viên quân sự khu Đông Kinh Nghĩa Thục. Văn Việt vốn họ Nguyễn, nhưng cái họ ấy thông thường quá, lại còn thêm chữ đệm Văn còn quê mùa hơn, nên anh cắt họ đi như nhiều nhà nghệ sĩ đã làm. Gọi tắt là Văn Việt nghe nó kêu hơn. Văn Việt nguyên là một thầy kí máy đèn. Anh trạc hăm ba hăm bốn tuổi. Dáng người tấm thước, nho nhã, kiểu cách, gọn ghẽ trong chiếc bờ-lu-dông tím. Trên ve áo có đính cái huy hiệu Chủ tịch Hồ Chí Minh mà anh được tặng hồi đóng ở phủ Bắc Bộ. Đầu anh đội lệch một chiếc ca lô tím có sao vành, hông đeo hơi trễ bao da súng lục đánh rất bóng. Nước da anh trắng, phơn phớt đỏ – anh vừa mới làm một tợp rượu “khô” – Bộ râu quai nón được cắt nhắn xanh rờn như mặt đá mài suốt từ mang tai đến cằm. Miệng anh phì phèo một điếu thuốc lá ăng-lê. Hồi đi Nam tiến, anh đã đóng trung đội phó. Cũng hồi đó, anh được biêt Nhật Tân trong đoàn học sinh Hà Nội tình nguyện vào Nam. Nhật Tân phục Văn Việt là cấp chỉ huy gan dạ, và Văn Việt thì mến Nhật Tân là người sôi nổi, lại cùng cánh Hà Nội vào. Những ngày nghỉ, họ thường gặp nhau, kể lại những chuyện của thủ đô để khuây khoả nỗi nhớ nhà, để quên những gian khổ của cuộc chiến đấu.

Mắt lừ lừ, Văn Việt hỏi:

- Quốc Vinh dọn đi rồi phải không?

- Dọn rồi. Sáng ngày, ông ấy về ông ấy địa tôi một trận ghê quá.

- Chính trị thì phải thế chứ.

Nhật Tân nhận ra ngay cái mỉa mai trong giọng nói của Văn Việt và cười đồng tình. Anh rút một điếu thuốc là Phi-líp Mô-rít trong cái bao mà Văn Việt vừa chìa ra, vừa đánh diêm vừa nói:

- Không biết chính trị đến bao giờ. Điên lên mất.

- Chưa hết đâu.

Mắt Văn Việt càng lừ lừ, như lim dim buồn ngủ. Anh bước lên cái hè hẹp, nhường lối cho mấy cô nữ sinh, kéo Nhật Tân lại gần. Anh thì thào:

- Vụ Hàng Bún là một balon d’essai (2). Mình không làm gì là nó lấn. Cậu hiểu tâm lí thằng Pháp chứ gì? Già dái non hột. Ai cứng thì nó mềm, ví dụ Đức bên kia, Nhật bên này. Ngược lại ai mềm thì nó cứng, như ta bây giờ. Ở trên thì đã cương quyết lắm rồi. Ông Võ Nguyên Giáp, nhân danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã có lời kêu gọi thanh niên sống chết với thủ đô. Người ta đang kẻ khẩu hiệu vung lên đấy. Nhưng Quốc Vinh nhà cậu thì thế nào? Vừa rồi họp thì vẫn nói mấy điểm cũ rích. Tích cực vận động đồng bào tản cư này, dự trữ gạo nước này, hết sức tránh khiêu khích này…

Văn Việt cũng không tán thành những chuyện manh động. Để cho Nhật Tân không phật ý, anh nhẹ nhàng:

- Có nhiên những việc ấy thì đúng thôi, cũng như cái việc tích cực đục tường, đắp ụ mà ông ấy nhấn đi nhấn lại, có ai không đồng ý đâu. Những việc ấy mình đã làm và đang làm, không mới gì cả. Cái mới bây giờ là vấn đề quân sự, là vấn đề vũ khí, thì ông ấy không chú ý. Còn cái này là cái mới của ông ấy đây này: tổ chức một cuộc bãi thị toàn thành, tẩy chay quân đội Pháp, để phản đối vụ Yên Ninh. Đấy mới đấy. Bà Oanh đang hấp tấp đi vận động chị em chợ Đồng Xuân đấy. Y như thiên hạ đại thái bình.

- Nó thế nào ấy nhỉ.

- Chậm ghê lắm. Nhu nhược hết sức. Ví dụ: Nhà Quảng Xương Long Hàng Bồ có hàng núi cuốc xẻng. Lão Cự Lâm viện hết lí này đến lí khác, không ủng hộ lấy một cái. Tự vệ thì đang thiếu cuốc xẻng. Chỉ cần một cái giấy trưng dụng là xong, thế mà không làm. Một ví dụ khác: Thuốc men thì cần lắm chứ gì. Thiếu bét hết. Y tá Sỹ chạy long tóc gáy mới được một ít bông băng. Tôi đề nghị trưng dụng luôn mấy cái nhà bào chế thuốc trong Liên khu, có thể đủ dùng hàng năm. Nhưng cũng không dám làm, nói phải dựa vào sự ủng hộ của nhân dân là chính. Làm mạnh thì sợ Pháp nó buộc cho là khiêu khích, tư sản hoang mang.

- Sao anh không nói?

Văn Việt nhún vai:

- Nói đấy chứ, nhưng ai nghe. Nói mãi thì lại mang tiếng là chủ nghĩa quân sự, là tiểu nữa. Nghe ai bảo mình tiểu thì muốn độn thổ rồi còn gì.

Anh rụt đầu, giơ tay:

- Không biết tiểu tư sản thì có tội gì? Đi Nam tiến đánh chết thôi cũng tiểu. Xin thêm bộ đội vào đây cũng tiểu. Bảo trưng dụng cuốc xẻng cũng tiểu. Còn cái gì không tiểu nữa. Giá mình như cái loại cậu Dân thì nghe hay đấy.

- Để xem tiểu hay đại được việc. Được, tôi sẽ đến bảo thằng Phúc nhà Cự Lâm. Tôi sẽ phá cái nhà Quảng Xương Long lấy cuốc xẻng cho anh em.

- Bà Oanh phụ trách vận động vị hôn phu rồi. Oanh bảo Phúc thì vẫn dễ hơn hơn cánh ta. Còn ta, việc gì giao cho ta ta cứ làm. Làm thật lực, không ai nói tiểu vào đâu được nữa thì thôi.

Văn Việt bắt tay Nhật Tân:

- Chào ông tiểu.

Cả hai người đều rũ ra cười. Nhật Tân đã vào tiệm cà phê, Văn Việt còn quay lại giơ một ngón tay ra hiệu:

- Đánh chết thôi. Sống chết với thủ đô.

Nhật Tân đứng trên bực cửa:

- Đúng. Sống chết với thủ đô. Cánh ta thì càng phải sống chết với thủ đô để gỡ tiếng.

Từ ngày về làm uỷ viên quân sự ở khu Đông Kinh Nghĩa Thục, Văn Việt có những chuyện buồn bực. Điều làm anh cho là không vui nhất là cảm thấy mình không được tín nhiệm cho lắm, vì anh là một quần chúng. Mỗi khi buồn bực, anh lại tìm mấy người bạn uống rượu, nói chuyện văn thơ, rồi vùi đầu vào công việc huấn luyện kĩ thuật tác chiến cho bộ đội và anh em tự vệ. Anh có cái ám ảnh là Quốc Vinh không thật tin anh, cho anh là kiêu và nóng nảy. Không những không ưa Quốc Vinh, anh còn khinh thường cả anh ta nữa. Anh cho Quốc Vinh là người của đoàn thể nên được đề bạt chứ chẳng hơn gì anh. Quốc Vinh là một tự vệ chiến đấu, thế mà được làm Chủ tịch uỷ ban bảo vệ khu Đông Kinh Nghĩa Thục kiêm Phó chủ tịch Ủy ban bảo vệ liên khu I. Văn Việt còn biết chắc chắn rằng đoàn thể đã nhằm đưa Quốc Vinh lên làm Phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến liên khu, nếu xảy ra tác chiến. Văn Việt ức là mình đã từng học ở trường võ bị Trần Quốc Tuấn, từng đi Nam tiến, đã từng vào sinh ra tử, lại là người trong khu này, biết người biết việc, thế mà vẫn cứ lẹt đẹt với chức đại đội phó. Trên danh nghĩa là uỷ viên quân sự, nhưng quyết định thì vẫn là mấy anh cán bộ chính trị trong cái Uỷ ban bảo vệ bên trong kia. Về đời tư, Quốc Vinh cũng chẳng hơn ai. Quốc Vinh sắp lấy Phượng, chị gái Nhật Tân từ đầu đến chân chẳng có gì là công nông cả. Văn Việt nghĩ: “Đã thế, ta sẽ cứng như sắt đối với đàn bà. Để xem ai mới là tiểu tư sản”. Anh ăn nói có duyên, nhiều cô nghe anh kể chuyện Nam tiến thì ngây ngất, có nhiều cô mê anh. Nhưng anh, anh nhất định không để cho tình yêu chi phối.

Văn Việt nhanh nhẹn bước trên con đường nhỏ, ngoại ô của những rạp hát, những hiệu ăn quen thuộc. Người, xe đạp, xích lô ứ lại. Con đường trơ trụi không cây cối lổn nhổn gạch đá, lạo xạo vôi cát. Những dãy nhà chen chúc, xộc xệch rung lên những tiếng đục tường. Từ trong một ngôi nhà cổ mà bên ngoài đã chế biến thành một cửa hàng giải khát sơn xanh diêm dúa, cất lên tiếng đàn ghi-ta trầm trầm luyến tiếc. Ngồi trên bao lơn gỗ của một căn nhà gác nhỏ đầy câu đối, mấy thanh niên đang tranh nhau xem một tút đạn súng lục của một người ăn mặc lam lũ, người này rối rít lấy ra một cái túi nữa trong cái bị rách như bị ăn mày. Tất cả phố xá nhuộm một màu đen xám, chớp chớp nhấp nháy đó đây một vài ngọn đèn điện trong những nhà tối tăm, ẩm thấp. Ngoài đường, kẻ chạy ngang, người chạy dọc, kẻ bước vội, người đứng trầm ngâm, rùng mình trong khí lạnh của buổi chiều. Gió bấc thổi hiu hắt, bốc lên mùi hôi của cống rãnh, và thỉnh thoảng sực nức cái mùi thơm phức của cà phê, mùi mặn ngậy của phở xào.

Một đoàn ba bốn cái xe bò chở đầy mọi thứ đất cát còn ướt xồng xộc lao tới, làm chật lên cái phố hẹp, lúc nhúc. Đằng xa phần lớn là những người lao động và một số học sinh quần tây xắn cao. Một học sinh giơ nắm tay.

- Cát đây chứ đâu. Ai thiếu cát làm ụ thì ra sông Hồng mà lấy.

Tiếng reo:

- Cát sông Hồng. Dô ta…

Người ta chạy ùa ra, vẫy vẫy đoàn xe bò vui như vẫy xe hoa. Văn Việt nghĩ: Đông Kinh Nghĩa Thục như cái tổ kiến, người ta mang đủ thứ về để đánh giặc. Mặc dù tíu tít, người ta vẫn nhường bước cho Văn Việt. Nhiều người chỉ trỏ, nhiều người cung kính chào anh. Anh giơ tay lên mũ ca-lô đáp lại mọi người một cách lịch sự và hiên ngang. Một anh tự vệ, mũ ca-lô sao vuông, đứng ngay ở đầu phố, sau một cái ụ bằng những bao cát chồng lên đến ngực, nhác trông thấy Văn Việt ở xa, đứng nghiêm bồng súng. Một anh trong nhà bước ra, cấm lấy cái thuổng ở trong tay một anh khác, cúi xuống đào, nói nhỏ với anh em: “Ông Văn Việt, ông Văn Việt”. Sự có mặt của một người bộ đội, nhất là của người cấp chỉ huy, đã làm cho mọi người vững chí trong cái buổi chiều âm u, lạnh lẽo, đầy lo âu này. Văn Việt thấy rõ cái cảm tình của nhân dân đối với bộ đội, đối với anh, và anh mỉm cười sung sướng. Anh nghĩ: “Văn Việt không phải là một thằng xoàng”.

Trần Văn đứng ở trên bờ cái hầm nông choèn. Anh vừa xúc đất xong và bây giờ nhường xẻng cho Loan. Thấy Văn Việt, anh có cái ngượng của một người học trò bị thầy giáo bắt gặp đứng chơi.

Từ ngót nửa tháng nay vào tự vệ, đây là lần đầu tiên anh ra đào hầm. Anh không phải là một công tử nhà giàu. Đi dạy học cũng chỉ đủ ăn. Nhưng từ thuở nhỏ đến nay, anh chưa hề rờ vào con dao, cái xẻng. Anh ngại những công việc lao động. Sau vụ Tràng Tiền, tiếp luôn đến vụ Yên Ninh, anh uất ức muốn xông ngay vào cuộc chiến đấu. Giặc đã trắng trợn ra mặt. Không còn là lúc đi vận động bà con tản cư, tích trữ gạo nước, đi nghe giải thích về trường kì kháng chiến, về nhiệm vụ của thanh niên nữa. Tất cả những việc đó anh thấy đều là viển vông cả. Giờ hành động đã đến rồi. Anh sẵn sàng làm tất cả những việc gì khó nhọc, nguy hiểm. Khi được lệnh của uỷ ban là phải tích cực đào hầm, đắp ụ, anh không chờ đến tối nữa, ra đây xẻ đường với một tiểu đội trong trung đội của anh. Anh hăm hở tưởng như anh có thể đào ngay một cái hào sâu, dựng ngay chiến luỹ, to hơn vững chắc hơn những cái ụ ở Khâm Thiên, ở ô Chợ Dừa, ở Cầu Rền, ở ô Đống Mác. Khi được tin rằng ở nhiều phố nhỏ như Tô Tịch, ở Hàng Gai, tự vệ cũng đã dựng chướng ngại vật vít kín hai đầu phố, anh càng sốt sắng. Nhưng chỉ bổ được mấy nhát cuốc thì vai anh đã trối, tay anh đã rát. Tuy vậy, anh vẫn cố. Có Loan đứng đấy, anh thấy cần phải tỏ ra hăng hái để khỏi giảm cái hăng hái của người học trò. Đầu đường bên kia phía Cầu Gỗ, cái ụ đã cao, với những cây gỗ nằm ngang kiên cố. Anh thúc giục mọi người làm. Người ta xúm đen xúm đỏ xem anh em tự vệ. Một anh hàng phở rong ngứa mắt cũng chạy ra đào. Một anh xích-lô đạp xe tới nằn nì xin cho cuốc vài nhát. Mấy anh tự vệ phố Hàng Đào đi qua, ghen với bọn Trần Văn, kêu rầm lên trách Uỷ ban không cho xẻ đường ở những phố lớn. Mấy cô nữ sinh trông thấy tự vệ làm công tác phá hoại thì reo lên sung sướng. Đã hết rồi cái thời thấy một thanh niên ăn mặc hơi cỏ rả là các cô bĩu môi chế giễu. Bây giờ thì với bộ quần áo tây cũ, với đôi giày tàng, Trần Văn lại thấy mình hãnh diện. Ngược lại, một thanh niên chải chuốt đi qua, thì bị mấy cô nguýt và rũ ra cười.

Trần Văn cảm thấy có một cái gì vui không thể nói được, nó ấm ấm, nhẹ nhẹ, phơi phới từ bên trong đưa ra. Cái vui mỏi mệt của một người bằng lòng đã làm được một việc gì thiết thực và thấy mình gắn sâu vào cuộc đấu tranh chung, hoà với cái say sưa của bỡ ngỡ và cái khoái cảm đau đớn của bắp thịt bị tù hãm, bước đầu được kích thích.

Họ chỉ có một cái cuốc, hai cái thuổng, một cái xẻng. Những dụng cụ tầm thường ấy bây giờ trở nên rất quý, vì chỗ nào người ta cũng dùng đến nó. Nó cũng quý như những người trước đây anh không chú ý hoặc khinh rẻ, nhưng lúc này thì rất được việc. Đứng trên bờ hầm, anh nhìn họ, và thấy ấm lên trong một tình yêu kì lạ. Sờn, anh thợ xẻ phố Gia Ngư, một thanh niên vạm vỡ, và hiện nay phải ở lại Hà Nội để trông xưởng cho chủ. Tu, một người phu khuân vác ở Cột đồng hồ. Anh ta mới chạy được một trăm bạc cho vợ con về quê. Thấy Trần Văn ra làm thì anh có ý bất nhẫn, phàn nàn luôn miệng: “Ông để cho cháu làm cho. Các ông có quen những việc này đâu”. Anh ta không để cho Trần Văn đào hay cuốc lâu bao giờ.

Mọi người dừng tay khi Văn Việt tới gần, nín thở chờ anh nói. Văn Việt ghếch chân lên một cái bánh xe bò ứ lại bên hố bao cát, hỏi:

- Sau vụ Yên Ninh có ai sợ không?

- Không ạ - Tiếng đáp mạnh mẽ - Chỉ phiền một nỗi là thiếu dụng cụ. Chúng tôi may mà còn mượn được, chứ nhiều phố khác bói không ra một cái.

Long đen, một thanh niên có cái mu bàn tay thích chàm nổi rõ nét hai lưỡi kiếm giao nhau, cái miệng đầy những răng vàng, nhanh nhảu:

- Thưa ông, anh em chúng tôi bàn là cứ vào nhà Quảng Xương Long mà lấy thì có hàng ức, hàng vạn cái.

Mọi người cười ồ ồ. Văn Việt đứng dậy:

- Ta hãy trông vào sức ta trước đã.

Anh học sinh xe cát nói:

- Làm như chúng tôi thì cần gì xẻng cuốc. Thưa anh, xe tăng có nhiều không ạ?

- Nó có ít thôi, nhưng nó vẫn hơn ta vì ta không có.

- Ở Hàng Bún nó cho xe đến nhổ chướng ngại vật như ta nhổ cọc, như thế thì làm thế nào?

- Đâu cũng xẻ đường, đâu cũng dựng chướng ngại vật thì nó phá được hết à?

Biết anh em lo lắng về xe tăng, và để tỏ tài quân sự của mình, Văn Việt nói:

- Không có thứ khí giới gì tuyệt đối cả. Ta sẽ có cách chống tăng. Đào hầm là một cách. Lấy cát về đắp ụ cũng là một cách. Thế gọi là làm cho Pháp có chân như què đấy. Tích cực hơn nữa là ta sẽ có mẹo phá tăng bằng những khí giới riêng của ta, ngay cả bằng lựu đạn.

Trần Văn dỏng tai. Trong một lớp huấn luyện quân sự cấp tốc mà anh được dự, Văn Việt đã giảng về cách đốt xe tằng bằng ét-xăng cờ-rếp, cách dùng lựu đạn ném vào lầu xe tăng. Mới đấy, anh lại nghe đồn bộ đội có một thứ khí giới bí mật là bom ba càng. Anh nhìn Văn Việt, muốn hỏi về thứ võ khí lạ lùng ấy. Nhưng anh vẫn rụt rè. Văn Việt nói tiếp:

- Đánh nhau với bọn đế quốc mạnh hơn ta về võ khí, thì yếu tố quyết định đối với chúng ta vẫn là tinh thần. Chúng ta không sợ xe tăng thì đánh được xe tăng. Một võ quan Anh là Y-ăng Lê-vy, đã từng chiến đấu ở Tây Ban Nha, có nói rằng cái đức cần thiết cho một chiến sĩ đánh xe tăng là bình tĩnh, gan dạ, chịu hi sinh. Tôi đang tổ chức một đội cảm tử đánh xe tăng. Chúng ta phải làm thế nào cho khu Đông Kinh Nghĩa Thục của chung ta đi đầu trong việc phá tăng. Có ai tình nguyện vào đội ấy không?

Trần Văn nói:

- Tôi xin tình nguyện.

Mọi người đều nhao nhao hưởng ứng. Văn Việt nói:

- Thôi, anh chị em làm đi. Chúng ta là những người của khu Đông Kinh Nghĩa Thục mang tên cái trường của nhà cách mạng Lương Văn Can, cái khu tiêu biểu nhất của đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Chiến sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục lừng danh toàn quốc, giặc nghe thấy phải kinh hồn táng đởm. Được không nào?

Văn Việt rất tự hào với cái khu của anh. Anh muốn bộ đội, tự vệ trong khu giỏi hơn các khu khác. Tên tuổi anh sẽ rực rỡ cùng với tên Đông Kinh Nghĩa Thục. Cái tên nho nhã này lại phù hợp với cái tính thích văn chương của anh. Cho nên anh thường nghĩ: mình là một nhà quân sự, nhưng phải là một nhà quân sự phong lưu.

Anh sắp sửa đi thì có những tiếng chạy rầm rập hoà với những tiếng kêu và những tiếng cãi nhau ầm ĩ. Người ta đổ xô cả sang Hàng Bạc. Nhật Tân cũng chạy tới.

Trước cửa nhà hát Tố Như, một toán người kéo đi, ùn ùn, lộn xộn. Người xách va-li, người đeo đẩy, người gồng gánh, phần lớn là những anh em lao động. Một người đứng ở giữa đường, cản họ lại:

- Các anh em, các anh em là thanh niên. Sao các anh em lại đi. Đề nghị các anh em ở lại. Lúc này thanh niên rời thủ đô là một tội lớn!

Trong bọn, một thanh niên, mũ sơn xanh, chân đi đất, tiếng ra nói:

- Chúng tôi phải đi như thế này là một điều khổ tâm. Chúng tôi đã quyết định ở lại để kháng chiến. Nhưng bà con cũng nên hiểu cho hoàn cảnh của chúng tôi. Bây giờ chúng tôi tiền không còn một xu, gạo không còn một hột. Chúng tôi không dám đòi hỏi Chính phủ, vì Chính phủ chúng ta chẳng giàu gì mà còn phải lo hàng trăm hàng nghìn công việc. Vì thế chúng tôi phải về. Chúng tôi về thế này thì có sung sướng gì đâu.

Nhật Tân đã nhảy ra trước mặt anh mũ xanh. Hai cánh tay dang rộng ra cản mọi người. Con Lu lu như sắp sửa chồm lên cắn người mũ xanh. Người ta dạt về đằng sau. Nhật Tân thét:

- Đã biết thế thì phải ở lại. Thanh niên phải sống chết với thủ đô. Các anh đi đâu? Các anh không biết bỏ đi là hèn à? Trở về ngay. Tôi bảo!

Người mũ xanh giơ tay lên:

- Chính phủ không hề bắt buộc ai ở lại. Anh là gì mà giữ chúng tôi?

- Tôi là gì ấy à? Tôi chỉ nhân danh là một thanh niên Hà Nội, tôi không cho các anh về.

- Nhưng chúng tôi có được như các anh đâu. Không có cái gì vào miệng thì không ai nói cứng được. Chúng tôi không có một hột cơm vào bụng từ hôm qua rồi.

- Sắp đánh nhau với Pháp mà các anh còn nói chuyện cơm áo à?

Đám đông sừng sộ bước lên:

- Chúng tôi ở đây không có việc gì. Đào thì xẻng cuốc không có.

- Rồi sẽ có. Muốn bao nhiêu cũng có. Tôi sẽ đến tận nhà Cự Lâm lấy cho các anh em. Các anh còn muốn cái gì nữa nào? Các anh lại sợ phản động nó bảo tự vệ là bia đỡ đạn cho Việt Minh chứ gì?

- Anh không được nói láo.

- Một lần nữa, tôi bảo các anh về. Nếu không tôi sẽ…

Người thanh niên mũ xanh quăng cái va-li xuống đất, tay đưa mũ cho một người khác.

- Anh sẽ làm gì? Khai trừ chúng tôi chắc?

Nhật Tân thét:

- Khai trừ à? Không. Khai trừ một tự vệ không phải bằng một lời tuyên bố. Khai trừ tự vệ bằng súng đạn.

Anh vạch cái áo ra-gờ-lăng ra, để lộ cái dây đeo súng lục quàng trước ngực và cái thắt lưng Mỹ có giắt một khẩu súng lục. Anh rút khẩu súng giơ lên trời. Một tiếng kêu:

- Không được bắn!

Văn Việt nhìn ra thì là Quốc Vinh vừa đi ở đâu về tới đây. Anh lẩm bẩm:

- Lại sắp diễn thuyết!

Anh lủi vào đám đông đi thẳng. Trần Văn lấy làm lạ về thái độ của Văn Việt. Đã mấy lần, anh bắt gặp Văn Việt thấy bóng Quốc Vinh là lánh mặt đi.

Trái với lời nói của Văn Việt, Quốc Vinh không diễn thuyết. Trần Văn chỉ thấy anh đứng nói chuyện nhỏ nhẹ với người mũ xanh, rồi len lỏi vào giữa đám đông như bàn bạc với mọi người. Họ chăm chú nghe anh và gật đầu gật đầu. Rồi thấy họ reo hò trở lui. Những người đứng trên vỉa hè cũng vỗ tay hoan hô. Quốc Vinh quay lại, bàn tay phải cuộn tròn lại, đưa lên miệng. Anh ho khe khẽ. Đôi mắt lồ lộ của anh như tìm người nào. Chợt thấy uỷ viên kinh tế đứng gần Trần Văn, anh bước lại, nói nhỏ:

- Trích gạo kho phát cho anh em.

Ông uỷ viên bật nảy người:

- Thưa ông, số gạo dữ trữ trong kho không còn mấy. Phát cho bộ đội, nhân viên cơ quan còn đang thiếu. Còn phải đề phòng nếu xảy ra…

- Cứ xuất ra ba tạ.

- Đã đề nghị lên trên xin thêm, nhưng không được.

- Đây là những anh em dân nghèo, phu phen, công nhân. Anh em không phải là những người thiếu tinh thần. Anh em rất tích cực, phải giữ lại để phá hoại và chiến đấu. Ông xuống ngay cho. Tôi chịu trách nhiệm.

Tay anh lại đưa lên, cái miệng giảu ra, làm lõm sâu đôi má. Trần Văn, mắt không rời người cán bộ, thầm khen cái bình tĩnh nhẹ nhàng của anh ta. Nghĩ đến cái hung hăng của Nhật Tân, anh bật buồn cười. Thấy Quốc Vinh đi qua, anh hỏi:

- Sao ta cứ để cho mũ đỏ hoành hành mãi thế?

Quốc Vinh bấy giờ mới nhận ra Trần Văn. Bắt tay xong, anh nói:

- Đế quốc là con quỷ. Nhưng ta thì vẫn nêu cao ngọn cờ hoà bình cho đến cùng.

- Âm mưu của nó đã rõ rồi. Mình phải làm thế nào chứ?

- Không phải đợi đến vụ Yên Ninh ta mới rõ cái âm mưu của chúng. Cái âm mưu của chúng nó đã lộ ra từ Hiệp định sơ bộ mồng sáu tháng ba, từ Tạm ước mười bốn tháng chín. Kế hoạch của nó là tằm ăn lá, hết Lạng Sơn, rồi Hải Phòng, rồi bây giờ đến lượt Hà Nội… Vấn đề của chúng ta là đoàn kết, tích cực chuẩn bị để làm hậu thuẫn cho Chính phủ, và nếu không giữ được hoà bình, phải đánh thì chúng ta đánh. Chúng ta lặng lẽ mà chuẩn bị, reo cười mà kháng chiến. Có thế thôi, phải không, nhà giáo?

Quốc Vinh vỗ vai anh, hỏi:

- Cụ bà về rồi chứ anh?

Trần Văn gật đầu, lời nói thân mật của Quốc Vinh làm cho anh cảm động. Anh như trở lại mối tình bạn cũ, không phải đứng trước người cán bộ thường vẫn có cái gì đó lạnh nhạt khó hiểu đối với anh. Anh vốn quen biết Quốc Vinh từ lâu. Quốc Vinh là con vợ bé của một ông đồ, người làng mẹ Trần Văn. Những kì nghỉ hè về quê mẹ, anh thường chơi với Quốc Vinh, học ở trường làng. Người vợ cả đanh ác quá. Bà bé phải dắt Quốc Vinh đi, khi ấy còn gọi là thằng Thụ. Mẹ Quốc Vinh không thể cho anh ta đi học được nữa, trình độ lớp nhì, lớp nhất cũng dở dang, anh ta xin vào làm thợ sắp chữ ở nhà in Lê Văn Tân. Rồi anh đi hoạt động bí mật, phần nhiều ở Hà Nội. Năm 1943, Quốc Vinh có đến gặp Trần Văn tuyên truyền cách mạng. Nhưng Trần Văn sợ khủng bố, xin chỉ làm quần chúng cảm tình. Ít lâu sau, Quốc Vinh bị bắt. Đến Tổng khởi nghĩa, Trần Văn lại gặp Quốc Vinh, nhưng anh rất ngượng và không dám vồn vã, sợ mang tiếng là kẻ xun xoe xu thời. Bây giờ, nghĩ lại, lắm lúc anh vẫn tiếc đã bỏ lỡ một dịp tốt để đi vào cách mạng. Trong khi Quốc Vinh, như anh thường nói, đã trở nên một người của tình thế, thì anh vẫn chỉ là một người mò mẫm tìm đường.

Anh giới thiệu Loan với Quốc Vinh. Người cán bộ nói:

- Công tác tuyên truyền là một trong những công tác quan trọng bậc nhất. Có một nhà thơ vào thì hay lắm, tốt lắm.

Quốc Vinh bắt tay Loan, chào Trần Văn quay đi. Chợt nghĩ ra một điều, anh quay lại nói với Trần Văn. Một câu hỏi ngây thơ làm cho Trần Văn ngạc nhiên hết sức:

- Bọn mình đang cần cái bản đồ Hà Nội vẽ to ra. Nhưng ai cũng bận cả. Nhờ luôn anh ấy vẽ cho một cái, lại là nhà thơ, vẽ chắc đẹp lắm.

Chú thích

(1) Thành phố nhiều ngóc ngách.

(2) Ý nói kiểu thăm dò.

Ngọn đèn buông từ nóc không có trần của một căn gác hẹp, chiếu một thứ ánh sáng vàng đục xuống cái bàn đen ở giữa nhà, gần cái lan can gỗ cầu thang. Ngoài ra, mọi vật đều chìm trong bóng tối: cái nóc thấp với cái rui mè nặng trịch, cái bàn thờ tít bên trong, trên tường xây bằng vôi tam hợp lâu ngày vàng ngậy, bộ tứ bình với cái khung đen và những tranh Tam quốc đã bị thời gian hun khói. Qua cái cửa sổ trông xuống ngõ – mà chấn song là một chữ triện tráng men xanh – bên ngoài gió lay mạnh cái chụp đèn đầu ngõ bốc mù khói sương. Tuy mới vào khoảng tám giờ tối mà như đã khuya lắm. Chung quanh đều im lặng, cái im lặng không bình thường đối với những người ở cái khu phố chằng chịt những đường ngang ngõ tắt này, giang sơn của những rạp hát, những tiệm ăn, tiệm giải khát, tiệm thuốc phiện, những hàng quà, hàng bánh bán rong, những đào kép cải lương, những phu phen thợ thuyền, những khách trú, những làng chơi, những lưu manh yêu tạ, những con người sống cái cuộc sống phù hoa lam lũ, lừa lọc ê chề, càng về đêm càng ồn ào, quay cuồng rối rít.

Nhưng trong cái gian gác này, còn phảng phất hình dáng của kinh thành xưa cũ, ở vào giữa một cái ngõ hẻm lầy nhầy, hôi hám, ngày thường không có vẻ lương thiện lắm, cuộc sống nhộn nhịp khác hẳn bên ngoài.

Họ có tất cả tám chín người. Tu, anh phu khuân vác ở Cột đồng hồ, một người trạc bốn mươi tuổi, hai vai rộng và chắc nịch như lực điền, da mặt dày lên vì sự vất vả và tính thật thà. Mộng Xuân, anh kép cải lương, khoảng mười bảy, mười tám, ngưởi ẻo lả, mặt trắng bệch, tóc mai dài, ăn mặc chải chuốt một cách lẳng lơ. Người phu và anh kép ngồi ở đầu bàn. Hai bên bàn, ngồi trên cái tràng kỉ nặng, mấy người học sinh đang lúi húi kẻ khẩu hiệu. Trước bàn thờ, trong bóng tối, một học sinh đứng giảng cách bắn súng lục cho một anh học sinh khác. Riêng Loan thì ngồi trước cái bàn kê gần cửa sổ, và đang phóng to cái bản đồ Hà Nội. Anh tạm thời ở với Trần Văn để làm cái công việc mà anh mới được giao cho. Thỉnh thoảng, anh quay lại nhìn những người bạn mới, trừ Mộng Xuân ra, còn toàn là học sinh và thợ thuyền.

Mộng Xuân, tay cầm một tập giấy bạc, hỏi:

- Các đại huynh còn ai góp nữa không? Chưa được năm trăm. Chả bù với anh em nhà cải lương nhà đệ, chỉ bảo một tiếng là họ góp tiền mua luôn được hai khẩu súng trường. Bây giờ mà diễn một tối lấy tiền mua súng thì phải biết, vừa có tiền, rạp vừa đỡ vắng. Năm trăm có được không, anh Long? Thôi, để cho tiểu đệ đi. Giặc đánh tới nơi rồi!

Anh bước kiểu cách như đi trên sân khấu tới gần Long đen đứng trước bộ tứ bình, tay cầm khẩu súng lục. Mộng Xuân vào nghề đã được bốn năm nay. Trước anh chỉ đóng những vai chạy cờ. Mới đây, anh được đóng vai Triệu Tử Long, rồi Ngũ Tử Tư. Anh được mọi người chú ý trong buổi diễn vở Tàn phá Cô Tô. Có nhiều người khóc khi Ngũ Tử Tư bị vua Phù Sai cho tam ban triều điển. Nhưng cái đêm đầu tiên anh được hoan nghênh ấy thì cũng là đêm cuối cùng rạp anh diễn ở Hà Nội để hôm sau toàn ban tản cư. Mộng Xuân đưa tập giấy bạc cho Long đen:

- Hãy cầm lấy nào.

Bọn học sinh vỗ túi quần đồm độp. Một anh nói:

- Hết rồi. Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì tiền. Bán đi, vừa bán vừa cúng. Việc nước cả.

Long đen không cầm xấp giấy bạc, vừa đẩy Mộng Xuân vừa nói:

- Thế thì cho em theo các anh, các anh giữ lấy cả tiền, cả súng.

Tu không vui lắm. Gần đây, khắp các phố, người ta kẻ ít người nhiều thi nhau góp tiền mua súng, mua lựu đạn. Nhưng anh chẳng có gì. Hôm nay, nếu không có một yến gạo của ủy ban cho thì anh không biết lấy gì mà ăn. Tu thấy ngượng với anh em. Mà họ lại vừa bầu anh làm tiểu đội trưởng, thay một ông chủ hiệu vàng bạc sau vụ Yên Ninh đã bỏ về quê. Anh nhìn Long đen rồi lại nhìn mấy anh học sinh ồn ào mới kéo đến, chưa lên hết cầu thang đã đòi ngay cho công tác. Một người nói bô bô:

- Nó gây ra vụ Yên Ninh là nó chết. Bộ đội kéo về đông lắm rồi, đông hơn hôm qua, đông hơn hôm kia. Trong thành chúng nó lục đục, lính Đức nổi loạn, nó giết nhau chí choé, giải phóng thủ đô đến nơi rồi. Cho chúng tôi vào tự vệ.

Tu chưa kịp có ý kiến thì họ đã sà ngay vào đám học sinh đang kẻ khẩu hiệu, nói chuyện ríu rít:

- Đưa tớ kẻ với. Tớ kẻ rất đẹp. Ồ, vui quá. Thanh niên sống chết với thủ đô. Thanh niên sống chết với thành Hoàng Diệu.

- Kẻ một thứ có được không?

- Cả hai thứ. Một đằng nêu được hai tiếng thủ đô, một đằng nêu được sự tuẫn tiết của cụ Hoàng Diệu.

- Cụ Hoàng Diệu thì hơi bi. Cụ chết nhưng thằng Pháp nó vẫn hạ được thành Thăng Long. Mình chết nhưng không thể mất Hà Nội.

- Cốt nêu cái tinh thần cảm tử thôi. Lính nhà Trần thích chữ Sát Thát thì mình viết lời thề sống chết.

Mộng Xuân quay lại nói:

- Xin các huynh cho đệ ghi tên đã. Lần này chúng ta ở lại sống chết với Thủ đô thật, dù da ngựa bọc thây, thịt nát xương tan cũng không lùi bước. Trước đây ai muốn vào thì vào, ai muốn ra thì ra. Các huynh hiểu cho, như thế là không được. Các huynh đến là mừng rồi. Nhưng xin cho đệ ghi tên.

- Các anh không phải ghi tên gì cả. Chúng tôi đã vào, chúng tôi không ra. Anh xem cánh tay tôi đây. Tôi chơi súng bị thương. Nhà ép tản cư. Nhưng tôi ở lại. Những người tình nguyện không phải ghi tên. Đây là một lời hứa danh dự, một lời thề cảm tử. Cái chết đẹp nhất là cái chết vô danh.

Mộng Xuân quay hỏi Tu:

- Thế nào anh?

Tu vẫn không nói, cả cái tấm lưng vững chãi, rộng nghiêng về một bên, bàn tay trái nắm ngón tay phải một cách cung kính, rụt rè. Anh không được thoải mái với cái chức tiểu đội trưởng mà anh từ chối không được. Anh vốn kính nể những người ăn mặc sạch sẽ, mặt mũi sáng sủa. Anh cúi xuống ngồi im. Long đen tiếng lên nói:

- Ghi tên thì ghi tên cả. Ghi cả tên tôi vào. Không ghi thì thôi. Tôi xin vào từ mấy hôm trước.

Bộ răng vàng của anh rít chặt, cái mặt choắt đen thui nhăn nhúm. Long đen trước làm nghề nặc nô, sau làm yêu Nhà máy nước đá. Hồi cách mạng anh ta đi lấy cắp súng của Tàu trắng bán cho cục Quân giới. Sau can vào vụ giao toàn súng hỏng, anh bị bắt giam mấy ngày. Gần đây, anh đã báo cho công an bắt được một ổ in bạc giả, và làm giấy cam đoan cải tà quy chính. Anh muốn vào tự vệ, nhưng ở đâu người ta cũng ngại.

Mộng Xuân nói:

- Hay là để đợi ông Trần Văn về.

Bỗng có tiếng rầm rập ở cầu thang. Sờn, anh thợ xẻ, chạy lên, theo là sau một đứa trẻ. Sờn quay lại nói:

- Lên đây, lên đây, Lai.

Tiếng một cô gái tên là Tuyết léo nhéo ngoài ngõ:

- Có đào đường nữa không thì các anh bảo nhá. Em đợi ở đây. Em mượn thêm được một cái cuốc rồi đấy.

Sờn nói xuống:

- Cứ ra trước đi.

Sờn trạc ngót ba mươi tuổi, mặt vuông, cằm bạnh, thớ thịt hai bên quai hàm luôn luôn đụng đậy như đang nhai cái gì. Anh như không biết rét, chỉ phong phanh một bộ quần áo nâu, cổ quàng một cái khăn mặt bông còn mới. Anh dắt chú bé vào:

- Đấy, chú muốn gì thì nói đi, Lai.

Chú bé đứng tựa lưng vào lan can, vừa thở vừa nhìn mọi người. Đấy là một đứa trẻ khoảng mười ba, mười bốn tuổi, mặc cái quần cộc, một cái áo sơ-mi người lớn bằng ka-ki vàng, lùng bùng sau cái áo sợi đan màu đỏ kệch. Một tay nó cầm con dao, một tay xách một cái hòm nhỏ. Tóc nó dài đến mái tai, ngả nghiêng như lúc bị bão.

Anh học sinh bị thương ở tay đặt bút xuống bàn, hỏi chú bé mà Sờn gọi là Lai, giọng thân mật, kiểu cách. Anh cố làm ra vẻ không phân biệt sang hèn:

- Em muốn gì? Em mang cái gì đấy?

Chú bé ngẩng đầu, tay lúng túng đưa cái hòm ra sau lưng, cái mặt lem luốc của nó như ửng đỏ, giọng của nó khê khê gần như vỡ tiếng:

- Thưa cậu, cháu đi đánh giày mũ.

- Thật à?

- Cháu đi đánh giày đã được hai năm rồi. Cháu tủi lắm, cứ phải cúi xuống ôm chân người ta. Hôm qua, ở Bờ Hồ, cháu đánh giày cho một thằng Tây, nó không trả tiền, cháu đòi, nó đánh. Cháu quăng cả mấy hộp xi xuống hồ. Cháu đã thề là không làm cái nghề ấy nữa.

Lai tựa mạnh vào cái lan can lung lay. Nó hết nhìn người này đến người khác bằng đôi mắt ti hí đã có vẻ gian gian láu lỉnh của một đứa trẻ phải sống cuộc đời lăn lộn của Hà Nội lầm than. Anh học sinh hỏi:

- Thầy u em đâu?

- Cháu đã tản cư với u cháu. Nhưng ở Hà Đông buồn lắm. U cháu chẳng buôn bán gì được. Cháu nói với u cháu lại cho cháu ra Hà Nội. U cháu cho cháu một đồng bạnc. Cháu đi qua chợ mua được con dao này. Cháu chỉ lo Hà Nội đánh nhau rồi. May còn có chuyến xe điện, cháu cứ thế nhảy lên, xin với ông công-tôn cho đi không. Về đến Bờ Hồ, may quá vẫn chưa có gì. Các anh vẫn đang đào hố tác chiến.

- Hà Nội sắp đánh nhau rồi mà u em cũng để cho em vào ư?

- Về Hà Nội còn hơn ở ngoài ấy. Các cậu ơi, ở ngoài ấy, ai hỏi cháu ở đâu về cháu cũng phải giấu, không dám bảo là người thủ đô tản cư, xấu hổ lắm.

Tiếng cười đồng tình nổi lên. Lai run run, không hiểu vì nó sợ hay vì trận gió lạnh lùa vào. Tu đến ngồi xổm trước mặt Lai, bàn tay to lớn của anh cầm lấy con dao, một thứ dao rựa mảnh dẻ. Anh hỏi một cách nhẹ nhàng:

- Em đến có việc gì?

Lai cúi mặt, đặt cái hòm xuống sàn, nói khe khẽ:

- Cháu xin vào tự vệ.

- Tự vệ? – Tu nói không thành tiếng.

- Bác ơi, có được không? Cháu chẳng có gì đâu. Cháu chỉ có con dao này thôi.

Tiếng bút không sột soạt trên giấy nữa. Tiếng lách tách của cò súng cũng im bặt. Mọi người sán tới gần Lai. Ngon tay cái của Tu sợt sợt trên cái lưỡi sáng của con dao. Lai đứng thở nghẹn ngào, mặt nó vừa khiêu khích, vừa giận dữ. Tu thấy thương chú bé. Nó cũng lam lũ như đứa con lớn của anh. Hồi lâu, Lai nói:

- Ở đây cũng không nhận cháu ư? Xin vào bộ đội, các anh ấy cũng không nhận, các anh ấy chỉ nhận con nhà giàu, chúng nó có quần áo, chúng nó biết hát. Nghèo thì Tây cũng khinh mà ta cũng khinh.

Lai ngơ ngác như một con chim lạc. Cái miệng nứt nẻ của nó mở ra, không hiểu nó cười hay nó khóc. Anh học sinh nói:

- Lúc này không ai phân biệt sang hèn. Trước cái chết, ai cũng ngang hàng.

Lai đứng thẳng:

- Thế thì cậu nhận cháu vào nhé. Cháu được vào thì khối thằng bạn cháu cũng xin vào.

Tu vòng tay lớn ôm lấy Lai. Anh nói:

- Vào tự vệ là cầm chắc cái chết trong tay. Các anh lớn phải ở lại. Em còn nhỏ ở lại làm gì? Con anh bằng tuổi em, anh cũng phải cho nó đi tản cư với mẹ nó.

- Nhưng cháu không sợ chết.

- Ai nỡ để cho em phải hi sinh. Tuổi em không nên ở trong này.

Lai lườm Tu, giằng lấy con dao. Cúi xuống xách cái hòm lên, nó bước ra cầu thang. Bỗng nó quay lại nói:

- Nghèo cũng khổ. Bé cũng khổ. Thế thì cháu ở với ai? Cháu đi đâu bây giờ? Mấy thằng bạn cháu biết làm gì bây giờ? Thôi được. Cháu lại đi tìm bộ đội vậy. Cháu lại đi tìm các cậu tự vệ khác. Cháu đi đến chỗ nào nhận cho cháu ở lại thì thôi.

Tay vịn lan can, Lai tìm lối xuống, ngẫm nghĩ thế nào, nó oà lên khóc. Long đen nhảy tới, cầm tay Lai:

- Thế thì hai anh em ta cùng đi. Ở lại thủ đô chẳng phải là độc quyền của ai cả.

Sờn giữ chú bé đánh giày lại:

- Đêm tối thế này thì đi đâu? Cứ ở lại đây!

Lai quay lại, cái hòm nhỏ của nó rơi mạnh xuống sàn gác.

*

* *

Loan cảm động nhìn mọi người đang đứng sát lại. Những thân hình còn mảnh dẻ tương phản với những cái vóc nặng nề, cục mịch, những đầu bóng mượt với những mớ tóc bù rối. Nhưng thư sinh mặt trắng mới từ bỏ mái trường họp với những người phu, người thợ chỉ có hai bàn tay trắng, những người mà ngày thường không ai gọi là người thủ đô, nhưng đến lúc này lại bám lấy thủ đô hơn cả mọi người. Ngay cả đối với Long đen, Loan cũng thấy có cái gì đáng mến. Loan trở về bàn tiếp tục vẽ bản đồ, bâng khuâng giữa cái cảnh vừa quen vừa lạ. Anh cảm thấy mình không riêng lẻ, vì các bạn học sinh rất nhiều. Anh chưa biết Tu và Sờn lắm. Nhưng nếu đối với các bạn học sinh anh còn dè dặt, thì đối với anh phu, anh thợ, Loan gần gũi được ngay. Họ thật thà đối với anh, cũng như họ thật thà trong việc bảo vệ cái thành phố đã bạc bẽo với họ. Loan có cảm tình đối với những người lao động. Nhà anh nghèo, bố mẹ làm ruộng, chân lấm tay bùn. Mấy tháng ở Hà Nội anh cũng chỉ chung đụng với những người bình dân. Anh không dám qua các phố Hàng Đào, Hàng Bạc, mà chỉ lang thang các ngõ hẻm trong thành phố hoặc các vùng ngoại ô. Qua những lớp chính trị, những buổi đi nghe nói chuyện, qua những sách về chủ nghĩa cộng sản mà anh tìm kiếm đọc, anh bắt đầu có một ý niệm về địa vị của những người lao động, những con người mới của thời đại, những người đang được đề cao trong xã hội, những người bị nhiều áp bức, đang đứng lên quyết liệt trong cuộc đấu tranh giành công lí và hạnh phúc cho tất cả mọi người. Buổi sáng hôm nay, gặp Dân ở Cửa Nam, Loan đã thích ngay, nhất là sau lại biết anh ta xuất thân là thợ. Đến bây giờ Loan vẫn giữ nguyên trong trí cái hình ảnh lạc quan yêu đời của anh công nhân bộ đội ấy.

Tất cả những con người ấy đang cùng với anh chuẩn bị xông vào cuộc chiến đấu sống chết với quân thù. Loan thấy yên tâm hơn trong cái việc vẽ bản đồ mà mới đầu anh còn cưỡng lại. Anh không hiểu làm sao mình đang làm văn, làm tính bỗng đùng một cái phải làm ngay cái việc không ngờ này. Anh vẽ kém, nên càng lúng túng. Anh nhìn cái bản đồ vẽ dở, buồn vì chẳng thấy được chút tâm hồn nào của mình vào đó. Công việc của anh thợ nặn sáng ngày! Từ trong lòng anh vọng lên những câu thơ anh đã làm những còn giấu mọi người, những câu thơ có trăng sầu và bến vắng, có cố hương và khách li tao, có hình ảnh người áo tím xứ Huế xa xôi phải gật nước mắt đi lấy một người chồng mà mẹ cha ép gả. Nhưng mơ mộng gì nữa khi bầu trời Tổ quốc không còn là bình minh của hương sắc mà đục ngầu những hình thù tối đen của mũ đỏ và thổ phỉ, khi trong tất cả những cái phố dần dần hiện lên dưới tay anh, bao nhiêu thanh niên đang ầm ầm đào hầm đắp ụ. Anh thấy gắn mình vào cuộc sống chung quanh. Anh cố rập theo đúng nguyên bản, sợ sai một tí thì ảnh hưởng đến kế hoạch quân sự sau này. Anh hình dung người cán bộ đứng xem bản đồ của anh để chỉ huy các trận đánh, và lòng anh rạo rực. Anh cắm cúi vẽ, tay run run vì rét và vì sự quan trọng của công việc. Nhưng rồi mắt anh cay xè, hoa lên. Bàn tay cóng dừng lại. Loan thiu thiu buồn ngủ. Giấc mơ ngắn ngủi lờn vờn những tên Đồng Xuân, Hàng Lược, Hàng Đồng, Hàng Da, Hàng Điếu, Hàng Bút, Hàng Bè, những cái tên đã có âm hưởng trong lòng anh từ ngày anh còn bé, những cái tên anh thường nhắc nhở và ngưỡng vọng một cách thiết tha như tất cả bà con của anh ở một miền Trung xa lắc. Đầu Loan đập mạnh xuống cái bản đồ nguệch ngoạc.

Loan choàng thức dậy thì thấy Trần Văn đã về, và đứng giữa bọn Tu, cái đầu húi ngắn nhô lên cao, nét mặt nghiêm một cách kì lạ. Mọi người xúm nghe anh. Tiếng Trần Văn trầm trầm, lành lạnh, như mang cả cái lạnh lẽo bên ngoài vào.

- Không ai ở nhà nữa. Phải tập trung để bảo vệ nhau, đề phòng những vụ Yên Ninh. Pháp có thể đánh ta bất cứ lúc nào. Khu đã cương quyết. Không thoái thác vào đâu được nữa. Đêm nay phải tập trung ở các tổ tác chiến.

Loan rón rén bước lại, có cảm tưởng như sắp sửa đánh nhau và họ chuẩn bị ra trận. Trần Văn gật đầu bảo Loan tới gần. Anh nói thầm thì như trong một buổi họp của hội kín, kích thích vì say sưa và bí mật:

- Bắt đầu từ bây giờ, phải coi như là đã tác chiến rồi, lúc nào cũng phải sẵn sàng. Không còn có cuộc điều đình nào ở Bắc Bộ phủ nữa. Ai nấy về thu xếp quần áo tới chỗ tập trung ngay. Tôi đã đến thăm các nhà ấy, ở đầu phố Hàng Đào. Ta sẽ đóng ở tầng thứ ba, tức là cái nhà thờ. Chủ nhà đã dọn đi hết. Chỉ còn có một người giữ nhà, là ông già Tư. Ông cụ này khó tính một chút, đặt điều kiện này, điều kiện nọ. Mình không đi mạnh, nói to này, không được làm suy suyển đồ đạc. Của người ta như thế nào phải giữ nguyên như thế.

Một tiếng cười hắt ra rồi im ngay. Sờn hỏi:

- Ăn uống thế nào?

- Ở đấy cả. Ăn chung…

Sờn định nói cho Tuyết đến thổi nấu cho, và ăn luôn vào đấy. Tuyết chẳng biết sinh sống bằng cách gì. Nhưng lại thôi vì chắc ai cũng ghê con nhà thổ. Anh thò tay vào túi áo, lấy ra một tập giấy vuông vuông màu đỏ nhạt, nhìn mọi người đang hồi hộp trước mặt anh:

- Đây là chứng minh thư khu phát cho chúng ta. Của người nào đã có ghi tên sẵn. Nếu đánh nhau, thì đây là cái vật đảm bảo nhất để nhận ra nhau. Mất là nguy đến tinh mạng. Để lọt vào tay kẻ gian còn có thể bị chịu tội nữa.

Gian nhà bỗng nhiên lạnh ngắt. Gió rít trên mái. Trần Văn lặng lẽ phân phát cho mọi người. Ai nấy đều nín thở. Anh đưa cho Loan và nói:

- Loan sẽ về ở với ban tuyên truyền.

Loan run run cầm lấy cái chứng minh thư, mắt trố ra nhìn thấy tên mình. Anh có cảm tưởng như bắt đầu giờ phút này anh sẽ chuyển vào một cuộc đời đầy nguy hiểm, và cái giấy này buộc anh vào một cái gì chặt chẽ, cứng như thép. Anh thấy lạnh suốt từ gáy đến chân. Anh không đứng vững, đầu gối cứ run lên.

Long đen len vào tới trước mặt Trần Văn, giơ bàn tay vẽ chằng chịt:

- Anh cho em một cái.

Trần Văn nói:

- Bây giờ Long chưa có. Nhưng rồi thế nào anh cũng có. Người nào ở lại kháng chiến cũng đều có cả.

- Bây giờ em chưa có thì bao giờ em mới có. Các anh không tin thằng Long đen này ư? Tiền đây em giả lại các anh. Súng đây, em để lại cho các anh. Các anh còn đòi Long đen cái gì nữa? Bao giờ mới hết nghi cái thằng Long đen chó má này? Chả nhẽ tôi lại chờ để bị bắt. Không đâu, tôi không cho ai bắt tôi như một đứa lưu manh nữa. Tôi không đến nỗi là không biết nghĩ đâu, các anh ạ.

Nhiều bàn tay khác tua tủa chìa xin giấy. Một tay xách hòm, một tay níu lấy áo Trần Văn, Lai nói:

- Cậu cho cháu một cái. Cháu lạy cậu, cậu ơi! Cháu cũng xin sống chết với thủ đô như các cậu đây mà.

Bàn tay Long đen vả vào má đôm đốp. Anh làu bàu bước ra. Tiếng chân Long đen chạy ầm ầm dưới cầu thang rung cả cái sàn gác.

Loan đi nhé. Loan có thấy vui không?

- Em vui lắm.

- Loan cố vẽ cho xong cái bản đồ. Bình thường thì đây không phải là việc của một người học sinh. Nhưng lúc này việc gì đến tay thì ta làm nấy. Chúng ta sẽ không ngần ngại một việc gì.

- Em không ngần ngại gì cả. Mấy hôm trước, em còn lo cho việc học của em, nhưng từ lúc đến đây, thì em yên trí lắm rồi. Em cũng cần nói rõ là em muốn cầm súng giết giặc, chứ không muốn làm cái công việc tuyên truyền viết lách. Nhưng lúc này, em vui vẻ nhận làm công việc này.

Trần Văn chìa tay nắm chặt bàn tay lạnh giá của Loan:

- Chúng ta sẽ còn gặp nhau nhiều. Loan khoẻ mạnh luôn nhé.

Loan quyến luyến không muốn chia tay. Anh muốn nói lên lòng biết ơn của mình đối với Trần Văn. Đến đây, không những Loan có một công tác nhất định, mà còn được yên tâm về mặt sinh kế. Thế là Loan được ở lại để góp phần của một người tỉnh nhỏ vào việc bào vệ cái thủ đô mà chỉ riêng cái tên cũng làm anh rung động. Nhưng anh vẫn thấy bịn rịn khi phải xa Trần Văn. Cuộc chia tay lúc này có một cái gì đột ngột, choáng váng đối với Loan. Anh vẫn cần có những người thân giúp đỡ trong bước đầu bỡ ngỡ.

- Loan nghĩ gì thế? – Trần Văn hỏi – Từ lúc đến đây, Loan thấy thế nào?

- Em thấy mọi người đều sốt sắng. Tất cả Hà Nội chuẩn bị đánh giặc. Một em bé đánh giày cũng xin ở lại. Một người không lương thiện như Long đen mà còn biết nghĩ, huống chi mình. Em có cảm tưởng rằng rồi đây, dân tộc mình sẽ trong sạch ra, mạnh mẽ thêm lên.

- Tôi cũng tin như vậy.

- Nhưng Long đen giận bỏ đi thì làm thế nào? Có thể nguy hiểm được.

- Trên thì vẫn chưa thật tin anh ta. Mà cũng đúng thôi, những người như thế thì làm sao bỗng chốc mà tin ngay được. Nhưng đây là lúc cái lương tâm của một con người đang được thức dậy. Phải có một lòng yêu chân thành mới làm cho những đống tro ấy cháy lại. Sự lạnh lẽo của tình cảm không bao giờ cứu vớt được một con người. Tôi sẽ gặp lại anh ta. Họ còn đáng quý hơn rất nhiều người lạnh nhạt với thời cục, những người chẳng nghĩ gì ngoài cái thân của họ.

Trần Văn cười một cái mỉa mai. Anh muốn ám chỉ vợ chồng Trinh. Câu nói khinh bạc của Trinh sáng ngày ở nhà ga vẫn còn làm cho anh bực tức. Anh nhún vai:

- Cái giá trị của con người đang được định lại hết, Loan ạ. Rồi đây, ai là người thiết tha với thủ đô, ai là người chỉ có cái vỏ thủ đô, sẽ rõ cả ra. Nhưng đấy là chuyện khác. Còn chúng ta thì công việc đã rõ ràng rồi. Chúng ta ở lại. Giờ quyết liệt đã đến. Chúng ta sắp đi vào một con đường mà sống chết chỉ là một. Không biết Loan nghĩ thế nào, chứ riêng tôi, tôi không băn khoăn rằng tôi sẽ sống hay chết trong cuộc chiến đấu này. Điều quan trọng là chúng mình có mặt. Sống, chúng ta sẽ được trông thấy thủ đô ngàn năm không còn bóng giặc. Chết, chúng ta sẽ có cái tự hào của một thế hệ đã hi sinh lần cuối cùng cho tự do của Tổ quốc. Chúng ta là những người nô lệ cuối cùng đồng thời cũng là những ngươi tự do đầu tiên. Tôi thấy rất rõ. Sống tức là có mặt ở những nơi cần đến chúng ta. Tôi đã nhiều lúc vắng mặt rồi. Rất buồn cho những kẻ đứng ngoài.

Trần Văn đứng trên cầu thang nhìn xuống cho đến khi Loan đi khỏi, mới vào thu xếp. Anh đến trước bàn thờ, nhìn cái ảnh cụ Tú thân sinh ra anh, nhìn nén hương vòng mà mẹ đốt sáng ngày trước khi ra đi. Nó đã tắt nửa chừng. Anh đánh diêm đốt cho nó cháy lại, cảm thấy trong nhà và người anh đỡ lạnh. Anh tần ngần chưa muốn bước đi. Trong giây phút, anh như sống lại cái quá khứ của ông cha. Cụ Tú đã dự vào phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, và khi nó thất bại, thì đóng vai một người bất đắc chí lấy rượu giải phiền. Ông nội Trần Văn thì ngang tàng hơn. Khi Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai, Hoàng Diệu quyết tử chiến ở Hà Nội. Trong khi nhân dân nổi lên hưởng ứng, gõ thau gõ mõ trợ lực cho quan quân, thì ông nội anh được cử đem ba nghìn dân quân vào thành giúp. Nhưng đến nơi thì nội phản vừa đốt kho thuốc súng và quân Pháp đã vào thành. Sau khi Hà Nội thất thủ, những hoạt động của ông cụ dính liền với những công việc kiều các thánh Văn Xương, Quan Đế, Đào Hoa công chúa, Liễu Hoa công chúa ở đền Ngọc Sơn mà các cụ gọi là đền giảng thiện. Đền Ngọc Sơn biến thành nơi tuyên truyền chống Pháp, nơi rung chuông độc lập, dựng cờ tự do. Những bài ca lục bát do các thánh giảng gióng giả tình cảnh quốc dân. Nhưng rồi phong trào bị lộ. Mật thám sục vào giữa lúc ông nội anh thay lời Quan Đế đang phán truyền một bài thơ ưu thời mẫn thế. Cuối cùng, ông cụ bị đem đi đày sang Tân Thế giới và gửi xương ở đó…

Trần Văn tự hào về những công việc làm ấy của ông và cha anh, và thường lấy những chuyện cũ ra để tự an ủi. Anh mong mỏi một nước Việt Nam thoát khỏi ách thực dân và ách phong kiến của triều đình nhà Nguyễn bán nước, và một chế độ dân chủ được dựng nên. Nhưng anh không dám hoạt động cách mạng. Để tỏ cái chí khí của mình, anh không đi vào con đường giàu sang mà anh thấy rất bẩn thỉu. Anh không muốn làm một viên chức phải luồn cúi, nịnh nọt bọn quan thầy. Anh chọn nghề giáo trường tư để được tự do. Anh nghiên cứu sử và quan niệm rằng việc học sử sẽ làm cho người Việt Nam nhớ đến gốc gác của mình, và những trang sử oanh liệt của cha ông, những Bạch Đằng Giang, những Chi Lăng, những Đống Đa sẽ nuôi dưỡng lòng yêu nước không bao giờ mai một. Anh thường tự nhủ: “Mình không dám làm cách mạng, nhưng làm được việc này thì cũng là giúp nước. Còn hơn những kẻ nhận tổ tiên là giống Gô-loa (1) mà không biết nhục”. Đến thời kì Việt Minh, anh có cảm tình với cái chủ trương đánh Pháp đuổi Nhật. Cách mạng Tháng Tám bùng ra, anh chào đón nó với tất cả lòng chân thành của anh. Thời đại của tự do, của dân chủ đã mở ra và anh cảm ơn nó. Nó đã thực hiện được một việc mà chính anh không làm được và không dám làm. Bây giờ thì đối với anh, con đường đã rõ, anh không còn lí do gì để đứng ngoài nhìn người khác làm thay. Thấy lẽ phải mà không làm cũng hèn nhát như một kẻ đầu hàng…

Anh dừng lại trước cái bàn giấy nhỏ của anh. Trên bàn có đặt cái hình mẹ anh. Anh cầm lấy bức ảnh nhỏ, cho vào ví. Anh ngẩn người ra, hình dung thấy mẹ nằm một mình ở một xó nhà quê hẻo lánh và đang trằn trọc nghĩ đến anh. Anh lúi húi thu xếp chồng giấy mà mà Loan đã để gọn vào một góc trên bàn, một số thì tạm đặt trên cái ghế đẩu cạnh đó. Đây là những bài giảng anh đang soạn, và quyển vở anh đang dùng để viết chữ nho. Chữ Hán sẽ giúp anh đọc được một số sách cổ mà ông cha anh còn để lại chứa trong hai cái tủ treo trên tường. Anh mới khởi công học được hơn hai tháng. Anh lấy cái cặp da, định cho mấy cái tài liệu quý vào. Nhưng cái cặp da đã nhét đầy những thứ cần thiết hơn: khẩu súng lục, mấy quả lựu đạn, một nắm lương khô. Anh tắc lưỡi: “Đem đi cũng vô ích thôi. Bỏ lại hết những cái gì không cần thiết để cho người nhẹ nhõm”. Anh mở ngăn kéo cho tất cả các giấy má vào. Ngăn kéo chật, anh phải bỏ ra nhiều thứ không quan trọng lắm và vứt xuống bàn. Chợt anh trông thấy ảnh Trinh trong đống giấy bị loại ra. Anh nhặt lên. Cái ảnh mới nhất của Trinh chụp mấy ngày trước khi Trinh biết Bao. Trinh như đang cười với anh, với tất cả cái tươi thắm tự nhiên của một nữ học sinh. Họ đã có biết bao nhiêu những dự định tương lai. Trần Văn đi dạy học. Trinh sẽ giúp anh soạn bài và chấm bài cho học sinh. Họ sẽ sống một cuộc đời thật giản dị, trong tình yêu và trong hạnh phúc gia đình. Có những lúc anh đã hỏi Trinh có thể sống cuộc đời thanh bạch ấy không. Trinh quả quyết nói rằng không bao giờ đi chệch con đường ấy. Còn đường ấy bây giờ đã chia hai ngả. Mỗi người đi một hướng và sẽ chẳng bao giờ gặp nhau nữa. Anh từ từ buông bức ảnh trong tay ra. Nó rơi sấp xuống sàn. Hiện lên còn mới tinh hàng chữ đề tặng của Trinh. Anh thở phì một cách chua chát, vung tay trong một cử chỉ dứt khoát, cúi xuống khoá ngăn kéo, cầm lấy cái cặp chứa nặng những võ khí và bước xuống dưới nhà. Vào trong buồng của mẹ, anh với tay lên tường lấy cái ba-lô quần áo mà mẹ đã đưa may từ mấy hôm trước. Anh quàng cái quai lên vai, ngùi ngùi nhớ mẹ mà anh không rời từ thuở nhỏ. Anh đứng ngắm cái buồng con của mẹ, cái sập mộc, cái hòm khoá chuông anh vẫn nghe quen, cái thạp gạo mẹ đã đong đầy, cuộn bóng thủ gói trong một tờ báo mẹ đã sắm để chuẩn bị Tết sắp đến. Tất cả toát lên một cái gì sơ sài, tạm bợ, lạnh lẽo của những nơi người già ở. Sự vắng mặt của mẹ càng làm tăng thêm cái không khí cô độc, hiu hắt.

Gió bấc tê buốt táp vào mặt Trần Văn khi anh ra tới đầu ngõ hẻm. Vai đeo ba-lô quần áo, một tay xách cặp, một tay cầm cái chìa khoá cửa nhà, Trần Văn thấy mình nhẹ nhõm, trong cái say sưa của nguy hiểm và cái kích thích của phiêu lưu. Anh đã sẵn sàng hết thảy. Từ biệt cái nhà cổ. Từ biệt cái bàn làm việc an nhàn. Từ biệt mẹ già và cả cái quá khứ đầy những mộng không thành.

Anh trông lại cái gác nhỏ, cửa sổ còn le lói sáng. Cứ để đèn cho ấm áp. Chung quanh nhà, các nhà đóng cửa im lìm, lẻ tẻ có nơi nhấp nhánh ánh đèn. Những ô vuông ngơ ngác, cao thấp của những căn nhà hỗn độn, nham nhở, xiêu vẹo, cái tắt, cái sáng, lộn xộn trong lúc dừng lại để chia tay giải tán.

*

* *

Khắp bốn bề, những tiếng đục tường thông nhà nọ sang nhà kia nổi lên bí mật, như đứt hơi, như giận dữ. Nó không lẻ tẻ như hôm trước, mà râm ran, vội vã. Trần Văn rảo bước như bị ai thúc giục, cái bóng của anh mờ mờ xoá xoá trên con đường phố tối âm âm. Ngã tư Hàng Bạc, một ngọn đèn treo lờ mờ, u uất, vãi một khoảng ánh sáng lặng lẽ xuống con đường lượn vòng sang Hàng Bồ. Từ đầu Hàng Đào, qua Hàng Ngang, Hàng Đường đến chợ Đồng Xuân, rải rác những bao cát dựng sù sụ trước những cửa lùa gỗ rất xưa và những cửa lùa sắt văn minh một cách lạc lõng. Rải rác một vài hố cá nhân bên hè, sau cột đèn sắt. Trên hè hẹp, đất mới hắt lên, làm thành những con đường nhỏ như đường làng, gập ghềnh, ướt át. Đất và sỏi quăng ra bừa bãi đã gần lấp kín con đường xe điện. Lẻ tẻ một vài bóng anh em công nhân đạp xe đi tuần. Trước cửa một trụ sở, anh tự vệ giữ lại một người, có vẻ là khách làng chơi về muộn, bắt nằm sấp xuống đề khám xét. Rồi phố xá lại vắng tanh, lặng im một cách khó chịu, để nổi lên độc tôn những tiếng đục tường, khi nặng khi nhẹ, khi xa khi gần, khi mau khi chậm. Khắp thế giới, sau một cuộc chiến tranh khủng khiếp, đã im tiếng súng, nhưng ở đây, giữa cái Hà Nội êm đềm, bão táp của chiến tranh đang đổ tới. Cái thành phố đã đứng vững trên chín trăm năm, đã bị bao phen tàn phá, đốt cháy, cướp bóc, có chống cự được trong keo cuối cùng này không? Tiếng đục tường đáp lại những tiếng đục tường. Kẻ thù mạnh gấp trăm, gấp nghìn, và không chỉ có nó. Và để đối lại, những người cán bộ, những nam nữ học sinh, những anh thợ, những người buôn bán chưa hề biết đến súng đạn đang phải sắp lại thành pháo đài, tự biến mình làm chiến sĩ. Đêm lạnh như băng giá, buốt như năm đói rét vẫn còn ám ảnh, gió ào ào như vọng về những tiếng kêu thảm thiết của phố Yên Ninh hờn oán, vo vo trên các dây điện, luồn vào các nhà tối tối trơ trọi ánh đèn. Tiếng gió vù vù làm nặng thêm, âm vang thêm những tiếng đục tường thình thịch, gấp gấp, những tiếng kê lại bàn ghế, tủ giường lục cục, rít rít, sệt sệt. Những bàn tay vô hình đang đục phá bên trong như thét vang: Chuẩn bị một nấm mồ vĩ đại để chôn chặt quân thù. Dãy phố hai bên sít lại. Các mái nhà thấp xuống. Và cả một thành phố cũ được bê lên trên gác, với những điện, những nhà thờ, những chòi gỗ, những chữ nho, những chậu cảnh, những tường thấp quay lưng ra ngoài, những cửa sổ nhỏ như những cái lỗ, thập thò, sợ sệt, cả cái thành phố cũ ấy bị bỏ quên, như vụt hiện về, rung chuyển sắp đổ nhào xuống để chặn giặc. Trong cái giận dữ của tiếng thuổng đâm vào tường, bực bội và thương tiếc, có một cái gì thân mật, nhẹ nhàng, phơi phới. Rì rầm những tiếng nói tiếng cười. Những bức tường ngăn cách mọi nhà đang được mở ra, đầu phố nọ đang sát lại đầu phố kia, những con người không biết nhau, thành kiến với nhau, khinh ghét lẫn nhau, lừa lọc lẫn nhau, đang gần lại. Trái tim của Hà Nội cùng đập theo tiếng đục tường. Tiếng đục tường ran ran, khi thét, khi cười, khi thì thầm như lời tình tự, khi dồn dập sôi nổi như lời thách thức. Những khẩu hiệu: Thanh niên sống chết với thủ đô la liệt hai bên đường bỗng như cùng kêu lên, và khẽ rung rung trong cái sáng tối mập mờ.

Chú thích

(1) Tổ tiên người Pháp

Mặc dầu tình thế rối ren, đám giỗ nhà Cự Lâm vẫn cứ tiến hành. Đó là ý muốn của ông Cự Lâm và cũng là ý muốn của bà giáo, bà cô toàn quyền của cái nhà này. Theo một thói quen đã hai mươi năm nay, nghĩa là từ khi nhà Cự Lâm hoạnh phát – trước đây họ cũng đã có, nhưng chỉ ở mức trung bình – ông Cự Lâm và bà giáo làm giỗ mẹ rất to. Cúng cáo, ngày kị chính thức, lễ hoá vàng, giỗ linh đình kéo dài ba ngày liền, có năm còn hơn nữa. Họ hàng ở Hà Nội kéo đến, bà con ở nhà quê đổ ra. Những bạn buôn chè của ông cũng tới. Những nhà buôn bán phố Đồng Xuân cũng nhớ ngày biện lễ vật sang ăn giỗ. Người ta vào lễ cụ, người ta ra chúc tụng ông bà giáo. Người ta khen cậu Phúc, cô Lan, cô Hương con nhà nền nếp, gia giáo. Người ta tấm tắc trước những đồ đạc lộng lẫy trong nhà, trước một đàn công quý nuôi trong vườn. Người ta xuýt xoa nhìn những mâm đồng, những đồ cổ ít người còn có, những bát vây, bát yến do chính bản tay kiểu cách của bà giáo trình bày. Những bà con nhà quê sau ngày giỗ còn nán lại, ông cho đi xem hát, hoặc đi xem nhà bà Bé Tý, cái thời những giống vật kỳ quái và cái điện sặc sỡ của bà chúa Hàng Bạc còn vang dội khắp kẻ chợ cùng quê.

Những ngày hiển hách ấy đã qua rồi. Ngay cái giỗ năm ngoái, sau ngày Cách mạng Tháng Tám, cũng đã kém phần trọng thể. Năm nay, ông Cự Lâm và bà giáo lại muốn làm to. Nhưng tình hình đi ngược lại ý muốn của họ. Trong lúc này, họ hàng ở Hà Nội đã tản cư gần hết. Những người còn lại ở Hà Nội thì lo chạy chẳng xong còn nói gì đến ăn giỗ. Bà con ở nhà quê thì không ai dám ra.

Ông Cự Lâm mặc áo đoạn dài, chít khăn tề chỉnh, cung kính nhìn lên bàn thờ mẹ, rực rỡ son vàng, do đèn điện và nến cùng chiếu sáng. Ngoài đường thì ầm ầm như sắp loạn đến nơi, nhưng ông muốn trong ngày giỗ mẹ, ông không bận tâm vì một việc gì cả. Ông đã nói dù có chết ngay đi nữa, ông cũng phải làm trọn phận sự của ông đối với ông cụ cố. Nhưng cái bề ngoài trịnh trọng ấy không giấu nổi cái bực dọc bên trong. Ông muốn nén nỗi giận nhưng lòng cứ nực ngạt. Ông dỏng tai nghe ngóng. Ông không nói nhưng mọi người trong nhà đều biết ông đang nóng ruột chờ Phúc. Nhưng hết đêm, rồi đến sáng, rồi đến bây giờ, đồng hồ đã điểm tám tiếng, Phúc vẫn chưa về. Đêm hôm qua, trong lúc ông đang nằm nghe bên ngoài người nhà làm cỗ, lòng ngổn ngang vì tình hình, não ruột vì khu phố thúc giục tản cư, thì một tin đưa tới làm cho ông rụng rời đổ đốt: Phúc đã tự tiện đến nhà Quảng Xương Long, bắt người gác phải mở cửa, và cùng một số đông tự vệ xông vào kho. Người gác giữ lại thì Phúc mắng chửi thậm tệ, đành phải báo bằng dây nói cho ông biết. Cự Lâm tung chăn, khoác vội chiếc ba-đờ-suy, nhảy lên xe nhà kéo thẳng đến nhà Quảng Xương Long. Cửa hiệu lúc ấy như đang bị bọn cướp đánh phá. Phúc ở ngoài vỉa hè hò hét giục mọi người. Cự Lâm nghe rõ tiếng Phúc oang oang: “Cần bao nhiêu cứ lấy. Càng nhiều càng tốt. Ông cụ đã muốn keo bẩn thì cho keo bẩn một thể”. Cự Lâm điên tiết, nhảy xuống xe bước lại. Người như kiến vỡ tổ đùn đùn ở trong kéo ra, mang theo các dụng cụ, gọi nhau inh ỏi. Phố Hàng Bồ, phố Hàng Đường, phố Hàng Ngang, phố Hàng Bạc, và nhiều phố gần đấy, thanh niên nam nữ chạy đến ầm ầm. Người lấy xẽng, người lấy cuốc, người lấy thuổng đem đi. Tiếng reo ầm ĩ: “Hoan hô ông Cự Lâm!” Thấy những người đổ tới sau, họ giục: “Mau lên! Vào mà lấy, còn vô số”. Trên hè dưới đường người đen đặc, nhốn nháo. Cự Lâm giữ lấy một thanh niên nện giày cồm cộp trên vỉa hè, vai vác ba cái xẻng. Ông thét: “Để xuống đấy. Ai cho anh lấy?” Người thanh niên cười gằn: “Xin lỗi ông nhé”. Anh ta hít một hơi thuốc lá, phả khói vào mặt Cự Lâm, ngả mũ chào một cách xỏ xiên rồi bước đi thẳng. Cự Lâm không nói gì, mặt hầm hầm, chân lạch bạch chạy đến chỗ Phúc đứng. Bên hè, hai xe bò chất đầy những dụng cụ mới lấy ở trong kho ra. Một đám đông đứng quanh giơ tay tua tủa, người xin cái xẻng, người xin cái cuốc. Phúc nói: “Trong nhà còn nhiều, vào mà lấy. Còn chỗ này để đem đi”. Cự Lâm đã tới gần, thét: “Phúc! Mày làm cái trò gì thế?” Phúc giật mình quay lại thì bố đã giơ ba toong quật ngang lưng anh. Phúc nhanh nhẹn tránh được, cuống quýt hô: “Đẩy xe đi! Đẩy xe đi!” Và Phúc chạy biến vào đám đông. Cự Lâm đuổi theo, giơ ba toong vụt lia lịa, miệng chửi: “Mẹ cha thằng vô phúc. Mày đánh bạn với những quân du thủ du thực à? Đứa nào xúi mày? Tao không bố con gì với mày nữa. Mày đứng lại không mày chết!” Một tốp thanh niên giữ rịt lấy Cự Lâm để cho anh em đẩy hai cái xe bò đi. Chỉ trong nháy mắt đám đông giải tán. Cự Lâm vào trong kho thấy ngoảng đi một mảng lớn. Sẵn cái ba toong trong tay, ông đánh người gác một trận thừa sống thiếu chết. Trở về nhà, Cự Lâm nằm vật xuống giường. Ông chết cay chết đắng vì đứa con trai bất mục. Nó lại nhè đúng vào ngày giỗ để bêu riếu gia đình. Đã hết đâu. Cự Lâm còn thêm một mối lo sâu sắc hơn: Ông nghĩ rằng, nếu có đánh nhau thì vài ba bữa Pháp sẽ trở về, và ông còn phải làm ăn với nó. Vì thế ông không muốn giây với tụi tự vệ. Đùng một cái xảy ra cái việc của thằng Phúc. Chuyện thành ra to. Bề ngoài nhìn vào, Pháp nó thấy đúng là nhà Quảng Xương Long đã ủng hộ dụng cụ cho Việt Minh để phá đường đắp ụ. Nó sẽ trù ông và ông sẽ chẳng còn làm gì được ở cái đất Hà Nội này nữa. Càng nghĩ ông càng lo, càng lo ông càng giận Phúc. Giận Phúc, ông giận lây cả sang Oanh, người vợ chưa cưới của Phúc. Chắc chắn là con bé ấy đã xui Phúc làm cái việc táo tợn kia, chứ những như thằng Phúc thì hồ dễ đã dám làm. Ông thở dài ầm ầm. Mãi đến khi được cúng, ông mới nguôi nguôi đôi chút.

Bà giáo cũng ra bẳn vào gắt, khiến cho mọi người trong nhà nem nép. Bà đi qua buồng chị dâu. Nghe thấy thằng nhỏ nhớn nhác nói với bà Cự Lâm – người ăn người làm có nói gì thì chỉ dám nói với bà này – rằng tự vệ đang đi giục mọi nhà tản cư, bà giáo đứng ở ngoài quát vào:

- Câm cái mồm! Đi gọi cậu Phúc, cô Lan, cô Hương về. Nhà có giỗ, chúng nó đi đâu?

Khi thằng nhỏ chạy đi rồi, bà giáo lẩm bẩm:

- Không đánh được thì thôi, còn giở trò làm gì cho khổ người ta!

Lời nói không nhẹ nhàng tương phản với cái vẻ lịch sự, đài các của bà giáo, một người có tuổi, tóc hoa râm, đôi mắt thâm quầng sau đôi kính trắng, thân hình có cái gầy khô và cứng của những người không đẻ đái. Bà càng đét lại trong bộ quần áo toàn màu đen.

Khi bà giáo đi rồi, bà Cự Lâm khóc. Bà này, khác với em chồng, trông bệ vệ nhưng đần độn. Bà chỉ là một cái máy đẻ. Việc kinh doanh của chồng thì bà chẳng biết gì, việc trông nom trong nhà, từ tiêu pha đến bếp nước giỗ chạp thì đều do bà giáo mà bà ta cũng rất sợ. Bà Cự Lâm đã giục ông tản cư từ lâu nhưng ông cứ lần chần. Sau vụ Yên Ninh hôm qua, ông mới quyết định ăn giỗ xong thì đi. Nỗi khổ tâm của bà là ba đứa con lớn là thằng Phúc và hai con Lan, Hương thì nằng nặc xin ở lại. Bà khóc ra làm rãy, nhưng chúng nó chẳng chuyển lòng. Phúc vào tự vệ, lại xuống cả Văn Điển để tập bắn súng. Việc ấy đã làm cho bà đứt ruột đi rồi, thì lại đến việc Lan xin đi học cứu thương, rồi Hương cũng đòi theo chị. Chúng nó trước đây đều là những đứa ngoan ngoãn, bảo sao nghe vậy, thế mà bây giờ đến bà giáo mắng, chúng nó cũng cứ nhơn nhơn. Buồn vì con, bà chúi vào trong buồng, ôm mấy đứa con nhỏ. Buồn cho bà hơn nữa là Phúc nghe anh em xui dại làm hại cửa hại nhà.

Tiếng rằng thời buổi loạn lạc đến nơi, nhưng khách cũng không đến nỗi vắng. Cự Lâm và bà giáo lấy làm đắc chí. Nhà Cự Lâm phải danh giá thế nào thì lúc này người ta mới còn đến chứ. Nhưng bữa tiệc không vui lắm. Những tiếng đục tường cứ rầm rầm chung quanh. Thỉnh thoảng lại có tiếng súng. Mọi người đều lo nơm nớp, muốn ăn cho xong để còn về. Chủ nhà cũng thấy rõ cái tình cảnh ấy. Cự Lâm gượng cười gượng nói, nhưng lòng ông vẫn sôi lên vì giận con. Bà giáo thì giận Lan không kém ông giận Phúc. Bà vẫn tự phụ là nhờ có bà rèn dạy nên con cái của ông anh mới vào nền ra nếp. Sau khi bà được triều đình Huế ban tặng bốn chữ “Tiết hạnh khả phong” mà cả họ được thơm lây, thì bà lại càng nghiêm khắc với các cháu, nhất là các cháu gái. Lan không được ra khỏi nhà, không được đọc sách báo, thấy đàn ông phải cúi mặt không được nhìn. Bà goá chồng từ năm mười tám và ở vậy giúp anh, nuôi cháu. Bà thường lấy cái gương trinh tiết của mình ra mà răn chúng nó. Trước đấy Lan vẫn sợ bà, đùng một cái, mới gần đây thôi, Lan có ý cưỡng lại lời bà. Bà lo cho Lan thì ít mà lo cho uy quyền của bà bị tổn thương thì nhiều.

Khách đã ra về hết, chỉ còn lại vợ chồng Bao và Trinh, và ông Phùng Gia Lộc, bố Oanh, vợ chưa cưới của Phúc, ông này không ăn giỗ nhưng mới đến chơi. Bao là cháu gọi Cự Lâm bằng bác ruột. Họ ngồi trên bộ xa lông kiểu tàu, nệm gấm. Bà giáo thì ngồi ghé một bên góc sập gụ têm trầu. Vừa uống nước, họ vừa nói chuyện. Bà giáo nói:

- Lo xong cái giỗ bây giờ mới được yên tâm. Cũng là nhờ bà cụ ngày trước ăn hiền ở lành. Cỗ bàn chẳng có gì, nhưng cũng là có cái giỗ, các cụ chứng giám cho. Lạy tổ, giời đất này, tôi cứ những sợ là không còn được kia đấy. Cái vụ ở Hàng Bún hôm qua đã mất hồn mất vía lên rồi, lại đến hôm nay, họ đình công không bán hàng cho Pháp. Giở giói mãi ra, Pháp chẳng thấy nó chết, chỉ thấy mình thiếu từ cái rau cái cỏ. Chả có bao giờ lại như thế này. Nhà mình nhờ tổ độ làm giỗ được vẫn còn là may. Ấy đàn bà chúng tôi cổ lỗ, có gì nói thế, chả biết có phải như thế không, cụ nhỉ?

Bà giáo cười khanh khách nhìn ông Phùng Gia Lộc, cái cười rất nhạt từ trong cổ đưa ra. Không đợi ông Lộc trả lời, bà quay sang vợ chồng Bao. Bà cất tiếng rất sang, có cái ngọt ngào kiểu cách không thật của người phụ nữ Hà Nội lịch thiệp:

- Con Diễm đâu? Con vú em nó làm thế nào mà để sớm nay em nó khóc thế? Nhà bác thì chả rộng được bằng nhà cháu trên Quan Thánh, nhưng cứ tạm ở đây chứ về trên ấy làm gì? Ấy cô thì thật thà, bác thì cháu cũng như con, cậu mợ cháu mất rồi, chi họ nhà ta còn hai bác cháu đây đùm bọc lẫn nhau. Thế đã cho xe ô-tô đi lấy đồ lấy đạc lại đây chưa? Ấy cô cứ cuống cuồng lên, những việc ấy cũng chẳng giúp cháu được. Thím thì hiền lành.

Ai cũng biết bà giáo nói mỉa mai chị dâu. Bà gằm gằm nhìn Trinh qua đôi kính hình bầu dục gọng trắng. Bà không ưa Trinh vì Trinh là con nhà nghèo. Hơn nữa, cũng như nhiều người đàn bà già, cô độc, không muốn người khác có hạnh phúc, bà ghen với Trinh vì chị trẻ, đẹp, có chồng. Nhưng bà vẫn ngọt sớt.

- Hôm qua mợ đốc cháu sợ quá, cứ lả đi. Tôi lo quá đi mất thôi. Nếu chúng tôi cũng phải tản cư thì một đằng con, một đằng cháu, chẳng biết thế nào. Bà Hai nhà tôi lại về quê. Các cụ gan thật, có hai mẹ con mà cũng về.

Trinh ngồi im lặng trong bộ áo nhung lam, trẻ như một thiếu nữ. Chị cúi xuống nhìn đôi dép da xanh nhạt, khẽ rê đi rê lại. Người ta chỉ trông thấy cái mũi dọc dừa và cái miệng nhỏ mà mặc dầu chị đang hoang mang lo sợ, vẫn in cái bóng bí hiểm của một nụ cười. Trinh rất xa lạ đối với cái nhà này. Qua lời bà giáo, Trinh cảm thấy rõ là cô chồng khinh mẹ mình. Chị biết nếu Bao không có địa vị và không có hàng chục ngôi nhà cho thuê ở Hà Nội thì ông bác, bà cô cũng chẳng niềm nở gì đâu. Thừa, đứa cháu gọi ông Cự Lâm là cậu ruột, cũng là cháu đấy. Nhưng hắn chỉ là một anh thợ cày ở quê ra ăn giỗ, nên bị khinh quá tội kẻ ăn người làm, phải ăn ở dưới xó bếp; xin ông cậu mấy đồng để đón con vợ về quê cũng không được. Trinh không ưa sự giả dối của bà giáo và cái nhẫn tâm của ông Cự Lâm. Giả dối và nhẫn tâm hơn cả là họ làm giỗ mẹ linh đình, nhưng ông bố già ngoài tám mươi thì nằm liệt một xó gác chẳng ai hỏi đến. Không nói ra, nhưng Trinh không bằng lòng chồng đưa mình đến ở đây. Trinh muốn về quê với mẹ, mà cùng lắm thì trở về nhà. Trinh ngước đôi mắt cũng êm sáng như chiếc áo nhung đang mặc, nhìn Bao, nhưng Bao không nói gì. Vì lịch sự, Bao còn ngồi, mới ăn xong lên gác ngay không tiện. Trinh càng sốt ruột.

Cự Lâm thì hết nhìn lên trần lại nhìn xuống tấm thảm, hết nhìn bàn ghế lại nhìn câu đối hoành phi, bồn hoa, chậu cảnh. Ông ngại cái việc di tản lủng củng lắm cái phiền. Cửa ngoài đóng kín, ông thẫn thờ nhìn ra, nghe ngóng. Ông khó chịu vì những tiếng đục tường và những tiếng đào hầm hố bên ngoài. Ông chợt quay vào trong nhà, hỏi:

- Phúc nó đã về chưa?

Tiếng thưa râm ran:

- Thưa ông, chưa ạ.

Ông Cự Lâm đã đứng dậy, vít lấy cái xe điếu cong dài màu ngà ngà vàng của cái điếu khảm xà cừ, lại buông ra, ngồi phịch xuống ghế:

- Tự vệ với…

Ông cười một tiếng khan:

- Cũng may mà các ông tướng còn để cho mình ăn xong cái giỗ, không đến nỗi…

Ông định nói hai tiếng quấy rầy. Nhưng trước mặt ông Lộc thấy không tiện, ông chuyển sang chuyện khác:

- Tình hình thế nào, cụ có biết rõ không? Có nên tản cư không cụ?

Ông Lộc nói:

- Cụ bảo làm sao mà không đánh nhau được. Cụ không thấy cái khẩu hiệu “Thanh niên sống chết với thủ đô” sao?

Bà giáo sắp đưa miếng trầu vào miệng, nói:

- Khiếp! Họ tợn quá!

Cự Lâm nói:

- Các ông ấy còn kể cái gì. Họ tợn nên mới xui thằng Phúc nhà này…

Bà giáo chêm:

- Con cái nhà này thì dại ạ.

Biết là ông Cự Lâm muốn nói cái việc Phúc lấy xẻng cuốc nhà Quảng Xương Long, ông Lộc cười xòa:

- Ai xui? Thế là nó biết nghĩ đến nước. Mừng cho nó mới phải.

Cự Lâm nói:

- Chúng nó xui thằng Phúc. Làm thế là làm láo. Tôi sẽ kiện tởi Uỷ ban. Ông cán bộ Quốc Vinh chả nói là Chính phủ tôn trọng tài sản nhân dân là gì. Cán bộ không thể để cho tự vệ làm loạn được. Vả lại ông cũng biết công ty Quảng Xương Long có phải là của riêng tôi đâu.

Cự Lâm trở đi trở lại cái luận điệu của ông ta. Khi anh em tự vệ đề nghị cho mượn xẻng cuốc, ông thoái thác, viện lí là một mình không quyết được, mặc dầu ai cũng biết ông gần như là chủ cái công ty Quảng Xương Long. Ông Lộc biết tính thông gia của mình. Ông Cự Lâm có thể bỏ hàng trăm hàng nghìn để làm một cái giỗ, nhưng ông ta chưa hề bỏ ra một đồng xu nhỏ để giúp ai. Ông Lộc nói:

- Của ai thì cũng thế thôi. Thằng Pháp nó trở lại thì mình giữ được à? Anh Phúc làm như thế là giữ cho ông đấy. Ông giữ mấy cái xẻng bây giờ là ông mất hết. Tôi là tôi cúng hết. Tổng hội Cứu tế của chúng tôi còn hai mươi tấn gạo. Để đấy, tình hình này, lỡ vào tay Pháp thì bằng cúng cho kẻ thù. Thế là tôi bàn với các cụ, giao cho sư cụ chùa Bà Đá hai tấn để phân phát cho các trẻ em mồ côi, còn bao nhiêu tôi bào anh em tự vệ đến xe đi. Giục mãi mà họ đã lấy đâu. Bây giờ tôi lại phải đi giục đây.

- Nếu tôi cũng được rỗi như cụ thì nói chuyện gì.

Ông Lộc vung cánh tay phải to lớn:

- Thì đã có con. Bây giờ không phải là lúc giữ con mình nữa.

Ông vừa nói vừa nhìn bà giáo với đôi mắt rất tinh, và quay sang gật đầu với Bao như để tỏ ý kiến. Ông Lộc là người già quắc thước, da mặt hồng hào, tóc thưa và bạc nhiều, ngực nở vai rộng, có cái vẻ nhanh nhẹn của một nhà thể thao. Cử chỉ ông thoải mái trong bộ đồ tây màu hạt dẻ dài rộng và mềm. Ông nói tiếp:

- Tôi thì tôi cho cha mẹ bây giờ cứ phải tuỳ con mới được. Giữ chúng nó không nổi, thêm bực vào mình mà chúng nó cũng khổ. Cứ như ý tôi, mình không làm việc được thì để chúng nó làm.

Bà giáo nói mát:

- Vâng, mình chẳng sống được mà lo cho chúng nó cả đời. Nhưng cái việc lo thì cứ phải lo ạ. Đằng cụ thì chỉ có hai ông con. Cụ vào được cả tự vệ thì còn gì quý hoá bằng. Các cháu con ông anh tôi thì dại lắm ạ, không được bằng cô Oanh nhà ta kia.

Bà giáo không ưa ông Lộc, vì ông ta không đĩnh đạc, nói lốp bốp, ăn ở theo lối mới. Lẩm cẩm hơn nữa là đã già rồi mà ông ta vẫn tập thể thao, cởi trần ra chạy nhảy với bọn thanh niên. Bà cũng không ưa Oanh, vì Oanh vào đoàn phụ nữ dễ hư hỏng con người. Tối hôm qua, bà lại biết là Oanh vào chợ Đồng Xuân họp với chị em bên chợ, bà không thích con gái tử tế xô bồ với đám đàn bà con gái có sừng có mỏ ấy. Chính vì Oanh mà thằng Phúc vào tự vệ, chính vì Oanh mà con Lan mới dám đòi đi cứu thương, dơ dáng mà không biết đời. Nhưng bà ghét Oanh nhất là vì Phúc và Oanh yêu nhau mà bà không biết trước. Sở dĩ bà không phản đối việc Phúc xin lấy Oanh, vì Oanh là con gái duy nhất của ông Lộc, mà ông Lộc là chủ một cái nhà in lớn ở phố Nhà Thờ.

Ông Lộc cất tiếng cười oang oang của một người có sức khoẻ, nói giọng dõng dạc của một người có của:

- Cứ tung chúng nó vào đời là dại đến đâu cũng khôn, bà giáo ạ. Như tôi, khổ từ thuở nhỏ, thế mà tự mình xoay xoả, tháo vát, bây giờ chẳng ai bắt nạt được tôi. Lúc này cứng cáp cần lắm. Nòi giống phải tốt. Người Việt Nam không thể bé bằng cái cẳng tay mãi được. Phải dạn dày mưa gió, phải tập thể dục thể thao. Chiến tranh đến nới rồi, phải biết múa gươm bắn súng, trai cũng như gái.

Bà giáo lấy cái ống nhổ bạc nhổ nước trầu, tay vuốt mép, miệng tủm tỉm cười. Bao đang suy nghĩ cũng phải mỉm cười, đưa mắt nhìn Trinh. Ông Lộc nhìn Bao hau háu, mong được sự hiều đồng tình của người kĩ sư điện trẻ tuổi đi du học về. Nhưng Bao ngồi làm thinh. Quan niệm của anh có nhiều điểm giống với bà cô ruột. Anh muốn người phụ nữ phải theo lối cổ, nghĩa là hoàn toàn phụ thuộc vào người chồng, sống trong khuôn khổ gia đình không đảm đương một việc gì ngoài xã hội. Anh đã đem cái quan niệm đó áp dụng vào gia đình anh. Anh yêu Trinh, nhưng bắt Trinh phải quanh quẩn trong nhà, có đi đâu thì đi với anh, hoặc đi với mẹ vợ. Nghe ông Lộc nói, anh thấy tội nghiệp cho một ông già háo hức đời sống mới, có cái gì lố lăng buồn cười. Nhưng anh không muốn nói chuyện, vì đang mải lo cho vợ cho con. Ông Lộc nói:

- Thế nào, một nhà tây học như ông, chắc phải đồng ý với tôi chứ.

Bao khó chịu, nói nhát gừng:

- Cũng không nhất định ạ!

- Thế à? Lạ đấy!

Vốn người láu táu, ông Lộc hỏi:

- Sau đây, ông có cho bà tản cứ không?

- Chúng tôi chỉ có thể sống được ở Hà Nội, hay ở một nơi nào hơn Hà Nội.

- Ông nên cho bà tản cư, trừ phi bà ở lại có công tác gì.

Bao và Trình nhìn nhau cùng cười như khi ta nghe một người không một tí gì về mình. Bao hỏi:

- Cụ bảo sẽ đánh nhau ư?

- Đúng là thế. Có lẽ ông chưa đọc báo hôm nay. Thằng Đác-giăng-li-ơ đã sang và nó tuyên bố chủ trương dùng chính sách võ lực ở Đông Dương.

- Thế còn ta?

Mọi người đều chú ý nghe. Bao vừa hỏi vừa khe khẽ lắc đầu. Ông Lộc nói:

- Còn ta. Tự vệ đã trả lời bằng lời thề “Thanh niên sống chết với Thủ đô”. Đó là câu đầu lưỡi của thanh niên bây giờ. Không phải vì nó khủng bố ở Yên Ninh mà ta sợ. Trái lại, chỉ có từ hôm nay thôi, các phố dựng chướng ngại vật, một ngày bằng mười ngày.

Bà giáo nói:

- Chính mình vẽ ra cho nó sinh sự!

Bao vẫn lắc đầu:

- Cụ bảo đánh nhau? Tôi không tin. Tôi biết người Pháp lắm. Tôi biết chuyện rất rõ. Tụi lính Pháp gác ở Sở máy đèn Bờ Hồ có nói với anh em bộ đội ta rằng đánh nhau là việc của bọn chỉ huy, còn họ thì không đời nào muốn cả. Người Pháp là như thế.

Anh không đợi ông Lộc trả lời, đứng dậy:

- Chúng con xin phép bà và cô. Xin lỗi cụ.

Bà giáo thân mật và bề trên:

- Ừ, lên với cháu. Rồi cô lên.

Trinh đứng dậy, buông một tiếng thở dài. Bao đón lấy tay Trinh và nhường Trinh đi trước. Bà giáo làm ra bộ không nhìn họ, nhưng bà theo dõi không sót một cử chỉ của hai người. Cái lối vợ chồng cầm tay nhau tây tây tàu tàu trước mặt mọi người là một sự lố lăng bà không chịu được. Sự nũng nịu của Trinh cũng làm gai mắt bà. Việc hai vợ chồng Bao đến ở đây từ chiều hôm qua, bà sợ có ảnh hưởng xấu đến Lan, Hương. Trinh cũng cảm thấy rõ sự khắt khe của bà cô chồng. Chị rụt tay ra khỏi tay Bao. Nhưng Bao vẫn nắm tay vợ và ghé sát tai Trinh nói nhỏ:

- Em không lo gì cả. Anh đã quyết định rồi. Anh sẽ đưa em đến một chỗ ở đấy em sẽ sống an nhàn, không có ai phiền em cả.

Trinh bảo chồng đi trước, và cúi đầu ủ rũ, Trinh như nói một mình:

- Đi đâu, anh?

Ông Lộc cũng từ biệt mọi người. Ông ra tới cửa thì có tiếng chuông réo. Qua khung cửa mở, hiện lên trong cái âm u buổi sáng, mấy cái vòm thấp bè bè của chợ Đồng Xuân, bợt bạt và im lặng. Đột nhiên mất cái cảnh ồn ào, tấp nập, đầy màu sắc của nó hàng ngày, cái chợ nổi tiếng này trông ngơ ngác xác xơ như bị tàn phá. Một khẩu hiệu dài căng trước chợ: “Tẩy chay quân đội Pháp. Trả thù cho đồng bào bị tàn sát ở ngõ Yên Ninh”. Một tốp thanh niên, mặc đủ thứ các kiểu quần áo, người ra dáng thợ thuyền, người viên chức, người học sinh, nhốn nháo tiến vào phòng khách nhà Cự Lâm, dưới quyền chỉ huy của một thanh niên người thấp, mặt tròn và béo. Anh này đội mũ sắt Nhật quai buông dưới cằm; sơ-mi và quần đều may bằng một thứ ka-ki xa tanh màu xám nhạt còn giữ nếp là mới nguyên, thắt lưng Mỹ đeo ở bên hông trái một thanh kiếm Nhật. Ngực anh ta ưỡn ra một cách quan trọng. Tất cả bọn họ đều đính ở tay trái cái băng chữ đỏ nền trắng đề khẩu hiệu “Thanh niên sống chết với thủ đô”. Mọi người trong nhà đều đứng cả lên, giạt vào thành sập gụ. Anh mũ sắt nói một cách lạnh lùng:

- Thưa các cụ và các ông các bà, đây là lần cuối cùng chúng tôi được lệnh đến giục bà con đi tản cư ngay. Chúng tôi đã nói không biết bao nhiêu bận rồi.

Bà giáo nói:

- Xin mời các ông ngồi chơi xơi nước. Rồi chúng tôi xin thưa chuyện.

Anh mũ sắt giơ cả bàn tay lên trước mặt xua xua, mặt vẫn phớt lạnh như tiền:

- Thời bình sắp qua rồi, thời chiến sắp tới. Người nào có việc thì ở lại, người nào không có việc thì phải đi. Bây giờ không phải là lúc nói chuyện nữa, mà là thế này.

Anh ngoắt một cách hiên ngang, chỉ vào cái băng đeo tay và nói tiếp:

- Người già trẻ con phải đi hết. Chúng tôi sẽ bảo vệ tài sản cho tất cả những người tản cư. Đây là một đảm bảo.

Anh hất hàm ra hiệu cho một thanh niên. Người này rút trong túi ra một tờ giấy bản đánh máy, có chữ kí và dấu đỏ chìa cho mọi người xem một cách khiêu khích. Bọn Cự Lâm trố mắt chưa biết nội dung của tờ giấy là gì, thì anh thanh niên mũ sắt đã nói:

- Các cu, các ông, các bà không nên để chúng tôi phải trở lại một lần nữa.

Cự Lâm khúm núm:

- Chúng tôi không dám cưỡng lại lệnh của Chính phủ. Chúng tôi cũng đã được nghe ông Quốc Vinh nói là Chính phủ không bắt buộc, chỉ khuyên nhân dân tản cư thôi. Có phải không ạ?

- Sao cụ không thu xếp từ mấy hôm nọ? Cụ ở lại để làm gì? Đến hôm nay là Uỷ ban đã nể các cụ lắm rồi. Đúng. Uỷ ban không ra lệnh. Uỷ ban chỉ khuyên thôi. Nhưng khuyên thì dân phải vâng lời. Bây giờ là lúc chúng tôi phải cương quyết thì hành nhiệm vụ. Hạn một giờ nữa, nếu không đi, chúng tôi bắt buộc phải đốt cái nhà này.

Nói xong, anh dẫn bạn bước ra, trước sự kinh ngạc của mọi người. Cự Lâm ngồi phịch xuống ghế:

- Lưu manh chứ tự vệ cái gì. Ối ông Quốc Vinh là ông Quốc Vinh ơi! Ôi ông thợ sắp chữ ơi!

Ông thường gọi Quốc Vinh theo cái nghề của anh một cách khinh bỉ. Cự Lâm lại nói:

- Đi tìm thằng Phúc về đây cho tao. Đánh chết nó đi. Nó phản lại bố nó rồi! Nó đi đánh bạn với những thằng ăn cắp, thảo nào.

*

* *

Bao đã kéo được Trinh lên gác. Trinh chạy vào buồng. Vú em bế con Diễm đang thẩn thờ nhìn xuống đường.

Trinh không chú ý, gục đầu vào gối khóc. Bao đến ngồi bên quàng tay ôm lấy vai rung rung của vợ, nói:

- Trong nước chúng ta không ở đâu được nữa. Chúng ta sẽ đến một nơi ở đấy sẽ không có ai nói những chuyện sống chết, không có ai nói những lời thô tục, doạ dẫm như mấy người tự vệ lúc nãy. Anh đã quyết định rồi. Chúng ta sẽ sang Pháp.

Trinh vẫn khóc rưng tức. Vú em bỗng kêu hốt hoảng:

- Tây nó vào mợ ơi!

Tiếng động cơ ầm ầm dưới phố. Một chiếc xe gíp phóng vào, theo sau là một xe cam nhông chở đầy lính mũ đỏ, nòng súng tua tủa. Những người ở ngoài đường chạy nhốn nháo. Chỉ trong nháy mắt, phố đã vắng tanh. Hai chiếc xe đỗ trước chợ. Bọn linh nhảy xuống, một tốp phá cửa xông vào trong chợ. Trinh áp mặt vào ngực chồng, không dám nhìn nhưng mắt vẫn trông thấy hết. Vú em kêu cuống cuồng:

- Nó bắt mấy người trong chợ, mợ ạ. Nó bắt lên xe rồi mợ ơi!

Trinh rên rỉ:

- Cho em vào. Vú im đi!

Có những tiếng phụ nữ kêu thét lên. Người ta vây lấy cái xe gíp. Tụi lính Pháp đấm đá túi bụi, nhưng chị em vẫn cứ xông vào. Trong đám người hỗn độn, Trinh nhận ra Oanh, người bạn cùng học trường Đồng Khánh với mình trước, và là vợ chưa cưới của Phúc. Ông Lộc, bố Oanh, đang đẩy một thằng linh và giơ tay đón lấy những người phụ nữ bị giữ trên xe. Khu phố bỗng rung lên vì một tràng liên thanh bắn chỉ thiên. Trinh rú lên, ôm chặt lấy Bao. Hai chiếc xe bắt người đã quay đi. Cái khẩu hiệu trước cửa chợ bị giật xuống đất, cuốn theo gió. Trinh nghe rõ tiếng quen quen của Oanh:

- Chúng ta nhất định không bỏ chị em của chúng ta. Tôi đề nghị tất cả anh chị em ủng hộ cuộc bãi thị của chị em chợ Đồng Xuân, xông vào tận trong thành đòi nó thả chị em của chúng ta ra.

Một người con gái kháu khỉnh ăn mặc theo lối nửa quê nửa tỉnh giơ tay ra đằng trước và nói to, the thé:

- Xông cả vào thành. Muốn ra sao thì ra. Chết thì thôi!

Đoàn người ở trong chợ, phần lớn là phụ nữ, ùn ùn kéo ra, đi về phía Hàng Giấy. Bà con trong phố cũng chạy tới. Oanh dắt xe đạp đi trong đám đông, cái áo măng-tô tím xoè ra, quét xuống đường, búi tóc quả lắc đồng hồ lủng lẳng sau gáy. Thân hình cao lớn của ông Lộc cũng nổi lên, giữa những xe đạp, xích lô, xe bò lộn xộn. Trinh lẩm bẩm:

- Con Oanh nó ghê quá.

Trinh vẫn giận Oanh từ khi nghe Oanh mỉa mình là nô lệ chồng. Nhưng lúc này Trinh thấy đỡ giận bạn, kích thích bởi cái gì như người tê dại nắm vào trong vật nóng bỏng nó làm cho họ giật mình cùng một lúc làm cho họ thêm ngao ngán.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lich