sung dan

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Súng là một loại vũ khí dùng để bắn đạn tới mục tiêu.

Trước đây, người ta dùng nỏ và cung để bắn tên hay đạn đến mục tiêu, tuy nhiên, ngày nay nhiều thứ nỏ vẫn được gọi là súng, như "súng cao su", hay các ống phụt dùng làm công cụ cũng được gọi là súng, như "súng bắn đinh". Loại dùng trong quân sự như súng phun lửa có lúc cũng không phải là súng đúng nghĩa.

Tuy có nhiều loại súng, nhưng nhiều hơn cả là loại súng dùng thuốc nổ phóng đạn từ một cái ống, gọi là "nòng". Nòng súng có tác dụng chắn khí áp cao và định hướng đạn đi chính xác.

Mục lục

[ẩn]

* 1 Định nghĩa

* 2 Thuật phóng

* 3 Từ "hỏa hổ" đến "đại bác"

o 3.1 Pháo vò, hỏa hổ, hỏa đồng, hỏa thương và Thần cơ thương pháo

o 3.2 Pháo nòng mỏng, tiền thân của lựu pháo howitzer.

o 3.3 Súng cối, cối ngõng, cối khiên

o 3.4 Súng hỏa mai và súng kíp

+ 3.4.1 Súng hỏa mai mồi đốt

+ 3.4.2 Súng hỏa mai mồi cò, Matchlock

+ 3.4.3 Kíp bánh xe

+ 3.4.4 Kíp đá lửa, điểu thương

+ 3.4.5 Kíp hạt nổ

o 3.5 Những tiến bộ trước thời đại của thời cổ.

* 4 Thế kỷ 19

o 4.1 Súng cầm tay phát triển

+ 4.1.1 Hạt nổ

+ 4.1.2 Nạp đạn sau

+ 4.1.3 Nòng xoắn

+ 4.1.4 Súng trường phát triển trong Thế kỷ 19

+ 4.1.5 Đạn Thập niên 189x với súng trường: Mauser và Mosin, Súng máy, súng ngắn.

o 4.2 Pháo thế kỷ 19

+ 4.2.1 Súng cối

+ 4.2.2 Đại bác bắn trái phá

+ 4.2.3 Đại bác bắn đạn xuyên

+ 4.2.4 Công Thành Pháo

+ 4.2.5 Dã pháo, pháo rộng đồng, pháo bãi, trường pháo, nhân pháo.

+ 4.2.6 Hải pháo Paixhans, pháo biển, thuyền pháo.

+ 4.2.7 Sơn pháo, pháo núi, súc pháo.

* 5 Thế kỷ 20

o 5.1 Những đặc điểm chung của súng ngày nay

+ 5.1.1 Máy lùi và Máy đẩy về.

+ 5.1.2 Đạn, Liều và Khóa nòng.

+ 5.1.3 Nòng xoắn, thuốc phóng ổn định và đạn xuyên phá...

o 5.2 Đại bác, súng lớn.

+ 5.2.1 Bắn gián tiếp và bắn trực tiếp

+ 5.2.2 Pháo hỗ trợ, dã pháo hiện đại.

+ 5.2.3 Đấu pháo, một cuộc đối đầu của súng lớn.

+ 5.2.4 Lựu pháo tầm ngắn.

+ 5.2.5 Lựu pháo tầm xa.

+ 5.2.6 Pháo đa năng nòng trung bình

+ 5.2.7 Pháo nòng dài bắn thẳng, pháo chống tăng, pháo trên xe tăng

+ 5.2.8 Pháo tự hành, Pháo tự hành bọc thép, pháo tự hành tấn công.

+ 5.2.9 Pháo bắn nhanh, pháo cơ khí hóa, pháo tự động

+ 5.2.10 Súng cối

+ 5.2.11 Súng phòng không

+ 5.2.12 Binh chủng hợp thành, các hệ thống chiến đấu dùng súng trên bộ

+ 5.2.13 Súng cực lớn.

+ 5.2.14 Thiết giáp hạm, hệ thống chiến đấu dùng súng lớn nhất.

+ 5.2.15 Súng phản lực

# 5.2.15.1 Súng phản lực chống tăng

# 5.2.15.2 Súng phản lực bắn đạn trái phá

o 5.3 Súng nhỏ

+ 5.3.1 Súng cầm tay nòng ngắn

# 5.3.1.1 Súng ngắn bắn phát một

# 5.3.1.2 Súng máy nhỏ. Súng cầm tay nòng ngắn liên thanh

+ 5.3.2 Vũ khí cá nhân chính, súng trường

# 5.3.2.1 Súng trường phục vụ

# 5.3.2.2 Gewehr 1888 (G88), Mosin và Mauser.

# 5.3.2.3 Súng trường bắn phát một

# 5.3.2.4 Súng trường chiến đấu, súng trường hạng nặng

# 5.3.2.5 Súng trường tự động.

# 5.3.2.6 Súng cạc bin, súng trường nòng ngắn

# 5.3.2.7 Súng trường tấn công

# 5.3.2.8 Súng bắn tỉa

+ 5.3.3 Vũ khí của nhóm bộ binh, súng máy.

# 5.3.3.1 Tiểu liên, trung liên, đại liên

# 5.3.3.2 Đại liên cơ động. Súng máy gọn nhẹ.

# 5.3.3.3 Minigun. Súng máy hạng nặng. Trọng liên HMG.

* 5.3.3.3.1 Trọng liên cơ giới-Minigun

* 5.3.3.3.2 Trọng liên bộ binh, 12,7mm

+ 5.3.4 Một số loại súng nhỏ thông dụng. Súng ngắn bắn nhanh SMG, tiểu liên, trung liên LMG.

* 6 Vai trò

* 7 Liên quan đến súng

o 7.1 Phản ứng hạt nhân kiểu súng

* 8 Vấn đề luật pháp và xã hội.

[sửa] Định nghĩa

Nguyên lý cơ bản của súng

Thuốc nổ xuất xứ từ Trung Á, nơi sa mạc có nhiều mỏ diêm sinh tự nhiên, sau đó truyền vào Trung Quốc vào khoảng đầu Công nguyên, cùng với kỹ thuật chế những chất dễ cháy. Trong thiên niên kỷ thứ nhất người ta đã dùng "hỏa hổ", là một thứ súng phun lửa. Đến thời nhà Tống cũng xuất hiện những giàn tên lửa đầu tiên. Từ đầu thiên niên kỷ thứ 2, kỹ thuật luyện kim và trộn thuốc nổ hoàn thiện, người ta dần dần chế ra súng sát thương bằng đạn, thay cho lửa. Từ đó, ở phương Đông, súng có tên là "bác" (tức "súng"), "thần công" (công phá như thần), "thần cơ" (có nguyên lý hay máy móc của thần), "hỏa thương" (thương lửa), "hỏa mai" (mồi bằng lửa)... Từ thời nhà Tống, tiếng súng còn được dùng làm hiệu lệnh, nên còn có tên là "pháo", loại súng chuyên để làm việc này còn gọi là "súng lệnh", để phân biệt với "pháo lệnh" là ống tre nhồi thuốc nổ không nòng.

Ngày nay trong tiếng Việt, "pháo" chỉ "súng lớn", nghĩa đó cũng thường được gọi bằng từ Hán-Việt "đại bác". Đồng thời, chữ "pháo" hiện đại cũng chỉ những liều nổ giải trí, như "pháo hoa", "băng pháo"..., vậy đó là hai từ khác nhau cùng nguồn gốc và đồng âm. "Súng" trong ngôn ngữ thường nói hay dùng để chỉ súng cầm tay.

Trong khoa học quân sự, súng được gọi là "vũ khí có nòng". Khoa học nghiên cứu về súng gọi súng là "kết cấu vũ khí có nòng". Khoa học nghiên cứu về chuyển động của đạn, gọi là "đường đạn", bao gồm các môn nhỏ hơn là "thuật phóng trong" mô tả chuyển dộng của đạn trong nòng và "thuật phóng ngoài" mô tả chuyển động của đạn ngoài nòng.

Súng trong tiếng châu Âu là cannon, xuất xứ là "ống". Hiện tượng này cũng giống như tiếng Việt có cụm từ "súng ống". Ngày nay ở châu Âu, cannon dùng chỉ các loại súng lớn nói chung.

[sửa] Thuật phóng

Trong lịch sử, thuật phóng trong được xây dựng qua ba giai đoạn, theo khả năng tính toán tăng lên, người ta tăng khối lượng tính. Ban đầu, các nhà bác học coi tốc độ cháy của thuốc nổ là nhanh tức thời, khí cháy không có tỷ khối, áp suất trong nòng luôn đồng đều. Điều này có thể mô tả gần đúng những súng yếu thời cổ nhồi thuốc nổ đen, chỉ cần tính toán đơn giản. Tiếp theo, đầu thế kỷ 20, người ta đã biết cắt lớp khối khí thuốc và mô tả dược tốc độ cháy, điều này chứng minh được áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều trong nòng, đặc biệt quan trọng khi lượng thuốc nhồi tăng, lớn gấp nhiều lần khối lượng đầu đạn. Mức thuật phóng này cũng đã mô tả được gần đúng ống phóng không giật và cho ra đời các súng chống tăng phản lực như B41, ĐKZ, mô tả được biến đổi áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều ở các đoạn khác nhau trong nòng. Ban đầu, thuật phóng được mô tả thành các bài toán song song, cho hàng nhiều người tính thủ công một lúc, người Nga có nhưng đơn vị tính toán lớn. Giai đoạn 3, hiện nay chạy được trên máy tính, băm nhỏ khí thuốc ra thành những phần tử nhỏ. Điều này mô tả được các hiện tượng cuộn, thắt dòng và những hiện tượng khác liên quan đến áp suất và tốc độ không đồng đều trên mặt cắt nòng, chứng minh được ảnh hưởng của kết cấu buồng nổ, đưa ra những phương án nòng hay ống phóng ưu việt nhất.

Hiện nay (2007), khoa học về súng tại Việt Nam rất hạn chế, chỉ có một số sách vở dịch hướng dẫn những nguyên lý cơ bản từ tiếng Nga hay tiếng Trung chủ yếu phục vụ việc sửa chữa và sử dụng. Ho hạn chế kiến thức của người dịch, sách có nhiều sai lầm. Nhìn chung, các nhà khoa học Việt Nam chưa thể mô tả quá trình bắn bằng toán học, những nhà chế súng Việt Nam thiếu kiến thức về toán và máy tính. Các phương pháp tính toán vẫn dựa trên giả thuyết áp suất đồng đều. Việc phát triển và sản xuất vũ khí hiện tại ít được những người đóng thuế quan tâm dẫn tới phân tán, lãng phí kinh phí.

Trong lịch sử, ngoài việc Hồ Nguyên Trừng làm rạng danh đại bác Việt Nam thì năm 1947, ông Trần Đại Nghĩa cũng chế dược bazooka kiểu 1944 Mỹ, góp phần quan trọng đánh Pháp. Trong Khởi nghĩa Ba Đình hồi cuối thế kỷ 19, ông Cao Thắng cũng chế được súng trường, tuy nhiên chưa có khương tuyến (rãnh xoắn).

[sửa] Từ "hỏa hổ" đến "đại bác"

[sửa] Pháo vò, hỏa hổ, hỏa đồng, hỏa thương và Thần cơ thương pháo

"De Nobilitatibus Sapientii Et Prudentiis Regum" Walter de Milemete, 1326. Kiểu pháo này được gọi là vase cannon, pháo vò, bắn mũi tên. Tác động rất yếu, yếu hơn cả các hình vẽ hỏa đồng bắn hỗn hợp than cháy dở và lửa, thế kỷ 14, cuối Nguyên- đầu Minh.

Những súng đầu tiên thế kỷ 14. Đoản kiếm kiêm súng.

Những súng đầu tiên. Hỏa mai khoảng năm 1470.

Sách về súng châu Âu 1652 bởi John Roberts, London 1652.

Thần công bằng đồng ở Bảo tàng Musée de l'Armée, Pháo chế tạo thời Trung Cổ

Montréal, Québec. Từ thế kỷ 18 về trước, Pháo cố định trên các lâu đài rất nhiều. Đây là một khẩu pháo cố định nòng dầy.

Pháo 166mm Nga năm 1787 Kiểu giá này đã cho chỉnh tầm dễ dàng dơn.

Lâu đài Baranów Sandomierski, Ba Lan. Đây là một khẩu pháo dễ di chuyển, nòng dầy. Một kiểu pháo tiên tiến lúc đó. Từ đây có khái niệm dã pháo.

Từ đời nhà Tống, năm 1128 đã có tranh khắc về súng, súng là một ống đồng hay gang đúc, một đầu bịt kín, gọi là nòng. Đầu bịt kín có khoan một lỗ nhỏ để tra ngòi. Người ta đổ thuốc nổ vào đáy ống, nhồi tiếp đạn, lèn chặt. Khi bắn, đốt ngòi bằng lửa. Tuy nhiên, những cấu tạo súng thô sơ đó yếu, dễ tịt... và vẫn được dùng như hỏa hổ, bắn sát thương bằng lửa hay súng lệnh làm hiệu... Và được dùng ít do hiệu quả thấp.

Cuộc chiến của Thành Cát Tư Hãn đã đem súng qua châu Âu, theo con đường Truật Xích xây dựng Kim Trướng Tây Đế Quốc (Thế kỷ 11), Marco Polo cũng nói đến "trái phá" và súng khi trở về, tuy nhiên, cả châu Âu cười ông hô hố cho đến khi chứng kiến sự thật trong đau thương. Pháo vò được dùng ở châu Âu đến thế kỷ 14 trước khi có Thần cơ thương pháo, tuy nhiên nó yếu, hiệu quả rất ít.

Hỏa hổ còn gọi là "hỏa đồng"- 火筒, do làm chủ yếu bằng đồng, từ đó tiềng tầu có từ "đồng khác nghĩa là "ống", từ 筒 đồng được dùng để chỉ các ống trong "súng ống" dụ.

Súng có thể bắn đạn cầu bằng gang hay đá, cũng có thể bắn mảnh gang (đạn ria). Thuốc nổ sử dụng là thuốc nổ đen, được trộn từ diêm sinh (KNO3) và bột than củi giã mịn. Khi thuốc nổ đen còn yếu thì chỉ dùng lửa sát thương, dần dần đạn phá mạnh hơn lửa. Hỏa hổ có nguyên lý như những súng phun lửa ngày nay, thuốc nổ trộn dư chất khử. .

Chữ 枪 thương (âm khác là sang) ban đầu là vũ khí chính của bộ binh (Thương trong Thập bát ban vũ nghệ), có cán dài như giáo, dùng để đâm hay đập. 火枪 Hỏa Thương ban đầu bổ sung một ống lửa nhỏ giống khẩu súng như hình ảnh trong này, súng nhỏ đó cũng được gắn trên đao, kiếm... Súng đó rất yếu, chuản bị bắn lâu, bắn rất gần... và chỉ là phụ.

Phát triển 1 ngàn năm, nay lưỡi thương còn lại là lưỡi lê của súng trường. Trái lại, cái ống lửa lại phát triển thành vũ khí chính. Chữ thương vẫn thừa kế vai trò là vũ khí chính của bộ binh nhưng không còn Hỏa nữa, để chỉ súng cầm tay, như AK là 56 thức 7,62mm hào mễ xung thương (súng trường tấn công 6,62mm kiểu 1956). Bộ thương, súng bộ binh, 步枪 hoặc là Súng trường SKS, 56 thức bán tự động bộ thương, 56式半自动步枪.

Trước đây, Thương còn để chỉ nhiều hoại súng lớn nhỏ, nay chỉ dùng cho súng nhỏ. Súng lớn nay dùng chữ Pháo 砲 (bộ thạch, bán đầu Pháo chỉ trái phá được máy bắn đá bắn đi). Tuy nhiên, nhiều người Tầu dùng nhầm thành 炮-bộ hỏa, bào chế thuốc.

Súng của Hồ Nguyên Trừng nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn cho các loại súng lớn và được phổ biến khấp Á-Âu, được làm bằng thép và diêm sinh Tây Vực (tên các nước Trung Á mà theo khái niệm người Tầu là ở chân núi Antai), trở thành tiêu chuẩn đến Thế kỷ 19, rồi bị thay thế bởi Hải Pháo mới. Sau đó, người Âu mới cho ra cò đá lửa súng nhỏ và súng cối. Ở vùng Trung Á và châu Âu, súng được hoàn thiện nhanh chóng vì các mỏ sắt và diêm sinh chất lượng cao nơi sa mạc, đến Thế kỷ 18 thì súng châu Âu đã tốt hơn và xuất khẩu sang Viễn Đông. Sau này, cho đến khi có các thuốc nổ nhân tạo thì thuốc nổ lọc từ phân dơi miền Viễn Đông mưa nhiều vẫn kém rất xa các thuốc nổ có nguồn gốc diêm sinh khóang ở châu Mỹ và Trung Á.Súng thời Thanh.

Ấn Độ và miền trung Á như Thổ, Syria tiếp tục cho ra những thành tựu lớn thời trung cổ và cận đại, nay vẫn còn những khẩu công thành pháo lớn nhất thời đó. Pháo Jaivana là Thần cơ thương pháo lớn nhất thế giới còn đến nay. Ấn Độ đã đưa ra kết cấu bánh xe và càng lắp vào nòng Thần cơ thương pháo, kết cấu này tiếp tục truyền sang châu Âu. Kết cấu này cho pháo cơ động, giảm giật, dễ chỉnh tầm hướng... và giữ nguyên cho đến giữa Thế Kỷ 19.

Pháo Jaivana rất đẹp, có 4 bánh, hai bánh trước đường kính 2,74 mét và hai bánh sau 1,37 mét. Nòng pháo dài hơn 6 mét, chu vi ngoài lớn nhất 2,8 mét, đường kính ngoài chỗ đó 1 mét. Đường kính trong nòng 280mm, pháo nhồi 100 kg thuốc nổ đen và bắn đạn cầu 50kg. Theo ước tính của máy tính, pháo bắn xa 32km. Riêng nòng pháo hơn 50 tấn.

Ảnh pháo Pháo Jaivana.

Kỹ thuật tên lửa hoành tránh của Ấn Độ đầu Thế kỷ 19 du nhập sang châu Âu.

Sau chiến tranh lập quốc nhà Minh (Thế kỷ 14-15), súng được kết hợp các tiến bộ thuốc nổ (Minh giáo đẻ ra nhà Minh dùng thuốc nổ rất thiện nghệ từ Trung Á). Rồi súng Hồ Nguyên Trừng lại theo các đoàn thuyền chiến và thuyền buôn Tầu đi sang châu Âu lần nữa. Súng Hồ Nguyên Trừng được dùng ở châu Âu cho đến giữa Thế Kỷ 19.

Trước Thế kỷ 19, súng châu Âu vẫn còn tầm thường, chủ yếu làm bằng Đồng. Súng Viễn Đông đã đúc bằng Gang Xám nhiệt độ đổ khuôn cao. Có một hiện tượng lạ là chất lượng đúc pháo Gang Xám trong các pháo Quân Thanh đào được rất tồi, so với pháo Việt Nam, mặc dù to hơn. Nhưng nhìn chung pháo Viễn Đông tốt hơn châu Âu. Tuy nhiên, thuốc nổ đen do người Âu chở đến Viễn Đông lại dùng diêm sinh khoáng, rất tốt so với thứ thuốc phân dơi của Viễn Đông.

Nhiều cuộc khởi nghĩa của Viễn Đông Thế Kỷ 17-18, không có thợ chính quy triều đình, thuê thợ châu Âu đúc súng, cũng có một số chiến tranh với người Âu, nhưng ưu thế của người Âu chỉ đạt được với Tầu và Việt Nam nửa sau Thế kỷ 19. Riêng nước Nhật thì hiện đại hóa súng pháo theo người Âu rất nhanh.

[sửa] Pháo nòng mỏng, tiền thân của lựu pháo howitzer.

Tsar Pushka Pháo Sa Hoàng Pushka, khẩu nòng mỏng lớn nhất thời cổ

Pháo Jaivana, khẩu pháo nòng dầy lớn nhất thế giới cổ. Cảng Jaivana, Ấn Độ, riêng cái nòng hơn 50 tấn

Pháo nòng dầy chính là Thần Cơ Thương Pháo của Hồ Nguyên Trừng. Pháo nòng dầy nhồi nhiều thuốc phóng, bắn đạn đặc hay đạn ria, sau này trở thành pháo bắn đạn xuyên. Pháo thời Trung Cổ phát triển mạnh ở Trung Á, nơi có Sắt, Đồng và Diêm Sinh tốt. Đạn đặc dùng để công thành phá tầu, cũng dùng để bắn các xe công thành... nên loại pháo này hay đặt trên tầu và mặt thành.

Khẩu pháo nòng dầy lớn nhất thế giới còn lại của Ấn Độ, Pháo Jaivana.

Trước thời Hồ Nguyên Trừng, Hỏa Đồng có vỏ nòng mỏng, bắn góc cao. Sau thời Hồ Nguyên Trừng chỉ vài chục năm, không hiểu từ đâu có kiểu nòng mỏng bắn trái phá công thành. Chắc là ở vùng Nam Á và Trung Đông.

Pháo kiểu này được truyền đến châu Âu với vai trò như Công Thành Pháo khoảng giữa Thế Kỷ 15. Kiểu nòng hai đoạn Khẩu Great Turkish Bombard rất hiếm. Châu Âu lúc này chế pháo nòng mỏng có buồng đốt nhỏ hơn phần nòng chứa đạn, như cái đuôi trông rất đặc trưng. Lâu đài Edinburgh có khẩu pháo Mons Meg (khoảng 1450) bắn đạn cầu 560mm nặng 180kg đi 3km. Pháo nặng 6 tấn. Xem thêm pháo Mons Meg.

Tuy nhiên, sau đó, loại pháo này tồn tại dặt dẹo với một số lượng nhỏ các pháo cũng nhỏ, được gọi tên howitzer. Nguyên nhân là không thể nhồi nhiều do khó khăn kỹ thuật.

Những khái niệm nòng mỏng, nòng dầy về sau trở thành Hải Pháo và Lựu Pháo (xem pháo Thế Kỷ 19 bên dưới).

Pháo nòng mỏng là tiền thân của lựu pháo, bắn đạn trái phá lớn, trong đạn nhồi nhiều thuốc nổ, nhưng nòng nhồi ít, tỷ lệ đường kính nòng/chiều dài thấp. Pháo này không nhồi nhiều vì làm đạn trái phá nổ ngay trong nòng. Nòng mỏng bắn gián tiếp như ngày nay, phá công trình yếu và sát thương.

Những khẩu lựu pháo nòng mỏng lớn nhất thế giới được chế tạo trong thời cổ là:

* Khẩu Great Turkish Bombard hiện trưng bầy trong Bảo tàng Royal Armouries at Fort Nelson,, 1453 tham gia đánh thành Constantinople, pháo có 2 phần, một chứa đạn và một chứa thuốc. Hai phần được nối với nhau bằng ren và gờ. Có hệ thống đòn bầy và lỗ bẩy để tháo lắp. Bắn đạn 300kg đi xa 1600 mét. Dài 5,2 mét nặng 16,8 tấn.

* Khẩu Pháo Thanjavur, Ấn Độ, nòng hàn. Chế tạo khoảng 1600-1645.

* Tsar Pushka, Nga, 1586, tổng nặng 38 tấn.

[sửa] Súng cối, cối ngõng, cối khiên

Cối 330mm năm 1698 Nga. Súng nặng 865,7 kg. Đây là loại cối ngõng

Cối và đạn. Cối ngõng lai cối khiên Nga, 123mm, đầu Thế Kỷ 19. Đây là những cối đồng cuối cùng

Cối Cầm Tay Thụy Điển, 3 kg, 1705

Cối liên thanh, Nga, 1754

Một cối khiên bằng đồng, bảo tàng Musée de L'armée

Cối và đạn. Cối Coehoorn, cối ngõng do Menno van Coehoorn (1641-1704) thiết kế, trên tường thành Malbork

Ngày nay, dân không chuyên thường cố gắng suy diến định nghĩa về súng cối, nào là cối nòng trơn, nào là cối bắn góc cao, nào là... Thật ra, định nghĩa cối ngày nay là những súng có chiều dài nòng nhỏ hơn 10 lần đướng kính trong. Ngày xưa tỷ lệ đó nhỏ hơn nhiều, xem hình thì biết tại sao lại có tên súng cối. | Cối Thế kỷ 20 | Cối Thế Kỷ 19 Cối cổ

Súng cối xuất hiện từ bao giờ không rõ, nhưng có vẻ như là một phát triển của châu Âu. Từ Thế Kỷ 15, cối đã rất phổ biến. Chúng thường được đúc bằng đồng. Bắn đạn rất nặng đi xa, góc bắn cao. Cối có ưu thế là bắn trái phá tấm xa được, do các pháo lớn lúc đó làm đạn nổ trong nòng. Cối cũng có tốc độ bắn cao.

Cối bắn không chính xác, nên thường dùng bắn diện tích, bắn phá hủy các mục tiêu bán kiên cố cũng như công dụng này nay. Cối thường được đặt cố định vì rất nặng.

Ban đầu, cối có đế đúc liền truyền lực giật xuống đất. Thay đổi tầm bằng đắp lại đống đất, gọi là cối khiên do cái đế đuôi nòng trông như khiên. Nhiều người nói Menno van Coehoorn (1641-1704) chế ra kiểu cối có ngõng thay đổi tầm, lực giật truyền qua ngõng chứ không qua đuôi nòng vào đế, được gọi là kiểu cối Coehoorn hay là cối ngõng. Tuy nhiên, có vẻ như cối ngõng là một phát triển dân gian, dần dần qua nhiều thời gian và nhiều nơi.

Súng cối bao giờ cũng rất rẻ và được chế tạo rất nhiều. Đạn cũng rất rẻ và tốc độ bắn cao là những ưu thế vẫn còn đến ngày nay. Các toà thành thời cổ thường có rất nhiều cối đúc sẵn đặt cố định.

Súng cối chỉ được thay đổi nhiều bởi Nga trong chiến tranh Nga Nhật. Xem Cối Thế Kỷ 19-20 bên dưới.

[sửa] Súng hỏa mai và súng kíp

Các súng dùng thuốc bột và đạn rời được dùng cho đến giữa Thế Kỷ 19, đến nửa sau Thế Kỷ 19 đạn có vỏ mới dần thay thế.

Các súng dùng thuốc bột rời này gọi trong Tiếng Việt là súng hỏa mai và súng kíp, súng châm lửa và súng tự đánh lửa. Tuy nhiên, trong các tiếng châu Âu chúng đều là một, musketoon. Tuy nhiên cần phân biệt, trong tiếng Pháp thì từ này còn được dùng chỉ súng trường, tTiếng Việt thừa kế tiếng Pháp bồi mút cơ tông, nói tắt là mút.

Cải tiến quan trọng trong thế kỷ 14-15 là cốc mồi, gồm đường dẫn lửa nhỏ hẹp chống phụt và cốc mồi lớn dễ bắt lửa, bỏ ngòi giấy đi. Châm cốc mồi, thuốc cháy phụt lửa qua đường ống dẫn làm cháy thuốc trong nòng, tia lửa phụt ngược lại bị đường ống nhỏ hạn chế tránh tổn hao. Cốc mồi có nắp đậy bằng gỗ nút chặt hay bằng kim loại, tránh mưa ẩm. Những thợ khéo còn chế ra loại ống dẫn lửa loằng ngoằng hạn chế rất lớn phụt lửa. Lỗ cũng được di chuyển về đáy súng. Trong khi hồi còn là súng phun lửa thì lỗ ở phía trước, phản ứng cháy đi từ phía miệng nòng đến đáy súng.

Cốc mồi là loại khóa nòng (lock) đầu tiên, sau này các súng hỏa mai có dùng đá lửa vẫn dùng cốc mồi này, nó được dùng nguyên xi trên súng các loại đến Thế kỷ 19. Xem ảnh trên (một súng hỏa mai 1470) thấy, 1470 thì cốc mồi chưa truyền đến châu Âu, xem đoạn dưới đây thì cốc mồi đến châu Âu khoảng đầu Thế Kỷ 16

Cốc mồi là một phát minh quan trọng viết trong sách Thần cơ thương pháo pháp, cuốn sách có thể do người Tầu tổng kết lại các phát minh của Hồ Nguyên Trừng, cũng có thể là chính Hồ Nguyên Trừng biên soạn hồi còn là xếp Thần cơ doanh. Gần đây có một học giả người Singapore viết một luận văn dài chê bai cốc mồi này, có điều ông này là nhà văn-sử, chả biết gì về súng ống cả.

Có thể quan sát sự phát triển của cốc mồi qua bộ sưu tập súng trong Bảo Tàng Lịch Sử Quân Sự.

[sửa] Súng hỏa mai mồi đốt

Súng hỏa mai mồi đốt là một tay cầm mồi lửa châm ngòi súng. Ban đầu, ngoài là một ống giấy quấn quanh lõi thuốc nổ, luồn qua lỗ ở thành súng. Ban đầu, từ thời nhà Tống Thế kỷ 10, tất cả các súng đều mồi lửa, gọi là súng hỏa mai. Đến thế kỷ 19 ở châu Âu chỉ còn súng lớn mồi đốt lửa.

Các súng nhỏ dùng cá nhân có súng dùng cho bộ binh nòng dài, súng trường dần dần trở thành vũ khí chính. Súng hỏa mai nhỏ dùng cá nhân nhưng có nòng trung bình, hay được dùng cho kỵ sỹ, cũng gọi là cavalry, sau trở thành cạc bin. Một loại súng ngắn dắt lưng trở thành các loại súng ngắn ngày nay.

Súng nhỏ dùng cá nhân chuyển dần sang dạng "súng kíp". Súng hỏa mai mồi đốt không tạo ra cơ hội điểm hỏa chính xác cho xạ thủ.Vì thế xác xuất bắn chính xác ở khoảng cách 50m là 1/30 và xác xuất bắn chính xác ở khoảng cách 10m là 1/3

[sửa] Súng hỏa mai mồi cò, Matchlock

Súng hỏa mai mồi cò thời Minh

Loại súng hỏa mai ban đầu châm lửa bằng mồi. Đầu Thế Kỷ 15, trước thời Hồ Nguyên Trừng, loại súng có cò đầu tiên xuất hiện và được trang bị trong quân Minh, được viết trong cuốn Hỏa long kinh (火龍經) Thế kỷ 14 nhà Minh. Ottoman dùng năm 144x, 1475 thấy châu Âu có nói đến và dùng nhiều sau 1500. Kim hỏa có buộc sợi dây mồi đang cháy, còn cò sẽ cắm dây mồi vào ngòi súng.

Sau có cốc mồi. Cốc mồi có một nắp đậy mở ra khi bắn. Khóa an toàn là nắp cốc mồi.

Súng hỏa mai mồi cò là một tiến bộ quan trọng, nó cho phép xạ thủ điểm hỏa chính xác khi đạt được đường bắn. Tuy nhiên, nó cũng không tồn tại lâu ở châu Âu và Trung Á, được thay bởi các loại súng tự đánh lửa bằng đá lửa.

Hình ảnh súng hỏa mai có cò mồi

[sửa] Kíp bánh xe

Năm 1517 người Đức đưa ra súng kíp đầu tiên.. Loại kíp bánh xe dùng một bánh xe bật lửa mài đá lửa ở cốc mồi. Cốc mồi cũng có nắp. Khi khóa an toàn người ta lập viên đá lửa lên, không tì vào bánh xe. Loại này đầu Thế kỷ 16 ở châu Âu, nghe đâu năm 1517.

Khóa đá lửa kiểu bánh xe. Roman Candle Guns là khẩu súng bắn nhiều phát đầu tiên.

[sửa] Kíp đá lửa, điểu thương

Cơ chế điểm hỏa của "Súng kíp"

Cơ cấu điểm hỏa của "Súng kíp"

Đến năm 1570, người Đức cải tiến súng này, kíp là viên đá lửa đập vào mặt kim loại, làm cháy thuốc ở cốc mồi. Snaphaunce 1570 có khóa nòng là nắp cốc mồi.kiểu Snaphaunce 1570

Năm 1612, người Pháp cải tiến một lần nữa, đưa ra loại súng kíp phổ biến ở châu Âu, có nắp đậy thuốc súng, chỉ mở ra khi bấm cò để đá lửa lao vào, hạn chế ẩm. Khác biệt lớn nhất là nắp cốc mồi với tấm đánh lửa là một, trong khi Snaphaunce à hai bộ phận rời nhau, nhờ đó mà súng tin cậy. Người Ả Rập đã biết những súng tương tự từ 16xx, súng của họ cong con và nhẹ, bắn một tay trên lựa, đó là các Cavalry-gun, sau trở thành các súng cạc bin.[1].

Trong các ngôn ngữ tại châu Âu, súng kíp gọi bằng từ "súng hỏa mai kíp đá lửa", tiếng Anh là Flintlock Musket. Súng này còn được gọi là điểu thương trong tiếng Trung vì cái mỏ đá lửa như đầu chim.

Vài loại hỏa mai

[sửa] Kíp hạt nổ

Đến đầu thế kỷ 19, việc sử dụng hạt nổ xuất hiện, người ta không dùng cốc đựng thuốc mồi mà bọc thuốc phát nổ trong một gói nhỏ để kim hỏa lao vào, đảm bảo chống ẩm hơn. Những hạt nổ đầu tiên dùng giấy tẩm thuốc. Đến đầu thế kỷ 19 đá lửa mới hết thời và sau đó, súng dài, súng trường đã trở thành vũ khí chính của bộ binh.

Một số người lại cho rằng, súng dùng hạt nổ mới là súng kíp, chứ súng hỏa mai kíp đá lửa là hỏa mai, chắc họ ảnh hưởng bởi tiếng Anh. Một số hạt nổ làm bằng ống lông vũ tránh ẩm. Hạt nổ ngày nay là một viên bọc bằng kim loại mỏng phủ chống gỉ.

Súng hạt nổ ban đầu, búa đập vào hạt nổ bên thành súng, chưa có kim hỏa. Sau này, kiểu búa đập vào kim hỏa mới thay thế kiểu đập trực tiếp này. Hạt nổ được người da tráng biết đến 1805 như một phát kiến của Reverend John, nhưng có vẻ như nhiều nơi đã biết dùng trước đó.

|Dân tộc Mèo ở Việt Nam rất giỏi làm súng kíp bằng các phương tiện thô sơ.

[sửa] Những tiến bộ trước thời đại của thời cổ.

Thế Kỷ 16, nạp đạn sau, ngõng ngáng đủ cả, Thụy Điển

Nòng xoắn cũng đã được thử nghiệm trong Thế Kỷ 17 ở Anh, nòng xoắn cho phép đạn ổn định hướng trục và nhờ đó, bắn đạn dài. Đạn cầu không ổn định hướng trục nhưng hướng nào thì hình dạng của nó cũng như nhau, nên vẫn chính xác. Đạn dài nhồi được nhiều hơn và lực cản khí ít hơn. Tuy nhiên, do cản trở của việc nhồi thuốc trước nên rãnh xoắn bất lợi và không phát triển.

Hình bên là một số súng nhồi sau Thụy Điển, Thế Kỷ 15-16. Nhưng những súng này yếu và rõ ràng, cản trở kỹ thuật đã làm dừng chúng.

[sửa] Thế kỷ 19

[sửa] Súng cầm tay phát triển

Khẩu Chassepot Pháp 1866 và đạn

[sửa] Hạt nổ

Hạt nổ xuất hiện ở châu Âu 1805. Ban đầu, hạt nổ đạt mở miệng một cái vòi của buồng đốt, búa đập trức tiếp vào hạt nổ chứ không qua kim hỏa. Hạt nổ đảm bảo chiến đấu mọi thời tiết hơn là đá lửa. Hạt nổ cũng là tiên đề cho đạn có vỏ.

Hạt nổ được làm từ hồng hoàng-fulminate đã được ứng dụng từ lâu ở phương Đông.

[sửa] Nạp đạn sau

Khẩu Kammerlader, Na Uy 1842

Từ thế kỷ 18 đã có súng trường nạp đạn sau. Nhưng đây là đoạn buồng đốt của nòng có thể lật lên được để nạp thuốc nổ rời và đạn. Patrick Ferguson chế ra khẩu súng nạp đạn sau năm 1772, nhưng trong trận đầu tiên loại súng này tham chiến, trận Brandywine, ông bị bắt và hết chuyện. Súng của ông mồi đá lửa. Đến năm 1811, John H. Hall chế ra khẩu "M1819 Hall" với bản vẽ xuất hiện vào ngày 21 tháng 5. Đến năm 1819, được đưa vào trang bị. Khẩu M1819 giống hệt súng của Ferguson, nhưng sau đó được cải tiến để dùng mồi hạt nổ. Khẩu Kammerlader-1842 của Na Uy có một núm dưới bụng buồng đốt để đặt hạt nổ, lửa dẫn qua ống nhỏ.

Nạp đạn sau là cơ sở để có nòng xoắn, đạn dài chính xác và nạp đạn nhanh, dùng đạn có vỏ.

Kammerlader-1842 Na-Uy. 1 Chuẩn bị mở khóa. 2 Quay cần quay, mở buồng dốt. 3 Đặt hạt nổ. 4 Đổ thuốc nổ từ đấu đong vào. 5 Đặt đầu đạn. 6 Quay buồng đốt, khóa nòng, súng đã sẵn sàng.

[sửa] Nòng xoắn

Ưu thế của nòng xắn được biết đến từ lâu. Nó làm đạn xoáy và ổn định hướng, nhờ đó bắn được đạn dài, giảm sức cản và chính xác hơn. Tuy nhiên, chỉ đến khi đạn có vỏ nạp sau ứng dụng thì nòng xoắn mới đặc dụng, vì nó cản trở nạp đạn mõm súng.

[sửa] Súng trường phát triển trong Thế kỷ 19

Đạn Martini-Henry, thứ 2 từ bên phải sang

Việc phổ biến súng rất chậm. Ban đầu súng được chế tạo ít. Các súng bộ binh đầu tiên được làm trong cán thương, nên có tên gọi "Hỏa Thương". Lúc đó, lưỡi thương có tác dụng như lê bây giờ, nhưng do súng yếu, nên lê quan trọng hơn súng. Những súng bộ binh đầu tiên gọi là "Hỏa Mai" do vẫn dùng ngòi lửa. Súng có cò kích nổ ban đầu goi là súng kíp, kíp nổ là đá lửa. Đến đầu thế kỷ 19, ở châu Âu, súng bộ binh đã được dùng phổ biến, phần lê đã ít tác dụng hơn nên làm nhỏ đi. Tốc độ bắn khoảng vài phút/phát. Khả năng trúng mục tiêu người thật ở 50 mét khoảng vài phần trăm.

Khẩu súng trường của Phổ kiểu 1848 Dreyse có vỏ đạn giấy, vỏ đạn dựng thuốc và đầu đạn rời nhau. Kim hỏa cắm xuyên qua vỏ đạn, thuốc nổ vào hạt nổ trên đầu đạn. Vỏ đạn đồng thử nghiệm từ đầu thập niên 1840. Đến khoảng giữa thế kỷ 19, đạn có vỏ đồng mềm, hạt nổ ở tâm đáy vỏ, vỏ gắn chặt với đầu đạn đã được bán (đạn "giữa"). Sau đó ở Mỹ đã có súng ngắn lắp sẵn nhiều đạn ổ quay, vỏ giấy, súng Colt.

Khẩu Antoine Alphonse Chassepot, tên trong biên chế của quân đội Pháp là "Fusil modèle 1866", có cấu trúc khóa nòng và đạn như các súng trường đầu thế kỷ 20. Khóa nòng quay có tay nắm. Đạn có vỏ giấy chứa đầu đạn+thuốc nổ+hạt nổ, vị trí hạt nổ tâm đáy vỏ đạn. Súng này gặp nhiều phiền toái do tắc giấy, sau này người Pháp dùng khẩu có vỏ đạn kim loại 1874, do viên sỹ quan Basile Gras cải tiến. Vào năm 1866, đây là khẩu súng hiện đại, nhồi nhiều thuốc, sơ tốc lớn trên 400 mét/s. Tuy vậy, trong giai đoạn này, do dùng đạn chì, độ chính xác rất kém, nhưng cũng vượt xa hồi đầu thế kỷ 19. Khẩu Martini-Henry 1871 (Anh) đã có đầu đạn vỏ đồng, gờ móc vỏ đạn. Đây là những súng trường bắn phát một đầu tiên. Lúc này ở Mỹ cũng đã có súng băng đạn tròn dài, đạn xếp nối đuôi. Cũng đã có súng gập nòng xuống nạp đạn. Súng trường trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 sử dụng các cỡ nòng khoảng 15 mm, 11 mm.

[sửa] Đạn Thập niên 189x với súng trường: Mauser và Mosin, Súng máy, súng ngắn.

Đạn 7.92 x 57 mm được thiết kế cho khẩu Súng hội đồng Gewehr 1888, Đức. Sau là đạn của Mauser.

Đạn có vỏ kim loại, rãnh hay gờ móc, đế dầy và vỏ đầu đạn mềm ra đời trước những năm 189x. Đây là tiền đề cho cách mạng súng cầm tay. Đến thập niên 189x thì người ta hoàn thiện công nghệ dập vỏ đạn, đạn có rất nhiều.

Thuốc nổ đen vính viễn by by súng trường, từ nay người ta dùng các thuôc snoor tiên tiến hơn, ban đầu là TriNitro Glycerin đúc viên cùng với TriNitro Cellulose. Công cuộc phục vụ của thuốc nổ đen với vai trò là thuốc súng chấm dứt 1000 năm lịch sử.

Cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra ở Nga và Đức những năm này. Đến những năm 193x, nhiều nước cũng theo. Những năm này cũng cho ra đời các súng trường chiến đấu Mauser và Mosin. Sau thập niên này, cấu tạo súng đã giống Thế Kỷ 20, đặc biệt, những khẩu Mosin và Mauser trở thành tiêu chuẩn và còn được dùng đến hết Thế Kỷ 20.

Cũng thập niên này cho ra súng ngắn có khối lùi thay cho ổ xoay và súng máy.

Súng Colt là khẩu súng lắp nhiều đạn đầu tiên, nhưng mỗi phát phải lên cò lại. Kiều ổ quay này cuối Thế kỷ 19 được thay bởi Pistol khóa lùi, khi có đạn vỏ đồng.

Thế kỷ 19 cũng đã có súng máy Gatling do Gatling ở Mỹ chế tạo. Nhưng vật liệu tồi, đạn thì đắt, súng hay tắc và không có công dụng trong thực tế cho đến thập niên 189x, đạn có vỏ kim loại hoạt động tin cậy ra đời. Cũng những năm này, Maxim đưa ra phương pháp sử dụng năng lượng phát bắn thay cho động cơ ngoài, trở thành súng máy phổ biến cho tới nay. Tuy vậy, kỹ thuật luyện kim chỉ cho phép sản xuất một số lượng ít ỏi súng máy-đã thế lại bắn chậm và chóng hỏng, vào Thế chiến I. Nhưng chỉ cần thế cũng đã đủ làm Khoa Học Quân Sự sa lầy trong Trận Địa Chiến ở Thế chiến I.

[sửa] Pháo thế kỷ 19

Pháo giá cứng hồi thế kỷ 19 ở châu Âu. Nếu tháo nòng ra thì thấy cấu tạo cổ điển của Hồ Nguyên Trừng, có hai ngõng pháo và tay nắm đuôi, ngòi gồm cốc mồi và ống dẫn nhỏ dài chống phụt. Vật liệu vẫn là gang xám đúc, nhiệt độ đổ khuôn cao, vẫn như thời An Nam Doanh, Thần Cơ Doanh của Thế kỷ 15.

Súng thần công triều đình Huế

Lúc này ở châu Âu cũng đã có những súng cối, đại bác bắn trái phá (hay lựu pháo) và đại bác bắn thẳng. Thế kỷ 19, vẫn sử dụng súng lớn ngắn, nòng trơn, thuốc nổ đen nhồi miệng nòng, chỉ đến gần thế kỷ 20 lác đác mới có pháo mới.

Kết cấu pháo cơ bản đầu Thế kỷ 19 vẫn là Thần cơ thương pháo của Hồ Nguyên Trừng, tuy nhiên, số lượng súng pháo ở châu Âu nhiều hơn Viễn Đông rất nhiều vì lắp thép, thuốc nổ đen tốt. Cuối Thế Kỷ 19 này, Thần cơ thương pháo mới đi vào dĩ vãng.

Kiểu cấu tạo này gọi là Pháo giá cứng. Toàn bộ nòng giá càng liền chặt với nhau. Khi bắn pháo lùi lại và các pháo thủ nạp đạn, rồi đẩy lên trước khi bắn. Để chỉnh tầm và hướng, pháo thủ quay bánh xe và chất đất lên càng.

[sửa] Súng cối

cối Coehoorn của quân miền Nam hồi nội chiến Mỹ, điểm vượt sông Broadway, sông Appomattox, Tiểu bang Virginia

Cối Thế Kỷ 19 vẫn vậy-chỉ thay bằng gang. Cấu tạo này còn dùng trong Thế kỷ 20. Trên tường thành Acre, Israel

| Cối Thế kỷ 20 | Cối Thế Kỷ 19 Cối cổ Súng cối là các súng có tỷ lệ chiều dài nòng/đường kính trong nòng rất nhỏ, hiện nay tỷ lệ này của súng cối khoảng 10. Súng cối không cần giá càng phức tạp nhiều, vì đặt trên đế để đẩy phản lực xuống đất, đạn đi trên không khí loãng, nên súng cối nhẹ mà bắn được đạn nặng đi xa. Nhưng súng cối bắn không chính xác nên chỉ dùng bắn đạn trái phá theo diện tích. Cho đến đầu thế kỷ 20, súng cối vẫn rất nặng nề, thuộc nhóm súng cố định. Ngày nay tỷ lệ chiều dài nòng của súng cối từ 10-15-20, nhưng này đó chỉ dưới 5 (vì nông choèn thế nên gọi làcối, mortar).

Cối thế kỷ 19 dùng kiểu cối Coehoorn do Menno van Coehoorn (1641-1704) chế tạo lạc hậu, rất khó vận chuyển. Henri-Joseph Paixhans có cải tiến cái hãm tầm, nhưng cả hai ông không thay đổi gì nhiều các cối phổ biến trong Thế kỷ 15 được quân Thổ truyền đến châu Âu.

Cối lúc đó có nòng rất ngắn, rất dầy, có ngõng. Lực giật tác động vào ngõng rồi mới đến đế chứ không qua đuôi nòng vào đế như ngày nay. Các khẩu cối cố định vẫn được tiếp tục chế tạo. Khẩu cuối cùng có lẽ là cối Little David, Mỹ, tận những cuối Thế chiến II của Thế kỷ 20.

[sửa] Đại bác bắn trái phá

Đại bác bắn trái phá, hay lựu pháo, (howitzer) là tên đặt cho loại pháo nhồi ít thuốc nổ thời cận đại, bắn đạn "đập đất", tức đạn chạm đất nẩy lên. Trái với pháo bắn thẳng chống tăng ngày nay thường nhồi nhiều thuốc. Tác dụng trên chiến trường của howitzer cũng giống pháo bắn thẳng và lựu pháo nòng ngắn ngày nay, bắn các mục tiêu nhìn thấy. Lúc đó, để bắn trái phá góc thấp không thể nhồi nhiều thuốc đẩy, sẽ làm đạn vỡ nổ ngoài ý muốn.

Lúc đó, đạn trái phá thường bắn bằng súng cối hay súng góc cao để được tầm xa, hạn chế sơ tốc (làm đạn trái phá phát nổ) và giá súng, nhưng không chính xác. Howitzer bắn đạn trái phá góc thấp để tăng khả năng sát thương bộ binh di động, sử dụng phương pháp bắn trên để tăng thêm tầm, hạn chế sơ tốc và giá pháo. Howitzer có chiều dài nòng nhỉnh hơn cối một chút. Howitzer ngày đó là tổ tiên của lựu pháo ngày nay.

[sửa] Đại bác bắn đạn xuyên

Gọi là bắn đạn xuyên nhưng thực chất đạn cầu tốc độ thấp chỉ đập vỡ được tường thành. Tuy loại pháo này vẫn như thời cổ đại nhưng cũng làm các công sự kiểu thành quách đến lúc nay lạc hậu. Tỷ lệ chiều dài nòng/cỡ nòng nay gọi là CaL hoặc L. Cấu tạo pháo bắn thẳng ngày đó rất đơn giản, chả giá pháo ngõng ngáng khối lùi gì hết, nòng-giá liên kết thành một khối đặt trên bánh, ngày nay còn gọi là "pháo giá cứng". Mỗi lần bắn, súng lùi về sau, pháo thủ lại đẩy về trước. Đạn và thuốc nhồi từ miệng nòng. Đạn bi gang dùng để công thành, sau trận đánh, khi đã chiếm được thành, người ta đi nhặt các viên đạn này dùng lại. Đạn ria đặt trong các hộp, nhồi cả hộp vào nòng, đạn ria là các mảnh gang sát thương.

Thế kỷ 19 đánh dấu việc dùng nòng gang, thép thay thế cho nòng đồng và mồi lửa hạt nổ thay thế dần cho mồi lửa ngòi châm, mồi lửa đá lửa. Súng vẫn được sản xuất thủ công, đơn chiếc và dùng thuốc nổ đen.

[sửa] Công Thành Pháo

Những khẩu Đại bác bắn đạn xuyên lớn nhất được gọi là Công Thành Pháo Siege, những khẩu pháo công thành lớn nhất thời cổ do Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ làm, nay vẫn còn. Thuận lợi của nguyên liệu Trung Á sau này thúc đẩy châu Âu hoàn thiện súng.

[sửa] Dã pháo, pháo rộng đồng, pháo bãi, trường pháo, nhân pháo.

Cuối Thế kỷ 18 đầu Thế kỷ 19, xuất hiện Dã Pháo field-gun, được dùng nhiều trong các cuộc chiến lớn như chiến tranh Lập Quốc Mỹ và chiến tranh của Napoleon. Dã pháo là loại pháo bắn đạn ria hay trái phá sát thương. Mục tiêu nhiệm vụ là pháo phải di chuyển theo bộ binh và thực hiện những yêu cầu của bộ binh, thường là bắn bộ binh địch và nhà cửa không kiên cố.

Pháo thường nhỏ gọn, dễ dàng được người kéo, dễ xoay hướng, không cần bắn xa. Tuy nhiên, các dã pháo đầu tiên vẫn là pháo giá cứng. Do yêu cầu như vây nên pháo tường có tầm rất gần-nòng ngắn, ngược hẳn với dã pháo hiện tại.

Dã pháo là gọi tắt của pháo dã chiến. Cũng được gọi là pháo hỗ trợ. Nhân pháo vì di chuyển bằng người.

[sửa] Hải pháo Paixhans, pháo biển, thuyền pháo.

Hải pháo Henri-Joseph Paixhans trong Bảo tàng Hải quân Quốc gia Pháp, Musée national de la Marine

Hồi Nội chiến Mỹ, xuất hiện các pháo trung gian giữa thần công thời cổ và pháo hiện đại. Đây là các pháo đặt ở mũi tuần dương hạm, còn gọi là "hải pháo". Chúng có ngõng ngáng tầm hướng, có nòng xoắn, khóa nòng xoay ren. Nhưng vì chưa có thuốc nổ chậm, dùng thuốc nổ đen nên nòng rất dầy, đạn cỡ nhỏ, trông khẩu súng ngắn tũn gù lưng rất xấu. Kết cấu này phát triển thành cỗ máy chiến đấu dùng súng thay thế các tuần dương hạm cổ, đó là các tầu thiết giáp.

Hải pháo gắn liền với tên tuổi Henri-Joseph Paixhans người Pháp. Ông đã tìm ra phương pháp sử dụng tối đa thuốc nổ đen trong liều phóng và trái phá để không còn sợ nổ trước như howitzer. Thử nghiệm đầu tiên năm 1824, đến năm 1840, có đơn đặt hàng đầu tiên súng nòng nặng 5 tấn. Nga là nước đầu tiên sử dụng Hải Pháo trong chiến tranh trên Biển Đen với Thổ. Trong thập niên 1840, các nước lớn Pháp, Anh, Mỹ đã đặt hàng hải pháo này theo Nga. Cùng với việc đặt trên tầu, hải pháo cũng được đặt trên các giá quay chỉnh được tầm hướng, nhưng không lùi, dùng bắn đạn hải quân, đặt trong những pháo đài dùng chống tầu. Hải pháo thừa kế "tên pháo cố định" thời cổ.

Nội chiến Mỹ đem đến cơ hội hiện đại hóa hải pháo và pháo nói chung. Các tầu quân Nam (Hiệp ước, CSS) dùng hải pháo lạc hậu hơn, tầu có giá pháo nhưng chỉ chỉnh được tầm và vẫn nạp đạn trước, không hoàn thiện giáp và tháp pháo các tầu bọc thép. Cuối thế kỷ 19 khóa nòng đã phổ biến.

[sửa] Sơn pháo, pháo núi, súc pháo.

Lúc đó cơ giới còn yếu, nên có sơn pháo, đấy là một pháo hạng nhẹ, nòng rất ngắn và mỏng, đặt trên giá pháo nhẹ có các bánh xe to để dễ kéo trên núi (L rất thấp, chỉ 10-20, gần như súng cối). Sơn pháo và hải pháo lúc đó thường áp dụng kỹ thuật bắn trực tiếp như pháo bắn thẳng ngày nay, tầm rất gần. Sơn pháo nhiều nơi còn gọi là pháo dã chiến, thừa kế tên "field gun"=dã pháo cổ, chỉ khác người kéo và bò kéo.

Sau Thế chiến thứ hai hình thành súng hiện đại.

[sửa] Thế kỷ 20

[sửa] Những đặc điểm chung của súng ngày nay

Khóa nòng M1910 122mm Nga, kiểu này gọi là khóa nòng ren cắt, quay 1/4 hoặc 1/6 vòng là chặt

Thế kỷ 19 hình thành các loại súng ngày nay. Pháo được chia làm nhiều loại.

[sửa] Máy lùi và Máy đẩy về.

Khi bắn, tỷ lệ khối lượng giữa nòng pháo và đạn càng cao thì càng ít giật, do tỷ lệ động năng tác động vào pháo giảm. Do giá pháo của Thần cơ thương pháo còn tồi nên đúc nòng rất nặng, ví dụ Hải pháo Thế kỷ 19 trên, thừa kế các pháo nòng dầy cổ đại. Điều này làm pháo thì nặng mà bắn đạn thì nhẹ. Điều này được cải tiến trong Thế kỷ 20, cùng với việc dùng những hợp kim mới cho phép nòng mỏng, dài mà chịu được áp lực lớn. Pháo nhẹ mà ít giật.

Pháo bắn thẳng và lựu pháo có thêm khối lùi, nhờ đó lực tác dụng lên đất giảm đi, ít thay đổi vị trí giá súng, ảnh hưởng đến độ chính xác. Giá súng có bánh xe và càng, đầu càng có cày chống giật. Hoặc súng được đặt trên giá ba chân. Nòng súng đặt trong máng súng, máng súng đặt trên bộ ngõng ngáng. Bộ ngõng ngáng lắp vào giá súng, cho phép thay đổi góc bắn, quay và ngỏng lên xuống. Nòng súng trượt trong máng súng được bôi trơn bằng mỡ súng. Mỗi phát bắn, nòng thụt về sau, tốc độ được hãm bằng hãm lùi thủy lực, nòng trở về vị trí cũ sau khi lùi bằng đẩy về. Đẩy về làm bằng lò xo hay khí nén. Tuy là máng nhưng của Nga và Đức là ống tròn, đến giờ thì các pháo hầu như ống tròn.

Thông thường có ba loại máy đẩy về và hãm lùi. Các lựu pháo dùng máy hỗn hợp, dùng khoang chứa dầu không đầy hoặc piston trôi, một máy chung hai chức năng. Các pháo bắn chính xác như pháo chống tăng dùng máy lùi và máy đẩy về riêng, có cơ chế lùi tự do khi đang bắn. Pháo trên xe tăng trước đây là pháo giá cứng, dùng toàn bộ khối lượng xe hãm pháo. Các xe tăng hiện đại dùng lùi ngắn (T-80, T-90 lùi 300mm).

[sửa] Đạn, Liều và Khóa nòng.

Khác với khóa nòng ren cắt, đây là Khóa nòng ngăn kéo, pháo chống tăng T-12 100mm

Thuốc nổ đựng trong vỏ đạn chống bắt lửa gọi là liều, đạn và liều của đại bác bắn thẳng nhồi ở sau, một số loại súng cối đơn giản nhồi miệng nòng. Sau khi nạp đạn và liều vào nòng, người ta đậy đáy nòng lại bằng khóa nòng. Đến đầu thế kỷ 20 vẫn dùng chủ yếu khóa nòng quay gờ nhỏ (tương tự như vặn bu lông vào ốc ren), khóa nòng ren cắt. Sau này, súng dùng khoá nòng xoay gờ lớn hay khóa nòng then xoay. Ở tâm đáy vỏ đạn, có hạt nổ. Đây là khối thuốc dễ phát nổ được đặt giữa một tấm mỏng để che và một tấm dầy làm đe, kim hỏa từ khóa nòng đập qua tấm mỏng vào, ép hạt nổ lên đe kích nổ đạn. Những súng nhỏ dùng đạn liền khối vỏ đạn-đầu đạn-liều phóng-hạt nổ, còn súng lớn một số dùng liều rời, nhiều liều. Hệ thống cơ khí nạp đạn, quay tầm hướng, tháo vỏ đạn... và hệ thống điện tử đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong các hệ thống đối kháng dùng súng như xe tăng hay thiết giáp hạm (đúng hơn là "tầu chiến đấu"). Các hệ thống đối kháng dùng súng này chuyên dể diệt nhau, có hai nhiệm vụ lớn nhất là bắn loại súng diệt nhau và chống lại đạn.

[sửa] Nòng xoắn, thuốc phóng ổn định và đạn xuyên phá...

Súng trên xe tăng 105mm L7. Nòng dược cắt mở để nhìn rõ rãnh xoắn (khương tuyến).

Ba cải tiến quan trọng trong thế kỷ 19 là: nòng xoắn, thuốc cháy chậm và đạn xuyên phá.

Nhờ nòng xoắn có các rãnh xoắn trong thành nòng, viên đạn xoáy như con quay trong không khí, luôn chống lại các lệch lạc, viên đạn quay tác dụng với không khí luôn hướng tâm khí động về phía trước tâm khối lượng. (Có thể hình dung như con quay đồ chơi, luôn lộn ngược trên đinh). Nhờ đó, giảm tản mát đạn, có thể làm đạn dài nặng mà vẫn hẹp, ít lực cản, thay cho đạn cầu. Những nòng xoắn đầu tiên có từ thế kỷ 15, nhưng nhồi thuốc miệng nòng dùng nòng xoắn rất khó.

Thuốc cháy chậm được làm bằng các chất nổ rắn mới, như TNT, thuốc súng không khói. Các chất này có độ bền cơ học cao, không vỡ khi phóng đạn, được đúc thành các ống trụ rỗng. Khi cháy, các ống này ít thay đổi diện tích mặt ngoài nên cháy ổn định hơn, cháy lâu hơn. Nhờ điều khiển được phản ứng cháy, người ta nhồi được nhiều thuốc phóng hơn trong pháo nòng dài, tăng tầm bắn mà giảm khối lượng pháo, nòng dầy của hải pháo vì thế dần được thay bằng nòng mỏng như M-46.

Đạn xuyên phá được đúc bằng thép tốt, nhồi thuốc nổ ổn định, khi đập vào giáp không kích nổ mà xuyên vào trong. Thuốc nổ cháy chậm và ổn định cùng đạn xuyên được người Đức phát triển ứng dụng đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1902). Đến giữa thế kỷ 20, súng lớn cũng được đặt trên các xe cơ giới bọc thép, trở thành "pháo tự hành" và "xe tăng". Súng cũng được đặt trên các tầu biển bọc thép lớn, hệ thống diệt tầu trên biển này được gọi là tầu chiến đấu (battle ship), tuy nhiên, dịch theo Hán-Việt là thiết giáp hạm hơi khác.

[sửa] Đại bác, súng lớn.

Đạn pháo 380mm trong Bảo tàng Hải quân Quốc gia Pháp. Dùng cho 380mm/45 Modèle 1935 (Pháo bắn đạn xuyên phá 380mm tỷ lệ chiều dài nòng CaL 45)

Ngày nay, pháo thường được gọi theo hai công dụng phổ biến, là bắn đạn trái phá (lựu pháo) và đạn xuyên mục tiêu di động bọc giáp tốt (pháo chống tăng). Lựu pháo bắn đạn nặng, mang nhiều thuốc nổ, đường đạn cong, có thể bắn gián tiếp (tức bắn mục tiêu bị khuất núi). Lựu pháo có thể mang nhiều loại đầu đạn như sinh, hóa, hạt nhân, tạo khói, cháy... Pháo chống tăng bắn đạn có vận tốc lớn, đường đạn thẳng căng, mật độ cao.

So với pháo thời kỳ đầu thế kỷ 20, pháo sau Thế chiến thứ hai có chiều dài nòng tăng. Những pháo lúc này được gọi là nòng ngắn cũng có tỷ lệ chiều dài nòng lớn hơn rất nhiều trước đây, ví dụ, khẩu ML-55 152mm (D-20) có tỷ lệ này là 25. Các pháo đầu thế kỷ 20 phần nhiều chỉ có L như súng cối ngày nay.

Đạn dài thay cho đạn cầu. Đạn dài có hai loại, ổn định xoáy và ổn định cánh đuôi, lần lượt dùng cho súng nòng trơn và nòng xoắn. Đạn xoáy dùng trên pháo lớn có đai đạn bằng kim loại mềm tác động tới rãnh xoắn, nhờ đó giảm mòn nòng. Không như đạn súng nhỏ thì bọc cả viên đạn bằng vỏ mềm.

[sửa] Bắn gián tiếp và bắn trực tiếp

Bắn gián tiếp là bắn mục tiêu không nhìn thấy. Bắn trực tiếp là bắn mục tiêu nhìn thấy.

Bắn gián tiếp có độ chính xác thấp, chỉ dùng diệt sinh lực hay công trình yếu. Ưu điểm là tấm rất xa và di chuyển mục tiêu nhanh chóng, chỉ cần chỉnh tầm hướng.

Bắn trực tiếp có độ chính xác cao, dùng để diệt công sự kiên cố và xe tăng. Tuy nhiên, tấm bắn gần và phải kéo đến gần mục tiêu. Chiến đấu bằng pháo này rất nguy hiểm vì phải lên tiền duyên.

Dã pháo là bắn gián tiếp, lựu pháo và pháo chống tăng bắn trực tiếp. Dưới đây còn có loại pháo đa năng.

Dã pháo, lựu pháo và pháo chống tăng là ba loại pháo thông thường chủ yếu của pháo binh.

[sửa] Pháo hỗ trợ, dã pháo hiện đại.

Một trong những nhiệm vụ của súng lớn là "hỗ trợ pháo binh", cách nói của một số người. Cụm từ này ngày nay chỉ dã pháo hay là "pháo gọi", những súng lớn bắn theo yêu cầu. Trong các ngôn ngữ châu Âu, cụm từ trên hay gọi như field artillery (hay "Pháo binh bãi chiến trường"). Thực ra, cụm này xuất phát từ field gun, bắn trực tiếp tầm ngắn, thường là bắn đạn ria, ngày nay thì ngược lại. Cũng có một số cách dịch như trường pháo, nhưng từ chính thức được dùng ở Việt Nam là pháo dã chiến hay dã pháo.

Ngày nay, "pháo hỗ trợ" là lựu pháo sử dụng phương pháp "pháo bắn gián tiếp", pháo hỗ trợ thường để diệt sinh lực, đôi khi để phá hủy cụm công trình kém kiên cố. Pháo bắn gián tiếp hoạt động như sau. Biên chế gồm 4 nhóm: một người hay nhóm người quan sát mục tiêu (trinh sát pháo), nhóm tính toán kế toán pháo, chỉ huy pháo và trận địa pháo, tất cả liên lạc với nhau. Trinh sát pháo quan sát mục tiêu, báo về tọa độ ban đầu và đạn lệch bao nhiêu khi bắn, kế toán pháo căn cứ vào đó tính ra "phần tử" và "lượng sửa", tức các tham số tầm hướng ban đầu và hiệu chỉnh, trận địa pháo bắn theo kế toán pháo và chỉ huy pháo. Tốc độ bắn và thời gian bắn do chỉ huy pháo quyết định. Chỉ huy pháo theo các yêu cầu của bộ binh và tình hình địch ta mà quyết. Trước đây nhóm này xây dựng các căn cứ đo đạc bằng bản đồ và các "vật chuẩn", tức các cọc tiêu hay điểm địa hình dễ quan sát. Phương pháp này nay được hỗ trợ bởi máy tính điện tử và hệ định vị toàn cầu.

Về tính năng, pháo hỗ trợ giống như dã pháo trước đây: chúng cùng bắn chống người và công trình yếu, cùng linh hoạt di chuyển mục tiêu theo yêu cầu. Vậy nên pháo hỗ trợ ngày nay thừ kế tên dã pháo field gun. Tuy nhiên, pháo hỗ trợ ngày nay dùng những khẩu pháo khác hoàn toàn dã pháo cổ, chúng to nặng và những khẩu pháo tầm xa thích đặt phía sau chứ không phải ở tiền duyên.

Trong biên chế Quân đội Nhân dân Việt Nam và một số nước, pháo hỗ trợ không hình thành một binh chủng, đó chỉ là một phương pháp bắn, đơn vị lựu pháo nào cũng có biên chế các thành phần của pháo hỗ trợ. Các pháo hiện đại như PzH 2000 nòng dài của Đức cũng vậy, cho dù xuất xứ của nó, khẩu M109 Mỹ là pháo nòng ngắn tự hành bọc thép, pháo tấn công.

[sửa] Đấu pháo, một cuộc đối đầu của súng lớn.

Ngoài việc hỗ trợ chiến trường, các pháo hỗ trợ cũng trực tiếp bắn nhau, đó là trận đánh kiểu đấu pháo. Đấu pháo ngày nay có các radar đo đặc tính phản xạ, đặc tính tốc độ thẳng và quay của đạn đối phương, qua đó xác định loại pháo, loại đạn, vị trí đối phương chính xác nhanh chóng. Các pháo tầm xa đấu pháo có lợi do có thể đặt ở ngoài tầm địch. Đài quan sát kết hợp với kế toán pháo nhanh chóng phát hiện mục tiêu, đo đạc tính toán phần tử, tìm lượng sửa nhanh tạo điều kiện ta bắn trúng địch trước. Khi hai bên đã bắn được nhau, thì công sự tốt, pháo che chắn tốt, tốc độ bắn... là những lợi thế. Lựu pháo phản lực đánh nhanh rút gọn lợi thế trong việc tránh một trận đấu pháo hay đè bẹp đối phương. Chiến thuật lợi thế của đấu pháo là lực lượng phân tán, hỏa lực tập trung, ngày nay chiến thuật này được máy tính và hệ định vị toàn cầu hỗ trợ rất thuận tiện.

Các phương tiện khác như hồng ngoại, quang, vệ tinh, máy bay, thông tin... góp phần quan trọng trong trinh sát phát hiện địch, mấu chốt của trận đấu pháo. Máy bay chống mặt đất mới nhất của Mỹ F-22 có radar tạo luồng nhanh, đo đạn quay nhậy, máy tính mạnh gồm 60 máy tính blade, đồng thời mang được bom đạn hạng nạng chính xác cao, là kẻ thù nguy hiểm của pháo binh. Đạn tự hành như các đạn tự hành hành trình dùng hệ thống định vị toàn cầu, đạn tự hành đạn đạo chiến thuật tầm dưới 500km độ chính xác cao điều khiển bằng radar là úy kỵ hay sát thủ của pháo.

Một sự kết hợp với đạn tự hành chiến thuật và pháo là hệ thống BM-30, nó dùng được như những giàn pháo bắn nhanh, bắn đạn có điều khiển chính xác, điều khiển qua GPS hoặc hệ thống định vị cục bộ của UAV. Pháo có tầm bắn hơn 90km, một tiểu đoàn 3 xe triển khai, bắn 36 đạn nặng 300kg mỗi đạn, thu hồi chưa đến 10 phút. Trinh sát pháo có hỗ trợ của các UAV Pchela-1, Pichak hay T-92 (dùng một lần), các UAV này có hệ thống định vị cục bộ kiêm luôn chức năng kế toán pháo. Hiện tại, đây là loại pháo có khả năng đấu pháo tốt nhất.

[sửa] Lựu pháo tầm ngắn.

Lựu pháo nòng ngắn 152mm kiểu 1938 Liên Xô ML-20 trong Chiến tranh Vệ Quốc Chiều dài nòng cả ổ 4412 cal 29. Chiều dài nòng không ổ 4240 cal 27,9. (đều không kể mũ đầu nòng) Pháo có thể bắn gián tiếp hay mục tiêu nhìn thấy

Lựu pháo tầm ngắn, hay lựu pháo nòng ngắn, là pháo bắn đạn trái phá (đạn nhồi nhiều thốc nổ). Pháo này có L nhỏ (dưới 40). Đường đạn không căng nên khó chống mục tiêu di động. Lựu pháo thường được dùng để bắn mục tiêu là bộ binh hay công trình, công sự, bắn trực tiếp mục tiêu nhìn thấy ở tiền tuyến (hay dùng tấn công công sự) hay bắn gián tiếp (hay dùng đánh bộ binh) đều được. Lựu pháo gọn nhẹ cơ động hơn các pháo khác cùng cỡ, dễ di chuyển trên bãi chiến trường. Loại sơn pháo, hải pháo trước đây dần dần bỏ. Ví dụ về lựu pháo như khẩu 105mm M27 hoặc M34 Phương Tây. Hồi thế chiến có khẩu ML-20 152-mm kiểu 1937 Nga. Hồi Trận Điện Biên Phủ có khẩu 105-mm Light Gun, bắn đầu đạn nặng 15,1kg sơ tốc 709m/s, tầm 17,2km, do phương Tây chế tạo. 105-mm Light Gun ngày nay cải tiến thành 105-mm Pack Gun dùng ở phương Tây và Tầu. Lựu pháo cũng có thể được dùng bắn thẳng tiền tuyến, nên đôi khi được gọi là pháo bắn thẳng (howitzer). ML-20 152-mm, còn gọi là 152-mm nòng ngắn để phân biệt với pháo 152-mm nòng dài, rất hay được sử dụng bắn trực tiếp vào chiến tuyến địch, các pháo bắn thẳng như vậy rất cần lá chắn. Sau ML-20 được cải tiến thành ML-20S đặt trên thân xe tăng KV thành pháo tự hành tấn công SU-152-mm, rất đắc dụng khi tấn công công sự. Cũng vì vậy mà lựu pháo tầm ngắn còn có tên gọi là "pháo tấn công" (assault gun), nhẹ dễ di chuyển.

Súng phóng lựu là lựu pháo rất nhỏ dùng cá nhân. Hồi Chiến tranh Việt Nam có khẩu M-79 của Mỹ còn được gọi là "cối cá nhân". Ngày nay, ống phóng lựu thường được lắp trên súng trường tấn công.

[sửa] Lựu pháo tầm xa.

Pháo tự hành tầm xa 2S7 Nga, cỡ nòng 203 mm, tầm bắn 55 km. Hơi khác M107 ở hệ thống nhồi đạn cơ khí hóa.

Sử dụng M107 ở Việt Nam

Lựu pháo tầm xa, lựu pháo nòng dài, pháo nòng dài tầm xa, hay còn gọi là pháo cấp chiến dịch, như khẩu M-46 130 mm Nga

Pháo tự hành tầm xa M107 175-mm, tự hành nhưng không bọc thép khi chiến đấu, lắp pháo M113, cal 60. Bắn đạn nặng 66,6kg sơ tốc 914 mét/giây, tầm bắn trên 30 km. Trong Chiến tranh Việt Nam được sơn chữ "Vua chiến trường" lên nòng. Thể hiện nhược điểm không bọc thép và cơ khí hóa nên bắn rất chậm (tối đa 3 phát phút, ở chiến trường Việt Nam tối đa chỉ 2, dễ tổn thương khi đấu pháo với M-46 130mm. Tổ chiến dấu 8 người rất dễ tổn thương, làm việc khó khăn. Người Việt Nam nhỏ yếu còn vất vả hơn nhiều với pháo này. Sau này được thay thế bởi các hậu duệ của M109.

Pháo có nòng dài (L lớn hơn 40), tầm xa bắn đạn trái phá cầu vồng, chống người và công trình, công sự. Pháo có thể dùng như lựu pháo với tầm xa hơn hoặc dùng để đấu pháo rất ưu thế. Do cùng cấu tạo nòng, lựu pháo tầm xa đôi khi được cải tiến đặt trên xe tăng dùng như súng chống tăng, như khẩu M-46 có nòng giống nòng xe tăng hạng nặng JS-7 Nga trước đây. So với lựu pháo tầm ngắn, lựu pháo tầm xa cồng kềnh nặng nề.

[sửa] Pháo đa năng nòng trung bình

D-30 Liên Xô. 3,2 tấn. 122mm. Bắn xa 21km. Tỷ lệ CaL 38. Tốc độ bắn 7-8 phát/phút.

Flak 88mm thể hiện ưu thế trên chiến trường bởi đa năng, nó có thể phòng không, chống tăng, bắn trái phá. Tuy nhiên, nhược điểm của nó là quá cồng kềnh. Tiếp theo khẩu Flak 1937 88mm của Đức, người ta thấy ưu thế của loại pháo đa năng trên tiền duyên. Ví dụ, thay cho 3 khẩu làm ba chức năng chống người-công sự-xe tăng thì ta dùng 3 khẩu đa năng, sức mạnh tăng gấp 3 trong mỗi nhiệm vụ. Tuy nhiên, ở tiền duyên cần một khẩu pháo linh hoạt khi bắn và cơ động khi hành quân hơn là Flak 88mm.

Khẩu D-30 122mm Liên Xô được cải tiến nhiều lần và tranh bị hết sức rộng rãi ở trên 60 nước. Pháo được cải tiến từ khẩu 122 mm howitzer M1938 (M-30), tuy nhiên, phần nòng thì lấy của xe tăng IS-2. D-30 có chiều dài nòng CaL cỡ 38, quay tròn 360 độ trên giá 3 chân, ngỏng -7 độ đến +70 độ. Tầm bắn đạn trái phá cỡ gần 30kg đạt 15,4 km tối đa, với đạn trái phá có tên lửa là 21km. Tốc độ bắn 7-8 phát phút. Khối lượng chiến đấu 3 tấn 2. Khác với Flak 1937 88mm, D-30 122mm có bánh xe và khả năng co lại khi hành quân, tốc độ thu pháo và triển khai chiến đấu rất nhanh.

Trong điều kiện chiến trường hiện đại, pháo kiêm 3 chức năng: chống tăng, lựu pháo và dã pháo. Vì vậy pháo mới đắc dụng và được nhập khẩu, sản xuất theo bản quyền và copy trái phép hết sức rộng rãi. Pháo được sử dụng ở tiền duyên trong chiến tranh chính quy, khi cần có thể đứng một chỗ chống tăng, hay tiến lên theo bộ binh, hay tụt lại làm lựu pháo tầm khá xa...

Pháo binh Việt Nam dùng đủ các loại pháo như: Pháo chống tăng D-44 85mm, Lựu pháo tầm xa M-46 130mm, Pháo đa năng D-30 122mm.

[sửa] Pháo nòng dài bắn thẳng, pháo chống tăng, pháo trên xe tăng

Pháo phòng không Flak 88mm Đức Kiểu 1937. Tỷ lệ chièu dài nòng cal 56, bắn đạn 9,4kg sơ tốc 820m/s. Đầu Chiến tranh Vệ Quốc, người Đức không có pháo trên xe nào bắn thủng được giáp xe KV nên hạ nòng khẩu súng này bắn thẳng. Điều đó đã thúc đẩy các nhà thiết kế cải tiến các pháo phòng không bắn phát một, cho ra đời pháo chống tăng. Sau này, khẩu Flak 88mm cải tiến dặt trên xe Tiger 2 có cal đến 70.

Pháo chống tăng Đức Flak 88mm Kiểu 43/41. cal 71. Bắn đạn dài 822mm. đầu đạn 9,4kg sơ tốc 1000m/s. Vừa chống tăng vừa bắn gián tiếp.

Pháo chống tăng MT-12 100 mm nòng trơn Nga. Pháo bắn đạn tốc dộ cao xuyên giáp ổn định cánh đuôi, có guốc giảm cỡ, xuyên 225 mm thép cán ở 1000 mét.

Phần đầu đạn mới ra khỏi nòng của APDS-FS, thanh xuyên KE đang bỏ guốc Sabot.

Pháo nòng dài bắn thẳng, như khẩu 85 mm D-44, D-74 122 mm Nga, L lớn (hơn 50). Pháo dùng ở tiền tuyến, bắn thẳng (đúng hơn là bắn trực tiếp, bắn mục tiêu nhìn thấy). Do đường đạn căng nên chống mục tiêu di động tốt, còn gọi là pháo chống tăng. Độ chính xác phải cao, nòng pháo giữ hướng trong phát bắn và giá pháo ổn định sau mỗi phát bắn.

Pháo trên xe tăng cũng vậy nhưng đôi khi không có khối lùi và máng, hoặc có nhưng ngắn. Pháo xe tăng và tầu chiến sử dụng vật liệu tốt, gia công kỹ dể lấy toàn bộ khối lượng tầu hay xe hãm pháo mà không biến dạng, cho đường đạn rất tốt. Pháo dùng trên xe tăng ngày nay được hệ thống điện tử ổn dịnh tầm hướng tự động khi di chuyển.

Với pháo kéo, các pháo chống tăng có bộ giá pháo, càng pháo và đặc biệt là máy hãm lùi và máy đẩy về được thiết kế đặc biệt. Mục tiêu của thiết kế phải đảm bảo đường đạn thật chính xác, nòng hầu như không đổi hướng khi đạn còn trong nòng. D-44 có bộ hãm đặc biệt, khi đạn còn trong nòng nó không hãm, sau đó được hãm bằng lực đồng đều nhờ một cần điều khiển tiết lưu. Nòng cũng thấp so với càng, thường càng làm cao để hướng nòng thay đổi ít sau phát bắn.

Trước Thế chiến II chưa có Pháo chống tăng. Trong Thế chiến thứ hai, các pháo nòng dài bắn thẳng được cải tiến từ các pháo phòng không bắn phát một (như khẩu Flak 88 mm Đức, khẩu 76 mm và 85 mm chống tăng Nga). Loại xe tăng thông dụng ngày nay gọi là MBT, chiến đấu chống lại cơ giới. Đạn xuyên giáp làm rất công phu, đạn xe tăng rất khác với đạn pháo khác.

So với lựu pháo nòng ngắn, pháo nòng dài bắn thẳng bắn đạn nhẹ nhưng sơ tốc lớn, đạn APDS-FS không mang thuốc nổ phá theo, đạn APDS-FS-DU làm bằng uran có tỷ khối đến trên 19. Pháo cũng rất gọn nhẹ vì phải chiến đấu ngay trên tiền tuyến, rất cần cơ động. Tầm hiệu quả chống tăng rất thấp so với tầm tối đa, kể cả tầm tối đa bắn trái phá. Như khẩu D-44 85mm diệt MBT 1 km và bắn trái phá 15 km.

Những yêu cầu xuyên giáp dẫn đến chuyển sang nòng trơn. Đạn mũi tên KE giảm cỡ nhẹ, sơ tốc lớn, có khả năng xuyên tốt hơn, ít lực cản, đường đạn tốt. Nhưng đường kính nhỏ nên hiệu ứng con quay không đủ làm đạn ổn định. Vì thế người ta chuyển sang dùng ổn định cánh đuôi và pháo nòng trơn. Liên Xô đi tiên phong việc bỏ nòng xoắn truyền thống vào những năm 1960, một phần của chương trình chế tạo xe tăng thế hệ mới T-64, T-72... Đến thập niên 1970, pháo dùng trên xe tăng các nước khác dần chuyển sang nòng trơn. Nòng trơn bền hơn, đặc biệt khi sơ tốc đạt 1850m/s như ngày nay, nhưng nòng trơn yêu cầu gia công nòng và đạn chính xác hơn.

Ngoài pháo chống tăng mặt đất và xe tăng, hồi Thế chiến thứ hai có loại "xe diệt tăng" (tank destroyer). Đây là các xe diệt tăng rẻ tiền, chế tạo trong lúc thiếu xe tăng. Ví dụ, khẩu ISU-122, lắp trên thân xe KV2, mang pháo 122 mm D25 nòng dài (thực chất là ISU-152 thay súng). Loại pháo chống tăng tự hành này về sau mất giống. Ngày nay các xe diệt tăng thường mang đạn tự hành chống tăng-ATGM, như 9M123 Khrizantema, phương Tây thường gọi là AT-15.

Thời cổ, "field gun", tiếng châu Âu chỉ pháo mặt đất bắn thẳng cơ động, dễ kéo đi cùng đội hình bộ binh, hỗ trợ bám sát bộ binh, hơi giống nhiệm vụ lựu pháo tầm ngắn và pháo nòng dài bắn thẳng. Vì vậy, "howitzer" và "field gun" hay được dùng lẫn.

[sửa] Pháo tự hành, Pháo tự hành bọc thép, pháo tự hành tấn công.

Pháo tự hành tấn công M109 Mỹ 155mm CaL 19,5 ở Việt Nam, tốc độ bắn cao nhất 4 phát/phút. Mẫu ban đầu M109-155 mm ngày nay trở thành thủy tổ của nhiều loại, được coi là chuẩn mực của phương Tây. Ban đầu dùng nòng ngắn, nhưng ngày nay các kiểu hậu duệ của M109 đều nòng dài.

Pháo cấp chiến dịch M-46 Nga (lựu pháo tầm xa). Tầm bắn tối đa ban đầu 22,5 km, trong Chiến tranh Việt Nam đạt 27,5 km. Sau này đạt 38 km. Đầu đạn 33,5 kg. Tốc độ bắn 6 phát/phút. Tỷ lệ chiêu dài nòng cal=52.

Pháo có động cơ tự di chuyển không cần kéo là pháo tự hành viết tắt là "SPG" (self-propelled gun). Có thể dã pháo tự hành, lựu pháo tự hành và có pháo tự hành bọc thép tức pháo tự hành có giáp (trong khi chiến đấu).

Lựu pháo tầm ngắn tự hành bọc thép, được gọi là pháo tự hành tấn công, một bộ phận của binh chủng hợp thành, dùng để chống các công sự và bộ binh đối phương, cũng nhiệm vụ tiền duyên như lựu pháo nòng ngắn trước đây, nhưng ưu thế bằng động cơ mạnh và thêm nữa là vỏ giáp khi chiến đấu. Trong Thế chiến thứ hai, pháo tự hành tấn công SU-152mm nòng ngắn bắn đạn cỡ lớn có tác dụng mạnh. Lúc đó, pháo tự hành tấn công bọc thép, lắp lựu pháo nòng ngắn, không có tháp pháo quay, đặt trên thân xe tăng cho dễ sản xuất lớn.

Lựu pháo tầm xa, lựu pháo nòng trung bình, dã pháo tầm xa tự hành và có bọc thép, nòng trung bình hay dài, rất lợi thế khi đấu pháo tầm xa. Thực tế, dã pháo bắn gián tiếp có xác xuất trung mục tiêu xe cộ không đáng kể, mảnh văng lại vô ích với giáp. Sau này, các pháo tự hành tấn công thường dùng nòng dài trung bình và tháp pháo quay, hậu duệ của SU-152mm là 2S3 M-1973 Akatsiya. Nhờ cấu tạo này chúng vừa làm lựu pháo, vừa làm dã pháo, mặt nào cũng ưu thế.

Trong chiến tranh Việt Nam Mỹ đưa vào trang bị khẩu M109, tuy nhiên nó không được thành công lắm vì nòng quá ngắn, không còn thích hợp với thời cuộc, ngay khi mới ra đời. Cụ thể hơn, Việt Cộng không mấy khi đánh bằng phòng tuyến với công sự để pháo này bắn, có L19, pháo khó làm nghề nghiệp gì khác ngoài nhiệm vụ tấn công công sự.

PzH 2000 là pháo có phần xe giống M109, nhưng khẩu pháo trên xe là khẩu Rheinmetall 155mm L52 do Đức chế tạo. PzH 2000 nặng 55 tấn như một cỗ xe tăng hạng nặng. Nga có Msta. Ngày nay, pháo tự hành tấn công có các bộ phận cơ khí hóa và tự động hóa, như tự nạp đạn, ổn định tầm hướng định vị, thông tin... Msta bắn được đạn tự hành.

Loại SPG không bọc thép dần dần bị loại bỏ, như M107. Bên Nga có loại 2S7 có cấu tạo như M107, cỡ nòng 203 mm. 2S7 có máng nạp đạn thủy lực, như cánh tay người máy bên phải xe, tổ chiến đấu không phải mang đạn và liều lên mặt xe, tốc độ bắn cao và ổn định hơn M107. Pháo lớn nếu không tự hành và bọc thép rất yếu. Ví dụ, M107 Vua chiến trường ở Việt Nam nạp đạn thủ công rất chậm, tổ chiến đấu 8 người trèo lên mặt pháo cao, dễ tổn thương, bắn rất chậm. Trận chiến thê thảm của vua chiến trường là Đường 9 Nam Lào 1971, bị M-46 bắn tơi bời.

Gần đây, châu Âu, Nga, Mỹ đều phát triển pháo tự hành tầm xa lớn, bắn được đạn tự hành. Tuy nhiên, chỉ có hai pháo Msta Nga, PzH 2000 Đức là đi vào thực tế, pháo Crusader Mỹ tạm dừng chương trình.

[sửa] Pháo bắn nhanh, pháo cơ khí hóa, pháo tự động

Pháo bắn nhanh trước đây thường chỉ áp dụng cho các pháo nhỏ như pháo phòng không, thường dùng các cơ cấu lùi, trích khí. Các pháo có động năng đầu đạn lớn thường khó làm được pháo bắn nhanh, do cơ cấu máy móc cần rất khỏe khó làm phức tạp. Gần đây, xuất hiện nhiều loại pháo bắn nhanh bắn đạn động năng đầu dòng lớn.

Các pháo cơ khí hóa trên các xe có pháo cho phép khả năng đối kháng tăng vọt. Chúng có máy móc vận hành bằng động cơ, thông qua thủy lực, khí nén hoặc điện năng. Vasiliy Mendeleev (1886-1922) là người đầu tiên đưa ra ý tưởng như vậy nhưng đồ án không được thực hiện. Hiện nay, các pháo tăng và một số loại xe khác đều có ổn định tự động nòng khi di chuyển.

Các pháo trên xe tăng của T-64 đến nay sử dụng cơ cấu máy thủy lực băng đạn tròn bắn đạn liều rời. Băng đạn nằm ở phần tháp pháo chìm trong thân xe, quay tròn được, việc quay này cho phép chọn đạn. Đạn được qay đến vị trí chọn sẽ được tay máy thủy lực nhồi vào nòng. Xe tăng T-72 trở đi có thêm phần giao tiếp lập trình cho những đầu đạn có phần điện tử, qua đó máy tính truyền lệnh cho đầu đạn trước khi nạp. Nhờ vậy, xe tăng tự động chọn đạn, bắn được nhiều loại đạn, đặc biệt là có tốc độ bắn rất cao, bắn trong khi di chuyển mạnh... Việc cơ khí hóa cũng làm bớt người trên tháp pháo, giảm thể tích và tăng độ dầy vỏ xe. Vì vậy, việc cơ khí hóa pháo trên xe tăng là một yêu cầu thiết yếu tăng ưu thế khi đấu tăng-nhiệm vụ quan trọng nhất của xe tăng.

Xe tăng AMX của Pháp chọn cơ cấu đạn liền, điều này làm tốc độ bắn cao nhất trong số các xe tăng hiện nay. Kiểu băng đạn lắp đạn liền này cũng được Nga và Ucraina thiết kế để bắn đạn 120mm tiêu chuẩn phương Tây

Các xe tăng không có cơ cấu này như M1A1, M1A2 phải di chuyển chậm để nạp đạn, bắn chậm, không tin cậy.

Msta-dã pháo tầm xa có hệ thống máy tính điều khiển tự động khi đấu pháo. Máy tính điều khiển hệ thống nạp đạn, hiệu chỉnh nòng, bắn tự động, với sự hỗ trợ của các hệ thống thông tin và định vị.

Xe cũng kết nối được mệnh lệnh từ tiền duyên để bắn đạn chính xác cao tầm xa theo yêu cầu.

Khi sử dụng như dã pháo, máy tính tự theo chương trình bắn như tốc độ bắn, loạt bắn, di chuyển mục tiêu... Nhờ vậy, Msta khi làm dã pháo nhanh chóng bắn chính xác mục tiêu ở xa. Hơn nữa, xe được bọc giáp chống mảnh, nổi trội khi đấu dã pháo.

[sửa] Súng cối

Cối của Leonid Gobyato, súng dễ di chuyển và có khóa tầm

Bắn súng cối 60mm M224

Đạn cối

| Cối Thế kỷ 20 | Cối Thế Kỷ 19 Cối cổ

Ngày nay, súng cối vẫn được định nghĩa là súng có tỷ lệ chiều dài nòng CaL nhỏ hơn 10, rất thấp, nhưng cũng cao hơn một số loại sơn pháo hay lựu pháo đầu thế kỷ 20. Đầu Thế Kỷ 20 Cối mới phát triển, nó tăng tỷ lệ chiều dài nòng lên chút nhưng quan trọng nhất là hình thành cơ cấu giá tầm hướng chỉnh được cùng phương pháp ngắm bắn gián tiếp.

Leonid Gobyato và Roman Kondratenko, hai viên tướng Nga là những người đầu tiên chế ra súng cối dễ mang vác cho bộ binh, ứng dụng trong trận đánh cảng Đại Liên, chiến tranh Nga Nhật. Wilfred Stokes, Anh năm 1915 chế ra cối Stokes chỉ cần 1 người mang. Đức sản xuất súng cối gần giống ngày nay trong Thế chiến 1. Ví dụ khẩu 7.58 cm Minenwerfer (trang bị 1916), thuộc nhóm Minenwerfer (bắt đầu phát triển 1913). Trước đó, súng cối nằm trong nhóm súng đặt cố định.

Đến Thế Chiến II thì cối đã phổ biến và giống ngày nay. Những cối nhỏ như 60mm, 81mm, 82mm đều có cấu tạo đơn giản. Một cái đuôi nòng tròn như tay nắm của Thần cơ thương pháo tống lực giật vào đế và xuống đất, giữa nòng có giá 2 chân, chố gá giá có khóa tầm hướng bằng trục vít, nòng trơn. Cối 60mm và cối 81mm (phiên bản khác là cối 82mm dùng cho đại đội và tiểu đoàn bộ binh đi bộ.

Đạn cối cũng đơn giản rẻ tiền. Nó được đúc bằng gang rẻ tiền và chả cần chính xác cho lắm, đạn ổn định cánh đuôi, cánh đuôi hơi nghiêng để bù sai chế tạo. Trong cần cánh đuôi là liều nguyên, đuôi liều này có hạt nổ giữa các cánh đuôi, đập vào kim hỏa ở đáy nòng. Cần cánh đuôi khoan nhiều lỗ để thoát lửa, khi chưa nổ, các lỗ nhỏ này bịt giấy. Quanh cần cánh đuôi có thể buộc thêm các liều phụ để tăng tầm.

Các cối nhỏ phần lớn là bắn bằng cánh thả đạn vào nòng, hạt nổ đập vào kim hỏa chọc ngược từ đáy nòng. Loại cối ngón cái dùng 1 người có cơ cấu cò bấm bằng ngón chân cái.

Xem thêm Рассказы о русском первенстве, Publ.Molodaya Gvardiya, 1950.

Cũng có những cối nòng xoắn, chúng thường có đạn ngắn và nạp đạn sau, như khẩu cối M30 107mm Mỹ.

Súng cối vẫn được sử dụng rất nhiều, ngày càng được hiện đại hóa, như súng cối dùng composite, càng ngày càng gọn nhẹ. Súng cối nhỏ ngày nay sử dụng hết sức đơn giản, lấy tầm hướng xong, chỉ cần thả đạn vào đầu nòng. Súng cối của bộ binh đi bộ thường làm góc bắn trên 45 độ, có tầm xa (do đẩy đạn lên tầng không khí loãng) và đỡ tốn giá pháo, còn súng cối đặt trên xe cơ giới có khả năng nạp đạn tự động, tốc độ bắn cao, đặt góc bắn thấp thêm chính xác, như các súng cối bắn nhanh 73mm và 100mm của BMP. Trên các xe này, súng cối bắn nhanh dùng hỗ trợ bộ binh tấn công ở tầm rất gần. Các xe như BMP gọi là IFV.

Súng cối rất nhỏ nhẹ so với các súng khác cùng tầm bắn và khối lượng đầu đạn, tốc độ bắn nhanh gấp 5-10 lần pháo. Súng cối cũng rất rẻ, đạn rẻ, dễ huấn luyện xạ thủ. Nhưng cối không thể bắn được mục tiêu di động và tản mát lớn do đường đạn tồi. Súng cối M224 của phương Tây nòng dài 101,6 mm, cỡ nòng 60 mm, nặng 21,2 kg, tầm bắn 3490 mét, tốc độ bắn từ 20-30 phát/phút.

Bộ binh đi bộ Việt Nam được trang bị cối 60 mm cấp đại đội, cối 82 mm cấp tiểu đoàn, cấp trung đoàn có cối 120 mm. Súng cối của Việt Nam thường nòng trơn. Cũng có những đơn vị dùng cối nòng xoắn 107mm chiến lợi phẩn vẫn còn.

[sửa] Súng phòng không

Súng phòng không ZPU-4, Nga, đưa vào trang bị năm 1949

ZSU 23-4 điều khiển radar-máy tính

Súng phòng không nhỏ như 12,7mm chỉ khác khẩu 12,7mm bắn mặt đất ở giá pháo và thên thước ngắm phòng không. Các pháo phòng không lớn thay càng và cầy chống giật của pháo mặt đất thành bộ đế chống giật, gồm nhiều bàn đạp đặt xa nhau. Pháo phòng không được dặt trên giá quay 360 độ, có mâm pháo để xạ thủ ngồi quay cùng với nòng pháo. Pháo phòng không có nòng rất dài, tốc độ bắn cao. Để nâng cao tốc độ, người ta còn làm nhiều súng trên một giá pháo.

Ngày nay, "súng phòng không" có cỡ nhỏ, bắn nhanh, được điều khiển điện tử và một số chuyển sang nòng trơn. "Súng phòng không" còn có tên là "Pháo cao xạ". Hồi trước Thế chiến 2, súng phòng không là một cỗ pháo nòng dài, bắn phát một, bắn đạn trái phá vào khu vực có máy bay. Sau đó, người ta thường dùng các cỡ pháo nhỏ bắn nhanh liên thanh như 37mm, 23mm. Súng máy 14,3mm và 12,7mm dùng cho tầm thấp. Khi đã có tên lửa, thì các pháo phòng không lớn không được sản xuất nữa. Trong chiến tranh Việt Nam, khẩu ZSU-23-4mm Shilka. Pháo có 4 nòng 23mm bắn nhanh, đặt trên thân xe PT-76 tháo pháo quay bọc thép, đi kèm là radar phát hiện, bám và máy tính điện tử tính phần tử bắn và điều khiển tầm hướng tự động. Ngày nay người Nga dùng xe bắn pháo 30mm nòng trơn đi kèm với đạn tự hành nhỏ. Nhìn chung, súng phòng không ngày nay chỉ tác dụng ở tầm thấp.

Gần đây, các máy bay tầm thấp phát triển, bọc giáp tốt, nên việc sử dụng một số súng phòng không như 12,7mm bị lạc hậu. Ngược lại, các phương tiện bay tầm thấp ngày nay rất phát triển, như trực thăng vũ trang và máy bay hỗ trợ mặt đất tầm ngắn, máy bay chống tăng (như Sukhoi Su-25 Nga, A-10 Thunderbolt II Mỹ). Pháo phòng không hoạt động tin cậy hơn đạn tự hành, không thể thiếu, đặc biệt dể bảo vệ các phương thiện phòng không khác như radar và chống đạn tự hành, bom lớn của đối phương.

Xem thêm.

[sửa] Binh chủng hợp thành, các hệ thống chiến đấu dùng súng trên bộ

Thật ra, súng lớn nòng dài bắn trái phá chỉ phát triển vào những năm đầu tiên của Thế kỷ 20 bởi Đức, và sau đó là các nước châu Âu khác. Tuy nhiên, thời làm vua chiến trường của chúng quá ngắn ngủi, Trận đánh Véc-Đoong đã chứng minh như vậy. Bấy chấp các pháo khổng lồ bắn một số lượng đạn khổng lồ, quân tấn công vẫn sa lầy trong trận địa chiến. Thế chiến thứ II đã làm phá sản trận địa chiến bởi binh chủng hợp thành. Chiến tranh cơ giới hóa thần tốc trở thành chiến lược phát triển và tiến hành chiến tranh cơ bản cho đến ngày nay.

SPG, IFV và MBT là các xe chính của binh chủng hợp thành.

IFV (Nga ký hiệu BMP), là lực lượng cơ bản, chở bộ binh đến sát mục tiêu, hỗ trợ bộ binh thực hiện nhiệm vụ ở tầm rất gần bằng súng máy và súng cối bắn nhanh. Các IFV đều có tháp pháo. IFV cũng có thể có những công sự trên mặt xe hoặc lỗ châu mai để bắt từ trong xe. Nó cũng có thể diệt công sự, xe thiết giáp hạng nặng di chuyển bằng cối, tên lửa không điều khiển, tên lửa có điều khiển... nhưng năng lực các mặt này yếu. Các IFV ban đầu chỉ là những xe bọc thép chở quân vũ trang nhẹ có ký hiệu APC (Armored Personnel Carrier, Nga là BTR). Những APC đầu tiên xuất hiện từ Thế chiến 1, tồn tại trong số các xe bọc thép đa năng từ đó. Đến thập niên 196x, Liên Xô đưa ra các xe BMP-1, các nước dần dần theo. Tuy nhiên, tiến độ thay thế IFV M2 Bradley của Mỹ rất chậm, đến thập niên 199x vẫn chủ yếu là xe APC M113.

SPG, đặc biệt là SPG có bọc thép có thể dùng như pháo cấp chiến dịch bắn nhanh (do cơ khí hóa và tự động hóa xe). Nhưng ưu thế của SPG bọc thép thể hiện khi đấu pháo và di chuyển ở tiền tuyến phá hủy công sự địch. Cũng như IFV, SPG cũng có thể bắn tên lửa chống tăng, nhưng không mạnh. SPG xuất thân từ các xe bọc thép dã chiến trước xe tăng, ngay từ những ngày đầu trong Thế chiến I.

MBT, xe tăng, đây là hệ thống đối kháng trên bộ tốt nhất, giáp dầy, súng mạnh, bắn tốt. Nó là vệ sỹ bảo vệ các xe khác, chiến đấu chống lại MBT đối phương cản đường. Xe tăng ra đời đầu Thế chiến II, xuất phát từ các xe bọc thép đa năng trước đó, với nhiệm vục chính là chống xe cơ giới. Từ đó đễn những năm 196x, tồn tại hai loại xe tăng là tăng hạng trung và tăng hạng nặng. MBT xuất phát từ chương trình Xe tăng tương lai của Liên Xô với đại diện đầu tiên là T-64, kết hợp hai loại xe hạng trung và hạng nặng, chủ yếu là những đặc điểm của xe hạng nặng. Sau Liên Xô, Đức cho ra đời Leoparrd II. Mỹ thuê Đức thiết kế MBT-70, người Mỹ rút bớt kinh phí, thay giáp đúc bằng giáp hàn, bỏ giáp phụ, giảm ưu thế kết cấu khoang... của MBT-70 cho ra M1.

Nhược điểm của binh chủng hợp thành là quá đắt đỏ so với lục quân thường, điều này làm sức chiến đấu suy hao nhanh mà hồi phục rất chậm. Vì vậy, Hồng Quân đã đi tiên phong trong việc kết hợp xe cơ giới và lực lượng pháo binh cổ điển khổng lồ. Nỗi khiếp sợ cơ bản của quân Đức là những binh đoàn xe tăng Hồng Quân tiến như vũ bão sau những cuộc pháo kích thê thảm-hàng vạn đạn trên một km chiến tuyến. Sau này, Không Quân được dùng nhiều hỗ trợ Binh chủng hợp thành. Cuối Thế kỷ 20, kiểu pháo kích diện tích và ném bom rải thảm trước trận đánh lạc hậu. Thay thế vào đó là kiểu trợ chiến bám sát, điển hình như các máy bay Su-25 và A-10, hay các pháo phản lực tầm xa bắn đạn có điều khiển chính xác như BM-30, Msta, Crusader. Thay cho việc bắn dồn dập là các phương tiện hỏa lực dõi theo trận chiến, thực hiện nhanh chóng những nhiệm vụ mới xuất hiện do Lục Quân yêu cầu.

[sửa] Súng cực lớn.

Pháo lớn nhất Dora, nặng 1340 tấn, 500 nhân viên, cỡ nòng 800mm, L=40,6. Đạn nặng 8 tấn, nhồi 1,5 tấn thuốc phóng, bắn xa 40km, tham chiến ở Crimean.

Đạn 800mm của Dora

Súng cực lớn ra đời đầu thế kỷ 20. Sau hải pháo, người ta làm được pháo nòng dài, bắn đạn xuyên tầm xa, nạp đạn sau. Súng cực lớn được dùng làm Công thành pháo trên bộ và hải pháo đấu tầu trên biển. Chiến tranh thế giới 1 là thời kỳ súng lớn tham gia tích cực, như các trận đánh trên bộ Trận Verdun hay trận đánh dưới nước ngoài khơi Đan Mạch, trận Jutland.

Tuy ngay từ trận Verdun các pháo lớn đã gặp nhiều vấn đề nhưng người ta vẫn sản xuất rất nhiều thành pháo rất lớn.

Pháo trên đường ray Dora 800mm của Đức là loại pháo nòng dài lớn nhất được chế tạo, có vai trò là Công thành pháo. Dora tham gia công thành ở Crime và Leningrad. Mộ số ý tưởng của Đức chế tạo các xe tăng có pháo 280mm hay Dora, nặng hàng ngàn tấn không dược thực hiện. Khẩu cối lớn nhất là cối Little David của Mỹ, cối này không kịp tham chiến). Cuối Thế chiến II, 914mm. Các thứ pháo đó đều chứng minh nhược điểm trong chiến tranh khi công thành và sau đó tuyệt chủng.

Sau này, người ta vẫn chế một số lượng ít ỏi súng lớn để bắn đạn hạt nhân chiến thuật, như pháo tự hành Kondensator 2P 460mm Liên Xô. Đây là khẩu pháo tự hành dã chiến cỡ nòng lớn duy nhất, các khẩu khác cho đến nay đều gặp vấn đề với việc di chuyển không thỏa mãn điều kiện dã chiến. Pháo được đặt trên thân xe tăng T-10.

Ngày nay, pháo cực lớn được thay bằng các loại đạn tự hành, ví như đạn tự hành đường đạn chiến thuật hoặc đạn tự hành dạng bom có điều khiển các loại từ máy bay. Chúng có thể dùng với nhịp độ lớn, dễ sử dụng và chế tạo được quy mô lớn.

[sửa] Thiết giáp hạm, hệ thống chiến đấu dùng súng lớn nhất.

Trong thế chiến thứ 2, xuất hiện những thứ súng cực lớn như pháo trên tầu 406mm Mỹ đặt trên các tầu chiến đấu lớp Iowa và lớp Montana, 460mm Nhật đặt trên tầu chiến đấu lớp Yamato.

Thiết giáp hạm là tên loại tầu dùng các pháo đó, chúng có giáp rất dầy, ví như Yamato có chỗ dầy đến 700mm.

Các tầu trên được đóng theo chiến lược đối kháng dùng súng bắn đạn xuyên: tấn công bằng pháo nòng dài cỡ lỡn và chống đỡ bằng giáp thép. Các tầu này nở rộ sau 1936. Tuy nhiên, các tầu này chả làm được gì nhiều lắm, chúng bị máy bay đánh chìm gần hết. Một số tầu sống sót như Iowa làm nhiệm vụ rất tầm thường so với thiết kế ban đầu, nó bắn như dã pháo phục vụ Lục Quân.

Việc đóng Tuần dương hạm chiến đấu Kirov thể hiện chiến lược mới, thay súng lớn bằng đạn tự hành, thay giáp bằng hệ thống đối kháng điện tử.

[sửa] Súng phản lực

Súng phản lực chia làm hai loại, loại có sơ tốc đầu nòng lớn so với vận tốc tối đa, và loại có tỷ lệ đó nhỏ. Thực chất chúng là tên lửa, do thói quen, người ta hay gọi những loại tên lửa này là súng. Cả hai loại đều rất nhẹ, hầu như không giật. Súng phản lực có cùng lịch sử với súng có nòng, xuất hiện từ thời Tống.

Ngày nay có nhiều loại súng phản lực, phân ra 2 loại chính dưới đây. Người ta còn có các khái niệm MRLS- Multiple Launch Rocket System-hệ thống tên lửa phóng nhiều đạn, rốc két là tên lửa nói theo cách phiên âm, súng không giật là một kiểu tên lửa nhưng một phần động cơ không bay theo đạn-mà là súng, súng không giật nòng xoắn có nòng xoắn...

[sửa] Súng phản lực chống tăng

Loại súng phản lực có tỷ lệ sơ tốc / vận tốc tối đa lớn (sơ tốc bao gồm cả vận tốc dài và quay). Vì có sơ tốc lớn nên đường đạn tốt, giảm tản mát. Sơ tốc lớn làm súng và đạn có cấu tạo phức tạp, nặng nề. Để chống tăng có loại súng nhẹ dùng đầu đạn lõm, đẩy phản lực, bắt đầu xuất hiện trong thế chiến 2. Ví dụ là các loại RPG (ống phóng tên lửa mang trái phá) Nga hay súng chống tăng dùng một lần M-72 Mỹ. Chúng cho phép bộ binh mang nhẹ diệt được xe tăng, như pháo nòng dài, gây sự thay đổi lớn trong chiến thuật và cấu tạo xe. Các loại pháo không giật phản lực này dần dần thay thế cho các pháo bắn thẳng. Nhưng chúng cũng dần được thay bởi đạn tự hành chống tăng ATGM. Bazzoka B-40 là tên Việt Nam của RPG-2 Nga, B-41 là RPG-7V, ĐKZ-82mm là SPG-82mm nòng trơn, ĐKZ-73mm là SPG-9 73mm nòng xoắn. Các loại súng này có vai trò lớn trong chiến tranh hiện đại, thực chất diệt nhiều xe cộ nhất sau Thế chiến 2. Loại súng này cũng mở đường cho máy bay diệt tăng hiệu quả. Người Nga sản xuất súng không giật bắn đạn cháy.

Từ những năm 1960, Súng phản lực chống tăng được thay dần bởi các đạn tự hành, do độ chính xác không phụ thuộc vào sơ tốc nữa nên phần súng giảm đi.

Pháo phản lực chống tăng nòng xoắn 73mm SPG-9, Nga. Vận tốc đầu nòng trên 300m/s, sau tăng lên tối đa đến trên 700m/s. Xuyên giáp 400mm, tầm bắn khoảng 1km. Tên Việt Nam là ĐKZ-73mm.

Hệ thống phóng tên lửa nhiều nòng BM-21 Grad, 240 quả đạn 122mm này bắn đi chưa đến 1 phút

[sửa] Súng phản lực bắn đạn trái phá

Loại súng phản lực có tỷ lệ sơ tốc / vận tốc tối đa nhỏ được dùng như lựu pháo. Các giàn pháo phản lực nhiều nòng-hệ thống tên lửa phóng nhiều đạn-MLRS-(Multiple Rocket Launcher System) có tốc độ bắn rất cao, tác dụng tốt khi chế áp bộ binh, bắn chuẩn bị tấn công hay đấu pháo. Có thể được chế tạo có tầm xa hoặc ngắn. Pháo phản lực có tản mát đạn lớn, ngày nay được cải thiện nhờ điều khiển đường đạn điện tử.

Hồi Thế chiến 2 Katyusha BM-13 Nga là vũ khí loại này lần đầu được sử dụng rộng rãi (Phiên âm tiếng Việt là ca-chiu-sa, tên một bài hát phổ biến). Hồi chiến tranh Việt Nam hay dùng BM-13. Hệ thống BM-21 gồm một xe tải chở 40 ống phóng 122mm, phóng đạn 9P132 nặng 18,3kg, dài 2,75mm đi xa 32,7km, loại đạn dùng hồi chiến tranh Việt Nam bắn xa 18km. Ngày nay người Nga có BM-30 Smerch 300mm, tầm 70km, đầu đạn 233kg. Vào những năm 199x, BM-30 tăng tầm bắn lên 90km bằng đạn tự hành, được hỗ trợ bởi UAV (Pchela-1 dùng nhiều lần và T-92 dùng một lần). Người Mỹ có M270 MRLS. MLRS đắc dụng trên máy bay, nơi không chịu được phản lực từ súng kín nòng lớn.

Từ hồi Thế chiến 2 đến giờ, động cơ tên lửa dùng cho loại này phát triển nhanh chóng. Đến nỗi, ngày nay, các đan tự hành đường đạn mang đầu đạn chiến lược và nhiều tên lửa đẩy vũ trụ cũng sử dụng loại động cơ này. Đây là động cơ dùng nhiên liệu rắn. Thành phần cơ bản là chất kết dính, chất oxy hóa và phụ gia. Katyusha sử dụng chất kết dính gốc xelluloz hay dầu mỏ. Ngay nay người ta sử dụng các cao su không chứa lưu huỳnh trộn thêm bột nhôm. Nhiên liệu được đúc thành hình trụ có lỗ rỗng hình sao, cháy trong ra. Cũng có một số MRLS dùng động cơ nhiên liệu lỏng, nhưng giá thành cao.

Các tên lửa (rốc két) của đạn nhiên liệu rắn thường có máy đẩy và động cơ thống nhất thành một khối. Ngày nay, người ta thường dùng loại động cơ tên lửa nhiên liệu rắn cháy trong ra lỗ sao, loại này lấy ngay thuốc nhiên liệu làm vách chịu lực của buồng đốt và ống phụt, thuốc nhiên liệu cũng là động cơ, là máy đẩy luôn. Cũng vì vậy mà động cơ tên lửa (rocket motor) và máy đẩy tên lửa (rocket engine) thường dùng lẫn mà không sai, khác với các loại động cơ máy đẩy khác, như của máy bay-tầu thủy-ô tô.

[sửa] Súng nhỏ

[sửa] Súng cầm tay nòng ngắn

Các súng cầm tay nhỏ gọn nòng ngắn gọi chung là "súng ngắn", tiếng Anh là pistol. Những súng cầm tay nòng ngắn mạnh thường sử dụng đạn ngắn nhưng đường kính lớn, giảm hạn chế do chiều dài nòng gây ra.

Súng ngắn có ổ xoay còn được gọi trong tiếng Anh là revolver.

[sửa] Súng ngắn bắn phát một

Nagant M1895. Các ổ đạn lần lượt quay vào nòng, điển hình của súng ngắn bắn phát một cuối thế kỷ 19

Tuy từ "súng ngắn" trong khoa học quân sự chỉ chung các loại súng cầm tay nòng ngắn nhưng dùng trong ngôn ngữ thông thường hơi khác, loại súng cầm tay nòng ngắn gọn nhỏ bắn phát một được gọi là súng ngắn. "Súng ngắn" gọn nhỏ chứa ít đạn, bắn phát một dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Súng này còn hay được gọi là "súng lục", "súng sáu". Súng ngắn có từ thời súng kíp, để tăng số lượng đạn nạp sẵn, người ta làm 2 nòng. Khẩu Colt-1851 Mỹ hồi giữa thế kỷ 19 dùng ổ quay 6 buồng đốt, đạn vỏ giấy, có lẽ là súng dùng đạn có vỏ đầu tiên, vì nó mà có tên "súng lục". Đến đầu thế kỷ 20 các súng ngắn phát một dùng băng xoay vẫn phổ biến, như Browning, Nagant M1895.

Ví dụ về súng ngắn ngày nay (còn gọi là súng ngắn tự động) như Fedor Tokarev TT-33 thế chỗ Nagant M1895. (Tokarev-Tula kiểu 33, Tokarev ở Tula, hay được gọi tên tiếng Việt là K-54), khẩu này ban đầu bắn đạn 7,63 x 25mm, các phiên bản hiện đại (vẫn sản xuất) dùng cỡ đạn 9mm. M1911 Colt cũng thay thế cho các súng ổ xoay. Thời đó hàng xì tin là FN M1900 John Browning (1896). Makarov là đời thay thế cho TT-33. Thay cho ổ xoay là khóa nòng lùi.

Trong hồ sơ thuế, hải quan của Việt Nam phân biệt súng ngắn và súng ổ xoay-để tương thích với tài liệu tư pháp nước ngoài. Nhưng trong ngôn ngữ dùng chung súng ngắn.

[sửa] Súng máy nhỏ. Súng cầm tay nòng ngắn liên thanh

Loại súng máy dùng chung đạn với các súng ngắn gọi là "súng máy nhỏ", ví dụ PPSh-41 hồi thế chiến 2 (tên Việt Nam là K-50). Khẩu súng máy nhỏ nổi tiếng ngày nay là UZI của Israel, thiết kế đầu những năm 1950, đến năm 1951 được chấp nhận trang bị, năm 1956 tham chiến lần đầu tạo thành công lớn. Súng UZI dùng cỡ đạn 9x19mm NATO Parabellum, cải tiến từ khẩu CZ Model 25 của Tiệp Khắc. Các súng trường và súng liên thanh nhỏ đều có những ưu thế riêng. Súng liên thanh nhỏ có uy lực rất mạnh ở tầm gần. Tuy nhiên, cũng rất khó sử dụng chúng ở tầm 200 mét như các thông báo. MP7 mang đạn đường kính nhỏ 4,6x30mm nên gọn hơn, nặng 2kg đầy đủ băng 40 viên.

Một số súng cạc bin tính năng không khác nhiều súng ngắn bắn nhanh, như AK-74U (AK-74 nòng ngắn) nặng 2,71 kg. Các súng ngắn bắn liên thanh có thể dùng máy lùi hay trích khí (MP7).

Nhiều người hay nhầm Submachine gun là tiểu liên.

[sửa] Vũ khí cá nhân chính, súng trường

Băng đạn súng SG550

đạn có khe móc. 1 đầu đạn. 2 vỏ đạn. 3 thuốc đạn. 4 khe móc. 5 hạt nổ

Súng trường, đọc tiếng Việt đúng là súng dài, tuy nhiên trong tiếng châu Âu ngày nay, súng trường được gọi là rifle, tức là nòng xoắn, đây là thói quen nói tắt súng dài nòng xoắn. Thực ra các súng hỏa mai, súng kíp nòng trơn đã phân ra súng nòng dài làm vũ khí chính của bộ binh, súng nòng ngắn dắt lưng cho gọn, súng trung bình là cạc bin (súng kỵ sỹ).

[sửa] Súng trường phục vụ

Đầu thế kỷ 19, trong khi châu Á vẫn mải mê với đại bác thì châu Âu đã phát triển và trang bị nhiều súng trường, từ đó, súng này trở thành vũ khí chính. Cuối thế kỷ 19, súng trường bắn phát một có các loại khóa nòng then xoay, đòn bẩy, bơm, khối quay. Để thống nhất, người ta chọn ra một mẫu súng trường, lấy làm tiêu chuẩn cho quân đội mỗi nước trong một thời kỳ. Súng đó sẽ được gọi là "súng trường phục vụ". Điều này làm thuận tiện việc huấn luyện, hậu cần, trang bị...đảm bảo huy động sức mạnh tối đa của đất nước khi có chiến tranh.

Loại súng được chọn sẽ được công cộng hóa.

Từ bản quyền được cấp, các hãng sẽ duyệt mẫu súng riêng với chủ bản quyền như Quân đội, từ đó nhận hợp đồng chế tạo và súng sẽ hơi khác ở mỗi hãng.

Sau Nga và Đức, mãi đến gần Thế chiến 2 các nước khác mới không hoàn toàn đặt ra súng trường phục vụ. Ví dụ như Mỹ, họ chỉ đặt ra yêu cầu

[sửa] Gewehr 1888 (G88), Mosin và Mauser.

G88 ngắn nòng (cạc bin)

Mosin 1891/30

Mosin 1891/30

Mauser 98

Springfield Model 1903

Đây là tên thường gọi của hai loại súng trường phục vụ của Nga và Đức. Chúng ra đời thập niên 189x. Các súng này ra đời cùng với việc xuất hiện đạn có vỏ, đáy vỏ dầy, có gờ hay rãnh móc, đầu đạn có vỏ mềm.

Mosin và Mauser đều là tên hai nhà thiết kế, sản xuất súng. Mosin thường được phương Tây gắn chữ Mosin-Nagant để kể công, nhưng thật ra cái bộ phận Nagant trong đó đã biến mất từ lâu. Mosin và Mauser là hai súng trường được sản xuất nhiều và dùng lâu nhất thế giới. Hàng trăm triệu các súng này đã được làm và dùng cho đến nay, gấp hàng chục lần các súng trường hạng nặng khác. Chúng đều không phải là một khẩu cụ thể, mà là một tập hợp các tiêu chuẩn về hình học, vật liệu, công nghệ, tính năng, sử dụng...được sản xuất ở nhiều nước, nhiều hãng khác nhau trong các điều kiện rất khác nhau.

Mosin và Mauser là những súng trường phục vụ điển hình, trong khi đó, ở các nước Anh-Mỹ-Pháp không có khái niệm súng trường phục vụ hoàn chỉnh như chúng. Khác với các súng khác, bản quyền Mosin và Mauser được nhà nước nắm giữ và đặt hàng rộng rãi. Chúng được thiết kế để sản xuất ở nhiều điều kiện khác nhau. Trong khi đó, các súng trường Mỹ chỉ sản xuất trong điều kiện của một hãng nào đó. Phần công cộng duy nhất là trang bị, chứ không phải thiết kế và sản xuất.

Các súng Mosin và Mauser đều được ra đời trong một cuộc thi thuyển thiết kế rộng và lâu, rồi một quá trình cải tiến cũng lâu dài. Kết quả của những cuộc thiết kế đó là hai khẩu súng có chất lượng, số lượng sản xuất, thời gian và khu vục sử dụng vượt xa vời so với tất cả các loại súng cùng thời khác. Thời gian và không gian sản xuất các súng này cũng vậy, những cải tiến Mauser mới nhất được Tầu Tưởng nhái trong các công xưởng không còn gì tệ hơn chẳng hạn.

Cả hai khẩu ban đầu đều được thiết kế hai phiên bản súng trường và cạc bin hơn ngắn nòng, nhưng sau những năm 193x, chỉ còn phiên bản cạc bin của chúng được sản xuất.

Mauser là súng trường trang bị chính trong quân chủ lực Việt Minh thời đánh Tây, nguồn cung chủ yếu là chiến lợi phẩm lấy từ Pháp và Tầu Tưởng, sau đó là từ viện trợ. Thời đầu đánh Tây, cũng có một ít súng Mosin đến tay Việt Minh, từ người Nhật, rất cổ (Nhật thu được từ chiến tranh 1904-1905). Cuối cuộc kháng chiến thì nhận được một số Mosin chính hãng bổ sung, nhưng do không thống nhất đạn, nên quân chính quy chuyển cho các đơn vị địa phương. Đến đánh Mỹ thì Mauser bỏ hết sau Kế hoạch Z, phần lớn súng được đem huấn luyện hoặc nấu sắt vụn.

Vào năm 1882, người Nga đã đặt ra yêu cầu thiết kế súng có hộp đạn trong. Ban đầu là những cải tiến của khẩu súng Berdan cũ đang dùng. Tuy nhiên, người Nga nhanh chóng phát hiện ra rằng, cần phải thay đổi hoàn toàn bằng một loại súng mới. Họ tổ chức một cuộc thi tuyển thiết kế súng trên quy mô toàn châu Âu trong nhiều năm, năm 1888, thành lập Hội đồng thử nghiệm súng có băng đạn.

Sergei Ivanovich Mosin thiết kế một khẩu súng năm 1889, đến năm 1891, trong cuộc chọn chung kết, Mosin thắng với một điều kiện là sử dụng tay kéo khóa nòng của Nagant. Tiền bản quyền được Hội đồng trả tiền cho Nagant và Mosin được tổ chức sản xuất súng. Ban đầu, có 3 phiên bản, phiên bản bộ binh dài, phiên bản long binh và kỵ binh (gọi là Cossack) ngắn. Đến năm 1930, phiên bản Mosin 1891/30 ngắn theo các bản Cossack, được gọi là cạc bin. Phiên bản Mosin 1891/44 năm 1944 hoàn thiện và được dùng nhiều ở Việt Nam (tên Việt Nam là K44. Người Nga chọn loại đạn gờ móc, lạc hậu nhưng thích hợp với công nghệ non kém của Nga lúc đó, điều này về sau cản trở việc phát triển súng máy Nga mà rất khó bỏ. Mauser hoạt động nuột nà hơn nhưng Mosin khỏe hơn, nó hơi to nặng thích hợp với người Nga nhưng hơn nặng và dài so với các giống người khác. Mosin có khả năng sản xuất tốt hơn.

Mauser ra đời dần dần. Tiến bộ hơn Nga, từ những năm 187x Đức đã có những súng trường tiên tiến nội địa, Mauser đã dẫn đầu về thiết kế súng và ông hoàn thiện nó liên tục. Cũng như Nga, cuối những năm 188x Đức đặt ra Hội Đồng Súng Cầm Tay. Không hiểu sao, Mauser đã không tham gia hội đồng. Hội Đồng nhanh chóng tiếp cận hàng loạt những tiến bộ kỹ thuật mới: công nghệ dập vỏ đạn, công nghệ bọc đầu đạn, sản xuất súng... đặc biệt là chấm dứt việc sử dụng thuốc nổ đen. Gewehr 1888 (bộ binh 1888, G88) là khẩu súng trường phục vụ đầu tiên được chấp nhận. G88 cũng có bản cạc bin, nó được sản xuất ít vì phiên bản Mauser ra liền theo. Khẩu này thiết kế không có đóng góp của Mauser và được gọi là Súng hội đồng Kiểu 88. Tuy vậy, G-88 thừa kế rất nhiều đặc điểm của các khẩu Mauser trước đó. | Xem thêm G88.

Mauser nhanh chóng nhận thấy vai trò của Hội Đồng và đem kỹ thuật của mình đóng góp, hãng hoàn thiện G88 và cho ra các Model 1889/90/91, đã hình thành nên cấu tạo súng Mauser. Nhưng chỉ đến năm 1898, khi loại đạn mới hoàn chỉnh, Mauser 1891/98 mới giống các súng sau này. Khoảng những năm 1930, phiên bản cạc bin mới được hoàn thiện và được sản xuất lớn ở rất nhiều nước. Đạn hoàn toàn không có gờ móc, hết sức tiên tiến lúc đó và thuận lợi sau này. Năm 1898, hình thành Mauser báng cải tiến ngắn Model 98k (k=kurz ngắn). Phiên bản cạc bin báng ngắn có ký hiệu Karabiner 98 kurz K98k. Cũng có người viết G98, nội bộ Đức hay dùng thể hiện súng bộ binh 98.

Tầu nhái Mauser ngay từ những ngày đầu tiên lập quốc ở Quảng Đông. Không thể thống kê được, nhưng chỉ tính trước Thế chiến II đã có hàng chục triệu Mauser chỉ tính riêng Tầu nhái. Tốc độ sản xuất Mosin cũng kinh hồn không kém, trong điều kiện công nghiệp-kỹ thuật tồi tệ mà đến 1904, Nga đã có gần 4 triệu khẩu.

Ví dụ về các súng trường không đạt hoàn toàn khái niệm phục vụ là Springfield Model 1903. Mỹ thuê Mauser thiết kế Springfield Model 1903 để thay thế Springfield Model 1892 (sao chép súng trường Krag. Tuy nhiên, Springfield Model 1903 không có khóa an toàn kim hỏa đặc trưng của Mauser. Springfield Model 1903 có đạn giống Mauser, cỡ đạn 0,308inch (hơi to hơn đạn Mosin 7,62mm do quy định rãnh xoắn), nhưng đạn sùng thuốc súng Cordic Mỹ. Loại đạn 30-03 đầu tù được thay bởi 30-06 năm 1907 với kiểu đầu đạn nhọn nặng đuôi (giống đạn Mauser và Mosin năm 1898). Việc chọn kích thước viên thuốc không kỹ và Springfield Model 1903 yếu hơn Mauser và Mosin. Springfield Model 1903 cũng không bao giờ được chấp nhận trong toàn quân Mỹ và rút khỏi vai trò súng chiến đấu quan trọng những năm 193x.

Mauser Mauser Mauser Mauser

[sửa] Súng trường bắn phát một

Đầu thế kỷ 20, thường người ta sử dụng súng trường có khóa nòng then xoay điều khiển tay. Mỗi lần bắn phải nạp đạn lại. Để nạp đạn, người bắn xoay cần gạt để mở hãm khóa nòng, kéo cần gạt về sau, vỏ đạn va phải một gờ nhô ra, bật ra khỏi súng. Sau đó, người ta chế ra băng đạn trong súng, đạn dự trữ sẵn trong súng 5-10 viên, mỗi lần bắn xong chỉ cần kéo cần gạt là tháo vỏ và nạp đạn lại được. Khóa nòng có mấu gạt móc đạn từ trong băng. Các viên đạn còn lại được lò xo đẩy vào khoảng trống.

Các khẩu Mosin và Mauser đầu là Súng trường bắn phát một.

[sửa] Súng trường chiến đấu, súng trường hạng nặng

Khẩu Winchester Model 70, bắt đầu sản xuất từ 1936, nay vẫn dược cải tiến và sản xuất, đây là loại súng trường hạng nặng. Đầu thế kỷ 20, những súng trường hạng nặng còn dược gọi là "súng trường chiến đấu", có nòng dài nhất và đường kính đạn cũng lớn. "Súng trường chiến đấu" đầu thế kỷ 20 là vũ khí chính của bộ binh, nay hay dùng cho mục đích đặc biệt, như bắn tầm xa, bắn tỉa, bắn chính xác... ví như VSSK Vychlop 12,7mm KSVK 12,7mm

Hai khẩu Mosin và Mauser đều nằm trong nhóm Súng trường chiến đấu, súng trường hạng nặng, lúc đó, cỡ súng này là vũ khí chính. Ban đầu Mosin và Mauser đều có phiên bản cạc bin, sau 1930, chũng đều được cải tiến làm ngắn gọn tiếp và đầu Thế chiến II, vẫn là súng chủ lực.

[sửa] Súng trường tự động.

Cơ cấu máy súng Fedorov Avtomat.

Fedorov Avtomat.

Sau những súng trường bắn phát một còn lại của thế kỷ 19, đến đầu thế kỷ 20 xuất hiện súng trường tự động. Có nhiều cơ chế vận hành súng tự động, lấy năng lượng từ phát đạn. Ví dụ: lùi dài, lùi ngắn, lùi dùng khối quán tính, trích khí hành trình, trích khí xung. Súng trường bán tự dộng dùng năng lượng phát nổ để tháo vỏ, nạp viên khác và lên cò, nhưng chỉ bắn phát một. Khẩu Fedorov Avtomat bắn đạn 8,5 g đi 860 m/s, thiết kế năm 1911, đến thế chiến 1 dùng băng đạn tháo được, nhưng sản xuất rất ít (25 ngàn khẩu) do những khó khăn về đạn, tuy vậy, nó vẫn là khẩu súng trường tự động đầu tiên được chấp nhận quy mô lớn. Fedorov Avtomat dùng cơ chế lùi ngắn. Sau này, súng trường tự động thường dùng trích khí, khóa nòng xoay. Hồi đầu Thế chiến 2 có STV-38, STV-40. Phía Mỹ có khẩu M1 Garand khóa nòng thích khí then xoay, nhưng vẫn dùng kẹp đạn, thiết kế đầu những năm 1930, đưa vào trang bị 1937.

Phần lớn các Súng trường tự động sau, từ Thế chiến I đến Thế chiến II đều lai súng trường chiến đấu-trung liên. Cho đến sau Thế chiến 2, các súng trường-trung liên lai này phục vụ ở tiểu đội. Nhưng trong Chechnya-1999, có vẻ như Nga lại tách chức năng chúng ra. Nguyên do có thể là AK-74 đạn quá nhỏ để thống nhất với súng trường tấn công, trong khi chức năng bắn tỉa hiện đại lại yêu cầu tăng cỡ đạn lên đến cỡ trọng liên 12,7mm. Ví như VSSK Vychlop 12,7mm và KSVK 12,7mm

[sửa] Súng cạc bin, súng trường nòng ngắn

Súng có chiều dài nhỏ hơn một chút, dùng cùng đạn với súng trường là "cạc bin" (tiếng Anh carbine, trong tiếng Việt từ này xuất xứ tiếng Pháp.)]] Sau "súng trường chiến dấu" thì "cạc bin" lên ngôi làm vũ khí chính của bộ binh, nó gọn nhẹ hơn, người lính mang được nhiều đạn hơn, bắn nhanh hơn. Hồi đầu thế chiến 2, những súng trường tự động và súng máy nhỏ xuất hiện nhiều, tỏ ra ưu thế. Khẩu cạc bin M1, sau được cải tiến thành cạc bin M2 và cạc bin M3. Khẩu cạc bin M4, phiên bản nhỏ gọn của súng trường M16A2) là những ví dụ về súng cạc bin.

[sửa] Súng trường tấn công

Súng dùng cho bộ binh ngày nay gọi là "súng trường tấn công" (tiếng Anh là assault rifle). Tên này được nước Đức đặt ra, yêu cầu của họ là người bộ binh có hỏa lực mạnh.

Trong các súng bộ binh thì súng này có nòng dài, chỉ ngắn hơn súng trường chiến đấu một chút, kết hợp các ưu thế của súng trường và súng máy nhỏ, tầm bắn hiệu quả 200-300 mét. Những súng trường trước đây có thể sát thương ở rất xa, nhưng xác suất trúng đạn thấp, ngay cả ở tầm gần này. Đến thế chiến 2, súng trường tấn công đã hoàn thiện. Lúc này đã có vỏ đạn hình côn chống tắc, dùng khe móc thay cho gờ móc với băng đạn cong tháo lắp nhanh, khóa nòng then xoay và lên đạn tự động bằng trích khí (trích một dòng khí từ nòng đẩy piston máy nạp đạn). Để phát bắn đầu tiên chính xác, các súng trường tấn công đều bắn khi nòng đã khóa, người thiết kế phải tính cân bằng súng để ổn định khi bắn. Để tiết kiệm đạn, súng cho phép chọn giữa các chế độ bắn: AK chọn bắn 1 viên và liên thanh, M16 có loại chọn bắn 3 viên và liên thanh, một số AK bắn hai viên rất gần nhau. Các súng trường tấn công đều thay được băng đạn nhanh chóng. Bằng kinh nghiệm chiến tranh người Đức chế ra MP44, còn gọi là STG44 (súng bão 44). Năm 1943, người thợ làm súng ba đời Kalashnikov kết hợp với kinh nghiệm chiến trường chế ra khẩu Avtomat Kalashnikov 1947 (AK-47), khi ông bị thương nằm viện. Khẩu súng được duyệt dùng năm 1947 và trang bị năm 1949. Sau đó, người Mỹ đưa ra M16, sau này M16 có nhiều cải tiến cho các chế độ làm việc giống với ưu thế của AK-47, như bắn tiết kiệm đạn, ổn định, tin cậy, thời điểm diễn ra những cải tiến này khoảng 197x. Tuy nhiên, không khẩu súng nào thành công như AK-47.

Người Đức đã thiết kế STG45 ngay trong Thế chiến 2 nhưng không kịp trang bị, sau này Tây Ban Nha mua bản quyền STG45 chế ra khẩu CETME những năm 1950, khẩu SIG 510 Thụy Sỹ cũng theo mẫu này nhưng dùng vật liệu mới. Các súng này dùng cơ chế lùi ngáng làm chậm. Loại lùi này dùng đòn bẩy tăng tốc dộ khối lùi, giảm khối lượng. Kỹ sư Youriy Alexandrov người Nga đưa ra mẫu khóa nòng mới là Balanced Automatics Recoil System (BARS, hệ thống lùi tự động cân bằng) đầu những năm 1970. Hệ thống này gọn nhẹ, bắn nhanh, êm, ít thay đổi hướng súng khi bắn liên thanh, dần dần thay cho kiểu khóa nòng xoay trích khí của AK-47. Khẩu súng đầu tiên dùng kiểu này là AL-7 nhưng không được duyệt sử dụng, AK-107 dùng khóa nòng lùi này.

Khác với đại bác, súng trường được thiết kế sao cho gọn nhẹ, tin cậy, chính xác nhưng tầm bắn hiệu quả thấp. Những súng trường nòng xoắn đầu tiên xuất hiện trước thế kỷ 19, nhưng đến hết thế kỷ này mới phổ biến súng trường có vỏ đạn và nòng xoắn. Do hạt thuốc nổ bé nên kkông dùng viên trụ rỗng và dùng miếng thuốc dẹt. Người ta cũng thấm các chất làm chậm tốc độ cháy lên bề mặt thuốc, để khi giảm diện tích bề mặt, tốc độ thuốc cháy ăn sâu nhanh lên, điều hòa tốc độ cháy. Vỏ đạn có gờ hay khe phía sau cùng để một cái móc trên khóa nòng móc vào, kéo vỏ đạn ra khỏi nòng. Gờ dần thay bằng khe tin cậy hơn.

Ngày nay, súng trường tấn công phát triển theo xu hướng dùng đạn đường kính nhỏ, tăng sơ tốc, tăng tốc độ bắn vừa phải, hoạt động cân bằng ổn định. Nhờ đó tăng khả năng sát thương và bắn trúng, tăng uy lực súng mà giảm được khối lượng súng đạn bộ binh mang theo. Cỡ đạn hay dùng là 5,45x39 mm Nga; 5,8×42 Trung Quốc; 5,56x45 mm NATO. Những đại diện của súng trường tấn công ngày nay là AK-107 đạn Nga, AK-108 đạn NATO (giống hệt AK-107), M16 Mỹ, câc phiên bản M16A2 M16A3 M16A4, SIG 510 Thụy Sỹ xuất xứ từ STG45, FAMAS của Pháp (dùng khối lùi đòn bẩy làm chậm, khối lùi này cũng làm nhẹ như khối lùi ngáng làm chậm) và QBZ-95 Tầu, sao chép FAMAS Pháp, bắn đạn Tầu. M4 cạc bin Mỹ, tức M16A2 nhỏ gọn, là loại cạc bin dùng như súng trường tấn công. Trong các súng trường tấn công hiện đại đó, ngày nay chỉ còn người Mỹ giữ khóa nòng xoay trích khí.

Các tiêu chuẩn đặt ra cho súng trường tấn công ngày nay là:

* Tầm bắn hiệu quả 300 mét.

* chọn chế độ bắn.

* bắn tiết kiệm đạn ở chế độ bắn chậm.

* uy lực mạnh ở chế độ bắn nhanh.

* mang được nhiều đạn.

* tin cậy khi chiến đấu.

[sửa] Súng bắn tỉa

Là Súng trường chiến đấu nhưng hiện đại và đắt tiền.

Súng bắn tỉa được chế tạo công phu, chính xác. Vì kỹ thuật phát triển mà ngày nay súng trường và súng bắn tỉa đi theo hai hướng ngược nhau, súng bắn tỉa thì đạn to, súng trường ngược lại đạn nhỏ. Trước đây, thường hay lấy súng trường chiến đấu làm súng bắn tỉa. Ví dụ là khẩu súng nổi tiếng của Thế chiến II SVD, bất kể là ta hay địch, đều quý khẩu này như vàng và vồ lấy mỗi khi gặp. SVD bắn đạn 7,63x54mmR. Mộ ưu thế nổi bật của SVD là nó duy trì độ chính xác rất cao kể cả trong điều kiện dã chiến lâu ngày, cũng như việc hiệu chỉnh súng dễ dàng.

SVD trong thực tế cho thấy một hiện tượng lạ, nữ bắn tỉa tốt hơn nam.

Sau này, các LMG trung liên có chức năng bắn phát một kiêm chức súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa cấp tiểu đội. Súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa kiểu này còn được gọi là súng trường tầm xa (viễn tân bộ thương). Ví dụ như trung liên RPK, hiểu chính xác hơn đây là súng đa năng kiêm chức hỏa lực tiểu đội+súng trường tầm xa+súng trường chiến đấu. Tuy nhiên, khi cải tiến dùng đạn nhỏ như AK-74

Súng bắn tỉa SVD cải tiến

Phiên bản SVDK bắn đạn 9,3x64mm

Cỡ nòng 9,3mm

KSVK 12,7 mm

SVDK 12,7mm. Đây là loại súng chứng minh ưu thế và được dùng rất nhiều ở Chechnya. Nó cũng chứeng minh chức năng súng trường chiến đấu ngày nay xa rời trung liên LMG

Cuộc chiến đấu của súng bắn tỉa là cuộc chiến đấu cuối của của những súng trường chiến đấu. Các xạ thủ tránh bị phát hiện trong khi đó lại ra sức phát hiện trước đối thủ, ngắm bắn cẩn thận và trang bị súng tầm xa. Một hướng nữa là thiết kế các súng bắn tỉa tàng hình, không phát âm thanh và hồng ngoại. Sau Chechnya 1999, Nga phát triển kiểu súng bắn tỉa công nghệ cao, súng bắn tỉa VSSK Vychlop 12,7mm không phát âm thanh và hồng ngoại, tốc độ đầu đạn dưới âm 290/s, đầu đạn rất nặng (56gram và 76gram-1170grain) xuyên 16mm thép ở 200 mét, xuyên qua giáp bảo vệ bộ binh cấp 5 Nga ở 100 mét. Súng chỉ dùng cho FSB vì quân khủng bố săn lùng nó gắt gao.

Súng bắn tỉa VSSK Vychlop

[sửa] Vũ khí của nhóm bộ binh, súng máy.

Hồi thế kỷ 19 người ta cũng đưa ra nhiều loại súng máy. Loại súng máy Gatling có nhiều nòng, động cơ quay các nòng chuyển giữa các máy nạp đạn, nổ đạn, tháo vỏ (ban đầu quay tay). Một loại súng máy thả đáy nòng lùi tự do làm thành khối lùi, dùng năng lượng này chạy máy nạp đạn. Một số súng máy lại dùng khóa nòng hoặt động bằng trích khí, khóa nòng xoay thay then chống. Loại súng máy này cỡ nhỏ, bán đạn súng trường, dùng cho bộ binh hay được gọi là "tiểu liên", thường được dùng cùng chức năng với súng trường tấn công, sau này bỏ đi. Loại súng máy nữa có cấu tạo như súng trường tấn công liên thanh như khẩu đại liên PKMS, trung liên RPK của Nga (cơ cấu khóa nòng xoay giống AK-47). Một loại súng máy trích khí dùng khóa nòng then chống như trung liên RPD, ngày nay dần dần bỏ. Gatling là súng máy dùng động cơ ngoài, ngày nay được cải tiến dùng trích khí, nhiều nòng. Gatling có hậu duệ là khẩu GAU-8 30mm, có thể bắn đạn xuyên giáp mật độ cao, được trang bị cho máy bay chống tăng A-10 (trang bị năm 1975, 1976) nhưng sau đó được thay bởi tên lửa có điều khiển. Trong Chiến tranh Việt Nam có khẩu M61 Vulcan lắp trên trực thăng, 6 nòng.

Loại Gatling đặt trên phương tiện vận chuyển còn được gọi là Minigun, do cỡ đạn quá nhỏ so với cỡ súng. Ví dụ, khẩu cối 82mm chỉ nặng bằng khẩu Galing 20mm.

Xem thêm về súng máy Gatling.

1862, Gatling ở Mỹ đưa ra mẫu súng Gatling, nhưng chỉ đến 1890, khi vỏ đạn hoàn thiện thì súng máy Gatling thực sự là khẩu súng máy. Hiram Maxim đưa ra súng máy dùng năng lượng phát bắn cuối thế kỷ 19. Cơ chế hoạt động của các loại súng máy

[sửa] Tiểu liên, trung liên, đại liên

Tiểu liên cấp cá nhân, trung liên cấp tiểu đội trung đội, đại liên cấp đại đội[cần dẫn nguồn]. Ngày nay rắc rối như vậy nhưng xuất phát đơn giản, Tùy cấp trang bị mà người ta gọi là tiểu, trung, đại liên cho tiểu, trung, đại đội. Khẩu 12,7mm còn gọi là trọng liên cấp tiểu đoàn. Tuy nhiên, ngày nay đội chiến đấu trên xe BMP (một tiểu đôi bộ binh cơ giới) có vài trung liên RPK, một đại liên, một súng cối bắn nhanh và có thể một 12,7mm, ngoài ra mỗi người một súng trường tấn công AK-47.

Khẩu trung liên RPK thay thế cho súng máy cấp trung đội cũ là trung liên RPD. RPK kiêm các chức năng hỏa lực tiểu đội và súng trường tầm xa.

[sửa] Đại liên cơ động. Súng máy gọn nhẹ.

Lính Công Gô và khẩu đại liên PKMD gọn nhẹ

Đại liên PKMS Nga. Nặng 9 kg bắn 1200 đạn/phút. sơ tốc 825m/s. Tay cầm trên dùng để thay nòng nhanh chóng. Dùng đạn 7,62x54mmR.

Gọi là súng máy lớn vì đây có lẽ là súng máy lớn mà bộ binh mang được khi đi bộ. Trang bị cho tiểu đội hay trung đội khi đi xe, trang bị cho đại đội khi đi bộ. Súng đại liên PKMS được mang vác bởi một người nhưng vẫn trang bị cho tổ 3 người, mang thêm đạn, nòng thay thế và cảnh giới. Súng này cũng hạn chế tốc độ bắn 1200 phát phút vì bộ binh đi bộ không mang được nhiều đạn. Súng được lắp trên một số xe như hỏa lực chống bộ binh. Ứng dụng rộng rãi trên vai lính đi bộ. Một đại đội bộ binh di bộ Việt Nam trang bị 2 khẩu, do hai tổ 3 người sử dụng.

Trước đây người ta phân ra hai loại LMG và HMG (súng máy nhẹ và súng máy nặng). LMG là các trung liên như trung liên RPKvà trung liên RPD, súng máy nặng như đại liên M1910 Maxim, đại liên DS-38, hay trọng liên DShK 1938 12,7mm.

Từ Thế chiến I, người ta thường làm chức năng trung liên LMG chung với súng trường mạnh. Các đơn vị mạnh của Việt Nam những năm 199x hiện đại hóa dần theo hướng Nga. Trung liên RPD trước đây dùng ở trung đội nay bỏ đi, thay vào mỗi tiểu đội một RPK, kiêm chức năng súng trường tấn công tầm xa và trung liên. Tuy nhiên, RPK-74 mang đạn nhỏ và gây ra cuộc tranh cãi bên Nga về chức năng súng trường tấn công, nhất là với bộ binh đi bộ. Ở Chechnya 1999, thấy Nga dùng nhiều súng bắn tỉa KSVK 12,7mm. Tuy nhiên, ở đây là bộ binh cơ giới, vấn đề mỗi lính mang một vài súng không quan trọng.

VSSK Vychlop 12,7mm được chế tạo trên kinh nghiệm Chechnya, một súng trường chiến đấu điển hình, giảm âm giảm nhiệt, có vẻ như Nga đã tách chức năng súng máy ra hoàn toàn.

VSSK Vychlop 12,7mm KSVK 12,7mm Xem thêm về các loại súng kiểu AK. Xem thêm về PKMS.

[sửa] Minigun. Súng máy hạng nặng. Trọng liên HMG.

HMG viết tắt của Heavy Machine Gun, súng máy hạng nặng, trọng liên.

M61 Vulcan 20mm (không phải là pháo). Nặng 112 kg bắn 6000 đạn/phút sơ tốc 1050m/s.

[sửa] Trọng liên cơ giới-Minigun

Là súng máy đặt giá cố định. Súng này thoải mái tăng khối lượng súng và tốc độ bắn. M61 Vulcan bắn hỏng được xe cộ nhỏ, xuyên qua giáp mỏng, tầm xa, bắn nhanh. Súng này chỉ được lắp trên xe, thường sử dụng động cơ điện. Súng Gatling cồng kềnh phức tạp cần chăm sóc nhiều, lực giật rất mạnh do nhịp bắn quá cao không dùng được cho bộ binh. Nó có cỡ nòng quá nhỏ so với khối lượng súng. Súng cũng không có khả năng xạ kích điểm vì 0,5 giây đầu nó bắn rất chậm cho dù tốc độ chung 6000 phát/phút.

Ưu thế của kiểu máy này là động cơ điện và nhiều nòng, tốc độ bắn cao, có thể áp dụng làm mát cưỡng bức, bắn nhiều cỡ đạn... thích hợp cho phương tiện cơ giới. Nga sản xuất các loại bắn đạn 7,62mmx54R và 12,7mm tốc độ bắn lên đến 10000 phát/phút. Tuy vậy, các kiểu máy trích khí vấn được áp dụng cho bộ nòng xoay, gọi là Gatling lai, cho khả năng hoạt động tin cậy và tốc độ khởi động tức thời, khắc phục những nhược điểm của máy Gatling.

Kiểu súng này cũng hay được áp dụng cho các pháo phòng không nhỏ bắn nhanh như AK-130 30mm. GSh-6-23M là loại pháo bắn nhanh nhất thế giới, 23mm, một vạn phát phút, máy trích khí. Những súng này được dùng trê các hệ thống phòng không tầm ngắn và cực ngắn, ngày nay có vai trò quan trọng trong chống đạn tự hành, tạo thành giáp điện tử của tầu chiến và đội hình bộ binh.

Nhiều khẩu G-8 đặt trên máy bay hạng nặng C-130, được hỗ trợ bởi các phương tiện định vị dẫn đường điện tử, có tác dụng như pháo hạm (cũng được gọi là gun ship). Hệ thống này mang được hàng chục tấn đạn dược từ hậu phương trút dữ dội vào mục tiêu. Đây là hệ thống sử dụng trọng liên lớn nhất được chế tạo. Tuy nhiên, số lượng chế tạo không được nhiều và lịch sử tham chiến không mấy vinh quang.

Súng có biệt danh Minigun vì cỡ đạn quá nhỏ so với khối lượng súng. Ví dụ, khẩu Gatling 20mm có khối lượng bằng cối 120mm.

[sửa] Trọng liên bộ binh, 12,7mm

Ví dụ về 12,7mm: Degtyarev DP-27 LMG 1929, DShK, DShKM-46, NSV-12,7 "Utes", Kord 12,7, Browning M2HB, General Dynamics 12.7mm / .50 XM312. Các súng 12,7mm thường dùng khóa nòng trích khí hay lùi có làm chậm, một số dùng lùi tự do.

Khác với Galing, những khẩu này chỉ có một nòng, tuy hơi nặng nhưng tổ vác đi bộ được.

Trọng liên 12,7mm có tầm bắn sát thường 7-8km, tầm bắn hiệu quả hàng km, bắn được xuyên qua các vỏ xe, kể cả một số loại xe có giáp ở tầm hàng km. Súng cũng bắn xuyên qua vỏ nhiều loại công sự. Bắn được máy bay tầm thấp.

Súng được dùng như hỏa lực của tiểu đoàn bộ binh đi bộ. Súng cũng được lắp trên các xe cơ giới, nó cần ít hậu cần các loại, mặt này thì hơn nhiều Gatling. Các xe tăng Liên Xô, Nga và phương Tây đa phần sử dụng 12,7mm làm súng nóc hoặc súng đồng trục.

Khẩu dưới đây và các hậu duệ của nó được dùng nhiều ở Việt Nam. Ngoài ra còn có Browning chiến lợi phẩm. Degtyarov - Shpagin DSKM có khóa nòng kiểu trống xoay, phần khóa nòng giống Gatling nhưng dùng chung một nòng cho nhẹ.

12,7 mm

[sửa] Một số loại súng nhỏ thông dụng. Súng ngắn bắn nhanh SMG, tiểu liên, trung liên LMG.

Súng ngắn gọn nhẹ nhưng năng lực yếu, thường dùng cho sỹ quan hay cảnh sát. Hiện nay, loại súng ngắn khá lùi đã thay thế súng ở quay.

Súng máy nhỏ SMG, Sub-Machine gun, súng ngắn bắn nhanh, có kích thước nhỏ, uy lực tầm gần lớn, hay dùng cho đặc nhiệm. Nó hay bị nhầm với tiểu liên, là súng máy các nhân trước đây biên chế trong tiểu đội, khi mà các súng chủ lực là súng trường bắn phát một hoặc cạc bin, ví dụ về tiểu liên là AR-16 và M-16. Tiểu liên ngày nay thường được chỉ các súng trường tẫn công.

Súng máy nhẹ LMG, Light Sub Machine gun, thường được dùng như là súng hỏa lực cấp trung đội trước đây, này được dùng ở cấp tiểu đội và tổ. Súng này thường được dùng với tên cũ súng liên thanh trung đội, trung liên. SMG dùng đạn súng ngắn còn LMG dùng đạn súng trường. Nhiều khẩu cạc bin của súng trường như AK-74U, cạc bin của AK-74, tác dụng rất giống SMG.

[sửa] Vai trò

Đến nay, súng vẫn là vũ khí chính trên chiến trường. Súng giành được điều đó từ đầu Thế kỷ 19, thay thế vai trờ của thương, giáo.

Ngày nay, tên lửa và đạn tự hành xuất hiện nhiều. Có những vị trí đạn tự hành hoàn toàn ưu thế so với súng như chống tầu biển, chống máy bay, mang đầu đạn chiến lược, bắn từ máy bay... Nhưng vũ khí chủ yếu hiện nay vẫn là súng.

[sửa] Liên quan đến súng

Có mộ số khái niệm liên quan đến "súng", rất giống súng quân sự.

[sửa] Phản ứng hạt nhân kiểu súng

quả bom Little Boy. Đỏ là Uran235. Trên là đạn, dưới là bia, vàng là thuốc phóng cordite.

Là phản ứng hạt phân ra uran hoặc pluton. Phản ứng xảy ra khi hai khối U hoặc P tiến lại gần nhau, nhập thành một khối lớn hơn khối lượng tới hạn, xảy ra phản ứng nổ dây chuyền. Người ta dùng súng mạnh bắn hai nửa U hay P vào nhau.

[sửa] Vấn đề luật pháp và xã hội.

Việt Nam không cho phép công dân sở hữu súng.

Nhiều nước cho phép mua bán súng tư do hoặc gần như tự do. Đó là các xã hội lộn xộn nhất, ví dụ, các xã hội đang có chiến tranh, xã hội vô chính phủ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hưng