Phần Ba: Từng Bước Một 11-13

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

11
INEJ

Trong lúc Inej và Kaz rời khỏi Tây Stave, sự im lặng giữa họ lan dần như một vệt dầu loang. Hai người đã trút bỏ áo choàng và mặt nạ trong đống rác ở phía sau một nhà chứa xập xệ mang tên Căn Phòng Nhung. Kaz cũng đã giấu sẵn trang phục để thay cho họ ở đó. Cứ như thể cả Ketterdam này đã trở thành tủ đồ của họ, và Inej không thể không nghĩ tới những ảo thuật gia có khả năng rút hàng trăm mét khăn quàng từ trong ống tay áo, hoặc làm các cô gái biến mất khỏi những cái hộp giống với cỗ quan tài một cách đáng sợ.

Sau khi mặc lên người những chiếc áo khoác rộng thùng thình và quần vải thô của công nhân bến cảng, họ len lỏi qua những dãy nhà kho, với mũ che kín tóc, cổ áo dựng lên bất chấp thời tiết ấm áp. Rìa phía đông của khu vực nom giống như một thành trì nhỏ bên trong Ketterdam, với đa số dân chúng là người nhập cư phải sống trong những khách sạn, nhà trọ rẻ tiền hoặc trong những cái lán làm từ ván ép, tôn sóng. Họ tự phân chia thành những xóm nhỏ nghèo túng theo ngôn ngữ và quốc tịch. Vào thời điểm này trong ngày, hầu hết các cư dân nơi đây đều đang làm việc trong các nhà máy hoặc bến cảng, nhưng ở một vài góc phố, Inej trông thấy phụ nữ và nam giới tụ tập lại, hi vọng một cai thợ hoặc ông chủ nào đó đến thuê vài người may mắn trong số họ làm những công việc ngắn ngày.

Sau khi thoát khỏi Vườn Thú, Inej từng lang thang qua các phố phường Ketterdam, cố gắng tìm hiểu về nó. Cô bị choáng ngợp trước tiếng ồn và đám đông, trong đầu luôn đinh ninh rằng Dì Heleen hoặc một trong số các tay chân của mụ rình lúc cô sơ sẩy để lôi trở lại Nhà Viễn Xứ. Nhưng cô biết nếu muốn trở nên hữu dụng đối với băng Cặn Bã và trả hết tiền nợ của giao kèo mới, cô không thể để mình bị lấn át bởi sự lạ lẫm của đám đông ồn ào và những viên đá lát đường. Chúng tôi chào đón mọi vị khách bất ngờ. Cô phải tìm hiểu cái thành này.

Inej luôn thích di chuyển trên mái nhà, khuất tầm mắt và xa đám đông nhộn nhạo. Ở trên đó, cô cảm thấy trở lại là chính mình hơn cả - cô bé Suli của ngày trước, chưa từng biết tới sự tàn nhẫn mà thế giới này có thể mang lại. Cô đã thuộc lòng từ các đầu hồi nhà và bậu cửa sổ của Zelverstraat cho tới những khu vườn và đại lộ rộng rãi ở khu sứ quán. Cô đã đi xa về phía nam, tới nơi các công xưởng nhường chỗ cho những lò mổ tanh lòm và hố nước muối được che giấu ở khu ngoại ô, nơi rác thải có thể được tống xuống đầm lầy ở rìa Ketterdam. Mùi hôi thối từ đó khó có thể quấy rầy các khu dân cư khác trong nội thành. Ketterdam đã tiết lộ những bí mật của nó cho cô một cách rụt rè, qua những lát cắt chớp nhoáng của sự vương giả và cùng khổ.

Giờ đây, Inej cùng Kaz bỏ lại phía sau những dãy nhà trọ và xe chở hàng để đi sâu vào khu vực kho bãi nhộn nhịp mang tên Weft. Tại đây, các con phố và kênh đào được mở rộng, sạch sẽ và ngăn nắp, tạo thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá. Hai người đi qua nhiều mẫu sân rào ngồn ngộn gỗ thô và đá xẻ, những kho vũ khí và đạn dược được canh gác cẩn mật, những kho hàng rộng lớn chất đầy bông vải, lụa, vải dầu, lông thú, và các nhà kho nơi những bó lá jurda khô đến từ Novyi Zem được cân kĩ lưỡng và xử lí trước khi đóng vào những chiếc lon có dán nhãn sặc sỡ rồi vận chuyển tới các thị trường khác.

Inej vẫn còn nhớ mình cảm thấy choáng váng như thế nào khi trông thấy mấy chữ Của Lạ được sơn bên hông của một nhà kho. Dòng chữ quảng cáo được kẹp giữa hai cô gái Suli vẽ bằng sơn, tay chân để trần khoe da thịt nâu bóng, các chi tiết thêu trên bộ váy lụa cũn cỡn được nhấn nhá bằng những nét cọ mầu vàng ánh kim. Cô đã đứng ngây người, mắt dán vào hình ảnh quảng cáo tại một địa điểm chỉ cách chưa đầy hai dặm với nơi người ta từng mua bán và mặc cả quyền sở hữu thân xác cô. Tim cô đập thình thịch, nỗi kinh hoàng làm cơ bắp cô tê liệt. Cô không thể thôi nhìn hai cô gái đó, những cái vòng trên cổ tay, cái chuông nơi mắt cá chân của họ. Sau đó cô quyết tâm bỏ đi, và như thể một lời nguyền nào đó đã bị phá bỏ, cô chạy nhanh chưa từng thấy, quay trở về Thanh Gỗ, băng qua các mái nhà, phố phường xám xịt loang loáng trôi qua dưới những bước chân liều lĩnh. Đêm đó cô mơ thấy những cô gái vẽ kia sống dậy. Họ bị mắc kẹt trong bức tường gạch của nhà kho, gào thét đòi tự do, nhưng cô không tài nào giúp họ được.

Của Lạ. Dòng chữ đã bị nắng làm phai màu, nhưng vẫn còn đó. Nó lưu giữ nguồn sức lực cho cô, khiến cơ bắp cô căng lên, hơi thở cô dồn dập. Nhưng có lẽ khi cô sở hữu con tàu của mình và chuộc được người nô lệ đầu tiên, lớp sơn kia sẽ bong ra khỏi những viên gạch. Tiếng la hét của những cô gái trong lớp vải lụa màu xanh bạc hà kia sẽ trở thành tiếng cười. Họ sẽ nhảy múa vì chính họ, chứ không phải để làm trò cho bất kì ai. Trước mặt Inej là một cái cột cao với bàn tay của Ghezen trên đỉnh và đổ bóng xuống trung tâm của sự giàu có mà Kerch sở hữu. Cô hình dung các vị thánh của mình tròng dây thừng quanh nó và kéo nó đổ kềnh.

Trong lớp áo khoác lùng nhùng, Inej và Kaz không thu hút bất kì ánh mắt chú ý nào. Họ giống như hai thằng nhóc thiếu việc đang trên đường vào ca. Nhưng Inej chưa thể hít thở một cách thoải mái. Các thị tuần vẫn đi tuần tra đều đặn trong khu vực này, và như thể sự bảo vệ còn chưa đủ tốt, các công ty vận tải còn sử dụng đội ngũ vệ quân riêng để bảo đảm các cánh cửa được khoá kín, cũng như không một công nhân bốc xếp nào có dịp táy máy tay chân. Khu vực này là một trong những nơi an ninh nhất của Ketterdam, do vậy nó cũng là chỗ cuối cùng Van Eck mò đến để tìm kiếm họ.

Hai người đi đến một kho vải lanh bỏ không. Những ô cửa sổ ồ tầng dưới đã bị vỡ, lớp gạch bên trên chúng đen nhẻm vì bồ hóng. Vụ hoả hoạn có lẽ mới xảy ra gần đây, nhưng nhà kho sẽ không thể bị bỏ không lâu được. Nó sẽ được dọn dẹp và sửa chữa, hoặc đơn giản là bị san bằng để nhường chỗ cho một toà nhà mới. Không gian là một thứ quý giá ở Ketterdam.

Ổ khoá ở cửa hậu không phải là một thách thức lớn đối với Kaz. Hai người đi vào gian nhà kho ở tầng dưới, bị thiệt hại nặng nề do hoả hoạn, cầu thang nằm ở khu vực phía trước của toà nhà có vẻ còn khá nguyên vẹn. Họ leo lên đó. Inej nhẹ nhàng di chuyển trên các bậc thang bằng gỗ, trong lúc Kaz chống gậy lộp cộp theo sau.

Khi lên đến tầng ba, Kaz dẫn Inej tới một phòng kho nơi những cuộn vải vẫn còn được xếp thành chồng cao ngất. Chúng gần như không bị hư hại, nhưng những cuộn ở bên dưới đã đen nhẻm bồ hóng. Mùi vải cháy thật khó ngửi, nhưng họ cảm thấy khá thoải mái. Inej tìm thấy một cái ghế đẩu bên cạnh cửa sổ và gác một chân lên một cuộn vải, tựa lưng vào cuộn khác, cô thấy sung sướng khi được ngồi xuống, nhìn ánh nắng chiều nhàn nhạt bên ngoài. Cũng chẳng có gì nhiều để xem, ngoài những bức tường gạch trần của các nhà kho và cụm tháp xi-lô cao vọt lên trên bến cảng.

Kaz lấy một cái hộp thiếc ra khỏi một trong những chiếc máy khâu cũ và đưa cho Inej. Cô mở hộp, trông thấy chỗ hạt phỉ, bánh quy giòn bọc trong giấy sáp, và một cái chai có nút đậy. Hoá ra đây là một trong những nhà trú ẩn mà Van Eck rất muốn tìm ra. Inej mở nút chai và ngửi thử.

“Nước đấy,” Kaz nói.

Inej uống ừng ực rồi ăn vài cái bánh đã hơi khét dầu. Cô đói khủng khiếp và không chắc mình sẽ sớm được ăn một bữa nóng sốt. Kaz đã cảnh báo rằng họ không thể về đảo Mạng Đen trước khi trời tối, và ngay cả khi đã lên đảo, cô cũng không nghĩ họ có thể nấu nướng gì nhiều. Inej nhìn anh nhỏm người ngồi lên mấy cuộn vải phía đối diện và đặt cây gậy chống bên cạnh, nhưng cô cố ép mình hướng mắt ra ngoài cửa sổ, tránh xa những cử động chính xác và quai hàm sắc nét của anh. Việc quan sát Kaz cho Inej cảm giác nguy hiểm theo cách mà cô chưa từng cảm thấy trước đây. Trong đầu cô hiện lên hình ảnh chiếc búa giơ cao, sáng loé dưới ánh đèn sân khấu ở Eil Komedie. Anh ta sẽ không bao giờ đổi chác nếu ông đập gãy chân tôi. Inej thấy biết ơn cảm giác nằng nặng mà bộ dao của cô tạo ra. Cô chạm tay vào chúng như thể đang chào mừng những người bạn cũ, và cảm thấy sự căng thẳng trong lòng mình giảm đi một chút.

“Cô đã nói gì với Van Eck lúc ở trên cầu?” Cuối cùng Kaz lên tiếng. “Lúc chúng ta tiến hành trao đổi ấy?”

“Ông sẽ gặp lại tôi một lần nữa, nhưng chỉ một lần thôi.” “Lại là một ngạn ngữ khác của người Suli à?

“Đó là một lời hứa với chính tôi. Và với cả Van Eck nữa.”

“Cẩn thận đấy, Bóng Ma. Cô không phù hợp với việc báo thù. Tôi không chắc các vị thánh Suli của cô sẽ chấp nhận chuyện đó.”

“Các vị thánh của tôi không thích sự ức hiếp.” Inej lấy ống tay áo lau cửa sổ bẩn. “Những vụ nổ đó,” cô nói. “Liệu những người khác có an toàn không?”

“Không ai ở gần các vị trí bom nổ. Ít nhất là những cái mà chúng ta đã chứng kiến. Chúng ta sẽ biết nhiều hơn sau khi quay về Mạng Đen.”

Inej không thích như thế. Sẽ thế nào nếu ai đó bị thương? Sẽ thế nào nếu có người không thể quay về đảo? Sau những ngày sợ hãi và mong ngóng, việc ngồi yên ở đây trong lúc bạn bè cô có thể đang gặp rắc rối khơi lên một cảm giác bứt rứt mới nơi Inej.

Cô nhận ra Kaz đang quan sát mình, và hướng ánh mắt vào anh. Ánh nắng chiếu xiên qua cửa sổ, làm cho đôi mắt anh có màu của nước trà đậm. Anh ta sẽ không bao giờ đổi chác nếu ông đập gãy chân tôi. Cô nhớ lại câu nói của chính mình như thể việc nói ra chúng đã làm cổ họng cô bị bỏng.

Kaz không quay đi khi nói tiếp, “Lão ta có làm cô đau không?”

Inej vòng tay ôm quanh đầu gối. Sao anh lại muốn biết chuyện đó? Để anh có thể chắc chắn tôi không đương đầu nổi với nguy hiểm nữa? Để anh có thể thêm tôi vào danh sách những sai lầm mà Van Eck sẽ phải trả giá à?

Kaz đã rất rõ ràng về thoả thuận với Inej ngay từ đầu. Cô là một món đầu tư, một tài sản cần bảo vệ. Cô từng muốn tin giữa hai người đã nảy nở một thứ gì đó nhiều hơn thế. Và Jan Van Eck đã phá tan ảo tưởng đó trong cô. Inej lành lặn và bình yên vô sự. Cô không bị mang thẹo, những tổn hại sau thử thách trên đảo Eil Komedie có thể dễ dàng được miếng ăn và giấc ngủ phục hồi. Nhưng Van Eck đã lấy đi của cô một thứ. Tôi sẽ trở nên vô dụng đối với anh ta. Những chữ đó vùng thoát ra từ một nơi sâu kín trong cô, một sự thật mà cô không thể chối bỏ. Như thế càng mừng. Thà là sự thật kinh khủng còn hơn những lời dối trá ngọt ngào.

Inej để ngón tay tìm đến chỗ chiếc búa đã sượt qua chân mình, và khi thấy ánh mắt của Kaz dõi theo, cô khựng lại. Cô thu tay vào lòng, lắc đầu.

“Không. Lão không làm đau tôi.”

Kaz ngả người ra sau, đôi mắt chậm rãi bóc trần suy nghĩ của cô. Anh không tin cô, nhưng cô sẽ không cố gắng thuyết phục anh lần này.

Kaz chống gậy xuống sàn để làm điểm tựa trong lúc tuột khỏi chồng vải.

“Nghỉ ngơi đi,” anh nói.

“Anh đi đâu vậy?”

“Tôi có việc cần làm ở gần mấy cái tháp, và tôi muốn xem mình có thể thu lượm được thông tin gì.”

Kaz gác cây gậy chống vào một cuộn vải.

“Anh không mang nó theo à?”

“Quá gây nghi ngờ, nhất là khi Van Eck đã lôi thị tuần vào cuộc. Nghỉ đi,” anh lặp lại. “Cô sẽ an toàn ở đây.”

Inej nhắm mắt lại. Cô có thể tin tưởng anh về chuyện đấy.

***

Khi Kaz đánh thức cô dậy, mặt trời đã bắt đầu lặn, nhuộm vàng ngọn tháp Ghezen phía xa. Họ rời kho vải, khoá cửa lại trước khi hoà vào các nhóm công nhân đang trên đường về nhà. Hai người tiếp tục đi về hướng nam rồi sang đông, tránh những phần đông đúc nhất của khu Barrel, nơi chắc chắn sẽ có thị tuần lảng vảng, và đi về phía một khu vực có nhiều nhà ở. Trên một con kênh hẹp, họ lên chiếc thuyền nhỏ rồi lái nó xuôi theo kênh Graf để quay trở vào trong màn sương bao phủ quanh đảo Mạng Đen.

Inej cảm thấy sự căng thẳng tăng lên trong lúc họ len lỏi qua các ngôi mộ để đi tới trung tâm đảo. Cầu cho mọi người bình an, cô nhủ thầm, cầu cho tất cả đều bình an vô sự. Cuối cùng, cô bắt gặp một ánh sáng yếu ớt và những tiếng nói rì rầm. Cô guồng chân chạy, không thèm bận tâm khi chiếc mũ đội trên đầu bị rơi xuống mặt đất phủ đầy dây leo. Cô mở toang cánh cửa nhà mồ.

Năm con người ở bên trong đứng bật dậy, súng và những nắm đấm giơ cao, khiến Inej khựng lại.

Nina rú lên, “Inej!”

Chị lao qua phòng và siết chặt Inej trong một cái ôm ghì. Thế rồi tất cả mọi người đều vây quanh cô, ôm ấp, vỗ vào lưng cô. Nina nhất định không buông cô ra. Jesper quàng tay quanh cả hai người và hét lớn, “Bóng Ma đã trở lại!” trong khi Matthias lùi ra xa, nghiêm túc như mọi khi, nhưng miệng mỉm cười. Inej nhìn từ cậu nhóc người Shu đang ngồi ở chiếc bàn giữa nhà mồ tới cậu nhóc người Shu đang lởn vởn trước mặt cô.

“Wylan?” Cô hỏi cậu nhóc ở gần mình hơn.

Cậu ta mỉm cười, nhưng nụ cười méo xệch đi khi cậu đáp, “Xin lỗi vì những gì cha tôi đã làm.”

Inej ôm chầm lấy cậu và thì thầm, “Chúng ta không phải là cha mình.”

Kaz gõ cây gậy chống xuống mặt sàn bằng đá. Anh đang đứng trên ngưỡng cửa nhà mồ. “Mọi người vồ vập xong chưa? Chúng ta còn việc phải làm.”

“Khoan,” Jesper đáp, cánh tay vẫn đang choàng qua người Inej. “Chúng ta sẽ không bàn về công việc cho tới khi hiểu được chuyện gì đã xảy ra ở Stave.”

“Là chuyện gì?” Inej hỏi lại.

“Cô không biết một nửa Stave đã nổ tung à?”

“Bọn tôi thấy quả bom ở Nhà Hồng Bạch phát nổ,” Inej đáp, “sau đó chúng tôi có nghe một tiếng nổ khác.” “Ở Lò Rèn,” Nina lên tiếng.

“Sau đó thì,” Inej nói nốt, “bọn tôi bỏ chạy.”

Jesper gật đầu vẻ thông hiểu. “Đó là một sai lầm lớn. Nếu nán lại thì cô đã có thể bị giết chết bởi một thằng người Shu có cánh.” “Hai,” Wylan chỉnh lại. Inej nhíu mày. “Hai cánh?” “Hai thằng,” Jesper đáp.

“Có cánh sao?” Inej dò hỏi. “Như chim á?”

Nina kéo cô lại chỗ chiếc bàn bày bừa lộn xộn, nơi một tấm bản đồ Ketterdam đã được trải rộng. “Không phải, giống ngài hơn, một con ngài máy chết chóc. Em có đói không? Bọn chị có bánh quy sôcôla đây.”

“Ờ, phải rồi,” Jesper thốt lên. “Cô ấy thì được ăn bánh.”

Nina ấn Inej vào một chiếc ghế và dằn hộp bánh xuống trước mặt cô. “Ăn đi,” chị ra lệnh. “Hai thằng người Shu có cánh, với cả một thằng cha và một con mụ rất… không bình thường.”

“Năng lực của Nina không tác động được tới bọn chúng,” Wylan giải thích.

“Hừm,” Nina ậm ừ một cách bí hiểm, miệng nhai rón rén phần rìa một chiếc bánh quy. Inej chưa bao giờ thấy Nina ăn uống nhỏ nhẹ bao giờ. Cảm giác ngon miệng rõ ràng chưa quay lại với chị, nhưng cô tự hỏi liệu còn lí do nào khác.

Matthias nhập bọn với họ bên chiếc bàn. “Mụ người Shu mà chúng tôi gặp phải khoẻ hơn cả tôi, Jesper và Wylan cộng lại.”

“Cô không nghe nhầm đâu. Khoẻ hơn cả Wylan,” Jesper trêu.

“Tôi đã làm tròn phần việc của mình,” Wylan phản đối.

“Hẳn rồi, thiếu gia ạ. Cái quả bom tím đó là gì vậy?”

“Một thứ mới mẻ mà tôi đang nghiên cứu. Nó dựa theo một phát minh của người Ravka được gọi là lumiya, ánh lửa gần như không thể dập tắt được. Nhưng tôi đã thay đổi công thức để làm nó nóng hơn.”

“Thật may mắn khi có cậu trong nhóm,” Matthias nói với một cái nghiêng mình thi lễ, làm Wylan sướng đỏ mặt. “Những sinh vật đó gần như không thể bị đạn xuyên thủng.”

“Gần như thôi,” Nina làu bàu. “Chúng mang theo lưới. Chúng truy lùng và bắt cóc các Grisha.”

Kaz tựa vai vào tường. “Bọn chúng có sử dụng parem không?”

Nina lắc đầu. “Không. Tôi không nghĩ chúng là Grisha. Chúng không thể hiện năng lực nào, và cũng không tự làm lành vết thương. Có vẻ như chúng được cấy kim loại dưới da hay sao ấy.”

Nina trao đổi nhanh với Kuwei bằng tiếng Shu.

Kuwei rên lên. “Kherguud.” Mọi người nhìn cậu nhóc, chẳng hiểu gì cả. Kuwei thở dài và nói tiếp, “Khi cha tôi tạo ra parem, chính quyền đã thử nghiệm nó trên các Sáng Chế Gia.”

Jesper ngoẹo đầu sang một bên. “Là tôi, hay là tiếng Kerch của cậu đã khá lên vậy?”

“Tiếng Kerch của tôi ổn. Là các anh nói quá nhanh thôi.”

“Ờ,” Jesper dài giọng. “Sao bọn Shu các cậu lại thử parem trên Sáng Chế Gia nhỉ?” Anh duỗi người trên ghế, tay đặt trên súng, nhưng lnej không tin anh hoàn toàn thả lỏng.

“Bọn họ đã bắt nhiều Sáng Chế Gia,” Kuwei đáp.

“Đó là những Grisha dễ bắt nhất,” Matthias xen vào, phớt lờ ánh mắt giận dữ của Nina. “Dạo trước, họ không được huấn luyện nhiều về kĩ năng chiến đấu, và không có parem thì năng lực của họ chẳng mấy phù hợp cho việc đánh nhau.”

“Những người lãnh đạo của Shu Han muốn tiến hành nhiều thử nghiệm hơn,” Kuwei nói tiếp. “Nhưng họ không rõ có thể tìm được bao nhiêu Grisha…”

“Giá như họ đã không giết quá nhiều chăng?” Nina ướm lời.

Kuwei gật đầu, không hiểu, hoặc phớt lờ sự mỉa mai trong giọng điệu của Nina. “Phải. Chính quyền không có nhiều Grisha, và việc sử dụng parem rút ngắn tuổi thọ của họ. Thế nên các bác sĩ được điều động tới làm việc với các Sáng Chế Gia đã dùng parem để tạo ra một loại chiến binh mới, Kherguud. Tôi không biết liệu họ có thành công hay không.”

“Tôi nghĩ mình có thể trả lời câu hỏi đó bằng một chữ CÓ to đùng,” Jesper đáp.

“Những chiến binh được thiết kế đặc biệt,” Nina trầm ngâm nói. “Trước chiến tranh, tôi có nghe nói bọn họ thử làm chuyện tương tự tại Ravka. Củng cố bộ xương, thay đổi mật độ xương, cấy kim loại. Bọn họ đã thử nghiệm trên các tình nguyện viên của Thượng Quân. Thôi nào, đừng có nhăn mặt, Matthias. Các thủ lĩnh Fjerda của anh chắc cũng thử làm chuyện đó nếu có thời gian.”

“Sáng Chế Gia điều khiển các chất rắn,” Jesper lên tiếng. “Kim loại, thuỷ tinh, sợi vải. Còn cái này giống với tác phẩm của Tâm Y hơn.”

Vẫn nói năng như thể anh không giống như họ, Inej nghĩ bụng. Tất cả mọi người đều đã biết Jesper là một Sáng Chế Gia, ngay đến Kuwei cũng khám phá ra chuyện đó sau khi họ thoát khỏi Lâu Đài Băng. Thế nhưng Jesper gần như không bao giờ thừa nhận năng lực của mình. Cô đoán anh muốn giữ bí mật về nó.

“Trường hợp các Thợ May là một sự xoá nhoà ranh giới giữa Sáng Chế Gia và Tâm Y,” Nina thừa nhận. “Tại Ravka, tôi từng có một giáo viên tên là Genya Safin. Chị ấy có thể làm một Độc Tâm Y hoặc một Sáng Chế Gia nếu muốn, nhưng lại trở thành một Thợ May lừng lẫy. Công việc mà cậu mô tả thật sự chỉ là một dạng may vá ở cấp độ cao.”

Inej chưa thể chấp nhận điều đó. “Nhưng có phải chị nói là mình đã thấy một người đàn ông với đôi cánh được ghép vào lưng theo cách nào đó?”

“Không, đó là một thiết bị. Một cái khung kim loại được căng vải bạt, có lẽ thế. Nhưng nó tinh vi hơn là nhét một cặp cánh vào giữa hai bả vai của ai đó. Em phải nối với hệ thống cơ bắp, làm rỗng các xương để giảm trọng lượng cơ thể nhưng phải bù đắp cho sự thiếu vắng của tuỷ xương, có thể là thay thế hoàn toàn bộ xương. Mức độ phức tạp của việc đó…”

“Parem,” Matthias nói nốt, đôi lông mày màu vàng nhíu lại. “Một Sáng Chế Gia sử dụng parem có thể làm được việc đó.”

Nina dịch người ra khỏi chiếc bàn và hỏi Kaz. “Chẳng lẽ Hội đồng Thương buôn không làm gì trước vụ tấn công của người Shu? Bọn chúng được phép đi vào Kerch và cho nổ tung các thứ, bắt cóc người ta hay sao?”

“Tôi không nghĩ Hội đồng sẽ hành động,” anh đáp. “Trừ phi bọn người Shu kia mặc đồng phục, còn không thì chính phủ Shu Han nhiều khả năng sẽ phủ nhận trách nhiệm đối với vụ tấn công.”

“Vậy là bọn chúng được tự do quay về ư?”

“Có lẽ là không,” Kaz đáp. “Tôi đã dành thời gian dò hỏi một chút tại cảng hôm nay. Hai tàu chiến của người Shu đã bị Hội đồng Thuỷ triều làm cho mắc cạn.”

Đôi giày của Jesper trượt khỏi mặt bàn và đập mạnh xuống sàn. “Gì cơ?”

“Họ đã rút thuỷ triều ra xa.Toàn bộ. Và tạo thành một hòn đảo mới với hai chiếc tàu chiến nằm chơ vơ trên đó. Các cậu có thể trông thấy chúng nằm phơi bụng, buồm chúc xuống bùn, ngay ở bến cảng.” “Một sự phô trương sức mạnh,” Matthias nói.

“Nhân danh các Grisha trong thành ư?” Jesper thắc mắc.

Kaz nhún vai. “Ai mà biết được? Nhưng chuyện này có thể sẽ khiến cho người Shu thận trọng hơn trong lúc đi lùng sục trên những con phố của Ketterdam.”

“Hội đồng Thuỷ triều có thể giúp chúng ta được không?” Wylan hỏi. “Nếu biết về parem, chắc họ sẽ lo ngại việc nó lọt vào tay kẻ xấu.”

“Cậu tìm ra họ bằng cách nào?” Nina chua chát hỏi lại. “Không ai biết danh tính của các thành viên Hội đồng Thuỷ triều, không một ai từng nhìn thấy họ đến hoặc đi khỏi những tháp canh đó.” Inej bỗng thắc mắc liệu Nina có từng tìm kiếm sự giúp đỡ từ Hội đồng Thuỷ triều hồi chị mới chân ướt chân ráo đến Ketterdam, mười sáu tuổi, một Grisha bị chia cách với tổ quốc, không bạn bè thân thích hay kiến thức về nơi mình đang ở. “Người Shu sẽ không hèn nhát mãi đâu. Bọn họ tạo ra các chiến binh này vì một lí do nào đó.”

“Rất khôn khéo, nếu chúng ta ngẫm nghĩ một chút về nó,” Kaz nói. “Người Shu đang gia tăng nguồn lực của họ. Một Grisha nghiện ngập sẽ không thể sống sót lâu dài, nên bọn họ đã tìm ra cách thức khác để khai thác năng lực đặc biệt.”

“Các chiến binh không thể huỷ diệt, với khả năng tồn tại vượt xa những người tạo ra chúng,” Matthias lắc đầu bình phẩm.

Jesper đưa tay xoa miệng. “Và có thể đi săn lùng thêm nhiều Grisha khác. Tôi dám thề là một trong số chúng đánh hơi thấy chúng ta và tìm đến.”

“Có chuyện đó được sao?” Inej kinh hãi hỏi lại.

“Tôi chưa bao giờ nghe nói về chuyện các Grisha toả ra mùi hương đặc biệt,” Nina đáp, “nhưng cũng dám lắm. Nếu thụ cảm khứu giác của bọn chúng được cải thiện thì… Có thể đó là một mùi mà những người bình thường không thể ngửi thấy.”

“Tôi không nghĩ đây là vụ tấn công đầu tiên,” Jesper nói tiếp. “Wylan, còn nhớ người Tiết Khí Sư trong phòng sách hiếm đã tỏ ra sợ hãi đến thế nào không? Với cả con tàu buôn mà Rotty đã kể với chúng ta nữa?”

Kaz gật gù. “Nó đã bị phá nát, một nhóm thuỷ thủ đã thiệt mạng. Lúc đó, họ tưởng người Tiết Khí Sư của tàu đã nổi điên và muốn tự giải phóng mình khỏi giao kèo làm việc. Nhưng có thể ông ta đã không làm thế. Có thể ông ta đã bị bắt cóc. Ông ta là một trong những Grisha giúp việc của

Uỷ viên hội đồng Hoede.”

“Emil Retvenko.” Nina nói.

“Đúng vậy. Cô biết ông ta à?”

“Tôi biết đến ông ta thôi. Hầu hết các Grisha ở Ketterdam đều biết về nhau, chúng tôi chia sẻ thông tin, cố gắng để mắt đến nhau. Người Shu hẳn phải có gián điệp ở đây nếu chúng biết chỗ để tìm từng người trong chúng tôi. Các Grisha khác…” Nina đứng lên, nhưng rồi phải níu lấy lưng ghế, như thể bị chóng mặt vì cử động đột ngột.

Inej và Matthias lập tức bật dậy.

“Chị vẫn ổn chứ?” Inej hỏi.

“Cực ổn,” Nina đáp với một nụ cười gượng. “Nhưng nếu các Grisha khác tại Ketterdam đang gặp nguy hiểm thì…”

“Cô sẽ làm gì?” Jesper hỏi luôn. Inej bất ngờ trước sự cứng rắn trong giọng điệu của anh. “Cô đã rất may mắn khi sống sót sau chuyện xảy ra hôm nay. Những tên chiến binh người Shu đó có thể ngửi thấy chúng ta, Nina à.” Anh quay sang nói với Kuwei. “Chính cha cậu đã hiện thực hoá điều đó.”

“Jesper này,” Wylan lên tiếng, “anh bình tĩnh lại đi.”

“Bình tĩnh? Như thể mọi chuyện chưa đủ tệ với các Grisha hay sao? Sẽ thế nào nếu chúng lần ra chúng ta trên đảo Mạng Đen này? Có đến ba người chúng tôi đang ở đây.”

Kaz gõ ngón tay xuống bàn. “Wylan nói đúng đó. Cậu bình tĩnh lại đi. Ketterdam trước đây không hề an toàn, và bây giờ cũng thế. Do vậy chúng ta hãy kiếm đủ tiền để chuyển đi nơi khác sống.”

Nina chống tay vào hông. “Chúng ta có đang nhắc đến tiền thật không đấy?”

“Chúng ta đang nói về việc hoàn thành nhiệm vụ và bắt Van Eck trả giá.”

Inej khoác tay Nina. “Tôi muốn biết chúng ta có thể làm gì để giúp các Grisha còn đang ở Ketterdam.” Cô nhớ lại hình ảnh chiếc búa loang loáng vung lên cao. “Và tôi cũng muốn biết chúng ta sẽ làm Van Eck trả giá như thế nào.”

“Ở đây còn những vấn đề lớn hơn,” Matthias lên tiếng.

“Với tôi thì không,” Jesper nói. “Tôi còn hai ngày để dàn xếp với bố.”

Inej tưởng mình nghe lầm. “Bố anh á?”

“Phải. Họp gia đình ngay tại Rotterdam này,” Jesper đáp. “Mọi người đều được mời nhé.”

Inej không bị đánh lừa bởi giọng điệu bông lơn của Jesper. “Vì món nợ ư?”

Bàn tay anh lại đặt lên mấy khẩu súng. “Phải. Thế nên tôi thật sự muốn biết chúng ta định thu xếp vụ nợ nần này như thế nào.”

Kaz đảo người trên cây gậy chống. “Mọi người có ai thắc mắc tôi đã làm gì với chỗ tiền mặt được Pekka Rollins đưa không?”

Ruột gan Inej thắt lại. “Anh đi mượn tiền của Pekka Rollins sao?”

“Tôi sẽ không bao giờ để mình mắc nợ lão ta. Tôi đã bán cho lão phần hùn của mình ở cảng số Năm và Quạ Đen.”

Không. Kaz đã xây dựng nên những nơi đó từ con số không. Chúng là minh chứng cho những gì anh đã làm cho băng Cặn Bã.

“Kaz…”

“Mọi người nghĩ số tiền đó đã đi đâu?” Anh lặp lại.

“Súng đạn?” Jesper hỏi lại.

“Tàu bè?” Inej phỏng đoán.

“Bom mìn?” Wylan đề xuất.

“Hay đút lót?” Nina thăm dò. Tất cả mọi người đều nhìn vào Matthias. “Đây là lúc anh nói cho bọn em biết bọn em kinh khủng thế nào đấy,” chị nói khẽ.

Anh chàng người Fjerda nhún vai đáp. “Tất cả đều là những lựa chọn thực tế.”

“Đường,” Kaz nói.

Jesper đẩy hũ đường trên bàn tới trước mặt anh.

Kaz đảo mắt. “Không phải để cho vào cà phê của tôi, ngốc ạ. Tôi đã dùng tiền để mua cổ phiếu đường, rồi chia chúng vào các tài khoản cá nhân cho tất cả chúng ta - với tên giả, tất nhiên rồi.” “Tôi không thích phán đoán,” Matthias nói.

“Tất nhiên rồi. Anh thích những thứ nhìn thấy được. Những đống tuyết hoặc các vị thần cây nhân từ chẳng hạn.”

“Đây rồi!” Inej ngả đầu lên vai Nina và tươi cười về phía Matthias. “Em nhớ cái trừng mắt của anh ta biết bao.”

“Ngoài ra,” Kaz nói tiếp, “không phải là phán đoán nếu ta đã biết trước kết quả.”

“Anh biết gì về vụ đường này à?” Jesper hỏi.

“Tôi biết về nguồn cung cấp.”

Wylan ngồi thẳng lại. “Xi-lô,” cậu nói. “Các xi-lô ở Bãi Ngọt.”

“Giỏi lắm, thiếu gia.”

Matthias lắc đầu. “Bãi Ngọt là gì vậy?”

“Nó là một khu vực nằm ở phía nam Cảng số Sáu,” Inej đáp. Cô nhớ lại hình ảnh cụm xi-lô cao lừng lững bên trên khu nhà kho. Chúng cao như những ngọn núi nhỏ. “Đó là nơi người ta trữ mật đường, mía. Cả các nhà máy tinh luyện đường nữa. Hôm nay chúng ta vừa ở một nơi rất gần chỗ đó. Không phải là trùng hợp, đúng không?”

“Không phải trùng hợp,” Kaz xác nhận. “Tôi đã muốn cô quan sát địa thế khu vực. Hầu hết mía đến từ Thuộc địa phương Nam và Novyi Zem, nhưng phải ba tháng nữa mới tới kì thu hoạch tiếp theo. Mía của vụ này thì đã được luyện thành đường và tích trữ trong các xi-lô ở Bãi Ngọt.”

“Có ba mươi cái cả thảy,” Wylan nói. “Cha tôi sở hữu mười trong số đó.”

Jesper huýt gió. “Van Eck kiểm soát một phần ba nguồn cung cấp đường cơ á?”

“Van Eck sở hữu các xi-lô,” Kaz đáp, “nhưng chỉ làm chủ một lượng đường nhỏ được trữ trong đó. Lão ta dùng tiền túi trang trải các chi phí, thuê vệ quân canh gác, và trả tiền cho các Tiết Khí Sư để kiểm soát độ ẩm trong xi-lô sao cho các hạt đường được khô ráo. Các lái buôn làm chủ chỗ đường đó trả cho lão một phần hoa hồng nhỏ cho mỗi đợt bán. Chúng sinh lời rất nhanh.”

“Chỗ tài sản khổng lồ đó nằm trong tầm kiểm soát của một người,” Matthias ngẫm nghĩ. “Nếu mấy cái xi-lô đó bị gì, giá đường sẽ…”

“Sẽ vọt lên cao như một viên đạn,” Jesper nói nốt và đứng bật dậy, rảo bước qua lại trong nhà mồ.

“Giá đường sẽ tăng lên không ngừng,” Kaz xác nhận. “Và kể từ vài ngày trước, chúng ta đã sở hữu phần hùn trong những công ty không trữ đường tại các xi-lô của Van Eck. Ngay lúc này, chúng chỉ có giá trị bằng với lúc chúng ta mua. Nhưng một khi chúng ta phá huỷ chỗ đường trong các xi-lô của Van Eck…”

Jesper nhảy tưng tưng. “Chúng sẽ tăng giá gấp năm, thậm chí gấp mười lần so với hiện nay.”

“Thêm nữa đi.”

Jesper rú lên. “Hai mươi!”

“Chúng ta có thể bán ra và thu lãi khủng,” Wylan nói. “Chúng ta sẽ giàu to chỉ trong một đêm.”

Inej nghĩ đến một con thuyền hai buồm trang bị đại bác hạng nặng. Nó sẽ là của cô. “Ba mươi triệu kruge nổi không?” Cô hỏi. Phần thưởng mà Van Eck đã hứa với cả nhóm cho vụ Lâu Đài Băng, nhưng không hề có ý định trả.

Nụ cười hé mở trên môi Kaz. “Khoảng đó, xê xích chừng một triệu.”

Wylan cắn móng tay. “Cha tôi có thể vượt qua mất mát này. Nhưng các thương gia khác, những người làm chủ số đường trữ trong xi-lô của ông ta, sẽ điêu đứng nặng.”

“Đúng vậy,” Matthias nói. “Và nếu chúng ta phá huỷ các xi-lô đó, thì rõ ràng đích nhắm là Van Eck.”

“Chúng ta có thể làm cho chúng giống như một tai nạn,” Nina đề xuất.

“Chúng sẽ là như thế,” Kaz nói. “Lúc đầu. Nhờ mọt hạt. Giải thích cho họ đi, Wylan.”

Wylan chồm người tới trước như một cậu học sinh đang nôn nóng muốn chứng tỏ rằng mình biết câu trả lời. Cậu rút từ trong túi ra một cái lọ nhỏ. “Cái này sẽ phát huy tác dụng.”

“Mọt hạt đây á?” Inej hỏi, mắt nhìn săm soi cái lọ.

“Mọt hoá chất,” Jesper đáp. “Nhưng Wylan vẫn chưa đặt tên cho nó.

Tôi bình chọn cái tên Mọt Wylan.” “Gớm quá,” Wylan nói.

“Hay quá thì có,” Jesper nháy mắt. “Giống như cậu vậy.” Wylan đỏ bừng mặt.

“Tôi cũng góp một tay mà,” Kuwei lên tiếng với vẻ mặt hờn dỗi.

“Đúng vậy,” Wylan xác nhận.

“Chúng ta sẽ làm cho cậu ấy một tấm bảng vinh danh nhé,” Kaz nói. “Giải thích cơ chế hoạt động của nó đi.”

Wylan hắng giọng. “Ý tưởng này bắt nguồn từ bệnh cháy lá ở mía. Chỉ cần nhiễm một loại vi khuẩn cũng đủ làm tàn lụi cả vụ mía. Khi hoá chất này được cho vào các xi-lô, nó sẽ lan dần xuống, dùng đường như nhiên liệu, cho đến khi toàn bộ các hạt đường chỉ còn là một đống bầy nhầy vô dụng.”

“Nó phản ứng với đường à?” Jesper hỏi lại.

“Phải, bất kì loại đường nào. Dù là một lượng đường rất nhỏ, nếu có đủ độ ẩm, do vậy hãy giữ nó tránh xa mồ hôi, máu, nước bọt.”

“Không được liếm Mọt Wylan. Có ai cần tôi viết ra không?”

“Những cái xi-lô đó cao khủng khiếp,” Inej thắc mắc. “Chúng ta cần một lượng bao nhiêu?”

“Một lọ cho mỗi xi-lô,” Wylan đáp.

Inej nhìn cái lọ thuỷ tinh nhỏ xíu. “Thật á?”

“Nhỏ mà có võ,” Jesper đáp, một lần nữa nháy mắt. “Giống như cô đấy.”

Nina phá lên cười, và Inej không thể không đáp lại nụ cười nhăn răng của Jesper. Cơ thể cô đau nhức nhối, cô chỉ muốn ngủ một mạch hai ngày liên tục, nhưng cô cảm thấy một phần trong con người mình đang mở ra, giải phóng những sự kinh hoàng và giận dữ của tuần vừa qua.

“Mọt hạt sẽ làm cho việc phá huỷ chỗ đường đó giống như một tai nạn,” Wylan nói.

“Đúng vậy,” Kaz xác nhận, “cho đến khi các thương gia khác biết được Van Eck đã mua gom những chỗ đường không trữ trong các xi-lô của lão ta.”

Mắt Wylan mở to. “Gì cơ?”

“Tôi đã dùng phân nửa số tiền để mua cổ phiếu cho chúng ta. Nửa còn lại, tôi mua cổ phiếu dưới danh nghĩa Van Eck, thật ra là dưới danh nghĩa của một công ty do Alys đứng tên. Không thể để nó quá hiển nhiên được. Mọi thứ được giao dịch bằng tiền mặt, không thể truy lại nguồn gốc. Nhưng các văn bản xác nhận việc mua bán chúng sẽ được tìm thấy, nguyên vẹn và có đóng dấu, tại văn phòng luật sư của Van Eck.”

“Cornelius Smeet,” Matthias ngỡ ngàng thốt lên. “Hết cú lừa này đến cú lừa khác. Cậu không chỉ tìm kiếm nơi ẩn trốn của Alys Van Eck khi đột nhập vào văn phòng của ông ta.”

“Chỉ dùng một chiêu trò thì không thể thắng được đâu,” Kaz đáp. “Danh tiếng của Van Eck sẽ bị ảnh hưởng khi số đường đó mất đi. Nhưng khi những người đã trả tiền thuê xi-lô của Van Eck phát hiện ra lão ta hưởng lợi từ mất mát của mình thì họ sẽ kiểm tra kĩ hơn các xi-lô đó.” “Và tìm thấy mọt hạt,” Wylan nói nốt.

“Phá hoại tài sản, khuynh đảo thị trường,” Inej lầm bầm. “Đó sẽ là dấu chấm hết đối với Van Eck.” Cô nhớ lại lúc Van Eck ra hiệu cho tay chân của lão giơ búa lên. Ta không muốn một cú gãy gọn. Đập cho nát xương ra.” Lão có bị đi tù không?”

“Van Eck sẽ bị kết tội vi phạm hợp đồng và thao túng thị trường,” Kaz đáp. “Không còn tội nào nghiêm trọng hơn theo luật của Kerch. Hình phạt sẽ giống như tội sát nhân. Lão có thể bị treo cổ.”

“Thật sao?” Wylan buột miệng nói khẽ. Cậu dùng ngón tay vạch một đường trên tấm bản đồ Ketterdam, từ Bãi Ngọt băng qua khu Barrel tới đường Geldstraat, nơi ở của cha cậu. Jan Van Eck đã tìm cách đoạt mạng Wylan. Ông ta đã tống khứ cậu đi như một đống rác. Nhưng Inej tự hỏi liệu Wylan có sẵn sàng đẩy cha mình vào cửa tử hay không.

“Tôi không nghĩ lão ta sẽ bị treo lủng lẳng trên một sợi dây thừng,” Kaz đáp. “Tôi đoán họ sẽ áp dụng một hình phạt nhẹ nhàng hơn. Không một Uỷ viên hội đồng nào muốn đưa thành viên của mình lên giá treo cổ. Còn việc lão ta có phải vào ngồi trong tù hay không?” Anh nhún vai. “Cái đó còn tuỳ luật sư của lão ta giỏi cỡ nào.”

“Nhưng ông ta sẽ không được kinh doanh nữa,” Wylan nói với giọng run run. “Cơ đồ của ông ta sẽ bị trưng thu để đền bù cho thiệt hại trong vụ huỷ hoại đường.”

“Đó sẽ là kết thúc của đế chế Van Eck,” Kaz nói.

“Thế còn Alys?” Wylan hỏi.

Kaz một lần nữa nhún vai. “Sẽ không ai tin chị ta có dính líu gì với một âm mưu tài chính đâu. Alys sẽ đâm đơn li dị và rất có thể sẽ quay về nhà bố mẹ. Chị ta sẽ khóc một tuần lễ, hát hai tuần lễ nữa, rồi vượt qua cú sốc. Biết đâu chị ta sẽ cưới một hoàng tử.”

“Hoặc một thầy giáo dạy nhạc,” Inej nói và nhớ lại sự hoảng hốt của Bajan khi hay tin Alys bị bắt cóc.

“Chỉ có một vấn đề nhỏ,” Jesper lên tiếng, “khi tôi nói nhỏ có nghĩa là nó ‘to đùng, hiển nhiên, hãy quên vụ này và đi uống bia’. Các xi-lô. Tôi biết chúng ta rất giỏi đột nhập vào những nơi không thể đột nhập, nhưng làm thế nào ta chui vào trong đó được?” “Kaz có thể phá khoá,” Wylan đáp.

“Không,” Kaz nói luôn. “Tôi không thể.”

“Tôi không nghĩ mình từng nghe thấy câu này từ miệng anh đấy,” Nina nói. “Anh nói lại xem nào, chậm rãi và rõ ràng hơn.”

Kaz phớt lờ. “Chúng là những ổ khoá bốn thuỳ. Bốn chìa khoá phải được xoay cùng một lúc trong ổ, nếu không cửa an toàn và chuông báo động sẽ được kích hoạt. Tôi có thể phá mọi ổ khoá, nhưng phá bốn cái một lúc thì không.”

“Vậy chúng ta sẽ vào trong bằng cách nào?” Jesper thắc mắc.

“Mấy cái xi-lô đó cũng mở được từ trên đỉnh.”

“Chúng cao như toà nhà hai mươi tầng! Không lẽ Inej phải leo lên leo xuống mười cái như thế trong một đêm?” “Chỉ một cái thôi,” Kaz đáp.

“Rồi sau đó thì sao?” Nina chống nạnh hỏi lại, đôi mắt toé lửa.

Inej nhớ lại cụm xi-lô cao ngất và khoảng cách giữa chúng.

“Sau đó,” cô nói, “em sẽ đi thăng bằng trên sợi dây căng từ cái này sang cái kia.”

Nina vung tay lên trời. “Và hoàn toàn không có lưới an toàn, có phải thế không?”

“Người nhà Ghafa không bao giờ biểu diễn với lưới an toàn,” Inej đáp với giọng phật ý.

“Thế người nhà Ghafa có thường xuyên đi dây thăng bằng giữa những toà nhà hai mươi tầng, phía dưới là mặt đường lát đá, sau khi đã bị cầm tù suốt một tuần lễ hay không?”

“Sẽ có lưới,” Kaz nói. “Nó đã được cất phía sau trạm gác của cụm xilô, bên dưới một chồng bao cát.”

Im lặng tuyệt đối đột ngột bao trùm nhà mồ. Inej không thể tin vào tai mình. “Tôi không cần lưới.”

Kaz xem đồng hồ. “Không hỏi han nữa. Chúng ta có sáu giờ để ngủ cho lại sức. Tôi sẽ xoáy các trang bị của đoàn xiếc Zirkoa. Họ dựng lều ngay phía tây ngoại vi Ketterdam. Inej, hãy liệt kê những thứ cô cần. Chúng ta sẽ tấn công cụm xi-lô sau hai mươi tư giờ nữa.”

“Tuyệt đối không,” Nina đáp luôn. “Inej cần nghỉ ngơi.”

“Phải đấy,” Jesper đồng tình. “Trông cô ấy gầy gò đến mức gió thổi bay được ấy.”

“Tôi ổn,” Inej đáp.

Jesper đảo mắt. “Cô luôn nói như thế.”

“Không phải ở đây mọi thứ luôn diễn ra như vậy sao?” Wylan hỏi lại. “Chúng ta luôn nói với Kaz rằng mình ổn để rồi làm những chuyện ngu ngốc.”

“Bọn tôi dễ đoán đến thế à?” Inej hỏi cậu.

Wylan và Matthias đồng thanh đáp, “Phải.”

“Mọi người có muốn đánh bại Van Eck không?” Kaz hỏi.

Nina thở hắt ra. “Dĩ nhiên.”

Đôi mắt của Kaz lướt từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác. “Có hay không? Mọi người có muốn tiền của mình không? Số tiền mà vì nó chúng ta đã phải chiến đấu, đổ máu, và suýt mất mạng? Hay mọi người muốn Van Eck mừng rơn vì đã chọn được một nhóm côn đồ vô danh tiểu tốt từ khu Barrel để lừa gạt? Bởi vì sẽ không có ai trừng trị lão cho chúng ta đâu.

Không một ai quan tâm chuyện lão đã lừa chúng ta, hay chúng ta đã liều mạng vô ích như thế nào. Sẽ không có ai đứng ra chỉnh đốn chuyện này. Vậy nên tôi mới hỏi, mọi người có muốn dạy cho Van Eck một bài học không?”

“Có,” Inej đáp. Cô muốn công lí được thực thi.

“Tuyệt đối có,” Nina nói.

“Và không phải một bài thổi sáo của Wylan,” Jesper đế thêm.

Từng người một, họ lần lượt gật đầu.

“Tình hình đã thay đổi,” Kaz nói. “Dựa trên sự phô trương lực lượng của Van Eck hôm nay, những cáo thị truy nã mang khuôn mặt của chúng ta có lẽ đã được dán khắp Ketterdam, và tôi đoán lão cũng hứa hẹn một khoản tiền thưởng hậu hĩnh. Van Eck đang dựa vào uy tín của mình, và chúng ta càng phá huỷ nó sớm chừng nào thì càng tốt chừng đó. Chúng ta sẽ lấy tiền của lão, danh tiếng và sự tự do của lão, tất cả chỉ trong một đêm. Nhưng điều đó có nghĩa chúng ta sẽ không dừng lại. Bất chấp sự bực tức của mình, Van Eck sẽ ăn một bữa tối thịnh soạn và ngủ một giấc không mộng mị trên chiếc giường êm ấm của mình. Những tay thị tuần kia sẽ tạm ngả mái đầu mệt mỏi của mình để nghỉ ngơi cho tới khi phải vào ca trực tiếp theo, trong lòng tự hỏi liệu có được trả tiền làm ngoài giờ hay không. Nhưng chúng ta không dừng lại. Đồng hồ đang điểm từng giây phút, chúng ta có thể nghỉ ngơi một khi đã giàu có. Đồng ý không?” Lại một loạt những cái gật đầu.

“Nina, xung quanh cụm xi-lô có vệ quân đi tuần. Cô sẽ là người đánh lạc hướng. Một cô nàng Ravka khốn quẫn, chân ướt chân ráo tới Ketterdam, tìm kiếm việc làm ở khu nhà kho. Cô cần làm cho họ bận rộn đủ lâu để những người còn lại có thể vào trong, và Inej leo lên xi-lô đầu tiên. Tiếp đó…”

“Với một điều kiện,” Nina nói luôn, tay khoanh lại.

“Đây không phải một cuộc thương lượng.”

“Tất cả mọi thứ đều có thể thương lượng đối với anh, Brekker. Có khi anh còn đổi chác cả cái cách mình chui ra khỏi bụng mẹ ấy chứ. Nếu tôi làm vụ này, tôi muốn chúng ta đưa các Grisha còn lại ra khỏi Ketterdam.”

“Quên đi. Tôi không rảnh để đi làm từ thiện.”

“Vậy thì tôi nghỉ.”

“Tốt. Cô nghỉ vụ này. Cô vẫn sẽ có phần chia của mình vì vụ Lâu Đài Băng, nhưng tôi không cần cô cho vụ này.”

“Không,” Inej nói khẽ. “Nhưng anh cần tôi.”

Kaz gác cây gậy chống lên đôi chân của mình. “Hình như mọi người bắt đầu thành lập liên minh.”

Inej còn nhớ nắng chiều đã làm đôi mắt anh ánh lên màu nâu như thế nào mới vài giờ trước. Giờ thì chúng có màu cà phê đắng nghét. Nhưng cô sẽ không nhượng bộ.

“Cái đó gọi là tình bạn, Kaz à.”

Anh hướng mắt sang phía Nina. “Tôi không thích bị đặt điều kiện.”

“Còn tôi thì không thích những đôi giày làm ngón chân bị cấn, nhưng chúng ta phải chịu đựng thôi. Hãy coi đây là một thử thách cho bộ óc thiên tài của anh.”

Sau khi ngừng lời một lúc, Kaz hỏi, “Số người mà chúng ta đang nói tới là bao nhiêu?”

“Ở Ketterdam có chưa đến ba mươi Grisha tôi biết, ngoài những người trong Hội đồng Thuỷ triều.”

“Và cô sẽ tập hợp họ lại như thế nào? Phát tờ rơi chỉ dẫn họ đến một cái bè lớn à?”

“Có một tửu quán ở gần toà đại sứ Ravka. Chúng tôi sử dụng nó làm nơi gửi lời nhắn hoặc trao đổi thông tin. Tôi có thể lan truyền tin tức từ đó. Tiếp đến, chúng ta chỉ cần một con thuyền. Van Eck không thể canh chừng mọi hải cảng.”

Inej không muốn phản bác, nhưng cô phải nêu ý kiến. “Em nghĩ lão ta có thể đấy. Van Eck có toàn bộ sự hậu thuẫn của chính quyền Ketterdam.

Chị chưa thấy phản ứng của lão khi biết Kaz dám bắt cóc Alys đâu.” “Đừng có nói là lão sùi cả bọt mép nhé,” Jesper bình phẩm.

“Cũng gần như thế.”

Kaz khập khiễng đi tới cửa nhà mồ, hướng mắt nhìn bóng tối bên ngoài. “Van Eck không dễ dàng ra quyết định lôi chính quyền vào cuộc đâu. Nó là một nguy cơ, và lão sẽ không chấp nhận nguy cơ đó nếu không định tranh thủ nó tới cùng. Lão sẽ cảnh báo mọi hải cảng, mọi tháp canh, với mệnh lệnh xét hỏi bất kì ai muốn rời khỏi Ketterdam. Chỉ cần lão lấy cớ rằng những kẻ bắt cóc Wylan đang định đưa cậu ta ra khỏi Kerch.”

“Cố gắng đưa mọi Grisha rời khỏi đây sẽ là một việc cực kì nguy hiểm,” Matthias lên tiếng. “Điều cuối cùng chúng ta cần là một nhóm trong số họ rơi vào tay Van Eck khi mà ông ta có thể vẫn còn parem.”

Jesper gõ ngón tay trên báng súng. “Chúng ta cần một phép màu. Và có lẽ cả một chai whiskey nữa. Để xoa dịu cơn đau não.”

“Không,” Kaz ôn tồn đáp. “Chúng ta cần một con tàu. Một con tàu không gây nghi ngờ mà Van Eck và các thị tuần không có lí do gì để chặn lại. Chúng ta cần một trong số những con tàu của lão.”

Nina nhấp nhổm trên ghế. “Công ty vận tải của Van Eck chắc chắn có hàng đống thuyền bè sắp đi Ravka.”

Matthias khoanh tay lại, ngẫm nghĩ. “Đưa các Grisha tị nạn ra đi trên một con tàu của Van Eck à?”

“Chúng ta cần một danh sách giả và giấy tờ chuyên chở,” Inej nói.

“Cô có biết họ đã đuổi cổ Specht khỏi hải quân vì lí do gì không?” Kaz hỏi lại. “Anh ta đã làm giả giấy nghỉ phép và lệnh cấp hàng.”

Wylan trề môi. “Nhưng đây không chỉ là vấn đề giấy tờ. Cứ coi như ta có ba mươi Grisha tị nạn đi. Thuyền trưởng của một con tàu sẽ muốn biết vì sao ba mươi người…”

“Ba mươi mốt,” Kuwei nói.

“Cậu đang theo dõi câu chuyện này đấy à?” Jesper ngỡ ngàng hỏi lại.

“Một chuyến tàu đi tới Ravka,” Kuwei đáp. “Tôi hiểu điều đó rất rõ.”

Kaz nhún vai. “Nếu bọn tôi đánh cắp một con tàu, bọn tôi cũng có thể đưa cậu lên đó.”

“Vậy thì ba mươi mốt,” Nina mỉm cười chốt lại, mặc dù khoé miệng giật giật của Matthias cho thấy anh chẳng vui mừng đến thế.

“Được rồi,” Wylan nói, tay vuốt phẳng lại một góc bản đồ. “Nhưng bất kì thuyền trưởng nào cũng sẽ thắc mắc vì sao lại có ba mươi mốt con người được thêm vào danh sách của mình.”

“Anh ta sẽ không thắc mắc nếu như nghĩ rằng mình đang làm một nhiệm vụ bí mật,” Kaz nói. “Van Eck sẽ viết một bức thư tay yêu cầu thuyền trưởng giữ bí mật hoàn toàn việc chuyên chở những người tị nạn có giá trị cao về chính trị này, đồng thời che giấu họ bằng mọi giá khỏi bất kì kẻ nào nghi ngờ đã bị phía Shu Han mua chuộc, kể cả các thị tuần. Van Eck sẽ hứa hẹn với tay thuyền trưởng một khoản tiền thưởng hậu hĩnh khi anh ta quay về, để bảo đảm anh ta không tơ tưởng đến việc đem bán các Grisha. Chúng ta đã có mẫu chữ viết tay của Van Eck. Chỉ cần niêm dấu của lão thôi.”

“Ông ta cất nó ở đâu vậy?” Jesper hỏi Wylan.

“Trong phòng làm việc. Ít nhất thì nó cũng từng được cất ở đó.”

“Chúng ta sẽ phải đột nhập rồi thoát ra mà không bị lão ta nhận ra,” Inej lên tiếng. “Và chúng ta sẽ phải hành động thật nhanh sau chuyện đó. Ngay khi Van Eck phát hiện niêm dấu bị mất, lão ta có thể đoán ra điều chúng ta sắp làm.”

“Chúng ta đã đột nhập được vào Lâu Đài Băng,” Kaz nói. “Tôi nghĩ chúng ta có thể xử đẹp phòng làm việc của một lão thương gia.” “Ờ, chúng ta đã suýt mất mạng khi đột nhập vào lâu đài đó,” Inej đáp.

“Nhiều lần suýt mất mạng, nếu tôi nhớ không lầm,” Jesper đế thêm.

“Inej và tôi đã từng đánh cắp bức hoạ DeKappel từ tay Van Eck. Chúng tôi đã biết cách bố trí trong ngôi nhà của lão. Ta sẽ ổn thôi.”

Ngón tay của Wylan một lần nữa rà dọc con phố Geldstraat.

“Lúc đó hai người đâu có phải phá két sắt của cha tôi.”

“Van Eck cất niêm dấu trong két sắt sao?” Jesper bật cười hỏi lại. “Thế thì gần như là ông ta muốn chúng ta lấy nó rồi. Kaz làm bạn với các ổ khoá số giỏi hơn với con người mà.”

“Các anh chưa từng thấy cái két sắt nào giống như cái này đâu,” Wylan nói. “Ông ta đã cho lắp đặt nó sau khi bức tranh của DeKappel bị đánh cắp. Mã mở két gồm bảy con số được ông ta thiết lập lại hằng ngày, và ổ khoá được chế tạo với các lẫy khoá giả để làm rối những kẻ phá khoá.”

Kaz nhún vai. “Vậy thì chúng ta sẽ chọn cách khác. Tôi sẽ dùng thủ đoạn thay cho sự khéo léo.”

Wylan lắc đầu. “Vách của két sắt được làm từ một hợp kim đặc biệt, có gia cố bằng thép Grisha.”

“Hay ta làm cho nó nổ?” Jesper đề xuất.

Kaz nhướng mày. “Van Eck sẽ phát hiện ngay.”

“Một vụ nổ cực nhỏ thì sao?”

Nina khịt mũi. “Cậu chỉ muốn cho nổ mọi thứ.”

“Thật ra…” Wylan ngập ngừng. Cậu ngoẹo đầu sang một bên, như thể đang lắng nghe một bài hát xa xăm. “Vào buổi sáng thì sẽ không thể che giấu việc chúng ta đã đột nhập, nhưng nếu chúng ta có thể đưa người tị nạn rời cảng trước khi cha tôi phát hiện vụ trộm thì… tôi không chắc mình có thể xoay được nguyên liệu, nhưng nó có thể thành công…” “Inej,” Jesper thì thào.

Cô nghiêng người tới trước, mắt quan sát Wylan. “Mặt ủ mưu đây à?”

“Dám lắm.”

Wylan dường như đã quay lại thực tại. “Không. Nhưng… nhưng tôi nghĩ mình có một ý tưởng.”

“Chúng tôi đang chờ đây, thiếu gia,” Kaz đáp.

“Mọt hạt chỉ là phiên bản bền vững hơn của axit auric.”

“Ờ,” Jesper nói. “Phải rồi. Và axit đó là?”

“Một chất ăn mòn. Nó tạo ra một nhiệt lượng nhỏ khi bắt đầu phản ứng, nhưng nó mạnh khủng khiếp và cực kì dễ bay hơi. Nó có thể xuyên thủng thép Grisha và gần như tất cả mọi thứ, ngoại trừ thuỷ tinh balsa.”

“Thuỷ tinh á?”

“Thuỷ tinh và nhựa cây balsa trung hoà sự ăn mòn.”

“Vậy thứ đó có thể kiếm được từ đâu?”

“Chúng ta có thể tìm thấy một trong những nguyên liệu mà tôi cần ở tiệm làm đồ sắt. Người ta dùng chất ăn mòn để đánh gỉ cho kim loại. Còn nguyên liệu kia hơi khó tìm. Chúng ta cần một mỏ đá có mạch quặng auris hoặc một hợp chất halogen tương tự.”

“Mỏ đá gần nhất nằm ở olendaal,” Kaz cho biết.

“Được đấy. Một khi đã có hai nguyên liệu, ta sẽ phải rất cẩn thận khi vận chuyển,” Wylan nói tiếp. “Còn hơn cả cẩn thận là đằng khác. Sau khi phản ứng hoàn tất, axit auric gần như vô hại, nhưng trong lúc nó đang diễn ra thì… Đó là cách dễ nhất để mất bàn tay.”

“Tức là,” Jesper nói, “nếu chúng ta có được những nguyên liệu đó và vận chuyển chúng riêng rẽ trước khi hoạt hoá cái axit auric này, ta sẽ không sợ bị mất chi?”

Wylan xoắn một lọn tóc. “Chúng ta có thể xuyên thủng cánh cửa két sắt chỉ trong vài phút.”

“Mà không làm hư hại thứ bên trong?” Nina hỏi.

“Hi vọng là thế.”

“Hi vọng là thế,” Kaz lặp lại. “Tôi đã từng hành động trong hoàn cảnh tệ hơn. Chúng ta cần tìm ra con tàu nào sắp sửa lên đường đi Ravka đêm mai và nhờ Specht làm giả giấy tờ cũng như danh sách chuyên chở. Nina, một khi có được con tàu đã chọn, nhóm Grisha tị nạn của cô có thể tự tới bến cảng hay phải cần trợ giúp?”

“Tôi không biết họ rành rẽ Ketterdam đến đâu,” Nina thừa nhận.

Kaz gõ gõ ngón tay trên đầu cây gậy chống. “Wylan và tôi có thể lo vụ

két sắt. Tôi có thể cử Jesper hộ tống đoàn Grisha, và Matthias đưa Kuwei tới bên cảng. Nhưng như vậy chỉ còn Nina để đánh lạc hướng lính gác và căng lưới cho Inej. Tấm lưới cần ít nhất ba người để thao tác.”

Inej duỗi người, nhẹ nhàng xoay vai. Thật dễ chịu khi lại được ở cùng cả nhóm như thế này. Cô chỉ mới đi vài ngày, và họ đang ngồi trong một cái nhà mồ ẩm ướt, nhưng cô vẫn có cảm giác như được quay về nhà.

“Tôi đã nói với anh rồi,” cô lên tiếng. “Tôi không cần lưới an toàn.”

12
KAZ

Họ thức lập kế hoạch đến quá nửa đêm. Kaz khá thận trọng với những thay đổi trong kế hoạch cũng như viễn cảnh phải điều phối nhóm Grisha tị nạn. Nhưng dù không cho những người khác biết, có những yếu tố trong diễn biến mới này hấp dẫn anh. Có thể Van Eck đã xâu chuỗi được những gì người Shu đang làm và bản thân lão cũng đi săn lùng các Grisha còn lại. Đó là một thứ vũ khí mà Kaz không muốn thấy trong tay của lão thương gia.

Nhưng họ không thể để cho chuyện này làm mình bị chậm lại. Với quá nhiều đối thủ và lực lượng thị tuần tham gia vào, họ không thể để điều đó xảy ra. Không lâu nữa, người Shu sẽ thôi không bận tâm về các tàu chiến bị mắc cạn cùng Hội đồng Thuỷ triều, và mò đến tận đảo Mạng Đen. Kaz muốn Kuwei rồi Ketterdam tới một nơi an toàn sớm nhất có thể.

Cuối cùng, họ cất các danh sách và sơ đồ sang một bên. Tàn dư của bữa ăn qua quýt trên bàn được dọn dẹp sạch sẽ để tránh thu hút lũ chuột, và các ngọn đèn lồng được tắt đi.

Những người khác đi ngủ, nhưng Kaz thì không. Anh đã nói thật suy nghĩ của mình. Van Eck có nhiều tiền hơn, nhiều đồng minh hơn, và có sức mạnh của chính quyền sau lưng. Họ không thể chỉ thông minh hơn lão ta, họ phải không nao núng. Và Kaz có thể thấy những gì mà người khác không thể. Hôm nay họ đã thắng một trận đánh, họ đã quyết tâm giành lại Inej và đã thành công. Nhưng lão thương gia vẫn thắng trong cuộc chiến.

Van Eck sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi đưa lực lượng thị tuần vào cuộc và rộng hơn là Hội đồng Thương buôn, nghĩa là lão tin mình không thể bị đụng tới. Kaz vẫn còn giữ lá thư của Van Eck khi sắp xếp cuộc gặp trên đảo Vellgeluk, nhưng nó chỉ là bằng chứng nhạt nhoà cho những mưu đồ của lão. Kaz còn nhớ điều mà Pekka Rollins đã nói tại Cung Lục Ngọc, khi anh bảo rằng Hội đồng Thương buôn sẽ không bao giờ ủng hộ những hoạt động bất hợp pháp của Van Eck. Và ai sẽ là người báo cho họ đây? Một con chuột cống đến từ khu ổ chuột tồi tệ nhất Barrel chắc? Đừng cố tự lừa dối mình nữa, Brekker.

Lúc trước, Kaz gần như không thể nghĩ được gì ngoài màn sương phẫn uất đỏ rực mỗi khi ở gần Rollins. Nó xoá đi lí trí và sự kiên nhẫn của anh. Ở gần Pekka, anh đánh mất hình ảnh của mình - không, anh đánh mất hình ảnh của người mà anh đã nỗ lực để trở thành. Anh không phải Tay Nhám, Kaz Brekker, hay phó tướng gan lì nhất băng Cặn Bã. Anh chỉ là một thằng nhóc bị thiêu đốt bởi ngọn lửa hận thù hừng hực, thứ đe doạ đốt cháy thành tro sự lễ độ mà anh đã dày công vun đắp.

Nhưng giờ đây, tựa người vào cây gậy chống giữa những ngôi mộ của đảo Mạng Đen, anh phải thừa nhận sự thật trong câu nói của Pekka. Người ta không thể gây chiến với một thương gia có địa vị vững vàng như Van Eck nếu bản thân là một thằng trộm cướp có danh tiếng còn nhơ nhuốc hơn cả đế giày của một giám mã. Để chiến thắng, Kaz cần phải san bằng cách biệt đó. Anh sẽ cho mọi người thấy những gì mình đã biết: bất chấp đôi bàn tay mềm mại và những bộ đồ lịch lãm, Van Eck là một tên tội phạm cũng tệ hại chẳng kém gì đám đầu trộm đuôi cướp ở Barrel - còn tệ hơn thế, vì lão là một kẻ bội tín.

Kaz không nghe thấy tiếng Inej lại gần, anh chỉ biết khi cô đã ở đó, đứng cạnh cái cột gãy của một nhà mồ bằng cẩm thạch trắng. Cô đã tìm thấy xà phòng ở chỗ nào đó để tắm rửa và tẩy sạch thứ mùi của xà lim tăm tối trên đảo Eil Komedie - một sự pha trộn giữa mùi cỏ khô và phấn mỡ. Mái tóc đen bóng phản chiếu ánh trăng của cô đã được tết gọn ghẽ thành một cái bím sau gáy, và sự im lìm tuyệt đối của cô khiến người ta có thể tưởng nhầm cô là một trong những tượng đá canh gác nhà mồ.

“Tấm lưới là sao vậy, Kaz?”

Ừ, tại sao phải có tấm lưới? Sao phải dùng một thứ làm phức tạp hoá cuộc tấn công cụm xi-lô và khiến họ dễ bị phát giác gấp bội? Anh không thể chịu nổi việc thấy em ngã. “Tôi đã trải qua nhiều rắc rối để giành lại người nhện của mình. Tôi không làm như thế chỉ để cô ngã gãy cổ ngay ngày hôm sau.”

“Anh chỉ bảo vệ khoản đầu tư của mình.” cô nói với giọng gần như cam chịu.

“Đúng vậy.”

“Và anh sẽ rời đảo.”

Kaz nên lo ngại nhiều hơn khi cô có thể đoán ra động thái sắp tới của anh. “Rotty nói ông già đang mất kiên nhẫn. Tôi cần đi ve vuốt ông ta.”

Per Haskell vẫn là người cầm đầu băng Cặn Bã, và Kaz biết ông ta thích đặc quyền của vị trí đó, chứ không phải công việc kèm theo nó. Vì anh vắng mặt quá lâu, mọi thứ bắt đầu chệch choạc. Ngoài ra, khi Haskell cáu lên, ông ta hay làm chuyện ngu ngốc gì đó để nhắc cho mọi người nhớ ông ta vẫn là người lãnh đạo.

“Chúng ta cũng nên để mắt tới ngôi nhà của Van Eck,” Inej nói.

“Tôi sẽ lo chuyện đó.”

“Lão ta sẽ củng cố an ninh của ngôi nhà.” Cô không cần phải nói thêm. Không thứ gì có thể vượt qua lớp phòng thủ của Van Eck tốt hơn Bóng Ma.

Anh nên bảo cô nghỉ ngơi, để anh tự mình phụ trách việc theo dõi. Nhưng thay vào đó anh gật đầu và đi tìm một trong những chiếc gondel được giấu trong bụi liễu, phớt lờ cảm giác nhẹ nhõm khi cô bám theo.

Sau vụ hỗn loạn hồi chiều, những con kênh có vẻ trầm lắng hơn bình thường, mặt nước kênh yên tĩnh đến lạ.

“Anh có nghĩ Tây Stave sẽ hoạt động bình thường trở lại ngay tối nay không?” Inej khẽ hỏi. Cô đã học được sự thận trọng của một con chuột cống khi nó phải di chuyển qua những dòng kênh của Ketterdam.

“Tôi không nghĩ vậy. Các thị tuần sẽ điều tra xét hỏi, và du khách không đến Ketterdam để đổi lấy nguy cơ bị nổ tan xác.” Công việc kinh doanh của nhiều nơi sẽ thất bát. Ngay sáng mai, Kaz đoán, bậc thềm của Toà thị chính sẽ đông lúc nhúc chủ nhân các nhà chứa và khách sạn, những người đến để tìm câu trả lời. Sẽ là một cảnh tượng hay ho. Tốt thôi. Cứ để cho các thành viên của Hội đồng Thương buôn bận rộn với những vấn đề không liên quan tới Jan Van Eck và cậu con trai mất tích của ông ta. “Van Eck hẳn đã thay đổi nhiều thứ sau khi bị chúng ta nẫng mất bức họa của

De Kappel.”

“Và giờ đây lão đã biết Wylan đang đi cùng chúng ta,” Inej đồng tình. “Chúng ta định gặp ông già ở đâu đây?”

“Ở Đốt Ngón.”

Họ không thể đến gặp Haskell tại Thanh Gỗ. Van Eck chắc đã đặt đại bản doanh của băng Cặn Bã dưới sự theo dõi, và lúc này có thể các thị tuần cũng đã kéo đến đó. Hình ảnh đám thị tuần lục lọi phòng riêng của anh, bới móc những món đồ ít ỏi của anh khiến Kaz điên tiết. Thanh Gỗ chẳng là gì hết, nhưng anh đã biến nó từ một ngôi nhà hoang dột nát thành một nơi mà người ta có thể ăn ngủ hoặc trốn tránh pháp luật mà không phải lạnh cóng ngoài trời vào mùa đông hay bị bọ chét hút máu vào mùa hè. Thanh Gỗ là của anh, bất luận Per Haskell nghĩ như thế nào.

Kaz điều khiển chiếc gondel đi vào kênh Zover, ranh giới phía đông của khu Barrel. Per Haskell thích tiếp khách ở quán trọ Đẹp Trời vào một buổi tối cố định hằng tuần, để gặp gỡ đám bạn chí cốt, chơi bài và tán gẫu. Không đời nào ông ta bỏ lỡ tối nay, kể cả khi phó tướng được ông ta sủng ái - tay phó tướng mất tích được ông ta sủng ái - đụng độ với một thành viên của Hội đồng Thương buôn và mang nhiều rắc rối tới cho băng Cặn Bã. Không đời nào, khi ông ta không phải là trung tâm của sự chú ý.

Không có ô cửa sổ nào trổ ra Đốt Ngón, con đường quanh co uốn lượn giữa một dãy nhà liên kế và một nhà máy sản xuất đồ lưu niệm giá rẻ. Nó yên tĩnh, tối mò và hẹp đến nỗi người ta có thể gọi là một cái ngõ - chỗ tuyệt hảo cho việc mai phục. Mặc dù không phải là lối an toàn nhất để đi từ Thanh Gỗ tới quán Đẹp Trời, nó là con đường ngắn nhất, và Per Haskell không bao giờ quay lưng với những lối tắt.

Kaz neo thuyền gần một cái cầu dành cho người đi bộ. Anh và Inej vào vị trí trong bóng tối và chờ đợi, thừa hiểu mình cần giữ im lặng. Không đầy hai mươi phút sau, bóng dáng một người đàn ông xuất hiện ở ngọn đèn đường nằm ở đầu ngõ, với một cọng lông chim ngớ ngẩn vắt vẻo trên mũ.

Kaz đợi cho đến khi người đó đi ngang qua chỗ mình mới bước ra. “Haskell.”

Per Haskell xoay người, rút khẩu súng ngắn từ trong áo khoác ra. Ông

ta có thao tác mau lẹ so với tuổi tác, nhưng Kaz biết trước ông ta sẽ mang vũ khí và đã chuẩn bị sẵn sàng. Anh đập đầu gậy chống vào vai Haskell, vừa đủ mạnh để làm tay ông ta tê bại.

Haskell gầm lên và khẩu súng tuột ra khỏi tay ông ta. Inej chộp lấy trước khi nó chạm đất và ném cho Kaz.

“Brekker,” Haskell giận dữ lên tiếng, cố gắng cử động cánh tay tê bại. “Cậu đã ở chỗ quái nào vậy? Có thứ tay chân nào lại đi trấn lột chính chủ tướng của mình trong ngõ tắt như thế này?”

“Tôi không định trấn lột ông. Tôi chỉ không muốn ông bắn bất kì ai trước khi chúng ta có cơ hội nói chuyện.” Kaz đưa trả khẩup súng cho Haskell. Ông ta chộp lấy nó, cái cằm râu ria vênh lên đe doạ.

“Lúc nào cũng đi quá giới hạn,” Haskell làu bàu trong lúc nhét khẩu súng vào trong túi áo khoác vải kẻ ô, vì bàn tay xuội lơ của ông ta không thể với tới bao súng. “Cậu biết hôm nay cậu đã gây rắc rối cho tôi như thế nào không, hả nhóc?”

“Tôi biết. Chính vì vậy mà tôi đến đây.”

“Bọn thị tuần quần nát Thanh Gỗ và Quạ Đen rồi. Chúng ta đã phải đóng cửa hoàn toàn hai chỗ đó, và không ai biết đến bao giờ ta mới được mở cửa trở lại. Cậu nghĩ cái quái gì mà đi bắt cóc con trai của một thương gia? Đây là phi vụ lớn đã đưa cậu rời Ketterdam đó hả? Phi vụ đáng lẽ phải làm cho tôi giàu nứt đố đổ vách đó hả?”

“Tôi không bắt cóc ai hết.” Sự thật không hẳn là thế, nhưng Kaz nghĩ giải thích càng nhiều chỉ càng làm Haskell thêm rối.

“Vậy nhân danh Ghezen, chuyện gì đang xảy ra vậy?” Per Haskell thì thào với giọng bực bội, văng cả nước bọt ra. “Cậu đã đem theo người nhện tốt nhất của tôi,” ông ta chỉ tay về phía Inej. “Thiện xạ tốt nhất của tôi, Độc Tâm Y của tôi, vệ sĩ to con nhất của tôi…”

“Muzzen chết rồi.”

“Chó đẻ thật,” Haskell văng tục. “Đầu tiên là Bolliger Bự, giờ tới lượt Muzzen. Cậu định moi ruột băng của tôi hả?”

“Không hề, thưa sếp.”

“Thưa sếp. Cậu đang toan tính chuyện gì vậy, nhóc?”

“Van Eck đang ra tay rất nhanh, nhưng tôi vẫn đi trước lão ta một bước.”

“Đó không phải là điều tôi thấy.”

“Tốt thôi,” Kaz đáp. “Tốt hơn là không ai thấy bọn tôi ra tay. Muzzen là mất mát tôi không lường trước, nhưng hãy cho tôi vài ngày, và không chỉ luật pháp buông tha ông, mà ngân quỹ của ông cũng sẽ rủng rỉnh đến nỗi ông có thể đổ vàng đầy bồn tắm và nhảy vào bơi trong đó.”

Đôi mắt Haskell nheo lại. “Số tiền mà cậu đang nói tới là bao nhiêu?”

Biết ngay mà, Kaz thầm nghĩ khi trông thấy lòng tham loé lên trong ánh mắt của Haskell. Đòn bẩy đang hoạt động.

“Bốn triệu kruge.”

Haskell mở to đôi mắt đã bị cuộc sống chìm trong bia rượu và thử thách của khu Barrell biến thành màu trắng đục ngả vàng. “Cậu định loè tôi đấy à?”

“Tôi đã nói với ông rồi, vụ này lớn.”

“Tiền nhiều để làm gì nếu tôi phải ngồi tù. Tôi không thích bị pháp luật can thiệp vào chuyện làm ăn.”

“Tôi cũng thế, thưa sếp.” Haskell có thể chế giễu cung cách của Kaz, nhưng anh biết ông già tin ngay mọi biểu hiện của sự tôn trọng, và lòng kiêu hãnh của anh có thể chịu được. Một khi đã lấy được phần tiền của mình từ tay Van Eck, anh sẽ chẳng cần phải vâng lệnh hay nịnh nọt Per Haskell nữa. “Tôi đã không lôi chúng ta vào vụ này nếu không chắc chắn khi xong việc chúng ta sẽ trong sạch như thiên thần và giàu có như các thánh. Tất cả những gì tôi cần là thêm một chút thời gian.”

Kaz không thể không nhớ tới cuộc thương lượng giữa hai bố con Jesper, và nó làm anh bực bội. Per Haskell chưa bao giờ quan tâm đến ai ngoài bản thân ông ta và li bia, nhưng lại thích tự coi mình là bố già của một gia đình lớn, với xu hướng phạm pháp. Kaz phải thừa nhận mình quý mến ông ta. Haskell đã cho anh một nơi để bắt đầu, và một mái nhà - cho dù anh chính là người bảo đảm cho nó không bị dột.

Per Haskell ngoắc ngón cái vào túi áo gilet, làm ra vẻ đang cân nhắc đề nghị của Kaz, nhưng lòng tham của ông ta còn bền bỉ hơn cả một cái đồng hồ vặn dây cót. Anh dám cá ông ta đã bắt đầu nghĩ đến những cách tiêu số tiền đó.

“Được rồi, nhóc,” Haskell lên tiếng. “Tôi có thể cho cậu thêm một đoạn thừng để cậu tự treo mình lên. Nhưng nếu tôi phát hiện ra cậu đang chơi xỏ tôi thì cậu sẽ hối tiếc về chuyện đó đây.”

Kaz thể hiện một vẻ mặt nghiêm túc tuyệt đối. Mối đe doạ của Haskell cũng chẳng khác nào những con tàu mô hình trống rỗng mà ông ta vẫn làm.

“Tất nhiên rồi, thưa sếp.”

Haskell khịt mũi. “Thoả thuận thế nhé,” ông ta nói. “Và Bóng Ma đi với tôi.”

Kaz cảm thấy Inej cứng người lại bên cạnh anh. “Tôi cần cô ấy cho phi vụ này.”

“Dùng Roeder ấy. Cậu ta cũng lanh lợi lắm.”

“Nhưng không đủ cho vụ này.”

Giờ thì Haskell xù lông nhím, ngực ưỡn ra, viên hồng ngọc giả trên chiếc ghim cài cà vạt loé lên dưới ánh sáng yếu ớt. “Cậu có biết Pekka Rollins đang toan tính chuyện gì không? Lão vừa mở một sòng bạc mới, ngay đối diện với Quạ Đen.” Kaz đã trông thấy nó. Hoàng Tử Kaelish. Một viên ngọc nữa trong đế chế của Rollins, một cung điện đồ sộ nổi bần bật với màu xanh lá và vàng ánh kim sặc sỡ, như một sự vinh danh nực cười quê hương của lão ta. “Rollins đang chen chân vào lãnh địa của chúng ta,” Haskell nói. “Tôi cần một người nhện, và Inej là người giỏi nhất.”

“Việc đó có thể chờ được.”

“Với tôi thì không. Cứ tạt qua ngân hàng Gemens mà xem. Cậu sẽ thấy tên tôi trên bản giao kèo làm việc của cô ta, và điều đó có nghĩa rằng tôi là người quyết định cô ta đi đâu, làm gì.”

“Tôi hiểu, thưa sếp,” Kaz đáp. “Ngay khi tôi tìm thấy Inej, tôi sẽ báo cho cô ấy biết.”

“Cô ta ở ngay…” Haskell bỏ lửng câu nói, quai hàm trễ xuống trong sự ngỡ ngàng. “Cô ta mới ở ngay đây mà!”

Kaz cố nén cười. Trong lúc Per Haskell làm nhặng xị lên, Inej đã chui vào bóng tối và khẽ khàng leo lên tường. Ông ta đưa mắt tìm kiếm khắp chiều dài ngõ hẻm, rồi ngẩng đầu quan sát mái nhà, nhưng Inej đã mất dạng.

“Cậu phải đưa cô ta về đây,” Haskell nổi đoá, “ngay lập tức.”

Kaz nhún vai. “Ông nghĩ tôi biết leo tường sao?”

“Cặn Bã là băng đảng của tôi, Brekker. Cô ta không thuộc về cậu.”

“Cô ấy chẳng thuộc về ai cả,” Kaz đáp, cảm thấy sức nóng của ngọn lửa ngùn ngụt trong lòng. “Nhưng chúng tôi sẽ quay về Thanh Gỗ sớm thôi.” Thật ra, Jesper sẽ rời khỏi Ketterdam cùng bố, Nina đi tới Ravka, Inej lên con tàu do cô làm chủ, còn anh cũng đang chuẩn bị tách khỏi Haskell mãi mãi. Nhưng ông già sẽ có những đồng kruge làm nguồn an ủi.

“Đồ con hoang khốn kiếp,” Haskell gằn giọng.

“Thằng con hoang khốn kiếp sắp biến ông thành ông trùm giàu có nhất Barrel rồi.”

“Tránh đường cho tôi. Tôi muộn giờ chơi bài rồi.”

“Hi vọng các lá bài sẽ ủng hộ ông,” Kaz vừa nói vừa dịch sang bên cạnh. “Nhưng có lẽ ông sẽ cần cái này.” Anh chìa tay ra. Sáu viên đạn nằm gọn trong lòng bàn tay đi găng của anh. “Phòng khi có biến.”

Haskell rút khẩu súng trong túi ra và mở hộp đạn. Nó trống rỗng.

“Đồ…” Nhưng rồi ông ta bật cười ha hả và nhặt lại những viên đạn từ tay Kaz, lắc đầu. “Cậu đúng là đồ quỷ sứ, nhóc à. Đi kiếm tiền cho tôi đi.”

“Và kiếm thật nhiều,” Kaz thì thầm, tay đưa lên chạm mũ, chân khập khiễng quay ngược trở về chỗ neo thuyền.

***

Anh chỉ thả lỏng một chút khi con thuyền lướt ra khỏi khu Barrel và đi vào vùng nước êm đềm hơn của khu Tài chính. Ở đây đường phố gần như vắng ngắt, sự hiện diện của thị tuần cũng thưa thớt hơn.Trong lúc con thuyền trôi dưới cầu Led, anh thoáng thấy một bóng người nhảy ra từ lan can. Một tích tắc sau, Inej đã đáp xuống chiếc thuyền hẹp.

Kaz chỉ muốn lái thuyền về lại Mạng Đen. Mấy ngày vừa qua anh gần như không chợp mắt, đôi chân anh cũng chưa hoàn toàn bình phục sau những gì anh bắt chúng trải qua ở Lâu Đài Băng. Cơ thể anh sắp sửa ngưng nhận mệnh lệnh.

Tuồng như đọc được suy nghĩ trong đầu Kaz, Inej lên tiếng, “Tôi có thể phụ trách việc theo dõi. Tôi sẽ gặp lại anh trên đảo.”

Còn khướt. Cô không thể hất cẳng anh dễ dàng như thế đâu. “Cô định tiếp cận ngôi nhà của Van Eck từ hướng nào?”

“Hãy bắt đầu từ nhà thờ Barter. Chúng ta có thể quan sát nhà của Van Eck từ trên mái của nó.”

Kaz không mấy vui vẻ khi nghe điều đó, nhưng anh đưa họ ngược dòng kênh Beurs, ngang qua sàn giao dịch và mặt tiền khách sạn Geldrenner, nơi bố của Jesper có lẽ đang ngáy o o trong phòng.

Họ neo thuyền ở gần nhà thờ. Ánh nến hắt ra từ cửa nhà thờ lớn, vốn luôn mở để chào đón những người muốn cầu nguyện cho Ghezen.

Inej có thể leo lên vách tường bên ngoài nhà thờ không mấy khó khăn, và Kaz cũng có thể làm được, nhưng anh không muốn thử sức mình vào thời điểm mà cái chân anh đau nhói theo từng bước đi. Anh cần đột nhập vào một trong các nhà nguyện.

“Anh không cần phải trèo lên đâu,” Inej nói trong lúc họ đi quanh nhà thờ và tìm kiếm một cánh cửa nhà nguyện.

Kaz phớt lờ câu nói đó và nhanh chóng phá khoá. Họ lách vào trong gian phòng tối om, rồi theo cầu thang leo lên hai tầng lầu. Các nhà nguyện nằm chồng lên nhau như một chiếc bánh nhiều lớp, mỗi cái được đặt làm bởi một gia đình thương gia khác nhau của Kerch. Thêm một ổ khoá cần phá, và họ leo lên một cầu thang đáng nguyền rủa khác. Nó có dạng xoắn ốc, dẫn lên một cửa lật trên mái.

Nhà thờ Barter được xây dựng theo hình dạng bàn tay của Ghezen. Nhà thờ lớn nằm trong lòng bàn tay, với năm gian rộng toả ra như năm ngón tay, mỗi ngón kết thúc bằng một chồng các nhà nguyện. Họ đã trèo lên các nhà nguyện ở đầu ngón út, và lúc này tiến về phía mái nhà thờ lớn. Tiếp đó họ men theo ngón áp út, len lỏi qua một khu vực lởm chởm những đầu hồi trơn tuột và các chóp đá nhọn.

“Tại sao thần thánh lại thích được thờ phượng ở những chỗ trên cao nhỉ?” Kaz lẩm bẩm.

“Chỉ có con người mới tìm kiếm sự vĩ đại,” Inej nói trong lúc nhảy thoăn thoắt như thể lòng bàn chân đã thuộc làu địa hình. “Các thánh nghe được lời cầu nguyện ở bất kì nơi đâu.”

“Và đáp lại tuỳ theo tâm trạng?”

“Điều mà anh muốn và thế giới cần không phải lúc nào cũng tương đồng, Kaz à. Cầu nguyện và ao ước là hai chuyện khác nhau.”

Nhưng đều vô ích như nhau. Kaz ngăn mình không đáp trả bằng câu đó. Anh đang tập trung để không ngã chết nên không thể dấn sâu vào một cuộc tranh cãi.

Tại đầu ngón tay áp út, họ dừng lại và quan sát. Về phía tây nam, họ có thể thấy những chóp mái nhọn của nhà thờ, Sàn giao dịch, tháp đồng hồ sáng rực trên khách sạn Geldrenner, và con kênh Beurs chảy qua bên dưới cầu Zents. Nhưng khi nhìn sang phía đông, hình dáng đặc biệt của mái nhà cho họ một tầm quan sát trực diện phố Geldstraat, kênh Geld phía sau, và ngôi nhà uy nghiêm của Van Eck.

Đây là một vị trí thuận lợi để quan sát những biện pháp an ninh mà Van Eck đã thiết lập quanh nhà và trên dòng kênh, nhưng nó không cho họ tất cả những thông tin cần thiết.

“Chúng ta sẽ phải đến gần hơn,” Kaz nói.

“Tôi biết,” Inej đáp và rút một sợi dây dài từ trong áo ra, buộc nó quanh một trong những hình chạm đầu mái. “Sẽ nhanh chóng và an toàn hơn nếu tôi tự mình đi thám thính ngôi nhà của Van Eck. Cho tôi nửa tiếng.”

“Cô…”

“Lúc anh quay lại chỗ chiếc thuyền thì tôi đã có mọi thông tin ta cần.”

Anh chỉ muốn giết cô. “Cô lôi tôi lên đây chẳng vì cái gì cả.”

“Lòng kiêu hãnh đưa anh lên đây. Đêm nay nếu Van Eck nhận thấy bất kì trục trặc nào, mọi chuyện coi như chấm dứt. Đây không phải là một nhiệm vụ dành cho hai người, và anh thừa biết điều đó.”

“Inej…”

“Tương lai của tôi cũng phụ thuộc vào chuyện này. Tôi không hề dạy bảo anh phải phá khoá hay lập kế hoạch như thế nào. Đây là việc mà tôi làm tốt nhất, nên hãy để tôi làm công việc của mình.” Cô kéo căng sợi dây. “Và hãy nghĩ tới tất cả những thời gian mà anh có để cầu nguyện hoặc im lặng chiêm bái trong khi leo xuống.”

Cô biến mất qua phía bên kia của nhà nguyện.

Kaz đứng đó, nhìn trừng trừng vào chỗ cô vừa đứng. Inej đã lừa anh. Bóng Ma tử tế, thành thật, ngoan đạo đã chơi xỏ anh. Anh quay người nhìn cả đoạn mái nhà dài dằng dặc mà mình phải băng qua nếu muốn quay lại chỗ chiếc thuyền.

“Trời đánh cô và đám thánh thần của cô đi,” anh nói trỏng, trước khi nhận ra mình đang mỉm cười.

***

Kaz ở trong một tâm trạng kém vui hơn nhiều khi anh buông mình xuống chiếc thuyền hẹp. Anh không giận vì bị cô lừa, anh chỉ căm ghét vì cô đã đúng. Anh biết thừa mình không đủ sức khoẻ để mò vào nhà Van Eck đêm nay. Đó không phải là một công việc dành cho hai người, và cũng không phải cách hành động của họ. Cô là Bóng Ma, kẻ đánh cắp bí mật giỏi nhất Barrel. Thu thập thông tin mà không bị phát giác là biệt tài của cô, chứ không phải của anh. Anh phải thừa nhận rằng mình rất biết ơn cô khi được ngồi một lúc và duỗi dài cái chân trong khi dòng nước vô nhẹ nhàng vào hai bờ kênh. Nhưng tại sao anh nhất định phải đi cùng cô? Nó là một ý tưởng nguy hiểm - chính lối suy nghĩ đó đã làm Inej bị bắt.

Mình có thể vượt qua chuyện này, Kaz tự nhủ. Đến nửa đêm mai, Kuwei sẽ đang trên đường rời khỏi Ketterdam. Chỉ sau vài ngày, họ sẽ có số tiền thưởng của mình. Inej sẽ được tự do theo đuổi giấc mơ truy lùng bọn săn nô lệ, và anh sẽ được giải phóng khỏi sự sao nhãng thường trực này. Anh sẽ lập nên một băng đảng mới, xây dựng từ những thành viên trẻ nhất, đáng sợ nhất của Cặn Bã. Anh sẽ lại tập trung vào lời hứa mà anh đã nói ra trước vong linh của Jordie, và huỷ hoại cuộc đời của Pekka Rollins từng bước một.

Thế nhưng mắt anh vẫn cứ hướng lên lối đi bên cạnh con kênh, sự bồn chồn của anh tăng dần. Anh đâu có tệ như thế này. Chờ đợi là một phần của cuộc đời tội phạm mà rất nhiều người coi thường. Bọn họ muốn hành động thay vì dừng lại và thu thập thông tin. Họ muốn biết ngay mà không phải tìm hiểu. Đôi khi mánh khoé để vượt qua một tình huống chỉ là chờ đợi. Nếu bạn không thích thời tiết xấu thì đừng lao vào tâm bão, hãy chờ tới khi nó đổi hướng. Bạn sẽ tìm ra cách để khỏi bị ướt.

Xuất sắc, Kaz nghĩ thầm. Cô ấy đang ở chỗ quái nào vậy?

Vài phút dài dằng dặc trôi qua, rồi cô nhẹ nhàng đáp xuống thuyền.

“Kể cho tôi nghe đi,” anh nói trong lúc đưa họ xuôi dòng kênh.

“Alys vẫn ở trong đúng căn phòng trên tầng hai ấy. Có một cận vệ đứng gác trước cửa phòng chị ta.”

“Còn phòng làm việc?”

“Vẫn ở nguyên vị trí cũ, ngay cuối hành lang. Lão ta đã cho lắp các ổ khoá Schuyler trên mọi cửa sổ mở ra bên ngoài của ngôi nhà.” Nghe thấy Kaz thở phì một cái, cô hỏi anh, “Nó là vấn đề à?”

“Không. Một ổ khoá Schuyler sẽ không ngăn được bất kì thợ phá khoá lọc lõi nào, nhưng chúng làm mất thời gian.”

“Tôi không phá được chúng, nên tôi đã chờ cho tới khi một người phụ bếp ra mở cửa hậu.” Anh đã thất bại trong việc dạy cô phá khoá. Khoá Schuyler lẽ ra không phải là trở ngại nếu cô chịu tập trung. “Họ nhận hàng,” Inej nói tiếp. “Theo những gì ít ỏi mà tôi nghe được, họ đang chuẩn bị cho một cuộc họp vào đêm mai với Hội đồng Thương buôn.”

“Hợp lí thôi,” Kaz nói. “Lão ta sẽ sắm vai một người cha quẫn trí và khiến họ đẩy thêm nhiều thị tuần vào việc tìm kiếm.”

“Họ có buộc phải làm điều đó không?”

“Họ không có lí do gì để từ chối Van Eck. Và tất cả bọn họ sẽ nhận được những lời cảnh báo nhẹ nhàng rằng hãy che giấu các cô bồ nhí hoặc những bí mật không muốn bị khám phá cho thật kĩ.”

“Barrel sẽ khốn đốn to.”

“Đúng vậy,” Kaz nói trong lúc chiếc gondel trôi qua doi cát của đảo Mạng Đen để tiến vào màn sương mù. “Không ai muốn bị đám thương gia chõ mũi vào chuyện làm ăn của mình. Cô có biết khi nào thì cuộc họp sẽ diễn ra không?”

“Các đầu bếp đang tíu tít chuẩn bị cho một bàn dạ tiệc lớn. Nó có thể là một sự đánh lạc hướng hoàn hảo.”

“Chính xác.” Đây mới đúng là họ, với không gì ngoài công việc giữa họ, một sự cộng tác không vướng bận. Anh nên để nó như thế, nhưng anh cần được biết. “Em nói Van Eck đã không làm em đau. Nói thật đi.”

Họ đã tiến vào chỗ giấu thuyền ở bụi liễu. Inej không rời mắt khỏi những cành liễu rủ trắng phau. “Lão ta không làm điều đó.”

Họ leo ra khỏi thuyền, ngụy trang nó thật cẩn thận, rồi leo lên bờ dốc. Kaz theo sau Inej, chờ cho tâm trạng cô thay đổi. Trăng bắt đầu lặn, dát ánh sáng bàng bạc lên nét viền của những ngôi mộ. Bím tóc cô bị xổ xuống phía sau gáy. Anh hình dung mình quấn nó quanh bàn tay, dùng ngón cái mân mê kiểu tết của cái đuôi sam. Rồi sao nữa? Anh xua ý nghĩ đó đi.

Khi chỉ còn cách nhà mồ vài chục mét, Inej dừng chân và đưa mắt nhìn màn sương bao phủ trên những nhánh cây. “Lão đã định đập gãy chân tôi,” cô nói. “Dùng búa đập nát, để chúng không bao giờ lành được.”

Ánh trăng và làn tóc mềm tan biến trong một tiếng sét cuồng nộ. Kaz thấy Inej kéo ống tay áo bên trái, nơi từng có hình xăm của Vườn Thú. Anh không rõ cô đã phải chịu đựng những gì ở đó, nhưng anh biết cảm giác tuyệt vọng là như thế nào, và Van Eck đã thành công khi khiến cô cảm thấy nó một lần nữa. Anh sẽ tìm một cách trừng trị mới để dạy cho lão con buôn bảnh chọe đó.

Jesper và Nina nói đúng. Inej cần nghỉ ngơi để hồi phục sau những ngày vừa qua. Anh biết cô cứng cỏi như thế nào, nhưng anh cũng đã biết sự giam cầm tác động đến cô ra sao.

“Nếu em không đủ sức thực hiện nhiệm vụ…”

“Tôi đủ sức mà,” cô đáp, tấm lưng bất động vẫn quay về phía anh.

Im lặng giữa họ giống như một dòng nước đen kịt. Anh không thể vượt qua nó. Anh không thể vượt qua ranh giới giữa sự đứng đắn mà cô đáng được hưởng và sự mãnh liệt mà động thái này đòi hỏi. Nếu anh cố, nó có thể làm cho cả hai mất mạng. Anh chỉ có thể là chính mình – một cậu nhóc không thể mang lại niềm an ủi. Thế nên anh trao cô những gì có thể.

“Tôi sẽ phanh thây lão Van Eck đó ra,” anh nói khẽ. “Tôi sẽ tặng cho lão một vết thương không thể khâu lại, để lão không bao giờ hồi phục được. Một loại vết thương không thể lành.”

“Loại mà anh đang mang?”

“Phải.” Đó là một lời hứa. Một lời thú nhận.

Cô run rẩy hít một hơi. Câu nói tuôn ra như một tràng súng, nhanh chư chớp, như thể cô không chịu nổi việc nói ra chúng. “Tôi đã không biết liệu anh có tìm đến không.”

Kaz không thể trách Van Eck vì điều đó. Anh đã vun đắp mối ngờ vực đó trong lòng cô bằng tất cả những lời lẽ lạnh lùng và tàn nhẫn.

“Chúng ta là một đội, Inej. Chúng tôi sẽ không bỏ em một mình chịu sự định đoạt của một lão lái buôn khốn kiếp.” Đó không phải là câu trả lời mà anh muốn nói. Nó không phải là câu trả lời mà cô muốn nghe.

Khi cô quay về phía anh, đôi mắt cô bừng bừng lửa giận.

“Lão sẵn sàng đập gãy chân tôi,” cô nói, cằm hếch lên, giọng run run. “Lúc đó anh có tìm đến tôi nữa không, Kaz? Khi tôi không thể leo lên một bức tường, hoặc đi trên một sợi dây? Khi tôi không còn là Bóng Ma nữa?”

Tay Nhám sẽ không làm điều đó. Kẻ có thể dẫn dắt họ qua phi vụ này, lấy lại tiền, giữ mạng sống cho họ, sẽ chỉ ban cho cô ân huệ cuối cùng để chấm dứt nỗi thống khổ, rồi quay lưng bước tiếp.

“Tôi sẽ đến tìm em,” anh nói, và khi anh thấy ánh mắt dè chừng của cô chiếu vào mình, anh nhắc lại điều đó một lần nữa. “Tôi sẽ đến tìm em. Nếu tôi không thể bước đi, tôi sẽ bò trườn mà đến, và bất luận chúng ta tàn phế đến thế nào, chúng ta sẽ cùng nhau chiến đấu, với dao găm vào súng ngắn. Bởi vì đó là điều chúng ta luôn làm. Chúng ta không bao giờ buông xuôi.”

Một cơn gió nổi lên. Những nhánh liễu phát ra một âm thanh rì rầm xảo quyệt. Kaz nhìn thẳng vào mắt Inej. Anh thấy ánh trăng phản chiếu trong đó. Hai vệt sáng hình lưỡi liềm giống hệt nhau. Cô có lí khi dè chừng. Kể cả với anh. Đặc biệt là với anh. Đó là điều giúp bạn sống sót.

Cuối cùng Inej gật đầu, rất khẽ. Họ quay về nhà mồ trong im lặng.

Những cây liễu vẫn rì rầm.

13
NINA

Cô thức dậy trước khi mặt trời mọc khá lâu. Như thường lệ, suy nghĩ đầu tiên của cô là về parem, và cũng như thường lệ, cô không hề cảm thấy thèm ăn. Cơn đói thuốc đã gần như khiến cô phát điên đêm qua. Việc cố gắng sử dụng năng lực khi bị tốp Kherguud tấn công làm cô thèm parem khủng khiếp, và cô đã trải qua nhiều giờ trằn trọc lăn lộn, bấm móng tay vào lòng bàn tay đến chảy máu.

Cô cảm thấy rất khổ sở sáng nay, nhưng một sự quyết tâm khiến cô đứng dậy khỏi giường dễ dàng hơn. Nhu cầu dùng parem đã làm mờ một thứ gì đó trong cô, và đôi khi Nina tự hỏi liệu tia sáng đã tắt ấy có bao giờ quay trở lại không. Nhưng hôm nay, bất chấp xương cốt đau nhức, làn da khô ráp và vị đắng chát trong miệng, cô cảm thấy hi vọng. Inej đã trở về. Họ có một phi vụ. Và cô sẽ làm một việc tốt cho các Grisha. Cho dù để đạt được điều đó cô đã phải ép Kaz Brekker làm người tử tế.

Matthias đã dậy xem xét chỗ vũ khí của cả nhóm. Nina duỗi người, ngáp và ưỡn cong cái lưng thêm chút nữa, hài lòng khi ánh mắt anh lướt theo dáng vóc của cô trước khi xấu hổ quay về với khẩu súng trường đang nạp đạn. Thật khoan khoái. Cô đã gần như lao vào anh hôm nọ. Nếu Matthias không muốn tranh thủ thời cơ thì cô có thể khiến anh phải hối tiếc chuyện đó.

Những người còn lại trong nhóm cũng đã thức và đang đi lại trong nhà mồ - ngoại trừ Jesper vẫn đang nằm ngáy ngon lành, đôi chân dài ló ra khỏi cái mền. Inej đang pha trà. Kaz ngồi phác thảo gì đó bên bàn cùng với Wylan và Kuwei. Hai cậu nhóc chăm chú theo dõi và thỉnh thoảng đề xuất gì đó. Nina xem xét hai khuôn mặt Shu sát cạnh nhau. Cung cách và cử chỉ của Wylan rõ là khác hẳn, nhưng khi hai cậu bé ngồi yên, cô không thể xác định được ai là ai. Mình đã làm chuyện này, Nina nghĩ bụng. Cô nhớ lại những cái đèn lồng chao lắc trong cabin nhỏ xíu trên tàu, những lọn tóc xoăn hung đỏ của Wylan biến mất dưới bàn tay cô, nhường chỗ cho mớ tóc đen dày, đôi mắt xanh to tròn vừa lo lắng vừa can đảm một cách bướng bỉnh cũng chuyển sang màu vàng và thay đổi hình dáng. Chuyện đó giống như phép màu, phép màu thực sự, kiểu phép màu trong những câu chuyện mà các giáo viên ở Tiểu Điện từng kể để ru ngủ bọn cô. Và nó hoàn toàn thuộc về cô.

Inej tiến đến ngồi cạnh Nina với hai tách trà trong tay.

“Sáng nay tình hình chị thế nào?” Inej hỏi. “Chị có ăn được không?”

“Chắc là không.” Nina cố bắt mình nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp, “Cảm ơn em vì tối qua. Vì đã ủng hộ chị.”

“Đó là điều hiển nhiên. Em không muốn thấy bất kì ai bị biến thành nô lệ nữa.”

“Kể cả như thế, chị vẫn cảm ơn em.”

“Có gì đâu. Chị có thể trả ơn em theo cách thông thường.”

“Bánh waffle?”

“Thật nhiều vào.”

“Em cần chúng. Van Eck bỏ đói em đúng không?”

“Em cũng không dễ bảo, nhưng lúc đầu lão ta có cố gắng thuyết phục.”

“Rồi sau đó?”

“Sau đó lão tìm cách hành hạ em.”

Nina siết nắm đấm lại. “Chị sẽ treo bộ lòng của lão lên như tràng hoa trang trí.”

Inej bật cười và ngả đầu lên vai Nina. “Em thích ý tưởng đó. Thật đấy. Nhưng món nợ này em sẽ là người trả.” Inej ngừng lời một chút. “Nỗi sợ là điều tồi tệ nhất trong chuyện này. Sau vụ Lâu Đài Băng, em tưởng mình đã vượt qua sự sợ hãi.”

Nina gác cằm lên mái tóc mượt của Inej. “Zoya từng nói nỗi sợ là một con phượng hoàng. Ta có thể chứng kiến nó cháy rụi hàng ngàn lần mà nó vẫn quay trở lại.” Cơn thèm parem cũng cho cảm giác giống như vậy.

Matthias xuất hiện trước mặt hai người. “Chúng ta nên đi sớm. Chưa đầy một giờ nữa mặt trời sẽ mọc.”

“Anh mặc cái gì thế này?” Nina hỏi, tròn mắt nhìn chiếc mũ phớt và áo khoác len màu đỏ trên người Matthias.

“Kaz đã làm giấy tờ giả cho chúng ta đề phòng trường hợp bị chặn lại ở khu Ravka. Chúng ta là Sven và Catrine Alfsson, hai kẻ đào ngũ người

Fjerda tìm kiếm nơi ẩn náu tại đại sứ quán Ravka.”

Cũng có lí. Nếu họ bị chặn lại, Matthias không thể nào giả vờ mình là người Ravka, nhưng Nina có thể dễ dàng nhập vai một phụ nữ Fjerda.

“Chúng ta có phải là vợ chồng không, anh Matthias?” Nina chớp chớp mắt hỏi lại.

Anh xem giấy tờ và nhíu mày. “Anh nghĩ chúng ta là hai anh em.” “Ghê quá nha,” Jesper thốt lên, tay giụi mắt.

Nina cau mặt. “Sao anh lại cho chúng tôi đóng giả anh em, hả Brekker?”

Kaz không buồn ngước lên khỏi tài liệu mình đang xem. “Bởi vì như thế sẽ dễ hơn cho việc làm giả giấy tờ của Specht, cùng tên cha mẹ và nơi sinh. Anh ta đã phải chiều theo cơn bốc đồng công lí của cô trong một thời gian ngắn kỉ lục đấy.”

“Nhưng bọn tôi trông chẳng giống nhau chút nào.” “Cả hai đều cao,” Inej lên tiếng.

“Và đều không có mang cá,” Nina nói. “Nhưng như thế không có nghĩa là bọn tôi giống nhau.”

“Vậy thì chỉnh sửa anh ta đi,” Kaz lạnh lùng đáp.

Sự thách thức trong ánh mắt của Kaz đã quá rõ ràng, vậy là anh ta biết cô đang gặp khó khăn. Dĩ nhiên anh ta biết. Tay Nhám không bao giờ bỏ lỡ điều gì.

“Tôi không muốn bị chỉnh sửa,” Matthias nói. Nina biết anh nói sự thật, nhưng cô nghĩ anh cũng muốn giữ thể diện cho cô.

“Hai người sẽ ổn thôi,” Jesper lên tiếng để xoa dịu căng thẳng. “Chỉ cần bớt liếc mắt đưa tình và cố gắng không sờ soạng nhau giữa chỗ đông người.” Hay ghê.

“Đây,” Matthias nói và đưa cô mái tóc giả màu vàng mà cô đã đội trong vụ luật sư Smeet cùng với một mớ trang phục.

“Tốt nhất nó nên vừa với tôi,” Nina bực bội nói. Cô đã định thay đồ ngay trong nhà mồ, nhưng sợ Matthias choáng ngất nên lại thôi. Cô chộp lấy một cái đèn lồng và bước sang một trong những hầm mộ bên cạnh. Tuy không có gương soi, cô có thể nói chiếc váy khá là tồi tàn, và cái áo len móc nhỏ xíu thật đúng là không còn gì để nói. Khi Nina xuất hiện trở lại, Jesper lăn ra cười, Kaz trố mắt, còn Inej cũng không thể giữ được bộ mặt nghiêm túc.

“Thánh thần ơi,” Nina nhăn mặt nói. “Nó tệ đến thế nào?”

Inej hắng giọng. “Trông chị khá là…” “Quyến rũ,” Matthias vuốt đuôi.

Nina chuẩn bị vặc lại rằng cô không thích bị mỉa mai thì thấy nét mặt của anh. Trông anh như thể vừa bị người ta ấn vào tay một cái rổ đầy chó con.

“Em có thể là một thiếu nữ trong ngày đầu tiên của Roennigsdjel đấy.” “Roennigsdjel là cái gì thế?” Kuwei hỏi.

“Một lễ hội,” Nina đáp. “Tôi cũng chẳng nhớ nữa. Nhưng tôi dám chắc nó có liên quan với việc ăn thật nhiều thịt hươu. Ta đi thôi, anh chàng to xác. Mà này, tôi là em gái của anh đấy nhé, đừng có nhìn chòng chọc như thế.”

“Như thế là như thế nào?”

“Như thể tôi là một que kem.”

“Anh không thích kem que.”

“Matthias,” Nina nói, “không biết liệu chúng ta có thể tiếp tục dành thời gian cho nhau nữa không đây.” Nhưng cô không thể giấu được sự hài lòng trong giọng nói của mình. Rõ ràng cô cần phải sưu tập nhiều bộ đồ len xấu xí hơn.

***

Sau khi đã rời khỏi Mạng Đen, họ theo các con kênh hướng lên phía tây bắc, hoà vào dòng thuyền bè đi chợ sáng ở gần Toà thị chính. Đại sứ quán

Ravka nằm ở rìa của khu Hành chính, kẹp giữa khúc lượn của dòng kênh và một trục đường lớn. Nơi đây từng là một đầm lầy, nhưng đã được san lấp bởi một người có ý định sử dụng địa điểm này để xây khách sạn và công viên. Ông ta cạn tiền trước khi công trình được động thổ. Giờ thì nó là chỗ họp chợ, với vô số các sạp hàng lẫn xe đẩy xuất hiện vào buổi sáng để rồi biến mất khi trời tối và khi lực lượng thị tuần rảo qua. Nó là nơi người tị nạn, du khách, kiều dân cả mới lẫn cũ đến tìm những khuôn mặt và phong tục thân quen. Các quán cà phê ngay cạnh đó phục vụ món pelmeni và cá trích muối, trong khi những ông già ngồi bên những chiếc bàn ngoài vỉa hè nhấm nháp kvas và đọc tin tức từ những tờ báo cũ đến vài tuần lễ của Ravka.

Lúc Nina mới dạt đến Ketterdam, cô đã nghĩ tới việc nương nhờ đại sứ quán, nhưng lại sợ sẽ bị gửi về quê hương, nơi cô phải phục vụ trong Hạ Quân. Làm sao cô có thể giải thích được rằng mình không thể quay về Ravka chừng nào chưa minh oan được cho một drüskelle người Fjerda bị bỏ tù do những lời tố cáo sai sự thật của cô? Sau đó, cô hiếm khi đặt chân đến Tiểu Ravka. Cô quá đau lòng khi bước trên những con phố quá đỗi thân quen nhưng lại vô cùng xa lạ.

Tuy nhiên, khi trông thấy biểu tượng con đại bàng hai đầu Lantsov vàng kim tung bay trên lá cờ xanh lơ, tim Nina vẫn đập lồng lên như ngựa chạy. Khu chợ khiến cô nhớ tới Os Kervo, đô thị náo nhiệt từng là thủ phủ của Tây Ravka trước khi thống nhất - những chiếc khăn san thêu và ấm samovar sáng bóng, mùi thịt cừu tươi quay trên bếp lửa, những chiếc mũ len, và các hình tượng bằng thiếc đã mòn vẹt sáng lấp lánh trong nắng sớm. Nếu bỏ qua những toà nhà hẹp có đầu hồi kiểu Kerch, Nina có thể coi như cô đang ở nhà. Một ảo tưởng nguy hiểm. Những con phố này không an toàn một chút nào.

Mặc dù rất nhớ nhà, khi Nina cùng Matthias đi ngang qua những người bán hàng rong và tiểu thương, một cái gì đó xấu hổ và nhỏ bé trong cô vẫn quặn lại trước sự tụt hậu của mọi thứ. Ngay cả những con người trung thành với trang phục truyền thống của Ravka trông cũng giống như tàn tích của một thời kì khác, những đồ vật bước ra từ trang truyện cổ. Có phải quãng thời gian một năm lưu lại Ketterdam đã làm cô thành ra như thế này? Có phải nó đã thay đổi cách cô nhìn nhận những người đồng hương cũng như phong tục tập quán của mình? Cô không muốn tin điều đó.

Khi dứt khỏi dòng suy nghĩ, Nina nhận ra cô và Matthias đang thu hút nhiều ánh mắt không thân thiện. Rõ ràng người Ravka có định kiến đối với dân Fjerda, nhưng chuyện này hơi khác. Rồi cô ngước lên nhìn Matthias, và thở dài. Anh đang lúng túng ra mặt, và những khi lúng túng, trông anh rất đáng sợ. Vóc dáng lừng lững như chiếc xe tăng trưng bày trong Lâu Đài Băng của anh chỉ càng làm tình hình tệ thêm.

“Matthias,” cô thì thào bằng tiếng Fjerda và huých nhẹ vào tay anh chàng, “anh có cần phải lườm mọi thứ như thế không?”

“Anh có lườm đâu?”

“Chúng ta là hai người Fjerda trên địa bàn của dân Ravka. Chúng ta đã đủ khác biệt rồi. Đừng có tạo cớ cho mọi người nghĩ rằng ta sắp tấn công nơi này. Chúng ta cần thực hiện nhiệm vụ mà không gây chú ý. Anh hãy xem mình như một gián điệp.”

Trán Matthias càng nhăn tợn. “Cái trò đó không xứng đáng với một chiến binh chính trực.”

“Vậy hãy vờ như anh là một diễn viên.” Matthias thốt lên một tiếng ghê tởm. “Anh chưa bao giờ được đi xem kịch à?”

“Mùa nào họ cũng diễn kịch ở Djerholm.”

“Để xem nào, những vở diễn nhạt thếch dài mấy tiếng đồng hồ thuật lại các anh hùng huyền thoại thời xưa chứ gì?”

“Thật ra chúng rất hay. Nhưng anh chưa bao giờ thấy một diễn viên nào biết cách cầm thanh kiếm cho đúng cách.” Nina phì cười.

“Gì cơ?” Matthias ngơ ngác hỏi lại.

“Không có gì. Thật đấy. Không có gì.” Cô sẽ dạy anh cách nói giảm nói tránh vào một lúc khác. Hoặc là không bao giờ. Anh tức cười hơn khi ngẩn người ra như thế này.

“Mấy cái kia là gì thế?” Matthias hỏi, tay chỉ vào một sọt hàng. Trong đó chất thành hàng ngay ngắn những thứ nom giống như que và đá cục.

“Xương đấy,” Nina đáp. “Ngón tay, khớp đốt, cột sống, những mảnh xương cổ tay. Thánh tích đấy. Để bảo vệ bản thân.”

Matthias thoái lui. “Dân Ravka thích cầm theo xương người à?”

“Còn các anh thì nói chuyện với cây. Cái đó gọi là mê tín đấy.”

“Có thật chúng là của các thánh không?”

Nina nhún vai. “Đó là xương lấy từ các nghĩa địa hoặc bãi chiến trường. Nếu người ta muốn tin rằng mình đang cầm theo khuỷu tay của Thánh Egmond hoặc ngón chân út của Thánh nữ Alina thì…”

“Ai quyết định phong thánh cho Alina Starkov vậy?” Matthias làu bàu. “Cô ta là một Grisha hùng mạnh, chứ có phải thánh thần đâu?”

“Anh dám chắc vậy sao?” Nina hỏi lại, cảm thấy máu nóng bắt đầu bốc lên. Cô cảm thấy phong tục của người Ravka lạc hậu là một chuyện, việc

Matthias chất vấn nó lại là một chuyện khác. “Em đã tận mắt nhìn thấy Lâu Đài Băng, Matthias. Theo anh, sẽ dễ tin hơn nếu nói nơi đó được thiết kế bởi bàn tay của thánh thần hay nói rằng nó được tạo ra bởi các Grisha với những năng lực mà người Fjerda các anh không thể hiểu được?”

“Hoàn toàn không liên quan.”

“Alina Starkov chỉ trạc tuổi chúng ta khi hi sinh vì nghĩa lớn. Cô ấy chỉ là một cô gái, nhưng đã hi sinh bản thân để cứu Ravka và phá huỷ Vực Tối. Ở đất nước anh cũng có những người tôn thờ cô ấy như một vị thánh.”

Matthias nhíu mày. “Cái đó phi…”

“Nếu anh nói ra hai chữ ‘tự nhiên’, em sẽ cắn anh đấy.”

“Em dám làm thế thật không?”

“Chắc chắn em có thể thử.” Cô đã không công bằng trong chuyện này. Ravka là quê hương cô, nhưng vẫn là mảnh đất quân thù đối với Matthias. Anh có thể tìm ra cách để chấp nhận cô, nhưng đòi hỏi anh chấp nhận cả một quốc gia cùng nền văn hoá của nó là một việc mất nhiều công sức. “Có lẽ em nên đi một mình. Anh có thể quay về thuyền ngồi đợi.”

Matthias cứng người lại. “Tuyệt đối không. Em không biết chuyện gì đang chờ đợi phía trước. Người Shu có thể đã lùng ra các bạn của em.”

Nina không muốn nghĩ tới khả năng đó. “Vậy thì anh phải bình tĩnh lại và cố tỏ ra thân thiện.”

Matthias lắc lắc đôi tay và chùng người xuống.

“Thân thiện, chứ không phải buồn ngủ. Chỉ cần… giả vờ như tất cả những người anh gặp gỡ là những chú mèo con mà anh đang cố không làm hoảng sợ.”

Matthias tự ái ra mặt. “Động vật quý anh lắm nhé.”

“Tốt. Cứ coi như họ là những đứa trẻ con. Những đứa trẻ nhút nhát có thể tè ra quần nếu anh không cư xử tử tế.”

“Được đấy, anh sẽ thử.”

Khi họ tiến đến sạp hàng kế tiếp, bà bán hàng ngước lên nhìn Matthias với cặp mắt nghi ngờ. Nina gật đầu khích lệ anh chàng.

Matthias mỉm cười toét miệng và cất tiếng với giọng rổn rảng. “Xin chào!”

Vẻ mặt thận trọng của bà già chuyển thành bối rối. Nina coi đó là một sự tiến bộ.

“Hôm nay thế nào?” Matthias hỏi.

“Tôi xin lỗi?” Bà già hỏi lại.

“Không có gì ạ.” Nina nói bằng tiếng Ravka. “Anh cháu chỉ muốn nói là phụ nữ Ravka rất đẹp lão thôi ạ.”

Bà già nở nụ cười móm mém và đưa mắt nhìn Matthias từ đầu đến chân với vẻ hài lòng. “Tôi luôn thích các anh chàng Fjerda. Hỏi xem cậu ấy có muốn chơi trò Công chúa và Kẻ mọi rợ không,” bà nói trong tiếng cười khùng khục.

“Bà ta nói gì thế?” Matthias hỏi.

Nina ho húng hắng rồi nắm tay anh dẫn ra xa. “Bà ta nói anh là một người tử tế, và rất đáng mặt dân Fjerda. Ôiii, nhìn này, bánh blini đấy! Đã lâu rồi em không được ăn món bánh blini tử tế như thế này.”

“Bà ta dùng chữ babink,” anh nói. “Em đã từng dùng chữ đó với anh. Nó có nghĩa là gì?”

Nina hướng sự chú ý vào một chồng những chiếc bánh kếp bơ mỏng như giấy. “Nó có nghĩa là bánh ngọt.”

“Nina à.”

“Mọi rợ.”

“Anh chỉ hỏi thôi, không cần phải xỉ vả anh như thế.”

“Không, babink tức là mọi rợ.” Ánh mắt của Matthias quay phắt về phía bà già kia, vẻ mặt anh hằm hằm trở lại. Nina nắm lấy tay anh. Thật chẳng khác nào nắm một cục sắt. “Bà ta không hề xỉ vả anh. Em thề!”

“Mọi rợ không phải là chữ để xỉ vả sao?” Anh cất cao giọng hỏi lại.

“Không. Ờ thì có. Nhưng không phải trong hoàn cảnh này. Bà ta chỉ muốn biết liệu anh có thích chơi trò Công chúa và Kẻ mọi rợ hay không.”

“Nó là một trò chơi à?”

“Cũng không hẳn thế.”

“Vậy thì nó là gì?”

Nina không thể tin nổi mình sắp giải thích chuyện này. Trong khi họ tiếp tục bước đi, cô nói, “Ở Ravka, có một loạt truyện rất phổ biến kể về, hừm, một chiến binh Fjerda can trường…”

“Thật á?” Matthias hỏi lại. “Anh ta là người hùng à?”

“Không hẳn thế. Anh ta bắt cóc một công chúa người Ravka…”

“Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.”

“Trong truyện thì có, và…” Cô hắng giọng “… họ dành nhiều thời gian để tìm hiểu nhau. Trong hang của anh ta.”

“Anh ta sống trong hang à?”

“Đó là một cái hang rất đẹp. Lông thú, cốc chén nạm ngọc. Rượu ngọt.”

“À,” anh nói với giọng hài lòng. “Một người tàng trữ kho báu như kiểu Ansgar Hùng mạnh chứ gì. Sau đó họ trở thành đồng minh, đúng không?”

Nina nhặt một cặp găng tay thêu ở một gian hàng khác. “Anh có thích mấy cái này không? Có lẽ chúng ta có thể dụ Kaz đeo một cặp găng thêu hoa. Để cho sinh động.”

“Câu chuyện kết thúc như thế nào? Họ có ra chiến trận không?”

Nina quăng trả cặp găng tay vào đống hàng. “Họ đã tìm hiểu nhau một cách thân mật.”

Quai hàm Matthias trễ xuống. “Trong hang á?”

“Anh thấy đấy, anh ta rất thô lỗ, rất mạnh bạo,” Nina vội nói tiếp. “Nhưng anh ta đã phải lòng nàng công chúa Ravka, và điều đó cho phép cô ấy khai hoá anh ta…”

“Khai hoá anh ta?”

“Phải, nhưng phải đến cuốn thứ ba điều đó mới diễn ra.”

“Có những ba cuốn cơ á?”

“Matthias, anh có cần ngồi xuống không?”

“Cái món văn hoá này kinh dị thật đấy. Ý tưởng rằng một cô nàng Ravka có thể khai hoá một anh chàng Fjerda…”

“Bình tĩnh đi nào, Matthias.”

“Chắc anh phải viết một câu chuyện về những cô nàng Ravka tham lam chỉ thích say xỉn và trút bỏ quần áo rồi làm trò lố lăng trước mặt những anh chàng Fjerda xui xẻo.”

“Ờ, nghe cũng hay đó.” Matthias lắc đầu, nhưng Nina có thể thấy nụ cười mỉm trên môi anh. Cô quyết định đẩy mọi thứ đi xa hơn. “Chúng ta có thể chơi trò này,” cô thì thào, đủ khẽ để không ai quanh đó nghe thấy.

“Chắc chắn là không.”

“Đến một lúc, anh ta tắm cho cô ấy.”

Matthias loạng choạng suýt ngã. “Sao anh ta có thể…”

“Cô ấy bị trói, nên anh ta phải làm thế.”

“Em im đi.”

“Lại ra lệnh rồi. Như thế gọi là hành xử kiểu mọi rợ đấy. Hay là chúng ta có thể đảo vai. Em sẽ là kẻ mọi rợ, còn anh là công chúa. Nhưng anh sẽ phải thở dài sườn sượt rất nhiều, rồi run lẩy bẩy và cắn môi nữa.”

“Thế nếu anh cắn môi em thì sao?”

“Đấy, anh nắm bắt được trò chơi rồi, Helvar.”

“Em đang cố làm anh mất tập trung.”

“Đúng thế. Và nó đã thành công. Anh không còn lườm mắt với mọi người được hai khối phố rồi. Nhìn mà xem, chúng ta đến nơi rồi.” “Giờ thì sao?” Matthias hỏi và đưa mắt quan sát đám đông.

Họ đã đến một tửu quán trông có vẻ ọp ẹp. Một người đàn ông đang đứng trước quán với một cái xe đẩy, bán những bức tượng nhỏ thường thấy và tượng Thánh nữ Alina theo phong cách mới - Alina với nắm đấm giơ cao, súng trường trong tay, xác những con volcra có cánh nằm dưới chân. Dưới đế của bức tượng ghi dòng chữ Rebe dva Volkshiya, Người con gái quốc dân.

“Tôi giúp gì được cho cô?” Người đàn ông hỏi.

“Sức khoẻ cho nhà vua Nikolai,” Nina trả lời bằng tiếng Ravka.

“Cầu mong ngài trị vì lâu dài.”

“Với trái tim nhẹ nhõm,” ông già đáp.

“Và nắm đấm nặng nề,” Nina nói nốt câu mật mã.

Ông già liếc qua vai. “Ngồi vào bàn thứ hai bên trái. Gọi món nếu thích. Có người sẽ đến gặp cô ngay.”

Tửu quán vừa lạnh vừa tối so với sự rực rỡ của quảng trường bên ngoài, Nina phải chớp mắt mấy cái cho quen. Sàn nhà lấm tấm mạt cưa, còn tại một vài chiếc bàn nhỏ, người ta đang châu đầu nói chuyện bên li kvas và những đĩa cá trích.

Nina và Matthias ngồi vào chiếc bàn trống.

Cánh cửa quán đóng sập lại phía sau lưng họ. Ngay lập tức, những khách hàng khác lao ra khỏi bàn làm ghế đổ lỏng chỏng xuống đất, chĩa súng vào Nina và Matthias. Một cái bẫy.

Không kịp suy nghĩ, Nina và Matthias bật dậy và đấu lưng vào nhau, sẵn sàng chiến đấu - Matthias với súng lục giương cao, còn Nina với hai bàn tay giơ ra phía trước.

Từ phía nhà sau của quán, một cô gái đội mũ trùm đầu bước ra, cổ áo dựng lên che phần lớn khuôn mặt. “Coi nào,” cô nói, đôi mắt vàng long lanh trong ánh sáng lờ mờ. “Không cần chiến đấu đâu.” “Vậy những khẩu súng này là sao?” Nina hỏi để câu giờ.

Cô gái giơ tay lên và Nina cảm thấy nhịp tim mình chậm lại.

“Cô ta là Độc Tâm Y!” Cô hét lên.

Matthias lôi thứ gì đó trong túi ra. Nina nghe thấy một tiếng bụp và xì, thế rồi chỉ giây lát sau một màn sương đỏ rực đã tràn ngập trong quán. Có phải Wylan đã chế bom khói cho Matthias? Đó là một kĩ thuật của các drüskelle để che chắn tầm nhìn của Độc Tâm Y. Trong màn sương bao phủ, Nina cong ngón tay lại, hi vọng năng lực của mình sẽ đáp ứng. Cô chẳng cảm thấy gì từ những cơ thể quanh mình. Không chút sự sống, không một động tĩnh.

Nhưng ở đâu đó bên rìa ý thức của mình, cô cảm thấy một thứ khác lạ, một dạng nhận thức khác, một cái lạnh của lòng hồ sâu thẳm, một cú sốc khiến các tế bào của cô tỉnh dậy. Nó rất quen thuộc - cô đã có cảm giác tương tự khi hạ gục tay vệ quân trong cái đêm họ bắt cóc Alys. Nó có hình hài và lớp lang, cô cảm thấy mình lặn sâu vào trong cái lạnh, tìm kiếm sự tỉnh thức một cách mù quáng và đói khát, rồi vung cánh tay về phía trước trong một cử chỉ vừa bản năng vừa điệu nghệ.

Những ô cửa sổ của quán rượu nổ tung vào bên trong, tạo thành một cơn mưa thuỷ tinh. Các mẩu xương bay qua không khí, lao vào nhóm đàn ông vũ trang như những mảnh trái phá. Mớ thánh tích của người bán hàng. Bằng cách nào đó, cô đã điều khiển được xương xẩu.

“Chúng có viện binh!” Một người hét lên.

“Khai hoả!”

Nina gồng mình chờ đợi tác động của những viên đạn, nhưng một giây sau cô cảm thấy mình bay bổng lên. Mới trước đó cô còn đứng trên sàn tửu quán, tích tắc sau cô đã va người vào xà nhà, mắt nhìn xuống lớp mạt cưa tít phía dưới. Xung quanh cô, những người đàn ông vũ trang và Matthias cũng đang treo lơ lửng, dính chặt vào trần nhà.

Một phụ nữ trẻ đứng trên ngưỡng cửa nhà bếp, mái tóc đen gần như xanh rực trong ánh sáng mờ tối.

“Zoya?” Nina thốt lên trong lúc nhìn từ trên cao xuống, cố gắng lấy lại hơi thở.

Zoya bước vào vùng ánh sáng trong lớp áo lụa xanh, hai ống tay và đường diềm thêu những hoa văn màu bạc. Hàng mi rộp của chị mở to. “Nina hả?” Sự tập trung của Zoya giảm đi, và tất cả mọi người rơi một chân xuống trước khi chị lại giơ tay lên, khiến những cái chân đập mạnh vào xà nhà.

Zoya ngước mắt nhìn Nina, ngỡ ngàng. “Em còn sống,” chị nói. Ánh mắt chị chuyển hướng sang Matthias, người đang vùng vẫy như một con bướm to tướng bị ghim vào tờ giấy. “Và đã có bạn mới.”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro