súng b41

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Cho đến khi nó được thay thế ở Liên Xô vào thập niên 198x thì không một xe tăng nào của NATO chống lại được nó, kể cả các xe tăng hạng nặng[cần dẫn nguồn]. Loại xe tăng duy nhất lúc đó có một vài điểm chống đã được B41 là các xe tăng hạng nặng Is-3 đến Is-10 của Liên Xô, sau này hậu duệ của chúng là các xe tăng chiến đấu chủ lực.

Các xe tăng phổ biến của Mỹ hiện nay như M1A1, M1A2 chỉ đỡ được đạn B41 thường PG-7V ở một vài điểm trên mặt trước, chưa tính đến đạn hạng nặng 105mm PG-7VR[cần dẫn nguồn]. Còn hai sườn và phía sau thì thậm chí đạn B41 bị kích nổ sớm cũng làm bục. Trước đây, Đức thiết kế cho Mỹ xe MBT-70 khá tốt, với các thiết bị bố trí khéo léo thành giáp hộp chống đỡ B-41 khá hiệu quả. Nhưng giá thành đắt và Mỹ thiết kế lại thành M1, thay giáp đúc bằng giáp hàn và bỏ các giáp hộp phụ đi. Phần chống đỡ B41 khá tốt của M1 là xích với giáp riềm dầy 70mm, mặc dù xe không bị cháy ngay nhưng đứt xích đứng yên rất dễ bị bắn tiếp.

Leopard-2 các phiên bản A4 trở lên đều có các giáp hộp phía trước rất tốt. Tuy nhiên, cũng còn nhiều điểm sơ hở, ví dụ hai sườn sau tháp pháo, sau xe...

Giáp hộp được thiết kế cho xe tăng Liên Xô từ T-64, nó cũng không dùng giáp hộp rỗng mà điền đầy khoảng trống bằng vật liệu composite đặc biệt, gồm nhựa và thép. Tuy nhiên, T-64 khá nhẹ. T-72 có các góc nghiêng tốt, giáp dầy... và sau này lắp thêm các phương tiện khác như ERA, APS nên chống đỡ đạn B41 tốt. Kết quả được thể hiện rõ trong các chiến tranh Afghan và Chechnya, rất ít xe thế hệ T-72 hoặc T-80 cháy, kể cả khi quân Chechnya bắn cấp tập[cần dẫn nguồn]. Trong chiến tranh Chechnya lần thứ nhất, quân Nga thua rút lui, thiệt hại 62 xe tăng các loại, nhưng chỉ một chiếc T-80 có ERA bị bắn hỏng khi trúng liên tiếp nhiều quả đạn, làm bong hết ERA. B41 cũng có những phiên bản đạn hạng nặng 105mm tăng sức xuyên, nhưng bù lại tầm bắn quá gần do đạn nặng hơn.



Xe BMP-1 có các ổ bắn trên nóc như là công sự, sử dụng B41 và đạn tự hành chống máy bay vác vai. Một tiểu đội bộ binh cơ giới đi xe Liên Xô có một khẩu, đi xe bọc thép thì không cố định, có thể có đến 3 khẩu trên xe nhưng mỗi lính vẫn có một khẩu AK hay RPK. Thông thường B41 được lính Liên Xô dùng như súng trung đội. Mỗi tiểu đội bộ binh Liên Xô có 9 người, nếu cơ giới thì có thể có đến 11 người. Liên Xô và các nước Đông Âu trong huấn luyện còn có kiểu tổ chức tổ 3 người, mỗi người mang một AK, một người mang thêm đạn cho B41 và một người mang thêm một súng, tạo thành tổ săn tăng. Mỗi tiểu đội bộ binh Việt Nam thông thường mang ba súng mạnh, gồm trung liên và B41. Trong Chiến tranh Iran-Iraq, tiểu đội Iran 11 người mang 2 B41. Trong Chiến tranh Afghanistan, tiểu đội Mujahideen 10-12 người mang 1 khẩu (năm 1983) và tăng lên 2-3 khẩu (năm 1987). Trong Chiến tranh Việt Nam có những trận đánh với tổ 3 người mang 2 khẩu B41 và AK-47, bám sát đội hình xe địch, có những trận đánh cả tiểu đoàn biên chế như vậy, tạo thành hỏa lực chống tăng đáng sợ. Mujahideen thành lập những trung đội B41 mang đến 15 khẩu (từ 50% đến 80% lính mang B41), tạo thành đội săn tăng.

[sửa] Cách biên chế phổ biến nhất ở Liên Xô

Trang bị thông thường nhất của B41 là tổ chiến đấu 2 người. Tổ chiến đấu B41 2 người này mang mỗi người một ba lô đạn B41 ba viên và ba liều phóng, xạ thủ chính mang B41, xạ thủ phụ mang AK. Tộng cộng tổ mang được 6 viên B41, xạ thủ phụ cảnh giới cho xạ thủ chính diệt tăng, luôn đi bên cạnh, khi chiến đấu ở bên trái ngang xạ thủ. Ở Việt Nam, tổ này nằm trong tiểu đội, cùng với tiểu đội trưởng tạo thành tổ 3 người hỏa lực mạnh. Trong các trận đánh tiến công lớn, có thể tổ chức như Liên Xô, dồn trung liên và B41 về thành một tổ do trung đội trưởng chỉ huy. Xạ thủ phụ còn có nhiệm vụ giúp xạ thủ nạp đạn, tăng tốc độ bắn đến 6 phát phút.

[sửa] Trung Quốc dùng kiểu súng họ sản xuất giống B41

Trung Quốc tổ chức tổ dùng Kiểu 69-1 ba người, mang 12 đạn.

[sửa] Biên chế đạn tự hành chống tăng có điều khiển B72

Ngoài bộ binh, súng là một bộ phận của tổ chiến đấu dùng đạn tự hành chống tăng có điều khiển "Bé con" 9М14 "Малютка" (tên phương Tây AT-3, tên Việt Nam B72), đạn tự hành này không thể chiến đấu ở tầm gần, B41 bù vào đó. Tổ chiến đấu "Bé Con" tạo ra một cuộc cách mạng trong kỹ thuật quân sự, đưa tầm tiêu diệt thiết giáp hạng nặng của bộ binh đi bộ vượt qua xe tăng. Lần đầu tiên tổ chiến dấu "Bé Con" áp dụng ở Việt Nam năm 1973, Việt Nam Cộng hòa đồn là Việt Cộng có đạn biết ngửi (xem Trận phản công Cảng Cửa Việt). Tháng 10 năm dó, B41 và "Bé con} thực hiện một trận thắng trên bán đảo Sinai, diệt 800 xe Israel (gần như toàn bộ), bắt sống chỉ huy xe tăng Israel (xem Trận Sinai tháng 10-1973,[cần dẫn nguồn] (Ảnh bên, kết hợp B41 và các hỏa lực khác)

[

B41 sử dụng nguyên lý phóng khí động cân bằng, hoàn toàn khác phương pháp phóng của B40. Đầu đạn của B41 cũng có những cải tiến khác xa B40. Phương pháp khí động là phương pháp dùng các tuye thay đổi tốc độ áp suất dòng khí.

B41 có đường kính trong 40 mm, cỡ đạn to hơn cỡ nòng, đạn chỉ nhồi chuôi vào nòng súng. Giữa thân súng phình to ra thành một buồng rộng, đây là buồng đốt, chứa liều phóng, Việc tạo thành buồng đốt này sẽ đẩy súng về phía trước, nhưng lực này được cân bằng bởi lỗ thoát khí và tuye sau. Chỗ phình ra của nòng có ốp lót gỗ dán (về sau thay bằng nhựa tổng hợp) chống nóng vai xạ thủ. Súng có hai tay cầm, với người thuận bên phải thì tay phải đặt trước, trái sau.

Súng có kim hỏa, cò bấm giống B40. Cũng có lò xo đẩy kim hỏa về không cản trở đạn di chuyển.

Cấu tạo của B41 làm cho áp suất không tăng quá nhanh như B40. Khi áp suất cao, cấu tạo tuye xoáy trong nòng của đạn làm áp suất đồng đều và giảm chậm. Tuye sau súng làm giảm chiều dài súng. Nhờ áp suất tăng chậm nên dùng được liều phóng thuốc súng không khói, có năng lực mạnh hơn thuốc nổ đen của B40, nhồi cũng nhiều hơn. Nhờ cấu tạo này, sơ tốc đạn lớn nhưng tiếng nổ trầm do áp suất tăng giảm chậm. Tuy trầm, nhưng chấn động tiếng nổ đầu nòng rất mạnh và nguy hiểm.

B41 dài 953 mm khi không đạn và 1,340 mét với đạn RPG-7. Súng ban đầu nặng 7,9kg, đạn PG-7 nặng 2,25kg. RPG-7D là súng gọn nhẹ cho lính đổ bộ đường không, súng có nòng sau (phần có tuye sau) tháo ra được lắp vào bộ gá dưới buồng đốt, khi sử dụng cắm vào phần còn lại, các súng hiện đại nhẹ hơn.

[sửa] Kính ngắm, thước ngắm

Súng có kính ngắm PGO-7, kính ngắm PGO-7V1 có thêm vạch chia cho đạn hạng nặng, kính nhìn đêm, phóng to 2,7 lần. Kính ngắm thường (không nhìn đêm) có một đèn nhỏ chiếu sáng thước ngắm quang trong kính, thước ngắm này kẻ ô chia dộ tỷ mỉ cao và rộng, thuận lợi khi tính toán bắn mục tiêu di động, bù gió, bù cao độ, bù tầm..., các vạch chia này cũng thuận lợi cho bắn viên thứ 2, căn cứ vào độ lệch viên trước. Trên lưới chia độ còn một thước đo độ xa dùng rất thuận tiện. Thước này xác định độ xa của xe tăng thông qua chiều cao ảnh của xe. Thước này dùng kiểu xe tăng có chiều cao 2,7 mét làm chuẩn (mẫu xe tăng Đức, phổ biến ở phương Tây). Kiểu 69-1 của Trung Quốc bổ sung một thước ngắm dùng độ cao của xe do Nga sản xuất làm chuẩn. Tầm xa ghi trên thước là 500 mét, sau cải tiến lên 600 mét. Máy ngắm quang học của RPG-7 đặt trong một túi vải bạt, khi dùng lắp vào trên súng.

Các thiết bị ngắm đêm đã sản xuất có NSP-3, NSP-2(tia hồng ngoại), NSPU, PGN-1(II), IPN58 (II). Từ kính RPG-7V trở đi, các thiết bị này kiêm thêm cả chức năng đo xa và tăng khả năng nhìn đêm. Kính nhìn đêm lớn PNG-1 trang bị cho quân Ả Rập cho phép nhìn xa tới hơn 400 mét.

Súng cũng có một bộ thước ngắm-đầu ruồi kim loại gập xuống được như của B40, do tầm xa cần chính xác hơn nên thước này làm vững chắc, không mỏng manh như của B40. Đầu ngắm có 2 chế độ: bắn ở nhiệt độ trên và dưới 0 độ c. Thước ngắm di chuyển được dọc thang, chứ không làm cố định như B40.

[sửa] Đạn

[sửa] Một vài loại đạn

Súng ban đầu bắn đạn PG-7, sau đó có các đạn PG-7V, PG-7VM, PG-7VL, PG-7VR, TBG-7V là các đạn xuyên phá (HEAT). Đạn OG-7, OG-7A nổ phá sát thương (APER, nhưng phương Tây thường cho là đạn HE. APER là đạn nhồi một ít thuốc nổ mạnh, chủ yếu khối lượng là mảnh sát thương, còn HE là đạn nhiều thuốc nổ để phá công trình). Ngoài ra còn có đạn cháy, đạn khói.

Một số loại đạn B41:

tên đạn

PG-7V

PG-7VL

PG-7VR

TBG-7V

OG-7V

Năm đưa vào sử dụng

1961

1977

1988

1988

1999

cỡ đầu dạn, mm

85

93

64 / 105

105

40

khối lượng đầu đạn, kg

2,2

2,6

4,5

4,5

2,0

tầm bắn hiệu quả mục tiêu cố định, mét

500

500

200

200

350

tầm bắn hiệu quả mục tiêu di động ngang, mét

250

350

200

200

350

Xuyên giáp, mm

260

500

ERA + 600-700

-

-

Đầu đạn 2 đầu nổ PG-7VR để diệt các loại tank có giáp phản ứng nổ. Đầu đạn thứ nhất làm tung mảnh giáp ra trong khi đầu đạn thứ hai bắn vào chỗ không còn giáp.

Đầu đạn mảnh OG-7V để diệt người

Đầu đạn nhiệt áp TGB-7V để diệt người

[sửa] Đạn chuyển động trong nòng

Đạn PG-7 bắn ra khỏi đầu nòng với sơ tốc 115m/s, đạn gồm 2 phần, liều phóng và đầu đạn. Cũng như B40, liều phóng được lắp vào đầu đạn trước khi lắp đạn vào súng. Đạn có 4 cánh gập ngược lên phía trước chứ không cuộn quanh thân đạn như B40, khi bắn ra khỏi nòng các cánh này xòe ra. Liều phóng có một lõi cứng, đằng sau lõi này là một turbine xoắn, điều này làm đạn xoáy rất mạnh ngay từ trong nòng súng.

Sơ tốc (cả xoáy và chuyển động thẳng) của đạn làm súng có độ chính xác cao, thuận tiện cho nhiệm vụ bắn mục tiêu di động. Thực ra, các súng không giật có thể có tầm rất xa (như các đạn M-13 của BM-13 Katyusha). Nhưng để chống tăng chỉ cần độ chính xác, điều này hạn chế tầm bắn hiệu quả, giảm rất nhiều so với tầm bắn tối đa.

[sửa] Tên lửa


Đồ thị thời gian bay của đạn PG-7

Sau khi ra khỏi nòng 11 mét, động cơ tên lửa hoạt động, đẩy đạn PG-7 lên đến vận tốc 295m/s. Đến 900 mét, đạn tự hủy bằng ngòi cháy chậm, nếu ngòi này không làm việc, đạn bay đến 1100 mét. Động cơ tên lửa khởi động chậm tránh xạ thủ dính vào luồng phụt.

Tên lửa của đạn có một vị trí đặc biệt, tạo hiệu quả lớn. Tên lửa nằm trên chuôi đạn, nhưng khí cháy lộn lên trước rồi lại lộn về qua 6 tuye ở cổ đạn, cách bố trí này làm áp suất thay đổi nhiều lần, tuye ngắn nhưng hiệu quả như tuye dài, diện tích miệng tuye lớn. Cánh đuôi và tuye đều đặt nghiêng thích hợp với đạn xoay. Chính tên lửa đẩy mạnh đã làm RPG-7 khác hẳn các đời trước.

Liều phóng và tên lửa đẩy đều làm bằng hỗn hợp thành phần chính thuốc súng không khói. Khi bắn, súng có một chút ít khói xanh, hầu như không thể phát hiện ban ngày, không như B40 dùng thuốc nổ đen nhiều khói.

Đạn PG-7V có sơ tốc đầu nòng 127m/s, đạn PG-7VM có sơ tốc 140m/s. Đạn PG-7 có tầm hiệu quả 250 mét, các đạn PG-7VM có tầm bắn hiệu quả với mục tiêu di động 350 mét, mục tiêu cố định 500 mét. Đạn hạng nặng PG-7VR tầm hiệu quả 200 mét. Khi tầm quá 200 mét, tốc độ gió trên 20km/h, đạn bị ảnh hưởng khá nhiều bởi sức gió. Người bắn sử dụng thước ngắm chia vạch để xác định độ lệch phát bắn, điều đó đòi hỏi được huấn luyện kỹ càng. Đạn lệch về phía đầu nguồn gió.

Hình bên thể hiện đồ thị thời gian bay của đầu đạn, tốc độ cao và nặng như viên đạn đại bác nhỏ, đảm bảo bắn chính xác ở xa.



B41 xuyên bằng ống chụm

Đầu nổ của các đạn xuyên PG-7, PG-7V, PG-7VM, PG7VR dùng thuốc nổ mạnh, nhưng cơ chế nổ lõm gần giống B40, là góc mở rộng có lót tấm tích năng lượng. Liều nổ của B41 có góc mở hẹp hơn của B40. Liều này được điểm hỏa chính xác bằng ngòi nổ điện, đầu viên đạn có bộ phận sinh điện, bộ phận này kích ngòi nổ điện nằm ở cổ đạn, sức nổ dược trạm truyền nổ truyền đến thuốc nổ chính. Phía sau liều nổ lõm có tấm chắn sức nổ, tạo thuận lợi cho việc làm dài liều nổ, sức xuyên mạnh hơn, tập trung về phía trước, ít bị ảnh hưởng của góc chạm hơn.

Đạn PG-7VR hai tầng, tầng đầu công phá ERA, tầng tiếp theo phá giáp chính. Đây là đạn hiện đại hóa chống giáp hiện đại.

Đạn có mũ chụp rất vững, mũ này có những cạnh thép sắc, giúp đạn di qua những vật cản như lưới thép, bao cát, tường mềm trước khi va vào giáp cứng. Kiểu liều nổ lõm cũng được cải tiến lớn. Đạn có thêm phía trong mũ chụp một vách dẫn luồng có hình dạng đặc biệt (xem ảnh), dẫn luồng này làm luồng đạn hội tụ trong điểm rất nhỏ, tăng khả năng xuyên. Ống chụm này cùng chụp tạo thành mũ rất chắc.

Sức xuyên của PG-7V khoảng 270mm thép cán theo cách tính Nga, nhưng các tài liệu phương Tây thường ghi 330mm hoặc 350mm theo phương pháp thử nghiệm của họ (phương Tây lấy góc chạm đứng, người Nga gọi đó là khả năng xuyên lớn nhất). Đạn PG-7VL xuyên 500mm, các đạn PG-7VR hai tầng xuyên 600mm vượt qua giáp phản ứng nổ ERA chỉ bằng một phát bắn.

[sửa] Ngòi và truyền nổ

Khi mũ chụp bị phá hủy, điện phát sinh kích nổ đạn rất chính xác. Đây là phương án hết sức ưu việt nếu so với các vũ khí cùng chức năng khác truyền nổ bằng dây truyền nổ, trạm truyền nổ, thanh truyền lực kích nổ, đạn (một viên đạn bắn từ ngòi vào kích nổ chính)... xuất phát từ kim hỏa-hạt nổ. Thời điểm điểm nỏ chính xác của ngòi dùng tinh thể áp điện đến một phần vạn giây, so với các ngòi dùng kim hỏa-hạt nổ chỉ một phần vài chục giây. Nhờ thế, khoảng cách phát nổ của B41 đạt chính xác tới cỡ vài cm.

Chính ngòi nổ điện này cùng các đặc điểm khác làm đạn B41 có xác suất diệt mục tiêu cao, không phụ thuộc vào các điều kiện dễ gặp như lưới B40, bao cát, ít phục thuộc vào góc chạm.

Trạm truyền nổ của B41 thừa kế kỹ thuật của B40. Phản ứng nổ bắn đầu từ tâm một chữ U, truyền qua cạnh chữ U này vào giữa cạnh V của đầu lõm, nhờ đó toàn bộ đầu lõm phát nổ đồng đều. Hàng chục năm sau người Đức mới chế tạo các Panzerfaust có trạm truyền nổ tương tự, vào thập niên 199x, khi Liên Xô đổ và kỹ thuật thất thoát.


PUS-7 (ПУС-7) là đạn huấn luyện.

c.

[sửa] Bắn

Súng có thể đứng bắn, nằm bắn, quỳ bắn. Khi bắn, xạ thủ phải tránh hình chóp góc 30 độ sau súng.

Không có tường cản trong vòng 2 mét sau súng.

Có thể bắn trong phòng vài trăm mét khối.

Trước khi bắn, xạ thủ phải xác định hướng gió và tốc độ gió, hướng di chuyển và tốc độ mục tiêu.

Sau dó thực hiện đo xa, nếu mục tiêu đủ gần thì không bù gió.

Bù gió và bù tốc độ mục tiêu.

Bắn nhưng giữ nguyên súng, quan sát độ lệch đạn nếu trượt.

Bắn tiếp có bù độ lệch.

Súng không tạo khói như B40 nên rất khó phát hiện ban ngày. Nhưng ban đêm, súng có chớp sáng nhỏ.

Súng có tiếng nổ đầu nòng rất nguy hiểm, mỗi xạ thủ chỉ băn liên tục 5-6 phát.

Súng nạp đạn chậm, khi chỉ một mình xạ thủ, tốc độ bắn chỉ tối đa 4 phát phút.

Để cải thiện tốc độ bắn, những người cùng tổ lắp sẵn liều cho xạ thủ. Nhờ đó tăng tốc độ bắn đến 6 phát phút dễ dàng.

Chú ý B41 không có lỗ thoát khí bên phải như B40.

Việc bắn B41 đòi hỏi huấn luyện rất kỹ càng, trong cuốn sách quân sự Mỹ năm 1976 [3], người Mỹ dựa vào kiến thức cóp nhặt, nên đặt cách bù gió đo xa rất sai, điều này dẫn đến họ bắn thử nghiệm chỉ đạt tầm hiệu quả 180 mét. Một cách để tăng kinh nghiệm xạ thủ là tổ chức 2-3 tổ từ các hướng rất khác nhau, bắn lần lượt, điều này làm an toàn xạ thủ, bù trừ sai số ước lượng của các xạ thủ về tốc độ gió và mục tiêu, các xạ thủ sống sót có kinh nghiệm quý.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#b41#sung