SUỐI NGUỒN P2 - Ayn Rand

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN HAI



I.

N

ắm chặt bàn tay, như thể da trong lòng bàn tay anh đã dính chặt vào cây thép anh đang nắm - giữ cho bàn chân chắc chắn, ấn chặt xuống mặt đất, nền đá phẳng ấn vào gót chân anh - không cảm thấy sự tồn tại của cơ thể anh, mà chỉ cảm thấy một vài điểm căng thẳng: đầu gối, cổ tay, hai vai, và cái máy khoan anh cầm - cảm thấy máy khoan rung lên trong một cái rùng mình dài, dữ dội - cảm thấy bụng anh run lên, phổi anh run lên, những đường thẳng của gờ đá trước mặt anh tan ra thành những vệt rung nham nhở - cảm thấy máy khoan và cơ thể anh hợp lại thành một ý chí đồng nhất về lực ép, cảm thấy rằng mũi khoan thép có lẽ đang chầm chậm ăn vào khối đá granit - đây là toàn bộ cuộc sống đối với Howard Roark trong hai tháng qua.

Anh đứng trên vỉa đá nóng bỏng dưới ánh mặt trời. Mặt anh bị nung nóng thành màu đồng. Chiếc áo sơ mi dán thành từng mảng vào lưng anh. Mỏ đá xung quanh anh vươn cao thành những tầng phẳng chồng lên nhau. Đây là một thế giới không có đường cong, không có cỏ và đất, đây là một thế giới đơn giản của những mặt phẳng đá, những gờ đá sắc và góc đá nhọn. Khối đá được tạo nên không phải bởi những thế kỷ kiên nhẫn gắn kết những trầm tích của gió và thủy triều; nó hình thành từ một khối vật chất nóng chảy và nguội đi từ từ ở một độ sâu không ai biết được; rồi nó bị ném ra, đẩy bật ra khỏi lòng đất, và nó vẫn mang hình dáng của bạo lực chống lại bạo lực của con người trên các gờ đá của nó.

Những mặt phẳng đá đứng như nhân chứng cho sức mạnh của mỗi vết cắt; mỗi mũi khoan xuyên thẳng xuống; khối đá nứt toác ra trong sự kháng cự kiên quyết. Mũi khoan tiến tới trong tiếng vo ve đều đều, liên tục, sự căng thẳng trong âm thanh đó cắt vào dây thần kinh, qua hộp sọ, như thể những dụng cụ đang run rẩy kia vừa chầm chậm phá vỡ cả khối đá lẫn người cắt đá.

Anh thích công việc đang làm. Đôi khi anh cảm thấy đó là một trận đấu vật giữa các cơ bắp của anh và khối đá granit. Vào buổi tối anh mệt rã rời. Anh thích sự trống rỗng trong cái rã rời của cơ thể.

Vào mỗi buổi tối, anh đi bộ hai dặm từ mỏ đá đến thị trấn nhỏ nơi các công nhân ở. Mặt đất của cánh rừng anh đi qua rất mềm và ấm dưới chân anh; sau một ngày làm việc trên các mặt đá granit, cái cảm giác dẫm chân trên đất mềm thật là lạ; mỗi tối, anh mỉm cười với nó như với một nguồn khoái cảm anh mới phát hiện, và anh nhìn xuống để xem bàn chân anh đạp lên một mặt phẳng - cái mặt phẳng ấy phản ứng lại, rồi nhượng bộ và chấp nhận để những vết chân mờ mờ in lại trên nó.

Anh ở trong căn gác xép của căn nhà trọ - trên gác xép đó có một phòng tắm; lớp sơn phòng đã tróc khỏi sàn từ lâu để lộ những mảnh ván gỗ trần trụi màu trắng xám. Anh nằm trong bồn tắm một lúc lâu để làn nước lạnh thấm sâu qua lớp bụi đá và rửa trôi chúng đi khỏi da anh. Anh ngả người ra phía sau, tựa đầu trên thành bồn tắm, nhắm mắt lại. Sự vĩ đại của cơn mệt nhọc tự nó đã làm giảm bớt căng thẳng: nó không cho phép bất kỳ một cảm giác nào khác ngoài sự dễ chịu khi cảm giác căng thẳng rời dần khỏi các cơ bắp của anh.

Anh ăn tối trong một gian bếp, cùng với các công nhân khác của mỏ đá. Anh ngồi một mình bên một chiếc bàn trong góc; các đụn khói đặc mỡ - luôn kêu lách tách trên một chiếc lò ga lớn - xóa mờ phần còn lại của căn phòng bằng một khối khói mờ dinh dính. Anh ăn ít. Anh uống rất nhiều nước; thứ chất lỏng lạnh, lóng lánh trong một chiếc ly sạch sẽ làm anh chếnh choáng.

Anh ngủ trên một tấm ván nhỏ ngay dưới mái nhà. Những tấm ván trên trần nhà nghiêng xuống ngay phía trên giường ngủ của anh. Khi trời mưa, anh có thể nghe thấy tiếng lộp độp của từng giọt mưa trên mái nhà, và anh phải cố gắng lắm mới nhận ra tại sao anh không cảm thấy nước mưa đập vào người mình.

Đôi lúc sau bữa tối, anh đi bộ vào khu rừng phía sau nhà. Anh nằm dài trên đất, nằm sấp, hai khuỷu tay bạnh ra phía trước, hai bàn tay đỡ lấy cằm, và anh ngắm nghía những đường gân trên những lá cỏ dưới mặt anh; anh thổi vào chúng và xem những lá cỏ run rẩy rồi dừng lại. Anh xoay người nằm ngửa và bất động, cảm thấy hơi ấm của mặt đất dưới lưng anh. Trên cao kia, những lá cây vẫn xanh, nhưng đó là thứ màu xanh dày dặn, cô đặc, như thể được nén lại trong một nỗ lực cuối cùng trước khi lớp bụi đến hòa tan nó ra. Các lá cây bất động treo trên nền trời vàng chanh bóng loáng; vẻ xanh xao rõ ràng của bầu trời càng làm nổi rõ ánh sáng đang yếu dần đi. Anh ấn mạnh hông và lưng xuống mặt đất phía dưới; mặt đất kháng cự, nhưng nhượng bộ; đó là một chiến thắng âm thầm; anh cảm thấy một sự khoan khoái nhè nhẹ trong các cơ bắp ở chân anh.

Đôi lúc, không thường xuyên lắm, anh ngồi dậy và không nhúc nhích trong một lúc lâu; sau đó anh mỉm cười, nụ cười chậm rãi của một viên đao phủ ngắm nhìn nạn nhân của mình. Anh nghĩ về những ngày tháng trôi qua, về những tòa nhà có thể anh đang xây dựng, lẽ ra anh đang xây dựng, và có thể, sẽ không bao giờ xây dựng. Anh quan sát sự xuất hiện không được chào mời của nỗi đau, với một sự tò mò lạnh lùng và thản nhiên; anh tự nói với mình: À, nó lại đến rồi. Anh đợi xem nó sẽ kéo dài bao lâu. Nó cho anh một khoái cảm khó khăn và kỳ lạ khi anh theo dõi cuộc vật lộn của anh với nó; anh có thể quên mất rằng nó chính là nỗi đau của anh; anh có thể mỉm cười khinh bỉ, không nhận ra rằng anh cười vào chính nỗi đau đớn của mình. Những giây phút ấy rất hiếm. Nhưng khi chúng đến thì anh cảm thấy như lúc anh cảm thấy trong mỏ đá: rằng anh phải khoan xuyên qua khối đá granit, rằng anh phải chọc vào và đập nát cái thứ trong con người anh - cái thứ ngoan cố chống lại bằng cách kêu gọi anh rủ lòng thương.

*

* *

Mùa hè năm đó Dominique Francon sống một mình trong biệt thự xây theo phong cách Thuộc địa của cha cô, cách thị trấn nơi có mỏ đá ba dặm. Cô không tiếp khách. Một người quản gia già và vợ ông là những người duy nhất mà cô nhìn thấy, không thường xuyên lắm và chỉ khi nào cần thiết; họ sống cách lâu đài một quãng, gần chỗ những chuồng ngựa; người quản gia chăm sóc vườn tược và lũ ngựa; vợ ông chăm sóc biệt thự và nấu ăn cho Dominique.

Những bữa ăn được phục vụ với vẻ trang trọng lịch thiệp mà người đàn bà luống tuổi đã học được từ những ngày mẹ của Dominique còn sống và tiếp đãi khách trong phòng ăn lớn đó. Vào ban đêm, Dominique thấy chỗ ngồi duy nhất của cô ở bàn ăn đã được sắp xếp như thể cho một bữa tiệc chính thức long trọng; nến đã được thắp, những lưỡi lửa vàng đứng bất động giống như những mũi giáo kim loại sáng bóng của một người lính gác danh dự. Bóng tối kéo dài gian phòng thành một tiền sảnh lớn, những khung cửa sổ rộng vươn lên như những hàng lính canh thẳng tắp. Một chiếc bát pha lê nông đứng trong vũng ánh sáng ở phần trung tâm chiếc bàn dài, với một bông huệ tây nước duy nhất xòe những cánh hoa trắng xung quanh phần nhụy vàng óng như một giọt lửa nến.

Người đàn bà luống tuổi phục vụ bữa ăn với sự yên lặng kín đáo, và biến mất khỏi ngôi nhà ngay khi có thể. Khi Dominique đi lên thang gác về phòng ngủ, cô thấy những nếp gấp đăng-ten mỏng manh của chiếc áo ngủ đã nằm ngay ngắn trên giường.

Vào buổi sáng, cô vào phòng tắm và thấy nước đã sẵn sàng trong bồn tắm, mùi hoa dạ hương thoang thoảng trong phòng tắm, sàn gạch màu xanh biển được kỳ cọ bóng loáng dưới chân cô, những chiếc khăn tắm lớn được trải ra như những đống tuyết nuốt chửng lấy thân thể cô - nhưng cô chẳng nghe thấy một tiếng bước chân nào và không cảm thấy sự có mặt của sự sống trong căn nhà. Người đàn bà đối xử với Dominique bằng sự cẩn trọng thành kính giống như sự cẩn trọng khi bà lau những tấm kính lật của các tủ kính trong phòng khách.

Dominique đã nghỉ nhiều mùa hè và mùa đông với rất nhiều người xung quanh, để có thể có cảm giác một mình - nhiều đến nỗi cuộc thí nghiệm về cảm giác một mình thực sự trở thành một niềm say mê của cô, đồng thời để lộ cái điểm yếu mà cô chưa bao giờ cho phép mình có: rằng cô thích một mình. Cô vươn những cánh tay và thả cho chúng rơi xuống một cách lười biếng, cảm thấy một sức nặng ngọt ngào uể oải ở phía trên khuỷu tay, như cảm giác sau ngụm rượu đầu tiên. Cô nhận biết những chiếc váy mùa hè của mình, cô cảm thấy hai đầu gối, hai đùi cô chạm vào sự kháng cự yếu ớt của lớp vải khi cô di chuyển, và nó khiến cô nhận thức được không phải lớp vải, mà là hai đầu gối và hai đùi cô.

Căn nhà đứng một mình trên một khu đất rộng lớn, và rừng trải rộng ở phía sau; chẳng có ai sống xung quanh đó trong vòng vài dặm. Cô cưỡi ngựa trên những con đường dài bị bỏ không, trên những lối mòn chẳng dẫn đến đâu. Lá cây lấp loáng trong ánh mặt trời và các cành cây nhỏ kêu răng rắc trong gió khi cô phi ngựa vụt qua. Đôi lúc cô thấy mình thở hổn hển vì cảm giác bất chợt rằng một thứ gì đó vĩ đại và chết người sẽ chờ cô sau chỗ ngoặt tiếp theo của con đường; cô không thể hình dung rõ được cái mà cô chờ đợi, cô không thể nói liệu đó sẽ là một cảnh vật, một con người, hay một sự kiện; cô chỉ biết được tính chất của nó - đó là khoái cảm vì bị cưỡng bức.

Đôi lúc cô bắt đầu từ căn nhà và đi bộ hàng dặm, chẳng có mục đích gì và chẳng đặt ra mục tiêu lúc nào thì quay về. Xe hơi chạy vụt qua cô trên đường; mọi người trong thị trấn của mỏ đá biết cô và cúi chào cô; cô được coi là bà chủ của vùng nông thôn này, giống như mẹ cô trước đây. Cô ra khỏi con đường và đi vào rừng, hai cánh tay vung vẩy thoải mái, đầu ngửa ra sau, ngắm nhìn đỉnh những ngọn cây. Cô thấy những đám mây bơi sau đám lá cây; trông cảnh đó như thể một cái cây khổng lồ trước mặt cô đang chuyển động, đang nghiêng đi, sẵn sàng đổ xuống và nghiền nát cô; cô dừng lại; cô đợi, đầu ngửa ra sau, họng cô căng ra; cô cảm thấy như thể cô muốn được nghiền nát ra. Sau đó cô nhún vai và bước tiếp. Cô nóng nảy ném những cành cây to ra khỏi đường đi và để chúng cào vào cánh tay trần của mình. Cô bước tiếp rất lâu sau khi đã mệt nhoài, cô vẫn bước tiếp mặc kệ cái mệt rã rời trong các cơ bắp. Rồi cô nằm ngửa ra, bất động, hai cánh tay và đôi chân dang ra thành hình chiếc thập tự trên nền đất; cô thở phào, cảm thấy trống rỗng và bị san phẳng. Sức nặng của không khí giống như một áp lực đè lên ngực cô.

Một vài buổi sáng, khi thức dậy trong phòng ngủ, cô nghe thấy những tiếng nổ từ khu mỏ đá. Cô vươn người, hai cánh tay vươn ra sau đầu trên chiếc gối lụa trắng, và cô lắng nghe. Đó là âm thanh của sự phá hủy và cô thích nó.

*

* *

Do mặt trời không quá nóng vào sáng hôm đó, và cô biết trời sẽ nóng hơn ở mỏ đá, do cô không muốn gặp ai cả và biết cô sẽ đối mặt với một đám công nhân, Dominique đi bộ đến mỏ. Ý nghĩ sẽ được nhìn thấy mỏ đá trong ngày nóng nực đó làm người ta kinh hoàng; cô thích cái viễn cảnh này.

Khi cô đi ra khỏi khu rừng đến bên miệng của một lòng chảo đá khổng lồ, cô cảm thấy như thể cô đang bị ấn vào một phòng hành quyết sặc sụa hơi nóng. Cái nóng không phải đến từ mặt trời, mà là từ những vết cắt dở trong đất, từ những tia nắng hắt trên những mặt đá phẳng. Vai cô, đầu cô, lưng cô - vốn trần ra dưới nắng - dường như mát lạnh khi cô cảm thấy hơi thở thiêu đốt của đá phả ngược lên chân cô, đến cằm cô, đến hai lỗ mũi. Không khí sôi lục bục bên dưới, những tia lửa bắn xuyên qua lớp đá granit; cô nghĩ rằng khối đá đang oằn oại, tan ra, và chảy thành những giọt dung nham trắng. Máy khoan và búa đập vỡ sức nặng tĩnh mịch của không khí.

Thật kinh hoàng khi nhìn những người đàn ông trên cái giàn thiêu này. Họ trông không giống công nhân, họ trông giống một đoàn tù nhân bị xích vào nhau và đang phải chịu một sự hành xác không thể nói ra vì một tội lỗi cũng không thể nói ra. Cô không thể quay đi.

Cô đứng, như một sự lăng mạ với cảnh tượng phía bên dưới. Váy của cô - màu của nước, một màu xanh lục pha lá cây nhàn nhạt, quá đơn giản và quá đắt tiền, những đường xếp nếp trông giống hệt những đường gờ thủy tinh - hai gót chân mỏng của cô choãi rộng ra trên những tảng đá, làn tóc mượt của cô, sự mỏng manh quá mức của thân thể cô trên nền trời - phô bày sự mát mẻ cảnh vẻ của những khu vườn và những phòng khách cô đã từ đó tới.

Cô nhìn xuống. Mắt cô dừng lại trên mái tóc màu da cam của một người đàn ông. Người đó ngẩng đầu lên và nhìn cô.

Cô đứng bất động, bởi cái nhận thức đầu tiên của cô không phải là nhận thức của thị giác mà là của xúc giác: đó không phải là sự nhận biết bằng mắt về một sự hiện diện, mà là sự nhận biết về một cái tát vào mặt.

Cô vụng về đưa một tay lên khỏi người cô, những ngón tay xòe ra trong không khí, như thể đang sờ vào một bức tường. Cô biết rằng cô không thể cử động, cho đến khi anh ta cho phép.

Cô thấy miệng anh và sự khinh bỉ không lời trong hình dáng khuôn miệng anh; những mặt phẳng của gò má hốc hác, hõm sâu của anh; cái ánh sáng lạnh lẽo, thuần khiết trong mắt anh, con mắt không có một chút dấu vết gì của lòng thương hại. Cô biết đó là khuôn mặt đẹp nhất mà cô có thể nhìn thấy trên đời, bởi nó là sức mạnh trừu tượng được hiển thị thành xương thịt. Cô cảm thấy sự co rút của một cơn giận, của sự phản đối, kháng cự - và của khoái cảm. Anh đứng nhìn lên cô; đó không phải là một cái liếc nhìn, mà là một hành động sở hữu. Cô nghĩ cô phải để cho khuôn mặt mình đưa ra câu trả lời mà anh xứng đáng được nhận. Nhưng thay vào đó, cô cứ đứng nhìn lớp bụi đá trên những cánh tay bị đốt bỏng của anh, nhìn chiếc áo sơ mi ướt đẫm bám dính lấy xương sườn anh, nhìn những đường thẳng là đôi chân dài của anh. Cô nghĩ về những bức tượng đàn ông cô đã luôn tìm kiếm; cô tự hỏi anh sẽ trông thế nào lúc trần truồng. Cô thấy anh nhìn cô như thể anh biết điều đó. Cô nghĩ cô đã tìm thấy một mục đích trong cuộc sống - một sự căm ghét bất thần, bao trùm, dành cho người đàn ông đó.

Cô là người cử động trước. Cô quay người và bước đi khỏi phía anh. Cô thấy người giám sát mỏ trên con đường phía trước, và cô vẫy anh ta. Người giám sát vội vàng chạy đến gặp cô. "Trời ơi, tiểu thư Francon!" anh ta hét lên. "Trời ơi, cô khỏe không, tiểu thư Francon!"

Cô hy vọng những lời này được người đàn ông bên dưới kia nghe thấy. Lần đầu tiên trong đời, cô cảm thấy vui vì được là tiểu thư Francon, vui vì địa vị và tài sản của cha cô, những thứ mà cô đã luôn luôn coi thường. Cô chợt nghĩ rằng người đàn ông dưới kia chỉ là một anh công nhân tầm thường, bị sở hữu bởi chủ của nơi này, và cô gần như là chủ của nơi này.

Người giám sát mỏ đứng trước cô một cách cung kính. Cô mỉm cười và nói: "Tôi đoán là một ngày nào đó tôi sẽ thừa kế mỏ đá này, nên tôi nghĩ thỉnh thoảng tôi nên tỏ ra quan tâm tới nó một chút."

Người giám sát mỏ đi trước cô trên con đường xuống dưới, chỉ cho cô thấy mỏ đá, giải thích các công việc. Cô đi theo anh ta tới tận phía bên kia của mỏ đá; cô bước xuống khu thung lũng xanh đầy bụi nơi có xưởng làm việc; cô xem xét những máy móc phức tạp. Cô cho phép một khoảng thời gian thích hợp trôi qua. Rồi cô đi bộ trở lại, một mình, xuống chỗ miệng lòng chảo đá granit.

Cô thấy anh từ xa khi cô bước lại gần. Anh đang làm việc. Cô thấy một lọn tóc đỏ vương trên mặt anh và đung đưa theo nhịp rung của chiếc máy khoan. Cô nghĩ - không, cô hy vọng - rằng nhịp rung của chiếc máy khoan sẽ làm anh đau, làm cơ thể anh đau, làm mọi thứ trong thân thể anh đau.

Khi cô đến chỗ những tảng đá phía trên anh, anh ngẩng đầu lên và nhìn cô; trước đó cô không thấy anh đã nhận thấy cô bước lại; anh ngẩng lên nhìn như thể đã chờ cô đến chỗ đó, như thể anh biết cô sẽ quay lại. Cô nhìn thấy bóng dáng của một nụ cười - nụ cười gây cảm giác nhục mạ hơn cả lời nói. Anh duy trì cái nhìn xấc xược thẳng vào cô, anh không nhúc nhích, anh không chịu nhượng bộ bằng cách quay đi - bằng cách công nhận rằng anh không có quyền nhìn cô theo cách như vậy. Anh không chỉ cho mình cái quyền ấy, anh đang thầm nói rằng cô đã cho anh quyền ấy.

Cô quay ngoắt người và bước tiếp, xuống khỏi phiến đá dốc, đi khỏi mỏ đá.

*

* *

Cô nhớ, không phải mắt anh, không phải miệng anh, mà là đôi tay anh. Ý nghĩa của ngày hôm đó dường như được chốt lại trong một hình ảnh duy nhất mà cô đã lưu: đó là khoảnh khắc một bàn tay của anh đặt trên phiến đá granit. Cô lại thấy nó một lần nữa: những ngón tay anh áp vào phiến đá, những ngón tay dài tiếp nối những đường gân thẳng, xòe ra như hình quạt từ cổ tay đến các khớp ngón tay anh. Cô nghĩ về anh, nhưng hình ảnh hiện hữu trong tất cả những suy nghĩ của cô là hình ảnh bàn tay đó trên mặt đá granit. Nó làm cô sợ hãi; cô không thể hiểu được.

Anh ta chỉ là một công nhân tầm thường, cô nghĩ, một người được thuê để làm công việc của một tù nhân. Cô nghĩ về điều đó khi ngồi trước chiếc giá thủy tinh của chiếc bàn trang điểm. Cô nhìn vào những vật thể pha lê trải ra trước mặt cô; chúng giống như những sản phẩm điêu khắc bằng nước đá - chúng tuyên bố sự mỏng manh lạnh lẽo và sang trọng của cô; và cô nghĩ đến thân thể bị kéo căng ra của anh, đến bộ quần áo đầm trong bụi và mồ hôi của anh, đến đôi tay anh. Cô cố tình nghĩ đến sự tương phản, bởi nó hạ thấp cô. Cô dựa người ra sau, nhắm mắt lại. Cô nghĩ về nhiều người đàn ông gia thế mà cô đã từ chối. Cô nghĩ đến người công nhân mỏ đá. Cô nghĩ đến việc bị bẻ gãy - không bởi một người cô ngưỡng mộ, mà bởi một người cô ghê tởm. Cô để cho đầu mình gục xuống cánh tay; ý nghĩ kia đã làm cô rã rời trong khoái cảm.

Trong hai ngày cô tự bắt mình phải tin rằng cô sẽ trốn khỏi nơi này; cô tìm thấy những cặp tài liệu du lịch cũ trong rương, nghiên cứu chúng, chọn khu nghỉ, khách sạn và phòng khách sạn, chọn tàu hỏa, thuyền và phòng nghỉ trên tàu. Cô cảm thấy vui thích một cách độc ác khi làm thế, bởi cô biết cô sẽ không thực hiện chuyến đi mà cô muốn; cô sẽ quay lại mỏ đá.

Ba ngày sau cô trở lại mỏ đá. Cô dừng lại chỗ gờ đá nơi anh làm việc và đứng quan sát anh một cách công khai. Khi anh ngẩng đầu lên, cô không quay đi. Ánh mắt cô bảo anh rằng cô biết ý nghĩa hành động của mình nhưng không tôn trọng anh đủ để che giấu nó. Ánh mắt anh chỉ nói với cô rằng anh biết cô sẽ quay lại. Anh cúi người trên chiếc máy khoan và tiếp tục làm việc. Cô đợi. Cô muốn anh nhìn lên. Cô biết rằng anh biết thế. Anh không nhìn lên nữa.

Cô đứng, xem đôi tay anh, đợi những khoảnh khắc anh chạm vào đá. Cô quên chiếc máy khoan và khối thuốc nổ. Cô thích nghĩ đến khối đá bị vỡ ra bởi bàn tay anh.

Cô nghe thấy người giám sát mỏ gọi tên mình, vừa gọi vừa chạy lên chỗ cô. Cô quay lại phía anh ta khi anh ta đến gần.

"Tôi thích xem công nhân làm việc," cô giải thích.

"Vâng, quả là một cảnh đáng xem, phải không ạ?" người giám sát mỏ đồng ý. "Ở đằng kia xe goòng đang bắt đầu chất một chuyến đá nữa."

Cô không quan sát xe goòng. Cô thấy người đàn ông phía dưới đang nhìn cô, cô thấy sự vui thích một cách hỗn láo của anh nói với cô rằng anh biết cô không muốn anh nhìn cô bây giờ. Cô quay đầu đi. Ánh mắt của người giám sát lướt qua hố đá và dừng lại ở người đàn ông bên dưới.

"Này, anh kia!" anh ta hét lên. "Anh được trả tiền để làm việc hay để nhìn chằm chằm người ta thế?"

Người đàn ông lặng lẽ cúi xuống chiếc máy khoan. Dominique phá lên cười.

Người giám sát nói: "Thưa tiểu thư Francon, dưới đó là một đám thợ bất trị... Một số người trong đó thậm chí đã từng vào tù."

"Thế người đó có từng bị vào tù không?" cô hỏi, trỏ xuống dưới.

"À, tôi không thể nói chắc. Cứ nhìn mặt thì tôi không biết được."

Cô hy vọng là anh có. Cô băn khoăn không biết bây giờ người ta còn đánh tù nhân bằng roi hay không. Cô hy vọng là có. Nghĩ đến điều này, cô thấy một cảm giác rơi tự do mà cô từng cảm thấy lúc bé, trong những giấc mơ mà ở đó cô rơi xuống một cầu thang dài; có điều cảm giác rơi tự do này ở trong bụng cô.

Cô quay ngoắt người đi và rời khỏi mỏ đá.

Rất nhiều ngày sau, cô trở lại. Cô thấy anh, hoàn toàn ngoài dự tính, trên một phiến đá phẳng ở phía trước cô, ngay bên vệ đường. Cô dừng phắt lại. Cô không muốn tiến đến quá gần. Thật lạ khi thấy anh ngay trước mặt cô, không có khoảng cách nào để tự vệ hay biện minh.

Anh đứng nhìn thẳng vào cô. Sự hiểu biết giữa họ trở nên gần đến mức choáng ngợp, bởi vì họ chưa từng nói với nhau một lời nào. Cô phá vỡ nó bằng cách cất lời với anh:

"Tại sao anh cứ nhìn tôi chằm chằm?" - cô lạnh lùng hỏi.

Cô nghĩ với cảm giác nhẹ nhõm rằng ngôn từ là công cụ hữu hiệu nhất để gây xa cách. Cô đã phủ nhận tất cả những gì mà cả hai người đều biết bằng cách gọi tên nó ra. Trong một khoảnh khắc, anh đứng yên lặng, nhìn thẳng vào cô. Cô cảm thấy sợ hãi với ý nghĩ rằng anh sẽ không trả lời, rằng anh sẽ để sự im lặng của anh nói với cô một cách rành mạch tại sao việc trả lời là không cần thiết. Nhưng anh đã trả lời. Anh nói:

"Vì chính lý do mà cô đã nhìn tôi chằm chằm."

"Tôi không biết anh đang nói gì."

"Nếu cô không biết, thì cô đã ngạc nhiên hơn nhiều và cũng đỡ sợ hãi hơn nhiều, cô Francon."

"Vậy là anh biết tên tôi?"

"Cô đã quảng bá nó khá lớn."

"Tốt nhất là anh đừng nên hỗn láo. Tôi có thể đuổi việc anh ngay tức khắc, anh biết đấy."

Anh quay đầu, tìm kiếm ai đó trong những người đàn ông phía dưới. Anh hỏi:

"Tôi có nên gọi người phụ trách?"

Cô cười một cách ngạo mạn:

"Không, dĩ nhiên là không. Như vậy quá đơn giản. Nhưng vì anh biết tôi là ai, tốt nhất là anh nên thôi nhìn tôi những khi tôi đến đây. Người ta có thể hiểu nhầm."

"Tôi không nghĩ thế."

Cô quay đi. Cô phải kiểm soát giọng nói của mình. Cô nhìn qua những mép đá. Cô hỏi:

"Anh thấy làm việc ở đây có vất vả không?"

"Có. Kinh khủng."

"Anh có bị mệt không?"

"Quá sức chịu đựng của con người."

"Cảm giác đó thế nào?"

"Tôi hầu như không thể nhấc chân khi hết ngày làm việc. Tôi không thể cử động tay vào ban đêm. Khi tôi nằm trên giường, tôi có thể đếm từng bắp thịt trong cơ thể tôi, theo từng cơn đau khác nhau, riêng biệt."

Cô chợt nhận ra anh không còn nói với cô về anh nữa; anh đang nói về cô; anh đang nói những điều mà cô muốn nghe và đang nói với cô rằng anh biết tại sao cô lại muốn nghe chính những câu này.

Cô thấy giận dữ, một cảm giác giận dữ đầy thỏa mãn bởi vì nó lạnh lẽo và chắc chắn. Cô cũng cảm thấy cái ham muốn được để cho da mình chạm vào da anh; để cho chiều dài cánh tay trần của cô áp vào chiều dài cánh tay anh; chỉ thế thôi; cái ham muốn không có gì thêm nữa.

Cô hỏi một cách bình thản:

"Anh không phải người ở đây, đúng không? Anh không ăn nói giống một người thợ. Trước đây anh là gì?"

"Thợ điện. Thợ nước. Thợ xây. Nhiều thứ."

"Tại sao anh làm việc ở đây?"

"Vì số tiền mà cô đang trả tôi, cô Francon."

Cô nhún vai. Cô quay người và bước đi khỏi anh, ngược lên con đường. Cô biết anh đang nhìn theo cô. Cô không ngoái lại. Cô tiếp tục đi xuyên qua mỏ đá và cô rời khỏi nó nhanh hết mức có thể, nhưng cô không đi ngược lại con đường mòn bởi vì như thế, cô sẽ lại phải nhìn thấy anh.

II.

D

ominique tình dậy mỗi sáng với hình dung về một ngày mà cô sẽ làm cho nó trở nên trọng đại bởi sự hiện diện của cái mục tiêu mà cô phải đạt tới: cô sẽ biến hôm nay thành một ngày mà cô không đi tới mỏ đá.

Cô đã mất cái tự do mà cô yêu thích. Cô biết rằng bản thân trận chiến dai dẳng chống lại sự cưỡng bách của một ham muốn cũng chính là một sự cưỡng bách, nhưng nó tồn tại trong một hình thái mà cô dễ chấp nhận hơn. Đấy là cách duy nhất mà cô có thể để anh làm động cơ thúc đẩy cuộc sống của cô. Cô tìm thấy một niềm thỏa mãn đen tối trong sự đau đớn - bởi vì sự đau đớn ấy đến từ anh.

Cô đi thăm những người hàng xóm xa - một gia đình giàu có, lịch thiệp mà lúc ở New York, cô cho là tẻ ngắt; cô đã không đi thăm ai suốt cả mùa hè. Họ ngạc nhiên và vui mừng được đón cô. Cô ngồi giữa một nhóm những người có thế lực ở bên bờ một bể bơi. Cô quan sát cái không khí lịch sự cảnh vẻ ở quanh cô. Cô quan sát sự tôn kính trong bộ dạng của những người này khi họ nói chuyện với cô. Cô liếc nhìn bóng mình trong bể bơi: trông cô giản dị hơn bất cứ ai trong bọn họ.

Một buổi tối, một người khách đề nghị được lái xe đưa cô về nhà. Anh ta là một nhà thơ trẻ nổi tiếng. Anh ta xanh xao và dong dỏng; có một cái miệng mềm mại, tinh tế và một đôi mắt như bị cả vũ trụ làm cho tổn thương. Cô đã không để ý tới sự quan tâm đầy ngụ ý mà anh dành cho cô lâu nay. Khi họ lái xe xuyên qua buổi hoàng hôn, cô thấy anh nghiêng người một cách do dự về phía cô. Cô nghe thấy giọng anh thì thầm những lời cầu xin rời rạc mà cô đã nghe thấy từ rất nhiều người đàn ông. Anh dừng xe lại. Cô thấy môi anh áp vào bờ vai cô.

Cô vùng ra khỏi anh ta. Cô ngồi im trong một giây, bởi vì cô sẽ phải chạm vào anh ta nếu cô cử động và cô không thể chịu được việc chạm vào anh ta. Rồi cô mở tung cửa xe, cô nhảy ra ngoài, sập mạnh cửa xe lại phía sau, như thể tiếng sập cửa có thể xóa anh ta ra khỏi thực tại và cô điên cuồng chạy. Một lúc sau, cô ngừng chạy và cô đi bộ, run rẩy; cô đi xuống con đường tối cho đến khi cô nhìn thấy đường mái của nhà mình.

Cô dừng lại, nhìn quanh mình với cảm giác kinh ngạc đầy đủ đầu tiên. Những sự việc như thế đã xảy ra với cô thường xuyên trong quá khứ; có điều lúc đó, cô đã thích thú; cô đã không cảm thấy sự kinh tởm; cô chẳng cảm thấy gì cả.

Cô đi bộ chậm chạm dọc bãi cỏ, vào đến nhà. Trên cầu thang dẫn lên phòng mình, cô dừng lại. Cô nghĩ đến người đàn ông ở mỏ đá. Cô nghĩ, bằng những ngôn từ rành mạch, thành lời, rằng người đàn ông đó muốn cô. Cô đã biết trước điều đó; cô đã biết nó từ cái liếc nhìn đầu tiên của anh lên người cô. Nhưng cô chưa bao giờ tuyên bố cái nhận thức này với bản thân mình.

Cô cười lớn. Cô nhìn xung quanh mình; nhìn vào sự nguy nga im lìm của ngôi nhà. Ngôi nhà làm cho những lời của cô trở nên phi lý. Cô biết điều này chưa bao giờ xảy ra với cô. Và cô biết sự chịu đựng mà cô có thể bắt anh chịu.

Trong nhiều ngày, cô đi lại trong các căn phòng của ngôi nhà với cảm giác thỏa mãn. Đây là phòng tuyến của cô. Cô nghe thấy những tiếng nổ từ mỏ đá và mỉm cười.

Nhưng cô cảm thấy căn nhà quá chắc chắn và quá an toàn. Cô cảm thấy một ham muốn phải hạ thấp sự an toàn bằng cách thách thức nó.

Cô chọn một miếng đá cẩm thạch ở phía trước lò sưởi trong phòng ngủ của cô. Cô muốn đập vỡ nó. Cô quỳ, búa trong tay, và cố đập vỡ phiến đá. Cô đập liên tục, cánh tay gầy guộc vung lên quá đầu, bổ xuống với một sự bất lực hung bạo. Cô cảm thấy đau trong những khớp xương của cánh tay, xương bả vai. Cô chỉ có thể tạo ra được một vết nứt dài trên phiến đá.

Cô đi tới mỏ đá. Cô thấy anh từ xa và bước thẳng tới chỗ anh.

"Chào." - cô nói với vẻ bình thường.

Anh dừng mũi khoan. Anh dựa người vào một gờ đá. Anh trả lời:

"Chào."

"Tôi đã nghĩ tới anh" - cô nói khẽ, và dừng lại, rồi nói thêm, giọng cô tuôn ra đều đều như một lời mời hấp dẫn - "bởi vì có một chút việc nặng cần làm trong nhà tôi. Anh có muốn kiếm thêm ít tiền không?"

"Chắc chắn rồi, cô Francon."

"Anh có thể đến chỗ tôi tối nay không? Lối vào cho người hầu ở phía đường Ridgewood. Có một viên đá cẩm thạch ở lò sưởi bị vỡ và cần được thay. Tôi muốn anh lấy nó ra và đặt một viên mới cho tôi."

Cô chờ đợi sự giận dữ và từ chối. Anh hỏi:

"Mấy giờ thì tôi đến?"

"Bảy giờ. Anh được trả công bao nhiêu ở đây?"

"Sáu mươi hai xu một giờ."

"Tôi chắc là anh đáng giá từng đó. Tôi sẵn sàng trả cho anh như vậy. Anh có biết tìm nhà tôi không?"

"Không, cô Francon."

"Cứ hỏi người trong làng chỉ cho."

"Được, cô Francon."

Cô bước đi, thất vọng. Cô cảm thấy sự ngầm hiểu giữa họ đã bị mất; anh đã nói như thể đó là một công việc đơn giản mà cô có thể đề nghị bất cứ người thợ nào. Rồi cô thấy một khoảng rỗng chìm dần bên trong - cái cảm giác nhục nhã và khoan khoái mà anh luôn mang lại cho cô: cô nhận ra rằng sự ngầm hiểu giữa hai người trở nên gần và trắng trợn hơn bao giờ hết - trong sự chấp nhận tự nhiên của anh với một lời đề nghị không tự nhiên; anh đã cho cô thấy anh biết những gì - chính ở sự không hề ngạc nhiên của anh.

Cô yêu cầu người quản gia già và vợ ông ta ở lại trong nhà vào buổi tối đó. Sự hiện diện khiêm cung của họ làm cho khung cảnh một biệt thự cổ trở nên trọn vẹn. Cô nghe thấy tiếng chuông cửa từ lối vào dành cho người làm đúng bảy giờ. Bà già dẫn anh vào trong sảnh trước - ở đó Dominique đứng trên cái chiếu nghỉ của cầu thang lớn.

Cô quan sát anh tiến lại gần, nhìn lên cô. Cô giữ tư thế của mình đủ lâu để anh có thể nghi ngờ rằng đấy là một tư thế có chủ đích, được cố ý dàn dựng; cô phá vỡ nó đúng vào cái khoảnh khắc ngay trước khi anh trở nên chắc chắn về nó. Cô nói:

"Chào." Giọng cô nhẹ, nghiêm nghị.

Anh không trả lời nhưng khẽ nghiêng đầu và đi lên cầu thang về phía cô. Anh mặc quần áo lao động và mang theo một túi dụng cụ. Cử động của anh mang một vẻ nhanh nhẹn, thoải mái trái ngược với ngôi nhà, với những bậc thang đánh bóng, với những lan can tinh xảo, cứng nhắc. Cô đã chờ được thấy anh trở nên lố bịch trong nhà cô; nhưng chính là căn nhà dường như trở nên lố bịch xung quanh anh.

Cô đưa một tay, ra dấu cánh cửa phòng ngủ của cô. Anh đi theo. Anh dường như không để ý tới căn phòng khi anh bước vào. Anh bước vào như thể nó là một cái xưởng. Anh đi thẳng tới chỗ lò sưởi.

"Nó đấy." - cô nói, một ngón tay trỏ vào miếng đá.

Anh không nói gì. Anh quỳ xuống, lấy một tấm kim loại mỏng ra khỏi túi đồ, giữ nó cắm vào vết nứt trên mặt đá, lấy một cái búa ra và gõ mạnh. Viên đá nứt thành một đường dài, sâu.

Anh liếc lên nhìn cô. Đấy là cái nhìn mà cô đã sợ - cái nhìn mang một tiếng cười mà cô không thể đáp lại, bởi vì tiếng cười ấy không thể nhìn thấy, chỉ có thể cảm thấy. Anh nói:

"Giờ thì nó vỡ rồi và cần phải được thay."

Cô hỏi bình thản:

"Anh có biết nó là loại đá nào và có thể đặt một miếng như thế ở đâu không?"

"Có, cô Francon."

"Thế thì làm đi. Lấy nó ra."

"Vâng, cô Francon."

Cô đứng nhìn anh. Thật lạ khi cảm thấy sự cần thiết phi lý phải quan sát một tiến trình thủ công như thể mắt cô đang giúp vào tiến trình ấy. Rồi cô nhận ra rằng cô sợ phải nhìn căn phòng quanh mình. Cô buộc mình ngẩng đầu lên.

Cô nhìn thấy cái giá trên bàn trang điểm, cái gờ thủy tinh của nó như một miếng ruy-băng mỏng, bằng sa-tanh xanh trong bóng tối mờ mờ; và những cái lọ pha lê; cô thấy một đôi dép lê trắng để đi trong phòng ngủ, một cái khăn màu xanh nhạt trên sàn, ngay cạnh gương; một đôi tất vứt trên thành ghế; cô thấy tấm ga trải giường bằng sa-tanh trắng. Áo của anh có những vết nhơ ẩm ướt và những đám bụi đá màu xám; bụi làm thành những vệt ngang dọc trên da tay anh. Cô cảm thấy mỗi đồ vật trong phòng đều đã được anh chạm vào, như thể không khí trong phòng là một bể nước nặng nề mà cả hai người đều đã đầm mình trong đó; và làn nước đã chạm vào anh lại chuyển cái va chạm đó sang cô, tới mọi đồ vật trong phòng. Cô muốn anh nhìn lên. Anh làm việc, không hề ngẩng đầu lên.

Cô tiến lại gần anh và đứng im lặng phía trên anh. Cô chưa bao giờ đứng gần anh như vậy. Cô nhìn xuống làn da nhẵn ở gáy anh; cô có thể phân biệt từng sợi tóc của anh. Cô liếc xuống mũi chiếc xăng-đan của cô. Nó ở đó, trên sàn, chỉ cách cơ thể anh vài xăng-ti-mét; cô chỉ cần một cử động, một cử động rất nhỏ của bàn chân, là chạm vào anh. Cô bước lùi lại sau.

Anh quay đầu nhưng không ngẩng lên, mà chỉ lấy một dụng cụ khỏi túi, và lại cúi xuống công việc.

Cô cười lớn. Anh dừng lại và liếc nhìn cô.

"Gì vậy?" - anh hỏi.

Mặt cô nghiêm nghị, giọng cô nhẹ nhàng khi cô trả lời:

"À, tôi xin lỗi. Anh có thể nghĩ là tôi cười anh. Nhưng dĩ nhiên là không."

Cô nói thêm:

"Tôi không muốn làm phiền anh. Tôi chắc anh nóng lòng làm cho xong và đi khỏi đây. Dĩ nhiên, ý tôi là bởi vì anh hẳn rất mệt. Nhưng mặt khác, tôi đang trả công anh theo giờ; vì thế nên cũng chả sao nếu như anh kéo dài thời gian một chút, nếu anh muốn kiếm nhiều hơn. Hẳn là anh phải muốn nói chuyện gì đó."

"À, vâng, cô Francon."

"Thế nào?"

"Tôi nghĩ cái lò sưởi này xấu tồi tệ."

"Thế à? Cái nhà này do cha tôi thiết kế."

"Vâng, dĩ nhiên rồi, cô Francon."

"Anh không có lý gì lại bàn việc của một kiến trúc sư."

"Hoàn toàn không có lý gì."

"Chắc chắn là chúng ta có thể chọn một chủ đề khác."

"Vâng, cô Francon."

Cô bước đi khỏi anh. Cô ngồi xuống giường, chống người vào những cánh tay thẳng, hai chân bắt chéo và áp sát vào nhau thành một đường thẳng dài. Thân người cô, hơi chùng xuống từ bả vai, đối nghịch với sự chính xác tuyệt vời của đôi chân; sự nghiêm khắc lạnh lùng trên mặt cô đối nghịch với dáng ngồi của cô.

Thỉnh thoảng anh liếc nhìn cô trong lúc làm việc. Anh nói với vẻ phục tùng:

"Tôi sẽ đảm bảo việc lấy cho cô một miếng đá đúng loại này, cô Francon. Việc phân biệt các loại cẩm thạch rất quan trọng. Nhìn chung, có ba loại. Loại cẩm thạch trắng, hình thành do sự kết tinh của đá vôi, cẩm thạch mã não là do can-xi các-bon-nát lắng lại, còn cẩm thạch xanh chủ yếu gồm hợp chất si-li-cát hoặc séc-pơ-tin có tích nước của ma-giê. Loại sau cùng này thực ra không phải là cẩm thạch thực sự. Cẩm thạch thực sự phải là dạng biến chất của đá vôi, hình thành do nhiệt và áp suất. Áp suất là một nhân tố quan trọng. Nó đưa đến những hậu quả mà một khi đã phát sinh thì khó kiểm soát".

"Những hậu quả nào?" - cô hỏi, nghiêng người về phía trước.

"Sự kết tinh của các hạt đá vôi và sự xâm nhập của các tạp chất từ trong đất xung quanh. Những thứ này tạo nên các vệt màu thường thấy ở hầu hết các loại cẩm thạch. Cẩm thạch hồng là do sự có mặt của ô-xít măng-gan; cẩm thạch xám là do chất than chì, cẩm thạch vàng là do việc ô-xi hóa sắt. Miếng cẩm thạch này, dĩ nhiên, là cẩm thạch trắng. Có nhiều loại cẩm thạch trắng khác nhau. Cô phải rất cẩn thận, cô Francon."

Cô ngồi chúi người về trước, thu mình thành một cái bóng đen mờ mờ; ánh sáng ngọn đèn rọi vào một bàn tay cô đang đặt hờ trên đầu gối, lòng bàn tay ngửa lên, những ngón tay khép hờ, một đường ánh sáng mảnh vạch qua các kẽ ngón tay, màu vải thẫm của chiếc váy cô mặc khiến cho bàn tay trở nên quá trần trụi và trắng.

"... để đảm bảo là tôi sẽ đặt một miếng đá khác cùng loại. Ví dụ như không nên thay bằng một miếng cẩm thạch trắng vùng Georgia, vì nó không mịn như cẩm thạch trắng vùng Alabama. Đây là cẩm thạch Alabama. Loại rất tốt. Rất đắt."

Anh thấy bàn tay cô nắm lại và buông xuống, ra khỏi ánh đèn. Anh tiếp tục công việc trong im lặng.

Khi anh đã xong, anh đứng dậy, hỏi cô:

"Tôi nên bỏ vụn đá ở đâu?"

"Cứ để đó. Tôi sẽ cho người dọn."

"Tôi sẽ đặt một miếng mới, đo vừa và mang đến cho cô, cô trả tiền khi nhận đá. Cô có muốn tôi gắn nó không?"

"Có chứ, chắc chắn rồi. Tôi sẽ cho anh biết khi nào nó đến. Tôi nợ anh bao nhiêu tiền?" Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ trên cái bàn cạnh giường. "Để xem nào, anh ở đây 45 phút. Vậy là 48 xu." Cô với tay lấy túi, cô lấy ra đồng một đô la, đưa cho anh. "Cứ giữ lấy tiền thừa đi." - cô nói.

Cô hy vọng anh sẽ ném nó vào mặt cô. Anh nhét tờ bạc vào túi. Anh nói:

"Cảm ơn, cô Francon."

Anh nhìn rìa tay áo dài của cô đang run lên ở bên dưới những ngón tay nắm chặt.

"Chúc ngủ ngon." - cô nói; giọng cô rỗng ra vì giận dữ.

Anh cúi người. "Chúc ngủ ngon, cô Francon."

Anh quay người và bước xuống cầu thang, ra khỏi nhà.

*

* *

Cô không nghĩ đến anh. Cô nghĩ đến miếng cẩm thạch mà anh đã đặt đưa đến. Cô chờ nó đến, với một sự mong mỏi đến phát sốt như người lên cơn nghiện bất thần; cô đếm từng ngày; cô quan sát những chiếc xe tải hiếm hoi trên con đường phía ngoài bãi cỏ.

Cô tự nhủ với bản thân một cách mạnh mẽ rằng cô chỉ đang chờ miếng cẩm thạch tới; chỉ thế thôi, không có gì khác, không có lý do kín nào, không có lý do nào cả. Nó là cơn điên loạn cuối cùng; cô hoàn toàn tự do trước mọi thứ khác. Miếng đá sẽ đến và nó sẽ là dấu chấm hết.

Khi miếng đá đến, cô hầu như không thèm nhìn nó. Chiếc xe tải chở hàng chưa kịp rời khỏi bãi cỏ, cô đã ở bàn, viết lên một miếng giấy đắt tiền. Cô viết:

"Đá đã tới. Tôi muốn đặt nó tối nay."

Cô sai người quản gia cầm tờ giấy xuống mỏ. Cô ra lệnh đưa nó cho "Tôi không biết tên anh ta. Anh chàng tóc đỏ làm việc ở đây."

Người quản gia trở lại và mang cho cô một miếng giấy, xé ra từ một cái túi giấy xi măng, trên có dòng chữ bằng bút chì:

"Cô sẽ có nó tối nay."

Cô đợi bên cửa sổ phòng ngủ, với một trạng thái trống rỗng đến nghẹt thở của sự bồn chồn. Chuông cửa lối vào dành cho người hầu rung lên lúc bảy giờ. Có một tiếng gõ ở cửa phòng cô. "Vào đi." - cô gắt - để giấu sự lạ lùng trong giọng nói của chính cô. Cửa mở và vợ người quản gia bước vào, hướng dẫn ai đó vào theo. Người vào theo là một người đàn ông Ý, trung niên, thấp, thô người, chân cong, đeo khuyên tai vàng ở một bên tai và hai tay kính cẩn cầm một cái mũ đã sờn.

"Người này từ mỏ đá đến, thưa cô Francon." - vợ người quản gia nói.

Dominique hỏi, giọng cô không phải là một tiếng gào, cũng không phải là một câu hỏi:

"Anh là ai?"

"Pasquale Orsini." - người đàn ông ngoan ngoãn trả lời với vẻ ngạc nhiên.

"Anh muốn gì?"

"À, tôi... thì, Tóc Đỏ ở dưới mỏ nói là lò sưởi cần sửa, anh ta nói cô muốn tôi sửa."

"Đúng rồi, đúng rồi, dĩ nhiên rồi." - cô nói và đứng dậy - "Tôi quên mất. Làm đi."

Cô phải biến khỏi căn phòng. Cô phải chạy, phải không để cho bất cứ ai nhìn thấy cô, phải không để cho chính cô nhìn thấy mình, nếu cô có thể thoát khỏi căn phòng.

Cô dừng lại ở đâu đó trong vườn và đứng run lên, dúi hai nắm tay vào mắt. Đây là sự giận dữ. Đây là một cảm xúc đơn nhất, toàn vẹn cuốn phăng mọi thứ; tất cả mọi thứ trừ sự sợ hãi ẩn dưới cơn giận; sợ hãi bởi vì cô biết rằng bây giờ cô không thể đến gần mỏ đá và rằng cô sẽ đến.

Nhiều ngày sau đó, vào một buổi chiều tối, cô đi đến mỏ đá. Cô trở về trên lưng ngựa từ một cuộc dạo chơi trong vùng nông thôn, và cô nhìn thấy những cái bóng đổ dài trên thảm cỏ; cô biết rằng cô không thể chịu đựng thêm một đêm nữa. Cô phải đến đó trước khi những người công nhân về nhà. Cô quay ngựa. Cô phi đến mỏ đá, như bay, gió cắt vào hai má cô.

Anh không ở đó khi cô đến được mỏ đá. Cô biết ngay tức khắc rằng anh không ở đó mặc dù những người thợ chỉ đang bắt đầu ra về và rất nhiều vẫn đang túa từ lòng chảo đá xuống đường mòn. Cô đứng, hai môi mím chặt, và cô tìm anh. Nhưng cô biết là anh đã đi khỏi.

Cô cưỡi ngựa vào rừng. Cô cứ đi vô định giữa những bức tường lá cây như tan chảy ở phía trước dưới ánh hoàng hôn tắt dần. Cô dừng lại, bẻ gãy một cành cây dài, mảnh; dứt hết lá và đi tiếp, dùng cành cây như cái roi, vụt cho con ngựa chạy nhanh hơn. Cô cảm thấy như thể tốc độ sẽ đẩy nhanh buổi tối, buộc những giờ phía trước trôi qua nhanh hơn, đưa cô nhảy qua thời gian để bắt kịp bình minh trước khi nó đến. Và rồi cô nhìn thấy anh đi bộ một mình trên con đường mòn phía trước cô.

Cô băng lên. Cô bắt kịp anh và dừng lại đột ngột - sự đột ngột ném người cô về phía trước rồi ngật ra sau như người ta thả lỏng một sợi dây đàn. Anh đứng lại.

Họ không nói gì. Họ nhìn nhau. Cô nghĩ mỗi khoảnh khắc im lặng đi qua là một sự thú nhận; sự đối mặt không lời này quá hùng hồn - sự thừa nhận rằng không cần thiết phải chào hỏi.

Cô hỏi, giọng cô bằng phẳng:

"Tại sao anh không đến đặt miếng đá?"

"Tôi nghĩ là với cô thì ai đến cũng có gì khác nhau đâu. Hay là có khác nhau, hả cô Francon?"

Cô cảm thấy những lời nói không phải là những thanh âm mà là một cú đấm vào miệng cô. Cái cành cây trong tay cô vung lên và quật ngang mặt anh. Cô quất ngựa đi cũng cùng lúc với hành động ấy.

*

* *

Dominique ngồi ở bàn trang điểm trong phòng ngủ. Đã rất khuya. Không hề có âm thanh nào trong căn nhà rộng lớn, trống vắng quanh cô. Những cửa kính trong phòng ngủ của cô mở ra một ban công và không hề có tiếng lá cây từ khu vườn tối bên dưới.

Những tấm chăn trên giường cô được lật ra, chờ cô; chiếc gối trắng tương phản với những cửa sổ cao, màu đen. Cô nghĩ cô sẽ cố ngủ. Cô đã không thấy anh ba ngày. Cô vuốt tay qua đầu, những đường cong của lòng bàn tay ép xuống những lọn tóc. Cô ép những ngón tay ẩm ướt nước hoa xuống hai điểm trũng của thái dương và giữ chúng ở đó trong một khoảnh khắc; cô thấy dễ chịu khi chất nước lạnh lẽo, dễ bốc hơi cắn vào da cô. Một giọt nước hoa bị rớt ra vẫn còn trên mặt kính của bàn trang điểm - giọt nước lấp lánh như một viên đá quý và cũng đắt như một viên đá quý.

Cô đã không nghe thấy tiếng bước chân trong vườn. Cô chỉ nghe thấy chúng khi chúng đi lên cầu thang, tới ban công. Cô ngồi dậy, cau mày. Cô nhìn ra những cửa sổ kính.

Anh vào. Anh mặc quần áo thợ, chiếc áo bẩn thỉu với tay áo xắn, chiếc quần loang lổ bụi đá. Anh đứng nhìn cô. Không hề có sự ngầm hiểu ngạo nghễ trên mặt anh. Mặt anh đanh lại, khắc khổ vì sự hung bạo, rắn lại vì sự đam mê, hai gò má lún xuống, đôi môi mím chặt. Cô bật dậy, cô đứng, hai cánh tay ngoặt ra sau, những ngón tay xòe ra. Anh không cử động. Cô nhìn thấy một mạch máu ở cổ anh phồng lên, đập, và xẹp xuống.

Rồi anh bước về phía cô. Anh ôm cô như thể da thịt anh đã cắt ngang qua da thịt cô và cô cảm thấy những đốt xương trong cánh tay anh nằm trên những xương sườn của cô, hai chân cô ép mạnh vào hai chân anh, miệng anh trên miệng cô.

Cô không biết liệu sự sợ hãi lay cô trước, và cô thúc khuỷu tay vào họng anh, vặn người để thoát ra, hay là cô nằm im trong tay anh, trong khoảnh khắc đầu tiên, trong cú sốc của cảm giác thấy da anh trên da cô - điều mà cô đã nghĩ đến, đã mong chờ, đã chưa bao giờ biết nó lại như thế này, điều cô không thể biết bởi vì đây không phải là một phần của sự sống mà là một thứ người ta không thể chịu đựng được lâu hơn một giây.

Cô cố gắng bứt ra khỏi anh. Nỗ lực ấy vỡ vụn trước cánh tay anh - cánh tay không hề cảm thấy sức chống cự. Những nắm đấm của cô đập vào vai anh, vào mặt anh. Anh đưa một tay, nắm cả hai cổ tay cô, dằn nó ra phía sau cô, dưới cánh tay anh, vặn mạnh bả vai cô. Cô vặn đầu ra sau. Cô cảm thấy đôi môi anh trên ngực cô. Cô vùng người ra.

Cô ngã ngồi xuống bàn trang điểm, cô đứng thủ thế, hai tay cô bám chặt vào mép bàn phía sau, mắt mở to, không màu, không hình dạng trong sự sợ hãi. Anh đang cười lớn. Có cử động của cái cười trên mặt anh nhưng không hề có âm thanh. Có thể anh đã cố tình để cô thoát ra. Anh đứng, hai chân dang ra, hai tay buông hai bên, để cho cô có thể nhận biết rõ ràng hơn về thân thể anh từ khoảng cách giữa họ thay vì khi cô trong tay anh. Cô nhìn vào cánh cửa phía sau anh, anh nhìn thấy dấu hiệu cử động đầu tiên, không ngoài một ý nghĩ về việc nhảy đến cánh cửa. Anh chìa một tay ra, không chạm vào cô, và lùi lại. Hai vai cô chuyển động nhẹ, nhô lên. Anh bước một bước lên trước và hai vai cô xẹp xuống. Cô thu người xuống thấp hơn, gần hơn vào cái bàn. Anh để cô đợi. Rồi anh tiến đến. Anh nhấc cô lên mà không cần sức. Cô để răng cô ngập vào tay anh và cảm thấy máu trên đầu lưỡi. Anh kéo đầu cô ra sau và anh ép môi cô mở ra, áp vào môi anh.

Cô chống trả như một con thú. Nhưng cô không hề kêu. Cô không kêu cứu. Cô nghe thấy tiếng vọng những cú đấm của cô trong một tiếng thở dốc của anh và cô biết đấy là tiếng thở dốc của khoái cảm. Cô với tới cái đèn trên bàn trang điểm. Anh gạt cái đèn khỏi tay cô. Thủy tinh vỡ thành vụn nhỏ trong bóng tối.

Anh đã ném cô xuống giường và cô cảm thấy máu đập trong cổ họng cô, trong mắt cô, sự căm giận, sự sợ hãi bất lực trong máu cô. Cô cảm thấy sự căm giận và những bàn tay của anh; những bàn tay chuyển động trên thân thể cô, những bàn tay đã phá đá granit. Cô chống cự trong cơn cuồng loạn cuối cùng. Rồi một cơn đau xói lên, xuyên qua thân thể cô, lên họng cô, và cô gào lên. Rồi cô nằm yên.

Đó là một hành động có thể được thực hiện một cách dịu dàng, như một dấu ấn của tình yêu, hoặc một cách khinh bỉ, như một biểu tượng của sự lăng nhục và chinh phục. Đó có thể là hành động của một người tình hoặc là hành động của một người lính hãm hiếp một người đàn bà bên hàng ngũ kẻ thù. Anh thực hiện nó như một hành động khinh bỉ. Không phải như tình yêu, mà như sự cưỡng bức. Và điều này khiến cho cô nằm yên và tuân phục.

Nếu có một cử chỉ dịu dàng từ phía anh - thì cô sẽ vẫn lạnh lùng, vô cảm trước những gì được thực hiện trên thân thể cô. Nhưng hành động của một ông chủ thực hiện hành vi sở hữu nhục nhã và đáng khinh đối với thân thể cô chính là thứ phấn khích mà cô đã mong muốn. Rồi cô cảm thấy anh run lên trong cao trào của một thứ khoái cảm mà chính anh cũng không chịu nổi, cô biết rằng cô đã cho anh cái đó, rằng nó đến từ cô, từ cơ thể cô, và cô cắn môi và cô biết rằng anh đã muốn để cô biết.

Anh nằm yên trên giường, cách xa cô, đầu anh ngửa ra sau qua cạnh giường. Cô nghe tiếng thở chậm chạp của anh hết dần. Cô nằm ngửa, khi anh đã rời cô, không động đậy, môi cô hé mở. Cô cảm thấy trống rỗng, nhẹ nhàng và bằng phẳng.

Cô thấy anh đứng dậy. Cô nhìn thấy đường viền của thân thể anh trên cửa sổ. Anh bước ra ngoài, không một lời và chẳng một lần liếc nhìn cô. Cô nhận thấy điều này, nhưng cũng chẳng sao hết. Cô lắng nghe một cách trống rỗng tiếng bước chân anh xa dần khỏi khu vườn.

Cô nằm yên một lúc lâu. Rồi cô cử động lưỡi trong khuôn miệng còn đang mở. Cô nghe thấy một tiếng gì đó từ đâu đó trong cô, và đó là một âm thanh khô khốc, ngắn ngủn, ghê tởm của một tiếng khóc, nhưng cô không khóc, mắt cô bị tê liệt, ráo hoảnh và mở to. Âm thanh đó trở thành một chuyển động, một cú xóc chạy xuống dưới cổ họng cô tới bụng cô. Cô nghe tiếng chiếc bàn nhỏ bên cạnh chiếc giường kêu răng rắc trong bóng tối, và cô nhìn nó, trong sự kinh ngạc trống rỗng, nhận thấy một chiếc bàn có thể chuyển động chẳng có lý do gì. Rồi cô hiểu rằng cô đang run lên. Cô không sợ hãi; nó có vẻ ngớ ngẩn khi run lên như thế - bằng những cú giật ngắn, riêng rẽ, như những cái nấc cụt. Cô nghĩ rằng cô phải tắm. Nhu cầu tắm trở nên thúc bách không chịu nổi, như thể cô đã cảm thấy thế lâu lắm rồi. Sẽ chẳng có vấn đề gì hết, chỉ cần cô tắm thôi.

Cô lê bước chậm chạp tới cửa phòng tắm.

Cô bật đèn trong phòng tắm. Cô thấy mình trong một tấm gương lớn. Cô thấy những vết thâm tím còn lại trên thân thể cô do môi anh để lại. Cô nghe thấy một tiếng rên bị nghẹt lại trong họng mình, một tiếng rên không lớn lắm. Lý do không phải là cảnh cô nhìn thấy trong gương, mà là ánh chớp vụt lóe trong nhận thức. Cô biết rằng cô sẽ không tắm. Cô biết rằng cô muốn giữ cảm giác về thân thể anh, giữ những dấu vết của thân thể anh để lại trên người cô, và cô cũng biết cái ước muốn đó hàm nghĩa gì. Cô quỳ gối, bám chặt thành bồn tắm.

Cô không thể khiến mình bò qua thành bồn tắm. Hai tay cô cứ trượt đi, cô nằm bất động trên sàn. Gạch lát sàn cứng và lạnh dưới thân thể cô. Cô nằm đó đến sáng.

*

* *

Roark tỉnh dậy vào buổi sáng và nghĩ rằng đêm qua giống như một cột mốc đã được đạt đến, giống như một trạm dừng trong dòng chảy cuộc đời anh. Anh đang tiến lên chỉ vì mục đích đạt đến những trạm dừng như thế - những giây phút anh đi bộ qua ngôi nhà đang xây dở cho Heller là một điểm dừng; đêm qua là một điểm dừng nữa. Theo một cách không được tuyên bố công khai, thì đêm qua đối với anh cũng có ý nghĩa như việc xây dựng đối với anh - trong cái cách mà anh phản ứng với nó, trong cái mà nó mang lại cho nhận thức của anh về sự tồn tại.

Họ đã hợp nhất trong một sự thấu hiểu vượt quá bạo lực, vượt quá sự dung tục cố ý trong hành động của anh; nếu cô có ý nghĩa ít hơn đối với anh thì anh đã không chiếm đoạt cô như anh đã làm; nếu anh có ý nghĩa ít hơn đối với cô thì cô đã không chiến đấu một cách dữ dội như vậy. Và sự hoan hỉ không thể diễn tả thành lời nằm ở chỗ anh biết cả hai người đều hiểu điều này.

Anh đến mỏ đá và làm việc như bình thường ngày hôm đó. Cô không đến mỏ đá và anh không hy vọng cô sẽ đến. Nhưng ý nghĩ về cô vẫn ở lại. Anh ngắm nghía nó với nỗi tò mò. Thật là lạ khi cảm nhận được sự tồn tại của một con người khác, khi cảm thấy nó như một sự cần thiết gần gũi và thúc bách; một sự cần thiết không cần kiểm định, không dễ chịu mà cũng chẳng đau đớn, chỉ có tính chất chung thẩm giống như một tối hậu thư. Điều quan trọng là biết rằng cô tồn tại trên thế giới; quan trọng là nghĩ về cô, về việc cô thức dậy sáng nay như thế nào, về việc cô di chuyển như thế nào, với thân thể của cô vẫn là của anh, giờ đây là của anh mãi mãi, về việc cô nghĩ gì.

Tối hôm đó, vào bữa tối trong căn bếp đầy mồ hóng, anh mở một tờ báo và nhìn thấy cái tên Roger Enright trong mục chuyện nhặt nhạnh. Anh đọc đoạn báo ngắn ngủi: "Có vẻ như một dự án lớn đang sắp bị vứt bỏ. Roger Enright, ông vua dầu mỏ, có vẻ như đang gặp rắc rối lần này. Ông sẽ phải tạm dừng kế hoạch viển vông mới đây nhất của ông là xây dựng một Tòa nhà Enright. Vấn đề là ở kiến trúc sư, như chúng tôi được thông báo.

Có vẻ như một nửa tá kiến trúc sư nổi tiếng đã bị Ngài Enright không hài lòng đuổi ra cửa. Tất cả những người này đều là các kiến trúc sư hàng đầu."

Roark cảm thấy một cơn quặn thắt anh vẫn thường xuyên phải vật lộn chống lại, để nó không thể làm anh bị đau đớn quá mức: cơn quặn thắt vì bất lực trước cái viễn cảnh về những gì anh đã có thể làm, vì biết được những gì đã có thể thành hiện thực và những gì đã bị đóng lại trước mặt anh. Sau đó, chẳng hiểu sao, anh lại nghĩ về Dominique Francon. Cô chẳng có quan hệ gì với những gì anh đang nghĩ trong đầu; anh bị sốc chỉ vì biết rằng cô có thể vẫn hiện hữu ngay cả trong những điều này.

Một tuần trôi qua. Sau đó, một buổi tối, anh thấy một lá thư đợi anh ở nhà. Nó đã được gửi từ văn phòng cũ của anh tới địa chỉ cuối cùng của anh ở New York, rồi được gửi tiếp từ đó cho Mike, và từ Mike đến Connecticut. Anh không nhận ra địa chỉ in nổi của một công ty dầu mỏ trên phong bì. Anh mở lá thư. Anh đọc:

"Thưa ông Roark,

"Tôi đã mất nhiều thời gian cố gắng liên lạc với ông, nhưng không thể tìm được nơi ông ở. Xin ông hãy liên lạc với tôi càng sớm càng tốt. Tôi muốn thảo luận với ông về Tòa nhà Enright của tôi, nếu ông là người đã xây dựng Cửa hàng Fargo.

"Kính thư,

"Roger Enright."

Nửa tiếng sau Roark đã ở trên tàu hỏa. Khi tàu bắt đầu chuyển bánh, anh nhớ đến Dominique và rằng anh đang bỏ cô lại. Ý nghĩ này có vẻ như xa xăm và chẳng quan trọng gì. Anh chỉ kinh ngạc khi nhận thấy rằng anh vẫn nghĩ đến cô, ngay cả lúc này.

*

* *

Cô có thể chấp nhận, Dominique nghĩ, và cô có thể đi đến chỗ quên mọi việc đã xảy ra với cô, ngoại trừ một ký ức: ký ức về việc cô đã thấy khoái cảm trong điều đã xảy ra, về việc anh biết điều đó, và một ký ức nữa: đó là việc anh đã biết điều đó trước cả khi anh đến với cô và việc anh đã không đến nếu anh không biết thế. Cô đã không cho anh câu trả lời, câu trả lời đáng ra đã cứu cô: một câu trả lời rằng cô chỉ đơn thuần khiếp sợ - ngược lại, cô đã thấy vui sướng trong sự khiếp sợ, trong sự kinh hoàng của mình, và trong sức mạnh của anh. Đó chính là sự làm nhục mà cô muốn và cô căm ghét anh vì điều đó.

Một buổi sáng cô nhận được một lá thư đặt trên bàn ăn. Thư của Alvah Scarret. "... Bao giờ thì em về đấy hả Dominique? Tôi không thể nói hết chúng tôi ở đây nhớ em đến thế nào. Ở cạnh em thì cũng không dễ chịu cho lắm, thực sự tôi còn sợ em là đằng khác, nhưng tôi vẫn cứ muốn thổi phồng cái tôi vốn đã được thổi phồng của em thêm, dù ở xa, và thú thật với em rằng tất cả chúng tôi ở đây đều đang sốt ruột đợi em. Nó sẽ giống như sự trở về của một vị Nữ hoàng."

Cô đọc thư và mỉm cười. Cô nghĩ, nếu họ mà biết... những người đó... cuộc sống cũ đó và sự kính trọng đầy sợ hãi trước con người cô... Mình đã bị hiếp... Mình đã bị hiếp bởi một tên lưu manh tóc đỏ từ một mỏ đá... Mình, Dominique Francon... Xuyên qua cái cảm giác của sự nhục mạ, những lời này khiến cô thấy khoái cảm giống hệt như niềm khoái cảm cô có khi ở trong vòng tay anh.

Cô nghĩ về điều này khi cô đi bộ qua vùng nông thôn, khi cô đi ngang qua mọi người trên đường và qua những người cúi chào cô, bà chủ của thị trấn. Cô muốn gào to về điều này cho tất cả bọn họ nghe thấy.

Cô không nhận thấy rằng nhiều ngày đã trôi qua. Cô cảm thấy thỏa mãn trong một sự thản nhiên kỳ lạ, được ở một mình với những lời nói cô cứ nhắc đi nhắc lại với chính mình. Thế rồi, một buổi sáng, khi đang đứng trong bãi cỏ trong vườn, cô hiểu rằng một tuần đã trôi qua và rằng đã một tuần qua cô chưa gặp anh. Cô quay lại và nhanh chóng đi qua bãi cỏ xuống đường. Cô đang đi đến mỏ đá.

Cô đi bộ mấy dặm đến mỏ đá, đầu để trần dưới nắng. Cô không vội vã. Không có gì mà phải vội vã. Việc đó không thể tránh được. Việc gặp lại anh... Cô chẳng có mục đích gì. Nhu cầu này lớn lao đến mức không thể định ra một mục đích nào... Sau đó... Có những điều khác nữa, những điều gớm ghiếc, quan trọng đằng sau cô và đang lờ mờ hiện lên trong đầu óc cô, nhưng trước hết, trên tất cả, chỉ một điều này thôi: phải gặp lại anh... Cô đến chỗ mỏ đá và nhìn quanh một cách chậm chạp, cẩn thận, ngớ ngẩn - ngớ ngẩn bởi sự lớn lao của điều cô nhìn thấy không chịu nhập vào trí não cô: cô đã lập tức nhận ra rằng anh không ở đó. Công việc đang vào lúc cao điểm, mặt trời ở vị trí cao nhất trong thời điểm bận rộn nhất trong ngày, chẳng có một người công nhân nào rỗi rãi, nhưng anh không có mặt trong số họ. Cô đứng và chờ đợi trong trạng thái tê liệt một lúc lâu.

Rồi cô nhìn thấy người đốc công và ra hiệu cho anh ta đến gần.

"Xin chào tiểu thư Francon... Một ngày tuyệt đẹp đúng không tiểu thư? Giống như là giữa mùa hè ấy, thế mà đã sắp đến mùa thu rồi đấy, phải, mùa thu sắp đến, tiểu thư nhìn lá cây kìa, tiểu thư Francon."

Cô hỏi:

"Có một người ở đây... một người đàn ông có mái tóc màu cam rất sáng... anh ta đâu rồi?"

"À đúng rồi. Người đó hả. Anh ta đi rồi."

"Đi rồi?"

"Bỏ rồi. Đi New York rồi, tôi nghĩ thế. Bỏ đi rất bất ngờ nữa chứ."

"Khi nào? Cách đây một tuần?"

"Ồ, không. Mới hôm qua thôi."

"Người..." Rồi cô dừng lại. Cô đã định hỏi: "Người đó là ai vậy?" Thay vì thế cô hỏi:

"Người nào làm việc ở đây tối qua khuya thế? Tôi nghe thấy tiếng nổ."

"Đó là để phục vụ một đơn đặt hàng đặc biệt cho tòa nhà của ngài Francon. Tòa nhà Cosmo-Slotnick ấy, tiểu thư biết đấy. Một việc gấp."

"À... thế à..."

"Xin lỗi nó đã làm phiền tiểu thư, thưa tiểu thư Francon."

"Ồ không sao hết..."

Cô bước đi. Cô sẽ không chịu hỏi tên anh. Đó là cơ hội tự do cuối cùng của cô.

Cô đi nhanh, dễ dàng, bất thình lình thấy nhẹ nhõm. Cô tự hỏi tại sao cô chưa bao giờ nhận thấy rằng cô không biết tên anh và tại sao cô chưa bao giờ hỏi anh. Có lẽ vì từ cái nhìn đầu tiên cô đã biết mọi thứ cô phải biết về anh. Cô nghĩ, người ta không thể tìm được một người công nhân vô danh trong thành phố New York. Cô an toàn rồi. Nếu cô mà biết tên anh, cô sẽ lên đường đến New York ngay lúc này.

Tương lai thật đơn giản. Cô chẳng có gì để làm ngoại trừ việc không bao giờ hỏi tên anh. Cô đã được ân xá. Cô đã có cơ hội để chiến đấu. Cô sẽ đánh bại nó - hoặc nó sẽ đánh bại cô. Nếu nó đánh bại cô, thì cô sẽ hỏi tên anh.

III.

K

hi Peter keating bước vào văn phòng, tiếng cánh cửa mở nghe như một tiếng kèn trôm-pét chói tai. Cánh cửa vung ra phía trước, như thể nó tự mở khi người đàn ông này tiến tới gần; đây là người mà tất cả các cánh cửa khác đều phải mở theo thể thức như vậy.

Một ngày làm việc của anh ở văn phòng bắt đầu với việc đọc báo. Đợi anh trên bàn là một chồng báo chí đã được cô thư ký xếp gọn gàng. Anh thích được thấy báo chí đề cập đến những diễn tiến mới về Tòa nhà Cosmo-Slotnick hoặc về công ty Francon & Keating.

Không hề có lời đề cập nào trên các báo sáng nay, và Keating cau mày. Tuy nhiên, anh lại nhìn thấy một bài về Ellsworth Toohey. Đây là một câu chuyện khiến người ta giật mình. Thomas L. Foster, một nhà hảo tâm, đã chết và để lại, trong số những khoản thừa kế lớn, một khoản tiền khiêm nhường có trị giá một trăm ngàn đô la cho Ellsworth Toohey, "người bạn và người hướng đạo linh hồn của tôi - để tỏ lòng trân trọng tới trí tuệ thanh cao và sự cống hiến hết mình cho nhân loại." Ellsworth M. Toohey đã chấp nhận khoản thừa kế này và đã chuyển nó, một cách nguyên vẹn, tới Viện Nghiên cứu Xã hội, một viện đại học tiên tiến nơi ông ta giữ vị trí giảng viên môn Nghệ thuật như một Hiện tượng Xã hội. Ông giải thích một cách đơn giản rằng ông "không tin vào việc để thừa kế cho một cá nhân." Ông từ chối không bình luận thêm gì nữa. "Không, các bạn của tôi ạ," ông nói, "không bình luận thêm gì về điều này nữa." Và ông nói thêm - với khả năng tuyệt vời trong việc hài hước hóa những giây phút quan trọng của mình - "Tôi muốn đắm mình trong thú vui bình luận chỉ khi có những chủ đề thú vị. Tôi không coi bản thân mình là một trong những chủ đề này."

Peter Keating đọc câu chuyện. Và vì anh biết rằng đó là một hành động anh sẽ không bao giờ thực hiện, nên anh cực kỳ ngưỡng mộ nó.

Rồi anh nghĩ, với một thoáng tức giận quen thuộc, rằng anh vẫn chưa gặp được Ellsworth Toohey. Toohey đã đi thực hiện một tua giảng bài ngay sau khi diễn ra lễ trao giải cuộc thi Cosmo-Slotnick, và những cuộc gặp mặt sáng giá mà Keating tham dự kể từ đó đã bị trống vắng vì thiếu sự có mặt của người mà anh khao khát được gặp nhất. Cái tên Keating chưa bao giờ được nhắc đến trong mục của Toohey. Keating khấp khởi lật trang báo, như anh làm mỗi sáng, sang mục Một tiếng nói nhỏ trong tờ Ngọn cờ New York. Nhưng mục Một tiếng nói nhỏ hôm nay đăng bài Bài hát và những thứ khác, và nội dung của nó xoay quanh việc chứng minh tính siêu việt của các bài hát dân ca đối với các thể loại âm nhạc khác, và chứng minh tính siêu việt của việc hát theo dàn đồng ca đối với bất kỳ một phong cách thể hiện âm nhạc nào khác.

Keating bỏ tờ Ngọn cờ xuống. Anh đứng lên và bực bội đi lại trong văn phòng, vì bây giờ anh phải chuyển sang một vấn đề đau đầu. Anh đã trì hoãn nó trong vài buổi sáng. Đó là vấn đề chọn một nhà điêu khắc cho Tòa nhà Cosmo-Slotnick. Cách đây mấy tháng, hợp đồng điêu khắc bức tượng lớn mang chủ đề "Lao động" để đặt trong gian tiền sảnh của tòa nhà đã được giao cho - tạm thời giao cho - Steven Mallory. Việc này làm Keating thấy khó hiểu, nhưng nó lại do ông Slotnick quyết định, nên Keating đã đồng ý. Anh đã phỏng vấn Mallory và nói: "... vì thừa nhận khả năng khác thường của anh... tất nhiên anh chưa có tên tuổi, nhưng anh sẽ có, sau khi thực hiện một hợp đồng như thế này... những hợp đồng cho những tòa nhà như của tôi không phải ngày nào cũng có đâu."

Anh không thích Mallory. Mắt Mallory trông giống như những cái hố màu đen còn lại sau một vụ hỏa hoạn không được dập tắt hoàn toàn, và Mallory chưa hề cười lấy một lần. Anh ta hai mươi tư tuổi, đã từng có một triển lãm cho các công trình của riêng mình, nhưng không có nhiều hợp đồng lắm. Tác phẩm của anh ta lạ lùng và quá bạo lực. Keating nhớ rằng cách đây đã lâu Ellsworth Toohey từng nói trong mục Một tiếng nói nhỏ như sau:

"Những tượng người của ông Mallory sẽ rất đẹp nếu không tính đến giả thuyết rằng Chúa Trời tạo ra thế giới và hình dạng cho loài người. Cứ nhìn vào những gì mà ông cho là chấp nhận được với thân thể con người, thì nếu ông Mallory mà được giao cho công việc sáng thế, có thể ông sẽ làm tốt hơn cả Đấng Toàn năng. Nhưng liệu ông ta có thể được giao một việc như vậy?"

Keating thấy hoang mang trước sự lựa chọn của ông Slotnick, cho đến khi anh nghe nói rằng Dimples Williams đã từng sống cùng khu chung cư với Steven Mallory ở Greenwich Village, và ông Slotnick hiện không thể từ chối Dimples Williams bất kỳ điều gì. Mallory đã được thuê, đã làm việc và đã nộp mô hình bức tượng "Lao động." Khi anh trông thấy nó, Keating biết rằng bức tượng sẽ như một vết rạch lớn, một đống đất giữa gian tiền sảnh nhã nhặn thanh lịch của anh. Đó là một người đàn ông với thân thể mảnh dẻ để trần, trông như thể anh ta có thể xuyên thủng những vỏ thép của một chiếc tàu chiến hoặc bất kỳ một hàng rào ngăn cản nào. Bức tượng đứng như một thách thức. Nó để lại một dấu ấn kỳ lạ trong mắt người xem. Nó khiến những người xung quanh như nhỏ hơn và buồn bã hơn thường lệ. Lần đầu tiên trong đời, khi nhìn vào bức tượng ấy, Keating nghĩ anh hiểu được từ "anh hùng" có nghĩa là gì.

Anh chẳng nói gì. Nhưng mô hình bức tượng đã được gửi cho ông Slotnick và nhiều người đã nói toạc ra, với sự bực bội, những gì Keating đã cảm thấy. Ông Slotnick yêu cầu anh chọn một nhà điêu khắc khác và để mặc anh quyết định lựa chọn.

Keating thả mình trong ghế bành, ngả người về phía sau và tặc lưỡi. Anh tự hỏi liệu anh có nên giao công việc này cho Bronson, nhà điêu khắc và là bạn của bà Shupe, vợ chủ tịch công ty Cosmo; hay nên trao nó cho Palmer - người đã được đề cử bởi ông Huseby, một người đang định xây một nhà máy sản xuất mỹ phẩm trị giá năm triệu đô la. Keating phát hiện ra rằng anh thích quá trình do dự này; anh nắm vận mệnh của hai người và có khả năng là của nhiều người khác nữa; anh nắm vận mệnh, công việc, hy vọng, và có thể cả lượng thực phẩm trong dạ dày của họ nữa. Anh có thể tùy ý lựa chọn, vì bất kỳ lý do gì, hoặc chẳng vì lý do gì; anh có thể tung một đồng xu, anh có thể đếm số khuy áo trên chiếc áo vét của mình. Anh là một người vĩ đại - nhờ ân điển với những người phải phụ thuộc vào anh.

Sau đó anh lưu ý đến chiếc phong bì.

Nó nằm trên đống thư từ trên bàn. Đó là một chiếc phong bì hẹp, đơn giản, mỏng, nhưng có in biểu trưng của tờ Ngọn cờ trên một góc. Anh vội vàng với lấy nó. Chẳng có thư gì bên trong phong bì; chỉ vỏn vẹn một bản in thử cho số ngày mai của tờ Ngọn cờ. Anh thấy mục Một tiếng nói nhỏ quen thuộc của Ellsworth M. Toohey và dưới đó là một từ duy nhất làm nhan đề cho bài báo. Nó được in cỡ chữ lớn, thưa, một từ duy nhất, nổi bật vì sự duy nhất của nó - sự duy nhất có ý nghĩa như một cái nghiêng mình cúi chào:

KEATING

Anh đánh rơi mẩu báo rồi túm chặt lấy nó và đọc, mắc nghẹn vì những miếng lớn câu chữ không được nhai hết. Mẩu báo run rẩy trong tay anh, da trán anh nhăn chặt lại thành những rãnh màu hồng. Toohey viết:

"Vĩ đại là một từ có tính phóng đại, và giống như mọi sự phóng đại khác, nó lập tức chuốc lấy hệ quả là sự rỗng tuếch. Người ta hẳn sẽ nghĩ đến một quả bóng bay được thổi căng của một cậu bé? Tuy nhiên, có những trường hợp mà chúng ta bắt buộc phải công nhận cái triển vọng về việc tiệm cận - cực kỳ gần - đến cái mà chúng ta gọi một cách nôm na bằng từ vĩ đại. Triển vọng này đang lấp ló ở phía chân trời kiến trúc của chúng ta, trong con người một thanh niên trẻ mang tên Peter Keating.

"Chúng ta đã nghe rất nhiều - và hoàn toàn công bằng - về Tòa nhà Cosmo-Slotnick tuyệt vời mà anh đã thiết kế. Giờ đây, chúng ta sẽ thử bỏ qua tòa nhà và liếc qua một chút vào con người mà nhân cách của người ấy đã được in dấu trên tòa nhà.

"Chẳng có một nhân cách nào được in dấu trên tòa nhà đó - và chính ở điểm này, các bạn của tôi ạ, là sự vĩ đại của nhân cách. Đó là sự vĩ đại của một tinh thần trẻ trung biết quên cái tôi của mình để hấp thụ mọi thứ và trả lại chúng cho thế giới mà từ đó chúng sinh ra, sau khi làm giàu thêm cho chúng bằng tài năng sáng chói của tinh thần ấy. Như thế, một con người trở thành đại diện không phải cho một cá thể lập dị mà cho hằng hà sa số những con người khác, để hiện thân cho sức rướn của tất cả những đam mê, thông qua đam mê của chính mình...

"... Những người có khả năng phân biệt sẽ có thể nghe được thông điệp mà Peter Keating gửi đến chúng ta trong hình hài của Tòa nhà Cosmo-Slotnick, có thể thấy rằng ba tầng trệt đơn giản, vĩ đại, là khối giai cấp công nhân đang nuôi sống cả xã hội; thấy rằng những hàng cửa sổ giống hệt nhau với những tấm kính cửa phơi mình dưới nắng là biểu tượng cho linh hồn của công chúng bình dân, của vô số những người vô danh đang tụ nhau dưới tình bằng hữu và đang vươn tới ánh sáng; rằng những trụ tường vươn lên từ phần móng vững chắc trong các tầng trệt và nở tung thành những đầu cột rực rỡ theo lối kiến trúc Corinthian là biểu tượng của những bông hoa Văn hóa chỉ nở tung khi cắm rễ trên mảnh đất màu mỡ là quần chúng nhân dân...

"... Để đáp lại cho những ai vốn coi tất cả những nhà phê bình là lũ quỷ dữ chỉ biết phá hoại những tài năng nhạy cảm, thì mục này muốn cảm ơn Peter Keating vì đã cho chúng tôi cơ hội hiếm hoi - ôi, rất hiếm hoi! - được bày tỏ niềm hạnh phúc của người làm phê bình trong sứ mạng thật sự của mình - đấy là sứ mạng khám phá các tài năng trẻ - khi có các tài năng trẻ như thế để khám phá. Và nếu Peter Keating đọc được những dòng này thì chúng tôi cũng không muốn anh mang ơn chúng tôi. Thực sự chúng tôi phải mang ơn anh mới đúng."

Khi Keating bắt đầu đọc bài báo đến lần thứ ba, anh mới nhận thấy một vài dòng viết bằng bút chì đỏ bên cạnh phần nhan đề:

"Peter Keating thân mến,

"Hãy ghé vào văn phòng tôi lúc nào đó. Rất mong được biết anh trông thế nào."

E.M.T

Anh để mẩu báo rơi chầm chậm xuống bàn, và anh đứng cạnh bàn, các ngón tay vân vê một lọn tóc, ngẩn ngơ vì sung sướng. Rồi anh xoay người ngắm bức vẽ Tòa nhà Cosmo-Slotnick của anh, được treo trên bức tường, giữa một bức ảnh lớn chụp đền Parthenon và một bức chụp Điện Louvre. Anh ngắm nhìn những trụ tường của tòa nhà. Anh chưa bao giờ nghĩ chúng là Văn hóa nở rộ từ trong quần chúng nhân dân, nhưng anh quyết định rằng người ta hoàn toàn có thể nghĩ như thế và nghĩ tất cả những thứ đẹp đẽ như thế.

Rồi anh cầm điện thoại, nói chuyện với cái giọng đều đều chối tai của cô thư ký của Ellsworth Toohey, và anh đặt một cuộc hẹn với Toohey vào bốn giờ rưỡi chiều hôm sau.

Vào những giờ tiếp theo, công việc hàng ngày của anh mang một hương vị mới. Cứ như thể hoạt động bình thường của anh vốn chỉ là một bức họa bình thường sáng màu nhưng giờ đây đã trở thành một bức phù điêu khắc nổi nhờ được trao cho cái thực tại ba chiều từ những lời của Ellsworth Toohey.

Guy Francon đôi lúc từ văn phòng của mình đi xuống, chẳng vì một mục đích rõ ràng nào. Màu nhàn nhạt của áo sơ mi và tất của ông ta hợp với màu tóc hoa râm hai bên thái dương ông. Ông đứng mỉm cười hiền lành trong im lặng. Keating đi qua ông trong phòng vẽ, ra ý đã nhận ra sự có mặt của ông, nhưng anh không dừng lại, mà đi chậm đủ để nhét một mẩu báo vào những nếp gấp của chiếc khăn tay màu hoa cà trong túi ngực áo của Francon, với lời nhắn "Guy, khi nào có thời gian, bác nhớ đọc cái này." Anh nói thêm, khi đã đi đến một nửa căn phòng kế tiếp: "Ăn trưa với cháu hôm nay không bác Guy? Đợi cháu ở chỗ Plaza nhé."

Khi anh trở về từ bữa trưa, Keating bị một thợ vẽ trẻ giữ lại. Anh này hỏi Keating với một giọng đầy hồi hộp:

"Ông Keating, ông có biết ai đã bắn Ellsworth Toohey không?"

Keating hổn hển:

"Ai làm gì cơ?"

"Bắn ông Toohey."

"Ai?"

"Đó chính là điều tôi muốn biết, ai."

"Bắn... Ellsworth Toohey?"

"Tôi nhìn thấy thế trên tờ báo của một anh chàng trong một tiệm ăn. Tôi không có thời gian mua một tờ."

"Ông ta đã... bị bắn chết?"

"Đó là cái mà tôi không biết. Tôi chỉ thấy nói về việc bắn."

"Nếu ông ta chết, thì họ sẽ không đăng bài của ông ta trên tờ báo ngày mai, đúng không?"

"Tôi không biết. Tại sao, ông Keating?"

"Đi kiếm cho tôi một tờ báo."

"Nhưng tôi phải..."

"Kiếm cho tôi tờ báo đó ngay, đồ ngu!"

Câu chuyện được đăng ở đó, trên các báo buổi chiều. Ai đó đã bắn Ellsworth Toohey vào sáng hôm đó, khi ông bước ra khỏi xe trước một đài phát thanh, nơi ông sẽ phát biểu về "Những người không có tiếng nói và không được bảo vệ." Cú bắn trượt đích. Ellsworth Toohey vẫn bình tĩnh và sáng suốt sau khi xảy ra sự việc. Cách ứng xử của ông mang vẻ sân khấu, chỉ có điều chẳng có bất cứ cái gì thuộc về sân khấu đang diễn ra. Ông nói: "Chúng ta không thể bắt thính giả đợi được," và vội vàng bước lên cầu thang tới chỗ micro, nơi mà ông không hề đả động đến vụ bắn vừa rồi và phát biểu không cần giấy trong vòng nửa tiếng đồng hồ, giống như ông vẫn thường làm. Kẻ tấn công ông chẳng nói năng gì khi bị bắt.

Keating nhìn chằm chằm vào tên của kẻ ám sát hụt - họng anh khô rát. Cái tên đó là Steven Mallory.

Chỉ có những gì không thể giải thích nổi mới làm Keating sợ, đặc biệt là khi cái không thể giải thích nổi ấy không nằm trong những sự việc hữu hình mà ở cái cảm giác sợ hãi không rõ nguồn gốc trong anh. Chẳng có gì có thể trực tiếp làm anh lo lắng trong vụ việc đã xảy ra; có điều, Keating vẫn cứ mong muốn giá mà kẻ tấn công là một người nào khác, bất kỳ một người nào chứ không phải Steven Mallory; và anh ước rằng anh không biết lý do tại sao anh lại ước như vậy.

Steven Mallory vẫn im lặng. Anh ta chẳng đưa ra một lời giải thích nào cho hành động của mình. Đầu tiên, người ta cho rằng nguyên nhân có thể là do anh ta đã bị kích động bởi sự tuyệt vọng khi mất hợp đồng làm việc cho Tòa nhà Cosmo-Slotnick, bởi vì người ta thấy rằng anh ta sống nghèo khổ cùng cực. Nhưng rồi người ta nhận thấy một cách rõ ràng rằng Ellsworth Toohey chẳng có liên quan gì đến việc Steven mất hợp đồng này cả. Toohey chưa bao giờ nói chuyện với ông Slotnick về Steven Mallory. Toohey chưa bao giờ nhìn thấy bức tượng "Lao động." Về điểm này, Mallory đã phá vỡ sự im lặng của mình để thừa nhận rằng anh chưa bao giờ gặp Toohey cũng như chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy ông này, và cũng không biết bất kỳ một bạn bè nào của Toohey. "Anh có cho rằng ông Toohey một phần nào chịu trách nhiệm trong việc anh bị mất công việc đó không?" người ta hỏi anh ta. Mallory trả lời: "Không." "Vậy thì tại sao?" Mallory chẳng nói gì.

Toohey không nhận ra kẻ tấn công mình khi thấy anh ta bị cảnh sát bắt trên vỉa hè phía ngoài đài phát thanh. Ông không biết tên anh ta cho đến sau khi buổi phát thanh kết thúc. Sau đó, khi bước ra khỏi phòng thu vào phòng khách bên ngoài, trong đó đã tề tựu đông đủ các nhà báo, Toohey phát biểu: "Không, tất nhiên tôi sẽ không đòi xét xử gì hết. Tôi mong người ta thả anh ta. Nhân tiện tôi muốn hỏi anh ta là ai vậy?" Khi ông nghe được cái tên, ánh mắt của Toohey vẫn cố định ở đâu đó giữa vai của một người và vành mũ của một người khác. Rồi Toohey - người đã hết sức bình tĩnh khi một viên đạn trượt cách mặt ông vài xăng-ti-mét và đập vào kính cửa ra vào phía dưới - đã thốt lên một từ và từ này có vẻ như rơi xuống chân ông, nặng nề vì sợ hãi: "Tại sao?"

Không ai có thể trả lời được. Toohey ngay sau đó nhún vai, mỉm cười, và nói: "Nếu đó là một nỗ lực để được nổi tiếng mà không mất tiền - thì đây thật là một sự chọn người sai lầm!" Nhưng chẳng ai tin được lời giải thích này, bởi vì tất cả đều cảm thấy rằng chính Toohey cũng chẳng tin nốt. Trong những cuộc phỏng vấn tiếp theo, Toohey trả lời các câu hỏi một cách vui vẻ. Ông tuyên bố: "Tôi chưa bao giờ nghĩ mình đủ quan trọng để người ta phải ám sát. Đây là cách thể hiện lòng kính trọng lớn nhất mà người ta có thể nhận được - nếu nó không mang vẻ nhạc kịch nhiều đến thế." Ông gây ấn tượng rằng cái xảy ra chẳng có gì quan trọng và trên trái đất này, chả có gì quan trọng cả...

Mallory bị tống giam để chờ ngày xét xử. Tất cả những nỗ lực tra hỏi anh ta đều thất bại.

Tối hôm đó, ý nghĩ khiến cho Keating trằn trọc thao thức trong nhiều giờ là cảm giác chắc chắn một cách vô căn cứ rằng Toohey cũng cảm thấy chính xác những gì anh đang cảm thấy. Ông ấy biết, Keating nghĩ, và mình cũng biết, rằng có một mối nguy hiểm lớn hơn trong động cơ thúc đẩy Steven Mallory, so với mối nguy trong chính hành động giết người của anh ta. Nhưng ông ấy và mình sẽ không bao giờ biết được động cơ ấy. Hay bọn mình sẽ biết nhỉ?... Và rồi anh chạm đến cốt lõi của nỗi sợ: đó là niềm mong muốn bất thần rằng anh sẽ không bao giờ, trong những năm tới, cho đến cuối đời, phải biết động cơ ấy là gì.

*

* *

Khi Keating bước vào, cô thư ký của Ellsworth Toohey thong thả đứng dậy và mở cửa cho anh vào văn phòng của Ellsworth Toohey.

Keating đã thôi không còn bị hồi hộp mỗi khi sắp gặp một người nổi tiếng, nhưng lúc này đây anh lại hồi hộp khi nhìn thấy cánh cửa mở ra dưới tay của cô thư ký. Anh tự hỏi Toohey trong thực tế trông như thế nào. Anh nhớ đến giọng nói âm vang anh đã nghe trong tiền sảnh nơi tổ chức buổi đình công, và anh tưởng tượng đến một người đàn ông to lớn, với mái tóc dầy, có lẽ đang ngả bạc, với nét mặt đầy đặn, nở nang của một con người vô cùng rộng lượng, một cái gì đó hơi giống với nét mặt của Đức Chúa Cha.

"Ông Peter Keating - thưa ông Toohey," cô thư ký nói và đóng cửa lại sau lưng anh.

Khi nhìn Ellsworth Monkton Toohey lần đầu tiên, người ta sẽ mong muốn đưa cho ông một chiếc áo khoác nặng và dày - bởi thân thể bé nhỏ gầy guộc của ông trông yếu ớt và mong manh giống như một con gà con mới nở ra từ trứng, với tất cả sự yếu ớt đáng thương của bộ xương chưa cứng cáp. Đến cái nhìn thứ hai, người ta muốn chắc chắn rằng chiếc áo khoác đó phải cực tốt - vì thứ quần áo đang che phủ thân thể ông đều rất đắt tiền. Những đường nét của bộ vét sẫm màu ôm sát thân hình bên trong nó, không để một chỗ nào bị lùng bùng: chúng chìm xuống cùng với chỗ hõm của khuôn ngực lép, chúng trượt xuống dưới cùng với đôi vai xuôi dốc từ chiếc cổ dài gầy guộc. Một vầng trán lớn thống trị cả thân thể. Khuôn mặt hình tam giác rộng ở hai bên thái dương và thu hẹp lại ở phía chiếc cằm nhỏ, nhọn hoắt. Mái tóc đen, bóng, được chia làm hai nửa bởi một đường ngôi trắng nhỏ. Điều này khiến cho xương sọ ông ta trông kín và gọn gàng, nhưng lại làm nổi bật đôi tai xòe ra ngoài trần trụi, giống như quai của một chiếc bát đựng canh. Chiếc mũi dài và mỏng, được kéo dài thêm bởi bộ ria mép đen mảnh. Hai mắt tối và tinh nhạy. Chúng chứa đầy tri thức và sự hài hước đến nỗi chiếc kính ông đeo trông dường như không phải để bảo vệ đôi mắt mà để bảo vệ những người khác khỏi vẻ sáng quắc của nó.

"Hello, Peter Keating," Ellsworth Monkton Toohey nói bằng chất giọng lôi cuốn đầy ma thuật. "Anh nghĩ thế nào về đền thờ Nike Apteros? "

"Xin... xin chào ông, ông Toohey," Keating nói, dừng lại, cảm thấy ngớ ngẩn. "Tôi nghĩ thế nào... về cái gì?"

"Ngồi đi, bạn của tôi. Về đền thờ Nike Apteros ấy mà."

"À... à... tôi..."

"Tôi đoán chắc là anh không thể bỏ qua được viên ngọc nhỏ đó. Đền Parthenon đã tước đoạt đi vinh quang đáng ra phải thuộc về công trình sáng tạo nhỏ bé tuyệt vời của tinh thần tự do Hy Lạp vĩ đại đó - mà thường thói đời là thế đúng không nào? Kẻ to khỏe hơn chiếm hết vinh quang, và chẳng ai buồn nhòm ngó đến vẻ đẹp của kẻ không được hấp dẫn bề ngoài cho lắm. Tôi chắc chắn anh đã nhận thấy sự cân bằng tuyệt vời trong khối kiến trúc của ngôi đền, sự hoàn hảo vĩ đại trong những tỷ lệ khiêm nhường của nó - à, phải, anh biết đấy, cái vĩ đại trong sự khiêm nhường - sự khéo léo tinh xảo trong từng chi tiết?"

"À, vâng, tất nhiên," Keating lẩm bẩm, "nó luôn luôn là công trình ưa thích của tôi - đền thờ Nike Apteros ấy."

"Thật à?" Ellsworth Toohey nói, với một nụ cười mà Keating không thể đoán nổi ý nghĩa. "Tôi chắc chắn như thế. Tôi chắc chắn là anh sẽ nói thế. Anh có một khuôn mặt rất đẹp trai, Peter Keating ạ, khi anh không nhìn tôi chằm chằm như thế này - điều nó thực sự không cần thiết."

Và Toohey bất thần cười vang, cười một cách thẳng thừng, một cách giễu cợt đối với Keating và chính mình, cứ như thể ông ta đang nhấn mạnh sự đùa cợt của cả cuộc gặp mặt này. Keating hoang mang một giây; và rồi anh thấy mình cười thoải mái để đáp lại, như thể anh đang ở nhà với một người bạn cũ.

"Như thế tốt hơn rồi," Toohey nói, "Anh có thấy chúng ta không nên nói chuyện quá nghiêm túc trong một thời điểm quan trọng không? Và đây có thể là một thời điểm rất quan trọng - ai mà biết được? - đối với cả hai chúng ta. Và, tất nhiên, tôi biết rằng anh sẽ hơi sợ tôi một chút và - à, tôi xin thừa nhận - tôi cũng khá sợ anh đấy, thế nên, thế này tốt hơn nhiều, phải không?"

"Ồ vâng, thưa ông Toohey," Keating phấn khởi nói. Sự tự tin anh thường có khi gặp mọi người đã biến mất; nhưng anh cảm thấy thoải mái, như thể anh đã được giải thoát khỏi tất cả trách nhiệm và không phải lo lắng về việc phải nói cái gì nữa, vì anh đang được nhẹ nhàng hướng dẫn về cách nói những điều đó mà chẳng cần phải cố gắng gì.

"Tôi vẫn luôn biết rằng giây phút tôi gặp ông sẽ là một giây phút quan trọng, ông Toohey ạ. Luôn luôn biết vậy. Đã nhiều năm rồi."

"Thật à?" Ellsworth Toohey nói, đôi mắt sau cặp kính lộ vẻ chú ý. "Tại sao?"

"Bởi vì tôi đã luôn hy vọng rằng tôi sẽ làm ông hài lòng, rằng ông sẽ tán thành tôi... công việc của tôi... khi thời điểm đến... trời ơi, tôi thậm chí..."

"Thậm chí gì?"

"... Tôi thậm chí nghĩ, khá thường xuyên, khi tôi vẽ thiết kế, rằng liệu tòa nhà này có được ông Ellsworth Toohey đánh giá tốt không? Tôi cố gắng nhìn nó theo cách đó, qua con mắt của ông... tôi... tôi..."

Toohey nghe một cách chăm chú.

"Tôi luôn luôn muốn gặp ông vì ông thật là một nhà tư tưởng sâu sắc và một người rất am hiểu về văn hóa..."

"Nào," Toohey nói, giọng nhẹ nhàng nhưng hơi sốt ruột; sự quan tâm của ông ta đã giảm xuống khi nghe đến câu cuối cùng của Keating. "Thôi không nói chuyện đó nữa nhé. Tôi không muốn bất lịch sự, nhưng chúng ta sẽ thôi không nói đến những chuyện như thế nữa, được không nào? Nghe có vẻ không tự nhiên, nhưng tôi thực sự không thích nghe người ta tung hô cá nhân mình."

Chính đôi mắt Toohey - Keating nghĩ - làm anh cảm thấy thoải mái. Trong đôi mắt đó là một sự hiểu biết lớn và một lòng tốt không cầu kỳ - không, dùng từ này chưa đúng - phải nói là lòng tốt vô hạn mới đúng. Nó cứ như thể người ta không thể giấu ông ta bất kỳ điều gì, nhưng cũng chẳng cần thiết phải giấu, vì ông sẽ tha thứ mọi chuyện. Đó là đôi mắt nhân từ nhất mà Keating từng nhìn thấy.

"Nhưng, thưa ông Toohey," anh thì thầm, "tôi thực sự muốn..."

"Anh muốn cảm ơn tôi vì bài báo của tôi chứ gì," Toohey nói và hơi nhăn mặt ra vẻ thất vọng nhưng vẫn vui vẻ. "Và tôi thì vừa mới hết sức nỗ lực để ngăn anh không làm vậy. Hãy tha cho tôi điều đó, được không? Chẳng có lý do gì anh phải cảm ơn tôi cả. Nếu anh quả là xứng đáng với những gì tôi nói - thì công trạng là thuộc về anh, không phải về tôi. Đúng không nào?"

"Nhưng tôi hạnh phúc quá vì ông nghĩ tôi là..."

"... một kiến trúc sư vĩ đại? Nhưng chắc chắn rồi, anh bạn của tôi, anh biết thế mà. Hay anh đã không chắc chắn? Chưa bao giờ chắc chắn về điều đó?"

"À, tôi..."

Sự ngập ngừng này chỉ diễn ra trong một giây. Và đối với Keating đó có vẻ là tất cả những gì Toohey muốn nghe từ anh; Toohey không đợi nghe nốt, mà nói như thể đã nhận được một câu trả lời đầy đủ, và một câu trả lời làm ông ta hài lòng.

"Và còn về Tòa nhà Cosmo-Slotnick ấy mà, ai mà có thể phủ nhận rằng đó là một thành tựu phi thường cơ chứ? Anh biết đấy, tôi thực sự mê kiến trúc của nó. Đó là một thiết kế thiên tài. Một thiết kế xuất sắc. Rất khác thường. Rất khác với những gì tôi đã thấy trong các công trình trước của anh. Đúng không?"

"Tất nhiên," Keating nói, lần đầu tiên trong cuộc gặp giọng anh trong và rõ, "bài toán của nó khác với bất kỳ công trình nào tôi từng làm trước đây, bởi vậy tôi đưa ra cách thiết kế đó để phù hợp với những yêu cầu đặc thù của nó."

"Tất nhiên," Toohey nhẹ nhàng nói. "Một công trình tuyệt đẹp. Anh nên tự hào vì nó."

Keating để ý thấy mắt Toohey nằm chính giữa tròng kính và tròng kính tập trung thẳng vào hai con ngươi của anh, và Keating đột nhiên nhận ra rằng Toohey biết anh không phải là người đã thiết kế Tòa nhà Cosmo-Slotnick. Điều này không làm anh sợ. Điều làm anh sợ là anh nhìn thấy sự đồng tình trong đôi mắt của Toohey.

"Nếu anh bắt buộc phải cảm thấy - không, không phải biết ơn, biết ơn là một từ làm người ta bối rối - nhưng, gọi thế nào nhỉ, cảm kích?" Toohey tiếp tục, và giọng ông mềm mại hơn, như thể Keating là một kẻ đồng lõa trong một âm mưu, một kẻ từ nay trở đi sẽ biết rõ những từ ngữ được sử dụng có ý nghĩa thật như thế nào, một mật mã có ý nghĩa riêng, "anh có thể cám ơn tôi vì đã hiểu được những ý nghĩa biểu trưng trong tòa nhà của anh và tuyên bố chúng thành lời giống như khi anh đã tuyên bố chúng bằng những viên đá cẩm thạch. Bởi vì, dĩ nhiên anh không chỉ là một người xây dựng bình thường, mà là một nhà tư tưởng thể hiện các ý tưởng của mình bằng đá."

"Vâng," Keating nói, "đó là chủ đề trừu tượng của tôi, khi tôi thiết kế tòa nhà - quần chúng nhân dân vĩ đại và những bông hoa của văn hóa. Tôi luôn luôn tin rằng văn hóa thật sự đến từ những người dân thường. Nhưng tôi không hy vọng có ai đó hiểu được tôi."

Toohey mỉm cười. Đôi môi mỏng của ông ta hé mở, hàm răng lộ ra. Ông ta không nhìn Keating. Ông đang nhìn xuống tay mình, bàn tay dài, mảnh, nhạy cảm của một nghệ sĩ dương cầm cho dàn nhạc, bàn tay đang di một mẩu giấy trên bàn. Rồi ông ta nói: "Có lẽ chúng ta là anh em trong tinh thần, Keating ạ. Tinh thần con người. Đó là tất cả những gì có ý nghĩa trong cuộc sống." Không nhìn vào Keating, nhưng bỏ qua anh, hai mắt kính của ông ta ngước lên một cách trang trọng tới một giới hạn nào đó vượt quá mặt Keating.

Và Keating nhận ra Toohey biết rằng anh chưa bao giờ nghĩ đến bất kỳ một chủ đề trừu tượng nào cho đến khi anh đọc bài báo đó, và hơn thế nữa: rằng Toohey một lần nữa lại tán thành điều đó. Khi hai tròng kính chầm chậm di chuyển đến mặt của Keating, đôi mắt trở nên ngọt ngào yêu thương, một tình yêu thương rất lạnh giá và rất thật. Rồi Keating cảm thấy như thể những bức tường trong phòng đang nhẹ nhàng chuyển động đè lên anh, đẩy anh vào một quan hệ thân thiết đáng sợ, không phải với Toohey, mà với một tội lỗi vô hình. Anh muốn vùng đứng lên và chạy. Anh vẫn ngồi yên, miệng nửa há ra.

Và chẳng biết điều gì thúc đẩy anh mà Keating nghe thấy giọng của chính mình vang lên trong im lặng:

"Và tôi thực sự muốn nói là tôi rất vui khi hôm qua ông đã thoát được viên đạn của gã điên đó, ông Toohey ạ."

"Ồ?... Ồ, cảm ơn. Cái đó hả? À! Đừng để nó làm phiền anh. Chỉ là một trong những cái giá nho nhỏ cho sự nổi tiếng ấy mà."

"Tôi chưa bao giờ thích Mallory. Một kiểu người lạ đời. Quá căng thẳng. Tôi không thích những người căng thẳng. Tôi cũng chưa bao giờ thích tác phẩm của anh ta."

"Đó chỉ là một kẻ thích phô trương thôi mà. Chẳng quan trọng lắm."

"Tất nhiên tôi không phải là người quyết định cho anh ta thử sức. Đó là quyết định của ông Slotnick. Chuyện thế lực nội bộ ấy mà, ông biết đấy. Nhưng ông Slotnick cuối cùng cũng đã biết phải trái hơn."

"Mallory có bao giờ nhắc đến tên tôi trước mặt anh không?"

"Không. Không bao giờ."

"Tôi chưa bao giờ gặp anh ta, anh biết đấy. Chưa bao giờ nhìn thấy anh ta trước đó. Tại sao anh ta lại làm thế nhỉ?"

Và sau đó thì chính Toohey là người ngồi đờ ra, trước những gì ông ta nhận thấy trên mặt Keating; Toohey lần đầu tiên cảnh giác và cảm thấy bất an. Đúng vậy, Keating nghĩ, đó chính là mối ràng buộc giữa họ, và mối ràng buộc đó là nỗi sợ, và hơn thế nữa, hơn thế rất nhiều, nỗi sợ là cái tên duy nhất có thể gọi mối quan hệ đó. Và anh biết, một cách dứt khoát không cần tranh cãi, rằng anh thích Toohey hơn bất kỳ một người nào anh từng gặp.

"Ông biết chuyện thế nào rồi đấy," Keating vui vẻ nói, hy vọng rằng điều cũ rích mà anh sắp nói sẽ khép chủ đề này lại. "Mallory là một kẻ không có khả năng và biết điều đó và anh ta quyết định trút giận lên ông vì ông là biểu tượng của những người vĩ đại và có khả năng."

Nhưng thay vì một nụ cười, Keating thấy Toohey đột ngột liếc xéo anh; nó không phải một cái liếc, mà là một tia huỳnh quang, anh nghĩ anh có thể cảm thấy nó đang bò trong cơ thể anh để dò xét. Sau đó mặt Toohey dường như rắn lại, rồi lại trở về bình tĩnh, và Keating biết rằng Toohey đã tìm được sự giải thoát ở đâu đó, trong bộ xương hoặc trên khuôn mặt hoang mang của anh, rằng một sự ngu xuẩn vĩ đại ẩn chứa đâu đó trong anh đã trấn an Toohey. Rồi Toohey nói, chầm chậm, kỳ lạ, và đầy chế giễu:

"Anh và tôi, chúng ta sẽ là những người bạn tuyệt vời của nhau, Peter ạ."

Keating để cho một giây trôi qua trước khi anh thấy mình hấp tấp trả lời:

"Ồ, tôi hy vọng thế, ông Toohey!"

"Nào, Peter! Tôi không già đến nỗi thế, đúng không? 'Ellsworth' là một tượng đài kỷ niệm thị hiếu kỳ lạ của bố mẹ tôi đối với việc đặt tên."

"Vâng... Ellsworth."

"Thế tốt hơn nhiều rồi. Tôi thực sự chả quan tâm lắm đến cái tên này, khi so sánh với những thứ mà tôi đã bị người ta gọi sau lưng - và cả ở nơi công cộng nữa - trong nhiều năm nay. Ôi dào. Lại tự tâng bốc. Khi người ta có kẻ thù, người ta biết rằng cần tỏ ra là người nguy hiểm ở nơi nào cần thiết phải như thế. Có những thứ ta phải phá hủy - nếu không chúng sẽ phá hủy ta. Chúng ta sẽ còn gặp nhau nhiều, Peter ạ." Giọng nói của ông ta bây giờ trơn tru và chắc chắn, với cái dứt khoát của một quyết định đã được kiểm tra thử và được phê chuẩn, với sự chắc chắn rằng trong Keating sẽ không bao giờ còn có bất kỳ một dấu hỏi nào đối với ông ta nữa.

"Chẳng hạn, dạo này tôi đang nghĩ đến việc quy tụ một số kiến trúc sư trẻ - tôi biết rất nhiều người như thế - chỉ là một tổ chức nhỏ phi chính thức thôi, để trao đổi ý kiến với nhau, anh biết đấy, để phát triển tinh thần hợp tác, để có thể thống nhất hành động vì lợi chung của ngành khi cần thiết. Chẳng gì bảo thủ bằng cái hội A.G.A ấy. Chỉ là một nhóm người trẻ tuổi. Anh có quan tâm không?"

"Ôi tất nhiên rồi! Và ông sẽ là chủ tịch hội chứ?"

"Ôi trời ơi, không. Tôi chẳng bao giờ là chủ tịch cái gì cả, Peter ạ. Tôi không thích các tước hiệu. Không, tôi thì tôi nghĩ anh sẽ là một chủ tịch thích hợp cho chúng ta, không thể nghĩ được ai tốt hơn."

"Tôi?"

"Chính anh, Peter ạ. Ôi dào, đó mới là một dự án thôi mà - chưa có gì rõ ràng cả - chỉ là một ý tưởng tôi vừa nghĩ ra trong những lúc dở dở ương ương. Lúc nào đó chúng ta sẽ nói lại chuyện này. Bây giờ có cái này tôi muốn nhờ anh - và nó là một trong những lý do chính tôi muốn gặp anh,"

"Ồ, tất nhiên rồi, ông Too - tất nhiên rồi, Ellsworth ạ. Bất kỳ điều gì tôi có thể làm cho ông..."

"Không phải cho tôi. Anh có biết Lois Cook không?"

"Lois... gì cơ?"

"Cook. Anh không biết. Nhưng anh sẽ biết. Cô gái trẻ đó là tài năng văn học lớn nhất kể từ Goethe. Anh phải đọc tác phẩm của cô ấy, Peter ạ. Tôi không hay gợi ý như thế trừ phi đối với những người đặc biệt nổi bật. Trí tuệ của cô ấy cao hơn rất nhiều so với những người thuộc tầng lớp trung lưu chỉ thích những gì rõ ràng. Cô ấy đang định xây một ngôi nhà. Một căn nhà riêng nho nhỏ bên sông Bowery. Đúng vậy, bên sông Bowery. Đúng là kiểu của Lois. Cô ấy đã nhờ tôi giới thiệu cho một kiến trúc sư. Tôi định cho cô ấy tên anh - nếu anh quan tâm đến một căn nhà nhỏ, mặc dù sẽ khá đắt tiền."

"Tất nhiên rồi! Thật là... ông thật là tốt quá, Ellsworth! Ông biết đấy, tôi đã nghĩ khi ông nói... và khi tôi đọc thư ông, là ông muốn - à, một sự giúp đỡ gì đó từ phía tôi, ông biết đấy, một hành động tốt đáp lại một hành động tốt, thế mà ông..."

"Peter thân mến của tôi, anh thật là ngây thơ quá!"

"Ôi, lẽ ra tôi không nên nói thế! Tôi xin lỗi. Tôi không có ý xúc phạm ông, tôi..."

"Không sao đâu. Anh sẽ phải tìm hiểu về tôi nhiều hơn. Mặc dù điều này nghe có vẻ kỳ quặc nhưng, Peter ạ, một sự quan tâm hoàn toàn vô tư đối với đồng loại của mình vẫn có thể xảy ra trong thế giới này."

Sau đó họ nói chuyện về Lois Cook và ba tác phẩm đã được xuất bản của cô - "Tiểu thuyết á? Không, Peter ạ, không hẳn là tiểu thuyết... Cũng không phải là sưu tập các truyện ngắn... chỉ là thế thôi, chỉ là Lois Cook - một loại hình văn học hoàn toàn mới..." "... về gia tài mà cô ấy được thừa hưởng từ dòng họ gồm nhiều doanh nhân thành đạt, và về ngôi nhà cô ấy định xây."

Chỉ khi Toohey đứng dậy tiễn Keating ra cửa - và Keating để ý thấy ông thật mong manh trên đôi bàn chân rất nhỏ bé của mình - thì Toohey mới thình lình dừng lại và nói:

"Nhân tiện, có vẻ như là tôi nên nhớ đến một mối liên hệ riêng tư nào đó giữa chúng ta thì phải, mặc dù trong cả đời tôi không thể... ồ, đúng rồi, tất nhiên rồi. Cháu gái tôi. Catherine bé bỏng."

Keating cảm thấy mặt anh đanh lại, và anh biết anh không nên cho phép điều này được mang ra thảo luận, nhưng anh mỉm cười một cách ngượng nghịu thay vì phản đối.

"Tôi hiểu rằng anh đã đính hôn với nó?"

"Vâng."

"Tuyệt vời," Toohey nói. "Rất tuyệt. Tôi sẽ rất thích được là chú của anh. Anh rất yêu con bé đúng không?"

"Vâng," Keating nói. "Rất yêu."

Câu trả lời không có nốt nhấn mạnh nào trong giọng nói khiến cho nó trở nên trang trọng. Đối với Toohey, nó là dấu hiệu chân thành và quan trọng đầu tiên trong con người Keating.

"Đẹp thật," Toohey nói. "Tình yêu của những người trẻ tuổi. Mùa xuân và bình minh và thiên đường và sô-cô-la mua ở cửa hàng tạp hóa với giá một đô la hai mươi nhăm xu một hộp. Đặc quyền của các thánh thần và của những bộ phim... Ôi, tôi rất tán thành chuyện đó Peter ạ. Tôi nghĩ nó thật đáng yêu. Anh không thể nào chọn được ai khác tốt hơn Catherine đâu. Con bé là kiểu người mà đối với những người như thế thì thế giới đã mất lâu rồi - thế giới với tất cả những vấn đề và tất cả các cơ hội để được vĩ đại của nó - ôi, đúng thế, đã mất vì nó thật là ngây thơ và ngọt ngào và xinh xắn và bị thiếu máu."

"Nếu ông định..." - Keating mào đầu, nhưng Toohey mỉm cười với một vẻ rất mực nhân từ.

"Ôi Peter, tất nhiên là tôi hiểu chứ. Và tôi tán thành. Tôi là một người thực tế. Mọi người cứ hay thích biến mình thành vô lại. Ôi thôi nào, chúng ta không bao giờ được đánh mất khiếu hài hước của mình. Chẳng có gì thực sự thánh thiện ngoại trừ khiếu hài hước. Tuy vậy tôi vẫn luôn yêu câu chuyện về Tristan và Isolde. Đó là câu chuyện hay nhất từng được kể - chỉ kém chuyện chuột Mickey và Minnie mà thôi."

IV.

"... B

àn chải đánh răng trong hàm răng bàn chải đánh răng chải chải răng bọt kem phồng lên trong bọt kem vòng La Mã đi về nhà nhà trong hàm răng Vòm La Mã răng bàn chải răng tăm kẻ móc túi ổ điện rocket..."

Peter Keating nheo mắt, cái nhìn của vô định xa xăm. Anh đặt cuốn sách xuống. Đó là một cuốn sách mỏng và bìa đen, với các hàng chữ đỏ chói nhan đề: Đám mây và vải liệm của tác giả Lois Cook. Bìa sách nói rằng đó là ký sự của cô Cook về các chuyến đi vòng quanh thế giới của cô.

Keating ngả người ra sau với một cảm giác ấm áp và thoải mái. Anh thích cuốn sách. Nó đã biến sự đều đều nhàm chán trong bữa ăn sáng Chủ nhật trở thành một trải nghiệm tinh thần sâu sắc; anh chắc chắn là nó sâu sắc, vì anh không hiểu nó.

Peter Keating chưa bao giờ cảm thấy cần thiết phải hình thành những quan điểm cá nhân trừu tượng. Tuy nhiên anh có một kiểu truyết lý thay thế như sau: "Một thứ không thể là cao nếu người ta có thể với tới nó; nó không vĩ đại nếu người ta có thể tranh cãi về nó; nó không sâu nếu người ta có thể nhìn thấy đáy của nó." - triết lý này luôn là cương lĩnh của anh, dù nó không được phát biểu thành lời và cũng chưa bao giờ bị chất vấn. Nó đã khiến anh chẳng cần phải nhọc công vươn tới, tranh cãi, hay nhìn thấy; và nó khiến anh khinh bỉ những ai nhọc công làm thế. Vậy là anh có thể yêu thích tác phẩm của Lois Cook. Anh cảm thấy thăng hoa vì phát hiện thấy mình có khả năng thẩm thấu những gì trừu tượng, sâu sắc, những gì lý tưởng. Toohey đã nói: "Chỉ thế thôi, âm thường anh như âm thanh, loại thơ mà câu chữ là câu chữ, còn phong cách như sự nổi loạn đối với phong cách. Nhưng chỉ những tinh thần cao quý mới có thể hiểu được chúng, Peter ạ." Keating nghĩ anh có thể nói chuyện về cuốn sách này với các bạn anh, và nếu họ không hiểu thì anh sẽ biết rằng anh ưu việt hơn họ. Anh sẽ không cần giải thích cái ưu việt đó là gì - chỉ thế thôi, "ưu việt như ưu việt" - và điều đó sẽ tự động phủ nhận những kẻ muốn có lời giải thích. Anh yêu cuốn sách.

Anh với tay lấy một lát bánh mì nướng nữa. Anh thấy ở cuối bàn mẹ anh đã để cho anh chồng báo Chủ nhật dày cộp. Anh nhấc chồng báo lên, cảm thấy đủ sức mạnh lúc này để đối mặt với toàn bộ cái thế giới trong chồng báo ấy, trong sự tự tin vào tinh thần vĩ đại ẩn giấu trong anh. Anh lôi các trang báo ảnh ra. Anh dừng lại. Anh thấy một bức ảnh chụp một bản vẽ thiết kế: đó là bản vẽ thiết kế Nhà Enright của Howard Roark.

Anh không cần nhìn hàng chữ chú thích hay chữ ký thô ráp ở góc bức vẽ thiết kế; anh biết rằng không ai khác tạo ra căn nhà đó và anh biết phong cách thiết kế, vừa thanh thoát vừa bạo lực, những nét bút chì trông giống như những dây điện cao thế trên giấy, trông thì mảnh mai và vô tội, nhưng không thể chạm tay vào. Đó là một cấu trúc đặt trên một mảnh đất rộng bên cạnh sông Đông. Khi nhìn lần đầu tiên, anh không thấy nó là một tòa nhà mà như một khối đá pha lê vươn cao. Vẫn là một trật tự toán học nghiêm khắc để gắn kết một sự vươn cao tự do, ngoạn mục; những đường thẳng và góc nhọn, khoảng không gian bị cắt đứt bởi một con dao, nhưng vẫn hòa hợp về bố cục một cách tinh tế như công trình của một người thợ kim hoàn; một tập hợp những hình khối đa dạng đến mức kinh ngạc trong đó mỗi khối đều không lặp lại, nhưng lại nhất thiết phải dẫn đến khối tiếp theo và đến cả tập hợp; để những người chủ tương lai của ngôi nhà sẽ không phải sở hữu một trong số những cái chuồng hình vuông mà sở hữu một ngôi nhà riêng biệt, được gắn với những ngôi nhà khác giống như một mảnh pha lê ốp vào một phiến đá.

Keating nhìn bản vẽ. Anh đã biết từ lâu rằng Howard Roark được chọn để xây Ngôi nhà Enright. Anh đã thấy tên Roark được nhắc đến vài lần trên báo; không nhiều, tóm tắt lại chỉ là "một kiến trúc sư trẻ nào đó được ông Right chọn vì một lý do nào đó, có lẽ là một kiến trúc sư trẻ khá thú vị." Dòng chú thích dưới bản vẽ thông báo rằng việc xây dựng ngôi nhà sẽ được bắt đầu ngay. Ôi dào, Keating nghĩ, và thả tờ báo xuống, thì đã sao nào? Tờ báo rơi xuống bên cạnh cuốn sách bìa đen và đỏ. Anh nhìn cả hai thứ đó. Anh cảm thấy mơ hồ rằng Lois Cook là sự bảo vệ anh chống lại Roark.

"Cái gì đấy Petey?" giọng của mẹ anh lên tiếng hỏi sau lưng anh.

Anh đưa tờ báo cho bà qua vai anh. Tờ báo rơi qua lưng anh xuống mặt bàn phía sau, trong một giây.

"Ồ," bà Keating nhún vai. "Hừm..."

Bà đứng cạnh anh. Chiếc váy lụa quá chật làm lộ chiếc áo ngực cứng ngắc của bà; một chiếc ghim kẹp nhỏ lấp lánh ở cổ bà, đủ nhỏ để thể hiện một cách phô trương rằng nó được làm từ kim cương thật. Bà giống như căn hộ mới mà họ vừa chuyển đến: đắt tiền một cách lộ liễu. Việc trang trí căn hộ là công việc chuyên môn đầu tiên mà Keating làm cho chính mình. Căn hộ được trang bị bằng đồ đạc mới cứng, mang phong cách thời trung-Victoria. Nó mang vẻ bảo thủ và trang trọng. Trên lò sưởi trong phòng khách treo một bức họa lớn thời cổ vẽ một thứ gì đó không hẳn là một vị tổ tiên lừng lẫy nhưng tương tự như thế.

"Petey con yêu, mẹ ghét phải hối thúc con vào sáng Chủ nhật, nhưng đã đến lúc phải mặc quần áo tử tế vào rồi? Bây giờ mẹ phải vội đi và mẹ rất không muốn con quên thời gian và bị muộn, ông Toohey thật tử tế khi mời con đến nhà ông ấy."

"Vâng, mẹ ạ."

"Có vị khách nổi tiếng nào cũng đến nhà ông ấy không?"

"Không. Không có khách nào khác. Nhưng sẽ có một người khác ở đó. Không nổi tiếng." Bà nhìn anh chờ đợi. Anh nói thêm: "Katie sẽ ở đó."

"Cái tên này dường như chẳng có tác động gì lên bà. Gần đây một vẻ tự tin đã phủ lên bà, giống như một lớp mỡ mà câu hỏi cụ thể đó không thể nào còn xuyên qua được nữa.

"Chỉ là một bữa tiệc trà trong gia đình thôi mà," anh nhấn mạnh. "Ông ấy nói thế."

"Ông ấy tốt quá. Mẹ chắc chắn Toohey là một người rất thông minh."

"Vâng mẹ ạ."

Anh sốt ruột đứng dậy và về phòng mình.

*

* *

Đây là lần đầu tiên Keating đến thăm cái khách sạn đắt tiền có phòng cho thuê mà Catherine và chú mình vừa dọn đến. Anh không chú ý lắm đến căn hộ, ngoài việc nhớ rằng nó rất đơn giản, rất sạch sẽ và khiêm tốn một cách thanh nhã, rằng nó có một lượng lớn sách và rất ít tranh, nhưng những tranh này lại là đồ thật và rất quý. Người ta chẳng bao giờ nhớ căn hộ của Ellsworth Toohey cả, chỉ nhớ vị chủ nhà. Chủ nhà, vào buổi chiều Chủ nhật này, mặc một bộ com-lê màu xám đen, đúng là một bộ đồng phục, và ông đi đôi dép da sơn đen viền đỏ, loại đi trong phòng ngủ; đôi dép nhạo báng sự lịch thiệp nghiêm túc của bộ com-lê; tuy nhiên, sự tương phản táo bạo của nó lại làm cho sự thanh lịch của chủ nhà trở nên hoàn hảo. Ông ta ngồi trong một chiếc ghế rộng, thấp, và khuôn mặt ông mang một vẻ nhẹ nhàng cẩn trọng - cẩn trọng đến mức Keating và Catherine đôi lúc cảm thấy như thể họ là những bong bóng xà phòng mong manh.

Keating không thích cách Catherine ngồi ghé vào mép ghế, lưng còng xuống, đôi chân nép sát vào nhau một cách vụng về. Anh ước giá mà cô không mặc lại cùng một bộ quần áo cho đến mùa thứ ba, nhưng cô vẫn mặc nó. Cô nhìn chăm chăm vào một điểm ở đâu đó giữa chiếc thảm. Cô ít khi nhìn Keating. Cô không bao giờ nhìn chú mình. Keating chẳng tìm thấy đâu dấu vết của vẻ ngưỡng mộ vui mừng mà cô đã luôn thể hiện khi nói về Toohey, vẻ ngưỡng mộ mà anh đã mong chờ cô thể hiện khi anh có mặt. Có một cái gì đó nặng nề và thất sắc ở Catherine, và vẻ mệt mỏi rã rời nữa.

Người phục vụ của Toohey đem ra một khay trà.

"Cháu rót trà được chứ cháu yêu quý?" Toohey nói với Catherine. "A, chẳng có gì sánh được với một tiệc trà buổi chiều cả. Khi nào đế quốc Anh sụp đổ, các nhà sử học sẽ thấy rằng đế quốc này chỉ có được hai đóng góp vô giá đối với nền văn minh - thói quen tiệc trà này và tiểu thuyết trinh thám. Catherine, cháu yêu quý, cháu có cần phải nắm cái quai ấm như thể nó là một chiếc rìu chặt thịt như thế không? Nhưng không sao, như thế lại dễ thương, chính cái đó làm chúng ta, Peter và ta, yêu quý con đấy, bọn ta chưa chắc đã yêu con nếu con cũng duyên dáng như một nữ công tước - ai cần một công tước vào thời buổi này cơ chứ?"

Catherine rót trà và đánh đổ trà lên mặt bàn kính, một việc mà trước đây cô chưa từng phạm phải.

"Ta thực sự muốn được nhìn thấy hai đứa bên nhau một lần," Toohey nói, vừa nói vừa hờ hững cầm một tách trà nhỏ thanh nhã. "Tôi thật ngốc, đúng không? Thật sự chẳng có gì đáng gọi là một sự kiện trọng đại, nhưng mà thỉnh thoảng tôi trở nên ngớ ngẩn và sướt mướt, giống như tất cả mọi người. Cháu có con mắt tinh đấy, Catherine ạ. Ta nợ con một lời xin lỗi, ta không bao giờ nghĩ rằng con có một khiếu thẩm mỹ tốt như vậy. Con và Peter sẽ thành một cặp đẹp đôi. Con sẽ làm rất nhiều cho cậu ấy. Con sẽ làm bánh kem cho cậu ấy, giặt khăn tay và đẻ con cho cậu ấy, mặc dù dĩ nhiên tất cả bọn trẻ một lúc nào đấy sẽ bị lên sởi, mà điều này thật phiền toái."

"Nhưng mà, tóm lại là, ông... chú cũng tán thành chuyện này chứ ạ?" Keating nôn nóng hỏi.

"Tán thành chuyện này? Chuyện nào hả Peter?"

"Chuyện hôn nhân của bọn cháu ấy..."

"Thật là một câu hỏi thừa Peter ạ! Tất nhiên, tôi tán thành chuyện này. Nhưng hai đứa trẻ thật đấy! Người trẻ tuổi thì thế đấy - họ cứ tạo ra một vấn đề vốn chẳng tồn tại. Anh hỏi cứ như thể toàn bộ chuyện này quan trọng đến mức phải phản đối ấy."

"Katie và cháu gặp nhau cách đây bảy năm," Keating nói một cách thủ thế.

"Và tất nhiên đây là một tình yêu sét đánh?"

"Vâng," Keating nói và cảm thấy mình thật lố bịch.

"Đó hẳn phải vào mùa xuân," Toohey nói. "Thường là thế. Sẽ có một rạp chiếu phim tối om, và có hai người quên mất thế giới, tay trong tay - nhưng tay thì lại đổ mồ hôi khi bị nắm lâu quá, đúng không nào? Tuy vậy, được yêu vẫn là tuyệt vời. Câu chuyện ngọt ngào nhất từng được kể - và cũng nhàm chán nhất. Đừng quay đi như thế Catherine. Chúng ta không bao giờ được tự cho phép mình mất đi khiếu hài hước cả."

Ông mỉm cười. Sự thân ái trong nụ cười của ông ôm lấy cả hai người. Sự thân ái lớn đến mức nó làm cho tình yêu của họ dường như nhỏ mọn và ích kỷ, bởi chỉ có thứ gì đó tầm thường mới có thể khơi dậy một sự thương cảm lớn đến như vậy. Ông hỏi:

"Nhân tiện, Peter, anh định bao giờ thì tiến hành đám cưới ấy nhỉ?"

"Ồ,... chúng cháu chưa bao giờ thực sự đặt ra một thời gian cụ thể cả, chú biết mọi chuyện thế nào rồi đấy, những gì xảy ra với cháu và bây giờ Katie lại có công việc của cô ấy và... Và, nhân tiện," anh đột nhiên thêm vào, bởi việc Katie có việc làm khiến anh khó chịu một cách vô cớ, "khi nào chúng cháu kết hôn thì Katie sẽ phải thôi việc. Cháu không tán thành chuyện đó."

"Thì tất nhiên," Toohey nói, "tôi cũng chẳng tán thành chuyện đó, nếu Catherine mà không thích nó."

Catherine hiện đang làm công việc giữ trẻ ở Khu tập thể Clifford . Đó là ý của riêng cô. Cô đã từng thường xuyên đến thăm khu nhà này cùng với chú mình, người đã tổ chức một số lớp học kinh tế ở đó, và cô đã trở nên thích thú với công việc.

"Nhưng em rất thích nó!" cô kêu lên, đột nhiên tỏ ra hào hứng. "Em không hiểu sao anh lại ghét nó Peter ạ!" Trong giọng cô có một nốt chối tai, nghe nổi loạn và không dễ chịu lắm.

"Em chưa bao giờ thích cái gì đến thế trong đời cả. Giúp những người bất lực và bất hạnh. Em đến đó sáng nay - em không buộc phải đến, nhưng em muốn đến - và rồi em vội về nhà, em không có thời gian thay quần áo, nhưng cũng chẳng sao, ai thèm quan tâm đến việc em trông ra sao cơ chứ? Và..." - nốt chói tai trong giọng cô đã biến mất, nhưng cô vẫn nói rất hào hứng và rất nhanh - "Chú Ellsworth, chú tưởng tượng xem! Billy Hansen bé nhỏ bị viêm họng - chú nhớ bé Billy không? Và cô y tá không ở đó, nên cháu phải thông họng nó bằng Argyrol, tội nghiệp! Nó bị tắc đờm kinh khủng trong họng!" Giọng cô dường như tỏa sáng, như thể cô đang miêu tả một vẻ đẹp vĩ đại. Cô nhìn chú mình. Lần đầu tiên Keating nhìn thấy vẻ yêu thương mà anh đã chờ đợi. Cô tiếp tục nói về công việc của cô, về lũ trẻ, về khu chung cư. Toohey lắng nghe một cách trang trọng. Ông không nói gì cả. Nhưng sự chăm chú thực sự trong mắt ông đã thay đổi ông, nét hài hước giễu cợt của ông đã biến mất và ông quên mất lời khuyên của chính mình, ông đang nghiêm túc, rất nghiêm túc là đằng khác. Khi ông nhận thấy đĩa của Catherine đã hết, ông đưa cô khay bánh săng-đuých với một cử chỉ đơn giản và chẳng hiểu thế nào lại khiến cho nó trở thành một cử chỉ lịch thiệp biểu hiện sự kính trọng.

Keating nóng ruột đợi cho đến khi cô dừng lại một giây. Anh muốn thay đổi chủ đề. Anh liếc nhìn xung quanh phòng và thấy mấy tờ báo Chủ nhật. Đây là một câu hỏi mà anh đã muốn hỏi từ rất lâu. Anh thận trọng cất tiếng:

"Ellsworth... chú nghĩ thế nào về Roark?"

"Roark? Roark?" Toohey hỏi. "Roark là ai?"

Vẻ quá ngây thơ, quá vô tư trong cách ông lặp lại cái tên, với một dấu chấm hỏi uể oải khinh miệt nổi bật ở cuối, làm cho Keating chắc chắn rằng Toohey biết cái tên này rất rõ.

Người ta không bao giờ cần nhấn mạnh việc mình hoàn toàn không biết gì về vấn đề nếu người ta thực sự không biết về nó. Keating nói:

"Howard Roark. Chú biết đấy, kiến trúc sư. Người đang xây cái nhà Enright ấy."

"À? À, phải, vậy là cuối cùng cũng có một ai đó xây Ngôi nhà Enright?"

"Trên tờ Tin Hàng ngày hôm nay có một bức ảnh về nó."

"Thế à? Tôi cũng có liếc qua tờ Tin Hàng ngày."

"Và... chú nghĩ gì về tòa nhà đó?"

"Nếu nó mà quan trọng thì tôi đã nhớ nó rồi."

"Tất nhiên rồi!" Những âm tiết trong giọng của Keating nhảy múa, như thể hơi thở của anh giữ chặt từng âm tiết đi qua: "Thật là một thứ kinh khủng, điên rồ! Không giống bất cứ cái gì người ta từng nhìn thấy hoặc muốn nhìn!"

Anh cảm thấy được giải thoát. Cứ như thể anh đã mất cả cuộc đời tin rằng anh mang một thứ bệnh bẩm sinh, và bỗng nhiên một chuyên gia vĩ đại nhất trên Trái đất tuyên bố là anh khỏe mạnh. Anh muốn cười to, một cách thoải mái, vớ vẩn, chẳng cần tự trọng gì hết. Anh muốn nói chuyện.

"Howard là một người bạn của cháu," anh phấn khởi nói.

"Một người bạn của anh? Anh biết anh ta à?"

"Cháu biết cậu ấy à! Trời đất, bọn cháu cùng học một trường với nhau - trường Stanton, chú biết đấy - trời ơi, cậu ấy sống ở nhà cháu ba năm, cháu có thể nói với chú quần lót của cậu ta màu gì và cậu ta tắm như thế nào - cháu biết cậu ấy quá rõ!"

"Anh ta sống ở cùng nhà anh ở Stanton?" Toohey hỏi lại. Ông nói với một sự chính xác thận trọng. Những âm thanh trong giọng ông nhỏ và khô và có tính chung kết, như những tiếng rắc rắc của những que diêm bị bẻ gãy.

Kỳ cục thật, Keating nghĩ. Toohey đang hỏi anh rất nhiều câu hỏi về Howard Roark. Nhưng những câu hỏi đó dường như chẳng có nghĩa gì hết. Chúng không phải về các tòa nhà, chúng chẳng hỏi về kiến trúc một chút nào. Chúng toàn là những câu hỏi cá nhân vô nghĩa - thật là lạ khi dùng để hỏi về một người mà ông ta chưa bao giờ nghe nói đến.

"Anh ta có hay cười không?"

"Rất hiếm khi."

"Anh ta trông có vẻ rầu rĩ không?"

"Không bao giờ."

"Anh ta có nhiều bạn ở Stanton không?"

"Cậu ấy chưa bao giờ có bất kỳ bạn bè nào ở bất kỳ đâu."

"Các bạn học không thích anh ta à?"

"Không ai có thể thích cậu ta được."

"Tại sao?"

"Cậu ta làm cho người ta cảm thấy thật là phi lý nếu thích cậu ta."

"Anh ta có đi ra ngoài, có uống rượu, có vui vẻ xả hơi không?"

"Không bao giờ."

"Anh ta có thích tiền không?"

"Không."

"Anh ta có thích được ngưỡng mộ không?"

"Không."

"Anh ta có tin vào Chúa Trời không?"

"Không."

"Anh ta có hay nói không?"

"Rất ít."

"Anh ta có lắng nghe nếu người khác thảo luận bất kỳ một... ý kiến nào với anh ta không?"

"Cậu ấy lắng nghe. Nhưng nếu cậu ta không lắng nghe thì sẽ tốt hơn."

"Tại sao?"

"Như thế sẽ đỡ xúc phạm người ta hơn - nếu chú biết ý cháu muốn nói gì, khi một người lắng nghe kiểu thế và ta biết rằng nó chẳng có một tý tác động nào hết đối với anh ta."

"Anh ta có luôn mong muốn trở thành một kiến trúc sư không?"

"Cậu ta..."

"Sao vậy Peter?"

"Không sao cả. Tự nhiên cháu nghĩ thật lạ là cháu chưa bao giờ tự hỏi điều này về cậu ta. Điều lạ lùng là thế này: người ta không thể hỏi như thế về cậu ấy. Cậu ta hoàn toàn phát điên lên về kiến trúc. Nó có ý nghĩa nhiều với cậu ta đến mức cậu ta đánh mất hết những cảm nhận khác của con người. Cậu ta đơn giản là chẳng có một tý khiếu hài hước nào với chính mình - đây chính là người hoàn toàn không có hiếu hài hước đấy chú Ellsworth ạ. Người ta không thể hỏi, cậu ta sẽ làm gì nếu cậu ta không muốn làm kiến trúc sư."

"Không," Toohey nói. "Người ta phải hỏi anh ta sẽ làm gì nếu anh ta không thể làm một kiến trúc sư."

"Cậu ta sẽ bước qua xác người. Bất kỳ xác nào và tất cả các xác người. Tất cả chúng ta. Để trở thành một kiến trúc sư."

Toohey gấp khăn ăn, một tấm khăn hình vuông thẳng nếp, trên đầu gối mình; ông gấp nó một cách chính xác, mỗi đường chéo một lần, và lùa ngón tay và các mép gấp để nếp gấp được vuốt phẳng.

"Anh còn nhớ nhóm nhỏ các kiến trúc sư trẻ của chúng ta không Peter?" ông hỏi. "Tôi đang sắp xếp để sớm có buổi gặp mặt lần đầu tiên. Tôi đã nói chuyện với nhiều thành viên tương lai của chúng ta và anh sẽ rất tự hào được nghe những gì họ nói về anh với tư cách là chủ tịch tương lai của chúng ta."

Họ nói chuyện một cách vui vẻ trong khoảng nửa giờ nữa. Khi Keating đứng dậy từ biệt, Toohey tuyên bố: "Ồ, đúng rồi. Tôi đã nói với Lois Cook về anh. Cô ấy sẽ liên lạc với anh sớm thôi."

"Cảm ơn chú rất nhiều, chú Ellsworth. Nhân tiện, cháu đang đọc cuốn Đám mây và vải liệm đấy."

"Và?"

"Ôi, nó thật tuyệt diệu. Chú biết đấy, chú Ellsworth, nó... nó làm ta nghĩ thật khác đi về mọi thứ trước đây ta đã nghĩ."

"Chính thế," Toohey nói, "chính thế phải không?"

Ông đứng cạnh cửa sổ, ngắm nhìn những tia nắng cuối cùng trong một buổi chiều nắng lạnh. Rồi ông ta quay người và nói: "Một ngày thật đẹp. Có lẽ sẽ là một trong những ngày cuối cùng thế này trong năm nay. Anh có muốn đi dạo bên ngoài với Catherine một chút không, Peter?"

"Ôi cháu rất muốn!" Catherine háo hức nói.

"Thế thì đi đi." Toohey mỉm cười vui vẻ. "Sao thế Catherine? Con phải đợi ta cho phép mới đi à?"

Khi họ sánh bước với nhau ngoài trời, khi họ bên nhau một mình trong ánh sáng lành lạnh của những đường phố tràn ngập ánh nắng chiều muộn, Keating cảm thấy anh đã lấy lại được mọi thứ trong Catherine mà anh đã luôn thấy, lấy lại được cái tình cảm kỳ lạ mà anh không thể có được khi ở bên những người khác. Anh nắm tay cô. Cô rút tay, tháo găng ra và lùa các ngón tay cô vào các ngón tay anh. Và rồi anh đột nhiên nghĩ rằng các bàn tay sẽ đổ mồ hôi khi bị nắm quá lâu, và anh bực bội đi nhanh hơn. Anh nghĩ rằng họ đang đi giống như chuột Mickey và Minnie và rằng họ có lẽ trông thật lố bịch đối với người qua đường. Để thoát khỏi những ý nghĩ này, anh liếc xuống mặt cô. Cô đang nhìn thẳng về phía ánh nắng vàng rực, anh thấy nét mặt trông nghiêng mảnh mai của cô và bóng dáng thấp thoáng của một nụ cười nơi khóe miệng cô, một nụ cười hạnh phúc lặng lẽ. Nhưng anh nhận thấy vành mi mắt cô tái xanh và anh bắt đầu tự hỏi liệu cô có mắc chứng thiếu máu hay không.

*

* *

Lois Cook ngồi trên sàn nhà giữa phòng khách, chân bắt chéo nhau theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, để lộ hai đầu gối lớn để trần, bít tất màu xám cuộn qua nịt tất, và mặc một chiếc quần đùi màu hồng đã ngả bạc. Peter Keating ngồi sát mép chiếc ghế dài màu tím bóng lộn. Chưa bao giờ anh cảm thấy không thoải mái như thế này trong cuộc gặp đầu tiên với một khách hàng.

Lois Cook ba mươi bảy tuổi. Trong các cuộc nói chuyện trước công chúng và riêng tư, cô đã khăng khăng nói rằng cô sáu mươi tư tuổi. Nó được lặp đi lặp lại như một trò đùa kỳ quái và tạo cho tên tuổi của cô một ấn tượng mơ hồ về sự trẻ trung vĩnh cửu. Cô cao, khô, vai hẹp, và hông rộng. Cô có một khuôn mặt dài, nông, và đôi mắt gần nhau. Tóc cô dài đến tai và cuộn thành những lọn bóng nhờn. Móng tay cô bị gãy. Cô trông bù xù một cách quá lố, với vẻ luộm thuộm có chủ ý, được tạo ra một cách cẩn thận như khi người ta làm đẹp - và cũng với mục đích như vậy.

Cô nói liên hồi, người đung đưa qua lại trên đôi hông:

"... đúng, bên sông Bowery. Một ngôi nhà riêng. Ngôi đền thánh bên sông Bowery. Tôi có địa điểm, tôi muốn nó và mua nó, đơn giản như thế, hoặc chính xác là ông luật sư ngu ngốc của tôi đã mua nó cho tôi, anh phải gặp luật sư của tôi, ông ta bị chứng thối miệng. Tôi không biết anh sẽ đòi tôi bao nhiêu tiền, nhưng điều đó cũng không quan trọng, tiền là chuyện tầm thường. Cải bắp cũng tầm thường. Nhà tôi phải có ba tầng và một phòng khách có sàn lát gạch hoa."

"Thưa chị Cook, tôi đã đọc cuốn Đám mây và vải liệm của chị và đó là một sự mở mắt về tinh thần cho tôi. Xin cho phép tôi được đứng vào hàng ngũ những người hiểu được lòng dũng cảm và ý nghĩa lớn lao của những gì chị đã một tay đạt được khi mà..."

"Ôi, đừng nói vớ vẩn nữa" Lois Cook nói và nháy mắt với anh.

"Nhưng tôi thực sự nghĩ vậy mà!" anh tức giận kêu lên. "Tôi rất thích cuốn sách của chị. Tôi..."

Trông Cook chán nản.

"Thật tầm thường," cô ta dài giọng, "khi mà ai cũng hiểu được."

"Nhưng ông Toohey nói rằng..."

"À, đúng rồi. Ông Toohey." Mắt cô giờ đây mang vẻ cảnh giác, tội lỗi một cách xấc láo, giống như ánh mắt của một đứa trẻ vừa thực hiện một trò nghịch tinh quái. "Ông Toohey. Tôi là chủ tịch của một nhóm nhỏ các nhà văn trẻ mà ông Toohey rất quan tâm."

"Vậy sao?" anh phấn khởi nói. Có vẻ như đây là sự trao đổi trực tiếp đầu tiên giữa họ. "Thú vị thật! Ông Toohey cũng đang tập hợp một nhóm nhỏ các kiến trúc sư trẻ và ông ấy rất tốt bụng khi định cho tôi làm chủ tịch."

"Ồ," cô nói và nháy mắt. "Cùng hội với chúng tôi?"

"Hội với ai?"

Anh không biết anh đã làm gì, nhưng anh biết rằng mình đã làm cô thất vọng. Cô bắt đầu cười. Cô ngồi đó, ngước đầu nhìn anh, cố tình cười vào mặt anh, cười một cách chẳng tử tế gì và chẳng vui vẻ gì.

"Có cái quái gì...!" Anh kìm mình lại. "Có vấn đề gì vậy hả chị Cook?"

"Ối giời ơi!" cô nói. "Anh thật là một cậu bé dễ thương, dễ thương và xinh đẹp nữa!"

"Ông Toohey là một người vĩ đại," anh giận dữ nói. "Ông ấy là nhân cách... cao quý nhất tôi từng..."

"Ồ đúng vậy. Ông Toohey là một người tuyệt vời." Giọng cô nghe lạ vì thiếu một thứ, nó thiếu tôn trọng một cách trắng trợn. "Bạn tốt nhất của tôi. Con người tuyệt vời nhất trên quả đất. Có quả đất thì phải có Toohey - một quy luật của tự nhiên. Ngoài ra, thử nghĩ xem chúng ta có thể gieo vần hay đến thế nào: Tuhi - ủy mị - lầm lì - phi lý . Tuy nhiên, đó là một ông thánh. Chuyện đó rất hiếm có. Hiếm như thiên tài vậy. Tôi là một thiên tài. Tôi muốn một phòng khách không có cửa sổ. Không một cửa sổ nào hết, hãy nhớ điều này khi anh vẽ thiết kế. Không cửa sổ, sàn lát gạch hoa và trần màu đen. Và không điện đóm gì hết. Tôi không muốn điện trong nhà mình, chỉ có đèn dầu thôi. Đèn dầu với ống khói, và nến. Quỷ tha ma bắt Thomas Edison đi! Mà ông ta là ai ấy nhỉ?"

Lời nói của cô không làm anh khó chịu bằng nụ cười của cô. Đó không phải là một nụ cười, đó là một cái nhếch mép thường trực - hai góc cái miệng dài nhướn lên, làm cho cô trông giống một con yêu tinh xảo quyệt và độc ác.

"Và, Keating, tôi muốn ngôi nhà phải thật xấu. Cực kỳ xấu. Tôi muốn nó là ngôi nhà xấu nhất ở New York."

"Ngôi nhà... xấu nhất, thưa chị Cook?"

"Cưng ơi, cái đẹp thì quá tầm thường!"

"Đúng vậy, nhưng... nhưng... tôi... làm sao tôi có thể cho phép mình..."

"Keating, lòng dũng cảm của anh ở đâu rồi? Anh không thể thỉnh thoảng thực hiện một cử chỉ cao thượng được ư? Bọn họ đều làm việc chăm chỉ và vật lộn và chịu đựng, cố đạt đến cái đẹp, cố vượt mặt người khác trong cái đẹp. Chúng ta sẽ vượt mặt tất cả bọn họ! Hãy ném mồ hôi của chính họ vào mặt họ. Hãy tiêu diệt họ chỉ bằng một cái phất. Hãy là thánh thần! Hãy xấu!"

Anh nhận hợp đồng thiết kế. Sau vài tuần, anh không còn cảm thấy khó chịu về chuyện này nữa. Bất kỳ khi nào anh đề cập đến công trình mới này, anh đều gặp phải một sự tò mò đầy kính trọng. Đó là một sự tò mò khó hiểu, nhưng đầy vẻ kính trọng. Cái tên Lois Cook nổi tiếng tại những phòng thiết kế sáng giá nhất mà anh đến thăm. Nhan đề những cuốn sách của cô lấp lánh trong những cuộc chuyện trò như thể những viên kim cương gắn trên vương miện tri thức của người nói. Trong những giọng nói tuyên bố những nhan đề đó luôn có một vẻ thách thức nghe như thể người nói đang rất dũng cảm. Đó là một sự dũng cảm khiến người ta thỏa mãn; nó không bao giờ khuấy lên sự phản kháng. Đối với một tác giả mà tác phẩm không bán được thì tên của người đó có vẻ sẽ nổi tiếng và được vinh danh một cách kỳ lạ. Cô là người lãnh đạo của đội quân tiên phong trong lĩnh vực tri thức và nổi loạn. Chỉ có điều anh cũng không rõ lắm về việc nổi loạn chống cái gì. Về cơ bản, anh cũng không muốn biết.

Anh thiết kế ngôi nhà như cô muốn. Đó là một dinh thự ba tầng, một phần lát đá cẩm thạch, một phần trát vữa, trang trí bằng những miệng máng xối kiểu Gothic và đèn lồng xe ngựa. Trông nó giống như một cấu trúc của một công viên giải trí.

Bản vẽ thiết kế ngôi nhà này lên báo nhiều hơn bất kỳ một bản vẽ nào khác của anh, trừ Tòa nhà Cosmo-Slotnick. Một nhà bình luận tuyên bố rằng "Peter Keating hứa hẹn không chỉ là một thanh niên trẻ thông minh với khả năng làm hài lòng những đại gia hủ lậu. Anh đang dấn thân cả vào lĩnh vực tri thức với một khách hàng như Lois Cook." Toohey thì nói đến ngôi nhà như "một trò đùa vĩ đại."

Nhưng một cảm giác kỳ lạ vẫn vương vấn trong đầu Keating: đó là cảm giác về một thứ dư vị. Anh thường thoáng có cảm giác này khi làm việc với một công trình quan trọng mà anh thích; anh thường có cảm giác này vào những lúc anh tự hào về công việc của mình. Anh không thể nhận ra được tính chất của cảm giác đó; nhưng anh biết rằng một phần trong nó là sự hổ thẹn.

Một lần, anh thổ lộ điều đó với Ellsworth Toohey. Toohey cười. "Thế là tốt cho anh, Peter ạ. Không ai được tự cho phép phóng đại tầm quan trọng của bản thân mình. Không cần thiết phải làm khổ mình về các giá trị tuyệt đối."

V.

D

ominique đã trở lại New York. Cô trở lại mà chẳng có mục đích gì, chỉ vì cô không thể ở lại ngôi nhà nông thôn quá ba ngày sau chuyến thăm mỏ đá lần cuối cùng. Cô phải ở trong thành phố - điều này đột ngột trở thành một nhu cầu thiết yếu, không thể cưỡng lại được và không thể cắt nghĩa. Cô chẳng trông đợi gì ở thành phố. Nhưng cô muốn có cảm giác về đường phố và những tòa nhà bao quanh cô ở đó. Vào buổi sáng, cô tỉnh dậy và nghe thấy tiếng xe cộ ở xa xa phía dưới, âm thanh đó là một sự lăng mạ, một sự nhắc nhở về việc cô đang ở đâu và tại sao. Cô đứng cạnh cửa sổ, hai cánh tay dang rộng, mỗi tay nắm lấy một bên khung cửa như thể cô đang ôm một phần của thành phố - ôm tất cả những con đường và mái nhà hiện lên trong khuôn kính giữa hai tay cô.

Cô ra ngoài một mình để đi bộ thật lâu. Cô đi nhanh, hai tay đút trong túi chiếc áo khoác cũ, cổ áo bẻ dựng lên. Cô tự bảo mình rằng cô không hề hy vọng được gặp anh. Cô không tìm kiếm anh. Nhưng cô phải đi ra đường, trống rỗng, không mục đích, mỗi lần hàng giờ liền.

Cô đã luôn luôn căm ghét những đường phố của một thành phố. Cô nhìn những khuôn mặt trôi ngang qua, những khuôn mặt trông giống nhau vì sự sợ hãi trên đó - sự sợ hãi như một mẫu số chung, sợ chính họ, sợ tất cả và sợ nhau. Sự sợ hãi làm cho họ sẵn sàng đạp lên bất kỳ cái gì được một người khác coi là thiêng liêng. Cô không thể định nghĩa được bản chất hay lý do của nỗi sợ đó. Nhưng cô đã luôn luôn cảm nhận được sự có mặt của nó. Cô đã giữ mình sạch sẽ và tự do bằng một ham muốn duy nhất - ham muốn không chạm vào cái gì hết. Cô đã thích đối mặt với họ trên đường phố, cô đã thích sự thù hận đầy bất lực của họ, bởi cô chẳng có gì để cho họ làm tổn thương.

Bây giờ, cô không còn tự do nữa. Bây giờ, mỗi bước cô đi trên đường đều làm cô tổn thương. Cô đã bị buộc vào anh - như anh bị buộc vào từng phần của thành phố. Anh là một công nhân vô danh làm một công việc vô danh nào đó, bị mất hút trong những đám đông này, phải phụ thuộc vào họ, có thể bị bất kỳ người nào trong số họ làm tổn thương, và cô phải chia sẻ anh với cả thành phố. Cô căm ghét ý nghĩ về việc anh đi trên những vỉa hè mà người ta đã đi. Cô căm ghét ý nghĩ về việc một người bán hàng đưa cho anh một bao thuốc lá qua quầy hàng. Cô căm ghét những khuỷu tay chạm vào khuỷu tay anh trên tàu điện ngầm. Cô về nhà, sau những chuyến đi bộ này, người run lên như sốt. Hôm sau cô lại ra ngoài.

Khi kỳ nghỉ kết thúc, cô đến tòa soạn tờ Ngọn cờ để xin thôi việc. Công việc và mục báo của cô chẳng còn gây hứng thú gì với cô nữa. Cô cắt ngang lời chào mừng nồng nhiệt của Alvah Scarret. Cô nói: "Tôi về đây chỉ để bảo anh rằng tôi bỏ việc, Alvah ạ." Ông nhìn cô một cách ngớ ngẩn. Ông chỉ nói: "Tại sao?"

Đó là âm thanh đầu tiên từ thế giới bên ngoài đến được với cô sau một thời gian rất dài. Cô đã luôn luôn hành động một cách tức thời theo cảm hứng, tự hào vì sự tự do thoát khỏi mọi lý do hành động của mình. Thế mà bây giờ cô phải đối mặt với câu hỏi "Tại sao?" - câu hỏi hàm chứa một câu trả lời mà cô không thể chạy trốn. Cô nghĩ: Tại vì anh, tại vì cô đang để anh thay đổi cuộc sống của cô. Đó sẽ là một sự vi phạm nữa; cô có thể nhìn thấy anh đang mỉm cười như lúc anh đã cười trên con đường mòn trong rừng. Cô không có lựa chọn nào khác. Dù có chọn thế nào chăng nữa thì sự lựa chọn cũng là do bị cưỡng bức: cô có thể bỏ công việc, vì anh đã bắt cô muốn bỏ nó; hoặc cô có thể ở lại dù căm ghét nó, để cho cuộc đời cô không bị thay đổi, để chống lại anh. Phương án thứ hai khó hơn.

Cô ngẩng đầu lên. Cô nói: "Đùa thôi mà, Alvah. Chỉ để xem anh nói gì. Tôi không bỏ việc đâu."

*

* *

Cô trở lại công việc được vài ngày thì Ellsworth Toohey bước vào phòng làm việc của cô. "Chào Dominique," ông ta nói. "Vừa nghe nói cô đã về."

"Chào Ellsworth."

"Tôi rất mừng. Cô biết đấy, tôi luôn có cảm giác là một buổi sáng nào đó cô sẽ bỏ chúng tôi đi mà chẳng có nguyên cớ gì."

"Cảm giác à Ellsworth? Hay là hy vọng?"

Ông đang nhìn cô với ánh mắt nhân từ và nụ cười hiền hậu muôn thuở; nhưng có một thoáng tự giễu mình trong vẻ hiền hậu đó, như thể ông biết rằng cô không ưa nó; và có một thoáng tự tin, như thể ông muốn thể hiện rằng ông sẽ luôn giữ cái vẻ nhân từ và hiền hậu đó.

"Cô biết đấy, cô sai ở chỗ đó rồi," ông ta nói, mỉm cười bình thản. "Cô đã luôn sai về điểm đó."

"Không. Tôi không phù hợp, Ellsworth. Đúng không?"

"Tất nhiên tôi có thể hỏi: Phù hợp với cái gì? Nhưng cứ cho là tôi không hỏi đi. Cứ cho là tôi chỉ nói rằng những người không hợp cũng có tác dụng của họ, cũng như là những người phù hợp có tác dụng của họ. Cô có thích như thế hơn không? Tất nhiên, đơn giản nhất thì tôi sẽ nói là tôi đã luôn luôn rất ngưỡng mộ cô và sẽ luôn luôn ngưỡng mộ cô."

"Đó không phải là một lời khen."

"Không hiểu sao tôi luôn nghĩ là chúng ta sẽ không bao giờ trở thành kẻ thù của nhau, Dominique ạ, nếu đó là cái cô muốn."

"Không, tôi không nghĩ chúng ta sẽ có lúc nào đó trở thành kẻ thù của nhau, Ellsworth ạ. Ông là người dễ chịu nhất mà tôi từng biết."

"Tất nhiên."

"Theo ý mà tôi muốn nói?"

"Theo bất kỳ ý nào cô muốn nói."

Trên bàn làm việc trước mặt cô là phần tranh ảnh của tờ Tin Hàng ngày Chủ nhật. Trên đó có in hình vẽ thiết kế Tòa nhà Enright. Cô nhặt bức hình lên và đưa nó cho ông, hai mắt cô nheo lại thành một câu hỏi. Ông nhìn bức hình, rồi ánh mắt chuyển sang khuôn mặt cô và quay trở lại bức hình. Ông thả trang báo trở lại trên bàn.

"Độc lập như một lời lăng mạ, đúng không?" ông nói.

"Ông biết đấy Ellsworth ạ, tôi nghĩ rằng người thiết kế tòa nhà này lẽ ra nên tự tử thì hơn. Một người mà có thể tạo ra được một thứ đẹp như thế này thì không bao giờ nên cho phép nó được dựng nên cả. Anh ta không nên muốn cho nó tồn tại. Nhưng rồi anh sẽ để cho nó được xây dựng, để rồi đàn bà có thể phơi tã lót trẻ con trên các hàng hiên mà anh ta xây, để đàn ông nhổ trên các bậc thang của anh ta và vẽ những hình thù bẩn thỉu trên các bức tường của anh ta. Anh ta đã biếu nó cho họ và anh ta đã làm nó trở thành một phần của họ, một phần của mọi thứ. Anh ta lẽ ra không nên đưa nó cho những người như ông xem. Cho những người như ông bàn tán về nó. Anh ta đã làm ô uế công trình của mình bởi lời nói đầu tiên mà ông sẽ nói về ngôi nhà. Anh ta đã tự biến mình thành kẻ còn tồi tệ hơn ông. Ông sẽ chỉ phạm phải một sự khiếm nhã nho nhỏ, nhưng anh ta thì đã phạm tội báng bổ. Một người đã biết những điều đủ để giúp anh ta có thể tạo ra một thứ như thế này thì lẽ ra không thể sống được mới đúng."

"Cô sẽ viết một bài về cái này chứ?" ông hỏi.

"Không. Như thế sẽ là lặp lại tội ác của anh ta."

"Thế còn nói chuyện với tôi về nó?"

Cô nhìn ông. Ông mỉm cười một cách dễ chịu.

"Đúng, tất nhiên," cô nói, "đó cũng là một phần của tội ác đó."

"Hôm nào đó chúng ta hãy đi ăn tối cùng nhau, Dominique," ông ta nói. "Thực sự cô không cho tôi được gặp cô đủ."

"Được thôi," cô nói. "Bất kỳ lúc nào ông muốn."

*

* *

Vào phiên xử vụ tấn công Ellsworth Toohey, Steven Mallory từ chối không tiết lộ động cơ của mình. Anh ta chẳng nói câu nào. Anh ta có vẻ thờ ơ với bất kỳ bản án nào có thể được đưa ra. Nhưng Ellworth Toohey gây ra một sự giật gân nho nhỏ khi ông xuất hiện, một cách tự nguyện, để bào chữa cho Mallory. Ông xin thẩm phán hãy độ lượng; ông giải thích rằng ông không muốn thấy tương lai và nghề nghiệp của Mallory bị hủy hoại.

Mọi người trong phòng xử rất xúc động - ngoại trừ Mallory. Steven Mallory lắng nghe và ngắm nhìn mọi thứ như thể anh ta đang chịu đựng một cuộc tra tấn đặc biệt dã man nào đó. Thẩm phán tuyên phạt anh ta hai năm tù, cho hưởng án treo.

Người ta bàn tán rất nhiều về sự rộng lượng phi thường của Toohey. Ông gạt đi mọi lời khen ngợi - một cách vui vẻ và khiêm tốn. "Các bạn của tôi," ông nói - với tất cả các tờ báo - "Tôi từ chối làm kẻ đồng lõa trong việc sản xuất ra những kẻ tử vì đạo."

*

* *

Vào buổi gặp mặt đầu tiên của hội kiến trúc sư trẻ tương lai, Keating kết luận rằng Toohey có khả năng tuyệt vời trong việc lựa chọn những người phù hợp với nhau. Mười tám người tham dự mang một vẻ gì đó mà anh không thể định rõ, nhưng cái vẻ ấy cho anh một cảm giác thoải mái, an toàn mà anh chưa bao giờ có được khi ở một mình hoặc trong bất kỳ một cuộc hội họp nào; và một phần của sự thoải mái đó nằm ở việc anh biết rằng tất cả những người khác cũng cảm thấy như thế, với cùng một lý do không thể giải thích được như thế. Đó là một cảm giác về tình bằng hữu, nhưng, theo một cách nào đó, không phải là một tình bằng hữu mang tính thần thánh hay cao quý; và chính cái sự thoải mái này là cái làm người ta cảm thấy không cần phải thần thánh hay cao quý nữa.

Nếu không có tình bằng hữu này thì Keating đã cảm thấy thất vọng với buổi họp mặt. Trong số mười tám người ngồi trong phòng khách của Toohey, không ai là kiến trúc sư nổi tiếng, ngoại trừ chính anh và Gordon L. Prescott, người mặc một chiếc áo len cổ lọ màu be và trông hơi kẻ cả, nhưng háo hức. Keating chưa bao giờ nghe đến tên của những người còn lại. Hầu hết bọn họ là người mới bước vào nghề, trẻ, ăn mặc vụng về và hiếu chiến. Một số người chỉ là thợ vẽ. Có một nữ kiến trúc sư đã từng xây một vài ngôi nhà nhỏ cho tư nhân, chủ yếu là những bà góa giàu có; cô này có một phong cách xông xáo, một đôi môi mím chặt và một bông hoa dã yên thảo cài trên tóc. Một cậu bé với đôi mắt trong sáng, thơ ngây. Một ông thầu khoán vô danh tiểu tốt với khuôn mặt béo phị vô cảm. Một phụ nữ cao, khô đét, làm công việc trang trí nội thất, và một người phụ nữ khác chẳng có nghề nghiệp gì rõ ràng.

Keating không thể hiểu được mục đích chính xác của hội này là gì, nhưng mọi người thảo luận khá sôi nổi. Buổi thảo luận chẳng có nội dung gì chặt chẽ, nhưng tất cả hình như có chung một dòng chảy ngầm bên dưới. Anh cảm thấy rằng dòng chảy này là thứ duy nhất rõ ràng giữa tất cả những thứ chung chung mờ nhạt có mặt, mặc dù chẳng ai chịu đề cập đến nó. Nó giữ anh ở đó, cũng như giữ những người khác, và anh cũng chẳng muốn tìm hiểu nó là cái gì.

Những thanh niên trẻ nói chuyện nhiều về sự bất bình đẳng, sự bất công, về sự độc ác của xã hội đối với tuổi trẻ, và cho rằng mọi người cần phải được đảm bảo công ăn việc làm khi tốt nghiệp đại học. Vị nữ kiến trúc sư thì nói một cái gì đó ngắn gọn về tội lỗi của những người giàu có bằng một chất giọng the thé. Ông thầu khoán thì oang oang tuyên bố rằng đây là một thế giới khó khăn và rằng "mọi người cần phải giúp đỡ nhau." Cậu bé với đôi mắt ngây thơ thì cầu khẩn rằng "chúng ta có thể làm nhiều điều tốt..." Giọng của cậu mang một vẻ chân thành tha thiết khiến nó dường như không thích hợp và làm người ta bối rối. Gordon L. Prescott tuyên bố rằng hội A.G.A là một đám những người cổ hủ chẳng có ý thức gì về trách nhiệm xã hội và chẳng có một tí nhiệt huyết đàn ông tử tế nào, và rằng đã đến lúc phải tung hê bọn họ đi rồi. Người phụ nữ không có nghề nghiệp rõ ràng thì nói về những lý tưởng và sự nghiệp, mặc dù chẳng ai hiểu đó là những cái gì.

Peter Keating được bầu làm chủ tịch hội, với sự tán đồng tuyệt đối. Gordon L. Prescott được bầu làm phó chủ tịch và thủ quỹ. Toohey từ chối không nhận bất kỳ chức danh nào. Ông ta tuyên bố rằng mình chỉ đóng vai trò là một cố vấn không chính thức. Mọi người quyết định rằng tổ chức này sẽ được đặt tên là Hội Những nhà Xây dựng Hoa Kỳ. Họ cũng quyết định rằng các thành viên không bắt buộc phải là kiến trúc sư, mà hội sẽ mở rộng cho "các nghề nghiệp tương tự" và cho "tất cả những ai mang trong tim mình một mối quan tâm tới ngành kiến trúc vĩ đại."

Rồi Toohey phát biểu. Ông phát biểu khá dài. Ông đứng, chống người vào một bàn tay đang đặt trên bàn. Giọng nói tuyệt vời của ông nhẹ nhàng và đầy thuyết phục. Nó ngập tràn căn phòng, nhưng lại khiến cho những thính giả của ông nhận thấy rằng nó hẳn là có thể ngập tràn cả một đấu trường La Mã nữa; điều này làm cho những thính giả của ông cảm thấy được tâng bốc một cách khéo léo và cái giọng nói đầy sức mạnh kia làm cho họ càng yên tâm.

"... và vì thế, hỡi các bạn của tôi, điều mà ngành kiến trúc còn thiếu là sự thấu hiểu tầm quan trọng của chính nó đối với xã hội của chúng ta. Sự thiếu sót ấy là do một nguyên nhân kép: do bản chất phản xã hội của toàn thể xã hội của chúng ta và do sự khiêm tốn cố hữu của chúng ta. Các bạn đã quen với việc nghĩ về bản thân chỉ như những trụ cột gia đình, những người không có mục đích gì cao hơn là lấy tiền công và nuôi sống bản thân. Chẳng phải đã đến lúc, hỡi các bạn của tôi, phải ngừng lại và định nghĩa lại vị trí của các bạn trong xã hội rồi sao? Trong số các ngành nghề thì ngành của các bạn là quan trọng nhất. Quan trọng, không phải ở số tiền bạn có thể kiếm được, không phải ở trình độ kỹ năng nghệ thuật mà các bạn có thể thể hiện, mà ở sự phục vụ các bạn đem đến cho đồng loại của mình. Các bạn là những người cung cấp nơi trú ẩn cho nhân loại. Hãy nhớ lấy điều này và rồi nhìn ngắm các thành phố của chúng ta, các khu nhà ổ chuột của chúng ta, để nhận ra nhiệm vụ cực lớn đang chờ đón các bạn. Nhưng để vượt qua thử thách này, các bạn cần được vũ trang bằng một tầm nhìn rộng lớn hơn về bản thân và về công việc của mình. Các bạn không phải là những đầy tờ làm thuê cho những người giàu có. Các bạn là những người đấu tranh cho sự nghiệp của những người bị thiệt thòi và những người không có nhà cửa. Chúng ta sẽ được phán xét không phải qua việc chúng ta là ai, mà qua việc chúng ta phục vụ ai. Chúng ta hãy đoàn kết lại trong tinh thần này. Chúng ta hãy - trong tất cả các vấn đề - trung thành với triển vọng mới mẻ, rộng lớn, cao cả hơn này. Chúng ta hãy thực hiện - ồ, thưa các bạn của tôi, tôi có thể nói - một giấc mơ cao cả hơn không nhỉ?"

Keating lắng nghe một cách háo hức. Anh đã luôn nghĩ mình là một trụ cột gia đình, gò lưng kiếm tiền thù lao, trong một chuyên môn mà anh đã chọn vì mẹ anh đã muốn anh chọn nó. Thật là hài lòng khi phát hiện ra rằng anh còn hơn như thế nhiều; rằng các hoạt động thường ngày của anh mang lại một tầm quan trọng cao cả. Thật là dễ chịu và mê ly. Anh biết là tất cả những người khác trong phòng cũng cảm thấy thế.

"... và khi hệ thống xã hội của chúng ta sụp đổ thì công trình của những nhà xây dựng sẽ không bị cuốn đi, mà nó sẽ được nâng lên một vị thế nổi bật hơn và một sự công nhận vĩ đại hơn..."

Chuông cửa reo. Rồi người hầu phòng của Toohey xuất hiện trong chốc lát, giữ cánh cửa phòng khách mở cho Dominique Francon vào.

Dựa vào cái cách Toohey dừng lại, ngay giữa một từ đang nói dở, Keating biết rằng Dominique đã không được mời, cũng chẳng được mong đợi. Cô mỉm cười với Toohey, gật đầu và bàn tay cô phác một cử chỉ bảo ông cứ tiếp tục. Ông ra dấu cúi chào về hướng cô, hầu như chỉ như một chuyển động khẽ của đôi lông mày, và tiếp tục bài phát biểu. Đó là một sự chào đón dễ chịu và sự suồng sã của nó đã gộp vị khách vào trong tình bằng hữu thân mật của buổi gặp mặt. Riêng đối với Keating, sự chào đón ấy dường như đã bị chậm một nhịp. Trước đây anh chưa hề thấy Toohey bị lỡ.

Dominique ngồi xuống một góc, đằng sau những người khác. Keating tạm quên việc lắng nghe một lúc để cố thu hút sự chú ý của cô. Anh phải đợi cho đến khi đôi mắt cô đưa quanh căn phòng một cách trầm ngâm, từ khuôn mặt nọ sang khuôn mặt kia và dừng lại ở anh. Anh nghiêng mình và gật đầu một cách hớn hở, với nụ cười thể hiện sự chào đón một vật sở hữu cá nhân.

Cô nghiêng đầu, anh nhìn thấy hàng lông mi chạm vào đôi má cô trong một khoảnh khắc khi đôi mắt cô nhắm lại, và rồi cô nhìn anh lần nữa. Cô ngồi nhìn anh một lúc lâu, không mỉm cười, như thể cô đang tìm lại một điều gì đó trên gương mặt anh. Anh chưa gặp cô từ hồi mùa xuân. Anh nghĩ là cô trông hơi mệt mỏi và đáng yêu hơn những gì anh nhớ.

Rồi anh quay sang Ellsworth Toohey một lần nữa và anh lắng nghe. Những lời anh đang nghe vẫn có vẻ khích động như trước, nhưng sự thích thú của anh đối với chúng không còn trọn vẹn nữa. Anh ngắm nhìn Dominique. Cô không thuộc về căn phòng này, về buổi gặp gỡ này. Anh không thể nói được vì sao, nhưng anh cảm thấy nó một cách chắc chắn và nặng nề. Không phải là vẻ đẹp của cô, không phải là vẻ tao nhã đầy thách thức của cô. Nhưng một thứ gì đó khiến cô trở thành người ngoài cuộc. Như thể là tất cả bọn họ đang trần truồng một cách thoải mái thì một người mặc đủ quần áo bước vào và bỗng nhiên làm họ trở nên ngượng ngập và lố bịch. Nhưng cô chẳng làm gì cả.

Cô ngồi chăm chú lắng nghe. Một lần cô dựa ra sau, bắt chéo hai chân, và châm một điếu thuốc. Cô phẩy tắt ngọn lửa trên que diêm bằng một động tác nhẹ, dứt khoát của cổ tay và cô thả que diêm vào một cái gạt tàn trên chiếc bàn bên cạnh mình. Anh thấy cô thả que diêm vào cái gạt tàn, anh cảm thấy như thể cái chuyển động cổ tay đó của cô đã gẩy que diêm vào mặt tất cả bọn họ. Anh nghĩ là anh vô lý. Nhưng anh để ý thấy Ellsworth Toohey không bao giờ nhìn cô khi ông ta phát biểu.

Khi buổi gặp mặt kết thúc, Toohey vội đến chỗ cô.

"Dominique yêu quý!" ông vui vẻ nói. "Tôi có nên tự tâng bốc mình không đây?"

"Nếu ông muốn như vậy."

"Nếu tôi biết là cô quan tâm thì tôi đã gửi một giấy mời rất đặc biệt cho cô rồi."

"Nhưng ông đã không nghĩ là tôi sẽ quan tâm đúng không?"

"Phải, thành thật mà nói, tôi..."

"Ông sai rồi, Ellsworth ạ. Ông đã quên mất bản năng làm báo của tôi. Không bao giờ để lỡ một tin sốt dẻo. Chẳng mấy khi người ta có cơ hội chứng kiến sự ra đời của một trọng tội đâu."

"Chính xác là em muốn nói gì cơ Dominique?" Keating hỏi, giọng anh đanh lại.

Cô quay sang anh. "Chào anh, Peter."

"Cô biết Peter Keating, tất nhiên rồi?" Toohey mỉm cười với cô.

"Ồ vâng. Peter đã từng phải lòng tôi."

"Em đang dùng thời sai rồi, Dominique ạ," Keating nói.

"Anh không bao giờ được coi bất kỳ điều gì Dominique chọn nói ra là nghiêm túc, Peter ạ. Cô ấy không muốn chúng ta coi nó là nghiêm túc đâu. Cô có muốn tham gia vào nhóm nhỏ của chúng tôi không Dominique? Trình độ chuyên môn của cô khiến cô quá thừa tư cách."

"Không, Ellsworth. Tôi không muốn tham gia vào nhóm nhỏ của ông đâu. Tôi thực sự không ghét ông đủ để làm việc đó."

"Vì sao em lại không tán thành nó?" Keating gắt.

"Kìa Peter!" cô dài giọng. "Cái gì làm anh nghĩ thế chứ? Em không hề không tán thành nó. Tôi có không tán thành nó không hả Ellsworth? Em nghĩ đó là một việc làm thích hợp nhằm đáp ứng một nhu cầu rõ ràng. Nó là cái mà tất cả chúng ta đều cần - và xứng đáng."

"Chúng tôi có thể tin tưởng vào việc cô sẽ xuất hiện trong buổi gặp mặt lần tới không?" Toohey hỏi. "Ý tôi là thật dễ chịu khi có một thính giả vừa am hiểu vừa ôn hòa - ở cuộc gặp lần tới của chúng tôi."

"Không đâu, Ellsworth ạ. Cám ơn ông. Chỉ là tò mò thôi mà. Mặc dù ông thật sự có một nhóm người thú vị ở đây. Những nhà xây dựng trẻ. Nhân tiện, sao ông không mời cái người đã thiết kế tòa nhà Enright - tên anh ta là gì ý nhỉ? - Howard Roark à?"

Keating cảm thấy hàm anh nghiến chặt. Nhưng cô nhìn họ một cách ngây thơ, cô đã nói điều đó một cách nhẹ nhàng, với giọng điệu của một nhận xét thông thường - chắc chắn là, anh nghĩ, cô ấy đã không có ý... gì nhỉ? Anh tự hỏi bản thân và thêm vào: cô ấy đã không có ý nói bất kỳ điều gì anh đã thoáng nghĩ là cô có ý nói, bất kể điều gì đã làm anh sợ hãi trong giây phút đó.

"Tôi chưa bao giờ có hân hạnh được gặp anh Roark," Toohey trả lời một cách trang trọng.

"Em có biết anh ta không?" Keating hỏi cô.

"Không," cô trả lời. "Tôi chỉ mới thấy một bản vẽ tòa nhà Enright."

"Và?" Keating khăng khăng. "Em nghĩ gì về nó?"

"Em không nghĩ về nó," cô trả lời.

Khi cô rời đi, Keating đi tháp tùng cô. Anh nhìn cô trong thang máy, khi họ đi xuống. Anh nhìn thấy bàn tay cô, trong một chiếc găng tay bó màu đen, đang nắm lấy cái góc phẳng của một quyển sách bỏ túi. Cái vẻ bất cẩn ẻo lả của những ngón tay cô vừa thách thức vừa mời gọi. Anh lại cảm thấy mình đang đầu hàng cô.

"Dominique, thực sự vì sao em lại đến đây hôm nay?"

"Ồ, em chưa đi đâu rất lâu rồi và em đã quyết định bắt đầu với buổi gặp này. Anh biết không, khi em đi bơi em không thích hành hạ bản thân bằng cách xuống nước dần dần. Em nhào ngay xuống và nó sẽ sốc điếng người, nhưng sau đó thì mọi việc không còn quá khó chịu đựng."

"Ý em là gì? Em thực sự thấy có điều gì sai trái ở buổi gặp mặt đó? Rốt cuộc thì bọn anh có định làm cái gì cụ thể đâu. Bọn anh không có chương trình thực sự. Anh thậm chí không biết bọn anh đã ở đó để làm gì nữa kia."

"Chính thế đấy, Peter. Anh thậm chí không biết các anh đã ở đó để làm gì nữa."

"Chỉ là một nhóm cho mọi người tụ họp thôi mà. Chủ yếu là để nói chuyện. Như thế thì có hại gì nào?"

"Peter, em mệt rồi."

"Thế... việc em xuất hiện tối nay ít nhất cũng có nghĩa là em đang từ bỏ sự ẩn dật chứ?"

"Đúng thế. Chỉ thế thôi... Mà sự ẩn dật của em?"

"Anh đã rất cố gắng liên lạc với em, em biết đấy."

"Thật vậy sao?"

"Anh có nên nói với em anh vui thế nào khi được gặp em hôm nay không?"

"Không. Hãy coi như anh đã nói với em rồi."

"Em biết không, em đã thay đổi, Dominique ạ. Anh không biết đích xác theo cách nào, nhưng em đã thay đổi."

"Em đã thay đổi?"

"Hãy coi như anh vừa nói là em rất dễ thương, bởi vì anh không tìm được từ ngữ nào để nói ra điều đó cả."

Đường phố tối. Anh gọi một chiếc tắc-xi. Ngồi gần cô, anh quay người và nhìn thẳng vào cô, cái liếc nhìn của anh như một lời mời mọc công khai. Anh hy vọng nó làm cho sự yên lặng trở nên có ý nghĩa giữa họ. Cô không quay đi. Cô ngồi quan sát mặt anh. Cô có vẻ đang phân vân theo đuổi một ý nghĩ nào đó của riêng cô mà anh không thể đoán được. Anh với qua chầm chậm và cầm lấy bàn tay cô. Anh cảm thấy nỗ lực trong bàn tay cô, anh có thể cảm nhận qua những ngón tay cứng ngắc của cô cái nỗ lực của cả cánh tay - không phải là nỗ lực để rút tay ra, mà là nỗ lực cứ để cho anh nắm lấy nó. Anh nâng bàn tay cô lên, lật nó lại và áp đôi môi mình lên cổ tay cô.

Rồi anh nhìn vào khuôn mặt cô. Anh thả bàn tay cô xuống và nó vẫn lơ lửng trong không khí trong một chốc lát, những ngón tay cứng đờ, khép hờ. Đây không phải là sự lạnh lùng mà anh nhớ. Đây là sự kinh sợ, quá mạnh đến nỗi nó không hề liên quan trực tiếp đến anh, nó không thể xúc phạm anh được, nó dường như hàm chứa nhiều hơn cả con người anh.

Anh đột nhiên nhận biết cơ thể cô; không phải trong cảm giác thèm muốn hay chán ghét, mà là nhận thức về sự hiện hữu của nó ở gần anh, dưới váy của cô. Anh thì thầm một cách bất tự giác:

"Dominique, anh ta là ai?"

Cô quay sang đối diện với anh. Rồi anh nhìn thấy đôi mắt cô nheo lại. Anh nhìn thấy đôi môi cô dãn ra, trở nên đầy đặn hơn, mềm mại hơn, miệng cô kéo dài chầm chậm thành một nụ cười mỉm yếu ớt, không mở miệng. Cô trả lời, nhìn thẳng vào anh:

"Một người thợ ở mỏ đá granit."

Cô đã thành công. Anh cười to.

"Đáng đời anh, Dominique ạ. Anh không nên nghi ngờ cái-tưởng-như-không-thể."

"Peter, thật lạ đúng không? Chính anh là người em đã từng nghĩ là em có thể làm cho mình thích."

"Sao lại lạ?"

"Thì cứ nghĩ đến việc chúng ta biết về bản thân chúng ta mới ít làm sao. Một ngày nào đó anh cũng sẽ biết sự thật về bản thân mình, Peter ạ, và điều đó với anh sẽ tồi tệ hơn so với hầu hết những người khác. Nhưng anh không phải nghĩ về điều đó đâu. Cái đó còn lâu mới đến."

"Em đã thực sự muốn anh hả Dominique?"

"Em đã nghĩ là em không bao giờ có thể muốn bất kỳ thứ gì và anh đã rất hợp với điều đó."

"Anh không hiểu ý em là gì. Anh không biết em nghĩ là em đang nói gì. Anh biết rằng anh sẽ luôn yêu em. Và anh sẽ không để em biến mất lần nữa đâu. Bây giờ, khi em đã trở lại."

"Bây giờ, khi em đã trở lại, Peter ạ, em không muốn nhìn thấy anh nữa. Ồ, em sẽ phải thấy anh khi chúng ta tình cờ gặp nhau, như chúng ta sẽ phải như thế, nhưng đừng đến thăm em. Đừng đến gặp em. Em không cố xúc phạm anh đâu, anh Peter. Không phải thế đâu. Anh chưa hề làm điều gì khiến em phải tức giận cả. Có một thứ gì trong chính bản thân em mà em không muốn đối mặt lần nữa. Em rất tiếc khi chọn anh làm một ví dụ. Nhưng anh quá phù hợp. Anh - Peter, anh là mọi thứ em khinh thường trên thế giới và em không muốn nhớ là em khinh thường nó nhường nào. Nếu em để cho bản thân em nhớ - thì em sẽ quay lại với nó. Đây không phải là một sự xúc phạm anh đâu, Peter ạ. Hãy cố gắng hiểu điều đó. Anh không phải là thứ tồi tệ nhất của thế giới. Anh là thứ tốt nhất của nó. Đó chính là điều đáng sợ. Nếu có ngày em quay trở lại với anh - thì đừng để em quay lại. Em nói điều này vì lúc này em có thể nói; còn khi em quay trở lại với anh, anh sẽ không thể dừng em lại được đâu; lúc này là lúc duy nhất em có thể cảnh báo anh được."

"Anh không biết em đang nói về cái gì." anh nói trong cơn giận dữ lạnh lùng, đôi môi anh cứng lại.

"Đừng cố biết. Không sao đâu. Chúng ta hãy tránh xa nhau. Thế được chứ?"

"Anh sẽ không bao giờ từ bỏ em."

Cô nhún vai. "Được thôi Peter. Đây là lần duy nhất em đối xử tốt với anh. Hay với bất kỳ ai."

VI.

R

oger Enright đã khởi nghiệp với công việc thợ mỏ ở Pennsylvania. Trên con đường đến với hàng triệu đô la mà giờ đây ông sở hữu, không một người nào từng giúp đỡ ông. "Đó," ông giải thích, "là lý do vì sao chưa từng có một ai ngáng đường tôi." Thực tế là rất nhiều thứ và nhiều người đã ngáng đường ông; có điều ông chưa bao giờ chú ý đến những điều đó. Người ta không ngưỡng mộ, cũng chẳng xì xào bàn tán về các biến cố trong sự nghiệp dài của ông. Sự nghiệp của ông rõ ràng và công khai như là một bảng thông báo. Ông là một chủ đề nghèo nàn cho những kẻ tống tiền hay những kẻ chuyên viết tiểu sử để hạ bệ người khác. Trong giới những người giàu, ông bị ghét vì đã trở nên giàu có một cách quá thô thiển.

Ông căm ghét các chủ ngân hàng, công đoàn, phụ nữ, người truyền đạo và chứng khoán. Ông chưa bao giờ mua một cổ phiếu nào và cũng không bao giờ bán cổ phiếu các doanh nghiệp của ông. Ông sở hữu gia tài của ông một mình, đơn giản như thể ông mang tất cả tiền mặt của mình trong túi vậy. Ngoài công việc kinh doanh dầu mỏ, ông còn sở hữu một nhà xuất bản, một nhà hàng, một cửa hàng bán rađiô, một gara sửa xe, một nhà máy sản xuất tủ lạnh chạy điện. Trước mỗi công việc làm ăn mới ông đều nghiên cứu lĩnh vực đó rất lâu, rồi tiến hành hành động như thể ông chưa hề nghe nói đến nó và làm đảo lộn tất cả những tiền lệ. Một số dự án đầu tư của ông thành công, một số khác thì thất bại. Ông tiếp tục điều hành tất cả chúng với một sự say mê dữ dội. Ông làm việc 12 tiếng một ngày.

Khi ông quyết định xây một tòa nhà, ông đã dành ra sáu tháng trời để tìm một kiến trúc sư. Rồi ông thuê Roark ở cuối buổi phỏng vấn đầu tiên của họ - cuộc phỏng vấn kéo dài nửa giờ. Sau đó, khi các bản vẽ được làm xong, ông ra lệnh tiến hành xây dựng ngay lập tức. Khi Roark bắt đầu giải trình về các bản vẽ, Enright ngắt lời anh: "Đừng giải thích gì cả. Giải thích những lý tưởng trừu tượng cho tôi là vô ích. Tôi chưa bao giờ có lý tưởng. Người ta bảo tôi là đồ vô đạo đức. Tôi chỉ làm những gì tôi thích. Có điều tôi luôn biết rõ mình thích gì."

Roark không hề đề cập đến những lần anh đã thử tiếp cận Enright trước đây, cũng không đề cập gì đến cuộc phỏng vấn của anh với viên thư ký tẻ nhạt. Bằng cách nào đó, Enright biết những điều này. Trong vòng năm phút viên thư ký đã bị cho thôi việc chính thức, và trong vòng mười phút anh ta được lệnh ra khỏi văn phòng ngay giữa ngày làm việc bận rộn, và đang đánh dở một lá thư.

Roark mở cửa văn phòng trở lại - vẫn là căn phòng rộng trên nóc một tòa nhà cũ. Anh mở rộng nó bằng cách lấy thêm một căn phòng liền kề - cho những kiến trúc sư anh thuê để bắt kịp tiến độ khẩn trương đã được lên kế hoạch của công trình. Các kiến trúc sư còn trẻ và không có nhiều kinh nghiệm. Anh chưa bao giờ nghe nói đến họ trước đó và anh không hỏi thư giới thiệu. Anh chọn họ trong số nhiều người xin việc, chỉ bằng cách liếc qua các bản vẽ của họ trong vài phút.

Trong sự căng thẳng ngột ngạt của những ngày tiếp theo, anh không bao giờ trò chuyện với họ, ngoại trừ về công việc đang làm. Họ cảm thấy, khi bước vào văn phòng vào buổi sáng, rằng họ không có cuộc sống riêng tư, không quan trọng và không có thực tại nào cả ngoại trừ cái thực tại bao trùm của những tấm giấy vẽ lớn trên bàn mình. Nơi này có vẻ lạnh lẽo và vô hồn như một nhà máy, cho đến khi họ nhìn anh; rồi họ nghĩ đó không phải là một nhà máy, mà là một lò luyện kim. Lò luyện ấy lấy thân thể họ làm nhiên liệu đốt, mà trước tiên là thân thể anh.

Có những lần anh ở lại văn phòng cả đêm. Họ thấy anh vẫn đang làm việc khi họ trở lại vào buổi sáng hôm sau. Anh không có vẻ mệt mỏi. Một lần anh đã ở đó hai ngày hai đêm liền. Vào buổi chiều của ngày thứ ba, anh ngủ gục, nửa người vắt ngang qua bàn làm việc. Anh tỉnh dậy sau mấy tiếng đồng hồ, không nhận xét gì cả và đi từ bàn này đến bàn khác để nhìn xem những việc gì đã được làm xong. Anh sửa chữa các bản vẽ - những lời của anh nghe chắc chắn như thể chưa hề có gì làm gián đoạn một suy nghĩ đã bắt đầu cách đó vài giờ.

"Thật không thể chịu được anh lúc anh đang làm việc, Howard ạ," Austen Heller bảo anh một buổi tối nọ, mặc dù anh chưa nói gì về công việc của mình.

"Tại sao?" anh hỏi, ngạc nhiên.

"Thật khó chịu khi ở trong cùng một phòng với anh. Sự căng thẳng có tính lây lan, anh biết đấy."

"Sự căng thẳng nào? Tôi cảm thấy hoàn toàn tự nhiên chính vào lúc tôi làm việc."

"Chính thế đấy. Anh cảm thấy hoàn toàn tự nhiên khi anh gần như sắp tự nổ tung thành hàng trăm mảnh. Anh được làm bằng cái quái gì thế hả Howard? Rốt cuộc đó chỉ là một tòa nhà thôi mà. Nó không phải tổ hợp của lễ phong thánh với giàn thiêu và cực khoái tình dục như anh tưởng đâu."

"Có thật là nó không phải?"

*

* *

Anh không thường xuyên nghĩ đến Dominique, nhưng khi anh nghĩ đến cô, ý nghĩ đó không phải là một sự nhớ lại bất thần; nó là sự thừa nhận về một thứ vẫn liên tục hiện hữu - đến mức không cần phải được thừa nhận. Anh muốn cô. Anh biết phải tìm cô ở đâu. Anh chờ đợi. Việc chờ đợi làm anh thấy thích thú, vì anh biết việc chờ đợi này là một cực hình đối với cô. Anh biết là sự vắng mặt của anh trói buộc cô vào anh một cách trọn vẹn và tàn nhẫn hơn so với sự có mặt của anh. Anh đang cho cô thời gian để cố gắng trốn thoát, để cho cô biết sự bất lực của chính cô khi anh chọn việc gặp lại cô. Cô sẽ biết rằng bản thân sự cố gắng trốn thoát đó cũng đã là lựa chọn của anh, rằng đó chỉ là một biểu hiện khác nữa sự sở hữu của anh với cô. Như thế cô sẽ sẵn sàng hoặc là giết anh hoặc là đến với anh một cách tự nguyện. Cả hai hành động đều sẽ ngang bằng nhau trong tâm trí cô. Anh muốn cô phải đi đến được chỗ này. Anh chờ đợi.

*

* *

Việc xây dựng tòa nhà Enright đang chuẩn bị bắt đầu thì Roark được mời đến văn phòng của Joel Sutton. Joel Sutton, một doanh nhân thành đạt, đang lên kế hoạch xây dựng một tòa nhà văn phòng khổng lồ. Sự thành công của Joel Sutton nằm ở chỗ ông không hiểu gì về mọi người. Ông chỉ yêu mến mọi người. Sự yêu mến của ông không hề phân biệt cao thấp. Đấy là một công cụ san phẳng tuyệt vời; nó không chứa những đỉnh cao và cũng không chứa những chỗ trũng, nó giống như bề mặt của một bát mật không hề có chỗ cao thấp.

Joe Sutton gặp Roark trong một bữa tối do Enright tổ chức. Joel Sutton thích Roark. Ông ngưỡng mộ Roark. Ông không thấy có khác biệt gì giữa Roark và những người khác. Khi Roark đến văn phòng của ông, Joel Sutton tuyên bố:

"Giờ thì tôi không chắc, tôi không chắc, tôi không chắc chút nào cả, nhưng lúc trước tôi đã nghĩ là tôi có thể để anh xây tòa cái tòa nhà mà tôi dự định. Tòa nhà Enright của anh hơi... kỳ quặc, nhưng nó hấp dẫn, tất cả các tòa nhà đều hấp dẫn, anh yêu các tòa nhà đúng không? - và Rog Enright là một người khôn ngoan, một người cực kỳ khôn ngoan, ông ta hái ra tiền ở nơi mà chẳng ai nghĩ là có thể. Tôi sẽ nghe theo gợi ý của Rog Enright bất kỳ lúc nào, điều gì tốt cho Enright thì cũng tốt cho tôi."

Roark đợi hàng tuần sau cuộc phỏng vấn đầu tiên đó. Joel Sutton không bao giờ quyết định vội vàng cả.

Vào một buổi tối tháng Mười hai, Austen Heller ghé thăm Roark mà không báo trước và tuyên bố là anh phải đi cùng ông đến một buổi tiệc trang trọng do bà Ralston Holcombe tổ chức vào thứ sáu tới.

"Quỷ tha ma bắt, không, Austen," Roark nói.

"Nào Howard, chính xác thì sao lại không nào? Ồ, tôi biết, anh ghét những thứ thế này, nhưng đó không phải là lý do tốt. Trong khi đó, tôi có thể cho anh nhiều lý do rất tuyệt để đi. Cái tiệc đó là một đầu mối phân việc cho các kiến trúc sư và, tất nhiên, anh sẽ bán bất kỳ thứ gì anh có để đổi lấy một công trình - ồ, tôi biết, dĩ nhiên là để đổi lấy kiểu công trình của anh, nhưng anh vẫn sẽ sẵn sàng bán cả cái linh hồn mà anh không có - vậy thì sao anh lại không thể chịu nổi vài giờ chán ngắt để đổi lấy những cơ hội tương lai nhỉ?"

"Chắc chắn rồi. Có điều tôi không tin là những thứ thế này lại có thể dẫn đến bất kỳ cơ hội nào."

"Anh sẽ đi lần này chứ?"

"Lần này có gì đặc biệt?"

"À, trước tiên là vì bà già lắm chuyện Kiki Holcombe yêu cầu thế. Bà ta đã tốn cả hai giờ đồng hồ hôm qua để yêu cầu thế và làm cho tôi lỡ cả một cái hẹn ăn trưa. Danh tiếng của bà ta sẽ bị phá hỏng mất nếu có một tòa nhà như Enright được xây trong thành phố mà bà ta lại không thể trưng kiến trúc sư của nó trong phòng khách nhà mình. Đó là một thứ thú vui. Bà ta sưu tập các kiến trúc sư. Bà ta khăng khăng là tôi phải mang anh đến và tôi đã hứa là tôi sẽ làm thế."

"Để làm gì?"

"Cụ thể là bà ta sẽ mời Joel Sutton tới đó vào thứ Sáu tới. Hãy cố cư xử lịch sự với ông ta, kể cả nếu điều đó có làm anh khó chịu. Ông ta hầu như đã quyết định giao cho anh tòa nhà đó rồi - theo những gì tôi nghe được. Một chút quan hệ cá nhân có thể là tất cả những gì cần thiết để giải quyết vấn đề. Ông ta có rất nhiều tay khác đang theo đuổi. Tất cả bọn họ sẽ ở đó. Tôi muốn anh ở đó. Tôi muốn anh nhận được tòa nhà đó. Tôi không muốn nghe bất kỳ thứ gì về các mỏ đá granit trong vòng mười năm tới. Tôi không thích các mỏ đá granit."

Roark ngồi trên một chiếc bàn, hai bàn tay anh nắm chặt lấy mép bàn để giữ im thân mình. Anh đã kiệt sức sau 14 giờ làm việc trong văn phòng, anh nghĩ anh hẳn phải kiệt sức nhưng anh không thể cảm thấy điều đó. Anh để vai mình chùng xuống trong một cố gắng để đạt được một sự thư giãn sẽ không đến; hai cánh tay anh căng thẳng, rã rời và một khuỷu tay anh run nhẹ, liên tục. Hai chân anh choãi ra, một chân hơi gập và được giữ yên, đầu gối dựa vào bàn, chân kia thõng xuống thẳng từ hông qua mép bàn, đu đưa một cách nôn nóng. Thật khó có thể tự buộc bản thân anh nghỉ ngơi trong những ngày này.

Nhà mới của anh là một căn phòng rộng trong khu chung cư nhỏ, hiện đại trên một con phố yên tĩnh. Anh đã chọn ngôi nhà này vì nó không có mái đua trên các cửa sổ và không có ván lót trên các bức tường bên trong. Phòng của anh có vài thứ đồ gỗ đơn giản; trông nó sạch sẽ, rộng và trống trải; người ta tưởng như có thể nghe thấy tiếng dội lại của âm thanh từ các góc của nó.

"Sao lại không đi, chỉ một lần thôi?" Heller nói. "Sẽ không quá kinh khủng. Thậm chí nó có thể làm anh thích thú. Anh sẽ thấy rất nhiều bạn cũ của anh ở đấy. John Erik Snyte, Peter Keating, Guy Francon và con gái ông ấy - anh nên gặp con gái ông ta. Anh đã bao giờ đọc những thứ của cô ấy?"

"Tôi sẽ đi," Roark đột ngột nói.

"Anh thật khó đoán nhưng thỉnh thoảng cũng biết điều. Tôi sẽ cho xe đến lúc tám giờ rưỡi thứ Sáu. Cà-vạt đen nhé. Tiện thể, anh có một bộ tux đấy chứ?"

"Enright đã bắt tôi sắm một bộ."

"Enright là một người rất sáng suốt."

Khi Heller rời đi, Roark vẫn ngồi trên bàn hồi lâu. Anh đã quyết định đi đến bữa tiệc, bởi vì anh biết rằng đó sẽ là nơi cuối cùng trong số những nơi mà Dominique mong gặp lại anh.

*

* *

Ellsworth Toohey nói: "Chẳng có gì vô dụng, chị Kiki thân mến của tôi, như việc một người phụ nữ giàu có lại tự biến mình thành một chuyên gia mua vui cho người khác. Nhưng rồi, những điều vô dụng lại có sự hấp dẫn riêng. Giống như chế độ quý tộc chẳng hạn, một khái niệm vô dụng nhất trong số các khái niệm."

Kiki Holcombe chun mũi trước những lời chỉ trích nhẹ nhàng, nhưng bà thích việc được so sánh với tầng lớp quý tộc. Ba chùm đèn pha lê đang rực sáng trên phòng khiêu vũ Florentine của bà, và khi bà ngước nhìn lên Toohey thì những ngọn đèn được phản chiếu trong đôi mắt bà, biến đôi mắt trở thành một tập hợp những tia sáng ẩm ướt, lấp lánh giữa đôi hàng mi nặng, dày.

"Anh toàn nói những điều kinh khủng, Ellsworth ạ. Tôi không biết tại sao tôi vẫn cứ mời anh."

"Đó chính là lý do đấy, chị thân mến. Tôi nghĩ tôi sẽ được mời đến đây thường xuyên như tôi muốn."

"Một người phụ nữ đơn thuần thì có thể làm được gì để chống lại điều đó cơ chứ?"

"Đừng bao giờ tranh cãi với ông Toohey," bà Gillespie nói; bà là một phụ nữ cao ráo, đeo một chuỗi vòng cổ bằng những viên kim cương lớn cùng cỡ với những chiếc răng bà để lộ khi mỉm cười. "Chẳng ích gì đâu. Chúng ta bị đánh bại sẵn rồi."

"Tranh luận, thưa bà Gillespie," Toohey nói, "là một trong số những điều vừa vô ích lại vừa không hấp dẫn. Hãy để nó cho những người đàn ông thông minh. Trí thông minh, tất nhiên, là một sự thú nhận nguy hiểm về sự yếu ớt. Người ta đã nói là đàn ông phát triển trí thông minh khi họ thất bại trong mọi thứ khác."

"Ông chẳng hề tin điều đó." bà Gillespie nói, trong khi nụ cười của bà chấp nhận điều đó như một sự thật dễ chịu. Bà sở hữu ông một cách đắc thắng và lái ông đi như một phần thưởng lấy cắp được từ bà Holcombe, người đã quay sang bên một lát để đón những vị khách mới. "Nhưng đàn ông thông minh các ông chỉ là những đứa trẻ thôi. Các ông quá nhạy cảm. Lúc nào cũng phải chiều chuộng các ông."

"Tôi sẽ không làm thế đâu, bà Gillespie ạ. Chúng tôi sẽ tận dụng điều đó. Và phô bày sự thông minh của mình thì thật là thô thiển. Nó còn thô thiển hơn cả việc phô bày sự giàu có của mình nữa."

"Ôi trời, ông không tin điều đó đấy chứ? Tất nhiên tôi đã nghe nói ông là một kiểu người cấp tiến nhưng tôi sẽ không coi chuyện ấy là nghiêm túc. Không một chút nào. Ông thấy thế nào?"

"Tôi rất thích thế," Toohey nói.

"Ông không thể lừa tôi được đâu. Ông không thể làm cho tôi nghĩ ông là một trong số những người nguy hiểm được đâu. Tất cả những kẻ nguy hiểm đều bẩn thỉu và dùng ngữ pháp rất tồi. Còn ông thì lại có một giọng nói thật là hay!"

"Điều gì đã khiến bà nghĩ tôi khao khát trở thành nguy hiểm hở bà Gillespie? Tôi chỉ - ồ, chúng ta gọi là gì nhỉ, cái thứ hòa nhã nhất trong tất cả mọi thứ ấy - một lương tâm? Lương tâm của chính bà, được nhân cách hóa trong thân thể của một người khác và trông nom những mối quan tâm của bà tới những người kém may mắn hơn trên thế giới, nhờ thế mà bà tự do không cần phải chăm lo đến chúng nữa."

"Ồ, thật là một ý tưởng kỳ quặc! Tôi không biết nó là kinh khủng hay thực sự rất thông minh nữa."

"Cả hai, bà Gillespie ạ. Như tất cả sự thông thái."

Kiki Holcombe xem xét phòng khiêu vũ của bà với một sự hài lòng. Bà nhìn lên khoảng tối mờ mờ của trần phòng, cái khoảng không phía trên những chùm đèn, và bà nhận thấy nó thật là cao phía trên các vị khách, thật là nổi bật và yên tĩnh. Đám đông khách khứa không làm chật gian sảnh nhà bà; cái không gian ấy ngự phía trên họ như một cái hộp vuông bằng không khí, to quá cỡ; chính cái khoảng không gian rộng lớn bị giam hãm phía trên đó đã mang lại cho buổi gặp gỡ này một vẻ xa hoa vương giả; nó giống như cái nắp của một hộp trang sức, to một cách không cần thiết phía trên cái đáy phẳng giữ duy nhất một viên đá quý nhỏ.

Khách khứa đi vào theo hai dòng lớn và thay đổi; rồi rút cục đều bị cuốn vào hai cái xoáy; ở trung tâm của một vòng xoáy là Ellsworth Toohey, của vòng xoáy kia là Peter Keating. Trang phục buổi tối không hợp với Ellsworth Toohey; phần ngực áo hình chữ nhật của chiếc sơ mi trắng khiến mặt ông dài ra và kéo dãn cả người ông thành hai chiều; những cánh của chiếc nơ bướm khiến cho chiếc cổ gầy guộc của ông trông giống cổ của con gà đã được vặt lông, nhợt nhạt, xanh xao và sẵn sàng bị vặn chỉ bằng một chuyển động duy nhất của một bàn tay khỏe mạnh nào đó. Nhưng ông mặc trang phục của mình một cách đỏm dáng hơn bất kỳ người đàn ông đang có mặt nào. Ông mặc chúng với vẻ ngạo mạn trễ nải thể hiện sự thoải mái hoàn toàn với cái lố bịch, và chính sự lố bịch trong vẻ ngoài của ông lại trở thành một tuyên ngôn cho sự ưu việt của ông, một sự ưu việt đủ lớn để có thể không thèm quan tâm đến những thứ vụn vặt.

Ông nói với một phụ nữ trẻ có nét mặt âu sầu, đeo cặp kính và mặc một chiếc váy buổi tối ngắn: "Cô gái thân mến, cô sẽ không bao giờ vượt quá địa vị một kẻ amateur trong lĩnh vực tri thức, trừ phi cô ném mình vào trong một sự nghiệp vĩ đại hơn bản thân cô."

Ông nói với một quý ông béo phị với khuôn mặt đang tím lại giữa cao trào một cuộc tranh cãi: "Nhưng, bạn của tôi ơi, tôi có thể cũng không thích nó. Tôi chỉ nói, những điều như vậy tình cờ lại là tiến trình không thể tránh khỏi của lịch sử. Và ông hay tôi là ai mà phản đối tiến trình của lịch sử cơ chứ?"

Ông nói với một kiến trúc sư trẻ bất hạnh: "Không, chàng trai của tôi, điều tôi phản đối cậu không phải là tòa nhà tồi tệ mà cậu đã thiết kế, mà là cái thị hiếu tồi cậu đã thể hiện trong việc rên rỉ về lời phê bình của tôi với tòa nhà. Cậu nên cẩn thận. Ai đó có thể nói là cậu chẳng thể phản bác lại mà cũng chẳng biết chấp nhận những lời phê bình."

Ông nói với một bà quả phụ của một triệu phú: "Vâng, tôi thực sự nghĩ sẽ là ý hay nếu bà đóng góp vào Hội thảo Nghiên cứu Xã hội. Đó sẽ là một cách để tham gia vào dòng chảy vĩ đại của những thành tựu văn hóa của con người, mà không làm đảo lộn hoạt động thường ngày hay việc tiêu hóa của bà."

Những người xung quanh ông nói: "Chẳng phải ông ta thật là hóm hỉnh đấy sao? Và quả là dũng cảm!"

Peter Keating mỉm cười rạng rỡ. Anh cảm thấy sự chú ý và ngưỡng mộ chảy dồn vào anh từ mọi phía của phòng khiêu vũ. Anh ngắm nhìn mọi người, tất cả những con người gọn ghẽ, sức nước hoa, quần áo lụa sột soạt, bao bọc bởi ánh sáng, chảy ròng ròng trong ánh sáng, như trước đó mấy tiếng tất cả họ cũng đứng ròng ròng dưới vòi hoa sen, rồi chuẩn bị ăn mặc để đến đây và đứng một cách thành kính trước con người có tên Peter Keating. Có những lúc anh quên mất rằng anh là Peter Keating và anh liếc vào gương, vào chính hình dáng của mình, anh muốn hòa vào sự ngưỡng mộ chung với cái hình dáng đó.

Có lần dòng người để lại anh mặt đối mặt với Ellsworth Toohey. Keating mỉm cười như một cậu bé nhô lên từ một dòng suối trong một ngày hè, lấp lánh nước, hăng hái, tràn đầy năng lượng. Toohey đứng nhìn anh; hai bàn tay Toohey trượt cẩu thả vào hai túi quần, khiến cho chiếc áo vét của ông loe ra trên hai bên hông gầy của ông; ông dường như hơi loạng choạng trên đôi bàn chân nhỏ bé của mình; đôi mắt ông chăm chú trong sự đánh giá bí ẩn.

"Nào... đây, chú Ellsworth... đây... không phải là một buổi tối tuyệt vời hay sao?" Keating nói, như một đứa trẻ nói với một người mẹ cảm thông, và hơi giống như một người say.

"Đang vui hả Peter? Cậu rất được chú ý đêm nay đấy. Peter bé nhỏ dường như đã bước qua cái vạch để trở thành một người nổi tiếng rồi. Điều đó phải xảy ra, người ta chẳng bao giờ có thể nói được chính xác là khi nào và vì sao... Tuy nhiên, có một người ở đây dường như đang lờ cậu đi một cách khá trắng trợn đúng không nào?"

Keating nhăn mặt. Anh tự hỏi khi nào và bằng cách nào mà Toohey đã có thời gian để để ý đến điều đó.

"Ôi dào," Toohey nói, "ngoại lệ chứng minh cho quy luật. Đáng tiếc, tuy vậy. Tôi đã luôn có một ý tưởng ngu ngốc là một người đàn ông phi thường nhất mới có thể hấp dẫn nổi Dominique Francon. Vì thế tất nhiên tôi đã nghĩ đến anh. Chỉ là một ý nghĩ vu vơ thôi. Tuy thế, cậu biết đấy, người đàn ông chinh phục nổi cô ấy sẽ có thứ gì đó mà cậu không thể sánh được. Anh ta sẽ đánh bại cậu ở điểm đó."

"Không ai có được cô ấy cả," Keating rít lên.

"Không, dĩ nhiên rồi. Chưa ai. Điều đó khá đáng ngạc nhiên. Ồ, tôi cho là đó sẽ phải là một kiểu đàn ông phi thường."

"Nào, ông đang làm cái quái gì thế? Ông không thích Dominique Francon. Đúng không?"

"Tôi chưa bao giờ nói tôi thích."

Một lát sau Keating nghe thấy Toohey nói một cách long trọng giữa một cuộc thảo luận sôi nổi nào đó: "Hạnh phúc ư? Nhưng như thế thì có vẻ trung lưu quá. Hạnh phúc là gì vậy? Có quá nhiều thứ trong cuộc sống quan trọng hơn hạnh phúc rất nhiều."

Keating chầm chậm đi về phía Dominique. Cô đứng hơi ưỡn người ra phía sau, như thể không khí là một vật đỡ đủ cứng cho hai bả vai thanh mảnh để trần của cô vậy. Chiếc váy dài buổi tối của cô có màu của thủy tinh. Anh có cái cảm giác anh có thể nhìn thấy bức tường đằng sau cô, xuyên qua cơ thể cô. Cô dường như quá mong manh, như thể cô không tồn tại; và chính sự mong manh đó nói lên một sức mạnh đáng sợ - cái sức mạnh đã giữ cô neo bám vào sự tồn tại bằng một cơ thể dường như không có thật.

Khi anh đến gần, cô không cố lờ anh đi; cô quay sang anh, cô trả lời; nhưng sự chính xác đều đều trong những câu trả lời của cô đã ngăn anh lại, khiến anh bất lực, khiến anh rời bỏ cô trong chốc lát.

Khi Roark và Heller bước vào, Kiki Holcombe đón họ ở ngưỡng cửa. Heller giới thiệu Roark với bà, và bà nói như bà vẫn luôn nói, giọng bà như một quả rốc-két rít lên, đẩy bật mọi thứ sang bên nhờ vận tốc khủng khiếp của nó.

"Ồ anh Roark, tôi đã rất nóng lòng mong gặp anh! Tất cả chúng tôi đều đã nghe về anh rất nhiều! Nào, tôi phải cảnh báo với anh là chồng tôi không tán thành anh. - ồ, chỉ thuần túy về mặt nghệ thuật thôi, anh biết đấy - nhưng đừng để điều đó làm anh lo lắng, anh có một đồng minh trong nhà này, một đồng minh nhiệt tình!"

"Bà thật tốt bụng, thưa bà Holcombe," Roark nói. "Và có thể lòng tốt của bà là không cần thiết."

"Ồ, tôi mê mẩn tòa nhà Enright! Tất nhiên, tôi không thể nói là nó đại diện cho những quan niệm thẩm mỹ của bản thân tôi, nhưng những người có văn hóa phải giữ cho đầu óc mình rộng mở với bất kỳ điều gì, ý tôi là để thu nhận bất kỳ quan điểm nào trong nghệ thuật sáng tạo, trên tất cả, chúng ta phải có đầu óc thật thoáng, anh có nghĩ vậy không?"

"Tôi không biết," Roark nói. "Tôi chưa bao giờ có đầu óc thoáng cả."

Bà chắc chắn là anh không có ý định ngạo mạn; giọng nói và cử chỉ của anh không cho thấy điều đó; nhưng sự ngạo mạn lại là ấn tượng đầu tiên của bà về anh. Anh mặc trang phục buổi tối và chúng trông đẹp trên thân hình cao gầy của anh, nhưng theo cách nào đó dường như anh không ở trong chúng; mái tóc màu cam trông hoàn toàn đối lập với bộ quần áo trang trọng của anh; bên cạnh đó, bà không thích khuôn mặt anh; khuôn mặt đó hợp với một công trường hay trong quân đội, nó không có chỗ trong phòng khách của bà. Bà nói:

"Tất cả chúng tôi đều rất quan tâm đến công việc của anh. Tòa nhà đầu tiên của anh?"

"Tòa thứ năm của tôi."

"Ồ, thật thế sao? Tất nhiên rồi. Thật là thú vị."

Bà siết hai tay lại, và quay đi để đón một người khách mới đến.

Heller nói: "Anh muốn gặp ai trước?... Kìa, có Dominique Francon đang nhìn chúng ta. Đi nào."

Roark quay người. Anh nhìn thấy Dominique đang đứng một mình phía bên kia căn phòng. Không có biểu hiện gì trên khuôn mặt cô, thậm chí không có cả một cố gắng để tránh biểu hiện nữa; thật lạ lùng khi thấy một khuôn mặt người thể hiện một cấu trúc xương và một sự sắp xếp của các cơ, nhưng hoàn toàn trống rỗng, một khuôn mặt như một bộ phận cơ thể bất kỳ, như một bả vai hay một cánh tay, chứ không còn là một tấm gương phản ánh sự nhận thức cảm giác nữa. Cô nhìn họ khi họ lại gần. Đôi bàn chân cô đứng trong tư thế kỳ quặc, chúng đứng thẳng và song song, như thể không có sàn nhà xung quanh cô mà chỉ có vài xăng-ti-mét vuông dưới lòng bàn chân cô và cô được an toàn miễn là cô không di chuyển hay nhìn xuống. Anh thấy một khoái cảm mạnh mẽ, vì cô dường như quá mong manh để có thể chịu được sự tàn nhẫn của điều anh đang làm; và vì cô chịu đựng nó rất giỏi.

"Cô Francon, tôi xin giới thiệu Howard Roark." Heller nói.

Ông đã không hề lên giọng khi phát âm cái tên; ông tự hỏi vì sao nghe nó lại nổi bật như thế; rồi ông nghĩ đấy là vì sự im lặng đã bao trùm lên nó và giữ nó đứng im trong không khí. Nhưng làm gì có sự yên lặng, khuôn mặt của Roark trống rỗng một cách lịch sự và Dominique đang nói một cách phải phép:

"Xin chào anh, anh Roark."

Roark cúi người: "Xin chào cô, cô Francon."

Cô nói: "Tòa nhà Enright..."

Cô nói như thể cô không muốn phát âm ba từ đó lên; và như thể chúng gọi tên, không phải là một tòa nhà, mà rất nhiều thứ ngoài nó nữa.

Roark nói: "Vâng, cô Francon."

Rồi cô mỉm cười, nụ cười thích hợp, hời hợt mà người ta dùng để đáp lại một lời giới thiệu. Cô nói:

"Tôi biết Roger Enright. Ông ấy gần như là một người bạn của gia đình tôi."

"Tôi chưa có hân hạnh được gặp gỡ nhiều bạn bè của ông Enright."

"Tôi nhớ một lần cha tôi đã mời ông ấy đến ăn tối. Đó là một bữa tối kinh khủng. Cha tôi được coi là một người giỏi chuyện nhưng ông đã không thể cạy miệng được Enright lấy nửa lời. Roger chỉ ngồi đó. Người ta phải biết cha tôi thì mới biết đó là một thất bại thế nào đối với ông."

"Tôi đã làm việc cho cha cô" - bàn tay cô đang chuyển động và nó dừng lại giữa lưng chừng khoảng không - "cách đây vài năm, công việc thợ vẽ thiết kế."

Bàn tay cô rơi xuống. "Thế thì anh có thể hiểu là cha tôi đã không thể hòa hợp với Roger Enright."

"Không. Ông ấy không thể."

"Mặc dù vậy, tôi nghĩ Roger gần như là quý mến tôi, có điều ông ấy chưa bao giờ tha thứ cho tôi về chuyện đi làm cho một tờ báo của Wynand."

Đứng giữa bọn họ, Heller nghĩ ông đã nhầm; chẳng có gì lạ trong cuộc gặp gỡ này cả; thực tế là chẳng có gì cả. Ông cảm thấy bực mình là Dominique không nói về kiến trúc như một người hẳn sẽ mong đợi cô làm thế; ông kết luận một cách tiếc rẻ rằng cô không thích người đàn ông này, cũng như cô không thích hầu hết những người cô gặp.

Rồi bà Gillespie nắm lấy Heller và dẫn ông đi. Roark và Dominique được ở lại một mình. Roark nói: "Ông Enright đọc tất cả các tờ báo trong thành phố. Tất cả chúng được mang đến văn phòng của ông - với những trang xã luận được cắt bỏ."

"Ông ấy luôn làm thế. Roger đã bỏ lỡ mất thiên hướng thực sự của ông ấy. Ông ấy lẽ ra nên là một nhà khoa học. Ông ấy có một tình yêu lớn đối với các dữ kiện và một sự khinh miệt lớn đối với những thể loại bình luận."

"Mặt khác, cô có biết ông Fleming không?" anh hỏi.

"Không."

"Ông ấy là một người bạn của Heller. Ông Fleming không bao giờ đọc gì ngoài những trang báo xã luận. Người ta thích nghe ông ấy nói."

Cô quan sát anh. Anh đang nhìn thẳng vào cô, rất lịch sự, như bất kỳ người đàn ông nào hẳn sẽ nhìn, khi gặp cô lần đầu tiên. Cô ước cô có thể tìm thấy một dấu hiệu nào đó trên khuôn mặt anh, dù chỉ là một dấu hiệu của nụ cười giễu cợt ngày trước; thậm chí sự giễu cợt cũng sẽ là một sự công nhận và là một mối ràng buộc; nhưng cô chẳng tìm thấy gì cả. Anh nói như một người xa lạ. Anh không cho phép một thực tại nào ngoài cái thực tại của một người đàn ông được giới thiệu với cô trong một phòng khách, tuân theo một cách hoàn hảo mọi phép tắc của sự lịch thiệp. Cô đối mặt với sự lịch thiệp đáng kính này và nghĩ rằng chiếc váy của cô chẳng có gì phải che giấu anh, rằng anh đã sử dụng cô cho một nhu cầu riêng tư hơn là việc sử dụng những thức ăn mà anh ăn - trong lúc anh đứng cách cô vài chục xăng-ti-mét, giống như một người đàn ông không thể cho phép mình đến gần hơn. Cô nghĩ rằng đây là cách anh giễu cợt, sau cái chuyện mà anh đã không hề quên nhưng sẽ không thừa nhận. Cô nghĩ rằng anh muốn cô là người trước tiên gọi tên nó ra, anh sẽ đưa cô đến chỗ bẽ mặt vì phải chấp nhận quá khứ - bằng cách là người trước tiên gọi nó trở lại thực tại; vì anh biết là cô không thể bỏ nó đi mà không gọi nó trở lại.

"Và ông Fleming làm gì để kiếm sống?" cô hỏi.

"Ông ấy sản xuất những cái gọt bút chì."

"Thật sao? Một người bạn của Austen?"

"Austen biết nhiều người. Ông ấy nói đó là nghề của ông ấy."

"Ông ấy có thành công không?"

"Ai cơ cô Francon? Tôi không chắc là Austen thành công, còn ông Fleming thì rất thành công. Ông ta có các nhà máy chi nhánh ở New Jersey, Connecticut và Rhode Island."

"Anh sai về ông Austen rồi anh Roark ạ. Ông ấy rất thành công. Trong nghề của ông ấy và của tôi thì một người sẽ thành công nếu như cái nghề đó vẫn còn giữ cho người ta được toàn vẹn."

"Làm sao để đạt được điều đó?"

"Theo một trong hai cách: bằng cách không hề đếm xỉa đến bất cứ ai, hoặc bằng cách đếm xỉa đến tất cả bọn họ."

"Cách nào được ưa thích hơn, cô Francon?"

"Cách khó nhất."

"Nhưng ham muốn chọn cái khó nhất tự nó cũng có thể là một cách thừa nhận sự yếu đuối."

"Tất nhiên rồi, anh Roark. Nhưng là cách thú nhận ít khó chịu nhất."

"Nếu như có sự yếu đuối ở đó để mà thừa nhận."

Rồi một ai đó lướt qua đám đông đến chỗ họ và một cánh tay quàng qua vai Roark. Đó là John Erik Snyte.

"Roark, thật không thể tưởng tượng được!" ông kêu lên. "Thật là mừng, thật mừng! Lâu quá rồi phải không? Nghe này, tôi muốn nói chuyện với cậu! Hãy nhường cậu ấy cho tôi một lát nhé, Dominique."

Roark nghiêng mình chào cô, hai cánh tay anh thõng ở hai bên sườn, một món tóc rủ xuống phía trước, để cô không nhìn thấy mặt anh mà chỉ thấy mái đầu màu cam cúi chào lịch thiệp trong khoảnh khắc; rồi anh đi theo Snyte hòa vào đám đông.

Snyte nói: "Chúa ơi, mấy năm vừa rồi cậu phất thật đấy! Nghe này, cậu có biết liệu Enright đang có kế hoạch tấn công gì lớn vào bất động sản không, ý tôi là, có bất kỳ tòa nhà lớn nào mà ông ấy định xây không?"

Chính Heller đã đẩy Snyte đi và đưa Roark tới chỗ Joel Sutton. Joel Sutton cảm thấy vui vẻ. Ông cảm thấy rằng sự có mặt của Roark ở đây đã xóa đi nghi ngờ cuối cùng của ông; đó là một con dấu bảo hành đóng lên người Roark. Bàn tay Joel Sutton nắm vào khuỷu tay Roark, năm ngón tay hồng mập mạp bám vào ống tay áo màu đen. Joel Sutton hít sâu với vẻ bí mật:

"Nghe này, cậu bé, thế là ổn thỏa rồi. Giờ thì đừng vắt kiệt đến những đồng xu cuối cùng của tôi nhé, tất cả kiến trúc sư các anh đều là lũ cắt cổ và cướp đường cả, nhưng tôi sẽ thử với anh xem sao, anh là một anh chàng thông minh, anh bẫy được lão Rog, đúng không nào? Và giờ thì anh cũng lừa được tôi, nói chung là gần như thế, tức là vài hôm nữa tôi sẽ gọi cho anh và chúng ta sẽ cắn xé nhau về chuyện hợp đồng."

Heller quan sát họ và ông nghĩ rằng thật là lố bịch khi thấy hai người đứng cạnh nhau: Roark cao, thân hình khổ hạnh, với cái vẻ gọn gàng cao ngạo rất phù hợp với cơ thể gồm toàn những đường nét dài của anh; trong khi bên cạnh anh là một quả bóng toàn thịt đang tươi cười - và quyết định của cái quả bóng này sẽ rất quan trọng với Roark.

Rồi Roark bắt đầu nói về tòa nhà trong tương lai, nhưng Joel Sutton ngước nhìn anh với vẻ ngạc nhiên và khó chịu. Joel Sutton không đến đây để nói về các tòa nhà; người ta tổ chức các bữa tiệc là để có thể giải trí, và có niềm vui thích nào có thể lớn hơn việc quên đi những thứ quan trọng của đời người? Vì thế Joel Sutton nói chuyện về cầu lông; đó là sở thích của ông; đó là một sở thích quý phái - ông giải thích - ông không tầm thường như những người đang tốn thời gian chơi golf. Roark lắng nghe một cách lịch sự. Anh không có gì để nói.

"Anh có chơi cầu lông, đúng không?" Joel Sutton đột ngột hỏi.

"Không," Roark trả lời.

"Không?" Joel Sutton hít sâu. "Anh không chơi sao? Chà, thật tiếc, ồ thật là quá đáng tiếc! Tôi đã đoán chắc là anh có chơi, với dáng người cao như của anh thì anh sẽ chơi tốt, anh sẽ rất cừ, tôi đã nghĩ chúng ta chắc chắn sẽ đánh bại lão Tompkin bất kỳ lúc nào trong thời gian tòa nhà đang được xây."

"Trong lúc tòa nhà được xây, ông Sutton, đằng nào tôi cũng sẽ không có thời gian để chơi."

"Anh nói sẽ không có thời gian để chơi là sao? Anh thuê các thợ vẽ để làm gì cơ chứ? Thuê thêm hai người nữa đi, để họ lo, tôi trả anh đủ tiền, đúng không? Nhưng mà đằng nào anh cũng không biết chơi, thật là tiếc quá, tôi đã nghĩ chắc chắn... Tay kiến trúc sư thiết kế tòa nhà của tôi dưới phố Canal là một thầy phù thủy về cầu lông, nhưng anh ta đã chết năm ngoái rồi, tan xác trong một vụ tai nạn ô-tô, quỷ tha ma bắt, cũng là một kiến trúc sư giỏi. Còn anh thì lại không chơi."

"Ông Sutton, ông không thực sự thất vọng về chuyện đó đấy chứ?"

"Tôi thật sự rất thất vọng, chàng trai của tôi ạ."

"Nhưng ông thuê tôi để làm gì?"

"Tôi cái gì cái gì?"

"Ông thuê tôi làm gì?"

"Thì, để xây một tòa nhà, tất nhiên rồi."

"Ông có thực sự nghĩ tòa nhà sẽ đẹp hơn nếu tôi chơi cầu lông không?"

"Ồ, có công việc và có thú vui, có những chuyện thực tế phải làm và có cả những thứ thú vui của con người nữa chứ, chà, tôi không phiền đâu, có điều tôi đã nghĩ là với tạng người gầy như của anh thì chắc chắn anh sẽ... Nhưng không sao, không sao, chẳng thể có tất cả mọi thứ được."

Khi Joel Sutton rời khỏi anh, Roark nghe thấy một giọng vui vẻ:

"Chúc mừng, Howard,"

Anh quay người và thấy Peter Keating đang mỉm cười với anh một cách rạng rỡ và giễu cợt.

"Chào Peter. Anh vừa nói gì?"

"Tôi nói chúc mừng cậu đã túm được Joel Sutton. Có điều, cậu biết đấy, cậu xử lý vụ đó không được tốt lắm."

"Ý anh là gì?"

"Lão Joel đấy. Thì tất nhiên, tôi đã nghe gần hết chuyện - sao lại không chứ? - thật là thú vị. Đó không phải là cách giải quyết vấn đề, Howard ạ. Nếu là tôi thì cậu biết tôi làm gì không? Tôi sẽ thề mình đã chơi cầu lông từ khi hai tuổi và đó là trò chơi của các vị vua và bá tước và phải có một tâm hồn rất đặc biệt mới có thể đánh giá cao nó. Và đến lúc ông ta kiểm tra tôi thì tôi cũng đã có thời gian để học chơi như một bá tước rồi. Như thế thì mất gì của cậu nào?"

"Tôi đã không nghĩ đến chuyện đó."

"Đó là một bí mật, Howard ạ. Một bí mật hiếm có. Tôi sẽ cho cậu bí mật đó miễn phí cộng với những lời chúc mừng của tôi: hãy luôn làm những gì người khác muốn cậu làm. Rồi cậu sẽ có được họ những khi mà cậu muốn họ. Tôi cho cậu miễn phí vì cậu sẽ không bao giờ dùng nó cả. Cậu sẽ không bao giờ biết cách đâu. Cậu xuất sắc trong một số mặt, Howard ạ, tôi đã luôn nói như thế - và hoàn toàn ngờ nghệch ở một số mặt khác."

"Có thể."

"Cậu phải cố gắng và học lấy vài điều, nếu cậu định tham dự vào cái trò chơi phòng khách của Kiki Holcombe. Cậu định thế đúng không? Mở mắt rồi, nhỉ? Cũng phải nói là tôi đã sốc khi nhìn thấy cậu ở đây - chỗ này chứ chẳng phải chỗ nào khác. À mà phải rồi, chúc mừng cậu về cái vụ Enright, đẹp đấy - cậu ở đâu suốt mùa hè? - nhớ nhắc tôi dạy cậu về cách mặc một bộ tux nhé, Chúa ơi, nhưng nó trông thật ngớ ngẩn trên người cậu! Đó chính là điều tôi thích, tôi thích thấy cậu trông ngớ ngẩn, chúng ta là bạn cũ đúng không Howard?"

"Anh say rồi, Peter."

"Tất nhiên là tôi say. Nhưng tôi chưa đụng đến một giọt vào tối nay, chưa một giọt nào. Cái làm tôi say - cậu sẽ không bao giờ học được, không bao giờ, cái đó không phải cho cậu, và chính điều này - chính chuyện nó không dành cho cậu - cũng là một phần của cái làm tôi say. Cậu biết đấy, Howard, tôi quý cậu. Tôi thực sự quý cậu. Tôi thực sự quý mến cậu - vào tối nay."

"Phải, Peter. Anh sẽ luôn luôn quý tôi, anh biết rõ điều đó."

Roark được giới thiệu với nhiều người và nhiều người nói chuyện với anh. Họ mỉm cười và dường như chân thành cố gắng để tiếp cận anh như một người bạn, để bày tỏ sự đánh giá cao, để thể hiện thiện ý và sự quan tâm thân thiện. Nhưng điều anh nghe thấy là: "Tòa nhà Enright thật là tuyệt vời. Nó cũng gần như đẹp bằng tòa Cosmo-Slotnick." "Tôi chắc chắn anh sẽ có một tương lai tuyệt vời, anh Roark ạ, tin tôi đi, tôi biết những dấu hiệu, anh sẽ là một Ralston Holcombe khác." Anh đã quen với sự thù địch; cái kiểu từ tâm này còn xúc phạm hơn sự thù địch. Anh nhún vai; anh nghĩ rằng anh sẽ ra khỏi đây sớm và trở lại với cái thực tại giản đơn sạch sẽ trong văn phòng của chính anh.

Anh không nhìn Dominique lần nào nữa trong suốt phần còn lại của buổi tối. Cô quan sát anh trong đám đông. Cô quan sát những người dừng anh lại và nói chuyện với anh. Cô quan sát đôi vai anh cúi xuống một cách lịch thiệp khi anh lắng nghe. Cô nghĩ rằng điều này cũng là cách anh cười nhạo cô; anh để cô thấy anh đang được cúng tiến cho đám đông trước mắt cô, đang được tiến dẫn cho bất kỳ ai mong sở hữu anh trong một lát. Anh biết việc chứng kiến điều này với cô còn khó hơn là nhìn mặt trời và mũi khoan ở mỏ đá. Cô đứng một cách tuân phục, quan sát. Cô không mong anh chú ý đến cô lần nữa; cô phải ở đó chừng nào anh còn ở trong căn phòng này.

Có một người khác, trong tối đó, cũng cảm thấy bất thường vì sự có mặt của Roark - người đó nhận thấy nó ngay từ giây phút Roark bước vào căn phòng. Ellsworth Toohey đã nhìn thấy anh bước vào. Trước đây Toohey chưa bao giờ để mắt đến anh và không biết anh. Nhưng Toohey đứng nhìn anh rất lâu.

Rồi Toohey đi qua đám đông và mỉm cười với những người bạn của mình. Nhưng giữa những nụ cười và những câu nói, đôi mắt ông trở lại với người đàn ông có mái tóc màu cam. Ông ngắm nhìn người đàn ông đó giống như ông thỉnh thoảng ngắm vỉa hè từ một cửa sổ trên tầng thứ ba mươi, băn khoăn về thân thể ông nếu nó bị ném xuống và cái gì sẽ xảy ra khi ông đập người vào vỉa hè đó. Ông không biết tên của người đàn ông đó, nghề nghiệp hay quá khứ của anh ta; ông không cần biết; đó không phải là một con người đối với ông, mà là một thế lực; Toohey không bao giờ nhìn thấy người cả. Có thể ông thích thú khi thấy cái thế lực đặc biệt đó được nhân cách hóa một cách rõ ràng bằng một cơ thể người.

Sau một lúc, ông chỉ tay và hỏi John Erik Snyte:

"Người kia là ai?"

"Người đó á?" Snyte nói. "Howard Roark. Ông biết đấy, tòa nhà Enright."

"Ồ," Toohey nói.

"Sao?"

"Tất nhiên rồi. Hẳn phải thế."

"Muốn gặp cậu ta không?"

"Không," Toohey nói. "Không, tôi không muốn gặp cậu ta."

Trong thời gian còn lại của buổi tối bất kỳ khi nào một ai đó chắn mất tầm nhìn của Toohey với cả tiền sảnh, đầu ông lại quay đi quay lại một cách thiếu kiên nhẫn để tìm Roark. Ông không muốn nhìn Roark; ông phải nhìn; giống như ông đã luôn phải nhìn xuống cái vỉa hè ở xa đó và sợ hãi cái viễn cảnh sẽ xảy ra.

Tối đó Ellsworth Toohey không nhận thấy một ai ngoài Roark. Roark không hề biết Toohey tồn tại trong căn phòng.

Khi Roark ra về, Dominique đứng đếm từng phút để chắc chắn là anh đã khuất dạng trong các con phố thì cô mới có thể tự tin đi ra ngoài. Rồi cô cũng ra về.

Những ngón tay gầy, âm ẩm của Kiki Holcombe nắm lấy bàn tay cô để tạm biệt; chúng nắm hờ những ngón tay rồi lần lên nắm cổ tay cô một lát.

"Nào, cô gái yêu quý," Kiki Holcombe hỏi, "cô nghĩ gì về người khách mới đó của tôi, cô biết đấy, tôi đã thấy cô đang nói chuyện với cậu ấy, cậu Howard Roark ấy."

"Tôi nghĩ," Dominique nói chắc chắn, "rằng anh ấy là người khó chịu nhất mà tôi từng gặp."

"Ồ, thôi nào, thật thế sao?"

"Chị có thích cái kiểu ngạo mạn buông tuồng đó không? Tôi không biết tôi có thể nói gì về anh ta, ngoài mỗi chuyện anh ta thực sự đẹp trai, nếu mà chuyện đẹp xấu là quan trọng."

"Đẹp trai! Cô có đùa không đấy, Dominique?"

Kiki Holcombe thấy Dominique bối rối trong một thoáng. Và Dominique nhận ra rằng cái cô nhìn thấy ở khuôn mặt anh, cái khiến cho khuôn mặt ấy trở nên khuôn mặt của Chúa đối với cô, thì những người khác lại không nhìn thấy; rằng họ thờ ơ với nó; rằng cái mà cô nghĩ là một đặc điểm hiển nhiên nhất về anh lại là một sự thú nhận về một cái khác ở chính con người cô - một thứ phẩm chất mà những người khác không chia sẻ.

"Ồ, cô gái yêu quý của tôi" - Kiki nói, "anh ta không đẹp trai chút nào cả, nhưng cực kỳ nam tính."

"Đừng để điều đó làm cô ngạc nhiên, Dominique ạ," một giọng nói cất lên đằng sau cô. "Khả năng thẩm mỹ của Kiki không giống của cô - cũng không giống của tôi."

Dominique quay lại. Ellsworth Toohey đứng đó, mỉm cười, quan sát khuôn mặt cô một cách chăm chú.

"Ông..." cô cất tiếng rồi dừng lại.

"Tất nhiên," Toohey nói, hơi nghiêng mình ra ý khẳng định rằng ông hiểu điều cô không nói ra... "Tôi cũng biết nhìn đấy chứ, Dominique, đâu kém gì cô. Mặc dù không phải là về mặt thưởng thức thẩm mỹ. Cái đó tôi nhường phần cô. Nhưng rõ ràng chúng ta thỉnh thoảng cũng nhìn thấy những thứ mà người khác không thấy rõ, phải không nào - tôi và cô ấy?"

"Những thứ gì?"

"Cô gái thân mến, câu hỏi đó phải mất cả một cuộc thảo luận triết lý thật dài đấy, và rất phức tạp và rất - không cần thiết. Tôi đã luôn nói với cô chúng ta nên là những người bạn tốt. Chúng ta có quá nhiều điểm chung về mặt trí tuệ. Chúng ta bắt đầu từ những cực đối nhau, nhưng như thế chẳng sao, vì cô thấy đấy, chúng ta gặp nhau ở cùng một điểm. Quả là một buổi tối thú vị, Dominique."

"Ông đang nhắm đến điều gì thế?"

"Ví dụ, thật thú vị khi khám phá ra cái gì được coi là đẹp trai đối với cô. Thật là hay khi hiểu rõ cô một cách rõ ràng, chắc chắn. Mà chả cần có bất cứ lời nói nào - chỉ cần sự giúp đỡ của một khuôn mặt nhất định."

"Nếu... nếu ông có thể nhìn ra cái mà ông đang nói tới, thì ông đã không thể là con người như ông đang là."

"Không, cô gái thân mến ạ. Tôi phải là con người tôi, chính là vì những gì tôi nhìn ra."

"Ông biết không, Ellsworth, tôi nghĩ ông tồi tệ hơn nhiều so với những gì tôi đã nghĩ về ông."

"Và có thể là tồi hơn nhiều so với những gì cô đang nghĩ bây giờ đấy. Tồi nhưng có ích. Tất cả chúng ta đều có ích cho nhau. Như cô sẽ có ích đối với tôi. Như, tôi đoán, cô sẽ muốn tôi có ích."

"Ông đang nói về cái gì thế?"

"Thật tệ, Dominique ạ. Rất tệ. Thật vô ích. Nếu cô không biết tôi đang nói về cái gì, thì tôi cũng không thể nào giải thích được. Còn nếu cô biết - thì tôi đã nắm rõ cô mà không cần nói gì thêm."

"Hai người nói chuyện kiểu gì thế này?" Kiki hoang mang hỏi.

"Chỉ là cách chúng tôi đùa nhau ấy mà," Toohey vui vẻ nói. "Đừng để nó làm chị bận tâm, Kiki ạ. Dominique và tôi luôn đùa nhau. Mặc dù vậy, không được vui lắm, vì chị thấy đấy - chúng tôi không thể."

"Một ngày nào đó, Ellsworth ạ," Dominique nói, "ông sẽ mắc sai lầm."

"Rất có thể. Còn cô, bạn thân mến ạ, cô đã mắc sai lầm của cô rồi đấy."

"Chào ông, Ellsworthh."

"Chào cô, Dominique."

Kiki quay sang ông khi Dominique đã đi.

"Hai người bị làm sao thế, Ellsworth? Sao lại nói chuyện - chẳng về cái gì cả? Mặt người với cả ấn tượng đầu tiên thì có ý nghĩa gì cơ chứ."

"Điều đó, Kiki thân mến của tôi" ông trả lời, giọng ông nhẹ nhàng và xa xăm, như thể ông đang đưa ra một câu trả lời, không phải cho bà, mà cho một ý nghĩ của chính ông, "là một trong số những sai lầm lớn nhất của chúng ta. Chẳng có gì quan trọng bằng khuôn mặt của con người. Cũng không có gì hùng hồn bằng. Chúng ta không bao giờ có thể thực sự biết một người khác, ngoại trừ qua cái nhìn đầu tiên với anh ta. Vì, trong cái nhìn đó, chúng ta biết mọi thứ. Mặc dù chúng ta không phải luôn đủ thông minh để hiểu thấu đáo cái mà ta biết lúc đó. Chị đã bao giờ nghĩ về phong cách của một tâm hồn chưa hả Kiki?"

"Nghĩ về cái gì?"

"Phong cách của một tâm hồn. Chị có nhớ một nhà triết học nổi tiếng đã nói về phong cách của một nền văn minh chưa? Ông ấy gọi nó là 'phong cách'. Ông ấy đã nói đó là từ sát nhất ông ấy có thể tìm được để diễn đạt điều đó. Ông ấy nói là mọi nền văn minh đều có một nguyên tắc cơ bản của nó, một nguyên tắc duy nhất, tối cao, một khái niệm quyết định và mọi nỗ lực của con người sống trong nền văn minh đó đều tuân thủ, một cách vô thức và dứt khoát, theo cái nguyên tắc đó... Tôi nghĩ, Kiki ạ, rằng mọi tâm hồn con người cũng đều có một phong cách của riêng nó. Một nguyên lý cơ bản của nó. Chị sẽ thấy nó được phản ánh trong mọi ý nghĩ, mọi hành động, mọi mong muốn của người đó. Một nguyên lý tuyệt đối, một nguyên lý có tính bắt buộc đối với sinh vật sống đó. Dù chị có tìm hiểu một con người nhiều năm đi nữa, thì chị cũng sẽ không thể biết điều đó. Nhưng chính khuôn mặt anh ta sẽ trưng nó ra. Chị sẽ phải viết hàng đống sách để mô tả một con người. Nhưng thử nghĩ đến khuôn mặt anh ta xem. Chị sẽ chẳng cần bất kỳ cái gì khác nữa."

"Điều đó nghe thật tuyệt, Ellsworth ạ. Và không công bằng, nếu đúng là thế. Nó sẽ khiến mọi người trở nên trần trụi trước mắt anh."

"Còn tồi tệ hơn thế. Nó cũng khiến chị trần trụi trước họ nữa. Chị tự để lộ bản thân qua cái cách mà chị phản ứng với một khuôn mặt nào đó. Cách chị phản ứng với một kiểu mặt nhất định... Phong cách của tâm hồn chị... Chẳng có gì quan trọng trên mặt đất cả, trừ con người. Chẳng có gì về con người lại quan trọng bằng những mối quan hệ của họ với nhau..."

"Nào, thế anh nhìn thấy gì trên mặt tôi?"

Ông nhìn vào bà, như thể ông chỉ vừa mới chú ý đến sự hiện diện của bà.

"Chị nói gì cơ?"

"Tôi nói là anh nhìn thấy gì trên khuôn mặt tôi?"

"Ồ, xem nào, à, hãy nói cho tôi biết những ngôi sao điện ảnh mà chị thích và tôi sẽ nói cho chị biết chị là ai."

"Anh biết không, tôi rất thích được người ta phân tích. Nào, xem nào. Diễn viên yêu thích nhất của tôi là..."

Nhưng ông không lắng nghe. Ông đã quay lưng về phía bà, ông đang rời khỏi bà mà không buồn xin lỗi. Trông ông mệt mỏi. Trước đây bà chưa bao giờ thấy ông thô lỗ - ngoại trừ khi ông cố ý làm thế.

Một lát sau, từ giữa một nhóm bạn bè, bà nghe thấy giọng nói ấm áp sôi nổi của ông: "... và, vì thế, khái niệm cao quý nhất trên trái đất là khái niệm về sự bình đẳng tuyệt đối giữa người với người."

VII.

"V

à nó sẽ đứng ở đó, như một tượng đài chẳng để tôn vinh cái gì ngoài cái tôi của ông Enright và ông Roark. Nó sẽ đứng giữa một bên là một dãy nhà chung cư bằng đá nâu và bên kia là những thùng chứa của một trạm xăng. Điều này, có lẽ, không phải là một sự tình cờ, mà là bằng chứng về khả năng sắp đặt của tạo hóa. Không một sự sắp đặt nào khác có thể phô ra bản chất ngạo mạn của tòa nhà này một cách hùng hồn như thế. Nó sẽ mọc lên như một sự nhạo báng đối với tất cả các công trình của thành phố và đối với những người đã xây chúng. Các công trình của chúng ta là vô nghĩa và sai trái; tòa nhà này sẽ khiến sự vô nghĩa và sai trái càng nổi bật. Có điều, sự tương phản ở đây không có lợi cho tòa nhà Enright. Bằng cách tạo nên sự tương phản, nó sẽ tự biến nó trở thành một phần của cái tổng thể vô lý to lớn, thậm chí trở thành phần lố bịch nhất trong cái tổng thể ấy. Nếu một tia sáng lọt vào một chuồng lợn, chính tia sáng đó sẽ chỉ cho chúng ta sự bẩn thỉu và cũng chính tia sáng đó sẽ trở thành lố bịch. Các công trình của chúng ta có lợi thế to lớn về mặt tăm tối và nhút nhát. Ngoài ra, chúng còn phù hợp với chúng ta. Tòa nhà Enright thì sáng sủa và táo tợn. Vì thế nó như là một chiếc khăn quàng bằng lông. Nó sẽ thu hút sự chú ý - nhưng chỉ là chú ý đến sự tự phụ hết sức ngang nhiên của ông Roark mà thôi. Khi tòa nhà này được xây dựng xong, nó sẽ là một vết thương trên bộ mặt của thành phố chúng ta. Thậm chí là một vết thương sặc sỡ."

Đoạn này xuất hiện trong mục Ngôi nhà của bạn do Dominique Francon viết, một tuần sau bữa tiệc ở nhà Kiki Holcombe.

Vào buổi sáng nó xuất hiện, Ellsworth Toohey bước vào văn phòng của Dominique. Ông cầm một bản của tờ Ngọn cờ - chìa trang báo có mục của cô về phía cô. Ông im lặng, hơi đung đưa người trên đôi bàn chân nhỏ bé của mình. Dường như đôi mắt ông đang nói chứ không phải đang nhìn: nó đang phá ra cười. Đôi môi ông mím lại với vẻ đức hạnh, vô tư.

"Sao?" cô hỏi.

"Cô gặp Roark ở đâu trước bữa tiệc đó?"

Cô ngồi nhìn ông, một cánh tay cô vắt qua lưng ghế, những đầu ngón tay lỏng lẻo đung đưa một chiếc bút chì. Cô dường như đang mỉm cười. Cô nói:

"Tôi chưa bao giờ gặp Roark trước bữa tiệc cả."

"Tôi nhầm. Tôi chỉ đang băn khoăn về..." ông vo cho tờ báo kêu sột soạt, "... sự thay đổi thái độ."

"À, cái đó? Tôi đã không ưa anh ta khi tôi gặp anh ta - ở bữa tiệc."

"Tôi đã nhận thấy thế."

"Mời ông ngồi, Ellsworth. Trông ông không phong độ lắm khi đứng đâu."

"Cô có phiền không? Không bận chứ?"

"Không hẳn."

Ông ngồi xuống góc bàn của cô. Ông trầm ngâm vỗ nhẹ tờ báo đã được gấp lại lên đầu gối mình.

"Cô biết không, Dominique," ông nói, "không ổn đâu. Không ổn chút nào cả."

"Vì sao?"

"Cô không thấy người ta có thể suy ra điều gì à? Tất nhiên, không mấy người sẽ nhận ra điều đó. Nhưng anh ta sẽ. Tôi thì đã."

"Nó không được viết cho anh ta hay cho ông."

"Mà cho những người khác?"

"Cho những người khác."

"Vậy thì đó là trò đùa tồi tệ với anh ta và với tôi."

"Ông thấy chưa? Tôi đã biết là nó rất ổn."

"Dào, ai cũng có mánh của mình."

"Ông định viết gì về nó?"

"Nó nào?"

"Về tòa nhà Enright."

"Không gì cả."

"Không gì cả?"

"Không gì cả."

Ông ném tờ báo lên chiếc bàn mà không hề cử động người, chỉ bật cổ tay về phía trước. Ông nói:

"Đứng về kiến trúc, Dominique, tại sao cô chưa từng viết bất kỳ điều gì về tòa nhà Cosmo-Slotnick?"

"Nó có đáng để viết không?"

"À, chắc chắn rồi. Có những người sẽ rất phiền lòng về điều đó."

"Và những người này đáng để ta bận tâm?"

"Có vẻ như thế đấy."

"Những người nào?"

"Ồ, tôi không biết. Làm sao chúng ta biết được ai đã đọc những bài báo của chúng ta cơ chứ? Đó chính là cái làm cho mọi việc thú vị. Tất cả những người lạ mặt mà chúng ta chưa hề gặp, chưa hề nói chuyện, hay không thể nói chuyện với - và với tờ báo này họ có thể biết được câu trả lời của chúng ta nếu chúng ta muốn đưa ra lời giải đáp. Tôi thực sự nghĩ là cô nên nhanh chóng viết vài lời ca tụng tòa nhà Cosmo-Slotnick."

"Ông có vẻ rất thích Peter Keating."

"Tôi á? Tôi cực kỳ thích cậu ấy. Rồi cô cũng sẽ thế thôi - nếu như cô biết cậu ấy rõ hơn. Biết Peter là một việc rất có ích. Tại sao cô không bớt chút thời gian, một hôm nào đấy, và bảo cậu ấy kể cho cô nghe về cuộc đời cậu ấy. Cô sẽ học được nhiều điều thú vị đấy."

"Ví dụ?"

"Ví dụ chuyện cậu ấy đã học ở Stanton."

"Chuyện đấy thì tôi biết."

"Cô không nghĩ đó là một chuyện thú vị sao? Tôi thì nghĩ thế. Một nơi tuyệt diệu - Stanton ấy. Một ví dụ điển hình của kiến trúc Gothic. Cửa sổ kính màu ở nhà thờ của trường này thực sự là một trong những kiểu đẹp nhất đất nước này. Và hãy thử nghĩ xem, rất nhiều những sinh viên trẻ. Rất khác nhau. Có những người tốt nghiệp loại ưu. Có người thì bị đuổi học."

"Rồi sao?"

"Cô có biết Peter Keating là bạn cũ của Howard Roark không?"

"Không. Anh ta là bạn cũ?"

"Anh ta là bạn cũ!"

"Peter Keating là bạn cũ của tất cả mọi người."

"Chính xác. Một chàng trai nổi bật. Nhưng chuyện này thì khác. Cô không biết là Roark học ở Stanton đúng không?"

"Không."

"Cô có vẻ không biết nhiều về ngài Roark thì phải."

"Tôi chẳng biết gì về ngài Roark cả. Chúng ta đâu có bàn về ngài Roark."

"Chúng ta không à? Tất nhiên là không rồi, chúng ta đang nói về Peter Keating. Chà, cô thấy đấy, để thể hiện rõ ý mình thì có lẽ cách tốt nhất là dùng sự đối lập, dùng phép so sánh. Như cô đã làm trong bài viết ngắn rất hay hôm nay đấy. Để đánh giá đúng về Peter, như cậu ấy xứng đáng được hưởng, thì ta hãy lấy một ví dụ. Hãy vẽ hai đường thẳng song song. Tôi đồng ý với Euclid, tôi không nghĩ là hai đường thẳng song song có thể gặp nhau. Cả hai bọn họ đều học ở Stanton. Mẹ của Peter cho thuê nhà trọ và Roark sống với họ khoảng ba năm. Thế cũng chẳng có gì đặc biệt trừ một việc là nó làm cho sự đối lập giữa họ càng rõ rệt và - chà - cá nhân hơn. Peter tốt nghiệp loại ưu, đứng đầu cả khóa còn Roark thì bị đuổi học. Đừng nhìn tôi như thế. Tôi không cần phải giải thích vì sao anh ta bị đuổi học; chúng ta, tôi và cô, đều hiểu điều đó. Peter vào làm cho bố cô và bây giờ cậu ta đã là một đối tác rồi. Roark cũng làm việc cho bố cô nhưng cũng bị đuổi việc rồi. Đúng thế đấy. Nhân tiện, điều này chẳng phải buồn cười sao? - lần đó anh ta đã bị đuổi, mà chẳng cần cô nhúng tay vào. Peter thì có cái nhà Cosmo-Slotnick làm vốn, còn Roark thì có mỗi một cái nhà xúc xích ở Connecticut. Peter thì được người hâm mộ xin chữ ký - còn Roark... thậm chí những người sản xuất thiết bị phòng tắm cũng không biết đến anh ta. Giờ thì Roark nhận được hợp đồng thiết kế một khu nhà chung cư và anh ta tôn thờ nó như đứa con trai độc nhất - còn Peter, giá có được giao thiết kế tòa nhà Enright thì Peter cũng chẳng buồn để ý, ngày nào mà anh ta chẳng nhận những tòa nhà như thế. Nào, tôi nghĩ là Roark chẳng coi công việc của Peter ra cái gì cả. Anh ta chưa bao giờ và sẽ không bao giờ làm thế, dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa. Nhưng thử nghĩ thêm một chút mà xem. Chẳng ai muốn bị đánh bại cả. Nhưng bị đánh bại dưới tay một người mà mình luôn coi thường; mình cùng xuất phát với cái kẻ tầm thường đó và rồi chứng kiến nó vượt xa mình trong khi mình thì vật lộn mà vẫn chẳng thu được gì ngoài một cái đạp vào mặt; và phải nhìn cái kẻ tầm thường kia tước đi của mình, cứ lần lượt, từng cơ hội mà mình sẽ đánh đổi cả mạng sống để có được; phải thấy cái tầm thường đó được tôn vinh, thấy mình mất đi cái vị trí mình ao ước và thấy kẻ tầm thường kia ngự ở đó; và để thua cuộc, để bị hy sinh, để bị cho ra rìa, bị đánh bại, rồi lại đánh bại, rồi lại đánh bại - không phải bởi một thiên tài vĩ đại, không phải bởi một vị chúa, mà chính là Peter Keating - chà, cô bạn của tôi, cô có nghĩ rằng Cục điều tra Tây Ban Nha đã từng nghĩ tới hình thức tra tấn nào bằng được như thế này không?"

"Ellsworth!" cô gào lên "Ông cút khỏi đây ngay!"

Cô đã đứng bật dậy. Cô đứng thẳng được trong giây lát, rồi chùng người về phía trước, hai lòng bàn tay cô chống trên mặt bàn, và cô đứng đó, đầu cúi xuống; ông nhìn thấy mớ tóc mềm mại của cô đung đưa nặng nề rồi dừng lại, che mất khuôn mặt cô.

"Kìa Dominique," ông nói một cách thoải mái "Tôi chỉ đang kể cho cô nghe vì sao Peter Keating lại là một người thú vị đến như vậy."

Tóc của cô hất mạnh ra sau như một cái giẻ lau nhà, để lộ ra khuôn mặt cô. Cô thả người xuống ghế; cô nhìn ông, miệng cô trễ xuống và trông rất xấu.

"Dominique," ông nói khẽ, "cô thật lộ liễu. Quá lộ liễu."

"Ông cút đi."

"Thế đấy, tôi đã luôn nói là cô đánh giá thấp tôi mà. Lần sau nếu cần giúp đỡ thì cứ gọi tôi nhé."

Ra đến cửa, ông quay lại nói thêm:

"Tất nhiên, đứng về cá nhân, tôi thấy Peter Keating là kiến trúc sư giỏi nhất mà chúng ta có."

*

* *

Buổi tối đó, khi cô về tới nhà thì điện thoại reo. "Dominique, cô gái thân mến của tôi", một giọng nói đứt quãng vì lo lắng trên điện thoại "Em có thực sự có ý đó không đấy?"

"Ai đấy?"

"Joel Sutton. Tôi..."

"Chào anh, Joel. Tôi có thực sự có ý gì cơ?"

"Chào em, em khỏe không? Người cha tuyệt vời của em thế nào? Ý tôi là em thật sự muốn nói tất cả những điều đó về tòa nhà Enright và anh chàng Roark đó? Ý tôi là những gì em nói trong bài báo của em hôm nay ấy. Tôi thấy hơi buồn, rất buồn em ạ. Em biết tòa nhà của tôi đúng không? À, bọn tôi đang chuẩn bị triển khai và nó đáng giá rất nhiều tiền, tôi nghĩ tôi đã suy nghĩ rất cẩn thận trước khi quyết định, nhưng tôi chỉ tin mỗi em thôi, tôi vẫn luôn tin em, em thực sự là một cô bé thông minh, cực kỳ thông minh, nếu em làm việc cho một người như Wynand thì tôi tin là em hiểu rõ về lĩnh vực của mình. Wynand biết các tòa nhà, thì đấy, ông ta kiếm được nhiều tiền từ bất động sản hơn báo chí, chắc chắn là thế, mọi người thì không biết điều này nhưng tôi biết. Và em thì đang làm việc cho ông ta, và giờ thì tôi cũng không biết phải nghĩ thế nào. Bởi vì, em biết đấy, tôi đã quyết định, quyết định dứt khoát và rõ ràng - gần như thế - là sẽ làm việc với cái anh chàng Roark này, thực ra tôi đã nói với anh ta như thế, thực ra thì chiều mai anh ta sẽ tới ký hợp đồng, thế mà bây giờ... Em thực sự nghĩ tòa nhà sẽ giống một cái khăn quàng bằng lông vũ à?"

"Nghe này, Joel," cô nói, hai hàm răng sít lại "ngày mai anh đi ăn trưa với tôi được không?"

Cô gặp Joel Sutton ở một phòng ăn lớn và vắng vẻ của một khách sạn sang trọng. Chỉ có vài người khách ngồi một mình giữa những chiếc bàn phủ khăn trắng nên trông ai cũng rất nổi bật; những chiếc bàn trống ấy tạo nên một tấm nền trang nhã tôn lên sự độc quyền ngự trị bên bàn của vị khách. Joel cười toe toét. Ông chưa bao giờ đi với một cô gái đẹp như Dominique.

"Anh biết đấy, Joel" cô nói và nhìn thẳng vào ông, giọng rất khẽ, rất nghiêm nghị, không cười, "đó là một ý tưởng tuyệt vời, việc anh chọn Roark ấy."

"Ồ, em nghĩ thế à?"

"Tôi nghĩ thế. Anh sẽ có một tòa nhà đẹp, giống như một bản thánh ca. Một tòa nhà sẽ làm cho anh choáng váng, cả những người thuê nhà của anh cũng vậy. Một trăm năm nữa người đời sẽ ghi tên anh vào sử sách, và họ sẽ tìm đến ngôi mộ của anh ở ngoài nghĩa trang."

"Trời ơi, Dominique, em đang nói về cái gì vậy?"

"Về tòa nhà của anh đấy. Về kiểu nhà mà Roark sẽ thiết kế cho anh đấy. Đó sẽ là một tòa nhà vĩ đại Joel ạ."

"Ý em là một tòa nhà đẹp phải không?"

"Không phải đẹp mà là vĩ đại."

"Hai điều đó khác nhau đấy em ạ."

"Đúng thế, Joel, hai điều đó khác nhau."

"Tôi không thích mấy cái 'vĩ đại' đó."

"Không. Anh không thích. Tôi cũng không nghĩ là anh sẽ thích. Vậy anh muốn gì ở Roark? Anh muốn một tòa nhà sẽ không làm ai ngạc nhiên. Một tòa nhà bình thường, tiện nghi và an toàn, như một phòng khách cổ kính lúc nào cũng đầy mùi súp sò. Một tòa nhà mà mọi người đều thích - tất cả mọi người, bất kể là ai. Làm người hùng cũng không dễ chịu chút nào, Joel, và anh cũng không có tướng của một người hùng đâu."

"Ừ, tất nhiên tôi muốn có một tòa nhà mà ai cũng thích. Em nghĩ tôi xây nó để làm gì chứ, cho khỏe người chắc?"

"Không, Joel, chẳng cho khỏe người mà cũng chẳng để di dưỡng tinh thần."

"Ý em là Roark không phải kiến trúc sư tốt?"

Cô ngồi thẳng người và cứng nhắc, như thể tất cả các cơ của cô đều đang co cứng lại để chống chọi với sự đau đớn. Nhưng đôi mắt cô mơ màng, khép hờ, như thể có một bàn tay đang ve vuốt cơ thể cô. Cô nói:

"Anh có nhìn thấy nhiều tòa nhà do anh ta thiết kế không? Anh có thấy nhiều người thuê anh ta không? New York này có sáu triệu người. Sáu triệu người không thể sai được. Đúng không?"

"Tất nhiên là không rồi."

"Tất nhiên."

"Nhưng tôi nghĩ Enright..."

"Anh không phải là Enright, Joel ạ. Thứ nhất, ông ấy không hay cười. Thêm nữa, anh thấy đấy, Enright hẳn sẽ không hỏi ý kiến tôi đâu. Anh thì có. Đó chính là điều khiến tôi thích anh."

"Em thực sự thích tôi à Dominique?"

"Anh không biết anh luôn là một trong những người tôi rất yêu thích sao?"

"Tôi... anh luôn tin tưởng em. Bất cứ khi nào anh cũng tin lời em. Thực sự em nghĩ anh nên làm gì?"

"Đơn giản thôi. Anh muốn thứ tốt nhất mà tiền có thể mua được - trong số những thứ tiền có thể mua được. Anh muốn một tòa nhà sẽ ra một tòa nhà - như nó xứng đáng được như thế. Anh nên tìm một kiến trúc sư mà mọi người đều thuê để cho họ thấy rằng anh cũng chẳng thua kém gì họ."

"Đúng. Chính xác là như vậy đấy... Nhìn này, Dominique, em hầu như chưa động vào thức ăn đấy."

"Em không đói."

"Vậy em nghĩ anh nên chọn kiến trúc sư nào?"

"Hãy thử nghĩ xem, Joel. Ai là người bây giờ đang được tất cả mọi người nhắc đến? Ai nhận tất cả các công trình? Ai làm ra được nhiều tiền nhất cho bản thân và các khách hàng của mình? Ai trẻ trung và nổi tiếng và an toàn và được yêu thích?"

"À, anh đoán... anh đoán là Peter Keating."

"Chính xác, Joel ạ, Peter Keating."

*

* *

"Anh Roark, tôi rất xin lỗi, vô cùng xin lỗi, hãy tin tôi nhưng rốt cuộc, tôi đâu có kinh doanh cho khỏe người... không để khỏe người mà cũng chẳng để di dưỡng tinh thần... tức là, ý tôi là, tôi nghĩ là anh hiểu được tình thế của tôi. Tôi không hề có ý chê anh đâu, ngược lại, tôi nghĩ anh là một kiến trúc sư tuyệt vời. Nhưng anh thấy đấy, đấy lại là vấn đề; sự vĩ đại nghe thì hay nhưng nó không thực tế. Vấn đề là thế đấy, anh Roark, không thực tế, và rút cục anh cũng phải thừa nhận rằng anh Keating nổi danh hơn anh và anh ta có cái... cái cách chiều lòng người mà anh chưa bao giờ có."

Điều làm Sutton khó chịu là Roark không hề phản đối gì. Ông ước gì Roark cố tranh luận, để rồi ông sẽ đưa ra những lý lẽ không thể chối cãi mà Dominique vừa dạy ông vài giờ trước đó. Nhưng Roark không nói một lời nào; anh chỉ hơi nghiêng đầu xuống khi nghe quyết định đó. Sutton thực sự muốn có cơ hội bày tỏ các lý lẽ của ông, nhưng thật chẳng có nghĩa lý gì khi cố gắng thuyết phục một người tự tỏ ra là đã bị thuyết phục rồi. Nhưng Sutton yêu quý tất cả mọi người và ông không muốn làm tổn thương bất cứ ai.

"Thực ra, anh Roark ạ, không phải chỉ một mình tôi đưa ra quyết định này đâu. Thực sự tôi đã muốn anh làm việc, tôi đã chọn anh, thực tình là tôi đã chọn anh nhưng chính Dominique Francon, người mà tôi rất coi trọng ý kiến, đã thuyết phục tôi rằng anh không phải là sự lựa chọn đúng đắn cho công trình này - và cô ấy cũng rất công bằng khi cho phép tôi nói với anh rằng cô ấy đã thuyết phục tôi."

Ông thấy Roark đột ngột nhìn mình. Rồi ông thấy hai hõm má anh trũng xuống, như thể bị kéo xuống sâu hơn, và miệng anh mở ra: anh đang cười, không thành tiếng mà chỉ có một cái hít thật sâu.

"Anh cười cái quái gì thế, anh Roark?"

"Vậy là cô Francon muốn ông nói với tôi chuyện này à?"

"Không phải cô ấy muốn, tại sao cô ấy lại muốn cơ chứ? Cô ấy chỉ nói là tôi có thể nói với anh nếu tôi muốn."

"Phải, tất nhiên rồi."

"Điều đó chỉ cho thấy là cô ấy rất trung thực; cô ấy có những lý do xác đáng cho các ý kiến của mình và sẽ công khai bảo vệ những ý kiến ấy."

"Vâng."

"Thế thì có chuyện gì nào?"

"Không có gì, ông Sutton."

"Nghe này, anh cười như vậy không được hay lắm đâu."

"Phải."

*

* *

Căn phòng xung quanh anh lờ mờ tối. Một bản thiết kế của ngôi nhà Heller được đóng đinh trên một bức tường dài, không có khung, trống trải. Nó làm cho ngôi nhà trở nên trống rỗng hơn và bức tường dường như càng dài thêm. Anh không cảm thấy những phút đang trôi qua; trái lại anh cảm giác thời gian như một thứ vật chất rắn chắc đã vây kín và ngăn cách căn phòng này với thế giới bên ngoài; thời gian đã bị tước bỏ mọi ý nghĩa, ngoại trừ thực trạng bất động của thân thể anh.

Khi anh nghe thấy có tiếng gõ cửa, anh nói vọng ra mà không hề đứng dậy: "Vào đi."

Dominique bước vào. Cô bước vào như thể cô đã từng bước vào căn phòng này trước đó. Cô mặc một bộ quần áo tối màu, vải dầy, đơn giản như quần áo trẻ con, như thể chỉ để che thân chứ không phải để phục sức; chiếc áo của cô có một cái cổ như cổ áo nam, cao đến ngang má; cô đội một cái mũ che đến nửa mặt. Anh ngồi nhìn cô. Cô chờ nụ cười chế giễu nhưng nó không đến. Nụ cười ấy dường như đã được giấu vào trong chính căn phòng, trong việc cô đứng đó, cách anh nửa căn phòng. Cô bỏ mũ ra, hệt như một người bỏ mũ khi bước vào phòng, cô lấy đầu ngón tay kéo vành mũ ra rồi cầm nó ở đầu cánh tay thõng. Cô chờ đợi, vẻ mặt nghiêm nghị và lạnh lẽo nhưng mái tóc phẳng phiu nhợt nhạt của cô trông yếu ớt và nhỏ bé. Cô nói:

"Anh không ngạc nhiên khi thấy tôi."

"Tôi đã chờ cô tối nay."

Cô đưa tay lên, gập khuỷu tay lại bằng một cử động cứng nhắc, như chỉ huy động những động tác cần thiết tối thiểu, và quăng chiếc mũ ngang qua bàn. Chiếc mũ bay một quãng xa chứng tỏ cô đã giật cổ tay rất mạnh.

Anh hỏi: "Cô muốn gì?"

Cô đáp: "Anh biết tôi muốn gì." Giọng cô nặng nề và vô cảm.

"Tôi biết. Nhưng tôi muốn chính cô nói ra. Nói tất cả."

"Nếu anh muốn." Giọng cô có một vẻ chắc chắn, như đang làm theo một mệnh lệnh với một sự chính xác cơ học. "Tôi muốn ngủ với anh. Bây giờ, tối nay và bất cứ lúc nào anh buồn gọi đến tôi. Tôi muốn cái thân người trần trụi của anh, làn da của anh, đôi môi anh, hai bàn tay của anh. Tôi muốn anh - đúng như thế này - không theo kiểu phát cuồng vì ham muốn - mà lạnh lùng và tỉnh táo - không cần phẩm giá cũng không hối hận - tôi không có phẩm giá để phải mặc cả với chính mình hay ăn năn day dứt gì cả - tôi muốn anh - tôi thèm muốn anh như một con vật, như một con mèo động đực, như một con điếm."

Cô nói bằng giọng đều đều, đơn điệu, như thể cô đang trích đọc một cuốn giáo lý khổ hạnh về vấn đề đức tin vậy. Cô đứng bất động, hai chân cô đi giày bệt choãi rộng, hai bả vai bạnh ra phía sau, hai tay buông thõng bên mình. Những lời cô đang nói dường như không chạm đến cô; trông cô vô tư lự - hoàn toàn vô tư như một đứa trẻ.

"Anh biết là tôi căm thù anh, Roark. Tôi căm thù anh vì chính con người anh, vì tôi muốn anh, vì tôi buộc phải muốn anh. Tôi sẽ chống lại anh - và tôi sẽ hủy hoại cuộc đời anh, và tôi nói với anh điều này một cách bình tĩnh như tôi đã nói với anh rằng tôi là con thú hèn mạt. Tôi sẽ cầu nguyện để anh không thể bị hủy hoại - tôi cũng nói với anh cả điều này - cho dù tôi chẳng tin vào điều gì cả và cũng chẳng có thần thánh nào để cầu xin. Nhưng tôi sẽ chiến đấu để cản trở mọi bước tiến của anh. Tôi sẽ chiến đấu để tước đi của anh tất cả những cơ hội mà anh muốn. Tôi sẽ làm tổn thương anh thông qua cái thứ duy nhất có thể làm anh tổn thương - đó là qua công việc của anh. Tôi sẽ làm cho anh phải chết đói, tôi sẽ bóp nghẹt anh bằng chính những thứ mà anh không bao giờ có được. Tôi đã làm điều đó ngày hôm nay - đó chính là lý do vì sao đêm nay tôi sẽ ngủ với anh."

Anh ngồi sâu trong lòng ghế, người duỗi ra, cơ thể anh thư giãn, và căng ra trong sự thư giãn. Một sự bất động xâm chiếm cơ thể anh một cách chầm chậm, báo hiệu những cử động mạnh mẽ sắp đến.

"Hôm nay tôi đã làm tổn thương anh. Tôi sẽ còn làm như vậy. Tôi sẽ đến với anh bất kỳ lúc nào tôi đánh bại anh- bất kỳ khi nào tôi biết là tôi đã làm anh bị tổn thương - và tôi sẽ để anh sở hữu tôi. Tôi muốn bị sở hữu, không phải bởi một người tình, mà là bởi một kẻ thù - kẻ sẽ phá hủy chiến thắng mà tôi đã giành được đối với anh ta, không phải bằng những đòn trả thù cao thượng mà bằng sự đụng chạm thân xác của anh ta với tôi. Đó chính là những gì tôi cần ở anh, Roark ạ. Đó chính là con người tôi. Anh đã muốn nghe tất cả mọi thứ. Anh đã được nghe rồi đấy. Bây giờ anh muốn nói gì?"

"Cởi quần áo ra."

Cô đứng im một lát. Hai bên mép cô đanh lại, bạnh ra rồi trắng bệch. Rồi cô nhận thấy một chuyển động trên vải áo anh - đấy là một hơi thở bị kìm nén vừa mới thoát mạnh ra - và đến lượt cô mỉm cười chế giễu, như anh đã luôn cười với cô như thế.

Cô đưa hai bàn tay lên cổ áo rồi cởi khuy áo khoác, đơn giản, chính xác, từng chiếc, từng chiếc một. Cô ném cái áo xuống sàn nhà rồi cởi chiếc áo cánh màu trắng mỏng, và cô nhận thấy đôi găng tay đen bó ở cổ tay trên cánh tay trần của mình. Cô cởi đôi găng ra, kéo lần lượt từng ngón tay một. Cô cởi quần áo một cách lạnh lùng, như thể cô chỉ có một mình trong phòng ngủ riêng của cô vậy.

Sau đó cô nhìn anh. Cô đứng đó trần truồng, chờ đợi, cảm thấy khoảng không giữa họ như một áp lực ấn vào bụng cô; cô biết rằng đây cũng là một sự tra tấn với anh và rằng nó đúng như họ đều mong muốn. Rồi anh đứng dậy, anh bước tới gần cô, và khi anh ôm cô, đôi cánh tay cô tự nguyện đưa lên, cô cảm thấy khuôn người anh áp lên làn da non phía trong cánh tay cô khi nó ôm vòng lấy cơ thể anh, sườn anh, nách anh, lưng anh, bả vai anh dưới những ngón tay cô, miệng cô áp lên miệng anh, trong một sự đầu hàng còn mãnh liệt hơn cả cuộc đấu tranh của cô.

Sau đó, cô nằm cạnh anh trên giường, dưới chiếc chăn của anh. Cô nhìn căn phòng anh và hỏi:

"Roark, tại sao anh lại làm ở mỏ đá đó?"

"Em biết mà."

"Vâng. Những người khác hẳn sẽ xin một việc ở một văn phòng kiến trúc."

"Và lúc đó thì em sẽ không còn mong muốn hủy hoại anh."

"Anh hiểu điều đó?"

"Anh hiểu. Yên nào. Bây giờ điều đó chẳng còn quan trọng."

"Anh có biết tòa nhà Enright là tòa nhà đẹp nhất New York không?"

"Anh biết là em biết điều đó."

"Roark, anh làm trong mỏ đá đó khi mà anh có ngôi nhà Enright và còn nhiều ngôi nhà Enright khác nữa, thế mà anh vẫn đi khoan đá granit như là một..."

"Em lại sắp yếu đi rồi, Dominique ạ, và ngày mai em sẽ hối tiếc điều đó."

"Vâng."

"Em rất đáng yêu, Dominique."

"Đừng."

"Em rất đáng yêu."

"Roark, em... em vẫn muốn hủy hoại anh."

"Em có nghĩ là anh vẫn còn muốn em nếu em không muốn hủy hoại anh không?"

"Roark..."

"Em có muốn anh nhắc lại không? Một phần thôi? Anh muốn em, Dominique. Anh muốn em. Anh muốn em."

"Em..." Cô dừng lại; từ cuối cùng mà cô nói ra gần như chỉ có thể nghe được trong hơi thở của cô.

Anh đáp "Không. Chưa đâu. Em sẽ chưa nói ra điều ấy. Thôi ngủ đi."

"Ở đây? Với anh?"

"Ở đây, với anh. Sáng mai anh sẽ nấu bữa sáng cho em. Em có biết là anh tự nấu bữa sáng cho mình không? Em sẽ thích nhìn thấy anh làm việc đó. Giống như công việc trong mỏ đá ấy. Rồi em sẽ về nhà và nghĩ đến việc hủy hoại anh. Chúc ngủ ngon, Dominique."

VIII.

N

hững tấm rèm trên cửa sổ phòng khách được kéo lên, những ánh đèn thành phố dâng lên thành một đường chân trời tối đen ở lưng chừng những ô cửa kính. Dominique đang ngồi bên bàn sửa lại những trang cuối cùng của bản thảo một bài báo thì cô nghe thấy có tiếng chuông cửa. Khách khứa thường không làm phiền cô khi không báo trước - cô ngẩng lên, chiếc bút chì ngưng lại ở lưng chừng trong không khí, cô bực mình và tò mò. Cô nghe thấy tiếng chân người giúp việc ở hành lang rồi chị ta bước vào phòng và nói "Thưa cô, một quý ông muốn gặp cô." Giọng nói hơi khó chịu của chị ta làm cô biết rằng người đàn ông đó đã từ chối giới thiệu tên.

Anh ta có mái tóc màu cam? - Dominique muốn hỏi nhưng cô không mở miệng; chiếc bút chì ngúc ngoắc một cách vụng về. Cô nói: "Cho ông ta vào."

Cánh cửa mở. Trong ánh sáng của hành lang, cô nhìn thấy một cái cổ dài, một đôi vai dốc y hệt như bóng một cái chai, một giọng trầm ấm và mượt mà nói: "Chào cô, Dominique." Cô nhận ra Ellsworth, người mà cô chưa bao giờ mời tới nhà.

Cô mỉm cười. Cô nói: "Chào ông, Ellsworth, lâu lắm rồi không gặp ông nhỉ."

"Cô lẽ ra phải mong tôi mới phải?" Ông quay sang phía người giúp việc "Cointreau, nếu có, và tôi chắn chắn là ở đây có."

Người giúp việc liếc nhìn Dominique, mắt mở to; Dominique gật đầu không nói gì, chị ta đi ra và đóng cửa.

"Cô bận à? Tất nhiên rồi!" Toohey vừa nói vừa liếc vào chiếc bàn nhỏ: "Rất thích hợp Dominique ạ. Có kết quả đấy. Gần đây cô viết khá hơn rất nhiều."

Cô thả chiếc bút chì xuống và vắt một tay ra sau ghế, quay nửa người lại phía ông và quan sát ông một cách bình thản.

"Ông muốn gì, Ellsworth?"

Ông không ngồi mà đứng dò xét căn phòng với vẻ tò mò không vội vã của một chuyên gia.

"Không tồi, Dominique. Gần đúng như tôi nghĩ cô sẽ bài trí như thế nào. Hơi lạnh lẽo. Cô biết đấy, nếu tôi là cô tôi sẽ không đặt chiếc ghế màu xanh thủy tinh ở chỗ đó đâu. Quá lộ liễu. Quá vừa vặn. Đúng như cái người ta mong đợi ở vị trí đó. Tôi sẽ dùng màu đỏ cà rốt. Một màu đỏ xấu xí, bốc lửa, kỳ quặc. Hệt như mái tóc của cái cậu Howard Roark. Khá là tình cờ nhỉ - tôi chỉ ví von thôi - chẳng ám chỉ gì riêng tư cả. Chỉ cần điểm vào một chỗ phối màu không phù hợp là căn phòng này sẽ hoàn hảo. Nó tạo nên sự tao nhã cho căn phòng. Cô bài trí hoa rất khéo. Những bức tranh này cũng thế - không tồi."

"Được rồi, Ellsworth, được rồi, có chuyện gì?"

"Nhưng tôi chưa bao giờ bước vào căn phòng này mà. Cô chưa bao giờ mời tôi cả. Tôi không biết vì sao." Ông ngồi xuống rất thoải mái, một cẳng chân gầy guộc duỗi thẳng, chân kia vắt chéo qua chân này ở mắt cá; cả chiều dài của chiếc tất bó màu xám đục lộ ra dưới gấu quần, một khoảnh da lộ ra phía bên trên chiếc tất - nó có màu trắng xanh, lơ thơ vài sợi lông đen.

"Nhưng mà cô đã luôn tránh giao tiếp. Thời quá khứ, bạn thân mến ạ, thời quá khứ. Cô vừa nói là chúng ta chưa gặp nhau trong một thời gian dài đúng không? Đúng vậy. Cô đã rất bận rộn - một cách thật bất thường. Các cuộc viếng thăm, các bữa tối, các quán rượu lậu và tổ chức các bữa tiệc trà. Đúng không nào?"

"Đúng vậy."

"Các bữa tiệc trà - tôi nghĩ cái đó là nhất. Đây là một căn phòng hợp cho tiệc trà - rộng - nhiều chỗ để nhồi nhét khách - đặc biệt là nếu cô không quan trọng việc nhét ai vào - mà cô thì không rồi. Không phải lúc này. Cô cho họ ăn gì? Mắm cá và trứng luộc cắt hình trái tim?"

"Trứng cá hồi và hành tây cắt nhỏ hình ngôi sao."

"Thế còn về những quý bà lớn tuổi thì sao?"

"Pho mát kem và quả óc chó bổ nhỏ - theo hình xoắn ốc."

"Tôi muốn được nhìn cô chăm lo đến những thứ như thế. Thật tuyệt khi thấy cô rất chu đáo với những quý bà lớn tuổi. Đặc biệt là những kẻ giàu nứt đố - với các ông con rể trong ngành nhà đất. Mặc dù vậy, tôi không nghĩ việc này có thể tồi bằng việc đi xem Đè em ra đi với Commodore Higbee, người mang răng giả và có một khu đất trống rất đẹp ngay góc đường Broadway và Chambers."

Người giúp việc bước vào với chiếc khay. Toohey lấy ly rượu và cầm nó một cách tinh tế, hít hít mùi rượu trong khi người giúp việc đi ra ngoài.

"Ông có thể nói cho tôi tại sao lại có cái hoạt động mật vụ này - tôi sẽ không hỏi là ai thực hiện nó - và tại sao ông cần biết chi tiết về các hoạt động của tôi, được không?" Dominique nói một cách thờ ơ.

"Cô có thể hỏi là ai thực hiện nó mà. Bất kỳ người nào và tất cả mọi người. Chẳng nhẽ cô nghĩ là người ta sẽ không bàn tán về chuyện cô Dominique Francon bỗng nhiên sắm vai một chủ nhà nổi tiếng - một cách bất thình lình? Dominique Francon trong vai một Kiki Holcombe thứ hai, nhưng tốt hơn nhiều - ồ hơn nhiều! - tinh tế hơn nhiều, hiểu biết hơn nhiều và rồi, hãy nghĩ mà xem, xinh đẹp hơn biết bao nhiêu. Đã đến lúc cô nên tận dụng một chút cái vẻ ngoài tuyệt vời đó của cô - bất kỳ phụ nữ nào cũng sẽ cắt cổ cô để có được nó. Nó vẫn đang bị bỏ phí, tất nhiên, nếu người ta nghĩ đến mối tương quan giữa hình thức với chức năng hoạt động tương xứng của nó, nhưng ít nhất thì một vài người cũng đang có được một số lợi ích từ nó. Bố cô, chẳng hạn. Tôi chắc chắn ông ấy vui mừng với cuộc sống mới này của cô. Dominique bé nhỏ đang thân thiện với mọi người. Dominique bé nhỏ cuối cùng cũng trở nên bình thường. Ông ấy nhầm, tất nhiên rồi, nhưng làm cho ông ấy hạnh phúc thì cũng tốt. Một vài người khác nữa cơ. Tôi, chẳng hạn. Dù cô chưa bao giờ làm bất kỳ điều gì chỉ là để khiến tôi hạnh phúc nhưng rồi cô thấy đấy, tôi có cái biệt tài quý hóa là vắt ra niềm vui từ cái không hề được dự định dành cho tôi - mà lại hết sức là vô tư."

"Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi."

"Nhưng tôi đang trả lời đấy chứ. Cô hỏi vì sao lại có sự quan tâm đến các hoạt động của cô - và tôi trả lời: vì chúng khiến tôi hạnh phúc. Ngoài ra, hãy xem này, người ta có thể ngạc nhiên - mặc dù thế thì thật là thiển cận - nếu tôi đang thu thập thông tin về các hoạt động của các kẻ thù của mình. Mà lại không biết thông tin gì về các hoạt động của phía đồng minh - thực sự, cô biết đấy, cô không nghĩ tôi sẽ là một vị tướng bất tài đến như thế đấy chứ - và dù cô có thể nghĩ bất kỳ điều gì khác về tôi đi nữa, cô chưa bao giờ nghĩ là tôi bất tài."

"Phía đồng minh ư, Ellsworth?"

"Xem này, Dominique, đó chính là vấn đề với phong cách viết - và nói - của cô: cô dùng quá nhiều dấu chấm hỏi. Tồi, trong bất kỳ trường hợp nào. Đặc biệt tồi khi không cần thiết. Hãy bỏ chuyện đặt câu hỏi đi - và chỉ nói chuyện thôi. Vì cả hai chúng ta đều hiểu và không có bất kỳ câu hỏi nào để hỏi giữa chúng ta cả. Nếu có - cô đã tống cổ tôi ra rồi. Thay vì thế, cô cho tôi một món rượu rất đắt tiền."

Ông giữ miệng của chiếc cốc dưới mũi mình và hít vào với một khoái cảm phóng túng, mà, nếu là ở một bàn tiệc tối thì sẽ tương tự như một tiếng chép miệng to, thô tục. Nhưng ở đây, nó trở nên tao nhã tuyệt vời khi miệng chiếc ly pha lê được áp vào bộ ria nhỏ tỉa gọn ghẽ của ông

"Được rồi," cô nói, "Thì nói chuyện."

"Đó là điều tôi đang làm đây. Như thế nghĩa là tôi đã ý tứ - vì cô không sẵn sàng nói chuyện. Lúc này thì chưa. Nhưng hãy nói chuyện - một cách hoàn toàn khách quan - về sự thú vị khi thấy mọi người háo hức chào đón cô vào giữa bọn họ, chấp nhận cô, tụ tập quanh cô. Tại sao thế nhỉ - cô cho là vì sao? Họ rất hay tỏ ra khinh bỉ người khác, nhưng rồi khi có một người đã luôn khinh bỉ họ tự nhiên lại ngã gục và quay trở lại giao du với bọn họ, thế là tất cả bọn họ đều lăn lưng đến, cụp tai, cụp vuốt để cho cô xoa đầu xoa bụng họ. Vì sao? Có thể có hai cách giải thích, tôi nghĩ vậy. Cách giải thích tốt đẹp là họ rất rộng lượng và muốn làm vinh dự cho cô bằng tình bạn của họ. Chỉ có điều những cách giải thích tốt đẹp chẳng bao giờ đúng cả. Cách còn lại là họ biết cô đang xuống nước khi cần đến họ, họ biết cô đang trượt xuống khỏi một đỉnh cao - mọi sự cô đơn đều là một đỉnh cao - và họ vui sướng được kéo tuột cô xuống bằng tình bạn của họ. Mặc dù, tất nhiên, không ai trong số họ nhận thức rõ điều này, ngoại trừ bản thân cô. Đó là lý do vì sao cô thấy đau đớn khi làm điều đó, và cô sẽ không bao giờ làm nó vì một lý do cao cả, cô sẽ không bao giờ làm thế ngoại trừ vì cái kết cục cô đã chọn, một cái kết cục đáng kinh tởm hơn phương tiện đưa đến nó và cái kết cục đó khiến cho cô có thể chịu đựng được sự đau đớn mà phương tiện gây ra."

"Ông biết không, Ellsworth, ông vừa nói một câu mà ông sẽ không bao giờ viết trong cột báo của ông."

"Vậy sao? Không nghi ngờ gì cả. Tôi có thể nói với cô rất nhiều thứ mà tôi sẽ không bao giờ viết trong cột báo của tôi. Câu nào?"

"Mọi sự cô đơn đều là một đỉnh cao."

"Câu đó? Phải, khá đúng đấy. Tôi sẽ không dùng nó. Cô cứ dùng nó tự nhiên - mặc dù nó không tốt lắm. Khá thô. Một ngày nào đó tôi sẽ cho cô những câu hay hơn, nếu cô muốn. Tuy nhiên, rất tiếc khi cô rút ra được mỗi thế từ bài diễn thuyết nho nhỏ của tôi."

"Ông muốn tôi rút ra cái gì?"

"Thì, hai cách giải thích của tôi chẳng hạn. Có một câu hỏi thú vị ở đó. Cách nào tỏ ra độ lượng hơn - tin vào cái tốt nhất của con người và buộc họ phải mang vác sự cao thượng mà họ không thể mang nổi - hay nhìn nhận họ như là chính họ, và chấp nhận thế vì nó khiến họ thoải mái? Sự độ lượng quan trọng hơn công lý, tất nhiên rồi."

"Tôi chẳng thèm quan tâm."

"Không thích suy diễn trừu tượng? Chỉ muốn những kết quả cụ thể? Được thôi. Cô đã giành được cho Peter Keating bao nhiêu công trình trong ba tháng vừa qua?"

Cô đứng lên, đi đến cái khay mà người giúp việc đã để lại, rót cho mình một cốc, và nói: "Bốn," rồi nâng cốc lên miệng. Cô quay người để nhìn ông. Cô đứng với chiếc cốc trên tay và nói thêm: "Và đó là kỹ thuật nổi tiếng của Toohey. Không bao giờ ra đòn ở ngay đầu hay cuối bài báo. Phải đột ngột tung đòn ngay vào lúc người ta ít nghi ngờ nhất. Nhét đầy những lời ngớ ngẩn vào cả một cột báo, chỉ để cho vào một dòng quan trọng đó."

Ông cúi người một cách lịch thiệp. "Khá đúng. Đấy là lý do vì sao tôi thích nói chuyện với cô. Thật là phí phạm khi tinh tế hay nanh nọc với những kẻ thậm chí không nhận ra được sự tinh tế hay nanh nọc của ta. Nhưng những lời ngớ ngẩn không bao giờ là tình cờ đâu Dominique ạ. Mà tôi cũng không biết là cái kỹ thuật viết báo của tôi lại đang trở nên rõ ràng. Tôi sẽ phải nghĩ ra một cách mới."

"Đừng bận tâm làm gì. Họ thích nó."

"Tất nhiên. Họ thích bất kỳ thứ gì tôi viết. Như vậy là bốn? Tôi bỏ qua mất một. Tôi đã đếm là ba."

"Tôi không thể hiểu nổi vì sao ông phải đến tận đây nếu đó là tất cả những gì ông muốn biết. Ông rất thích Peter Keating và tôi thì đang giúp anh ta lên như diều, tốt hơn cả những gì ông có thể làm, thế nên nếu ông muốn lên lớp tôi về Petey quý hóa của ông - thì không cần thiết đâu."

"Cô đã sai hai lần trong một câu rồi, Dominique. Một lỗi sai thật và một thì là nói dối. Lỗi sai thật là việc cô cho rằng tôi muốn giúp Petey Keating - và, thật lòng mà nói, tôi có thể giúp anh ta tốt hơn cô nhiều, và tôi đã và sẽ giúp, nhưng đó là dự định lâu dài. Còn lỗi nói dối là việc cô cho rằng tôi đến đây để nói chuyện Peter Keating - cô biết tôi đến đây để nói chuyện gì từ lúc cô thấy tôi bước vào. Và - nhưng mà khoan! - cô sẽ cho phép kể cả một kẻ ghê tởm hơn bản thân tôi được xông đến chỗ cô, chỉ để nói về chủ đề đó. Mặc dù tôi không biết ai có thể đáng ghê tởm đối với cô hơn là bản thân tôi, vào lúc này."

"Peter Keating," cô nói.

Ông nhăn mặt, chun mũi: "Ồ không. Anh ta không xứng tầm. Nhưng hãy nói về Peter Keating. Thật là một sự trùng hợp tiện lợi khi anh ta lại là người cộng tác của cha cô. Cô chỉ đang làm hết sức mình để kiếm các công trình cho cha cô, giống như một cô con gái làm tròn bổn phận - thật không có gì tự nhiên hơn thế. Cô đã làm những điều tuyệt vời cho hãng Francon và Keating trong ba tháng qua. Chỉ bằng cách mỉm cười với vài bà góa giàu có và bằng cách diện những bộ cánh đỏm dáng ở vài ba cuộc gặp mặt thượng lưu. Tôi tự hỏi cô sẽ đạt được gì nếu cô quyết định ngả bài và bán cái thân thể tuyệt mỹ của cô vì những mục đích không liên quan đến thẩm mỹ - để đổi lấy những công trình cho Peter Keating."

Ông ngừng lại, cô không nói gì cả, và ông nói thêm: "Xin có lời khen ngợi, Dominique ạ, cô thật xứng đáng với những đánh giá cao nhất của tôi về cô - bằng cách không bị sốc trước việc này."

"Ông nói thế nhằm mục đích gì đây, Ellswoth? Để gây sốc hay là để gợi ý?"

"Ồ, có thể là nhiều thứ - một sự thăm dò ban đầu chẳng hạn. Nhưng, thực ra thì, tôi chẳng có mục đích gì cả. Chỉ thử một chút thô tục thôi. Cũng là kỹ thuật của Toohey - cô biết đấy, tôi luôn đề nghị một chút sai lầm vào đúng thời điểm. Về bản chất, tôi là một người Thanh giáo cuồng nhiệt và đơn điệu đến nỗi thỉnh thoảng tôi phải cho phép bản thân mình có một màu sắc khác - để giải tỏa sự đơn điệu."

"Thế sao Ellsworth? Tôi tự hỏi - về bản chất, ông là cái gì. Tôi không biết."

"Tôi dám nói không ai biết cả," ông nói nhẹ nhàng "Mặc dù thật sự, chẳng có gì huyền bí về chuyện đó cả. Nó rất đơn giản. Tất cả mọi thứ đều đơn giản khi ta quy chúng về tới những thứ cơ bản. Người ta sẽ ngạc nhiên nếu biết có thật ít những điều cơ bản. Chỉ có hai thôi - có lẽ thế. Để giải thích tất cả chúng ta. Nhưng chính phần gỡ rối, phần quy về - đấy chính là phần khó - và đó là lý do tại sao người ta chẳng buồn làm. Tôi cũng không nghĩ là họ sẽ thích những kết quả."

"Tôi chả quan tâm. Tôi biết tôi là cái gì. Nói tiếp đi. Tôi chỉ là một con chó cái."

"Đừng tự lừa bản thân mình, cô bạn thân mến ạ. Cô còn tồi hơn một con chó cái. Cô là một vị thánh. Điều đó chỉ ra tại sao các vị thánh lại nguy hiểm và không đáng thèm muốn."

"Còn ông?"

"Thực tế thì tôi biết đích xác tôi là gì. Chỉ riêng cái đó có thể giải thích rất nhiều về tôi. Tôi đang cho cô một gợi ý hữu ích đây - nếu cô buồn dùng nó. Cô không dùng, tất nhiên rồi. Mặc dù cô cũng có thể - trong tương lai."

"Vì sao tôi lại nên chứ?"

"Cô cần tôi Dominique ạ. Cho nên cũng nên hiểu tôi thêm một chút. Cô thấy đấy, tôi không sợ bị hiểu thấu. Bởi cô."

"Tôi cần ông ư?"

"Ồ thôi nào, hãy dũng cảm lên nào."

Cô ngồi dậy và chờ đợi một cách lạnh lùng, lặng lẽ. Ông mỉm cười, rõ ràng là với sự thỏa mãn và không buồn che giấu sự thỏa mãn đó.

"Hãy xem nào," ông nói trong lúc ngắm nghía trần nhà với vẻ lơ đễnh "những công trình mà cô đã kiếm cho Peter Keating. Cái nhà văn phòng Cryon chả có giá trị mấy - đằng nào Howard Roark cũng không bao giờ có cơ hội với nó cả. Nhà Lindsay thì tốt hơn - Roark rõ ràng đã được cân nhắc, tôi nghĩ anh ta hẳn là đã có được nó nếu không có cô. Nhà câu lạc bộ Stonebrook cũng vậy - anh ta đã có một cơ hội với nó, nhưng cô đã phá hoại."

Ông nhìn cô và cười khẽ "Không bình luận về kỹ thuật và việc ra đòn sao Dominique?" Cái cười giống như váng mỡ lạnh nổi trên mặt chất lỏng là giọng nói của ông. "Cô đã bỏ qua cái điền trang Norris - anh ta đã có được nó tuần trước, cô biết đấy. Ồ, cô không thể thành công một trăm phần trăm được. Rốt cuộc thì tòa nhà Enright là một công trình lớn; nó đang tạo nên rất nhiều dư luận, và khá nhiều người đang bắt đầu quan tâm tới ông Howard Roark. Nhưng cô đã làm rất tốt. Tôi xin chúc mừng. Giờ thì chẳng lẽ cô không nghĩ là tôi đang cư xử tốt với cô sao? Mọi nghệ sĩ đều cần được nhìn nhận - thế mà không có ai để khen ngợi cô cả, vì không ai biết cô đang làm gì, nhưng Roark và tôi thì có, mà anh ta thì sẽ không cảm ơn cô. Nhưng mà khoan, tôi không nghĩ Roark biết cô đang làm gì, và cái đó làm hỏng cả trò vui, đúng không?"

Cô hỏi: "Làm sao ông biết tôi đang làm gì?" - giọng cô mệt mỏi.

"Bạn thân mến, chắc chắn cô chưa quên là chính tôi là người cung cấp cho cô ý tưởng đầu tiên?"

"À phải," cô nói thờ ơ. "Phải."

"Và giờ thì cô biết tại sao tôi đã đến đây rồi đấy. Giờ thì cô biết ý tôi là gì khi tôi nói về phía đồng minh rồi đấy."

"Phải" cô nói. "Tất nhiên rồi."

"Đây là một thỏa thuận, bạn thân mến ạ. Một liên minh. Những người đồng minh không bao giờ tin tưởng nhau, nhưng điều đó chẳng phá hoại hiệu quả công việc của họ. Động cơ của chúng ta có thể khá đối lập. Thực tế, chúng đối lập thật. Nhưng chẳng sao cả. Kết quả sẽ vẫn thế. Không cần phải có một mục đích chung cao cả. Chỉ cần có một kẻ thù chung. Chúng ta thì có."

"Phải."

"Đó là lý do cô cần tôi. Tôi đã từng có ích cho cô."

"Phải."

"Tôi có thể làm tổn thương anh Roark của cô nhiều hơn bất kỳ bữa tiệc trà nào cô có thể làm."

"Để làm gì?"

"Bỏ những cái để-làm-gì đi. Tôi không hỏi những cái đó của cô."

"Được thôi."

"Vậy thì cái đó được ngầm hiểu giữa chúng ta chứ? Chúng ta là đồng minh trong vấn đề này?"

Cô nhìn ông, cô khom người về phía trước, chăm chú, khuôn mặt cô trống rỗng. Rồi cô nói: "Chúng ta là đồng minh."

"Tốt, bạn thân mến ạ. Giờ thì cô nghe này. Đừng có nhắc đến tên anh ta trong cột báo của cô vài ngày một lần như thế. Tôi biết, mỗi lần như thế cô đều đưa ra những lời châm chọc hằn học với anh ta, nhưng như thế là quá nhiều. Cô đang làm cho anh ta trở nên nổi tiếng, và cô thì không muốn thế đâu. Hơn nữa, cô nên mời tôi đến những bữa tiệc của cô. Có những thứ tôi có thể làm mà cô lại không thể. Một gợi ý khác: ông Gilbert Colton - cô biết đấy, nhà Colton sản xuất đồ gốm ở California ấy - đang lên kế hoạch xây dựng một nhà máy chi nhánh ở phía đông. Ông ấy đang nghĩ đến một kiến trúc sư hiện đại. Thực tế ông ta đang nghĩ đến Roark. Đừng để Roark nhận được nó. Đó là một công trình rất lớn - sẽ có rất nhiều quảng cáo. Hãy đi và nghĩ ra một kiểu tiệc trà hay bánh kẹp gì đó cho bà Colton. Làm bất kỳ thứ gì cô muốn. Nhưng đừng để Roark có được nó."

Cô đứng dậy, lê hai bàn chân tới một cái bàn, đôi cánh tay cô vung vẩy lỏng lẻo, và lấy một điếu thuốc lá. Cô châm thuốc, quay sang phía ông, và nói lạnh lùng:

"Ông có thể nói chuyện ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề - khi ông muốn thế."

"Khi tôi thấy cần."

Cô đứng ở cửa sổ, nhìn ra ngoài thành phố. Cô nói:

"Ông chưa bao giờ thực sự làm điều gì chống lại Roark. Tôi không biết là ông quan tâm nhiều đến thế."

"Ôi trời. Tôi chưa sao?"

"Ông chưa bao giờ đề cập đến anh ta trên báo cả."

"Đó, bạn thân mến ạ, chính là cái mà tôi đã làm để chống lại Roark đấy. Cho đến nay."

"Ông nghe đến anh ta lần đầu tiên khi nào?"

"Khi tôi nhìn thấy các bản vẽ ngôi nhà Heller. Cô đã không nghĩ tôi lại bỏ qua nó đúng không? Còn cô?"

"Khi tôi nhìn thấy các bản vẽ của tòa nhà Enright."

"Không phải trước đó?"

"Không phải trước đó."

Cô hút thuốc lặng lẽ; rồi cô nói, không quay sang ông ta:

"Ellsworth, nếu một trong chúng ta nhắc lại những gì chúng ta đã nói ở đây hôm nay, người kia sẽ phủ nhận và sẽ chẳng ai có thể chứng minh được. Vì thế chẳng sao cả nếu chúng ta nói thẳng với nhau, đúng không? Mọi việc khá an toàn, đúng không? Vì sao ông lại căm ghét anh ta?"

"Tôi chưa bao giờ nói tôi căm ghét anh ta."

Cô nhún vai.

"Về những chuyện khác," ông nói thêm, "tôi nghĩ cô có thể tự mình trả lời điều đó."

Cô chậm rãi gật đầu, mắt nhìn vào cái điểm sáng nhỏ phản chiếu đầu điếu thuốc của cô trên mặt kính.

Ông đứng dậy, đi về phía cô, và đứng nhìn những ngọn đèn thành phố phía bên dưới họ, nhìn những hình khối của các tòa nhà, vào những bức tường tối bị lu mờ đi bởi sự lấp lánh của những cửa sổ, như thể những bức tường chỉ là một tấm mạng ô vuông làm bằng sa đen mỏng trên một khối ánh sáng rắn chắc vậy. Và Ellsworth Toohey khẽ nói:

"Hãy nhìn xem. Một thành tựu tuyệt vời phải không? Một thành tựu anh hùng. Hãy nghĩ đến hàng ngàn người đã làm việc để tạo nên cái này và đến hàng triệu người hưởng lợi từ nó. Và người ta nói là nếu không có tinh thần của một vài cá thể, ở chỗ này chỗ khác trong lịch sử con người, nếu không có một vài cá thể đó - có lẽ còn ít hơn - thì những thứ này không thể trở thành hiện thực. Điều đó có thể là đúng. Nếu thế, sẽ có hai thái độ để thể hiện. Chúng ta có thể nói những cá thể này là những nhà hảo tâm vĩ đại, rằng chúng ta được nuôi sống bởi sự giàu có tinh thần đến thừa mứa của họ, và rằng chúng ta vui mừng đón nhận trong sự biết ơn và tình anh em. Hoặc chúng ta có thể nói rằng bằng những thành tựu huy hoàng của họ - và chúng ta chẳng bao giờ có thể đạt tới hay nắm được chúng - những cá thể này đã chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là gì, rằng chúng ta không muốn những món quà miễn phí do sự hảo tâm của họ ban phát, rằng một cái hang bên một đầm lầy đầy bùn và một ngọn lửa tạo ra bằng cách chà các cành cây vào nhau còn thích hơn là các tòa nhà trọc trời và đèn nê-ông - nếu cái hang và những cành cây là giới hạn khả năng sáng tạo của chính chúng ta. Trong hai thái độ đó, Dominique, cô cho thái độ nào thực sự là thái độ vị nhân sinh? Vì, cô thấy đấy, tôi là một người vị nhân sinh."

*

* *

Sau một thời gian, Dominique thấy việc hòa hợp với mọi người trở nên dễ dàng hơn. Cô học cách chấp nhận sự tự tra tấn như một bài kiểm tra khả năng chịu đựng - cô tò mò muốn khám phá ra cô có thể chịu đựng được bao nhiêu. Cô di chuyển trong các buổi tiếp tân trang trọng, các bữa tiệc khai mạc nhạc kịch, các bữa tối, các dạ vũ - duyên dáng và luôn mỉm cười, một nụ cười khiến khuôn mặt cô sáng hơn và lạnh hơn, như mặt trời trong một ngày mùa đông. Cô lắng nghe một cách trống rỗng những lời trống rỗng mà người nói thốt ra như thể họ sẽ bị xúc phạm nếu như người đối thoại tỏ ra bất kỳ biểu hiện quan tâm nào, như thể sự buồn tẻ là thứ duy nhất có thể kết nối con người, là chất bảo quản duy nhất cho cái không khí trang trọng bấp bênh giữa họ. Cô gật đầu với mọi thứ và chấp nhận mọi thứ.

"Vâng, thưa ông Holt, tôi nghĩ Peter Keating là người đàn ông của thế kỷ này - thế kỷ của chúng ta."

"Không, thưa ông Inskip, không phải Howard Roark, ông không muốn Howard Roark đâu... Một kẻ giả dối? Tất nhiên rồi, anh ta là một kẻ giả dối - cần phải có sự trung thực nhạy cảm mới có thể đánh giá được sự chính trực của một người... Không có gì nhiều sao? Không, thưa ông Inskip, tất nhiên rồi, Howard Roark chẳng là gì cả. Tất cả chỉ là một vấn đề của kích thước và khoảng cách - và khoảng cách... Không, tôi không hay nghĩ, ông Inskip ạ - tôi mừng là ông thích đôi mắt tôi - vâng, chúng luôn trông như thế khi tôi đang thấy vui vẻ - và tôi rất vui khi nghe ông nói là Howard Roark chẳng là gì."

"Bà đã gặp Roark sao bà Jones? Và bà không thích anh ta?... Ồ, anh ta là loại người mà người ta không thể nảy sinh lòng trắc ẩn được sao? Quả là đúng làm sao. Lòng trắc ẩn là một điều tuyệt vời. Đó là điều người ta cảm nhận thấy khi người ta nhìn một con sâu bị nghiền nát. Một kinh nghiệm thăng hoa. Người ta có thể thả lỏng bản thân mình đi và trải lòng mình ra - bà biết đấy, như là cởi một chiếc thắt lưng ra vậy. Người ta không phải gồng dạ dày, trái tim hay tinh thần của mình lên - khi người ta cảm thấy lòng trắc ẩn. Tất cả những gì người ta phải làm là nhìn xuống. Như thế dễ hơn nhiều. Khi nhìn lên, người ta bị đau cổ. Lòng trắc ẩn là đức tính vĩ đại nhất. Nó biện minh cho sự chịu đựng. Phải có sự chịu đựng trên thế giới, nếu không làm sao chúng ta lại có thể cảm thấy tiết hạnh và lòng trắc ẩn được?... Ồ, dĩ nhiên là có một phản đề cho điều này - nhưng đấy thật là một phản đề khó khăn và khắt khe... Sự ngưỡng mộ, bà Jones ạ, sự ngưỡng mộ. Nhưng để có được sự ngưỡng mộ thì cần không chỉ một cái thắt lưng... Vì thế nên tôi nói rằng bất kỳ ai không thể khiến ta cảm thấy thương cảm thì người đó là một kẻ đồi bại. Như Howard Roark."

Vào buổi đêm, cô thường đến phòng Roark. Cô đến mà không báo trước, biết chắn sẽ thấy anh ở đó, và một mình. Trong căn phòng của anh, không cần phải kiềm chế, nói dối, đồng tình hay tẩy rửa bản thân cô khỏi sự tồn tại. Ở đây cô được tự do chống đối, nhìn thấy sự chống đối của mình được chào đón bởi một đối thủ quá mạnh đến nỗi không thèm sợ sự đọ sức, thậm chí đủ mạnh để cần sự đọ sức; ở đây, cô tìm thấy một ý chí mà qua nó cô thấy sự tồn tại của bản thân mình được thừa nhận, một cách toàn vẹn và không thể bị sứt mẻ, ngoại trừ trong một trận chiến sạch sẽ mà dù thắng hay bại thì sự tồn tại ấy vẫn được bảo toàn nguyên vẹn chứ không phải bị nghiền nát thành những hạt bụi vô nhân dạng.

Khi họ cùng nhau nằm trên giường, đó là - như nó phải thế, như bản chất của hành động này đòi hỏi phải thế - một hành động bạo lực. Đó là sự đầu hàng - càng trở nên trọn vẹn bởi vì họ đã chống đối nó. Đó là một hành động chứa đầy căng thẳng, giống như những điều vĩ đại trên trái đất đều là những điều chứa đầy căng thẳng. Nó căng thẳng như điện - thứ năng lượng tạo ra do sự đối nghịch - chạy trên các dây dẫn kim loại được kéo căng; nó căng thẳng như như dòng nước được biến thành năng lượng khi bị một con đập chặn đứng lại. Sự đụng chạm của làn da anh lên làn da cô không phải là một sự vuốt ve mà là một làn sóng của sự đau đớn, nó trở thành nỗi đau đớn bởi nó được mong muốn quá nhiều, bởi nó giải tỏa trọn vẹn tất cả những giờ phút của khao khát và kìm nén trước đó. Đó là một hành động bao hàm cả những hàm răng nghiến chặt và của sự căm thù; đó là cái không thể chịu đựng được; đó là sự đau đớn cùng cực; đó là một hành động của niềm say mê - từ này sinh ra với hàm ý chịu đựng - đó là khoảnh khắc được tạo nên bởi sự căm thù, căng thẳng, đau đớn - khoảnh khắc phá tan chính những yếu tố bên trong nó, đảo lộn chúng, chiến thắng chúng và quét chúng vào một chỗ mà sự chịu đựng bị phủ nhận, vào cái đối lập, vào sự thăng hoa.

Cô đến phòng anh sau một bữa tiệc, mặc một chiếc váy dài buổi tối đắt tiền và mong manh như một lớp đá băng mỏng tang trám trên cơ thể cô - và cô dựa vào tường, cảm thấy lớp vữa sần dưới làn da mình, chậm rãi liếc nhìn mọi vật xung quanh cô, nhìn chiếc bàn bếp đầy những tấm giấy, nhìn những chiếc thước bằng thép, những chiếc khăn tắm bị lấm bẩn bởi những vết đen của năm ngón tay, nhìn những tấm ván trần trụi của sàn nhà - và cô để cho cái liếc nhìn của mình trượt dọc chiều dài lượt vải satanh đang tỏa sáng trên người cô, xuống cái hình tam giác nhỏ nhắn trên chiếc xăng-đan màu bạc, và cô nghĩ cô sẽ bị lột trần ra ở đây như thế nào. Cô thích đi loanh quanh trong căn phòng, ném những chiếc găng tay xuống giữa một đống bút chì, tẩy cao su và báo chí, để chiếc túi màu bạc nhỏ của cô lên một chiếc áo sơ mi bẩn đã bị bỏ đi, mở chốt cái vòng tay bằng kim cương đánh tách một cái và thả nó rơi xuống một chiếc đĩa đựng một mẩu bánh mì kẹp còn thừa, cạnh một bản vẽ dang dở.

"Roark," cô nói, đứng đằng sau ghế của anh, hai cánh tay cô quàng quanh vai anh, bàn tay cô dưới áo sơ mi của anh, những ngón tay xòe rộng và áp lên ngực anh, "hôm nay em đã làm cho ông Symons phải hứa là giao công trình của ông ta cho Peter Keating. Ba mươi lăm tầng, và bất kỳ thứ gì anh ta muốn mà phải tiêu tốn tiền, tiền không phải là mục tiêu, chỉ nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật tự do."

Cô nghe thấy tiếng cười khẽ của anh, nhưng anh không quay sang để nhìn cô, chỉ có những ngón tay anh khép trên cổ tay cô và anh ấn bàn tay cô sâu hơn xuống dưới áo anh, áp mạnh nó lên da anh. Rồi cô kéo đầu anh ra sau, và cô cúi xuống để gắn miệng cô lên miệng anh.

Cô bước vào và thấy một bản của tờ Ngọn cờ trải trên bàn anh và được mở ở trang có mục Ngôi nhà của bạn do Dominique Francon viết. Cột báo của cô có dòng chữ: "Howard Roark là Hầu tước vùng Sade của ngành kiến trúc. Anh ta phải lòng các tòa nhà - và nhìn chúng mà xem." Cô biết là anh không thích tờ Ngọn cờ, rằng anh để nó ở đó chỉ vì cô, rằng anh quan sát cô nhận ra nó, với nụ cười nửa chừng mà cô sợ phải nhìn thấy trên mặt anh. Cô tức giận; cô muốn anh đọc mọi thứ cô viết, nhưng cô thích được nghĩ rằng những gì cô viết làm anh bị tổn thương đến mức anh tránh đọc nó. Sau đó, trong lúc nằm vắt ngang giường, với miệng anh trên ngực cô, cô nhìn qua mớ tóc rối bù màu cam trên đầu anh, vào trang giấy đó của tờ báo trên bàn, và anh cảm thấy người cô run lên vì khoái cảm.

Cô ngồi trên sàn nhà, ngay chỗ bàn chân anh, đầu cô áp vào đầu gối anh, cầm tay anh, lần lượt khép nắm tay mình quanh mỗi ngón tay anh, xiết chặt rồi để nó từ từ trượt theo chiều dài của ngón tay anh, cảm nhận những chỗ xương cứng ở các khớp ngón tay, và cô khẽ hỏi: "Roark, anh muốn có cái nhà máy của Colton, đúng không? Anh rất muốn nó phải không?"

"Phải, rất muốn," anh trả lời, không cười và không đau đớn. Rồi cô nâng bàn tay anh lên môi cô và giữ nó ở đó một lúc lâu.

Cô ra khỏi giường trong bóng tối, và trần truồng đi ngang qua phòng anh để lấy một điếu thuốc lá từ trên bàn. Cô cúi xuống ánh lửa diêm, chiếc bụng phẳng của cô hơi cong lại trong giây lát đó. Anh nói: "Châm cho anh một điếu," và cô đặt một điếu thuốc giữa hai môi anh; rồi cô đi vơ vẩn trong căn phòng tối, hút thuốc, trong khi anh nằm trên giường, chống người trên khuỷu tay, quan sát cô.

Một lần cô bước vào và thấy anh đang làm việc ở bàn. Anh nói: "Anh phải hoàn thành cái này. Em ngồi đi. Đợi anh." Anh không nhìn cô lần nào nữa. Cô lặng lẽ chờ đợi, thu người trong một chiếc ghế ở góc xa nhất của căn phòng. Cô quan sát những đường thẳng của đôi lông mày anh cau lại vì sự tập trung; cô quan sát khuôn miệng anh, những mạch máu đang đập dưới làn da căng ở cổ anh, sự chắc chắn sắc nét của bàn tay anh. Anh trông không giống một nghệ sĩ, anh giống như một công nhân mỏ đá, như một người dỡ nhà đang kéo đổ những bức tường, và như một nhà sư. Lúc ấy cô không muốn anh dừng lại hay liếc nhìn cô, vì cô muốn quan sát sự thuần khiết khổ hạnh của con người anh, sự thiếu vắng của tất cả cảm giác nhục dục; cô quan sát điều đó - và nghĩ đến những gì mà cô vẫn nhớ.

Có những đêm anh đến căn hộ của cô, như cô đến căn hộ của anh - không hề báo trước. Nếu cô có khách, anh nói: "Dẹp họ đi." và đi vào phòng ngủ trong lúc cô làm theo lời anh. Họ có một thỏa thuận ngầm, được hiểu mà không cần đề cập đến, là không bao giờ để bị trông thấy cùng nhau. Phòng ngủ của cô là một nơi trang nhã gồm toàn kính và một màu xanh của đá băng. Anh thích đến đó, vẫn mặc những quần áo đầy vết bẩn sau một ngày trên công trường xây dựng. Anh thích ném những tấm phủ giường của cô xuống cuối giường, rồi ngồi nói chuyện lặng lẽ trong một hay hai giờ, không nhìn vào chiếc giường, không đề cập đến bài viết của cô hay các tòa nhà hay công trình mới nhất cô đã kiếm cho Peter Keating. Sự thoải mái hoàn toàn của hai người, ở đây, như thế này, khiến cho những giờ ấy trở nên đầy lạc thú, hơn là những giây phút mà họ đang trì hoãn.

Có những buổi tối khi họ ngồi cùng nhau trong phòng khách của cô, ở chỗ cửa sổ lớn, cao phía trên thành phố. Cô thích nhìn thấy anh ở cái cửa sổ đó. Anh thường đứng, nửa quay về phía cô, hút thuốc, ngắm thành phố bên dưới. Cô thường bước ra xa khỏi anh để ngồi xuống trên sàn nhà, ngay giữa phòng và nhìn anh.

Một lần, khi anh ra khỏi giường, cô bật đèn lên và nhìn thấy anh đang đứng đó, trần truồng; cô ngắm nhìn anh, rồi cô nói, giọng cô khẽ và tuyệt vọng - một sự tuyệt vọng hoàn toàn chân thành.

"Roark, tất cả những gì em đã làm cả đời em chính là vì cái thế giới đã khiến anh phải làm việc ở một mỏ đá như mùa hè năm trước."

"Anh biết điều đó."

Anh ngồi xuống phía chân giường. Cô dịch sang, áp khuôn mặt mình lên đùi anh, cuộn người lại, hai bàn chân đặt lên chiếc gối, cánh tay cô buông thõng xuống, để lòng bàn tay cô di chuyển chầm chậm dọc chiều dài chân anh, từ cổ chân tới đầu gối và lại trở lại. Cô nói: "Nhưng tất nhiên, nếu điều đó phụ thuộc vào em, thì mùa xuân năm ngoái, khi anh không một xu dính túi và thất nghiệp, em cũng sẽ gửi anh tới làm đúng việc đó ở đúng cái mỏ đá đó."

"Anh cũng biết điều đó. Nhưng có thể em sẽ không làm thế đâu. Có thể em sẽ biến anh thành người phục vụ phòng rửa mặt trong câu lạc bộ của Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ."

"Vâng. Có thể. Đặt tay anh lên lưng em đi, Roark. Cứ để nó đấy. Như thế."

Cô nằm im, mặt vùi vào đầu gối anh, cánh tay cô buông xuống bên giường, bất động, như thể không có gì trong cô còn sống, ngoại trừ phần da giữa hai bả vai cô, dưới bàn tay anh.

Trong những phòng khách mà cô đến thăm, trong các nhà hàng, trong các văn phòng của Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ, người ta bàn tán về việc cô Dominique Francon của tờ Ngọn cờ không ưa gì Howard Roark, cái tay kiến trúc sư đồng bóng của Roger Enright. Chuyện này mang lại cho anh một kiểu nổi tiếng bất đắc dĩ. Người ta nói "Roark hả? Anh biết đấy, cái gã mà Dominique Francon ghét cay ghét đắng." "Tiểu thư nhà Francon biết rõ về kiến trúc, và nếu cô ấy nói anh ta không ra gì thì tức là anh ta còn tệ hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ." "Chúa ơi, nhưng hai người đó hẳn là căm ghét nhau lắm! Mặc dù tôi biết là họ thậm chí chưa gặp mặt nhau kia." Cô thích nghe thấy những điều đó. Cô thấy hài lòng khi Athelstan Beasely, trong bài báo của anh ta đăng trên Bản tin A.G.A. đã bàn về kiến trúc của những tòa lâu đài thời Trung cổ như sau: "Để hiểu được cái đáng sợ của những công trình kiến trúc này chúng ta phải nhớ rằng những cuộc chiến giữa các lãnh chúa phong kiến là rất khốc liệt - nó cũng giống như là mối cừu hận giữa cô Dominique Francon và ông Howard Roark."

Austen Heller, người đã từng là bạn cô, đã nói chuyện với cô. Cô chưa từng thấy ông tức giận như thế bao giờ; khuôn mặt ông mất hẳn tất cả vẻ duyên dáng mà sự bình thản mai mỉa thường trực mang lại.

"Cô nghĩ cô đang làm cái quái gì thế hả Dominique?" ông rít lên. "Đây là sự phô bày kinh tởm nhất cho cái thói côn đồ báo chí mà tôi từng thấy trên các thể loại truyền thông. Sao cô không để cái trò đó cho Ellsworth Toohey?"

"Ellsworth rất tuyệt, đúng không?" cô nói.

"Chí ít lão ta cũng đủ lịch sự để giữ cho cái mõm bẩn thỉu của lão không nói động đến Roark - mặc dù, tất nhiên, như thế cũng đã là một sự bẩn thỉu rồi. Nhưng mà chuyện gì đã xảy ra với cô vậy? Cô có nhận ra mình đang nói về ai và về cái gì không đấy? Cũng còn chấp nhận được khi cô tự giải trí bằng cách ca tụng cái công trình rơi vãi nào đó của lão già Holcombe hoặc tụt quần chính cha cô cùng với cái thằng nhóc đỏm dáng như giai chụp ảnh lịch mà ông ta lấy làm cộng sự. Đằng nào thì mấy chuyện đó cũng chẳng ý nghĩa gì. Nhưng cô mang cái lối ấy ra để đánh giá một người như Roark... Cô biết không, tôi thực sự đã nghĩ là cô có sự chính trực và óc xét đoán - nếu như người ta cho cô một cơ hội để thể hiện chúng. Thực tế tôi đã từng nghĩ cô cư xử như một con chó động đực là để làm nổi rõ sự tầm thường của những kẻ ngu dốt mà cô cứ phải viết về các tác phẩm của chúng. Tôi đã không nghĩ rằng thực ra cô chỉ là một con chó cái vô trách nhiệm."

"Thế thì ông đã nhầm." cô nói.

Roger Enright bước vào văn phòng của cô một buổi sáng, và nói mà không hề chào hỏi:

"Lấy mũ của cô đi. Cô sẽ đi xem nó với tôi."

"Chào Roger." cô nói. "Xem cái gì cơ?"

"Tòa nhà Enright. Xem những gì đã được xây đến giờ."

"Ồ, tất nhiên rồi Roger," cô mỉm cười, đứng dậy, "tôi rất muốn xem tòa nhà Enright."

Trên đường đi cô hỏi: "Có chuyện gì thế Roger? Định hối lộ tôi?"

Ông ngồi cứng nhắc trên những tấm nệm lớn màu xám trong chiếc xe Limousine của mình, không nhìn cô. Ông trả lời: "Tôi có thể hiểu được sự độc ác do ngu ngốc. Tôi có thể hiểu sự độc ác do dốt nát. Tôi không thể hiểu được sự đồi bại có chủ tâm. Dĩ nhiên cô được tự do viết bất kỳ thứ gì cô muốn. Nhưng đó sẽ không phải là do ngu ngốc và đó sẽ không phải là do dốt nát."

"Ông đánh giá tôi quá cao đấy Roger ạ," cô nhún vai, và chẳng nói gì nữa trong phần còn lại của chuyến đi.

Họ cùng đi bộ qua cái hàng rào gỗ, vào khu rừng của thép trần và các tấm ván sắp trở thành tòa nhà Enright. Những gót giày cao của cô bước nhẹ nhàng trên các tấm ván bắn đầy vôi và cô bước đi, người ngửa ra sau, trong một sự tao nhã vô tư lự, đầy ngạo mạn. Cô dừng lại và ngắm nhìn bầu trời đóng trong một khung thép, bầu trời dường như xa hơn thường lệ, bị đẩy về phía sau bởi chiều dài cực lớn của các thanh xà. Cô ngắm những cái cốt thép sắp được dựng lên trong tương lai, ngắm những góc cạnh ngạo mạn, ngắm sự phức tạp đến khó tin của cái hình khối này, cái hình khối sắp được sinh ra với tư cách một chỉnh thể đơn giản, lô-gic, một bộ khung trần trụi với những mặt phẳng không khí tạo nên các bức tường, một bộ khung trần trụi trong một ngày mùa đông lạnh lẽo, với một cảm giác về sự sinh sôi và hứa hẹn, giống như một cái cây trơ trụi chỉ có một đốm nhỏ màu xanh.

"Ôi, Roger!"

Ông nhìn cô và thấy nét mặt mà người ta thấy trong các nhà thờ vào ngày lễ Phục sinh.

"Tôi không đánh giá thấp cả hai," ông nói khô khan. "Cả cô lẫn tòa nhà."

"Xin chào," một giọng trầm, mạnh mẽ vang lên bên cạnh họ.

Cô không bị sốc khi nhìn thấy Roark. Cô đã không nghe thấy anh đến gần, nhưng thật không bình thường nếu nghĩ đến tòa nhà này mà không nghĩ đến anh. Cô cảm thấy đơn giản là anh đang ở kia, rằng anh đã ở đó từ cái giây phút cô băng qua hàng rào phía ngoài, rằng cái cấu trúc này là anh, theo một cách riêng tư hơn cả cơ thể anh. Anh đứng trước mặt họ, bàn tay anh thọc vào túi một chiếc áo khoác rộng, đầu không đội mũ trong giá lạnh.

"Đây là cô Francon - đây là anh Roark," Enright nói.

"Chúng tôi đã gặp nhau một lần rồi," cô nói, "ở nhà Holcombe. Nếu anh Roark còn nhớ."

"Tất nhiên rồi, cô Francon," Roark nói.

"Tôi muốn cô Francon nhìn thấy nó," Enright nói.

"Tôi dẫn hai người đi xem được chứ?" Roark hỏi Enright.

"Vâng, xin mời." Dominique cướp lời.

Ba người cùng đi bộ qua công trình, và các công nhân chằm chằm nhìn Dominique một cách tò mò. Roark giải thích cách bố trí những căn phòng trong tương lai, hệ thống các thang máy, thiết bị sưởi, cách bố trí các cửa sổ - giống như anh giải thích cho một trợ lý của nhà thầu vậy. Cô đặt ra các câu hỏi còn anh trả lời.

"Không gian bao nhiêu mét khối, anh Roark?"

"Bao nhiêu tấn thép?"

"Cẩn thận những cái ống này đấy cô Francon. Bước theo lối này này."

Enright bước theo, mắt ông nhìn xuống mặt đất, chẳng quan sát gì cả. Nhưng rồi ông hỏi: "Thế nào rồi Howard?" và Roark mỉm cười, trả lời: "Trước kế hoạch hai ngày," và họ đứng trò chuyện về công việc, như những người anh em, quên mất cô trong một lát, những tiếng rền vang của máy móc xung quanh át cả những lời họ nói.

Cô nghĩ, khi đang đứng ở chính giữa tòa nhà, rằng nếu cô chẳng có gì của anh, chẳng có gì ngoại trừ cơ thể anh, thì phần còn lại của anh ở chính đây, mở toang cho cô nhìn và chạm vào, mở toang cho tất cả những người khác nữa - những xà nhà, những đường cáp và những khoảng không gian rộng lớn là của anh và không thể là của ai khác trên thế giới này; của anh, như khuôn mặt anh, như tâm hồn anh; đây chính là cái hình khối anh đã tạo ra và là cái tồn tại trong con người anh - cái khiến anh có khả năng tạo nên hình khối này, đây là nguyên nhân và kết quả cùng tồn tại trong một thực thể, là cái động lực sinh sôi tiềm ẩn trong mỗi thanh thép; đây là cái tôi của một con người, là cái tôi của cô vào khoảnh khắc này - của cô vì cô đã nhìn thấy nó và hiểu nó.

"Cô mệt à, cô Francon?" Roark hỏi, nhìn vào mặt cô.

"Không," cô nói, "không, không mệt chút nào. Tôi đang nghĩ - anh định dùng loại thiết bị nước nào ở đây vậy anh Roark?"

Vài ngày sau, trong phòng anh, ngồi trên mép chiếc bàn vẽ của anh, cô nhìn vào một tờ báo, vào cột báo của cô và những dòng chữ: "Tôi đã đến thăm địa điểm xây dựng tòa nhà Enright. Tôi ước gì một cuộc oanh tạc nào đó trong tương lai sẽ thả một quả bom làm nổ tung tòa nhà này, để nó biến mất khỏi mặt đất. Đó sẽ là một kết cục xứng đáng. Như thế sẽ tốt hơn nhiều so với việc phải thấy nó trở nên cũ kỹ và bám đầy bồ hóng, xuống cấp cùng những bức ảnh gia đình, những chiếc tất bẩn, những hộp pha cốc-tai và vỏ bưởi của những người sống trong tòa nhà đó. Không nên cho phép bất cứ một ai ở thành phố New York sống trong tòa nhà này."

Roark đến đứng bên cạnh cô, đôi chân anh áp vào đầu gối cô, và anh cúi nhìn tờ báo, mỉm cười.

"Em làm cho Roger hoàn toàn hoang mang vì bài báo này," anh nói.

"Ông ấy đã đọc nó rồi à?"

"Anh ở văn phòng ông ấy sáng nay khi ông ấy đọc nó. Đầu tiên, ông ấy gọi em bằng những cái tên anh chưa từng nghe thấy. Rồi ông ấy nói, khoan đã, và đọc lại nó, ông ấy nhìn lên, rất hoang mang nhưng không tức giận chút nào, và ông ấy nói nếu đọc nó theo một cách... nhưng nếu đọc theo cách khác..."

"Thế anh đã nói gì?"

"Chẳng gì cả. Em biết đấy, Dominique, anh rất cảm ơn, nhưng đến khi nào em mới thôi dành cho anh những mỹ từ to lớn như thế? Một ai đó có thể phát hiện ra. Và em sẽ không thích thế đâu."

"Một ai đó?"

"Em biết là anh đã hiểu, từ bài báo đầu tiên của em về tòa nhà Enright. Em đã muốn anh nhận ra những gì em viết. Chả lẽ em không nghĩ là có ai đó khác cũng có thể hiểu được cách làm của em à?"

"Vâng. Nhưng mà nếu họ hiểu thì hậu quả với anh sẽ tồi tệ hơn nhiều. Nếu họ hiểu, họ sẽ căm ghét anh hơn. Tuy nhiên em không biết ai là người để tâm đến chuyện này. Trừ khi đó là... Roark, anh nghĩ gì về Ellsworth Toohey?"

"Vì Chúa, tại sao lại phải nghĩ về Ellsworth Toohey?"

Cô thích những dịp hiếm hoi khi cô gặp Roark tại một bữa tiệc mà Heller hoặc Enright đưa anh tới. Cô thích cái tiếng "Cô Francon" lịch sự, lạnh lùng mà giọng anh phát ra. Cô thích thú khi thấy các chủ nhà tỏ ra hết sức lo lắng và cố gắng để cho hai người không chạm mặt nhau. Cô biết tất cả mọi người xung quanh họ đều mong đợi một trận chiến, một biểu hiện thù địch khó coi nào đó nhưng nó chẳng bao giờ tới. Cô không tìm kiếm Roark và cũng không tránh mặt anh. Họ nói chuyện với nhau nếu họ tình cờ bị đưa vào cùng một nhóm, giống như họ nói chuyện với bất kỳ ai khác. Việc đó chẳng đòi hỏi cố gắng nào cả; nó rất thực và phải phép, nó khiến mọi thứ trở nên phải phép, thậm chí cả bữa tiệc này. Cô tìm thấy một ý nghĩa sâu xa của sự hòa hợp chính nhờ vào cái thực tại là ở đây, giữa mọi người, họ được coi là những người xa lạ - xa lạ và thù địch. Cô nghĩ, những người này có thể suy đoán rất nhiều về quan hệ giữa anh và cô - ngoại trừ quan hệ thực giữa anh và cô. Nó khiến cho những giây phút giữa hai người trở nên to lớn hơn - những giây phút không bị chạm vào bởi cái nhìn của những kẻ khác, bởi lời nói của những kẻ khác, thậm chí không cả bởi sự suy đoán của họ. Cô nghĩ, cái đó không tồn tại ở đây, ngoại trừ tồn tại trong cô và trong anh. Cô cảm thấy một cảm giác chiếm hữu mà cô không thể cảm nhận ở bất kỳ nơi nào khác. Cô không bao giờ có thể sở hữu anh như cô sở hữu anh trong một căn phòng giữa những người lạ mặt, khi mà cô hiếm khi nào nhìn về hướng của anh.

Nếu cô liếc nhìn anh ngang qua căn phòng và thấy anh trò chuyện với những khuôn mặt thờ ơ, trống rỗng, cô quay đi, không quan tâm; nếu những khuôn mặt đó thù nghịch, cô quan sát một giây, hài lòng; cô tức giận khi cô thấy một nụ cười, một dấu hiệu của sự yêu mến hay đồng tình trên một gương mặt đang hướng về phía anh. Đó không phải là sự ghen tuông; cô không quan tâm liệu gương mặt đó là một người đàn ông hay một người đàn bà; cô tức giận vì sự đồng tình kia ám chỉ sự chia sẻ.

Cô bị hành hạ bởi những thứ vụn vặt: bởi con phố nơi anh sống, bởi bậc cửa nhà anh, bởi những chiếc xe hơi rẽ vào góc phố anh ở. Cô đặc biệt phẫn nộ với những chiếc xe hơi; cô ước gì cô có thể khiến chúng lái tiếp tới khu phố tiếp theo. Cô nhìn cái thùng rác trên bậc cửa nhà bên, và tự hỏi liệu nó có đứng đó khi anh đi qua, trên đường đến văn phòng vào sáng nay hay không, liệu anh có nhìn cái hộp thuốc lá nhàu nhĩ bên trên nó không.

Một lần, trong hành lang nhà anh, cô nhìn thấy một người đàn ông bước ra khỏi chiếc thang máy, cô bị sốc một giây; cô đã luôn cảm thấy như thể anh là cư dân duy nhất của ngôi nhà đó. Khi cô đi lên trong chiếc thang máy nhỏ tự động, cô đứng dựa vào tường, hai tay bắt chéo qua ngực, hai bàn tay ôm lấy hai vai, cảm thấy co ro và riêng tư như trong một căn buồng dưới một chiếc vòi hoa sen nước ấm vậy.

Cô nghĩ về điều đó trong lúc một quý ông nào đó đang kể cho cô về buổi trình diễn mới nhất ở rạp Broadway, trong khi Roark đang nhấm nháp một ly cốc-tai ở đầu kia của căn phòng, trong khi cô nghe thấy bà chủ nhà thì thầm với một ai đó rằng: "Lạy Chúa tôi, tôi không nghĩ là Gordon sẽ đưa Dominique đến - tôi biết Austen sẽ rất giận tôi, bởi vì cậu Roark bạn ông ta cũng ở đây, anh biết đấy."

Sau đó, khi nằm vắt ngang trên giường anh, hai mắt nhắm lại, hai má ửng đỏ, đôi môi ẩm ướt, rũ bỏ hết cảm giác về những quy tắc mà cô tự áp đặt lên mình, rũ bỏ hết cảm giác về những lời nói của mình, cô thì thầm: "Roark, có một người đàn ông nói chuyện với anh hôm nay, và ông ta cười với anh, đồ ngốc, đồ ngu ngốc kinh tởm, tuần trước ông ta đi xem hai diễn viên hài và ông ta cũng thích họ; em đã muốn bảo lão ấy: đừng nhìn anh ấy, ông sẽ không còn quyền muốn nhìn gì thì nhìn nữa, đừng có thích anh ấy, ông sẽ phải căm thù cả phần còn lại của thế giới đấy, thế đấy, đồ ngu ngốc, hoặc cái này hoặc cái kia, không thể cả hai thứ cùng lúc được, không thể nhìn chúng như nhau được, đừng nhìn anh ấy, đừng thích anh ấy, đừng tán thành, đó là điều em muốn nói với ông ta, ông ta và cả cái đám người còn lại nữa, em không thể chịu đựng khi nhìn thấy thế, em không thể chịu đựng được điều đó, bất kỳ thứ gì tách anh xa khỏi nó, khỏi thế giới của họ, khỏi tất cả bọn họ, bất kỳ thứ gì, Roark ạ..." Cô không nghe thấy những lời cô đang nói, cô không nhìn thấy anh đang mỉm cười, cô không nhận ra sự thấu hiểu trọn vẹn trên khuôn mặt anh, cô chỉ nhìn thấy khuôn mặt anh kề sát khuôn mặt cô, và cô chẳng có gì phải giấu anh, chẳng có gì không thể nói ra, mọi thứ đều được chấp nhận, được giải đáp, được tìm thấy.

*

* *

Peter Keating hoang mang. Sự tận tụy đột ngột của Dominique đối với sự nghiệp của anh dường như thật đáng kinh ngạc, đáng vui mừng, và lại mang lại lợi ích to lớn; mọi người đều bảo anh vậy; nhưng có những lúc anh không cảm thấy kinh ngạc, không cảm thấy vui mừng; anh cảm thấy bất an.

Anh cố tránh mặt Guy Francon. "Làm thế nào mà cậu làm thế được hả Peter? Cậu làm thế nào vậy?" Francon sẽ hỏi như vậy. "Con bé hẳn là phát điên lên vì cậu! Ai mà nghĩ rằng chính Dominique chứ không phải ai khác...? Và ai mà nghĩ là con bé có thể làm thế...? Nó đã khiến tôi thành triệu phú rồi nếu nó làm việc đấy năm năm trước. Nhưng mà, tất nhiên, một người cha thì không thể là nguồn cảm hứng giống như một..." Ông bắt gặp một cái nhìn tăm tối trên mặt Keating và thay đổi đoạn kết của câu nói thành "như là người đàn ông của nó, chúng ta có thể nói thế không nhỉ?"

"Nghe này, bác Guy," Keating cất tiếng rồi dừng lại, thở dài, và lẩm bẩm: "Xin bác, bác Guy, chúng ta không được..."

"Tôi biết, tôi biết, tôi biết mà. Chúng ta không được hấp tấp. Nhưng quỷ tha ma bắt, Peter, entre-nous giữa hai chúng ta với nhau, chuyện đó chẳng phải đã công khai như một cuộc đính hôn rồi hay sao? Thậm chí còn hơn thế. Và ồn ào hơn ý chứ." Rồi nụ cười biến mất, và khuôn mặt Francon trông ân cần, thanh thản, thật sự già nua - đấy là một trong những khoảnh khắc hiếm hoi mà phẩm chất đích thực của ông lóe lên. "Tôi thấy mừng, Peter ạ," ông nói một cách giản dị. "Đó là điều tôi đã muốn xảy ra. Tôi đoán là suy cho cùng, tôi luôn yêu quý Dominique. Tôi rất hạnh phúc. Tôi biết tôi sẽ giao con bé vào một chỗ tin cậy được. Con bé và mọi thứ khác nữa..."

"Thứ lỗi cho cháu. Cháu đang vội kinh khủng - cháu chỉ ngủ có hai tiếng đêm qua, nhà máy Colton, bác biết đấy, Chúa ơi, thật là một công trình lớn! - cũng nhờ có Dominique - nó là thứ giết người, nhưng bác hãy đợi đến khi bác nhìn thấy nó! Đợi đến khi bác nhìn thấy tờ séc nữa!"

"Con bé thật tuyệt, phải không? Hãy nói cho tôi nghe, tại sao nó lại làm thế? Tôi đã hỏi nó và tôi chẳng thể hiểu đầu đuôi những điều nó nói ra sao cả, nó nói với tôi những chuyện tào lao điên rồ nhất, cậu biết kiểu nói chuyện của nó đấy."

"À, chúng ta nên để ý, chừng nào mà cô ấy còn làm thế!"

Anh không thể nói cho Francon biết rằng anh không có câu trả lời; anh không thể thú nhận được là anh chưa gặp Dominique một mình suốt nhiều tháng trời; rằng cô từ chối gặp anh.

Anh còn nhớ cuộc trò chuyện riêng cuối cùng với cô - trong xe tắc-xi trên đường về từ buổi họp do Toohey tổ chức. Anh còn nhớ sự bình tĩnh lạnh lùng trong những lời lăng mạ cô dành cho anh - sự khinh miệt cùng cực khiến cho những lời lăng mạ được thốt ra mà không có dấu hiệu của giận dữ. Anh đã chờ đợi bất kỳ điều gì sau đó - ngoại trừ việc thấy cô trở thành người ủng hộ anh, thành người phát ngôn cho anh, thậm chí gần như là - người dắt khách cho anh. Đây chính là chỗ không ổn - anh tự nhủ - bởi vì mình có thể nghĩ ra những từ như "dắt khách" khi nghĩ về chuyện đó.

Anh đã thấy cô thường xuyên kể từ khi cô bắt đầu chiến dịch tình nguyện của cô; anh đã được mời đến những bữa tiệc của cô - và được giới thiệu tới những khách hàng tương lai của mình; nhưng cô chưa bao giờ cho phép anh ở một mình với cô dù chỉ một giây. Anh đã cố cảm ơn cô và chất vấn cô. Nhưng anh không thể cố ép một cuộc trò chuyện khi cô không muốn tiếp chuyện, trong lúc một đám khách tò mò xúm xít khắp xung quanh họ. Vì thế anh tiếp tục mỉm cười ngọt ngào - bàn tay cô đặt hờ hững trên ống tay áo đen của chiếc áo vét-tông ăn tối của anh, đùi cô hơi tựa lên đùi anh khi cô đứng cạnh anh, dáng điệu sở hữu và thân mật - trông nó càng thân mật bởi cô làm ra vẻ không hề nhận biết điều đó trong lúc cô nói cho cả một vòng người ngưỡng mộ đứng quanh cô những gì cô nghĩ về tòa nhà Cosmo-Slotnick. Anh nghe thấy những nhận xét ghen tỵ từ tất cả bạn bè của mình. Anh là người duy nhất ở thành phố New York - anh cay đắng tự nhủ - không nghĩ rằng Dominique Francon yêu anh.

Nhưng anh biết sự thất thường nguy hiểm trong những ý thích của cô, và đây là một ý thích quá có giá, cho nên anh không thể làm xáo trộn nó. Anh tránh xa cô và gửi hoa cho cô; anh để mình trôi tự do theo ý thích ấy và cố không nghĩ về nó; chỉ có một chút gợn trong suy nghĩ là vẫn còn - cái gợn mỏng manh về sự bất ổn.

Một ngày nọ, anh tình cờ gặp cô trong một nhà hàng. Anh thấy cô đang ăn trưa một mình và nắm lấy cơ hội đó. Anh đi thẳng đến bàn cô, quyết tâm cư xử như một người bạn cũ chẳng nhớ gì ngoài lòng tốt không thể tin được được của cô. Sau nhiều lời nhận xét vui vẻ về may mắn của mình, anh hỏi: "Dominique sao em lại từ chối gặp anh?"

"Em gặp anh để làm gì nhỉ?"

"Nhưng vì Chúa toàn năng!..." Lời nói đó buột ra vô tình, với một âm thanh quá gay gắt, biểu thị một tức giận bị kìm hãm đã lâu, và anh vội vàng chữa lại, mỉm cười: "Thì, em không nghĩ là em nợ anh một cơ hội được cảm ơn em à?"

"Anh đã cảm ơn em rồi. Nhiều lần."

"Ừ, nhưng em không nghĩ là chúng ta thực sự phải gặp riêng hay sao? Em không nghĩ rằng anh hơi... hoang mang hay sao?"

"Em chưa nghĩ đến điều đó. Vâng, em cho là anh sẽ có thể như thế."

"Rồi sao?"

"Rồi sao cái gì?"

"Rút cục những chuyện này là thế nào?"

"Là... cho đến giờ thì là năm mươi nghìn đô la, em nghĩ thế."

"Em đang tàn nhẫn đấy."

"Muốn em dừng lại không?"

"Ồ không! Tức là, không phải..."

"Không phải là các công trình. Được thôi. Em sẽ không dừng chúng lại. Anh thấy chưa? Chúng ta đã có chuyện gì để nói cơ chứ? Em đang làm nhiều việc cho anh và anh thì hài lòng là em làm những việc ấy - và như thế chúng ta hoàn toàn đồng ý với nhau."

"Em quả là biết nói những chuyện hài hước nhất trên đời! Hoàn toàn đồng ý. Cái này vừa thừa, lại vừa thiếu, đúng không? Chúng ta còn có thể cư xử thế nào trong hoàn cảnh này? Em không hy vọng là anh phải phản đối những gì em đang làm, đúng không?

"Không, em không hy vọng."

"Nhưng đồng ý không phải là từ diễn tả điều anh cảm nhận. Anh biết ơn em rất nhiều, đến mức anh thấy choáng váng - anh bị nốc-ao - nào, đừng để anh bắt đầu nói chuyện ngớ ngẩn, anh biết em không thích thế - nhưng anh quá biết ơn em, đến nỗi anh không biết phải làm gì với bản thân mình nữa."

"Tốt, Peter. Giờ thì anh đã cảm ơn em rồi đấy."

"Em thấy đấy, anh chưa bao giờ dám nghĩ rằng em đánh giá cao hoặc quan tâm hoặc là để ý một tí nào đến công việc của anh. Thế mà rồi em... Đó là điều khiến anh rất hạnh phúc và... Dominique," anh hỏi và giọng anh hơi đứt quãng, vì câu hỏi như một cái móc đang kéo căng một sợi dây dài, khuất, và anh biết nó dẫn tới cốt lõi cái cảm giác bất ổn trong anh, "em có thực sự nghĩ là anh là một kiến trúc sư lớn không?"

Cô mỉm cười chậm rãi. Cô nói: "Peter, nếu người ta nghe thấy anh hỏi thế, họ sẽ cười đấy. Đặc biệt là lại hỏi em."

"Ừ, anh biết, nhưng... nhưng em có thực sự nghĩ thế không, những thứ mà em nói về anh?"

"Chúng có tác dụng."

"Ừ, nhưng có phải đó là lý do em chọn anh? Vì em nghĩ anh giỏi?"

"Công việc của anh đang rất chạy. Đó không phải là bằng chứng hay sao?"

"Ừ... Không... Ý anh là... theo một nghĩa khác... Ý anh là... Dominique này, anh muốn nghe em nói một lần, chỉ một lần thôi, rằng anh..."

"Nghe này, Peter, em sẽ phải đi bây giờ, nhưng trước khi đi em phải nói với anh là bà Lonsdale có thể sẽ gọi anh vào ngày mai hoặc ngày kia. Hãy nhớ rằng bà ấy là một người ủng hộ những gì cấm kỵ, yêu chó, ghét phụ nữ hút thuốc, và tin vào sự đầu thai. Bà ấy muốn nhà bà ấy đẹp hơn là nhà bà Purdee - Holcombe thiết kế nhà của Purdee - vì thế nếu anh nói với bà ấy là nhà bà Purdee trông phô trương và rằng sự đơn giản thực sự tốn nhiều tiền hơn nhiều thì mọi việc sẽ ổn. Anh có thể tán chuyện về đồ thêu dùng kim mũi nhỏ nữa. Đó là sở thích của bà ấy."

Anh bước đi, sung sướng nghĩ về ngôi nhà của bà Lonsdale, và anh quên mất câu hỏi của mình. Về sau, anh nhớ ra nó một cách tức tối, và anh nhún vai tự bảo mình rằng cái tốt nhất trong những gì Dominique làm để giúp anh chính là việc cô ta không muốn gặp anh.

Như một sự bù đắp, anh tìm thấy vui thú trong việc tham dự những buổi gặp mặt của Hội đồng Các nhà Xây dựng Hoa Kỳ do Toohey dựng lên. Anh không biết vì sao anh lại nghĩ về nó như một sự bù đắp, nhưng anh quả có nghĩ như thế và điều đó làm anh yên tâm. Anh lắng nghe chăm chú khi Gordon L. Prescott phát biểu về ý nghĩ của ngành kiến trúc.

"Và vì thế ý nghĩa nội tại của nghề của chúng ta nằm ở cái thực tế triết học rằng chúng ta làm việc với cái trống rỗng. Chúng ta tạo nên khoảng trống rỗng mà trong đó những cơ thể vật lý chuyển động - để tiện lợi, chúng ta sẽ tạm gọi những cơ thể đó là con người. Và khi nói đến khoảng trống rỗng, ý tôi nói tới cái mà người ta vẫn thường gọi là các căn phòng. Như vậy, chỉ có kẻ thiếu chuyên môn ngu ngốc mới nghĩ là chúng ta xây nên những bức tường đá. Chúng ta không hề làm chuyện đó. Chúng ta dựng nên khoảng trống, như tôi đã chứng minh. Điều này dẫn chúng ta tới một hệ quả có tầm quan trọng cực lớn: tới việc thừa nhận vô điều kiện giả thuyết rằng 'sự không có' còn siêu việt hơn 'sự có'. Nghĩa là, tới việc chấp nhận cái không-được-chấp-nhận. Tôi sẽ nói điều này bằng những từ ngữ đơn giản hơn - để làm rõ hơn mọi việc: 'cái-không-gì-cả' là siêu việt hơn 'cái-có-gì-đó'. Vì thế, rõ ràng là người kiến trúc sư không chỉ là một người đi đặt những viên gạch - vì thực tế của những viên gạch dù gì cũng chỉ là một ảo tưởng thứ cấp. Kiến trúc sư là một linh mục siêu hình học, người làm việc với những thứ thuộc về bản chất, người có cam đảm để đối mặt với cái khái niệm nguyên thủy của thực-tại như là giả-thực-tại - bởi vì có cái-không-gì-cả và anh ta tạo ra cái thực-thể-không-gì-cả. Nếu điều này nghe có vẻ như một nghịch lý thì nó không phải là một bằng chứng của sự thiếu lô-gíc, mà là của một siêu lô-gíc - đấy là phép biện chứng của tất cả cuộc sống và nghệ thuật. Nếu anh dùng khái niệm cơ bản này trong các phép suy luận tất yếu, anh có thể đi đến những kết luận có tầm quan trọng to lớn về xã hội. Anh có thể thấy rằng một người phụ nữ đẹp không ưu việt bằng một người không-đẹp, rằng người biết đọc biết viết thì không ưu việt bằng người mù chữ, rằng người giàu có không ưu việt bằng người nghèo, và người có năng lực không bằng người kém năng lực. Kiến trúc sư là một minh họa cụ thể của một nghịch lý vĩ đại. Chúng ta hãy khiêm tốn trong niềm tự hào vĩ đại khi nhận ra điều này. Mọi thứ khác đều là chuyện nhảm nhí."

Người ta không thể lo lắng về giá trị bản thân hay về sự vĩ đại khi lắng nghe điều này. Nó khiến cho sự tự tôn trở nên không cần thiết.

Keating lắng nghe với sự thỏa mãn tràn ngập. Anh liếc nhìn những người còn lại. Có một sự im lặng chăm chú trong khán giả; tất cả họ đều thích nó như anh thích vậy. Anh thấy một anh chàng đang nhai kẹo cao su, một người đàn ông kị móng tay mình bằng mép của một tập tài liệu bằng bìa cứng, một cậu trai trẻ vươn vai một cách thô lỗ. Cái đó cũng làm Keating hài lòng; cứ như thể họ nói: Chúng ta vui mừng lắng nghe những điều siêu phàm, nhưng không cần phải quá cung kính trước những điều siêu phàm.

Hội đồng những Nhà Xây dựng Hoa Kỳ họp mặt mỗi tháng một lần và không tham gia vào một hoạt động cụ thể nào cả, ngoài việc nghe các bài diễn văn và nhấm nháp một loại bia rẻ tiền. Thành viên của nó không tăng nhanh cả về chất lượng và số lượng. Nó không có một thành tựu cụ thể nào cả.

Những buổi gặp mặt của Hội đồng được tổ chức trong một căn phòng lớn, bỏ không, bên trên một gara ở phía Tây thành phố. Một cầu thang dài, hẹp, không được thông hơi, dẫn đến một cánh cửa có ghi tên Hội đồng; bên trong có những chiếc ghế gấp, một chiếc bàn cho chủ tịch và một thùng rác. Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ coi Hội đồng những Nhà Xây dựng Hoa Kỳ là một trò đùa ngu xuẩn. "Mất thời gian với mấy trò họp hành vô bổ đó làm gì?" Trong những căn phòng thắp sáng trưng, đầy những vải lụa của Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ, Francon hỏi Keating câu đó, mũi ông chun lại với một vẻ thích thú khinh khỉnh. "Cháu mà biết thì đã tốt" Keating trả lời vui vẻ. "Cháu thích chúng." Ellsworth Toohey tham dự mọi buổi họp mặt của Hội đồng, nhưng không phát biểu. Ông ngồi trong một góc và lắng nghe.

Một đêm Keating và Toohey đi bộ về nhà cùng nhau sau cuộc họp mặt. Họ đi qua những đường phố tối, tồi tàn của khu phía Tây, và dừng lại để uống một tách cà phê ở một hiệu thuốc xơ xác. "Hiệu thuốc thì đã sao nào?" Toohey cười lớn khi Keating nhắc ông về những nhà hàng đã trở nên nổi tiếng nhờ sự xuất hiện thường xuyên của ông. "Ít nhất thì ở đây sẽ không ai nhận ra và làm phiền chúng ta cả."

Ông phả một luồng khói từ điếu thuốc lá Ai Cập của mình vào một tấm biển Coca-Cola đã bạc màu trong góc ngồi của họ; ông gọi một cái bánh mì kẹp, ông nhẹ nhàng cắn một lát dưa chuột muối trông như thể đã lốm đốm vết ủng mặc dù thực tế không phải như vậy, và ông nói chuyện với Keating. Ông nói nhát gừng. Ban đầu, những gì ông nói không quan trọng; cái quan trọng chính là giọng ông, cái giọng nói vô song của Ellsworth Toohey. Keating cảm thấy như thể anh đang đứng giữa một đồng bằng rộng lớn, dưới những ngôi sao, được ôm ấp và được sở hữu, trong sự chắc chắn, trong an toàn.

"Thiện tâm, Peter ạ," cái giọng ấy nói khẽ, "thiện tâm. Đó là điều răn đầu tiên, có thể là điều răn duy nhất. Đó là lý do tại sao tôi đã phải phê phán vở kịch mới đó trong bài báo của tôi hôm qua. Vở kịch đó thiếu cái thiện tâm cơ bản. Chúng ta phải có thiện tâm, Peter ạ, với tất cả mọi người quanh chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận và tha thứ - có rất nhiều điều phải tha thứ trong mỗi chúng ta. Nếu cậu học cách yêu tất cả mọi thứ, cả những thứ tầm thường nhất, những thứ nhỏ mọn nhất, những thứ đê tiện nhất, thì rồi cái đê tiện nhất trong cậu sẽ được yêu mến. Rồi chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của sự bình đẳng đại đồng, sự yên bình vĩ đại của tình anh em, một thế giới mới, Peter ạ, một thế giới mới tươi đẹp..."

IX.

H

ồi lấy vòi nước phun vào người Johny Stokes thì Ellsworth Monkton Toohey mới lên bảy tuổi. Lúc ấy Johnny đang đi ngang qua bãi cỏ nhà Toohey, xúng xính trong bộ lễ phục dành riêng cho ngày Chủ nhật. Johnny khao khát một bộ lễ phục như thế này từ một năm rưỡi nay. Mẹ cậu ta rất nghèo. Ellsworth không chơi trò ném đá giấu tay mà hành động rất đàng hoàng, với sự tính toán cẩn thận. Cậu bé bước tới chỗ vòi nước, vặn van rồi cầm vòi đứng giữa bãi cỏ nhắm thẳng hướng Johnny mà phun - cú nhắm thật hoàn hảo vì mẹ Johnny lúc đó đang đi sau cậu ta vài bước, còn cha mẹ Ellsworth và cả ngài mục sư đang ghé thăm nhà đều nhìn được toàn bộ sự việc. Johnny là một đứa trẻ nhanh nhẹn, với hai má lúm đồng tiền và những lọn tóc quăn; mọi người thường ngoái nhìn Johnny Stokes. Không ai ngoái nhìn Ellsworth bao giờ.

Tất cả những người lớn có mặt ở đó sửng sốt và kinh ngạc đến mức trong một lúc lâu, mọi người đều đứng ngây ra thay vì chạy lại ngăn Ellsworth. Cậu bé gầy gò gồng mình chống lại cái vòi nước đang giật mạnh trong tay cậu ta, quyết không cho nó rời khỏi mục tiêu cho đến khi đã thỏa mãn. Sau đó, cậu ta để nó rơi xuống, nước văng tung tóe trên bãi cỏ. Cậu đi hai bước về hiên nhà và dừng lại chờ đợi, đầu ngẩng cao, sẵn sàng đón nhận sự trừng phạt. Sự trừng phạt lẽ ra đã đến từ Johnny nếu như mẹ cậu bé không kịp giữ chặt cậu ta lại. Ellsworth không buồn ngoái lại phía mẹ con Stoke; cậu bé ngước nhìn cha mẹ và ông mục sư, cất tiếng nói chậm rãi, rành mạch: "Johnny là đồ bắt nạt trẻ con đáng ghét. Ở trường nó đã đánh tất cả bọn con." Chuyện này có thật.

Chuyện trừng phạt Ellsworth hay không trở thành một vấn đề đạo đức. Kể cũng khó trừng phạt Ellsworth dù bằng cách nào đi nữa: cậu bé quá gầy, sức khỏe lại yếu. Ngoài ra, có vẻ sai trái nếu đi phạt một thằng bé dũng cảm đã liều mình chống lại sự bất công, bất chấp việc nó chỉ là một đứa trẻ yếu ớt. Dù thế nào đi nữa, thằng bé cũng giống như một kẻ tử vì đạo vậy. Ellsworth không nói thế; cậu ta không hề nói gì; đấy là câu của mẹ cậu ta. Ông mục sư có vẻ đồng tình với bà. Hôm ấy Ellsworth phải đi ngủ mà không được ăn tối. Cậu bé không phàn nàn gì. Cậu ta ngồi ngoan ngoãn trong phòng, từ chối cả thức ăn mà bà mẹ giấu chồng kín đáo tuồn cho cậu lúc đêm khuya. Ông Toohey khăng khăng đòi được đền tiền bộ quần áo của Johnny. Bà Toohey rầu rĩ chấp thuận. Bà vốn không thích bà Stoke.

Cha của Ellsworth quản lý chi nhánh tại Boston của một công ty kinh doanh giày có mạng lưới cửa hàng trên khắp cả nước. Ông nhận một mức lương khiêm tốn nhưng đủ sống, có một ngôi nhà khiêm tốn nhưng chấp nhận được tại một khu ngoại ô xoàng xĩnh của Boston. Ông có một nỗi buồn mà ông luôn giấu kín; đó là việc ông không thể tự lập một doanh nghiệp riêng của chính mình. Ông là một người đàn ông trầm tính, chu đáo, và chính việc sớm lấy vợ đã dập tắt mọi hoài bão của ông.

Mẹ của Ellsworth là một người đàn bà gầy gò, trông lúc nào cũng có vẻ bồn chồn. Bà đã theo và từ bỏ năm thứ đạo khác nhau trong vòng chín năm. Bà có nét mặt khá đẹp, nhưng là một dạng vẻ đẹp chỉ bừng nở ngắn ngủi trong những năm đẹp nhất của người con gái. Ellsworth là sự sống của bà. Chị gái của Ellsworth, Helen, hơn cậu năm tuổi, là một đứa trẻ ngoan, không có gì nổi bật, không đẹp lắm nhưng cũng dễ coi và khỏe mạnh. Trong khi đấy Ellsworth sinh ra đã là một đứa trẻ ốm yếu. Bà mẹ tôn thờ cậu ta kể từ giây phút bác sĩ tuyên bố rằng cậu ta không đủ khả năng sống sót; điều đó làm cho bà cảm thấy lớn vụt lên về tinh thần - khi bà nghĩ đến cái tình yêu bao la mà bà dành cho một sinh linh không mấy hy vọng như thế. Đứa bé Ellsworth càng xanh xao và xấu xí, tình yêu của bà cho cậu bé càng lớn lên. Bà gần như thất vọng khi cậu sống sót mà không trở thành một kẻ tàn tật. Bà ít quan tâm đến Helen; yêu Helen thì có gì là cao quý. Cô bé rõ ràng là đáng yêu, đến mức dường như việc từ chối tình yêu với cô bé mới là công bằng.

Ông Toohey, vì những lý do mà ông không thể giải thích, không ưa con trai mình. Tuy vậy, Ellsworth vẫn là kẻ thống trị trong nhà, nhờ sự phục tùng tự nguyện, không tuyên bố của cha mẹ cậu bé mặc dù người cha không bao giờ hiểu nguồn gốc sự phục tùng của ông.

Vào các buổi tối, dưới ánh đèn trong phòng khách, bà Toohey thường cất tiếng bằng một giọng căng thẳng, đầy thách thức, với thái độ tức tối và thua cuộc ngay từ đầu: "Horace, em muốn có một cái xe đạp. Một cái xe đạp cho Ellsworth. Tất cả lũ trẻ tuổi nó đều có. Willie Lovett vừa mua một cái mới hôm trước xong. Horace, em muốn mua một cái xe cho Ellsworth."

"Không phải bây giờ, Mary" - ông Toohey trả lời một cách mệt mỏi - "Có thể mùa hè tới... Bây giờ thì chúng ta không có tiền..."

Bà Toohey sẽ tranh cãi, giọng bà rít lên từng quãng, thành một tiếng gào.

"Mẹ, để làm gì chứ?" - Ellsworth nói, giọng cậu nhẹ, trầm và rõ ràng, thấp hơn giọng của cha mẹ nhưng lại cắt ngang giọng họ, oai vệ, đầy sức thuyết phục. "Có rất nhiều thứ cần thiết cho chúng ta hơn là một cái xe đạp. Ai mà thèm quan tâm đến Willie Lovett chứ. Con không thích Willie. Nó là đồ ngốc. Willie mua được xe vì bố nó có hiệu thuốc riêng. Bố nó là đồ hợm hĩnh. Con không muốn có xe đạp."

Tất cả những lời này đều đúng và Ellsworth quả thực không muốn có xe đạp. Nhưng ông Toohey nhìn cậu bé một cách lạ lùng, tự hỏi cái gì làm cho con mình nói thế. Ông thấy hai mắt con trai mình đang nhìn mình một cách trống rỗng qua cặp kính nhỏ; hai con mắt không trìu mến, cũng không trách cứ, cũng không ác ý, chỉ trống rỗng. Ông Toohey cảm thấy ông phải biết ơn con trai ông vì đã thấu hiểu - đồng thời thầm ước giá như thằng bé không nói đến cái hiệu thuốc riêng.

Ellsworth không có được chiếc xe đạp. Nhưng cậu bé có được sự trọng vọng trong nhà - một sự quan tâm đầy kính trọng - theo kiểu nhẹ nhàng, tội lỗi của bà mẹ, và kiểu bất ổn, nghi ngại của người cha. Ông Toohey sẵn sàng làm bất cứ cái gì khác thay cho việc phải ngồi nói chuyện với Ellsworth và ông luôn đồng thời cảm thấy vừa ngu ngốc lại vừa tức giận với bản thân vì sự sợ hãi này.

"Horace, em muốn có một bộ vét mới. Một bộ mới cho Ellsworth. Hôm nay em nhìn thấy một bộ trong cửa hàng và em..."

"Mẹ, con có bốn bộ vét. Con cần thêm một bộ nữa làm gì? Con không muốn trông lố bịch như Pat Noonan; mỗi ngày nó mặc một bộ mới. Tại vì bố nó có cửa hàng kem riêng. Nó để ý đến quần áo như con gái. Con không muốn là đồ mít ướt."

Thỉnh thoảng ông Toohey nghĩ một cách vui sướng và lo sợ rằng Ellswoth sẽ trở thành một vị thánh; cậu bé không hề quan tâm đến vật chất; không một chút nào. Điều này đúng. Ellsworth không quan tâm đến vật chất.

Cậu bé gầy gò, xanh xao, hay đau bụng và mẹ cậu phải để ý đến việc ăn kiêng cũng như bệnh lạnh đầu thường xuyên của cậu. Trong cái khổ người yếu ớt, giọng nói âm vang của cậu làm người ta kinh ngạc. Cậu hát trong ban lễ ở nhà thờ - ở đó cậu không có đối thủ. Ở trường, cậu là một học sinh gương mẫu. Cậu luôn luôn thuộc bài, sách vở ngăn nắp nhất lớp, móng tay gọn gàng, thích đi học Kinh Thánh ngày Chủ nhật và thích đọc sách hơn là các trò chơi thể thao vì cậu chẳng thể làm gì với các trò thể thao. Cậu không thực sự giỏi toán - cậu ghét toán - nhưng cậu học rất giỏi lịch sử, tiếng Anh, đạo đức, làm văn; và sau này là tâm lý và xã hội học.

Cậu học chăm chỉ và cần mẫn. Cậu không giống như Johnny Stokes - đứa trẻ không bao giờ lắng nghe trong lớp, hiếm khi mở sách ở nhà nhưng biết mọi thứ trước khi giáo viên giải thích. Việc học đến với Johnny một cách tự động, như tất cả những thứ khác - như hai nắm tay nhỏ nhưng khỏe của cậu ta, thân thể khỏe mạnh của cậu ta, vẻ đẹp trai của cậu ta, sức sống mãnh liệt ở cậu ta. Nhưng Johnny luôn làm những thứ gây sốc và không được trông đợi; còn Ellsworth làm những thứ mà người ta trông đợi - và làm tốt hơn bất cứ ai đã từng làm. Khi phải viết luận, Johnny thường làm cả lớp sửng sốt bằng một bài luận nổi loạn rất hùng hồn. Giả sử như phải viết về chủ đề "Những ngày đi học - thời kỳ đẹp đẽ nhất", thì Johnny sẽ viết một bài luận rất hùng hồn về việc cậu ta ghét trường học thế nào và vì sao. Ellsworth viết một bài thơ về niềm vui của những ngày đi học - bài thơ được in lại trong một tờ báo địa phương.

Thêm nữa, Ellsworth luôn đánh bại Johnny trong những gì liên quan đến tên tuổi và ngày tháng. Trí nhớ của Ellsworth giống như là xi-măng lỏng; nó đóng cứng lại tất cả những gì rơi vào đó. Johnny như một vòi nước nóng phụt lên, Ellsworth như một miếng mút thấm nước.

Bọn trẻ gọi Ellsworth là "Elsie Toohey". Chúng thường để cậu bé làm theo ý mình và tránh né cậu khi có thể, thường là không công khai. Chúng không hiểu được Ellsworth. Cậu sẵn lòng giúp đỡ và tỏ ra đáng tin cậy khi có ai đó cần giúp đỡ làm bài; cậu có kiểu châm chọc nanh nọc và có thể làm bất cứ đứa trẻ nào thấy tổn thương bằng những cái tên nhạo "trúng huyệt"; cậu vẽ những hình biếm họa chết người trên các hàng rào; cậu có tất cả các đặc điểm của một đứa bé gái nhõng nhẽo, nhưng bằng cách nào đó, bọn trẻ không coi cậu là con gái; cậu quá tự tin và luôn có một kiểu cao ngạo lặng lẽ với tất cả mọi người. Cậu không sợ bất cứ cái gì.

Ellsworth có thể tiến thẳng đến cậu bé khỏe nhất, ngay giữa đường, không giận dữ - chưa ai từng nhìn thấy Ellsworth giận dữ - không lên giọng mà nói rành mạch bằng cái giọng vang xa đến vài khối nhà "Johnny Stokes có nốt ruồi ở mông. Johnny Stokes sống ở nhà thuê. Willie Lovett là một thằng đần. Pat Noonan là đồ ăn cá sống." Johnny không bao giờ đánh Ellsworth và những thằng bé khác cũng thế; bởi vì Ellsworth đeo kính.

Cậu không thể tham gia các trận đấu bóng và là đứa trẻ duy nhất khoe khoang về điều này thay vì cảm thấy tức giận hay xấu hổ như những đứa trẻ yếu sức khác. Cậu coi thể thao là một trò thô bạo và công khai tuyên bố như vậy. Trí óc - cậu nói - mạnh hơn cơ bắp; và cậu tin như thế.

Cậu không có một người bạn thân nào. Cậu được coi là đứa trẻ vô tư và không thể bị mua chuộc. Có hai sự việc xảy ra trong thời thơ ấu của cậu mà mẹ cậu hết sức tự hào.

Một lần, Willie Lovett, cậu bé giàu có và được yêu mến, tổ chức một bữa tiệc sinh nhật trùng với tiệc của Drippy Munn (Munn thò lò mũi xanh), con trai của một thợ may góa chồng. Không ai nhận thiệp mời của Drippy, trừ những đứa trẻ chưa bao giờ được mời tới bất cứ một tiệc sinh nhật nào. Ellsworth Toohey là đứa trẻ duy nhất đã từ chối Willie Lovett để đi dự tiệc của Drippy - một bữa tiệc hết sức buồn tẻ mà cậu ta chẳng hề thích thú. Kẻ thù của Willie cười nhạo Willie hàng tháng trời sau đó vì Willie đã bị từ chối và xếp sau Drippy Munn.

Một lần khác, Pat Noonan hối lộ Ellsworth một túi kẹo gôm để đổi lấy việc được chép bài thi. Ellsworth nhận túi kẹo gôm và để Pat chép bài. Một tuần sau, Ellsworth đi thẳng đến chỗ giáo viên, đặt túi kẹo còn nguyên xuống bàn và thú nhận mọi việc nhưng nhất định không chịu nói tên kẻ hối lộ. Người giáo viên cố gắng hết sức để bắt Ellsworth mở miệng nhưng cậu bé giữ im lặng và giải thích rằng kẻ hối lộ từng là một trong những học sinh giỏi nhất trường và cậu không muốn hy sinh thành tích của kẻ đó để đổi lấy sự thanh thản của chính cậu. Cậu là người duy nhất bị trừng phạt - hình phạt là ở lại trường hai tiếng sau giờ học. Sau đó, thầy giáo của cậu phải bỏ qua chuyện này và giữ nguyên điểm bài kiểm tra. Tuy thế, nghi ngờ bắt đầu xuất hiện xung quanh điểm thi của Johnny Stokes, Pat Noonan và tất cả những đứa trẻ học giỏi trong lớp, trừ Ellsworth Toohey.

Năm Ellsworth lên 11, mẹ cậu qua đời. Dì Adeline, người em gái chưa chồng của ông Toohey đến sống với họ và trông nom nhà cửa. Dì Adeline là một người phụ nữ cao, tự chủ, chất phác và có khuôn mặt dài. Bí mật buồn bã trong cuộc đời bà là bà chưa bao giờ biết đến chuyện yêu đương. Bà lập tức tỏ ra hết sức yêu mến Helen và coi Ellsworth như một con quỷ nhỏ thoát ra từ địa ngục. Nhưng Ellsworth luôn luôn tỏ ra hết sức lịch thiệp đối với dì Adeline. Cậu nhảy ra nhặt khăn mùi xoa cho bà, kéo ghế cho bà khi họ có khách - nhất là khách nam. Cậu gửi quà cho bà vào Lễ Tình Nhân - quà gồm hoa hồng, thơ tình, giấy bóng cắt hình trái tim. Cậu cao giọng hát bài Adeline nhân hậu một cách hết sức nhiệt tình. Một lần, bà nói với cậu "Mày là đồ sâu bọ, Elsie. Mày sống bằng sự đau khổ của người khác." Cậu trả lời "Thế thì cháu sẽ không bao giờ chết đói." Sau một thời gian, hai người đi đến tình trạng thờ ơ nhưng cảnh giác với nhau. Bà Adeline để mặc Ellsworth lớn lên theo ý cậu.

Ở trường trung học, Ellsworth trở nên nổi tiếng - cậu là ngôi sao về hùng biện. Trong nhiều năm, trường cậu thường nói đến một đứa trẻ có khả năng hùng biện bằng cụm từ "một Toohey mới". Cậu chiến thắng trong mọi cuộc thi. Sau đó, khán giả bao giờ cũng chỉ nhớ đến "cái cậu bé đẹp đẽ" mà quên đi thân hình bé nhỏ, ốm yếu, bộ ngực lép kẹp, đôi chân kỳ quặc và đôi mắt cận của cậu; họ chỉ nhớ giọng nói. Cậu chiến thắng trong mọi cuộc tranh luận. Cậu có thể chứng minh bất cứ điều gì. Một lần, sau khi đánh bại Willie Lovett bằng bài hùng biện ủng hộ chủ đề "Ngòi bút mạnh hơn thanh kiếm", cậu thách Willie đổi vị trí, để cậu là người phản bác lại chủ đề; và cậu đánh bại Willie lần nữa.

Cho đến tuổi mười sáu, Ellsworth mong muốn trở thành một mục sư. Cậu nghĩ rất nhiều về tôn giáo. Cậu nói chuyện về Chúa và linh hồn. Cậu đọc rất nhiều về lĩnh vực này. Cậu đọc nhiều sách về lịch sử nhà thờ hơn các sách về đức tin. Cậu làm cho các thính giả rơi nước mắt trong một cuộc hùng biện cảm động với chủ đề "Những con chiên ngoan đạo sẽ làm chủ trái đất".

Cũng lúc này, Ellsworth bắt đầu kết bạn. Cậu thích nói về đức tin và tìm thấy những người muốn nghe về điều này. Có điều, cậu nhận ra những đứa trẻ thông minh, khỏe mạnh và nhanh nhẹn trong lớp thường không bao giờ cần nghe và không hề cần đến cậu. Trái lại, những kẻ thấp cổ bé họng và ốm yếu thường vây quanh cậu. Munn thò lò mũi xanh bắt đầu đi theo cậu với một vẻ tận tụy của một con chó. Billy Wilson mất mẹ và bắt đầu lảng vảng quanh nhà Ellsworth vào các buổi tối, để ngồi trên hiên với Ellsworth, lắng nghe, thỉnh thoảng lại rùng mình, không nói gì, hai mắt mở to, khô khốc và cầu xin. Dix còm - vốn bị bại liệt bẩm sinh - thì nằm trên giường chăm chăm nhìn qua cửa sổ ra góc đường để chờ Ellsworth đến. Hazelton cáu-kỉnh bị thi trượt và thường ngồi hàng giờ khóc lóc trong lúc Ellsworth đặt tay lên vai an ủi.

Không ai biết rõ những đứa trẻ kia tìm ra Ellsworth hay Ellsworth tìm ra chúng. Mọi việc xảy ra như một quy luật của tạo hóa: như thể tạo hóa không để lọt một kẽ hở nào, do đó mà Ellsworth và sự đau khổ tìm đến với nhau. Cậu nói với những đứa trẻ kia bằng cái giọng trầm ấm:

"Đau khổ là tốt. Đừng phàn nàn. Hãy chịu đựng, cúi đầu, chấp nhận - và hãy biết ơn vì Chúa đã ban cho cậu đau khổ. Bởi vì chính đau khổ làm cậu tốt hơn những kẻ đang cười vui và hạnh phúc. Nếu cậu không hiểu điều này, cũng đừng cố mà hiểu. Tất cả những thứ tồi tệ đều đến từ cái đầu vì cái đầu hỏi quá nhiều câu hỏi. Thật phước hạnh khi được tin mà không cần hiểu. Vì vậy, nếu cậu thi trượt, hãy vui vì điều đó. Nó có nghĩa là cậu tốt hơn những đứa thông minh - chúng nghĩ quá nhiều và quá dễ dàng."

Mọi người đều bảo, thật cảm động khi thấy lũ trẻ tìm đến với Ellsworth. Sau khi làm bạn với Ellsworth một thời gian, bọn chúng không thể rời cậu ra được. Cậu cứ như một thứ thuốc phiện.

Năm Ellsworth mười lăm tuổi, cậu làm cho giáo viên dạy Kinh Thánh ngạc nhiên khi đặt một câu hỏi kỳ quặc. Lúc đó, người thầy giáo đang giải thích câu "Một người sẽ được gì khi anh ta có cả thiên hạ nhưng lại để mất linh hồn mình?" và Ellsworth hỏi "Như vậy, để có thể thực sự giàu có, thì một người nên thu lượm linh hồn?" Người thầy giáo đang định hỏi Ellsworth xem cậu có ý quái gì nhưng rồi ông ta bình tĩnh lại và chỉ hỏi Ellsworth cậu có ý gì. Ellsworth không giải thích.

Năm mười sáu tuổi, Ellsworth không còn hứng thú tới tôn giáo nữa. Cậu phát hiện ra các lý thuyết phát triển xã hội.

Sự thay đổi này làm dì Adeline bị sốc. "Thứ nhất là nó báng bổ và ngớ ngẩn" - bà nói - "thứ hai là nó chẳng có nghĩa gì cả. Tao ngạc nhiên về mày đấy Elsie. Quan tâm đến những kẻ nghèo đức tin thì còn được, đằng này quan tâm đến kẻ nghèo - nghe chả ra làm sao. Mà thế cũng chẳng giống mày lắm. Mày không đủ khả năng làm những thứ lớn lao. Mày chỉ làm được những thứ nho nhỏ. Elsie, cái thứ điên khùng đấy ở chỗ khác. Nó không hợp với mày. Không hợp với mày tí nào cả." Ellsworth trả lời "Thứ nhất, dì Adeline thân mến, đừng gọi cháu là Elsie. Thứ hai, dì sai rồi."

Sự thay đổi có vẻ hợp với Ellsworth. Cậu không trở thành một kẻ cuồng tín quá khích. Cậu trở nên nhẹ nhàng hơn, ít nói hơn, khiêm tốn hơn. Cậu tỏ ra ân cần với mọi người. Cứ như thể, cái gì đó đã xoa dịu những dây thần kinh căng thẳng trong cậu và làm cậu có một sự tự tin mới. Những người xung quanh bắt đầu thích cậu. Dì Adeline thôi không còn lo lắng. Có vẻ cậu chẳng định làm gì với những thứ lý thuyết cách mạng đó cả. Cậu không tham gia bất cứ đảng phái chính trị nào. Cậu đọc rất nhiều và tham gia vài buổi họp kín, ở đó cậu có phát biểu một hai lần, không thật xuất sắc; chủ yếu cậu ngồi trong góc, nghe, quan sát và suy nghĩ.

Ellsworth vào Harvard. Mẹ cậu đã viết trong di chúc rằng tất cả các khoản tiền bảo hiểm nhân thọ phải được dùng vào mục đích này. Thành tích học tập của Ellsworth ở Harvard thật đáng nể. Cậu theo môn lịch sử. Dì Adeline đã hy vọng cậu sẽ học kinh tế và xã hội học; bà nửa lo sợ rằng cậu sẽ trở thành một người làm công tác xã hội. Nhưng cậu không làm thế. Cậu chăm chú vào môn văn và các ngành nghệ thuật. Điều này làm bà hơi hoang mang; đấy là một cái mới của Ellsworth; cậu chưa bao giờ cho thấy thiên hướng về lĩnh vực nghệ thuật. "Mày không hợp với nghệ thuật đâu Elsie" - bà nói "mày không hợp." Ellsworth trả lời: "Dì sai rồi."

Quan hệ của Ellsworth với các bạn học là thành tựu lạ lùng nhất của cậu tại Harvard. Cậu làm cho mình được chấp nhận. Giữa những bạn bè thuộc hàng con ông cháu cha, cậu không giấu diếm thân phận khiêm tốn của mình; cậu thậm chí phóng đại nó. Cậu không nói rằng cha cậu quản lý một cửa hàng bán giày, cậu nói rằng cha cậu là người đóng giày. Cậu nói mà không hề tỏ ra giận dữ, cay đắng hay cao ngạo; cậu nói như thể đấy là một trò đùa của số phận với cậu và - nếu người ta nhìn kỹ nụ cười của cậu - cả một trò đùa với họ nữa. Cậu cư xử như thể cậu là con nhà quý tộc; không phải kiểu quý tộc hợm mình mà là một nhà quý tộc tự nhiên, vô tư, và đang cố gắng để không tỏ ra trưởng giả. Cậu lịch sự, không phải theo kiểu một người lịch sự để cầu xin ân huệ, mà là lịch sự theo kiểu một người ban phát ân huệ. Thái độ ấy của Ellsworth lan tỏa khắp nơi. Bạn bè không chất vấn sự ưu việt của cậu; họ coi sự ưu việt bẩm sinh ấy tồn tại thực. Ban đầu, việc gọi Ellsworth bằng cái tên "giáo sĩ Toohey" có vẻ là một trò đùa vui vẻ; về sau, nó trở thành một thứ biệt danh và thành mốt. Nếu đây là một chiến thắng thì Ellsworth có vẻ như không nhận thấy nó; cậu tỏ ra không quan tâm. Cậu hành xử giữa những thanh niên đang lớn này như một người đàn ông tự tin với một kế hoạch rõ ràng, một kế hoạch dài hạn đã được hoạch định từng chi tiết, như một người luôn luôn chú tâm tới mọi biến động nhỏ trên đường mình đi. Nụ cười của cậu có một vẻ bí hiểm, kín đáo - đấy là nụ cười của một chủ cửa hàng đang nhẩm tính lời lãi - mặc dù có vẻ như chẳng có gì đặc biệt đang xảy ra.

Cậu không nói về Chúa và sự cao quý của đau khổ. Cậu nói về cộng đồng. Cậu chứng minh cho thính giả trong những buổi thảo luận kéo dài đến sáng rằng tôn giáo đẻ ra sự ích kỷ bởi vì - cậu khẳng định - tôn giáo quá nhấn mạnh tầm quan trọng của linh hồn cá nhân; vì tôn giáo rao giảng về duy nhất một thứ là sự cứu rỗi với linh hồn mỗi cá thể.

"Để đạt tới đức hạnh trong ý nghĩa tuyệt đối của nó" - Ellsworth nói - "một người phải sẵn sàng mắc những tội ác ghê tởm nhất trong tâm hồn anh ta vì lợi ích của đồng loại. Hy sinh xương máu không là gì cả. Hy sinh linh hồn mới là hành động đức hạnh duy nhất. Các cậu nghĩ rằng mình yêu thương đám đông nhân loại ư? Các cậu chẳng biết gì về tình yêu thương cả. Các cậu đóng 2 đô la cho quỹ đình công và các cậu nghĩ là các cậu đã hoàn thành bổn phận ư? Các cậu thật ngốc! Chẳng có thứ quà tặng nào đáng giá trừ khi nó là thứ quý giá nhất mà ta có. Hãy dâng hiến linh hồn các cậu. Vì một sự nghiệp dối trá ư? Phải, nếu những người khác tin sự nghiệp đó. Vì sự lừa lọc ư? Phải, nếu người khác cần sự lừa lọc ấy. Vì sự phản bội, bất lương, tội ác ư? Phải! Vì bất cứ cái gì mà các cậu vẫn cho là xấu xa và thấp kém nhất. Chỉ khi các cậu có thể coi thường cái tôi nhỏ mọn của các cậu, thì các cậu mới vươn tới được sự thật, tới sự thanh thản lớn lao của lòng vị tha, tới việc hòa trộn tâm hồn mình với tâm hồn chung bao la của nhân loại. Không có chỗ cho tình yêu với người khác khi chúng ta vẫn chăm chăm giữ lấy cái tôi nhỏ mọn của mình. Phải có chỗ trống thì mới có thể được lấp đầy. "Kẻ nào yêu cuộc sống của mình, kẻ đó sẽ mất cuộc sống ấy; kẻ nào căm ghét cuộc sống của mình trong thế giới này, kẻ đó sẽ có cuộc sống đời đời". Những kẻ rao giảng Kinh Thánh trong nhà thờ đã nói đúng, có điều họ không biết họ đúng ở chỗ nào. Hy sinh bản thân ư? Phải, các bạn của tôi, hãy hy sinh bản thân. Nhưng người ta không thể hy sinh bản thân bằng cách giữ bản thân mình thanh sạch và tự hào về sự thanh sạch của nó. Hy sinh nghĩa là phải hủy diệt cả tâm hồn của chính mình - à, nhưng mà tôi đang nói cái gì thế này. Điều này chỉ có những người cao cả mới hiểu được và đạt được."

Cậu không thành công lắm với những người bạn nghèo khổ phải tự làm việc kiếm tiền trong lúc đi học. Cậu có một lượng tín đồ khá lớn trong số những kẻ con nhà, những đứa trẻ thuộc thế hệ thứ hai hay thứ ba của các triệu phú. Cậu giới thiệu cho họ một thứ mục đích mà họ cảm thấy họ có thể đạt được.

Ellsworth tốt nghiệp loại ưu. Khi anh đến New York, anh đã có sẵn một danh tiếng nho nhỏ; một vài lời đồn đại đã lan truyền từ Harvard về một chàng trai khác thường có tên Ellsworth Toohey; một vài người trong số những người đặc biệt có học và đặt biệt giàu có đã nghe thấy những lời đồn đại này và lập tức quên những lời ấy nhưng họ nhớ cái tên; nó đọng lại trong trí óc họ với những âm hưởng mơ hồ về sự thông minh, lòng dũng cảm, và lý tưởng.

Người ta bắt đầu tìm đến Ellsworth Toohey - những loại người nhất định, những người nhanh chóng tìm thấy ở Ellsworth một thủ lĩnh tinh thần. Có những loại người không đến - hình như phải có một thứ bản năng nhất định để có thể đến với Ellsworth. Khi một ai đó nhận xét về sự trung thành của các tín đồ với Toohey - anh không có tước hiệu, không có chương trình hay tổ chức, nhưng bằng cách nào đó những người xung quanh anh được gọi là tín đồ - một đối thủ của Toohey đã nói: "Toohey hấp dẫn những loại gì có tính dính. Các vị biết có hai thứ dính nhất trên đời: bùn và hồ." Toohey nghe được chuyện này; anh nhún vai, mỉm cười và nói "Ôi dào, còn nhiều loại nữa chứ: vữa, đỉa, kẹo kéo, tất ướt, mủ cao su, kẹo cao su, và pút-đinh sắn." Và anh bỏ đi, không quên nói vọng qua vai, mặt lạnh tanh: "Và xi-măng."

Anh lấy bằng thạc sĩ từ một trường đại học ở New York và viết luận văn tốt nghiệp với đề tài "Nhưng đặc điểm chung của kiến trúc các thành phố trong thế kỷ 19". Anh kiếm sống theo một lối bận rộn, đa dạng, và đứt đoạn: không ai có thể theo dõi được các hoạt động của anh. Anh giữ một chức tư vấn nghề nghiệp ở trường đại học; anh viết bài phê bình sách, kịch, triển lãm; anh viết các bài báo, và thỉnh thoảng phát biểu ở các cuộc hội họp nhỏ, hơi khác thường. Khi viết bài phê bình, anh có xu hướng chọn các tiểu thuyết về nông thôn hơn là về thành phố, về những người người bình thường hơn là về các vĩ nhân, về những người ốm hơn là người khỏe mạnh; có một vẻ đặc biệt trong cách viết của anh khi anh nói đến những câu chuyện về "những con người bé nhỏ"; "có tính người" là vị ngữ yêu thích của anh; anh thích nhân vật suy nghĩ hơn là nhân vật hành động và thích việc mô tả nhân vật hơn là việc nghiên cứu nhân vật; anh ưa các tiểu thuyết không có cốt truyện và hơn cả là tiểu thuyết không có nhân vật anh hùng.

Anh được coi là người tư vấn nghề nghiệp xuất sắc. Văn phòng nhỏ của anh ở trường đại học trở thành một phòng xưng tội không chính thức để sinh viên mang các vấn đề - cả trong học hành lẫn đời riêng - đến xưng tội. Anh sẵn lòng thảo luận - với cùng một mối quan tâm dịu dàng và cảm thông - về việc chọn lớp học, về các mối tình, hay về việc chọn lựa nghề nghiệp tương lai (cái cuối cùng này là sở trường của anh).

Khi tư vấn về các mối tình, Toohey thường khuyên sinh viên theo đuổi những mối tình lãng mạn với một cô nàng hay anh chàng dễ dãi - kiểu một mối tình chỉ kéo dài qua vài bữa tiệc say xỉn. "Hãy sống hiện đại một chút" - anh khuyên. Nhưng khi đó là một tình yêu sâu sắc, đầy lửa, thì anh thường khuyên sinh viên từ bỏ. "Hãy suy nghĩ như người lớn nào" - anh nói. Khi một cậu bé đến thú nhận cảm giác xấu hổ sau một kinh nghiệm tình dục không mấy thú vị, Toohey bảo cậu bé hãy từ bỏ suy nghĩ ấy đi: "Thế là tốt lắm rồi đấy. Có hai thứ chúng ta phải sớm từ bỏ trong cuộc sống: thứ nhất là cảm giác mình ưu việt hơn người khác và thứ hai là việc coi trọng tình dục một cách quá mức."

Người ta nhận thấy Toohey hiếm khi khuyên một sinh viên theo đuổi nghề nghiệp mà cậu ta đã lựa chọn. "Không, tôi sẽ không theo ngành luật nếu tôi là cậu. Cậu quá căng thẳng và say mê nó. Nếu người ta tận tụy quá mức với sự nghiệp thì người ta không thể nào hạnh phúc hay thành công được. Sẽ có lý hơn nhiều nếu cậu chọn một nghề nào mà cậu có thể suy nghĩ bình tĩnh, khách quan và thực tế về nó. Phải, kể cả nếu cậu ghét nó. Như thế mới là thực tế." "Không, tôi sẽ không khuyên cậu tiếp tục học nhạc. Việc cậu chơi nhạc dễ dàng như thế chứng tỏ rằng tài năng của cậu rất hạn chế. Đấy chính là vấn đề - cậu say mê nó. Cậu không nghĩ rằng lý do đấy nghe rất trẻ con sao? Hãy từ bỏ đi. Phải, kể cả nếu như điều đó rất khó khăn." "Không, tôi xin lỗi, tôi rất muốn có thể nói là tôi đồng tình, nhưng mà tôi lại không. Khi cậu nghĩ đến kiến trúc, đấy là một lựa chọn hoàn toàn ích kỷ, phải không? Cậu có nghĩ đến cái gì khác ngoài sự thỏa mãn của bản thân cậu không? Hãy nhớ rằng nghề nghiệp của một người có liên quan đến toàn xã hội. Đầu tiên, cậu phải đặt câu hỏi cậu có thể làm gì có ích nhất cho đồng bào của mình. Không nên hỏi cậu sẽ lấy gì được của xã hội, mà phải hỏi cậu sẽ mang lại gì cho xã hội. Và khi nghĩ đến chuyện phục vụ xã hội, thì chẳng có nghề gì có thể so được với nghề bác sĩ phẫu thuật. Hãy nghĩ kỹ đi."

Sau khi rời trường, một số sinh viên của anh thành công, một số khác thất bại. Chỉ có một người tự tử. Người ta nói rằng Ellsworth đã có một ảnh hưởng lớn tới họ - bởi vì họ không bao giờ quên anh; họ tìm đến anh để được tư vấn về rất nhiều thứ; nhiều năm sau, họ vẫn viết thư cho anh, bám lấy anh. Họ như những cỗ máy không có nút tự khởi động mà phải được ai đó khởi động hộ từ bên ngoài. Ellsworth lại luôn dành thời gian cho họ.

Cuộc sống của anh bận rộn, công khai và ít riêng tư như là một quảng trường thành phố. Người nào làm việc vì người khác thì không thể có những người bạn riêng tư được. Người ta tìm đến anh; anh không tiến đến gần với bất cứ ai. Anh tiếp nhận tất cả. Tình yêu mến của anh như vàng ròng, êm ái và công bằng, như một bãi cát trải dài, không có ngọn gió nào làm xuất hiện đụn cao đụn thấp, chỉ có cát phẳng lặng và mặt trời rực rỡ trên cao.

Anh dùng thu nhập ít ỏi của mình để đóng góp từ thiện cho rất nhiều tổ chức. Anh không bao giờ cho bất cứ ai vay một đồng nào. Anh không bao giờ yêu cầu những người bạn giàu có của anh trực tiếp giúp đỡ những người đang thiếu thốn; nhưng anh lấy từ họ những khoản tiền lớn để đưa cho các tổ chức từ thiện: các nhà tế bần, các trung tâm phục hồi sức khỏe, nhà phục hồi nhân phẩm cho phụ nữ, trường học cho trẻ tàn tật. Anh có chân trong hội đồng quản lý của nhiều tổ chức - mà không nhận lương. Rất nhiều các hoạt động từ thiện và các sách báo có tư tưởng cách tân khác nhau đều có chung một mắt xích giữa chúng, một mẫu số chung: cái tên Ellsworth Toohey trên các giấy tờ hành chính. Anh là kiểu người quản lý công ty kinh doanh lòng từ thiện.

Phụ nữ không có vai trò trong cuộc sống của anh. Tình dục chưa bao giờ hấp dẫn anh. Những thôi thúc thất thường, lén lút của anh thường hướng về các cô gái trẻ, mảnh dẻ, ngực và mông lớn, nhưng ít học - kiểu như những cô phục vụ hay cười khúc khích, những cô thợ sơn sửa móng tay thơn thớt nói cười, những cô nàng đánh máy thuê chậm chạm; cái kiểu phụ nữ mặc váy màu hồng hoặc tím, đội những cái mũ nhỏ ở phía sau đầu trong khi phía trước để xòa những lọn tóc vàng. Anh thờ ơ với những phụ nữ có học.

Anh cho rằng gia đình là một tổ chức tư sản nhưng anh không công khai phản đối nó và cũng không đấu tranh đòi hỏi tình yêu vô điều kiện trong gia đình. Chủ đề tình dục làm anh buồn chán. Anh cho rằng người ta ồn ào một cách quá đáng về cái thứ chết tiệt ấy; nó không có gì quan trọng; chẳng có vấn đề gì là quá quan trọng trên thế giới này.

Năm tháng trôi qua; mỗi ngày bận rộn của Toohey như một đồng xu nhỏ bỏ một cách nhẫn nại vào trong một cái máy đếm xu khổng lồ mà không thèm liếc nhìn số tiền tổng cộng, cũng không cần rút ra. Dần dần, một trong số các hoạt động của ông bắt đầu nổi bật lên so với các hoạt động khác; ông được biết đến như nhà phê bình nổi tiếng về kiến trúc. Ông viết về kiến trúc cho ba tạp chí vốn nổi lên ồn ào trong vài năm rồi lần lượt thất bại: tờ Những tiếng nói mới, tờ Những con đường mới, và tờ Những chân trời mới. Tờ thứ tư, Những mặt trận mới, sống sót. Ellsworth Toohey là người duy nhất không chết chìm trong những vụ đắm tàu trước đó. Phê bình kiến trúc là một lĩnh vực chẳng mấy người quan tâm; chỉ một vài người viết và càng ít người hơn đọc nó. Toohey nhờ thế có được tiếng tăm và gần như một sự độc quyền. Những tạp chí lớn hơn bắt đầu gọi điện cho ông mỗi khi họ cần đến cái gì có liên quan tới kiến trúc.

Năm 1921, cuộc sống riêng của Toohey có một thay đổi nhỏ: cháu gái ông, Catherine Hasley, con gái của chị Helen, đến sống với ông. Cha ông mất đã lâu và dì Adeline đã biến mất vào trong đói nghèo ở một thị trấn nhỏ nào đó. Sau cái chết của cha mẹ Catherine, không có ai chăm sóc cô bé. Toohey đã không định nuôi cô bé ở nhà mình. Nhưng khi Catherine bước xuống khỏi tàu hỏa ở New York, khuôn mặt nhỏ nhắn của cô trong một khoảnh khắc trông thật đẹp đẽ, cứ như thể cả một tương lai đang mở rộng trước mặt cô và ánh sáng của nó đã phủ lên trán cô, cứ như thể cô háo hức, tự hào và sẵn sàng gặp nó. Đấy là một trong những khoảnh khắc hiếm hoi mà một con người bình thường đột ngột nhận ra mình là trung tâm thế giới và cái nhận thức đó làm cho họ trở nên đẹp đẽ; và thế giới - trong mắt những người nhìn thấy họ - trông tốt đẹp hơn vì có cái trung tâm như vậy. Ellsworth Toohey nhìn thấy điều này và quyết định rằng Catherine phải sống cùng ông.

Năm 1925, cuốn Những lời răn trên đá xuất bản - và đi kèm với nó là sự nổi tiếng.

Ellsworth Toohey trở thành một thứ mốt. Những chủ nhà trí thức tranh nhau mời ông. Một vài người không thích ông và cười nhạo ông. Nhưng nhìn chung, người ta chẳng cảm thấy thỏa mãn nhiều khi cười nhạo Ellsworth Toohey bởi vì ông luôn là người đưa ra những nhận xét báng bổ nhất về bản thân mình. Một lần, ở một bữa tiệc, một thương gia tự mãn và quê mùa lắng nghe Toohey trình bày các quan điểm xã hội một lúc rồi nói một cách cao ngạo "Dào, tôi chẳng biết mấy về những thứ học thức này nọ. Tôi đầu cơ chứng khoán." Toohey đáp lại "Tôi đầu cơ tâm hồn. Và tôi thường bán tháo."

Hệ quả quan trọng nhất của cuốn Những lời răn trên đá là việc Toohey ký hợp đồng phụ trách một cột báo hàng ngày cho tờ Ngọn cờ New York của Gail Wynand.

Hợp đồng này làm cho những tín đồ của cả Toohey lẫn tờ Ngọn cờ đều ngạc nhiên và ban đầu thì làm cho tất cả mọi người nổi giận. Toohey đã thường xuyên nhắc đến Wynand và thường chẳng mấy kính trọng; trong khi đó, các tờ báo của tập đoàn Wynand đã gọi Toohey bằng đủ mọi thứ tên mà người ta có thể được phép in lên mặt báo. Nhưng tập đoàn Wynand không có nguyên tắc nào ngoài việc phản ảnh những gì mà nhiều người tin nhất, và điều này khiến nó liên tục thay đổi hướng đi mặc dù, tựu chung lại, người ta vẫn có thể thấy cái đích chung của nó: hướng tới những độc giả ít chính kiến, thiếu trách nhiệm, sáo rỗng và ủy mị. Các tờ báo của tập đoàn Wynand chống lại những người có đặc quyền và ủng hộ quần chúng bình dân, nhưng theo một cách kỳ quặc: chúng vạch trần các tập đoàn độc quyền, chúng ủng hộ đình công và nhiều thứ khác - nhưng chỉ khi chúng muốn thế. Chúng lên án Phố Wall, lên án chủ nghĩa xã hội và hò hét đòi có những bộ phim sạch sẽ - tất cả đều nhiệt tình như nhau. Chúng the thé và om sòm - và về bản chất - hầu như ôn hòa một cách buồn tẻ. Ellsworth Toohey là một người quá cực đoan để có thể phù hợp với tờ Ngọn cờ.

Tuy thế, các nhân viên của tờ Ngọn cờ cũng dễ dãi như chính sách của tờ báo. Nhân viên ở đây gồm tất cả những ai biết cách chiều lòng công chúng hoặc một phần lớn công chúng. Người ta đã nói "Gail Wynand không phải là con lợn. Ông ta ăn tạp." Ellsworth Toohey thì nổi tiếng, công chúng thì đột nhiên quan tâm đến kiến trúc; mà tờ Ngọn cờ thì chưa có tiếng nói về phần kiến trúc nên tờ Ngọn cờ phải mua Ellsworth Toohey. Đây chỉ là một lô-gíc đơn giản.

Và như thế, mục Một tiếng nói nhỏ ra đời.

Tờ Ngọn cờ giải thích sự xuất hiện của mục này bằng cách tuyên bố: "Vào thứ Hai, tờ Ngọn cờ sẽ giới thiệu với quý vị một người bạn mới - Ellsworth M. Toohey, người mà các bạn đã đọc và yêu thích quyển sách Những lời răn trên đá của ông. Cái tên Toohey đồng nghĩa với ngành kiến trúc vĩ đại. Ông sẽ giúp các bạn hiểu tất cả những gì các bạn muốn biết về sự kỳ diệu của các công trình hiện đại. Hãy theo dõi mục Một tiếng nói nhỏ vào ngày thứ Hai. Chỉ xuất hiện duy nhất trên tờ Ngọn cờ của thành phố New York." Người ta không đả động chuyện cái tên Toohey còn đồng nghĩa với cái gì.

Ellsworth Toohey không tuyên bố cũng không giải thích với bất cứ ai. Ông không đếm xỉa đến những người bạn khóc lóc với ông rằng ông đã bán rẻ bản thân. Ông cứ thế đi làm. Mỗi tháng một lần, ông dành mục Một tiếng nói nhỏ để bàn về kiến trúc. Thời gian còn lại, ông viết về bất cứ cái gì ông muốn - miễn có tác dụng lôi kéo hàng triệu người.

Toohey là nhân viên duy nhất trong tập đoàn Wynand được phép viết bất cứ thứ gì ông muốn. Ông đã kiên quyết yêu cầu điều này. Tất cả mọi người đều coi đó là một chiến thắng lớn, trừ Ellsworth. Ông nhận ra nó có thể có một trong hai nghĩa: hoặc Wynand đã tự nguyện cúi mình trước uy tín của ông, hoặc Wynand coi thường ông đến mức để mặc ông muốn làm gì thì làm.

Một tiếng nói nhỏ dường như không bao giờ phát biểu điều gì nguy hiểm, cách mạng và hiếm khi bàn chuyện chính trị. Nó chỉ rao giảng những vấn đề đạo lý mà hầu hết mọi người đều đồng tình, như chuyện lòng ích kỷ, tình bằng hữu, sự công bằng. "Tôi muốn tốt bụng hơn là muốn đúng." "Lòng trắc ẩn đứng cao hơn công lý; lòng tốt đơn giản đứng cao hơn lòng tốt duy lý." "Đứng về mặt giải phẫu - và có lẽ cả về các mặt khác - thì trái tim là bộ phận quan trọng nhất của chúng ta. Bộ não là một cơ quan lừa dối." "Trong các vấn đề tâm linh, có một bài kiểm tra nhỏ và chính xác: tất cả những gì xuất phát từ cái tôi đều là xấu xa, tất cả những gì xuất phát từ tình yêu với người khác đều là tốt đẹp." "Phụng sự là dấu hiệu duy nhất của sự cao quý. Tôi không thấy có gì xúc phạm trong việc lấy phân bón làm biểu tượng cao nhất cho số phận con người: chính phân bón làm ra lúa mì và hoa hồng." "Nếu một người anh dũng hơn những người khác, anh ta đang lăng mạ những người kia. Chúng ta không nên mong muốn những phẩm chất mà người khác không thể chia sẻ." "Tôi chưa từng thấy một thiên tài hay anh hùng nào mà, nếu phải cầm một que diêm cháy, lại cảm thấy ít đau hơn những người anh em vô danh khác của họ." "Thiên tài là một sự phóng đại tầm vóc. Chứng phù thũng cũng như vậy. Cả hai có thể chỉ là một loại bệnh." "Lột bỏ làn da, tất cả chúng ta đều là anh em với nhau và tôi sẽ sẵn sàng lột da nhân loại để chứng minh điều đó một lần."

Trong các văn phòng của tờ Ngọn cờ, Ellsworth Toohey được đối xử một cách tôn trọng và được mặc kệ. Người ta thì thào rằng Gail Wynand không ưa Toohey - bởi vì Wynand luôn luôn lịch sự với ông ta. Alvah Scarret cố uốn mình đến mức độ thân mật nhưng vẫn giữ một khoảng cách thận trọng. Có một thế cân bằng không lời và cảnh giác giữa Toohey và Scarret: họ hiểu lẫn nhau.

Toohey không hề cố gắng tiếp cận Wynand. Toohey dường như thờ ơ với tất cả những người coi tờ Ngọn cờ là quan trọng. Ông tập trung vào những người khác.

Toohey tổ chức một câu lạc bộ cho những nhân viên của Wynand. Đấy không phải là một công đoàn, chỉ là một câu lạc bộ. Họ họp một tháng một lần trong một thư viện của tờ Ngọn cờ. Họ không bàn những chuyện lương bổng, số giờ làm việc hay tình trạng làm việc; họ không có chương trình cụ thể nào cả. Mọi người chỉ làm quen, nói chuyện và nghe các thuyết trình. Ellsworth Toohey là người thuyết trình chính. Ông nói về những chân trời mới và về báo chí như tiếng nói của quần chúng. Gail Wynand xuất hiện một lần tại cuộc họp; ông bước vào đột ngột ngay giữa buổi họp. Toohey mỉm cười và mời ông tham gia câu lạc bộ; Toohey tuyên bố rằng Wynand có đủ tư cách tham gia. Wynand không tham gia. Ông ngồi nghe chừng nửa giờ, rồi ngáp, đứng dậy và bỏ đi trước khi cuộc họp kết thúc.

Alvah Scarret đánh giá cao việc Toohey đã không xen vào công việc của mình, nhất là trong lĩnh vực chính sách của tờ báo. Để đáp lại điều này, Scarret để Toohey được giới thiệu nhân viên mới mỗi khi có một vị trí khuyết người, đặc biệt là nếu như vị trí đó chẳng mấy quan trọng; về cơ bản, Scarret không quan tâm trong khi Toohey rất coi trọng chuyện này, ngay cả khi đấy chỉ là một vị trí đọc bản thảo để soát lỗi chính tả. Những người Toohey giới thiệu luôn được nhận. Hầu hết họ là những người trẻ, ngạo mạn, tài giỏi, có đôi mắt gian giảo và bắt tay rất lỏng lẻo. Họ còn có những đặc điểm tương đồng khác nữa ngoài những thứ hiển hiện nói trên.

Có một vài cuộc họp hàng tháng mà Toohey tham dự thường xuyên: cuộc họp của Hiệp hội những Nhà Xây dựng Hoa Kỳ, cuộc họp của Hội Nhà văn Hoa Kỳ và cuộc họp của Hiệp hội Họa sĩ Hoa Kỳ. Ông là người tổ chức những cuộc họp này.

Lois Cook là chủ tịch Hội Nhà văn Hoa Kỳ. Hội này họp trong phòng khách nhà chị ở khu Bowery. Chị là người nổi tiếng duy nhất của hội. Số còn lại gồm một người đàn bà chưa từng viết chữ in trong các sách của bà ta, một người đàn ông không bao giờ dùng dấu phẩy; một thanh niên đã viết một cuốn tiểu thuyết dày một ngàn trang mà không có một chữ o; một người khác đã viết những vần thơ không hề có vần hay điệu; một người đàn ông để râu quai nón, được tiếng là trí tuệ, và đã chứng minh điều đó bằng cách cứ mười trang viết lại có một trang in tất cả những từ bậy bạ trên bản thảo; một cô gái bắt chước Lois Cook, có điều phong cách của cô ta ít nổi bật hơn; khi người ta yêu cầu giải thích, cô ta nói rằng đấy là cách mà cô ta nhìn thấy cuộc sống qua các lăng kính vô thức của cô ta - "Các vị biết lăng kính sẽ làm gì với ánh sáng, phải không?" - cô ta hỏi. Có một thanh niên trẻ luôn được gọi là thiên tài Ike, mặc dù không ai biết anh ta đã làm gì, ngoài việc anh ta nói rất nhiều về chuyện yêu thích mọi thứ trong cuộc sống.

Hội Nhà văn ký một tuyên bố chung, rằng các nhà văn là người phục vụ của công chúng nghèo khổ - dĩ nhiên, bản tuyên bố không được viết đơn giản như vậy; nó dài dòng và nhiệt huyết hơn nhiều. Bản tuyên bố được gửi cho mọi tờ báo trong cả nước. Nó không bao giờ được in, trừ trên trang 32 của tờ Những mặt trận mới.

Chủ tịch của Hội Họa sĩ Hoa Kỳ là một thanh niên nhợt nhạt chuyên vẽ những gì anh ta nhìn thấy trong những giấc mơ hàng đêm. Một thành viên nam của hội không bao giờ dùng vải vẽ mà làm gì đó với những cái lồng chim và máy hát; một người khác thì phát hiện ra một kỹ thuật vẽ mới: anh ta bôi đen cả trang giấy và sau đó vẽ bằng tẩy. Có một phụ nữ trung tuổi, cao to, luôn vẽ trong trạng thái vô thức - chị ta tuyên bố rằng mình không bao giờ nhìn vào tay trong lúc vẽ và hoàn toàn không biết tay mình đang vẽ gì; tay tôi - chị ta nói - được dẫn dắt bởi linh hồn của người tình trong mộng mà tôi chưa bao giờ gặp. Trong các buổi họp của hội, họ không nói nhiều về quần chúng nghèo khổ mà chỉ lên tiếng kêu gào chống lại sự bạo ngược của thực tại và những thứ khách quan.

Một vài người bạn nói với Ellsworth Toohey rằng ông đã không nhất quán; họ nói ông đã phản đối sâu sắc chủ nghĩa cá nhân, thế mà rồi tất cả những nhà văn và họa sĩ của ông - tất cả bọn họ đều là những kẻ tôn thờ chủ nghĩa cá nhân. Toohey mỉm cười dịu dàng và trả lời: "Anh thực sự nghĩ thế à?"

Không ai coi những hội đồng này là nghiêm túc. Mọi người bàn tán về chúng, bởi vì chúng là đề tài thú vị cho các cuộc chuyện phiếm; mọi người đều nghĩ chúng vô thưởng vô phạt nên chúng chẳng có hại gì. "Các vị nghĩ thế thật sao?" - Toohey nói.

Ellsworth Toohey năm nay 41 tuổi. Ông sống trong một căn hộ sang trọng nhưng quá khiêm tốn so với mức thu nhập mà ông có thể có nếu ông mong muốn. Ông thích dùng từ "bảo thủ" để nói về một khía cạnh của mình: gu ăn mặc bảo thủ. Chưa một ai nhìn thấy ông nổi giận. Phong cách của ông không bao giờ biến đổi; nó như nhau ở một buổi tiếp tân, trong một cuộc họp công đoàn, trên bục giảng, trong nhà tắm hay trong lúc quan hệ tình dục: luôn luôn bình tĩnh, tự chủ, hài hước, và hơi kẻ cả.

Mọi người ngưỡng mộ khiếu hài hước của ông. Họ nói ông là người có khả năng tự giễu bản thân. "Tôi là một người nguy hiểm. Ai đó nên cảnh báo với các vị về tôi" - ông nói với mọi người như thế, bằng giọng điệu của người đang tuyên bố một điều lố bịch nhất trên đời.

Trong rất nhiều danh hiệu mà người ta phong cho ông, ông ưa nhất danh hiệu: Ellsworth Toohey, người theo chủ nghĩa vị nhân sinh.

X.

T

òa nhà Enright House khánh thành vào tháng sáu năm 1929.

Không có lễ khánh thành chính thức nào. Tuy nhiên, Roger Enright muốn đánh dấu sự kiện này theo ý muốn riêng của ông. Ông mời một vài người mà ông ưa và ông tự mở khóa cánh cửa lớn bằng kính vào nhà. Ông đẩy nó mở toang cho nắng tràn vào. Một vài phóng viên nhiếp ảnh đã tới vì câu chuyện có liên quan tới Roger Enright và bởi vì Roger Enright không muốn họ có mặt. Ông phớt lờ họ. Ông đứng ở giữa đường, nhìn lên căn nhà; sau đó ông đi qua sảnh chính, đột ngột dừng lại rồi lại tiếp tục bước đi. Ông không nói gì. Ông nhăn mặt rất nhiều, như thể ông sắp hét lên vì giận dữ. Bạn bè ông biết rằng Roger Enright đang hài lòng.

Căn nhà nằm trên bờ sông Đông. Nó là một cấu trúc thăng hoa, như những cánh tay vươn lên. Những hình khối bằng thạch anh nhô lên từng nhịp hùng hồn, khiến cho căn nhà không phải như nằm bất động mà dâng dần lên liên tục - cho đến lúc người ta nhận ra rằng cái dâng đó chỉ là cái nhìn bị bắt buộc phải rướn dần lên theo một nhịp điệu nhất định của chính mình. Những bức tường bằng đá vôi xám nhạt chuyển thành màu bạc trên nền trời - một màu tinh khiết và trầm tĩnh của kim loại nhưng là thứ kim loại đã được biến thành một chất liệu sống, ấm áp, và được cắt bởi một thứ dụng cụ cắt tuyệt vời nhất trên mặt đất - đó là ý chí có mục đích của con người. Tòa nhà trông sống động theo một cách riêng của nó, và vì thế, những người đứng ngắm nó đều tự nhủ một cách bất giác: "... như hình dáng và hiện thân của Người."

Một phóng viên ảnh của tờ Ngọn cờ nhìn thấy Howard đứng bên kia đường, cạnh kè đá dọc con sông. Anh đang ngửa người ra phía sau, hai tay khoanh lại phía bên trên kè đá, đầu không đội mũ, mắt ngước lên nhìn tòa nhà. Đấy là một khoảnh khắc vô thức và tình cờ. Anh chàng phóng viên liếc nhìn khuôn mặt Roark - và nghĩ đến một thứ đã làm anh ta băn khoăn từ lâu nay: anh ta đã luôn tự hỏi tại sao những cảm giác mà người ta có trong những giấc mơ lại mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì người ta có thể cảm nhận trong thực tại tỉnh thức, tại sao sự kinh hoàng lại bao bọc và sự thăng hoa lại trọn vẹn đến thế, và cái gì là cái đặc tính riêng của những giấc mơ mà người ta không bao giờ tái tạo lại được trong hiện thực - cái cảm giác mà anh ta cảm thấy khi anh bước dọc một con đường mòn xuyên qua những cái lá cây màu xanh đan vào nhau trong một giấc mơ, trong một không khí đầy sự hy vọng, đầy cảm giác sung sướng vô tư lự - và khi tỉnh lại thì anh ta không thể giải thích được tại sao chỉ có mỗi con đường mòn qua rừng lại làm anh sung sướng đến thế. Anh ta nghĩ đến điều đó bởi vì anh ta nhìn thấy cái đặc tính riêng ấy lần đầu tiên trong thực tại thức tỉnh, anh ta thấy nó trên khuôn mặt đang ngước lên nhìn tòa nhà của Roark. Người phóng viên còn trẻ, mới vào nghề; anh ta chưa biết nhiều về công việc nhưng anh ta yêu nó; anh đã chụp ảnh nghiệp dư từ lúc còn nhỏ. Và anh ta đã chụp một bức ảnh của Roark vào khoảnh khắc đó.

Về sau, biên tập viên trang Nghệ thuật của tờ Ngọn cờ nhìn thấy bức ảnh và hỏi giật giọng:

"Cái quái gì thế này?"

"Howard Roark."

"Howard Roark là ai?"

"Người kiến trúc sư."

"Ai lại cần ảnh một kiến trúc sư?"

"Tôi chỉ nghĩ là..."

"Hơn thế, trông nó thật ngớ ngẩn. Anh ta làm sao thế?"

Và bức ảnh bị ném vào phòng lưu trữ tư liệu.

Tòa nhà Enright được thuê rất nhanh. Những người thuê nhà là những người muốn sống ở một nơi có tiện nghi thích hợp và không quan tâm tới điều gì khác. Họ không thảo luận về giá trị của tòa nhà; đơn thuần là họ thích sống ở đó. Họ là những người sống một cuộc đời có ích nhưng kín đáo, ít được mọi người biết đến.

Trong ba tuần, người ta bàn tán rất nhiều về tòa nhà Enright. Họ nói rằng nó tự mãn, phô trương, và giả dối. Họ nói: "Em yêu, thử tưởng tượng chúng ta phải mời bà Moreland đến chơi nếu chúng ta sống trong tòa nhà đó. Nhà bà ấy thật là đẹp!" Và bắt đầu có những người nói: "Anh biết đấy, tôi khá ưa kiến trúc hiện đại; thời buổi này, kiểu kiến trúc đó có cái gì đó khá hay, ở Mỹ có cả một trường phái kiến trúc như vậy, cũng khá thú vị - nhưng mà cái nhà này thì chẳng giống thế một chút nào. Cái nhà này là đồ bỏ."

Ellsworth Toohey không hề đả động đến tòa nhà Enright trong mục báo của ông. Một bạn đọc viết cho ông: "Thưa ông Toohey, ông nghĩ gì về cái tòa nhà có tên Enright? Tôi có một người bạn làm trang trí nội thất và anh ta nói rất nhiều về nó; anh ta bảo nó là một tòa nhà kinh khủng. Kiến trúc và những nghệ thuật khác là niềm yêu thích của tôi, tôi không biết phải nghĩ thế nào. Ông có thể trình bày ý kiến của ông trong một bài báo được không?" Ellsworth Toohey trả lời bằng một lá thư riêng: "Bạn thân mến: Có quá nhiều tòa nhà quan trọng và những sự kiện vĩ đại trong thế giới hôm nay và tôi không thể lãng phí mục báo của tôi cho những thứ lẻ tẻ được."

Nhưng có những người tìm đến Roark - một số ít mà anh đã mong muốn. Mùa đông đó, anh nhận được hợp đồng xây biệt thự Norris, một căn nhà nhỏ ở nông thôn. Tháng Năm, anh ký một hợp đồng khác - đó là hợp đồng xây tòa nhà văn phòng đầu tiên của anh - một tòa nhà chọc trời năm mươi tầng, ngay giữa trung tâm Manhattan. Anthony Cord, chủ tòa nhà, đã đi từ chỗ vô danh thành một tỷ phú nhờ kinh doanh tài chính chỉ trong vài năm. Ông ta muốn xây một tòa nhà riêng của mình và ông ta tìm đến Roark.

Văn phòng của Roark đã mở rộng thành bốn phòng. Nhân viên của anh hết sức yêu quý anh. Chính họ cũng không biết điều đó và họ sẽ sốc nếu nghe ai dùng từ "yêu quý" để mô tả tình cảm của họ với ông chủ lạnh lùng, không hề cởi mở, và có vẻ vô cảm của mình. "Lạnh lùng, không cởi mở, vô cảm" là những từ họ dùng để mô tả Roark - họ đã được huấn luyện việc dùng những từ này theo những tiêu chuẩn và nhận thức trong quá khứ của họ; chỉ có điều, khi làm việc với anh, họ biết rằng tất cả những từ kia đều sai, nhưng họ không thể giải thích được con người anh cũng như cảm giác mà họ dành cho anh.

Anh không cười với các nhân viên của mình, anh không đưa họ đi uống nước, anh không bao giờ hỏi thăm về gia đình họ, về chuyện yêu đương hay về chuyện đi nhà thờ của họ. Anh chỉ quan tâm đến cái cốt lõi nhất của một con người: khả năng sáng tạo của người đó. Trong văn phòng của anh, người ta bắt buộc phải biết làm việc. Không có lựa chọn, không có những chiếu cố nào khác. Nhưng nếu một người làm việc tốt, anh ta không cần gì khác để giành được cảm tình của Roark: nó được trao cho anh, không phải như một thứ quà, mà như một món nợ phải trả. Nó được trao, không phải như một thứ tình cảm yêu quý, mà như một sự thừa nhận về con người. Nó tạo ra cảm giác tự tôn lớn trong tất cả những người làm việc ở văn phòng của Roark.

Khi một nhân viên của Roark cố gắng giải thích điều này ở nhà, một người nói với anh: "Nhưng như thế chẳng giống con người gì cả, cái kiểu đối xử lạnh lùng và không văn minh của anh ta ấy." Một anh chàng trẻ tuổi - một người kiểu Peter Keating - đã thử lấy tính cách và vẻ ngoài thay vì tài năng để chiếm cảm tình của Roark, anh ta chỉ ở đó được hai tuần. Thỉnh thoảng Roark cũng sai lầm trong việc chọn người làm, nhưng việc đó không thường xuyên; những người mà anh giữ lại được sau một tháng làm việc trở thành bạn vĩnh viễn của anh. Họ không tự gọi mình là bạn anh; họ không ca ngợi anh với người ngoài; họ không nói về anh; nhưng họ biết - một cách mơ hồ - rằng không phải họ đang trung thành với anh mà họ đang trung thành với phần tốt nhất trong chính con người họ.

*

* *

Dominique ở lại trong thành phố suốt mùa hè. Cô nhớ thói quen du lịch của cô với cảm giác thỏa mãn cay đắng; cô giận dữ khi nghĩ rằng cô không được phép đi, không được phép muốn đi. Cô tận hưởng sự giận dữ; nó kéo cô tới phòng anh. Vào những đêm mà cô không đến chỗ anh, cô đi bộ qua những đường phố của thành phố. Cô đi bộ từ tòa nhà Enright tới Cửa hàng Fargo, và đứng nhìn tòa nhà một lúc lâu. Cô lái xe một mình ra khỏi thành phố - để tới ngắm biệt thự của Heller, nhà Sanborn, trạm xăng Gowan. Cô không bao giờ kể cho anh những điều này.

Một lần, cô lên chuyến phà sang đảo Staten vào lúc hai giờ sáng; cô đứng một mình ở lan can vắng người. Cô nhìn thành phố xa dần khỏi cô. Trong khoảng không mênh mông của trời và nước, thành phố chỉ như một khối vật chất rắn chắc nhỏ nhoi, lởm chởm. Nó như bị cô đặc, ép sát vào nhau, không còn những con đường và những tòa nhà riêng biệt mà chỉ như một khối đá điêu khắc đơn nhất. Như những bậc thềm không đều nhau cứ dâng lên rồi hạ xuống không theo quy tắc nào - những đoạn rướn dài xen với những đoạn đứt đột ngột, như bản phác thảo một cuộc vật lộn khó nhọc. Nhưng cuộc vật lộn ấy lên tới một vài đỉnh cao - đó là những tòa nhà cao tầng hiên ngang đứng vượt lên mọi thứ.

Con phà đi ngang qua Tượng thần Tự Do - một hình khối được thắp sáng màu xanh lá cây, với một cánh tay giơ lên như những tòa nhà chọc trời phía sau nó.

Cô đứng ở lan can trong lúc thành phố thu nhỏ dần; và cô cảm thấy cái chuyển động tăng dần khoảng cách giữa cô với thành phố đang làm người cô đanh lại, giống như có một sợi dây chun buộc vào cô và sợi dây ấy chỉ có thể kéo dãn đến một mức nhất định. Cô đứng với một cảm giác sung sướng lặng lẽ khi con phà đi ngược trở lại và cô nhìn thấy thành phố lớn dần lên để chào đón cô. Cô dang rộng hai tay. Thành phố nở rộng ra, tới hai khuỷu tay cô, rồi tới cổ tay cô, rồi vượt ra ngoài những ngón tay cô. Rồi những tòa nhà chọc trời vươn lên quá đầu cô; và cô đã trở lại.

Cô bước lên bờ. Cô biết cô phải tới đâu và cô muốn tới đó thật nhanh, nhưng cô cũng cảm thấy cô phải tự mình đi tới đó, như thế này, trên chính đôi chân của cô. Và cô đi bộ qua một nửa Mahattan, qua những đường phố dài, vắng người, vang vọng tiếng bước chân cô. Khi cô gõ cửa phòng anh, đã bốn rưỡi sáng. Anh đang ngủ. Cô lắc đầu. "Không" - cô nói - "Đi ngủ đi. Em chỉ muốn ở đây." Cô không chạm vào anh. Cô bỏ mũ và giày, thu mình trong một chiếc ghế bành và ngủ mất, cánh tay thõng qua thành ghế, đầu gục trên cánh tay. Buổi sáng, anh không hề hỏi cô. Họ cùng nhau chuẩn bị bữa sáng, rồi anh vội vã đi đến văn phòng. Trước khi đi, anh ôm cô và hôn cô. Rồi anh bước ra khỏi cửa. Cô đứng khoảng vài giây, rồi cô cũng đi. Họ đã nói với nhau không quá hai mươi từ.

Có những cuối tuần họ rời thành phố cùng nhau và lái xe tới một chỗ vắng người nào đó dọc bờ biển. Họ nằm phơi mình dưới nắng, trên bãi cát của một bãi biển bỏ hoang; họ xuống bơi. Cô thích ngắm thân hình anh trong nước. Cô thường tụt lại phía sau và đứng cho sóng đánh vào đầu gối; cô ngắm anh cắt một đường thẳng trên mặt nước bằng những cái khoát tay. Cô thích nằm với anh ở mép nước; cô nằm sấp, cách anh một chút, đầu quay vào bờ, những ngón chân mở ra đón sóng; cô sẽ không chạm vào người anh nhưng cô sẽ cảm thấy những con sóng đang tràn đến gần họ, đập vào thân thể họ và cô sẽ thấy chúng rút ra như những dòng suối nhỏ tràn xuống từ thân thể cô và thân thể anh.

Họ ngủ ở một nhà trọ nào đó trong vùng nông thôn - chung một phòng. Họ không bao giờ nói về những thứ họ bỏ lại trong thành phố. Nhưng chính những thứ không được tuyên bố ấy mang lại cho họ sự đơn giản thoải mái trong những giờ bên nhau; mỗi khi họ nhìn nhau, mắt họ cười không thành tiếng về cái giao kèo phi lý giữa họ.

Cô cố gắng thể hiện quyền lực của cô với anh. Cô tránh xa nhà anh; cô chờ anh tìm đến cô. Anh phá hỏng nó bằng cách đến quá sớm; bằng cách không để cho cô được thỏa mãn với cái ý nghĩ rằng anh phải chờ đợi và đấu tranh với ham muốn của anh; bằng cách đầu hàng ngay tức khắc. Cô sẽ nói: "Hôn tay em đi, Roark." Anh sẽ quỳ xuống và hôn cổ chân cô. Anh đánh bại cô bằng cách thừa nhận quyền lực của cô; cô không thể có được sự hài lòng thông qua việc áp đặt quyền lực ấy. Anh sẽ nằm dưới chân cô và anh sẽ nói: "Dĩ nhiên là anh cần em. Anh phát điên khi anh nhìn thấy em. Em có thể làm hầu như bất cứ thứ gì em muốn với anh. Có phải đấy là điều em muốn nghe? Hầu như mọi thứ, Dominique. Và những thứ mà em không thể bắt anh làm - em sẽ bắt anh đi qua địa ngục nếu như em đòi hỏi chúng và anh sẽ phải từ chối em. Qua địa ngục khủng khiếp nhất, Dominique. Em hài lòng chưa? Tại sao em lại muốn biết em có sở hữu anh hay không? Rất đơn giản. Dĩ nhiên là em có. Em sở hữu tất cả những gì có thể sở hữu được. Em sẽ không bao giờ đòi hỏi được gì khác. Nhưng nếu em muốn biết liệu em có thể làm anh đau khổ không thì câu trả lời là có. Nhưng thế thì đã sao nào?"

Những lời anh nói không giống như một sự đầu hàng, bởi vì nó không phải là những lời bị ép phải thốt ra mà là những lời thừa nhận một cách đơn giản và tự nguyện. Cô không cảm thấy sự sung sướng của người chinh phục; cô thấy mình bị sở hữu hơn bao giờ hết, sở hữu bởi một người có khả năng nói những lời kia, biết rằng chúng là có thật, và vẫn cứ để bị kiểm soát và kiểm soát - như cô muốn anh là thế.

*

* *

Cuối tháng Sáu, một người đàn ông có tên Kent Lansing đến gặp Roark. Ông ta 40 tuổi, ăn mặc như thể một người mẫu thời trang và trông như một võ sĩ đấm bốc ăn tiền mặc dù ông không hề lực lưỡng, cơ bắp, hay gân guốc: ông gầy và góc cạnh. Có điều ông làm cho người ta nghĩ đến một võ sĩ đấm bốc và nghĩ đến những thứ hoàn toàn không hợp với vẻ ngoài của ông: như những cái trụ gỗ để phá cổng thành, như xe tăng, hay những quả thủy lôi của tàu ngầm. Ông là thành viên một tập đoàn được thành lập với mục đích xây một khách sạn sang trọng ở gần khu nam của Công viên trung tâm. Có rất nhiều người giàu có tham gia dự án này và tập đoàn chịu sự điều khiển của nhiều hội đồng; họ đã mua đất nhưng vẫn chưa chọn được kiến trúc sư. Nhưng Kent Lansing đã quyết định rằng kiến trúc sư phải là Roark.

"Tôi sẽ không cố nói với ông tôi muốn thiết kế tòa nhà này đến mức nào" - Roark nói vào cuối buổi phỏng vấn đầu tiên giữa họ - "Nhưng tôi sẽ không có cơ hội làm việc đó. Tôi có thể làm việc với từng người. Nhưng tôi không thể làm gì với các nhóm. Chưa từng có một hội đồng nào thuê tôi cả - và tôi không nghĩ là họ sẽ."

Kent Lansing mỉm cười.

"Anh đã bao giờ thấy một hội đồng làm được việc gì chưa?"

"Ý ông là gì?"

"Chỉ thế thôi: anh đã bao giờ thấy một hội đồng làm được việc gì chưa?"

"Có vẻ họ vẫn tồn tại và vẫn hoạt động."

"Thật không? Anh biết đấy, có thời, người ta đã nghĩ rằng trái đất hiển nhiên phải phẳng lì. Thật thú vị khi nghĩ về bản chất và nguồn gốc của những ảo tưởng của con người. Một ngày nào đó, tôi sẽ viết một cuốn sách về chuyện này. Chắc là sẽ chẳng ai thích nó. Tôi sẽ dành một chương nói về các loại hội đồng quản trị. Anh thấy đấy, họ đâu có tồn tại."

"Tôi muốn tin ông, nhưng chuyện đùa này rút cục là thế nào?"

"Không, anh không muốn tin tôi. Chẳng đẹp đẽ gì khi phát hiện ra nguồn gốc những ảo tưởng của con người đâu. Hoặc là chúng xấu xa, hoặc là chúng đáng buồn. Chuyện này thì có cả hai. Chủ yếu là xấu xa. Và nó không phải chuyện đùa. Nhưng chúng ta sẽ không nói về chuyện đó vào lúc này. Ý tôi là một hội đồng quản trị thực ra chỉ là một hay hai người có tham vọng - và một đống những kẻ bợ đỡ khác. Ý tôi là các nhóm người thực ra là những cái ống rỗng. Hoàn toàn trống rỗng. Người ta cứ bảo chúng ta không thể nhìn thấy sự trống rỗng. Thì đấy, cứ ngồi vào bất cứ cuộc họp hội đồng nào xem. Vấn đề chỉ là ai là người lấp đầy cái khoảng trống đó. Đấy là một trận đấu khó khăn. Khó khăn nhất. Chiến đấu với kẻ thù đã khó rồi - miễn là có kẻ thù ở đó mà chiến đấu. Đằng này, không có cả kẻ thù... Đừng nhìn tôi như thế, cứ như là tôi bị điên. Anh hẳn phải biết rõ chứ. Anh đã chiến đấu với sự trống rỗng suốt đời anh còn gì."

"Tôi nhìn ông như thế bởi vì tôi thích ông."

"Dĩ nhiên là anh thích tôi. Cũng như tôi đã biết trước là tôi sẽ thích anh. Con người là anh em, anh biết đấy, và họ có một bản năng tuyệt vời về tình anh em - chỉ trừ trong các hội đồng, các công đoàn, các tập đoàn và trong tù. Nhưng tôi nói quá nhiều rồi. Chính vì thế mà tôi là người bán hàng cừ. Tuy nhiên, tôi chẳng có gì để bán cho anh cả. Anh biết điều đó. Thế nên, chúng ta sẽ nói rằng chúng ta sẽ xây tòa nhà Aquitania - đấy là tên khách sạn của chúng ta - và mọi chuyện sẽ kết thúc như thế."

Nếu như bạo lực trong các trận chiến mà người ta chưa từng biết đến có thể được đo đạc bằng các con số thống kê cụ thể thì trận chiến giữa Kent Lansing và hội đồng quản trị tập đoàn Aquitania hẳn phải được kể đến như một trong những trận chiến bạo lực nhất trong lịch sử. Nhưng những thứ mà ông chống lại không rõ ràng như những tử thi trên các chiến trường.

Ông đã phải chống lại những hiện tượng như: "Nghe này, Palmer, Lansing đang nói đến một ai đó tên là Roark, ông định bỏ phiếu thế nào đây, các đại gia có thích anh ta không?" "Tôi sẽ không quyết định cho đến khi nào tôi biết ai bỏ phiếu thuận, ai bỏ phiếu chống." "Lansing nói... nhưng mặt khác, Thorpe nói với tôi..." "Talbot đang xây một cái khách sạn hoa hòe hoa sói trên Đại lộ Năm, cỡ 60 tầng - và lão ấy chọn Francon & Keating." "Harper đem đầu ra bảo đảm cho Gordon Prescott." "Nghe này, Betsy nói chúng ta điên rồi." "Tôi không thích cái mặt của Roark - trông anh ta chẳng có vẻ hợp tác." "Tôi biết, tôi cảm thấy thế, loại người như Roark không hợp đâu. Anh ta không phải một người bình thường." "Người bình thường là thế nào?" "Thì, ôi dào, ông biết rõ ý tôi là gì: bình thường ấy." "Thompson nói rằng bà Pritchett bảo rằng bà ấy biết chắc chắn bởi vì ông Macy bảo với bà ấy rằng nếu..." "Thế đấy, các ngài, tôi cóc quan tâm chuyện ai nói gì, tôi đã quyết định rồi và tôi xin nói với các vị cái tay Roark này là một kẻ chả ra gì. Tôi không thích cái nhà Enright." "Tại sao?" "Tôi không biết tại sao. Tôi chỉ không thích và thế thôi. Chả nhẽ tôi không có quyền có ý kiến của tôi à?"

Trận chiến kéo dài nhiều tuần. Tất cả mọi người đều phát biểu, trừ Roark. Lansing nói với anh: "Không sao đâu. Cứ bình tĩnh. Đừng làm gì cả. Cứ để tôi nói. Anh chẳng thể làm gì được. Khi đối mặt với xã hội thì người quan tâm nhất, người làm việc nhiều nhất và đóng góp nhiều nhất lại có ít tiếng nói nhất. Người ta nghiễm nhiên cho rằng anh ta chẳng có tiếng nói gì và những lý lẽ mà anh ta đưa ra luôn bị bác bỏ sẵn - bởi vì người ta đâu có quan tâm đến lý lẽ mà chỉ quan tâm đến người nói lý thôi. Đánh giá một người bao giờ cũng dễ hơn đánh giá một luận điểm. Mặc dù tôi chả bao giờ hiểu làm sao người ta có thể đánh giá một người mà không đánh giá nội dung đầu óc anh ta. Tuy nhiên, thói đời thì là như vậy. Anh thấy đấy, lý lẽ đòi hỏi phải có cân để có thể cân đo chúng. Và cân thì không được làm từ bông. Thế mà tinh thần của loài người thì toàn là bông cả - anh biết đấy, cái thứ chả có hình dạng cố định gì và luôn luôn lún xuống và có thể vặn xuôi vặn ngược thành một cái bánh pretzel. Anh có thể lý luận tốt hơn tôi về chuyện vì sao họ nên thuê anh. Nhưng họ sẽ không nghe anh và họ sẽ nghe tôi. Bởi vì tôi là người môi giới. Khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm không phải là một đường thẳng mà là một người môi giới. Và càng nhiều môi giới thì càng ngắn. Đấy chính là tâm lý học pretzel.

"Tại sao ông lại chiến đấu cho tôi như thế?" Roark hỏi.

"Tại sao anh lại là kiến trúc sư giỏi? Bởi vì anh có những tiêu chuẩn nhất định về việc thế nào là tốt và chúng là tiêu chuẩn của anh và anh kiên quyết trung thành với chúng. Tôi muốn có một cái khách sạn tốt và tôi có những tiêu chuẩn nhất định về việc thế nào là tốt và chúng là tiêu chuẩn của tôi và anh là người có thể mang lại cho tôi cái tôi muốn. Khi tôi chiến đấu cho anh, tôi chỉ đang làm đúng cái điều mà anh làm cho các tòa nhà của anh. Anh có nghĩ sự chính trực là phẩm chất độc quyền của các nghệ sĩ? Và tiện thể, anh nghĩ chính trực là gì? Là việc không móc đồng hồ khỏi túi người hàng xóm à? Không, không dễ dàng như thế. Nếu chỉ có thế, tôi có thể nói chín mươi lăm phần trăm nhân loại là những người chính trực và trung thực. Có điều, anh cũng thấy đấy, họ đâu có như vậy. Chính trực là khả năng trung thành với một tư tưởng. Điều đó bao hàm tiền giả định về khả năng tư duy. Tư duy là cái mà người ta không thể vay mượn hay cầm cố được. Ấy thế mà nếu người ta hỏi tôi một biểu tượng về con người như chúng ta biết, tôi sẽ không chọn một cây thánh giá hay một con đại bàng hay con sư tử hay là ngựa có sừng gì cả. Tôi sẽ chọn ba quả cầu mạ vàng."

Và khi Roark nhìn ông, ông nói thêm: "Đừng lo. Tất cả bọn họ đều chống lại tôi. Nhưng tôi có một lợi thế: họ không biết họ muốn gì. Tôi thì biết."

Cuối tháng Bảy, Roark ký hợp đồng xây khách sạn Aquitania.

*

* *

Ellsworth Toohey ngồi trong văn phòng và nhìn vào tờ báo đang trải rộng trên mặt bàn của ông - trên đó có một mẩu tin công bố về hợp đồng xây khách sạn Aquitania. Ông hút thuốc; ông dùng hai ngón tay giữ đầu điếu thuốc trễ ở khóe miệng: một ngón tay đập đập vào điếu thuốc một lúc khá lâu, chầm chậm, nhịp nhàng.

Ông nghe thấy tiếng cánh cửa phòng ông mở toang; ông ngước nhìn lên và thấy Dominique đứng đó, dựa vào khung cửa, hai tay khoanh lại trước ngực. Khuôn mặt cô trông có vẻ tò mò, ngoài ra không có gì khác; nhưng sự tò mò trên khuôn mặt cô làm cho người ta cảnh giác.

"Cô gái thân mến của tôi" - ông vừa nói vừa đứng dậy - "đây là lần đầu tiên cô quá bộ đến thăm chỗ làm của tôi - trong suốt bốn năm chúng ta ở chung tòa nhà này. Thật là một dịp trọng đại."

Cô không nói gì mà chỉ mỉm cười nhẹ nhàng - và điều ấy càng làm người ta cảnh giác. Ông nói thêm, giọng ông vui vẻ: "Bài diễn thuyết nhỏ của tôi, dĩ nhiên, cũng giống như một câu hỏi. Hay là chúng ta không hiểu nhau nữa rồi?"

"Tôi đoán là không - nếu như ông thấy cần phải hỏi xem cái gì đưa tôi đến đây. Nhưng ông biết rồi mà, Ellsworth, ông biết rõ điều đó: nó nằm ngay trên bàn ông đấy."

Cô bước lại bàn và lật một góc tờ báo. Cô phá ra cười.

"Ông có ước là ông đã giấu nó đi không? Dĩ nhiên ông đã không đoán là tôi đến. Điều đó cũng chẳng sao. Có điều, tôi muốn nhìn thấy ông lộ liễu dù chỉ một lần. Ngay ở trên bàn ông, đúng như thế kia. Và ở ngay chính giữa mục nhà đất nữa."

"Cô nghe như thể cái tin nhỏ nhặt ấy đã làm cô rất hạnh phúc."

"Nó đã làm tôi hạnh phúc, Ellsworth. Nó vẫn đang."

"Tôi cứ nghĩ là cô đã cố công để ngăn cái hợp đồng ấy."

"Tôi đã."

"Nếu cô nghĩ là cô đang đóng kịch, Dominique, thì cô đang tự lừa dối bản thân cô. Đây không phải là một vở kịch."

"Không, Ellsworth. Không hề."

"Cô vui vì Roark có nó à?"

"Tôi rất vui. Tôi có thể ngủ với cái lão Kent Lansing này, bất kể lão ấy là ai, nếu như tôi gặp lão ta và nếu lão ta đề nghị tôi."

"Vậy là cam kết của cô bị vỡ rồi à?"

"Không đời nào. Tôi sẽ ngăn chặn bất cứ công trình nào sắp đến tay anh ta. Tôi sẽ tiếp tục cố. Sẽ không dễ như trước nữa. Nhà Enright, nhà Cord, và giờ là cái này. Sẽ không dễ cho tôi - và cả ông. Anh ta đang đánh bại ông, Ellsworth. Ellsworth, nếu tôi và ông, chúng ta đã nghĩ sai về thế giới thì sao?"

"Cô đã luôn luôn sai, cô gái yêu quý của tôi. Tha thứ cho tôi. Lẽ ra tôi chả nên ngạc nhiên. Dĩ nhiên việc anh ta có tòa nhà đó phải làm cô vui rồi. Tôi cũng chả cần phải giấu giếm là việc đó không hề làm tôi vui. Đấy, cô thấy chưa? Giờ thì chuyến viếng thăm của cô đã thành công rực rỡ rồi nhé. Vậy chúng ta chỉ cần xóa sổ tòa nhà Aquitana như một thất bại lớn của chúng ta và quên nó đi và tiếp tục như trước."

"Chắc chắn rồi, Ellsworth. Giống như trước. Tôi sẽ cò cưa một bệnh viện mới rất tuyệt cho Keating vào bữa tối hôm nay."

Ellsworth Toohey về nhà và ngồi nghĩ cả buổi tối về Hopton Stoddard.

Hopton Stoddard là một người đàn ông nhỏ bé có tài sản 20 triệu đô la. Ba nguồn thừa kế đã đóng góp vào con số này, cộng với bảy mươi hai năm bận rộn với sự nghiệp kiếm tiền của ông ta. Hopton Stoddard có một tài năng thiên bẩm về đầu tư; ông đầu tư vào bất cứ thứ gì - những tòa nhà có tai tiếng, những vở kịch Broadway lớn - chủ yếu có liên quan đến tôn giáo, các nhà máy, các khoản cầm cố trang trại và cả thuốc tránh thai. Ông nhỏ người và còng lưng. Mặt ông không méo mó; người ta chỉ tưởng là nó méo mó bởi vì nó chỉ mang một biểu hiện duy nhất: một cái cười mỉm. Cái miệng bé nhỏ của ông luôn có hình chữ V trên một vẻ mặt luôn luôn vui vẻ; lông mày ông cũng là những chữ V nhỏ xíu được uốn cong; hai mắt ông màu xanh nước biển; tóc ông trắng, dày, lượn sóng, trông như tóc giả nhưng thực ra là tóc thật.

Toohey đã biết Stoddard từ nhiều năm và có một ảnh hưởng lớn đến ông ta. Hopton Stoddard chưa bao giờ lập gia đình, không có họ hàng thân thích và cũng không có bạn; ông không tin mọi người, ông nghĩ rằng họ luôn chỉ chạy theo tiền của ông. Nhưng ông có một niềm kính trọng to lớn với Toohey, bởi vì Toohey đại diện cho cái đối lập hoàn toàn với cuộc đời ông; Toohey không hề quan tâm tới của cải vật chất; và vì sự đối lập ấy, ông coi Toohey là hiện thân của đức hạnh; điều này ám chỉ cái gì về cuộc sống của chính ông thì ông chưa bao giờ tự hỏi mình. Ông không thực sự thanh thản về cuộc sống của ông và càng ngày, cảm giác bất ổn càng tăng lên, cùng với nó là cảm giác chắc chắn về một sự kết thúc đang đến gần. Ông tìm thấy sự giải thoát trong tôn giáo - như một cách hối lộ. Ông đã thử nghiệm với một vài tín ngưỡng khác nhau; ông dự các buổi lễ, cúng tiến những khoản tiền lớn và rồi đổi sang một tín ngưỡng khác. Năm tháng qua đi, tốc độ thay đổi của ông cũng tăng lên; nó mang màu sắc của sự hoảng loạn.

Sự thờ ơ của Toohey với tôn giáo là khiếm khuyết duy nhất khiến ông thấy bất an về người bạn và cố vấn của ông. Nhưng những gì mà Toohey rao giảng đều có vẻ hòa hợp với các lời răn của Chúa: nào là lòng từ thiện, sự hy sinh, giúp đỡ người nghèo. Stoddard cảm thấy an toàn mỗi khi ông làm theo những lời khuyên của Toohey. Ông đóng góp hậu hĩnh cho những tổ chức mà Toohey gợi ý mà chẳng cần để giục giã nhiều. Trong các vấn đề thuộc về linh hồn, ông đối xử với Toohey trên mặt đất cũng gần giống như ông đoán ông sẽ đối xử với Chúa trên thiên đàng.

Nhưng mùa hè này, Toohey đã lần đầu tiên chịu thua trước Hopton Stoddard.

Hopton Stoddard đã quyết định thực thi giấc mơ mà ông đã hoạch định một cách kín đáo và cẩn thận từ vài năm nay, giống như tất cả các vụ đầu tư khác của ông: ông quyết định xây một ngôi đền. Không phải ngôi đền cho một tín ngưỡng cụ thể nào, mà là một ngôi đền liên-tín-ngưỡng, một biểu tượng không bè phái của tôn giáo, một nhà thờ phụng mở cửa cho tất cả mọi người. Hopton Stoddard muốn đánh bài an toàn.

Ông cảm thấy sụp đổ khi Toohey khuyên ông không nên theo đuổi dự án này. Toohey muốn một ngôi nhà để nuôi trẻ khuyết tật; ông đã dựng lên một tổ chức, một hội đồng các nhà tài trợ tên tuổi và một nguồn tiền để chi trả các khoản chi phí vận hành; nhưng ông không có nhà và cũng không có tiền xây nhà. Toohey đã nói với ông: nếu Hopton muốn có một biểu tượng xứng đáng với tên tuổi của ông, một đỉnh cao về sự hào phóng của ông, thì làm gì có mục đích nào cao cả hơn việc xây Nhà Hopton Stoddard cho Trẻ Khuyết tật. Căn nhà sẽ dành cho những đứa trẻ khốn khổ không có người chăm sóc. Nhưng Hopton Stoddard không cảm thấy rung động mảy may đối với việc xây một ngôi nhà cho bất cứ một trung tâm thế tục nào. Ông muốn một thứ như "Đền Hopton Stoddard cho Linh hồn Con người."

Ông không có lý lẽ nào để chống lại hàng tràng hùng biện của Toohey. Ông chẳng thể nói gì ngoại trừ: "Không, Ellsworth, không, như thế không đúng, không đúng." Vấn đề được bỏ lửng ở đó. Hopton Stoddard không nhượng bộ nhưng sự phản đối của Toohey làm ông thấy bất ổn và ông cứ trì hoãn quyết định của mình hết ngày này đến ngày khác. Ông chỉ biết rằng ông sẽ phải quyết định vào cuối mùa hè này, bởi vì đến mùa thu, ông sẽ phải đi một chuyến đi dài, một chuyến du lịch vòng quanh thế giới qua tất cả các thánh địa của các tôn giáo, từ Lourdes tới Jerusalem, rồi Mecca và Benares.

Vài ngày sau khi việc xây dựng khách sạn Aquitania được tuyên bố, Toohey đến gặp Hopton Stoddard vào buổi tối, trong căn hộ rộng lớn và đầy đồ đạc của Stoddard ở trên đường Riverside.

"Hopton" - ông vui vẻ nói - "Tôi đã sai. Ông đã đúng về chuyện ngôi đền."

"Không!" - Hopton Stoddard há miệng kinh ngạc.

"Có đấy" - Toohey nói - "Ông đã đúng. Chẳng gì có thể hợp lý hơn thế. Ông phải xây một ngôi đền. Một ngôi đền cho Linh hồn Con người."

Hopton Stoddard nuốt nước bọt và mắt ông ngấn nước. Ông cảm thấy ông hẳn đã phải tiến vượt ra khỏi phạm vi của sự đúng đắn nếu như ông có thể dạy được cho thầy của ông một bài học về đức hạnh. Sau đó, chẳng còn gì là quan trọng nữa; ông ngồi, như một đứa trẻ nhàu nhĩ và yếu ớt, lắng nghe Ellsworth Toohey nói; ông gật đầu đồng ý với mọi thứ.

"Đấy là một dự án tham vọng đấy, Hopton, và nếu ông định làm, thì ông phải làm mọi việc thật đúng. Ông cũng biết một việc như thế là khá táo bạo - việc dâng cho Chúa một món quà - và nếu ông không thể làm việc ấy một cách tốt nhất thì nó sẽ trở thành một sự xúc phạm chứ không phải thờ phụng."

"Phải, dĩ nhiên rồi. Nó phải hoàn hảo. Nhất định phải hoàn hảo. Phải là thứ tốt nhất. Anh sẽ giúp tôi, đúng không, Ellsworth? Anh biết mọi thứ về xây dựng và nghệ thuật và tất cả mọi thứ - hẳn là phải như thế."

"Tôi sẽ rất vui được giúp ông - nếu ông thực sự muốn tôi giúp."

"Nếu tôi thực sự muốn anh giúp! Ý anh là gì - nếu tôi muốn...! Lạy Chúa lòng lành, không có anh thì tôi có thể làm gì? Tôi chẳng biết gì về... về những thứ như thế. Và nó nhất định phải hoàn hảo."

"Nếu ông muốn nó hoàn hảo, ông sẽ làm đúng như tôi nói chứ?"

"Vâng, vâng, vâng. Tất nhiên rồi."

"Đầu tiên, phải có một kiến trúc sư. Chuyện này rất quan trọng."

"Phải, đúng thế"

"Ông không muốn thuê những cậu bé mặc đồ sa-tanh chải chuốt chỗ nào cũng thấy tiền là tiền. Ông muốn một người tin vào công việc của anh ta như... như là ông tin vào Chúa."

"Đúng thế. Chính xác là phải như thế."

"Ông phải chọn người mà tôi chỉ ra."

"Chắc chắn rồi. Ai vậy?"

"Howard Roark."

"Hả?" Hopton Stoddard hoang mang. "Anh ta là ai?"

"Anh ta là người sẽ xây Đền Stoddard cho Linh hồn Con người."

"Anh ta có giỏi không?"

Ellsworth Toohey quay đầu và nhìn thẳng vào mắt Hopton.

"Tôi thề trên linh hồn tôi, Hopton" - ông nói chậm rãi - "anh ta là người giỏi nhất."

"Ồ!"

"Nhưng rất khó thuê anh ta. Anh ta không nhận thiết kế trừ với một số điều kiện nhất định. Ông phải tuân thủ những điều kiện này một cách tuyệt đối. Ông phải để cho anh ta có toàn quyền tự do. Chỉ cần nói với anh ta ông muốn gì, ông muốn chi bao nhiêu tiền, còn lại cứ để anh ta lo. Để anh ta thiết kế và xây theo ý anh ta. Anh ta không nhận làm với điều kiện khác. Cứ nói thẳng với anh ta rằng ông không biết gì về kiến trúc và ông chọn anh ta bởi vì ông cảm thấy anh ta là người duy nhất ông có thể tin là sẽ làm mọi việc hoàn hảo mà không cần phải có chỉ dẫn hay can thiệp."

"Được rồi, nếu anh chọn anh ta."

"Tôi chọn anh ta."

"Vậy thì tốt rồi. Tôi không quan tâm việc này tốn bao nhiêu tiền."

"Nhưng ông phải cẩn thận khi tiếp cận anh ta. Tôi nghĩ anh ta sẽ từ chối - lần đầu. Anh ta sẽ bảo ông rằng anh ta không tin vào Chúa."

"Cái gì!"

"Đừng tin anh ta. Anh ta là người có đức tin sâu sắc - theo cách riêng của anh ta. Ông có thể thấy nó trong các tòa nhà của anh ta."

"Ồ"

"Nhưng anh ta không thuộc một nhà thờ cụ thể nào cả. Như thế, ông sẽ không có vẻ thiên vị. Ông sẽ không làm mếch lòng ai."

"Thế thì tốt."

"Nào, khi làm việc về vấn đề đức tin thì ông phải là người có đức tin đầu tiên. Đúng không?"

"Đúng."

"Đừng chờ đến lúc nhìn thấy các bản vẽ của anh ta. Sẽ phải mất một thời gian - và ông không thể trì hoãn chuyến đi của ông. Cứ thuê anh ta đi - đừng ký hợp đồng, việc đó không cần thiết - chỉ cần sắp xếp để ngân hàng của ông dàn xếp chuyện tài chính và để anh ta làm phần còn lại. Ông không phải trả công anh ta cho tới tận lúc ông trở về. Chừng một năm nữa, khi ông xem hết các đền thờ lớn trên thế giới và quay lại, ông sẽ có một đền thờ tốt hơn của riêng ông, chờ ông ở ngay đây."

"Đấy chính là điều tôi muốn."

"Nhưng ông phải tính đến chuyện công bố nó một cách hợp lý với công chúng, phải có cách hiến tế hợp lý, phải có những quảng cáo hợp lý."

"Dĩ nhiên... Nhưng quảng cáo?"

"Chắc chắn là phải quảng cáo. Ông có biết đến sự kiện vĩ đại nào mà lại không đi kèm với một chiến dịch quảng cáo vĩ đại không? Những thứ không như thế thì cũng chả có mấy giá trị. Nếu ông không làm quảng cáo tử tế, mọi việc sẽ có vẻ thiếu tôn trọng."

"Đúng thế thật"

"Nào, nếu ông muốn có quảng cáo hợp lý, ông phải tính toán cẩn thận, và phải tính trước rất nhiều. Ông muốn gì, khi nào muốn công bố - đấy là một việc quan trọng, giống như là khúc dạo đầu của một vở nhạc kịch, giống như việc tấu một khúc kèn đồng."

"Thật là tuyệt - cái cách mà anh mô tả nó."

"Rồi, để làm thế, ông không được để cho bọn báo chí lá cải làm giảm hiệu quả bằng việc tung tin sớm quá. Đừng công bố các bản vẽ của ngôi đền. Phải giữ chúng bí mật. Nói với Roark là ông muốn giữ chúng bí mật. Anh ta sẽ không phản đối. Bảo nhà thầu xây một hàng rào cứng quanh công trường trong lúc đang xây. Không ai được biết nó là cái gì cho đến lúc ông quay lại và tự tay làm việc khánh thành. Lúc ấy thì - sẽ có ảnh trên tất cả các tờ báo của cái đất nước này."

"Ellsworth!"

"Thế nào?"

"Ý tưởng thật tuyệt. Đấy đúng là cách chúng tôi tung ra vở Huyền thoại Đức Mẹ Đồng trinh, đã 10 năm rồi, dàn diễn viên những chín mươi bảy người."

"Phải. Nhưng trong lúc này, chỉ cần giữ công chúng biết đến nó. Hãy thuê một tay đại diện báo chí tử tế và bảo anh ta biết ông muốn anh ta làm thế nào. Tôi sẽ cho ông tên một tay rất cừ về việc này. Chỉ cần đảm bảo là cứ vài tuần lại có một bài viết úp úp mở mở về Đền Stoddard. Cứ để cho bọn họ đoán. Để cho họ chờ. Khi nào thời cơ đến thì họ cũng đã được chuẩn bị sẵn sàng."

"Phải."

"Nhưng, trên hết, đừng để Roark biết tôi giới thiệu anh ta. Đừng hé ra cho bất cứ ai việc tôi có liên quan đến chuyện này. Một từ cũng không. Ông thề đi."

"Nhưng tại sao?"

"Bởi vì tôi có quá nhiều bạn bè là kiến trúc sư, và đây là một công trình quan trọng, và tôi không muốn ai phật ý."

"Phải rồi. Đúng thế thật."

"Thề đi."

"Kìa, Ellsworth."

"Thề đi. Trên sự cứu rỗi của linh hồn ông."

"Tôi thề. Trên... cái đó."

"Được rồi. Nào, ông chưa bao giờ làm việc với các kiến trúc sư và anh ta lại là một kiến trúc sư không bình thường, và ông không muốn làm hỏng mọi việc; vì thế tôi sẽ bảo ông biết chính xác ông phải nói gì với anh ta."

Ngày hôm sau, Toohey bước vào phòng làm việc của Dominique. Ông đứng bên bàn của cô, mỉm cười và nói bằng một giọng nghiêm trang:

"Cô có nhớ Hopton Stoddard và cái đền thờ các tôn giáo mà ông ta đã nói đến suốt sáu năm qua không?"

"Một cách lờ mờ."

"Ông ta sẽ xây nó."

"Ông ta sẽ?"

"Ông ta sẽ giao việc này cho Howard Roark."

"Không!"

"Có đấy!"

"Chà, trong tất cả những thứ không thể tin được... Không thể là Hopton!"

"Chính là Hopton."

"Được thôi. Tôi sẽ giải quyết với ông ta."

"Không. Cô nghỉ đi. Tôi đã bảo ông ta giao việc này cho Roark."

Cô ngồi yên, đúng như lúc những lời trên bắt được cô. Sự thích thú trên khuôn mặt cô đã biến mất. Ông nói thêm:

"Tôi muốn cô biết chuyện này, để không có những mâu thuẫn chiến lược. Không ai biết chuyện này và sẽ không có ai biết. Tôi tin tưởng cô sẽ nhớ điều đó."

Cô hỏi, hai môi cô cử động một cách cứng nhắc:

"Ông có ý đồ gì?"

Ông mỉm cười. Ông nói:

"Tôi sẽ làm cho anh ta nổi tiếng."

*

* *

Roark ngồi trong văn phòng của Hopton Stoddard và vừa nghe vừa sửng sốt. Hopton Stoddard nói chậm rãi; những lời của ông có vẻ chân thành và ấn tượng, chính bởi vì ông đã thuộc lòng những lời ấy một cách nguyên vẹn. Đôi mắt ti hí của ông nhìn Roark với một vẻ cầu khẩn để lấy lòng. Lần đầu tiên, Roark gần như quên mất kiến trúc và nghĩ đến con người trước; anh muốn đứng dậy và bước ra khỏi văn phòng; anh không thể chịu được con người này. Nhưng những lời mà anh nghe thấy giữ anh lại; những lời ấy không hòa hợp với khuôn mặt hay giọng nói của người đàn ông kia.

"Anh thấy đấy, anh Roark, mặc dù nó sẽ là một công trình tôn giáo, nó thực ra có ý nghĩa hơn thế nhiều. Anh có thấy chúng tôi gọi nó là Đền thờ Linh hồn Con người. Chúng tôi muốn nó thâu tóm - bằng đá, giống như người ta thâu tóm bằng âm nhạc - không chỉ vài tín ngưỡng hẹp hòi, mà là bản chất của mọi tôn giáo. Và cái gì là bản chất của mọi tôn giáo? Chính là khát vọng lớn lao của linh hồn con người hướng tới cái cao nhất, cái vĩ đại nhất, cái tuyệt vời nhất. Linh hồn con người như là đấng sáng tạo và người chinh phục của cái lý tưởng. Như động lực sống của cả vũ trụ. Linh hồn anh hùng của con người. Đấy chính là việc của anh, anh Roark."

Roark dụi mu bàn tay của anh vào mắt - một cách bất lực. Thật không thể thế được. Đơn giản là không thể được. Đấy không thể là thứ mà người đàn ông này muốn, không phải người đó. Nghe ông ta nói ra điều đó thật kinh khủng.

"Ông Stoddard, tôi e rằng ông đã mắc sai lầm" - anh nói, giọng anh chậm rãi và mệt mỏi - "tôi không nghĩ tôi là người mà ông muốn. Tôi nghĩ sẽ không phải nếu tôi nhận việc này. Tôi không tin vào Chúa."

Anh ngạc nhiên khi thấy vẻ mãn nguyện và đắc thắng trên khuôn mặt ông Stoddard. Mặt Hopton Stoddard sáng lên vì hàm ơn - ông biết ơn trí tuệ của Ellsworth Toohey; ông ấy luôn đúng. Ông thấy mình có một sự tự tin mới và ông nói chắc chắn, lần đầu tiên với giọng của một người già nói với một người trẻ tuổi - giọng ông sâu sắc và ra ý khuyên bảo một cách ân cần:

"Không sao. Anh là một người có đức tin sâu sắc, anh Roark ạ - theo cách riêng của anh. Tôi có thể thấy điều đó trong các tòa nhà của anh."

Ông băn khoăn tại sao Roark lại nhìn ông như thế - anh không hề cử động trong một lúc lâu.

"Đúng thế" - Roark nói. Câu nói gần như một lời thì thầm.

Việc anh phải học về chính bản thân anh, về các tòa nhà của anh, từ người đàn ông này, người đã thấy chúng và biết chúng trước cả anh; việc ông ta có thể nói ra điều đó với một vẻ tự tin đầy thấu hiểu, mang hàm ý một nhận thức trọn vẹn - đã phá tan mọi nghi ngờ của Roark. Anh tự nhủ rằng anh chưa bao giờ hiểu con người; rằng ấn tượng ban đầu có thể sai lầm; rằng Hopton Stoddard sẽ ở cách xa cả một lục địa; rằng chẳng có gì còn quan trọng so với một công trình tầm cỡ thế này; rằng chẳng có gì quan trọng khi một con người - dù đó là Hopton Stoddard - có thể nói những lời thế này:

"Tôi muốn gọi nó là Chúa Trời. Anh có thể gọi nó bằng một tên khác. Nhưng cái mà tôi muốn ở công trình này là linh hồn của anh. Linh hồn của chính anh, anh Roark. Hãy mang cho tôi cái tốt nhất của linh hồn đó - và anh sẽ hoàn thành sứ mệnh của anh, như tôi sẽ hoàn thành sứ mệnh của tôi. Đừng quan tâm đến ý nghĩa mà tôi muốn nó thể hiện. Hãy để nó là linh hồn của anh trong hình dạng một công trình - và nó sẽ có cái ý nghĩa mà tôi muốn thể hiện, cho dù anh có biết đến nó hay không."

Và như thế Roark nhận lời xây Đền Stoddard cho Linh hồn Con người.

XI.

T

háng mười hai, tòa nhà Cosmo-Slotnick khánh thành bằng một buổi lễ long trọng. Có đủ cả các nhân vật nổi tiếng, những tràng hoa, phóng viên truyền hình, đèn chiếu quay vòng và những bài diễn văn kéo dài ba giờ đồng hồ.

Mình phải vui mừng - Peter Keating tự nhủ; nhưng anh không hề vui. Qua cửa sổ, anh quan sát biển người đứng chật phố Broadway, từ mép đường bên này sang đến bên kia. Anh cố thuyết phục mình phải vui vẻ. Nhưng anh chẳng cảm thấy gì. Anh phải tự thừa nhận rằng anh thấy buồn tẻ. Nhưng anh mỉm cười và bắt tay, và để cho người ta chụp ảnh. Tòa nhà Cosmo-Slotnick mọc lên một cách nặng nề trên đường, như một khối trắng thù lù, nhạt nhẽo.

Sau các buổi lễ, Ellsworth Toohey đưa Keating tới một bàn ăn màu tím nhạt trong một nhà hàng kín đáo và đắt tiền. Người ta đang tổ chức rất nhiều tiệc tùng để chào mừng sự khánh thành của tòa nhà nhưng Keating đã nhận lời mời của Toohey và từ chối những đề nghị khác. Toohey quan sát anh khi anh vồ lấy cốc rượu và ngồi ủ rũ trên ghế.

"Thật tuyệt phải không?" - Toohey nói - "Đó, Peter, là đỉnh điểm của những gì mà người ta có thể hy vọng từ cuộc đời." Ông nâng cốc một cách duyên dáng. "Hãy nâng cốc vì viễn cảnh của những thắng lợi tiếp theo của anh, giống như thắng lợi này. Giống như buổi tối nay."

"Cảm ơn chú" - Keating nói và vội vàng vồ lấy cốc rượu; anh không nhìn, cứ thế nâng nó lên và uống cạn.

"Anh có tự hào không, Peter?"

"Có, có, tất nhiên là cháu có."

"Tốt. Tôi muốn thấy anh như thế. Tối nay trông anh rất đẹp trai. Anh sẽ rất tuyệt trên màn hình."

Một thoáng quan tâm lóe lên trên mặt Keating. "Vâng, cháu cũng hy vọng thế."

"Thật tiếc là anh chưa lập gia đình, Peter. Một người vợ bên cạnh trông sẽ rất tuyệt tối nay. Công chúng thích như thế. Cả khán giả xem phim nữa."

"Katie không ăn ảnh lắm."

"À phải rồi, anh đã đính hôn với Katie. Tôi thật ngốc. Tôi cứ quên chuyện ấy. Không, Katie không ăn ảnh tí nào cả. Mà, tôi không thể nào tưởng tượng được việc Katie lại hợp với các buổi tiệc xã giao. Có rất nhiều tính từ tốt có thể nói về Katie nhưng 'đĩnh đạc' và 'nổi bật' không nằm trong số chúng. Tha lỗi cho tôi, Peter. Tôi cứ để cho trí tưởng tượng chạy trốn khỏi tôi như thế đấy. Tôi làm việc với nghệ thuật nhiều quá nên cứ hay có xu hướng nhìn mọi thứ hoàn toàn từ góc độ mỹ thuật. Và nhìn anh tối nay, tôi không thể nào không nghĩ đến một người sẽ thật hoàn hảo nếu đứng cạnh anh."

"Ai?"

"Ồ, đừng để ý đến tôi. Chỉ là một chút mơ mộng thuần túy mỹ thuật ấy mà. Cuộc sống chẳng bao giờ hoàn hảo được như thế. Người ta đã có quá nhiều để ghen tỵ với anh rồi. Anh không thể thêm cái đó vào những thành tích của anh được."

"Ai?"

"Thôi bỏ đi, Peter. Anh không thể có cô ấy được đâu. Chẳng ai có thể có cô ấy. Anh rất giỏi, nhưng vẫn còn chưa đủ."

"Ai?"

"Dominique Francon, dĩ nhiên."

Keating ngồi thẳng dậy và Toohey thấy vẻ mệt mỏi trong mắt anh - cả sự bất cần và thậm chí là thù địch. Toohey giữ cái nhìn đó một cách bình thản. Cuối cùng, Keating đầu hàng; anh lại sụp xuống và anh nói bằng giọng van nài:

"Ôi, vì Chúa, chú Ellsworth. Cháu không yêu cô ta."

"Tôi chưa bao giờ nghĩ là anh yêu cô ấy. Nhưng tôi cứ quên mất là những người bình thường luôn luôn phóng đại tầm quan trọng của tình yêu - tình yêu nhục dục."

"Cháu không phải một người bình thường" - Keating nói vẻ mệt mỏi; đấy là một lời phản đối tự động, nó không hề có lửa.

"Ngồi thẳng lên đi, Peter. Trông anh chẳng giống một người hùng tí nào cả - cái kiểu ngồi sụm xuống như thế."

Keating giật người thẳng lên - một cách lo lắng và giận dữ. Anh nói:

"Cháu luôn có cảm giác là chú muốn cháu lấy Dominique. Tại sao? Chú được lợi gì nào?"

"Anh đã tự trả lời câu hỏi của anh rồi, Peter. Tôi thì được lợi gì nào? Nhưng chúng ta đang nói chuyện tình yêu. Tình yêu nhục dục, Peter, là một thứ cảm xúc hoàn hoàn ích kỷ. Và những cảm xúc ích kỷ không bao giờ đưa đến hạnh phúc. Đúng không nào? Ví dụ như tối nay chẳng hạn. Một buổi tối thế này làm trương phình trái tim của một kẻ vị kỷ. Anh có hạnh phúc không, Peter? Không cần trả lời đâu, bạn của tôi, không cần thiết phải trả lời. Tôi chỉ định nhấn mạnh là một người phải hoài nghi những cảm xúc cá nhân nhất của mình. Những thứ mà anh ta ham muốn thực ra chẳng hề quan trọng. Người ta không thể hạnh phúc cho đến chừng nào người ta nhận thức được điều này một cách trọn vẹn. Hãy thử nghĩ về tối nay một chút mà xem. Anh, Peter thân mến của tôi, đã là người ít quan trọng nhất ở đây. Và đấy là điều nên xảy ra. Người làm không bao giờ quan trọng bằng những người hưởng lợi từ việc làm đó. Thế mà anh không có khả năng chấp nhận điều đó - và vì thế mà anh đã không cảm thấy được sự thăng hoa lẽ ra đã thuộc về anh."

"Đúng vậy" - Peter thì thầm. Anh hẳn sẽ không thừa nhận điều này với bất kỳ ai khác.

"Anh đã bỏ lỡ lòng tự hào đẹp đẽ của một người hoàn toàn không vị kỷ. Chỉ khi anh học được cách chối bỏ cái tôi của anh, chối bỏ hoàn toàn, thì anh mới có thể học được cách vui thú với những cảm xúc tầm thường như những đòi hỏi tình dục nhỏ bé của anh - và chỉ khi ấy anh mới đạt được sự vĩ đại mà tôi đã luôn chờ đợi ở anh."

"Chú... chú tin là cháu được như thế, Ellsworth? Chú thực sự tin thế?"

"Tôi đã không ngồi đây nếu tôi không tin thế. Nhưng quay lại với chuyện tình yêu. Tình yêu cá nhân, Peter ạ, là một tội ác lớn - cũng như tất cả những thứ gì có tính cá nhân. Và nó luôn luôn đưa đến sự khổ sở. Anh không nhìn thấy lý do tại sao à? Tình yêu cá nhân là một hành vi thiên vị, một hành vi phân biệt. Nó là một hành vi của sự bất bình đẳng - đối với tất cả những người mà anh đã cướp đi tình yêu thương để dành nó cho một cá thể nhất định. Anh phải yêu tất cả mọi người như nhau. Nhưng anh không thể đạt tới tình cảm cao quý ấy nếu như anh không giết chết những lựa chọn nhỏ mọn và ích kỷ của anh đi. Chúng thật ác độc và phù phiếm - bởi vì chúng mâu thuẫn với quy luật lớn đầu tiên của thế giới - quy luật bình đẳng của mọi con người."

"Ý chú là" - Keating đột nhiên trở nên hào hứng - "theo một ý nghĩa triết học, thì ở tận cùng, ý cháu là, tận cùng, tất cả chúng ta đều bình đẳng? Tất cả chúng ta?"

"Dĩ nhiên rồi" - Toohey nói.

Keating băn khoăn tại sao ý nghĩ đó lại làm anh dễ chịu đến thế. Anh không ngại nếu điều đó có nghĩa là anh cũng ngang bằng với những kẻ ăn cắp vặt trà trộn trong đám đông có mặt để chào mừng tòa nhà của anh vào tối nay; anh chỉ lờ mờ nghĩ đến nó - và anh cũng không thấy phiền lòng mặc dù nó mâu thuẫn với khao khát tìm kiếm sự ưu việt mà anh đã theo đuổi cả đời. Sự mâu thuẫn chẳng quan trọng; anh không hề nghĩ đến buổi tối nay hoặc tới đám đông; anh đang nghĩ tới một người khác - người đã không có mặt tối nay.

"Chú biết không, Ellsworth" - anh nói và chồm về phía trước, với vẻ sung sướng có phần bất an - "Cháu... cháu thích nói chuyện với chú hơn là làm bất cứ việc gì khác. Cháu phải đến rất nhiều chỗ tối nay và cháu thấy vui hơn nhiều khi ngồi đây nói chuyện với chú. Thỉnh thoảng cháu tự hỏi cháu sẽ làm gì được nếu không có chú."

Toohey trả lời:

"Đấy là điều tất yếu thôi. Nếu không thì bạn bè với nhau mà làm gì?"

*

* *

Mùa đông đó, buổi dạ vũ nghệ thuật hoá trang thường niên được tổ chức hoành tráng và sáng tạo hơn mọi khi. Athelstan Beasely, linh hồn của buổi dạ vũ, đã làm được một việc mà ông ta gọi là một sáng tạo thiên tài: ông ta yêu cầu mỗi kiến trúc sư được mời đến dự tiệc phải hoá trang như những toà nhà nổi tiếng nhất mà anh ta đã thiết kế. Buổi dạ vũ thành công rực rỡ.

Peter Keating là ngôi sao của buổi tối đó. Trông anh rất đỏm dáng trong trang phục toà nhà Cosmo-Slotnick. Một bộ quần áo bằng giấy tái tạo lại toà nhà phủ từ đầu tới chân anh; người ta không nhìn thấy mặt anh nhưng đôi mắt sáng của anh chiếu ra qua những cửa sổ của tầng trên cùng và hình kim tự tháp trên nóc toà nhà mọc lên trên đầu anh; những trụ nhà chọc vào cơ hoành của anh và anh ngọ nguậy những ngón tay qua cổng chính của toà nhà. Chân anh được tự do cử động với sự tao nhã thường lệ của anh; anh mặc một chiếc quầy dạ tiệc hoàn hảo và đi một đôi giày mềm bằng da.

Guy Francon trông oai vệ với toà nhà Ngân hàng quốc gia Frink mặc dù bộ trang phục trông bệ vệ hơn hẳn bản thân toà nhà vì nó phải chứa đủ bụng của Francon; ngọn đuốc Hadrian trên đầu ông được lắp một bóng điện thật và được thắp sáng bằng một quả pin nhỏ. Ralston Holcombe hùng dũng trong trang phục một toà nhà hành chính bang, và Gordon L.Precott trông lực lưỡng với trang phục một chiếc máy hút lúa. Eugene Pettingill xúng xính vác một khách sạn thuộc đại lộ Park trên đôi chân già nua và gày gò của ông ta; hai mắt kính gọng sừng của ông thao láo nhìn ra ngoài qua ngọn tháp đồ sộ của khách sạn. Hai kiến trúc sư hài hước khác sắm một bộ áo khoác đôi, dính với nhau ở phần bụng và được trang trí bằng những toà nhà nổi tiếng của thành phố - những toà nhà chào đón những con tàu tiến vào thành phố từ ngoài biển. Mọi người đều hết sức vui vẻ.

Rất nhiều kiến trúc sư, đặc biệt là Athelstan Beasey, đã rất phẫn nọ khi Howard Roark được mời mà đã không tới. Họ đã chờ đợi anh sẽ đến trong trang phục toà nhà Enright.

*

* *

Dominique dừng lại trong hành lang và đứng nhìn hàng chữ khắc trên cửa: "Horward Roark, Kiến trúc sư."

Cô chưa bao giờ nhìn thấy văn phòng của anh. Cô đã cố chống lại việc đến đây trong một thời gian dài. Nhưng cô phải đến xem nơi anh làm việc.

Người thư ký trong phòng tiếp tân giật mình khi Dominique nói tên cô; tuy thế, bà vẫn thông báo với Roark. "Mời cô vào ngay đi, cô Francon" - bà nói.

Roark mỉm cười khi cô bước vào phòng làm việc của anh; một nụ cười nhẹ không có dấu hiệu ngạc nhiên.

"Anh biết một ngày nào đó em sẽ đến đây" - anh nói. "Có muốn anh dẫn em đi xem văn phòng không?"

"Cái gì kia?" cô hỏi.

Hai bàn tay anh dính đầy đất sét; trên một bàn dài, giữa một đống các bản vẽ phác thảo bỏ đi là một mô hình toà nhà bằng đất sét - một mô hình thử nghiệm thô sơ gồm toàn góc cạnh và những hàng hiên.

"Khách sạn Acquitania?" - cô hỏi.

Anh gật đầu.

"Anh luôn làm thế à?"

"Không. Không phải lúc nào cũng thế. Đôi lúc thôi. Có một vấn đề khó với toà nhà này. Anh muốn thử nghiệm nó một lúc. Có thể đây là toà nhà anh thích nhất - nó rất khó thiết kế."

"Anh cứ làm đi. Em muốn xem anh làm. Anh có phiền không?"

"Không hề."

Chỉ một giây sau, anh đã quên sự hiện diện của cô. Cô ngồi trong góc và quan sát đôi tay anh. Cô thấy chúng nặn những bức tường. Cô thấy chúng đè sập một phần của toà nhà và lại dừng lại, từ từ, kiên nhẫn, với một sự chắc chắn lạ lùng, ngay cả vào lúc anh ngập ngừng. Cô thấy lòng bàn tay anh vuốt thắng một mặt phẳng dài, thẳng đứng; trong lúc anh chuyển động, cô thấy một góc nhọn nhô lên khỏi mặt phẳng ấy trước khi cô kịp nhìn thấy nó thành hình trong đất sét.

Cô đứng dậy và bước tới bên cửa sổ. Những toà nhà của thành phố ở dưới kia trông nhỏ như những mô hình trên bàn làm việc của anh. Cô có cảm giác cô có thể nhìn thấy bàn tay anh đang nhào nặn những đoạn tường thụt, những góc, những mái nhà của tất cả những cấu trúc dưới kia, đang đè phẳng và lại nặn trở lại. Bàn tay cô cử động một cách bất giác, theo đường nét của một toà nhà ở phía xa, theo những bậc nâng dần lên của nó; và cô cảm thấy một cảm giác sở hữu vật chất, cô cảm thấy nó thay anh.

Cô quay người nhìn về phía anh. Một lọn tóc rủ xuống khuôn mặt đang chăm chú cúi xuống mô hình đất sét; anh không nhìn cô; anh đang nhìn vào cái hình khối dưới những ngón tay anh. Cô có cảm giác cô đang nhìn thấy tay anh di chuyển trên thân thể một người đàn bà khác. Cô dựa vào tường; cô thấy người lả đi trong sự thoả mãn dữ dội đang xâm chiếm toàn thân

*

* *

Vào tháng Một, khi những trụ thép đầu tiên mọc lên từ hố móng của toà nhà Cord và khách sạn Aquitania, Roark bắt tay vẽ Đền Stoddard.

Khi những bản phác đầu tiên hoàn thành, anh nói với thư ký:

"Tìm Steven Mallory cho tôi."

"Mallory ư, ông Roark? Ai là ... À, phải rồi, nhà điêu khắc đã bắn..."

"Nhà điêu khắc làm sao?"

"Anh ta bắn Ellsworth Toohey, đúng không?"

"Anh ta đã bắn? À, phải rồi."

"Ông muốn tìm người đó, ông Roark?"

"Tôi muốn tìm người đó."

Trong hai ngày, cô thư ký điện thoại các nhà buôn tranh, các gallery, các kiến trúc sư, các toà soạn. Không ai biết Steven Mallory làm gì, ở đâu. Vào ngày thứ ba, cô báo với Roark: "Tôi tìm thấy một địa chỉ, ở bên Greewich Village. Người ta bảo có thể anh ta ở đó. Không có điện thoại." Roark đọc cho cô thư ký đánh máy một lá thư yêu cầu ông Mallory gọi điện tới văn phòng anh.

Lá thư không bị trả lại, nhưng một tuần trôi qua mà không có thư trả lời. Sau đó, Steven Mallory gọi tới.

"Ai đấy?" - Roark nói khi cô thư ký nối đường dây cho anh.

"Steven Mallory." Đó là một giọng trẻ và cứng cáp, đi kèm với nó là một sự im lặng nóng nảy và hiến chiến.

"Tôi muốn gặp ông, ông Mallory. Có thể bố trí để ông tới văn phòng được không?"

"Ông muốn gặp tôi về việc gì?"

"Về một công trình, dĩ nhiên. Tôi muốn ông làm một số việc cho một công trình của tôi."

Im lặng kéo dài.

"Được rồi" - Mallory nói; giọng anh ta nghe có vẻ chết chóc. Anh ta nói thêm:

"Công trình nào?"

"Đền Stoddard. Ông có thể đã nghe thấy..."

"Phải, tôi đã nghe. Ông đang xây cái đó. Ai mà chả biết. Ông có trả tôi bẫm như trả gã đại diện báo chí của ông không?"

"Tôi không trả tiền cho đại diện báo chí nào cả. Tôi sẽ trả mức ông yêu cầu."

"Ông biết cũng chả đáng mấy."

"Lúc nào tiện cho ông tới đây?"

"Chậc, quỷ tha ma bắt, lúc nào chả được. Ông biết là tôi không bận."

"Hai giờ chiều mai được không?"

"Được thôi." Anh ta thêm: "Tôi không thích giọng của ông."

Roark phá lên cười.

"Tôi thì thích giọng của ông. Dập máy đi và tới đây hai giờ chiều mai."

"OK." Mallory dập máy.

Roark bỏ ống nghe và toác miệng cười. Nhưng nụ cười đột ngột biến mất và anh ngồi nhìn chiếc điện thoại, mặt anh đăm chiêu.

Mallory không đến cuộc hẹn. Ba ngày trôi qua mà không có tin tức gì. Sau đó, Roark đích thân đi tìm anh ta.

Căn nhà trọ mà Mallory ở là một toà nhà bằng đá cát-kết cũ nát trên một con phố không đèn nồng nặc mùi tanh. Tầng một của nó có một hiệu giặt và một hiệu đóng giày nằm hai bên một lối vào hẹp. Bà chủ ăn mặc lôi thôi nói "Mallory hả? Tầng năm, phía sau" rồi dửng dưng bỏ đi. Roark leo qua năm tầng gác xập xệp bằng gỗ, chỉ được chiếu sáng bằng những bóng điện mắc trong những đường ống chằng chịt. Anh gõ vào một cánh cửa cáu đầy bụi bặm.

Cửa mở. Một thanh niên hốc hác hiện ra ở ngưỡng cửa; anh ta có một mái tóc bù xù, một cái miệng cứng cỏi, môi dưới vuông vức. Đấy là đôi mắt biểu cảm nhất mà Roark từng nhìn thấy.

"Anh muốn gì?" - người kia gắt lên.

"Mallory?"

"Phải."

"Tôi là Howard Roark."

Mallory phá lên cười. Anh đứng tựa vào một bên khung cửa, một cánh tay chống ngang sang cửa kia và không có vẻ định bước sang bên nhường đường cho khách. Rõ ràng anh ta đang say.

"Chà, chà" - anh ta nói - "Đích thân cơ đấy."

"Tôi vào được không?"

"Vào làm gì?"

Roark ngồi xuống tay vịn cầu thang.

"Tại sao cậu không giữ đúng hẹn?"

"Ồ, cuộc hẹn? À, phải. Chà, thế này nhé." Mallory trịnh trọng. "Tôi có định giữ hẹn, thật đấy. Tôi đã đi đến văn phòng ông, nhưng rồi trên đường, tôi nhìn thấy một rạp chiếu phim đang chiếu Hai mái đầu trên một chiếc gối, thế là tôi vào xem. Tôi nhất quyết phải xem Hai mái đầu trên một chiếc gối." Anh ta cười toe toét, người liêu xiêu đổ xuống cánh tay đang chống qua khung cửa.

"Cậu nên để tôi vào nhà."- Roark nói khẽ

"Thì vào đi."

Căn phòng chỉ là một cái hốc tăm tối. Một chiếc giường bừa bộn ở một góc vụn báo và quần áo cũ; một cái bếp hơi hình tròn, một bức tranh phong cảnh cỡ 5x10 đóng khung có vẻ như vẽ một cảnh đồng quê màu nâu xỉn với những bầy cừu. Không hề có các bức vẽ hoặc tượng mẫu, không hề có dụng cụ của người làm nghề điêu khắc.

Roark đẩy vài quyển sách và một chiếc chảo rán ra khỏi chiếc ghế duy nhất trong phòng. Anh ngồi xuống. Mallory đứng trước mặt anh, vừa cười toe toét vừa đung đưa người.

"Ông đang làm một việc ngược đời" - Mallory nói - "Chả ai làm thế cả. Chắc là ông quẫn lắm thì mới phải chạy theo một gã điêu khắc. Lẽ ra ông phải làm thế này này: Ông phải bắt tôi đến văn phòng ông, và lần đầu tiên tôi đến, ông phải không có mặt. Đến lần thứ hai, ông phải bắt tôi chờ một tiếng rưỡi rồi mới bước vào phòng lễ tân để bắt tay và hỏi xem tôi có biết gia đình Wilson ở Podunk không và nói rằng thật tuyệt vì chúng ta có những người bạn chung, nhưng hôm nay ông đang rất bận và ông sẽ sớm mời tôi đi ăn trưa và sau đó chúng ta sẽ bàn công việc. Ông làm thế này khoảng hai tháng. Sau đó ông giao việc cho tôi. Rồi ông nói với tôi rằng tôi chả có tài quái gì và chưa bao giờ có tài và ông ném cái tôi làm vào thùng rác. Rồi ông thuê Valerian Bronson và anh ta hoàn thành công việc. Đấy, phải làm như thế. Chỉ có điều không phải lần này."

Nhưng đôi mắt anh ta chăm chú quan sát Roark và hai con mắt đó có sự tự tin của một người lành nghề. Khi anh ta nói, giọng anh ta mất dần sự giễu cợt ngạo mạn và càng về cuối càng trở nên đều đều, bất lực.

"Không, không phải lần này" - Roark nói.

Mallory đứng bất động nhìn Roark.

"Ông là Howard Roark?" - anh ta nói - "Tôi thích cái toà nhà của ông. Chính vì thế mà tôi không muốn gặp ông. Như thế tôi đỡ buồn nôn mỗi lần tôi nhìn thấy chúng. Tôi muốn được tiếp tục nghĩ rằng người xây ra chúng xứng đáng với chúng."

"Nếu như tôi xứng đáng thì sao?"

"Không đời nào."

Nhưng anh ta ngồi xuống mép chiếc giường ọp ẹp và rũ người về phía trước. Cái liếc mắt của anh ta giống như một cái cân tinh vi đang cân đo con người Roark. Đấy là một ánh mắt ngạo mạn đang công khai định giá người khác.

"Nghe này" - Roark nói rành rọt và cẩn trọng - "Tôi muốn cậu nặn một bức tượng cho Đền Stoddard của tôi. Đưa tôi một mẩu giấy; tôi sẽ viết hợp đồng với cậu ngay bây giờ; tôi sẽ ghi rõ tôi nợ cậu 1 triệu đô la nếu tôi không thuê cậu hoặc không dùng bức tượng của cậu."

"Ông có thể ăn nói bình thường. Tôi không say. Không hoàn toàn. Tôi vẫn hiểu."

"Vậy thì?"

"Tại sao ông chọn tôi?"

"Vì cậu giỏi điêu khắc."

"Không đúng."

"Về chuyện cậu giỏi?"

"Không. Về lý do của ông. Ai bảo ông thuê tôi?"

"Không ai cả."

"Có phải một ả nào đó đã ngủ với tôi không?"

"Tôi chẳng biết ả nào đã ngủ với cậu."

"Ngân sách hẻo quá hả?"

"Không. Ngân sách không hạn chế."

"Thương hại tôi à?"

"Không, Tại sao tôi phải thương hại cậu?"

"Muốn được quảng cáo về việc dùng người đã bắn Toohey hả?"

"Vì Chúa, không!"

"Vậy thì vì cái gì?"

"Sao cậu không bỏ mấy thứ vớ vẩn đó đi và nghĩ đến lý do đơn giản nhất?"

"Lý do gì?"

"Vì tôi thích tác phẩm của cậu."

"Dĩ nhiên. Bọn họ đều nói thế cả. Ai cũng biết cách nói thế và tin thế. Cứ thử tưởng tượng, nếu bóc cái vỏ giả dối ấy ra. Được rồi, ông thích tác phẩm của tôi. Nào, lý do thực sự là gì?"

"Là tôi thích tác phẩm của cậu."

Mallory nói nghiêm trang, giọng anh hoàn toàn tỉnh táo.

"Ý ông là ông đã nhìn những thứ tôi làm và ông thích chúng - ông - chính ông - một mình ông - chứ không phải vì ai đó bảo rằng ông nên thích chúng hoặc tại sao ông nên thích chúng - và ông đã quyết định rằng ông muốn có tác phẩm của tôi, vì lý do đó - chỉ vì lý do đó - mà không hề biết gì về tôi và cũng cóc quan tâm đến chuyện khác - chỉ vì tác phẩm của tôi và ... và cái mà ông nhìn thấy từ chúng - chỉ vì thế mà ông đã quyết định thuê tôi và ông bỏ công tìm tôi và đến tận đây và chịu lăng mạ - chỉ vì ông đã nhìn thấy - và cái mà ông thấy làm cho tôi trở nên quan trọng đối với ông, làm cho ông muốn có tôi? Ý ông là thế à?"

"Chính là thế" Roark trả lời.

Đôi mắt Malloy mở to. Rồi anh lắc đầu và nói cộc lốc, như để an ủi chính mình:

"Không."

Anh cúi người về phía trước. Giọng anh van nỉ và chết chóc:

"Nghe này, ông Roark. Tôi sẽ không giận ông. Tôi chỉ muốn biết. Thôi được rồi tôi thấy là ông đã nhất định phải bắt tôi làm việc cho ông và ông biết là ông có thể có tôi vì bất cứ lý do nào, ông không phải ký bất kỳ hợp đồng một triệu đô la nào cả; nhìn cái phòng này xem, ông biết là ông đã tóm được tôi, vậy tại sao ông không nói thật với tôi? Với ông thì đằng nào cũng thế - nhưng với tôi thì lại rất quan trọng."

"Cái gì rất quan trọng với cậu?"

"Không phải để... không phải để ... Được rồi. Tôi đã nghĩ chẳng ai còn muốn thuê tôi. Nhưng ông lại muốn thuê tôi. Được rồi. Tôi có thể chịu đựng được việc đi làm trở lại. Có điều, tôi không muốn nghĩ rằng tôi đang làm việc cho một người ... thích các tác phẩm của tôi. Cái đó là cái tôi không thể chịu đựng thêm. Tôi sẽ thấy dễ chịu hơn nếu ông nói với tôi, tôi sẽ... tôi sẽ cảm thấy yên ổn hơn. Ông đóng kịch với tôi làm gì? Tôi chẳng là cái thá gì cả. Tôi sẽ không nghĩ xấu về ông, nếu đó là điều ông e ngại. Ông thấy chưa? Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu ông nói cho tôi biết sự thật. Như thế, mọi chuyện sẽ đơn giản và thẳng thắn. Tôi sẽ tôn trọng ông hơn. Thật đấy."

"Cậu làm sao thế? Họ đã làm những gì với cậu? Tại sao cậu lại muốn nói những thứ như vậy?"

"Bởi vì..." Mallory đột ngột gầm lên, rồi giọng anh ta vỡ ra, đầu anh gục xuống. Anh thì thầm: "bởi vì tôi đã mất hai năm" - anh ta khoát một vòng yếu ớt quanh căn phòng "tôi đã mất hai năm như thế này, - tôi đã cố để quên rằng những gì ông vừa nói với tôi không hề tồn tại..."

Roark bước lại phía anh ta. Anh nâng cằm Mallory lên và giật mạnh:

"Cậu là đồ ngốc. Cậu không có quyền quan tâm đến những gì tôi nghĩ về tác phẩm của cậu, về việc tôi là ai hoặc vì sao tôi đến đây. Cậu quá giỏi để phải quan tâm đến những thứ ấy. Nhưng nếu cậu muốn biết thì thế này - tôi nghĩ rằng cậu là nhà điêu khắc giỏi nhất hiện nay. Tôi nghĩ thế vì những bức tượng của cậu không mô tả con-người-như-đang-là, mà chúng mô tả con-người-như-có-thể-là và phải-là. Bởi vì cậu đã vượt qua cái có-lẽ-tồn-tại để cho xã hội thấy cái có-thể-tồn-tại, nhưng chỉ tồn tại nhờ có lao động của cậu. Bởi vì những tác phẩm của cậu không hề có biểu hiện khinh ghét con người. Vì cậu có một sự kính trọng lớn lao với con người. Bởi vì những tác phẩm của cậu cho thấy bản chất anh hùng của con người. Vì thế, tôi không đến đây để làm ơn cho cậu hoặc vì tôi thương hại cậu hay vì cậu rất cần có việc làm. Tôi đến vì một lý do đơn giản và ích kỷ - nó cũng là lý do mà một người chọn thức ăn sạch sẽ nhất anh ta có thể tìm thấy. Đó là quy luật sinh tồn phải không - quy luật luôn tìm kiếm thứ tốt nhất. Tôi không đến đây vì lợi ích của cậu. Tôi đến vì lợi ích của tôi."

Mallory vùng ra khỏi tay Roark và gục mặt xuống giường. Hai cánh tay anh duỗi thẳng ở hai bên đầu còn bàn tay thì nắm lại thành hai quả đấm. Lưng áo sơ mi rung rung chứng tỏ anh ta đang khóc; lớp vải áo và hai nắm đấm vặn vẹo chầm chậm, hằn sâu vào chiếc gối. Roark biết rằng mình đang nhìn một người đàn ông chưa từng khóc bao giờ. Anh ngồi xuống bên giường và không thể rời mắt khỏi những cổ tay đang vặn vẹo, mặc dù cảnh tượng đó thật khó chịu đựng.

Một lúc sau, Mallory ngồi dậy. Anh ta nhìn Roark và thấy một khuôn mặt bình thản nhất và nhân từ nhất - một khuôn mặt không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của sự thương hại. Nó không giống sắc mặt của những kẻ nhìn ngắm sự đau đớn tột cùng của người khác với sự thoả mãn thầm kín - hoan hỉ với cảnh một người ăn mày cầu xin sự thương xót của mình. Đó không phải bộ mặt của một tâm hồn đói khát vốn được nuôi sống bằng sự nhục nhã của người khác. Khuôn mặt Roark có vẻ mệt mỏi, hai thái dương gồ lên như thể anh vừa bị đấm. Nhưng đôi mắt trong sáng của anh lặng lẽ nhìn Mallory. Đấy là một cái nhìn trong sáng thể hiện sự thấu hiểu và tôn trọng.

"Giờ thì nằm xuống đi," Roark nói. "Hãy nằm yên một lúc."

"Làm sao mà họ lại để ông tồn tại?"

"Nằm xuống. Nghỉ đi. Chúng ta sẽ nói chuyện sau."

Mallory đứng dậy. Roark ấn vai anh xuống, nhấc chân anh ta lên khỏi sàn nhà và đặt đầu anh ta lên gối. Mallory không kháng cự.

Khi bước lùi lại, Roark vấp phải một chiếc bàn chất đầy thứ linh tinh. Có cái gì đó loảng xoảng trên nền nhà. Mallory nhỏm phắt dậy để cố bắt lấy nó. Roark gạt cánh tay anh ta sang bên và nhặt vật đó lên.

Đó là một miếng thạch cao nhỏ - loại thường được bán ở các cửa hàng quà tặng rẻ tiền. Nó có hình một em bé đang nằm sấp bụng, hai mông nhổm dậy, mắt len lén nhìn qua vai. Chỉ vài đường tiết thể hiện các bắp thịt nhưng nó cho thấy một tài năng nổi bật và không thể bị phủ nhận cho dù phần còn lại các bức tượng cho thấy một nỗ lực cố ý của nhà điêu khắc - rõ ràng anh ta đã cố gắng nặn một cách sỗ sàng, thô tục, và rập khuôn. Đấy là một số nỗ lực vụng về không thuyết phục và vất vả. Bức tượng nhỏ trông như một dụng cụ ở các phòng tra tấn.

Mallory thấy tay Roark bắt đầu run lên. Rồi một tay Roark đưa ra sau, qua đầu, chầm chậm, như thế anh đang thu trọng lượng không khí bằng cử động gập khuỷu tay này; tất cả cử động của anh diễn ra rất nhanh, nhưng nó làm người ta có cảm giác nó kéo dài mấy phút. Cánh tay anh giơ lên, bất động - rồi nó vung mạnh ra phía trước. Miếng thạch cao bay ngang qua phòng, đập vào tường và vỡ tan thành nhiều mảnh. Đấy là lần duy nhất có người nhìn thấy Roark giận dữ tột độ như thể anh có thể giết người.

"Roark."

"Chuyện gì?"

"Roark, tôi ước gì tôi đã gặp anh trước khi anh có việc phải thuê tôi." Mallory nói một cách vô cảm, đầu anh ta đặt trên gối còn đôi mắt thì nhắm nghiền. "Như thế, sẽ chẳng có lý do nào khác lẫn vào. Bởi vì, anh thấy đấy, tôi rất biết ơn anh. Không phải là vì đã cho tôi việc làm. Không phải vì đã đến đây. Không phải vì những thứ anh sẽ làm vì tôi. Mà vì chính con người anh."

Rồi Mallory nằm bất động, người duỗi thẳng và mềm oặt, như một người đã phải chịu đựng quá lâu và đã trở nên vô cảm với sự chịu đựng. Roark đứng bên cửa sổ. Anh nhìn căn phòng bừa bộn và chàng trai đang nằm trên giường. Anh băn khoăn không hiểu tại sao anh có cảm giác chờ đợi. Anh đang chờ một cái gì đó nổ tung trên đầu cả hai. Điều này thật phi lý. Rồi anh hiểu ra. Anh nghĩ rằng đây là cái người ta cảm thấy khi nằm trong một công sự; căn phòng này không phải là một bằng chứng ngẫu nhiên của sự nghèo khổ mà là dấu vết của một cuộc chiến; nó là tàn tích của những loại thuốc nổ còn khủng khiếp hơn bất cứ loại thuốc nổ nào trong các kho vũ khí trên thế giới. Một cuộc chiến ... chống lại cái gì nhỉ?... Kẻ thù không có tên và cũng không có mặt. Nhưng chàng trai này là một người đồng chí của anh; cậu ta đã bị thương trên chiến trường. Roark đứng bên cạnh giường. Anh cảm thấy một cảm giác mới lạ, một ham muốn được nhấc Malloy lên và đưa người đồng chí của mình tới nơi an toàn. Chỉ có điều, cả địa ngục và nơi an toàn chưa bao giờ có địa chỉ cụ thể. Anh tiếp tục nghĩ đến Kent Lansing; anh cố nhớ lại một điều gì đó mà Kent Lansing đã nói...

Rồi Mallory mở mắt. Anh chống một khuỷu tay để nhổm người dậy. Roark kéo ghế lại gần giường và ngồi xuống.

"Giờ thì nói đi" - anh nói. "Hãy nói những điều mà cậu đã thực sự muốn được nói. Đừng kể cho tôi về gia đình cậu, thời niên thiếu của cậu, bạn bè cậu hoặc cảm xúc của cậu. Hãy nói những điều cậu nghĩ."

Mallory nhìn anh đầy ngờ vực và thầm thì:

"Làm sao anh biết điều đó?"

Roark mỉm cười. Anh không trả lời.

"Làm sao mà anh biết cái gì đã và đang giết tôi? Cứ dần dần, suốt những năm qua ... nó làm cho tôi căm ghét con người khi mà tôi không hề muốn căm ghét... Anh cũng từng có cảm giác ấy chứ? Anh đã từng phải thấy những người bạn thân thiết nhất của anh yêu quý mọi thứ về anh - ngoại trừ những điều thực sự quan trọng? Và cái điều quan trọng nhất đối với anh lại chẳng là gì đối với họ, chẳng là cái thá gì, họ không muốn nghe một tiếng nào về chúng. Thế mà anh nói là anh muốn nghe những cái đó? Anh muốn biết tôi làm gì và tại sao tôi lại làm vậy, anh muốn biết tôi nghĩ gì! Anh không thấy chán? Anh thấy chúng quan trọng?"

"Nói đi," Roark nói.

Rồi anh ngồi hàng giờ lắng nghe, trong khi Mallory kể về tác phẩm của mình, về ý tưởng đằng sau tác phẩm, về những tư tưởng định hình cuộc sống của anh ta. Anh ta nói nghiến ngấu, như một người chết đuối vừa lên được bờ, say sưa hớp những hớp lớn thứ không khí tinh tươm.

*

* *

Sáng hôm sau, Mallory đến văn phòng của Roark. Roark cho anh xem bản thiết kế ngôi đền. Khi đứng ở bên bàn thiết kế với một vấn đề cần giải quyết, Mallory thay đổi hẳn. Không còn vẻ hoài nghi ở anh, không còn dấu ấn những nỗi đau. Anh cầm bản vẽ bằng những cử động dứt khoát, mạnh mẽ, như một người lính đang làm nhiệm vụ. Cử chỉ đó cho thấy những thứ đã xảy ra với anh cũng không thể làm biến đổi chức năng của một thứ nằm trong con người anh - chính thứ đó giờ được huy động để làm việc. Anh tự tin một cách kiên định và vô tư; anh đối diện với Roark như một cá thể bình đẳng.

Anh nghiên cứu các bản vẽ rất lâu rồi ngẩng đầu lên. Khuôn mặt anh hoàn toàn bình thản, trừ đôi mắt.

"Cậu thích không?" Roark hỏi.

"Đừng dùng những từ ngớ ngẩn."

Anh cầm một bản vẽ và đi đến cửa sổ. Anh đứng nhìn xuống bản vẽ, rồi nhìn xuống đường phố, rồi nhìn khuôn mặt Roark, và nhìn lại bản vẽ.

"Không thể nào" anh ta nói. "Không thể là cái này - và cái kia." Anh giơ bản vẽ về phía đường phố bên dưới.

Trên phố đó có một phòng chơi bi-a; một nhà trọ có mái hiên kiểu Corinthian; một tấp áp phích quảng cáo một vở nhạc kịch ở Broadway; một dãy phơi đồ lót màu hồng và xám bay phấp phới trên một mái nhà.

"Không thể cùng một thành phố. Không thể trên cùng một quả đất," Mallory nói. "Nhưng anh đã làm cho nó xảy ra. Nó trở thành cá thể... Tôi sẽ không bao giờ còn sợ hãi nữa."

"Sợ cái gì?"

Mallory cẩn thận đặt bản thiết kế xuống bàn. Anh trả lời:

"Hôm qua anh nói cái gì đó về quy luật đầu tiên. Một quy luật đòi hỏi con người phải tìm kiếm cái tốt nhất ... Thật buồn cười... Một thiên tài không được công nhận - đó là một câu chuyện cũ rích. Anh đã bao giờ nghĩ đến một câu chuyện còn tồi hơn nhiều chưa - một thiên tài được công nhận quá mức? ... Có quá nhiều người ngốc nghếch và không nhận ra thế nào là tốt nhất - chuyện đó chẳng sao? Như thế chẳng đáng tức giận. Nhưng anh có hiểu được chuyện có những người nhận ra thế nào là tốt nhất nhưng lại không muốn đạt được điều đó?"

"Không."

"Không. Anh không thể hiểu đâu. Tôi đã nghĩ về anh cả đêm. Tôi không thể ngủ chút nào. Anh có biết bí mật của anh là gì không? Đó là sự ngây thơ kinh khủng của anh?"

Roark cười phá lên và nhìn vào khuôn mặt trẻ con của Mallory.

"Không." Mallory nói, "chuyện này chẳng hề buồn cười. Tôi biết tôi đang nói gì - còn anh thì không. Anh không thể biết được điều đó. Bởi vì anh quá mạnh. Anh quá mạnh đến mức anh không có tí ý niệm nào về bệnh tật. Anh có nghe nói về bệnh tật. Nhưng anh không thực sự tin điều đó. Tôi khôn ngoan hơn anh về một số thứ vì tôi yếu hơn anh. Tôi hiểu được những kẻ ở phía bên kia. Chính vì thế nó có tác động vào tôi... như hôm qua anh nhìn thấy."

"Điều đó kết thúc rồi."

"Có thể. Nhưng không hoàn toàn. Tôi không còn sợ nữa. Nhưng tôi biết rằng sự kinh sợ của tồn tại. Tôi biết nỗi kinh hoàng đó. Anh thì không có khả năng biết đến nó. Tôi biết nỗi kinh hoàng đó. Anh thì không có khả năng biết đến nó. Nghe này, điều ghê sợ nhất mà anh có thể tưởng tượng được là gì? Đối với tôi - đó là bị bỏ lại tay không, trong một buồng giam khoá trái với một con thú săn mồi đang đói hoặc một kẻ điên mắc một loại bệnh khiến cho hắn hoàn toàn không còn tí não nào. Lúc đó, anh chẳng có gì ngoài tiếng nói của anh - tiếng nói và suy nghĩ của anh. Anh gào thét với con thú đó rằng nó không được chạm vào anh; anh dùng những ngôn từ hùng hồn nhất, những lập luận chặt chẽ nhất, cả con người anh biến thành biểu tượng của chân lý tuyệt đối. Và rồi anh thấy đôi mắt sống động của nó đang nhìn anh và anh biết rằng nó không thể nghe thấy tiếng anh, rằng anh không thể chạm vào nó, không thể chạm tới bằng bất kỳ cách nào, thế mà nó vẫn đang thở và vẫn tiến tới trước mặt anh, theo mục đích riêng của nó. Đó chính là sự kinh hoàng. Đó là cái đang treo lơ lửng trên đầu thế giới này; đang lảng vảng trong loài người; vẫn là nó, một thứ gì đó khép kín, không có não, hoàn toàn bừa bãi nhưng nó lại cũng có một mục đích và mánh khoé của riêng nó. Tôi không nghĩ là tôi hèn nhát nhưng tôi sợ nó. Tôi chỉ biết được thế - tôi biết là nó có tồn tại. Còn tôi không biết mục đích của nó, tôi không biết bản chất của nó.

"Nguyên tắc của ông Trưởng khoa" Roark nói.

"Cái gì cơ?"

"Đó là điều thỉnh thoảng tôi vẫn boăn khoăn... Mallory, tại sao cậu lại định bắt chết Ellsworth Toohey?" Anh nhìn thấy đôi mắt Mallory và nói thêm: "Cậu không phải kể cho tôi nếu cậu không thích nói đến chuyện đó."

"Tôi không thích nói đến chuyện đó," Mallory nói với giọng gay gắt. "Nhưng đúng là phải hỏi câu đó."

"Ngồi xuống đi" Roark nói "Chúng ta sẽ nói về phần việc của cậu."

Sau đó Mallory chăm chú lắng nghe Roark nói về công trình và yêu cầu điêu khắc của anh. Anh kết luận:

"Chỉ một bức tượng. Nó sẽ đứng ở đây." Anh chỉ vào bản thiết kế. "Ngôi đền sẽ bao quanh nó. Bức tượng một người phụ nữ khoả thân. Nếu cậu hiểu về công trình, cậu sẽ hiểu bức tượng phải như thế nào. Linh hồn của nhân loại. Tính anh hùng trong con người. Cả trong khao khát lẫn trong hiện thực. Thăng hoa trong khao khát - và trong bản chất tự thân của con người. Tìm kiếm Đức Chúa - vì tìm thấy chính mình. Hãy cho thấy không còn gì cao hơn ngoài chính nhân dạng con người... Cậu là người duy nhất có thể làm được cho tôi điều đó.

"Được."

"Cậu sẽ làm việc như tôi làm việc cho các khách hàng của tôi. Cậu biết tôi muốn gì - phần còn lại thì tuỳ cậu. Làm thế nào thì tuỳ cậu. Tôi muốn đề xuất người mẫu, nhưng nếu cô ấy không phù hợp với mục đích của cậu, thì cậu có thể lựa chọn bất cứ người nào mà cậu thích."

"Anh chọn ai?"

"Dominique Francon."

"Ôi, lạy Chúa!"

"Cậu biết cô ấy à?"

"Tôi đã thấy cô ấy. Nếu tôi có thể có cô ấy... Chúa ơi! Không có người phụ nữ nào thích hợp hơn cho bức tượng này. Cô ấy ..."

Anh ngừng lại. Rồi anh nói tiếp, giọng thất vọng:

"Cô ấy sẽ không chịu đứng làm mẫu đâu. Chắc chắc là không đứng cho anh."

"Cô ấy sẽ làm mẫu."

*

* *

Guy Francon cố phản đối khi ông biết chuyện.

"Nghe này, Dominique" - ông giận dữ nói - "phải có giới hạn chứ. Thực sự là phải có giới hạn - ngay cả với con. TẠi sao con lại làm vậy? Tại sao - mà lại là cho một công trình của Roark nữa chứ? Sau tất cả những điều con nói và làm để chống lại anh ta - con có biết mọi người đang nói gì không? Nếu là người khác thì cũng chả ai quan tâm hay để ý làm gì. Đằng này lại là con - và Roark! Cha sẽ chẳng thể đi đâu mà không bị người ta hỏi han về chuyện này. Cha phải làm gì đây?"

"Cha nên đặt làm một bản sao bức tượng. Nó sẽ rất đẹp đấy."

Peter Keating từ chối bình luận về chuyện này. Nhưng anh gặp Dominique ở một bữa tiệc và hỏi, mặc dù anh đã dự định là sẽ không hỏi về chuyện này:

"Có đúng là em đang làm mẫu tượng cho ngôi đền của Roark không?"

"Đúng."

"Dominique, anh không thích chuyện đó."

"Không ư?"

"Ồ, anh xin lỗi. Anh biết anh không có quyền... Có điều... Có điều trong tất cả mọi người, anh không muốn thấy em trở nên thân thiện với Roark. Không phải là Roark. Bất kỳ ai cũng được, trừ Roark."

Cô chăm chú nhìn anh và hỏi:

"Tại sao?"

"Anh không biết."

Ánh mắt dò hỏi của cô làm anh thấy lo lắng. Anh lắp bắp:

"Có thể, có thể vì việc em khinh bỉ các công trình của anh ta - nó chẳng hợp lý tí nào. Anh đã rất mừng vì em làm thế ... nhưng nó có vẻ chẳng hợp lý - đối với con người em."

"Không hợp lý ư, Peter?"

"Không. Nhưng em không thích con người anh ta, đúng không?"

"Không. Em không thích con người anh ta."

Ellsworth Toohey không hài lòng với chuyện này.

"Đó là hành động kém khôn ngoan nhất của cô đấy, Dominique" ông nói riêng trong phòng làm việc của cô. Giọng ông có vẻ không tự nhiên.

"Tôi biết điều đó."

"Cô không thể thay đổi quyết định và từ chối sao?"

"Ellsworth, tôi sẽ không thay đổi quyết định."

Ông ngồi xuống và nhún vai; một lúc sau, ông mỉm cười: "Thôi được, cô bé thân mến của tôi, cứ làm theo ý mình đi."

Cô vạch một đường chỉ qua một tập bản thảo và không nói gì.

Toohey chăm một điều thuốc. "Vậy là anh ta đã chọn Steven Mallory làm việc này." - ông nói.

"Cô gái ơi, đó chẳng phải là sự trùng hợp. Những chuyện như thế này chẳng bao giờ là sự trùng hợp tình cờ cả. Có một quy luật cơ bản đằng sau nó. Mặc dù tôi chắc là anh ta không biết quy luật đó và chẳng ai giúp anh ta chọn người cả."

"Tôi tin là ông đang đồng đình với việc này?"

"Hoàn toàn đồng tình. Nó làm cho mọi chuyện trở nên hoàn hảo. Hoàn hảo hơn bao giờ hết."

"Ellsworth, tại sao Mallory định giết ông?"

"Tôi hoàn toàn chịu chết. Tôi không biết. Tôi nghĩ là ngài Roark biết đấy. Hoặc anh ta nên biết. Tiện thể, ai đã chọn cô làm người mẫu cho bức tượng đó? Roark hay Mallory?"

"Đó không phải là việc của ông, Ellsworth."

"Ra thế. Là Roark."

"Nhân tiện, tôi đã nói với Roark rằng chính ông đã xui Hopton Stoddard thuê anh ta."

Ông giữ điếu thuốc lơ lửng trong không trung; rồi ông lại cử động và đặt nó lên môi.

"Cô đã nói ư? Tại sao?"

"Tôi đã nhìn thấy các bản thiết kế ngôi đền."

"Nó đẹp đến thế cơ à?"

"Còn hơn thế, Ellsworth."

"Anh ta nói gì khi cô kể cho anh ta?"

"Chẳng gì cả. Anh ta phá ra cười."

"Thật vậy sao? Anh ta thật tử tế. Tôi dám cá rằng chẳng lâu nữa, khối người cũng sẽ phá ra cười như anh ta."

Trong suốt những tháng mùa đông năm đó, hiếm khi Roark ngủ quá ba tiếng mỗi đêm. Anh di chuyên với một vẻ mạnh mẽ dẻo dai, như thể cơ thể anh toả năng lượng nuôi sống những thứ quanh anh. Năng lượng ấy chạy qua những bức tường văn phòng làm việc của anh để tới ba điểm trong thành phố: toà nhà Cord, một toà tháp bằng đồng thau và kính ở trung tâm Manhattan; khách sạn Aquitania ở phía nam công viên trung tâm; và Đền Stoddard trên một triền đá bên cạnh sông Hudson, về phía Bắc đường Riverside.

Khi họ có thời gian gặp nhau, Austen Heller quan sát anh với vẻ thích thú và hài lòng. Ông nói:

"Howard, khi ba công trình này hoàn thành, không ai có thể cản trở cậu nữa. Không bao giờ nữa. Thỉnh thoảng tôi thử đoán xem cậu sẽ tiến xa đến đâu. Cậu biết đấy, tôi luôn tò mò về số phận con người mà.

Vào một tối tháng Ba, Roark đứng trong khu đất sẽ xây dựng ngôi đền - cả khu đất được bao bọc bởi một hàng rào cao, theo lệnh của Stoddard. Những khối đá móng đầu tiên đã mọc lên khỏi mặt đất. Lúc đó đã muộn và công nhân đã về nhà. Công trường vắng lặng, tách biệt với thế giới và tan dần vào bóng tối mặc dù bầu trời bên trên vẫn còn ủng đỏ rực rỡ, như thể ánh nắng ở lại lâu hơn thường ngày để thông báo mùa xuân sắp đến. Tiếng còi tàu vang lên ở đâu đó trên sông; âm thanh của nó như vọng đến từ một miền quê xa xôi, xuyên qua những dặm dài tĩnh lặng. Một ngọn đèn vẫn sáng trong một căn lều gỗ được dựng làm xưởng điêu khắc cho Steven Mallory. Dominique đứng mẫu ở đó.

Ngôi đền sẽ là một công trình nhỏ bằng đá vôi xám. Những đường nét của nó không vươn lên thiên đường mà trải rộng theo chiều ngang trên mặt đất. Nó như những cánh tay dang thẳng ra từ bờ vai, lòng bàn tay mở rộng, hướng xuống mặt đất, yên lặng chấp nhận mặt đất. Nó không bám víu vào mặt đất và cũng không còng xuống dưới bầu trời. Nó như nâng mặt đất lên trong khi một vài trụ đứng của nó kéo bầu trời xuống. Ngôi đền được kiến thiết theo tỷ lệ chiều cao của con người; nó không làm cho con người nhỏ bé đi; nó đứng như một tấm phông làm nổi bật cơ thể con người, khiến cho con người trở thành cái tuyệt đối, thành thước đo chuẩn cho tất cả mọi thứ.

Khi một người bước vào ngôi đền, anh ta sẽ cảm thấy không gian được đúc xung quanh anh ta, cho riêng anh ta, như thể nó đã chờ đợi anh ta bước vào để trở thành hoàn thiện. Ngôi đền là một nơi vui vẻ - một niềm vui của sự thăng hoa âm thầm. Nó là nơi mà người ta đến để cảm thấy mình trong sạch và mạnh mẽ, để tìm thấy sự nhẹ nhõm tinh thần - sự nhẹ nhõm vốn không bao giờ dành được trừ khi nhờ chính mình.

Bên trong ngôi đền không có bất kỳ vật trang trí nào, ngoại trừ những bức tường được phô bày một cách khéo léo và những cửa sổ lớn. Nơi này không bị che phủ bởi những mái vòm mà được mở toang với thế giới xung quanh, với cây cối, với con sông, với mặt trời - và với đường chân trời của thành phố ở xa xa, với những toà nhà chọc trời, với hình dáng của những gì con người đã xây nên trên mặt đất.

Ở cuối căn phòng, đối diện với lối vào, là một bức tượng người khoả thân, đứng nổi bật trên nền thành phố phía xa.

Lúc này, trước mặt anh chẳng có gì trong bóng tối ngoại trừ những tảng đá đầu tiên của công trình, nhưng Roark nghĩ đến toà nhà đã hoàn thành. Anh cảm thấy nó trong những khớp tay và vẫn nhớ từng đường chỉ đã vẽ nên nó. Anh đứng và suy nghĩ về nó. Sau đó anh đi ngang qua khu đất lổn nhổn đến xưởng điêu khắc.

"Chờ chút," tiếng Mallory vang lên khi anh gõ cửa.

Bên trong lều, Dominique bước xuống khỏi bậc làm mẫu và khoác áo choàng lên.

Sau đó Mallory mở cửa.

"Ồ, anh đấy à?" Mallory nói. "Chúng tôi tưởng là người bảo vệ. Anh làm gì ở đây muộn thế này?"

"Chào cô Francon." Roark nói và Dominique gật đầu với vẻ sỗ sàng. "Xin lỗi vì làm gián đoạn công việc của cậu, Steve."

"Không sao. Chúng tôi cũng chẳng làm được việc mấy. Tối nay Dominique không thể thực hiện được cái tôi muốn. Ngồi xuống đi, Howard. Chết tiệt thật, không biết mấy giờ rồi nhỉ?"

"Chín rưỡi. Nếu cậu còn ở đây, có muốn tôi gọi người mang bữa tối cho cậu không?"

"Tôi không biết. Chúng ta hút thuốc đã."

Căn lều có sàn bằng gỗ, không sơn, xà nhà bằng gỗ trơn, một bếp lò bằng gang đang cháy ở trong góc. Mallory đi đi lại lại như một lãnh chúa phong kiến; đất sét bám thành vệt trên trán anh. Anh liên tục rít thuốc một cách sốt ruột và đi đi lại lại trong phòng.

"Cô muốn mặc đồ chưa, Dominique?" Anh ta hỏi. "Tôi nghĩ tối nay chắc chỉ như vậy thôi." Cô không trả lời. Cô đứng nhìn Roark. Mallory bước tới cuối phòng, quay người và mỉm cười với Roark: "Sao anh chưa bao giờ đến đây hả Howard? Tất nhiên là nếu anh đến mà tôi bận thì tôi cũng tống anh ra khỏi cửa thôi. Nhưng sao hôm nay anh lại đến giờ này?"

"Tối nay tôi muốn nhìn chỗ này. Nhưng tôi không thể đến sớm hơn được."

"Steve, anh muốn thế này phải không?" Dominique đột ngột cất tiếng. Cô cởi áo choàng ra và khoả thân đi đến bục làm mẫu. Mallory nhìn cô, rồi nhìn Roark, rồi lại nhìn cô.

Sau đó anh ta thấy cái mà anh ta đã cố tìm kiếm cả ngày hôm nay. Anh ta thấy cơ thể cô đứng trước mặt anh, thẳng đứng và căng lên, đầu cô ngả ra sau, hai cánh tay buông dọc theo người, lòng bàn tay mở ra phía ngoài. Cô đứng như cô vẫn đứng nhiều ngày qua, nhưng lúc này, cơ thể cô sống động và im lìm đến mức dường như nó đang run lên, đang tuyên bố điều mà anh đã muốn nghe: đấy là sự đầu hàng kiêu hãnh, cao cả, say sưa đối với một viễn cảnh mà riêng cô thấy. Đấy là khoảnh khắc duy nhất, cái khoảnh khắc trước khi một hình dáng sẽ biến đổi và tan vỡ, cái khoảnh khắc được thắp lên bởi những gì cô nhìn thấy.

Điếu thuốc của Mallory bay ngang trong phòng.

"Dominique, giữ nguyên tư thế đó!" anh kêu lên. "Giữ nguyên! Giữ nguyên!"

Anh đến bục làm việc của mình trước khi điếu thuốc chạm mặt đất. Anh làm việc trong lúc Dominique đứng bất động, còn Roark đứng đối diện cô, dựa lưng vào tường.

*

* *

Vào tháng Tư, những bức tượng của ngôi đền nổi lên thành những đường đứt gãy trên mặt đất. Vào những đêm sáng trăng, ánh trăng phủ một lớp ánh sáng lóng lánh, mềm mại, và loang lổ trên ngôi đền. Hàng rào cao đứng bao quanh bảo vệ ngôi đền.

Sau giờ làm việc, Roark, Mallory, Dominique và Mike Donnigan thường ở lại công trường. Mike chưa bao giờ bỏ qua bất cứ công trình nào của Roark.

Bốn người ngồi trong căn lều của Mallory sau khi tất cả những người khác đã ra về. Một tấm vải ướt che lên bức tượng dang dở. Cánh cửa căn lều mở ra để đón hơi ấm đầu tiên của đêm xuân. Một cành cây lửng lơ bên ngoài, ba chiếc lá mới nhú nổi lên tren nền trời đen, những ngôi sao lung linh như những giọt nước trên mép lá. Căn lều không có chiếc ghế nào. Mallory đứng bên bếp gang, chuẩn bị bánh mì kẹp và cà phê. Mike ngồi trên bục của người mẫu, miệng ngậm một tẩu thuốc. Roark nằm dài trên sàn, chống người lên bằng hai khuỷu tay, Dominique ngồi trên cái ghế đẩu nhà bếp. Một tấm áo chàng lụa mỏng bọc quanh người cô. Đôi bàn chân trần của cô đặt lên trên những tấm ván sàn.

Họ không nói về công việc. Mallory kể những câu chuyện nhố nhăng và Dominique cười như nắc nẻ. Họ không nói chuyện gì cụ thể; những câu nói có nghĩa chỉ bởi vì giọng họ đang phát ra chúng vì sự vui vẻ thân mật, vì sự thư giãn hoàn toàn của tất cả. Họ đơn thuần chỉ là bốn người thích ở đó cùng nhau. Những bức tượng đang mọc lên trong bóng tối bên ngoài cánh cửa mở phê chuẩn sự nghỉ ngơi của họ, cho họ cái quyền được thư giãn. Đấy là công trình mà tất cả họ đã làm việc cùng nhau, công trình giống như một hoà âm trầm, hoà vào giọng nói của họ. Dominique chưa từng nhìn thấy Roark cười như vậy ở bất kỳ nơi nào khác; hai môi anh thả lỏng và trẻ trung.

Họ ở đó cho đến đêm khuya. Mallory rót cà phê vào một hàng những chiếc cốc nham nhở. Mùi cà phê quyện với mùi lá non bên ngoài.

*

* *

Vào tháng Năm, việc xây dựng ở công trường Khách sạn Aquitania bị ngừng lại.

Hai chủ đầu tư công trình bị sạt nghiệp vì thị trường chứng khoán; phần vốn đầu tư của người thứ ba bị giữ vì dính vào một vụ kiện thừa kế; còn người thứ tư thì biển thủ cổ phần của người khác. Công ty bị cuốn vào mớ bòng bong các vụ kiện cáo đòi hỏi nhiều năm mới có thể giải quyết xong. Vì thế, toà nhà đang xây dở phải chờ đợi.

"Tôi sẽ giải quyết mọi việc, kể cả nếu như tôi phải giết một vài người" Kent Lansing nói với Roark. "Tôi sẽ lấy nó khỏi tay chúng. Chúng ta sẽ hoàn thành nó một ngày nào đó, anh và tôi. Nhưng phải có thời gian. Có thể là rất lâu đấy. Tôi sẽ không khuyên anh phải kiên nhẫn. Những người như anh và tôi hẳn không thể tồn tại quá mười lăm năm nếu không có sự kiên nhẫn của một tên đao phủ. Và sự lì lợm của một chiến hạm."

Ellsworth Toohey cười to khi ngồi bên cạnh bàn làm việc của Dominique. "Bản giao hưởng dang dở - ơn Chúa," ông nói.

Dominique dùng lại từ này trong bài báo của mình. Cô viết "Bản giao hưởng dang dở ở phía nam Công viên trung tâm." Cô không nói, "ơn Chúa." Cái tên này được người ta truyền nhau. Những người lạ nhận thấy một công trình đắt tiền trên một đường phố quan trọng đang bị bỏ dở với những ô cửa trống hoắc, những bức tường mới trát vữa một nửa, những xà nhà trần trụi. Khi họ hỏi về công trình đó, những người chưa từng biết tiếng Roark hoặc câu chuyện đằng sau công trình, đều cười khuẩy và trả lời rằng: "À, đấy là Bản giao hưởng dang dở."

Ban đêm Roark thường đứng bên kia phố, dưới những tán cây của công viên và nhìn cái hình khối đen sì, chết chóc giữa những công trình đang rực rỡ ánh đèn trên đường chân trời của thành phố. Bàn tay anh di chuyển như thể chúng đang chuyển động trên một mẩu đất sét; ở khoảng cách đó, lòng bàn tay anh có thể lấp đầy những đứt gãy của công trình dang dở; nhưng cái chuyển động lấp đầy mang tính bản năng đó chỉ chạm vào không khí.

Thỉnh thoảng, anh bắt mình đi xuyên qua toà nhà. Anh bước bên những tấm ván run rẩy được bắc lơ lửng qua khoảng không; anh đi xuyên qua các văn phòng không có trần và các phòng không có sàn; anh đi đến những gờ tường bỏ ngỏ, nơi những khung thép chìa ra ngoài như những khúc xương đâm xuyên qua chỗ da bị rách toạc.

Một người bảo vệ già sống trong một gian phòng nhỏ ở đằng sau tầng trệt. Ông ta biết Roark và để anh đi lang thang quanh toà nhà. Một lần ông ta ngăn Roark lại trên đường anh đi ra và đột ngột nói: "Tôi từng có một đứa con trai - gần như vậy. Nó chết trước khi chào đời." Một điều gì đó đã làm ông ta buột miệng nói ra và ông ta nhìn Roark, phân vân không hiểu ông đã định nói gì. Nhưng Roark mỉm cười, anh nhắm mắt lại và bàn tay anh nắm lấy bờ vai của ông già, như một cái bắt tay rồi anh đi.

Những điều chỉ xảy ra trong vài tuần đầu tiên. Sau đó anh buộc mình phải quên Aquitania đi.

Vào một tối tháng Mười, Roark và Dominique đi bộ cùng nhau xuyên qua Ngôi đền đã hoàn thành. Nó sẽ được mở cửa công khai trong một tuần - ngay sau ngày Stoddard trở về. Chưa có ai nhìn thấy ngôi đền ngoại trừ những người đã làm việc ở công trường này.

Đó là một buổi tối quang đãng và tĩnh lặng. Công trường trống không và tĩnh lặng. Những tia sáng đỏ của hoàng hôn trên những bức tường đá vôi giống như tia nắng đầu tiên của buổi bình minh.

Họ đứng nhìn Ngôi đền từ bên ngoài. Sau đó họ đứng bên trong, trước bức tượng bằng đá cẩm thạch. Họ không nói gì với nhau. Dường như, những bóng tối đang lấp dần khoảng không quanh họ cũng được tạo ra từ cùng bàn tay đã dựng những bức tường quanh họ. Dòng ánh sáng nhạt nhoà cuối ngày di chuyển theo một trật tự nhất định, như những câu nói trong một bài diễn văn mà những bức tượng là người diễn thuyết.

"Roark..."

"Gì vậy em?"

"Không... không có gì..."

Họ cùng nhau đi bộ quay trở lại xe ô-tô, bàn tay anh nắm chặt cổ tay cô.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#poetry