Phần Một: Bí Quyết Khi Ngã 1-6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1
INEJ

Inej cảm thấy như cô và Kaz đã trở thành hai đồng đội chí cốt, cùng nhau tiến lên, vờ như mình vẫn ổn trong khi che giấu các thương tích và vết bầm tím trước những người còn lại.

Phải mất thêm hai ngày đường nữa để họ tới được vách đá trông xuống Djerholm, nhưng việc di chuyển trở nên dễ dàng hơn khi họ đi xuống phía nam và gần ra bờ biển. Thời tiết ấm áp lên, mặt đất tan giá bớt, và cô bắt đầu thấy những dấu hiệu của mùa xuân. Inej cứ ngỡ Djerholm cũng giống như Ketterdam - một tấm vải toan đầy sắc thái xám xịt, đường phố quanh co với sương khói quyện chặt và những con tàu đủ mọi chủng loại ra vào hải cảng, tấp nập theo nhịp độ giao thương sôi động. Cảng Djerholm đông đúc tàu thuyền, nhưng những con phố nhỏ hẹp đổ ra biển của nó được thiết kế quy củ, và các ngôi nhà được sơn đủ mầu - từ đỏ, xanh dương, tới vàng và hồng - như thể thách thức miền đất hoang dã trắng xoá và mùa đông phương bắc dài đằng đẵng. Ngay cả những dãy nhà kho trên bến cảng cũng mang nhiều màu sắc tươi vui. Nơi đây giống như hình ảnh cô mường tượng về các đô thị khi còn bé, mọi thứ đều có màu kẹo ngọt và nằm đúng chỗ của chúng.

Chiếc Ferolind có đang đợi sẵn ở cảng, duyên dáng với lá cờ Kerch và hai màu sơn cam - xanh nổi bật của công ty Haanraadt Bay không? Nếu kế hoạch diễn ra theo đúng như mong đợi của Kaz, đêm mai họ sẽ xuống bến cảng cùng với Bo Yul-Bayur, nhảy lên con thuyền của mình và giương buồm ra khơi trước khi phía Fjerda kịp phát giác vụ việc. Cô không thích nghĩ tới viễn cảnh đêm mai nếu kế hoạch đổ bể.

Inej đưa mắt nhìn lên Lâu Đài Băng sừng sững như một người lính gác đồ sộ trắng muốt đứng trên vách đá cao trông xuống hải cảng. Theo lời Matthias thì vách đá kia không thể leo lên được, và cô phải thừa nhận đấy là một thử thách thực sự ngay cả với Bóng Ma. Nó cao không tưởng tượng nổi, và nhìn từ xa, bề mặt nhẵn nhụi trắng phau của nó sáng bóng như mặt băng.

“Đại bác kìa,” Jesper lên tiếng.

Kaz nheo mắt nhìn lên những cỗ súng lớn chĩa thẳng ra vịnh biển. “Tôi đã đột nhập vào nhà băng, kho hàng, tư dinh, bảo tàng, hầm vàng, thư viện sách quý, thậm chí là phòng ngủ của một nhà ngoại giao người Kaelish có bà vợ đam mê ngọc lục bảo. Nhưng tôi chưa bao giờ bị một khẩu đại bác chĩa vào người.”

“Chuyện gì cũng có lần đầu,” Jesper bình phẩm.

Inej mím môi lại. “Hi vọng chúng ta không xui đến mức ấy.”

“Mấy khẩu thần công kia là để chặn đứng những chiến hạm định ho he xâm lược,” Jesper đáp với giọng tự tin. “Chúng không thể bắn trúng một con thuyền nhỏ hai buồm rẽ sóng đi tìm của cải và vinh quang.”

“Tôi sẽ dẫn lại lời anh khi quả đạn đại bác rơi vào lòng tôi,” Nina lên tiếng.

Họ dễ dàng hoà vào dòng người ở điểm giao cắt giữa vách đá và con đường dẫn lên Thượng Djerholm ở phía bắc. Khu vực trên này là vùng mở rộng của đô thị bên dưới, một tập hợp lộn xộn gồm các cửa hàng, chợ búa, quán trọ để phục vụ cho các lính gác và nhân viên làm việc trong Lâu Đài Băng, cũng như các du khách. May mắn là đám đông đủ lớn và sặc sỡ để một nhóm người ngoại quốc có thể di chuyển mà không bị để ý, và Inej cảm thấy dễ thở hơn một chút, cô đã lo rằng mình và Jesper có thể bị nghi ngờ khi đi giữa biển tóc vàng của Fjerda. Có lẽ nhóm người nước Shu Han cũng dùng sự đa dạng của đám đông để che chở cho họ.

Không khí của lễ hội Hringkälla tràn ngập khắp nơi. Cửa hàng cửa hiệu trưng ra những chồng bánh tiêu nướng có hình dạng con sói, hoặc treo chúng lủng lẳng như đồ trang trí trên các cây to có cành vặn xoắn. Cây cầu bắc qua hẻm sông được trang trí với hoa và ruy băng màu xám bạc - màu sắc của Fjerda. Cầu có hai chiều: một đi tới Lâu Đài Băng và một quay về. Liệu ngày mai họ có băng qua cây cầu này trong tư thế của người chiến thắng hay không?

“Mấy cái kia là gì vậy?” Wylan thắc mắc khi dừng lại trước một xe đẩy bán hàng rong chất đầy những vòng hoa được làm từ các nhánh cây vặn xoắn và dây ruy băng màu xám bạc.

“Cây tần bì,” Matthias đáp. “Vật linh thiêng dành cho Djel.”

“Nghe nói có một cây tần bì trên Bạch Đảo,” Nina nói, phớt lờ ánh mắt cảnh báo của anh chàng người Fjerda. “Đó là nơi các drüskelle tập hợp lại để làm lễ.”

Kaz gõ cây gậy chống xuống đất. “Tại sao đến bây giờ tôi mới được cho biết chi tiết này lần đầu tiên?”

“Cây tần bì được nâng đỡ bằng linh hồn của Djel,” Matthias đáp. “Đó là nơi chúng tôi có thể nghe thấy giọng nói của ngài tốt nhất.”

Mắt Kaz long lên. “Đó không phải là điều tôi hỏi. Tại sao nó không có trong kế hoạch của chúng ta?”

“Bởi vì đó là nơi linh thiêng nhất Fjerda, và không quan trọng đối với nhiệm vụ của chúng ta.”

“Tôi mới là người quyết định cái gì quan trọng, còn điều gì anh cố tình bỏ quên không đấy?”

“Lâu Đài Băng là một cấu trúc rất rộng lớn,” Matthias quay mặt đi. “Tôi không thể nhớ hết mọi ngóc ngách của nó được.”

“Vậy thì anh hãy hi vọng không có gì rình rập trong mấy cái ngóc ngách đó đi,” Kaz đáp.

Thượng Djerholm không có một khu trung tâm thực sự, nhưng nhiều tửu quán, nhà trọ và sạp chợ tập trung quanh chân quả đồi dẫn lên Lâu Đài Băng. Kaz dẫn họ đi tưởng chừng như không có định hướng qua nhiều con phố cho đến khi gặp một tửu quán xập xệ có tên Gestinge.

“Ở đây á?” Jesper phàn nàn và đưa mắt nhòm vào gian phòng chính ẩm thấp, nồng nặc mùi tỏi và cá.

Kaz chỉ liếc mắt đầy ý nhị lên phía trên và đáp: “Sân thượng.” “Gestinge nghĩa là gì nhỉ?” Inej thắc mắc.

“Nó có nghĩa là ‘thiên đường’,” Matthias đáp. Ngay cả anh ta cũng tỏ ra ngờ vực.

Nina giúp cả nhóm đặt một bàn trên sân thượng của quán. Ở đấy gần như không có người khách nào vì thời tiết vẫn còn quá lạnh. Hoặc cũng có thể mọi người bị dọa chạy mất bởi đồ ăn - cá trích ngâm dầu trở mùi, bánh mì đen cứng quèo, và bơ trông như bị mốc.

Jesper nhìn xuống đĩa thức ăn của mình và rên rỉ. “Kaz, nếu anh muốn giết tôi thì hãy tặng một viên đạn, chứ đừng có đầu độc thế này.”

Nina nhăn mũi. “Đến tôi mà cũng không muốn ăn là anh đủ biết rồi đó.”

“Chúng ta vào đây là vì tầm quan sát, chứ không phải đồ ăn.”

Từ bàn của mình, họ có thể quan sát rõ ràng, tuy hơi xa, lớp cổng ngoài và chốt gác đầu tiên của Lâu Đài Băng. Nó được xây như một cổng vòm mầu trắng ghép lại từ hai con sói đá đồ sộ đứng trên chân sau, và nối với con đường dẫn lên đồi tới lâu đài. Inej và những người khác quan sát các phương tiện đi qua cổng thành trong lúc nhơi bữa trưa, chờ đợi dấu hiệu của đoàn xe chở tù. Sự ngon miệng của cô cuối cùng cũng quay lại, và cô đã ăn nhiều hết mức có thể cho lại sức, nhưng lớp váng trên bát súp khiến cô không muốn ăn.

Quán không phục vụ cà phê, nên họ gọi trà và những li brännvin nhỏ đốt cháy thực quản trong khi chảy xuống dạ dày, nhưng nhờ đó giúp họ giữ ấm khi cơn gió nổi lên, khuấy động đám dây ruy băng bạc buộc trên những cành cây tần bì trồng dọc theo con đường bên dưới.

“Chúng ta sắp trở nên đáng nghi đấy,” Nina nói. “Đây không phải là nơi mọi người thích ngồi lâu.”

“Hay là bọn họ chẳng có ai để tống vào tù?” Wylan phỏng đoán.

“Lúc nào cũng có người cần tống vào tù,” Kaz đáp, đồng thời hất hàm về phía con đường. “Nhìn kìa.”

Một cỗ xe tứ mã vuông vức dừng lại trước chốt gác. Mái và hai mặt bên hông được phủ vải bạt đen hù. Cánh cửa phía sau làm bằng sắt dày, có cài then và được gắn ổ khoá.

Kaz thò tay vào trong túi áo khoác. “Đây,” anh nói và đưa cho Jesper một cuốn sách mỏng có bìa cầu kì.

“Đến giờ đọc sách cho nhau nghe à?”

“Cứ mở ra đi, trang cuối ấy.”

Jesper mở sách và lật tới trang cuối, bối rối tợn. “Rồi sao?”

“Giơ nó lên để chúng tôi không phải nhìn cái bộ mặt xấu hoắc của cậu.”

“Xấu nhưng cá tính nhé. với lại… Ồ!”

“Sách hay chứ hả?”

“Ai mà ngờ được tôi lại hứng thú với văn học như thế này?”

Jesper đưa sách cho Wylan. Cậu nhóc ngập ngừng cầm lầy. “Sách viết gì thế?”

“Cứ đọc đi,” Jesper giục.

Wylan nhíu mày và giơ sách lên, rồi nhoẻn cười. “Anh kiếm được cái này ở đâu vậy?”

Matthias thốt lên một tiếng ngạc nhiên khi đến lượt mình.

“Nó gọi là sách không bìa,” Kaz nói trong lúc Inej đỡ lấy quyển sách từ tay Nina và giơ lên. Các trang sách dày đặc những bài thuyết giáo tầm thường, nhưng cái bìa sau chạm trổ cầu kì của nó che giấu hai thấu kính có thể được sử dụng như ống nhòm. Kaz đã bảo cô lưu ý những người phụ nữ sử dụng gương con với cấu tạo tương tự tại Quạ Đen. Bọn họ có thể xem trộm các lá bài từ xa, rồi ra hiệu với đồng bọn đang ngồi chơi bài.

“Thông minh đấy,” Inej nhận xét khi đưa mắt nhìn qua hai thấu kính. Với người phục vụ quầy bar và các vị khách hiếm hoi trên sân thượng, bọn họ có vẻ như đang chuyền tay nhau một quyển sách và thảo luận về đoạn văn thú vị nào đó. Nhưng thật ra Inej đang quan sát cổng thành cùng cỗ xe chở tù đậu phía trước.

Cánh cổng nằm giữa hai con sói chồm trên chân sau được làm bằng sắt rèn và mang biểu tượng cây tần bì linh thiêng. Hai bên cổng thành là một hàng rào cao có gắn cọc nhọn bao quanh khuôn viên lâu đài.

“Bốn lính,” cô ghi nhận, đúng như Matthias đã nói từ trước. Mỗi bên cổng có hai lính gác đứng, một người trong số họ đang nói chuyện với người đánh xe của cỗ xe tù. Người đánh xe đưa cho anh ta một gói tài liệu.

“Đó là lớp bảo vệ đầu tiên,” Matthias cho biết. “Họ kiểm tra giấy tờ và xác nhận danh tính, đánh dấu bất kì người nào mà họ nghĩ là cần xem xét kĩ hơn. Vào giờ này ngày mai, dòng phương tiện đi qua cổng sẽ chở toàn các khách mời của Hringkälla, và an ninh sẽ được thắt chặt cho tới hẻm sông.”

“Lúc đó thì chúng ta đã ở bên trong rồi,” Kaz nói.

“Cỗ xe này chạy có thường xuyên không?” Jesper thắc mắc.

“Còn tuỳ,” Matthias đáp. “Thường là vào buổi sáng. Đôi khi cả buổi chiều. Nhưng tôi không hình dung được họ muốn đưa tù nhân tới vào cùng thời điểm với các khách khứa.”

“Vậy thì chúng ta phải lên được chuyến xe sớm,” Kaz nói.

Inej lại giơ cuốn sách lên. Người đánh xe tù mặc bộ đồng phục xám tương tự như các lính gác, nhưng không có đai lưng hay huy hiệu. Anh ta nhảy từ trên ghế lái xuống và đi vòng ra sau để mở cửa xe.

“Thánh thần ơi,” Inej thốt lên khi cánh cửa mở ra. Mười tù nhân đang ngồi trên hai băng ghế chạy dọc theo thành xe, cổ tay và chân xiềng xích, đầu bị trùm kín.

Inej đưa cuốn sách lại cho Matthias, và trong khi nó được chuyền tay, cô cảm thấy sự e sợ của cả nhóm tăng lên. Chỉ có Kaz vẫn điềm nhiên như không.

“Trùm đầu, xích chân, còng tay cơ à?” Jesper thốt lên. “Anh có chắc chúng ta không thể đóng giả các nghệ sĩ biểu diễn không? Tôi nghe đồn Wylan rất có năng khiếu môn thổi sáo đấy.”

“Chúng ta sẽ đóng vai của chính mình,” Kaz đáp. “Những tên tội phạm.”

Nina nhòm qua hai thấu kính của cuốn sách. “Bọn họ đang đếm tù nhân.”

Matthias gật gù. “Nếu quy trình vẫn giữ nguyên thì họ sẽ đếm nhanh số lượng tù nhân ở chốt gác đầu tiên, sau đó đếm một lần nữa tại chốt gác kế tiếp. Tại đấy, họ sẽ lục soát thùng xe và gầm xe.”

Nina đưa cuốn sách cho Inej. “Người đánh xe sẽ nhận ra bị thừa sáu tù nhân khi mở cửa thùng xe.”

“Làm như tôi chưa nghĩ tới chuyện đó vậy,” Kaz nói tỉnh bơ. “Nói là biết cô chưa móc túi ai bao giờ.”

“Và anh chưa bao giờ nghĩ cho thấu đáo về mái tóc của mình.”

Kaz nhíu mày, rồi đưa một bàn tay lên vuốt tóc. “Chẳng có điểm nào của mái tóc tôi là không thể sửa được với bốn triệu kruge”

Jesper ngoẹo đầu, đôi mắt xám sáng lên. “Chúng ta sẽ dùng bánh tráo, đúng không?”

“Chính xác.”

“Tôi không biết cái món bánh tráo đó,” Matthias nói.

Nina nhìn Kaz với ánh mắt khó chịu. “Tôi cũng không. Chúng tôi không giỏi kĩ xảo đường phố bằng anh, Tay Nhám.”

“Và cũng sẽ không bao giờ bằng được,” Kaz nói tỉnh bơ. “Còn nhớ anh chàng Mục Tiêu của chúng ta chứ?” Wylan thu mình lại. “Coi như mục tiêu của chúng ta là một người khách du lịch đi bộ qua khu Barrel. Anh ta nghe nói đó là nơi du khách rất dễ bị móc túi, thế nên anh ta cứ liên tục sờ soạng cái ví tiền, bảo đảm là nó vẫn còn ở đó, tự cho rằng mình rất cảnh giác và thận trọng. Thật ngu. Mỗi lần làm như vậy là một lần anh ta thông báo cho bọn trộm cắp ở Stave chỗ cất tiền của mình.”

“Thánh thần ơi,” Nina thốt lên. “Tôi cũng hay làm như vậy.” “Mọi người đều làm thế cả,” Inej nói.

Jesper nhướng mày. “Không phải tất cả mọi người.”

“Anh thì có bao giờ có đồng nào trong ví?” Nina đáp trả.

“Thâm thế.”

“Đó là sự thật.”

“Sự thật chỉ dành cho những kẻ thiếu óc tưởng tượng,” Jesper phẩy tay.

“Thế này nhé, một tên trộm kém cỏi,” Kaz nói tiếp, “một kẻ chưa rành đường đi nước bước, sẽ chỉ móc túi mục tiêu rồi cố gắng bỏ chạy thoát thân. Đó là cách tốt nhất để bị thộp cổ bởi đám thị tuần. Nhưng một tên trộm lọc lõi, như tôi chẳng hạn, sẽ nẫng cái ví tiền đồng thời bỏ vào túi vị khách kia một thứ gì đó để thay thế.”

“Bỏ bánh vào á?”

“Bánh tráo chỉ là tên thôi. Đó có thể là một hòn đá, một bánh xà phòng, thậm chí là một mẩu bánh mì nếu nó có kích thước phù hợp. Một tên trộm lọc lõi có thể ước lượng sức nặng của cái ví chỉ bằng cách nhìn mức độ cộm lên của áo khoác. Hắn sẽ đánh tráo cái ví, và anh chàng mục tiêu tội nghiệp vẫn tiếp tục sờ soạng túi áo, mừng thầm trong bụng. Chỉ đến khi cần lấy tiền trả cho món trứng chiên hoặc đặt cược bên bàn chơi bài, anh ta mới nhận ra mình bị móc túi. Lúc ấy thì tên trộm đã ung dung ngồi đếm tiền ở một nơi an toàn rồi.”

Wylan ngọ nguậy trên ghế. “Móc túi một người vô tội là hành vi chẳng có gì đáng tự hào.”

“Có chứ, nếu cậu làm tốt.” Kaz hất hàm về phía cỗ xe tù lúc này đang lăn bánh trên con đường dẫn tới Lâu Đài Băng và chốt kiểm soát thứ hai. “Chúng ta chính là bánh tráo.”

“Gượm đã,” Nina nói. “Cửa xe được khoá từ bên ngoài. Làm thế nào chúng ta vào trong xe và khoá cửa lại được?”

“Cái đó không thành vấn đề nếu cô có đồng bọn là một tên trộm lọc lõi. Cứ để tôi lo cái ổ khoá.”

Jesper duỗi đôi chân dài ngoằng. “Vậy là chúng ta sẽ phải mở khoá, mở xiềng xích, vô hiệu hoá sáu tù nhân, thế chỗ của họ và bằng cách nào đó khoá cửa xe chở tù lại, mà đám lính gác và các tù nhân khác không hay biết gì cả?”

“Đúng vậy.”

“Còn nhiệm vụ bất khả thi nào mà anh muốn chúng ta hoàn thành nữa không?”

Nụ cười mỉm xuất hiện trên môi Kaz. “Tôi sẽ liệt kê một danh sách cho cậu.”

***

Gác chuyện trộm cắp sang một bên, Inej chỉ muốn ngủ một giấc ngon lành trên một chiếc giường đúng nghĩa, nhưng ở quán trọ thì không thể có tiện nghi được, nhất là khi họ còn phải tìm cách lên được cỗ xe chở tù và đột nhập vào Lâu Đài Băng trước khi lễ Hringkälla bắt đầu. Có quá nhiều việc phải làm.

Nina được cử đi hỏi han người dân địa phương và xác định địa điểm tốt nhất để đánh úp xe tù. Sau cơn ác mộng mang tên món cá trích của quán Gestinge, mọi người đã yêu cầu Kaz bù đắp bằng thứ gì tiêu hoá được, và thế là cả bọn ngồi đợi Nina trong một tiệm bánh đông đúc, nhâm nhi món cà phê sôcôla, và rải vụn bánh quế thành từng đống trên bàn. Inej nhận thấy Matthias không động đến cốc của mình. Món thức uống nguội dần trong lúc anh nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Hẳn là khó khăn với anh lắm,” Inej nói khẽ. “Được ở đây mà không thực sự trở về nhà.”

Anh chàng nhìn xuống cái cốc của mình. “Cô không hiểu đâu.”

“Tôi hiểu chứ. Đã lâu lắm rồi tôi không được thấy lại nhà của mình.”

Kaz quay sang trò chuyện với Jesper. Dường như anh ta luôn làm thế mỗi khi cô nhắc tới việc quay trở về Ravka. Tất nhiên cô không thể chắc chắn rằng mình sẽ tìm được bố mẹ tại đó. Người Suli là một dân tộc du mục. Với họ, “nhà” có nghĩa là “gia đình”.

“Anh có lo ngại khi Nina ở ngoài kia không?” Inej hỏi.

“Không.”

“Chị ấy rất giỏi chuyện này, anh biết đấy. Nina là một diễn viên bẩm sinh.”

“Tôi biết,” Matthias đáp dứt khoát. “Cô ta có thể hoà nhập với bất kì chỗ nào, bất kì người nào.”

“Nhưng chị ấy giỏi nhất khi là Nina.”

“Người đó là ai mới được?”

“Tôi đoán anh hiểu rõ người đó hơn bất cứ ai trong chúng tôi.”

Matthias khoanh đôi tay lực lưỡng lại. “Cô ta rất can đảm,” anh đáp

cộc lốc.

“Và hài hước.”

“Ngớ ngẩn. Mọi thứ không cần phải trở thành trò đùa.” “Táo tợn,” Inej nói.

“Ồn ào.”

“Thế tại sao mắt anh cứ tiếp tục tìm kiếm chị ấy trong đám đông?”

“Làm gì có,” Matthias cãi. Inej suýt bật cười vì cái nhăn mặt dữ dằn của Matthias. Anh chàng dùng ngón tay nghịch đống vụn bánh rồi nói tiếp:

“Nina là tất cả những điều cô vừa nói. Như thế là quá nhiều.”

“Hừm,” Inej nhấp một ngụm cà phê. “Có thể chỉ là anh không đủ.”

Trước khi anh ta kịp đáp lại, chiếc chuông gắn trên cửa tiệm bánh kêu leng keng và Nina bước vào, đôi má ửng hồng, mái tóc nâu rối tung, với lời tuyên bố: “Ai đó gọi món bánh quế cuộn cho tôi ngay lập tức.”

Bất chấp những tiếng làu bàu của Matthias, Inej không cho rằng cô chỉ tưởng tượng ra sự nhẹ nhõm trên khuôn mặt anh.

***

Nina mất chưa đầy một giờ để khám phá ra hầu hết các chuyến xe chở tù đều đi ngang qua một tửu quán được biết tới với tên gọi Nhà Trạm Ông Cai, nằm trên con đường dẫn tới Lâu Đài Băng. Inej và những người khác phải đi bộ gần ba cây số ra khỏi Thượng Djerholm để tới được tửu quán đấy. Nó đông kín nông dân và người lao động địa phương, nên họ phải đi tiếp một đoạn, và lúc tìm thấy một địa điểm kín đáo với rặng cây đủ lớn thì Inej gần như ngã gục. Cô phải tạ ơn các thánh vì năng lượng tràn trề của Jesper. Anh xung phong làm nhiệm vụ cảnh giới phía ngoài. Khi chiếc xe tù đi ngang, anh sẽ dùng ánh sáng để báo hiệu cho cả nhóm, sau đó chạy nhanh tới chỗ họ.

Nina mất vài phút để ngụy trang hình xăm trên cánh tay Jesper bằng một mảng da cáu bẩn. Cô sẽ xử lí hình xăm của Kaz và chính mình đêm nay. Rất có thể không ai trong đám tù nhân nhận ra dấu hiệu của một băng đảng Ketterdam, nhưng cẩn tắc vô áy náy.

“Không đổ lệ,” Jesper lên tiếng trước khi biến vào trong ánh hoàng hôn trên đôi chân dài.

“Không quan tài,” mọi người đáp.

Inej thầm cầu nguyện cho anh. Cô biết Jesper có vũ khí và tự lo được cho mình, nhưng với vóc người lêu nghêu và làn da nâu Zemeni, anh rất dễ bị để ý.

Họ hạ trại dưới một cái rãnh đất được che chắn bởi nhiều lùm cây bụi, và thay phiên nhau ngủ trên nền đất cứng hoặc canh gác. Bất chấp sự mệt mỏi, Inej đã nghĩ rằng cô sẽ không ngủ được, thế nhưng khi cô mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao, rọi những tia nắng qua làn mây mù. Chắc đã quá trưa. Nina đang ngồi cạnh cô, nhấm nháp một chiếc bánh tiêu hình con sói mua ở Thượng Djerholm. Inej nhận thấy một đống lửa nhỏ đã được đốt lên, và trong đám tro có phần còn lại của một khối parafin.

“Những người kia đâu rồi?” Cô hỏi, áy náy đưa mắt nhìn quanh.

“Ngoài đường. Kaz bảo mọi người để em ngủ.”

Inej dụi mắt. Cô đoán mình được ưu tiên do vết thương chưa lành hẳn. Có lẽ cô đã không che giấu tốt sự mệt mỏi của mình. Một loạt tiếng lụp bụp đột ngột vang lên khiến Inej lập tức bật dậy, dao rút ra cầm tay trong nháy mắt.

“Không sao đâu,” Nina nói. “Là Wylan đó.”

Chắc là Jesper vừa phát tín hiệu. Inej cầm lấy cái bánh từ tay Nina rồi chạy vội tới chỗ Kaz và Matthias đang xem Wylan mày mò gì đó dưới gốc một cây tùng đỏ lớn. Những tiếng lụp bụp lại vang lên, và nhiều luồng khói trắng phụt ra từ gốc cây. Trong một thoáng, tưởng như chẳng có gì xảy ra, nhưng rồi cái cây bật gốc, phơi ra bộ rễ xoắn xuýt và khô héo.

“Chuyện gì thế?” Inej hỏi.

“Một loại muối nào đó,” Nina đáp.

Inej nghiêng đầu. “Matthias đang… cầu nguyện à?”

“Chúc phúc thì đúng hơn. Người Fjerda luôn làm thế mỗi khi đốn hạ một cái cây.”

“Thật ạ?”

“Lời chúc phúc tuỳ thuộc vào việc em sử dụng gỗ của nó như thế nào.

Xây nhà, xây cầu.” Nina ngưng trong giây lát. “Hoặc đốt lửa.”

Họ mất không đầy một phút để cái cây đổ xuống, chắn ngang con đường. Với bộ rễ nguyên vẹn, trông nó như thể bị chết do bệnh.

“Khi cỗ xe tù dừng lại, cái cây sẽ cho chúng ta khoảng mười lăm phút, không hơn,” Kaz nói. “Phải hành động thật nhanh. Đám tù nhân bị trùm đầu nhưng vẫn nghe được, nên ta không được phép nói bất cứ điều gì. Không được tạo ra nghi ngờ. Theo những gì họ biết, đây chỉ là một sự dừng chân như thường lệ, và chúng ta muốn giữ cho nó như vậy.”

Trong khi Inej chờ đợi cùng những người khác, cô cân nhắc mọi khả năng các thứ đi chệch hướng. Đám tù nhân có thể không bị trùm đầu. Trong thùng xe có thể có một lính gác. Thế nếu họ thành công thì sao? Thì họ sẽ là những tù nhân được đưa tới Lâu Đài Băng. Đó cũng chẳng phải là một tương lai hứa hẹn gì.

Ngay khi cô bắt đầu tự hỏi phải chăng Jesper đã nhầm lẫn và phát tín hiệu quá sớm, một cỗ xe tù xuất hiện. Nó chạy ngang qua chỗ họ, rồi dừng lại trước thân cây chắn ngang đường, cô có thể nghe thấy tiếng chửi rủa của người đánh xe với tên lính ngồi bên cạnh.

Hai người xuống xe và đi lại chỗ cái cây. Trong suốt một phút dài họ chỉ đứng nhìn nó. Tên lính to con hơn tháo mũ và gãi bụng.

“Đúng là đồ làm biếng,” Kaz lẩm bẩm.

Cuối cùng, có vẻ như họ đã chấp nhận rằng cái cây sẽ không tự nó di chuyển được. Họ quay lại chỗ chiếc xe, lấy ra một cuộn dây lớn, rồi tháo một con ngựa để dùng nó kéo thân cây ra khỏi con đường.

“Sẵn sàng nào,” Kaz nói, đoạn chạy về phía đuôi xe. Anh đã bỏ lại cây gậy chống dưới rãnh đất và che giấu rất tốt sự đau đớn của mình. Kaz lấy dụng cụ phá khoá giấu trong áo khoác ra rồi nhẹ nhàng phá ổ khoá. Trong nháy mắt nó đã bung ra, và anh kéo then cửa sang bên cạnh. Sau khi đưa mắt quan sát để chắc chắn hai tên lính gác vẫn đang bận rộn với cái cây, anh mở cửa.

Inej căng người chờ đợi hiệu lệnh. Nhưng không có gì cả. Kaz chỉ đứng đó nhìn trân trối vào thùng xe.

“Có chuyện gì vậy?” Wylan thì thào.

“Hay là bọn họ không bị trùm đầu?” Inej đáp, cô không thể quan sát được bên trong thùng xe từ vị trí của mình. “Tôi sẽ đi.” Cả bọn không thể cùng một lúc lao ra chỗ đuôi xe được.

Inej trèo lên khỏi rãnh đất và tiến đến chỗ Kaz. Anh vẫn đang đứng như trời trồng. Cô khẽ chạm vai anh, và Kaz giật nảy. Kaz Brekker giật nảy. Chuyện gì đang diễn ra thế này? Inej không thể đặt câu hỏi vì sợ bị đám tù nhân nghe thấy. Cô nhòm vào thùng xe.

Các tù nhân đều bị còng tay và trùm đầu bang những cái túi đen. Nhưng bọn họ đông đúc hơn nhiều so với chuyến xe mà cả nhóm đã quan sát tại chốt kiểm soát. Thay vì được ngồi và bị xích vào hai băng ghế dọc theo thành xe, họ phải đứng nép sát vào nhau. Ngoài ra, họ còn bị xích cổ vào những cái móc gắn trên nóc thùng xe. Ai thụp xuống hoặc nghiêng người quá mức sẽ bị nghẹt thở. Việc họ phải đứng nép sát vào nhau tuy không hay chút nào nhưng cũng giúp họ không bị ngã và nghẹt thở.

Inej huých Kaz một cái. Khuôn mặt anh trắng bệch như sáp, nhưng ít ra anh cũng không còn chôn chân tại chỗ nữa. Anh trèo vào thùng xe bằng những cử động giật cục và vụng về, rồi bắt đầu mở khoá xích cổ của các tù nhân.

Inej ra hiệu cho Matthias nhập bọn với họ.

“Có chuyện gì vậy?” Một người tù sợ hãi hỏi bằng tiếng Ravka.

“Tig!” Matthias đe bằng tiếng Fjerda. Đám tù nhân xôn xao như thể đã bắt đầu chú ý. Inej cũng bất giác đứng thẳng người lại. Chỉ bằng một từ đó, Matthias dường như lại vừa khoác lên mình bộ đồng phục của một drüskelle. Inej nhìn anh một cách căng thẳng, cô đã bắt đầu cảm thấy thoải mái với anh. Một thói quen dễ mắc, nhưng rất khinh suất.

Kaz tháo sáu bộ còng tay và cùm chân. Inej cùng Matthias lần lượt giải thoát cho sáu tù nhân đứng gần cửa nhất. Không có thời gian để xem xét chiều cao, tầm vóc, hay thậm chí là giới tính của họ. Hai người dẫn họ tới rìa của rãnh đất, không quên để mắt tới hai tên lính đang dời cái cây chắn đường. “Có chuyện gì vậy?” Một người tù hỏi, nhưng một tiếng “Tig!” đanh gọn khác của Matthias khiến anh ta im bặt.

Sau khi họ đã khuất tầm mắt, Nina làm chậm nhịp tim của các tù nhân để khiến họ bất tỉnh. Chỉ khi đó Wylan mới mở mũ trùm đầu của họ. Bốn đàn ông, trong đó một người khá già, một phụ nữ trung niên, và một cậu bé người Shu. Không phải là lí tưởng, nhưng hi vọng các lính gác không quá xét nét. Nói cho cùng, một nhóm tù nhân bị xiềng xích thì gây rắc rối gì được kia chứ?

Nina tiêm vào người các tù nhân một dung dịch gây ngủ để kéo dài thời gian, còn Wylan giúp cô đưa bọn họ xuống cái rãnh đất, giấu phía sau lùm cây.

“Chúng ta cứ bỏ mặc họ nằm đây thôi à?” Wylan thì thào với Inej trong lúc họ vội vã tiến lại cỗ xe chở tù, mũ trùm đầu cầm trong tay.

Inej tiếp tục quan sát hai tên lính đang dọn cái cây mà không nhìn cậu nhóc khi đáp: “Họ sẽ nhanh chóng tỉnh dậy và tháo chạy. Có thể họ sẽ tới được bờ biển để đào thoát, chúng ta đang giúp họ đấy.”

“Trông chẳng giống thế chút nào, giống bỏ họ lại dưới huyệt thì đúng hơn.”

“Suỵt,” cô ra lệnh. Đây không phải là chỗ thích hợp, cũng không phải lúc để nói chuyện đạo đức. Nếu Wylan không phân biệt được sự khác nhau giữa bị xích và không bị, cậu ta sẽ sớm hiểu ra thôi.

Inej khum bàn tay trước miệng và phát ra một tiếng chim kêu nho nhỏ. Họ có bốn đến năm phút trước khi hai tên lính khai thông con đường, ơn trời, bọn chúng chỉ đang hò hét con ngựa và quát mắng nhau.

Matthias xích Wylan trước tiên, rồi đến Nina. Inej thấy anh ta gồng lên khi Nina vén tóc, để lộ cái cổ trắng ngần. Khi xích cổ cô, hai người nhìn nhau, và ánh mắt họ có thể làm tan chảy hàng dặm băng tuyết phương bắc. Matthias vội quay đi. Inej suýt bật cười, chỉ cần có thế để biến anh chàng drüskelle trở lại thành một cậu bé.

Jesper là người kế tiếp. Anh đang thở hồng hộc sau khi chạy từ giao lộ đến nơi. Jesper nháy mắt với cô trước khi được trùm đầu. Họ có thể nghe thấy tiếng hai tên lính quát tháo lẫn nhau.

Inej xích cổ cho Matthias và nhón gót tròng mũ trùm qua đầu anh. Về phần mình, đúng lúc sắp sửa được trùm mũ cho thì Nina nháy mắt, hất đầu về phía cánh cửa thùng xe. Nina vẫn muốn biết làm thế nào Kaz khoá cửa từ bên trong.

“Chị xem nhé,” Inej mấp máy môi.

Kaz ra hiệu cho Inej, và cô nhảy xuống, cô đóng cánh cửa lại, cài then và bóp ổ khoá. Một giây sau, cánh cửa mở ra từ phía bản lề. Kaz là người gỡ chúng. Đó là một thủ thuật mà họ đã làm hàng trăm lần khi gặp một ổ khoá quá phức tạp không phá nổi, hoặc để dàn dựng như thể vụ trộm có nội gián. Rất lí tưởng để làm giả một vụ tự sát, Kaz có lần đã nói nửa đùa nửa thật như thế với cô.

Inej quan sát con đường một lần cuối. Hai tên lính đã xong việc với cái cây. Tên to con phủi tay rồi vỗ vỗ lưng con ngựa. Tên còn lại đã bắt đầu đi về phía đầu xe. Inej lách qua cửa vào bên trong thùng xe. Ngay lập tức, Kaz khởi sự lắp lại bản lề. Inej trùm mũ qua đầu Nina khi cô còn chưa hết kinh ngạc, sau đó vào chỗ của mình bên cạnh Jesper.

Tuy nhiên, ngay cả trong ánh sáng tù mù, Inej cũng có thể nhận ra Kaz đang thao tác quá chậm. Những ngón tay đeo găng của anh vụng về hơn thường lệ. Anh bị làm sao thế nhỉ? Và tại sao ban nãy anh lại đứng như trời trồng? Có gì đó đã làm anh ngần ngại, nhưng là gì mới được?

Inej nghe thấy tiếng cách khi Kaz đánh rơi tua vít. Cô quan sát sàn xe rồi đá nó trở lại cho anh, cố phớt lờ tiếng trống ngực thình thịch của mình.

Kaz khom xuống lắp cái bản lề thứ hai. Anh thở khá nặng nhọc. Cô biết anh phải thao tác trong bóng tối dựa vào sự mò mẫm với đôi găng tay da mà anh cứ nhất định phải đeo, nhưng có lẽ đó không phải là nguyên nhân khiến anh trở nên như vậy. Cô nghe thấy tiếng bước chân ở phía bên phải thùng xe. Một tên lính đang quát tên còn lại. Nhanh lên đi, Kaz. Cô đã không kịp xoá dấu chân của họ. Nhỡ bọn lính phát hiện ra thì sao? Nhỡ hắn kéo cánh cửa và nó long ra khỏi bản lề, để lộ một Kaz Brekker không hề bị xiềng xích lẫn trùm đầu thì sao?

Inej nghe thấy một tiếng cách nữa, và Kaz rủa khe khẽ. Bỗng cánh cửa rung lên khi tên lính cầm ổ khoá lay thử. Kaz buộc phải áp chặt tay vào cái bản lề. Khe sáng trên cửa hơi rộng ra. Inej nín thở.

Cánh cửa không bị bung ra.

Lại một tràng quát tháo bằng tiếng Fjerda, rồi tiếng bước chân vang lên. Sau đó, bộ dây cương kêu lên và cỗ xe giật mạnh về phía trước, lục cục lăn bánh trên đường. Inej thở phào, cổ họng cô khô khốc.

Kaz vào chỗ của mình bên cạnh Inej. Anh trùm mũ qua đầu cô, và mùi mốc xộc vào mũi cô. Chắc anh cũng đang trùm mũ cho mình trước khi tự xích chân. Một màn ảo thuật dễ dàng đối với anh. Cánh tay anh ép vào tay cô từ phần vai cho tới khuỷu tay khi anh tự xích cổ. Nhiều thân người chạm vào lưng và cạnh sườn cô, nhích sát vào cô.

Lúc này thì họ đã an toàn, nhưng bất chấp tiếng bánh xe chạy trên đường, Inej vẫn có thể khẳng định Kaz đang thở dốc - những hơi thở cạn, nhanh, tựa như một con thú mắc bẫy. Đó là thứ âm thanh mà cô chưa từng nghĩ mình có dịp nghe thấy từ anh.

Chính vì lắng nghe rất kĩ mà cố biết thời điểm chính xác khi Kaz Brekker, Tay Nhám, đứa con hoang của Barrel, kẻ đáng sợ nhất thành Ketterdam, ngất đi.

2
KAZ

Số tiền lão Hertzoon để lại cho Kaz và Jordie cạn sạch trong tuần lễ tiếp theo. Jordie tìm cách trả lại chiếc áo khoác mới mua, nhưng cửa hàng từ chối nhận, còn đôi giày của Kaz thì rõ ràng đã không còn như mới.

Khi hai anh em đem tờ giấy vay nợ của Hertzoon tới ngân hàng, họ phát hiện ra nó chỉ là một tài liệu vô giá trị, bất chấp các dấu niêm có vẻ hợp pháp. Không ai biết Hertzoon cũng như đối tác kinh doanh của lão ta là ai.

Họ bị tống khỏi nhà trọ sau đó hai ngày, và phải chui xuống gầm cầu ngủ qua đêm, nhưng nhanh chóng bị thị tuần đuổi đi. Sau đó, họ lang thang vô định cho tới khi trời sáng. Jordie nhất quyết quay lại quán cà phê. Hai anh em ngồi thật lâu ở công viên bên kia đường, nhưng khi đêm xuống, khi đội tuần tra bắt đầu xuất hiện, Kaz và Jordie rút xuống phía nam, về phía những con phố của khu Barrel, nơi chẳng ai buồn ngó ngàng đi tuần.

Kaz và Jordie ngủ dưới gầm cầu thang trong ngõ hẻm phía sau một tửu quán, co ro giữa mấy cái bếp lò bị vứt bỏ và các túi rác.

Không ai quấy rầy họ đêm đó, nhưng đêm sau, họ bị một nhóm mấy thằng con trai tới hỏi chuyện, nói đó là địa bàn của băng Chim Cắt. Chúng đánh Jordie và đá Kaz xuống kênh sau khi cướp đôi giày của cậu.

Jordie lôi Kaz lên bờ rồi khoác cho cậu cái áo khô của anh.

“Em đói,” Kaz nói.

“Anh thì không,” Jordie đáp. Không hiểu sao Kaz lại cảm thấy buồn cười, và hai anh em bắt đầu cười sằng sặc. Jordie quàng tay qua vai Kaz và nói: “Cuộc sống này đang thắng thế. Nhưng để xem cuối cùng chúng ta hay nó mới là kẻ chiến thắng.”

Sáng hôm sau, Jordie thức giấc và lên cơn sốt.

Nhiều năm về sau, người ta gọi dịch hoả đậu đã bùng phát tại Ketterdam là dịch bệnh Thị Nữ, theo tên của con tàu đã đem mầm bệnh tới đây. Nó hoành hành mạnh nhất trong các khu ổ chuột đông đúc của Barrel. Thi thể chất thành đống trên đường phố, và những con tàu phòng dịch phải len lỏi qua các dòng kênh, dùng câu liêm để lôi xác chết lên tàu đem ra đảo Tử Thần thiêu huỷ.

Kaz bắt đầu sốt hai ngày sau cơn sốt của Jordie. Không có tiền để đi bác sĩ hay thầy lang, hai anh em đành rúc vào nhau trong đống thùng gỗ hỏng được họ gọi là Tổ.

Không ai tới đuổi họ đi. Các băng nhóm đều bị suy yếu vì dịch bệnh.

Lúc cơn sốt lên đến đỉnh điểm, Kaz mơ thấy mình quay về nông trại. Khi gõ cửa, cậu thấy Jordie và Kaz trong mơ đang ngồi bên bàn bếp. Họ nhìn cậu qua cửa sổ nhưng không cho cậu vào trong nhà. Thế là cậu đi lang thang ngoài cánh đồng, sợ rằng mình sẽ phải nằm ngủ giữa đám cỏ cao.

Lúc tỉnh lại, Kaz không hề ngửi thấy mùi cỏ khô, cỏ ba lá hay mùi táo, mà chỉ toàn mùi khói và mùi rác phân huỷ. Jordie nằm cạnh em trai, mắt nhìn lên trời. “Đừng bỏ em,” Kaz muốn nói như vậy, nhưng không đủ sức. Cậu đành gối đầu lên ngực anh. Nó lạnh và cứng một cách khác thường.

Kaz ngỡ mình đang mơ khi những người dọn xác khiêng cậu lên tàu phòng dịch. Cậu cảm thấy mình rơi tự do trước khi kẹt lại trong một đống thi thể. Cậu muốn hét lên, nhưng quá yếu sức. Họ ở khắp mọi nơi, những cái chân, cái tay, cái bụng cứng đờ, những khuôn mặt xanh lét đầy vết hoả đậu. Kaz lúc tỉnh lúc mê, không biết đâu là thực đâu là mơ, trong khi con tàu tiến ra biển. Lúc họ hất cậu xuống vùng nước nông của đảo Tử Thần, không hiểu sao cậu có đủ sức để hét lên.

“Tôi còn sống,” cậu gào, lớn hết mức có thể. Nhưng cậu quá nhỏ bé, và con tàu đã bắt đầu quay trở về cảng.

Kaz cố kéo Jordie lên khỏi mặt nước. Cơ thể anh đầy những nốt mụn mủ, làn da trắng bệch và thâm tím. Kaz nhớ tới con chó vặn dây cót và món sôcôla nóng trên cầu ngày ấy. Cậu cho rằng thiên đường sẽ giống như căn bếp của ngôi nhà trên phố Zelverstraat, và có mùi hutspot mà bà Hertzoon đã nấu cho họ. Cậu vẫn còn giữ dải ruy băng đỏ của Saskia. Cậu có thể đưa lại nó cho cô bé. Họ sẽ làm nến từ bột mộc qua, bà Margit chơi piano, và cậu có thể ngủ thiếp đi bên cạnh lò sưởi, cậu nhắm mắt chờ chết.

Kaz tưởng đâu mình sẽ thức dậy ở thế giới bên kia, ấm áp, an toàn và no nê, với Jordie bên cạnh. Nhưng thay vào đó, cậu vẫn ở giữa đống xác chết, cậu nằm trong vùng nước nông, quần áo ướt sũng, da nhăn nheo vì ngâm nước quá lâu. Thi thể Jordie nằm bên cạnh cậu, gần như không thể nhận ra được vì đã trắng bệch và trương phình, nổi dập dềnh trên mặt nước như một con cá gớm ghiếc.

Kaz nhìn rõ trở lại, các vết ban đỏ đã biến mất. Cơn sốt đã chấm dứt. Cậu đã quên cơn đói, nhưng khát nước điên cuồng.

Suốt một ngày đêm, cậu chờ đợi giữa đống xác người, mắt trông về phía cảng, hi vọng con tàu phòng dịch quay lại. Họ phải tới để nổi lửa đốt xác chứ, nhưng là bao giờ? Họ có thu dọn xác hằng ngày không? Hay là hai ngày một lần? Cậu kiệt sức và mất nước. Cậu biết mình sẽ không thể cầm cự lâu được nữa. Bờ biển dường như ở rất xa, và cậu biết mình không đủ sức để bơi hết khoảng cách đó. Cậu đã vượt qua cơn sốt, nhưng có thể sẽ nằm chết ở đây. Mà cũng có sao đâu? Chẳng có gì đợi cậu trong thành, ngoài những cơn đói, các ngõ hẻm tăm tối và sự ẩm ướt của mấy con kênh. Nhưng nghĩ tới nó, cậu biết sự thật không phải vậy. Việc báo thù đang chờ đợi. Báo thù cho Jordie, và có thể là cho cả chính cậu. Nhưng cậu sẽ phải đi gặp nó.

Khi đêm xuống, thuỷ triều đổi hướng, Kaz ép mình bám vào thi thể của Jordie. Cậu không đủ sức để tự bơi, nhưng với sự trợ giúp của Jordie, cậu có thể thả nổi. Cậu bám chặt vào người anh trai và đạp chân, hướng về phía những ánh đèn của Ketterdam. Cùng nhau, họ trôi dập dềnh trên biển cả, với cơ thể trương phình của Jordie là một chiếc bè. Kaz tiếp tục đạp chân, cố không nghĩ tới anh trai mình, tới lớp da thịt căng cứng của Jordie dưới bàn tay cậu. Cậu cố không nghĩ gì hết, ngoại trừ nhịp chân đạp, trong lúc di chuyển trên biển. Cậu nghe nói vùng biển này có cá mập, nhưng cậu biết chúng sẽ không đụng tới mình. Giờ cậu cũng là một con quái vật rồi.

Kaz tiếp tục đạp chân, và khi bình minh ló dạng, cậu ngước mặt lên, thấy mình đã ở cực đông của Lid. Hải cảng gần như vắng lặng; trận dịch đã làm đình trệ việc giao thương của Kerch.

Những mét cuối cùng cực kì gian khó. Thuỷ triều một lần nữa thay đổi, và lúc này nó đang chống lại Kaz. Nhưng giờ cậu đã có hi vọng, hi vọng và giận dữ, hai ngọn lửa song đôi bùng cháy trong cậu. Chúng dẫn dắt cậu tới cầu tàu, trèo lên thang. Khi lên đến nơi, cậu nằm vật ra trên lớp ván gỗ, trước khi cố gắng lật người lại. Thi thể của Jordie bị sóng đánh đập vào những trụ cầu bên dưới. Mắt anh vẫn mở, và trong một thoáng, Kaz tưởng như anh trai đang nhìn mình. Nhưng Jordie không nói, cũng không chớp mắt. Ánh mắt anh không đổi hướng khi bị thuỷ triều lôi khỏi trụ cầu và cuốn ra xa.

Mình nên vuốt mắt cho anh, Kaz tự nhủ. Nhưng cậu biết nếu trèo xuống thang và bơi ra biển lúc này, cậu sẽ không bao giờ quay vào bờ được nữa. Cậu sẽ để mình bị sóng biển nhấn chìm, và điều đó là không thể được. Cậu phải sống. Ai đó phải trả giá.

***

Trong cỗ xe tù, Kaz choàng tỉnh khi bị một cú chọc mạnh vào đùi. Người anh lạnh ngắt, xung quanh anh là bóng tối. Nhiều người đẩy anh từ sau lưng, hai bên sườn. Anh đang chết đuối giữa những thân người.

“Kaz.” Một tiếng thì thầm cất lên.

Anh rùng mình.

Lại một cú chọc vào đùi nữa.

“Kaz.” Giọng nói của Inej. Anh hít một hơi thật sâu bằng mũi, và cảm thấy cô dịch ra xa. Không hiểu sao, trong không gian chật chội của thùng xe, cô vẫn thu xếp cho anh có chỗ xoay trở. Tim anh đập thình thịch.

“Nói chuyện tiếp đi,” anh thì thào.

“Gì cơ?”

“Cứ nói tiếp đi.”

“Chúng ta đang đi qua cổng nhà tù. Ta đã qua hai chốt kiểm soát đầu tiên.”

Câu nói của cô khiến anh bừng tỉnh. Họ đã qua được hai chốt kiểm soát. Tức là họ đã được đếm. Ai đó đã mở cánh cửa thùng xe, không chỉ một, mà những hai lần, thậm chí có thế còn đặt tay lên người anh, nhưng anh không tỉnh dậy. Anh có thể đã bị giết. Anh từng hình dung ra cái chết của mình hàng ngàn lần, nhưng chưa bao giờ nghĩ tới cái chết trong lúc ngủ.

Anh ép mình hít thở sâu, bất chấp mùi hơi người. Anh vẫn đeo găng tay, điều mà đám lính áp giải lẽ ra có thể dễ dàng nhận ra. Đó là một nhượng bộ đối với sự yếu đuối của anh, nhưng nếu không làm thế, gần như chắc chắn anh sẽ phát điên.

Phía sau lưng, anh có thể nghe thấy đám tù nhân xì xầm bằng những ngôn ngữ khác nhau. Bất chấp nỗi sợ bóng tối trỗi dậy trong lòng, anh thấy biết ơn nó. Anh chỉ hi vọng rằng những người còn lại trong nhóm, bị trùm đầu và trong lòng nặng trĩu lo âu, không ghi nhận được sự lạ lùng trong thái độ của anh. Anh đã chần chừ khi đánh úp cỗ xe, nhưng chỉ có vậy, và anh có thể bịa ra một cái cớ nào đó để bào chữa cho chuyện đó.

Anh không thích bị Inej nhìn thấy như thế này, nhưng mặt khác, anh lại thấy thà là cô còn hơn. Trong tâm khảm, anh biết cô sẽ không bao giờ kể nó với bất kì ai, cô sẽ không bao giờ dùng nó chống lại anh. Cô trông cậy vào tiếng tăm của anh. Cô sẽ không muốn làm hình ảnh của anh trở nên yếu đuối. Nhưng còn có gì đó nữa, đúng không? Inej sẽ không bao giờ phản bội anh, anh biết. Nhưng anh không lấy đó làm mừng. Mặc dù đã tin tưởng cô không biết bao nhiêu lần trong đời, anh cảm thấy sợ hơn nhiều nếu phải thú thực với cô về lần nhục nhã này.

Cỗ xe dừng lại. Then cửa được kéo, và cánh cửa mở ra.

Các giọng nói bằng tiếng Fjerda cất lên, theo sau là những tiếng lạch cạch, cổ anh được tháo xích, và người ta giải anh từ trên xe xuống một cầu dẫn cùng với những tù nhân khác. Anh nghe thấy âm thanh giống như tiếng ken két khi một cánh cổng mở ra, rồi họ được lùa đi tới trước, loạng choạng trên đôi chân bị xiềng.

Kaz nheo mắt lại khi mũ trùm đầu của anh đột ngột bị lột bỏ. Họ đang đứng trong một khoảng sân rộng, cái cổng đồ sộ của thành tròn đang được từ từ hạ xuống để đóng lại, gây ra những tiếng loảng xoảng và ken két rợn người khi chạm vào nền đá. Lúc Kaz nhìn lên, anh thấy các lính canh đã đứng đầy trên mái nhà, súng trường chĩa xuống đám tù nhân. Đám lính bên dưới thì đang đối chiếu tù nhân với hồ sơ được người đánh xe cung cấp, bằng tên hoặc nhân dạng.

Matthias đã mô tả cách bố trí của Lâu Đài Băng một cách chi tiết, nhưng không nói gì nhiều về hình ảnh thực tế của nó. Kaz đã chờ đợi một thứ gì đó cũ kĩ và ẩm thấp, xây dựng bằng những tảng đá xám xịt vững chãi. Thay vào đó, quanh anh là lớp đá cẩm thạch trắng đến nỗi gần như xanh. Có cảm giác như anh đã lạc bước vào một phiên bản trong mơ của vùng đất khắc nghiệt phương bắc này. Thật khó mà nói được đâu là kính, đâu là băng, là đá.

“Nếu đây không phải là công trình của một sáng Chế Gia thì tôi đi đầu xuống đất,” Nina thì thầm bằng tiếng Kerch.

“Tig!” Một tên lính cất tiếng. Hắn giáng khẩu súng trường vào bụng Nina, khiến cô gập người lại vì đau đớn. Matthias vẫn quay mặt đi chỗ khác, nhưng Kaz kịp nhận thấy người anh chàng gồng lên.

Đám lính gác đang xem xét chỗ giấy tờ của họ, cố gắng khớp số tù và nhân dạng với nhóm người trước mặt. Đây là khoảnh khắc lộ diện đầu tiên, một thứ mà Kaz không thể kiểm soát được. Sẽ rất mất thời gian và nguy hiểm nếu họ chọn lựa những người tù mà mình sẽ đóng giả. Đó là một rủi ro có tính toán, nhưng lúc này Kaz chỉ có thể chờ đợi và hi vọng sự lười biếng, quan liêu của đám lính gác sẽ giúp anh.

Khi đám lính đi xuống cuối hàng, Inej giúp Nina đứng dậy.

“Chị có sao không?” Inej hỏi, và Kaz cảm thấy mình bị hút về phía giọng nói của cô như nước chảy xuống chỗ trũng.

Nina chậm rãi đứng thẳng người lại. “Chị ổn,” cô thì thào. “Nhưng chị không nghĩ chúng ta cần phải lo ngại về nhóm của Pekka Rollins nữa.”

Kaz nhìn theo ánh mắt hướng lên của Nina, và thấy trên đỉnh tường thành có năm người đàn ông bị xiên vào cọc nhọn, lưng còng xuống, tay chân thõng thượt. Kaz phải nheo mắt nhìn nhưng anh nhận ra Eroll Aerts, thợ phá khoá giỏi nhất của Rollins. Những vết bầm dập và đòn roi hắn phải hứng chịu trước khi chết đã tím lại dưới ánh nắng ban mai. Kaz chỉ có thế nhìn thấy hình xăm Kim Sư của hắn như một vết đen trên cánh tay.

Anh xem xét những gương mặt còn lại. Một số sưng tấy và biến dạng đến nỗi không thể nhận diện. Có thể nào một trong số đó là Rollins không? Kaz biết anh nên mừng khi một trong những đối thủ cạnh tranh bị loại bỏ, nhưng Rollins không phải là đồ ngu, và việc nhóm của lão ta không thể vượt qua cổng Lâu Đài Băng là một dấu hiệu đáng lo ngại. Ngoài ra, nếu Rollins phải chết trên một cái cọc ở Fjerda thì… Không, Kaz từ chối chấp nhận khả năng đó. Pekka Rollins thuộc về anh.

Lúc này đám lính gác đang cãi cọ với người đánh xe, và một trong số bọn họ chỉ tay về phía Inej.

“Có chuyện gì vậy?” Anh thì thào hỏi Nina.

“Họ bảo là có nhầm lẫn trong giấy tờ, rằng họ nhận được một đứa con gái người Suli thay vì một thằng bé người Shu.” “Thế tay đánh xe bảo sao?” Inej hỏi.

“Hắn cứ khăng khăng bảo rằng đó không phải là vấn đề của hắn.” “Vậy càng hay,” Kaz thì thầm khích lệ.

Anh quan sát bọn chúng đi tới đi lui. Đây chính là điểm hay ho của những biện pháp dự phòng và các lớp bảo vệ mà chúng đã bố trí. Đám lính gác luôn cho rằng chúng có thể dựa vào người khác để sửa sai. Sự lười biếng không đáng tin cậy bằng lòng tham, nhưng vẫn là một đòn bẩy đáng kể. Họ chỉ là những tù nhân bị xiềng xích, bao vây tứ phía bởi lính gác, và sắp sửa bị tống vào buồng giam. Vô hại.

Cuối cùng, một cai tù thở dài và ra lệnh cho quân của mình:

“Diveskemen.”

“Đi thôi,” Nina phiên dịch, rồi hạ giọng dịch tiếp trong lúc hắn nói.

“Tống chúng vào khu phía đông rồi để cho kíp trực sau giải quyết.” Kaz tự cho phép mình thở phào khe khẽ.

Đúng như dự tính, đám lính gác tách các tù nhân nam và nữ riêng ra, sau đó dẫn cả hai hàng đi qua cửa vòm có hình thù một miệng sói đang mở.

Họ đi vào gian phòng có một người phụ nữ lớn tuổi đang ngồi với đôi tay bị xích, lính gác kè hai bên. Đôi mắt bà ta trống rỗng. Khi các tù nhân tiến đến, bà ta nắm lấy cổ tay từng người một.

Một người khuếch đại. Kaz biết Nina từng làm việc với những người như vậy khi cô đi tìm kiếm các Grisha trên đảo Wandering để bổ sung lực lượng cho Hạ Quân. Chỉ bằng xúc giác, họ có thể cảm nhận được năng lực của một Grisha, và Kaz từng thấy họ được thuê vào làm trong các ván bài lớn để bảo đảm không ai trong số các người chơi là Grisha. Khả năng làm thay đổi nhịp tim của đối thủ hoặc thậm chí thay đổi nhiệt độ phòng là một ưu thế cạnh tranh không công bằng. Nhưng người Fjerda sử dụng họ vì một mục đích khác - để bảo đảm không Grisha nào lọt được vào trong các bức tường của họ mà không bị nhận diện.

Kaz quan sát Nina bước tới. Anh có thể thấy cô run lên khi giơ tay ra.

Những ngón tay của bà già khép lại quanh cổ tay của cô. Mi mắt bà ta nhắm lại trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Rồi bà ta buông tay Nina và phẩy tay ra hiệu cho cô đi tiếp.

Bà ta biết nhưng không thèm nói? Hay lớp parafin mà họ dùng để phủ lên cẳng tay của Nina đã phát huy hiệu quả?

Trong lúc họ được dẫn đi qua một vòm cửa phía bên trái, Kaz thoáng thấy Inej khuất dạng sau vòm cửa bên phải, cùng với các nữ tù nhân khác. Anh cảm thấy nhói trong ngực, và bàng hoàng nhận ra đó là sự sợ hãi. Cô là người đã đánh thức anh trên xe. Giọng nói của cô là thứ đã đưa anh trở về từ bóng tối, là sợi dây mà anh bám vào để tự đưa mình trở lại một sự lành mạnh giả hiệu.

Các tù nhân nam được dẫn lên cầu thang tăm tối tới một cầu treo bằng sắt. Bên tay trái họ là tường thành tròn bằng đá trắng nhẵn thín. Bên tay phải cầu treo nhìn xuống một nhà kính dài gần bốn trăm mét và đủ cao để chứa nổi một tàu buôn. Nó được chiếu sáng bằng ngọn đèn lồng lớn treo trên trần, giống như một cái kén phát sáng. Phía bên dưới, Kaz trông thấy những dãy xe bọc thép có tháp pháo hình tròn trên nóc. Chúng có các bánh xe rất lớn, liên kết với nhau bằng xích. Trên mỗi cỗ xe có một nòng súng cỡ lớn chĩa về phía trước, nơi lẽ ra được dùng để buộc ngựa kéo.

“Chúng là cái gì vậy?” Kaz hỏi khẽ.

“Torvegen,” Matthias thì thào đáp. “Chúng không cần ngựa kéo. Họ vẫn còn hoàn thiện bản thiết kế lúc tôi đi khỏi đây.”

“Không cần ngựa sao?”

“Xe tăng đấy,” Jesper lẩm bẩm. “Tôi đã trông thấy mẫu xe này hồi còn làm với một thợ quân khí ở Novyi Zem. Tháp pháo có nhiều loại súng khác nhau, còn cái nòng to uỵch chĩa thẳng phía trước kia á? Hoả lực khủng đấy.”

Trong nhà kính còn có những khẩu pháo hạng nặng, nhiều giá chất đầy súng trường, đạn dược, và những quả bom nhỏ được người Ravka gọi là grenatye. Trưng bày trên những bức tường phía sau lớp kính là các món vũ khí cổ hơn: rìu, giáo mác, cung tên. Phía trên chúng là một tấm biển hai màu bạc - trắng với dòng chữ: STRYMAKT FJERDAN.

Khi Kaz liếc nhìn Matthias, anh ta lẩm bẩm: “Sức mạnh Fjerda.”

Kaz nhìn qua lớp kính dày. Anh nhận ra Nina đã nói đúng, nhà kính này là một công trình khác của Sáng Chế Gia - kính chống đạn và không thể vượt qua. Những tù nhân đến và đi khỏi nhà tù sẽ trông thấy các món vũ khí, quân trang, máy móc chiến tranh – tất cả là một sự nhắc nhở về sức mạnh của nhà nước Fjerda.

Thư giãn nào, Kaz nhủ thầm. Súng to cũng chẳng có nghĩa lí gì nếu họ không biết phải chĩa vào đâu.

Phía bên kia của nhà kính, anh trông thấy một cầu treo khác, trên đó các tù nhân nữ đang bước đi.

Inej sẽ ổn thôi mà. Anh cần phải tỉnh táo. Giờ họ đang ở trên đất của kẻ thù, một nơi vô cùng nguy hiểm, một tình thế mà bạn không thể thoát ra được nếu không sáng suốt. Nhóm của Pekka Rollins có đi xa được đến mức này trước khi bị phát hiện không? Hiện giờ lão đang ở đâu? Lão bình an vô sự tại Kerch, hay đã bị người Fjerda cầm tù?

Những chuyện đó không quan trọng. Lúc này, Kaz cần phải tập trung vào kế hoạch của mình và tìm kiếm Bo Yul-Bayur. Anh liếc nhìn những người còn lại. Wylan trông như sắp sửa tè ra quần đến nơi. Helvar lầm lì như thường lệ. Còn Jesper chỉ nhăn nhở và thì thào: “Này, chúng ta vừa thành công trong việc vào bóc lịch ở nhà tù an ninh nhất thế giới đấy.

Hoặc chúng ta là thiên tài, hoặc là những thằng con hoang ngu nhất từng hiện diện trên đời.”

“Chúng ta sẽ sớm được biết thôi.”

Họ được dẫn vào một căn phòng trắng khác, được trang bị nhiều chậu tắm và vòi nước.

Tên lính nói gì đó bằng tiếng Fjerda, và Kaz trông thấy Matthias cùng một số người khác bắt đầu cởi quần áo. Anh cố nén cơn buồn nôn dâng lên tận cổ.

Anh có thể làm chuyện này. Anh phải làm chuyện này. Anh nghĩ tới Jordie. Anh trai anh sẽ nói gì nếu đứa em trai mình đánh mất cơ hội đòi lại công lí chỉ vì không thể vượt qua cảm giác ghê tởm ngu ngốc trong đầu? Nhưng chuyện này chỉ gợi lại kí ức về cơ thể lạnh toát của Jordie, cái cách mà nó trương phình lên dưới nước, và những thi thể chồng chất quanh anh trên con tầu phòng dịch. Mắt anh bắt đầu hoa lên.

Bình tĩnh đi nào, Brekker, anh nghiêm khắc tự chỉnh đốn. Nhưng vô ích. Anh sắp ngất một lần nữa, và toàn bộ chuyện này sẽ kết thúc. Inej từng đề nghị dạy anh cách ngã. “Bí quyết nằm ở chỗ không để mình bị đánh ngã,” anh đã vừa cười vừa bảo cô như thế. “Không phải đâu,” cô đáp, “bí quyết nằm ở chỗ biết đứng lên trở lại.” Lại là một ngạn ngữ Suli khác, nhưng bằng cách nào đó, nó giúp anh bình tĩnh lại. Anh đâu có yếu đuối như thế này. Anh phải mạnh mẽ. Không chỉ vì Jordie, mà còn vì cả nhóm. Anh đã đưa những người này tới đây. Anh đã đưa Inej tới đây. Việc của anh là đưa họ thoát ra ngoài.

Bí quyết nằm ở chỗ biết đứng lên trở lại. Anh giữ giọng nói của Inej trong đầu, nhắc đi nhắc lại câu nói đó, trong lúc tuột giày, cởi quần áo, và tháo găng tay.

Anh nhận ra Jesper đang chăm chăm nhìn bàn tay của mình. “Cậu chờ đợi cái gì vậy?” Kaz lầu bầu hỏi.

“Móng vuốt. Ít ra là thế,” Jesper đáp và cụp mắt nhìn đôi bàn chân xương xẩu của chính mình. “Hoặc là một ngón cái đầy gai nhọn.”

Tên lính đã quay lại sau khi đem quần áo của họ bỏ vào một cái sọt, chắc chắn là để đưa đi đốt. Hắn ngửa đầu Kaz ra sau và vạch miệng anh ra, ngoáy một vòng bên trong bằng những ngón tay chuối mắn. Mắt Kaz hoa lên khi anh cố gắng giữ cho mình tỉnh táo. Những ngón tay của tên lính lướt qua chỗ mấy cái răng mà anh đã nhét miếng bóng biển vào, trước khi bóp và chọc vào mặt trong má của anh.

“Ondetäjrn!” Tên lính la lên. “Fellenjuret!” Hắn lôi ra hai mẩu kim loại mảnh từ trong miệng của Kaz. Dụng cụ phá khoá của anh bị ném thẳng xuống mặt sàn bằng đá. Tên lính quát tháo gì đó với Kaz bằng tiếng Fjerda, rồi tát vào mặt anh một cú trời giáng. Kaz khuỵu xuống, nhưng cố gắng gượng đứng lên trở lại. Anh ghi nhận vẻ mặt hoảng sợ của Wylan trong lúc bị tên lính đẩy vào hàng để chuẩn bị tắm.

Khi anh đã tắm xong, lạnh ngắt và run lẩy bẩy, một tên lính khác đưa cho anh cái quần tù bạc thếch cùng áo thụng xếp trên giá phía sau hắn. Kaz mặc chúng vào, rồi cà nhắc tiến tới khu vực chờ cùng các tù nhân còn lại. Ngay lúc này, anh sẵn sàng bớt một nửa số tiền thưởng của mình để được cầm cây gậy chống quen thuộc.

Các buồng giam ở khu vực chờ trông khá giống với những gì anh đã tiên liệu - không có tường đá trắng hay khu trưng bày vũ khí, chỉ có lớp đá xám ẩm ướt và các song sắt.

Bọn họ được lùa vào một phòng giam vốn đã đông đúc sẵn. Helvar ngồi quay lưng vào tường, quan sát những người còn lại với đôi mắt nheo lại. Kaz đứng cạnh song sắt, nhìn những tên lính canh bỏ đi. Anh có thể cảm thấy sự chuyển động của những cơ thể phía sau lưng mình. Phòng giam đủ rộng, nhưng họ vẫn cảm thấy quá chật chội. Kiên nhẫn thêm một chút nữa thôi, Kaz tự nhủ. Anh cảm thấy bàn tay mình trần trụi một cách không thể chịu đựng nổi.

Kaz chờ đợi. Anh biết chuyện gì sẽ xảy ra. Anh đã dò xét những người khác ngay khi họ bước vào phòng giam, và anh biết ngay gã người Kaelish vạm vỡ có vết bớt kia sẽ tới gây sự với mình. Gã bực dọc, căng thẳng, và rõ ràng cái chân yếu của Kaz đã bị gã để ý.

“Ê, thằng què,” gã nói bằng tiếng Fjerda, trước khi lặp lại bằng tiếng Kerch. “Ê, thằng thọt.” Gã không cần phải nhọc công. Kaz biết từ què của đủ loại ngôn ngữ.

Chỉ một tích tắc sau, Kaz đã cảm thấy không khí xáo động khi gã người Kaelish lao vào anh. Anh bước sang trái, làm gã chúi tới trước theo quán tính. Kaz vừa đẩy, vừa tóm lấy cánh tay gã và nhét nó vào khe hở giữa hai chấn song sắt, kéo đến tận vai. Gã hộc lên khi bị đập mặt vào song sắt.

Kaz kẹp chặt tay gã đồng thời giáng mạnh cơ thể mình vào đối phương. Một tiếng rắc vang lên khi cánh tay của gã bị trật ra khỏi khớp vai. Khi há miệng để hét lên, gã bị Kaz dùng một tay bịt miệng, tay kia kẹp mũi. Cảm giác của da thịt trần trụi nơi ngón tay anh khiến Kaz buồn nôn.

“Suỵttt,” anh nói, đồng thời dùng bàn tay kẹp mũi lái tên tù tới chỗ băng ghế sát tường. Các tù nhân khác vội vàng tránh đường.

Gã ngồi xuống với đôi mắt ngấn lệ vì bị ngạt thở. Kaz tiếp tục kẹp chặt mũi và bịt miệng gã. Gã ta run rẩy dưới cái ghì của anh.

“Mày có muốn tao lắp nó lại không?” Kaz hỏi.

Gã ta rên lên.

“Có muốn không?”

Gã càng rên dữ trước ánh mắt quan sát của những tù nhân còn lại.

“Mày mà hét lên, thì tao sẽ làm cho cánh tay mày có cũng như không, hiểu chưa?”

Anh thả bàn tay bịt miệng ra, rồi giật mạnh cho cánh tay gã vào đúng ổ khớp vai trở lại. Gã ta co người lại, nằm trên băng ghế, và bắt đầu thút thít khóc.

Kaz chùi tay vào quần rồi trở lại vị trí đứng cạnh song sắt ban nãy. Anh có thể cảm thấy những người khác đang nhìn, nhưng lúc này anh biết mình sẽ được yên thân.

Helvar tiến đến đứng bên cạnh anh. “Có cần thiết phải như thế không?”

“Không.” Nhưng thực ra là có. Anh cần bảo đảm mình được yên thân để làm việc cần làm, và để gợi nhắc bản thân rằng anh không bất lực.

3
JESPER

Jesper muốn nhỏm dậy, nhưng rốt cuộc vẫn ngồi yên trên băng ghế, quyết giữ chỗ của mình. Có cảm giác như những luồng lo âu và kích động đang rung lên dưới da anh, và việc Wylan ngồi căng thẳng gõ ngón tay vào đầu gối ngay bên cạnh chỉ càng làm tình hình tệ thêm. Anh không nghĩ mình có thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Đầu tiên là con thuyền, kế đến là chuyến đi trên tuyết, và giờ thì anh bị kẹt trong một phòng giam cho tới khi đám lính gác đến điểm danh buổi tối.

Chỉ có bố anh là hiểu được sự hiếu động của con trai mình. Ông đã cố cho Jesper tiêu hao sức lực ở nông trại, nhưng công việc quá nhàm chán. Đại học lẽ ra phải cho anh một định hướng, nhưng anh lại rẽ sang con đường khác. Anh co rúm người khi nghĩ tới điều mà bố sẽ nói nếu biết con trai mình bỏ mạng trong một nhà tù Fjerda. Nhưng liệu ông có bao giờ biết được hay không? Nghĩ tới chuyện đó thật quá sức chịu đựng của anh.

Bao nhiêu thời gian đã trôi qua? Sẽ thế nào nếu họ không thể nghe được tiếng chuông Đồng hồ Cả trong này? Đám lính gác sẽ điểm danh tù nhân lúc chuông đồng hồ điểm sáu tiếng. Sau đó anh và những người khác sẽ có khoảng thời gian cho đến nửa đêm để hoàn thành công việc. Hi vọng là thế. Matthias chỉ thực tập ở nhà tù này có ba tháng. Các quy trình có thể đã thay đổi. Anh ta cũng có thể nhớ nhầm chi tiết nào đó. Hoặc anh ta chỉ muốn cho chúng ta vào ngồi sau song sắt trước khi phản bội chúng ta.

Nhưng Matthias vẫn ngồi im ở phía cuối phòng giam, gần Kaz. Jesper

dĩ nhiên đã chứng kiến màn đụng độ giữa Kaz và gã người Kaelish. Không điềm tĩnh như trong các phi vụ khác, hôm nay Kaz tỏ ra khá căng thẳng vì một lí do mà anh không biết. Một phần trong anh muốn đặt câu hỏi, nhưng anh biết đó là phần ngu ngốc. Đó là anh chàng nông dân ngờ nghệch cứ toàn chọn người xấu nhất có thể để dính vào, tìm kiếm những tín hiệu mà anh thừa biết là chẳng mang ý nghĩa gì - khi Kaz chọn anh cho một phi vụ, khi Kaz hùa theo một trong những trò đùa của anh. Jesper chỉ muốn đá chính mình một cái. Cuối cùng anh cũng có cơ hội nhìn thấy Kaz Brekker không một mảnh vải che thân, nhưng anh lại mải lo lắng chuyện bị xiên trên cọc nhọn đến mức không chú ý.

Nhưng Jesper chỉ lo lắng trong lòng, còn Wylan trông như sắp nôn mửa đến nơi.

“Chúng ta biết làm gì bây giờ?” Cậu ta thì thầm. “Thợ phá khoá mà không có dụng cụ thì làm gì được?”

“Yên nào.”

“Còn anh nữa? Một thiện xạ không súng. Anh hoàn toàn không thích hợp cho nhiệm vụ này.”

“Đây không phải là một nhiệm vụ, mà là phi vụ.”

“Anh Matthias gọi nó là một nhiệm vụ.”

“Anh ta là lính, không phải cậu. Tôi đang ngồi trong tù rồi, đừng khích cho tôi động thủ.”

“Anh sẽ không giết tôi, và tôi cũng không thể vờ như mọi chuyện đều ổn. Chúng ta bị mắc kẹt rồi.”

“Rõ ràng cậu thích hợp với một cái lồng son hơn là cuộc sống thực sự.”

“Tôi đã bỏ nhà ra đi.”

“Phải, cậu đã từ bỏ cuộc sống nhung lụa để đi vi hành khu Barrel với bọn hạ đẳng chúng tôi. Nhưng điều đó không làm cho cậu trở nên khôn ngoan, Wylan à, nó chỉ cho thấy cậu rất ngu ngốc thôi.”

“Anh chẳng hiểu cái quái gì cả.”

“Vậy giải thích cho tôi hiểu đi,” Jesper quay sang nhìn cậu nhóc. “Chúng ta có thời gian mà. Điều gì đã khiến một thiếu gia như cậu bỏ nhà đi bụi với đám tội phạm?”

“Anh hành động như thể anh là dân Barrel đích thực như Kaz, nhưng thực ra anh đâu phải người Kerch. Anh cũng chọn cuộc đời này mà?”

“Tôi thích thành thị.”

“Cái đó ở Novyi Zem không có chắc?”

“Không giống như Ketterdam. Cậu đã đi được những đâu ngoài nhà cậu, khu Barrel, và những buổi dạ tiệc xa hoa của các đại sứ?”

Wylan nhìn đi nơi khác. “Nhiều lắm.”

“Đâu nào? Khu ngoại thành trong mùa đào à?”

“Cuộc đua ở Caryeva. Mỏ dầu ở Shu Han. Nông trại jurda gần

Shriftport. Weddle. Eiling.”

“Thật không?”

“Cha từng đưa tôi đi khắp nơi với ông.”

“Cho tới khi?”

“Anh hỏi vậy là sao?”

“Cho tới khi nào? Cha từng đưa tôi đi khắp nơi cho tới khi tôi mắc chứng say sóng nặng, cho tới khi tôi ói mửa ngay trong một đám cưới hoàng gia, cho tới khi tôi cạ chân với một ngài đại sứ.”

“Cái chân muốn được cạ.”

Jesper bật cười. “Cũng rành quá ha.”

“Quá rành ấy chứ,” Wylan làu bàu. “Nhưng cái đó chẳng đi tới đ…”

Cậu nhóc bị ngắt lời bởi tiếng hô của một tên lính gác đúng lúc Đồng hồ Cả điểm sáu tiếng chuông. Ít nhất thì người Fjerda cũng đúng giờ.

Tên lính gác lặp lại bằng tiếng Shu, rồi tiếng Kerch. “Đứng dậy.”

“Shimkopper,” hắn nói tiếp bằng tiếng Fjerda. Mọi người nhìn tên lính với vẻ mặt tỉnh bơ. “Thùng tiểu,” hắn cố nói bằng tiếng Kerch. “Đâu rồi… để đem đổ?”

Đáp lại là những cái nhún vai và liếc mắt nhìn nhau.

Vẻ mặt của tên lính gác cho thấy rõ ràng hắn không quan tâm. Hắn đẩy một xô nước sạch vào trong phòng giam rồi đóng cửa lại.

Jesper chen lên hàng đầu và uống nước bằng cái ca buộc ở quai xô. Phần lớn chỗ nước đổ ra áo anh. Khi đưa cái ca cho Wylan, anh cũng làm cho áo cậu ta ướt đẫm.

“Anh làm cái gì vậy?” Wylan phản đối.

“Bình tĩnh nào. Cứ làm theo bọn tôi.”

Jesper vén ống quần lên và sờ soạng quanh vùng mắt cá chân.

“Nói cho tôi biết có chuyện gì…”

“Yên nào. Tôi cần tập trung.” Quả đúng như vậy. Anh hoàn toàn không muốn viên thuốc dưới da vỡ ra khi nó vẫn còn trong người anh.

Jesper lần mò dọc theo những mũi khâu mà Nina đã thực hiện. Cơn đau khủng khiếp khi anh mở chúng và lấy viên thuốc ra. Nó có kích thước gần bằng một quả nho khô, và dính đầy máu. Chắc lúc này Nina cũng đang dùng năng lực để tự rạch lớp da của mình. Jesper tự hỏi liêu cô có đau bằng anh không.

“Vén áo lên che miệng đi,” anh bảo Wylan.

“Hả?”

“Đừng có đần ra thế. Khi cậu khôn ngoan thì trông cậu dễ thương hơn đó.”

Má Wylan đỏ bừng, cậu ta lườm một cái rồi kéo áo lên.

Jesper lần tìm phía dưới băng ghế, nơi anh đã giấu thùng tiểu, và lôi nó ra.

“Một cơn bão sắp đổ bộ,” anh nói to bằng tiếng Kerch. Kaz và Matthias đều đã đưa áo lên bịt miệng. Jesper quay mặt đi, kéo áo che miệng, rồi bỏ viên thuốc vào trong cái thùng.

Một âm thanh xì xì vang lên khi khói bắt đầu phụt ra. Chỉ trong nháy mắt, nó đã bao trùm toàn bộ gian phòng, biến không khí thành màu xanh lá trắng sữa.

Đôi mắt Wylan lộ rõ vẻ kinh hoàng bên trên cái cổ áo. Jesper định giả vờ ngất đi, nhưng cảnh đám tù nhân bắt đầu ngã lăn ra đất xung quanh mình cũng làm anh tạm thoả mãn.

Anh đếm cho tới sáu mươi, rồi bỏ áo xuống và hít một hơi. Không khí vẫn có mùi ngọt và khiến họ chóng mặt một chút, nhưng tác dụng tồi tệ nhất đã qua đi. Khi lính gác đến ở lần điểm danh kế tiếp, đám tù nhân sẽ đau đầu dữ dội, nhưng không ai biết gì để kể. Hi vọng lúc đó nhóm của anh đã đi từ lâu.

“Có phải là khí clo không?”

“Thấy chưa, cậu dễ thương hơn khi tỏ ra khôn ngoan. Đúng rồi, viên thuốc là một vỏ nang chứa đầy bột clo. Nó sẽ vô hại cho tới khi tiếp xúc với amoniac.”

“Nước tiểu trong thùng… Nhưng để làm gì? Chúng ta vẫn đang bị kẹt trong này.”

“Jesper,” Kaz ra hiệu cho anh đến gần song sắt. “Chúng ta đang gấp.”

Jesper xoay vai trong lúc đến chỗ Kaz. Loại công việc này thường đòi hỏi khá nhiều thời gian, vì anh chưa bao giờ thực sự tập luyện. Anh áp hai bàn tay lên một song sắt, và tập trung vào việc định vị các phân tử quặng tinh khiết.

“Cậu ta đang làm gì vậy?” Matthias hỏi.

“Thực hiện một nghi lễ cổ của người Zemeni,” Kaz đáp.

“Thật á?” “Không.”

Một lớp bụi mù bắt đầu tuôn ra từ giữa hai bàn tay của Jesper.

Wylan há hốc mồm. “Có phải là quặng sắt không vậy?” Jesper gật đầu, cảm thấy mồ hôi rịn ra trên trán.

“Anh có thể phá huỷ các chấn song á?”

“Đừng có ngốc thế,” Jesper gằn giọng. “Cậu có thấy chúng dày đến thế nào không?” Thật ra, cái chấn song mà anh đang xử lí trông có vẻ như không hề suy suyển, nhưng anh đã rút sắt từ trong đó ra nhiều đến nỗi đám bụi mù giữa hai tay anh chuyển sang màu gần như đen. Anh cong các đầu ngón tay lại. Đám mây phân tử bắt đầu xoáy tròn, mỗi lúc một thu hẹp và dày đặc hơn.

Jesper buông tay ra, và một cái kim nhỏ xíu rơi xuống sàn, kêu leng keng khe khẽ.

Wylan chộp lấy, giơ lên cao để ánh sáng phản chiếu trên bề mặt bóng

mờ của nó.

“Anh là một Sáng Chế Gia,” Matthias khẳng định chắc nịch.

“Gần như vậy thôi.”

“Anh chỉ có thể là Sáng Chế Gia, hoặc không phải là thế, chứ không có chuyện nửa vời,” Wylan nói.

“Thì tôi là vậy đó.” Jesper chọc một ngón tay vào Wylan. “Và cậu sẽ câm như hến về chuyện này khi chúng ta quay lại Ketterdam.”

“Nhưng tại sao anh lại nói dối…”

“Tôi thích được tự do đi trên đường,” Jesper đáp. “Tôi không thích phải lo ngay ngáy về việc bị đám buôn nô lệ thộp cổ, hoặc toi mạng vì một gã điên nào đó như anh bạn Helvar đây. Ngoài ra, tôi có những kĩ năng khác mang lại nhiều niềm vui và quyền lợi hơn cái này. Rất nhiều kĩ năng khác.”

Wylan ho húng hắng. Tán tỉnh cậu ta có lẽ vui hơn là chọc tức cậu ta, nhưng không hơn bao nhiêu.

“Nina có biết anh là Grisha không?”

“Không, và cô ấy sẽ không được biết chuyện đó. Tôi không cần bài thuyết giảng về việc gia nhập Hạ Quân hay mấy lí tưởng quang vinh của Ravka.”

“Làm tiếp đi,” Kaz chen ngang. “Nhanh lên.”

Jesper lặp lại thao tác vừa rồi trên một song sắt khác.

“Nếu kế hoạch là như thế này, việc gì anh phải lén lút đem theo dụng cụ phá khoá?” Wylan thắc mắc.

Kaz khoanh tay lại. “Cậu đã bao giờ nghe kể về người đàn ông hấp hối được cứu sống một cách thần kì không? Ông ta lao ra ngoài đường nhảy nhót điên cuồng, để rồi bị một con ngựa giẫm chết. Cậu phải để cho mục tiêu cảm thấy như anh ta đã thắng. Đám lính gác có xem xét Matthias kĩ càng để kịp thấy anh ta quen mặt hay không? Bọn chúng có nhọc công điều tra Jesper khi những mảnh parafin tróc ra khỏi cánh tay của cậu ta trong lúc tắm không? Không, bởi vì chúng còn bận hả hê chúc mừng nhau vì đã bắt quả tang tôi đem đồ phá khoá vào đây. Chúng tưởng đã vô hiệu hoá được mối nguy.”

Lúc Jesper xong việc, Kaz dùng ngón tay cầm hai thanh kim loại nhỏ lên. Thật kì lạ khi quan sát anh ta làm việc mà không đeo găng, nhưng chỉ trong giây lát ổ khoá đã mở ra, và họ được tự do. Sau khi họ đã ra ngoài, Kaz cẩn thận bóp ổ khoá lại để khoá cửa.

“Mọi người đã biết nhiệm vụ của mình rồi đấy,” Kaz thì thào. “Wylan và tôi sẽ đi giải thoát cho Nina và Inej. Còn Jesper, cậu và Matthias sẽ…”

“Tôi biết rồi. Đi kiếm càng nhiều dây thừng càng tốt.”

“Hẹn nhau dưới tầng hầm sau nửa giờ nữa.”

Họ tách nhau ra. Các bánh xe đã bắt đầu quay.

Theo những sơ đồ mà Wylan vẽ, chuồng ngựa nằm giáp với chòi canh trong sân, do vậy Jesper và Matthias phải đi ngược lại con đường đã đi, xuyên qua khu vực chờ. Trên lí thuyết thì khu này chỉ hoạt động khi tù nhân mới được đưa vào hoặc tù nhân cũ được đưa ra, nhưng họ vẫn phải cẩn trọng. Chỉ cần chạm mặt một tên lính gác là mọi kế hoạch tan tành mây khói. Phần đáng lo nhất là băng qua cầu treo - một quãng đường dài, sáng sủa - và họ hoàn toàn lộ mình. Nhưng không còn cách nào khác, đành phải trông cậy vào may mắn mà chạy cho nhanh. Khi hai người đi xuống cầu thang và vào căn phòng mà bà khuếch đại già đã kiểm tra anh, Jesper cố nén cái rùng mình. Mặc dù lớp parafin trên cánh tay anh luôn phát huy hiệu quả ở mọi sòng bạc, tim anh vẫn đập thình thịch khi đối diện với bà ta. Bà ta ốm như một cây sậy và cũng rỗng ruột y như nó. Đấy là điều xảy ra với một Grisha bị phát hiện ở nơi không thích hợp và vào thời điểm không thích hợp: họ phải làm nô lệ suốt đời, hoặc còn tệ hơn.

Khi Jesper đẩy cửa chuồng ngựa, tự dưng anh cảm thấy nhẹ nhõm phần nào. Mùi cỏ khô, hình bóng những con ngựa trong chuồng, tiếng hí của chúng, tất cả đưa anh về với những kí ức của Novyi Zem. Tại Ketterdam, các con kênh đã làm cho xe ngựa trở thành thừa thãi. Ngựa là thứ xa xỉ, một thú vui để cho người khác thấy bạn có chỗ chứa chúng, và có tiền để chăm sóc chúng. Anh đã không nhận ra mình nhớ những lúc được chơi cùng bầy gia súc đến thế nào.

Nhưng lúc này Jesper không có thời gian để hoài niệm hay để vuốt một cái mũi mịn như nhung. Anh băng qua các chuồng ngựa để vào buồng cất yên cương. Matthias khoác lên mỗi bên vai một cuộn thừng to. Anh ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy Jesper cũng lấy hai cuộn thừng.

“Con nhà nông mà,” Jesper giải thích.

“Trông cậu đâu có ra dáng.”

“Ờ, tôi mỏng người,” Jesper đáp trong khi nhanh chóng quay ra cửa tàu ngựa. “Nhưng như thế tôi sẽ bị ướt ít hơn khi trời mưa.”

“Tại sao?”

“Nước mưa ít rơi vào người tôi hơn.”

“Tất cả các cộng sự của Kaz đều kì quặc như thế này à?” Matthias hỏi anh.

“Ồ, anh nên gặp gỡ những thành viên còn lại của băng Cặn Bã. Ở cạnh họ, chúng ta giống như hai người Fjerda vậy.”

Họ đi qua khu vực phòng tắm, và thay vì đi tiếp, họ leo xuống một cầu thang hẹp với hành lang dài tăm tối dẫn xuống dưới hầm. Lúc này họ đã ở bên dưới nhà tù chính, với năm tầng xà lim, đám tù nhân và lính gác chồng chất trên đầu.

Jesper tưởng đâu nhóm còn lại đã tập hợp các vật liệu điều chế thuốc nổ trong xưởng giặt. Nhưng anh chỉ thấy những cái bồn lớn bằng thiếc, các bàn dài để gấp đồ, và chỗ quần áo đang phơi trên những thanh sào cao quá đầu anh.

Họ tìm thấy Wylan và Inej trong khu gom rác. Nó nhỏ hơn xưởng giặt và hôi mùi rác rưởi. Hai thùng lớn có bánh xe chất đầy quần áo bỏ đi đã được đẩy vào sát tường, chờ được đốt. Jesper cảm thấy hơi nóng toả ra từ lò thiêu ngay khi anh cùng Matthias tiến vào.

“Chúng ta có một vấn đề,” Wylan nói.

“Tệ cỡ nào?” Jesper hỏi lại và bỏ hai cuộn thừng xuống sàn.

Inej chỉ tay về phía hai cánh cửa sắt lớn, được lắp vào thứ trông giống như ống khói lớn chạy dọc theo tường lên đến trần nhà. “Tôi nghĩ họ vừa đốt lò chiều nay.”

“Anh đã nói là họ đốt lò vào các buổi sáng,” Jesper bảo Matthias.

“Họ từng làm như thế.”

Khi Jesper cầm hai tay nắm bọc da và mở cửa, một luồng khí nóng ập vào anh. Nó đầy muội than và có mùi rất hăng - mùi hoá chất, có lẽ là thứ gì đó mà bọn họ thêm vào để tăng nhiệt độ của ngọn lửa. Không dễ chịu chút nào. Đây là nơi xử lí mọi thứ bỏ đi của đám tù nhân, từ thức ăn thừa, các thùng chất thải cho tới quần áo, những thứ mà bọn họ bỏ vào chất đốt cũng không đủ để xoá sạch sự dơ bẩn. Jesper nghiêng người vào trong để quan sát, mồ hôi túa ra. Phía bên dưới, anh trông thấy chỗ than đốt lò đã tàn nhưng lâu lâu vẫn hồng rực lên.

“Wylan, nhặt cho tôi một cái áo trong thùng,” anh nói.

Jesper xé một ống tay áo và quăng nó vào trong lò. Nó rơi không tiếng động, bắt lửa và cháy tan trước khi chạm được tới lớp than.

Anh đóng cửa lò lại và vứt cái áo vào thùng. “Vụ chất nổ coi như huỷ,” anh nói. “Chúng ta không thể đem theo thuốc nổ vào trong đó. Cô vẫn leo được chứ?” Anh hỏi Inej.

“Có thể. Tôi không biết.”

“Kaz bảo sao? Mà Kaz đâu rồi? Cả Nina nữa?”

“Kaz chưa biết vụ cái lò,” Inej đáp. “Anh ấy và chị Nina đang đi kiểm tra các phòng giam ở tầng trên.”

Mặt Matthias sa sầm như một bầu trời chuẩn bị đổ mưa. “Lẽ ra tôi và Jesper phải đi cùng Nina.”

“Kaz không muốn đợi.”

“Chúng ta vẫn đang đúng giờ mà,” Matthias bực bội nói. “Anh ta nôn nóng làm gì chứ?”

Jesper cũng đang tự hỏi như vậy. “Kaz muốn cà nhắc lên xuống mấy tầng lầu, vừa đi vừa tránh lính gác à?”

“Tôi đã cố nói điều đó với anh ấy,” Inej đáp. “Nhưng Kaz luôn làm chúng ta bất ngờ, anh quên rồi à?”

“Giống như một tổ ong. Tôi thành thực mong rằng chúng ta sẽ không bị chích.”

“Inej,” Wylan gọi từ bên cạnh một cái thùng. “Quần áo của chúng ta này.”

Cậu ta thò tay vào trong thùng, rồi lần lượt lôi ra hai chiếc giày da của Inej.

Khuôn mặt cô tươi hẳn lên. Cuối cùng cũng đã có một chút may mắn. Kaz không có gậy chống. Jesper thiếu súng, và Inej chẳng còn bộ dao. Nhưng ít nhất cô cũng có đôi giày màu nhiệm.

“Cô đã nói gì nhỉ, Bóng Ma? Cô vẫn leo được chứ?”

“Được.”

Jesper cầm lấy đôi giày từ tay Wylan. “Nếu không sợ chúng dính đầy mầm bệnh, chắc tôi đã hôn luôn chúng và cả cậu rồi.”

4
NINA

Nina leo cầu thang theo sau Kaz. Hết bậc đá này tới bậc đá khác, dưới ánh đèn khí đốt chập chờn. Cô quan sát anh kĩ lưỡng. Anh đi với một nhịp độ khá nhanh, nhưng dáng điêu lại cứng nhắc. Tại sao anh nhất quyết đi lên trên này? Thời gian không phải là vấn đề, nên có lẽ ngay từ đầu Kaz đã có ý định như vậy. Có thể anh muốn ém lại một số thông tin với Matthias. Hoặc là anh khăng khăng muốn tất cả mọi người phải tiếp tục suy đoán.

Họ dừng lại ở mỗi chiếu nghỉ, nghe ngóng đám lính đi tuần. Nhà tù có rất nhiều âm thanh, và thật khó để không nhảy dựng khi nghe thấy chúng những giọng nói vọng xuống cầu thang, tiếng loảng xoảng đóng mở của các cánh cửa. Nina nhớ lại sự hỗn loạn đầy bạo lực ở cổng Địa Ngục, những khoản tiền đút lót đi từ tay người này sang người khác, lớp cát nhuộm máu. Cả một trời khác biệt so với cái nơi sạch sẽ này. Người Fjerda chắc chắn rất chú trọng việc giữ ngăn nắp mọi thứ.

Trên đường họ đi lên tầng bốn, những giọng nói và tiếng bước chân đột ngột vang lên khắp cầu thang. Nina và Kaz vội lùi vào trong chiếu nghỉ tầng ba và lách qua một cánh cửa dẫn vào các buồng giam. Tên tù nhân trong xà lim gần họ nhất bắt đầu la lên. Nina nhanh chóng giơ tay bóp nghẹt đường thở của hắn. Hắn nhìn cô trân trối, mắt lồi ra, tay bấu lấy cổ họng. Cô làm chậm nhịp tim của hắn, khiến hắn bất tỉnh, đồng thời nhả bớt sức ép ở thanh quản để hắn thở được. Họ cần hắn im lặng, chứ không cần hắn chết.

Tiếng ồn lớn dần khi đám lính gác đi xuống cầu thang. Nina nín thở, mắt quan sát cánh cửa, tay giơ lên sẵn sàng. Kaz không có vũ khí, nhưng anh cũng thủ thế, chờ đợi cánh cửa bật mở. Tuy nhiên, đám lính tiếp tục đi ngang qua chiếu nghỉ để xuống các tầng lầu bên dưới.

Khi tiếng ồn tắt dần, Kaz ra hiệu cho cô, và hai người lách qua cánh cửa để ra ngoài trở lại, nhẹ nhàng khép cửa sau lưng, rồi tiếp tục đi lên.

Bảy hồi chuông vang lên khi họ tới được tầng trên cùng. Một giờ đã trôi qua kể từ khi họ làm bất tỉnh đám tù nhân ở khu vực chờ. Họ có bốn mươi lăm phút để kiểm tra các phòng biệt giam, gặp nhau tại chiếu nghỉ, và quay xuống tầng hầm. Kaz ra hiệu cho cô đi theo hành lang bên trái cầu thang, trong khi anh tiến vào hành lang bên phải.

Cánh cửa kêu ken két ồn ào khi Nina đẩy nó để bước vào trong hành lang. Những ngọn đèn lồng ở đây được treo cách nhau khá xa, và bóng tối giữa chúng đủ dày để người ta có thể ẩn mình. Cô mừng thầm vì điều đó, nhưng cũng thấy hơi ghê. Các buồng giam ở đây cũng khác. Cửa buồng làm bằng sắt đặc thay cho các chấn song, có một lỗ nhòm ở ngang tầm mắt cho phép quan sát bên trong. Tầm mắt của người Fjerda. Nina khá cao nhưng cô phải kiễng chân để nhòm qua những cái lỗ.

Hầu hết các tù nhân đang ngủ hoặc nghỉ ngơi, thu mình trong một góc, hay nằm ngửa, vắt tay lên trán. Những người còn lại ngồi dựa lưng vào tường, mắt nhìn vô định. Thỉnh thoảng, cô bắt gặp một tù nhân đang rảo bước trong buồng giam, và phải lập tức lùi lại. Không có ai trong số họ là người Shu.

“Ajor?” Một người gọi cô bằng tiếng Fjerda. Nina phớt lờ ông ta và đi tiếp, tim đập thình thịch.

Sẽ thế nào nếu Bo YuL-Bayur bị nhốt ở một trong những buồng biệt giam này? Cô biết đó là một khả năng rất thấp, nhưng… cô có thể giết chết ông ta tại chỗ: cho ông ta chìm vào một giấc ngủ sâu, không đau đớn, rồi làm ngừng tim. Cô sẽ nói với Kaz là cô không tìm thấy ông ta. Thế nếu Kaz tìm thấy Bo Yul-Bayur thì sao? Cô có thể đợi cho tới khi họ đã rời khỏi Lâu Đài Băng để tìm một giải pháp, nhưng ít nhất cô cũng có thể trông đợi sự giúp sức của Matthias. Thoả thuận của họ đúng là kì lạ.

Tuy vậy, trong lúc đi tới lui qua các hành lang, hi vọng của cô tắt dần. Thêm một dãy buồng giam nữa, cô tự nhủ, rồi quay trở xuống tầng hầm mà không phải lo nghĩ gì cả. Nhưng khi tiến vào hành lang cuối cùng, cô nhận thấy nó ngắn hơn những cái khác. Chỗ đáng ra phải có các buồng giam lại chỉ có một cánh cửa thép chắn ngang lối đi, dưới khe cửa có ánh sáng lọt qua.

Một cảm giác bất an lướt qua Nina khi cô lại gần cánh cửa, nhưng cô vẫn mở nó ra. Nina phải nheo mắt lại trước thứ ánh sáng rực rỡ như ban ngày nhưng lại không nóng. Cô không thể xác định được nguồn phát ra nó. Cô nghe thấy tiếng cánh cửa sau lưng kèn kẹt khép lại, và kịp tóm lấy mép của nó ở giây cuối cùng. Linh cảm mách bảo cô cần phải có chìa khoá mới mở được cửa từ phía trong này. Cô đưa mắt tìm kiếm thứ gì đó để chặn cửa, và đành phải xé một mảnh quần nhét vào khe cửa.

Chỗ này thật lạc quẻ. Tường, sàn, và trần có màu trắng, sạch sẽ đến nhức mắt. Một bên tường của hành lang được lắp những tấm kính láng hoàn hảo. Sản phẩm của Sáng Chế Gia. Cũng giống như cái nhà kính bày vũ khí dưới kia. Không một người thợ Fjerda nào có thể làm nổi một bề mặt kính nhẵn đến thế. Chắc chắn năng lực của Grisha đã được sử dụng để làm ra loại kính này. Có những Grisha không phục vụ bất kì quốc gia nào và họ có thể đã làm thuê cho chính phủ Fjerda. Nhưng liệu họ có sống sót sau những công việc như thế này không? Đây giống như công sức của nô lệ thì đúng hơn.

Nina đi một bước, rồi một bước nữa. Cô liếc qua vai ra phía sau. Nếu một lính gác bước qua cửa, cô sẽ không có nơi nào để nấp. Vậy thì đi tiếp đi, Nina.

Cô nhòm qua ô kính đầu tiên. Căn buồng cũng trắng toát như ngoài hành lang, và được chiếu sáng bởi cùng một thứ ánh sáng rực rỡ không đổi như vậy. Trong buồng trống rỗng, không có bất cứ đồ đạc nào - không ghế băng, không chậu rửa, cũng không có xô. Thứ duy nhất phá vỡ không gian tuyền một màu trắng là lỗ thoát nước ở chính giữa sàn nhà, bao quanh bởi nhiều vệt màu đỏ.

Nina di chuyển tới căn buồng tiếp theo. Nó giống hệt như căn buồng trước và cũng trống rỗng. Căn buồng thứ ba và thứ tư cũng thế. Nhưng ở trong căn phòng thứ tư, cô bắt gặp một đồng xu nằm cạnh lỗ thoát nước. Không, không phải một đồng xu, mà là một cái cúc áo. Một cúc áo nhỏ có khắc hình cái cánh, biểu tượng của một Tiết Khí Sư. Nina cảm thấy cánh tay mình nổi da gà. Có phải những buồng giam này được làm ra bởi đám Grisha nô lệ để nhốt các tù nhân Grisha? Lớp kính này, những bức tường và mặt sàn kia, có phải được làm ra để chống lại năng lực của Sáng Chế Gia? Trong phòng hoàn toàn không có kim loại. Không có ống dẫn nước, để Tiết Hải Sư không thể phát huy năng lực. Cô cũng ngờ rằng lớp kính mà mình đang nhìn qua được tráng gương ở mặt bên kia để một Độc Tâm Y không thể nhìn thấy mục tiêu của mình. Những buồng giam này được thiết kế để giam giữ các Grisha. Như cô.

Nina bước nhanh hơn. Bo Yul-Bayur không có ở đây, và cô chỉ muốn

ra khỏi nơi này ngay lập tức. Cô rút miếng vải ra khỏi khe cửa rồi bước ra ngoài thật nhanh, không thèm bận tâm xem cửa có đóng lại sau lưng mình hay không. Hành lang phía ngoài dường như tối đi so với thứ ánh sáng rực rỡ trong kia. Nina lập cập chạy trở lại điểm hẹn. Cô biết mình đang bất cẩn, nhưng không tài nào xoá được hình ảnh những buồng giam trắng toát kia ra khỏi đầu. Lỗ thoát nước. Những vết màu đỏ cạnh đó. Có phải các Grisha đã bị tra tấn trong đó, để buộc họ thú nhận những tội ác chống lại loài người?

Cô đã nghiên cứu về Fjerda - các lãnh đạo của họ, ngôn ngữ của họ. Cô thậm chí từng mơ đến việc làm gián điệp trà trộn vào trong Lâu Đài Băng như lúc này, để tấn công thẳng vào trái tim kẻ thù mà cô căm ghét tột độ. Nhưng giờ đây, khi đã ở trong này, cô chỉ muốn đi ra. Cô đã quen với Ketterdam, với những chuyến phiêu lưu do việc tham gia cùng băng Cặn Bã mang lại, với cuộc sống nhàn hạ ở Nhà Hồng Bạch. Nhưng ngay cả ở đó, liệu cô có được an toàn không? Một đô thị nơi cô không thể bước đi ngoài phố mà không sợ hãi? Mình muốn về nhà. Nỗi nhớ xoáy mạnh vào cô, một nỗi đau thể xác thực sự. Mình muốn về Ravka.

Đồng hồ Cả bắt đầu điểm phút thứ bốn mươi lăm. Cô đang bị muộn giờ. Nhưng cô vẫn cố gắng bước chậm lại trước khi mở cánh cửa trông ra cầu thang. Không có ai ở đó, kể cả Kaz. Cô bước tới hành lang đối diện, thò đầu qua cửa quan sát để xem anh có đang đi đến hay không. Không, chỉ có các cánh cửa sắt và những khoảng tối, không có dấu hiệu nào của anh.

Nina chờ đợi, không biết phải làm gì. Họ đã hẹn nhau tại chiếu nghỉ với mười lăm phút còn lại trước khi đồng hồ điểm giờ. Liệu anh có đang gặp rắc rối nào đó hay không? Nina ngần ngừ, rồi lao vào hành lang mà Kaz phụ trách tìm kiếm. Cô chạy ngang qua các buồng giam, tới lui giữa các hành lang, nhưng vẫn không thấy Kaz đâu cả.

Đủ rồi, cô nghĩ bụng khi đi tới cuối đường. Hoặc là Kaz bỏ rơi cô và đã xuống dưới hầm gặp những người khác, hoặc anh đã bị bắt và lôi đi đâu đó. Dù thế nào thì cô cũng phải tới lò thiêu. Một khi gặp được những người còn lại, cô và họ sẽ bàn xem phải làm gì.

Nina đua tốc độ quay trở lại và mở toang cánh cửa dẫn ra cầu thang. Hai lính gác đang đứng trò chuyện ở đầu cầu thang. Trong một thoáng họ trố mắt nhìn cô, quai hàm trễ xuống.

“Sten.” Một tên la lên bằng tiếng Fjerda ra lệnh cho cô đứng im, trong lúc chúng luống cuống tìm súng. Nina giơ hai cánh tay lên, những ngón tay siết lại thành nắm đấm, và nhìn hai tên lính ngã xuống. Một tên ngã trên chiếu nghỉ, nhưng tên kia ngã xuống cầu thang, khẩu súng của hắn bị cướp cò, vãi đạn tứ tung vào tường đá, làm tiếng ồn đinh tai dội xuống cầu thang. Kaz sẽ giết cô. Còn cô sẽ giết anh ta.

Nina vội vàng băng qua hai tên lính và xuống thang. Khi cô xuống đến chiếu nghỉ thứ ba thì cánh cửa bật mở, một tên lính lao ra cầu thang. Nina ngoắc tay, và cổ hắn gãy rắc. Cô lao đi trước cả khi cơ thể hắn chạm sàn.

Đúng lúc đó, chuông Đồng hồ Cả bắt đầu vang lên. Không phải hồi chuông điểm giờ đều đặn, mà là tiếng ré lanh lảnh đinh tai - hồi chuông báo động.

5
INEJ

Inej ngước lên, nhìn vào bóng tối. Tít cao bên trên cô nằm lơ lửng một mảng trời đêm màu xám. Sáu tầng lầu phải leo trong bóng tối với đôi bàn tay trơn nhẫy mồ hôi, hơi nóng địa ngục phía dưới, cuộn dây thừng trì xuống và không có tấm lưới bảo vệ nào để đỡ cô. Trèo lên đi, Inej.

Tốt nhất là leo trèo với đôi bàn tay trần, nhưng sức nóng của lò thiêu không cho phép cô làm như vậy. Thế nên Wylan và Jesper giúp cô tìm ra đôi găng tay của Kaz trong thùng đồ bỏ đi. Cô đã ngần ngại trong giây lát. Kaz chắc sẽ bảo cô đeo chúng vào và làm bất cứ điều gì cần thiết để hoàn thành công việc, thế nhưng cô vẫn cảm thấy áy náy khi xỏ tay vào đôi găng da màu đen mềm mại, như thế cô lẻn vào phòng anh mà không xin phép, đọc trộm thư và nằm lên giường của anh. Đôi găng không có lớp lót, những đường may rất tinh xảo được giấu kĩ tại các đầu ngón. Để thuận lợi cho việc thao tác, cô nghĩ. Như thế anh có thể giữ được sự tiếp xúc với các đồng xu hay lá bài, hoặc thực hiện những công việc khéo léo như phá khoá.

Cô không có thời gian để làm quen với cảm giác của đôi găng rộng.

Với lại, cô đã từng leo trèo với găng tay nhiều lần, khi mùa đông Ketterdam làm ngón tay cô tê cóng, cô co duỗi ngón chân trong đôi giày da nhỏ của mình, thích thú với cảm giác thân quen, nhún nhảy trên cặp đế cao su sần, hăm hở và không hề sợ sệt. Sức nóng không là gì cả, chỉ khó chịu một chút thôi. Trọng lượng của cuộn dây thừng ư? Cô là Bóng Ma mà. Cô từng phải chịu nhiều thứ còn tồi tệ hơn thế. Cô bắt tay vào việc leo ống khói với sự tự tin tuyệt đối.

Khi các ngón tay của Inej chạm vào mặt đá, cô phải kìm nén một tiếng hét. Ngay cả với lớp găng tay da, cô vẫn cảm thấy sức nóng dữ dội của cái lò. Nếu không đeo găng, chắc bàn tay cô sẽ phồng rộp ngay lập tức. Nhưng cô không có chọn lựa nào khác ngoài việc bám chắc, cô trèo lên tay rồi chân, rồi lại tay, tìm kiếm một khe nứt hoặc một cái mấu trên thành ống khói trơn nhẫy vì bồ hóng.

Những giọt mồ hôi túa ra trên lưng cô. Họ đã nhúng ướt quần áo của cô lẫn sợi dây thừng, nhưng dường như chẳng có tác dụng gì nhiều. Toàn thân cô vẫn cảm thấy nóng ran, máu trong người cô muốn sôi lên như đang bị luộc từ từ.

Đôi bàn chân cô nóng rần rật. Chúng nặng trĩu, vụng về như thể thuộc về một người khác. Cô cố gắng tập trung. Cô tin ở cơ thể mình. Cô biết thế mạnh của mình và những điều cần làm. Lại một bàn tay vươn lên, buộc các chi còn lại phối hợp nhịp nhàng, nhưng chỉ có sự lệch pha vụng về khiến cơ bắp cô run rẩy trong từng bước di chuyển. Cô tìm chỗ bấu víu tiếp theo. Trèo lên đi, Inej.

Bàn chân cô trượt đi, các ngón chân đánh mất sự tiếp xúc với thành ống khói, và bụng cô thót lại khi cảm thấy bị trọng lực kéo xuống. Cô bám lấy mặt đá, ấn tay sâu vào khe nứt. Đôi găng của Kaz bị đùn lại quanh những ngón tay ướt đẫm mồ hôi của cô. Ngón chân cô đi tìm điểm tựa, nhưng chỉ trượt đi trên những viên đá. Bàn chân còn lại của cô cũng bắt đầu bị trượt. Không ổn rồi.

Cô đánh liều nhìn xuống. Ở tít phía dưới là quầng đỏ của chỗ than đốt lò, nhưng thứ cô trông thấy nơi hai bàn chân mình mới làm cô sốc hoảng sợ thực sự. Hai đế giày của cô - đôi giày hoàn hảo yêu dấu của cô - đang chảy ra.

Không sao, cô tự nhủ. Chỉ cần thay đổi tư thế. Dồn sức nặng vào đôi vai. Lớp cao su sẽ nguội lại khi trèo lên cao hơn. Nó sẽ giúp mình bám chắc. Nhưng cô có cảm giác như bàn chân mình bị hơ trên đống lửa. Nhìn thấy điều đang xảy ra càng làm cho tình hình tồi tệ thêm, như thể da thịt cô cũng bắt đầu tan chảy cùng với chỗ cao su ở đế giày.

Inej chớp mắt xua đi giọt mồ hôi và rướn người lên cao thêm vài centimét nữa. Từ đâu đó bên trên, cô nghe thấy tiếng chuông Đồng hồ Cả.

Nửa giờ rồi à? Hay là bốn mươi lăm phút? Cô cần di chuyển nhanh hơn. Lúc này lẽ ra cô đã phải ở trên mái nhà và đang buộc dây thừng.

Cô đẩy người lên cao, và bàn chân cô trượt đi trên mặt đá. Cô rơi xuống, cơ thể đập vào tường trong lúc cô cuống cuồng ghì lại. Ở đây chẳng có ai để cứu cô. Kaz sẽ không thò tay ra đỡ cô, không có tấm lưới bảo vệ nào để ngăn cản cú rơi, chỉ có ngọn lửa sẵn sàng nuốt chửng cô bên dưới.

Inej ngẩng đầu, tìm kiếm mảng trời xám. Dường như nó đang xa vời vợi. Còn bao xa nhỉ? Năm mét? Mười mét? Có khi hàng cây số cũng nên. Cô sẽ chết ở đây, từ từ, thê thảm trên lớp than hồng. Tất cả sẽ cùng chết Kaz, Nina, Jesper, Matthias, Wylan - và đó là lỗi của cô.

Không. Không phải lỗi của cô.

Cô tiến thêm một bước. Kaz đã đưa mọi người tới đây. Một bước nữa. Cô gắng gượng tìm chỗ bám mới. Kaz và lòng tham của anh ta. Cô không có lỗi. Cô không hối tiếc. Cô chỉ điên tiết. Điên tiết vì Kaz đã lao đầu vào phi vụ rồ dại này, điên tiết vì cô đã chấp nhận nó.

Mà vì sao kia chứ? Để trả món nợ của cô ư? Hay bởi vì bất chấp lí trí

và sự tỉnh táo, cô vẫn để cho mình cảm thấy gì đó với gã con hoang khu Barrel kia?

***

Khi Inej bước vào phòng khách của Dì Heleen buổi tối hôm đó, Kaz đã đợi sẵn, trên người mặc bộ đồ màu xám thẫm, tay cầm cây gậy chống đầu quạ. Phòng khách được sơn xanh thếp vàng với một bức tường vẽ toàn hoạ tiết lông công. Inej căm ghét từng centimét của Vườn Thú - từ cái phòng tiếp khách nơi cô và các cô gái khác bị buộc phải đá lông nheo mời gọi đám khách hàng tiềm năng, cho tới phòng ngủ của cô, thứ được làm cho giống với một phiên bản lố bịch của cái xe lữ hành Suli, trang trí bằng lụa tím và xông hương thơm ngát. Nhưng phòng khách của Dì Heleen mới là thứ kinh khủng nhất. Nó là căn phòng của những trận đòn, nơi để mụ ta trút những cơn giận điên cuồng nhất.

Inej từng cố trốn thoát khi mới đến Ketterdam. Cô đã đi khỏi Vườn Thú được hai khối phố, trên người vẫn đang khoác chiếc váy lụa, đầu óc choáng váng vì ánh đèn và sự hỗn tạp của Tây Stave, đôi chân cứ thế chạy không định hướng, trước khi bị Cobbet đặt một bàn tay nung núc thịt lên vai và lôi trở lại. Dì Heleen đã ném cô vào trong phòng và đánh cô một trận thừa sống thiếu chết, đến mức cô không thể làm việc trong một tuần lễ. Suốt cả tháng sau đó, mụ ta xích cô lại bằng một sợi xích vàng, thậm chí không cho cô đặt chân xuống phòng tiếp khách. Khi rốt cuộc Heleen cũng cởi xích cho cô, mụ nói: “Mày nợ tao một tháng thu nhập, còn dám bỏ trốn một lần nữa, tao sẽ quẳng mày vào Cổng Địa Ngục vì tội phá vỡ hợp đồng.”

Đêm hôm đó, cô bước vào phòng mụ ta trong sự sợ hãi, và khi trông thấy Kaz Brekker ở đó, nỗi sợ của cô tăng lên gấp đôi. Tay Nhám chắc đã điều tra về cô. Hẳn anh ta đã mách với Dì Heleen rằng cô dám lên tiếng, rằng cô dám gây rắc rối.

Nhưng Heleen chỉ ngả người ra sau trên chiếc ghế bọc nhung và nói: “Chà, linh miêu à, có vẻ như từ nay con đã trở thành vấn đề của người khác rồi. Hoá ra Per Haskell rất thích các cô gái Suli. Ông ta đã chuộc lại con bằng một khoản tiền khiêm tốn.”

Inej nuốt khan. “Tôi sắp phải sang một nhà chứa khác à?”

Heleen phất tay. “Haskell đúng là có một nhà vui thú - nếu con có thể gọi nó như thế - ở đâu đó dưới Barrel, nhưng con sẽ chỉ là một khoản đầu tư phí phạm nếu vào đấy, dù con sẽ thấy Dì Heleen đã tử tế với các con như thế nào. Không, Haskell muốn có con cho riêng ông ta.”

Per Haskell là ai? Mà cũng có quan trọng gì đâu? Một giọng nói cất lên trong đầu cô. Ông ta là một kẻ đi mua phụ nữ. Mày chỉ cần biết như thế.

Sự lơ đãng của Inej khiến Heleen bật cười khe khẽ. “Đừng lo. Ông ta già rồi, già phát tởm lên được ấy, nhưng có vẻ khá lành. Dĩ nhiên là chẳng ai biết rõ được.” Mụ ta nhún vai. “Biết đâu ông ta sẽ chia sẻ con với thằng nhóc chạy việc của ông ta, cậu Brekker đây.”

Kaz lạnh lùng nhìn Dì Heleen. “Chúng ta xong việc chưa?” Đó là lần đầu tiên Inej nghe thấy anh lên tiếng. Cô kinh ngạc trước độ trầm khàn trong giọng nói của anh.

Heleen khụt khịt mũi rồi đưa tay chỉnh lại sợi dây chuyền trên cổ. “Xong rồi đó, ranh con.” Mụ ta hơ nóng một thanh sáp màu xanh lông công và đóng dấu triện vào tài liệu trước mặt. Đoạn mụ đứng lên và kiểm tra hình ảnh của mình trong chiếc gương treo phía trên lò sưởi. Inej thấy mụ chỉnh lại cái vòng cổ choker đính kim cương, những viên đá ánh lên lấp lánh. Giữa cơn bão của các cảm xúc hỗn độn trong đầu, Inej đã nghĩ chúng trông giống như những vì sao bị đánh cắp.

“Tạm biệt nhé, linh miêu,” Dì Heleen nói. “Ta không nghĩ con sẽ tồn tại được hơn một tháng giữa cái chốn ấy của khu Barrel.” Mụ liếc sang phía Kaz. “Đừng có ngạc nhiên nếu con bé bỏ trốn nhé. Nó chạy nhanh hơn so với vẻ bề ngoài đấy. Nhưng biết đâu Per Haskell lại thích thế. Không tiễn.”

Mụ ta bước ra khỏi phòng giữa một đám mây lụa là và mùi hương dịu ngọt, để lại một Inej bàng hoàng phía sau.

Thật từ tốn, Kaz băng qua phòng và đóng cửa lại. Inej căng người chờ đợi chuyện xảy ra tiếp theo, những ngón tay của cô co quắp dưới lớp váy lụa.

“Per Haskell là người cầm đầu băng Cặn Bã,” Kaz nói. “Chắc cô đã nghe về chúng tôi?”

“Đó là băng nhóm của anh.”

“Phải, và Haskell là sếp của tôi. Của cô nữa, nếu cô thích.”

Cô thu hết can đảm để hỏi lại: “Thế nếu tôi không thích thì sao?”

“Thì tôi sẽ rút lại lời đề nghị và quay trở về như một thằng ngốc. Còn cô sẽ ở lại đây với mụ Heleen quái vật.”

Inej đưa tay bịt miệng. “Bà ta đang nghe đấy,” cô hoảng sợ thì thào.

“Cứ để bà ta nghe. Khu Barrel có đủ kiểu quái vật, và một số trong đó rất đẹp là đằng khác. Tôi trả tiền Heleen để đổi lấy thông tin. Thật ra tôi đã trả quá nhiều tiền. Nhưng tôi biết tỏng bà ta là ai. Tôi đã nói Per Haskell bỏ tiền ra để chuộc cô. Cô có biết vì sao không?”

“Vì các anh thích gái Suli?”

“Tôi không biết đủ nhiều cô gái Suli để có thể khẳng định điều đó.” Anh tiến đến bên bàn và cầm tờ giấy lên, cất vào trong áo khoác. “Đêm hôm trước, khi cô nói với tôi…”

“Tôi không có ý xúc phạm, tôi…”

“Cô muốn cung cấp thông tin cho tôi. Có lẽ là để đổi lấy sự giúp đỡ? Một bức thư cho cha mẹ cô? Một khoản tiền thêm?”

Inej nhăn mặt. Đó chính xác là những gì cô muốn, cô đã nghe ngóng được thông tin về một vụ buôn lụa và nghĩ mình có thể dùng nó để đổi chác. Cô thật ngu ngốc và hỗn xược.

“Inej Ghafa có phải là tên thật của cô không?”

Một âm thanh lạ lùng bật ra từ trong cổ họng Inej, nửa như tiếng nức nở, nửa như tiếng cười. Một âm thanh yếu ớt và lúng túng. Đã nhiều tháng nay cô không được nghe thấy cái tên của chính mình. “Phải,” cô khó nhọc thốt lên.

“Cô có thích được gọi như thế không?”

“Tất nhiên,” cô đáp, rồi nói thêm. “Kaz Brekker có phải là tên thật của anh không?”

“Gần như thế. Đêm hôm trước, khi cô tiếp cận tôi, tôi chỉ nhận ra cô đã ở bên cạnh khi cô lên tiếng.”

Inej nhíu mày. Cô chỉ muốn kín đáo thôi mà. Chuyện đó thì có gì là quan trọng?

“Chân cô có đeo lắc chuông,” Kaz nói và chỉ tay vào bộ trang phục của Inej. “Nhưng tôi không hề nghe thấy gì cả. Trên vai cô là lớp lụa tím và những đốm sơn, nhưng tôi không hề nhìn thấy. Trong khi tôi nhìn thấy mọi thứ.” Anh nghiêng đầu khi thấy cô nhún vai. “Cô được đào tạo để làm vũ công à?”

“Diễn viên xiếc.” Cô ngập ngừng. “Gia đình tôi… chúng tôi là dân xiếc.”

“Đi thăng bằng trên dây?”

“Và đu bay. Tung hứng. Nhào lộn.”

“Cô có dùng lưới không?”

“Chỉ khi tôi còn bé.”

“Tốt. Ở Ketterdam không có tấm lưới nào đâu. Cô có bao giờ đánh nhau chưa?”

Inej lắc đầu.

“Có từng giết ai chưa?”

Mắt cô mở to. “Không hề.”

“Chưa bao giờ cô nghĩ tới chuyện đó sao?”

Cô ngập ngừng, rồi khoanh tay lại. “Mỗi đêm.”

“Khởi đầu như thế là tốt.”

“Tôi không muốn giết người, không hẳn thế.”

“Rất đáng khen, cho tới khi người ta muốn giết cô. Và trong lĩnh vực của chúng ta thì điều đó xảy ra nhiều lắm “

“Lĩnh vực của chúng ta?”

“Tôi muốn cô gia nhập băng Cặn Bã.”

“Để làm công việc gì?”

“Thu thập thông tin. Tôi cần một người nhện để leo tường các ngôi nhà của Ketterdam, để nghe lỏm dưới cửa sổ và mái đua. Tôi cần một người có khả năng biến mình thành vô hình và trở thành một bóng ma. Cô có nghĩ là cô làm được chuyện đó không?”

Tôi đã là một con ma sẵn rồi, cô nghĩ bụng, Tôi đã chết trên một con tàu nô lệ.

“Tôi nghĩ là được.”

“Ketterdam có rất nhiều người giàu. Cô sẽ tìm hiểu thói quen của họ, việc đi lại của họ, những điều nhơ nhuốc họ làm vào ban đêm, những tội ác họ muốn che giấu giữa ban ngày, cỡ giày của họ, mã két an toàn của họ, món đồ chơi họ yêu quý nhất khi còn bé. Còn tôi sẽ sử dụng những thông tin đó để cuỗm tiền của họ.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra sau khi anh lấy được tiền của họ và trở nên giàu có?”

Kaz khẽ nhếch mép giễu cợt trước câu nói của Inej. “Khi đó cô cũng có thể đánh cắp những bí mật của tôi.”

“Vì lí do này mà các anh mua lại tôi à?”

Khuôn mặt Kaz lập tức nghiêm lại. “Per Haskell không mua cô. Ông ta bỏ tiền ra để chuộc cô. Điều đó có nghĩa là cô đang nợ tiền ông ta. Rất nhiều tiền. Nhưng nó là một hợp đồng tử tế. Đây,” anh nói và lấy trong áo khoác ra tài liệu mà Heleen đã cung cấp. “Tôi muốn cô thấy cái này.”

“Tôi không đọc được chữ Kerch.”

“Không sao. Thấy mấy con số này chứ? Đó là số tiền mà Heleen khẳng định cô đã mượn bà ta để đi tới đây từ Ravka. Đây là số tiền cô đã kiếm được cho bà ta. Và đây là số tiền cô còn nợ lại.”

“Nhưng… không thể thế được. Con số còn lại lớn hơn cả khoản tiền ban đầu.”

“Đúng vậy. Bà ta tính cả chi phí ăn ở, làm đẹp của cô nữa.”

“Bà ta đã mua tôi,” Inej giận sôi máu. “Tôi thậm chí không đọc được thứ tôi đã kí.”

“Buôn nô lệ là hoạt động bất hợp pháp tại Kerch. Nhưng giao kèo làm việc thì không. Tôi biết cái này chỉ là lừa đảo, và bất cứ vị quan toà có suy nghĩ nào cũng đồng ý với tôi. Nhưng xui thay, Heleen đã mua chuộc hết những người đó rồi. Per Haskell chỉ cho cô vay tiền, không hơn, không kém. Hợp đồng của cô sẽ được soạn bằng tiếng Ravka. Cô sẽ trả lãi, nhưng nó không trói buộc cô. Miễn là mỗi tháng cô trả ông ta một khoản tiền, còn cô muốn đi đâu làm gì thì tuỳ.”

Inej lắc đầu. Chuyện này nghe thật khó tin.

“Inej, tôi phải nói rõ với cô thế này. Nếu cô không trả tiền, Haskell sẽ cử người tới gặp cô, so với bọn họ thì mụ Heleen chỉ là một bà ngoại hiền lành, và tôi sẽ không ngăn cản ông ta. Tôi đã giơ cổ ra hứng chịu rủi ro cho vụ này. Đó là chuyện chẳng hề dễ chịu đâu.”

“Nếu đây là sự thực,” Inej nói một cách chậm rãi, “thì tôi có toàn quyền từ chối.”

“Dĩ nhiên. Nhưng rõ ràng là cô nguy hiểm, và tôi muốn cô về phe tôi.”

Nguy hiểm. Cô muốn ôm ghì lấy những chữ đó. Cô gần như tin chắc anh chàng này bị lú lẫn, hoặc đơn giản là đang tự lừa dối bản thân, nhưng cô thích hai chữ đó, và trừ phi cô hiểu nhầm, anh ta đang đề nghị cô rời khỏi Vườn Thú ngay đêm nay.

“Đây không phải là… một trò lừa đảo, đúng không?” Inej hỏi với âm lượng nhỏ hơn mong muốn.

Khuôn mặt Kaz thoáng sa sầm. “Nếu là trò lừa đảo thì tôi đã hứa hẹn

sự an toàn với cô, hứa cho cô hạnh phúc. Tôi không biết chúng có tồn tại ở

Barrel hay không, nhưng cô sẽ không có cả hai thứ đó với tôi.”

Không hiểu sao, câu nói của anh khiến cô an lòng. Thà là sự thật kinh khủng còn hơn những lời dối trá ngọt ngào.

“Thôi được,” cô đáp. “Chúng ta bắt đầu từ đâu?”

“Hãy bắt đầu với việc rời khỏi đây và tậu cho cô vài bộ quần áo tử tế. À, Inej này,” anh nói trong lúc đưa cô ra khỏi phòng, “đừng bao giờ làm tôi giật mình nữa nhé.”

***

Sự thật là sau đó cô đã nhiều lần thử làm Kaz giật mình, nhưng đều bất thành. Cứ như thể một khi anh đã thấy được cô, anh hiểu làm thế nào để tiếp tục nhìn ra cô.

Đêm đó cô đã tin tưởng Kaz. Cô đã trở thành cô gái nguy hiểm mà anh thấy bên trong cô. Nhưng cô đã phạm sai lầm khi tiếp tục tin tưởng anh, tin vào những huyền thoại mà anh dựng nên quanh mình. Chúng đã dẫn cô tới đây, trong cái bóng tối ngột ngạt này, chênh vênh giữa sự sống và cái chết như chiếc lá thu cuối cùng còn bám lại trên cành. Rốt cuộc, Kaz Brekker chỉ là một thằng nhóc, và cô đã để cho anh định đoạt số phận của mình.

Nhưng cô không thể trách anh được. Cô để mình bị dẫn dắt, vì cô không biết bản thân mình muốn đi đâu. Trái tim là một mũi tên. Bốn triệu kruge, sự tự do, một cơ hội để trở về nhà. Cô đã nói cô muốn những thứ đó. Nhưng trong tim, cô không thể chịu đựng nổi ý nghĩ quay về với bố mẹ. Làm sao cô có thể kể sự thật với bố mẹ? Liệu họ có hiểu cho những điều cô đã làm để sống sót, không chỉ ở Vườn Thú, mà suốt từ ngày đó tới giờ? Làm sao cô có thể ngả đầu vào lòng mẹ và được tha thứ? Bố mẹ cô sẽ nhìn thấy điều gì khi họ nhìn cô?

Trèo lên đi, Inej. Nhưng để đi đến đâu? Cuộc đời sẽ dành cho cô cái gì sau tất cả những điều cô đã chịu đựng? Lưng cô đau nhói. Tay cô rướm máu. Các cơ bắp ở chân cô run rẩy, và da cô có cảm giác như sắp bị lột ra. Mọi hơi thở đều làm phổi cô rát buốt. Cô không thể hít thở sâu được. Cô thậm chí không thể tập trung vào mảng trời xám trên đầu. Mồ hôi cứ tiếp tục tuôn từ trán xuống khiến mắt cô cay xè. Nếu cô bỏ cuộc, cô sẽ phụ lòng tất cả, từ Jesper và Wylan, Nina và anh chàng Fjerda của chị, cho tới Kaz. Cô không thể làm thế.

Nó không còn phụ thuộc vào con nữa, linh miêu à. Giọng nói giả lả của Dì Heleen vang lên trong đầu Inej. Con còn cầm cự được bao lâu khi chẳng có gì để bấu víu?

Sức nóng của lò thiêu bao trùm lên Inej như một sinh vật sống, một con rồng sa mạc nấp trong hang, trốn tránh băng giá để chờ đợi cô. Cô biết các giới hạn của cơ thể mình và hiểu cô không còn nhiều sức lực. Cô đã đánh cược một cách sai lầm. Đơn giản là thế. Chiếc lá thu có thể bám lại trên cành, nhưng nó đã chết, vấn đề chỉ là khi nào nó sẽ rơi.

Bỏ đi, Inej. Bố đã dạy cô leo trèo, tin tưởng vào sợi dây, vào cái đu, và sau cùng, tin tưởng vào năng lực của bản thân, để biết rằng nếu nhảy cô sẽ sang được bên kia. Liệu bố có đón cô ở đó? Cô nghĩ tới những con dao của mình đang được giấu trên tàu Ferolind. Chúng có thể được sang tay một cô gái mơ ước trở nên nguy hiểm nào đó. Cô nhắc khẽ những cái tên của chúng: Petyr, Marya, Anastasia, Vladimir, Lizabeta, và Thánh nữ

Alina, tử vì đạo trước khi tròn mười tám tuổi. Bỏ đi, Inej. Cô có nên nhảy bây giờ, hay đơn giản là đợi cho tới khi cơ thể cô buông xuôi?

Inej cảm thấy má mình ươn ướt. Cô đang khóc sao? Không? Sau tất cả những gì cô đã làm, và tất cả những gì đã xảy ra với cô hay sao?

Rồi cô nghe thấy nó. Những tiếng lộp độp khe khẽ, những tiếng gõ nhẹ không có nhịp điệu. Cô cảm thấy chúng trên má và trên mặt. Cô nghe thấy tiếng xì xì khi chúng chạm vào lớp than bên dưới. Những hạt mưa. Mát lạnh và hiền hoà. Inej ngửa đầu ra sau. Ở đâu đó, cô nghe thấy tiếng chuông điểm bốn mươi lăm phút, nhưng cô không bận tâm. Cô chỉ nghe tiếng nhạc của những hạt mưa khi chúng rửa trôi mồ hôi và bồ hóng, làn khói bụi của Ketterdam, lớp sơn giả tạo của Vườn Thú, khi chúng thấm ướt những sợi đay của cuộn thừng, và làm đế giày cao su của cô rắn lại. Nó giống như một hồng ân, mặc dù cô biết Kaz sẽ chỉ gọi nó là một hiện tượng thời tiết.

Giờ thì cô phải di chuyển nhanh chóng trước khi bề mặt đá trở nên trơn nhẫy và cơn mưa biến thành kẻ thù. Cô bắt các cơ bắp của mình làm việc, những ngón tay tìm kiếm và rướn thêm một bước, rồi một bước nữa, cứ tiếp tục như thế trong khi miệng lầm rầm cầu nguyện các vị thánh. Trong lời thì thầm gọi tên các thánh, cô tìm thấy nhịp điệu mà ban nãy cô không có.

Nhưng dù vậy, cô biết cơn mưa là không đủ. Cô muốn một cơn bão với sấm chớp, gió giật, mưa như trút nước. Cô muốn nó cuốn trôi các nhà chứa của Ketterdam, làm bật nóc và lôi những cánh cửa ra khỏi bản lề. Cô muốn nó làm biển cả dâng sóng, vây bủa mọi con tàu nô lệ, bẻ gãy cột buồm và hất chúng vào những bờ biển lởm chởm đá. Tôi muốn gọi cơn bão đó, cô nghĩ thầm. Và bốn triệu kruge có lẽ đủ để làm điều đó. Đủ cho con tàu của cô - một con tàu nhỏ và kiêu hãnh, với hoả lực mạnh mẽ. Cô sẽ truy đuổi bọn săn và bọn mua nô lệ. Chúng sẽ học cách sợ cô và sẽ biết đến tên cô. Trái tim là một mũi tên. Nó cần một mục tiêu để cắm vào. Cô chạm vào thành ống khói, nhưng chính mục tiêu mới là thứ cô bám vào và đưa cô lên trên.

Cô không phải là một linh miêu, người nhện hay thậm chí cả Bóng Ma.

Cô là Inej Ghafa, và tương lai đang đợi cô ở trên kia.

6
KAZ

Kaz nhanh chóng đi qua các buồng giam, dành ít giây để liếc qua từng lỗ nhòm trên cửa. Bo Yul-Bayur không có ở đây. Và anh không có nhiều thời gian.

Một phần trong anh cảm thấy bất ổn. Anh không có gậy chống. Anh đi chân đất. Anh đang mặc một bộ quần áo xa lạ, bàn tay anh tái nhợt và không được đeo găng. Anh không cảm thấy giống mình một chút nào. Không, không phải. Anh cảm thấy mình giống như cậu bé Kaz trong những tuần lễ sau cái chết của Jordie, như một con thú hoang, phải đấu tranh để sống sót.

Kaz trông thấy một tù nhân người Shu ngồi thu lu trong góc của một buồng giam.

“Sesh-uyeh,” anh thì thào. Nhưng nếu người đàn ông có nhận ra mật mã thì ông ta cũng không có phản ứng gì. “Yul-Bayur?” Vẫn không có gì. Người tù bắt đầu la hét với anh bằng tiếng Shu, và Kaz vội bỏ đi. Anh nhanh chóng xem qua các buồng giam còn lại, rồi trở ra chiếu nghỉ để xem xét các buồng giam tầng dưới thật mau chóng. Anh biết mình đang bất cẩn và ích kỉ, nhưng chẳng phải vì vậy mà họ gọi anh là Tay Nhám sao? Chẳng có công việc nào là quá rủi ro. Chẳng có hành động nào là quá thấp kém. Tay Nhám sẽ bảo đảm cho phi vụ nhám nhúa được hoàn tất.

Anh không chắc điều gì đang thôi thúc mình. Rất có thể Pekka Rollins không ở đây. Rất có thể lão đã chết. Nhưng anh không tin. Tôi biết. Bằng cách nào đó tôi biết. “Mày phải chết dưới tay tao,” anh thì thầm.

***

Chuyến bơi vượt biển trở về từ đảo Tử Thần đã tái sinh Kaz. Cậu bé Kaz trước kia đã chết vì hoả đậu. Cơn sốt đã thiêu cháy mọi thứ dịu dàng trong cậu.

Sống sót không còn khó khăn như cậu tưởng, một khi cậu bỏ lại phép tắc sau lưng. Nguyên tắc đầu tiên là tìm một ai đó nhỏ hơn và yếu hơn, rồi chiếm đoạt những gì nó có. Mặc dù đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng đối với một người nhỏ con và yếu ớt như Kaz. Cậu lê bước rời bến cảng, len lỏi trong các con hẻm, tiến về khu phố nơi gia đình Hertzoon từng sống. Khi thấy một tiệm kẹo, cậu chờ đợi phía ngoài, rồi mai phục một thằng nhỏ học sinh mũm mĩm bị bạn bè bỏ lại phía sau. Kaz đánh ngã thằng nhỏ, vét sạch túi nó, rồi tước cái gói kẹo cam thảo của nó.

“Đưa tao cái quần của mày,” Kaz nói.

“Nó quá lớn với anh mà,” thằng nhỏ la lên.

Kaz cắn nó. Thằng nhỏ cởi quần ra đưa cậu. Kaz cuộn tròn nó thành quả bóng rồi ném xuống kênh, sau đó bỏ chạy với tốc độ tối đa mà đôi chân gầy của mình cho phép, cậu đâu có muốn cái quần của thằng nhỏ, cậu chỉ muốn nó phải chờ đợi thêm một lúc trước khi đi khóc lóc cầu cứu. Cậu biết nó sẽ co ro trong con hẻm hồi lâu, cân nhắc giữa nỗi xấu hổ khi không mặc quần ngoài phố và nhu cầu được về nhà kể lại chuyện đã xảy ra.

Kaz ngừng chạy khi tới con hẻm tăm tối nhất của khu Barrel. Cậu lập tức nhai ngốn ngấu chỗ kẹo cam thảo, khó nhọc nuốt lấy chất ngọt của nó, rồi ói sạch. Cậu cầm tiền đi mua một khoanh bánh mì trắng nóng giòn.

Người bán bánh thấy cậu đi chân đất và bẩn thỉu bèn cho cậu thêm một khoanh bánh nữa, để cậu tránh xa cửa hàng của ông ta.

Khi đã cảm thấy lại sức đôi chút và bớt run, Kaz đi bộ tới khu Đông Stave. Cậu tìm đến sòng bạc tồi tàn nhất, cái không có nổi tấm bảng hiệu và chỉ có một tay cò mồi trước cửa.

“Tôi muốn tìm việc làm,” cậu nói.

“Ở đây không có đâu, nhóc.”

“Tôi giỏi tính toán.”

Gã ta bật cười. “Mày có đổ bô được không?”

“Được.”

“Tiếc quá, bọn tao đã có một thằng nhỏ đổ bô rồi.”

Kaz chờ đợi suốt đêm cho tới khi thấy một thằng bé trạc tuổi mình rời khỏi sòng bài. Cậu bám theo nó vài khối nhà, rồi dùng một hòn đá đập vào đầu nó. Cậu ngồi lên chân thằng bé và cởi giầy của nó ra, sau đó cứa vào gan bàn chân nó bằng một cái mảnh chai. Thằng bé sẽ khỏi, nhưng không thể đi làm một thời gian. Việc chạm vào chỗ da nơi mắt cá chân thằng bé khiến Kaz thấy buồn nôn. Cậu vẫn còn nhìn thấy những thi thể trắng hếu, cảm thấy lớp da trương phình của Jordie dưới tay mình.

Tối hôm sau, cậu quay lại sòng bài.

“Tôi muốn làm việc,” cậu nói. Thế là cậu được nhận vào.

Từ đó, Kaz làm việc và tích cóp. Cậu đi theo những đứa trộm cắp chuyên nghiệp ở khu Barrel và học cách móc túi, rạch bóp các quý bà. Cậu vào tù một lần, rồi hai lần. Cậu nhanh chóng có tiếng tăm nhờ luôn sẵn sàng nhận mọi phi vụ, và biệt danh Tay Nhám gắn với cậu từ đó. Kaz không phải là một đối thủ giỏi đánh nhau, nhưng cậu rất lì lợm.

“Mày chẳng khéo léo chút nào,” một con bạc ở Nịt Bạc có lần đã nói với Kaz như vậy. “Chẳng có kĩ thuật gì.”

“Tôi có chứ,” Kaz đã đáp như vậy. “Tôi biết kĩ thuật ‘lột áo trùm qua đầu đối thủ và đấm cho tới khi hắn đổ máu’.”

Cậu vẫn dùng cái tên Kaz như trước, nhưng cậu lấy họ Brekker từ một cái máy mà cậu trông thấy ở bến cảng. Rietveld, cái họ thật của cậu, bị bỏ đi như người ta cắt một cái chi đã hoại tử. Nó là một cái họ quê mùa, là sợi dây cuối cùng gắn cậu với Jordie, bố, và con người trước kia của cậu. Nhưng cậu không muốn bị Jakob Hertzoon nhận ra.

Kaz phát hiện ra mánh khoé lừa gạt mà Hertzoon sử dụng với anh em cậu rất phổ biến. Quán cà phê và ngôi nhà trên phố Zelverstraat chỉ là bối cảnh để vặt lông những thằng ngu mới ở quê lên. Filip và bầy chó vặn dây cót của nó là chim mồi dùng để dụ dỗ Jordie, còn Margit, Saskia và đám thư lại ở văn phòng thương mại là đồng loã. Ngay cả một nhân viên nhà băng cũng là tay trong của Hertzoon, hắn tuồn thông tin cho lão biết về những khách hàng mới ở quê lên và mở tài khoản tại ngân hàng của hắn. Có lẽ Hertzoon đã cùng một lúc lừa đảo nhiều người. Món tiền nhỏ của Jordie không nhiều đến mức khiến lão phải dàn dựng mất công như vậy.

Nhưng phát hiện đau lòng nhất chính là năng khiếu chơi bài của Kaz. Lẽ ra nó đã có thể giúp hai anh em cậu trở nên giàu có. Mỗi khi học được một trò mới, cậu chỉ cần vài giờ để chơi thành thạo, và sau đó thì không ai có thể đánh thắng cậu. Cậu nhớ mọi lá bài đã chơi, mọi khoản tiền đặt cược. Cậu có thể nhớ đến năm cỗ bài. Nếu có gì đó không nhớ được thì cậu bù đắp bằng cách chơi ăn gian. Sự nhanh tay giúp cậu đánh tráo từ đồng xu cho tới những lá bài, cốc chén, bóp tiền, đồng hồ. Một ảo thuật gia giỏi cũng chẳng khác một tên trộm lọc lõi là bao. Chẳng mấy chốc, cậu đã bị cấm cửa tại mọi sòng bạc trong khu Đông Stave.

Nơi nào cậu đến, từ quán rượu, quán trọ, nhà chứa cho tới nhà hoang, cậu cũng dò hỏi về Jakob Hertzoon, nhưng nếu có ai biết tới cái tên đó thì họ cũng phủ nhận.

Thế rồi, một ngày nọ, Kaz đang băng qua một cây cầu ở Đông Stave thì thấy một người đàn ông có khuôn mặt đỏ và tóc mai dày bước vào một tiệm rượu. Ông ta không còn mặc bộ đồ đen trịnh trọng của thương gia nữa, mà thay vào đó là một cái quần kẻ sặc sỡ và chiếc áo vest hoa văn paisley màu nâu. Áo khoác ngoài của ông ta có màu xanh ve chai.

Kaz vội lách qua đám đông, tim đập thình thịch, đầu ong lên, không rõ mình phải làm gì, nhưng cậu bị chặn lại ngay trước cửa tiệm bởi một bàn tay mập mạp của gã vệ sĩ đội mũ quả dưa.

“Tiệm đóng cửa rồi.”

“Tôi thấy nó vẫn đang mở.” Giọng nói của Kaz nghe thật sai lạc với chính cậu, the thé và khác lạ.

“Cậu phải chờ thôi.”

“Tôi cần gặp Jakob Hertzoon.”

“Ai cơ?”

Kaz cảm thấy như mình sắp sửa mất kiểm soát. Cậu chỉ tay về phía cửa kính. “Jakob Hertzoon chết tiệt kia. Tôi muốn nói chuyện với hắn.”

Gã vệ sĩ nhìn Kaz như thể cậu bị loạn óc. “Tỉnh lại đi, nhóc. Đó không phải là tay Hertzoon vớ vẩn của cậu. Đó là Pekka Rollins. Muốn sống sót được trong khu Barrel thì tốt nhất cậu nên học tên của ông ta đi là vừa.”

Kaz biết cái tên Pekka Rollins. Tất cả mọi người đều biết. Nhưng cậu chưa bao giờ nhìn thấy lão ta.

Đúng lúc đó, Rollins quay mặt về phía cửa kính. Kaz chờ đợi lão ta nhận ra cậu - một cái nhếch mép, một nụ cười khinh bỉ, một dấu hiệu nào đó cho thấy lão đã nhận ra. Nhưng ánh mắt của Rollins không dừng lại nơi cậu. Chỉ là một con bồ câu. Một nạn nhân trong vô số nạn nhân. Sao lão ta phải nhớ kia chứ?

Kaz đã được nhiều băng nhóm tiếp cận vì muốn có nắm đấm và bàn tay chơi bài của cậu. Nhưng cậu luôn từ chối. Cậu tới Barrel là để tìm Hertzoon và trừng trị hắn, chứ không phải để gia nhập một gia đình giả tạo. Tuy nhiên, khi biết được mục tiêu của mình chính là Pekka Rollins, cậu đã đổi ý. Đêm đó, cậu nằm trên sàn của một ngôi nhà hoang mà cậu đã chui vào chiếm dụng và nghĩ tới điều cậu muốn, điều mà cuối cùng sẽ trả được mối thù cho Jordie. Pekka Rollins đã lấy đi mọi thứ của Kaz. Nếu cậu muốn làm điều tương tự với lão, cậu cần phải ngang bằng, thậm chí hơn lão. Và cậu không thể đạt được điều đó một mình. Cậu cần một băng nhóm, không phải bất kì băng nhóm nào, mà là một băng nhóm cần cậu. Ngày hôm sau, cậu đi bộ tới Thanh Gỗ và hỏi Per Haskell xem ông ta có cần thêm tay chân không. Ngay từ lúc đó, cậu đã biết mình sẽ khởi đầu như một lính trơn để rồi băng Cặn Bã sẽ trở thành đội quân của cậu.

***

Có phải những bước đi ấy đã mang Kaz tới đây đêm nay? Đây khó lòng là sự trả thù mà anh hằng mơ tưởng.

Những dãy xà lim cứ trải dài mãi, dài mãi như vô tận, không thể đếm xuể. Anh không thể nào có đủ thời gian để tìm được Rollins. Nhưng không có gì là không thể. Tất cả đều có thể khi anh trông thấy vóc người to bè đó, khuôn mặt đỏ đắn đó qua lỗ nhòm của một cánh cửa sắt. Anh đang đứng trước phòng giam của Pekka Rollins.

Lão ta đang nằm nghiêng, say ngủ. Ai đó đã cho lão no đòn. Kaz quan sát lồng ngực lão phập phồng.

Đã bao nhiêu lần anh nhìn thấy Pekka Rollins kể từ khi bắt gặp lão tới tiệm rượu đó? Chưa bao giờ kẻ thối tha đó nhận ra anh.

Kaz không còn là một cậu bé con nữa, Pekka không thể nhận ra được thằng bé mà lão đã lừa đảo năm nào trong vóc dáng hiện tại. Nhưng điều đó khiến anh sôi máu mỗi khi chạm mặt lão. Như thế không đúng. Anh không thể xoá khỏi tâm trí mình khuôn mặt của Pekka - hay của Hertzoon. Dường như nó đã bị khắc vào đó bằng một lưỡi dao lởm chởm răng cưa.

Giờ đây, anh khom người, ước lượng trọng lượng nhỏ xíu của bộ dụng cụ phá khoá như thể đang nâng niu một con côn trùng trong lòng bàn tay. Chẳng phải đây là điều anh muốn hay sao? Được thấy một Pekka sa cơ, nhục nhã, khốn khổ và tuyệt vọng, những tên thuộc hạ giỏi nhất của lão phơi xác trên cọc nhọn, có lẽ như thế này cũng đủ rồi. Có lẽ tất cả những gì anh muốn lúc này là Pekka nhận ra anh là ai, và lão đã làm gì với anh. Anh có thể tự mình dựng lên một phiên toà nhỏ, luận tội, rồi thi hành án.

Đồng hồ Cả bắt đầu điểm phút thứ bốn mươi lăm. Anh nên rời đi.

Không còn nhiều thời gian để xuống tầng hầm. Nina chắc đang đợi anh. Tất cả mọi người đang đợi anh.

Nhưng anh cần điều này. Anh đã đấu tranh vì nó. Đây không phải là cách anh từng hình dung, nhưng có lẽ cũng chẳng sao. Nếu Pekka Rollins bị hành quyết bởi một tên đao phủ vô danh người Fjerda thì tất cả sẽ trở nên vô nghĩa. Kaz có bốn triệu kruge, nhưng Jordie sẽ không bao giờ được báo thù.

Cái ổ khoá trên cửa dễ dàng bung ra dưới bàn tay của Kaz.

Đôi mắt của Pekka mở toang, và lão mỉm cười. Lão chỉ giả vờ ngủ.

“Chào Brekker,” lão lên tiếng. “Đến đây để hả hê à?” “Không hẳn,” Kaz đáp.

Anh để cho cánh cửa đóng lại sau lưng mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro