Không Tên Phần 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHUYÊN ĐỀ 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

 

I. KHÁI NIỆM VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hệ thống chính trị, theo nghĩa chung nhất, hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.

Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự xuất hiện của giai cấp, nhà nước nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp, đảng phái cầm quyền, do đó nó mang bản chất, lý tưởng chính trị và phản ánh lợi ích của giai cấp cầm quyền. Hệ thống chính trị là một bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các thiết chế có quan hệ với nhau về mặt mục tiêu, chức năng trong việc thực hiện quyền lực chính trị.

Ở Việt Nam, khái niệm “hệ thống chính trị” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng trong văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (tháng 3/1989) thay cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”. Hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, đây không chỉ đơn giản là sự thay đổi tên gọi mà là một bước đổi mới quan trọng trong tư duy chính trị của Đảng ta. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là sự kế thừa và phát triển các thành tựu về tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản trong các giai đoạn trước “đổi mới “, đồng thời phản ánh một hiện thực mới về chính trị và dân chủ trong điều kiện đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Hệ thống chính trị đó bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác.

Ở chế độ ta, nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử và chính họ là chủ thể duy nhất, tối cao của quyền lực chính trị, do đó toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, sức mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Đồng thời trong một chính thể dân chủ, việc thực hiện quyền lực chính trị đòi hỏi bảo đảm tính thống nhất của quyền lực đồng thời loại bỏ mọi nguy cơ độc quyền quyền lực từ bất kỳ một tổ chức hay lực lượng chính trị nào. Vì vậy, việc  thực hiện quyền lực chính trị luôn cần đến sự phân công, phối hợp giữa các tổ chức trong việc thực hiện quyền quyết định đường lối chính trị, quyền thi hành đường lối chính trị và quyền kiểm tra, giám sát đối với việc quyết định đường lối chính trị và thực thi đường lối chính trị. Điều này có ý nghĩa quan trọng bảo đảm cho quyền lực chính trị luôn phục vụ lợi ích và ý chí của nhân dân, ngăn ngừa nguy cơ lạm quyền, tha hóa quyền lực làm phương hại đến quyền lực của nhân dân.

II. CÁC TỔ CHỨC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

Các tổ chức hợp thành hệ thống chính trị hiện nay ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mỗi tổ chức đều có vị trí, vai trò và phương thức hoạt động khác nhau với những chức năng, nhiệm vụ khác nhau dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền và sự quản lý của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

1) Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

 Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị là điều kiện cần thiết và tất yếu để bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân, vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

Một là, Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn phát triển kinh tế - xã hội để nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, đồng thời Đảng là lực lượng lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

Hai là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội chủ yếu thông qua nhà nước và các đoàn thể quần chúng, đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hóa bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng nhà nước và bộ máy của nhà nước, đồng thời kiểm tra việc nhà nước thực hiện các nghị quyết của Đảng.

Ba là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan của hệ thống chính trị.

Bốn là, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra giám sát bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo.

Để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thưòng xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao trình độ, trí tuệ, giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ bè phái.

Đảng phải phát huy vai trò chủ động sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, khắc phục tệ quan liêu độc đoán, chuyên quyền, bao biện làm thay; mặt khác, Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo, mất cảnh giác trước những luận điệu, cơ hội, mị dân đòi Đảng phải trả quyền lực cho nhà nước và nhân dân. Thực chất của những đòi hỏi đó chỉ nhằm chia rẽ Đảng với nhân dân, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và làm thay đổi chế độ; ở một vài nước xã hội chủ nghĩa trong những điều kiện lịch sử đã hình thành hệ thống chính trị đa đảng, đó là các đảng liên minh với Đảng cộng sản, thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng cộng sản chứ không phải là đảng đối lập. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, thành lập đảng đối lập là nguy cơ trực tiếp để mất chính quyền vào tay các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch, phản động hiện nay cũng đang lợi dụng chiêu bài đa đảng, đa nguyên chính trị, dân chủ nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa bằng “diễn biến hòa bình”.

2) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Mặt khác Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân, thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam.

Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân nhân chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan của thị trường. Đảng lãnh đạo nhà nước thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị. Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ để thực hiện quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của nhà nước trong hệ thống chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị. Khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống chính trị, nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

- Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với ý nghĩa đó Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp.

- Thực hiện quyền hành pháp là bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương, đứng đầu là Chính phủ. Theo quy định tại điều 94 Hiến pháp năm 2013,

Chính phủ là

cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là

cơ quan chấp hành của Quốc hội  chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của nhà nước.

Bộ và cơ quan ngang Bộ là các cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực (hay nhóm ngành, lĩnh vực) trên phạm vi cả nước và quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực được giao.

Các cơ quan thuộc Chính phủ do Chính phủ thành lập theo từng nhiệm kỳ, thực hiện những nhiệm vụ nhất định do Chính phủ giao (có thể làm chức năng quản lý hành chính nhà nước hoặc cung cấp dịch vụ công cho Chính phủ).

Bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay được tổ chức ba cấp (tỉnh, huyện, xã) với hai cơ quan chủ yếu là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

- Cơ quan tư pháp bao gồm Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước để bảo vệ pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.

Tòa án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm minh, bảo đảm việc xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và thực hiện độc lập thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố…

Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, vì vậy cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

          3)  Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thành viên trong hệ thống chính trị

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thành viên là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.

Các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội là nơi tập hợp quần chúng, phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, vì vậy là một bộ phận không thể thiếu của một xã hội dân chủ. Các tổ chức này ở nước ta hiện nay là bộ phận không tách rời của hệ thống chính trị và

là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một trong những công cụ bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Những tổ chức này

có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Các đoàn thể chính trị  - xã hội rất đa dạng, có thể là các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,...

Trong số các tổ chức quần chúng ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức nòng cốt, giữ vai trò quan trọng.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Trong đó,

Đảng Cộng sản Việt

Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.

Những đoàn thể chính trị - xã hội khác có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta gồm:

- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.

- Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội tập hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị, được tổ chức theo hệ thống hành chính từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho thanh niên.

- Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ, bảo vệ quyền bình đẳng, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Hội có nhiệm vụ đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng giới.

- Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, có nhiệm vụ vận động giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích của nông dân Việt Nam.

- Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội, nơi tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.

Bên cạnh những tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng tham gia tích cực vào hoạt động trong hệ thống chính trị như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam,... Một số hội nghề nghiệp, hội của các nhà trí thức, các nhà khoa học, không chỉ đơn thuần mang tính chất đoàn thể xã hội mà các tổ chức này cũng đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước.

Các tổ chức quần chúng khác nhau này tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, có nhiệm vụ vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước nhưng đều gắn chặt với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tổ chức động viên, triển khai nguồn lực con người cho các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam do Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống nhất quản lí. Trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, với tính chất chính trị và tính chất xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò là người tổ chức, vận động đông đảo quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đặt ra đối với cách mạng Việt Nam thông qua những hình thức phù hợp.

Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị Việt Nam, các tổ chức quần chúng đóng vai trò vừa là trung tâm đoàn kết, tập hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên vừa thực hiện vai trò nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.

Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.

III. BẢN CHẤT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực nhà nước và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Do đó, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.

Bản chất của hệ thống chính trị nước ta được quy định bởi các cơ sở nền tảng sau:

- Cở sở chính trị của hệ thống chính trị nước ta là chế độ nhất nguyên chính trị với một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Cơ sở chính trị của hệ thống chính trị nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đồng thời, cơ sở kinh tế này tạo ra các xung lực để đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, nâng cao khả năng tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh tế.

- Cơ sở xã hội của hệ thống chính trị là dựa trên nền tảng liên minh giai cấp giữa công nhân, nông dân, tầng lớp tri thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hệ thống chính trị nước ta không chỉ là hình thức tổ chức chính trị nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân mà còn là hình thức tổ chức đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân,  là biểu tượng của đại đoàn kết dân tộc.

- Cở sở tư tưởng của hệ thống chính trị là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là các căn cứ lý luận để xây dựng hệ thống chính trị với chế độ nhất nguyên chính trị và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Sự nhất quán về cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng là nhân tố vừa bảo đảm tính năng động và khả năng thích ứng của hệ thống chính trị trước sự vận động và phát triển của đất nước và thế giới.

Hệ thống chính trị ở nước ta là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền với quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do nhân dân giao phó, ủy quyền. Về thực chất, hệ thống chính trị không phải là một hệ thống tổ chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính trị bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, phát sinh từ sự ủy quyền của nhân dân, thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Trong chế độ do nhân dân ta làm chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực chính trị, nhân dân ủy quyền cho một hệ thống, các tổ chức bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.

Hệ thống chính trị ở nước ta là một hình thức tổ chức thực hành dân chủ, mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị đều là những hình thức để thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân. Các tổ chức này được tổ chức và hoạt dộng trên cơ sở nguyên tắc dân chủ và các mục tiêu dân chủ. Điều đó bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước “. Mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị vừa là một hình thức thực hành dân chủ, tổ chức các quá trình dân chủ vừa là công cụ bảo đảm dân chủ trong xã hội, một trường học dân chủ để giáo dục ý thức dân chủ, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.

IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:

1) Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị

Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền mặc dù trong những giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ chính trị Việt Nam ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên hai Đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, về thực chất chế độ chính trị không tồn tại các đảng chính trị đối lập.

Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân) là tổ chức đóng vai trò là phương tiện để Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị của mình.

Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó quy định tính nhất nguyên tư tưởng, nhất nguyên ý thức hệ chính trị của toàn bộ hệ thống và của từng thành viên trong hệ thống chính trị.

2) Tính thống nhất của hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò chức năng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau tạo thành một thể thống nhất. Sự đa dạng, phong phú về tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị tạo điều kiện để phát huy và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức thành viên và của toàn bộ hệ thống.

Nhân tố quyết định tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta là sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động là nhân tố cơ bản đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống chính trị cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời, tính thống nhất của hệ thống chính trị còn thể hiện ở mục tiêu chính trị là xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nội dung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hệ thống chính trị được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất từ Trung ương đến địa phương và cấp cơ sở.

Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong Điều lệ của từng tổ chức.

3) Hệ thống chính trị gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân

Hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị mà còn gắn với xã hội. Do vậy trong cấu trúc của hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng, Nhà nước và các tổ chức vừa có tính chính trị vừa có tính xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách ra khỏi xã hội như những lực lượng chính trị, áp bức xã hội trong các xã hội bóc lột mà là bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện ngay trong bản chất của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.

Sự gắn bó giữa hệ thống chính trị với nhân dân còn được xác định bởi ý nghĩa hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân; mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

4) Hệ thống chính trị có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính giai cấp và dân tộc

Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Giai cấp và dân tộc hòa đồng, các giai cấp, tầng lớp xã hội đoàn kết, hợp tác để cùng phát triển. Trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển của hệ thống chính trị, vấn đề dân tộc, quốc gia luôn là cơ sở đoàn kết mọi lực lượng chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là đoàn kết giai cấp, tập hợp lực lượng trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp công nhân, đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Do vậy trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp đều mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy hệ thống chính trị luôn đại biểu cho dân tộc là yếu tố đoàn kết dân tộc, gắn bó mật thiết với nhan dân và là hệ thống của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

CHUYÊN ĐỀ 2

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

I. QUAN NIỆM VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1. Các khái niệm 

1.1. Khái niệm quản lý

Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức, từ phạm vi nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Trình độ xã hội hoá càng cao thì yêu cầu quản lý càng cao và vai trò của nó càng tăng lên.

Thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người, nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định.

Với quan niệm trên, quản lý bao gồm các yếu tố sau:

- Chủ thể quản lý: Là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể luôn là cá nhân hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các công cụ với những phương pháp thích hợp theo những nguyên tắc nhất định.

- Đối tượng quản lý: Tiếp nhận trực tiếp sự tác động của chủ thể quản lý. Tuỳ theo từng loại đối tượng khác nhau mà người ta chia thành các dạng quản lý khác nhau.

- Khách thể quản lý: Chịu sự tác động hay chịu sự điều chỉnh của chủ thể quản lý, đó là hành vi của con người và các quá trình xã hội.

- Mục tiêu quản lý: Là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các tác động quản lý cũng như lựa chọn các phương pháp quản lý thích hợp.

Quản lý ra đời chính là nhằm đến hiệu quả lớn hơn, năng suất cao hơn trong công việc. Thực chất của quản lý con người trong tổ chức nhằm đạt mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao nhất.

Quản lý là một hoạt động rất phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố đó tác động đến nội dung, phương thức và công cụ để tiến hành quản lý. Một số yếu tố cơ bản cần chú ý là: Yếu tố con người, yếu tố chính trị, yếu tố tổ chức, yếu tố quyền lực, yếu tố thông tin và yếu tố văn hoá.

1.2. Khái niệm quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là quản lý công việc của Nhà nước. Nội hàm của quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế- xã hội của mỗi một quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, quản lý nhà nước xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành chính (chấp hành và điều hành) của Chính phủ và hoạt động tư pháp của hệ thống tư pháp.

Trong hệ thống xã hội, tồn tại rất nhiều chủ thể  tham gia quản lý xã hội như: Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội vv…Trong hoạt động quản lý của các chủ thể khác nhau đó thì quản lý nhà nước có những điểm khác biệt.

Thứ nhất

, chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Thứ hai

, đối tượng quản lý của Nhà nước là toàn bộ dân cư và các tổ chức trong phạm vi tác động quyền lực Nhà nước.

Thứ ba

, vì tính đa dạng về lợi ích và hoạt động của con người trong xã hội, quản lý nhà nước diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao nhằm thoả mãn nhu cầu hợp pháp của nhân dân.

Thứ tư

, quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, lấy pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.

Từ những đặc điểm trên, có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện, nhằm thoả mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Trong hoạt động quản lý nhà nước, vấn đề kết hợp các yếu tố của hoạt động quản lý là rất phức tạp, đòi hỏi các nhà quản lý phải có năng lực cao với sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ hiện đại.

1.3. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước

Trong quản lý nhà nước, quản lý hành chính là hoạt động đa dạng, trung tâm, chủ yếu, vì hành chính là hoạt động tổ chức và điều hành để thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, quản lý hành chính nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với quản lý nhà nước. Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước tức là hoạt động chấp hành và điều hành. Thứ hai, chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan, cán bộ, công chức hành chính nhà nước trong hệ thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở.

Do đó, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ quan trong hệ thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, nhằm duy trì và phát triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Định nghĩa trên có 3 nội dung quan trọng:

- Sự hoạt động thực thi quyền hành pháp: Hành pháp là một trong 3 quyền của quyền lực nhà nước thống nhất.

Chính phủ là cơ quan cao nhất thực hiện quyền hành pháp đối với toàn xã hội.

Nhưng Chính phủ thực hiện chức năng của mình phải thông qua hệ thống thể chế hành chính nhà nước. Vì vậy, Chính phủ còn là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước.

Quản lý hành chính nhà nước thực hiện quyền lực chính trị bằng quyền hành pháp trong hành động (hành chính nhà nước).

- Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh: Tổ chức ở đây là tổ chức hành chính nhà nước, là sự thiết lập mối quan hệ con người, giữa cá thể với tập thể để thực hiện quản lý hành chính nhà nước một quá trình xã hội. Trong quản lý hành chính nhà nước, chức năng tổ chức rất quan trọng, vì không có tổ chức thì không thể quản lý được. Nhà nước phải tổ chức cả triệu người và mỗi người đều có vị trí tích cực đối với xã hội, đóng góp phần của mình để tạo ra lợi ích cho xã hội. Vấn đề cốt lõi là sự quy định về mặt pháp lý thể hiện bằng các quyết định quản lý về nguyên tắc, tiêu chuẩn, biện pháp nhằm tạo sự phù hợp của các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người.

- Sự tác động bằng pháp luật và theo pháp luật. Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Không được phép dựa vào quyền để làm trái pháp luật. Mọi sự vi phạm pháp luật đều phải được xử lý.

2. Tính chất cơ bản của quản lý hành chính nhà nước ở nước ta

-  Tính chất chính trị xã hội chủ nghĩa

Nhà nước là trung tâm của quyền lực chính trị, trụ cột của hệ thống chính trị. Hành chính nhà nước là bộ phận trọng yếu của Nhà nước để thực hiện quyền lực nhà nước trong xã hội. Do đó, hoạt động hành chính nhà nước của bộ máy hành chính nhà nước luôn hướng tới thực hiện mục tiêu chính trị.

Ở nước ta, quản lý hành chính nhà nước thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Tính chất dân chủ xã hội chủ nghĩa

Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, do đó xét về chính trị xã hội, nhân dân là chủ thể quản lý đất nước. Nhà nước được nhân dân uỷ quyền thay mặt cho nhân dân thực hiện quản lý toàn dân, toàn diện. Chính vì thế mà hoạt động hành chính nhà nước phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, phải đảm bảo nhân dân làm chủ thực sự trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Tính chất này đòi hỏi quản lý hành chính nhà nước phải tạo điều kiện để thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào quản lý các quá trình xã hội với phương châm thực hiện quá trình dân chủ hoá: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Từ thực tiễn cách mạng ở nước ta trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát triển quyền làm chủ của nhân dân lao động.

- Tính chất khoa học

Trong quá trình phát triển của xã hội, quản lý luôn phải có căn cứ khoa học. Quản lý là khoa học vì nó có tính quy luật, có các nguyên lý và mối quan hệ tương hỗ với các khoa học khác. Đồng thời, cùng với tính khoa học, quản lý là nghệ thuật vì nó phụ thuộc vào tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ, kinh nghiệm... của người quản lý.

Cùng với sự phát triển của Nhà nước và vai trò ngày càng tăng của Nhà nước trong quản lý xã hội, khoa học hành chính dần trở thành một ngành khoa học độc lập vào những năm đầu thế kỷ 20.

Quản lý hành chính Nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của toàn bộ hoạt động của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Chính vì vậy, người cán bộ, công chức phải có kiến thức về những quy luật khách quan của hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng.

- Tính chất ngành, lĩnh vực

Đối tượng của quản lý hành chính nhà nước là hoạt động của cư dân trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, tinh thần, tư tưởng... Quản lý hành chính nhà nước không chỉ là tổ chức điều chỉnh từng lĩnh vực mà còn phải liên kết, phối hợp các lĩnh vực thành một thể thống nhất để đảm bảo xã hội phát triển đồng bộ, cân đối, có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội không có nghĩa là các cơ quan hành chính nhà nước điều chỉnh mọi khía cạnh hoạt động xã hội mà chỉ điều chỉnh các khía cạnh do luật định.

3. Các đặc điểm cơ bản của quản lý hành chính nhà nước

Khi nói đến đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là nói đến những nét đặc thù của quản lý hành chính nhà nước để phân biệt với các dạng quản lý xã hội của các chủ thể khác. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng quản lý hành chính nhà nước là một dạng quản lý xã hội nói chung, nhưng nó là dạng quản lý xã hội đặc biệt. Vì vậy, để đạt mục đích nghiên cứu, cũng như hoàn thiện quản lý hành chính xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn, khi xem xét cần gắn với các đặc điểm chung của quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước và những đặc điểm riêng của quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa. Với cách tiếp cận như trên, quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa có các đặc điểm cơ bản dưới đây:

- Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức rất cao và tính mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước.

Hoạt động quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực nhà nước. Tính quyền lực ấy là đặc điểm để phân biệt hoạt động quản lý nhà nước với các hoạt động quản lý khác. Quyền lực hành chính nhà nước bắt nguồn từ quyền lực nhà nước.

- Quản lý hành chính nhà nước có mục tiêu chiến lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu.

Trong quản lý, hoạt động đề ra mục tiêu được coi là chức năng đầu tiên và cơ bản. Mục tiêu quản lý là căn cứ để các chủ thể quản lý đưa ra những tác động thích hợp với những hình thức và phương pháp phù hợp. Mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước là mục tiêu tổng hợp bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao và các mục tiêu có tính chất lâu dài, có tính thứ bậc hành chính tạo thành một hệ thống mục tiêu từ Trung ương đến cơ sở. Để đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra, hành chính nhà nước cần thiết lập hệ thống các chương trình, dự án và hệ thống kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.

- Quản lý hành chính nhà nước có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức lại nền sản xuất xã hội và cuộc sống con người trên địa bàn của mình theo sự phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền và theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục và tương đối ổn định trong tổ chức và hoạt động.

Nền hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ nhân dân, lấy phục vụ công vụ và nhân dân là công việc hằng ngày, thường xuyên cho nên quản lý hành chính nhà nước phải bảo đảm tính liên tục để thoả mãn nhu cầu hằng ngày của nhân dân, của xã hội và phải ổn định để đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống chính trị – xã hội nào. Tính liên tục liên quan chặt chẽ tới công tác lưu trữ các văn bản, giấy tờ của cơ quan, tổ chức và nhân dân. Tính ổn định ở đây là tương đối vì đời sống kinh tế xã hội luôn phát triển không ngừng, hành chính nhà nước phải luôn thích ứng với thực tế xã hội trong từng giai đoạn, với sự phát triển của thời đại.

- Quản lý hành chính nhà nước có tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao. Đây là nghiệp vụ của một Nhà nước và một nền hành chính khoa học, văn minh, hiện đại. Quản lý hành chính nhà nước không chỉ được coi là một nghề mà còn được coi là một nghề tổng hợp, phức tạp, sáng tạo nhất trong các nghề. Cán bộ, công chức hành chính nhà nước không chỉ có chuyên môn chuyên sâu, mà phải có kiến thức rộng trên nhiều lĩnh vực.

- Quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là một hệ thống thông suốt từ trên xuống dưới, cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên (khác với hệ thống dân cử và hệ thống xét xử của các cơ quan tư pháp).

- Quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa  không có sự cách biệt tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Bởi vì, thứ nhất, trong quản lý xã hội thì con người vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quản lý. Mặt khác trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân là chủ thể quản lý đất nước.

- Quản lý hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa là hoạt động không vì lợi nhuận. Quản lý hành chính nhà nước không có mục đích tự thân, nó tồn tại là vì xã hội, nó có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích nhân dân. Do đó, hoạt động quản lý hành chính nhà nước không theo đuổi lợi nhuận mà nhằm phục vụ lợi ích công. Tuy nhiên, nó phải đạt hiệu quả xã hội trên cơ sở tiết kiệm chi phí.

- Quản lý hành chính nhà nước XHCN mang tính nhân đạo. Xuất phát từ bản chất Nhà nước dân chủ XHCN, tất cả các hoạt động của nền hành chính nhà nước đều có mục tiêu phục vụ con người, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và lấy đó làm xuất phát điểm của hệ thống luật, thể chế, quy tắc và thủ tục hành chính.

II. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là tư tưởng chỉ đạo hành động, hành vi quản lý nhà nước của các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước.

Nguyên tắc quản lý hành chính được hình thành trên cơ sở quy luật khách quan, qua kết quả nghiên cứu sâu sắc các điều kiện thực tế xã hội, dựa trên bản chất chính trị xã hội trong thời gian, không gian và hoàn cảnh cụ thể. Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước thể hiện các quan điểm chính trị và các phương thức trong quá trình thực hiện quyền hành pháp bằng hoạt động chấp hành của các cơ quan hành chính nhà nước và những người được Nhà nước uỷ quyền tham gia quản lý các công việc nhà nước, xã hội. Bởi vậy, nguyên tắc quản lý hành chính luôn phát triển theo sự phát triển của các hiện tượng chính trị – xã hội và khả năng nhận thức của con người.

Xuất phát từ bản chất chế độ chính trị, từ thực tiễn xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu có chọn lọc những thành tựu của hành chính học và kinh nghiệm của các nước khác, có thể rút ra được những nguyên tắc quản lý hành chính ở nước ta như sau:

1. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với quản lý hành chính nhà nước.

Lịch sử hình thành và phát triển của Nhà nước Việt Nam kiểu mới gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hệ thống chính trị ở nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Trước hết, Đảng lãnh đạo quản lý hành chính nhà nước bằng các nghị quyết đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ cho quản lý nhà nước và căn cứ vào đó để Nhà nước ban hành hệ thống các văn bản pháp luật nhằm thực hiện đường lối chính sách của Đảng. Đảng định hướng hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý về mặt cơ cấu tổ chức cũng như các hình thức và phương pháp chung.

Đảng lãnh đạo thông qua công tác tổ chức và cán bộ. Đảng đào tạo, lựa chọn, giới thiệu cán bộ cho cơ quan quản lý nhà nước, lãnh đạo việc sắp xếp, phân bổ cán bộ.

Hoạt động tổ chức, chỉ đạo, tuyên truyền vận động, kiểm tra sự thực hiện các Nghị quyết của Đảng cũng như pháp luật của nhà nước, của tổ chức Đảng các cấp và đảng viên có vai trò rất quan trọng, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước.

Sự lãnh đạo của Đảng - hạt nhân của hệ thống chính trị nước ta là cơ sở bảo đảm sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Đảng lãnh đạo quản lý nhà nước nhưng không làm thay các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy việc phân định chức năng lãnh đạo của cơ quan Đảng và chức năng quản lý của các cơ quan nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng và cũng là điều kiện cơ bản để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.

Sự tham gia của nhân dân vào quyền lực chính trị là một trong những đặc trưng của chế độ dân chủ, quyền tham gia vào hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân được quy định tại Điều 28 Hiến pháp 2013: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.

Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, tham gia giải quyết những vấn đề lớn và hệ trọng của địa phương hoặc đơn vị. Ngoài việc tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, những hình thức tham gia trực tiếp khác của nhân dân vào quản lý nhà nước là: Thảo luận góp ý kiến vào quá trình xây dựng những đạo luật hoặc các quyết định quan trọng khác của Nhà nước hoặc của địa phương; kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước…Các hình thức tham gia gián tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan này thông qua hoạt động của các đại biểu do mình bầu ra.

Để đảm bảo sự tham gia quản lý hành chính nhà nước của nhân dân có hiệu quả, cần phải thể chế hoá các quyền đó một cách cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò của các đại biểu nhân dân và nâng cao hiệu quả sự tham gia, kiểm tra giám sát của các đoàn thể nhân dân vào quản lý nhà nước.

2. Nguyên tắc tập trung dân chủ

Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định trước hết là sự lãnh đạo tập trung đối với những vấn đề cơ bản chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó đảm bảo cho cơ quan cấp dưới, địa phương và cơ sở khả năng thực hiện quyết định của Trung ương căn cứ vào các điều kiện thực tế của mình. Bên cạnh đó phải bảo đảm tính sáng tạo, quyền chủ động của địa phương và cơ sở. Cấp Trung ương giữ quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản, đồng thời thực hiện phân cấp quản lý, giao quyền hạn trách nhiệm cho các địa phương, các ngành trong tổ chức quản lý điều hành để thực hiện các văn bản của cấp trên. Điều 8 Hiến pháp 2013, quy định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước.

Tập trung dân chủ được biểu hiện trong cơ chế vận hành của bộ máy. Đó là quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của các cơ quan quản lý trước cơ quan dân cử; phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan quản lý các cấp; hệ thống “hai chiều trực thuộc” của một số cơ quan quản lý bảo đảm kết hợp tốt sự lãnh đạo tập trung theo ngành với quyền quản lý tổng thể của địa phương, kết hợp lợi ích  toàn quốc với lợi ích của địa phương…

Tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước, là một thể thống nhất. Tập trung dân chủ không phải là cơ quan cấp trên “làm thay”, “lấn sân” vào thẩm quyền của cơ quan cấp dưới, đồng thời cũng phủ nhận việc cơ quan cấp dưới ỉ lại, đùn đẩy cho cấp trên. Trong thực tiễn quản lý hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang khắc phục bệnh tập trung quan liêu, đồng thời chống biểu hiện tự do, tuỳ tiện, phân tán cục bộ địa phương, vô kỷ luật, kỷ cương.

3. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế

Quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế  là nguyên tắc hiến định. Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp luật. Điều đó có nghĩa là hệ thống hành chính nhà nước phải chấp hành luật và các quyết định của Quốc hội trong chức năng thực hiện quyền hành pháp; khi ban hành quyết định quản lý hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật. Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Nếu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có những sai phạm trong hoạt động quản lý gây thiệt hại tới lợi ích hợp pháp của người công dân thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường cho công dân.

Để thực hiện nguyên tắc này, cần làm tốt các nội dung cơ bản sau:

- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật;

- Tổ chức thực hiện tốt pháp luật đã ban hành;

- Xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật;

- Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho toàn dân.

4. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ

Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ là hai mặt không tách rời nhau mà phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Các đơn vị kinh tế thuộc bất cứ thành phần kinh tế  nào, nằm trên địa bàn quản lý nào đều thuộc một ngành kinh tế - kỹ thuật nhất định và chịu sự quản lý của ngành (bộ). Mặt khác, các đơn vị kinh tế thuộc các ngành kinh tế – kỹ thuật khác nhau đều được phân bố trên những địa bàn nhất định, chúng có quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế và gắn bó với nhau trên các mặt xã hội, tạo nên một cơ cấu kinh tế – xã hội và chịu sự quản lý của chính quyền địa phương. Đây là sự thống nhất giữa hai mặt: cơ cấu kinh tế ngành với cơ cấu kinh tế  lãnh thổ trong một cơ cấu kinh tế chung.

Các hoạt động quản lý theo ngành của cơ quan nhà nước nhằm đề ra các chủ trương, chính sách phát triển toàn ngành, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị kinh tế phát huy tính chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh. Cần nhấn mạnh rằng quản lý theo ngành ở đây là quản lý về mặt nhà nước: Nhà nước đề ra chủ trương chính sách, xây dựng chiến lược, sử dụng các đòn bẩy… còn quản lý sản xuất kinh doanh là quyền chủ động của đơn vị sản xuất kinh doanh.

Nội dung quản lý theo lãnh thổ nhằm tổ chức sự điều hoà phối hợp các hoạt động của các ngành, các thành phần kinh tế và tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…trên phạm vi cả nước cũng như trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ với mục tiêu bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân về mọi mặt.

5. Nguyên tắc phân định hoạt động quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sản xuất - kinh doanh của các chủ thể kinh tế của nhà nước và hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp

Nhà nước ta có khả năng, nhiệm vụ tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân; quản lý các thành phần kinh tế nhưng không phải là người trực tiếp kinh doanh và quản lý kinh doanh. Nhà nước tôn trọng tính độc lập tự chủ của các đơn vị kinh doanh. Trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước hiện nay, trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:

- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Định hướng và hỗ trợ phát triển thông qua kế hoạch và các chính sách kinh tế.

- Hoạch định và thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia.

- Tổ chức nền kinh tế và điều chỉnh bằng các công cụ và biện pháp vĩ mô.

- Tổ chức và giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các đơn vị kinh tế

Nhà nước thực hiện các chức năng trên thông qua một hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước; thông qua tổ chức kinh tế của Nhà nước; thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, có năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Các tổ chức kinh doanh trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh bình đẳng trước pháp luật; có quyền tự chủ về tài chính và thực hiện hạch toán kinh tế; có nhiệm vụ phát huy năng lực kinh doanh có hiệu quả đạt mục tiêu thu lợi nhuận cao trong khuôn khổ pháp lý và chịu sự quản lý bằng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.

Bộ máy hành chính nhà nước không thực hiện chức năng kinh doanh và không can thiệp vào hoạt động sản xuất – kinh doanh đối với những vấn đề mà theo luật thuộc quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất – kinh doanh nói chung và các chủ thể sản xuất kinh doanh do Nhà nước thành lập. Trao quyền tự chủ cho các đơn vị kinh tế nói chung và các đơn vị kinh tế do nhà nước thành lập và tăng cường hoạt động quản lý nhà nước, tạo hành lang pháp lý có hiệu lực để quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi chủ thể kinh tế, không phân biệt do Nhà nước lập hay của các thành phần kinh tế khác.

Bên cạnh đó cũng cần phân định rõ những hoạt động sự nghiệp của các tổ chức sự nghiệp của Nhà nước. Các tổ chức này không hoạt động quản lý điều hành các quan hệ xã hội mà nó do Nhà nước lập ra để thực hiện các dịch vụ công, liên quan đến những nhu cầu thiết yếu của công dân, tổ chức. Việc phân định này nhằm giúp cho hành chính nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất để cung ứng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cho xã hội.

6. Nguyên tắc công khai

Tổ chức hoạt động hành chính của nhà nước ta là nhằm phục vụ lợi ích quốc gia và lợi ích hợp pháp của công dân nên cần phải công khai hoá, thực hiện đúng chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân  kiểm tra”. Phải quy định các hoạt động cần công khai cho dân biết, tạo điều kiện thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động hành chính nhà nước.

III. HÌNH THỨC, CÔNG CỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1. Hình thức quản lý hành chính

Hình thức hoạt động quản lý hành chính nhà nước được hiểu là sự biểu hiện về hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của tổ chức.

Quản lý hành chính nhà nước có nhiều hình thức hoạt động. Việc lựa chọn hình thức hoạt động cần phải được tiến hành trên cơ sở khoa học sau:

- Sự phù hợp của hình thức quản lý với chức năng quản lý.

- Sự phù hợp của hình thức quản lý với nội dung và tính chất của những nhiệm vụ quản lý cần giải quyết.

- Sự phù hợp của hình thức quản lý với những đặc điểm của đối tượng quản lý cụ thể.

- Sự phù hợp của hình thức quản lý với mục đích cụ thể của tác động quản lý.

Nét đặc trưng của hình thức quản lý hành chính nhà nước là những hình thức pháp lý liên kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở sự thống nhất của chức năng chấp hành- điều hành. Đồng thời, thực tiễn quản lý hành chính nhà nước cũng cho thấy rằng hoạt động quản lý hành chính nhà nước còn có thể được tiến hành dưới những hình thức không pháp lý.

Do đó, ta có thể phân hình thức quản lý hành chính nhà nước thành:

- Những hình thức pháp lý được pháp luật quy định cụ thể về nội dung, trình tự, thủ tục.

- Những hình thức không pháp lý chỉ được pháp luật quy định khuôn khổ chung để tiến hành lựa chọn phương thức, cách thức quản lý.

1.1. Hình thức pháp lý

Hoạt động ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước là hình thức quản lý quan trọng được phân loại như sau:

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp lý quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước quy định những quy tắc xử sự chung trong lĩnh vực quản lý Nhà nước; những nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước; xác định rõ thẩm quyền và thủ tục tiến hành hoạt động của đối tượng quản lý…

Ban hành văn bản áp dụng pháp luật

Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước. Nội dung của nó là áp dụng một hay nhiều quy phạm pháp luật vào một trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể. Việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.

Thông qua việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tác động một cách tích cực và trực tiếp đến mọi hoạt động của các cơ quan cấp dưới, các cơ quan, tổ chức trực thuộc, các tổ chức phi nhà nước và công dân tham gia vào quan hệ quản lý hành chính nhà nước.

Các hoạt động mang tính chất pháp lý khác.

Đây là hình thức pháp lý quan trọng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hình thức hoạt động này được tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được định trước trong quy phạm pháp luật nhưng không cần ban hành văn bản áp dụng pháp luật.

Đó là những hoạt động như:

- Áp dụng những biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật như kiểm tra bằng lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng…

- Đăng ký những sự kiện nhất định như đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký phương tiện giao thông…

- Lập và cấp một số giấy tờ nhất định như lập biên bản về vi phạm hành chính

- Hoạt động công chứng: Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

1.2. Hình thức không pháp lý

Đó là hình thức hoạt động thuộc phạm vi chức năng, thẩm quyền, pháp luật cho chủ thể có thẩm quyền được lựa chọn việc thực hiện để bảo đảm tính chủ động, hiệu quả của hoạt động.

Ví dụ: Hình thức hội nghị được tiến hành ở các cơ quan nhà nước. Đối với các cơ quan thẩm quyền chung, lãnh đạo tập thể thì hình thức hội nghị là hình thức pháp lý, vì luật quy định rõ về định kỳ và giá trị pháp lý của nghị quyết hội nghị (kỳ họp, phiên họp). Nhưng hội nghị ở cơ quan quản lý thẩm quyền riêng, theo chế độ thủ trưởng thì đó là hình thức không pháp lý vì nó không ban hành quyết định có tính quyền lực.

2. Công cụ quản lý hành chính nhà nước

Để thực hiện chức năng thẩm quyền, các cơ quan hành chính sử dụng công cụ chủ yếu: công sở, công sản, công quyền - quyết định quản lý hành chính.

- Công sở: là trụ sở cơ quan, là nơi làm việc của cơ quan, là nơi cán bộ lãnh đạo, công chức và nhân viên thực thi công cụ, ban hành các quyết định hành chính và tổ chức thực hiện các quyết định, là nơi giao tiếp đối nội, đối ngoại…

- Công sản: là vốn (kinh phí) và các điều kiện, phương tiện để hoạt động.

- Quyết định quản lý hành chính: Là sự biểu hiện ý chí của Nhà nước. Là kết quả thực hiện quyền hành pháp mang tính mệnh lệnh đơn phương của quyền lực nhà nước.

3. Phương pháp quản lý hành chính

3.1. Các yêu cầu đối với phương pháp quản lý hành chính nhà nước

Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là các cách thức điều hành để đảm bảo việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và các chức vụ quản lý hành chính nhà nước.

Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước phải đáp ứng những yêu cầu sau:

- Phương pháp quản lý hành chính nhà nước phải có khả năng đảm bảo tác động quản lý lên lĩnh vực chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước, có tính đến đặc điểm của mỗi lĩnh vực và sự phát triển chung của xã hội, điều đó có nghĩa là phương pháp quản lý là phương pháp chung, nếu không đảm bảo tác động lên tất cả các lĩnh vực quản lý thì cũng phải đảm bảo tác động lên những lĩnh vực chủ yếu mà vẫn phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh vực.

- Các phương pháp quản lý phải đa dạng và thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau, bởi vì cách thức tác động lên cá nhân không giống cách thức tác động lên tập thể lao động; cách thức tác động trực tiếp không giống cách thức tác động lên đối tượng gián tiếp, cách thức tác động lên đối tượng lệ thuộc về mặt tổ chức cũng không giống cách thức tác động lên những đối tượng không lệ thuộc về mặt tổ chức.

- Các phương pháp quản lý phải có tính khả thi, nghĩa là có khả năng đảm bảo thực hiện trên thực tế bất kỳ nhiệm vụ quản lý nào.

- Các phương pháp quản lý phải có khả năng đem lại hiệu quả cao, nghĩa là tính đến triển vọng, đảm bảo sự tiến bộ trong lĩnh vực quản lý, đảm bảo đạt kết quả tốt nhất với chi phí thấp nhất.

- Các phương pháp phải mềm dẻo, linh hoạt, nghĩa là có khả năng đảm bảo tác động quản lý lên các đối tượng quản lý, phù hợp với đặc điểm và thực trạng của đối tượng ở những thời điểm nhất định, trong những hoàn cảnh và điều kiện nhất định.

- Các phương pháp phải có tính sáng tạo nghĩa là chúng phải thường xuyên được đổi mới và hoàn thiện trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lịch sử, sử dụng những gì hợp lý ở giai đoạn đã qua, những gì có thể áp dụng trong giai đoạn mới và loại bỏ những gì không thể phục vụ việc giải quyết nhiệm vụ quản lý trong hiện tại cũng như trong tương lai.

- Các phương pháp quản lý phải hoàn toàn phù hợp với pháp luật, với cơ chế hiện hành của Nhà nước.

3.2. Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước

Các cơ quan hành chính nhà nước, trong tổ chức hoạt động của mình đều sử dụng rất nhiều phương pháp quản lý.

Các phương pháp có thể phân thành 02 nhóm:

a) Nhóm thứ nhất gồm những phương pháp quản lý chung được quản lý hành chính nhà nước vận dụng, cụ thể là:

- Phương pháp kế hoạch hoá:

Các cơ quan hành chính nhà nước dùng phương pháp này để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, lập quy hoạch tổng thể và chuyên ngành; dự báo xu thế phát triển; đặt chương trình mục tiêu và xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.

Sử dụng phương pháp này để tính toán các chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, các biện pháp cân đối.

Đây là phương pháp rất quan trọng ở cả tầm vĩ mô của Nhà nước và vi mô của cơ sở.

- Phương pháp thống kê

Phương pháp này được các cơ quan quản lý hành chính nhà nước sử dụng để tiến hành điều tra khảo sát, phân bố, sử dụng các phương pháp tính toán như: Số bình quân gia quyền, chỉ số, tương quan tuyến tính, tương quan hồi quy…để phân tích tình hình và nguyên nhân của hiện tượng quản lý, làm căn cứ khoa học cho việc ra quyết định quản lý.

Sử dụng các phương pháp thu thập số liệu, tổng hợp và chỉnh lý để tính toán tốc độ phát triển các chỉ tiêu quan trọng.

- Phương pháp toán học

Với phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước ứng dụng ma trận, vận trù học, sơ đồ mạng…trong quản lý; sử dụng các máy điện toán để thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin; toán học hoá các chương trình mục tiêu kinh tế- xã hội; tính toán các cân đối liên ngành trong mọi lĩnh vực hoạt động quản lý.

- Phương pháp tâm lý - xã hội

Phương pháp tâm lý – xã hội nhằm tác động vào tâm tư, tình cảm của người lao động, tạo cho họ không khí hồ hởi, yêu thích công việc, gắn bó với tập thể lao động, hăng say làm việc, giải quyết cho họ những vướng mắc trong công tác, động viên, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn về cuộc sống.

Do vậy, tác động tâm lý – xã hội là phương pháp quản lý rất quan trọng.

- Phương pháp sinh lý học

Trên cơ sở phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành bố trí nơi làm việc phù hợp với sinh lý của con người, tạo ra sự thoải mái trong làm việc và tiết kiệm các thao tác không cần thiết nhằm tăng năng suất lao động như: bố trí phòng làm việc; bàn làm việc, ghế ngồi; vị trí đặt điện thoại; vị trí để tài liệu; màu sắc, ánh sáng…

b) Nhóm thứ hai gồm 4 phương pháp chủ yếu của khoa học quản lý, cụ thể là:

- Phương pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức

Đây là phương pháp tác động về tư tưởng và tinh thần đối với con người để họ giác ngộ lý tưởng, ý thức chính trị và pháp luật, nhận biết được việc làm nào là tốt, là vinh, là thiện…, việc làm nào là xấu, là nhục, là ác vv…

Ý thức đúng thì hành động tốt, trên cơ sở đó sẽ có trách nhiệm, có kỷ luật, có lương tâm, không vi phạm pháp luật, hăng hái lao động, đem hết sức mình ra cống hiến.

Giáo dục chính trị, tư tưởng không phải là hô hào bằng những khẩu hiệu chính trị, động viên lòng nhiệt tình, hăng hái chung bằng tuyên truyền tình cảm như nhiều người quan niệm và nhiều nơi vẫn làm. Đó là những công việc cụ thể, có kế hoạch thực hiện rõ ràng cho từng giai đoạn phát triển nhất định, đảm bảo trang bị cho người lao động đủ kiến thức, đủ năng lực, đủ lòng nhịêt tình đảm đương được công việc do yêu cầu thực tiễn.

Giáo dục chính trị, tư tưởng không chỉ đối với đối tượng quản lý mà cả đối với chủ thể quản lý. Nội dung giáo dục phải thiết thực, sâu sắc gắn chặt với sản xuất, công tác và quản lý với phương pháp hình thức linh hoạt, có chất lượng phù hợp với  đối tượng.

- Phương pháp tổ chức (biện pháp tổ chức)

Phương pháp này là biện pháp đưa con người vào khuôn khổ kỷ luật, kỷ cương. Để thực hiện biện pháp này có nhiều việc phải làm, nhưng quan trọng nhất là phải có quy chế, quy trình, nội quy hoạt động cho cơ quan, bộ phận, cá nhân và phải cương quyết thực hiện. Phải nghiêm túc kiểm tra và xử lý kết quả đã kiểm tra một cách dân chủ, công bằng. Làm tốt thì thưởng, làm không tốt thì xử phạt.

Làm tốt được biện pháp này thì trách nhiệm và kỷ luật sẽ được giữ vững và tăng lên, hiệu quả công việc sẽ cao, đoàn kết nội bộ được bảo đảm; ngược lại thì tư tưởng sẽ không lành mạnh, đoàn kết nội bộ không yên, kỷ luật kỷ cương lỏng lẻo, hiệu quả công việc thấp.

- Phương pháp kinh tế (hiệu quả)

Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế, tác động đến lợi ích của con người.

Khởi điểm của phương pháp này chính là sự quản lý bằng lợi ích và thông qua lợi ích để làm cho các khách thể quản lý suy nghĩ đến lợi ích của mình, tự giác thực hiện bổn phận và trách nhiệm của mình một cách tốt nhất, mà không phải đôn đốc, nhắc nhở nhiều về mặt hành chính mệnh lệnh của chủ thể quản lý.

Tuy nhiên, phải biết kết hợp một cách đúng đắn giữa 3 lợi ích: lợi ích của người lao động, lợi ích tập thể và lợi ích của Nhà nước. Trong 3 lợi ích này, lợi ích của người lao động là động lực trực tiếp, lợi ích của Nhà nước là tối cao.

- Phương pháp hành chính (cấm đoán, bắt buộc)

Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý cách ra mệnh lệnh hành chính dứt khoát, bắt buộc đối tượng quản lý. Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp lên đối tượng bằng cách quy định đơn phương nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý.

Phương pháp hành chính thể hiện tính chất quyền lực của hoạt động quản lý. Cơ sở của nó là nguyên tắc tập trung, dân chủ mà cụ thể là sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên và tính chất bắt buộc thi hành những mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên đối với cấp dưới. Phương pháp hành chính cần thiết để đảm bảo cho hoạt động quản lý được tiến hành có hiệu quả và đảm bảo kỷ luật nhà nước.

Phương pháp hành chính được thực hiện qua các nội dung:

+ Quy định những quy tắc xử sự chung trong quản lý hành chính nhà nước.

+ Quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan dưới quyền, giao nhiệm vụ cho các cơ quan đó.

+ Thoả mãn đơn phương yêu cầu hợp pháp của công dân.

+ Kiểm tra việc chấp hành pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới.

+ Áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết.

Trong 4 phương pháp này, theo quan niệm chung hiện nay thì phương pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức là hàng đầu, phải làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Biện pháp tổ chức là hết sức quan trọng, có tính khẩn cấp. Phương pháp kinh tế là biện pháp cơ bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động quản lý nhà nước. Phương pháp hành chính là rất cần thiết, nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn.

CHUYÊN ĐỀ 3

TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 

I. KHÁI QUÁT VỀ BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

             1. Khái niệm bộ máy hành chính nhà nước

 

Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương xuống địa phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống nhất nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược và các chức năng của nhà nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Căn cứ vào trật tự hình thành cũng như tính chất, vị trí, chức năng của các cơ quan nhà nước, bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

gồm  bốn hệ thống cơ quan:

- Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước (hay còn gọi là các cơ quan đại diện);

- Hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (hay còn gọi là bộ máy hành chính nhà nước);         

- Hệ thống các cơ quan xét xử;

- Hệ thống các cơ quan kiểm sát;

Ngoài bốn hệ thống các cơ quan nhà nước nói trên, trong

tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

còn có Chủ tịch nước - Nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu nhà nước), có chức năng thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại.

          Trong đó, bộ máy hành chính nhà nước được thiết lập để thực thi quyền hành pháp (quyền tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước).

          Như vậy, bộ máy hành chính nhà nước

là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, bao gồm

hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập, tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật để thực hiện quyền lực nhà nước, có chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

2. Đặc điểm của bộ máy hành chính nhà nước

          Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước. Do vậy, bộ máy hành chính nhà nước cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của bộ máy nhà nước, đó là:

          Một là, bộ máy hành chính nhà nước hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ: bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước; bộ máy hành chính nhà nước nhân danh nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.

          Hai là, mỗi cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước đều hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền nhất định và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao. Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu, có tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.

          Ba là, về mặt thẩm quyền thì các cơ quan hành chính nhà nước được quyền đơn phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính và văn bản đó có hiệu lực bắt buộc đối với các đối tượng có liên quan; cơ quan hành chính nhà nước có quyền lực áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các đối tượng chịu sự tác động, quản lý của cơ quan hành chính nhà nước.

          Ngoài những đặc điểm chung nói trên, bộ máy hành chính nhà nước còn có những đặc điểm riêng như sau:

          Một là, bộ máy hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi đó các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào hoạt động quản lý trong phạm vi, lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Quốc hội có chức năng chủ yếu trong hoạt động lập pháp; Tòa án có chức năng xét xử; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát. Chỉ bộ máy hành chính nhà nước mới có quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: Quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý nhà nước về văn hóa, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, quản lý xã hội,...

          Hai là, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền của bộ máy hành chính nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Hoạt động chấp hành - điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là cơ quan hành chính nhà nước chỉ tiến hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành của nhà nước.

          Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực nhà nước cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó. Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền thành lập ra các cơ quan chuyện môn để giúp cho cơ quan hành chính nhà nước hoàn thành nhiệm vu.

          Ba là, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất. Bộ máy hành chính nhà nước là một hệ thống cơ quan được thành lập từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. Hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước đều có hệ thống các đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị, cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.

          Bốn là, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước mang tính thường xuyên, liên tục và tương đối ổn định, là cầu nối đưa đường lối, chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Tất cả các cơ quan hành chính nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là mối quan hệ trực thuộc trên - dưới, trực thuộc ngang - dọc, quan hệ chéo... tạo thành một hệ thống thống nhất mà trung tâm chỉ đạo là Chính phủ.

          Năm là, bộ máy hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước dưới hai hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ sở Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực tiếp chỉ đạo, điều hành, kiểm tra... hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước dưới quyền và các đơn vị cơ sở trực thuộc của mình.

          Tóm lại, bộ máy hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, trong phạm vi thẩm quyền của mình thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành và tham gia chủ yếu vào hoạt động quản lý nhà nước, có cơ cấu tổ chức và phạm vi theo luật định.

          Trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước được sử dụng quyền lập quy và quyền hành chính theo quy định của pháp luật.

          - Quyền lập quy là quyền ban hành các văn bản pháp quy (còn gọi là văn bản dưới luật) như ban hành Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng, v.v. để cụ thể hóa luật, thực hiện luật nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế - xã hội thuộc phạm vi quyền hành pháp. Dưới góc độ pháp luật, có thể xem đây là sự ủy quyền của cơ quan lập pháp cho cơ quan hành pháp để điều hành các hoạt động cụ thể của quyền lực nhà nước.

          - Quyền hành chính là quyền tổ chức ra bộ máy cai quản, sắp xếp nhân sự, điều hành công việc quốc gia, sử dụng nguồn tài chính và công sản để thực hiện những chính sách của đất nước. Đó là quyền tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội, đưa pháp luật vào đời sống nhằm giữ gìn trật tự an ninh xã hội, phục vụ lợi ích của công dân, đảm bảo dân sinh, giải quyết các vấn đề xã hội và sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính và công sản để phát triển đất nước một cách có hiệu quả.

          Với tư cách là cơ quan hành chính cao nhất, Chính phủ nắm quyền thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; quản lý hệ thống bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở trong khuôn khổ hệ thống chính trị hiện hành.

          II. TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                       1. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương

                      

1.1. Chính phủ

          Ở Việt Nam hiện nay, theo Điều 94 Hiến pháp 2013, Chính phủ là: "cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực thi quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội".

          Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra theo đề nghị của Chủ tịch nước tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội. Thủ tướng đề nghị danh sách các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ để Quốc hội phê chuẩn. Quy định pháp lý này vừa xác định vai trò và trách nhiệm của tập thể Chính phủ trước Quốc hội, vừa xác định vai trò cá nhân của Thủ tướng là người lãnh đạo toàn bộ công việc của Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Mặt khác cũng xác định vai trò và trách nhiệm của các bộ trưởng trong tập thể Chính phủ và vai trò cá nhân bộ trưởng về lĩnh vực mình phụ trách.

          Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chính phủ là một thiết chế chính trị - hành chính nhà nước, nắm quyền hành pháp, với chức năng: thống nhất việc quản lý thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; lập quy để thực hiện các luật do quyền lập pháp định ra; quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước; tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và quản lý nhân sự của bộ máy đó; chức năng tham gia quá trình lập pháp.

               a. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ

          Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được ghi trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ, gồm:

          - Lãnh đạo công tác của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định; đào tạo bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

          - Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân.

          - Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội.

          - Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và đảm bảo sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính; bảo vệ môi trường.

          - Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước.

          - Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy nhà nước, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

          - Thống nhất quản lý công tác đối ngoại, đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp do Chủ tịch nước ký với người đứng đầu Nhà nước khác; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Viêt Nam ở nước ngoài.

          - Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; thống nhất quản lý công tác thi đua, khen thưởng.

          - Phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.

          Trong lĩnh vực tổ chức hệ thống hành chính nhà nước, Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:

          - Trình Quốc hội quyết định cơ cấu tổ chức của Chính phủ, thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ, thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

          - Tổ chức và chỉ đạo hoạt động của hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước thông suốt trong hệ thống hành chính nhà nước, cơ quan hành chính cấp dưới phải phục tùng sự lãnh đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cơ quan hành chính cấp trên.

          - Quyết định và chỉ đạo thực hiện phân công, phân cấp quản lý ngành và lĩnh vực trong hệ thống hành chính nhà nước.

          - Chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính nhà nước, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

          - Quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ, quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ; quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân và hướng dẫn về tổ chức một số cơ quan chuyên môn để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương; quy định mức biên chế hành chính, sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân.

          - Thống nhất quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở; xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập trong sạch, có trình độ, năng lực, trung thành với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tận tụy phục vụ nhân dân; quyết định và chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ về đào tạo, tuyển dụng sử dụng, tiền lương, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu và các chế độ khác đối với cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; quy định và chỉ đạo thực hiện chính sách cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.

            

 b. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ

         

Cơ cấu tổ chức của Chính phủ do Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ quy định. Tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể, cơ cấu tổ chức của Chính phủ có những yếu tố cấu thành khác nhau.

          Chính phủ gồm có:

              - Thủ tướng Chính phủ;

              - Các Phó Thủ tướng Chính phủ;

              - Các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

          Số Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ tướng cơ quan ngang bộ do Quốc hội quyết định.

          Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiễm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước.

          Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiễm, cách chức và từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

          Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

                       c. Hình thức hoạt động của Chính phủ

         

Hoạt động của Chính phủ được tiến hành theo ba hình thức:

         

- Các phiên họp của Chính phủ (hoạt động của tập thể Chính phủ). Luật tổ chức Chính phủ quy định

cụ thể về cách thức tiến hành các kỳ họp hàng tháng của Chính phủ.

          Hoạt động và quyết định mang tính tập thể của Chính phủ trên những lĩnh vực cụ thể được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ. Điều này nhằm tăng cường tính trách nhiệm của tập thể Chính phủ trước các vấn đề quan trọng của đất nước. Luật Tổ chức Chính phủ quy định rõ các công việc sau đây phải do tập thể Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số:

          + Chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ;

          + Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ, các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trình Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội; các nghị quyết, nghị định của Chính phủ;

          + Dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, năm năm, hàng năm, các công trình quan trọng; dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách trung ương và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương; tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm trình Quốc hội;

          + Đề án về chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo trình Quốc hội;

          + Các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ, các vấn đề quan trọng về quốc phòng an ninh, đối ngoại;

          + Các đề án trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể bộ, cơ quan ngang bộ; việc thành lập mới, nhập chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, việc thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt;

          + Quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ;

          + Các báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

         

- Sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng là những người giúp Thủ tướng phụ trách một hoặc một số lĩnh vực theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng lãnh đạo công tác của Chính phủ.

          - Hoạt động của các Bộ trưởng với tư cách là thành viên tham gia vào công việc chung của Chính phủ và với tư cách là người đứng đầu một một Bộ hay cơ quan ngang Bộ.

                      

1.2. Bộ và cơ quan ngang Bộ

     

   

Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý hành chính nhà nước đối với các loại dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực.

Như vậy Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương, có chức năng quản lý hành chính nhà nước về một ngành, đa ngành hoặc lĩnh vực công tác trên phạm vi toàn quốc.

         

Các

Bộ và cơ quan ngang Bộ

(sau đây gọi chung là Bộ) có thể chia thành 2 nhóm: Bộ quản lý hành chính nhà nước đối với ngành hoặc đa ngành và Bộ quản lý hành chính nhà nước đối với lĩnh vực. Trong đó:

          Bộ quản lý ngành: Là cơ quan hành chính nhà nước trung ương có trách nhiệm quản lý những ngành kinh tế - kỹ thuật, văn hoá, xã hội, cũng có thể các ngành tập hợp lại thành một nhóm liên ngành. Đó là những Bộ có trách nhiệm chỉ đạo toàn diện các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước và sự nghiệp; thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực cụ thể do Bộ phụ trách.

Bộ quản lý lĩnh vực: Là cơ quan hành chính nhà nước trung ương, có trách nhiệm quản lý theo từng lĩnh vực lớn như: Kế hoạch đầu tư, tài chính, ngân hàng, khoa học, công nghệ, lao động,  nội vụ, ngoại giao…   

          Hiện nay, về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ được quy định tại Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 của Chính phủ.

                       2. Bộ máy hành chính ở địa phương

          Theo điều 114 Hiến pháp năm 2013: “Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao”.

Uỷ ban nhân dân - Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có hai tư cách:

          - Một là, cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, chịu trách nhiệm thi hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và báo cáo công việc trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Ủy ban nhân dân cấp trên. Hội đồng nhân dân có quyền bầu, bãi miễn các thành viên của Ủy ban nhân dân, giám sát các hoạt động và bãi bỏ những quyết định không phù hợp của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Ủy ban nhân dân chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân và đôn đốc của Thường trực Hội đồng nhân dân.

          - Hai là,

cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Ủy ban nhân dân) chịu trách nhiệm không chỉ chấp hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp mà còn chấp hành các quyết định của các cơ quan hành chính cấp trên, thi hành luật thống nhất trên cả nước, thực hiện chức năng quản lý mọi mặt đời sống xã hội trên phạm vi lãnh thổ địa phương. Ủy ban nhân dân các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.

          a. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân

          Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân từng cấp được quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003. Ở mỗi cấp, Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng khái quát lại có thể có những loại nhiệm vụ, quyền hạn sau:

          - Quản lý nhà nước ở địa phương trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ và môi trường, thể dục, thể thao, báo chí, phát thanh, truyền hình và các lĩnh vực xã hội khác, quản lý nhà nước về đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, quản lý việc thực hiện tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm hàng hóa.

          - Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp trong cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương.

          - Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực vũ trang và xây dựng quốc phòng toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, nhiệm vụ động viên, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương, quản lý hộ khẩu, hộ tịch ở địa phương, quản lý việc cư trú, đi lại của người ngoài ở địa phương.

          - Phòng chống thiên tai, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; chống tham nhũng, chống buôn lậu, làm hàng giả và các tệ nạn xã hội khác.

          - Quản lý công tác tổ chức, biên chế, lao động tiền lương, đào tạo đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ,công chức cấp xã, bảo hiểm xã hội theo sự phân cấp của Chính phủ.

          - Tổ chức và chỉ đạo công tác thi hành án ở địa phương theo quy định của pháp luật.

          - Tổ chức, thực hiện việc thu, chi ngân sách của địa phương theo quy định của pháp luật; phối hợp với các cơ quan hữu quan để bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các loại thuế và các khoản thu khác ở địa phương.

          Ủy ban nhân dân thực hiện việc quản lý địa giới đơn vị hành chính, xây dựng đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở địa phương đưa ra Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình cấp trên xét.

          Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Ủy ban nhân dân cấp trên. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủ.

          b

. Cơ cấu của Ủy ban nhân dân

          Ủy ban nhân dân gồm:

          - Chủ tịch Ủy ban nhân dân;

          - Các Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân;

         

- Các ủy viên ủy ban.

          Kết quả bầu các thành viên của Ủy ban nhân dân phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

          Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân, số thành viên Ủy ban nhân dân do Chính phủ quy định trên cơ sở quy mô dân số, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.

                        c. Hoạt động của Ủy ban nhân dân

          Ủy ban nhân dân là một thiết chế tập thể, nhưng Chủ tịch Ủy ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Ủy ban nhân dân.

          Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Ủy ban nhân dân phải thảo luận tập thể và ra quyết định theo đa số.

          Chủ tịch Ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân và các văn bản sai trái của Ủy ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ việc thi hành nghị quyết sai trái các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân và các văn bản sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó.

          Chủ tịch Ủy ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của Ủy ban nhân dân; chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; cùng tập thể Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan nhà nước cấp trên. Chủ tịch phân công công tác cho Phó chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân.

          Ủy ban nhân dân làm việc theo chế độ tập thể, trong đó mỗi thành viên Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần công việc trước Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân là người đứng đầu, lãnh đạo công việc của Ủy ban nhân dân, chỉ đạo các thành viên khác thực hiện công việc được phân công. Ủy ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định thực hiện công việc được phân công. Ủy ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số những việc quan trọng như chương trình làm việc, kế hoạch và ngân sách; các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh tế, xã hội; thông qua bao cáo của Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân, đề án thành lập mới, sát nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn; vạch và điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính ở địa phương.

          d) Các cơ quan chuyên môn (sở, cơ quan ngang sở) thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực và nhằm bảo đảm hoạt động thống nhất quản lý ngành.

      Hiện nay, theo quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,cụ thể như sau:

* Về  nguyên tắc tổ chức

- Bảo đảm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và sự thống nhất, thông suốt, quản lý ngành, lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở.

- Tinh gọn, hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, tổ chức sở quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; không nhất thiết ở Trung ương có Bộ, cơ quan ngang Bộ thì cấp tỉnh có tổ chức tương ứng.

- Phù hợp với điều kiện tự nhiên, dân số, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và yêu cầu cải cách hành chính nhà nước.

- Không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn với các tổ chức thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ đặt tại địa phương.

* Vị trí và chức năng

Sở và cơ quan ngang sở (sau đây gọi chung là sở) là cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

* Về nhiệm vụ, quyền hạn của sở

(theo quy định tại điều 4 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ))

“1. Trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:

a) Dự thảo quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao;

b) Dự thảo văn bản quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở;

c) Dự thảo văn bản quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, chức danh đối với Trưởng, Phó các đơn vị thuộc sở; Trưởng, Phó trưởng phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện) trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý.

2. Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:

a) Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các tổ chức, đơn vị của sở theo quy định của pháp luật;

b) Dự thảo quyết định, chỉ thị cá biệt thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

3. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến, giáo dục, theo dõi thi hành pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao.

4. Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về giám định, đăng ký, cấp giấy phép, văn bằng, chứng chỉ thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

5. Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, các hội và các tổ chức phi chính phủ thuộc các lĩnh vực quản lý của cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật.

6. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

7. Thực hiện hợp tác quốc tế về ngành, lĩnh vực quản lý và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

8. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ngành, lĩnh vực quản lý đối với cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và chức danh chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.

9. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ.

10. Kiểm tra, thanh tra theo ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách đối với tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và theo sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

11. Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của văn phòng, phòng chuyên môn nghiệp vụ, chi cục và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc sở, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sở theo hướng dẫn chung của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

12. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật đối với công chức, viên chức và lao động thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật và theo sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

13. Quản lý và chịu trách nhiệm về tài chính được giao theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

14. Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các Bộ, cơ quan ngang Bộ.

15. Thực hiện nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao và theo quy định của pháp luật.

* Về cơ cấu tổ chức của sở

Cơ cấu tổ chức của sở thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, gồm có:

- Văn phòng.

- Thanh tra.

- Phòng chuyên môn, nghiệp vụ.

- Chi cục.

- Đơn vị sự nghiệp công lập.

Không nhất thiết các sở đều có đầy đủ các tổ chức theo quy định trên.

*

Về tổ chức các sở thuộc UBND cấp tỉnh (theo quy định tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ), cụ thể:

“ Điều 8. Các sở được tổ chức thống nhất ở các địa phương

1. Sở Nội vụ:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Tổ chức bộ máy; vị trí việc làm; biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính; vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng trong cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập; cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức; chính quyền địa phương; địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, công chức cấp xã; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, công chức cấp xã; những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; tổ chức hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước; tôn giáo; công tác thanh niên; thi đua - khen thưởng.

2. Sở Tư pháp:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật; pháp chế; công chứng, chứng thực; nuôi con nuôi; trọng tài thương mại; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; luật sư, tư vấn pháp luật; trợ giúp pháp lý; giám định tư pháp; hòa giải cơ sở; bán đấu giá tài sản; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

3. Sở Kế hoạch và Đầu tư:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Tổng hợp quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tổ chức thực hiện và đề xuất về cơ chế, chính sách quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh; đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài ở địa phương; quản lý nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn viện trợ phi chính phủ; đấu thầu; đăng ký kinh doanh; tổng hợp về doanh nghiệp, kinh tế tập thể, hợp tác xã, kinh tế tư nhân.

4. Sở Tài chính:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Tài chính; ngân sách nhà nước; thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước; tài sản nhà nước; các quỹ tài chính nhà nước; đầu tư tài chính; tài chính doanh nghiệp; kế toán; kiểm toán độc lập; giá và các hoạt động dịch vụ tài chính tại địa phương theo quy định của pháp luật.

5. Sở Công Thương:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Cơ khí; luyện kim; điện; năng lượng mới; năng lượng tái tạo; dầu khí; hóa chất; vật liệu nổ công nghiệp; công nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản; công nghiệp tiêu dùng; công nghiệp thực phẩm; công nghiệp chế biến khác; lưu thông hàng hóa trên địa bàn; xuất khẩu, nhập khẩu; quản lý thị trường; xúc tiến thương mại; thương mại điện tử; dịch vụ thương mại; quản lý cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; hội nhập kinh tế; thương mại quốc tế; quản lý cụm công nghiệp trên địa bàn; quản lý an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật.

6. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp; thủy sản; thủy lợi và phát triển nông thôn; phòng, chống thiên tai; chất lượng, an toàn thực phẩm đối với nông sản, lâm sản, thủy sản, muối theo quy định của pháp luật.

7. Sở Giao thông vận tải:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt đô thị; vận tải; an toàn giao thông; quản lý, khai thác, duy tu, bảo trì hạ tầng giao thông đô thị gồm: Cầu đường bộ, cầu vượt, hè phố, đường phố, dải phân cách, hệ thống biển báo hiệu đường bộ, đèn tín hiệu điều khiển giao thông, hầm dành cho người đi bộ, hầm cơ giới đường bộ, cầu dành cho người đi bộ, bến xe, bãi đỗ xe.

8. Sở Xây dựng:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Quy hoạch xây dựng và kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao (bao gồm: Cấp nước, thoát nước đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; quản lý chất thải rắn thông thường tại đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng; chiếu sáng đô thị; công viên, cây xanh đô thị; quản lý nghĩa trang, trừ nghĩa trang liệt sỹ; kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, không bao gồm việc quản lý khai thác, sử dụng, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đô thị; quản lý xây dựng ngầm đô thị; quản lý sử dụng chung cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị); nhà ở; công sở; thị trường bất động sản; vật liệu xây dựng.

Đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chức năng tham mưu về quy hoạch xây dựng và kiến trúc do Sở Quy hoạch - Kiến trúc thực hiện.

9. Sở Tài nguyên và Môi trường:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thủy văn; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo (đối với các tỉnh có biển, đảo).

10. Sở Thông tin và Truyền thông:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Báo chí; xuất bản; bưu chính; viễn thông; tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin; điện tử; phát thanh và truyền hình; thông tin đối ngoại; bản tin thông tấn; thông tin cơ sở; hạ tầng thông tin truyền thông; quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin.

11. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Lao động; việc làm; dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội.

12. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Văn hóa; gia đình; thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (không bao gồm nội dung quảng cáo quy định tại Khoản 10 Điều này); việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật.

13. Sở Khoa học và Công nghệ:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Hoạt động khoa học và công nghệ; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; sở hữu trí tuệ; ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ; an toàn bức xạ và hạt nhân.

14. Sở Giáo dục và Đào tạo:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Chương trình, nội dung giáo dục và đào tạo; nhà giáo và công chức, viên chức quản lý giáo dục; cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ.

15. Sở Y tế:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Y tế dự phòng; khám bệnh, chữa bệnh; phục hồi chức năng; giám định y khoa, pháp y, pháp y tâm thần; y dược cổ truyền; sức khỏe sinh sản; trang thiết bị y tế; dược; mỹ phẩm; an toàn thực phẩm; bảo hiểm y tế; dân số - kế hoạch hóa gia đình.

16. Thanh tra tỉnh:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

17. Văn phòng Ủy ban nhân dân:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về: Chương trình, kế hoạch công tác; tổ chức, quản lý và công bố các thông tin chính thức về hoạt động của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; đầu mối Cổng thông tin điện tử, kết nối hệ thống thông tin hành chính điện tử chỉ đạo điều hành của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; quản lý công báo và phục vụ các hoạt động chung của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo thẩm quyền; quản lý văn thư - lưu trữ và công tác quản trị nội bộ của Văn phòng.

Điều 9. Các sở đặc thù được tổ chức ở một số địa phương

1. Sở Ngoại vụ:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Công tác ngoại vụ và công tác biên giới lãnh thổ quốc gia (đối với những tỉnh có đường biên giới).

Sở Ngoại vụ được thành lập khi đáp ứng các tiêu chí sau:

a) Có đường biên giới trên bộ và có cửa khẩu quốc tế hoặc quốc gia;

b) Đối với những tỉnh không có đường biên giới, nhưng phải có đủ các điều kiện sau:

- Có các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao, Khu kinh tế mở, Khu kinh tế cửa khẩu được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập;

- Có khu du lịch quốc gia hoặc di sản văn hóa được UNESCO công nhận.

Những tỉnh không đủ tiêu chí thành lập Sở Ngoại vụ thì được thành lập Phòng Ngoại vụ thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Phòng Ngoại vụ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bảo đảm cơ sở vật chất và hành chính quản trị cho hoạt động của Phòng Ngoại vụ.

2. Ban Dân tộc:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Công tác dân tộc.

Ban Dân tộc được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khi đảm bảo có 2 trong 3 tiêu chí sau:

a) Có trên 20.000 (hai mươi nghìn) người dân tộc thiểu số sống tập trung thành cộng đồng làng, bản;

b) Có trên 5.000 (năm nghìn) người dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển;

c) Có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại.

Đối với những tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nhưng chưa đáp ứng các tiêu chí như trên thì thành lập Phòng Dân tộc (hoặc bố trí công chức) làm công tác dân tộc thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Phòng Dân tộc (hoặc công chức) làm công tác dân tộc chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đảm bảo cơ sở vật chất và hành chính quản trị cho hoạt động của Phòng Dân tộc.

3. Sở Quy hoạch - Kiến trúc (được thành lập ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh):

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng, kiến trúc.”

          đ) Các cơ quan chuyên môn (phòng và cơ quan tương đương) thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực và nhằm bảo đảm hoạt động thống nhất quản lý ngành.

            Hiện nay, theo quy định tại Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện),cụ thể như sau:

* Nguyên tắc tồ chức

           - Bảo đảm bao quát đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện và bảo đảm tính thống nhất, thông suốt về quản lý ngành, lĩnh vực công tác từ Trung ương đến cơ sở.

            - Tổ chức phòng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; bảo đảm tinh gọn, hợp lý, hiệu quả; không nhất thiết ở cấp tỉnh có sở nào thì cấp huyện có tổ chức tương ứng.

           - Phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện và điều kiện tự nhiên, dân số, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và yêu cầu cải cách hành chính nhà nước.

           - Không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn với các tổ chức của các Bộ, sở đặt tại cấp huyện.

* Về vị trí và chức năng

            - Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương.

            - Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức và công tác của Ủy ban nhân dân cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

* Về nhiệm vụ, quyền hạn

1.

  

Trình Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao.

2.

  

Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý được giao; theo dõi thi hành pháp luật.

3.

   

Giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện và chịu trách nhiệm về việc thẩm định, đăng ký, cấp các ỉoại giấy phép thuộc phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật và theo phân công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

4.

   

Giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước đối với tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, các hội và tổ chức phi chính phủ hoạt động trên địa bàn thuộc các lĩnh vực quản lý của cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật.

5.

  

Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực quản lý của cơ quan chuyên môn cho cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).

6.

  

Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp huyện.

7.

 

Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp huyện và sở quản lý ngành, lĩnh vực.

8.

  

Kiểm tra theo ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách đối với tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

9.

  

Quản lý tổ chức bộ máy, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức, thực hiện chế độ tiền lương, chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với công chức thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật, theo phân công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

10.

  

Quản lý và chịu trách nhiệm về tài chính của cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

11.

 

Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp huyện giao hoặc theo quy định của pháp luật.

* Về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện (theo quy định tại Nghị định 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ), cụ thể:

“Điều 7. Các cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

1.

Phòng Nội vụ:

Tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhả nước về: Tổ chức bộ máy; vị trí việc làm; biên chế công chức và cơ cấu ngạch công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước; vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng trong cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước; tôn giáo; công tác thanh niên; thi đua - khen thưởng.

2.

 

Phòng Tư pháp:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản ỉý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, kiếm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý, nuôi con nuôi, hộ tịch, chứng thực, bồi thường nhà nước và các công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

3.

 

Phòng Tài chính - Kế hoạch:

Tham mưu. giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Tài chính; kế hoạch và đầu tư; đăng ký kinh doanh; tổng hợp và thống nhất quản lý các vấn đề về doanh nghiệp, hợp tác xã, kinh tế tư nhân.

4.

 

Phòng Tài nguyên và Môi trường:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; môi trường; biển và hải đảo (đối với các huyện có biển, đảo).

5.

 

Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội;

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Việc làm; dạy nghề; lao động, tiền lương; tiên công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội.

6. Phòng Văn hoá - Thông tin

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hoá; gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; quảng cáo; bưu chính; viễn thông; công nghệ thông tin; phát thanh truyền hình; báo chí; xuất bản; thông tin cơ sở; thông tin đối ngoại; hạ tầng thông tin.

7.

 

Phòng Giáo dục và Đào tạo:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Chương trình và nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo và tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo.

8.

Phòng Y tế:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Y tế dự phòng; khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng; y dược cổ truyền; sức khỏe sinh sản; trang thiết bị y tế; dược; mỹ phẩm; an toàn thực phẩm; bảo hiểm y tế; dân số - kế hoạch hóa gia đình.

9.

 

Thanh tra huyện:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

10.

  

Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hoặc Văn phòng ủy ban nhân dân nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân:

Tham mưu tổng hợp cho Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân về: Hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; tham mưu cho Chù tịch ủy ban nhân dân về chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân; cung cấp thông tin phục vụ quản lý và hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan nhà nước ở địa phương; bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; trực tiếp quản lý và chỉ đạo hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ của cá nhân, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp huyện, chuyển hồ sơ đến các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết và nhận kết quả để trả cho cá nhân, tổ chức.

Đối với những huyện có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nhưng chưa đủ tiêu chí để thành lập cơ quan làm công tác dân tộc, Văn phòng Hội dồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hoặc Văn phòng Ủy ban nhân dân nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác đân tộc.

Đối với đơn vị hành chính cấp huyện có đường biên giới lãnh thổ quốc gia trên đất liền, trên biển và hải đảo, Vãn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hoặc Văn phòng Ủy ban nhân dân nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác ngoại vụ, biên giới.

Điều 8. Các cơ quan chuyên môn được tổ chức để phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện

Ngoài 10 cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quy định tại Điều 7 của Nghị định này, tổ chức một số cơ quan chuyên môn để phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện như sau:

1.

 

Ở các quận:

a)

 

Phòng Kinh tế:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân quận thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Tiểu thủ công nghiệp; khoa học và công nghệ; công nghiệp; thương mại;

b)

 

Phòng Quản lý đô thị:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân quận thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao (bao gồm: cấp nước, thoát nước đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng; chiếu sáng đô thị, cây xanh đô thị; quản lý nghĩa trang, trừ nghĩa trang liệt sĩ; quản lý xây dựng ngầm đô thị; quản lý sử dụng chung cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị); nhà ở; công sở; vật liệu xây dựng; giao thông.

2.

 

Ở các thị xã, thành phố thuộc tỉnh:

a)

 

Phòng Kinh tế:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thị xà, thành phố thuộc tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp; thuỷ lợi; thuỷ sản; phát triển nông thôn; phòng, chống thiên tai; chất lượng, an toàn thực phẩm đối với nông sản, lâm sản, thủy sản, muối; tiểu thủ công nghiệp; khoa học và công nghệ; công nghiệp; thương mại;

b)

  

Phòng Quản lý đô thị:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao (bao gồm: cấp nước, thoát nước đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng; chiếu sáng đô thị, cây xanh đô thị; quản lý nghĩa trang, trừ nghĩa trang liệt sĩ; quản lý xây dựng ngầm đô thị; quản lý sử dụng chung cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị); nhà ở; công sở; vật liệu xây dựng; giao thông.

3.

 

Ở các huyện:

a)

 

Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Tham mưa, giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp; thuỷ lợi; thuỷ sản; phát triển nông thôn; phòng, chống thiên tai; chất lượng, an toàn thực phẩm đối với nông sản, lâm sản, thủy sản, muối; phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại nông thôn, kinh tế hợp tác xã nông, lâm, ngư, diêm nghiệp gắn với ngành nghề, làng nghề nông thôn;

b)

  

Phòng Kinh tế và Hạ tầng:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công nghiệp; tiểu thủ công nghiệp; thương mại; quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao (bao gồm: cấp nước, thoát nước đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng; chiếu sáng đô thị, cây xanh đô thị; quản lý nghĩa trang, trừ nghĩa trang liệt sĩ; quản lý xây dựng ngầm đô thị; quản lý sử dụng chung cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị); nhà ở; công sở; vật liệu xây dựng; giao thông; khoa học và công nghệ.

4.

 

Phòng Dân tộc:

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc.

Việc thành lập Phòng Dân tộc do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định căn cứ tiêu chí quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 02 năm 2004 của Chính phủ về kiện toàn tố chức bộ máy làm Công tác dân tộc thuộc ủy ban nhân dân các cấp.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

         

1.

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

.

          2. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001.

          3. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003.

4

.

Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

5. Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

6

.

Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ  quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

CHUYÊN ĐỀ 4

CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC

I. CÔNG VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.

1.

    

Công vụ, nền công vụ và hoạt động công vụ

1.1. Công vụ

          Công vụ là một khái niệm rộng về phạm vi và quan trọng về ý nghĩa cũng như phương thức hoạt động trong các hoạt động nhà nước. Thuật ngữ “công vụ” được hiểu từ nhiều góc độ, phạm vi rộng hẹp khác nhau.

          Căn cứ vào cách tiếp cận khác nhau về công vụ, thuật ngữ “công vụ” được hiểu chung nhất, “Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ, công chức tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội”. Tuy nhiên trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, do đặc thù về thể chế chính trị nên công vụ còn bao gồm cả hoạt động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội.

          Công vụ có một số tính chất và đặc điểm cơ bản sau:

- Mục đích của công vụ là phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội.

- Chủ thể thực thi công vụ là cán bộ, công chức.

- Công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được nhà nước giao và tuân theo pháp luật.

1.2. Nền công vụ

Nếu như công vụ dùng để chỉ các hoạt động cụ thể thực thi quyền lực quản lý hành chính nhà nước, thì “nền công vụ” mang ý nghĩa của hệ thống, nghĩa là nó chứa đựng bên trong nó công vụ và các cơ sở, điều kiện để công vụ được tiến hành. Nền công vụ gồm:

- Hệ thống pháp luật quy định hoạt động của các cơ quan thực thi công vụ (cơ quan thực thi quyền hành pháp, quyền quản lý nhà nước). Hệ thống này bao gồm Hiến pháp, các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác do các cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền ban hành.

- Hệ thống các quy chế quy định cách thức tiến hành các hoạt động công vụ do Chính phủ hoặc cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành tạo thành hệ thống thủ tục hành chính, quy tắc quy định các điều kiện tiến hành.

- Đội ngũ cán bộ, công chức, với tư cách là những chủ thể tiến hành các công vụ cụ thể. Đây là hạt nhân của nền công vụ và cũng chính là yếu tố bảo đảm cho nền công vụ hiệu lực, hiệu quả.

- Công sở và các điều kiện thực hiện công vụ: Công sở là nơi tổ chức tiến hành các hoạt động công vụ. Công sở cần phải bảo đảm các điều kiện cần thiết để nhân dân được tiếp cận với công vụ thuận tiện. Công sở cần phải được tổ chức khoa học, hiện đại để nâng cao chất lượng hoạt động công vụ.

Xét trên tổng thể chung, nền công vụ không chỉ bị điều chỉnh bởi các văn bản mang tính pháp luật (Hiến pháp, Luật) mà còn mang tính pháp quy của Chính phủ. Cải cách nền công vụ không chỉ tập trung vào hệ thống pháp quy (thủ tục hành chính) mà còn phải quan tâm đến hệ thống văn bản pháp luật nói chung bao gồm cả Hiến pháp, luật. Hoạt động của nền công vụ và cán bộ, công chức không chỉ bị chế định bởi hệ thống luật chung (Luật Lao động) mà còn bị chế định bởi chính những quy phạm pháp luật được quy định riêng cho nó.

1.3. Hoạt động công vụ

Hoạt động công vụ là một hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước (quyền lực công). Nội dung hoạt động công vụ bao gồm các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội trong lãnh đạo, quản lý và tham gia quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời tổ chức cung ứng và phục vụ các nhu cầu chung của xã hội, của nhân dân không vì mục đích lợi nhuận. Nói đến hoạt động công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Về mặt pháp lý, trách nhiệm của cán bộ, công chức thường được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ. Do đó, hoạt động công vụ thể hiện trách nhiệm của cán bộ, công chức nhân danh quyền lực công thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả và nhấn mạnh đến trách nhiệm công vụ.

Ở Việt Nam, các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội là một hệ thống chính trị thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa các cơ quan, tổ chức này luôn có sự liên thông trong sử dụng nguồn nhân lực. Do đó, hoạt động công vụ không chỉ thuần tuý là hoạt động của cán bộ, công chức nhân danh quyền lực công mà còn được hiểu là các hoạt động trong phạm vi rộng hơn. Theo đó, hoạt động công vụ được hiểu là việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập. Để khẳng định tính đặc thù này, Điều 2 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định hoạt động công vụ “là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của luật này và các quy định khác có liên quan”. Cán bộ, công chức khi tham gia hoạt động công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền hạn được giao. Để đạt được điều đó, bên cạnh năng lực, trình độ, cán bộ, công chức còn phải hội đủ và thường xuyên rèn luyện để bảo đảm các quy định về đạo đức công vụ, đặc biệt là trách nhiệm trong công vụ.

- Mục tiêu của hoạt động công vụ: Phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân, không có mục đích riêng của mình, mang tính xã hội cao vì phục vụ nhiều người, duy trì an ninh, an toàn trật tự xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển, không vì lợi nhuận.

- Một số nguyên tắc cơ bản của hoạt động công vụ: Theo quy định tại Điều 3 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải bảo đảm 5 nguyên tắc cơ bản sau:

Nguyên tắc 1

: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật

Tổ chức và hoạt động công vụ nhà nước dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy yêu cầu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong thi hành công vụ nhằm đảm bảo cho cán bộ, công chức thực hiện đúng thẩm quyền của mình, không lạm dụng quyền lực để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.

Nguyên tắc 2

: Bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Nguyên tắc này đòi hỏi, trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, các cán bộ công chức phải lấy lợi ích nhà nước và công dân làm mục tiêu hoạt động của mình. Cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ  nhằm mục đích phục vụ nhà nước và phục vụ nhân dân chứ không phải nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân mình. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cán bộ công chức là người được nhà nước trao quyền, thay mặt nhà nước, thay mặt nhân dân để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định

Nguyên tắc 3.

Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát.

Công khai minh bạch là một nguyên tắc quan trọng trong thực thi công vụ. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục trong thực thi công vụ phải được công bố, niêm yết công khai để dân biết, dân bàn và dân kiểm tra. Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mỗi cơ quan nhà nước, mỗi cán bộ, công chức đều được giao những quyền hạn nhất định. Trong thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải thực hiện đúng thẩm quyền nhằm tránh tình trạng lạm quyền hoặc trốn tránh, đùn đẩy trách nhiệm gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Nguyên tắc 4:

Bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, liên tục, thông suốt và hiệu quả.

Hoạt động công vụ, đặc biệt là hoạt động quản lý hành chính nhà nước có tính thứ bậc chặt chẽ, các cơ quan hành chính nhà nước là hệ thống rất phức tạp, có số lượng đông đảo nhất, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nên mọi hoạt động quản lý nhà nước chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo từ một trung tâm thống nhất là Chính phủ xuống đến địa phương, cơ sở. Hoạt động của cơ quan nhà nước ở địa phương phải phù hợp các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Đảm bảo tính thông suốt, liên tục và hiệu quả.

Nguyên tắc 5:

Bảo đảm thứ bậc hành chính và phối hợp chặt chẽ.

 Một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động quản lý hành chính nhà

nước đó là sự phân cấp quản lý và quan hệ giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình thi hành công vụ được điều chỉnh bởi phương pháp mệnh lệnh, quyền uy. Điều đó có nghĩa là cơ quan hành chính cấp dưới phải phục tùng mệnh lệnh của cấp trên. Cán bộ, nhân viên phải chấp hành mệnh lệnh của thủ trưởng, cấp trên của mình. Thứ bậc hành chính còn thể hiện ở chỗ các văn bản do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

- Các nguồn lực để thực hiện hoạt động công vụ: Quyền lực nhà nước trao cho, có tính pháp lý; sử dụng nguồn ngân sách nhà nước để hoạt động; do cán bộ, công chức thực hiện;

- Cách thức tiến hành hoạt động công vụ: Hướng đến mục tiêu; hệ thống thứ bậc, phân công, phân cấp; thủ tục do pháp luật quy định; công khai; bình đẳng; khách quan, không thiên vị; có sự tham gia, giám sát của nhân dân.

2. Trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức

2.1. Trách nhiệm công vụ

Trách nhiệm công vụ là một khái niệm mang tính chính trị, tạo nên hình ảnh của chế độ, của nhà nước trong mắt người dân. Đó là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Trách nhiệm trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả công vụ. Kết quả công vụ và trách nhiệm công vụ tạo nên hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan, tổ chức. Hai nhân tố này luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nếu nói kết quả công vụ là mục tiêu, là mong muốn của chủ thể quản lý thì trách nhiệm công vụ là phương thức, cách thức để thực hiện mục tiêu của chủ thể quản lý. Một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả đều dựa trên cơ sở đề cao tính trách nhiệm với tinh thần tận tuỵ, mẫn cán và làm tròn bổn phận của cán bộ, công chức.

2.2. Trách nhiệm của cán bộ, công chức

Trách nhiệm của cán bộ, công chức là vấn đề quan trọng đang được Đảng và Nhà nước quan tâm, chấn chỉnh. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã xác định yêu cầu của cải cách hành chính phải  bảo đảm phân định rõ trách nhiệm giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận tuỵ phục vụ nhân dân. Nội dung này đã được Nhà nước thể chế hoá trong các quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008. Trước hết, Điều 3 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định các nguyên tắc trong thi  hành công vụ: “Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát”, “Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ”. Các nguyên tắc này đều xuất phát từ yêu cầu hoạt động công vụ, bảo đảm thẩm quyền phải gắn với chức trách được giao. Điều đó tạo tiền đề và cơ sở nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Để cụ thể hoá các nguyên tắc trách nhiệm, Điều 5 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 khi quy định cụ thể các nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức đã nhấn mạnh nguyên tắc: “ Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng”. Trong quản lý cán bộ, công chức (bao gồm cả việc quản lý thực thi công vụ) vấn đề trách nhiệm cá nhân và thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng nhằm xác định trách nhiệm trong hoạt động công vụ; nhờ đó việc xử lý các sai phạm hoặc việc khen thưởng, đánh giá được thực hiện một cách chính xác và kịp thời.

Trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008, trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở việc thực hiện các nghĩa vụ: trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến thể chế chính trị, chế độ nhà nước và nhân dân (Điều 8); trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong thi hành công vụ (Điều 9); đặc biệt là trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu (Điều 10). Mặt khác, các quy định liên quan đến đạo đức, văn hoá giao tiếp cũng như những việc cán bộ, công chức không được làm cũng thể hiện bổn phận của cán bộ, công chức - với tư cách là một mặt không thể thiếu được trách nhiệm của cán bộ, công chức; các quy định để khắc phục tình trạng trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ cũng được nhấn mạnh và quy định thuộc về những việc không được làm để đề cao trách nhiệm công vụ đối với cán bộ, công chức. Tương ứng với các quy định này, trong nội dung quản lý cán bộ, công chức đã có nhiều quy định liên quan đến xem xét, đánh giá trách nhiệm công vụ. Khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 56 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định trách nhiệm là một trong năm nội dung cần thiết khi đánh giá cán bộ và là một trong sáu nội dung cần thiết khi đánh giá công chức. Tính trách nhiệm trong hoạt động công vụ còn thể hiện ở quy định về việc xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ (khoản 1 Điều 30) và từ chức, miễn nhiệm đối với công chức lãnh đạo, quản lý (Điều 54), đối với cán bộ, công chức cấp xã (Điều 64). Khi cán bộ, công chức thấy không đủ sức khỏe, năng lực, uy tín thì có thể xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm - điều này bên cạnh sự thể hiện phẩm chất, lòng tự trọng và văn hoá còn thể hiện tính trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với hoạt động công vụ. Việc đánh giá công chức đã được Điều 57 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 giao trách nhiệm cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng công chức và người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên quản lý trực tiếp, mà không phải do tập thể đánh giá, bỏ phiếu như trước đây. Thẩm quyền quyết định và trách nhiệm trong hoạt động công vụ luôn luôn gắn với người đứng đầu hoặc người có thẩm quyền quyết định. Điều này phù hợp với nguyên tắc đề cao trách nhiệm trong hoạt động công vụ và quản lý cán bộ, công chức.

II. CÔNG CHỨC

1. Những vấn đề chung về công chức

1.1. Khái niệm công chức và xác định những người là công chức

Trước khi có Luật Cán bộ, công chức, thuật ngữ công chức các nhà nghiên cứu hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số cách tiếp cận phổ biến là:

- Công chức là người làm việc thường xuyên trong bộ máy nhà nước;

- Công chức là người làm việc trong bộ máy nhà nước;

- Công chức là người đại diện cho nhà nước để thực thi quyền hành pháp…

Hiện nay, ở nước ta theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008, công chức được xác định như sau:

Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, luật còn xác định riêng đối với đối tượng công chức cấp xã như sau:

Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh

chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Nghị định số 06/2010/ NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định cụ thể những người là công chức (quy định cho cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện) bao gồm:

Thứ nhất, Công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam

* Ở Trung ương

- Người giữ chức vụ, chức danh cấp phó, trợ lý, thư ký của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cục, vụ, cơ quan thường trực tại thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng của Văn phòng Trung ương Đảng, cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các Ban Đảng ở Trung ương;

- Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan uỷ ban kiểm tra, các ban của Đảng uỷ khối và Đảng uỷ ngoài nước trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng;

- Người làm việc trong bộ phận giúp việc của cơ quan, tổ chức do Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cơ quan do Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập.

*

Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

(sau đây gọi chung là cấp tỉnh):

- Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan uỷ ban kiểm tra, các ban của tỉnh uỷ, thành uỷ;

- Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan uỷ ban kiểm tra, các ban của Đảng uỷ khối trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ;

- Người làm việc chuyên trách trong văn phòng, ban tổ chức, ban tuyên giáo,

cơ quan uỷ ban kiểm tra của Đảng uỷ cơ sở được giao quyền cấp trên cơ sở trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ.

*

Ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

(sau đây gọi chung là cấp huyện):

Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan uỷ ban kiểm tra, các ban của huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ thuộc tỉnh.

 Thứ hai, Công chức trong Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước

 Thứ ba, Công chức trong Bộ, cơ quan ngang Bộ và các tổ chức khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập 

- Thứ trưởng và người giữ chức danh, chức vụ tương đương; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong văn phòng, vụ, thanh tra và tổ chức khác không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ.

- Tổng cục trưởng và tương đương, Phó Tổng cục trưởng và tương đương, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong văn phòng, vụ, thanh tra thuộc Tổng cục và tương đương.

- Cục trưởng, Phó Cục trưởng, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong văn phòng, phòng, thanh tra, chi cục thuộc Cục.

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong các tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập.

Thứ tư, Công chức trong cơ quan hành chính ở cấp tỉnh, cấp huyện

* Ở cấp tỉnh

- Chánh văn phòng, Phó Chánh văn phòng, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ cấu tổ chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Văn phòng Uỷ ban nhân dân;

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân;

- Trưởng ban, Phó Trưởng ban, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong chức tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế thuộc Ủy ban chức dân.  

* Ở cấp huyện

- Chánh văn phòng, Phó Chánh văn phòng và người làm việc trong Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân;

- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, Chánh văn phòng, Phó Chánh văn phòng và người làm việc trong văn phòng Uỷ ban nhân dân quận, huyện nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân;

- Người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân.

Thứ năm, Công chức trong hệ thống Toà án nhân dân 

- Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Chánh án, Phó Chánh án các toà và toà chuyên trách; Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thư ký toà án; người làm việc trong văn phòng, vụ, ban và các toà, toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân tối cao;

- Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh; Chánh án, Phó Chánh án các toà chuyên trách; Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh; thư ký toà án; người làm việc trong văn phòng, phòng, ban và Toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh;

- Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện; Thẩm phán toà án nhân dân cấp huyện; thư ký toà án; người làm việc trong toà án nhân dân cấp huyện. 

Thứ sáu, Công chức trong hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân

- Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng, vụ, cục, ban và Viện nghiệp vụ thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh;

-

Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện; kiểm sát viên, điều tra viên và người làm việc trong Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện.

Thứ bảy, Công chức trong cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội 

* Ở Trung ương

- Chánh văn phòng, Phó Chánh văn phòng, Trưởng ban, Phó Trưởng ban và người làm việc trong văn phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức ở Trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam (sau đây gọi là tổ chức chính trị - xã hội); 

- Người làm việc trong bộ phận giúp việc của Uỷ ban thuộc tổ chức chính trị - xã hội.      

* Ở cấp tỉnh

- Chánh văn phòng, Phó Chánh văn phòng, Trưởng ban, Phó Trưởng ban và người làm việc trong văn phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức của tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức

tương đương.

* Ở cấp huyện

Người làm việc trong cơ quan của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức tương đương.

Thứ tám, Công chức trong cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân

Người làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.

Thứ chín, Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập

- Đơn vị sự nghiệp công lập nói tại Nghị định này là các tổ chức được cơ quan có thẩm quyền của Đảng, cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội thành lập và quản lý theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản, hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể dục, thể thao, du lịch, lao động - thương binh và xã hội, thông tin truyền thông và các lĩnh vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định.  

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó tổ chức của đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ.

- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thuộc các Ban và cơ quan tương đương của Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, cơ quan Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

-

Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thuộc Tổng cục, Cục và tương đương trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ; tỉnh uỷ, thành uỷ; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ thuộc tỉnh uỷ; cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

- Người giữ các vị trí việc làm gắn với nhiệm vụ quản lý nhà nước trong đơn vị sự nghiệp công lập được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Công chức cấp xã theo quy định tại khoản 3 Điều 61 Luật cán bộ, công chức có các chức danh sau đây:

- Trưởng Công an;

- Chỉ huy trưởng Quân sự;

- Văn phòng - Thống kê;

- Địa chính - Xây dựng - Đô thị và Môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và Môi trường (đối với xã);

- Tài chính - Kế toán;

- Tư pháp - Hộ tịch;

- Văn hoá - Xã hội.

1.2 Phân biệt công chức với những nhóm đối tượng khác (với cán bộ, viên chức và những người làm hợp đồng) làm việc trong các tổ chức của Nhà nước

a) Phân biệt với cán bộ

Theo Luật Cán bộ, công chức, cán bộ là thuật ngữ để chỉ nhóm người mang tính chất bầu làm việc trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị và chính trị xã hội. Theo đó, cán bộ được quan niệm như sau:

Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước

Ngoài ra, phạm vi cán bộ còn bao gồm những người được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội. Đây là nhóm cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).

Như vậy nếu công chức là nhóm người được tuyển dụng, bổ nhiệm thì cán bộ là nhóm người được bầu và làm việc theo nhiệm kỳ.

b) Phân biệt với viên chức

Thuật ngữ này dùng theo nhiều nghĩa khác nhau tùy theo từng giai đoạn. Hiện nay viên chức được quy định đối với nhóm người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập.

Theo Luật Viên chức, “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật)”. Đặc điểm việc làm của viên chức là không mang tính quyền lực công mà chủ yếu mang tính chuyên môn, nghề nghiệp. Đây cũng là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nhóm viên chức với công chức.

c) Phân biệt công chức với lao động hợp đồng

Đây là những người được tuyển vào làm việc theo cơ chế hợp đồng trong các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, những người Nhà nước thuê để làm việc cho Nhà nước và được nhà nước trả công. Trong thực thi công việc được giao, hành vi của họ được quy định và điều chỉnh bằng Bộ Luật lao động.

1.3. Phân loại công chức

và ý nghĩa của phân loại công chức

Việc phân loại người làm việc trong các cơ quan nhà nước nói chung và công chức nói riêng rất phức tạp nhưng được nhiều nước quan tâm nhằm mục đích quản lý có hiệu quả nguồn nhân lực của nhà nước. Tùy thuộc vào mục đích phân loại, có thể có nhiều cách phân loại khác nhau.

a) Phân loại theo bằng cấp, học vấn

-

Tốt nghiệp đại học, trên đại học

- Tốt nghiệp trung cấp

- Sơ cấp, Đào tạo nghề…

b) Theo hệ thống thứ bậc trong cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước: 

-

    

Công chức làm việc ở cơ quan nhà nước trung ương

-

    

Công chức làm việc ở cơ quan nhà nước cấp tỉnh

-

    

 Công chức làm việc ở cơ quan nhà nước cấp huyện

-

    

 Công chức làm việc ở cơ quan nhà nước cấp xã

c) Phân loại theo ngạch công chức:

Theo Luật

Cán

bộ, công chức năm 2008, công chức được phân loại theo ngạch như sau:

-

   

Loại A gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp hoặc tương đương;

-

   

Loại B gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên chính hoặc tương đương;

-

   

Loại C gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên hoặc tương đương;

-

   

Loại D gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc tương đương và ngạch nhân viên.

d) Phân loại theo vị trí công tác

Theo cách phân loại này, công chức được chia thành các nhóm:

-

   

Công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý;

-

   

Công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.

Phân loại công chức có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng và quản lý đội ngũ công chức có hiệu quả.

-

   

Là cơ sở để đề ra những tiêu chuẩn khách quan trong việc tuyển chọn người vào làm việc trong cơ quan nhà nước, đáp ứng yêu cầu của công việc

-

   

Giúp cho việc xác định tiền lương, các chế độ, chính sách một cách hợp lý, chính xác

-

   

Giúp cho việc tiêu chuẩn hóa và  cụ thể hóa việc đánh giá công chức

-

   

Giúp cho việc xây dựng, quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng công chức đúng đối tượng theo yêu cầu, nội dung công việc.

-

   

Đưa ra các căn cứ cho việc xác định biên chế công chức một cách hợp lý

2. Nghĩa vụ, quyền và quyền lợi của công chức

2.1. Nghĩa vụ của công chức

Nghĩa vụ của công chức là những gì công chức phải tuân thủ và nghiêm chỉnh thực hiện trong khi thực thi công vụ. Đó chính là trách nhiệm, bổn phận của công chức.

Nghĩa vụ của công chức có thể thay đổi tuỳ thuộc điều kiện, tình hình cụ thể trong từng giai đoạn xã hội nhất định. Nghĩa vụ của công chức có một số điểm đáng chú ý sau:

-  Được pháp luật quy định;

-  Mang tính bắt buộc, tính đơn phương và tính phải thi hành;

- Do đạo đức công vụ điều chỉnh;

- Trên cơ sở nguyên tắc hiệu lực, hiệu quả, năng suất, chất lượng trong thực thi công vụ;

- Mang tính tác phong thể hiện hình thức hành vi ứng xử của công chức;

- Có tính đặc biệt nhằm hạn chế một số “quyền cơ bản” của công chức khi tham gia công vụ.

Ở nước ta, nghĩa vụ của công chức được quy định như sau:

* Nghĩa vụ chung của công chức

Thứ nhất,

nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân được quy định tại Điều 8 Luật cán bộ, công chức bao gồm:

- Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia;

- Tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân;

- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;

- Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai,

nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ được quy định tại Điều 9, bao gồm:

-Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

- Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.

- Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

- Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.

- Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là

trái pháp luật thì phải kịp thờibáo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.

- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Ngoài việc thực hiện quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

- Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức - Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hoá công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân;

- Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức;

-  Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

* Những điều công chức không được làm

- Những việc công chức không được làm là một tất yếu nhằm ngăn chặn công chức có thể bị lợi ích cá nhân làm sai lệch các quyết định quản lý và bảo đảm cho việc thực thi công vụ gắn liền với quyền lực nhà nước có hiệu quả.

Quy định những việc công chức không được làm ở mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào điều kiện và mức độ phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia đó.

Luật cán bộ, công chức nước ta giành một mục trong chương II gồm 3 điều (Điều 18, 19, 20) để quy định những việc cán bộ, công chức không được làm. Cụ thể: 

Thứ nhất

, những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ (Điều 18):

- Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công.

- Sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp luật.

- Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi.

- Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.

Thứ hai,

những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến bí mật nhà nước (Điều 19):

- Cán bộ, công chức không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức.

- Cán bộ, công chức làm việc ở ngành, nghề có liên quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi có quyết định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài.

- Chính phủ quy định cụ thể danh mục ngành, nghề, công việc, thời hạn mà cán bộ, công chức không được làm và chính sách đối với những người phải áp dụng quy định tại Điều này.

Thứ ba,

những việc khác cán bộ, công chức không được làm (Điều 20):

Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.

2.2. Quyền và quyền lợi của công chức

Nếu như nghĩa vụ là sự đòi hỏi của Nhà nước đối với công chức mang tính đơn phương, buộc công chức phải chấp hành, thì quyền lợi của công chức được hiểu như là sự cam kết cũng mang tính đơn phương của Nhà nước đối với công chức. Quyền lợi của công chức cũng đồng nghĩa với nghĩa vụ của Nhà nước đối với công chức.

Quyền lợi của công chức trong nền công vụ được xác định dựa trên một số điểm:

- Được xác định bằng pháp luật.

- Quyền lợi của công chức được xác định trên cơ sở thống nhất, bình đẳng, công khai.

- Quyền lợi của công chức là những gì công chức nhận được từ Nhà nước và đó chính là nghĩa vụ của Nhà nước phải thi hành.

Theo quy định của Luật cán bộ, công chức thì công chức có các quyền và quyền lợi trên các lĩnh vực sau:

Thứ nhất,

quyền của cán bộ, công chức đượcbảo đảm các điều kiện thi hành công vụ:

- Được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ.

- Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm việc khác theo quy định của pháp luật.

- Được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

- Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ.

- Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ.

Thứ hai,

quyền của cán bộ, công chức về

tiền lương và các chế độ liên quan đến tiền lương:

- Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.

- Được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.

Thứ ba,

quyền của cán bộ, công chức vềnghỉ ngơi

Cán bộ, công chức được nghỉ hàng năm, nghỉ lễ, nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động. Trường hợp do yêu cầu nhiệm vụ, cán bộ, công chức không sử dụng hoặc sử dụng không hết số ngày nghỉ hàng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ.

Thứ tư,

các quyền khác của cán bộ, công chức

Cán bộ, công chức được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; nếu bị thương hoặc hy sinh trong khi thi hành công vụ thì được xem xét hưởng chế độ, chính sách như thương binh hoặc được xem xét để công nhận là liệt sĩ và các quyền khác theo quy định của pháp luật

3. Khen thưởng, kỷ luật công chức

3.1. Khen thưởng công chức

Khen thưởng là sự khẳng định việc hoàn thành tốt nghĩa vụ của công chức thông qua hiệu quả việc thực thi các công vụ cụ thể. Khen thưởng giúp công chức cũng như tập thể (hay người) sử dụng công chức có được những cơ hội để hiểu công chức hơn.

Trên thực tế, khen thưởng công chức có thể có nhiều hình thức:

- Hình thức tôn vinh, danh dự như giấy khen, bằng khen, huy chương, huân chương và các danh hiệu cao quý của Nhà nước;

- Hình thức vật chất;

- Hình thức kết hợp các danh dự, tôn vinh và vật chất.

Cụ thể, Điều 76 quy định khen thưởng cán bộ, công chức như sau:

- Cán bộ, công chức có thành tích trong công vụ thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng.

- Cán bộ, công chức được khen thưởng do có thành tích xuất sắc hoặc công trạng thì được nâng lương trước thời hạn, được ưu tiên khi xem xét bổ nhiệm chức vụ cao hơn nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị có nhu cầu.

3.2. Kỷ luật công chức

Kỷ luật công chức là một hoạt động mang ý nghĩa của kỷ luật hành chính. Điều đó cũng gắn liền với những quyền lợi mà công chức có thể không nhận được và trong những trường hợp cao nhất, công chức không được làm trong nền công vụ.

Kỷ luật công chức phải dựa trên các quy định của pháp luật và trường hợp cụ thể mà xem xét, không tuỳ tiện, không cảm tính. Kỷ luật công chức phải đảm bảo các nguyên tắc:

   - Công khai;

        - Dân chủ;

  - Bình đẳng;

  - Có sự tham gia của công chức.

  Theo quy định tại Điều 76 của Luật Cán bộ, công chức nếucông chức vi phạm quy định của pháp luật về cán bộ, công chức thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây:

  - Khiển trách;

  - Cảnh cáo;

  - Hạ bậc lương;

  - Giáng chức;

  - Cách chức;

  - Buộc thôi việc.

Việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.

Ngoài ra, khoản 3 Điều 76 còn quy định: Công chức bị Toà án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị buộc thôi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; công chức lãnh đạo, quản lý phạm tội bị Toà án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do bổ nhiệm.

Có thể nói việc xử lý kỷ luật công chức là hình thức xử lý đối với lỗi (hành vi vi phạm) khi thực thi công vụ nhằm đảm bảo cho hoạt động công vụ được tốt hơn.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

          1. Luật

Cán bộ, công chức năm 2008

.

          2.

Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những người là công chức

         

3

.

Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức

CHUYÊN ĐỀ 5

VĂN BẢN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

I. KHÁI QUÁT VỀ VĂN BẢN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm văn bản quản lý hành chính nhà nước

Văn bản hiểu theo nghĩa chung nhất là phương tiện ghi tin của ngôn ngữ trên một loại chất liệu nhất định.

Văn bản được sử dụng để truyền đạt thông tin trong hoạt động quản lý được gọi là văn bản quản lý.

Văn bản quản lý hành chính nhà nước được hiểu là những quyết định và thông tin quản lý thành văn do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ quản lý hành chính nhà nước giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức và công dân.

2. Phân loại văn bản quản lý hành chính nhà nước

         

Khoa học hành chính có nhiều tiêu chí để phân loại văn bản như: Phân loại theo tác giả ban hành; phân loại theo tên loại; phân loại theo nội dung; theo mục đích biên soạn; theo hiệu lực pháp lý và loại hình quản lý chuyên môn.

Theo cơ sở pháp lý, thẩm quyền và loại hình quản lý chuyên môn, văn bản quản lý hành chính nhà nước bao gồm các loại sau:

2.1. V¨n b¶n quy ph¹m ph¸p luËt

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy pham pháp luật năm 2008  hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Các loại văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền ban hành của các cơ quan hành chính nhà nước, gồm:

- Nghị định của Chính phủ;

- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;

- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước;

- Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội;

- Thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;

- Nghị quyết của HĐND và Quyết định, Chỉ thị của UBND.

2.2. Văn bản hành chính

a. Văn bản hành chính cá biệt

(văn bản áp dụng pháp luật)

Là những quyết định quản lý được các cơ quan có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước ban hành trên cơ sở những quy định chung và quyết định quy phạm của cơ quan nhà nước cấp trên, hoặc của cơ quan mình nhằm giải quyết các công việc cụ thể.

Một số văn bản hành chính cá biệt thường gặp: Quyết định nâng lương; Quyết định bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ;

Quyết định miễn nhiệm cán bộ...

 b. Văn bản hành chính thông thường

Là loại văn bản mang tính thông tin điều hành nhằm thực thi văn bản pháp quy hoặc dùng để giải quyết các tác nghiệp cụ thể như: phản ánh tình hình, giao dịch, trao đổi, ghi chép công việc của cơ quan hành chính Nhà nước.

Văn bản hành chính thông thường bao gồm các loại: Thông cáo, thông báo, hướng dẫn, chương trình, kế hoạch, phương án, đề án, dự án, báo cáo, biên bản, tờ trình, hợp đồng, công văn, công điện, bản ghi nhớ, bản cam kết, bản thoả thuận, giấy chứng nhận, giấy uỷ quyền, giấy mời, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy biên nhận hồ sơ, phiếu gửi, phiếu chuyển, thư công....

Một số hình thức văn bản hành chính thông thường: 

- Công văn hành chính

: Đây là loại hình văn bản dùng để giao dịch chính thức giữa các cơ quan như: mời họp, đề xuất, chất vấn, kiến nghị, trả lời, đôn đốc nhắc nhở thực hiện công việc...

- Thông báo:

Dùng để phản ánh tình hình trên các lĩnh vực hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức.

- Thông cáo

: Dùng để công bố với nhân dân một quyết định hoặc một sự kiện quan trọng về đối nội và đối ngoại của Chính phủ.

- Báo cáo: Là văn bản trình bày những kết quả đã đạt được trong hoạt động  của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giúp cho việc đánh giá tình

hình thực tế quản lý, lãnh đạo, là căn cứ để cấp trên ra quyết định quản lý phù hợp.

- Tờ trình:

  Là văn bản đề xuất với cấp trên một số vấn đề, xin cấp trên phê duyệt. Đó có thể là một chủ trương, một phương án công tác, một chính sách, một chế độ, một tiêu chuẩn, một định mức hoặc một đề nghị bổ sung, bãi bỏ một văn bản, quy định không còn phù hợp hoặc những vấn đề thông thường trong quản lý ở các cơ quan...

- Biên bản: Là văn bản hành chính dùng để ghi chép lại những sự việc đã xảy ra họăc đang xảy ra trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức do những người chứng kiến ghi lại.

Biên bản có nhiều loại như: Biên bản hội nghị, cuộc họp, biên bản sự việc xảy ra; biên bản xử lý vi phạm; biên bản bàn giao, nghiệm thu....

- Kế hoạch:

Là bản dự kiến các hoạt động với mục tiêu, trình tự, thời hạn tiến hành, phân công trách nhiệm để triển khai thực hiện chương trình hay thực hiện các công việc mang tính sự vụ thông thường trong hành chính.

   2.3. Văn bản chuyên ngành

Là loại hình văn bản hình thành trong hoạt động ngành, lĩnh vực như: văn bản chuyên ngành trong lĩnh vực thuế, tài chính, tư pháp, đất đai…

3. Quy trình soạn thảo, ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước

           

Quy trình  ban hành văn bản là trình tự các bước được sắp xếp khoa học, yêu cầu các chủ thể quản lý phải thực hiện trong hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản.

         

Để xác định trình tự các bước soạn thảo và ban hành văn bản, phải căn cứ vào tính chất, nội dung của từng loại hình văn bản cụ thể. Theo quy định chung, quy trình soạn thảo, ban hành văn bản gồm 6 bước:

          3.1. Bước 1: Đề xuất, soạn thảo văn bản

          a. Đề xuất việc soạn thảo và ban hành văn bản

Khi xuất hiện một nội dung vấn đề trong hoạt động quản lý, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm đề xuất chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản để giải quyết nội dung vấn đề đó. Đó là loại hình văn bản gì? phạm vi điều chỉnh đến đâu? tác động tới những đối tượng nào? mục đích của việc ban hành văn bản là gì?...

Để đề xuất soạn thảo và ban hành được những văn bản có tính khả thi trong thực tiễn, cần phải:

- Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt động của chủ thể ban hành văn bản;

- Căn cứ vào tính chất, nội dung của vấn đề cần văn bản hoá (nội dung thể hiện trong văn bản);

- Căn cứ vào sự ủy quyền (nếu có).

Mỗi loại hình văn bản chỉ chứa đựng những nội dung nhất định và gắn liền với thẩm quyền của chủ thể ban hành. Do đó, việc đề xuất lựa chọn loại hình văn bản là công việc tất yếu phải tiến hành trước khi bắt đầu soạn thảo văn bản.

b. Soạn thảo văn bản

- Căn cứ vào tính chất, nội dung của văn bản cần soạn thảo, chủ thể có thẩm quyền giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân soạn thảo hoặc chủ trì soạn thảo văn bản.

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm soạn thảo văn bản, phải:

+ Thu thập thông tin (thông tin pháp lý và thông tin thực tiễn), xử lý thông tin, lựa chọn những thông tin có giá trị làm cơ sở để thiết lập các yếu tố thể thức và nội dung của văn bản chuẩn bị soạn thảo;

+ Xây dựng đề cương dự thảo văn bản. Đề cương văn bản phải được xây dựng theo một kết cấu hợp lý, trong đó các ý, các đề mục, các vấn đề được sắp xếp phù hợp với từng loại hình văn bản cụ thể (được trình bày cụ thể tại phần II)

+ Viết dự thảo văn bản. Tùy theo tính chất, đặc điểm của từng loại hình văn bản, người soạn thảo văn bản lựa chọn hệ thống từ và câu (đảm bảo các yêu cầu của ngôn ngữ hành chính công vụ) để viết bản dự thảo văn bản. Có văn bản thể hiện dưới hình thức “văn điều khoản”, có văn bản thể hiện dưới hình thức “văn nghị luận” (được trình bày cụ thể tại phần II)

+ Trao đổi, tham khảo ý kiến của Thủ trưởng, cán bộ, công chức trong cơ quan về bản dự thảo văn bản;

+ Chỉnh lý bản dự thảo văn bản.

3.2. Bước 2: Lấy ý kiến đóng góp dự thảo văn bản

- Việc lấy ý kiến đóng góp dự thảo văn bản được thực hiện qua hình thức:

+ Tổ chức hội nghị (cuộc họp) đóng góp ý kiến cho dự thảo văn bản;

+ Gửi Công văn yêu cầu tham gia đóng góp ý kiến dự thảo văn bản (các cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu đóng góp ý kiến phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản);

- Làm bản tổng hợp ý kiến đóng góp và nghiên cứu để chỉnh lý bản dự thảo theo ý kiến nhận được.

Tuy nhiên, tùy vào tính chất, nội dung của dự thảo văn bản để xác định lấy ý kiến đóng góp của những cơ quan, tổ chức, cá nhân nào? Trong trường hợp văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân chuẩn bị ban hành có nội dung quy định về mức đóng góp, huy động vốn của dân cư địa phương; có nội dung liên quan đến vấn đề quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng các công trình công cộng quan trọng thuộc địa bàn quản lý, hoặc nội dung văn bản có ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt của dân cư ở địa phương thì bắt buộc phải tổ chức lấy ý kiến của nhân dân tại các thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố.

3.3. Bước 3: Thẩm định, kiểm tra dự thảo văn bản

Thẩm định, kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh giá dự thảo văn bản qua các nội dung:

- Sự cần thiết ban hành văn bản;

- Thẩm quyền ban hành văn bản (thẩm quyền về loại hình văn bản và thẩm quyền về nội dung được văn bản hóa);

- Tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất đồng bộ của nộ

i

dung văn bản với hệ thống pháp luật;

- Thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản;

- Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản.

3

.4. Bước 4: Thông qua văn bản

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân soạn thảo văn bản lập hồ sơ trình ký gửi chủ thể có thẩm quyền để xem xét và thông qua. Hồ sơ trình ký gồm các giấy tờ sau:

+ Tờ trình hoặc phiếu trình dự thảo văn bản;

+ Bản dự thảo văn bản;

+ Văn bản thẩm định, kiểm tra;

+ Bản tổng hợp ý kiến đóng góp dự thảo văn bản;

+ Các văn bản, giấy tờ khác có liên quan (nếu có);

- Thông qua, ký và ban hành văn bản theo đúng thẩm quyền và thủ tục luật định:

+ Đối với văn bản thông qua chế độ tập thể và quyết định theo đa số: Văn bản phải được xem xét, thông qua tại cuộc họp tập thể (các thành viên dự họp biểu quyết thông qua);

          + Đối với văn bản thông qua theo chế độ thủ trưởng: trên cơ sở xem xét hồ sơ trình ký, chủ thể có thẩm quyền ký và ban hành văn bản;

- Trong trường hợp không được thông qua, cơ quan, tổ chức, cá nhân soạn thảo phải chỉnh lý và trình lại dự thảo văn bản trong thời hạn nhất định.

         

3

.5. Bước 5: Công bố văn bản

          - Văn bản không thuộc danh mục bí mật nhà nước, tuỳ theo tính chất và nội dung phải được đăng công báo, yết thị và đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng theo luật định;

          - Thời gian công bố văn bản được thực hiện theo quy định của pháp luật.

          3.6. Bước 6: Gửi và lưu trữ văn bản

          Mọi văn bản phải được gửi, lưu trữ theo đúng các

quy trình,

thủ tục hành chính và thời gian quy định.

         

Lưu ý

: Tùy thuộc vào từng loại hình văn bản quản lý hành chính nhà nước để thực hiện nội dung các bước trong quy trình theo quy định của pháp luật.  

II. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI VĂN BẢN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1. Yêu cầu về nội dung văn bản

- Văn bản phải có tính mục đích

Văn bản quản lý nhà nước được ban hành với danh nghĩa là cơ quan Nhà nước nhằm đề ra các chủ trương, chính sách hay giải quyết các vấn đề sự việc cụ thể thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Do đó, khi soạn thảo tiến tới ban hành một văn bản nào đó đòi hỏi phải xác định rõ mục đích văn bản ban hành để làm gì? nhằm giải quyết vấn đề gì? và giới hạn vấn đề đến đâu? kết quả của việc thực hiện văn bản là gì? Tính mục đích trong nội dung văn bản được thể hiện:

+ Nội dung văn bản chuẩn bị ban hành phải thiết thực, đáp ứng đư­ợc tối đa những yêu cầu thực tế đòi hỏi (sự cần thiết ban hành văn bản); 

+ P

hản ánh đư­ợc các mục tiêu trong đư­ờng lối, chính sách của Đảng và quy phạm hoá (cụ thể hoá) thành QPPL nhằm triển khai đư­ợc sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động quản lý;

 + Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất đồng bộ.

  - Văn bản phải có tính khoa học

  Tính khoa học của văn bản được thể hiện:

 + Thông tin trong văn bản đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, chính xác và kịp thời;

+ Nội dung được sắp xếp theo trình tự hợp lý, lôgíc. Các ý không trùng lặp, thừa hay tản mạn, vụn vặt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc nắm bắt và triển khai thực hiện;

+ Bố cục chặt chẽ; nhất quán về chủ đề.

- Văn bản phải có tính phổ thông, đại chúng

Văn bản phải được viết rõ ràng phù hợp với trình độ dân trí nói chung (đặc biệt trình độ dân trí của các xã miền núi), để mọi đối tượng có liên quan đến việc thi hành văn bản đều có thể nắm bắt được đầy đủ nội dung văn bản đầy đủ. Văn bản quản lý nhà nước có liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội của nhân dân, nên văn bản phải có nội dung dễ hiểu, dễ nhớ, đảm bảo tối đa tính phổ cập, song không ảnh hưởng đến nội dung nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học của văn bản.

- Văn bản phải có tính bắt buộc thực hiện (tính công quyền)

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng pháp luật phải có hình thức thể hiện - đó chính là văn bản. Văn bản quản lý nhà nước được hình thành là để cụ thể hóa pháp luật, đề truyền đạt các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Vì vậy, văn bản phải có tính bắt buộc thực hiện (quyền lực đơn phương). Tuỳ theo tính chất và nội dung, văn bản phản ánh và thể hiện quyền lực nhà nước ở các mức độ khác nhau, đảm bảo cơ sở pháp lý để nhà nước giữ vững quyền lực của mình, truyền đạt ý chí của cơ quan nhà nước tới nhân dân và các chủ thể pháp luật khác.

Để đảm bảo tính công quyền, văn bản phải được ban hành đúng thẩm quyền, có nội dung hợp pháp, được ban hành theo đúng hình thức và trình tự do pháp luật quy định.

- Văn bản phải có tính khả thi.

Đây là một yêu cầu đối với văn bản, đồng thời là kết quả của sự kết hợp đúng đắn và hợp lý các yêu cầu về tính mục đích, tính khoa học, tính phổ thông đại chúng, tính công quyền. Ngoài ra, để các nội dung của văn bản được thi hành đầy đủ và kịp thời, văn bản còn phải có đủ các điều kiện sau:

+ Nội dung văn bản phải đưa ra những yêu cầu về trách nhiệm thi hành

hợp lý, nghĩa là phù hợp với trình độ, năng lực, khả năng vật chất của chủ thể thi hành.

+ Khi quy định các quyền cho chủ thể phải kèm theo các điều kiện bảo đảm thực hiện các quyền đó.

+ Phải nắm vững điều kiện, khả năng mọi mặt của đối tượng thực hiện văn bản nhằm xác lập trách nhiệm của họ trong các văn bản cụ thể.

Khi ban hành văn bản người soạn thảo phải tự đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của người thi hành thì văn bản mới có khả năng thực thi. Có nghĩa là văn bản ban hành phải đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế, phù hợp với hoàn cảnh không gian và thời gian…

 2. Yêu cầu về thể thức văn bản

Thể thức văn bản là tập hợp các thành phần cấu thành văn bản, được thiết lập và trình

bày theo đúng những quy định của Nhà nước để đảm bảo giá trị pháp lý cho văn bản.

Văn bản đúng thể thức khi đảm bảo các yêu cầu sau đây:

 - Có đầy đủ các yếu tố thể thức của một văn bản (bao gồm các yếu tố chung áp dụng đối với các loại văn bản và các yếu tố bổ sung trong những trường hợp cụ thể hoặc đối với một số loại văn bản nhất định);

 - Thiết lập và bố trí các yếu tố thể thức trong văn bản một cách khoa học, theo đúng quy định của pháp luật hiện hành;

 - Đảm bảo kỹ thuật trình bày văn bản, gồm: khổ giấy, kiểu trình bày, định lề trang văn bản, vị trí trình bày các yếu tố thể thức, phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ...

Thể thức văn bản bao gồm các thành phần (yếu tố) cơ bản sau đây:

   a. Quốc hiệu

- Là câu biểu thị  tên nước, chế độ chính trị của Nhà nước

- Quốc hiệu được thể hiện gồm  hai dòng:

“CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”            

 b. Tên cơ quan ban hành văn bản (Tác giả văn bản)

Là cơ quan, đơn vị có thẩm quyền ban hành văn bản. Theo quy định Nhà nước, khi ban hành văn bản các cơ quan, đơn vị phải thể hiện tên mình trên văn bản (đúng như quyết định thành lập), không được viết tắt.

Theo quy định hiện hành, có 3 hình thức ghi tên cơ quan ban hành văn bản:

- Chỉ ghi tên cơ quan ban hành văn bản

Ví dụ:                                

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN                    

HUYỆN……

-

Ghi tên cơ quan chủ quản cấp trên và tên cơ quan ban hành bên dưới (tùy theo vị trí của cơ quan)

 Ví dụ:                                 UBND TỈNH THANH HOÁ

                                                    SỞ TÀI CHÍNH

                 

   - Ghi tên các cơ quan cùng ban hành văn bản

          Ví dụ:                         

                                          

     

BỘ NỘI VỤ -

BỘ TÀI CHÍNH

           c. Số và ký hiệu của văn bản

- Số văn bản: Là số thứ tự của văn bản ban hành trong một thời gian nhất định (một năm)

- Ký hiệu văn bản: Là chữ viết tắt của tên loại văn bản và tên cơ quan ban hành văn bản

          - Số và ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật gồm:

          Số :.../ năm ban hành văn bản /viết tắt tên loại văn bản – viết tắt tên cơ quan ban hành văn bản

 - Số và ký hiệu của văn bản hành chính cá biệt, văn bản hành chính thông thường gồm:

 Số :.../ viết tắt tên loại văn bản – viết tắt tên cơ quan ban hành văn bản

 - Số và ký hiệu của công văn gồm:

Số:…/viết tắt tên cơ quan ban hành văn bản – tên đơn vị soạn thảo

          d.

Địa danh, ngày...tháng... năm...ban hành văn bản

* Địa danh ghi trên văn bản là tên gọi chính thức của đơn vị hành chính nơi cơ quan, tổ chức đóng trụ sở. Đối với những đơn vị hành chính được đặt tên theo tên người hoặc bằng chữ số thì phải ghi tên gọi đầy đủ của đơn vị hành chính đó. Cụ thể như sau:

- Địa  danh ghi trên văn bản của các cơ quan, tổ chức Trung ương  là tên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ quan, tổ chức đóng trụ sở.

- Địa danh ghi trên văn bản của cơ quan, tổ chức cấp tỉnh:

+ Đối với các cơ quan, tổ chức cấp thành phố trực thuộc Trung ương: là tên của thành phố trực thuộc Trung ương

+ Đối với các cơ quan, tổ chức cấp tỉnh: là tên thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc tên huyện nơi cơ quan, tổ chức, đóng trụ sở

- Địa danh ghi trên văn bản của các cơ quan, tổ chức cấp huyện là tên của huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

- Địa danh ghi trên văn bản của các cơ quan, tổ chức cấp xã là tên của xã, phường, thị trấn đó.

* Ngày, tháng, năm ban hành văn bản:

- Là ngày thông qua, ngày ký và ban hành văn bản.

- Ngày, tháng, năm ban hành văn bản được viết đầy đủ ngày...tháng...năm; các số chỉ ngày, tháng, năm dùng chữ số ả rập; đối với những số chỉ ngày nhỏ hơn 10 và số

tháng

nhỏ hơn 3 ghi thêm số 0 ở trước.

                             Ví dụ:   

……

, ngày 07 tháng

02

năm 2013

 đ. Tên loại và trích yếu nội dung của văn bản

- Tên loại văn bản là tên gọi của văn bản do pháp luật quy định (Quyết định, chỉ thị, báo cáo, thông báo…)

Tên loại văn bản được trình bày ở giữa trang giấy bên dưới yếu tố địa danh, ngày…tháng…năm… của văn bản (trừ công văn).

- Trích yếu nội dung của văn bản là câu ngắn gọn hoặc một cụm từ phản ánh khái quát nội dung chủ yếu của văn bản. Đó chính là chủ đề nội dung của văn bản.

+ Trích yếu nội dung văn bản được ghi dưới tên loại văn bản.

                          Ví dụ:                  

                                                  QUYẾT ĐỊNH

                                  Về

việc

Khen thưởng đối

với

ng chức

+ Hoặc được ghi dưới số

,

ký hiệu văn bản (đối với công văn).

                                Ví dụ:                

                                                      ỦY BAN NHÂN DÂN                    

                 HUYỆN

………….

                                                         Số 21/UBND – VP                    

                                                          V/v…..

e. Nội dung văn bản                        

- Nội dung văn bản là thành phần quan trọng nhất của văn bản, trong đó các quy phạm pháp luật (Đối với văn bản QPPL), các quy định được đặt ra; các vấn đề, sự việc được trình bày.

-

Tuỳ theo nội dung của từng loại văn bản mà trình bày theo văn xuôi pháp luật hay văn điều khoản.

- Nội dung văn bản được thể hiện gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung chính và phần kết luận (phần này sẽ được trình bày cụ thể ở phần soạn thảo các loại hình văn bản, còn ở đây chỉ nghiên cứu dưới góc độ thể thức văn bản).

g.

Chức vụ, họ tên, chữ ký của người có thẩm quyền

và con dấu của văn bản

- Chức vụ, họ tên, chữ ký của người có thẩm quyền: Người có thẩm quyền ký văn bản là thủ trưởng cơ quan hoặc người được uỷ quyền. Khi ký văn bản phải có đầy đủ: hình thức đề ký, chức vụ, chữ ký và họ tên của người có thẩm quyền ký văn bản. Hình thức ký văn bản được quy định cụ thể như sau:

 + Đối với cơ quan làm việc theo chế độ tập thể (những văn bản được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số), khi ký văn bản phải ghi từ “TM.” (thay mặt) vào trước tên cơ quan ban hành văn bản.

                       Ví dụ :              TM. ỦY BAN NHÂN DÂN

                                                             CHỦ TỊCH

                                                                (chữ  ký)

                                                                Họ và tên

+ Đối với cơ quan làm việc theo chế độ thủ trưởng hoặc đối với những văn bản thuộc thẩm quyền ký của cá nhân người đứng đầu cơ quan, thì người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền ký văn bản do cơ quan ban hành.

Ví dụ:

                          GIÁM ĐỐC                                                  

                                                               (chữ  ký)

                                                                Họ và tên

+ Trường hợp ký thay người đứng đầu cơ quan , tổ chức (cấp phó ký văn bản), phải ghi chữ viết tắt “KT.” ( ký thay ) vào trước chức vụ của người đứng đầu.

                    Ví dụ :              TM. UỶ BAN NHÂN DÂN

                                                     KT.CHỦ TỊCH

                                                    PHÓ CHỦ TỊCH

                                                            ( chữ ký )

                                                            Họ và tên

+ Trường hợp ký thừa lệnh thì phải ghi chữ viết tắt “TL” (thừa lệnh) vào trước chức vụ của người đứng đầu cơ quan

+ Trường hợp ký thừa uỷ quyền, phải ghi chữ viết tắt “TUQ” (thừa uỷ quyền) vào trước chức vụ của người đứng đầu cơ quan.

- Dấu của văn bản: Thể hiện tính hợp pháp và tính chất pháp lý của văn bản. Khi đóng dấu trên văn bản phải theo quy định như sau:

+ Dấu phải rõ ràng, ngay ngắn, đúng chiều và dùng mực đúng quy định (mực màu đỏ tươi).

+ Dấu phải đóng trùm lên khoảng 1/3 chữ ký của người ký có thẩm quyền về phía bên trái.

h. Nơi nhận văn bản

Nơi nhận văn bản là tên cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm thi hành văn bản hoặc tên cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện văn bản và ban hành văn bản.

- Đối với văn bản có tên gọi cụ thể (quyết định chỉ thị …) nơi nhận văn bản được thể hiện dưới phần nội dung văn bản về phía bên trái.

- Đối với văn bản không có tên gọi cụ thể (công văn) nơi nhận được thể hiện dưới phần địa danh ngày tháng năm ban hành văn bản  bằng dòng “Kính gửi” (tên cơ quan tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm thực hiện văn bản) và dưới nội dung văn bản về phía bên trái.

 i. Dấu chỉ mức độ mật, dấu chỉ mức độ khẩn

- Dấu chỉ mức độ mật

 + Dấu chỉ  mức độ mật có ba mức: “Mật” “Tối mật” và “Tuyệt mật”.

   + Dấu chỉ mức độ mật có hình chữ nhật, mực dấu màu đỏ tươi, được đúng vào văn bản trước khi ký chính thức.

 + Việc đóng dấu chỉ mức độ mật do người có thẩm quyền ký văn bản quyết định.

- Dấu chỉ mức độ khẩn

  + Dấu chỉ mức độ khẩn có ba mức: “Khẩn”, “Thượng khẩn” và “Hoả tốc”.

  + Dấu chỉ mức độ khẩn có hình chữ nhật, mực dấu màu đỏ tươi, được đúng vào văn bản trước khi ký chính thức.

  + Việc đùnng dấu chỉ mức độ khẩn do người có thẩm quyền ký văn bản quyết định.

         +

Dấu chỉ mức độ mật, mức độ khẩn được đóng vào khoảng trống dưới số và ký hiệu văn bản (đối với văn bản tên loại) hoặc dưới trích yếu nội dung văn bản (đối với công văn).

  + Trường hợp văn bản sử dụng cả dấu chỉ mức độ mật, dấu chỉ mức độ khẩn thì dấu chỉ mức độ mật đóng trước, dấu chỉ mức độ khẩn đóng sau (dưới dấu chỉ mức độ mật).

k. Các thành phần thể thức khác

- Các chỉ dẫn về phạm vi l­ưu hành: “lưu hành nội bộ”, “trả lại sau khi họp (hội nghị)”, “xem xong trả lại”...;

 - Chỉ dẫn về dự thảo văn bản: “dự thảo”, “dự thảo lần…”;

 - Ký hiệu tên người đánh máy và số lượng bản phát hành;

 - Địa chỉ cơ quan, tổ chức, địa chỉ e-mail, địa chỉ trên mạng (Website); số điện thoại, số Telex, số Fax;

 - Phụ lục văn bản;

 - Số trang của văn bản.

Các yêu cầu

cụ thể

về kỹ thuật trình bày như: đặt lề, vị trí các yếu tố thể thức, phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ, độ giãn dòng,… phải thực hiện theo đúng quy định tại Thông tư Liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ ban hành ngày 06 tháng 5 năm 2005 và Thông tư số 01/2011/TT-BNV của Bộ Nội vụ ban hành ngày 19 tháng 01 năm 2011 hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản.

           3. Yêu cầu về ngôn ngữ văn bản

         

Ngôn ngữ sử dụng để diễn đạt nội dung văn bản quản lý nhà nước là ngôn ngữ viết, tiếng Việt; là phư­ơng tiện để Nhà nước ban hành và truyền đạt ý chí của mình dư­ới dạng văn bản tới các đối tư­ợng có liên quan. Trong tiếng Việt có nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ trong văn bản quản lý nhà nước được viết theo phong cách hành chính công vụ. Ngôn ngữ hành chính công vụ có năm đặc điểm:

          - Tính chính xác: Tạo ra cách hiểu chung, thống nhất, đúng đắn về nội dung văn bản.

         

- Tính phổ thông: Tạo ra cách hiểu đầy đủ, dễ nhớ và phù hợp với trình độ dân trí của đối tư­ợng thực hiện văn bản.

           - Tính khách quan:

          + Nội dung văn bản được trình bày trực tiếp, không thiên vị, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn khách quan và sự vận động của xã hội;

          + Tạo ra sự chuẩn mực, kỷ cư­ơng của hệ thống văn bản nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nư­ớc và vì lợi ích chung của xã hội (của cộng đồng).

   

      - Tính trang trọng, lịch sự:

          + Thể hiện sự trang nghiêm của văn bản do các chủ thể có thẩm quyền ban hành;

          + Phản ánh trình độ văn minh của nền hành chính dân chủ, pháp quyền hiện đại.

          - Tính khuôn mẫu: Tạo ra sự thống nhất trong cách trình bày văn bản và tiết kiệm thời gian soạn thảo văn bản.

          III. PHƯƠNG PHÁP SOẠN THẢO MỘT SỐ LOẠI HÌNH VĂN BẢN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG

1. Soạn thảo Quyết định của Uỷ ban nhân dân

Quyết định của Uỷ ban nhân dân là văn bản quy phạm pháp luật được ban  hành để quyết định các chủ trương, biện pháp, chế độ thuộc thẩm quyền quản lý của mình, nhằm thực hiện các chủ trương, chính sách của cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Trong soạn thảo Quyết định cần chú ý:

- Ghi gọn rõ nội dung chính của Quyết định trong trích yếu.

- Phần căn cứ ra Quyết định cần ghi cụ thể các căn cứ về mặt pháp lý và căn cứ thực tế để ra Quyết định.

- Phần nội dung ghi thành các điều khoản (cũng có thể chia thành chương, mục rồi đến điều khoản nếu cần thiết) .


2. Soạn thảo Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân

Chỉ thị là văn bản mang tính đặc thù, truyền đạt quyết định hành chính của chủ thể ban hành tới đối tượng tiếp nhận, có mối quan hệ trực thuộc về tổ chức với chủ thể ban hành.

Trong soạn thảo Chỉ thị cần chú ý:

- Căn cứ để ban hành Chỉ thị phải xác đáng, có sự bảo đảm về pháp lý.

- Nội dung Chỉ thị phải thiết thực, rõ ràng, có cơ sở để thực hiện, phù hợp với thực tế.

- Phân công thực hiện cụ thể, đúng chức năng, thẩm quyền.

- Trình bày ngắn gọn, dễ hiểu, dứt khoát.

Bố cục của Chỉ thị: Nội dung Chỉ thị gồm 3 phần:

- Phần mở đầu: nêu mục đích của việc ra Chỉ thị; hoặc viện dẫn một văn bản chỉ đạo của cơ quan cấp trên; hoặc tóm tắt tình hình thực tế liên quan đến lĩnh vực cần ra chỉ thị ;...

- Phần nội dung chính của Chỉ thị: nêu từng mục theo thứ tự 1, 2, 3, .....

Cần nêu rõ các chủ trương, biện pháp thực hiện, yêu cầu cần đạt được, điều kiện đảm bảo, ....

- Phần tổ chức thực hiện: Xác định rõ trách nhiệm thi hành chỉ thị, phân công theo dõi, biện pháp đánh giá, kiểm tra,...

Cách hành văn: hành văn theo lối chủ động, có tính thuyết phục; sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với đối tượng tiếp nhận.

3. Soạn thảo Công văn hành chính

Công văn hành chính là một loại văn bản có tính chất tác nghiệp, nhiều khi mang mục đích trao đổi thông tin mà đại diện là cơ quan để giải quyết nhiệm vụ chung.

Trong soạn thảo Công văn cần chú ý:

- Phần nội dung của Công văn có 3 phần nhỏ:

+ Phần mở đầu: Thường đề cập đến lý do, cơ sở để viết Công văn.

+ Phần nội dung chính: Trình bày yêu cầu cần giải quyết.

+ Phần kết luận: Khẳng định hoặc làm sáng tỏ thêm yêu cầu thực hiện.

- Hành văn dễ hiểu, dứt khoát, lịch sự.

4. Soạn thảo Biên bản

- Biên bản là văn bản hành chính dùng để ghi chép lại những sự việc đã xảy ra họăc đang xảy ra trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức do những người chứng kiến ghi lại.

Biên bản có nhiều loại khác nhau như: Biên bản hội nghị, cuộc họp;  Biên bản sự việc xảy ra; Biên bản xử lý vi phạm; Biên bản bàn giao, nghiệm thu...

- Trong soạn thảo Biên bản cần chú ý:

+  Đặt vấn đề: ghi rõ thời gian lập Biên bản; địa điểm thành phần tham gia.

+ Nội dung Biên bản: Ghi diễn biến sự kiện, nội dung Biên bản phải được ghi chép chính xác, cụ thể, trung thực các số liệu, sự kiện, không suy đoán chủ quan, không suy diễn lan man. Biên bản cần phải được chi tiết và đầy đủ. Việc ghi chép văn bản có thể theo cách tổng hợp hoặc có thể ghi theo mẫu có sẵn.

+ Kết thúc Biên bản: Ghi rõ thời gian kết thúc.

5

. Soạn thảo Tờ trình

        

Tờ trình là văn bản đề xuất với cấp trên một vấn đề mới, xin cấp trên phê duyệt. Đó có thể là một chủ trương, một phương án công tác, một chính sách, một chế độ, một tiêu chuẩn, một định mức hoặc một đề nghị bổ sung, bãi bỏ một văn bản, quy định lỗi thời hoặc những vấn đề thông thường trong quản lý ở các cơ quan.

         

Kết cấu nội dung của Tờ trình gồm:

          - Phần mở đầu:Nêu rõ lý do đưa ra trình duyệt, phân tích những căn cứ thực tế làm nổi bật các nhu cầu bức thiết của vấn đề cần đề nghị.

         

- Phần nội dung chính:

          + Nêu tóm tắt nội dung đề nghị mới, các phương án thực hiện nội dung đề nghị (khả thi, cụ thể, rõ ràng).

          + Phân tích những phản ứng có thể xảy ra xoay quanh đề nghị mới nếu được áp dụng (nếu có); những khó khăn, thuận lợi khi triển khai thực hiện đề nghị mới; những biện pháp khắc phục khó khăn.

          + Nêu ý nghĩa, tác dụng của đề nghị mới đối với sản xuất, đời sống xã hội, công tác lãnh đạo, quản lý…

         

- Phần kết luận:

          Nêu những kiến nghị, đề nghị cấp trên xem xét chấp thuận đề nghị mới để sớm triển khai thực hiện. Có thể nêu một vài phương án để cấp trên phê duyệt, để khi cần thiết có thể chuyển đổi phương án.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

          1. Luật ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của HĐND

-

UBND năm 2004.

          2. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.

         

3. Nghị định 110/2004/NĐ – CP ngày 08 tháng 4 năm 2004 của Chính Phủ về Công tác văn thư.

         

4. Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05/3/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

         

5. Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 08/02/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về Công tác văn thư.

         

6. Thông tư

liên tịch số

55/2005/TTLT

-

BNV

-

VPCP ngày 06/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính Phủ

h

ướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản.

         

7. Thông tư 01/2011/TT-BNV ngày 19/01/2011 của Bộ Nội vụ

hướng

dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính.

 

CHUYÊN ĐỀ 6

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ

CẢI CÁCH CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC

Phần thứ nhất

 CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

 

I. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ MỤC ĐÍCH CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm cải cách hành chính

Cải cách hành chính là một khái niệm đã được nhiều học giả, các nhà nghiên cứu hành chính trên thế giới đưa ra, dựa trên các điều kiện về chế độ chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, cũng như phụ thuộc vào quan điểm và mục tiêu nghiên cứu, do đó hầu hết các định nghĩa này là khác nhau. Tuy nhiên, qua xem xét, phân tích dưới nhiều góc độ, có thể thấy các khái niệm về cải cách hành chính được nêu ra có một số điểm thống nhất sau:

Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến hành cải cách hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội của một quốc gia. Cải cách hành chính tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, có thể được đặt ra những trọng tâm, trọng điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số nội dung của nền hành chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, thể chế pháp lý, hoặc tài chính công v.v...

Ở Việt Nam hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính thức định nghĩa khái niệm cải cách hành chính là gì. Tuy nhiên, nhiều văn bản quan trọng của Đảng đã đề cập đến thuật ngữ này, như Nghị quyết Đại hội VII, Nghị quyết Trung ương 8 - khoá VII, Nghị quyết Đại hội VIII,... đồng thời đã nêu ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho công cuộc cải cách hành chính nhà nước.

2. Vai trò và mục đích của cải cách hành chính nhà nước

Hoạt động cải cách hành chính nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm trật tự của xã hội, duy trì sự phát triển xã hội theo định hướng của nhà nước, qua đó hiện thực hóa mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước là yêu cầu và mong muốn của mọi quốc gia. Cải cách hành chính nhà nước, xét cho cùng, không có mục đích tự thân mà nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước trong quá trình quản lý các mặt của đời sống xã hội, trước hết là quản lý, định hướng và điều tiết sự phát triển kinh tế - xã hội và duy trì trật tự của xã hội theo mong muốn của Nhà nước.

Công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo ở nước ta trong những năm qua đã tạo nên những thay đổi vượt bậc trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Những thành công đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng là trong toàn bộ tiến trình đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến cải cách nền hành chính nhà nước. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Cải cách hành chính là nội dung trọng tâm của công cuộc đổi mới và cải cách nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, mục đích của cải cách hành chính nhà nước phải hướng tới là:

- Một nền hành chính phục vụ nhân dân, phát huy trí tuệ và nguồn lực của nhân dân.

- Một nền hành chính dân chủ phải là một nền hành chính trong sạch, giữ vững và thể hiện đúng đắn bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mọi thể chế, tổ chức, cán bộ, công chức đều hết lòng phục vụ nhân dân, giữ vững phẩm chất và đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, không tiêm nhiễm bệnh quan liêu, cửa quyền, tham ô, lãng phí.

- Một nền hành chính có đủ quyền lực, thực thi quyền lực hành pháp trong khuôn khổ pháp luật cho phép, đúng nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền được pháp luật quy định, không lạm quyền mà cũng không buông lỏng quyền, thực hiện đúng chức năng hành pháp, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức của quyền lập pháp và hành pháp.

- Nền hành chính nhà nước có năng lực cao, ngang tầm nhiệm vụ, phải được hiện đại hóa trong tổ chức - nghiệp vụ - kỹ thuật; tổ chức phải hợp lý, có căn cứ khoa học về quản lý nhà nước và áp dụng những kỹ thuật hiện đại.

- Mục đích trực tiếp của cải cách nền hành chính nhà nước là hiệu lực và hiệu quả của quản lý.

II. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

1. Sự cần thiết phải cải cách hành chính ở Việt Nam

Cải cách hành chính ở nước ta hiện nay diễn ra trong khuôn khổ của cải cách nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là tiền đề quan trọng để thực hiện thành công quá trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta hiện nay là:

- Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHXN.

- Nền hành chính nhà nước trong quá trình đổi mới vẫn còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế quản lý mới.

- Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

- Sự phát triển của khoa học - công nghệ ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động quản lý.

- Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với Nhà nước ngày càng cao.

2. Mục tiêu của cải cách hành chính ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

Tiếp tục thực hiện các mục tiêu chung đặt ra đối với công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước, những mục tiêu cụ thể được xác định trong giai đoạn 2011-2020, bao gồm:

- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.

- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.

- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước.

- Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.

3. Chương trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam (2011 - 2020)

Đánh giá thực tiễn cải cách hành chính nhà nước những năm qua, trong giai đoạn 2011-2020 Chính phủ xác định những nội dung cơ bản của cải cách hành chính sẽ tập trung vào 6 nội dung chủ yếu là:

- Cải cách thể chế hành chính nhà nước nhằm tạo ra hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động hành chính nhà nước đầy đủ, chính xác, rõ ràng.

- Cải cách thủ tục hành chính nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và cơ quan nhà nước với công dân và tổ chức trong xã hội theo hướng đơn giản, gọn nhẹ và công khai, minh bạch.

- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước hướng tới xây dựng một bộ máy hành chính đơn giản, gọn nhẹ, vận hành thông suốt từ trung ương tới cơ sở với chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước và các cấp hành chính không chồng chéo, trùng lắp.

- Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, là yếu tố cơ bản quyết định tới hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và cả bộ máy hành chính nhà nước nói chung. Do đó, đây là một trong những nội dung được chú trọng nhất trong tiến trình cải cách hành chính ở nước ta.

- Cải cách tài chính công nhằm hoàn thiện, đổi mới chính sách, cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, chính sách về thu nhập, tiền công, tiền lương; đổi mới chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước; tăng đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa…

- Hiện đại hóa nền hành chính nhà nước là việc ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước làm tăng năng suất lao động, góp phần quan trọng làm thay đổi phương thức làm việc của cán bộ, công chức, hướng tới một môi trường hành chính hiện đại.

III. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA TỈNH THANH HÓA

1. Đánh giá khái quát tình hình cải cách hành chính giai đoạn 2006-2010

Thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước, công tác cải cách hành chính nhà nước đã được quán triệt, triển khai thực hiện khá toàn diện, đồng bộ trên địa bàn tỉnh; nội dung hoạt động cải cách ngày càng đi vào chiều sâu và luôn đặt trong khuôn khổ các quan điểm, chủ trương của Đảng và sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng về đổi mới hệ thống chính trị.

Kết quả tích cực đã đạt được trong tỉnh giai đoạn 2006-2010 là rấtđáng ghi nhận nhưng so với mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ cải cách còn chậm; nhiều yếu tố của nền hành chính còn lạc hậu, bất cập. So với mục tiêu, các nội dung cải cách đã đạt được nhưng còn ở mức độ thấp là:

- Rà soát văn bản quy phạm pháp luật chưa phát hiện được nhiều những mâu thuẫn, bất cập, lạc hậu cản trở phát triển kinh tế, xã hội; đánh giá tác động, kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện văn bản quy phạm pháp luật;

- Công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát giải quyết thủ tục hành chính, nhất là thủ tục hành chính trong các đơn vị dịch vụ sự nghiệp công; đầu tư các nguồn lực cho việc tổ chức thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông, nhất là cấp huyện, cấp xã;

- Phân định thẩm quyền, trách nhiệm các bộ phận thuộc bộ máy bên trong của sở, ngành, UBND cấp huyện; nghiên cứu quy định cơ chế liên kết các bộ phận, cơ quan trong hệ thống hành chính; xây dựng cơ cấu biên chế theo vị trí việc làm;

 - Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý sử dụng cán bộ, công chức; nội dung, phương thức thi tuyển công chức; nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; đánh giá phân loại cán bộ, công chức hàng năm; phát hiện, bồi dưỡng  phát triển lực lượng chuyên gia đóng vai trò chủ lực trong các lĩnh vực quản lý; khắc phục, xử lý sau kiểm tra, giám sát, thanh tra.

- Kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân lực và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước.

Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là:

* Nguyên nhân chủ quan:

- Nhiều sở, ban, ngành cấp tỉnh, UBND cấp huyện, người đứng đầu chưa thể hiện rõ sự quan tâm, trăn trở, nêu cao trách nhiệm đối với công tác cải cách hành chính, cá biệt còn phó mặc cho cán bộ, công chức tham mưu, giúp việc;

- Cải cách, đổi mới chưa trở thành hành động tự giác của đa số cán bộ, công chức. Tư tưởng chờ đợi, ỷ lại cấp trên hướng dẫn, đôn đốc còn nhiều. Thực hiện việc gắn kết quả cải cách hành chính với đánh giá hoàn thành nhiệm vụ, phân loại cơ quan, đơn vị, cá nhân cán bộ, công chức chưa đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh;

- Thiếu chế tài cụ thể đủ mạnh để tạo động lực hỗ trợ công tác cải cách hành chính. Các nguồn lực đầu tư chưa đảm bảo thực hiện nhiệm vụ được giao, trước hết là nhân lực tham mưu, giúp việc và kinh phí thực hiện cải cách hành chính.

* Nguyên nhân khách quan:

- Mô hình bộ máy, biên chế tổ chức thực hiện cải cách hành chính nhà nước nói chung, Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 nói riêng chưa ngang tầm với mục tiêu, nội dung, quy mô nhiệm vụ và không phù hợp với tính chất, đặc điểm công việc; lúng túng, thay đổi nhiều nhưng thiếu thể chế hoá hướng dẫn thống nhất trên phạm vi toàn quốc;

- Thiếu cơ chế gắn kết, lồng ghép giữa hoạt động cải cách hành chính với hoạt động chuyên môn; thiếu đồng bộ giữa cải cách hành chính với cải cách tư pháp và lập pháp;

- Nhiều nội dung cải cách hành chính phụ thuộc vào khả năng ngân sách của các địa phương, trong khi đó số địa phương (huyện, xã) khó khăn về ngân sách còn nhiều; hướng dẫn bố trí đầu tư các nguồn lực phục vụ nhiệm vụ cải cách hành chính chậm và thiếu tập trung, thống nhất.

Một số kinh nghiệm rút ra sau 05 năm thực hiện

- Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, bộ phận thuộc bộ máy bên trong của cơ quan hành chính nhà nước là nhân tố quyết định nhất trong hoạt động cải cách hành chính. Người đứng đầu bộ phận, cơ quan phải trực tiếp chỉ đạo công tác cải cách hành chính; quyền hạn, trách nhiệm phải đi liền với các điều kiện đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ được giao;

- Công tác tổ chức bộ máy, biên chế, cơ chế hoạt động và lựa chọn nhân lực tham mưu, giúp việc cải cách hành chính phải đi trước một bước và phải xuất phát từ quy mô, tính chất, đặc điểm công việc cải cách hành chính; 

- Việc xác định nhiệm vụ trọng tâm, then chốt phải xuất phát và trên cơ sở phân tích nguyên nhân của các tồn tại, yếu kém của nền hành chính; phải xuất phát từ thực tiễn, đồng thời coi trọng lý luận khoa học;

- Coi trọng việc phát hiện bất cập, lạc hậu cản trở có nguyên nhân chính từ nền hành chính; khuyến khích nghiên cứu ứng dụng các cơ chế, mô hình, phương thức quản lý tiến bộ; kết hợp đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, đối thoại và phản biện trực tiếp với các nhà khoa học, các tổ chức khoa học và người dân.

2. Nội dung cải cách hành chính của tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011-2015

2.1. Mục tiêu

Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, đồng bộ, minh bạch và khả thi của văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành; tạo môi trường pháp lý bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch.

Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được rà soát, sắp xếp, tổ chức lại đảm bảo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước giữa các cấp; giữa các cơ quan, đơn vị ở từng cấp được phân định hợp lý, đúng quy định pháp luật; không chồng chéo, bị bỏ trống hoặc trùng lắp.

Thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân, tổ chức thuộc thẩm quyền quy định được đánh giá tác động 100% trước khi ban hành; đến năm 2015, trên 60% thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết các cơ quan hành chính từ tỉnh đến cơ sở được rà soát đơn giản hóa hoặc kiến nghị đơn giản hóa theo thẩm quyền; mỗi năm đều có tỷ lệ giảm chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính.

Đến hết năm 2013, có 100% cơ quan hành chính nhà nước từ tỉnh đến cơ sở áp dụng cơ chế một cửa liên thông giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân; vào năm 2015, trên 60% cá nhân, tổ chức hài lòng đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; bảo đảm dự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 60% vào năm 2015.

Vào năm 2015, trên 50% các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc làm; trên 80% công chức cấp xã ở vùng đồng bằng, đô thị và trên 60% ở vùng miền núi, dân tộc đạt tiêu chuẩn theo chức danh.

Trên 60% văn bản, tài liệu trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên mạng điện tử; 100% cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin của UBND cấp huyện trở lên cung cấp tới người dân và doanh nghiệp đầy đủ thông tin theo quy định của pháp luật và tất cả các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 2; hầu hết dịch vụ công cơ bản trực tuyến ở mức độ 3.

2.2. Các nhiệm vụ trọng tâm

a) Cải cách thể chế:

Cải cách thể chế nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách của tỉnh, nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện các quy định về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, tính khả thi của văn bản, đồng thời đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước.

Nhiệm vụ cụ thể:

- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.

- Rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính khác có chứa đựng quy phạm pháp luật do các cơ quan từ tỉnh đến cơ sở đã ban hành. Sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền, hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung những quy định không phù hợp với thực tế; không đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản; không hợp pháp; trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập; không khả thi.

- Tập trung hoàn thiện đồng bộ, minh bạch các thể chế thuộc thẩm quyền trong các lĩnh vực:

+ Quản lý đất đai, đầu tư, xây dựng, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển nông thôn; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển dịch vụ sự nghiệp công, dịch vụ công cộng và đầu tư phát triển Khu kinh tế, Khu công nghiệp, Cụm công nghiệp, làng nghề.

+ Đảm bảo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; lấy ý kiến nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng; công khai theo quy định pháp luật các thể chế thuộc thẩm quyền quản lý.

b) Cải cách thủ tục hành chính

Cải cách thủ tục hành chính được xác định là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của tổ chức và cá nhân. Cải cách thủ tục hành chính cần đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, liên thông giữa các thủ tục hành chính liên quan; đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hiện; bình đẳng giữa các đối tượng thực hiện thủ tục hành chính; tiết kiệm thời gian và chi phí của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và cơ quan hành chính nhà nước; phù hợp với mục tiêu quản lý hành chính nhà nước.

Nhiệm vụ cụ thể:

- Kiểm soát công khai thủ tục hành chính và giải quyết thủ tục hành chính; rà soát, đánh giá đơn giản hóa nâng cao chất lượng thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan từ tỉnh đến cơ sở ở các lĩnh vực: Đầu tư, đất đai, tài nguyên, xây dựng, xuất khẩu, nhập khẩu; công chức, viên chức; y tế, giáo dục, lao động, chính sách xã hội, đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã, hành chính tư pháp và một số lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định.

- Đánh giá tác động 100% quy định về thủ tục hành chính có trong dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành.

- Công bố cập nhật tất cả thủ tục hành chính mới ban hành; được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế; thủ tục hành chính bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ, hết hiệu lực thi hành thuộc thẩm quyền quản lý của UBND tỉnh.

- Đối chiếu, nâng cấp thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền quản lý của UBND tỉnh có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính theo phiên bản mới của Văn phòng Chính phủ.

- Xây dựng sơ đồ hóa theo nhóm thủ tục hành chính trong các lĩnh vực: Đầu tư, đất đai, tài nguyên khác, xây dựng; y tế, giáo dục, chính sách xã hội, đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã, hành chính tư pháp.

- Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính.

- Xây dựng, triển khai thực hiện Đề án Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước.

- Nghiên cứu, xây dựng, ban hành phụ cấp đối với cán bộ, công chức kiêm nhiệm công tác kiểm soát thủ tục hành chính ở các cấp, các ngành.

c) Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đảm bảo cho hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ tỉnh tới cơ sở thông suốt, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện và hoạt động theo pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật.

Nhiệm vụ cụ thể:

- Tổng rà soát vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của UBND các cấp; các cơ quan chuyên môn và các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước của UBND tỉnh, UBND cấp huyện (kể các các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước).

Điều chỉnh những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn còn chồng chéo, bị bỏ trống hoặc trùng lắp; chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận.

Tổ chức sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn; các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước của UBND tỉnh, UBND cấp huyện (kể cả các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước).

- Xác định số lượng, tiêu chuẩn và cơ cấu vị trí việc làm theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức quản lý biên chế.

- Đổi mới phương thức làm việc theo hướng chuyển những dịch vụ phục vụ quản lý hành chính nhà nước hiện sử dụng biên chế thực hiện sang thực hiện theo chế độ hợp đồng, thuê khoán; quản lý, đánh giá thực hiện công vụ dựa vào kết quả đầu ra và chất lượng thực hiện các chỉ tiêu về mục tiêu, nhiệm vụ và tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra.

- Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân lực và tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở đó, điều chỉnh cho phù hợp và triển khai thực hiện trên diện rộng; từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục, y tế.

- Rà soát, đánh giá, hoàn thiện phân cấp quản lý về tài nguyên, khoáng sản quốc gia; quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển để bảo đảm tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra; đề cao vai trò chủ động, trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành và quản lý thống nhất về tài nguyên, khoáng sản quốc gia; quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển.

- Duy trì, nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, đẩy mạnh thực hiện cơ chế một cửa liên thông.

d) Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

Xác định đây là nội dung trọng tâm, quan trọng trong công tác cải cách hành chính, các ngành, các cấp cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức một cách đồng bộ, thực sự trong sạch, vững mạnh, có đủ phẩm chất và năng lực, tạo bước chuyển biến mạnh về phẩm chất, đạo đức, về chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, về ý thức, trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Nhiệm vụ cụ thể:

- Rà soát văn bản có quy định về quản lý biên chế; quản lý cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền ban hành để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ kịp thời các quy định không phù hợp với Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản liên quan, hoặc các quy định chưa rõ ràng, minh bạch giữa việc quản lý cán bộ, công chức và việc quản lý viên chức.

- Tổng rà soát tiêu chí, quy chuẩn đối với cán bộ, công chức, viên chức để sửa đổi, điều chỉnh, bãi bỏ, ban hành mới theo thẩm quyền, hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, điều chỉnh, bãi bỏ, ban hành mới các tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp với quy định pháp luật và điều kiện cụ thể của tỉnh làm cơ sở tuyển chọn, bố trí cán bộ, công chức, viên chức vào các vị trí việc làm phù hợp.

- Đổi mới việc bố trí, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.

- Đổi mới nâng cao tính cạnh tranh trong thi tuyển dụng, nâng ngạch công chức; nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng; triển khai thực hiện thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các chức vụ Trưởng phòng, Phó trưởng phòng và tương đương ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, UBND cấp huyện.

- Đổi mới, hoàn thiện nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo thiết thực, phù hợp với các hình thức: hướng dẫn tập sự trong thời gian tập sự; bồi dưỡng bắt buộc hàng năm và bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu trước khi bổ nhiệm.

- Xây dựng, ban hành Quy định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm, luân chuyển chức danh Trưởng phòng, phó trưởng phòng và tương đương ở các cơ quan chuyên môn thuộc thuộc UBND tỉnh, UBND cấp huyện.

- Xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài khoa học và công nghệ.

- Xây dựng chế độ đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ và có cơ chế đưa ra khỏi biên chế, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.

- Quy định cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức; chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ quy định đối với cán bộ, công chức, viên chức.

- Tập trung đẩy mạnh các hoạt động: giám sát, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về quản lý biên chế, cán bộ, công chức, viên chức; về thi hành công vụ đối với các cơ quan có sử dụng biên chế nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước từ tỉnh đến cơ sở; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ; giám sát, kiểm tra sau giám sát, kiểm tra, thanh tra.

đ) Cải cách tài chính công

Thực hiện có hiệu quả quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước của tỉnh; quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập của tỉnh. Chú trọng đổi mới cơ chế tài chính đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch, từng bước điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công cho phù hợp với chất lượng dịch vụ và mức sống của người dân. Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ người thuộc diện chính sách và người nghèo được thụ hưởng các dịch vụ y tế, giáo dục.

Nhiệm vụ cụ thể:

- Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền ban hành, huy động, tiếp nhận, điều phối, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đất đai, tài nguyên; cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển, nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách.

- Thực hiện cân đối ngân sách tích cực; dành tỷ lệ hợp lý cho đầu tư phát triển nguồn thu và đầu tư cho con người, nhất là chi lương và an sinh xã hội; thực hành tiết kiệm chi, giám sát chặt chẽ thu ngân sách, nhất là các nguồn thu từ tài nguyên, đất, thu nhập cá nhân, giảm dần bội chi ngân sách.

- Đổi mới căn bản cơ chế tài chính đối với việc xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng làm tiêu chuẩn bắt buộc; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ; phát triển quỹ đổi mới công nghệ.

- Đổi mới cơ chế kiểm soát chi ngân sách đối với các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng chuyển những dịch vụ phục vụ quản lý hành chính nhà nước hiện sử dụng biên chế để thực hiện sang thực hiện theo chế độ hợp đồng, thuê khoán; thay thế cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước theo số lượng biên chế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả đầu ra và chất lượng thực hiện các chỉ tiêu về mục tiêu, nhiệm vụ.

- Đổi mới cơ chế tài chính; điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công phù hợp và tăng cường giám sát để đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, dân số- kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao, trước tiên là đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng đẩy mạnh quyền tự chủ, công khai, minh bạch.

- Xây dựng cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực tài chính của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp các dịch vụ công.

e) Hiện đại hóa hành chính

Hiện đại hóa hành chính trên cơ sở đổi mới phương thức và lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức. Giảm mạnh hội họp và giấy tờ hành chính, mở rộng việc giao ban, họp trực tuyến. Các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính được thực hiện dưới dạng điện từ. Triển khai có hiệu quả áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh. Phát triển đồng bộ và song hành giữa hiện đại hóa công sở và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động quản lý, điều hành, giải quyết thủ tục hành chính và xây dựng cơ quan điện tử.

Nhiệm vụ cụ thể:

- Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Trọng tâm là:

Duy trì, nâng cấp, cải tiến cơ sở hạ tầng công nghệ; coi trọng việc cập nhật dữ liệu; phát hành văn bản, tài liệu trên mạng điện tử; tăng cường sử dụng thư điện tử để giao dịch trong làm việc, hạn chế tối đa các giao dịch trực tiếp; hỗ trợ công tác thông tin, tuyên truyền về cải cách hành chính.

Xây dựng, sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, cá nhân; xây dựng Quy chế đảm bảo an ninh mạng công nghệ thông tin trên địa bàn tỉnh; xây dựng, áp dụng phần mềm theo dõi thực hiện nhiệm vụ do UBND, Chủ tịch UBND các cấp giao cho các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý.

- Đánh giá kết quả, hiệu quả tổ chức thực hiện Kế hoạch triển khai áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Thanh Hóa.

- Tiếp tục đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo trụ sở chính quyền cấp xã theo Quyết định số 1441/QĐ-TTg ngày 06/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ; từng bước hiện đại hóa trang thiết bị, trụ sở làm việc của các sở, ban, ngành và UBND cấp huyện.

3. Các giải pháp chủ yếu

a) Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng; công tác chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính từ UBND tỉnh đến các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã.

b) Tuyên truyền, phổ biến, quán triệt thường xuyên, liên tục và sâu rộng trong nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ và Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2011-2015 của tỉnh.

c) Rà soát, kiện toàn và chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác cải cách hành chính ở sở, ban, ngành, địa phương; có các hình thức động viên, hỗ trợ cụ thể về vật chất và tinh thần phù hợp với quy định pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức.

d) Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện cải cách hành chính; có giải pháp thích hợp đẩy mạnh việc thực hiện và lấy kết quả cải cách hành chính làm tiêu chí thi đua, khen thưởng; đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.

đ) Phát triển đồng bộ và song hành, tương hỗ việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông với cải cách hành chính để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, hiệu quả thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức; động viên đông đảo tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác cải cách hành chính và giám sát chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.

e) Đảm bảo kinh phí và các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện cải cách hành chính nhà nước.

Phần thứ hai

CẢI CÁCH CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC

 

Chế độ công vụ, công chức là một nội dung quan trọng trong hoạt động của nền hành chính quốc gia. Nhờ có hoạt động công chức, công vụ mà Nhà nước mới thực hiện được các chủ trương, chính sách mang tính chính trị của Đảng cầm quyền, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và tổ chức việc cung cấp, phục vụ các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của nhân dân. Công chức, công vụ là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết, biện chức với nhau. Với tư cách là chủ thể của hoạt động công vụ, có thể nói công chức là hạt nhân của hoạt động công vụ. Ngược lại, công vụ là một hoạt động công quyền, nhân danh nhà nước, vừa là cơ sở, định hướng, vừa là nguyên tắc tổ chức cho quá trình hoạt động của công chức. Chế độ công vụ, công chức của bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải phù hợp với thể chế chính trị và tổ chức bộ máy của nhà nước đó. Sự tồn tại và phát triển của các hình thức nhà nước qua từng thời kỳ đòi hỏi các quốc gia phải luôn đổi mới, hoàn thiện chế độ công vụ, công chức. Ở nước ta, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm (khóa X) của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước vẫn nhấn mạnh “tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức”, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

I. MỤC TIÊU ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC CỦA CHÍNH PHỦ

1. Mục tiêu chung

Xây dựng một nền công vụ “Chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả”.

2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2015

- Triển khai việc xác định danh mục vị trí việc làm và cơ cấu công chức theo ngạch trong các cơ quan, tổ chức. Phấn đấu đến năm 2015 có 70% các cơ quan, tổ chức của Nhà nước từ Trung ương đến cấp huyện xây dựng và được phê duyệt Danh mục vị trí việc làm và cơ cấu công chức theo ngạch;

- Tiến hành sửa đổi, bổ sung và xây dựng được 100% các chức danh và tiêu chuẩn công chức;

- Nâng cao chất lượng tuyển dụng công chức; thi nâng ngạch công chức. 100% các cơ quan ở Trung ương và 70% các cơ quan ở địa phương thực hiện ứng dụng công nghệ tin học vào thi tuyển, thi nâng ngạch công chức;

- Thực hiện thí điểm đổi mới việc tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ và tương đương trở xuống;

- Đổi mới công tác đánh giá công chức theo hướng đề cao trách nhiệm người đứng đầu và gắn với kết quả công vụ;

- Xây dựng và thực hiện cơ chế đào thải, giải quyết cho thôi việc và miễn nhiệm công chức không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, ....

- Quy định và thực hiện chính sách thu hút, tiến cử, phát hiện, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ;

- Đổi mới cơ chế quản lý và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

II. QUAN ĐIỂM

1. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức. Thống nhất về nhận thức coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và then chốt của cải cách nền hành chính hiện nay;

2. Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức phải gắn với quá trình thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn  2011 - 2020, phù hợp với đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, góp phần xây dựng một nền hành chính thống nhất, trong sạch, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả và phục vụ nhân dân;

3. Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức phải có lộ trình, bước đi thích hợp và phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta.

III. NỘI DUNG ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ CÔNG CHỨC

1. Đẩy mạnh phân cấp quản lý và hoàn thiện việc tổ chức công vụ gọn, nhẹ:

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý công chức. Từng bước gắn thẩm quyền tuyển dụng với thẩm quyền sử dụng. Giảm quy mô công vụ, sắp xếp tổ chức bộ máy gọn nhẹ, tránh chồng chéo, tiếp tục tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

2. Xác định danh mục vị trí việc làm: Đẩy mạnh triển khai việc xác định vị trí việc làm và cơ cấu công chức theo ngạch trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương.

3. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, chức danh công chức: Tổ chức việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, chức danh ngạch công chức và tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý từ cấp phòng trở lên để trình cấp có thẩm quyền ban hành. 

4. Nâng cao chất lượng thi tuyển, thi nâng ngạch công chức và từng bước đổi mới chế độ công vụ, công chức theo hướng năng động, linh hoạt:

- Nâng cao chất lượng thi tuyển và thi nâng ngạch công chức, lựa chọn đúng người có phẩm chất, trình độ và năng lực để tuyển dụng vào công vụ hoặc bổ nhiệm vào các ngạch cao hơn;

- Từng bước đổi mới chế độ công vụ, công chức theo hướng năng động, linh hoạt. Trước mắt, nghiên cứu quy định cho phép các cơ quan hành chính được ký hợp đồng lao động có thời hạn tối đa là 1 năm đối với một số vị trí để đáp ứng ngay yêu cầu của hoạt động công vụ. Về lâu dài, cần nghiên cứu sửa Luật cán bộ, công chức theo hướng có chế độ công chức hợp đồng.

5. Ban hành các quy định của Chính phủ đề cao trách nhiệm trong hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức và gắn chế độ trách nhiệm cùng kết quả thực thi công vụ với các chế tài về khen thưởng, kỷ luật, thăng tiến, đãi ngộ. Đặc biệt là đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu.

6. Tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ, đánh giá công chức. Việc đánh giá phải căn cứ vào kết quả, hiệu quả công tác của cán bộ, công chức; thẩm quyền đánh giá thuộc về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan sử dụng cán bộ, công chức. Chú trọng thành tích, công trạng, kết quả công tác của cán bộ, công chức. Coi đó là thước đo chính để đánh giá phẩm chất, trình độ, năng lực của cán bộ, công chức.

Sửa đổi, bổ sung và ban hành mới quy trình đánh giá công chức, đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, chính xác và trách nhiệm đối với việc đánh giá công chức.

7. Thực hiện chính sách nhân tài: Quy định các chế độ, chính sách liên quan đến việc phát hiện, tuyển chọn, tiến cử, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ.  

8. Đổi mới công tác bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý: Đổi mới phương thức tuyển chọn lãnh đạo cấp vụ, cấp sở, cấp phòng. Quy định chế độ thực tập, tập sự lãnh đạo, quản lý.

9. Nghiên cứu sửa đổi các quy định về chức danh, số lượng và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

10. Tiếp tục nghiên cứu để đổi mới và kiên quyết thực hiện chính sách tinh giản biên chế gắn với công tác đánh giá để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Ngoài các nội dung chính nêu trên, để việc đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức đạt được kết quả tốt, cần thiết phải có một số các giải pháp hỗ trợ như thực hiện ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tin học vào các hoạt động thực thi công vụ và quản lý cán bộ, công chức: Thực hiện nhiệm vụ, tổ chức tuyển dụng, thi nâng ngạch, thống kê tổng hợp, quản lý cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức...; đưa công tác thống kê báo cáo vào nề nếp để thống kê trở

thành một công cụ quan trọng trong xây dựng và phát triển đội ngũ công chức

./.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.

2. Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 13/6/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 30c/NQ-CP.

3. Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 của Chính phủ về phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”

4. Kế hoạch cải cách hành chính tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 - 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 1525/QĐ-UBND ngày 23/5/2012 của UBND tỉnh Thanh Hóa.

5. Báo cáo

Tổng kết thực hiện Chương trình Tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 và Chương  trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 của tỉnh Thanh Hóa (Số 47/BC-UBND ngày 30/7/2010).


NỘI DUNG TRỌNG TÂM ÔN TẬP THI TUYỂN CÔNG CHỨC

 NGẠCH CHUYÊN VIÊN NĂM 2014 CỦA TỈNH THANH HÓA

MÔN TIẾNG ANH

           (Phê duyệt kèm theo Quyết định số          /QĐ-HĐTT ngày       tháng 8 năm 2014 của Hội đồng thi tuyển công chức tỉnh Thanh Hóa)

 

Nội dung trình độ B:

1. Tenses

- Future Time (will and going to)

- Present simple

- Present continuous

- Present perfect      

- Present perfect continuous

- Past simple

- Past continuous

- Past perfect

2. Modals

3. Adjectives and adverbs 

4. Articles

5. Nouns

6. Pronouns

7. Possessives

8. Prepositions

9. Conditions

10. Passive voice

11. Reported  speech                                                                

12. Phrasal verbs
13. Prepositional phrases

14. Gerunds and infinitives

15. Clauses

16. Question tags

17. Các lĩnh vực liên quan

a.

    

Sức khỏe

b.

    

Giáo dục

c.

     

Giao thông

d.

    

Thời tiết, khí hậu

e.

     

Ngôn ngữ

f.

      

Dân số

g.

    

Danh nhân

h.

    

Môi trường

i.

      

Đông vật

j.

      

Địa danh

k.

    

Công nghệ

l.

      

Văn hóa, xã hội

m.

 

Cuộc sống thường ngày

n.

    

Ngày nghỉ

o.

    

Du lịch

p.

   

Y tế

q.

    

Lịch sử

r.

     

Âm nhạc

s.

     

Nghề nghiệp

t.

      

Các hoạt động giải trí

u.

    

Các thành tựu khoa học

 

         

Ghi chú

:

Thí sinh truy cập Hệ thống thi thử công chức trực tuyến tại website của Viện Khoa học tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ (thionline.vn) để làm quen với phần mềm thi trực tuyến môn Tiếng Anh


 

NỘI DUNG TRỌNG TÂM ÔN  TẬP THI TUYỂN CÔNG CHỨC

NGẠCH CHUYÊN VIÊN NĂM 2014 CỦA TỈNH THANH HÓA

MÔN TIN HỌC

(Phê duyệt kèm theo Quyết định số          /QĐ-HĐTT ngày       tháng 8 năm 2014 của Hội đồng thi tuyển công chức tỉnh Thanh Hóa)

 

I. NỘI DUNG ÔN TẬP TRỌNG TÂM GỒM:

TIN HỌC CƠ BẢN

- Khái niệm cơ bản về máy tính

- Hệ điều hành Windows XP, Windows 7

TIN HỌC VĂN PHÒNG

- Microsoft Word 2003, 2007

- Microsoft Excel 2003, 2007

- Microsoft PowerPoint 2003, 2007

ĐẢM BẢO AN TOÀN, AN NINH THÔNG TIN

- Virus

- Mật khẩu an toàn

MẠNG VÀ KHAI THÁC THÔNG TIN TRÊN MẠNG

- Mạng, Mạng Internet

- E-mail; Tìm kiếm thông tin trên Internet

 

 

II. NỘI DUNG CỤ THỂ

II.1 TIN HỌC CƠ BẢN

II.1.1. Khái niệm cơ bản về máy tính

-  Khái niệm: RAM máy tính; tên một số thiết bị mạng; khái niệm mạng cục bộ; thiết bị đầu vào, đầu ra; phân biệt phần phần mềm hệ thống với phần mềm ứng dụng.

- Khái niệm Hệ điều hành.

II.1.2. Hệ điều hành Windows XP, Windows 7

- Phần mềm Windows Exploler.

- Cách thiết lập chế độ bảo vệ màn hình; cài đặt máy in mới; thiết lập độ phân giải của màn hình; xóa vĩnh viễn một thư mục hoặc một tệp tin.

- Quy định tên thư mục, tệp tin.

- Khái niệm Shortcut.

- Thao tác để tìm kiếm một tệp (file) trong ổ đĩa.

- Thao tác xoá một phần mềm đang được cài đặt trong máy tính; đặt chế độ màn hình nghỉ; đặt ngày, tháng, năm cho máy tính.

- Các tính năng mới của Windows 7 so với Windows XP.

II.2 TIN HỌC VĂN PHÒNG

II.2.1. Microsoft Word 2003

- Khởi động, ra khỏi phần mềm Microsoft Word.

- Thao tác lưu trữ văn bản soạn thảo.

- Thiết lập các chế độ làm việc cơ bản.

- Các thao tác định vị con trỏ đánh máy.

- Các thao tác cơ bản trên khối: Chọn khối, sao chép, di chuyển, xoá, tìm kiếm và thay thế,…

- Các thao tác định dạng: Phông chữ - Font, đoạn - Paragraph, liệt kê - Bullets and Numbering, cột - Columns, chữ rơi – Drop cap, định vị Tabs…

- Chèn: Ký tự đặc biệt – Symbol, hình ảnh – Picture, khung chữ - Text box, chữ nghệ thuật – WordArt, đánh số trang – Page numbers, tệp tin, ký hiệu-thứ tự đầu dòng, đường kẻ, công thức toán học, biểu đồ,....

- Tạo chú thích.

- Bảng biểu – Table:  Chèn bảng, xoá cột, xoá dòng, tách bảng, trộn ô, tuỳ chỉnh bảng, sử dụng thanh công cụ bảng biểu Tables and Borders, sử dụng một số hàm số trong bảng,..

- Định dạng trang in khổ giấy, Tiêu đề trang – chân trang, In ấn…

- Thao tác trộn thư tín.

- Các tính năng mới của Microsoft Word 2007 so với Microsoft Word 2003.

II.2.2.

Microsoft Excel 2003

- Khái niệm địa chỉ : Tương đối, tuyệt đối, hỗn hợp.

- Một số hàm thông dụng: SUM, AVERAGE, MAX, MIN, COUNT, COUNTA, RANK

- Hàm, toán tử xử lý chuỗi ký tự:  LOWER, UPPER; Dấu “”

- Hàm logic: AND, OR

- Hàm tìm kiếm: VLOOKUP, HLOOKUP

- Thao tác để sắp xếp dữ liệu, lọc dữ liệu tự động.

- In ấn trong Excel: In một vùng của bảng tính; inlặp lại tiêu đề bảng tính tại các trang sau.

- Các tính năng mới của Microsoft Excel 2007 so với Microsoft Excel 2003.

II.2.3. Microsoft PowerPoint 2003

- Thao tác  để tạo một bản trình bày (Presentation) mới, sử dụng thiết kế mẫu Design Templates.

- Thao tác để chọn mẫu bố cục Slides.

- Thao tác tạo các hiệu ứng cho Slides.

- Thao tác đ

tạo hiệu ứng hoạt hình cho các đối tượng.

- Thao tác xóa Slide, sao chép một Slide, thêm Slide.

- Thao tác chèn phim vào Slide.

- Thao tác in ghi chú cho Slide.

- Thao tác chèn: Phim, ảnh, biểu đồ vào Slide.

- Các tính năng mới của Microsoft PowerPoint 2007 so với Microsoft PowerPoint 2003.

I.3. ĐẢM BẢO AN TOÀN, AN NINH THÔNG TIN

I.3.1. Virus

- Khái niệm Virus máy tính.

Các biện pháp ngăn ngừa virus máy tính.

I.3.2. Mật khẩu, an toàn

- Thế nào là Mật khẩu mạnh.

- Khái niệm

Phishing

, Hacker.

I.4. MẠNG VÀ KHAI THÁC THÔNG TIN TRÊN MẠNG

I.4.1. Mạng, Internet

- Khái niệm Mạng cục bộ; mạng diện rộng; mạng Internet.

- Kể tên một số phần mềm trình duyệt Internet.

- Các thao tác cơ bản khi sử dụng phần mềm trình duyệt: Gõ địa chỉ, sao chép thông tin trên mạng, đặt địa chỉ trên mạng internet làm trang chủ,...

I.4.

2. E-mail; Tìm kiếm thông tin

- Thao tác khởi động phần mềm, nhận thư, gửi thư, chuyển tiếp thư, …

- Các thành tố “TO”, “CC”, “BCC”, “SUBJECT” có ý nghĩa gì?

- Gửi thư điện tử kèm Files.

- Các chức năng của Inbox, Outbox, Draft, Send, Sent ...trong phần mềm gửi nhận thư điện tử.

- Phân biệt trang tìm kiếm thông tin (máy tìm kiếm) với trang thông tin.

- Đuôi của địa chỉ tên miền (domain) có ý nghĩa thế nào?

         

Ghi chú

:

Thí sinh truy cập Hệ thống thi thử công chức trực tuyến tại website của Viện Khoa học tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ (thionline.vn) để làm quen với phần mềm thi trực tuyến môn Tin học.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro