súng B40

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Súng

B40 chỉ là một ống mỏng nhẹ dài nhẵn đường kính trong 40 mm. Phía trên ống có thước ngắm và đầu ruồi gập lại được, đỡ vướng khi vận chuyển, dựng lên khí ngắm bắn. Thước ngắm chỉ có 3 mức, xa nhất 150 mét, các mức thước ngắm là các thanh ngang đặt cố định như chiếc thang. Đạn B40 gồm 2 phần, đầu đạn và liều phóng. Trước khi lắp đạn vào súng phải lắp liều phóng vào đạn. Phần cổ đạn có đinh dễ định vị, khi lắp đặt đinh vao vết lõm miệng nòng súng. Súng bắn bằng tư thế vác vai, một tay nắm nòng súng, một tay nắm tay cầm. Tầm bắn 150 mét, nhiều người cho rằng bắn mục tiêu di động chỉ 100 mét, nhưng trên thực tế, súng bắn rất chính xác, một phần do tên lửa chưa đóng góp nhiều vào chuyển động của đạn.

Đầu đạn xuyên giáp kiểu liều nổ lõm góc mở rộng, kiểu này nay ít dùng vì sức xuyên so với giáp hiện nay yếu. Nhưng thời Chiến tranh Việt Nam đây là kiểu đầu lõm hiệu quả, sức xuyên ít giảm theo góc chạm, tăng xác suất diệt mục tiêu. Loại đầu đạn này có góc lõm lớn, hội tụ sóng xung kích vào tiêu điểm ở tâm trục dầu đạn. Người ta lót một tấm kim loại nặng ở mặt lõm, tấm này gọi là tấm tích năng lượng, nó tăng tốc độ đến vài km/s xuyên qua giáp, ở B40 làm bằng đồng, sức xuyên 180 mm thép cán. Súng chỉ bắn một loại đạn xuyên PG-2 (PG là đầu nổ chống tăng). Một phần nhờ kiểu góc mở rộng này mà B40 lập rất nhiều chiến công, nó cùng với B41, ĐKZ-82 mm, ĐKZ-73 mm tạo thành nhóm súng diệt nhiều xe cộ nhất sau Thế chiến thứ hai.

Đầu đạn được kích nổ bằng ngòi chạm nổ quán tính, ngòi đặt ở phần cổ đạn. Khi đạn đập vào mục tiêu dừng lại, thì khối nặng của ngòi lao vào hạt nổ.

[sửa] Lắp đạn và liều

Liều bọc trong ống giấy chống ẩm. Tiếng nổ danh vì B40 sử dụng thuật phóng đơn giản của các Panzerfaust, sử dụng thuốc nổ đen cháy nhanh, áp suất và tốc độ dòng khí tăng rất nhanh. Sau khi lắp liều vào đầu đạn, vuốt các cánh đàn hồi cho cuộn quanh ống đuôi, nhét đạn vào súng, quay cho đúng vị trí đinh khớp, đến đây đạn nằm chặt trong súng. Ban đầu, dạn có sẵn một đai quấn các cánh đuôi, đai này tự động trượt về trước đầu đạn khi nhồi đạn vào súng, không phải thực hiện động tác vuốt cánh đuôi. Khi quay đầu đạn trong nòng phải quay theo chiều kim đồng hồ, nếu ngược lại các cánh đuôi giãn ra rất chặt.

Sau khi bắn, 6 cánh ổn định đàn hồi xòe ra.

[sửa] Ngòi nổ

Đạn có một ngòi quán tính. Ngòi đập nổ hạt nổ, kích nổ trạm truyền nổ RDX rồi kích nổ liều chính.

Ngòi nổ đầu đạn B40 có thanh trụ nặng dài, bình thường khóa ở vị trí an toàn. Khi bắn, gia tốc lớn tiến về trước của đầu đạn làm thanh trụ phá khóa an toàn lùi về sau, chuyển sang chế độ sẵn sàng. Khi đập vào mục tiêu đạn bị hãm lại, thanh trụ tiến về trước đập nổ hạt nổ.

[sửa] Đạn B40

Đạn PG-2 chưa lắp liều

Tên:

PG-2

Kiểu:

HEAT (High Explosive Anti-Tank)

Nặng:

1,84 kg (4 lbs)

Dài:

67 cm (25,6 inches)

Đường kính lớn nhất:

80 mm

Số cánh:

6

Tốc độ tối đa:

84/s

Xuyên giáp:

180 mm thép cán (RHA}

Tên Nga là PG-2 HEAT (ПГ-2, đầu nổ chống tăng). Đạn còn có tên Kiểu 50 (Trung Quốc), một số nước ngoài gọi đạn Việt Nam là B50. Nhưng ở Việt Nam gọi súng và đạn đều bằng tên B40.

Nằm bắn

Đứng bắn

Cỡ nòng:

40 mm

Loại nòng:

trơn mỏng

Cỡ đầu đạn:

80 mm

Chiều dài súng:

850 mm

Chiều dài đạn chưa lắp liều phóng:

500 mm

Chiều dài đạn đã lắp liều phóng:

670 mm

Chiều dài súng đã lắp đạn:

1200 mm

Khối lượng đạn có liều phóng:

2,86 kg

Khối lượng đạn không liều phóng:

1,84 kg

Khối lượng súng đã lắp đạn:

4,67 kg

Tốc độ cao nhất:

84 m/s

Tầm bắn:

150 m

Sức xuyên:

180 mm thép cán tiêu chuẩn (RHA)

Tốc độ bắn:

6 phát phút

Để bắn, xạ thủ lên cò bằng cách lấy ngón tay cái ấn búa sau tay cầm xuống. Khóa an toàn bấm ngang tay cầm. Khi bắn búa đập vào kim hỏa, kim hỏa xuyên qua một lỗ dưới súng. Kim hỏa có lò xo mạnh kéo về ngay lập tức sau khi chọc vào hạt nổ, không ảnh hưởng đến di chuyển của đạn trong nòng.

Súng có thể bắn ở một số tư thế: nằm, quỳ, đứng, tựa giá. Không bắn súng trong phòng, trong xe kín. Khi bắn, chỗ kim hỏa có một luồng phụt về bên phải, thoát khí hạt nổ. luồng phụt này yếu, nhưng để sát mắt có thể gây mù. Những người bóp cò tay trái cần bắn đúng yếu lĩnh, đặt súng tiến về phía trước, thước ngắm dựng đứng, ngắm từ trên súng.

Tiếng nổ của liều phóng đanh, rất khó chịu nhưng không nguy hiểm như B41, vì năng lượng của liều phóng thấp. Vì lý do đó, B40 bắn được tốc độ trung bình 6 phát phút, mỗi xạ thủ bắn được nhiều đạn.

[sửa] Chiến thuật

Súng B40 rất rẻ, thậm chí rẻ hơn một viên đạn. Cả súng và đạn đều dễ sản xuất. Súng rất dễ sử dụng, có thể bắn nhanh, liên tục nhiều viên, không gây chấn động như B41. Súng cũng rất nhẹ và hiếm khi hỏng hóc. Đạn có thể mang theo nhiều. Người Việt Nam rất giỏi sử dụng súng bằng chiến thuật "bám thắt lưng", đánh rất gần, từ nhiều hướng, di chuyển liên tục, khắc phục tầm gần của súng. Thông thường một tiểu đội có một khẩu, nhưng trong những chiến dịch tấn công lớn dài ngày, người ta trang bị tăng cường 3 tổ trong tiểu đội mỗi tổ 1 khẩu. Bình thường, tiểu đội thành lập tổ hỏa lực mạnh gồm một B40 và một trung liên, đi kèm tiểu đội trưởng mang AK-47. Trong tất cả các trận đánh nổi tiếng của bộ binh, du kích Việt Nam hồi thập niên 1960 đều có mặt B40.

Ở Liên Xô, khi súng còn đang trong biên chế, cách tổ chức hơi khác. Cách tổ chức này xuất phát từ việc Liên Xô không đưa B40 vào biên chế thường xuyên của bộ binh như Việt Nam, chỉ sử dụng trong những nhiệm vụ không thường xuyên. Tổ chiến đấu dùng B40 của Liên Xô có thể 2 hoặc 3 người, trong đó có 1-2 xạ thủ B40 và một cảnh giới. Mỗi xạ thủ mang 1 súng và 3 đạn dựng trong một túi. Cũng có thể mỗi xạ thủ mang thêm một khẩu AK-47. Cũng như Việt Nam, hai xạ thủ có thể thay nhau bắn đảm bảo an toàn, một xạ thủ vẫn có thể bắn được trong khi người kia nạp đạn.

Một số người thường mô tả sử dụng súng B40 hay B41 như tên lửa chống tăng AT-3. Tức gồm một tổ ba người có mang thêm đạn và cảnh giới. Thực chất, đây là tin đồn tưởng tượng, xây dựng từ tổ chiến đấu dùng AT-3, xuất hiện trong gắng gượng giải thích số lượng xe bị bắn hỏng quá lớn. B41 được sử dụng để bắn tầm gần, khi AT-3 không tác dụng. Tổ chiến đấu AT-3 có thể được một tổ bộ binh sao chép, gồm 3 người, mang 3 AK, một người mang thêm B41, một người mang thêm bao đạn B41. Tuy nhiên ở Việt Nam chiến thuật này không sử dụng với B40.

[sửa] Hạn chế

Súng B40 thuộc những thế hệ đầu tiên của súng phản lực chống tăng. Súng có thuật phóng đơn giản. Tốc độ bay của đầu đạn thấp. Đạn dễ bị chặn bởi các vật cản như lưới, bao cát, tường vách mỏng. Sức xuyên của súng cũng không thích hợp với ngày nay. Việc sử dụng lưới có từ năm 1945. Đạn B40 khi bắn vào lưới như dưới đây bị mắc lại và không kích nổ. Lưới là loại thường sử dụng trong xây dựng, đan bằng dây thép 3 mm trở lên, mắt lưới khoảng 60 mm trở xuống. Loại lưới hay dùng trong xây dựng cho đến nay ở Việt Nam vẫn gọi là "lưới B40".

Cơ chế bắn của súng làm đạn không quay được trong nòng. Thuật phóng dùng thuốc nổ đen làm áp suất tăng đột ngột, không thể nhồi nhiều thuốc phóng. Vì những lý do đó, súng không thể bắn chính xác hơn, việc tăng tầm cho súng là vô ích và cũng rất khó. Sau này, người ta hay sử dụng cơ chế "phản lực khí động" hoặc "bán khí động", làm đạn quay trong nòng bằng cánh quạt hay rãnh xoắn. Những điều đó làm cho kiểu súng này sớm được thay thế. Tuy cùng đi vào trang bị với AK-47 nhưng B40 có tuổi phục vụ rất ngắn.

Cấu tạo ngòi nổ quán tính quá đơn giản, nhiều hạn chế. Ví dụ, một trong những trận đấnh đầu tiên là trận Vạn Tường, có những phát bắn quan trọng không nổ.

Một số người nhầm lẫn, thường ghi tốc độ đầu nòng của súng là 84 hoặc 85 m/s (như các trang tại Wikipedia thường dịch lẫn của nhau), thật ra đây là tốc độ tối đa của đạn, quá chậm.

Về chiến thuật, súng bắn tầm rất gần, nhưng lại không bắn được từ phòng trong phòng, khi súng bắn tạo khói của thuốc nổ đen làm lộ vị trí. Những điều đó làm việc sử dụng B40 trở nên nguy hiểm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#b40