SUỐI NGUỒN P4 - Ayn Rand

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN BỐN - HOWARD ROARK

I.

Những chiếc lá đua nhau rụng xuống, run rẩy trong ánh mặt trời. Chỉ có một vài chiếc xanh lẫn trong cả dòng lá rơi, một màu xanh tươi thuần khiết nổi bật lên và làm chói mắt bất cứ ai nhìn vào; đám lá còn lại chẳng có màu gì rõ ràng, chỉ như một luồng sáng, giống như ngọn lửa trên kim loại - một thứ vật chất phát sáng không có góc cạnh. Cả khu rừng tựa như một thảm ánh sáng cháy âm ỉ để luyện thành cái màu sắc ấy, với những bong bóng nhỏ màu xanh lá cây bay lơ lửng - chúng là tinh chất của mùa xuân. Những tán cây lồng vào nhau, nghiêng xuống phủ rợp cả con đường. Những tia nắng lọt qua kẽ lá tạo thành những chấm sáng nhảy múa trên mặt đất, giống như một sự vuốt ve, mơn trớn có chủ ý. Người thanh niên hy vọng rằng anh sẽ không phải chết.

Anh nghĩ, mình sẽ không chết nếu như trái đất này có thể trông như nó đang hiện hữu trước mắt mình. Mình sẽ chẳng chết nếu mình có thể nghe thấy những lời giao ước qua những âm thanh của lá, của thân cây, của những tảng đá, thay vì ngôn từ thông thường. Nhưng anh biết rằng mặt đất trông như thế này bởi vì anh không thấy bóng dáng của con người suốt mấy giờ qua. Chỉ có một mình anh đạp xe dọc con đường mòn bị bỏ hoang đi xuyên qua những ngọn đồi của vùng Pennsylvania, nơi mà anh chưa từng đặt chân tới, nơi mà anh có thể cảm nhận sự kỳ diệu mơn mởn của một thế giới nguyên sơ.

Anh còn rất trẻ. Anh chỉ vừa mới tốt nghiệp đại học - vào chính mùa xuân năm 1935 này - và anh muốn biết liệu cuộc đời này có đáng sống hay không. Anh không hề biết đây là câu hỏi trong tâm trí anh. Anh không hề nghĩ đến cái chết. Anh chỉ nghĩ rằng anh mong ước tìm thấy niềm vui, lý do và ý nghĩa của cuộc sống, và rằng anh chưa từng nhận được điều đó ở bất cứ đâu.

Anh đã không thích những gì mà người ta dạy anh ở trường. Anh đã được dạy nhiều thứ về trách nhiệm xã hội, về một cuộc sống cống hiến và hy sinh bản thân. Mọi người đều nói rằng những điều đó thật đẹp và thôi thúc. Chỉ có mình anh chẳng cảm thấy bị thôi thúc. Anh chẳng cảm thấy bất cứ điều gì.

Anh không thể gọi tên chính xác điều mà anh mong chờ trong cuộc sống. Anh cảm thấy nó hiện hữu ở đây, trong sự hiu quạnh hoang dã này. Nhưng anh không nhìn thiên nhiên với niềm thích thú của một con vật tìm ra một nơi cư trú thích hợp lâu dài cho mình. Anh đối diện với thiên nhiên, với niềm hoan hỉ của một con người khỏe mạnh, tìm thấy nơi đây một sự thách thức, những công cụ, phương tiện và vật chất. Và anh cảm thấy tức giận với việc anh chỉ tìm thấy sự thăng hoa ở nơi hoang dã này, và việc anh sẽ lại đánh mất cái cảm giác hy vọng tuyệt vời này khi quay trở lại với con người và công việc. Anh nghĩ điều này là không đúng, rằng những công trình của loài người phải là một bước cao hơn, phải là sự cải thiện thiên nhiên chứ không phải là làm giảm giá trị của thiên nhiên. Anh không muốn coi thường con người, anh muốn yêu thương và kính trọng họ. Nhưng anh thấy sợ hãi khi nghĩ đến hình bóng đầu tiên của nhà cửa, bể bơi, áp phích quảng cáo phim ảnh mà anh sẽ phải đối mặt suốt dọc đường đi.

Anh đã luôn muốn sáng tác nhạc; ngoài nhạc ra, anh không biết dùng cái gì để mô tả cái mà anh đang tìm kiếm trong cuộc sống. Anh tự nhủ, nếu mình muốn biết cái đó là cái gì, hãy nghe chương đầu tiên trong bản Côngxectô số một của Tchaikovsky hay phần cuối trong Bản giao hưởng số hai của Rachmaninoff. Con người đã không tìm được từ ngữ để diễn tả những điều mình tìm kiếm, cũng không biết mình phải làm gì, phải suy nghĩ như thế nào về nó, nhưng họ đã tìm thấy âm nhạc. Hãy cho tôi nhìn thấy điều đó qua một hành động cụ thể của con người trên trái đất này. Hãy cho tôi nhìn thấy điều đó trở thành hiện thực. Hãy để tôi nhận được câu trả lời cho cái giao ước trong thứ âm nhạc đó. Không phải là đầy tớ hay ông chủ, không phải những thánh đường hay những vật cúng tế mà là cái tận cùng, cái hoàn thiện, cái được thanh tẩy mọi nỗi đau. Đừng giúp đỡ hay phục vụ tôi, mà hãy để tôi tận mắt nhìn thấy điều đó một lần bởi vì tôi cần đến nó. Những người anh em, đừng cố gắng làm tôi hạnh phúc, mà hãy chỉ cho tôi hạnh phúc của anh - hãy cho thấy hạnh phúc đó là có thật - hãy cho tôi thấy thành quả của anh - và điều đó sẽ mang lại cho tôi sức mạnh để tìm kiếm hạnh phúc cho mình.

Anh nhìn thấy một khoảng trống màu xanh da trời ở cuối con đường, trên một đỉnh đồi. Một màu xanh tuyệt đẹp và tinh khiết, giống như một tấm phim bằng nước mỏng căng ra trên cái khung được tạo bởi các cành cây xanh. Anh nghĩ, sẽ rất buồn cười nếu ta đi đến đó và chẳng thấy gì hết ngoài màu xanh da trời ấy, không có gì hết ngoài bầu trời ở phía trước, ở phía trên và cả ở dưới chân. Anh nhắm mắt lại và đi tiếp, để lửng cái khả năng mà anh vừa nghĩ ra trong chốc lát, tự thưởng cho mình một giấc mơ, một niềm tin nhỏ nhoi rằng anh sẽ đi tới đỉnh đồi đó, mở mắt ra và nhìn thấy một màu xanh rực rỡ của bầu trời phía dưới.

Bàn chân chạm xuống đất, phá vỡ chuyển động của anh; anh dừng xe và mở mắt. Anh sững người.

Trong một thung lũng trải rộng phía xa dưới chân anh, dưới những tia nắng của buổi bình minh, anh nhìn thấy một thị trấn. Nhưng đó không phải là thị trấn. Những thị trấn nhìn không giống như vậy. Anh phải để lửng cái điều phỏng đoán ấy thêm một lúc nữa, không phải để tìm kiếm câu hỏi và sự giải đáp, mà chỉ để ngắm nhìn.

Trên các rìa đá của quả đồi trước mặt mọc lên những ngôi nhà, nối đuôi nhau xuống tận chân đồi. Anh nhận thấy rằng người ta đã không chạm đến những rìa đá, không có công trình nhân tạo nào làm thay đổi vẻ đẹp hoang sơ bất quy tắc của những bậc đá thoải. Một thứ quyền lực siêu nhiên nào đó đã rất biết cách xây dựng những ngôi nhà trên những rìa đá, làm cho chúng trở nên một phần không thể thiếu được, một phần tất yếu phải có ở nơi đây. Không một ai có thể tưởng tượng được những ngọn đồi này vẫn có thể đẹp mà thiếu đi những căn nhà ấy; cứ như rằng hàng thế kỷ nay, với hàng chuỗi các hoạt động địa chất với sự đấu tranh của các sức mạnh vô hình để hình thành nên những rìa đá này, tất cả đã chờ đợi một hình hài cuối cùng, tất cả chỉ là con đường để đi đến đích. Và cái đích đó là những khu nhà này, đó là một phần của những ngọn đồi, được tạo hình bởi những ngọn đồi, nhưng lại mang ý nghĩa cho chúng và vì thế, kiểm soát chúng.

Những ngôi nhà làm bằng đá thô - giống như một thứ đá nhô ra từ sườn đồi xanh thẫm - cùng với những tấm kính khổng lồ, như thể mời gọi ánh sáng mặt trời hội tụ nơi đây để hoàn thiện cho cả công trình. Ánh sáng mặt trời trở thành một phần của những ngôi nhà. Có rất nhiều ngôi nhà, nhỏ bé và kết nối với nhau, chẳng có cái nào giống cái nào. Chúng trông giống như các biến thể của cùng một chủ đề, giống như một bản nhạc giao hưởng được chơi trong một sự tưởng tượng bất tận, và người ta vẫn còn nghe tiếng cười vang của cái sức mạnh đã tạo nên những căn nhà này, dường như sức mạnh ấy vẫn đang cuồn cuộn chảy tràn, không có gì ngăn cản được. Cái sức mạnh ấy tự thách thức mình được sử dụng nữa, vì nó vẫn chưa đạt đến đích cuối cùng của nó.

Anh nghĩ tới âm nhạc, tới sự hứa hẹn mà âm nhạc đã khơi gợi trong anh, tới cái mong muốn được thấy nó trở thành hiện thực. Nó ở ngay đấy - trước mắt anh, anh không nhìn thấy nó - anh nghe thấy trong những hợp âm - anh nghĩ rằng có một thứ ngôn ngữ chung cho tư duy, thị giác và thính giác - phải chăng đó là toán học? - hay quy tắc của suy luận? - âm nhạc là toán học - và kiến trúc là âm nhạc trong những phiến đá. Anh không biết rằng mình đang hoa mắt, bởi cái hiện hữu bên dưới kia không thể có thực.

Anh nhìn thấy cây cối, những bãi cỏ, những đường đi dạo uốn lượn trên các sườn đồi, những bậc thang ăn vào trong đá; anh nhìn thấy những đài phun nước, bể bơi, sân quần vợt, nhưng không có dấu hiệu nào của sự sống. Không có người sống ở chỗ này.

Điều đó không làm anh bị bất ngờ, dù anh đã bị bất ngờ bởi cảnh tượng nơi đây. Theo một cách nào đó, điều này dường như hợp lý, bởi những ngôi nhà này không phải là một phần của cái thực tại mà người ta vẫn biết đến. Trong một thoáng chốc, anh đã không muốn biết nó là cái gì.

Anh ngắm nhìn xung quanh một lúc khá lâu và nhận ra rằng không phải có mình anh ở đây.

Cách xa anh vài bước có một người đàn ông ngồi trên một tảng đá mòn đang nhìn xuống dưới thung lũng. Người đàn ông này dường như bị cuốn hút bởi khung cảnh và không nghe thấy bước chân anh lại gần. Anh ta cao gầy với mái tóc màu vàng cam.

Anh đi thẳng tới chỗ người đàn ông, người đó quay lại nhìn anh. Mắt người đó màu xám và điềm tĩnh. Người thanh niên trẻ chợt nhận thấy rằng họ đang cùng có chung cảm xúc và anh có thể nói chuyện theo cách mà anh không thể nói với bất cứ một người lạ mặt nào ở bất cứ đâu.

"Nó không có thực phải không?" người thanh niên chỉ tay xuống dưới và hỏi.

"Ồ, có chứ, nó có thực, ngay lúc này," người đàn ông trả lời.

"Đây không phải là một phim trường hay là một phép phù thủy nào đó chứ?"

"Không đâu. Đây là một khu nghỉ mát mùa hè. Nó vừa mới được hoàn thành. Vài tuần nữa nó sẽ được mở cửa."

"Ai đã xây nó?"

"Tôi xây."

"Tên ông là gì?"

"Howard Roark."

"Cảm ơn ông," người thanh niên nói. Howard Roark biết rằng đôi mắt nhìn anh không chớp kia hiểu được mọi điều mà hai từ đó muốn nói. Anh nghiêng đầu đáp lại.

Người thanh niên dắt xe theo con đường hẹp và dốc dẫn xuống phía thung lũng và những ngôi nhà. Roark nhìn theo cậu ta. Anh chưa bao giờ thấy người thanh niên đó trước đây và có lẽ cũng sẽ chẳng bao giờ gặp lại. Anh không hề biết rằng anh vừa mới trao cho ai đó một sự can đảm để đối mặt với cuộc đời.

*

* *

Roark chưa bao giờ hiểu được lý do tại sao người ta lại chọn anh cho việc xây dựng khu nghỉ mát tại Thung Lũng Monadnock.

Sự việc xảy ra cách đây một năm rưỡi, tức là vào mùa thu năm 1933. Anh biết thông tin về dự án này và đi tới gặp ông Caleb Bradley, người đứng đầu của cái công ty vốn đã bỏ tiền mua thung lũng này và đang tiến hành nhiều hoạt động quảng bá lớn. Anh tới gặp Bradley như một nghĩa vụ. Anh không có một chút hy vọng nào. Anh đi để chỉ để cộng thêm một lời từ chối nữa vào danh sách dài các lời từ chối mà anh đã nhận được. Anh đã không xây dựng một công trình nào kể từ sau Đền Stoddard.

Khi anh bước vào văn phòng của Bradley, anh hiểu rằng anh sẽ phải quên đi Thung lũng Monadnock bởi vì người đàn ông này sẽ chẳng bao giờ trao nó cho anh. Caleb Bradley là một người thấp đậm, có khuôn mặt điển trai nằm giữa hai bờ vai tròn trịa. Khuôn mặt của ông ta vừa khôn ngoan lại vừa trẻ trung và không có dấu hiệu tuổi tác. Ông ta có thể năm mươi hoặc hai mươi tuổi. Ông có đôi mắt xanh lơ vô hồn, vừa ranh mãnh vừa tẻ nhạt.

Nhưng Roark cũng khó có thể quên được Thung lũng Monadnock. Do vậy mà anh đã nói về nó, quên bẵng đi rằng điều đó không có ý nghĩa gì ở đây. Ông Bradley lắng nghe với vẻ thực sự quan tâm, nhưng rõ ràng là không phải quan tâm tới những điều Roark đang nói. Roark gần như có thể cảm thấy một người thứ ba nữa đang có mặt trong phòng này. Ông Bradley hầu như chẳng nói gì, ngoài việc hứa sẽ xem xét và sẽ liên lạc với anh. Nhưng rồi sau đó, ông ta nói một điều thật lạ lùng. Ông ta hỏi bằng một giọng điệu mà có tìm cả ngày cũng không thấy dính dáng gì đến mục đích của câu hỏi, chẳng ra đồng tình mà cũng chẳng ra chê bai:

"Anh Howard Roark, anh là kiến trúc sư đã xây ngôi Đền Stoddard đấy à?"

"Vâng," Roark nói.

"Buồn cười thật, tại sao tôi không nghĩ đến anh trước nhỉ." Ông Bradley nói.

Roark về nhà và tự nhủ, nếu cái ông Bradley ấy mà nghĩ đến anh thì mới thật buồn cười.

Ba ngày sau, Bradley gọi điện thoại và mời anh đến văn phòng của ông ta. Roark đến và gặp bốn người đàn ông khác trong Ban Giám đốc Công ty Thung lũng Monadnock. Những người đàn ông này ăn bận rất chải chuốt, khuôn mặt họ cũng kín bưng như ông Bradley.

"Anh Roark, xin hãy trình bày lại với những quý ông đây những gì anh đã nói với tôi." Bradley nói một cách vui vẻ.

Roark giải trình về kế hoạch của anh. Nếu họ muốn xây dựng một khu nghỉ mát mùa hè dành cho những người có thu nhập khiêm tốn như họ tuyên bố, thì họ nên nhận ra rằng điều tồi tệ nhất của sự nghèo khó là việc thiếu sự riêng tư. Chỉ có những người rất giàu hoặc rất nghèo của thành phố này mới có thể hưởng thụ kỳ nghỉ hè của riêng mình, bởi vì những người rất giàu thì có cả dinh thự riêng, còn những người rất nghèo không ngại cảm giác và mùi người nồng nặc ở các bãi biển hay sàn nhảy công cộng. Còn những người có thị hiếu hưởng thụ tốt nhưng thu nhập lại khiêm tốn, nếu họ không thể nghỉ ngơi hay thấy vui thích trong những đám đông thì sẽ chẳng có nơi nào để đi cả. Tại sao người đời lại cứ nghĩ rằng sự nghèo khổ làm cho con người ta quay lại với bản năng bầy đàn như súc vật? Tại sao không cung cấp cho những người này một nơi nghỉ ngơi cho một tuần hay một tháng với mức giá thấp, nơi mà họ có thể có những gì mình muốn và cần? Anh đã nhìn thấy Thung lũng Monadnock. Đây có thể là nơi phù hợp. Đừng động đến những sườn đồi, đứng phá hủy và đừng cào thấp chúng. Đừng xây một khách sạn cao tầng khổng lồ, mà xây những căn nhà nhỏ kế tiếp nhau, ngôi nhà này ẩn mình sau ngôi nhà kia, mỗi ngôi nhà là một chốn riêng tư, nơi mọi người có thể gặp gỡ nhau hoặc không tùy ý họ. Đừng xây một cái bể bơi to như cái chợ cá mà xây nhiều bể bơi riêng biệt, nhiều bao nhiêu tùy khả năng đầu tư của công ty. Anh sẽ nói cho họ biết cách xây chúng với giá rẻ. Đừng xây những sân chơi quần vợt to như những bãi đất đấu giá gia súc dành cho những người thích phô trương mà là nhiều sân quần vợt riêng biệt. Đây sẽ không phải là nơi người ta tìm đến để gặp gỡ những bạn bè thân thiết và phó mặc mọi chuyện cho người giúp việc trong vòng hai tuần lễ, mà đây là một nơi nghỉ ngơi dành cho những người cảm thấy thích thú và thoải mái khi được ở một mình, và họ tìm kiếm một nơi họ có được sự tự do để nghỉ ngơi và hưởng thụ theo cách đó.

Các quý ông kia im lặng lắng nghe. Anh thấy họ thỉnh thoảng liếc nhìn nhau, cái nhìn mà anh cảm thấy chắc chắn rằng người ta thường trao nhau khi không thể phá lên cười người thuyết trình. Nhưng xem ra lại không phải như vậy, bởi hai ngày sau đó, anh đã ký hợp đồng xây dựng khu nghỉ mát mùa hè ở Thung lũng Monadnock.

Anh yêu cầu ông Bradley ký tắt vào tất cả những bản vẽ xuất xưởng từ phòng thiết kế của anh. Anh vẫn nhớ vụ Đền Stoddard. Ông Bradley viết tắt tên ông, ký nhận và đồng ý. Ông ta đồng ý mọi thứ và phê chuẩn mọi thứ. Ông ta có vẻ như sẵn lòng để Roark làm theo cách riêng của anh. Nhưng sự dễ dãi nhiệt tình này có một vẻ gì đó kỳ quặc - như thể ông ta đang chiều một đứa trẻ con.

Anh chỉ biết được rất ít về ông Bradley. Người ta nói rằng ông ta kiếm được nhiều tiền từ kinh doanh bất động sản trong thời kỳ khủng bố kinh tế ở Florida. Công ty hiện giờ của ông ta dường như nắm giữ một lượng vốn vô hạn, và rất nhiều người giàu có được nhắc đến như cổ đông của công ty. Roark chưa bao giờ gặp họ. Bốn người đàn ông trong Ban Giám đốc cũng không xuất hiện thêm một lần nào nữa, trừ những chuyến thăm ngắn ngủi tới công trường, nơi mà họ tỏ ra chẳng một chút quan tâm nào. Ông Bradley chịu trách nhiệm mọi thứ, nhưng ngoài việc giám sát chặt chẽ ngân quỹ, ông ta dường như chẳng thích điều gì hơn việc giao cho Roark được toàn quyền.

Trong suốt mười tám tháng sau đó, Roark không có thời gian nào để nghĩ ngợi về ông Bradley. Roark đang xây dựng công trình vĩ đại nhất của mình.

Suốt trong năm vừa rồi, anh sống ngay tại công truờng, trong một cái lán lụp xụp được dựng trên một sườn đồi trơ trụi, với một hàng rào gỗ quây quanh, ở trong là một cái giường, một lò sưởi và một cái bàn rộng. Những thợ vẽ cũ của anh quay lại làm cho anh, một vài người đã bỏ những công việc còn tốt hơn trong thành phố để đến sống trong lều lán, để làm việc trong một văn phòng kiến trúc sư như một doanh trại quân đội được dựng lên từ những tấm ván trần trụi. Có quá nhiều thứ cần phải xây nên không ai trong số họ muốn phí công thiết kế chỗ trú thân cho chính mình. Cho tới mãi sau này, họ không hề nhận ra họ đã sống thiếu thốn tiện nghi, và rồi chính họ không thể tin được điều đó, bởi thời gian ở Thung lũng Monadnock lưu lại trong tâm trí họ như một khoảng thời gian kỳ lạ, dường như trái đất ngừng quay và họ đã sống suốt mười hai tháng mùa xuân. Họ đã không biết đến tuyết, không biết tới những khối khí lạnh trên mặt đất. Gió thổi qua các khe hở trên những tấm ván, những tấm chăn mỏng phủ trên võng, những ngón tay cứng đờ duỗi ra trên các lò than vào những buổi sáng trước khi họ cầm bút vẽ trong tay. Họ chỉ nhớ duy nhất cái cảm giác giống như cảm giác khi thấy mùa xuân đến. Đó là cảm giác khi những nhánh cỏ đầu tiên, những chồi non đầu tiên nhú trên các cành cây, màu xanh đầu tiên trên bầu trời. Tiếng trả lời ấy ngân vang, không phải với cỏ cây, không phải với bầu trời mà với cảm giác lớn lao về sự khởi đầu, về sự sinh sôi hoan hỉ, về niềm tin chiến thắng mà không gì có thể ngăn cản nổi. Họ cảm nhận được ý nghĩa của tuổi trẻ, của sự vận động, của mục đích và sự hoàn thành, không phải từ hoa lá mà từ những giàn giáo bằng gỗ, những máy xúc chạy bằng hơi nước, những khối đá và những thảm cỏ mọc ra từ mặt đất.

Họ là một đoàn quân và đó là một cuộc thập tự chinh. Nhưng không có ai trong số họ nghĩ tới điều này bằng những từ ngữ đó, ngoại trừ Steven Mallory. Steven Mallory là người đã làm những đài phun nước và những công trình điêu khắc của Thung lũng Monadnock. Nhưng anh đến sống ở công trường một thời gian dài trước khi công việc cần tới anh. Chiến trường là một khái niệm tội lỗi, Steven Mallory nghĩ. Không có vinh quang nào trong chiến tranh và không có cái gì cao đẹp trong những cuộc thập tự chinh của con người. Nhưng đây là một chiến trường, đây là một đoàn quân và một cuộc chiến tranh - thế mà nó lại là một kinh nghiệm lớn lao nhất trong đời của tất cả những người tham gia vào nó. Tại sao ư? Đâu là nguồn cơn của sự khác biệt và quy luật để lý giải nó?

Anh đã không nói ra điều đó với bất kỳ ai. Nhưng khi nhìn gương mặt của Mike khi anh đến đây cùng với đám thợ điện, anh đã nhận ra Mike cũng có chung một suy nghĩ với mình. Mike không nói gì, nhưng anh ta nháy mắt với Mallory với sự thấu hiểu hân hoan. "Tôi đã bảo cậu đừng lo lắng mà," Mike nói với anh không hề rào đón, "ở phiên tòa ấy. Anh ấy không thể thua cuộc, mỏ đá hay không mỏ đá, tòa án hay không tòa án cũng thế. Bọn họ đều không thể đánh bại anh ấy, Steve ạ, đơn giản là họ không thể, cả cái thế giới khốn kiếp này cũng không thể."

Nhưng mà họ đã thật sự quên bẵng mất thế giới này, Mallory nghĩ. Đây là trái đất mới, trái đất của riêng họ. Những ngọn đồi vươn lên bầu trời xung quanh họ giống như một bức tường bảo vệ. Và họ còn có một sự bảo vệ khác, đó là người kiến trúc sư đang đi lại giữa họ, xuyên qua tuyết hay những thảm cỏ dưới sườn đồi, người bước lên những tảng đá mòn và những đống ván xếp chồng chất, đi về phía những bàn vẽ, những giàn giáo, lên trên những đỉnh trên cùng của những bức tường đang ngày một vươn cao - người đã biến tất cả những điều này trở thành sự thật - những suy nghĩ trong đầu anh ấy - và không phải là nội dung hay kết quả của những suy nghĩ ấy, không phải tầm nhìn đã tạo nên Thung lũng Monadnock, cũng không phải cái ý chí mà đã làm cho công việc này trở thành hiện thực, mà là phương pháp tư duy của anh, nguyên tắc vận động của nó, cái phương pháp và nguyên tắc chẳng giống bất kỳ ai thuộc về cái thế giới ở phía ngoài những ngọn đồi. Cái đó đã đứng sừng sững bảo vệ cả cái thung lũng này và cả những chiến binh trong đó.

Rồi họ nhìn ông Bradley đến thăm công trường; ông mỉm cười dịu dàng rồi lại bỏ đi. Lúc ấy, Mallory cảm thấy tức giận một cách vô lý, và lo lắng.

Một buổi tối, họ cùng nhau quây quần bên đống lửa được đốt bởi những cành cây khô, ở ngay sườn đồi phía trên nơi dựng lán trại. Khi ấy, Mallory nói:

"Howard, lại là Đền Stoddard nữa."

"Phải" Roard nói. "Tôi cũng nghĩ như thế. Tôi chỉ không biết rõ theo kiểu nào và mục đích của họ là gì."

Anh lật người, nằm úp bụng xuống và nhìn xuống những thảm cỏ nằm rải rác trong bóng tối ở phía dưới. Chúng phản chiếu ánh sáng từ đâu đó, trông giống như những thảm ánh sáng bằng lân tinh, tự phát sáng trên mặt đất.

Anh nói: "Nhưng mà điều đó cũng chẳng sao, phải không Steve? Cho dù họ làm gì với nó và dù ai có đến sống ở đây đi chăng nữa. Chỉ cần biết rằng chúng ta đã làm ra nó. Anh có bỏ lỡ cơ hội này không, nếu sau này họ bắt anh phải trả giá?"

"Không," Mallory nói.

*

* *

Roark đã từng muốn thuê một trong số những căn nhà này cho riêng anh và sẽ dành một mùa hè ở đây, mùa hè đầu tiên mà Thung lũng Monadnock được sinh ra. Nhưng trước khi khu nghỉ mát mở cửa, anh nhận được một bức điện tín từ New York.

"Tôi đã nói với cậu là tôi sẽ làm được, đúng không nào? Tôi phải mất năm năm để rũ bỏ được hết đám bạn bè anh em. Nhưng Aquitania bây giờ là của tôi - và của cậu. Đến mà hoàn thành nó đi. Kent Lansing."

Vậy là anh quay về New York - để nhìn thấy những đống gạch vụn và bụi xi măng được dọn sạch khỏi Bản giao hưởng dang dở, nhìn thấy những chiếc cần cẩu đang chuyển những chiếc rầm bên trên Công viên Trung tâm, nhìn thấy những khoảng trống của các khung cửa sổ đã được lấp đầy, những sân thượng rộng rãi trãi rộng bên trên những nóc nhà của thành phố, để thấy khách sạn Aquitania hoàn thành và mỗi buổi tối lại bừng sáng cả một góc chân trời phía công viên.

Anh đã rất bận rộn trong suốt hai năm vừa qua. Thung lũng Monadnock không phải là công trình duy nhất của anh. Anh đã nhận được các cú điện thoại yêu cầu từ các bang khác nhau, từ những vùng mà anh không hề chờ đợi trên khắp đất nước: nhà riêng, tòa nhà văn phòng nhỏ, cửa hàng cỡ vừa. Anh đã xây dựng chúng - trong lúc tranh thủ ngủ vài tiếng trên tàu hỏa hay trên máy bay từ Thung lũng Monadnock tới những thị trấn nhỏ xa xôi. Lý do của mọi công việc anh nhận được đều giống nhau: "Tôi đã ở New York và tôi thích Ngôi nhà Enright." "Tôi đã nhìn thấy tòa nhà Cord." "Tôi đã nhìn thấy một bức ảnh của ngôi đền mà họ phá đi." Đó là một mạch nước ngầm tỏa đi khắp nơi, bất chợt biến thành các dòng suối trào lên mặt đất một cách ngẫu nhiên, tại những nơi không dự đoán trước được. Đó chỉ là những công trình nhỏ và không nhiều tiền - nhưng chúng đã làm anh luôn có việc để làm.

Mùa hè năm đó, Thung lũng Monadnock hoàn thành; anh không có thời gian lo lắng về số phận tương lai của nó. Nhưng Steven Mallory thì lo lắng về điều đó. "Tại sao họ không quảng cáo cho khu nghỉ này hả Howard? Sao tự nhiên lại yên lặng như vậy nhỉ? Anh có nhận thấy thế không? Trước khi khởi công, người ta đã nói rất nhiều về cái dự án vĩ đại này của họ, và cũng có rất nhiều bài viết nhỏ trên báo chí. Nhưng khi chúng ta bắt tay vào thì người ta càng ngày càng nhắc đến nó ít hơn. Còn bây giờ thì sao? Ông Bradley và công ty trở nên như câm điếc. Đúng vào lúc mà người ta nghĩ là họ phải tổ chức một buổi chiêu đãi báo chí? Tại sao?

"Tôi không biết," Roark đáp... "Tôi là một kiến trúc sư, chứ không phải là một nhà kinh doanh bất động sản. Tại sao cậu phải lo lắng? Chúng ta đã làm việc của mình, hãy để họ làm việc theo cách của họ."

"Cách của họ thật là đáng ngờ. Anh đã nhìn thấy mẫu quảng cáo hiếm hoi của họ chưa? Họ nói tất cả những gì anh đã nói với họ, về sự nghỉ ngơi, sự yên bình và tính riêng tư - nhưng cái cách mà họ nói thì...! Anh có biết những quảng cáo đó sẽ có tác động thế nào không? Nghe y như là 'Hãy đến Thung lũng Monadnock để buồn đến chết.' Nghe đúng như là họ đang cố gắng để mọi người tránh xa khu nghỉ này."

"Tôi không đọc quảng cáo, Steve."

Nhưng chỉ trong vòng một tháng sau khi hoàn thành, tất cả các ngôi nhà ở Thung lũng Monadnock đã được thuê. Những người đến nghỉ ở đây thuộc nhiều thành phần khác nhau: những ông bà thượng lưu có đủ tiền cho các khu nghỉ dưỡng xa xỉ hơn, các nhà văn trẻ và các nghệ sĩ không tên tuổi, các kỹ sư, các nhà báo và cả những người công nhân. Một cách bất ngờ và tự nhiên, người ta bàn tán về Thung lũng Monadnock. Nhu cầu về loại khu nghỉ dưỡng như vậy là có thật, chỉ có điều không một ai đã thử đáp ứng nhu cầu đó. Khu nghỉ này đã trở thành tin tức thời sự, nhưng đó là những tin truyền miệng, báo chí chưa phát hiện ra nó. Ông Bradley không có tờ báo riêng. Ông Bradley và công ty của ông ta đã biến mất khỏi dư luận. Một tờ tạp chí đã tự nguyện đăng bốn trang ảnh của Thung lũng Monadnock và cử một nhân viên tới phỏng vấn Howard Roark. Cho đến cuối mùa hè thì những ngôi nhà đã được đặt thuê trước cho cả năm sau đó. Vào một buổi sáng sớm của tháng Mười, cửa phòng tiếp tân của Roard bị mở tung ra và Steven Mallory vội vã chạy thẳng vào văn phòng của Roark. Cô thư ký cố gắng chặn anh ta lại vì Roark đang làm việc và không có phép bất kỳ ai làm phiền. Nhưng Mallory đẩy cô sang một bên, chạy ào vào văn phòng và đóng sập cửa lại. Cô thấy anh cầm một tờ báo trên tay.

Roark đang ngồi ở bàn vẽ. Anh ngẩng đầu lên nhìn Mallory và buông rơi bút chì. Anh biết gương mặt Mallory hẳn đã trông như thế này khi anh ta bắn Ellsworth Toohey.

"Thế nào, Howard? Anh có muốn biết tại sao anh nhận được công trình Thung lũng Monadnock không?"

Mallory ném tờ báo xuống bàn. Roark nhìn thấy đầu đề của một câu chuyện ở trang thứ ba: "Caleb Bradley đã bị bắt."

"Tất cả đấy," Mallory nói. "Nhưng mà đừng đọc. Nó sẽ làm anh buồn nôn."

"Được rồi, Steve, có chuyện gì vậy?"

"Họ đã bán hai trăm phần trăm của nó."

"Ai bán? Bán cái gì?"

"Bradley và hội của lão ấy. Hai trăm phần trăm của Thung lũng Monadnock." Mallory cố gắng nói với một sự chính xác hằn học và khó nhọc. "Ngay từ đầu họ đã nghĩ rằng khu nghỉ này chẳng có giá trị gì cả. Họ gần như không có mảnh đất này - họ nghĩ nó không phải là nơi để xây nhà nghỉ mát - xa đường sá, không xe buýt, không rạp hát xung quanh - họ nghĩ chưa đến lúc và công chúng sẽ không ủng hộ. Họ đã quảng cáo ầm ĩ và bán cổ phần cho rất nhiều bọn giàu có - đó là một vụ lừa lớn. Họ bán hai trăm phần trăm của khu nghỉ này. Họ đã thu được gấp đôi số tiền bỏ ra để xây dựng nó. Họ đã tin chắc là dự án sẽ thất bại. Họ muốn nó sẽ thất bại. Họ nghĩ rằng sẽ chẳng có lợi nhuận nào để mà chia. Họ đã có một kế hoạch tuyệt vời, sẵn sàng để thoát khỏi vụ này khi khu nghỉ bị phá sản. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho mọi thứ - trừ việc nhận ra rằng dự án này trở nên thành công như bây giờ. Và họ không thể tiếp tục được nữa vì bây giờ họ phải trả cho cổ đông gấp đôi số tiền họ thu được từ khu nghỉ mỗi năm. Chỗ này kiếm được rất nhiều tiền. họ nghĩ rằng họ đã sắp xếp để nó chắc chắn sẽ thất bại. Howard, anh không hiểu à? Họ đã chọn anh bởi vì anh là kiến trúc sư tồi nhất họ có thể tìm ra!"

Roark ngả đầu ra sau và cười.

"Chúa ơi, Howard! Chẳng có gì buồn cười cả!"

"Ngồi xuống, Steve. Đừng có run người lên như thế. Trông cậu cứ như là vừa mới nhìn thấy cả một cánh đồng xác người ấy."

"Tôi đã nhìn thấy cánh đồng ấy. Tôi còn nhìn thấy cái khủng khiếp hơn. Tôi đã biết được gốc rễ của vấn đề. Tôi đã biết cái gì đẻ ra cái cánh đồng xác ấy. Cái gì làm cho bọn khốn kiếp ấy kinh sợ nhỉ? Chiến tranh, bọn giết người, hỏa hoạn, hay động đất? Quỷ tha ma bắt chúng đi! Cái câu chuyện này mới là điều đáng sợ. Đó mới là thứ mà con người phải khiếp sợ, phải đấu tranh, phải gào thét, và coi nó là điều đáng hổ thẹn nhất mà họ từng làm. Howard, tôi đã nghĩ đến những cách người ta giải thích cái xấu và những phương thuốc mà người ta chế ra hàng thế kỷ nay để chữa nó. Chẳng có phương thuốc nào thành công cả. Chẳng có cách nào giải thích hay cứu chữa được cái xấu. Nhưng nguồn gốc của cái xấu - con quỷ mặt xanh ấy - thì ở ngay kia. Howard, nó ở ngay trong câu chuyện này. Trong đó và trong tâm hồn của những kẻ khốn kiếp sẽ đọc câu chuyện này và nói: 'Ôi dào, thiên tài luôn phải vật lộn, điều đó tốt cho họ' và rồi bọn chúng đi tìm những thằng ngốc để học cách làm việc. Đấy chính là hành động của con quỷ mặt xanh kia. Howard, hãy nghĩ về Monadnock. Hãy thử nhắm mắt lại và nhìn nó. Và hãy nghĩ đến việc chính những kẻ đầu tư cho công trình đó trong lúc tin rằng nó là công trình tệ nhất mà họ có thể xây dựng! Howard, có cái gì đó không ổn, rất không ổn trong thế giới này nếu như anh được giao xây dựng công trình vĩ đại nhất của đời mình như một trò đùa bẩn thỉu!"

"Đến khi nào thì cậu mới thôi nghĩ về việc đó? Về thế giới và tôi? Khi nào cậu sẽ học cách quên nó đi? Khi nào Dominique sẽ..."

Anh ngừng lại. Trong suốt mấy năm nay, họ đã không nhắc đến cái tên ấy trước mặt nhau. Anh nhìn thấy mắt Mallory - chăm chú và sốc. Mallory nhận ra rằng những lời nói của anh đã làm tổn thương Roark, đến mức Roark bật ra sự thú nhận này. Nhưng Roark quay về phía anh và nói một cách điềm tĩnh:

"Dominique từng nghĩ giống như cậu."

Mallory chưa bao giờ nói về những điều mà anh đoán ra về quá khứ của Roark. Sự im lặng của họ luôn ngụ ý rằng Mallory hiểu, rằng Roark biết điều đó và rằng đây ko phải là chuyện để bàn luận. Nhưng lúc này, Mallory hỏi:

"Anh vẫn đang chờ cô ấy quay lại phải không? Bà Gail Wynand - quỷ tha ma bắt cô ta!"

Roark nói mà không hề cao giọng:

"Im đi, Steve."

Mallory thì thào: "Tôi xin lỗi."

Roark đi về phía bàn của mình và nói - giọng anh trở lại bình thường:

"Về nhà đi Steve, và quên Bradley đi. Bọn họ chắc đang kiện tụng lẫn nhau nhưng chúng ta sẽ không bị lôi vào chuyện đó và chúng sẽ không thể phá hủy Monadnock. Quên nó đi và đi đi, tôi còn phải làm việc."

Anh dùng khuỷu tay gạt tờ báo ra khỏi bàn và cúi người xuống các tấm giấy vẽ.

*

* *

Việc khám phá ra các biện pháp huy động vốn đằng sau dự án Thung lũng Monadnock đã gây nên một vụ xì-căng-đan. Người ta đã mở một phiên tòa xét xử, một vài quý ông đã bị phạt tù và Monadnock được chuyển cho các cổ đông quản lý. Roark không liên quan đến vụ việc. Anh rất bận rộn và quên mất việc theo dõi diễn biến của phiên tòa trên các báo. Ông Bradley nhận lỗi với các cộng sự của mình rằng ông ta thực lòng không hề nghĩ rằng một khu nghỉ được xây dựng với một kế hoạch điên khùng, cách biệt với cộng đồng như vậy lại có thể trở nên thành công. "Tôi đã làm tất cả những gì tôi có thể. Tôi đã chọn kẻ ngớ ngẩn nhất tôi có thể tìm thấy."

Sau đó Austen Heller viết một bài báo về Howard Roark và Thung lũng Monadnock. Ông nói về tất cả các công trình mà Roark đã thiết kế và ông nói lại bằng lời những ý tưởng của Roark trong từng công trình. Chỉ có điều, những lời của Austen Heller không còn hiền hòa như thường lệ - chúng là những tiếng kêu lớn đầy sự ngưỡng mộ và giận dữ. "Và chúng ta đang bị nguyền rủa nếu như sự vĩ đại phải đến với chúng ta qua sự lừa dối!"

Bài báo này đã khơi mào cho một cuộc tranh luận gay gắt trong giới nghệ thuật.

"Howard" - Mallory nói với anh vào một ngày sau đó vài tháng - "Anh nổi tiếng rồi đấy."

"Phải" Roark nói, "Tôi đoán thế."

"Ba phần tư trong số những người đó chẳng biết chút gì về cuộc tranh luận này, nhưng họ nghe số một phần tư kia tranh cãi về anh, và bây giờ họ cảm thấy rằng họ cần phải phát âm tên anh với một sự kính trọng. Trong số một phần tư đang tranh luận, bốn phần mười là những kẻ ghét anh, ba phần mười là những kẻ thấy rằng họ phải thể hiện quan điểm tại bất kỳ cuộc tranh luận nào, hai phần mười là những kẻ luôn giữ cho mình được an toàn và đưa tin tức về bất kỳ 'phát hiện' nào, và một phần mười là những người hiểu biết. Nhưng tất cả bọn họ đều bất ngờ nhận ra rằng có một gã Howard Roark và rằng anh ta là một kiến trúc sư. Bản tin của Hiệp hội Kiến trúc sư báo rằng anh vĩ đại nhưng phóng túng còn bảo tàng Tương Lai đã treo các bức ảnh của Monadnock, của nhà Enright, nhà Cord và Aquitania - treo trong các khung kính đẹp hẳn hoi - ngay cạnh phòng trưng bày về Gordon L. Prescott. Kể cả thế - tôi vẫn vui mừng."

Vào một buổi tối, Kent Lansing nói: "Heller đã làm một việc tuyệt vời. Howard, cậu có nhớ những gì mà tôi đã có lần nói với cậu về thứ tâm lý học pretzel không? Đừng xem thường những người trung gian. Họ rất cần thiết. Một ai đó phải nói cho họ biết điều này. Phải cần đến hai người để làm nên một sự nghiệp vĩ đại: một người đàn ông vĩ đại và một người đàn ông - người này còn hiếm hơn - đủ vĩ đại để nhận biết sự vĩ đại của người kia và nói về nó."

Ellsworth Toohey viết: "Điều lố bịch trong tất cả những ồn ào lố bịch này là ở chỗ ngài Caleb Bradley là nạn nhân của sự bất công nghiêm trọng. Các vấn đề đạo đức của ông ta bị đưa ra mổ xẻ phê bình trong khi khả năng thẩm mỹ của ông ấy lại bị tảng lờ. Những đánh giá về tài năng kiến trúc của ông ấy hợp lý hơn so với ông Austen Heller, một kẻ phản động lỗi thời bỗng nhiên trở thành nhà phê bình nghệ thuật. Ông Caleb Bradley đã bị xử giảo chỉ vì những người thuê nhà của ông ta có thị hiếu rất tồi. Theo ý kiến của người viết bài này, án tù của ông ta cần phải được giảm nhẹ để ghi nhận khả năng đánh giá nghệ thuật đúng đắn của ông. Thung lũng Monadnock là một sự gian lận - nhưng không chỉ là gian lận tài chính."

Giới thượng lưu - nguồn cung cấp đều đặn nhất các hợp đồng kiến trúc - không phản ứng nhiều về danh tiếng của Roark. Những người trước kia đã nói: "Roark ư? Tôi chưa bao giờ nghe tới anh ta" thì nay nói rằng: "Roark ư? Anh ta quá rùm beng."

Nhưng có những người bị ấn tượng bởi một điều đơn giản là Roark đã xây dựng một nơi hái ra tiền cho những người chủ sở hữu vốn không hề muốn nó sinh ra tiền. Điều này thuyết phục hơn cả những tranh cãi về nghệ thuật đầy trừu tượng. Và còn có một phần mười những người hiểu biết kia nữa. Năm kế tiếp công trình Thung lũng Monadnock, Roark xây dựng hai ngôi nhà riêng ở Connecticut, một rạp chiếu phim ở Chicago, và một khách sạn ở Philadelphia.

Vào mùa xuân năm 1936, một thành phố ở phía tây lên xong kế hoạch xây dựng một hội chợ thế giới sẽ được tổ chức vào năm sau. Đó là một cuộc triển lãm quốc tế đã được đặt tên Hành trình của Những thế kỷ. Một ủy ban gồm những người nổi tiếng được giao trách nhiệm thực hiện dự án này và phải tiến hành lựa chọn một hội đồng các kiến trúc sư giỏi nhất đất nước để thiết kế hội chợ. Ủy ban này muốn thể hiện sự cách tân vượt bậc. Howard Roark là một trong số tám kiến trúc sư được chọn.

Sau khi nhận được giấy mời, Roark trình diện trước ủy ban và giải thích rằng anh sẽ rất vui mừng nếu được thiết kế hội chợ này - và phải một mình.

"Chắc anh đang nói đùa, anh Roark" - ngài chủ tịch nói. "hơn nữa, với công trình có tầm vóc lớn thế này, chúng tôi muốn những gì tốt nhất có thể có. Ý tôi là hai người bao giờ cũng tốt hơn một, anh biết đấy, và với tám người... đấy, anh có thể tự đánh giá - toàn những tài năng hàng đầu của đất nước, những tên tuổi lớn nhất - anh biết đấy, tham khảo lẫn nhau, hợp tác với nhau, hoàn thiện lẫn nhau - anh cũng biết cái gì làm nên những thành quả vĩ đại đấy."

"Tôi biết điều đó."

"Thế thì anh nhận ra là..."

"Nếu các ngài muốn tôi thực hiện, các ngài sẽ phải để tôi làm tất cả, chỉ một mình tôi. Tôi không làm việc với các hội đồng."

"Anh muốn từ chối cơ hội thế này sao, một kỳ tích trong lịch sử, một cơ hội vang danh toàn thế giới - về cơ bản có thể nói là một cơ hội để trở thành bất tử..."

Trong giới kiến trúc, có rất nhiều nhận xét giận dữ về việc Roark từ chối công trình. Người ta nói: "Tên vô lại cao ngạo!" Sự phẫn nộ này gay gắt và sống sượng quá mức có thể đem bàn trong các cuộc chuyện phiếm của giới kiến trúc; mỗi người tự coi nó như một sự lăng mạ với cá nhân; mỗi người đều tự cho rằng mình đủ khả năng để sửa chữa, khuyên bảo và hoàn thiện công việc của bất kỳ người nào.

"Việc này là một minh họa hoàn hảo cho bản chất bài xích xã hội trong cái chủ nghĩa duy ngã độc tôn của ông Howard Roard; nó minh họa cho sự tự phụ của cái chủ nghĩa cá nhân phóng túng mà ông ta luôn là hiện thân." Ellsworth Toohey viết.

Trong số tám người được chọn để thiết kế Hành trình của Những thế kỷ có Peter Keating, Gordon L. Prescott, Ralston Holcombe. "Tôi sẽ không làm việc với Howard Roark," Peter Keating nói khi nhìn thấy danh sách hội đồng, "các ngài sẽ phải chọn, hoặc anh ta hoặc tôi." Anh được thông báo rằng ông Roark đã từ chối đề nghị làm việc. Keating được giao quyền lãnh đạo hội đồng kiến trúc. Những câu chuyện đăng tải về tiến độ của công trình hội chợ này đề cập tới họ bằng cụm từ "Peter Keating và các cộng sự."

Trong vài năm gần đây, Keating bắt đầu hình thành một thái độ hung hăng và bướng bỉnh. Anh ta quát lên khi ra lệnh và mất kiên nhẫn trước những khó khăn nhỏ nhất. Khi mất kiên nhẫn, anh gào thét với những người xung quanh. Anh có cả một kho những từ ngữ chua ngoa, quỷ quyệt, và hiểm độc để chửi rủa người khác; mặt mũi anh ta luôn sưng xỉa.

Mùa thu năm 1936, Roark chuyển văn phòng tới tầng trên cùng của tòa nhà Cord. Anh đã từng nghĩ khi anh thiết kế tòa nhà này rằng một ngày nào đó văn phòng của anh sẽ ở đó. Khi nhìn thấy dòng chữ "Howard Roark, Kiến trúc sư" khắc trên cánh cửa mới, anh dừng lại trong giây lát, rồi anh bước vào văn phòng. Phòng của riêng anh nằm ở cuối một dãy phòng dài và có ba mặt bao quanh bằng kính, cao bên trên thành phố. Anh dừng lại ở giữa phòng. Từ những khung cửa sổ rộng, anh có thể nhìn thấy nhà bách hóa Fargo, nhà Enright, khách sạn Aquitania. Anh bước tới những cửa sổ hướng về phía nam và đứng đó một lúc lâu. Ở chõm cuối của bán đảo Manhattan, tít tận phía xa, anh có thể nhìn thấy tòa nhà Dana mà Henry Cameron đã xây dựng.

Vào một chiều tháng Mười một, anh quay về văn phòng sau khi đi thăm công trình xây dựng nhà ở Long Island. Roark đi vào phòng lễ tân, rũ chiếc áo mưa ướt sũng, và anh nhìn thấy một sự kinh động bị kiềm chế trên nét mặt cô thư ký. Cô ta đang sốt ruột chờ anh về.

"Ông Roark, đây có lẽ là một hợp đồng rất lớn," cô nói. "Tôi đã xếp lịch hẹn cho ông vào lúc ba giờ chiều mai. Tại văn phòng của ông ta."

"Văn phòng của ai?"

"Ông ta gọi điện cách đây nửa giờ. Ngài Gail Wynand."

II.

Một tấm biển treo trước cửa ra vào - tấm biển mang tên tờ báo:

NGỌN CỜ NEW YORK

Tấm biển nhỏ bé - như một tuyên ngôn về một danh tiếng và quyền lực quá lớn, đến mức chúng không cần được nhấn mạnh. Nó giống như một nụ cười đẹp và ngạo nghễ, biện hộ cho sự xấu xí trơ trụi của tòa nhà. Tòa nhà như một cái nhà máy, khinh thường mọi thứ đồ trang trí, ngoại trừ những ngụ ý của tấm biển mang tên nó.

Tiền sảnh của tòa nhà giống như miệng của một lò luyện kim. Những chiếc thang máy hút một dòng nhiên liệu người và truyền nguồn năng lượng ấy đi khắp tòa nhà. Mọi người không chạy đi chạy lại hối hả, nhưng dáng vẻ của họ đều ẩn chứa vẻ vội vã; họ đang bị thúc đẩy bởi một mục đích nào đó; không có ai la cà dưới tiền sảnh. Những cánh cửa thang máy mở ra đóng vào lách cách như những chiếc van, theo một nhịp đều đặn. Những đèn màu xanh đỏ nhấp nháy trên tấm bảng gắn trên tường, báo vị trí chuyển động của các thang máy trong không gian.

Dường như mọi thứ trong tòa nhà này đều được điều khiển từ những bảng điều khiển nằm trong tay một ông chủ, người nắm rõ từng chuyển động của tòa nhà, cứ như thể có một luồng năng lượng đang tỏa khắp trong tòa nhà này, làm cho nó vận hành trơn tru, không hề có tiếng động, như một cỗ máy khổng lồ không gì có thể phá hủy nổi. Không có ai để mắt tới người đàn ông tóc đỏ vừa dừng lại dưới tiền sảnh trong chốc lát.

Howard Roark nhìn lên mái vòm nhiều tầng của tòa nhà. Anh chưa bao giờ căm ghét bất kỳ một người nào. Nhưng đâu đó trong tòa nhà này có người chủ của nó - người đàn ông đã làm anh thấy tiệm cận gần nhất với sự căm ghét.

Gail Wynand liếc nhìn chiếc đồng hồ nhỏ trên bàn làm việc. Vài phút nữa, ông có một cuộc hẹn với một kiến trúc sư. Ông nghĩ rằng cuộc phỏng vần này sẽ chẳng có gì là khó khăn. Ông đã thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn như vậy trong đời mình. Ông chỉ cần phải nói - ông biết mình muốn nói gì; còn người kiến trúc sư thì chẳng phải làm gì cả, chỉ cần thốt ra vài từ để biểu thị là anh ta nắm được ý ông.

Ánh mắt ông rời khỏi chiếc đồng hồ và chuyển tới những bản tin thử đặt trên bàn. Ông đang đọc một bài xã luận của Alvah Scarret về việc công chúng cho sóc ăn trong Công viên Trung tâm và một bài báo của Ellsworth Toohey về những giá trị to lớn của một cuộc triển lãm các bức tranh do những nhân viên của Ban bảo vệ Thành phố vẽ. Chuông trên bàn ông vang lên cùng với giọng của người thư ký: "Ông Howard Roark đã đến, thưa ngài Wynand."

"Được rồi" Wynand nói và tắt công tắc. Khi rút bàn tay về, ông để ý tới hàng nút bấm phía cạnh bàn, những nút bấm nhỏ với các màu sắc được quy định sẵn, mỗi nút là điểm cuối cùng của một đường dây nối tới bộ phận nào đó trong tòa nhà, mỗi sợi dây điều khiển một người nào đó và mỗi người này lại điều khiển những người khác dưới quyền anh ta, mỗi nhóm người đó đóng góp vào bộ mặt hoàn chỉnh của tờ báo và sẽ có mặt trong hàng triệu căn nhà, trong đầu óc của hàng triệu con người - những nút bấm nhỏ bằng nhựa màu này, chúng ở ngay đó dưới những ngón tay ông. Nhưng ông không có thời gian để vui thú với suy nghĩ này; cửa phòng làm việc của ông vừa mở ra; ông rời tay khỏi những nút điều khiển.

Wynand không chắc có phải là ông đã lỡ mất một nhịp, có phải ông đã không lập tức đứng lên chào khách theo phép lịch sự thông thường, mà ông đã ngồi yên, nhìn vào người đàn ông vừa bước vào phòng. Có thể ông đã đứng dậy ngay lập tức, có điều là khoảng thời gian tiếp sau cử động đó của ông kéo dài quá lâu. Roark không chắc liệu có phải anh đã dừng lại sau khi bước vào văn phòng, rằng anh đã không bước thẳng tới mà đứng tại chỗ nhìn người đàn ông ngồi sau bàn. Mà cũng có khi anh đã tiến thẳng về phía người đàn ông, chỉ có điều là anh đã tưởng là anh dừng lại. Nhưng rõ ràng đã có một khoảnh khắc mà cả hai người đều quên đi những quy tắc của thực tại trước mắt, khi Wynand quên bẵng mất mục đích của ông khi gọi người đàn ông này tới văn phòng, còn Roark quên bẵng người đàn ông này là chồng của Donimique; khi trước mặt họ không có cửa ra vào, không có bàn làm việc, mà cũng chẳng có những tấm thảm. Giữa họ chỉ có sự nhận biết trọn vẹn đối với mỗi người về người đàn ông đối diện, chỉ có hai ý nghĩ gặp nhau ở giữa phòng - "Đây là Gail Wynand" - "Đây là Howard Roark."

Rồi Wynand đứng dậy; bàn tay ông khoát một cử chỉ đơn giản để mời khách ngồi xuống chiếc ghế bên bàn; Roark tiến lại gần và ngồi xuống. Họ không nhận ra là họ đã không chào hỏi nhau.

Wynand mỉm cười và nói điều mà ông đã không bao giờ định nói. Ông nói một cách giản dị:

"Tôi không nghĩ là anh sẽ muốn làm việc cho tôi."

"Tôi muốn làm việc cho ông," Roark nói mặc dù anh đã đến đây với dự định từ chối.

"Ông đã xem những gì tôi xây dựng?"

"Đúng vậy."

Wynand mỉm cười, "Lần này là một việc khác. Công trình này không dành cho công chúng. Nó dành cho tôi."

"Ông chưa bao giờ xây cái gì cho ông?"

"Chưa bao giờ, ngoại trừ cái chuồng cọp trên mái nhà và cái nhà máy in cũ kỹ này. Anh có thể nói cho tôi biết tại sao tôi chưa bao giờ xây dựng một công trình nào cho riêng tôi, mặc dù nếu tôi muốn thì tôi có đầy đủ phương tiên để xây dựng cả một thành phố? Tôi không biết tại sao. Tôi nghĩ có lẽ anh biết." Ông quên mất rằng ông không cho phép những người ông thuê làm được quyền suy đoán về cá nhân ông.

"Bởi vì ông chưa bao giờ hạnh phúc." Roark nói.

Anh nói điều đó một cách đơn giản, không chút xấc xượt, như thể rằng anh không thể làm gì khác ngoài việc bộc lộ một sự chân thành tuyệt đối. Đây không phải là phần đầu của một cuộc phỏng vấn mà là phần giữa, giống như là tiếp nối của một cái gì đó đã được bắt đầu từ lâu lắm rồi. Wynand nói:

"Giải thích đi."

"Tôi nghĩ ông hiểu."

"Tôi muốn nghe anh giải thích điều đó."

"Hầu hết mọi người đều xây nhà như cách họ sống - giống như một việc phải làm hàng ngày, một sự kiện vô nghĩa. Nhưng một số ít hiểu rằng một công trình kiến trúc là một biểu tượng vĩ đại. Chúng ta thực sự sống bằng đầu óc của chúng ta, và sự tồn tại chỉ là một cố gắng để làm cho cuộc sống đó hiện hữu, để tuyên bố về cuộc sống ấy bằng ngôn ngữ của cử chỉ và hình thể. Với những người hiểu được điều này thì ngôi nhà anh ta ở là một tuyên ngôn về cuộc sống của anh ta. Nếu như anh ta không xây nhà, khi anh ta có đủ điều kiện để làm việc đó, thì đó là vì cuộc sống của anh ta không phải cái anh ta từng mong muốn."

"Anh không thấy phi lý khi nói điều đó với chính tôi chứ không phải ai khác à?"

"Không."

"Tôi cũng vậy." Roark mỉm cười. "Nhưng anh với tôi là hai người duy nhất sẽ nói ra điều đó. Nói một trong hai phần của nó: rằng tôi không có được cái tôi mong muốn và rằng tôi có thể nằm trong số ít người có thể hiểu được cái loại biểu tượng vĩ đại. Anh không rút lại phần đằng sau chứ?"

"Không."

"Anh bao nhiêu tuổi?"

"Ba mươi sáu."

"Tôi đã sở hữu hầu hết những tờ báo tôi có hiện nay khi tôi ba mươi sáu tuổi." Ông nói thêm: "Tôi không có ý nói điều đó như một lời tự khen. Tôi không biết tại sao tôi lại nói thế. Tôi chỉ chợt nghĩ đến điều đó."

"Ông muốn tôi xây cái gì cho ông?"

"Ngôi nhà của tôi."

Wynand cảm thấy rằng những từ này có một tác động nào đó tới Roark, ngoài ngữ nghĩa thông thường của chúng. Ông cũng không biết lý do vì sao ông thấy như thế, bởi Roark chẳng bộc lộ ra bên ngoài bất cứ điều gì.

"Anh đã đúng," Wynand nói, "bởi vì anh thấy đấy, bây giờ tôi thật sự muốn xây một ngôi nhà của riêng tôi. Bây giờ tôi không sợ cái hình dáng hữu hình của cuộc đời tôi. Nếu anh muốn nói thẳng như anh nói, thì bây giờ tôi đang hạnh phúc."

"Ông muốn một ngôi nhà như thế nào?"

"Một ngôi nhà ở vùng nông thôn. Tôi đã mua đất. Một khu đất rộng năm trăm mẫu ở Connecticut. Một ngôi nhà ra sao à? Anh sẽ quyết định điều đó."

"Có phải bà Wynand đã chọn tôi làm người thiết kế?"

"Không. Bà Wynand không biết gì về chuyện này. Chính tôi muốn chuyển ra ngoài thành phố, và cô ấy đồng ý. Tôi đã hỏi cô ấy về việc chọn kiến trúc sư - vợ tôi tên trước khi lấy chồng là Dominique Francon. Cô ấy từng viết chuyên về lĩnh vực kiến trúc. Nhưng cô ấy muốn để tôi lựa chọn. Anh muốn biết tại sao tôi lại chọn anh à? Tôi đã dành nhiều thời gian để quyết định việc này. Ban đầu tôi cảm thấy khá lúng túng. Tôi chưa bao giờ nghe về anh. Tôi không biết bất kỳ một kiến trúc sư nào cả. Tôi nói theo đúng nghĩa đen đấy - và tôi tính cả những năm tháng kinh doanh bất động sản, những thứ tôi đã xây dựng và những kẻ ngớ ngẩn đã xây dựng chúng cho tôi. Lần này thì không phải là Stoneridge, mà là... anh đã gọi nó là gì nhĩ? - một tuyên ngôn về cuộc sống của chính tôi? Rồi thì tôi nhìn thấy Monadnock. Đó là thứ đầu tiên làm tôi nhớ tên anh. Nhưng tôi đã tự kiểm tra rất lâu. Tôi đã đi vòng quanh các vùng nông thôn, ngắm nhìn các căn nhà, khách sạn, đủ loại công trình. Bất cứ khi nào nhìn thấy một công trình tôi thích, tôi đều hỏi xem ai đã thiết kế công trình đó, và luôn nhận được một câu trả lời: Howard Roark. Vì thế tôi đã gọi điện cho anh."

Ông nói thêm:

"Tôi có nên nói với anh là tôi ngưỡng mộ các công trình của anh đến thế nào không?"

"Cám ơn ông," Roark nói. Anh nhắm mắt trong giây lát.

"Anh biết đấy, tôi đã không muốn gặp anh."

"Tại sao?"

"Anh đã nghe nói về gallery của tôi rồi chứ?"

"Tôi đã."

"Tôi không bao giờ gặp tác giả của những tác phẩm mà tôi yêu thích. Những tác phẩm ấy có ý nghĩa quá lớn đối với tôi. Tôi không muốn những người này làm hỏng nó. Mà họ thì thường làm như thế. Họ là chướng ngại vật đối với chính tài năng của họ. Anh thì lại không phải là người như vậy. Tôi không ngại nói chuyện với anh. Tôi nói với anh điều này chỉ bởi vì tôi muốn anh biết rằng tôi tôn trọng rất ít thứ trong cuộc đời này, nhưng tôi tôn trọng những tác phẩm trong gallery của tôi, và những công trình của anh, và cái năng lực của những người đã tạo nên những tác phẩm như vậy. Có lẽ đó là thứ tôn giáo duy nhất của tôi." Ông nhún vai: "Tôi nghĩ rằng tôi đã hủy hoại, bóp méo, và làm biến chất tất cả mọi thứ tồn tại trên đời này. Nhưng tôi chưa bao giờ chạm tới những thứ kia. Tại sao anh lại nhìn tôi như vậy?"

"Xin lỗi ông. Xin ông nói cho tôi biết về ngôi nhà mà ông muốn."

"Tôi muốn nó phải là một cung điện - chỉ có điều tôi không nghĩ cung điện là một nơi xa hoa. Chúng quá rộng, như một chốn công cộng hỗn tạp. Một ngôi nhà nhỏ mới là sự xa hoa thực sự. Một nơi ở chỉ cho hai người, vợ tôi và tôi. Ngôi nhà ấy không nhất thiết phải thiết kế đủ cho một gia đình, chúng tôi không định có con cái gì cả. Cũng không cần chỗ cho khách khứa, vì chúng tôi không định mua vui cho ai. Một phòng khách - để đề phòng trường hợp cần thiết - nhưng chỉ cần một phòng thôi. Phòng khách, phòng ăn, thư viện, hai phòng làm việc, một phòng ngủ. khu ở cho người giúp việc, ga-ra ô-tô. Đó là ý tưởng tổng thể. Tôi sẽ cung cấp cho anh các thông tin chi tiết sau. Chi phí - bất kể anh cần bao nhiêu. Bề ngoài của nhà tôi thì..." Ông mỉm cười, nhún vai. "Tôi đã nhìn các công trình của anh. Nếu một ai đó muốn bảo cho anh biết cách thiết kế một ngôi nhà, thì hoặc anh ta phải có khả năng thiết kế nó đẹp hơn, nếu không thì anh ta nên im miệng đi. Tôi chỉ nói rằng tôi muốn ngôi nhà của tôi có chất lượng của Roark."

"Đó là cái gì vậy?"

"Tôi nghĩ là anh hiểu."

"Tôi muốn nghe ông giải thích điều đó."

"Tôi thấy rằng một vài tòa nhà phô trương một cách rẻ tiền, tất cả đều trưng hết ra mặt tiền. Một vài cái thì hèn nhát, như thể mỗi viên gạch đều đang cuối đầu thanh minh về bản thân nó. Một vài tòa nhà khác thì lại có cái vẻ bất hợp lý cố hữu, vá víu, nanh nọc và nhầm lẫn ở đâu đó. Những tòa nhà của anh mang đến cho người ta một cảm giác hoàn toàn khác - một cảm giác hân hoan. Không phải là một sự hân hoan dễ dãi mà là niềm vui bao trùm và khó có được. Như thể nó làm cho người ta cảm thấy rằng đạt được niềm vui ấy là một thành công. Người ta nhìn ngắm tòa nhà và nghĩ rằng: ta sẽ là một người tốt hơn nếu ta có thể cảm nhận được niềm hân hoan đó."

Roark nói chậm rãi, không phải bằng âm điệu của một câu trả lời:

"Tôi đoán việc này là không thể tránh khỏi."

"Việc gì?"

"Việc ông nhận ra những điều ấy."

"Tại sao anh nói như thế... anh tiếc rằng tôi nhận ra những điều đó?"

"Tôi không tiếc."

"Nghe này, đừng lấy những thứ mà tôi đã xây dựng trước đây để chống lại tôi."

"Tôi không làm như vậy."

"Tất cả những Stoneridges, khách sạn Noyes-Belmont - và các tờ báo Wynand - tất cả những cái đó đã làm cho tôi có khả năng để có được một ngôi nha do anh thiết kế. Đây hẳn là một sự xa xỉ đáng vươn tới, đúng không? Nếu thế thì việc tôi có được sự xa xỉ ấy bằng cách nào đâu có ý nghĩa gì. Chúng là phương tiện. Anh là mục đích."

"Ông không phải thanh minh với tôi."

"Tôi không hề thanh... Phải, tôi nghĩ là tôi đang thanh minh."

"Ông không cần làm thế. Tôi không nghĩ về những thứ mà ông đã xây."

"Anh đang nghĩ gì?"

"Rằng tôi hoàn toàn bất lực trước một người có thể nhìn thấy những gì mà ông ta đã nhìn thấy trong các tòa nhà của tôi."

"Anh cảm thấy anh cần được giúp đỡ để chống lại tôi sao?"

"Không. Có điều, về nguyên tắc, tôi không bao giờ cảm thấy bất lực."

"Về nguyên tắc, tôi cũng không bao giờ phải thanh minh. Vậy thì mọi chuyện ổn cả đúng không?"

"Đúng thế."

"Tôi phải nói với anh thêm về ngôi nhà tôi muốn có. Tôi cho rằng một kiến trúc sư giống như một linh mục nghe xưng tôi - anh ta phải biết tất cả mọi điều về những người sẽ sống trong căn nhà đó, bởi vì cái mà anh ta làm ra, đối với họ, sẽ có tính riêng tư hơn cả cơm ăn áo mặc. Xin hãy cân nhắc về điều này, và bỏ qua cho tôi nếu anh thấy rằng nói ra những điều này, đối với tôi, là rất khó khăn - tôi chưa bao giờ đi xưng tội. anh biết đấy, tôi muốn có căn nhà này bởi vì tôi thật sự yêu vợ tôi... Anh sao thế? Anh thấy điều này không liên quan gì?"

"Ồ không. Ông tiếp tục đi."

"Tôi không thể chịu đựng được khi nhìn thấy vợ tôi ở giữa những người khác. Đó không phải là sự ghen tuông. Nó còn nhiều hơn và tệ hơn thế. Tôi không thể nhìn cô ấy đi dạo trên đường phố. Tôi không thể chia sẻ cô ấy, ngay cả với các cửa hàng, nhà hát, taxi, hay hè phố. Tôi phải mang cô ấy đi xa. Tôi phải đặt cô ấy ra ngoài tầm với, để không gì có thể chạm vào cô ấy dưới bất kỳ hình thức nào. Ngôi nhà này là một pháo đài. Kiến trúc sư sẽ là người bảo vệ tôi."

Roark ngồi nhìn thẳng vào ông. Anh phải giữ cho mắt mình nhìn vào Wynand để có thể lắng nghe. Wynand cảm thấy sự cố gắng trong ánh mắt anh của anh, nhưng ông không nhận ra đó là một sự cố gắng, mà chỉ nghĩ rằng đó là một sức mạnh. Ông thấy cái ánh mắt ấy nâng đỡ ông; ông không còn cảm thấy việc xưng tội là khó khăn.

"Ngôi nhà này sẽ là một nhà tù. À không, không hẳn như vậy. Nó sẽ là một cái kho báu - một căn hầm để bảo vệ những đồ vật quý giá khỏi mắt nhìn của thiên hạ. Nhưng còn hơn thế nữa, ngôi nhà ấy phải là một thế giới tách biệt, phải đẹp đến mức chúng tôi sẽ không bao giờ nhớ nhung cái thế giới chúng tôi đã bỏ lại. Một nhà tù bằng quyền lực từ sự hoàn hảo của chính nó. Không phải những chấn song hay tường rào, mà chính tài năng của anh sẽ như một bức tường ngăn giữa chúng tôi với thế giới. Đó là điều tôi mong đợi ở anh. Và còn nhiều hơn thế. Anh đã bao giờ xây một ngôi đền chưa?"

Trong một khoảnh khắc, Roark không đủ sức để trả lời, nhưng rồi anh thấy câu hỏi này là chân thành. Wynand không biết gì cả.

"Rồi," Roark nói.

"Vậy thì hãy nghĩ về công trình này như là xây một ngôi đền. Một ngôi đền dành cho Dominique Wynand... Tôi muốn anh gặp cô ấy trước khi thiết kế nó."

"Tôi đã gặp bà Wynand vài năm trước."

"Anh đã gặp à? Vậy thì anh hiểu."

"Tôi hiểu."

Wynand nhìn vào bàn tay của Roark đang nằm trên cạnh bàn, những ngón tay dài tỳ vào kính, bên cạnh các bản in thử của tờ Ngọn cờ. Các bản in thử này được gập lại một cách sơ ý. Ông nhìn thấy tiêu đề Một ý kiến nhỏ trên trang in. Ông nhìn bàn tay của Roark. Ông nghĩ rằng có lẽ ông thích một cái chặn giấy bằng đồng trông giống như vậy, trông sẽ thật đẹp biết bao khi có nó trên bàn làm việc của ông.

"Bây giờ thì anh biết tôi muốn gì rồi. Hãy bắt tay vào công việc. Bắt đầu ngay đi. Hãy bỏ tất cả những gì anh đang làm. Tôi sẽ trả bất cứ giá nào anh yêu cầu. Tôi muốn có ngôi nhà này vào mùa hè... Ồ, hãy tha lỗi cho tôi. Tôi làm việc quá nhiều với mấy tay kiến trúc sư bất tài. Tôi chưa hỏi xem liệu anh có muốn làm việc này hay không."

Tay Roark cử động trước; anh kéo nó ra khỏi bàn.

"Có," Roark nói. "Tôi sẽ làm việc này."

Wynand nhìn thấy những dấu vân tay hiện trên mặt kính - chúng hằn rõ như thể da bàn tay của Roark đã khắc sâu vào mặt kính, và những vệt khắc đều ướt.

"Anh cần bao nhiêu thời gian?" Wynand hỏi.

"Ông sẽ có ngôi nhà vào tháng Bảy."

"Tất nhiên là anh phải nhìn thấy khu đất. Tôi muốn tự mình dẫn anh đi xem. Tôi có thể đưa anh tới đó vào sáng mai không?"

"Nếu ông muốn."

"Có mặt ở đây lúc chín giờ."

"Được."

"Anh có muốn tôi thảo hợp đồng không? Tôi không biết anh muốn làm việc theo cách nào. Về nguyên tắc, trước khi làm việc với bất kỳ ai về bất kỳ vấn đề gì, tôi luôn tìm hiểu mọi thứ về anh ta kể từ ngày anh ta ra đời hoặc sớm hơn nữa. Tôi lại chưa bao giờ tìm hiểu về anh. Đơn giản là tôi quên mất. Nó có vẻ không cần thiết."

"Tôi có thể trả lời bất kỳ câu hỏi nào ông muốn hỏi."

Wynand mỉm cười và lắc đầu:

"Không. Tôi không cần hỏi gì anh cả. Ngoại trừ về các điều khoản hợp đồng."

"Tôi không bao giờ có điều kiện gì ngoại trừ một điều: nếu ông chấp nhận bản phác thảo của ngôi nhà, thì ông phải để tôi xây dựng nó đúng như bản thiết kế mà không có bất kỳ thay đổi nào."

"Tất nhiên rồi. Tôi hiểu điều đó. Tôi đã nghe rằng nếu không như vậy thì anh sẽ không làm. Nhưng anh sẽ không phản đối nếu tôi không công bố chuyện này chứ? Tôi biết điều đó sẽ có lợi cho sự nghiệp của anh, nhưng tôi muốn công trình này tránh xa khỏi báo chí."

"Tôi không quan tâm đến điều đó."

"Anh hứa sẽ không công bố ảnh của công trình này chứ?"

"Tôi hứa."

"Cám ơn anh. Tôi sẽ đền bù cho anh về việc này. Ông có thể coi các tờ báo của Wynand như là cơ quan báo chí của cá nhân anh. Tôi sẽ lăng-xê bất kỳ công trình nào khác của anh mà anh muốn."

"Tôi không muốn bất kỳ sự lăng-xê nào."

Wynand cười to. "Anh thật khéo chọn chỗ để nói điều đó! Tôi không nghĩ là anh biết những kiến trúc sư khác - đồng nghiệp của anh - sẽ thực hiện buổi phỏng vấn này như thế nào đâu. Tôi không tin là trong suốt cuộc phỏng vấn, anh ý thức được rằng anh đang nói chuyện với Gail Wynand."

"Tôi có ý thức điều đó," Roark nói.

"Đây là cách tôi cảm ơn anh. Không phải lúc nào tôi cũng muốn là Gail Wynand."

"Tôi biết điều đó."

"Tôi đổi ý rồi và tôi muốn hỏi anh một câu hỏi cá nhân. Anh đã nói là anh sẽ trả lời bất kỳ câu hỏi nào."

"Tôi sẽ."

"Anh có luôn thích là Howard Roark?"

Roark mỉm cười. Nụ cười vừa thích thú, vừa ngạc nhiên, lại có vẻ coi thường một cách bất tự giác.

"Anh đã trả lời rồi," Wynand nói.

Rồi ông đứng dậy, chìa tay ra và nói: "Chín giờ sáng ngày mai."

Khi Roark đã đi khỏi, Wynand ngồi xuống bên bàn làm việc và mỉm cười. Ông với tay tới một trong các nút bấm bằng nhựa - và dừng lại. Ông nhận ra rằng ông phải sắm một dáng vẻ khác, dáng vẻ thường ngày của ông; rằng ông không thể nói như ông đã nói trong nửa giờ qua. Rồi ông hiểu điều kỳ lạ của cuộc phỏng vấn này: lần đầu tiên trong đời, ông đã nói chuyện với một người mà không có cảm giác miễn cưỡng hay áp lực, không cần phải che đậy như ông luôn cảm thấy khi nói chuyện với người khác. Không hề có sự kiềm chế, và cũng không có nhu cầu phải kiềm chế; như thể ông đã nói chuyện với chính mình.

Ông bấm nút và nói với cô thư ký:

"Bảo phòng tài liệu chuẩn bị cho tôi tất cả mọi thứ về Howard Roark."

*

* *

"Đoán đi," Alvah Scarret nói bằng giọng cầu xin người khác hãy cầu xin thông tin của mình.

Ellsworth Toohey xua tay vội vàng như thể muốn đuổi khách đi; ông không rời mắt khỏi bàn làm việc.

"Đi đi Alvah. Tôi đang bận."

"Không, chuyện này rất thú vị, Ellsworth. Thật đấy, rất thú vị. Chắc chắn ông sẽ muốn biết."

Toohey ngẩng đầu và nhìn Scarret; sự khó chịu thoáng qua trong khóe mắt của ông làm cho Scarret hiểu rằng Toohey đang chiếu cố. Ông kéo dài giọng vẻ kiên nhẫn:

"Được rồi. Chuyện gì nào?"

Scarret không phật ý với thái độ của Toohey. Toohey luôn xử sự với ông như vậy trong suốt một năm vừa rồi và thậm chí lâu hơn thế. Scarret không nhận thấy sự thay đổi - đã quá muộn để cảm thấy phật lòng. Thái độ ấy đã trở nên bình thường với cả hai người.

Scarret mỉm cười như thể một học sinh xuất sắc đang trông đợi được cô giáo khen vì đã phát hiện ra một lỗi trong cuốn sách giáo khoa của cô giáo.

"Ellsworth, nhân viên FBI riêng của ông đang bị qua mặt."

"Anh đang nói gì thế?"

"Tôi dám cá rằng ông không biết Gail vừa mới làm gì đâu - và ông luôn luôn muốn mình là người biết mọi tin tức nhỉ."

"Tôi không biết cái gì?"

"Đoán xem ai đã ở trong văn phòng ông ta hôm nay."

"Alvah thân mến của tôi, tôi không có thời gian cho mấy trò đánh đố."

"Có cho ông cả nghìn năm ông cũng sẽ không đoán được đâu."

"Được thôi, bởi vì cách duy nhất để đuổi cổ anh ra khỏi đây là đóng vai một thằng hề, tôi sẽ hỏi một câu thích hợp đây: Ai đã ở văn phòng của Gail ngày hôm nay?"

"Howard Roark."

Toohey quay hẳn sang phía Scarret, quên mất là mình đang bố thí sự quan tâm, và thốt lên một cách ngờ vực.

"Không thể thế được!"

"Có đấy!" Scarret nói với vẻ tự mãn khi nhìn thấy phản ứng của Toohey.

"Ồ!" Toohey phá lên cười.

Scarret cười nửa miệng; ông bối rối và băn khoăn khi phụ họa mà không thực sự hiểu nguyên nhân của sự thích thú này.

"Ừ, thật buồn cười. Nhưng mà... chính xác thì tại sao hả Ellsworth?"

"Ôi Alvah, để giải thích cho anh thì mất nhiều thời gian lắm!"

"Tôi có một ý kiến có thể..."

"Anh không có khả năng nhận biết những thứ vĩ đại à, Alvah? Anh có thích pháo hoa không? Nếu anh muốn biết điều gì sắp xảy ra, hãy nhớ rằng cuộc chiến tranh tồi tệ nhất là chiến tranh tôn giáo giữa các giáo phái của cùng một tôn giáo hoặc là cuộc chiến tranh giữa con người cùng một sắc tộc."

"Tôi không thực sự theo kịp những gì ông đang nói."

"Ồ anh bạn, tôi có quá nhiều người đi theo rồi. Tôi phải đuổi bớt đi ấy chứ."

"Được rồi, tôi mừng là cái tin này làm ông thấy vui, nhưng tôi nghĩ đó là tin xấu."

"Tất nhiên đó là tin xấu. Nhưng không phải đối với chúng ta."

"Nhưng xem nhé: ông biết rõ là chúng ta đã khăng khăng tuyên bố - nhất là ông - về chuyện tay Roark này là kiến trúc sư tồi nhất trong thành phố. Và nếu bây giờ sếp của chúng ta lại thuê hắn - chả nhẽ chuyện đó không xấu hổ à?"

"À chuyện đó à?... Cũng có thể..."

"Được rồi, tôi mừng là ông thấy thế."

"Thế hắn ta đã làm gì trong văn phòng của Gail? Có vụ làm ăn gì à?"

"Đấy là cái tôi không biết. Không tìm ra được lý do. Không ai biết cả."

"Gần đây anh có nghe thấy ông Wynand có kế hoạch xây dựng cái gì không?"

"Không. Thế còn ông?"

"Không. Tôi đoán rằng nhân viên FBI của tôi đúng là đang bị qua mặt. Chà, ai cũng chỉ có thể cố đến mức độ nào đó thôi."

"Nhưng ông biết không, Ellsworth, tôi có một ý kiến. Tôi nghĩ là chuyện này có thể rất có lợi cho chúng ta."

"Như thế nào?"

"Ellsworth, thời gian qua Gail thật là khác thường."

Scarret thốt ra điều đó với vẻ nghiêm trọng, như thể ông ta đang tiết lộ một phát hiện mới. Toohey ngồi yên và cười nửa miệng.

"Ồ, tất nhiên là ông đã đoán trước được điều này, Ellsworth. Ông đã đúng, luôn luôn đúng. Tôi thề là tôi không thể hiểu được chuyện gì đang xảy ra với ông ấy, không biết đó là do Domonique, hay một thay đổi nào đó trong cuộc sống, nhưng chắc là có điều gì đó đang xảy ra. Tại sao ông ta đột nhiên nổi hứng và bắt đầu đọc từng dòng của tất cả các bản in thử khốn kiếp, rồi làm toáng lên vì những chuyện ngớ ngẩn nhất? Gần đây ông ấy đã hủy ba bài xã luận hay nhất của tôi - mà ông ấy chưa bao giờ làm thế với tôi. Chưa bao giờ. Ông có biết ông ấy nói gì với tôi không? Ông ấy nói: 'Bổn phận làm mẹ là điều thiêng liêng, Alvah, nhưng vì Chúa, hãy bơn bớt những chuyện nhảm nhí của anh. Đầu óc người ta cũng chỉ sa đọa được đến một giới hạn nhất định.' Sa đọa nào? Đó là bài xã luận về Ngày cho Mẹ ngọt ngào nhất mà tôi từng viết. Thành thật mà nói chính tôi đọc cũng thấy cảm động. Ông ta học được cách nói về sự sa đọa từ bao giờ thế không biết? Một hôm khác, ông ta gọi Jules Fougler là đồ trí thức rẻ tiền, gọi thẳng vào mặt ông ấy, và ném bài viết cho số báo Chủ nhật của ông ấy vào sọt rác. Đó cũng là một bài đặc sắc, viết về Rạp hát của công nhân. Jules Fougler, cây bút xuất sắc nhất của chúng ta! Thảo nào mà Gail chẳng còn bạn bè trong tòa soạn. Lúc trước họ đã ghét thái độ của ông ấy rồi, bây giờ thì ông cứ nghe mà xem!"

"Tôi đã nghe rồi."

"Ông ấy đang xuống dốc, Ellsworth ạ. Tôi không biết tôi sẽ làm gì nếu không có ông và những người xuất sắc ông đã chọn. Giờ thì hầu như họ là tất cả đội ngũ đang làm việc thực sự ở đây, những chàng trai ông chọn, chứ không phải là những con bò già nữa - đằng nào họ cũng hết thời rồi. Bọn trẻ đó sẽ làm cho tờ Ngọn cờ này còn sống. nhưng còn Gail... Nghe này, tuần trước ông ta đã sa thải Dwight Carson. Chà, ông biết đấy, chuyện này rất hệ trọng. Tất nhiên Dwight chỉ là một kẻ vô tích sự và là một gánh nặng khốn kiếp, nhưng anh ta đã là một trong những con thú cảnh đầu tiên của Gail - cái bọn nhóc đã bán cả linh hồn cho ông ấy. Vì thế, ông thấy đấy, theo một cách nào đó thì tôi vẫn thích có Dwight ở đây; chuyện đó tốt, chuyện đó chả sao cả, nó là tàn tích về thời sung sức của Gail. Tôi luôn luôn nói rằng đó là cái van an toàn của Gail. Và khi ông ta đột ngột để cho Carson đi... tôi không thích điều này, Ellsworth. Tôi không thích một tí nào cả."

"Chuyện gì thế này, Alvah? Anh đang kể cho tôi những chuyện mà tôi không biết, hay là anh đang mở van xả hết các thứ - bỏ qua cho tôi vì cái ẩn dụ này - lên đầu tôi?"

"Tôi đoán vậy. tôi không thích chỉ trích Gail nhưng tôi phát điên quá lâu và tôi mệt mỏi lắm rồi. Nhưng đây là cái mà tôi đang định nói là: Cái tay Howard Roark này, hắn đang làm ông nghĩ tới điều gì?"

"Tôi có thể viết cả một cuốn sách về điều đó đấy Alvah. Bây giờ không phải lúc thích hợp để bàn một chuyện to lớn đến thế."

"Không, ý tôi là điều cơ bản nhất mà chúng ta biết về anh ta là gì nào? Rằng anh ta là một kẻ lập dị, một con quái vật và một gã ngu xuẩn - được rồi - nhưng còn gì nữa? Rằng anh ta là một gã ngốc mà người ta không thể mua chuộc bằng tình ái, tiền bạc hay bằng cách dí súng vào đầu. Anh ta tệ hơn cả Dwight Carson, tệ hơn tất cả những con thú cảnh của Gail cộng lại. Đúng vậy không? Ông đã hiểu ý tôi chưa? Rồi Gail sẽ làm gì khi ông ấy gặp một kẻ như vậy?"

"Một số khả năng có thể xảy ra."

"Chỉ một khả năng duy nhất, nếu như tôi hiểu về Gail, mà tôi thì hiểu ông ta. Đó là lý do vì sao mà tôi cảm thấy có một chút hy vọng. Roark là thứ ông ta cần - và cần từ lâu rồi. Một liều thuốc cũ. Chiếc van an toàn. Ông ấy sẽ lại xông ra bẽ gãy xương sống của hắn ta... và điều đó sẽ tốt cho Gail. Điều tốt nhất trên thế giới này. Làm cho ông ta trở lại bình thường... Đó là ý kiến của tôi, Ellsworth."

Scarret chờ đợi, nhưng không nhìn thấy sự tán thưởng nào trên khuôn mặt Toohey nên ông kết thúc một cách rầu rĩ: "Chà, cũng có thể tôi sai... Tôi không biết... Chuyện đó có thể chẳng có ý nghĩa gì cả... Tôi nghĩ đó là vấn đề tâm lý..."

"Nó là vấn đề tâm lý, Alvah."

"Vậy là ông đang nghĩ mọi chuyện sẽ diễn ra như thế?"

"Có thể. Hoặc có thể sẽ tồi tệ hơn bất kỳ cái gì anh đang tưởng tượng. Nhưng điều đó cũng chẳng còn quan trọng gì đối với chúng ta. Bởi vì anh thấy đấy, Alvah, đối với tờ Ngọn cờ, nếu đến một lúc nào đó mà chúng ta phải tay bo với sếp của chúng ta, thì lúc ấy chúng ta cũng không còn phải sợ ngài Gail Wynand nữa rồi."

*

* *

Khi cậu bé của phòng tư liệu bước vào và mang theo một phong bì dày chứa các bài báo rời, Wynand ngẩng đầu lên nhìn cậu ta và nói:

"Nhiều thế à? Tôi không biết anh ta nổi tiếng đến thế."

"Ồ, các bài báo về phiên tòa về Stoddard, thưa ngài Wynand."

Cậu bé ngừng lại. Chẳng có gì sai cả... chỉ có những nếp nhăn trên trán của Wynand và cậu chưa biết nhiều về Wynand để có thể hiểu những nếp nhăn đó có nghĩa gì. Cậu băn khoăn không biết điều gì đã làm cậu cảm thấy cậu nên sợ hãi. Một giây sau, Wynand nói:

"Được rồi, cám ơn."

Cậu bé đặt phong bì này lên trên mặt bàn và đi ra ngoài.

Wynand ngồi ngắm nhìn cái phong bì màu vàng căng phồng. Ông thấy nó phản chiếu trong tấm kính, cứ như thể gói báo ấy đã ăn qua mặt kính và cắm rễ xuống bàn. Ông nhìn những bức tường quanh phòng và tự hỏi liệu chúng có chứa một sức mạnh nào đó có thể cứu ông khỏi việc mở cái phong bì đó.

Rồi ông ngồi thẳng dậy, đặt hai cẳng tay thành một đường thẳng dọc theo mép bàn, những ngón tay duỗi dài chạm vào nhau; ông cụp mắt xuống, nhìn vượt qua cánh mũi xuống mặt bàn. Ông ngồi một lát, trang nghiêm, kiêu hãnh, bình tĩnh như xác ướp góc cạnh của môt Pha-ra-ông; rồi ông nhấc một tay lên, kéo cái phong bì lại phía mình, mở ra và bắt đầu đọc.

Tội báng bổ thánh thần của Ellsworth M. Toohey - Những nhà thờ của tuổi thơ chúng ta của Alvah Scarret - những bài xã luận, bài thuyết giáo, các bài phát biểu, bản tuyên bố, thư gửi ban biên tập, những trang lớn đổ thêm dầu vào lửa của tờ Ngọn cờ, những bức ảnh, tranh biếm họa, bài phỏng vấn, phản thuyết về biều tình phản đối, các lá thư gửi ban biên tập.

Ông đọc từng từ một cách cẩn thận, tay ông đặt trên cạnh bàn, các ngón tay chạm nhau không cầm đến các mẫu báo, không chạm vào chúng. Ông để nguyên chồng báo để đọc. Ông chỉ nhấc tay lên để lật một bài báo ra và đọc bài ở dưới, tay ông chuyển động với sự chính xác về thời gian của một cỗ máy, những ngón tay nhấc lên cùng khoảnh khắc với việc mắt ông đọc đến từ cuối cùng; ông không để cho bài báo nào nằm trong tầm mắt lâu hơn cần thiết. Nhưng ông dừng lại một lúc lâu để nhìn những bức ảnh của Đền Stoddard. Ông dừng lại lâu hơn để ngắm một trong những bức ảnh của Roark, cái ảnh được chú thích Ngài hạnh phúc chứ, thưa Ngài Siêu Nhân? Ông xé bức ảnh ra khỏi bài viết đi kèm và đút nó vào ngăn kéo bàn làm việc. Rồi ông lại tiếp tục đọc.

Phiên tòa... lời cung của Ellsworth M. Toohey... của Peter Keating... của Ralston Holcombe... của Gordon L. Prescott... - không thấy có trích dẫn lời chứng trước tòa của Dominique Francon, chỉ có một báo cáo ngắn gọn. "The defense rests." Một vài đề cập trong chuyên mục Một ý kiến nhỏ... sau đó là một khoảng trống... tập báo tiếp theo ghi ngày tháng của ba năm sau đó - về Thung lũng Monadnock.

Khi ông đọc xong, trời đã tối. Các thư ký của ông đã đi về. Ông cảm thấy sự hiện diện của những căn phòng và tiền sảnh trống không ở xung quanh ông. Nhưng ông nghe thấy âm thanh của những chiếc máy in: những rung động trầm đục, dài và chạy xuyên qua mọi căn phòng. Ông đã luôn thích cái âm thanh đó - tiếng trái tim của cả tòa nhà đang đập. Ông lắng nghe. Chúng đang đập cho số báo ngày mai của tờ Ngọn cờ. ông ngồi bất động một lúc lâu.

III.

Roark và Wynand đứng trên đỉnh đồi phóng tầm mắt ngắm cả dải đất dốc xuống tạo thành một hình vòng cung dài thoai thoải. Một vài cái cây trụi lá, đứng thành một hàng kéo từ trên đỉnh đồi xuống đến bờ hồ nước; những cành cây tạo thành những khối hình học cắt vào bầu trời. Bầu trời mang một màu xanh lơ pha lẫn xanh lục, trong suốt và mong manh, càng làm cho không gian trở nên lạnh lẽo hơn. Cái lạnh đã tẩy sạch mọi thứ màu sắc của trái đất, để lại vạn vật ở trạng thái không màu. Nó cho thấy rằng những màu sắc kia không tồn tại, cái tồn tại thực sự chính là một màu nâu chết của mặt đất; và chính cái màu nâu đất ấy là nguyên tôsarn sinh ra mọi màu sắc khác trên mặt đất này. Màu nâu ấy không phải là một màu nâu hoàn toàn mà hàm chứa trong nó màu xanh của lá cây rồi sẽ mọc lên, màu tía mệt mỏi của lửa rồi sẽ trào lên, và màu xám của quặng vàng rồi sẽ được khai thác. Trái đất giống như phác thảo của một câu chuyện vĩ đại, giống như khung sắt của một tòa nhà, rồi sẽ được lấp đầy và hoàn thiện; nó đang giữ trong mình tất cả sự tráng lệ của tương lai dưới một vẻ đơn giản trần trụi.

"Anh nghĩ nên xây ngôi nhà ở chỗ nào?" Wynand hỏi.

"Ở ngay đây," Roark trả lời.

"Tôi đã hy vọng anh sẽ chọn chỗ này."

Wynand đã tự lái xe từ thành phố đến đây, và họ đã đi bộ khoảng hai tiếng xuyên qua các đường mòn trên khu đất mới của ông, xuyên qua những lối đi nhỏ bị bỏ hoang, xuyên qua một cánh rừng, qua một cái hồ và tới ngọn đồi này. Bây giờ, Wynand đang đợi trong khi Roark đứng ngắm nhìn cả một vùng thôn quê trải rộng dưới chân anh. Wynand tự hỏi không biết người đàn ông này đang thu vào tay mình những đường nối nào từ các điểm khác nhau của phong cảnh này.

Khi Roark quay lại phía ông, Wynand hỏi:

"Bây giờ tôi có thể nói chuyện với anh được chưa?"

"Tất nhiên rồi," - Roark mỉm cười và thích thú bởi sự tôn trọng mà anh đã không yêu cầu.

Giọng Wynand rõ ràng và giòn tan, như màu sắc của bầu trời phía trên họ; giọng nói ấy cũng tỏa ra một ánh sáng xanh như của đá băng:

"Tại sao anh nhận việc này?"

"Bởi vì tôi là một kiến trúc sư làm thuê."

"Anh hiểu ý tôi mà."

"Tôi không chắc là tôi hiểu."

"Anh không căm ghét tôi đến tận xương tủy à?"

"Không. Tại sao tôi lại phải căm ghét ông?"

"Anh muốn tôi nói về nó trước?"

"Về cái gì?"

"Đền Stoddard."

Roark mỉm cười.

"Vậy là ông có kiểm tra các thông tin về tôi từ hôm qua."

"Tôi đã đọc các bài báo cũ của chúng tôi." Ông ngừng lại chờ đợi, nhưng Roark không nói gì cả. "Đọc tất cả." Giọng ông khàn đi, nửa thách thức, nửa như thanh minh. "Tất cả những gì chúng tôi nói về anh." Sự bình thản trên khuôn mặt Roark làm ông nổi cáu. Ông tiếp tục nói một cách chậm chạp và nhấn mạnh từng từ: "Chúng tôi đã gọi anh là một thằng ngốc bất tài, một kẻ tập tọng, một gã lang băm, một gã lừa đảo, một thằng khùng..."

"Đừng tự tra tấn mình nữa."

Wynand nhắm mắt lại như thể Roark vừa đánh ông. Một lát sau, ông nói:

"Anh Roark, anh không biết nhiều về tôi. Nhưng anh nên biết điều này: tôi không xin lỗi. Tôi không bao giờ xin lỗi vì bất kỳ hành động nào của tôi."

"Điều gì làm ông nghĩ đến chuyện xin lỗi? Tôi đâu có yêu cầu điều đó."

"Tôi ủng hộ tất cả những từ vừa rồi. Tôi ủng hộ mọi từ ngữ được in trên tờ Ngọn cờ."

"Tôi không đòi hỏi ông chối bỏ tờ báo."

"Tôi biết anh nghĩ gì. Ngày hôm qua, anh biết là tôi không hề biết gì về vụ Đền Stoddard. Tôi đã quên mất tên kiến trúc sư của công trình đó. Anh đã kết luận rằng tôi không phải là người đứng đầu chiến dịch chống lại anh. Anh đúng, không phải là tôi, lúc ấy tôi đi vắng. Nhưng anh không hiểu rằng chiến dịch này theo đúng tinh thần chủ đạo và hợp lý của tờ Ngọn cờ. Nó tuân thủ đúng chức năng của tờ Ngọn cờ. Không có ai chịu trách nhiệm về nó ngoài tôi. Nếu tôi có mặt trong thành phố vào lúc đó, tôi cũng sẽ làm như vậy."

"Đó là đặc quyền của ông."

"Anh không tin là tôi cũng sẽ làm như vậy à?"

"Không."

"Tôi chưa yêu cầu anh ca tụng và tôi chưa yêu cầu anh thương hại tôi."

"Tôi không thể làm điều ông đang yêu cầu."

"Anh nghĩ là tôi đang yêu cầu anh điều gì?"

"Tát vào mặt ông."

"Tại sao anh không làm việc đó?"

"Tôi không thể giả vờ tức giận khi tôi không cảm thấy tức giận," Roark nói. "Đó không phải là sự thương hại. Nó còn tàn nhẫn hơn bất kỳ việc gì tôi có thể làm. Chỉ có điều tôi không làm điều đó để trở nên tàn nhẫn. Nếu tôi tát vào mặt ông, ông có thể sẽ tha thứ cho tôi về ngôi Đền Stoddard."

"Anh là người đang tìm kiếm sự tha thứ ư?"

"Không. Ông ước gì tôi tìm kiếm. Ông biết rằng cần có một hành động tha thứ. Ông không biết rõ ai sẽ là người hành động. Ông mong rằng tôi sẽ tha thứ cho ông - hoặc yêu cầu một khoản tiền, hai việc này cũng như nhau cả thôi, và ông tin rằng việc đó sẽ làm cho vụ việc này kết thúc. Nhưng ông thấy đấy, tôi chẳng có gì liên quan đến vụ này nữa cả. Tôi không phải là một trong những người tham gia vào hành động. Bây giờ thì tôi làm gì hay cảm thấy thế nào về chuyện này cũng chẳng có gì là quan trọng. Ông không hề nghĩ đến tôi. Tôi không thể giúp ông. Tôi không phải là người mà bây giờ ông đang lo sợ."

"Người đó là ai?"

"Bản thân ông."

"Ai cho anh quyền nói những điều này?"

"Chính ông."

"Được rồi, nói tiếp đi."

"Ông muốn nghe phần còn lại à?"

"Nói tiếp đi."

"Tội nghĩ ông thấy đau khi biết rằng ông đã làm tôi phải đau khổ. Ông ước gì ông đã không làm như vậy. Tuy thế, có một điều còn làm ông sợ hãi hơn. Đó là việc nhận ra rằng tôi không hề đau khổ."

"Tiếp đi."

"Việc nhận ra rằng lúc này tôi không hề tốt bụng hay rộng lượng, mà chỉ đơn giản là dửng dưng. Việc này làm cho ông hoảng sợ, bởi vì ông biết rằng những chuyện như Đền Stoddard luôn luôn cần có một sự trả giá... và ông thấy tôi không phải trả giá cho nó. Ông ngạc nhiên khi tôi chấp nhận xây nhà cho ông. Ông nghĩ rằng sự chấp nhận của tôi đòi hỏi sự can đảm ư? Ông cần sự can đảm lớn hơn nhiều khi thuê tôi. Ông thấy đấy, tôi nghĩ về chuyện Đền Stoddard như thế này này. Tôi đã hết nợ với nó rồi. Nhưng ông thì chưa."

Wynand để những ngón tay ông rơi thỏng xuống, lòng bàn tay mở ra. Vai ông chùng xuống một chút với vẻ thư giãn. Ông nói rất giản đơn:

"Được rồi. Anh nói đúng. Tất cả."

Rồi ông đứng thẳng lên, nhưng với một dáng vẻ cam chịu im lặng, như thể cơ thể ông cố tình để cho cơ thể mình có thể bị tấn công.

"Tôi mong là anh biết rằng anh đã trừng phạt tôi theo cách của anh," ông nói.

"Đúng vậy. và ông đã chịu đựng điều đó. Vậy là ông đã hoàn thành điều ông mong muốn. Chúng ta hòa nhé và hãy quên chuyện Đền Stoddard đi, được không?"

"Hoặc là anh rất khôn ngoan hoặc là tôi đã để lộ mình quá nhiều. Dù thế nào đi nữa thì anh cũng đã thắng. Chưa từng có ai làm cho tôi để lộ mình được."

"Tôi có nên tiếp tục làm điều ông muốn?"

"Anh nghĩ bây giờ tôi mong muốn điều gì?"

"Sự thừa nhận cá nhân từ phía tôi. Đến lượt tôi nói ra, phải không?"

"Anh luôn thành thật một cách đáng sợ đúng không?"

"Tại sao lại không? Tôi không thể thừa nhận với ông rằng ông đã làm tôi phải đau lòng. Nhưng thay vào đó, tôi sẽ thừa nhận rằng ông đã mang lại cho tôi sự sung sướng - như thế cũng được phải không? Vậy là được rồi. Tôi rất vui vì ông thích tôi. Tôi nghĩ ông biết đây là một ngoại lệ đối với tôi, cũng như chấp nhận bị trừng phạt là một ngoại lệ với ông. Thông thường, tôi không quan tâm liệu người ta có thích tôi hay không. Lần này thì tôi có quan tâm. Tôi rất vui mừng."

Wynand cười to.

"Anh ngây thơ và tự phụ như một ông hoàng vậy. Khi anh ban vinh hạnh cho người khác, thực ra anh chỉ đang tự tôn vinh bản thân anh. Cái quái gì làm cho anh nghĩ rằng tôi thích anh?"

"Nào, ông không muốn tôi giải thích rõ điều đó đâu. Ông vừa mới chỉ trích tôi vì đã làm ông trở nên lộ liễu đấy thôi."

Wynand ngồi xuống một thân cây đổ. Ông không nói gì nhưng cử chỉ của ông như một lời mời - và một mệnh lệnh. Roark ngồi xuống cạnh ông. Khuôn mặt anh điềm tĩnh nhưng vẫn còn bóng dáng một nụ cười - một nụ cười vui thích và cảnh giác - như thể rằng mỗi từ ngữ mà anh nghe thấy không phải là một sự hé lộ, mà là sự xác nhận.

"Anh đi lên từ bàn tay trắng phải không?" Wynand hỏi. "Anh xuất thân từ một gia đình nghèo."

"Đúng vậy. Sao ông biết điều đó?"

"Chỉ như một tiền đề tất yếu... thật khó hình dung việc đưa cho anh một cái gì đó: một lời khen, một ý tưởng hay một cơ đồ. Tôi cũng bắt đầu từ đáy. Cha anh làm gì?"

"Luyện thép."

"Cha tôi là phu khuân vác ở bến tàu. Khi còn nhỏ, anh đã làm đủ loại việc lặt vặt, đúng không?"

"Đủ loại. Chủ yếu trong nghề xây dựng."

"Tôi thì tồi hơn thế. Tôi làm bất cứ việc gì. Anh thích nhất công việc nào?"

"Bắt đinh tán nung nóng, trên các rầm thép."

"Tôi thích đánh giày trên phà qua sông Hudson. Đáng ra tôi phải căm ghét cái công việc này, nhưng tôi lại không hề cảm thấy điều đó. Tôi không nhớ gì về những người xung quanh, tôi chỉ nhớ thành phố. Thành phố... luôn ở đó, bên bờ biển, mênh mông và chờ đợi, như thể có một sợi cao su buộc chặt tôi với thành phố đó. Sợi dây này có thể giãn ra và đưa tôi đi xa tới những bờ bến khác, nhưng rồi nó sẽ luôn co lại và tôi sẽ quay về. Nó cho tôi cảm giác rằng tôi sẽ không bao giờ trốn thoát khỏi thành phố này... và thành phố này cũng sẽ không bao giờ trốn thoát khỏi tôi."

Giọng nói của Wynand làm cho Roark biết rằng ông rất hiếm khi nói về thời thơ ấu của mình. Những từ ngữ ấy rạng ngời và ngập ngừng, chưa hoen ố vì bị sử dụng quá nhiều, giống như những đồng xu chưa qua tay nhiều người.

"Anh đã bao giờ không nhà cửa và chết đói thực sự chưa?" Wynand hỏi.

"Một vài lần."

"Anh có bận tâm về điều đó không?"

"Không."

"Tôi cũng không. Tôi bận tâm đến những chuyện khác. Khi còn nhỏ, đã bao giờ anh muốn gào lên khi xung quanh anh toàn những sự vô lý đần độn, anh biết anh có thể làm những gì và có thể làm tốt đến thế nào, nhưng lại không có quyền lực để làm những việc đó? Không có quyền lực để làm nổ tung những cái đầu đất sét xung quanh? Phải tuân lệnh - điều này đã tồi tệ rồi - đằng này phải tuân lệnh những kẻ dốt nát hơn anh! Anh có bao giờ cảm thấy điều đó không?"

"Có."

"Anh có dồn sự tức giận vào trong, tích trữ nó, và anh quyết định rằng nếu cần, anh có thể để mình nổ tung thành ngàn mảnh nhưng một ngày nào đó, nhất định anh sẽ phải cai trị tất cả mọi người và tất cả mọi thứ xung quanh anh?"

"Không."

"Không ư? Anh để cho mình quên đi à?"

"Không. Tôi ghét sự bất tài. Có lẽ đó là cái duy nhất tôi thực sự ghét. Nhưng nó không làm tôi muốn thống trị người khác hay muốn dạy dỗ họ bất kỳ điều gì. Nó làm tôi muốn được làm công việc của tôi theo cách của chính tôi, và để bản thân tôi bị nổ tung thành ngàn mảnh nếu cần."

"Và anh đã bị nổ tung thành ngàn mảnh?"

"Không. Những thứ đã xảy ra đều không đáng kể."

"Anh có sợ phải nhìn lại phía sau không? Hay nhìn vào bất cứ chuyện gì?"

"Không."

"Tôi thì có. Có một đêm. Tôi bị đánh và tôi bò tới một cánh cửa... tôi còn nhớ cái vỉa hè đó... nó ở ngay dưới mũi tôi... tôi vẫn có thể nhìn thấy nó... những đường vân trên đá và các chấm trắng... tôi đã phải tập trung để biết cái vỉa hè đấy đang di chuyển... tôi không thể cảm nhận được liêu tôi đang di chuyển hay đang đứng yên - nhưng tôi có thể biết nhờ cái vỉa hè ấy... tôi phải nhìn thấy các đường vân và chấm trắng đó thay đổi... tôi phải bò tới những họa tiết tiếp theo của vỉa hè hay là cái vết nứt tiếp theo cách đó mười xăng-ti-mét ... phải rất lâu... tôi biết có máu dưới bụng tôi..."

Giọng nói của ông không có dấu hiệu của sự tự thán; nó giản dị, khách quan, chỉ hơi có bóng dáng của sự băn khoăn. Roark nói:

"Tôi muốn được giúp ông."

Wynand mỉm cười một cách từ tốn, không phải với vẻ vui mừng.

"Tôi tin là anh có thể. Tôi thậm chí tin rằng điều đó là thích hợp. Hai ngày trước đây tôi có lẽ sẽ giết bất kỳ kẻ nào dám nghĩ về tôi như một đối tượng cần tới sự giúp đỡ... Dĩ nhiên anh biết, không phải tôi căm ghét cái buổi tối đó trong quá khứ của tôi. Tôi cũng không khiếp sợ khi nhớ về nó. Nó là thứ làm tôi ít khó chịu nhất khi nhắc lại. Những thứ khác thậm chí không thể bàn tới được."

"Tôi biết. Ý tôi đã nói đến những thứ khác đó."

"Chúng là cái gì? Anh kể tên chúng ra."

"Đền Stoddard."

"Anh muốn giúp đỡ tôi việc đó à?"

"Đúng vậy."

"Anh là một thằng ngốc chết tiệt. Anh không thấy rằng..."

"Ông không thấy rằng tôi đang làm việc đó rồi sao?"

"Bằng cách nào?"

"Bằng việc xây ngôi nhà này cho ông."

Roark nhìn thấy những nếp nhăn chéo trên trán Wynand. Đôi mắt của Wynand dường như trắng hơn thường lệ, cứ như thể là màu xanh lơ đã biến mất khỏi tròng mắt, chỉ còn như hai hình bầu dục trắng, tỏa sáng trên gương mặt. Ông nói:

"Và nhận được tờ séc béo bở cho vụ này."

Ông nhìn thấy nụ cười rộng trên gương mặt Roark, sau khi nó bị nén lại trong khoảnh khắc. Nụ cười ấy đã nói lên rằng sự lăng mạ đột ngột của Wynand là bằng chứng của sự đầu hàng - còn hùng hồn hơn bất cứ bài diễn thuyết nào về sự tự tin. Và việc Roark phải nén cười đã nói rằng anh sẽ không giúp Wynand vượt qua khoảnh khắc đầu hàng đó.

"Ồ, tất nhiên rồi," Roark nói một cách bình thản.

Wynand đứng dậy và nói. "Đi thôi. Chúng ta đang lãng phí thời gian. Tôi có nhiều việc quan trọng hơn phải làm ở văn phòng."

Họ không nói gì trên đường về thành phố. Wynand lái xe với tốc độ chín mươi dặm một giờ . Tốc độ cao làm cho cảnh vật hai bên đường nhòe đi, chỉ còn như hai bức tường đặc chạy dọc hai bên cửa sổ. Họ như đang bay dọc một hành lang dài, khép kín và câm lặng.

Ông dừng xe trước cửa tòa nhà Cord và để Roark xuống xe. Ông nói:

"Anh có thể quay lại khu đất đó bất cứ lúc nào, bao nhiêu lần cũng được, anh Roark. Tôi không phải đi cùng anh. Anh có thể lấy các bản điều tra và mọi thông tin anh cần ở văn phòng tôi. Xin đừng gọi điện cho tôi cho đến khi nào cần thiết. Tôi sẽ rất bận rộn. Khi nào anh hoàn thành những bản vẽ đầu tiên, hãy báo cho tôi biết."

*

* *

Khi những bản vẽ đã hoàn thành, Roark gọi điện tới văn phòng của Wynand. Suốt cả tháng nay anh không nói chuyện với Wynand. "Xin ông cầm máy chờ cho một chút, ông Roark," thư ký của Wynand nói. Anh chờ. Sau đó là giọng của người thư ký báo với anh rằng ngài Wynand muốn anh mang các bản vẽ tới văn phòng ông ta vào buổi chiều hôm đó. Cô thư ký cho giờ hẹn gặp. Wynand không trực tiếp trả lời điện thoại.

Khi Roark bước vào văn phòng, Wynand nói: "Ông khỏe chứ, ông Roark" - giọng ông lịch thiệp và trang trọng. Trên khuôn mặt lịch sự trống rỗng của ông không hề có chút gợi nhớ nào về sự thân mật trước đây.

Roark trao cho ông các bản vẽ mặt bằng của ngôi nhà và một bản vẽ phối cảnh lớn. Wynand nghiên cứu từng bản vẽ. Ông giữ chúng một lúc lâu. Rồi ông nhìn lên.

"Tôi rất ấn tượng, ông Roark." Giọng nói của ông chính xác đến mức khó chịu. "Tôi đã khá ấn tượng ngay từ lúc đầu. Tôi đã nghĩ kỹ và tôi muốn có một thỏa thuận đặc biệt với ông."

Ông nhìn sâu vào Roark, với một vẻ gần như sự dịu dàng, như thể ông muốn nói rằng ông muốn đối xử với anh một cách thận trọng, nhằm giữ anh nguyên vẹn cho một mục đích riêng của ông. Ông dùng hai ngón tay nhấc bản phác thảo lên và để ánh sáng chiếu thẳng vào nó. Tờ giấy trắng trong chốc lát chợt bừng sáng lên như một tấm gương, làm nổi bật những nét vẻ bằng chì đen.

"Ông muốn nhìn thấy căn nhà này được xây dựng?" Wynand hỏi khẽ. "Ông rất muốn thế phải không?"

"Đúng," Roark nói.

Wynand không di chuyển cánh tay. Ông chỉ mở hai ngón tay ra để thả bản vẽ rơi úp sấp xuống mặt bàn.

"Căn nhà này sẽ được xây, ông Roark. Đúng như ông đã thiết kế. Đúng y như bản vẽ này. Với một điều kiện."

Roark ngồi tựa vào ghế, hai tay bỏ túi, chăm chú chờ đợi.

"Ông không muốn hỏi tôi về điều kiện đó à, ông Roark? Được lắm, tôi sẽ nói cho ông biết. Tôi sẽ chấp nhận ngôi nhà này với điều kiện ông phải chấp nhận thỏa thuận mà tôi sắp đưa ra. Tôi muốn ký một hợp đồng, theo đó ông sẽ là kiến trúc sư độc quyền trong mọi công trình xây dựng của tôi từ nay về sau. Như ông biết, đây sẽ là một trách nhiệm lớn. Tôi dám nói là tôi nắm trong tay nhiều công trình xây dựng hơn bất kỳ ai trên đất nước này. Tất cả những người cùng nghề với ông đều muốn được biết đến như kiến trúc sư độc quyền của tôi. Tôi đang cho ông cơ hội đó. Đổi lại, ông sẽ phải tuân theo một vài điều kiện nhất định. Trước khi tôi nói về những điều kiện ấy, tôi muốn chỉ ra một vài hậu quả nếu như ông từ chối. Có lẽ ông biết rằng tôi không thích bị từ chối. Tôi có thể dùng quyền lực của mình theo hai cách. Tôi có thể dễ dàng làm cho ông không thể kiếm được một hợp đồng nào khác ở bất cứ nơi nào trên đất nước này. Ông có một số ít người ủng hộ của riêng ông, nhưng không một ông chủ tương lai nào của ông có thể chịu đựng nổi áp lực của tôi. Trước đây, ông đã có một số giai đoạn phải sống hoàn toàn lãng phí. Những thứ đấy sẽ chẳng là gì cả so với sự phong tỏa mà tôi có thế tạo ra. Ông có thể sẽ phải quay trở về mỏ đã granit... phải, tôi có biết chuyện đó, mùa hè năm 1928, mỏ đá Francon ở Connecticut... làm sao tôi biết à?... qua các thám tử tư, ông Roark... ông có thể phải quay lại mỏ đá granit, chỉ có điều, tôi sẽ chăm sóc cẩn thận để chẳng có mỏ đá nào nhận ông. Bây giờ tôi sẽ nói cho ông biết tôi muốn gì ở ông."

Trong tất cả những lời đồn đại về Gail Wynand, chưa có ai từng nói về vẻ mặt của ông như người ta có thể nhìn thấy vào khoảnh khắc này. Một vài người từng nhìn thấy thì không bao giờ nói về nó. Trong số đó, Dwight Carson là người đầu tiên. Hai môi của Wynand tách khỏi nhau, mắt ông sáng rực. Đó là biểu hiện của một sự thỏa mãn nhục dục phát sinh từ sự đau đớn cực độ... sự đau đớn của nạn nhân, hoặc là của chính ông, hoặc là của cả hai.

"Tôi muốn ông thiết kế tất cả các công trình thương mại trong tương lai của tôi, đúng như ý muốn của công chúng về một công trình thương mại. Ông sẽ xây dựng những ngôi nhà kiểu thuộc địa, các khách sạn theo phong cách Rococo , các tòa nhà văn phòng kiểu bán Hy Lạp. Ông sẽ sử dụng sự khéo léo vô song của ông trong khuôn khổ những khuôn mẫu mà thị hiếu công chúng đã phê chuẩn... và ông sẽ kiếm tiền cho tôi. Ông sẽ sử dụng tài năng tuyệt vời của ông, và bắt nó phải tuân phục. Phải sáng tạo trong thế giới của ông những thứ giống như tờ Ngọn cờ trong thế giới của tôi. Ông cho rằng chẳng cần đến tài năng nào để tạo ra tờ Ngọn cờ à? Những việc như thế sẽ là công việc tương lai của ông. Ngôi nhà ông thiết kế cho tôi sẽ được xây dựng đúng như bản thiết kế. Nó sẽ là công trình cuối cùng của Roark trên trái đất này. Không một ai khác sau tôi có được một công trình được thiết kế bởi Roark. Ông đã đọc chuyện về việc những vị vua chúa thời cổ đại xử tử kiến trúc sư thiết kế cung điện của họ, để không thể có bất cứ công trình nào khác có được sự huy hoàng sánh với cung điện của họ chưa? Họ giết người kiến trúc sư hoặc khoét mắt ông ta. Những phương pháp hiện đại thì khác. Trong suốt quãng đời còn lại, ông sẽ tuân theo ý chí của đám đông. Tôi không định tranh cãi với ông. Đơn giản là tôi chỉ tuyên bố một sự chọn lựa. Ông là kiểu người có thể hiểu những ngôn từ trần trụi. Ông có một chọn lựa đơn giản: nếu từ chối, ông sẽ không bao giờ xây dựng bất kỳ cái gì nữa. Nếu đồng ý, ông sẽ xây dựng ngôi nhà này, thứ mà ông rất muốn nhìn thấy nó được xây lên, và còn thêm rất nhiều những ngôi nhà khác mà ông không thích, nhưng chúng sẽ mang lại tiền bạc cho cả hai chúng ta. Từ giờ đến cuối đời, ông sẽ thiết kế những dự án nhà cho thuê, chẳng hạn như Stoneridge. Đấy là cái mà tôi muốn."

Ông cuối người về phía trước và chờ đợi một trong những phản ứng mà ông biết rất rõ và lấy làm thích thú: một cái nhìn biểu lộ sự giận dữ, sự phẫn nộ, hay sự kiêu hãnh cao độ.

"Tất nhiên rồi," Roark nói một cách vui vẻ. "Tôi sẽ vui mừng thực hiện việc đó. Quá dễ."

Anh vươn người, với lấy một cây bút chì và một mảnh giấy trên bàn làm việc của Wynand - một lá thư với một dòng in danh tính rất ấn tượng. Anh vẽ rất nhanh lên mặt sau của lá thư. Bàn tay anh chuyển động trơn tru và tự tin. Wynand nhìn khuôn mặt anh đang cúi xuống tờ giấy. Ông nhìn thấy một vầng trán phẳng, cặp lông mày thẳng, chăm chú nhưng không căng thẳng.

Roark ngẩng đầu lên và ném tờ giấy qua bàn cho Wynand.

"Đây là cái ông muốn phải không?"

Trên tờ giấy là ngôi nhà của Wynand, với các hành lang kiểu thuộc địa, mái thòi ra những thanh xà, hai cái ống khói đồ sộ, một vài trụ bổ tường, một vài ô cửa sổ kiểu lỗ châu mai ở sườn nhà. Đó không phải là sự bắt chước có tính chế nhạo; đấy là một tác phẩm chuyển thể nghiêm túc mà bất kỳ vị giáo sư nào hẳn cũng sẽ coi nó là có tính thẩm mỹ tuyệt vời.

"Ôi không, Chúa ơi!" Wynand thốt lên ngay lập tức một cách bản năng.

"Thế thì ông hãy ngậm miệng lại," Roark nói, "đừng bao giờ bắt tôi phải nghe bất cứ gợi ý nào về kiến trúc nữa."

Wynand thả người xuống ghế và phá lên cười. Ông cười rất lâu, như không thể nào dừng lại. Đó không phải là tiếng cười vui vẻ.

Roark lắc đầu một cách mệt mỏi. "Ông biết hơn thế mà. Và trò này với tôi quá cũ rồi. Sự bướng bỉnh và bài xích xã hội của tôi nổi tiếng đến mức tôi không nghĩ lại có người nào buồn mất thời gian để mua chuộc tôi nữa."

"Howard, tôi đã thực sự định như thế. Cho đến khi tôi nhìn thấy cái này."

"Tôi biết là ông có ý định đó. Tôi chỉ không nghĩ ông có thể ngốc nghếch như vậy."

"Anh có biết là anh đã đối mặt với một tình huống khủng khiếp không?"

"Không hề. Tôi có một đồng minh tôi có thể tin cậy."

"Cái gì? Sự chính trực của anh à?"

"Không, sự chính trực của ông, Gail."

Wynand ngồi và nhìn xuống mặt bàn. Một lúc sau, ông nói:

"Điều này thì anh đã nhầm."

"Tôi không nghĩ vậy."

Wynand ngẩng đầu lên; trông ông mệt mỏi; giọng ông dửng dưng:

"Đây lại là cách của anh ở phiên tòa Stoddard phải không? 'The defense rests'... Ước gì tôi đã có mặt ở trong phòng xử đó để nghe câu nói này... Rõ ràng anh có ném cái phiên tòa ấy lại cho tôi, phải không?"

"Cứ coi như là vậy đi."

"Nhưng lần này thì anh đã thắng. Tôi nghĩ là anh biết rằng tôi chẳng vui vẻ gì khi anh thắng."

"Tôi biết vậy."

"Anh đừng nghĩ chuyện này cũng giống như những trò thử mua chuộc nạn nhân của mình, chỉ với mục đích thử thách, và rồi cảm thấy khoái chí khi bị thất bại, và rồi co thể cười mà nói rằng, chà, rút cuộc, đây chính là người mà ta muốn. Anh đừng có tưởng tượng như vậy. Đừng có lấy nó ra để biện hộ cho tôi."

"Không, Tôi biết ông muốn gì."

"Trước đây thì tôi không dễ thất bại dễ dàng như thế này đâu. Đáng lẽ đây mới chỉ là sự khởi đầu. Tôi biết tôi có thể tiếp tục thử. Nhưng tôi không muốn thử. Không phải bởi vì anh có thể vẫn kiên định đến tận cùng cuộc đấu. Mà bởi vì tôi sẽ không kiên định được đến lúc đó. Không, tôi chẳng vui mừng mà cũng chẳng biết ơn anh về điều này... Nhưng mà cũng chẳng sao cả..."

"Gail, ông có khả năng tự dối mình đến mức nào?"

"Tôi không nói dối. Mọi điều tôi nói với anh đều là thật. Tôi nghĩ là anh hiểu điều đó."

"Mọi điều ông vừa nói với tôi ... đúng. Nhưng tôi đã không nghĩ về những điều đó."

"Anh đang nhầm lẫn về những điều anh đang suy nghĩ. Anh nhầm lẫn khi vẫn cứ ngồi ở đây."

"Ông có muốn tống cổ tôi đi không?"

"Anh biết là tôi không thể."

Wynand rời mắt khỏi Roark và nhìn vào bản vẽ ngôi nhà đang nằm sấp trên mặt bàn. Ông chần chừ trong giây lát; ông nhìn vào tấm bìa trắng, rồi lật nó lại. Ông hỏi khẽ:

"Bây giờ tôi có nên nói với anh tôi nghĩ gì về cái này không?"

"Ông đã nói với tôi rồi."

"Howard, anh nói rằng ngôi nhà này như một tuyên ngôn về cuộc đời của tôi. Anh nghĩ rằng cuộc đời tôi xứng đáng với một tuyên ngôn như thế này à?"

"Đúng vậy."

"Đây là sự đánh giá thật lòng của anh chứ?"

"Sự đánh giá thật lòng của tôi, Gail. Sự đánh giá chân thành nhất của tôi. Đánh giá cuối cùng. Bất kể những gì có thể xảy ra giữa hai chúng ta trong tương lai."

Wynand đặt bản vẽ xuống và ngồi nghiên cứu nó một lúc lâu. Khi ngẩng đầu lên, gương mặt ông trở lại sự bình tĩnh thường ngày.

"Tại sao anh đã không đến đây?" ông hỏi.

"Ông quá bận rộn với các thám tử tư."

Wynand cười phá lên.

"Ồ, ra thế. Tôi không thể cưỡng lại những thói quen xấu trước đây của tôi và tôi đã rất tò mò. Bây giờ tôi biết mọi thứ về anh, ngoại trừ những người phụ nữ trong đời anh. Hoặc là anh đã rất kín đáo, hoặc là anh không có nhiều phụ nữ xung quanh lắm. Chẳng tìm được thông tin đó ở bất kỳ chỗ nào."

"Tôi không có nhiều."

"Tôi nghĩ là tôi đã nhớ anh. Và đó là một cách lấp chỗ trống - cái việc thu thập thông tin về quá khứ của anh ấy. Thực sự thì tại sao anh đã không tới đây?"

"Ông bảo tôi như vậy mà."

"Anh luôn luôn ngoan ngoãn trước các mệnh lệnh như thế à?"

"Khi mà tôi thấy chúng hợp lý."

"Được rồi, đây là một mệnh lệnh - và hy vọng anh cho nó là hợp lý; tới ăn tối với chúng tôi tối nay. Tôi sẽ đưa bản vẽ này cho vợ tôi xem. Tôi vẫn chưa hề nói gì với cô ấy về ngôi nhà này."

"Ông chưa nói với bà ấy?"

"Chưa. Tôi muốn cô ấy nhìn thấy bản vẽ này. Và tôi muốn anh gặp cô ấy. Tôi biết trước đây cô ấy đã không đối xử tử tế với anh... Tôi đã đọc các bài viết của cô ấy về anh. Nhưng việc đó xảy ra đã quá lâu rồi. Tôi hy vọng bây giờ nó không quan trọng nữa."

"Không, nó sẽ không quan trọng."

"Vậy thì anh sẽ đến?"

"Tôi sẽ đến."

IV.

Dominique đứng cạnh cửa kính trong phòng riêng. Wynand nhìn thấy ánh sao phản chiếu qua những vệt băng dài nhỏ xuống từ mái của khu vườn treo. Ông nhìn thấy ánh sáng ấy chạm vào đường nét bên ngoài thân hình của cô - nó tỏa sáng nhè nhẹ lên mi mắt, gò má cô. Ông thầm nghĩ sự tỏa sáng này thật thích hợp với khuôn mặt cô. Cô chầm chậm quay mặt về phía ông, và ánh sao biến thành một dải sáng bao quanh mái tóc màu vàng nhạt, dày và thẳng của cô. Cô mỉm cười như cách cô vẫn luôn mỉm cười với ông, một sự chào đón dịu dàng chứa đựng sự thấu hiểu.

"Có chuyện gì vậy, Gail?"

"Em yêu quý, sao em lại hỏi thế?"

"Trông anh rất hạnh phúc. Từ đó không chính xác lắm. Nhưng là từ gần nhất."

"Nhẹ nhõm thì đúng hơn. Anh thấy thật nhẹ nhõm, nhẹ đi đến ba mươi năm. Không phải anh muốn được giống như mình cách đây ba mươi năm. Chẳng có ai muốn như thế cả. Anh chỉ cảm thấy như mình được mang quay trở lại ngày xưa, nguyên vẹn, giống như mình bây giờ, nhưng lại ở lúc bắt đầu. Điều đó thật không lô-gíc, và không thể xảy ra và thật tuyệt diệu."

"Cảm giác như vậy thường có nghĩa là anh vừa gặp một ai đó, về nguyên tắc, phải là một phụ nữ."

"Anh có gặp. Nhưng không phải là một phụ nữ. Một người đàn ông. Dominique, tối nay em rất đẹp. Nhưng lúc nào anh cũng nói như vậy. Đó không phải là điều anh muốn nói. Anh muốn nói rằng: tối nay anh rất hạnh phúc vì em thật đẹp."

"Chuyện gì vậy, Gail?"

"Không có gì. Chỉ là anh thấy sống thật đơn giản và dễ dàng làm sao."

Ông nắm tay cô và hôn.

"Dominique, lúc nào anh cũng nghĩ rằng thật là một phép màu khi cuộc hôn nhân của chúng ta vẫn còn kéo dài đến giờ. Bây giờ thì anh tin rằng nó sẽ không bao giờ bị phá vỡ. Bởi bất kỳ cái gì hoặc bất kỳ ai." Cô dựa lưng vào tấm kính. "Anh có một món quà cho em... đừng có nói với anh rằng anh hay nói câu này hơn bất cứ câu nào khác nhé. Anh sẽ có một món quà cho em vào cuối mùa hè nay. Ngôi nhà của chúng ta."

"Nhà ư? Lâu nay anh không hề nhắc đến chuyện này, em nghĩ là anh đã quên."

"Anh không hề nghĩ về bất cứ điều gì khác trong suốt sáu tháng qua. Em vẫn chưa đổi ý chứ? Em vẫn muốn chuyển ra khỏi thành phố chứ?"

"Vâng, Gail, nếu anh muốn điều đó đến thế. Anh đã quyết định chọn kiến trúc sư chưa?"

"Còn hơn thế nữa. Anh có bản vẽ của ngôi nhà cho em xem đây."

"Ồ, em muốn nhìn thấy nó."

"Nó ở trong phòng đọc của anh. Đi nào. Anh muốn em nhìn thấy nó."

Cô mỉm cười và nắm lấy cổ tay ông hơi mạnh, giống như một sự âu yếm để khuyến khích, rồi cô đi theo ông. Ông mở toang cửa phòng đọc và để cô vào trước. Đèn đã bật sáng và bản vẽ được đặt đứng để trên bàn, đối mặt với cửa ra vào.

Cô dừng lại, hai tay để phía sau, lòng bàn tay ấn lên khung cửa. Cô đứng quá xa để có thể nhìn thấy chữ ký, nhưng cô biết phong cách này và người đàn ông duy nhất có thể thiết kế ngôi nhà như thế.

Hai bờ vai cô chuyển động, xoay tròn chầm chậm, cứ như thể cô đang bị trói chặt vào một cái cột và cô đã từ bỏ mọi hy vọng trốn chạy, chỉ có cơ thể cô đang có những hành động phản kháng mang tính bản năng cuối cùng.

Cô nghĩ rằng ngay cả khi cô nằm trên giường trong vòng tay Roark, trước mắt Gail Wynand, thì sự xúc phạm còn đỡ khủng khiếp hơn; bản vẽ này mang dấu ấn cá nhân của Roark hơn cả cơ thể anh, nó được tạo ra để đáp lại một sức mạnh tương ứng của Gail Wynand. Bản vẽ này là một sự xúc phạm với cô, với Roark, với Gail... nhưng rồi, đột nhiên cô nhận ra điều này là không thể tránh khỏi.

"Không," cô thì thào, "những thứ như thế này không bao giờ là một sự trùng hợp tình cờ."

"Cái gì cơ?"

Nhưng cô giơ tay lên, nhẹ nhàng ra dấu chấm dứt cuộc đối thoại, và bước tới chỗ bản vẽ. Bước chân cô đi trên thảm không hề gây tiếng động. Cô nhìn thấy cái chữ ký sắc nét ở góc bản vẽ... "Howard Roark". Chữ ký ấy không đáng sợ bằng hình dáng của ngôi nhà này; nó như một điểm đỡ mỏng manh, gần như một lời chào.

"Dominique?"

Cô quay mặt về phía ông. Ông nhìn thấy câu trả lời của cô. Ông nói:

"Anh biết em sẽ thích. Không cần phải khách sáo. Tôi nay chúng ta đều không đủ lời."

Cô đi tới ghế sô-pha và ngồi xuống. Cô tựa lưng vào cái gối tựa, nó giúp cô ngồi thẳng. Cô nhìn Wynand. Ông đứng trước cô, tựa vào mặt lò sưởi, xoay nghiêng nửa người nhìn vào bản vẽ. Cô không thể chạy trốn khỏi bản vẽ đó, khuôn mặt của Wynand giống như là tấm gương cho nó.

"Anh đã gặp anh ta à, Gail?"

"Ai cơ?"

"Người kiến trúc sư."

"Tất nhiên anh đã gặp anh ta. Chưa đầy một giờ trước đây."

"Lần đầu anh gặp anh ta là khi nào?"

"Tháng trước."

"Anh đã biết anh ta suốt thời gian qua sao?... Mỗi buổi tối... khi anh trở về nhà... tại bàn ăn..."

"Em định nói là tại sao anh không nói với em à? Anh đã muốn có bản phác thảo này để cho em xem. Anh đã tưởng tượng trong đầu mình một ngôi nhà giống như thế này, nhưng anh không thể nào giải thích được. Anh đã không nghĩ lại có người hiểu được điều anh muốn và thiết kế được nó. Nhưng anh ấy đã làm được."

"Ai vậy?"

"Howard Roark."

Cô đã muốn nghe cái tên này được nói ra từ miệng Gail Wynand.

"Làm thế nào mà anh lại chọn anh ta hả Gail?"

"Anh đã quan sát khắp nơi. Mọi tòa nhà anh thích đều do anh ấy thiết kế."

Cô gật đầu chầm chậm.

"Dominique, anh mặc định là em không còn quan tâm đến chuyện đó nữa, nhưng anh biết anh đã chọn người kiến trúc sư mà em đã dành tất cả thời gian khi em làm việc ở tờ Ngọn cờ để phê phán kịch liệt."

"Anh đã đọc những thứ đó à?"

"Anh đã đọc. Em đã xử sự một cách kỳ quặc. Rõ ràng là em khâm phục công trình của anh ta và căm ghét con người anh ta. Nhưng em đã bảo vệ anh ta tại phiên tòa Stoddard."

"Vâng."

"Em thậm chí đã từng làm việc cho anh ta. Bức tượng đó, Dominique, nó được làm cho ngôi đền của anh ta."

"Vâng."

"Thật là kỳ quặc. Em mất việc ở tờ Ngọn cờ vì đã bảo vệ anh ta. Anh đã không biết điều đó khi anh chọn anh ta. Anh đã không biết về phiên tòa đó. Anh đã quên mất tên anh ta. Dominique, theo một cách nào đó thì anh ta đã mang em đến cho anh. Bức tượng đó... từ ngôi đền của anh ta. Và bây giờ anh ta sẽ mang cho anh ngôi nhà này. Dominique, tại sao em lại căm ghét anh ta?"

"Em không ghét anh ta... Đã qua lâu rồi..."

"Anh đoán là bây giờ những chuyện ấy không còn quan trọng nữa, đúng không?" Ông chỉ vào bản vẽ.

"Em không gặp anh ta nhiều năm nay rồi."

"Em sẽ gặp anh ấy khoảng một tiếng nữa. Anh ấy sẽ đến đây ăn tối."

Cô cử động bàn tay và miết nó theo đường xoáy ốc trên thành ghế sô-pha, để tự thuyết phục mình rằng cô có thể cử động.

"Đến đây?"

"Đúng thế."

"Anh đã mời anh ta tới ăn tối?"

Ông mỉm cười. Ông nhớ lại sự bực bội của mình đối với sự hiện diện của khách khứa trong ngôi nhà của họ. Ông nói:

"Trường hợp này thì khác. Anh muốn anh ta tới đây. Anh không nghĩ rằng em nhớ rõ anh ta - nếu không em đã không ngạc nhiên như thế."

Cô đứng dậy.

"Được rồi, Gail. Em sẽ bảo nhà bếp. rồi em sẽ thay đồ."

*

* *

Họ đối mặt nhau ngang qua phòng khách trong căn hộ của Gail Wynand. Cô nghĩ việc này thật đơn giản làm sao. Anh đã luôn hiện diện ở đây. Anh đã là động lực chính cho mỗi bức chân của cô trong căn phòng này. Anh đã mang cô đến đây và giờ đây, anh đã đến để đòi lại nơi này. Cô nhìn anh. Cô nhìn anh như cô từng nhìn anh vào một buổi sáng khi cô thức giấc trên giường của anh lần cuối. Cô biết rằng cả quần áo anh đang mặc lẫn những năm tháng vừa qua cũng không thể ngăn cách nổi cô với những ký ức vẫn còn nguyên vẹn đó. Cô nghĩ rằng điều này sớm muộn rồi cũng sẽ xảy ra, ngay từ đầu, ngay từ cái khoảnh khắc mà cô nhìn thấy anh ở mỏ đá - mọi việc phải xảy ra như thế này, trong nhà của Gail Wynand - và bây giờ cô cảm thấy sự bình an khi mọi việc kết thúc, cô biết rằng cô không còn phải quyết định nữa; cô đã là người phải hành động, nhưng từ giờ trở đi anh sẽ là người hành động.

Cô đứng thẳng người, thẳng đầu; gương mặt cô vừa có vẻ nghiêm trang của một sĩ quan quân đội, vừa có vẻ mong manh dễ vỡ của một người đàn bà; hai cánh tay cô buông thõng, thẳng đờ dọc theo hai bên sườn, song song với những nếp buông dài của chiếc váy đen.

"Chào ông Roark."

"Chào bà Wynand."

"Tôi có thể cảm ơn ông về ngôi nhà ông đã thiết kế cho chúng tôi không? Đó là công trình đẹp nhất trong số các công trình của ông."

"Nó phải như vậy, bởi bản chất của công việc lần này, thưa bà Wynand."

Cô chầm chậm quay đầu lại.

"Anh đã giao công việc này cho ông Roark như thế nào hả Gail?"

"Như anh đã nói về nó với em vậy."

Cô nghĩ về những gì Roark đã nghe từ Wynand, và đã chấp nhận chúng. Cô ngồi xuống; hai người đàn ông ngồi theo cô. Roark nói:

"Nếu bà thích ngôi nhà này thì thành công đầu tiên phải thuộc về ý tưởng của ông Wynand đối với nó."

Cô hỏi: "Ông đang chia sẻ thành tích với khách hàng ư?"

"Vâng, theo một nghĩa nào đó."

"Tôi tin rằng điều này mâu thuẫn với những gì tôi còn nhớ về quan điểm nghề nghiệp của anh."

"Vâng, nhưng nó lại phù hợp với quan điểm cá nhân của tôi."

"Tôi không chắc là tôi đã hiểu được điều đó."

"Tôi tin vào sự mâu thuẫn, thưa bà Wynand."

"Có gì mâu thuẫn trong việc thiết kế ngôi nhà này à?"

"Có cái ham muốn không bị khách hàng làm ảnh hưởng."

"Theo nghĩa nào vậy?"

"Tôi thích làm việc cho một số người và không thích làm việc cho một số người khác. Nhưng điều đó cũng không ảnh hưởng gì cả. Lần này tôi biết ngôi nhà này phải được thiết kế như thế nào chỉ bởi vì nó được xây dựng cho ông Wynand. Tôi phải vượt qua được điều đó. Nói cách khác, tôi phải làm việc với nó và phải chống lại chính nó. Đó là cách làm việc tốt nhất. Ngôi nhà phải vượt qua kiến trúc sư, khách hàng và những chủ nhân tương lai của nó. Ngôi nhà này đã làm được điều đó."

"Nhưng ngôi nhà này - nó chính là anh, Howard," Wynand nói. "Nó vẫn là anh."

Đó là biểu hiện cảm xúc trên gương mặt cô - một cú sốc lặng lẽ, khi cô nghe thấy từ "Howard." Wynand không nhận ra điều đó. Roark thì nhận ra. Anh liếc nhìn cô - đấy là cái nhìn có dấu hiệu giao tiếp cá nhân đầu tiên giữa hai người. Cô không đọc thấy bất cứ lời bình luận nào trong cái nhìn đó - chỉ là sự xác nhận rằng anh có biết cái suy nghĩ đã làm cô sốc.

"Cám ơn ông đã hiểu điều đó, Gail," anh trả lời.

Cô không chắc rằng liệu có phải là cô đã nghe thấy anh nhấn mạnh cái tên đó.

"Thật kỳ lạ," Wynand nói. "Tôi là kẻ có thói chiếm hữu khó chịu nhất trên trái đất này. Tôi có tác động gì đó đến mọi thứ. Giả sử tôi nhặt một cái gạt tàn từ một cửa hàng mười xu, trả tiền và bỏ nó vào túi - và nó sẽ trở nên một cái gạt tàn đặc biệt, không giống bất kỳ cái gạt tàn nào khác trên trái đất này, bởi vì nó là của tôi. Cứ như là tôi đã tạo thêm một giá trị mới cho vật đó kiểu như thêm cho nó một vầng hào quang. Tôi cảm thấy như vậy về mọi thứ tôi sở hữu. từ cái áo khoác của tôi tới cái máy in cũ nhất trong phòng làm việc, hay những tờ Ngọn cờ trên các sạp báo, tới ngôi nhà này và cả vợ của tôi. Và tôi chưa bao giờ muốn được sở hữu bất kỳ cái gì khác nhiều như ngôi nhà mà anh sắp xây dựng cho tôi, Howard ạ. Tôi có lẽ sẽ ghen tỵ với Dominique khi cô ấy sống trong ngôi nhà này. Tôi có thể thực sự điên rồ về những thứ như vậy. Tuy nhiên... tôi không có cảm giác rằng tôi sẽ sở hữu ngôi nhà này, bởi vì cho dù tôi có nói hay làm gì đi nữa thì nó vẫn sẽ là của anh. Nó sẽ luôn luôn là của anh."

"Nó phải là của tôi," Roark nói. "Nhưng với một ý nghĩa khác Gail ạ. Ông sở hữu ngôi nhà đó và tất cả những gì mà tôi từng xây dựng. Ông sở hữu bất cứ công trình nào mà ông đứng lại trước nó và nghe thấy mình đáp lại nó."

"Theo nghĩa nào vậy?"

"Theo nghĩa ông đáp lại nó bằng một câu trả lời cá nhân. Điều mà ông cảm nhận được từ sự hiện diện của một vật mà ông ngưỡng mộ chỉ có thể biểu đạt được bằng một từ... 'Có'. Đó là sự xác nhận, sự chấp thuận, là biểu hiện của sự ngưỡng mộ. Và cái từ 'Có' đó có nghĩa nhiều hơn một câu trả lời cho một sự vật; nó giống như tiếng 'Amen' với cuộc sống, với trái đất này, nơi vật đó tồn tại, với cái tư tưởng đã sinh thành ra nó, với bản thân ông vì đã có khả năng nhận biết nó. Nhưng khả năng của con người để nói được là 'Có' hay 'Không' chính là bản chất của mọi sự sở hữu. Đó là sự sở hữu của ông với chính cái-tôi của ông. Tâm hồn của ông, nếu không muốn nói như vậy. Tâm hồn của ông có một chức năng cơ bản riêng - chức năng đánh giá mọi vật. 'Có' hoặc 'Không', 'Tôi muốn' hoặc 'Tôi không muốn'. Ông không thể nói 'Có' mà không nói từ 'Tôi.' Không thể có sự xác nhận mà không có chủ thể xác nhận. Theo nghĩa đó, tất cả những gì ông dành tình yêu của ông cho nó đều là của ông."

"Theo nghĩa đó, anh chia sẻ mọi thứ với người khác?"

"Không. Đó không phải là chia sẻ. Khi tôi nghe một bản giao hưởng tôi yêu thích, tôi không có được từ nó cái mà người sáng tác ra nó có được. Cái 'Có' của anh ta khác với của tôi. Anh ta có thể chẳng quan tâm gì đến cái 'Có' của tôi và cũng chẳng có ý niệm chính xác về nó. Câu trả lời đó quá riêng tư đối với mỗi người. Nhưng bằng việc tự mang lại cho mình những gì anh ta muốn, anh ta đã cho tôi một kinh nghiệm vĩ đại. Tôi đơn độc khi tôi thiết kế một ngôi nhà Gail ạ, và ông không bao giờ có thể biết cách thức mà tôi sở hữu căn nhà đó. Nhưng nếu ông nói 'Amen' với nó - thì nó cũng là của ông. Và tôi mừng khi nó là của ông."

Wynand nói cùng với một mỉm cười:

"Tôi thích nghĩ như thế. Rằng tôi sở hữu Monadnock, ngôi nhà Enright và tòa nhà Cord..."

"Và Đền Stoddard," Dominique nói.

Cô nghe họ nói chuyện. Cô thấy mình tê liệt. Wynand chưa từng bao giờ nói chuyện như vậy với bất kỳ vị khách nào trong ngôi nhà của họ. Roark chưa bao giờ nói như vậy với bất kỳ khách hàng nào. Cô biết sự tê liệt này rồi sẽ vỡ thành sự tức giận, sự chối bỏ và phẫn nộ. Bây giờ nó chỉ là một âm điệu sắc lạnh trong giọng nói của cô, âm điệu như muốn phá tan những gì cô vừa nghe thấy.

Cô nghĩ rằng cô thành công. Wynand trả lời - giọng ông nặng nề:

"Đúng thế."

"Hãy quên Đền Stoddard đi, Gail," Roark nói. Trong giọng nói của anh có một sự hoan hỉ giản đơn, vô tư nhưng nó lại có sức mạnh hơn bất cứ một sự tha thứ nghiêm trang nào.

"Phải, Howard," Wynand mỉm cười nói.

Cô nhìn thấy ánh mắt Roark hướng về cô.

"Tôi chưa nói lời cảm ơn bà, thưa bà Wynand, vì bà đã chấp nhận tôi làm kiến trúc sư cho bà. Tôi biết rằng ông Wynand đã chọn tôi và bà đã có thể từ chối. Tôi muốn nói với bà rằng tôi rất vui mừng khi bà không làm như vậy."

Cô nghĩ, mình có thể tin được những việc này bởi vì nó không có một cơ sở nào để tin cậy. Mình sẽ chấp nhận bất cứ cái gì vào tối nay. Mình đang nhìn anh ấy.

Cô nói, giọng dửng dưng một cách lịch thiệp:

"Đấy chẳng qua là lời đáp lại với những đánh giá của tôi khi ông cho rằng tôi muốn từ chối căn nhà cho ông thiết kế sao, ông Roark." Cô nghĩ rằng không có điều gì cô nói thành lời vào buổi tối nay lại có ý nghĩa.

Wynand hỏi:

"Howard, cái từ 'Có' đó - một khi đã được chuyển giao, thì có thể rút lại được không?"

Cô muốn cười phá ra vì sự phẫn nộ khó kiềm chế. Chính là Wynand đang hỏi về điều đó, trong khi người phải hỏi điều đó lẽ ra là cô. Anh ấy phải nhìn vào mắt mình khi trả lời câu hỏi đó - cô nghĩ; anh ấy phải nhìn vào mình.

"Không bao giờ," Roark trả lời trong lúc nhìn Wynand.

"Người ta đã nói quá nhiều điều vớ vẩn về tính hay thay đổi của con người và về sự thất thường của tình cảm" Wynand nói. "Tôi luôn luôn nghĩ rằng những thứ tình cảm có thể thay đổi được thì thực ra là những thứ đã không tồn tại ngay từ đầu. Có những cuốn sách tôi thích khi tôi mười sáu tuổi. Giờ tôi vẫn thích chúng."

Người quản gia đi vào và mang theo một khay cocktail. Cô lấy ly của mình và quan sát Roark nhấc ly của anh ta khỏi khay. Cô nghĩ: vào lúc này, cái ly đang nằm giữa những ngón tay của anh cũng giống như cái ly nằm giữa những ngón tay của mình; chúng ta giống nhau được đến chừng đó... Wynand đang đứng, cầm ly và quan sát Roark với một sự thắc mắc hoài nghi lạ lùng, trông ông không giống như một vị chủ nhà, mà như một người chủ sở hữu vẫn không thể hoàn toàn tin được rằng mình sở hữu một tài sản đáng giá như thế... Cô nghĩ: Mình không bị điên. Mình chỉ bị kích động, nhưng thế cũng không sao lắm, mình vẫn đang nói điều gì đó, mình cũng chẳng biết mình nói cái gì, nhưng chắc chắn là ổn, vì cả hai người đang lắng nghe và đáp lại, Gail đang mỉm cười, mình hẳn là đang nói một điều gì đó thích hợp...

Người quản gia báo bữa tối đã được chuẩn bị xong. Cô đứng dậy một cách ngoan ngoãn và đi tới phòng ăn, giống như một con thú duyên dáng cử động tạo dáng theo những phản xạ có điều kiện. Cô ngồi ở đầu bàn ăn, hai người đàn ông ngồi hai bên, đối diện nhau. Cô ngắm nhìn những đồ ăn bằng bạc bóng loáng ở giữa các ngón tay của Roark, tất cả đều có khắc hai chữ "D.W." Cô nghĩ: mình đã làm điều này rất nhiều lần - mình là bà Gail lịch thiệp... đã có các thượng nghị sĩ, các vị quan tòa, các chủ tịch của các công ty bảo hiểm ngồi ăn tối tại đây... đây là công việc mà mình đã được huấn luyện để làm, đây chính là lý do tại sao Gail đã phải chịu đựng qua những năm tháng đày đọa để dành được vị trí chiêu đãi những thượng nghị sĩ, những vị quan tòa... mục đích của tất cả những cái đó là để có một buổi tối khi mà người khách ngồi đối diện ông ấy là Howard Roark.

Wynand nói về chuyện kinh doanh ngành báo chí. Ông không hề tỏ ra miễn cưỡng khi nói chuyện này với Roark, và cô cũng nói một vài câu khi có vẻ cần thiết. Giọng nói của cô giản dị và rõ ràng, cô đang bị kéo theo câu chuyện mà không hề kháng cự, bất cứ một phản ứng cá nhân nào cũng là không cần thiết, ngay cả nỗi đau đớn hay sợ hãi... Cô nghĩ rằng, cứ với đà nói chuyện này, nếu câu tiếp theo của Wynand là: "Em đã ngủ với anh ta," thì cô sẽ trả lời, một cách đơn giản: "Đúng thế, Gail, tất nhiên rồi." Nhưng Wynand hiếm khi nhìn cô. Khi ông nhìn cô, qua nét mặt ông, cô biết được rằng biểu hiện trên gương mặt cô vẫn bình thường.

Sau đó, họ quay lại phòng khách, cô nhìn thấy Roark đứng cạnh cửa sổ, đối diện với những luồng sáng từ thành phố. Cô nghĩ: Gail đã xây cái nhà áp mái này để minh chứng cho chiến thắng của cá nhân ông ấy... để luôn có thành phố này ở trước mắt ông ấy... đây mới thực sự là lý do mà ngôi nhà này được xây dựng lên - để có Roark đứng cạnh khung cửa sổ đó - và mình biết là tối nay Gail cũng nhận ra điều đó. Cơ thể của Roark che khuất hàng dặm của khung cảnh thành phố, chỉ để sót lại một vài đốm lửa và một vài ô vuông cửa kính tỏa sáng. Anh đang hút thuốc; cô ngắm nhìn điếu thuốc lá của anh chuyển động chầm chậm trên bầu trời đen, khi anh đặt nó vào giữa hai môi, rồi giữ nó ở đầu ngón tay, và cô nghĩ: những đốm sáng lấp lánh trông không gian phía sau anh - chúng chỉ là những tia lửa tỏa ra từ điếu thuốc của anh.

Cô nói khẽ:

"Gail đã luôn thích được ngắm nhìn thành phố vào ban đêm. Anh ấy đã phải lòng những tòa nhà chọc trời."

Rồi cô nhận ra rằng cô vừa sử dụng thời quá khứ và cô tự hỏi vì sao lại thế.

Cô không nhớ mình đã nói gì khi họ bàn về ngôi nhà mới. Wynand lấy những bản thiết kế từ phòng làm việc, trải chúng lên bàn và cả ba người cùng cúi xuống xem. Bút chì trong tay Roark chuyển động, đánh dấu, rồi lướt ngang qua các khối hình học cứng cáp được vẽ bởi nét chì đen, mảnh, trên nền giấy trắng. Họ không khen hay khẳng định vẻ đẹp của ngôi nhà, mà nói về các phòng để đồ, cầu thang, bếp núc và phòng tắm. Roark hỏi liệu cô có thấy sự bố trí này thuận tiện hay không. Cô nghĩ thật là kỳ lạ, rằng cả hai người đều nói như thể họ thực sự tin rằng cô sẽ sống trong ngôi nhà ấy.

Sau khi Roark ra về, cô nghe thấy Wynand hỏi:

"Em thấy anh ta thế nào?"

Cô cảm thấy một cái gì đó giận dữ và nguy hiểm, như một cú vặn xoắn gọn ghẽ và đột ngột trong người cô. Và rồi cô nói, nửa sợ hãi nửa chủ ý khiêu khích:

"Anh ta không làm cho anh nhớ lại Dwight Carson à?"

"Ồ, hãy quên Dwight Carson đi!"

Giọng nói của Wynand không chút tha thiết, không chút tội lỗi, nghe giống hệt cái giọng đã từng nói:

"Hãy quên ngôi Đền Stoddard đi."

*

* *

Người thư ký ở phòng lễ tân nhìn lên và giật mình khi thấy người đàn ông có khuôn mặt xuất hiện thường xuyên trên các mặt báo.

"Gail Wynand," ông ta nói, nghiêng đầu tự giới thiệu. "Tôi cần gặp ông Roark. Nếu như ông ấy không bận. Xin đừng làm phiền ông ấy nếu như ông ấy đang bận việc. Tôi không có hẹn trước."

Cô không bao giờ nghĩ rằng Wynand sẽ đến thăm một văn phòng mà không báo trước và yêu cầu được gặp một cách nghiêm trang kính cẩn đến thế.

Cô báo tên người khách. Roark ra phòng lễ tân, mỉm cười như thể anh không nhận thấy có điều gì bất thường trong sự ghé thăm này.

"Hello Gail. Ông vào đi."

"Hello Howard."

Ông đi theo Roark vào văn phòng. Phía sau các cửa sổ rộng, bóng tối của một buổi chiều muộn đang hòa tan cả thành phố. Tuyết đang rơi; những bông tuyết quay cuồng một cách giận dữ dưới ánh đèn điện.

"Tôi không muốn làm phiền anh nếu anh đang bận; Howard. Việc này không quan trọng." Ông không gặp Roark suốt năm ngày, kể từ bữa tối hôm đó.

"Tôi không bận. Bỏ áo khoác ra đi. Tôi mang các bản vẽ vào được chứ?"

"Không. Tôi không muốn nói về ngôi nhà. Thực ra tôi đến đây chẳng vì lý do gì cả. Tôi ở văn phòng cả ngày, phát ốm vì nó, và tự nhiên thấy muốn tới đây. Anh đang toe toét cái gì thế hả?"

"Không có gì. Chỉ là ông đã nói không có gì quan trọng thôi."

Wynand nhìn anh, mỉm cười và gật đầu.

Ông ngồi xuống mép bàn làm việc của Roark với một sự thoải mái mà ông chưa từng cảm thấy trong văn phòng của mình. Tay ông bỏ trong túi và một chân vung vẩy.

"Nói chuyện với anh gần như là vô ích, Howard. Tôi luôn luôn cảm thấy như thể đang đọc cho anh nghe một bản photocopy của chính tôi, còn anh thì đã nhìn thấy bản gốc rồi. Anh dường như nghe mọi điều tôi nói trước khi tôi nói ra. Chúng ta không khớp nhau."

"Ông gọi đó là không khớp à?"

"Được rồi, quá khớp vậy." Ông nhìn chầm chậm quanh phòng.

"Nếu chúng ta sở hữu những gì mà chúng ta nói 'Có,' thì tôi đang sở hữu cái văn phòng này à?"

"Thì ông sở hữu nó."

"Anh có biết tôi cảm thấy gì ở đây không? Không, tôi sẽ không nói rằng tôi cảm thấy như ở nhà... Tôi không nghĩ rằng mình đã từng cảm thấy như ở nhà tại bất cứ đâu. Và tôi cũng sẽ không nói rằng tôi cảm thấy như khi tôi ở trong các lâu đài tôi đã đến thăm hay như ở trong các nhà thờ lớn ở châu Âu. Tôi cảm thấy giống như khi tôi ở tại Hell's Kitchen vào những ngày đẹp nhất tôi đã có ở đó... những ngày hiếm hoi. Nhưng thỉnh thoảng... khi tôi ngồi thế này... chỉ có vài bức tường đổ nát cạnh cầu tàu... và có hàng ngàn ngôi sao trên đầu, và những đống rác xung quanh tôi, và con sông thì bốc mùi hôi thối từ những xác sò thối rữa... Howard, khi anh nhìn lại quá khứ, anh có cảm thấy là tất cả những ngày của anh đều lăn đều nhau về phía trước, giống như việc đánh máy, tất cả các con chữ đều giống nhau? Hay là có những điểm dừng - những cột mốc - và sau đó thì lại giống như đánh máy chữ?"

"Có các điểm dừng."

"Anh có nhận biết được chúng ngay lúc đó không? Lúc ấy anh có biết rằng chúng là những điểm dừng không?"

"Có."

"Tôi thì không. Sau này tôi mới biết. Nhưng tôi không bao giờ biết nguyên nhân tại sao. Có một thời điểm khi tôi mười hai tuổi và đứng sau một bức tường chờ đợi bị giết chết. Có điều, tôi đã biết là tôi sẽ không bị giết. Không phải những việc mà tôi làm sau đó, cũng không phải những trận đánh nhau, mà chỉ là một khoảnh khắc khi tôi chờ đợi. Tôi không biết tại sao đó là một điểm dừng mà tôi vẫn còn nhớ, hoặc tại sao tôi lại thấy tự hào về nó. Tôi không biết tại sao tôi phải nghĩ về nó khi ở đây."

"Đừng tìm kiếm lý do đó làm gì."

"Anh biết lý do đó không?"

"Tôi đã nói là đừng tìm kiếm."

"Tôi đã suy nghĩ về quá khứ của tôi - kể từ khi gặp anh. Tôi đã sống nhiều năm mà không nghĩ về quá khứ. Không, chẳng có một kết luận bí mật nào để anh rút ra từ quá khứ đó đâu. Nhìn lại quá khứ như thế này chẳng làm tôi bị tổn thương, mà cũng chẳng làm tôi vui vẻ. Chỉ là nhìn lại mà thôi. Không phải là một sự tìm kiếm, không phải là một cuộc hành trình. Chỉ là một cuộc đi dạo ngẫu nhiên, giống như đi lang thang ở một miền quê vào một buổi chiều tối khi anh cảm thấy mệt mỏi... Nếu như có một sự kết nối nào đó với anh, thì chỉ có một suy nghĩ là cứ quay trở lại đầu óc tôi. Tôi cứ nghĩ rằng anh và tôi khởi đầu rất giống nhau. Từ cùng một điểm chung. Từ hai bàn tay trắng. Tôi chỉ nghĩ vậy thôi, không có bất kỳ lời bình luận nào. Tôi dường như không tìm thấy bất kỳ ý nghĩa cụ thể nào trong câu chuyện này cả. Chỉ là 'chúng ta đã bắt đầu giống nhau'... Anh có muốn nói cho tôi nghe điều đó có nghĩa gì không?"

"Không."

Wynand nhìn quanh phòng và nhận ra một tờ báo nằm trên tủ đựng tài liệu.

"Quỷ tha ma bắt, ai đọc tờ Ngọn cờ ở đây thế?"

"Tôi đọc."

"Từ khi nào?"

"Một tháng trước đây."

"Tự tra tấn à?"

"Không. Chỉ vì tò mò thôi."

Wynand đứng dậy, cầm tờ báo và nhìn lướt qua các trang. Ông dừng lại ở một trang và tặc lưỡi. Ông cầm trang đó lên: trang báo có bức ảnh về bản thiết kế của cuộc triển lãm Hành trình của Những thế kỷ.

"Kinh khủng, phải không?" Wynand nói. "Thật ghê tởm khi chúng tôi phải lăng-xê cho những thứ đó. Nhưng khi nghĩ đến những việc mà anh đã làm với cái hội đồng toàn các tên tuổi trứ danh ấy, tôi cảm thấy dễ chịu hơn." Ông tặc lưỡi một cách vui vẻ. "Anh đã nói với họ rằng anh không cộng tác hay hợp tác gì cả."

"Nhưng đấy không phải lả chuyện làm dáng đâu, Gail. Hoàn toàn là vì tính hợp lý thông thường. Người ta không thể hợp tác trong công việc của chính mình. Tôi có thể cộng tác, nếu họ muốn gọi như vậy, nhưng là với những công nhân dựng lên công trình của tôi. Nhưng tôi không thể giúp họ đặt gạch và họ không thể giúp tôi thiết kế."

"Đó là một kiểu làm dáng mà tôi muốn có. Tôi bị buộc phải biếu không cái hội đồng ấy một phần trang trống trong các tờ báo của tôi. Nhưng không sao. Anh đã tát vào mặt họ giùm tôi." Ông quăng tờ báo sang bên cạnh không chút tức giận. "Cũng giống như cái bữa tiệc trưa nay mà tôi phải dự. Một hội nghị quốc gia của các nhà quảng cáo. Tôi buộc phải quảng cáo cho họ - cả một lũ ngọ nguậy, uốn éo, và chảy nước ấy. Tôi buồn nôn về cái đó đến mức tôi nghĩ rằng tôi sẽ phát điên và đập vỡ sọ một đứa nào đó. Và tôi nghĩ về anh. Tôi đã nghĩ rằng những chuyện như thế này chẳng bao giờ chạm tới anh được. Bằng bất cứ cách nào. Với anh thì chẳng hề tồn tại một cuộc hội nghị quốc gia của các nhà quảng cáo nào sất. Cái hội nghị ấy tồn tại trong chiều không gian thứ tư và nó chẳng bao giờ có thể liên lạc được với anh. Tôi đã nghĩ về điều đó - và cảm thấy khuây khỏa khác thường."

Ông tựa vào tủ tài liệu, duỗi thẳng bàn chân ra phía trước, hai cánh tay bắt chéo vào nhau. Ông nói khẽ:

"Howard, đã có lần tôi nuôi một con mèo con. Cái con quái vật khốn khổ ấy, một con thú nhỏ sống quanh mấy bãi rác, bị ruồi muỗi bâu, chỉ còn lông, bùn đất và một nắm xương. Nó cứ bám lấy tôi, theo tôi về nhà. Tôi cho nó ăn rồi đuổi nó đi. Nhưng ngày hôm sau nó quay lại và cuối cùng thì tôi giữ nó lại để nuôi. Khi đó tôi mười bảy tuổi và đang làm việc cho tờ Gazette, chỉ là học việc theo một cách đặc biệt mà tôi phải học để sống. Tôi có thể chấp nhận cuộc sống đó, nhưng không phải tất cả. Có những lúc tôi cảm thấy rất tệ, thường là các buổi tối. Có một lần tôi muốn tự tử. Không phải vì tôi tức giận, bởi vì sự tức giận thường làm tôi làm việc chăm chỉ hơn. Không phải nỗi sợ hãi mà là sự ghê tởm, Howard ạ. Sự ghê tởm làm cho tôi cảm thấy như thể rằng toàn bộ thế giới này đang chìm dưới nước, còn nước thì đứng im. Nước tràn ra khỏi các cống rãnh và nuốt chửng mọi thứ, kể cả bầu trời, kể cả trí não của tôi. Rồi tôi nhìn con mèo con đó. Tôi nghĩ rằng nó không hề biết đến những thứ mà tôi ghê tởm, không bao giờ có thể biết. Nó sạch sẽ, sạch sẽ tuyệt đối bởi vì nó không có khả năng hiểu được sự xấu xa của thế giới này. Tôi không thể diễn đạt cho anh hiểu được cái cảm giác khoan khoái khi thử tưởng tượng xem trạng thái ý thức trong cái bộ não nhỏ xíu ấy như thế nào, và cố gắng chia sẻ nó - đấy cũng là một ý thức sống, nhưng trong sạch và tự do. Tôi nằm xuống sàn nhà và úp mặt vào bụng con mèo, nghe như cái con quái vật ấy gừ gừ. Và rồi tôi thấy khỏe hơn... Vậy đó, Howard. Tôi vừa mới gọi văn phòng anh là một cái cầu cảng mục nát và gọi anh là một con mèo hoang. Đấy là cách bộc lộ sự kính trọng của tôi.

Roark mỉm cười. Wynand nhận thấy sự biết ơn trong nụ cười đó.

"Đừng nói gì" Wynand cau có. "Đừng nói gì hết." Ông bước tới cạnh một cửa sổ và nhìn ra ngoài. "Tôi không biết cái quái quỷ gì làm tôi nói như thế. Đây là những năm tháng hạnh phúc đầu tiên trong cuộc đời tôi. Tôi gặp anh bởi vì tôi muốn xây dựng một tượng đài cho hạnh phúc của tôi. Tôi đến đây để tìm kiếm sự nghỉ ngơi, và tôi đã tìm thấy... thế mà tôi còn nói những chuyện đó... Nhưng thôi, không sao cả... Chà, hãy nhìn cái thời tiết chết tiệt này xem. Anh đã xong việc ngày hôm nay chưa? Anh có thể nghỉ được chưa?

"Rồi. Nhìn chung là xong rồi."

"Hãy đi ăn tối ở đâu đó gần đây đi."

"Được thôi."

"Tôi dùng nhờ điện thoại của anh được không? Tôi sẽ bảo Dominique đừng chờ tôi về ăn tối."

Ông quay số. Roark đi ra cửa phòng vẽ. Anh cần giao cho nhân viên vài việc trước khi rời khỏi văn phòng. Nhưng anh dừng lại ở cửa và nghe cuộc hội thoại ấy.

"Alô, Dominique à?... Ừ... Em mệt à?... Không, nghe giọng em có vẻ mệt... Anh sẽ không về nhà ăn tối đâu, em sẽ tha lỗi cho anh chứ, em yêu quý?... Anh không biết, có thể sẽ muộn... Anh sẽ ăn tối ở trong phố... Không, anh sẽ ăn với Howard Roark... Alô, Dominique?... Ừ... Cái gì?... Anh đang gọi từ văn phòng của anh ấy... Thế nhé, chào em." Ông đặt ống nghe xuống.

Dominique đứng trong thư viện của ngôi nhà, tay vẫn cầm điện thoại như thể một chút kết nối vẫn còn sót lại.

Suốt năm ngày và đêm, cô đã đấu tranh với một khao khát duy nhất - đến gặp anh. Để được một mình nhìn thấy anh... ở bất kỳ đâu... ở nhà anh, hay trong phòng làm việc của anh, hay trên phố... chỉ để nói một lời hay chỉ để được nhìn anh một cái... nhưng phải là một mình. Cô không thể đi. Phần hành động của cô đã chấm dứt. Anh sẽ đến với cô khi anh muốn. Cô biết rằng anh sẽ đến và rằng anh muốn cô chờ đợi. Cô đã chờ đợi, nhưng cô vẫn cứ bám vào một ý nghĩ - bám vào một địa chỉ, một văn phòng trong tòa nhà Cord.

Cô đứng đó, tay nắm chặt lấy ống nghe điện thoại. Cô không có quyền đi tới cái văn phòng ấy. Nhưng Gail thì lại có được cái quyền đó.

*

* *

Ellsworth bị gọi tới văn phòng của Wynand. Khi bước vào văn phòng, ông bước vài bước và dừng lại. Bức tường của văn phòng Wynand, căn phòng sang trọng duy nhất trong tòa nhà Ngọn cờ, được làm bằng li-e và các tấm đồng đỏ, trên đó chưa bao giờ treo bất kỳ bức ảnh nào. Giờ đây, trên bức tường đối diện bàn làm việc của Wynand, ông nhìn thấy một bức ảnh lớn. Bức ảnh của Roark tại lễ khai mạc ngôi nhà Enright, trong đó Roark đứng cạnh hàng rào bảo vệ bên bờ sông, đầu ngửa ra sau.

Toohey quay sang Wynand. Họ nhìn thẳng vào nhau.

Wynand chỉ vào một chiếc ghế và Toohey ngồi xuống. Wynand mỉm cười nói:

"Tôi không bao giờ nghĩ có lúc tôi lại đồng tình với một vài lý thuyết xã hội của ông, ông Toohey, nhưng tôi đã tự bắt mình phải làm như vậy. Ông luôn luôn tố cáo cái thói đạo đức giả của giới thượng lưu trong xã hội và ca ngợi những giá trị quần chúng. Bây giờ thì tôi thấy hối tiếc về những lợi thế mà tôi đã được hưởng khi tôi là kẻ thuộc về quần chúng. Nếu tôi vẫn ở khu Hell's Kitchen, thì có lẽ tôi đã bắt đầu cuộc nói chuyện này bằng câu: 'Nghe này, đồ chấy rận!' Nhưng bởi vì tôi hiện là một nhà tư bản cố hữu nên tôi sẽ không làm vậy."

Toohey chờ đợi; trông ông tò mò.

"Tôi sẽ bắt đầu bằng câu: Hãy nghe đây, ông Toohey. Tôi không biết động cơ của ông là gì. Tôi không thèm mổ xẻ phân tích những động cơ của ông. Dạ dày của tôi không phải bạ cái gì cũng tiêu hóa được. Bởi vậy, tôi sẽ không hỏi và tôi cũng không muốn nghe bất kỳ lời giải thích nào. Tôi sẽ chỉ nói với ông rằng, kể từ bây giờ, có một cái tên mà ông sẽ không bao giờ được đả động đến trong chuyên mục của ông nữa."

Ông chỉ vào bức ảnh.

"Tôi có thể bắt ông công khai tự phản bội lại mình trên báo và tôi sẽ thích thú với điều đó; nhưng tôi thích cấm ông không bao giờ được đả động đến chuyện này hơn. Dù chỉ một từ, ông Toohey. Không bao giờ nữa. nào, đừng có nói đến hợp đồng của ông hay bất kỳ điều khoản gì gì đó của nó. Tôi khuyên ông đừng có làm thế. Cứ tiếp tục viết cái chuyên mục của ông, nhưng hãy nhớ tên của mục đó là Một tiếng nói nhỏ và hãy dành cho nó các chủ đề thích đáng với nó. Hãy giữ cho nó nhỏ thôi, ông Toohey. Rất nhỏ thôi."

"Vâng, thưa ông Wynand," Toohey đáp lại một cách dễ dàng. "Hiện tại tôi không phải viết về ông Roark."

"Thế thôi."

Toohey đứng dậy. "Vâng, thưa ông Wynand."

V

Gail Wynand ngồi tại bàn làm việc và đọc các bản in thử của một bài xã luận về giá trị đạo đức của việc xây dựng các gia đình lớn. Các câu văn giống như là kẹo cao su được nhai đi nhai lại, được khạc nhổ ra và lại nhặt lên, chuyển từ cái mồm này sang cái mồm khác, xuống mặt đường, dính vào đế giày, rồi lại tới miệng, tới trí não... Ông nghĩ về Howard Roark và tiếp tục đọc tờ Ngọn cờ. Điều đó làm cho mọi việc dễ dàng hơn.

"Vẻ thanh nhã là tài sản lớn nhất của một cô gái. Hãy nhớ giặt đồ lót của bạn mỗi tối, và học cách nói chuyện về một vài đề tài văn hóa, rồi bạn sẽ có bất cứ cuộc hẹn hò nào bạn muốn." "Tử vi ngày mai của bạn chỉ ra một điềm tốt. Sự chuyên cần và chân thành sẽ mang tới các phần thưởng trong lĩnh vực công nghệ, tài chính công và tình cảm." "Sở thích của bà Hungtington Cole là làm vườn, xem kịch và sưu tầm bát đựng đường của Mỹ từ thời sơ khai. Bà phân chia thời gian của mình cho đứa con trai nhỏ và những hoạt động từ thiện." "Tôi chỉ là Millie, tôi chỉ là một trẻ mồ côi." "Để giảm cân hoàn toàn, hãy gửi mười xu và một phong bì có ghi sẵn địa chỉ và dán tem." Ông lật các trang báo trong khi nghĩ về Howard Roark.

Ông vừa ký một hợp đồng quảng cáo với Kream-O Pudding có giá trị năm năm trên toàn hệ thống Wynand; quảng cáo của họ sẽ chiếm toàn bộ hai trang trong các số báo Chủ nhật. Những người đàn ông ngồi phía trước bàn ông giống như những khải hoàn môn bằng xương bằng thịt, như cái tượng đài kỷ niệm chiến thắng của những buổi tối kiên nhẫn và tính toán, của các bàn tiệc trong nhà hàng, của những ly cốc đã cạn rượu bia, của những tháng ngày suy nghĩ, của năng lượng của ông - nguồn năng lượng sống của ông như những dòng chất lỏng đổ từ trong ly qua những bờ môi nặng nề đang hé mở, chảy qua những ngòn tay múp míp, tràn lên bàn, chảy vào hai trang báo mỗi Chủ nhật, vào những bản vẽ những cái khuôn màu vàng khắc hình quả dâu tây, những cái khuôn màu vàng đựng nước sốt làm bánh pút-đinh. Ông nhìn vượt qua đầu của những người đàn ông đó vào bức ảnh treo trên tường: vào bầu trời, dòng sông và khuôn mặt của một người đàn ông đang ngẩng cao.

Nhưng nó làm ta đau, ông nghĩ. Mỗi lần nghĩ về anh ấy, ta lại thấy đau đớn. Nó làm cho mọi thứ trở nên dễ dàng hơn... con người, những biên tập viên, những bản hợp đồng... Nhưng dễ dàng hơn là bởi vì nó làm ta quá đau đớn. Vết đau cũng là một tác nhân kích thích. Ta nghĩ rằng ta ghét cái tên đó. Ta sẽ tiếp tục lặp lại nó. Nó là nỗi đau ta muốn được mang.

Rồi khi đối diện với Roark trong phòng làm việc ở nhà, ông lại không cảm thấy đau đớn nữa; chỉ còn lại duy nhất ước muốn được cười một cách thoải mái.

"Howard, theo những lý tưởng được công bố của nhân loại thì mọi thứ anh đã làm trong cuộc đời anh đều sai lầm cả. Thế mà nhìn anh kìa. Theo một cách nào đó, anh như một tiếng cười nhạo vào mặt cả cái thế giới này."

Roark ngồi trên một cái ghế bành bên cạnh lò sưởi. Ánh lửa sáng rực rỡ lan tỏa khắp phòng làm việc. Ánh lửa dường như uốn lượn một cách khoan khoái quanh mọi vật trong gian phòng, kiêu hãnh phô bày sắc đẹp của mình, và thừa nhận khả năng thẫm mỹ của người đàn ông đã tạo nên không gian này cho chính mình. Họ ở trong phòng một mình. Dominique đã xin phép đi nghỉ sau bữa tối. Cô biết rằng họ muốn ở một mình.

"Một tiếng cười nhạo với tất cả chúng ta," Wynand nói. "Với tất cả mọi người trên phố. Tôi luôn nhìn những người đi trên phố. Tôi đã từng đi vào tàu điện ngầm chỉ để nhìn xem có bao nhiêu người cầm tờ Ngọn cờ. Tôi từng căm ghét họ và đôi khi cảm thấy sợ. Nhưng giờ đây tôi nhìn họ và chỉ muốn nói: 'Ôi, những kẻ ngốc nghếch tội nghiệp!' Vậy thôi."

Ông gọi điện tới văn phòng Roark vào một buổi sáng.

"Anh có thể đi ăn trưa với tôi không hả Howard?... Gặp tôi ở khách sạn Nordland nửa tiếng nữa."

Ông nhún vai mỉm cười khi ngồi đối diện với Roark trong nhà hàng.

"Chẳng có chuyện gì, Howard. Chẳng có lý do gì đặc biệt cả. Tôi vừa mới có nửa tiếng đến là ghê tởm, và tôi muốn tống khứ dư vị của nó ra khỏi miệng tôi."

"Nửa tiếng ghê tởm gì vậy?"

"Chụp ảnh chung với Lancelot Clokey."

"Lancelot Clokey là ai?"

Wynand cười phá ra và quên bẵng sự lịch thiệp luôn được kiểm soát của mình, quên cả cái nhìn cảnh giác của người hầu bàn.

"Vậy đó, Howard. Đó là lý do vì sao tôi phải ăn trưa với anh. Bởi vì anh có thể nói những điều như vậy."

"Nào, có chuyện gì nào?"

"Anh không đọc sách à? Anh không biết rằng Lancelot Clokey là 'nhà phân tích tình hình quốc tế tinh tế nhất của chúng ta' à? Đó là lời của các nhà phê bình - trên tờ Ngọn cờ của tôi. Lancelot Clokey được một tổ chức khỉ gió nào đó chọn là tác giả xuất sắc của năm nay hay một cái gì đó đại loại thế. Chúng tôi sẽ đăng lý lịch của hắn trên bản phụ trương số báo Chủ nhật và tôi phải đứng quàng tay qua vai hắn cho người ta chụp ảnh. Hắn ta mặt áo sơ mi lụa bốc mùi rượu gin. Cuốn sách thứ hai của hắn kể về thời niên thiếu của hắn, rằng nó đã giúp hắn ra sao trong việc nắm bắt tình hình quốc tế. Cuốn sách đó đã bán được một trăm ngàn bản. Thế mà anh lại chưa bao giờ nghe về hắn. Thôi ăn trưa đi, Howard. Tôi thích nhìn anh ăn. Tôi ước gì anh nhẵn túi, thế là tôi có thể mua bữa trưa này cho anh và biết rằng anh thực sự cần nó."

Vào cuối ngày làm việc, ông thường ghé thăm văn phòng hoặc nhà Roark mà không báo trước. Roark có một căn hộ ở tòa nhà Enright, một trong những căn hộ xây theo hình lục giác nhìn ra sông Đông: một phòng làm việc, một thư viện, một phòng ngủ. Anh đã tự mình thiết kế nội thất của gian phòng. Suốt một thời gian dài, Wynand không thể hiểu tại sao nơi này lại cho ông một ấn tượng về sự xa hoa, cho đến khi ông nhận ra rằng căn phòng không hề nhấn mạnh vào nội thất: chỉ có một không gian sạch sẽ và sự xa hoa toát ra từ chính sự giản dị mộc mạc của nó, một sự giản dị không phải dễ dàng mà có được. Đứng về giá trị tài chính thì đó là căn hộ ít tiền nhất mà Wynand đã đến thăm trong hai mươi lăm năm qua.

"Chúng ta đã khởi đầu giống nhau, Howard," ông nói trong khi liếc nhìn quanh căn phòng của Roark. "Theo đánh giá và kinh nghiệm của tôi thì anh lẽ ra sẽ vẫn nằm dưới đáy xã hội. Nhưng anh đã không như vậy. Tôi thích căn phòng này. Tôi thích ngồi ở đây."

"Tôi thích nhìn thấy ông ở đây."

"Howard, anh đã bao giờ nắm quyền định đoạt cuộc sống của một ai đó chưa?"

"Chưa. Và tôi cũng sẽ không nhận nếu như người ta trao cho tôi cái quyền đó."

"Tôi không thể tin điều đó."

"Đã có một người đề nghị tôi điều đó, Gail. Tôi đã từ chối."

Wynand nhìn anh với sự tò mò, đó là lần đầu tiên ông nghe thấy sự gắng gượng trong giọng nói của Roark.

"Tại sao?"

"Tôi buộc phải từ chối."

"Vì lòng kính trọng với anh ta à?"

"Đó là một người đàn bà."

"Ồ, anh đúng là đồ ngốc! Vì lòng kính trọng với một người đàn bà ư?"

"Vì sự kính trọng đối với bản thân tôi."

"Đừng có nghĩ là tôi sẽ hiểu. Chúng ta là hai người đối lập."

"Tôi từng nghĩ thế. Tôi đã muốn nghĩ như vậy."

"Và bây giờ thì anh không nghĩ thế nữa à?"

"Không."

"Anh không khinh bỉ tất cả những việc tôi từng làm sao?"

"Tôi khinh bỉ gần như tất cả những việc ông làm mà tôi được biết."

"Và anh vẫn thích nhìn thấy tôi ở đây?"

"Đúng thế. Gail, có một người coi ông là tượng trưng cho cái loài ác quỷ đặc biệt đã hủy hoại ông ấy và rồi sẽ hủy hoại tôi. Ông ấy đã truyền cho tôi sự căm ghét kia. Và có một lý do khác nữa. Tôi nghĩ rằng tôi đã căm ghét ông trước khi tôi gặp ông."

"Tôi biết vậy. Điều gì đã làm anh thay đổi suy nghĩ?"

"Tôi không thể giải thích điều đó cho ông được."

Họ cùng lái xe tới khu đất ở Connecticut, nơi những bức tường của ngôi nhà đang vươn lên từ mặt đất băng giá. Wynand đi theo Roark qua các căn phòng tương lai. Ông đứng bên cạnh và quan sát Roark hướng dẫn những công nhân ở đó. Thỉnh thoảng Wynand đến một mình. Những người công nhân nhìn thấy một chiếc xe hai chỗ không mui màu đen leo lên con đường vòng vèo dẫn lên đỉnh đồi, và nhìn thấy hình dáng Wynand đứng từ xa ngắm nhìn công trình. Dáng vẻ của ông luôn ẩn chứa những liên tưởng về vị trí của ông: sự thanh lịch nhã nhặn của áo khoác, sự góc cạnh của chiếc mũi, dáng đứng tự tin, vừa căng thẳng vừa thoải mái, làm cho người ta nghĩ về một đế chế Wynand. Nó làm cho người ta nghĩ đến những chiếc máy in gầm gào xuyên qua các đại dương, về những tờ báo, những trang bìa tạp chí rực rỡ, những luồng sáng run rẩy của các rạp chiếu phim, những đường dây điện thoại tỏa đi khắp thế giới, một quyền lực chảy tràn vào mọi cung điện, mọi thủ đô, mọi gian phòng quan trọng và bí mật trên thế giới, ngày cũng như đêm, xuyên suốt mỗi phút giây quý giá trong cuộc sống của người đàn ông này. Ông đứng yên lặng, dựa vào bầu trời có màu xám xịt như nước thải máy giặt. Những bông tuyết rơi một cách lười biếng qua vành mũ của ông.

Vào một ngày tháng Tư, ông lái xe một mình tới Connecticut sau nhiều tuần vắng mặt.

Chiếc xe mui trần hai chỗ băng qua đồng quê, không phải như một vật thể chuyển động, mà là một dải tốc độ dài. Ông không thấy sự chuyển động trong cái hình khối nhỏ bé làm bằng kính và da ấy. Với ông dường như chiếc ô-tô đứng yên, treo lơ lửng phía bên trên mặt đất, trong khi bàn tay ông điều khiển vô lăng làm cho trái đất này bay ngang qua ông. Và ông chỉ đơn thuần chờ nơi ông muốn tới. Ông yêu quý vô lăng của chiếc xe như yêu quý bàn làm việc trong văn phòng ở tòa soạn tờ Ngọn cờ; cả hai thứ đó đều làm cho ông có cái cảm giác như có một con quái vật nguy hiểm đang nhũn người dưới sự điều khiển tài tính của các ngón tay ông.

Có một cái gì đó vụt qua tầm mắt của ông, và phải đi thêm một dặm nữa ông mới đột ngột nghĩ thật là lạ khi ông lại để ý đến nó, vì nó chỉ là một bụi cỏ ven đường. đi thêm một dặm nữa, ông nhận ra rằng càng lạ hơn vì cụm cỏ ấy màu xanh. Không thể nào khi đang giữa mùa đông - ông nghĩ - và rồi ông bất ngờ khi nhận ra rằng mùa đông đã đi qua. Ông đã rất bận rộn trong những tuần qua. Ông không có thời gian để nhận ra điều đó. Giờ đây ông nhìn thấy dấu hiệu của màu xanh trên những cánh đồng bao quanh, giống như một lời thì thầm. Ông nghe thấy trong tâm trí ông vẳng lên ba lời tuyên ngôn được khớp với nhau một cách chính xác như những bánh răng: Trời đã sang xuân - Chẳng biết ta còn bao nhiêu năm để nhìn thấy nó - Ta năm mươi lăm tuổi.

Đó là những lời tuyên ngôn, chứ không phải là những cảm xúc, ông không cảm thấy gì hết, không hề hăm hở hay sợ hãi. Nhưng ông biết rằng việc ông cần cảm nhận ý nghĩa của thời gian thật là kỳ lạ. Ông chưa bao giờ nghĩ về tuổi tác của mình trong mối liên hệ với bất kỳ đơn vị đo nào, ông chưa bao giờ định nghĩa vị trí của mình trong một dòng chảy có giới hạn. Ông đã là Gail Wynand, đã tồn tại vững chắc, như chiếc ô-tô này, nhiều năm đã qua, giống như trái đất này, như động cơ trong cơ thể ông, động cơ đã điều khiển chuyến bay của những năm tháng.

Không, ông nghĩ, ta không hối tiếc gì cả. Ta đã để lỡ một vài điều nhưng ta không hề hối tiếc, bởi vì ta đã yêu cuộc đời của ta như nó vốn có, kể cả những phút giây ta cảm thấy trống rỗng, kể cả những khi ta không tìm thấy lời giải đáp trong cuộc đời ta. Nhưng ta yêu nó.

Nếu như câu chuyện truyền thuyết về việc mỗi người rồi sẽ phải đứng trước một vị quan tòa tối cao và liệt kê những thành tích của mình là có thật; thì ta, với tất cả niềm tự hào của mình, sẽ liệt kê - không phải những thứ ta đã làm được - mà chỉ một thứ, một thứ ta chưa bao giờ làm trên trái đất này: đó là ta chưa bao giờ tìm kiếm bất cứ sự phê chuẩn nào từ bên ngoài. Ta sẽ đứng lên và nói: Tôi là Gail Wynand, người đã phạm phải mọi tội lỗi, trừ một tội lỗi lớn hơn cả: đó là tội tiêu phí sự sống tuyệt vời vào những thứ phù phiếm và tìm kiếm mục đích sống bên ngoài bản thân mình. Đây là niềm tự hào của ta: giờ đây, khi nghĩ về đoạn kết, ta không kêu khóc như tất cả những người ở cùng tuổi ta rằng đâu là mục đích và ích lợi của cuộc sống? Ta chính là ích lợi và ý nghĩa, Ta, Gail Wynand. Ta đã sống và Ta đã hành động.

Ông lái xe xuống chân đồi và đạp phanh xe, giật nảy mình khi nhìn lên phía trên. Trong thời gian ông vắng mặt, ngôi nhà đã hiện hình. Bây giờ đã có thể nhận được ra ngôi nhà ấy, nó giống y như bản vẽ. Trong chốc lát, ông phân vân như một đứa trẻ liệu có đúng là ngôi nhà ấy đã mọc lên từ trong bản phác thảo không nhỉ? Cứ như thể ông chưa bao giờ thật sự tin rằng sẽ có một ngày ngôi nhà sẽ được xây lên đúng như thế. Ngôi nhà mọc lên, tựa mình vào bầu trời xanh nhạt, chưa hoàn thành và trông vẫn giống như một bản vẽ dang dở; những mặt phẳng của phần nề giống như những mảng màu nước, những cột ván trần trụi của giàn giáo giống như những nét chì, cả ngôi nhà như một bản thiết kế khổng lồ trên nền giấy xanh nhạt.

Ông rời khỏi xe và đi bộ lên đỉnh đồi. Ông nhìn thấy Roark giữa những người công nhân. Ông đứng phía ngoài và quan sát cách Roark đi ngang qua công trình, cách anh quay đầu hoặc giơ tay lên để chỉ. Ông nhận ra dáng vẻ của Roark khi dừng lại: chân anh dang ra, các cánh tay buông dọc thân hình, đầu ngẩng cao; một tư thế toát ra sự tự tin bản năng và một nguồn năng lượng tự phát không cần có một sự nỗ lực kiểm soát nào, một khoảnh khắc mà con người anh cũng gọn gàng sạch sẽ giống như công trình của chính anh vậy. Wynand nghĩ thầm, một kết cấu là lời giải cho bài toán về các sức ép đối nghịch, về sự cân bằng và về độ an toàn.

Ông nghĩ: không có những yếu tố cảm tính trong việc dựng lên một tòa nhà, đó chỉ là một công việc cơ học, giống như việc lắp đặt đường ống thoát nước hay việc sản xuất ra một loại xe ô-tô. Và rồi ông tự hỏi tại sao khi nhìn Roark, ông lại có cái cảm giác như khi ở trong gallery của mình. Wynand nghĩ: anh ta thuộc về những công trình chưa hoàn thành, hơn là một công trình đã hoàn thành, hơn là khi ngồi ở bàn vẽ; đây chính là chỗ của anh ta; nó thích hợp với anh ta - như Dominique đã nói rằng cái thuyền buồm thích hợp với ta.

Sau đó Roark đi ra và họ cùng đi bộ theo triền đồi, xuyên qua những đám cây. Họ ngồi xuống một nhánh cây đổ và nhìn ngôi nhà từ xa, qua những bụi cây. Những thân cây khô và trơ trụi, nhưng có thể cảm nhận được sức sống của mùa xuân từ sự reo vui của những cành nhánh đang vươn thẳng lên trời một cách ngạo nghễ, từ sự lay động hàm chứa một mục đích rõ ràng, quả quyết.

Wynand hỏi:

"Howard, anh đã từng yêu bao giờ chưa?"

Roark quay lại nhìn thẳng vào ông và trả lời khẽ:

"Tôi vẫn đang yêu."

"Nhưng khi anh đi xuyên qua một công trình, cái anh cảm thấy còn lớn hơn thế, phải không?"

"Lớn hơn nhiều, Gail."

"Tôi đang nghĩ về những người vẫn nói rằng hạnh phúc là điều không thể có trên trái đất này. Hãy nhìn xem tất cả bọn họ phải vất vả như thế nào để tìm kiếm một vài niềm vui trong cuộc sống. Hãy nhìn xem họ giành giật lấy hạnh phúc như thế nào. Tại sao mọi sinh vật trên trái đất này lại phải sống trong đau khổ? Người ta dùng cái quyền chính đáng nào để đòi hỏi con người tồn tại vì bất cứ thứ gì khác, ngoại trừ niềm vui của chính bản thân anh ta? Tất cả bọn họ đều muốn có niềm vui đó. Mỗi bộ phận trong cơ thể anh ta muốn có niềm vui đó. Nhưng họ không bao giờ tìm thấy nó. Tôi không biết tại sao. Họ than vãn và nói họ không hiểu được ý nghĩa của cuộc đời. Có một loại người mà tôi đặc biệt kinh ghét. Đó là những kẻ luôn tìm kiếm một loại mục đích sống cao hơn hoặc một 'mục đích phổ quát'. Họ không hiểu sống để làm gì, họ rên rỉ rằng họ phải 'tìm thấy bản thân mình'. Anh nghe thấy những điều như vậy ở khắp mọi nơi xung quanh ta. Đó dường như là thứ thuốc an thần chính thống của thế kỷ này. Mọi cuốn sách anh mở ra. Mọi lời tự thú dài dòng. Việc xưng tôi dường như trở thành một thứ cao quý. Tôi nghĩ rằng đó mới là thứ đáng hổ thẹn nhất trên đời."

"Hãy xem này, Gail." Roark đứng dậy, đưa tay ra và giật một cành cây từ một cái cây. Anh cầm nó bằng cả hai tay, mỗi bàn tay nắm một đầu; rồi cổ tay và khủy tay của anh căng ra, anh từ từ uốn cong nhánh cây đó thành một hình vòng cung. "Bây giờ tôi có thể làm cái gì tôi muốn từ cái cành cây này: một cây cung, một ngọn giáo, một cái gậy, hay một hàng rào. Đó là ý nghĩa của cuộc sống."

"Sức mạnh của anh ư?"

"Lao động của anh."

Anh quẳng nhánh cây sang bên cạnh. "Nguyên vật liệu mà trái đất cung cấp cho ta và cái mà ta làm ra từ những nguyên liệu ấy... Ông đang nghĩ gì vậy hả Gail?"

"Về bức ảnh trên tường ở trong văn phòng tôi."

*

* *

Phải luôn kiềm chế, như anh ấy mong muốn; phải kiên nhẫn, phải biến kiên nhẫn thành một trách nhiệm mà ta tự nguyện thực hiện hàng ngày một cách có ý thức; phải đứng trước Roark và để sự bình thản của ta nói với anh rằng: "Đây là điều khó khăn nhất mà anh từng yêu cầu em, nhưng em vui lòng thực hiện, nếu như đó là những gì anh muốn." - đó là nguyên tắc sống của Dominique.

Cô đứng bên cạnh, như một khán giả yên lặng của Roark và Wynand. Cô yên lặng quan sát họ. Cô từng muốn hiểu Wynand. Và đây là câu trả lời.

Cô chấp nhận các cuộc viếng thăm của Roark tới nhà của họ và chấp nhận rằng trong những tiếng đồng hồ của các buổi tối đó, anh thuộc về Wynand, chứ không phải cô. Cô gặp anh như một bà chủ nhà lịch thiệp, hờ hững và tươi cười, không phải như một người bình thường mà như một đồ vật thanh nhã trong nhà của Wynand. Cô ngồi đầu bàn ăn trong bữa tối, rồi sau đó để mặc họ trong phòng làm việc.

Cô ngồi một mình trong phòng khách, tắt đèn và cửa mở rộng. Cô ngồi thẳng và yên lặng. Mắt cô nhìn vào vạch sáng rọi ra từ khe cánh cửa phòng làm việc đối diện. Cô nghĩ: Nhiệm vụ của ta là nhìn vào cánh cửa đó như khi ta nhìn thấy anh ở đây, không được phàn nàn, một nhiệm vụ cả khi một mình, cả khi trong bóng tối, khi không ai biết ngoài chính ta... Roark, nếu đây là sự trừng phạt mà anh đã dành cho em, em sẽ tuân theo đầy đủ, không phải như một vở diễn trước mặt anh, mà như một nhiệm vụ em phải thực hiện một mình - anh biết rằng chịu đựng một sự tra tấn về thể xác không khó đối với em, chỉ có sự kiên nhẫn mới thật là khó khăn, anh đã chọn cái khó nhất, và em phải thực hiện nó, phải dâng cái đó cho anh... người yêu quý nhất... của em.

Khi Roark nhìn cô, ánh mắt anh không hề phủ nhận những ký ức. Ánh mắt ấy nói đơn giản rằng không có gì thay đổi và không có gì cần phải nói ra. Cô cảm nhận như đang nghe anh nói: Tại sao em lại sốc? Chúng ta đã từng xa cách ư? Phòng khách của em, chồng của em và cái thành phố mà em khiếp sợ ở phía của sổ kia, chúng có thực lúc này không, Dominique? Em có hiểu không? Em đã bắt đầu hiểu rồi phải không?

"Có," cô thường đột nhiên nói to, tin tưởng rằng lời nói đó thích hợp với cuộc hội thoại lúc này, và biết rằng Roark có thể nghe thấy câu trả lời của cô.

Đó không phải là sự trừng phạt mà anh đã chọn cho cô. Đó là một nguyên tắc áp đặt lên cả hai người; đó là bài kiểm tra cuối cùng. Cô hiểu được mục đích của anh khi cô hiểu rằng cô có thể cảm thấy tình yêu của cô dành cho anh, qua căn phòng này, qua Wynand, thậm chí qua tình cảm của anh dành cho Wynand và cô, qua cái tình thế bất khả, qua sự im lặng bắt buộc của cô - những trở ngại này chứng minh với cô rằng không có một trở ngại nào có thể tồn tại.

Cô không tìm gặp anh một mình. Cô chờ đợi.

Cô không tới thăm công trường xây dựng. Cô đã nói với Wynand: "Em sẽ nhìn ngôi nhà khi nào nó được xây xong." Cô không bao giờ hỏi ông về Roark. Khi Wynand về nhà vào lúc tối muộn và nói với cô rằng ông đã ở cả buổi tối tại căn hộ của Roark, nơi cô chưa bao giờ nhìn thấy, cô yên tay mình trên thành ghế, để ngăn cản bất cứ một sự bộc phát tình cảm nào, cánh tay cô như là một chiếc phong vũ biểu đo sức chịu đựng của cô.

Một lần cô không kìm được và hỏi:

"Cái gì vậy, Gail? Một kiểu ám ảnh à?"

"Anh đoán thế." Ông nói thêm: "Thật lạ là em không thích anh ấy."

"Em chưa từng nói vậy."

"Anh có thể hiểu được. Anh không thực sự ngạc nhiên. Đó là kiểu của em. Em phải ghét anh ta... chính bởi vì anh ấy là kiểu đàn ông mà em sẽ thích... Đừng bực mình với sự ám ảnh của anh."

"Em không bực với nó."

"Dominique, em có hiểu được không nếu anh nói với em rằng anh yêu em nhiều hơn kể từ khi anh gặp anh ấy? Thậm chí - anh muốn nói điều này - thậm chí khi em nằm trong tay anh, chuyện đó lớn hơn lúc trước. Anh cảm thấy mình có quyền lớn hơn với em."

Ông nói với một sự tự tin đơn giản mà họ đã dành cho nhau trong suốt ba năm qua. Cô ngồi nhìn ông như cô luôn luôn làm vậy; cái nhìn của cô ẩn chứa một sự dịu dàng không trách móc và một nỗi buồn không mang sự thương hại.

"Em hiểu mà Gail."

Sau một thoáng, cô hỏi:

"Anh ấy là gì đối với anh vậy Gail? Một kiểu đền thờ à?"

"Một kiểu áo tu sĩ " Wynand nói.

Khi cô đã lên gác, ông tới bên cửa sổ và đứng nhìn lên bầu trời cao. Đầu ông ngã về sau, ông cảm nhận được sức căng của những cơ bắp ở cổ và ông phân vân tự hỏi không biết cái cảm giác thiêng liêng khi ngắm nhìn bầu trời đến từ cảnh tượng mà người ta nhìn thấy hay chính cái hành động ngẩng lên của đầu mình.

VI

"Rắc rối cơ bản của thế giới hiện đại," Ellsworth Toohey nói, "là sự ảo tưởng trong ý thức của chúng ta rằng sự tự do và sự cưỡng bách đối lập với nhau. Để giải quyết các vấn đề lớn đang tấn công thế giới ngày nay, chúng ta phải làm rõ sự mơ hồ về trí tuệ của chúng ta. Chúng ta phải đạt được một quan điểm triết học. Về bản chất, sự tự do và sự cưỡng bách là một. Để tôi lấy một ví dụ đơn giản. Đèn giao thông ngăn cản sự tự do qua lại một đường phố vào bất kỳ lúc nào anh muốn. Nhưng sự ngăn cản này mang lại cho anh sự tự do khỏi bị cán bởi một chiếc xe tải. Nếu anh được giao một công việc và bị cấm từ bỏ việc đó, điều đó sẽ hạn chế sự tự do nghề nghiệp của anh. Nhưng lại mang đến cho anh sự tự do thoát khỏi nỗi lo thất nghiệp. Bất kỳ lúc nào khi phải chịu đựng một sự cưỡng bách mới, chúng ta tự động nhận được một sự tự do mới. Hai điều này không thể tách rời nhau. Chúng ta chỉ có thể giành được sự tự do hoàn toàn khi chấp nhận sự cưỡng bách hoàn toàn."

"Chính là như vậy!" Mitchell Layton ré lên.

Đó đúng là một tiếng ré, thanh và the thé. Nó được thốt ra cũng thình lình như là một sự thình lình của chuông báo cháy. Khách khứa nhìn cả về phía Mitchell Layton.

Mitchell Layton ngồi ngả ngớn trong một chiếc ghế bành bọc nhung trong phòng khách của mình, chân và bụng thò ra ngoài, giống như một đứa trẻ đáng ghét đang phô trương một dáng điệu xấu. Mọi thứ trên người Mitchell Layton đều có vẻ thiêu thiếu và dang dở. Có vẻ như cơ thể anh ta đã quyết định mình phải cao, nhưng giữa chừng lại thay đổi ý định, và kết quả là anh ta có phần thân trên dài nhưng cặp giò thì ngắn và bè bè. Xương mặt anh rất thanh tú, nhưng da thịt thì cứ như muốn đùa với khuôn mặt nên chúng xệ ra, không đến mức béo phì, nhưng đủ để làm cho người ta nghĩ đến một người bị quai bị mãn tính. Môi Mitchell Layton bĩu ra. Đó không phải là một trạng thái biểu hiện cảm xúc tạm thời hay một sự sắp xếp của riêng khuôn mặt. Đó là một thuộc tính kinh niên, tỏa ra từ khắp người anh. Anh bĩu môi ra bằng cả cơ thể mình.

Mitchell Layton được thừa kế một phần tư tỷ đô la và đã tiêu phí ba mươi ba năm cuộc đời để cố gắng biện hộ cho điều đó.

Ellsworth Toohey mặc quần áo dạ tiệc, đứng uể oải, tựa lưng vào tủ đựng đồ. Sự lãnh đạm của ông có một vẻ thân mật, hòa nhã và một chút ngạo mạn, như thể những người quanh ông không xứng đáng để ông phải giữ một phong cách lịch thiệp.

Ông đảo mắt quanh phòng. Căn phòng này không hẳn là hiện đại, không hẳn theo phong cách Thuộc địa, có một chút hơi hướng của kiểu đế chế Pháp. Đồ đạc trong phòng đều có mặt phẳng với những họa tiết đỡ có hình uốn cong như cổ thiên nga. Những cái gương màu đen, những chiếc đèn bão chạy điện, những đồ mạ và thảm thêu - chúng chỉ thống nhất với nhau ở một điểm: sự đắt tiền.

"Đúng như vậy," Mitchell Layton nói một cách hung hăng, như thể anh biết trước mọi người sẽ phản đối nên phải sỉ nhục họ trước. "Người ta quá lắm lời về sự tự do. Tôi muốn nói rằng ý nghĩa của từ tự do rất mập mờ và đã bị lạm dụng. Tôi thậm chí không chắc rằng sự tự do có phải là một ân phước khốn kiếp hay không. Tôi nghĩ con người sẽ hạnh phúc hơn nhiều trong một xã hội quy củ, với một khuôn mẫu nhất định và một hình thái đồng nhất - giống như một điệu nhảy dân gian. Các vị biết một điệu nhảy dân gian đẹp thế nào rồi đó. Và cả nhịp điệu của nó cũng vậy. Đó là bởi vì nó là tác phẩm của hàng thế hệ, và họ không để bất kỳ môt kẻ ngu ngốc nào có cơ hội nhảy vào và thay đổi nó. Đó là cái chúng ta cần. Ý tôi là khuôn mẫu và nhịp điệu. Và vẻ đẹp nữa."

"Đó là một sự so sánh thích hợp đấy, Mitch," Ellsworth Toohey nói. "Tôi luôn nói với anh rằng anh có một trí tuệ sáng tạo."

"Tôi muốn nói rằng, cái làm cho con người ta không hạnh phúc không phải là quá ít mà là quá nhiều lựa chọn," Mitchell Layton nói. "Lúc nào cũng phải quyết định, luôn phải quyết định, luôn luôn bị giằng co bởi quá nhiều thứ. Nào, nếu một xã hội có khuôn mẫu, người ta sẽ cảm thấy an toàn. Không có ai sẽ tới làm phiền anh bắt anh phải làm cái này cái nọ. Không ai phải làm bất kỳ điều gì. Ý tôi là, dĩ nhiên rồi, trừ lao động vì lợi ích chung."

"Chỉ có giá trị tinh thần mới quan trọng," Homer Slottern nói. "Hãy bắt kịp với thời đại và thế giới. Đây là một thế kỷ của tinh thần."

Homer Slottern có một khuôn mặt to với đôi mắt đờ đẫn. Những khuy áo sơ mi bằng đá hồng ngọc và ngọc lục bảo, trông giống như những cục sa-lát vón lại trên thân trước của chiếc áo sơ mi được hồ cứng. Ông sở hữu ba trung tâm thương mại.

"Cần phải có một bộ luật bắt mọi người phải học những bí mật thần bí của các thời đại," Mitchell Layton nói. "Chúng đã được viết ra tất cả trên các kim tự tháp Ai Cập."

"Đúng thế, Mitch," Homer Slottern đồng ý. "Có nhiều điều để nói về thuyết thần bí. Về một mặt. Còn mặt khác, cần nói về chủ nghĩa duy vật biện chứng..."

"Hai thứ đó không hề mâu thuẫn," Mitchell Layton khinh khỉnh kéo dài giọng. "Thế giới tương lai sẽ kết hợp cả hai."

"Trên thực tế" - Ellsworth Toohey nói - "cả hai thứ đều là sự biểu hiện bề ngoài của cùng một sự vật, với cùng một mục đích." Mắt kính của ông lóe sáng, như thể được thắp sáng từ bên trong. Có vẻ ông đang tự thưởng thức câu nói của mình theo cách của riêng ông.

"Tất cả những gì tôi biết là, sống vì người khác là nguyên tắc đạo đức duy nhất," Jessica Pratt nói, "Đó là nguyên tắc cao quý nhất, là nghĩa vụ thiêng liêng, và quan trọng hơn sự tự do rất nhiều. Sống vì người khác là con đường duy nhất dẫn tới hạnh phúc. Tôi sẽ bắn chết hết những người đã từ chối sống vì người khác. Để cho họ thoát khỏi sự đau khổ. Họ không thể có được hạnh phúc."

Jassica Pratt nói một cách đăm chiêu. Cô có một khuôn mặt dịu dàng và già dặn, làn da hồng phấn không cần đến trang điểm, làm cho người ta có cảm giác rằng một ngón tay chạm vào làn da đó sẽ bị dính một lớp bụi phấn.

Jessica Pratt có một cái họ lâu đời, không tiền bạc và một niềm say mê lớn: tình yêu của cô dành cho cô em gái Renee. Họ mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ và cô đã dành cả cuộc đời mình để nuôi lớn Renee. Cô đã hy sinh mọi thứ, cô chưa từng lấy chồng, cô đã đấu tranh, bày mưu, vạch kế hoạch, lừa gạt trong nhiều năm và đạt được thắng lợi là đám cưới của Renee với Homer Slottern.

Renee Slottern ngồi co tròn lại trên một cái ghế để chân, miệng tóp tép nhai lạc. Thỉnh thoảng cô với tay lên chiếc đĩa pha lê trên một bên bàn để lấy thêm lạc. Cô không biểu lộ bất kỳ cố gắng nào khác. Đôi mắt nhợt nhạt trên khuôn mặt nhợt nhạt của cô ngó lơ ngơ ra xung quanh.

"Chị đi quá xa rồi, Jess," Homer Slottern nói. "Chị không thể hy vọng mọi người đều trở thành những vị thánh."

"Tôi không hy vọng gì cả," Jessica nhu mì nói. "Tôi đã từ bỏ việc hy vọng từ lâu rồi. Chúng ta cần đến giáo dục. Chà, tôi nghĩ là ông Toohey hiểu điều này. Nếu mọi người bị bắt buộc phải nhận một sự giáo dục thích hợp, chúng ta sẽ có một thế giới tốt đẹp hơn. Nếu chúng ta bắt mọi người phải làm điều tốt, họ sẽ được hạnh phúc."

"Cuộc tranh luận này thật hoàn toàn vô ích," Eve Layton nói. "Ngày nay chẳng có một người thông minh nào lại tin vào sự tự do. Nó lỗi thời rồi. Tương lai thuộc về quy hoạch xã hội. cưỡng bách là quy luật tự nhiên. Thế thôi. Điều này thật hiển nhiên."

Eve Layton xinh đẹp. Cô ngồi dưới ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn chùm, mái tóc đen mềm mại của cô bám sát vào da đầu, chiếc váy sa-tanh màu xanh lá cây nhạt sống động như một dòng nước sắp tuôn trào, phơi bày làn da mỏng, rám nắng của cô. Cô có một khả năng đặc biệt trong việc biến sa-tanh và nước hoa trở nên hiện đại như những mặt bàn tay quay tròn bằng nhôm. Cô là Thần vệ nữ vươn mình lên khỏi một miệng tàu ngầm.

Eve Layton tin rằng nhiệm vụ của cô trong cuộc đời là trở thành người đi tiên phong - không quan trọng tiên phong cái gì. Phương pháp của cô luôn luôn là thực hiện những bước nhảy vọt bất cẩn, rổi hạ cánh trong chiến thắng ở rất xa trước tất cả mọi người. Triết lý của cô gói gọn trong một câu - "Ta luôn thành công vì ta đẹp." Trong các cuộc đối thoại, cô luôn diễn giải triết lý ấy bằng một câu cô yêu thích: "Tôi ư? Tôi là ngày mai của ngày mai." Cô là một chuyên gia cưỡi ngựa, một tay đua xe, một nhà vô địch bơi lội. Khi nhận thấy sự chú ý của mọi người đã chuyển sang lĩnh vực của những ý tưởng, cô lại thực hiện một cú nhảy vọt khác, như cô vẫn thường làm. Cô đáp xuống ở phía trước, ở chỗ thức thời nhất. Khi đáp xuống, cô ngạc nhiên khi thấy có những người hoài nghi về chiến tích của cô. Không có ai từng hoài nghi về các chiến tích khác của cô cả. Cô nổi đóa lên với bất kỳ ai không đồng ý với các quan điểm chính trị của cô. Đó là một vấn đề cá nhân. Cô phải đúng bởi vì cô là ngày mai của ngày mai.

Chồng cô, Mitchell Layton, căm ghét cô.

"Cuộc tranh luận này hoàn toàn hợp lý," anh ta ngắt lời. "Không phải tất cả mọi người đều có trình độ như em đâu, em yêu ạ. Chúng ta phải giúp đỡ những người khác. Đó là bổn phận mang tính đạo đức của các nhà lãnh đạo tri thức. Ý tôi là chúng ta nên vứt quách sự sợ hãi với cái cụm từ 'sự cưỡng bách' đi. Không bao giờ là cưỡng bách khi ta hành động vì một sự nghiệp cao cả. Ý tôi là, cưỡng bách là nhân danh tình yêu. Nhưng tôi không biết chúng ta phải làm thế nào để cho đất nước này hiểu được điều đó. Người Mỹ thật là bảo thủ."

Anh không thể tha thứ cho đất nước của mình bởi vì nó đã mang đến cho anh một phần tư tỷ đô la và sau đó từ chối ban cho anh một sự kính trọng tương đương số tiền ấy. Người ta không tiếp nhận những đánh giá của anh về nghệ thuật, văn học, lịch sử, sinh học, xã hội học và siêu hình học như nhận những tờ ngân phiếu của anh. Anh phàn nàn rằng mọi người đánh giá về anh quá nhiều qua tiền bạc. Anh căm ghét họ bởi vì họ không đánh giá anh một cách đầy đủ.

"Có quá nhiều điều để nói về sự cưỡng bách" Homer Slottern phát biểu. "Miễn là nó được sắp xếp một cách dân chủ. Lợi ích chung phải luôn đi trước, cho dù chúng ta có thích nó hay không."

Diễn giải bằng ngôn từ thì thái độ của Homer Slottern bao hàm hai phần mâu thuẫn nhau, nhưng điều này cũng chẳng làm phiền gì đến anh, bởi chúng vẫn nằm yên trong tâm trí của anh mà chưa bao giờ được diễn giải. Thứ nhất, anh cảm thấy rằng những lý thuyết trừu tượng là những thứ rất vớ vẩn, và nếu như có khách hàng cần đến những thứ hàng đặc biệt này thì việc cung cấp cho họ hoàn toàn an toàn, và còn là một vụ làm ăn tốt. Thứ hai, anh cảm thấy bứt rứt không yên khi phải bỏ qua cái mà mọi người gọi là cuộc sống tinh thần chỉ vì anh bận kiếm tiền; có lẽ những người như Toohey có lý nhất định. Và nếu như họ lấy đi những cửa hàng của anh thì sao? Làm một nhà quản lý của một Trung tâm Thương mại Quốc doanh đâu có thực sự dễ dàng? Chẳng phải tiền lương cho công việc quản lý này mang lại cho anh mọi thứ danh tiếng và tiện nghi mà anh được hưởng, mà không cần phải gánh trách nhiệm của người chủ sở hữu đấy hay sao?

"Có đúng là trong xã hội tương lai, phụ nữ sẽ được ngủ với bất kỳ người đàn ông nào mà cô ta muốn?" Renee Slottern hỏi. Câu nói ấy bắt đầu như một câu hỏi nhưng rồi đuối dần đi. Cô không thực sự muốn biết. Cô chỉ cảm thấy hơi băn khoăn không biết một người phụ nữ sẽ cảm thấy thế nào khi có một người đàn ông mà họ thực sự ham muốn, và ham muốn là như thế nào.

Đi tranh luận về lựa chọn cá nhân thì thật là ngu ngốc," Eve Layton nói. "Chuyện đó lỗi thời rồi. Chẳng hề tồn tại cái gọi là 'một người'. Chỉ có một thực thể tập hợp đủ thứ. Đó là điều hiển nhiên."

Ellsworth Toohey mỉm cười và không nói gì cả.

"Chúng ta cần phải làm gì đó để thay đổi công chúng," Mitchell Layton tuyên bố. "Họ phải được dẫn đường chỉ lối. Họ không biết cái gì là tốt cho họ. Ý tôi là tôi không thể hiểu nổi tại sao những người có văn hóa và vị trí như chúng ta hiểu được những lý tưởng vĩ đại của chủ nghĩa tập thể và sẵn sàng hy sinh những lợi ích cá nhân, trong khi những người lao động được hưởng lợi từ điều đó lại luôn hờ hững một cách ngu ngốc như thế. Tôi không thể hiểu tại sao những công nhân ở đất nước này lại chẳng mấy mặn mà với chủ nghĩa tập thể."

"Anh không thể hiểu à?" Ellsworth Toohey nói. Mắt kính của ông lấp lánh.

"Tôi chán ngấy chuyện này rồi," Eve Layton ngắt lời và đi đi lại lại trong phòng, ánh đèn trượt qua vai cô.

Cuộc nói chuyện chuyển qua đề tài nghệ thuật và những tên tuổi đứng đầu của thời đại trong mọi lĩnh vực nghệ thuật.

"Lois Cook nói rằng ngôn từ phải được giải phóng khỏi sự áp đặt của lý trí. Cô ta nói rằng cái thòng lọng lý trí đặt trên ngôn ngữ cũng giống như việc các nhà tư bản bóc lột quần chúng nhân dân. Từ ngữ phải được phép thỏa hiệp với lý trí thông qua thỏa thuận chung. Cô ta đã nói như vậy. Cô ta thật lạ lùng và mới mẻ."

"Ike cái gì nhỉ - nhắc lại cho tôi tên anh ta là gì nhỉ? - anh ta nói rằng rạp hát là một công cụ của tình yêu. Một vở kịch không phải diễn ra trên sân khấu... mà là diễn ra trong trái tim của khán giả."

"Jules Fougler nói trên tờ Ngọn cờ số Chủ nhật tuần trước rằng trong thế giới tương lai, nghệ thuật sân khấu sẽ không còn cần thiết nữa. Ông ta nói rằng cuộc sống hàng ngày của một người bình thường tự nó đã là một tác phẩm nghệ thuật, như một bi kịch vĩ đại nhất của Shakespeare. Trong tương lai cũng sẽ chẳng còn chỗ đứng cho các nhà viết kịch. Nhà phê bình sẽ chỉ đơn giản là quan sát cuộc sống của quần chúng và đánh giá những điểm nghệ thuật của nó cho công luận. Đó là điều Jules Fougler đã nói. Hiện giờ tôi cũng không biết liệu tôi có đồng ý với ông ta hay không, nhưng ý kiến đó mang một góc nhìn rất mới mẻ và thú vị."

"Lancelot Clokey nói rằng đế chế Anh quốc đang tới ngày tận số. Ông ta nói sẽ không còn có chiến tranh bởi những người công nhân trên thế giới không cho phép điều đó xảy ra. Chiến tranh là do các chủ ngân hàng quốc tế và các nhà sản xuất vũ khí khơi mào. Họ đã bị hất ra khỏi chính quyền. Lancelot Clokey nói rằng vũ trụ này là một bí ẩn và rằng mẹ của ông ta là người bạn tốt nhất. Ông ta nói rằng thủ tướng Bungari thường ăn cá trích vào bữa sáng."

"Gordon Prescott nói rằng kiến trúc chỉ gói gọn trong bốn bức tường và trần nhà. Sàn nhà là phần không bắt buộc. Tất cả những phần còn lại chỉ là sự phô trương trưởng giả. Ông ta nói rằng không nên cho phép bất kỳ ai xây dựng bất cứ cái gì ở bất cứ chỗ nào, cho tới khi mọi dân cư trên trái đất này đều có được một mái nhà. Thế còn những người thuộc bộ lạc Patagonia thì sao? Việc của chúng ta là phải dạy dỗ để họ mong muốn một mái nhà. Prescott gọi đó là sự tương hỗ biện chứng xuyên không gian ."

Ellsworth Toohey không nói gì hết. Ông đứng mỉm cười khi tưởng tượng ra một cái máy chữ khổng lồ. Mỗi cái tên nổi tiếng ông đang nghe là một phím của bàn phím, mỗi phím đang điều khiển một lĩnh vực đặc biệt. Mỗi phím gõ và để lại dấu của nó, tất cả chúng tạo nên những câu được kết nối với nhau trên tờ giấy trắng rộng. Ông nghĩ: cái máy chữ quyết định bàn tay gõ vào những phím của nó.

Ông chợt giật mình khi nghe thấy giọng nói hờn dỗi của Mitchell Layton:

"À, phải, tờ Ngọn cờ, quỷ tha ma bắt nó đi!"

"Tôi biết," Homer Slottern nói.

"Nó đang xuống dốc." Mitchell Layton nói. "Nó nhất định là đang xuống dốc. Một khoản đầu tư lớn của tôi. Đó là lần duy nhất mà Ellsworth đã nhầm lẫn."

"Ellsworth không bao giờ nhầm lẫn," Eve Layton nói.

"Hừm, ông ấy đã nhầm, vào lúc đó. Ông ấy là người đã khuyên tôi mua một mảnh của cái khăn trải giường đầy rận đó." Layton nhìn vào ánh mắt nhẫn nại của Toohey và vội vàng nói thêm: "Tôi không có ý phàn nàn gì đâu Ellsworth. Việc đó không sao cả. Nó thậm chí còn có thể giúp tôi giảm bớt được một phần thuế thu nhập khốn kiếp. Nhưng cái giẻ rách phản động bẩn thỉu đó chắc chắn đang xuống dốc rồi."

"Kiên nhẫn chút đi Mitch," Toohey nói.

"Ông không nghĩ là tôi nên bán nó đi và tìm cách thoát thân à?"

"Không đâu, Mitch, tôi không nghĩ vậy."

"OK, nếu ông nói như vậy. Tôi đủ khả năng cho nó. Tôi có đủ khả năng chi trả cho bất kỳ cái gì."

"Nhưng tôi thì không thể!" Homer Slottern gào lên một cách dữ dội làm mọi người bị bất ngờ. "Giờ thì tôi không thể đăng quảng cáo trên tờ Ngọn cờ nữa. Không phải là chuyện số phát hành của nó - cái đó vẫn ổn - nhưng mà dư luận chúng - có một dư luận hơi lạ - Ellsworh, tôi đang nghĩ đến chuyện hủy hợp đồng của tôi đi."

"Tại sao?"

"Ông có biết về phong trào 'Chúng ta không đọc báo của Wynand' không?"

"Tôi có nghe về nó."

"Phong trào đó do một kẻ tên là Gus Webb dẫn đầu. Họ dán truyền đơn trên những tấm kính chắn gió xe hơi và trong các nhà vệ sinh công cộng. Họ huýt sáo chê bai những phim thời sự của Wynand trong các nhà hát. Tôi không nghĩ rằng đó là một nhóm lớn nhưng... Tuần trước, một phụ nữ chẳng lấy gì làm hấp dẫn đã làm ầm lên trong cửa hàng của tôi ở Đại lộ Năm mươi... bà ta gọi chúng tôi là kẻ thù của tầng lớp lao động bởi vì chúng tôi đăng quảng cáo trên tờ Ngọn cờ. Ông có thể bỏ qua chuyện đó, nhưng vấn đề trở nên nghiêm trọng khi một trong những khách hàng lâu năm nhất của chúng tôi, một phụ nữ nhỏ bé hiền hòa ở Connecticut và là người xuất thân từ một gia đình đã ba đời theo đảng Cộng Hòa, gọi điện cho chúng tôi và bảo rằng có lẽ bà ta sẽ hủy tài khoản trả trước của bà ta bởi vì có ai đó đã nói với bà ta rằng Wynand là một kẻ độc tài."

"Gail Wynand không biết chút gì về chính trị ngoại trừ loại chính trị sơ khai nhất," Toohey nói. "Ông ta vẫn nghĩ đến dân chủ theo kiểu ở Hell's Kitchen. Cái thời ấy, người ta quá ngây thơ trước những tham nhũng về chính trị; các vị có đồng ý không?"

"Tôi không quan tâm. Đó không phải là điều mà tôi đang nói. Tôi muốn nói rằng tờ Ngọn cờ đang trở thành một thứ của nợ. Nó làm tổn hại đến việc kinh doanh. Ngày nay người ta phải thật cẩn thận. Ông có dính dáng tới một gã không ra gì và ông vừa mới phát hiện ra là có cuộc vận động bôi nhọ hắn ta thì ông cũng bị vấy bùn theo rồi. Tôi thì không thể chịu được những thứ như vậy."

"Đó không hoàn toàn là sự bôi nhọ vô căn cứ."

"Tôi không quan tâm. Tôi cóc cần biết liệu nó đúng hay sai. Tôi dại gì mà lại giơ đầu chịu báng thay cho Gail Wynand? Nếu như công chúng chống lại ông ta thì việc của tôi là tránh xa ông ta càng xa càng tốt, ngay lập tức. Và không phải chỉ mình tôi như vậy. Có hàng đống người trong số chúng ta cũng nghĩ như vậy, chẳng hạn như Jim Ferris của hãng Ferris & Symes, Billy Shultz của hãng Vimo Flakes, Bud Harper của Toddler Togs, và... quỷ tha ma bắt, ông biết tất cả bọn họ mà. Họ là bạn của ông, bọn chúng ta cả, những thương gia cải cách. Tất cả chúng tôi đều muốn rút các quảng cáo khỏi tờ Ngọn cờ."

"Kiên nhẫn chút đi nào Homer. Tôi sẽ không vội vã đâu. Mọi việc đều có thời điểm thích hợp của nó. Có cái gọi là thời điểm tâm lý đấy."

"Được thôi, tôi sẽ nhớ lời ông. Nhưng tôi cảm giác có cái gì đó không ổn. Một lúc nào đó tình hình sẽ trở nên nguy hiểm."

"Có thể. Tôi sẽ nói cho anh biết khi điều đó xảy ra."

"Tôi tưởng Ellsworth làm cho tờ Ngọn cờ cơ mà," Renee Slottern nói một cách trống rỗng và bối rối.

Những người khác quay về phía cô ta với một sự bực mình và thương hại.

"Cô thật ngây thơ, Renee," Eve Layton nhún vai.

"Nhưng có chuyện gì với tờ Ngọn cờ vậy?"

"Nghe đây, cô bé, đừng bận tâm tới những chuyện chính trị bẩn thỉu," Jessica Pratt nói. "Ngọn cờ là một tờ báo đồi bại. Ngài Wynand là một kẻ xấu xa. Ông ta đại diện cho lợi ích nhỏ mọn của những kẻ giàu có."

"Em nghĩ ông ta trông đẹp trai" Renee nói. "Em nghĩ ông ta rất gợi tình."

"Ồ, Chúa ơi!" Eve Layton gào lên.

"Thôi nào, rút cục thì Renee cũng có quyền nói ý kiến của cô ấy chứ," Jessica Pratt bất ngờ nổi cơn thịnh nộ.

"Em nghe nói Ellsworth là chủ tịch Hiệp hội nhân viên của tập đoàn Wynand," Renee dài giọng nói.

"Ồ không, Renee. Tôi không bao giờ là chủ tịch của bất cứ cái gì. Tôi chỉ là một thành viên có tên trong danh sách. Giống như một thằng bé để sai vặt thôi."

"Họ có Hiệp hội Nhân viên của Wynand cơ à?" homer Slottern hỏi.

"Lúc đầu thì chỉ là một câu lạc bộ thôi," Toohey nói. "Năm ngoái nó đã trở thành một hiệp hội."

"Ai tổ chức hiệp hội đó thế?"

"Ai mà biết được. Gần như là tự phát. Giống như tất cả các phong trào quần chúng."

"Tôi nghĩ Wynand là một tên vô lại," Mitchell Layton tuyên bố. "Hắn ta nghĩ hắn ta là ai cơ chứ? Tôi đến dự một cuộc họp cổ đông và hắn coi bọn tôi như thể chúng tôi là những kẻ tôi tớ. Tiền của tôi không tốt như của hắn ta à? Tôi không sở hữu một phần lớn của cái tờ báo khốn kiếp của hắn chắc? Tôi có thể dạy cho hắn ta một vài thứ về nghề báo. Tôi có những ý tưởng. Hắn ta kiêu ngạo về cái gì vậy nhỉ? Chỉ bởi vì hắn đã tự tay gây dựng nên cơ nghiệp hay sao? Hắn ta có thể trở thành một kẻ hợm hĩnh khốn kiếp như vậy chỉ bởi vì hắn ta xuất thân từ Hell's Kitchen à? Nếu như một người không có may mắn được sinh ra từ Hell's Kitchen thì đó không phải là lỗi của anh ta! Không một ai hiểu được rằng sinh ra trong nhung lụa cũng là một điều vô cùng bất lợi. Bởi vì mọi người cứ mặc nhiên đánh giá thấp anh, rằng chỉ bởi vì anh sinh ra đã được giàu có, nếu không thì anh sẽ chẳng làm nên trò trống gì. Điều tôi muốn nói là nếu tôi có được những cơ may như Gail Wynand, thì tôi đã giàu gấp đôi và nổi tiếng gấp ba hắn ta bây giờ. Nhưng hắn ta thật tự phụ, hắn ta không nhận ra điều này chút nào!"

Không ai nói một lời nào. Họ nghe thấy trong giọng nói của Mitchell Layton một sự kích động ngày càng tăng. Eve Layton nhìn Toohey thầm cầu cứu. Toohey mỉm cười và bước tới.

"Tôi xấu hổ vì cậu đấy, Mitch," ông ta nói.

Homer Slottern thở hổn hển. Chưa từng có ai quở trách Mitchell Layton về chủ đề này. Chưa từng có ai quở trách Mitchell Layton về bất kỳ cái gì.

Môi dưới của Mitchell Layton biến mất.

"Tôi xấu hổ vì cậu đấy Mitch," Toohey lặp lại một cách nghiêm khắc, "vì cậu lại đi so sánh mình với một kẻ đê tiện như Gail Wynand."

Miệng Mitchell Layton dãn ra thành một cái gì đó gần giống như một nụ cười.

"Ông nói đúng," anh ta nói khẽ.

"Không, cậu không bao giờ có thể đạt được cơ nghiệp như của Gail Wynand. Vì cậu có một đầu óc nhạy cảm và một bản tính nhân hậu. Những cái đó đã giữ chân cậu, chứ không phải là tiền của cậu, Mitch. Ai quan tâm tới tiền nào? Thời đại của tiền bạc đã qua rồi. Bản chất của cậu quá tốt nên cậu không thể tham dự vào cuộc cạnh tranh khốc liệt của hệ thống tư bản của chúng ta. Nhưng cái thời ấy cũng đang trôi qua rồi."

"Điều đó là hiển nhiên," Eve Layton nói.

Khi Toohey ra về thì trời đã muộn. Ông cảm thấy vui vẻ và quyết định đi bộ về nhà. Đường phố vắng lặng, bóng tối của những tòa nhà như lan cả lên trời, một cách cả quyết và trần trụi. Ông nghĩ tới những gì ông đã có lần nói với Dominique: "Một bộ máy nhỏ phức tạp, như xã hội chúng ta... và chỉ bằng việc ấn ngón tay nhỏ bé của mình vào một điểm... vào tâm điểm của tất cả sức mạnh của nó... cô có thể làm cả thành phố này đổ sụp thành một đống mạt sắt..." Ông nhớ Dominique. Ông ước gì cô có mặt cùng ông để nghe cuộc tranh luận tối nay.

Ông cảm thấy sôi lên vì không thể chia sẻ được với ai. Ông dừng lại giữa một con phố yên tĩnh, nhả đầu ra sau vừa cười to vừa nhìn lên đỉnh của các tòa nhà trọc trời.

Một cảnh sát vỗ nhẹ vào vai ông và hỏi: "Khỏe chứ, ông?"

Toohey nhìn thấy những khuy áo và chiếc áo xanh bó chặt trên một lồng ngực rộng, một khuôn mặt lạnh, cứng rắn và kiên nhẫm; một người đàn ông vững chãi và độc lập như những tòa nhà xung quanh họ.

"Đang làm nhiệm vụ phải không, ngài cảnh sát?" Toohey hỏi, âm vang của tiếng cười như ngân dài trong giọng nói của ông. "Bảo vệ pháp luật, trật tự và phép tắc và cuộc sống của con người phải không?" Người cảnh sát gãi đầu. "Ông nên bắt giữ tôi, ông cảnh sát."

"OK, anh bạn, OK," người cảnh sát nói. "Ông đi đi. Ai cũng có lúc vượt quá sức chịu đựng."

VII.

Chỉ khi người thợ sơn cuối cùng ra về, Peter Keating mới cảm nhận thấy sự cô độc và sự yếu ớt đến tê liệt của khuỷu tay mình. Anh đứng trong sảnh và nhìn lên trần nhà. Dưới lớp sơn thô, anh vẫn có thể nhìn thấy đường nét của một hình vuông, nơi cái cầu thang vừa bị tháo đi và cái lỗ hổng đã được người ta bịt lại. Văn phòng cũ của Guy Francon đã không còn. Hãng Keating & Dumont giờ đây chỉ còn lại một tầng.

Anh nghĩ đến cái cầu thang, nhớ lại lần đầu tiên anh đã đi trên những bậc thang trải nhung đỏ ấy, cầm một bản vẽ trên các đầu ngón tay. Anh nghĩ về vưn phòng Guy Francon với những ánh sáng lung linh tráng lệ. Anh nghĩ về bốn năm qua khi văn phòng đó thuộc về anh.

Trong những năm gần đây, anh đã biết điều gì đang xảy ra với công ty của anh. Anh đã biết rất rõ khi những người mặc đồng phục công nhân tháo dỡ chiếc cầu thang và vá cái lỗ hổng trên trần. Nhưng chính cái hình vuông dưới lớp sơn trắng ấy là cái làm cho anh ý thức rằng mọi việc đang thật sự xảy ra, và không thể thay đổi.

Anh đã phó mặc cái sự tụt dốc này, từ lâu rồi. Không phải tự anh lựa chọn để phó mặc mọi sự - như thế đã là một quyết định tích cực - đơn giản là nó cứ thế xảy ra và anh đã để mặc cho nó xảy ra. Mọi việc diễn ra rất giản đơn, hầu như không gây đau đớn gì, giống như sự uể oải cũng không gây ra cho người ta điều gì tồi tệ ngoài một giấc ngủ ngon. Nỗi đau âm ỉ đến từ cái ước muốn hiểu được tại sao điều đó lại xảy ra.

Cuộc triển lãm Hành trình của Những thế kỷ đã diễn ra, nhưng chỉ mình cuộc triển lãm ấy thì không thành vấn đề. Hành trình của Những thế kỷ đã khai mạc vào tháng Năm và đã thất bại. Thì đã sao nào, Keating nghĩ, tại sao lại không dùng một từ chính xác? Một thất bại. Một thất bại lớn. "Tên của dự án này đáng lẽ sẽ là cái tên phù hợp nhất," Ellsworth Toohey đã viết, "nếu chúng ta giả thiết rằng các thế kỷ đã vụt qua trên lưng ngựa."

Tất cả các bài viết khác về những giá trị kiến trúc của cuộc triển lãm này cũng tương tự như vậy.

Keating cay đắng nghĩ về việc anh và bảy kiến trúc sư khác đã làm việc tận tình như thế nào khi thiết kế những tòa nhà đó. Đúng là anh đã đẩy mình ra phía trước và nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận hơn, nhưng anh đã không làm thế trong những thứ liên quan đến thiết kế. Họ đã làm việc trong sự hòa thuận, thông qua các cuộc họp liên tiếp, mỗi người nhượng bộ những người kia trong một tinh thần tập thể thực sự, không một ai cố áp đặt những định kiến cá nhân hay những ý tưởng ích kỷ của riêng mình đối với những người khác. Thậm chí Ralston Holcombe đã quên đi phong cách Phục hưng. Họ thiết kế các tòa nhà hiện đại, hiện đại hơn bất kỳ những gì từng có, hiện đại hơn những cửa sổ bày hàng của Trung tâm Thương mại Slottern. Anh không nghĩ rằng những tòa nhà ấy trông giống như "thuốc đánh răng phòi ra thành từng sợi khi có ai đó dẫm lên tuýp thuốc, hay những phiên bản được cách điệu hóa của trực tràng", như một nhà phê bình đã nói.

Nhưng công chúng dường như nghĩ vậy - nếu quả đúng là công chúng có suy nghĩ chung. Anh không biết chắc. Anh chỉ biết rằng người ta đã đổi vé vào cổng của Hành trình của Những thế kỷ lấy thẻ chơi trò Screeno ở các rạp hát, và rằng sự kiện gây náo động cũng là cứu cánh về tài chính cho cuộc triển lãm lại là màn nhảy múa trần truồng của một anh hề mang tên Juanita Fay với một con công.

Nhưng việc hội chợ này thất bại thì đã sao nào? Việc đó chẳng làm tổn hại gì tới các kiến trúc sư khác của hội đồng. Gordon L.Prescott đang phất lên hơn bao giờ hết. Không phải là vì cái hội chợ này - Keating nghĩ. Mọi việc đã bắt đầu từ trước đó rồi. Anh cũng không biết là khi nào.

Có thể có nhiều lời giải thích. Sự suy thoái đã ảnh hưởng tới tất cả bọn họ; một số công ty khác đã hồi phục trong một chừng mực nhất định, còn công ty Keating & Dumont thì không. Khi Guy Francon nghỉ hưu, công ty và cả sức hút của nó đối với khách hàng dường như dã bị mất đi một cái gì đó. Keating nhận ra rằng đó là nghệ thuật, kỹ năng và một thứ năng lượng nghề nghiệp không theo một lô-gíc nào của Guy Francon, thậm chí ngay cả khi thứ nghệ thuật ấy chỉ nằm ở sự duyên dáng trong giao thiệp và cái năng lượng ấy chỉ được dùng để giăng bẫy những nhà triệu phú do dự. Các khách hàng thường có những thay đổi đột ngột về thẩm mỹ khi làm việc với Guy Francon.

Anh không thể tìm ra một chìa khóa nào để giải đáp một cách hợp lý những phản ứng của khách hàng bây giờ. Chủ soái hiện tại trong ngành - dĩ nhiên chỉ ở quy mô khiêm tốn thôi, vì rằng chẳng còn có cái gì có quy mô lớn nữa - là Gordon L.Prescott, Chủ tịch Hội đồng các Nhà Xây dựng Mỹ; Gordon L.Prescott - người giảng bài về chủ nghĩa thực dụng của kiến trúc, về quy hoạch xã hội; Gordon L.Prescott - người gác chân lên bàn trong các phòng khách, người mặc quần chẽn đến dự các các bữa tiệc tối trang trọng và lớn tiếng chê bai món súp. Những người ở tầng thượng lưu nói rằng họ thích một kiến trúc sư cách tân. Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ vẫn tồn tại với những giá trị cứng nhắc và đã bị thương tổn, nhưng mọi người nhắc đến nó bằng cái tên Nhà Dưỡng lão. Hội đồng các Nhà Xây dựng Mỹ thống trị ngành xây dựng và đang bàn luận về việc làm cho nó trở thành một hội kín, mặc dù chưa có ai tìm ra cách để đạt được điều đó. Bất kỳ khi nào tên của một kiến trúc sư xuất hiện trong cột báo của Ellsworth Toohey thì cái tên đó luôn luôn là Augustus Webb. Ở độ tuổi ba mươi chín, Keating nghe thấy mình bị nhắc đến như một người đã hết thời.

Anh đã từ bỏ những nỗ lực để tìm hiểu chuyện này. Anh lờ mờ hiểu rằng lời giải thích cho cái thay đổi đang nuốt chửng lấy thế giới này là một thứ mà anh không muốn biết. Khi còn trẻ, anh cảm thấy có chút co thường những công trình của Guy Francon hay Ralston Holcombe, và việc tranh đua với họ hầu như chỉ là do sự hiếu chiến ngây thơ. Nhưng anh biết rằng Gordon L.Prescott và Gus Webb là hiện thân cho một sự lừa gạt phi lý và xấu xa đến mức việc bỏ qua những bằng chứng chính anh đã tận mắt trông thấy nằm ngoài khả năng của anh. Anh từng tin rằng người ta tìm thấy sự vĩ đại ở Holcombe và đã cảm thấy thỏa mãn một cách hợp lý trong việc vay mượn sự vĩ đại vay mượn của ông ta. Anh biết là không có ai nhìn rõ Prescott. Anh cảm thấy có cái gì đó đen tối và đểu cáng trong cách người ta nói về thiên tài của Prescott, như thể không phải họ đang tỏ lòng kính trọng Prescott mà đang khạc nhổ vào thiên tài đó. Lần đầu tiên, Keating không thể chạy theo công chúng bởi vì anh thấy quá rõ ràng rằng sự ưa chuộng của công chúng không còn là một sự công nhận tài năng, mà nó gần như trở thành một dấu hiệu của sự nhục nhã.

Anh vẫn tiếp tục làm việc theo quán tính. Anh không có đủ tiền trả cho những văn phòng rộng và không sử dụng hết một nửa số phòng, nhưng anh vẫn giữ chúng lại. Anh bỏ tiền túi của mình để trả cho khoản thâm hụt này. Anh phải tiếp tục. Anh đã mất một phần lớn tài sản của mình trong một vụ đầu cơ cổ phiếu thiếu thận trọng. Nhưng anh vẫn còn đủ để đảm bảo một cuộc sống tiện nghi từ nay đến cuối đời. Điều này không làm phiền anh. Tiền bạc đã không còn là mối quan tâm chính của anh. Chính tình trạng vô công rồi nghề là cái mà anh sợ hãi; nó là dấu chấm hỏi lờ mờ ở đằng xa - liệu có một lúc nào đó, người ta lấy đi cả những công việc hằng ngày của anh.

Anh đi bộ chậm rãi, hai cánh tay ép vào người, vai gồng lên như để chống lại sự lạnh giá thường trực. Anh đang tăng cân. Mặt anh phị ra. Anh cúi mặt xuống, và cái ngấn cằm thứ hai đè lên nút thắt cà-vạt. Trên gương mặt anh vẫn còn sót lại vẻ khôi ngô và nó làm anh trông còn tệ hơn; cứ như thể những đường nét của gương mặt anh được vẽ trên một tờ giấy thấm, cứ lan dần ra, nhòe đi. Những đốm tóc hoa râm trên hai thái dương của anh đậm hơn. Anh uống rượu thường xuyên mà không có hứng thú gì.

Anh đã đề nghị mẹ anh quay trở về sống cùng với anh. Bà đã quay về. Họ ngồi cùng nhau suốt các buổi tối dài trong phòng khách, không ai nói một lời, không phải vì bực bội nhau, mà để tìm kiếm sự an ủi từ phía người kia. Bà Keating không có một gợi ý hay trách mắng nào. Thay vào đó là sự âu yếm mang màu sắc hoang mang mới dành cho cậu con trai. Bà chuẩn bị bữa sáng cho anh mặc dù họ có người giúp việc. Bà chuẩn bị món bánh pancake kiểu Pháp cho anh - đây là món mà anh đã rất thích khi anh lên chín tuổi và bị lên sởi. Nếu anh để ý tới những cố gắng của bà và có vài lời bày tỏ sự hài lòng, bà gật gật đầu, chớp mắt và quay đầu đi, tự hỏi tại sao điều đó lại làm bà hạnh phúc đến vậy, và nếu đúng là bà hạnh phúc thì tại sao mắt bà lại đầy lệ.

Sau một lúc yên lặng, bà có thể bất ngờ hỏi: "Mọi chuyện rồi sẽ ổn chứ, Petey? Có phải thế không con?" Anh không hỏi lại ý bà là gì, mà trả lời một cách trầm lặng: "Vâng, thưa mẹ, sẽ ổn thôi," và dành mọi khả năng cuối cùng của tình thương để cố làm cho giọng nói của mình nghe có vẻ thuyết phục.

Một lần bà hỏi: "Con hạnh phúc, phải không Petey? Có đúng không?" Anh nhìn bà và nhận ra rằng bà không cười nhạo anh. Mắt bà mở to và hoảng sợ. Và khi anh không thể trả lời, bà khóc: "Nhưng con phải hạnh phúc! Petey, con phải được hạnh phúc! Bằng không thì mẹ đã sống vì cái gì?" Anh muốn đứng dậy, ôm chầm lấy bà và nói rằng mọi chuyện đều ổn... rồi khi ấy anh nhớ tới những gì Guy Francon đã nói với anh trong ngày cưới của anh: "Tôi muốn cậu cảm thấy tự hào về tôi, Peter... Tôi muốn cảm thấy rằng điều đó có một ý nghĩa gì đó." Và anh không thể đứng dậy. Anh cảm thấy anh đang đối diện với một cái gì đó mà anh không hiểu nổi và không bao giờ được cho phép nó lẻn vào tâm trí anh. Anh quay mặt đi khỏi mẹ anh.

Một buổi tối, bà nói mà không rào đón trước: "Petey, mẹ nghĩ con nên cưới vợ. Mẹ nghĩ nếu con cưới vợ thì sẽ tốt hơn nhiều." Anh chẳng biết trả lời bà như thế nào. Và khi anh đang cố gắng tìm một chuyện gì đó vui vẻ để nói với bà, thì bà lại nói tiếp: "Petey, sao con không cưới Catherine Halsey nhỉ?" Anh cảm thấy sự tức giận dâng đầy trong mắt, cảm thấy sức ép trên hai mí mắt căng phồng khi anh quay người chầm chậm về phía bà. Rồi anh nhìn thấy cái dáng béo lùn của bà trước mặt anh, cứng đờ và yếu đuối, với một niềm kiêu hãnh tuyệt vọng, sẵn sàng đón nhận mọi cú đánh của anh, và sẵn sàng tha thứ trước cho anh - và anh nhận ra rằng đây là cử chỉ can đảm nhất mà bà từng có. Cơn giận tan đi, bởi vì anh nhận ra rằng nỗi đau của bà còn lớn hơn cú sốc của anh. Anh nhấc một tay lên và thả nó rơi xuống - để cử chỉ ấy giấu đi mọi thứ. Anh chỉ nói: "Mẹ ơi, đừng để..."

Một hoặc hai lần trong tháng, vào dịp cuối tuần, anh biến mất khỏi thành phố. Không ai biết anh đi đâu. Bà Keating rất lo lắng, nhưng không thắc mắc gì. Bà nghi ngờ rằng anh có một người phụ nữ ở đâu đó - và hẳn không phải một người đàn bà đức hạnh, nếu không thì anh đã chăng yên lặng một cách rầu rĩ đến thế khi nói về chuyện này. Bà thấy mình thầm hy vọng rằng anh đã rơi vào lưới tình của một ả đàn bà hư hỏng, tồi tệ và tham lam nhất, người đủ khôn ngoan để buộc anh phải cưới cô ta.

Anh đi tới căn lều anh thuê trên những quả đồi của một ngôi làng ít người biết đến. Anh cất sơn, cọ vẽ, và vải vẽ trong căn lều này. Cả ngày anh ở trên đồi và vẽ. Anh không biết vì sao mà anh có thể nhớ được cái hoài bão đã bị chôn vùi từ thời trai trẻ ấy, cái hoài bão mà mẹ anh đã làm cạn kiệt và chuyển hướng nó sang kiến trúc. Anh không biết làm thế nào mà nó lại thôi thúc và làm anh không thể cưỡng lại được; chỉ biết anh đã tìm thấy căn lều và muốn tới đó.

Anh không thể nói rằng anh thích vẽ. Đây không phải là sự thỏa mãn hay sự khuây khỏa, mà là sự tự tra tấn; nhưng theo một cách nào đó, điều này cũng chẳng quan trọng. Anh ngồi trên một chiếc ghế đẩu, mặt ghế có căng vải bạt, trước giá vẽ, nhìn vào những mảng đồi trọc, nhìn vào những cánh rừng và bầu trời phía trên. Anh muốn bày tỏ một nỗi đau thầm kín, một cảm giác dịu dàng khiêm nhường và không thể kìm nén với cảnh vật của thế giới xung quanh - và một cái gì đó nén chặt, tê liệt - đó là cách duy nhất để diễn tả trạng thái của anh. Anh tiếp tục vẽ. Anh gắng sức. Anh nhìn vào các bức vẽ và biết rằng những nét vẽ thô ráp trẻ con ấy chẳng nắm bắt được một điều gì cả. Nhưng cũng chẳng sao. Không có ai nhìn những bức vẽ đó. Anh cất chúng cẩn thận trong góc của căn lều và khóa cửa lại trước khi quay về thành phố. Khi ngồi một mình trước khung vẽ, anh không cảm thấy vui thích, không kiêu hãnh, không lối thoát, chỉ có một cảm giác bình yên.

Anh cố không nghĩ về Ellsworth Toohey. Một bản năng lờ mờ mách bảo anh rằng anh có thể giữ được một sự yên ổn mong manh cho tâm hồn chừng nào anh không động chạm gì tới chủ đề đó. Chỉ có một cách giải thích thái độ mới của Toohey với anh - và anh không muốn nghĩ đến nó.

Toohey đã bỏ rơi anh. Cứ mỗi năm, khoảng cách giữa các cuộc gặp của họ tăng dần. Anh chấp nhận điều đó và tự nói với mình rằng đó là do Toohey bận rộn. Sự yên lặng của Toohey trước công chúng về anh đúng là một trở ngại. Anh tự nhủ rằng Toohey đối với Hành trình của Những thế kỷ như một cú nốc-ao. Anh tự nhủ rằng công trình của anh đáng bị như vậy. Anh chấp nhận bất kỳ lời buộc tội nào. Anh có thể hoài nghi chính mình, chứ không thể hoài nghi Ellsworth Toohey.

Neil Dumont là người buộc anh nhớ tới Toohey. Neil nói một cách nóng nảy về tình hình thế giới, về sự hối tiếc những chuyện đã qua, về việc thay đổi là một quy luật của sự tồn tại, về sự thích nghi, và về tầm quan trọng của việc phải nhảy trở lại vào trong cuộc đua. Keating rút ra được từ bài phát biểu dài và lẫn lộn ấy rằng cái kiểu kinh doanh như họ biết đã kết thúc, rằng cho dù họ có thích hay không thì chính phủ cũng sẽ bắt đầu kiểm soát, rằng ngành xây dựng đang chết dần và chính phủ sẽ sớm trở thành nhà thầu duy nhất, và họ nên nhập cuộc bây giờ - nếu như họ vẫn còn có thể nhập cuộc. "Hãy nhìn Gordon Prescott kìa," Neil Dumont nói, "ông ta chiếm được hợp đồng độc quyền với các dự án xây dựng chung cư và các bưu điện. Hãy nhìn Gus Webb đang lên như diều nữa."

Keating không trả lời. Neil Dumont ném vào anh những suy nghĩ của chính anh mà anh không muốn thú nhận. Anh đã biết rằng rồi anh sẽ sớm phải đối diện với điều này, và anh đã cố gắng trì hoãn thời khắc này.

Anh không muốn nghĩ về Dự án chung cư Cortlandt.

Dự án chung cư Cortlandt là một dự án nhà của chính phủ. Nó sẽ được xây dựng ở Astoria, bên bờ sông Đông. Kế hoạch này là một thử nghiệm khổng lồ cho mô hình nhà rẻ tiền và sẽ được nhân rộng ra cả nước, cả thế giới. Keating đã nghe giới kiến trúc sư bàn luận về dự án này suốt cả năm nay. Ngân sách đã được duyệt, vị trí xây dựng đã được lựa chọn, nhưng kiến trúc sư thì chưa. Keating không muốn thừa nhận với chính mình rằng anh rất muốn có được dự án Cortlandt, và cơ hội của anh để làm được điều đó thì rất nhỏ.

"Nghe này, Peter, chúng ta hãy nói trắng ra nhé," Neil Dumont nói. "Chúng ta đang trượt dốc và anh biết điều đó. Phải, chúng ta sẽ cầm cự được thêm một hay hai năm nữa bằng cách ăn bám vào danh tiếng của anh. Và sau đó thì sao? Đây không phải là lỗi của chúng ta. Chỉ là bởi vì các doanh nghiệp tư nhân đang chết dần chết mòn. Đây là một tiến trình lịch sử. Cơn sóng của tương lai. Vậy nên chúng ta cần nắm lấy ván lướt sóng ngay khi có thể. Có một tấm ván tốt, đủ chắc chắn đang chờ ai đủ khôn ngoan để mà nắm lấy. Đó là dự án chung cư Cortlandt."

Giờ thì anh đã nghe thấy điều đó nói ra bằng lời. Keating tự hỏi sao cái tên ấy nghe như một tiếng chuông bị nghẹt, như thể cái tên ấy đã mở ra và khép lại cho một chuỗi các sự kiện tiếp theo mà anh sẽ không thể dừng được.

"Ý anh là gì hả Neil?"

"Dự án chung cư Cortlandt. Ellsworth Toohey. Bây giờ anh biết tôi muốn nói gì rồi đấy."

"Neil, tôi..."

"Có chuyện gì với anh vậy Peter? Nghe này, mọi người đang cười về chuyện ấy đấy. Họ bảo nếu họ là cục cưng của Toohey như anh thì họ sẽ dành được Dự án chung cư Cortlandt nhanh như thế này này" - anh ta bật những ngón tay được cắt tỉa cẩn thận của mình đánh tách một cái - "thế đấy, không một ai có thể hiểu anh còn chờ đợi gì nữa. Anh biết ông bạn Ellsworth của anh là người điều khiển cái dự án này mà."

"Không phải vậy đâu. Không phải ông ấy. Ông ấy chẳng có vị trí chính thức nào. Ông ấy chưa bao giờ có bất kỳ vị trí chính thức nào cả."

"Anh đang đùa với ai thế? Hầu hết những gã trai quan trọng trong tất cả các văn phòng kiến trúc đều là người của ông ta. Quỷ tha ma bắt nếu tôi biết được ông ta đã làm thế nào để nhét họ vào những chỗ đó, nhưng ông đã làm được. Có chuyện gì vậy hả, Peter? Anh sợ cầu xin ân huệ từ Ellsworth Toohey à?"

Thế đấy, Keating nghĩ; giờ thì không có đường lui nữa rồi. Anh không thể thừa nhận với chính mình rằng anh sợ phải cầu xin Ellsworth Toohey.

"Không," anh nói với giọng thẫn thờ. "Tôi không sợ gì cả, Neil. Tôi sẽ... Được thôi, Neil. Tôi sẽ nói chuyện với Ellsworth."

*

* *

Ellsworth Toohey mặt một chiếc áo choàng dài và ngồi dạng được viết một cách cẩu thả: hai tay duỗi thẳng theo mép mấy chiếc gối kê lưng, hai chân xoạc rộng như một chạc cây. Chiếc áo choàng dài của ông làm bằng lụa, với họa tiết độc quyền của công ty phấn trang điểm Coty - đó là hình những miếng bông thoa phấn trắng trên nền màu cam. Trông chúng táo bạo và hài hước. Một vẻ tao nhã tuyệt đỉnh nổi bật lên trên sự xoàng xinh của bản thân trang phục. Bên dưới chiếc áo choàng là bộ quần áo ngủ nhàu nát làm bằng vải lanh màu xanh lá cây. Ống quần ông rộng thùng thình ở quanh mắt cá chân.

Keating nghĩ đây đúng như hình ảnh của Toohey; cái tư thế này, cùng với sự chọn lựa kỹ càng của đồ đạc trong phòng khách. Một bức tranh lụa của một họa sĩ nổi tiếng là vật trang trí duy nhất trên bức tường sau lưng ông... những thứ còn lại của căn phòng đều khiêm tốn như căn phòng của một người tu hành. Không phải thế, Keating nghĩ, mà giống như cảnh sống của một hoàng đế đang bị đi đày, một người coi thường sự phô trương vật chất.

Ánh mắt Toohey ấm áp, vui vẻ và khích lệ. Toohey đã trực tiếp trả lời điện thoại. Toohey ngay lập tức hẹn gặp anh. Keating nghĩ: được đón tiếp một cách thân mật như thế này thật tốt. Mình đã sợ cái gì nhỉ? Mình đã hoài nghi điều gì? Ông ấy và mình là bạn bè lâu năm.

"Ôi, tội nghiệp tôi, thật là mệt quá," Toohey vừa nói vừa ngáp, "Mỗi ngày đều có những lúc mà người ta cảm thấy cần phải được nghỉ ngơi ngay lập tức, như một kẻ lười biếng vô công rồi nghề. Tôi về nhà và cảm thấy rằng không thể mặc quần áo trên người thêm một phút nào nữa. Cảm thấy như một gã nông dân khốn kiếp... ngứa ngáy khắp người... và phải cởi bỏ hết quần áo ra. Anh không phiền lòng chứ hả Peter? Với một số người thì cần phải nghiêm chỉnh, đàng hoàng, chứ với anh thì điều đó không cần thiết."

"Vâng, tất nhiên là không cần."

"Tôi đang nghĩ là một chút nữa tôi sẽ đi tắm. Thật chẳng có gì bằng tắm nước nóng, nó làm cho người ta cảm thấy nhẹ nhõm, quên hết mọi chuyện trên đời. Anh có thích tắm nước nóng không hả Peter?"

"Ồ... có chứ... tôi đoán thế..."

"Anh đang tăng cân đấy, Peter. Anh sẽ sớm trở nên chật chội trong cái bồn tắm mất thôi. Anh đang tăng cân và trông anh tiều tụy. Đó là sự kết hợp tồi. Hoàn toàn tồi về mặt thẩm mỹ. Người béo lẽ ra phải hạnh phúc và tươi vui..."

"Tôi... Tôi không sao cả, Ellsworth, chỉ là..."

"Anh từng có một dáng vẻ bảnh bao. Anh không được đánh mất nó. Người ta sẽ thấy chán anh đấy."

"Tôi không thay đổi mà Ellsworth." Đột nhiên anh nhấn mạnh từng từ. "Tôi thực sự là chẳng thay đổi chút nào cả, tôi vẫn như khi tôi thiết kế tòa nhà Cosmo-Slotnick."

Anh nhìn Toohey đầy hy vọng. Anh nghĩ đây là một gợi ý lộ liễu đủ để Toohey hiểu. Toohey hiểu những thứ còn tế nhị hơn thế. Anh chờ được đỡ lời. Toohey tiếp tục nhìn anh, ánh mắt thân tình và trống rỗng.

"Ồ, Peter, đó là một lời tuyên bố chẳng có tính triết học chút nào cả. Thay đổi là nguyên tắc cơ bản của vũ trụ. Mọi thứ đều thay đổi. Mùa, hoa lá, chim muông, đạo đức, con người và các công trình kiến trúc. Một quá trình biện chứng, Peter ạ."

"Vâng, dĩ nhiên là như thế. Mọi thứ đều thay đổi, thật nhanh và theo một cách thật buồn cười. Người ta thậm chí không nhận ra nó thay đổi như thế nào, và bất ngờ một buổi sáng, nó đã ở đó. Ông có nhớ không, chỉ vài năm trước, Lancelot Clokey, Gordon Prescott, và Ike và Lance đều chẳng là cái gì cả. Thế mà, Ellsworth, họ đều đang trên đỉnh cao, và tất cả bọn họ đều là người của ông. Bất kỳ nơi đâu tôi nhìn vào, bất kỳ tên tuổi lớn nào tôi nghe thấy, đều là một trong số những chàng trai của ông. Ông thật tuyệt vời, Ellsworth. Làm thế nào để có thể làm được điều đó... chỉ trong một vài năm."

"Việc đó đơn giản hơn anh tưởng, Peter. Bởi vì anh suy nghĩ trên phương diện cá thể. Anh nghĩ những việc đó đã được thực hiện từng bước từng bước một. Nhưng Chúa ơi, làm thế thì dù có cả trăm nhà báo làm việc cả đời cũng chẳng đủ. Việc đó có thể được thực hiện nhanh hơn thế nhiều. Bây giờ là thời đại của các thiết bị tiết kiệm thời gian. Nếu anh muốn phát triển cái gì đó, anh không nuôi dưỡng từng hạt mầm một cách riêng biệt. Anh chỉ cần rải một loại phân bón nhất định. Tự nhiên sẽ làm phần việc còn lại. Tôi tin rằng anh đang nghĩ tôi là người duy nhất chịu trách nhiệm về chuyện này. Nhưng không phải là tôi. Chúa ơi, không. Tôi chỉ là một trong số rất nhiều người, là một cái đòn bẩy trong một chuyển động lớn. Rất lớn và rất cổ xưa. Chỉ ngẫu nhiên là tôi đã chọn nghệ thuật - lĩnh vực mà anh quan tâm, bởi vì tôi nghĩ rằng nó hội tụ những yếu tố quyết định với cái nhiệm vụ mà chúng ta phải hoàn thành."

"Vâng, tất nhiên rồi, nhưng ý tôi là ông thật giỏi giang. Ông biết chọn lấy những thanh niên có tài năng, có triển vọng. Quỷ tha ma bắt tôi đi nếu tôi biết ông đã dự đoán trước mọi việc như thế nào. Ông có nhớ cái gác xép mà chúng ta lấy làm chỗ họp cho Hiệp hội Các nhà xây dựng Mỹ hay không? Và chẳng ai coi chúng ta ra gì. Mọi người từng cười ông vì đã lãng phí thời gian cho những thể loại tổ chức ngớ ngẩn."

"Peter thân mến của tôi, mọi người hành động dựa trên qua nhiều giả thiết sai lầm của họ. Ví dụ như một giả thiết cũ cũ rích - chia nhỏ và chinh phục. Ừ thì việc đó cũng có những ứng dụng của nó. Nhưng thế kỷ của chúng ta phát hiện ra một phương thức có hiệu lực hơn nhiều: sáp nhập và thống trị."

"Ý ông là gì?"

"Anh không thể nắm bắt hoàn toàn được đâu. Và tôi cũng không nên đòi hỏi quá sức của anh. Trông anh không có vẻ còn nhiều sức lực lắm."

"Ồ, tôi ổn mà. Tôi có lẽ trông hơi lo lắng, bởi vì..."

"Lo lắng là một sự lãng phí cảm xúc. Rất ngốc nghếch. Không xứng đáng với một người đã được khai sáng. Bởi vì chúng ta chỉ đơn thuần là những sinh vật của quá trình trao đổi chất và của các yếu tố kinh tế của một tầng lớp xã hội nhất định, chúng ta chẳng thể làm được bất cứ cái của nợ gì với bất cứ cái gì. Thế thì tại sao lại phải lo lắng? Tất nhiên là có những ngoại lệ mang tính chất hiển nhiên. Rất hiển nhiên. Khi hoàn cảnh đánh lừa chúng ta, làm cho chúng ta nghĩ rằng cần phải có những hành động tự do. Chẳng hạn như việc anh đến đây để nói về Dự án chung cư Cortlandt."

Keating chớp mắt rồi mỉm cười biết ơn. Anh nghĩ: thật đúng là Toohey - ông ấy phải đoán ra và đỡ cho anh khỏi lòng vòng gợi chuyện.

"Đúng vậy, Ellsworth. Đó đúng là điều tôi muốn nói với ông. Ông thật tuyệt vời. Ông biết rõ về tôi như một cuốn sách."

"Loại sách nào vậy hả, Peter? Một cuốn tiểu thuyết rẻ tiền? Một câu chuyện tình? Một vụ án hình sự? Hoặc chỉ là một bản thảo bị đạo văn? Không, để xem nào, giống như một truyện nhiều kỳ. Một truyện nhiều kỳ hay, dài, thú vị... nhưng còn thiếu phần kết. Phần kết này bị để nhầm ở một chỗ nào đó. Sẽ không có bất kỳ phần kết nào. Trừ khi, dĩ nhiên rồi, đó là Dự án chung cư Cortlandt. Đúng thế, đó có lẽ sẽ là một phần kết thích hợp."

Keating chờ đợi, ánh mắt nhìn chăm chú và trần trụi, quên mất cả sự xấu hổ, sự khẩn nài mà đáng lẽ cần phải che đậy lại." Một dự án vĩ đại - Khu chung cư Cortlandt. Lớn hơn cả Stoneridge. Anh còn nhớ dự án Stoneridge không Peter?"

Ông ấy đang lấy mình ra để tiêu khiển - Keating nghĩ, ông ấy đang mệt mỏi, ông ấy không thể lúc nào cũng khéo léo, ông ấy không nhận ra rằng ông ấy...

"Stoneridge. Dự án phát triển khu dân cư vĩ đại của Gail Wynand. Anh đã bao giờ nghĩ về sự nghiệp của Gail Wynand chưa hả Peter? Từ một con chuột ở bến tàu tới Stoneridge... ac ó biết mỗi bước tiến đó có ý nghĩa gì không? Anh có quan tâm tới việc thử tính xem những cố gắng, sức lực, những gian khổ mà Gail Wynand đã phải trả giá cho mỗi bước trên đường tiến thân của ông ta chưa? Và tôi đây, tôi đang nắm trong lòn gbàn tay một dự án lớn hơn nhiều so với Stoneridge, mà không cần đến bất cứ một sự nỗ lực nào." Ông thả tay xuống và nói thêm: "Nếu như tôi thực sự nắm giữ nó. Có thể chỉ là cách nói hình ảnh thôi. Đừng có hiểu theo nghĩa đen những điều tôi nói, Peter."

"Tôi căm thù Wynand," Keating vừa nói vừa nhìn xuống sàn nhà, giọng nặng nề. "Tôi căm thù ông ta hơn bất kỳ một người nào khác trên đời."

"Wynand ư? Ông ta là người rất ngây thơ. Ông ta ngây thơ đến mức cho rằng động cơ chủ yếu của con người là tiền."

"Ông thì không thế, Ellsworth. Ông là người chính trực. Đó là lý do tại sao tôi tin tưởng ở ông. Đó là tất cả những gì tôi có. Nếu tôi không còn tin ông, thì, thì tôi sẽ chẳng còn gì nữa... ở bất kỳ đâu."

"Cám ơn anh Peter. Anh thật tốt bụng... Hoang mang, nhưng tốt bụng."

"Ellsworth... ông biết tôi cảm thấy thế nào về ông mà."

"Tôi cũng biết đại khái thôi."

"Ông biết không, chính vì thế mà tôi không thể hiểu được."

"Không hiểu cái gì?"

Anh phải nói điều đó ra. Anh đã quyết định sẽ không bao giờ nói ra, nhưng anh phải nói.

"Ellsworth, tại sao ông lại bỏ rơi tôi? Tại sao ông không viết gì nữa về tôi? Tại sao trong mọi bài viết của ông, ở bất cứ đâu... trong mọi vụ làm ăn mà ông xoay xở để có được... lại luôn luôn là Gus Webb?"

"Peter, tại sao lại không nhỉ?"

"Nhưng... Tôi..."

"Tôi thật tiếc khi thấy là anh không hiểu tôi chút nào. Trong ngần ấy năm trời, anh cũng không học được bất cứ điều gì về những nguyên tắc của tôi. Tôi không tin vào chủ nghĩa cá nhân, Peter. Tôi không tin rằng một người nào đó là một cái gì đó mà những người khác không thể. Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều bình đẳng và có thể hoán đổi. Vị trí của anh ngày hôm nay có thể được giữ bởi bất kỳ người nào vào ngày mai. Sự luân chuyển của chủ nghĩa bình quân. Không phải là tôi đã thuyết giảng điều đó cho anh rồi sao? Tại sao anh lại nghĩ rằng tôi đã chọn anh? Tại sao tôi đã đặt anh vào nơi anh đã đứng? Để bảo vệ ngành kiến trúc khỏi bị chiếm giữ bởi những kẻ không thể thay thế được. Để òcn giữ được một cơ hội cho những người như Gus Webb trong thế giới này. Tại sao anh cho rằng tôi đã chống lại, chẳng hạ, Howard Road?"

Đầu óc Keating tím bầm. Anh nghĩ đó là một vết bầm, bởi vì anh cảm thấy có một vật gì đó nặng và phẳng đập vào đầu anh, làm nó thâm đen lại, xanh tím đi và rồi sưng vù lên. Bây giờ thì anh chẳng còn cảm thấy điều gì khác ngoài sự chết lặng tê tái. Những mảnh vụn suy nghĩ mà anh còn cảm nhận được mách bảo anh rằng những điều anh vừa được nghe thuộc về một trật tự đạo đức cao cả; anh đã luôn chấp nhận cái trật tự đó; nó chẳng thể làm gì hại anh và nó cũng chẳng định hại anh. Mắt Toohey nhìn thẳng vào anh, âm u, dịu dàng và bao dung. Có thể sau này... anh sẽ biết sau... Nhưng có một thứ đã đâm xuyên qua và vẫn để lại một vài mảnh vỡ của nó trong tâm trí anh. Anh đã hiểu điều đó. Chính là cái tên "Howard Road."

Và khi anh chỉ còn đang trông chờ ở chút nhân từ còn sót lại của Toohey, một suy nghĩ không thể giải thích được len lỏi trong anh. Anh cúi hẳn người về phía trước, anh biết điều này hẳn sẽ làm Toohey tổn thương, anh hy vọng nó sẽ làm Toohey bị tổn thương. Môi anh bất chợt cong lên và nở thành một nụ cười phô cả răng lợi:

"Đây chính là thất bại của ông, phải không Ellsworth? Hãy thử nhìn xem anh ta hiện giờ đang đứng ở đâu, Howard Road ấy."

"Ôi lạy Chúa, lý luận với những cái đầu chỉ bám chằng chằng vào những điều hiển nhiên thật là chán ngấy. Anh hoàn toàn không có khả năng nắm bắt các nguyên tắc, Peter ạ. Anh chỉ nghĩ đến các cá thể. Anh có thực sự cho rằng là tôi không có việc gì trong đời để lo lắng ngoài cái số phận cái anh chàng Howard Road của anh chẳng? Ngài Roark đơn thuần chỉ là một trong vô vàn các tiểu tiết. Tôi đã giải quyết anh ta khi cần. Tôi vẫn còn tiếp tục giải quyết anh ta... mặc dù không trực tiếp. Dù sao thì tôi cũng thừa nhận với anh rằng ngài Howard Road của anh có sức hấp dẫn lớn đối với tôi. Cũng có lúc tôi cảm thấy thật là tiếc nếu như tôi không bao giờ được đối đầu với anh ta nữa. Nhưng điều đó có lẽ cũng chẳng còn cần thiết nữa. Peter này, khi anh giải quyết việc theo các nguyên tắc, anh sẽ tránh được rắc rối phải đối đầu với các cá nhân cụ thể."

"Ý ông là gì?"

"Ý tôi là anh có thể làm theo một trong hai cách. Anh có thể dành cả cuộc đời anh để nhặt từng ngọn cỏ dại khi nó mọc ra... và mười cuộc đời cũng không đủ cho việc đó. Hoặc anh có thể chuẩn bị đất bằng cách rải một hóa chất nhất định nào đó chẳng hạn, làm cho cỏ dại không thể mọc được. Cách sau nhanh hơn. Tôi nói về cỏ dại bởi vì đó là biểu tượng truyền thống và sẽ không làm anh sợ. Kỹ thuật ấy tất nhiên cũng có thể áp dụng với bất kỳ thực vật nào mà anh muốn loại bỏ: kiều mạch, khoai tây, cam, phong lan hay bìm bìm."

"Ellsworth, tôi không hiểu ông đang nói về cái gì."

"Tất nhiên là anh không hiểu tôi. Đó là lợi thế của tôi. Hàng ngày tôi nói những điều này một cách công khai.. và không một ai hiểu tôi đang nói cái gì."

"Ông đã nghe tin Howard Road đang xây một ngôi nhà riêng cho Gail Wynand chưa?"

"Peter thân mến, anh nghĩ là tôi phải chờ đợi để biết điều đó từ anh à?"

"Ồ, thế ông thấy điều đó thế nào?"

"Tại sao việc đó lại liên quan tới tôi nhỉ?"

"Ông có nghe người ta nói rằng Roark và Wynand là bạn thân của nhau không? Và như tôi nghe được thì đấy là một tình bạn rất gắn bó! Hừm, ông biết Wynand có thể làm được những gì đấy. Ông biết ông ta có thể biến Roark thành cái gì. Cố gắng chặn Roark lại ngay bây giờ đi! Cố gắng chặn anh ta lại! Hãy cố..."

Anh nghẹn lời và cứng người. Anh thấy mình đang nhìn chòng chọc vào mắt cá chân trần nằm giữa ống quần của Toohey và đám lông tua dày của chiếc dép viền da cừu. Anh chưa bao giờ tưởng tượng Toohey khỏa thân. Không biết vì sao anh chưa bao giờ nghĩ về Toohey như là một người có một thân thể hữu hình. Mắt cá chân Toohey có một cái gì đó ẩn chứa vẻ khiếm nhã: làn da trắng xanh, bọc ngoài phần xương trông có vẻ quá giòn. Nó làm anh nghĩ tới những mẩu xương gà còn sót lại trên đĩa ăn sau bữa tối, hết sạch thịt; và chỉ cần bất kỳ ai chạm nhẹ ào là chúng sẽ vỡ vụn ra. Anh thấy mình muốn vươn người ra, dùng ngón cái và ngón trỏ nắm lấy cái mắt cá chân ấy, và bóp vụn nó giữa những đầu ngón tay.

"Ellsworth, tôi đến đây để nói chuyện về Dự án chung cư Cortlandt!" Anh không thể rời mắt khỏi cái mắt cá chân đó. Anh hy vọng rằng những từ này sẽ giải thoát anh.

"Đừng có hét lên như thế. Có chuyện gì thế?... Khu chung cư Cortlandt? Được rồi, anh muốn nói gì về nó nào?"

Lúc này là lúc anh phải nhìn lên, mắt nó vẫn còn kinh ngạc. Toohey chờ đợi một cách vô tư lự.

"Tôi muốn thiết kế Khu chung cư Cortlandt," anh nói, giọng anh như một đám bột nhão đang được lọc qua một tấm vải. "Tôi muốn ông trao dự án đó cho tôi."

"Tại sao tôi nên trao nó cho anh?"

Anh không có câu trả lời. Nếu anh nói rằng: bởi vì ông đã từng viết rằng tôi là kiến trúc sư đương thời vĩ đại nhất, thì chính sự gợi nhớ lại đấy sẽ nói lên rằng Toohey không còn tin vào điều đó một chút nào nữa. Anh không dám đối diện với phép thử đó, cũng như điều mà Toohey có thể trả lời. Anh nhìn vào hai sợi lông đen trên mắt cá chân Toohey. Anh có thể nhìn chúng thật rõ ràng: một thẳng, một xoắn lại. Sau một lúc lâu, anh mới trả lời:

"Bởi vì tôi rất cần nó, Ellsworth."

"Tôi biết anh cần nó."

Chẳng còn gì hơn để nói. Toohey dịch cổ chân, nhấc chân lên và đặt nó nằm trên thành ghế đi văng, hai cẳng chân duỗi ra một cách thoải mái.

"Ngồi thẳng lên nào, Peter. Anh trông như một cái tượng nửa người nửa thú vậy."

Keating không động đậy.

"Điều gì làm anh cho rằng tôi là người quyết định việc lựa chọn kiến trúc sư cho Khu chung cư Cortlandt?"

Keating ngẩng đầu lên; thấy nhẹ cả người. Anh đã phỏng đoán quá nhiều và làm Toohey bực mình. Đó là lý do, là lý do duy nhất.

"Ồ, tôi biết... người ta nói thế... Tôi nghe người ta nói rằng ông có ảnh hưởng lớn tới dự án này... với những người ở Washington... và các nơi khác..."

"Chỉ là một vai trò không chính thức. Đại loại như một chuyên gia về các vấn đề kiến trúc. Không có gì khác."

"Đúng vậy, tất nhiên rồi... đó là... ý tôi cũng thế."

"Tôi có thể giới thiệu một kiến trúc sư. Thế thôi. Tôi không thể đảm bảo điều gì. Lời nói của tôi không phải là quyết định cuối cùng."

"Tôi cũng chỉ cần thế thôi, Ellsworth. Sự giới thiệu của ông..."

"Nhưng này, Peter, nếu tôi giới thiệu ai đó, tôi phải đưa ra một lý do. Tôi không thể sử dụng những ảnh hưởng mà tôi có thể có để nâng đỡ một người bạn vào, phải không nào?"

Keating nhìn soi vào cái áo choàng và nghĩ: những miếng bông thoa phấn, tại sao lại là những miếng bông thoa phấn? Đấy, vấn đề của mình là thế đấy; giá mà ông ấy cởi cái áo đấy ra.

"Vị thế nghề nghiệp của anh không còn như trước đây, Peter ạ."

"Ông đã nói là 'nâng đỡ một người bạn', Ellsworth..." Anh thì thầm.

"Ồ, tất nhiên tôi là bạn của anh. Tôi đã luôn luôn là bạn của anh. Anh không nghi ngờ về điều đó chứ?"

"Không... Tôi không thể, Ellsworth..."

"Được rồi, thế thì hãy vui lên chứ. Nghe này, tôi sẽ nói với anh sự thật. Chúng tôi đang bí với cái dự án chết tiệt Cortlandt. Việc này có dính dáng tới một vấn đề nhỏ khốn kiếp. Tôi đã thử lấy dự án này cho Gordon Prescott và Gus Webb... Tôi nghĩ nó phù hợp với họ hơn. Tôi không nghĩ anh thật sự quan tâm đến vụ này. Nhưng không một ai trong số họ có thể thực hiện được. Anh có biết một vấn đề lớn với các dự án về nhà cửa là gì không? Là vấn đề kinh tế, Peter. Làm thế nào để thiết kế một căn hộ hiện đại, tươm tất mà có thể cho thuê với giá mười lăm đô la một tháng? Anh đã từng tìm hiểu việc đó chưa? Đó, đó là điều mà người ta trông chờ ở người kiến trúc sư sẽ thực hiện dự án Cortlandt... nếu họ tìm được anh ta. Dĩ nhiên việc lựa chọn người thuê nhà cũng giúp ích ít nhiều, họ sẽ định ra những mức tiền thuê nhà khác nhau. Những gia đình thu nhập một ngàn hai trăm đô năm sẽ trả nhiều hơn cho một căn hộ y như thế để giúp cho những gia đình thu nhập sáu trăm đô một năm... anh biết đấy, lá rách ít đùm lá rách nhiều... Nhưng vẫn còn một vấn đề là giá xây dựng và bảo dưỡng phải ở mức càng thấp càng tốt. Những chú nhóc ở Washington không muốn bất cứ một dự án nào khác trong số đó... anh đã nghe về chuyện đó đây, một dự án mở rộng khu dân cư nhỏ của chính phủ chỉ xây dựng một căn hộ với giá mười ngàn đô một căn, trong khi một nhà thầu tư nhân có thể cộng thêm vào đó hai ngàn nữa. Cortlandt phải là một dự án mẫu. Một tấm gương cho toàn thế giới. Nó phải thật hoành tráng, một bằng chứng có sức thuyết phục nhất về việc lập kế hoạch toàn thế giới. Nó phải thật hoành tráng, một bằng chứng có sức thuyết phục nhất của việc lập kế hoạch một cách khéo léo và quản lý chi tiêu công trình chưa có nơi nào từng làm được. Đó là điều những sếp lớn yêu cầu. Gordon và Gus đã không thể làm được. Họ đã thử và thất bại. Anh sẽ ngạc nhiên khi có biết bao nhiêu người đã thử sức ở công trình này. Peter, tôi không thể bán anh cho họ, ngay cả với trình độ nghề nghiệp của anh. Tôi có thể nói họ nghe điều gì về anh nhỉ? Tất cả những gì tạo nên hình ảnh của anh là vải nhung, mạ vàng, đá cẩm thạch, lão Guy Francon già, tòa nhà Cosmo-Slotnick, ngân hàng quốc gia, và cái thứ rác rưởi Hành trình của Những thế kỷ mà không bao giờ đủ để trang trải được chi phí cho chính nó. Cái mà họ muốn là một căp bếp của một triệu phú cho một người có thu nhập thấp. Hãy nghĩ xem anh có thể làm việc đó không?"

"Tôi... Tôi có những ý tưởng, Ellsworth. Tôi đã quan sát lĩnh vực này... Tôi đã... nghiên cứu các phương pháp mới... Tôi có thể..."

"Nếu anh có thể, nó là của anh. Nếu anh không thể, tình bạn của tôi sẽ không giúp anh được. Và Chúa biết là tôi muốn giúp anh ra sao. Anh trông giống như một bà già đi trong mưa. Đây là điều tôi sẽ làm cho anh, Peter: đến văn phòng của tôi vào ngày mai, tôi sẽ đưa cho anh mọi thông tin riêng, mang về nhà và xem liệu anh có còn muốn nát óc về nó nữa hay không. Hãy nhận lấy cơ hội, nếu anh có quan tâm. Trình bày cho tôi một phương án sơ bộ. Tôi không thể hứa trước điều gì. Nhưng nếu anh có khả năng tựhc hiện, tôi sẽ gửi nó tới người thích hợp và tôi sẽ tác động với mọi khả năng tôi có. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm cho anh. Việc đó không phụ thuộc vào tôi. Nó thực sự phụ thuộc vào anh."

Keating ngồi nhìn ông, ánh mắt lo lắng, tha thiết và tuyệt vọng.

"Anh có muốn thử không, Peter?"

"Ông sẽ để tôi thử sức sao?"

"Tất nhiên rồi. Tại sao không? Tôi sẽ vui nếu anh là người vượt qua những người khác để tìm ra lời giải đáp cho bài toán này."

"Về vẻ ngoài của tôi, Ellsworth," anh đột ngột nói, "về vẻ ngoài của tôi... không phải là vì tôi nghĩ quá nhiều đến việc tôi thất bại... mà bởi vì tôi không thể hiểu vì sao tôi tuột dốc như thế... từ đỉnh cao... chẳng có một lý do nào..."

"Ồ, Peter, nghĩ đến những việc như thế thật là khủng khiếp. Những điều không thể giải thích được luôn luôn kinh khủng. Nhưng sẽ chẳng có gì đáng sợ nữa, nếu như anh dừng việc tự vấn bản thân rằng liệu có bất kỳ lý do nào lý giải cho việc đáng ra mình phải đang ở trên đỉnh cao... Ồ, nào Peter, cười lên nào, tôi chỉ đùa thôi. người ta sẽ mất tất cả khi đánh mất đi sự hài hước của mình."

*

* *

Sáng hôm sau Keating đi tới văn phòng của anh sau khi ghé qua văn phòng làm việc của Ellsworth Toohey ở tòa nhà Ngọn cờ. Anh mang theo một cặp sách chứa dữ liệu về Dự án chung cư Cortlandt. Anh trải các tờ giấy lên chiếc bàn rộng trong văn phòng và khóa cửa lại. Anh yêu cầu một người vẽ sơ đồ thiết kế mang đến cho anh một chiếc bánh mì kẹp thịt vào buổi trưa và yêu cầu một cái nữa cho bữa tối.

"Anh có cần tôi giúp gì không Peter?" Neil Dumont hỏi. "Chúng ta có thể bàn bạc, thảo luận và..."

Keating lắc đầu.

Anh ngồi ở bàn mình cả đêm. Sau một lúc, anh thôi không nhìn vào các tờ giấy nữa và ngồi yên lặng, ngẫm nghĩ. Anh không nghĩ về những biểu đồ và hình ảnh trải ra trước mặt. Anh đã nghiên cứu chúng. Anh đã hiểu ra rằng anh không thể làm được.

Khi anh nhận ra rằng trời đã sáng, khi anh nghe thấy những bước chân đằng đẵng sau cánh cửa khóa, tiếng động của những người quay lại làm việc, anh mới biết rằng giờ làm việc đã bắt đầu tại đây và các nơi khác trong thành phố. Anh đứng dậy, đi tới bàn làm việc và tìm cuốn niên giám điện thoại. Anh quay số.

"Tôi là Peter Keating. Tôi cần hẹn gặp ông Roark."

Chúa ơi, anh nghĩ trong khi chờ đợi, đừng để anh ta gặp con. Hãy làm cho anh ta từ chối và con sẽ có quyền căm ghét anh ta tới cuối đời. Đừng để anh ta gặp con.

"Bốn giờ chiều ngày mai có được không, ông Keating?" giọng nói dịu dàng điềm đạm của người thư ký vang lên. "Ông Roark sẽ gặp ông lúc đó."

VIII.

Roark biết rằng anh không được tỏ ra sốc khi nhìn thấy Peter Keating... nhưng đã quá muộn: anh nhìn thấy nụ cười yếu ớt trên môi Keating, nụ cười trông thật khủng khiếp vì nó nhẫn nhục thừa nhận sự rệu rã.

"Cậu chỉ ít hơn tôi hai tuổi phải không Howard?" là câu đầu tiên Keating hỏi khi nhìn gương mặt người đàn ông mà anh ta đã không gặp trong suốt sáu năm.

"Tôi không biết, Peter, tôi nghĩ vậy. Tôi ba mươi bảy tuổi."

"Tôi ba mươi chín... vậy đó."

Anh đi tới chiếc ghế trước bàn làm việc của Roark, với tay kéo ghế. Anh bị lóa mắt bởi những tấm kính lớn tạo nên ba bức tường trong văn phòng Roark. Anh nhìn chằm chằm vào bầu trời và thành phố. Ở đây, anh mất cảm giác về độ cao, những tòa nhà dường như nằm dưới ngón chân anh, không phải là một thành phố có thực, mà là những bức vẽ thu nhỏ của các công trình nổi tiếng - gần và nhỏ bé một cách phi lý. Anh cảm thấy mình có thể cúi người xuống và nhặt bất kỳ cái nào trong số những tòa nhà ấy vào lòng bàn tay. Anh nhìn những nét đứt màu đen, đó là những chiếc xe hơi, trông chúng như đang bò; phải rất lâu những chiếc xe hơi đó mới đi hết một quãng phố dài bằng một ngón tay của anh. Anh nhìn thấy đá và vữa tường của thành phố như một vật chất đã hấp thụ ánh sáng và phản xạ lại. Những dãy nhà như những tấm ván phẳng nối tiếp nhau, mỗi mặt phẳng điểm xuyết những ô cửa số; mỗi mặt phẳng như một tấm gương phản xạ màu sắc - màu hoa hồng, màu vàng thau và màu tím thẫm... và những khoảng trời màu xanh nhạt chạy vắt ngang qua những mặt phẳng ấy; chúng tạo nên những hình dạng, góc cạnh và khoảng cách cho những khối nhà. Ánh sáng tuôn chảy thành dòng từ những tòa nhà và đổ lên bầu trời, khiến cho màu xanh trong của bầu trời mùa hè dường như nhạt nhòa đi và chỉ còn là một khoảng nước nhợt nhạt phía trên những ngọn lửa đang cháy sáng. Chúa ơi, Keating nghĩ, ai làm nên tất cả những thứ này?.. và rồi anh nhớ ra rằng anh đã là một trong những người ấy.

Anh nhìn Roark trong giây lát - một hình dáng khẳng khiu tựa vào góc vuông giữa hai tấm kính phía sau bàn. Rồi Roark ngồi xuống đối diện anh.

Keating nghĩ về những người bị mất tích trên sa mạc và những người bỏ mạng giữa biển khơi; khi đối diện với sự vĩnh cửu yên tĩnh của bầu trời, họ đều phải nói ra sự thật. Và giờ đây anh phải nói ra sự thật bởi vì anh đang đối diện với thành phố vĩ đại nhất trên trái đất.

"Howard, việc cậu cho phép tôi đến đây... có phải là cái điều khủng khiếp mà người ta vẫn nói là giơ nốt má bên kia ra hay không?" Anh không nghĩ tới giọng nói của mình. Anh không biết rằng giọng nói của anh lúc này có một vẻ nghiêm trang.

Roark im lặng nhìn anh trong giây lát. Thay đổi này của Keating còn lớn hơn nhiều so với cái khuôn mặt phị ra kia.

"Tôi không biết, Peter. Không, nếu họ muốn nói đến sự tha thứ thực sự. Nếu như tôi đã bị tổn thương, tôi sẽ không bao giờ tha thứ. Nhưng sẽ đúng, nếu họ muốn nói tới việc mà tôi đang làm. Tôi không nghĩ rằng một người có thể làm tổn thương người khác - ít nhất là không theo cách nào đáng kể cả. Không thể làm tổn thương cũng như không thể giúp đỡ anh ta. Tôi thực sự không có gì để tha thứ cho anh."

"Giá mà cậu cảm thấy bị tổn thương thì có lẽ tốt hơn. Nhu vậy sẽ đỡ tàn nhẫn hơn."

"Tôi đoán thế."

"Cậu không hề thay đổi gì cả, Howard."

"Tôi đoán là không."

"Nếu đây là sự trừng phạt tôi phải chịu... thì tôi muốn cậu biết rằng tôi đã đang chịu đựng nó và tôi hiểu. Đã có lúc tôi dường như đã nghĩ rằng tôi có thể thoát khỏi chuyện đó một cách dễ dàng."

"Anh đã thay đổi, Peter."

"Tôi biết tôi đã thay đổi."

"Tôi rất tiếc nếu đó phải là một sự trừng phạt."

"Tôi biết là cậu tiếc. Tôi tin cậu. Nhưng không sao. Đây chỉ là phần kết của nó thôi. Phần khủng khiếp nhất là phần ngay trước phần kết."

"Khi mà anh quyết định tới đây phải không?"

"Đúng thế."

"Vậy thì bây giờ đừng sợ nữa. Có chuyện gì vậy?"

Keating ngồi thẳng, bình tĩnh, không như khi anh ngồi đối diện với người đàn ông mặc áo choàng ba ngày trước đây. Anh gần như ung dung tự tin. Anh nói chậm rãi và không hề có chút nuối tiếc:

"Howard, tôi là một kẻ ăn bám. Tôi đã là kẻ ăn bám suốt cuộc đời tôi. Cậu đã thiết kế những dự án xuất sắc nhất của tôi ở Stanton. Cậu đã thiết kế ngôi nhà đầu tiên mà tôi xây dựng. Cậu đã thiết kế tòa nhà Cosmo-Slotnik. Tôi đã sống ký sinh vào cậu và tất cả những người giống như cậu, những người đã sống từ trước khi chúng ta được sinh ra. Những người đã thiết kế Parthenon, các nhà thờ Gothic và những tòa nhà chọc trời đầu tiên. Nếu không có họ, tôi sẽ không biết làm thế nào để đặt các viên đá lên nhau. Trong suốt cuộc đời tôi, tôi đã không làm được gì hơn những thứ mà họ đã làm trước tôi. Tôi đã lấy những thứ không phải là của tôi và không làm nên bất cứ cái gì cả. Tôi không có sản phẩm nào. Đây không phải là sự đóng kịch đâu Howard, tôi biết rõ điều tôi đang nói. Và tôi tới đây để đề nghị cậu cứu tôi một lần nữa. Nếu cậu muốn đuổi tôi ra đường, hãy làm ngay lúc này."

Roark lắc đầu chậm chạp, và giơ một tay ra hiệu cho Keating tiếp tục.

"Tôi đoán cậu biết là sự nghiệp kiến trúc sư của tôi đã hết. Ồ, chưa thực sự hết nhưng gần như thế. Những người khác có thể tiếp tục như thế này vài ba năm nữa, nhưng tôi thì không thể, bởi vì những gì mà tôi từng là. Hoặc là vì những gì người ta từng nghĩ về tôi. Người ta không tha thứ cho một người trượt dốc. Tôi buộc phải sống cho xứng với những điều thiên hạ nghĩ về tôi. Tôi chỉ có thể làm được điều đó theo cái cách giống như tôi đã làm mọi thứ khác trong cuộc đời tôi. Tôi cần một danh tiếng mà tôi không xứng được nhận cho một thành quả mà tôi không tạo ra để cứu vãn cái tên tuổi mà tôi không xứng đáng được mang... Tôi mới nhận được cơ hội cuối cùng. Tôi biết đây là cơ hội cuối cùng của tôi. Tôi biết không thể làm được việc đó. Tôi sẽ không cố gắng mang cho cậu một mớ hỗn độn và nhờ cậu chỉnh sửa nó. Tôi đang xin cậu thiết kế nó và để tôi đề tên tôi vào."

"Công trình nào?"

"Khu chung cư Cortlandt."

"Dự án nhà ở à?"

"Đúng thế. Cậu đã nghe đến nó rồi à?"

"Tôi biết mọi thứ về nó."

"Cậu quan tâm đến các dự án về nhà cửa sao, Howard?"

"Ai đưa dự án này cho anh vậy? Với điều kiện gì?"

Keating giải thích một cách rành mạch, thản nhiên và thuật lại cuộc đối thoại với Toohey như thế anh đang tóm tắt lại một bản trích lục tòa án mà anh đã đọc từ lâu rồi. Anh rút các giấy tờ khỏi cặp sách, đặt lên bàn và tiếp tục nói trong khi Roark xem chúng. Ngay lập tức Roark ngắt lời anh "Chờ chút Peter. Đừng nói gì cả." Anh chờ một lúc lâu. Anh nhìn thấy tay Roark dịch chuyển vu vơ trên những giấy tờ, nhưng anh biết rằng Roark đang không nhìn vào chúng.

Roark nói: "Anh nói tiếp đi" và Keating tiếp tục một cách ngoan ngoãn, không cho phép chính bản thân thắc mắc điều gì.

"Tôi đoán chẳng có lý do gì khiến cậu phải làm việc này cho tôi cả," anh kết luận. Nếu cậu có thể giải quyết bài toán của họ, cậu có thể tự tìm họ và nhận thầu dự án này."

Roark mỉm cười.

"Anh nghĩ là tôi có thể qua được Toohey à?"

"Không. Không, tôi không nghĩ cậu có thể."

"Ai nói với anh là tôi quan tâm tới các dự án về nhà cửa?"

"Kiến trúc sư nào mà chẳng quan tâm?"

"Ồ, tôi có quan tâm. Nhưng không theo cách anh nghĩ."

Anh đứng dậy. Đấy là một cử động nhanh gọn, nôn nóng và căng thẳng. Keating tự cho phép mình lần đầu nhận xét: anh nghĩ thật kỳ lạ khi nhìn thấy sự kích động bị kiềm chế ở Roark.

"Hãy để tôi suy nghĩ về việc này, Peter. Cứ để nó ở đây. Hãy đến nhà tôi vào tối ngày mai. Lúc đó, tôi sẽ nói với anh."

"Cậu không... từ chối tôi à?"

"Bây giờ thì chưa."

"Cậu có thể... sau tất cả những chuyện đã xảy ra ư...?"

"Quỷ tha ma bắt những chuyện ấy đi."

"Cậu sẽ xem xét..."

"Tôi không thể nói điều gì bây giờ, Peter. Tôi phải suy nghĩ cẩn thận. Đừng tin chắc vội. Tôi có thể phải yêu cầu anh làm một việc mà anh không thể làm được."

"Bất kỳ điều gì cậu yêu cầu, Howard. Bất kỳ cái gì."

"Chúng ta sẽ nói chuyện đó vào ngày mai."

"Howard, tôi... tôi không biết phải cảm ơn cậu thế nào, thậm chí cho..."

"Đừng cảm ơn tôi. Nếu tôi làm việc này, tôi sẽ có mục đích của riêng tôi. Tôi cũng mong sẽ thu được nhiều như anh. Có thể còn hơn. Chỉ cần anh nhớ rằng tôi sẽ không làm chuyện này với các điều kiện khác."

*

* *

Keating đến nhà Roark vào tối ngày hôm sau. Anh không thể nói liệu anh đã sốt ruột chờ đợi hay không. Vết bầm tím đang lan rộng. Anh vẫn có thể làm việc, có điều anh không hề ý thức được mình đang làm việc gì.

Anh đứng giữa phòng của Roark và chậm rãi nhìn quanh. Anh đã biết ơn về tất cả những gì mà Roark đã không nói với anh. Nhưng chính anh lại bộc lộ cảm xúc khi nói:

"Đây là tòa nhà Enright có phải không?"

"Đúng vậy."

"Cậu đã xây nó à?"

Roark gật đầu và nói: "Ngồi xuống đi, Peter," Roark hiểu quá rõ.

Keating mang theo ca-táp. Anh đặt nó xuống sàn, tựa vào ghế của anh. Chiếc ca-táp phồng lên và có vẻ nặng; anh rất cẩn thận khi chạm tay vào nó. Rồi anh với tay ra và quên cả phép lịch sự; anh ôm khư khư cái ca-táp và hỏi:

"Thế nào?"

"Peter, anh có thể tưởng tượng, dù chỉ một phút thôi, rằng anh đang đơn độc trong thế giới này không?"

"Tôi đã nghĩ đến điều đó ba ngày nay."

"Không. Đấy không phải ý tôi. Anh có thể quên đi những gì chúng ta được dạy nhai đi nhai lại, và suy nghĩ, nghĩ một cách nghiêm túc bằng chính bộ não của anh không? Có một số điều tôi muốn anh phải hiểu. Đó là điều kiện đầu tiên của tôi. Tôi sẽ nói với anh điều tôi muốn. Nếu anh nghĩ về chuyện đó như mọi người khác, anh sẽ nói điều kiện đó chẳng là gì cả. Nhưng nếu anh nói như vậy, tôi sẽ không thể làm việc này. Trừ khi anh hoàn toàn hiểu được tầm quan trọng của nó, bằng toàn bộ tâm trí của anh."

"Tôi sẽ cố gắng Howard. Tôi đã... trung thực với cậu ngày hôm qua."

"Đúng vậy. Nếu anh không trung thực thì tôi đã từ chối anh từ hôm qua rồi. Tôi nghĩ là lần này có thể anh sẽ hiểu vấn đề và làm được phần việc của anh."

"Cậu muốn làm vụ này à?"

"Có thể. Nếu đề nghị của anh đủ hấp dẫn."

"Howard... bất kỳ thứ gì cậu yêu cầu. Bất kỳ cái gì. Tôi sẽ bán linh hồn tôi..."

"Đó chính là thứ mà tôi muốn anh hiểu. Bán linh hồn là việc dễ dàng nhất trên thế giới này. Đó là việc mà tất cả mọi người đều làm hàng ngày hàng giờ với cuộc đời họ. Nếu tôi bảo anh hãy giữ gìn linh hồn anh, anh có hiểu tại sao việc ấy còn khó hơn nhiều không?"

"Có...có, tôi nghĩ là tôi hiểu."

"Được rồi, tiếp tục đi. Tôi muốn anh cho tôi một lý do tại sao tôi nên mong muốn thiết kế dự án Cortlandt. Tôi muốn anh đưa ra một đề nghị."

"Cậu có thể lấy tất cả tiền mà họ trả tôi. Tôi không cần nó. Cậu có thể có gấp đôi số đó. Tôi sẽ nhân đôi mức phí của họ."

"Anh biết nhiều hơn thế mà Peter. Đó là thứ anh định lấy ra để dụ tôi à?"

"Cậu sẽ cứu vớt cuộc đời tôi."

"Anh có thể nghĩ ra lý do tại sao tôi muốn cứu cuộc đời anh không?"

"Không."

"Tiếp đi?"

"Đó là một dự án phúc lợi vĩ đại, Howard. Một dự án nhân đạo. Hãy nghĩ về những người nghèo đang sống trong các khu nhà ổ chuột. Nếu cậu có thể đưa cho họ tiện nghi tươm tất trong khả năng của họ, cậu sẽ thấy thỏa mãn vì đã làm một việc cao cả."

"Peter, hôm qua anh thành thật hơn thế này."

Mắt anh cụp xuống, giọng anh trầm. Keating nói:

"Vì cậu sẽ muốn thiết kế nó."

"Đúng vậy. Peter. Bây giờ thì anh bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tôi rồi đấy."

"Cậu muốn gì?"

"Bây giờ nghe tôi này. Tôi đã nghiên cứu vấn đề nhà ở cho người có thu nhập thấp nhiều năm nay. Tôi không bao giờ nghĩ về những người nghèo trong khu ổ chuột. Tôi nghĩ về những tiềm năng trong thế giới hiện đại của chúng ta. Những vật liệu mới, những phương tiện mới, những cơ hội có thể nắm giữ lấy và sử dụng. Xung quanh chúng ta bây giờ có quá nhiều sản phẩm của trí tuệ con người. Có nhiều những tiềm năng vĩ đại để khai thác, để xây dựng rẻ tiền, đơn giản thông minh. Tôi đã dành nhiều thời gian nghiên cứu. Tôi không có nhiều việc để làm từ khi công trình Stoddard. Tôi đã không trông đợi kết quả. Tôi nghiên cứu nó chỉ vì tôi không thể nhìn thấy một vật liệu nào đó mà không nghĩ rằng: có thể làm gì với vật liệu này? Và chỉ cần nghĩ như thế, lập tức tôi phải bắt tay vào thực hiện nó. Để tìm thấy câu trả lời, để đánh bại nó. Tôi đã nghiên cứu nhiều năm. Tôi yêu công việc này. Tôi làm việc bởi vì đó là bài toán mà tôi muốn giải quyết. Anh muốn biết làm thế nào để xây dựng một căn nhà cho thuê với giá mười lăm đô là một tháng phải không? Tôi sẽ chỉ cho anh làm sao để xây dựng nó với giá mười đô."

Keating bất giác bước về phía trước.

"Nhưng trước tiên, tôi muốn anh suy nghĩ và nói cho tôi nghe xem điều gì đã làm tôi tốn bao nhiêu năm tháng cho công việc này? Tiền ư? Danh vọng ư? Từ thiện ư? Lòng vị tha ư?"

Keating lắc đầu chậm chạp. "Được rồi. Anh đang bắt đầu hiểu rồi đấy. Bởi vậy mà dù chúng ta có làm cái gì đi nữa thì cũng đừng nói về những người nghèo trong các khu ổ chuột. Họ không liên quan gì cả, mặc dù cũng chẳng sao nếu như ai đó dùng lý lẽ này để giải thích cho những kẻ ngốc nghếch khác. Anh thấy đó, tôi không bao giờ quan tâm tới khách hàng của tôi; tôi chỉ quan tâm đến các yêu cầu kiến trúc của họ. Tôi coi những yêu cầu ấy như một phần của chủ đề và vấn đề của công trình, như là vật liệu xây dựng cho công trình của tôi... như là gạch đá hay sắt thép vậy. Gạch đá và sắt thép không phải là động cơ của tôi. Khách hàng cũng không phải. Cả hai chỉ là phương tiện của công việc của tôi mà thôi. Peter, trước khi anh có thể làm được một cái gì đấy cho người khác, anh phải là một người có khả năng làm những thứ đó. Nhưng để làm ra chúng, anh phải yêu quý việc làm đó, chứ không phải là những hệ quả khác. Công việc, chứ không phải con người. Hành động của chính anh, chứ không phải bất kỳ đối tượng nào của lòng từ thiện. Tôi sẽ lấy làm vui mừng nếu một ai đó có nhu cầu và tìm thấy một cuộc sống tốt hơn trong căn nhà tôi thiết kế. Nhưng đó không phải là động cơ của công việc của tôi. Không phải là lý do. Không phải là phần thưởng dành cho tôi."

Anh đi tới một cửa sổ và đứng nhìn ra ánh sang của thành phố đang run rẩy trên mặt sông đêm.

"Hôm qua anh nói: Có kiến trúc sư nào mà không quan tâm tới chuyện cung cấp nhà ở? Tôi căm ghét cái ý tưởng đáng nguyền rủa ấy. Tôi nghĩ việc cung cấp những căn nhà tươm tất cho những người có thu nhập mười lăm đô la một tuần là một việc đáng làm. Nhưng không phải với sự trả giá của những người khác. Không phải là bằng việc tăng thuế, tăng tiền thuê nhà của những người khác và làm cho một người có thu nhập bốn mươi đô la một tuần phải sống trong một cái nhà ổ chuột. Đó là thực tế đang diễn ra ở New York. Không một ai, ngoại trừ những người rất giàu và những người nghèo được chính phủ trợ giúp, có đủ tiền để sống trong một căn hộ hiện đại. Anh đã bao giờ nhìn thấy nhà của những cặp vợ chồng phải tự làm lụng và tự trả phí sinh hoạt chưa - những ngôi nhà cũ kỹ bằng đá cát-kết nâu được sửa lại ấy? Anh đã bao giờ nhìn thấy những căn bếp và hệ thống ống nước của họ chưa? Họ buộc phải sống như vậy vì họ không đủ nghèo để có thể xin được phép sống ở các chung cư chính phủ xây cho người nghèo. Nhưng họ chính là những người nai lưng ra làm việc để chính phủ có thể trả tiền cho cái dự án chết tiệt này. Họ nộp thuế. Và các loại thuế làm tăng giá thuê nhà của chính họ. Và họ phải chuyển từ một căn nhà xây bằng đá cát-kết nâu được sửa sang lại, tới một căn nhà chưa được sửa sang, và rồi từ đó tới một căn hộ dọc đường tàu. Tôi không muốn trừng phạt một người chỉ vì anh ta chỉ kiếm được 15 đô la một tuần. Nhưng tôi không thể hiểu tại sao một người kiếm ra 40 đô la một tuần lại bị trừng phạt - và bị trừng phạt để mang lại lợi ích cho những người kém cỏi hơn anh ta. Chắc chắn là có nhiều lý thuyết về đề tài này, và rất nhiều tranh luận nữa. Nhưng hãy nhìn vào kết quả xem. Các kiến trúc sư đều lao vào các dự án nhà cửa của chính phủ. Anh đã từng gặp một kiến trúc sư nào mà không khẩn thiết yêu cầu các thành phố phải được quy hoạch chưa? Tôi muốn hỏi anh ta làm sao anh ta có thể đảo bảo rằng quy hoạch được lựa chọn sẽ là của chính anh ta? Và nếu quy hoạch của anh ta, anh ta lấy quyền gì để bắt người khác chấp nhận nó? Và nếu nó không phải là của anh ta thì điều gì đã xảy ra với các công trình của anh ta vậy? Tôi cho rằng anh ta sẽ bảo anh ta không thích cả hai trường hợp. Anh ta muốn một hội đồng, một hội thảo, một sự hợp tác, một sự hỗ trợ. Và kết quả sẽ là Hành trình của Những thế kỷ. Peter, từng người riêng lẻ trong số các anh đều làm việc tốt hơn cái công trình mà tám người tập trung lại và làm ra. Lúc nào đó, hãy tự hỏi chính anh tại sao như vậy."

"Tôi nghĩ tôi biết điều đó... Nhưng dự án Cortlandt..."

"Đúng vậy. Dự án Cortlandt. Ồ, tôi đã nói với anh tất cả những điều mà tôi không tin, để anh hiểu được tôi muốn và việc tôi có quyền gì để mong muốn điều đó. Tôi không tin vào các dự án nhà cửa của chính phủ. Tôi không muốn nghe bất cứ điều gì về những mục đích cao quý của chúng. Tôi không nghĩ những mục đích đó là cao quý. Nhưng điều đó cũng chẳng có ảnh hưởng gì. Đó không phải là mối bận tâm hàng đầu của tôi. Không phải là những người sẽ sống trong ngôi nhà này hay chủ đầu tư của công trình. Chỉ là chính bản thân ngôi nhà. Nếu phải xây dựng ngôi nhà ấy, thì phải xây nó một cách phù hợp."

"Cậu... muốn xây nó à?"

"Trong những năm nghiên cứu về vấn đề này, tôi chưa bao giờ hy vọng nhìn thấy kết quả của nó được đem ứng dụng thực tế. Tôi tự bắt mình không được hy vọng. Tôi biết tôi không thể trông đợi một cơ hội để trình bày những gì tôi có thể làm trên quy mô lớn. Dự án cung cấp nhà ở của chính phủ của anh, cùng với những thứ khác, đã làm cho công việc xây dựng trở nên đắt đỏ đến mức các chủ sở hữu tư nhân không thể đủ tiền cho những dự án đó, cũng như bất kỳ một dự án xây dựng nhà rẻ tiền nào. Và tôi thì không bao giờ được nhận bất kỳ công việc nào từ bất kỳ chính phủ nào. Chính anh cũng biết quá rõ chuyện này. Anh nói rằng tôi không thể vượt qua Toohey. Ông ta không phải là người duy nhất. Tôi chưa bao giờ nhận được một công trình nào bởi bất kỳ nhóm, ban bệ, hội đồng, công cộng hay tư nhân, trừ khi là có ai đó đấu tranh cho tôi, giống như Kent Lansing. Có một lý do ở đây, nhưng chúng ta không phải thảo luận về nó bây giờ. Tôi chỉ muốn anh biết rằng tôi nhận ra tôi cần đến anh theo cách nào; để chúng ta có thể có một cuộc trao đổi công bằng."

"Cậu cần tôi ư?"

"Peter, tôi thích công trình này. Tôi muốn nhìn thấy nó được mọc lên. Tôi mốn nó trở thành hiện thực, muốn làm cho nó sống, vận hành, được xây dựng lên. Nhưng mọi sinh vật sống đều phải có tính thống nhất trong nó. Anh biết điều đó có nghĩa là gì chứ? Là vẹn toàn, không pha trộn, hoàn thiện, không sứt mẻ. Anh có biết cái gì tạo nên nguyên tắc thống nhất không? Một suy nghĩ. Một suy nghĩ đơn lẻ tạo nên điều này và mọi phần của nó. Cái suy nghĩ mà không ai có thể thay đổi hoặc chạm vào. Tôi muốn thiết kế dự án Cortlandt. Tôi muốn nhìn thấy nó được xây lên. Tôi muốn thấy nó được xây lên đúng như tôi thiết kế nó."

"Howard... tôi sẽ không nói rằng 'Điều đó chẳng là gì'."

"Anh hiểu rồi chứ?"

"Tôi hiểu."

"Tôi muốn nhận tiền công cho công việc mình đã làm. Nhưng lần này thì tôi có thể bỏ qua chuyện đó. Tôi muốn mọi người biết công trình của tôi là do tôi làm ra. Nhưng tôi có thể cho qua. Tôi muốn những người thuê nhà được hạnh phúc bởi công việc của tôi. Nhưng điều đó không có quá nhiều ý nghĩa. Cái duy nhất có nghĩa, mục đích của tôi, phần thưởng của tôi, sự bắt đầu và kết thúc của tôi là tự bản thân công việc. Công việc của tôi, làm theo cách của tôi. Peter, chẳng có gì trên thế giới này mà anh có thể cho tôi, ngoại trừ điều này. Làm cho tôi điều này và anh có thể có bất kỳ cái gì tôi có thể cho anh. Công việc của tôi phải làm được là làm theo cách của tôi. Đấy là động lực riêng, cá nhân, ích kỷ và đầy cái tôi. Đó là cách duy nhất mà tôi làm việc. Đấy là tất cả con người tôi."

"Được rồi, Howard. Tôi hiểu. Với toàn bộ trí óc của mình."

"Vậy thì đây là lời đề nghị của tôi: Tôi sẽ thiết kế dự án Cortlandt. Anh sẽ đề tên anh vào đó. Anh sẽ giữ lại mọi thù lao. Nhưng anh sẽ phải đảm bảo rằng nó sẽ được xây dựng chính xác như tôi thiết kế."

Keating nhìn anh một cách thận trọng và yên lặng trong chốc lát.

"Được rồi, Howard." Anh nói thêm: "Tôi đã chờ đợi, để cho cậu biết rằng tôi biết chính xác những đòi hỏi của cậu và những gì tôi đang hứa."

"Anh biết là việc đó sẽ không dễ dàng chứ?"

"Tôi biết nó sẽ vô cùng khó khăn."

"Sẽ khó khăn. Bởi vì nó là một dự án lớn. Nhưng nhất là vì đó là dự án chính phủ. Sẽ có nhiều người tham gia vào, mỗi người có một quyền hạn riêng, mỗi người lại muốn làm nó theo cách này hay cách khác. Anh sẽ có một cuộc chiến vất vả. Anh sẽ phải có được sự can đảm giống như niềm tin của tôi."

"Tôi sẽ cố gắng xứng đáng với nó, Howard."

"Anh sẽ không có khả năng làm điều đó, trừ khi anh hiểu rằng tôi đang trao cho anh một sự tin tưởng còn thiêng liêng hơn... và cao quý hơn, nếu như anh thích từ này - hơn bất kỳ mục tiêu nhân đạo nào anh có thể gọi tên. Trừ khi anh hiểu rằng đây không phải là một sự ban ơn, rằng tôi không làm việc này cho anh hay là cho những người chủ nhà trong tương lai, mà là cho chính bản thân tôi, và anh không có quyền gì với nó ngoại trừ việc tuân theo những điều kiện này."

"Được rồi Howard."

"Anh sẽ phải tự tìm cách để làm phần của anh. Anh sẽ phải tự tìm cách dàn xếp được một thỏa thuận cứng rắn với các ông chủ của anh, và rồi đấu tranh với các quan chức hành chính cứ năm phút lại xuất hiện một lần trong suốt cả năm hoặc lâu hơn thế nữa. Tôi sẽ không có sự đảm bảo nào ngoại trừ lời hứa của anh. Anh muốn hứa với tôi điều đó chứ?"

"Tôi hứa với cậu."

Roark lấy trong túi áo ra hai tờ giấy và đưa cho Keating.

"Hãy ký đi."

"Cái gì thế này?"

"Một hợp đồng ghi rõ các điều khoản thỏa thuận giữa hai chúng ta. Mỗi người giữ một bản sao. Có thể là nó không có bất cứ một giá trị pháp lý nào. Nhưng tôi có thể giữ nó để khống chế anh. Tôi sẽ không kiện anh nhưng tôi có thể công bố hợp đồng này. Nếu uy tín là thứ anh cần tới, anh sẽ không cho phép thỏa thuận này bị lộ ra ngoài. Nếu anh mất can đảm vào bất cứ lúc nào, hãy nhớ rằng anh sẽ mất tất cả bởi sự đầu hàng đó. Nhưng nếu anh giữ lời hứa của anh... tôi sẽ giữ lời hứa của tôi... điều đó được ghi trong bản hợp đồng... rằng tôi sẽ không bao giờ tiết lộ điều này cho bất kỳ ai. Dự án Cortlandt sẽ là của anh. Vào ngày nó hoàn thành, tôi sẽ gửi trả lại anh tờ giấy này và anh có thể đốt nó nếu anh muốn."

"Được rồi, Howard."

Keating ký, đưa bút lại cho Roark và Roark ký.

Keating ngồi nhìn anh một lúc, rồi nói một cách chậm rãi, như thể cố gắng phân tách một vài suy nghĩ lờ mờ trong đầu óc anh:

"Mọi người sẽ bảo anh là đồ ngốc... Mọi người sẽ bảo tôi được tất cả..."

"Anh sẽ nhận được tất cả những gì mà xã hội có thể ban phát cho một người. Anh sẽ được tất cả tiền bạc. Anh sẽ được bất kỳ danh tiếng hay huân chương huy chương nào mà người ta muốn trao cho anh. Anh sẽ nhận lấy sự biết ơn mà những người thuê nhà có thế có. Còn tôi, tôi sẽ lấy được cái mà không một ai có thể ban phát cho một người, ngoại trừ chính anh ta. Tôi sẽ là người xây dựng Cortlandt."

"Cậu nhận được nhiều hơn tôi, Howard."

"Peter!" Giọng Roark mang âm hưởng chiến thắng. "Anh hiểu điều đó?"

"Đúng vậy..."

Roark tựa nhẹ vào bàn và cười nhẹ. Đó là âm thanh hạnh phúc nhất mà Keating đã từng nghe.

"Lần này sẽ thành công, Peter. Nó sẽ thành công. Sẽ ổn thôi. Anh vừa làm một việc thật tuyệt vời. Anh đã không phá hỏng mọi việc bằng cách cảm ơn tôi."

Keating gật đầu trong im lặng.

"Giờ thì thư giãn đi, Peter. Anh có muốn uống gì không? Chúng ta sẽ không thảo luận chi tiết nào tối nay. Cứ ngồi đó và kệ tôi. Đừng có sợ tôi nữa. Hãy quên tất cả những gì anh đã nói ngày hôm qua đi. Việc này xí xóa những chuyện đó. Chúng ta đang bắt đầu từ đầu. Giờ đây chúng ta là hai đối tác. Anh có phần việc mà anh phải làm. Đó là phần đóng góp chính đáng. Tiện thể, đây chính là ý tưởng của tôi về sự hợp tác. Anh sẽ lo phần quan hệ với mọi người. Tôi sẽ lo phần xây dựng. Mỗi chúng ta sẽ làm công việc mà mình biết rõ nhất - và làm trung thực hết mức có thể."

Anh đi đến chỗ Keating và chìa tay ra.

Keating ngồi yên tại chỗ, không ngẩng đầu lên, chỉ nắm lấy bàn tay đó. Những ngón tay của anh nắm chặt lấy bàn tay của Roark một lúc.

Khi Roark mang cho anh cốc nước, Keating nuốt ba ngụm dài và ngồi nhìn căn phòng. Những ngón tay bám chặt quanh thành cốc, cánh tay anh không cử động, nhưng thỉnh thoảng các viên đá lại kêu leng keng trong nước, mà không chuyển động một cách rõ ràng.

Mắt anh di chuyển quanh phòng một cách nặng nhọc, rồi nhìn sang thân hình của Roark. Anh nghĩ, cậu ấy không chủ định làm thế, cậu ấy không làm thế để làm mình đau, cậu ấy không đừng được và cậu ấy thậm chí không biết về nó - cả cơ thể cậu ấy là như thế, cái dáng người của một sinh vật hoan hỉ vì được sống. Và anh nhận ra rằng anh chưa bao giờ thực sự tin rằng có bất kỳ sinh vật sống nào có thể hoan hỉ vì được tồn tại.

"Cậu thật là... trẻ, Howard ạ... Cậu thật trẻ... Một lần tôi đã chỉ trích cậu là cậu quá già và quá nghiêm túc... Cậu có nhớ khi cậu làm việc cho tôi ở hãng Francon không?"

"Quên chuyện đó đi Peter. Chúng ta đã nói chuyện được với nhau mà không cần nhớ lại."

"Đó là bởi vì cậu tốt bụng. Chờ đã, đừng có nhăn mặt. Hãy để tôi nói. Tôi phải nói vài điều. Tôi biết, đây là điều cậu đã không muốn đề cập đến. Chúa ơi, tôi đã không muốn cậu đề cập tới chuyện đó. Tối hôm đó, tôi đã phải gồng mình lại, với những thứ cậu có thể ném vào tôi. Nhưng cậu đã không làm vậy. Nếu bây giờ mọi thứ đảo ngược và tôi là cậu và nếu đây là nhà của tôi, cậu có thể hình dung tôi sẽ làm hay nói gì không? Cậu không đủ tự phụ."

"Ồ không. Tôi quá tự phụ. Nếu anh muốn gọi như vậy. Tôi không bao giờ làm phép so sánh. Tôi không bao giờ nghĩ về bản thân mình trong mối tương quan với bất kỳ ai. Tôi từ chối việc đong đếm bản thân như một phần của một cái gì đó. Tôi là một kẻ tuyệt đối ích kỷ ."

"Đúng thế. Cậu đúng là kẻ tuyệt đối ích kỷ. Nhưng những kẻ ích kỷ thì không bao giờ tốt bụng. Cậu thì tốt bụng. Cậu là người ích kỷ nhất và tốt bụng nhất mà tôi biết. Và điều đó thật phi lý."

"Có thể những khái niệm đó phi lý. Có lẽ chúng không mang cái nghĩa mà người ta đã rao giảng về chúng. Nhưng bây giờ hãy bỏ qua đã. Nếu anh cứ phải nói điều gì đó, hãy nói về những việc chúng ta sẽ làm." Anh cúi người ra ngoài cửa sổ đang mở. "Khu chung cư sẽ mọc lên ở đằng kia, ở khoảng tối đó, đó là công trường của dự án Cortlandt. Khi công trình hoàn thành, tôi sẽ có thể nhìn ngắm nó từ cửa sổ phòng tôi. Lúc đó, nó sẽ là một phần của thành phố. Peter, đã bao giờ tôi nói với anh tôi yêu thành phố này thế nào chưa?"

Keating uống nốt chỗ nước còn lại trong cốc.

"Tôi nghĩ là tôi nên đi bây giờ Howard. Tối nay tôi không... khỏe."

"Vài ngày nữa tôi sẽ gọi cho anh. Chúng ta nên gặp nhau ở đây. Đừng tới văn phòng tôi. Anh không muốn bị bắt gặp ở đó... ai đó sẽ đoán ra. Tiện đây, sau này, khi tôi làm xong bản phác thảo, anh sẽ phải tự mình sao chép lại bằng phong cách của chính anh. Ai đó có thể sẽ nhận ra nét vẽ của tôi."

"Đúng thế... Được thôi..."

Keating đứng dậy, nhìn chiếc ca-táp của anh một lúc, rồi nhặt nó lên. Anh lẩm bẩm vài từ mơ hồ, cầm lấy mũ, đi tới cửa, rồi dừng lại và nhìn xuống ca-táp.

"Howard... tôi có mang vài thứ mà tôi muốn cho cậu xem."

Anh bước trở vào phòng và đặt chiếc ca-táp lên trên bàn.

"Tôi chưa cho ai xem nó cả." Ngón tay anh lóng ngóng khi mở những chiếc đai. "Cả mẹ tôi lẫn Ellsworth Toohey... Tôi muốn cậu nói cho tôi nghe xem liệu có bất kỳ..."

Anh đưa cho Roark sáu bức vẽ.

Roark ngắm những bức vẽ, từng chiếc một. Anh ngắm lâu hơn cần thiết. Khi anh có đủ tự tin để rời mắt khỏi những bức vẽ, anh im lặng lắc đầu trả lời cho câu nói mà Keating đã không thốt ra.

"Quá muộn rồi, Peter" anh nói dịu dàng.

Keating gật đầu. "Tôi đoán là... tôi đã biết điều đó."

Khi Keating đi khỏi, Roark tựa lưng vào cửa, nhắm mắt. Anh cảm thấy nôn nao vì cảm giác thương hại.

Trước đây, anh chưa bao giờ có cảm giác như thế này - ngay cả khi Henry Cameron đổ sụp xuống ngay dưới chân anh trong văn phòng hay khi anh nhìn thấy Steven Mallory thổn thức trên giường trước mắt anh. Những khoảnh khắc ấy đều sạch sẽ. Nhưng cái này chính là sự thương hại - cái ý thức rõ ràng về một con người không có chút giá trị hay hy vọng nào cả, cái cảm giác về sự kết thúc, về cái không thể chuộc lại. Có sự hổ thẹn trong cảm giác này - sự hổ thẹn của bản thân anh khi anh phải tuyên bố bản án với một người, khi anh phải biết tới cái xúc cảm không hề có bóng dáng của sự tôn trọng này.

Đây chính là sự thương hại - anh nghĩ - và anh ngẩng đầu lên trong sự phân vân. Anh nghĩ rằng chắc chắn phải có điều gì đó sai trái kinh khủng trong một thế giới mà cái cảm xúc kinh khủng này được coi là một thứ đức hạnh.

IX.

Họ đang ở bên bờ hồ nước - Wynand ngả người trên một phiến đá - Roark nằm dài trên cỏ - Dominique ngồi thẳng người, cơ thể cô nhô lên một cách cứng nhắc từ những vòng tròn của chiếc váy xanh đang nằm trên mặt cỏ.

Nhà của Wynand đứng ở quả đồi phía trên. Mặt đất trải rộng thành những cánh đồng nhấp nhô và nâng dần theo độ cao của đồi. Ngôi nhà là những hình khối chữ nhật nằm ngang, được xếp chồng lên nhau theo chiều dọc. Thỉnh thoảng có những căn phòng thụt vào trong, hình dạng và kích cỡ của mỗi căn phòng tạo nên một bậc trong một chuỗi những đường bậc thang xoắn lại với nhau. Như thể có một bàn tay di chuyển thật chậm, bắt đầu từ phòng khách ở bậc thứ nhất, nặn nên những bậc tiếp theo bằng một cái miết dài. Sau đó bàn tay dừng lại, rồi tiếp tục với những chuyển động riêng lẻ, ngắn và dứt khoát hơn, cuối cùng thì dừng lại, nhấc lên khỏi mặt đất, và vẫn còn lơ lửng đâu đó trên không. Cứ như thể bàn tay ấy đã bắt vào nhịp nâng chậm rãi của những cánh đồng, nhấn mạnh chúng, rồi tăng tốc chúng và phá vỡ chúng thành những hợp âm staccato trong chương cuối của một bản nhạc.

"Tôi thích được ngắm nó từ chỗ này," Wynand nói. "Tôi đã ở đây cả ngày hôm qua để quan sát ánh sáng thay đổi dần trên ngôi nhà. Khi anh thiết kế một ngôi nhà, Howard, anh có biết chính xác về hình dạng của nó dưới ánh nắng mặt trời vào các thời điểm khác nhau trong ngày, ở các góc nhìn khác nhau không? Anh có kiểm soát mặt trời không đấy?"

"Chắc chắn rồi," Roark đáp mà không ngẩng đầu lên. "Rất tiếc là tôi không thể kiểm soát được nó từ chỗ này. Dịch ra đi, Gail. Ông đang che mất mặt trời của tôi. Tôi thích có nắng chiếu lên lưng."

Wynand lăn mình xuống cỏ. Roark đang nằm sấp, úp mặt vào cánh tay. Mái tóc màu da cam của anh xòa lên cánh tay áo sơ mi màu trắng, một tay anh duỗi dài ra phía trước, bàn tay áp xuống mặt đấy. Dominique nhìn vào những lá cỏ mọc lên từ kẽ tay của Roark. Thỉnh thoảng những ngón tay đó đi chuyển, miết lên cỏ với vẻ lười biếng và đầy khoái cảm.

Đằng sau họ là hồ nước trải rộng, phẳng lì. Mặt nước càng vào gần bờ càng sẫm dần, như thể những cái cây đang ở xa đang dịch chuyển lại gần để thu nhỏ hồ nước vào buổi tối. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống tạo thành một dải nước lấp lánh trên mặt hồ. Dominique ngước mắt về phía ngôi nhà, cô muốn được đứng gần ở đó, bên cạnh cửa sổ, nhìn ngược xuống đây để thấy cái bóng trắng này từ xa, thấy bàn tay của anh đặt trên mặt đất, thấy một người, kiệt sức và trống rỗng, đang nằm ở dưới chân đồi.

Cô đang sống trong căn nhà đó được một tháng. Cô đã không bao giờ nghĩ là cô sẽ làm điều đó. Thế rồi một hôm Roark nói với cô: "Bà sẽ có thể vào sống ở ngôi nhà này trong vòng mười ngày nữa, thưa bà Wynand," và cô đã trả lời thế này: "Vâng, thưa ông Roark."

Cô chấp nhận ngôi nhà, chấp nhận cái cảm giác thanh vịn cầu thang trượt đi dưới bàn tay cô, chấp nhận những bức tường bao bọc bầu không khí mà cô hít thở hàng ngày. Cô chấp nhận những công tắc đèn mà cô bấm vào mỗi buổi tối, chấp nhận những sợi dây điện mà anh đã đặt bên trong tường; chấp nhận dòng nước, khi cô mở vòi nước, chảy ra từ những ống nước mà anh đã thiết kế; chấp nhận hơi ấm đến từ bếp lửa trần vào những đêm tháng Tám, hơi ấm từ một lò sưởi bằng đá được làm theo bản vẽ của anh. Cô nghĩ: Mọi khoảnh khắc... mọi nhu cầu tồn tại của ta... Cô nghĩ: Tại sao lại không nhỉ? Nó cũng hệt như những lá phổi, mạch máu, dây thần kinh và bộ não của ta, tất cả đều nằm dưới cùng một sự điều khiển. Cô thấy mình hòa làm một với ngôi nhà.

Cô chấp nhận cả những đêm, trong vòng tay của Wynand, cô đã mở mắt ra để ngắm những đường nét của căn phòng ngủ mà Roark đã thiết kế. Cô đã nghiến răng để kiềm chế cơn khoái cảm đang cuộn lên trong lòng; nó vừa là câu trả lời, vừa là sự ngạo báng đối với cơn khát không được thỏa mãn của cơ thể. Để cuối cùng cô buông mình theo khoái lạc mà không biết là ai đã đem lại cho cô điều đó, ai trong số hai người, hay là cả hai?

Wynand quan sát cô khi cô đi ngang qua phòng, khi cô đi xuống cầu thang, khi cô đứng cạnh cửa sổ. Cô đã nghe ông nói với cô: "Anh đã không biết rằng người ta có thể thiết kế ngôi nhà cho một người đàn bà, như là thiết kế một chiếc váy vậy. Em không thể nhìn thấy bản thân em như anh đang nhìn em ở đây, em không biết rằng ngôi nhà này hoàn toàn thuộc về em như thế nào. Mỗi góc, mỗi phần của từng căn phòng đều làm nền cho em. Kích cỡ của chúng đều được chỉnh theo chiều cao, theo cơ thể em. Đến cả màu sơn của những bức tường cũng hợp một cách lạ lùng với làm da của em. Nó là ngôi Đền Stoddard, nhưng lại được xây cho riêng một người, và nó là của anh. Đây chính là điều anh mong muốn. Thành phố không thể chạm vào em ở đây. Anh luôn có cảm giác rằng thành phố sẽ cướp em ra khỏi anh. Nó đã cho anh tất cả những gì anh đang có. Không hiểu sao anh thỉnh thoảng nghĩ rằng một ngày nào đó anh sẽ phải trả công cho nó. Nhưng ở đây, em sẽ được an toàn và em là của anh."

Cô chỉ muốn gào lên: "Gail, ở đây em thuộc về anh ấy nhiều hơn ở bất cứ nơi nào khác."

Roark là vị khách duy nhất được Wynand mời đến ngôi nhà mới của họ. Cô chấp nhận việc Roark đến thăm họ vào những ngày nghỉ cuối tuần. Đó là điều khó khăn nhất đối với cô. Cô biết là anh không đến để tra tấn cô, mà chỉ đơn giản là vì Wynand mời và anh cũng thích ở cùng với Wynand. Cô nhớ là cô đã nói với anh vào các buổi tối, tay cô đặt trên tay vịn cầu thang, chân đứng trên bậc thang đưa lên phòng ngủ của cô: "Ông có thể xuống ăn sáng lúc nào tùy thích, ông Roark. Chỉ cần bấm chuông trong phòng ăn là được."

"Cảm ơn bà Wynand. Chúc bà ngủ ngon."

Có một lần, cô thấy anh một mình, trong chốc lát. Đó là một buổi sáng sớm; cô đã không ngủ cả đêm trước đó; cô đã nghĩ về việc anh đang ở trong căn phòng ở bên kia hành lang. Cô đã đi ra ngoài trước khi mọi người tỉnh giấc. Cô đi xuống chân đồi và cảm thấy nhẹ nhõm trong sự tĩnh lặng đến bất ngờ của mặt đất xung quanh cô, sự tĩnh lặng của ánh sáng tràn ngập mà không có mặt trời, của lá cây mà không có chuyển động - đấy là một sự tĩnh lặng rạng ngời, đầy vẻ chờ đợi. Cô nghe thấy những bước chân đi sau cô; cô dừng lại, tựa người vào một thân cây. Anh đang đi trước cô, họ đứng im giữa trời đất, lặng nhìn nhau. Anh không nói gì cả, bước vòng qua cô rồi đi tiếp. Cô vẫn đứng dựa lưng vào cây, một lúc sau thì cô đi bộ về nhà.

Bây giờ, khi đang ngồi ở bên hồ, cô nghe Wynand nói với anh:

"Trông anh như một con vật lười biếng nhất thế giới, Howard."

"Đúng thế mà."

"Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một ai thư giãn như thế cả."

"Ông cứ thử thức trắng ba đêm liền mà xem."

"Tôi đã bảo anh đến đây từ hôm qua cơ mà."

"Tôi không thể."

"Anh có định ngủ gục luôn ở đây không đấy?"

"Tôi cũng muốn vậy. Như thế sẽ thật tuyệt vời." Roark ngẩng đầu lên, đôi mắt anh đang cười, như thể anh không nhìn thấy tòa nhà ở trên đồi, như thể không phải là anh đang nói về nó. "Đây là cách mà tôi muốn chết, cứ nằm dài trên một bờ hồ nào đó như thế này, chỉ cần nhắm mắt lại và không bao giờ trở lại nữa."

Cô nghĩ: Anh ấy cũng nghĩ những gì mà mình đang nghĩ - hai chúng ta vẫn có chung điểm này - Gail sẽ không hiểu đây - lần này không phải là anh ấy và Gail, mà là anh ấy và mình.

Wynand nói: "Đồ ngốc. Anh không phải là anh nữa, ngay cả nếu điều đó chỉ là một trò đùa. Anh đang tự hủy hoại bản thân vì một điều gì đó. Nó là cái gì vậy?"

"Lúc này thì là những cái ống thông gió. Những cái ống thông gió rất bướng bỉnh."

"Cho ai cơ?"

"Khách hàng... Bây giờ thì tôi có đủ các loại khách hàng."

"Anh có phải làm việc vào ban đêm?"

"Có - với những khách hàng đặc biệt này. Một công việc rất đặc biệt. Thậm chí tôi không thể mang nó đến văn phòng."

"Anh đang nói về cái gì vậy?"

"Không có gì đâu. Đừng để ý làm gì. Tôi đang lơ mơ rồi."

Cô nghĩ: Đây là cách anh ấy bày tỏ sự kính trọng với Gail - cái thái độ đầu hàng một cách tin tưởng - anh ấy thư giãn như một con mèo - và mèo thường không thư giãn với bất cứ ai trừ những người mà chúng thích.

"Tôi sẽ đuổi anh lên gác vào sau buổi tối và khóa cửa lại," Wynand nói, "và bắt anh ngủ trên đó 12 tiếng liền."

"Được thôi."

"Có muốn dậy sớm không? Chúng ta sẽ đi bơi trước khi mặt trời mọc."

"Ông Roark đang mệt mà, Gail," Dominique nói, giọng cô đanh lại.

Roark nhỏm người dựa trên khuỷu tay để nhìn cô. Cô thấy cặp mắt của anh - trực diện và cảm thông.

"Anh đang nhiễm thói quen xấu của tất cả những người đi làm, Gail ạ," cô nói, "là áp đặt giờ giấc nông thôn lên những vị khách đến từ thành phố."

Cô nghĩ: Hãy để cho khoảnh khắc đó là của riêng em, khoảnh khắc khi mà anh bước về phía hồ nước. Đừng để Gail giành được nó như mọi khi.

"Anh không thể ra lệnh cho ông Roark như thể ông ấy là nhân viên tờ Ngọn cờ được."

"Ông Roark là người mà anh thích ra lệnh nhất quả đất này, bất cứ khi nào mà anh có thể làm thế được." Wynand nói vui vẻ.

"Thì anh đang làm thế đấy."

"Tôi không ngại phải nhận lệnh từ người khác, thưa bà Wynand," Roark nói, "nhất là khi đó là mệnh lệnh từ một người giỏi giang như Gail."

Hãy để cho em thắng lần này, cô nghĩ thầm, xin anh để cho em thắng lần này - nó chẳng có ý nghĩa gì đối với anh - nó không có ý nghĩa gì cả và nó chẳng quan trọng - nhưng hãy từ chối ông ấy đi anh, vì kỷ niệm về khoảnh khắc đó, khoảnh khắc không hề thuộc về ông ấy.

"Tôi nghĩ là ông nên nghỉ ngơi, ông Roark. Ông nên dậy muộn vào ngày mai. Tôi sẽ bảo người phục vụ không làm phiền ông."

"Ồ không, cảm ơn bà. Tôi sẽ ổn thôi, chỉ trong vài giờ nữa, bà Wynand. Tôi thích được bơi trước bữa sáng. Hãy gõ cửa khi nào ông chuẩn bị xong, Gail, và chúng ta sẽ cùng đi bơi."

Cô nhìn về phía hồ nước và những quả đồi; không một bóng người, không một ngôi nhà nào khác, chỉ có nước, những cái cây và mặt trời, một thế giới của riêng họ, và cô nghĩ rằng anh đã đúng - họ thuộc về nhau - cả ba người.

*

* *

Những bản vẽ chung cư Cortlandt bao gồm sáu tòa nhà, mỗi tòa nhà cao mười lăm tầng. Nó có hình dạng một ngôi sao lạ với những cánh sao tỏa ra từ trụ nhà chính. Bên trong các trụ nhà là các thang máy, cầu thang, hệ thống sưởi và tất cả những phụ kiện khác. Những căn hộ tỏa ra từ trung tâm dưới dạng những hình tam giác lớn dần lên. Khoảng không giữa những cánh sao cho phép ánh sáng và không khí tràn vào từ ba phía. Những miếng lát trần nhà được làm sẵn; những bức tường bên trong được phủ sẵn plastic nên không cần phải sơn hoặc dán nhựa nữa; tất cả đường ống và dây đều được đặt trong những ống dẫn kim loại nằm ở chân tường, và chúng sẽ được mở ra và thay thế nếu cần mà không tốn tiền phá vỡ một cái gì cả; những cái bếp và phòng tắm được làm sẵn; những vách ngăn bên trong làm bằng kim loại nhẹ, có thể gấp lại vào tường để tạo thành một lớn hơn hoặc có thể kéo ra để chia nhỏ phòng; chỉ có một ít hành lang và phòng đợi để quét dọn, do đó chi phí bảo dưỡng được giảm thiểu. Toàn bộ bản thiết kế là những bố cục của những hình tam giác. Những tòa nhà - sẽ được xây bằng bê tông - là một khối mô phỏng phức tạp bao gồm những kết cấu đơn giản; nó không có các họa tiết trang trí; không cần phải trang trí; vì bản thân những hình khối đã có được vẻ đẹp điêu khắc rồi.

Ellsworth Toohey không nhìn vào những bản vẽ mặt bằng mà Keating đã trải ra trên bàn. Ông nhìn chằm chằm vào những bản vẽ phối cảnh. Ông nhìn chăm chú, miệng há hốc.

Sau đó ông đứng thẳng đầu lại, và cười lớn.

"Peter," ông nói, "anh là một thiên tài."

Rồi ông nói thêm: "Tôi nghĩ anh hiểu rất rõ ý của tôi." Keating nhìn ông một cách trống rỗng, không một chút tò mò. "Anh đã làm được một việc mà tôi đã phấn đấu cả đời, một việc mà loài người và những trận chiến đẫm máu hàng thế kỷ qua cố gắng đạt được. Tôi phải ngả mũ trước anh, Peter ạ, với sự kinh hãi và thán phục."

"Hãy nhìn vào những bản vẽ mặt bằng này," Keating nói với vẻ bơ phờ. "Chúng có thể được thuê với giá 10 đô la cho một căn hộ."

"Tôi không mảy may nghi ngờ là chúng có thể được cho thuê với giá ấy. Tôi không cần phải nhìn. Ồ, phải, Peter, cái này sẽ được duyệt. Đừng lo. Cái này sẽ được chấp thuận. Xin chúc mừng anh, Peter."

*

* *

"Anh là một thằng ngốc khốn khiếp!" Gail Wynand nói. "Anh làm thế để làm gì?"

Ông ném cho Roark một tờ Ngọn cờ; nó được gấp lại ở một trang bên trong để đánh dấu. Tại trang đó có một bức hình với lời dẫn: "Bản vẽ kiến trúc chung cư Cortlandt, Dự án Nhà ở Liên bang trị giá 15 triệu đô la sẽ được xây tại Astoria - văn phòng kiến trúc sư Keating & Dumont."

Roark nhìn lướt qua bức ảnh và hỏi:

"Ý ông là sao?"

"Anh biết quá rõ ý tôi là gì. Anh nghĩ tôi chọn những thứ trong gallery của tôi bằng cách nhìn chữ ký à? Nếu Peter Keating là người thiết kế bản vẽ này thì tôi sẽ nhai hết tất cả những tờ Ngọn cờ được phát hành trong ngày hôm nay."

"Peter Keating đã thiết kế nó, Gail."

"Đồ ngốc. Anh đang theo đuổi cái gì vậy?"

"Nếu tôi không muốn hiểu những gì ông đang nói thì tôi sẽ không hiểu nó, bất kể ông nói cái gì."

"Ồ, anh có thể hiểu chứ, nếu như tôi cho đăng một câu chuyện kể về một dự án nhà ở nào đó được thiết kế bởi Howard Roark - chuyện này có thể là một câu chuyện độc quyền hấp dẫn và sẽ là trò cười vào mặt ông Toohey, cái thằng đểu đứng sau những thằng đểu của hầu hết những dự án khốn khiếp đó."

"Nếu ông in cái đó, tôi sẽ kiện ông tán gia bại sản."

"Anh sẽ?"

"Tôi sẽ. Bỏ qua đi, Gail. Ông không thấy là tôi không muốn tranh luận về vụ này nữa à?"

Sau đó Wynand cho Dominique xem bức ảnh và hỏi:

"Ai thiết kế nó?"

Cô nhìn. "Tất nhiên là anh ấy." là câu trả lời của cô.

*

* *

"Một thế giới đang thay đổi là cái quái gì hả Alvah" Thay đổi thành cái gì? Thay đổi từ đâu? Ai đã khiến nó thay đổi?"

Một phần khuôn mặt Alvah Scarret có vẻ hồi hộp, nhưng phần lớn là sốt ruột, khi ông nhìn vào bản in thử bài xã luận "Bổn phận làm mẹ trong một thế giới đang thay đổi" đang nằm trên bàn làm việc của Wynand.

"Có quái gì ghê gớm đâu, Gail?" ông lầm bầm một cách thờ ơ.

"Đó cũng làm điều tôi cần biết - cái quái gì đây?" Ông cầm bản in thử lên và đọc to: "Thế giới mà chúng ta biết đến đã biến mất và hết thời rồi, và chúng ta không cần phải tự huyễn hoặc bản thân về điều đó nữa. Chúng ta không thể quay ngược thời gian được mà phải hướng về phía trước. Các bà mẹ ngày nay cần phải làm gương bằng cách mở rộng tầm nhìn của họ. Họ phải nâng tình yêu không vị kỷ với con cái họ lên một tầm cao mới - đó là yêu thương con cái của tất cả mọi người chứ không chỉ riêng con của họ. Các bà mẹ phải yêu thương tất cả những đứa trẻ trong khu tập thể, khu phố, trong thành phố, trong quốc gia của họ, và trên toàn thế giới nữa - cũng hệt như là tình cảm dành cho những cô bé Mary hay cậu bé Johnny của riêng họ vậy." Wynand nhăn mũi khó chịu. "Alvah?... Viết sến thì cũng được thôi, nhưng còn cái loại sến rẻ tiền này?"

Alvah Scarret không dám nhìn thẳng vào Wynand.

"Ông đang lạc nhịp so với thời đại rồi, Gail," Scarret nói nhỏ, nhưng giọng nói có một nốt hăm dọa - như thể có cái gì kiềm chế giọng nói lại để thăm dò và biết cách đối phó trong tương lai.

Alvah Scarret thấy ngạc nhiên khi Wynand không còn hứng thú tiếp tục cuộc nói chuyện. Ông gạch chéo qua bài xã luận, nhưng vết bút chì xanh rất nhẹ và mờ. Ông nói: "Bịa ra cái khác đi, Alvah."

Scarret đứng lên, nhặt tờ giấy rồi quay người và lặng lẽ rời khỏi phòng.

Wynand nhìn theo một cách ngạc nhiên, phân vân pha chút chán ngán.

Wynand đã nhận ra cái xu hướng mà tờ báo đang chuyển theo trong nhiều năm qua - nó chuyển đi một cách dần dần, tinh vi, không hề có sự chỉ đạo nào từ bản thân ông. Ông đã nhận ra những bản tin thời sự được "dàn xếp" một cách kín đáo, những lời gợi ý bóng gió nửa vời, những ám chỉ mơ hồ, những tính từ kỳ quặc được đặt ở những chỗ kỳ quặc; những đề tài được chú trọng và những kết luận chính trị được chèn vào khi không cần thiết. Nếu báo đăng một câu chuyện về xung đột giữa ông chủ và nhân viên thì ông chủ sẽ được mô tả như người có lỗi, bằng cách chỉ cần thay đổi một chút từ ngữ, mà không cần biết đến những sự kiện, con số nào khác. Nếu có một câu nhắc tới quá khứ, thì nó sẽ luôn luôn là "quá khứ đen tối của chúng ta" hoặc "quá khứ đã chết của chúng ta". Nếu có một phát biểu liên quan đến động cơ cá nhân của một ai đó thì nó luôn luôn "động cơ đầy tràn sự ích kỷ" hoặc "bị xúi bẩy bởi lòng tham." Một ô đố chữ hỏi từ tương ứng với giải thích "những kẻ đang tiệt chủng dần" sẽ cho đáp án là "những nhà tư bản."

Wynand đã nhún vai bỏ qua điều đó, với một vẻ bất cần. Ông nghĩ rằng nhân viên của mình là những người được đào tạo tử tế: nếu đây là ngôn ngữ đường phố đang thịnh hành ở thời buổi này thì họ buộc phải chọn nó một cách tự động. Nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Ông giữ nó không chen chân vào phần xã luận; và phần còn lại sẽ ổn cả. Nó chẳng khác gì một thứ mốt đang nổi lên được một ngày rồi sẽ biến mất - còn ông thì đã tồn tại được qua nhiều lần đổi mốt rồi.

Ông không mảy may quan tâm đến chiến dịch "Chúng Tôi Không Đọc Wynand." Ông bắt được một tờ truyền đơn trong toa-lét nam và ông đã dán nó vào kính trước chiếc xe Lincoln của ông, đồng thời thêm vào mấy từ "Chúng tôi cũng không đọc." Ông giữ nó ở đấy đủ lâu để nó được tìm thấy và đăng trên một tờ báo trung dung. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã bị đánh trả, bị chửi rủa, bị lên án bởi những chủ báo nổi tiếng nhất, bởi những liên minh quyền lực tài chính khôn ngoan nhất. Ông không thể hiểu nổi những hoạt động của một kẻ cha căng chú kiết nào đó có tên Gus Webb.

Ông biết là Ngọn cờ đang mất đi một phần sự ưa chuộng của nó. "Chỉ là một cơn hâm hấp tạm thời," ông nhún vai bảo Scarret. Ông chỉ cần tổ chức một cuộc thi thơ châm biếm, hoặc cho ra một loạt thẻ giảm giá cho các đĩa hát than, là báo sẽ lập tức bán chạy hơn và ông có thể quên mọi chuyện.

Ông không thể tự ép mình hoàn toàn tập trung vào công việc. Chưa bao giờ ông cảm thấy muốn làm việc như lúc này. Ông vào phòng làm việc của mình mỗi buổi sáng với bao nhiêu háo hức. Nhưng chỉ sau một giờ, ông lại thấy mình đang chăm chú nhìn vào các mối nối giữa các tấm pa-nô trên tường và lẩm nhẩm một khúc hát ru nào đó. Đó không phải là sự buồn ngán, cũng không phải cảm giác thỏa mãn của một cái ngáp, mà giống như cảm giác muốn được ngáp nhưng lại cũng không thực sự buồn ngáp. Ông không thể nói rằng ông không thích công việc của mình, nhưng nó đã gần như trở nên tẻ nhạt. Nó không đủ để ông phải đưa ra một quyết định, không đủ để ông siết chặt nắm đấm lại; mà chỉ đủ để làm ông nhăn mũi.

Ông mơ hồ nghĩ rằng nguyên nhân là ở cái xu hướng mới trong thị hiếu đọc của công chúng. Ông không tìm ra lý do tại sao ông lại không chạy theo thị hiếu đó và đùa bỡn nó như ông đã đùa bỡn với tất cả những trò hâm hấp thời thượng khác. Nhưng ông không thể. Ông không hề có một trăn trở đạo đức nào. Đó không phải là một thái độ ủng hộ mà một người chủ động tiếp nhận; cũng không phải là một sự phản đối mà người ta làm nhân danh những thứ có giá trị trong cuộc sống, nó chỉ là một cảm giác bứt rứt, một cái gì đó giống như cảm giác muốn được sạch sẽ: nó là cảm giác do dự mà người ta cảm thấy trước khi thò chân xuống bùn. Ông nghĩ: Cũng chả sao - nó sẽ không tồn tại lâu - Ta sẽ quay lại khi gió đổi chiều sang cái khác - Ta nghĩ là ta sẽ đứng ngoài vụ này.

Ông không thể giải thích được tại sao lần gặp gỡ với Alvah Scarret vừa rồi đem lại cho ông một cảm giác khó chịu sâu sắc hơn bình thường. Ông nghĩ: thật buồn cười khi Alvah có thể chuyển sang viết những thể loại rác rưởi như thế. Nhưng còn một cái gì khác nữa; trong cái cử chỉ rời khỏi phòng của Alvah có cái gì đó như một quyết định cá nhân; nó gần như một tuyên bố rằng từ giờ ông ta không cần phải để ý đến quan điểm của sếp nữa.

Ta phải đuổi việc Alvah, ông nghĩ - và sau đó ông tự cười bản thân mình, đồng thời cũng kinh hoàng nghĩ: đuổi việc Alvah Scarret ư? - việc đó cũng tương tự như là làm cho trái đất ngừng quay - hoặc - giống như cái việc không thể tưởng tượng được - giống như đóng cửa tờ Ngọn cờ lại.

Có một mệnh lệnh đưa ra từ phòng làm việc của ông đến tất cả những phòng ban có liên quan: "Lăng-xê Howard Roark." Roark và các công trình của anh lần lượt xuất hiện thường xuyên trong trang giải trí nghệ thuật, trong phần về nhà đất, trong các bài xã luận, và trong các cột bình luận. Không có nhiều dịp để một tờ báo có thể giới thiệu về một kiến trúc sư, và những tòa nhà cũng có ít giá trị tin tức, nhưng tờ Ngọn cờ đã thành công trong việc viện đủ mọi lý do khôn khéo để đưa tên của Roark lên mặt báo. Wynand hiệu đính từng từ một. Kết quả là sự xuất hiện những bài viết hay thực sự trên tờ Ngọn cờ. Không có những câu chuyện giật gân, không có những bức ảnh chụp Roark đang ăn sáng, không có những tin tức cá nhân mà người ta quan tâm, không cố gắng tâng bốc bán rẻ một người nào đó, chỉ là lòng biết ơn và sự tôn kính rất chừng mực đối với một nghệ sĩ lớn.

Ông không hề nói với Roark, và Roark cũng chưa từng đề cập đến chuyện đó. Họ không nói chuyện về tờ Ngọn cờ.

Trở về ngôi nhà mới của mình vào mỗi buổi tối, Wynand đều nhìn thấy một tờ Ngọn cờ nằm trên bàn trong phòng khách. Ông đã từng không cho phép bất cứ tờ Ngọn cờ nào trong nhà mình kể từ sau đám cưới. Nhưng bây giờ, ông mỉm cười khi ông nhìn thấy nó lần đầu tiên trong nhà, và im lặng.

Rồi thì ông cũng nói về chuyện đó, vào một buổi tối. Ông lật các trang báo cho đến khi ông gặp một bài viết về các khu nghỉ mát mùa hè, mà phần lớn là để miêu tả Thung lũng Monadnock. Ông ngẩng đầu liếc nhìn về phía Dominique ở đầu bên kia căn phòng; cô đang ngồi trên sàn nhà, cạnh lò sưởi. Ông nói:

"Cảm ơn em, em yêu quý."

"Vì cái gì, Gail?"

"Vì em hiểu khi nào anh sẽ vui khi thấy tờ Ngọn cờ trong nhà của mình."

Ông đi về phía cô và ngồi xuống sàn nhà bên cạnh cô. Ông vòng tay ôm lấy bờ vai mỏng của cô và nói:

"Hãy thử nghĩ về tất cả những chính trị gia, những ngôi sao điện ảnh, những đại công tước và những khôngẻ giết người mà tờ Ngọn cờ đã lăng-xê suốt những năm qua. Hãy nghĩ về những cuộc thánh chiến mà anh thực hiện cho những công ty bán dạo, cho những khu phố đèn đỏ và rau quả trồng trong nhà. Lần đầu tiên, Dominique, anh có thể nói những gì anh tin."

"Vâng, Gail."

"Tất cả những quyền lực này - anh đã muốn, đã đạt được mà chưa bao giờ sử dụng. Bây giờ bọn họ sẽ thấy anh có thể làm gì. Anh sẽ bắt họ phải công nhận tài năng của Roark. Anh sẽ đem đến cho Roark cái danh vọng mà Roark đáng nhận được. Công luận ư? Công luận chỉ là những gì anh đẻ ra."

"Anh nghĩ là Roark muốn cái này à?"

"Có thể là không. Nhưng anh không quan tâm. Roark cần nó và sẽ có nó. Anh muốn Roark có được danh vọng đó. Với tư cách là một kiến trúc sư, Roark là một tài sản của công chúng. Anh ấy không thể bắt một tờ báo ngừng viết về mình nếu như nó muốn viết."

"Tất cả những bài về Roark có phải là do chính tay anh viết không?"

"Hầu hết."

"Gail, lẽ ra anh đã có thể trở thành một nhà báo vĩ đại."

Chiến dịch lăng-xê Roark đã đem lại kết quả, không phải là thứ Wynand mong đợi. Công chúng vẫn dửng dưng. Tuy nhiên trong giới trí thức, văn nghệ sĩ và đồng nghiệp, mọi người lại cười nhạo Roark. Wynand đã được nghe những lời bình phẩm như sau: "Roark ư? À phải, một con vẹt của Wynand." "Cục cưng của tờ Ngọn cờ." "Thiên tài của báo chí lá cải." "Tờ Ngọn cờ bây giờ lại đi rao bán nghệ thuật cơ đấy - hoặc là gửi hai vé lô xem kịch hoặc là gửi một bản sao vở kịch." "Anh không biết thật sao? Đó chính là những gì tôi luôn nghĩ về Roark - một tài năng rất hợp với những tờ báo của Wynand."

"Để rồi xem." Wynand nói đầy vẻ khinh thường - và lại tiếp tục chiến dịch của riêng mình.

Ông để Roark thiết kế tất cả những công trình quan trọng mà ông có thể gây sức ép với chủ của chúng. Kể từ mùa xuân, ông đã đem lại cho Roark hợp đồng thiết kế một câu lạc bộ thuyền buồm trên sông Hudson, một tòa nhà công sở, và hai biệt thự tư nhân. "Tôi sẽ đem về cho anh nhiều đến mức anh không kịp làm," ông nói. "Tôi sẽ giúp trả lại cho anh tất cả những năm tháng mà họ bắt anh phải lãng phí."

Một buổi tối Austen Heller nói với Roark: "Có thể tôi quá tự phụ, nhưng tôi nghĩ là anh cần một lời khuyên, Howard ạ. Phải, tất nhiên là tôi muốn nói đến mối quan hệ ngớ ngẩn của anh với Gail Wynand. Anh và ông ta, với tư cách là hai người bạn thân thiết, đã làm đảo lộn hết những khái niệm duy lý mà tôi đã từng có. Suy cho cùng, loài người có những đẳng cấp khác nhau - ồ không, không phải là tôi đang nói giọng của Toohey đâu nhé - nhưng chắc chắn là cũng phải có những đường ranh giới không thể vượt qua giữa người và người chứ. "

"Vâng, đúng là có. Nhưng chưa ai phát biểu đúng về chỗ mà người ta phải kẻ ranh giới đó."

"Được thôi, tình bạn là chuyện của riêng anh. Nhưng có một việc cần phải ngừng ngay lập tức - và anh phải nghe tôi, chỉ có một lần này thôi."

"Tôi đang nghe đây."

"Tôi nghĩ chuyện ông ta đổ lên đầu anh những hợp đồng béo bở kia cũng không sao cả. Tôi chắc chắn rằng ông ta sẽ được đền bù bởi những việc làm đó. Ông ta sẽ vứt bớt được một vài gánh nặng trên vai khi ông ta xuống địa ngục. Nhưng ông ta cần phải ngừng ngay cái việc tâng bốc anh một cách công khai trên tờ Ngọn cờ. Anh phải bắt ông ta dừng lại. Anh không biêt là việc nhận được ủng hộ từ tờ Ngọn cờ đủ làm cho một người mất hết uy tín sao?" Roark im lặng. "Đứng về nghề nghiệp, điều đó sẽ làm ảnh hưởng xấu đến anh, Howard."

"Tôi biết điều đó."

"Anh sẽ bắt ông ấy ngừng lại chứ?"

"Không."

"Nhưng vì cái quái gì chứ?"

"Tôi nói là tôi sẽ lắng nghe, Austen. Nhưng tôi không nói là tôi sẽ nói chuyện với ông ấy."

Một lần vào cuối buổi chiều mùa thu. Wynand đến phòng làm việc của Roark như mọi lần, và khi họ cùng nhau rời tòa nhà, ông nói: "Tối nay trời đẹp; hãy đi dạo một lát đi Howard. Có một miếng đấy tôi muốn cho anh xem."

Ông dẫn đường đi đến Hell's Kitchen. Họ vòng qua một miếng đất hình chữ nhật - chiều rộng của nó chiếm hai khu phố giữa đại lộ số 9 và số 11, chiều dài kéo năm khu phố từ bắc xuống nam. Roark nhìn thấy một khu chung cư tan hoang, bụi bặm, những mảng tường gạch đỏ xập xệ, những lối đi ngoằn ngoèo, những tấm bảng mục rữa, những sợi tua rách nát của quần áo lót treo trên ống thông khí. Chúng không phải là dấu hiệu của sự sống mà là bằng chứng cho sự mục nát, phân hủy đang lan rộng.

"Ông sở hữu chỗ này?" Roark hỏi.

"Toàn bộ."

"Cho tôi xem để làm gì? Ông không biết là bắt một kiến trúc sư nhìn vào một cảnh như thế này còn tồi tệ hơn là việc cho anh ta xem một cánh đồng toàn những xác chết chưa được chôn cất."

Wynand chỉ vào một quán ăn có mặt tiền sơn trắng ở bên kia đường rồi nói. "Chúng ta hãy vào đó."

Họ ngồi cạnh cửa sổ, tại một bàn bằng kim loại. Wynand gọi cà phê. Trông ông lịch lãm như đang ở nhà hoặc ở trong những nhà hàng sang trọng nhất thành phố vậy; sự lịch lãm của ông có một vẻ kỳ lạ ở chỗ này - nó không hạ nhục quán ăn mà dường như thay đổi không khí của quán, như thể sự xuất hiện của một vị vua, một người chẳng bao giờ thay đổi thói quen của mình, mà biến bất cứ ngôi nhà nào ông đặt chân vào trở thành cung điện. Wynand vươn người về phía trước, hai khuỷu tay chống lên mặt bàn, ông nhìn Roark qua làn khói cà phê, mắt nheo lại, cười cười. Ông chỉ về phía bên kia phố.

Đó là miếng đất đầu tiên tôi mua, Howard. Lâu lắm rồi. Tôi chưa bao giờ động đến nó kể từ đó."

"Ông để dành nó cho ai?"

"Anh."

Roark nâng cốc cà phê màu trắng lên môi, ánh mắt anh đối diện ánh mắt Wynand; mắt anh hơi nheo lại và hơi chế giễu. Anh biết là Wynand muốn những câu hỏi háo hức, nhưng thay vào đó anh lại ngồi im và kiên nhẫn chờ đợi.

"Anh đúng là đồ vô lại cứng đầu," Wynand bật cười đầu hàng. "Được rồi, nghe đây. Đây là nơi tôi đã sinh ra. Khi tôi có thể nghĩ đến chuyện mua bất động sản thì việc đầu tiên là tôi mua khu đất này. Từng nhà một. Rồi từng khu phố một. Cũng mất khá nhiều thời gian. Tôi đã có thể mua những khu đất hời hơn và kiếm được tiền nhanh chóng, như là sau này, nhưng tôi đã đợi cho đến khi tôi có được chỗ này đã. Ngay cả khi tôi biết là tôi có thể sẽ không dùng tới nó trong nhiều năm. Anh thấy đấy, tôi đã quyết định rằng một ngày nào đó đây sẽ là nơi mọc tên tòa nhà mang tên Wynand... Xong rồi, giờ thì cứ ngồi yên đến bao giờ cũng được - tôi vừa mới nhìn thấy vẻ mặt của anh rồi."

"Ôi, Gail..."

"Chuyện gì thế? Anh muốn làm việc đó à? Rất muốn phải không?"

"Tôi nghĩ là tôi hầu như sẵn sàng đổi cả mạng sống của tôi lấy việc đó - có điều như thế thì tôi không thể xây được. Đó có phải là những gì mà ông đã muốn nghe, Gail?"

"Đại loại là như vậy. Tôi sẽ không yêu cầu mạng sống của anh. Nhưng được nhìn thấy anh bị sốc dù chỉ một lần như thế này cũng đáng. Cảm ơn anh đã sốc. Điều đó có nghĩ là anh hiểu tòa nhà Wynand hiện thân cho cái gì. Tòa nhà cao nhất thành phố. Và vĩ đại nhất thành phố."

"Tôi biết đó là điều ông muốn."

"Bây giờ thì tôi chưa xây. Nhưng tôi đã đợi nó trong suốt chừng ấy năm. Và bây giờ anh cũng sẽ đợi cùng với tôi. Anh có biết là tôi rất thích được hành hạ anh, theo một cách nào đó? Anh có biết là tôi luôn muốn như vậy không?"

"Tôi biết."

"Tôi đưa anh đến đây chỉ để nói với anh rằng tòa nhà sẽ là của anh khi tôi cho xây nó. Tôi đã đợi, bởi vì tôi đã nghĩ rằng tôi chưa sẵn sàng. Kể từ khi tôi gặp anh, tôi biết là tôi đã sẵn sàng - và ý tôi là vì anh là kiến trúc sư. Nhưng chúng ta sẽ phải đợi thêm một chút nữa, chỉ khoảng một hoặc hai năm, để cho mọi thứ hồi phục khỏi khủng hoảng. Bây giờ không phải là lúc để xây dựng. Tất nhiên là tất cả mọi người đều nói rằng thời đại của những tòa nhà chọc trời đã qua. Rằng như thế là lỗi thời, lạc hậu. Tôi không quan tâm đến việc đó. Tôi sẽ làm cho tòa nhà này tự nó trở nên có giá trị. Tập đoàn Wynand có văn phòng rải rác khắp nơi trong thành phố. Tôi muốn tất cả chuyển về tập trung ở một tòa nhà. Và tôi có ảnh hưởng đủ lớn đối với những nhân vật quan trọng để có thể ép họ thuê hết phần trống còn lại của tòa nhà. Có lẽ nó sẽ là tòa nhà chọc trời cuối cùng được xây ở New York. Như thế càng tốt. Tòa nhà cuối cùng và vĩ đại nhất."

Roark ngồi nhìn sang bên kia đường. Mắt anh hướng vào những đống đổ nát loang lổ.

"Chúng sẽ được kéo sập, Howard. Tất cả. San phẳng hết. Cái nơi mà tôi đã không phải là ông chủ. Nó sẽ được thay thế bằng công viêc và tòa nhà Wynand... Tất cả những tòa nhà đẹp nhất của New York đều lãng phí bởi vì người ta không nhìn được chúng, chúng che khuất lẫn nhau. Nhưng mọi người sẽ nhìn thấy tòa nhà của tôi. Nó sẽ cải tạo toàn bộ khu vực xung quanh. Những người khác sẽ phải chạy theo. Không phải vì vị trí thích hợp, họ chắc sẽ nói như vậy? Nhưng ai là người tạo ra những vị trí thích hợp? Rồi họ sẽ biết. Nơi đây có thể sẽ trở thành trung tâm mới của thành phố - khi cả thành phố này sống lại một lần nữa. Tôi đã có kế hoạch này khi mà tờ Ngọn cờ chỉ là một tờ báo lá cải hạng bét. Tôi đã không tính sai, phải không? Tôi biết tôi sẽ trở thành ai... Nó sẽ là một đài tưởng niệm cho tôi, Howard. Anh còn nhớ những gì anh nói trong lần đầu tiên anh bước vào phòng làm việc của tôi? Tuyên ngôn của đời tôi. Có những điều trong quá khứ mà tôi không thích. Nhưng tất cả những gì mà tôi đã tự hào thì sẽ còn tồn tại mãi. Khi mà tôi từ giã cuộc đời này thì tòa nhà đó sẽ có tên là Gail Wynand... Tôi đã biết là tôi có thể tìm được đúng kiến trúc sư cho nó khi thời điểm xây dựng nó đến. Tôi cũng đã không biết rằng anh ta không chỉ đơn thuần là một kiến trúc sư tầm thường nào đó mà tôi thuê, mà còn hơn thế nữa. Tôi rất mừng là mọi việc đã xảy ra như thế này. Nó như là một phần thưởng. Như thể là tôi đã được tha thứ.Thành tựu cuối cùng và lớn nhất của tôi cũng sẽ là tác phẩm lớn nhất của anh. Nó không những là đài tưởng niệm của tôi mà còn là món quà tốt nhất mà tôi có thể đem tặng người đàn ông có ý nghĩa lớn nhất với tôi trên quả đất này. Đừng có nhăn mặt, anh biết là anh có ý nghĩa như thế nào đối với tôi. Hãy nhìn vào quang cảnh kinh hoàng ở bên kia phố. Tôi muốn ngồi đây và quan sát anh ngắm nhìn chúng. Đó sẽ là những gì mà chúng ta sẽ phá hủy - tôi và anh. Đó sẽ là nơi nó sẽ mọc lên - tòa nhà Wynand do Howard Roark thiết kế. Tôi đã đợi điều này kể từ ngày tôi được sinh ra trên đời này. Anh cũng vậy, anh đã đợi chờ cơ hội lớn nhất của đời anh từ lúc anh sinh ra. Và nó đây, Howard, ở bên kia phố. Cơ hội của anh - do tôi đem tặng."

X.

Trời đã tạnh mưa nhưng Peter Keating mong trời tiếp tục mưa trở lại. Những vỉa hè lấp loáng nước; những vết đen bẩn loang trên những bức tường của các tòa nhà; và bởi vì những vệt nước ấy không từ trên trời rơi xuống nên thành phố như vừa mới rùng mình toát mồ hôi. Không khí trở nên nặng nề vì bóng tối xuống sớm và thấp thỏm như một người già trước tuổi; ánh đèn vàng vọt từ các cửa sổ tụ thành từng đám. Keating không bị mưa, nhưng anh cảm thấy ướt lạnh, từ trong xương ra đến ngoài.

Anh đã rời phòng làm việc sớm và đi bộ về nhà. Có cái gì không thực trong căn phòng làm việc của anh - và nó đã như thế từ lâu nay rồi. Anh chỉ có thể tìm được cuộc sống thực vào những buổi tối, khi anh lén lút chạy tới căn hộ của Roark. Ta không chạy, và cũng không lén lút - anh giận dữ tự bảo mình - và anh biết rằng anh quả có chạy và lén lút thật, ngay cả khi anh rảo bước qua sảnh chính của tòa nhà Enright rồi lên thang máy như bất cứ một người đàn ông đang đi có việc nào khác. Đó là một cảm giác lo lắng mơ hồ, là sự thúc bách phải liếc nhìn mọi khuôn mặt xung quanh, là nỗi lo sợ bị ai đó nhận ra; đó là một thứ cảm giác tội lỗi vô danh tính, không hướng tới bât cứ một ai, nhưng lại càng đáng sợ hơn chính vì nó là cảm giác tội lỗi không đi kèm với một nạn nhân nào cả.

Anh đã lấy từ chỗ Roark tất cả những bản vẽ phác cho mọi chi tiết của tòa nhà Cortlandt - và rồi để cho nhân viên của anh biến chúng thành các bản vẽ thi công. Anh đã lắng nghe những lời chỉ dẫn của Roark. Anh cũng ghi nhớ tất cả những lý lẽ anh phải trình bày với những người thuê anh nếu như có bất cứ ý kiến phản đối nào. Anh đã hấp thụ chúng như thể là một cái máy ghi âm. Để rồi sau đó, khi anh giải thích cho các nhân viên của mình, giọng anh cứ như là được phát ra từ một cái đĩa ghi âm vậy. Anh không phiền lòng vì chuyện đó. Anh không hỏi gì cả.

Bây giờ anh đang đi bộ thật chậm, qua những khu phố trên ngập những giọt mưa đã rơi từ trước. Anh nhìn lên và thấy một khoảng trống lẽ ra thuộc về chóp mái của các tòa nhà quen thuộc; khoảng không ấy không giống sương mù hay mây mà giống như một khối đặc của bầu trời xám xịt có sức hủy diệt khổng lồ và câm lặng. Cảnh những tòa nhà biến mất vào bầu trời luôn đem lại cho anh cảm giác khó chịu. Anh lại tiếp tục bước đi, vừa bước vừa cúi nhìn xuống đất.

Đôi giày là cái đầu tiên đập vào mắt anh. Anh biết là anh đã nhìn thấy gương mặt của người phụ nữ đó. Anh biết cái bản năng tự bảo toàn bản thân đã khiến cho anh đảo mắt đi chỗ khác và để cho toàn bộ ý thức của anh tập trung vào đôi giày. Đó là đôi giày đế bằng, màu nâu, quá sang trọng và bóng lộn trên cái vỉa hè lầy lội nạy; nó coi thường cả mưa và cái đẹp. Cặp mắt của anh dịch chuyển lên chiếc váy màu nâu, lên bộ áo vét được may đo riêng, đắt tiền và lạnh lùng như một bộ đồng phục; cặp mắt nhìn tới bàn tay nằm trong chiếc găng tay đắt tiền, để hở một lỗ ở chỗ ngón tay, tới cái ve áo có một họa tiết trang trí ngớ ngẩn - một người Mexico có cặp chân vòng kiềng với quần dài hoa văn đỏ - cặp mắt dừng lại ở đó với vẻ vụng về thô lỗ; rồi chúng đi lên đôi môi mỏng, lên cái kính, và đôi mắt.

"Katie," anh nói.

Cô đang đứng bên ô kính của một hiệu sách; đôi mắt cô ngập ngừng, nửa như cố tập trung nhận ra anh, nửa như vẫn còn đang mải suy nghĩ về tiêu đề của quyển sách lúc nãy; sau đó, khi đã nhận ra người quen với bằng chứng là một nụ cười, cô quay mắt lại tiếp tục nhìn cuốn sách, rồi kết thúc việc ấy và ghi nhớ nó. Sau đó cô đưa mắt nhìn Keating. Nụ cười của cô thật dễ chịu; không phải là cô đang cố gắng để che giấu cảm giác chua chát, và cũng không phải là đón chào; chỉ đơn thuần là dễ chịu, thoải mái.

"Chà, Peter Keating," cô nói, "Chào anh, Peter."

"Katie..." Anh không thể đưa tay ra cũng không thể bước lại gần hơn với cô.

"Chà, không thể tưởng tượng được chúng ta có thể gặp nhau như thế này; New York hóa ra cũng giống như các thị trấn nhỏ, mặc dù em đoán là có lẽ không có một số đặc điểm tốt của các thị trấn nhỏ." Không có một sự gượng ép nào trong giọng nói của cô.

"Em đang làm gì ở đây vậy? Anh tưởng... Anh đã nghe nói..."

Anh biết là cô đang có một việc làm tốt ở Washington và đã chuyển tới đó từ hai năm trước.

"Chỉ là một chuyến công tác thôi. Em phải quay lại ngay ngày mai. Không thể nói là em không mừng, vì điều đó. New York bây giờ như một thành phố chết, quá chậm chạp."

"Dù sao thì anh cũng mừng là em thích công việc của mình... nếu ý em là thế... mà có phải ý em là như vậy không?"

"Thích công việc của em ư? Thật nực cười. Ở đất nước này chỉ có duy nhất Washington là thành phố đã đủ trưởng thành. Em không hiểu làm sao mọi người có thể sống được ở những nơi khác. Thế anh đang làm gì vậy, Peter? Hôm trước em nhìn thấy tên anh ở trên báo, về một vụ việc quan trọng gì đó."

"Anh... Anh đang làm việc... Em chẳng thay đổi mấy, Katie, không nhiều, phải vậy không? - Ý anh là, gương mặt của em - trông em hệt như ngày xưa - theo một cách nào đó..."

"Em chỉ có mỗi bộ mặt này thôi. Tại sao mọi người cứ phải nói chuyện thay đổi chỉ vì họ không gặp nhau vài năm nhỉ? Hôm qua em gặp Grace Parker và chị ta nhai đi nhai lại về vẻ ngoài của em. Em có thể đoán được từng chữ một trước khi chị ấy nói - 'Trông em thật xinh - không già đi một tí nào, thật thế đấy, Catherine.' Mọi người mới quê làm sao."

"Nhưng... thực sự là em nhìn rất xinh... Anh rất... rất vui được gặp lại em..."

"Em cũng mừng vì được gặp anh. Chuyện xây dựng thế nào rồi?"

"Anh không biết... Chắc là em đã đọc về Cortlandt... anh đang làm thiết kế cho Cortlandt Homes, một khu chung..."

"Vâng, tất nhiên. Em đã đọc về nó. Em nghĩ là chuyện đó tốt cho anh, Peter. Được làm một việc, không chỉ vì lợi nhuận cá nhân, mà còn đem lại lợi ích cho xã hội nữa. Em nghĩ là các kiến trúc sư nên dừng việc moi tiền của người khác và bỏ ra chút thời gian để làm việc cho chính phủ và những mục đích lớn hơn."

"Chà, hầu hết họ sẽ vồ ngay lấy nếu có thể; chính phủ là một trong những chốn khó chen vào nhất, đó là một chỗ khép kín..."

"Rồi, rồi, em biết rồi. Thật không thể nào làm cho những người bình thường hiểu được cách làm việc của bọn em, và vì thế mà lúc nào bọn em cũng phải nghe toàn những lời cảm thán ngớ ngẩn và phát chán. Anh phải thôi đọc báo của bọn Wynand đi, Peter."

"Anh chẳng bao giờ đọc báo của Wynand cả. Mà chuyện đấy thì có liên quan quái gì tới... Ồ, anh... anh không biết là chúng ta đang nói chuyện gì nữa, Katie."

Anh nghĩ hoặc cô không nợ anh bất cứ điều gì, hoặc cô nợ anh tất cả sự giận dữ và khinh bỉ mà cô có thể có và cô phải ném nó vào mặt anh; và thêm vào đó, cô vẫn còn một nghĩa vụ đối với anh - cô nợ anh một biểu hiện của sự căng thẳng trong cuộc gặp này. Nhưng chẳng có biểu hiện nào cả.

"Chúng ta có lẽ phải nói chuyện rất nhiều, Peter." Những từ này lẽ ra sẽ khiến cho anh nhẹ nhõm, nếu như chúng không được nói ra một cách trơn tru như thế. "Nhưng chúng ta không thể đứng ở đây cả ngày được." Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay. "Em chỉ còn khoảng một tiếng nữa, anh có thể mời em đi đâu đấy uống một ly trà, có thể anh cũng cần uống một ly trà nóng, trông anh như đang chết cóng."

Đó là lời nhận xét đầu tiên của cô về bẻ ngoài của anh; nhận xét đó đi kèm một cái liếc nhìn vô cảm. Anh nghĩ, thậm chí Roark cũng còn sốc và thừa nhận sự thay đổi bề ngoài của anh."

"Đồng ý, Katie. Như thế thật tuyệt. Anh..." Anh thầm nghĩ giá mà cô không là người gợi ý việc này thì tốt hơn; đó là một việc phải phép trong tình huống này; anh ước gì cô đã không hề biết việc gì là việc phải phép, hoặc đừng có nhanh nhẩu như thế. "Vậy thì mình đi tìm một chỗ nào đẹp và yên tĩnh nhé..."

"Chúng ta sẽ đến quán Thorpe. Có một quán như vậy ở góc phố kia. Họ có bánh mì kẹp cải xoong rất ngon."

Chính cô là người đã cầm tay anh khi đi qua đường, và sang đến đường thì cô lại bỏ tay anh ra. Cử chỉ đó có tính tự động. Cô không hề nhận thức được điều đó.

Có một quầy bánh ngọt và kẹo ở bên trong quán Thorpe. Một bát to đựng quả hạnh đào bọc đường, màu xanh và trắng, đập vào mắt Keting. Nơi đây có mùi cam ướp lạnh. Đèn bật mờ mờ, tỏa ánh sáng màu da cam sậm; mùi hương làm cho ánh sáng có vẻ sền sệt. Những chiếc bàn rất nhỏ được đặt cạnh nhau.

Anh ngồi xuống và nhìn vào tờ giấy lót đặt dưới một cái ly màu đen. Nhưng khi anh ngước mắt lên nhìn Catherine, anh biết rằng anh không cần phải cẩn thận như vậy. Cô không có phản ứng gì với cái nhìn chăm chú của anh; thái độ của cô vẫn như vậy bất kể anh có chăm chú nhìn cô hay nhìn người phụ nữ bàn bên cạnh; dường như cô không hề ý thức được về chính mình.

Thay đổi lớn nhất của cô ấy là cái miệng - anh nghĩ; đôi môi mím lại, chỉ còn một vành mỏng, nhợt nhạt sót lại; một cái miệng để ra lệnh, anh nghĩ, nhưng không phải là những mệnh lệnh lớn hay độc ác; chỉ là những thứ nhỏ bé vụn vặt - về chuyện ống nước hay vệ sinh. Anh nhìn thấy những nếp nhăn nhỏ xíu ở bên khóe mắt cô - một làn da như giấy mỏng đã bị vò nát và sau đó lại được vuốt phẳng lại.

Cô đang kể chuyện công việc của cô ở Washington, và anh ngồi mơ màng nghe. Anh không nghe được cụ thể từng từ mà chỉ nghe được giọng điệu của cô - khô và giòn.

Một cô bồi bàn mặc đồng phục được gột hồ cứng màu tím nhạt đi tới. Catherine nói thõng:

"Làm ơn cho săng-uých trà , loại đặc biệt."

Keating nói:

"Cho một ly cà phê." Anh nhìn thấy mắt Catherine đang hướng về mình, và trong cơn bối rối bất thần, anh cảm thấy anh không được thú nhận rằng bây giờ anh không thể nốt được dù chỉ một miếng thức ăn. Anh có cảm giác lời thú nhận đó sẽ làm cô nổi giận. Anh nói thêm với người phục vụ: "Một bánh mì lúa mạch đen kẹp thịt xông khói và pho-mát Thụy Sĩ nữa vậy."

"Peter, thói quen ăn uống của anh thật kinh khủng! Cô chờ chút. Anh không thể ăn như thế, nó rất có hại cho anh. Anh nên ăn một suất salad tươi. Vào giờ này uống cà phê cũng không tốt. Người Mỹ uống cà phê quá nhiều."

"Cũng được" Keating nói.

"Cô làm ơn cho trà và một đĩa salad trộn nhé. À, đừng kèm bánh mì vói salad - anh đang tăng cân đấy Peter - làm ơn cho thêm vài miếng cracker , loại ăn kiêng."

Keating đợi đến khi bộ đồng phục màu tím nhạt rời đi, sau đó anh nói, đầy hy vọng:

"Anh đã thay đổi, phải không Katie? Có phải là nhìn anh bây giờ rất khủng khiếp không?" Giá như có một lời nhận xét, dù là tiêu cực, từ phía cô thôi - thì nó cũng có thể là dấu hiệu một mối liên hệ riêng giữa hai người.

"Gì cơ? Ồ, em đoán thế. Như thế không tốt cho sức khoẻ. Nhưng người Mỹ chúng ta chẳng biết gì về cân đối dinh dưỡng. Tất nhiên là đàn ông thì luôn quan trọng hóa chuyện hình thức bên ngoài. Họ còn phù phiếm hơn cả phụ nữ. Bây giờ chính phụ nữ là người đang làm tất cả những việc có ích, và phụ nữ sẽ là người xây dựng nên một thế giới tốt đẹp hơn."

"Làm thế nào đê xây dựng được một thế giới tốt đẹp hơn hả Katie?"

"Thì, nếu anh nghĩ đến yếu tố quyết định, mà, tất nhiên rồi, là kinh tế..."

"Không, anh... anh không hỏi về chuyện đó... Katie, anh đã rất bất hạnh."

"Em rất lấy làm tiếc khi nghe điều đó. Thời buổi này, ai cũng nói thế cả. Đó là bởi vì bây giờ là giai đoạn chuyển tiếp, và mọi người cảm thấy chông chênh. Nhưng anh thì luôn có số phận sáng lạn, Peter."

"Em có... em có nhớ ngày xưa anh như thế nào không?"

"Ôi trời, Peter, anh cứ làm như đã sáu mươi năm rồi."

"Nhưng đã có quá nhiều điều xảy ra. Anh..." Anh trở nên liều lĩnh; anh phải như vậy; thô lỗ lại hóa ra cách dễ nhất. "Anh đã cưới vợ. Và sau đó li dị."

"Vâng, em đã được đọc về chuyện đó. Em cũng mừng khi anh li dị vợ." Anh chúi người về phía trước. "Nếu vợ anh là loại phụ nữ có thể lấy Gail Wynand thì anh quả là may mắn vì đã thoát được cô ta."

Cái giọng nôn nóng quen thuộc - cái giọng đã nói líu ríu các từ với nhau - đã không hề thay đổi khi phát âm những câu trên. Anh phải tin điều này: với cô, chủ đề này chỉ có tầm quan trọng đến vậy thôi.

"Katie, em rất khéo và tốt bụng... nhưng đừng diễn kịch với anh nữa," anh nói và sợ hãi biết rằng đó không phải là một vở kịch. "Thôi đi em ạ... Hãy nói những gì em thực sự nghĩ về anh đi... Nói tất cả... Anh không ngại đâu... Anh muốn nghe hết... Em có hiểu không? Anh sẽ cảm thấy dễ chịu hơn nếu anh được nghe chúng."

"Tất nhiên rồi, Peter, anh không muốn em bắt đầu kết tội đấy chứ? Việc này quá trẻ con, nếu không em hẳn phải nói là anh quá tự phụ."

"Em đã cảm thấy như thế nào - ngày đó - khi anh không đến - và rồi sau đó nghe tin anh lấy vợ?" Anh không biết bản năng nào đã khiến cho anh, từ chỗ tê liệt lại trở nên thô bạo, như thể đó chỉ là lối thoát duy nhất. "Katie, em đã phải chịu đựng rất nhiều phải không?"

"Vâng, tất nhiên là em đau khổ. Tất cả những người trẻ tuổi trong hoàn cảnh đó đều như vậy. Nhưng sau đó, mọi chuyện có vẻ ngớ ngẩn. Em đã khóc, em đã gào thét những điều khủng khiếp vào mặt chú Ellsworth, và chú ấy đã phải gọi bác sĩ đến cho thuốc giảm đau, và vài tuần sau đó, có một số lần em bị ngất ở trên đường mà không có lý do gì cả - việc này thật đáng hổ thẹn. Em đoán là em trải qua những thứ thông thường mà người ta trải qua trong tình huống này, như kiểu bệnh sởi ấy mà. Tại sao em lại hy vọng là mình sẽ được miễn dịch chứ? - như lời chú Ellsworth đã nói." Keating nghĩ anh đã không biết rằng có một điều còn tồi tệ hơn một hồi ức sống động về nỗi đau: một hồi ức chết. "Và tất nhiên chúng ta biết rằng mọi chuyện xảy ra như thế là tốt nhất cho mỗi người. Em không thể tưởng tượng được việc em sẽ cưới anh."

"Em không thể tưởng tượng nổi điều đó sao, Katie?"

"Tức là, lấy ai cũng vậy thôi. Sẽ chẳng đi đến đâu cả, Peter. Tính khí của em không phù hợp với cuộc sống nội trợ. Cuộc sống ấy quá ích kỷ và hẹp hòi. Tất nhiên là em hiểu anh đang nghĩ gì vào lúc này và em trân trọng nó. Nếu anh có những cảm giác như ân hận thì nó cũng là bình thường của con người thôi, bởi vì anh biết anh đã làm cái việc mà người ta gọi là phụ bạc." Keating nhăn mặt. "Anh thấy những chuyện này nghe ngớ ngẩn thế nào chưa. Nếu anh có ăn năn hối lỗi một chút thì cũng là tự nhiên - một phản ứng bình thường - nhưng chúng ta cần phải nhìn vào nó thật khách qua, chúng ta đều là những người đã trưởng thành, những người có lý trí, không có gì là quá nghiêm trọng cả, chúng ta thực sự không thể dừng được những gì chúng ta làm, chúng ta đã được lên kế hoạch sẵn như thế rồi, chúng ta chỉ có thể bật công tắc để trải qua kinh nghiệm đó và rồi sống tiếp thôi."

"Katie! Em đâu có phải khuyên nhủ một cô gái hư hỏng nào đó đâu. Em đang nói về bản thân em cơ mà."

"Hai cái đó có thực sự khác biệt nhau không? Mọi người đều có những vấn đề giống nhau, và tình cảm cũng vậy."

Anh thấy cô nhâm nhi một miếng bánh mì kẹp rau, và nhận ra rằng đồ ăn của anh đã được đem đến. Anh di chuyển cái nĩa của anh ở trong bát salad và ép mình cắn một miếng bánh quy nhỏ màu xám. Để rồi anh nhận ra cái cảm giác lạ lùng khi một người bị mất thói quen ăn uống tự động và phải ép mình làm việc đó; miếng bánh quy dường như không thể tiêu hóa nổi; không thể tiếp tục nhai được nữa; anh vẫn cử động hàm răng mà không hề nuốt một ít nào từ cái đống bột nhệu nhạo trong miệng.

"Katie... suốt sáu năm qua... anh luôn nghĩ đến việc xin em tha thứ. Và bây giờ anh đang có cơ hội, nhưng anh sẽ không cầu xin em nữa. Dường như... dường như là việc này không còn ý nghĩa nữa. Anh biết nói ra như thế thật là độc ác, nhưng nó đúng là những gì anh cảm thấy. Đó là việc tồi tệ nhất mà anh đã làm trong cuộc đời mình - nhưng nó tồi tệ không phải bởi vì anh đã làm tổn thương em. Đúng là anh đã làm tổn thương em, Katie ạ, và thậm chí có thể còn nhiều hơn là em nghĩ. Nhưng đó không phải là tội lỗi lớn nhất của anh... Katie, anh đã muốn cưới em. Đó là điều duy nhất anh thực sự muốn. Và đó là tội lỗi mà không bao giờ có thể tha thứ được - cái tội là anh không dám làm điều mà anh muốn. Cảm giác thật là bẩn thỉu, vô nghĩa và kinh khủng, giống như cảm giác mất trí, bởi vì đúng là nó chẳng có nghĩa gì cả, chẳng có giá trị, chẳng có gì ngoài sự đau đớn - và lại là một sự đau đớn uổng phí... Katie, tại sao người ta cứ dạy rằng làm theo những gì chúng ta muốn là quá dễ dàng và xấu xa, và rằng chúng ta cần có kỷ luật để kiềm chế bản thân? Điều khó làm nhất trên quả đất này chính là làm những gì chúng ta muốn. Và nó đòi hỏi lòng dũng cảm lớn lao nhất. Ý anh là đối với những gì chúng ta thực sự muốn. Giống như là anh đã muốn cưới em. Chứ không phải như khi anh muốn ngủ với một người phụ nữ nào đó hoặc muốn say rượu hoặc muốn được lên báo. Những điều này - chúng thậm chí không phải là ham muốn - chúng chỉ là những thứ người ta làm để chạy trốn ham muốn của mình - bởi vì việc thực sự muốn một cái gì đó là một trách nhiệm quá lớn."

"Peter, những gì anh đang nói thật là xấu xa và ích kỷ."

"Có thể lắm. Anh cũng không biết nữa. Anh có nghĩa vụ lúc nào cũng phải nói sự thật với em. Về mọi thứ. Thậm chí ngay cả khi em không đòi hỏi. Anh buộc phải làm điều đó."

"Vâng. Anh đã làm thế. Đấy đã là một điểm đáng yêu của anh. Anh từng là một cậu bé dễ thương, Peter ạ."

Chính cái bát đựng quả hạnh đào bọc đường ở quầy bàn kia đã làm mình đau - anh nghĩ một cách u uất. Những quả hạnh có màu xanh lá cây và trắng; chúng không được phép có màu xanh và trắng vào thời điểm này trong năm; đó là màu của ngày lễ thánh Patrick - khi đó luôn có những cái kẹo như thế trong cửa kính của tất cả các gian hàng - và ngày lễ thánh Patrick có nghĩa là mùa xuân - không, còn hơn cả mùa xuân, đó là khoảnh khắc chờ đợi tuyệt vời ngay cả trước khi mùa xuân bắt đầu.

"Katie, anh sẽ không nói là anh vẫn còn yêu em. Anh cũng không biết là anh có yêu hay không nữa. Anh chưa bao giờ tự hỏi bản thân mình cả. Bây giờ điều đó cũng chẳng có nghĩa lý gì. Anh nói những điều này không phải vì anh hy vọng một thứ gì hoặc cố thử làm một việc gì hoặc... Anh chỉ biết là anh đã yêu em. Katie, anh đã từng yêu em, dù anh có là gì đi chăng nữa, thậm chí nếu như đây là cách anh phải nói điều đó lần cuối cùng, Katie, anh yêu em."

Cô nhìn anh - và có vẻ như cô đang hài lòng. Không kích động, không hạnh phúc, không nuối tiếc; chỉ là hài lòng the cách thông thường nhất. Anh nghĩ: giá như cô là một bà cô già ế chồng thực sự, hoặc là một người làm công tác xã hội cáu bẳn - như người ta vẫn nghĩ về hai kiểu phụ nữ này, những người khinh bỉ tình dục vì cái đức hạnh kiêu hãnh của họ, thì ít nhất họ cũng còn thừa nhận nó, cho dù là thừa nhận theo cái lối thù địch. Nhưng còn cái này - cái lòng khoan dung dửng dưng này dường như muốn nói rằng sự lãng mạn chỉ là một đặc tính cố hữu của con người, rằng mỗi người đều phải trải qua nó, như tất cả những người khác, đó là một điểm yếu tố phổ biến và vô hại - và vì thế mà cô cảm thấy hài lòng, giống như cô cũng sẽ hài lòng nếu như những lời lẽ trên của anh được phát ra từ miệng bất kỳ người đàn ông nào khác - nó cũng giống như gã Mexico mặc quần đỏ được thêu trên ve áo của cô vậy - nó là sự thỏa hiệp đáng hổ thẹn đối với nhu cầu phù phiếm của con người.

"Katie... Katie, hãy bỏ qua chuyện này nhé - chuyện này cũng chẳng là gì, phải không? Chỉ có quá khứ là quan trọng, đúng không em? Chuyện này chẳng ảnh hưởng đến quá khứ, phải không Katie? Mọi người luôn tiếc nuối vì quá khứ không thể thay đổi được - nhưng anh mừng vì nó như vậy. Chúng ta không thể làm hỏng quá khứ. Chúng ta có thể nghĩ về quá khứ, phải không? Tại sao lại không nên nghĩ về nó nhỉ? Ý anh là, như em đã nói, chúng ta đều là những người đã trưởng thành, chúng ta sẽ không lừa dối bản thân nữa, không cố gắng hy vọng, mà chỉ là nhìn lại... Em có nhớ cái ngày anh lần đầu tiên đến nhà em ở New York? Trông em thật gầy và nhỏ bé, và tóc em xõa tứ tung. Anh đã nói với em rằng anh sẽ không bao giờ yêu một ai khác. Anh đã ôm em trong lòng, em thật là nhẹ, và anh đã nói với em rằng anh sẽ không bao giờ yêu ai khác. Và em đã nói em biết điều đó."

"Em nhớ."

"Khi chúng ta bên nhau... Katie, anh có thể xấu hổ về nhiều thứ, nhưng không bao giờ xấu hổ về những lúc chúng ta ở bên nhau. Khi anh ngỏ lời cầu hôn em - không, anh chưa bao giờ ngỏ lời cầu hôn em cả - anh chỉ nói chúng ta đính hôn - và em đã đáp lại 'vâng' - đó là khi chúng ta đang ngồi trên một cái ghế ngoài công viên - và tuyết đang rơi..."

"Vâng."

"Khi đó em đeo một đôi găng tay len rất buồn cười. Như là đôi găng đấu quyền Anh vậy. Anh vẫn nhớ - có những hạt nước đọng trên đám lông găng tay - chúng tròn - như những hạt ngọc - và lấp lánh - đó là bởi vì có một chiếc ô-tô đi qua."

"Vâng, em nghĩ là việc thỉnh thoảng nhìn lại quá khứ cũng không sao. Nhưng thế giới quan của mỗi người đều đã mở rộng ra rồi. Tinh thần của mỗi người đều phong phú hơn khi thời gian qua đi."

Anh giữ im lặng một lúc lâu. Cuối cùng anh nói, giọng thẳng băng:

"Anh xin lỗi."

"Tại sao cơ? Anh thật là dịu dàng, Peter. Em luôn nói rằng đàn ông các anh là những người ủy mị."

Anh nghĩ: Đó không phải là một vở kịch - một người không thể diễn kịch được như thế - trừ khi bên trong họ cũng chỉ là một vở kịch, và như thế thì chẳng còn giới hạn nào nữa, chẳng còn lối thoát và chẳng còn thực tại...

Cô tiếp tục nói chuyện với anh, và sau một hồi thì câu chuyện lại quay lại chủ đề Washington. Anh chỉ trả lời những khi cần thiết.

Anh đã từng nghĩ rằng đó chỉ là một chuyển tiếp đơn giản, giữa quá khứ và hiện tại, và nếu một người có những mất mát trong quá khứ thì họ sẽ được bù đắp bởi nỗi đau trong hiện tại, và nỗi đau sẽ biến quá khứ thành bất tử - nhưng anh không biết rằng một người có thể có khả năng tự hủy diệt quá khứ như thế này, có thể giết ngược lại nó - và như thế, với cô, quá khứ ấy chưa bao giờ tồn tại.

Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay và tỏ vẻ bồn chồn.

"Em bị muộn giờ rồi. Em phải đi thôi."

Anh đáp lại một cách nặng nhọc.

"Em không phiền nếu anh không đi cùng em chứ, Katie? Anh không định bất lịch sự. Anh chỉ nghĩ như vậy sẽ tốt hơn."

"Tất nhiên rồi, không sao đâu. Em có thể tự tìm đường được mà, bạn bè cũ thì không cần khách sáo như thế. " Cô trả lời trong lúc cầm túi và găng tay lên; cô vo tròn một tờ giấy ăn và thả nó vào cốc nước trà: "Lần sau qua đây em sẽ gọi điện cho anh biết và chúng ta sẽ lại đi ăn cùng nhau. Mặc dù em không thể hứa trước là bao giờ em sẽ quay lại. Bây giờ em rất bận, em phải đi đến rất nhiều nơi, tháng trước là Detroit, và tuần sau em lại phải bay tới St. Louis, nhưng bất cứ khi nào họ bắt em đi New York thì em sẽ gọi anh. Tạm biệt, Peter, rất vui được gặp anh."

XI.

Gail Wynand nhìn vào mặt gỗ sáng bóng của boong thuyền. Mặt gỗ và cái tay nắm cửa bằng đồng đang phản chiếu ánh mặt trời đỏ rực; chúng đem lại cho ông cảm giác về tất cả mọi thứ xung quanh: một khoảng không rộng lớn tràn ngập ánh mặt trời nằm giữa những vệt lửa lớn cả trên mặt nước và trên bầu trời. Trời đang tháng Hai, và chiếc thuỳên buồm nằm im trên mặt biển phía nam Thái Bình dương; động cơ của nó đã được tắt đi.

Ông dựa vào lan can thuyền và nhìn xuống Roark đang ở dưới nước. Roark đang nằm ngửa trên mặt nước, cơ thể anh duỗi thành một đường thẳng, hai tay dang rộng, nhắm mắt. Nước da rám nắng của anh cho thấy anh đã như thế này cả tháng nay. Wynand nghĩ: đây là cách mà ta thích cảm nhận về không gian và thời gian: qua sức mạnh của chiếc thuyền buồm, qua làn da rám nắng của Roark hoặc qua cánh tay trần màu nâu đang vịn vào lan can của chính ta.

Ông không sử dụng đến chiếc thuyền buồm này mấy năm nay. Lần này ông chỉ muốn Roark là vị khách duy nhất. Ông đã để Dominique ở nhà.

Khi đó, Wynand đã nói: "Anh đang tự giết chết mình, Howard. Anh đang làm việc với một cường độ mà không ai có thể chịu lâu được. Nhiều nhất kể từ Monadnock, phải không? Hãy thử xem anh có đủ dũng cảm để làm một việc khó khăn nhất không - là nghỉ ngơi?"

Ông đã kinh ngạc khi Roark chấp nhận lời đề nghị mà chẳng hề tranh cãi. Roark phá lên cười:

"Không phải là tôi đang chạy trốn công việc đâu, nếu như đấy là điều làm ông ngạc nhiên. Tôi biết là khi nào cần dừng - và tôi không thể dừng lại được trừ khi dừng hoàn toàn. Tôi biết là tôi đã làm việc quá sức. Gần đây tôi đã tốn quá nhiều giấy và đã làm toàn những thứ tệ hại."

"Anh mà cũng có thể làm những thứ tồi tệ sao?"

"Thậm chí làm nhiều hơn bất cứ một kiến trúc sư nào khác và lại có ít lý do hơn họ để làm thế. Sự khác biệt duy nhất mà tôi có thể đảm bảo là những thứ rác rưởi của tôi luôn kết thúc trong thùng rác của chính tôi."

"Tôi cảnh cáo anh, chúng ta sẽ đi nghỉ hàng tháng liền. Nếu anh trở nên tiếc rẻ và khóc lóc đòi quay lại bàn vẽ của mình trong vòng một tuần, như tất cả những gã đàn ông không bao giờ biết học cách lười biếng cho tử tế, thì tôi cũng sẽ không đưa anh quay lại. Ở trên thuyền của tôi, tôi sẽ là tên độc tài tồi tệ nhất mà anh từng biết. Anh có thể có mọi thứ, trừ giấy và bút vẽ. Tôi thậm chí không cho phép anh có quyền tự do ngôn luận. Một khi anh bước lên thuyền thì không còn chuyện xà nhà, kết cấu nhựa hoặc kết cấu gia cố gì hết. Tôi sẽ dạy anh cách ăn, ngủ và tồn tại như một tên triệu phú vô dụng nhất trên đời."

"Tôi sẵn sàng thử sống như thế."

Công việc không yêu cầu Roark phải có mặt ở văn phòng trong vòng vài tháng tới. Những hợp đồng hiện tại đã được hoàn thành. Hai hợp đồng sắp tới sẽ chỉ bắt đầu vào mùa xuân. Anh cũng đã làm xong tất cả các bản vẽ phác mà Keating cần cho dự án Cortlandt. Bây giờ người ta đang sắp sửa bắt đầu thi công. Trước khi họ ra khơi, vào một ngày cuối tháng Mười hai, Roark đi đến nhìn công trường mà người ta sẽ thi công dự án Cortlandt một lần cuối. Như một người khách thăm quan bình thường, vô danh và đôi chút tò mò, anh đứng và nhìn những cái máy xúc cắm sâu vào đất, mở đường để làm móng. Sông Đông như một dải nước rộng màu đen chảy lững lờ; xa hơn nữa, trong mờ mờ tuyết rơi, những tòa tháp của thành phố nhòe đi, trông như một bức tranh màu nước gồm toàn màu xanh và màu tím nhạt.

Dominique không phản đối khi Wynand nói với cô rằng ông muốn dong thuyền đi một chuyến dài ngày với Roark. "Em yêu quý, em biết như thế không phải là chạy trốn khỏi em, đúng không? Anh chỉ cần một khoảng thời gian để xa rời tất cả mọi thứ. Ở cùng với Roark thì cũng giống như anh ở một mình với chính anh, chỉ có điều sẽ thanh thản hơn."

"Tất nhiên rồi Gail. Em không ngại đâu."

Nhưng ông nhìn cô, và bất chợt phá lên cười với vẻ tuyệt đối hài lòng. "Dominique, anh biết là em đang ghen. Thật tuyệt vời, anh càng biết ơn anh ấy nhiều hơn bao giờ hết - vì anh ấy đã làm em ghen."

Cô không thể nói với ông rằng cô đang ghen, mà cũng chẳng thể nói cô đang ghen với ai.

Chiếc thuyền khởi hành vào cuối tháng Mười hai. Roark quan sát và cười toe toét trước sự thất vọng của Wynand khi ông nhận ra ông chẳng cần ép buộc cũng chẳng cần kỷ luật gì với Roark. Roark không hề nói về các tòa nhà; anh chỉ nằm duỗi mình phơi nắng trên boong tàu hàng giờ, và lười biếng như một kẻ lười biếng chuyên nghiệp. Họ nói với nhau rất ít. Có những ngày Wynand không thể nhớ nổi là họ đã nói với nhau những câu nào. Rất có thể là họ chẳng nói gì cả. Cảm giác thanh bình tĩnh tại của cả hai người dường như là phương tiện giao tiếp tốt nhất.

Ngày hôm nay họ đã cùng nhau nhảy xuống nước bơi và Wynand đã leo lên thuyền trước. Khi đứng bên lan can nhìn Roark ở dưới nước, ông nghĩ đến quyền lực mà ông nắm giữ tại thời điểm này: ông có thể ra lệnh cho thuyền khởi động, và rời đi, bỏ cái cá thể có mái tóc đỏ kia lại cho biển cả và mặt trời. Ý nghĩ đó đem lại cho ông cảm giác khoan khoái: đó là cảm giác về quyền lực và cảm giác đầu hàng trước Roark vì ông biết rằng không có bất cứ quyền lực nào trên đời có thể bắt ông thực hiện hành động kia. Tất cả mọi công cụ đều nằm trong tay ông: chỉ cần thanh quản ông rung lên vài âm thanh ra lệnh và bàn tay của ai đó mở van là cả cỗ máy này sẽ rời đi. Ông nghĩ: Đó không chỉ là vấn đề đạo đức, cũng không phải là sự kinh tởm với hành động đó; người ta có thể chủ động bỏ rơi một con người nếu như số phận của cả một châu lục phụ thuộc vào nó. Nhưng không có gì có thể khiến cho ông bỏ rơi người này. Ông, Gail Wynand, hoàn toàn bất lực trong khoảnh khắc đó, khi ông đứng trên tấm ván gỗ vững chãi của boong thuyền. Còn Roark - anh đang trôi nổi ngoài kia như một miếng ván trôi - lại có quyền lực lớn hơn cả cỗ máy đang nằm dưới thân chiếc thuyền này. Wynand nghĩ: Bởi vì đó là thứ quyền lực đã sản sinh ra cỗ máy này.

Roark đã trèo lên thuyền; Wynand nhìn vào cơ thể của Roark, từng dòng nước chảy dọc theo những góc cạnh của cơ thể anh. Ông nói:

"Anh đã mắc một tội lỗi khi thiết kế Đền Stoddard, Howard. Bức tượng đó lẽ ra phải là anh, chứ không phải là tượng Dominique."

"Không. Tôi quá yêu bản thân để có thể làm công việc đó."

"Yêu bản thân? Một kẻ yêu bản thân hẳn phải thích được tạc tượng như thế. Anh thật là lạ trong việc sử dụng từ ngữ."

"Tôi sử dụng từ ngữ hoàn toàn chính xác. Tôi không thích mình trở thành biểu tượng của bất cứ cái gì cả. Tôi chỉ là chính tôi."

*

**

Gail Wynand ngả người trên một chiếc ghế. Ông ngước nhìn lên cái đèn lồng với vẻ hài lòng. Cái đèn lồng có hình đĩa, làm bằng kính mờ, treo trên thành tàu phía sau lưng ông: nó phá tan khoảng không đen thẳm của đại dương và đem lại cho ông một thế giới riêng trong vùng sáng của ánh đèn. Ông nghe thấy tiếng con thuyền dịch chuyển trên sóng, ông cảm thấy bầu không khí ấm áp của đêm đang mơn man trên mặt; ông không nhìn thấy gì khác ngoài những đường viền boong tàu bao quanh ông, khép kín và cố định.

Roark đứng đằng trước ông ở bên lan can; một bóng cao trắng đang dựa lưng vào khoảng tối đằng sau, mặt anh hướng lên trên giống như Wynand đã nhìn thấy anh ngước lên nhìn một tòa nhà chưa hoàn thiện. Hai bàn tay của anh nắm vào lan can. Ống tay của chiếc áo sơ mi cộc làm cho cánh tay trần của Roark lộ ra trong ánh đèn; những vệt tối thẳng đứng càng làm nổi lên bắp cơ rắn chắc của cánh tay và những sợi gân trên cổ anh. Wynand nghĩ về động cơ của chiếc thuyền, về những ngôi nhà chọc trời, về những sợi dây cáp xuyên đại dương, về tất cả những gì con người đã làm ra.

"Howard, đây là những gì tôi muốn. Được có anh ở đây với tôi."

"Tôi biết."

"Anh có biết thực sự nó là gì không? Lòng tham. Tôi luôn khổ sở vì hai thứ trên quả đất này: anh và Dominique. Tôi là một triệu phú và chẳng sở hữu được cái gì cả. Anh có nhớ những gì anh nói về sự sở hữu không? Tôi như một người nguyên thủy khám phá ra khái niệm tài sản cá nhân và trở nên phát điên vì tài sản. Thật buồn cười. Hãy nghĩ đến Ellsworth Toohey xem."

"Tại sao lại Ellsworth Toohey?"

"Ý của tôi là, những gì ông ta thuyết giáo, gần đây tôi tự hỏi là liệu ông ta có thực sự hiểu những gì ông ấy nói không. Không vị kỷ theo nghĩa tuyệt đối ư? Thì tôi chính là như thế. Liệu Toohey có biết rằng tôi chính là hiện thân cho lý tưởng của ông ta? Tất nhiên là Toohey không bao giờ chấp nhận động cơ của tôi, nhưng động cơ không bao giờ làm thay đổi thực tế. Nếu đúng là ông ta đang theo đuổi sự không vị kỷ theo nghĩa triết học - và Toohey là một nhà triết học - tức là theo cái nghĩa cao hơn rất nhiều so với những thứ vật chất tiền bạc, thì đây này, hãy để ông ta nhìn vào tôi. Tôi chưa bao giờ sở hữu một cái gì cả. Tôi chưa bao giờ muốn một cái gì cả. Tôi không hề quan tâm tới bất cứ thứ vật chất nào - Toohey cũng chỉ mơ đến thế này là cùng. Tôi tự biến mình thành một cái máy đo khí áp, và hoàn toàn thay đổi theo áp lực của cả thế giới. Tiếng nói của đám đông quần chúng của ông ta đẩy tôi lên xuống. Tất nhiên, trong quá trình đó tôi cũng kiếm được cả một gia tài. Nhưng liệu nó có làm thay đổi thực chất của cả bức tranh? Giả sử như tôi cho đi tất cả những đồng tiền tôi có. Giả sử tôi không lấy bất cứ đồng tiền nào, mà từ lúc đầu đã chỉ mong muốn tận tâm trở thành một người quên mình phục vụ công chúng. Khi đó tôi sẽ phải làm gì nào? Cũng vẫn chính là những gì tôi đã làm. Đem lại sự thỏa mãn lớn nhất cho nhiều người nhất. Thể hiện quan điểm, khát vọng, và thị hiếu của số đông. Đó là đám đông đã tự do ủng hộ tôi bằng cách trả ba xu để mua báo của tôi vào mỗi buổi sáng. Những tờ báo của Wynand ư? Suốt ba mươi mốt năm qua chúng đã đại diện cho tất cả mọi người trừ Gail Wynand. Tôi đã xóa bỏ cái tôi của mình theo một cách mà không có một vị thánh nào làm được. Nhưng mọi người vẫn gọi tôi là đồ đê tiện. Tại sao vậy? Các vị thánh trong nhà thờ chỉ hy sinh những gì thuộc về vật chất. Đấy là một cái giá quá rẻ để mua được vinh quang cho linh hồn của họ. Họ giữ khư khư linh hồn của mình và từ bỏ cả thế giới. Còn tôi - tôi giữ lại những cái ô-tô, những bộ pyjama bằng lụa, một ngôi nhà, và đổi lại tôi đã cho đi linh hồn của mình. Như vậy ai là người phải hy sinh nhiều hơn - nếu hy sinh là phép thử của đức hạnh? Ai mới đích thực là thánh?"

"Gail... tôi đã không nghĩ là ông có thể thừa nhận điều đó với chính mình."

"Tại sao lại không? Tôi biết việc tôi đang làm. Tôi đã muốn có quyền lực đối với linh hồn của đám đông và tôi đã có được nó. Một linh hồn tập thể. Đó là một khái niệm rối rắm, nhưng nếu có ai đó muốn minh họa nó bằng hình ảnh cụ thể thì hãy để cho người đó cầm một Ngọn cờ New York lên."

"Phải..."

"Tất nhiên là Toohey sẽ nói với tôi rằng đây không phải là sự vị tha mà ông ta muốn đề cập tới. Ý của ông ta là tôi không nên để cho công chúng quyết định việc họ muốn gì, mà tôi phải tự quyết định điều đó. Tôi cần phải quyết định, không phải những gì tôi thích, cũng không phải những gì công chúng thích, mà là những gì họ nên thích và sau đó thì nhồi những cái đó vào họng họ. Sẽ phải nhồi nhét, bởi vì nếu để họ tự lựa chọn, họ sẽ chọn tờ Ngọn cờ. Chà, thế giới ngày nay có rất nhiều những kẻ vị tha theo kiểu như vậy."

"Ông nhận ra điều đó?"

"Tất nhiên rồi. Người ta có thể làm gì khác đây nếu như họ phải phục vụ đám đông? Nếu họ phải sống vì những người khác? Hoặc là chạy theo mong muốn của đám đông và bị coi là đê tiện; hoặc là áp đặt ý kiến của bản thân lên mọi người nhân danh lợi ích của họ. Anh có thể nghĩ ra cách gì khác không?"

"Không."

"Như vậy thì còn lại cái gì? Sự tử tế bắt đầu từ đâu? Cái gì sẽ nảy sinh ở chỗ mà lòng vị tha chấm dứt? Anh đã thấy cái mà tôi say mê chưa?"

"Rồi, Gail."

Wynand thấy có vẻ miễn cưỡng gần như là buồn bã trong giọng nói của Roark.

"Có chuyện gì vậy? Sao giọng anh lại như thế?"

"Tôi xin lỗi. Hãy tha lỗi cho tôi. Chỉ là tôi đang nghĩ tới một điều. Tôi đã nghĩ về nó khá lâu rồi. Nhất là khi ông bắt tôi nằm trên boong thuyền và lười biếng suốt những ngày qua."

"Nghĩ về tôi?"

"Về ông, và về nhiều điều khác."

"Anh đã kết luận như thế nào?"

"Tôi không phải là một kẻ vị tha, Gail. Tôi không kết luận hộ người khác."

"Anh không phải lo lắng vì tôi đâu. Tôi đã bán đứng bản thân tôi, nhưng tôi không hề ảo tưởng về điều đó. Tôi chưa bao giờ biến thành Alvah Scarret. Anh ta thực sự tin vào bất cứ những gì công chúng tin. Tôi thì coi thường công chúng. Đó là sự bào chữa duy nhất của tôi. Tôi đã bán đi cuộc sống của tôi, nhưng tôi bán được với giá hời. Đó là quyền lực. Tôi chưa bao giờ sử dụng nó. Tôi đã không cho phép mình được có bất cứ ham muốn cá nhân nào. Nhưng bây giờ tôi tự do. Tôi có thể sử dụng quyền lực đó cho những gì tôi muốn. Cho những gì tôi tin. Cho Dominique. Cho anh."

Roark quay mặt đi. Khi anh quay lại về phía Wynand, anh chỉ nói ngắn gọn:

"Tôi hy vọng thế, Gail."

"Vậy anh đã nghĩ về cái gì trong suốt mấy tuần vừa qua?"

"Cái nguyên tắc của ông Trường khoa, người đã đuổi tôi khỏi trường Stanton ngày trước."

"Nguyên tắc gì?"

"Đó là thứ đang hủy hoại thế giới này. Đó cũng là điều mà ông vừa nói. Sự không vị kỷ thực sự."

"Có phải cái lý tưởng mà người ta cho là không tồn tại?"

"Họ đã nhầm. Lý tưởng đó có tồn tại - mặc dù không theo cách mà họ nghĩ. Đó là điều mà trong suốt một thời gian dài tôi không thể hiểu được về con người. Họ không có cái tôi. Họ sống trong những người khác. Họ sống cuộc sống thứ sinh . Hãy nhìn vào Peter Keating xem."

"Anh đi mà nhìn. Tôi ghét bộ dạng của anh ta."

"Tôi đã nghĩ về Keating - về những gì còn lại của anh ta - và nó đã giúp tôi hiểu ra. Anh ta đang phải trả giá và anh ta băn khoăn không hiểu anh ta phải trả giá vì tội lỗi gì; anh ta tự nhủ hẳn là vì anh ta đã sống vì bản thân mình quá nhiều. Nhưng liệu có hành động hoặc suy nghĩ nào của anh ta lại tồn tại cái "bản thân" đó không? Mục đích của anh ta trong cuộc sống là gì? Sự vĩ đại - dưới con mắt của những người khác. Là danh vọng, sự ngưỡng mộ và đố kỵ - tất cả đều đến từ những người khác. Chính những người khác đã khống chế niềm tin của anh ta, một niềm tin mà Keating chưa bao giờ có, nhưng anh ta thỏa mãn vì mọi người tin rằng anh ta có niềm tin như thế. Những người khác chính là động cơ, là mối quan tâm chính của anh ta. Anh ta không muốn trở thành vĩ đại, mà chỉ muốn được mọi người cho là vĩ đại. Anh ta không muốn tự xây dựng mà chỉ muốn được ngưỡng mộ như một người xây dựng. Anh ta vay mượn của người này để tạo ấn tượng với người kia. Đó chính là sự không vị kỷ đích thực nhất mà ông vừa nói. Anh ta đã phản bội và từ bỏ chính cái tôi của mình. Và mọi người vẫn gọi anh ta là kẻ ích kỷ."

"Đó cũng là cái cách nghĩ của hầu hết mọi người."

"Vâng! Và đó không phải là nguồn gốc của mọi hành động đê tiện hay sao? Không phải sự ích kỷ, mà chính xác là sự vắng mặt của cái "kỷ" đó. Hãy nhìn vào họ. Kẻ luôn lừa dối nhưng vẫn giữ được vẻ bề ngoài đáng kính trọng. Anh ta tự biết rằng mình không trung thực, nhưng người khác lại nghĩ là anh ta trung thực và điều đó đem lại cho anh ta lòng tự trọng - một thứ tự trọng thứ sinh. Kẻ luôn nhận những thành tựu không phải của mình. Anh ta biết rằng anh ta chỉ là một kẻ tầm thường, nhưng anh ta lại thật vĩ đại trong mắt của mọi người. Một kẻ hèn hạ bày tỏ tình thương đối với những người còn nghèo kém hơn, và bám chặt lấy họ để tự tạo cho mình một chỗ đứng cao hơn trong phép so sánh đó. Còn đối với những người mà mục đích duy nhất là kiếm tiền. Nào, tôi không thấy có gì xấu xa trong khát vọng kiếm tiền cả. Nhưng tiền chỉ là một phương tiện để đi đến một cái đích. Nếu một người cần tiền cho những mục đích riêng của họ - để đầu tư cho công việc, để sáng tạo, để học tập, để đi du lịch, để hưởng thụ cuộc sống giàu có - thì người đó hoàn toàn có đạo đức. Nhưng những người đặt đồng tiền lên trên hết thường đi xa hơn thế nhiều. Cuộc sống xa hoa chỉ là một phần thôi. Điều họ muốn là sự phô trương: họ muốn khoe khoang, muốn làm kinh ngạc, muốn giải trí, và muốn tạo ấn tượng cho mọi người. Họ chỉ là những người sống thứ sinh. Hãy nhìn vào cái gọi là những thành tựu văn hóa của chúng ta. Một diễn giả phun ra những thứ chắp vá, vay mượn và vô nghĩa đối với ông ta - và những người đang nghe ông ta nói cũng chẳng coi những thứ ấy ra gì nhưng họ vẫn ngồi đó chỉ để có thể khoe với bạn bè rằng họ đã dự một bài giảng của một người nổi tiếng. Tất cả bọn họ đều là những người sống thứ sinh mà thôi."

"Nếu tôi là Ellsworth Toohey, tôi sẽ nói: Như thế chẳng hóa ra anh đang lập luận chống lại sự ích kỷ à? Chẳng phải là tất cả bọn họ đều ứng xử dựa trên động cơ ích kỷ của họ sao - đó là để được chú ý, được yêu thích và được ngưỡng mộ?"

" - bởi những người khác. Và họ làm thế với cái giá là hy sinh sự tự tôn của chính họ. Và hy sinh ở những chỗ quan trọng nhất - ở các giá trị, ở khả năng đánh giá, ở tinh thần và tư duy - họ đều đặt những người khác lên trên bản thân họ, theo đúng cái cách mà sự không ích kỷ đòi hỏi. Một kẻ thực sự ích kỷ sẽ không bao giờ để sự chấp thuận của người khác ảnh hưởng tới mình. Anh ta không cần điều đó."

"Tôi nghĩ là Toohey hiểu được điều này. Đó chính là cái cách giúp cho ông ta tuyên truyền được những ý tưởng nhảm nhí của mình. Toàn là yếu kém và hèn nhát. Chạy theo người khác thì quá dễ. Còn đứng độc lập một mình lại không dễ chút nào. Anh có thể đóng vai đạo đức giả trước một đám khán giả. Nhưng anh không thể tự lừa dối mình được. Cái tôi của anh chính là viên thẩm phán nghiêm khắc nhất. Nhưng họ thì chạy trốn khỏi cái tôi. Họ sống cả một đời lúc nào cũng chạy trốn. Họ đóng góp vài nghìn cho quĩ từ thiện và do vậy nghĩ mình cũng cao quý - thực ra việc đó quá dễ so với việc đánh giá lòng tự trọng dựa trên những tiêu chuẩn riêng về những thành tựu của cá nhân mình. Người ta có thể đi tìm những vật thế chỗ cho năng lực làm việc - toàn những vật thế chỗ dễ dãi: nào là tình yêu, sự quyến rũ, lòng tốt và công việc từ thiện. Nhưng không có cái gì có thể thực sự thay thế được cho năng lực."

"Đó chính là điểm nguy hiểm nhất ở những kẻ sống thứ sinh. Họ không quan tâm đến các sự kiện, ý tưởng và công việc. Họ chỉ để ý đến mọi người. Họ không hỏi: 'Cái này có đúng không?' Mà họ hỏi: 'Cái này có phải là cái mà mọi người cho là đúng?' Họ không phán xét, mà chỉ lặp lại. Không lao động, mà chỉ ra vẻ lao động. Không sáng tạo, mà chỉ khoe khoang. Không có khả năng, mà chỉ có quan hệ. Không có phẩm chất, mà chỉ có thế lực. Thế giới sẽ ra sao nếu thiếu những người có thể làm việc, nghĩ, lao động và sản xuất ra của cải vật chất? Họ chính là những người sống vì bản thân. Anh không nghĩ bằng bộ óc của người khác, và anh không lao động bằng đôi tay của kẻ hác. Khi anh ngừng khả năng phán xét độc lập, cũng là lúc anh ngừng nhận thức. Ngừng nhận thức cũng có nghĩa là ngừng sống. Những kẻ sống thứ sinh thì không biết thế nào là thực tại. Thực tại không ở bên trong con người họ, mà ở đâu đó trong cái khoảng không ngăn cách cơ thể người này với cơ thể khác. Thực tại không phải là một thực thể, mà là một quan hệ - và không được neo chắc vào bất cứ cái gì. Đó chính là sự trống rỗng mà tôi không thể hiểu nổi. Đó cũng là cái đã khiến cho tôi dừng lại mỗi khi tôi phải đối mặt với một hội đồng. Toàn những người không có cái tôi. Những ý kiến được phát biểu mà không trải qua quá trình suy nghĩ. Những chuyển động không có phanh hoặc không có động cơ. Những quyền lực không đi đôi với trách nhiệm. Những kẻ sống thứ sinh đó cũng hành động, nhưng động cơ của những hành động đó thì nằm rải rác ở tất cả mọi người. Nó có ở tất cả mọi nơi và không ở nơi nào cả, và anh không thể nào nói chuyện lý lẽ với những kẻ đó. Họ không chấp nhận lý lẽ. Anh không thể tranh luận với họ, và họ không thể nghe thấy gì cả. Anh bị đấu tố bởi một bồi thẩm đoàn vô hình. Một đám đông mù quáng đang chạy như điên và nghiến nát anh mà không có lý do hay mục đích gì. Steve Mallory đã không thể định nghĩa được con quái vật này, nhưng anh ấy biết. Đấy chính là con quái vật râu xanh mà anh ấy sợ. Những kẻ sống thứ sinh."

"Tôi nghĩ những người thứ sinh theo định nghĩa của anh biết điều này, mặc dù bọn họ cố gắng không thừa nhận với bản thân. Thử để ý việc họ có thể chấp nhận mọi thứ trừ một người dám đứng độc lập. Họ sẽ ngay lập tức nhận ra anh ta. Nhờ bản năng. Họ có một lòng căm ghét đặc biệt, âm thầm đối với người đó. Họ có thể tha thứ cho bọn tội phạm. Họ ngưỡng mộ những kẻ độc tài. Tội phạm và bạo lực luôn đi đôi với nhau. Một dạng phụ thuộc lẫn nhau. Họ cần có những ràng buộc kiểu như thế. Họ cần phải áp đặt cái tính cách ti tiện nhỏ nhen của bản thân lên tất cả những người mà họ gặp. Trong khi đó, con người độc lập kia sẽ hủy diệt họ - bởi vì họ không tồn tại ở bên trong anh ta; mà tồn tại trong người khác lại là cách tồn tại duy nhất mà họ biết. Hãy để ý tới sự phẫn nộ đầy ác ý của họ nhằm chống lại bất cứ ý tưởng độc lập nào. Hãy để ý tới những đối xử ác độc của họ nhằm vào một người sống độc lập. Hãy nhìn lại cuộc đời anh xem, Howard, và nhìn vào những người mà anh đã gặp. Họ biết đấy. Họ sợ hãi. Anh là nỗi nhục của họ."

"Đó là bởi vì bên trong họ vẫn còn một chút phẩm giá. Họ vẫn là người. Nhưng họ được dạy cách đi tìm bản thân họ trong những người khác. Nhưng không ai có thể đạt tới sự khiêm tốn tuyệt đối mà lại không trải qua sự tự tin. Bởi vì nếu như thế thì nhưng đó không thể tồn tại được. Do vậy, sau hàng thế kỷ bị nhồi nhét với cái lý thuyết coi việc sống vì người khác là thứ lý tưởng tối cao, loài người đã chấp nhận nó theo một cách duy nhất có thể. Đó là bằng cách tìm kiếm lòng tự trọng qua người khác. Bằng cách sống cuộc đời thứ sinh. Và điều đó đã mở đường cho đủ thứ rùng rợn khác. Nó đã trở thành một biến dạng khủng khiếp nhất của tính ích kỷ mà ngay cả một người thực sự ích kỷ cũng không thể hiểu nổi. Và giờ đây, để cứu rỗi một thế giới đang bị diệt vong vì cái chủ nghĩa sống vì người khác, người ta lại đòi hỏi chúng ta bỏ đi cái tôi của mình. Hãy nghe về những điều luôn được rao giảng ngày nay. Hãy nhìn vào tất cả mọi người ở xung quanh chúng ta. Anh sẽ tự hỏi tại sao họ phải khổ đau như vậy, tại sao họ cứ đi tìm hạnh phúc và không bao giờ tìm thấy nó. Nếu ai cũng dừng lại và tự hỏi bản thân rằng liệu anh ta đã từng có một khát vọng nào thực sự là của riêng mình thì người đó sẽ tìm được câu trả lời. Anh ta sẽ thấy rằng tất cả những mong ước, những nỗ lực, những giấc mơ và tham vọng của anh ta đều do những người khác tạo nên. Anh ta thậm chí không hề vật lộn để có được sự giàu có vật chất, mà anh ta vật lộn vì một thứ ảo ảnh của kẻ sống thứ sinh - đó là danh vọng. Anh ta vật lộn để có con dấu chấp thuận của người khác, chứ không phải của chính anh ta. Anh ta không thể tìm được niềm vui trong sự vật lộn đó, và cũng không có niềm vui khi anh ta thành công. Anh ta không thể nói như thế này về bất cứ điều gì: 'Đây là cái tôi muốn bởi vì Tôi muốn nó, chứ không phải là vì nó khiến cho những người xung quanh há hốc miệng nhìn tôi.' Thế mà anh ta vẫn băn khoăn tại sao anh ta không hạnh phúc. Mọi dạng thức của hạnh phúc đều có tính cá nhân. Những khoảnh khắc lớn nhất của mỗi chúng ta đều là khoảnh khắc riêng tư, đều là tự giác, và không thể để kẻ khác chạm vào. Những gì quý giá và thiêng liêng chính là những thứ mà chúng ta không muốn chung chạ với ai. Nhưng bây giờ chúng ta lại được dạy phải ném tất cả những gì ta có ra chỗ công khai cho mọi người mổ xẻ. Chúng ta được dạy phải đi tìm niềm vui ở những tiền sảnh đông người. Ý tôi là chúng ta không có dù chỉ là một từ để đặt tên cho trạng thái tự-thấy-tràn-đầy, tự-thỏa-mãn trong đời sống tinh thần của con người. Khó có thể gọi nó là sự ích kỷ hay sự vị kỷ - những từ này đã bị bóp méo rồi, chúng được dùng để miêu tả Peter Keating. Gail, tôi nghĩ rằng điều xấu xa lớn nhất trên quả đất này chính là việc đặt mối quan tâm cơ bản nhất của mình vào người khác. Tôi đã luôn luôn đòi hỏi những người tôi thích phải có một phẩm chất nhất định. Tôi đã luôn nhận ra nó ngay lập tức - và đó là phẩm chất duy nhất mà tôi trân trọng ở con người. Tôi chọn bạn bè theo cách đó. Và bây giờ tôi đã biết đó là gì. Một cái tôi tự thỏa mãn . Tất cả những thứ khác đều không quan trọng."

"Tôi mừng là anh thú nhận anh có bạn bè."

"Thậm chí tôi còn thú nhận là tôi yêu quý họ. Nhưng tôi không thể yêu họ nếu họ là mục đích sống cơ bản nhất của tôi. Ông có để ý thấy Peter Keating không còn sót lại một người bạn nào không? Ông có biết tại sao không? Nếu một người không thể tôn trọng bản thân mình thì người đó không thể yêu hay tôn trọng người khác được."

"Quỷ tha ma bắt cái gã Peter Keating đó đi. Tôi đang nghĩ về anh - và bạn bè của anh."

Roark mỉm cười.

"Gail, nếu chiếc thuyền này chìm thì tôi sẵn sàng hy sinh đời tôi để cứu ông. Không phải vì đó là bổn phận. Chỉ bởi vì tôi thích ông, theo những lý do và tiêu chuẩn của riêng tôi. Tôi có thể chết vì ông. Nhưng tôi không thể và cũng không bao giờ sống vì ông được."

"Howard, những lý do và tiêu chuẩn nào vậy?"

Roark nhìn Wynand và nhận ra rằng anh đã nói tất cả những gì mà anh đã cố không nói với ông. Anh trả lời:

"Đó là vì ông không sinh ra để sống như một kẻ thứ sinh."

Wynand mỉm cười. Ông nghe thấy câu đó - và không gì nữa.

Sau đó, khi Wynand quay trở lại cabin, Roark vẫn ở lại một mình trên boong thuyền. Anh đứng tựa vào lan can nhìn ra biển nhưng không tập trung vào một cái gì cả.

Anh nghĩ: Ta còn chưa nói với ông ấy biết về loại người sống thứ sinh tồi tệ nhất trên đời - đó là những kẻ chạy theo quyền lực.

XII.

Trời sang tháng tư khi Roark và Wynand trở về New York. Những tòa nhà chọc trời có màu hồng nhạt trên nền trời xanh, trông như người ta khảm sứ lên những vỉa đá lớn. Cây trên phố đã bắt đầu nảy mầm xanh.

Roark trở lại văn phòng của anh. Khi bắt tay với các nhân viên của mình, anh phát hiện ra họ đều cố nén một nụ cười, cho đến khi một anh chàng trẻ tuổi không kìm được đã buột miệng: "Khỉ thật! Tại sao chúng tôi không thể nói rằng chúng tôi vui như điên khi ông quay về hả sếp?" Roark phá lên cười. "Cứ nói đi. Tôi cũng vui như điên khi trở lại." Sau đó anh ngồi lên một chiếc bàn ở trong phòng vẽ trong khi lần lượt từng người một báo cáo lại cho anh công việc trong vòng ba tháng qua. Tay anh mân mê một cái thước mà anh không hề ý thức được việc đó, giống như một người nông dân được chạm vào đất, được cảm thấy nó dưới những ngón tay của mình sau một thời gian dài vắng mặt.

Buổi chiều, khi còn một mình trong phòng, anh mở một tờ báo ra đọc. Anh đã không đọc báo trong suốt ba tháng qua. Anh để ý tới một bài viết về việc xây dựng khu chung cư Cortlandt. Anh nhìn thấy dòng chữ: "Peter Keating, kiến trúc sư. Gordon L. Prescott và Augustus Webb, trợ lý thiết kế."

Anh ngồi hoàn toàn bất động.

Buổi tối hôm đó anh đi đến công trường Cortlandt.

Tòa nhà thứ nhất đã gần như hoàn thành. Nó đứng trơ trọi giữa một khu đất rộng. Công nhân đã về sau giờ làm việc, chỉ có một bóng đèn nhỏ ở trong lán của người trực đêm. Tòa nhà có bộ khung do Roark thiết kế, nhưng bên trên cái bộ khung xương đối xứng tuyệt vời đó đã mọc thêm mười loại biến thể của nó. Anh thấy tính tiết kiệm không gian trong cách thiết kế mặt bằng của anh được người ta giữ nguyên, nhưng bù lại người ta đã thêm vào đó những họa tiết và đường nét không thể hiểu nổi. Sự phong phú đa dạng của những khối nhà được mô hình hóa đã biến mất và thay vào đó là sự đơn điệu của những khối lập phương thô kệch. Người ta đã thêm vào một cánh nhà mới với mái vòm tròn nhô ra khỏi bức tường như một khối u, trong cánh nhà đó có một nhà thể dục thể thao. Một chuỗi những ban công được dựng lên, chúng được làm từ những dải thép xoắn được sơn màu xanh chói. Người ta thêm vào những cái cửa sổ chẳng có mục đích gì, những góc nhà bị vạt chéo để trổ thêm những cửa ra vào vô tác dụng, những mái hiên tròn bằng sắt có một cột đỡ cắm xuống đất - giống như một cửa hàng bán đồ lót cho đàn ông trong khu Broadway, ba dải tường bằng gạch nằm lơ lửng trong không khí, một phong cách chung chung mà dân trong nghề thường gọi là "Xóm liều hiện đại" , một tấm phù điêu lớn treo phía trên cửa ra vào chính - nó chạm một mớ cơ bắp thuộc về ba bốn cơ thể người, một trong số họ giơ một cánh tay lên, bàn tay đang cầm một cái tuốc-nơ-vít.

Có những dấu chữ thập trắng ở trên kính của những ô cửa sổ mới lắp, và trông chúng phù hợp với quang cảnh chung, như thể cả công trình là một sai lầm lớn và đã được đánh dấu để xóa sổ khỏi sự tồn tại . Bầu trời đằng Tây ở phía trên Manhattan đỏ ối, và những tòa nhà của thành phố vươn lên, đen sì và thẳng đứng trên nền đỏ đó.

Roark đứng ở phía bên kia của con đường sẽ được xây dựng ngay trước khu nhà đầu tiên của chung cư Cortlandt. Anh đứng thẳng, những cơ bắp ở cổ họng anh căng ra, hai cổ tay buông thõng và không chạm vào cơ thể, cứ như thể anh đang đứng trước một hàng lính hành quyết tử tù.

*

* *

Không ai biết mọi việc đã xảy ra như thế nào. Không hề có một ý định chủ động nào đằng sau nó. Nó chỉ cứ thể xảy ra.

Đầu tiên, vào một buổi sáng, Toohey đã bảo với Keating rằng Gordon L. Prescott và Gus Webb sẽ được đưa vào dự án với tư cách là trợ lý thiết kế. "Tại sao anh phải quan tâm đến chuyện này hả Peter? Tiền công của anh không hề bị cắt. Uy tín của anh cũng chẳng hề bị giảm, bởi vì anh vẫn là ông chủ. Họ sẽ chỉ như những thợ vẽ giúp việc cho anh. Tôi chẳng có mục đích nào khác ngoài việc giúp đỡ mấy anh bạn đó một chút. Họ sẽ có thêm chút tiếng tăm nếu được dính líu tới dự án này. Tôi rất quan tâm tới việc gây dựng danh tiếng cho họ."

"Nhưng để làm gì? Làm gì có gì cho họ làm? Tất cả đều đã hoàn thành."

"Ồ, thì bất cứ cái gì còn phải vẽ nốt cho xong. Điều đó sẽ giúp cho nhân viên của anh tiết kiệm được thời gian. Anh có thể chia sẻ chi phí với họ mà. Đừng có tham lam như vậy."

Toohey đã nói thật, ông không có mục đích gì khác.

Keating không thể tìm ra Prescott và Webb có những mối quan hệ nào, với ai và ở cơ quan nào, với điều kiện gì - trong số hàng tá các quan chức có dính dáng đến dự án. Sự phân công trách nhiệm trong dự án lằng nhằng rắm rối đến mức không ai có thể chắc chắn được về vai trò của bất cứ ai khác. Chỉ có thể chắc chắn là Prescott và Webb có những người bạn, và Keating không thể từ chối họ được.

Sự thay đổi bắt đầu từ nhà thể dục thể thao. Quý bà chịu trách nhiệm lựa chọn người thuê nhà đòi hỏi phải có nhà thể dục thể thao. Bà là người làm công tác xã hội, và vai trò của bà sẽ chấm dứt khi dự án khánh thành. Bà đã kiếm được việc làm dài hạn như được bổ nhiệm làm giám đốc phụ trách các hoạt động giải trí xã hội cho Cortlandt. Trong bản thiết kế ban đầu không có nhà thể dục thể thao nào cả, chỉ có hai trường học và một trung tâm Y.M.C.A. ở gần đó. Bà ta tuyên bố rằng điều này thể hiện sự kỳ thị đối với con cái các gia đình nghèo, do vậy, Prescott và Webb đã đứng ra thiết kế nhà thể dục thể thao đó. Rồi những thay đổi khác cứ theo nhau sinh ra, chủ yếu là về mặt trang trí. Những gì phát sinh mà làm tăng chi phí xây dựng đều được cẩn thận tính toán để tiết kiệm tiền. Bà giám đốc phụ trách giải trí xã hội này đã đến Washington để thảo luận về việc xây dựng thêm một nhà hát nhỏ và một phòng họp mà bà muốn xây ở hai tòa nhà tiếp theo của Cortlandt.

Những thay đổi trong bản vẽ xuất hiện từ từ, mỗi lần vài thay đổi. Những người khác đều đồng ý với những thay đổi mà ban chỉ đạo dự án đưa xuống. Chỉ có Keating là phản đối. "Nhưng chúng ta đã sẵn sàng khởi công!" - anh kêu lên. "Thì ảnh hưởng quái gì?", Gus Webb lè nhè, "cứ tiết kiệm được cho họ vài nghìn là xong thôi."

"Nào, về chuyện những cái ban công", Gordon L. Prescott nói, "họ muốn có một phong cách hiện đại. Chả ai muốn nhìn cái của nợ ấy trơ trụi như thế cả. Trông phát ốm. Hơn nữa anh không hiểu tâm lý học. Những người sẽ sống ở đây đều quen với việc ngồi ở ngoài trời, ngay trên đường thoát hỏa . Họ thích chúng. Họ sẽ nhớ chúng. Anh phải cho họ một chỗ để ngồi hưởng không khí trong lành chứ... Còn chi phí? Quỷ tha ma bắt, nếu anh quá lo lắng về chi phí thì tôi đã nghĩ ra một cách để cắt giảm đáng kể chi phí. Chúng ta sẽ bỏ các cửa closet đi. Tại sao closet lại cần cửa chứ? Như thế là lạc hậu rồi." Và thế là tất cả các cửa closet đều bị loại bỏ ra khỏi bản thiết kế.

Keating đã chiến đấu. Đó là một kiểu chiến trường mà anh chưa từng bước chân vào, nhưng anh cũng đã cố gắng bằng mọi cách có thể, bằng mọi giới hạn trong sức mạnh đã kiệt quệ của anh. Keating đi từ văn phòng này sang văn phòng kia, tranh luận, đe dọa và cầu xin. Nhưng anh chẳng có ảnh hưởng gì cả, trong khi những trợ lý thiết kế của anh lại có vẻ như đang kiểm soát một dòng nước ngầm với các mạch nước tỏa đi khắp nơi. Những người có trách nhiệm đều lắc đầu từ chối và chuyển anh đến người khác. Không ai quan tâm đến vấn đề thẩm mỹ. "Có khác gì cơ chứ?" "Anh không phải bỏ tiền túi của anh ra, phải không nào?" "Anh là cái gì mà cứ muốn mọi thứ theo ý mình? Hãy để cho những người kia đóng góp một cái gì đó chứ."

Anh cầu cứu Ellsworth Toohey nhưng Toohey không để ý. Ông đang bận việc khác và không muốn gây ra một vụ cãi lộn trong giới quan chức văn phòng. Thực sự mà nói, ông đã không hề gợi ý những người được ông bảo trợ về chuyện thay đổi trang trí tòa nhà, nhưng ông cũng thấy không cần thiết phải ngăn cản họ. Toàn bộ sự việc khiến cho ông buồn cười. "Nhưng nó thật là kinh khủng Ellsworth! Ông biết là nó rất kinh khủng mà!" "Ồ, tôi đoán thế. Nhưng tại sao anh lại phải quan tâm hả Peter? Những kẻ khốn khổ sắp đến ở ngôi nhà này sẽ không đủ trình độ để thưởng thức được những chi tiết nhỏ của nghệ thuật kiến trúc. Chỉ cần đảm bảo đường thoát nước làm việc là được."

"Nhưng để làm gì? Để làm gì? Để làm gì? Keating gào lên với những trợ lý thiết kế của mình. "Thì, tại sao chúng tôi lại không được can thiệp gì cả? Gordon L. Prescott hỏi. "Chúng tôi cũng muốn thể hiện dấu ấn cá nhân chứ."

Khi Keating viện dẫn các điều khoản hợp đồng người ta nói với anh rằng: "Được thôi, xin mời, anh cứ thử kiện chính phủ xem. Cứ thử đi!". Đôi lúc anh có khát khao muốn được giết ai đó. Nhưng không có ai để mà giết. Ngay cả nếu anh được quyền thì anh cũng không thể chọn được nạn nhân. Không ai chịu trách nhiệm cả. Không có mục đích và nguyên nhân. Tất cả chỉ cứ thế mà xảy ra.

Keating tìm đến nhà Roark vào buổi tối sau khi Roark trở về. Roark đã không hề gọi anh đến. Roark mở cửa và nói: "Chào anh, Peter," nhưng Keating không thể trả lời. Họ im lặng đi vào phòng làm việc. Roark ngồi xuống nhưng Keating vẫn đứng ở giữa phòng và hỏi với giọng buồn bã:

"Cậu định làm gì?"

"Bây giờ anh phải để tôi giải quyết việc đó."

"Tôi đã không thể làm gì được, Howard... Tôi đã không thể!"

"Tôi đoán là không."

"Cậu có thể làm gì bây giờ? Cậu không thể kiện chính phủ được."

"Không. Tôi không kiện."

Keating nghĩ rằng anh nên ngồi xuống, nhưng chiếc ghế dường như ở quá xa. Anh cảm thấy nếu anh cử động, anh sẽ trở nên quá lộ liễu.

"Cậu định làm gì với tôi đây Howard?"

"Không làm gì cả."

"Có muốn tôi phải thú nhận với họ sự thật không? Với tất cả mọi người?"

"Không."

Một lát sau Keating nghĩ thầm:

"Vậy hãy để tôi trả tiền công cho cậu nhé... tất cả... và..."

Roark mỉm cười.

"Tôi xin lỗi..." Keating thì thầm và đưa mắt ra chỗ khác.

Anh đợi một lát, và sau đó cái lời biện hộ mà anh biết là anh không được nói đã bật ra thành:

"Tôi sợ, Howard..."

Roark lắc đầu.

"Dù tôi làm gì thì cũng không phải để hại anh, Peter. Tôi cũng có tội. Cả hai chúng ta cùng có tội."

"Cậu có tội ư?"

"Chính tôi đã hủy hoại anh, Peter. Ngay từ đầu. Bằng cách giúp đỡ anh. Có những chuyện mà người ta không được phép nhờ vả hoặc giúp đỡ người khác. Lẽ ra tôi không nên làm giúp anh những đồ án ở Stanton. Lẽ ra tôi không nên thiết kế tòa nhà Cosmo-slotnick. Hay Cortlandt. Tôi đã bắt anh phải mang nhiều hơn sức anh có thể mang. Giống như khi một dòng điện quá mạnh chạy trong mạch điện, nó sẽ làm đứt cầu chì. Bây giờ thì cả hai chúng ta cùng phải trả giá. Việc đó sẽ khó đối với anh, nhưng nó còn khó hơn đối với tôi."

"Cậu có muốn... tôi đi về bây giờ không, Howard?"

"Có."

Ở cửa Keating nói:

"Howard! Họ không cố tình làm điều đó."

"Chính vì thế nên nó còn tồi tệ hơn."

*

* *

Dominique nghe thấy tiếng xe chạy lên đồi. Cô nghĩ Wynand đã đi làm về. Suốt hai tuần qua, kể từ khi trở về thành phố, tối nào ông cũng làm việc muộn.

Tiếng động cơ nổi bật trong không khí mùa xuân tĩnh lặng của đồng quê. Không có âm thanh nào ở trong nhà, chỉ có tiếng lào xào khẽ của mái tóc khi cô ngả đầu vào cái nệm ghế. Trong một khoảnh khắc, cô không còn ý thức được việc đang nghe tiếng xe tiến lại gần nữa, nó quá quen thuộc vào giờ này trong ngày, nó là một phần của sự tĩnh lặng và tách biệt ở ngoài kia.

Cô nghe thấy tiếng xe dừng ở cửa. Cửa ra vào luôn mở, họ không bao giờ chờ hàng xóm hay khách đến thăm. Cô nghe tiếng cửa mở, và những bước chân đi trong phòng khách ở dưới gác. Những bước chân không dừng lại, mà đi thẳng lên gác với sự tự tin quen thuộc. Một bàn tay xoay cái núm cửa phòng cô.

Đó là Roark. Trong khi đứng lên, cô nghĩ thầm rằng trước đó anh chưa từng bước chân vào phòng cô, nhưng anh biết rõ từng phần của ngôi nhà này; cũng như là anh biết rõ từng chi tiết của cơ thể cô. Cô không hề cảm thấy sốc, cô chỉ nhớ đã từng sốc, một cú sốc trong quá khứ, cô nghĩ: Ta chắc chắn là đã sốc khi nhìn thấy anh ấy, nhưng không phải là bây giờ. Bây giờ, khi cô đứng trước anh, mọi thứ trở nên rất đơn giản.

Cô nghĩ: giữa hai chúng ta, những điều quan trọng nhất không bao giờ cần phải nói ra. Lúc nào chúng cũng được nói bằng cách như thế này. Anh ấy đã không muốn gặp riêng ta. Nhưng bây giờ thì anh ấy đang ở đây. Ta đã đợi và bây giờ ta sẵn sàng.

"Chào em, Dominique."

Cô nghe thấy tên cô được gọi lên, và nó lấp đầy khoảng cách năm năm. Cô nói nhẹ nhàng:

"Chào anh, Roark."

"Anh muốn em giúp anh."

Cô đang đứng ở sân ga Clayton, Ohio; cô đang đứng ở bục nhân chứng trong phiên tòa Stoddard; cô đang đứng ở rìa của mỏ đá, để có thể cho phép bản thân - như cô đã cho phép bản thân mình vào những lúc đó - được chia sẻ câu nói mà cô vừa mới nghe.

"Vâng, Roark."

Anh bước ngang qua căn phòng mà anh đã thiết kế cho cô, anh ngồi xuống, đối diện với cô, giữa họ là cả chiều rộng của căn phòng. Cô đã ngồi xuống từ khi nào không biết, cô chỉ chú ý đến chuyển động của anh, cứ như cơ thể của anh chứa hai bộ dây thần kinh, một của anh và một của cô.

"Tối thứ Hai tới, Dominique, chính xác vào lúc 11:30, anh muốn em lái xe đến công trường Cortlandt."

Cô chợt để ý là cô đang cảm nhận khá rõ về mí mắt của mình, không phải là sự đau đớn, mà chỉ là cảm thấy, như thể hai mí mắt của cô đã tê cứng lại và không chớp được nữa. cô đã nhìn thấy tòa nhà đầu tiên của Cortlandt. Cô đã biết trước những điều cô sắp được nghe.

"Em phải ở một mình trong xe và em phải trên đường về nhà từ một nơi nào đó, một nơi em đã có hẹn, và cuộc hẹn phải được lên kế hoạch từ trước. Đó phải là một địa điểm mà từ đây chỉ có thể đi đến đó bằng cách đi qua Cortlandt. Em phải có khả năng chứng minh được điều đó về sau này. Anh muốn xe của em phải hết xăng ở ngay trước công trường Cortlandt, vào lúc 11:30. Em bấm còi. Sẽ có một người trực đêm ở gần đó. Anh ta sẽ đi ra ngoài. Em sẽ nhờ anh ta giúp đỡ và bảo anh ta đi đến cái gara ô-tô gần nhất, cách đấy khoảng một dặm."

Cô trả lời đều đều, "Vâng, Roark."

"Khi anh ta đi khỏi, em hãy ra khỏi xe. Có một khu đất bỏ hoang khá rộng ở cạnh đường, phía bên kia tòa nhà, và cạnh đó là một cái mương. Em cần phải đi đến cái mương đó càng nhanh càng tốt, chui xuống mương và nằm sát mặt đất. nằm dán mình xuống đất. một lúc sau thì em có thể trở về ô-tô. Em sẽ biết khi nào cần trở về. hãy làm thế nào để mọi người có thể thấy em ở trong xe và cơ thể em ở tình trạng phù hợp với cái xe - gần gần thôi."

"Vâng, Roark."

"Em hiểu chứ?"

"Vâng."

"Hiểu tất cả?"

"Vâng. Tất cả."

Họ cùng đứng lên. Cô chỉ nhìn thấy cặp mắt của anh và biết anh đang mỉm cười.

Cô nghe anh nói: "Chúc em ngủ ngon, Dominique," anh đi ra ngoài và cô nghe tiếng xe của anh đi xa dần. Cô nghĩ về nụ cười của anh.

Cô biết là anh không cần sự giúp đỡ của cô cho cái việc anh sắp làm, anh có thể tìm cách khác để thoát khỏi người trực đêm, cô biết là anh đã để cho cô tham gia, bởi vì nếu không như thế thì có thể cô sẽ không sống được với những gì sẽ xảy ra sau đó, cô cũng biết đây chính là bài kiểm tra cuối cùng.

Anh đã không muốn gọi tên nó, anh đã muốn cô hiểu và không tỏ ra sợ hãi. Cô đã không đủ sức chịu đựng trong vụ xử Stoddard, cô đã chạy trốn khỏi nỗi khiếp sợ khi nhìn anh bị cả thế giới này làm tổn thương, nhưng cô đã đồng ý để giúp anh trong vụ này. Cô đã đồng ý trong cảm giác bình yên tuyệt đối. Cô đã tự do, và anh biết điều đó.

*

* *

Con đường bằng phẳng chạy dọc qua những dải đất tối của Long Island, nhưng Dominique lại cảm thấy như là cô đang lái xe lên dốc. Đó là một cảm giác bất thường duy nhất, cảm giác bay lên, như thể chiếc xe của cô đang tăng tốc theo chiều thẳng đứng. Cô vẫn để mắt đến mặt đường, nhưng bảng đồng hồ xe ở dưới tầm mắt cô trông như bảng điều khiển một chiếc máy bay. Đồng hồ trên bảng chỉ 11 giờ 10 phút.

Cô cảm thấy thích thú, và nghĩ: Mình chưa từng học lái máy bay và bây giờ mình biết cảm giác đó như thế nào, nó đúng như thế này, chỉ có không gian thông suốt và không cần nỗ lực gì cả. Và không có cả trọng lượng nữa. Điều đó xảy ra ở tầng bình lưu - hay là ở khoảng không giữa các hành tinh nhỉ? - cái chỗ mà người ta bắt đầu trôi nổi lơ lửng và chỗ không còn định luật hấp dẫn ấy.

Không có bất cứ định luật nào về bất cứ định luật hấp dẫn nào cả. Cô nghe thấy mình đang cười thành tiếng.

Chỉ là cảm giác bay lên... Ngoài ra mọi thứ đều bình thường. Cô chưa bao giờ lái xe thuần thục như bây giờ. Cô nghĩ: lái xe là một việc khô khan và máy móc, như vậy mình biết là mình đang tỉnh táo, bởi vì mình đang lái xe rất dễ dàng, như thở hoặc nuốt vậy - những việc không cần đến sự chú ý. Cô dừng lại trước những đèn giao thông màu đỏ treo lơ lửng ở trên những ngã tư đường dọc theo những con phố không tên, trong những khu ngoại ô không tên, có rẽ và vượt những xe khác, và cô biết chắc rằng tối nay không thể có tai nạn nào có thể xảy ra đối với cô. Cô biết xe của cô được lái bởi một cái điều khiển từ xa - một loại tia sáng tự động nào đó mà cô đã từng đọc - đó là sóng vô tuyến hay là ánh sáng một ngọn hải đăng nhỉ? - và cô chỉ việc ngồi sau tay lái.

Cô nghĩ: việc này khiến ta được tự do cảm nhận tất cả những gì nhỏ nhặt nhất, và được cảm thấy vô lo và... Thoải mái - hoàn toàn thoải mái. Nó là một trạng thái nhận biết rõ ràng, bình thường hơn cả bình thường, giống như thủy tinh còn trong hơn cả không khí rỗng. Chỉ những thứ vặt vãnh thôi: lớp lụa mỏng của chiếc váy ngắn màu đen và cái cách mà nó phủ hờ hững qua những đầu gối cô, sự uyển chuyển của những ngón chân bên trong chiếc giày mềm đế bằng khi cô di chuyển bàn chân, dòng chữ vàng "Tiện ăn Danny" ở trên ô cửa sổ tối tăm mà cô vừa vượt qua.

Cô đã rất vui vẻ tại bữa tối do vợ của một ông chủ nhà băng nào đó tổ chức. Họ là những người bạn quan trọng của Gail mà bây giờ cô chẳng thể nhớ nổi tên. Đó là một bữa tối tuyệt vời ở trong một lâu đài lớn ở Long Island. Bọn họ đều đã rất vui khi được đón tiếp cô và đã tỏ ra tiếc rẻ vì Gail không thể đến được. Cô đã ăn hết mọi đĩa thức ăn được đặt ra trước mặt cô. Cô đã ăn rất ngon miệng - giống như một vài dịp hiếm hoi hồi bé khi cô trở về nhà sau một ngày chạy nhảy ở trong rừng, và mẹ cô đã rất hài lòng bởi bà luôn lo ngại rằng sau này lớn lên cô có thể bị mắc bệnh thiếu máu.

Cô đã mua vui cho các vị khách bên bàn ăn tối bằng cách kể với họ những câu chuyện về tuổi thơ của cô, cô đã khiến họ phá lên cười, và đó là bữa tối vui vẻ nhất mà các chủ nhà của cô có thể nhớ được. Sau đó, ở trong phòng vẽ có những ô cửa sổ mở rộng, hướng ra ngoài bầu trời tối - một bầu trời không trăng, trải dài phía trên những ngọn cây, trên những khu phố, cho tới tận bờ sông Đông - cô đã cười phá ra và nói chuyện, cô đã mỉm cười với mọi người ở xung quanh với cảm giác ấm áp đến mức tất cả bọn họ đều tự động thổ lộ những chuyện thân thiết nhất đối với họ, cô đã yêu quý những người đó biết chừng nào, và họ cũng biết điều đó, cô đã yêu bất cứ cá thể người nào, ở bất cứ đâu trên mặt đất này, và một quý bà nào đó đã nói: "Dominique, tôi không biết là em có thể tuyệt vời đến thế!" Và cô đã trả lời: "Em chẳng có gì để lo lắng trong thế giới này."

Nhưng cô đã thực sự chẳng chú ý đến cái gì khác ngoài cái đồng hồ ở cổ tay mình, và rằng cô phải ra khỏi nhà đó vào lúc 10 giờ 50. Cô đã không biết sẽ nói thế nào để có thể rời bữa tiệc nhưng đến 10 giờ 45 cô đã nói điều đó, chuẩn xác và thuyết phục, và đến 10 giờ 50 bàn chân cô đã đặt vào chân ga của ô-tô.

Đó là chiếc xe hai chỗ màu đen, mui khép kín và ghế được bọc da màu đỏ. Cô nghĩ, John, người lái xe, đã giữ cho lớp da đỏ bóng loáng một cách rất đẹp mắt. Cái xe rồi sẽ chẳng còn lại gì và nó xứng đáng được trông đỏm dáng nhất vào lần lăn bánh cuối cùng. Giống như người đàn bà trong đêm ân ái đầu tiên của mình. Ta chưa bao giờ ăn mặc đẹp cho cái đêm đầu tiên của mình - ta không có đêm đầu tiên - chỉ có cái gì đó xé toạc cơ thể và vị những hạt bụi của mỏ đá ở trong miệng.

Khi cô nhìn thấy những dải màu đen dài với những đốm sáng ở trên cửa kính hai bên thân xe, cô tự hỏi điều gì đã xảy ra đối với mặt kính. Để rồi cô nhận ra rằng cô đang lái xe dọc theo sông Đông và rằng đó chính là New York, ở bờ bên kia. Cô cười và nghĩ: Không, đó không phải là New York, đó chỉ là một bức tranh riêng được dán lên cửa sổ ô-tô của ta, toàn bộ bức tranh, ở đây, trên một tấm kính nhỏ, ở dưới bàn tay của ta, ta sở hữu nó, bây giờ nó là của ta - cô di bàn tay dọc theo những tòa nhà từ Battery cho đến cầu Queenboro - Roark, nó là của em và em đang dâng nó cho anh.

*

* *

Bây giờ bóng người gác đêm có chiều cao khoảng 20 xăng-ti-mét ở phía xa. Dominique nghĩ: khi cái bóng đó giảm xuống còn 13 xăng-ti-mét ta sẽ bắt đầu hành động. Cô đứng cạnh xe và mong người gác đêm bước nhanh hơn.

Tòa nhà là một khối đen xuyên thẳng vào bầu trời tại một điểm. Phần còn lại của bầu trời võng xuống, sà thấp phía trên một dải đất phẳng. Những khu phố và những ngôi nhà gần nhất đều ở rất xa, ở rìa của khoảng không gian đó, chúng là những vết nứt nhỏ không đều đặn, như những chiếc răng của một chiếc cưa bị gãy lưỡi.

Cô cảm thấy có một hòn sỏi lớn ở bên dưới đế của chiếc giày mềm, nó thật khó chịu, nhưng cô không di chuyển bàn chân vì nó sẽ gây ra tiếng động. Cô không ở đây một mình. Cô biết là anh đang ở đâu đó trong tòa nhà kia, chỉ cách cô một con đường. Không có âm thanh và ánh sáng nào ở trong tòa nhà, chỉ có những chữ thập trắng trên nền cửa sổ đen. Anh ấy không cần chút ánh sáng, bởi vì anh ấy biết rõ từng căn phòng, từng cái cầu thang.

Bóng người gác đêm đã khuất xa. Cô giật tung cửa xe. Cô ném mũ và túi vào trong xe, rồi đóng sầm cửa lại. Cô nghe rõ tiếng cửa đóng âm vang khi cô ở bên kia đường, chạy trên một dải đất trống, ra xa khỏi tòa nhà.

Cô cảm thấy lớp vải lụa của chiếc váy cọ vào đùi, và nó có tác dụng như một cái đích cụ thể mà cô phải vượt qua - cô phải đẩy được cái rào cản bằng lụa này, phải xé qua hàng rào này càng sớm càng tốt. Mặt đất đầy những hố và gốc rạ khô lổn nhổn. Cô bị ngã một lần, nhưng cô chỉ nhận ra điều đó khi cô đang đứng lên chạy tiếp.

Cô nhìn thấy cái mương khuất trong bóng tối. Rồi cô quỳ trong lòng mương, rồi cô nằm dán xuống, mặt úp sấp, miệng cô áp vào mặt đất.

Cô cảm thấy đùi cô giật giật, và cô vặn mình lại trong một cơn rùng mình khá dài; cô cảm thấy mặt đất ở ngay dưới chân cô, ngực cô và làn da ở cánh tay của cô. Như thể cô đang nằm trên giường của Roark vậy.

Tiếng nổ như một quả đấm giáng xuống gáy cô. Cô cảm thấy mặt đất như đang xô vào cô, bắt cô phải đứng dậy và trèo lên bờ mương. Phần trên của tòa nhà Cortlandt nghiêng đi và đứng im trong khi một vết nứt toác làm lộ rõ bầu trời cứ lớn dần lên, cắt ngang qua khung nhà. Như thể bầu trời xẻ đôi tòa nhà vậy. Sau đó vết nứt chuyển thành một ánh sáng lòa màu xanh lam. Để rồi không còn phần trên nữa, chỉ có những khung cửa sổ và những cái xà nhà bay lên trong không khí, cả tòa nhà rải khắp bầu trời; một lưỡi lửa đỏ dài, mỏng liếm ra từ giữa nhà, rồi thêm một quả đấm nữa, và một quả nữa, rồi đến một vệt sáng lóa mắt và cửa kính của những tòa nhà chọc trời bên kia sông lấp lánh sáng như được dát vàng.

Cô không nhớ anh đã ra lệnh cho cô phải nằm ép sát đất, cô không nhớ rằng cô đang đứng; rằng những miếng thủy tinh và sắt vụn đang rơi xuống như mưa ở quanh cô. Trong khoảnh khắc khi những bức tường nứt toác ra và tòa nhà nổ tung như pháo hoa, cô nghĩ tới anh đang ở đó, một nơi nào đằng xa, anh là người thiết kế tòa nhà và phải phá hủy nó, người biết tất cả những điểm quan trọng nhất của cái kết cấu ấy; người đã tạo nên sự cân bằng tinh tế giữa sức ép và sức đỡ, cô nghĩ về việc anh phải lựa chọn những điểm mấu chốt ấy để đặt thuốc nổ; một người bác sĩ đã trở thành kẻ sát nhân, điêu luyện phá vỡ cả trái tim, bộ não và lá phổi cùng một lúc. Anh ấy ở đó, anh đã nhìn thấy điều đó và những gì nó gây cho anh còn kinh khủng hơn cả những gì nó gây ra cho tòa nhà. Nhưng anh đã ở đó và đón nhận nó.

Cô nhìn thấy thành phố được bao bọc bằng ánh sáng trong khoảng nửa giây, cô có thể nhìn thấy rìa và gờ của những ô cửa sổ ở xa hàng dặm, cô nghĩ tới những căn phòng tối tăm và những trần nhà được ánh sáng này chiếu đến, cô nhìn thấy đỉnh của những tòa tháp sáng lên trên bầu trời, bây giờ đó là thành phố của cô và của anh. "Roark!" Cô gào lên. "Roark! Roark!" Cô không biết là mình đã gào lên. Cô không nghe được tiếng của mình lẫn trong âm thanh vụ nổ.

Sau đó cô chạy ngang qua khoảng đất tới khu đổ nát đang bốc khói, chạy qua những lớp kính vỡ vụn, từng bước chắc nịch, bởi vì cảm giác đau đớn làm cô thích thú. Sẽ không bao giờ còn nỗi đau đớn nào khác để cô phải chịu. Một tầng bụi bao phủ cả khoảng đất, như một tấm vải bạt. Cô nghe thấy tiếng còi cứu hỏa bắt đầu ré lên từ phía xa.

Nó vẫn là một chiếc xe ô-tô, mặc dù những bánh sau đã bị bẹp rúm do một khối máy móc kim loại va vào, và một cánh cửa thang máy phủ lên mui xe. Cô bò vào ghế ngồi. Cô phải làm thế nào để chứng tỏ là cô vẫn ngồi ở đây từ trước. Cô nắm một vốc kính vỡ ở trên sàn xe và rắc chúng lên lòng mình, lên tóc mình. Cô lấy một miếng kính sắc nhọn và rạch nó lên da ở cổ, ở đùi và cánh tay của cô. Cái cô cảm thấy không phải là sự đau đớn. Cô nhìn thấy máu vọt ra từ cánh tay cô, chảy xuống lòng, thấm vào lớp lụa đen, nhỏ từng giọt giữa hai bắp đùi cô. Đầu cô ngả về phía sau, miệng há hốc, thở hổn hển. Cô không muốn dừng lại. Cô đã tự do. Không gì có thể làm tổn thương cô được. Cô không biết là cô đã cắt và một động mạch. Cô cảm thấy nhẹ bỗng. Cô đang cười vào mặt định luật hấp dẫn.

Khi những viên cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường tìm thấy cô thì cô đã bất tỉnh - cô chỉ còn có thể sống sót trong vài phút nữa.

XIII.

Dominique đưa mắt nhìn quanh phòng ngủ của cô trên căn hộ áp mái. Đấy là liên lạc đầu tiên của cô với thế giới xung quanh, sau khi cô tỉnh lại. Cô biết là mình đã được chuyển về đây sau nhiều ngày nằm viện. Căn phòng tràn ngập ánh sáng. Cô nghĩ: cái cảm giác nhận biết mọi thứ rõ ràng như pha lê vẫn còn ở lại, nó sẽ còn ở lại mãi mãi. Cô nhìn thấy Wynand đang đứng bên giường. Ông quan sát cô. Trông ông vui mừng.

Cô nhớ đã nhìn thấy ông ở bệnh viện. Lúc đó trông ông không vui. Cô cũng nhớ là ngay trong đêm đầu tiên nhập viện, bác sĩ đã nói với Wynand rằng cô khó có thể qua khỏi. Lúc đó cô muốn nói với tất cả mọi người rằng cô phải sống, cô chẳng có lựa chọn nào khác ngoài sống, chỉ có điều hình như việc nói cho mọi người biết cũng chẳng quan trọng gì - chẳng bao giờ còn quan trọng nữa.

Bây giờ thì cô đã quay trở lại với cuộc sống. Cô có thể cảm thấy băng quấn khắp thân thể cô - ở cổ họng, ở hai chân và ở cánh tay trái. Hai bàn tay cô được đặt phía trước mặt cô, trên tấm chăn. Người ta đã tháo gạc và hai tay chỉ còn lại vài vết xước đỏ.

"Em thật là đồ ngốc!" Wynand nói với vẻ sung sướng "Tại sao em lại phải làm việc đó hoàn hảo đến vậy?"

Cô nằm trên giường với bộ tóc vàng mềm mại xõa trên chiếc gối màu trắng, người mặc một bộ đồng phục cao cổ màu trắng của bệnh viện. Trông cô trẻ trung hơn cả lúc cô còn trẻ. Một vẻ rạng rỡ lặng lẽ tỏa trên khuôn mặt cô - cô đã không bao giờ có điều đó kể cả trong thời thơ ấu, nó là sự nhận biết trọn vẹn về sự thanh thản, về sự trong trắng và sự bình yên.

"Xe của em bị hết xăng" cô nói, "em đang ngồi đợi trong xe thì..."

"Anh đã nói thế với cảnh sát và người trực đêm cũng nói điều đó với họ. Nhưng chẳng nhẽ em không biết là phải cẩn thận với kính hay sao?"

Gail trông thư thái - cô nghĩ - và rất tự tin. Sự việc vừa xảy ra đã làm thay đổi mọi thứ với ông ấy - cũng như đối với mình.

"Nó không làm đau em" - cô nói thêm.

"Lần sau nếu em muốn đóng vai kẻ qua đường vô tội thì hãy để anh dạy em trước đã nhé."

"Nhưng mà họ tin, có đúng không?"

"Phải rồi, họ tin chứ. Họ phải tin. Vì em gần chết cơ mà. Anh chỉ không hiểu là tại sao anh ta phải cứu sống gã trực đêm, trong khi suýt lấy đi mạng sống của em."

"Ai cơ?"

"Howard, em yêu quý. Howard Roark."

"Anh ấy thì có dính dáng gì ở đây?"

"Em yêu quý, bây giờ thì cảnh sát chưa hỏi em, nhưng rồi họ sẽ hỏi, và khi đó em phải tỏ ra đáng tin hơn thế này nhiều. Tuy nhiên, anh nghĩ là em sẽ thành công. Họ sẽ không nghĩ tới vụ Stoddard."

"Ồ."

"Em đã làm điều đó và em sẽ luôn làm. Dù em nghĩ về con người anh ấy thế nào đi nữa, em vẫn cảm thấy giống hệt như anh về các công trình của anh ấy."

"Gail, anh mừng vì em đã làm điều đó?"

"Phải."

Cô thấy ông đang nhìn xuống bàn tay của cô đặt ở mép giường. Sau đó ông quỳ xuống, môi áp vào tay cô, ngón tay ông không nâng, không chạm vào nó, chỉ có miệng là chạm vào. Đó là sự thú nhận duy nhất ông cho phép mình bộc lộ về những gì ông cảm thấy trong những ngày cô nằm viện. Cô nhấc bàn tay còn lại và đặt nó lên tóc ông. Cô nghĩ: mọi chuyện sẽ còn tồi hơn so với việc em chết, Gail, nhưng không sao, nó sẽ không thể làm đau anh được, sẽ không còn có đau đớn trên thế giới, không là gì so với việc chúng ta tồn tại: anh ấy, anh và em - anh đã hiểu tất cả những điều quan trọng nhất, mặc dù anh không biết là anh đã mất em.

Ông ngẩng đầu lên và đứng dậy.

"Anh không có ý trách em đâu. Tha lỗi cho anh."

"Em sẽ không chết đâu, Gail. Em cảm thấy rất tuyệt vời."

"Trông em đúng là như vậy."

"Có phải là họ đã bắt anh ấy?"

"Anh ấy được bảo lãnh tại ngoại."

"Anh hạnh phúc chứ?"

"Anh mừng vì em đã làm điều đó và đó là vì anh ấy. Anh cũng mừng vì anh ấy đã làm như vậy. Anh ấy phải làm thế."

"Vâng. Và nó sẽ lại là phiên tòa Stoddard một lần nữa."

"Không hẳn."

"Anh đã luôn muốn có một cơ hội nữa, phải không Gail? Trong chừng ấy năm?"

"Đúng vậy."

"Em đọc báo được không?"

"Không. Em không được đọc cho đến khi khỏi hẳn."

"Thậm chí không được đọc cả tờ Ngọn cờ!"

"Tờ Ngọn cờ thì càng không."

"Em yêu anh, Gail. Nếu anh có thể đứng vững đến cùng..."

"Đừng có hối lộ anh. Chuyện này không phải là giữa em với anh. Thậm chí cũng không phải là giữa anh ấy với anh."

"Mà là giữa anh và Thượng đế?"

"Nếu em muốn gọi nó như thế cũng được. Nhưng chúng ta sẽ không thảo luận về chuyện này, cho đến ngày mọi chuyện xong xuôi đã. Có một người đang đợi em ở dưới. Anh ấy đã ở đây hàng ngày."

"Ai vậy?"

"Người tình của em Howard Roark. Có muốn để anh ta cảm ơn em vào lúc này không?"

Vẻ chế giễu hài hước của ông, cái giọng ông khi nói ra cái điều phi lý nhất mà ông có thể nghĩ ra mách bảo với cô rằng ông không hề đoán được sự thật. Cô nói:

"Vâng. Em muốn gặp anh ấy. Gail, nếu em quyết định biến anh ấy thành người tình của em?"

"Anh sẽ giết chết cả hai người. Nào, đừng có nhúc nhích, nằm yên, bác sĩ nói rằng em nên thư giãn, em đã có tổng cộng hai mươi sáu mũi khâu trên khắp người."

*

* *

Khi viên cảnh sát đầu tiên đến hiện trường của vụ nổ, ông ta tìm thấy, ở sau tòa nhà, bên bờ sông, cái pít-tông dùng để châm ngòi cho khối thuốc nổ. Roark đứng bên cạnh cái pít-tông đó, tay đút trong túi áo, mắt nhìn vào khối đổ nát còn sót lại của Cortlandt.

"Này anh kia, anh có biết gì về vụ này không?" viên cảnh sát hỏi.

"Ông nên bắt tôi," Roark nói. "Tôi sẽ nói tại phiên tòa."

Anh không nói thêm một từ nào để đáp lại những câu thẩm vấn chính thức liền sau đó.

Chính Wynand đã bảo lãnh cho anh được tại ngoại, vào sáng sớm hôm sau. Wynand đã rất bình tĩnh tại bệnh viện cấp cứu khi ông nhìn thấy những vết thương trên người Dominique, cả vào lúc người ta đã nói với ông rằng Dominique sẽ không qua khỏi. Ông đã rất bình tĩnh khi gọi điện thoại, lôi một viên thẩm phán của hạt ra khỏi phòng ngủ và thu xếp cho Roark tại ngoại. Nhưng khi ông đứng trong phòng giám trại của cái nhà giam bé nhỏ trong hạt thì ông bất thần run người. "Một bọn ngu ngốc khát máu!" Ông rít lên qua kẽ răng và tiếp đó là tất cả những câu chửi bẩn thỉu nhất mà ông đã học được ở bến cảng. Ông quên hết mọi khía cạnh của tình trạng hiện tại, chỉ trừ một thứ: việc Roark đang ở đường sau song sắt. Ông lại là Wynand Kều ở Hell's Kitchen và đây là kiểu thịnh nộ mà thỉnh thoảng ông vẫn để nổ ra, giống như khi ông phải đứng đằng sau một bức tường gạch đổ vỡ, chờ đợi bị giết chết. Chỉ đến lúc này ông mới nhận ra rằng ông cũng còn là Gail Wynand, ông chủ của một đế chế, và ông không hiểu tại sao người ta cần có những thủ tục luật pháp lằng nhằng đến vậy, tại sao ông không phá tan cái phòng tạm giam này, bằng nắm đấm hoặc những bài báo của ông, tất cả chỉ là một đối với ông trong thời điểm này, ông muốn được giết, ông phải giết, giống như cái đêm đó ở đằng sau bức tường, ông đã phải giết để bảo vệ mạng sống của mình.

Ông đã kiềm chế để ký các loại giấy tờ, đã kiềm chế trong lúc đợi Roark được đưa ra gặp ông. Họ cùng nhau bước ra ngoài, Roark cầm cổ tay ông lôi đi, và khi họ tới xe thì Wynand đã bình tĩnh trở lại. Ở trong xe Wynand hỏi:

"Tất nhiên là anh đã làm việc đó?"

"Tất nhiên."

"Chúng ta sẽ cùng chiến đấu."

"Nếu như ông muốn biến nó thành trận chiến của ông."

"Theo ước tính hiện tại thì tài sản của tôi có khoảng 40 triệu đô la. Như thế là đủ để thuê bất cứ luật sư nào anh muốn, hoặc tất cả ngành luật của cái nước này."

"Tôi sẽ không sử dụng luật sư."

"Howard! Anh không định nộp các bức ảnh nữa đấy chứ?"

"Không, lần này thì không."

*

* *

Roark đi vào phòng ngủ và ngồi xuống một cái ghế ở cạnh giường. Dominique vẫn nằm im, mắt nhìn anh. Họ mỉm cười với nhau. Không cần phải nói gì cả, kể cả lần này - cô nghĩ.

Cô hỏi:

"Anh đã bị giam?"

"Chỉ vài giờ thôi."

"Nó như thế nào?"

"Đừng có phản ứng giống Gail."

"Gail phản ứng tệ lắm à?"

"Rất tệ."

"Em sẽ không như thế."

"Có thể anh sẽ phải quay lại ở tù trong nhiều năm. Em đã biết điều đó khi em nhận lời giúp anh."

"Vâng. Em biết."

"Anh trông chờ vào em để cứu Gail, nếu như anh phải vào tù."

"Trông chờ vào em?"

Anh nhìn vào cô và lắc đầu. "em yêu..." tiếng anh như thể là lời trách móc.

"Vâng" cô thì thầm.

"Đến giờ em vẫn không biết rằng đó là một cái bẫy anh đặt ra để lừa em sao?"

"Thế nào cơ?"

"Em sẽ làm gì nếu anh đã không nhờ em giúp anh?"

"Em sẽ ở chỗ anh, trong phòng của anh, trong nhà Enright, ngay lúc này, công khai và đàng hoàng."

"Đúng rồi. Nhưng bây giờ thì em không thể làm được việc đó. Em là bà Gail Wynand, không ai nghi ngờ em cả, và mọi người đều tin rằng em tình cờ có mặt ở hiện trường. Cứ để cho mọi người nghĩ như vậy về chúng ta - và đó sẽ là bằng chứng anh đã làm việc đó."

"Em hiểu rồi."

"Anh muốn em giữ im lặng. Nếu em có ý định muốn chia sẻ gánh nặng này với anh thì hãy từ bỏ đi nhé. Anh sẽ không nói cho em biết anh định làm gì bởi vì đó là cách duy nhất anh có thể kiểm soát được em cho đến phiên tòa. Dominique, nếu anh bị kết án, anh muốn em ở lại với Gail. Anh tin tưởng vào em về chuyện đó, anh muốn em vẫn tiếp tục sống với Gail và không bao giờ nói với ông ấy về chuyện của chúng ta, bởi vì em và ông ấy sẽ cần đến nhau."

"Còn nếu anh được xử trắng án?"

"Thì..." anh nhìn lướt qua căn phòng, phòng ngủ của Wynand. "Anh không muốn nói điều đó ở đây. Nhưng em biết điều đó."

"Anh rất yêu quý ông ấy phải không?"

"Đúng thế."

"Đủ để hy sinh..."

Anh mỉm cười. "Em đã sợ điều đó kể từ lần đầu tiên anh đến đây phải không?"

"Vâng."

Anh nhìn thẳng vào mắt cô. "Em có nghĩ là điều đó có thể xảy ra không?"

"Không."

"Không thể, với công việc của anh hoặc là em, Dominique. Không bao giờ. Nhưng anh có thể làm đến mức này vì ông ấy. Anh có thể để em lại cho ông ấy, nếu như anh phải ra đi."

"Anh sẽ được trắng án."

"Đó không phải là điều anh muốn nghe em nói."

"Nếu họ kết tội anh - nếu họ đưa anh vào tù hoặc còng anh lại - nếu họ bôi bẩn tên anh trên những dòng tít báo nhơ nhuốc - nếu họ không cho anh thiết kế một tòa nhà nào nữa - nếu họ không bao giờ cho em được nhìn thấy anh nữa - thì nó cũng chẳng quan trọng. Không quá quan trọng. Chỉ xuống đến một điểm nào đó thôi."

"Dominique, anh đã chờ nghe em nói điều đó suốt bảy năm qua." Anh cầm lấy tay cô, anh nâng nó lên và ghé môi hôn, và cô cảm thấy môi anh đặt đúng chỗ mà Wynand đã hôn lúc trước. Sau đó anh đứng dậy.

"Em sẽ chờ," cô nói. "Em sẽ giữ im lặng. Em sẽ không lại gần anh. Em hứa."

Anh mỉm cười và gật đầu. Sau đó anh đi.

*

* *

"Chuyện là, vào những tình huống hiếm hoi, các lực lượng to lớn của thế giới mà chúng ta vốn không thể hiểu được lại cùng tụ lại trong một sự việc đơn lẻ, giống như những tia sáng đi qua một cái thấu kính hội tụ sẽ tụ lại thành một điểm sáng chói, để cho tất cả chúng ta cùng nhìn thấy. Đó là vụ phá hoại tòa nhà Cortlandt. Tại đây, trong một thế giới vi mô, chúng ta có thể quan sát được giống ác quỷ đã phá hoại hành tinh tội nghiệp của chúng ta từ ngày nó được sinh ra từ dòng máu vũ trụ. Cái tôi của một người dám chống lại tất cả những khái niệm về tình thương, lòng nhân đạo và tình bằng hữu. Một người dám phá hủy ngôi nhà tương lai của những người nghèo. Một người đẩy hàng ngàn người khác về với sự kinh hoàng của những khu nhà ổ chuột, của sự hôi thối, của bệnh tật và chết chóc. Khi một xã hội - nhờ được giác ngộ và có một quan niệm mới về bổn phận và nhân đạo - đã nỗ lực hết mình để cứu vớt những người thiệt thòi, khi những tài năng lớn nhất của cả xã hội đã tập trung lại để tạo ra một khu nhà ở tử tế cho họ - thì cái tôi của một kẻ khác đã phá tan tành tất cả thành tựu ấy. Và để làm gì cơ chứ? Để thỏa mãn thói hám danh phù phiếm, thỏa mãn thói kiêu ngạo rỗng tuếch nào đó. Tôi thật lấy làm tiếc là luật pháp của chúng ta chỉ dừng lại ở mức phạt tù đối với tội này. Kẻ đó cần phải bị tước bỏ cuộc sống. Xã hội cần có quyền được loại bỏ ra khỏi nó những người như Howard Roark."

Ellsworth M. Toohey đã viết như vậy trên tờ Những mặt trận mới.

Ông đã nhận được sự đồng tình từ khắp nơi. Vụ nổ của Cortlandt chỉ kéo dài nửa phút. Nhưng cơn thịnh nộ của công chúng thì cứ tiếp diễn, như có một đám mây làm từ thạch cao phủ lên bầu không khí, từ đám mây đó gỉ sắt và rác rưởi rơi xuống như mưa.

Roark đã bị truy tố bởi một bồi thẩm đoàn. Anh đã tuyên bố mình "Vô tội" và đã từ chối phát biểu bất cứ điều gì khác. Anh được thả ra theo một bản cam kết do Gail Wynand sắp đặt, và anh đang đợi phiên tòa.

Có rất nhiều phỏng đoán về động cơ của anh. Có người nói rằng đó là vì lòng đố kỵ nghề nghiệp. Người khác cho rằng có sự tương đồng giữa thiết kế Cortlandt và phong cách của Roark, rằng Keating, Prescott và Webb có thể đã vay mượn một chút từ Roark - "một sự mô phỏng hợp pháp" - "không có quyền sở hữu về ý tưởng" - "trong một xã hội dân chủ, nghệ thuận thuộc về nhân dân" - và rằng Roark đã bị kích động bới cái máu trả đũa của giới nghệ sĩ khi anh tin rằng người ta đã đánh cắp ý tưởng của anh.

Chẳng có lời giải thích nào rõ ràng, nhưng cũng chẳng ai để ý nhiều đến động cơ. Vấn đề rất đơn giải: một người chống lại nhiều người. Roark không có quyền có cả động cơ.

Một tòa nhà, được xây vì mục đích từ thiện, làm chỗ ở cho người nghèo. Tòa nhà ấy được xây dựng trên mười nghìn năm, ở đó loài người luôn được dạy dỗ rằng từ thiện và hy sinh bản thân là những khái niệm tuyệt đối không được phép nghi ngờ, đó là thước đo của phẩm giá, là lý tưởng cuối cùng. Mười ngàn năm những tiếng nói về phục vụ và hy sinh - hy sinh là nguyên tắc quan trọng nhất của cuộc sống - phục vụ và được phục vụ - tiêu diệt hay bị tiêu diệt - hy sinh là cao quý - hãy làm những gì bạn có thể, ở đầu này hoặc đầu kia - phục vụ và hy sinh - phục vụ và phục vụ và phục vụ...

Chống lại những điều ấy - là một người không muốn phục vụ mà cũng không muốn cai trị. Và vì thế người ấy đã mắc một tội lỗi không thể tha thứ được.

Đó là một vụ xì-căng-đan giật gân, và đi kèm với nó, như thường lệ, là những ồn ào và phẫn nộ chính đáng - giống như sự chính đáng của những lễ hành hình ném đá trong lịch sử loài người. nhưng hơn thế nữa, còn có cái gì đó dữ dội và rất riêng tư trong sự căm phẫn của mỗi người thể hiện khi bàn tán về chuyện này.

"Anh ta chỉ là một kẻ cực kỳ ích kỷ, hoàn toàn không có ý niệm đạo đức nào."

- đó là lời nói của một quý bà giàu có đang mặc đồ để đi đến một hội chợ từ thiện. Bà ta không dám nghĩ xem, nếu như làm từ thiện không còn là một thứ đức hạnh có thể biện minh cho mọi thứ khác, thì bà ta còn cách nào khác để bộc lộ bản thân mình, và khi ấy làm thế nào để bà ta có thể khoe khoang với bạn bè về bản thân.

- đó là lời nói của một nhà văn, một người sẽ không biết viết gì nếu như bỏ đi chủ đề về sự phục vụ và lòng hy sinh, một kẻ thổn thức trước hàng nghìn người rằng anh ta yêu họ, rất yêu họ và xin họ làm ơn hãy yêu anh ta dù chỉ là một chút ít.

- đó là lời nói của một nhà báo, một người vừa mua một biệt thự ở ngoại ô nhờ vào những bài viết vỗ về những người thấp cổ bé họng.

- đó là lời nói của tất cả những người thấp cổ bé họng, những người muốn được nghe nói về tình yêu, tình yêu vĩ đại, tình yêu dễ dãi, tình yêu mà có thể bao bọc được mọi thứ, tha thứ tất cả và cho phép tất cả.

- đó là lời nói của một kẻ sống thứ sinh, một người không thể tồn tại được trừ khi làm một con đỉa hút linh hồn người khác.

Ellsworth Toohey ngồi thoải mái, quan sát, lắng nghe và mỉm cười.

Gordon L. Prescott và Gus Webb liên tục được mời đến dự các bữa tối và các buổi tiệc cocktail; họ được đối xử với một sự quan tâm nhẹ nhàng, hơi tò mò, như những kẻ sống sót sau một thảm họa. Họ nói họ không thể hiểu được động cơ nào khiến cho Roark làm điều đó, và họ đòi phải có công lý.

Peter Keating không đi đâu cả. Anh từ chối gặp gỡ báo chí. Anh từ chối gặp bất cứ ai. Nhưng anh đã viết một bản tuyên bố rằng anh tin Roark vô tội. Nó có một câu khá lạ, câu cuối cùng. Câu đó nói: "Hãy để cho anh ấy yên thân, làm ơn, các người không thể để cho anh ấy yên được sao?"

Những người biểu tình thuộc Hiệp hội những người xây dựng Hoa Kỳ diễu qua diễu lại trước tòa nhà Cord. Nhưng điều ấy chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì hiện công ty của Roark đã ngừng làm việc. Tất cả những dự án sắp được triển khai của anh đều đã bị hủy bỏ.

Đây là tinh thần đoàn kết. Những cô diễn viên mới vào nghề đang ngồi làm móng chân - những bà vợ đang mua cà-rốt từ một hàng rong - những người thủ thư từng muốn trở thành một nghệ sĩ Piano nhưng đã từ bỏ với lý do phải kiếm sống nuôi em gái mình - những người công nhân ghét công việc - những người trí thức ghét tất cả mọi người - tất cả đều đoàn kết lại như anh em một nhà vì họ có chung một cơn giận dữ. Cơn giận ấy có thể giải tỏa được những buồn chán của họ, giải phóng họ ra khỏi bản thân, và họ biết được giải phóng khỏi bản thân thật là một ơn phước lớn. Tất cả bạn đọc đều nhất trí đồng lòng. Báo chí cũng vậy.

Gail Wynand chống lại dòng thác đó.

"Gail" Alvah Scarret đã há hốc miệng. "Chúng ta không thể bảo vệ một kẻ phá nhà bằng thuốc nổ!"

"Đừng nói nữa, Alvah," Wynand đã nói, "trước khi tôi đấm gãy răng của anh."

Gail Wynand đứng ở giữa phòng làm việc, đầu ông ngửa ra phía sau, ông mừng vì ông đang sống, giống như ông đã cảm thấy thế khi đứng ở bến cảng trong đêm tối, nhìn về ánh đèn của thành phố.

"Trong những tiếng gào thét hỗn loạn đang bao trùm lên chúng ta" - một bài xã luận của tờ Ngọn Cờ, ký tên "Gail Wynand", đã viết với chữ phóng to - "dường như không có ai nhớ rằng Howard Roark đã tự nguyện nộp mình cho nhà chức trách. Nếu chính anh ta làm nổ tòa nhà đó - thì anh ấy có cần phải ở lại hiện trường để bị bắt không? Thế mà chúng ta đã không đợi để biết lý do của anh ấy. Chúng ta đã kết tội Roark mà không cần nghe bào chữa. Chúng ta muốn anh ta mắc tội. Chúng ta sung sướng vì có vụ án này. Những gì các bạn đã nghe không phải là sự phẫn nộ - đó là sự hả hê. Bất cứ một kẻ vô học nào, bất cứ một kẻ vô đạo đức phạm tội giết người nào cũng đều nhận được một chút thương cảm từ chúng ta, thậm chí được cả một đội quân những người bảo vệ nhân quyền ủng hộ. Nhưng một thiên tài lại luôn bị mặc định là có tội. Chúng ta luôn mặc nhiên cho rằng việc kết án một người chỉ vì người đó yếu đuối và bé nhỏ là bất công. Như vậy, một xã hội đã xuống cấp đến mức nào khi nó kết án một người chỉ vì người đó mạnh mẽ và vĩ đại? Thế nhưng đó lại là cả cái bầu không khí đạo đức trong thời đại chúng ta - thời đại của những kẻ đạo đức giả."

"Chúng ta đã được nghe người ta gào lên," một bài xã luận khác của Wynand viết "rằng Howard Roark đã dành cả sự nghiệp của anh ta để đi vào các phiên tòa. Điều đó rất đúng. Một người như Roark sinh ra là để suốt đời đứng trước phiên tòa xét xử của cả xã hội. Nhưng ai được quyền kết tội ai đây - Roark hay là xã hội này?"

"Chúng ta chưa từng cố gắng hiểu điều gì tạo nên sự vĩ đại ở con người và làm thế nào để nhận ra sự vĩ đại đó" lại một bài xã luận nữa của Wynand. "Chúng ta thường cho rằng - và đây là một kiểu nhận thức hết sức cải lương - sự vĩ đại được đo bởi mức độ hy sinh bản thân. Chúng ta nhai đi nhai lại rằng hy sinh bản thân là phẩm chất cao quý nhất. Hãy dừng lại một giây và suy nghĩ xem. Có thật hy sinh là một phẩm chất cao quý? Liệu một người có thể hy sinh sự chính trực của anh ta? Danh dự của anh ta? Tự do của anh ta? Lý tưởng của anh ta? Niềm tin của anh ta? Sự trung thực trong cảm giác của anh ta? Khả năng tư duy độc lập của anh ta? Những thứ này là những tài sản quý giá nhất của một con người. Bất cứ cái gì anh ta phải từ bỏ để giữ lại được chúng đều không phải là hy sinh, mà chỉ đơn giản là một thỏa hiệp dễ dãi. Những thứ này nằm bên trên phạm vi những thứ có thể hy sinh, dù vì bất cứ sự nghiệp nào hay lý do nào. Như vậy, có lẽ chúng ta nên chấm dứt việc rao giảng những lý thuyết độc ác và nguy hiểm. Hy sinh bản thân ư? Nhưng chính bản thân lại là thứ không thể và không được phép hy sinh. Chính cái tôi-không-chịu-hy-sinh này là thứ mà chúng ta cần phải kính trọng nhất ở một con người."

Bài xã luận này đã được trích lại ở tờ Những mặt trận mới và nhiều tờ báo khác. Nó được in, đóng khung dưới dòng chữ tiêu đề: "Hãy nhìn xem ai đang nói kìa!"

Gail phá lên cười. Sự phản đối có tác dụng như nguồn nhiên liệu với ông. Nó làm ông mạnh mẽ hơn. Đây là một cuộc chiến, và đã lâu rồi ông chưa từng tham gia một cuộc chiến thực sự nào cả. Lần cuối cùng là khi ông đặt nền móng cho đế chế của mình giữa sự phản đối kịch liệt của toàn bộ những người làm báo. Ông đang có trong tay cái không-thể-có, cái mà mỗi người đều mơ ước đó là cơ hội và sức lực của tuổi trẻ, kết hợp với kinh nghiệm. Một khởi đầu mới và sự sung sức - cùng tụ lại một chỗ. Ta đã đợi và đã sống, ông nghĩ, chỉ để cho điều này.

Tất cả hai mươi tờ báo, tạp chí và kênh thời sự của ông đều nhận được lệnh: bảo vệ Roark, lăng-xê Roark trước công chúng. Cản trở việc xử giáo của đám đông.

"Bất kể sự thật là gì", Wynand giải thích với các nhân viên của ông, "đây sẽ không phải là một phiên tòa dựa trên sự thật. Nó là một phiên tòa dựa trên công luận. Chúng ta luôn là những người đẻ ra công luận. Hãy đẻ ra nó đi, lăng-xê Roark. Tôi không quan tâm các anh làm như thế nào. Tôi đã đào tạo các anh. Các anh là những chuyên gia về chuyện đó. Bây giờ hãy cho tôi xem các anh giỏi đến đâu."

Đáp lời ông là sự im lặng, các nhân viên của ông đưa mắt nhìn nhau. Alvah Scarret xoa xoa trán. Nhưng họ đều tuân lệnh ông.

Tờ Ngọn cờ in một bức tranh tòa nhà Enright, với dòng chú thích: "Đây có phải là người mà các vị muốn hủy hoại?" Một bức ảnh chụp ngôi nhà của Wynand: "Cố mà xây một ngôi nhà như thế này, nếu quý vị có thể." Một bức về Thung lũng Monadnock "Đây có phải là người không đóng góp gì cho xã hội?"

Tờ Ngọn cờ đăng tiểu sử của Roark, do một người chưa ai từng biết tên viết, chính Gail Wynand đã viết bài đó. Tờ Ngọn cờ còn đăng hàng loạt những vụ án nổi tiếng, trong đó những người vô tội đã bị kết án bởi sự định kiến của số đông vào thời điểm đó. Tờ Ngọn cờ có những bài viết về những người đã hy sinh cho xã hội như: Socrates, Galileo, Pasteur, những nhà tư tưởng, nhà khoa học, một hàng dài những anh hùng - mỗi người trong đó đều là người đã đứng một mình, đã dám bất chấp dư luận.

"Nhưng Gail, vì chúa, Gail, đó chỉ là một dự án xây nhà!" Alvah Scarret than vãn.

Wynand nhìn ông một cách tuyệt vọng: "Tôi nghĩ không có cách nào làm cho lũ ngốc các anh hiểu được rằng chuyện này chẳng có dính dáng gì đến vụ xây nhà cả. Được thôi. Chúng ta sẽ nói chuyện về các dự án xây nhà vậy."

Tờ Ngọn cờ đưa ra một loạt tiết lộ về các dự án nhà cửa: những vụ hối lộ, những sự bất tài, những khu nhà được xây lên với giá gấp năm lần chi phí xây dựng của một nhà thầu tư nhân, những khu chung cư được xây rồi bị bỏ hoang, những công trình có chất lượng tồi nhưng được phê duyệt, được chiêm ngưỡng, được tha thứ và bảo vệ nhờ núp bóng con bò thần có tên "vì người nghèo". "Người ta nói chính địa ngục cũng được xây lên từ những dự định tốt đẹp", tờ Ngọn cờ viết. "Có phải đó là do chúng ta chưa bao giờ học được cách phân biệt xem dự định nào tạo nên cái tốt? Bây giờ không phải là lúc để học sao? Thế giới của chúng ta chưa bao giờ có nhiều dự định tốt được tuyên bố ầm ĩ như bây giờ. Và hãy nhìn thế giới này mà xem."

Những bài xã luận của tờ Ngọn cờ đều do Gail Wynand viết. Ông đứng tại một cái bàn trong phòng sáng tác và viết trên một tấm bìa lớn, bằng một chiếc bút chì xanh và những nét chữ cao đúng 1 inch. Ông phóng tay ký hai chữ "G.W." ở cuối mãi bài viết và những chữ cái nổi tiếng ấy chưa bao giờ lại mang một vẻ kiêu hãnh bất cần như thế.

Dominique đã bình phục và trở về căn nhà ngoại ô của họ. Wynand trở về nhà muộn vào buổi tối. Ông thường xuyên kéo Roark về cùng mỗi khi có thể. Họ ngồi cùng nhau trong phòng khách, cửa sổ mở toang trong đêm mùa xuân. Những dải đất tối trên quả đồi bắt đầu từ chân tường nhà chạy thoai thoải xuống hồ và mặt nước hồ lấp lánh xuyên qua những rặng cây ở xa xa phía dưới. Họ không nói chuyện về vụ án cũng như không nói về phiên tòa sắp tới. Nhưng Wynand nói về chiến dịch của mình, một cách lạnh băng, cứ như thể nó không dính dáng gì đến Roark cả. Wynand đứng ở giữa phòng, và nói:

"Được thôi, cả sự nghiệp của tờ Ngọn cờ này chỉ là rác rưởi. Nhưng vụ này sẽ thanh tẩy tất cả. Dominique, anh biết là em chưa bao giờ hiểu được tại sao anh không thấy xấu hổ với quá khứ. Tại sao anh yêu quý tờ Ngọn cờ. Bây giờ em sẽ thấy câu trả lời. Đó là quyền lực. Anh có một quyền lực mà anh chưa từng bao giờ kiểm tra. Bây giờ em sẽ thấy anh kiểm tra nó. Họ sẽ nghĩ những gì mà anh muốn họ nghĩ. Họ sẽ làm theo những gì mà anh nói. Bởi vì đây là thành phố của anh và anh thực sự là ông chủ ở đây. Howard, cho đến lúc anh phải ra tòa, tôi sẽ khiến cho tất cả bọn họ quay ngoắt lại, đến mức không có bồi thẩm đoàn nào dám kết tội anh."

Ông không ngủ được vào ban đêm. Ông không muốn ngủ. "Đi ngủ đi" ông sẽ nói với Roark và Dominique như vậy, "vài phút nữa tôi cũng sẽ đi ngủ." Sau đó, Dominique từ trong phòng ngủ, và Roark từ trong phòng dành cho khách ở bên kia hành lang sẽ nghe thấy bước chân của Wynand đi đi lại lại hàng giờ ngoài hiên - tiếng bước chân ấy như chứa một niềm vui không thể ngừng nghỉ, mỗi bước như một câu nói, một lời tuyên bố được ghim chặt xuống sàn nhà.

Một lần, khi Wynand đuổi hai người đi ngủ khi đêm đã khuya, Roark và Dominique cùng đi lên cầu thang và dừng lại ở bậc chờ đầu tiên, họ nghe thấy tiếng một que diêm được quẹt rất mạnh trong phòng khách ở dưới, một âm thanh gợi lên một hình ảnh một bàn tay đã giật mạnh một cách bất cần để châm lửa điếu thuốc đầu tiên trong chuỗi dài những điếu thuốc sẽ được đốt cho tới sáng sớm, một đốm sáng nhỏ lướt qua lướt lại ngoài hiên cùng với tiếng chân chắc nịch.

Họ cùng nhìn xuống cầu thang và sau đó nhìn nhau.

"Thật kinh khủng," Dominique nói.

"Thật tuyệt vời," Roark nói.

"Wynand không thể giúp anh được, cho dù ông ấy có làm gì đi chăng nữa."

"Anh biết là ông ấy không thể. Nhưng đó không phải là vấn đề chính."

"Ông ấy đang mạo hiểm mọi thứ ông ấy có để cứu anh. Ông ấy không biết là ông ấy sẽ mất em nếu như anh được cứu thoát."

"Dominique, điều gì tồi tệ hơn đối với ông ấy - mất em hay là thua cuộc thánh chiến của chính ông ấy?" cô gật đầu, và hiểu ra. Anh nói thêm: "Em cũng biết không phải là ông ấy muốn cứu anh. Anh chỉ là cái cớ thôi."

Cô đưa tay lên. Cô chạm vào má anh, một cái chạm nhẹ bằng đầu ngón tay. Cô không cho phép mình làm thêm điều gì khác. Cô quay người và đi về phòng ngủ, cô nghe tiếng anh đóng cửa phòng ngủ dành cho khách.

Lancelot Clokey viết trong một bài báo: "Có gì là vô lý khi các tờ báo của Wynand đứng ra bảo vệ Howard Roark đâu nhỉ? Nếu có ai nghi ngờ về những vấn đề đạo đức có liên quan trọng vụ này, thì đây là bằng chứng về việc đạo đức là cái gì và ai là người có đạo đức. Những tờ báo của Wynand vốn là thành trì của báo chí lá cải, của sự thô tục, tham nhũng và xì-căng-đan, chúng là sự lăng mạ đối với thị hiếu và sự đứng đắn của công chúng, là thế giới tri thức côn đồ và được cai trị bởi một người có ít ý niệm về nguyên tắc sống hơn cả những kẻ ăn thịt người - những tờ báo ấy xứng đáng là bảo kê cho Howard Roark, và Howard Roark xứng đáng là người hùng của họ. Sau cả một đời cống hiến cho sự nghiệp phá hủy tính chính trực của báo chí, lẽ đương nhiên là Gail Wynand phải ủng hộ một kẻ phá hủy còn thô thiển hơn cả ông ta."

Gus Webb nói trong một bài phát biểu trước công chúng: "Tất cả những thứ phát biểu lòe loẹt trên báo chí lúc này đều chỉ là những thứ tầm phào. Đây mới là sự thật trần trụi của vấn đề. Trong nhiều năm qua, cái lão Wynand này đã kiếm rất nhiều, ý tôi là rất nhiều bằng cách lột da róc xương những kẻ hút máu trong giới bất động sản. Liệu ông ta có vui không khi chính phủ nhúng tay vào và hất ông ta ra, nhờ đó mà những người nghèo được sống dưới những mái nhà sạch sẽ và có một cái toilet hiện đại cho con cái họ? Tôi lấy đầu đảm bảo là ông ta không thích điều đó, không thích một chút nào cả. Đây là một vụ dàn xếp của hai kẻ đó, Wynand và gã bạn tóc đỏ của ông ta, và nếu quý vị hỏi tôi, tôi cho rằng gã đó kiếm được cả núi tiền từ ông Wynand vì đã hoàn thành nhiệm vụ."

"Theo nguồn tin đáng tin cậy mà chúng tôi không thể tiết lộ," một tờ báo cấp tiến viết, "vụ Cortlandt chỉ là bước đầu tiên trong một kế hoạch khổng lồ nhằm phá hủy tất cả những dự án xây nhà của chính phủ, tất cả những nhà máy điện công cộng, tất cả những bưu điện và trường học trên toàn nước Mỹ. Kẻ cầm đầu là Gail Wynand - như chúng ta có thể thấy - và cả những nhà tư bản khát máu giống ông ta, bao gồm cả một vài nhân vật giàu có nhất nước."

Sally Brent viết trên tờ Những mặt trận mới: "Mọi người đã chú ý quá ít đến vai trò của phụ nữ trong vụ này. Ít nhất người ta cũng có thể nói rằng bà Gail Wynand đã đóng một vai trò rất không minh bạch. Việc bà ấy sai người gác đêm rời khỏi vị trí thật đúng lúc có phải chỉ là một sự tình cờ nho nhỏ không? Và có phải điều đó đã làm cho ông chồng phải bằng mọi cách bảo vệ ông Roark? Nếu như chúng ta không bị bịt mắt bởi một lòng hào hiệp ngu ngốc, vô nghĩa và lỗi thời bất cứ khi nào chúng ta thấy một người phụ nữ được coi là xinh đẹp, thì chúng ta đã không thể cho phép chi tiết đó bị bưng bít. Nếu chúng ta không quá kính nể vị trí xã hội của bà Wynand và cái gọi là uy danh của ông chồng bà ấy - người đang tự biến mình thành một kẻ đại ngốc - thì chúng ta đã phải đưa ra những nghi vấn về việc bà ấy đã gần chết trong thảm họa đó. Làm sao mà chúng ta có thể biết rằng bầ ấy đã gần chết? Người ta có thể mua chuộc bác sĩ, cũng như muc chuộc bất cứ ai khác, và ông Gail Wynand thì lại là một chuyên gia trong lĩnh vực này. Nếu chúng ta xem xét mọi mặt của vấn đề này, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được những nét bên ngoài của một cái gì đó có vẻ giống như một 'phong cách sống' hết sức trụy lạc."

Một tờ báo kín tiếng và bảo thủ viết: "Vị thế mà những tờ báo của Wynand đang chọn là đáng hổ thẹn và không thể lý giải nổi."

Lượng phát hành của tờ Ngọn cờ sụt giảm hàng tuần, tốc độ giảm càng ngày càng nghiêm trọng, như một chiếc thang máy rơi tự do. Những khuy đeo áo và những chiếc sticker mang dòng chữ "Chúng tôi không đọc Wynand" mọc lên ở những bức tường, những bảng thông báo ở ga tàu điện ngầm, ở trên thanh gạt nước trên ô-tô và những ve áo . Khán giả la ó trước những mẩu tin thời sự ngắn của Wynand ở các rạp chiếu phim. Tờ Ngọn cờ biến mất khỏi các quầy báo, những người bán hàng bắt buộc phải nhận báo nhưng họ giấu báo ở dưới quầy và chỉ miễn cưỡng đưa ra khi có người hỏi mua. Mặt đất đã được dọn sạch, những trụ đỡ đã bị ăn mòn từ lâu, vụ Cortlandt chỉ là cú hích cuối cùng.

Trong làn sóng căm phẫn nhằm vào Gail Wynand, người ta hầu như đã quên hẳn Roark. Những vụ biểu tình giận dữ nhất bắt nguồn từ chính độc giả của Wynand: từ các câu lạc bộ phụ nữ, từ những vị mục sư, những bà mẹ, những nhân viên bán lẻ. Người ta đã phải đưa Alvah Scarret ra khỏi căn phòng hàng ngày bị ngập lụt trong thư độc giả, bởi vì ông bắt đầu công việc hàng ngày của mình bằng việc đọc thư - và những người thân tín trong đám nhân viên của ông phải đưa ông ra khỏi phòng để ông không tiếp tục đọc nữa, họ sợ rằng ông có thể bị đột quỵ.

Nhân viên của tờ Ngọn cờ làm việc trong im lặng. Không còn những cái liếc trộm, những câu rủa thầm, không cả những câu chuyện phiếm trong phòng vệ sinh nữa. Vài người xin nghỉ việc. Những người còn lại vẫn tiếp tục làm, chậm chạp và nặng nề, với thái độ của những người đang phải thắt dây an toàn và chờ đợi điều không thể tránh khỏi sẽ xảy ra.

Gail để ý thấy có một chút gì như là sự kéo dài trong mọi hành động xảy ra ở xung quanh ông. Khi ông đi vào tòa soạn, nhân viên của ông không ngừng làm việc khi nhìn thấy ông, khi ông gật đầu chào họ, thì lời chào đáp lại của họ đến chậm một giây so với thường lệ, khi ông bước tiếp và quay lại nhìn, ông thấy họ đang nhìn theo ông. Cái câu "Vâng thưa ngài Wynand" mà ông vẫn thường nghe thấy ngay sau khi ra lệnh - vốn không bao giờ có một khoảng khắc đứt đoạn giữa âm thanh cuối cùng trong mệnh lệnh của ông và câu nói ấy - bây giờ thường đến trễ, và khoảng ngập ngừng ở giữa trở nên rõ nét đến mức nó khiến cho câu trả lời nghe như việc đáp lại một câu hỏi chứ không phải một mệnh lệnh.

Mục Một tiếng nói nhỏ vẫn giữ im lặng về vụ Cortlandt. Wynand đã gọi Toohey đến văn phòng của ông, một ngày sau khi vụ nổ xảy ra, và đã nói: "Ông nghe đây. Không một từ nào trong mục của ông. Hiểu không? Ông làm gì hoặc gào thét cái gì ở ngoài kia tôi không thèm quan tâm - vào lúc này. Nhưng nếu ông gào to quá, thì sau khi vụ này kết thúc, tôi sẽ xử ông."

"Vâng, thưa ông Wynand."

"Đối với mục báo của ông, ông phải điếc, câm và mù. Ông chưa từng nghe về vụ nổ nào cả. Ông chưa từng biết một ai tên Roark. Ông không biết từ Cortlandt có nghĩa gì. Chừng nào ông còn ở trong tòa nhà này."

"Vâng, thưa ông Wynand."

"Và đừng để cho tôi thấy cái mặt của ông quá nhiều ở đây."

"Vâng, thưa ông Wynand."

Luật sư của Wynand, một người bạn cũ đã làm việc với ông trong nhiều năm cố gắng ngăn ông.

"Gail, chuyện gì vậy? Ông đang cư xử như một đứa trẻ. Như một thằng ranh chập chững học nghề. Tỉnh dậy đi."

"Câm miệng lại." Wynand nói.

"Gail, ông là... Ông đã là chủ bút vĩ đại nhất trái đất này. Tôi có phải nói với ông một điều rất hiển nhiên không? Trong kinh doanh, chống lại công chúng là một việc rất nguy hiểm. Đối với một tờ báo bình dân thì đó là tự sát."

"Nếu ông không câm miệng lại thì tôi sẽ đuổi việc ông và tìm cho mình một gã luật sư khát máu khác."

Wynand bắt đầu tranh luận về vụ này với những nhân vật lớn mà ông gặp trong các bữa trưa, bữa tối vì công việc. Trước đó ông chưa hề tranh cãi về bất cứ chủ đề nào, ông cũng chưa từng biện hộ cho ai. Ông đã luôn chỉ ném các kết luận cuối cùng vào mặt những người nghe đáng kính của ông. Bây giờ ông không tìm thấy người nghe nữa. Không có cả sự im lặng dửng dưng, nửa chán chường nửa bực bội. Những kẻ trước đó đã lắng nghe như hớp từng lời mà ông nhả ra về thị trường chứng khoán, về bất động sản, về quảng cáo, về chính trị giờ đây không thèm để ý đến quan điểm của ông về nghệ thuật, về sự vĩ đại và về công lý.

Ông nghe được vài câu trả lời như sau:

"Đồng ý, Gail, phải, chắc chắn rồi. Nhưng mặt khác, tôi nghĩ anh ta đã quá ích kỷ. Và đó là vấn đề của thế giới ngày nay - sự ích kỷ. Có quá nhiều ích kỷ ở khắp mọi nơi. Đó cũng là những gì mà Lancelot Clokey đã đề cập tới trong quyển sách của ông ta - một quyển rấy hay, về thời thơ ấu của ông ấy, ông hãy đọc nó đi, có nhìn thấy ảnh của ông chụp với Clokey. Clokey đã đi khắp thế giới, ông ta biết rõ về những gì ông ta nói."

"Được rồi, Gail, nhưng có phải là ông hơi lỗi thời trong chuyện này không? Ba cái chuyện về con người vĩ đại là gì vậy? Một anh thợ xây nổi tiếng thì có gì là vĩ đại? Mà làm gì có ai vĩ đại? Tất cả chúng ta chỉ toàn là những tế bào, những hóa chất và những gì chúng ta ăn sáng. Tôi nghĩ là Luis Cook đã giải thích nó rất kỹ trong cái cuốn sách dễ thương - tên nó là gì nhỉ? - à, đúng rồi - Viên sỏi mật can đảm. Chính thế đấy, thưa ngài. Tờ Ngọn cờ của ngài đã lăng-xê quyển sách đấy lên tận mây xanh."

"Nhưng nghe này, Gail, anh ta nên nghĩ về người khác trước khi nghĩ về bản thân anh ta chứ. Tôi nghĩ rằng nếu một người không có tình yêu trong tim thì anh ta chả thể nào có ích được. Tôi nghe được điều đó trong một vở kịch tối qua - một vở kịch hoành tráng - vở mới của Ike - họ của anh ta là cái quái gì nhỉ? - anh nên xem nó - chính lão Jules Fougler của anh đã nói rằng đó là một bài thơ cũng cảm và dịu dàng trên sân khấu."

"Anh có lý, Gail, và tôi không biết nói thế nào để phản bác lại, tôi không biết là anh sai ở đâu, nhưng tôi cảm thấy điều đó không đúng, bởi vì Ellsworth Toohey - nào, đừng có hiểu nhầm tôi, tôi không đồng ý với những quan điểm chính trị của Toohey một chút nào, tôi biết ông ta là một kẻ cực đoan, nhưng mặt khác ông cũng phải thừa nhận là ông ta là một con người có lý tưởng vĩ đại, với một trái tim lớn như một ngôi nhà - à phải rồi, Ellsworth Toohey đã nói..."

Họ là những nhà triệu phú, chủ nhà băng, nhà tư bản công nghiệp và những thương gia - chính những người vẫn luôn không thể hiểu tại sao thế giới này đang rơi xuống địa ngục và luôn miệng than vãn về điều này trong các bữa tiệc trưa của mình.

Một buổi sáng, khi Wynand bước ra khỏi xe ở trước tòa nhà Ngọn cờ, một người phụ nữ chạy tới phía ông khi ông đang bước qua vỉa hè. Bà ta đã đợi ông ở cửa ra vào. Một người béo và đứng tuổi. Bà ta mặc một bộ đồ bằng vải thô bẩn thỉu và đội một cái mũ nhàu nát. Một cái mặt xanh xao và chảy xệ, một cái miệng méo mó và cặp mắt đen, tròn, rực sáng. Bà đứng trước Gail Wynand và ném một bó lá cải thối vào mặt ông. Không có củ cải, chỉ có những lá cây, mềm và nhẽo, buộc lại với nhau bằng một sợi dây. Chúng đập vào má ông và trượt xuống vỉa hè.

Wynand đứng im. Ông nhìn người phụ nữ đó. Ông nhìn thấy một khối thịt trắng, với cái miệng đang há to đắc thắng, gương mặt của một con quỷ tự coi mình là đạo đức, là lẽ phải. Những người qua đường đã túm lấy người phụ nữ và bà ta thì đang gào lên những lời tục tĩu nhất. Wynand giơ tay lên và lắc đầu, ra hiệu cho họ thả sinh vật đó đi, và ông đi vào tòa nhà Ngọn cờ, một vết bẩn màu vàng xanh bám chéo qua má ông.

"Ellsworth, chúng ta sẽ phải làm gì đây?" Alvah Scarret than vãn. "Chúng ta sẽ phải làm gì đây?"

Ellsworth Toohey ngồi ở trên mép bàn, và mỉm cười như thể là ông sắp hôn Alvah Scarret đến nơi.

"Tại sao họ lại không thôi cái vụ chết tiệt đó đi, Ellsworth? Tại sao không có sự kiện nào khác xảy ra để chèn vào trang đầu tờ báo? Chúng ta không thể đẻ nhanh một tin tức hay một thứ gì đó mang tính quốc tế được hay sao? Từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi chưa từng chứng kiến người ta trở nên điên rồ vì một chuyện nhỏ nhặt như lần này. Một vụ nổ! Chúa ơi, Ellsworth, nó chỉ đáng được đăng ở mặt sau của báo. Chúng ta có những vụ như thế hàng tháng, gần như vụ đình công nào mà chả có, hẳn ông còn nhớ? - đình công của giới thuộc da, đình công của những người giặt khô là hơi... Ôi, quỷ tha ma bắt! Tại sao tất cả lại trở nên thịnh nộ như thế này chứ? Ai thèm quan tâm? Tại sao họ lại phải quan tâm đến nó?"

"Có nhiều khi, Alvah, những vấn đề được quan tâm lại không hề là những sự kiện trên bề mặt. Và công luận giường như quá đà, nhưng thực sự thì không. Anh không nên rầu rĩ vì nó như thế. Tôi thật ngạc nhiên về anh đấy. Lẽ ra anh phải cảm ơn những ngôi sao của anh. Anh thấy đấy, đây chính là ý của tôi khi tôi nói về cái gọi là chờ đúng thời điểm. Thời điểm đúng luôn luôn đến. Mặc dù quỷ tha ma bắt tôi đi nếu như tôi đã hy vọng thời cơ đến với mình theo cách này. Vui lên đi, Alvah. Đây chính là lúc chúng ta phải tiếp quản nó."

"Tiếp quản cái gì?"

"Những tờ báo của Wynand."

"Ông điên rồi, Ellsworth. Như tất cả bọn họ. Ông điên rồi. Ý ông là gì cơ? Gail giữ 51 phần trăm của..."

"Alvah, tôi yêu anh. Anh thật tuyệt vời, Alvah ạ. Tôi yêu anh, nhưng tôi ước gì anh không phải là một thằng ngốc chết tiệt như thế này, thì tôi mới có thể nói chuyện với anh được. Giá mà tôi có thể nói chuyện với một ai đó!"

Ellsworth Toohey cố thử nói chuyện với Gus Webb vào một buổi tối, nhưng buổi nói chuyện đó thật đáng thất vọng. Gus Webb lè nhè:

"Vấn đề của ông, Ellsworth à, là ông quá lãng mạn. Quá là lý thuyết suông. Ông lảm nhảm những cái đó để làm gì vậy? Không có một giá trị thực tế nào cả. Chuyện này chả có gì ăn được, và chỉ kéo dài một hai tuần. Tôi ước gì anh ta cho nổ tòa nhà khi có đầy người trong đó - vài đứa trẻ con bị nổ tan xác - như thế thì còn có chuyện mà nói. Như thế thì tôi còn thích nó. Phong trào cũng có thể lợi dụng điều đó. Nhưng còn cái này? Họ sẽ tống đồ ngốc kia vào nhà tù và chỉ có thế. Ông ư - một kẻ thực tế? Ông là một ví dụ không thể cứu chữa được của giới trí thức, Ellsworth, ông là thế đấy. Ông cho rằng ông là con người của tương lai ư? Đừng tự lừa dối mình như thế, cưng ạ. Tôi mới là người của tương lai."

Toohey thở dài rồi đáp. "Anh nói đúng, Gus."

XIV.

"Ông thật tốt, ông Toohey," Bà Keating nói khúm núm. "Tôi rất mừng vì ông đã đến. Tôi không biết làm thế nào với Petey nữa. Nó không muốn gặp ai. Nó không đi làm. Tôi rất sợ, ông Toohey. Bỏ quá cho tôi, tôi không được phép than vãn thế này. Có thể ông giúp được, giúp kéo nó lên. Nó nghĩ về ông rất nhiều, ông Toohey."

"Vâng, chắc chắn rồi. Cậu ấy đâu?"

"Ở ngay đây. Trong phòng của nó. Đi lối này, thưa ông Toohey."

Cuộc thăm viếng này hoàn toàn bất ngờ. Toohey đã không đến đây nhiều năm. Bà Keating rất cảm động. Bà dẫn ông đi dọc theo hành lang, mở một cánh cửa mà không cần gõ cửa, vì sợ phải thông báo có khách, sợ đứa con của bà từ chối tiếp. Bà nói, giọng vui vẻ:

"Nhìn này, Petey, hãy xem mẹ đã đem vị khách nào đến cho con!"

Keating ngẩng đầu lên. Anh ngồi bên một cái bàn bừa bộn, dưới một cái đèn điện mờ mờ; anh đang giải đố một ô chữ được xé ra từ một tờ báo. Có một cốc nước cà chua còn nguyên đặt trên bàn, nó có một đường viền khô màu đỏ quanh mép; một cái hộp đựng đồ chơi xếp hình; một bộ bài; một quyển Kinh thánh.

"Chào ông, Ellsworth," anh nói, miệng mỉm cười. Anh rướn người về phía trước như muốn đứng lên, nhưng được nửa chừng thì dừng lại.

Bà Keating nhìn thấy nụ cười. Bà vội vàng đi ra ngoài, thở phào nhẹ nhõm, và đóng cửa lại.

Nụ cười chưa kịp nở ra hết đã tắt đi. Nó chỉ là một biểu hiện bản năng của ký ức. Sau đó anh nhớ ra rất nhiều thứ mà anh đã cố không hiểu.

"Chào ông, Ellsworth," anh lặp lại một cách tuyệt vọng.

Toohey đứng trước anh, quan sát căn phòng, cái bàn, với sự tò mò.

"Thật là cảm động, Peter," ông nói. "Thật cảm động. Tôi chắc là anh ta sẽ cảm động nếu anh ta nhìn thấy những thứ này."

"Ai cơ?"

"Bây giờ anh kiệm lời nhỉ, Peter? Không thích gặp mọi người hả?"

"Tôi đã muốn được gặp ông, Ellsworth. Tôi đã muốn được nói chuyện với ông."

Toohey cầm lấy cái lưng một chiếc ghế. Ông vung tay khoát một nửa vòng tròn trong không khí rồi đặt cái ghế xuống cạnh bàn và ngồi xuống.

"Được rồi, đó chính là lý do tôi đến đây," ông nói, "để nghe anh nói chuyện."

Keating không nói gì.

"Sao nào?"

"Ông không được nghĩ là tôi không muốn gặp ông, Ellsworth. Chỉ là... chuyện tôi bảo mẹ không được để cho ai vào... chỉ là vì những tay phóng viên. Họ không để cho tôi yên."

"Chúa ơi, quả là thời thế thay đổi rồi Peter. Tôi nhớ ngày xưa thì chẳng ai có thể ngăn anh gặp giới báo chí cơ đấy."

"Ellsworth, tôi không còn chút hài hước nào nữa đâu. Không còn chút nào cả."

"Thế là may đấy. Không thì anh sẽ có thể chết vì cười."

"Tôi quá mệt rồi, Ellsworth... Tôi mừng là ông đã đến."

Ánh sáng chiếu lên mắt kính của Toohey và Keating không thể nhìn thấy mắt của ông; chỉ có hai vòng tròn kim loại lấp lóa, như hai bóng đèn pha đã cháy của một chiếc xe phản chiếu một cái gì đó đang từ xa tiến lại gần.

"Anh nghĩ là anh có thể thoát được bằng cách này à?" Toohey hỏi.

"Cách gì cơ?"

"Bằng cách ẩn dật. Bằng sự hành xác vĩ đại. Bằng sự im lặng trung thành."

"Ellsworth, ông làm sao vậy?"

"Vậy là anh ta không có tội, phải không? Và anh muốn chứng tôi làm ơn xin hãy để cho anh ta yên, phải không?"

Bờ vai của Keating dịch chuyển - trông như một ý định ngồi thẳng dậy hơn là bản thân việc ngồi thẳng dậy; rốt cuộc nó chỉ dừng lại ở một ý định và miệng anh há ra vừa đủ để hỏi:

"Ông muốn gì?"

"Toàn bộ câu chuyện."

"Để làm gì?"

"Muốn tôi làm mọi việc trở nên dễ dàng hơn cho anh à? Muốn một lý do tốt à, Peter? Tôi có thể làm được điều đó, anh biết đấy. Tôi có thể cho anh cả ba mươi ba lý do, tất cả đều cao quý, và anh có thể bám vào bất cứ lý do nào. Nhưng bây giờ tôi không muốn làm mọi việc dễ dàng hơn cho anh. Do vậy tôi sẽ chỉ nói với anh sự thật: tôi cần toàn bộ câu chuyện để tống anh ta vào tù, cái tên người hùng của anh, thần tượng của anh, người bạn rộng lượng của anh, thiên thần hộ mệnh của anh!"

"Tôi không có gì để nói với ông, Ellsworth."

"Mặc dù anh đang bị sốc đến mức mất hết cả khả năng hài hước, nhưng anh cũng nên cố tỉnh táo mà nhận ra rằng anh không phải là đối thủ của tôi đâu. Anh sẽ phải nói nếu như tôi muốn anh nói và lúc này tôi không muốn lãng phí thời gian. Ai là người đã thiết kế Cortlandt?"

"Tôi thiết kế."

"Anh có biết tôi là một chuyên gia về kiến trúc không nhỉ?"

"Tôi đã thiết kế Cortlandt."

"Cũng như là anh đã thiết kế tòa nhà Cosmo-Slotnick ư?"

"Ông muốn gì ở tôi?"

"Tôi muốn anh đứng làm chứng ở tòa, Petey. Tôi muốn anh kể chuyện này trước tòa. Bạn anh không được rõ ràng như anh. Tôi không biết ý đồ của anh ta là gì nữa. Việc anh ta ở lại hiện trường quả là thông minh. Anh ta biết sẽ bị nghi ngờ và anh ta xử lý việc đó rất tinh tế. Chúa mới biết anh ta sẽ nói gì ở tòa. Tôi sẽ không để cho anh ta thoát tội nhờ điều đó. Tất cả bọn họ đều chết tắc khi điều tra về động cơ của anh ta. Tôi biết động cơ đó là gì. Nhưng sẽ không có ai tin nếu tôi là người giải thích điều đó. Nhưng anh sẽ nói ra điều đó sau khi đã tuyên thệ. Anh sẽ nói sự thật. Anh sẽ nói với họ ai là người thiết kế Cortlandt và tại sao."

"Tôi đã thiết kế nó."

"Nếu anh muốn nói như thế trước tòa thì anh nên kiểm soát cơ thể mình đi. Tại sao anh lại run lên như thế?"

"Hãy để tôi yên."

"Quá muộn rồi, Petey. Anh có đọc Faust không nhỉ?"

"Ông muốn gì?"

"Muốn túm gáy Howard Road."

"Anh ta không phải là bạn tôi. Chưa từng. Ông biết tôi coi anh ta là gì rồi đấy."

"Tôi biết, đồ ngốc! Tôi biết là cả đời anh luôn ngưỡng mộ anh ta. Anh đã quỳ lạy, đã tôn sùng anh ta, đồng thời anh lại đâm dao vào lưng anh ta. Anh thậm chí còn không có đủ dũng cảm để sống xấu xa hơn. Anh đã không thể chọn dứt khoát một trong hai con đường. Anh căm thù tôi - ồ, anh nghĩ là tôi không biết ư? - và anh vẫn chạy theo tôi. Anh tôn thờ và anh đã hủy diệt anh ta. Ồ, anh đã thực hiện việc đó hoàn hảo, Petey, và bây giờ không còn chỗ nào để chạy trốn cả, và anh sẽ phải trả giá cho nó!"

"Thế anh ta là gì đối với ông? Chuyện này có nghĩa gì với ông?"

"Lẽ ra anh phải hỏi như vậy từ lâu rồi. Nhưng anh đã không hỏi. Điều đó có nghĩa là anh đã biết. Anh luôn biết. Đó là lý do khiến cho anh run lên. Tại sao tôi phải giúp anh nói dối chính bản thân anh chứ? Tôi đã làm việc đó suốt mười năm rồi. Đó cũng là lý do mà anh tìm đến tôi. Đó cũng là lý do mà tất cả bọn họ tìm đến tôi. Nhưng anh không thể chỉ nhận mà không mất gì cả. Không bao giờ. Những lý thuyết xã hội của tôi không bao giờ tán thành điều đó. Anh dã có được những gì anh muốn từ tôi. Bây giờ đến lượt tôi đòi anh."

"Tôi sẽ không nói về Howard. Ông không thể ép tôi nói về Howard được."

"Không ư? Tại sao anh không ném tôi ra khỏi đây đi? Tại sao anh không túm lấy cổ họng tôi và bóp tôi chết ngạt đi? Anh khỏe hơn tôi rất nhiều. Nhưng anh sẽ không làm điều đó. Anh không thể. Anh có nhìn ra bản chất của quyền lực không, Petey? Quyền lực thể xác ư? Cơ bắp hay súng đạn hay tiền bạc ư? Anh và Gail Wynand lẽ ra nên chơi với nhau. Anh có rất nhiều thứ để dạy cho ông ta. Thôi nào, Peter. AI là người đã thiết kế Cortlandt?"

"Hãy để tôi yên."

"Ai đã thiết kế Cortlandt?"

"Hãy thả tôi ra!"

"Ai đã thiết kế Cortlandt?"

"Việc ông đang làm còn tồi tệ hơn, tệ hơn rất nhiều..."

"So với cái gì?"

"So với những gì tôi đã làm đối với Lucius Heyer."

"Anh đã làm gì Lucius Heyer?"

"Tôi đã giết ông ấy."

"Anh đang nói về cái gì vây?"

"Đó là lý do tại sao điều đó lại tốt hơn. Bởi vì tôi đã để cho ông ấy chết."

"Đừng có mê sảng nữa."

"Tại sao ông lại muốn giết Howard Road?"

"Tôi không muốn giết anh ta. Tôi muốn anh ta vào tù. Anh hiểu chưa? Vào tù. Ở trong ngục. Đằng sau song sắt. Bị khóa chặt, bị chặn lại, bị nhốt ở đó - và vẫn sống. Anh ta sẽ đứng lên khi người ta bảo anh ta đứng lên. Anh ta sẽ ăn khi người ta cho ăn. Anh ta sẽ cử động khi người ta cho phép cử động và sẽ dừng lại khi có lệnh. Anh ta sẽ đi bộ đến xưởng làm đay khi người ta sai, và sẽ làm khi được lệnh phải làm. Họ sẽ đẩy vào lưng anh ta nếu như anh ta không đi đủ nhanh, họ sẽ tát vào mặt anh ta khi họ muốn, họ sẽ đánh anh ta bằng roi da nếu anh ta không phục tùng. Và anh ta sẽ phục tùng. Anh ta sẽ phải tuân lệnh. Anh ta sẽ phải tuân lệnh!"

"Ellsworth!" Keating gào lên. "Ellsworth!"

"Anh làm cho tôi phát tởm. Anh không thể chấp nhận sự thật được à? Đúng rồi, anh muốn mọi thứ bọc đường. Đó là lý do tại sao tôi thích Gus Webb hơn. Ít ra cũng có một người không ảo tưởng gì cả."

Bà Keating mở tung cửa. Bà đã nghe thấy tiếng gào.

"Ra ngoài đi!" Toohey giật giọng với bà.

Bà lùi ra, và Toohey đóng sầm cửa lại.

Keating ngẩng đầu lên. "Ông không có quyền nói với mẹ tôi như thế. Bà ấy chẳng có liên quan gì ở đây cả."

"Ai đã thiết kế Cortlandt?"

Keating đứng dậy. Anh lết chân đến tủ quần áo, mở một ngăn kéo, lấy ra một mẩu giấy nhàu nát và đưa nó cho Toohey. Đó là bản hợp đồng giữa anh và Roark.

Toohey đọc nó và cười khẩy, một tiếng cười khô khốc. Sau đó ông nhìn vào Keating.

"Anh là một thành quả hoàn hảo của tôi, Peter. Nhưng đôi khi tôi cũng buộc phải ngoảnh mặt khỏi những thành quả của mình."

Keating đứng cạnh tủ quần áo, vai buông thõng, cặp mắt trống rỗng.

"Tôi đã không nghĩ là anh có hẳn bản viết tay như này, với chữ ký của anh ta. Vậy ra đây là những gì anh ta đã làm cho anh - và đây là những gì anh đền đáp lại anh ta... Không, tôi xin rút lại lời xúc phạm anh, Peter. Anh bắt buộc phải làm điều đó. Anh là ai mà có thể đảo ngược lại những quy luật của lịch sử? Anh có biết tờ giấy này là cái gì không? Là sự hoàn hảo không thể có, là giấc mơ của nhiều thế kỷ, là mục đích của tất cả những tư tưởng lớn của loài người. Anh đã gò cương được anh ta. Đã bắt anh ta làm việc cho anh. Anh đã giành lấy thành tựu, phần thưởng, tiền bạc, vinh quang và tên tuổi của anh ta. Chúng tôi chỉ nghĩ và viết về nó. Còn anh thì đưa ra ví dụ thực tế. Tất cả những nhà giả kim hay triết học từ thời Plato đến giờ đều phải cảm ơn anh. Nó đây, viên đá mà mọi nhà giả kim đều đi tìm - để biến vàng thành chì. Tôi nên hài lòng mới phải, nhưng tôi nghĩ tôi chỉ là một con người và tôi không thể chịu đựng nổi, tôi không hài lòng, tôi chỉ thấy ghê tởm. Những người kia, Plato và tất cả những nhà giả kim khác, họ thực sự nghĩ rằng viên đá kia có thể biến chì thành vàng. Tôi đã biết sự thật từ đầu. Tôi đã luôn trung thực với chính mình, Peter, và đó là thứ trung thực khó thực hiện nhất. Đó cũng là cái mà các người luôn chạy trốn bằng mọi giá. Và ngay lúc này tôi không trách anh, bởi vì đó là điều khó khăn nhất, Peter."

Ông mệt mỏi ngồi xuống và hai tay cầm các góc tờ giấy. Ông nói:

"Nếu anh muốn biết nó khó như thế nào thì tôi sẽ nói cho anh biết: ngay lúc này tôi muốn đốt cháy tờ giấy này. Anh muốn hiểu điều đó như thế nào cũng được. Tôi sẽ không tự tâng bốc mình bởi vì tôi biết ngày mai tôi sẽ gửi cái này đến chỗ luật sư hạt. Roark sẽ không bao giờ biết chuyện này - và ngay cả nếu anh ta biết thì cũng chẳng có gì khác nhau - nhưng nếu nói đúng sự thật thì có một khoảnh khắc tôi đã muốn đốt cháy tờ giấy này."

Ông gấp tờ giấy lại cẩn thận và thả vào túi áo. Keating chăm chú nhìn các cử động của ông; cả đầu anh cũng di chuyển theo, như một con mèo con đang quan sát một quả bóng buộc dây.

"Anh làm cho tôi ghê tởm," Toohey nói. "Chúa ơi, anh làm cho tôi ghê tởm biết bao, tất cả những kẻ đạo đức giả ủy mị như anh! Anh đi theo tôi, anh lải nhải lại những gì tôi dạy anh, anh kiếm lợi từ nó - nhưng anh thậm chí không đủ sự tử tế mà thừa nhận với bản thân anh về những việc mà anh đang làm. Mặt anh tái mét lại khi anh nhìn thấy sự thật. Tôi nghĩ đó là bản chất của anh và đó cũng là vũ khí chính của tôi - nhưng chúa ơi! Tôi đã quá mệt mỏi vì điều đó. Tôi phải tự cho mình được phép thoát khỏi anh trong khoảnh khắc. Tôi đóng kịch suốt đời tôi để cho những thứ thế này đây - cho những kẻ tầm thường ti tiện như anh. Để bảo vệ sự ủy mị của anh, sự làm đỏm giả dối của anh, lương tâm của anh và cả sự bình an trong tâm hồn mà anh hoàn toàn không có. Đó cũng là cái giá tôi phải trả cho những gì tôi muốn - nhưng ít nhất thì tôi biết là tôi phải trả giá cho nó. Và tôi không có ảo tưởng gì về cái giá cũng như về món hàng."

"Ông muốn... gì... Ellsworth?"

"Quyền lực, Petey."

Có những bước chân đi lại ở căn hộ phía trên, ai đó nhảy nhót vui vẻ, vài tiếng động ở trên trần nghe như ai đó đang dập dập chân theo nhịp bốn hoặc năm bước. Bóng đèn ở trên trần rung leng keng và Keating đờ đẫn ngẩng đầu lên. Rồi anh lại quay lại nhìn Toohey. Ông đang cười mỉm, gần như dửng dưng.

"Ông... luôn nói rằng..." Keating bắt đầu mở miệng thật khó nhọc, và ngừng lời.

"Tôi luôn luôn nói chính điều đó. Nói rõ ràng, chính xác và công khai. Tôi không có lỗi nếu anh không có khả năng nghe thấy. Tất nhiên là anh có thể. Nhưng anh đã không muốn. Với tôi, như thế còn an toàn hơn là bị điếc. Tôi đã nói là tôi muốn cai trị. Cũng như tất cả những nhà lãnh tụ tinh thần trước tôi. Nhưng tôi may mắn hơn họ. Tôi kế thừa thành quả từ những nỗ lực của họ, và tôi sẽ là người được chứng kiến giấc mơ vĩ đại kia trở thành hiện thực. Ngày nay, tôi nhìn thấy điều đó ở khắp mọi nơi ở xung quanh. Tôi nhận ra nó. Tôi không thích điều đó. Tôi cũng đã không trông chờ mình sẽ thích nó. Số phận của tôi không phải là để hưởng thụ. Tôi sẽ tìm được sự thỏa mãn trong khuôn khổ mà khả năng của tôi cho phép. Tôi sẽ cai trị."

"Cai trị ai cơ...?"

"Anh. Cả thế giới. Vấn đề chỉ là tìm ra một cái đòn bẩy. Nếu anh biết cách cai trị linh hồn của một người thì anh cũng có thể cai trị cả loài người. Chính là linh hồn, Peter, linh hồn. Không phải là roi da, dao kiếm, hay súng đạn. Đó là lý do tại sao những thể loại như Caesar, Attila, Napoleon chỉ là những thằng ngốc và không thể tồn tại lâu dài được. Nhưng chúng ta sẽ làm được điều đó. Linh hồn, Peter, là thứ không thể cai trị được. Phải phá hủy nó. Đóng một cái nêm, móc ngón tay vào - và người đó sẽ là của anh. Khi đó anh không cần đến roi - hắn ta sẽ tự mang roi cho anh và cầu xin anh quất hắn. Khiến hắn phản bội bản thân hắn - và cơ chế hoạt động của hắn sẽ làm việc của anh thay cho anh. Sử dụng hắn chống lại chính bản thân hắn. Muốn biết làm việc đó thế nào ư? Hãy xem tôi đã bao giờ nói dối anh chưa? Hãy xem có phải là tôi đã luôn nói với anh tất cả những điều này từ nhiều năm nay, nhưng anh không muốn nghe, và lỗi là do anh, không phải do tôi. Có rất nhiều cách thực hiện. Đây là một cách. Hãy làm cho một người cảm thấy nhỏ bé. Làm cho hắn thấy tội lỗi. Hủy diệt khát vọng và sự chính trực của hắn ta là một việc khó. Bởi vì những kẻ tệ nhất trong đám các anh cũng vẫn luôn dò dẫm đi tìm lý tưởng theo cách riêng méo mó của các anh. Nhưng hãy hủy diệt sự chính trực bằng cách làm mục nát bên trong một người. Sử dụng sự chính trực để chống lại chính nó. Hướng nó đến một cái đích có khả năng hủy diệt mọi sự chính trực. Rao giảng về sự xóa bỏ cái tôi. Bảo với một người rằng hắn phải sống vì người khác. Nói ới loài người rằng sống vì người khác là lý tưởng cao quý. Không có một ai trong số họ có thể đạt được điều đó. Anh không thấy anh đã đạt được gì à? Họ sẽ nhận ra rằng họ không có khả năng làm cái mà họ đã chấp nhận như đức hạnh cao quý nhất - và đìêu đó sẽ khiến họ có cảm giác tội lỗi, có cảm giác mình hoàn toàn vô giá trị. Vì họ không thể đạt tới lý tưởng cao nhất nên rút cục họ sẽ vứt bỏ tất cả mọi lý tưởng, mọi khát vọng, mọi ý thức về giá trị bản thân. Họ sẽ cảm thấy mình có bổn phận phải rao giảng những gì mà họ đã không thực hiện được. Nhưng người ta không thể tốt một nửa, hoặc hơi hơi trung thực. Bảo vệ sự chính trực của bản thân là một trận chiến khó khăn. Tại sao lại phải bảo vệ một thứ mà người ta biết rằng đã bị mục ruỗng rồi? Vì thế linh hồn của họ sẽ từ bỏ luôn cả sự tự trọng của chính mình. Thế là anh đã túm được họ rồi. Họ sẽ tuân lệnh của anh. Họ sẽ vui mừng vì được tuân lệnh - bởi vì họ không thể tin bản thân được nữa, họ cảm thấy không chắc chắn, không trong sạch. Đó là một cách. Đây là một cách nữa. Hủy diệt nhận thức của một người về những giá trị khác nhau. Hủy diệt khả năng nhận ra sự vĩ đại hoặc khả năng đạt được sự vĩ đại. Chúng ta không thể cai trị những người vĩ đại. Chúng ta không muốn có những con người vĩ đại. Đừng phủ nhận khái niệm về sự vĩ đại. Mà hãy phá hủy nó từ bên trong. Những gì vĩ đại thường hiếm khi gặp, chúng là những gì khó khăn, xuất chúng. Hãy dựng lên những tiêu chuẩn về sự thành đạt mà tất cả mọi người đều đạt được, kể cả những kẻ thấp kém nhất, những kẻ bất tài nhất - và như thế anh sẽ chặn đứng cái mong muốn phấn đấu của tất cả, cả kẻ vĩ đại lẫn kẻ tầm thường. Anh sẽ làm mọi người không còn động cơ để vươn lên, để thành công, để trở nên hoàn hảo. Hãy cười nhạo Roark và nâng Peter Keating lên thành một kiến trúc sư vĩ đại. Như vậy anh đã phá hủy cả nền kiến trúc. Nâng Lois Cook lên và anh đã phá hủy cả nền văn học. Tâng bốc Ike và anh đã phá hủy cả nghệ thuật sân khấu. Đem lại vinh quang cho Lancelot Clokey và anh đã phá hủy cả giới báo chí. Đừng cố san bằng mọi đền thờ - như thế anh sẽ làm loài người hoảng sợ. Hãy phong thánh cho kẻ tầm thường lên - và tất cả mọi đền thờ thiêng liêng đều bị san phẳng. Còn một cách khác. Hủy diệt bằng tiếng cười. Tiếng cười là một phương tiện đem lại niềm vui cho loài người. Hãy học cách sử dụng nó như một thứ vũ khí hủy diệt. Biến nó thành sự nhạo báng, châm chích. Rất đơn giản. Hãy bảo người ta cười nhạo tất cả mọi thứ. Bảo họ năng khiếu hài hước là một phẩm hạnh vô giá. Đừng để một kẻ coi bất cứ cái gì là thiêng liêng trong linh hồn hắn - và như thế đối với hắn, linh hồn sẽ trở nên không thiêng liêng nữa. Hủy diệt lòng tôn kính, và anh đã hủy diệt người anh hùng trong mỗi người. Người ta không thể tỏ ra tôn kính nếu cứ cười khúc khích. Hắn ta sẽ nghe theo và nghe theo bất cứ cái gì - bất cứ cái gì - không có gì là quá nghiêm túc cả. Đây là một cách nữa. Cách này quan trọng nhất. Đừng để cho loài người được hạnh phúc. Hạnh phúc có khả năng tự dưỡng và tự thỏa mãn. Những người hạnh phúc không có thời gian và không có giá trị sử dụng đối với anh. Nn người hạnh phúc là những người tự do. Do vậy phải hủy diệt niềm vui sống của họ. Tước bỏ đi khỏi họ tất cả những gì yêu quý và quan trọng nhất. Đừng để họ có những gì họ muốn. Làm cho họ cảm thấy rằng khát vọng cá nhân là tội ác. Đưa họ đến một trạng thường ái mà câu nói "Tôi muốn" không còn là tự nhiên đúng nữa, mà chỉ là một thứ đáng hổ thẹn. Trong tình huống này thì chủ nghĩa vị nhân sinh giúp ích rất nhiều. Những người không hạnh phúc sẽ tìm đến anh. Họ sẽ cần anh. Họ đến để được an ủi, được hỗ trợ, được chạy trốn. Tự nhiên không cho phép bất cứ một khoảng trống rỗng nào. Hãy làm rỗng linh hồn một người và anh có thể lấp bất cứ cái gì vào khoảng trống đó. Tôi không hiểu tại sao anh lại có vẻ sốc đến vậy, Peter. Cách này là cách cổ xưa nhất. Hãy nhìn lại lịch sử xem. Nhìn vào bất cứ hệ thống đạo đức nào, kể cả ở phương Đông. Chẳng phải tất cả bọn họ đều rao giảng rằng phải hy sinh niềm vui cá nhân sao? Đằng sau tất cả những thứ dài dòng đó, chẳng phải tất cả bọn họ đều có một nét chủ đạo: hy sinh, quên mình, và chối bỏ bản thân? Không phải là anh đã nắm được khúc nhạc hiệu của họ ư? - 'Từ bỏ, từ bỏ, từ bỏ, từ bỏ'? Hãy nhìn vào bầu không khí đạo đức ngày nay. Những gì người ta có thể tận hưởng một cách vui vẻ, từ thuốc lá cho đến tình dục, cho đến tham vọng, cho đến động cơ làm giàu, tất cả đều bị coi là trụy lạc, tội lỗi. Hãy thử chứng minh điều gì đó làm cho loài người hạnh phúc xem - và anh sẽ hủy diệt nó. Đó là những gì mà chúng ta đã đạt tới. Chúng ta đã gắn chặt hạnh phúc với tội lỗi. Và chúng ta đã túm được cổ họng của loài người. Hãy ném đứa con cả của anh lên giàn lửa tế thần - hãy nằm trên đinh sắt - hãy đi vào sa mạc để hành xác - đừng nhảy nhót - đừng đi xem phim vào Chủ nhật - đừng cố làm giàu - đừng hút thuốc - đừng uống rượu. Tất cả đều cùng một mục đích cả. Một mục đích vĩ đại. Những kẻ ngốc nghĩ rằng tất cả những điều cấm kỵ kiểu này đều chỉ là những thứ nhảm nhí. Một cái gì đó còn sót lại, lỗi thời. Nhưng luôn có một mục đích trong những thứ nhảm nhí đó. Đừng mất công tìm hiểu một thứ lý thuyết điên rồ nào - hãy tự hỏi xem nó đạt được cái gì. Mọi hệ thống đạo đức rao giảng về lòng hy sinh đều phát triển lên thành một hệ thống quyền lực trên thế giới và cai trị hàng triệu người. Tất nhiên là anh phải đánh bóng nó. Anh phải nói với mọi người rằng họ sẽ đạt được một thứ hạnh phúc siêu việt hơn bằng cách từ bỏ những thứ làm cho họ hạnh phúc theo lối thông thường. Nhưng đừng hứa hẹn quá rõ ràng, rành mạch. Hãy sử dụng những từ đao to búa lớn và mơ hồ. 'Giao hòa với vũ trụ' - 'Linh hồn bất tử' - Mục đích thần thánh' - 'Niết bàn' - 'Thiên đường' - 'Dân tộc thượng đẳng' - 'Người nghèo làm chủ'. Hãy làm thối nát từ bên trong ra, Peter ạ. Đó là cách cổ xưa nhất. Trò hề này đã diễn ra từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, và loài người vẫn bị lừa phỉnh. Như vậy, phép thử rất đơn giản: chỉ cần lắng nghe bất cứ một nhà khai sáng nào và nếu anh nghe thấy ông ta nói về đức hy sinh - chạy ngay đi. Hãy chạy nhanh hơn cả chạy bệnh dịch. Có lý của nó khi mà ở đâu có sự hy sinh, ở đó có người tiếp nhận chúng. Cũng như là ở đâu có dịch vụ, thì ở đó có người được phục vụ. Người nói với anh về lòng hy sinh cũng là người nói về đầy tớ và những ông chủ. Và người đó muốn trở thành ông chủ. Còn bất cứ khi nào anh nghe một ai đó nói rằng anh phải hạnh phúc, rằng đó là quyền tự nhiên của anh, rằng nghĩa vụ đầu tiên của anh là nghĩa vụ với chính bản thân anh - người đó sẽ không đòi giành lấy linh hồn của anh. Đó sẽ là người không thu lợi gì ở anh. Nhưng hãy để cho anh ta đến và anh sẽ gào thét đến mất trí, sẽ rú rít lên rằng anh ta là một con quái vật ích kỷ. Và vì thế mà trò bịp này vẫn an toàn trong nhiều thế kỷ qua. Nhưng anh có thể để ý đến một điều ở đây. Tôi đã nói 'Có lý của nó'. Anh có thấy không? Loài người có vũ khí chống lại anh. Đó là cái lý, là lý trí. Do vậy anh phải nhớ loại bỏ lý trí ra khỏi họ. Cắt bỏ cái trụ đỡ từ bên dưới nó. Nhưng hãy thận trọng. Đừng có chối bỏ thẳng thừng. Không bao giờ được thẳng thừng chối bỏ một cái gì cả, nếu không anh sẽ công toi. Đừng nói lý trí là xấu xa - mặc dù đã có người đi xa tới mức đó và và thành công đáng ngạc nhiên. Chỉ nói rằng lý trí thì có hạn. Rằng có một cái gì đó ở trên lý trí. Cái gì? Anh cũng không phải quá rành mạch. Vô số từ. 'Bản Năng' - 'Cảm giác' - 'Sự Mặc Khải' - 'Linh Giác' - 'Duy Vật Biện Chứng'. Nếu người ta chộp được anh ở một vài điểm mấu chốt và nói với anh rằng học thuyết của anh là vô nghĩa - thì anh đã sẵn sàng trả đũa. Anh nói với họ rằng có những thứ ở trên cả ý nghĩa. Rằng họ không nên cố nghĩ, mà phải cảm thấy. Phải tin. Loại bỏ lý trí và anh có thể chơi xỏ tất cả. Anh có thể làm cho mọi thứ diễn biến theo cái cách mà anh muốn, vào thời điểm mà anh muốn. Anh đã túm được họ. Anh có thể cai trị được một người biết tư duy không? Chúng ta không muốn bất cứ kẻ nào có khả năng tư duy cả."

Keating đã ngồi bệt xuống sàn nhà, cạnh cái tủ quần áo; anh đã cảm thấy mệt mỏi và anh đã ngồi xếp chân lại. Anh không muốn rời xa cái tủ quần áo; anh cảm thấy an toàn hơn, khi dựa vào nó; như thể nó vẫn còn bảo vệ tờ giấy mà anh đã nộp cho Toohey.

"Peter, anh đã nghe tất cả những điều này. Anh đã nhìn thấy tôi thực hành chúng trong suốt mười năm qua. Anh đã nhìn thấy người ta thực hành chúng khắp nơi trên thế giới. Tại sao anh lại kinh sợ? Anh không có quyền ngồi đó và trừng mắt nhìn tôi với cái vẻ sốc của một người có đức hạnh cao quý hơn tôi. Anh cũng đã dự phần vào đó. Anh đã giành lấy cái phần của mình và anh phải tiếp tục. Anh sợ phải nhìn xem nó sẽ dẫn tới đâu. Tôi thì không. Tôi sẽ nói cho anh biết nó sẽ đi tới đâu. Tới thế giới tương lai. Thế giới mà tôi muốn. Một thế giới của sự phục tùng và thống nhất. Một thế giới mà suy nghĩ của mỗi người không thuộc về anh ta, mà chỉ là một cố gắng để đoán suy nghĩ của người hàng xóm, đến lượt người hàng xóm cũng không hề suy nghĩ và cứ như vậy, Peter, vòng quanh trái đất. Bởi vì tất cả phải đồng ý với tất cả. Một thế giới mà không có ai có ham muốn riêng, mà chỉ tập trung tất cả nỗ lực để làm thỏa mãn ham muốn của người hàng xóm kế anh ta, và người hàng xóm kế anh ta không có ham muốn gì ngoài việc làm thỏa mãn ham muốn của người hàng xóm kế tiếp, cứ như thế - vòng quanh trái đất, Peter. Vì tất cả phải phục vụ tất cả. Một thế giới mà loài người không làm việc vì động cơ ngây thơ như tiền, mà vì một con quái vật không đầu - vì danh tiếng. Vì sự chấp nhận của người xung quanh - vì những nhận xét tốt đẹp của họ - vì những nhận xét của những người không được phép có nhận xét gì cả. Một con bạch tuộc, chỉ toàn những vòi mà không có não. Phán xét, Peter! Sẽ không có phán xét, chỉ có những trưng cầu dân ý. Một phép bình quân của các số không - vì không có bất cứ sự khác biệt nào được phép tồn tại. Một thế giới đã bị cắt bỏ động cơ, chỉ có một trái tim duy nhất, được bơm bằng tay. Tay của tôi - và những bàn tay của một số ít, rất ít những người như tôi. Nn người biết cái gì làm cho các anh hoạt động - các anh, những kẻ quân bình vĩ đại, tuyệt vời, các anh không biết cả nổi giận khi chúng tôi gọi các anh là những kẻ quân bình, là nhỏ bé, là tầm thường, các anh thích và chấp nhận những cái tên như thế. Các anh sẽ được lên ngôi và phong vương, các anh, những kẻ thấp cổ bé họng, kẻ thống trị tuyệt đối và khiến cho tất cả những người từng thống trị trong quá khứ phải run lên vì ghen tỵ; các anh là cái tuyệt đối, là cái vô biên, là Chúa, là Nhà Tiên tri và là Hoàng đế cộng lại. Vox populi. Tiếng nói của quần chúng. Cái bình quân, cái bình thường, cái chung chung. Anh có biết từ đối nghĩa của "cái tôi" là gì không? Là sự rập khuôn sáo rỗng, Peter ạ. Nguyên tắc rập khuôn. Nhưng thậm chí ngay cả những thứ rập khuôn sáo rỗng cũng phải được bắt nguồn từ một ai đó, vào lúc nào đó. Chúng ta sẽ tạo ra nguồn gốc của chúng. Vox dei. Tiếng nói của Thượng đế. Chúng ta sẽ có sự phục tùng vô hạn - từ những kẻ chưa học gì khác ngoài việc phục tùng. Chúng ta sẽ gọi nó là "phục vụ". Chúng ta sẽ trao huân chương cho sự phục vụ. Và các anh sẽ dẫm đạp lên nhau trong đám hỗn loạn đó để xem ai là người phục vụ tốt hơn và nhiều hơn. Các anh sẽ không tìm kiếm sự phân biệt nào khác. Không có hình thức nào khác cho những thành đạt cá nhân. Anh có nhìn thấy Howard Road trong bức tranh toàn cảnh này không? Không? Vậy thì đừng hỏi những câu ngu dốt nữa. Tất cả những gì không thể cai trị được sẽ phải biến mất. Và nếu thỉnh thoảng có một vài con quái vật như vậy được sinh ra thì chúng sẽ không thể tồn tại được quá độ tuổi mười hai. Khi bộ não của chúng bắt đầu biết nghĩ, nó sẽ cảm nhận được sức ép và sẽ nổ tung. Sức ép phải cuốn mình vào trong một cái máy hút. Anh có biết về số phận của những sinh vật sống sâu dưới đáy biển khi bị đem ra ánh sáng mặt trời không? Những kẻ như Roark sau này cũng vậy. Những người còn lại trong các anh sẽ mỉm cười và tuân lệnh. Anh có để ý thấy người điên thì luôn miệng cười không? Cái nhăn mặt đầu tiên của loài người xảy ra khi Chúa lần đầu chạm tay vào trán họ. Đó là cái chạm tay của tư duy. Nhưng chúng ta không có cả Chúa lẫn tư duy. Chỉ có bỏ phiếu bằng những nụ cười. Những cái đòn bẩy tự động - tất cả đều nói vâng... Bây giờ nếu anh thông minh hơn một chút - như vợ cũ của anh chẳng hạn - anh sẽ hỏi: Thế chúng ta thì sao, những người cai trị? Tôi thì sao, Ellsworth Monkton Toohey? Và tôi sẽ nói, đúng, anh nói đúng. Tôi sẽ chẳng đạt được cái gì hơn anh cả. Tôi sẽ không có mục đích nào khác ngoài mục đích làm cho các anh hài lòng. Tôi sẽ nói dối, sẽ khen ngợi, sẽ tâng bốc anh, sẽ thổi phồng thói tự mãn phù phiếm của các anh. Tôi sẽ phát biểu về quần chúng và về lợi ích chung. Peter, anh bạn tội nghiệp của tôi, tôi là người không vị kỷ nhất mà anh từng biết đến. Tôi có ít sự độc lập hơn anh, người mà tôi vừa bắt phải bán đi linh hồn. Anh sử dụng mọi người, ít nhất là để anh giành lấy từ họ những lợi ích cho riêng mình. Tôi thì chẳng muốn một cái gì cho bản thân tôi cả. Tôi sử dụng mọi người vì mục đích phục vụ chính họ. Đó là chức năng và sự thỏa mãn duy nhất của tôi. Tôi không có mục đích riêng nào cả. Tôi muốn quyền lực. Tôi muốn thế giới tương lai sẽ là của tôi. Hãy để cho tất cả sống vì tất cả. Hãy để tất cả mọi người hy sinh bản thân và chẳng một ai hưởng lợi. Hãy để tất cả mọi người cùng đau khổ và không ai hưởng thụ. Hãy ngừng phát triển. Hãy để tất cả mọi người trở nên trì độn. Có sự bình đẳng trong trì độn. Tất cả bị nô dịch bởi ý chí của tất cả. Nô dịch toàn cầu - mà không hề có sự tồn tại của ông chủ. Nô lệ phục vụ nô lệ. Một vòng tròn lớn - và bình đẳng hoàn toàn. Đó là thế giới của tương lai."

"Ellsworth... ông..."

"Mất trí? Anh sợ phải nói ra điều đó à? Anh ngồi đó, và anh chính là biểu tượng của cái thế giới đó - và nó chính là niềm hy vọng cuối cùng của anh. Mất trí ư? Nhìn quanh anh mà xem. Hãy cầm lấy bất cứ một tờ báo nào và đọc những dòng tít của chúng. Không phải là thế giới đó đang đến sao? Không phải là nó đang ở đây sao? Không phải là tôi đã nói với anh điều đó rồi sao? Không phải là châu Âu đã chấp nhận nó và bây giờ chúng ta đang chập chững đi theo hay sao? Tất cả những gì tôi nói đều nằm trong một từ - chủ nghĩa tập thể. Và không phải đó là vị chúa của thế kỷ chúng ta đó sao? Hành động cùng nhau. Suy nghĩ - cùng nhau. Cảm nhận - cùng nhau. Hợp nhất, đồng ý, tuân lệnh. Tuân lệnh, phục vụ, hy sinh. Chia nhỏ để chinh phục - đó là bước đầu tiên. Nhưng sau đó sẽ là hợp nhất để cai trị. Cuối cùng thì chúng ta cũng đã tìm ra được điều đó. Hẳn anh còn nhớ một vị hoàng đế La Mã đã nói rằng ông ta ước giá mà loài người chỉ có một cái cổ họng để cho ông ta có thể cắt nó đi? Hàng thế kỷ qua mọi người đều cười nhạo ông ta. Nhưng chúng ta sẽ là người cuối cùng được cười. Chúng ta đã đạt được những gì mà ông ta đã không thể đạt được. Chúng ta đã dạy loài người cách đoàn kết lại. Điều đó đã giúp tạo ra một cái cổ duy nhất để cho chúng ta buộc dây thòng lọng. Chúng ta đã tìm ra được từ kỳ diệu đó. Chủ nghĩa tập thể. Hãy nhìn vào châu Âu, đồ ngốc. Anh không thể bỏ qua những thứ bên ngoài để nhận ra bản chất của vấn đề à? Một quốc gia chuyên chính tới mức con người không có quyền gì hết, chỉ có chủ nghĩa tập thể là tất cả. Cá nhân được coi là xấu xa, còn dân tộc thì - như là chúa. Ở đó không cho phép có động cơ và phẩm chất nào khác ngoài động cơ và phẩm chất phục vụ dân tộc. Liệu có phải là tôi đang phát điên hay chính đây đã là thực tế lạnh lùng của hai đại lục? Đấy là chuyển động gọng kìm. Nếu anh ghê tởm một bên thì chúng ta sẽ đẩy anh về phía bên kia. Chúng ta sẽ đẩy anh xô qua xô lại. Chúng ta đã đóng chặt mọi cửa. Chúng ta cũng đã sửa lại đồng xu. Mặt đầu - chủ nghĩa tập thể. Mặt đuôi - vẫn là chủ nghĩa tập thể. Chúng ta sẽ tấn công mọi học thuyết hủy diệt vai trò của cá nhân bằng chính một học thuyết khác cũng hủy diệt vai trò của cá nhân. Dâng linh hồn của anh cho một hội đồng - hay là đưa nó cho một lãnh tụ. Gì cũng được, nhưng phải từ bỏ nó, từ bỏ nó. Thủ đoạn của tôi, Peter. Là lăng-xê thuốc độc như thức ăn và lăng-xê thuốc độc như thuốc giải độc. Tỉa tót các kiểu tùy ý, nhưng phải giữ lại mục đích chính. Đưa cho lũ ngốc đó một lựa chọn, cho chúng tiêu khiển - nhưng không được quên mục đích duy nhất mà anh phải đạt được. Hủy diệt cá thể. Hủy diệt linh hồn của con người. Những thứ còn lại sẽ tự động đến. Hãy quan sát tình cảnh của thế giới vào lúc này. Anh có còn nghĩ là tôi bị điên không, Peter?"

Keating ngồi trên sàn, hai chân xoạc rộng. Anh nhấc một tay lên và ngắm nghía các ngón tay, sau đó đưa chúng vào miệng và cắn móng tay. Nhưng hành động đó chỉ gây lạc hướng, con người này bị rút lại xuống còn một ý thức duy nhất, đó là lắng nghe, và Toohey biết rằng anh ta sẽ không trả lời câu hỏi đó.

Keating vẫn ngoan ngoãn chờ đợi; dường như chẳng có khác biệt gì cả; những âm thanh đã tắt rồi và bây giờ nhiệm vụ của anh là đợi cho đến khi chúng lại được bật lên.

Toohey đặt tay lên thành ghế, rồi nhấc bàn tay lên và đập xuống mặt gỗ, báo hiệu sự kết thúc. Ông đứng dậy.

"Cám ơn anh, Peter," ông nói trang trọng. "Thật khó rũ bỏ sự trung thực một cách hoàn toàn. Tôi đã diễn thuyết trước các đám đông cả đời. Nhưng đây là bài diễn thuyết mà tôi sẽ không bao giờ có dịp để nói."

Keating ngẩng đầu lên. Giọng của anh tiềm ẩn sự kinh sợ; nó không tỏ ra sợ hãi, nhưng nó chứa đựng những tiếng vọng sẽ đến trong một tiếng nữa:

"Đừng đi, Ellsworth."

Toohey đứng bên anh, và cười nhẹ.

"Đó chính là câu trả lời, Peter. Đó là bằng chứng cho những gì tôi nói. Anh biết tôi là ai, anh biết tôi đã làm cho anh những gì, anh không còn có ảo tưởng nào về đức hạnh nữa. Nhưng anh không thể rời bỏ tôi và anh sẽ không bao giờ có thể làm được việc đó. Anh đã tuân phục tôi nhân danh những lý tưởng. Anh sẽ tiếp tục tuân phục tôi mà không có lý tưởng nào cả. Bởi vì đó là tất cả những gì anh có thể làm được vào lúc này... Chúc ngủ ngon, Peter."

XV.

"Đây chính là một phép thử. Thái độ của chúng ta với vụ việc này này sẽ quyết định chúng ta là ai. Chúng ta phải tấn công vào thói ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân phản xã hội trong con người Howard Road bởi vì chúng chính là tai họa của thế giới hiện đại này và chúng đã phô bày những hậu quả khủng khiếp thông qua Howard Road. Như đã đề cập ở phần đầu của bài viết, công tố của hạt hiện đang giữ một bằng chứng - chúng tôi không thể tiết lộ nội dung của nó vào lúc này - và nó sẽ là bằng chứng kết luận chắc chắn rằng Roark có tội. Bây giờ, chúng ta, công chúng, có quyền đòi hỏi công lý."

Đoạn trên xuất hiện trong mục Một tiếng nói nhỏ vào một buổi sáng cuối tháng Năm. Gail Wynand đọc nó khi ông đang trong ô-tô về nhà từ sân bay. Ông đã bay đến Chicago để cố gắng thuyết phục lần cuối cùng một khách hàng vừa từ chối gia hạn một hợp đồng quảng cáo trị giá ba triệu đô. Hai ngày làm việc với mọi mánh lới nghề nghiệp đã thất bại; Wynand đã mất vị khách này. Khi bước ra khỏi máy bay ở Newark, ông nhặt lên vài tờ báo phát hành ở New York. Xe đang đợi để đưa ông về nhà ở ngoại ô. Sau đó thì ông đọc mục Một tiếng nói nhỏ.

Trong khoảnh khắc, ông tự hỏi mình đang cầm tờ báo nào vậy. Ông nhìn vào cái tên ở phía trên của trang báo. Nhưng đúng là tờ Ngọn cờ, và đúng là mục báo này, ở đúng vị trí của nó, cột đầu tiên, trang đầu tiên, phần thứ hai.

Ông nhổm người lên phía trước và bảo lái xe quay lại trụ sở làm việc. Ông ngồi trong xe với tờ báo trải rộng trong lòng, cho đến khi chiếc xe dừng lại trước tòa nhà Ngọn cờ.

Ông nhập ra điều đó ngay lập tức, khi ông bước vào trong tòa nhà. Trong cặp mắt của hai phóng viên vừa bước ra từ thang máy của sảnh chính; trong tư thế của người trực thang máy - anh ta phải cố gắng để không quay đầu nhìn ông; trong sự chững lại thình lình của tất cả mọi người đang ngồi trong phòng đợi khi thấy ông; trong sự đứt đoạn của tiếng máy chữ trên bàn một thư ký; trong bàn tay giơ lên lơ lửng trong không trung của một thư ký khác - ông thấy sự chờ đợi. Và rồi ông biết rằng tất cả mọi người trong tòa soạn đều đã biết cái điều không-thể-xảy-ra với tờ báo của ông.

Ông cảm thấy hơi sốc; bởi vì sự chờ đợi xung quanh ông chứa đựng những câu hỏi về chuyện sắp xảy ra giữa ông và Ellsworth Toohey.

Nhưng ông không có thời gian để ý đến phản ứng của bản thân. Ông không thể chú ý đến bất cứ việc nào khác ngoài cảm giác toàn thân căng lên; một sức ép đang áp xuống mặt ông, lên răng, lên má, lên sống mũi - và ông biết rằng ông phải đẩy nó ra, đè nó xuống và giữ nó ở đó.

Ông không chào hỏi một ai cả và đi thẳng vào phòng làm việc của mình. Alvah Scarret ngồi sụm người trong một chiếc ghế trước bàn làm việc của ông. Cổ Scarret có dính một miếng gạc trắng, hai má thì đỏ bừng. Wynand dừng lại ở giữa phòng. Những người ở bên ngoài đã thấy nhẹ nhõm vì mặt Wynand có vẻ rất bình tĩnh. Nhưng Alvah Scarret thì biết rõ.

"Gail, tôi đã không ở đây," cái tiếng thì thầm không thành lời của Scarret bị tắc nghẹn. "Tôi không ở đây hai ngày qua. Tôi bị viêm thanh quản, Gail. Hỏi bác sĩ của tôi thì biết. Tôi đã không ở đây. Tôi vừa ra khỏi giường bệnh, nhìn đây này, một trăm linh ba độ, tôi bị sốt, ý tôi là, bác sĩ không muốn nhưng tôi vẫn cố dậy, ý tôi là, Gail, tôi đã không ở đây, tôi đã không ở đây!"

Ông cũng không chắc là Wynand có nghe ông nói không. Nhưng Wynand đã để cho ông nói hết, rồi sau đó ra vể như đã nghe thấy; cứ như thể là âm thanh có đến tai Wynand nhưng hơi trễ. Sau một giây, Wynand hỏi:

"Ai ngồi ở bàn thư ký tòa soạn?"

"Là... là Alien và Falk."

"Đuổi việc Harding, Alien, Falk và Toohey. Đền bù cho Harding. Nhưng Toohey thì không. Đuổi tất cả bọn chúng ra khỏi tòa nhà này trong vòng 15 phút."

Harding là tổng thư ký tòa soạn; Falk là trợ lý biên tập; Alien, người cao gầy, là trưởng ban biên tập; tất cả bọn họ đều đã làm việc cho tờ Ngọn cờ hơn mười năm. Scarret cảm thấy ông vừa được nghe một bản tin thông báo về tội phản quốc của một vị tổng thống, về việc sao chổi vừa phá hủy thành phố New York và bang California vừa bị chìm xuống lòng Thái Bình dương."

"Gail!" ông gào lên. "Chúng ta không thể!"

"Cút ngay."

Scarret đi ra.

Wynand bấm một nút trên bàn làm việc và đáp lại giọng nói run run của bà thư ký.

"Không tiếp bất cứ ai."

"Vâng, thưa ngài Wynand."

Ông lại bấm một nút và nói chuyện với người phụ trách phát hành:

"Dừng việc phân phối tờ Ngọn cờ trên đường phố."

"Thưa ngài Wynand, bây giờ đã quá muộn! Hầu hết đã..."

"Dừng chúng lại."

"Vâng, thưa ngài Wynand."

Ông muốn gục đầu xuống bàn, ngồi yên và nghỉ; có điều trạng thái nghỉ mà ông cần lại không tồn tại; đấy là một trạng thái còn hơn cả ngủ, hơn cả chết; nó là việc nghỉ khỏi toàn bộ sự tồn tại từ trước tới nay. Ước muốn đó như một lời chế nhạo thầm kín với bản thân ông, bởi vì ông biết cái sức ép lên hai thái dương như thể đang tách đôi hộp sọ của ông đang nói với ông điều ngược lại; nó thôi thúc phải hành động; nó quá mạnh đến mức ông cảm thấy như bị tê liệt. Ông dò dẫm tìm vài tờ giấy trắng, quên mất là ông để chúng ở đâu. Ông phải viết một bài xã luận để giải thích và phản công lại. Ông phải nhanh lên mới được. Ông không thể nghỉ ngơi trước khi bài báo đó được viết ra.

Cái sức ép trên hộp sọ biến mất khi ông đặt bút viết chữ đầu tiên lên giấy. Ông nghĩ - trong khi tay vẫn dịch chuyển rất nhanh - từ ngữ có quyền lực thật lớn; trước hết là quyền lực đối với người viết ra chúng, và sau đó là quyền lực đối với những người đọc chúng; một thứ quyền lực có tác dụng hàn gắn các vết thương, một giải pháp, giống như việc phá vỡ một rào cản. Ông nghĩ, có lẽ cái bí mật cơ bản nhất mà các nhà khoa học không bao giờ tìm ra được - cái mạch nguồn đầu tiên của sự sống - chính là cái xảy ra khi một ý nghĩd cô định hình thành một từ.

Ông nghe thấy những tiếng rùng rùng, những xung động trên các bức tường trong văn phòng và trên sàn nhà. Những máy in đang in tờ báo buổi chiều của ông, một tờ báo nhỏ có tên Kèn hiệu. Ông mỉm cười với những âm thanh. Tay ông đưa nhanh hơn, như thể những âm thanh của máy in đã bơm năng lượng vào các ngón tay ông.

Ông đã bỏ qua cái đại từ "chúng tôi" quen thuộc trong các bài xã luận. Ông viết: "... Và nếu các bạn đọc của tôi hoặc kẻ thù của tôi muốn cười nhạo tôi về sự việc này, tôi xin chấp nhận sự cười nhạo đó và coi nó như khoản tiền trả cho một món nợ mà tôi mang. Tôi đáng bị như vậy."

Ông nghĩ: Trái tim của tòa nhà này đang đập - mấy giờ rồi nhỉ - ta đang nghe thấy trái tim tòa nhà hay là ta đang nghe tiếng đập của tim ta? - một lần, một ông bác sĩ đã đặt một đầu ống khám vào tai ta và để ta nghe tiếng đập của tim ta - nghe nó giống hệt thế này - ông ta bảo ta là một con thú khỏe mạnh và sẽ còn hoạt động tốt trong nhiều năm nữa - nhiều năm nữa...

"Tôi đã bắt độc giả của tôi phải nghe một kẻ đê tiện - và tôi chỉ có thể bào chữa là vì tôi coi tầm vóc tinh thần của ông ta quá tầm thường. Tôi đã không coi ông ta là một kẻ nguy hiểm bởi vì tôi nghĩ xã hội đủ trình độ đánh giá ông ta. Và tôi vẫn tôn trọng các bạn đọc của tôi đủ để có thể nói rằng Ellsworth Toohey không thể là một mối đe dọa."

Người ta nói rằng âm thanh không bao giờ biến mất, nó chỉ lan truyền trong không gian - vậy còn tiếng đập trái tim một người thì sao? - có quá nhiều tiếng đập trong suốt năm mươi sáu năm qua - có thể tập hợp chúng lại, cô đặc chúng lại để sử dụng một lần nữa không nhỉ? Nếu chúng lại đập lại, thì kết quả liệu có phải là nhịp đập của những máy in dưới kia nữa không?

"Nhưng tôi đã bảo trợ cho ông ta bằng các trang báo của tôi, và nếu sự sám hối công khai như thế này được coi là một hành vi kỳ cục và bẽ bàng trong thời đại hiện đại của chúng ta, thì hãy cho phép tôi được chịu hình phạt đó."

Không phải những giọt âm thanh của năm mươi sáu năm - mỗi âm thanh đơn lẻ và dứt khoát, không như một dấu phẩy, mà như dấu chấm câu, một chuỗi dài các dấu chấm câu trên một trang giấy - đã tụ hợp lại để tiếp sức cho những chiếc máy in này - không phải năm mươi sáu, mà là ba mươi mốt năm, còn hai mươi lăm kia được dùng để làm cho ta sẵn sàng - ta 25 tuổi khi ta đặt tấm biển mang tên mới của tờ báo lên cánh cửa tòa soạn - các chủ báo không bao giờ đổi tên tờ báo - nhưng chủ báo này thì có - tờ Ngọn cờ New York - tờ Ngọn cờ của Gail Wynand...

"Tôi mong có được sự tha thứ của tất cả những ai đã từng đọc tờ báo này."

Một con thú khỏe mạnh - và do vậy những gì nó đẻ ra cũng phải khỏe mạnh - Ta cần đưa ông bác sĩ đó đến đây và bắt ông ấy lắng nghe những chiếc máy in này - ông ta hẳn sẽ cười theo cái kiểu vui vẻ, hài lòng, và tự mãn của ông ta - các bác sĩ luôn muốn có một mẫu vật mang sức khỏe hoàn hảo - điều ấy thật hiếm - ta phải cho ông ta thưởng thức cái này - âm thanh khỏe mạnh nhất mà ông ta đã từng được nghe - và ông ta sẽ nói rằng tờ Ngọn cờ sẽ còn hoạt động tốt trong nhiều năm nữa...

Cửa phòng ông mở ra và Ellsworth Toohey bước vào.

Wynand để cho Toohey đi ngang qua phòng và đến gần bàn làm việc mà không tỏ vẻ phản đối gì cả. Wynand nghĩ có lẽ những gì ông đang cảm thấy là sự tò mò có thể được phóng lên bằng kích thước của một con quái vật sống trong lòng đất - giống như bức tranh vẽ những con bọ dừa có kích cỡ bằng một ngôi nhà đang tiến về phía những hình người trong những trang báo của tờ phụ trương Chủ nhật của Ngọn cờ - tò mò, bởi vì Ellsworth Toohey vẫn còn ở trong tòa nhà, bởi vì Toohey đã được vào phòng bất chấp mệnh lệnh của ông, và bởi vì Toohey đang cười.

"Tôi đến đây để xin nghỉ phép, thưa ông Wynand," Toohey nói. Mặt Toohey điềm tĩnh; không hả hê; gương mặt của một nghệ sĩ biết rằng cường điệu quá mức là thất bại và rằng người ta có thể đạt tới sự lăng mạ tối đa bằng cách giữ mọi thứ ở trạng thái bình thường. "Và để nói với ông rằng tôi sẽ quay lại. Vẫn làm cv này, ở mục này, trong tòa nhà này. Trong lúc tôi vắng mặt, ông sẽ nhìn ra bản chất của sai lầm mà ông đã mắc phải. Tha lỗi cho tôi, tôi biết như này là rất tệ, nhưng tôi đã chờ đợi nó suốt mười ba năm qua và tôi nghĩ là tôi có thể tự cho phép mình 5 phút tận hưởng phần thưởng. Ông là một người luôn muốn sở hữu mọi thứ, ông Wynand, và ông thích cảm giác sở hữu, phải không? Vậy ông đã bao giờ dừng lại và nghĩ xem sự sở hữu dựa trên cái gì? Đã bao giờ ông dừng lại để bảo vệ nền móng của nó? Chưa bao giờ, bởi vì ông là người thực dụng. Những người thực dụng chỉ quan tâm đến tài khoản ngân hàng, đến bất động sản, đến hợp đồng quảng cáo và các loại chứng khoán mạ vàng. Họ để cho những trí thức không thực dụng như tôi tiêu khiển bằng việc phân tích thành phần hóa học của lớp mạ vàng đó và hiểu ra vài điều quý giá về bản chất và nguồn gốc của vàng. Họ chăm chăm giữ lấy những miếng bánh Kream-O, và để chúng tôi làm những việc vặt vãnh liên quan đến nhà hát, phim ảnh, loa đài, trường học, phê bình sách và phê bình kiến trúc. Chỉ như một mẩu bánh để giữ cho chúng tôi im lặng nếu như chúng tôi muốn tiêu phí thời gian vào việc tìm hiểu về những cái vụn vặt tầm thường của cuộc sống, trong khi các ông thì bận rộn kiếm tiền. Vậy có tiền là có quyền. Nhưng có thật thế không, ông Wynand? Và ông luôn chạy theo quyền lực,d dúng không ông Wynand? Quyền lực đối với con người? Ông thật là một tay chơi quyền lực nghiệp dư đáng thương! Ông chưa bao giờ hiểu được bản chất tham vọng của mình, nếu không ông đã phải biết rằng ông không phù hợp với việc ấy. Ông không có khả năng sử dụng những công cụ bắt buộc cho việc ấy và ông cũng sẽ không muốn kết quả của nó. Ông chưa bao giờ xứng đáng là một tên vô lại. Tôi không ngần ngại phải nói với ông điều đó, bởi vì tôi không biết cái nào tồi hơn: làm một tên vô lại vĩ đại hay là một thằng ngốc vĩ đại. Đó chính là lý do tại sao tôi sẽ quay lại. Và khi tôi quay lại, tôi sẽ làm chủ tờ báo này."

Wynand nói khẽ:

"Khi ông quay lại. Còn bây giờ thì ra khỏi đây ngay."

*

* *

Phòng phụ trách mục tài chính của tờ Ngọn cờ đình công.

Công đoàn các nhân viên Wynand cũng đình công. Rất nhiều người khác, không nằm trong công đoàn, cũng tham gia đình công với họ. Chỉ có bộ phận in ấn là vẫn làm việc.

Wynand chưa bao giờ tính đến công đoàn. Ông Ông trả lương nhân viên cao hơn bất cứ tóa báo nào và họ chưa từng có đòi hỏi nào với ông về vấn đề lương bổng. Nếu nhân viên của ông muốn tự tiêu khiển bằng việc lắng nghe những bài diễn thuyết, ông không thấy lý do gì để lo lắng về điều đó. Một lần Dominique đã cố cảnh báo ông: "Gail, nếu mọi người muốn có một tổ chức để bảo vệ lương bổng, giờ làm việc và những yêu cầu thực tế khác thì đó là quyền lợi hợp lý của họ. Nhưng nếu họ nhóm họp không vì một mục đích cụ thể nào thì anh nên để mắt đến họ."

"Em yêu quý, anh còn phải yêu cầu em bao nhiêu lần nữa? Đừng để ý đến tờ Ngọn cờ."

Ông chưa bao giờ bỏ công ra tìm hiểu xem ai thuộc về công đoàn. Bây giờ ông mới phát hiện ra rằng số người tham gia công đoàn rất ít, nhưng lại rất quan trọng; nó bao gồm tất cả những nhân viên chủ chốt của ông, không phải là những người điều hành lớn, những những người đứng dưới đó một bậc. Họ được chọn lọc rất kỹ - toàn những người năng động; những cái bu-di nhỏ nhưng không thể thiếu được, những phóng viên lá cải ăn khách nhất, những nhà bình luận giỏi nhất, những người hiệu đính tốt nhất, những trợ lý biên tập tốt nhất. Ông kiểm tra hồ sơ của họ: hầu hết bọn họ đều được tuyển dụng trong vòng tám năm qua; theo lời giới thiệu của Toohey.

Những người không nằm trong công đoàn thì đình công vì nhiều lý do khác nhau: có người vì thù ghét Wynand; có người vì sợ phải ở lại và vì đình công có vẻ dễ hơn là ở lại phân tích tình hình. Có một người - một anh chàng nhỏ thó rụt rè, đã kêu ré lên khi nhìn thấy Wynand ở trong sảnh chính: "Này cưng, bọn ta sẽ quay trở lại và khi đó ngươi sẽ phải đổi giọng!" Một số người bỏ đi, tránh mặt Wynand. Những người khác thì lựa chọn giải pháp an toàn. "Ông Wynand, tôi ghét phải làm điều này, tôi rất ghét, tôi không dính dáng gì đến cái công đoàn đó, nhưng đình công là đình công và tôi không thể cho phép mình vẫn đi làm trong khi mọi người đình công." Thật ra mà nói, thưa ông Wynand, tôi không biết ai đúng ai sai, nhưng tôi nghĩ là Ellsworth đã chơi trò bẩn và Harding không có quyền để ông ta làm việc đó, nhưng thời đại này thì làm gì có ai luôn luôn đúng? Và có một điều tôi sẽ không làm là tôi không biểu tình. Tôi sẽ không làm việc đó, thưa ông. Tôi cảm thấy là, biểu tình có thể đúng hoặc sai."

Những người đình công đưa ra hai yêu cầu: phục chức cho bốn người vừa bị đuổi việc; và đảo ngược quan điểm của tờ Ngọn cờ trong vụ Cortlandt.

Harding, tổng thư ký tòa soạn, đã viết một bài giải thích về quan điểm của ông ta; bài đó được đăng ở tờ Những mặt trận mới. "Tôi đã phớt lờ mệnh lệnh của ông Wynand một cách có chủ ý; có lẽ đây là một hành vi chưa có tiền lệ với bất cứ tổng thư ký tòa soạn nào. Tôi đã làm việc đó với nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của mình. Ông Toohey, Alien, Falk và tôi đã muốn cứu vớt tờ Ngọn cờ vì lợi ích của các nhân viên ở đó, vì các cổ đông và vì cả bạn đọc. Chúng tôi đã muốn dùng những biện pháp hòa bình để bày tỏ lý lẽ với ông Wynand. Chúng tôi đã hy vọng ông ấy sẽ đầu hàng một cách lịch thiệp, bởi vì ông ấy đã biết là tờ Ngọn cờ luôn đứng về quan điểm của số đông báo chí trong nước. Chúng tôi đã biết về tính cách tùy tiện, thất thường, và vô nguyên tắc của ông chủ của chúng tôi, nhưng chúng tôi đã mạo hiểm, chúng tôi sẵn sàng hy sinh bản thân vì bổn phận nghề nghiệp. Một mặt chúng tôi thừa nhận rằng một người chủ báo có quyền áp đặt đường lối của mình lên các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của tờ báo; mặt khác, chúng tôi cũng tin rằng người chủ đó đã đi quá giới hạn khi ép buộc những người có lòng tự trọng phải ủng hộ một kẻ phạm pháp. Chúng tôi hy vọng ông Wynand nhận ra rằng cái ngày mà một người có quyền độc lập cai trị tất cả đã qua rồi. Chúng tôi phải có tiếng nói nhất định trong việc điều hành công việc ở một nơi mà chúng tôi làm việc để kiếm sống. Đây là cuộc đấu tranh vì tự do báo chí."

Ông Harding đã sáu mươi tuổi, làm chủ một khu đất ở Long Island, có sở thích bắn mục tiêu di động và nuôi gà lôi đỏ. Người vợ vô sinh của ông là thành viên ban giám đốc Hội thảo nghiên cứu xã hội; Toohey, một giảng viên nổi tiếng ở đó, đã giới thiệu bà ta vào làm việc. Chính bà đã viết bài báo cho chồng mình.

Hai người bị đuổi khỏi ban biên tập không phải là thành viên công đoàn của Toohey. Con gái của Alien là một nữ diễn viên trẻ trung xinh đẹp, cô tham gia đóng vai trong tất cả các vở kịch của Ike. Còn em trai của Falk là thư ký của Lancelot Clokey.

Gail Wynand ngồi bên bàn làm việc và nhìn xuống đống giấy tờ. Ông có rất nhiều việc phải làm, nhưng có một hình ảnh luôn quay về và ông không thể thoát được nó - ý thức về nó đeo bám mọi hành động của ông - hình ảnh một cậu bé rách rưới đứng trước bàn làm việc của một biên tập viên: "Cậu có thể đánh vần từ 'cat' (mèo) được không?" - "Anh có thể đánh vần từ 'anthropomorphology' (hình thái nhân chủng học) được không?" Những hình ảnh vỡ ra và lẫn vào nhau, dường như là cậu bé đó đang đứng ở đây, tại bàn làm việc của ông, chờ đợi và một lần ông đã quát to: "Cút đi!" Ông thấy mình đang giận dữ, ông nghĩ: Nhà ngươi đang huyên thuyên vớ vẩn, đồ ngốc, bây giờ không phải là lúc diễn ra thầm lặng trong khi ông đọc, kiểm tra và ký giấy tờ: "Cút đi! Không có việc gì ở đây cả!" "Tôi sẽ ở quanh đây. Hãy gọi tôi khi ông muốn. Ông không phải trả lương cho tôi đâu." "Người ta đang trả lương cho mày, hiểu không, đồ ngốc? Người ta đang trả luơng cho mày." Ông nói vào điện thoại, thành tiếng, giọng ông bình thường: "Bảo Manning rằng chúng ta sẽ phải lấp chỗ trống bằng những thứ vớ vẩn... Gửi bản in thử lên đây càng sớm càng tốt. Mang một cái bánh mì kẹp thịt nữa. Loại nào cũng được."

Một số người ở lại với ông: mấy người già và mấy cậu học việc. Họ đến, vào buổi sáng, thường là với những vết cắt ở trên mặt và máu ở cổ áo; một người dò dẫm đi vào, đầu anh ta bị vỡ và phải đưa đi cấp cứu ở bệnh viện. Đấy không phải là lòng dũng cảm hay là sự trung thành; chỉ là sự ỷ lại; họ đã sống quá lâu với ý nghĩ rằng thế giới sẽ sụp đổ nếu như họ mất việc ở tờ Ngọn cờ. Người già thì không hiểu. Người trẻ thì không quan tâm.

Những cậu bé học việc được cử đi làm công việc săn tin thế chỗ cho các phóng viên. Hầu hết những thứ họ đem về có chất lượng tới mức Wynand rú lên cười thay vì cảm thấy tuyệt vọng: ông chưa bao giờ được đọc một thứ tiếng Anh sách vở đến vậy; giờ thì ông hiểu vì sao những cậu bé học việc lại tự hào đến thế khi được trở thành phóng viên chính thức. Ông không cười khi những câu chuyện đó được đăng nguyên văn trên tờ Ngọn cờ bởi vì không có đủ người hiệu đính.

Ông cố thử tuyển thêm người mới. Ông đã đề nghị mức lương rất cao. Nhưng những người ông cần thì từ chối làm việc cho ông. Có một vài người đồng ý làm việc cho ông, và sau đó ông đã phải ước giá mà họ không nhận; rút cục ông vẫn tuyển họ. Họ là những người không xin được việc ở bất cứ tòa báo tên tuổi nào trong suốt cả mười năm qua; là những loại người mà lẽ ra, một tháng trước đây, đã không được phép bước vào sảnh của tòa nhà này. Một vài người bị đuổi việc chỉ sau hai ngày; những người khác ở lại. Hầu hết thời gian bọn họ say khướt. Có người còn hành động như thể họ đang ban ơn cho Wynand. "Gail, đừng có nóng tính quá, bố già," một người đã nói như thế - và đã bị hất văng xuống hai tầng cầu thang. Anh ta bị vỡ một mắt cá chân và dập mông xuống sàn; anh ta ngước lên nhìn WY với vẻ kinh hoàng. Những người khác kín đáo hơn; họ chỉ đi vơ vẩn và nhìn lén Wynand rồi nháy mắt ra ý rằng tất cả đang là đồng phạm trong một vụ làm ăn bẩn thỉu.

Ông đã đến các trường đào tạo báo chí. Nhưng không có ai đáp lại ông. Một hội sinh viên gửi cho ông một bản cam kết được ký bởi tất cả các hội viên: "... Bước vào nghiệp báo chí, chúng tôi rất coi trọng đạo đức nghề nghiệp và nguyện cống hiến bản thân cho sự vinh quang của báo chí. Do vậy, chúng tôi nghĩ rằng không ai trong chúng tôi có thể bỏ đi lòng tự trọng và chấp nhận lời đề nghị tuyển dụng của ông."

Biên tập viên mục tin thời sự vẫn làm việc; biên tập viên mục tài chính thì đã bỏ đi. Wynand kiêm nhiệm luôn mấy việc: phụ trách mục tài chính, làm chủ bút, làm người đánh điện tín, người hiệu đính, và soát lỗi chính tả. Ông không rời khỏi tòa nhà. Ông ngủ trên đi văng ở phòng làm việc của mình - hệt như những năm đầu khi tờ Ngọn cờ mới hoạt động. Ông không đeo cà-vạt, cổ áo luôn phanh ra. Ông chạy lên chạy xuống cầu thang, những bước chân của ông nghe như tiếng súng máy. Có hai người trực thang máy vẫn làm việc; những người khác thì đã biến mất, không ai biết khi nào, tại sao, vì họ đồng cảm với vụ đình công, vì sợ hay chỉ đơn giản là chán nản.

Alvah Scarret không thể hiểu nổi sự bình tĩnh của Wynand. Một cỗ máy tuyệt vời - và đó, Scarret nghĩ, luôn là từ mà ông dùng để miêu tả Wynand - cỗ máy chưa bao giờ làm việc tốt như bây giờ. Ngôn ngữ của Wynand ngắn gọn, các mệnh lệnh nhanh chóng, các quyết định lập tức. Giữa những máy móc, chì, dầu mỡ, mực, rác, những căn phòng làm việc bừa bộn, những bàn làm việc bỏ trống, những tiếng kính vỡ bất ngờ khi bị ai đó từ dưới đường ném đá vào, Wynand đi lại như một cái bóng to lớn gấp đôi, bao trùm lên mọi thứ quanh ông, vượt khỏi không gian và kích thước thông thường. Ông ấy không thuộc về nơi này, Scarret nghĩ, bởi vì ông ấy không có dáng vẻ hiện đại - vấn đề chính là ở chỗ này - kiểu gì đi chăng nữa - ông ấy trông như một vật thuộc về một nhà thờ Gothic. Cái đầu quý tộc được giữ thẳng và gương mặt xương xương đanh lại. Thuyền trưởng của một con tàu mà ai cũng biết là đang chìm, ngoại trừ chính thuyền trưởng.

Alvah Scarret vẫn ở lại. Ông vẫn chưa tin những sự kiện xảy ra là có thật; ông đi đi lại lại trong trạng thái mộng du; ông cảm thấy choáng váng vào mỗi buổi sáng khi ông lái xe đến tòa nhà và nhìn thấy những người biểu tình. Ông không bị tổn hại gì ngoài việc người ta ném vài quả cà chua vào kính chắn gió của xe ông. Ông cố giúp Wynand; ông cố làm công việc của mình và thêm cả việc của năm người khác, nhưng ông không thể hoàn thành công việc của một ngày bình thường. Ông cứ rã rời một cách lặng lẽ và các khớp xương trên người ông lỏng ra vì một câu hỏi. Ông làm mất thời gian của tất cả mọi người vì ông thường làm gián đoạn công việc của họ để hỏi: "Nhưng tại sao? Tại sao? Làm sao mà bỗng chốc ra nông nỗi này?"

Ông nhìn thấy một y tá mặc đồng phục trắng đang đi dọc hành lang - một trạm sơ cứu đã được dựng lên ở tầng một của tòa nhà. Ông nhìn thấy chị ta mang một thùng rác tới lò đốt rác - toàn là bông gạc dính máu. Ông ngoảnh mặt đi; ông thấy buồn nôn. Không phải vì cái cảnh đó, mà vì bản năng của ông mách bảo một sự kinh hoàng còn lớn hơn thế: tòa nhà văn minh này - với những sàn nhà được đánh vécni bóng loáng, mọi thứ vận hành quy củ, một nơi đương đầu với những vấn đề trí tuệ như chữ viết và các hợp đồng thương mại, một nơi chấp nhận quảng cáo quần áo trẻ con và bàn về chơi gôn - trong vòng vài ngày đã trở thành một nơi mà người ta có thể cầm những thứ rác rưởi máu me như thế đi dọc hành lang. Tại sao? - Alvah Scarret nghĩ.

"Tôi không hiểu," ông lè nhè bằng giọng đều đều với bất cứ ai ở xung quanh, "Tôi không thể hiểu được tại sao Ellsworth lại có quá nhiều quyền lực như vậy... Và Ellsworth lại là một người có văn hóa, một người có lý tưởng, chứ đâu phải là một kẻ cực đoan bẩn thỉu chuyên đứng kêu gào trên đường phố; ông ấy thật là thân thiện và dí dỏm, và thật là uyên bác! - một người lúc nào cũng hài hước thì không thể là một người bạo lực được - Ellsworth không cố tình, ông ấy đã không lường hết hậu quả việc này, ông ấy yêu quý mọi người, tôi có thể lấy đầu đảm bảo cho Ellsworth Toohey."

Một lần, trong phòng làm việc của Wynand, ông liều mạng nói:

"Gail, tại sao ông không thương lượng? Tại sao ít nhất ông không gặp bọn họ?"

"Im đi."

"Nhưng, Gail, có thể họ cũng có phần đúng. Họ cũng là dân báo chí. Ông biết họ nói gì rồi đấy, tự do báo chí..."

Rồi ông nhìn thấy cơn thịnhnộ mà ông đã chờ đợi nhiều ngày và tưởng rằng nó đã được dẹp bỏ - hai đồng tử màu xanh da trời biến mất trong lòng trắng, hai con mắt rực sáng, quắc lên trên một gương mặt hốc hác, những bàn tay run lên. Nhưng trong khoảnh khắc tiếp theo, ông nhìn thấy một thứ mà ông chưa từng chứng kiến: ông nhìn thấy Wynand phá tan cơn thịnh nộ mà không cần gào thét hay xả nó ra. Ông nhìn thấy mồ hôi lấm tấm trên hai thái dương trũng sâu của Wynand, và những nắm đấm đặt cạnh mép bàn.

"Alvah... nếu tôi không ngồi ở bậc thang tờ Gazette trong một tuần... thì lấy đâu ra báo chí để cho họ đòi quyền tự do?"

Cảnh sát được bố trí ở ngoài và ở trong hành lang của tòa nhà. Điều đó cũng giúp một phần, nhưng không nhiều. Một đêm nọ, người ta ném axit vào cửa ra vào chính của tòa nhà, vết sần sùi trên miếng kính lớn ở cửa sổ tầng một và để lại nhiều vết sần sùi trên tường. Cát ở trong trụ máy đã làm một máy in ngừng hoạt động. Một cửa hàng bán đồ ăn sẵn bị phá tan hoang vì đã đăng quảng cáo trên tờ Ngọn cờ. Rất nhiều khách hàng đã xin rút quảng cáo. Xe phân phối báo Wynand bị lật đổ. Một lái xe bị giết. Công đoàn đã ra lời phản đối hành vi bạo lực; rằng công đoàn không tham gia xúi giục; rằng hầu hết thành viên công đoàn không biết ai là thủ phạm. Tờ Những mặt trận mới có lên tiếng về những vụ việc đáng tiếc xảy ra, nhưng mô tả chúng như "những cơn bột phát từ sự giận dữ chính đáng của công chúng."

Homer Slottern, nhân danh một nhóm những người tự xưng là những doanh nhân cấp tiến, gửi cho Wynand một thông báo về việc hủy bỏ các hợp đồng quảng cáo. "Ông có thể kiện nếu như ông muốn. Nhưng chúng tôi nghĩ là chúng tôi có lý do hợp pháp để hủy hợp đồng. Chúng tôi đã ký hợp đồng để quảng cáo trên một tờ báo danh tiếng, chứ không phải trên một tờ giấy lộn mà hiện vừa là sự điếm nhục cho công chúng, vừa khiến những người biểu tình kéo đến trước cửa nhà chúng tôi. Tờ báo vừa hủy hoại chuyện làm ăn của chúng tôi và lại chẳng có ai đọc nó cả." Trong nhóm này có hầu hết những khách hàng quảng cáo giàu có nhất của tờ Ngọn cờ.

Gail Wynand đứng bên cửa sổ trong phòng làm việc và nhìn xuống thành phố của ông.

Austen Heller viết trên tờ Tin tức hàng ngày: "Tôi đã luôn ủng hộ các cuộc biểu tình vào những thời điểm mà việc ủng hộ như vậy là rất nguy hiểm. Tôi đã chống lại Gail Wynand cả đời mình. Tôi chưa từng nghĩ rằng sẽ có một ngày và một việc khiến cho tôi phải nói - như lúc này - rằng tôi ủng hộ Gail Wynand."

Wynand gửi một tin nhắn cho ông: "Quỷ tha ma bắt ông đi, tôi không yêu cầu ông phải bảo vệ tôi. G W."

Tờ Những mặt trận mới mô tả Austen Heller như "một kẻ phản động đã bán mình cho những kẻ lắm tiền". Các quý bà trong giới thượng lưu nói rằng Austen Heller là một người đã lỗi thời.

Gail Wynand vẫn đứng bên cạnh một cái bàn trong phòng tin tài chính-kinh tế và viết các bài xã luận như thường lệ. Các nhân viên còn lại của ông không thấy có sự thay đổi nào ở ông; ông không vội vàng cũng không đột ngột nổi nóng. Chẳng còn ai để nhận ra rằng một vài hành động của ông hoàn toàn mới: ông sẽ đi đến xưởng in và đứng nhìn chuỗi dài những tờ báo trắng nối đuôi chui ra khỏi những cỗ máy khổng lồ và lắng nghe âm thanh của chúng. Ông sẽ nhặt lên một thanh chì từ sàn nhà của phòng sắp chữ, và lơ đãng vần vò nó trong lòng bàn tay, như thể đó là một miếng ngọc thạch, rồi cẩn thận đặt nó lên một cái bàn, như thể ông không muốn lãng phí nó. Ông còn nhặt nhanh nhiều thứ người ta vứt đi nhưng ông không nhận ra việc mình làm; cử chỉ của ông có tính bản năng: ông thu gom những cái bút chì, ông để dành cả nửa tiếng đồng hồ để sửa một cái máy đánh chữ đã hỏng trong lúc tiếng chuông điện thoại reo liên tục. Đây không phải là chuyện tiết kiệm; ông ký hóa đơn mà không thèm nhìn vào những con số ghi trên đó; Scarret sợ hãi khi nghĩ về chi phí mà ông phải trả cho mỗi ngày trôi qua. Đây là chuyện về những thứ đã trở thành máu thịt của tòa nhà mà ông yêu đến từng cái núm cửa, về những thứ quen thuộc về tờ Ngọn cờ, và tờ Ngọn cờ thì thuộc về ông.

Cuối mỗi buổi chiều ông gọi điện cho Dominique ở ngoại ô. "Ổn cả. Mọi thứ vẫn trong tầm kiểm soát. Đừng có nghe những lời đàm tiếu... Không, quỷ tha ma bắt nó đi, em biết là anh không muốn nói về tờ báo mà. Kể cho anh xem vườn nhà mình bây giờ thế nào... Hôm nay em có đi bơi không?... Kể cho anh về hồ nước... Em đang mặc cái váy nào?... Hãy nghe kênh WLX tối nay, vào lúc 8h, họ sẽ phát bản nhạc mà em yêu thích - Công-xéc-tô số hai của Rachmaninoff... Tất nhiên là anh có đủ thời gian để cập nhật mọi thứ... Ồ, được rồi, anh hiểu là không thể bịt mắt được một cựu phóng viên như anh, anh đã đọc lướt trang tin về đài phát thanh... Dĩ nhiên là có nhiều người làm, có điều anh không thể hoàn toàn tin tưởng mấy cậu bé mới vào và anh cũng có chút thời gian rảnh... Trên hết, đừng vào thành phố. Hãy hứa với anh điều đó... Chúc em ngủ ngon, em yêu quý..."

Ông dập máy và ngồi xuống. Ông nhìn cái điện thoại, mỉm cười. Cái ý nghĩ về vùng ngoại ô giống như là ý nghĩ về một lục địa ở phía bên kia đại dương mà người ta không thể vượt qua; nó đem lại cho ông cảm giác bị nhốt lại trong một pháo đài đang bị bao vây và ông thích điều đó - không phải là thích thực trạng bao vây, mà là thích cảm giác bị bao vây. Gương mặt ông trông giống với một cụ tổ nào đó thời xưa, một người đã chiến đấu trên chiến lũy để bảo vệ một lâu đài.

Một buổi tối, ông đi ra ngoài để ăn tối ở một nhà hàng bên kia đường; đã nhiều ngày rồi ông chưa có bữa ăn nào hoàn chỉnh. Khi ông quay lại, những đường phố vẫn còn sáng - hoàng hôn phủ một màu nâu dễ chịu của mùa hè, như thể là những tia nắng mặt trời quá lưu luyến cảm giác ấm áp thoải mái của không khí nên không chịu rút đi, ngay cả khi mặt trời đã lặn; nó khiến cho bầu trời trông trong trẻo tươi mát còn mặt đường thì trở nên bẩn thỉu; có những khoảng màu nâu và màu vỏ cam ủng trong những góc các tòa nhà cũ. Ông nhìn thấy những người biểu tình đang đi đi lại lại trước cửa ra vào của tòa nhà Ngọn cờ. Bọn họ có tám người tất cả và họ cứ đi đi lại lại theo một hình bầu dục ở trên vỉa hè. Ông nhận ra một người - một phóng viên chuyên đưa tin pháp luật, còn những người khác thì ông chưa từng nhìn thấy. Họ đem theo những biểu ngữ: "Toohey, Harding, Alien, Falk..." "Tự do báo chí.." "Gail Wynand chà đạp lên nhân quyền..."

Mắt ông nhìn theo một phụ nữ. Hông của bà ta bắt đầu từ mắt cá chân, bàn chân bành ra khỏi những sợi dây giày buộc chặt. Bà ta có bờ vai vuông. Một chiếc áo khoác dài vải tuýt màu nâu rẻ tiền phủ lên một thân hình phì nộn cũng hình vuông. Bà ta có bàn tay nhỏ màu trắng, bàn tay của tuýp người không biết nấu ăn. Trên mặt bà ta có một chỗ mở ra thành cái miệng nhưng lại không có môi; khi bà ta di chuyển, cả thân người lắc lư sang hai bên; tuy thế bà ta lại di chuyển nhanh đến không ngờ. Bước chân của bà ta như thách cả thế giới dám làm hại bà, với cái vẻ nanh nọc như muốn nói rằng bà ta không thích gì hơn là được làm hại, bởi vì thế giới sẽ biết tay bà nếu định làm hại bà, hãy thử xem, hãy cứ thử làm việc đó đi. Wynand biết bà ta chưa từng là nhân viên của tờ Ngọn cờ; bà ta không thể làm được ở đó; bà ta có vẻ không có khả năng học đọc; bước chân của bà ta như muốn nói thêm rằng bà ta cũng chả cần phải biết đọc. Bà đem theo một biểu ngữ: "Chúng tôi yêu cầu..."

Ông nghĩ về những đêm ông ngủ trên đi văng trong tòa nhà Ngọn cờ cũ, trong những năm đầu tiên, bởi vì ông phải dành dụm tiền mua máy in mới và phải tìm cách làm cho tờ Ngọn cờ xuất hiện trên đường phố sớm nhất; và ông nhớ một đêm ông đã ho ra máu và đã từ chối đi khám bệnh, nhưng cuối cùng hóa ra không có gì cả, ông chỉ bị kiệt sức.

Ông đi nhanh vào trong tòa nhà. Những chiếc máy in vẫn đang hoạt động. Ông đứng lại và lắng nghe chúng một lúc.

Ban đêm, tòa nhà rất yên tĩnh. Dường như nó rộng hơn, như thể âm thanh chiêm slấy khoảng không gian và khiến tòa nhà trở nên trống rỗng; có vài dải sáng hắt qua những cánh cửa mở, chiếu dọc theo những hành lang tối mờ. Ở đâu đó có người đang gõ một cái máy chữ, nghe đều đặn như những giọt nước rỉ ra từ vòi. Wynand đi dọc theo hành lang. Ông nghĩ rằng người ta đã từng sẵn lòng làm việc cho ông khi ông ủng hộ những kẻ lừa đảo trong những cuộc bầu cử thành phố, khi ông đánh bóng các khu phố đèn đỏ, khi ông hủy hoại danh tiếng người khác bằng những lời vu khống bỉ ổi trên báo, khi ông khóc thương cùng với mẹ của những tên giết người. Những người giỏi giang và đáng kính đã từng háo hức muốn được làm việc cho ông. Bây giờ là lần đầu tiên ông trung thực trong cả sự nghiệp của mình. Ông đang cầm đầu một chiến dịch vĩ đại nhất của mình - và giúp ông lại là những kẻ chuyên phá hoại đình công, của những kẻ thay việc như thay áo, những tên nát rượu, và những kẻ sống nô dịch ỷ lại đến mức không dám bỏ việc. Ông nghĩ, cũng chẳng thể kết tội những người hiện từ chối làm việc cho ông.

*

* *

Ánh nắng chiếu vào cái lọ mực hình vuông bằng pha lê trên bàn làm việc của ông. Nó khiến cho Wynand nghĩ đến một cốc nước mát trên bãi cỏ, quần áo trắng và cảm giác những ngọn cỏ ở dưới khuỷu trần. Ông cố không nhìn vào điểm chói sáng đó và tiếp tục viết. Đó là một buổi sáng trong tuần đình công thứ hai. Ông đã rút vào làm việc ở phòng của mình một tiếng đồng hồ và đã ra lệnh không ai được quấy rầy ông; ông cần phải hoàn thành một bài viết; ông biết là ông cần có lý do bào chữa để có được một giờ không phải chứng kiến những gì đang diễn ra trong tòa nhà này.

Cửa phòng ông mở ra không báo trước, và Dominique bước vào. Cô đã không được phép bước vào tòa nhà Ngọn cờ kể từ khi họ cưới nhau.

Ông đứng dậy; cử động của ông có một vẻ cam chịu lặng lẽ, ông không cho phép bản thân ông đưa ra bất cứ câu hỏi nào nữa. Cô mặc một bộ đồ vải lanh màu đỏ tía, cô đứng đó như thể đằng sau có hồ nước và ánh nắng dâng từ mặt đất lên những nếp gấp trên quần áo cô. Cô nói:

"Gail, em đến để đòi lại chỗ làm cũ của em ở tờ Ngọn cờ."

Ông đứng nhìn cô lặng lẽ; rồi ông mỉm cười; nó giống nụ cười của một người vừa khỏi bệnh đang trong giai đoạn hồi phục lại sức khỏe bản thân.

Ông quay lại bàn làm việc, cầm những trang giấy ông vừa viết lên, đưa chúng cho cô, và nói:

"Cầm cái này về phòng biên tập. Lấy các tin điện tín và mang lại đấy cho anh. Sau đó thì đến trình diện Manning ở mục tài chính."

Cái-không-thể-xảy-ra, cái không thể diễn tả bằng lời, bằng ánh mắt hay bằng cử chỉ, sự hòa hợp tuyệt đối của hai cá thể hoàn toàn thấu hiểu nhau đã được thực hiện thông qua việc người này đưa cho người kia một tập giấy mỏng. Ngón tay của ông và cô không chạm vào nhau. Cô quay người và đi ra khỏi phòng.

Chỉ trong hai ngày, cô đã quen như thể là cô chưa từng rời khỏi tờ Ngọn cờ. Chỉ khác là bây giờ cô không viết bài về nhà cửa nữa; cô làm bất cứ việc gì cần người để lấp chỗ trống. "Không sao đâu, Alvah," cô nói với Scarret. "công việc khâu vá rất hợp với phụ nữ. Tôi đến đây để vá những chỗ trống khi cần thiết - và lạy Chúa, chúng rách mới nhanh làm sao! Cứ gọi tôi lúc nào là một trong những phóng viên mới của anh phát điên vì công việc."

Scarret không sao hiểu nổi giọng nói, thái độ và sự xuất hiện của cô ở đây. "Cô là cứu tinh, Dominique ạ," ông lẩm bẩm một cách buồn bã. "Nhìn thấy cô ở đây giống như là quay lại ngày xưa vậy - và ôi, giá mà chúng ta được quay lại ngày xưa! Chỉ có điều, tôi không thể nào hiểu được. Gail đã không cho phép có bất cứ bức ảnh nào của cô trong tòa soạn này, thế mà bây giờ, vào cái lúc tòa soạn gần như một cái trại giam đang bị tù nhân nổi loạn thì ông ấy lại để cô làm việc ở đây!"

"Đừng bình luận nữa, Alvah. Chúng ta không có thời gian."

Cô viết một lời bình xuất sắc cho một bộ phim mà cô chưa từng xem. Cô phóng viên viết một báo cáo về một đại hội mà cô không tham dự. Cô bịa ra một đống công thức nấu ăn cho mục Món ăn hàng ngày, khi người đảm nhận việc này không đi làm vào một buổi sáng. "Tôi không biết là cô biết nấu ăn đấy," Scarret nói. "Tôi cũng không biết điều đó." Dominique trả lời. Một tối khác cô đi ra ngoài để đưa tin về một vụ cháy ở cảng, khi người ta phát hiện ra rằng người duy nhất chịu trách nhiệm đưa tin đã gục ngã vì kiệt sức tren sàn nhà phòng vệ sinh nam. "Tốt đấy," Wynand nói với cô khi ông đọc bài báo, "nhưng nếu em làm như thế này thêm một lần nữa thì em sẽ bị đuổi việc. Nếu em muốn ở lại, em không được bước ra khỏi tòa nhà này."

Đó là nhận xét duy nhất của ông về việc cô có mặt ở đây. Ông chỉ nói với cô khi cần thiết - ngắn gọn và đơn giản, giống hệt như với các nhân viên khác. ông là người đưa ra mệnh lệnh. Có những ngày họ không có thời gian để gặp mặt nhau. Cô ngủ trong đi văng ở thư viện. Thỉnh thoảng, vào buổi tối, cô đến phòng làm việc của ông, tranh thủ khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi khi có thể; họ nói chuyện, không về cái gì cụ thể cả, chỉ về những sự kiện nho nhỏ xảy ra trong ngày, họ vui vẻ, như bất cứ cặp vợ chồng nào tán chuyện về những gì xảy ra hàng ngày trong cuộc sống đời thường của họ.

Họ không nói về Roark hay Cortlandt. Cô đã nhìn thấy ảnh của Roark treo trên tường trong phòng của ông và hỏi: "Anh treo nó lên từ khi nào?" "Khoảng một năm trước." Đó là lần duy nhất họ nhắc tới Roark. Họ cũng không nói về cơn thịnh nộ ngày một tăng của công chúng đối với tờ Ngọn cờ. Họ không phỏng đoán về tương lai. Họ cảm thấy nhẹ nhõm khi quên đi câu hỏi ở bên ngoài những bức tường của tòa nhà; nó được quên đi bởi vì nó không còn là câu hỏi đối với họ; nó đã được giải quyết và trả lời; còn lại chỉ là cảm giác bình yên; họ có việc để làm - việc giữ cho tờ báo hoạt động - và họ cùng làm việc đó.

Cô có thể đến bất ngờ, giữa đêm, với một ly cà phê nóng, và ông sẽ giật lấy nó đầy vẻ biết ơn, trong khi vẫn tiếp tục làm việc. Ông có thể phát hiện ra những cái bánh mì kẹp thịt nóng hổi đặt trên bàn đúng vào lúc ông cảm thấy rất đói. Ông không có thời gian để tự hỏi xem cô lấy chúng ở đâu. Để rồi sau đó ông phát hiện ra rằng cô đã lắp một bếp điện và để nhiều thức ăn trong kho. Cô chuẩn bị bữa sáng cho ông, khi ông phải làm việc suốt đêm, rồi cô đi vào phòng ông mang theo những đĩa thức ăn được đặt trên một tấm bìa cứng, trong sự vắng lặng của những khu phố ngoài kia, trong lúc những tia sáng mặt trời đầu tiên chạm vào nóc những mái nhà.

Một lần ông nhìn thấy cô đang cầm chổi quét dọn một căn phòng; bộ phận sửa chữa và bảo trì đã ngừng hoạt động, bà quét dọn lúc đến lúc đi, chẳng ai hay biết.

"Anh trả tiền em để làm việc này đấy à?" ông hỏi.

"Vâng, nhưng mà chúng ta không thể làm việc được trong một cái chuồng lợn. Em chưa hỏi xem anh trả em bao nhiêu, nhưng em muốn được nâng lương."

"Em bỏ cái chổi ra ngay, vì Chúa! Thật là lố bịch!"

"Cái gì lố bịch nào? Đấy, giờ thì sạch sẽ rồi. Cũng chẳng mất nhiều thế giới. Em làm việc giỏi đấy chứ?"

"Rất giỏi."

Cô tựa người vào cán chổi và phá lên cười. "Em tin rằng anh luôn nghĩ, như tất cả những người khác, rằng em chỉ là thứ đồ xa xỉ, một tiểu thư, phải không Gail?"

"Đây là cách em sống khi em muốn à?"

"Đây là cách mà em đã muốn sống suốt đời - nếu em có thể tìm được lý do."

Ông nhận ra rằng sức chịu đựng của cô còn lớn hơn cả ông. Cô không bao giờ có biểu hiện mệt mỏi. Ông đoán là cô có ngủ, có điều ông không thể tìm ra được cô đi ngủ vào lúc nào.

Vào bất cứ thời điểm nào, trong bất cứ góc nào của tòa nhà, mặc dù có thể không gặp ông cả vài tiếng đồng hồ, cô vẫn biết về ông, vẫn biết khi nào ông cần cô nhất. Có một lần, ông ngủ gật trên bàn làm việc. Ông tỉnh dậy và thấy cô đang nhìn ông. Cô đã tắt đèn đi; cô ngồi trên một cái ghế tựa ở cạnh cửa sổ, trong ánh trăng, mặt cô hướng về phía ông, bình thản, và quan sát ông. Khuôn mặt cô là thứ đầu tiên mà ông nhìn thấy. Ông khó nhọc nhấc đầu ra khỏi cánh tay. Trong khoảnh khắc đầu tiên, trước khi hoàn toàn trở về với thực tại và khả năng kiểm soát, ông chợt cảm thấy giận dữ, vô tích sự và bất lực. Ông không nhớ cái gì đã khiến cho họ phải ở đây, trong tình trạng này, ông chỉ nhớ rằng cả hai người đều đang mắc kẹt trong một cuộc hành quyết chậm rãi và to lớn, và ông nhớ rằng ông yêu cô.

Cô đã nhìn thấy điều đó trong gương mặt ông, trước khi ông ngồi thẳng người dậy. Cô bước lại phía ông, cô đứng cạnh ghế, cô ôm lấy đầu ông và để nó tựa vào người cô. Cô ôm lấy ông, và ông không phản đối; ông buông mình trong vòng tay của cô; cô hôn lên tóc ông và thì thầm: "Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi, Gail, rồi sẽ ổn."

*

* *

Vào một buổi tối cuối tuần thứ ba của cuộc đình công, Wynand bỏ ra ngoài tòa nhà; ông không quan tâm xem liệu tòa nhà có còn lại gì khi ông trở lại. Ông đến gặp Roark.

Ông đã không gọi điện cho Roark kể từ khi xảy ra cuộc đình công. Roark thì thường xuyên gọi điện cho ông; Wynand trả lời lặng lẽ, chỉ trả lời, không đưa ra tuyên bố nào cả và từ chối kéo dài cuộc nói chuyện. Ông đã nhắc Roark ngay từ đầu: "Đừng cố mà đến đây. Tôi đã có lệnh cấm rồi. Anh sẽ không vào được." Ông cần phải không nghĩ đến cái hình hài đại diện cho cốt lõi trận chiến của ông; ông phải quên đi sự tồn tại vật lý của Roark; bởi vì ý nghĩ về con người Roark sẽ làm ông liên tưởng đến phiên tòa.

Ông đi bộ một đoạn khá xa mới đến được tòa nhà Enright; đi bộ khiến cho khoảng cách trở nên xa hơn và an toàn hơn; đi taxi sẽ kéo Roark quá gần với tòa nhà Ngọn cờ. Ông giữ mắt ông cố định ở khoảng hai mét trước mặt, dọc theo vỉa hè; ông không muốn nhìn vào thành phố.

"Chào Gail," Roark nói rất điềm tĩnh khi ông bước vào nhà.

"Tôi không biết cách nào tỏ ra thiếu kỷ luật hơn" Wynand nói và ném mũ lên một cái bàn ở cạnh cửa, "cứ nói bừa phứa hay là thẳng thừng phớt lờ mọi thứ. Nhìn tôi thật thê thảm. Nói đi."

"Đúng là nhìn ông rất thảm. Ngồi xuống, nghỉ đi và đừng nói gì cả. Rồi tôi sẽ bắt ông tắm nước nóng - không, trông ông không bẩn thỉu đến mức đó, nhưng một chút thay đổi sẽ tốt hơn cho ông. Sau đó chúng ta sẽ nói chuyện."

Wynand lắc đầu và vẫn đứng ở ngay cửa.

"Howard, tờ Ngọn cờ không giúp được anh. Nó đang làm hại anh."

Ông đã mất tám tuần để có thể tự nói được câu này.

"Tất nhiên rồi," Roark nói, "Nhưng thế thì đã sao?"

Wynand vẫn không bước vào trong phòng.

"Gail, với tôi thì điều đó đâu có quan trọng. Tôi không cần công luận, dù công luận ủng hộ hay phản đối."

"Anh muốn tôi nhượng bộ?"

"Tôi muốn ông đứng vững đến cùng, kể cả nếu ông mất tất cả."

Anh biết là Wynand đã hiểu, đó chính là thứ mà Wynand đã cố không đối mặt, đó là điều mà Wynand muốn anh nói ra.

"Tôi không trông chờ ông cứu tôi. Tôi nghĩ là tôi có thể thắng. Vụ đình công không làm cho nó tốt hơn hay tệ đi. Đừng lo cho tôi. Và đừng nhượng bộ. Nếu ông theo đuổi đến cùng - ông sẽ không còn cần tôi về sau nữa."

Anh thấy Wynand nhìn anh với cái nhìn giận dữ, phản đối - và đồng tình. Anh nói thêm:

"Ông biết là tôi đang nói gì. Chúng ta sẽ là những người bạn tốt hơn bao giờ hết - và ông sẽ đến thăm tôi trong tù, nếu cần. Đừng có nhăn mặt như thế, và đừng bắt tôi phải nói quá nhiều. Bây giờ không phải lúc. Tôi mừng vì vụ đình công này. Tôi đã biết là một điều tương tự như thế này sẽ phải xảy ra, khi tôi gặp ông lần đầu tiên. Ông cũng đã biết về nó rất lâu rồi."

"Hai tháng trước đây, tôi đã hứa với anh... một lời hứa mà tôi muốn giữ..."

"Ông đang giữ lời hứa đó."

"Anh thực sự không muốn coi thường tôi à? Tôi muốn anh nói ra, tôi đến đây để nghe điều đó."

"Được thôi. Hãy nghe tôi nói. Ông là một gặp gỡ không bao giờ có thể lặp lại trong đời tôi. Tôi từng biết Henry Cameron - ông ấy đã chết vì sự nghiệp của tôi. Còn ông lại là chủ của những tờ báo lá cải. Nhưng tôi đã không thể nói điều này với ông ấy, trong khi tôi lại đang nói với ông. Tôi biết Steve Mallory - anh ấy không bao giờ nhượng bộ đối với những thứ thuộc về linh hồn của anh ấy. Còn ông thì chẳng làm gì khác ngoài việc đem bán linh hồn của ông bằng mọi cách mà người ta có thể bán. Nhưng tôi đã không thể nói điều này với Steve, trong khi tôi lại đang nói với ông về nó. Có phải đó là những gì ông luôn muốn được nghe tôi nói? Nhưng đừng nhượng bộ."

Anh quay đi, và nói thêm: "Tôi đã nói hết. Chúng ta sẽ không nói chuyện về vụ đình công chết tiệt của ông nữa. Hãy ngồi xuống, tôi sẽ đi lấy nước cho ông. Nghỉ ngơi đi, đừng để ông trông như thế này nữa."

Wynand quay về với tờ Ngọn cờ vào đêm khuya. Ông đi bằng taxi. Chẳng có gì khác nhau nữa. Ông cũng không để ý đến khoảng cách.

Dominique nói, "Anh đã gặp Roark."

"Phải. Sao em biết?"

"Đây là ma-két tờ báo Chủ nhật. Hơi tồi, nhưng chúng ta phải chấp nhận vậy. Em đã cho Manning về nhà nghỉ vài tiếng - ông ấy gần như đã kiệt sức. Jackson bỏ việc, nhưng chúng ta có thể làm mà không cần anh ta. Mục của Alvah thì đúng là một mớ hổ lốn, anh ấy thậm chí còn không viết đúng chính tả nữa - em đã phải viết lại, nhưng anh đừng cho anh ấy biết, hãy nói rằng anh đã làm việc đó."

"Em ngủ đi. Anh sẽ làm thay Manning. Anh vẫn còn sức để làm thêm vài giờ nữa."

Họ tiếp tục công việc, ngày qua ngày, và chồng báo bị trảl ại trong phòng nhận thư ngày càng lớn, tràn ra cả hành lang, những tập giấy nhìn như những miếng đá cẩm thạch. Số lượng báo bán ra giảm đi sau mỗi số báo, trong khi chồng báo trả lại cứ dày lên. Ngày cứ thế trôi qua - ngày của những nỗ lực tuyệt vời để cho ra một tờ báo để rồi nó lại được trả lại, không có ai đọc, không có ai mua.

XVI.

Trên mặt chiếc bàn gỗ gụ dài bóng loáng được dành riêng cho hội đồng quản trị có hai chữ viết lồng vào nhau bằng gỗ được sơn màu. GW. Chúng được làm dựa theo chữ ký của ông. Dòng chữ này luôn làm cho các thành viên hội đồng quản trị khó chịu. Nhưng bây giờ họ không có thời gian để ý tới chúng. Chỉ thỉnh thoảng một ai đó liếc nhìn vào hai chữ đó - và khi ấy, cái liếc nhìn lộ vẻ hài lòng.

Những thành viên hội đồng đang ngồi quanh bàn. Đây là lần đầu tiên hội đồng quản trị tổ chức họp mặt mà không do Wynand triệu tập. Người ta đã tự triệu tập buổi họp mặt và Wynand đã đến. Đây là tháng thứ hai kể từ khi đình công bắt đầu.

Wynand đứng cạnh chiếc ghế của ông ở đầu bàn. Trông ông giống như một bức vẽ từ tạp chí dành cho đàn ông - một người ăn mặc cực kỳ chải chuốt, với một chiếc khăn mùi xoa màu trắng nằm trong túi ngực của bộ trang phục màu đen. Những thành viên hội đồng quản trị thấy mình đang nghĩ những ý nghĩ kỳ quặc: người thì nghĩ về những người thợ may Anh quốc, những người khác thì - nghĩ về Thượng viện Anh - về tháp London - về vị vua Anh đã bị xử tử - hay người bị xử tử là đại pháp quan nước Anh nhỉ? - ông ta đã chết một cách thật ngoạn mục.

Họ không muốn nhìn vào người đàn ông đang đứng trước họ. Họ nghĩ về cảnh những người biểu tình ngoài kia - về những phụ nữ sực nức nước hoa với những móng tay được sơn sửa kỹ lưỡng đang hét lên ủng hộ Ellsworth Toohey trong những buổi thảo luận ở các phòng khách - về một cô gái mặt bè bè và phẳng lì đang đi đi lại lại dọc đại lộ số năm với tấm áp phích ""Chúng tôi không đọc báo Wynand" - để ủng hộ và thể hiện lòng dũng cảm dám công khai những gì họ đang nói.

Wynand nghĩ đến một bức tường đổ nát ở mép sông Hudson. Ông nghe thấy tiếng bước chân từ rất xa tiến về phía mình. Chỉ khác là lần này không có những đường dây điện tỏa đi từ bàn tay ông để giữ cho cơ bắp trong người ông sẵn sàng.

"Mọi thứ điên mất rồi. Đây là một tổ chức kinh doanh hay là một hội từ thiện nhằm bảo vệ bạn bè riêng?"

"Ba trăm ngàn đô vào tuần trước... Đừng mất công tìm hiểu làm sao tôi biết được điều đó, Gail, không có gì bí mật cả, chủ ngân hàng của ông đã nói cho tôi biết. Được thôi, đó là tiền của ông, nhưng nếu ông muốn dùng tiền công thì để tôi nói cho ông biết là ông không qua được mắt bọn tôi đâu. Ông không thể đổ tiền của chúng tôi ra được, không một xu nào, ông không thể thoát được vụ này đâu, quá muộn rồi Gail, đã hết thời ông có thể làm mưa làm gió rồi."

Wynand nhìn vào đôi môi dày của người vừa nói, và nghĩ: Chính các người đã vận hành tờ Ngọn cờ, ngay từ đầu, các người đã không biết điều đó, nhưng ta biết, chính là các người, đó là tờ báo của các người, bây giờ thì chẳng còn gì để mà cứu vớt cả.

"Phải, Slottern và bè lũ của ông ta sẵn sàng quay lại ngay lập tức, tất cả những gì họ đòi hỏi chỉ là chúng ta phải chấp nhận những yêu cầu của công đoàn, và họ sẽ ký lại hợp đồng, theo những điều khoản cũ, thậm chí không cần phải đợi ông khôi phục lại số lượng phát hành báo như trước - việc này theo tôi sẽ mất khá nhiều công sức đấy, ông bạn ạ - và tôi nghĩ họ đối xử như thế là rất rộng lượng với chúng ta. Hôm qua tôi nói chuyện với Homer và ông ta đã hứa với tôi - Wynand, ông có biết vụ này tốn bao nhiêu tiền không, hay là ông biết mà không cần tôi nói?"

"Không, thượng nghị sĩ Eldridge không muốn gặp ông... Dào, bỏ qua đi, Gail, chúng tôi biết là ông đã bay đến Washington tuần trước. Có điều ông không biết là thượng nghị sĩ Eldridge hứa sẽ không đụng tay vào vụ này, thậm chí có đụng tay qua một cái sào dài cũng không. Và sếp Craig tự nhiên bị gọi đột xuất đi Florida, đúng không? - để đến thăm một bà cô bị ốm ư? Không ai trong số họ sẽ giúp ông trong vụ này, Gail. Đây không phải là một hợp đồng làm đường hay là một vụ lừa đảo mệnh giá cổ phiếu nho nhỏ. Và ông không còn là ông hồi trước nữa."

Wynand nghĩ: Ta chưa từng có "hồi trước", ta chưa từng thuộc về đây, tại sao các người lại sợ không dám nhìn vào mặt ta? Các người không biết ta là kẻ yếu nhất trong số các người à? Những người phụ nữ Những phụ nữ khoả thân nửa người trong tờ phụ trương Chủ nhật, những đứa bé trong mục tranh tự in, những bài xã luận về những con sóc ở công viên - chúng là biểu hiện của linh hồn các người, chúng trực tiếp từ linh hồn các người mà ra - còn linh hồn của ta thì ở đâu?

"Quỷ tha ma bắt tôi đi nếu tôi có thể hiểu được chuyện này. Nào, nếu như họ đòi tăng lương, như thế thì tôi còn hiểu được; thế thì tôi sẽ bảo chúng ta hãy chiến đấu với bọn vô lại đấy đến cùng. Nhưng cái gì thế này - một vấn đề tri thức trời đánh thánh vật nào đó ư? Chẳng nhẽ chúng ta trắng tay chỉ vì những nguyên tắc trừu tượng hay là cái quái gì tương tự thế sao?"

"Ông không hiểu à? Tờ Ngọn cờ bây giờ đã trở thành một tờ báo nhà thờ. Ông Gail Wynand trở thành người truyền giáo. Chúng ta có thể chả có xu nào, nhưng chúng ta lại có lý tưởng."

"Nào, nếu như đó là một vấn đề thực sự, một vấn đề chính trị thì đã đành - đằng này chỉ là chuyện một thằng khùng cho nổ tung một khu dở hơi! Mọi người đang cười vào mũi chúng ta. Nói thật nhé, Wynand, tôi đã cố đọc các bài xã luận của ông và nếu ông cần ý kiến trung thực của tôi thì đó là thứ tệ nhất từng được lên báo. Ông nghĩ là ông đang viết bài cho các giáo sư đại học à?!"

Wynand nghĩ: Ta biết ngươi - ngươi là kẻ sẵn sàng bỏ tiền cho một con điếm chửa hoang còn hơn là cho một thiên tài đang chết đói - ta đã nhìn thấy ngươi ở đâu đó - ta đã nhặt ngươi lên và đem ngươi đến đây - khi gặp khó khăn trong công việc của các anh, hãy nhớ tới gương mặt của người đàn ông đó, nhớ rằng các anh đang viết cho ông ta đọc - nhưng, ngài Wynand, làm sao có thể nhớ được mặt ông ta - có thể đấy, cậu bé, có thể nhớ được đấy, cái mặt ấy sẽ trở lại để nhắc anh phải nhớ - nó sẽ quay trở lại và đòi được trả nợ - và ta sẽ trả - ta đã ký một tờ séc trắng từ lâu và bây giờ nó xuất hiện để đòi nợ - nhưng một cái séc trắng sẽ luôn ghi tất cả những gì mà ta có.

"Vụ việc này cũng mông muội như thời Trung cổ và là sự sỉ nhục với nền dân chủ." Một giọng nói khác than vãn. Đó là giọng của Mitchell Layton. "Đã đến lúc những người khác phải có quyền lên tiếng ở đây. Một người điều hành tất cả các tờ báo theo ý thích của ông ta - thế là thế nào, chúng ta đang ở thế kỷ mười chín à?" Layton bĩu môi; anh đảo mắt về hướng một ông chủ ngân hàng bên kia bàn. "Đã có ai thèm hỏi ý kiến của tôi chưa? Tôi cũng có ý kiến chứ? Tất cả chúng ta đều có cả đống ý tưởng. Ý của tôi là phải cùng làm việc, như một dàn nhạc giao hưởng lớn. Đã đến lúc tờ báo này phải có một đường lối hiện đại, tự do và tiến bộ! Ví dụ, về vấn đề thuê đất của nông dân..."

"Câm miệng đi, Mitch," Alvah Scarret nói, những giọt mồ hôi chảy dọc theo hai bên thái dương ông; ông không hiểu tại sao; nhưng ông muốn ban giám đốc giành được phần thắng; có cái gì đó ở trong phòng... ở đây quá nóng bức, ông nghĩ, giá ai đó mở cửa sổ ra thì tốt.

"Tôi sẽ không câm miệng lại!" Mitchell Layton gào lên. "Tôi giỏi chả kém gì..."

"Thôi nào, cậu Layton," ông chủ nhà băng nói.

"Được thôi," Layton đáp lời, "được thôi. Đừng quên đằng sau Ngài Siêu Nhân thì ai là người giữ nhiều cổ phiếu nhất ở đây." Anh ta vẩy ngón cái về phía Wynand, nhưng không dám nhìn vào ông. "Đừng quên điều đó. Hãy đoán xem ai sẽ là chủ ở đây."

"Gail," Alvah Scarret vừa nói vừa nhìn elen Wynand, cặp mắt của ông chân thành và đau khổ kỳ lạ. "Gail, chẳng ích gì đâu. Nhưng chúng ta vẫn có thể cứu vãn được tình thế. Hãy xem, chỉ cần chúng ta thừa nhận rằng chúng ta đã nhầm về vụ Cortlandt và... nhận Harding trở lại làm việc, ông ấy là một người có giá trị, và... có thể cả Toohey..."

"Không ai được phép nhắc đến tên Toohey trong buổi họp này," Wynand nói.

Mitchell Layton há miệng ra rồi khép miệng lại.

"Đúng rồi! Gail!" Alvah Scarret kêu lên. "Tuyệt vời! Chúng ta có thể thương lượng và đưa ra một đề nghị đối với bọn họ. Chúng ta sẽ đảo ngược quan điểm về vụ Cortlandt - đó là việc chúng ta phải làm, không phải là vì cái công đoàn chết tiệt, mà là vì chúng ta phải khôi phục lượng phát hành như trước, Gail - như vậy chúng ta sẽ đề nghị với họ như thế và chúng ta sẽ nhận Harding, Alien và Frank quay lại làm việc, nhưng không có To... không có Ellsworth. Chúng ta nhượng bộ và họ cũng nhượng bộ. Ai cũng giữ được thể diện. Được không, Gail?"

Wynand không nói gì.

"Tôi cũng nghĩ thế, ông Scarret," ông chủ nhà băng nói. "Tôi nghĩ đó là giải pháp. Kiểu gì thì ông Wynand cũng phải được phép giữ uy tín cho mình. Chúng ta có thể hy sinh... một cây bút để có thể giữ hòa khí."

"Tôi không hiểu!" Mitchell Layton thét lên. "Tôi không hiểu một chút nào cả. Tại sao chúng ta phải hy sinh ông... một nhà tự do vĩ đại, chỉ vì..."

"Tôi đồng ý với ông Scarret" - người lúc trước nói về mấy viên thượng nghị sĩ bây giờ lên tiếng. Những người khác cũng cất giọng phụ họa. Một người khác, người lúc trước đã chỉ trích những bài xã luận bây giờ nói át những tiếng ồn xung quanh: "Tôi nghĩ ngài Gail Wynand là ông chủ tuyệt vời!" Mitchell Layton ra dấu phản đối nhưng ông ta lờ đi. Ông ta nhìn về phía Wynand với hy vọng được bảo vệ. Nhưng Wynand không để ý đến ông ta.

"Gail?" Scarret hỏi. "Gail, ý ông thế nào?"

Không có câu trả lời.

"Quỷ tha ma bắt, Wynand, bây giờ hoặc không bao giờ! Không thể để tiếp tục tình trạng này được!"

"Ông quyết định đi hoặc là để người khác quyết định!"

"Tôi sẽ mua đứt cổ phần của ông!" Layton gào lên. "Muốn bán không? Muốn bán và bỏ chạy không?"

"Vì chúa, Wynand, đừng có ngốc như vậy!"

"Gail, đó là tờ Ngọn cờ... " Scarret thì thầm. "Đó là tờ Ngọn cờ của chúng ta..."

"Chúng tôi sẽ luôn đứng về phía ông, Gail, tất cả chúng tôi sẽ tham gia, chúng ta sẽ cùng kéo tờ báo trở lại vị trí cũ, chúng tôi sẽ làm những gì ông muốn, ông sẽ là ông chủ của chúng tôi - nhưng vì chúa, hãy xử sự như một ông chủ đi, ngay bây giờ!"

"Trật tự nào, thưa các vị, hãy trật tự! Wynand, đây là quyết định cuối cùng: chúng ta sẽ thay đổi quan điểm về vụ Cortlandt, chúng ta sẽ cho Harding, Alien và Falk quay lại làm việc, và chúng ta sẽ cứu vãn được tình thế. Đồng ý hay không?"

Không có câu trả lời nào.

"Wynand, ông biết chỉ có giải pháp đó - hoặc là ông phải đóng cửa tờ Ngọn cờ. Ông không thể giữ nó lại, ngay cả khi ông mua đứt cổ phiếu của chúng tôi. Nhượng bộ hoặc là đóng cửa tờ Ngọn cờ. Tốt nhất là ông nên nhượng bộ."

Wynand đã nghe thấy câu trả lời. Ông đã nghe thấy nó trong tất cả các bài phát biểu. Ông đã nghe thấy nó nhiều ngày trước buổi họp này. Ông biết rõ nó hơn bất cứ người nào ở đây. Câu trả lời là: Đóng cửa tờ Ngọn cờ.

Ông nhìn thấy một hình ảnh duy nhất: bảng tên hiệu mới được dựng lên trên cửa tòa soạn tờ Gazette.

"Ông nên nhượng bộ."

Ông lùi lại một bước. Đằng sau ông không phải là một bức tượng. Chỉ là tay vịn chiếc ghế của ông.

Ông nghĩ đến cái khoảnh khắc trong phòng ngủ của ông, khi ông đã suýt kéo cò súng. Ông biết là bây giờ ông đang làm điều đó.

"Được rồi," ông nói.

*

* *

Đó chỉ là một cái nắp chai, Wynand nghĩ khi nhìn xuống đốm sáng dưới chân; một cái nắp chai đã ăn sâu xuống vỉa hè. Có rất nhiều những thứ như vậy trên đường phố New York - những cái nắp chai, những cái ghim, những cái huy hiệu vận động bầu cử, những dây xích trong bồn rửa; thỉnh thoảng còn có những đồ trang sức đánh rơi - bây giờ tất cả chúng đều như nhau, phẳng lì, ăn sâu vào mặt đất; nó làm cho vỉa hè trở nên lấp lánh vào ban đêm. Đó là phân bón cho thành phố. Ai đó đã uống cạn nước trong chai và ném nắp chai đi. Đã có bao nhiêu ô-tô cán lên cái nắp chai đó? Có ai có thể dứt được nó ra khỏi lòng đường? Có ai có thể quỳ xuống, dùng tay trần để bới và dứt nó ra được không? Ta không có quyền hy vọng chạy thoát. Ta không có quyền được quỳ xuống và tìm kiếm sự cứu rỗi. Hàng triệu năm trước, khi trái đất đang được sinh ra, đã có những sinh vật sống như ta: những con ruồi bị sa vào nhựa cây để trở thành hổ phách, những động vật bị ngập trong bùn để trở thành hóa thạch. Ta là một con người trong thế kỷ hai mươi và ta đã trở thành một mẩu thiếc nằm dưới lòng đường, để cho các xe tải của New York cán lên.

Ông đi chậm, cổ áo khoác ngoài dựng lên. Đường phố trải dài trước mặt ông, trống rỗng, và những tòa nhà ở phía trước trông như những gáy sách xếp trên giá không theo một thứ tự nào, đủ mọi kích cỡ. Góc phố mà ông vừa qua dẫn tới những con kênh màu đen; những ngọn đèn đường tạo nên cái vỏ bảo vệ bên ngoài cho thành phố, nhưng thi thoảng lại có những điểm vỡ. Ông rẽ vào một góc phố khi ông nhìn thấy có một tia sáng chiếu xiên ở phía trước; nó ở cách ông khoảng ba đến bốn con đường.

Ánh đèn chiếu ra từ cửa sổ bày hàng của một tiệm cầm đồ. Tiệm đã đóng cửa nhưng một ngọn đèn sáng chói được treo trong khung kính để đề phòng những kẻ cướp cùng quẫn. Ông dừng lại và nhìn vào khung kính. Ông nghĩ, đó là một cảnh khiếm nhã nhất trái đất - cửa sổ bày hàng của một tiệm cầm đồ. Những thứ vốn là thiêng liêng đối với con người, và những thứ vốn quý giá đều bị phơi bày ở đây, để bị vầy vò và mặc cả, để trở thành những thứ vô giá trị dưới cặp mắt dửng dưng của những người lạ, để nằm chung với một mớ đồ hổ lốn; những cái máy chữ và đàn violin - công cụ của những giấc mơ; những bức ảnh cũ và những cái nhẫn cưới - dấu hiệu của tình yêu; tất cả nằm chung với những cái quần dài bẩn thỉu, với bình pha cà phê, với gạt tàn thuốc lá, với tượng lõa thể bằng thạch cao; tất cả chúng đã bị bỏ đi trong tuyệt vọng, bị mang đi cầm cố - không phải mang bán đứt, không phải hoàn toàn phủi tay dứt hẳn ra mà được đem cầm cố. Người ta đã hy vọng sẽ chuộc lại chúng, nhưng đấy là một niềm hy vọng đã chết từ trong trứng và những đồ vật không bao giờ được chuộc lại. "Chào Gail Wynand," ông nói như thế đối với những đồ vật bên trong cửa kính, và rảo bước.

Ông cảm thấy một tấm lưới sắt ở dưới bàn chân và một mùi hôi nào đó phả vào mặt - mùi của bụi bặm, của mồ hôi và quần áo bẩn. Nó còn tệ hơn cả mùi của những chuồng súc vật, bởi vì cái mùi này có vẻ bình thường, quen thuộc, như thể sự phân hủy đã được biến thành một thủ tục hàng ngày. Lưới sắt thông khí của đường tàu điện ngầm. Ông nghĩ, đây là phần dư ra của việc nhồi nhiều người vào một chỗ, của những cơ thể ép chặt vào nhau thành một khối, không có chỗ di chuyển, không có không khí để thở. Đây chính là kết quả của phép cộng mùi, mặc dù ở dưới kia, giữa những khối thịt ép chặt vào nhau, người ta vẫn có thể phân biệt mùi của những bộ quần áo mới được gột hồ, mùi của tóc mới gội, mùi của làn da trẻ trung mạnh khỏe. Đấy là bản chất của các phép cộng và của việc đi tìm mẫu số chung nhỏ nhất. Vậy thì cái gì là phần dư của việc gộp các bộ óc lại một chỗ, không có không khí, không có khoảng không, không có sự phân biệt? Tờ Ngọn cờ, ông nghĩ, và tiếp tục bước đi.

Thành phố của ta, ông nghĩ, thành phố mà ta yêu quý, thành phố mà ta nghĩ là ta cai trị.

Ông đã bỏ đi khỏi buổi họp hội đồng quản trị và ông đã nói: "Tiếp quản lấy tờ báo, Alvah, cho đến khi tôi quay lại." Ông không dừng lại để xem Manning đang kiệt sức bên bàn biên tập tin tài chính, không gặp những người ở phòng đó, những người vẫn đang làm việc, chờ đợi và biết về mục đích của buổi họp; ông cũng không gặp Dominique. Scarret sẽ nói với họ. Ông đã đi ra khỏi tòa nhà, quay về căn hộ của ông và ngồi một mình trong cái phòng ngủ không có cửa sổ. Không có ai đến làm phiền ông.

Khi ông rời nhà thì đó cũng là lúc an toàn hơn: trời đã tối. Ông đi qua một quầy bán báo và nhìn thấy những tờ báo buổi chiều thông báo về việc giải quyết xung đột trong cuộc đình công Wynand. Công đoàn đã chấp nhận đề nghị thỏa hiệp của Scarret. Ông biết rằng Scarret sẽ xử lý được tất cả những việc còn lại. Scarret sẽ viết lại trang đầu của tờ Ngọn cờ số ra ngày mai. Scarret sẽ viết bài xã luận để đăng lên trang đầu. Ông nghĩ những cái máy in đang chạy vào ngay lúc này. Trong một giờ nữa, tờ Ngọn cờ buổi sáng sẽ có mặt trên đường phố.

Ông đi lang thang. Ông không sở hữu cái gì cả, nhưng bất cứ thứ gì trong thành phố này đều sở hữu ông. Cũng hợp lý nếu như bây giờ thành phố dẫn đường cho ông và ông bị từng góc phố ngẫu nhiên cuốn đi. Tôi đây, thưa những ông chủ, tôi đến đây để cúi đầu chào và thừa nhận các ông, tôi sẽ đi đến bất cứ nơi nào các ông muốn. Ta là một kẻ đã muốn có quyền lực.

Kia là một người phụ nữ đang ngồi dưới hiên trần của một ngôi nhà đá nâu cũ kỹ, đầu gối béo trắng của bà ta dạng ra; kia là một người đàn ông đang cố đẩy cái bụng mặc áo thêu kim tuyến của ông ta ra khỏi xe tắc xi đỗ trước một khách sạn lớn; kia là một anh chàng nhỏ thó đang nhấm nháp bia tại quầy tạp hóa; kia là một người đàn bà đang cúi người trên tấm thảm lem luốc ở ngưỡng cửa một căn hộ cho thuê; kia là anh chàng lái tắc xi đỗ trong góc phố; kia là một quý bà tay cầm hoa lan và say xỉn trên bàn một tiệm cà-phê mở trên vỉa hè; kia là một bà già rụng răng đang bán kẹo cao su; kia là một người đàn ông mặc áo sơ mi dài tay đang đứng dựa vào cửa một phòng chơi bi-a - tất cả bọn họ đều là chủ của ta. Là người sở hữu ta, là ông chủ của ta - ông chủ không cần đến một khuôn mặt cụ thể.

Hãy đứng ở đây, ông nghĩ, và đếm những cửa sổ có ánh đèn của thành phố đi. Nhà ngươi không thể làm được việc đó. Nhưng đằng sau mỗi khối hình chữ nhật màu vàng, cái nọ chồng lên cái kia, lên tới tận trời - ở dưới mỗi cái bóng đèn - cho tới tận chỗ kia, đấy cái đốm sáng bên kia sông mà không phải là một ngôi sao ấy - dưới mỗi cái bóng đèn là những người mà nhà ngươi sẽ không bao giờ nhìn thấy nhưng lại là chủ của ngươi. Họ ở bên những bàn ăn tối, trong những phòng khách, trên giường và trong hầm ngầm, trong phòng đọc sách và trong phòng tắm. Họ đang lướt qua trong tàu điện ngầm dưới chân ngươi. Họ đang đi lên trong những thang máy chạy thẳng đứng ở quanh ngươi. Họ đang vụt qua ngươi trong mỗi chiếc xe buýt. Họ là chủ của ngươi, Gail Wynand. Có một cái lưới - dài hơn cả những sợi cáp chạy xuyên qua những bức tường trong thành phố này gộp lại, rộng lớn hơn mạng lưới những đường ống dẫn nước, ga và chất thải - có một cái lưới nữa ẩn xung quanh ngươi; nó được quấn vào ngươi, và những mắt lưới của nó nối tới tay của tất cả mọi người trong thành phố này. Họ đã giật dây và ngươi đã cử động. Ngươi đã là kẻ cai trị con người. Ngươi đã giữ chặt cái dây xích chó đó. Nhưng sợi dây xích chó chính là một sợi thừng mà cả hai đầu đều có thòng lọng.

Những ông chủ của ta - vô danh, bất kỳ. Họ đã đem lại cho ta một ngôi nhà, một văn phòng và một cái thuyền buồm. Để đáp lại họ, để đáp lại bất cứ kẻ nào có yêu cầu, để lấy món tiền đáng giá ba xu, ta đã bán Howard Roark.

Ông đi qua một khoảng sân lát đá cẩm thạch ở ngoài trời; trông nó như một cái hang ăn sâu vào trong một tòa nhà, tràn ngập ánh đèn và phì ra những luồng hơi lạnh từ những máy điều hòa. Đó là một rạp chiếu phim và trên mái của cửa ra vào có dòng chữ bảy màu: Romeo và Juliet. Một tờ áp phích đặt ngay cạnh ô cửa kính bán vé: "Một tác phẩm kinh điển sống mãi với thời gian của Bill Shakespeare! Nhưng không hề sách vở! Chỉ là một câu chuyện tình đơn giản của con người. Một chàng trai từ Bronx gặp một cô gái đến từ Brooklyn. Như bất cứ người nào quanh ta. Giống như bạn và tôi."

Ông đi qua cửa một quán rượu. Nồng nặc mùi bia để quá ngày. Một phụ nữ đã gục xuống, ngực áp vào mặt bàn. Máy hát đang chơi một bản nhạc của Wagner - Bài ca gửi Sao Mai được chuyển thể cho nhạc swing.

Ông nhìn thấy những cái cây trong Công viên trung tâm. Ông bước đi, mắt hướng xuống. Ông đang đi qua khách sạn Aquitania.

Ông đến một góc phố. Ông đã chạy thoát khỏi nhiều góc phố tương tự, nhưng góc phố này đã túm được ông. Đó là một góc phố tối tăm, một đoạn vỉa hè lọt thỏm vào giữa bức tường của một gara đã đóng cửa và những cái cột của một nhà ga đường sắt trên cao. Ông nhìn thấy đuôi của một chiếc xe tải đang khuất dần phía cuối phố. Ông không nhìn thấy tên của nó, nhưng ông biết đó là xe gì. Có một quầy bán báo ở ngay dưới cầu thang sắt dẫn lên bến tàu điện. Ông chậm rãi đưa mắt. Ở đó có một chồng báo mới, mở toang trước mặt ông. Tờ Ngọn cờ ngày mai.

Ông không lại gần. Ông chỉ đứng và chờ đợi. Ông nghĩ, ta vẫn còn có vài phút để không phải biết.

Ông nhìn thấy những con người không nhân diện dừng lại quầy báo, từng người một. Họ đến mua nhiều loại báo khác nhau, nhưng họ cũng mua tờ Ngọn cờ khi họ nhìn thấy trang đầu của nó. Ông đứng sát vào tường, chờ đợi. Ông nghĩ, cũng hợp lý thôi nếu ta là người cuối cùng được biết về những gì ta đã nói.

Rồi ông không thể trì hoãn được nữa: không có khách hàng nào đến, quầy báo vắng vẻ, những tờ báo trải ra dưới ánh đèn vàng, đợi ông. Ông không nhìn thấy người bán hàng ở dưới cái mái che màu đen đằng sau bóng đèn. Đường phố vắng tanh. Một hành lang dài tạo nên bởi những cột đỡ cho đường tàu bên trên. Sàn hành lang lát đá, những bức đường nhem nhuốc, những cột sắt đứng xen kẽ. Có những cửa sổ sáng đèn, nhưng nhìn chúng như thể không có ai đang đi lại đằng sau những bức tường. Một con tàu chạy rầm rầm trên đầu ông, một chuỗi dài tiếng soang soảng chói tai truyền qua những cột kim loại xuống tới mặt đất. Như thể một khối sắt không có người lái lao đi trong đêm.

Ông đợi đến khi âm thanh tắt hẳn, rồi ông đi về phía quầy báo. "Tờ Ngọn cờ," ông nói. Ông không nhìn thấy ai là người bán cho ông tờ báo, không biết đó là một người đàn ông hay đàn bà. Ông chỉ thấy một cánh tay sần sùi màu nâu chìa tờ báo ra phía trước.

Ông bắt đầu bỏ đi, nhưng dừng lại giữa lúc băng qua đường. Có một bức ảnh Roark ở mặt báo. Đó là một bức ảnh đẹp. Gương mặt bình thản, gò má góc cạnh, cái miệng rắn rỏi. Ông đọc bài xã luận trong khi tựa người vào một cái cột của đường tàu bên trên.

"Chúng tôi đã luôn nỗ lực một cách dũng cảm và không thiên kiến để đem sự thật đến với bạn đọc...

"... tính độ lượng và cả quy tắc nghi ngờ nhân đạo, ngay cả với một người đang bị cáo buộc một tội ác tày trời...

"... nhưng sau khi cẩn thận điều tra với những chứng cớ mới, chúng tôi thấy mình có trách nhiệm phải thẳng thắn thừa nhận rằng chúng tôi có thể đã quá khoan dung...

"... Một xã hội được giác ngộ với nhận thức mới về trách nhiệm đối với những người kém may mắn...

"... Chúng tôi đồng tình với dư luận chung...

"... Quá khứ, sự nghiệp, tính cách của Howard Road dường như chứng minh cho ấn tượng chung của mọi người rằng anh ta là cá nhân đáng trách, một loại người nguy hiểm, vô nguyên tắc và chống đối xã hội...

"... Nếu bị kết tội - và điều này dường như hiển nhiên - thì Howard Road cần phải chịu khung hình phạt nặng nhất mà luật pháp có thể áp chế."

Bài xã luận được ký tên "Gail Wynand."

Khi ông nhìn lên, ông đã đang ở một khu phố thắp đèn sáng trưng, trên một vỉa hè gọn gàng sạch sẽ. Ông đang nhìn vào một tượng sáp được nặn rất tinh xảo, đặt trên nền sa-tanh trong cửa sổ một cửa hàng; hình sáp đó mặc một áo choàng màu cá hồi, đi một đôi xăng-đan trong; ngón tay giơ lên đeo lửng lơ một chuỗi ngọc.

Ông không biết là ông đã buông rơi tờ báo từ khi nào. Nó không còn ở trong tay ông nữa. Ông nhìn ngược lại. Không thể tìm được vì ông cũng không biết là mình đã đi qua những đường phố nào. Ông nghĩ, để làm gì chứ? Còn có những tờ báo khác tương tự như nó. Thành phố này tràn ngập những tờ báo như vậy.

"Ông là sự gặp gỡ không bao giờ có thể lặp lại trong đời tôi..."

Howard, tôi đã viết bài xã luận đó bốn mươi năm trước. Tôi đã viết nó vào cái đêm tôi mười sáu tuổi và đứng trên sân thượng của một khu chung cư.

Ông đi tiếp. Thêm một khu phố hiện ra trước mắt ông, có một đoạn đường dài đột ngột cắt ngang, trống trải và một chuỗi đèn giao thông màu xanh trải dài đến tận chân trời. Như một chuỗi tràng hạt không có điểm kết thúc. Ông nghĩ, nào, hãy đi từ hạt xanh này đến hạt xanh kia. Ông nghĩ: không phải là những từ đó; những những từ đó cứ vang lên theo mỗi bước chân ông: Tôi đã mắc tội - tôi đã mắc tội - tôi đã mắc tội lỗi lớn nhất.

Ông đi qua cửa sổ một cửa hàng bán giày cũ - đi qua cửa một hội truyền giáo với một chữ thập ở trên - qua một cái áp phích quảng cáo cho ứng cử viên một cuộc bầu cử hai năm trước đây - qua một cửa hàng bán rau với những thùng rau thối ở trên vỉa hè. Đường phố thu nhỏ lại, các bức tường tiến lại gần nhau hơn. Ông có thể ngửi được mùi của con sông, và có những quầng sương mù phủ lên những ngọn đèn ít ỏi còn lại trên đường.

Ông đang ở Hell's Kitchen.

Hiên của những tòa nhà xung quanh ông trông như những bức tường của một khu vườn bí mật bất ngờ hiện ra: mục ruỗng một cách công khai, mục ruỗng mà không cần giấu giếm cũng chẳng đếm xỉa đến danh dự. Ông nghe thấy những tiếng thét từ một quán rượu ở góc phố; ông không thể khẳng định đó là tiếng thét vui vẻ hay là cãi vã.

Ông đứng ở giữa một con phố. Ông từ từ nhìn xuống miệng của từng kẽ nứt tăm tối, rồi mắt ông lê dần lên những bức tường loang lổ, tới cửa sổ và tới những mái nhà.

Ta chưa bao giờ thoát ra khỏi nơi này.

Ta chưa từng thoát ra. Ta đã đầu hàng người bán hàng rau - đầu hàng những tay phù thủy trên phà - đầu hàng người chủ phòng chơi bi-a. Ngươi không phải là chủ ở đây. Ngươi không phải là chủ ở đây. Ngươi chưa bao giờ là chủ ở bất cứ đâu, Gail Wynand. Ngươi chỉ thêm bản thân ngươi vào danh sách những thứ mà họ là chủ.

Rồi ông ngẩng đầu nhìn bao quát cả thành phố, tới hình khối của những tòa nhà chọc trời. Ông nhìn thấy một chuỗi những ánh đèn lơ lửng trong khoảng không mịt mù, một đỉnh nhọn tỏa sáng mà không neo vào bất cứ cái gì, một hình vuông nhỏ, rực sáng treo lơ lửng trên bầu trời. Ông biết chúng thuộc về những tòa nhà nổi tiếng nào, ông có thể vẽ lại hình dạng của chúng trong không khí. Ông nghĩ, các bạn chính là quan tòa và là nhân chứng của tôi. Các bạn mọc lên hiên ngang, bên trên những mái nhà xập xệ. Các bạn phóng sức mạnh của mình lên những vì sao, vượt ra ngoài sự nhu nhược, mệt mỏi, và sự tình cờ ngẫu nhiên. Những cặp mắt xa một dặm ở ngoài đại dương sẽ chẳng còn nhìn thấy các bạn và các bạn sẽ chẳng còn quan trọng, nhưng các bạn sẽ vẫn là thực tại và là thành phố này. Cũng giống như trong những thế kỷ đã qua, chỉ có vài người duy trì được sự chính trực cô độc và họ khiến chúng ta phải nhìn họ mà nói: có con người tồn tại trước chúng ta. Người ta không thể chạy thoát được các bạn; những đường phố sẽ thay đổi, nhưng người ta sẽ nhìn lên và các bạn đứng ở đó, nguyên vẹn. Các bạn đã nhìn thấy tôi đi bộ qua những khu phố đêm nay. Các bạn đã chứng kiến tất cả những bước chân và những năm tháng của tôi. Tôi đã phản bội lại các bạn. Bởi vì tôi đã được sinh ra là để trở thành một trong số các bạn.

Ông tiếp tục đi. Trời đã khuya. Những quầng sáng nằm lặng im dưới những cây đèn đường trên vỉa hè vắng lặng. Thỉnh thoảng những tiếng còi taxi vang lên như tiếng chuông cửa kêu dọc theo hành lang của một căn nhà bỏ trống. Ông nhìn thấy những tờ báo bị vứt đi, khi ông đi qua: ở trên lòng đường, trên ghế công viên, trong sọt rác bằng lưới ở góc phố. Rất nhiều trong số đó là tờ Ngọn cờ. Đã có rất nhiều tờ Ngọn cờ được bán trong đêm nay. Ông nghĩ, Alvah, chúng ta đang khôi phục lượng phát hành.

Ông dừng lại. Ông nhìn thấy một tờ báo trải rộng trên một vũng nước ở ngay trước mặt; trang đầu của nó lật lên. Đó là tờ Ngọn cờ. Ông nhìn thấy ảnh Roark ở đó. Ông nhìn thấy dấu một gót giày màu xám in trên mặt Roark.

Ông cúi người. Cơ thể ông gập xuống từ từ, với cả hai đầu gối, hai cánh tay, và ông nhặt tờ báo lên. Ông gấp trang đầu lại và nhét nó vào túi áo. Ông đi tiếp.

Một gót giày không quen, ở đâu đó trong thành phố này, với một bàn chân không quen biết mà chính ta đã giải phóng để có thể diễu hành khắp nơi.

Ta đã giải phóng tất cả bọn họ. Ta đã đẻ ra tất cả nnhững kẻ mà giờ đây hủy diệt lại ta. Có một con quái vật trên trái đất, bị giam cầm một cách an toàn bởi chính sự bất lực của nó. Nhưng ta đã cởi xích cho nó. Lẽ ra bọn họ vẫn mãi bất lực. Bọn họ không có khả năng sản xuất ra cái gì cả. Ta đã đưa cho họ vũ khí. Ta đưa cho họ sức lực, năng lượng và sức sống của ta. Ta đã tạo ra một giọng nói vĩ đại và để cho chúng đánh vần những ngôn từ được nói ra. Người đàn bà đã ném lá củ cải đường vào mặt ta - bà ta có quyền làm điều đó. Ta đã khiến cho bà ta có thể làm như vậy.

Bất cứ cái gì cũng có thể bị phản bội, bất cứ ai cũng có thể được tha thứ. Trừ những kẻ thiếu lòng dũng cảm để trở nên vĩ đại khi họ có thể trở nên vĩ đại. Alvah Scarret có thể được tha thứ. Anh ta chẳng có gì để phản bội. Mitchell Layton có thể được tha thứ. Nhưng ta thì không. Vì ta đã không được sinh ra để làm một kẻ sống thứ sinh.

XVII.

Đó là một ngày hè, bầu trời trong và mát mẻ, cứ như thể có một lớp nước mỏng bao phủ quanh mặt trời, và hơi nóng đã được chuyển hóa để làm không khí trong hơn và rõ hơn. Các tòa nhà trong thành phố trở nên sắc nét.

Trên đường phố, rất nhiều tờ Ngọn cờ nằm rải rác khắp nơi, như những mảnh vụn bọt biển màu xám. Cả thành phố đọc bản tuyên bố đầu hàng của Wynand. Họ đọc và cười khoái trá.

"Thế đó," Gus Webb nói, ông ta là chủ tịch hội "Chúng Tôi Không Đọc Wynand." Ike nói: "Nghe mới ngọt làm sao." Sally Brent nói: "Giá mà được nhìn thấy, chỉ cần liếc thấy bộ mặt ngài Gail Wynand vĩ đại hôm nay nhỉ." Homer Slottern nói: "Cũng đến lúc rồi còn gì." Một người phụ nữ có cặp môi mỏng luôn mím chặt nói: "Thật tuyệt phải không? Wynand đã phải đầu hàng" - bà ta không biết mấy về Wynand và cũng biết gì về vụ việc, nhưng bà ta thích nghe chuyện ai đó đầu hàng. Trong một bếp ăn, một người đàn bà phục phịch trút hết phần thức ăn thừa trên đĩa ra một tờ giấy báo; bà ta chẳng bao giờ đọc trang đầu cả, bà chỉ đọc truyện tình dài kỳ đăng ở phần hai; bà ta bọc những lát hành và xương cừu cắt vụn vào trong một tờ Ngọn cờ.

"Tuyệt cú mèo," Lancelot Clokey nói, "chỉ có điều là tôi rất bất bình với công đoàn, Ellsworth. Làm sao họ lại dám bán đứng ông như thế?"

"Đừng có ngốc thế, Lance," Ellsworth Toohey nói.

"Ý ông là sao?"

"Tôi đã bảo họ chấp nhận các điều kiện."

"Chính ông?"

"Phải."

"Nhưng Chúa ơi! Thế còn mục Một tiếng nói nhỏ..."

"Ông có thể đợi khoảng một tháng nữa được không? Hôm nay tôi đã nộp đơn kiện lên tòa án lao động. Tôi sẽ đòi được khôi phục lại chức vụ của tôi ở tờ Ngọn cờ. Có nhiều cách để vặt lông một con mèo, Lance ạ. Một khi anh đã bẻ gãy xương sống của nó thì chuyện vặt lông kiểu gì sẽ không còn quan trọng nữa."

Tối đó Roark bấm chuông cửa căn hộ trên mái của Wynand. Người quản gia mở cửa và nói: "Ông Wynand không thể gặp ông được, thưa ông Roark." Từ trên vỉa hè phía bên kia đường, Roark nhìn lên và thấy một ánh đèn ở phía trên những mái nhà, ngay cửa sổ phòng làm việc của Wynand.

Buổi sáng, Roark đến văn phòng của Wynand ở tòa soạn tờ Ngọn cờ. Người thư ký của Wynand nói với anh: "Ngài Wynand không thể gặp ông được, thưa ông Roark." Bà nói thêm, giọng nghiêm trang và lịch sự: "Ông Wynand đã yêu cầu tôi nói với ông rằng ông ấy không bao giờ muốn gặp lại ông nữa."

Roark viết cho Wynand một lá thư dài: "... Gail, tôi biết. Tôi đã hy vọng là ông có thể thoát được, nhưng bởi vì nó đã buộc phải xảy ra, nên hãy bắt đầu lại từ hiện tại. Tôi biết ông đang làm gì với bản thân. Ông không làm việc này vì tôi, nó không tùy thuộc vào tôi, nhưng nếu điều này có thể giúp ông thì tôi muốn nói rằng tôi đang nhắc lại, vào lúc này, tất cả những gì tôi đã nói với ông. Đối với tôi, không có gì thay đổi cả. Ông vẫn là những gì ông đã là. Tôi không nói là tôi tha thứ cho ông, bởi vì giữa chúng ta không có những thứ như thế. Nhưng nếu như ông không thể tự tha thứ cho bản thân mình thì hãy để cho tôi làm việc đó, được không? Hãy để cho tôi nói rằng chuyện đó chẳng là gì, nó không phải là phán quyết cuối cùng đối với ông. Hãy cho tôi quyền được để cho ông quên nó đi. Hãy tiếp tục, bằng niềm tin của tôi, cho đến khi ông hoàn toàn hồi phục. Tôi biết đây là chuyện không ai có thể giúp ai được, nhưng nếu đối với ông, tôi vẫn là những gì tôi đã là, thì ông hãy chấp nhận nó. Hãy coi nó như một lần truyền máu. Ông cần nó. Hãy nhận lấy. Nó còn khó hơn cả việc chống lại vụ đình công. Hãy làm việc đó vì tôi, nếu như nó có thể giúp cho ông. Hãy làm việc đó. Hãy trở lại. Sẽ có một cơ hội khác. Cái mà ông nghĩ ông mất là cái vốn không bao giờ có thể bị mất cũng không thể đi tìm ở chỗ khác. Đừng buông nó ra."

Lá thư quay lại chỗ Roark, chưa hề được mở.

Alvah Scarret điều hành tờ Ngọn cờ. Wynand chỉ ngồi trong phòng làm việc của ông. Ông đã tháo ảnh Roark khỏi tường. Ông giải quyết các hợp đồng quảng cáo, chuyện chi phí, tài khoản ngân hàng. Scarret đảm nhiệm phần đường lối chủ trương của tờ báo. Wynand không đọc duyệt nội dung của tờ Ngọn cờ nữa.

Khi Wynand xuất hiện ở bất cứ phòng ban nào trong tòa nhà, các nhân viên tuân lệnh ông như họ đã tuân lệnh ông trước đây. Ông vẫn là một cỗ máy và họ biết rằng đó là một cỗ máy nguy hiểm hơn bao giờ hết: một chiếc xe đang lao xuống dốc, không phanh và cũng không người điều khiển.

Ông ngủ trong căn hộ trên mái của mình. Ông chưa gặp lại Dominique. Scarret nói với ông rằng cô đã quay về ngôi nhà ở ngoại ô. Có một lần, ông đã ra lệnh cho thư ký gọi điện thoại tới Connecticut. Ông đứng ở cạnh bàn thư ký khi bà ta hỏi người quản gia xem liệu bà Wynand có ở đó. Người quản gia đã trả lời rằng cô ở đó. Người thư ký dập máy và Wynand quay lại phòng làm việc.

Ông nghĩ ông sẽ cho mình vài ngày. Sau đó ông sẽ quay về với Dominique. Hôn nhân của họ sẽ trở nên đúng như những gì cô đã từng muốn hồi đầu - "Bà Wynand - Chủ bút." Và ông sẽ chấp nhận nó.

Khoan đã, ông nghĩ trong cơn bồn chồn khắc khoải, từ từ đã nào. Ngươi phải học cách đối mặt với cô ấy như là ngươi của lúc này đã. Hãy tự đào tạo ngươi thành một kẻ ăn xin đã. Nhất thiết không thể có bất cứ sự đòi hỏi nào với những thứ mà ngươi không có quyền. Đứng trước cô ấy, ngươi không có sự bình đẳng, không được kháng cự, không có sự tự trọng nào cả. Bây giờ chỉ có chấp nhận. Ngươi sẽ đứng trước mặt cô ấy như một người đàn ông không thể đem lại cho cô ấy bất cứ cái gì, một người sống dựa vào những gì cô ấy ban phát cho. Sẽ có sự khinh thường, nhưng là sự khinh thường từ cô ấy và sự khinh thường ấy sẽ là cầu nối giữa hai người. Cho cô ấy thấy ngươi nhận ra điều này. Cũng có một chút phẩm giá trong việc một người công khai chấp nhận từ bỏ phẩm giá. Hãy học cách làm điều đó. Khoan đã...

Ông ngồi trong phòng đọc sách ở căn hộ của mình, đầu gục xuống thành ghế. Chẳng có nhân chứng nào trong những căn phòng trống rỗng xung quanh ông... Dominique, ông nghĩ, anh không có gì để nói ngoài việc anh rất cần em. Và anh yêu em. Có lần anh đã bảo em đừng để ý đến điều đó. Bây giờ thì anh sẽ dùng nó như một cái cốc ăn xin. Nhưng anh sẽ dùng nó. Anh yêu em...

Dominique nằm dài trên bờ hồ nước. Cô nhìn ngôi nhà ở trên đồi, nhìn những cành cây ở trên đầu cô. Cô nằm ngửa, gối đầu lên tay. Cô chăm chú theo dõi chuyển động của những chiếc lá trên nền trời. Đó là một công việc nghiêm túc; nó đem lại cho cô cảm giác thỏa mãn trọn vẹn. Cô nghĩ, màu xanh lá cây kia thật đáng yêu; có sự khác biệt giữa màu của cây cối và màu của các vật thể, màu này hàm chứa ánh sáng, nó không chỉ màu xanh mà còn biểu hiện cái nguồn sống trong cây; không cần nhìn xuống ta cũng có thể thấy được trong những nhánh cây, thân cây và rễ cây chỉ qua cái màu sắc đó. Cái quầng lửa xung quanh rìa lá kia chính là ánh nắng, ta không cần phải nhìn nhưng ta cũng có thể biết được hôm nay cả vùng đồng quê này trông như thế nào. Những điểm sáng tỏa thành vòng tròn - đó chính là hồ nước, những điểm sáng ấy là một dạng ánh sáng đặc biệt do mặt nước hắt lên; hôm nay mặt hồ thật đẹp, và không nên nhìn thẳng vào nó mà chỉ cần đoán qua những điểm sáng kia. Trước đây ta chưa bao giờ có thể tận hưởng quang cảnh mặt đất. Nó là một cái nền thật tuyệt, nhưng chỉ là một cái nền thôi; ta đã từng nghĩ về những kẻ đang sở hữu cái nền ấy và điều đó làm ta đau đớn quá mức. Bây giờ thì ta có thể yêu được mặt đất. Họ không sở hữu mặt đất này. Họ không sở hữu cái gì cả. Họ chưa bao giờ thắng. Ta đã nhìn thấy cuộc đời của Gail Wynand, và bây giờ ta đã biết. Người ta không thể căm ghét trái đất này chỉ vì những kẻ kia. Trái đất thật là đẹp. Và nó là một cái nền, nhưng không phải là cái nền của họ.

Cô biết cô phải làm gì. Nhưng cô sẽ cho mình một vài ngày. Cô nghĩ, ta đã học được cách chịu đựng bất cứ điều gì, nhưng ngoại trừ hạnh phúc. Ta phải học cách mang vác hạnh phúc. Họ cách làm thế nào để không bị gục xuống dưới sức nặng của nó. Từ giờ trở đi đó là thứ kỷ luật duy nhất ta cần.

*

* *

Roark đứng bên cửa sổ trong nhà anh ở Thung lũng Monadnock. Anh đã thuê căn nhà này vào mùa hè; anh đến đây khi anh muốn ở một mình và nghỉ ngơi. Đó là một buổi tối yên tĩnh. Cửa sổ mở hé ra; những cành cây đan thành đường viền cửa sổ, lơ lửng trên nền trời. Một dải nắng hoàng hôn kéo thành một vệt dài trên đỉnh những ngọn cây sẫm bóng. Anh biết ở dưới đó là những ngôi nhà, nhưng anh không thể nhìn thấy chúng. Anh cảm thấy lòng biết ơn giống như những người thuê nhà khác vì cái cách anh đã xây nên nơi này.

Anh nghe thấy tiếng ô-tô đi lên con đường ở phía bên kia. Anh lắng nghe và ngạc nhiên. Anh không hề chờ khách. Chiếc xe dừng lại. Anh đi về phía cửa. Anh không hề ngạc nhiên khi anh nhìn thấy Dominique.

Cô bước vào như thể cô vừa đi ra khỏi nhà nửa tiếng trước đó. Cô không đội mũ, không mang bít tất, chỉ có xăng-đan và một chiếc váy dành cho việc đi trên những con đường đất ở nông thôn - loại váy chiết eo ngắn, cộc tay, bằng vải lanh màu xanh thẫm, trông như một cái áo choàng để làm vườn. Trông cứ như là cô không hề lái xe qua ba tiểu bang, mà chỉ vừa trở về nhà sau khi đi dạo trên đồi. Anh biết rằng đó chính là dấu hiệu của sự trang trọng trong khoảnh khắc này - rằng không cần phải có sự trang trọng nào cả; không cần phải nhấn mạnh nó và tách nó ra riêng; rằng đây không phải là chuyện của riêng buổi tối hôm nay mà là sự gói trọn cả bảy năm trôi qua sau họ.

"Howard."

Anh đứng như thể anh đang nhìn vào âm thanh gọi tên mình trong phòng. Anh đã có tất cả những gì anh muốn.

Nhưng có một ý nghĩ vẫn đọng lại như một nỗi đau, thậm chí ngay cả lúc này. Anh nói:

"Dominique, hãy đợi cho đến khi ông ấy hồi phục đã."

"Anh biết là ông ấy sẽ không hồi phục."

"Hãy thương xót ông ấy một chút."

"Đừng nói ngôn ngữ của họ."

"Ông ấy không có lựa chọn nào khác."

"Ông ấy đã có thể đóng cửa tờ báo."

"Nhưng đó là cuộc sống của ông ấy."

"Còn đây là cuộc sống của em."

Anh không biết Wynand đã từng nói rằng tất cả tình yêu đều đồng nghĩa với việc tạo ngoại lệ; Wynand sẽ không biết rằng Roark đã yêu quý ông đến mức anh có thể thực hiện ngoại lệ lớn nhất của anh vào một khoảnh khắc mà anh đã cố thử thỏa hiệp. Rồi anh biết rằng việc đó chẳng có ích gì, như tất cả các sự hy sinh khác. Điều anh nói chính là chữ ký đồng tình của dưới quyết định của cô:

"Anh yêu em."

Cô nhìn quanh căn phòng, để cho cảm giác về thực tại bình thường của những bức tường và những cái ghế giúp cô giữ được kỷ luật mà cô đang cố học cho thời điểm này. Những bức tường mà anh đã thiết kế, những cái ghế mà anh dùng, một hộp thuốc lá ở trên bàn - những vật dụng sinh hoạt cần thiết hàng ngày sẽ có thể trở nên xa hoa khi cuộc sống được như bây giờ.

"Howard, em biết anh định làm gì trước tòa. Vì vậy, sẽ không có gì khác biệt nếu như họ biết sự thật về chúng ta."

"Không có gì khác biệt."

"Khi anh đến vào đêm hôm đó và nói với em về Cortlandt, em đã không cố ngăn anh lại. Em biết là anh phải làm việc đó. Đó là lúc anh phải đặt ra các điều khoản để anh có thể tiếp tục sống. Giờ là lúc của em. Vụ nổ Cortlandt của em. Anh phải để cho em làm theo cách riêng của em. Đừng hỏi em. Đừng bảo vệ em. Bất kể là em làm gì."

"Anh biết em sẽ làm gì."

"Anh biết em cần phải làm thế?"

"Anh biết."

Cô gập mạnh khuỷu tay để vung những ngón tay lên và vẩy nhẹ chúng về phía sau, như thể cô ném câu chuyện này ra sau lưng. Nó đã được giải quyết; không còn gì để bàn thêm nữa.

Cô quay người bước ngang căn phòng, để cho những bước chân tự nhiên biến nơi này thành nhà cô, để tuyên bố rằng sự hiện diện của anh là nguyên tắc của những ngày sống tiếp theo của cô và cô không cần phải làm những gì cô mong muốn nhất tại thời điểm này: đứng ngắm anh. Cô cũng biết rằng cô đang trì hoãn cái gì, bởi vì cô chưa sẵn sàng. Cô vươn tay với lấy bao thuốc trên mặt bàn.

Những ngón tay của anh nắm lấy cổ tay cô và anh kéo tay cô lại. Anh kéo cô đối diện với anh, rồi anh ôm lấy cô và môi anh áp vào môi cô. Cô biết rằng trong từng khoảnh khắc của bảy năm qua - khi cô đã luôn khao khát điều này, khi cô đã cố kìm nén nỗi đau và đã tưởng rằng cô đã chiến thắng nỗi đau ấy - những khoảnh khắc đó chưa hề trôi đi mất, chưa bao giờ dừng lại. Chúng đã sống, đã được cất giữ, đã chất chồng sự thèm khát lên trên sự thèm khát, và bây giờ cô phải tận hưởng tất cả những điều đó, cả cảm giác chạm vào thân thể anh, cả sự đáp lại của thân thể anh và sự chờ đợi thân thể anh cùng một lúc.

Cô không biết liệu kỷ luật của cô có giúp được gì không; có lẽ là không nhiều, cô nghĩ, bởi vì cô thấy anh nhấc bổng cô lên trong vòng tay của anh. Anh bế cô tới một chiếc ghế và anh ngồi xuống. Anh để cô ngồi trên đầu gối anh. Anh cười không thành tiếng, như thể anh cười nhạo một đứa trẻ; nhưng sự căng cứng trong bàn tay đang ôm cô cho thấy anh lo lắng và thận trọng. Sau đó mọi thứ dường như thật đơn giản; cô không có gì để giấu anh, cô thì thầm: "Vâng, Howard... nhiều như vậy đấy..." và anh nói: "Anh đã rất khổ sở - suốt những năm qua." Và những năm tháng đó biến mất.

Cô trượt xuống để ngồi trên sàn nhà, khuỷu tay của cô đặt lên đầu gối anh, cô ngước nhìn lên và mỉm cười, cô biết rằng cô đã không thể có cảm giác bình yên tuyệt đối như thế này trừ khi nó là phép cộng của mọi thứ tình cảm cô đã phải trải qua, là phép cộng cho tất cả sự vật lộn mà cô từng biết. "Howard... một cách tự nguyện, một cách hoàn toàn và luôn luôn... không cần điều kiện nào, không sợ hãi bất cứ điều gì mà người ta có thể gây ra cho anh hoặc em... theo bất cứ cách nào mà anh muốn... như vợ hay người tình của anh, bí mật hoặc công khai... ở đây, hay ở một căn phòng em sẽ thuê gần nhà tù nơi em sẽ nhìn anh qua hàng rào... sẽ chẳng sao cả... Howard, nếu anh thắng trong phiên tòa - thậm chí điều đó cũng chẳng quá quan trọng. Anh đã thắng từ lâu rồi... em sẽ là em, và em sẽ ở bên anh - bây giờ và mãi mãi - theo bất cứ cách nào anh muốn..."

Anh giữ tay cô trong tay anh; cô nhìn thấy bờ vai anh cúi xuống phía cô; cô thấy anh bất lực và đầu hàng khoảnh khắc này, cũng như cô - và cô biết người ta có thể thú nhận nỗi đau; nhưng để thú nhận hạnh phúc thì phải đứng trần trụi, phải hoàn toàn biến hình cho người khác nhìn; và cô biết anh và cô vẫn có thể để cho nhau nhìn thấy nó mà không cần cảm giác che chắn. Trời đang tối dần, căn phòng không còn rõ nét, chỉ còn lại cửa sổ và bờ vai anh nổi rõ trên nền trời đằng sau khung cửa.

Cô tỉnh dậy với ánh nắng lấp lánh trong mắt. Cô nằm ngửa, nhìn lên trần nhà như thể cô đang nhìn vào những chiếc lá cây. Không động đậy, không suy đoán, không săm soi mọi thứ như trước. Những hình tam giác ánh sáng bị vỡ ra trong cấu trúc nghiêng của lớp ngói làm bằng chất dẻo trên trần nhà như muốn nsoi với cô rằng buổi sáng đã bắt đầu và đây là phòng ngủ ở Monadnock; rằng hình khối của ánh nắng và của cấu trúc phía trên đầu cô là do anh thiết kế. Ánh nắng có màu trắng - có nghĩa là bây giờ vẫn còn rất sớm và những tia nắng đã xuyên qua bầu không khí trong trẻo của đồng quê; như thể không có gì chắn trong khoảng không giữa căn phòng này và mặt trời. Sức nặng của cái chăn - nặng và thân thuộc trên cơ thể trần truồng của cô - nói lên tất cả về đêm qua. Và cái làn da đang áp sát vào cánh tay cô là của Roark đang nằm ngủ bên cạnh cô.

Cô trườn ra khỏi giường. Cô đứng bên cửa sổ, hai cánh tay giơ lên cao, bám vào hai bên khung cửa. Cô nghĩ, nếu quay lại nhìn chắc cô không thấy bóng mình ở trên sàn nhà; cô có cảm giác những tia nắng xuyên thẳng qua người cô, bởi vì thân thể cô nhẹ bỗng.

Nhưng cô phải khẩn trương trước khi anh thức giấc. Cô tìm thấy bộ pyjama của anh ở trong ngăn tủ và cô khoác nó lên người. Cô đi vào phòng khách, cẩn thận đóng cửa lại đằng sau. Cô quay điện thoại và đề nghị cho gặp phòng cảnh sát ở gần đó nhất.

"Tôi là bà Gail Wynand," cô nói. "Tôi đang gọi từ nhà ông Howard Roark ở Thung lũng Monadnock. Tôi muốn báo rằng tôi đã bị mất một chiếc nhẫn sa-phia ở đây vào tối qua... Khoảng năm nghìn đô... Đó là món quà của ông Roark... Ông có thể đến đây trong vòng một giờ được không?... Xin cảm ơn."

Cô đi vào bếp, pha cà phê và đứng nhìn cuộn dây lò xo nóng đỏ lên ở dưới cái bình pha cà phê. Cô nghĩ đó là ánh sáng đẹp nhất quả đất.

Cô kéo bàn về gần cửa sổ chính trong phòng khách. Anh bước vào. Anh chiỉkhoác một cái áo ngủ dài và cười phá lên khi nhìn thấy cô trong bộ pyjama của anh. Cô nói:

"Đừng thay quần áo. Anh ngồi đi. Chúng ta sẽ ăn sáng."

Họ ăn gần xong bữa sáng thì nghe tiếng xe đỗ ở ngoài. Cô mỉm cười và đi ra mở cửa.

Có một viên cảnh sát trưởng, một phụ tá và hai phóng viên báo chí trong vùng.

"Chúc một buổi sáng tốt lành," Dominique nói. "Xin mời vào."

"Bà... Wynand?" viên cảnh sát trưởng hỏi.

"Đúng vậy. Bà Gail Wynand. Các ông vào đi. Xin mời ngồi."

Bộ pyjama lùng thùng một cách lố lăng trên người cô. Vải đen thòi ra quanh chiếc dây lưng được thắt chặt ngang eo, còn gấu tay áo chờm kín qua những ngón tay cô. Trông cô vẫn có tâấ cả sự tao nhã cố ý giống như cô vẫn trưng ra khi cô khoác lên mình những chiếc váy đẹp nhất để tiếp khách. Dường như cô là người duy nhất không cảm thấy có gì bất thường trong tình huống này.

Viên cảnh sát trưởng cầm một quyển sổ trong tay; dường như ông ta không biết làm gì với nó. Cô giúp ông ta đưa ra những câu hỏi mà người ta thường đặt trong tình huống này, và chính cô cũng trả lời chúng như một nữ phóng viên lành nghề.

"Đó là một chiếc nhẫn bạch kim có gắn một viên sa-phia hình ngôi sao. Tôi đã cởi nó ra và để nó ở đây, trên chiếc bàn này, cạnh ví của tôi, trước khi đi ngủ... Lúc đó khoảng mười giờ tối qua. Khi tôi thức dậy sáng nay, nó đã biến mất... Vâng, cửa sổ này đã mở... Không, chúng tôi không nghe thấy tiếng động gì cả... Không, không có bảo hiểm gì cả, tôi không có thời gian, ông Roark mới tặng nó cho tôi... Không, không có người phục vụ và không có khách... Vâng, các ông cứ xem quanh ngôi nhà... Phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm và bếp... Vâng, tất nhiên rồi, các ông cũng có thể đi xem luôn, thưa các quý ông. Phóng viên báo chí, có phải không nhỉ? Các ông có muốn hỏi tôi câu nào nữa không?"

Không ai hỏi thêm câu nào. Câu chuyện đã hoàn chỉnh. Các phóng viên chưa từng chứng kiến một câu chuyện như thế này, và lại được kể theo cách như thế này.

Cô không nhìn Roark sau cái liếc mắt đầu tiên về phía anh. Nhưng anh đã giữ lời. Anh không cố ngăn cô lại hoặc bảo vệ cô. Khi bị hỏi, anh trả lời, chỉ vừa đủ để củng cố những lời khai của cô.

Rồi bọn họ cũng rời đi. Họ có vẻ vui mừng được rời khỏi đó. Ngay cả viên cảnh sát trưởng cũng biết rằng ông ta không cần phải mở vụ điều tra tìm kiếm chiếc nhẫn đó.

Dominique nói:

"Em xin lỗi. Em biết là rất tệ với anh. Nhưng đó là cách duy nhất để chuyện này lên báo."

"Lẽ ra em nên nói cho anh biết chiếc nhẫn sa-phia nào của em là chiếc anh tặng."

"Em chưa bao giờ có nhẫn sa-phia. Em không thích sa-phia hình sao."

"Vụ nổ của em được tính kỹ hơn là vụ nổ Cortlandt."

"Vâng. Bây giờ thì Gail đã bị đẩy về phía mà ông ấy thuộc về. Ông ấy nghĩ anh là 'loại người vô nguyên tắc và phản xã hội' ư? Bây giờ hãy để cho ông ấy chứng kiến tờ Ngọn cờ bôi xấu em nữa. Tại sao ông ấy lại được miễn trừ điều đó nhỉ? Xin lỗi anh, Howard, em không có được sự thưuơng hại giống anh. Em đã đọc bài xã luận đó. Đừng bình luận về chuyện này. Đừng nói bất cứ điều gì về chuyện hy sinh bản thân, nếu không em sẽ gục mất... và em cũng không hoàn toàn mạnh mẽ như viên cảnh sát kia đã tưởng tượng. Em đã không làm điều đó vì anh. Em làm mọi chuyện trở nên tệ hơn cho anh - sau tất cả những gì họ đã ném vào anh, em đã lại thêm cho anh một vụ tai tiếng nữa. Nhưng, Howard, bây giờ chúng ta đứng cùng nhau - chống lại tất cả bọn họ. Anh sẽ là một tên tội phạm và em sẽ là một người đàn bà ngoại tình. Howard, anh có nhớ em đã sợ phải chia sẻ anh với những toa xe lưu động và cửa sổ nhà những người lạ. Bây giờ thì em không sợ để cho báo chí thêu dệt về câu chuyện đêm qua của chúng ta. Anh yêu, anh đã hiểu tại sao em hạnh phúc và tại sao em tự do chưa?"

Anh nói:

"Sau này anh sẽ không bao giờ nhắc em rằng bây giờ em đang khóc, Dominique."

*

* *

Vụ mất cắp, cùng với bộ pyjama, chiếc áo choàng, bàn ăn sáng và chiếc giường đơn - tất cả đã xuất hiện trên những tờ báo buổi chiều ở New York ngày hôm đó.

Alvah Scarret bước vào phòng làm việc của Wynand và ném một tờ báo xuống bàn. Scarret chưa bao giờ biết ông yêu quý Wynand đến mức nào, cho tới lúc này, và ông cảm thấy đau đớn tới mức ông chỉ có thể biểu lộ nó bằng sự giận dữ điên cuồng. Ông nghẹn lời:

"Quỷ tha ma bắt ông đi, ông là đồ ngốc! Thật đáng đời ông! Đáng đời ông và tôi rất mừng, quỷ tha ma bắt linh hồn ngu ngốc của ông đi! Bây giờ chúng ta sẽ làm gì?"

Wynand đọc câu chuyện và ngồi nhìn tờ báo. Scarret đứng trước bàn. Không có gì xảy ra cả. Chỉ là một phòng làm việc, một người ngồi ở bàn và cầm một tờ báo. Ông nhìn hai bàn tay của Wynand, mỗi tay ở một mép tờ báo. Chúng bất động. Không, ông nghĩ, thông thường một người sẽ không thể giữ tay mình như thế kia, lơ lửng trong không khí, không có gì đỡ, mà lại hoàn toàn bất động.

Wynand ngẩng đầu lên. Scarret không nhìn thấy gì trong mắt ông, ngoại trừ một chút ngạc nhiên, như thể Wynand đang tự hỏi Scarret làm gì ở đây. Sau đó, Scarret thì thầm trong sự kinh sợ:

"Gail, chúng ta sẽ phải làm gì đây?"

"Chúng ta sẽ đăng tin về vụ này," Wynand nói. "Đó là tin tức."

"Nhưng... đăng như thế nào?"

"Theo bất cứ cách nào anh muốn."

Giọng Scarret vọt ra, bởi vì ông biết rằng đây là thời điểm duy nhất bây giờ hoặc không bao giờ, ông sẽ không đủ dũng cảm để thử chuyện này một lần nữa; và bởi vì ông đã bị đóng đinh vào đây, ông sợ phải lùi về phía cửa.

"Gail, ông phải ly dị cô ta." Ông thấy mình vẫn đứng ở đó, và ông tiếp tục nói mà không nhìn vào Wynand. Ông phải gào lên để có thể nói ra: "Gail, ông không có lựa chọn nào khác. Ông phải giữ phần danh tiếng còn lại của mình! Ông phải ly dị cô ta và ông phải là người đưa đơn ra tòa!"

"Được thôi."

"Ông sẽ làm chứ? Ngay bây giờ? Ông cho phép Paul chuẩn bị hồ sơ ngay bây giờ chứ?"

"Được thôi."

Scarret đi vội ra khỏi phòng. Ông vào phòng làm việc của mình, đóng sầm cửa, chộp lấy điện thoại và gọi luật sư của Wynand. Ông giải thích và lặp đi lặp lại một câu: "Dừng tất cả mọi việc anh đang làm và chuẩn bị hồ sơ ngay lập tức, Paul, bây giờ, hôm nay, nhanh lên, Paul, trước khi ông ấy đổi ý!"

Wynand lái xe về ngôi nhà ở ngoại ô của ông. Dominique đang đợi ông ở đó.

Cô đứng lên khi ông bước vào phòng. Cô bước lại gần ông, sao cho không có đồ đạc nào chắn giữa họ; cô muốn ông nhìn thấy toàn bộ thân thể cô. Ông đứng ở bên kia khoảng trống giữa họ và ông nhìn cô như thể ông đang quan sát hai người cùng một lúc - một quan sát viên vô tư đang ngắm Dominique và một người đàn ông đứng đối mặt với cô, nhưng không phải Gail Wynand.

Cô chờ đợi, nhưng ông không nói gì.

"Thế đấy, tôi đã cho anh một câu chuyện sẽ làm tăng lượng phát hành của anh, Gail."

Ông đã nghe thấy, nhưng trông ông như thể hiện tại này chẳng có gì liên quan đến ông. Trông ông như một nhân viên ngân hàng đang cân đối tài khoản của một khách hàng xa lạ - tài khoản đó đã bị lạm chi và phải bị đóng lại. Ông nói:

"Tôi chỉ muốn biết một điều, nếu như em có thể nói cho tôi biết: đó có phải là lần đầu tiên kể từ ngày cưới của chúng ta?"

"Phải."

"Nhưng đó không phải là lần đầu tiên?"

"Đúng vậy. Anh ấy là người đàn ông đầu tiên đã có được tôi."

"Lẽ ra tôi phải hiểu điều đó. Em đã cưới Peter Keating. Ngay sau phiên toà Stoddard."

"Anh có muốn biết tất cả không? Tôi muốn kể cho anh. Tôi đã gặp anh ấy khi anh ấy đang làm việc ở một mỏ đá granit. Tại sao lại không? Anh sẽ bắt anh ấy làm việc như một tù nhân hoặc bắt anh ấy làm trong một xưởng làm đay cơ mà. Anh ấy đã không xin phép tôi. Anh ấy đã cưỡng hiếp tôi. Mọi chuyện bắt đầu như thế. Anh có muốn sử dụng chuyện đó không? Có muốn đăng nó trên tờ Ngọn cờ không?"

"Anh ta đã yêu em."

"Phải."

"Thế mà anh ta vẫn xây ngôi nhà này cho chúng ta."

"Phải."

"Đó là những gì tôi muốn biết."

Ông quay người bước đi.

"Quỷ tha ma bắt anh đi!" cô khóc. "Nếu anh có thể chấp nhận nó với thái độ này thì anh không có quyền trở thành một người như vậy!"

"Đó là lý do tại sao tôi chấp nhận nó."

Ông bước khỏi căn phòng. Ông nhẹ nhàng đóng cửa lại.

Guy Francon gọi điện cho Dominique tối hôm đó. Kể từ khi về hưu, ông ở một mình trong một căn nhà ở nông thôn, gần khu mỏ đá. Cả ngày hôm nay cô đã từ chối mọi cú điện thoại gọi đến, nhưng bây giờ cô nhấc máy lên khi người hầu báo cho cô rằng đó là ông Francon. Thay vì cơn giận dữ như cô đoán, cô nghe thấy một giọng nói nhẹ nhàng.

"Chào con, Dominique."

"Chào cha."

"Bây giờ con sẽ bỏ Wynand?"

"Vâng."

"Con không nên về sống ở thành phố. Như thế không cần thiết. Đừng cố quá. Hãy đến đây ở với cha. Cho đến... phiên tòa Corlandt."

Những điều ông đã không nói ra và giọng nói của ông, vững chắc, đơn giản và với một nốt như thể là hạnh phúc - tất cả đã khiến cho cô trả lời ông, ngay lập tức:

"Vâng, thưa cha." Đó là giọng của một cô bé, của một cô con gái, với vẻ vui tươi mang chút mệt nhọc, tin cậy và khao khát. "Con sẽ tới đó và khoảng nửa đêm. Cha chuẩn bị cho con một cốc sữa và vài miếng bánh mì kẹp thịt."

"Con nhớ đừng đi quá nhanh như mọi khi nhé. Đường sá bây giờ không được tốt lắm đâu."

Khi cô đến nơi, Guy Francon đón cô ở cửa. Cả hai cùng mỉm cười, và cô biết rằng cha cô sẽ không có câu hỏi hay là lời trách mắng nào cả. Ông đưa cô vào một phòng sưởi nắng nho nhỏ. Ông đã chuẩn bị thức ăn cho cô trên một cái bàn bên cạnh một cửa sổ để ngỏ, bên ngoài là một thảm cỏ tối. Có mùi của cỏ, của những ngọn nến trên mặt bàn, và mùi của một bó hoa nhài đặt trong một chiếc bát bạc.

Cô ngồi xuống, những ngón tay ôm quanh ly sữa lạnh. Ông ngồi ở bên kia bàn, nhẩn nha nhai một miếng bánh mì kẹp thịt một cách bình yên.

"Cha có muốn nói chuyện không?"

"Không. Cha muốn con uống sữa và đi ngủ."

"Vâng."

Ông cầm một quả ô-liu và tỉ mẩn quan sát nó, ông quay tròn nó trên một cái tăm xỉa răng có phết màu. Rồi ông ngước lên nhìn cô.

"Nghe này, Dominique. Cha sẽ không cố hiểu tất cả mọi thứ. Nhưng cha biết điều này - cha biết chuyện đó tốt cho con. Lần này, đó là người đàn ông đích thực của con."

"Vâng, thưa cha."

"Đó là lý do tại sao cha rất vui."

Cô gật đầu.

"Hãy nói với cậu Roark rằng cậu ấy có thể đến đây bất cứ khi nào cậu ấy muốn."

Cô mỉm cười. "Nói với ai hả cha?"

"Nói với... Howard."

Cánh tay cô đặt trên mặt bàn; đầu cô gục lên cánh tay. Ông nhìn mái tóc vàng của cô dưới ánh nến. Cô nói, bởi vì kiểm soát giọng nói dễ hơn những thứ khác:

"Đừng để con ngủ gật ở đây. Con mệt rồi."

Nhưng ông lại trả lời:

"Cậu ấy sẽ được trắng án, Dominique."

*

* *

Hàng ngày người ta đem tất cả những tờ báo ở New York đến phòng làm việc của Wynand, đúng như mệnh lệnh của ông. Ông đọc từng từ mà người ta đã viết, đã thì thầm với nhau trong thành phố này. Tất cả mọi người đều biết câu chuyện đã được dựng lên; một bà vợ của một nhà triệu phú không đời nào báo mất một chiếc nhẫn trị giá năm ngàn; nhưng điều này không làm cho mọi người ta chối bỏ câu chuyện và đưa ra những lời bình phẩm. Những lời bình phẩm ác ý nhất lại xuất hiện khắp nơi trên tờ Ngọn cờ.

Alvah Scarret đã tìm được cho mình một cuộc thánh chiến mà ông có thể xả thân với lòng nhiệt tình chân thành nhất ông từng biết đến. Ông cảm thấy đây chính là cách ông chuộc lỗi cho những thời điểm mà ông đã không trung thành với Wynand. Ông tìm thấy cách để khôi phục lại tên tuổi chô Wynand. Ông lên kế hoạch để lăng-xê hình ảnh Wynand như nạn nhân của một tình yêu lớn dành cho một người đàn bà lăng loàn. Ông tuyên bố chính Dominique đã ép chồng bênh vực cho một vụ việc vô đạo đức, bất chấp quan điểm của Wynand; cô gần như đã làm hỏng tờ báo của chồng, làm hỏng vị trí, danh tiếng và thành tựu cả đời ông - chỉ để phục vụ cho lợi ích của người tình. Scarret cầu xin bạn đọc hãy tha thứ cho Wynand - và ông viện dẫn một tình yêu bi kịch và đầy tính hy sinh cho lời bào chữa. Trong sự tính toán của Scarret, đây sẽ là một phép nghịch đảo: mỗi một tính từ xấu xa ông ném vào Dominique sẽ tạo nên một sự đồng cảm, chia sẻ của độc giả với Wynand, nó cũng hợp với khả năng bôi nhọ tuyệt vời của Scarret. Chiến dịch của ông đã có kết quả. Công luận đã có phản ứng, đặc biệt là những độc giả nữ đứng tuổi của tờ Ngọn cờ. Nó cũng giúp cho quá trình phục hồi số lượng phát hành vốn đang diễn ra một cách chậm chạp và khó nhọc của tờ Ngọn cờ.

Người ta bắt đầu gửi thư đến tòa soạn; thư đầy những lời chia buồn hào phóng, và những lời chửi bới không thương tiếc với Dominique Francon. "Lại như những ngày trước, Gail," Scarret nói hào hứng, "giống hệt như những ngày trước!" Ông xếp tất cả những lá thư đó thành một chồng trên bàn làm việc của Wynand.

Wynand ngồi một mình trong phòng làm việc với những lá thư. Scarret không biết rằng đó là sự chịu đựng kinh khủng nhất mà Gail Wynand từng trải qua. Ông tự ép mình phải đọc tất cả những lá thư. Dominique, người mà ông đã cố cứu khỏi tờ Ngọn cờ...

Khi họ gặp nhau trong tòa nhà, Scarret nhìn ông chờ đợi, với một nụ cười nửa chừng đầy vẻ khẩn khoản và chăm chú, giống như một học sinh đợi được thầy giáo khen ngợi vì đã hiểu bài và làm bài tập đầy đủ. Wynand không nói gì cả. Một lần Scarret thử đánh liều:

"Rất khéo, phải không Gail?"

"Phải."

"Ông có ý tưởng gì thêm về vắt sữa vụ này không?"

"Đó là việc của anh, Alvah."

"Cô ta chính là nguyên nhân mọi chuyện, Gail. Từ lâu rồi, từ trước khi xảy ra chuyện này. Khi ôahới cô ta. Tôi đã rất sợ hãi. Đó là sự khởi đầu. Ông còn nhớ khi ông không cho phép chúng tôi đăng tin về đám cưới của ông không? Đó là một dấu hiệu. Cô ta đã phá hỏng tờ Ngọn cờ. Nhưng thề có Chúa là tôi sẽ xây lại tờ báo, ngay bây giờ, trên thân xác của cô ta. Sẽ đúng như cũ. Tờ Ngọn cờ của chúng ta."

"Phải."

"Ông có gợi ý gì không, Gail? Ông có muốn tôi làm gì nữa không?"

"Cứ làm bất cứ điều gì anh muốn, Alvah."

XVIII.

Có một cành cây lơ lửng bên ngoài ô cửa sổ đang mở. Những chiếc lá lao xao trên nền trời. Chúng gợi ý về sự tồn tại của mặt trời, của mùa hè và cả trái đất vô tận. Dominique nghĩ về thế giới như một cái nền. Wynand nghĩ đến hai bàn tay đang uốn cong một cành cây để giải thích ý nghĩa của cuộc sống. Những chiếc lá rủ xuống, chạm vào những nóc nhà nhô lên trên đường chân trời của New York, phía bên kia dòng sông. Những tòa nhà chọc trời đứng như những cột nắng mặt trời thẳng đứng; khoảng cách và trời hè bao phủ chúng bằng một màu trắng xóa. Đám đông ngồi chật kín phòng xét xử. Họ đang chứng kiến phiên tòa xử Howard Roark.

Roark ngồi ở bàn bị cáo. Anh bình thản lắng nghe.

Dominique ngồi ở hàng ghế thứ ba trong dãy ghế cho người quan sát. Khi nhìn cô, mọi người có cảm giác đã nhìn thấy một nụ cười. Cô không cười. Cô đang nhìn vào những chiếc lá bên ô cửa sổ.

Wynand ngồi ở cuối phòng. Ông đã bước vào, một mình, khi căn phòng đã chật kín. Ông không để ý đến những cái nhìn soi mói và những ánh đèn lóe sáng ở xung quanh. Ông đứng lại trên lối đi và xem xét toàn bộ phòng xử án như thể việc đó là hiển nhiên. Ông mặc một bộ trang phục mùa hè màu xám và đội một chiếc mũ panama - vành mũ vểnh lên một bên. Mắt ông lướt qua Dominique cũng dửng dưng như khi ông nhìn lướt cả phòng. Khi ông ngồi xuống, ông nhìn Roark. Kể từ khi Wynand bước vào, Roark liên tục đưa mắt nhìn về phía ông. Mỗi khi Roark nhìn ông, Wynand lại quay mặt đi.

"Động cơ mà chính quyền định chứng minh" - công tố viên đang phát biểu khai mạc trước bồi thẩm đoàn - "vượt khỏi những gì con người có thể cảm nhận. Đối với hầu hết chúng ta, động cơ đó thật khủng khiếp và khó hiểu."

Dominique ngồi cùng với Mallory, Heller, Lansing, Enright, Mike - và cả Guy Francon - bạn bè của ông rất sốc khi nhận ra điều đó. Ở bên kia lối đi, những nhân vật nổi tiếng ngồi thành một đội hình sao chổi: chóp nhỏ của ngôi sao chổi là Ellsworth Toohey - lúc này đang ngồi trên đầu phòng xử án; đuôi của nó gồm toàn những tên tuổi nổi tiếng - lúc này ngồi rải rác khắp phòng: Lois Cook, Gordon L.Prescott, Gus Webb, Lancelot Clokey, Ike, Jules Foughler, Sally Brent, Homer Slottern, Mitchel Layton.

"Hơn thế, cũng giống như thuốc nổ phá hủy một tòa nhà, động cơ của anh ta đã phá hủy toàn bộ tính người trong tâm hồn anh ta. Chúng ta đang đối mặt, thưa bồi thẩm đoàn, với một loại thuốc nổ nguy hiểm nhất thế giới này - đó là một kẻ vị kỷ!"

Đám đông ngồi trên ghế, đứng cạnh cửa sổ, trên lối đi, dựa lưng vào tường. Họ trộn lẫn vào nhau thành một viên đá nguyên khối, chỉ hở ra những gương mặt hình bầu dục xanh xao. Những gương mặt nổi lên, tách rời nhau, cô đơn và không có khuôn mặt nào giống khuôn mặt nào. Đằng sau mỗi gương mặt là những năm tháng của một cuộc đời đã bị sống hết hoặc trôi qua một nửa; là nỗ lực, là hy vọng và một cố gắng sống - dù trung thực hay giả dối - nhưng vẫn là một cố gắng. Tất cả các gương mặt đều có một dấu hiệu chung. Dấu hiệu ấy hiển hiện trên những đôi môi đang nở những nụ cười hiểm ác; trên những đôi môi trề ra chối bỏ, và trên những đôi môi mím chặt với vẻ đức hạnh ngập ngừng. Dấu hiệu ấy là sự chịu đựng.

"... Ngày nay, thế giới đang bị chia rẽ bởi những vấn đề to lớn và mọi người đều đang phải đi tìm câu trả lời cho những vấn đề sống còn của loài người. Thế mà người đàn ông này lại coi cái quan điểm nghệ thuật mơ hồ và không thiết yếu của anh ta như thứ quan trọng nhất. Anh ta biến nó thành đam mê duy nhất và thành động cơ của một tội ác chống lại xã hội."

Người ta đến đây để chứng kiến một phiên tòa giật gân, để gặp những người nổi tiếng, để có tư liệu cho những câu chuyện phiếm, để xuất hiện trước đám đông, để giết thời gian. Rồi họ sẽ trở về với những công việc bất đắc dĩ, những gia đình thiếu tình yêu thương, những đám bạn đủ hạng, những phòng tiếp khách, những dạ phục, những ly cocktail và những bộ phim. Họ sẽ quay lại với những nỗi đau không dám thừa nhận, những hy vọng đã bị giết chết, những khát vọng bị bỏ rơi lặng lẽ trước một con đường chưa có ai đi. Họ sẽ quay lại với những ngày tháng nỗ lực không phải để nghĩ, để nói, mà để quên, để nhượng bộ và bỏ cuộc. Nhưng mỗi người trong đám đông đó đều đã biết đến một vài khoảnh khắc không thể quên trong đời họ - một buổi sáng yên bình, một khúc nhạc bất ngờ nghe thấy và không bao giờ được nghe lại đúng như thế, một gương mặt xa lạ trên xe buýt - những khoảnh khắc khi mỗi người trong họ ý thức được một ý nghĩa khác của cuộc sống. Thế rồi trong một đêm mất ngủ, trong một buổi chiều mưa dai dẳng, trong nhà thờ, trong một khu phố vắng vẻ lúc hoàng hôn, họ lại nhớ đến những khoảnh khắc khác; mặc dù mỗi người đều đã hỏi vì sao có quá nhiều khổ đau và những thứ xấu xa trên thế giới này. Họ đã không cố thử tìm câu trả lời và họ đã tiếp tục sống như thể không cần phải có câu trả lời. Nhưng mỗi người đều đã biết đến một khoảnh khắc, khi mà, trong sự trung thực cô đơn và trần trụi, họ đã từng cảm thấy cần phải có câu trả lời.

"... một kẻ vị kỷ nhẫn tâm và cao ngạo, kẻ muốn được theo ý mình bằng mọi giá..."

Có mười hai người trong bồi thẩm đoàn. Họ lắng nghe, gương mặt của họ chăm chú và vô cảm. Người ta đã thầm thì với nhau rằng đó là một bồi thẩm đoàn khó tính. Có hai quan chức thuộc ngành công nghiệp, hai kỹ sư, một nhà toán học, một người lái xe tải, một thợ xây, một thợ điện, một người làm vườn và ba công nhân. Việc lựa chọn thành viên cho bồi thẩm đoàn mất khá nhiều thời gian. Roark đã từ chối rất nhiều hội thẩm dự khuyết. Anh đã chọn mười hai người này. Công tố viên đã đồng ý. Ông tự nhủ đây chính là lỗi thường gặp khi một người không trong nghề tự đứng ra bào chữa cho mình; một luật sư hẳn sẽ chọn những người hiền lành nhất vì họ sẽ mủi lòng khi được cầu xin; còn Roark đã chọn những người cứng rắn nhất.

"... Nếu đó là biệt thự của một nhà tài phiệt nào đó thì đã đành, đằng này nó là một dự án nhà ở, thưa bồi thẩm đoàn, một dự án nhà ở cho dân thường!"

Quan tòa ngồi trên một chiếc ghế bành khá cao. Ông có mái tóc hoa râm và vẻ mặt nghiêm khắc của một sĩ quan quân đội.

"... một người vốn được đào tạo để phục vụ xã hội, một người xây dựng lại trở thành một kẻ phá hủy..."

Giọng nói đó tiếp tục vang lên, thành thạo và tự tin. Những gương mặt trong phòng lắng nghe với phản ứng mà họ thường dành cho một bữa tối ngon miệng trong tuần: thỏa mãn và sẽ quên trong vòng một giờ. Họ đồng ý với từng câu một: họ đã nghe thấy chúng trước đó, họ đã luôn nghe thấy chúng, thế giới này sống được nhờ những điều đó, nó quá hiển nhiên - như việc phải bước qua một vũng bùn.

Công tố viên giới thiệu những nhân chứng. Viên cảnh sát đã bắt được Roark tại hiện trường lên bục nhân chứng và kể lại việc ông ta đã tìm thấy bị cáo đang đứng cạnh pít-tông kích nổ. Người trực đêm kể lại việc ông ta đã được sai rời khỏi hiện trường; lời khai của ông rất ngắn gọn; công tố viên không muốn tập trung vào Dominique. Người giám sát công trường làm chứng về việc mất thuốc nổ ở trong kho. Những quan chức trong dự án Cortlandt, những thanh tra xây dựng, và các thẩm định lên bục nhân chứng để mô tả lại tòa nhà và mức độ thiệt hại. Đó là ngày đầu tiên của phiên tòa.

Peter Keating là nhân chứng đầu tiên được gọi lên trong ngày thứ hai.

Anh ngồi ở ghế dành cho người làm chứng, người sụm về phía trước. Anh ngoan ngoãn ngồi nhìn công tố viên. Thỉnh thoảng anh lại đảo mắt. Anh nhìn vào đám đông, vào bồi thẩm đoàn, vào Roark. Ánh mắt anh không hề thay đổi.

"Ông Keating, ông có tuyên thệ trước tòa rằng ông đã thiết kế dự án Cortlandt không?"

"Không. Tôi đã không làm việc đó."

"Ai đã thiết kế nó?"

"Howard Roark."

"Theo yêu cầu của ai?"

"Theo yêu cầu của tôi."

"Tại sao ông lại yêu cầu ông ta làm việc đó?"

"Bởi vì tôi không có khả năng tự làm việc đó."

Giọng nói ấy không có vẻ trung thực; bởi vì nó không hề biểu hiện nỗ lực phải nói ra một sự thật như thế này. Giọng nói ấy không có bóng dsang của sự thật hay của dối trá; nó chỉ có sự dửng dưng.

Công tố viên đưa cho anh một tờ giấy. "Có phải đây là bản thỏa thuận mà anh đã ký?"

Keating giữ tờ giấy trong tay và nói: "Vâng".

"Đó có phải là chữ ký của Howard Roark?"

"Vâng."

"Xin ông đọc to những điều khoản trong bản thỏa thuận này cho bồi thẩm đoàn nghe."

Keating đọc to bản thỏa thuận. Giọng của anh phát ra đều đều, thành thục. Không ai trong phòng nhận ra mục đích ban đầu của việc làm chứng này là để tạo ra một sự giật gân. Không phải một kiến trúc sư nổi tiếng đang công khai thú nhận sự bất tài của mình; chỉ là một ai đó đang đọc một bài đọc thuộc lòng. Người ta có cảm giác, nếu bị ngắt lời, anh ta sẽ không thể đọc nổi câu tiếp theo; anh ta sẽ phải đọc lại từ đầu.

Anh trả lời rất nhiều câu hỏi. Công tố viên đưa ra bản vẽ gốc công trình Cortlandt mà Roark đã vẽ và đưa cho Keating; rồi những bản chép lại của Keating và những bức ảnh chụp tòa nhà Cortlandt trong lúc đang thi công.

"Tại sao ông lại kịch liệt phản đối những thay đổi cấu trúc tuyệt vời do ông Prescott và ông Webb gợi ý?"

"Bởi vì tôi sợ Howard Roark."

"Điều gì trong tính cách của ông ta đã khiến cho ông có suy nghĩ như vậy?"

"Mọi điều."

"Ý ông là gì?"

"Tôi không biết. Tôi đã sợ hãi. Tôi đã từng sợ hãi."

Những câu hỏi cứ thế tiếp diễn. Câu chuyện không bình thường, nhưng cái mà người nghe cảm thấy chỉ là sự tẻ nhạt. Nó không giống lời tường thuật của một người trong cuộc. Những nhân chứng khác dường như còn có nhiều liên hệ cá nhân với vụ việc hơn Keating.

Khi Keating rời bục nhân chứng, những người trong phòng xử án có một ấn tượng kỳ lạ rằng việc một người rời khỏi phòng không hề làm căn phòng thay đổi; như thể không hề có một cá thể người vừa đi khỏi.

"Bên công tố nghỉ," luật sư của hạt nói.

Quan tòa nhìn Roark.

"Tiến lên," ông nói. Giọng ông nhẹ nhàng.

Roark đứng dậy. "Thưa quan tòa, tôi sẽ không gọi nhân chứng. Đây là lời chứng và cũng là lập luận của tôi."

"Hãy tuyên thệ."

Roark tuyên thệ. Anh đứng cạnh bậc thang dẫn tới bục nhân chứng. Người ta nhìn anh. Họ nghĩ anh không có cơ hội thoát tội. Họ có thể rũ bỏ cảm giác phẫn nộ không tên - cái cảm giác bất an mà anh đã gây cho hầu hết họ. Và do đó, lần đầu tiên họ có thể nhìn rõ con người anh: một người hoàn toàn không biết đến sợ hãi.

Nỗi sợ mà họ nghĩ đến không phải là nỗi sợ thông thường. Nó không phải là phản ứng trước một hiểm nguy hữu hình nào đó. Nó là một nỗi sợ kinh niên và không được thú nhận. Họ sống trong nỗi sợ đó. Họ nhớ tới những khoảnh khắc khốn khổ khi mà, trong nỗi cô đơn, họ nghĩ tới những từ ngữ lạc quan lẽ ra họ đã có thể nói, những họ dã không tìm thấy những từ ngữ đó và họ căm thù những người đã đánh cắp lòng dũng cảm khỏi họ. Họ nhớ tới nỗi khổ khi trong thâm tâm, họ biết về sức mạnh và khả năng của bản thân, nhưng rồi đã để cho sức mạnh và khả năng ấy phí hoài. Chúng là những giấc mơ? Hay sự hoang tưởng về bản thân? Hay là một hiện thực bị giết chết từ trong trứng, bị giết bởi những tình cảm mòn mỏi không tên - sự sợ hãi - sự cần đến - sự phụ thuộc - sự căm thù?

Roark đứng trước họ như mỗi con người đứng một cách hoàn toàn trong sạch trong tâm trí mình. Nhưng Roark đứng như thế trước một đám đông thù địch - và họ chợt nhận ra rằng anh không hề biết đến sự căm thù. Trong một khoảnh khắc, họ hiểu được ý thức sống của anh. Và mỗi người trong họ tự hỏi: liệu ta có cần phải được bất cứ ai chấp nhận? - điều đó có quan trọng không? - ta có bắt buộc phải thế không? Và trong khoảnh khắc đó, mỗi người trong số họ trở nên tự do - tự do đủ để có cảm giác yêu quý đối với tất cả những người khác trong phòng.

Nó chỉ là một khoảnh khắc - khoảnh khắc im lặng khi Roark chuẩn bị cất tiếng.

"Hàng ngàn năm trước đây, có một người lần đầu tiên tìm ra cách tạo ra lửa. Người đó có lẽ đã bị thiêu sống bằng chính ngọn lửa mà anh ta dạy những người anh em của mình cách thắp lên. Anh ta bị coi là một kẻ xấu vì đã có quan hệ với ma quỷ, thứ mà loài người luôn khiếp sợ. Nhưng từ đó trở đi, loài người có lửa để giữ ấm, để nấu nướng, để thắp sáng trong hang động. Anh ta đã để lại cho họ một món quà mà họ từng không hiểu và anh ta đã xua bóng tối ra khỏi trái đất này. Nhiều thế kỷ sau, có một người lần đầu tiên tạo ra cái bánh xe. Người đó có lẽ đã tan xác dưới những bánh xe mà anh ta dạy những người anh em của mình cách làm. Anh ta bị coi là một kẻ phạm tội vì đã mạo hiểm vào vùng đất cấm. Nhưng từ đó trở đi, loài người có thể đi tới mọi chân trời. Anh ta đã để lại cho họ một món quà mà họ đã không hiểu và anh ta đã mở những con đường trên mặt đất.

"Những người đó - những người không chịu phục tùng và luôn đi đầu - đứng ở chương mở đầu của tất cả những truyền thuyết mà loài người ghi lại về thủa sơ khai. Promete đã bị xích vào một tảng đá và bị những con kền kền xé xác - bởi vì anh đã ăn cắp ngọn lửa của những vị chúa trời. Adam bị buộc phải chịu đau khổ - bởi vì anh ta đã ăn quả cấm trên cây thiện-ác. Dù truyền thuyết gì đi chăng nữa, ở sâu trong trí nhớ, loài người biết rằng vinh quanh của chúng ta đã bắt đầu từ một cá nhân và cá nhân đó đã phải trả giá cho lòng dũng cảm của mình.

"Trong những thế kỷ qua, đã có những người đặt bước chân đầu tiên của họ trên những con đường mới; họ không được trang bị vũ khí gì ngoài tầm nhìn của riêng họ. Họ có mục đích khác nhau, nhưng tất cả đều có một số điều chung: bước chân của họ là bước chân đầu tiên, con đường của họ là con đường hoàn toàn mới, nhãn quan của họ không hề do vay mượn, và phản ứng mà họ nhận được luôn là sự căm ghét. Những nhà phát minh vĩ đại - những nhà tư tưởng, những nghệ sĩ, những nhà khoa học, những nhà sáng chế - đều phải đơn độc chống lại những người cùng thời với họ. Tất cả những ý tưởng mới và vĩ đại đều bị chống đối kịch liệt. Tất cả những phát minh mới và vĩ đại đều bị lên án. Đông cơ máy đầu tiên bị coi là ngu xuẩn. Chiếc máy bay đầu tiên bị coi là không tưởng. Chiếc máy dệt đầu tiên đã bị coi là ác quỷ. Việc gây mê bị coi là tội lỗi. Nhưng những người đó, với tầm nhìn không vay mượn, vẫn tiếp tục tiến lên. Họ đã chiến đấu, họ đã đau khổ và họ đã phải trả giá. Nhưng họ đã chiến thắng.

"Một người sáng tạo không bao giờ bị thôi thúc bởi khát vọng phục vụ đồng loại của anh ta, bởi vì chính đồng loại của anh ta luôn chối bỏ món anh ta đem tặng họ; đồng thời món quà đó phá hủy cuộc sống bình thường của anh. Anh sáng tạo vì động cơ duy nhất: chân lý. Chân lý của riêng anh, và lao động của riêng anh để đạt tới chân lý theo cách riêng của anh. Mục đích và cuộc đời anh ta nằm ở một bản giao hưởng, một quyển sách, một cỗ máy, một trường phái triết học, một cái máy bay hay một tòa nhà. Nó không nằm ở người nghe nhạc, người đọc sách, người vận hành máy, người đi theo trường phái triết học, người đi máy bay hay người sống trong ngôi nhà mà anh ta tạo ra. Sự sáng tạo, chứ không phải những lợi ích mà người khác được hưởng từ sự sáng tạo ấy. Sáng tạo là cách anh ta thể hiện chân lý của mình. Anh ta đặt chân lý này lên bên trên mọi thứ, bất chấp tất cả loài người.

"Tầm nhìn, sức mạnh, và lòng dũng cảm của anh ta đến từ linh hồn của anh ta. Tuy nhiên, linh hồn của một người lại chính là cái tôi của anh ta. Cái tôi là thực thể làm công việc nhận thức. Cái tôi có chức năng tư duy, cảm giác, đánh giá và hành động.

"Những người sáng tạo luôn là những người có cái tôi. Cái tôi chính là toàn bộ bí mật về sức mạnh của họ - cái tôi ấy đầy đủ trong bản thân nó, tự vận động trong bản thân nó, và tự tái tạo trong bản thân nó. Cái tôi là nguyên nhân đầu tiên, là nguồn năng lượng, là động lực sống, là cội rễ của tất cả. Người sáng tạo không phục vụ cái gì và không phục vụ bất cứ ai khác. Anh ta sống vì chính bản thân mình.

"Và chỉ có bằng cách sống vì bản thân, anh ta mới có thể đạt được những thành tựu vinh quang của loài người. Đó chính là bản chất của sự thành công...

"Loài người có thể tồn tại nhờ trí tụê của mình. Loài người đến trái đất mà không được trang bị vũ khí nào. Bộ óc là thứ vũ khí duy nhất của họ. Động vật kiếm thức ăn bằng sức mạnh cơ bắp. Loài người không có móng vuốt, không có răng nanh, không có sừng; họ cũng không có sức mạnh cơ bắp vượt trội. Loài người phải tự trồng trọt hoặc săn bắn để có thức ăn. Để trồng trọt, họ phải có một quá trình tư duy. Để săn, họ cần có vũ khí, và để làm ra vũ khí - họ cũng cần một quá trình tư duy. Từ nhu cầu đơn giản nhất này cho đến nhưng khái niệm tôn giáo trừu tượng nhất, từ cái bánh xe cho đến tòa nhà chọc trời, tất cả những gì con người đại diện và tất cả những gì con người có đều đến từ một thuộc tính đơn nhất của con người - đó là chức năng tư duy của bộ óc.

"Nhưng bộ óc lại thuộc về cá nhân. Không có cái gọi là bộ óc tập thể. Không có cái gọi là một ý nghĩ tập thể. Một thỏa thuận do một nhóm người đạt được thực ra chỉ là một thỏa hiệp hoặc là giá trị trung bình rút ra từ những ý nghĩ cá nhân. Đó chỉ là một hệ quả có tính phát sinh. Hành động chủ yếu, tức là quá trình tư duy - phải do mỗi cá nhân thực hiện độc lập. Chúng ta có thể chia một bữa ăn cho nhiều người. Nhưng chúng ta không thể tiêu hóa nó trong một cái dạ dày tập thể. Không ai có thể sử dụng phổi của mình để thở cho người khác. Không ai có thể sử dụng bộ não của mình để nghĩ hộ kẻ khác. Tất cả mọi chức năng của thể xác và linh hồn đều có tính cá nhân. Chúng không thể bị chia sẻ hoặc chuyển giao cho người khác.

"Chúng ta thừa kế những sản phẩm tư duy của người khác. Chúng ta kế thừa cái bánh xe. Chúng ta tạo ra một chiếc xe ngựa. Xe ngựa thô sơ trở thành xe ô-tô. Ô-tô trở thành máy bay. Nhưng trong suốt quá trình đó, những gì chúng ta nhận được từ người khác chỉ là sản phẩm cuối cùng trong quá trình tư duy của họ. Cái động cơ thúc đẩy quá rình này chính là khả năng sáng tạo, nhờ nó mà chúng ta lấy những sản phẩm cuối cùng kia làm nguyên liệu để sử dụng và sáng tạo ra sản phẩm mới. Khả năng sáng tạo này không thể đem cho hoặc nhận, không thể chia sẻ hoặc vay mượn. Nó thuộc về các cá thể người đơn lẻ. Khả năng sáng tạo là tài sản của người sáng tạo. Loài người có thể học lẫn nhau. Nhưng học luôn chỉ là sự trao đổi nguyên vật liệu. Không ai có thể cho ai khả năng tư duy. Và khả năng tư duy ấy lại là phương tiện duy nhất giúp chúng ta tồn tại.

"Loài người không được cho sẵn bất cứ cái gì trên mặt đất này. Tất cả những gì anh ta cần - anh ta phải làm ra chúng. Và ở đây loài người đối mặt với sự lựa chọn cơ bản nhất của mình: anh ta chỉ có thể tồn tại được theo một trong hai cách - bằng cách làm việc độc lập với bộ óc của riêng anh ta, hay là trở thành một kẻ ăn bám sống nhờ bộ óc của những người khác. Người sáng tạo chọn cách thứ nhất. Kẻ ăn bám thì chọn cách thứ hai. Người sáng tạo một mình đối mặt với tự nhiên. Kẻ ăn bám đối mặt với tự nhiên thông qua những trung gian.

"Mối quan tâm của người sáng tạo là chinh phục tự nhiên. Còn mối quan tâm của kẻ ăn bám là chinh phục con người.

"Người sáng tạo sống với lao động của mình. Anh ta không cần ai khác. Mục đích cơ bản của anh ta là chính bản thân anh. Kẻ ăn bám sống cuộc đời thứ cấp. Anh ta cần những người khác. Những người khác trở thành động lực chính của anh ta.

"Nhu cầu cơ bản của người sáng tạo là sự độc lập. Một bộ óc biết tư duy không thể hoạt động dưới sự cưỡng bức theo bất cứ hình thức nào. Nó không thể bị đóng yên cương, không thể hy sinh hay khuất phục trước bất cứ điều gì. Nó đòi hỏi sự độc lập tuyệt đối trong cả chức năng và động cơ. Đối với một người sáng tạo, tất cả những mối quan hệ với con người đều là thứ yếu.

"Nhu cầu cơ bản của một kẻ thứ sinh là củng cố quan hệ của anh ta với mọi người để được họ nuôi sống. Anh ta đặt quan hệ lên trên hết. Anh ta tuyên bố rằng loài người tồn tại là để phục vụ người khác. Anh ta rao giảng về chủ nghĩa vị nhân sinh."

"Vị nhân sinh là học thuyết đòi hỏi con người phải sống vì người khác và đặt những người khác lên trên bản thân mình.

"Không ai có thể sống vì người khác. Một người không thể chia sẻ linh hồn anh ta, cũng giống như anh ta không thể chia sẻ thể xác của anh ta. Nhưng những kẻ sống thứ sinh đã lợi dụng chủ nghĩa vị nhân sinh như một thứ vũ khí để lợi dụng và đảo ngược lại những nguyên tắc đạo đức cơ bản của loài người. Loài người đã được dạy dỗ tất cả những giới luật để phá hủy người sáng tạo. Loài người đã được dạy dỗ rằng phụ thuộc lẫn nhau chính là một đức hạnh.

"Một người cố gắng sống vì người khác là một người luôn lệ thuộc. Anh ta là một kẻ ăn bám trong động cơ của mình, và anh ta cũng biến những người mà anh ta phục vụ thành những kẻ ăn bám. Mối quan hệ này chẳng tạo ra cái gì khác ngoài sự suy đồi cho cả hai bên. Cái gần nhất với quan hệ này trong thực tế chính là chế độ nô lệ. Chế độ nô lệ về mặt thể xác là đáng ghê tởm, thì nô lệ về tinh thần còn ghê tởm đến mức nào? Kẻ bị buộc làm nô lệ vẫn còn có chút danh dự. Vì anh ta còn dám chống lại chế độ nô lê và coi nó là xấu xa. Còn những người tự biến bản thân thành nô lệ nhân danh tình yêu thương - họ là những sinh vật thấp hèn. Họ đã hạ thấp phẩm giá con người và hạ thấp khái niệm tình yêu thương. Thế mà dây chính là cốt lõi của chủ nghĩa vị nhân sinh.

"Loài người đã được dạy dỗ rằng đức tính tốt đẹp nhất không phải là đạt được một cái gì đó mà là cho đi một cái gì đó. Nhưng một người không thể cho đi những gì mà anh ta không tạo ra. Đầu tiên phải có sáng tạo, sau đó mới là phân phối, nếu không thì chẳng có gì để phân phối cả. Phải có người sáng tạo trướck hi có những người hưởng lợi từ sự sáng tạo. Thế mà chúng ta lại được dạy dỗ để ngưỡng mộ những kẻ sống thứ sinh - những kẻ phân phát những món quà mà họ không tạo ra; chúng ta được dạy để xếp họ lên trên những người đã sản sinh ra những món quà đó. Chúng ta ca ngợi công việc từ thiện. Nhưng chúng ta lại nhún vai coi khinh những nỗ lực để thành công.

"Loài người đã được dạy dỗ rằng mối quan tâm đầu tiên của họ là giúp cho người khác bớt khổ đau. Nhưng khổ đau là một căn bệnh. Chỉ khi có người bị bệnh thì mới cần có người đến để giúp giảm bớt sự đau đớn. Còn nếu chúng ta biến việc giảm khổ đau thành phép thử lớn nhất của đức hạnh thì chúng ta đã biến khổ đau thành một thứ quan trọng nhất trong cuộc sống. Do vậy người ta sẽ mong muốn được nhìn thấy những người khác đau khổ - để người ta có thể trở thành người đức hạnh. Đó chính là bản chất của chủ nghĩa vị nhân sinh. Trong khi đó, người sáng tạo không quan tâm đến bệnh tật, họ quan tâm đến cuộc sống. Nhưng công việc của người sáng tạo lại giúp loại bỏ hết bệnh này đến bệnh khác, cả bệnh tật của thể xác lẫn bệnh tật của tâm hồn. Thành quả của họ giúp giảm nhẹ khổ đau nhiều hơn bất cứ một người theo chủ nghĩa vị nhân sinh nào có thể làm.

"Loài người đã được dạy dỗ rằng đồng tình với người khác là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn bất đồng. Loài người đã được dạy dỗ rằng bơi theo dòng nước là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo luôn bơi ngược dòng. Loài người đã được dạy dỗ rằng đứng tụ tập bên nhau là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn là người đứng một mình.

"Loài người đã được dạy dỗ rằng cái tôi đồng nghĩa với sự xấu xa, và việc không-có-cái-tôi là đức hạnh lý tưởng. Nhưng người sáng tạo là người vị kỷ theo nghĩa tuyệt đối, còn người không có cái tôi là kẻ không tư duy, không cảm nhận, không đánh giá và khbn ông hành động. Bởi vì tư duy, cảm nhận, đánh giá và hành động là những chức năng của cái tôi.

"Đây là chỗ mà sự đánh tráo khái niệm này có tác hại khủng khiếp nhất. Sự đánh tráo này đưa con người đến chỗ không có lựa chọn - và không có tự do. Thay vì hai thái cực tốt và xấu, chúng ta chỉ còn hai khái niệm: vị kỷ hay vị nhân sinh. Sự vị kỷ bị coi là hy sinh những người khác cho bản thân mình. Còn vị nhân sinh trở thành hy sinh thân mình vì những người khác. Điều này đã vĩnh viễn trói một người vào những người khác và khiến cho anh ta không còn lựa chọn nào khác ngoài sự đau khổ: sự đau khổ mà anh ta phải mang vác để thỏa mãn người khác và sự đau khổ mà anh ta gây ra cho người khác để thỏa mãn bản thân anh ta. Đến khi người ta thêm vào một điều khoản - rằng con người phải tìm kiếm niềm vui trong việc hy sinh bản thân thì cái bẫy đã hoàn toàn sập xuống. Con người bị ép phải coi khổ dâm là lý tưởng - vì nếu không, họ chỉ còn một lựa chọn là bạo dâm. Đây là vụ lừa đảo lớn nhất mà loài người đã thực hiện.

"Đây chính là công cụ mà theo đó sự phụ thuộc và khổ đau được duy trì như nền tảng của cuộc sống.

"Sự lựa chọn mà chúng ta phải có không phải là giữa hy sinh bản thân và hy sinh người khác. Sự lựa chọn phải là giữa sống độc lập và sống lệ thuộc. Giữa nguyên tắc sống của người sáng tạo với nguyên tắc sống của những kẻ thứ sinh. Đây chính là vấn đề cơ bản. Nó là lựa chọn giữa sống và chết. Nguyên tắc sống của người sáng tạo được xây dựng trên những nhu cầu của một bộ óc biết tư duy và do đó giúp con người tồn tại được. Nguyên tắc sống của nhưng kẻ thứ sinh được xây dựng trên nhu cầu của một bộ óc không có khả năng tồn tại. Tất cả những gì bắt nguồn từ cái tôi độc lập của con người đều lành mạnh. Tất cả những gì bắt nguồn từ sự lệ thuộc của con người vào người khác đều là xấu xa.

"Người vị kỷ theo nghĩa tuyệt đối không bao giờ bắt người khác hy sinh cho mình. Anh ta sống vượt ra ngoài nhu cầu sử dụng những người khác, dù dưới bất cứ hình thức nào. Anh ta không hoạt động thông qua họ. Trong những lĩnh vực cốt lõi nhât - tức là trong mục đích, động cơ, tư duy, khát vọng, năng lực - anh ta không quan tâm tới người khác. Anh ta không sống vì bất cứ ai - và anh ta không yêu cầu ai phải sống vì anh ta. Đây là hình thức duy nhất để tình bằng hữu và sự tôn trọng lẫn nhau giữa người với người có thể tồn tại.

"Năng lực của mỗi người có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên: mức độ độc lập, chủ động, và tình yêu công việc của mỗi người là yếu tố quyết định tài năng của anh ta với tư cách là một người lao động và quyết định giá trị của anh ta với tư cách một con người. Sự độc lập là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá phẩm chất và giá trị của loài người. Anh ta là ai và anh ta tự tạo ra cái gì; chứ không phải anh ta đã làm được hoặc không làm được gì cho người khác. Không có gì có thể thay thế được phẩm giá cá nhân. Và không có tiêu chuẩn nào khác cho phẩm giá cá nhân ngoài tính độc lập.

"Tất cả những quan hệ hợp lý đều không có chuyện người này phải hy sinh vì người khác. Một kiến trúc sư cần có khách hàng, nhưng anh ta không đặt lao động của anh ta xuống dưới nhu cầu của khách hàng. Khách hàng cần kiến trúc sư, nhưng họ cũng không ký hợp đồng xây nhà chỉ vì họ muốn cho anh ta tiền công xây dựng. Loài người trao đổi sản phẩm lao động với nhau thông qua sự đồng thuận tự nguyện vì lợi ích của cả hai bên, khi lợi ích cá nhân của cả hai bên cùng được thỏa mãn và họ cùng mong muốn có trao đổi đó. Nếu họ không muốn có trao đổi đó, họ không bắt buộc phải làm việc với nhau. Họ có thể tìm kiếm người khác. Đây là mối quan hệ bình đẳng duy nhất có thể có ở loài người. Bất cứ những dạng quan hệ nào khác đều chỉ là quan hệ giữa chủ và tớ, hoặc giữa nạn nhân và đao phủ.

"Chưa từng có công trình nào được hoàn thành nhờ tập thể, nhờ quyết định của đa số. Tất cả những thành tựu trong công việc sáng tạo đều được thực hiện dưới sự chỉ đạo của một suy nghĩ cá nhân đơn nhất. Một kiến trúc sư cần rất nhiều người để xây nên một tòa nhà. Nhưng anh ta không yêu cầu họ biểu quyết về bản thân thiết kế của mình. Họ làm việc cùng nhau thông qua thỏa thuận tự do và mỗi người trong họ đều tự do hoạt động trong bổn phận hợp lý của mình. Một kiến trúc sư sử dụng thép, kính, bê tông, do những người khác sản xuất ra. Nhưng nguyên liệu vẫn chỉ là thép, kính và bê tông cho đến khi người kiến trúc sư chạm vào chúng. Những gì anh ta làm với chúng là sản phẩm và tài sản của riêng anh. Đây là hình thức hợp tác hợp lý duy nhất giữa người và người.

"Quyền đầu tiên của con người trên trái đất này là quyền có cái tôi. Bổn phận đầu tiên của một con người là bổn phận với chính mình. Nguyên tắc đạo đức của anh ta là không bao giờ để người khác quyết định mục đích sống của anh ta. Bổn phận đạo đức của anh ta là phải làm những gì anh ta khao khát, miễn là khao khát đó không do người khác quyết định. Bổn phận đạo đức này phải chi phối sự sáng tạo, tư duy và lao động của anh ta. Những kẻ ăn cướp, những kẻ theo chủ nghĩa vị nhân sinh, hay những kẻ độc tài dĩ nhiên không sống theo bổn phận này.

"Một con người luôn nghĩ và làm việc một mình. Một con người không thể ăn cắp, lợi dụng hay cai trị một mình. Ăn cắp, lợi dụng hay cai trị luôn đòi hỏi phải có nạn nhân. Chúng bao hàm sự lệ thuộc. Chúng là lãnh địa của những kẻ sống thứ sinh.

"Những người cai trị người khác không phải là những người vị kỷ. Họ chẳng tạo ra cái gì cả. Họ tồn tại hoàn toàn thông qua những người khác. Mục đích của họ nằm trong đối tượng mà họ cai trị, trong hành vi nô dịch hóa người khác. Họ cũng lệ thuộc chẳng kém gì những người ăn xin, những người làm công tác xã hội và lũ kẻ cướp. Ở đây, hình thức lệ thuộc không quan trọng.

"Nhưng loài người đã được dạy dỗ để coi những người sống thứ sinh - những tên bạo chúa, những ông hoàng, những kẻ độc tài - như những ví dụ tiêu biểu của lòng vị kỷ. Qua sự đánh tráo khái niệm này, loài người bị lừa vào chỗ hủy diệt cái tôi của bản thân họ và của những người khác. Mục đích của sự lừa đảo này là để hủy hoại những người sáng tạo. Hoặc để kìm kẹp họ. Hai điều này thực sự là một.

"Từ lúc bắt đầu của lịch sử loài người, hai đối thủ đã luôn đứng đối mặt nhau: người sáng tạo và người sống thứ sinh. Khi người sáng tạo đầu tiên tạo ra cái bánh xe, kẻ sống thứ sinh lập tức đáp lại. Anh ta tạo ra chủ nghĩa vị nhân sinh.

"Người sáng tạo - mặc dù bị chối bỏ, thù nghịch, ngược đãi và bóc lột - vẫn đi tiếp về phía trước và kéo cả loài người đi theo bằng sức của mình. Những kẻ sống thứ sinh không đóng góp gì vào quá trình này ngoài việc gây ra những trở ngại. Trận đấu bây giờ được khoác một cái tên mới: cá nhân chống lại tập thể.

"'Lợi ích chung' của tập thể đã được chọn làm quyền và lý do để bào chữa cho tất cả chế độ chuyên chế bạo ngược đã từng có trong lịch sử loài người. Cái tập thể đó có thể là một sắc tộc, một giai cấp, hay một quốc gia. Tất cả những cơn ác mộng trong lịch sử đều được thực hiện với động cơ trá hình là chủ nghĩa vị nhân sinh. Đã từng có hành vi ích kỷ nào có sức phá hoại ngang với những thảm họa chết chóc do những người đi theo chủ nghĩa vị nhân sinh gây ra? Lỗi nằm ở chỗ loài người không có đạo đức hay ở chỗ nguyên tắc đạo đức của loài người đã sai từ trong bản chất? Những tên đạo phủ khủng khiếp nhất lại thường là những người nhiệt tình nhất. Họ nhiệt tình tin rằng có thể đạt được một xã hội hoàn hảo nhờ máy chém và đội hành quyết. Không ai nghi ngờ quyền giết người của họ bởi vì họ giết người với động cơ vị nhân sinh. Người ta chấp nhận việc ai đó phải bị hy sinh vì những người khác. Diễn viên có thể thay đổi, nhưng nội dung vở bi kịch thì vẫn giữ nguyên. Một người đấu tranh cho nhân quyền luôn khởi đầu bằng những tuyên bố về tình yêu nhân loại và luôn kết thúc bằng một biển máu. Điều đó đang diễn ra và sẽ tiếp tục diễn ra chừng nào loài người vẫn còn tin rằng một hành vi được coi là đức hạnh nếu nó không xuất phát từ cái tôi. Niềm tin này cho phép những kẻ theo chủ nghĩa vị nhân sinh hành động và ép buộc nạn nhân của họ phải chấp nhận điều đó. Những người lãnh đạo của những phong trào tập thể luôn tuyên bố không cần gì cho bản thân họ. Nhưng hãy quan sát những gì họ đã gây ra.

"Điều đức hạnh duy nhất mà con người có thể làm cho nhau và cái thỏa thuận duy nhất cho mối quan hệ hợp lý giữa người với người là - Buông nhau ra!

"Bây giờ hãy quan sát những thành quả của một xã hội xây dựng trên nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân. Đó, đất nước của chúng ta. Đất nước hùng mạnh nhất trong lịch sử loài người. Đất nước của những thành tựu, của sự thịnh vượng và của nền tự do vĩ đại nhất trong lịch sử. Đất nước này không dựa trên sự phục vụ quên mình, sự hy sinh, hay bất cứ lời giáo huấn nào khác về chủ nghĩa vị nhân sinh. Nó được xây dựng dựa trên quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người. Hạnh phúc của mỗi cá thể chứ không phải của ai khác. Một động cơ riêng tư, cá nhân và vị kỷ. Hãy nhìn vào những kết quả chúng ta có được. Hãy nhìn vào lương tâm của chính mình.

"Đây là một xung đột rất cổ xưa. Loài người đã đến rất gần với sự thật, nhưng mỗi lần họ tiến được đến gần thì sự thật lại bị phá hủy và các nền văn minh cứ nối tiếp nhau sụp đổ. Văn minh là một quá trình tiến đén một xã hội tôn trọng sự riêng tư. Người nguyên thủy tồn tại hoàn toàn trong cộng đồng chung, bị cai trị bởi luật lệ của bộ tộc anh ta. Văn minh hóa là một quá trình giải phóng mỗi người khỏi mọi người.

"Giờ đây, trong thời đại của chúng ta, chủ nghĩa tập thể - nguyên tắc của những kẻ sống thứ sinh và những kẻ ăn bám, con quái vật thời cổ đại, đã sổng chuồng và trở nên điên cuồng hơn bao giờ hết. Nó đã đẩy loài người đến một mức độ tăm tối về nhận thức chưa từng có trên trái đất. Nó đã đạt tới sức mạnh kinh khủng mà nó chưa bao giờ đạt được. Nó đã đầu độc bộ óc của tất cả mọi người. Nó đã nuốt chửng hầu hết châu Âu. Và nó đang nhấn chìm đất nước của chúng ta xuống vực thẳm.

"Tôi là một kiến trúc sư. Tôi có thể đoán công trình kiểu gì sẽ mọc lên nếu tôi biết nguyên tắc đặt móng của công trình đó. Chúng ta đang tiến gần tới một thế giới mà tôi không cho phép mình được sống ở đó.

"Bây giờ các vị đã biết tại sao tôi phá huỷ Cortlandt.

"Tôi đã thiết kế Cortlandt. Tôi đã đưa nó cho các vị. Và tôi đã phá hủy nó.

"Tôi phá hủy nó bởi vì tôi không muốn nó tồn tại. Nó là một con quái vật kép. Nó là con quái vật trong hình dạng thực và là con quái vật trong ý nghĩa biểu tượng. Tôi phải phá hủy cả hai điều đó. Hình dáng thực của nó đã bị bóp méo bởi hai kẻ sống thứ sinh dám tự cho mình cái quyền được điều chỉnh những gì họ không làm ra và không có khả năng làm. Người ta cho phép họ làm việc đó bởi vì người ta nghiễm nhiên cho rằng mục đích nhân đạo của tòa nhà có thể thay thế tất cả những quyền khác. Họ nghiễm nhiên cho rằng tôi không có quyền chống lại điều đó.

"Tôi đã đồng ý thiết kế Cortlandt với mục đích được nhìn thấy nó mọc lên giống hệt những gì tôi đã thiết kế và không với một lý do nào khác. Đó là cái giá mà tôi đặt ra cho lao động của tôi. Tôi đã không được thù lao.

"Tôi không đổ lỗi cho Peter Keating. Chuyện đó nằm ngoài khả năng của anh ta. Anh ta đã ký hợp đồng với những người chủ của anh ta. Nhưng bản hợp đồng đã bị bỏ qua. Người ta đã hứa với anh ta rằng tòa nhà sẽ được xây đúng như bản thiết kế. Nhưng lời hứa đó đã bị lãng quên. Ngày nay, người ta coi tình yêu của một người với tính toàn vẹn trong công việc và quyền bảo vệ nó là những thứ có giá trị mơ hồ và không cần thiết. Các vị đã nghe công tố viên nói điều đó. Tại sao tòa nhà này bị biến dạng? Chẳng vì lý do gì cả. Những hành vi như thế không bao giờ có lý do nào cả. Lý do duy nhất của nó là sự phù phiếm cảu một vài kẻ thứ sinh muốn có quyền với tài sản của người khác, cả tài sản vật chất lẫn tài sản tinh thần. Ai đã cho phép họ làm điều đó? Không cụ thể một ai trong số những người có thẩm quyền. Không ai thèm để ý đến việc cho phép hay ngăn cấm hành vi đó. Không ai chịu trách nhiệm. Không ai đứng ra chịu lỗi. Đó chính là bản chất của tất cả các hoạt động tập thể.

"Tôi không được trả cái mà tôi đòi hỏi. Nhưng những ông chủ dự án Cortlandt lại có cái mà họ muốn. Họ muốn một bản thiết kế để xây một tòa nhà càng rẻ càng tốt. Họ không tìm được ai có khả năng đáp ứng yêu cầu này. Tôi có khả năng đó và tôi đã làm việc cho họ. Họ đã lợi dụng công trình của tôi và bắt tôi phải đem hiến nó như một món quà. Nhưng tôi không phải là người theo chủ nghĩa vị nhân sinh. Tôi không tặng quà kiểu này.

"Người ta nói rằng tôi đã phá hủy chỗ ở cho những người nghèo. Người ta quên rằng nếu không có tôi, thì không thể có khu nhà này cho người nghèo ở. Tôi không quan tâm tới việc giúp người nghèo. Nhưng những người quan tâm đến người nghèo cần có tôi để có thể giúp được người nghèo. Người ta tin rằng sự nghèo khổ của những cư dân tương lai trong tòa nhà này cho họ quyền làm bất cứ điều gì đối với công trình của tôi. Rằng nhu cầu của họ cho phép họ có quyền quyết định cuộc đời của tôi. Rằng bổn phận của tôi là phải đóng góp bất cứ những gì người ta cần ở tôi. Đây chính là tín điều của kẻ thứ sinh. Tín điều này đang nuốt chửng cả thế giới này.

"Tôi tới đây để nói rằng tôi không công nhận quyền của bất cứ ai với bất cứ giây phút nào trong cuộc sống của tôi. Tôi không công nhận quyền của bất cứ ai với bất cứ phần sức lực nào của tôi. Bất cứ thành quả nào của tôi. Bất kể đó là ai, họ đông tới đâu hay nhu cầu của họ lớn đến mức nào.

"Tôi muốn tới đây để nói rằng tôi không tồn tại vì người khác.

"Cần phải nói rõ điều này. Thế giới này đang bị diệt vong vì đã quá lạm dụng khái niệm hy sinh bản thân.

"Tôi muốn tới đay để nói rằng sự chính trực trong công việc sáng tạo của một người quan trọng hơn bất cứ nỗ lực từ thiện nào. Những người không hiểu được điều này chính là những kẻ đang hủy diệt thế giới.

"Tôi muốn tới đây để tuyên bố những nguyên tắc của tôi. Tôi không tồn tại theo bất cứ nguyên tắc nào khác.

"Tôi không thừa nhận bất cứ nghĩa vụ nào đối với loài người ngoại trừ một nghĩa vụ: tôn trọng sự tự do của họ và không tham gia vào một xã hội nô dịch. Đối với tổ quốc của tôi, nếu nó không còn tồn tại (như nó phải tồn tại ), thì tôi sẽ xin được vào tù 10 năm. Tôi sẽ sống mười năm đó để tưởng nhớ và biết ơn vì những gì tổ quốc này đã từng có trong quá khứ. Đó sẽ là hành vi thể hiện lòng trung thành của tôi, thể hiện rằng tôi từ chối sống và làm việc cho cái xã hội đã thế chỗ vào tổ quốc cũ của tôi.

"Đó cũng chính là hành vi thể hiện lòng trung thành của tôi với tất cả những người sáng tạo đã từng sống và phải chịu khổ đau bởi những thế lực chịu trách nhiệm về vụ Cortlandt mà tôi phá nổ. Cho tất cả những giờ đồng hồ mà họ bị buộc phải sống trong cô đơn, trong ruồng bỏ, trong tuyệt vọng và ngược đãi - và cho cả những trận chiến mà họ đã chiến thắng. Cho tất cả những người sáng tạo có tên tuổi - và cho cả những người sáng tạo đã sống, đấu tranh và chết một cách âm thầm trước khi họ đi tới đích. Cho tất cả những người sáng tạo đã bị phá hủy cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cho Henry Cameron. Cho Steven Mallory. Cho một người không muốn được nêu tên nhưng đang ngồi trong căn phòng này và biết rằng tôi đang nói về ông ấy."

Roark đứng, hai chân anh dang rộng, cánh tay duỗi thẳng dọc theo người, đầu ngẩng cao - như thể là anh đang đứng trước một tòa nhà chưa xây xong. Sau đó, khi anh ngồi xuống bàn dành cho bị cáo, rất nhiều người trong phòng cảm thấy họ vẫn nhìn thấy anh đang đứng. Họ nhìn thấy bức tranh về một khoảnh khắc không bao giờ thay thế được.

Bức tranh đó vẫn nằm trong đầu họ trong suốt những cuộc tranh cãi pháp lý diễn ra sau đó. Họ nghe quan tòa nói với công tố viên rằng bị cáo đã thay đổi lời bào chữa: anh ta đã thừa nhận hành vi phá hủy của mình, nhưng đã không thừa nhận mình có tội; do đó nảy sinh vấn đề liệu bị cáo có bị mất trí tạm thời không. Bồi thẩm đoàn có quyền quyết định liệu bị cáo có nhận thức được bản chất và tầm quan trọng của hành vi đó hay không; và nếu có thì liệu bị cáo có nhận thức được hành vi đó là sai trái không. Công tố viên không phản đối. Bầu không khí trong phòng có một vẻ im ắng khác lạ. Công tố viên tin chắc rằng ông đã thắng. Ông phát biểu kết thúc. Không ai nhớ là ông đã nói gì. Quan tòa hướng dẫn bồi thẩm đoàn đứng dậy và rời phòng xét xử.

Mọi người bắt đầu đứng lên, nhẩn nha chuẩn bị ra về. Họ nghĩ họ sẽ phải chờ thêm nhiều giờ nữa. Wynand ở cuối phòng, và Dominique ở đầu phòng, đều ngồi bất động.

Một viên cảnh sát tòa án đi đến hộ tống Roark rời phòng xử án. Anh đứng lên cạnh bàn bị cáo. Anh nhìn Dominique, rồi Wynand. Sau đó anh quay người và đi theo viên cảnh sát.

Khi anh đi tới cửa phòng thì có những tiếng gõ sắc nét vang lên. Mọi người im lặng trong chốc lát; rồi họ nhận ra đó là tiếng gõ ở cửa phòng của bồi thẩm đoàn. Bồi thẩm đoàn đã có phán quyết về vụ án.

Những người đang đứng thì vẫn đứng yên, như bị đóng băng, cho đến khi quan tòa quay trở lại ghế ngồi. Bồi thẩm đoàn đi thành hàng vào phòng xét xử.

"Bị cáo hãy đứng lên và quay mặt về phía bồi thẩm đoàn," thư ký phiên tòa nói.

Howard Roark bước lên và đứng quay mặt về phía bồi thẩm đoàn. Ở cuối phòng, Gail Wynand cũng nhỏm dậy và đứng nghiêm.

"Thưa ông Foreman, bồi thẩm đoàn đã có phán quyết cuối cùng chưa?"

"Chúng tôi đã có."

"Phán quyết của bồi thẩm đoàn là gì?"

"Vô tội."

Cử động đầu tiên của Roark không phải là nhìn thành phố bên ngoài cửa sổ. Anh cũng không nhìn quan tòa hay Dominique. Anh nhìn Wynand.

Wynand quay ngoắt người và bước khỏi phòng. Ông là người đầu tiên rời phòng xét xử.

XIX.

Roger Enright mua lại cả khu đất, những bản thiết kế và đống đổ nát còn sót lại của Cortlandt. Ông ra lệnh đào bỏ tất cả những tàn tích cũ để giải phóng mặt bằng. Ông thuê Howard Roark thi công dự án. Enright chỉ ký với một nhà thầu và giám sát chặt chẽ tính kinh tế của các bản thiết kế; ông cam đoan sẽ cho thuê nhà giá rẻ vừa phải, đủ để duy trì được lợi nhuận ở mức hợp lý. Không ai được phép thắc mắc về các vấn đề như mức thu nhập, nghề nghiệp, trẻ em hoặc chế độ ăn uống của những cư dân tương lai của tòa nhà; dự án này cho phép bất cứ ai vào ở miễn là họ muốn và họ trả tiền thuê nhà, bất kể họ có đủ tiền thuê một căn hộ đắt tiền ở nơi khác hay không.

Cuối tháng Tám, Gail Wynand được tòa chấp thuận cho ly hôn. Không ai phản đối vụ ly hôn và Dominique không có mặt ở tòa. Wynand đưng trước tòa như thể ông đang đứng trước một tòa án quân sự. Ông phải nghe kể về bữa sáng giữa bà Gail Wynand và Howard Roark trong một căn nhà ở Thung lũng Monadnock bằng một thứ ngôn ngữ pháp lý lạnh lùng, tàn nhẫn: họ chính thức kết tội vợ ông là điếm nhục; họ dành cho ông sự cảm thông chính đáng của công lý; ông được coi là vô tội trong vụ việc này và được cấp một giấy thông hành để có thể tự do cho tất cả những năm tháng sau này của ông. Đấy cũng là giấy thông hành với những buổi tối câm lặng còn lại của cuộc đời ông.

Ellsworth Toohey thắng vụ kiện lao động. Wynand bị buộc phải phục chức cho Toohey.

Buổi chiều hôm đó thư ký của Wynand đã gọi điện cho Toohey và bảo với ông rằng ngài Wynand muốn ông quay lại làm việc vào tối nay, trước 9 giờ tối. Toohey mỉm cười, và dập điện thoại.

Toohey mỉm cười khi bước vào tòa nhà Ngọn cờ tối đó. Ông dừng lại ở phòng tài chính. Ông vẫy tay chào mọi người; ông bắt tay; ông đưa ra những bình luận hóm hỉnh về một vài bộ phim đang chiếu; ông tỏ vẻ ngạc nhiên một cách ngây thơ, cứ như thể ông chỉ mới đi vắng từ hôm qua và không hiểu tại sao mọi người lại chào đón ông như đón một người thắng trận trở về.

Rồi ông thong thả đi về phòng làm việc của mình. Ông bất chợt dừng lại. Ông biết trong lúc ông đang dừng lại, rằng ông phải bước vào phòng, phải không tỏ vẻ ngạc nhiên, và rằng ông đã tỏ ra ngạc nhiên mất rồi: ông thấy Wynand đang đứng ở giữa cửa phòng làm việc mở toang của ông.

"Chúc một buổi tối tốt lành, ông Toohey," Wynand nói nhẹ nhàng. "Mời ông vào."

"Xin chào ông Wynand," Toohey nói với vẻ thân mật, các cơ thịt trên mặt ông cố nở ra một nụ cười trong lúc đôi chân của ông đi tiếp vào trong phòng.

Ông đi vào phòng và ngập ngừng đứng lại. Đó là phòng làm việc riêng của ông, không có gì thay đổi, vẫn một chiếc máy chữ và một chồng giấy trắng ở trên bàn. Nhưng cửa vẫn mở và Wynand vẫn đứng im lìm ở đó, lưng dựa vào khung cửa.

"Ngồi vào bàn, ông Toohey. Làm việc đi. Chúng ta phải tuân thủ pháp luật."

Toohey nhún vai một cách vui vẻ, rồi đi ngang phòng và ngồi xuống. Ông đặt tay lên mặt bàn, hai bàn tay duỗi thẳng ra, rồi lại buông chúng vào lòng. Ông lấy một cái bút chì, kiểm tra lại ngòi bút và đặt nó xuống.

Wynand chậm rãi nhấc một cổ tay lên ngang ngực. Ông giữ nguyên hình tam giác được tạo bởi cẳng tay và những ngón tay dài gập xuống. Ông đang nhìn đồng hồ đeo tay. Ông nói:

"Bây giờ là 9 giờ kém 10 phút. Ông đã trở lại làm việc, ông Toohey."

"Và tôi hạnh phúc như một đứa trẻ khi được trở lại làm việc. Thực lòng mà nói, ông Wynand, lẽ ra tôi không nên thú nhận điều này, nhưng thực sự là tôi rất nhớ chỗ này."

Wynand vẫn không có cử động nào tỏ vẻ rằng ông sắp rời đi. Ông đứng đó, dáng lừ đừ như mọi khi; xương bả vai của ông nhô lên, tựa vào khung cửa. Ông khoanh tay trước ngực, hai bàn tay ôm lấy khuỷu tay. Một chiếc đèn thủy tinh màu xanh lá cây đang tỏa sáng trên bàn làm việc, mặc dù ngoài trời vẫn còn sáng - bầu trời màu vàng nhạt loang lổ những vệt mây nâu. Ánh sáng của ngọn đèn được thắp quá sớm và quá nhợt nhạt làm cho căn phòng có không khí của một buổi tối ảm đạm. Ánh sáng chiếu một quầng tròn trên mặt bàn; nhưng cái quầng sáng ấy không đủ để xua đi những hình khối nhạt nhòa màu nâu của đường phố. Nó cũng không thể vươn tới cửa để xoá đi sự hiện diện của Wynand.

Bóng đèn bỗng chập chờn và Toohey cảm thấy sàn nhà đang rung lên ở dưới đế giày của ông: những cái máy in đang hoạt động. Ông nhận ra rằng ông đã nghe thấy âm thanh này được một lúc. Đó là một âm thanh dễ chịu, đáng tin cậy và sống động. Đó là nhịp tim của một tòa báo, một tòa báo có nhiệm vụ truyền đến cho loài người nhịp tim của thế giới. Một dòng chảy dài và đều đặn của những giọt âm thanh rời rạc, như những viên bi lăn đi theo một đường thẳng, giống hệt tiếng đập trái tim người.

Toohey đưa bút chì trên tờ giấy. Rồi ông dưng lại khi ông nhận ra rằng tờ giấy đang nằm trong quầng sáng ngọn đèn và Wynand có thể nhìn thấy đường chì vừa mới vẽ một bông hoa súng, một tách trà và một gương mặt người có râu nhìn nghiêng. Ông buông bút và tắc lưỡi như muốn tự chế nhạo bản thân. Ông mở một ngăn kéo. Ông chăm chú nhìn vào chồng giấy than và những cái ghim giấy. Ông không biết ông cần phải làm gì: người ta không bắt đầu viết bài cho một mục báo như thế này. Ông đã băn khoăn tại sao người ta yêu cầu ông trở lại công việc vào 9 giờ tối, nhưng ông đã tự nhủ rằng đó là cung cách của Wynand: Wynand đang hạ thấp sự đầu hàng bằng cách cường điệu hóa nó. Ông đã nghĩ ông có thể bỏ qua chuyện này.

Những chiếc máy in vẫn đang hoạt động; nhịp tim của một người đang được tập hợp lại và phát tán đi. Ông không nghe thấy một âm thanh nào khác và ông nghĩ, thật ngớ ngẩn nếu cứ ngồi thế này trong khi Wynand đã bỏ đi; nhưng nhỡ Wynand vẫn còn đứng đó thì sao.

Một lát sau ông nhìn lên. Wynand vẫn ở đó. Ánh sáng chụm thành hai điểm trắng trên người ông: những ngón tay dài đang ôm lấy khuỷu tay và vầng trán cao. Toohey muốn nhìn thấy trán của Wynand; không, không có nếp nghiêng nào ở trên lông mày của ông ta. Hai con mắt như hai hình bầu dục trắng đục, nổi rõ trên những góc cạnh mờ tối của khuôn mặt. Cặp mắt đang chiếu vào phía Toohey. Nhưng không có gì ở gương mặt đó; không có dấu hiệu của sự tự chủ.

Một lúc sau, Toohey nói:

"Thực sự thì, ông Wynand, tại sao tôi và ông lại không thể làm việc được với nhau nào?"

Wynand không trả lời.

Toohey cầm một tờ giấy lên và nhét nó vào máy chữ. Ông nhìn vào những phím bấm. Ông giữ cho cằm ở giữa hai bàn tay, trong tư thế chuẩn bị gõ một đoạn văn bản. Những bàn phím lấp lánh dưới ánh đèn - những đốm tròn màu ni-ken sáng lửng lơ trong căn phòng tối mờ.

Những chiếc máy in đã dừng lại.

Toohey tự động giật mình co người lại trước khi ông biết tại sao ông đã giật mình: ông là một nhà báo và ông biết các máy in không dừng lại kiểu đó.

Wynand nhìn vào đồng hồ đeo tay. Ông nói:

"Bây giờ là 9 giờ. Ông đã bị mất việc, ông Toohey. Tờ Ngọn cờ không còn tồn tại nữa."

Thực tại tiếp theo mà Toohey cảm nhận được là bàn tay của ông rơi xuống bàn phím máy chữ: ông nghe thấy những tay đòn kim loại va vào nhau, và thân chiếc máy chữ khẽ rung lên.

Ông không nói gì, nhưng ông nghĩ ông đang trở nên trần trụi trước mặt Wynand bởi vì ông nghe được tiếng Wynand trả lời:

"Phải, ông đã làm việc ở đây mười ba năm... Phải, ông đã mua lại tất cả, kể cả Mitchell Layton, hai tuần trước..." Giọng nói dửng dưng. "Không, phòng tài chính không biết điều đó. Chỉ có những người trong phòng in..."

Toohey quay đi. Ông nhặt một cái ghim giấy lên. Ông giữ nó trong lòng bàn tay, rồi lật ngược bàn tay và để cho cái kẹp giấy rơi. Ông quan sát sự việc đó với một chút ngạc nhiên. Các định luật vật lý đã không cho phép ông giữ được cái ghim trong lòng bàn tay úp ngược.

Ông đứng lên. Ông đứng nhìn Wynand. Một tấm thảm màu xám nằm giữa họ.

Wynand hơi nghiêng đầu về một bên. Khuôn mặt Wynand trông như thể ông không còn cần sự ngụy trang nào nữa. Mặt ông đơn giản, không giận dữ; đôi môi mím chặt thấp thoáng một nụ cười đau đớn - trông nụ cười gần như có vẻ nhún nhường.

Wynand nói:

"Đây là dấu chấm hết của tờ Ngọn cờ... Tôi nghĩ thật hợp lý khi tôi và ông cùng chứng kiến điều đó."

*

* *

Rất nhiều tờ báo muốn nhận Ellsworth Monkton Toohey về làm việc. Ông chọn tờ Người đưa tin, một tờ báo có danh tiếng và còn chưa chắc chắn về đường lối.

Trong buổi tối của ngày làm việc đầu tiên, Ellsworth Toohey ngồi trên mép bàn làm việc của một trợ lý biên tập và nói chuyện về ông Talbot, người sở hữu tờ Người đưa tin. Toohey mới chỉ được gặp ông vài lần trước đó.

"Về mặt con người thì ông Talbot thế nào nhỉ?" Ellsworth Toohey hỏi. "Ông ấy sùng bái điều gì? Ông ấy không thể sống thiếu cái gì?"

Trong phòng điện tín ở bên kia hành lang có ai đó đang quay điện thoại. "Thời gian," một giọng nghiêm nghị vang lên, "làm việc đi!"

*

* *

Roark ngồi bên bàn vẽ trong phòng làm việc của mình. Anh đang làm việc. Thành phố phía sau những bức tường kính trông thật rực rỡ. Không khí bị đợt lạnh đầu tiên của tháng Mười gột sạch tinh.

Chuông điện thoại vang lên. Chiếc bút chì trong tay anh đột nhiên dừng lại, bồn chồn; anh không cho phép bất cứ ai gọi điện trong lúc anh đang vẽ. Anh đi về bàn làm việc và nhấc điện thoại.

"Thưa ông Roark," thư ký của anh nói, giọng căng thẳng như muốn xin lỗi vì đã phá lệ, "Ông Gail Wynand muốn biết liệu ông có vui lòng đến phòng làm việc của ông ấy vào 4 giờ chiều mai không?"

Người thư ký nghe thấy sự im lặng trong ống nghe. Im lặng kéo dài.

"Ông ấy có trên điện thoại không?" Roark hỏi. Bà biết không phải đường truyền làm giọng anh thay đổi như thế.

"Không, thưa ông Roark. Đó là thư ký của ông Wynand."

"Có. Có. Bà hãy nói với bà ấy là tôi sẽ đến."

Anh đi về phía bàn vẽ và nhìn xuống những bản phác; đây là lần đầu tiên anh buộc phải bỏ trốn: anh biết anh không thể tiếp tục làm việc hôm nay. Cảm giác hy vọng và bình yên trong anh quá lớn để có thể làm việc.

Khi Roark đến gần cửa ra vào của tòa nhà đã từng có tên là tòa nhà Ngọn cờ, anh nhìn thấy bảng hiệu của tờ Ngọn cờ đã biến mất. Chưa có gì thế chỗ của nó. Chỉ còn lại một vết phai hình chữ nhật ở phía trên cửa. Anh biết tòa nhà bây giờ chỉ có trụ sở làm việc của tờ Kèn hiệu, còn lại là những tầng nhà trống rỗng. Tờ Kèn hiệu là một tờ tin tức buổi chiều hạng ba, đại diện duy nhất còn lại của tập đoàn Wynand ở New York.

Anh bước về phía một chiếc thang máy. Anh mừng vì anh là người duy nhất trong thang máy: bất chợt anh có cảm giác sở hữu một cách bạo lực đối với cái chuồng bằng sắt này; nó là của anh, nó đã được tìm thấy và trả lại cho anh. Sự đậm đặc của cảm giác bình yên mách bảo anh về sự đậm đặc của nỗi đau giờ đây đã chấm dứt; đấy là một nỗi đau đặc biệt, khác với tất cả những nỗi đau anh đã gặp trong đời mình.

Khi anh bước vào phòng làm việc của Wynand, anh biết là anh sẽ phải chấp nhận nỗi đau đó và mang nó vĩnh viễn. Anh biết không có hy vọng nào, không phương thuốc nào có thể cứu chữa nổi. Wynand ngồi sau bàn làm việc. Ông đứng lên khi anh bước vào. Ông nhìn thẳng vào anh. Gương mặt của Wynand còn hơn cả mặt của một người xa lạ: một gương mặt xa lạ vẫn còn tiềm ẩn khả năng làm quen; nó có thể mở ra nếu người ta quyết định và thử làm quen; còn đây là một gương mặt quen thuộc, một gương mặt đã khép kín và không bao giờ để người khác lại gần nữa. Một gương mặt không mang nỗi đau bị chối bỏ; nó mang dấu ấn của giai đoạn tiếp theo - đó là khi chính nỗi đau cũng bị chối bỏ. Một gương mặt xa cách và câm lặng, với sự tự trọng của riêng nó. Sự tự trọng đó không phải là một đặc tính sống của một con người, mà là sự tự trọng của những hàng chữ trên một ngôi mộ thời Trung cổ - nó kể về sự vĩ đại đã qua và không cho phép ai chạm tới những gì còn sót lại.

"Ông Roark, buổi phỏng vấn này là cần thiết nhưng nó rất khó khăn đối với tôi. Xin ông cư xử cho phù hợp."

Roark biết rằng hành vi từ tâm duy nhất anh có thể thực hiện với Wynand vào lúc này là không biểu lộ tình cảm gì cả. Anh biết là anh sẽ phá tan những gì còn lại ở người đàn ông đang ngồi trước mặt anh nếu anh phát âm một từ: Gail.

Roark trả lời:

"Vâng, thưa ông Wynand."

Wynand cầm lên bốn tờ giấy đã được đánh máy và đưa chúng qua bàn:

"Làm ơn đọc và ký nếu ông đồng ý."

"Cái gì vậy?"

"Hợp đồng thiết kế tòa nhà Wynand."

Roark đặt tờ giấy xuống. Anh không thể cầm chúng trên tay được. Anh không thể nhìn chúng.

"Xin nghe cho kỹ, ông Roark. Hợp đồng này cần phải được giải thích và hiểu thấu đáo. Tôi muốn tòa nhà Wynand được thi công ngay lập tức. Tôi muốn nó trở thành tòa nhà cao nhất thành phố này. Đừng tranh luận với tôi bây giờ có phải là thời điểm kinh tế hợp lý không. Tôi muốn xây nó. Nó sẽ được sử dụng - đây là điều ông quan tâm phải không. Nó sẽ chứa tòa soạn tờ Kèn hiệu và tất cả văn phòng làm việc của tập đoàn Wynand hiện đang nằm rải rác khắp nơi trong thành phố. Phần trống còn lại sẽ được cho thuê. Tôi còn đủ quyền lực để đảm bảo với ông điều đó. Ông không cần sợ xây lên một tòa nhà không được sử dụng. Tôi sẽ gửi cho ông một thông báo chính thức về tất cả các chi tiết và yêu cầu xây dựng. Phần còn lại tùy ý ông. Ông có toàn quyền thiết kế tòa nhà. Các quyết định của ông sẽ là quyết định cuối cùng. Không cần phải có sự chấp thuận của tôi. Ông sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn và có quyền hoàn toàn. Điều này được ghi trong hợp đồng. Nhưng tôi muốn ông hiểu rằng tôi sẽ không gặp ông nữa. Tôi sẽ có một đại diện để giải quyết các vấn đề kỹ thuật và tài chính. Ông sẽ làm việc với người đó. Ông sẽ gặp ông ta trong các buổi gặp tiếp theo. Nói cho ông ta biết ông muốn thuê nhà thầu nào. Nếu ông thấy cần phải nói chuyện với tôi, ông sẽ liên lạc thông qua đại diện của tôi. Ông đừng hy vọng gặp tôi và cũng đừng cố gắng tìm tôi. Nếu ông có làm thế, ông cũng sẽ bị từ chối. Tôi không muốn nói chuyện với ông. Tôi không bao giờ muốn gặp lại ông. Nếu ông đã sẵn sàng chấp thuận những điều khoản này thì làm ơn hãy đọc bản hợp đồng và ký."

Roark với lấy một cái bút và ký mà không cần đọc.

"Ông chưa đọc nó," Wynand nói.

Roark ném tờ giấy qua bàn.

"Làm ơn ký cả hai bản."

Roark nghe lời.

"Cảm ơn ông" Wynand nói, ông cũng ký vào các tờ giấy và đưa một bản cho Roark. "Đây là một bản của ông."

Roark nhét hợp đồng vào túi áo.

"Tôi vẫn chưa đề cập đến khía cạnh tài chính. Cái bí mật mà ai cũng biết là đế chế Wynand đã chết. Thực tế, nó khỏe mạnh và hoạt động tốt hơn bao giờ hết, trừ phần ở New York. Nó sẽ còn tồn tại chừng nào tôi còn sống. Nhưng khi tôi chết, nó cũng sẽ chết theo. Tôi dự định sẽ bán lại một phần lớn. Vì thế, khi thiết kế tòa nhà này, ông không cần phải hạn chế bản thân vì các lý do tài chính. Ông được thoải mái tiêu những gì ông thấy cần thiết. Tòa nhà sẽ tồn tại lâu dài, ngay cả khi các hãng thời sự và các tờ báo của tôi biến mất."

"Vâng, thưa ông Wynand."

"Tôi đoán ông sẽ muốn xây tòa nhà sao cho chi phí bảo dưỡng sau này của nó được giảm thiểu. Tuy nhiên, ông không cần phải lo lắng về việc hoàn lại vốn đầu tư ban đầu. Sẽ không có ai để nhận lại khoản vốn đó."

"Vâng, thưa ông Wynand."

"Nếu ông nghĩ đến hành vi của thế giới hiện tại và cái thảm họa mà thế giới này đang tiến tới, có thể ông sẽ nghĩ việc xây tòa nhà này là hoàn toàn lố bịch. Thời đại của những tòa nhà chọc trời đã hết. Đây là thời đại của các dự án chung cư. Và nó là khúc dạo đầu cho thời kỳ ăn lông ở lỗ. Nhưng ông không sợ phải chống lại cả thế giới này. Đây sẽ là tòa nhà chọc trời cuối cùng được xây ở New York. Như vậy cũng hợp lý thôi. Thành tựu cuối cùng của loài người trên trái đất này trước khi chính loài người tự hủy diệt chính mình."

"Loài người sẽ không tự hủy diệt, ông Wynand. Loài người cũng không nên nghĩ rằng mình đã bị hủy diệt. Chừng nào họ còn làm được những việc như thế này."

"Việc gì?"

"Xây tòa nhà Wynand."

"Điều đó là tùy ở ông. Những thứ đã chết - như tờ Ngọn cờ - chỉ là nguồn tài chính cho công trình này. Đó là chức năng hợp lý của chúng."

Ông cầm bản hợp đồng của mình lên, gấp lại. Ông nhét nó vào túi bằng một động tác chính xác, gọn gàng. Ông nói, giọng không hề thay đổi:

"Đã có lần tôi đã nói với ông rằng tòa nhà này sẽ là đài tưởng niệm cuộc đời tôi. Bây giờ thì không có gì để tưởng niệm cả. Tòa nhà Wynand sẽ không có gì - ngoài những gì ông đem lại cho nó."

Ông đứng lên, ra dấu buổi phỏng vấn đã kết thúc. Roark đứng dậy. Anh hơi nghiêng đầu ra dấu từ biệt. Anh cúi đầu lâu hơn phép lịch sự thông thường. Ở cửa, anh dừng lại và quay người. Wynand vẫn đứng bất động sau bàn. Họ nhìn nhau.

Wynand nói:

"Hãy xây nó như một đài tưởng niệm cho cái linh hồn thuộc về anh... và lẽ ra đã có thể thuộc về tôi."

XX.

Mười tám tháng trôi qua. Một ngày mùa xuân, Dominique đi bộ đến công trường thi công tòa nhà Wynand.

Cô nhìn những tòa nhà chọc trời trong thành phố. Chúng vươn lên từ những vị trí bất ngờ, vượt qua những mái nhà thấp. Chúng có một vẻ thình lình; như thể chúng vừa nhô lên chỉ một giây trước khi cô nhìn thấy chúng và cô đã chớp được những rung động cuối cùng của chúng. Cứ như thế, nếu cô quay mặt đi và bất thần ngoảnh lại, cô sẽ bắt quả tang những tòa nhà đang bật lên.

Cô rẽ qua một góc phố ở Hell's Kitchen và đi vào một khu đất rộng đã được dọn sạch.

Những cỗ máy đang bò trên mặt đất bị xới tung để giải phóng mặt bằng cho một công viên trong tương lai. Từ giữa khu đất mọc lên bộ khung tòa nhà Wynand; nó đã hoàn thiện và vươn thẳng lên trời. Phần trên của bộ khung vẫn để trần - trông như cái lồng đan bằng thép. Ở phía dưới, kính và vữa nối nhau dâng lên, phủ kín phần còn lại của những khung thép đang cắt xuyên qua không gian.

Cô nghĩ: Người ta nói rằng trung tâm của quả đất là một khối lửa. Khối lửa đó bị nhốt chặt và câm lặng. Nhưng đôi lúc nó phá tung những tầng cao lanh, sắt, và granit, để bắn tung lên bầu trời tự do. Khi ấy, nó trở thành một thứ như thế này.

Cô bước tới tòa nhà. Có một hàng rào gỗ phủ quanh những tầng dưới của tòa nhà. Ở trên đó có những bảng quảng cáo lớn ghi tên các hãng cung cấp vật liệu cho tòa nhà cao nhất thế giới. "Thép do công ty Thép Quốc gia cung cấp." "Kính của tập đoàn Ludlow." "Thiết bị điện của tập đoàn Wells-Clairmont." "Thang máy của tập đoàn Kessler." "Nhà thầu Nash & Dunning."

Cô dừng lại. Cô nhìn thấy một thứ mà cô chưa từng để ý đến trước đó. Cô có cảm giác một bàn tay vừa chạm nhẹ vào trán cô - bàn tay có khả năng chữa bệnh của những nhân vật trong truyền thuyết. Cô chưa từng biết Henry Cameron và cô cũng chưa từng nghe ông nói, nhưng lúc này, cô có cảm giác cô đang nghe ông nói: "Và tôi biết nếu cậu vẫn mang những lời này đến tận cùng thì đó sẽ là một chiến thắng, Howard, không chỉ là chiến thắng cho cậu mà còn cho cái-đáng-phải-chiến-thắng, cái làm thế giới này tiến lên mặc dù nó chưa bao giờ được thừa nhận. Nó sẽ minh chứng cho rất nhiều người đã ngã xuống trước cậu, những người đã phải chịu đựng như cậu sẽ phải chịu đựng."

Cô nhìn thấy, trên hàng rào bao quanh tòa nhà vĩ đại nhất New York, một tấm biển nhỏ bằng thiếc với dòng chữ:

"Howard Roark, kiến trúc sư."

Cô bước về phía phòng giám sát công trình. Cô vẫn thường đến đây để gặp Roark, để theo dõi tòa nhà mọc lên dần dần. Nhưng lần này, trong phòng là một người mới đến làm, anh ta không biết cô. Cô đề nghị gặp Roark.

"Ông Roark đang ở tít trên bể chứa nước. Xin bà cho biết quý danh."

"Bà Roark." cô trả lời.

Người đó tìm thấy người giám sát công trường. Ông ta để cô đi lên bằng thang kéo ngoài trời, giống như những lần trước. Thang kéo chiỉ là một vài tấm ván với một sợi dây thừng bao quanh; nó chạy dọc thân tòa nhà.

Cô đứng; hai tay giơ lên bám vào một dây cáp, đôi giày cao gót của cô vững chãi trên mặt ván. Những tấm ván khẽ rung, một luồng không khí ép chiếc váy ôm lấy người cô, và cô thấy mặt đất bị bỏ lại phía dưới.

Cô đã vượt qua những khung cửa rộng của khu cửa hàng. Những dãy phố bên dưới chìm xuống sâu hơn. Cô vượt qua mái hiên của những rạp chiếu phim - đó là những tấm thảm đen được treo bằng những dải màu xoắn. Những cửa sổ văn phòng lướt qua cô, những dải kính dài trôi xuống dưới. Những nhà kho lớn biến mất, chìm xuống cùng với những của cải cất giữ ở đó. Đỉnh tháp của những khách sạn nghiêng nghiêng, như cánh của một chiếc quạt đang chạy và được gấp lại. Những ống khói nhà máy nhìn như những que diêm đang bốc khói, những chiếc ô-tô nhìn giống như các khối vuông màu xám đang di chuyển. Mặt trời làm cho những đỉnh núi cao biến thành những ngọn hải đăng - chúng quét ngang thành phố với những luồng sáng trắng. Thành phố trải rộng bên dưới, từng khối nhà sắt thành hàng dài xuống tận bờ sông. Thành phố đứng kẹp giữa hai dải nước mỏng, màu đen. Nó nhảy qua dòng nước và trải dài về phía bình nguyên và chân trời.

Những mái nhà phẳng hạ thấp hạ thấp dần như những bàn đạp ấn những tòa nhà xuống thấp và đẩy chúng ra khỏi đường đi của cô. Cô vượt qua những khối nhà lắp kính hình vuông - đó là những phòng ăn, phòng ngủ và phòng cho trẻ con. Cô nhìn thấy anh đang đứng phía trên. Anh đứng trên giàn giáo cao nhất của tòa nhà Wynand. Anh vẫy tay với cô.

Mặt biển cắt ngang qua bầu trời. Mặt biển nâng dần lên khi thành phố thấp dần bên dưới. Cô vượt qua những đỉnh cao nhất của các tòa nhà ngân hàng. Cô vượt qua chóp mái của những tòa án. Cô vượt qua tháp chuông các nhà thờ.

Ở đó, chỉ còn đại dương, bầu trời, và hình dáng của Howard Roark.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#poetry