SUỐI NGUỒN P3 - Ayn Rand

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN BA



I.

G

ail Wynand nâng khẩu súng lên thái dương.

Ông cảm thấy sức ép của vòng kim loại tì lên da mình - và không gì khác. Giống như ông đang cầm một chiếc tẩu hay một thứ đồ trang sức nào đó, chỉ là một vật hình tròn nho nhỏ chẳng có ý nghĩa gì. "Ta sắp chết", ông nói to - và ngáp.

Ông không cảm thấy thanh thản, không tuyệt vọng cũng không sợ hãi. Khoảnh khắc kết thúc cuộc đời không mang lại cho ông dù là cảm giác trang trọng. Nó chỉ là một khoảnh khắc vô danh; vài phút trước đó, ông cầm bàn chải đánh răng trong tay mình, và giờ đây ông cầm khẩu súng cũng có vẻ thờ ơ như thế.

Người ta không thể chết như thế được, ông nghĩ. Phải cảm thấy vui sướng tột cùng hoặc sợ hãi một cách chính đáng. Người ta phải kính cẩn chào vĩnh biệt cái chết của mình. Hãy để cảm thấy một cơn sợ hãi bao trùm toàn thân và tôi sẽ kéo cò súng. Nhưng ông không cảm thấy gì hết.

Ông nhún vai và hạ khẩu súng xuống. Ông đứng đập đập nòng súng vào lòng bàn tay trái của mình. Người ta vẫn nói tới những cái chết đen hay chết đỏ , ông nghĩ, còn cái chết của mày, Gail Wynand, sẽ là cái chết xám. Tại sao chưa có ai nhận ra rằng cái này mới thực sự là điều kinh khủng nhất? Không có những tiếng kêu gào, lời cầu khẩn hay những tràng cười thắt ruột. Không có trạng thái vô cảm, trống rỗng tuyệt đối của người vừa trải qua một một thảm kịch khủng khiếp nào đó. Chỉ có mỗi thế này - một cảm giác ghê tởm, ti tiện, bẩn thỉu, nhỏ mọn, thậm chí nó không đủ để khiến mình cảm thấy sợ hãi. Ta không thể chết như vậy được - ông tự bảo mình - và mỉm cười lạnh lùng - chết như vậy thật là kém phong cách.

Ông bước về phía bức tường trong phòng ngủ của mình. Căn hộ sát mái của ông nằm trên nóc tầng thứ 57 của một khách sạn lớn ở trung tâm Manhattan. Ông là chủ khách sạn này. Từ chỗ này, ông có thể nhìn thấy cả thành phố phía dưới ông. Phòng ngủ của ông là một chiếc lồng bằng kính ở trên nóc căn hộ; tường và trần của nó được làm từ những tấm kính khổng lồ. Trong phòng có những tấm rèm bằng da lộn màu xanh nhạt, có thể được kéo phủ kín các bức tường, bao lấy toàn bộ căn phòng, nếu ông muốn. Nhưng trần nhà thì không có gì che chắn cả. Nằm trên giường, ông có thể ngắm những ngôi sao trên đầu, nhìn những tia chớp loé lên, hay ngắm những hạt mưa đập vào mặt kính trong suốt rồi giận dữ bắn ngược lên thành những cái pháo hoa nhỏ. Ông thích tắt hết đèn và mở tất cả các tấm rèm khi nằm trên giường với một người đàn bà. Ông sẽ bảo người đó: "Chúng ta đang thông dâm trước mặt sáu triệu người".

Lúc này ông chỉ có một mình. Các tấm rèm đều đã được kéo ra. Ông đứng nhìn thành phố. Đêm đã khuya và những ánh đèn hỗn độn đủ màu ở phía dưới cũng đang tắt dần. Ông nghĩ mình sẽ không thấy phiền nếu phải ngắm nhìn thành phố này trong nhiều năm tới. Nhưng cũng chẳng sao nếu không bao giờ ông phải nhìn thấy nó nữa.

Ông tựa người vào tường và cảm thấy hơi lạnh của tấm kính thấm qua lớp vải lụa mỏng, tối màu của chiếc pijama đang mặc. Trên túi ngực của nó là hai chữ cái thêu lồng vào nhau: G.W... Hai chữ thêu này được tái tạo từ nét chữ của ông. Chúng giống hệt như chữ ký tắt của ông - ông thường ký bằng một động tác dứt khoát đầy uy lực.

Người ta thường nói trong nhiều thứ đánh lừa người khác, thì vẻ bề ngoài của Gail Wynand là sự đánh lừa hoàn hảo nhất. Trông ông giống như sản phẩm cuối cùng - điêu tàn và quá hoàn hảo - của một dòng họ cao quý và lâu đời; trong khi đó, tất cả mọi người đều biết là ông xuất thân trong cảnh bần hàn. Ông cao, quá mảnh khảnh để có thể gọi là có hình thể đẹp, cứ như thể tất cả cơ bắp của ông đều đã tàn lụi. Ông không cần đứng thẳng người cũng có thể làm người ta cảm thấy sự cứng rắn từ ông. Giống như một thứ thép cực tốt, ông cúi người, vai thõng xuống và làm cho những người xung quanh ý thức rõ về ông - không phải ở tư thế cúi mà ở cái nhận thức rằng ông luôn có thể bật thẳng đứng lên bất cứ lúc nào, như một chiếc lò xo mạnh mẽ. Cái dáng đứng ấy là tất cả những gì ông cần. Ông hiếm khi đứng thẳng người; ông thường có dáng uể oải. Dù mặc quần áo nào, dáng điệu ấy cũng tạo cho ông phong thái hết sức tao nhã.

Khuôn mặt của ông không thuộc về nền văn minh hiện đại mà là thời cổ La Mã; nó giống như khuôn mặt của một nhà quý tộc lâu đời. Mái tóc ông có những mảng chuối tiêu và được vuốt ngược nhẹ nhàng ra sau, để lộ vầng trán cao. Da ông dính chặt vào khuôn mặt góc cạnh, miệng dài và mỏng. Ở dưới cặp lông mày xếch là đôi mắt có màu xanh nhạt - trong các bức ảnh, chúng hiện ra giống như hai hình trái xoan màu trắng, đầy vẻ mỉa mai. Một họa sĩ từng mời ông ngồi làm mẫu để vẽ tranh quỷ Mephistopheles. Wynand đã cười lớn và từ chối, khiến người họa sĩ lại càng tiếc rẻ vì khi ông cười, khuôn mặt ông trong càng phù hợp với ý tưởng bức tranh của người đó.

Lúc này, ông uể oải tựa người vào tấm kính trong phòng ngủ, khẩu súng đặt trên lòng bàn tay. Hôm nay - ông nghĩ - hôm nay là ngày thế nào nhỉ? Liệu có gì xảy ra trong ngày hôm nay có thể giúp ta vào lúc này và khiến cho khoảnh khắc này trở nên quan trọng?

Ngày hôm nay cũng như rất nhiều ngày khác đã trôi qua mà không để lại dấu ấn gì đặc biệt. Ông 51 tuổi, và hôm nay là một ngày giữa tháng Mười của năm 1932. Ông chỉ nhớ chắc chắn được chừng đó, tất cả những điều khác đều đòi hỏi sự nỗ lực của trí nhớ.

Ông thức dậy và mặc quần áo vào lúc sáu giờ sáng; ông chưa bao giờ ngủ quá bốn tiếng mỗi đêm kể từ khi ông lớn lên. Ông đi xuống phòng ăn, nơi người ta dọn bữa sáng cho ông. Căn hộ của ông nằm ở một góc của khoảng sân thượng rất rộng được bố trí như một khu vườn. Các căn phòng trong nhà ông đều là những tuyệt phẩm nghệ thuật, sự đơn giản và vẻ đẹp của chúng có thể khiến người ta phải trầm trù thán phục nếu chúng thuộc về một người nào khác. Tuy nhiên, người ta thường kinh ngạc đến mức không biết nói gì, khi họ biết đó là nhà riêng của ông chủ tờ Ngọn cờ New York, tờ báo dung tục nhất nước.

Sau bữa sáng, ông vào phòng làm việc. Trên bàn làm việc của ông chất đầy các tờ báo, sách và tạp chí quan trọng nhận được mỗi sáng từ khắp nơi trên cả nước. Ông làm việc một mình trong phòng trong khoảng ba tiếng, đọc và viết những ghi chú vắn tắt lên các trang in bằng một chiếc bút chì lớn màu xanh. Các ghi chú của ông trông gốing như bản tốc ký của gián điệp, không ai có thể giải mã được chúng trừ bà thư ký đứng tuổi và khô khan của ông; bà thường vào phòng làm việc của ông sau khi ông đi khỏi. Ông chưa từng nghe thấy giọng nói của bà ta trong năm năm, nhưng họ cũng chẳng cần phải nói chuyện với nhau. Khi ông trở lại phòng làm việc của mình vào buổi tối thì ở đó cũng không còn cả bà thư ký lẫn chồng giấy tờ. Trên bàn làm việc của ông lúc đó sẽ là những tờ giây đánh máy rõ ràng những gì ông ghi chú lúc sáng.

Vào 10 giờ sáng, ông đến trụ sở tờ Ngọn cờ, một toà nhà đơn giản và bụi bặm ở một khu phố bình thường trong khu Hạ Manhattan. Khi ông bước qua những sảnh hẹp trong toà nhà, các nhân viên ông gặp đều cất tiếng chào ông.

Lời chào của họ được thực hiện đúng nghi thức và ông cũng đáp lại một cách lịch sự nhưng sự gặp mặt chớp nhoáng ấy có tác dụng giống như một tia sáng chết người làm tê liệt các sinh vật sống.

Trong số các quy tắc chặt chẽ, áp dụng cho tất cả các nhân viên trong tập đoàn Wynand thì quy tắc khó nhất là không ai được dừng công việc của mình khi Wynand bước vào phòng, và cũng không ai được chú ý tới việc ông bước vào. Người ta không thể đoán được ông sẽ lựa chọn phòng nào và khi nào. Ông có thể xuất hiện bất cứ lúc nào ở một nơi bất kỳ trong toà nhà và sự xuất hiện của ông cũng "kín đáo" như điện giật vậy. Các nhân viên của ông cố hết sức để tuân thủ quy tắc này nhưng họ thà làm thêm mười tiếng ngoài giờ còn hơn phải chịu đựng mười phút làm việc trước sự quan sát lặng lẽ của ông.

Buổi sáng hôm nay, tại phòng làm việc của mình, ông duyệt lại mục xã luận của tờ Ngọn cờ ngày Chủ nhật. Ông gạch những đường chì màu xanh lên những đoạn mà ông muốn bỏ. Ông không ký tắt tên mình lên trang báo nhưng tất cả mọi người đều biết là chỉ có Gail Wynand mới có thể gạch những đường chì màu xanh đó - những đường chì như xoá bỏ sự tồn tại của tác giả các bài viết.

Sửa xong, ông yêu cầu được nối dây nói với người biên tập tờ Thông tin Wynand ở Springville, bang Kansas. Khi ông gọi điện thoại tới các chi nhánh của mình, Wynand không bao giờ nói tên mình cho nạn nhân. Ông đòi hỏi tất cả các công dân quan trọng trong đế chế của ông đều phải nhận ra được giọng nói của ông.

"Chào Cummings" ông nói khi người biên tập trả lời máy.

"Lạy Chúa!" Anh ta hổn hển "Có phải là..."

"Phải!" Wynand nói "Anh nghe này, Cummings. Thêm một thứ rác rưởi như bài viết nhăng cuội ngày hôm nay về Bông hồng cuối cùng của mùa hè là anh có thể trở lại trường trung học Bugle được rồi đấy".

"Vâng, thưa ngài Wynand".

Wynand dập máy. Ông yêu cầu nối điện thoại với một Thượng nghị sĩ có tên tuổi ở Washington.

"Chào ngài Thượng nghị sĩ," ông nói khi vị Thượng nghị sĩ trả lời điện thoại hai phút sau đó. "Ngài thật tốt bụng khi trả lời điện thoại. Tôi rất cảm kích. Tôi không muốn làm mất thời gian của ngài. Nhưng tôi cảm thấy tôi còn nợ ngài một lời cảm ơn trân trọng nhất. Tôi muốn cảm ơn ngài đã giúp thông qua Dự luật Hayes-Langston".

"Nhưng mà... ngài Wynand!" - giọng ông Thượng nghị sĩ trở nên lúng túng. "Ngài thật chu đáo nhưng mà... Dự luật đó vẫn chưa được thông qua".

"Ồ, đúng rồi. Tôi nhầm. Nó sẽ được thông qua vào ngày mai".

Cuộc họp Hội đồng quản trị Tập đoàn Wynand được sắp xếp vào 11 giờ rưỡi buổi sáng hôm đó. Tập đoàn Wynand gồm có hai mươi hai tờ báo, bảy tạp chí, ba hãng thông tấn và hai kênh tin tức. Wynand chiếm bảy mươi lăm phần trăm số cổ phần của tập đoàn. Các thành viên hội đồng quản trị khác không biết chắc công việc hay nhiệm vụ của họ là gì. Wynand từng ra lệnh các cuộc họp đều phải bắt đầu đúng giờ, cho dù ông có mặt hay không. Hôm nay, ông bước vào phòng họp vào lúc 12 giờ 25. Một quý ông luống tuổi đang phát biểu. Các thành viên hội đồng quản trị không được phép dừng lại hay tỏ ra chú ý tới sự có mặt của Wynand. Ông bướac tới chiếc ghế trống ở vị trí chủ toạ, đặt ở đầu chiếc bàn dài bằng gỗ gụ va ngồi xuống. Không ai quay mặt nhìn ông, cứ như thể có một bóng ma mà họ không dám thừa nhận sự tồn tại của nó vừa ngồi vào chiếc ghế. Ông im lặng lắng nghe trong 15 phút. Ông đứng lên trong khi diễn giả đang nói dở câu và rời khỏi phòng tương tự như khi ông bước vào.

Trên chiếc bàn lớn trong văn phòng của mình, ông trải rộng các bản đồ của Stoneridge, khu đất ông mới mua, và dành nửa tiếng để thảo luận về nó với hai nhà môi giới bất động sản. Ông đã mua một vùng đất rất lớn ở Long Island, vùng này sẽ được biến thành Dự án phát triển Stoneridge, một cộng đồng mới gồm các căn nhà riêng, cho tư nhân sở hữu. Tất cả đá lát đường, phố xá và nhà ở đều sẽ do tập đoàn Gail Wynand xây dựng. Một số ít người biết rõ các hoạt động đầu tư đất đai của ông từng bảo với ông là ông điên mất rồi. Chẳng ai nghĩ đến chuyện xây nhà vào thời điểm này. Nhưng Gail Wynand đã tạo dựng cơ nghiệp của ông chính nhờ những quyết định mà người khác gọi là điên rồ.

Ông vẫn chưa chọn kiến trúc sư thiết kế Stonerbridge. Tin tức về dự án này đã lan truyền tới ngành kiến trúc hiện đang trong cảnh sống dở chết dở. Trong nhiều tuần liền, Wynand từ chối đọc thư từ hay trả lời điện thoại của các kiến trúc sư nổi tiếng nhất trên toàn quốc cũng như bạn bè của họ. Ông từ chối thêm lần nữa và cuối buổi họp hội đồng quản trị, khi bà thư ký báo cho ông biết là ngài Ralston Holcombe đang khẩn thiết xin được nói chuyện hai phút với ông trên điện thoại.

Khi các nhân viên môi giới bất động sản đã đi khỏi, Wynand bấm vào một nút trên bàn làm việc và triệu tập Alvah Scarret. Scarret bước vào văn phòng, mỉm cười vui vẻ. Alvah luôn trả lời chuông gọi của Wynand với vẻ háo hức bợ đỡ của một cậu bé chạy bàn giấy.

"Alvah, Viên sỏi mật can đảm là cái quái gì thế?"

Scarret cười lớn. "Cái đó à? Đó là tên một tiểu thuyết. Của Lois Cook."

"Loại tiểu thuyết gì?"

"À, toàn thứ vớ vẩn thôi. Tác giả muốn nó như một bài thơ bằng văn xuôi. Truyện kể về một viên sỏi mật tự nghĩ rằng nó tồn tại độc lập như một cá thể gai góc trong túi mật, ông hiểu ý tôi chứ, và sau đó người chủ của nó uống một đống dầu thầu dầu - và truyện mô tả cụ thể hậu quả xảy ra sau đấy - Tôi cũng không chắc là nó có chính xác về mặt y học hay không nhưng tóm lại, đấy là kết của của Viên sỏi mật can đảm. Truyện này được viết ra để chứng minh rằng không có sự tồn tại của ý chí tự do".

"Truyện đó bán được bao nhiêu cuốn?"

"Tôi không rõ. Không nhiều lắm, tôi nghĩ thế. Chỉ trong giới trí thức. Nhưng tôi nghe nói gần dây, nó bán khá chạy, và..."

"Chính xác thì cái quái gì đang xảy ra thế, Alvah?"

"Cái gì? À, ông muốn nói là ông thấy nó được nhắc tới vài lần..."

"Tôi muốn nói là tôi thấy nó xuất hiện ở khắp mọi nơi trên tờ Ngọn cờ trong vài tuần trở lại đây. Làm khéo đấy, vì tôi phải mất khá lâu mới nhận ra chuyện đó không phải tình cờ."

"Ý ông là gì vậy?"

"Thế anh nghĩ ý tôi là gì? Tại sao tên một tiểu thuyết lại xuất hiện liên tục ở những chỗ hoàn toàn không phù hợp như thế? Hôm thì nó có mặt trong một chuyện tử hình mấy thằng sát nhân và bọn chúng 'đã chết một cách quả cảm như Viên sỏi mật can đảm'. Hai ngày sau, nó lại lên trang 16, trong một bài viết huyên thuyên từ Albany: 'Thượng nghị sĩ Hazleton nghĩ rằng ông là một cá thể độc lập nhưng hoá ra ông cũng chỉ là một Viên sỏi mật can đảm thôi'. Rồi sau đó lại thấy nó trong mục tin buồn. Hôm qua, nó xuất hiện trên trang phụ nữ. Và ngày hôm nay là ở phần truyện tranh: 'Snooxy gọi ông chủ giàu có của anh ta là Viên sỏi mật can đảm'."

Scarret cười khẽ "Quả là ngớ ngẩn."

"Tôi cũng nghĩ là nó ngớ ngẩn. Lúc đầu thì thế. Giờ thì không."

"Nhưng có chuyện quái gì đâu hả Gail! Nó đâu phải chuyện gì quan trọng và các phóng viên chủ chốt của chúng ta đâu có cố nhồi nó vào trang báo. Chỉ là từ đám nhân viên nhăng cuội, loại nhận lương 40 đàn ông la một tuần thôi mà."

"Đó mới chính là vấn đề. Một trong các vấn đề. Vấn đề khác nữa là cuốn sách này không phải là một cuốn best-seller. Nếu nó nổi tiếng, tôi có thể hiểu là tiêu đề của nó tự động lọt vào đầu các phóng viên. Nhưng hoàn toàn không. Như vậy hẳn là có ai đó đang cố nhét nó vào tờ báo. Tại sao?"

"Thôi mà Gail! Làm gì có ai mất công làm thế chứ? Mà việc gì chúng ta phải quan tâm? Nếu như đó là một vấn đề chính trị... Chứ ai có thể kiếm lợi gì từ việc nhồi nhét chuyện ủng hộ hay phản đối tự do ý chí?"

"Có ai hỏi ý kiến anh về việc nhồi nhét này không?"

"Không. Tôi cho là không có ai đứng đằng sau việc này cả. Chỉ là tình cờ thôi. Thì nhiều người nghĩ nó là một chuyện khôi hài."

"Anh nghe thấy câu đó lần đầu từ ai?"

"Tôi không biết... Để tôi nghĩ... Chắc là... Đúng rồi. Tôi nghĩ là từ Ellsworth Toohey."

"Chấm dứt đi. Và nhớ nói cho Toohey biết."

"Được thôi, nếu ông nói thế. Nhưng thực sự chẳng có gì đâu. Chỉ là một số người muốn đùa vui thôi mà."

"Tôi không thích có ai đùa vui trên báo của tôi."

"Được rồi, Gail."

Vào lúc hai giờ, Wynand tham dự bữa ăn trưa của Hội nghị các Câu lạc bộ Phụ nữ toàn quốc với tư cách khách mời danh dự. Ông ngồi bên tay phòng bà chủ tịch. Bữa tiệc sực nức mùi hoa cài nực - hoa dành dành và hoa đậu - và mùi gà rán. Sau bữa ăn, Wynand phát biểu. Hội nghị này ủng hộ việc phụ nữ có gia đình tìm kiếm việc làm trong khi các tờ báo của Wynand thì đấu tranh chống lại việc làm cho phụ nữ có gia đình từ nhiều năm nay. Wynand phat biểu trong hai mươi phút. Nhưng thực sự, ông chẳng nói gì cả mặc dù ông tạo ra ấn tượng là ông ủng hộ tất cả những cảm xúc mà người ta bày tỏ trong buổi họp này. Không ai có thể giải thích được ấn tượng mà Gail Wynand tạo ra với thính giả, nhất là với thính giả nữ. Ông không làm điều gì đặc biệt cả: giọng ông thấp, sắc cạnh và gần như đơn điệu; ông có một phong cách quán chỉn chu, tới mức có vẻ như ông đang cố ý nhạo báng sự chỉn chu. Thế nhưng, ông lại chinh phục được tất cả thính giả. Người ta nói rằng đó là nhờ vẻ nam tính tinh tế và mạnh mẽ của ông, nó khiến giọng nói thanh nhã đang nói về trường học, nhà cửa và gia đình của ông làm người thấy như thể ông đang làm tình với tất cả những bà nạ dòng có mặt ở đó.

Trên đường quay trở về văn phòng, Wynand dừng chân tại phòng tin tức New York. Ông đứng bên chiếc bàn cao và cầm một cây bút chì lớn màu xanh da trời trong tay. Ông viết một bài xã luận hùng hồn và thẳng thừng lên án tất cả những người ủng hộ việc làm cho phụ; ông viết bằng những nét chữ có chiều cao đúng một inch , lên một tờ giấy lớn. Chữ ký G.W. ở cuối bài trông giống như một vệt lửa màu xanh. Ông không đọc lại bài viết của mình - chưa bao giờ ông cần đọc lại - mà quẳng nó lên bàn của biên tập viên đầu tiên mà ông nhìn thấy. Rồi ông bước ra khỏi phòng.

Vào cuối buổi chiều, khi Wynand chuẩn bị rời khỏi văn phòng, thư ký của ông thôngbáo là Ellssworth Toohey xin được gặp ông. "Cho ông ta vào" - Wynand nói.

Toohey bước vào với nụ cười nửa miệng thận trọng trên mặt - nụ cười vừa như chế giễu bản thân vừa chế giễu ông chủ của mình, tuy nhiên, ông giữ được sự cân bằng mỏng manh với chừng sáu mươi phần trăm phần chế giễu là dành cho bản thân. Ông biết Wynand không muốn gặp mình và việc được gặp Wynand không hẳn là việc có lợi cho ông.

Wynand ngồi su bàn làm việc, khuôn mặt của ông trống rỗng một cách lịch sự. Hai đường chéo nổi lên mờ mờ trên trán ông, song song với cặp lông mày xếch. Đấy là vẻ mặt bối rối mà ông thỉnh thoảng có; nó bộc lộ hai thứ tình cảm trái ngược cùng lúc nó làm người đối thoại càng lo ngại.

"Mời ông ngồi, ông Toohey. Tôi có thể giúp ông việc gì?"

"Ồ, tôi tự phụ hơn thế cơ, thưa ngài Wynand." Toohey nói một cách vui vẻ "Tôi không đến để mong ngài giúp đỡ mà để đề nghị giúp đỡ ngài."

"Trong việc gì?"

"Soneridge."

Hai đường chéo hằn rõ hơn trên trán của Wynand.

"Một người viết chuyên mục như ông thì có thể có ích gì cho Stoneridge?"

"Một người viết chuyên mục thì không, thưa ngài Wynand. Nhưng một chuyên gia kiến trúc thì..." to để giọng của mình kéo dài thành một dấu hỏi giễu cợt.

Nếu đôi mắt của Toohey không nhìn chằm chằm một cách tự phụ vào Wynand thì hẳn là ông đã bị yêu cầu ra khỏi văn phòng ngay lập tức. Nhưng cái nhìn đó khiến Wynand hiểu rằng Toohey đã biết tới việc ông bị người ta làm phiền rất nhiều bởi những người giới thiệu cho ông các kiến trúc sư. Toohey biết ông đã phải cố gắng hết sức để tránh họ; và Toohey đã láu cá hơn ông khi đề nghị gặp ông vì một mục đích mà Wynand hoàn toàn không nghĩ đến. Sự tự phụ đó làm Wynand cảm thấy thích thú và Toohey cũng biết trước điều này.

"Được thôi, ông Toohey. Ông đang định bán ai?"

"Peter Keating."

"Rồi sao?"

"Xin lỗi ngài, rồi sao là sao?"

"Thì ông bán anh ta đi xem nào."

Toohey dừng lại, sau đó ông khẽ nhún vai một cách vui vẻ và lấy giọng "Tất nhiên ngài cũng biết là tôi không có liên hệ gì với ông Keating cả. Tôi chỉ đóng vai trò là bạn của ông ấy và của ngài thôi." Giọng nói của ông ta tỏ ra dễ chịu và thân thiện nhưng nó đã mất đi phần nào sự quả quyết. "Nói thực, tôi biết nói thế này nghe có vẻ sáo rỗng nhưng tôi còn biết nói gì khác? Chẳng may sự thật lại đúng là như vậy." Wynand không hề đỡ lời ông. "Tôi mạo muội đến đây vì tôi cảm thấy có bổn phận phải nêu ý kiến với ngài. Không, không phải là bổn phận đạo đức. Hãy gọi đó là bổn phận với nghệ thuật. Tôi biết là ngài luôn đòi hỏi phải có được cái tốt nhất trong tất cả các công việc của ngài. Với một dự án với quy mô như ngài đang dự tính thì không có kiến trúc sư nào hiện nay có thể sánh với Peter Keating về hiệu quả, óc thẩm mỹ, khả năng tưởng tượng. Đó, thưa ngài Wynand, là ý kiến trung thực của tôi."

"Tôi khá tin đó là ý kiến trung thực của ông."

"Ngài tin?"

"Tất nhiên. Có điều, ông Toohey, tại sao tôi lại phải quan tâm tới ý kiến của ông?"

"Dù sao thì tôi cũng là chuyên gia về kiến trúc của ngài!" Ông không hoàn toàn kiềm chế được sự tức giận trong giọng nói.

"Ông Toohey thân mến, xin ông đừng nhầm tôi với các độc giả của tôi."

Một khoảnh khắc trôi qua, rồi Toohey ngã người về sau và dang tay ra cười với vẻ bất lực.

"Thực tình, ngài Wynand, tôi không nghĩ là lời nói của tôi có thể có trọng lượng với ngài. Vì thế tôi cũng không định bán Peter Keating cho ngài."

"Không à? Thế ông có ý định gì?"

"Tôi chỉ xin ngài dành nửa tiếng để gặp một người có thể thuyết phục ngài về khả năng của Peter Keating và thuyết phục tốt hơn tôi nhiều lần."

"Ai?"

"Bà Peter Keating."

"Bởi vì bà ấy là một người phụ nữ rất đẹp và cực kỳ khó có được."

Wynand ngả đầu về phía sau và cười phá lên.

"Lạy Chúa, Toohey, chẳng nhẽ tôi lai lộ liễu đến thế sao?"

Toohey hấp háy mắt; ông chưa biết phản ứng ra sao.

"Quả thực, ông Toohey, tôi nợ ông một lời xin lỗi, nếu như với việc để lộ sở thích của tôi cho nhiều người biết, tôi đã khiến ông trở nên thô lậu như vậy. Nhưng quả thật, tôi không hề biết là trong số rất nhiều công việc nhân đạo khác của ông, ông còn làm cả ma-cô nữa."

Toohey đứng lên.

"Xin lỗi đã làm ông thất vọng, ông Toohey. Tôi không hề có ý mong muốn gặp bà Peter Keating."

"Tôi cũng không nghĩ là ngài có mong muốn nếu như chỉ có những gợi ý suông của tôi. Tôi đã biết trước điều này từ cách đây vài giờ. Chính xác là biết từ sáng sớm hôm nay. Do đó, tôi đã phải chuẩn bị sẵn một cơ hội khác để bàn luận việc này với ngài. Tôi đã tự cho phép mình gửi cho ngài một món quà. Khi ngài về đến nhà đêm nay, ngài sẽ thấy món quà của tôi. Và sau đó, nếu ngài cảm thấy tôi đã có lý khi đề nghị với ngài việc này thì ngài có thể gọi điện thoại cho tôi và tôi sẽ đến ngay lập tức và ngài sẽ bảo cho tôi biết ngài có muốn gặp bà Peter Keating hay không."

"Toohey, việc này thật khó tin, nhưng tôi buộc phải tin rằng ông đang hối lộ tôi."

"Tôi đang."

"Ông biết là cái trò nguy hiểm này có thể được việc cho ông nhưng cũng có thể làm ông mất việc."

"Tôi sẽ chờ ý kiến của ngài về món quà tối nay."

"Được thôi, ông Toohey. Tôi sẽ xem món quà của ông."

Toohey cúi chào và quay người đi. Ông đã đến cửa thì Wynand nói thêm "Ông biết đấy, Toohey, một ngày nào đó, ông sẽ làm tôi thấy chán ngấy."

"Tôi sẽ cố gắng không để việc đó xảy ra cho đến khi cần thiết." Toohey nói. Ông cúi chào lần nữa và bước ra ngoài.

Khi Wynand về đến nhà, ông đã hoàn toàn quên về Ellsworth Toohey.

Buổi tối hôm đó, trong căn nhà trên sân thượng của mình, Wynand ăn tối với một cô gái có khuôn mặt trắng trẻo và mái tóc nâu mềm. Cô gái thuộc một gia đình mà suốt ba thế kỷ nay, những người cha và anh trai sẵn sàng giết chết người đàn ông nào dám làm những việc như Gail Wynand đã làm với con gái và em gái họ.

Đường nét cánh tay của cô gái, khi cô nâng ly nước bằng pha lê lên môi, cũng hoàn hảo như những d nét của cái chân nến bằng bạc mà một nghệ nhân thiên tài tạo nên - và Wynand ngắm nghía cả hai với cùng sự ngưỡng mộ. Ánh nến lung linh trên khuôn mặt cô gái tạo một vẻ đẹp tuyệt vời khiến ông ước rằng cô không còn sống, để ông có thể ngắm nghía, không phải nói gì cả và nghĩ bất cứ thứ gì ông muốn.

"Một hai tháng nữa, Gail ạ," cô nói và mỉm cười một cách lười biếng. "khi thời tiết trở nên lạnh và tồi tệ, chúng ta hãy lấy chiếc Tôi Có và dong thẳng tới nơi nào có mặt trời, như chúng ta làm vào năm ngoái."

Tôi Có là tên chiếc du thuyền của Wynand. Ông chưa bao giờ giải thích tên của nó cho một ai.

Nhiều người đàn bà từng hỏi ông về nó. Cô gái này cũng từng hỏi ông trước đây.

Giờ đây, khi ông tiếp tục yên lặng, cô gái lại hỏi một lần nữa: "Nhân tiện, anh yêu, ý nghĩa của nó là gì thế - tên con thuyền tuyệt vời của anh ấy?"

"Đó là một câu hỏi mà tôi không trả lời." ông nói "Một trong số các câu hỏi."

"Thế em có nên chuẩn bị sẵn quần áo cho chuyến du ngoạn không?"

"Màu xanh lá cây hợp với em nhất. Màu đó trông thật tuyệt ở ngoài biển. Tôi rất thích xem nó tôn mái tóc và cánh tay em như thế nào. Tôi sẽ nhớ hình ảnh cánh tay trần của em trên nền lụa xanh. Bởi vì đêm nay sẽ là đêm cuối cùng."

Các ngón tay của cô gái để nguyên trên thân chiếc cốc pha lê. Không hề có dấu hiệu gì báo trước với cô rằng đêm nay là lần cuối. Nhưng cô biết ông luôn chấm dứt mọi thứ bằng những lời như vậy. Tất cả các phụ nữ của Wynand đều biết rằng họ nên trông đợi một kết thúc như thế và không ai không được phép bàn cãi gì. Sau một lát, cô gái hỏi - giọng cô trầm xuống:

"Vì lý do gì hả Gail?"

"Lý do tất yếu."

Ông cho tay vào túi và lấy ra một chiếc vòng tay bằng kim cương; nó bắn ra một ánh lửa lạnh và chói dưới ánh nến, các mối nối nặng nề của nó nằm ẻo lả trên những ngón tay ông.

Chiếc vòng không có hộp đựng và không được bọc. Ông quẳng nó lên trên bàn.

"Một vật kỷ niệm, em yêu," ông nói "Nó có giá trị hơn nhiều cái mà nó kỷ niệm."

Chiếc vòng đập vào chân chiếc ly và gây ra một tiếng kêu mỏng và sắc như thể chiếc ly đang gào lên thay cho cô gái. Cô gái giữ im lặng. Ông biết điều này thật kinh khủng: vì nàng không phải là loại người thường nhận các món quà như vậy vào những thời điểm như thế này - cũng giống như những người đàn bà khác của ông. Và nó kinh khủng vì nàng sẽ không từ chối, cũng giống như những người khác đã không từ chối.

"Cảm ơn Gail," cô gái nói, tra chiếc vòng vào cổ tay mình mà không nhìn vào mặt ông trong ánh nến.

Sau đó, khi họ đã bước vào phòng khách, cô gái dừng lại và liếc đôi mắt với hàng lông mi dài về phía bóng tối, nơi có cầu thang dẫn tới phòng ngủ của ông. "Để em đền đáp cho vật kỷ niệm chứ, Gail?" nàng hỏi, giọng không âm sắc.

Ông lắc đầu.

"Tôi cũng đã định thế," ông nói, "nhưng giờ tôi mệt."

Khi cô gái đã đi khỏi, ông đứng trong sảnh và nghĩ tới sự đau đớn mà nàng phải chịu đựng. Đó là nỗi đau đớn có thực nhưng sau một thời gian, sẽ chẳng còn là gì có thực với nàng, ngoại trừ chiếc vòng. Ông không còn nhớ được là vào khi nào, những ý nghĩ như thế còn có khả năng làm cho ông cảm thấy cay đắng. Khi ông nghĩ đến việc chính ông là người tham dự vào sự kiện buổi tối hôm nay, ông không còn cảm thấy gì ngoại trừ nỗi băn khoăn tại sao ông lại không làm điều này sớm hơn.

Ông bước vào thư viện của mình. Ông ngồi đọc vài tiếng. Sau đó, ông dừng lại. Ông dừng lại đột ngột, không có lý do gì, ở giữa một câu quan trọng. Ông không muốn đọc tiếp. Ông không muốn cố đọc.

Chẳng có sự việc gì xảy ra với ông cả. Một sự việc tức là một thực tế hiện hữu, mà đã là thực tế hiện hữu thì nó không bao giờ có thể làm ông cảm thấy bất lực; nhưng ở đây chỉ có một cái không-hiện-hữu khổng lồ - như thể tất cả mọi thứ đều đã bị cuốn sạch, chỉ để lại một khoảng trống vô nghĩa và thô lậu vì nó quá bình thường, quá đơn điệu, như một kẻ sát nhân với một nụ cười ngọt ngào.

Chẳng có điều gì mất đi - ngoại trừ ham muốn; không, nhiều hơn thế - đó là gốc rễ, là khả năng ham muốn sự ham muốn. Ông nghĩ, một người mất đi đôi mắt thì người đó vẫn còn giữ được ý niệm về việc nhìn thấy mọi thứ, nhưng ông từng nghe tới một sự mù lòa khủng khiếp hơn - khi phần não điều khiển thị giác bị hủy hoại, người ta sẽ mất đi thậm chí cả trí nhớ cho việc nhìn thấy.

Ông thả cuốn sách xuống và đứng lên. Ông không muốn ngồi lại chỗ đó, ông cũng không muốn rời khỏi nó. Ông nghĩ ông nên đi ngủ. Vẫn còn quá sớm với ông để đi ngủ, nhưng như thế, ông có thể dậy sớm hơn thường lệ vào ngày mai. Ông bước vào phòng ngủ, ông tắm; ông mặc đồ ngủ vào. Sau đó ông mở ngăn tủ quần áo và nhìn thấy khẩu súng ông vẫn luôn để ở đó. Chính cái nhận thức lập tức về khẩu súng, chính cái cảm giác thích thú đột ngột với khẩu súng là cái làm ông cầm nó lên.

Chính sự thiếu vắng cảm giác kinh sợ khi ông nghĩ đến việc tự tử là cái thuyết phục ông rằng ông nên tự kết liễu đời mình. Ý nghĩ đó thật nhạt nhẽo, giống như một ý kiến không đáng để tranh cãi. Hay một câu nói vô vị.

Lúc này, ông đứng cạnh bức tường bằng kính; ông đã bị sự nhạt nhẽo chặn lại. Người ta có thể sống một cuộc đời nhạt nhẽo, ông nghĩ, nhưng không thể chết một cách nhạt nhẽo.

Ông bước tới giường ngủ và ngồi xuống, khẩu súng ngoắc lơ lửng trong tay. Một người sắp chết, ông nghĩ, thường nhìn thấy toàn bộ cuộc đời của mình trong những giây phút chớp nhoáng cuối cùng. Ta chẳng nhìn thấy gì cả. Nhưng ta có thể bắt mình nhìn thấy nó. Ta có thể nhìn lại nó một lần nữa, bằng ý chí. Hãy để cho ta tìm thấy trong đó hoặc là ý chí để sống tiếp hoặc lý do để chấm dứt nó vào lúc này.

*

* *

Năm đó Gail Wynand mười hai tuổi. Cậu đứng trong bóng tối dưới một đoạn tường vỡ bên bờ sông Hudson, một tay vung về phía sau, bàn tay nắm chặt, sẵn sàng tấn công. Cậu đang chờ đợi.

Những viên đá dưới chân cậu vun cao lại thành đống ở một góc phố, một mặt của đống đá này che chắn cậu khỏi con đường, mặt bên kia không có gì hết ngoài bờ dốc đứng xuống sông. Một vạt nước tối tăm, không có kè chắn ở trước mặt cậu; xung quanh là các toà nhà xập xệ và một khoảng trời trống rỗng, các kho hàng, một cái gờ mái nhà vỡ, treo lủng lẳng trên một khung cửa sổ toả ra một thứ ánh sáng ma quái.

Chỉ lát nữa thôi, cậu sẽ phải chiến đấu, và cậu biết cuộc đấu đó là vì sinh mạng của mình. Cậu đứng im. Bàn tay nắm chặt, hạ xuống va đưa ra sau như thể cậu đang nắm chặt những đường dây điện vô hình được căng tới từng điểm trọng yếu trong cơ thể gầy guộc, da bọc xương của cậu. Chúng nối, dưới bộ quần áo nhàu nát, tới những đường gân dài, phồng lên trên cánh tay trần của cậu, và tới những cơ bắp gồng lên trên cổ cậu. Những dây kim loại này như đang run rẩy trong khi cơ thể cậu thì bất động. Cậu giống như một thứ vũ khí giết người kiểu mới và chỉ cần một ngón tay chạm vào bất kỳ chỗ nào trong người cậu đều khiến thứ vũ khí đó được kích hoạt.

Cậu biết là gã thủ lĩnh của cái băng đảng choai choai đang tìm cậu và gã sẽ không đi một mình. Hai trong số những đứa mà cậu có thể phải đánh nhau luôn chơi dao, và một đứa đã tưng giết người. Cậu đợi bọn chúng, túi quần trống rỗng. Cậu là thành viên trẻ nhất trong băng và cũng là người gia nhập băng sau cùng. Gã thủ lĩnh nói cậu cần một bài học.

Mọi chuyện bắt đầu từ vụ cướp xà lan trên sông mà bọn chúng định tiến hành. Gã thủ lĩnh quyết định phải làm việc đó vào ban đêm. Cả băng đều đồng ý - ngoại trừ Gail Wynand. Gail Wynand giải thích cho chúng, bằng một giọng chậm rãi và khinh khỉng, rằng băng Những kẻ du côn nhỏ, có địa bàn ở phía dưới sông, cũng đã làm như thế vào tuần trước và sáu mạng rơi vào tay cảnh sát cộng thêm hai mạng nữa đang nằm ngoài nghĩa địa. Công việc này phải được tiến hành vào ban ngày khi không ai ngờ tới. Cả băng đều phản đối cậu. Chuyện đó chẳng làm thay đổi gì cả. Gail Wynand không quen nghe theo lệnh. Cậu không thừa nhận bất cứ điều gì ngoài tính chính xác trong các nhận định của chính mình. Và thế là gã thủ lĩnh quyết định giải quyết bất đồng này dứt điểm một lần cho xong.

Ba tên trong bọn bước đi rất nhẹ, đến nỗi những người đứng đằng sau bức tường mỏng mà bọn chúng đi qua cũng không thể nghe thấy chúng. Nhưng Gail Wynand đã nghe thấy chúng từ cách một khu nhà. Cậu đứng bất động trong cái góc hẹp của mình, chỉ có nắm tay là xiết chặt lại một chút.

Khi đến đúng lúc, cậu nhảy vọt ra. Cậu lao thẳng vào khoảng không mà không hề nghĩ tới việc hạ đất, như thể một chiếc máy bắn đá vừa tung cậu lên cao để bay xa hàng cây số. Ngực cậu đập vào đầu một kẻ địch, bụng đập vào kẻ khác và đôi chân đạp thẳng vào ngực của gã thứ ba. Cả bốn ngã nhào xuống. Khi ba gã kia ngẩng được mặt lên, chúng không còn nhận ra Gail Wynand. Chúng chỉ thấy một cơn lốc xoáy trên đầu chúng và có một cái gì đó ở giữa cơn lốc xoáy phóng thẳng vào chúng, bỏng rát.

Cậu không có gì ngoài hai nắm đấm; chúng có năm nắm đấm và một con dao nhưng điều đó dường như chẳng có tác dụng. Chúng nghe thấy tiếng những nắm đấm của chúng vang lên thình thịch như đấm vào cao su cứng, chúng cảm thấy đầu mũi dao của chúng gãy và chúng biết là nó đã bị chặn lại sau khi đâm trúng đối thủ. Nhưng kẻ mà chúng đang đánh đấm như không hề biết đau là gì. Cậu không có thời gian để cảm thấy bất cứ điều gì, cậu quá nhanh, cảm giác đau đớn không thể theo kịp cậu, dường như cậu để nó treo lơ lửng trên không trung, ngay chỗ cậu để nó chạm vào mình và rồi cậu biến mất khỏi nơi đó trước khi nó theo kịp cậu.

Dường như có một cái động cơ nằm giữa hai xương bả vai cậu và nó quay hai tay cậu thành hai vòng tròn. Người ta chỉ nhìn thấy hai vòng tròn, còn hai cánh tay đã biến mất trong đó, như những chiếc nan hoa biến mất khi bánh xe quay nhanh. Mỗi lần cái vòng tròn chạm vào thứ gì, thứ đó bị dừng lại trong khi cái vòng tròn vẫn tiếp tục quay. Một gã nhìn thấy con dao của gã biến mất trên vai của Wynand; cú giật của vai cậu khiến con dao trượt dọc một bên người Wynand và bị bắn ra ngoài ở khoảng thắt lưng. Đó là điều cuối cùng mà gã thấy. Cái gì đó đập vào cằm gã và gã không còn có cảm giác gì khi gáy gã đập vào đống gạch vỡ.

Trong một lúc lâu, hai tên còn lại cố sức chống lại cái máy ly tâm lúc này đang bắn toé những giọt máu đỏ lên các bức tường bao quanh. Nhưng cũng vô dụng. Không phải chúng đang đánh nhau với một người. Chúng đang đánh nhau với cái ý chí vô hình của một con người.

Khi chúng bỏ cuộc, rên rỉ trong đám gạch, Gail Wynand nói bằng một giọng bình thản "Chúng ta sẽ hoãn lại cho tới ban ngày." và bỏ đi. Từ đó trở đi, cậu trở thành thủ lĩnh của băng.

Hai ngày sau đó, vụ cướp xà lan xảy ra giữa ban ngày và thành công rực rỡ.

Gail Wynand sống cùng với cha cậu ở căn hộ dưới hầm của một tòa nhà cũ kỹ tại trung tâm Hell'sẽ Kitchen. Cha cậu là thợ khuân vác ở cảng, một người cao, lặng lẽ và chưa từng đi học bao giờ. Ông nội và cụ của cậu cũng là những người như thế và họ chưa từng biết tới điều gì ngoài cái nghèo trong gia đình. Nhưng trong gốc rễ xa xôi của gia đình, họ có dòng dõi quý tộc; một tổ tiên quý tộc nào đó từng làm vinh danh dòng họ; và rồi một thảm kịch nào đó mà người ta lãng quên từ lâu đã đẩy những thế hệ sau xuống cảnh bần hàn. Có một điều gì đó trong những người thuộc dòng họ Wynand - cho dù họ ở nhà trọ, tửu điếm hay nhà tù - khiến họ không lẫn vào xung quanh. Cha của Gail được mọi người ở bến cảng gọi là Quận công.

Mẹ của Gail đã qua đời vì bệnh lao phổi khi cậu được hai tuổi. Cậu là đứa con duy nhất trong nhà. Cậu chỉ biết lờ mờ rằng có gì đó rất kịch tính trong cuộc hôn nhân của cha cậu. Cậu từng nhìn thấy một tấm ảnh của mẹ cậu, trong ảnh mẹ cậu trông không giống và cũng ăn mặc không giống các phụ nữ khác trong vùng: bà rất đẹp. Khi bà mất đi, tất cả sự sống trong con người cha cậu cũng ra đi theo. Ông yêu Gail, nhưng đó là kiểu tình cảm rất kiệm lời. Ông không nói với Gail nhiều hơn hai câu mỗi tuần.

Gail có bề ngoài không giống cả mẹ và cha. Cậu là sự phục hồi của một cái gì đó không rõ ràng, và khoảng cách của sự phục hồi đó không chỉ tính bằng vài thế hệ mà là bằng thế kỷ. Cậu quá cao so với tuổi của cậu, và cũng quá gầy. Bọn trẻ gọi cậu là Wynand Kều. Không ai biết cậu lấy cơ bắp ở đâu ra, người ta chỉ biết tới nó khi cậu sử dụng nó.

Cậu đã làm đủ mọi nghề kể từ khi còn nhỏ. Một thời gian dài, cậu bán báo ở các góc phố. Một ngày kia, cậu tới gặp ông chủ toà báo và tuyên bố rằng họ cần phải bắt đầu một dịch vụ mới - giao báo tận nhà người đọc vào mỗi buổi sáng. Cậu giải thích cho ông ta việc đó sẽ tăng số lượng phát hành như thế nào và vì sao. "Thế cơ đấy?" ông chủ toà báo nói. "Tôi biết việc này sẽ thành công," Wynand nói. "Hừm, mày không phải là ông chủ ở đây," ông chủ nói. "Ông là đồ ngốc," Wynand nói.

Wynand mất công việc đó.

Cậu từng làm việc ở một cửa hàng thực phẩm. Cậu chạy việc linh tinh, lau sàn nhà, phân loại các thùng rau quả bị hỏng, giúp đỡ khách hàng, kiên nhẫn cân bột mì hay rót sữa từ một cái thùng lớn vào bình. Cậu làm công việc đó giống như người ta dùng một chiếc xe lăn đường để là phẳng những chiếc khăn mùi xoa. Nhưng cậu cắn răng và kiên nhẫn với công việc. Một ngày kia, cậu giải thích cho chủ cửa hàng rằng nên đổ sẵn sữa vào chai, giống như là làm với rượu whisky. "Ngậm miệng lại và ra kia phục vụ bà Sullivan", ông chủ nói, "đừng bao giờ nghĩ là tao không biết công việc của tao. Mày không phải là chủ ở đây." Cậu quay ra phục vụ bà Sullivan và không nói gì cả.

Cậu từng làm ở một phòng chơi bi-a. Cậu cọ rửa các ống nhổ và dọn dẹp những gì mà bọn say xỉn bày ra. Cậu nghe và nhìn thấy những việc khiến sau này, cậu không còn cảm thấy ngạc nhiên trước bất cứ việc gì. Cậu nỗ lực hết sức và học cách giữ im lặng, để giữ lại công việc mà người ta bảo là việc của cậu, chấp nhận sự vô lý làm ông chủ của cậu - và cậu chờ đợi. Chưa ai từng nghe thấy cậu nói về cảm giác của cậu. Cậu có nhiều cảm giác với đồng loại của mình nhưng sự tôn trọng không nằm trong những cảm giác ấy.

Cậu làm nghề đánh giầy trên một chiếc phà. Tất cả mọi người đều có thể xô đẩy và ra lệnh cho cậu: từ những tay buôn ngựa béo phị tới những gã say rượu trên phà. Nếu cậu nói, cậu sẽ nghe thấy một giọng kẻ cả trả lời "Mày không phải là chủ ở đây." Nhưng cậu thích công việc đó. Khi không có khách, cậu đứng ở bên mạn phà và ngắm Manhattan. Cậu nhìn các tấm biển màu vàng của những căn nhà mới, những bãi đất trống trải, những cần trục và cần cẩu, và vài tòa tháp cao đang vươn lên ở phía xa. Cậu nghĩ tới những gì cần phải xây dựng và những gì cần phá hủy, tới những khoảng trống, tới cái triển vọng mà khoảng trống đó mang lại và những gì có thể được tạo ra từ đó. Một tiếng kêu khàn khàn "Này, nhóc" cắt đứt suy nghĩ của cậu. Cậu trở lại chỗ ngồi và cúi mặt một cách ngoan ngoãn xuống một đôi giày bẩn thỉu nào đó. Người khách chỉ có thể thấy một mái đầu bé nhỏ, mái tóc màu nâu nhạt và hai bàn tay gầy gò nhưng hiệu quả.

Vào các buổi tối mù sương, dưới ngọn đèn khí ở một góc phố, không ai để ý tới một dáng người gầy gò dựa lưng vào cây đèn đường - đấy là dáng một nhà quý tộc thời Trung cổ, người có bản năng chỉ huy và biết rõ tại sao mình có quyền chỉ huy; đấy là dáng của một vị nam tước thời phong kiến, vốn sinh ra để cai trị - nhưng lại sống để quét sàn nhà và nghe người khác sai khiến.

Cậu tự học đọc và viết khi năm tuổi, bằng cách đặt các câu hỏi.

Cậu đọc bất cứ cái gì mà cậu tìm thấy. Cậu không chấp nhận những điều không giải thích được. Cậu phải hiểu bất cứ điều gì mà người khác biết. Huy hiệu trong tuổi thơ của cậu - thứ gia huy mà cậu tự tạo cho mình thay cho gia huy của dòng họ đã bị mất hàng trăm năm trước - là dấu chấm hỏi. Không ai phải giải thích điều gì cho cậu tới lần thứ hai.

Cậu học những bài toán đầu tiên từ những kỹ sư lắp ống thoát nước. Cậu học địa lý từ các thủy thủ ở bến tàu. Cậu học về các vấn đề hành chính dân sự từ các chính trị gia hay lui tới quán bar trong vùng - vốn là nơi đàn đúm của đám gangster. Cậu chưa bao giờ đi nhà thờ hay đi học. Cậu bước chân vào nhà thờ lần đầu tiên năm mười hai tuổi. Cậu lắng nghe bài giảng đạo về đức kiên nhẫn và khiêm nhường. Cậu không bao giờ quay trở lại đó. Năm mười ba tuổi, cậu quyết định tìm hiểu trường học và đăng ký vào học một trường công. Cha cậu không nói gì về quyết định này, cũng như ông không nói gì mỗi khi Gail trở về nhà, người xây xát sau một trận đánh nhau trên đường phố.

Trong tuần đi học đầu tiên, cô giáo gọi Gail Wynand liên tục - chỉ vì cậu luôn biết các câu trả lời. Khi cậu tin tưởng vào những người có vị trí cao hơn cậu và mục đích của họ, cậu tuân phục họ như một chiến binh Sparta; cậu tự áp đặt cho mình tứh kỷ luật như cậu vẫn đòi hỏi những kẻ dưới trướng trong băng của cậu. Nhưng ý chí của cậu chẳng có ích gì: trong vòng một tuần, cậu nhận ra mình chẳng cần cố gắng gì cũng đứng đầu lớp. Sau một tháng, cô giáo không còn để ý tới sự có mặt của cậu trong lớp nữa vì cậu đã hiểu hết các bài học và cô phải tập trung tới những đứa trẻ chậm hiểu và kém thông minh hơn. Cậu ngồi yên không nhúc nhích trong những giờ học dai dẳng như đeo gông, trong khi cô giáo lặp đi lặp lại, cố hết sức để làm bật ra chút trí tụê nào đó từ những đôi mắt trống rỗng và những giọng nói lý nhí. Sau hai tháng, trong lúc ôn lại những kiến thức lịch sử sơ đẳng mà cô cố gắng nhồi nhét trong lớp học, cô giáo hỏi "Có bao nhiêu bang trong Liên bang Mỹ khi Liên bang mới thành lập?" Không có cánh tay nào đưa lên. Rồi Gail Wynand giơ tay lên. Cô giáo gật đầu với cậu. Cậu đứng lên. "Tại sao", cậu hỏi "em cứ phải nhai lại mọi thứ đến cả hcục lần? Em biết tất cả rồi."

"Em không phải là học sinh duy nhất trong lớp", cô giáo nói. Cậu bật ra một câu gì đó khiến cô giáo tái mặt ngay lập tức và đỏ bừng mặt sau 15 phút, khi cô hiểu ra ý nghĩa của nó. Cậu bước ra cửa. Ở ngưỡng cửa, cậu quay lại và nói thêm "À, vâng. Ban đầu có mười ba bang." Đó là lần cuối cùng cậu đến trường. Ở Hell's Kitchen, có nhiều người chưa từng đi ra khỏi vùng, và một số người còn hiếm khi bước ra ngoài khu nhà nơi họ sinh ra. Nhưng Gail Wynand thường đi dạo trên những đường phố giàu có nhất trong thành phố. Trước một thế giới giàu có, cậu không cảm thấy cay đắng, không ghen tỵ và cũng không sợ hãi. Cậu chỉ cảm thấy tò mò và cậu thoải mái khi ở Đại lộ số Năm cũng như ở bất kỳ một nơi nào khác.

Cậu luôn đi qua những biệt thự sang trọng, hai tay đút túi quần, ngón chân chìa ra ngoài đôi giầy đế bằng. Mọi người nhìn chằm chằm vào cậu nhưng điều đó chẳng ảnh hưởng đến cậu. Cậu đi qua họ và tạo ra cảm giác chính cậu mới thuộc về đại lộ này chứ không phải họ. Cậu không muốn gì - vào lúc này - ngoài ham muốn tìm hiểu.

Cậu muốn biết điều gì đã khiến những người này khác với những người sống trong khu cậu ở. Không phải quần áo, xe cộ hay các nhà băng khiến cậu để ý; mà là các quyển sách. Những người sống trong khu dân cư cậu ở cũng có quần áo, xe ngựa và tiền bạc; có nhiều hay ít không quan trọng; cái chính là họ không đọc sách. Cậu quyết định học từ những gì mà những người sống trên Đại lộ số Năm đọc. Một ngày kia, cậu nhìn thấy một quý bà - phân loại của cậu còn chính xác hơn cả Danh mục Đăng ký Xã hội . Quý bà đó đang đọc một cuốn sách. Cậu nhảy tới bực lên xuống xe ngựa, giằng lấy cuốn sách và chạy biến. Cảnh sát không đủ nahnh nhẹn để có thể tóm được cậu.

Đó là một cuốn sách của Herbert Spencer. Cậu vật vã mãi mới đọc hết cuốn sách. Cậu hiểu được chừng một phần tư những gì đã đọc. Nhưng chính việc này đã khiến cậu bắt đầu một chặng đường mà cậu theo đuổi bằng một quyết tâm sắt đá và có hệ thống. Khi nhận được một lời khuyên, giúp đỡ hay kế hoạch nào, cậu bắt đầu đọc một mớ lộn xộn đủ các loại sách. Khi gặp phải một đoạn nào đó mà cậu không hiểu được từ một cuốn sách, cậu sẽ đọc một cuốn khác cũng về chủ đề đó. Cậu bị kéo đi đủ các hướng khác nhau; cậu đọc các cuốn sách chuyên khảo trước; rồi sau đó lại đọc sách nhập môn cho học sinh trung học. Chẳng có một thứ tự nào trong việc đọc của cậu nhưng những gì còn lại trong trí óc cậu thì lại có trật tự.

Cậu phát hiện ra phòng đọc trong Thư viện Công cộng và cậu đến đó trong một thời gian để nghiên cứu cách sắp đặt của thư viện. Và rồi, một ngày kia, vào những thời điểm khác nhau trong ngày, trong phòng đọc xuất hiện những chú nhóc với mái tóc được chải một cách khó khăn và mới tắm rửa vội vàng. Bọn trẻ đều gầy gò lúc đến nhưng không còn gầy gò như vậy khi chúng rời khỏi thư viện. Buổi tối hôm đó, Gail Wynand có một thư viện riêng nho nhỏ tại góc căn phòng dưới tầng hầm của cậu. Băng của cậu đã thi hành mệnh lệnh của cậu mà không phản đối. Đó là một nhiệm vụ lố bịch: không một băng đảng có tự trọng nào lại đi ăn trộm một thứ vô nghĩa như sách. Nhưng Wynand Kều đã ra lệnh và không có ai lại đi tranh cãi với Wynand Kều cả.

Khi cậu mười lăm tuổi, người ta tìm thấy cậu vào một buổi sáng trong một rãnh nước, thân thể nát nhừ, hai chân gãy sau một trận đòn bởi một gã khuân vác rượu. Lúc người ta tìm thấy cậu thì cậu bất tỉnh. Nhưng cậu đã tỉnh, lúc mới bị đánh xong. Gã say rượu bỏ cậu một mình trong ngõ tối. Cậu nhìn thấy ánh sáng ở góc đường. Không ai biết cậu làm thế nào để lết được tới góc đó nhưng cậu đã làm được, vì người ta nhìn thấy những vệt máu dài trên vỉa hè sau đó.

Cậu đã bò. Cậu không thể cử động gì ngoại trừ đôi tay. Cậu gõ vào phía dưới một cánh cửa. Đó là một tiệm rượu vẫn còn đang mở cẳ. Người chủ tiệm rượu bước ra. Đó là lần duy nhất trong đời Gail Wynand xin được giúp đỡ. Người chủ tiệm rượu liếc nhìn cậu bằng một cái nhìn vô cảm và nặng nề - cái nhìn cho thấy ông ta hiểu hết nỗi đau đớn và bất công, đồng thời nó cũng là cái nhìn đầy vẻ thờ ơ thản nhiên và lãnh đạm. Ông ta quay người đi vào nhà và đóng sầm cửa. Ông ta không muốn dính dáng tới chuyện các băng đảng thanh toán lẫn nhau.

Nhiều năm sau, Gail Wynand, lúc này là chủ bút tờ Ngọn cờ, biết rõ tên của cả gã phu khuân vác và ông chủ tiệm rượu kia. Ông biết cả địa chỉ của họ. Ông không làm gì với gã phu khuân vác. Nhưng ông đã khíên cho người chủ tiệm rượu phá sản; toàn bộ nhà cửa và tiền tiết kiệm của ông ta cũng mất. Ông ta đã tự tử.

Năm Gail Wynand mười sáu tuổi, cha cậu chết. Lúc đó, cậu sống một mình, thất nghiệp, với 65 xu ở trong túi, một hoá đơn thuê nhà chư trả và mớ học thức lộn xộn. Cậu quyết định đã đến lúc để cân nhắc cậu sẽ làm gì trong cuộc đời. Đêm hôm đó, cậu leo lên nóc toà nhà mình ở và nhìn vào ánh đèn trong thành phố - cái thành phố mà ở đó cậu không phải là ông chủ. Cậu để mắt mình di chuyển chậm chạp từ cánh cửa sổ những căn nhà ổ chuột ngả nghiêng xung quanh cậu tới cánh cửa sổ của những tòa nhà sang trọng ở xa xa. Mặc dù cậu chỉ nhìn thấy những hình khối được thắp sáng lơ lửng trong không trung, nhưng cậu biết được sự khác nhau giữa chúng: ánh sáng xung quanh cậu trông âm u và chán nản, còn những ánh sáng ở đằng xa kia thì lại sạch sẽ và chắc chắn. Cậu tự hỏi mình một câu duy nhất: cái gì đi vào trong tất cả những ngôi nhà kia, cả những ngôi nhà ảm đạm và những ngôi nhà sáng trưng, cái gì vào được tất cả các căn phòng, vươn tới tất cả mọi người? Họ đều có bánh mì cả. Liệu người ta có thể cai trị loài người bằng bánh mì họ mua? Họ có giầy, họ có cà phê, họ có... Đường đi cuộc đời cậu được định đoạt vào lúc đó.

Sáng hôm sau, cậu bước vào phòng làm việc của tổng biên tập tờ Gazette, một tờ báo hạng bốn có trụ sở ở một toà nhà tồi tàn và xin việc ở phòng tin địa phương. Tổng biên tập nhìn vào quần áo của cậu và hỏi: "Thế cậu có biết đánh vần từ "mèo" không?"

"Ông có biết đánh vần từ "hình thái nhân chủng học" không?" Wynand hỏi lại.

"Ở đây chúng tôi không có việc", người biên tập nói.

"Tôi sẽ ở quanh đây", Wynand nói, "khi nào ông cần thì cứ sai tôi. Ông không cần phải trả lương cho tôi. Ông hãy trả lương cho tôi khi ông thấy cần thiết."

Cậu ở lại toà nhà đó, ngồi yên trên cầu thang bên ngoài phòng tin địa phương. Suốt một tuần, ngày nào cậu cũng ngồi đó. Chẳng có ai để ý tới cậu. Đến đêm, cậu ngủ ở hành lang. Khi cậu tiêu gần hết số tiền mình có, cậu ăn cắp thực phẩm từ các quầy hàng hay từ các thùng rác, rồi lại quay trở lại vị trí của mình ở cầu thang.

Một ngày kia, một phóng viên thấy thương hại cậu; trên đường xuống cầu thang, anh ta ném đồng năm xu vào đùi của Wynand và nói "Nhóc con, đi mua lấy một bát thịt hầm mà ăn." Wynand còn lại một đồng mười xu ở trong túi. Cậu lấy đồng mười xu ra, ném vào anh phóng viên kia, và nói "cầm lấy mà đi chơi gái." Anh chàng kia văng tục và đi xuống cầu thang. Đồng năm xu và đồng mười xu vẫn nằm nguyên trên cầu thang. Wynand không động tới chúng. Câu chuyện này được kể lại ở phòng tin địa phương. Một viên văn thư mặt đầy mụn nhún vai và nhặt lấy cả hai đồng.

Cuối tuần đó, trong giờ cao điểm, một người từ phòng tin địa phương gọi Wynand để chạy một việc lặt vặt. Sau đó là các công việc lặt vặt khác. Cậu tuân thủ với một độ chính xác của nhà binh. Sau 10 ngày, cậu nhận được lương. Sau sáu tháng, cậu trở thành phóng viên. Sau hai năm, cậu là phó biên tập.

Gail Wynand 20 tuổi khi anh bắt đầu yêu. Anh đã biết tất cả về tình dục từ tuổi mười ba. Anh có rất nhiều đàn bà. Anh không bao giờ nói tới tình yêu, không tạo ra những ảo tưởng lãng mạn và coi toàn bộ việc này như một hành động thuần túy động vật - và trong hành động đó, anh là bậc thầy. Chỉ cần nhìn anh, phụ nữ có thể nhận ra điều này. Cô gái mà anh yêu có một vẻ đẹp thanh tú, vẻ đẹp khiến người ta thờ phụng chứ không ham muốn. Cô mỏng manh và trầm lặng. Khuôn mặt cô nói lên những bí ẩn đáng yêu vẫn chưa được khám phá ở trong cô.

Cô trở thành người tình của Gail Wynand. Anh cho phép mình được quyền yếu đuối trong hạnh phúc. Anh sẵn sàng cưới cô làm vợ ngay lập tức nếu cô đề cập tới chuyện này. Nhưng họ hầu như không nói chuyện với nhau. Anh cảm thấy như họ hiểu tất cả về nhau.

Một buổi tối, anh nói với cô. Ngồi dưới chân cô, mặt hướng lên phía cô, anh mở toang tâm hồn mình cho cô. "Em yêu, em muốn thế nào thì anh sẽ trở thành người như thế, trở thành bất kỳ ai... Đó là điều anh muốn dâng cho em - không phải là những thứ cụ thể anh sẽ tặng em mà là cái ở bên trong con người anh - cái làm cho anh lấy được những thứ tặng em. Không người đàn ông nào có thể từ bỏ cái đó. Nhưng anh muốn từ bỏ nó, để nó sẽ trở thành của em, phục vụ cho em, chỉ để cho em." Cô gái mỉm cười và hỏi anh: "Anh có nghĩ là em xinh hơn Maggy Kelly không?"

Anh đứng dậy. Anh không nói gì và bước ra khỏi căn nhà. Anh không bao giờ còn gặp lại cô gái đó nữa. Gail Wynand, người vẫn tự hào với chính mình là không bao giờ phải học lại một bài học tới lần thứ hai, không còn yêu ai trong những năm sau đó.

Năm anh 21 tuổi, sự nghiệp của anh ở tờ Gazette bị đe dọa, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất. Chính trị và tham nhũng chưa bao giờ làm anh bận tâm; anh đã biết tất cả về nó, băng đảng của anh từng đánh thuê tại các hòm phiếu trong những ngày bầu cử. Nhưng khi Pat Mulligan, cảnh sát trưởng của khu vực anh sống bị người ta gài bẫy thì Wynand không chịu ngồi yên; bởi vì Pat Mulligan là người trung thực nhất mà anh từng gặp trong đời.

Tờ Gazette do chính những thế lực đã gài bẫy Mulligan kiểm soát. Wynand không nói gì hết. Anh chỉ sắp xếp trong đầu những thông tin anh có - những thông tin có thể khiến tờ Gazette bị thổi bay. Công việc của anh cũng sẽ bị thổi bay cùng với nó, nhưng điều này không quan trọng. Quyết định của anh trái ngược với tất cả những quy tắc anh từng đặt ra cho sự nghiệp của mình. Nhưng hiếm hoi, chỉ thỉnh thoảng xảy ra trong anh và khiến anh không còn thận trọng nữa; nó biến anh thành một sinh vật bị chi phối hoàn toàn bởi khao khát duy nhất là làm bằng được điều mình muốn, bởi vì điều anh muốn là duy nhất đúng, hoàn toàn đúng. Nhưng anh biết việc phá huỷ tờ Gazette chỉ là bước ban đầu. Nó không đủ để cứu Mulligan.

Trong ba năm liền, Wynand lưu giữ một mẩu giấy nhỏ: một bài xã luận về nạn tham nhũng do một tổng biên tập nổi tiếng của một tờ báo lớn viết. Anh giữ nó, bởi vì đó là một bài viết tôn vinh sự thanh liêm một cách đẹp đẽ nhất mà anh từng đọc. Anh mang theo mẩu tin đó và đến gặp ông tổng biên tập nổi tiếng kia. Anh muốn kể với ông ta về Mulligan và họ có thể cùng nhau đập vỡ được bộ máy tham nhũng.

Anh đi bộ xuyên qua thành phố, tới trụ sở tòa báo nổi tiếng. Anh phải đi bộ. Việc này làm dịu cơn thịnh nộ trong anh. Anh được mời vào văn phòng của tổng biên tập - anh luôn có cách để vào được các nơi anh muốn, bất chấp mọi luật lệ. Anh thấy một người đàn ông to béo ngồi tại bàn, đôi mắt ti hí gần như giao nhau. Anh không tự giới thiệu mình, mà đặt mẩu tin lên trên bàn và hỏi "Ông còn nhớ cái này không?" Ông tổng biên tập nhìn vào mẩu tin rồi nhìn vào Wynand. Đó là cái nhìn Wynand từng thấy trước đó: trong đôi mắt của người chủ quán rượu khi ông ta đóng sập cửa trước mặt anh. "Làm sao cậu lại nghĩ rằng tôi nhớ được tất cả đống hổ lốn mà tôi từng viết ra?" ông ta hỏi.

Mất một giây, rồi Wynand nói "Cảm ơn". Đó là lần đầu tiên trong đời mình, anh cảm thấy biết ơn một ai đó. Lòng biết ơn là thực sự - đó là lệ phí trả cho một bài học mà anh không bao giờ cần đến nữa. Nhưng ngay cả ông tổng biên tập cũng cảm thấy có điều gì đó rất bất thường và rất đáng sợ trong câu "Cảm ơn" ngắn gọn đó. Ông ta không biết rằng đó chính là lời cáo phó cho Gail Wynand.

Wynand đi bộ trở lại tờ Gazette, không cảm thấy giận dữ với ông tổng biên tập kia hay với guồng máy chính trị. Anh chỉ cảm thấy một nỗi khinh bỉ đầy giận dữ với bản thân mình, với Pat Mulligan, với sự chính trực của con người. Anh cảm thấy xấu hổ khi nghĩ rằng mình và Mulligan đã tình nguyện trở thành nạn nhân của cái gì. Không, không phải là "nạn nhân" mà là "lũ khờ." Anh trở lại phòng làm việc và viết một bài xã luận xuất sắc để vùi dập Đại úy Mulligan. "Thế mà tôi đã tưởng anh cảm thấy thương hại cho thằng con oan khốn khổ đó", biên tập viên của tờ báo nói với anh một cách hài lòng.

"Tôi không biết thương hại bất kỳ ai," Wynand nói.

Các chủ tiệm tạp hoá và công nhân bến phà không ưa Gail Wynand nhưng các chính trị gia thì rất thích anh. Trong những năm làm việc ở tờ báo, anh đã học được cách đối xử với mọi người. Anh luôn có một nét mặt mà anh mang theo cả đời: nó không hẳn là một nụ cười mà là một ánh nhìn giễu cợt của anh là nhằm vào những thứ mà bản thân họ cũng muốn giễu cợt. Hơn nữa, thật dễ chịu khi làm việc với một người không bị một đam mê hay đức tin thiêng liêng nào đó ràng buộc.

Khi anh 23 tuổi, đảng chính trị đối lập - vì muốn thắng cử ở địa phương và cần một tờ báo để dàn xếp một vụ việc nhất định - đã mua lại tờ Gazette.

Họ mua tờ báo dưới cái tên Gail Wynand với dụng ý để anh làm người đại diện đáng kính bên ngoài cho guồng máy ẩn đằng sau. Gail Wynand trở thành tổng biên tập. Anh dàn xếp vụ việc đó và giành thắng lợi bầu cử cho các ông chủ mình. Hai năm sau đó, anh đập nát băng đảng chính trị này, tống những tên cầm đầu vào nhà lao và trở thành chủ nhân duy nhất của tờ Gazette.

Công việc đầu tiên của anh là xé bỏ biển hiệu tờ báo trên cánh cửa toà nhà và thay tên tờ báo. Tờ Gazette trở thành tờ Ngọn cờ New York. Các bạn bè của anh phản đối. "Các chủ bút không thay tên một tờ báo bao giờ", họ nói với anh.

"Chủ bút này thì có," anh trả lời.

Chiến dịch đầu tiên của tờ Ngọn cờ là kêu gọi quyên góp tiền hco một mục đích từ thiện.

Tờ Ngọn cờ chạy hai câu chuyện song song nhau với số chữ tương tự nhau. Chuyện thứ nhất về một nhà khoa học trẻ nghèo túng: anh ta sống vất vả trong một cái gác xép áp mái và đang cố gắng cho ra đời một phát minh vĩ đại. Chuyện thứ hai về một cô hầu phòng, người tình của một kẻ sát nhân bị tòa án xử tử: cô này hiện đang sắp sinh đứa con ngoài giá thú. Câu chuyện đầu tiên được minh họa bằng các biểu đồ khoa học, chuyện thứ hai bằng tấm hình một cô gái miệng mếu máo một cách thảm hại, quần áo xộc xệch. Tờ Ngọn cờ đề nghị bạn đọc giúp đỡ cho hai số phận bất hạnh này. Tờ báo nhận được chín đôla và 45 xu cho nhà khoa học trẻ và một ngàn không trăm bảy mươi bảy đôla cho người mẹ không được cưới hỏi. Gail Wynand tổ chức một cuộc họp toàn tòa soạn. Anh đặt lên tờ báo đăng cả hai câu chuyện và số tiền quyên được cho hai người. "Có ai ở đây còn không hiểu không?" - anh hỏi. Không có ai trả lời. Anh nói: "Giờ thì các anh biết rõ tờ Ngọn cờ sẽ phải trở thành một tờ báo như thế nào rồi đấy."

Các chủ bút cùng thời anh tự hào về việc họ luôn đóng dấu ấn cá nhân trên các trang báo của họ. Gail Wynand hiến tờ báo của anh, cả phần xác và phần hồn cho đám đông. Phần xác của tờ Ngọn cờ giống như một tấm bích chương quảng cáo gánh xiếc, còn phần hồn của nó thì giống như một buổi diễn xiếc. Nó cũng theo đuổi mục tiêu giống một gánh xiếc: đó là làm cho mọi người kinh ngạc, thích thú và thu tiền từ họ. Nó mang dấu ấn không phải của một người mà của một triệu người. "Mọi người có phẩm chất khác nhau, nếu quả thực họ có," Gail Wynand nói khi giải thích chính sác của anh "nhưng họ đều giống nhau trong các thói xấu." Anh nói thêm, nhìn thẳng vào mắt mọi người đặt câu hỏi: "Tôi đang phụng sự cho cái tồn tại nhiều nhất trên trái đất này. Tôi đang đại diện cho đa số - hẳn đây cũng là một hành động đạo đức chứ?"

Công chúng muốn đọc về các vụ án, xì-căng-đan, và những thứ lá cải mùi mẫn. Gail Wynand mang đến cho họ. Anh trao cho họ những gì họ muốn, cộng thêm những lời biện hộ cho những ý thích mà bản thân họ thấy xấu hổ. Tờ Ngọn cờ viết về án mạng, đốt nhà, hiếp dâm, tham nhũng - và trên cơ sở đạo lý, lên án những thứ này. Cả ba cột báo bao gồm những chuyện vụ án, lạ đến một bài nhỏ về đạo đức. "Nếu ta yêu cầu người đọc phải thực hiện một sứ mệnh cao cả, họ sẽ chán ngấy" - Wynand nói - "Nếu ta cho phép họ dung tục thoải mái, họ sẽ thấy xấu hổ. Nhưng nếu kết hợp được cả hai thứ, họ sẽ là của chúng ta." Wynand đưa các câu chuyện về các cô gái sa ngã, các cuộc ly hôn nổi tiếng, những nhà tế bần cho trẻ vô thừa nhận, các khu đèn đỏ, các bệnh viện từ thiện.

"Sex là ưu tiên số một," Wynand nói. "Nước mắt là số hai. Làm cho họ dậm dật và làm cho họ khóc lóc - và họ sẽ thuộc về chúng ta."

Tờ Ngọn cờ thực hiện các cuộc thánh chiến vĩ đại và can đảm - nhưng chỉ với những lĩnh vực mà công chúng không phản đối. Nó vạch tội các chính trị gia trước khi Đại bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết; nó tấn công các hãng độc quyền - nhân danh những người bị bóc lột; nó mỉa mai những người giàu có và thành công - nhân danh những người không bao giờ có thể giàu có và thành công. Nó phóng đại sự quyến rũ của tầng lớp thượng lưu và đưa tin về tầng lớp này cùng với sự chế giễu khéo léo. Việc này làm hài lòng người bình dân tới hai lần: một là họ được bước vào các phòng khách lộng lẫy và hai là họ không phải chùi chân ở trước cửa ra vào. Tờ Ngọn cờ được phép bóp méo sự thật, thị hiếu và uy tín của người khác nhưng o được làm căng thẳng trí óc của độc giả. Các đầu mục in chữ lớn, tranh ảnh bắt mắt và ngôn ngữ đơn giản quá mức của nó tác động trực tiếp vào các giác quan và đi thẳng vào nhận thức người đọc mà không cần tới quá trình suy diễn trung gian, như thức ăn được tiêm thẳng vào trực tràng, mà không cần phải qua quá trình tiêu hoá.

"Tin tức," Gail Wynand bảo các nhân viên "là bất cứ cái gì có khả năng kích động nhiều người nhất. Tin tức là bất cứ cái gì làm người ta choáng váng. Càng choáng váng càng tốt - dĩ nhiên với giả thiết là có những thứ như thế."

Một ngày kia, anh đưa tới văn phòng một người anh nhặt được ở ngoài đường. Đó là một người đàn ông bình thường, ăn mặc không lịch sự cũng không tồi tàn, không cao và không thấp, tóc không đen cũng không vàng và có một khuôn mặt khiến người ta không thể nhớ được ngay cả khi người ta đang nhìn vào nó. Ông ta thật đáng sợ vì hoàn toàn không có gì khác biệt cả, ông ta thậm chí còn không có cả vẻ kỳ quặc của một kẻ ngớ ngẩn. Wynand đưa ông ta đi khắp tòa nhà, giới thiệu với tất cả các nhân viên rồi để ông ta đi. Sau đó Wynand gọi tất cả các nhân viên lại và nói với họ: "Khi nào các anh hồ nghi về công việc của mình, hãy nhớ tới khuôn mặt đó. Các anh đang viết cho ông ta đọc."

"Nhưng, ông Wynand", một biên tập viên trẻ nói "chúng tôi không thể nhớ được khuôn mặt của ông ta."

"Chính là vì thế!" Wynand nói.

Khi cái tên Gail Wynand trở thành một mối đe dọa trong giới xuất bản, một nhóm các chủ báo gặp riêng ông trong một buổi lễ từ thiện ở thành phố mà tất cả đều phải tham dự. Họ trách ông vì cái mà họ gọi là hạ thấp thị hiếu công chúng. "Chức năng của tôi", Wynand nói "không phải là giúp mọi người giữ gìn lòng tự trọng mà họ không có. Các ngài mang lại cho họ những gì mà họ công khai thừa nhận là họ thích. Còn tôi mang lại cho họ những gì họ thực sự thích. Thật thà là cha quỷ quái, các quý ngài ạ, dù nó không hoàn toàn theo nghĩa mà các ngài được dạy."

Wynand luôn làm cực tốt những gì ông muốn làm. Dù mục tiêu của ông là gì thì cách thức ông tiến hành cũng đều vượt xa những người khác. Tất cả mục đích, sức mạnh, ý chí - những thứ không hiển hiện trên các trang báo - đều được sử dụng trong quá trình thực hiện các trang báo - đều được sử dụng trong quá trình thực hiện các trang báo đó. Đấy là một tài năng phi thường, được đốt cháy một cách phung phí để đạt được sự hoàn hảo trong những điều bình thường. Một đức tin tôn giáo mới lẽ ra đã có thể được tạo ra từ năng lượng tinh thần ông dành cho việc sưu tầm các câu chuyện rẻ tiền và bôi trát chúng lên trên các trang giấy báo.

Tờ Ngọn cờ luôn là tờ báo đưa tin sớm nhất. Khi có một trận động đất xảy ra ở Nam Mỹ và mọi liên lạc bị cắt từ khu vực bị thảm hoạ, Wynand thuê riêng một tàu biển, gửi một đội phóng viên tới hiện trường và tăng phụ bản trên các đường phố New York, sớm hơn các đối thủ cạnh tranh nhiều ngày. Các phụ bản này có các tranh minh họa cảnh lửa cháy, đất đá nứt toác và những thân thể bị nghiến nát. Khi người ta nhận được tín hiệu S.O.S từ một con tàu đang bị chìm trong bão ngoài khơi Đại Tây dương, đích thân Wynand bay đến hiện trường cùng nhóm phóng viên, còn sớm hơn cả Lực lượng phòng vệ bờ biển. Wynand chỉ đạo việc cứu hộ và mang về một câu chuyện độc quyền với những tấm ảnh đích thân ông trèo lên một cái thang bên trên những tấm ảnh đích thân ông trèo lên một cái thang bên trên những cơn sóng dữ, tay ôm một em bé. Khi một ngôi làng ở Canada bị cách ly khỏi thế giới vì một trận tuyết lở, chính tờ Ngọn cờ đã gửi một khinh khí cầu thả thực phẩm và Kinh Thánh cho dân làng. Khi một khu mỏ bị tê liệt bởi một trận đình công, tờ Ngọn cờ mở bếp ăn cung cấp súp cho họ và đưa lên trang báo những câu chuyện thê thảm và mối hiểm nguy mà các cô con gái xinh xắn của các công nhân mỏ đang gặp phải do nghèo đói. Khi một con mèo bị mắc kẹt trên đỉnh một cột điện, thì một phóng viên ảnh của tờ Ngọn cờ đã giải cứu nó.

"Khi không có tin tức, hãy đẻ ra tin tức", đó là lệnh của Wynand. Một bệnh nhân tâm thần trốn khỏi một bệnh viện tâm thần của bang. Sau khi gây ra sự sợ hãi của cư dân sống trong bán kính vài dặm quanh vùng - sự sợ hãi này được tăng thêm do những dự đoán kinh khủng mà tờ Ngọn cờ đưa ra cũng như sự phẫn nộ của tờ báo trước tình trạng bất lực của cảnh sát địa phương - anh ta bị một phóng viên của tờ Ngọn cờ bắt được. Bệnh nhân tâm thần này phục hồi một cách diệu kỳ sau hai tuần kể từ khi bị bắt. Anh ta được thả ra và bán cho tờ Ngọn cờ những thông tin vạch trần sự đối xử tàn tệ mà anh ta phải chịu tại bệnh viện tâm thần. Việc này đã mang lại những cải cách toàn diện. Về sau này, một số người nói rằng bệnh nhân đó từng làm việc cho tờ Ngọn cờ trước khi nhập viện. Nhưng chẳng ai chứng minh được việc này.

Một đám cháy xảy ra tại một xưởng thủ công có ba mươi cô gái trẻ làm thuê. Hai cô gái bị chết trong đám cháy. Mary Watson, một trong số những người sống sót, bán cho tờ Ngọn cờ câu chuyện độc quyền về sự bóc lột mà họ phải chịu ở xưởng làm. Câu chuyện nay đã làm dấy lên làn sóng chống lại các xưởng sản xuất bóc lột công nhân, do các quý bà danh giá hàng đầu của thành phố lãnh đạo. Nguyên nhân của đám cháy không bao giờ được làm rõ. Người ta thì thầm với nhau rằng Mary Watson vốn có tên là Evelyn Drake và từng là phóng viên của tờ Ngọn cờ. Việc này không bao giờ được chứng minh.

Trong những năm đầu của tờ Ngọn cờ, Gail Wynand ngủ trên tràng kỷ trong phòng làm việc của ông nhiều hơn là ở phòng ngủ tại nhà. Những đòi hỏi của ông với các nhân viên đều khó thực hiện những những đòi hỏi của ông với chính mình thì thật là khó tin. Ông buộc các nhân viên của ông làm việc như ở trong quân đội, ông buộc chính mình làm việc như một tên nô lệ. Ông trả lương cao cho nhân viên, còn bản thân ông chỉ có tiền nhà và tiền ăn. Ông tiêu tiền nhanh hơn kiếm tiền, và ông tiêu tất cả các tiền kiếm được vào tờ Ngọn cờ. Tờ báo giống như một người tình xa xỉ mà mọi nhu cầu của nó đều được ông thoả mãn, bất chấp giá cả.

Tờ Ngọn cờ là tờ báo đầu tiên có thiết bị máy in mới nhất. Tờ Ngọn cờ là tờ cuối cùng thuê được các phóng viên tốt nhất - cuối cùng bởi vì nó giữ được các phóng viên này. Wynand đột kích khắp các tòa soạn báo, không tờ báo nào có thể theo kịp mức lương mà Wynand trả. Quy trình của ông dần biến thành một công thức đơn giản. Khi một phóng viên nhận được lời mời đến gặp Wynand, anh ta coi nó như một sự lăng mạ vào lương tâm nghề nghiệp của anh ta, nhưng anh ta vẫn đến cuộc hẹn. Anh ta đến, chuẩn bị sẵn những điều kiện khó khăn phải được thỏa mãn nếu như Wynand muốn anh ta làm thuê. Wynand bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng cách nêu ra mức lương ông sẽ trả. Sau đó, ông nói thêm: "Tất nhiên, anh có thể đưa ra các điều kiện khác..." Rồi ông liếc nhìn người phóng viên đang nuốt nước bọt, ông kết thúc câu chuyện: "Không à? Tốt. Anh bắt đầu làm việc từ thứ Hai."

Khi Wynand mở tờ báo thứ hai của ông tại Philadelphia, các tờ báo địa phương đối phó với ông như các thủ lĩnh châu Âu từng hợp sức chống lại cuộc xâm lược của Attila. Một cuộc chiến khốc liệt đã diễn ra. Wynand chỉ cười lớn. Làm gì có ai có thể qua mặt ông trong những chuyện như thuê du côn chặn phá các xe chở báo và đánh đập những người bán báo. Hai trong số các đối thủ cạnh tranh của ông gục ngã trong trận chiến. Tờ Wynand Philadelphia Star của ông tồn tại.

Sau đó, mọi thứ diễn ra nhanh chóng và đơn giản, như sự lây lan của một thứ bệnh dịch. Năm 35 tuổi, Wynand có các tờ báo ở những thành phố chính tại Mỹ. Khi 40 tuổi, ông có các tạp chí Wynand, kênh tinh tức Wynand và phần lớn các công ty trong tập đoàn Wynand. Rất nhiều hoạt động khác nhau - thường không công khai - đã giúp ông dựng lên sự nghiệp. Ông không quên bất cứ điều gì về thời thơ ấu của mình. Ông nhớ những điều ông từng nghĩ tới các cơ hội có thể có từ một thành phố đang phát triển. Ông mua đất đai ở những nơi không ai nghĩ rằng chúng có giá; ông xây nhà ở những nhưng ơi đó, bất chấp mọi lời khuyên; ông biến tiền trăm thành tiền ngàn. Ông tham gia đủ lĩnh vực kinh doanh. Đôi khi, những ngành này lụi bại và tất cả mọi người trong ngành đều phá sản, trừ Gail Wynand. Ông dàn dựng một cuộc thánh chiến chống lại một hãng độc quyền xe điện ám muội, khiến hãng này bị mất độc quyền cho một nhóm còn ám muội hơn; nhóm này do Gail Wynand kiểm soát. Ông vạch trần một mưu toan xấu xa nhằm độc quyền thị trường thịt bò ở khu vực đồng bằng Trung Tây nước Mỹ - và mở cửa thị trường này cho một nhóm khác, hoạt động theo lệnh của ông.

Rất nhiều người từng giúp đỡ ông - họ nghĩ rằng anh chàng Wynand trẻ tuổi là một người khôn ngoan và đáng sử dụng. Ông thường tỏ ra dễ chịu một cách duyên dáng khi được sử dụng. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, những người này sau đó đều nhận ra rằng chính họ mới là kẻ bị lợi dụng - tương tự như những người từng mua tờ Gazette họ cho Gail Wynand.

Đôi khi ông mất tiền trong các hoạt động đầu tư, một cách lạnh lùng và có tính toán.

Bằng một loạt các bước đi không ai có thể làm được, ông làm lụn bại nhiều nhân vật có thế lực: một vị chủ tịch ngân hàng, một giám đốc công ty bảo hiểm, một người chủ hãng tàu và nhiều người khác. Không ai hiểu được động cơ của ông. Những người này không phải đối thủ cạnh tranh của ông và ông không có lợi gì từ việc loại bỏ họ cả.

"Không biết lão Wynand vô lại có mục đích gì," người ta bảo nhau thế, "nhưng chắc chắn không phải tiền."

Những người kiên trì lên án ông đều mất việc: một số người trong vòng vài tuần, một số khác sau đó nhiều năm. Có những lúc ông bỏ qua những lời lăng nhục và không phản ứng, lại có những lúc ông làm một người phá sản chỉ vì một nhận xét vu vơ. Người ta không thể nói trước được ông sẽ báo thù những chuyện gì và tha thứ cho những chuyện gì.

Một ngày kia, ông để ý đến những bài báo xuất sắc của một phóng viên trẻ ở một tờ báo khác và đề nghị anh này về làm cho ông. Chàng trai trẻ đến gặp ông, nhưng mức lương mà Wynand nêu ra không có tác dụng gì với anh ta. "Tôi không thể làm việc cho ông, ông Wynand", anh ta nói với vẻ nghiêm túc tột độ, "bởi vì ông... ông không hề có lý tưởng." Cặp môi mỏng của Wynand cười mỉm. "Anh bạn trẻ này, anh không thể chạy thoát khỏi sự sa đọa của con người đâu", ông nói nhẹ nhàng. "Ông chủ hiện nay của anh có thể có nhiều lý tưởng, nhưng ông ta phải cầu xin tiền bạc và nhận lệnh từ nhiều kẻ đáng khinh bỉ. Tôi không có lý tưởng, nhưng tôi không cầu xin ai. Hãy lựa chọn đi. Không còn con đường nào khác đâu." Chàng trai trẻ quay trở về tờ báo của mình. Một năm sau, anh ta đến gặp Wynand và hỏi liệu đề nghị của ông còn hiệu lực không. Wynand trả lời là có. Chàng trai trẻ đã ở lại tờ Ngọn cờ kể từ đó. Anh ta là người duy nhất yêu quý Gail Wynand trong số các nhân viên của ông.

Alvah Scarret, người duy nhất còn trụ lại từ tờ Gazette, cũng thăng tiến theo Wynand. Nhưng không thể nói là ông ta yêu quý Wynand - ông ta chỉ bám vào ông chủ với sự tận tụy tự nhiên, như một chiếc thảm chùi dưới chân Wynand. Alvah Scarret chưa bao giờ ghét điều gì, và vì thế cũng không có khả năng yêu. Ông ta khôn ngoan, có năng lực và vô nguyên tắc theo một lối rất vô tư của người không hiểu tại sao lại phải có nguyên tắc. Ông tin vào tất cả những gì mình viết cũng như tất cả những gì được viết ra trên tờ Ngọn cờ.

Ông có thể giữ được lòng tin vào bất cứ điều gì trong vòng hai tuần. Ông trở nên vô giá đối với Wynand - ông như một chiếc phong vũ biểu đo phản ứng của công chúng.

Không ai có thể nói chắc chắn liệu Gail Wynand có cuộc sống riêng tư hay không. Những giờ không làm việc của ông cũng có phong cách tương tự như trang nhất tờ Ngọn cờ, nhưng đã được nâng lên một tầm cao mới, như thể ông vẫn đang diễn trong một rạp xiếc, có điều khán giả lúc này là các ông hoàng. Ông bao trọn cả nhà hát để xem một buổi trình diễn opera lớn và ngồi một mình trong phòng nghe nhạc vắng lặng cùng với người tình lúc đó của ông. Ông phát hiện ra một vở kịch rất hay của một nhà soạn kịch vô danh và trả cho người này một số tiền lớn để trình diễn nó một lần duy nhất. Wynand là khán giả duy nhất tại buổi trình diễn đó và ông cho đốt kịch bản ngay sáng hôm sau. Khi một quý bà nổi tiếng đề nghị ông đóng góp cho một mục đích từ thiện chính đáng, Wynand trao cho bà ta một tờ séc để trống và cười khi nhận thấy số tiền bà ta dám điền vào còn ít hơn số tiền mà ông dự định cho. Ông mua một cái ngai vàng Balkan và tặng cho một kẻ bị tiếm ngôi không một xu dính túi và ông gặp ở một quán rượu lậu và sau đó không bao giờ buồn gặp lại. Ông gọi kẻ đó là "người hầu của tôi, tài xế của tôi và ông hoàng của tôi."

Khi đêm xuống, khoác một bộ com-lê nhàu nát được mua với giá 9 đôla, Wynand thường bắt tàu điện ngầm và lang thang dọc các quán rượu lậu ở các khu ổ chuột và lắng nghe công chúng của ông. Một lần, trong một quán bia ở dưới tầng hầm, ông nghe thấy một tài xế xe tải lên án Gail Wynand như một kẻ hiện thân cho những thứ bẩn thỉu của chủ nghĩa tư bản - anh ta dùng những từ ngữ rất chính xác và phong phú. Wynand tỏ ra đồng tình với anh ta và thậm chí góp thêm bằng những câu nói của dân chợ búa ở Hell's Kitchen. Sau đó Wynand nhặt một tờ Ngọn cờ ai đó bỏ lại trên bàn, xé tấm ảnh của ông ở trang 3, cặp vào đó tờ 100 đôla, đưa cho người lái xe tải và bước ra khỏi quán trước khi người có mặt kịp thốt ra bất cứ điều gì.

Ông thay người tình nhanh như thay áo, đến nỗi người ta chẳng còn buồn bàn tán về chuyện đó nữa. Người ta đồn rằng ông không bao giờ tận hưởng một người đàn bà trừ khi ông đã mua đứt cô ta - và cô ta lại phải là loại người không thể mua được bằng tiền.

Ông giữ bí mật chi tiết đời tư của mình bằng cách tung hê tất cả chúng ra chốn công cộng.

Ông trao mình cho đám đông, ông là tài sản của tất cả mọi người, giống như một bức tượng trong công viên, giống biển chờ xe buýt, giống các trang báo Ngọn cờ. Ảnh của ông xuất hiện trên các trang báo của ông nhiều hơn ảnh của các minh tinh màn bạc. Ông được chụp với mọi loại quần áo và trong mọi dịp có thể. Ông chưa từng chụp ảnh khỏa thân nhưng người đọc có cảm giác như đã nhìn thấy ông khỏa thân... Ông không tìm kiếm toản mãn từ sự nổi tiếng cá nhân; sự nổi tiếng chỉ là một thứ ông phải làm để tuân thủ nguyên tắc của mình. Tất cả các xó xỉnh trong ngôi nhà của ông đều đã được đăng trên các báo và tạp chí của ông. "Bất cứ kẻ vô lại nào trên đất nước này cũng biết tủ lạnh và bồn tắm của tôi có gì", ông nói.

Tuy vậy, một phần của cuộc đời ông vẫn ít được biết đến và không bao giờ được nhắc tới. Ở tầng cao nhất trong tòa nhà - nằm ngay phía dưới ngôi nhà nóc của ông - là gallery nghệ thuật riêng của ông. Nó luôn được khóa kín. Ông không để cho ai được bước vào, trừ người dọn vệ sinh. Rất ít người biết về nó. Có một lần, một vị đại sứ Pháp đã xin phép được tham quan. Wynand từ chối. Thỉnh thoảng, không thường xuyên lắm, ông từ trên nhà đi xuống gallery của mình và ở lại đó hàng giờ liền. Những thứ mà ông sưu tầm đều do chính ông lựa chọn theo tiêu chuẩn của ông. Ông có những kiệt tác nổi tiếng cũng như tranh của các họa sĩ không tên tuổi. Ông từ chối tác phẩm của các tên tuổi lớn mà ông không quan tâm. Ông không quan tâm tới việc một tác phẩm được dự đoán bao nhiêu tiền hoặc ai là tác giả. Những người buôn bán các tác phẩm nghệ thuật mà ông liên lạc đều nói rằng những đánh giá của ông là của một bậc thầy.

Một ngày kia, người phục vụ của ông nhìn thấy Wynand từ gallery của ông trở về và kinh ngạc khi nhìn thấy nét mặt ông. Đó là nét mặt đau khổ, dù trông ông như trẻ lại mười tuổi. "Ngài có bị ốm không?", anh ta hỏi. Wynand nhìn anh ta lạnh lùng và nói "Đi ngủ đi."

"Chúng ta có thể chạy một trang lớn cho mục xì-căng-đan của số Chủ nhật tới bằng cái gallery của ông", Alvah Scarret nói một cách thèm thuồng. "Không," Wynand trả lời.

"Nhưng tại sao, Gail?"

"Nghe này , Alvah. Ai cũng phải có một linh hồn mà người khác không được nhòm vào. Kể cả những kẻ bị kết án trong nhà lao và những thằng khùng diễn trò trên đường. Tất cả mọi người, trừ tôi. Linh hồn của tôi đã tung toé trên trang xì-căng-đan Chủ nhật của anh rồi, thậm chí in ba màu. Thế nên tôi cần phải có cái gì đó thay thế - cho dù đó chỉ là một căn phòng khóa trái và một vài thứ đồ không thể mang cầm cố."

Đó là một quá trình diễn ra trong thời gian dài và không có điềm báo trước; và Scarret đã không nhận ra cái đặc điểm mới này trong tính cách của Gail Wynand cho tới khi Wynand ở tuổi 45. Sau đó, nhiều người cùng nhận ra đặc điểm này. Wynand không còn quan tâm tới việc hạ gục các nhà công nghiệp và tài chính nữa. Ông tìm ra một loại nạn nhân mới. Người ta không biết chắc đó là trò chơi, là niềm say mê hay là một sự theo đuổi có hệ thống. Họ thấy nó thật kinh khủng vì nó có vẻ rất độc ác và vô nghĩa.

Tất cả bắt đầu với vụ việc của Dwight Carson. Dwight Carson là một nhà báo trẻ tuổi có tài, và nổi tiếng là một người quyết liệt theo đuổi những niềm tin của mình. Anh ủng hộ con người cá nhân thay vì đám đông quần chúng. Anh viết bài cho các tạp chí có tên tuổi nhưng có lượng phát hành nhỏ và vì thế không hề là đối thủ cạnh tranh của Wynand. Wynand mua Dwight Carson. Ông buộc Carson viết một chuyên mục trên tờ Ngọn cờ - chuyên mục dành riêng cho việc rao giảng về sự ưu việt của quần chúng so với các cá nhân có tài. Đó là một chuyên mục tồi tệ, tẻ ngắt, thiếu thuyết phục và khiến mọi người giận dữ. Việc này gây lãng phí mặt báo và lãng phí một khoản tiền lương lớn. Nhưng Wynand kiên quyết duy trì nó.

Ngay cả Alvah Scarret cũng bị sốc bởi hành vi phản đồ của Carson. "Bất kỳ ai cũng được, Gail", ông ta nói "thật tình, tôi không ngờ Carson lại làm việc đó." Wynand phá lên cười; ông cười rất lâu, như thể ông không ngừng lại được, như thể ông đang lên cơn động kinh.

Scarret nhíu mày, ông không thích nhìn thấy Wynand không thể kiềm chế cảm xúc; việc này mâu thuẫn với những gì ông biết về Wynand. Nó tạo cho Scarret một cảm giác lo ngại lạ lùng, như thể ông nhìn thấy một vết nứt nhỏ xíu trên một mặt tường phẳng lì - tuy vết nứt không đủ để đe doạ bức tường nhưng lẽ ra, nó không nên có mặt ở đó.

Vài tháng sau đó, Wynand mua về một cây bút trẻ từ một tạp chí cấp tiến - anh này nổi tiếng trung thực - và yêu cầu anh ta viết một loạt các bài báo ca ngợi những cá nhân kiệt xuất đồng thời lên án đám đông. Việc này - cũng giống như vụ Carson - khiến rất nhiều độc giả của ông giận dữ. Ông vẫn duy trì nó. Ông dường như không còn lưu tâm tới các tín hiệu ảnh hưởng nho nhỏ tới lượng phát hành.

Ông thuê một nhà thơ nhạy cảm để viết bài bình luận các trận đấu bóng chày. Ông thuê một chuyên gia nghệ thuật để đưa tin tức tài chính. Ông khiến một người theo đường lối xã hội chủ nghĩa viết bài bảo vệ các chủ nhà máy và một người bảo thủ ca ngợi người lao động. Ông bắt một người vô thần viết bài vinh danh tôn giáo. Ông khiến một nhà khoa học nghiêm túc tuyên bố về tính ưu việt của linh cảm thần bí so với các phương pháp khoa học. Ông cấp cho một nhạc trưởng lớn một khoản tiền lương hàng năm khổng lồ, với điều kiện duy nhất là ông ta không bao giờ chỉ huy dàn nhạc nữa.

Một vài người trong số này từ chối - ban đầu thì thế. Nhưng họ đều đầu hàng khi nhận thấy mình đang trên bờ vực phá sản sau một loạt các sự cố không rõ nguyên nhân xảy ra liên tiếp trong vài năm liền. Một số họ là những người nổi tiếng, số còn lại vô danh.

Wynand không quan tâm tới vị thế trước đây của những con mồi này. Ông không quan tâm tới những người đã thành công rực rỡ nhờ việc thương mại hóa sự nghiệp của mình mà không giữ một niềm tin nhất định nào. Các nạn nhân của ông có một đặc điểm chung: lòng chính trực tuyệt đối.

Khi họ đã bị quật ngã, Wynand vẫn tiếp tục trả tiền cho họ đều đặn. Nhưng ông không còn quan tâm tới họ nữa và cũng không muốn gặp lại họ. Dwight Carson trở thành kẻ nghiện rượu. Hai người khác nghiện ma tuý. Một người tự sát. Sự kiện cuối cùng này khiến Scarret không chịu đựng thêm được nữa. "Liệu việc này có đi quá xa không hả Gail" - ông ta hỏi "Có khác nào giết người đâu."

"Không hề", Wynand nói, "Tôi chỉ là tác nhân bên ngoài. Nguyên nhân là ở bên trong anh ta. Nếu sét đánh vào một cái cây mục nát và nó ngã gục thì đó không phải là lỗi của sét."

"Nhưng thế nào là một cái cây khoẻ mạnh?"

"Chúng không tồn tại, Alvah", Wynand nói một cách vui vẻ "chúng không hề tồn tại."

Alvah Scarret không bao giờ hỏi Wynand lý do nào dẫn đến sự quan tâm mới này của ông. Bằng một trực giác mơ hồ, Scarret đoán được phần nào lý do đằng sau nó. Scarret nhún vai và cười, nói với mọi người là chẳng có gì phải lo lắng cả, đó chỉ là "một cái van an toàn thôi." Chỉ có hai người hiểu được Gail Wynand: Alvah Scarret - hiểu được một phần, và Ellsworth Toohey - hiểu hoàn toàn.

Ellsworth Toohey - tuy muốn né tránh tranh luận với Wynand bằng mọi giá - không khỏi cảm thấy ghen tỵ vì Wynand đã không lựa chọn ông làm nạn nhân. Toohey hầu như mong muốn Wynand thử mua chuộc ông, cho dù hậu quả có là gì đi nữa. Nhưng Wynand dường như không để ý thấy sự tồn tại của ông ta.

Wynand chưa bao giờ sợ hãi cái chết. Trong những năm qua, ý nghĩ tự sát đã từng đến với ông, không phải như một ý định mà như một trong số những khả năng có thể lựa chọn của cuộc sống. Ông xem xét nó một cách thờ ơ, với sự tò mò lịch lãm, như khi ông xem xét bất kỳ khả năng nào khác, và rồi quên nó đi. Ông cũng từng biết tới cảm giác kiệt quệ trống rỗng khi ý chí của ông rời bỏ ông. Ông luôn luôn tự chữa cho mình bằng cách vào trong gallery của ông vài tiếng đồng hồ.

Cứ thế, Gail Wynand đến tuổi 51. Ngày hôm nay, không có sự kiện gì đáng kể xảy ra trong ngày. Nhưng tới buổi tối, ông cảm thấy mình không muốn bước thêm một bước nào nữa.

*

* *

Gail Wynand ngồi trên mép giường, sụm người về phía trước, cùi chỏ tì vào đầu gối, khẩu súng đặt trên lòng bàn tay.

Phải, - ông tự bảo mình - câu trả lời nằm ở đâu đó. Nhưng ta không muốn biết nó. Ta không muốn biết nó.

Và bởi vì ông cảm thấy ở tận cùng cái mong muốn không sống tiếp, vẫn có một nỗi kinh hãi nhói lên, ông biết là ông sẽ không chết vào đêm nay. Chừng nào ông còn sợ một điều gì đó thì ông còn có chỗ bám víu để sống; kể cả nếu như sống chỉ có nghĩa là tiếp tục đi tới một thảm kịch không biết rõ nào đó. Ý nghĩ về cái chết không mang lại cho ông điều gì. Ý nghĩ về sự sống mang lại một niềm an ủi nhỏ nhoi - nó gợn lên sự sợ hãi.

Ông cử động cánh tay, ước lượng sức nặng của khẩu súng. Ông mỉm cười, nụ cười nhạo báng ảm đạm. Không, ông nghĩ, không phải là cho mày. Chưa đến lúc. Mày vẫn còn cảm thấy không muốn chết một cách vô nghĩa. Mày bị chặn lại vì điều đó. Cho dù nó chỉ là phần còn sót lại - của một cái gì đó.

Ông quẳng khẩu súng lên trên giường và biết rằng thời điểm đó đã qua và khẩu súng không còn gây nguy hiểm cho ông nữa. Ông đứng dậy. Ông không vui sướng, ông thấy mệt mỏi, nhưng ông đã trở lại cuộc sống bình thường của ông. Chẳng còn chuyện gì, ngoại trừ việc kết thúc ngày hôm nay cho sớm rồi đi ngủ.

Ông bước xuống phòng làm việc để uống một ly rượu.

Khi ông bật đèn trong phòng làm việc, ông nhìn thấy món quà của Toohey. Đó là một chiếc thùng có khe thưa, cao và thẳng đứng, được đặt trên bàn ông. Ông đã nhìn thấy nó vào buổi tối. Lúc đó, ông nghĩ "Cái quỷ gì thế này", và rồi quên luôn.

Ông rót cho một ly rượu và đứng uống chậm rãi. Chiếc thùng quá to để thoát khỏi tầm nhìn của ông, và trong khi uống, ông thử đoán xem nó có thể chứa cái gì. Nó quá dài và thon để có thể chứa một thứ đồ nội thất. Ông không nghĩ ra được thứ đồ vật gì mà Toohey lại muốn tặng ông. Trước đó, ông đã nghĩ tới một cái gì đó ít vật chất hơn - như một chiếc phong bì nhỏ trong đó có những lời bóng gió về việc tống tiền. Rất nhiều người từng tìm cách tống tiền ông nhưng đều không thành công. Ông nghĩ Toohey hẳn phải khôn ngoan hơn họ.

Cho tới lúc kết thúc ly rượu, ông vẫn không tìm được lời giải thích hợp lý nào cho cái hộp. Điều đó khiến ông bực mình, như gặp phải một trò đố chữ cứng đầu. Ông có hộp dụng cụ ở đâu đó trong ngăn kéo bàn. Ông tìm thấy nó và đập vỡ cái hộp.

Đó là bức tượng Dominique Francon do Steven Mallory nặn. Gail Wynand bước tới bàn và đặt chiếc kìm ông đang cầm xuống như thể nó làm bằng thứ pha lê dễ vỡ. Rồi ông quay lại và nhìn vào bức tượng một lần nữa. Ông đứng lặng nhìn nó trong một tiếng đồng hồ. Rồi ông bước tới điện thoại và gọi số của Toohey. "Alô?", Toohey trả lời - cái giọng khàn khàn cho thấy ông bị đánh thức khỏi một giấc ngủ sâu. "Được rồi. Đến đi" - Wynand nói và dập máy. Nửa giờ sau, Toohey đến. Đây là lần đầu tiên ông ta tới nhà Wynand. Đích thân Wynand ra mở cửa, vẫn trong bộ đồ pyjama. Ông không nói gì và đi vào phòng làm việc. Toohey đi sau ông.

Bức tượng khoả thân bằng cẩm thạch với mái đầu ngả về phía sau trong sự thăng hoa khiến cho căn phòng như thể không còn tồn tại nữa: giống như Đền Stoddard. Mắt Wynand hướng vào Toohey chờ đợi, cái nhìn nặng nề ẩn chứa cơn giận dữ bị kìm nén.

"Dĩ nhiên là ngài muốn biết tên người mẫu?", Toohey hỏi, giọng ông thoáng có vẻ đắc thắng.

"Quỷ tha ma bắt, không", Wynand nói "Tôi muốn biết tên nhà điêu khắc."

Ông tự hỏi tại sao Toohey lại không thích câu hỏi đó; điều gì còn lớn hơn cả nỗi thất vọng hiện ra trên khuôn mặt Toohey...

"Nhà điêu khắc à?", Toohey nói. "Để tôi xem... Tôi nghĩ là tôi biết... Đó là Steve... hay Stanley... Stanley cái gì đó, đại loại thế... Thực sự, tôi không nhớ."

"Nếu ông đủ hiểu biết để mua cái này thì ông hẳn phải biết hỏi tên tác giả và không bao giờ quên nó chứ."

"Tôi sẽ tìm lại, ngài Wynand."

"Ông mua nó ở đâu?"

"Ở một cửa hàng bán đồ nghệ thuật nào đó, ông biết đấy, trong số các cửa hàng trên Đại lộ số Hai."

"Làm thế nào mà nó lại có mặt ở đó?"

"Tôi không biết. Tôi không hỏi. Tôi mua nó vì tôi biết người mẫu là ai."

"Ông đang nói dối. Nếu thực sự là thế, ông đã không dám làm như thế này. Ông biết là tôi chưa từng để một ai đó vào trong phòng sưu tập nghệ thuật của tôi. Ông dám nghĩ là tôi sẽ cho phép ông đóng góp cho căn phòng đó? Chưa có bất cứ ai dám tặng tôi một món quà kiểu thế. Ông sẽ không dám liều, trừ khi ông biết chắc chắn, cực kỳ chắc chắn, là tác phẩm này vĩ đại tới nhường nào. Và chắc chắn rằng tôi sẽ phải chấp nhận nó. Khi đó ông sẽ thắng tôi. Và ông đã thắng."

"Tôi rất vui được nghe điều này, ngài Wynand."

"Nếu ông thích nghe điều đó, thì tôi cũng nói cho ông biết là tôi ghét phải thấy tác phẩm này đến qua tay ông. Tôi ghét việc ông hiểu được giá trị của nó. Nó không hợp với ông. Cho dù rõ ràng là tôi đã sai về ông: ông có con mắt nghệ thuật khá hơn tôi từng nghĩ."

"Cho dù ngài nói thế, tôi cũng sẽ chấp nhận nó như một lời khen và xin cảm ơn ngài, ngài Wynand."

"Bây giờ, ông muốn gì? Theo tôi hiểu, tôi sẽ không để tôi có cái này trừ khi tôi đồng ý gặp bà Peter Keating phải không?"

"Ồ không, ngài Wynand. Tôi tặng nó cho ngài như một món quà. Tôi chỉ muốn ngài hiểu rằng đó chính là bà Peter Keating."

Wynand nhìn bức tượng và nhìn lại Toohey.

"À, ông là đồ ngốc", Wynand nói nhẹ nhàng.

Toohey nhìn ông, bối rối.

"Thế ra ông đúng là đã dùng nó như một cái đèn đỏ treo ngoài cửa sổ à?" - Wynand dường như trút được gánh nặng, ông không còn thấy cần thiết phải nhìn Toohey nữa. "Như thế tốt hơn, Toohey. Ông không khôn ngoan như tôi nghĩ lúc nãy."

"Nhưng, ngài Wynand, điều gì...?"

"Chẳng nhẽ ông nhận ra rằng bức tường này là cách tốt nhất để giết chết bất kỳ sự hứng thú nào tôi có thể có với bà Keating nhà ông?"

"Ngài vẫn chưa gặp cô ấy, ngài Wynand."

"À, có thể cô ta rất đẹp. Có thể cô ta còn đẹp hơn bức tượng này. Nhưng cô ta không thể có được cái mà nhà điêu khắc đã tạo ra cho cô ta. Và phải nhìn thấy cái khuôn mặt đấy, nhưng chẳng có chút ý nghĩa gì, giống một bức tranh biếm họa tồi - ông không nghĩ là người ta sẽ căm ghét cô ta vì điều đó sao?"

"Ngài chưa gặp cô ấy."

"Được thôi, tôi sẽ gặp cô ta. Tôi đã nói, hoặc ông sẽ thành công hoặc ông sẽ mất hết vì cái trò táo tợn này. Nhưng tôi không hứa với ông là sẽ ngủ với cô ta, đúng không? Tôi chỉ gặp cô ta thôi."

"Tôi chỉ muốn có vậy, ngài Wynand."

"Bảo cô ta gọi điện tới văn phòng của tôi để hẹn gặp."

"Cám ơn ngài, ngài Wynand."

"Ngoài ra, ông đã nói dối khi bảo rằng ông không biết tên nhà điêu khắc. Nhưng bắt ông nói ra sẽ quá mất thời gian của tôi. Cô ta sẽ nói cho tôi biết."

"Tôi chắc chắn rằng cô ấy sẽ nói cho ngài. Nhưng tại sao tôi phải nói dối ngài cơ chứ?"

"Có Chúa mới biết được. Nhân tiện, nếu gã điêu khắc đó không giỏi đến thế này thì ông đã mất việc."

"Nhưng, ngài Wynand, tôi còn có hợp đồng."

"Ông để dành cái đó cho công đoàn của ông đi, Elsie! Bây giờ tôi nghĩ rằng ông nên chúc tôi ngủ ngon và ra khỏi đây."

"Vâng, ngài Wynand. Tôi chúc ngài ngủ ngon."

Wynand đưa ông ta ra tới ngoài sảnh. Ở cửa, Wynand nói: "Ông là một nhà kinh doanh tồi, Toohey. Tôi không biết tại sao ông lại muốn tôi gặp bà Keating đến thế. Tôi không biết mưu đồ của ông là gì khi cố gắng giành cho Keating cái hợp đồng đó. Nhưng cho dù nó là gì thì nó cũng không đáng giá đến mức ông phải đánh đổi nó lấy một thứ như bức tượng này."

II.

"S

ao em lại không đeo chiếc vòng ngọc lục bảo?" Peter Keating hỏi, "Tất cả mọi người đều nhìn chằm chằm vào chiếc vòng sa-phia mà vợ chưa cưới của lão Gordon Prescott đeo."

"Em xin lỗi, Peter. Lần sau em sẽ đeo nó", Dominique nói.

"Bữa tiệc thật vui. Em có được vui không?"

"Em luôn luôn vui."

"Anh cũng thế... Chỉ có điều... Lạy Chúa, em có muốn biết sự thật không?"

"Không."

"Dominique, anh phát ngấy. Vincent Knowlton là một kẻ chán ngấy. Một tên hợm hĩnh. Anh không thể chịu được hắn." Anh nói thêm, vẻ lo lắng. "Nhưng anh không để lộ ra đấy chứ?"

"Không, anh cư xử rất hoàn hảo. Anh cười trước các câu pha trò của anh ta, ngay cả khi không có ai cười."

"Ồ, em nhận ra à? Mánh đấy luôn hiệu quả."

"Có, em có nhận ra."

"Em nghĩ là anh không nên làm thế phải không?"

"Em không nói thế."

"Em nghĩ là nó... bần tiện, đúng không."

"Em không nghĩ điều gì là bần tiện cả."

Anh gục đầu sâu hơn trong chiếc ghế bành; tư thế dó làm cằm của anh ép vào ngực một cách khó chịu, nhưng anh không muốn thay đổi tư thế. Ngọn lửa kêu lách cách trong lò sưởi phòng khách. Anh đã tắt hết các đèn, ngoại trừ cây đèn cầy có bóng màu vàng lụa, nhưng ánh sáng trong phòng không tạo ra không khí thư giãn thân mật, mà chỉ làm cho căn phòng thêm xa lạ, như thể một căn hộ bỏ không, bị tắt hết đèn đuốc.

Dominique ngồi ở đầu kia của căn phòng. Tấm thân mảnh dẻ của cô ngoan ngoãn nép vào đường viền của chiếc ghế có lưng thẳng. Trông cô không cứng nhắc, nhưng cô quá tự chủ để có thể coi là đang thư giãn. Chỉ có hai người trong phòng, nhưng cô ngồi như một mệnh phụ phu nhân đang ngồi ở một buổi chiêu đãi công cộng; như một ma-nơ-canh đứng trong một cửa kính ngoài đường - và cửa kính lại ở ngay một ngã tư đông đúc. Họ vừa về nhà từ bữa tiệc trà tại nhà Vincent Knowlton, một anh chàng trẻ tuổi, mới nổi lên trong giới thượng lưu và là người bạn mới của Keating. Họ đã có bữa tối yên tĩnh với nhau, và giờ đây họ rảnh rỗi cả buổi tối. Không còn buổi tiếp tân nào, cho tới ngày hôm sau.

"Lẽ ra em không nên cười khi nói chuyện lý thuyết thần bí với bà Marsh", anh nói. "Bà ấy tin chuyện đó mà."

"Em xin lỗi. Em sẽ cẩn thận hơn."

Anh chờ cô mở đầu một cuộc nói chuyện. Cô không nói gì. Anh đột nhiên nghĩ là chưa bao giờ cô mở lời với anh trước - trong suốt hai mươi tháng họ lấy nhau. Anh tự nhủ rằng điều đó thật vớ vẩn và phi lý, anh cố nhớ lại một dịp nào đó cô gợi chuyện với anh. Chắc chắn là có, anh nhớ là cô đã hỏi anh "Tối nay sẽ về nhà lúc mấy giờ?" hay "Anh có muốn mời nhà Dixon vào bữa tối hôm thứ Ba không" và những câu tương tự.

Anh liếc nhìn cô. Trông cô không có vẻ buồn chán, cũng chẳng có vẻ muốn tảng lờ anh. Cô ngồi đó, tỉnh táo và sẵn sàng, như thể sự có mặt của anh choán hết mọi quan tâm của cô; cô không với tay lấy sách, cô cũng không mơ màng theo đuổi một ý nghĩ riêng nào đó. Cô nhìn thẳng vào anh - chứ không nhìn lướt qua anh- như thể cô đang chờ đợi một cuộc nói chuyện.

Anh nhận thấy cô luôn nhìn thẳng vào anh, đúng như thế này; và anh tự hỏi không biết anh có thích việc đó không. Có, anh có thích, nó cho phép anh không có lý do nào để ghen tuông, ngay cả với những ý nghĩ thầm kín của cô. Không, anh không thích, không hoàn toàn thích, nó không để lại một lối thoát nào, cho cả anh và cô.

"Anh vừa đọc xong cuốn Viên sỏi mật dũng cảm", anh nói "Một cuốn sách xuất sắc. Sản phẩm của một bộ não xuất chúng, một anh chàng Puck với nước mắt chảy ròng ròng trên mặt, một gã hề có trái tim vàng đang nắm giữ ngai vàng của Thượng đế trong giây lát."

"Em cũng đọc bài điểm sách ấy. Trên tờ Ngọn cờ hôm Chủ nhật."

"Anh đã đọc cả cuốn sách đó. Em biết là anh đã đọc mà."

"Anh thật là tốt."

"Sao cơ?" Anh nghe thấy sự tán đồng trong giọng cô và cảm thấy hài lòng.

"Như thế là chu đáo với tác giả. Em chắc chắn là bà ấy muốn mọi người đọc sách của bà ấy. Thế nên thật tốt khi anh bỏ thời gian ra đọc - nhất là khi anh đã biết trước anh sẽ nghĩ gì về nó."

"Anh không hề biết trước. Có điều, thật tình cờ là anh lại đồng ý với người điểm sách."

"Tờ Ngọn cờ có những người điểm sách giỏi nhất."

"Đúng vậy. Tất nhiên. Thế nên chẳng có gì sai trái khi đồng tình với họ phải không?"

"Chẳng có gì sai cả. Em luôn luôn đồng ý."

"Với ai?"

"Với tất cả mọi người."

"Em đang nhạo báng anh đấy à?"

"Anh có cho em lý do nào để nhạo báng không?"

"Không. Anh không. Không, tất nhiên là không."

"Thế thì em không nhạo báng anh."

Anh chờ đợi. Anh lắng nghe tiếng xe tải rú lên ở đường phố phía dưới. Tiếng động đó giúp lấp đi vài giây đồng hồ, nhưng khi nó lắng xuống, anh lại phải tiếp tục nói:

"Dominique, anh muốn biết em nghĩ gì."

"Về cái gì cơ?"

"Về... về..." Anh tìm kiếm một chủ đề quan trọng và kết thúc bằng: "... về Vincent Knowlton."

"Em nghĩ anh ta là người xứng đáng được người khác liếm mông."

"Lạy Chúa, Dominique!"

"Em xin lỗi. Em đã dùng từ thô tục và cư xử không hay. Rõ là em sai rồi. Được rồi, để xem nào: Vincent Knowlton là người dễ chịu. Các gia đình dòng dõi cần phải được châm chước và chúng ta cần phải khoan dung với quan điểm của những người khác, bởi vì khoan dung là một phẩm chất tuyệt vời, và do đó sẽ là bất công khi anh áp đặt quan điểm của anh lên Vincent Knowlton, và nếu như anh để choa ta tin những điều anh ta muốn tin thì rồi anh ta cũng sẽ sẵn lòng để anh tin những điều anh muốn tin, bởi vì anh ta là một người rất có lòng nhân."

"Nào, thế mới phải chứ", Keating nói; anh cảm thấy thoải mái với thứ ngôn ngữ quen thuộc.

"Anh nghĩ khoan dung là rất quan trọng, bởi vì..." Anh dừng lại. Anh kết thúc, bằng một giọng trống rỗng "Em đã nói y hệt như thế trước đây."

"Anh nhận ra à," cô nói. Cô nói mà không phải để hỏi, một cách thờ ơ, như thể là một chuyện đương nhiên. Đó không phải là sự châm biếm - thà như vậy còn hơn; châm biếm còn có nghĩa là cô thừa nhận cá nhân con người anh - thừa nhận cái ham muốn làm anh tổn thương. Nhưng giọng của cô chưa bao giờ hàm chứa một quan hệ cá nhân nào với anh - chưa hề, trong suốt cả hai mươi tháng.

Anh nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Đây chính là điều làm một người đàn ông cảm thấy hạnh phúc - được ngồi, nhìn mơ màng vào ngọn lửa từ chính lò sưởi của mình, trong căn nhà của chính mình. Anh vẫn hay nghe thấy và đọc thấy như thế. Anh nhìn chằm chằm vào ngọn lửa, không nháy mắt, cố ép mình tuân thủ hoàn toàn cái chân lý đã được xác lập ấy. Chỉ thêm một phút nữa thôi và ta sẽ cảm thấy hạnh phúc - anh nghĩ và cố tập trung. Nhưng chẳng có gì xảy ra.

Anh nghĩ tới việc anh có thể mô tả cảnh tượng này một cách thuyết phục như thế nào cho bạn bè và khiến họ ghen tỵ với sự viên mãn của anh. Tại sao anh lại không thể tự thuyết phục chính mình? Anh đã có tất cả những thứ mà anh muốn. Anh muốn sự nổi trội - và trong cả năm vừa qua anh trở thành một thủ lĩnh không thể chối cãi trong ngành kiến trúc. Anh muốn nổi tiếng - và anh đã có năm album sưu tập đầy ắp các bài báo viết về anh. Anh muốn giàu có - và anh đã có đủ để sống xa hoa tới hết đời. Anh có tất cả những thứ mà mọi người đều muốn. Đã có bao nhiêu người cũng phấn đấu và chịu đựng để đạt được những gì anh đã có? Đã có bao nhiêu người mơ ước, đổ máu và chết vì những thứ này, và vẫn không thể có được chúng?

"Peter Keating là người may mắn nhất thế giới." Đã bao nhiêu lần anh nghe thấy người ta nói như thế?

Năm ngoái là năm tốt nhất trong đời anh. Anh đã có thêm một vật sở hữu tưởng như không thể có được - đó là Dominique Francon. Thật sung sướng được cười thoải mái khi bạn bè nhiều lần hỏi anh "Peter, làm thế quái nào mà anh làm được thế nhỉ?" Anh từng vui sướng khi giới thiệu cô với người lạ, bằng câu nói đơn giản "Vợ tôi", rồi ngắm nhìn sự ghen tỵ thẫn thờ, không kiểm soát được trong mắt họ. Một lần, tại một bữa tiệc lớn, một gã say rượu trông rất hào nhoáng đã hỏi anh, với một cái nháy mắt thể hiện dụng ý rõ ràng: "Nào, anh bạn, anh có quen tạo vật tuyệt vời ở đằng kia không?"

"Cũng hơi quen", Keating đã sung sướng trả lời, "cô ấy là vợ tôi."

Anh thường tự lấy làm mừng vì cuộc hôn nhân của họ hóa ra tốt đẹp hơn anh từng nghĩ. Dominique đã trở thành người vợ lý tưởng. Cô cống hiến hết mình cho lợi ích của anh: cô lấy lòng các khách hàng, cô tiếp đãi bạn bè và trông coi ngôi nhà của anh. Cô không thay đổi bất cứ thứ gì trong cuộc sống của anh: giờ giấc, món ăn anh thích, ngay cả đến cách sắp xếp đồ đạc của anh. Cô không mang theo bất kỳ cái gì, ngoài quần áo của cô; cô không mua thêm dù chỉ một quyển sách hay một chiếc gạt tàn cho căn nhà của anh. Khi anh nói quan điểm của mình về bất kỳ chủ đề gì, cô không tranh cãi mà luôn đồng ý với anh. Một cách duyên dáng, như lẽ tự nhiên phải thế, cô luôn chấp nhận vị trí thứ hai, và biến mất ở đằng sau anh.

Anh đã từng chờ đợi một cơn lũ sẽ nhấc anh lên và ném anh vào các tảng đá ngầm nào đó. Nhưng anh thậm chí không thấy cả một nhánh suối nào trên dòng sông phẳng lặng của anh. Tất cả diễn ra như thể dòng sông cứ tiếp tục chảy và có ai đó lặng lẽ bơi theo dòng cùng với anh; không, thậm chí không phải là bơi - bơi là một hành động mạnh mẽ, có ý thức - còn ở đây chỉ là sự lờ lững trôi theo sau anh cùng với dòng nước. Nếu như người ta cho anh quyền quyết định cách cư xử của Dominique sau khi họ cưới nhau, hẳn anh cũng sẽ đòi hỏi cô hành xử y hệt như hiện nay.

Chỉ có điều, những buổi tối của họ luôn khiến cho anh bất mãn một cách khốn khổ. Cô chiều theo anh bất cứ khi nào anh muốn cô. Nhưng chuyện xảy ra cũng giống y như đêm đầu tiên của họ: một thân thể ơ thờ trong vòng tay anh, không xúc cảm, không đáp lại. Cho tới tận bây giờ, đối với anh, cô vẫn là một trinh nữ vì anh chưa từng bắt cô phải trải qua kinh nghiệm gì mới. Mỗi lần như thế, lòng tràn ngập hổ thẹn, anh lại quyết định sẽ không bao giờ chạm vào người cô nữa. Nhưng ham muốn của anh lại trở lại, được kích thích bởi sắc đẹp hiện hữu liên tục của cô. Anh đầu hàng mỗi khi anh không thể cưỡng được nữa. Nhưng việc đó cũng không thường xuyên.

Chính mẹ anh là người đã nói ra điều mà anh không dám tự thú nhận với bản thân về cuộc hôn nhân này. "Mẹ không thể chịu đựng được", mẹ anh nói, sáu tháng sau đám cưới. "Nếu nó giận dữ với mẹ dù chỉ một lần, chửi bới mẹ, ném các thứ vào người mẹ thì còn có thể chấp nhận được. Nhưng như thế này thì mẹ không thể chịu được."

"Sao hả mẹ?", anh hỏi, cảm thấy mơ hồ một nỗi sợ hãi tê điếng. "Vô ích thôi, Peter," bà mẹ trả lời. Mẹ anh, người mà anh chưa bao giờ có thể ngăn những ý kiến, quan điểm, hay lời trách móc của bà, không bao giờ nói thêm một lời nào nữa về cuộc hôn nhân của anh. Bà mua một căn hộ nhỏ cho riêng mình và chuyển ra khỏi nhà anh. Bà thường xuyên đến thăm anh và luôn luôn lịch sự với Dominique, với một vẻ cam chịu kỳ lạ. Anh thường tự bảo mình là anh sẽ sung sướng khi không phải sống cùng mẹ anh, nhưng rồi anh đã không thấy sung sướng. Anh cũng không hiểu Dominique đã làm gì để có thể gây ra nỗi kinh sợ ngày càng tăng trong anh. Anh không thể tìm được một lời nói hay cử chỉ nào để trách móc cô. Nhưng trong vòng hai mươi tháng qua, lúc nào cũng giống như đêm nay: anh không thể chịu được nếu phải ở một mình với cô, nhưng anh cũng không muốn tách ra khỏi cô và cô cũng không muốn tránh mặt anh.

"Không có ai đến chơi tối nay à?" anh hỏi bằng một giọng đơn điệu và quay mặt khỏi lò sưởi.

"Không", cô trả lời, và mỉm cười - nụ cười như cầu nối với các từ tiếp theo của cô: "Anh muốn ở một mình không, Peter?"

"Không!" Nó gần như là một tiếng gào. Mình không được kêu gào giống như một kẻ tuyệt vọng như thế, anh nghĩ, trong khi nói to "tất nhiên là không. Anh rất thích khi có cả một buổi tối riêng với vợ anh."

Anh cảm thấy trực giác mơ hồ mách bảo là anh phải giải quyết được chuyện này, phải biết cách làm cho những giây phút họ ở bên cạnh nhau trở nên có thể chịu được, và anh không được trốn chạy khỏi chúng. Và anh phải làm việc đó là vì lợi ích của chính anh chứ không phải vì cô.

"Em muốn làm gì tối nay, Dominique?"

"Bất cứ điều gì anh muốn."

"Đi xem phim nhé?"

"Anh có muốn không?"

"Anh không biết. Nó giúp giết thời gian."

"Tốt thôi, nào hãy giết thời gian."

"Không. Tại sao chúng ta lại phải thế? Điều đó nghe thật tệ."

"Thật ư?"

"Tại sao chúng ta lại phải chạy khỏi căn nhà của chính mình? Hãy ở lại đây."

"Vâng, Peter."

Anh chờ đợi. Nhưng im lặng, anh nghĩ, cũng là chạy trốn, và còn là sự chạy trốn tồi tệ hơn.

"Em có muốn chơi trò Ngân hàng Nga không?" anh hỏi.

"Anh thích chơi Ngân hàng Nga không?"

"Dào, nó giết thời..." Anh dừng lại. Cô mỉm cười.

"Dominique", anh nói, nhìn vào cô, "em đẹp quá. Em luôn luôn rất... rất, hết sức đẹp. Anh luôn muốn nói cho em biết anh cảm thấy như thế nào."

"Em muốn nghe anh cảm thấy như thế nào, Peter."

"Anh rất thích ngắm nhìn em. Anh luôn nghĩ tới những gì Gordon Prescott nói. Lão ấy bảo em là một công trình hoàn hảo của Thượng đế về toán kết cấu. Còn Vincent Knowlton thì nói em là một buổi sáng mùa xuân. Và Ellsworth - Ellsworth bảo rằng em như một sự nhạo báng với tất cả thân thể phụ nữ trên trái đất này."

"Thế còn Ralston Holcombe?" cô hỏi.

"Thôi, không nói nữa", anh đột ngột ngắt lời, và quay mặt lại lò sưởi.

Mình biết tại sao mình không thể chịu được sự im lặng, anh nghĩ. Đó là vì đối với cô ta thì việc mình nói hay không nói chẳng có gì khác nhau, cứ như thể mình không tồn tại và chưa bao giờ tồn tại... điều này còn khó chấp nhận hơn là cái chết - vì như thế có nghĩa là chưa bao giờ được sinh ra... Anh đột nhiên cảm thấy một ham muốn tuyệt vọng mà anh không thể gọi tên - ham muốn được trở nên có thật đối với cô.

"Dominique, em có biết anh đang nghĩ gì không?" anh hỏi một cách hăm hở.

"Em không. Anh đang nghĩ gì?"

"Anh đã nghĩ về nó trong một thời gian, và hoàn toàn một mình. Anh chưa từng nói về nó cho bất kỳ ai. Và cũng không ai gợi ý cho anh. Nó là ý tưởng của anh."

"Thế thật tốt. Anh nghĩ gì?"

"Anh nghĩ anh muốn chuyển đến vùng nông thôn và xây một ngôi nhà cho chúng ta. Em có thích như thế không?"

"Em rất thích. Cũng như anh vậy. Anh sẽ tự thiết kế nhà chứ?"

"Đời nào! Không. Bennett sẽ vẽ cho anh. Anh ta thiết kế tất cả các căn nhà nông thôn cho hãng. Anh ta là bậc thầy về loại nhà này."

"Anh thích đi lại hàng ngày giữa nhà và nơi làm việc?"

"Không, anh rất ghét chuyện đó. Nhưng em biết đấy, ngày nay tất cả những người có danh phận một tí đều sống như vậy. Anh cảm thấy mình như một thằng nhà nghèo chết dẫm khi phải thú nhận là anh đang sống ở trong thành phố."

"Anh có thích ngắm cây cối, vườn tược và thiên nhiên xung quanh anh không?"

"Toàn những thứ vô bổ. Anh làm gì có thời gian chứ? Một cái cây chỉ là một cái cây. Khi xem một đoạn phim tài liệu về khu rừng trong mùa xuân là chúng ta đã thấy hết cả rồi."

"Anh có thích làm vườn không? Người ta bảo tự tay vun xới đất đai là một việc làm rất dễ chịu."

"Chúa ơi, không đời nào! Em nghĩ chúng ta là hạng người nào thế? Chúng ta đủ tiền thuê một người làm vườn, thậm chí một người làm vườn giỏi - và khu vườn của chúng ta sẽ khiến cho hàng xóm phải lác mắt."

"Anh có muốn thử chơi một môn thể thao nào không?"

"Ừ. Anh muốn thế."

"Môn gì?"

"Anh nghĩ anh chơi golf thì tốt hơn. Em biết đấy, là thành viên của một câu lạc bộ golf ngay tại cộng đồng mà mình là thành viên ưu tú sẽ khác hẳn với việc thỉnh thoảng đi chơi golf vào ngày cuối tuần. Và những người mình sẽ gặp ở đó cũng sẽ khác. Thuộc tầng lớp cao hơn nhiều. Và các mối quan hệ mà mình có thể có được..." Anh tự giật mình, và nói thêm một cách giận dữ. "Anh cũng sẽ thử cưỡi ngựa."

"Em thích cưỡi ngựa. Anh có thích không?"

"Anh chưa bao giờ có nhiều thời gian để cưỡi ngựa. Với lại chơi môn này quả thật là xóc bụng. Nhưng Gordon Prescott là cái thá gì mà dám cho rằng hắn là đấng mày râu duy nhất trên trái đất và hắn trưng ảnh hắn mặc đồ cưỡi ngựa ngay trong phòng khách."

"Em đoán là anh muốn có một chút riêng tư?"

"Hừm, anh không tin vào mấy thứ linh tinh kiểu ốc đảo này nọ. Anh nghĩ căn nhà cần nằm gần xa lộ lớn, để mọi người có thể chỉ trỏ nhau rằng đây là biệt thự nhà Keating. Claude Stengel là cái thá gì mà đã có biệt thự ở nông thôn trong khi anh vẫn phải sống trong một căn hộ cho thuê? Hắn bắt đầu sự nghiệp vào cùng khoảng thời gian với anh, và xem thử hắn đã làm được gì và anh đã làm được gì, đấy, may lắm thì hắn cũng chỉ có được hai người rưỡi từng nghe tới tên hắn, thế mà tại sao hắn lại có nhà ở Westchester và..." Anh dừng lại. Cô nhìn vào anh, khuôn mặt bình thản.

"Quỷ tha ma bắt!", anh kêu lên "nếu em không muốn chuyển tới sống ở nông thôn, sao em không nói toẹt ra?"

"Em rất muốn làm bất cứ điều gì anh muốn, Peter. Em muốn tuân theo tất cả những ý kiến mà anh tự mình có được."

Anh ngồi lặng yên một lúc lâu.

"Tối mai chúng ta sẽ làm gì?" anh hỏi trước khi có thể kiềm chế được mình.

Cô đứng dậy, bước tới bàn và lấy cuốn lịch của mình.

"Chúng ta sẽ ăn tối với nhà Palmer vào tối mai," cô nói.

"Chúa tôi!", anh than vãn "Bọn họ thật chán ngấy! Tại sao chúng ta phải ăn tối với họ chứ?"

Cô đứng, những đầu ngón tay kẹp quyển lịch ngửa về phía trước, như thể cô là một tấm ảnh mà trọng tâm là quyển lịch còn hình hài chính của cô thì nhòe đi để làm nền cho nó.

"Chúng ta phải ăn tối với nhà Palmer", cô nói "để có thể nhận được hợp đồng nhà kho mới của họ. Chúng ta phải có hợp đồng này để có cái mà nói chuyện trong bữa tối với nhà Eddington vào thứ Bảy. Nhà Eddington không có hợp đồng nào cho chúng ta, nhưng họ có tên trong Danh mục Đăng ký Xã hội. Nhà Palmer làm anh phán chán và nhà Eddington thì khinh bỉ anh. Nhưng anh phải tâng bốc những người mà anh khinh bỉ để có thể gây ấn tượng được với những người khinh bỉ anh."..

"Tại sao em cứ phải nói những điều như thế?"

"Anh có muốn xem cuốn lịch này không, Peter?"

"Thì ai mà chả làm như vậy. Tất cả mọi người đều sống vì những thứ đó."

"Phải, Peter. Hầu như tất cả mọi người."

"Nếu em không đồng ý thì tại sao em không nói?"

"Em đã nói câu nào về chuyện không đồng ý chưa?"

Anh cẩn thận nhớ lại. "Không", anh thừa nhận "Không, em chưa nói... Nhưng cái cách mà em nói..."

"Thế anh có thích em nói ý kiến của em không - như là em đã nói về Vincent Knowlton?"

"Anh muốn..." và anh kêu lên - "Anh muốn em bày tỏ quan điểm, quỷ bắt tôi đi, dù chỉ một lần!"

Cô hỏi lại, vẫn với giọng đơn điệu như cũ: "Quan điểm của ai cơ hả Peter? Của Gordon Prescott? Của Ralston Holcombe? Hay của Ellsworth Toohey?"

Anh quay sang cô, dựa vào tay ghế, nửa như nhổm dậy và đột nhiên căng thẳng. Cái tồn tại giữa họ bắt đầu có hình hài rõ ràng. Anh có được những từ đầu tiên để có thể gọi tên nó.

"Dominique," anh nói nhẹ nhàng và chừng mực, "chính là thế đấy. Giờ thì anh biết. Giờ thì anh biết vấn đề trong cuộc sống của chúng ta là gì."

"Đã có vấn đề gì sao?"

"Chờ đã. Việc này rất quan trọng. Dominique, em chưa bao giờ nói, dù chỉ một lần, em nghĩ gì. Dù là về cái gì. Em chưa bao giờ bộc lộ một ham muốn. Bất kể là ham muốn gì."

"Như thế thì có gì sai?"

"Nhưng như thế... như thế giống như là chết. Em không có thực. Em chỉ là một cái xác. Nghe này, Dominique, em không biết đâu, anh sẽ cố giải thích. Em biết chết là thế nào chứ? Khi phần xác không thể cử động, khi nó không có... không có ý chí, không có ý nghĩa. Em hiểu không? Không có gì cả. Hoàn toàn không có gì. Tất nhiên, thân thể em vẫn cử động - nhưng chỉ có mỗi thế thôi. Phần kia, cái phần ở bên trong em, phần - ồ, đừng hiểu lầm anh, anh không nói tới tôn giáo, nhưng không có từ nào thay thế cho nó, nên anh sẽ nói: phần linh hồn của em - linh hồn của em không tồn tại. Không ý chí, không ý nghĩa. Sẽ không còn thực sự là em nữa."

"Thế thực sự em là cái gì?" - Cô hỏi. Lần đầu tiên, trông cô tỏ ra quan tâm. Cô không hào hứng, nhưng ít nhất là có quan tâm.

"Một người thực sự là gì à?" - anh nói, cảm thấy được khích lệ, "đó không chỉ là thân thể. Đó là... đó là linh hồn."

"Linh hồn là gì?"

"Là - em. Là cái ở bên trong em."

"Là cái khiến ta suy nghĩ, đánh giá và ra quyết định."

"Đúng vậy! Đúng rồi, chính nó. Và là cái biết cảm giác nữa. Em - em đã đánh mất nó."

"Như thế là có hai thứ mà chúng ta không thể đánh mất là ý nghĩ và ham muốn phải không?"

"Đúng rồi! Ồ, em có hiểu đấy chứ! Đấy, em thấy đấy, em giống như một cái xác với tất cả những người quanh em. Như một cái xác chết biết đi. Nó còn tồi tệ hơn bất cứ một tội ác thực sự nào. Nó là..."

"Sự trống rỗng?"

"Đúng. Hoàn toàn trống rỗng. Em không ở đây. Em chưa bao giờ ở đây cả. Nếu em bảo với anh là tấm rèm trong căn phòng này trông thật nhơ nhuốc rồi em xé bỏ nó để thay bằng cái khác mà em thích - như thế tức là em còn có thực, em ở đây, trong căn phòng này. Nhưng em chưa bao giờ làm thế cả. Em chưa bao giờ nói với đầu bếp là em thích tráng miệng gì vào bữa tối. Em không ở đây, Dominique. Em không hề sống. Cái Tôi của em ở đâu thế?"

"Của anh thì ở đâu, Peter?" cô hỏi lặng lẽ.

Anh ngồi yên, mắt mở to. Cô hiểu rằng ý nghĩ của anh, trong phút này, hiện ra rõ ràng và trực tiếp như thể anh đang nhìn thấy nó, và việc anh suy nghĩ cũng giống như việc nhìn vào những năm tháng đã nối nhau ở lại sau lưng anh.

"Không đúng", cuối cùng anh nói, giọng trống rỗng, "Không phải thế."

"Cái gì không đúng?"

"Điều em vừa nói."

"Em không nói gì cả. Em chỉ hỏi anh một câu hỏi."

Mắt anh cầu xin cô hãy nói, hãy phủ nhận. Cô đứng dậy trước mặt anh; dáng người thẳng đứng của cô là dấu hiệu của sự sống, một sự sống mà anh đã đánh mất và đang cầu xin; nó biểu hiện một mục đích, và đó là biểu hiện của một vị quan tòa.

"Anh bắt đầu nhận ra rồi phải không, Peter? Em sẽ làm rõ hơn nhé. Anh chưa bao giờ muốn em có thực. Anh chưa bao giờ muốn bất kỳ ai có thực. Nhưng anh không muốn bộc lộ ra. Anh muốn người ta đóng kịch để giúp cho vai kịch của anh - một vai kịch đẹp đẽ, phức tạp với tất cả những sự kịch tính, sự tỉa tót, và lời lẽ của nó. Tất cả chỉ là lời lẽ. Anh không thích những gì em nói về Vincent Knowlton. Nhưng anh thích nếu em nói những điều y hệt vậy dưới vỏ bọc của đức hạnh. Anh không muốn em thực sự tin. Anh chỉ muốn em làm anh nghĩ là em tin vào điều đó.

Linh hồn của em ư, Peter? Nó chỉ có thực khi nó tồn tại độc lập - anh nhận ra rồi phải không? Nó chỉ có thực khi nó chọn rèm cửa và món tráng miệng - anh nói đúng điểm này - rèm cửa, món tráng miệng, tôn giáo, Peter, và kiến trúc các tòa nhà nữa. Nhưng anh chưa bao giờ muốn thế. Anh muốn một chiếc gương. Mọi người đều không muốn gì khác ngoài những chiếc gương xung quanh họ. Để phản chiếu họ trong khi họ cũng phản chiếu những thứ khác. Anh biết đáy, giống như những hình ảnh vô tận vớ vẩn khi anh đặt hai chiếc gương đối diện nhau trong một khoảng không hẹp. Họ vẫn hay đặt thế ở những loại khách sạn rẻ tiền. Phản chiếu của phản chiếu và tiếng vọng của tiếng vọng. Không có khởi đầu và không có kết thúc. Không có trung tâm và không có mục đích. Em đã cho anh cái mà anh muốn. Em trở thành người như anh, như bạn bè anh, như hầu hết loài người đang cố gắng trở thành - nhưng em không thèm rườm rà trang điểm. Em không mất công đọc hết các bài điểm sách để che giấu sự thiếu khả năng xét đoán của bản thân - em nói thẳng là em không có khả năng xét đoán. Em không vay mượn các thiết kế để che giấu sự bất lực trong sáng tạo - em chẳng sáng tạo gì cả. Em không nói rằng bình đẳng là một khái niệm cao cả và đoàn kết là mục đích chính của loài người - em cứ thế đồng ý với tất cả mọi người. Anh gọi đó là cái chết ư, Peter? Cái chết đó - em đã phủ nó lên anh và tất cả những người xung quanh chúng ta. Nhưng còn anh - anh không làm điều đó. Mọi người đều thoải mái khi ở bên cạnh anh, họ thích anh, họ thích sự có mặt của anh. Anh không phủ lên họ cái chết trống rỗng. Bởi vì anh đã phủ nó lên chính bản thân anh."

Anh không nói gì. Cô bước ra xa khỏi anh, và lại ngồi xuống, chờ đợi.

Anh đứng dậy. Anh bước vài bước về phía cô. Anh nói: "Dominique..." Sau đó anh quỳ xuống trước mặt cô, nắm chặt lấy cô, đầu anh gục xuống chân cô.

"Dominique, điều đó không đúng - không phải là anh chưa bao giờ yêu em. Anh yêu em, anh luôn yêu em, chứ không phải là... chỉ để chứng tỏ cho người khác - hoàn toàn không phải thế - anh có yêu em. Có hai người - em và một người nữa, một người đàn ông, người đó cũng luôn làm anh cảm thấy có cùng cảm giác - không hẳn là nỗi sợ, mà giống như một bức tường, một bức tường thẳng đứng khó trèo - như mệnh lệnh bắt phải tiến lên - anh không biết từ đâu - nhưng là cảm giác tiến lên - anh luôn căm ghét người đó - nhưng với em, anh muốn em - lúc nào cũng muốn - đó là lý do anh cưới em - dù lúc đó anh biết là em khinh bỉ anh - lẽ ra em nên tha đừng lấy anh - lẽ ra em không nên trả thù như thế này - không phải như thế này, Dominique - Dominique, anh không thể chống lại, anh..."

"Người đàn ông anh ghét là ai, Peter?"

"Điều đó không quan trọng."

"Anh ta là ai?"

"Không ai cả. Anh..."

"Nói tên anh ta đi."

"Howard Roark."

Cô im lặng một lúc lâu. Rồi cô đặt tay lên tóc anh. Cử chỉ đó có một vẻ dịu dàng.

"Em chưa bao gờ muốn trả thù anh, Peter", cô nói nhẹ nhàng.

"Thế thì - tại sao?"

"Em cưới anh vì lý do riêng của em. Em đã hành động như cái thế giới này đòi hỏi người ta phải thế. Chỉ có điều em không thể làm gì nửa chừng được. Những người làm được thế đều có một vết nứt ở đâu đó bên trong họ. Hầu hết mọi người có nhiều vết nứt như thế. Họ tự lừa dối bản thân - và họ không biết như thế. Em chưa bao giờ tự lừa dối mình. Và vì thế em phải làm những gì mà tất cả người khác đều làm - chỉ có điều nhất quán và trọn vẹn hơn. Có thể em đã hủy hoại anh. Nếu em còn có thể quan tâm tới việc này, thì em sẽ nói là em xin lỗi. Đó không phải mục đích của em."

"Dominique, anh yêu em. Nhưng anh sợ. Vì em đã thay đổi điều gì đó ở trong anh, kể từ đám cưới của chúng ta, kể từ lúc anh trả lời đồng ý với em - ngay cả nếu bây giờ anh đánh mất em, anh cũng không thể nào trở lại như khi chưa có em - em đã lấy đi một cái gì đó mà anh có..."

"Không, em lấy đi cái mà anh chưa bao giờ có. Em cho rằng như thế còn tồi tệ hơn với anh."

"Cái gì cơ?"

"Người ta vẫn nói điều tồi tệ nhất mà ta có thể làm với một người là giết chết lòng tự trọng của anh ta. Nhưng điều đó không đúng. Lòng tự trọng là cái không thể bị giết chết. Điều tồi tệ nhất phải là giết chết khả năng giả vờ có lòng tự trọng."

"Dominique, anh... anh không muốn nói tiếp nữa."

Cô nhìn xuống khuôn mặt anh đang ngả trên đầu gối cô, và anh thấy sự thương hại trong mắt cô. Trong chốc lát, anh nhận ra lòng thương hại thực sự mới kinh khủng làm sao. Nhưng anh không còn biết gì về nó nữa, bởi vì anh đã đóng chặt trí óc mình trước những lời lẽ mà anh sắp sửa dùng để định nghĩa cảm giác ấy.

Cô cúi người và hôn lên trán anh. Đó là nụ hôn đầu tiên cô dành cho anh.

"Em không muốn anh phải đau khổ, Peter", cô nói dịu dàng "Những gì anh đang thấy, vào lúc này, mới là thực - đây chính là em - là lời lẽ của em - Em không muốn anh đau khổ - Em không cảm thấy gì khác - nhưng em biết chắc em không muốn anh đau khổ."

Anh áp môi mình vào bàn tay cô. Khi anh ngẩng đầu dậy, cô nhìn anh như thể, trong giây lát, anh đúng là chồng cô. Cô nói: "Peter, nếu anh có thể bám lấy nó - nếu anh có thể giữ anh như chính anh lúc này."

"Anh yêu em", anh nói.

Họ ngồi im lặng với nhau rất lâu. Anh không cảm thấy căng thẳng trong những phút im lặng đó.

Điện thoại reo.

Không phải là tiếng chuông điện thoại mà chính là vẻ hớn hở khi Keating bật dậy và chạy tới trả lời điện thoại đã phá vỡ khoảnh khắc họ đang có. Cô nghe thấy tiếng anh qua khung cửa để ngỏ, giọng nói suồng sã với vẻ nhẹ nhõm: "Alô?... Ồ, xin chào, Ellsworth!... Không, không có gì cả... Rảnh rỗi như chim trời... Tất nhiên rồi, ông đến đi, đến ngay đi!... Được rồi!".

"Là Ellsworth" - anh nói khi quay lại phòng khách. Giọng anh vui vẻ và có chút đắc thắng - "Ông ấy muốn đến chơi."

Cô không nói gì.

Anh tất bật đi đổ cái gạt tàn chỉ chứa một que diêm hay một mẩu thuốc. Anh vơ gọn đống báo. Anh thêm củi vào lò sưởi một cách không cần thiết. Anh thắp sáng thêm đèn. Anh huýt sáo một giai điệu từ một trích đoạn opera nào đó.

Anh chạy vội ra mở cửa khi nghe thấy tiếng chuông.

"Đẹp làm sao", Toohey nói khi bước vào "Một lò sưởi và một đôi vợ chồng. Xin chào Dominique. Hy vọng là tôi không quấy rầy chứ."

"Chào Ellsworth", cô nói.

"Ông không bao giờ quấy rầy cả", Keating nói, "Tôi không thể nói cho ông biết là tôi vui mừng thế nào khi gặp lại ông." Anh đẩy một chiếc ghế về phía lò sưởi. "Ngồi xuống đây, Ellsworth. Có chuyện gì đây? Ông biết không, khi tôi nghe thấy giọng ông trên điện thoại... tôi đã muốn nhảy lên và sủa như chó cún vậy."

"Nhưng đừng có vẫy đuôi," Toohey nói. "Không, tôi không uống gì đâu, cảm ơn. Cô thế nào, Dominique?"

"Vẫn như tôi cách đây một năm," cô nói.

"Nhưng không như cô cách đây hai năm?"

"Không."

"Tầm này cách đây hai năm, chúng ta làm gì nhỉ?" Keating hỏi vu vơ.

"Anh chưa cưới vợ" - Toohey nói. "Thời tiền sử. Để tôi xem, lúc đó có chuyện gì xảy ra. Tôi nghĩ khi đó Đền Stoddard vừa mới xây xong."

"À, cái đó," Keating nói.

Toohey hỏi: "Anh có nghe thấy tin tức gì về cậu Roark bạn anh không Peter?"

"Không. Tôi nghĩ là cậu ta không có việc gì làm cả năm vừa rồi. Lần này thì cậu ấy đi đứt rồi."

"Đúng, tôi cũng nghĩ vậy... Gần đây anh làm gì, Peter?"

"Cũng không có gì nhiều... À, tôi vừa mới đọc xong cuốn Viên sỏi mật dũng cảm."

"Thích nó chứ?"

"Vâng! Ông biết đấy, tôi nghĩ đó là một cuốn sách rất quan trọng. Bởi vì đúng là không tồn tại những thứ như ý chí tự do. Chúng ta không thể quyết định được chúng ta là ai hay làm gì. Đó không phải là lỗi của chúng ta. Không ai có lỗi gì cả. Tất cả đều do nguồn gốc của anh và... và do tuyến dịch của anh. Nếu anh thành công thì đó cũng không phải là thành quả của anh mà chỉ vì anh đã may mắn với với tuyến địch của mình. Nếu anh có hư hỏng thì người ta cũng không nên trừng phạt anh - tất cả chỉ vì anh đã không gặp may."

Anh nói một cách quả quyết, với sự quá khích không phù hợp cho việc thảo luận văn chương. Anh không nhìn vào Toohey hay nhìn vào Dominique mà nói với căn phòng và với những gì mà căn phòng này đã chứng kiến.

"Rất đúng", Toohey nói "Nhưng nói một cách lô-gíc, chúng ta không nên nghĩ tới chuyện trừng phạt những kẻ hư hỏng. Bởi vì đó không phải là lỗi của họ mà chỉ vì họ không gặp may và không được thiên phú. Họ cần phải được đền bù cái gì đó - giống như một phần thưởng."

"Đúng, đúng thế", Keating kêu lên "Như thế... thế thật hợp lý."

"Và công bằng nữa", Toohey nói.

"Ông đã lái được tờ Ngọn cờ theo đúng ý ông muốn, phải không Ellsworth?", Dominique hỏi.

"Ý cô là về chuyện gì?"

"Viên sỏi mật can đảm."

"À, không, không thể nói là tôi đã làm được như thế. Chưa hẳn. Vẫn luôn có những thứ - những thứ không thể lường được."

"Các vị đang nói về chuyện gì thế?", Keating hỏi.

"Chuyện nghề nghiệp tầm phào ấy mà", Toohey nói.

Ông duỗi tay mình về phía ngọn lửa và vặn vẹo các ngón tay một cách vui vẻ. "Nhân tiện, Peter, anh có định làm gì với vụ Stoneridge không?"

"Quỷ tha ma bắt", Keating nói.

"Chuyện gì thế?"

"Ông cũng biết thừa rồi còn gì. Ông biết thằng cha đó rõ hơn tôi. Có được một dự án như thế vào lúc này, thì khác gì gặp ốc đảo trong sa mạc. Nhưng mọi việc lại do lão quái thai Wynand quyết định."

"Wynand thì làm sao nào?"

"Thôi nào, Ellsworth! Ông biết rất rõ rằng nếu là ai khác thì tôi đã nhận được hợp đồng nhanh như thế này" - anh bật ngón tay đánh tách một cái - "Tôi thậm chí sẽ không cần phải hỏi nữa vì chủ nhân sẽ chạy đến tìm tôi. Nhất là khi hắn biết rằng một kiến trúc sư như tôi lại để mắt đến dự án của hắn, mặc dù văn phòng thì đã bận lắm rồi. Nhưng mà Gail Wynand! Người ta hẳn phải nghĩ lão ấy là một vị thánh mắc bệnh dị ứng với cái không khí mà các kiến trúc sư thở ra mất!"

"Tôi đoán là anh đã thử?"

"Thôi, không nói về chuyện đó nữa. Nó làm tôi phát ốm. Tôi đã tiêu đến 300 đôla để mời ăn trưa và chuốc rượu cho đủ loại rác rưởi chỉ vì bọn chúng cam đoan với tôi là sẽ giúp tôi gặp được ông ta. Tất cả những gì tôi nhận được chỉ là sự váng đầu. Tôi nghĩ đi gặp Đức Giáo hoàng còn dễ hơn."

"Tôi đoán là anh muốn có hợp đồng Stoneridge?"

"Ông đang đùa à, Ellsworth? Tôi sẵn sàng mất cánh tay phải của mình để có nó."

"Không nên thế. Khi đó anh sẽ không thể nào vẽ, hay giả vờ vẽ được. Sẽ tốt hơn nếu anh chịu mất cái gì đó ít vật chất hơn."

"Tôi sẵn sàng bán cả linh hồn."

"Thật ư, Peter?", Dominique hỏi.

"Ông nghĩ ra cái gì rồi, Ellsworth?" Keating cắt ngang.

"Chỉ là một gợi ý thực tế thôi nhé," Toohey nói "Ai là người bán hàng hiệu quả nhất của anh từ trước tới giờ và đã giúp anh có được những hợp đồng béo bở nhất?"

"Thì... Tôi nghĩ là Dominique."

"Đúng vậy. Và vì anh không thể gặp được Wynand và kể cả khi gặp được thì cũng chẳng ích, chẳng lẽ anh không nghĩ rằng chính Dominique mới có thể thuyết phục được ông ta sao?"

Keating nhìn chằm chằm vào Toohey. "Ông điên rồ, Ellsworth."

Dominique rướn người về phía trước. Cô tỏ ra quan tâm.

"Từ những gì tôi nghe thấy", cô nói, "Gail Wynand không giúp không phụ nữ, trừ khi họ xinh đẹp. Và nếu họ xinh đẹp thì việc ông ta làm cho họ cũng không phải là không công."

Toohey nhìn cô, khẳng định ý cô bằng cách không bác bỏ.

"Thật ngớ ngẩn", Keating cắt ngang giận dữ. "Làm thế nào mà Dominique có thể gặp được ông ta cơ chứ?"

"Thì gọi điện tới văn phòng ông ta và hẹn gặp", Toohey nói.

"Ai bảo với ông là ông ta sẽ đồng ý?"

"Chính ông ta."

"Khi nào?!"

"Đêm qua. Hay chính xác hơn là sáng sớm hôm nay."

"Ellsworth!", Keating thở gấp. Anh nói thêm "Tôi không tin."

"Tôi tin", Dominique nói, "nếu không Ellsworth đã chẳng khơi chuyện này ra."

Cô mỉm cười với Toohey "Vậy là Wynand hứa với ông là sẽ gặp tôi?"

"Đúng thế, cô gái của tôi ạ."

"Ông làm việc đó bằng cách nào?"

"À, tôi đưa ra một lý lẽ thuyết phục. Tuy nhiên, không nên chần chừ. Cô phải gọi điện cho ông ta vào ngày mai - nếu cô muốn làm điều đó."

"Tại sao cô ấy không thể gọi điện ngay bây giờ?" Keating nói. "À, giờ thì muộn rồi. Việc đầu tiên em cần làm sáng mai là gọi điện cho ông ta."

Cô nhìn anh. Mắt cô nheo lại và cô không nói gì.

"Lâu lắm rồi cô mới quan tâm tới sự nghiệp của Peter", Toohey nói "Liệu cô có sẵn lòng thực hiện một nhiệm vụ khó khăn như thế - vì Peter không?"

"Nếu Peter muốn tôi làm."

"Nếu anh muốn em làm?" Keating kêu lên. "Cả hai người đều điên rồi à? Đó là cơ hội cả đời có một, là..." Anh nhận ra cả hai đều nhìn anh một cách tò mò. Anh ngắt lời "À, thật vớ vẩn".

"Cái gì vớ vẩn, Peter?" Dominique hỏi.

"Chẳng nhẽ em sẽ lại để những lời đồn đại ngu ngốc đó ngáng đường em sao? Vợ của bất kỳ kiến trúc sư nào cũng sẽ quỳ bằng cả hai tay hai chân để có được một cơ hội như thế để..."

"Không có vợ của kiến trúc sư nào khác được cho một cơ hội như thế", Toohey nói "Không có kiến trúc sư nào khác lại có được người vợ như Dominique. Anh vẫn luôn tự hào về điều đó mà, Peter."

"Dominique luôn có thể tự bảo vệ mình trong mọi tình huống."

"Không có gì phải nghi ngờ về điều đó."

"Được rồi, Ellsworth", Dominique nói "Tôi sẽ gọi điện cho Wynand vào ngày mai."

"Ellsworth, ông thật tuyệt!", Keating nói, không nhìn vào cô.

"Tôi tin là bây giờ tôi muốn uống một ly rượu", Toohey nói, "Chúng ta phải ăn mừng."

Trong lúc Keating vội vàng chạy vào bếp, Toohey và Dominique nhìn nhau. Ông mỉm cười. Ông liếc nhìn về phía cánh cửa mà Keating vừa đi qua, sau đó gật đầu nhè nhẹ với cô với vẻ thích thú...

"Ông biết trước sẽ như vậy", Dominique nói.

"Tất nhiên."

"Nào, mục đích thực sự của ông là gì hả Ellsworth?"

"Sao cơ, tôi muốn giúp cô lấy được hợp đồng Stoneridge cho Peter. Đó là một hợp đồng cực tốt."

"Tại sao ông lại sốt sắng muốn tôi ngủ với Wynand đến thế?"

"Thế cô không nghĩ rằng đó sẽ là một chuyện thú vị cho tất cả các bên liên quan sao?"

"Ông không hài lòng với kết quả cuộc hôn nhân của tôi, phải không Ellsworth?"

"Không hoàn toàn. Chỉ khoảng năm mươi phần trăm. Nhưng không có gì là hoàn hảo trên thế giới này cả. Người ta gặt hái những gì có thể và cố gắng hơn nữa."

"Ông từng rất sốt sắng muốn Peter cưới tôi. Ông đã biết trước kết quả sẽ thế nào, biết nhiều hơn cả Peter hay là tôi."

"Peter thì có biết gì đâu."

"Thì, ông thành công đấy - được năm mươi phần trăm. Ông đã có Peter Keating như ông muốn - kiến trúc sư hàng đầu của cả nước bây giờ chẳng khác gì cục bùn bám dính lấy ủng của ông."

"Tôi chưa bao giờ thích cách diễn đạt của cô cả, nhưng nó luôn luôn chính xác. Nếu là tôi thì tôi sẽ nói: anh ta bây giờ là một linh hồn đang ngoe nguẩy đuôi. Phong cách của cô vẫn cứ mềm mại hơn."

"Thế năm mươi phần trăm kia thì sao, Ellsworth? Thất bại à?"

"Gần như hoàn toàn. Lỗi của tôi. Lẽ ra phải biết trước rằng một kẻ như Peter, cho dù chỉ ở cương vị người chồng, cũng không thể nào hủy hoại cô được."

"Ông thành thực đấy."

"Tôi đã nói với cô một lần rằng đó là cách duy nhất có hiệu quả đối với cô. Hơn nữa, chắc chắn là cô không mất đến hai năm mới biết được tôi muốn gì từ đám cưới đó?"

"Thế ông nghĩ rằng Gail Wynand sẽ làm nốt việc đó?"

"Có thể. Cô nghĩ sao?"

"Tôi nghĩ lần này tôi cũng chỉ là chi tiết phụ. Chẳng phải ông từng gọi nó bằng từ 'nước sốt' đó sao? Tại sao ông lại chống lại Wynand?"

Ông ta cười, tiếng cười cho thấy ông đang giả vờ bị bất ngờ với câu hỏi của cô. Cô nói một cách khinh bỉ "Đừng có ra vẻ là ông đang bị sốc nữa, Ellsworth."

"Tốt thôi. Chúng ta nói thẳng nhé. Tôi chẳng chống lại cái gì cụ thể của ông Gail Wynand cả. Tôi đã lập kế hoạch để ông ta gặp cô từ lâu lắm rồi. Nếu cô muốn biết thêm các tiểu tiết thì sáng hôm qua, ông ta có làm một việc khiến tôi bực mình. Ông ta tỏ ra quá tinh ý. Thế nên tôi quyết định đã đến lúc."

"Và còn có vụ Stoneridge nữa."

"Và còn có vụ Stoneridge. Tôi biết chuyện này sẽ hấp dẫn cô. Cô sẽ không bao giờ bán mình để cứu tổ quốc, linh hồn hay cuộc sống của người đàn ông cô yêu. Nhưng cô sẽ bán mình để đổi lấy một hợp đồng cho Peter Keating - hợp đồng mà anh ta không xứng đáng được có. Để xem sau đó, cô sẽ như thế nào. Cả Gail Wynand nữa. Tôi cũng muốn xem chuyện đó."

"Rất chính xác, Ellsworth."

"Tất cả à? Kể cả phần về người đàn ông cô yêu - nếu như cô có yêu?"

"Đúng."

"Cô sẽ không bán mình vì Roark? Mặc dù, tất nhiên là cô không muốn nghe thấy cái tên đó được nhắc tới."

"Howard Roark", cô nói giọng lạnh băng.

"Cô thực sự rất can đảm, Dominique."

Keating đã quay lại, tay cầm khay rượu cocktail. Mắt anh đỏ ngầu và anh liên tục vung tay.

Toohey nâng ly của mình lên. Ông ta nói "Vì Gail Wynand và tờ Ngọn cờ New York!"

III.

G

ail Wynand đứng lên đón cô ở giữa phòng.

"Chào bà Keating", ông nói.

"Chào ông Wynand", Dominique nói.

Ông kéo một chiếc ghế cho cô nhưng khi cô ngồi xuống, ông không sang ngồi đối diện với cô ở phía bên kìa bàn làm việc, ông đứng quan sát cô một cách chuyên nghiệp, như một người đang định giá. Ông cư xử với ngụ ý việc ông đang làm là một việc hiển nhiên cần thiết; như thể cô cũng biết rõ lý do của ông và cách cư xử đó không có gì là bất nhã cả.

"Trông bà giống như một bản sao nghệ thuật của chính bản sao nghệ thuật của bà", ông nói. "Theo quy luật, việc gặp nguyên mẫu của một tác phẩm nghệ thuật thường có xu hướng làm cho người ta không còn tin có Chúa. Nhưng lần này thì Chúa và nhà điêu khắc là kỳ phùng địch thủ."

"Nhà điêu khắc nào?"

"Người tạc tượng cho bà."

Lúc trước, ông đã cảm thấy có chuyện gì đó không rõ ràng phía sau bức tượng. Giờ đây, ông càng chắc chắn hơn bởi một cái gì đó trên mặt cô - một sự căng thẳng trái ngược, dù chỉ trong giây lát, với vẻ thờ ơ cố tình mà cô tạo ra.

"Ông nhìn thấy bức tượng đó ở đâu và khi nào, ông Wynand?"

"Ở trong gallery của tôi, vào sáng nay."

"Ông kiếm được nó ở đâu?"

Lần này đến lượt ông bối rối:

"Chả nhẽ bà không biết?"

"Không."

"Người bạn của bà, Ellsworth Toohey, gửi cho tôi. Như một món quà."

"Để đổi lấy cuộc hẹn gặp này cho tôi?"

"Không phải với một động cơ trực tiếp như bà đang nghĩ. Nhưng về bản chất thì đúng vây."

"Ông ta chưa từng nói với tôi điều này."

"Bà có phiền không khi tôi có bức tượng đó?"

"Cũng không hẳn."

"Tôi đã hy vọng bà sẽ nói là bà rất vui."

Tôi không vui."

Ông ngồi xuống một cách thoải mái trên mép ngoài của chiếc bàn làm việc; hai chân duỗi thẳng, hai mắt cá chân vắt chéo nhau. Ông hỏi:

"Tôi đoán là bà đã mất dấu của bức tượng và đã cố tìm kiếm nó?"

"Trong hai năm."

"Bà không thể có lại nó." Ông nói, quan sát cô: "Bà có thể có Stoneridge."

"Tôi sẽ thay đổi ý kiến. Tôi thấy vui vì Toohey đưa nó cho ông."

Ông cảm thấy một chút vị đắng của chiến thắng - và của nỗi thất vọng khi ông nghĩ là ông có thể đọc được ý nghĩ của cô và rằng rốt cuộc thì ý nghĩ của cô rành rành ra đấy. Ông hỏi:

"Vì nhờ thế mà bà có được buổi gặp này phải không?"

"Không. Mà bởi vì nếu tôi được chọn, ông là người gần cuối trên thế giới tôi sẽ để cho giữ bức tượng đó. Người cuối cùng là Toohey."

Ông đánh mất chiến thắng; điều cô vừa nói không phải là những gì mà một phụ nữ muốn có hợp đồng Stoneridge nên nghĩ hay nói ra. Ông hỏi:

"Vậy bà không biết là Toohey giữ nó?"

"Không."

"Chúng ta sẽ nói về người bạn chung của chúng ta, ông Ellsworth Toohey. Tôi không muốn bị dắt mũi và tôi cũng không nghĩ bà muốn hoặc có thể bị dắt mũi. Có quá nhiều thứ ông Toohey không chịu nói ra. Chẳng hạn, tên của nhà điêu khắc."

"Ông ta không nói với ông?"

"Không."

"Steven Mallory."

"Mallory?... Không phải là người đã định..." Ông cười lớn tiếng.

"Chuyện gì vậy?"

"Toohey nói với tôi là ông ta không thể nhớ được tên nhà điêu khắc. Ra chính là cái tên này."

"Chả nhẽ ông Toohey vẫn còn làm ông kinh ngạc?"

"Ông ta vẫn có thể, vài lần liền trong mấy ngày qua. Trong sự trắng trợn của ông ta vẫn có cái gì đó đặc biệt tinh tế. Cái đó rất khó có được. Tôi gần như thích nghệ thuật của ông ta."

"Tôi không có chung sở thích với ông."

"Trong mọi lĩnh vực ư? Kể cả trong điêu khắc, hay kiến trúc?"

"Tôi chắc chắn là không, trong kiến trúc."

"Liệu nói ra như thế có phải là một việc hoàn toàn bất lợi cho bà không?"

"Có thể."

Ông nhìn cô. Ông nói:

"Bà thật thú vị."

"Tôi không định tỏ ra thú vị."

"Đó là lỗi thứ ba của bà."

"Thứ ba?"

"Lỗi thứ nhất là về ông Toohey. Trong những tình huống thế này, người ta hẳn hy vọng là bà ca ngợi ông Toohey với tôi. Trích dẫn lời ông ta. Dựa vào uy tín lớn của ông ta trong vấn đề kiến trúc."

"Nhưng người ta cũng sẽ hy vọng rằng ông hiểu rõ Ellsworth Toohey. Và như thế, tất cả những lời trích dẫn đều sẽ trở nên vô nghĩa."

"Tôi đã định nói điều đó với bà nếu bà cho tôi cơ hội mà tôi chắc là bà sẽ không cho."

"Như thế càng thích hợp cho việc tiêu khiển."

"Bà mong được tiêu khiển?"

"Đúng."

"Với bức tượng này?" Đó là điểm yếu duy nhất của cô mà ông khám phá ra.

"Không", giọng cô cứng rắn "Không phải là với bức tượng này."

"Bà có thể nói cho tôi biết nó được làm ra khi nào và cho ai?"

"Lại là một điều nữa mà ông Toohey quên hay sao?"

"Rõ ràng là như thế."

"Ông có nhớ vụ bê bối liên quan tới một công trình có tên là Đền Stoddard? Cách đây hai năm. Lúc đó ông đi vắng."

"Đền Stoddard... Làm sao bà biết được tôi ở đâu vào hai năm trước?... Đợi chút, Đền Stoddard. Tôi nhớ ra rồi: một nhà thờ báng bổ hay cái gì tương tự thế; và nó đã khiến những kẻ sùng đạo sủa ông ổng?"

"Đúng vậy."

"Có một..." Ông dừng lại. Giọng ông trở nên cứng rắn và miễn cưỡng - giống với giọng cô "Có một bức tượng phụ nữ khỏa thân liên quan đến chuyện này."

"Đúng vậy."

"Tôi hiểu rồi."

Ông im lặng trong giây lát. Sau đó ông nói, giọng đanh lại, như thể đang cố kìm nén một cơn giận mà cô không đoán được nó nhằm vào đâu. "Lúc đó tôi đang ở đâu đó gần Bali. Tôi rất tiếc là cả thành phố New York này đã nhìn thấy bức tượng đó trước tôi. Nhưng tôi không đọc báo khi đang trên biển. Tôi đã có lệnh sa thải bất cứ ai mang lên trên du thuyền dù chỉ một tờ báo Wynand."

"Đã bao giờ ông nhìn thấy các bức hình của Đền Stoddard chưa?"

"Chưa. Liệu ngôi đền đó có xứng đáng với bức tượng không?"

"Bức tượng gần như xứng đáng với ngôi đền."

"Nó đã bị phá hủy đúng không?"

"Phải. Với sự giúp đỡ của các tờ báo Wynand."

Ông nhún vai. "Tôi nhớ Alvah Scarret lúc đó tỏ ra rất thích thú. Một câu chuyện ăn khách. Tiếc là tôi bỏ lỡ nó. Nhưng Alvah đã làm rất tốt. Nhân tiện, làm sao bà biết là tôi đi vắng và tại sao việc đó lại đọng lại trong trí nhớ của bà?"

"Vì tôi đã mất việc ở chỗ ông chỉ vì câu chuyện đó."

"Việc của bà? Ở chỗ tôi?"

"Chẳng nhẽ ông không biết tên tôi là Dominique Francon?"

Phía dưới chiếc áo khoác chẽn, đôi vai ông nhô về phía trước; đấy là một sự ngạc nhiên - và bất lực. Ông nhìn chằm chằm vào cô - một cách rất đơn giản. Một lát sau, ông nói:

"Không."

Cô mỉm cười vô cảm. Cô nói:

"Có vẻ như Toohey muốn làm khó cả hai chúng ta càng nhiều càng tốt."

"Hãy quên Toohey đi. Việc này phải được làm rõ. Nó không hợp lý chút nào. Bà là Dominique Francon?"

"Tôi đã từng."

"Bà làm việc ở đây, trong toà nhà này, trong nhiều năm?"

"Trong sáu năm."

"Tại sao tôi chưa từng gặp bà?"

"Tôi chắc chắn rằng ông không gặp tất cả các nhân viên của mình."

"Tôi nghĩ là bà hiểu ý tôi."

"Ông có muốn tôi nói ra hộ ông?"

"Nói đi."

"Tại sao trước đây tôi lại không cố gắng gặp ông?"

"Đúng."

"Vì tôi không muốn gặp ông."

"Chính việc đó là điều vô lý."

"Tôi có nên bỏ qua câu này hay cứ buộc phải hiểu nó?"

"Tôi sẽ để bà lựa chọn. Với sắc đẹp của bà và với việc bà biết rất rõ những tai tiếng của tôi, tại sao bà lại không muốn tạo ra một sự nghiệp thực sự của mình ở tờ Ngọn cờ!"

"Tôi chưa bao giờ muốn có một sự nghiệp thực sự ở tờ Ngọn cờ."

"Tại sao?"

"Có thể cũng chính vì cái lý do mà ông cấm mang những tờ Wynand lên du thuyền của ông."

"Đó là một lý do tốt." ông nói lặng lẽ. Sau đó ông hỏi, giọng bình thường trở lại:

"Xem nào, bà bị thải hồi vì việc gì? Bà chống lại chính sách của tòa soạn, tôi đoán thế?"

"Tôi đã cố bảo vệ Đền Stoddard."

"Chẳng nhẽ bà không biết là không nên hành động trung thực ở tờ Ngọn cờ sao?"

"Tôi đã định nói điều đó với ông - nếu ông cho tôi cơ hội."

"Bà có cảm thấy được tiêu khiển không?"

"Lúc đó thì không. Tôi đã thích làm việc ở đây."

"Bà là người duy nhất từng nói câu đó trong tòa nhà này."

"Tôi hẳn là một trong hai người."

"Người kia là ai?"

"Chính ông, ông Wynand."

"Đừng quá chắc về điều đó." Ông ngẩng đầu lên và ông nhìn thấy sự thích thú hiện ra trong mắt cô. Ông hỏi:

"Bà nói thế chỉ để bẫy cho tôi nói ra một câu kiểu thế?"

"Đúng, tôi nghĩ thế," cô trả lời lạnh lùng.

"Dominique Francon..." ông nhắc lại nhưng không phải nói với cô. "Tôi từng thích các bài viết của bà. Tôi hầu như mong lý do bà đến đây là để xin được đi làm trở lại."

"Tôi đến đây để thảo luận về chuyện Stoneridge."

"À, đúng rồi, tất nhiên." Ông ngồi thẳng trở lại và tỏ ra thích thú chờ đợi một bài thuyết phục dài. Ông cảm thấy thú vị khi nghĩ tới những lý lẽ cô sẽ trình bày và cách cô đóng vai một người cầu xin như thế nào.

"Vậy bà muốn nói gì với tôi về chuyện đó?"

"Tôi muốn ông giao việc đó cho chồng tôi. Tất nhiên, tôi hiểu là không có lý do gì để ông chịu làm việc đó, trừ khi - để đổi lại - tôi đồng ý ngủ với ông. Nếu ông cho rằng lý do như vậy là đủ, thì tôi sẵn lòng làm việc đó."

Ông nhìn cô trong yên lặng; ông không cho phép khuôn mặt mình thể hiện bất cứ phản ứng cá nhân nào.

Cô ngồi đó nhìn thẳng ông, hơi ngạc nhiên trước cái nhìn soi mói của ông, như thể những lời nói của cô không đáng được hưởng một sự chú ý đặc biệt nào. Dù hết sức cố gắng tìm kiếm, ông cũng không thấy khuôn mặt cô biểu hiện một ấn tượng nào khác ngoài một biểu hiện hết sức phi lý: đó là biểu hiện của sự thuần khiết trọn vẹn.

Ông nói:

"Đó chính là điều mà tôi sẽ đề nghị. Nhưng không thô thiển như vậy và cũng không phải trong buổi gặp đầu tiên giữa chúng ta."

"Tôi đã tiết kiệm thời gian và những lời nói dối trá cho ông."

"Bà rất yêu chồng mình?"

"Tôi khinh bỉ anh ta."

"Bà tin tưởng lớn lao vào thiên tài nghệ thuật của chồng bà?"

"Tôi nghĩ anh ta là một kiến trúc sư hạng ba."

"Thế thì tại sao bà lại làm việc này?"

"Vì nó làm tôi thích thú."

"Tôi nghĩ chỉ có mình tôi là hành động với những động cơ kiểu thế."

"Ông không nên nghĩ thế. Tôi chắc ông không cho việc là người duy nhất nghĩ ra cái gì lại là một phẩm chất cần thiết đến thế, phải không ông Wynand?"

"Thực ra, bà chẳng hề quan tâm việc chồng bà có dự án Stoneridge hay không, đúng không?"

"Đúng."

"Và bà không hề muốn ngủ với tôi?"

"Không hề."

"Tôi chắc sẽ khâm phục một phụ nữ khi cô ta diễn được một vai thế này. Chỉ có điều ở đây lại không phải là một vai diễn."

"Không phải. Và đừng có khâm phục tôi. Tôi đã cố gắng để tránh điều đó."

Mỗi khi ông mỉm cười, cơ mặt ông không cần tới một cử động rõ ràng nào cả; vẻ giễu cợt luôn luôn hiện hữu ở đó và nó chỉ cần hiện ra sắc nét hơn trong một tháng để rồi lại lặn đi như trước. Giờ đây, vẻ giễu cợt ấy đang sắc nét lên.

"Thực ra thì," ông nói, "động cơ chủ yếu của bà chính là tôi. Bà muốn được trao bản thân bà cho tôi." Ông nhìn thấy ánh nhìn mà cô không kiểm soát được và nói thêm. "Không, bà đừng vội nghĩ là tôi lại có thể mắc một lỗi kinh khủng như thế. Tôi không nói theo nghĩa thông thường. Mà hoàn toàn ngược lại. Chẳng phải chính bà đã nói rằng bà coi tôi là người tồi tệ thứ nhì trên thế giới? Bà không muốn có Stoneridge. Bà muốn bán mình vì một động cơ thấp hèn nhất cho một kẻ tồi tệ nhất mà bà có thể tìm thấy."

"Tôi không nghĩ là ông lại hiểu được điều đó", cô nói một cách đơn giản.

"Bà muốn - đàn ông đôi khi làm việc đó, chứ không phải phụ nữ - thể hiện sự khinh bỉ thậm tệ đối với tôi qua việc ngủ với tôi."

"Không phải, ông Wynand. Mà là sự khinh bỉ với bản thân tôi."

Đường hằn hẹp trên miệng ông hơi động đậy, như thể đôi môi ông đã bắt được tín hiệu đầu tiên của sự thổ lộ riêng tư - một sự thổ lộ bất tự giác và do đó là một điểm yếu. Ông liền bám lấy nó. Ông nói:

"Hầu hết mọi người đều cố gắng, thậm chí cố gắng rất nhiều, để tự thuyết phục bản thân là họ có lòng tự trọng."

"Đúng vậy."

"Và tất nhiên, việc phải đi tìm lòng tự trọng lại chứng tỏ là họ thiếu nó."

"Đúng vậy."

"Thế bà có hiểu được ý nghĩa của việc tìm kiếm sự khinh bỉ bản thân?"

"Là tôi không có nó?"

"Và bà sẽ không bao giờ có nó."

"Tôi đã không nghĩ ra là ông cũng hiểu được điều này."

"Tôi sẽ không nói thêm gì nữa - nếu không thì tôi sẽ không còn là người đáng ghét thứ nhì trên thế giới và sẽ không còn thích hợp cho mục đích của bà." Ông đứng lên. "Liệu tôi có nên thông báo chính thức với bà là tôi chấp nhận lời đề nghị của bà không?"

Cô nghiêng đầu đồng ý.

"Thực ra," ông nói, "Tôi chẳng hề quan tâm tới việc ai là người được chọn để xây Stoneridge. Tôi chưa từng thuê một kiến trúc sư giỏi nào cho các công trình tôi xây dựng. Tôi trao cho công chúng cái mà họ muốn. Lần này tôi phải lựa chọn bởi vì tôi phát ngán cái đám thợ vụng về từng làm việc cho tôi. Nhưng thật khó để có thể ra quyết định khi không có một tiêu chuẩn hay lý do nào cả. Tôi chắc rằng bà sẽ không phiền khi tôi nói thế này. Tôi thực sự biết ơn bà vì đã tạo cho tôi một động cơ tốt hơn nhiều so với bất kỳ động cơ nào mà tôi có thể tìm ra được."

"Tôi mừng khi ông không nói rằng ông luôn khâm phục các công trình của Peter Keating."

"Bà cũng không nói với tôi là bà vui mừng khi được gia nhập danh sách người tình nổi tiếng của Gail Wynand."

"Ông cứ thoải mái tận hưởng việc tôi thừa nhận điều này - rằng tôi nghĩ tôi và ông sẽ rất hợp nhau."

"Rất có thể. Ít nhất, bà đã cho tôi một kinh nghiệm mới: được làm điều tôi luôn muốn làm - mà lại làm một cách thật thà. Liệu bây giờ tôi đã có thể bắt đầu ra lệnh cho bà được chưa? Tôi sẽ không giả vờ rằng đó không phải là mệnh lệnh."

"Nếu ông muốn."

"Bà sẽ đi chơi với tôi trong vòng hai tháng, trên du thuyền của tôi. Chúng ta sẽ khởi hành trong mười ngày nữa. Khi chúng ta trở lại, bà được tự do quay lại chồng bà - cùng với hợp đồng Stoneridge."

"Được thôi."

"Tôi muốn gặp chồng bà. Liệu hai người có thể ăn tối với tôi vào tối thứ Hai chứ?"

"Được, nếu ông muốn."

Khi cô đứng lên để đi, ông hỏi:

"Liệu tôi có thể nói với bà về sự khác nhau giữa bà và bức tượng của bà không?"

"Không."

"Nhưng tôi muốn. Thật kinh ngạc khi thấy những thành tố như nhau được dùng để tạo ra hai tác phẩm có chủ đề trái ngược nhau như thế. Con người bà trong bức tượng mang chủ đề hân hoan. Nhưng bản thân bà lại mang chủ đề đau khổ."

"Đau khổ ư? Tôi không nhận ra là mình đã thể hiện nó."

"Rõ là chưa thể hiện. Đó chính là điều tôi muốn nói. Không có người hạnh phúcnào lại có thể vô cảm với nỗi đau như thế cả."

*

* *

Wynand gọi điện cho nhà buôn tranh của mình và đề nghị ông ta sắp xếp một buổi triển lãm các tác phẩm của Steven Mallory. Ông từ chối gặp mặt Mallory; ông chưa bao giờ gặp tác giả của những tác phẩm ông ưa thích. Nhà buôn tranh hăm hở thi hành mệnh lệnh của ông. Wynand mua năm tác phẩm ông nhìn thấy và trả nhiều hơn mức giá mà nhà buôn tranh này định đặt ra. "Ông Mallory muốn biết", nhà buôn tranh nói, "cái gì làm ngài chú ý tới ông ấy."

"Tôi nhìn thấy một tác phẩm của ông ta."

"Tác phẩm nào?"

"Cái đó không quan trọng."

Toohey đã hy vọng rằng Wynand sẽ cho gọi ông sau cuộc gặp với Dominique. Wynand đã không cho gọi. Nhưng vài ngày sau đó, khi tình cờ gặp Toohey ở phòng tin địa phương, Wynand hỏi lớn: "Ông Toohey, chả nhẽ có nhiều người định giết ông đến thế sao mà ông không nhớ được tên họ?"

Toohey mỉm cười và nói: "Tôi chắc rằng có khá nhiều người muốn thế."

"Ông đang tâng bốc đồng loại của ông đấy", Wynand nói và bỏ đi.

*

* *

Peter Keating nhìn trân trối vào phòng ăn rực rỡ của nhà hàng. Đó là nhà hàng sang trọng nhất trong thành phố và cũng là nhà hàng đắt nhất. Keating thấy hả hê khi gặm nhấm ý nghĩ rằng anh có mặt ở đây với tư cách khách mời của Gail Wynand.

Anh cố gắng không nhìn chằm chằm vào khuôn người hào hoa thanh nhã của Wynand ở phía bên kia bàn. Anh biết ơn Wynand vì ông đã chọn ăn tối tại một nơi công cộng. Mọi người đều hướng về phía Wynand. Họ nhìn một cách bí mật và được ngụy trang kỹ lưỡng, nhưng dù sao vẫn cứ hướng về Wynand. Và sự chú ý của họ cũng gộp thêm cả hai vị khách đang ngồi tại bàn cùng với Wynand.

Dominique ngồi giữa hai người đàn ông. Cô mặc một chiếc áo lụa trắng dài tay, cổ áo dựng cao. Chiếc váy may theo kiểu nữ tu này tạo ra ấn tượng đáng kinh ngạc về một dạ phục ăn tối, chính vì nó hoàn toàn không phù hợp với mục đích đó. Cô không mang đồ trang sức. Mái tóc vàng của cô trông giống như chiếc mũ trùm đầu. Chiếc áo lụa màu trắng đục của cô chuyển động thành những góc nhọn cùng với những chuyển động của thân thể cô; nó để lộ thân thể cô một cách ngây thơ lạnh lùng. Đấy là thân thể của một vật tế thần đang được phơi ra cho công chúng - bất chấp nhu cầu che đậy hay ham muốn của công chúng. Keating thấy nó không hấp dẫn. Anh nhận thấy Wynand có vẻ ngưỡng mộ nó.

Có ai đó ở một bàn ăn xa xa nhìn về phía họ một cách chăm chú, một người nào đó cao lớn và nặng nề. Thế rồi cái dáng dấp cao lớn ấy đứng lên, và Keating nhận ra Ralston Holcombe đang vội vã tiến về phía họ.

"Peter, cậu bé của tôi, thật mừng được gặp anh." Holcombe nói oang oang, rồi bắt tay anh, cúi chào Dominique và cố tình tảng lờ Wynand. "Dạo này anh trốn đi đâu thế? Sao chúng tôi không thấy anh mấy nhỉ?" Họ vừa mới ăn trưa với nhau cách đấy ba ngày.

Wynand đã đứng lên và hơi nghiêng người về phía trước một cách lịch thiệp. Keating ngần ngại; rồi với vẻ miễn cưỡng rõ ràng, anh nói "Ngài Wynand - ngài Holcombe."

"Không phải là ngài Gail Wynand đấy chứ?" Holcombe nói với vẻ ngây thơ ráo hoảnh.

"Ông Holcombe, nếu ông nhìn thấy một trong hai anh em nhà Smith bán thuốc ho ở ngoài đời, liệu có nhận ra họ không? Wynand hỏi.

"À, tôi chắc là có", Holcombe nói và nháy mắt.

"Mặt tôi, thưa ông Holcombe, cũng chường ra chỗ công cộng chẳng kém gì họ."

Holcombe lập bập vài câu vô thưởng vô phạt nào đó và chuồn mất.

Wynand mỉm cười thông cảm:

"Ông đừng sợ phải giới thiệu ông Holcombe với tôi, ông Keating, mặc dù ông ta cũng là kiến trúc sư."

"Sợ ư, ngài Wynand?"

"Không cần thiết, vì tất cả đã được quyết định rồi. Bà Keating chưa nói với ông là Stoneridge đã thuộc về ông sao?"

"Tôi... không, cô ấy chưa nói với tôi.. tôi không biết..." Wynand đang cười, nhưng nụ cười ông bất động và Keating cảm thấy mình phải tiếp tục nói cho tới khi có một dấu hiệu nào đó dừng anh lại. "Thực tình tôi không dám hy vọng... không nhanh đến thế... tất nhiên, tôi nghĩ bữa tối này có thể là một dấu hiệu... giúp ngài quyết định..." Anh buột miệng một cách không kiềm chế: "Ngài luôn luôn gây bất ngờ như thế này sao - đúng như thế này?"

"Bất cứ khi nào tôi có thể", Wynand lạnh lẽo nói.

"Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để xứng đáng với vinh dự này và đáp ứng được những kỳ vọng của ngài, thưa ngài Wynand."

"Tôi không nghi ngờ gì về điều đó", Wynand nói.

Ông gần như không nói gì với Dominique suốt buổi tối. Sự chú ý của ông dường như tập trung hoàn toàn vào Keating.

"Mọi người đều có thiện cảm với những công trình trước đây của tôi"Keating nói, "Nhưng tôi sẽ biến Stoneridge thành thành tựu lớn nhất của đời mình."

"Điều này hứa hẹn nhiều đấy, nhất là khi nghĩ tới những công trình xuất sắc mà ông đã hoàn thành."

"Tôi không biết là những công trình của tôi lại có thể thu hút được sự chú ý của ngài, thưa ngài Wynand."

"Thế mà tôi biết chúng khá rõ. Toà nhà Cosmos-Stonick thuần túy theo phong cách Michelangelo." Mặt Keating giãn ra trong sự thoả mãn đầy hoài nghi, anh biết Wynand là một người sành sỏi nghệ thuật và ông ta hẳn không so sánh như thế chỉ để chơi.

"Toà nhà Ngân hàng Prudential thì đích thực phong cách Palladio. Cửa hàng Bách hóa Slottern thì rõ ràng là Christopher Wren." Mặt Keating đã biến đổi. "Hãy nhìn xem tôi có thể có được một đội ngũ kiến trúc sư giỏi thế nào, mà lại chỉ phải trả công cho một người. Đó chẳng phải là một món hời sao?"

Keating mỉm cười, mặt anh câng lên. Anh nói "Tôi vẫn nghe người ta nói nhiều tới phong cách hài hước tuyệt vời của ngài, thưa ngài Wynand."

"Thế ông đã nghe nói tới phong cách miêu tả của tôi chưa?"

"Ý ngài là gì?"

Wynand quay nửa người trên ghế và nhìn vào Dominique như thể ông ta đang xem xét một vật thể bất động.

"Vợ ông có một thân hình đẹp, ông Keating ạ. Vai bà ấy hơi gầy quá, nhưng lại cân xứng một cách đáng ngưỡng mộ với phần còn lại của bà ấy. Chân bà ấy hơi dài quá nhưng lại tạo ra những đường nét thanh nhã, giống như ông sẽ thấy ở một chiếc du thuyền đẹp. Ngực bà ấy rất đẹp, ông có nghĩ thế không?"

"Kiến trúc là một nghề nghiệp thô lậu, ngài Wynand ạ", Keating gượng cười. "Nó không trang bị cho người ta khả năng hiểu những thứ phức tạp như thế."

"Ông không hiểu tôi sao, ông Keating?"

"Nếu tôi không hiểu ngài là một quý ông hoàn hảo thì tôi đã có thể hiểu nhầm ngài, nhưng ngài không thể đánh lừa tôi được đâu."

"Thì tôi đang cố gắng không đánh lừa ông."

"Tôi đánh giá cao các lời khen, ngài Wynand, nhưng tôi không đủ tự mãn để nghĩ rằng chúng ta phải tiếp tục bàn vợ tôi."

"Tại sao lại không, ông Keating? Chẳng phải người ta luôn thấy dễ chịu khi nói về những thứ mà họ có - hoặc sẽ có - chung với nhau sao?"

"Ngài Wynand, tôi... tôi không hiểu."

"Tôi có nên nói rõ hơn không?"

"Không, tôi..."

"Không à? Thế chúng ta sẽ không bàn đến Stoneridge nữa chứ?"

"Ồ, hãy nói về Stoneridge! Tôi..."

"Nhưng chúng ta đang nói về nó đấy thôi, ông Keating."

Keating nhìn căn phòng xung quanh họ. Anh cảm thấy những việc như thế này không thể xảy ra ở một nơi như vậy; sự tráng lệ tuyệt vời của nơi này khiến cho mọi việc trở nên kinh khủng, anh ước gì nơi này chỉ là một hầm rượu tối tăm. Anh nghĩ: đổ máu trên nền đường - thế còn chấp nhận được; chứ đổ máu trên thảm phòng khách như thế này thì..."

"Giờ thì tôi biết rằng đó chỉ là một lời nói đùa, ngài Wynand", anh nói.

"Đến lượt tôi phải khâm phục khiếu hài hước của ông, ông Keating."

"Những thứ như... như thế không thể xảy ra..."

"Đó không phải là điều ông muốn nói, ông Keating. Ý ông là những thứ như thế này vẫn xảy ra hàng ngày, chỉ có điều chúng không được nói tới."

"Tôi không nghĩ."

"Ông đã nghĩ như thế từ trước khi ông đến đây. Ông đã không hề ngại. Tôi đồng ý với ông là tôi đang cư xử thô bỉ. Tôi phá vỡ mọi quy tắc của lòng trắc ẩn. Sự trung thực luôn rất tàn nhẫn."

"Xin ngài, ngài Wynand, chúng ta hãy... bỏ qua nó. Tôi không biết là... tôi phải làm gì."

"Đơn giản thôi. Ông phải tát vào mặt tôi." Keating cười khúc khích. "Lẽ ra ông phải làm điều đó từ cách đây vài phút mới phải."

Keating nhận ra lòng bàn tay ướt đẫm và anh cố gắng khỏi sụm người xuống bằng cách bám chặt vào tấm khăn ăn đặt trên đùi. Wynand và Dominique đang ăn, chậm rãi và lịch thiệp, như thể họ đang ngồi ở một bàn nào khác. Keating nghĩ họ không phải là những cơ thể người, cả hai bọn họ. Cái gì đó đã biến mất, ánh sáng lấp lánh từ những đồ trang trí bằng pha lê trong phòng đã trở thành những tia X-quang, chúng ăn xuyên tất cả, không chỉ xuyên qua xương, mà sâu hơn nữa. Anh nghĩ bọn họ là các linh hồn đang ngồi ở bàn ăn; những linh hồn hiện hình qua các bộ quần áo dạ tiệc, không có xác thịt làm trung gian. Anh cảm thấy sợ hãi trước nhận thức trần trụi này - sợ hãi bởi vì anh đã hy vọng sẽ thấy họ như những kẻ tự hành xác, nhưng anh chỉ thấy sự trong sáng tột cùng. Anh tự hỏi họ nhìn thấy gì ở anh; bên trong quần áo của anh sẽ là cái gì nếu như thể xác của anh biến mất.

"Không ư?" Wynand nói. "Ông không muốn làm thế ư, ông Keating? Tất nhiên ông không buộc phải làm. Chỉ cần nói là ông không cần nó nữa. Tôi sẽ không lấy làm phiền. Còn có ông Ralston Holcombe đang ngồi đằng kia. Ông ta có thể xây dựng Stoneridge tốt chẳng kém gì ông."

"Tôi không hiểu ý ngài là gì, ngài Wynand", Keating nói lý nhí. Mắt anh dán chặt vào món cà chua sốt trứng thịt trên đĩa salad của anh, nó mềm và nhầy nhụa, và khiến anh buồn nôn.

Wynand quay sang Dominique.

"Bà có nhớ cuộc nói chuyện giữa chúng ta về một sự tìm kiếm nhất định không, bà Keating? Tôi đã nói bà sẽ không bao giờ tìm được nó. Hãy nhìn chồng bà. Ông ấy là chuyên gia - mà chẳng cần phải cố gắng gì. Đấy chính là cách làm đúng đắn. làm đúng đắn. Cố mà đạt được như thế - dù thỉnh thoảng. Không cần phải nói với tôi là bà không thể. Tôi biết điều đó. Bà chỉ là một nghệ sĩ nghiệp dư thôi, thưa bà."

Keating nghĩ anh phải lên tiếng, nhưng anh không thể, chừng nào món salad còn ở đó trước mặt anh. Mối kinh hãi của anh đến từ đĩa salad đó, không phải từ con quái vật lịch lãm đang ngồi bên kia bàn; và những thứ khác trong phòng đều ấm áp và an toàn. Anh chồm người về phía trước và khuỷu tay anh hất cái đĩa ra khỏi bàn.

Anh thốt ra một âm thanh gì đó bày tỏ sự xin lỗi. Có bóng ai đó xuất hiện, một giọng nói lịch sự nào đó xin lỗi và mớ bầy nhầy biến mất khỏi tấm thảm.

Keating nghe thấy một giọng nói "Tại sao ngài lại làm thế?", rồi anh thấy hai khuôn mặt hướng về phía anh và nhận ra là chính anh vừa nói."

"Ông Wynand làm thế không phải để tra tấn anh, Peter", Dominique nói một cách bình thản. "Ông ta làm thế vì tôi. Để xem tôi có thể chịu đựng được đến đâu."

"Đúng vậy, bà Keating," Wynand nói. "Đúng một phần. Phần còn lại là để bào chữa cho chính bản thân tôi."

"Bào chữa với ai?"

"Với bà. Và có thể với chính tôi nữa."

"Ông có cần không?"

"Đôi khi. Tờ Ngọn cờ là một tờ báo đáng khinh, có phải không? Tôi đã phải trả giá bằng danh dự của mình để có được một vị trí mà ở đó, tôi có thể tiêu khiển bằng cách xem những người khác thể hiện danh dự của họ như thế nào."

Giờ thì không còn gì ở bên trong quần áo của anh, Keating nghĩ, vì hai khuôn mặt kia không còn để ý tới anh nữa. Anh đã được an toàn, chỗ ngồi của anh ở bàn ăn hiện đang trống rỗng.

Anh tự hỏi mình - từ một nơi nào đó xa xăm và lãnh đạm - tại sao hai người này lại yên lặng nhìn nhau, không giống như những kẻ thù, không giống như những kẻ cùng nghề đao phủ, mà giống như hai người đồng chí.

*

* *

Hai ngày trước khi họ khởi hành, Wynand gọi điện cho Dominique vào ban đêm.

"Bà có thể đến ngay đây không?" ông hỏi, và khi nghe thấy một thoáng im lặng, ông nói thêm "À, không phải điều bà đang nghĩ đâu. Tôi luôn giữ đúng cam kết của mình. Bà sẽ hoàn toàn an toàn. Tôi chỉ muốn gặp bà đêm nay."

"Được thôi", cô nói và kinh ngạc nghe thấy lời đáp lặng lẽ: "Cảm ơn bà."

Khi cánh cửa thang máy mở ra tại sảnh riêng trong căn hộ trên mái của ông, ông đang chờ cô ở đó nhưng ông không để cô bước ra ngoài. Ông bước vào bên trong thang máy với cô.

"Tôi không muốn bà bước vào nhà tôi", ông nói, "Chúng ta sẽ xuống tầng dưới."

Người điều khiển thang máy nhìn ông kinh ngạc.

Thang máy dừng lại và mở ra trước một cánh cửa khóa kín. Wynand mở khóa và để cô bước ra trước, ông đi theo cô vào trong phòng gallery. Cô nhớ ra chưa từng có người nào ngoài ông được vào nơi này. Cô không nói gì. Ông cũng không giải thích gì.

Trong bốn giờ liền, cô bước đi lặng lẽ qua các căn phòng lớn, ngắm nghía các báu vật mỹ thuật tuyệt vời. Sàn nhà được trải thảm dầy và họ không nghe thấy tiếng bước chân bước đi hay tiếng động từ thành phố bên ngoài. Các ăn phòng cũng không hề có cửa sổ. Ông đi theo cô, dừng lại khi cô dừng lại.

Mắt ông dõi theo mắt cô từ tác phẩm này tới tác phẩm kia. Đôi lúc, ông liếc nhìn khuôn mặt cô. Cô bước đi, không dừng lại, tại bức tượng thuộc về Đền Stoddard.

Ông không mời cô ở lại, cũng không giục cô phải vội vàng, như thể ông giao phó nơi này cho cô. Cô tự quyết định thời điểm cô muốn rời khỏi chốn này và ông đi theo cô ra cửa. Tại đó, cô hỏi ông:

"Tại sao ông muốn cho tôi xem? Việc này cũng không làm tôi nghĩ tốt hơn về ông đâu. Có lẽ còn tệ hơn nữa."

"Đúng, tôi đã đoán trước điều đó", ông nói lặng lẽ, "nếu tôi cũng nghĩ về việc này theo kiểu đó. Nhưng tôi không nghĩ thế. Tôi chỉ muốn để bà xem."

IV.

M

ặt trời đã lặn khi họ bước ra khỏi xe. Trong khoảng giữa trời và biển - một khoảng trời màu xanh lá cây phía trên lên một mặt biển màu thủy ngân - màu lửa đỏ vẫn còn đọng lại ở rìa những đám mây và trên những đồ trang trí bằng đồng thau trên du thuyền. Chiếc du thuyền giống như một khối trắng liên tục chuyển động, một thân hình nhạy cảm căng lên dưới sự cầm giữ của tĩnh lặng.

Dominique nhìn những chữ khắc bằng vàng - Tôi Có - ngay trên mũi tàu màu trắng.

"Nó có nghĩa là gì?" cô hỏi.

"Đó là một câu trả lời", Wynand nói, "cho những người đã chết từ lâu. Mặc dù có lẽ họ là những người duy nhất bất tử. Bà thấy đấy, câu mà tôi hay phải nghe thấy nhất khi còn nhỏ là 'Mày không phải là chủ ở đây'."

Cô nhớ là trước đây, chưa bao giờ ông chịu trả lời câu hỏi đó. Ông đã trả lời cô ngay lập tức như thể ông không nhận ra mình đang tạo ra ngoại lệ. Cô cảm nhận được vẻ bình tĩnh trong cử chỉ của ông, sự thanh thản tận cùng, nó lạ lùng và mới mẻ với chính ông.

Khi họ lên thuyền, con thuyền lập tức di chuyển như thể các bước chân của Wynand trên sàn thuyền là các mạch nối để con thuyền chuyển động. Ông đứng ở lan can, không chạm vào cô; ông ngắm nhìn những bờ biển dài, màu nâu, cứ nhô lên rồi hạ thấp xuống so với bầu trời và xa dần họ.

Rồi ông quay lại phía họ. Cô không nhận thấy có vẻ gì mới trong mắt ông. Không có sự khởi đầu nào, chỉ sự là sự tiếp tục của một cái liếc nhìn, như thể ông vẫn đang nhìn cô trong suốt thời gian qua.

Khi họ bước xuống phía dưới, ông bước cùng cô vào trong cabin. Ông nói "Cứ nói cho tôi biết, nếu cô cần bất cứ thứ gì", và bước ra bên ngoài qua một cánh cửa bên hông. Cô nhận ra cánh cửa này dẫn tới phòng ngủ của ông. Ông đóng cửa lại và không trở ra.

Cô đi lại vẩn vơ trong cabin. Bóng cô cũng lướt theo cô trên bề mặt lộng lẫy của thành tàu làm bằng gỗ sơn tiêu nhạt. Cô ngả người trên chiếc ghế có tay vịn thấp, hai chân vắt chéo, cánh tay đặt ở sau đầu và ngắm khung cửa sổ tròn trên tàu chuyển từ màu xanh lá cây sang màu đen. Cô đưa tay mình bật một ngọn đèn, màu xanh đen biến mất và chuyển thành một quầng tròn màu đen bóng.

Người phục vụ bước vào thông báo bữa tối đã sẵn sàng. Wynand gõ cửa phòng cô và hộ tống cô ra phòng ăn. Cung cách của ông khiến cô ngỡ ngàng: ông vui vẻ, nhưng chính cảm giác lặng lẽ trong sự vui vẻ đó tạo ra ấn tượng về một sự sang trọng kỳ lạ.

Cô hỏi, khi họ đã ngồi ở bàn ăn: "Tại sao ông để tôi lại một mình!"

"Tôi nghĩ bà muốn ở một mình."

"Để làm quen với ý nghĩ kia?"

"Nếu bà thích gọi như thế."

"Tôi đã quen với nó trước khi tôi tới văn phòng của ông rồi."

"Tất nhiên rồi. Xin thứ lỗi vì tôi ngụ ý một điểm yếu nào đó của bà. Tôi biết là không phải thế. Nhân tiện, hình như bà chưa hỏi tôi là chúng ta đang đi đâu."

"Nếu tôi hỏi thì nó sẽ lại là một điểm yếu của tôi."

"Đúng. Tôi mừng là bà không bận tâm. Bởi vì tôi chưa bao giờ có đích cụ thể. Chiếc thuyền này không dùng để đi đến, mà để đi khỏi. Khi tôi dừng lại ở một hải cảng thì đó hoàn toàn chỉ bởi sự vui thích tôi sẽ có khi rời khỏi nó. Tôi luôn nghĩ: lại thêm một nơi nữa không thể giữ được ta."

"Tôi từng đi rất nhiều nơi. Tôi cũng luôn có cảm giác đó. Người ta bảo với tôi rằng tôi là một kẻ căm ghét loài người."

"Thật ngớ ngẩn nếu tin vào điều đó, phải không?"

"Tôi không biết."

"Tôi chắc bà thấy rõ sự ngớ ngẩn đó. Ý tôi muốn nói đến những kẻ cho rằng loài lợn là biểu tượng của tinh thần bác ái bởi vì cái giống ăn tạp ấy chấp nhận mọi thứ. Thực ra, những kẻ yêu thương tất cả mọi người và luôn cảm thấy chỗ nào cũng là nhà mới chính là kẻ thực sự căm ghét con người. Hắn không trông đợi điều gì ở con người, nên không có sự suy đồi nào có thể làm cho hắn giận dữ."

"Ông muốn nói tới những người khẳng định rằng bên trong những kẻ tồi tệ nhất vẫn luôn có những phần tốt đẹp?"

"Tôi muốn nói tới những kẻ mang trong mình sự ngạo mạn bẩn thỉu đến mức chúng dám tuyên bố rằng chúng dành cho người làm ra bức tượng của bà và người thổi bong bóng có hình chuột Mickey ở các góc phố sự yêu thương giống hệt nhau. Tôi muốn nói tới những kẻ yêu thường những kẻ thích chuột Mickey hơn bức tượng của bà - và loại ấy thì cso rất nhiều. Tôi muốn nói tới những kẻ yêu Joan of Arc và các cô ả bán quần áo trên đại lộ Broadway với mức độ cuồng nhiệt khác nhau. Tôi muốn nói tới những kẻ yêu vẻ đẹp của bà và yêu những người đàn bà hắn gặp trong toa xe điện ngầm - loại đàn bà không chịu bắt chéo chân khi ngồi và khoe da thịt hở hang ở ngay chỗ trên nịt tất - với cùng sự vui thích như nhau. Tôi muốn nói tới những kẻ dành tình yêu như nhau cho cả đôi mắt chăm chú, không biết sợ hãi của một người đang nhìn qua kính viễn vọng lẫn cái nhìn trống rỗng của một thằng đần. Tôi muố nói tới một đám đông hào phóng và hào hiệp như thế đó. Vậy thì bà mà lại là kẻ ghét con người sao, bà Keating?"

"Ông đang nói tất cả những thứ mà - kể từ lúc tôi bắt đầu có trí nhớ - kể từ lúc tôi bắt đầu nhìn thấy và suy nghĩ - đã luôn..." cô ngừng lại giữa chừng.

"Đã luôn hành hạ bà. Tất nhiên rồi. Người ta không thể yêu con người mà không căm ghét hầu hết những sinh vật dám mạo nhận là con người. Hoặc là thế này hoặc là thế kia. Người ta không thể vừa yêu Chúa và nhạo báng Chúa một cách vô tư được. Chỉ trừ khi họ không biết là họ đang nhạo báng Chúa. Bởi vì họ không biết tới Chúa."

"Ông sẽ nói sao nếu tôi nói với ông câu trả lời mà mọi người nói với tôi - rằng tình yêu có nghĩa là tha thứ?"

"Tôi sẽ nói rằng đó là sự khiếm nhã mà bà không thể làm được - cho dù bà vẫn nghĩ bà là chuyên gia trong việc đó."

"Hoặc là tình yêu có nghĩa là lòng thương hại."

"Thôi nào. Phải nghe thấy những thứ đó đã là tồi tệ rồi. Phải nghe thấy từ miệng bà thì thật là không thể chịu được - cho dù đó chỉ là lời nói đùa."

"Câu trả lời của ông là gì?"

"Rằng tình yêu là thiêng liêng, là thờ phụng, là vinh quang, là ngước mắt lên trên. Nó không phải là miếng gạc che đậy những vết thương bẩn thỉu. Nhưng họ không hiểu được đâu. Những kẻ bạ chỗ nào cũng nói đến tình yêu chính là những kẻ chưa bao giờ cảm thấy nó. Chúng chỉ khuấy một món súp hỗn độn bao gồm sự thông cảm, tình thương, sự coi thường và thái độ lãnh đạm chung chung - và chúng gọi là tình yêu. Một khi bà cảm thấy được tình yêu đúng như tôi và bà biết về nó - tình yêu như lòng say mê tuyệt đối với một đỉnh cao tuyệt đối - bà sẽ không thể chấp nhận thứ gì ít hơn thế."

"Như ông và tôi biết về nó?"

"Nó là những gì chúng ta cảm thấy khi chúng ta nhìn vào một thứ như bức tượng của bà. Không có tha thứ trong đó, và không có thương hại. Và tôi muốn giết chết kẻ nào dám tuyên bố rằng cần có những cái đó. Nhưng bà biết đấy, khi hắn nhìn vào tượng của bà, hắn sẽ chẳng cảm thấy gì cả. Bức tượng đó - hay một con chó bị gẫy chân - đều như nhau đối với hắn. Hắn thậm chí còn cảm thấy hắn đã làm một điều gì đó cao quý hơn khi băng bó chân cho con chó thay vì ngắm nhìn bức tượng bà. Vì thế nếu bà tìm kiếm bóng dáng của sự vĩ đại, nếu bà muốn sự thăng hoa, nếu bà đòi hỏi Chúa trời và từ chối việc rửa những vết thương như vật thay thế - thì bà sẽ bị gọi là kẻ căm ghét nhân loại, bà Keating ạ, bởi vì bà đã mắc cái tội biết đến một tình yêu mà nhân loại không xứng đáng được nhận."

"Ông Wynand, ông đã đọc bài báo khiến tôi bị thải hồi chưa?"

"Chưa. Lúc đó tôi không đọc. Bây giờ thì tôi không dám."

"Tại sao?"

Ông tảng lờ như không nghe thấy câu hỏi. Ông mỉm cười nói:

"Thế đấy, bà đã tìm đến chỗ tôi và bà nói 'Ông là kẻ nhiều tội lỗi nhất thế gian - hãy chiếm lấy tôi để tôi có thể biết tự khinh bỉ mình. Tôi thiếu thứ mà hầu hết mọi người đều sống nhờ nó. Họ cho rằng cuộc sống là thứ có thể chịu đựng được trong khi tôi thì không thể'. Bây giờ thì bà thấy bà đã thể hiện cái gì chưa?"

"Tôi không nghĩ là ông có thể nhận ra được nó."

"Không. Tất nhiên là chủ bút tờ Ngọn cờ New York thì không thể nhận ra. Cũng không sao. Tôi cũng đã tưởng rằng tôi sẽ gặp một bà gái điếm xinh đẹp và là bạn của Ellsworth Toohey."

Họ cùng phá ra cười. Cô nghĩ thật lạ lùng khi họ có thể nói chuyện với nhau một cách thoải mái - như thể ông đã quên mất mục đích của chuyến đi này. Sự bình thản của ông đã lan tỏa sang cô, trở thành cảm giác bình yên được cả hai chia sẻ.

Cô ngắm bữa tối của họ được phục vụ một cách kín đáo và lịch thiệp, cô ngắm tấm khăn trải bàn màu trắng nổi lên trên nền đỏ sẫm của bức tường bằng gỗ gụ. Tất cả mọi thứ trên thuyền đều khiến cô nghĩ đây là nơi sang trọng thực sự đầu tiên mà cô từng đến: ở nơi này, sự sang trọng chỉ là thứ yếu, là tấm phông nền phù hợp với ông đến nỗi người ta có thể quên mất sự sang trọng. Người đàn ông này làm cho tài sản vật chất của ông trở nên khiêm nhường. Cô từng gặp nhiều người giàu có, họ cứng nhắc và kính sợ trước của cải vật chất - cái mà họ lấy làm mục đích tối hậu của đời họ. Vẻ lịch lãm của nơi này không phải là mục đích, cũng không phải là thành quả cuối cùng đối với người đàn ông đang tựa người một cách thoải mái ở phía bên kia bàn. Cô tự hỏi thế thì mục đích của ông là gì.

"Con tàu này hợp với ông", cô nói.

Cô nhìn thấy sự hài lòng trong ánh mắt ông - và cả sự biết ơn nữa.

"Cảm ơn bà... Thế còn gallery thì sao?"

"Cũng thế. Chỉ có điều việc đó thì khó bào chữa hơn."

"Tôi không muốn bà bào chữa cho tôi." Ông nói đơn giản, không có vẻ trách móc.

Họ đã kết thúc bữa tối. Cô chờ đợi cái lời mời hiển nhiên. Nó không tới. Ông ngồi hút thuốc, nói chuyện về du thuyền và về đại dương.

Tay cô đặt tình cờ lên trên khăn trải bàn, gần phía ông. Cô nhìn thấy ông ngắm nó. Cô muốn bỏ tay ra xa nhưng tự ép mình để nguyên tại chỗ. Đến lúc rồi đây, cô nghĩ.

Ông đứng dậy. "Chúng ta lên boong nào", ông nói.

Họ đứng trên lan can và nhìn vào khoảng không tối đen. Không thể nhìn thấy khoảng không ấy, chỉ có thể cảm thấy nó thông qua luồng không khí phả vào mặt họ. Một vài ngôi sao đem lại sự sống cho bầu trời trống rộng. Vài đốm sáng trắng nhỏ nhấp nháy trên mặt nước mang lại sức sống cho đại dương.

Ông đứng yên, thõng người xuống một cách bất cẩn, một cánh tay đưa lên, nắm vào một cái cột. Cô nhìn thấy những đốm sáng dập dờn, tạo thành những làn sóng uốn lượn theo những đường nét thân thể ông.

Cả cái đó nữa - nó cũng hợp với ông.

Cô nói: "Liệu tôi có thể nhắc tới một câu sáo rỗng khác mà ông cũng chưa từng cảm thấy không?"

"Câu nào thế?"

"Ông chưa từng cảm thấy mình bé nhỏ khi ngắm nhìn đại dương."

Ông cười. "Chưa bao giờ. Kể cả khi nhìn vào các hành tinh. Kể cả khi đứng trên các đỉnh núi. Kể cả ở Grand Canyon. Tại sao tôi lại phải cảm thấy thế nhỉ? Khi tôi ngắm đại dương, tôi cảm nhận sự vĩ đại của con người, tôi nghĩ tới khả năng kỳ diệu của con người khi tạo ra con tàu này để chinh phục những khoảng trống vô nghĩa. Khi tôi nhìn vào các đỉnh núi, tôi nghĩ tới các đường hầm và thuốc nổ. Khi tôi nhìn vào các hành tinh, tôi nghĩ tới máy bay."

"Đúng. Và cả cái cảm giác hạnh phúc thiêng liêng mà người ta vẫn nói là họ cảm nhận được khi ngắm nhìn thiên nhiên. Tôi chưa bao giờ nhận được nó từ thiên nhiên, chỉ trừ..." Cô dừng lại.

"Từ đâu?"

"Các tòa nhà," cô thầm thì "các tòa nhà chọc trời."

"Tại sao vừa rồi, bà không muốn nói ra điều này?"

"Tôi... không biết."

"Tôi sẵn sàng đánh đổi cảnh hoàng hôn huy hoàng nhất trên thế giới này lấy một lần nhìn thấy quang cảnh thành phố New York. Nhất là khi người ta không thể nhìn được các chi tiết. Chỉ còn lại những đường nét thôi. Nhưng đường nét và ý tưởng tạo ra chúng. Bầu trời New York và ý chí của con người. Chúng ta còn cần tới tôn giáo nào khác nữa? Thế mà người ta lại còn nói với tôi về những chuyến hành hương tới những lỗ sâu bọ tối tăm nào đó trong một khu rừng, nơi họ đến quỳ lạy trước một ngôi đền đổ nát, trước một con quái vật bằng đsa có cái nhìn dâm dật và cái bụng to tướng do một thằng man rợ cùi hủi nào đó nặn ra. Có thực là họ muốn ngắm nhìn vẻ đẹp và tài năng không? Họ có muốn tìm kiếm cảm giác về cái siêu phàm không? Hãy để họ tới New York và đứng trên bờ sông Hudson, hãy để họ nhìn và quỳ gối... Khi tôi nhìn thành phố từ cửa phòng mình - không, tôi không cảm thấy mình bé nhỏ chút nào - mà tôi cảm thấy nếu như có một cuộc chiến tranh nào đó đe doạ cái tôi đang thấy, tôi sẵn sàng lao mình vào khoảng không phía trên thành phố và bảo vệ những tòa nhà đó bằng chính thân thể tôi."

"Gail, tôi không biết có phải tôi đang nghe ông nói hay nghe chính tôi nói."

"Có phải bà vừa nghe chính mình nói không?"

Cô mỉm cười. "Thật ra thì không. Nhưng tôi không lấy lại những lời vừa rồi đâu, Gail."

"Cảm ơn, Dominique." Giọng ông nhẹ và vui vẻ. "Nhưng chúng ta không nói về bà hay về tôi. Chúng ta đang nói về những người khác." Ông dựa cả hai cánh tay lên lan can, ông nói trong khi ngắm nhìn những ánh sáng lấp lánh trên mặt nước. "Thật thú vị khi được thử đoán xem tại sao một người lại sẵn sàng hạ thấp mình như thế. Những thứ kiểu như cảm giác nhỏ bé khi đứng trước thiên nhiên. Nó không phải một câu nói sáo rỗng nhạt nhẽo, nó thực sự đã trở thành một thể chế mà người ta tin vào. Bà có nhận thấy giọng của một người tự tin thế nào khi anh ta nói điều đó với bà? Dường như anh ta bảo, nghe này, tôi rất sung sướng được là một kẻ tầm thường, tôi đức hạnh thế đấy. Bà chắc đã nghe tới chuyện người ta sung sướng ra sao khi nhắc lại chuyện một nhân vật nổi tiếng nào đó tuyên bố rằng anh ta cảm thấy mình không còn vĩ đại khi nhìn vào thác Niagra? Cứ như thể họ đang cắn môi sung sướng khi thấy những kẻ giỏi giang nhất cũng chỉ còn là cát bụi trước sức mạnh khủng khiếp của một trận động đất. Cứ như thể họ đang bò bằng cả tứ chi và đập đầu xuống bùn trước sự hùng vĩ của một cơn lốc xoáy.

Nhưng đó đâu phải là thứ tinh thần đã thuần hóa được lửa, hơi nước, điện, đã vượt đại dương trên những chiếc thuyền một buồm, chế tạo máy bay và xây dựng các đập nước... Và các tòa nhà chọc trời. Họ sợ cái gì thế? Họ ghét cái gì đến thế, những kẻ luôn luôn muốn bò ấy? Và tại sao?"

"Khi tôi tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi đó," cô nói, " tôi sẽ hoà giải được với thế giới này."

Ông tiếp tục nói - về những chuyến đi của ông, về các lục địa ở ngoài bóng tối đang bao phủ họ - thứ bóng tối làm từ khoảng trống, giống như một tấm rèm mềm mại đang ấn vào mi mắt của họ. Cô chờ đợi. Cô ngừng trả lời. Cô cho ông cơ hội sử dụng khoảng im lặng ngắn ngủi để kết thúc việc này, để nói ra những lời mà cô đang chờ đợi. Ông không nói những lời đó.

"Bà có mệt không, bạn thân mến của tôi?" ông nói.

"Không."

"Tôi sẽ lấy cho bà một cái ghế tựa nếu bà muốn ngồi."

"Không. Tôi thích đứng ở đây hơn."

"Bây giờ hơi lạnh. Nhưng tới ngày mai, chúng ta sẽ ở sâu dưới phía nam rồi và bà sẽ thấy đại dương bốc cháy trong đêm. Cảnh tượng đó rất đẹp."

Ông im lặng. Cô lắng nghe tiếng tàu chạy lẫn trong âm thanh của nước và tiếng than vãn xào xạc của nước như để phản đối cái vật thể đang đâm xuyên qua nó như một vết thương.

"Khi nào chúng ta sẽ xuống phòng ngủ."

"Chúng ta sẽ không xuống phòng ngủ."

Ông nói lặng lẽ, với một vẻ đơn giản đến kỳ quặc, như thể ông đang bất lực trước một hiện thực mà ông không thể thay đổi.

"Em sẽ cưới tôi chứ?" ông hỏi.

Cô không thể ngăn được sự kinh ngạc của mình. Ông đã biết trước, ông mỉm cười lặng lẽ, thấu hiểu.

"Tốt nhất là em đừng nói gì cả." Ông nói một cách thận trọng. "Nhưng em muốn nghe nó được nói ra, bởi vì sự im lặng giữa chúng ta hàm chứa nhiều hơn những gì mà tôi có quyền hy vọng. Em không muốn nói ra với tôi, nhưng vì tôi đã nói hộ em tối nay, nên hãy để tôi tiếp tục giúp em. Em lựa chọn tôi như là một biểu tượng về sự khinh bỉ của em đối với con người. Em không yêu tôi. Em không muốn cho tôi gì cả. Tôi chỉ là công cụ để em tự hủy hoại mình. Tôi biết tất cả. Tôi chấp nhận nó và tôi muốn em cưới tôi. Nếu em muốn thực hiện một hành động kinh khủng nào đó để trả thù thế giới thì hành động đó không phải là bán mình cho kẻ thù mà là cưới hắn. Không phải là dùng phần tồi tệ của mình để đáp lại sự tồi tệ của hắn mà dùng phần tồi tệ của mình để đáp lại phần tốt nhất của hắn. Em đã thử việc đó một lần nhưng nạn nhân của em không xứng đáng cho mục đích của em. Em thấy đấy, tôi đang bào chữa cho mình bằng những lý lẽ của chính em. Về phần tôi, điều tôi muốn có được từ cuộc hôn nhân này không có gì quan trọng với em cả và tôi sẽ không làm bận tâm em. Em không cần biết về nó. Em không phải nghĩ đến nó. Tôi không đòi hỏi một sự hứa hẹn nào cả, không bắt em phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ nào. Em có toàn quyền tự do rời bỏ tôi bất cứ khi nào em muốn. Nhân tiện - vì điều này không quan trọng gì với em nên tôi sẽ nói - tôi yêu em."

Cô đứng nguyên, một tay vòng ra sau lưng, các ngón tay áp vào lan can. Cô nói:

"Tôi không muốn như vậy."

"Tôi biết. Nhưng nếu em tò mò về nó, tôi sẽ nói với em là em đã mắc một sai lầm. Em đã để cho tôi nhìn thấy con người trong sạch nhất mà tôi từng gặp."

"Chẳng phải điều đó thật lố bịch sao, sau cái lý do mà chúng ta gặp nhau?"

"Dominique, tôi đã dành cả đời mình để giật dây cái thế giới này. Tôi đã thấy tất cả. Chả nhẽ em lại nghĩ rằng tôi có thể tin vào bất cứ sự trong sạch nào - trừ khi nó đến với tôi một cách méo mó dưới một hình dạng đáng sợ như em đã chọn? Nhưng việc tôi cảm thấy gì không được phép ảnh hưởng tới quyết định của em."

Cô đứng đó nhìn vào ông và hoài nghi nhớ lại những giờ đã trôi qua. Miệng cô có đường nét dịu dàng. Ông nhận thấy điều đó. Cô nghĩ tất cả những lời ông nói hôm nay đều là lời của cô; lời đề nghị của ông và cách ông đề nghị cũng thuộc về thế giới riêng của cô; ông đã tự phá hủy mục đích của ông bằng lời đề nghị đó; ông đã lấy đi của cô thứ động cơ mà ông vừa nhắc tới; ông làm cho cô không thể hạ thấp mình với một người có thể nói ra được tất cả những gì như ông vừa nói. Đột nhiên, cô muốn vươn tay ra tới ông, muốn nói với ông tất cả, muốn tìm lấy sự giải thoát trong chốc lát từ sự thấu hiểu của ông, rồi xin ông đừng bao giờ gặp cô nữa.

Nhưng cô chợt nhớ ra...

Ông nhận ra cử động của bàn tay cô. Các ngón tay cô không còn bíu chặt lấy lan can nữa, nó không còn cần sự hỗ trợ nữa và ông hiểu giây phút vừa rồi có ý nghĩa rất quan trọng; những ngón tay của cô thả lỏng và ôm lấy lan can, như thể cô đã nắm được vào một sợi dây cương nào đó, nắm một cách bất cẩn, bởi vì những gì đang xảy ra không còn đòi hỏi bất cứ sự nỗ lực đáng kể nào nữa.

Cô nhớ tới Đền Stoddard. Cô nghĩ tới người đàn ông ở trước mặt cô, người nói về sự say mê tuyệt đối với đỉnh cao tuyệt đối, về việc bảo vệ các tòa nhà chọc trời bằng thân thể của chính mình - và cô nhìn thấy một tấm ảnh trên trang báo Ngọn cờ New York, hình Howard Roark ngước mắt lên tòa nhà Enright, với dòng chú thích: "Ngài vui sướng chứ, ngài Siêu nhân?"

Cô ngước lên nhìn ông. Cô hỏi: "Cưới ông ư? Trở thành bà Wynand-chủ báo ư?"

Cô nghe thấy sự cố gắng trong giọng nói của ông khi ông trả lời "Phải - nếu em muốn gọi như thế."

"Tôi sẽ cưới ông."

"Cảm ơn em, Dominique."

Cô chờ đợi một cách lãnh đạm.

Khi ông quay người về phía cô, ông nói với cô như ông đã nói trong cả ngày hôm nay, bằng giọng nói bình thản, pha chút vui vẻ.

"Chúng ta sẽ rút ngắn hành trình. Chúng ta sẽ chỉ đi trong một tuần - Tôi muốn giữ em ở đây một thời gian. Em sẽ đi Reno vào ngay sau ngày chúng ta trở lại. Tôi sẽ giải quyết với chồng em. Anh ta sẽ có Stoneridge và bất cứ thứ gì khác anh ta muốn. Quỷ tha ma bắt anh ta đi. Chúng ta sẽ làm đám cưới vào ngày em trở lại."

"Được thôi, Gail. Bây giờ chúng ta hãy xuống phòng ngủ."

"Em có muốn điều đó không?"

"Không. Nhưng tôi không muốn đám cưới của chúng ta trở thành quan trọng."

"Tôi thì muốn nó trở thành quan trọng, Dominique. Đó là lý do tôi sẽ không chạm vào người em trong dêm nay. Không, cho tới khi chúng ta cưới nhau. Tôi biết đó là một cử chỉ vô nghĩa. Tôi biết là lễ cưới sẽ không có ý nghĩa gì với cả hai chúng ta. Nhưng tuân thủ các nghi thức bình thường sẽ là sự bất thường duy nhất có thể có giữa hai chúng ta. Chính vì thế mà tôi muốn nó. Tôi không còn cách nào khác để tạo ra một ngoại lệ."

"Tùy ý ông, Gail."

Rồi ông kéo cô lại gần và hôn vào miệng cô. Nụ hôn như là sự kết thúc câu nói của ông, kết thúc một tuyên ngôn - một tuyên ngôn trang trọng tới mức cô cố gắng căng cứng cả thân thể, để cố gắng không đáp lại nó nhưng rồi cô vẫn thấy cơ thể mình đang đáp lại ông; cơ thể cô quên hết tất thảy, ngoài việc có một người đàn ông đang ôm cô.

Ông buông cô ra. Cô biết là ông nhận ra. Ông mỉm cười và nói:

"Em đang mệt, Dominique. Em đi ngủ đi. Tôi muốn ở lại đây thêm lát nữa."

Cô ngoan ngoãn quay người và bước một mình xuống phòng của cô.

V.

"C

ó chuyện gì thế? Tôi có hợp đồng Stoneridge chứ?" Peter Keating hỏi giật giọng.

Dominique bước vào phòng khách. Keating theo sau, và chờ ở ngoài cửa.

Cậu bé trực thang máy mang hành lý của cô vào rồi đi ra. Cô nói, trong khi tháo găng tay:

"Anh sẽ có Stoneridge, Peter. Ông Wynand sẽ tự nói nốt mọi việc với anh. Ông ấy muốn gặp anh tối nay. Vào lúc tám giờ rưỡi. Tại nhà ông ta."

"Để làm cái quỷ gì?"

"Ông ấy sẽ nói với anh."

Cô đập nhẹ đôi găng tay vào lòng bàn tay, một cử chỉ nhỏ ra dấu kết thúc, như dấu chấm đặt ở cuối câu. Cô quay người để bước ra khỏi phòng. Anh đứng chắn giữa đường cô.

"Tôi không quan tâm", anh nói, "Tôi cóc cần biết. Tôi cũng sẽ chơi trò của các người. Các người mới vĩ đại làm sao? - bởi vì các người cư xử như bọn lái xe tải, cô và lão Gail Wynand? Cần quái gì tới lịch sự, cần quái gì tới cảm xúc của người khác? Được, tôi cũng có thể làm như thế. Tôi sẽ sử dụng cả hai người và tôi sẽ có cái mà tôi muốn - tôi chỉ quan tâm có thế thôi. Giờ thì cô thích chứ? Chẳng được tích sự gì khi con sâu chẳng thèm quằn khi người ta xéo lên nó? Mất vui rồi hả?"

"Tôi nghĩ như thế tốt hơn đấy, Peter. Tôi thấy mừng."

Anh thấy mình không thể giữ được thái độ đó khi bước vào phòng làm việc của Wynand vào buổi tối hôm đó. Anh không sao thoát khỏi cảm giác sợ hãi khi được Gail Wynand cho phép vào nhà. Từ lúc bước vào phòng cho đến lúc ngồi xuống bàn làm việc, anh không cảm thấy gì ngoài cảm giác về sức nặng, và anh tự hỏi liệu chân mình có để lại dấu vết gì trên tấm thảm mềm, giống như đôi chân gắn thêm chì của một thợ lặn sâu.

"Việc mà tôi sẽ phải nói với ông, ông Keating, lẽ ra không cần phải được nói ra hoặc phải làm." - Wynand nói.

Keating chưa bao giờ nghe thấy ai nói với sự tự chủ như vậy. Anh có ý nghĩ ngớ ngẩn là dường như Wynand đang dùng tay mình giữ chặt giọng nói của ông ta và điều khiển từng âm tiết phát ra.

"Bất cứ lời nói thêm nào của tôi cũng sẽ khiến ông cảm thấy bị xúc phạm, do đó tôi sẽ nói ngắn gọn. Tôi sẽ cưới vợ ông. Cô ấy sẽ đi Reno vào ngày mai. Đây là hợp đồng Stoneridge. Tôi đã ký nó. Kèm theo đây là tấm séc 250.000 đôla. Đây là số tiền ngoài số mà ông sẽ nhận được cho công việc theo hợp đồng. Tôi sẽ rất cảm kích nếu lúc này ông không bình luận bất kỳ điều gì. Tôi cho rằng tôi có thể nhận được sự đồng ý của ông với cái giá thấp hơn nhưng tôi không muốn kỳ kèo làm gì. Nếu chúng ta kỳ kèo với nhau thì việc này sẽ càng trở nên không thể chấp nhận được. Do đó, ông có thể làm ơn cầm những cái này và coi như vấn đề này đã được giải quyết xong?"

Ông đưa tờ hợp đồng ngang qua bàn. Keating nhận ra hình chữ nhật màu xanh nhạt ở góc tò séc được gắn với trang hợp đồng bằng một cái ghim. Chiếc ghim ánh lên màu bạc dưới ánh sáng ngọn đèn bàn.

Keating không đưa tay cầm tờ giấy. Anh nói, cằm anh cử động một cách khó khăn để tìm lời:

"Tôi không muốn nó. Ông có thể có được sự đồng ý của tôi mà không mất gì cả."

Anh nhận thấy ánh mắt kinh ngạc - và gần như là thiện cảm - trên mặt Wynand.

"Ông không muốn nó ư? Ông không muốn cả Stoneridge?"

"Tôi muốn Stoneridge!" Tay Keating vươn ra và giật lấy tờ giấy "Tôi muốn tất cả! Tại sao ông thì lại được phép làm thế? Tại sao tôi lại phải quan tâm?"

Wynand đứng dậy. Ông nói, giọng nhẹ nhõm và tiếc nuối:

"Phải, ông Keating. Suýt nữa ông đã xứng đáng với cuộc hôn nhân của ông. Giờ thì thế nhé. Chúc ông ngủ ngon."

Keating không về nhà. Anh đi bộ tới căn hộ của Neil Dumont, nhà thiết kế mới và là bạn thân nhất của anh. Neil Dumont là một anh chàng xuất thân trong giới thượng lưu có thân hình cao lêu đêu và da nhợt nhạt; đôi vai anh ta sụm xuống như thể phải chịu đựng sức đè của bao đời tổ tiên danh giá. Anh ta không phải là nhà thiết kế giỏi, nhưng anh ta có nhiều mối quan hệ; anh ta khúm núm với Keating tại văn phòng còn Keating thì khúm núm với anh ta sau giờ làm việc.

Anh gặp Dumont tại nhà. Họ rủ thêm Gordon Prescott và Vicent Knowlton và định chơi bời cả đêm. Keating không uống nhiều. Anh trả tiền cho tất cả. Anh trả nhiều hơn số cần thiết. Anh có vẻ sốt sắng được trả tiền cho mọi thứ. Anh trả những khoản tiền boa hậu hĩnh. Chốc chốc anh lại hỏi: "Chúng ta là bạn bè, chúng ta là bạn bè phải không?" Anh nhìn vào những ly rượu ở xung quanh mình, và thấy các tia sáng nhảy nhót bên trong ly rượu. Anh nhìn vào ba cặp mắt, chúng lờ mờ, nhưng thỉnh thoảng chúng lại hướng vào anh với vẻ mãn nguyện. Chúng dịu dàng và dễ chịu làm sao.

*

* *

Tối hôm đó, sau khi các hành lý của cô đã được sắp xếp và để sẵn trong phòng của cô, Dominique đến gặp Steven Mallory.

Cô đã không gặp Roark trong hai mươi tháng qua. Thỉnh thoảng cô tới thăm Mallory. Mallory biết rằng các chuyến thăm này là những khoảnh khắc suy sụp trong trận chiến đấu mà cô không nêu tên; anh biết cô không muốn đến và những buổi tối hiếm hoi của anh với cô là những thời khắc bị dứt ra khỏi cuộc đời cô. Anh chưa bao giờ hỏi cô và anh luôn vui mừng được gặp cô. Họ nói chuyện với nhau một cách lặng lẽ, với cảm giác thân thuộc như một đôi vợ chồng già, như thể anh từng sờ hữu thân thể cô và đã từ lâu không còn ngạc nhiên với nó nữa, như thể chẳng còn lại gì ngoài cảm giác thân mật quen thuộc. Anh chưa bao giờ chạm vào thân thể cô, nhưng anh đã sở hữu nó theo một lối sở hữu sâu sa hơn khi anh tạc tượng cô, và họ không thể đánh mất cảm giác đặc biệt về nhau mà việc tạc tượng đã đem lại.

Anh mỉm cười khi anh mở cửa và nhìn thấy cô.

"Chào Dominique."

"Chào Steve. Làm phiền anh không?"

"Không đâu. Vào đi."

Anh có một cái studio - đấy là một chỗ ở tồi tàn trong một tòa nhà cũ kỹ. Cô nhận thấy có những thay đổi so với chuyến thăm lần trước. Căn phòng giờ có không khí của tiếng cười, như một hơi thở bị kìm nén quá lâu giờ mới được thoát ra. Cô nhìn những đồ nội thất mua lại, một tấm thảm phương Đông có hoa văn hiếm thấy và màu sắc sặc sỡ, chiếc gạt tàn bằng ngọc bích, các mảnh vụn điêu khắc khai quật từ các hiện trường khảo cổ - bất kỳ thứ gì mà anh muốn giữ lại và giờ có được nhờ khoản tiền bất ngờ đến từ các giao dịch với Wynand. Các bức tưùơng trông trơ trụi một cách lạ lùng phía trên đám đồ vật hỗn tạp vui vẻ đó. Anh không mua một bức tranh nào. Một bản vẽ duy nhất được treo trong căn hộ của anh - đó là phiên bản đầu tiên của Đền Stoddard mà Roark vẽ.

Cô nhìn chậm rãi xung quanh mình, để ý từng đồ vật và lý do cho sự có mặt của nó. Anh đá hai cái ghế về phía lò sưởi và họ ngồi xuống, mỗi người một bên của lò sưởi.

Anh nói một cách giản dị:

"Clayton, Ohio."

"Việc gì?"

"Một tòa nhà mới cho Cửa hàng Bách hoá Janer. Năm tầng. Trên phố Main. "

"Anh ấy ở đó bao lâu rồi?"

"Khoảng một tháng."

Đó là câu hỏi đầu tiên mà anh trả lời mỗi khi cô tới chỗ anh, không chờ cô hỏi nó. Sự thoải mái của anh khiến cô không cần phải giải thích hay giả vờ gì, anh cũng không kèm theo nhận xét nào cả.

"Em sẽ đi xa vào ngày mai, Steve."

"Bao lâu?"

"Sáu tuần. Tới Reno."

"Anh rất vui."

"Bây giờ, em chưa muốn nói với anh em sẽ làm gì khi trở lại. Anh sẽ không vui đâu."

"Anh sẽ cố gắng vui - nếu đó là điều em muốn làm."

"Đó là điều em muốn làm."

Một thanh củi vẫn còn nguyên hình dạng trên đống than ở trong lò sưởi; nó tách ra thành những hình chữ nhật nho nhỏ và tỏa sáng mà không cháy, giống như một dãy cửa sổ thắp sáng đứng cạnh nhau. Anh cúi mình và quẳng thêm một thanh củi mới vào đám than. Nó làm dãy cửa sổ gãy làm đôi và bắn thẳng các tia lửa lên những viên gạch đầy bồ hóng.

Anh nói về công việc của mình. Cô lắng nghe, như thể cô là một di dân được nghe thấy tiếng mẹ đẻ của mình trong chốc lát.

Khi anh ngừng lại giữa chừng, cô hỏi:

"Anh ấy thế nào hả Steve?"

"Vẫn thế. Anh ấy không thay đổi, em biết đấy."

Anh đá vào thanh củi. Một vài viên than rơi ra ngoài. Anh đẩy chúng trở lại. Anh nói:

"Anh vẫn nghĩ anh ấy là người duy nhất trong chúng ta sẽ đạt được sự bất tử. Anh không nói bất tử theo nghĩa danh vọng và anh cũng không nói là anh ấy sẽ không chết, một ngày nào đó. Nhưng anh ấy sống với sự bất tử. Anh nghĩ người như anh ấy mới là hiện thân chính xác của từ này. Em biết đó, mọi người đều mong được bất tử. Nhưng họ chết đi cùng với mỗi ngày trôi qua. Khi em gặp họ, họ không còn giống như lần em gặp trước đó. Với mỗi giờ trôi qua, họ lại giết đi một phần trong chính mình. Họ thay đổi, họ bác bỏ, họ mâu thuẫn - và họ gọi đó là trưởng thành. Và cuối cùng sẽ chẳng còn lại gì cả, chẳng còn gì chưa từng bị đảo ngược hay chưa bị phản bội, như thể chưa từng tồn tại một thực thể mà chỉ là một dãy các tính từ nối tiếp nhau hiện lên rồi mờ đi trên một mớ vật chất hỗn độn. Làm sao họ có thể mong đợi một sự vĩnh cửu khi họ chưa bao giờ giữ nguyên một cái gì dù chỉ trong khoảnh khắc? Nhưng với Howard - người ta có thể nghĩ là anh tồn tại mãi mãi."

Cô ngồi nhìn vào lò sưởi. Ngọn lửa tạo ra một vẻ sống động không có thực trên khuôn mặt cô.

Một lát sau, anh hỏi: "Em có thích những thứ anh mới có không?"

"Em thích chúng. Em thích việc anh có chúng."

"Anh chưa kể với em về chuyện xảy ra với anh sau lần anh gặp em nhỉ. Một việc không thể nào tin được. Gail Wynand..."

"Có, em biết chuyện đó."

"Em biết à? Wynand, trong số tất cả mọi người - làm thế nào mà ông ta lại phát hiện ra anh?"

"Em biết cả chuyện đó nữa. Em sẽ nói với anh khi em trở lại..."

"Ông ta có khiếu thẩm mỹ rất tuyệt. Rất tuyệt đối với một người như ông ta. Ông ta mua những tác phẩm tuyệt nhất."

"Phải, như thế mới đúng là ông ấy."

Rồi cô hỏi, không cần chuyển tiếp, nhưng anh biết là cô không nói về Wynand.

"Steve, có bao giờ anh ấy hỏi anh về em không?"

"Không."

"Có bao giờ anh nói với anh ấy là em đến đây?"

"Không."

"Vì em à, Steve?"

"Không. Vì anh ấy."

Anh biết là anh đã nói với cô tất cả những gì cô muốn biết.

Cô nói trong khi đứng dậy: "Chúng ta uống trà nhé. Chỉ cho em chỗ anh để các thứ. Em sẽ pha trà."

*

* *

Dominique đi Reno vào sáng sớm. Keating vẫn đang ngủ và cô không đánh thức anh để chào tạm biệt.

Khi anh mở mắt, anh biết là cô đã đi, trước khi anh nhìn vào đồng hồ. Chính sự yên lặng trong nhà làm anh biết điều đó. Anh nghĩ lẽ ra anh nên nói "Thế là thoát nợ", nhưng anh không nói thế và cũng không cảm thấy thế. Cảm giác của anh là một câu nói trống trải, không cảm xúc và không có đối tượng - "Chẳng ích gì." Câu nói không liên quan tới anh hay tới Dominique. Anh đang ở một mình và không cần phải giả vờ gì cả.

Anh nằm trên giường, ngửa người, hai tay dang ra một cách bất lực. Khuôn mặt anh khiêm nhường và đôi mắt hoang mang. Anh có cảm giác về sự kết thúc và cái chết, nhưng không phải vì anh mất Dominique.

Anh đứng dậy và mặc đồ. Trong phòng tắm, anh tìm thấy chiếc khăn tay cô đã dùng và bỏ đi. Anh nhặt nó lên, áp mặt vào nó và giữ trong một lúc lâu, không phải trong cảm giác đau khổ mà là một cảm xúc không tên, không hiểu rõ. Anh biết anh chỉ yêu cô có hai lần duy nhất - đó là tối hôm Toohey gọi điện và lúc này đây.

Sau đó, anh xòe các ngón tay và để chiếc khăn trượt xuống sàn, giống một thứ chất lỏng chảy qua các kẽ ngón tay.

Anh đi đến văn phòng và làm việc như mọi khi. Không ai biết tới chuyện ly hôn của anh và anh không muốn thông báo cho ai cả. Neil Dumont nháy mắt với anh và nói lè nhè:

"Peter, trông cậu đang rất hưng phấn." Anh nhún vai và xoay lưng. Nhìn thấy Dumont hôm nay khiến anh thấy buồn nôn.

Anh rời văn phòng sớm. Một bản năng mơ hồ thúc đẩy anh, lúc đầu chỉ như một cơn đói, rồi nó dần dần hiện hình.Anh phải gặp Ellsworth Toohey. Anh phải tới chỗ Ellsworth Toohey. Anh cảm thấy như mình là kẻ sống sót trong một vụ đắm tàu, đang bơi tới ánh sáng ở phía xa xa.

Tối hôm đó, anh lê mình tới căn hộ của Ellsworth Toohey. Khi anh bước vào, anh cảm thấy hơi mừng vì sự tự chủ của mình, vì Toohey có vẻ không nhận ra điều gì trên khuôn mặt anh.

"À, chào Peter", Toohey nói vui vẻ: "Cảm giác về giờ giấc của anh thật chẳng đáng ngưỡng mộ tí nào. Anh đến đúng vào một buổi tối tồi tệ nhất có thể có. Đang bận kinh khủng. Nhưng đừng có ngại. Bạn bè để làm gì ngoài những lúc cần. Ngồi xuống đi, ngồi xuống đi. Tôi sẽ tiếp chuyện anh ngay đây."

"Tôi xin lỗi, Ellsworth. Nhưng... tôi phải tới."

"Cứ tự nhiên nhé. Cứ để mặc tôi trong một phút nữa thôi."

Keating ngồi và chờ đợi. Toohey đang làm việc, ông đang ghi chú lên các trang giấy đánh máy chữ. Ông gọt một chiếc bút chì, tiếng gọt nghiến ken két như tiếng lưỡi cưa cưa ngang óc Keating. Ông gập người lần nữa trên trang giấy, thỉnh thoảng lại lật giấy sột soạt.

Nửa tiếng sau, ông đẩy các tờ giấy sang một bên và mỉm cười với Keating. "Xong rồi", ông nói. Keating hơi chồm người về phía trước. "Cứ ngồi yên", Toohey nói, "tôi còn phải gọi một cú điện thoại nữa."

Ông quay số điện của Gus Webb. "Chào Gus", ông nói vui vẻ "Anh khoẻ chứ, anh bạn quảng cáo dụng cụ tránh thai di động?" Keating chưa bao giờ nghe thấy giọng thân mật thoải mái như thế từ Toohey - thứ giọng đặc biệt của tình bằng hữu và nó cho phép người ta được ủy mị. Anh nghe thấy chất giọng kim khí của Webb nói một cái gì đó và cười to trong ống nghe. Tiếp đó vang lên những tiếng nói ríu rít từ tít sâu trong ống, như thể người kia đang làm sạch cổ họng. Anh không nghe được những từ cụ thể, chỉ cảm nhận được đặc tính chung của chúng - phóng túng và tự mãn, thỉnh thoảng lại có những tiếng rít cao vui vẻ.

Toohey dựa lưng vào ghế, nghe và cười nửa miệng "Phải", thỉnh thoảng ông nói, "ừ ừ... Cậu nói đúng rồi... Chắc chắn rồi..." Ông ngã người sâu hơn về phía sau và đặt một chân đang đi một chiếc giầy mũi nhọn, bóng loáng lên mép bàn.

"Nghe này, anh bạn, tôi muốn nói với anh là hãy chiều lão Basset một thời gian. Tất nhiên là lão ấy thích tác phẩm của cậu nhưng đừng làm lão ấy bị sốc quá trong lúc này. Đừng có quậy, được không? Khóa cái miệng của cậu lại... Cậu biết thừa tôi có thể nói với cậu như thế... Đúng rồi... Chính thế đấy, anh bạn trẻ à... Ồ, lão ấy làm thế à? Tốt rồi, cậu bé... Thế nhé, tạm biệt - à quên, Gus, cậu đã nghe chuyện về quý bà người Anh và tay thợ ống nước chưa?" Tiếp theo là một câu chuyện. Đầu dây bên kia vang lên tiếng kêu khàn khàn vào cuối câu chuyện. "Ừ, cẩn thận cách đi đứng vàn ăn uống, cậu bé. Ngủ ngon."

Toohey đặt ống nghe xuống, và nói "Được rồi, Peter." Ông rướn người, đứng lên, bước tới chỗ Keating và đứng trước mặt anh, hơi rung rung chân, đôi mắt ông sáng và đầy thiện cảm.

"Nào, Peter, có chuyện gì thế? Thế giới sập xuống đầu anh à?"

Keating thò tay vào túi trong và lấy ra một tờ séc màu vàng, nhàu nát, đã được cầm nhiều lần. Nó mang chữ ký của anh và số tiền mười ngàn đôla, với tên người nhận là Ellsworth M.Toohey. Cử chỉ của anh khi anh đưa nó cho Toohey không phải là của một người cho tiền mà là của một kẻ ăn xin.

"Xin ông, Ellsworth... đây... hãy cầm lấy... vì một việc từ thiện nào đấy... cho Hội thảo Nghiên cứu Xã hội... hay cho bất kỳ thứ gì mà ông muốn... ông biết rõ nhất... cho một việc từ thiện nào đấy... Toohey cầm lấy tấm séc bằng đầu các ngón tay, như cầm một đồng xu vấy bẩn, ông nghiêng đầu về một phía, uốn môi như để đánh giá, và ném tờ séc lên mặt bàn.

"Anh thật hào phóng. Thật sự hào phóng. Vì lý do gì thế?"

"Ellsworth, ông có nhớ một lần ông đã nói - rằng dù chúng ta có là ai hay làm gì thì điều đó cũng không quan trọng, miễn là chúng ta giúp đỡ người khác? Đấy mới là điều quan trọng, đúng không? Thế là trong sạch, đúng không?"

"Tôi không nói thế một lần. Tôi nói thế cả triệu lần."

"Và nó thực sự đúng chứ?"

"Tất nhiên là đúng. Nếu người ta có can đảm chấp nhận nó."

"Ông là bạn tôi phải không? Ông là người bạn duy nhất mà tôi có. Tôi... tôi thậm chí không phải là bạn của chính mình nhưng ông là bạn tôi. Của tôi, tôi muốn nói, có phải không, Ellsworth?"

"Tất nhiên rồi. Và nó còn có giá trị hơn là tình bạn của anh với chính mình - một khái niệm khá kỳ quặc nhưng hoàn toàn hợp lý."

"Ông hiểu tôi. Không có ai khác hiểu. Và ông quý mến tôi."

"Rất mực. Và vào bất cứ khi nào tôi có thời gian."

"Hả?"

"Khiếu hài hước của anh, Peter, khiếu hài hước của anh đi đâu mất rồi? Có chuyện gì thế? Anh bị đau bụng à? Hay linh hồn mắc chứng khó tiêu?"

"Ellsworth, tôi..."

"Sao cơ?"

"Tôi không thể nói với ông. Kể cả với ông."

"Anh là thằng hèn, Peter."

Keating nhìn chằm chằm một cách bất lực: giọng nói của Ellsworth vừa nghiêm khắc vừa nhẹ nhàng, anh không biết anh nên cảm thấy đau đớn, nhục nhã hay tin tưởng.

"Anh đến đây nói với tôi là việc anh đã làm không có gì quan trọng - rồi sau đó anh tan nát trước việc gì đó mà anh đã làm. Thôi nào, hãy mạnh mẽ lên và nói rằng nó không quan trọng. Hãy nói rằng bản thân anh cũng chẳng có gì quan trọng. Nói một cách thực sự. Dũng cảm lên. Quên cái tôi bé nhỏ của anh đi."

"Tôi chẳng có gì quan trọng cả, Ellsworth. Tôi không quan trọng. Ôi, lạy Chúa tôi, nếu như tất cả mọi người đều nói được như ông nói. Tôi không quan trọng. Tôi không muốn mình quan trọng."

"Anh có số tiền này từ đâu thế?"

"Tôi đã bán Dominique."

"Anh đang nói về chuyện gì thế? Về chuyến du hành?"

"Chỉ có điều hình như cái mà tôi bán không phải là Dominique."

"Anh quan tâm làm gì nếu như..."

"Cô ấy đã đi Reno."

"Cái gì?"

Anh không hiểu được sự dữ tợn trong phản ứng của Toohey nhưng anh đã quá mệt mỏi để tìm hiểu. Anh kể tất cả mọi thứ đã xảy ra với anh. Không tốn nhiều thời gian để những việc đó xảy ra hay để kể lại chúng.

"Đồ ngốc! Lẽ ra anh không được cho phép chuyện đó."

"Tôi có thể làm gì chứ? Chống lại Wynand ư?"

"Nhưng để cho ông ta lấy cô ta!

"Tại sao không chứ, Ellsworth? Thế còn tốt hơn là..."

"Tôi không nghĩ ra là hắn có thể... nhưng... Ôi, Chúa bắt tôi đi. Tôi còn ngốc hơn cả anh!"

"Nhưng sẽ tốt hơn cho Dominique nếu như..."

"Quên Dominique đi! Tôi đang nghĩ tới Wynand kia."

"Ellsworth, có chuyện gì với ông thế?... Việc gì ông phải quan tâm chứ?"

"Yên nào. Để cho tôi nghĩ."

Một lát sau, Toohey nhún vai, ngồi xuống bên cạnh Keating và vòng tay qua vai anh.

"Tôi xin lỗi, Peter", ông nói. "Tôi xin lỗi. Tôi đã quá thô lỗ với anh. Đó chẳng qua vì cú sốc. Nhưng tôi hiểu anh cảm thấy thế nào. Chỉ có điều anh đừng nên cho nó là quá quan trọng. Nó không có gì quan trọng cả." Ông nói một cách tự động. Đầu óc của ông đang ở một nơi nào xa xăm.

Keating không nhận ra điều này. Anh chỉ nghe thấy các từ ngữ. Chúng là dòng suối trên sa mạc.

"Không có gì quan trọng cả. Anh chỉ là con người thôi mà. Anh muốn là con người. Ai có thể hơn được con người? Ai có quyền ném hòn đá đầu tiên chứ? Chúng ta đều chỉ là con người thôi. Chẳng có gì quan trọng đâu."

*

* *

"Lạy Chúa tôi!" Alvah Scarret nói. "Ông ta không thể! Không phải với Dominique Francon!"

"Ông ấy sẽ," Toohey nói. "Ngay khi cô ấy trở về."

Scarret đã ngạc nhiên khi Toohey mời ông đi ăn trưa nhưng tin ông vừa nghe được đã biến sự ngạc nhiên thành cái gì đó lớn lao và đau đớn hơn.

"Tôi vẫn thích Dominique", Scarret nói, đẩy đĩa ăn của ông sang một bên, ông không còn thấy ngon miệng nữa. "Tôi vẫn luôn thích cô ấy. Nhưng cô ấy mà trở thành bà Gail Wynand!"

"Đó cũng chính là cảm xúc của tôi", Toohey nói.

"Tôi vẫn luôn khuyên ông ấy nên cưới vợ. Sẽ có ích cho ông ấy. Một không khí mới. Một thứ dây bảo hiểm về tư cách, và ông ấy thì rõ là cần đến cái đó. Ông ấy luôn trượt trên băng mỏng. Cho tới giờ thì vẫn chưa hề hấn gì. Nhưng mà Dominique!"

"Tại sao anh lại nghĩ là cuộc hôn nhân này không phù hợp?"

"Hừ... hừ, nó không... Mà ông cũng biết là nó không hợp lý mà!"

"Tôi biết. Còn anh?"

"Thì đấy, cô ấy là loại đàn bà nguy hiểm."

"Đúng thế. Đó là lý do phụ của ông. Còn lý do chính của anh là: Gail Wynand là loại người nguy hiểm."

"Hừ... cũng đúng ở một mức độ nào đó."

"Nhà biên tập đáng kính của tôi ơi, anh hiểu tôi quá rõ rồi mà. Nhưng bây giờ là lúc cần phải hình thành một cái gì đó rõ ràng hơn. Nó sẽ giúp cho sự hợp tsac giữa chúng ta trong tương lai. Anh và tôi có rất nhiều thứ chung - cho dù anh không muốn thú nhận nó. Có thể nói chúng ta là hai biến khúc trên cùng một chủ đề... Hay nếu anh thích nói theo phong cách văn chương của anh, thì chúng ta đi từ hai đầu một sợi dây để vào đến giữa. Nhưng anh chủ thân yêu của chúng ta lại là một tanh khác hẳn. Một lei-motif hoàn toàn khác - anh có nghĩ thế không, Alvah? Anh chủ của chúng ta là một sự cố ở giữa sợi dây của chúng ta. Mà các sự cố thì là những hiện tượng không đáng tin. Anh đã ngồi trên đống lửa nhiều năm rồi, phải không? - ngồi xem Gail Wynand. Thế nên anh hoàn toàn hiểu tôi đang nói tới cái gì. Anh cũng biết là cô Dominique Francon cũng không cùng tanh với chúng ta. Và anh không muốn thấy ảnh hưởng của cô ta len lỏi vào cuộc đời anh chủ chúng ta. Liệu tôi có phải nói việc này một cách thẳng thừng hơn không?"

"Ông khôn ngoan đấy, Ellsworth," Scarret nói một cách nặng nề.

"Điều này rõ ràng từ lâu rồi còn gì."

"Tôi sẽ nói chuyện với ông ấy. Tốt hơn là ông đừng nói - ông ấy ghét ông lắm, nói ông thứ lỗi. Nhưng tôi nghĩ tôi cũng chẳng giúp được gì. Một khi ông ấy đã quyết định rồi."

"Tôi cũng không hy vọng anh có thể làm được gì. Anh có thể thử nếu muốn, mặc dù cũng vô ích thôi. Chúng ta không thể cản đám cưới đó được. Một trong những ưu điểm của tôi là tôi có thể thừa nhận thất bại khi buộc phải thừa nhận nó."

"Nếu thế thì tại sao ông lại...?"

"Lại nói với anh chứ gì? Chỉ là bản năng phải đưa những tin sốt dẻo thôi, Alvah. Đưa tin trước ấy mà."

"Tôi đánh giá cao việc này, Ellsworth. Thực lòng đấy."

"Làm thế là khôn ngoan. Alvah, đừng để mất các tờ báo Wynand một cách dễ dàng thế. Đoàn kết tạo ra sức mạnh. Đúng như anh hay nói."

"Ông có ý gì."

"Ý tôi là chúng ta đang gặp khó khăn, bạn của tôi ạ. Và chúng ta nên hợp tác với nhau."

"Tôi ủng hộ ông, Ellsworth. Tôi vẫn luôn thế mà."

"Không chính xác, nhưng thôi, chúng ta sẽ bỏ qua nó. Chúng ta sẽ chỉ quan tâm tới hiện tại. Và tới tương lai. Để chứng tỏ sự hiểu biết lẫn nhau giữa chúng ta, anh có thể đuổi cổ Jimmy Kearns ngay khi anh có cơ hội không?"

"Tôi nghĩ là ông đã nhắm vào việc đó hàng tháng nay! Có chuyện gì với Jimmy Kearns thế? Cậu ta rất sáng dạ. Người phê bình sân khấu tốt nhất trong thành phố. Cậu ta có đầu óc. Sắc như một ngọn roi. Rất có triển vọng."

"Cậu ta có đầu óc - đầu óc riêng. Tôi không nghĩ là ông lại muốn có thêm một ngọn roi nào nữa ở tòa soạn - ngoại trừ cái roi ông đang cầm. Tôi cũng cho rằng ông nên nghĩ kỹ xem cái triển vọng ấy là triển vọng gì."

"Thế là tôi sẽ lắp ai vào vị trí của cậu ta?"

"Jules Fougler."

"Không đời nào, Ellsworth!"

"Sao lại không nào?"

"Thằng già chó đ... Chúng ta không thể nhận lão ấy."

"Anh có thể nếu anh muốn. Hãy xem tên tuổi của ông ấy."

"Nhưng lão ấy là thằng già bất khả nhất..."

"Rồi, anh không nhất thiết phải nhận lão ta. Chúng ta sẽ thảo luận chuyện đó vào lúc khác. Giờ chỉ cần loại bỏ Jimmy Kearns thôi."

"Nghe này, Ellsworth, tôi không chơi trò thiên vị, tất cả đều như nhau với tôi. Tôi sẽ đá Jimmy nếu ông nói thế. Chỉ có điều, tôi không thấy việc này sẽ làm thay đổi cái gì và nó liên quan gì tới việc chúng ta đang bàn."

"Giờ thì anh không thấy", Toohey nói "Nhưng rồi anh sẽ thấy."

*

* *

"Gail, ông biết là tôi luôn muốn ông được hạnh phúc," Alvah Scarret nói. Ông ngồi trong chiếc ghế bành dễ chịu tại phòng làm việc trong căn hộ Wynand buổi tối hôm đó. "Ông biết là tôi không nghĩ tới điều gì khác cả."

Wynand nằm dài trên tràng kỷ. Một chân của ông gập lại, bàn chân vắt lên đầu gối chân kia. Ông hút thuốc và yên lặng lắng nghe.

"Tôi biết Dominique nhiều năm rồi", Scarret nói "Từ lâu trước khi ông nghe nói tới cô ấy. Tôi yêu quý cô ấy. Tôi yêu quý cô ấy, như một người cha. Nhưng ông phải thừa nhận là cô ấy không phải dạng phụ nữ mà công chúng muốn nhìn thấy với tư cách bà Gail Wynand."

Wynand không nói gì.

"Vợ ông là người của công chúng, Gail. Hiển nhiên sẽ là như thế. Một tài sản công cộng. Các độc giả của ông có quyền đòi hỏi và trông đợi một số thứ từ cô ấy. Một thứ biểu tượng. Kiểu như Nữ hoàng nước Anh. Làm sao mà Dominique có thể tương xứng như thế chứ? Lẽ nào ông nghĩ cô ấy có thể giữ thể diện được? Cô ấy là người sống hoang dã nhất mà tôi biết. Cô ấy tai tiếng kinh khủng. Nhưng tồi nhất là - Gail, ông thử nghĩ coi - cô ấy lại li dị chồng! Và trong khi đó, chúng ta đã tiêu tốn hàng tấn giấy để bảo vệ cho sự thiêng liêng của gia đình và sự thuần khiết của người phụ nữ! Làm sao các độc giả của ông có thể nuốt được quả đắng này? Tôi làm sao có thể bán vợ ông được cho họ chứ?"

"Anh có nghĩ là cuộc chuyện trò này nên chấm dứt không, Alvah?"

"Vâng, Gail", Scarret nói rụt rè...

Scarret chờ đợi, với cảm giác nặng nề, như thể ông vừa trải qua một cuộc tranh cãi kịch liệt và nóng lòng muốn làm lành.

"Tôi biết rồi, Gail!", ông ta reo lên hoan hỉ. "Tôi biết chúng ta có thể làm gì. Chúng ta sẽ đưa Dominique quay lại tờ báo và chúng ta sẽ để cô ấy viết một chuyên mục - một chuyên mục mới - chuyên về gia đình. Ông biết đấy, mẹo vặt về nhà cửa, bếp núc, trẻ con, đại loại thế. Nó sẽ làm thay đổi ấn tượng xấu. Hãy cho thấy cô ấy là người nội trợ tốt thế nào, bất chấp những lỗi lầm của tuổi trẻ của cô ấy. Phụ nữ sẽ tha thứ cho cô ấy. Chúng ta sẽ có một mục đặc biệt. 'Công thức nấu ăn của bà Gail Wynand'. Một vài bức ảnh của cô ấy sẽ có ích - ông biết đấy, váy vải kẻ, tạp dề và tóc được làm theo kiểu truyền thống."

"Im đi, Alvah, trước khi tôi tát vỡ mặt anh", Wynand nói mà không hề cao giọng.

"Được rồi, Gail."

Scarret làm bộ đứng lên.

"Ngồi yên. Tôi chưa nói xong."

Scarret chờ đợi một cách ngoan ngoãn.

"Sáng ngày mai", Wynand nói "anh sẽ gửi một thông báo tới tất cả các tờ báo của chúng ta. Anh sẽ bảo họ lục tìm trong hồ sơ bất cứ bức ảnh nào của Dominique mà liên quan tới chuyên mục cũ của cô ấy. Anh bảo họ hủy các bức ảnh đó. Anh bảo với họ từ nay trở đi nếu có ai đề cập tới tên cô ấy hay đăng hình cô ấy trên bất kỳ tờ báo nào của chúng ta thì toàn bộ ban biên tập liên quan sẽ mất việc. Khi tới thời điểm phù hợp, anh sẽ thông báo về cuộc hôn nhân của tôi trên tất cả các tờ báo của chúng ta. Việc này là không tránh được. Hãy đưa ra thông báo ngắn nhất có thể. Không bình luận. Không kể chuyện. Không ảnh. Hãy nói với tất cả mọi người và nhớ làm cho họ hiểu. Nếu việc này không được tuân thủ, thì tất cả mọi người, kể cả anh, cũng sẽ mất việc."

"Không kể chuyện gì cả - khi mà ông cưới cô ấy ư?"

"Không kể chuyện gì cả, Alvah."

"Nhưng Chúa ơi! Đó là tin tức! Các tờ báo khác..."

"Tôi không quan tâm các tờ báo khác nói gì về việc này."

"Nhưng tại sao hả Gail?"

"Anh không hiểu được đâu."

*

* *

Dominique ngồi ở cửa sổ, lắng nghe tiếng bánh tàu chạy ở dưới sàn. Cô nhìn vùng quê Ohio đang lướt qua trong ánh nắng nhạt dần. Đầu cô tựa vào ghế và đôi tay buông lỏng ở hai bên mình, trên nệm ghế. Cô hòa làm một với toa tàu, cô cũng đang tiến về phía trước, giống như khung cửa sổ, sàn, và thành tàu đang tiến về phía trước. Các góc cạnh xung quanh toa tàu mơ dần, thu bóng tối vào trong; chỉ có khung cửa sổ vẫn còn sáng, nhờ thứ ánh sáng của buổi tối hắt lên từ mặt đất. Cô để mình nghỉ ngơi trong ánh sáng mờ mờ đó; thứ ánh sáng từ ngoài chui vào trong khoang và ngự trị nó, cho tới chừng nào cô còn chưa bật đèn sáng để đuổi nó ra ngoài.

Cô không có ý thức về mục đích. Cô không có mục đích gì trong chuyến đi này, ngoài bản thân chuyến đi, ngoài những chuyển động và âm thanh kim khí đang vang lên xung quanh cô. Cô cảm thấy uể oải và trống rỗng, cô thả rơi cái tôi của mình trong cảm giác suy sụp mà không đau đớn; cô sẵn sàng biến mất và không còn gì còn lại, ngoài mặt đất đang hiện ra bên ngoài cửa sổ.

Khi cô nhìn thấy, trong chuyển động chậm chạp ở ngoài cửa kính, cái tên "Clayton" hiện ra trên một tấm bảng mờ mờ ở phía dưới mái sân ga, cô biết mình đã chờ đợi điều gì. Cô biết tại sao cô lại chọn đi trên chuyến tàu này, không phải một chuyến tàu nhanh, cô biết tại sao cô lại nhìn kỹ thời gian biểu về các điểm dừng của nó - cho dù nó chỉ là một cột những cái tên không có nghĩa gì với cô. Cô cầm lấy va-li, áo khoác và mũ của mình.

Cô chạy. Cô không muốn mất thời gian thay quần áo, cô sợ sàn tàu dưới chân sẽ đưa cô đi tới một nơi nào khác. Cô chạy xúong hành lang hẹp của toa tàu, xuống bực lên xuống của con tàu. Cô nhảy xuống sân ga, cảm thấy hơi lạnh đột ngột của mùa đông trên cổ trần của mình. Cô đứng nhìn nhà ga. Cô nghe thấy tiếng tàu chạy sau lưng cô, xa dần. Rồi cô mặc áo khoác và đội mũ. Cô bước xuyên qua sân ga, tới phòng đợi, xuyên qua sàn nhà bằng gỗ dính đầy kẹo cao su đã khô cứng, xuyên qua hơi nóng hừng hực từ một lò sấy, đi tới quảng trường trước mặt nhà ga.

Cô nhìn thấy một dải trời màu vàng cuối cùng phía trên các mái nhà thấp. Cô thấy một đoạn đường lát gạch lỗ chỗ, những ngôi nhà bé nhỏ dựa vào nhau; một cái cây trơ trụi với những cành xoắn xuýt, đám cỏ dại chết khô phía trước một ga-ra bỏ hoang và mất cả cửa ra vào, dãy cửa hiệu tối tăm, một hiệu thuốc vẫn đang mở cửa nằm tại một góc phố - cửa sổ của nó thắp sáng mờ mờ, thấp lè tè sát mặt đất.

Cô chưa bao giờ đến đây, nhưng cô cảm thấy nơi này đang tuyên bố quyền sở hữu của nó với cô, bao bọc lấy cô bằng một sự thân mật đáng ngại. Cứ như thể mỗi một khoảng tối đều đang thể hiện sức hút của nó, giống như lực hút của lỗ đen với các hành tinh trong vũ trụ, và chúng chi phối quỹ đạo chuyển động của cô. Cô đặt tay mình lên một bình cứu hỏa và cảm thấy hơi lạnh lan qua lớp găng tay, thấm vào da cô. Đây là cách mà thị trấn này nói chuyện với cô - bằng một sự xâm nhập trực tiếp mà cả quần áo lẫn đầu óc của cô đều không thể cản được. Chỉ có sự yên bình của cái-không-thể-tránh-khỏi là ở lại. Có điều, bây giờ, cô phải hành động, những hành động đơn giản và đã được sắp đặt trước rồi. Cô hỏi một người qua đường: "Công trường của Bách hóa Janer được xây dựng ở chỗ nào vậy?"

Cô bước đi nhẫn nại qua các con phố tối tăm. Cô đi qua những bãi cỏ trơ trụi trong mùa đông, qua những hàng hiên xập xệ, qua những bãi đất trống chỉ có cỏ dại xào xạc cọ vào các vỏ hộp thiếc, qua các cửa hiệu thực phẩm đã đóng cửa và một hiệu giặt bằng hơi, qua một cửa sổ không có rèm trong đó có một người đàn ông mặc sơ mi dài tay đang đọc báo bên cạnh lò sưởi. Cô rẽ qua các góc phố và băng qua các con đường, cảm giác tiếng sỏi xào xạc dưới đế mỏng của đôi giày. Những người đi bộ hiếm hoi nhìn cô, và ngạc nhiên trước vẻ tao nhã xa lạ của cô.

Cô nhận thấy thế, cô cảm thấy từ họ một sự tò mò muốn được giải đáp. Cô muốn nói: Chả nhẽ ông không hiểu ư? Tôi thuộc về nơi này hơn cả ông. Thỉnh thoảng, cô dừng lại, nhắm chặt mắt; cô cảm thấy nghẹn thở.

Cô đến phố Main và bước chậm hơn. Trên phố có rất ít đèn đường, các xe ô-tô đậu trên đường chéo ở lề đường, một rạp chiếu phim, một cửa hàng trưng bày đồ lót màu hồng xen với dụng cụ làm bếp. Cô bước một cách cứng nhắc, mắt nhìn thẳng phía trước.

Cô thấy ánh sáng hắt lên mặt một tòa nhà cũ, trên một bức tường bằng gạch màu vàng tối tăm, chiếu lên sàn nhà đen sạm của một tòa nhà bên cạnh đã bị kéo sập. Ánh sáng ấy xuất hiện từ một hố móng công trình. Cô biết đây chính là nó. Cô hy vọng không phải thế. Nếu họ làm việc muộn thì anh sẽ ở đây. Cô không muốn gặp anh tối nay. Cô chỉ muốn nhìn thấy địa điểm và tòa nhà, cô chưa sẵn sàng cho những gì hơn thế; cô đã định gặp anh vào ngày mai. Nhưng cô không thể dừng lại lúc này được. Cô bước tới hố móng. Nó nằm ở góc đường, trông ra phố và và không cso hàng rào. Cô nghe thấy tiếng đập thép chan chát, cô nhìn thấy cánh tay của một cây cần cẩu, thấy những bóng người xả dài trên nền đất mới đào và vàng vọt dưới ánh đèn. Cô không nhìn thấy các tấm ván dẫn tới vỉa hè nhưng cô nghe thấy tiếng bước chân và tiếp đó cô nhìn thấy Roark đang đi ra đường. Anh để đầu trần, chiếc áo khoác rộng khoác hờ không cài cúc.

Anh dừng lại. Anh nhìn cô. Cô nghĩ là cô đang đứng thẳng; rằng điều này thật đơn giản và bình thường làm sao, cô đang nhìn đôi mắt xám và mái tóc màu da cam như cô vẫn thường xuyên nhìn thấy. Cô ngạc nhiên khi anh tiến tới cô một cách rất vội vã, tay anh nắm chặt khuỷu tay cô và anh nói: "Em ngồi xuống đi."

Và cô thấy cô đã không thể đứng được nếu không có bàn tay đó nắm vào khuỷu tay cô. Anh cầm lấy vali của cô. Anh dẫn cô đi ngang qua con phố tối tăm và bảo cô ngồi xuống bậc thềm của một căn nhà trống. Cô dựa lưng vào cánh cửa đóng. C ngồi bên cạnh cô. Anh để tay mình giữ chặt khuỷu tay cô, không phải một cách âu yếm, mà như để cả hai có thể cùng lấy lại thăng bằng.

Sau một lúc, anh bỏ tay mình ra. Cô biết là bây giờ cô đã được an toàn. Cô có thể nói.

"Đây là tòa nhà mới của anh?"

"Ừ. Em đi bộ đến đây từ nhà ga?"

"Vâng."

"Đường xa."

"Vâng."

Cô nghĩ là hai người vẫn chưa chào nhau nhưng như thế là phù hợp. Đây không phải là một cuộc tái ngộ mà chỉ là một khoảnh khắc trong một cái gì đó chưa bao giờ bị ngắt quãng. Cô nghĩ sẽ thật kỳ cục nếu như cô nói "Chào anh!" với anh. Nào có ai chào bản thân mình mỗi buổi sáng.

"Sáng nay anh dậy lúc mấy giờ?" cô hỏi.

"Bảy giờ."

"Lúc đó em đang ở New York. Trong một chiếc taxi tới nhà ga Trung tâm. Anh ăn sáng ở đâu?"

"Ở toa xe lưu động."

"Loại mở suốt đêm à?"

"Ừ. Chủ yếu cho cánh lái xe tải."

"Anh có hay đến đó không?"

"Lúc nào anh muốn uống cà phê."

"Anh ngồi ở quầy à? Với mọi người xung quanh và nhìn anh?"

"Anh ngồi ở quầy khi anh có thời gian. Có mọi người xung quanh. Anh không nghĩ là họ nhìn anh nhiều lắm."

"Thế sau đó? Anh đi bộ tới công trường à?"

"Ừ."

"Anh đi bộ hàng ngày? Qua những con phố này? Đi qua các cửa sổ? Và nếu có ai đó mở cửa sổ..."

"Ở đây, người ta không tò mò nhìn ra ngoài cửa sổ."

Nhờ bậc thềm cao, họ có thể nhìn thấy các hố móng ở bên kia phố, thấy đất đá, đám công nhân, các cây cột bằng thép vươn cao lên trong ánh sáng gắt. Cô cảm thấy lạ lùng khi nhìn thấy mặt đát trần ở giữa vỉa hè và đá lát đường, giống như người ta xé một miếng quần áo của thị trấn ra, để lộ da thịt trần trụi. Cô nói:

"Anh đã xây hai căn nhà nông thôn trong hai năm qua."

"Ừ. Một ở Pensylvania và một ở gần Boston."

"Mấy căn nhà đó đều không quan trọng."

"Rẻ tiền, nếu ý em là thế. Nhưng công việc rất thú vị."

"Anh sẽ ở lại đây bao lâu nữa?"

"Một tháng nữa."

"Tại sao anh làm việc cả ban đêm?"

"Công trình này cần xong gấp."

Bên kia đường, chiếc cần cẩu đang di chuyển, nó đang nâng một thanh rầm dài trong không trung.

Cô nhìn thấy anh quan sát nó và cô biết anh không nghĩ tới nó, đó là phản xạ bản năng trong mắt anh, một mối liên hệ hữu hình với anh, một cảm giác gần gũi đối với bất kỳ hành động nào xảy ra với tòa nhà của anh.

"Roark..."

Họ không gọi tên nhau từ lúc gặp mặt tới giờ. Giờ đây, tiếng gọi đó đem lại khoái cảm cho cô như một sự đầu hàng lẽ ra phải tuyên bố từ lâu - khi mà cô được gọi tên anh và để anh nghe thấy tiếng gọi đó.

"Roark, lại là mỏ đá nữa."

Anh mỉm cười:

"Nếu như em muốn coi như thế. Có điều không phải."

"Sau nhà Enright ư? Sau tòa nhà Cord ư?"

"Anh không nghĩ theo cách đấy."

"Thế anh nghĩ thế nào?"

"Anh thích xây nó. Mỗi tòa nhà giống như một con người. Riêng biệt và không thể lặp lại."

Anh đang nhìn sang bên kia đường. Anh đã không hề thay đổi. Vẫn là cái cảm giác nhẹ nhàng như cũ của anh, vẫn là sự dễ dàng trong cử động, trong hành động, trong suy nghĩ. Cô nói, câu nói của cô không có khởi đầu hay kết túc:

"... xây những tòa nhà năm tầng cho tới hết đời anh..."

"Nếu cần thiết. Nhưng anh không nghĩ mọi việc sẽ như thế."

"Anh đang chờ đợi điều gì?"

"Anh không chờ đợi."

Cô nhắm mắt, nhưng cô không thể giấu được miệng mình; miệng cô đắng ngắt, giận dữ và đau đớn.

"Roark, nếu anh ở New York thì em sẽ không đến gặp anh đâu."

"Anh biết."

"Nhưng vì là anh - ở một nơi khác - ở một cái hố không tên, ở một nơi như thế này. Em phải nhìn thấy nó. Em phải nhìn thấy nơi này."

"Khi nào em đi?"

"Anh biết là không phải em đến ở lại đây ư?"

"Ừ."

"Tại sao?"

"Em vẫn sợ các toa ăn lưu động và các cửa sổ."

"Em sẽ không trở lại New York. Không phải ngay bây giờ."

"Không à?"

"Anh chẳng hỏi em gì cả, Roark. Chỉ một câu có phải em đi bộ từ nhà ga."

"Em muốn anh hỏi em điều gì?"

"Em xuống tàu khi em nhìn thấy tênnhà ga", cô nói, giọng thẫn thờ. "Em không định đến đây. Em đang trên đường đi Reno."

"Và sau đó?"

"Em sẽ lấy chồng một lần nữa."

"Anh có biết chồng chưa cưới của em không?"

"Anh đã nghe thấy ông ấy. Tên ông ấy là Gail Wynand."

Cô nhìn mắt anh. Cô nghĩ có lẽ cô muốn cười; cuối cùng cô cũng khiến anh bị sốc - điều cô chưa bao giờ nghĩ là có thể làm được. Nhưng cô không cười. Anh nghĩ tới Henry Cameron, tới câu nói của Cameron: "Tôi không có câu trả lời nào cho chúng, Howard. Tôi để cậu đối mặt chúng. Cậu sẽ trả lời cho cúhng. Tất cả bọn chúng, các tờ báo Wynand, tất cả những gì làm cho các tờ báo này tồn tại và những thứ đằng sau những cái đó."

"Roark."

Anh không trả lời.

"Tệ hơn Peter Keating, phải không?" cô hỏi.

"Tệ hơn nhiều."

"Anh có muốn ngăn em lại không?"

"Không."

Anh không chạm vào cô từ lúc anh rời khỏi khuỷu tay cô và ngay cả lúc đó cũng chỉ là một cái chạm thích hợp trong xe cứu thương. Cô nhấc tay lên và đặt nó trên tay anh. Anh không rút các ngón tay và cũng không giả bộ thờ ơ. Cô cúi xuống, giữ tay anh, để nó nằm nguyên trên đầu gối anh, và cô áp môi mình lên bàn tay anh. Chiếc mũ của cô rơi xuống đất, anh nhìn thấy mái tóc vàng trên đầu gối mình, anh cảm thấy miệng cô hôn bàn tay anh nhiều lần. Các ngón tay của anh níu lấy các ngón tay cô, đáp lại cô, nhưng đó là sự đáp lại duy nhất.

Cô ngẩng đầu lên và nhìn con đường. Một ô cửa sổ sáng đền treo lơ lửng ở phía xa xa, đằng sau những cành cây trơ trụi đan chéo vào nhau. Những ngôi nhà nhỏ ăn dài vào bóng tối, và các hàng cây đứng tựa nhau bên cạnh vỉa hè đẹp.

Cô nhận ra mũ của cô dưới bậc thềm và cô cúi mình để nhặt. Cô gập người, cô hống bàn tay trần xuống bậc thềm. Viên đá cô chạm vào già cỗi, nhẵn nhụi và lạnh ngắt. Cô cảm thấy dễ chịu khi chạm vào nó. Cô ngồi một lúc, người vẫn cúi, lòng bàn tay áp xuống viên đá, để có thể cảm giác được những bậc thềm này - dù cho nhiều đôi chân đã đi qua nơi này - để có thể cảm thấy chúng như cô đã cảm thấy chiếc bình cứu hỏa.

"Roark, anh sống ở đâu?"

"Ở một phòng trọ."

"Loại phòng trọ nào?"

"Chỉ một phòng thôi."

"Có gì trong đó. Tường như thế nào?"

"Một ít giấy dán tường. Đã phai màu."

"Đồ đạc như thế nào?"

"Một chiếc bàn, vài cái ghế, một chiếc giường."

"Không, kể cho em chi tiết đi."

"Có một cái tủ tường để đựng quần áo, một tủ nhiều ngăn kéo, giường đặt ở góc nhà cạnh cửa sổ, một chiếc bàn lớn ở phía bên kia..."

"Cạnh cửa sổ?"

"Không, anh đặt nó ở góc bên kia, đối diện cửa sổ - anh làm việc ở đó. Có một chiếc ghế tựa, một chíêc ghế bành, đèn sàn và một giá đựng tạp chí mà anh chưa bao giờ dùng tới. Anh nghĩ thế là hết rồi."

"Không có chăn? Không có rèm cửa sổ?"

"Anh nghĩ có cái gì đó ở cửa sổ và có chăn. Sàn nhà được đánh bóng và sạch sẽ và làm bằng gỗ cũ rất đẹp."

"Em muốn nghĩ tới căn phòng của anh vào đêm nay - khi ở trên tàu."

Anh nhìn sang bên kia đường. Cô nói: "Roark, cho em ở với anh đêm nay."

"Không."

Cô nhìn theo anh xuống chiếc máy nghiền ở dưới kia. Sau một lát, cô hỏi:

"Làm thế nào mà anh lại có hợp đồng thiết kế tòa nhà này?"

"Chủ của nó nhìn thấy các tòa nhà của anh ở New York và thích chúng."

Một người đàn ông mặc đồng phục công nhân bước ra khỏi hố đào móng, nhìn săm soi về phía họ trong bóng tối và gọi:

"Có phải sếp không đấy?"

"Phải", Roark gọi lại.

"Sếp xuống đây một phút được không?"

Roark đi qua đường tới chỗ anh ta. Cô không nghe được họ nói chuyện gì với nhau, nhưng cô nghe thấy Roark nói một cách vui vẻ: "Dễ ấy mà", và họ cùng đi dọc theo các tấm ván tới đáy hố. Người đàn ông đứng nói, chỉ trỏ, giải thích. Roark quay đầu trở lại, liếc nhìn lên giàn thép dựng đứng, khuôn mặt anh được ánh sáng chiếu rõ và cô nhìn thấy cái nhìn chăm chú của anh. Không có một nụ cười nhưng cái nhìn đó khiến cô có một cảm giác vui sướng về một năng lực, một lý trí có kỷ luật đang hành động. Anh cúi xuống, nhặt một tấm bảng, lấy ra cây bút chì trong túi.

Anh đứng, một chân đặt trên đống ván ghép, tấm bảng dựa vào đầu gối. Anh vẽ rất nhanh, vừa vẽ vừa giải thích gì đó cho người đàn ông kia. Người này gật đầu tỏ vẻ vui mừng. Cô không nghe được lời anh nhưng cô cảm thấy được vai trò của Roark trong mối quan hệ với người đàn ông kia, với tất cả những người khác ở trong bãi. Đó là một cảm giác lạ lùng của sự trung thành và tình bằng hữu, nhưng không phải theo nghĩa mà cô vẫn thấy người ta dùng với những từ này. Anh nói xong, trao tấm bảng cho người đàn ông và họ cùng cười phá lên về điều gì đó. Sau đó anh trở lại và ngồi xuống bậc thềm bên cạnh cô.

"Roark", cô nói "Em muốn ở lại đây với anh cho tới tận cuối đời."

Anh nhìn cô, chăm chú, chờ đợi.

"Em muốn sống ở đây." Giọng cô có âm thanh của một dòng nước đang xô vào con đập. "Em muốn sống như anh sống. Không cần tới tiền của em - Em sẽ cho hết, cho bất kỳ ai, cho Steve Mallory nếu anh muốn, hay cho một tổ chức nào đó của Toohey, cũng chẳng sao. Chúng ta sẽ có một căn nhà ở đây - giống như những cái nhà kia - và em sẽ chăm sóc nó cho anh - đừng có cười, em có thể làm thế - em sẽ nấu ăn, em sẽ giặt quần áo của anh, em sẽ cọ sàn nhà. Và anh sẽ từ bỏ nghề kiến trúc."

Anh không cười. Cô không nhìn thấy gì ngoài vẻ chăm chú, chờ nghe cô nói tiếp.

"Roark, anh hãy cố hiểu, xin anh hãy cố hiểu. Em không thể chịu được khi thấy những thứ họ đang làm gì với anh, những thứ họ sẽ làm với anh. Nó quá lớn - anh và tòa nhà và tình yêu của anh với nó. Anh không thể tiếp tục như thế mãi. Nó sẽ không kéo dài. Họ sẽ không để cho anh. Anh đang đi tới một thảm họa kinh khủng. Sẽ chẳng có kết cục nào khác. Hãy từ bỏ đi anh. Chấp nhận một công việc vô nghĩa nào đó - như khai mỏ đá. Chúng ta sẽ sống ở đây. Chúng ta sẽ không có gì nhiều và chúng ta sẽ không cho gì cả. Chúng ta sẽ sống chỉ vì chúng ta và chỉ vì những gì chúng ta biết."

Anh cười. Cô nghe thấy, trong tiếng cười của anh, sự ân cần của anh với cô - anh đã cố gắng không cười nhưng không thể ngăn nó được.

"Dominique." Cách anh gọi tên cô lắng vào trong cô và khiến việc nghe những lời tiếp đó trở nên dễ dàng hơn: "Anh ước là anh có thể nói với em rằng đó là một cám dỗ, chí ít cũng là trong khoảnh khắc. Nhưng không phải thế." Anh nói thêm: "Nếu anh là kẻ rất độc ác, anh sẽ chấp nhận nó. Chỉ để xem mất bao lâu thì em sẽ cầu xin anh quay trở lại với việc xây dựng."

"Vâng... Có lẽ..."

"Hãy cưới Wynand và sống với ông ta. Việc đó tốt hơn là việc em đang làm với mình vào lúc này."

"Anh có phiền... nếu chúng ta ngồi đây thêm chút nữa... và không nói về việc đó... mà chỉ nói chuyện thôi, như thể tất cả đều tốt đẹp... chỉ là một sự đình chiến nửa giờ đồng hồ cho nhiều năm sắp tới... Nói cho em biết anh làm gì mỗi ngày trong khi anh ở đây, tất cả những gì mà anh có thể nhớ được..."

Và họ nói với nhau, như thể bậc thềm trên cùng của căn nhà trống ấy là một chiếc máy bay đang lơ lửng trên không trung, không thấy đất cũng không thấy trời. Anh không hề nhìn sang phía bên kia đường.

Sau đó, anh liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay và nói: "Một tiếng nữa có tàu chạy về hướng Tây. Anh sẽ đi với em ra ga nhé?"

"Chúng ta đi bộ có được không?"

"Được chứ."

Cô đứng lên. Cô hỏi: "Cho tới - khi nào, Roark?"

Anh khoát tay qua những đường phố.

"Cho tới khi em không còn căm ghét tất cả những thứ này, không còn sợ hãi chúng, và học cách không còn để ý tới chúng."

Họ bước cùng nhau tới nhà ga. Cô lắng nghe tiếng bước chân anh hòa vào bước chân cô trên những đường phố không người. Cô để ánh mắt của mình lướt dài theo những bức tường họ đi qua, như một cái vuốt ve níu giữ. Cô yêu nơi này, thị trấn này và tất cả những gì thuộc về nó.

Họ đi qua một bãi đất trống. Gió thổi một trang báo cũ bay vào chân cô. Nó dính vào chân cô một cách kiên trì tới mức như là nó có ý thức, giống như sự nằng nặc âu yếm của một con mèo đối với chủ nhân. Cô nghĩ, mọi thứ ở thị trấn này đều có quyền đối xử thân thiết với cô. Cô cúi người, nhặt tờ báo, gấp nó, để giữ lấy nó.

"Em làm gì thế?" anh hỏi.

"Để có gì đó đọc trên tàu", cô nói một cách ngớ ngẩn.

Anh giật tờ báo khỏi tay cô, vò nát và quẳng nó vào trong đám cỏ dại.

Cô không nói gì và họ lại tiếp tục bước đi.

Một bóng đèn duy nhất treo trên sân ga vắng người. Họ chờ đợi. Anh đứng nhìn đường ray, phía con tàu sắp xuất hiện. Khi đường ray reo lên, run rẩy, khi bóng đèn pha tròn màu trắng phả ánh sáng từ đằng xa và tạo một quầng sáng cố định trên bầu trời, không tiến lại, mà chỉ lan rộng ra với tốc độ kinh người, anh không cử động cũng không quay sang cô. Chùm sáng đang lao tới, xô bóng anh dọc sân ga, làm nó quét ngang trên các tấm ván gỗ và biến mất. Trong một khoảnh khắc, cô thấy dángn g cao và thẳng của anh trong ánh sáng chói lòa. Đầu máy chạy qua họ, toa xe kêu rầm rầm, rồi chậm lại. Anh nhìn vào các khung cửa sổ đang chạy qua. Cô không nhìn thấy mặt anh mà chỉ thấy đường nét nơi gò má anh.

Khi tàu dừng, anh quay sang cô. Họ không bắt tay nhau, họ không nói gì. Họ đứng thẳng, mặt đối mặt nhau trong phút chốc, như thể đang duyệt binh; họ đứng gần như trong tư thế chào của nhà binh. Rồi cô nhấc va-li của mình và lên tàu. Tàu bắt đầu chuyển động một phút sau đó.

VI.

"C

huck: Tại sao lại không phải là một con chuột xạ? Tại sao con người lại cứ tưởng tượng rằng anh ta cao siêu hơn một con chuột xạ? Sự sống tồn tại trong mọi sinh vật nhỏ bé trên đồng ruộng và trong rừng sâu. Cuộc sống ca mãi những nỗi buồn phiền bất tận. Một nỗi buồn phiền cũ rích. Một bài ca của những bài ca. Chúng ta không hiểu - nhưng ai quan tâm đến việc có hiểu hay không ấy? Chỉ có những nhân viên kế toán hay những bác sĩ chữa chân mới quan tâm. Và cả những người đưa thư. Chúng ta chỉ yêu. Điều bí ẩn ngọt nào của Tình Yêu. Tất cả chỉ có vậy. Hãy cho tôi tình yêu và tống tất cả những nhà triết học của anh và ống khói. Khi Mary nhặt con chuột xạ không tổ ấm về, trái tim cô mở toang cho cuộc sống và tình yêu ùa vào. Chuột xạ có thể cho những bộ lông tốt để làm giả lông chồn, nhưng đó không phải là điều cốt yếu. Cuộc sống mới là điều cốt yếu."

"Jake: (chạy vội vào): Nào, các vị, có ai có con em in ảnh George Washington không?"

"Hạ màn."

Ike đóng sập quyển bản thảo lại và hít một hơi dài. Giọng anh khản đặc sau hai tiếng đồng hồ đọc to và anh đã đọc liền một hơi dài phần cao trào của vở kịch. Anh nhìn khán giả của mình, nhếch mép cười như chế giễu bản thân, lông mày nhướng lên một cách tự mãn, nhưng ánh mắt anh lại khẩn nài.

Ellsworth Toohey vừa ngồi bệt trên sàn vừa cà xương sống vào một cái chân ghế và ngáp dài. Gus Webb đang nằm giữa sàn, bụng úp xuống và chân tay dang ra. Anh ta lật người lại. Lacelot Clokey, một nhà báo nước ngoài, với tay lấy ly whiskey pha sô-đa của mình và uống nốt. Jules Fougler, nhà phê bình kịch mới của tờ Ngọn cờ, ngồi yên không nhúc nhích; ông đã không nhúc nhích trong suốt hai tiếng đồng hồ. Cô chủ nhà Lois Cook giơ hai tay lên, vặn vẹo, ròi duỗi thẳng, và nói:

"Ôi Chúa ơi, Ike, vở kịch quá tệ."

Lancelot Clokey lè nhè:

"Lois, cô bé ơi, cô để chai rượu gin của cô ở đâu rồi? Đừng có bủn xỉn thế chứ. Cô là chủ nhà tệ nhất mà tôi từng biết."

Gus Webb nói: "Tôi chẳng hiểu được văn chương. Nó không sinh lợi và chỉ tốn thời gian vô ích. Đám nhà văn rồi sẽ bị thanh lý hết."

Ike cười ré lên: "Thật bốc mùi, phải không?" Anh vung vẩy tập bản thảo: "Siêu bốc mùi. Thế các vị nghĩ tôi viết nó cho ai? Cứ thử chỉ cho tôi xem ai có thể viết một thứ tởm lợm hơn thế này xem nào? Các vị sẽ không bao giờ được nghe một vở kịch nào dở hơn thế nào trong đời các vị."

Đây không phải một cuộc họp chính thức của Hội Nhà văn Mỹ, mà là một buổi gặp mặt không chính thức. Ike đã mời một số bạn bè đến nghe tác phẩm mới của anh. Ở tuổi hai mươi sáu, anh đã viết mười một kịch bản, nhưng chưa có vở nào được dựng.

"Anh nên từ bỏ sân khấu đi, Ike" Lancelot Clokey nói. "Viết lách là một nghề nghiêm túc và không phải thằng vô sỉ nào muốn thử cũng được." Đây là tuần thứ mười cuốn sách đầu tay của Lancelot Clokey - cuốn sách thuật lại những chuyến thám hiểm của ông ở nước ngoài - nằm trong danh sách những sách bán chạy nhất.

"Tại sao lại không nào, Lance?" Toohey dài giọng một cách mơn trớn.

"Được rồi," Clokey ngắt lời "được rồi. Cho tôi một ly."

"Quá dở," Lois Cook nói, ngả đầu uể oải từ bên này sang bên kia. "Nó dở một cách thậm tệ. Nó dở đến mức nó lại trở nên tuyệt vời."

"Thật là ngớ ngẩn," Gus Webb cất tiếng. "Sao mình lại đến đây cơ chứ?"

Ike liệng tập bản thảo và lò sưởi. Nó đập vào tấm lưới chắn lò sưởi và rơi úp xuống sàn; những trang giấy mỏng nhàu nát mở toang.

"Nếu như Ibsen có thể viết kịch được, thì tại sao tôi lại không thể cơ chứ?" Ike hỏi. "Ông ta giỏi giang còn tôi thì chẳng ra gì, nhưng đấy chẳng phải là một lý do đủ sức thuyết phục."

"Thường thì như thế chưa đủ." Lance Clokey nói. "Dù vậy, anh vẫn chẳng ra gì."

"Khỏi cần ông nói ra. Tôi đã nói trước rồi."

"Đây là một vở kịch vĩ đại." Một giọng nói cất lên.

Đó là một giọng mũi, chậm rãi và chán nản. Giọng nói này cất lên lần đầu tiên trong buổi tối hôm đó, và mọi người đều quay về phía Jules Fougler. Một họa sĩ vẽ truyện tranh đã có lần vẽ một bức biếm họa nổi tiếng cho Jules Fougler; bức họa có hai vòng tròn võng xuống, một vòng tròn to và một vòng tròn nhỏ: vòng tròn to là cái bụng, còn vòng tròn nhỏ là cái môi dưới của ông. Ông mặc một bộ vét vừa vặn, màu mà ông đã từng mô tả là màu "merde d'oie ." Ông luôn đeo găng tay, và mang theo một cái gậy. Ông là một nhà phê bình kịch có tiếng.

Jules Fougler giơ cây gậy ra, dùng cái ngoắc trên tay cầm móc vào tập bản thảo và kéo lê nó trên sàn về phía chân mình. Ông ta không nhặt nó lên, mà nhìn xuống tập bản thảo và lặp lại:

"Đây là một vở nhạc kịch vĩ đại."

"Tại sao?" Lance Clokey hỏi.

"Bởi vì tôi nói như vậy." Jules Foughler trả lời.

"Ông đang đùa đấy à, Jules?" Lois Cook hỏi.

"Tôi không bao giờ đùa." Jules Foughler nói. "Điều đó thật thô bỉ."

"Lúc nào diễn buổi ra mắt thì gửi cho tôi vài vé." Lancelot Clokey châm chọc.

"Tám đàn ông la tám mươi xu cho hai ghế buổi diễn ra mắt." Jules Foughler nói. "Đây sẽ là vở kịch thành công nhất của mùa diễn năm nay."

Jules Foughler quay lại và thấy Toohey đang nhìn mình. Toohey mỉm cười nhưng không phải nụ cười vô vị hay vô ý; mà là nụ cười đồng tình về một việc mà ông coi là thực sự nghiêm túc. Ánh mắt của Foughler mang vẻ khinh khỉnh khi nhìn những người khác, nhưng nó giãn ra đôi chút khi nhìn Toohey.

"Sao ông không vào Hội Nhà văn Mỹ, Jules?" Toohey hỏi.

"Tôi theo chủ nghĩa cá nhân," Foughler nói. "Tôi cóc tin vào các loại hiệp hội. Mà điều đó có cần thiết không nhỉ?"

"Không, chẳng có gì là cần thiết cả," Toohey nói một cách vui vẻ. "không cần thiết với ông, Jules. Tôi chẳng có gì để giáo huấn ông cả."

"Điều làm tôi thích ông, Ellsworth, là tôi chẳng bao giờ cần phải giải thích bản thân mình với ông cả."

"Vớ vẩn nào, sao lại là giải thích cái gì ở đây? Sáu chúng ta cùng một hội mà."

"Năm thôi," Foughler nói "Tôi không thích Gus Webb."

"Sao lại không?" Gus hỏi. Anh không thấy bực mình.

"Bởi vì anh ta không chịu rửa tai," Foughler trả lời, cứ như là câu hỏi là của một người thứ ba.

"Ồ, ra là thế." Gus nói.

Ike đã đứng dậy, nhìn chằm chằm vào Foughler, không chắc là mình có nên thở hay không.

"Ông thích kịch bản của tôi ư, ông Foughler?" Cuối cùng anh cất tiếng hỏi, giọng rất nhỏ.

"Tôi chưa nói là tôi thích nó," Foughler lạnh lùng đáp lại. "Tôi nghĩ là nó bốc mùi. Đó là lý do tại sao nó tuyệt vời."

"Ồ," Ike nói, Anh phá lên cười. Anh dường như trút được một gánh nặng. Anh nhìn một vòng các gương mặt trong phòng, một cái nhìn có ẩn niềm hãnh diện chiến thắng.

"Thế đấy," Foughler nói, "Anh viết kịch vì cái gì thì tôi phê bình cũng vì cái ấy. Động cơ của chúng ta y hệt nhau."

"Anh thông minh lắm, Jules."

"Xin ông đấy, ông Foughler."

"Ông rất thông minh và là thằng vô lại đỏm dáng nhất trên trái đất này, ông Foughler."

Foughler lật mấy trang bản thảo dưới chân bằng đầu của cây gậy.

"Anh đánh máy tệ quá, Ike." Ông ta nói.

"Quỷ tha ma bắt. Tôi không phải là người chuyên đánh máy tốc ký. Tôi là một nghệ sĩ sáng tạo."

"Khi nào kịch công chiếu, anh sẽ đủ tiền để thuê một cô thư ký đấy. Tôi buộc phải ca ngợi vở kịch này - kể cả chỉ để ngăn anh không hành hạ cái máy chữ như thế này nữa. Máy chữ là một công cụ tuyệt vời và không nên bị hành hạ."

"Được rồi, Jules," Lancelot Clokey nói, "thế là rất dí dỏm và thông minh, và ông rất là phức tạp và xuất sắc. Nhưng nói thực đi, tại sao ông muốn ca ngợi cái đống phân này?"

"Bởi vì nó là đống phân, như cách anh gọi nó."

"Anh chẳng lô-gíc chút nào, Lance ạ" Ike nói. "Nói chung là anh chẳng lô-gíc tí nào. Viết một vở kịch hay và được người ta ca tụng nó thì dễ ợt. Bất cứ ai đều có thể làm được điều đó. Bất cứ ai có tài năng - và tài năng chỉ là chuyện tình cờ bẩm sinh. Còn viết một đống phân mà vẫn được ca ngợi - đấy, anh cứ thử làm được thế đi."

"Anh ấy đã làm rồi đấy thôi" Toohey nói.

"Đó chỉ là vấn đề ý kiến của mỗi người," Lancelot Clokey nói. Anh ta dốc ngược cái y đã cạn vào miệng và nuốt ực cục đá cuối cùng.

"Ike hiểu biết nhiều hơn anh đấy, Lance ạ" Jules Foughler nói. "Cậu ấy đã chứng tỏ cậu ấy là một nhà tư tưởng thực sự đấy - qua cái diễn văn nho nhỏ vừa rồi. Cái đó vô tình còn hay hơn cả cái vở kịch của cậu ta."

"Tôi sẽ viết vở kịch tiếp theo của tôi về điều ấy" Ike nói.

"Ike đã tuyên bố động cơ của cậu ấy," Foughler tiếp tục. "Và đấy cũng là động cơ của tôi. Và của cả anh nữa, Lance. Anh cứ kiểm chứng trường hợp của tôi, nếu thích. Một nhà phê bình nhận được cái gì nếu anh ta tán dương một vở kịch hay? Chẳng được bất cứ cái gì cả. Nhà phê bình lúc đó chẳng khác gì một thằng bé đưa tin danh giá giữa tác giả và công chúng. Cái việc ấy thì có lợi gì cho tôi? Tôi chán ngấy mấy thứ đó. Tôi có quyền mong muốn áp đặt quan điểm của tôi lên công chúng. Nếu không, tôi sẽ rất bực mình - mà tôi thì chẳng tin vào sự bực mình. Nhưng nếu một nhà phê bình có thể tạo được sự tán dương cho một vở kịch hoàn toàn chẳng có giá trị gì - chà, anh cũng nhận ra sự khác nhau rồi đấy! Vì thế, tôi sẽ phải làm cho nó thành công - mà vở kịch của anh tên là gì ấy nhỉ, Ike?"

"Không phải việc của mày."

"Anh nói gì cơ."

"Đó là tên của vở kịch."

"Ồ, ra thế. Vì thế, tôi sẽ làm cho vở Không Phải Việc Của Mày thành công lớn."

Lois Cook cười phá lên.

"Các vị cứ làm mọi chuyện ầm ỹ cả lên," Gus Webb nói trong lúc nằm thẳng đờ, tay bắt chéo sau đầu.

"Bây giờ nếu anh muốn xem xét trường hợp của anh, Lance," Foughler tiếp tục. "Một nhà báo nhận được cái gì khi đưa tin những sự kiện xảy ra trên thế giới? Công chúng đọc về đủ loại khủng hoảng trên thế giới, anh phải may lắm thì mới được họ để mắt tới tên của anh trên đầu bài viết. Thế mà anh thì có tài ngang với bất cứ một vị tướng hay đô đốc hải quân hay ngài đại sứ nào. Anh có quyền làm cho mọi người biết đến anh. Vì thế, anh đã làm một việc rất khôn ngoan. Anh đã viết một tuyển tập tuyệt vời về toàn những thứ nhảm nhí - phải đấy, toàn những thứ nhảm nhí - nhưng lại hợp đạo đheức. Một cuốn sách khôn ngoan. Những thảm họa thế giới chỉ làm nền cho cái nhân cách nhỏ mọn ô trọc của anh. Nào là Lancelot Clokey đã say khướt thế nào trong một cuộc hội nghị quốc tế. Nào là những người đẹp nào đã ngủ với Lancelot Clokey trong một cuộc xâm lược. Nào là Lancelot Clokey đã bị táo tỏng thế nào ở một nơi đang chết đói. Thế đấy, tại sao lại không nhỉ, Lance? Nó đi lọt đấy chứ. Ellsworth đã thổi nó thành công, phải vậy không?"

"Công chúng đánh giá cao những thứ liên quan đến lợi ích của con người," Lancelot Clokey nói và giận dữ nhìn vào cái cốc của mình.

"Ồ, thôi đi, Lance!" Lois Cook la lên. "Anh đang diễn với ai ở đây thế? Anh biết thừa rằng nó chẳng liên quan gì đến lợi ích con người, chỉ hoàn toàn nhờ vào Ellsworth Toohey thôi."

"Tôi không quên những gì tôi nợ Ellsworth," Clokey nói một cách bực dọc."Ellsworth là bạn tốt nhất của tôi. Tuy nhiên ông ấy cũng chẳng thể làm nó thành công nếu ông ấy không có trong tay một cuốn sách hay."

Tám tháng trước, Lancelot Clokey cũng đứng trước Ellsworth Toohey với một bản thảo trên tay, giống như Ike lúc này đang đứng trước Fougler. Anh ta đã không thể tin được là Toohey nói với anh rằng quyển sách của anh sẽ dẫn đầu danh sách những sách bán chạy nhất. Nhưng việc hai trăm ngàn cuốn sách bán hết sạch đã làm cho Clokey không còn khả năng nhận biết sự thật dưới bất kỳ hình thức nào.

"Hừm, ông ấy cũng thành công với cuốn Viên sỏi mật dũng cảm."

Lois Cook nói một cách điềm tĩnh, "Chưa bao giờ có một thứ rác rưởi hơn thế được viết ra. Tôi biết rõ điều đó. Nhưng ông ấy vẫn thành công."

"Và suýt mất việc vì nó." Toohey nói một cách lãnh đạm.

"Cô làm gì với lũ rượu của cô thế, Lois?" Clokey ngắt lời. "Cô để dành rượu để tắm đấy à?"

"Được rồi, anh sâu rượu." Lois Cook nói và uể oải đứng lên.

Cô lê chân ngang qua căn phòng, vừa đi vừa nhặt một chiếc ly uống dở của ai đó ở dưới sàn lên; cô uống nốt rồi bước ra ngoài và mang vào một loạt những chai rượu đắt tiền. Clokey và Ike vội vã đến rót rượu vào ly.

"Tôi nghĩ rằng cô không công bằng với Lance, Lois ạ" Toohey nói. "Tại sao anh ấy lại không thể viết một cuốn tự truyện chứ?"

"Bởi vì cuộc sống của anh ta không đáng sống, chưa nói gì đến chuyện đưa lên sách."

"Ồ, nhưng đó chính là lý do tại sao tôi làm cho nó bán chạy."

"Ông đang nói với tôi đấy à?"

"Tôi muốn nói với một ai đó."

Xung quanh còn rất nhiều ghế để ngồi một cách thoải mái, nhưng Toohey lại thích nằm trên sàn. Ông lật sấp người, chống thân trên bằng hai khuỷu tay, và lắc lư một cách thoải mái. Ông chuyển trọng lượng cơ thể từ khuỷu tay này sang khuỷu tay kia, hai chân dạng rộng thành một cái chạc cây trên thảm. Trông ông có vẻ rất thích thú khi được thả lỏng.

"Tôi muốn nói với một ai đó. Tháng sau tôi sẽ lăng-xê cuốn tự truyện của một anh nha sĩ sống ở một thị trấn nhỏ. Anh ta là một nhân vật đặc biệt - bởi vì trong cả cuộc sống của anh ta chẳng có một ngày nào đặc biệt và trong cả cuốn sách của anh ta chẳng có một câu nào đặc biệt. Rồi cô sẽ thích nó cho mà xem, Lois. Cô thử tưởng tượng một kẻ vô vị bậc nhất mở toang tâm hồn anh ta ra, cứ như là được mặc khải."

"Những con người bé nhỏ." Ike nói nhẹ nhàng. "Tôi yêu nhưng con người bé nhỏ. Chúng ta phải yêu thương những con người bé nhỏ trên trái đất này."

"Hãy để dành điều đó cho vở kịch tiếp theo của anh," to nói.

"Tôi không thể," Ike nói. "Nó đã ở ngay trong vở này rồi."

"Ý ông là gì, Ellsworth?" Clokey ngắt lời.

"À, đơn giản thôi Lance. Có những người hoàn toàn chỉ là con số không; anh ta chẳng làm bất cứ cái gì nổi bật ngoài việc ăn, ngủ và tán gẫu với hàng xóm. Nếu như cuộc sống vô vị của những người này lại trở thành một hiện tượng đáng tự hào, đáng đưa tin ra cả thế giới, đáng được cả triệu độc giả quan tâm nghiên cứu một cách kỹ lưỡng - thì việc một ai đó khác xây dựng cả một giáo đường sẽ trở nên không đáng lưu tâm và không cần được công bố. Đây là vấn đề của quan điểm và sự tương quan. Khoảng cách cho phép giữa các cực của bất cứ một vấn đề nào cũng là hữu hạn. Khả năng tiếp nhận âm thanh của một con kiến không bao gồm tiếng sấm."

"Ông phát biểu như một gã tư sản mạt hạng, Ellsworth," Gus Webb nói.

"Hạ giọng xuống đi, cậu bé," Toohey nói, không hề phật ý.

"Tất cả đều rất là tuyệt vời," Lois Cook nói, "có điều, ông đang làm việc quá xuất sắc, Ellsworth. Ông sẽ làm tôi mất việc mất. Rồi đây nếu như tôi muốn được biết đến, tôi sẽ phải viết một cái gì đó thực sự hay ho."

"Thế kỷ này thì chưa cần đâu, Lois," Toohey nói. "và có lẽ thế kỷ sau cũng chưa cần. Nó sẽ đến muộn hơn là cô nghĩ."

"Nhưng mà ông chưa nói...!" Đột nhiên Ike kêu lên, giọng lo lắng.

"Tôi chưa nói cái gì?"

"Ông chưa nói là ai sẽ dựng vở kịch của tôi!"

"Cứ để đó cho tôi," Jules Fougler nói.

"Tôi quên chưa cảm ơn ông, Ellsworth," Ike nói một cách nghiêm trang."Vì thế bây giờ tôi cảm ơn ông. Có rất nhiều vở kịch chẳng ra gì, nhưng ông đã chọn vở của tôi. Ông và ông Fougler."

"Cái chẳng ra gì của anh có thể khai thác được, Ike ạ."

"Mà cái đó mới đáng kể."

"Rất đáng kể là khác."

"Anh thử lấy ví dụ xem nào?"

"Đừng có lắm lời thế, Ellsworth," Gus Webb nói. "Ông đã nói quá nhiều rồi đấy."

"Im mồm đi, búp bê. Tôi thích nói. Ví dụ à, Ike? Được rồi, ví dụ tôi không thích Ibsen."

"Ibsen khá đấy chứ," Ike nói.

"Chắc chắn là ông ta khá rồi, nhưng mà giả dụ như tôi không thích ông ta. Giả dụ tôi muốn mọi người không xem kịch của ông ta nữa. Nếu tôi nói với mọi người như vậy thì sẽ bất lợi cho tôi. Nhưng nếu tôi làm cho họ tin rằng anh cũng xuất chúng như Ibsen - thì chẳng mấy chốc, họ sẽ không thể phân biệt được sự khác nhau giữa hai người nữa."

"Ôi Chúa ơi, ông có thể làm thế?"

"Đó chỉ là một ví dụ thôi, Ike ạ."

"Nhưng thế thì thật tuyệt!"

"Đúng vậy. Rất tuyệt vời. Và sau đó thì khán giả sẽ thấy xem cái gì cũng thế. Khi ấy là chẳng có cái gì là quan trọng hết - cả tác giả lẫn công chúng mà họ phục vụ."

"Sao lại thế Ellsworth?"

"Thì đấy, Ike, không có chỗ cho cả Ibsen và cậu trên sân khấu. Cậu biết điều đó, đúng không?"

"Theo nghĩa đen thì đúng thế."

"Và cậu thì muốn tôi tạo chỗ cho cậu đúng không?"

"Tất cả chuyện vớ vẩn này đều đã được bàn tới, mà lại bàn hay hơn và ngắn gọn hơn nhiều," Gus Webb nói. "Tôi tin càng ngắn thì càng hiệu quả.

"Bàn tới ở đâu hả Gus?" Lois Cook hỏi.

"Những kẻ chẳng ra gì, rồi sẽ là tất cả, bà chị ạ."

"Gus thô lỗ, nhưng sâu sắc," Ike nói "Tôi thích anh ta."

"Quỷ tha ma bắt anh đi," Gus nói.

Quản gia của nhà Lois Cook bước vào phòng. Đó là một người đàn ông đứng tuổi, oai vệ; ông mặc một bộ đồ lễ phục chỉnh tề. Ông ta báo tin Peter Keating đến.

"Peter à?" Lois Cook nói với vẻ hoan hỉ. "Tất nhiên rồi, đưa cậu ta vào, đưa vào ngay đi."

Keating bước vào phòng và dừng lại, giật mình khi nhìn thấy mọi người đang tụ tập.

"Ồ... xin chào" Anh nói với vẻ thất vọng. "Tôi không biết là chị đang có khách, Lois ạ."

"Khách khứa gì đâu. Vào đi, Peter, anh ngồi đi, tự lấy một ly đi, anh biết mọi người cả mà."

"Chào Ellsworth," Keating nói, mắt nhìn Toohey trông cậy.

Toohey vẫy tay chào, trườn người lên và ngồi xuống một cái ghế bành, vắt chân một cách duyên dáng. Mọi người trong phòng đột ngột tự động chỉnh lại tư thế: ngồi thẳng hơn, chân khép lại, cố khép miệng lại một cách thư giãn. Chỉ có Gus Webb là vẫn nằm ườn như trước.

Trông Keating điềm tĩnh và đẹp trai. Anh mang đến cho căn phòng không được thông khí một không khí mát mẻ của người vừa mới đi bộ qua những đường phố lạnh lẽo. Nhưng anh nhợt nhạt, và những cử động của anh chậm rãi, mệt mỏi.

"Xin lỗi nếu như tôi đã làm phiền, Lois," anh nói. "Tôi chẳng có việc gì làm, và lại cảm thấy cô đơn quá, nên tôi đã nghĩ là rẽ vào đây một chút." Anh gần như bỏ qua từ "cô đơn" bằng một nụ cười tự giễu mình. "Quá mệt mỏi với Neil Dumont và cả cái lũ khốn kiếp ấy. Thấy cần có những người bạn vui vẻ một chút - giống kiểu như một món ăn tinh thần, phải không?"

"Tôi là một thiên tài," Ike nói. "Một vở kịch của tôi sẽ diễn ở Broadway. Tôi và Ibsen. Ellsworth đã nói như vậy."

"Ike vừa mới đọc vở kịch mới của anh ta cho chúng tôi nghe," Toohey nói. "Một tác phẩm tuyệt vời."

"Anh sẽ thích nó, Peter," Lancelot Clokey nói. "Nó thực sự rất hay đấy."

"Đó là một kiệt tác," Jules Fougler nói. "Tôi hy vọng là anh xứng đáng để xem nó, Peter ạ. Nó là loại kịch rất kén khán giả. Nếu anh là một kẻ phàm phu tục tử, với một tâm hồn khô héo và trí tưởng tượng hạn hẹp, vở kịch này không dành cho anh. Nhưng nếu anh là một con người chân chính với trái tim rộng lớn, tràn ngập tiếng cười; nếu anh là người đã giữ gìn tâm hồn không hoen ố của tuổi thơ cho những cảm xúc trong trẻo - thì anh sẽ thấy nó là một vở kịch không thể quên được."

"Trừ khi các ngươi trở thành những đứa trẻ, các ngươi sẽ không được bước vào thiên đường." Ellsworth Toohey nói.

"Cảm ơn, Ellsworth," Jules Fougler nói. "Tôi sẽ lấy nó làm câu đề từ của bài phê bình."

Keating nhìn Ike và những người khác với ánh mắt phấn khích. Tất cả bọn họ đều có vẻ xa vời và thánh thiện; họ ở một tầng cao phía trên anh về kiến thức; nhưng gương mặt của tất cả bọn họ đều có dấu ấn của sự ấm áp, của một sự chào đón với những người bên dưới họ.

Keating uống say cảm giác về sự vĩ đại của họ - cái món ăn tinh thần mà anh tìm kiếm ở đây. Anh cảm thấy mình được nâng lên nhờ họ. Mọi người nhìn thấy sự cao thượng của mình hiện hữu qua anh. Một chu trình khép kín được hình thành trong căn phòng và vòng tròn của nó đã đóng lại.

Tất cả mọi người đều nhận ra điều đó, trừ Peter Keating.

*

* *

Ellsworth Toohey đã lên tiếng ủng hộ kiến trúc hiện đại.

Suốt mười năm qua, trong khi hầu hết nhà ở đều tiếp tục được xây dựng như những bản copy trung thành với lịch sử thì những nguyên tắc kiến trúc của Henry Cameron đã chiến thắng trong những công trình thương mại: nhà máy, văn phòng, cao ốc. Đó là một chiến thắng mờ nhạt và méo mó; một sự thỏa thuận miễn cưỡng bao gồm việc bỏ đi những cột trụ và những trán tường, cho phép một số bức tường được để trần trụi, rồi việc sửa lỗi một hình khối nào đó - do vô tình mà đẹp - bằng cách thêm vào một đường gờ xoắn ốc kiểu Hy Lạp đã được đơn giản hóa. Rất nhiều người đã lấy cắp các kiểu dáng kiến trúc của Cameron; chỉ một số ít hiểu được ý tưởng của ông. Phần duy nhất trong lập luận của ông khiến cho chủ sở hữu các công trình không thể cưỡng lại được là tính kinh tế; ông đã chiến thắng về phương diện này.

Ở các nước châu Âu, nhất là ở Đức, một trường phái xây dựng mới đã được hình thành trong một thời gian dài: nó bao gồm việc dựng lên bốn bức tường và một mái bằng phía trên, với một vài cái lỗ được trổ ra. Cái đó được gọi là kiến trúc mới.

Những gì mà Cameron đã đấu tranh - sự tự do thoát ra khỏi những quy tắc độc đoán, sự tự do vốn đặt ra một trách nhiệm nặng nề lên vai các kiến trúc sư có tính sáng tạo - rút cục lại trở thành sự loại bỏ mọi cố gắng, ngay cả những cố gắng để nắm vững các trường phái kiến trúc trong lịch sử. Nó trở thành một tập hợp những quy tắc cứng nhắc mới. Đó là nguyên tắc của sự bất tài một cách có ý thức, của sự thiếu sáng tạo một cách hệ thống, của việc khuyếch trương cái tầm thường.

Cameron từng nói: "Một công trình kiến trúc sẽ tự tạo ra vẻ đẹp của riêng nó; những họa tiết trang trí phải phát sinh từ tư tưởng và cấu trúc của công trình." Còn những kiến trúc sư mưói thì nói "Một công trình kiến trúc không cần đến vẻ đẹp, không cần đồ trang trí và không cần tư tưởng." Nói như vậy thật là an toàn. Cameron và một số người khác đã khai phá một con đường mới và trải nhựa cho nó bằng chính cuộc sống của họ. Số đông những người khác - những người vốn tìm sự an toàn bằng cách sao chép kiến trúc đền Parthenon - nhìn thấy mối hiểm nguy và đã tìm một lối đi khác để tới bến an toàn. Họ đi theo con đường của Cameron nhưng bắt nó dẫna họ tới một kiểu đền Parthenon mới, một Parthenon dễ dãi hơn và mang hình dáng của một cái hộp xây từ thủy tinh và bê tông. Cây cọ dũng mãnh đã ngã xuống, nấm đã mọc ra trên thây cây đổ ấy, làm biến dạng nó, vùi giấu nó, và kéo nó trở lại rừng rậm u minh.

Khu rừng giờ đây đã tìm được tiếng nói của mình.

Trong bài viết với tựa đề "Tôi Bơi theo Dòng Chảy" trong chuyện mục Một ý kiến nhỏ, Ellsworth Toohey đã viết:

"Lâu nay, chúng tôi đã lưỡng lự trong việc thừa nhận một hiện tượng có ảnh hưởng lớn mà người ta gọi là Kiến trúc Hiện Đại. Sự cẩn trọng như vậy là cần thiết với bất cứ ai đứng ở vị trí cố vấn về thị hiếu cho công chúng. Quá thường xuyên, những biểu hiện đơn lẻ của sự lập dị bị tưởng nhầm với một phong trào mang tính đại chúng rộng lớn và người ta cần phải thận trọng để không gán cho những hiện tượng đó một tầm vóc mà chúng không xứng đáng. Nhưng Kiến trúc Hiện đại đã đứng vững trước những thử thách của thời gian, đã đáp ứng được nhu cầu của đại chúng, và chúng ta hân hoan nghiêng mình chào đón nó.

Không có gì sai khi chúng ta thừa nhận trong chừng mực nhất định công lao của những người đi tiên phong của phong trào này, ví dụ như ông Henry Cameron đã quá cố. Người ta có thể tìm thấy bóng dáng phong cách kiến trúc hiện đại trong một số công trình của ông. Nhưng cũng giống như tất cả những nhà tiên phong, ông vẫn bị bó buộc bởi những định kiến quá khứ, bởi tính đa cảm của giai cấp trung lưu mà ông từ đó sinh ra. Ông đã không chống nổi sự mê hoặc của cái đẹp và sự hoa mỹ, mặc dù sự hoa mỹ ấy là tác phẩm của chính ông; và do đó mà không thể sánh được với những gì thuộc về các hình thái kiến trúc truyền thống.

Cần phải nhờ đến sức mạnh của một phong trào quần chúng rộng lớn mới làm cho trường phái Kiến trúc Hiện đại được bộc lộ một cách đầy đủ và chân thực. Giờ thì người ta có thể thấy nó lan tràn khắp thế giới, không phải như một đám mây hỗn loạn các ý tưởng màu mè của các cá nhân, mà như một trật tự chặt chẽ, có tổ chức; và nó đặt ra những đòi hỏi nghiêm ngặt với các nghệ sĩ, một trong những đòi hỏi đó là người nghệ sĩ phải tuân thủ bản chất tập thể của công việc mà anh ta làm.

Những quy tắc của trường phái kiến trúc mới này đã được hình thành trong quá trình sáng tạo mang tính đại chúng rộng lớn. Chúng cũng nghiêm ngặt như những quy tắc của trường phái Cổ điển. Chúng yêu cầu một sự đơn giản không son phấn, giống như sự chân thực của một người đàn ông có phẩm giá. Cũng giống như trong thời đại ngắn ngủi của các ông chủ nhà băng quốc tế, mỗi ngày tòa nhà phải có một cái mái che đua ra một cách phô trương; ngày nay, thời đại đang đến đòi hỏi mỗi tòa nhà sẽ có một cái mái bằng. Cũng giống như trong thời kỳ đế quốc của loài người, mỗi ngôi nhà cần phải có những cửa sổ ở góc nhà - biểu tượng của ánh mặt trời được phân phối công bằng cho tất cả mọi người.

Những người có óc xét đoán sẽ nhìn thấy ý nghĩa xã hội hùng hồn trong những hình khối của trường phái kiến trúc mới này. Dưới thể chế bóc lột cũ, thành phần xã hội hữu ích nhất - người công nhân - chưa bao giờ được phép công nhận giá trị của bản thân họ; những chức năng thực tế của họ bị giấu kín, bị ngụy trang; vì thế nên các ông chủ luôn cho đầy tớ của mình diện những bộ chế phục viền vàng lộng lẫy. Điều này được phản ánh trong những công trình kiến trúc của thời kỳ này: những yếu tố chức năng của một tòa nhà như cửa ra vào, cửa sổ, cầu thang được giấu đi dưới những trang trí hình xoáy ốc vô nghĩa. Nhưng trong một công trình kiến trúc hiện đại, chính những yếu tố hữu dụng này - bểiu trưng cho sự lao động cực nhọc - sẽ được phơi bày lồ lộ dưới ánh sáng. Lẽ nào chúng ta lại không nghe thấy từ những yếu tố này chính tiếng nói của một thế giới mới, nơi mà những người công nhân sẽ làm chủ vận mệnh của họ?

Chúng tôi muốn các bạn hướng sự chú ý tới một nhà máy sắp khánh thành của công ty Bassett Brush, một ví dụ tốt nhất cho nền Kiến trúc Hiện đại của nước Mỹ. Đó là một công trình kiến trúc nhỏ, nhưng trong kích thước khiêm tốn của mình, nó là hiện thân của sự đơn giản đến nghiệt ngã của cái kỷ luật mới và là một bằng chứng sinh động cho Sự Vĩ Đại của Những Con Người Bé Nhỏ. Người thiết kế công trình này là Augustub Webb, một kiến trúc sư trẻ đầy hứa hẹn."

Khi gặp Toohey một vài ngày sau đó, Peter Keating phân vân hỏi: "Ellsworth, ông có ý như thế thật đấy à?"

"Về cái gì?"

"Về kiến trúc hiện đại ấy."

"Dĩ nhiên là tôi có ý như vậy rồi. Anh thấy bài viết nhỏ ấy của tôi thế nào?"

"Hừm, tôi nghĩ là nó rất hay. Rất thuyết phục. Nhưng Ellsworth, tại sao... tại sao ông lại chọn Gus Webb? Dẫu sao thì tôi cũng đã làm một vài thứ có tính hiện đại trong mấy năm qua đấy chứ. Tòa nhà Palmer khá trần trụi, còn tòa Mowry thì cũng chẳng có gì khác ngoài mái nhà và cửa sổ, còn nhà kho Sheldon thì..."

"Ôi, Peter, đừng có tham lam thế. Tôi đã đối xử khá là tốt với anh, phải không? Thỉnh thoảng cũng phải để tôi lăng-xê ai đó nữa chứ."

Tại một buổi tiệc trưa, khi phải phát biểu về đề tài kiến trúc, Peter Keating đã tuyên bố: "Nhìn lại sự nghiệp của tôi cho đến ngày hôm nay, tôi đã rút ra một kết luận rằng tôi đã làm việc dựa trên một nguyên tắc chân chính: nguyên tắc ấy là, thay đổi liên tục là điều thiết yếu của cuộc sống. Bởi vì những công trình kiến trúc là một phần không thể thiếu được của cuộc sống, nên kiến trúc cũng phải liên tục thay đổi. Tôi chưa bao giờ tự tạo ra một định kiến về kiến trúc cho bản thân mình, mà luôn đón nhận mọi ý kiến của mọi thời đại. Những người cuồng tín đi khắp nơi rao giảng rằng tất cả các công trình đều phải hiện đại thì đầu óc cũng hẹp hòi như những kẻ bảo thủ luôn bắt chúng ta không áp dụng bất cứ cái gì khoác ngoài những kiểu dáng truyền thống. Tôi không thanh minh cho những công trình theo phong cách kiến trúc Cổ điển mà tôi đã thiết kê. Chúng đáp ứng yêu cầu của thời đại chúng. Tôi cũng chẳng xin lỗi cho những công trình hiện đại mà tôi đã thiết kế. Chúng hiện thân cho một thế giới tốt hơn đang đến gần. Tôi nghĩ rằng chính sự giác ngộ nhỏ bé về nguyên tắc này là phần thưởng và niềm vui cho việc là một kiến trúc sư."

Khi tin Peter Keating trúng thầu công trình Stoneridge được công bố, trong giới chuyên môn có cả sự hài lòng lẫn những lời xu nịnh đầy ghen tỵ. Anh đã cố gắng để có lại được niềm sung sướng trước đây khi những phi vụ thế này xảy ra. Nhưng anh thất bại. Anh vẫn cảm thấy có chút gì đó tương tự với niềm vui sướng, nhưng nó rất nhạt nhòa và mong manh.

Việc thiết kế Stoneridge có vẻ là một gánh nặng quá sức. Anh không bận tâm tới sự việc mà nhờ nó anh có được công trình này; sự việc ấy cũng đã trở nên mờ nhạt và nhẹ bỗng trong tâm trí anh; anh chấp nhận và gần như đã lãng quên. Đơn giản là anh không thể đối mặt với nhiệm vụ thiết kế một số lượng lớn nhà cửa mà công trình Stoneridge đòi hỏi. Anh cảm thấy rất mệt mỏi. Anh cảm thấy mệt mỏi vào buổi sáng thức dậy, và cả ngày anh thấy mình chỉ chờ đợi đến lúc có thể được trở lại giường ngủ.

Anh bàn giao công trình Stoneridge cho Neil Dumont và Bennett. "Làm đi." anh nói giọng mỏi mệt, "làm bất cứ cái gì mà các anh muốn."

"Làm theo kiểu nào, Peter?" Dumont hỏi. "Hừm, một cái gì đó theo kiểu thức thời ấy, nếu không thì những người sở hữu chúng sẽ chẳng thích đâu. Nhưng đừng màu mè quá - để giới báo chí còn bình luận. Làm cho nó vừa có nét cổ điển vừa có cảm giác hiện đại. Thế nào cũng được. Tôi chẳng quan tâm."

Dumont và Bennett bắt tay vào việc. Keating thay đổi một vài đường nét của các mái nhà trên các phác thảo của họ, một vài cửa sổ. Những bản vẽ sơ bộ được văn phòng Wynand phê chuẩn. Keating không biết liệu có phải chính Wynand đã phê chuẩn hay không. Anh không gặp lại Wynand.

Dominique bỏ đi được một tháng thì Guy Francon tuyên bố về hưu.

Keating đã nói với ông về chuyện ly dị và không đưa ra một lời giải thích nào. Francon đón nhận tin đó một cách bình thản. Ông nói: "Tôi đã chờ đợi tin này. Không sao đâu, Peter. Chắc không phải lỗi của anh, mà cũng chẳng phải của nó." Từ đó ông không nhắc đến việc này nữa. Bây giờ ông cũng chẳng giải thích về sự rút lui của mình, chỉ nói rằng "Từ lâu tôi đã nói với anh là nó sẽ đến. Tôi đã mệt mỏi. Chúc anh may mắn, Peter."

Trách nhiệm công ty đè nặng lên đôi vai đơn độc của Keating và cái viễn cảnh cảm thấy tên mình nằm lẻ loi trên cửa văn phòng làm cho Keating lo lắng. Anh cần có một đồng sự. Anh chọn Neil Dumont. Neil có phong cách và tên tuổi. Anh ta là một Lucius Heyer thứ hai.

Hãng đổi tên thành Peter Keating & Cornelius Dumont. Một vài người bạn đã tổ chức một buổi tiệc để mừng sự kiện này, nhưng Keating không tham dự. Anh đã hứa là sẽ đến dự, nhưng anh lại quên mất việc đó và đi nghỉ cuối tuần một mình ở một vùng nông thôn tuyết phủ. Anh chẳng nhớ gì về buổi tiệc cho mãi đến sáng ngày hôm sau khi anh đi dạo một mình dọc một con đường quê bị đóng băng.

Stoneridge là hợp đồng cuối cùng được ký kết bởi hãng Francon & Keating.

VII.

K

hi Dominique xuống tàu ở New York, Wynand đã chờ cô ở đó.

Trong suốt mấy tuần lễ ở Reno, cô đã không viết thư cho ông cũng như không nhận được tin tức gì của ông. Cô đã không báo cho bất cứ ai về việc cô quay lại New York. Nhưng nhìn dáng đứng điềm tĩnh một cách quả quyết của ông trên sân ga, cô biết rằng ông đã liên lạc với các luật sư của cô, đã theo dõi sát sao việc ly hôn của cô, đã biết ngày mà người ta cấp giấy chứng nhận ly hôn, biết cả giờ cô lên tàu và số toa tàu của cô.

Ông không tiến lên khi nhìn thấy cô. Chính cô là người bước về phía ông, bởi vì cô biết ông muốn nhìn thấy cô bước, cho dù chỉ một quãng ngắn. Cô không mỉm cười, nhưng khuôn mặt cô toát ra một vẻ thanh thản đáng yêu như thể một nụ cười.

"Chào ông, Gail."

"Chào em, Dominique."

Cô đã không nghĩ đến ông khi ông vắng mặt, cô không nghĩ một cách rõ ràng, cũng không thấy có cảm giác riêng tư nào về sự hiện hữu của ông; nhưng giờ đây, cô cảm thấy một sự nhận biết tức thì. Đó là cảm giác đoàn tụ với một người cô biết rõ và cần đến.

Ông nói: "Đưa thẻ lấy hành lý của em cho tôi, tôi sẽ cho người đến lấy sau; ô-tô của tôi ở bên ngoài."

Cô đưa thẻ cho ông và ông đút nó vào túi áo. Cả hai biết rằng họ phải quay người và đi qua sân ga về phía cổng ra, nhưng những việc mà họ dự định sẽ làm đều cùng lúc bị phá vỡ, vì họ không quay đi mà cùng đứng nguyên ở đó, nhìn nhau.

Ông là người cố gắng sửa chữa sự phạm quy trước. Ông mỉm cười nhẹ nhàng.

"Nếu như tôi có quyền nói, tôi sẽ nói rằng tôi đã không thể chờ đợi được nếu tôi biết trước trông em sẽ như thế này. Nhưng mà tôi không có cái quyền đấy, nên tôi sẽ không nói ra."

Cô cười to. "Được rồi, Gail. Đấy cũng là một hình thức giả vờ - cái việc chúng ta quá thoải mái với nhau ấy. Nó sẽ làm cho mọi việc trở nên quan trọng hơn chứ không tầm thường đi, đúng không? Hãy nói bất cứ thứ gì mà chúng ta muốn nói."

"Tôi yêu em," ông nói, giọng ông vô cảm, như thể ông vừa tuyên bố về một nỗi đau và không phải tuyên bố với cô.

"Tôi rất vui được quay về với ông, Gail. Tôi đã không biết là tôi sẽ cảm thấy như thế này, nhưng tôi rất vui."

"Theo cách nào hả Dominique?"

"Tôi không biết. Tôi nghĩ là theo cách lây nhiễm từ ông. Theo cách quả quyết và bình yên."

Rồi họ nhận ra rằng họ đang nói chuyện với nhau giữa một sân ga đông đúc, với những con người và xe chở hành lý đang hối hả qua lại.

Họ đi ra ngoài đường, về phía xe của ông. Cô không hỏi xem họ đang đi đâu; và cô không quan tâm. Cô ngồi yên lặng bên cạnh ông. Cô thấy mình bị phân tách, hầu như toàn bộ trí óc cô bị cuốn đi bởi mong muốn không kháng cự lại, nhưng một phần nhỏ lại làm cô băn khoăn về cái mong muốn đó. Cô cảm thấy cái khao khát để cho ông nâng đỡ cô, một cảm giác tin cậy không suy tính, dù không phải sự tin cậy một cách hạnh phúc, nhưng vẫn là một sự tin cậy. Một lúc sau, cô nhận thấy tay cô nằm trong tay ông, những ngón tay đi găng của cô áp vào những ngón tay của ông, chỉ có ở chỗ cổ tay trần của cô chạm vào da thịt ông. Cô đã không nhận ra việc ông nắm tay cô; nó có vẻ quá tự nhiên và cũng là điều cô đã mong muốn từ lúc cô nhìn thấy ông. Nhưng cô không thể cho phép bản thân cô muốn điều đó.

"Chúng ta đang đi đâu, Gail?" cô hỏi.

"Đi lấy giấy chứng nhận. Sau đó tới văn phòng thẩm phán. Để kết hôn."

Cô từ từ ngồi thẳng dậy, quay mặt về phía ông. Cô không rút tay ra, nhưng những ngón tay của cô cứng lại, tự chủ, và xa lạ với ông.

"Không," cô nói.

Cô mỉm cười và giữ nụ cười ấy quá lâu, với một sự chính xác có chủ ý và kiên quyết. Ông nhìn cô điềm tĩnh.

"Tôi muốn có một đám cưới thật sự, Gail. Tôi muốn nó được tổ chức tại khách sạn phô trương nhất thành phố. Tôi muốn những thiếp mời in chữ nổi, khách khứa, hàng đám khách; tôi muốn có những nhân vật nổi tiếng, hoa, máy ảnh, và máy quay phim. Tôi muốn một đám cưới mà thiên hạ trông đợi ở Gail Wynand."

Ông buông những ngón tay cô, đơn giản, không hề phật ý. Trông ông có vẻ lơ đãng trong giây lát, như thể là ông đang nhẩm tính một bài toán số học không quá khó. Sau đó ông nói:

"Được rồi. Phải mất một tuần để thu xếp những việc này. Tôi có thể yêu cầu làm những việc đó trong tối nay, nhưng nếu là thiếp mờ in chữ nổi thì chúng ta phải báo trước cho khách khứa ít nhất một tuần. Nếu không, mọi việc sẽ có vẻ bất thường, mà em lại muốn có một đám cưới Gail Wynand bình thường. Bây giờ tôi sẽ đưa em tới một khách sạn và em sẽ ở đó một tuần. Tôi đã không lên kế hoạch cho việc này, nên tôi chưa đặt chỗ. Em muốn ở đâu?"

"Ở căn hộ của ông."

"Không được."

"Thế thì ở khách sạn Nordland."

Ông ngả người về phía trước và nói với người lái xe: "John, đến Nordland."

Trong sảnh chính của khách sạn, ông nói với cô:" Tôi sẽ gặp em một tuần nữa kể từ hôm nay, thứ Ba, ở khách sạn Noyes-Belmont, Vào lúc bốn giờ chiều. Thiệp mời sẽ phải đứng tên em. Em hãy báo trước với ông ấy là tôi sẽ liên lạc với ông ấy. Tôi sẽ lo những việc còn lại."

Ông cúi đầu chào, phong thái của ông không đổi; sự bình tĩnh của ông vẫn có một vẻ riêng biệt, do hai thứ tạo thành: sự tự chủ hoàn toàn của một người đàn ông biết rõ về khả năng làm chủ của bản thân đến mức làm cho nó trở nên thoải mái, và sự đơn giản của một đứa trẻ chấp nhận mọi sự kiện như thể nó không thể làm gì để thay đổi chúng.

Cô không gặp ông trong suốt tuần lễ đó. Cô thấy mình nôn nóng chờ đợi.

Cô gặp lại ông khi cô đứng bên cạnh ông, đối diện với thẩm phán, người tuyên bố lễ thành hôn trước sự yên lặng của sáu trăm người trong phòng khiêu vũ được thắp đèn sáng trưng của khách sạn Noyes-Belmont.

Cái quang cảnh đám cưới mà cô muốn có được sắp đặt hoàn hảo đến mức nó tự trở htành một bức tranh biếm họa. Nó không còn là một đám cưới cụ thể của giới thượng lưu mà là một nguyên mẫu khách quan cho sự dung tục xa hoa, hào nhoáng. Ông đã hiểu nguyện vọng của cô và phục tùng nó một cách chính xác, tỉ mỉ; ông đã từ chối mong muốn của bản thân là không làm ầm ỹ mọi việc; ông đã không dàn dựng đám cưới một cách sơ sài mà tổ chức nó thật đẹp đẽ, theo đúng phong thái mà Gail Wynand, ông chủ báo, sẽ lựa chọn nếu như ông muốn tổ chức đám cưới trước công chúng. Có điều, Gail Wynand không muốn tổ chức đám cưới trước công chúng.

Ông khiến bản thân mình hài hòa với xung quanh, cứ như thể ông là một phần của giao kèo này, và buộc phải có phong thái tương xứng. Khi ông bước vào, cô thấy ông nhìn đám khách như thể ông không nhận ra rằng đám khách ấy phù hợp với những buổi công chiếu ở Nhà Hát Lớn hay một buổi bán đấu giá các đồ lặt vặt của hoàng gia cứ không phù hợp với giây phút thiêng liêng nhất của cuộc đời ông. Trông ông đàng hoàng và cực kỳ nổi bật.

Rồi cô đứng cạnh ông; cả đám đông biến thành một sự im lặng nặng nề và một cái nhìn chòng chọc sau lưng ông; rồi họ đứng đối diện với thẩm phán. Cô mặc một cái váy dài màu đen và một bó hoa nhài tươi mà ông tặng được đính vào cổ tay cô bằng một sợi ruy-băng màu đen. Dưới vành mũ viền đăng-ten đen, khuôn mặt cô hướng về phía ông thẩm phán; ông ta nói chậm rãi, nhả từng chữ một vào trong không khí.

Cô liếc nhìn Wynand. Ông không nhìn cô, cũng không nhìn ông thẩm phán. Rồi cô thấy ông chỉ có một mình trong căn phòng này. Ông làm chủ khoảnh khắc này và ông được tạo nên bởi nó, bởi sự hào nhoáng, bởi sự thông tục, bởi chiều cao lặng lẽ của chính ông. Ông đã không mong muốn một nghi lễ tôn giáo, thứ mà ông chẳng coi trọng. Ông cũng không coi trọng việc người ta đọc vào mặt ông những lời lẽ có sẵn trong thể thức cưới xin của chính quyền . Tuy nhiên ông cư xử như thể nghi lễ này là một nghi lễ tôn giáo thuần khiết. Cô nghĩ nếu như cô đang làm đám cưới với Roark cũng trong bối cảnh như thế này, Roark hẳn cũng sẽ đứng như vậy.

Tiếp đó, sự khôi hài của buổi tiếp tân hoành tráng làm cho ông trở nên miễn dịch. Ông cùng với cô đứng tạo dáng cho đám thợ ảnh; ông lịch lãm làm theo mọi yêu cầu của cánh nhà báo - một đám đặc biệt, huyên náo nhất trong đám khách khứa. Ông đứng với cô ở chỗ tiếp tân, lần lượt bắt cả cái dây chuyền những bàn tay lăn ngang qua họ suốt mấy tiếng đồng hồ. Những ánhđèn, những giỏ hoa loa kèn khô, âm thanh của dàn nhạc dây, cả dòng người tràn vào và tỏa ra khắp căn phòng sau khi nhận một ly sâm-banh dường như không chạm được vào ông. Cả những vị khách đã đến đây vì buồn chán, vì căm ghét, vì thiệp mời mang cái tên đáng sợ của ông, vì hiếu kỳ với những vụ xì-căng-đan cũng không chạm được vào ông. Trông ông như thể o oko biết đến đám khách khứa tự cho rằng họ xứng đáng được đến xem lễ tế thần của ông; không biết rằng sự có mặt của họ đánh dấu phép ban phước bắt buộc đối với lễ tế thần này; rằng trong số hàng trăm người có mặt, chỉ có ông và cô dâu của ông nhận thấy rằng vở diễn này thật ghê tởm.

Cô chăm chú quan sát ông. Cô muốn nhìn thấy ông cảm thấy hài lòng với tất cả những thứ này, dù chỉ trong giây lát. Hãy để ông chấp nhận và hòa nhập vào cuộc vui, dù chỉ một lần; hãy để ông trưng ra cái hồn của tờ Ngọn cờ New York theo đúng cách của nó. Nhưng cô không nhìn thấy một sự chấp nhận nào. Đôi lúc cô nhìn thấy dấu ấn của một nỗi đau; nhưng thậm chí cả nỗi đau đó cũng không hoàn toàn chạm được vào ông. Và cô nghĩ tới một người đàn ông khác, người duy nhất đã nói với cô rằng mọi nỗi đau chỉ xuống sâu được đến một điểm nhất định.

Theo những quy tắc của đám cưới thì họ được tự do rời khỏi phòng tiệc sau những lời chúc mừng cuối cùng. Nhưng ông không có động thái về việc rời đi. Cô biết là ông đang chờ quyết định của cô. Cô rời khỏi ông và đi về phía những đám khách; với một ly sâm-banh trong tay, cô mỉm cười, cúi đầu chào và lắng nge những câu chuyện tẻ nhạt.

Cô nhìn thấy cha cô trong đám đông. Trông ông tự hào và đăm chiêu; ông có vẻ hoang mang. Ông đã đón nhận tin đám cưới của cô một cách yên lặng; ông đã nói: "Cha muốn con được hạnh phúc, Dominique. Cha rất muốn điều đó. Cha hy vọng ông ấy là người đàn ông thích hợp." Giọng điệu của ông cho thấy ông cũng không được chắc chắn lắm.

Cô nhìn thấy Ellsworth Toohey trong đám đông. Ông nhận ra cô đang nhìn ông và vội vã quay đi chỗ khác. Cô muốn cười to; nhưng lúc này, việc Ellsworth Toohey bị chộp thình lình vào lúc sơ ý cũng chẳng quan trọng đến mức phải cười.

ALvah Scarret rẽ đám đông đi về phía cô. Ông cố gắng để có một sự biểu cảm thích hợp, nhưng khuôn mặt ông vừa đau khổ lại vừa sưng sỉa. Ông lầm bầm điều gì đó rất nhanh về việc chúc cô hạnh phúc, nhưng liền sau đó ông nói một cách rành mạch với vẻ giận dữ:

"Tại sao hả Dominique? Tại sao?"

Cô không thể tin rằng Alvah Scarret lại cho phép mình lỗ mãng như cái cách mà câu hỏi của ông dường như có ngụ ý. Cô lạnh lùng nói:

"Anh đang nói về cái gì thế, Alvah?"

"Dĩ nhiên là về cái lệnh cấm."

"Lệnh cấm nào?"

"Cô biết rất rõ lệnh cấm nào mà. Bây giờ tôi hỏi cô, tại sao lại để mọi tờ báo trong cái thành phố này, từng tờ khốn kiếp một, ngay cả những tờ lá cải rẻ tiền nhất, lại còn cả dịch vụ điện tín nữa. Tất cả trừ tờ Ngọn cờ! Tất cả trừ những tờ báo của Wynand! Tôi biết ăn nói thế nào với mọi người? Tôi biết giải thích thế nào đây? Đấy là cách cô đối xử với một người bạn cũ của cô đấy à?

"Anh nên nhắc lại điều đó, Alvah."

"Cô định nói là cô không hề biết việc Gail không cho phép bất cứ phóng viên nào của chúng ta ở đây? Rằng ngày mai chúng tôi không được có bất cứ một câu chuyện, một trang tin nào, không một bức ảnh, không gì ngoài hai dòng ở trang thứ mười tám?"

"Không" - cô nói - "Tôi không biết điều đó."

Ông ngạc nhiên trước cử động đột ngột của cô khi cô quay người bỏ đi. Cô đưa ly sâm-banh cho một người xa lạ đầu tiên trong tầm mắt, người mà cô tưởng nhầm là phục vụ. Cô lách qua đám đông đi về phía Wynand.

"Đi thôi, Gail."

"Được thôi, em yêu."

Chính cô cũng không thể tin nổi là cô đang đứng giữa phòng khách trong căn hộ của ông và nghĩ rằng nơi này giờ đây là nhà của cô, rằng nó trông đúng là nhà cô.

Ông quan sát cô. Ông chẳng có vẻ gì là muốn nói chuyện hay chạm vào cô, mà chỉ quan sát cô ở đây, trong nhà của ông; quan sát việc cô đã được đưa đến đây, phía bên trên thành phố. Ông quan sát như thể khoảnh khắc này có ý nghĩa quá lớn và ông không thể chia sẻ, ngay cả với cô.

Cô bước chậm chạp ngang qua căn phòng, bỏ mũ xuống, và đứng tựa vào mép bàn. Cô tự hỏi vì sao cái mong muốn thông thường của cô là được im lặng, giữ kín mọi chuyện, lại bị vỡ tan tành khi đứng trước ông; vì sao cô lại cảm thấy buộc phải có một sự thẳng thắn đơn giản mà cô không thể có với bất cứ một ai khác.

"Cuối cùng thì ông vẫn làm được theo ý ông, Gail. Ông đã kết hôn như ông mong muốn được kết hôn."

"Phải, tôi cũng nghĩ vậy."

"Cố gắng tra tấn ông thật vô ích."

"Phải. Nhưng tôi cũng chẳng phiền lòng khi bị tra tấn."

"Ông không thấy phiền?"

"Không. Nếu như đó là những điều em muốn, thì tôi chỉ việc giữ lời hứa thôi."

"Nhưng mà ông căm ghét nó, Gail."

"Hoàn toàn đúng. Nhưng thế thì đã sao? Chỉ có khoảnh khắc đầu tiên là khó khăn - khi em nói điều đó trong xe. Sau đấy, tôi thấy khá vui với chuyện đó." Ông nói một cách bình tĩnh, hoàn toàn tương xứng với sự thẳng thắn của cô; cô biết rằng ông sẽ để cô lựa chọn, ông sẽ làm theo cô, ông sẽ giữ yên lặng hoặc thừa nhận bất cứ cái gì cô muốn phải được thừa nhận.

"Tại sao?"

"Chẳng lẽ em không nhận ra sai lầm của em à - nếu có thể gọi đó là sai lầm. Nếu như em hoàn toàn không quan tâm đến tôi thì hẳn em đã không muốn làm tôi phải chịu đựng."

"Không. Đó không phải là sai lầm."

"Em là một người thua cuộc biết điều, Dominique ạ."

"Tôi nghĩ điều đó cũng lây từ ông đấy, Gail. Và có một việc tôi muốn cảm ơn ông."

"Việc gì?"

"Việc ông đã cấm những tờ báo Wynand đến đám cưới chúng ta." Ông nhìn cô; trong khoảnh khắc, ánh mắt ông có một vẻ tỉnh táo đặc biệt; rồi ông mỉm cười.

"Việc em cảm ơn tôi về điều đó thật chẳng đúng với tính cách của em."

"Việc ông làm như thế cũng chẳng đúng với tính cách của ông."

"Tôi buộc phải làm như thế. Nhưng tôi đã nghĩ rằng em sẽ nổi giận."

"Đáng ra thì đã như thế. Nhưng tôi đã không. Và giờ cũng không. Tôi biết ơn ông."

"Một người có thể biết ơn một sự biết ơn không nhỉ? Hơi khó diễn đạt, nhưng đó là những gì tôi cảm thấy, Dominique."

Cô nhìn ánh sáng dìu dịu trên những bức tường xung quanh cô. Ánh sáng ấy là một phần của căn phòng; nó làm cho bức tường có một bề mặt đặc biệt, như không phải làm bằng vật liệu thường hay được quét màu. Cô nghĩ rằng có những căn phòng khác ở phía sau những bức tường này, những căn phòng cô chưa nhìn thấy bao giờ và nay thuộc về cô. Và cô nhận thấy là cô muốn chúng thuộc về mình.

"Gail, tôi chưa hỏi ông là bây giờ chúng ta sẽ làm gì. Chúng ta có đi xa không? Chúng ta có đi tuần trăng mật không? Thật buồn cười là tôi thậm chí không hề nghĩ về điều này. Tôi chỉ nghĩ về đám cưới và không nghĩ gì thêm. Cứ như thể là tất cả dừng lại ở đó và ông sẽ đảm nhận những việc về sau. Cái này cũng không đúng tính cách, Gail."

"Nhưng lần này tôi không đồng tình. Thụ động không phải là một dấu hiệu tốt. Không phải là với em."

"Có thể chứ - nếu như tôi thấy hài lòng với điều đó."

"Có thể. Mặc dù nó sẽ chẳng kéo dài. Không, chúng ta sẽ chẳng đi đâu cả. Trừ khi em muốn đi."

"Không."

"Thế thì chúng ta ở đây. Đây cũng là một cách tạo ngoại lệ khác thường nữa. Một cách phù hợp với em và tôi. Với hai chúng ta thì đi xa luôn đồng nghĩa với bỏ đi. Lần này chúng ta không bỏ đi nữa."

"Được thôi, Gail."

Khi ông ôm cô và hôn cô, cánh tay cô gập lại, chèn giữa người cô và người ông, bàn tay cô bám vào vai mình và cô cảm thấy má chạm vào đóa hoa nhài đã héo ở cổ tay; mùi hương của nó vẫn còn nguyên, vẫn là thứ mùi tinh tế gợi người ta nhớ đến mùa xuân.

Khi cô bước vào phòng ngủ của ông, cô nhận thấy nó không phải là nơi mà cô đã nhìn thấy trong các bức ảnh trên vô số các tờ tạp chí. Cái lồng kính đã bị dỡ bỏ. Thay vào đó là một căn phòng khép kín như một cái hầm, không hề có cửa sổ. Nó được thắp sáng và có điều hòa nhiệt độ nhưng cả ánh sáng và không khí đều không đến từ bên ngoài.

Cô nằm trên giường ông và cô ấn hai lòng bàn tay xuống tấm ga trải giường lạnh, nhẵn ở hai bên mình; cô giữ không để cho cánh tay cô dịch chuyển và chạm vào ông. Nhưng sự cứng đờ vô cảm ở cô không làm ông nổi giận. Ông hiểu. Ông cười lớn. Cô nghe thấy ông nói - giọng ông thô ráp, không nương nhẹ và có vẻ thích thú "Chẳng ích gì đâu, Dominique." Và cô biết rằng cái hàng rào này giữa hai người sẽ không đứng vững; rằng cô không hề có sức mạnh để giữ nó. Cô thấy câu trả lời ngay trong cơ thể cô - câu trả lời của sự thèm khát, của sự chấp thuận, của sự thỏa mãn. Cô nghĩ đây không phải là chuyện của ham muốn nhục dục, cũng chẳng phải chuyện một hành động tình dục; mà là chuyện đàn ông luôn mang sức mạnh cuộc sống và một người đàn bà luôn đáp lại điều này, rằng người đàn ông nằm cạnh cô mang một ý chí sống - thứ sức mạnh cơ bản nhất của con người - và hành động này chỉ là một tuyên ngôn giản đơn nhất của sức mạnh đó, và rằng cô không đáp lại bản thân hành động hay bản thân người đàn ông, mà cô đang đáp lại cái sức mạnh trong con người ông.

*

* *

"Thế nào, bây giờ thì anh đã hiểu vấn đề chưa? Ellsworth Toohey hỏi.

Ông đứng tựa người một cách hờ hững vào lưng ghế của Scarret, còn Scarret ngồi nhìn xuống cái giỏ mây đựng đầy thư từ để bên cạnh bàn.

"Hàng nghìn" - Scarret thở dài "hàng nghìn cái, Ellsworth. Ông phải đọc họ gọi ông ấy là cái gì. Tại sao ông ấy lại không cho in bài về đám cưới của mình cơ chứ? Ông ấy xấu hổ vì cái gì? Ông ấy có gì phải che đậy chứ? Tại sao ông ấy lại không cưới trong nhà thờ, như bất cứ một người đàn ông đứng đắn nào khác? Làm sao mà ông ấy lại đi cưới một người đàn bà đã ly dị chứ? Đấy là điều mà tất cả bọn họ thắc mắc. Hàng nghìn người. Còn ông ấy sẽ chẳng thèm ngó đến những lá thư. Gail Wynand, người mà người ta gọi là 'máy đo địa chấn' của dư luận."

"Đúng thế," Toohey nói. "Ông ấy là kiểu người như thế."

"Ví dụ này" - Scarret nhặt một bức thư trên bàn lên và đọc to: "'Tôi là một người phụ nữ có tự trọng và là mẹ của năm đứa con, và chắc chắn là tôi không muốn nuôi dạy các con tôi bằng tờ báo của ông. Tôi đã bọc báo của ông suốt mười bốn năm qua nhưng giờ đây, khi ông chứng tỏ rằng ông là loại người không hề có chút liêm sỉ, ông đã biến sự thiêng liêng của hôn nhân thành trò hề khi ngoại tình với một người đàn bà sa ngã, vợ của một người đàn ông khác và là một người đàn bà dám mặc một bộ váy đen trong dám cưới cứ như thể là bà ta nhất định phải làm như thế; thì tôi sẽ không bao giờ đọc báo của ông nữa bởi vì ông không phải là một người đàn ông có thể làm gương cho bọn trẻ, và tôi thì hoàn toàn thất vọng về ông. Rất kính tôi hư. Bà Thomas Parker.' Tôi đọc thư này cho ông ấy. Ông ấy chỉ cười phá ra."

"Ừ... Hừm..." Toohey nói.

"Cái gì nhập vào ông ấy không biết?"

"Không phải cái gì nhập vào ông ấy đâu, Alvah. Mà là cái ở trong ông ta rút cục đã lộ diện."

"Nhân tiện, ông có biết chuyện nhiều tờ báo lại bới ra mấy bức ảnh cũ chụp cái tượng Dominique khỏa thân từ cái ngôi đền chết tiệt ấy; mà lại đăng cùng với chuyện đám cưới - để minh chứng cho sự quan tâm của bà Wynand đến nghệ thuật, bọn khốn kiếp. Chúng rất khoái chí khi trả đũa được Gail. Mà bọn nó trả đũa được rồi đấy, lũ chấy rận! Không hiểu ai đã gợi ý việc này cho chúng."

"Tôi không biết."

"Hừm, dĩ nhiên thì cũng chỉ là 'ném đá ao bèo' thôi. Rồi họ sẽ quên tất cả chuyện này trong vài tuần. Tôi không nghĩ là chuyện này sẽ gây hại gì nhiều lắm."

"Không. Chỉ riêng việc này thì không. Tự bản thân việc này thì không."

"Hừm? Ông dự đoán sẽ có chuyện gì à?"

"Chính những bức thư này dự đoán điều đó, Alvah. Không phải là bản thân những bức thư. Mà là việc ông ấy không thèm đọc chúng."

"Lo lắng cũng chẳng ích gì. Gail biết phải dừng ở đâu và khi nào. Không cần phải việc bé xé ra t..." Ông ngước lên nhìn Toohey và đổi giọng: "Chúa ơi, đúng rồi, Ellsworth, ông nói đúng. Chúng ta phải làm gì bây giờ?"

"Chẳng làm gì, anh bạn ạ, chẳng làm gì hết. Trong một thời gian dài tới thì không."

Toohey ngồi lên mép bàn làm việc của Scarret và lấy mũi của chiếc giầy nhọn nghịch đống thư trong cái hộp; ông gẩy gẩy chúng làm những lá thư sột soạt. Ông đã có một thói quen yêu thích là rẽ vào và rời khỏi văn phòng Scarret bất cứ lúc nào. Scarret đã trở nên lệ thuộc vào ông.

"Hãy nói xem nào, Ellsworth," Scarret đột ngột hỏi - "ông có thực sự trung thành với tờ Ngọn cờ không?"

"Alvah, đừng có nói những thứ nặng nề như thế. Chẳng có ai nghiêm trọng đến thế cả."

"Không, tôi hỏi thật đấy... Mà thôi, ông hiểu tôi muốn nói gì rồi đấy."

"Tôi chẳng hiểu một chút nào cả. Có ai lại phản bội miếng cơm manh áo của mình?"

"Thì đúng là như thế... Nhưng ông biết đấy, Ellsworth, tôi rất thích ông, có điều tôi chẳng bao giờ hiểu khi nào thì ông chỉ nói cho vui lòng tôi, và khi nào mới là suy nghĩ thực của ông."

"Đừng tự đẩy mình vào những chuyện tâm lý rắc rối. Anh sẽ làm rối tung mọi thứ lên. Anh đang thắc mắc chuyện gì nào?"

"Tại sao ông vẫn viết cho tờ Những mặt trận mới?"

"Vì tiền."

"Thôi nào, chỗ đấy thì được mấy tiền?"

"À, thì đó là một tạp chí danh tiếng. Sao tôi lại không viết cho họ chứ? Các anh đâu có hợp đồng độc quyền với tôi."

"Đúng là không; và tôi chẳng quan tâm đến chuyện ông còn viết thêm cho những ai nữa. Nhưng mà tờ Những mặt trận mới dạo này rất là nực cười."

"Về cái gì?"

"Về Gail Wynand."

"Ôi dào, thật vớ vẩn. Alvah!"

"Không đâu, thưa quý ông, chẳng vớ vẩn chút nào. Ông không nhận ra thôi. Chắc là ông không đọc kỹ, chứ tôi thì có năng khiếu với mấy chuyện như thế này, tôi biết. Tôi biết chỗ nào là chỗ mấy thằng ranh con ranh ma chỉ viết chuyện kiếm tiền, và chỗ nào là chỗ một tờ báo đang âm mưu chuyện gì đó hẳn hoi."

"Anh hay lo quá, Alvah; và anh đang phóng đại mọi chuyện. Những mặt trận mới là một tạp chí tự do và lúc nào nó chả công kích Gail Wynand. Mọi người đều thế. Anh biết là ông ấy chưa bao giờ được giới báo chí ưa cả. Mà những chuyện ấy cũng chẳng làm hại gì ông ấy, phải không?"

"Nhưng chuyện này khác. Tôi không thích khi có cả một hệ thống đằng sau vụ này, một ý đồ đặc biệt; như kiểu nước nhỏ giọt, trông thì chẳng có gì nhưng chẳng mấy chốc thì thành những dòng suối nhỏ, cũng vẫn vô hại, nhưng rồi chẳng mấy chốc..."

"Anh bị mắc chứng hoang tưởng hành hạ đấy à, Alvah?"

"Tôi không thích chuyện này. Chẳng sao cả khi người ta chỉ tấn công chuyện du thuyền, chuyện đàn bà và vài chuyện xì-căng-đan bầu cử cấp thành phố của ông ấy - mà cũng chẳng ai chuyện ứng minh được những việc này." Ông hấp tấp nói thêm. "Nhưng tôi không thích cái giọng điệu trí thức mới mà bây giờ người ta đang dùng để chửi ông ấy: Nào là Gail Wynand, kẻ bóc lột; nào là Gail Wynand, tên cướp biển của chủ nghĩa tư sản; nào là Gail Wynand, căn bệnh của thời đại. Vẫn chỉ là rác rưởi thôi, Ellsworth; có điều dưới đống rác này có thuốc nổ."

"Chỉ là bình mới rượu cũ thôi mà, chẳng có gì hơn. Ngoài ra không thể bắt tôi chịu trách nhiệm cho chính sách của một tờ tạp chí chỉ vì thỉnh thoảng tôi có bán cho nó một vài bài."

"Nhưng mà... đó không phải là điều tôi nghe được."

"Anh nghe được chuyện gì?"

"Tôi nghe là ông đang tài trợ cho cả cái tạp chí khốn kiếp đấy."

"Ai cơ? Tôi ấy à? Bằng cái gì cơ?"

"À, cũng không chính xác là ông. Nhưng tôi nghe nói chính ông đã xui thằng cậu ấm nát rượu Ronny Pickering tiêm cho tờ Những mặt trận mới ấy một liều thuốc bổ trị giá một trăm ngàn đôla đúng lúc mặt trận của nó sắp vỡ."

"Quỷ tha ma bắt, tôi chỉ cứu Ronny ra khỏi chỗ cặn bã xa hoa của thành phố thôi. Thằng bé ấy đang xuống dốc. Tôi chỉ cho nó một mục đích sống tử tế hơn. Và cũng là sử dụng một trăm ngàn đôla một cách có ích hơn là để cho cả tá gái xinh đẹp móc tiền khỏi túi nó."

"Được rồi, nhưng ông đã có thể buộc một sợi dây vào món quà đó; ông đã có thể nhắn bọn biên tập bên đó nên để Gail được yên, nếu không thì..."

"Tờ Những mặt trận mới không giống như tờ Ngọn cờ, Alvah ạ. Đó là một tạp chí có nguyên tắc. Người ta không thể buộc dây vào các biên tập viên bên đó và cũng chẳng thể nào bảo họ 'nếu không thì...'"

"Trong cái nghề này á, Ellsworth? Ông đang đùa à?"

"Được rồi, nếu như nó làm anh yên tâm hơn thì tôi sẽ nói cho anh một chuyện anh chưa được nghe. Chuyện này đáng ra không được để lộ - nó đã được làm rất lòng vòng. Anh có biết tôi vừa xui Mitchell Layton mua lại một phần đáng kể của tờ Ngọn cờ không?"

"Không đời nào!"

"Có đấy!"

"Ôi Chúa ơi, Ellsworth, điều đó thật tuyệt vời! Mitchell Layton à? Chúng ta có thể dùng một tên tuổi như thế... Khoan đã, Mitchell Layton á?"

"Ừ, Mitchell Layton thì sao?"

"Có phải đó là thằng nhãi không biết làm gì để tiêu hết tiền của ông nó để lại không?"

"Ông nó đã để lại cho nó quá nhiều tiền."

"Hừm, nhưng hắn ta là một gã lập dị. Hắn ta đã từng theo tập Yoga, rồi ăn chay, rồi theo Thuyết Nhất Thể, rồi chủ nghĩa khoả thân. Bây giờ thì hắn mới xây một cung điện cho người vô sản ở Matxcơva."

"Thế thì sao?"

"Ôi Chúa ơi, một tên Đỏ làm cổ đông của chúng ta ư?"

"Mitch không phải là một tên Đỏ. Làm sao mà một tên Đỏ lại có trong tay một phần tư tỉ đôla được? Hắn ta chỉ là một bông hoa hồng phai màu thôi. Gần như thành màu vàng. Nhưng hắn là một thằng bé tốt bụng đấy."

"Nhưng... làm cổ đông tờ Ngọn cờ!"

"Alvah, anh đúng là một con lừa. Anh không thấy gì sao? Tôi đã làm cho hắn ta bỏ tiền vào một tờ báo tốt, làm ăn chắc chắn và bảo thủ. Việc đó đã giải thoát hắn khỏi những tư tưởng 'màu hồng' và dẫn hắn đi đúng hướng. Ngoài ra thì hắn ta có thể làm hại ai chứ? Ngài Gail yêu quý của anh vẫn khống chế tất cả những tờ báo của ông ta cơ mà, phải không?"

"Thế Gail có biết việc này không?"

"Không. Năm năm trở lại đây, ngài Gail yêu quý đã không còn để ý đến mọi việc như trước nữa. Và tốt nhất là anh đừng nói với ông ta. Anh nhìn thấy đường đi nước bước của Gail rồi đấy. Ông ấy cần có một chút sức ép. Còn anh thì cần tiền. Hãy tử tế với Mitch Layton. Rồi có lúc anh cần đến cậu ta đấy."

"Thế cơ đấy."

"Đúng thế. Anh thấy chưa? Trái tim tôi để đúng chỗ đấy chứ. Tôi đã giúp một tạp chí tự do non nhớ như tờ Những mặt trận mới, nhưng tôi cũng mang được cả đống tềin cho một tờ bảo thủ kiên cố như tờ Ngọn cờ New York."

"Ừ thì ông có làm thế thật. Kể ra ông cũng tử tế đấy - nhất là khi ông là loại người ủng hộ tư tưởng tự do."

"Nào bây giờ thì anh còn định nói đến chuyện không trung thành nữa không đấy?"

"Chắc là không. Tôi nghĩ ông sẽ đứng về phía tờ báo lâu đời Ngọn cờ."

"Dĩ nhiên là thế rồi. Tôi thích tờ Ngọn cờ. Tôi có thể làm bất cứ điều gì cho nó. Tôi có thể hy sinh cả cuộc sống của mình cho tờ Ngọn cờ New York."

VIII.

K

hi ở trên một hòn đảo hoang, việc đi bộ trên mặt đất làm cho người ta cảm thấy mình đang được neo giữ với phần còn lại của trái đất. Nhưng khi ở trong căn hộ áp mái của họ, với điện thoại bị ngắt, Wynand và Dominique không có cảm giác về năm mươi bảy tầng lầu phía dưới hay về những bê tông cốt thép. Đối với họ, căn nhà dường như được neo vào trong không gian; nó không phải là một hòn đảo, mà là một hành tinh. Thành phố trở thành một hình ảnh cố hữu, một ý tưởng trừu tượng mà họ không thể liên lạc được; giống như bầu trời, chỉ là một cảnh đẹp để ngắm nghía, chứ không có bất cứ một mối liên hệ trực tiếp nào với cuộc sống của họ.

Trong suốt hai tuần sau đám cưới, họ không hề ra khỏi căn hộ. Cô có thể bấm thang máy và phá vỡ những tuần lễ này bất kỳ lúc nào cô muốn; nhưng cô không muốn điều đó. Cô không có ham muốn chống cự, hay suy tính, hay chất vấn. Chỉ có sự hân hoan và bình yên.

Khi cô muốn, ông ngồi nói chuyện với cô hàng giờ. Khi cô muốn, ông sẵn lòng ngồi yên lặng, quan sát cô với ánh mắt xa xôi, bình thản như khi ông ngắm nghía những vật thể trong gallery của mình. Ông trả lời mọi câu hỏi cô đặt ra. Ông không bao giờ hỏi gì cả. Ông không nói về cảm xúc của mình. Khi cô muốn ở một mình, ông không gọi cô. Một buổi tối, khi ngồi đọc sách trong phòng mình, cô nhìn thấy ông đang đứng bên lan can lạnh cóng của vườn cây tối sẫm cạnh nhà. Ông không hề ngoái đầu nhìn căn nhà, ông chỉ đứng trong vệt sáng chiếu ra từ cửa sổ phòng cô.

Sau khi hai tuần đó kết thúc, ông quay lại với công việc của mình ở tòa soạn tờ Ngọn cờ. Thế nhưng sự cách ly với thế giới bên ngoài vẫn tồn tại nguyên vẹn, như là một quy ước đã được tuyên bố và sẽ được gìn giữ suốt những ngày sắp tới của họ. Ông về nhà vào buổi tối và thành phố tạm ngừng tồn tại. Ông không có ham muốn đi bất kỳ đâu. Ông không mời khách khứa đến nhà.

Ông chưa bao giờ nói ra, nhưng cô biết rằng ông không muốn cô bước ra khỏi căn nhà, cho dù với ông hay là đi một mình. Đó là một nỗi ám ảnh thầm kín mà ông không lường trước. Khi về đến nhà, ông hỏi "Em có đi ra ngoài không?" chứ chưa bao giờ hỏi "Em đã đi đâu?" Đó không phải là sự ghen tuông - việc cô "đi đâu" không có ý nghĩa gì cả. Khi cô muốn mua một đôi giày, ông gọi ba cửa hàng gửi các mẫu giày đến cho cô lựa chọn - cách này ngăn cô khỏi phải đến cửa hàng. Khi cô nói rằng cô muốn nhìn một bức tranh nào đó, ông cho xây một phòng chiếu trên mái nhà.

Cô ngoan ngoãn nghe lời trong một vài tháng đầu. Khi cô nhận thấy rằng cô yêu sự tách biệt với thế giới bên ngoài của hai người, cô phá vỡ nó ngay tức khắc. Cô buộc ông chấp nhận những lời mời, và cũng mời khách khứa đến nhà. Ông chiều theo ý cô, không hề phản đối.

Nhưng ông luôn giữ một bức tường mà cô không thể phá vỡ - đó là bức tường ngăn giữa cô và những tờ báo của ông. Tên cô không bao giờ xuất hiện trên những trang báo đó. Ông phá tan mọi cố gắng của đám nhà báo nhằm đưa bà Wynand ra trước công chúng - như việc đứng đầu các hội đồng, tài trợ các hoạt động từ thiện, lên tiếng ủng hộ các cuộc vận động lớn. Ông chẳng ngại ngần bóc những lá thư gửi đến cho cô - nếu như phần danh tính của bức thư để lộ mục đích của nó - ông sẽ hủy nó mà không thèm trả lời, rồi sau đó nói cho cô biết rằng ông đã hủy bức thư đó. Cô nhún vai và không nói gì cả.

Tuy thế, dường như ông không chia sẻ sự coi thường của cô đối với các tờ báo của ông. Ông không cho phép cô bàn luận về chúng. Cô không thể nào biết ông nghĩ gì hay cảm thấy thế nào về những tờ báo đó. Có một lần, khi cô nhận xét về một bài xã luận chướng tai gai mắt, ông nói lạnh lùng:

"Tôi chưa bao giờ xin lỗi về tờ Ngọn cờ. Tôi sẽ không bao giờ."

"Nhưng Gail, bài này thật quá tệ."

"Tôi nghĩ em đã lấy tôi với tư cách chủ báo của tờ Ngọn cờ."

"Tôi nghĩ là ông không thích nghĩ như thế."

"Việc tôi thích hay không thích cái gì không có liên quan tới em. Đừng trông đợi tôi sẽ thay đổi hay hy sinh tờ Ngọn cờ. Tôi sẽ không làm điều đó vì bất kỳ ai trên trái đất này."

Cô cười to. "Tôi sẽ không yêu cầu điều đó đâu, Gail."

Ông không hề cười đáp lại.

Trong phòng làm việc ở tòa nhà Ngọn cờ, ông làm việc với một nguồn năng lượng mới - một thứ năng lượng sung mãn, hân hoan. Điều này làm bất ngờ ngay cả những người đã biết ông trong những năm tháng tham vọng nhất. Ông ở lại văn phòng cả đêm khi cần - điều lâu nay ông không làm. Không có gì thay đổi trong phương pháp và đường lối của ông. Alvah Scarret quan sát ông với sự hài lòng. "Chúng ta đã nhầm về ông ấy, Ellsworth," Scarret nói với người đồng hành thường xuyên của mình - "Gail vẫn như thế, Chúa phù hộ cho ông ấy. Lại còn tốt hơn bao giờ hết."

"Alvah yêu quý ơi, mọi thứ không đơn giản như anh nghĩ đâu - và cũng chẳng nhanh thế đâu." - Toohey nói.

"Nhưng ông ấy đang hạnh phúc. Ông không nhìn thấy ông ấy hạnh phúc sao?"

"Hạnh phúc là điều nguy hiểm nhất đối với ông ấy. Và với tư cách một người luôn theo chủ nghĩa vị nhân sinh, tôi nói điều này là vì chính ông ấy."

*

* *

Sally Brent quyết định đánh lừa sếp của cô. Sally Brent là một trong những tài sản đáng tự hào nhất của tờ Ngọn cờ. Cô là một phụ nữ trung niên, mập mạp, luôn ăn mặc như một người mẫu theo phong cách của thế kỷ hai mươi mốt, nhưng viết lách hết sức thủ cựu. Cô có rất nhiều độc giả ruột trong số những độc giả của tờ Ngọn cờ. Sự nổi tiếng của cô làm cô quá tự tin.

Sally Brent quyết định viết một câu chuyện về bà Gail Wynand, loại chuyện theo gu của cô - loại nhanh chóng bị vứt vào sọt rác. Bằng những thủ thuật mà cô học được dưới sự đào tạo của Wynand về việc tìm cách lọt vào những chỗ mà người thường không thể vào được, cô đã được phép vào căn hộ của Wynand. Cô xuất hiện với vẻ ấn tượng thường ngày - một bộ váy đen với một bông hoa hướng dương tươi đeo trên cầu vai, thứ trang sức đặc trưng của cô. Cô gần như nín thở khi nói với Dominique "Thưa bà Wynand, tôi đến đây để giúp bà lừa phu quân của bà."

Cô nháy mắt một cách tinh nghịch và giải thích: "Thưa bà, ngài Wynand đáng kính của chúng ta đã không công bằng với bà khi tước đi quyền nổi tiếng chính đáng của bà vì một lý do nào đó mà tôi không thể hiểu nổi. Nhưng bà và tôi - chúng ta có thể thay đổi ông ấy. Một người đàn ông có thể làm được gì khi mà cánh đàn bà chúng ta tập hợp lại? Đơn giản là ông ấy không hiểu được bà là một đề tài hấp dẫn đến thế nào. Hãy kể cho tôi chuyện của bà. Tôi sẽ viết một câu chuyện hay đến mức ông ấy không thể không cho đăng nó."

Dominique đang ở nhà một mình. Cô mỉm cười với một vẻ mà Sally Brent chưa từng thấy; đến nỗi, mặc dù có một đầu óc quan sát tinh tế, Sally cũng không thể tìm được một tính từ chính xác mô tả nụ cười ấy. Dominique kể một câu chuyện đúng như thể loại mà Sally mong chờ.

"Vâng, dĩ nhiên là tôi chuẩn bị bữa sáng cho ông ấy," Dominique kể. "Ông ấy rất thích món thịt hun khói và trứng..." Ồ, vâng, cô Brent, tôi rất hạnh phúc. Mỗi sáng khi mở mắt ra, tôi tự nhủ rằng đây không thể là sự thật, không lẽ nào một người nhỏ bé như tôi lại trở thành phu nhân của Gail Wynand vĩ đại, người có trong tay hàng tá người đẹp trên thế giới để mà lựa chọn. Cô biết đấy, tôi đã thầm yêu ông ấy nhiều năm. Ông ấy là giấc mơ của tôi, một giấc mơ đẹp và không thể với tới. Và giờ đây, giấc mơ đó trở thành hiện thực. Cô Brent, hãy làm ơn mang thông điệp này của tôi tới những người phụ nữ Mỹ: Sự kiên nhẫn luôn được đền đáp xứng đáng và hạnh phúc ngọt ngào chỉ ở đâu đó quanh ta. Tôi nghĩ đấy là một ý nghĩ tốt đẹp và nó sẽ giúp ích cho các cô gái khác như nó đã giúp tôi. Vâng, tất cả những gì tôi muốn trong cuộc đời này là làm cho Gail được hạnh phúc, được chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn với ông ấy, và trở thành một người vợ, một người mẹ tốt."

Alvah Scarret đọc câu chuyện này và khoái chí đến độ bất cẩn. "Đăng ngay đi, Alvah", Sally hối thúc anh. "Để một bản in thử trên bàn ông ấy. Ông ấy sẽ đồng ý cho mà xem. Ông ấy không thể không đồng ý..." Tối hôm đó, Sally Brent bị đuổi việc. Hợp đồng làm việc đắt giá của cô bị mua lại mặc dù nó có giá trị ba năm nữa. Cô bị cấm không bao giờ được bước chân vào trụ sở tòa soạn tờ Ngọn cờ dù với bất kỳ lý do nào.

Scarret cuống cuồng phản đối: "Gail, ông không thể sa thải Sally, không thể là Sally!"

"Khi nào tôi không thể sa thải bất cứ nhân viên tòa soạn nào tôi muốn, tôi sẽ đóng cửa tờ báo và cho nổ tung cái tòa nhà khốn khiếp này," Wynand bình thản đáp lại.

"Nhưng còn độc giả của cô ta, chúng ta sẽ mất họ!"

"Quỷ tha ma bắt độc giả của cô ta đi."

Trong bữa ăn tối hôm đó, Wynand lấy trong túi một cuộn giấy nhàu nát chứa bản in thử câu chuyện. Ông ném qua bàn vào mặt Dominique mà không nói lời nào. Nó đập vào má cô và rơi xuống sàn. Cô nhặt lên, mở ra xem và phá lên cười.

Sally Brent viết một bài báo về chuyện tình yêu của Gail Wynand. Với lối viết hài hước mà trí thức, với những thuật ngữ thuộc chuyên ngành xã hội học, bài báo này đưa ra những tư liệu mà chẳng có bất cứ tờ báo lá cải nào nhận đăng. Nhưng nó đã được đăng trên tờ Những mặt trận mới.

*

* *

Wynand mua tặng Dominique một chiếc dây chuyền được thiết kế theo đơn đặt hàng riêng của ông. Chiếc dây chuyền được làm bằng những hạt kim cương, các mối nối được làm rất nhỏ để không thể nhìn thấy; các viên kim cương được rải xa nhau, không theo một quy tắc nào; như thể chúng được rắc ra một cách ngẫu nhiên. Những hạt kim cương ấy đã được gắn với nhau nhờ một sợi dây bạch kim được làm dưới kính hiển vi; gần như không thể nhận thấy. Khi ông đeo nó vào cổ cô, chiếc dây chuyền trông như những giọt nước ngẫu nhiên rơi xuống và đậu ở đó.

Cô đứng trước một tấm gương. Cô tuột chiếc áo ngủ khỏi bờ vai và để những hạt nước mưa đó lấp lánh trên da thịt. Cô nói:

"Cái bài về bà vợ gì ở Bronx mà giết chết tình nhân của chồng mình ấy - bài đấy thật là bẩn thỉu, Gail ạ. Nhưng tôi thấy sự tò mò của công chúng với câu chuyện ấy còn bẩn thỉu hơn. Nhưng có cái lại còn bẩn thỉu hơn nữa - những kẻ làm ma cô dẫn đường cho sự tò mò ấy. Thực ra thì chính cái bà vợ với cái chân như chân đàn piano và cái cổ phì nộn trong mấy bức tranh đó đã làm nên chuỗi vòng cổ này. Thật là một cái dây chuyền tuyệt đẹp. Tôi sẽ rất tự hào được đeo nó."

Ông mỉm cười. Trong đôi mắt chợt bừng sáng của ông có một sự can đảm kỳ lạ.

"Đấy là một cách để nhìn nhận chuyện này," ông nói. "Có một cách nhìn khác. Tôi thích nghĩ rằng mình đã lọc ra những thứ rác rưởi tồi tệ nhất trong đầu óc con người - đầu óc của bà vợ đó và đầu óc của những kẻ thích tìm đọc về bà ta - và tôi dùng cái đó để làm ra cái dây chuyền trên vai em. Tôi thích nghĩ rằng mình là một nhà giả kim có khả năng tinh chế kỳ diệu."

Cô không nhìn thấy một chút sám hối, nuối tiếc hay bực tức nào trong ánh mắt ông nhìn cô. Đó là một ánh nhìn kỳ lạ mà cô chưa từng thấy nó. Đấy là ánh nhìn của một sự tôn thờ giản dị. Cái nhìn ấy làm cô nhận ra rằng có một trạng thái của sự tôn thờ ở đó bản thân người tôn thờ lại trở thành đối tượng của sự thờ phụng.

Vào buổi tối hôm sau, khi cô đang ngồi trước gương trong phòng trang điểm thì ông bước vào. Ông cúi xuống, áp môi vào gáy cô - và ông nhìn thấy một mẩu giấy hình vuông đính ở góc gương. Đó là bức điện tím đã chấm dứt công việc của cô ở tờ Ngọn cờ. SA THẢI CON CHÓ CÁI ĐÓ.GW.

Ông rướn người để đứng thẳng dậy phía sau cô. Ông hỏi:

"Làm sao em có được nó?"

"Ellsworth Toohey đã đưa nó cho tôi. Tôi đã nghĩ là nó đáng được giữ lại. Dĩ nhiên là tôi đã không lường được là lại có lúc mảnh giấy này trở nên phù hợp đến thế."

Ông nghiêng đầu một cách nghiêm trang để thừa nhận mình là tác giả của bức điện tín đó và không nói gì thêm.

Cô đã chờ đợi bức điện tín sẽ biến mất vào sáng hôm sau. Nhưng ông đã không động đến nó. Cô cũng không gỡ bức điện tín đó đi. Nó cứ nằm nguyên trên góc gương. Khi ông ôm cô trong tay, cô thường thấy ánh mắt của ông hướng về mảnh giấy vuông đó. Cô không thể đoán được ông nghĩ gì.

*

* *

Mùa xuân năm đó, ông tới New York một tuần để tham dự một cuộc hội nghị của các chủ báo. Đây là lần đầu tiên họ xa nhau. Dominique đã làm ông bất ngờ khi đến đón ông ở sân bay lúc ông trở về. Cô trông thật vui tươi và dịu dàng; cử chỉ của cô hứa hẹn một điều mà ông chưa bao giờ dám hy vọng, đã không dám tin tưởng; và ông thấy mình đang hoàn toàn tin nó.

Khi ông bước vào phòng khách trong căn hộ của hai người và nằm duỗi nửa người trên đi văng, cô biết ông muốn nằm yên ở đó để cảm nhận sự yên ổn trong thế giới của riêng mình mà ông vừa giành lại được. Cô nhìn thấy mắt ông mở to, hướng về cô, không một chút tự vệ. Cô đứng thẳng, sẵn sàng. Cô nói:

"Anh nên thay đồ đi Gail. Tối nay chúng ta sẽ đi tới nhà hát."

Ông nhấc mình ngồi dậy. Ông mỉm cười; những nếp nhăn nằm nghiêng hằn rõ trên trán ông. Cô cảm thấy vô cùng khâm phục ông: sự tự chủ của ông thật hoàn hảo, tất cả, chỉ trừ những nếp nhăn. Ông đáp:

"Được thôi. Cà-vạt đen hay trắng?"

"Trắng. Tôi có vé vở Không phải việc của ngài. Vé vở này khó kiếm lắm đấy."

Vậy là quá đủ. Dường như vở kịch quá lố bịch khi trở thành một phần trong trận đấu vào lúc này giữa hai người. Ông đầu hàng bằng cách cười phá lên với vẻ ngán ngẩm không thể che giấu.

"Lạy Chúa, Dominique, không thể là vở đó được!"

"Kìa Gail, vở này đang ăn khách nhất ở thành phố này đấy. Nhà phê bình của anh, Jules Foughler" - ông ngừng cười. Ông đã hiểu ra - "đã bình rằng đây là vở kịch tuyệt vời của thời đại chúng ta. Ellsworth Toohey nói rằng vở kịch này là tiếng nói trong trẻo của một thế giới mới đang đến. Alvah Scarret thì nói rằng nó không là viết bởi mực mà viết bằng dòng sữa của sự nhân đạo. Còn Sally Brent - trước khi anh sa thải cô ta - đã nói rằng vở kịch này làm cô ta cười nghẹn ngào. Chà, vở kịch này là đứa con đỡ đầu của tờ Ngọn cờ. Tôi đã nghĩ thế nào anh cũng muốn xem nó."

"Tất nhiên rồi" ông nói.

Ông đứng dậy và đi thay đồ.

Không phải việc của ngài được trình diễn hàng tháng nay. Ellsworth Toohey đã đề cập đến vở kịch này trong một bài báo của ông rằng thật là đáng tiếc vì tên của vở kịch đã bị thay đổi ít nhiều "như một sự nhượng bộ đối với thói lịch thiệp giả dối cổ lỗ sĩ của giai cấp trung lưu vốn vẫn ngự trị trong các rạp hát của chúng ta. Đây là một ví dụ đáng báo động về sự can thiệp vào sự tự do của người nghệ sĩ. Từ giờ đừng bắt chúng ta phải nghe những điều nhảm nhí như chúng ta đang sống trong một xã hội tự do. Tên nguyên gốc của vở kịch tuyệt đẹp này vốn là một câu lấy từ kho tàng ngôn ngữ của đại chúng - một câu nói hùng hồn đơn giản và dũng cảm như một câu thành ngữ dân gian."

Wynand và Dominique ngồi chính giữa hàng ghế thứ tư. Họ không nhìn nhau. Họ chăm chú lắng nghe vở kịch. Những thứ đang diễn ra trên sân khấu chỉ đơn thuần là những lời thoại sáo mòn và thô thiển, nhưng chính những gì ẩn đằng sau cánh gà mới làm cho vở kịch trở nên khủng khiếp. Những lời thoại ngớ ngẩn buồn tẻ ấy tạo nên một bầu không khí riêng của vở kịch - nó ngấm vào người chính những diễn viên như một bệnh truyền nhiễm; nó ở trên gương mặt ngớ ngẩn của họ, trong giọng nói giả tạo của họ, trong điệu bộ lôi thôi lếch thếch của họ. Đấy là một không khí gồm toàn những lời ngớ ngẩn nhưng lại được thốt ra như những lời mặc khải và xấc xược đòi hỏi người ta phải chấp nhận chúng như sự mặc khải; một không khí không phải được tạo nên bởi sự tự mãn ngây thơ, mà bởi sự vô liêm sỉ có ý thức, như thể tác giả biết rõ bản chất tồi tệ của tác phẩm của anh ta và cố tình huênh hoang về khả năng biến sự tồi tệ ấy thành ra cao cả trong đầu óc khán giả, và do đó mà hủy diệt khả năng nhận biết sự cao cả trong họ. Vở kịch đã thành công đúng như các nhà tài trợ cho nó dự đoán: nó làm người ta cười, nó làm người ta ngạc nhiên; nó là một trò đùa khiếm nhã, được diễn không phải trên sân khấu mà ngay trong chính khán giả. Vở kịch là một cái bàn thờ, nơi mà tượng thần đã bị vứt bỏ, và thay vào đó không phải là một bức tượng quỷ Sa tăng đang cầm gươm, mà là một gã khờ đang ngồi mút Coca-Cola.

Một sự im lặng bao phủ lên khán giả của vở kịch - họ hoang mang và khúm núm. Khi có ai đó cười, những người còn lại cũng cười theo, cười một cách nhẹ nhõm, vui mừng vì thấy rằng chính mình cũng thích thú với vở kịch này. Jules Foughler không cố tình áp đặt ảnh hưởng đến bất cứ một ai. Ông chỉ tuyên bố rõ ràng từ trước, qua nhiều kênh thông tin khác nhau, rằng những người không thể thưởng thức vở kịch này về cơ bản là những người chẳng có giá trị gì. "Chẳng cần phải giải thích dài dòng gì" - ông nói - "Hoặc là quý vị tốt đẹp đủ để thưởng thức vở kịch này, hoặc là không."

Trong giờ nghỉ giải lao giữa vở kịch, Wynand nghe thấy một phụ nữ mập mạp nói: "Vở kịch thật tuyệt vời. Tôi không hiểu nó, nhưng tôi có cảm giác rằng nó là một cái gì đó rất lớn lao." Dominique hỏi: "Anh có muốn về không, Gail?" Ông đáp lại: "Không, chúng ta sẽ xem hết vở kịch."

Ông im lặng trong ô-tô trên suốt đường về nhà. Khi họ bước vào phòng khách, ông đứng yên chờ đợi, sẵn sàng nghe và chấp nhận bất cứ điều gì. Trong một khoảnh khắc, cô cảm thấy muốn để ông được yên. Cô cảm thấy trống rỗng và mệt mỏi. Cô không muốn làm tổn thương ông, mà muốn tìm kiếm sự che chở từ ông.

Sau đó cô nhớ lại những gì cô đã suy nghĩ khi ở trong nhà hát. Cô đã nghĩ rằng vở kịch này là con đẻ của tờ Ngọn cờ. Chính tờ Ngọn cờ đã ép cho vở kịch ra đời, dã nuôi dưỡng, nâng đỡ và mang lại vinh quang cho nó. Cũng chính tờ Ngọn cờ đã bắt đầu và kết thúc việc phá hủy ngôi Đền Stoddard. Chính tờ Ngọn cờ New York, vào ngày mùng hai tháng Mười một năm 1930, chuyên mục Một ý kiến nhỏ... bài Tội báng bổ thánh thần của Ellsworth M.Toohey... mục Những nhà thờ của tuổi thơ của Alvah Scarret... Ngài Siêu nhân, ngài có hạnh phúc không?... Và giờ đây, việc phá hủy ngôi đền đó, không phải là một sự kiện đã xảy ra lâu rồi... đây không phải là sự so sánh giữa hai thực thể cũng không thể đo lường về giá trị - một công trình xây dựng và một vở kịch... đây không phải một sự tình cờ, cũng không phải là vấn đề của một số người, không phải của Ike, Foughler, Toohey, không phải cô... và Roark. Đây là một cuộc đấu không có thời gian, cuộc chiến giữa hai lực lượng trừu tượng, giữa cái tạo ra công trình kiến trúc đó và cái đã nuôi dưỡng vở kịch này... hai thế lực ấy chợt trở nên trần trụi trước cô với những tuyên ngôn giản đơn của chúng... hai thế lực đã đấu tranh với nhau từ khi thế giới này hình thành - và mọi tôn giáo đều biết đến chúng... - và đã luôn luôn có một bên luôn là Chúa và một bên luôn là Ác quỷ... chỉ có điều, con người đã nhầm lẫn về hình thù của Ác quỷ... Ác quỷ không phải chỉ có một mình, khổng lồ, mà rất nhiều, bẩn thỉu và nhỏ bé. Tờ Ngọn cờ đã phá hủy ngôi Đền Stoddard để có chỗ cho cái vở kịch này ra đời... không có cách nào khác... không có cách lựa chọn nào ở giữa, không có lối thoát, không có sự dung hòa... hoặc cái này hoặc cái kia... luôn là như vậy... có rất nhiều vật biểu trưng cho cuộc chiến ấy, nhưng người ta chưa bao giờ gọi tên và tuyên bố nó ra... Roark, cô nghe thấy tiếng mình gào thét bên trong, Roark... Roark... Roark....

"Dominique... có chuyện gì vậy?"

Cô nghe thấy tiếng của Wynand. Giọng nói của ông nhẹ nhàng và lo lắng. Ông chưa bao giờ cho phép mình để lộ sự lo lắng. Cô nhận rõ được rằng âm thanh đó là sự phản chiếu của chính gương mặt cô, của những gì mà ông đã nhìn thấy trên gương mặt cô.

Cô đứng thẳng, tự tin và vô cùng bình thản.

"Tôi đang nghĩ về anh, Gail" cô nói.

Ông chờ đợi.

"Thế nào, Gail... Đam mê tuyệt đối với độ cao tuyệt đối hả?" Cô cười to và để cho hai cánh tay vung vẩy uể oải giống như điệu bộ của những diễn viên trong vở kịch họ đã xem. "Nào, Gail, anh có con tem hai xu nào mà có ảnh của George Washington không? Anh bao nhiêu tuổi rồi hả Gail? Anh đã làm việc vất vả đến thế nào? Anh đã đi quá nửa cuộc đời, và tối nay anh đã thấy phần thưởng của mình. Thành tựu lớn nhất của anh. Tất nhiên là không có ai tương xứng được với đam mê lớn nhất của anh ta. Nhưng bây giờ, nếu anh nỗ lực vượt bậc, một ngày nào đó anh sẽ đạt được tới vị trí của cái vở kịch đó!"

Ông đứng im lặng, lắng nghe và chấp nhận.

"Tôi nghĩ anh nên lấy một bản thảo của vở kịch đó và đặt nó trên một cái bục ở chính giữa gallery của anh dưới nhà. Tôi nghĩ anh nên làm lễ rửa tội cho cái thuyền buồm của anh và đặt tên nó là Không Phải Việc Của Ngài. Tôi nghĩ anh nên đưa tôi..."

"Đừng nói nữa."

"... vào danh sách diễn viên và bắt tôi sắm vai Marry mỗi tối. Mary người đã nuôi một con chuột xạ không có tổ và..."

"Dominique, đừng nói nữa."

"Vậy thì anh nói đi. Tôi muốn nghe anh nói."

"Tôi chưa bao giờ phải thanh minh với bất cứ ai."

"Vậy thì hãy khoe khoang về mình đi. Hai cách đó như nhau."

"Nếu em muốn nghe thì đây, cái vở kịch này làm tôi buồn nôn. Em biết rõ điều đó. Nó còn tệ hơn cả chuyện bà vợ ở Bronx."

"Tệ hơn nhiều."

"Nhưng tôi có thể nghĩ ra những thứ còn tệ hơn thế. Viết ra một vở kịch vĩ đại và dâng nó làm trò cười cho cái đám khán giả tối nay. Và biến mình thành kẻ tử vì đạo cho những kẻ cười đùa vui vẻ mà chúng ta thấy tối nay."

Ông nhận thấy một cái gì đó đã chạm tới cô. Ông không biết chắc cô đang đáp lại sự ngạc nhiên hay sự tức giận. Ông không biết cô đã nhận ra những lời ấy như thế nào. Ông tiếp tục:

"Nó đúng là làm tôi buồn nôn. Nhưng tờ Ngọn cờ cũng đã từng làm được nhiều việc khác làm tôi buồn nôn. Vở kịch tối nay tồi tệ hơn những thứ kia, bởi vì nó có những tính chất đi quá mức bình thường. Một kiểu hiểm ác đặc biệt. Nhưng nếu điều này lại được những kẻ ngu ngốc kia ưa thích, thì tờ Ngọn cờ phải có trách nhiệm với nó. Tờ Ngọn cờ được tạo ra để phục vụ quyền lợi của những kẻ ngu ngốc. Em còn muốn tôi thừa nhận điều gì nữa không?"

"Những gì anh cảm thấy tối nay."

"Một kiểu địa ngục nho nhỏ. Bởi vì em ngồi đó với tôi. Chính em muốn điều đó phải không? Em muốn làm cho tôi cảm nhận được sự trái ngược. Tuy nhiên em đã tính nhầm. Tôi đã nhìn lên sân khấu và tôi nghĩ con người là như thế này, tinh thần của họ là như thế này - còn tôi - tôi đã tìm ra em, và tôi có em - và sự trái ngược đó xứng đáng với nỗi đau tôi phải chịu. Tôi quả đã phải chịu đựng tối nay, như em đã muốn, nhưng nó là một nỗi đau chỉ có khả năng đi xuống được đến một điểm nhất định còn sau đó..."

"Anh im đi" - cô gào lên. "Anh im đi, quỷ tha ma bắt anh đi!"

Họ đứng lặng một lúc, cả hai đều ngỡ ngàng. Ông cử động trước, ông biết rằng cô cần sự giúp đỡ của ông; ông nắm lấy bờ vai cô. Cô vùng ra khỏi tay ông. Cô bước ngang qua phòng, tới bên cửa sổ. Cô đứng đó nhìn xuống thành phố, nhìn những tòa nhà đồ sộ trải dài với những mảng tối sẫm lẫn với ánh lửa phía bên dưới cô.

Sau một lúc, cô nói với một giọng điệu không âm sắc:

"Tôi xin lỗi, Gail."

Ông không đáp lại.

"Tôi không có quyền nói những điều đó với anh." Cô không quay lại; cô đưa hai tay lên cao, bám lấy khung cửa sổ. "Chúng ta hòa nhau, Gail. Tôi đã trả giá - nếu như điều đó làm anh thấy dễ chịu hơn. Tôi đã đầu hàng trước."

"Tôi không muốn em phải trả giá gì cả." Ông nói nhẹ nhàng. "Dominique, cái đó là cái gì?"

"Không có gì."

"Tôi đã làm em nghĩ tới chuyện gì? Không phải những gì tôi nói. Nó là một điều gì khác. Những từ ấy có nghĩa như thế nào với em?"

"Chẳng có nghĩa gì cả."

"Nỗi đau chỉ xuống đến một điểm nhất định. Chính là câu này. Tại sao?" Cô đang nhìn xuống thành phố. Cô có thể nhìn thấy khung tòa nhà Cord ở phía xa. "Dominique, tôi biết khả năng chịu đựng của em. Nếu những lời ấy có thể làm cho em như thế kia, nó hẳn phải là cái gì đó rất kinh khủng. Tôi cần phải biết. Không có gì là không thể cả. Tôi có thể giúp em chống lại điều đó, bất kể đó là chuyện gì." Cô không trả lời. "Ở rạp hát tối nay, không chỉ có vở kịch ngớ ngẩn đó. Tối nay em còn có chuyện gì đó nữa. Tôi đã nhìn thấy nét mặt em ở rạp hát. Và bây gìơ em lại có cái vẻ mặt ấy ở đây. Nó là cái gì?"

"Gail, anh sẽ tha thứ cho tôi chứ?" cô nói khẽ.

Ông để cho một giây trôi qua; ông đã không chuẩn bị cho câu hỏi đó.

"Tôi phải tha thứ cho em vì cái gì?"

"Tất cả. Và cả buổi tối hôm nay."

"Đó là đặc quyền của em mà, là điều kiện để em kết hôn với tôi. Là bắt tôi phải trả giá cho tờ Ngọn cờ."

"Tôi không muốn buộc anh phải trả giá cho tờ Ngọn cờ."

"Tại sao em không muốn điều đó nữa?"

"Vì không thể trả nổi."

Trong không gian yên lặng, cô nghe thấy tiếng bước chân ông đi đi lại lại phía sau cô.

"Dominique, cái đó là cái gì?"

"Nỗi đau sẽ dừng lại ở một điểm nhất định nào đó ư? Không có gì cả. Có điều anh không có quyền nói ra điều đó. Những người có quyền nói ra điều đó - họ phải trả giá để có quyền đó - một cái giá anh không kham được. Nhưng bây giờ thì chuyện ấy chẳng có ý nghãi gì nữa cả. Anh cứ nói nếu anh muốn. Tôi cũng chẳng có quyền nói điều đó."

"Đó chưa phải là tất cả."

"Tôi nghĩ rằng anh và tôi có rất nhiều điểm tương đồng. Ở chỗ nào đó, chúng ta đã cùng mắc tội phản bội. Không, đó là một từ xấu... Mà không, tôi nghĩ từ đó rất chính xác. Đó là từ duy nhất diễn đạt được điều tôi nghĩ."

"Dominique, em không thể cảm thấy như vậy." Giọng của ông nghe rất lạ. Cô quay về phía ông.

"Tại sao?"

"Bởi vì đó là điều tôi cảm nhận thấy tối nay. Sự phản bội."

"Phản bội ai?"

"Tôi không biết. Nếu như tôi là người theo đạo, thì tôi có thể trả lời là 'Chúa trời'. Nhưng tôi lại không theo đạo."

"Đó chính là ý tôi, Gail."

"Tại sao em lại cảm thấy điều đó? Tờ Ngọn cờ không phải là con đẻ của em."

"Có những hình thức biểu hiện khác của cùng một tội lỗi."

Ông đi qua căn phòng dài, tiến về phía cô, ông ôm cô trong tay mình và nói:

"Em không biết được ý nghĩa của những từ ngữ em đã dùng. Chúng ta có rất nhiều điểm tương đồng, nhưng không phải là điểm đó. Tôi thà để em nhổ nước bọt vào mặt tôi còn hơn là để em cố gắng chia sẻ những tội lỗi của tôi."

Cô áp bàn tay mình dọc má ông, những đầu ngón tay cô chạm vào thái dương ông.

Ông hỏi:

"Bây giờ em sẽ nói cho tôi cái đó là cái gì được không?"

"Không có gì đâu. Tôi đã chất lên mình nhiều hơn những gì tôi có thể vác. Anh mệt rồi đấy, Gail. Anh lên gác ngủ đi. Cho tôi ở lại đây một chút. Tôi chỉ muốn nhìn thành phố. Một lúc nữa tôi sẽ lên và tôi sẽ ổn thôi."

IX.

D

ominique đứng bên lan can chiếc du thuyền; bong tàu nóng ấm dưới đôi xăng-đan bệt của cô, ánh nắng phủ lên đôi chân trần, và gió thổi tung chiếc váy trắng mỏng của cô. Cô ngắm nhìn Wynand đang nằm dài trên chiếc ghế xếp phía trước.

Cô ngẫm nghĩ về sự thay đổi mà cô lại bắt gặp ở ông khi ở trên tàu. Cô đã quan sát ông trong suốt mấy tháng của chuyến du ngoạn hè này. Đã có lần cô nhìn thấy ông chạy xuống cầu thang dẫn xuống khoang dưới, và hình ảnh đấy vẫn còn nguyên trong tâm trí cô, một hình dáng cao trắng băng về phía trước với tốc độ và sự cả quyết; tay ông nắm chặt vào lan can cầu thang để đẩy người về phía trước, bất chấp một cách có ý thức cái nguy cơ lan can có thể đột nhiên bị gãy. Ông không phải là ông chủ báo đồi bại của một đế chế danh tiếng. Ông là một nhà quý tộc trên chiếc du thuyền. Cô nghĩ rằng trông ông giống như những gì người ta tưởng tượng về tầng lớp quý tộc khi người ta còn trẻ: một nhóm người hào nhoáng, luôn vui vẻ một cách vô tư lự.

Cô nhìn ông nằm dài trong cái ghế xếp trên boong tàu. Cô nghĩ rằng sự thư giãn trở nên hấp dẫn chỉ với những người mà với họ, thư giãn là một trạng thái bất thường, khi đó thì thậm chí cả sự rũ người ra cũng có ý nghĩa. Cô ngẫm nghĩ về ông; Gail Wynand, người vốn nổi tiếng về những khả năng phi thường. Tuy nhiên, cái này không chỉ là sức mạnh của một kẻ mạo hiểm đầy tham vọng, người đã tạo nên cả một dây chuyền các tờ báo. Cái này - cái mà cô nhìn thấy ở ông vào lúc này - cái đang nằm dài dưới ánh mặt trời như một câu trả lời bỏ ngỏ - cái này vĩ đại hơn nhiều; nó là động cơ đầu tiên của sức mạnh, một thứ năng lưc nằm ngoài sự vận động của vũ trụ.

"Gail", cô chợt thốt lên không chủ ý.

Ông mở mắt nhìn cô.

"Ước gì tôi có thể ghi âm được tiếng gọi ấy", ông nói một cách trễ nải. "Em chắc cũng sẽ giật mình khi nghe tiếng gọi ấy đấy. Nhưng nghe ở đây thì hơi phí. Giá mà tôi có thể bật lại nó trong phòng ngủ."

"Tôi sẽ nhắc lại ở đó, nếu anh muốn."

"Cám ơn, em yêu quý. Và tôi hứa là sẽ không phóng đại hay võ đoán nhiều hơn. Em không yêu tôi. Em cũng chưa hề yêu bất kỳ ai cả."

"Tại sao anh nghĩ như thế?"

"Nếu em yêu một người đàn ông, thì sẽ không chỉ có một đám cưới trò hề và một tối xem kịch nực cười đâu. Em sẽ cho anh ta nếm mùi địa ngục."

"Làm sao anh biết như vậy hả Gail?"

"Tại sao em luôn nhìn chằm chằm vào tôi kể từ khi chúng ta gặp nhau? Bởi vì tôi không phải là Gail Wynand mà em đã được nghe. Em thấy đấy, tôi yêu em. Và yêu tức là tạo ngoại lệ. Nếu em đang yêu, em sẽ muốn bị bẻ gãy, bị dày xéo, bị ra lệnh, bị thống trị, bởi vì những điều đó là bất khả, là không thể tưởng tượng nổi trong các mối quan hệ của em với những người khác. Đó sẽ là một món quà, một ngoại lệ lớn mà em sẽ muốn tặng người đàn ông em yêu. Nhưng việc ấy sẽ chẳng dễ dàng với em."

"Nếu những điều anh nói là đúng, thì anh..."

"Thì tôi phải trở nên hiền lành và nhún nhường - trước sự kinh ngạc của em - bởi vì tôi là kẻ vô lại nhất trên đời này."

"Tôi không tin điều đó, Gail."

"Không à? Tôi không còn là kẻ vô lại thứ hai trên đời nữa à?"

"Không, không còn nữa."

"Ôi, em yêu quý, thực ra thì tôi vẫn thế."

"Tại sao anh lại muốn nghĩ như vậy?"

"Tôi không muốn nghĩ như vậy. Nhưng tôi muốn thành thật. Đó luôn là sự xa xỉ cá nhân duy nhất của tôi. Đừng thay đổi suy nghĩ của em về tôi. Hãy cứ nhìn tôi như em đã nhìn tôi trước khi chúng ta gặp nhau."

"Gail, đó không phải là điều anh muốn."

"Việc tôi muốn gì đâu có quan trọng. Tôi chẳng muốn gì hết ngoài việc sở hữu em. Mà chẳng cần em đáp lại. Mọi việc phải là như thế - phải không có sự đáp lại. Nếu em bắt đầu quan sát tôi quá gần, em sẽ thấy những điều mà em không thích một chút nào."

"Những điều gì?"

"Em thật đẹp, Dominique. Chúa đã có một sự vô ý tuyệt vời khi tạo ra một người hoàn hảo cả trong lẫn ngoài như thế này."

"Những điều gì, Gail?"

"Em có biết thực ra em yêu cái gì không? Sự chính trực. Cái không thể. Cái trong sạch, trước sau như một, hợp lý, chung thủy với chính bản thân mình, cái nhất-thể-về-phong-cách, như một tác phẩm nghệ thuật vậy. Đấy là lĩnh vực duy nhất mà sự hoàn hảo có thể được tìm thấy - nghệ thuật. Nhưng em lại muốn nó hiện bằng da bằng thịt. Em yêu điều đó. Em thấy đây, tôi thì chẳng bao giờ có sự chính trực cả."

"Anh chắc chắn về điều đó đến mức nào, Gail?"

"Em đã quên tờ Ngọn cờ rồi à?"

"Quỷ tha ma bắt tờ Ngọn cờ đi."

"Được rồi, thì quỷ tha ma bắt tờ Ngọn cờ. Thật hay khi nghe em nói thế. Nhưng tờ Ngọn cờ không phải là biểu hiện chính. Việc tôi chưa bao giờ có bất cứ biểu hiện nào của lòng chính trực không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là tôi chưa từng cảm thấy cần phải làm như thế. Tôi ghét cái quan niệm về sự chính trực ấy. Tôi ghét sự tự phụ quá đáng mà cái ý tưởng đó bao hàm."

"Dwight Carson..." cô nói. Ông nhận thấy sự ghê tởm trong giọng nói của cô.

Ông cười to. "Đúng thế, Dwight Carson. Cái anh chàng mà tôi đã mua. Một người theo chủ nghĩa cá nhân giờ trở thành kẻ tôn thờ đám đông, và đồng thời trở thành kẻ nát rượu. Chính tôi đã làm điều đó. Nó còn bỉ ổi hơn cả Ngọn cờ, phải không? Em không thích bị nhắc nhớ ra điều này à?"

"Không."

"Nhưng chắc chắn là em đã nghe đủ những lời than khóc về nó. Tất cả những người khổng lồ về tinh thần mà tôi đã đốn ngã. Tôi nghĩ là chưa có ai nhận ra tôi thích thú làm những việc này đến thế nào. Nó là một thứ dục vọng. Tôi hoàn toàn thờ ơ với những con ốc sên như Ellsworth Toohey hay anh bạn Alvah của chúng ta. Tôi rất sẵn lòng để cho họ được yên ổn. Nhưng cứ để cho tôi thấy một kẻ nào đó có tầm vóc lớn hơn một chút thôi - tôi sẽ buộc phải biến hắn thành một dạng Toohey. Tôi phải làm thế. Nó như một ham muốn tình dục."

"Tại sao?"

"Tôi không biết."

"Tiện thể, anh hiểu sai về Ellsworth Toohey rồi."

"Cũng có thể. Em không mong tôi lãng phí đầu óc của mình để tìm hiểu cái con sên đấy chứ?"

"Anh cũng mâu thuẫn với chính bản thân anh nữa."

"Ở chỗ nào?"

"Tại sao anh đã không hủy diệt tôi?"

"Thì tạo ngoại lệ mà, Dominique. Tôi yêu em. Tôi buộc phải yêu em. Nếu em là một người đàn ông thì... cầu Chúa phù hộ cho em..."

"Gail - tại sao?"

"Tại sao tôi đã làm tất cả những điều đó à?"

"Đúng."

"Quyền lực, Dominique ạ. Đó là điều duy nhất mà tôi ham muốn. Để thấy rằng không có bất kỳ một sinh vật sống nào mà tôi không thể bắt làm bất kỳ điều gì. Bất cứ điều gì tôi chọn. Người mà tôi không thể bẻ gãy sẽ là người hủy diệt tôi. Nhưng tôi đã mất nhiều năm trời để hiểu rõ mình an toàn đến mức nào. Người ta nói rằng tôi chẳng có một chút lòng tự trọng nào, rằng tôi đã thiếu một thứ trong cuộc sống. Chà, tôi không thiếu nhiều lắm, đúng không? Cái mà tôi thiếu - nó không hề tồn tại."

Ông nói bằng một âm điệu bình thường, nhưng ông chợt nhận ra rằng cô đang lắng nghe với sự tập trung chăm chú mà người ta thường có khi muốn nghe một lời nói thầm quan trọng đến mức người ta không thể bỏ qua bất cứ âm tiết nào.

"Có chuyện gì vậy, Dominique? Em đang nghĩ về cái gì vậy?"

"Tôi đang nghe anh, Gail."

Cô không nói rằng cô đang nghe những lời của ông và những lý do đằng sau nó. Bỗng nhiên, cô thấy rõ là cô đang lắng nghe những lý do đó như những mệnh đề bổ sung vào mỗi câu ông nói, mặc dù ông không hề biết ông đang để lộ điều gì.

"Thứ tồi tệ nhất về những kẻ không trung thực là quan niệm của họ về sự trung thực." ông nói. "Tôi biết một người phụ nữ chưa bao giờ tin được điều gì lâu quá ba ngày, nhưng khi tôi nói với bà ta rằng bà ta chẳng hề có sự chính trực, bà ta mím chặt môi và nói rằng quan niệm về sự chính trực của bà ta khác với của tôi; có vẻ như bà ta chưa bao giờ lấy trộm tiền. Chà, người như bà ta không bao giờ gặp nguy hiểm với tôi. Tôi không căm ghét bà ta. Tôi căm ghét cái khái niệm không hề tồn tại mà bà ta say mê một cách cuồng nhiệt, Dominique ạ."

"Anh căm ghét điều đó thật ư?"

"Tôi đã rất thích thú khi chứng minh điều đó."

Cô đi lại phía ông và ngồi xuống sàn tàu cạnh ghế ông, những tấm ván tàu nhẵn nhụi và nóng dưới đôi chân trần của cô. Ông tự hỏi tại sao cô nhìn ông thật dịu dàng như vậy. Ông cau mày. Cô biết rằng trong mắt cô vẫn còn đọng lại những điều mà cô vừa nhận ra - và cô nhìn ra phía khác, tránh ánh mắt của ông.

"Gail, tại sao anh lại nói với em tất cả những điều đó? Đó không phải là những gì anh muốn em nghĩ về anh."

"Không. Không phải. Tại sao tôi lại nói với em bây giờ à? Em muốn biết sự thật à? Bởi vì tôi cần phải nói những điều đó. Bởi vì tôi muốn trung thực với em. Chỉ với em và với chính tôi. Nhưng tôi sẽ không đủ can đảm để nói với em ở bất cứ nơi nào khác. Không phải ở nhà. Không phải ở trong đất liền. Chỉ có ở đây - bởi vì ở đây, mọi thứ dường như không có thực. Có phải không em?"

"Đúng thế."

"Tôi đã hy vọng rằng em sẽ chấp nhận điều đó - và vẫn nghĩ về tôi như em đã nghĩ và em gọi tên tôi theo cái cách mà tôi muốn ghi âm lại."

Cô tựa đầu vào ghế của ông, áp mặt vào đầu gối ông, bàn tay cô buông thõng, nhưng ngón tay hơi khép lại trên những tấm ván sàn lấp lánh. Cô không muốn để lộ cái mà cô đã thực sự nghe thấy ông bộc lộ về bản thân ngày hôm nay.

*

**

Vào một buổi cuối mùa thu, họ cùng nhau đứng bên lan can khu vườn treo trên sân thượng và ngắm nhìn thành phố. Những khung nhà cao làm cho những cửa sổ sáng đèn trông như những dòng suối ánh sáng, nứt ra từ bầu trời đen và nhỏ từng giọt xuống biển lửa khổng lồ ở bên dưới.

"Chúng kia rồi, Dominique - những tòa nhà vĩ đại. Những tòa nhà chọc trời. Em có nhớ không? Chúng là mối liên kết đầu tiên giữa chúng ta. Cả em và tôi đều say mê những tòa nhà này."

Cô nghĩ rằng đáng ra cô nên khó chịu khi ông tự cho mình cái quyền nói ra những điều này. Nhưng cô chẳng cảm thấy sự bực bội trong lòng.

"Đúng thế, Gail. Em yêu chúng."

Cô ngắm nhìn những cột ánh sáng thẳng đứng của tòa nhà Cord; cô nhấc những ngón tay lên khỏi lan can, vừa đủ để chạm vào chỗ mà hình dáng của tòa nhà nhập vào nền trời phía xa. Cô cảm thấy tòa nhà ấy không trách cứ cô.

"Anh muốn nhìn thấy một người đứng ở dưới chân của một tòa nhà chọc trời," ông nói. "Nó làm anh ta nhỏ như con kiến - câu ví von sáo rỗng này thật hợp với trường hợp này đúng không? Những kẻ ngu ngốc đáng nguyền rủa! Chính con người đã tạo nên nó - cả cái khối sắt thép khổng lồ đến mức không thể tin nổi ấy. Cái tòa nhà không hề nuốt chửng anh ta, nó làm cho anh ta vĩ đại hơn cả công trình kiến trúc ấy. Nó làm lộ rõ tầm vóc thực sự của anh ta trong thế giới này. Dominique, điều làm chúng ta say mê những tòa nhà này là khả năng sáng tạo, là bản chất anh hùng của con người."

"Anh có thích tính anh hùng trong con người không, Gail?"

"Anh thích nghĩ về điều đó, nhưng anh không tin nó."

Cô tựa vào lan can, ngắm nhìn những vệt sáng xanh lá cây trải thành một vệt dài ở phía xa xa. Cô nói:

"Ước gì em có thể hiểu được anh."

"Anh tưởng là anh phải rõ ràng với em lắm rồi chứ. Anh không bao giờ giấu em điều gì."

Ông nhìn những ngọn đèn điện nhấp nháy một cách quy củ trên dòng sông đen ngòm. Rồi ông chỉ một cột ánh sáng mờ mờ màu xanh da trời ở phía nam.

"Đó là tòa nhà Ngọn cờ. Em thấy không, đằng kia - cái cột sáng màu xanh da trời ấy. Anh đã làm rất nhiều việc, nhưng anh vẫn chưa làm một việc - việc quan trọng nhất. Vẫn chưa có một tòa nhà Wynand ở New York. Một ngày nào đó anh sẽ xây dựng trụ sở mới cho tờ Ngọn cờ. Đó sẽ là một công trình vĩ đại nhất thành phố và nó sẽ mang tên anh. Anh đã khởi đầu từ một đống rác tồi tàn và tờ báo có tên là Thời báo. Anh chỉ là một kẻ chạy việc vặt cho những kẻ bẩn thỉu. Nhưng lúc đó anh đã nghĩ đến một ngày, khi tòa nhà Wynand mọc lên. Và anh vẫn luôn nghĩ về nó trong suốt những năm qua."

"Thế tại sao anh vẫn chưa xây nó?"

"Anh đã không sẵn sàng cho việc này."

"Tại sao?"

"Bây giờ anh cũng vẫn chưa sẵn sàng làm việc này. Anh không biết tại sao. Anh chỉ biết rằng nó rất quan trọng đối với . Nó sẽ là một biểu tượng cuối cùng. Anh sẽ biết khi nào là thời điểm thích hợp."

Ông xoay người nhìn về hướng tây, về phía chỉ có những ánh sáng ảm đạm, nằm rải rác. Ông chỉ tay về phía đó:

"Kia là nơi anh sinh ra. Hell's Kitchen." Cô chăm chú lắng nghe; rất hiếm khi ông nói về xuất thân của mình. "Khi mười sáu tuổi, anh đã đứng trên một mái nhà và ngắm nhìn thành phố, giống như tối hôm nay. Và anh đã quyết định mình sẽ trở thành người thế nào."

Giọng điệu của ông như một dấu gạch chân ở dưới khoảnh khắc này; nó như nói với cô: hãy lắng nghe, điều này quan trọng đấy. Không nhìn ông, cô thầm nghĩ rằng đây là những gì cô đã chờ đợi, nó sẽ cho cô lời giải đáp, chìa khóa để mở tâm hồn ông. Những năm về trước, khi nghĩ về Gail Wynand, cô đã băn khoăn rằng không biết một người đàn ông như vậy sẽ đối mặt với cuộc sống và công việc của chính mình như thế nào. Cô đã mong đợi sự khoe khoang và một cảm giác nhục nhã thầm kín, hoặc một sự tự phụ lấn lướt cả cảm giác tội lỗi. Cô nhìn ông. Đầu ông ngẩng cao, ánh mắt nhìn ngang với bầu trời trước mặt; trông ông không hề có bóng dáng bất cứ cảm giác nào mà cô đã mong đợi. Ông toát ra một phẩm chất mà người ta không thể tin là hiện hữu trong bối cảnh này: sự can đảm.

Cô biết đó chính là một cái chìa khóa, nhưng nó làm cho những thắc mắc trong cô càng lớn hơn. Tuy thế, một cái gì đó trong cô vẫn nhận biết nó, vẫn biết công dụng của chiếc chìa khóa đó và nó làm cô cất tiếng:

"Gail, hãy đuổi việc Ellsworth Toohey đi."

Ông quay về phía cô, ngạc nhiên:

"Tại sao?"

"Gail, hãy nghe em nói," Giọng nói của cô chứa đựng sự giục giã chưa bao giờ có khi cô nói chuyện với ông. "Em chưa bao giờ muốn ngăn cản Toohey. Thậm chí em từng giúp đỡ ông ta. Em đã nghĩ rằng cái thế giới này xứng đáng với hạng người như thế. Em chưa bao giờ cố gắng cứu lấy bất kỳ cái gì... hoặc bất kỳ ai... khỏi ông ta. Em chưa bao giờ từng nghĩ rằng thứ mà em muón cứu thoát khỏi Toohey lại chính là tờ Ngọn cờ - cái tờ báo tương xứng nhất của ông ta."

"Em đang nói về chuyện gì thế?"

"Gail, khi cưới anh, em không biết rằng sẽ có lúc em trở nên trung thành với anh như thế này. Nó mâu thuẫn với tất cả những điều em đã từng làm, mâu thuẫn nhiều hơn những gì em có thể nói với anh - nó là một thảm họa với em, một bước ngoặt - đừng hỏi em tại sao - em sẽ mất nhiều năm để hiểu được điều đó - em chỉ biết rằng đây là cái em nợ anh. Đuổi cổ Ellsworth Toohey đi. Hãy tống cổ ông ta đi trước khi quá muộn. Anh đã phá hoại những người ít xấu xa, ít nguy hiểm hơn nhiều so với ông ta. Tống cổ Toohey đi, truy sát ông ta và đừng dừgn lại cho đến khi anh tiêu diệt được ông ta hoàn toàn."

"Tại sao? Tại sao tự nhiên em lại nghĩ đến ông ta?"

"Bởi vì em biết ông ta đang nhắm tới cái gì?"

"Cái gì vậy?"

"Quyền kiểm soát những tờ báo Wynand."

Ông cười lớn đó không phải là tiếng cười chế nhạo hay phẫn nộ, mà là một tiếng cười hoàn toàn vô tư trước một câu đùa ngớ ngẩn.

"Gail..." cô khẩn khoản.

"Ôi, vì Chúa, Dominique! Thế mà lúc nào anh cũng tôn trọng khả năng đánh giá của em đấy."

"Anh chưa bao giờ hiểu được con người Toohey."

"Và anh không thèm quan tâm tìm hiểu. Em có thể tưởng tượng được việc anh đi theo gót Ellsworth Toohey không? Một cái xe tăng đi đè một con gián? Tại sao anh lại cần phải tống cổ Ellsworth? Ông ta là dạng người kiếm được tiền cho anh. Công chúng thích đọc những câu chuyện nhăng nhít của ông ta. Anh không sa thải những cái bẫy treo tốt như thế. Với anh, ông ta cũng đáng giá như một hũ mật bẫy ruồi."

"Đấy chính là sự nguy hiểm. Một phần của nó."

"Đám tín đồ trung thành của ông ta ấy à? Anh từng có hàng tá những kẻ bồi bút lớn hơn và khá hơn thế đang ăn lương. Khi một vài người trong số họ bị tống cổ ra đường, thì số phận họ thế là hết. Danh tiếng của họ chấm hết ở ngưỡng cửa tờ Ngọn cờ. Nhưng tờ Ngọn cờ thì vẫn tiếp tục tồn tại."

"Đây không phải là chuyện danh tiếng của ông ta. Đây là chuyện bản chất đặc biệt của việc ông ta nổi tiếng. Anh không thể chiến đấu với ông ta theo những luật lệ của ông ta. Anh là một cái xe tăng - đấy là một thứ vũ khí trong sạch và ngây thơ. Một thứ vũ khí hồn nhiên đi tiên phong, một thứ ở ngay tuyến đầu và đè bẹp mọi thứ hoặc là sẽ phải hứng tất cả sự phản công. Còn ông ta là một loại khí ăn mòn. Cái loại ăn dần những lá phổi. Em nghĩ rằng có một bí mật dẫn tới cốt lõi của cái xấu và ông ta nắm được cái bí mật ấy. Em không biết nó là cái gì. Nhưng em biết ông ta dùng nó thế nào và ông ta theo đuổi cái gì."

"Kiểm soát những tờ báo của Wynand ư?"

"Kiểm soát những tờ báo của Wynand - như một phương tiện để đi đến một cái đích."

"Đích nào?"

"Kiểm soát cả thế giới này."

Ông nói với một vẻ phẫn nộ kiềm chế:

"Cái gì thế hả Dominique? Em đùa kiểu gì thế và để làm gì?"

"Em đang rất nghiêm túc, Gail. Em thực sự nghiêm túc."

"Kiểm soát thế giới, em yêu quý, là công việc của những con người như anh. Những kẻ như Toohey trên trái đất này thậm chí còn không biết cách mơ về điều đó."

"Em sẽ cố gắng để giải thích. Nó rất khó. Điều khó giải thích nhất chính là những thứ hiển nhiên đập vào mắt khiến người ta không thể nào nhận ra được nữa. Nhưng nếu mà anh chịu khó lắng nghe..."

"Anh sẽ không nghe gì cả. Thứ lỗi cho anh, nhưng bàn luận về việc Ellsworth Toohey là mối hiểm họa với anh là một điều lố bịch. Bình luận về nó một cách nghiêm túc là một sự lăng mạ."

"Gail, em..."

"Không, em yêu quý. Anh không nghĩ rằng em thực sự hiểu rõ tờ Ngọn cờ. Và anh cũng không muốn em hiểu. Anh không muốn em có một chút liên quan nào đến nó. Quên nó đi. Để nó đấy cho anh."

"Đây là mệnh lệnh hả Gail?"

"Đây là tối hậu thư."

"Được thôi."

"Quên nó đi. Đừng tự chuốc lấy những chứng hoang tưởng sợ hãi về những kẻ vĩ đại như Ellsworth Toohey. Như thế chẳng giống em chút nào cả."

"Được thôi, Gail. Chúng ta đi vào trong thôi. Ở đây lạnh quá mà anh thì không mang áo khoác."

Ông tặc lưỡi nhè nhẹ. Từ trước đến giờ, cô chưa từng thể hiện sự quan tâm với ông như thế này. Ông cầm lấy tay cô và hôn vào lòng bàn tay, rồi áp chặt nó vào má mình.

*

**

Trong nhiều tuần sau đó, khi chỉ có hai người, họ nói rất ít và không bao giờ nói về nhau. Nhưng đó không phải là sự im lặng bực bội, mà là sự im lặng của một mối đồng cảm quá tinh tế, đến mức vượt quá giới hạn của ngôn từ. Buổi tối, họ sẽ ở trong phòng cùng nhau, không chuyện trò, bằng lòng với cảm giác sự hiện diện của người kia. Họ có thể đột nhiên nhìn nhau và cùng mỉm cười, nụ cười quấn quýt như những cái nắm tay.

Thế rồi, một buổi tối, cô biết rằng ông sẽ lên tiếng. Cô ngồi bên bàn trang điểm. Ông đi tới, đứng tựa lưng vào bức tường cạnh cô. Ông ngắm nhìn bàn tay cô, rồi đến đôi vai trần của cô nhưng cô cảm thấy ông dường như không phải ngắm nhìn cô; ông đang ngắm nhìn cái gì đó lớn hơn cả vẻ đẹp của thân thể cô, lớn hơn cả tình yêu mà ông dành cho cô. Ông đang nhìn chính bản thân ông - và điều này, cô biết, là một quà tặng có một không hai.

"Anh hít thở khí trời vì nhu cầu của chính anh, để cung cấp năng lượng cho cơ thể anh, cho sự sống của anh. Anh đã dâng cho em, không phải sự hy sinh hay lòng thương hại của anh, mà là cái tôi của anh và cái nhu cầu trần trụi của anh..." Cô nghe thấy những lời nói của Roark; Roark đang nói thay cho Gail Wynand - và cô không hề cảm thấy sự phản bội với Roark khi để một người đàn ông khác bộc lộ tình yêu với cô bằng những lời nói bộc lộ tình yêu của anh.

"Gail," cô dịu dàng nói, "một ngày nào đó em sẽ phải xin anh tha thứ vì đã lấy anh."

Ông lắc đầu nhè nhẹ và mỉm cười. Cô nói:

"Em đã muốn anh trở thành người xích em vào thế giới này. Nhưng thay vào đó, anh lại trở thành hàng rào bảo vệ em khỏi nó. Điều đó làm cho cuộc hôn nhân của em trở nên không thành thật."

"Không. Anh đã nói với em là anh chấp nhận bất cứ lý do nào em chọn."

"Nhưng anh đã thay đổi tất cả mọi thứ của em. Hay chính là em đã thay đổi chúng? Em không biết. Chúng ta đã làm một điều kỳ lạ với nhau. Em đã cho anh những gì em muốn từ bỏ. Cái ý nghĩ đặc biệt về sự tồn tại - em đã nghĩ cuộc hôn nhân này sẽ giúp em hủy hoại nó. Cái cảm giác về cuộc sống như một sự thăng hoa. Còn anh - anh đã làm tất cả những việc mà đáng ra em đã phải làm. Anh có biết rằng chúng ta giống nhau đến thế nào không?"

"Anh đã biết điều đó ngay từ đầu."

"Điều này đáng ra không thể xảy ra. Gail, bây giờ thì em lại muốn ở lại với anh, vì một lý do khác. Để chờ một câu trả lời. Em nghĩ rằng khi em hiểu được con người anh, em cũng sẽ hiểu được bản thân mình. Phải có câu trả lời ở đâu đó. Phải có một tên gọi cho những điều giống nhau của anh và em. Em không biết nó là gì, em chỉ biết rằng điều đó rất quan trọng."

"Có lẽ thế. Anh đoán là anh cũng nên mong muốn hiểu được nó. Nhưng anh không. Anh không có khả năng quan tâm đến bất cứ cái gì bây giờ. Anh thậm chí không cả có khả năng sợ hãi."

Cô ngước mắt nhìn ông và bình thản nói:

"Em thì sợ, Gail ạ."

"Em yêu quý, em sợ cái gì chứ?"

"Những điều mà em đang làm với anh."

"Tại sao?"

"Em không yêu anh, Gail."

"Anh thậm chí không thể quan tâm cả đến điều đó."

Cô gục đầu xuống. Ông nhìn xuống mái tóc của cô, nó tựa như một cái mũ bảo hiểm kim loại được đánh bóng.

"Dominique."

Cô ngoan ngoãn ngẩng mặt lên nhìn ông.

"Anh yêu em, Dominique. Anh yêu em nhiều đến mức chẳng cái gì còn quan trọng với anh nữa - ngay cả chính em. Em có hiểu được điều đó không? Chỉ có tình yêu của anh - chứ không phải câu trả lời của em. Thậm chí sự thờ ơ của em cũng không. Anh chưa bao giờ tước đoạt cái gì quá lớn từ thế giới này. Anh cũng chẳng ham muốn gì nhiều. Anh chưa bao giờ thực sự mong muốn bất cứ cái gì. Không phải theo kiểu mong muốn tột cùng, mong muốn trọn vẹn; không phải theo kiểu một mong muốn có ý nghĩa như một tối hậu thư, hoặc có hoặc không, và người ta không thể chấp nhận câu trả lời 'không' mà lại vẫn có thể sống tiếp được. Em là tất cả những điều đó với anh. Nhưng khi một người đã đạt đến giai đoạn đó, thì cái đối tượng của ham muốn cũng chẳng quan trọng nữa, chỉ có bản thân cái ham muốn là quan trọng. Không phải em, mà là anh. Là cái khả năng ham muốn như thế. Bất cứ cái gì không được như thế đều không đáng cảm nhận hay tôn vinh. Và trước đây anh cũng chưa từng cảm nhận thấy điều này. Dominique, anh chưa bao giờ biết gọi cái gì là 'của anh'. Không phải theo cách mà anh gọi em là của anh. Của anh. Có phải em đã gọi nó là cảm giác cuộc sống như một sự thăng hoa? Em đã nói thế. Em có hiểu. Anh không thể sợ hãi. Anh yêu em, Dominique, anh yêu em. Em đang để cho anh nói điều đó vào lúc này, anh yêu anh."

Cô với tay gỡ bức điện tín khỏi cái gương. Cô vò nát nó, những ngón tay chậm rãi vò nát mẩu giấy trong lòng bàn tay. Ông đứng yên, lắng nghe tiếng giấy lạo xạo. Cô cúi người về phía trước, mở bàn tay thả cho mẩu giấy rơi xuống thùng rác. Bàn tay cô giữ nguyên trong giây lát, những ngón tay mở ra, rủ xuống phía dưới, như lúc nó mở ra.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#poetry