Phần Một: Khách Không Mời 1-7

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1
INEJ

Khi đêm xuống, khu vực kho bãi của Ketterdam dường như lột xác và khoác lên mình một hình hài mới. Những dãy nhà lụp xụp ở rìa phía đông nhộn nhịp hẳn lên, trong khi những con phố của nó lại trở thành chốn không người, chỉ được lui tới bởi các vệ quân đang canh gác và những thị tuần đi làm nhiệm vụ.

Inej và Nina neo thuyền tại con kênh chính rộng lớn chạy ngang qua trung tâm của khu vực, trước khi đi xuôi theo bờ kè yên tĩnh, nép sát vào các dãy nhà kho và tránh xa những ngọn đèn đường nằm dọc bờ nước. Hai người đi ngang qua những con thuyền đầy ắp gỗ xẻ và các sà lan chở đống than đá cao ngất. Chốc chốc họ lại thấy những người đàn ông làm lụng dưới ánh đèn lồng, nhấc bổng những thùng rượu rum hoặc kiện bông vải. Người ta không thể bỏ mặc những thứ hàng hoá có giá trị như vậy suốt cả đêm. Khi đi đến gần Bãi Ngọt, họ thấy hai người đàn ông dỡ thứ gì đó từ một xe hàng lớn đậu bên cạnh con kênh, dưới ánh sáng xanh lét của một ngọn đèn độc nhất.

“Đèn tử thi đấy,” Inej thì thầm, và Nina rùng mình. Những ngọn đèn xương được làm từ xương nghiền của những loài cá biển sâu cho ánh sáng xanh lục, còn đèn tử thi thì cháy bằng nhiên liệu khác, nó toả ra thứ ánh sáng xanh lam đáng sợ, cho phép người ta nhận ra những chiếc sà lan chở xác của các đạo tì.

“Đạo tì làm gì ở khu Nhà kho này?”

“Người ta không muốn thấy các thi thể trên đường phố hay dưới dòng kênh. Khu vực kho bãi gần như vắng bóng người vào ban đêm, do vậy đây là nơi bọn họ mang các thi hài đến. Sau khi mặt trời lặn, họ đi thu gom xác chết và đưa đến đây. Đạo tì làm việc theo ca và theo khu phố. Họ sẽ rời đi vào lúc trời sáng, cùng với chuyến hàng của mình.” Ra đảo Tử Thần để hoả thiêu.

“Sao họ không xây một nghĩa trang tử tế?” Nina hỏi.

“Hết đất rồi. Em nghe nói từng có bàn luận về việc mở cửa lại Mạng Đen cách đây khá lâu, nhưng tất cả đều chấm dứt khi trận dịch Thị Nữ bùng lên. Mọi người quá sợ bị lây bệnh. Nếu gia đình có điều kiện, họ sẽ đưa chị đến một nghĩa trang hoặc nghĩa địa bên ngoài Ketterdam. Còn nếu không thì…”

“Không ai đổ lệ,” Nina nghiêm giọng.

Không đổ lệ, không quan tài. Một cách khác để chúc may mắn. Nhưng nó còn mang một ý khác. Một cái nháy mắt rầu rĩ với viễn cảnh sẽ không có đám ma tốn kém chờ đợi những người như họ, không một tấm bia đá để ghi nhớ tên tuổi, cũng chẳng có vòng hoa tang nào dành cho họ.

Inej đi trước khi họ tới gần Bãi Ngọt. Những ngọn tháp xi-lô đáng sợ to lớn như các vị thần canh gác, được trang trí bằng chiếc lá nguyệt quế đỏ của công ty Van Eck. Chẳng bao lâu nữa, mọi người sẽ biết biểu tượng đó mang nghĩa gì: sự hèn hạ và dối trá. Cụm tháp xi-lô của Van Eck được bao quanh bởi một hàng rào cao bằng sắt.

“Dây thép gai,” Nina lưu ý.

“Không thành vấn đề.” Nó được sáng chế để giữ cho gia súc ở yên trong chuồng. Nó sẽ không làm khó được Bóng Ma.

Hai người nấp quan sát bên một bức tường gạch đỏ vững chắc của một nhà kho, chờ đợi để xác nhận lịch trình của các vệ quân chưa thay đổi. Đúng như Kaz đã nói, đám lính gác mất gần mười hai phút để đi tuần trọn một vòng rào. Khi bọn họ ở phía đông của khu đất, Inej sẽ có khoảng sáu phút để vượt qua hàng rào. Khi đi sang phía tây, các vệ quân sẽ rất dễ dàng phát hiện Inej nếu cô đang đi trên sợi dây căng giữa các xi-lô, nhưng gần như không thể phát hiện được nếu cô ở trên mái. Trong sáu phút đó, Inej sẽ phải xoay sở để đưa mọt hạt vào trong xi-lô, rồi tháo sợi dây. Nếu có mất nhiều thời gian hơn sáu phút, cô sẽ phải đợi đám lính gác đi khuất. Cô sẽ không thể quan sát được bọn họ, nhưng Nina có một cái đèn xương trong tay. Chị sẽ ra hiệu bằng một tia sáng xanh khi cô có thể băng từ tháp này sang tháp kia một cách an toàn.

“Mười xi-lô,” Inej lên tiếng. “Chín lần đi dây.”

“Nhìn gần mới thấy chúng cao hơn ta tưởng rất nhiều,” Nina nói. “Em có sẵn sàng làm chuyện này không?”

Sự đáng sợ của chúng đúng là không thể chối cãi. “Dù núi có cao đến mấy thì việc trèo lên cũng như nhau cả thôi.”

“Về kĩ thuật mà nói thì không hẳn thế. Em cần dây thừng, móc…”

“Chị đừng có giống như anh Matthias.”

Nina hoảng hốt đưa tay bịt miệng. “Chị sẽ ăn gấp đôi bánh ngọt để quên chuyện này.”

Inej gật gù. “Nghe hay đấy.”

Tốp tuần tra lại lên đường sau khi đi qua chốt gác.

“Inej,” Nina vội nói, “em nên biết điều này, năng lực của chị không còn như trước nữa, kể từ lúc dùng parem. Nếu chúng ta phải chiến đấu…” “Đêm nay thì không. Chúng ta phải hành động như những bóng ma.” Inej siết vai Nina. “Và em không biết chiến binh nào quả cảm hơn chị, dù có hay không có năng lực Grisha.”

“Nhưng…”

“Nina, đám vệ quân.”

Tốp tuần tra đã khuất dạng. Nếu không hành động ngay bây giờ, hai người sẽ phải chờ đến vòng tuần tra kế tiếp và bị chậm so với kế hoạch.

“Làm thôi,” Nina nói và tiến về phía chốt gác.

Chỉ trong vài bước chân đưa chị vượt qua khoảng cách giữa nhà kho và mảng sáng bao trùm chốt gác, cung cách của Nina đã thay đổi hẳn. Inej không biết phải giải thích như thế nào, nhưng những bước chân của chị trở nên dè dặt hơn, đôi vai chị hơi chùng xuống. Chị dường như co rút lại. Nina không còn là một Grisha được huấn luyện bài bản nữa, chị đã trở thành một cô gái tị nạn căng thẳng, mong chờ một chút lòng thương.

“Xin lỗi anh?” Nina nói với chất giọng đặc sệt âm sắc Ravka.

Người vệ quân giương súng trong tư thế sẵn sàng, nhưng có vẻ chẳng mấy bận tâm. “Cô không nên ở đây vào ban đêm.”

Nina khẽ nói gì đó và ngước đôi mắt to tròn màu lục lên nhìn anh ta. Inej không hiểu bằng cách nào chị có thể tỏ ra ngoan hiền đến thế.

“Chuyện gì?” Người vệ quân hỏi và tiến lại gần hơn.

Inej ra tay. Cô châm đoạn ngòi dài của quả bom sáng cỡ nhỏ mà Wylan đã đưa cho họ, rồi chạy tới hàng rào, cẩn thận tránh xa vùng ánh sáng, và lặng lẽ trèo lên. Cô gần như ở ngay sau lưng, phía trên đầu người vệ quân và Nina, cô có thể nghe thấy tiếng nói của hai người trong lúc dễ dàng luồn lách qua những vòng dây thép gai.

“Tôi đến tìm việc,” Nina nói. “Sản xuất đường.”

“Chúng tôi không làm đường ở đây mà chỉ trữ nó thôi. Cô sẽ phải đi tới một trong những xưởng luyện đường.”

“Nhưng tôi cần việc làm.Tôi… tôi…”

“Ồ, coi kìa, đừng khóc. Nào, nào.”

Inej cố nén tiếng cười và khẽ khàng buông mình xuống mặt đất ở phía trong vòng rào. Cô có thể thấy những túi cát mà Kaz đã nhắc đến. Chúng được chất đống dựa vào bức tường phía sau của chốt gác. Cô cũng trông thấy một góc của tấm lưới mà anh định để cho cô sử dụng.

“Cả… ờm… bạn trai cô cũng đang tìm việc à?” Tay vệ quân hỏi.

“Tôi đâu có… Anh nói sao nhỉ? Bạn trai à?”

Cánh cổng bên cạnh chốt gác không khoá, nên Inej khẽ đẩy nó mở hờ cho Nina, trước khi nhanh chóng bước vào trong bóng tối dưới chân ngọn tháp gần nhất.

Inej nghe thấy tiếng Nina chào rồi bỏ đi về phía ngược lại. Cô chờ đợi. Vài phút trôi qua. Ngay khi cô tin rằng quả bom đã bị xịt, một tiếng bụp vang lên, và một luồng sáng mạnh toả ra từ căn nhà kho mà họ nấp quan sát lúc nãy. Người vệ quân lại xuất hiện, giương súng lên, và bước vài bước về phía nhà kho.

“Ai đó?” Anh ta hô to.

Nina lẻn ra từ trong bóng tối phía sau lưng anh ta, chỉ trong vài giây đã lách qua cổng rào. Chị đóng nó lại cẩn thận, rồi tiến về phía tháp xi-lô thứ hai, biến vào trong bóng tối. Tại đó, chị sẽ ra hiệu cho Inej biết khi tốp vệ quân đi tuần ngang qua.

Người vệ quân quay trở về vị trí, cẩn trọng đi giật lùi đề phòng mối nguy hiểm đến từ dãy nhà kho. Cuối cùng, anh ta quay người lại, lay cánh cổng để bảo đảm nó được khoá, rồi bước vào trong chốt gác.

Theo tín hiệu của Nina, Inej thoăn thoắt leo lên những gióng thang được hàn chắc vào sườn ngọn tháp. Một tầng, hai tầng… mười tầng. Thường thì chú của Inej sẽ pha trò cho khán giả trong lúc có trèo lên. Màn biểu diễn sau đây chưa từng được ai làm thử, và nhất là bởi một người trẻ! Xin quý vị hãy chiêm ngưỡng sợi dây trên kia. Ngọn đèn rọi sẽ được bật lên, chiếu vào sợi dây để nó trông như một sợi chỉ mỏng manh căng ngang rạp xiếc. Thưa các quý ông, hãy nắm lấy tay người phụ nữ của mình. Hãy xem những ngón tay của họ mảnh khảnh đến thế nào. Giờ hãy hình dung bản thân bước đi trên một thứ cũng mỏng manh và yếu ớt như vậy! Ai dám làm một việc như thế? Ai dám thách thức tử thần nào?

Khi đó Inej đã đứng trên đỉnh trụ và, tay chống hông, cô hô to: “Tôi!”

Khoan đã, chuyện này không thể được, chú của cô sẽ nói như thế, một bé gái ư?

Đó luôn là lúc đám đông cuồng nhiệt hẳn lên. Phụ nữ ngất đi. Còn đàn ông thì có người thậm chí còn tìm cách ngăn màn biểu diễn lại.

Nhưng đêm nay không có đám đông nào cả, chỉ có gió, lớp kim loại lạnh lẽo nơi ngón tay của cô, và nửa sáng của mặt trăng.

Inej đã lên đến đỉnh tháp xi-lô và phóng mắt quan sát đô thị bên dưới. Ketterdam chìm trong ánh sáng vàng, những ngọn đèn lồng chậm rãi di chuyển trên các dòng kênh, ánh nến thắp sáng những ô cửa sổ, các hiệu buôn và tửu quán sáng rực đèn đuốc để phục vụ công việc kinh doanh, cô có thể nhận ra ánh sáng lấp lánh của khu Lid, những dải đèn lồng sặc sỡ loè loẹt của Tây và Đông Stave. Chỉ trong vài ngày nữa, gia sản của Van Eck sẽ tiêu tan, và cô sẽ không còn bị ràng buộc bởi giao kèo với Per Haskell. Tự do. Để sống như cô mong ước. Để tìm kiếm sự tha thứ cho những tội lỗi của cô. Để theo đuổi ý nguyện của cô. Liệu cô có nhớ nơi này không? Cái đô thị hỗn tạp đông đúc mà cô đã hiểu quá rõ, và bằng cách nào đó đã trở thành nhà của cô ư? Chắc chắn cô sẽ nhớ. Thế nên đêm nay, cô sẽ trình diễn cho thành phố của mình, cho những công dân Rotterdam, ngay cả khi họ không hề vỗ tay.

Với một chút nỗ lực, Inej quay được tay quay của cửa lật và mở nó ra. Rồi cô thò tay vào trong túi và lấy ra cái lọ nhỏ đựng mọt hoá chất. Theo chỉ dẫn của Wylan, cô lắc nó thật kĩ trước khi trút hết vào trong xi-lô. Một tiếng xịt vang lên, và trước sự chứng kiến của Inej, lớp đường chuyển động như thể có sinh vật gì đó sống dậy bên dưới bề mặt của nó. Inej rùng mình. Cô từng nghe nói có những người công nhân rơi vào trong xi-lô và chết khi những hạt bắp hay hạt đường dạt ra dưới chân, nuốt chửng lấy họ và làm họ nghẹt thở. Cô đóng cửa lại và vặn chặt tay quay.

Tiếp đó, Inej bước xuống gióng thang đầu tiên và gắn vào đó cái móc nam châm mà Wylan đã đưa. Có vẻ nó bám rất chắc. Chỉ bằng một cái bấm nút, hai sợi dây dẫn đường nhiễm từ lập tức bung ra, gắn vào thành tháp với một tiếng keng nhẹ. Cô lấy chiếc nỏ cùng với cuộn dây lớn từ trong túi ra, rồi buộc một đầu dây vào cái móc nam châm, thắt nút thật chặt, và buộc hai dây dẫn đường. Đầu kia của sợi dây, cô buộc vào một cái móc nam châm đã gắn sẵn trên nỏ. Cô bắn nỏ. Phát đầu tiên đi chệch mục tiêu, và cô phải thu sợi dây về. Phát thứ hai lạc sang một gióng thang khác. Nhưng phát thứ ba thì trúng vào nơi cô nhắm tới trên tháp xi-lô kế tiếp. Inej vặn cái móc cho đến khi sợi dây đạt được độ căng phù hợp. Họ đã từng sử dụng thiết bị tương tự trước đây, nhưng chưa bao giờ làm trên một khoảng cách lớn và độ cao như thế này. Không sao. Khoảng cách và sự nguy hiểm sẽ được thay đổi trên dây. Cô cũng vậy. Khi đi trên dây, cô không có ai để bám víu, cô chỉ là một sinh vật không có quá khứ cũng chẳng có hiện tại, lơ lửng giữa trời và đất.

Đến lúc rồi. Người ta có thể học đánh đu, nhưng với việc đi thăng bằng trên dây thì phải có thiên khiếu.

Mẹ của Inej đã bảo cô rằng những người đi trên dây có năng khiếu bẩm sinh là hậu duệ của Người Trời, họ từng có cánh, và dưới nguồn sáng thích hợp, những đôi cánh đó vẫn có thể được nhìn thấy trên những người được gia ân. Sau đó Inej thường đứng trước gương, xoay tới xoay lui, lén nhìn cái bóng của mình trong sự cười cợt của các anh chị em họ, để xem liệu cô có đôi cánh nào hay không.

Khi bố của Inej trở nên mệt mỏi vì cứ bị con gái nài nỉ mỗi ngày, ông đã cho phép cô học đi trên những sợi dây thấp, với đôi chân trần, để cô có thể cảm nhận việc bước tới bước lui và giữ cơ thể thăng bằng. Inej chán muốn chết, nhưng vẫn cần mẫn thực hiện các bài tập hằng ngày, kiểm tra sức lực, thử độ bám của các đôi giày da trên những sợi dây căng hơn và kém thân thiện hơn. Những khi bố không để ý, cô còn trồng cây chuối và vượt qua đoạn dây còn lại với tư thế đó. Rất mau chóng, bố đồng ý nâng sợi dây lên cao thêm vài centimet, rồi để cô thử sức với một sợi dây thép thực thụ, và ở các cấp độ, Inej đều hoàn thiện hết kĩ thuật này đến kĩ thuật khác: lộn chống tay, lộn trước, đội bình nước trên đầu. Cô làm quen với các cây cột trụ mỏng mảnh và dẻo dai, cho phép cô giữ thăng bằng ở những độ cao lớn hơn.

Vào một buổi chiều nọ, chú của Inej và các em họ cô dàn dựng một tiết mục mới. Hanzi sẽ đẩy Asha ngồi xe cút kít trên dây. Trời nóng nên họ quyết định nghỉ ăn trưa rồi ra sông tắm. Còn một mình trong trại, Inej trèo lên giàn đỡ đã được dựng, bảo đảm lưng mình quay về phía mặt trời, để có thể quan sát sợi dây một cách rõ ràng.

Ở trên cao, thế giới trở thành hình ảnh phản chiếu của chính nó, các hình thù bé lại, những cái bóng kéo dài ra, hình dạng vẫn quen thuộc nhưng không còn đáng tin cậy, và khi Inej đặt bàn chân đi giày lên sợi dây, cô bỗng cảm thấy nghi ngại. Mặc dù sợi dây vẫn có cùng một độ rộng với sợi dây mà cô dùng để luyện tập hàng tuần lễ không chút sợ sệt, lúc này nó dường như mỏng hơn, như thể trong cái thế giới phản chiếu ấy, nó tuân theo những định luật khác. Khi nỗi sợ xuất hiện, một điều gì đó sẽ xảy ra.

Inej hít thở thật sâu, gồng bụng lại, rồi thực hiện bước đi đầu tiên giữa khoảng không. Bên dưới cô, thảm cỏ giống như một mặt biển dợn sóng, cô cảm thấy trọng lượng của mình thay đổi, dồn sang bên trái, cảm thấy sức hút của mặt đất, trọng lực rắp tâm kéo cô nhập vào cái bóng tít xa bên dưới của chính cô.

Cơ bắp của Inej gồng lên, cô hơi chùng gối lại. Rồi khoảnh khắc đó qua đi, và chỉ còn cô với sợi dây. Cô đã đi được nửa đường thì nhận ra mình đang bị quan sát. Cô mở rộng tầm quan sát nhưng vẫn giữ sự tập trung. Inej sẽ không bao giờ quên vẻ mặt của bố khi ông cùng với mấy chú cháu từ bờ sông quay về. Khuôn mặt ông ngẩng lên nhìn con gái, cái miệng há tròn thành một chữ O kinh ngạc. Mẹ cô cũng xuất hiện từ phía sau cỗ xe và đặt một bàn tay lên ngực. Họ cùng đứng im phăng phắc ở đó, sợ rằng mình sẽ phá vỡ sự tập trung của cô - họ là những khán giả đầu tiên của cô, câm lặng trong nỗi kinh hoàng mà cô cảm thấy giống như sự ngưỡng mộ.

Sau khi Inej trèo xuống, mẹ cô đã dành gần một tiếng đồng hồ để hết ôm cô vào lòng lại mắng mỏ cô không tiếc lời. Bố cô thì tỏ ra cứng rắn, nhưng sự tự hào của ông không qua được mắt cô, ánh mắt khâm phục của mấy đứa em họ cũng vậy.

Khi một trong số đó kéo cô sang một bên và hỏi, “Làm thế nào chị có thể đi dây điềm nhiên như thế?” Inej chỉ nhún vai đáp, “Cứ thế mà đi thôi.”

Nhưng sự thật không phải vậy. Nó còn hơn là một sự bước đi. Khi những người khác đi trên dây, họ căng mình ra chống đỡ - với gió, độ cao, khoảng cách. Khi Inej bước lên sợi dây, nó trở thành thế giới của cô. Cô có thể cảm thấy độ nghiêng và sức hút của nó. Nó là một hành tinh, và cô là mặt trăng của nó. Điều đơn giản ấy cô chưa bao giờ cảm thấy trong trò đu bay, khi cô được quán tính đưa đi. Cô thích sự tĩnh tại mà mình tìm thấy trên sợi dây thăng bằng, và đó là thứ mà không ai khác có thể hiểu được.

Inej chỉ bị ngã một lần duy nhất, và cô vẫn trách tấm lưới vì điều đó. Họ đã căng lưới khi Hanzi đi xe đạp một bánh trong màn biểu diễn của mình. Lúc Inej bước lên dây, cô ngã ngay lập tức. Cô gần như chỉ kịp ghi nhận điều đó trước khi chạm vào tấm lưới - và văng ra khỏi nó, rơi xuống đất. Cô kinh ngạc khi khám phá ra mặt đất cứng đến thế nào, nó không hề mềm lại hay võng xuống để đón cô. Inej bị gãy hai xương sườn và nhận một cục u to bằng quả trứng ngỗng trên đầu.

“Nó to như thế là tốt rồi,” bố cô đã lầm bầm như vậy. “Có nghĩa là máu không bị tụ trong não con bé.”

Ngay khi Inej được tháo băng, cô lập tức đi trên dây trở lại. Kể từ đó, cô không bao giờ sử dụng lưới an toàn nữa. Cô biết nó sẽ làm mình khinh suất. Nhưng nhìn xuống dưới vào lúc này, cô phải thừa nhận có một chút bảo hiểm cũng không sao. Tít xa bên dưới, ánh trăng mắc kẹt trong các mặt cong của lớp đá lát đường làm cho chúng trông giống như những cái hạt màu đen của một thứ trái cây ngoại lai nào đó. Nhưng tấm lưới giấu sau chốt gác hoàn toàn vô dụng khi chỉ có mỗi Nina để căng nó, và bất chấp kế hoạch ban đầu của Kaz là gì, kế hoạch mới không thể có chuyện ai đó đứng tơ hơ giữ lưới. Do vậy Inej sẽ đi trên dây như đã từng đi, không có bất cứ thứ gì đón đỡ và chỉ được nâng bởi đôi cánh vô hình.

Inej lấy cây gậy thăng bằng trong túi ra, và với một cú vẩy nhẹ, cô duỗi nó dài hết cỡ. Cô ướm thử sức nặng của cây gậy trên tay, co ngón chân trong đôi dép sục. Đôi dép da được xoáy từ đoàn xiếc Zirkoa theo yêu cầu của cô. Phần đế nhẵn của nó thiếu độ bám chắc mà đôi giày yêu thích của cô mang lại, nhưng cho phép cô cởi ra nhanh hơn.

Cuối cùng tín hiệu của Nina cũng xuất hiện. Một ánh chớp xanh ngắn ngủi.

Inej bước lên sợi dây. Ngay lập tức cơn gió tóm lấy cô. Inej thở ra, cảm nhận sức lôi kéo riết róng của nó và dùng cây gậy thăng bằng mềm dẻo để hạ thấp trọng tâm cơ thể xuống.

Cô nhún đầu gối một cái. Ơn trời, sợi dây có độ căng tuyệt vời. Cô bước đi, cảm nhận sức ép của nó dưới gan bàn chân.Theo mỗi bước đi của Inej, sợi dây hơi võng xuống, chực chờ tuột ra khỏi những ngón chân bấu chặt.

Cơn gió phả hơi ấm lên da Inej có mùi đường và mật mía. Phần mũ trùm đầu đã tuột xuống, và cô có thể cảm thấy những sợi tóc bung ra khỏi đuôi sam đang cù nhẹ khuôn mặt mình. Cô tập trung vào sợi dây, cảm nhận sự gần gũi thân thuộc từng trải qua hồi còn bé, như thể sợi dây cũng bám vào cô chắc như cô bám vào nó, chào đón cô vào cái thế giới trong gương ấy, một nơi bí mật chỉ có mình cô. Loáng cái Inej đã sang được nóc tháp xi-lô thứ hai.

Cô bước lên đó, thu ngắn cây gậy thăng bằng lại và cất nó vào chỗ cũ. Cô nhấp một ngụm nước từ cái bình trong túi, tự cho phép mình duỗi người một chút. Sau đó, cô mở cửa lật và thả mọt hạt vào trong. Một lần nữa cô nghe thấy tiếng xịt đó, và mùi đường khét xộc vào mũi cô. Lần này nó mạnh hơn, hình thành cả một đám mây dày, ngọt gắt.

Bỗng cô thấy mình quay trở lại Vườn Thú, với một bàn tay nần nẫn đặt trên cổ tay cô, thúc ép. Inej rất giỏi trong việc dự phòng trước những khi kí ức quay lại ám ảnh mình và chuẩn bị tư thế đón nhận nó, nhưng lần này cô không phòng bị. Kí ức ập vào cô mạnh hơn cả luồng gió lúc cô đi trên dây, khiến đầu óc cô quay cuồng. Mặc dù hắn nồng mùi vani, cô vẫn ngửi thấy mùi tỏi ẩn đằng sau. Cô cảm thấy lớp lụa trườn qua mình như thể chiếc giường là một sinh vật sống.

Inej không nhớ hết bọn họ. Khi màn đêm và Vườn Thú hoà làm một, cô đã trở nên giỏi hơn trong việc làm mình tê dại, biến mất hoàn toàn để gần như không bận tâm đến những gì họ làm với cơ thể cô bỏ lại phía sau. Cô biết những gã đàn ông tìm đến nhà chứa không bao giờ nhìn quá kĩ, không bao giờ hỏi quá nhiều. Bọn họ muốn một ảo tưởng, và sẵn sàng phớt lờ bất cứ thứ gì để gìn giữ ảo tưởng đó. Nước mắt tất nhiên là điều bị cấm đoán. Cô đã khóc vào cái đêm đầu tiên. Dì Heleen quất cô bằng cái gậy mềm, rồi chuyển sang gậy cứng và bóp cổ cho đến khi cô ngất đi. Sau đó, nỗi sợ của cô đã lớn hơn nỗi buồn.

Cô học cách mỉm cười, thì thào, ưỡn người và phát ra những âm thanh mà các khách hàng của Dì Heleen đòi hỏi. Cô vẫn khóc, nhưng không có giọt nước mắt nào rơi nữa. Chúng lấp đầy khoảng trống trong lòng cô, một cái giếng u sầu mà hằng đêm cô rơi vào như một hòn đá. Vườn Thú là một trong những nhà chứa đắt đỏ nhất khu Barrel, nhưng đám khách hàng thì chẳng tử tế gì hơn những kẻ lui tới những nhà trọ rẻ tiền hoặc các cô gái đứng đường. Theo cách nào đó, bọn họ còn tệ hơn. Khi một gã đàn ông trả nhiều tiền đến thế, cô gái người Kaelish tên Caera đã nói như vậy, hắn nghĩ hắn có quyền làm mọi thứ mình muốn.

Bọn họ già có, trẻ có, đẹp trai có mà xấu xí cũng có. Có những gã khóc tu tu và đánh cô khi gã không làm ăn được gì. Lại có kẻ muốn cô giả vờ như đang trải qua đêm tân hôn và thì thầm lời yêu đương. Có lão răng sắc như răng mèo, cứ cắn vào bầu ngực cô cho đến khi chảy máu. Dì Heleen đã tính thêm tiền giặt tấm ga giường dính máu và những ngày Inej không làm việc được vào giao kèo của cô. Nhưng đó chưa phải là khách hàng tệ hại nhất, mà là một tay người Ravka, kẻ đã chọn cô trong phòng tiếp khách, kẻ có mùi vani. Chỉ khi họ đã ở trong căn buồng của cô, giữa sắc lụa tím và mùi trầm, hắn mới nói: “Cô biết không, tôi đã từng gặp cô đấy.”

Inej đã bật cười, nghĩ rằng đó chỉ là một phần của cái trò mà hắn muốn chơi, và rót rượu cho hắn từ một cái bình vàng. “Chắc chắn là không.”

“Đó là vài năm trước, tại một trong những gánh xiếc rong ở ngoại vi

Caryeva.”

Một chút rượu bị sánh ra khỏi miệng li. “Chắc anh nhầm tôi với ai đó.”

“Không,” hắn nói, hào hứng như một cậu bé trai. “Tôi hoàn toàn chắc chắn. Tôi đã xem gia đình cô biểu diễn ở đó. Lúc đó tôi đang là một quân nhân nghỉ phép. Cô chắc chỉ mới lên mười, một con bé ốm nhách đi trên dây không chút sợ hãi. Cô đeo một cái băng đô gắn đầy hoa hồng. Rồi cô hẫng chân, và những cánh hoa hồng bung ra như một cơn mưa, rơi lả tả, lả tả.” Hắn vẫy vẫy những ngón tay như thể bắt chước những bông tuyết đang rơi. “Đám đông ồ lên, và tôi cũng thế. Đêm sau, tôi lại tới, và chuyện đó lại diễn ra. Mặc dù tôi biết nó là một phần của màn trình diễn, tôi vẫn còn cảm thấy tim mình hụt mất một nhịp khi cô giả vờ mất thăng bằng.”

Inej cố gắng giữ yên bàn tay run rẩy của mình. Băng đô hoa hồng là ý tưởng của mẹ cô. “Con khiến cho nó có vẻ dễ dàng quá, meja, thoăn thoắt đi qua đi lại như một chú sóc chuyền cành. Khán giả phải tin rằng con đang gặp nguy hiểm, mặc dù đó không phải là sự thật.”

Đó là cái đêm tồi tệ nhất của Inej tại Vườn Thú, bởi vì khi người đàn ông nồng mùi vani khởi sự hôn lên cổ và cởi áo cô, Inej không tài nào bỏ cơ thể lại phía sau. Bằng cách nào đó, kí ức kia đã gắn quá khứ và hiện tại của cô lại với nhau, đè chặt cô ở bên dưới hắn. Cô khóc, nhưng dường như hắn chẳng bận tâm.

Inej có thể nghe thấy tiếng rít của lớp đường khi mọt hạt phát huy tác dụng. Cô cố bắt mình tập trung vào âm thanh đó và hít thở qua cổ họng tắc nghẹn.

Em muốn có anh không một lớp áo giáp che chắn nào. Đó là câu cô đã nói với Kaz trên boong tàu Ferolind, mong ngóng một dấu hiệu nào đó cho thấy anh có thể mở lòng với cô, và họ sẽ không chỉ là hai sinh linh cảnh giác gặp nhau ở sự nghi ngờ dành cho thế giới này. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu anh mở lời tối hôm ấy? Nếu anh đã chủ động trao cô một phần trái tim của mình? Sẽ thế nào nếu anh đến với cô, bỏ đôi găng tay sang một bên, rồi kéo cô lại gần, và hôn lên môi cô? Liệu cô có kéo anh lại sát hơn? Có đáp trả nụ hôn của anh không? Cô có còn là chính mình trong một khoảnh khắc như thế, hay sẽ vỡ vụn và biến mất, một con búp bê trong tay anh, một cô gái không bao giờ toàn vẹn?

Không quan trọng. Kaz đã không mở lời, và có lẽ như vậy là tốt nhất cho cả hai. Họ có thể tiếp tục với lớp áo giáp nguyên vẹn. Cô sẽ có con tàu của cô, và anh có thành phố của anh.

Inej vươn tay để đóng cửa lật lại, hít một hơi sâu thứ không khí nhuốm mùi than, và tống sạch mùi đường phân huỷ ra khỏi phổi. Bỗng cô loạng choạng khi bị một bàn tay nắm gáy xô tới trước.

Cô cảm thấy trọng tâm cơ thể đảo lộn khi bị hút thẳng vào cái miệng toang hoác của tháp xi-lô.

2
KAZ

Đột nhập vào trong ngôi nhà không khó như đáng lẽ nó phải thế, điều này khiến Kaz bực bội. Có phải anh đã đánh giá quá cao Van Eck không? Lão ta suy nghĩ như một thương gia, anh tự nhắc mình như vậy trong lúc kẹp cây gậy chống dưới nách và leo xuống theo một ống thoát nước. Lão ta vẫn tin rằng tiền sẽ giữ cho lão an toàn.

Lối đột nhập dễ nhất là mấy cái cửa sổ ở tầng trên cùng, chỉ có thể tiếp cận từ mái nhà. Wylan không giỏi leo trèo, nên Kaz đột nhập trước rồi đưa cậu ta vào từ tầng dưới.

“Hai chân lành lặn mà vẫn phải cần một cái thang,” Kaz lẩm bẩm, phớt lờ cú nhói ra hiệu đồng tình của cái chân mình.

Anh chẳng ham thực hiện thêm một nhiệm vụ khác cùng với Wylan, nhưng hiểu biết của cậu ta về ngôi nhà này sẽ hữu ích nếu có điều gì bất ngờ xảy ra, ngoài ra cậu ta là người phù hợp nhất để xử lí axit auric. Kaz nghĩ đến Inej, vắt vẻo trên mái nhà thờ Barter, với những ánh đèn đô thị lấp lánh bên dưới. Đây là việc mà tôi làm tốt nhất, nên hãy để tôi làm công việc của mình. Tốt thôi. Anh sẽ để tất cả bọn họ tự làm công việc của mình. Nina sẽ đảm trách phần việc của cô ta, Inej có vẻ đủ tự tin vào khả năng đi thăng bằng trên dây - dù nghỉ ngơi không nhiều và không cần lưới an toàn. Liệu cô ấy có thổ lộ với mày nếu cô ấy lo lắng không? Có phải đó là điều từng khiến mày tỏ ra thương cảm không?

Kaz xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Nếu Inej không nghi ngờ năng lực của

bản thân thì anh cũng không cần phải làm thế. Ngoài ra, nếu muốn lấy cái triện cho đám người tị nạn yêu quý của Nina thì anh phải tập trung vào vấn đề của mình.

May thay, hệ thống an ninh của Van Eck không phải là một mối bận tâm. Inej đã nói với anh rằng các ổ khoá đều là loại Schuyler. Chúng đúng là những con quỷ nhỏ phức tạp, nhưng khi đã phá được một, ta sẽ phá được tất. Kaz từng chơi thân với một người thợ khoá ở Klokstraat. Anh ta tin sái cổ rằng Kaz là con trai của một thương gia giàu có, người rất trân quý bộ sưu tập hộp đựng thuốc hít vô giá của anh ta. Nhờ đó, Kaz luôn là người đầu tiên biết được một cách chính xác giới nhà giàu ở Ketterdam cất giấu của cải ra sao. Anh từng nghe sư phụ đạo chích Hubrecht Mohren của Pijl ngẫu hứng kể về vẻ đẹp của một ổ khoá chất lượng trong lúc say bia nâu tại Quạ Đen.

“Ổ khoá cũng giống như đàn bà vậy,” ông ta lè nhè nói. “Mày phải biết cách ve vuốt để làm nó tuôn hết các bí mật ra.” Ông ta là một trong những chiến hữu già của Per Haskell, rất khoái trá khi được khoe khoang về những ngày tháng tươi đẹp và những phi vụ lớn, nhất là khi nó giúp ông ta trốn việc, và đó luôn là thứ thông thái nửa mùa mà những lão bợm già ấy thích tuôn ra. Quả thực, ổ khoá đúng là giống như một phụ nữ. Nhưng cũng giống như một người đàn ông hay bất kì thứ gì khác, nếu muốn hiểu nó, bạn phải tháo tung ra và xem bên trong hoạt động như thế nào. Nếu muốn làm chủ nó, bạn phải tìm hiểu kĩ đến mức có thể tháo ra rồi lắp lại nguyên vẹn.

Ổ khoá cửa sổ nhượng bộ đôi bàn tay anh với một tiếng tách dễ chịu. Kaz đẩy khung kính trượt sang bên cạnh và leo vào trong. Những căn buồng nhỏ ở tầng trên cùng ngôi nhà của Van Eck được dành cho đám gia nhân, nhưng tất cả đều đang bận bịu với các khách khứa của chủ ở tầng dưới. Một số thành viên giàu có nhất của Hội đồng Thương buồn đang ních căng bụng ở phòng ăn tầng một, lắng nghe Van Eck than thở về việc con trai mình bị bắt cóc và ái ngại trước sự lộng hành của các băng đảng tại Barrel. Căn cứ theo mùi thơm, Kaz đoán trong thực đơn có món giăm bông.

Anh mở cửa và khẽ khàng đi tới cầu thang, rồi thận trọng bước xuống tầng hai. Anh hiểu căn nhà của Van Eck từ lần cùng Inej đánh cắp bức tranh sơn dầu của DeKappel, và anh luôn thích quay trở lại một ngôi nhà, một công ty mà mình từng có lí do để vào trước đây. Không phải chỉ vì sự quen thuộc. Như thể bằng việc quay lại, anh đã chiếm hữu được nó. Chúng ta đã tường tận các bí mật của nhau, ngôi nhà dường như nói thế. Chào mừng cậu quay lại.

Một vệ quân đang đứng gác ở cuối đoạn hành lang trải thảm, phía trước cửa căn phòng mà Kaz biết là của Alys. Kaz xem đồng hồ. Một tiếng bụp vang lên và ánh sáng chớp loè phía ngoài cửa sổ cuối hành lang. Ít nhất thì Wylan cũng chuẩn chỉ về giờ giấc. Tay vệ quân đi tới đó xem xét. Tranh thủ thời cơ, Kaz lẻn đi theo hành lang về hướng ngược lại.

Anh chui vào trong phòng cũ của Wylan - hiện giờ rõ ràng là được dự tính dùng làm phòng trẻ con. Nhờ ánh đèn đường, anh có thể thấy các bức tường đã được vẽ cảnh biển cầu kì để trang trí. Nôi em bé mang hình dáng của một chiếc thuyền buồm nhỏ, có hẳn những lá cờ đuôi nheo và bánh lái. Van Eck thực sự rất nâng niu người nối dõi mới của mình.

Kaz phá khoá cửa sổ phòng trẻ con rồi mở nó ra, buộc vào đó một cái thang dây và chờ đợi. Nghe thấy một tiếng uỵch, anh nhăn mặt. Có vẻ như Wylan đã trèo qua được hàng rào để vào vườn. Hi vọng cậu ta không đánh vỡ lọ axit auric và làm cháy một lỗ trên người lẫn trên khóm hoa hồng. Giây lát sau, Kaz nghe thấy tiếng thở hồng hộc, rồi Wylan vòng qua góc nhà, lạch bạch như một con vịt bầu. Khi đi đến chỗ phía dưới cửa sổ, cậu buộc chặt cái túi vào người và trèo lên thang dây, làm nó đong đưa dữ dội. Kaz giúp Wylan leo qua cửa sổ, sau đó rút thang và đóng cửa lại. Đây sẽ là lối thoát của họ.

Wylan trố mắt nhìn quanh phòng trẻ con, rồi chỉ lắc đầu. Kaz thị sát hành lang. Tay vệ quân đã quay trở lại vị trí gác trước cửa phòng Alys.

“Sao thế?” Kaz thì thào hỏi Wylan.

“Nó có ngòi nổ cháy chậm,” cậu ta đáp. “Tôi canh giờ chưa chính xác.”

Nhiều giây trôi qua. Cuối cùng, một tiếng bụp khác vang lên. Tay vệ quân lại đi đến chỗ cửa sổ, và Kaz ra hiệu cho Wylan theo mình rời khỏi phòng. Kaz nhanh chóng phá khoá phòng làm việc của Van Eck, và chỉ nháy mắt sau họ đã vào bên trong.

Lúc Kaz đột nhập vào đây để đánh cắp bức tranh, anh đã khá ngạc nhiên với cách bài trí xa hoa của nó. Anh chờ đợi một sự giản dị thường gặp của cánh thương gia, những lớp ván sàn được trang trí đầy những vòng lá nguyệt quế, một cái ngai bọc nhung đỏ nằm chễm chệ phía sau bàn làm việc dài, bóng loáng.

“Đằng sau bức tranh,” Wylan thì thào, tay chỉ về phía bức chân dung một vị tổ tiên của Van Eck.

“Người đó là ai vậy?”

“Martin Van Eck, cụ cố cố nội của tôi. Nguyên là thuyền trưởng, người đầu tiên đến Eames Chin và lái tàu vào dòng sông của nó. Cụ mang về cả một tàu gia vị và dùng lợi nhuận để mua một con tàu thứ hai. Là cha tôi kể như thế. Đó là khởi đầu cho cơ nghiệp của dòng họ Van Eck.”

“Và chúng ta sẽ là kết thúc của nó.” Kaz lắc lắc cái đèn xương, khiến ánh sáng xanh lét tràn ngập căn phòng. “Cũng khá giống,” anh bình phẩm trong lúc liếc nhìn khuôn mặt gầy guộc, hàng lông mày cao và đôi mắt xanh nghiêm nghị.

Wylan nhún vai. “Ngoại trừ mái tóc đỏ, tôi thừa hưởng mọi thứ từ cha. Và ông nội, cũng như tất cả những người mang họ Van Eck khác. Giờ thì hết rồi.”

Hai người đứng vào hai phía của bức tranh và tháo nó xuống khỏi tường.

“Nhìn mày kìa,” Kaz ngân nga khe khẽ khi két an toàn của Van Eck hiện ra. Két dường như không phải là từ chính xác ở đây. Nó giống với một cửa hầm kiên cố bằng thép hơn, bắt vào một bức tường cũng được gia cố bằng thép. Ổ khoá trên đó được làm tại Kerch, nhưng không giống với bất kì cái nào mà anh từng thấy. Nó bao gồm một loạt lẫy khoá có thể được cài đặt lại với các mã số mới mỗi ngày. Không thể phá nó trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ. Nhưng nếu cửa này không mở được thì bạn vẫn có thể trổ một cái cửa khác.

Âm thanh của những giọng nói to tiếng vọng lên từ tầng dưới. Các thương gia đã tìm thấy điểm bất đồng nào đó. Kaz sẽ không từ chối cơ hội nghe lỏm cuộc đối thoại. “Làm thôi,” anh nói. “Thời gian không còn nhiều.”

Wylan lấy hai cái lọ trong túi ra. Khi ở riêng thì chúng chẳng có gì đặc biệt, nhưng nếu cậu đúng thì một khi kết hợp với nhau, chúng sẽ tạo thành một hợp chất có khả năng xuyên thủng mọi thứ, ngoại trừ kính balsa.

Wylan hít một hơi sâu và giơ hai cái lọ ra xa. “Đừng lại gần,” cậu nói, đoạn đổ chất lỏng từ lọ này vào lọ kia. Chẳng có gì xảy ra.

“Sao thế?” Kaz hỏi.

“Tránh ra nào.”

Wylan dùng ống pipet bằng thuỷ tinh balsa rút một lượng nhỏ chất lỏng trong lọ, rồi cho nó chảy trên bề mặt cửa két sắt. Ngay lập tức, lớp kim loại bắt đầu tan chảy, làm phát ra âm thanh lụp bụp, ồn ào một cách đáng ngại trong căn phòng nhỏ. Mùi kim loại ngập tràn không gian. Cả Kaz lẫn Wylan đều lấy ống tay áo che mũi.

“Nhỏ mà có võ,” Kaz kinh ngạc thốt lên.

Wylan tiếp tục làm việc. Cậu cẩn thận đổ axit auric từ trong lọ lên lớp thép, khiến cho cái lỗ thủng mỗi lúc một lớn hơn.

“Nhanh tay lên,” Kaz đưa mắt nhìn đồng hồ và giục.

“Chỉ cần tôi làm vãi một giọt này thôi, nó sẽ xuyên thẳng qua sàn nhà và rơi xuống bàn tiệc của cha tôi.”

“Vậy thì cứ từ từ đi.”

Khi gặp kim loại, axit bùng cháy nhanh chóng rồi chậm rãi lụi đi. Hi vọng nó sẽ không làm thủng bức tường quá mức sau khi họ đi. Cái văn phòng này có đổ ập lên đầu đám khách khứa của Van Eck thì Kaz cũng chẳng màng, nhưng phải sau khi công việc đêm nay hoàn tất đã.

Sau khoảng thời gian tưởng như dài dằng dặc, cái lỗ đã đủ lớn để thò tay qua. Kaz chĩa đèn xương vào bên trong và trông thấy một cuốn sổ cái, nhiều cọc tiền, cùng một cái túi nhung nhỏ. Anh lấy cái túi ra khỏi két, nhăn mặt khi cánh tay chạm gờ kim loại của lỗ thủng. Lớp thép vẫn còn khá nóng.

Anh trút những thứ bên trong cái túi nhung ra tay: một chiếc nhẫn vàng to tướng khắc hình chiếc lá nguyệt quế màu đỏ và tên viết tắt của Van Eck.

Kaz nhét chiếc nhẫn vào trong túi quần, rồi thò tay lấy hai cọc tiền, đưa một cọc cho Wylan.

Anh suýt phì cười khi nhìn thấy vẻ mặt cậu ta. “Cậu không thích chuyện này à, thiếu gia?”

“Tôi không thích cảm giác làm một tên trộm.”

“Sau tất cả những chuyện ông ta đã làm?”

“Phải.”

“Cậu ngay thẳng quá. Cậu có nhận ra chúng ta đang đánh cắp tiền của chính cậu không?”

“Jesper cũng nói y như thế, nhưng tôi tin chắc cha tôi đã gạch tên tôi khỏi di chúc ngay khi dì Alys có thai.”

“Điều đó không đồng nghĩa rằng cậu không được quyền có nó.”

“Tôi không muốn. Tôi chỉ không muốn ông ta có nó.”

“Quay lưng với giàu sang thật là một đặc quyền khó tả.” Kaz nói trong lúc nhét tiền vào túi quần.

“Tôi sẽ điều hành cả một đế chế bằng cách nào kia chứ?” Wylan hỏi lại và vứt ống pipet vào trong két sắt cho cháy luôn. “Tôi không thể đọc được sổ sách chứng từ. Tôi không viết nổi lệnh mua hàng. Cha tôi sai lầm trong nhiều chuyện, nhưng ông ta đúng về chuyện này. Tôi sẽ là một trò cười.”

“Vậy thì thuê người khác đảm trách công việc đó cho cậu.”

“Liệu anh có làm thế không?” Wylan hỏi lại, cằm hếch lên. “Tin tưởng một người biết nhiều cỡ đó, với một bí mật có thể huỷ hoại anh?”

Có, Kaz nhủ thầm không do dự. Tôi có thể tin tưởng một người. Một người mà tôi biết sẽ không bao giờ dùng điểm yếu của tôi để chống lại tôi.

Anh lật nhanh cuốn sổ cái và hỏi lại, “Khi người ta nhìn thấy một thằng thọt bước đi trên phố, tì vào cây gậy chống, họ cảm thấy gì?” Wylan quay nhìn chỗ khác. Mọi người luôn làm như vậy mỗi khi Kaz nhắc đến cái chân bị tật của mình, như thể anh chưa biết tình trạng của mình, hoặc chưa biết mọi người nhìn nhận anh ra sao. “Họ thấy thương hại. Thế họ nghĩ gì khi họ thấy tôi đi tới?”

Khoé miệng Wylan nhếch lên. “Họ nghĩ tốt hơn nên tránh sang bên kia đường.”

Kaz quẳng cuốn sổ vào trong két sắt. “Cậu không yếu đuối vì không biết chữ. Cậu yếu đuối vì cậu sợ người khác nhìn thấy điểm yếu của mình. Cậu để cho sự hổ thẹn định đoạt con người mình. Giúp tôi một tay nào.”

Hai người nhấc bức chân dung lên và treo trở lại chỗ cũ che đi cái lỗ trên két sắt. Martin Van Eck quắc mắt nhìn xuống họ.

“Suy nghĩ đi, Wylan,” Kaz nói tiếp trong lúc chỉnh lại khung tranh cho ngay ngắn. “Sự hổ thẹn là thứ lấp đầy túi tôi, sự hổ thẹn là thứ giữ cho Barrel kín mít những kẻ ngu ngốc sẵn sàng đeo một cái mặt nạ để có được điều mình muốn mà không ai biết. Chúng ta có thể chịu đựng đủ loại đau đớn. Chính sự hổ thẹn nuốt chửng con người ta.”

“Nói hay lắm,” một giọng nói vang lên từ trong góc phòng.

Kaz và Wylan quay lại. Những ngọn đèn đồng loạt bật lên, khiến cả căn phòng ngập tràn ánh sáng, và một bóng người bước ra từ cái hốc ở bức tường đối diện mà trước đó ít phút không hề hiện diện: Pekka Rollins với nụ cười nhăn nhở trên mặt, hộ tống bởi một nhóm đàn em trong băng Kim Sư, tất cả đều được vũ trang với súng, dùi cui và rìu.

“Kaz Brekker,” Rollins chế giễu. “Tên trộm triết gia.”

3
MATTHIAS

“Nằm yên!” Matthias quát bảo Kuwei. Cậu nhóc người Shu dán mình dưới sàn. Loạt đạn thứ hai làm rung chuyển không khí, phá vỡ một ô cửa sổ kính ghép khác.

“Hoặc bọn chúng thích phí đạn, hoặc đây chỉ là những phát súng cảnh báo,” Jesper lên tiếng. Matthias lom khom di chuyển tới phía bên kia của nhà mồ và nhòm qua một khe đá.

“Chúng ta bị bao vây rồi,” anh nói. Những kẻ đang đứng giữa các nhà mồ trên đảo Mạng Đen khác hẳn các thị tuần mà anh chờ đợi. Trong ánh sáng chập chờn của đèn đuốc, Matthias trông thấy những cái áo vest kẻ sọc, kẻ ô hoặc hoạ tiết paisley, và áo khoác caro. Trang phục của dân Barrel. Bọn chúng mang theo những món vũ khí cũng lôm côm chẳng kém: súng, dao dài, gậy gỗ.

“Tôi không thể nhìn rõ hình xăm của chúng,” Jesper nói. “Nhưng tôi khá chắc đứa đứng đầu là Doughty.”

Doughty. Matthias lục lọi trong kí ức của mình và nhớ ra người đã dẫn họ vào gặp Pekka Rollins khi cả nhóm cần tiền. “Bọn Kim Sư.”

“Cả đống thằng.”

“Chúng muốn gì?” Kuwei run rẩy hỏi.

Matthias nghe thấy trên nền tiếng la lối nói cười là âm thanh trầm đầy kích động của những chiến binh biết mình đang chiếm lợi thế và đánh hơi thấy mùi đổ máu.

Tiếng hò reo vang lên khi một thằng trong băng Kim Sư chạy đà rồi ném thứ gì đó về phía nhà mồ. Nó bay qua một ô cửa sổ vỡ kính và đập mạnh vào sàn nhà. Chất khí màu xanh tuôn ra.

Matthias lấy một tấm mền ngựa và phủ lên quả bom khói. Anh ném nó trở ra ngoài qua cửa sổ trong lúc một loạt đạn khác no vang. Mắt anh cay xè, lệ tuôn ràn rụa trên má.

Tiếng ồn lên đến đỉnh điểm. Bọn Kim Sư lao tới trước.

Jesper nổ một phát súng và một tên trong số những thằng đang lao lên ngã xuống, ngọn đuốc tắt ngấm khi chạm nền đất ẩm ướt. Jesper tiếp tục nã đạn hết lần này đến lần khác, không hề run tay khi những thằng trong băng Kim Sư gục ngã. Hàng ngũ của chúng gãy đổ khi mạnh đứa nào đứa nấy tản ra tìm chỗ ẩn nấp.

“Giữ hàng ngũ đi chứ, mấy đứa,” Jesper gằn giọng.

“Ra ngoài đi!” Doughty hét lên từ phía sau một ngôi mộ. “Mày không thể bắn hết bọn tao đâu.”

“Tao không nghe thấy gì cả. Lại gần hơn đi,” Jesper la lớn.

“Bọn tao đã đập nát tàu thuyền của mày. Tụi mày sẽ không thể đi khỏi hòn đảo này nếu không đi cùng bọn tao. Thế nên im mồm đi, bằng không bọn tao sẽ cắt đầu tụi mày đem về Barrel.”

“Coi chừng!” Matthias cảnh báo. Doughty đang làm họ phân tâm. Một quả bom khói khác bay qua cửa sổ, rồi một quả thứ ba. “Hầm mộ!” Matthias gào lên, và cả bọn lao tới phía bên kia của nhà mồ, chen chúc nhau chui vào lối đi trước khi đóng chặt cánh cửa đá sau lưng. Jesper xé áo nhét vào khe hở giữa cánh cửa và mặt sàn.

Mọi thứ tối om. Trong một thoáng, chỉ có tiếng ba người bọn họ ho sặc sụa, cố gắng tống khí ra khỏi phổi. Rồi Jesper lắc một cái đèn xương, và khuôn mặt họ được chiếu bằng thứ ánh sáng xanh lè ma quái.

“Làm thế quái nào bọn nó tìm được chúng ta kia chứ? Jesper thắc mắc.

“Không quan trọng,” Matthias đáp. Họ không có thời gian để tìm hiểu vì sao đảo Mạng Đen bị đột nhập. Tất cả những gì anh biết là nếu Pekka Rollins cử tay sai đến đây thì Nina cũng đang gặp nguy hiểm. “Đạn dược của chúng ta còn những gì?

“Wylan để lại một số quả bom tím phòng trường hợp chúng ta gặp rắc rối với bọn chiến binh người Shu, ngoài ra tôi cũng có hai quả bom sáng. Kuwei, cậu có gì?”

“Tôi chẳng có gì cả.”

“Cái túi chết tiệt của cậu,” Jesper đáp. “Trong đó không có gì hữu dụng à?”

Kuwei ghì chặt túi hành lí vào ngực. “Mấy quyển sổ tay của tôi,” cậu nhóc sụt sịt đáp.

“Thế những thứ mà Wylan đang làm dở thì sao?” Matthias hỏi. Không ai buồn nghĩ đến chuyện dọn sạch chúng.

“Chỉ là một thứ gì đó mà cậu ta dùng để làm pháo hoa cho vụ cầu Thiện Nữ,” Jesper đáp.

Một tràng những tiếng la lối từ phía bên ngoài vọng vào.

“Chúng sẽ cho nổ tung cánh cửa nhà mồ,” Matthias nói. Đó là cách anh sẽ làm nếu cần tù binh hơn là thi thể, mặc dù anh tin chắc Kuwei là người duy nhất trong số họ bọn Kim Sư muốn bắt sống.

“Ngoài kia phải có ít nhất ba chục tên sừng sỏ đang tìm cách lột da chúng ta,” Jesper nói. “Nhà mồ chỉ có một lối ra, và chúng ta đang kẹt trên một hòn đảo chết tiệt. Chúng ta tiêu rồi.”

“Có lẽ không,” Matthias nói trong lúc đưa mắt nhìn ánh sáng xanh ma quái của chiếc đèn xương. Mặc dù không có đầu óc mưu mô như Kaz, anh cũng được tôi luyện trong môi trường quân ngũ. Sẽ có cách cho tình huống này.

“Anh bị điên à? Bọn Kim Sư biết thừa quân số chúng áp đảo chúng ta như thế nào.”

“Phải,” Matthias đáp. “Nhưng chúng không biết hai trong số chúng ta là Grisha.” Bọn chúng tưởng chỉ đang truy đuổi một nhà khoa học, không phải một Tiết Hỏa Sư, và Jesper bấy lâu nay vẫn giữ kín năng lực sáng Chế Gia của mình.

“Phải rồi, hai Grisha hầu như chưa được luyện tập,” Jesper nói.

Một tiếng uỳnh vang lên, khiến các bức tường rung chuyển và làm Matthias ngã dúi vào hai người còn lại.

“Chúng đến rồi!” Kuwei hét lên.

Nhưng không có tiếng bước chân nào vang lên. Thêm một tràng những tiếng la lối từ phía ngoài hầm mộ vọng vào. Chúng dùng chưa đủ thuốc nổ,” Matthias nói. “Chúng muốn bắt sống cậu, thế nên chúng tỏ ra thận trọng. Chúng ta còn một cơ hội nữa. Kuwei, cậu có thể tạo ra bao nhiêu nhiệt lượng từ một ngọn lửa?”

“Tôi có thể làm cho lửa cháy mạnh hơn, nhưng duy trì thì khó đấy.”

Matthias nhớ lại hình ảnh những lưỡi lửa màu tím ngùn ngụt cháy trên thân thể gã người Shu có cánh, không thể dập tắt. Wylan đã nói sức nóng của chúng cao hơn lửa thường.

“Đưa một quả bom cho tôi,” anh nói với Jesper. “Tôi sẽ cho nổ vách tường phía sau của hầm mộ.”

“Để làm gì?”

“Để làm cho bọn chúng nghĩ chúng ta sẽ thoát ra ngoài qua lối đó,” Matthias đáp, rồi đặt quả bom ở cuối đoạn hành lang đá.

“Anh có chắc nó không làm chúng ta tan xác không đấy?”

“Không,” Matthias thừa nhận. “Nhưng trừ phi cậu có ý tưởng gì hay ho hơn…”

“Tôi…”

“Bắn hạ nhiều địch thủ nhất có thể trước khi chúng ta toi mạng không phải là một lựa chọn.”

Jesper nhún vai. “Nếu vậy thì tiến hành thôi.”

“Kuwei, ngay khi bom nổ, cậu hãy chạy nhanh hết sức có thể tới cửa nhà mồ. Lúc đó chắc khói độc đã tản bớt, nhưng tôi muốn cậu chạy. Tôi sẽ yểm trợ ngay phía sau cậu. Cậu có nhớ ngôi mộ có cột buồm lớn bị gãy không?”

“Ở phía bên phải á?”

“Đúng rồi. Hãy chạy thẳng tới đó. Jesper, lấy hết chỗ bột mà Wylan để lại, và chạy theo cậu ta.”

“Tại sao?”

Matthias châm ngòi. “Cậu có thể nghe theo mệnh lệnh của tôi, hoặc đi gặp bọn Kim Sư mà thắc mắc. Giờ thì nằm xuống.”

Anh đẩy cả hai sát vào tường, che chắn cho họ khi một tiếng uỳnh khủng khiếp vang lên từ đầu kia của đường hầm.

“Chạy!”

Ba người lao qua cửa hầm mộ.

Matthias dùng một tay giữ vai Kuwei, thúc cậu ta chạy qua đám khói xanh còn sót lại. “Nhớ nhé, lao thẳng tới chỗ cột buồm gãy.” Anh đá tung cửa nhà mồ và ném quả bom sáng lên trời. Nó nổ tung, tạo thành một chùm ánh sáng trắng loá. Anh lao vào bụi cây, dùng súng trường bắn về phía bọn Kim Sư trong lúc lom khom chạy qua các ngôi mộ.

Bọn Kim Sư nổ súng đáp trả, và Matthias vội thụp xuống nấp sau một đống đá phủ đầy rêu phong. Anh trông thấy Jesper vừa lao qua cửa nhà mồ vừa nổ súng, phá vòng vây chạy về phía cột buồm gãy bằng đá. Matthias ném nốt quả bom sáng còn lại lên không trong lúc Jesper nhào người sang bên phải và nhiều khẩu súng đồng loạt nổ vang như sấm dậy, khi băng Kim Sư phớt lờ mọi kỉ luật hoặc phần thưởng được hứa hẹn để xả bằng hết chỗ đạn mình có. Chúng có thể đã được chỉ thị giữ cho Kuwei còn sống, nhưng chúng chỉ là một đám trộm cướp Barrel, nào phải những binh lính được rèn luyện.

Dán bụng xuống đất, Matthias bò qua những ngôi mộ. “Mọi người có bị gì không?” Anh hỏi khi đến được khu lăng mộ có cột buồm đá bị gãy.

“Hết cả hơi, nhưng vẫn còn thở được,” Jesper đáp. Kuwei cũng gật đầu xác nhận dù đang run lẩy bẩy. “Kế hoạch rất tuyệt. Giờ thì bị mắc kẹt ở đây có gì khá hơn bị kẹt trong nhà mồ bên kia?”

“Cậu có mang theo chỗ bột của Wylan không?”

“Những gì còn lại,” Jesper đáp và dốc hết các túi, lấy ra ba cái gói.

Matthias chọn bừa một cái. “Cậu có thể điều khiển chúng không?”

Jesper lúng túng đổi tư thế. “Có, tôi nghĩ thế. Tôi đã từng làm điều tương tự tại Lâu Đài Băng. Tại sao?”

Tại sao. Tại sao. Nếu đang ở trong hàng ngũ drüskelle, chắc cậu ta đã bị tống giam vì bất tuân phục rồi.

“Mạng Đen nổi tiếng là bị ma ám, đúng không? Chúng ta sẽ tạo ra vài con ma.” Matthias liếc nhìn quanh khu lăng mộ. “Bọn chúng đang tiến đến. Tôi cần cậu vâng lệnh và ngừng thắc mắc. Cả hai cậu.”

“Chẳng trách anh và Kaz không hợp nhau,” Jesper lẩm bẩm.

Cố gắng nói ngắn gọn trong chừng mực của mình, Matthias giải thích dự định của mình cho lúc này và khi họ tới mép đảo, nếu như kế hoạch của họ thành công.

“Tôi chưa bao giờ làm chuyện này trước đây,” Kuwei nói.

Jesper nháy mắt với cậu ta. “Thế nó mới hào hứng chứ.” “Sẵn sàng chưa?” Matthias hỏi.

Anh mở cái gói. Jesper giơ hai bàn tay lên. Với một tiếng vút khẽ, chỗ bột bay lên không trung, trở thành một đám mây lơ lửng, như thể thời gian trôi chậm lại. Jesper dồn sự tập trung vào đó đến mức mồ hôi túa ra trên trán, rồi phóng hai tay tới trước. Đám mây dàn mỏng ra, quần đảo trên đầu bọn Kim Sư, và bắt lửa từ một ngọn đuốc, nổ ra ánh sáng xanh lè.

Những kẻ đứng quanh tên cầm đuốc há hốc mồm.

“Kuwei,” Matthias ra lệnh.

Cậu nhóc người Shu giơ tay lên, và ngọn lửa của cây đuốc bắt đầu lan dọc theo phần cán, trườn xuống cánh tay kẻ đang cầm. Hắn hét lên, vứt cây đuốc đi rồi nằm lăn lộn trên mặt đất hòng dập lửa.

“Tiếp tục đi,” Matthias nhắc. Kuwei cong ngón tay lại, nhưng ngọn lửa xanh tắt phụt.

“Tôi xin lỗi!” Kuwei nói.

“Thử lại đi,” Matthias yêu cầu. Anh không có thời gian để dỗ dành.

Kuwei lại phóng hai bàn tay tới trước, và một chiếc đèn lồng của bọn Kim Sư nổ tung, làm bùng lên những lưỡi lửa màu vàng. Kuwei lui lại, như thể không dự định dùng lực mạnh như vậy.

“Đừng để mất tập trung,” Matthias hối thúc.

Kuwei ngoắc tay, và ngọn lửa cuồn cuộn bốc lên cao.

“Ê, cũng không tệ đấy.” Jesper thốt lên, mở một cái gói khác và tung đám bột vào không trung, rồi vung tay, đẩy chúng bay tới trước, về phía ngọn lửa của Kuwei. Lưỡi lửa rùng rùng chuyển sang màu đỏ rực. “Stronti clorua,” Jesper thì thầm. “Thứ tôi thích nhất.”

Kuwei ngoắc tay, và một lưỡi lửa khác nhập vào ngọn lửa đỏ, tạo thành một con mãng xà uốn lượn bên trên đảo Mạng Đen, sẵn sàng tấn công.

“Ma!” Một đứa trong băng Kim Sư hét toáng lên.

“Đừng có hâm,” đứa khác đáp.

Quan sát con rắn lửa uốn lượn, hết thu vào lại toả ra, Matthias cảm thấy nỗi sợ trước kia dâng lên trong lòng. Anh đã kết thân với Kuwei, dù chính những ngọn lửa Tiết Hoả Sư này đã thiêu rụi ngôi làng của anh trong một trận đánh. Anh đã quên mất thứ năng lực mà thằng nhóc sở hữu. Hồi đó là chiến tranh, anh tự nhủ. Và bây giờ cũng vậy.

Băng Kim Sư đang bị sao nhãng, nhưng chuyện này sẽ không kéo dài.

“Thổi lửa sang mấy cái cây đi,” Matthias ra lệnh, và với một tiếng gằn, Kuwei dang rộng hai cánh tay. Những tán lá xanh cố gắng chống cự cuộc tấn công của lửa, nhưng rồi cũng khuất phục.

“Chúng có Grisha,” Doughty hét lớn. “Lột da chúng!”

“Chạy ra mép nước!” Matthias nói. “Ngay!” Họ vội lao qua những tấm

bia mộ và tượng thánh vỡ. “Kuwei, sẵn sàng nhé. Chúng ta cần toàn bộ nội lực của cậu.”

Họ trượt xuống bờ dốc, lao vào chỗ nước nóng. Matthias ném chỗ bom tím vào các thân thuyền bị đập vỡ. Lưỡi lửa tím lập tức nuốt chửng chúng, mượt mà một cách rùng rợn. Matthias đã qua lại chỗ này đủ nhiều lần để biết đây là nơi nông nhất của con kênh, doi cát dài là nơi những con thuyền dễ mắc cạn nhất, nhưng bờ đối diện của đất liền lại ở quá xa.

“Kuwei,” anh ra lệnh, thầm mong cậu nhóc người Shu đủ mạnh mẽ để đảm đương kế hoạch mà Matthias đã vạch ra ban nãy. “Mở đường đi.”

Kuwei phóng hai tay tới trước. Những ngọn lửa đổ xuống mặt nước, làm hơi nước bốc lên ngùn ngụt. Thoạt đầu, Matthias chỉ nhìn thấy một bức tường trắng xoá mờ mịt. Sau đó hơi nước tản ra và anh trông thấy những con cá nhảy lách tách trên mặt bùn, cua bò lổm ngổm dưới lòng kênh trơ đáy, trong lúc những lưỡi lửa tím liếm vào lớp nước ở hai bên bờ.

“Lạy các thánh và lũ lừa họ cưỡi,” Jesper ngỡ ngàng thốt lên. “Kuwei, cậu làm được rồi.”

Matthias quay người về phía đảo và nổ súng vào đám cây cối.

“Mau lên!” Anh hét to. Họ vội lao qua con đường mà mới một phút trước chưa từng tồn tại, phóng tới bờ kênh bên kia, nơi các ngõ hẻm để ẩn nấp đang chờ đợi. Phi tự nhiên, một giọng nói vang lên trong đầu Matthias. Không, anh nghĩ thầm. Kì diệu.

“Anh có nhận ra mình vừa lãnh đạo một top quân Grisha không vậy?” Jesper hỏi trong lúc họ nâng mình lên khỏi lòng kênh bùn lầy và chạy vội trên những con phố hướng đến Bãi Ngọt.

Quả vậy. Một suy nghĩ lạ lùng. Thông qua Jesper và Wylan, anh đã điều khiển năng lực Grisha. Thế nhưng anh không cảm thấy mình bị vấy bẩn hay nhúng chàm vì chuyện đó. Anh còn nhớ điều mà Nina đã nói về cách thức Lâu Đài Băng được xây dựng, rằng nó chắc phải là công trình của Grisha, chứ không phải của Djel. Liệu sẽ thế nào nếu cả hai đều đúng? Sẽ thế nào nếu Djel đã ra tay thông qua những con người này? Phi tự nhiên. Chữ đó đến với anh một cách quá dễ dàng, để xua đi những thứ anh không hiểu, để hạ thấp Nina và những người như cô. Nhưng sẽ thế nào nếu như phía sau sự chính trực mà các drüskelle đi theo, có một điều gì đó kém trong sạch hoặc bất minh? Sẽ thế nào nếu nó thậm chí không phải là sự sợ hãi hay tức giận, mà chỉ đơn thuần là ghen tị? Có nghĩa lí gì khi dốc lòng phụng sự Djel, chỉ để thấy quyền lực của Ngài qua năng lực của người khác, chứ bạn không bao giờ có thể sở hữu những năng lực đó?

Các drüskelle đã thề trung thành với Fjerda lẫn vị thần của họ. Nếu họ sinh ra để thấy những điều kì diệu mà họ từng xem là sự kinh tởm, thì còn chuyện gì xảy ra nữa? Tôi được sinh ra để bảo vệ Người. Bổn phận của anh với vị thần của mình, bổn phận của anh với Nina. Nếu như chính là bàn tay của Djel đã dâng nước lên trong cơn bão cuồng nộ nhấn chìm con tàu drüskelle để đưa anh và Nina đến với nhau thì sao?

Matthias đang chạy qua những con phố của một vương quốc xa lạ, tiến đến những nguy hiểm mà anh chưa biết tới, nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi anh nhìn vào mắt Nina và thấy sự nhân đạo của mình phản chiếu trong đó, cơn bão lòng của anh lắng xuống.

Chúng ta sẽ tìm cách làm họ thay đổi suy nghĩ, cô đã nói như thế. Tất cả bọn họ. Anh sẽ tìm được Nina. Họ sẽ sống sót qua đêm nay. Họ sẽ thoát khỏi cái thành Ketterdam ẩm ướt, bất lương này, và rồi… Phải, và rồi họ sẽ thay đổi thế giới.

4
INEJ

Inej vặn người, thoát ra khỏi bàn tay đang nắm chặt gáy mình. Cô thụp xuống cho khỏi ngã. Đạp chân vào mái xi-lô, cô nhoài người ra xa cửa lật. Rồi cô bật dậy, dao đã kịp rút khỏi vỏ, sẵn sàng trên tay.

Đầu óc cô không thể hiểu được thứ mà mình nhìn thấy. Một đứa con gái đang đứng trước mặt cô, sáng trưng như một bức tượng tạc từ ngà voi và hổ phách. Áo và quần dài của con nhỏ có màu kem, viền da màu ngà và thêu hoạ tiết màu vàng. Mai tóc nâu của nó được tết thành bím dày, kết trang sức lấp lánh. Con nhỏ cao gầy, lớn hơn Inej chừng một hoặc hai tuổi.

Inej nghĩ tới nhóm chiến binh Kherguud mà Nina và những người khác chạm trán tại Tây Stave, nhưng đứa con gái này không giống người Shu.

“Xin chào, Bóng Ma,” con nhỏ lên tiếng.

“Chúng ta biết nhau à?”

“Ta là Dunyasha, Bạch Kiếm, được huấn luyện bởi Hội Hiền nhân Ahmrat Jen, sát thủ tài năng nhất lứa tuổi mình.”

“Lạ hoắc.”

“Ta mới tới đây thôi,” đứa con gái thừa nhận, “nhưng ta biết ngươi là một huyền thoại trên những đường phố bẩn thỉu này. Phải thừa nhận, ta cứ tưởng ngươi phải… cao lớn hơn kìa.”

“Có chuyện gì?” Inej hỏi lại bằng câu cửa miệng của người Kerch vào đầu mọi cuộc gặp, mặc dù nói ra nó ở độ cao hai mươi tầng nhà như thế này thật kì dị hết sức.

Dunyasha mỉm cười. Nụ cười có vẻ như đã được tập luyện, giống các cô gái trong phòng tiếp khách thếp vàng của vườn Thú. “Ở cái nơi thô lỗ này mọi người chào hỏi nhau cộc cằn ghê!” Con nhỏ bâng quơ khoát tay về phía đường chân trời trong một cử chỉ vừa như nhìn nhận vừa phủi bỏ Ketterdam. “Định mệnh đã đưa ta tới đây.”

“Thế định mệnh có trả tiền cho mày không?” Inej hỏi lại, đưa mắt ước lượng đối thủ. Cô không nghĩ con nhỏ trèo lên cao thế này chỉ để làm quen. Khi giao đấu, chiều cao sẽ giúp nó có tầm đánh xa hơn, nhưng cũng ảnh hưởng tới sự thăng bằng của nó. Có phải Van Eck đã cử nó tới đây không? Và nếu vậy thì ông ta có cử ai đó bám theo Nina luôn không? Inej liếc nhanh xuống dưới, nhưng không thấy được gì trong những cái bóng tối om của cụm tháp. “Mày làm việc cho ai?”

Những con dao xuất hiện trong tay Dunyasha. Cạnh sắc của chúng ánh lên lấp loáng. “Cái chết là công việc của bọn ta,” con nhỏ nói, “và nó rất thiêng liêng.”

Vẻ đắc chí ánh lên trong mắt Dunyasha, sự sinh động đầu tiên mà Inej nhìn thấy, ngay trước khi con nhỏ tấn công.

Inej bị bất ngờ bởi tốc độ của địch thủ. Dunyasha di chuyển như một vệt màu, như thể bản thân là một lưỡi thép cắt xuyên bóng tối, với hai lưỡi dao phối hợp nhịp nhàng, hết trái lại phải. Inej để cho cơ thể mình đáp trả, né những đường dao theo bản năng và lùi xa địch thủ, nhưng tránh gờ mép của tháp xi-lô. Cô giả vờ né trái rồi vung nhát dao đầu tiên.

Dunyasha xoay người tránh đòn một cách dễ dàng, nhẹ nhàng như một tia nắng phản chiếu trên mặt họ. Inej chưa bao giờ thấy ai chiến đấu như vậy, như thể con nhỏ di chuyển theo một thứ âm nhạc mà chỉ mình nó nghe thấy.

“Ngươi e sợ rồi à, Bóng Ma?” Inej cảm thấy lưỡi dao của Dunyasha cắt qua ống tay áo. Cái nhói mà nó gây ra giống như một cú roi quất. Không quá sâu, cô tự nhủ. Trừ phi con dao có tẩm thuốc độc. “Ta nghĩ là có đấy. Người ta không thể vừa sợ cái chết vừa là phái viên thực thụ của nó được.”

Con nhỏ này có bị chập mạch không vậy? Hay nó chỉ lắm lời? Inej lùi lại, di chuyển vòng quanh mái xi-lô.

“Ta sinh ra đã không biết sợ,” Dunyasha nói tiếp với một cái chậc lưỡi khoái trá. “Ba mẹ cứ sợ ta sẽ chết đuối, vì hồi nhỏ ta bò xuống biển, vừa bò vừa cười.”

“Có khi họ sợ mày chết vì nói nhiều ấy.”

Dunyasha lao tới với một sự mạnh mẽ mới. Inej tự hỏi phải chăng con nhỏ chỉ vờn cô trong loạt đòn tấn công đầu tiên, thăm dò điểm mạnh và điểm yếu trước khi chiếm lấy ưu thế. Cả hai trao đổi vài đường dao, nhưng Dunyasha vẫn còn nguyên sức mạnh. Inej có thể cảm thấy từng vết đau, từng thương tích và những thử thách của một tháng qua trên cơ thể mình - nhát dao suýt đoạt mạng cô, màn leo ống khói lò đốt rác, những ngày cô bị cầm tù.

“Phải thú thực là ta thất vọng đấy,” Dunyasha lên tiếng trong lúc đôi bàn chân lướt đi thoăn thoắt trên mái xi-lô. “Ta đã tưởng ngươi sẽ là một thách thức. Nhưng ta thấy gì thế này? Một con mọi đen Suli biết nhào lộn, đánh đấm như phường du côn mạt hạng.”

Sự thật là vậy. Inej đã học lóm các ngón đòn từ bọn con trai như Kaz và Jesper trong các ngõ hẻm quanh co của Ketterdam. Dunyasha không chỉ có một lối tấn công. Con nhỏ có thể mềm dẻo như lau sậy khi cần, tấn công như một con mèo, rút lui như một làn khói. Inej không thể nắm bắt hay dự đoán chúng.

Con nhỏ giỏi hơn mình. Sự nhìn nhận đó có vị chua lòm như thể Inej vừa cắn vào một món trái cây hấp dẫn nhưng đã hỏng. Khác biệt không chỉ nằm ở việc rèn luyện. Inej học đánh nhau vì buộc phải làm thế nếu muốn sống sót. Cô đã khóc nức nở vào cái đêm mình hạ sát lần đầu tiên. Còn con nhỏ này khoái trá với điều đó.

Nhưng Ketterdam đã dạy cô rất kĩ. Nếu không thắng được vận may thì đổi trò chơi. Inej đợi cho đối thủ lao tới để nhảy lên sợi dây căng giữa hai xi-lô và liều mình đi trên nó. Cơn gió ập vào cô quyết liệt, như thể cảm thấy cơ hội của mình. Inej nghĩ đến việc sử dụng cây gậy thăng bằng, nhưng cô muốn đôi tay rảnh rang.

Cô cảm thấy sợi dây võng xuống. Không thể nào. Nhưng khi Inej liếc nhìn qua vai, Dunyasha đã bắt chước cô đi trên sợi dây thăng bằng. Con nhỏ đang nhoẻn cười, làn da trắng sáng rực lên như thể nuốt chửng ánh trăng.

Bàn tay của Dunyasha phóng tới, và Inej hộc lên khi bị một vật sắc nhọn đâm vào bắp chân. Cô nhoài người ra sau, nắm lấy sợi dây bằng hai tay, và quay lại để đối mặt với địch thủ. Con nhỏ lại vung tay. Inej cảm thấy một cú đau nhói khác, và khi nhìn xuống, cô trông thấy một cái phi tiêu đang cắm trên đùi mình.

Từ đâu đó bên dưới, cô nghe thấy tiếng la hét và ẩu đả. Nina. Van Eck đã cử kẻ nào hay thứ gì tới tìm chị? Nhưng cô không thể sao nhãng, nhất là khi đang ở trên dây thăng bằng với con quỷ này.

“Nghe nói ngươi từng làm gái cho mụ công,” Dunyasha nói trong lúc phóng một phi tiêu nữa vào Inej, tiếp nối bằng một cái thứ ba. Inej tránh được cả hai, nhưng nhận một cái khác vào vai phải. Cô chảy máu khá nhiều. “Ta thà giết chính mình cùng tất cả mọi người dưới mái nhà đó chứ không để bản thân bị lợi dụng như vậy.”

“Mày đang bị lợi dụng đó,” Inej đáp. “Van Eck không xứng đáng với những kĩ năng của mày đâu.”

“Nếu ngươi nhất định muốn biết, thì Pekka Rollins là người trả tiền cho ta đó,” Dunyasha đáp. Inej cảm thấy sợi dây dưới chân tròng trành. Rollins. “Ông ta trả tiền đi lại, ăn ở cho ta. Nhưng ta không đòi tiền cho những mạng sống mà mình tước đi. Chúng là đồ trang sức của ta. Là thanh danh của ta trên cõi đời này, và sẽ mang lại vinh dự cho ta ở kiếp sau.”

Pekka Rollins. Liệu ông ta đã tìm thấy Kaz rồi? Còn những người khác? Sẽ thế nào nếu Nina đang nằm chết dưới kia? Cô phải thoát khỏi con nhỏ này. Lại một cái phi tiêu hình sao bay vèo tới, khiến Inej né sang trái để tránh. Cô giật lùi trên sợi dây thăng bằng, và thoáng thấy một vệt sáng bạc khác. Cơn đau xé toạc cánh tay Inej. Cô rít lên.

Cái chết là công việc của bọn ta và nó rất thiêng liêng. Nhỏ lính đánh thuê này phụng sự thánh thần hắc ám phương nào đây? Inej mường tượng ra một gã khổng lồ sừng sững bên trên Ketterdam, không có cá tính và nét đặc biệt nào, làn da căng bóng nơi những cái tay cái chân mập ú, ừng ực uống máu từ các nạn nhân của đám lâu la. Cô có thể cảm thấy sự hiện diện của gã và lạnh toát trong cái bóng đồ sộ của gã.

Một mũi phi tiêu cắm vào cẳng chân của Inej, mũi khác găm vào cẳng tay. Cô liếc nhìn qua vai. Chỉ còn mươi bước chân nữa thôi là cô đến được tháp xi-lô thứ nhất. Dunyasha có thể đánh đấm giỏi hơn Inej, nhưng con nhỏ không biết rõ Ketterdam. Inej sẽ nhanh chóng trèo xuống chân tháp tìm Nina. Họ sẽ cắt đuôi con quỷ này nhờ hệ thống đường sá kênh rạch mà Inej thuộc nằm lòng.

Một lần nữa, cô ước lượng khoảng cách ở phía sau lưng mình. Chỉ vài bước nữa thôi. Nhưng khi cô quay lại nhìn thì Dunyasha đã không còn trên dây. Cô trông thấy con nhỏ cúi xuống, thò tay về phía cái móc nam châm.

Không.

“Xin hãy bảo vệ con,” cô thì thào với các vị thánh của mình.

Sợi dây long ra. Inej rơi xuống, vặn người trong không trung như cô từng làm hồi bé, tìm kiếm đôi cánh của mình.

5
KAZ

Kaz nghe thấy một tiếng rít trong tai. Anh luôn có cảm giác nhìn đôi lạ lùng mỗi khi quan sát Rollins, như thể vừa thức quá khuya sau một chầu nhậu tuý luý. Kẻ đứng trước anh là Pekka Rollins, ông vua của khu Barrel, trùm băng đảng kiêm bầu sô. Nhưng lão cũng là Jakob Hertzoon, thương gia liêm chính giả hiệu đã chiếm được lòng tin và cảm tình của hai anh em Kaz, trước khi cuỗm sạch tiền rồi bỏ mặc họ trên những con phố không biết nhân nhượng.

Đêm nay, mọi dấu vết của Jakob Hertzoon đã biến mất. Rollins mặc một chiếc gilet sọc xanh lá cài khuy chật khít trên cái bụng chớm phệ và quần dài màu ngọc lục bảo sặc sỡ. Rõ ràng lão ta đã thay thế cái đồng hồ bị Kaz xoáy mất, vì lão vừa lấy ra một cái mới và đang nhìn vào nó.

“Cái này chẳng chạy đúng giờ gì cả,” Rollins nói và lắc mạnh cái đồng hồ, chỗ tóc mai rung lên nhè nhẹ khi lão bực bội thổ hắt ra, “nhưng tôi không thể kiềm chế trước những thứ sáng bóng. Đừng có nói là cậu vẫn còn giữ cái đồng hồ đánh cắp của tôi nhé.” Kaz không nói gì. “Thôi,” Rollins nhún vai, đóng sập nắp đồng hồ lại và nhét nó vào túi áo gilet. “Ngay lúc này, thuộc hạ của tôi chắc đã bao vây nhóm của cậu cùng một con tin vô giá trên đảo Mạng Đen.”

Wylan buột miệng kêu lên một tiếng tuyệt vọng.

“Tôi cũng đã chuẩn bị một thứ đặc biệt dành cho Bóng Ma,” Rollins nói tiếp. “Một báu vật khác thường, con bé đó. Tôi không thích việc cậu sở hữu vũ khí siêu việt ấy, nên tôi đã tìm một người còn khác thường hơn để xử con bé.”

Một cảm giác khó chịu cồn lên trong bụng Kaz. Anh nhớ lúc Inej nhún vai, vóc người nhỏ nhắn toát lên sự tự tin. Tôi không cần lưới an toàn.

“Cậu thực sự nghĩ mình khó tìm đến thế à, Brekker? Tôi chơi cái trò này từ lâu lắm rồi. Tất cả những gì tôi phải làm là nghĩ xem mình sẽ làm gì nếu trẻ hơn và ngu ngốc hơn.”

Tiếng rít trong tai Kaz lớn hơn. “Ông làm việc cho Van Eck.” Anh đã nghĩ đến khả năng này, nhưng lại phớt lờ nó. Anh đã nghĩ nếu mình hành động đủ nhanh thì bọn họ sẽ không kịp hình thành một liên minh.

“Tôi làm ăn với Van Eck. Sau khi cậu đến gặp tôi để tìm cách kiếm tiền, tôi đã có cảm giác ông ta cần sự giúp sức của tôi. Lúc đầu ông ta ngần ngại, sau quả đắng với dân Barrel. Nhưng cái trò vặt vãnh mà cậu bày ra với cô vợ của Van Eck đã đẩy ông ta vào vòng tay âu yếm của tôi. Tôi đã nói với Van Eck rằng cậu sẽ luôn đi trước ông ta một bước, bởi vì ông ta không thể không suy nghĩ như một thương gia.”

Kaz khựng lại. Chẳng phải anh cũng có cùng suy nghĩ như vậy sao?

“Ông ta là một người khôn ngoan, hẳn rồi,” Rollins nói tiếp, “nhưng lại có óc tưởng tượng hạn chế. Trong khi cậu, Brekker, cậu suy nghĩ như một thằng ranh con độc địa. Cậu là tôi, với nhiều tóc hơn, và ít kiểu cách hơn hẳn. Van Eck chắc mẩm đã nắm gáy được cậu ở Tây Stave, thậm chí ông ta còn tự tin đến mức lôi cả thị tuần vào cuộc. Nhưng tôi biết cậu không dễ bị bắt như thế.

“Và ông biết tôi sẽ đến đây?”

Rollins chậc lưỡi. “Tôi biết cậu không thể cưỡng được chuyện này. Ồ, tôi không biết kế hoạch của cậu, nhưng tôi biết bất kể thế nào nó cũng sẽ đưa cậu tới đây. Cậu không thể bỏ qua cơ hội làm nhục Van Eck và lấy lại những gì mà cậu nghĩ ông ta nợ cậu.”

“Thoả thuận là thoả thuận.”

Rollins lắc đầu, kêu cục cục như một con gà mái mẹ. “Cậu cá nhân hoá vấn đề quá mức, Brekker à. Lẽ ra cậu nên tập trung vào công việc, nhưng cậu lại quá bận ôm một mối thù.”

“Chỗ này thì ông sai rồi,” Kaz đáp. “Tôi không ôm mối thù. Tôi nâng niu nó. Tôi chiều chuộng nó. Tôi cho nó ăn những miếng thịt ngon lành, và đưa nó đi học ở những ngôi trường tốt nhất. Tôi nuôi dưỡng nó, Rollins à.”

“Tôi mừng là cậu vẫn giữ sự hài hước của mình. Sau khi cậu ra tù, đấy là tôi giả dụ như Van Eck để cho cậu được sống, có lẽ tôi sẽ nhận cậu vào làm việc. Thật đáng tiếc nếu để phí hoài một tài năng như cậu.”

“Tôi thà bị Van Eck quay chín trên một cái xiên còn hơn.”

Rollins nở một nụ cười cao thượng. “Tôi nghĩ chuyện đó cũng có thể thu xếp được. Tôi đâu phải loại người hẹp hòi.” Cứ nói tiếp đi, Kaz âm thầm giục trong lúc luồn tay vào cái túi đeo chéo của Wylan.

“Điều gì khiến ông nghĩ rằng Van Eck sẽ tôn trọng thoả thuận với ông hơn là những thoả thuận với chúng tôi?”

“Bởi vì tôi rất sòng phẳng chuyện tiền nong, và những đòi hỏi của tôi rõ ràng là vừa phải hơn. Vài triệu kruge để loại khỏi Barrel một mối nguy mà bản thân tôi cũng muốn tống tiền ư? Hợp lí quá còn gì!” Rollins móc ngón tay cái vào áo gilet. “Sự thật là Van Eck và tôi hiểu nhau. Tôi đang bành trướng, mở rộng địa bàn, nghĩ lớn hơn. Hoàng Tử Kaelish là công trình đẹp đẽ nhất mà Đông Stave từng thấy, và nó chỉ mới là khởi đầu. Van Eck và tôi là những nhà xây dựng. Chúng tôi muốn tạo ra thứ gì đó trường tồn hơn bản thân. Rồi cậu sẽ hiểu điều đó, nhóc ạ. Giờ thì đưa cái triện đó đây, và đi từ tốn thôi, đồng ý chứ?”

Kaz lôi cái triện từ trong túi ra, giơ lên cao để nó được ánh đèn đường chiếu vào, thu hút ánh mắt của Rollins. Anh ngần ngừ.

“Coi nào, Brekker. Cậu kiên cường lắm, tôi phải công nhận điều đấy, nhưng tôi đã dồn cậu vào chân tường, và áp đảo cậu về quân số. Cậu không thể nhảy xuống qua cái cửa sổ kia, Van Eck đã điều thị tuần đứng đầy con phố bên dưới. Cậu đã xong, đã tiêu, đã vào tròng, vậy nên đừng làm bất cứ điều gì ngu xuẩn.”

Nhưng nếu không thể mở một cánh cửa, ta chỉ việc trổ cái khác. Rollins thật dễ gợi chuyện. Thật ra, Kaz không chắc mình có thể làm lão ta ngừng nói nếu muốn. Anh chỉ còn việc giữ cho đôi mắt của lão không rời khỏi cái triện vàng choé trên bàn tay phải của anh trong lúc mở lọ axit auric bằng tay trái.

“Sẵn sàng nhé,” anh thì thào.

“Kaz…” Wylan phản đối.

Nhưng Kaz đã quẳng cái triện cho Rollins đồng thời đổ phần axit còn lại xuống sàn. Căn phòng nóng rực lên, tấm thảm bốc khói cay xè trong tiếng rít dữ dội.

“Bắt chúng!” Rollins la lớn.

“Hẹn gặp ông ở bên kia,” Kaz nói, giáng mạnh cây gậy xuống ván sàn dưới chân. Chúng long ra với một tiếng ken két lạnh người.

Kaz và Wylan rơi xuống bàn tiệc ở tầng một giữa đám khói và bụi thạch cao, khiến nó sụm xuống vì sức nặng của cả hai.

Chân nến và bát đĩa văng tứ tung. Kaz bật dậy với gậy chống trong tay, nước sốt ròng ròng trên áo. Anh kéo Wylan đứng lên.

Anh có một khoảnh khắc ngắn ngủi để ghi nhận vẻ sửng sốt của các vị thương gia quanh bàn. Miệng họ há ra kinh ngạc, những chiếc khăn ăn vẫn còn nguyên trên đùi. Sau đó Van Eck hét lớn, “Tóm lấy chúng!” và Kaz cùng Wylan nhảy qua một cái đùi giăm bông, ba chân bốn cẳng lao đi trên hành lang lát gạch đen trắng.

Hai vệ quân mặc chế phục bước vào qua cánh cửa lắp kính mở ra vườn sau nhà, súng trường giương lên.

Kaz đua nước rút rồi trượt người tới trước. Anh xoay ngang cây gậy chống trước ngực và lướt qua giữa hai vệ quân, để cho cây gậy đập vào cẳng chân họ, hất ngã cả hai.

Wylan bám theo anh, luống cuống chạy xuống mấy bậc thềm dẫn ra vườn. Họ mau chóng tiến đến nhà thuyền, leo qua lan can rồi nhảy xuống chiếc gondel của Rotty đang nằm chờ sẵn dưới kênh.

Một viên đạn găm vào mạn thuyền khi cơn mưa đạn trút xuống mặt nước quanh họ. Anh và Rotty cầm lấy mái chèo.

“Chơi khô máu đi,” Kaz quát to, và Wylan ném toàn bộ chỗ bom sáng, pháo thăng thiên lẫn những mẫu thử cầm theo. Bầu trời phía trên ngôi nhà của Van Eck bùng nổ trong những luồng sáng, khói lửa và âm thanh, khiến các vệ quân nằm rạp xuống đất để nấp tránh.

Kaz đưa con thuyền tiến vào dòng lưu thông tấp nập trên kênh Geld.

“Đột nhập rồi thoát ra mà không gây chú ý là thế này sao?” Rotty hỏi.

“Tôi đúng được vế đầu,” Kaz gằn giọng.

“Chúng ta cần phải cảnh báo những người kia,” Wylan hổn hển nói.

“Rollins đã nói…”

“Pekka Rolllins ở trong đó á?” Rotty hỏi. Kaz có thể nghe thấy sự hoảng sợ trong giọng điệu của Rotty. Một gã giang hồ kênh rạch sẵn sàng nghênh tiếp hàng nghìn bọn côn đồ, trộm cắp lẫn thương gia, nhưng lại sợ Pekka Rollins.

Kaz nghiêng mái chèo, lái con thuyền tránh kịp một chiếc tàu chở đầy khách du lịch.

“Chúng ta cần phải quay lại đảo Mạng Đen. Những người kia…”

“Im đi, Wylan, tôi cần suy nghĩ.”

Jesper và Matthias đều giỏi chiến đấu. Người có cơ may đưa Kuwei thoát khỏi Mạng Đen chính là họ. Nhưng làm thế nào Pekka Rollins tìm thấy họ? Chắc ai đó đã bị bám theo trong lúc quay về đảo. Tất cả bọn họ đều đối diện nguy cơ khi rời đảo. Bất kì ai cũng có thể bị nhận diện và theo dõi. Nina và Matthias? Wylan và Jesper? Hay bản thân anh? Sau khi Pekka Rollins đã phát hiện ra nơi ẩn náu của cả nhóm, chắc lão chỉ cần theo dõi rồi đợi cho họ tách ra và tự làm mình yếu đi.

Kaz gồng vai và Rotty hoà theo. Những nhịp chèo đưa con thuyền tiến nhanh hơn trên dòng kênh. Anh cần nó len lỏi giữa dòng thuyền bè và tránh xa ngôi nhà của Van Eck tối đa. Anh cần đến được Bãi Ngọt. Người của Rollins chắc hẳn đã theo chân Inej và Nina từ Mạng Đen tới đó. Sao anh lại để cho hai người tấn công cụm tháp một mình kia chứ? Nina và đám người tị nạn quý hoá của cô ta. Sẽ không có cuộc giải cứu vĩ đại cho các Grisha đêm nay. Mọi cơ hội của họ đều đã tan tành. Tôi cũng đã chuẩn bị một thứ đặc biệt dành cho Bóng Ma. Trả thù cái quái gì, mưu mô cái quái gì chứ. Nếu Rollins đụng tới Inej, anh sẽ sơn lại khu Đông Stave bằng máu của lão.

Nghĩ đi. Khi một kế hoạch thất bại, ta vạch ra một cái mới. Khi bị dồn

vào chân tường, ta trổ một cái lỗ trên mái nhà. Nhưng anh không thể sửa chữa thứ mà anh chưa nắm bắt được. Mưu đồ đã đổ vỡ. Anh đã không đáp ứng được kì vọng của mọi người. Anh đã không đáp ứng được kì vọng của Inej. Tất cả chỉ vì anh có một điểm mù mỗi khi Pekka Rollins xuất hiện. Jesper chắc đã mất mạng. Inej chắc đang đổ máu trên những con phố của Bãi Ngọt.

Anh quay mái chèo lại. “Chúng ta sẽ đi tới khu kho bãi.”

“Những người kia thì sao?”

“Jesper và Matthias là hai chiến binh thiện nghệ, và Pekka Rollins sẽ không dám làm hại Kuwei. Chúng ta sẽ tới Bãi Ngọt.”

“Anh đã nói chúng ta sẽ được an toàn trên đảo Mạng Đen,” Wylan phản đối. “Anh đã nói…”

“Không có nơi nào an toàn cả,” Kaz nạt nộ. “Ở Barrel, hay ở bất kì đâu.” Anh dồn sức vào tay chèo. Không triện. Không tàu. Tiền thì mất.

“Giờ chúng ta làm gì đây?”Wylan khẽ hỏi, giọng cậu gần như không nghe được giữa tiếng sóng nước ì oạp và âm thanh của những con tàu khác trên kênh.

“Cầm lấy mái chèo và tỏ ra hữu ích đi,” Kaz đáp. “Hoặc tôi sẽ quẳng cái đồ trẻ con nhà cậu xuống nước và để cho cha cậu tới vớt cậu lên.”

6
NINA

Nina nghe thấy trước khi nhìn thấy chúng. Cô đang đứng giữa tháp xi-lô thứ hai và thứ ba, nơi có thể quan sát các diễn biến của Inej và để mắt trông chừng chốt gác.

Inej đã trèo lên tháp như một con nhện bé xíu lanh lẹ, di chuyển ở tốc độ khiến Nina chỉ nhìn thôi cũng thấy mệt. Góc nhìn dốc đứng khiến cô gần như không quan sát được sau khi Inej lên đến đỉnh tháp và không thể biết cô bé thao tác đến đâu với cái cửa lật. Nhưng Inej không khởi sự băng qua tháp thứ hai khi Nina phát tín hiệu lần đầu tiên, nên có lẽ cô bé bị chậm trễ gì đó với sợi dây hoặc với mọt hạt. Ở lần phát tín hiệu thứ hai, Nina trông thấy Inej bước ra ngoài không trung.

Từ chỗ đứng của Nina, sợi dây hoàn toàn vô hình trên nền trời đêm, và trông Inej giống như đang lơ lửng, chuẩn xác và cân nhắc trong từng bước đi. Ồ, có một chút nghiêng ngả. Giờ là một hiệu chỉnh nhỏ. Tim Nina đập thình thịch trong lúc chứng kiến. Cô có cảm giác phi lí rằng nếu mất tập trung dù chỉ một giây thôi, Inej sẽ té ngã, như thể sự chú ý và niềm tin của cô là thứ giúp cho Bóng Ma ở trên dây.

Khi Inej rốt cuộc cũng đến được tháp xi-lô thứ hai, Nina muốn reo lên, nhưng cô nén lòng lại để chỉ nhún nhảy khe khẽ. Sau đó, cô đợi cho tốp vệ quân xuất hiện ở phía tây của vòng rào. Họ dừng lại vài phút tại chốt gác trước khi đi tiếp. Nina sắp phát tín hiệu cho Inej thì nghe một tiếng cười lớn. Tốp vệ quân cũng nghe thấy và tỏ ra cảnh giác. Nina thấy một người trong số họ thắp ngọn đèn lồng trên nóc chốt gác để gọi viện binh - một biện pháp phòng ngừa trong trường hợp có rắc rối. Dạo này hay xảy ra những vụ bạo động, và với tình hình hỗn loạn ở Tây Stave ngày hôm qua, cô không mấy ngạc nhiên khi tốp vệ quân mau chóng gọi tiếp viện.

Có vẻ như họ sẽ cần đến nó. Nina có thể nhận ra những gã côn đồ khu Barrel ngay khi trông thấy, và dường như nhóm này khá nguy hiểm. Tất cả bọn chúng đều to cao, lực lưỡng, được vũ trang đầy đủ. Hầu hết có súng, một dấu hiệu rõ rệt cho thấy chúng không chỉ tìm kiếm một cuộc ẩu đả. Tên cầm đầu mặc một chiếc áo gilet kẻ ô chật khít nơi bộ ngực vạm vỡ, tay vung vẩy sợi xích. Nina có thể nhìn thấy một hình xăm tròn nơi cẳng tay hắn. Tuy không thấy hết các chi tiết từ khoảng cách này, nhưng cô dám cá đó là một con sư tử cuộn mình tạo thành chiếc vương miện. Băng Kim Sư. Đàn em của Pekka Rollins. Bọn chúng làm cái quái gì ở đây?

Nina ngước nhìn lên. Inej chắc đang bỏ mọt hạt vào tháp xi-lô thứ hai. Hi vọng cô bé nằm ngoài tầm quan sát của chúng. Nhưng băng của Pekka muốn gì?

Câu trả lời đến ngay sau đó. “Nghe nói có một Độc Tâm Y đang ẩn nấp đâu đây,” thằng mặc gilet nói lớn tiếng, tay vẫn vung vẩy sợi xích.

Thánh thần ơi, tiêu rồi. Có phải bọn Kim Sư đã bám theo Inej và cô từ đảo Mạng Đen không? Những người kia có gặp rắc rối không? Sẽ thế nào nếu Pekka Rollins và đồng bọn đã biết về những Grisha đang trốn ở đại sứ quán? Một vài người trong số đó đang phá vỡ giao kèo làm việc khi tìm cách rời khỏi Kerch. Họ có thể bị tống tiền hoặc tệ hơn. Pekka có thể bán họ cho người Shu. Bây giờ mày có rắc rối của riêng mày, một giọng nói cất lên trong đầu Nina. Đừng có lo đi giải cứu thế giới nữa, lo cứu cái thân mày trước đi. Đôi khi giọng nói trong cô tỏ ra rất khôn ngoan.

Một người trong tốp vệ quân bảo vệ cụm tháp xi-lô bước tới trước một hành động can đảm, Nina nghĩ bụng, xét theo sự biểu dương sức mạnh của băng Kim Sư. Cô không nghe được hai bên nói gì. Một tờ giấy có dấu triện đỏ rực được đưa ra.Tay vệ quân đưa nó cho người bên cạnh đọc. Giây lát sau anh ta nhún vai. Thế rồi, trước sự kinh hoàng của Nina, tay vệ quân bước tới mở cổng. Chiếc đèn lồng trên nóc chốt gác lại loé lên. Họ đang gọi viện binh.

Dấu triện đỏ. Màu của Van Eck. Đây là cụm xi-lô của ông ta, và không thể nào có chuyện quân lính của ông ta mở cổng nếu không được chủ nhân ra lệnh. Sự liên can đó khiến đầu óc cô quay cuồng. Có thể nào Jan Van Eck và Pekka Rollins hợp tác với nhau hay không? Nếu thế thì cơ hội để bọn cô rời khỏi Ketterdam đã tan tành.

“Ra mặt đi nào, Nina bé cưng. Pekka có việc cho cưng đây.”

Nina trông thấy sợi xích trên tay thằng cầm đầu có gắn một cặp còng lớn. Hồi cô mới tới Ketterdam, Pekka Rollins đã đề nghị nhận cô vào làm và hứa bảo vệ cô. Nhưng cô lại chọn theo băng Cặn Bã. Có vẻ như Pekka không còn quan tâm đến giao kèo hay luật giang hồ. Lão ta sẽ xích cổ cô lại, có lẽ để bán cho người Shu, hoặc dâng cô cho Van Eck để ông ta thuốc cô bằng parem.

Nina được che chắn trong bóng của tháp xi-lô thứ hai, nhưng chỉ cần đi vài bước là cô sẽ để lộ mình. Cô nghĩ đến viên thuốc độc trong túi.

“Đừng buộc bọn tao phải bắt mày, gái cưng à.” Thằng cầm đầu bọn Kim Sư ra hiệu cho những đứa còn lại tản ra.

Nina nhận thấy cô có hai lợi thế: Đầu tiên, cặp còng kia đồng nghĩa Pekka có lẽ muốn bắt sống cô. Lão ta sẽ không muốn hi sinh một Độc Tâm

Y đáng giá, nên bọn chúng sẽ không nổ súng. Thứ hai, bọn nhãi nhép này không biết parem đã làm năng lực của cô bị gián đoạn, cô và Inej sẽ có thêm một ít thời gian.

Nina vén tóc, huy động toàn bộ sự can đảm của mình để bước ra chỗ sáng. Ngay lập tức cô nghe thấy tiếng lên cò súng.

“Bình tĩnh nào,” cô lên tiếng, một tay chống hông. “Tôi sẽ chẳng có ích lợi gì cho Pekka nếu các anh khoan lỗ chi chít trên người tôi giống như nắp một cái lọ tiêu.”

“Xin chào, cô em Grisha, có muốn chúng ta vui thú một chút không?”

Tuỳ vào định nghĩa của chúng mày. “Này trai đẹp, anh tên gì?”

Thằng nhóc băng Kim Sư nhoẻn cười, để lộ một cái răng vàng và một lúm đồng tiền quyến rũ. “Eamon.”

“Tên Kaelish đẹp đấy. Kenye hom?”

“Mẹ tao là người Kaelish. Tao không nói cái thứ tạp ngữ đó.”

“Ồ, hay là anh bảo đồng bọn hạ súng xuống để tôi dạy anh vài từ nhé.”

“Quên đi. Tao biết bọn Độc Tâm Y sử dụng năng lực như thế nào.

Đừng hòng nắm thóp được tao.”

“Tiếc quá,” Nina đáp. “Nghe này, Eamon, đêm nay chúng ta không cần gây hấn. Tôi chỉ muốn biết đề nghị của Pekka thôi. Nếu tôi phải qua mặt

Kaz thì tôi cần biết chuyện đó đáng giá bao nhiêu…”

“Kaz Brekker chắc đã ngoẻo rồi, cưng à. Và Pekka không đề xuất gì hết. Mày sẽ đi với bọn tao, dù tay có bị còng hay không.”

Nina giơ hai tay lên và trông thấy đám Kim Sư cứng người lại, sẵn sàng nhả đạn bất chấp mệnh lệnh của Pekka. Cô biến cử chỉ của mình thành cái duỗi người. “Này Eamon, anh nên biết rằng trước khi bập được còng vào tay tôi thì ruột gan của một nửa trong số các anh đã bị nghiền ra bã.”

“Mày không thể nhanh thế được.”

“Tôi đủ nhanh để khiến anh không bao giờ…” Cô liếc mắt đầy ngụ ý vào bụng dưới của hắn “… chào cờ ở Tây Stave được nữa.”

Giờ thì Eamon tái mặt. “Mày không thể làm được.”

Nina bẻ ngón tay rôm rốp. “Tôi thử nhé?”

Một tiếng xoảng khẽ vang lên từ đâu đó trên đầu họ, và bọn Kim Sư lập tức chĩa súng lên trời. Chết tiệt, Inej, đừng có gây tiếng động. Nhưng khi Nina ngước mắt lên, tâm trí cô đờ ra trong sự kinh hãi. Inej đã quay lại sợi dây, nhưng không đi một mình.

Trong một thoáng, Nina tưởng mình bị ảo giác khi quan sát cái bóng trắng bám theo Inej trên dây. Nom cô ta giống như một con ma lơ lửng trên không. Cái bóng ném một vật gì đó, loang loáng giống như bằng kim loại. Nina không thấy được nó trúng vào đâu, nhưng Inej loạng choạng, trước khi chỉnh lại tư thế, hai cánh tay dang ra giữ thăng bằng.

Phải có cách nào đó để giúp Inej. Nina thử dùng năng lực với bóng ma áo trắng. Cô cố tìm kiếm mạch đập, những thớ cơ hay bất cứ thứ gì mà mình có thể kiểm soát được của cô ta, nhưng một lần nữa lại là sự mù loà khủng khiếp, sự trống rỗng ấy.

“Không định giúp bạn à?” Eamon hỏi.

“Bạn tôi tự xoay sở được,” Nina đáp.

Eamon cười đểu. “Mày hoá ra chẳng mạnh mẽ được như bọn tao nghe đồn. Chỉ giỏi nói thôi.” Hắn quay về phía đồng bọn. “Đứa nào tóm được nó trước tiên, tao đãi rượu đêm nay.”

Bọn chúng không lao vào cô. Chúng không ngu. Chúng chậm rãi tiến

lên, súng giương cao. Nina giơ hai tay lên. Đối phương khựng lại, nao núng. Nhưng khi không có chuyện gì xảy ra, cô thấy chúng liếc nhau, trao đổi vài cái cười khẩy, rồi tiến tới nhanh hơn, không còn sợ hãi, sẵn sàng tóm lấy phần thưởng của mình.

Nina đánh liều liếc nhìn lên trời. Inej vẫn đang làm cách nào đó giữ được thăng bằng. Hình như Inej đang tìm cách quay trở lại tháp xi-lô đầu tiên, nhưng rõ ràng cô bé đang bị thương và bước đi không vững.

Tấm lưới. Nhưng một mình Nina không thể xoay sở với nó được. Nếu cô dùng một chút parem, chỉ nhấm một tí thôi, cô có thể buộc những tên ngốc này giúp mình. Chúng sẽ tuân lệnh cô răm rắp mà không buồn suy nghĩ.

Tâm trí Nina vươn ra, tìm bắt một thứ gì đó, bất cứ thứ gì. Cô sẽ không đứng đờ ra ở đây để bị tóm và nhìn Inej chết. Nhưng tất cả những gì cô cảm thấy là một khoảng trống tối đen. Không có mảnh xương nào, không có mẩu bụi nào để nắm bắt. Thế giới từng rất sống động với nhịp tim, hơi thở, dòng máu, giờ trống rỗng. Một hoang mạc đen ngòm với bầu trời không sao, mặt đất trơ trọi.

Một tên Kim sư lao tới, thế là cả bọn xông vào Nina, níu lấy tay cô, lôi cô về phía Eamon, kẻ đang cười ngoác miệng, lúm đồng tiền biến dạng thành hình trăng lưỡi liềm.

Nina rú lên một tiếng điên dại, vẫy vùng như một con thú hoang. Cô không bất lực. Cô từ chối chấp nhận điều đó. Em không biết chiến binh nào quả cảm hơn chị, dù có hay không có năng lực Grisha.

Thế rồi cô cảm thấy nó - ở đó, giữa hoang mạc đen ngòm, một nơi lạnh đến mức làm cô phải bỏng. Ở đó, phía bên kia cụm xi-lô, trên bờ kênh, về phía hải cảng - con tàu gom xác, nơi những tử thi chất thành đống. Một sự thức tỉnh chạy xuyên qua người cô. Cô không cảm nhận được nhịp tim hay dòng máu, nhưng cô cảm thấy một điều gì đó khác. Cô nghĩ tới những mảnh xương, nhớ lại cảm giác dễ chịu của mình khi ở trên đảo Mạng Đen, giữa những nấm mồ.

Eamon cố gắng bập còng vào cổ tay Nina.

“Xích cả cổ nó nữa!” Một thằng Kim Sư khác hét lên.

Nina cảm thấy một bàn tay luồn vào tóc mình, kéo ngửa đầu cô ra sau để phơi bày cái cổ. Cô biết điều mình đang nghĩ thật điên rồ, nhưng cô không còn lựa chọn tỉnh táo nào nữa. Bằng tất cả hơi sức còn lại, cô đá thật mạnh vào Eamon, làm hắn buông ra. Rồi cô vung hai cánh tay lên, tập trung toàn bộ ý thức, và cảm thấy các tử thi trên tàu nhỏm dậy. Cô siết nắm đấm lại. Đến với tôi.

Bọn Kim Sư nắm lấy hai cổ tay Nina. Eamon vả vào miệng có, nhưng Nina vẫn tiếp tục siết nắm đấm, không lơi lỏng sự tập trung. Đây không phải là sự phấn khích mà cô cảm thấy khi dùng parem. Nó từng là hơi nóng, là ngọn lửa, là ánh sáng. Giờ đây nó là ngọn lửa lạnh, ngấm ngầm và xanh lét. Cô cảm thấy các tử thi đứng dậy, từng người một, đáp lại lời kêu gọi của cô. Những bàn tay đang tóm chặt cô, sợi xích quấn lấy cổ tay cô, nhưng cái lạnh giờ đây càng mạnh mẽ hơn, như một dòng sông mùa đông cuộn chảy với những ghềnh thác đen ngòm lởm chởm băng vỡ.

Nina nghe thấy tiếng la hét, một loạt súng, và tiếng kim loại bị bẻ cong. Những bàn tay đang níu giữ cô buông ra, và sợi xích rơi xuống mặt đá với một âm thanh gần như là tiếng nhạc. Nina phóng hai cánh tay tới trước, thọc sâu hơn nữa vào cái lạnh của dòng sông.

“Cái quái gì đây,” Eamon thốt lên sau khi quay người về phía chốt gác.

“Cái quái gì đây!”

Lúc này bọn Kim Sư đã lùi lại, quên cả nhiệm vụ, sự kinh hoàng hiện lên trên khuôn mặt, và Nina có thể hiểu được vì sao. Một hàng người đang đẩy hàng rào, lay nó cật lực. Có những người già, người trẻ, nhưng tất cả đều đẹp đẽ - những đôi má ửng hồng, đôi môi đỏ, mái tóc óng mượt bồng bềnh quanh gương mặt họ tựa như đang ở dưới nước. Họ vừa đáng yêu lại vừa đáng sợ, vì trong khi một số người không mang thương tích gì, một cô gái lại có chiếc váy đầy vệt máu và chất nôn, một người khác thì mang trên mình vết thương rộng hoác đã phân huỷ đen ngòm. Hai người trần truồng, một người có vết cắt dài ngang bụng, làn da hồng hào phanh ra. Những con mắt của họ ánh lên sắc đen lạnh như mặt nước mùa đông.

Nina cảm thấy buồn nôn. Cô thấy lạ lẫm và hơi hổ thẹn, như thể mình đang nhòm qua một cửa sổ mà không được phép. Nhưng cô không có lựa chọn nào khác, và sự thật là, cô không muốn dừng lại. Cô cong ngón tay.

Hàng rào đổ ập tới trước trong tiếng kim loại gãy răng rắc. Bọn Kim Sư nổ súng, nhưng những tử thi tiếp tục tiến tới, không chút bận tâm hay sợ sệt.

“Là nó đó!” Eamon hét lên và lật đật quay người, ngã xuống rồi lồm cồm bò dậy, trong lúc đám đàn em tháo chạy vào đêm tối. “Chúng kéo đến vì con chó Grisha đó!”

“Dám cá là bây giờ anh chỉ ước gì chúng ta nói chuyện đàng hoàng như lúc nãy,” Nina gằn giọng. Nhưng cô không còn bận tâm tới băng Kim Sư nữa.

Cô ngước mắt nhìn lên. Inej vẫn còn đang ở trên sợi dây, nhưng đứa con gái đã leo vào tháp xi-lô thứ hai và đang vươn tay với tới cái móc.

Tấm lưới, Nina ra lệnh. Mau. Các tử thi di chuyển nhanh như chớp. Họ lao tới, rồi thình lình dừng lại, như thể đang chờ hiệu lệnh. Nina tập trung mọi tư tưởng buộc họ vâng lệnh, cô dồn toàn bộ sức mạnh và sự sống của mình vào họ. Chỉ trong chớp nhoáng, họ đã có tấm lưới trong tay, và họ chạy, nhanh đến nỗi Nina không nhìn theo kịp.

Sợi dây bung ra. Inej rơi xuống. Nina hét lên.

Cơ thể Inej chạm vào tấm lưới, bật lên cao, rồi lại rơi xuống lưới.

Nina chạy tới. “Inej!”

Cô bé Suli nằm lọt thỏm giữa tấm lưới, cơ thể găm đầy những mảnh phi tiêu hình sao, máu túa ra từ các vết thương.

Đặt cô ấy xuống, Nina ra lệnh, và các tử thi làm theo, hạ thấp tấm lưới xuống mặt đá. Nina lật đật quỳ xuống bên cạnh. “Inej,” cô gọi.

Inej quàng tay quanh cổ Nina.

“Đừng bao giờ, đừng bao giờ làm như vậy nữa,” Nina nức nở.

“Một tấm lưới?” Một giọng hài hước cất lên. “Ăn gian thật.”

Inej cứng người. Đứa con gái tóc trắng đã xuống đến chân xi-lô thứ hai và đang bước nhanh về phía họ.

Nina vung tay. Các tử thi lập tức bước tới che chắn cho hai chị em cô. “Có chắc là mày muốn chiến không, hoa tuyết?”

Đứa con gái nheo cặp mắt xinh xẻo. “Ta đã thắng,” nó nói với Inej.

“Ngươi thừa biết điều đó.”

“Đêm nay mày gặp may,” Inej đáp với giọng yếu ớt.

Đứa con gái nhìn binh đoàn tử thi trước mặt, ước lượng cơ hội của mình. Rồi nó nghiêng người. “Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Bóng Ma.” Nói đoạn nó quay về hướng mà Eamon cùng đồng bọn đã bỏ chạy, nhảy qua hàng rào đổ, và biến mất.

“Một kẻ thích làm màu,” Nina lên tiếng. “Ý chị là, ai lại đi mặc đồ trắng khi cận chiến bằng dao kia chứ?”

“Dunyasha, Bạch Kiếm hay gì đó. Con nhỏ rõ ràng muốn giết em. Không chỉ nó.”

“Em có bước đi được không?”

Inej gật đầu, dù da mặt tái xanh. “Nina, những người này… họ đã chết rồi sao?”

“Em nói chị mới thấy, đáng sợ thật.”

“Nhưng chị có dùng…”

“Không. Chị không dùng parem. Chị không biết nó là cái gì.”

“Một Grisha có thể nào…”

“Chị không biết nữa.” Giờ đây, khi nỗi sợ trước cuộc phục kích và cú ngã của Inej lắng xuống, Nina cảm thấy một chút tởm lợm. Cô vừa mới làm gì vậy? Cô đã nhúng tay vào thứ gì?

Nina còn nhớ mình từng hỏi một giáo viên ở Tiểu Điện về nguồn gốc năng lực của Grisha. Hồi đó cô chỉ là một đưa trẻ mới lớn, kinh ngạc trước những Grisha trưởng thành lên đường và trở về sau những sứ mạng quan trọng.

Năng lực gắn kết chúng ta với cuộc sống theo những cách mà những người bình thường không bao giờ hiểu được, giáo viên của Nina đã nói vậy. Chính vì thế, việc sử dụng năng lực làm cho chúng ta mạnh lên thay vì yếu đi. Chúng ta gắn liền với quyền năng sáng tạo, sự tạo dựng mang tính cốt lõi của thế giới này đối với Tâm Y, sợi dây gắn kết đó càng bền chặt, bởi vì chúng ta làm việc với sự sống và cái chết.

Người giáo viên đó đã giơ tay lên, và Nina cảm thấy mạch đập của mình chậm lại một chút. Các học viên khác ồ lên rồi nhìn nhau, tất cả đều cảm thấy giống như cô. Các em có cảm thấy không? Người giáo viên hỏi. Tất cả trái tim của chúng ta, đập cùng nhau, gắn liền với nhịp sống của thế giới này?

Đó là cảm giác kì lạ nhất, cơ thể cô hoà tan như thể họ không còn là các học viên mài đũng quần trên ghế nhà trường, mà là một sinh vật, với một trái tim, một mục tiêu duy nhất. Điều đó chỉ kéo dài trong vài giây, nhưng Nina không bao giờ quên cảm giác kết nối ấy, cũng như việc nhận thức đột ngột rằng năng lực của cô đồng nghĩa với việc cô không bao giờ đơn độc.

Nhưng năng lực mà cô sử dụng đêm nay là gì? Nó không hề giống như thế. Nó là một sản phẩm của parem, không phải sự tạo dựng mang tính cốt lõi của thế giới này. Nó là một sai lầm.

Nhưng để sau hẵng hay. “Chúng ta rời khỏi đây thôi,” Nina nói, đỡ Inej đứng dậy và nhìn các tử thi quanh họ. “Thánh thần ơi, họ bốc mùi ghê quá.”

“Nina, họ nghe thấy chị thì sao?”

“Các người có nghe thấy tôi không?” Nina hỏi. Nhưng các tử thi không đáp, và khi cô dùng năng lực để với tới họ, cô không cảm thấy chút sự sống nào. Tuy vậy, có một điều gì đó ở đây, một điều gì đó đáp lại cô theo cái cách mà người sống không thể tạo ra nữa. Cô lại nghĩ đến dòng sông băng giá. Cô vẫn có thể cảm thấy nó quanh mình, quanh mọi thứ, nhưng giờ đây nó trôi lững lờ.

“Chị sẽ làm gì với họ?” Inej hỏi.

Nina nhún vai bất lực. “Trả họ về nơi của họ, chị nghĩ vậy.” Cô giơ hai tay lên. Đi đi, cô thầm nói với họ một cách rành rọt nhất có thể, hãy yên nghỉ.

Các tử thi di chuyển, một sự nhộn nhịp thình lình khiến Inej lẩm nhẩm lời cầu nguyện trên môi. Nina nhìn họ mờ dần, chìm khuất vào trong bóng tối.

Inej khẽ rùng mình, rồi gỡ một cái phi tiêu cắm trên vai, thả rơi nó xuống đất với một tiếng keng rợn người. Máu đã chảy chậm lại, nhưng rõ ràng cô bé cần được băng bó. “Chúng ta đi thôi, trước khi các thị tuần kéo đến,” cô nói.

“Đi đâu?” Nina hỏi lại trong khi họ khỏi sự đi về phía con kênh. “Nếu Pekka Rollins tìm ra chúng ta thì…”

Bước chân Inej chùng lại khi cô nhận ra thực tế. “Nếu Mạng Đen đã bại lộ, Kaz… Kaz dặn em cần đi đến một chỗ này nếu mọi chuyện xấu đi.

Nhưng…”

Câu nói bị bỏ lửng. Sự can thiệp của Pekka Rollins đồng nghĩa với điều tồi tệ hơn nhiều so với một kế hoạch đổ vỡ.

Nếu đảo Mạng Đen bị nổ tung thì sao? Chuyện gì đã xảy ra với Matthias? Pekka Rollins có tha mạng cho anh, hay sẽ bắn anh trước rồi nhận tiền thưởng sau?

Các Grisha. Sẽ thế nào nếu Pekka Rollins bám theo Jesper và Matthias tới đại sứ quán? Sẽ thế nào nếu họ cùng những người tị nạn đi tới hải cảng và bị bắt giữ? Một lần nữa cô nghĩ tới viên thuốc màu vàng trong túi. Cô nghĩ tới đôi mắt vàng hung tợn của Tamar, ánh mắt quyền lực của Zoya, và nụ cười trêu chọc của Genya. Họ đã tin tưởng cô. Nếu có gì xảy ra với họ, cô sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân mình.

Trong lúc hai chị em quay ra bò kênh, nơi neo con thuyền của họ, Nina liếc nhìn chiếc tàu gom xác, nơi tử thi cuối cùng đang nằm xuống, thu xếp tư thế cho vừa chỗ. Lúc này trông họ khác hẳn, làn da trở lại màu xám tro và trắng bệch của cái chết. Nhưng có lẽ cái chết không chỉ có một diện mạo.

“Chúng ta đi đâu đây?” Nina hỏi lại.

Đúng lúc đó, họ trông thấy hai bóng người chạy tới. Inej lần tìm bộ dao của mình, còn Nina thì giơ hai tay lên, sẵn sàng kêu gọi các chiến binh chết chóc một lần nữa. Cô biết lần này sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

Kaz và Wylan xuất hiện dưới ánh đèn đường, quần áo nhàu nhĩ, tóc tai dính đầy thạch cao và thứ gì đó giống như nước thịt. Kaz nặng nề tựa vào gậy chống, nhịp chạy không ngơi nghỉ, những đường nét sắc cạnh trên khuôn mặt anh toát lên sự cương quyết.

“Chúng ta sẽ cùng nhau mở đường máu,” Inej thì thào.

Nina đưa mắt từ Inej nhìn sang Kaz, và nhận ra khuôn mặt họ có cùng biểu hiện. Cô biết nét mặt này. Nó xuất hiện sau khi tàu đắm, khi thuỷ triều chống lại bạn và bầu trời tối sập. Nó là hình ảnh đầu tiên của đất liền, mang theo hi vọng về nơi trú ẩn, thậm chí là một sự cứu rỗi đang chờ đợi bạn ở một bến bờ xa xôi.

7
WYLAN

Mình sắp chết và sẽ không có ai giúp mẹ. Không còn một ai nhớ tới Marya Hendriks.

Wylan muốn tỏ ra can đảm, nhưng cậu bị lạnh và bầm dập, tệ hơn thế, vây quanh cậu là những con người gan dạ nhất cậu từng biết, thế mà tất cả bọn họ hình như cũng đang run rẩy.

Họ chậm rãi đi qua các con kênh, dừng lại dưới các gầm cầu và trong những vùng bóng tối để chờ trong lúc tốp thị tuần rầm rập đi qua trên đầu hoặc trên các tuyến kênh. Đêm nay họ triển khai lực lượng rất đông, những chiếc thuyền của họ đi chậm rãi, đèn lồng thắp sáng rực trước mũi. Một điều gì đó đã thay đổi chỉ trong thời gian ngắn sau vụ chạm trán ở cầu Thiện Nữ. Ketterdam đã sống dậy, và nó đang giận dữ.

“Các Grisha…” Nina cất tiếng.

Nhưng Kaz nhanh chóng cắt lời chị. “Hoặc họ đang an toàn tại toà đại sứ, hoặc nằm ngoài khả năng cứu giúp của chúng ta. Họ có thể tự xoay sở được, chúng ta mới là những kẻ bị kẹt.

Và Wylan hiểu ra họ đang gặp rắc rối đến mức nào, vì Nina không cãi nữa. Chị chỉ vùi mặt vào tay và im lặng.

“Họ sẽ ổn cả thôi,” Inej lên tiếng và vòng tay qua vai Nina. “Anh ấy cũng thế.” Nhưng cử chỉ của Inej khá ngập ngừng, và Wylan có thể thấy máu trên quần áo cô.

Sau đó không ai nói tiếng nào. Kaz và Rotty lâu lâu mới khua mái chèo, đưa họ vào những con kênh hẹp và yên tĩnh, thả trôi con thuyền mỗi khi có thể, cho tới khi họ đi vòng qua một khúc quanh gần Schoonstraat và Kaz nói, “Dừng lại. Anh và Rotty thu mái chèo, đưa con thuyền cập sát bờ kênh, rồi nấp phía sau một chiếc thuyền buôn đồ sộ. Không rõ chiếc thuyền kia bán gì, vì nó đã khép chặt cửa nẻo để bảo vệ hàng hoá.

Phía trước, Wylan có thể trông thấy các thị tuần đang kéo quân qua một cây cầu, hai chiếc thuyền của họ chặn đứng lối đi qua gầm cầu.

“Họ đang lập các chốt chặn,” Kaz bảo.

Có nhóm bỏ lại con thuyền để lên bờ đi bộ.

Wylan biết họ đang đến một nơi trú ẩn an toàn khác, nhưng chính Kaz đã nói: Không có nơi nào an toàn cả. Họ có thể trốn ở đâu đây? Pekka Rollins đang bắt tay với cha của Wylan. Hai người có thể kiểm soát cả nửa Ketterdam này. Cậu sẽ bị tóm cổ. Và rồi sao nữa? Sẽ không ai tin cậu là con trai của Jan Van Eck. Wylan Van Eck có thể bị cha đẻ coi thường, nhưng vẫn có những quyền hạn mà không một tên tội phạm người Shu nào với tới được. Liệu cậu có bị tống vào Cổng Địa Ngục không? Liệu cha cậu có tìm được cách để trừ khử cậu hay không?

Khi họ rời xa khu vực nhà xưởng và Barrel, việc tuần tra cũng thưa thớt hẳn, và Wylan nhận ra thị tuần hẳn đang dồn lực vào những địa bàn nhiều tai tiếng nhất. Tuy vậy, cả nhóm vẫn thay đổi lộ trình liên tục, luồn lách qua những ngõ hẻm mà Wylan chưa từng biết tới, đôi lúc còn đi vào những cửa hiệu trống không ở tầng dưới của các toà nhà bỏ hoang để chui ra con phố kế tiếp. Cứ như thể Kaz có một tấm bản đồ bí mật cho thấy những địa điểm bị quên lãng của Ketterdam.

Jesper có đang đợi ở nơi họ sắp đến không? Hay anh đang bị thương

và đổ máu trên mặt sàn của nhà mồ mà không có ai tiếp cứu? Wylan từ chối tin vào điều đó. Định mệnh càng nghiệt ngã, Jesper càng kiên cường, cậu còn nhớ lời năn nỉ của anh với ông Colm. Con biết mình đã phụ lòng bố. Nhưng hãy cho con một cơ hội nữa. Đã bao lần Wylan nói điều tương tự như thế với cha mình và hi vọng rằng mình sẽ làm được? Jesper phải sống sót. Cả bọn phải sống.

Wylan nhớ lại lần đầu tiên mình nhìn thấy anh chàng thiện xạ. Nom anh như một sinh vật đến từ thế giới khác, mặc đồ xanh chuối và vàng chanh, sải chân dài ngoẵng, như thể mỗi bước đi tuôn ra từ một cái chai thít cổ.

Vào đêm đầu tiên tại Barrel, Wylan lang thang qua những con phố, chắc mẩm mình sắp bị cướp, răng va vào nhau lập cập vì lạnh. Cuối cùng, khi da cậu chuyển sang màu tím tái và những ngón tay mất hết cảm giác, cậu đã huy động toàn bộ dũng khí để hỏi một người đàn ông đứng hút tẩu trên bậc thềm nhà mình, “Ông có biết ở đâu có phòng cho thuê không ạ?”

“Cái biển ‘còn phòng’ lù lù ngay kia,” ông ta đáp và dùng cái tẩu chỉ sang phía bên kia đường. “Mày bị mù à?”

“Chắc tại cháu không để ý,” Wylan nói.

Nhà trọ bẩn thỉu nhưng được cái rất rẻ. Wylan thuê một căn phòng với giá mười kruge và trả thêm tiền để tắm nước nóng. Cậu biết mình cần phải tằn tiện, nhưng nếu bị viêm phổi thì vấn đề cậu đối mặt sẽ không chỉ là sự túng thiếu. Cậu mang cái khăn tắm nhỏ xíu vào buồng tắm ở cuối hành lang và tắm gội nhanh chóng. Mặc dù nước đủ nóng, cậu thấy sợ khi phải lom khom ở tình trạng trần như nhộng trong một căn buồng không có chốt cửa. Cậu đã cố vắt khô quần áo hết mức có thể, nhưng chúng vẫn còn ẩm khi cậu khoác lên người.

Wylan trải qua đêm đó trên một tấm nệm mỏng như giấy, mắt nhìn trân trối trần nhà, tai lắng nghe những tiếng động của nhà trọ. Ở kênh Geld, đêm yên tĩnh đến nỗi người ta có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ vào vách của nhà thuyền, nhưng tại đây mọi thứ tưởng như đang ở giữa trưa. Âm nhạc tràn vào qua ô cửa sổ cáu bẩn. Mọi người nói cười, đập cửa. Cặp đôi ở căn phòng phía trên đang cãi nhau. Cặp đôi ở căn phòng phía dưới rõ ràng đang làm chuyện khác.

Wylan đưa ngón tay lên sờ những vết bầm trên cổ và nghĩ, Giá như mình có thể gọi một tách trà. Đó là lúc cậu bắt đầu hốt hoảng. Cậu có thể thảm hại tới mức nào đây? Cha cậu đã tìm cách giết cậu. Gần như không xu dính túi, cậu đang nằm trên một cái giường nồng mùi hoá chất được người ta dùng để đuổi mạt nệm. Cậu nên vạch ra một kế hoạch, thậm chí ủ mưu báo thù, cố gắng tập trung tâm trí và những nguồn lực của mình. Nhưng cậu đang làm cái gì đây? Ao ước gọi một tách trà. Có thể cậu không được hạnh phúc trong ngôi nhà của cha, nhưng cậu chưa từng phải làm việc vì bất cứ điều gì. Cậu có kẻ hầu người hạ, có những bữa ăn nóng sốt và quần áo sạch. Cho dù thứ cần có để sống sót ở Barrel là gì, Wylan biết mình không có nó.

Trong lúc nằm đó, Wylan cố tìm một lời giải thích cho chuyện đã xảy ra. Nhất định Miggson và Prior là những kẻ chịu trách nhiệm, cha cậu không hề hay biết về dự định của bọn họ. Hoặc giả họ đã hiểu lầm về mệnh lệnh của ông. Đó chỉ là một sai lầm khủng khiếp. Wylan đứng dậy và thò tay vào trong túi áo khoác ẩm ướt. Giấy tiếp nhận cậu vào trường nhạc ở Belendt vẫn còn đó.

Ngay khi lôi cái phong bì dày ra, cậu đã biết cha cậu là người chủ mưu. Cái phong bì đã bị ngấm nước và bốc mùi, nhưng mầu sắc vẫn còn tươi rói. Không có một vết mực nào thấm ra từ tài liệu bên trong. Wylan mở phong bì. Những tờ giấy ướt đã dính bết vào nhau. Cậu cẩn thận tách rời từng tờ. Toàn bộ là những tờ giấy trắng. Cha cậu thậm chí còn không buồn ngụy tạo tài liệu giả. Ông ta biết cậu sẽ không tìm cách đọc chúng, và thằng con khờ khạo của ông ta sẽ không bao giờ nghi ngờ cha mình. Đồ thảm hại.

Wylan sợ hãi ở lì trong nhà trọ hai ngày. Nhưng vào sáng ngày thứ ba, cậu đói đến nỗi mùi khoai tây chiên bốc lên từ dưới đường đã lôi cậu ra khỏi sự an toàn của căn buồng. Cậu mua một túi giấy đầy khoai chiên và ăn ngấu nghiến đến nỗi bị bỏng lưỡi. Rồi cậu bắt mình đi dạo.

Wylan chỉ có đủ tiền để thuê phòng trọ thêm một tuần lễ, thậm chí còn ít hơn nếu cậu dự định ăn uống, cậu cần tìm việc làm, nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Cậu không đủ to lớn và khoẻ mạnh để làm việc trong các kho hàng hoặc bến bãi. Những công việc nhẹ nhàng hơn thì đòi hỏi phải biết đọc. Có khi nào một trong số các sòng bạc hoặc nhà chứa cần nhạc công chơi nhạc trong phòng tiếp khách không nhỉ? Wylan vẫn còn cây sáo. Cậu đi tới đi lui trong khu Đông Stave và những con phố nhỏ sáng đèn của nó. Khi trời bắt đầu tối, cậu quay về nhà trọ, hoàn toàn chán nản. Người đàn ông ngậm tẩu vẫn đứng trên thềm nhà, phả khói. Wylan đoán ông ta không bao giờ rời khỏi đó.

“Cháu đang tìm việc làm,” Wylan nói với ông ta. “Ông có biết ai đang cần thuê người không ạ?”

Người đàn ông nhìn cậu qua làn khói thuốc. “Thứ công tử bột như cậu chắc sẽ kiếm được khá tiền ở Tây Stave đấy.”

“Công việc đàng hoàng ấy ạ.”

Người đàn ông phá lên cười cho đến khi bật ho, nhưng sau đó ông ta cũng chỉ cho cậu đi về phía nam, tới khu xưởng thuộc da.

Wylan được trả một khoản thù lao bèo bọt cho công việc trộn màu và vệ sinh bể nhuộm. Các công nhân khác chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, cùng một số thằng con trai gầy gò như cậu. Họ quá mệt mỏi và ốm yếu vì hoá chất nên nói rất ít và chẳng động chân tay vào chuyện gì khác ngoài công việc và nhận tiền thù lao. Mọi người không được trang bị khẩu trang và găng tay. Wylan gần như chắc chắn cậu sẽ chết vì ngộ độc trước khi có dịp bận tâm về nơi mình sẽ đi với số tiền còm cõi kiếm được. Vào một buổi chiều nọ, Wylan nghe trưởng nhóm thợ nhuộm phàn nàn rằng họ bị hao hụt hàng lít thuốc nhuộm do bay hơi khi lò quá nóng. Ông ta chửi rủa về chi phí đã tiêu tốn cho hai người để lo liệu chuyện đó mà vẫn không thay đổi được gì mấy.

Wylan ngần ngừ, rồi đề nghị thêm nước biển vào trong bồn thuốc nhuộm.

“Việc quái gì tao phải làm thế chứ?” Trưởng nhóm thợ nhuộm hạch hỏi.

“Nó sẽ làm tăng nhiệt độ sôi ạ,” Wylan đáp, tự hỏi liệu việc mình lên tiếng có phải là ý hay không. “Thuốc nhuộm sẽ cần nhiệt độ cao hơn để sôi, vậy nên hao hụt do bay hơi sẽ ít hơn. Ông phải thay đổi công thức do nước muối đặc nhanh và cần cọ rửa bồn thường xuyên hơn vì muối là chất ăn mòn.”

Trưởng nhóm thợ nhuộm chỉ nhổ toẹt nhúm jurda trong miệng xuống sàn và phớt lờ Wylan. Nhưng vào tuần lễ sau đó, họ đã thử cho nước biển vào một trong các bồn thuốc nhuộm. Sau đó vài ngày, họ pha nước biển vào tất cả các bồn thuốc nhuộm, và ông trưởng nhóm bắt đầu tìm tới Wylan với nhiều thắc mắc hơn. Làm thế nào họ nhuộm màu đỏ nhưng không khiến da bị cứng? Làm thế nào rút ngắn thời gian nhuộm và làm khô? Cậu có thể chế ra một loại nhựa để giúp cho màu nhuộm không bị thôi được không?

Sau đó một tuần, khi Wylan đang đứng ở các bể nhuộm với mái chèo gỗ, choáng váng và ràn rụa nước mắt vì thuốc nhuộm, trong đầu tự hỏi liệu cậu có nên yêu cầu tăng lương vì đã giúp đỡ trưởng nhóm không, thì một anh chàng tiến lại gần. Vóc dáng lêu nghêu và nước da sẫm màu của người Zemeni, trông anh chẳng ăn nhập gì với quang cảnh của xưởng nhuộm. Không chỉ vì anh mặc chiếc áo gilet xanh chuối và quần dài vàng chanh, mà vì ở anh toát lên sự khoan khoái, như thể anh không ở trong một cái xưởng nhuộm bần cùng hôi hám, mà là tại một bữa tiệc anh rất nóng lòng muốn gia nhập. Mặc dù gầy gò, cơ thể anh di chuyển với một sự linh hoạt và duyên dáng nhất định. Ông trưởng nhóm thợ nhuộm không thích có người lạ đi vào xưởng, nhưng lại không nói tiếng nào trước anh chàng giắt súng ngang hông ấy, mà chỉ nhấc nhẹ chiếc mũ một cách trân trọng rồi nhanh chóng bỏ đi.

Suy nghĩ đầu tiên của Wylan là anh chàng Zemeni có đôi môi hoàn hảo nhất cậu từng thấy. Ý nghĩ thứ hai là cha cậu lại cử ai đó đến để giết cậu. Cậu ghì lấy cái mái chèo. Liệu anh ta có bắn cậu ngay giữa thanh thiên bạch nhật không? Người ta có làm như thế không?

Nhưng anh ta chỉ nói, “Nghe bảo cậu khá rành về hoá học.” “Gì cơ? Tôi… vâng. Chút chút,” Wylan lắp bắp.

“Chỉ chút chút thôi à?”

Wylan có linh cảm câu trả lời của mình sẽ rất quan trọng. “Tôi có kiến thức.” Cậu đã từng được dạy các môn khoa học và toán, cậu học rất chuyên cần với hi vọng chúng sẽ bằng cách nào đó bù đắp cho những khiếm khuyết khác của mình.

Anh chàng đưa cho Wylan một tờ giấy được gấp lại. “Vậy thì tới địa chỉ này sau giờ làm việc vào tối nay. Bọn tôi có thể cho cậu một công việc.” Anh nhìn quanh, như thể vừa để ý mấy cái bồn thuốc nhuộm và tốp thợ xanh mét đang khom người bên chúng. “Một công việc thực thụ.”

Wylan trân trối nhìn tờ giấy. Một mớ bòng bong những chữ cái trước mắt cậu. “Tôi… tôi không biết chỗ này ở đâu.”

Anh chàng thở hắt ra. “Cậu không phải người ở đây, đúng không?” Wylan gật đầu xác nhận. “Tốt thôi. Tôi sẽ đến đón cậu, bởi vì rõ ràng là tôi chẳng có chuyện gì làm để giết thời gian ngoài việc đi hái hoa quanh thành phố. Wylan, đúng không?” Wylan gật đầu. “Wylan gì?”

“Wylan… Hendriks.”

“Cậu biết nhiều về chất nổ chứ, Wylan Hendriks?”

“Chất nổ á?”

“Uỳnh, oàng, bùm.”

Wylan không biết anh chàng kia muốn nói điều gì, nhưng cậu có cảm giác nếu thừa nhận như vậy thì sẽ là một sai lầm trầm trọng. “Tất nhiên,” cậu đáp với tất cả sự tự tin huy động được.

Anh chàng nhìn cậu với ánh mắt hoài nghi. “Để rồi xem. Ra đứng trước cổng lúc sáu hồi chuông, và không mang súng đạn, trừ phi cậu muốn rắc rối.”

“Tất nhiên là không.”

Anh chàng kia đảo tròn đôi mắt xám rồi lẩm bẩm. “Hẳn là Kaz bị điên rồi.”

Đúng sáu giờ, Jesper xuất hiện và đưa Wylan tới một cửa tiệm bán mồi câu trong khu Barrel. Wylan khá bối rối với bộ quần áo nhàu nhĩ của mình, nhưng đây là bộ duy nhất mà cậu có, và nỗi sợ bị rơi vào một cái bẫy do cha mình giăng ra khiến cậu không nghĩ tới nó nữa. Ở phòng trong của tiệm, cậu gặp Kaz và Inej. Họ nói là cần bom sáng và một thứ gì đó mạnh hơn. Wylan đã từ chối.

Tối hôm đó, Wylan quay về nhà trọ và thấy lá thư đầu tiên. Những chữ duy nhất mà cậu nhận ra là tên của người gửi: Jan Van Eck.

Cậu thức cả đêm, chắc mẩm Prior sẽ phá tung cửa xông vào và kẹp cánh tay hộ pháp quanh cổ mình bất cứ lúc nào. Cậu nghĩ đến chuyện chạy trốn, nhưng tiền trọ còn thiếu trước hụt sau, lấy đâu ra mà mua vé tàu xe đi khỏi Ketterdam. Chưa kể cậu chẳng có hi vọng gì ở thôn quê. Sẽ chẳng có ai thuê cậu làm công việc đồng áng. Sáng hôm sau, cậu đến gặp Kaz, và đêm đó, cậu chế quả bom đầu tiên cho băng Cặn Bã. Cậu biết việc mình làm là phi pháp, nhưng vài giờ chế bom mang lại cho cậu số tiền nhiều hơn cả tuần lễ cặm cụi trong xưởng thuộc da.

Những lá thư từ cha cậu tiếp tục được gửi đến. Mỗi tuần một lần, có khi hai lần. Đó có phải là những lời đe doạ? Hay là mắng mỏ? Wylan cất chúng thành một chồng dưới nệm, và thỉnh thoảng trong đêm tối, cậu dường như có thể cảm thấy mực thấm qua những trang giấy, qua lớp nệm để xuyên vào tim cậu như một thứ chất độc hắc ám.

Tuy nhiên, theo thời gian, càng làm việc cho Kaz, cậu càng cảm thấy bớt sợ hãi. Cậu sẽ có tiền, rời khỏi Ketterdam, và không bao giờ nói ra cái họ Van Eck lần nữa. Và nếu như cha cậu quyết định thủ tiêu cậu trước lúc đó thì Wylan cũng đành chịu. Quần áo cậu đã rách rưới hết cả. Cậu gầy đến mức phải đục lỗ mới trên sợi dây lưng. Nhưng cậu thà bán mình vào nhà chứa ở Tây Stave còn hơn là cầu xin sự thương hại của cha.

Lúc đó Wylan không nhận ra rằng Kaz đã biết chân tướng cậu ngay từ đầu. Tay Nhám điều tra về bất cứ người nào đến cư ngụ ở Barrel, và anh ta đã đặt cậu vào sự bảo vệ của băng Cặn Bã, tin tưởng rằng một ngày nào đó cậu thiếu gia giàu có sẽ trở nên hữu dụng.

Wylan không mảy may nghi ngờ về lí do Kaz tìm đến với mình, nhưng cậu cũng biết mình sẽ không sống sót lâu đến thế nếu không có sự giúp đỡ của anh ta. Ngoài ra, Kaz không bận tâm chuyện cậu không biết đọc. Anh ta và những người khác trêu chọc cậu, nhưng họ cho cậu cơ hội để chứng tỏ bản thân. Họ trân trọng những thứ cậu làm được, thay vì trừng trị cậu bởi những chuyện cậu không thể thực hiện.

Wylan tin rằng Kaz có thể giúp cậu trả thù cho mẹ. Cậu tin rằng bất chấp sự giàu có và sức ảnh hưởng của Jan Van Eck, băng đảng này - băng đảng của cậu - có thể đối đầu với ông ta. Nhưng giờ đây, cha cậu đang vươn tay để trừng trị cậu một lần nữa.

Quá nửa đêm họ mới đến được trung tâm tài chính. Đó là một trong những khu vực giàu có nhất của Ketterdam, nằm cách không xa sàn giao dịch và Toà thị chính. Ở đây sự hiện diện của cha cậu rõ rệt hơn, và Wylan tự hỏi tại sao Kaz lại đưa mọi người đến chỗ này. Kaz dẫn họ đi vào một ngõ hẻm nằm sau lưng một toà nhà lớn. Một cánh cửa mở ra tại đó, và họ tiến vào lối cầu thang bộ ôm vòng quanh buồng thang máy đồ sộ. Cả bọn chui vào trong thang máy. Rotty ở lại phía sau, chắc là để canh chừng lối vào. Cửa thang máy đóng lại, họ đi lên mười lăm tầng lầu để tới tầng trên cùng của toà nhà. Tại đó, họ bước vào một hành lang ốp gỗ bóng loáng, trần sơn màu tím nhạt.

Chúng ta đang ở trong một khách sạn, Wylan nghĩ thầm. Ban nãy là cửa vào dành cho người phục vụ và thang máy của nhân viên.

Họ gõ một cánh cửa hai tấm trắng phau. Ông Colm Fahey ra đón họ trong bộ đồ ngủ dài trùm thêm chiếc áo khoác. Họ đang ở Geldrenner.

“Những người khác đang ở bên trong,” ông nói với giọng run run.

Ông Colm không hỏi han gì mà chỉ cho họ đường tới phòng tắm và rót một tách trà cho bản thân, trong lúc cả bọn dây bùn ra tấm thảm tím. Khi Matthias trông thấy Nina, anh bật dậy khỏi chiếc sô pha màu cà tím và ôm chầm lấy chị.

“Bọn anh không thể vượt qua các chốt chặn để đến Bãi Ngọt,” anh nói. “Anh đã sợ điều tồi tệ nhất.”

Và rồi tất cả bọn họ ôm chầm lấy nhau, Wylan kinh hãi nhận ra mắt mình ngấn lệ. Cậu vội chớp mắt để xua chúng đi. Cậu không muốn Jesper chứng kiến mình khóc một lần nữa. Người ngợm anh chàng thiện xạ dính đầy bồ hóng và bốc mùi khét lẹt, nhưng đôi mắt anh long lanh giống như mỗi lần được chiến đấu. Tất cả những gì Wylan muốn lúc này là được đứng gần anh hết mức có thể, và biết anh vẫn bình an.

Cho đến hiện tại, Wylan vẫn chưa ý thức được mọi người có ý nghĩa như thế nào đối với mình. Cha cậu chắc sẽ cười khẩy với đám côn đồ trộm vặt, chiến binh nửa mùa và con bạc khát nước này. Nhưng họ là những người bạn đầu tiên của cậu, những người bạn duy nhất, và Wylan biết cho dù có phải lựa chọn từ hàng ngàn người bạn, cậu vẫn sẽ chọn họ.

Chỉ có Kaz đứng cách xa cả nhóm, lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ xuống những đường phố đen ngòm phía dưới.

“Kaz,” Nina lên tiếng. “Có thể anh không mừng rỡ vì chúng tôi toàn mạng, nhưng chúng tôi đều mừng vì anh còn sống đấy. Lại đây nào!” “Kệ anh ấy đi,” Inej nói khẽ.

“Thánh thần ơi, Bóng ma,” Jesper thốt lên. Cô bị thương rồi.

“Chúng ta có nên gọi bác sĩ không?” ông Colm hỏi.

“Không!” Cả nhóm đồng thanh đáp.

“Tất nhiên là không rồi,” ông Colm nói. Tôi có nên gọi cà phê không?” “Có ạ,” Nina đáp.

Ông gọi cà phê, bánh waffle, cùng một chai brandy, và trong lúc chờ đợi, Nina nhờ mọi người đi tìm kéo để chị cắt khăn tắm khách sạn làm băng gạc. Ngay khi một cây kéo được tìm thấy, chị lập tức đưa Inej vào trong phòng tắm để xem xét các vết thương.

Tiếng gõ cửa vang lên khiến mọi người sững sờ, nhưng đó chỉ là người phục vụ. Ông Colm ra mở cửa và nhất quyết bảo rằng mình có thể tự xoay sở với xe đồ ăn, để chị ta không thể trông thấy những người khách lạ trong phòng. Ngay khi cửa phòng đóng lại, Jesper vội lao đến giúp bố bưng chiếc khay bạc chất đầy đồ ăn và một chồng đĩa sứ mỏng tang. Wylan đã không được ăn trên những chiếc đĩa như thế kể từ lúc rời nhà. Cậu nhận ra Jesper đang mặc áo của bố: nó quá rộng ở phần vai và tay áo thì lại quá ngắn.

“Đây là đâu vậy?” Wylan hỏi, mắt nhìn quanh căn phòng được trang trí tuyền một màu tím.

“Ketterdam Suite, bác nghĩ thế,” ông Colm đáp và đưa tay gãi gáy. “Nó đẹp hơn hẳn căn phòng trọ của bác ở quận Đại học.”

Nina và Inej đã bước ra khỏi phòng tắm. Nina lấy một đĩa đầy đồ ăn và buông mình xuống ghế cạnh Matthias. Chị bẻ đôi cái bánh waffle rồi cắn một miếng to, ngoe nguẩy những ngón chân một cách sung sướng.

“Xin lỗi nhé, Matthias,” chị nói lúng búng vì chỗ thức ăn đầy trong miệng. “Em đã quyết định ra đi với bố của Jesper. Em nghiện những thức ăn ngon lành của bác ấy rồi.”

Inej đã cởi áo ngoài và chỉ mặc áo chẽn chần bóng, phơi trần hai cánh tay. Những dải khăn được quấn quanh vai, hai cẳng tay, đùi phải và ống chân trái của cô.

“Chính xác thì chuyện gì đã xảy ra với cô vậy?” Jesper hỏi Inej trong lúc đưa cho bố một tách cà phê đặt trên chiếc đĩa lót mỏng manh.

Inej ngồi thịch xuống một chiếc ghế bành cạnh chỗ Kuwei đang ngồi dưới sàn. “Gặp gỡ bạn mới.”

Jesper buông mình xuống sô pha, Wylan cũng ngồi vào một chiếc khác với đĩa bánh đặt trên đầu gối. Trong phòng ăn có bàn ghế đàng hoàng, nhưng dường như không ai trong số họ quan tâm. Chỉ có ông Colm ngồi ở đó với tách cà phê và chai rượu bên cạnh. Kaz tiếp tục đứng bên cửa sổ, và Wylan tự hỏi thứ anh nhìn thấy có gì mà hấp dẫn đến vậy.

“Rồi,” Jesper vừa nói vừa cho đường vào tách cà phê của mình.

“Ngoài chuyện Inej có bạn mới, chuyện quái gì đã xảy ra ngoài kia vậy?”

“Xem nào,” Nina đáp. “Inej đã rơi xuống từ độ cao hai mươi tầng lầu.”

“Bọn tôi đã khoan một lỗ to tướng trên trần phòng ăn của cha tôi,” Wylan lên tiếng.

“Nina có thể dựng dậy người chết,” Inej buột miệng.

Chiếc tách của Matthias va vào đĩa lót. Trông nó thật tức cười trong bàn tay hộ pháp của anh.

“Chị không dựng họ dậy. Ý chị là, họ đứng dậy, nhưng không phải là họ sống lại. Chị không nghĩ thế. Chị cũng không chắc nữa.” “Cô nói nghiêm túc đấy à?” Jesper hỏi lại.

Inej gật đầu. “Tôi không thể giải thích được, nhưng tôi đã chứng kiến tận mắt.”

Trán Matthias nhăn lại. “Lúc chúng ta ở trong khu sứ quán của Ravka, em cũng đã điều khiển được những mảnh xương.”

Jesper nhấp một ngụm cà phê. “Cả chuyện ở ngôi nhà bên hồ nữa. Có phải cô đã điều khiển đám mây bụi đó không?” “Bụi nào cơ?” Inej thắc mắc.

“Nina không đơn thuần đánh gục một vệ quân, mà làm anh ta ngạt thở bằng một đám mây bụi.”

“Có một nghĩa trang gia đình ở cạnh ngôi nhà bên hồ đó,” Wylan nhớ đến mảnh đất kín cổng cao tường nằm cạnh hàng rào phía tây. “Nếu như thứ bụi đó là… xương thì sao? Những gì còn lại khi người ta tan rã ấy?”

Nina đặt đĩa thức ăn xuống. “Thôi đi, mấy người làm tôi hết ngon miệng rồi đó.” Rồi chị lại cầm nó lên. “Gần như thôi.”

“Chính vì vậy nên anh mới thắc mắc về chuyện parem làm biến đổi năng lực của Grisha,” Kuwei nói với Matthias.

Nina nhìn cậu ta. “Nó có thể à?”

“Tôi không biết. Chị mới chỉ dùng nó một lần. Chị đã qua được giai đoạn cai thuốc. Chị là một trường hợp hiếm gặp.”

“May cho tôi ghê.”

“Nó tệ vậy sao?” Matthias hỏi lại.

Nina nhặt vài mẩu bánh trong lòng và bỏ vào trong cái đĩa của mình. “Theo lời của một núi cơ bắp tóc vàng nào đó, thì nó phi tự nhiên.” Giọng chị đã mất đi sự vui vẻ hồn hậu. Nina buồn bã ra mặt.

“Chắc là thế rồi,” Matthias nói. “Chẳng phải các Tâm Y được biết đến như là Đội ngũ Điều khiển Sự sống và Cái chết đó sao?”

“Đây không phải là cách hoạt động của năng lực Grisha.”

“Nina,” Inej nhẹ nhàng lên tiếng. “Parem đã đưa chị tới bờ vực cái chết. Có lẽ chị đã mang theo thứ gì đó trở về cùng với mình.”

“Thế thì đó là một kỉ vật đáng sợ.”

“Hoặc là Djel đã tắt một nguồn sáng và bật một nguồn khác,” Matthias đáp.

Nina liếc xéo anh chàng. “Anh bị đập vào đầu à?”

Matthias đưa tay ra nắm lấy tay Nina. Tự dưng Wylan cảm thấy mình đang xâm phạm một cảnh hết sức riêng tư. “Anh rất mừng là em còn sống,” Matthias nói. “Anh rất mừng là em còn ở bên anh. Và đã chịu ăn uống.”

Nina ngả đầu lên vai anh chàng. “Anh ngon hơn bánh waffle rồi đấy, Matthias Helvar.”

Một nụ cười nhẹ xuất hiện trên môi anh chàng người Fjerda. “Đừng có nói những điều không thật lòng, tình yêu của anh.”

Có tiếng gõ cửa nhẹ vang lên. Mọi người lập tức chộp lấy vũ khí. Ông Colm cứng người trên chiếc ghế.

Kaz ra hiệu cho ông ngồi yên tại chỗ trong lúc anh khẽ khàng tiến ra cửa. Anh nhòm qua lỗ quan sát.

“Là Specht,” anh nói. Cả bọn thở phào, và Kaz mở cửa.

Họ im lặng quan sát trong lúc Kaz và Specht thì thầm trao đổi nhanh điều gì đó, rồi Specht gật đầu và đi về phía thang máy.

“Tầng này có lối tiếp cận tháp đồng hồ không ạ?” Kaz hỏi ông Colm.

“Ở cuối hành lang ấy,” ông già đáp. “Tôi chưa từng lên đó. Cầu thang dốc lắm.”

Không nói một lời, Kaz rời phòng. Mọi người nhìn nhau trân trối suốt một lúc lâu trước khi đi theo anh, rồng rắn đi ngang qua chỗ ông già đang quan sát cảnh tượng với đôi mắt mệt mỏi.

Trong lúc đi trên hành lang, Wylan nhận ra toàn bộ tầng này của khách sạn đều phục vụ cho sự xa xỉ của Ketterdam Suite. Nếu cậu phải chết thì đây không phải là nơi tệ hại nhất để trải qua đêm cuối cùng.

Từng người một, họ trèo lên một cầu thang xoắn bằng thép rồi chui qua một cửa lật. Gian phòng trên đỉnh rộng rãi và khá lạnh, bị choán chỗ gần hết bởi cỗ máy của một cái đồng hồ cực lớn. Bốn mặt của nó nhìn ra Ketterdam và bầu trời xám xịt.

Ở hướng nam, một vệt khói bốc lên từ đảo Mạng Đen. Nhìn về hướng đông bắc, Wylan có thể thấy con kênh Geld, tàu thuyền chữa cháy và lực lượng thị tuần đang bao quanh khu vực gần nhà cha cậu. Cậu còn nhớ vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt của ông ta khi họ đáp xuống ngay giữa bàn ăn. Nếu không quá hoảng sợ thì cậu hẳn đã bật cười rồi. Sự hổ thẹn nuốt chửng con người ta. Giá như họ châm lửa đốt luôn phần còn lại của ngôi nhà đó.

Tít phía đằng xa, các bến cảng ken đầy tàu xe của thị tuần. Ketterdam ngập chìm trong sắc tím, như thể mắc một dịch bệnh.

“Specht nói họ đã đóng hải cảng và ngừng mọi tuyến đường thuỷ, Kaz thông báo. “Họ đã phong toả Ketterdam. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.”

“Ketterdam sẽ không chịu đâu,” Inej nói. “Mọi người sẽ nổi loạn.”

“Họ sẽ không đổ tội cho Van Eck.”

Wylan cảm thấy nôn nao. “Họ đổ tội cho chúng ta.”

Jesper lắc đầu. “Ngay cả khi cài cắm thị tuần trên mọi con đường, họ cũng không đủ nhân lực để phong toả thành phố và tìm kiếm chúng ta.”

“Vậy à?” Kaz hỏi. “Nhìn lại đi.”

Jesper tiến đến ô cửa sổ phía tây, nơi Kaz đang đứng. “Lạy các thánh và bà dì Eva,” anh nói một hơi.

“Chuyện gì vậy?” Wylan hỏi trong lúc hai người quan sát qua lớp kính.

Một đám đông đang di chuyển về phía đông, từ khu Barrel băng qua quận Zelver.

“Bạo loạn à?” Inej hỏi.

“Giống một cuộc diễu hành nhiều hơn,” Kaz đáp.

“Tại sao các thị tuần không chặn họ lại?” Wylan hỏi trong lúc cơn lũ người thoải mái băng qua các cây cầu, qua từng chốt chặn. “Sao họ lại để chúng đi qua?”

“Rất có thể là vì cha cậu đã bảo họ làm thế,” Kaz đáp.

Khi đám đông tiến đến gần hơn, Wylan nghe thấy tiếng reo hò và tiếng trống. Đúng là nghe giống như một cuộc diễu hành thật. Đám đông tràn qua cầu Zelver, ùa qua khách sạn trong lúc tiến về phía quảng trường phía trước Sàn giao dịch. Wylan nhận ra băng của Pekka Rollins dẫn đầu đoàn người. Kẻ đi đầu khoác một bộ da sư tử với một cái vương miện bằng vàng giả gắn trên bờm.

“Chim Cắt kìa,” Inej nói và chỉ tay về phía sau băng Kim Sư. “Cả tụi Đầu Gấu nữa.”

“Chó săn của Harley,” Jesper điểm danh, “và bọn Hắc Thủ.” “Tất cả bọn chúng,” Kaz nói.

“Cái đó có nghĩa là gì vậy?” Kuwei hỏi. “Dải băng tím ấy?”

Mỗi thành viên trong đám đông phía dưới đều có buộc một dải lụa tím ở bắp tay trái.

“Bọn chúng được trao quyền,” Kaz đáp. “Specht nói tin tức đã lan truyền khắp Barrel. Tin tốt là bây giờ họ muốn bắt sống chúng ta - kể cả Matthias. Tin xấu là họ đã treo thưởng cho cả cặp song sinh người Shu đang đi cùng chúng ta, do vậy khuôn mặt của Kuwei - và của Wylan - giờ cũng đã xuất hiện trên các nẻo đường.”

“Và Hội đồng Thương buôn chấp nhận chuyện này sao?” Matthias thắc mắc. “Nếu bọn chúng chuyển sang cướp bóc gây rối thì sao?”

“Không đâu. Rollins biết chuyện mình làm. Nếu thị tuần tìm cách phong toả khu Barrel, các băng đảng sẽ chống lại. Giờ đây bọn chúng không còn ở ngoài vòng pháp luật nữa, và Van Eck có hai đoàn quân, chúng ta bị kẹp ở giữa.

Inej thở gấp.

“Gì vậy?” Wylan hỏi lại, nhưng khi nhìn xuống quảng trường bên dưới, cậu hiểu ra ngay. Nhóm cuối cùng của đoàn người đã xuất hiện. Một người đàn ông lớn tuổi đội mũ gắn lông chim dẫn đầu, và cả đám đang kêu quang quác rất to như những con quạ. Cặn Bã, băng đảng của Kaz. Họ đã quay lưng lại với anh.

Jesper đấm tay vào kính. “Lũ ăn cháo đá bát.”

Kaz không nói gì, anh chỉ quan sát đám đông ùa qua mặt tiền của khách sạn bên dưới, những băng đảng giang hồ đi thành từng cụm đủ màu sắc, vừa chửi rủa lẫn nhau vừa reo hò như thể hôm nay là một ngày hội. Ngay cả sau khi tất cả đã đi qua, tiếng hò reo vẫn vang vọng khắp không gian, có lẽ bọn chúng sẽ tuần hành đến tận Toà thị chính.

“Giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra?” Kuwei thắc mắc.

“Chúng ta sẽ bị săn lùng bởi mọi gã thị tuần và mọi thằng du côn Barrel, cho tới khi bị bắt,” Kaz đáp. “Không có cách nào rời khỏi Ketterdam nữa. Nhất là khi mang theo cậu.”

“Chúng ta có thể chờ đợi được không?” Kuwei hỏi. Ở đây, với bác Fahey?”

“Chờ điều gì?” Kaz hỏi lại. “Chờ ai đó đến giải cứu à?”

Jesper áp đầu vào kính. “Bố tôi. Tôi đã lôi ông ấy vào chuyện này. Ông ấy sẽ bị buộc tội che giấu kẻ gian.”

“Không,” Kuwei đột ngột gào lên. “Không. Hãy giao nộp tôi cho Van

Eck.”

“Tuyệt đối không,” Nina nói.

Kuwei chém tay vào không khí. “Mọi người đã cứu tôi từ tay người Fjerda. Nếu chúng ta không hành động thì trước sau gì tôi cũng bị bắt.”

“Để rồi tất cả chuyện này đổ sông đổ biển à?” Wylan hỏi, ngạc nhiên với sự giận dữ của mình. “Sau tất cả những gì chúng ta đã liều lĩnh? Sau tất cả những gì chúng ta đã vượt qua ở Lâu Đài Băng? Cả những gì mà

Inej và Nina đã phải chịu đựng để giải thoát chúng ta nữa?”

“Nhưng nếu tôi nộp mạng, thì mọi người sẽ thoát,” Kuwei nhấn mạnh.

“Mọi chuyện không dễ dàng như thế đâu,” Jesper đáp. “Pekka đã có cơ hội để trừ khử Kaz khi được cả khu Barrel hậu thuẫn, còn Van Eck bảo đảm sẽ không để chúng tôi nhởn nhơ trên đường phố Ketterdam. Chuyện này không còn gói gọn trong việc bắt cậu nữa rồi.”

Kuwei rên lên và ngồi thụp xuống, dựa lưng vào tường. Cậu nhóc liếc nhìn Nina đầy trách móc. “Lẽ ra chị nên giết tôi luôn tại Lâu Đài Băng.” Nina nhún vai. “Nhưng như vậy thì Kaz sẽ giết tôi rồi Matthias giết Kaz, và tất cả chuyện này sẽ rối tinh rối mù.”

“Tôi không thể tin nổi chúng ta thoát ra khỏi Lâu Đài Băng để rồi bị mắc kẹt ngay tại chính thành phố của mình,” Wylan thốt lên. Chuyện này thật khó tin.

“Ờ,” Jesper nói. “Chúng ta tiêu tùng cả đám thật rồi.”

Kaz vẽ một vòng tròn trên lớp kính bằng một ngón tay đi găng. “Không hẳn. Tôi có thể làm thị tuần dịu lại.” “Không,” Inej thốt lên.

“Tôi sẽ ra đầu thú.”

“Nhưng Kuwei…” Nina lên tiếng.

“Thị tuần không biết về Kuwei. Họ nghĩ mình đang tìm kiếm Wylan. Tôi sẽ bảo với họ rằng Wylan đã chết. Tôi sẽ nói rằng chính tay tôi đã giết cậu ta.”

“Anh có bị loạn óc không đấy?” Jesper hỏi lại.

“Kaz,” Inej nói. “Bọn họ sẽ đưa anh lên đoạn đầu đài.”

“Họ sẽ phải đưa tôi ra xét xử trước.”

“Cậu sẽ thối rữa trong tù trước khi điều đó xảy ra, Matthias nói. “Van

Eck sẽ không đời nào để cậu có cơ hội phát biểu trước toà.”

“Anh thực sự nghĩ họ có buồng giam nào cầm chân được tôi sao?”

“Van Eck thừa biết anh giỏi phá khoá như thế nào,” Inej giận dữ phản bác. “Anh sẽ chết trước khi tới được nhà tù.”

“Chuyện này thật nực cười,” Jesper nhận định. “Anh sẽ không hi sinh vì chúng tôi. Không ai phải hi sinh cả. Chúng ta sẽ chia nhau ra. Chúng ta sẽ đi theo cặp, tìm cách vượt qua các chốt chặn, rồi ẩn nấp ở đâu đó dưới miền quê.”

“Đây là thành phố của tôi,” Kaz nói. “Tôi sẽ không cụp đuôi mà rời bỏ nó.”

Jesper gầm lên bực tức. “Nếu đây là thành phố của anh thì nó còn được bao nhiêu? Anh đã từ bỏ phần hùn của mình ở Quạ Đen và Cảng số Năm. Anh không còn băng nhóm nữa. Cho dù anh có đào thoát được thì Van Eck và Rollins cũng sẽ huy động thị tuần với cả nửa khu Barrel lùng sục anh. Anh không thể chống lại tất cả bọn họ.”

“Để rồi xem.”

“Khỉ thật, Kaz. Anh vẫn luôn nói với tôi như thế nào? Bài đen thì bỏ đi.”

“Tôi đang cho mọi người một lối thoát. Hãy nắm lấy nó.”

“Sao anh lại coi chúng tôi như một đám ranh con chết nhát vậy?”

Kaz quay về phía Jesper. “Anh chính là đứa chỉ chực bỏ chạy, Jesper. Anh chỉ muốn tôi chạy cùng để khỏi cảm thấy tồi tệ về chuyện đó. Luôn miệng nói thích chiến đấu lắm nhưng lúc nào cũng là người đầu tiên bàn tới chuyện chạy trốn.”

“Bởi vì tôi muốn sống.”

“Vì cái gì chứ?” Kaz hỏi, mắt long lên. “Để anh có thể chơi bài tiếp à? Để anh có thể một lần nữa phụ lòng bố và khiến bạn bè thất vọng sao? Anh có nói cho ông ấy biết chính mình là nguyên nhân khiến ông ấy sắp mất trang trại không? Anh có thú nhận với Inej rằng mình chính là nguyên nhân khiến cô ấy suýt mất mạng dưới lưỡi dao của Oomen không? Khiến tất cả chúng ta suýt mất mạng?

Đôi vai Jesper chùng xuống, nhưng anh không bỏ cuộc. “Tôi đã phạm

sai lầm. Tôi đã để phần xấu lấn át phần tốt, nhưng lạy các thánh, Kaz à, anh còn bắt tôi phải cầu xin sự tha thứ đến bao giờ nữa đây?”

“Anh nghĩ sự tha thứ của em như thế nào, hả Jordie?”

“Jordie là thằng cha nào vậy?”

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, khuôn mặt Kaz đờ ra, một sự bối rối gần như hoảng sợ xuất hiện trong đôi mắt đen của anh - nó đến rồi đi nhanh tới nỗi Wylan tự hỏi liệu cậu có đang tưởng tượng.

“Anh muốn gì ở tôi?” Kaz gằn giọng, vẻ mặt sắt đá và tàn nhẫn hơn bao giờ. “Sự tin tưởng của tôi à? Anh đã có và làm nó vỡ tan tành chỉ vì không thể giữ mồm giữ miệng.”

“Đúng một lần. Thế bao nhiêu lần tôi đã yểm trợ cho anh? Bao nhiêu lần tôi đã làm tốt? Những cái đó không có nghĩa lí gì sao?” Jesper giơ hai tay lên trời. “Tôi không thể cãi thắng được anh. Không ai thắng được anh.”

“Phải đấy. Anh không thể. Anh nghĩ mình là một tay chơi, nhưng anh chỉ là một đứa thất bại bẩm sinh. Đánh đấm. Bài bạc. Trai gái. Anh cứ lao vào cho đến khi thua cuộc, do vậy lần này, hãy biết khôn mà bỏ đi.”

Jesper lao tới trước. Kaz né sang phải, và hai người quấn lấy nhau. Họ đâm sầm vào tường, cụng đầu nhau, buông ra rồi lại đấm đá nhau túi bụi.

Wylan quay sang Inej, hi vọng cô sẽ phản đối, hoặc Matthias tách họ ra, bởi vì ai đó phải làm gì đó. Nhưng những người khác chỉ lùi lại, tạo khoảng trống. Duy có Kuwei tỏ ra đau đớn.

Jesper và Kaz lăn lộn, va vào động cơ đồng hồ, rồi đứng dậy. Đây không phải là một trận chiến, mà là một cuộc ẩu đả xấu xí của những cái thúc chỏ và nắm đấm.

“Ghezen lòng lành, ai đó ngăn họ lại đi!” Wylan tuyệt vọng lên tiếng.

“Jesper không nổ súng,” Nina đáp.

“Kaz cũng không dùng gậy,” Inej nhận định.

“Hai người nghĩ họ không thể giết nhau bằng tay không được à?”

Cả hai đều đã đổ máu - Jesper bị rách môi, còn Kaz rách trán. Áo của Jesper đã trùm một nửa lên đầu anh, trong khi ống tay áo của Kaz cũng tuột chỉ.

Cánh cửa lật mở toang và ông Colm Fahey ló đầu lên. Đôi má hồng hào của ông đỏ au.

“Jesper Llewellyn Fahey, đủ rồi đấy!” Ông quát to.

Jesper và Kaz khựng lại, rồi trước sự kinh ngạc của Wylan, họ buông nhau ra, khuôn mặt tỏ rõ sự ăn năn.

“Chuyện gì đang diễn ra vậy?” Ông Colm hỏi. “Bố tưởng hai đứa là bạn?”

Jesper đưa tay lên xoa gáy, vẻ mặt trông như chỉ muốn chui tọt qua khe ván sàn. “Bọn con… ơ… bất đồng với nhau.”

“Bố thấy rồi. Bố đã rất kiên nhẫn với tất cả chuyện này, Jesper, nhưng cái gì cũng có giới hạn. Bố muốn con xuống ngay trước khi bố đếm đến mười, nếu không bố sẽ đánh đít đến nỗi con không thể ngồi được suốt hai tuần lễ đấy.”

Cái đầu của ông Colm biến xuống dưới cửa lật. Im lặng bao trùm.

Rồi Nina bật cười khúc khích. “Cậu gặp rắc rối to rồi.”

Jesper nhăn mặt. “Matthias, Nina đã để cho Cornells Smeet sờ mông.”

Nina ngừng cười. “Tôi sẽ bẻ ngược răng cậu từ trong ra ngoài.”

“Chuyện đó là không thể.”

“Tôi vừa dựng dậy người chết. Cậu thực sự muốn cãi tôi hả?”

Inej ngoẹo đầu sang một bên. “Jesper Llewellyn Fahey sao?”

“Im đi,” Jesper nói. “Đó là họ của tôi.”

Inej trịnh trọng nghiêng người. “Sao cũng được, Llewellyn.” “Kaz?” Jesper ướm lời.

Nhưng Kaz đang nhìn vào khoảng không. Wylan nghĩ cậu biết vẻ mặt này.

“Có phải đó là…” Cậu dò hỏi.

“Mặt ủ mưu á?” Jesper hỏi lại.

Matthias gật gù. “Hẳn rồi.”

“Tôi đã biết phải làm như thế nào,” Kaz nói một cách chậm rãi. “Làm sao để giải thoát Kuwei, đưa các Grisha đi, lấy tiền của chúng ta, hạ Van

Eck, và cho gã khốn Pekka Rollins đó tất cả những gì gã xứng đáng.” Nina nhướn mày. “Hết chưa vậy?” “Bằng cách nào?” Inej hỏi.

“Bấy lâu nay chúng ta chỉ chơi trò của Van Eck. Chúng ta trốn tránh. Quá đủ rồi. Chúng ta sẽ bày ra một cuộc đấu giá. Giữa thanh thiên bạch nhật.” Anh quay lại đối diện với họ, đôi mắt anh sắc lạnh như mắt cá mập. “Và vì Kuwei quá nóng lòng muốn hi sinh thân mình, cậu ta sẽ là vật đấu giá.”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro