tai lieu quoc phong

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BÀI 1

---o0o---

PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

I. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

  1. Những hiểu biết chung về “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ

    a. Khái niệm “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ

      - Khái niệm về “DBHB”:

    “DBHB” là chiến lược cơ bản của CNĐQ và các thế lực phản động, nhằm lật đổ chính trị-xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng các phương pháp phi quân sự”.

    Như vậy, nội dung chính của DBHB là:

       + Sử dụng mọi thủ đoạn phi quân sự, kết hợp với răn đe quân sự để ngầm phá từ bên trong, nhằm tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”.

       + Kích động các mâu thuẫn tôn giáo, dân tộc, sắc tộc.

       + Triệt để khai thác và lợi dụng khó khăn, sai sót của Nhà nước, tạo nên sức ép ngày càng lớn buộc lãnh đạo Nhà nước phải từng bước chuyển hoá, thay đổi đường lối chính trị, nhường quyền lãnh đạo cho lực lượng đối lập.

+ Tác động của chiến lược DBHB là một trong những nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của XHCN ở Đông Au và Liên Xô

    - Khái niệm bạo loạn lật đổ.

Bạo loạn là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức của lực lượng phản động, gây rối trật tự an ninh xã hội, nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ, thiết lập chính quyền phản động ở địa phương và Trung ương. BLLĐ là một thủ đoạn của CNĐQ và các thế lực phản động trong chiến lược DBHB để xoá bỏ CNXH ở Việt Nam.

Như vậy,  đặc trưng của BLLĐ

      + BLLĐ là hoạt động bằng bạo lực có tổ chức của CNĐQ và lực lượng phản động để chống phá các nước tiến bộ trước hết là các nước XHCN.

      + Mục đích của BLLĐ nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ, thiết lập chính quyền phản động ở địa phương hoặc Trung ương.

      + DBHB là quá trình tạo nên những điều kiện, thời cơ cho BLLĐ.

      + Cả DBHB và BLLĐ đều cùng bản chất phản Cách mạng trong âm mưu chống phá các nước tiến bộ, trước hết là các nước XHCN.

 - Khái niệm về gây rối.

  Gây rối là hành động quá khích cuả một số người làm mất ổn định trật tự, an toàn xã hội ở một khu vực (thường hẹp) trong một thời gian nhất định (thường là ngắn).

Đối với gây rối cần chú ý:

     + Đặc điểm gây rối:  thường diễn ra tự phát hoặc do các phần tử chống đối trong xã hội kích động, đôi khi lôi kéo được một bộ phận quần chúng tham gia.

     + Gây rối có thể bị địch lợi dụng như cuộc tập dượt hoặc bước mở màn cho BLLĐ.

  b. Quá trình hình thành phát triển chiến lược DBHB

     - Sau chiến tranh Thế giới thứ  hai đến những năm 70 của thế kỷ XX.

      + Sau chiến tranh Thế giới thứ  hai, CNXH phát triển thành hệ thống các nước XHCN, làm thay đổi căn bản tình hình so sánh lực lượng trên Thế giới.

      + Đế quốc Mĩ thực thi chiến lược toàn cầu “ngăn chặn”, nhằm ngăn chặn Cộng sản, làm suy yếu, thu hẹp ảnh hưởng của Liên Xô và các nước XHCN.

      + Ngày 22/12/1946 người đại diện của Mĩ ở Liên Xô đã trình lên chính phủ Mĩ kế hoạch chống Liên Xô toàn diện: bao vây quân sự; phong toả kinh tế; lật đổ chính trị; có thể dùng vũ lực can thiệp, kế hoạch đó được gọi là:”ngăn chăng phi vũ trang”.

     + Đa-lét giám đốc CIA cho rằng: lấy uy hiếp quân sự làm hậu thuẫn để tập trung xâm nhập về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá đối với các nước XHCN, khiến các nước này tan rã từ bên trong, rút ngắn tuổi thọ của chủ nghĩa cộng sản.

Như vậy, đến thập kỉ 50, ý tưởng DBHB đã được bổ sung cho chiến lược tiến công quân sự.

     + Những năm 60 tổng thống  Kenedy đưa ra chiến lược hoà bình, với chính sách “mũi tên và cành ô liu”. Từ đây, DBHB bước đầu trở thành chiến lược của CNĐQ và luôn đi bên cạnh sức mạnh quân sự.

     + Những năm 70, tổng thống Nixon (R.Nich-xơn) với chính sách “cây gậy và củ cà rốt”. Mĩ vừa đe dọa bằng sức mạnh quân sự, vừa mua chuộc bằng lợi ích kinh tế nhằm khắc phục các nước. Trên thực tế, một mặt tiếp xúc hoà hoãn với các nước XHCN.

 - Những năm 80, của thế kỷ XX đến nay

  + Những năm 80, các nước XHCN thực hiện cải tổ, cải cách, đổi mới, đây là một chủ trương đúng đắn làm cho XHCN phát triển. Nhưng quá trình thực hiện, có một số sai lầm, địch ráo riết tiến công nhằm làm các nước XHCN sụp đổ.

     + Năm 1988, R. Nixon xuất bản cuốn sách “1999 chiến thắng không cần chiến tranh”. Đó là cơ sở làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược DBHB về lí luận.

     + Năm 1989, tổng thống George Bush (cha) xúc tiến nhanh chiến lược toàn cầu “Vược trên ngăn chặn”. DBHB được CNĐQ thực hiện ráo riết, nó trở thành một chiến lược tiến công mạnh mẽ vào các nước XHCN Đông Au và Liên Xô.

Như vậy, “DBHB” là một biện pháp, một thủ đoạn dần dần phát triển thành một chiến lược hoàn chỉnh nằm trong chiến lược toàn cầu phản Cách mạng của CNĐQ, đứng đầu là Mĩ.

    + Ngày nay, CNĐQ vẫn nuôi tham vọng thống trị thế giới, mưu đồ xoá bỏ các nước XHCN còn lại. Chúng điều chỉnh chiến lược toàn cầu thành”dính líu”, “khuyết trương”,”chủ động”,”can thiệp sớm”. Vì vậy chúng ta luôn cảnh giác, chuẩn bị đất nước, chủ động đánh bại chiến lược “DBHB”.

  2. CNĐQ và các thế lực thù địch thực hiện “DBHB”, BLLĐ để chống phá Cách mạng Việt Nam

    a. Vì sao Mỹ và các thế lực thù địch luôn chống phá Việt Nam

     - Việt Nam là ngọn cờ đấu tranh cho độc lập dân tộc, đang kiên quyết nhất trong chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược.

    - Nếu xoá bỏ được CNXH Việt Nam, sẽ có nhiều thuận lợi xoá bỏ CNXH ở các nước còn lại, uy hiếp độc lập dân tộc của các nước.

    - Xoá CNXH Việt Nam, Mỹ hy vọng xoá được “hội chứng Việt Nam”trên đất My.

   b. Mỹ đánh giá Việt Nam

     - Việt Nam có một Đảng Cộng sản truyền thống, có đội ngũ kế cận vững vàng.

     - Đảng Cộng Sản Việt Nam nắm rất chắc ngọn cờ dân tộc.

     - CNXH ở Việt Nam vững vàng và tiến lên.

     - Lòng tin của nhân dân Việt Nam vào Đảng Cộng sản và CNXH ngày càng được củng cố.

   c. Hiện nay Mỹ và các thế lực thù địch thực hiện “DBHB”, BLLĐ, Chống phá  Việt Nam

     - Mục tiêu

      + Mỹ và các thế lực thù địch thực hiện, xoá bỏ chế độ XHCN Việt Nam, kéo Việt Nam vào quỹ đạo của chúng. Mục tiêu đó không hề thay đổi và chúng luôn coi Việt Nam là trọng điểm chống phá.

     + Ngày 3/2/1994, Mĩ tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam.

     + Ngày 11/7/19995, Mĩ tuyên bố bình thường hoá Việt - Mĩ. Ngay đêm 11/7/1995 tổng thống Mĩ Bill Clinton tuyên bố:

    ”Việc bình thường hoá quan hệ của chúng ta với Việt Nam không phải là kết thúc nỗ lực của chúng ta. Chúng ta sẽ tiếp tục phấn đấu cho đến khi chúng ta có được những câu trả lời mà chúng ta có thể có”.

     “Chúng ta bắt đầu thảo luận các vấn đề nhân quyền với Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tự do tín ngưỡng”.

    “Tôi tin rằng việc bình thường hoá và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mĩ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Au và Liên Xô trước đây”.

      Như vậy, âm mưu xuyên suốt của Mĩ với Việt Nam là xoá bỏ CNXH ở Việt Nam càng nhanh càng tốt.

    - Phương châm chỉ đạo

     + Mềm, ngầm, sâu: DBHB là chính kết hợp răn đe quân sự co lựa chọn và khi có thời cơ, xây dựng lực lượng phản động người Việt Nam ở trong và ngoài nước để chống phá.

     + Phá hoại càng cao, càng sâu càng tốt, phá có trọng điểm, chui sâu leo cao vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, LLVT. Lấy phá hoại kinh tế là trọng tâm.

   - Thủ đoạn hoạt động chủ yếu

    Thứ nhất.Chống phá về chính trị tư tưởng: 

     + Trọng tâm là xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư  tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng. Cách làm:tuyên truyền, xuyên tạc, hạ thấp đi đến vô hiệu hoá các nội dung trên.

     + Phá vỡ hệ thống nguyên tắc tổ chức trong hệ thống chính trị, làm mất hiệu lực  nguyên tắc tập trung dân chủ. Cách làm: bôi nhọ xuyên tạc đi đến làm mất hiệu lực nguyên tắc đó.

     +  Phá vỡ khối đại đoàn kết của toàn dân, các tổ chức chính trị - xã hội. Cách làm,  xuyên tạc, chia rẽ, làm cho nội bộ ta không tin nhau. Nếu có thời cơ  cài cắm những quan điểm mơ hồ, những phần tử cơ hội, thực hiện kế hoạch “kén làm tổ”, “chui sâu, leo cao” để ngầm phá ta từ bên trong lâu dài.

   Thứ hai. Hoạt động phá hoại kinh tế

     + Mục tiêu chính phá hoại kinh tế là lấy việc chống phá từ bên trong kết hợp với điều kiện bên ngoài để tạo ra áp lực với nền kinh tế nước ta.

     + Hiện nay, chúng tập trung phá vỡ quan hệ sản xuất XHCN của ta. Cách làm:  bằng nhiều thủ đoạn rất xảo quyệt. Trong đó coi trọng mở rộng kinh tế tư bản, tư nhân, kinh tế thị trường tự do, thu hẹp và làm suy yếu thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, tiến tới phủ định định hướng XHCN trong nền kinh tế nhiều thành phần của ta, thiết lập nền kinh tế tư bản dưới sự điều khiển của Mỹ ở Việt Nam.

   Thứ ba. Lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá ta

      + Vấn đề dân tộc:

    Kẻ thù triệt để khai thác các mâu thuẫn giữa các dân tộc do nhiều nguyên nhân gây ra. Mục đích: để chia rẽ khối đoàn kết, tạo dựng những mâu thuẫn mới, kích đông tư tưởng hẹp hòi dân tộc, xúi dục một số dân tộc thiểu số đấu tranh với Đảng, Nhà nước ta để đòi cái gọi la: “độc lập quốc gia tự trị”, đòi “dân chủ”, tôn trọng “quyền” của các dân tộc, nhằm gây rối loạn tình hình an ninh xã hội.

    Đặc biệt chúng chú trọng yếu tố tâm lý và sự dồn nén khó khăn về đời sống tinh thần, vật chất. Mục đích, để tạo dựng xu hướng bất bình với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.

     + Vấn đề tôn giáo:

    Triệt để lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta. Mục đích, để truyền bá mê tín dị đoan và tư  tưởng phản động chống CNXH.

    Tích cực hoạt động, nhất là hoạt động phá hoại. Mục đích, phối hợp lực lượng phản động trong nước với lực lượng tôn giáo chống Cộng quốc tế, đẩy mạnh hoạt động phá hoại để tạo ra thực lực để trở thành lực lượng đối trọng với Nhà nước ta.

    Phương hướng hoạt động chủ yếu của chúng là đấu tranh ôn hoà đòi tự do tôn giáo, dẫn đến đấu tranh đòi tự do dân chủ, mở rộng quan hệ quốc tế, đến đòi hỏi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cuối cùng kết hợp với sự chỉ đạo, giúp đỡ, viện trợ của CNĐQ và các thế lực phản động bên ngoài sẽ giành thắng lợi qua bầu cử.

   Thứ tư. Xâm nhập về văn hoá:

    Kẻ thù tiến công vào nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

 Mục đích, làm phai mờ những giá trị văn hoà truyền thống Cách mạng của chúng ta, kết hợp với việc gieo rắc văn hoá phản động, nhằm chuyển đổi văn hoá Việt Nam thành “thuộc địa văn hoá” của CNĐQ.

   Tất cả việc làm đó còn nhằm tạo ra và bổ sung cho đội quân xung kích “DBHB”, BLLĐ của chúng.

   Thứ năm. Vô hiệu hoá LLVT:

     + Kẻ thù tập trung phá hai lực lượng chủ yếu la. Quân đội nhân dân và công an nhân dân.

     + Mục đích, phá vỡ hệ tư tưởng, tổ chức của quân đội và công an. Làm cho lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu, xói mòn về đạo đức… để dẫn tới phủ định sự lảnh đạo của Đảng, và chế độ”phi chính trị hoá”, mất phương hướng và thay đổi bản chất Cách mạng của mình.

     + Cách làm: xuyên tạc, bôi nhọ bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội, công an, phá vỡ khối đại đoàn kết, chia rẽ nội bộ, quân đội với Đảng vơí nhân dân…

     +  Hiện nay, chúng đặc biệt chú ý đến trạng thái tâm lí để truyền đạt, xuyên tạc vị trí, chức năng, nhiệm vụ của quân đội nhân dân. Đặc lợi ích kinh tế đối lập với lợi ích quốc phòng. Đối lập giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm phủ định vai trò của quốc phòng trong sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta.

   Thứ sáu. Kích động, phối hợp hành động của lực lượng phản động trong nước và phản đông ngoài nước

     + Kẻ thù rất coi trọng lực lượng phản động trong nước, nhằm tạo dựng lực lượng trực tiếp chống phá ta từ bên trong.

     + Thủ đoạn hành động:

       * Vừa xảo quyệt vừa tinh vi để giành mục tiêu cụ thể, như: kinh tế, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, nhằm phục hồi tư tưởng chống cộng.    

       * Trọng điểm chiến lược của bọn phản động người Việt sống ở nước ngoài  chống ta là: “giữ vững chiến tuyến chống Cộng tại hải ngoại - tấn công mãnh liệt vào Việt cộng tại quốc nội”.

       *  Đối với tín đồ, đòi tự do tôn giáo, hành đạo, huỷ bỏ “hệ thống tôn giáo quốc doanh”.

       *  Đối với dân, đòi dân chủ, dân sinh…

       *  Đối với văn nghệ sĩ, trí thức, đòi tự do ngôn luận, hội họp...

       *  Chúng sử dụng các lực lương trong nước, để làm cầu nối giữa các tổ chức phản động trong nước và tổ chức phản động ngoài nước, vừa phối hợp hoạt động, vừa tập trung lực lượng

Tóm lại, CNĐQ và các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ ta. Đồng thời với việc gây tình huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức quốc tế nhảy vào can thiệp, vào công việc nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng quân sự.

Chính vì vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược DBHB, BLLĐ càng trở nên phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, chúng ta nhất định giành thắng lợi.

II- NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VÀ CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1. Luôn nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm, nhiệm vu bảo vệ Tổ quốc

    a. Mục tiêu

      - Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.

      - Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN,

      - Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước.

      - Bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc.

      - Bảo vệ ANCT, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá.

      - Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.

   b. Quan điểm chỉ đạo

     - Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

     - Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH, lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển KT – XH là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.

     - Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

     - Xây dựng sức mạnh tổng hợp (CT, KT, VH, QP-AN, đối ngoại); phát huy sức mạnh các khối đại đoàn kết toàn dân, lấy LLVT làm nòng cốt, tăng cường tiềm lực QP-AN, xây dựng thế trận QPTD gắn ANND.

     - Phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ, khai thác mọi thuận lợi ngoại lực.

     - Chủ động ngăn ngừa, kịp thời phát hiện và tiêu diệt những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.

  c. Phương châm chỉ đạo

    - Kiên định nguyên tắc chiến lược, đi đôi với vận dụng linh hoạt sách lược, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế; phân hoá cô lập các phần tử chống đối, ngoan cố, các thế lực chống đối Việt Nam.

    - Chỉ đạo cụ thể:

     + Đối với nội bộ. Thực hiện phát huy dân chủ, giáo dục, thiết phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với giữ gìn kỉ cương, kỉ luật, xử lý nghiêm minh các sai phạm.

     + Đối vớí các thế lực chống đối ở trong nước. Phân hoá, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, xử lý nghiêm, kiên quyết với những ai cố tình chống đối, đi ngược lại với lợi ích dân tộc. Không để hình thành tổ chức đối lập dưới bất kỳ hình thức nào.

- Luôn sâu sát cơ sở, nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời mọi mầm móng gây mất an ninh, không để bị động bất ngờ.

    d. Nhiệm vụ cơ bản

     - Giữ vững hoà bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.

      + Là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

      + Nội dung cụ thể. Giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; duy trì hoà bình lâu dài và ổn định chính trị, không để xảy ra bạo loạn chính trị và “tự diễn biến”; ngăn chặn, đẩy lùi mưu toan “ DBHB”, nguy cơ can thiệp quân sự, xung đột vũ trang, xâm hại chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.

    - Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ.

    - Thực hiên thắng lợi hai nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, gắn với giải quyết các văn đề xã hội, đẩy mạnh CNH-HĐH; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

    - Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ XHCN đi đôi với tăng cườg trật tự kỷ cương và giải quyết tốt các vấn đề như: tôn giáo, dân tộc, vai trò của các tổ chức quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ Tô quốc.

    - Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó QĐND, công an nhân dân là lượng lòng cốt. Cụ thể là:

     + Tiếp tục xây dựng QĐND, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

  + Củng cố, hoàn thiện thế trận QPTD, an ninh nhân dân.

  + Xây dựng các cơ quan nội chính, bảo vệ pháp luật.

  + Chuẩn bị các phương án chủ động xử lý các tình huống xấu.

    - Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại với tình thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.

     + Yêu cầu đạt được: củng cố môi trường quốc tế thuận lợi cho nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; tranh thủ vốn, công nghệ để phục vụ CNH-HĐH; nâng cao vị thế Việt Nam ở khu vực và trên thế giới.

     + Ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng; chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn; đồng thời đề phòng sự thoả hiệp có hại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

   2. Tăng cường xây dựng và củng cố trận địa chính trị tư tưởng, văn hoá, giữ vững ổn định chính trị và an ninh xã hội

     - Đấu tranh chống địch phá hoại về tư tưởng, văn hoá giữ ổn định chính trị là mặt trận nóng bỏng đặt lên hàng đầu hiện nay.

     - Nội dung của cuộc đấu tranh, cần tập trung vào 3 vấn đề sau:

      + Thường xuyên bồi dưỡng trí tuệ, lập trường quan điểm và phẩm chất đạo đức cho mọi người. Giữ vững niềm tin, kiên trì mục tiêu xây dựng CNXH đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước đến thắng lợi.

      + Nắm vững, hiểu đúng, đủ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở đó quán triệt sâu sắc và góp phần tổ chức thực hiện tốt đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước trong thực tế.

      + Xây dựng lối sống văn hoá, văn minh lành mạnh trật tự kỉ cương phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Bồi dưỡng lối sống mới XHCN.

 * Phê phán lối sống thực dụng, tự do, ích kỉ, buông thả.

        * Kiên quyết đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc và lợi dụng các khía cạnh đời sống xã hội, ngăn ngừa các tổ chức và hành vi hoạt động văn hoá với mục đích xấu. Luôn giữ vững trạng thái tâm lí tinh thần, ổn định tư tưởng của xã hội.

  3. Nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu luận điệu xuyên tạc của địch trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt động khác

     - Ngày nay thông tin đến với con người và các hoạt động khác bằng nhiều nguồn, nhiều phương tiện. Thông tin trở thành nhu cầu của đời sống xã hội, hằng ngày chúng ta tiếp xúc với nguồn thông tin chính thống có định hướng của Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời chúng ta cũng chịu ảnh hưởng các nguồn thông tin khác của địch nhằm chống ta,

     - Đấu tranh chống lại nguồn thông tin của địch.

      + Luôn nâng cao kiến thức về mọi mặt để giữ vững bản lĩnh chính trị, có phương pháp xem xét tiếp cận thông tin một cách đúng đắn khoa học.

      + Nâng cao cảnh giác, đấu tranh với những nhận thức không đúng, ngộ nhận, mơ hồ trước các nguồn thông tin ngược chiều với quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước.

      + Bản thân mỗi người có ý thức tự giác, kỉ luật trong quá trình tiếp xúc thông tin. Chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin, tham gia tích cực đấu tranh chống phao tin, đồn nhảm, lưu truyền thông tin xấu, thất thiệt.

   4. Trách nhiệm của sinh viên trong cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ

      - Nhận thức được bản chất, âm mưu thủ đoạn“DBHB”, BLLĐ của kẻ thù.

      - Trách nhiệm của người trí thức trẻ trước cuộc đấu tranh chống chiến lược “DBHB”, BLLĐ….

       +  Bản thân luôn nâng cao cảnh giác, tự bảo vệ mình, bảo vệ tổ chức mà mình tham gia sinh hoạt.

       +  Chủ động giải quyết các mối quan hệ cá nhân, Nhà trường, xã hội.

BÀI 2

---o0o--- 

PHÒNG CHỐNG ĐỊCH TIẾN CÔNG HỎA LỰC

BẰNG VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO

          Trong tương lai, nếu xảy ra chiến tranh, vũ khí công nghệ cao sẽ được kẻ địch sử dụng chủ yếu để thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm ra biện pháp phòng tránh, đánh trả có hiệu quả tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao của địch, có ý nghĩa rất quan trọng để giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

I/ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, THỦ ĐOẠN ĐÁNH GIÁ VÀ KHẢ NĂNG SỬ DỤNG VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO CỦA ĐỊCH TRONG CHIẾN TRANH

1/ Khái niệm

Vũ khí công nghệ cao là vũ khí được nghiên cứu, thiết kế, chế tạo dựa trên những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, có sự nhảy vọt về chất lượng và tính năng  chiến thuật, kĩ thuật.

Khái niệm trên thể hiện một số nội dung chính sau:

- Vũ khí cong nghệ cao được nghiên cứu thiết kế chế tạo dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.

- Có sự nhảy vọt về chất lượng và tính năng chiến thuật, kĩ thuật.

2/ Đặc điểm của vũ khí công nghệ cao

Vũ khí công nghệ cao có một số đặc điểm nổi bật đó là:

Hiệu suất của vũ khí, phương tiện tăng gấp nhiều lần so với vũ khí, phương tiện thông thường; hàm lượng tri thức kĩ năng tự động hóa cao; tính cạnh tranh cao, được nâng cấp liên tục, giá thành giảm.

Vũ khí công nghệ cao hay còn gọi là vũ khí “ thông minh”, vũ khí “ tinh khôn” bao gồm nhiều chủng loại khác nhau như: vũ khí hủy diệt lớn (hạt nhân, hóa học, sinh học…), vũ khí được chế tạo dựa trên những nguyên lí kĩ thuật mới (vũ khí chùm tia, vũ khí laze, vũ khí chùm hạt, pháo điện từ…).

Thế kỉ XXI, vũ khí “ thông minh” dựa trên cơ sở tri thức sẽ trở nên phổ biến. Điển hình là đạn pháo, đạn cối điều khiển bằng laze, rađa hoặc bằng hồng ngoại. Bom, mìn, “thông minh” kết hợp với các thiết bị trinh thám để tiêu diệt mục tiêu. Tên lửa “thông minh” có thể tự phân tích, phán đoán và ra quyết định tiến công tiêu diệt. Súng “thông minh” do máy tính điều khiển có thể tự động nhận biết chủ nhân, có nhiều khả năng tác khác nhau, vừa có thể bắn đạn thông thường hoặc phóng lựu đạn. Xe tăng “thông minh” có thể vượt qua các chướng ngại vật, nhận biết các đặc trưng khác nhau của mục tiêu, mức độ uy hiếp của mục tiêu và điều khiển vũ khí tiến công mục tiêu, nhờ đó có hỏa lực và sức đột kích rất mạnh,..

Tóm lại, vũ khí công nghệ cao có những đặc điểm nổi bật sau: khả năng tự động hóa cao; tàm bắn (phóng) xa; độ chính xác cao; uy lực sát thương lớn.

3/ Thủ đoạn  đánh phá và khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch trong chiến tranh

Tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao là phương thức tiến hành chiến trang kiểu mới đồng thời là biện pháp tác chiến của địch. Thực tế trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất để chế tạo các kiểu vũ khí hiện đại hòng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh như công nghệ hồng ngoại, công nghệ nhìn đêm,công nghệ gây nhiễu. Nhiều loại vũ khí “thông minh” ra đời và được sử dụng lần đầu tiên trong chiến tranh Việt nam…Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Việt Nam đã chứng kiến sự thất bại thảm hại của địch trong việc sử dụng các loại vũ khí hiện đạinhất lúc đó trước trí thông minh, sự sáng tạo và lòng dũng cảm vô song của con người Việt Nam.

Chiến tranh tuowng lai (nếu xảy ra) đối với đất nước ta, địch sẽ sử dụng phương thức tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao là chủ yếu. Nhằm mục đích giành quyền làm chủ trên không, làm chủ chiến trường, pha hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đánh quỵ khả năng chống trả của đối phương, tọa điiều kiện thuận lợi cho các lực lượng tiến công trên bộ, trên biển, đổ bộ đường không và các hoạt động bạo loạn lật đổ của lực lượng phản động nội đại trong nước, gây tâm lí hoang mang, lo sợ trong nhân dân. Qua đó gây sức ép về chính trị để đạt mục tieu chính trị hoặc buộc chúng ta phải chấp nhận điều kiện chính trị do địch đặt ra.

Nếu chiến tranh xảy ra trên đất nước ta, có thể xuất phát từ nhiều hướng: trên bộ, trên không, từ biển vào, có thể diễn ra cùng một lúc từ chính diện và trong chiều sâu, trên phạm vi toàn quốc với một nhịp độ cao, cường độ lớn ngày từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh. Tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc vào Việt Nam (nếu xảy ra) có thể là một giai đoạn trước khi đưa quân đổ bộ vào đường biển hoặc đưa quân tiến công trên bộ, với qui mô và cường độ ác liệt từ nhiều hướng, vào nhiều mục tiêu cùng một lúc. Đánh giá ác liệt từng đợt lớn, dồn dập, kết hợp với đánh nhỏ lẻ liên tục ngày đêm, có thể kéo dài vài giờ hoặc nhiều giờ, có thể đánh giá trong một vài ngày hoặc nhiều ngày,…

Nghiên cứu, khảo sát một số chiến tranh cục bộ gần đây, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao ngày càng nhiều (vùng Vịnh lần thứ nhất vũ khí công nghệ cao 10%, chiến dịch “Con cáo xa mạc” 50%, Nam Tư 90%).

- Trong cuộc chiến tran vùng Vịnh ngày 17/1/1991 Mĩ phóng 45 quả tên lửa hành trình Tomahawk có 7 quả bị hỏng, 1 quả bị lực lượng phòng không bắn rơi còn 37 quả trúng mục tiêu, tỉ lệ:67%. Trong chiến dịch “Con cáo sa mạc” từ ngày 16 đến ngày 19/12/1998 Mĩ sử dụng 650 lần/ chiếc máy bay phóng 415 tên lửa hành trình trong đó có 325 tên lửa Tomahawk phóng từ tàu biển, 90 quả AGM- 86 phóng từ máy bay, dự kiến khả năng 100/147 mục tiêu của Irắc bị phá hủy. Tuy nhiên tên lửa hành trình của Mĩ và liên quân chỉ đánh trúng khoảng 20% vì Irắc đã có kinh nghiệm phòng tránh.

- Chiến tranh Irắc lần hai (2003) chỉ sau 27 ngày đêm tiến công, Mĩ, Anh đã thực hiện 34.000 phi vụ, phóng hơn 1.000 tên lửa hành trình các loại, trong đó có hơn 800 Tomahawk, hơn 14.000 bom đạn có điều khiển chính xác. Từ những khảo sát thực tế trên, rút ra một số điểm mạnh và yếu như sau:

- Điểm mạnh:

+ Độ chính xác cao, uy lực sát thương lớn, tầm hoạt động xa.

+ Có thể hoạt động trong những vùng nhiễu, thời tiết phức tạp, ngày, đêm, đạt hiệu quả cao hơn hàng chục đến hàng trăm lần so với vũ khí thông thường.

+ Một số loại vũ khí công nghệ cao được gọi là vũ khí “thông minh” có khả năng nhận biết địa hình và đặc điểm mục tiêu, tự động tìm diệt…

- Điểm yếu:

+ Thời gian trinh sát, xử lí số liệu để lập trình phương án đánh phá phức tạp, nếu mục tiêu “thay đổi” dễ mất thời cơ đánh phá.

+ Dựa hoàn toàn vào các phương tiện kĩ thuật, dễ bị đối phương đánh lừa.

+ Một số loại tên lửa hành trình có tầm bay thấp, tốc độ bay chậm, hướng bay theo qui luật… dễ bị bắn hạ bằng vũ khí thông thường.

+ Tác chiến công nghệ cao không thể kéo dài vì quá tốn kém. Dễ bị đối phương tập kích vào các vị trí triển khai của vũ khí công nghệ cao.

+ Dễ bị tác động bởi địa hình, thời tiết, khí hậu dẫn đến hiệu quả thực tế khác với lí thuyết. Do đó, nên hiểu đúng đắn về vũ khí công nghệ cao, không quá đề cao, tuyệt đối vũ khí công nghệ cao dẫn đến tâm lí hoang mang khi đối mặt. Ngược lại, cũng không nên coi thường dẫn đến chủ quan mất cảnh giác.

II/ Một số biện pháp phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao.

1/ Biện pháp thụ động

- Phòng chống trinh sát của địch:

  Hệ thống trinh sát phát hiện và giám sát mục tiêu là một trong những hệ thống bảo đảm quan trọng nhất của vũ khí công nghệ cao. Muốn làm tốt công tác phòng chống trinh sát của địch, trước tiên cần xã định rõ ý thức chống trinh sát, sau đó mới áp dụng các biện pháp, phương pháp đối phó cho phù hợp, cụ thể:

+ Làm hạn chế đặc trưng của mục tiêu

Hệ thống trinh sát hiện đại khi thực hành trinh sát đều thông qua việc tìm kiếm các đặc trưng vật lí do mục tiêu bộc lộ đẻ phát hiện. Vì vậy, sử dụng các thủ đoạn chiến thuật, kĩ thuật giảm thiểu đặc trưng vật lí của mục tiêu, xá bỏ sự khác biệt giữa mục tiêu với môi trường xung quanh là sự vận dụng và phát triển của kĩ thuật ngụy trang truyền thống. Sử dụng các biện pháp kĩ thuật giảm bớt các đặc trưng ánh sáng, amm thanh, điện từ, bức xạ hồng ngoại…của mục tiêu là có thể giấu kín được mục tiêu.

+ Che giấu mục tiêu

Lợi dụng môi trường tự hiên như địa hình, địa vật, rừng cây, bụi cỏ…để che giấu mục tiêu, có thể làm suy giảm thậm chí ngăn chặn được trinh sát của địch. Tring sát bằng quang học, hồng ngoại và laze là ba kĩ thuật trinh sát chủ yếu của vệ tinh và máy bay trinh sát, các mục tiêu được che đậy, ở hang động, gầm cầu là những nơi che giấu có hiệu quả, đồng thời lợi dụng đêm tối, sương mù, màn mưa để che giấu âm thanh, ánh sáng, điện từ, nhiệt; kiểm soát chặt chẽ việc mở máy hoặc phát xạ sóng điện từ của ra đa và thiết bị thông tin liên lạc.

+ Ngụy trang mục tiêu

Ngày nay, khi mà kĩ thuật trinh sát không ngừng phát triển thì việc sử dụng một cách khoa học các khí tài ngụy trang như màn khói, lưới ngụy trang, nghi binh, nghi trang,…là một biện pháp chống trinh sát hữu hiệu và kinh tế. Ngụy trang hiện đại là trên cơ sở ngụy trang truyền thống sử dụng kĩ thuật thay đổi hình dạng,…Thông qua việc làm thay đổi tần phổ quang học hoặc phản xạ điện từ và đặc tính bức xạ nhiệt của mục tiêu khiến chúng gần như hòa nhập vào môi trường xung quanh. Thông qua việc làm thay đổi hình thể của mục tiêu khiến mục tiêu không bị địch chú ý hoặc thông qua việc thả màn khói đặc biệt là sợi bạc,…đều có thể ngăn chặn có hiệu quả trinh sát ra đa và trinh sát hồng ngoại của đối phương.

+ Tổ chức tốt việc nghi binh đánh lừa địch

Nghi binh là hành động tạo hiện tượng giả để đánh lừa đối phương. Nếu tổ chức tạo ra các hành động tác chiến giả một cách có kế hoạch, có mục đích để phân tán, làm suy yếu khả năng trinh sát của địch, có thể làm cho địch nhận định sai, dẫn đến sai lầm từ đó ta có thể kiềm chế, điều động được địch.

Theo phạm vi không gian, có thẻ chia nghi binh thành các loại sau: Nghi binh chính diện, nghi binh bên sườn, nghi binh tung thâm, nghi binh trên bộ, nghi binh trên không, nghi binh trên biển, nghi binh lập thể,…Theo mục đích, có thể chia thành nghi binh để thể hiện sức mạnh, nghi binh để tỏ ra yếu kém, nghi binh để hiện thế, nghi binh tiến công, nghi binh rút lui.

Kĩ thuật quân sự hiện đại đã tạo ra nhiều thủ đoạn nghi binh mới, ngoài nghi binh về binh lực, còn có nghi binh về hỏa lực, nghi binh điện tử, và các nghi binh kĩ thuật khác. Ví dụ, nghi binh vô tuyến điện bằng các phương pháp xây dựng mạng lưới vô tuyến điện giả, tổ chức các đối tượng liên lạc giả, thực hiện các cuộc thông tin vô tuyến điện giả, phát các cuộc điện báo (điện thoại) với nội dung giả…Ngoài ra tổ chức tốt việc bày giả, nhằm đúng vào đặc điểm và nhược điểm của hệ thống trinh sát địch, kết hợp với điều kiện tự nhiên như địa hình, địa vật, đặt các mục tiêu giả để làm thay đổi cục bộ nền môi trường, chiến trường, từ đó đánh lừa mê hoặc đối phương. Ví dụ, cần có mục tiệu giả, mục tiêu thật; khi cần di chuyển các mục tiêu cần phải tiến hành di chuyển cùng lúc cả cái thực và cái giả, và qui mô đối với cái thực và cái giả cũng phải ngang nhau.

- Dụ địch đánh vào những mục tiêu có giá trị thấp làm chúng tiêu hao lớn

Lợi dụng đặc điểm của vũ khí công nghệ cao là giá thành cao, lượng sử dụng có hạn, chúng ta có thể sử dụng mục tiêu giá trị thấp để làm phân tán lực lượng địch và gây tiêu hao lớn cho chúng. Ví dụ, giá 1 chiếc máy bay tàng hình F-117A lên tới vài chục triệu USD, giá một quả tên lửa hành trình cung lên tới hàng triệu USD,…Nếu ta sử dụng vũ khí trang bị cũ hoặc mục tiêu giả để dụ địch tiến công sẽ gây tiêu hao lớn cho chúng, làm giảm bớt lượng vũ khí công nghệ cao của địch, đồng thời làm giảm bớt lòng tin khiến chúng không dám mạo hiểm tiếp tục sử dụng vũ khí công nghệ cao trên qui mô lớn. Trong cuộc chiến tranh Côxôvô, địa hình, địa vật, phức tạp của Nam Tư kết hợp với thời tiết mùa xuân ẩm ướt, âm u, rừng rậm rạp đã khiến cho hệ thống vũ khí công nghệ cao của NATO bộc lộ một số nhược điểm như khả năng nhận biết mục tiêu, khả năng định vị, dẫn đến đánh nhầm, đánh không chính xác, đánh vào mục tiêu giả ngày càng tăng, khiến chúng bị tiêu hao ngày càng lớn.

- Tổ chức, bố trí lực lượng phân tán, có khả năng tác chiến độc lập

Tổ chức, bố trí lực lượng phân tán là thu nhỏ qui mô các lực lượng lớn, bố trí theo nhu cầu, mỗi đơn vị có thể thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ phòng thủ, tiến công, cơ động chi viện,…Bố trí phân tán lực lượng không theo qui tắc, xây dựng khu vực tác chiến du kích xen kẽ nhỏ lẻ, đa năng, nhưng sẵn sàng tập trung khi cần thiết. Khả năng chiến đấu độc lập và tập trung cao sẽ giảm bớt sự chi viện của lực lượng dự bị, như vậy sẽ tránh được tổn thất cho lực lượng dự bị. Bố trí phân tán sẽ tăng thêm khó khăn cho đối phương trong việc trinh sát phát hiện mục tiêu, phán đoán tình hình và xác định phạm vi đánh, làm giảm hiệu quả tác chiến của địch.

- Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng, đô thị với xây dựng hầm ngầm để tăng khả năng phòng thủ.

Trong quá trình xây dựng đất nước trong nững năm gần đây, hầu hết các địa phương trong cả nước đã có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, đời sống xã hội có nhiều thay đổi, các thành phố ngày càng mở rộng, cơ sở hạ tầng phát triển, các khu trung tâm kinh tế- công nghiệp phát triển, nhiều đo thị mới ra đời với tốc độ nhanh, mật độ dân cư ngày càng cao. Cùng với sự phát triển chung đó chúng ta cần quan tâm đúng mức đến phát triển cơ sở hạ tầng như điện, đường, kho, trạm,…Đồng thời chúng ta cũng không nên xây dựng các thành phố quá đông dân cư, các khu công nghiệp tập trung mà xây dựng nhiều thành phố vệ tinh và tập trung phát triển mạng giao thông. Xây dựng đường cao tốc phải kết hợp tạo ra những đọa đường máy bay có thể cất hạ cánh. Xây dựng cầu phải kết hợp cả việc sử dụng các bến phà, bến vượt, trong tương lai chúng ta sẽ xây dựng đường xe điện ngầm ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,…Xây dựng các nhà cao tầng phải tính đến số lượng tầng cao để giảm bớt tổn thất trong chiến tranh; các công trình lớn của quốc gia như nhà Quốc hội, nhà Trung tâm Hội nghị Quốc gia, văn phòng của các Bộ, ngành,…phải có tấng hầm, thời bình làm kho, nhà xe, thời chiến làm hầm ẩn nấp. Xây dựng các nhà máy thủy điện phải tính đến phòng chống máy bay phá đập gây lũ lụt.

2/ Biện pháp chủ động

- Gây nhiễu các trang bị trinh sát của địch, làm giảm hiệu quả trinh sát

Gây nhiễu là một biện pháp cơ bản trong đối kháng trinh sát, nhằm làm giảm hoặc suy yếu hiệu quả các thiết bị trinh sát của địch, khiến chúng không thể phát huy tác dụng. Một số biện pháp gây nhiễu có thẻ vận dụng:

+ Tích cực phá hoại hệ thống trinh sát của địch. Có thể sử dụng đòn tiến công của tên lửa đất đối không, đòn phản kích của binh lực mặt đất hoặc tiến hành gây nhiễu điện tử, hạn chế và phá hoại trinh sát kĩ thuật của địch. Tổ chức bắn rơi máy bay trinh sát điện tử của địch sẽ hạn chế rất nhiều việc sử dụng vũ khí điều khiển chính xác của chúng.

+ Sử dụng tổng hợp nhiều thủ đoạn thực hiện gây nhiễu chế áp lại địch, nhưng phải chuẩn bị chu đáo, nhất là thời cơ và đối tượng gây nhiễu, bởi vì, khi gây nhiễu cũng chính là lúc ta lại bị bộc lộ, ddihchj sẽ trinh sát định vị lại ta, ta cần bố trí các đài gây nhiễu ở nơi hiểm yếu và di chuyển liên tục. Lập các mạng, các trung tâm thông tin giả hoạt động đồng thời với thông tin thật để thu hút hoạt động trinh sát và chế áp điện tử của địch, che đậy tín hiệu công tác thực của ta.

+ Hạn chế năng lượng bức xạ từ về hướng ăng ten thu trinh sát của địch bằng cách sử dụng công suất phát hợp lí, chọn vị trí đặt ăng ten sao có địa hình che chắn về phía địch trinh sát, phân bố mật độ liên lạc hợp lí, không tạo ra dấu hiệu bất thường, thay đổi thường xuyên qui ước liên lạc, mã hóa các nội dung điện, chọn tần số gần tần số làm việc của địch; tăng công suất máy phát, sử dụng ăng ten có hệ số khuyết đại cao, rút ngắn cự li thông tin…

+ Dùng hỏa lực hoặc xung lực đánh vào các chỗ hiểm yếu, nhằm phá hủy các đài phát, tiêu diệt nguồn gây nhiễu của địch.

- Nắm chắc thời cơ, chủ động đánh địch từ xa, phá thế tiến công của địch

Cần phải trinh sát nắm địch chặt chẽ, chính xác và quyết tâm sử dụng lực lượng hợp lí, nhất là phát huy khả năng của lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng đặc công, pháo binh chuyên trách tiến công địch. Sử dụng tổng hợp, các loại vũ khí có trong biên chế của lực lượng phòng không ba thứ quân. Kết hợp sử dụng vũ khí thô sơ, vũ khí tương đối hiện đại để đánh địch, rèn luyện ý trí chiến đấu quyết đánh và biết thắng vũ khí công nghệ cao của địch. Làm sao cho mỗi người lính, mỗi người dân biết sử dụng thành thạo các vũ khí có trong tay để bắn máy bay và tên lửa của địch trong tầm bắn hiệu quả khi nó bay qua khu vực đóng quân của đơn vị mình, địa phương mình.

Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, dù kẻ địch tiens công bằng hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao từ hướng nào, khu vực nào, sử dụng vũ khí công nghệ cao đến mức nào chúng ta cũng đánh trả có hiệu quả làm vô hiệu hóa vũ khí công nghệ cao của địch, đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù.

- Lợi dụng đặc điểm đồng bộ của hệ thống vũ khí công nghệ cao, đánh vào mắt xích then chốt.

Tập trung lực lượng đánh vào những hệ thống có tác dụng bảo đảm và điều hành, gây ra sự hỗn loạn và làm khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao hoặc sự phối hợp nhịp nhàng giữa hệ thống vũ khí công nghệ cao với các hệ thống vũ khí thông thường khác.

Mặt khác, vũ khí công nghệ cao có thể đồng thời sử dụng cả trên bộ, trên biển và trên không, do vậy phải tổ chức đánh địch từ xa. Sử dụng các thủ đoạn tập kích, đặc biệt có thể vận dụng đặc công, pháo binh chuyên trách, dân quân tự vệ tập kích, phá hủy vùng địch hậu, tập kích tung thâm… phá hủy các hệ thống phóng, hệ thống bảo đảm hoặc các căn cứ trọng yếu của chúng, khiến chúng bị tê liệt khi tác chiến. Có thể lợi thời tiết khắc nghiệt như mưa, mù, bão gió…để tập kích vào các hệ thống vũ khí công nghệ cao.

- Cơ động phòng tránh nhanh, đánh trả kịp thời chính xác.

Khi cơ động phòng tránh phải thực hiện tốt các yêu cầu bí mật, cơ động nhanh, đến đúng địa điểm, thời gian sẵn sàng chiến đấu cao.

Để thực hiện mục đích đó, công tác tổ chức chuẩn bị phải chu đáo, có kế hoạch cơ động, di chuyển chặt chẽ. Khi cơ động phải tận dụng địa hình, rừng cây, khe suối.., hạn chế khả năng trinh sát, phát hiện bằng các phương tiện trinh sát hiện đại của địch. Xác định nhiều đường cơ động, có đường chính, đường dự bị, đường nghi binh và tổ chức ngụy trang.

Phòng tránh đánh trả địch tiến công bừng vũ khí công nghệ cao là vận dụng tổng hợp các giải pháp, biện pháp, các hoạt động một cách có tổ chức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong chuản bị và thực hành phòng tránh, đánh trả bảo đảm an toàn cho nhân dân và các thành phần lực lượng, giữ vững sản xuất, đời sống, sinh hoạt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Phòng tránh đánh trả địch tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch là hai mặt  của một vấn đề, có quan hệ, tác động lẫn nhau một cách biện chứng, đan xen nhau. Phòng tránh tốt là điều kiện đánh trả có hiệu quả. Đánh trả có hiệu quả tạo điều kiện để phòng tránh an toàn và chúng ta cần hiểu rằng trong phòng tránh có đánh trả, trong đánh trả có phòng tránh. Như vậy, phòng tránh tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch là một biện pháp có ý nghĩa chiến lược để bảo toàn lực lượng , giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản, là một yếu tó quan trọng để giành thắng lợi. Thực tiễn trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mĩ trước đây, công tác phòng không nhân dân, bảo vệ các mục tiêu quan trọng của miền Bắc.

Những kinh nghiệm tổ chức phòng tránh trong chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch trước đây và các cuộc chiến tranh gần đây của Mĩ và đồng minh vào Irắc, Nam Tư…là những kinh nghiệm rất bổ ích, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng chúng ta sẽ tổ chức tốt công tác phòng tránh tiến công bằng vũ khí cao của địch trong tình hình mới.

Trong phòng tránh phải triệt dể tận dụng ưu thế địa hình tự nhiên để cải tạo và xây dựng công trình phòng tránh theo một ý định chiến lược chung trên phạm vi toàn quốc, trên từng hướng chiến dịch, chiến lược, trên từng địa bàn cụ thể, từng khu vực phòng thủ địa phương. Bố trí lực lượng phương tiện phân tán, nhưng hỏa lực phải tập trung, công trình phải luôn kết hợp chặt chẽ giữa ngụy trang che giấu với hoạt động nghi binh, xây dựng phải dựa vào khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và tăng cường cơ động trong chiến đấu.

Đối với đánh trả tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch, nhằm tiêu diệt, phá thế tiến công của địch, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ các mục tiêu quan trọng của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất,…Đánh trả có hiệu quả là vấn đề cốt lõi nhất của phòng tránh, đánh trả, là biện pháp tích cực nhất, chủ động nhất để bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ mục tiêu, bảo toàn lực lượng chiến đấu.

Với điều kiện và khả năng của ta, việc tổ chức đánh trả phải có trọng điểm, đúng đối tượng, đúng thời cơ. Đánh trả địch bằng mọi lực lượng, mọi vũ khí trang bị, thực hiện đánh rộng khắp, từ xa đến gần, ở các độ cao, các hướng khác nhau. Ta đánh địch bằng sức mạnh tổng hợp chặt chẽ giữa đánh địch với cơ động, ngụy trang, nghi binh, phòng tránh bảo tồn lực lượng. Về lực lượng, chúng ta có lực lượng phòng không ba thứ quân và không quân, lực lượng pháo binh, tên lửa, lực lượng đặc công,.. và hỏa lực súng bộ binh tham gia.

Với những thành phần như vậy, có thể đánh các mục tiêu trên không, các mục tiêu mặt đất, mặt nước nơi xuất phát các đòn tiến công hỏa lực của địch, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Trong đó, tổ chức xây dựng thế trận phòng tránh đánh trả tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch đáp ứng yêu cầu hiểm,chắc, có chiều sâu, cơ động linh hoạt, rộng khắp, kết hợp với thế trận khu vực phòng thủ địa phương. Phải xác định các khu vực, mục tiêu bảo vệ trọng điểm, đối tượng đánh trả, khu vực đánh trả, hướng đánh trả chủ yếu cho các lực lượng tham gia đánh trả.

Trong thực hành đánh trả địch, phải vận dụng một cách linh hoạt các hình thức tác chiến, chiến thuật, phương pháp hoạt động chiến đấu khác nhau cho từng lực lượng, như lực lượng phòng không ba thứ quân có thể vừa chốt bảo vệ mục tiêu, vừa cơ động phục kích đón lõng, kết hợp vừa phòng tránh vừa đánh trả. Đối với lực lượng không quân, pháo binh, tên lửa, hải quân có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp tác chiến của quân, ta như đánh chặn, đánh đòn tập kích, đánh hiệp đồng,..

Ngoài những vấn đề trên, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống phòng thủ dân sự, đây là nhiệm vụ chiến lược rất quan trọng của nền quốc phòng toàn dân, là hệ thống phòng thủ quốc gia. Từng địa phương và cả nước, được tiến hành trong thời bình và thời chiến, nhằm bảo vệ  nhân dân, bảo vệ nền kinh tế, duy trì sản xuất và đời sống nhân dân trong đó bảo vệ nhân dân là nội dung quan trọng nhất. Nếu việc tổ chức phòng thủ dân sự không tốt, không có giải pháp đề phòng  chống vũ khí công nghệ cao, không những chỉ tồn thất về người mà còn dẫn đến hoang mang, dao động, giảm sút ý trí quyết tâm kháng chiến của mỗi người dân, từng địa phương và cả nước.

Ngày nay, nếu cuộc chiến tranh xảy ra sẽ là cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, diễn ra trên không gian nhiều chiều, tiền tuyến và hậu phương không phân định rõ ràng như trước đây. Do vậy, ở các thành phố, thị xã, thị trấn nơi tập trung đông dân cư và các cơ sở kinh tế lớn chủ yếu là sơ tán, còn các trọng điểm khác có thể phân tán, sơ tán gần. Các cơ sở sản xuất lớn của Trung ương có thể phải sơ tán xa hơn, chủ yếu dựa vào các hang động ở rừng núi để sản xuất phục vụ chiến tranh.

Hệ thống công trình phòng thủ dân sự gồm hệ thống hầm hố ẩn nấp cho ca nhân, cho các hộ gia đình, các công trình bảo đảm sản xuất, bảo đảm sinh hoạt, bảo đảm lương thực, thực phảm của tập thể, hộ gia đình triển khai ở các cơ quan, nhà ga, bến cảng, kho nhiên liệu, xăng dầu được tiến hành ngay từ thời bình thông qua kế hoạch kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế ở từng địa phương và trong phạm vi cả nước.

Kết luận

Phương thức phòng chống địch tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao là một vấn đề lớn của cả đất nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Để phòng chống địch tiếncông hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh tương lai có hiệu quả, đòi hỏi có sự tham gia của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị trên tất cả các lĩnh vực từ nhận thức đến hành động. Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác Cách mạng, sẵn sàng phòng chống địch tấn công hỏa lực có hiệu quả trong mọi tình huống. Mọi công tác chuẩn bị của các cấp, các ngành và của người dân phải được chuẩn bị ngay từ thời bình, chống chủ quan, coi nhẹ, luôn luôn theo dõi chặt chẽ, đánh giá đúng, chính xác âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao và những phát triển mới về vũ khí trang bị, phương pháp tác chiến trong chiến tranh tương lai của địch. Công tác chuẩn bị phải chu đó từ thế trận phòng tránh, đánh trả, đến công tác huấn luyện, diễn tập cách phòng chống tiến công hỏa lực của địch bằng vũ khí công nghệ cao.

Với kinh nghiệm và truyền thống, với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, trong điều kiện với chúng ta tin tưởng ta có đầy đủ khả năng để đối phó với tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch.

Bài 3

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ

LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN

VÀ ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP

A-   MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

-       Bồi dưỡng cho sinh viên hiểu vị trí, chức năng, đặc điểm, nhiệm vụ, quan điểm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ (LLDQTV) trong tình hình mới.

-       Nắm được nội dung và biện pháp về xây dựng LLDQTV làm cơ sở để vận dụng vào nhiệm vụ được giao sau khi ra trường.

B-   NỘI DUNG

I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG DÂN QUÂN TỰ VỆ

1.     Khái niệm về dân quân tự vệ

“Dân quân tự vệ là LLVT quần chúng, không thoát li sản xuất, công tác, là một bộ phận của LLVTND của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, sự quản lí điều hành của Chính phủ và của uỷ ban nhân dân, sự chỉ đạo chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự các cấp”

2.     Vị trí, chức năng, đặc điểm của dân quân tự vệ

a)    Vị trí

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, DQTV là một lực lượng chiến lược trong chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, làm nồng cốt cho toàn dân đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch nào có hung bạo đến đâu hễ đụng vàolực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”. Trong tình hình hiện nay, nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Chúng ta phải đối phó với chiến lược DBHB, BLLĐ và sẵn sàng chiến đấu với mọi tình huống chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch. LLDQTV đang là một trong những cong cụ chủ yếu để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước tại địa phương, cơ sở.

b)    Chức năng của dân quân tự vệ

DQTV là một trong những lực lương làm nồng cốt cho toàn dân đánh giặc, là cơ sở đẻ tiến hành vũ trang toàn dân, chiến tranh nhân dân ở địa phương, ở các đơn vị cơ sở các cấp Bộ, ngành trong bảo vệ Tổ quốc XHCN.

DQTV là lực lượng xung kích trong lao động sản xuất làm ra của cải vật chất cho xã hội, thực hiện dân giàu nước mạnh là lực lượng chống thiên tai dịch hoạ, khắc phục hậu quả bảo vệ mùa màng tài sản nhân dân trên địa bàn.

DQTV là một trong ba thứ quân của LLVTND là cơ sở vững chắc để xây dựng quân đội nhân dân, là nguồn bổ sung cho quân đội.

c)     Đặc điểm của DQTV

DQTV là lực lượng tại chỗ, gắn với địa bàn, sinh hoạt tại cơ sở; vũ khí trang bị thường là không hiện đại, rất năng động trong tự tạo vũ khí để đánh địch. Được bảo đảm hậu cần tại chỗ.

3.     Nhiệm vụ của DQTV

DQTV có 4 nhiệm vụ cơ bản:

-       Sẵn sàng chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt lực lưọng địch, luôn làm nồng cốt cho toàn dân đánh giặc bảo vệ địa phương cơ sở.

-       Phối hợp với công an, bộ đội biên phòng, bộ đội thường trực và các đoàn thể nhân dân, giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các công trình quốc phòng, các kho vũ khí trang bị kĩ thuật, phát hiện và thu giữ các loại vũ khí, trang bị quân sự tồn giữ bất hợp pháp ở địa phương. Tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.

-       Bổ sung cho quân đội, phối hợp với quân đội chiến đấu phục vụ chiến đấu, phục vụ tiền tuyến.

-       Gương mẫu chấp hành vận động nhân dân thực hiện mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xung kích trong lao động sản xuất, bảo vệ sản xuất phòng chống khắc phục hậu quả của thiên tai và các sự cố nghiêm trọng khác.

4.     Quan điểm, nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân

a)    Xây dựng LLDQTV vững mạnh, rộng khắp coi trọng chất lượng là chính.

-       Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, LLDQTV ở các địa phương phải được xây dựng vững mạnh toàn diện, từ tổ chức biên chế, trang bị, đến giáo dục huấn luyện và cơ chế lãnh đạo, chỉ huy. Mỗi tổ chức DQTV phải vững vàng về chính trị, chặt chẽ về tổ chức, nghiêm chỉnh về kỉ luật; sử dụng thành thạo vũ khí trang bị kĩ thuật và tinh thông về chiến thuật, để có thể hoạt động chiến đấu và phục vụ chiến đấu cao, thực sự là lực lượng nồng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc, toàn dân xây dựng quốc phòng ở cơ sở.

-       DQTV được xây dựng rộng khắp trên cả nước, ở tất cả làng, bản, xã, phường, thị trấn, các nhà trường, cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh. Đáp ứng với yêu cầu phòng thủ quốc gia bảo đảm thế bố trí chiến lược cũng như triển khai thế trận quốc phòng ở các địa phương, cơ sở.

-       Xây dựng LLDQTV vững mạnh rộng khắp phải luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số và chất lượng. Số lượng phải phù hợp, có chất lượng cao là một yêu cầu cơ bản trong tổ chức xây dựng LLDQTV hiện nay. Không chạy theo số lượng mà coi nhẹ chất lượng, nắm vững phương châm lấy chất lượng là chính. Do đó, trong tuyển lựa DQTV đưa vào đội ngũ những công dân có lí lịch rõ ràng, có hộ khẩu thường trú tại địa bàn, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, luôn chấp hành mọi chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương, gương mẫu trong lao động sản xuất, không có tiền án, tiền sự, có sức khoẻ phù hợp với DQTV.

b)    Quán triệt quan điểm QPTD và nguyên tắc công bằng xã hội, pháp chế hoá nghĩa vụ tham gia tổ chức DQTV

-       Để củng cố, giữ vững an ninh quốc phòng phải huy động sức mạnh của toàn dân, của hệ thống chính trị. DQTV là lực lượng chiến lược của nền QPTD, được tổ chức khắp trên mọi địa bàn theo yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Quan điểm nền QPTD được thể hiện bằng sự tham gia đông đảo của nhân dân vào LLDQTV, trực tiếp cầm súng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ ở các địa bàn toàn quốc. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chỉ có lực lượng của toàn dân mới có thể giải phóng dân tộc ra khỏi ách áp bức thống trị bạo ngược, chứ cá nhân hành động dù cá nhân ấy anh hùng thế nào cũng không đi dến kết quả”.

-       Động viên tinh thần tự nguyện của công dân tham gia DQTV đã thành truyền thống qua qúatrình đâú tranh cách mạng. Từ ngày thành lập đội công nông tự vệ đầu tiên (28/3/1935) đến nay, trong điều kiên nhà nước pháp quyền, tổ chức DQTV ngày càng được pháp chế hoá, việc tham gia DQTV đã là một nghĩa vụ của công dân ở độ tuổi quy định. Tham gia DQTV đã thành nghĩa vụ, được thể chế hoá bằng văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở cần thiết để bảo đảm cho lực lượng chiến lược này luôn ổn định về tổ chức biên chế, đồng thời cũng bảo đảm công bằng xã hội cho mọi công dân ở mọi tầng lớp của xã hội khác nhau đối với quyền lợi và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.

c)     DQTV đặt dưới sự lãnh dạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

LLDQTV đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, các cấp ở địa phương, cơ sở của Bộ, ngành. Đây là quan điểm quan trọng, khẳng định nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt với LLDQTV. Bởi vì DQTV là một trong ba thứ quân của LLDQTV Việt Nam, ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là một công cụ chủ yếu để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ ở cơ sở, là lực lượng chiến lược của QPTD. Dù mang tính quần chúng rộng rãi, LLDQTV luôn phải bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng, ở đâu có sự lãnh đạo của Đảng là ở đó có xây dựng LLDQTV và ngược lại. Các cấp uỷ Đảng trực tiếp lãnh đạo LLDQTV, thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ DQTV, chăm lo và tổ chức công tác phát triển của Đảng, bảo đảm tỉ lệ đảng viên, làm nồng cốt cho mỗi đơn vị DQTV. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho LLDQTV “trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng hiện nay có nhiều địa phương đã chăm lo phát triển Đảng, kết nạp đưpực nhiêu dân quân, tự vệ ưu tú vào Đảng, đã tổ chức chi bô quân sự ở xã, phường, thị trần để lãnh đạo công tác quốc phòng, quân sự địa phương nói chung, công tác DQTV nói riêng.

     II- NỘI DUNG, BIỆN PHÁP XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

1.     Nội dung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ

a)    Tổ chức biên chế, trang bị

Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh của từng địa phương, từng đơn vị hành chính sự nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh tế xã hội, của các Bộ ngành thời bình, thời chiến, tính chất chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của cả nước để tổ chức biên chế cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của DQTV trong từng giai đoạn.

-       Về tổ chức, tỉ lệ, quy mô biên chế

Tổ chức biên chế, trang bị của DQTV phải căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ của quốc phòng – an ninh và tính chất chính trị, kinh tế – xã hội của từng địa phương, đơn vị cũng như cả nước trong thời bình và thời chiến. Cụ thể là:

+         Tổ chức DQTV có hai lực lượng chính: lực lượng nồng cốt và lực lượng rộng rãi.

Lực lượng nồng cốt: bao gồm các đơn vị cơ sở thường trực, đơn vị chiến đấu tại chỗ và các phân đội binh chủng chuyên môn, các đơn vị chiến đấu thường trực cơ động. Hiện nay, một số địa phương đã tổ chức thành những đội cơ động mạnh sẵn sàng chiến đấu. Lực lượng này phải được tuyển chọn bảo đảm chất lượng tốt, các phân đội tổ chức gọn có đủ các thành phần binh chủng, chuyên môn, luôn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, cơ sở.

Lực lượng rộng rãi: là nguồn bổ sang cho lực lượng chiến đấu khi cần thiết, được sắp xếp thành các đơn vị ở thôn, bản, khu phố, trong các xú nghiệp, doanh nghiệp…Bao gồm cả những người đang ở độ tuổi quy định và những người đã tham gia DQTV bốn năm, lực lượng này luôn sẵn sàng phát triển nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, phòng thủ trên địa bàn tỉnh (thành) hoặc khi có chiến tranh.

+         Tỉ lệ DQTV so với dân số, định hướng chung do Chính phủ quy định. Trên cơ sở đó, căn cứ vào đặc điểm, nhiệm vụ cụ thể, từng địa phương, đơn vị xác định tỉ lệ phù hợp.

+         Quy mô tổ chức, chủ yếu là tổ, tiểu, trung, đại đội; một số địa phương, ngành tổ chức đến cấp tiểu đoàn trong thời bình. Việc xác định tổ chức DQTV phỉ căn cứ vào kế hoạch phòng thủ trên địa bàn cơ sở, đặc điểm dân cư, khả năng trang bị, trình độ tổ chức. Do đó, mỗi địa phương, đơn vị có quy mô tổ chức khác nhau. Thời chiến LLDQTV được mở rộng lực lượng và quy mô tổ chức, biên chế, trang bị.

-       Về cơ cấu và chức năng cán bộ quân sự cơ sở phân đội

+         Cơ cấu biên chế ban chỉ huy quân sự cơ sở được tổ chức ở xã, phường, thị trấn, các doanh nghiệp của địa phương và các ngành của nhà nước gồm 3 người: chỉ huy trưởng, chính trị viên và phó chỉ huy trưởng. Ban chỉ huy cơ sở chịu trách nhiệm làm tham mưu giúp các uỷ, chính quyền cấp mình tổ chức triển khai công tác hoạt động DQTV. Ơ cấp xã, phường, thị trấn chỉ huy trưởng là thành viên uỷ ban nhân dân, là đảng viên, thường nằm trong cơ cấu cấp uỷ địa phương. Các cơ sở khác, chỉ huy trưởng có thể kiêm nhiệm hoặc không kiêm nhiệm. Bí thư Đảng uỷ, bí thư chi bộ các cơ sở kiêm chính trị viên chịu trách nhiệm về công tác Đảng, công tác chính trị trong DQTV. Phó chỉ huy trưởng ở xã (phường) là cán bộ chuyên trách, các phó chỉ huy cơ sở còn lại là chuyên trách hoặc kiêm nhiệm có nhiệm vụ giúp chỉ huy trưởng một số việc và thay thế chỉ huy trưởng khi vắng mặt. Việc bổ nhiệm chỉ huy trưởng, phó chỉ huy trưởng do pháp luật quy định.

+         Cơ cấu cán bộ tiểu đoàn, đại đội, tiểu đội, cấp tiểu đoàn, đại đội gồm: chỉ huy trưởng, chính trị viên và phó chỉ huy trưởng. Cấp trung đội, tiểu đội gồm một cấp trưởng, một cấp phó.

Cán bộ tiểu đoàn thường do tư lệnh quân khu kí quyết định bổ nhiệm, cán bộ đại đoàn thưòng do chỉ huy trưởng BCHQS tỉnh (thành) bổ nhiệm, cán bộ trung đội, tiểu đội thường do chỉ huy trưởng BCHQS huyện (quận) bổ nhiệm.

-       Về vũ khí trang bị của DQTV

Vũ khí trang bị cho DQTV do Bộ Quốc phòng cấp, các địa phương và nhân dân chế tạo, tái tạo, thu được của địch. Tất cả các loại vũ khí đó là tài sản của Nhà nước, phải được đăng kí, quản lí, giữ gìn, bảo quản chặt chẽ. Sử dụng phải đúng mục đích, đúng pháp luật. Những người được trang bị vũ khí phải có giấy nhứng nhận sử dụng vũ khí.

b)    Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự đối với DQTV

-       Giáo dục chính trị

Giáo dục chính trị cho LLDQTV là một nội dung hàg đầu, nhằm kàm cho mọi người nâng cao trình độ nhận thức về chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng. Trên cơ sở đó phát huy tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ, bảo vệ quê hương, lang xóm địa phương đơn vị mình.

Nội dung giáo dục: “giáo dục truyền thống yêu nước của dân tộc, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù trong từng giai đoạn; đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của đảng; pháp luật của Nhà nước, nhất là pháp lệnh DQTV, nhiệm vụ, phương hướng xây dựng LLDQTV…

Trong thời bình, giáo dục theo kế hoạch hằng năm, gắn với huấn luyện quân sự. Khi xảy ra chiến tranh, phải giáo dục thường xuyên chính trị khoảng 15 đến 20% so với tổng số thời gian huấn luyện chung của LLDQTV.

-       Huấn luyện quân sự

Hằng năm LLDQTV được huấn luyện theo nội dung, chương trình do Bộ quốc phòng quy định chung, các nội dung phù hợp và sát với cơ sở do chỉ huy quân sự địa phương các cấp xác định cụ thể. Mục đích nhằm nâng cao kiến thức về quân sự cho LLDQTV, sẵn sàng đáp ứng với yêu cầu tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ làng xã, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, nhất là chống DBHB, BLLĐ.

Thời gian huấn luyện quân sự khoảng 80 đến 85% so với tổng thời gian quy định, trong đó kĩ thuật các binh chủng 35%, các nội dung hậu cần, quân y khoảng 10%. Thời gian huấn luyện hằng năm là thường 5 đến 7 ngày trong chương trình 4 năm. Sau mỗi khoá huấn luyện, DQTV đều phải kiểm tra và cấp giấy nhứng nhận.

c)     Xây dựng đội ngũ cán bộ DQTV

Đội ngũ cán bộ DQTV có vị trí hết sức quan trọng, là người tổ chức, quản lí, điều hành mọi hoạt động và chỉ huy lực lượng DQTV chiến đấu, phục vụ chiến đấu; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.

Hằng năm đội ngũ cán bộ trong LLDQTV được đoà tạo bồi dưỡng chính trị, quân sự, chuyên môn kĩ thuật…theo chương trình dài hạn, ngắn hạn để nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt.

Cán bộ chỉ huy cã, phường, thị trấn: cán bộ chuyên trách, ban chuyên trách ở các quân sự ở các doanh nghiệo nhà nước được bồi dưỡng ở trường quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thời gian 2 năm. Mỗi năm huấn luyện 15 ngày, nội dung còn lại tập huấn tại cơ quan quân sự cấo quận (huyện) do chỉ huy ở cấp quận (huyện) quy định. Sau khi hoàn thành nội dung chương ttình huấn luyện được kiểm tra cấp giấy chứng nhận.

d)    Tổ chức lãnh đạo chỉ huy DQTV

-       Nắm vững cơ chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự làm tham mưu và chỉ huy lực lượng thuộc quyền”, nghĩa là ở từng địa phương, từng cơ sở, tổ chức hoạt động của LLDQTV phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, sự quản lí nhà nước và điều hành của chính quyền địa phương các cấp, sự chỉ huy của ban chỉ huy quân sự cơ sở và cơ quan quân sự cấp trên.

-       Các đơn vị thuộc ngành nhà nước đóng quân tên địa bàn địa phương ngoài sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và cơ quan quân sự của ngành mình còn phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương tham gia công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Ban chỉ huy quân sự cơ sở chịu sự chỉ huy của cơ quan quân sự cấp trên.

e)     Chế độ chính sách đối với DQTV

DQTV vừa là dân, vừa là quân, không thoát li sản xuất, hoạt động tại chỗ là chính, việc chăm lo tinh thần vật chất, do từng địa phương, xã, phường, thị trấn, các đơn vị cơ sở thuộc các ngành nhà nước đảm nhiệm là chủ yếu. Nhà nước đã có một số chế độ chính sách đối với DQTV như sau:

-       Phó chỉ huy trưởng chuyên trách, ban chỉ huy quân sự hàng tháng được hưởng phụ cấp bằng khoảng phụ cấp của chức danh khác thuộc uỷ ban nhân dân.

-       Cán bộ, cjiến sĩ DQTV trong thời gian tham gia LLDQTV được miễn trừ nghĩa vụ quân sự lao động công ích hàng năm.

-       Cán bộ, chiến sĩ DQTV trong thời gian làm nhiệm vụ huấn luyện quân sự, thường trực sữn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai được hưởng chế độ như:

+         Dân quân được trợ cấp mỗi ngày một khoản tiền tương đương giá trị ngày công lao động tại địa phương. Tự vệ được hưởng nguyên lương và phụ cấp hàng tháng (nếu có).

+         Trong trường hợp đặc biệt, nếu thoát sản xuất, luân phiên thường trực chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu tại các địa bàn trọng điểm do Bộ Quốc phòng quy định, ngoài chế độ phụ cấp đã nêu trên còn được hỗ trợ tiền ăn và một số đồ dùng khác.

-       Cán bộ chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn khi đi huấn luyện tại trường quân sự tỉnh thì gia đình được trợ cấp mỗi ngày bằng o,1 mức lương tối thiểu hàng thnág theo nhà nước quy định.

+         Trường hợp bị tai nạn, ốm đau hoặc chết thì được các chế độ bảo hiểm xã hội như đối với công nhân viên chức nhà nước. Đối với tự vệ do quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm, đối với dân quân do ngân sách địa phương đảm nhiệm.

+         Khi bị thương, hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ gia đình được hưởng các chế độ chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.

2.     Một số biện pháp xây dựng lực lưọng dân quân tự vệ trong giai đoạn hiện nay

Xây dựng LLDQTV rộng khắp bảo đảm chất lượng là việc làm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Trong tình hình hiện nay cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu:

a)    Thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu rộng các quan điểm, chủ tương chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác DQTV

Cùng với giáo dục quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược trong tình hình mới, giáo dục ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Trước mắt cần tập trung pháp lệnh DQTV, nghị định thông tư về thi hành pháp lệnh DQTV cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân, để mọi người, mọi tổ chức nhận thức đúng về công tác xây dựng LLDQTV. Đó là cơ sở để huy động sức mạnh của toàn dân, của cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng xây dựng DQTV, làm cho công tác DQTV trở thành việc làm thường xuyên của dân, do dân, vì dân.

b)    Phát huy sức mạnh tổng hợp trên địa bàn địa phương trong xây dựng LLDQTV

Xây dựng LLDQTV là trách nhiệm của các cấp, các ngành và của toàn dân, nhưng trước hết là trách nhiệm của địa phương, tỉnh, thành phố, huyện (quận), xã (phường, thị trấn). Trực tiếp cấp uỷ, uỷ ban nhân dân các cấp lãnh đạo, điều hành, cơ quan quân sự cùng với cơ quan ban ngành khác, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội hiệp đồng tuyên truyền, vận động hướng dẫn tổ chức thực hiện, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng.

Xây dựng LLDQTV phải được kết hợp với các hoạt động phục vụ nhiệm vụ quốc phòng – an ninh tại địa phương. Một mặt thông qua hiệu quả hoạt động phát hiện các ưu điểm, khuyết điểm để rút kinh nghiệm, từ đó nâng cao chất lượng mọi mặt của đơn vị DQTV. Mặt khác, có tác dụng kiểm tra và thúc đẩy trách nhiệm của các cấp, các ngành ở địa phương với xây dựng DQTV. Đặc biệt phải phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và hoạt động của DQTV, thông qua sự kết hợp LLDQTV với các thành phần lực lượng khác nhất là lực lươbgj an ninh chuyên trách, trong xây dựng thế trận quốc phòng an ninh trên địa bàn, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động, chiến đấu, công tác.

c)     Xây dựng LLDQTV gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh của toàn dân

Xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện là xây dựng địa phương vững mạnh trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong đó có một nội dung quan trọng là xây dựng quốc phòng an ninh.

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nội dung quốc phòng làm tốt sẽ bảo đảm ổn định cơ sở , tạo điều kiện cho nhân dân lao động sản xuất thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền địa phương. Như vậy, LLDQTV có vị trí trong xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.

Ngược lại, cơ sở vững mạnh toàn diện là môi trường xã hội có tính quyết định đến xây dựng LLDQTV vững mạnh. Cơ sở vững mạnh toàn diện là hậu phương trực tiếp vững chắc của lực lượng chiến đấu ở cơ sở, xây dựng LLDQTV đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, luôn sẵn sàng hoàn thành các nhiệm vụ của cấp uỷ, chính quyền cơ sở giao cho.

d)    Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chế độ chính sách của đảng và Nhà nước đối với LLDQTV

Chế độ chính sách có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sựquan tâm chăm sóc của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với LLDQTV, đồng thời thể hiện sự công bằng của xã hội. Chế độ chính sách phù hợp , tổ chức thực hiện tốt là nguồn động viên lớn, thúc đẩy công tác DQTV và LLDQTV phát triển. Trước mắt, cần phối hợp các ban ngành tổ chức hướng dẫn thực hiện tốt chế độ, chính sách, chế độ khen thưởng, ngân sách bảo đảm trong tổ chức huấn luyện, hoạt động của LLDQTV đà được pháp lệnh về DQTV và Nghị định của Chính phủ số 9/CP ngày 23/1/1998 quy định.

KẾT LUẬN

LLDQTV là một trong ba thứ quân của LLVTND, là yếu tố quan trịng tạo nên sức mạnh tổng hợp quân sự ở cơ sở để ngăn chặn đối phó với mọi tình huống. Xây dựng LLDQTV có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân ở cơ sở, đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là công việc phải làm thường xuyên và lâu lài. Cần nhận thức đúng đắn, có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với địa phương và Bộ, ngành, cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp để xây dựng LLDQTV vững mạnh, rộng khắp.

Sinh viên là lớp tri thức trẻ cần nhận thức đúng về xây dựng LLDQTV, sẵn sàng tham gia và góp phần xây dựng làm cho LLDQTV ngày càng vững mạnh, hoàn thành nghĩa vụ của một người công dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

XÂY DỰNG LỰC LƯỌNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN

A – MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

-         Bồi dưỡng cho sinh viên nhận thức được vị trí, tác dụng, quan điểm, nội dung, biện pháp xây dựng LLDBĐV và động viên công nghiệp.

-         Trên cơ sở đó, nâng cao trách nhiệm đối với nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành chương trình học tập GDQP theo qui định. Chấp hành đăng kí nghĩa vụ quân sự, sẳn sàng nhập ngũ để xây dựng quân đội nhân dân khi có lệnh động viên.

B – NỘI DUNG

I – XÂY DỰNG LỰC LƯỌNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN

1.     Khái niệm vị trí, công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên

a)    Khái niệm

LLDBĐV gồm quân nhân dự bị và phương tiện kĩ thuật đã xếp trong kế hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội nhằm duy trì tiềm lực quân sự là yếu tố góp phần quyết định sự thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Quân nhân dự bị gồm sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị.

Phương tiện kĩ thuật gồm phượng tiện vận tải, làm đường, xếp dỡ, thông tin liên lạc y tế và một số phương tiện khác. Danh mục phương tiện kĩ thuật do Chính phủ quy định (Pháp lệnh về LLDBĐV 1996).

Quân nhân dự bị, phương tiện kĩ thuật trong kế hoạch biên chế cho lực lượng thường trực của quân đội, thông qua các đợn vị dự bị động viên. Trong thời bình LLDBĐV được đăng kí, quản lí, huấn luyện theo chương trình quy định và sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

b)    Vị trí xây dựng LLDBĐV

Xây dựng LLDBĐV giữ vị trí quan trọng trong chiến lược quốc phòng – an ninh bảo vệ Tổ quốc XHCN. Là nhiệm vụ cơ bản nhất, góp phần xây dựng tiềm lực QPTD, thế trận QPTD, thế trận chiến tranh nhân dân và bảo đảm nguồn nhân lực bổ sung, mở rộng lực lượng quân đội khi chuyển đất nước sang trạng thái chiến tranh. Thể hiện sự quán triệt quan điểm về kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự kết hợp kinh tế – quốc phòng, quốc phòng – kinh tế.

LLDBĐV được xây dựng tốt sẽ làm nòng cốt trong xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, trong thực hiện chiến lược quốc phòng – an ninh bảo vệ Tổ quốc. Với vị trí quan trọng đó ngày 27/08/1996 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua pháp lệnh về LLDBĐV và ngày 09/09/1996 Chủ tịch nước đã công bố pháp lệnh này. Điều đó thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn dân trong việc tổ chức thực hiện xây dựng LLDBĐV nhằm góp phần củng cố tăng cường nền QPTD, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và đối phó khi đát nước có chiến tranh.

2.     Những quan điểm, nguyên tắc xây dựng lực lượng dự bị động viên

a)    Xây dựng LLDBDV bảo đảm số lượng đông, chất lượng cao, xây dựng toàn diện nhưng có trọng tân, trọng điểm.

LLDBĐV được huy động theo yêu cầu, nhiệm vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu đó được xác định trong kế hoạch động viên quân đội của Nhà nước. Quy mô huy động phụ thuộc yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn chiến tranh, do đó công tác xây dựng LLDBĐV phải được tiến hành rất tích cực ngay trong thời bình.

Xu hướng chung của các nước trên thế giới ngày nay là giảm quân thường trực, tích cực xây dựng LLDBĐV, coi đó là biện pháp tích cực nhất tong phòng thủ quốc gia. Ơ nước ta, tổ chức xây dựng LLDBĐV là một vấn đề quan trọng, quan hệ đến vận mệnh của quốc gia, đặc biệt khi phải đối phó với chiến tranh quy mô lớn. Do đó, ngay từ thời bình, phải xây dựng LLDBĐV hùng hậu mới có khả năng huy động lực lượng cho thời chiến. Cùng với việc bảo đảm số lượng, xây dựng LLDBĐV  phải có chất lượng cao.

Khó khăn phức tạp cỉa công tác xây dựng LLDBĐV là quân nhân dự bị  và các chủ phương tiện kĩ thuật sống phân tán, luôn biến động, phụ thuộc vào nghề nghiệp, họ chỉ tập trung định kì để huấn luyện hằng năm. Sự giữ vững ý chí chiến đấu, ý thức tổ chức kĩ luật và huấn kuyện nâng cao trình độ kĩ thuật trong môi trường xã hội cũng như từng hoàn cảnh riêng biệt của mỗi người không đơn giản, đặc biệt trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, trong khi kẻ thù luôn chống phá ta bằng chiến lược DBHB, BLLĐ. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên là phải xây dựng LLDBĐV hùng mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Để giải quyết mối quan hệ “tĩnh vì dân, động vì   binh” trong huấn luyện định kì hằng năm phải tập trung giáo dục bản lĩnh chính trị, ý thức kỉ luật và những phẩm chất tốt đẹp của “bộ đội Cụ Hồ” cho mọi cán bộ, chiến sĩ dự bị. Đó là cơ sở vũng chắc để gắn kết cán bộ, chiến sĩ dự bị động viên trong các đơn vị mới thàh lập, bảo đảm cho họ hoàn thành được moi nhiệm vụ.

Cùng với việc xây dựng LLDBĐV mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức phải nâng cao trình độ cho cán bộ, chiến sĩ; huấn luyện quân sự phải được tiến hành nghiêm túc theo chương trình quy định của Bộ Quốc phòng bảo đảm LLDBĐV không bị lạc hậu so với trình độ chiến đấu của các đơn vị thường trực. Đồng thời phải có quy chế tổ chức quản lý LLDBĐV chặt chẽ ở các cấp, nhất là cấp cơ sở. Xây dựng LLDBĐV phải có bước đi vững chắc, cách làm hiệu quả thiết thực. Bảo đảm toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các đơn vị dự bị động viên có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng bổ saung cho lực lượng thường trực làm nhiệm vụ khẩn cấp. Cần có biện pháp tập trung chỉ đạo thực hiện tạo nguồn, quản lý nguồn, sắp xếp đơn vị để huấn luyện, tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị.

b)    Xây dựng LLDBĐV phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thông chính trị.

Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong xây dựng LLDBĐV là quan điểm cơ bản của Đảng  ta trong xây dựng nền QPTD. Xây dựng LLDBĐV là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bắt đầu từ sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối về mọi mặt của trung ương đến cơ sở, được thể chế hoá bằng các văn bản pháp luật của cơ quan lập pháp, bằng sự điều hành của chính phủ, chính quyền địa phương các cấp, sự hiệp đồng thực hiện giữa quân đội, cơ quam quân sự với các cơ quan trong hệ thống chính quyền, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội… và sự chăm lo xây dựng của toàn xã hội.

Thực hành nhiệm vụ xây dựng LLDBĐV là chấp hành Luật Nghĩa vụ quân sự, luật về LLDBĐV, các văn bản pháp quy của Nhà nước. Đó là vận hành cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện trên cơ sở huy động toàn dân cùng thực hiện… Chính quyền các cấp là cơ quan trực tiếp quản lý điều hành và tổ chức thực hiện, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng từ trung ương đến cơ sở. Các cơ quan chức năng trong hệ thống chúnh quyền cần nhận thức xây dựng LLDBĐV là một nhiệm vụ không thể thiếu được của ngành mình.

c)     Xây dựng LLDBĐV đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, của các cấp đặt ở địa phương, bộ ngành.

Xây dựng LLDBĐV đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng là một nôị dung quan trọn, khẳng định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tực tiếp tuyệt đối về mọi mặt đối với LLVT. Bởi vì, LLDBĐV được xây dựng nhằm đảm bảo duy trì sức mạnh cho quân đội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Sự chỉ đạo của Đảng trong xây dựng LLDBĐV được thể hiện trên tất cả các khâu, các bước, từ chuẩn bị đến thực hành động viên lực lượng. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng ở địa phương, ở các cấp bộ ngành được cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chỉ thị, bằng các văn bản, các biện pháp kiểm tra việc thực hiện, làm cho sự lãnh đạo của Đảng với nhiệm vụ xây dựng LLDBĐV đi vào nền nếp từ cơ sở, trung ương, trong và ngoài quân đội.

Trong lãnh đạo, các cấp uỷ cần chú trọng đến chất lượng lãnh đạo trong từng đơn vị LLDBĐV, chọn xếp vào từng đơn vị đó, tỉ lệ đảng viên phù hợp với khả năng của mình, đồng thời có kế hoạch triển khai tổ chức Đảng khi cần thiết.

3.     Nội dung xây dựng lực lượng dự bị động viên

Để đáp ứng với yêu cầu tình hình nhiệm vụ trong thời kì mới, quá trình xây dựng LLDBĐV cần tập trung vào các nội dung:

a)    Đăng kí, quản lý LLDBĐV

LLDBĐV gồm quân nhân dự bị và phương tiện kĩ thuật đã xếp trong kế hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội, yêu cầu xây dựng LLDBĐV phải bảo đảm đủ chỉ tiêu, đúng tiêu chuẩn, đúng thời gian, bí mật an toàn. Đăng kí, quản lí LLDBĐV phải có kế hoạch thường xuyên, chặt chẽ, chính xác.

Đối với quân nhân dự bị phải đăng kí, quản lí chính sách theo từng chuyên nghiệp quân sự, độ tuổi, loại sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình, trình độ văn hoá, nhận thức về chính trị, trình độ hiểu biết về quân sự, chuyên môn, nghiệp vụ. Những quy định cụ thể của từng đối tượng đã được pháp lệnh dự bị động viên quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đối với phương tiện kĩ thuật: phải đăng kí, quản lí chính xác thường xuyên cả số lượng lẫn chất lượng, tình trạng kĩ thuật của từng phương tiện; nghiên cứu phân loại từng phương tiện để xếp theo kế hoạch động viên và luôn theo dõi những thay đổi của chúng, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với chế độ, thủ tục đăng lí và quản lí phương tiện kĩ thuật thuộc diện huy động bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội do Chính phủ quy định.

Đăn kí, quản lí LLDBĐV là cơ sở đầu tiên để nắm chính xác thực lực nguông động viên. Phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp, đồng bộ giữa địa phương, bộ ngành và quân đội. Các đơn vị thường trực từ khi có quân nhân chuẩn bị xuất ngũ cần làm tốt một số việc: trước lúc xuất ngũ phải giáo dục và kiểm ta chạt chẽ để làm cơ sở cho địa phương đăng kí, quản lí. Khi quân nhân xuất ngũ, phải thông báo cho địa phương và cử cán bộ về bàn giao tại ban chỉ huy quân sự huyện (quận) đầy đủ.

Địa phương giữ vai trò chính trong đăng kí, quản lí LLDBĐV và chuẩn bị để sẵn sàng động viên, cần làm tốt các việc: thực hiện các chế độ đăng kí, quản lí cơ bản LLDBĐV. Cùng các đơn vị thường trực bổ nhiệm sắp xếp quân nhân dự bị. Thường xuyên thông báo những biến động của LLDBĐV với cấp trên theo quy định.

b)    Tổ chức biên chế đơn vị dự bị động viên

Căn cứ vào chỉ tiêu, nhiệm vụ xây dựng LLDBĐV, trên cơ sở kết quả đăng kí, quản lí quân nhân  dự bị và phương tiện kĩ thuật và tình hình, đặc điểm của đơn vị, địa phương để tổ chức biên chế đơn vị dự bị động viên. Các đơn vị dự bị động việ phải duy trì đủ quân số, trang bị và phương tiện kĩ thuật, hiện nay đơn vị dự bị động viên được tổ chức theo các loại hình: đơn vị biên chế thiếu, đơn vị biên chế khung thường trực, phương tiện biên chế đủ nhân đôi và đơn vị chuyên môn thời chiến. Khi sắp xếp quân nhân dự bị vào các đơn vị dự bị động viên phải theo nguyên tắc về quy định chuyên môn, địa lí. Đối với phương tiện kĩ thuật được sắp xếp vào các đơn vị dự bị động viên phải bảo đảm chất lượng phù hợp với yêu cầu sử dụng trong biên chế của từng đơn vị quân đội.

Quân nhân dự bị, phương tiện kĩ thuật được sắp xếp vàp đơn vị dự bị động viên có tỉ lệ dự phòng thích hợp theo quy định.

c)     Giáo dục chính trị, huấn luyện diễn tập, kiểm tra đơn vị dự bị động viên

-         Giáo dục chính trị

+         Giáo dục chính trị cho LLDBĐV là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng LLDBĐV nhằm làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ nâng cao nhận thức về chính trị, có lập trường tư tưởng vững vàng, giác ngộ phẩm chất cách mạng, trên cơ sở mọi người phát huy tinh thần trách nhiệm đóng góp xây dựng quân thường trực khi có chiến tranh xảy ra.

+         Nội dung giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quan điểm QPTD, chiến tranh nhân dân, nội dung xây dựng LLDBĐV, âm mưu thủ đoạ của kẻ thù đối với cách mạng, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. Giáo dục chính trị phải thường xuyên liên tục cho tất cả các đối tượng. Được thực hiện xen kẽ trong từng giai đoạn, từng đợt huấn luyện, diễn tập.

-       Công tác huấn luyện

LLDBĐV được tiến hành hằng năm theo quy định của Bộ Quốc phòng. Huấn luyện, diễn tập, kiểm tra đơn vị dự bị động viên là để nâng cao chất lượng toàn diện, đáp ứng với nhu cầu sẵn sàng chiến đấu. Phương châm huấn luyện: “chất lượng, thiết thực, hiệu quả, tập trung có trọng tâm, trọng điểm”. Nội dung huấn luyện gồm kĩ thuật binh chủng, chiến thuật từ cá nhân đến đại đội, công tác hậu cần, băng bó cứu thương và hoạt động chống DBHB, BLLĐ. Có thể huấn luyện tập trung tại các đơn vị dự bị động viên hoặc phân tán tại các địa phương. Vận dung sáng tạo, linh hoạt những phương pháp huấn luyện.

Hằng năm, sau khoá huấn luyện, LLDBĐV sẽ tham gia hợp luyện, diễn tập: đây là hình thức huấn luyện cao, tổng hợp tất cả những nội dung huấn luyện ở trong năm. Kết thúc diễn tập, tổ chức rút kinh nghiệm kịp thời bổ saung, nâng cao chất lượng huấn luyện giáo dục trong các đơn vị dự bị động viên.

Cùng với huấn luyện diễn tập, chế độ kiểm tra thực hiện nhiệm vụ xây dựng LLDBĐV được tiến hành theo quy định nhằm giúp lãnh đạo, chỉ huy nắm được thực trạng tổ chức, xây dựng LLDBĐV để có chủ trương, biện pháp sát đúng. Theo quy định, cơ quan chức năng cấp trên tổ chức kiểm tra cấp dưới bất kì thời gian nào, lãnh đạo chỉ huy từng cấp tổ chức kiểm tra việc xây dựng LLDBĐV của cấp mình. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng kiểm tra công tác xây dựng LLDBĐV đối vơí các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan Chính phủ, các địa phương quân khu, tỉnh (thành phố). Bộ trưởng, Thứ trưởng cơ quan ngang Bộ kiểm tra việc xây dựng LLDBĐV của Bộ mình. Chỉ huy trưởng các cơ quan quân sự cấp tỉnh, huyện giúp Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp mình kiểm tra việc xây dựng LLDBĐV đối với các địa phương.

d)    Bảo đảm hậu càn kĩ thuật và tài chính cho việc xây dựng LLDBĐV

Vật chất kĩ thuật, kinh phí là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm xây dựng LLDBĐV gồm vũ khí trang bị, hậu cần kĩ thuật và tài chính. Yêu cầu phải có số lượng bảo đảm đủ mức để triển khai xây dựng lực lượng và chất lượng ngày càng cao. Nếu không đầu tư đúng mức thì không thể có được LLDBĐV như mong muốn. Mặt khác nếu đầu tư không đủ sẽ dẫn đến việc xây dựng dở dang vừa hạn chế vừa lãng phí.

Việc bảo đảm vật chất kinh phí hằng năm để xây dựng LLDBĐV trong tình hình hiện nay, cần quán triệt phương châm trung ương và địa phương, Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo xây dựng.

4.     Một số biện pháp xây dựng lực lượng dự bị động viên trong giai đoạn hiện nay

Xây dựng lực lượng dự bị động viên nhằm bảo đảm sức mạnh cho quân đội. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong tình hình mới cần được thực hiện tốt một số biện pháp chủ yếu sau:

a)    Thường xuyên giáo dục sâu rộng trong toàn đảng, toàn dân, toàn quân về vị trí, nhiệm vụ những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với LLDBĐV

Thường xuyên giáo dục để mọi công dân hiểu được vị trí, nhiệm vụ, quan điểm, nguyên tắc trong xây dựng LLDBĐV, xác định đó là một yêu cầu thiết thực, nhằm nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân đối với LLDBĐV. Trước mắt cần tập trung quán triệt sâu rộng pháp lệnh về dự bị động viên theo Nghị quyết 3Q/CP và các văn bản đã ban hành cho toàn dân nhất là cấp thực hiện trực tiếp ở tỉnh, huyện, xã, các tổ chức kinh tế – xã hội. Biện pháp tiến hành phải đồng bộ, được chuẩn hoá nằm tong hệ thống giáo dục quốc gia, được cụ thể hoá ở nội dung, chương trình trong nhà trường từ cơ sở trở lên. Qua công tác giáo dục tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động, đưa công tác xây dựng dự bị động viên vào nề nếp.

b)    Thực hiện tôt cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện.

Vận hành tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành cơ quan quân sự và các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện, yếu tố quyết định tạo ra sức mạnh của LLDBĐV đáp ứng với yêu cầu khi có lệnh huy động tổng động viên lực lượng.

Trước hết các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp từ trung ương đến cơ sở xác định rõ chủ trương, biện pháp lãnh đạo, bộ máy nhà nước hoạt động đúng chức năng, có hiệu quả trong xây dựng LLDBĐV ở từng giai đoạn.

Trên cơ sở vận hành tốt cơ chế, nâng cao hiệu lực lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chức năng điều hành của chính quyền, vai trò làm tham mưu tổ chức thực hiện của các cơ quan ban ngành nhất là cơ quan quân sự trung tâm chỉ huy hiệp đồng giữa các ban ngành. Đồng thời, huy động sức mạnh toàn dân cùng tham gia xây dựng LLDBĐV.

c)     Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và cán bộ làm công tác xây dựng LLDBĐV

Chế độ chính sách có ý nghĩa rất lớn, chế độ chính sách phù hợp, thể hiện sự công bằng xã hội đúng với sự cống hiến của quân nhân dự bị, sẽ thúc đẩy LLDBĐV phát triển. Trong tình hình hiện nay phải kết hợp chặt chẽ  giữa giáo dục động  viên với chính sách đúng đối với LLDBĐV. Trước mắt tổ chức đúng hướng dẫn thực hiện cụ thể một số chế độ chính sách trong xây dựng LLDBĐV mà pháp lệnh về xây dựng LLDBĐV đã ban hành. Đồng thời thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, làm tốt các yêu cầu, chế độ tiêu chuẩn đối với LLDBĐV.

     II – ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước sẽ thực hiện động viên nền kinh tế quốc dân cho quốc phòng như các ngành công nghiệp, khoa học công nghệ và các ngành kinh tế sản xuất kinh doanh khác. Động viên công nghiệp là một mặt quan hệ trong động viên nền kinh tế nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng để đánh bại chiến tranh xâm lược.

“Động viên công nghiệp là sự huy động về nhân lực, về cơ sở vật chất, trang bị kĩ thuật của ngành công nghiệp Nhà nước, thủ công nghiệp địa phương, trong đó có một phần công nghiệp quốc phòng. Những thành phần công nghiệp đó được huy động trong thời bình, đặc biệt trong thời chiến. Nhằm mục đích xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh, phục vụ chiến tranh.

Về nhân lực sẽ huy động lực lượng cán bộ, công nhân viên chuyên môn kĩ thuật ở các doanh nghiệp, xí nghiệp, nhà máy, các đơn vị sản xuất; các cán bộ nhân viên viện nghiên cứu thuộc ngành công nghiệp.

Về phương tiện sẽ huy động cơ sở vật chất kĩ thuật của các doanh nghiệp, xí nghiệp, nhà máy, các viện nghiên cứu của ngành công nghệ kể cả trung ương và địa phương.

1.     Vị trí động viên công nghiệp

a)    Động viên công nghiệp để nâng cao tiềm lực quốc phòng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc

Tiềm lực quốc phòng được thể hiện trên tất cả các mặt: tiềm lực chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ… trong đó việc huy động nền công nghiệp cho quốc phòng là yếu tố tạo sức mạnh trực tiếp về vật chất, kĩ thuật cho lực lượng thường trực của quân đội, đáp ứng kịp thời tại chỗ những yêu cầu của chiến tranh. Bởi vậy ngay từ thời bình phải tích cực chủ động chuẩn bị cho động viên công nghiệp, có kế hoạch, có phương án và các bước thực hiện cụ thể để động viên nền kinh tế quốc dân nói chung, và động viên nền công nghiệp nói riêng cho quốc phòng.

Huy động nền công nghiệp cho quốc phòng là chuyển hoá tiềm lực kinh tế của đất nước thành thực lực, làm thay đổi sự so sánh tổng thể lực lượng, nhằm tạo ra khối lượng lớn về thiết bị chiến tranh để duy trì sức chiến đấu cho quân đội.

b)    Động viên công nghiệp là một mặt quan trọng trong động viên nền kinh tế của đất nước cho quốc phòng nhất là khi đất nước có chiến tranh

Động viên công nghiệp là một trong các biện pháp động viên kinh tế của đất nước, nhằm chuyển hướng nền công nghiệp của nhà nước, nền công nghiệp, thủ công nghiệp của địa phương và công nghiệp quốc phòng sang phục vụ cho chiến tranh. Trong thời chiến do yêu cầu phục vụ tác chiến, để duy trì sức chiến đấu liên tục vững mạnh cho LLVT đánh thắng kẻ thù lớn hơn ta, cần phải huy động tối đa mức độ khối lượng kinh tế của cả nước nhất là ngành công nghiệp.

Để động viên công nghiệp có hiệu quả phải nắm vững yêu cầu của cuộc chiến tranh, tình hình, nhiệm vụ tác chiến, khả năng nền công nghiệp của đất nước đến từng nhà máy xí nghiệp, trong từng giai đoạn để có kế hoạch phân bố, điều tiết hợp lí cho từng đơn vị LLVT, từng loại hình binh chủng, kĩ thuật đạt được sự đồng bộ, cân đối, hợp lí ở mức cao nhất. Tạo sức mạnh duy trì được sức chiến đấu cho lực lượng thường trực của quân đội.

c)     Động viên công nghiệp nhằm sắp xếp một cách hợp lí nền kinh tế quốc dân, vừa phục vụ  quốc phòng vừa bảo đảm đời sống nhân dân

Trong thời bình, nền kinh tế có những mục tiêu, kế hoach đặ thù của nó nhằm phục vụ xây dựng đất nước. Do yêu cầu của chiến tranh buộc phải chuyển đổi nền kinh tế phù hợp để đảm bảo giữ vững ổn định cuộc sống dân sinh, vừa chi việ trực tiếp cho chiến  đấu chống quân xâm lược, cần sắp xếp lại nền kinh tế của đất nước, trong đó có ngành công nghiệp, phù hơph với điều kiện của chiến tranh.

Sắp xếp nền kinh tế của đất nước, đặc biệt nền công nghiệp cho quốc phòng trong thời chiến, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ trong từng giai đoạn, thực hiện cân đối tiết kiệm có trọng điểm. Trước hết ưu tiên cho nhiệm vụ tác chiến, cho lực lượng làm nhiệm vụ quan trọng trên từng hướng, từng vùng. Cần kết hợp chặt chẽ giữađịa phương và trung ương bảo đảm cung cấo vũ khí, trang thiết bị… kịp thời và có tính cơ động cao.

2.     Nội dung động viên công nghiệp

Động viên công nghiệp được thực hiện trên tất cả các mặt gồm: con người, cơ sở vật chất kĩ thuật, trong lĩnh vực trực tiếp sản xuất và lĩnh vực nghiên cứu thuộc ngành công nghiệp. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, động viên công nghiệp được thể hiện ở một số mặt sau:

-       Chuyển đổi và mở rộng các doanh nghiệp, các nhà máy xí nghiệp của Nhà nước và tư nhân ở trung ương và địa phương sang phục vụ cho quốc phòng.

-       Chuyển đổi, mở rộng và phát triển các cơ sơ, vụ, việnnghiên cứu thuộc ngành công nghiệp sang phục vụ cho quốc phòng.

3.     Nhiệm vụ động viên công nghiệp

Động viên công nghiệp được thể hiện từ trách nhiệm nghiên cứu về tổ chức, quản lí, điều hành đối với từng lĩnh vực hoạt động công nghiệp, để cải tiến, phát triển phục vụ cho quốc phòng, nhất là khi đất nước bước vào chiến tranh. Nhiệm vụ động viên công nghiệp được thực hiện trên một số diểm sau:

-       Xác định chỉ tiêu nhu cầu của công nghiệp cần phải huy động và sản xuất cho quốc phòng như vũ khí, chất nổ, trang bị, khí tài, quân dụng trong thời kì đầu, năm đầu của cuộc chiến tranh, bảo đảm đủ sức cho LLVT chiến đấu, phụcvụ chiến đấu.

-       Tổ chức đăng kí để nắm thực kực về tiềm năng của ngành công nghiệp như: lực lượng lao động, công cụ, công nghệ, nguồn dự trữ vật tư làm cơ sở cho việc thực hiện tổ chức động viên công nghiệp trong thời chiến.

-       Động viên đủ số lượng, chất lượng, chủng loại, LLDBĐV của ngành công nghiệp theo kế hoạch của Nhà nước.

-       Giao nhiệm vụ xác định chỉ tiêu, định mức công suất, mức độ sản xuất cho các doanh nghiệo, nhà máy, xí nghiệp thuộc ngành công nghiệp về số lượng, chất lượng, khả năng tham gia sản xuất vũ khí, trang bị, các phương tiện phục vụ cho chiến tranh, trên cơ sở phải đạt yêu cầu gọn, nhẹ, dễ sử dụng, nhiều tác dụng, có hiệu quả, ngày càng hiện đại phù hợp với địa hình, cách đánh của ta.

-       Xác định nhiệm vụ cho các doanh nghiệp, nhà máy,  xí nghiệp, các cơ sở sản xuất khác thuộc ngành công nghiệp kể cả trung ương và địa phương. Cải tiến nâng cao tính năng tác dụng của các loại vũ khí, trang bị kĩ thuật, các loại vũ khí tự tạo theo kinh nghiệm truyền thống để phục vụ cho quốc phòng.

-       Tổ chức điều hành các doanh nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, thực hiện chỉ tiêu, bảo đảm kĩ thuật sửa chữa vũ khí thhiết bị quân sự để duy trì sức chiến đấu cho LLVT nhất là các quân binh chủng.

-       Nghiên cứu hoàn chỉnh các công trình, công nghệ, đề tài khoa học quân sự, dây chuyền sản xuất và sửa chữa cho quốc phòng theo đúng kế hoạch được phân công, theo đúng chuyên môn hoá ngành công nghiệp ở địa phương trong thời chiến để phục vụ tại chỗ.

-       Nghiệm thu quản lí bảo vệ chặt chẽ, bí mật an toàn phân phối, điều tiết sản phẩm công nghiệp cho công nghiệp, tăng cường tổ chức đúc rút kinh nghiệm trong điều hành vận động công nghiệp, kịp thời bổ sung và phát triển.

4.     Những biện pháp chủ yếu về tổ chức động viên công nghiệp

a)    Tăng cường giáo dục, quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về động viên công nghiệp

Giáo dục, quán triệt động viên công nghiệp cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cho các cấp, ngành là một yêu cầu hết sức cần thiết nhằm nâng cao nhận thức về động viên nền công nghiệp của đất nước, trên cơ sở đó phát huy tinh thần trách nhiệm của mọi công dân, mọi ngành, mọi cấp nhất là ngành công nghiệp đóng góp xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng theo yêu cầu nhiệm vụ.

Nội dung giáo dục toàn diện, tập trung quán triệt vị trí, nọi dung, nhiệm vụ, quan điểm của Đảng về động viên công nghiệp. Giáo dục được tiến hành thường xuyên trong thời bình và khi có chiến tranh nhằm để phát huy mọi khả năng động viên nền công nghiệp của đất nước cho chiến tranh.

b)    Phát huy sức mạnh của các cấp, các ngành trong động viên công nghiệp

Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành trong động viên công nghiệp là thể hiện ý thức trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp từ trung ương đến cơ sở đối với việc chấp hành động viên công nghiệp thời chiến. Lấy công nghiệp trung ương làm vai trò chủ đạo trong sản xuất và sửa chữa các thiết bị phương tiện kĩ thuật với quy mô lớn cho bộ đội chủ lực. Công nghiệp, thủ công nghiệp địa phương cùng tham gia đóng góp sản xuất, sửa chữa những thiết bị phục vụ theo yêu cầu của bộ đội địa phương. Huy động sự đóng góp của các ngành khác trên phạm vi cả nước và tên từng vùng để cung cấp các sản phẩm công nghiệp cho quốc phòng đảm bảo kịp thời và cơ động.

c)     Kiện toàn sắp xếp cân đối, hợp lí nguồn lực phương tiện về công nghiệp, phát huy hiệu quả trong sản xuất và sửa chữa

Triển khai sắp xếp lại nguòn lực, điều chỉnh phương tiện sản xuất, áp dụng các chính sách chế độ, phối hợp động viên tổ chức sử dụgn có hiệu quả khả năng của các doanh nghiệp, xí nghiệp, nhà máy, các đơn vị sản xuất thuộc ngành công nghiệp Nhà nước, công nghiệp, thủ công nghiệp địa phương để sản xuất và sửa chữa làm ra nhiều sản phẩm công nghiệp kịp thời phục vụ cho chiến tranh.

Kiện toàn sắp xếp hợp lí giữa bộ phận công nghiệp quốc phòng đã có trước đây với ngành công nghiệp nhà nước; công nghiệp, thủ công nghiệp địa phương khi đã động viên cho quốc phòng làm trung tâm trong tổ chức quản lí điều hành và chỉ đạo kĩ thuật, phối hợp chặt chẽ trong hoạt động sản xuất tạo ra năng suất lớn, hiệu quả cao.

KẾT LUẬN

Xây dựng LLDBĐV, động viên công nghiệp là nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước, nhằm xây dựng tiềm lực vững mạnh cho quốc phòng, chủ động đối phó kịp thời với mọi tình huống nhất là khi chiến tranh xảy ra. Xây dựng LLDBĐV và động viên công nghiệp phải có kế hoạch chủ động ngay trong thời bình. Cần nhận thức đúng về vị trí, ý nghĩa, nhiệm vụ, quan điểm của Đảng về xây dựng LLDBĐV và động viên công nhgiệp trong giai đoạn mới, chủ đoọng hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng nhất là Bộ Quốc phòng với các địa phương, các bộ ngành tạo ra sự thống nhất cao.

Sinh viên là đội ngũ tri thức trẻ, cần nghiên cứu học tập, tìm hiểu nắm vững nội dung về xây dựng LLDBĐV và động viên công nghiệp, đề cao trách nhiệm, phát huy sức sáng tạo của tuổi trẻ góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng LLDBĐV và động viên công nghiệp theo cương vị chức trách.

BÀI 4

---o0o---

XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ

CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ, BIÊN GIỚI QUỐC GIA

Việt nam là một quốc gai độc lập có chủ quyền. Lãnh thổ Việt nam là một chỉnh thể thống nhất, bất khả xâm phạm, với diện tích đất liền là 331.689km 2, với 4.550km đường biên giới, là nơi sinh sống của trên 85 triệu dân thuộc 54 dân tộc anh em đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, Việt nam cũng phải đang đối mặt với những nguy cơ, thách thức. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ, gây mất ổn định chính trị- xã hội, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia nước ta.

Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam hiện nay. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự kỉ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.

I/ Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia

1/ Chủ quyền lãnh thổ quốc gia

Quốc gia là thực thể pháp lí bao gồm ba yếu tố cấu thành: Lãnh thổ, dân cư và quyền lực công cộng. Quốc gia là chủ thể căn bản nhất của luật quốc tế. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất của quốc gia. Theo luật pháp quốc tế hiện đại, tất cả các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền.

Quốc gia có khi được dùng để chỉ một nước hay đất nước. Hai khái niệm đó có thể được dùng thay thế cho nhau.

Lãnh thổ quốc gia là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia Việt Nam bao gồm: Vùng đất quốc gia, vùng biển quốc gia (nội thủy và lãnh hải), vùng trời quốc gia, ngoài ra còn gồm lãnh thổ quốc gia đặc biệt.

Vùng đất quốc gia (kể cả các đảo và quần đảo) là phần mặt đất và lòng đất của đất liền (lục địa), của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia; bọ phận quan trọng nhất cấu thành nên lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thủy, lãnh hải. Vùng đất quốc gia có thể gồm những lục địa ở những điểm khác nhau (tách rời nhau), nhưng các vùng đất đó đều thuộc lãnh thổ thống nhất của quốc gia; hoặc cũng có thể chỉ bao gồm các đảo, quần đảo ở ngoài biển hợp thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương, có vùng đất quốc gia vừa là đất kiền, vừa là đảo, vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến mũi Cà Mau; các đảo như Phú Quốc, Cái Lân… và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Việt Nam có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam với bừ biển dài 3.260km, từ Móng Cái tới Hà Tiên. Phần biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Riêng Vịnh Bắc Bộ đã tập trung một quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử long; các đảo Cát Hải, Cát Bà, Bạc Long Vĩ; xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phía Tây Nam và Nam có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu.

Nội thủy là vùng biển nằm phía trong của đường cơ sở đề tính chiều rộng lãnh hải. Đường cơ sở là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc theo bờ biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố. Vùng nước thuộc nội thủy có chế độ pháp lí như lãnh thổ trên đất liền. Nội thủy của Việt Nam bao gồm: Các vùng nước phía trong đường cơ sở; vùng nước cảng được giới hạn bởi đường nối các điểm nhô ra ngoài khơi xa nhất của các công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu  cơ của hệ thống cảng.

Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lí tính từ đường cơ sở, có chế độ pháp lí như lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Trong lãnh hải, tàu thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại khong gây hại và thường đi theo tuyến phân luồng giao thông biển của nước ven biển. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo. Nước ta có thềm lục địa rộng lớn, là vùng đất và lòng đất đáy biển kéo dài tự nhiên từ lãnh thổ đất liền ra đến bờ ngoài của rìa lục địa, giới hạn 200 hải lí tính từ đường cơ sở lãnh hải. Việt Nam có chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với thềm luc địa; chủ quyền của nước ta đối với thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc vào việc có tuyên bố hay không.

Lãnh thổ quốc gia đặc biệt là loại lãnh thổ dặc thù của một quốc gia tồn tại hợp pháp trong lãnh thổ một quốc gia khác hoặc trên vùng biển, vùng trời quốc tế. Ví dụ như trụ sở làm việc và nơi ở của cơ quan đại diện ngoại giao.

Vùng trời quốc gia là khoảng không gian phía trên lãnh thổ quốc gia; là bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia và phụ thuộc chủ quyền hoàn toàn của quốc gia đó. Việc làm chủ vùng trời quốc gia trên vùng lãnh thổ quốc gia đặc biệt được thực hiện theo qui định chung của công ước quốc tế.

Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt luật pháp, hành pháp và tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể hiện chủ quyền của mình trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.

Tất cả các nước, không tính đến qui mô lãnh thổ, dân số, chế đọ xã hội, đều có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lí thiết yếu của một quốc gia độc lập, được thể hiện trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tôn trọng chủ quyền quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Hiến chương Liên hiệp quốc khẳng định nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; không một quốc gia nào được can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ quyền của một quốc gia khác.

Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là một bộ phận của chủ quyền quốc gia, khẳng định quyền làm chủ của quốc gia đó trên vùng lãnh thổ của mình. Mỗi nước có toàn quyền định đoạt mọi việc trên lãnh thổ của mình, không được xâm phạm vào lãnh thổ và can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia dừng lại ở biên giới quốc gia; mọi tư tưởng và hành động thể hiện chủ quyền quốc gia vượt quá biên giới quốc gia của mình đều là hành động xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác và trái với công ước quốc tế. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là tuyệt đối, bất khả xâm phạm; tôn trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ và luật pháp quốc tế.

2/ Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia

Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là thực hiện tổng thể các giải pháp, biện pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và quốc phòng, an ninh nhằm thiết lập và bảo đảm quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của quốc gia trong phạm vị lãnh thổ, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội thủy, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt của quốc gia. Bảo vệ củ quyền lãnh thổ quốc gia là sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để giữ gìn toàn vẹn chủ quyền nhà nước đối với lãnh thổ quốc gia. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam là yêu cầu tất yếu, là nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung của việc xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt nam gồm:

- Xây dựng, phát triển mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và quốc phòng an ninh của đất nước.

- Xác lập và bảo vệ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Việt nam trên mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong phạm vi lãnh thổ của mình.

- Bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ đất nước, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội thủy, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt của Việt Nam; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá  hoại, vi phạm chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam.

- Bảo vệ sự thống nhất của đất nước, thống nhất về quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên phạm vi lãnh thổ Việt nam. Đấu tranh làm thất bại mọi hành động chia cắt lãnh thổ Việt nam; mọi âm mưu, thủ đạo của các thế lực thù địch cả bên trong lẫn bên ngoài hòng phá hoại quyền lực tối cao của Việt nam.

Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia gắn bó chặt chẽ và đặt trong tổng thể chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Làm tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là trực tiếp góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

II/ Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia

1/ Biên giới quốc gia

Luật biên giới quốc gia Việt nam năm 2003 xác định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt phẳng thẳng dứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa, và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Biên giới quốc gia của Việt Nam được xác định bằng hệ thống các mốc quốc giới trên thực địa, được đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ và được thể hiện bằng mặt phẳng thẳng dứng theo lãnh thổ Việt Nam. Biên giới quốc gia Việt Nam bao gồm biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không, trong lòng đất.

Biên giới quốc gia trên đất liền là phân định lãnh thổ trên mặt đất liền của vùng đất quốc gia. Trong thực tế, biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập dựa vào các yếu tố địa hình (núi, sông, suối, hồ nước, thung lũng..); thiên văn (theo kinh tuyến, vĩ tuyến); hình học ( đường lối liền các điểm quy ước). Biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia có lãnh thổ tiếp giáp với nhau và được thể hiện bằng các điều ước hoạch định biên giới giữa các quốc gia liên quan. Việt nam có đường biên giới quốc gia trên đất liền dài 4.550km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Campuchia ở phía Tây, phía Đông giáp với biển Đông.

Biên giới quốc gia trên biển là phân định lãnh thổ trên biển giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hay đối diện nhau; là ranh giới phía ngoài của lãnh hải. Biên giới quốc gia trên biển của quốc gia quần đảo là đường biên giới quốc gia phân định lãnh thổ quốc gia với biển cả. Đối với các đảo của một quốc gia nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia, biên giới quốc gia trên biển là đương ranh giới phía ngoài của lãnh hải bao quanh đảo.

Biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam được hoạch định và đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam, được xác định theo công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.

Biên giới quốc gia trên không là biên giới phân định vùng trời giữa các quốc gia liền kề hoặc các vùng trời quốc tế, được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển lên trên vùng trời. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển, việc xác lập biên giới quốc gia trên không có ya nghĩa ngày càng quan trọng trong việc thực hiện chủ quyền đối với vùng trời quốc gia. Đến nay chưa có quốc gia nào qui định độ cao cụ thể của biên giới quốc gia trên không.

Biên giới quốc gia trong lòng đất là phân định lãnh thổ quốc gia trong lòng đất phía dưới vùng đất quốc gia, nội thủy và lãnh hải, được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất. Độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất được xác định bằng độ sâu mà kĩ thuật khoan có thể thực hiện. Đến nay, chưa có quốc gia qui định độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất.

Khu vực biên giới là vùng lãnh thổ tiếp giáp biên giới quốc gia có qui chế, qui định đặc biệt do Chính phủ ban hành nhằm bảo vệ an toàn biên giới. Khu vực biên giới Việt Nam bao gồm: khu vực biên giới trên đất liền gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia Việt Nam trên đất liền; khu vực biên giới quốc gia Việt Nam trên biển được tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo; khu vực biên giới trên không gồm phần không gian dọc theo biên giới quốc gia có chiều rộng 10km tính từ biên giới Việt nam trở vào.

2/ Nội dung xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia

Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là thực hiện tổng thể các biện pháp để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường, lợi ích quóc gia trên khu vực biên giới; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Do vị trí địa lí và chính trị, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, việc xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia luôn là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển đất nước. Xây dựng và bảo vệ biên giới  quốc gia là một nội dung của xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, là mọt biện pháp hiệu quả chống lại sự xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

Trong hòa bình, bảo vệ biên giới quốc gia là tổng thể các biện pháp mag hệ thống chính trị, xã hội, các lực lượng vũ trang khu vực biên giới áp dụng nhằm tuần tra, giữ gìn nguyên vẹn, chống lại sự xâm phạm biên giới quốc gia. Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách và làm nòng cốt trong bảo vệ biên giới quốc gia. Khi có xung đột hoặc chiến tranh, các biện pháp bảo vệ biên giới quốc gia được thể hiện rõ qua các trạng thái sẵn sàng chiến đấu: thường xuyên, tăng cường và cao.

Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 xác đinh: “Xây dựng, bảo vệ, biên giới quốc gia, khu vực biên giới là sự nghiệp của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí. Nhà nước và nhân dân thực hiện kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại”. Xây dựng, bảo vệ bao gồm các nội dung sau:

- Ưu tiên đầu tư xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế- xã hội, quóc phòng, an ninh; có chính sách ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khu vực biên giới định cư ổn định, phát triển và sinh sống lâu dài ở khu vực biên giới; điều chỉnh dân cư theo yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và củng cố quốc phòng- an ninh khu vực biên giới.

- Tăng cường, mở rông quan hệ đối ngoại các cấp trên khu vực biên giới; phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác nhiều mặt nhằm xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng.

- Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp của Nhà nước chống lại sự xâm phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để giữ gìn toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.

- Bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường. Sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh ngăn chặn mọi hành động xâm phạm tài nguyên, đặc biệt là xâm phạm tài nguyên trong lòng đất, trên biển, trên không, thềm lục địa của việt Nam. Ngăn chặn, đấu tranh với mọi hành động phá hoại, hủy hoại, gây ôi nhiễm môi sinh, môi trường khu vực biên giới, bảo đảm cho người Việt Nam, nhân dân khu vực biên giới có môi  trường sinh sống bền vững, ổn định và phát triển lâu dài.

- Bảo vệ lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới. Thực thi quyền lực chính trị tối cao (nguyên lập pháp, hành pháp và tư pháp) của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam trên khu vực biên giới; chống lại mọi hành động xâm phạm về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trên khu vực biên giới. Bảo đảm mọi lợi ích của người Việt nam phải được thực hiện ở khu vực biên giới theo luật pháp Việt nam, phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam kí kết với các nước hữu quan.

- Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Đập tan mọi âm mưu và hành động gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới quốc gia. Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành ddoonhj chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại sự ổn định, phát triển khu vực biên giới.

- Phối hợp với các nước, đấu tranh ngăn chặn mọi hành động phá hoại tình đoàn kết, hưu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước láng giềng. Trấn áp mọi hành động khủng bố, tội phạm xuyên biên giới quốc gia.

III/ Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia

1/ Quan điểm

-  Xây dựng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự kế thừa và phát triển mới Tổ quốc, đất nước, dân tộc và con người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ  nước trong điều kiện mới.

Lãnh thổ và biên giới quốc gia Việt Nam là một bộ phận hợp thành quan trọng, không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là yếu tố cơ bản bảo đảm cho sự ổn định, bền chắc của đất nước Việt nam. Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam, bao gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi lãnh thổ, gồm cả vùng đất, vùng trời, nội thủy, lãnh hải và lãnh thổ dặc biệt của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là nội dung đặc biệt quan trọng của xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa không thể thành công nếu chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia không được xây dựng và bảo vệ tốt, bị xâm phạm.

- Chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc Việt nam.

Lãnh thổ quốc gia Việt Nam là nơi sinh ra và lưu giữ, phát triển con người và những giá trị của dân tộc Việt Nam. Trải qua mấy ngàn năm dựng nước và gjwx nước các thế hệ người Việt Nam đã đổ biết bao mồ hôi, xương máu mới xây dựng nên, mới giữ gìn, bảo vệ được lãnh thổ quốc gia toàn vẹn, thống nhất và tươi đẹp như ngày hôm nay. Nhờ đó mà con nguwoif Việt Nma, dân tộc Việt Nam có thể tồn tại, sinh sống, vươn lên và phát triển một cách độc lập, bình đẳng với các quốc gia, dân tộc khác trong cộng đồng quốc tế; những giá trị, truyền thống bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam được khẳng định, lưu truyền và phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu.

Chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia là kết quả đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử. Từ thủa Hùng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh, đứng trước những kẻ thù to lớn và hung bạo, dân tộc Việt Nam luôn có ý thức và quyết tâm bảo vệ. Dù phải trải qua hàng chục cuộc chiến tranh lớn nhỏ, phải chịu dưới ách đô hộ của các thế lực phong kiến, thực dân, đế quốc người Việt Nam luôn phất cao hào khí anh hùng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong dựng nước và giữ nước, xây dựng và giữ gìn biên cương lãnh thổ quốc gia, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng “Sông núi nước Nam vua Nam ở”, của ông cha ta được tiếp nối, khẳng định và nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “ Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia Việt Nam là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ gìn và bảo vệ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm đó. Luật biên giới quốc gia của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản lí bảo vệ biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh của đất nước”.

- Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định; giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau.

Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định là vấn đề đặc biệt quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đó là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Quan điểm này phù hợp với lợi ích và luật pháp của Việt nam, phù hợp với công ước và luạt pháp quoocstees, cũng như lợi ích của các quốc gia có liên quan. Đảng và Nhà nước ta coi việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước.

Trong giải quyết các vấn đề về tranh chấp lãnh thổ, biên giới, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện quan điểm giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau.

Về những vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên bộ, trên biển do lịc sử để lại hoặc mới nảy sinh, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Việt Nam luôn sẵn sàng thương lượng hòa bình để giải quyết một cách có lí, có tình”. Việt Nam ủng hộ việc giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng trong khu vực thông qua đối thoại, thương lượng hòa bình, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Nhưng Việt Nam cũng sẵn sàng tự vệ chống lại mọi hành động xâm phạm lãnh thổ đất liền, vùng trời, vùng biển và lợi ích quốc gia của Việt nam.

Về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, quan điểm nhất quán của Việt Nam là: Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo của Việt Nam trên biển Đông, trong đó có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lí về vấn đề này. Tuy nhiên, vì lợi ích an ninh chung của các bên hữu quan, Việt Nam sẵn sàng đàm phán hòa bình để giải quyết, trước mắt là đạt tới sự thỏa thuận về “ Bộ qui tắc ứng xử” trong khi tiếp tục tìm kiếm giải pháp lâu dài cho vấn đề biển Đông.

- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thống nhất việc quản lí việc xây dựng, quản lí, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia; có chính sách ưu tiên đặc biệt xây dựng khu vực biên giới vững mạnh về mọi mặt. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới…

Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt, hucyeen trách, phối hợp với lực lượng công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo qui định của pháp luật.

2/ Trách nhiệm cuẩ công dân trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Mọi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia Việt Nam

Trách nhiệm của công dân Việt Nam đối với xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia Việt Nam được Nhà nước ban hành cụ thể trong Hiến pháp và luật. Điều 44, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) qui định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật qui định”. Điều 1, Luật Nghĩa vụ quân sự chỉ ró: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quí của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng và quốc phòng toàn dân”. Điều 10, Luật Biên giới quốc gia cũng xác định: “Xây dựng, quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới là sự nghiệp của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí”.

Thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm xy dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, mọi công dân Việt Nam phải:

- Mọi công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, nơi cư trú đều có nghĩa vụ và trách nhiệm xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) nêu ró: “Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều bị nghiêm trị theo pháp luật”. Đồng thời phải luôn nâng cao ý thức quốc phòng, an ninh, xây dựng ý thức, thái độ và trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc; có những hành động thiết thực góp phàn vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luạt của nhà nước, trước hết thực hiện nghiêm và đầy đủ Luật Quốc phòng, Luật nghĩa vụ Quân sự, Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quân sự thực hieenjnghieem chỉnh các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mị nhiệm vụ được giao. “Công dân phải trung thành với Tổ quốc, làm nghĩa vụ quân sự, được giáo dục về quốc phòng và huấn luyện về quân sự; tham gia dân quân tự vệ và phòng thủ dân sự; chấp hành nghiêm chỉnh các biện pháp của nhà nước và người có thẩm quyền khi đất nước có tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp về quốc phòng”.

Trách nhiệm của học sinh trong  việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia

- Học sinh phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt, hiểu biết sâu sắc về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; từ đó xây dựng, củng cố yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý trí tự chủ, tự lập, tự cường, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Thấy rõ ý nghĩa thiêng liêng, cao quí và bất khả xâm phạm về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xác định rõ vinh dự và trách nhiệm của công dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Thực hiện tốt về chương trình môn học Giáo dục quốc phòng- an ninh đối với nhân dân khi Nhà nước yêu cầu. Tình nguyện tham gia xây dựng và phục vụ lâu dài tại các khu vực kinh tế- quốc phòng, góp phần xây dựng khu vực và phục vụ lâu dài tại các khu vực kinh tế- quốc phòng, góp phần xây dựng khu vực biên giới, hải đảo vững mạnh, phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thực hiện nghiêm chỉnh Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Học sinh đang học tại trường trung cấp chuyên nghiệp cần nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia đối với sự toàn vẹn, thống nhất lãnh thổ; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Trên cơ sở đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân, học tập tốt, thực hiện tốt các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

BÀI 5

---o0o----

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ

ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC

VÀ TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

I/ Một số vấn đề cơ bản về dân tộc

1/ Một số vấn đề chung về dân tộc

- Khái niệm: Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập một quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ, truyền thống, văn hóa, đặc điểm tâm lí, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc. Khái niệm được hiểu:

+ Các thành viên cùng dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung ( tiếng mẹ đẻ) để giao tiếp nội bộ dân tộc. Các thành viên cùng chung những đặc điểm sinh hoạt văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.

+ Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, là một cộng đồng chính trị- xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ chung, như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa…

- Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới:

Hiện nay, trước sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa kinh tế diến ra mạnh mẽ, làm cho quan hệ giai cấp, dân tộc diễn biến phức tạp, khó lường. Như Đảng ta đã nhận định: trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trong quan hệ giữa các dân tộc.Toàn cầu hóa và các vấn đề toàn cầu làm cho sự hiểu biết lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc tăng lên, thúc đẩy xu thế khu vực hóa. Đồng thời các dân tộc đề cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tực ường, chống can thiệp áp đặt và cường quyền.

Mặt khác, quan hệ dân tộc, sắc tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra rất phức tạp, nõng bỏng ở cả phạm vi quốc gia, khu vực cà quốc tế. Mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc, xu hướng li khai, chia rẽ dân tộc đang diễn ra ở khắp các quốc gia, các khu vực, các châu lục trên thế giới…Đúng như Đảng ta nhận định: “Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, li khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biên đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diến ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp”. Vấn đề quan hệ dân tộc, sắc tộc đã gây nên những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường cho các quốc gia, đe dọa hòa bình, an ninh khu vực và thế giới.

- Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc.

Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc

+ Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các dân tộc diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giải quyết.

Thực chất các vấn đề dân tộc là sự va chạm, mâu thuẫn lợi ích giữa các dân  tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế diến ra trên mọi lĩnh vực đời sỗng xã hội.

+ Vấn  đề dân tộc còn tồn tại lâu dài. Bởi do dân số và trình độ phát triển kinh tế- xã hội giữa các dân tộc không đều nhau; do sự khác biệt về lợi ích; do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, tâm lí; do tàn dư tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc; do thiếu sót, hạn chế trong hoạch định, thực thi chính sách kinh tế- xã hội của nhà nước câm quyền; do sự thống trị, kích động chia rẽ của các thế lực phản động đối với các dân tộc.

Vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược của Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân tộc gắn kết chặt chẽ với vấn đề giai cấp. Giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực của Cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của V.I. Lênin.

Đó là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc.

+ Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là các dân tộc không phân biệt lớn, nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên mọi lĩnh vực trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế; xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật hóa và được thực hiện trên thực tế. Đây là quyền thiêng liêng, là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng quan hệ hữu ngị hợp tác giữa các dân tộc.

+ Các dân tộc được quyền tự quyết, là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi dân tộc: quyển tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình, bao gồm cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù hợp với lợ ích chính đáng của các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng quyền tự quyết để can thiệp, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.

+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự đoàn kết công nhân các dân tộc trong phạm vi quốc gia và quốc tế và cả sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc, các lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đểt giải quyết tốt vấn đề dân tộc, giai cấp,quốc tế. Đây là nội dung vừa phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, vừa phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh và khả năng để giành thắng lợi.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc.

Trung thành với quan điểm chủ nghĩ Mác- Leenin, bám sát thực tiễn cách mạng, đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm dân tộc đúng đắn, góp phần cùng toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân tộc; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng về dân tộc và giửi quyết vấn đề dân tộc của Hò Chí Minh về nội dung toàn diện, phong phú, sâu sắc, khoa học và cách mạng; đó là những luận điểm cơ bản chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc; xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam và giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc trên thế giới.

Khi Tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, Hồ Chí Minh đã tìm con đường cứu nước, cùng Đảng Cộng sản Việt nam tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Khi Tổ quốc được độc lập, tự do, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa các dân tộc: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển đi lên con đường ấm no, hạnh phúc. Người rất quan tâm chăm sóc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Khắc phục tàn dư tư tưởng phân biệt, kì thị dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi. Người quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc. Lên án, vạch trần mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc Việt nam.

2/ Đặc điểm các dân tộc Việt Nam và quan điểm chính sách dân tộc của ĐẢng Nhà nước ta hiện nay.

- Khái quát đặc điểm của các dân tộc ở nước ta hiện nay”

Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất cùng 54 dân tộc cùng sinh sống. Các dân tộc Việt Nam có đặc trưng sau:

Một là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó xây dựng quốc gia dân tộc thống nhất. Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, do yêu cầu khách quan của công cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch họa của dân tộc ta phải sớm đoàn kết thống nhất. các dân tộc ở Việt Nam đều có chung cội nguồn, chịu ảnh hưởng chunh của điều kiện tự nhiên, xã hội, chung vận mệnh dân tộc, chung lợi ích cơ bản- quyền được tồn tại, phát triển. Đoàn kết thống nhất đã trở thành giá trị tinh thần truyền thống quý báu của dân tộc, là sức mạnh để dân tộc ta tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước.

Hai là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ trên địa bàn rọng lớn, chủ yếu là miền núi, biên giới, hải đảo. Không có dân tộc thiểu số nào cư trú duy nhất trên một địa bàn mà không xen kẽ với một vài dân tộc khác. Nhiều tỉnh miền núi các dân tộc thiểu số chiếm đa số dân số như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên quang, Lào Cai, Sơn La,Lai Châu…

Ba là, các dân tộc ở nước ta có qui mô dân số và trình độ phát triển không đều. Theo số liệu điều tra dân số năm 1999, nước ta có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 65,9 triệu người, chiếm 86,2% dân số cả nước, 53 dân tộc thiểu số có 10,5 triệu người chiếm 13,8% dân số cả nước. Dân số của các dân tộc thiểu số dân số cũng chênh lệch nhau. Có hai dân tộc có dân số từ một triệu trở lên, có 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người; 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 5 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người là: Sila, Pupeo, Rơmăm, Ơđu, và Brâu.

Trình độ phát triển kinh tế- xã hội gữa các dân tộc không đều nhau. Có dân tộc đã đạt trình độ phát triển cao, đời sống đã tương đối khá như dân tộc Kinh, Hoa, Tày, Mường, Thái…,nhưng cũng có dân tộc trình độ phát triển thấp, đời sống còn nhiều khó khăn như một số dân tộc ở Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên…

Bốn là, Mỗi dân tộc ở Việt Nam đều có sắc thái văn hóa riêng, góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú, thống nhất của van hóa Việt Nam. Các dân tộc đều có sắc thái về văn hóa nhà cửa, ăn mặc,ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo và ý thức dân tộc riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hóa Việt Nam. Đồng thời các dân tộc cũng có điểm chung thống nhất về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tạp quán, tín ngưỡng, tôn giáo, ý thức quốc gia dân tộc. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hóa các dân tộc ở Việt Nam.

- Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay

Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn có quan điểm nhất quán: “ Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Công tác dân tộc ở nước ta hiện nay, Đảng, Nhà nước ta tập trung:

Khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế- xã hội giữa các dan tộc; nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa  các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kì thị, chia rẽ dân tộc, lợi dụng vấn đề dân tộc để gây mất ổn định chính trị- xã hội, chống phá cách mạng; thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc nhằm xay dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho tất cả các dân tộc ở Việt Nam đều phát triển, ấm no, hạnh phúc.

Văn kiện đại hội X chỉ rõ quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là: “ Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quóc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ , trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kì thị, hẹp hòi, chi rẽ dân tộc”.

II/ Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo

1/ Một số vấn đề chung về tôn giáo

- Khái niệm tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lí, hành vi của con người.

Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội, với các yếu tố: Hệ thống giáo lí tôn giáo, nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn giáo với đội ngũ giáo sĩ và tín đồ, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tôn giáo.

- Cần phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan là những hiện tượng ( ý thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với lẽ phải và hành vi đạo đức, văn hóa cộng đồng, gây hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời sống vật chất tinh thần của cá nhân, cộng đồng của xã hội. Đây là một hiện tượng của xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hóa đời sống tinh thần xã hội.

2/ Nguồn gốc của tôn giáo

Có nguồn gốc từ các yếu tố kinh tế- xã hội, nhận thức và tâm lí.

- Nguồn gốc kinh tế- xã hội: Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực trước tự nhiên. Vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những lực lượng siêu tự nhiên có sức mạnh, quyền lực to lớn, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ.

Khi xã hội có giai cấp đối kháng, nạn áp bức, bóc lột, bất công của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. V.I.Leenin đã viết: “ Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia”. Hiện nay, con người vẫn chưa hoàn toàn làm chủ tự nhiên và xã hội; các cuộc xung đột giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thiên tai, bệnh tật,..vẫn còn diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để tôn giáo tồn tại.

- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận thức hạn hẹp, mơ hồ về tự nhiên, xã hội có lien quan đến đời sống, số phận của con người. Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra các biểu tượng tôn giáo. Mặt khác, trong quá trình biện chứng của nhận thức, con người nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tượng xa lạ với hiện thực khách quan, hình thành nên các biểu tượng tôn giáo.

- Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo. Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ hãi, buồn chán, tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm chủ được bản thân là cơ sở tâm lí để hình thành tôn giáo. Mặt khác, lòng biết ơn, sự tôn kính đối với những người có công khai phá tự nhiên và chống lại các thế lực áp bức trong tình cảm, tâm lí con người cũng là cơ sở để tôn giáo nảy sinh.

- Tính chất của tôn giáo: Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo có tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị.

 Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo ra đời, tồn tại và biến đổi phản ánh và phụ thuộc vào sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Tôn giáo còn tông tại rất lâu dài, nhưng sẽ mất đi khi con người làm chủ hoàn toàn tự nhiên, xã hội và tư duy.

 Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo phản ánh khát vọng của quần chúng bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái ( dù đó là hư ảo). Tôn giáo đã trở thành nhu cầu tinh thần, đức tin, lối sống của một bộ phận dân cư. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ của quần chúng nhân dân tin theo các tôn giáo.

 Tính chính trị của tôn giáo: Xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp. Giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo làm công cụ hỗ trợ để thống trị áp bức bóc lột và mê hoặc quần chúng. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang xảy ra, thực chất vẫn là xuất phát từ lợi ích của những lực lượng xã hội khác nhau lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình.

3/ Tình hình tôn giáo trên thế giới và quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

- Tình hình tôn giáo trên thế giới

Theo Từ điển Bách khoa Tôn giáo thế giới năm 2001, hiện nay trên thế giới có 10.000 tôn giáo khác nhau, trong đó khoảng 150 tôn giáo có hơn 1 triệu tín đồ. Những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay gồm có: Kitô giáo ( bao gồm Công giáo, Tin Lành, Anh giáo hay chính thống giáo) có khoảng 2 tỉ tín đồ, chiếm 33% dân số thế giới; Hồi giáo: 1,3 tỉ tín đồ chiếm 22% dân số thế giới; Ấn đọ giáo: 900 triệu tín đồ chiếm 15% dân số thế giới và Phật giáo: 360 triệu chiếm 6% dân số thế giới. Như vậy, chỉ tính các tôn giáo lớn đã có 4,2 tỉ người tin theo, chiếm 76% dân số thế giới.

Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động, diễn ra theo nhiều xu hướng. Các tôn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh hưởng ra toàn cầu; các tôn giáo cũng có xu hướng dân tộc hóa, bình dân hóa, mềm hóa các giới luật lễ nghi để thích nghi, tồn tại, phát triển trong từng quốc gia dân tộc; các tôn giáo cũng tăng các hoạt động giao lưu, thực hiện thêm các chắc năng phi tôn giáo theo hướng thế tục hóa, tích cực tham gia các hoạt động xã hội để mở rộng ảnh hưởng làm cho sinh hoạt tôn giáo đa dạng, sôi động và không kém phần phức tạp.

Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với xu hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hóa, thần bí hóa giáo chủ đang nổi lên; đồng thời, nhiều “ hiện tượng tôn giáo lạ’ ra đời, trong đó có không ít tổ chức tôn giáo là một trong những tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột dân tộc gay gắt trên thế giới hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiếp tục lợi dụng tôn giáo để chống phá, can thiệp vào các quốc gia dân tộc đọc lập.

Tình hình, xu hướng hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Một mặt, việc mở rộng giao lưu giữa các tổ chức tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo thế giới đã giúp cho việc tăng cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng tinh thần hợp tác Hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích của các giáo hội cà đất nước; góp phần đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch với Việt Nam; góp phần đào tạo chức sắc tôn giáo Việt nam. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi dụng sự mở rộng giáo lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào tôn giáo trong và ngoài nước chống pha Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

- Quan điểm chủ nghĩa Mac-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện các vấn đề có tính nguyên tăc sau:

Một là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới- xã hội xã họi chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng quần chúng khỏi ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó giải quyết vấn đề tôn giáo phải sử dụng tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bóc lột,  bất công, nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối không được sử dụng mệnh lệnh hành chính cưỡng chế tuyên chiến, xóa bỏ tôn giáo.

Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân, kiên quyết bài trừ me tín dị đoan

Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài. Bởi vậy, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng là: bất kì ai cũng được tự do theo tôn giáo mà mình lựa chọn, tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ đạo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo đều được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và cá nhân đều phải  tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Tôn trọng gắn liền với không ngừng tạo điều kiện cho quần chúng tiến bộ mọi mặt, bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm cho tín đồ, chức sắc tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật.

Ba là, quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.

Tôn giáo có tính lịch sử, nên vai trò, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy, khi xem xét, đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập khuôn cứng nhắc. Những hoạt động tôn giáo đúng pháp luật được tôn trọng, hoạt động ích nước lợi dân được khuyến khích, hoạt động trái pháp luật, đi ngược lợi ích dân tộc bị xử lí theo pháp luật.

Bốn là, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo.

Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai loại mâu thuẫn: Mâu thuãn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động, đó là mặt cính trị của tôn giáo. Mâu thuẫn không đối kháng của những người có tín ngưỡng khác nhau hoặc những người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng của tôn giáo.

Cho nên, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, mặt khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản dộng của các thế lực lợi dụng tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quần chúng nhân dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo; phát huy tinh thần yêu nước của những chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo; kiên quyết vạch trần và xử lí kịp thời theo pháp luật những phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt đôgnj chống phá cách mạng..

4/ Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay

-Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Việt nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều người tin theo tôn giáo. Hiện nay, ở nước ta có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo với số tín đồ lên tới gần 20 triệu. Có người cùng  lúc tham gia nhiều hành vi tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

Trong những năm gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển tổ chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng cường mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan hệ với các tổ chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang đẹp đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi. Đại đa số tín đồ chức sắc tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, theo hướng “tốt đời, đẹp đạo”.

Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diến biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn có những chức sắc, tín đồ mang tư tưởng chống đối, cực đoan, quá kích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc; vẫn còn các hoạt động tôn giáo xen lẫn với mê tín dị đoan, còn các hiện tượng tà giáo hoạt động làm mất trật tự trị an toàn xã hội.

- Quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay

Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng định: Tôn giáo còn tồn tại lâu dài, còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức tích cực phù hợp với xã hội mới; đồng bào tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp lí nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.

Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Làm tốt tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.

Về chính sách tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “ Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luạt bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình kinh tế-Xã hội, nâng cao dời sống vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín di đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của nhân dân”.

III/ Đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.

1/ Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch

Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “ Diễn biến hòa bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự.

Như vậy, vấn đề dân tộc, tôn giáo là một trọng những lĩnh vực trọng yếu mà các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, cùng với việc lợi dụng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng để chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt nam; xóa vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội, thực hiện âm mưu “không đánh mà thắng”.

Để thực hiện âm mưu chủ đạo đó, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm các mục tiêu cụ thể sau:

Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân tộc thiểu số và giũa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu khối đâị đoàn kết dân tộc.

Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại chính sách dân tộc , chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc,  các tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; vô hiệu hóa sự quản lí của Nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống xã hội, gây mất ổn định chính trị- xã hội, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo. Coi tôn giáo là lực lượng đối trọng với Đảng, nhà nước ta, nên chúng thường xuyên hậu thuẫn, hỗ trợ về mặt vật chất, tinh thần để các phần tử chống đối trong các dân tộc, tôn giáo chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt nam.

Chúng tạo dựng các tổ chức phản động trong các dân tộc thiểu số, các tôn gíao như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Tin Lành Đề Ga, Nhà nước Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crôm, Mặt trận ChămPa để tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam.

2/ Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch

Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc , tôn giáo chống phá cách mạng Việt nam của các thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho người ta tin và làm theo. Chúng thườn sử dụng chiêu bài “Nhân quyền”, “dân chủ”, “Tự do”; những vấn đề lịch sử để lại, những đặc điểm văn hóa, tâm lí của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo; những thiếu sót trong thực hiện chính sách kinh tế- xã hội, chính sách dân tộc, tôn gióa của Đảng, Nhà nước ta đẻ chống phá cách mạng Việt nam.

Thủ đoạn đó được thể hiện cụ thể ở các dạng sau:

Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng những thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để gây mâu thuẫn, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ lương- giáo và giữa các tôn giáo hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.

Ba là, chúng tập chung phá hoại các cơ sở kinh tế - xã hội; mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép, gây bất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt nam đàn áp các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô lập, làm suy yếu cách mạng Việt Nam.

Bốn là, chúng tìm mọi cách xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các dân tộc, các tôn giáo ở trong nước  hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam như: truyền đạo trái phép để “ tôn giáo hóa” các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh giành đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền. Điển hình là các vụ bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001,2004, việc truyền đạo Tin Lành trái phép vào các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên.

Aammuwu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch rất nham hiểm. Tuy nhiên, âm mưu thủ đoạn đó của chúng có thực hiện được hay không thì không phụ thuộc hoàn toàn vào chúng, mà chủ yếu phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn, sự chủ động tiến công của chúng ta.

3/ Giải pháp đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc , tôn giáo chống phá cách mạng Việt nam của các thế lực thù địch

Để vô hiệu hóa sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực thù địch thì giải pháp chung cơ bản nhất là thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, dân chủ. Hiện nay, cần tập trung vào các giải pháp cơ bản cụ thể sau:

Một là, ra sức tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; về âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt nam của các thé lực thù địch cho toàn dân. Đây là giải pháp đầu tiên rất quan trọng. Chỉ trên cơ sở nâng cao nhận thức tư tưởng của cả hệ thống chính trị, của toàn dân mà trực tiếp là của đồng bào các dân tộc, tôn giáo về các nội dung trên, thì chúng ta mới thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, vô hiệu hóa được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch.

Nội dung tuyên truyền giáo dục phải mang tính toàn diện, tổng hợp. Hiện nay cần tập trung vào phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc, tôn giáo, chính sách dân tộc, tôn giáo cho đồng bào các dân tộc, các tôn giáo. Phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của nhà nước, khơi dậy lòng tự tôn, tự hòa dân tộc, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục để đồng bào hiểu rõ âm mưu thủ đoạn chia rẽ dân tộc, tôn giáo, lương giáo của các thế lực thù địch, để đồng  bào đề cao cảnh giác để chúng không lừa gạt lôi kéo lợi dụng. Vận động đồng bào các dân tộc, tôn giáo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, thực hiện đúng chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo.

Hai là, tăng cường xây dựng củng cố khối đại đòan kết toàn dân tộc, giữ vững  ổn định chính trị - xã hội. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao nội lực, tạo nên sức đề kháng trước mọi âm mưu thủ đoạn nham hiểm của kể thù. Cần tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh: xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dưa trên nền tảng khối liên minh công- nông- trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở rộng đa dạng hóa các hình thức tạp hợp nhân dân, nâng cao vai trò  của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Kiên quyết đấu tranh loại trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Riêng đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo, trước tiên cần phải thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giũa các dân tộc, các tôn giáo. Chống kì thị chia rẽ dân tộc, tôn giaó, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Chủ động giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các vùng dân tộc, tôn giáo, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Đây là tiền đề quan trọng để vô hiệu hóa sự chống phá của kẻ thù.

Ba là, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng, xét đến cùng có ý nghĩa nền tảng vô hiệu hóa sự lợi dụng của kẻ thù. Khi đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam.

Bởi vậy, phải đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả các chương trình, dự án ưu tiên phát triển kinh tế- xã hội miền núi, vùng dân tộc, vùng tôn giáo tạo mọi điều kiện giúp đỡ đồng bào các dân tộc, các tôn giáo nhanh chóng xóa đói giảm nghèo nâng cao dân trí, sức khỏe, bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc. Khắc phục sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội giũa các dân tộc, các tôn giáo; sự kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo; phải bằng những hành động thiết thực cụ thể như: ưu tiên đầu tư sức lực tiền của giúp đồng bào phát triển sản xuất.

Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, của những người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo tham gia vào phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Tích cực xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản lí và cán bộ chuyên môn kĩ thuật, giáo viên là người dân tộc thiểu số, người có tôn giáo. Bởi đây là đội ngũ cán bộ sở tại có rất nhiều lợi thế trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo. Đổi mới công tác dân vận vùng dân tộc, tôn giáo theo phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, vững chắc; sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với đặc thù từng dân tộc, từng tôn giáo.

Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng làm thất bại mọi amm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch; kịp thời giải quyết tốt các điểm nóng. Cần thường xuyên vạch trần bộ mặt phản động của kẻ thù để nhân dân nhận rõ và không bị lừa bịp. Đồng thời, vận động, bảo vệ đồng bào các dân tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch mặt bọn xấu cùng những thủ đạo xảo trá của chúng. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh này.

Kịp thời chủ động giải quyết tốt các điểm nóng liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn gaiso. Chủ động, kịp thời phát hiện, dập tắt mọi amm mưu, hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động lôi kéo đòng bào gây bạo loạn. Khi xuất hiện điểm nóng, cần tìm rõ nguyên nhân, biện pháp giải quyết kịp thời, không để lan rộng, không để kẻ thù lấy cớ can thiệp; xử lí nghiêm minh theo pháp luật những kẻ cầm đầu, ngoan cố chống phá cách mạng. Đồng thời, kiên trì thuyết phục vận động những người nhẹ dạ cả tin nghe theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khao hồng, độ lượng, bình đẳng với những người lầm lỗi đã ăn năn hỗi cải, phục thiện.

      BÀI 6

      ---o0o---

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ ANH NINH

QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

I/ CÁC KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

1/ Các khái niệm cơ bản

       “ An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. An ninh quốc gia bao gồm an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tư tưởng- văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại...trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt.

       Bảo vệ an ninh quốc gia: Là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm hại an ninh quốc gia.

       Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia là những hành vi xam phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nèn văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

       Mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia là những đối tượng, địa điểm, công trình, cơ sở về chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, khoa học – kĩ thuật, văn hóa, xã hội thuộc danh mục cần được bảo vệ theo qui định của pháp luật. Bảo vệ an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tơ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo qui định của pháp luật.

       Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm:

+  Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

+  Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hóa, khối đại đoàn két toàn dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, các nhân.

+ Bảo vệ an ninh trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia.

+ Bảo vệ bí mật Nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.

+ Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại trừ các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia.

-       Nguyên tắc bảo vệ an ninh quốc gia là:

+ Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

+ Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, sự quản lí thống nhất của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng chuyên trách và bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt.

+ Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế- văn hóa, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh, quốc phòng với hoạt động đối ngoại.

+ Chủ động phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

-       Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm:

+  Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh sát, cảnh vệ công an nhân dân.

+  Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo quân đội nhân dân.

+ Bộ đội Biên phòng, cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở khu vực biên giới trên đất liền và trên biển.

-       Các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm: Vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học kĩ thuật, nghiệp vụ, vũ trang.

-       Trật tự, an toàn xã hội: Trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các qui phạm pháp luật, các qui tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lí xác định.

     Đấu tranh giữ gìn trật tự an toàn xã hội bao gồm: Chống tội phạm; giữ gìn trật tự nơi cộng cộng; bảo vệ trật tự, an toàn giao thông; phòng ngừa tai nạn; bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường…Bảo vệ trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có chức năng tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, tham gia phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.

2/ Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

-       Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm:

+ Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Đó là các hoạt động bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nma; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng, Nhà nước; bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, lưu học sinh và người lao động Việt nam đang công tác, học tập và lao động ở nước ngoài. Phòng ngừa và phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá hệ thống chính trị, gây chia rẽ mất đoàn kết, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ luôn là nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu, thường xuyên và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp.

+ Bảo vệ an ninh kinh tế. Đó là sự bảo vệ ổn định, phát triển vững mạnh của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chống các biểu hiện chệch  hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác hại đến lợi ích của quốc gia. Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế, các nhà khoa học, các nhà kinh doanh giỏi không để nước ngoài lôi kéo mua chuộc gây tổn thất hoặc làm chuyển hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

+ Bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng. An ninh văn hóa, tư tưởng là sự ổn định và phát triển bề vững của văn hóa, tư tưởng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng là bảo vệ sự đúng đắn, vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong dời sống tinh thần xã hội; bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, bảo vẹ bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hóa, văn nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các hoạt động truyền bá văn hóa phẩm phản động, đồi trụy, thiếu lành mạnh, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.

+  Bảo vệ an ninh dân tộc. Đó là bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đảm bảo cho các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt nam cùng phát triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để làm việc trái pháp luật, kích động gây chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến an ninh quốc gia, trât tự, an toàn xã hội.

+ Bảo vệ an ninh tôn giáo. Bảo vệ an ninh tôn giáo là đảm bảo chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân nhưng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh với các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Thực hiện đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các tôn giáo, giưã cộng đồng dân cư theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo, đảm bảo tốt đời đẹp đạo, phụng sự Tổ quốc.

+Bảo vệ an ninh biên giới. Biên giới quốc gia là hàng rào pháp lí ngăn cách chủ quyền và không gian hợp tác phát triển với các nước mà trước hết là với các nước láng giêng. Vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia đang được Đảng, Nhà nước đặt ra như là một hiệm vụ chiến lược cực kì quan trọng. Bảo vệ an ninh biên giới là bảo vệ nền an ninh, trật tự của Tổ quốc ở khu vực biên giới quốc gia, cả trên đất liền và trên biển, chống các hành vi xâm phạm chủ quyền biên giới từ phía nước ngoài, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giêng theo tinh thần “giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo”. Chống các thé lực thù địch lợi dụng việc xuất, nhập cảnh, qua cảnh Việt Nam để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+ Bảo vệ an ninh thông tin. An ninh thông tin là sự an toàn, nhanh chóng, chính xác và bí mật của thông tin trong quá trình xác lập, chuyển tải, thu nhận, xử lí và lưu giữ tin. Bảo vệ an ninh thông tin là một bộ phận quan trọng của công tác bảo vệ an ninh quốc gia nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, bọn tội phạm khác nhằm khai thác, sử dụng hẹ thống thông tin liên lạc hoặc tiến hành các hoạt động phá hủy công trình, phương tiện thông tin liên lạc nhằm gây thiệt hại cho an ninh quốc gia của nước ta; chống lộ lọt những thông tin bí mật của nhà nước; ngăn chặn các hoạt động khai thác thông tin trái phép, dò tìm mật mã, mật khẩu để đánh cắp thông tin trên mạng…

-       Nội dung giữ gìn trật tự, an toàn xã hội:

+  Đấu tranh phòng, chống tội phạm (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh)

     Đấu tranh phòng, chống tội phạm là việc tiến hành các biện pháp loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm; phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho xã hội; điều tra khám phá tội phạm và người phạm tội để đưa ra xử lí trước pháp luật đảm bảo đúng ngưoif, đúng tội; giáo dục, cải tạo người phạm tội giúp họ nhận thức được lỗi lầm và cố gắng cải tạo tốt; có thể tái hòa nhập cộng đồng xã hội, trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội.

+  Giữ gìn tật tự nơi công cộng. Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật tự công cộng là một mặt của trật tự , an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh; sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận. Giữ gìn trật tự nơi công cộng chính là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở những nơi công cộng – nơi diễn ra các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người.

+  Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông. Trật tự, an toàn giao thông là trạng thái có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các qui phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi người phải tuân theo khi tham gia giao thông, nhờ đó dảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, có trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài sản. Đảm bảo trật tự, an toàn giao thông không phải là nhiệm vụ riêng của các lực lượng chức năng (cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông công chính…) mà là trách nhiệm của tất cả mọi người khi tham gia giao thông. Đoa là việc nắm vững và tuân thủ nghiêm túc Luật Giao thông, mọi hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông phải được xử kí nghiêm khắc, những thiếu sót, yếu kém là nguyên nhân, điều kiện gây ra các vụ tai nạ giao thông phải được khắc phục nhanh chóng.

+  Phòng ngừa tại nạn giao thông, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh. Chú ý phòng ngừa không để xảy ra tai nạn lao động và luôn luôn phòng chống thiên tia dịch bệnh.

+  Bài trừ các tệ nạn xã hôin. Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến (từ các hành vi vi phạm những nguyên tắc về lối sống, truyền thống văn hóa, đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục, các giá trị xã hội tốt đẹp cho đến các hành vi vi phạm những qui tắc đã được thể chế hóa bằng pháp luật kể cả pháp luật Hình sự) ảnh hưởng xấu về đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội bao gồm: mại dâm, nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan… Tệ nạn xã hội là cơ sở xã hội của tình trạng phạm tội, là một trong nững nguồn gốc phát sinh tội phạm. Phòng chống tệ nạn xã hội là nhiệm vụ của toàn xã hội, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bằng những biện pháp đồng bộ, tích cực, kiên quyết và triệt để.

+  Bảo vệ môi trường. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại. Bảo vệ môi trường là tập hợp những biện pháp giữ cho môi trường trong sạch, sử dụng hoặc phục hồi một cách hợp lí sinh giới (vi sinh vật, thực vật, động vật) và môi sinh (đất, lòng đất, nước, không khí, khí hậu..), đảm bảo sự cân bằng sinh thái…nhằm tạo ra một không gian tối ưu cho cuộc sống của con người.

II/ TÌNH HÌNH AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI

1/ Một số nét về tình hình an ninh quốc gia

     Trong những năm qua, sau khi Liên Xô- Đông Âu tan rã đã có tác động tiêu cực và tạo thuận lợi cho các hoạt động chống phá của các tổ chức, thế lực phản động  cả ở trong nước lẫn bọn phản động lưu vong bên ngoài. Chúng cho rằng thời cơ đã dến trong lúc chúng ta gặp rất nhiều khó khăn và chúng đã hy vọng vào một cuộc “lật đổ” ở Việt Nam. Chính vì thế mà các hoạt động chống phá của các tổ chức và các thế lực phản động nhằm cản trở công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta cũng có những diền biến rất phức tạp.

-       Trước hết là hoạt động các tổ chức phản động của người Việt nam ở nước ngoài. Hiện nay có khoảng 200 tổ chức chính trị phản động của người Việt Nam lưu vong ở các nước tư bản núp dưới các danh nghĩa khác nhau bao gồm các tổ chức phản động mang tính chính trị rõ nét, các tổ chức tập hợp bọn ngụy quân, ngụy quyền, các tổ chức lợi dụng nhân quyền hoặc núp dưới các danh nghĩa “từ thiện”. Các tổ chức phản động này có các cơ sở vật chất tương đối khá gồm 50 nhà xuất bản, 500 tờ báo Việt ngữ, 6 chương trình truyền hình, 10 đài phát thanh. Các tổ chức phản động này đều có sự dung túng của chính quyền một số nước tư bản nên có điều kiện về kinh phí, trụ sở để hoạt động. Hiện nay tại các nước như: Mĩ, Pháp, Bỉ, Canada, Oxtraylia… có các tổ chức phản động lớn như các tổ chức của Võ Văn Ái, Hoàng Cơ Minh, Võ Đại Tôn…

Hầu hết các tổ chức phản động lưu vọng này đều kêu gọi các nước cấm vận,  trừng phạt Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, chúng lợi dụng khó khăn, thiếu sót trong quản lí của ta để thực hiện kế hoạch “chuyển lửa  về quê” đưa ra các lời kêu gọi lật đỏ và tiếp tay, kích động cho các hoạt động của bọn phản động trong nước.

Cùng với các hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt lưu vong thì các thế lực thù địch cũng không từ bỏ ý đồ mục đích chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều âm mưu, phương thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, trong đó nổi bật là hoạt động diễn biến hòa bình với 3 nội dung chủ yếu là: chiếm lĩnh thị trường ngoại giao hữu nghị và khoét sâu mâu thuẫn mà mục đích chính là xóa bỏ Việt Nam, làm thối rữa từ bên trong đi đến thôn tính Việt Nam.

Hoạt động của các tổ chức phản động nội địa như các tổ chức phản động của bọn ngụy quân, ngụy quyền còn chống đối không chịu cải tạo, cũng như bọn phản dộng lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân tộc và số cơ hội bất mãn trong những năm qua cũng diễn biến khá phức tạp, nhiều nôi chúng cấu kết với các tổ chức nước ngoài, được các tổ chức nước ngoài cung cấp tài liệu, tiền bạc, vũ khí dể tập hợp lực lượng, nhen nhóm tổ chức, tiến hành các vụ gây rối bạo loạn. Một số đối tượng bất mãn viết tin tài liệu nói xâú chống lại Đảng và Nhà nước ta, đòi thay đổi đường lối rồi phát tán qua mạng internet hoặc phổ biến thông qua các cuộc gặp gỡ với các phòng viên báo chí nước ngoài.

-       Tình hình an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh kinh tế trong những năm qua còn nhiều bất cập. Phá hoại tư tưởng là một dạng đặc biệt của chiến tranh lanh, một hình thức chủ yếu trong cuộc đấu tranh tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc chống chủ nghĩa xã hội. Trong những năm qua các hoạt động phá hoại văn hóa tư tưởng được các bọn phản động nhất là bọn phản động bên ngoài tiến hành thông qua hoạt động của các đài phát thanh, mạng internet. Hiện tại có nhiều đài phát thanh và chương trình do bọn phản động lưu vong tham gia, trong đó có 5 chương trình, 300 báo được thực hiện ở Mĩ, có 175 tờ báo chống cộng như “Quê mẹ”, “Hoa sen”, “Công luận” hoạt động phá hoại văn hóa tư tưởng được tiến hành theo các chiến dịch, có sự phối hợp giữa các nước đế quốc với bọn phản động và gắn liền với các hoạt động tình báo gián điệp. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm vào xuyên tạc, nói xấu, kích động nhằm gây mất ổn định trong nước.

-       Trong những năm qua, tình hình lộ bí mật, mất thông tin bí mật về kinh tế đã xảy ra ở nhiều cơ quan, xí nghiệp và đã gây ra nhiều thiệt hại. Các hoạt động nhằm phá hoại về kinh tế được tiến hành cả bề rộng lẫn bề sâu thông qua các hoạt động lấy cắp bí mật kinh tế, tuyên truyền và kéo cán bộ quản lí kinh tế và khoa học kĩ thuật phá hoại cơ sở vật chất. Trong tình hình hiện nay, chúng nhằm vào các phá hoại chủ trương đường lối kinh tế, các công trình trọng điểm của ta.

-       Tình hình an ninh biên giới còn nhiều phức tạp, các vuẫm nhập qua biên giới diễn ra với niều hình thức,hoạt động xuất nhập cảnh cũng có nhiều thiếu sót dẫn đến tình trạng nhập cảnh trái phép, nhất là các khu vực giáp biên giới. Lợi dụng mối quan hệ của các dân tộc hai bên biên giới, các đối tượng bên ngoài qua lại, móc lối, lôi kéo chia rẽ các dân tộc, dòng họ trong nước hòng làm suy yếu, tiến tới gây bạo loạn lật ở những nơi này. Số ngụy quân, ngụy quyền, dảng phái phản động cũ còn ở trong nước phần lớn đã cải tà, qui chính và đã nhận thức rõ được chính sách đúng đắn của Nhà nước, nhất là chính sách khoan hồng. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không chịu cải tạo, chúng vẫn ngấm ngầm chống đối dưới nhiều hình thức, tìm mọi cách móc nối với các đối tượng từ ngoài vào để được giúp đỡ.

-       Trong nhiều năm qua xuất hiện nhiều điểm nóng về an ninh tật tự, xuất phát từ những bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc làm sai trái, thiếu sót của cán bộ cơ sở trong việc giải quyết đền bù đất đai…Do làm chưa triệt để, chưa công bằng nên đẫ để một bộ phận nhân dân bị một số phần tử quá khích kích động dẫn đến  manh động làm rối loạn an ninh trật tự ở một số địa phương. Đây chính là những nguyên nhân tiềm ẩn, là mảnh đất mà các thế lực thù địch nhằm vào để kích động, gây ngòi nổ hòng gây mất ổn định trong xã hội ta.

Tóm lại: Tình hình về an ninh quốc gia trong những năm qua nổi lên những

vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm. Đó chính là những yếu tố có thể gây ra tình hình mất ổn định, ảnh hưởng đến sự an nguy của quốc gia, vì vậy Dảng và Nhà nước ta đã xác định bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ cực kì quan trọng của toàn Đảng, toàn dân ta.

2/ Tình hìnhvề  trật tự,  an toàn xã hội

          Trong những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựa đáng kể về công tác giữ gìn trật tự xã hội. Tuy nhiên, tình hình trật tự, an toàn  xã hội vẫn còn rất nhiều vấn đề phức tạp, thậm chí có lúc, có nơi còn để xảy ra rất nghiêm trọng. Trật tự, an toàn xã hội thời gian qua có những nét nổi bật sau:

•Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội: tội phạm kinh tế, tội phạm ma túy trong những năm qua có những diến biến rất phức tạp.

Số vụ phạm tội hằng năm bị phát hiện có sự tăng giảm không đều trong đó các vụ trọng án có chiều hướng tăng. Bình quân hằng năm có khoảng 70.000 vụ phạm tội được phát hiện trong đó các vụ án giết người, giết cướp, giết cướp tài sản, cướp giật có xu hướng tăng. Trong các vụ án giết người thì nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân xã hội.

Các loại tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn xã hội ngày càng có xu hướng chuẩn bị trước, tình hình băng ổ nhóm và hiện tại các băng nhóm tội phạm câu kết với nhau tạo thành các tổ chức tội phạm rất nguy hiemr gây nhức nhối, bức xúc cho xã hội.

Các loại tội phạm hình sự khác nhau như bọn đâm thuê, chém mướn, trả thù các nhân bằng bom thư, bom mìn hoặc tạt axit trong nhứng năm qua cũng rất đa dạng và là một nỗi nhức nhối của xã hội. Loại tội phạm này hoạt động rất manh động, bất chấp hậu quả gây ra cho dù người bị hại có thể không phải là người chúng cần trả thù, có những vụ tính chất đặc biệt nghiêm trọng, các vụ bắt cóc nhằm tống tiền cũng có chiều hướng tăng. Bọn tội phạm nhằm vào các gia đình giàu có rồi bắt cóc đòi tiền chuộc, có vụ chúng đòi tiền chuộc lên đến vài trăm triệu. Có thể thấy rằng, tội phạm hình sự  hoạt động ngày càng táo bạo, manh động, chúng sử dụng đủ các loại hung khí, kể cả vũ khí nóng.

Thành phần đối tượng phạm tội rất đa dạng, đủ các loại người, có cả lưu manh cũng như nông dân, cán bộ, đảng viên, trí thức, học sinh. Trong đó đáng lo ngại là các vụ trả thù cá nhân do mâu thuẫn nội bộ rồi đi thuê giang hồ xã hội đen trả thù.

Thủ đoạn gây án của bọn tội phạm hình sự rất đa dạng, từ những thủ đoạn đơn giản cổ điển nhưng hiệu quả như “vãi thóc gọi gà” của bọn lừa đảo đến những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của bọn giết người dùng các loại độc chất khó phát hiện.

Về địa bàn hoạt động, tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra ở tất cả các địa bàn trong cả nước nhưng tập trung vào các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và một số tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Nam Định…

Các loại án kinh tế, tuy số vụ không tăng nhiều nhưng quy mô, tính chất rất nghiêm trọng, trong đó nổi lên những vụ chiếm đoạt thuế VAT, các vụ tham ô với số tiền bị chiếm đoạt lên tới hàng ngàn tỉ đồng. Đối tượng phạm tội kinh tế cho thấy hầu hết có sự liên kết với nhau. Đây cũng là một đặc điểm của một loại tội phạm này. Vì thế, việc điều tra, khám phá gặp rất nhiều khó khăn. Loại tội phạm này thường có sự “bọc lót”, “che chắn” cho nhau, tài sản bị mất là tài sản nhà nước nên ý thức tự giác đấu tranh của công dân tại những cơ quan, doanh nghiệp này chưa cao, đây cũng là lý do giải thích tại sao công tác điều tra, thanh tra chưa đạt hiệu quả cao. Các lĩnh vực xảy ra tội phạm kinh tế thường có ở các ngành kinh tế như xây dựng cơ bản, ngân hàng, đầu tư, xuất nhập khẩu. Tình trạng buôn lậu trốn thuế trong những năm qua vẫn chưa giảm đáng kể, chúng được thực hiện cả ở vùng cửa khẩu biên giới, trên biển, trên các tuyến vận chuyển, kể cả các tuyến hàng không. Mặt hàng buôn lậu đa dạng chủng loại từ vải vóc, máy móc đến điện thoại di động, thuốc chữa bệnh. Ttrong tình hình hiện nay, buôn lậu xảy ra phức tạp nhất ở các địa bàn trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các khu vực biên giới Tây Nam, biên giới Việt Nam- Lào, Việt Nam- Trung Quốc.

Tội phạm kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ về vật chất, mà còn làm mất đi cả bộ phận cán bộ, đảng viên gây ảnh hưởng xấu về chính trị, xã hội, có những vụ được coi là giặc nội xâm.

Trong các năm qua, chúng ta đã đấu tranh quyết kiệt với tội phạm về ma túy, việc thực hiện chương trình quốc gia về phòng chống ma túy mặc dù đẫ đạt được nhũng kết quả rất to lớn, nhưng tội phạm ma túy vẫn chưa giảm cơ bản, thậm chí còn xảy ra rất nghiêm trọng. Chúng ta đã phát hiện và xử lí hàng chục nghìn vụ buôn lậu, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy, có những vụ rất lớn. Những năm gần đây, các toà án đã tuyên án tử hình hàng trăm tên tội phạm ma túy nhưng tội phạm ma túy vẫn xảy ra rất nghiêm trọng.

Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng sẵn sàng chống trả quyết liệt với các lực lượng đấu tranh, đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ hi sinh trong đấu tranh loại tội phạm này. Địa bàn hoạt động của loại tội phạm này tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng và các tỉnh biên giới Việt Nam- Lào, Việt Nam- Campuchia, các tuyến trục đường 7,8,6.

Các băng, nhóm, tổ chức tội phạm ma túy có sự liên kết với nhau cả trong nước lẫn quốc tế, quy mô, tính chất ngày càng lớn và ác liệt. Chúng không từ một thủ đoạn tàn bạo nào, kể cả sử dụng trẻ em, con cháu để đưa vào con đường phạm tội, lợi dụng mọi phương tiện để vận chuyển trên một diện rộng nên công tác phát hiện, đấu tranh của ta gặp nhiều khó khăn.

•Tình hình về tệ nạn xã hội, tai nạn, ô nhiễm môi trường xảy ra phức tạp thậm chí rất nghiêm trọng

Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực gây ra những hậu quả vô cùng to lớn. Nó còn là bạn đồng hành, là sân sau của các loại tội phạm. Trong những năm qua, các loại tệ nạn ở nước ta vẫn chưa giảm, thậm chí có loại còn tăng như mại dâm, cờ bạc, nghiện hút…

Tệ nạn xã hội diến ra hầu hết ở các địa phương trong cả nước, nó có một số đặc điểm sau:

+ Tệ nạn xã hội mang tính phổ biến

+ Tệ nạn xã hội mang tính lây lan rất nhanh, tệ nạn xã hội có quan hệ chặt chẽ với tội phạm.

Hậu quả do tệ nạn xã hội gây ra ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc gia đình, xã hội và nó còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS.

Đối tượng tham gia tệ nạn đủ các lứa tuổi, giới tính.

Mặc dù Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều loại văn bản pháp luật về phòng chống tệ nạn, công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn đã được toàn dân và các cơ quan chức năng tích cực tham gia, tuy nhiên hiệu quả còn thấp. Vì vậy, trong những năm  tới cần phải đẩy mạnh hơn nữa, kiên quyết hơn nữa.

+ Cùng với tệ nạn xã hội, tình trạng tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn nghề nghiệp rủi ro xảy ra rất nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng. Trong các loại tai nạn thì tai nạn giao thông chiếm tỉ lệ cao nhất, các vụ tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy hằng năm cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người và hàng trăm nghìn người trở thành phế nhân, tài sản bị hư hỏng nghiêm trọng. Nguyên nhân của các vụ tai nạn giao thông có rất nhiều như:

+ Do số lượng phương tiện giao thông tăng rất nhanh, nhất là ô tô, xe máy.

Bên cạnh đó, việc xử lí những vụ vi phạm trật tự, an toàn giao thông còn nhiều bất cập. Mặc dù đã có Luật Giao thông đường bộ, Nghị quyết 13 của Chính phủ, các Nghị định 14,15 của Chính phủ nhưng tình trạng vi phạm vẫn không giảm.

Những vụ tai nạn lao động, tai nạn nghề nghiệp, rủi ro, các vụ cháy nổ trong những năm qua xảy ra cũng hết sức lo ngại. Đã có nhiều vụ sập nhà khi đang xây dựng, sập hầm lo và đặc biệt là tình hình cháy nổ xảy ra ngày càng tăng.

Vấn đề ôi nhiễm môi trường cũng đáng báo động. Tình trạng chặt pha rừng đầu nguồn bừa bãi, dẫn đến ôi nhiễm gây lũ lụt, hạn hán; ô nhiễm nguồn nước rất cao, việc không đảm bảo nước sạch, vệ sinh an toang thực phẩm cộng với các dịch cúm gà, lở mồm long móng lây lan gây nên tình trạng nhiemx bệnh rất lớn, bên cạnh đó là hàng nghìn vụ ngộ độc thức ăn, có những vụ ngộ độc tập thể gây nguy hiểm tính mạng cho cả hàng trăm người.

Tóm lại, tình hình về traat tự, an toàn xã hội trong những năm qua đã và đang là vấn đề nóng bỏng, bức xúc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm khăc phục, giải quyết. Trên cơ sở đó, chúng ta mới giữ vững được trật tự, an toàn xã hội cùng với bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia góp phần ổn định tình hình làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước.

III/ DỰ BÁO TÌNH HÌNH AN NINH QUỐC GIA, TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI.

Theo Nghị quyết Hội nghị lần htuw 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới thì mục tiêu công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng công an nhân dân là: Huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trong đó lực lượng công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt, xung kích, tiếp tục xây dựng lực lượng công an cách mạng, chính qui tinh nhuệ từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc với Đảng và gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hoạt dộng của các thế lực thù địch, ngăn chặn các loại tội phạm.

Yêu cầu cơ bản nhất trong thời gian tới là phải tập trung vào những niệm vụ trọng tâm chủ đạo nhằm tạo ra một sự chuyển biến thực sự, ró nét hơn về tổ chức và hoạt động của lực lượng công an nhân dân, để trong bất cứ tình huống nào cũng phải giữ vững được an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Căn cứ vào thực tiễn về an ninh trật tự đã và đang diễn ra có đưa ra dự báo sau:

1/ Tình hình quốc tế trong thời gian tới sẽ diễn biến phức tạp hơn.

Một là, sau cuộc chiến tranh Irắc, các thế lực hiếu chiến tiếp tục thực hiện chiến lược “đánh đòn phủ đầu” lợi dụng đòn tấn công chống lại “chủ nghĩa khủng bố” ra sức lộng hành đe dọa hòa bình chủ quyền của các quốc gia dân tộc.

Hai là, quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục đan xen cả hai mặt đấu tranh và thỏa hiệp. Một mặt, vì lợi ích của dân tộc, quốc gia và giai cấp mà họ đại diện, họ tìm cách xoa dịu các mâu thuẫn, tìm những điểm tương đồng để hợp tác tránh đối đầu. Mặt khác, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đơn phương, sự lộng hành của các thế lực hiếu chiến sẽ gia tăng .

Ba là, phong trào nhân dân thế giới chống chiến tranh bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc sẽ tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh chống mặt trái của toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản chi phối sẽ tiếp tục dâng cao. Tuy nhiên, các lực lượng đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội hiện nay vẫn chưa có sức mạnh thống nhất.

Bốn là, xu thế  toàn cầu hóa về kinh tế sẽ tiếp tục phát triển. Hiện đã có 150 quốc gia tham gia WTO, trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều nước tham gia. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên các lĩnh vực vật liệu, cộng nghệ sinh học và tin học sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Tình hình đó sẽ mở ra những cơ hội mới , đồng thời đặt ra nhiều cách thức mới.

Năm là, tình hình kinh tế thế giới sẽ tiếp tục không ổn định. Cuộc khủng hoảng của các Trung tâm kinh tế lớn sẽ  tiếp tục trầm trọng thêm gây bất ổn trên thị trường tài chính. Khoảng cách giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển sẽ ngày càng rộng ra. Các cuộc tranh chấp trên biển và tranh chấp về nguồn dầu khí ở Trung Đông và ở Nga sẽ gay gắt hơn.

Tuy vậy, những diến biến phức tạp đó chưa làm đảo lộn chiều hướng đã diên sra sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của thời dại.

2/ Tình hình khu vực Đông Nam Á vẫn còn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định

•Chủ nghĩa khủng bố vâvx hoạt động ở một số nước gây ra những thảm họa cho nhân dân và chính quyền ở nơi đó; mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo làm bùng nổ những cuộc xung đột ở một số khu vực khá nghiêm trọng. Sự tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng tăng. Bằng những hiệp định song phương và đa phương về hợp tác chống khủng bố, các thế lực phản động can thiệp sâu hơn khu vực, kích động li khai, lôi kéo vào quỹ đạo của mình, kiềm chế các nước lớn trong khu vực.

•Trước tình hình đó sự gắn kết trong ASEAN và vị trí của Hiệp hội trên trường quốc tế sẽ gặp nhiều thách thức nhưng ASEAN tiếp tục là nhân tố quan trọng đối với hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực. Cơ chế AFTA của 10 nước ASEAN sẽ được thực hiện triệt để. Các cơ chế hợp tác ASEM (hợp tác Á – Châu), cơ chế thương mại tự do với Trung quốc đang mở rộng sự tác động trên một quy mô rộng lớn và hiệu quả hơn trước.

3/ Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở Việt Nam trong những năm tới.

-       Thuận lợi

+ Thuận lợi cơ bản là tiềm lực và vị thế quốc tế của nước ta được tăng cường. Sau hơn 20 năm đổi mới, Đảng đã lãnh dạo nhân dân giành được những thành tựu hết sức to lớn. Tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm đạt trên 7%, được xếp vào loại cao của thế giới. Đời sống vật chất được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người năm 2006 đạt 638 USD/người. Nếu tính theo sức mua của đồng tiền thì con số đó lớn hơn nhiều lần. Chỉ số phát triển con người (HDI) đã vươn lên thứ 101/192 quốc gia. Do chính sách ngoại giao cởi mở, trên cơ sở độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, chủ động hội nhập, phương châm “là bạn, là đối tác tin cậy của các nước”, chúng ta đã đặt quan hệ ngoại giao với 167 nước và quan hệ thương mại với trên 100 quốc gia, khu vực và vùng lãnh thổ thu hút đầu tư từ nước ngoài trên 40 tỉ USD. Vị thế quốc tế của Việt nam được tăng cường.

+ Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, dày dạn kinh nghiệm; đường lối đổi mới của Đảng dã được kiểm chúng qua thực tiễn là đúng đắn, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

+ Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, đoàn két, tin tưởng vào Đảng và chế độ; ngày càng thể hiện bản lĩnh năng động, sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Lực lượng vũ trang cách mạng tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân, vươn lên làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Với những thuận lợi trên, chúng ta hoàn toàn có khả năng giữ vững hò bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

-       Khó khăn

+ Thách thức lớn nhất đối với an ninh trật tự ở nước ta là các mối đe dọa (các nguy cơ): tụt hậu xa hơn về kinh tế đối với nhiều nước trong khu vực và trên thế giưới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; “Diễn biến hòa bình”. Các mối đe dọa trên diễn biến đan xen phưc stapj, không thể xem nhẹ mối đe dọa nào.

+ Những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, các vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nếu không được kịp thời khắc phục có hiệu quả sẽ nguy cơ tiềm ẩn đối với an ninh trật tự của nước ta.

+ Hoạt động “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch sẽ gia tăng. Các thế lực phản động tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào nội bộ nước ta.

+ Các hành động xâm hại độc lập. chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nước ta vẫn sẽ tiếp diễn.

IV/ ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG ĐẤU TRANH TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

Trong tình hình hiện nay, cần có cách nhìn nhận mới và thống nhất về vấn đề đối tác và đối tượng đấu tranh theo nguyên tắc”

-       Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt nam đều là đối tác của chúng ta.

-       Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.

-       Mặt khác, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có nhìn nhận biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lí các tinh huống cụ thể.

Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta phải thường xuyên đấu tranh với các cơ quan tình báo nước ngoài hoạt động phương hại đến an ninh quốc gia của nước ta; các trung tâm thông tin chống phá Việt Nam; các tổ chức và bọn phản động người Việt lưu vong; các loại phản động ở trong nước và bọn tội phạm hình sự nguy hiểm. Để xác định đúng các đối tượng dấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh trật tự cần dựa vào các căn cứ sau:

-       Căn cứ vào nhiệm vụ và đối tượng đấu tranh của cách mạng trong từng giai đoạn.

-       Căn cứ vào nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở nướ ta hiện nay.

-       Căn cứ vào thực tế hoạt động của các loại đối tượng xâm phạm an ninh, quốc gia, trật tự, an toàn xã từ trước đến nay ở nước ta.

1/ Đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia

Có nhiều loại cụ thể, trong tình hình hiện nay cần tập trung đấu tranh với các loại sau:

-       Gián điệp: Gián điệp là người Việt Nam hay người nước ngoài, hoạt động cá nhân hay tổ chức, chịu sự chỉ huy của nước ngoài để tiến hành các hoạt động điều tra thu nhập tình báo, gây cơ sở bí mật và phá hoại nhằm chống lại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

-       Phản động: Phản động là những cá nhân hay tổ chức có âm mưu và hoạt động phản cách mạng chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng không chịu sự chỉ huy của nước ngoài.

Trong tình hình hiện nay cần tập trung đấu tranh với những loại sau:

+ Các tổ chức và cá nhân phản động trong số người Việt Nam ở nước ngoài đang có những hoạt động chống Việt Nam

+Bọn phản động lợi dụng tôn giáo.

+ Bọn phản động lợi dụng dân tộc ít người, nhất là bọn có sự câu kết của các lực lượng phản động bên ngoài.

+ Bọn phản động trong ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ không chịu cải tạo.

+ Bọn có tư tưởng, quan điểm sai trái, những phần tử trong nội bộ bất mãn thoái hóa biến chất trở thành phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội; số cơ hội chính trị.

2/ Đối tượng xâm phạm về trật tự, an toàn xã hội

Đối tượng xâm phạm về trật tự, an toàn xã họi là những người có hành vi phạm tội gây thiệt hại đến tài sản xã họi chủ nghĩa và tài sản của công dân, đến tính mạng sức khỏe và danh dự phẩm giá của con người, đến trật tự an toàn xã hội nhưng không có mục đích chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong các đối tượng xâm phạm trật tự, an toàn xã hội hiện nay có những người phạm tội nhất thời, có đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, với tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau. Các đối tượng này bao gồm:

-  Các đối tượng xâm phạm trật tự xã hội ( tội phạm hình sự).

-  Các đối tượng xâm phạm trật tự  quản lí kinh tế và chức vụ ( tội phạm kinh tế).

-  Các đối tượng về ma túy ( tội phạm ma túy).

Trong các số các đối tượng trên cần tập trung vào đấu tranh với các đối tượng sau:

+ Bọn tội phạm kinh tế, nhất là bọn tham nhũng, bọn buôn lậu, bọn sản xuất tàng trữ và tiêu thụ tiền giả.

+ Bọn tội phạm về ma túy

+ Bọn tội phạm hình sự, tập trung vào bọn hoạt động có tổ chức, bọn lưu manh chuyên nghiệp, sử dụng bạo lực, tội phạm có quan hệ với nước ngoài.

3/ Các tai nạn, tệ nạn xã hội

Phòng ngừa và làm giảm đến mức thấp nhất hậu quả thiệt hại do các tai nạn xã hội ( tai nạn giao thông, tai nạn do sử dụng bảo quản chất nổ, chất cháy không đúng qui định, tai nạn do sự cố kĩ thuật, do thiên nhiên…) gây ra.

Bài trừ các tệ nạn xã hội. Trước mắt phải đẩy lùi một bước các loại tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, mại dâm.

V/ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

1/Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước, nhân dân làm chủ, công an là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

-       Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trât tự, an toàn xã hội.

Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trong đó có công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Chỉ có Đảng lãnh đạo mới có thể huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn xã hội, bảo đảm thắng lợi trọn vẹn và triệt để trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Đảng lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt thể hiện: Đảng đề ra đường lối chính sách và phương pháp đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội một cách đúng đắn, đồng thời lãnh đạo chặt chẽ bộ máy Nhà nước và các đoàn thể quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối chính sách đó.

-       Phát huy quyền làm chủ của nhân dân tren lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và trât tự, an toàn xã hội

Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của nhân dân, là nghĩa vụ đồng thời cũng là lợi ích thiết thân của nhân dân. An ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội có được bảo vệ tốt hay không thì vấn đề rất quan trọng là do sự giác ngộ của nhân dân về quyền làm chủ của mình trên lĩnh vực đó. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực chất đó là cuộc vận động phong trào cách mạng của quần chúng nhằm xây dựng trật tự an ninh, trật tự nhan dân từ cơ sở. Nhân dân có điều kiện và khả năng để thực hiện quyền làm chủ đó.

Nội dung phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động thể hiện:

Quán triệt sâu sắc và tự giác chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chế độ thể lệ nội qui về bảo vệ an ninh trật tự. Đấu tranh kiên quyết với các thế lực thù địch, bọn phản cạc mạng và bọn phạm tội khác, với mọi hành vi vi phạm pháp luật và những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội; kiên quyết giữ vững an ninh trật tự ở mọi nơi mọi lúc.

Tự giác tham gia các tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, tích cực giúp đỡ các cơ quan chuyên trách nhất là lực lượng công an nhân dân, các lực lượng bảo vệ ở địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tự giác tổ chức, tham gia xây dựng và quản lí cuộc sống mới văn minh trật tự, yên vui lành mạnh ở dịa phương, dơn vị công tác, sản xuất, chiến đấu.

-       Tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.

Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là công cụ sắc bén để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, trong đó có công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Nhà nước có mạnh (hiệu lực) thì quyền làm chủ nhân dân mới được đảm bảo vững chắc.

Nội dung tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước.: Phát huy mạnh mẽ tác dụng của pháp chế xã hội chủ nghĩa làm cho nó trở thành vũ khí sắc bén để xây dựng và quản lí nền trật tự xã hội xã hội chủ nghĩa. Phải thường xuyên quan tâm xây dựng cơ quan chuyên trách trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Phat huy vai trò tác dụng của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp trong việc ban hành và đôn đốc tổ chức thực hiện những qui định về công tác bảo vệ ở địa phương. Phối kết hợp chức năng quản lí của cơ quan Nhà nước với các tổ chức, đoàn thể vào việc bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.

-       Công an là lực lượng nòng cốt

Lực lượng công an là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho các ngành, các cấp và quần chúng trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Lực lượng công an  phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất; tổ chức hướng dẫn các lực lượng khác thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Qua thực tiễn  tiến hành cuộc đấu tranh, lực lượng công an phải làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước vè những vấn đề có liên quan đến công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự ,an toàn xã hội.

Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội có liên quan đến nhiều ngành , nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó để bảo đảm tháng lợi hoàn toàn và triệt để trong cuộc đấu tranh, lực lượng công  an phải biết kết hợp tính tích cực cách mạng của quần chúng với công tác nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn. Sự kết hợp đó thể hiện: Quần chúng phát hiện cung cấp tình hình, cơ quan chuyên môn thu thập ý kiến đó. Những ý kiến đó phải được tổng hợp, kết hợp với nghiệp vụ chuyên môn của các ngành để tìm ra bản chất của vấn đề và biện pháp xử lí. Phải coi trọng cả hai mặt đó, không được coi nhẹ mặt nào.

2/ Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ Tổ quốc

Xây dựng với bảo vệ Tổ quốc là truyền thống của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đảng và Nhà nước ta đã kế thừa và phát huy truyền thống đó trong sự nghiệp và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa . Sự ổn định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội là nền tảng vững chắc của an ninh trật tự và ngược lại an ninh trật tự vững chắc mới có điều kiện ổn định phát triển đất nước về mọi mặt. Cần nhận thức an ninh trật tự được giữ vững củng cố và phát triển là dựa trên nền tảng kinh tế, xã hội ổn dịnh và phát triển. Hiện nay kết hợp chặt chẽ giữa an ninh và quốc phòng là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp giữa quốc phòng với an ninh, an ninh với quốc phòng có nội dung rất rộng, hình thức và cơ chế kết hợp cúng rất phong phú. Một trong những nội dung quan trọng của việc kết hợp giữa an ninh với quốc phòng là kết chặt chẽ giữa xây dựng trật tự an ninh nhân dân với thế trận quốc phòng toàn dân.

3/ Bảo vệ an ninh quốc gia phải kết hợp chặt chẽ với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

An ninh quốc gia và trât tự, an toàn xã hội là hai thành phần cấu thành trật tự xã hội. Bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo ra một trong những điều kiện cơ bản nhất để xây dựng sự vững mạnh về mọi mặt trong xã hội. An ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc sẽ tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt trật tự an toàn xã hội. Trật tự an toàn xã hội được giữ vững sẽ tạo điều kiện cho an ninh quốc gia càng được củng cố vững chắc, hiệu lực quản lí của Nhà nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm vững chắc, cuộc sống của mọi người được yên vui, hạnh phúc.

VI/ VAI TRÒ TRÁCH NHIỆM CỦA HỌC SINH TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI

Học sinh là chủ nhân tương lai của đất nước, với trách nhiệm công dân của người thanh niên trong thời đại mới, chúng ta phải làm gì để góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội? Muốn vậy, mối học sinh không chỉ nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh các qui dịnh của pháp luật vè bảo vệ an ninh và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội mà còn vận động mọi người cùng tự giác chấp hành.

1/ Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội

-       Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992

Điều 11: Công dân thực hiện quyền làm chủ mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an inh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng.

Điều 44: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm tròn trách nhiệm quốc phòng và an ninh do pháp luật qui định

Điều 79: Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.

-       Luật thanh niên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2001:

Điều 11: Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của thanh niên. Được huấn luyện chương trình Giáo dục quốc phòng; thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các lực lượng vũ trang theo qui định của pháp luật. Tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn bí mật quốc gia, xung kích đấu tranh chống mọi hành vi xâm hại đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.

Điều 16: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong quản lí nhà nước và xã hội.

+ Nâng cao ý thức công dân, chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

+ Được ứng xử, đề cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp theo qui định của pháp luật; được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với các cơ quan, tổ chức về những vấn đề mà mình quan tâm; tham gia góp ý xây dựng các chính sách, pháp luật liên quan đến thanh niên và các chính sách, pháp luạt khác.

+ Tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.

-       Luật về an ninh quốc gia năm 2004

Điều 4: Trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm

Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm

Điều 8: Trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia

Bảo vệ an ninh quốc gia là sự  nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo qui định của pháp luật.

Điều 9: Chế độ, chính sách với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia

+ Nhà nước bảo vệ, giữ bí mật cho cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia và cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia.

+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia có thành tích thì được khen thưởng, bị tổn hại về danh dự thì được khôi phục, bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù; người bị thương tích, tổn hại về sức khỏe, bị thiệt ahij về tính mạng thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo qui định của pháp luật.

Điều 17: Quyền và nghĩa vụ công dân trong bảo vệ an ninh quốc gia

+ Tham gia lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo qui định của pháp luật.

+ Tố cáo hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, hành vi lợi dụng việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

+ Phát hiện , kiến nghị với chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia khắc phục  sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia.

+ Phát hiện, cung cấp kịp thời thông tin, tài liệu lien quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia cho chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia nơi gần nhất.

+ thực hiện yêu cầu cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia theo qui định của pháp luật.

+ Giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan và người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

+ Giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia là một nội dung giáo dục quốc dân. Cơ quan quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách hiệm đưa nội dung giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia vào chương trình dạy học trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác phù hợp với ngành học, cấp học.

-       Bộ Luật hình sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kì họp thứ 6 thông qua ngày 21/12/1999:

-       Bộ Luật Tố tụng hình sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003:

Điều 25: Trách nhiệm của các tổ chức và công dan trong đấu ttranh phòng ngừa và chống tội phạm

+ Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợ ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

+ Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cho tổ chức đã bảo tin, người tố giác tội phạm biết.

+ Các tổ chức công dân có trách nhiệm thực yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.

2/ Trách nhiệm của học sinh trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Học sinh cần nhận thức đúng vai trò trách nhiệm của mình và tham gia trực tiếp vào bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, cụ thể là:

-       Nhận thức đúng cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi các thế lực thù địch và các phần tử chống đối Đảng, Nhà nước đang ra sức tiến hành các hoạt động diễn biến hòa bình bằng mọi thủ đoạn. Trong đó, chúng triệt để chủ ý địa bàn là các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp; lợi dụng lừa phỉnh học sinh, sinh viên- những người rất năng động, sáng tạo nhưng chưa có nhiều trải nghiệm trong cuôc sống là địa bàn và đối tượng để thực hiện diễn biến hòa bình. Do vậy, học sinh cần phải cảnh giác, tích cực trong đấu tranh với những hành động sai trái, với các phần tử thoái hóa biến chất trong các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước nhưng không để các thế lực thù địch, các phần tử chống đối lợi dụng mình để thực hiện diễn biến hòa bình nhằm làm suy yếu, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

-       Tích cực, tự giác tham gia các hoạt động cụ thể để bảo vệ an ninh quốc gia giữ gìn trật tự an toàn xã hội:

+ Phát hiện những tổ chức, người có hành vi tuyên truyền lôi kéo học sinh tham gia các hoạt động trái quy định của pháp luật nhằm chống lại Đảng, Nhà nước để báo cho lãnh đạo của trường, chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật biết, có ý thức bí mật nhà nước.

+ Tham gia xây dựng nếp sống văn minh trật tự ngay trong trường học, kí túc xã, khu vực dân cư mà mình sinh sống, bảo vệ môi trường, giúp đỡ các cơ quan chuyên trách trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

+ Tham gia các hoạt động xã hội để góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội như: chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông dường bộ, giữ gìn trật tự, vệ sinh ở nơi công cộng.

+ Bản thân luôn nhận thức được sự nguy hại của các tệ nạn xã hội để không mắc phải và tuyên truyền vận động cho nhiều người khác thấy được sự nguy hại của các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma túy, cờ bạc, mại dâm. Phát hiện những địa điểm tổ chức, đối tượng tham gia các tệ nạn xã  hội để báo cáo cho lãnh đạo nhà trường, chính quyền địa phương, các cơ quan bảo vệ pháp luật mà trực tiếp là lực lượng công an nhân dân để có biện pháp đấu tranh kịp thời có hiệu quả.

+ Tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phát hiện, tố giác kịp thời các đối tượng, băng nhóm tổ chức tội phạm để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp giải quyết.

+ Tích cực học tập nâng cao trình độ chính trị khoa học kĩ thuật nghiệp vụ chuyên môn có liên quan để có thể cống hiến cao nhất những khả năng của mình góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

-       Tăng cường rèn luyện thể lực, học tập tốt môn học Giáo dục quốc phòng- an ninh góp phần chuẩn bị cho lực lượng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ an ninh Tổ quốc và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

BÀI 7

---o0o---

XÂY DỰNG PHONG TRÀO

TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

I/ NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

1/ Quan điểm về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc

-       Một số quan điểm về quần chúng nhân dân

Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo, là nền tảng cho một nước, là gốc rễ của một dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Triết học duy tâm có nhận thức sai lạc: Xã hội chia làm hai hạng người “Hạng thượng lưu” và hạng “thứ dân”; thượng đế tinh thần là tuyệt đối; vua là thiên tử, thay trời trị dân.

Các ché độ quân chủ tư sản hiện đại nêu vấn đề “Dân chủ”, “Lấy dân làm gốc”, nhưng khác nhau về bản chất.

Chủ nghĩa Mác-Lênin lần đầu tiên đã phát hiện và khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân quyết định sự phát triển của xã hội, chính nhân dân lao động là người làm nên lịch sử. Đây là một chuyển biến cách mạng trong nhận thức về lịch sử, là một trong những cơ sở lí luận do chính Đảng của giai cấp vô sản.

Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta đã chứng minh từ thời các vua Hùng, Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung…đều dựa vào dân, khẳng định dân là gốc, biết sử dụng sức mạnh của dân để đánh tan các đội quân xâm lược hùng mạnh của các triều đại phong kiến Trung Quốc, Mông Cổ.

Kế thừa tư tưởng của ông cha ta vè vai trò của nhân dân, Dảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn nêu cao tư tưởng cách mạng là của dân do dân và vì dân. Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là nguồn gốc sức mạnh truyền thống vô cùng quý báu của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra những quan điểm về dân “ Trong bầu trời không có gì quý bằng  nhân dân”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”…Dưới ngọn cờ của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh nhân dân ta đã đồng lòng hợp sức làm nên nhiều chiến công vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh thắng hai cường quốc xam lược là Pháp và Mĩ; đang từng bước xây dựng thnahf công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ngày nay trong giai đoạn đất nước ta chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có những thuận lợi mới, thời cơ mới, song vẫn còn nhiều trở lực và thách thức; Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương quan trọng về đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

-       Vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc

Đặc điểm của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh Tổ quốc là diễn ra trên diện rộng, khắp mọi địa bàn, mọi lĩnh vực, là cuộc chiến đấu thường xuyên mang tính gay go, quyết liệt, phức tạp và lâu dài. Bọn gián điệp, phản động và tội phạm khác luôn tìm cách trà trộn trong quần chúng, lợi dụng, lôi kéo, mê hoặc kể cả khống chế để hoạt động.

+ Quần chúng nhân dân có khả năng phát hiện, quản lí, giáo dục, cải tạo các loại tội phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội.

+ Khi nào người dân có ý thức tự giác, có tinh thần làm chủ trong việc xây dựng cuộc sống mới lành mạnh, khi đó sẽ khắc phục dần những sơ hở, thiếu sót mà địch và bọn tội phạm có thể lợi dụng.

+ Lực lượng công an có hạn, nên công tác bảo vệ an ninh trật tự không thể thực hiện bằng chuyên môn đơn thuần mà phải làm tốt công tác vận động quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhân dân giúp ta nhiều thì thành công nhiều, giúp ta ít thì thành công ít, giúp ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”.

2/ Nhận thức về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

-       Khái niệm phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là một hình thức hoạt động tự giác, có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động tham gia phong ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật ự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản Nhà nước và tính mạng, tài sản của nhân dân.

-       Vị trí, tác dụng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

Trước đây cũng như trong giai đoạn cách mạng hiện nay, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc luôn giữ vị trí quan trọng không thể thiếu được đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng nói chung và sự nghiệp bảo vệ an ninh- Trật tự nói riêng.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là một bộ phận gắn bó khăng khít, chặt chẽ với các phong trào hành động cách mạng khác của Đảng, Nhà nước ở địa phương, đơn vị.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta tiến hành nhiều cuộc vận động quần chúng khác nhau để giải quyết những nhiệm vụ khác nhau. Trong đó có cuộc vận động nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Giữa các phong trào hành động cách mạng khác của nhân dân với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có mối quan hệ khăng khít, tác động, hỗ trợ lẫn nhau; các phong trào hành động cách mạng khác của nhân dân giải quyết nhiệm vụ phát triển kinh tế vă hóa ,xã hội là nền tảng vững chắc để phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được phát động và duy trì thường xuyên, mạnh mẽ. Ngược lại phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc được nâng cao góp phần phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh kịp thời với bọn tội phạm, ổn định được tình hình an ninh trật tự là điều kiện thuận lợi để phát triển các phong trào hành động cách mạng khác của nhân dân đạt kết quả tốt.

+ Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí chiến lược, là một trong những biện pháp công tác cơ bản của lực lượng công an nhân dân, là nèn tảng cơ bản trong sự nghiệp baỏ vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Nhân dân lao động có khả năng to lớn, là người làm nên lịch sử, từ trước đến nay Đảng ta luôn luôn khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn sự an toàn xã hội cũng là sự nghiệp của toàn dân. Mọi vấn đề an ninh trật tự xảy ra khi giải quyết đều dựa vào nhân dân. Quán triệt tư tưởng này của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về: “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.

Thực tiễn cho thấy phong trào hành động cách mạng của nhân dân như phong trào “ Ba không”, “ Ngũ gia liên bảo”, “Thập gia liên báo” trong thời kì chống Pháp; Phong trào “bảo vệ trị an”, “Bảo mật phòng gian” trong những năm chống Mĩ cứu nước và hiện nay phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã thực sự đóng góp phần quan trọng phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội  và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là một hình thức vận động nhân dân ở mức độ cao, đã trở thành ý thức tự giác cao độ của đông đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước, sự tổ chức vận động hướng dẫn nghiệp vụ của lực lượng công an nhân dân.

Đối với công tác công an, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc có tác dụng trực tiếp trong phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, ngăn ngừa làm giảm tai nạn, đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội và các  hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc còn giúp lực lượng công an có điều kiện để triển khai sâu rộng các mặt công tác nghiệp vụ. Những tin tức tài liệu đa dang, phong phú thu được từ quần chúng nhân dân cung cấp là cơ sở để lực lượng công an nhân dân đấu tranh, trấn áp bọn tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là động lực quan trọng để nâng cao ý thức tự giác của hàng chục triệu người tham gia vào công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc ở từng đường phố, từng thôn, xóm, phường, xã, cơ quan, xí nghiệp tạo thành thế chủ động trong phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh trấn áp tội phạm tạo thành một thế trận an toàn về an ninh trật tự.

+ Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập hợp thu hút đông đảo quần chúng phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ an ninh trật tự.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc thực chất là hình thức hoạt động có tổ chức, do đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia; là điều kiện cơ bản để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự.

Sức mạnh, khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân là rất to lớn, song sức mạnh và khả năng đó chỉ được phát huy khi quần chúng nhân dân được tổ chức thành phong trào hành động cách mạng cụ thể. Chính bằng phong trào và thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, quàn chúng nhân dân mới có điều kiện tham gia vào công việc xây dựng, quản lí nền an ninh trật tự nhiều hơn, tốt hơn và trực tiếp hơn. Vì vậy phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập hợp thu hút đông đảo nhân dân, phát huy quyền làm chủ của họ trên lĩnh vực bảo vệ an ninh- trật tự.

-  Mục đích của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh- trật tự

Huy động sức mạnh của nhân dân để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh với các loại tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phục vụ đắc lực việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, gắn với các cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước, của các ban, ngành, đoàn thể, và của địa phương…góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

-  Đặc điểm của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

+ Đối tượng tham gia phong trào toàn dan bảo vệ an ninh tổ quốc đa dạng, liên quan đến mọi người, mọi tầng lớp của xã hội.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc mang tính xã hội sâu sắc, bởi đối tượng vận động là tất cả mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội cho nên trình đọ hieur biết về chính sách pháp luật, kiens thức xã hội; đặc điểm tâm lí, lối sống sinh hoạt của từng tầng lớp nhân dân có khác nhau cho nên nó đã tác động ảnh hưởng lớn đến phong trào của từng địa phương.

+ Nội dung, hình thức, phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở các địa bàn, lĩnh vực khác nhau có sự khác nhau.

Do khác nhau về vị trí đặc điểm của từng vùng, phong tục tập quán, điều kiện hoàn cảnh kinh tế của từng địa phương và tình hình hoạt động của bọn tội phạm nên cách thức tổ chức vận động nhân dân, nội dung phong trào toàn dân trào toàn  bảo vệ an ninh Tổ quốc cũng có những điểm khác nhau để phù hợp với tình hình của mỗi nơi, mỗi thời điểm, địa bàn nông thôn khác với thành phố, thị xã; miền núi khác với miền biển; vùng đồng bào dân tộc thiểu số khác với vùng đồng bào theo các tôn giáo.

+ Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có liên quan đến việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, gắn liền với việc thực hiện các chính sách của địa phương.

Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có liên quan đến việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, như: chính sách dân vận, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách với người có công…vì vậy quá trình tổ chức vận động phải chú trọng gắn nghĩa vụ và quyền lợi; ý thức tự giác của người dân, tạo mọi điều kiện để nâng cao đời sống tinh thần của họ. Thường xuyên trang bị kiến thức về chính trị, pháp luật, nâng cao cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn hoạt động của tội phạm cho quần chúng nhân dân.

II/ NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

1/ Nội dung cơ bản của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

Để góp phần phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, chủ động khắc phục, đẩy lùi nguy cơ, đấu tranh làm thất bại hoạt động của csc thế lực thù địch và các loại tội phạm, giữ vững ổn định chính trị và moi trường hòa bình, trong giai đoạn hiện nay công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tập trung vào những nội dung cơ bản sau đây:

-  Giáo dục, nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước của nhân dân tham gia phòng ngừa đấu tranh chống mọi âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, bao gồm:

+ Chống chiến tranh tâm lí phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch

+ Bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh xã hội, bảo vệ bí mật quốc gia.

+ Chống địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo, lợi dụng dân chủ, nhân quyền để gây mất ổn định chính trị.

+ Giữ vững khối đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị, bảo vệ nội bộ, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch vững mạnh.

-  Vận động toàn dân tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng chống tội phạm

+ Vận động nhân dân tích cực tham gia phát hiện, tố giác, dấu tranh chống lại các loại tội phạm, góp phần giữ vững ổn dịnh an ninh trật tự tại địa bàn.

+ Vận động nhân  dân tham gia quản lí, giáo dục, cảm hóa những người cần  phải giáo dục tại cộng đồng dân cư, như: các đối tượng có tiền án; tiền sự, đối tượng tù tha, đối tượng đi cơ sở giáo dục, đi cơ sở chữa bệnh tha về còn có biểu hienj hoạt động phạm pháp; tham gia vận động người phạm tội đang lẩn trốn ra tự thú; thực hiện các biện pháp pòng ngừa tình trạng thnah thiếu niên phạm tội; tham gia quản lí giáo dục trẻ em làm trái pháp luật.

+ Vận động nhân dân chấp hành và tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng, trật tự đô thị, giữ gìn vệ sinh mĩ quan nơi công cộng, thạm gia phòng chống gây rối trật tự công cộng, ngăn chặn kịp thời các vụ việc lộn xộn xảy ra ở nơi công cộng.

+ Hướng dẫn và vận động nhân dân bài trừ tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu, đấu tranh bài trừ văn hóa phẩm độc hại.

+ Xây dựng cơ quan đơn vị, cụm dân cư và từng gia đình an toàn, đoàn kết, xây dựng nếp sống văn hóa trong cộng đồng dân cư, giữ vững đạo đức trong sáng lành mạnh, giữ gìn thuần phong mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, bảo vệ môi trường sống.

-  Xây dựng và mở rộng liên kết phối hợp chặt chẽ với các ngành các đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội trong các phong trào của địa phương.

Kết hợp lồng ghép phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các cuộc vận động khác của Đảng, Nhà nước ở địa phương như cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hóa mới…

+ Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết liên tịch, thông tư liên ngành, các qui chế phối hợp hoạt động giữa Công an xã với Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, các cơ quan, trường học đóng trên địa bàn.

+ Thường xuyên theo dõi và nắm bắt tình hình việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở điạ phương, kịp thời đề xuất lồng ghép nọi dung, yêu cầu của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phù hợp, nhằm phát huy vai trò của quần chúng trong việc bảo vệ an ninh- trật tự.

-  Tham gia xây dựng  tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng tại cơ sở vững mạnh

+  Thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để rèn luyện, thử thách xây dựng đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước ở cơ sở.

+ Thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để thường xuyên đóng góp ý kiến xây dựng cho tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở, lực lượng công an, kịp thời phát hiện đề nghị đưa ra khỏi tổ chức đảng, chính quyền, lực lượng công an những người không đủ tiêu chuẩn về đạo đức và năng lực công tác; đồng thời đề nghị bổ sung những nhân tố tích cực, ưu tú xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vào cấp ủy chính quyền cơ sở, để xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, lực lượng công an trong sạch vững mạnh.

Bốn nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là những nội dung cơ bản của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Khi thực hiện những nội trên đây phải căn cứ vào tình hình điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nơi, đặc biệt, phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, bảo dảm quốc phòng, an ninh ở từng địa phương, từng cơ sở để đề ra nội dung công tác cho sát hợp, có hiệu quả.

2/ Phương pháp xây dựng phong trào toàn dân  bảo vệ an ninh Tổ quốc

-  Nắm tình hình và xây dựng kế hoạch phát dộng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

+ Nắm tình hình: Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trước hết phải điều tra nghiên cứu nắm vững tình hình mọi mặt liên quan đến an ninh trật tự, đây là công việc đầu tiên làm cơ sở để định ra nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành các bước tiếp theo.

Nội dung nắm tình hình bao gồm:

•Vị trí địa lí, đặc điểm địa bàn về phân công dân cư, phong tục tập quán, nghề nghiệp truyền thống, vấn đề tôn giáo, dân tộc có liên quan đến công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

•Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn như: Tình hình âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm; tình hình tai nạn, tệ nạn xã hội; tình hình các loại đối tượng cần quản lí giáo dục ở từng cụm dân cư.

•Tình hình quần chúng chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các qui định của địa phương; những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; tâm tư nguyện vọng của đại bộ phận quần chúng nhân dân.

•Tình hình các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng về vai trò lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức động viên quần chúng tham gia phong trào hành động cách mạng của địa phương, sự đoàn kết nhất trí trogn nội bộ những hiện tượng tiêu cực (tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân).

•Tình hình diễn biến của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn từng thời kì; chú ý tới những mặt yếu kém, trì trệ, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm rút ra.

•Những sơ hở thiếu sót của ta trong việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà kẻ xấu có thể lợi dụng để kích động quần chúng, chia rẽ nội bộ nhân dân với Đảng, với chính quyền, với lực lượng vũ trang ở địa phương.

Trên cơ sở tình hình nắm được để tiến hành phân tích, tổng hợp, đánh giá về những mặt tích cực, những mặt tiêu cực, từ đó xác định đúng tính chất địa bàn, những vấn đề nổi lên có liên quan đến công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để có biện pháp giải quyết hoặc tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương biện pháp giải quyết.

Phương pháp nắm tình hình: Để nắm được tình hình địa bàn một cách sát hợp phải có phương pháp điều tra nắm tình hình một cách khoa học, điều tra một cách chính xác khách quan, toàn diện, sử dụng mọi lực lượng, nhiều biện pháp thông qua nhiều nguồn khác nhau. Đối với cán bộ chủ chốt ở các cấp, trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mình và nội dung cụ thể cần nắm, cần tập trung thực hiện tốt một số công việc để nắm tình sau đây:

•Nghiên cứu khai thác các tài liệu sẵn có để nắm tình hình địa bàn như: tài liệu về tình hình an ninh trật tự ở địa phương qua các năm; báo cáo sơ kết, tổng kết về phong trào toàn bảo vệ an ninh Tổ quốc qua từng thời kì; tài liệu quản lí về nhân khẩu, hộ khẩu, quản lí các nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trât tự,quản lí vũ khí, vật liệu nổ; tài liệu về tổ chức giữ gìn trật tự công cộng và các tại liệu quản lí hành chính khác mà chính quyền và các cơ quan chức năng đang quản lí.

•Đi sát cơ sở tiếp xúc gặp gỡ, thu thập ý kiến của các tổ chức, các tầng lớp dân cư khác nhau như: Cán bộ công nhân viên đã  nghỉ hưu, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, những người biết việc…để nắm tình hình.

•Trực tiếp điều tra khảo sát mọi hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và quần chúng nhân dân địa phương.

•Ngoài ra còn phải chú ý kết hợp chặt chẽ với việc sử dụng các lực lượng, phương tiện, biện pháp nghiệp vụ khác để nắm tình hình. Kết hợp nắm tình hình chung toàn địa bàn với đi sâu nắm tình hình cụ thể từng khu vực và nắm tình hình toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng với đi sâu nắm vững những khía cạnh mà nội dung, yêu cầu của công tác vận động quần chúng đặt ra để rút ra những kết luận sát thực, làm cơ sở tham mưu cho cấp ủy Đảng đề ra chỉ thị, nghị quyết xây dựng và đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

+ Xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc: Căn cứ chỉ thị nghị quyết của cấp ủy đảng và tình hình thực tế ở địa phương để chủ động xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

 Nội dung của kế hoạch thể hiện những vấn đề cơ bản như sau:

•Đánh giá tổng quát tình hình an ninh trật tự, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức trách nhiệm của quần chúng nhân dân, thực trạng phong trào toàn dân trong thời gian đã qua và xác đingj sự cần thiết phải tiến hành sự vận động xây dựng phong toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong thời gian tới.

•Xác định mục đích, yêu cầu cụ thể phải đạt được của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

•Xác định nội dung cụ thể của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và hình thức, biện pháp để thực hiện nội dung cụ thể đó.

•Xác định cách thức tổ chức thực hiện kế hoạch, như: Phân công trách nhiệm và qui định mối quan hệ phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể; giữa các lực lượng tham gia xây dựng phong trào; phân chia các bước và thời gian thực hiện từng bước, tiến hành xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xác định điều kiện vật chất cần có để bảo đảm xây dựng phong trào đạt kết quả.

Phương pháp xây dựng kế hoạch

•Trên cơ sở nội dung cơ sở kế hoạch được xác định, tiến hành viết dự thảo kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đảm bảo đủ về nội dung, dúng về thể thức văn bản quản lí nhà nước qui định.

•Tiến hành gửi bản thảo kế hoạch đến tổ chức cá nhân có liên quan để lấy ý kiến, nhằm phát huy trí tuệ của tập thể, nâng cao tinh thần làm chủ, tính năng động, sáng tạo của từng người trong xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

•Tiếp thu ý kiến đóng góp của tập thể, tiến hành nghiên cứu bổ xung, xây dựng hoàn chỉnh bản kế hoạch trình Chủ tịch ủy ban nhân dân phường, xã phê duyệt và tổ chức thực hiện.

- Tuyền truyề,n giáo dục và hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh- trật tự

+  Tuyền truyền, giáo dục quần chúng và nhân dân: Tuyền truyền, giáo dục nhân dân trong công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí rất quan trọng, làm cho họ nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, vai trò trách nhiệm, quyền lợi, từ đó tích cực tham gia bảo vệ an ninh trật tự.

Nội dung tuyên truyền giáo dục

•Tuyên truyền để nhân dân nhận thức rõ về âm mưu, phương thức thủ doạn hoạt động thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch và các loại tội phạm, nhận thức rõ bản chất sâu xa của chúng, thấy được tầm quan trọng, tính chất phức tạp, quyết liệt và lâu dài của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

•Tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu về đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các quy định, phong tục tập quán tốt đẹp của địa phương, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân đối với việc bảo vệ an ninh trật tự. Từ đó quần chúng ý thức rõ được việc tích cực tham gia bảo vệ an ninh trật tự là thiết thực để bảo vệ cuộc sống ấm no, hạnh phúc của bản thân, gia đình, xóm làng cũng như của toàn xã hội.

Ngoài những nội dung trên, tùy theo tình hình cụ thể từng nơi, từng lúc mà lựa chọn, xác định thêm những nội dung khác để tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân cho thích hợp.

Phương pháp tuyên truyền giáo dục

•Triệt để khai thác sử dụng phương tiện thông tin đại chúng và các loại hình văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, áp phích khẩu hiệu, biểu ngữ…để tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân đạt hiệu quả.

•Thông qua các hình thức sinh hoạt, hội họp của các tổ chức chính trị- xã hội và thông qua hệ thống giáo dục các cấp ở địa phương để tuyên truyền giáo dục quần chúng.

•Sử dụng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên đẻ tuyên truyền giáo dục quần chúng theo từng chuyên đề nổi lên có liên quan trong từng thời gian.

•Thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ trực tiếp quần chúng để tọa đàm, trao đổi. giải thích những vấn đề về bảo vệ an ninh trật tự, thuyết phục tranh thủ những người có uy tín trong cộng đồng dân cư để họ đồng tình với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước từ đó mà tích cực tham gia thuyết phục, giáo dục những người lừng chừng chậm tiến trong gia đình và cộng đồng.

•Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng trước hết phải tổ chức tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ của các ban trong Đảng, trong chính quyền, cán bộ lãnh đạo các ngành, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, sau dó tuyên truyền giáo dục sâu rộng ra trong nhân dân, động viên mọi người cùng có trách nhiệm tuyên truyền giáo dục lẫn nhau, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị, tư tưởng trong nhân dân.

•Kết hợp tuyên truyền giáo dục rộng rãi với tuyên truyền giáo dục cá biệt bằng lời lẽ đơn giản và thực tế sinh động. Kết hợp chặt chẽ giữa việc tuyên truyền giáo dục quần chúng  thực hiện nội dung nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự với việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và với phong trào lao động sản xuất, xây dựng đời sống hàng ngày của quần chúng nhân dân ở địa phương.

Tuyên truyền giáo dục quần chúng  phải bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Phải chú ý giải quyết mâu thuẫn trong dời sống xã hội , trong nội bộ nhân dân, kết hợp giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân với cộng đồng, đảm bảo thực hiện công bằng xã hội.

Kịp thời biểu dương người tốt việc tốt, khuyến khích các điển hình tiên tiến, đồng thời gây dư luận xã hội nghiêm khắc lên án những hành động tiêu cực, vi phạm pháp luật.

Các nội dung công tác cụ thể phương pháp tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân trên đây có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau và trong từng nội dung của phương pháp đó cũng có ưu điểm, nhược điểm khác nhau, vì vậy phải tùy vào tình hình cụ thể ở từng nơi, từng lúc để vận dụng linh hoạt, có hiệu quả.

+ Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh- trật tự: Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự là chỉ cho họ biết cách phòng ngừa, chủ động phát hiện và giúp đỡ cơ quan chức năng để đấu tranh có hiệu quả những hoạt động phá hoại của các thế lực phản động, hoạt động của các loại tội phạm; phòng ngừa các tai nạn, bài trừ các tệ nạn xã hội.

Nội dung hướng dẫn quần chúng bao gồm:

•Hướng dẫn quần chúng bảo vệ, thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xây dựng và thực hiện các quy định về công tác bảo vệ an ninh trật tự ở địa phương.

•Hướng dẫn quần chúng nhân dân phòng ngừa tội phạm, tham gia hòa giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; quản lí, giáo dục các đối tượng cần phải quản lí giáo dục ở địa phương.

•Hướng dẫn quần chúng nhân dân phát hiện tố giác với công an, chính quyền địa phương những người, sự  việc, hiện tượng nghi vấn xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tích cực tham gia đấu tranh góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, bọn phản động và các loại tội phạm khác.

•Hướng dẫn quần chúng nhân dân lên án, đấu tranh chống mọi biểu hiện tieu cực, các lề thói hủ tục lạc hậu trong đời sống kinh tế xã hội, phòng ngừa và làm giảm các tai nạn, bài trừ các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.

•Hướng dẫn quần chúng nhân dân tham gia xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyển, đoàn thể cách mạng, tham gia góp ý kiến xây dựng lực lượng công an, dân quân tự vệ trong sạch vững mạnh.

Phương pháp hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ việc bảo vệ lợi ích cá nhân trước mắt đến lâu dài của tập thể; từ việc bảo vệ lợi ích kinh tế đơn thuần đến bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng; từ việc bí mật tố giác và cung cấp tài liệu, tin tức về hoạt động của bọn tội phạm đến công tác đấu tranh trực diện với chúng một cách có tổ chức.

•Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các ngành, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ở dịa phương để tổ chức vận động toàn dân bảo vệ an ninh trật tự

Để huy động được sức mạnh của toàn dân tham gia nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trong quá trình xây dựng phong trào, cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ở địa bàn. Nội dung phối hợp cần tập trung vào các vấn đề:

+ Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các tổ chức quần chúng làm nhiệm vụ an ninh trật tự trên dịa bàn phường, các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng tự quản., Hội đồng bảo vệ trật tự xã hội, Ban bảo vệ dân phố, lực lượng dân phòng và lực lượng bảo vệ chuyên trách của các cơ quan doanh nghiệp.

+Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, cơ quan đơn vị, tổ chức đoàn thể quần chúng để tuyên truyền, vận động, giáo dục, hướng dẫn giác ngộ cho người dân nắm vững những yêu cầu của công tác bảo vệ an ninh- trật tự trên địa bàn, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh – trật tự. Làm cho quần chúng nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chế độ, nội qui, quy tắc về an ninh trật tự, âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, bọn phản động và bọn tội phạm khác, tình hình các tệ nạn xảy ra trên địa bàn. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác của người quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ đặt ra.

+ Phối hợp với cơ quan đơn vị, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong việc chỉ đạo hướng dẫn thực hiện các mục tiêu yêu cầu đề ra trong công tác tổ chức vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự.

•Xây dựng các tổ chức, lực lượng quần chúng nòng cốt làm hạt nhân để xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Xây dựng cá nhân và các tổ chức quần chúng nòng cốt làm hạt nhân để thúc đẩy phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn cơ sở là một nội dung quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tổ chức vận động nhan dân. Lực lượng quần chúng nòng cốt vừa là hạt nhân lãnh đạo phong trào, vừa là cầu nối giữa các lực lượng công an với nhân dân vừa là người đi đầu, trực tiếp hướng dẫn nhân dân thực hiện các qui định về an ninh trật tự. Vì vậy việc xây dựng lực lượng quần chúng nòng cốt ở cơ sở để duy trì và phát triển, đẩy mạnh phong trào, đây là một nội dung rất quan trọng không thể thiếu.

+Các tổ chức quần chúng nòng cốt làm nhiệm vụ an ninh trật tự ở địa bàn cơ sở gồm:

Hiện nay ở các cơ sở xã phường trong toàn quốc thường có 3 loại hình tổ chức quần chúng làm công tác an ninh trật tự là:

•Loại tổ chức quần chúng có chức năng tư vấn: tương ứng với loại hình này là Hội đồng an ninh trật tự ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) thành phần gồm Chủ tịch UBND, Chủ tịch UBMTTQ, Trưởng công an, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Cựu chiến binh, Chủ tịch phụ nữ…đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lí điều hành của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn. Ở cơ quan, doanh nghiệp thành phần gồm: Bí thư Đảng ủy, Thủ trưởng cơ quan, Trưởng phòng (tổ trưởng) bảo vệ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Phụ nữ.

•Loại có chức năng quản lí, điều hành: Tương ứng với loại hình này là Ban bảo vệ dân phố (ở nông thôn: ban an ninh trật tự được thành lập ở thôn, ấp, bản, làng; ở cơ quan, doanh nghiệp lớn ban an ninh trật tự được thành lập ở phân xưởng, xí nghiệp, công ty…(nếu cơ quan, doanh nghiệp nhỏ và thôn nhỏ có nơi không cần thiết phải thành lập Ban an ninh trật tự); ở thành phố, thị xã Ban bảo vệ dân phố được thành lập theo các khu phố, cụm dân cư).

Ban an ninh trật tự và Ban bảo vệ dân phố là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và thực hiện một số biện pháp phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi phạm pháp luật khác theo qui định của pháp luật, có trách nhiệm quản lí, điều hành và phối hợp với Công an xã, phường, thị trấn, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp hướng dẫn, hỗ trợ các Tổ An ninh nhân dân, An ninh công nhân, Đội dân phòng tham gia bảo vệ an ninh trật tự.

•Loại có chức năng thực hành: tương ứng với loại hình này là các tổ an ninh nhân dân, an ninh công nhân, Đội dân phòng, Đội thanh niên xung kích an ninh có nhiệm vụ trực tiếp thực thi các nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự ở các cơ sở.

Tổ an ninh nhân dân cơ cấu ở các thôn, xóm, tổ dân phố. Môt thôn, xóm, khu phố có thể có nhiều Tổ an ninh nhân dân. Căn cứ đặc diểm thực tế, số lượng dân cư, mối quan hệ ràng buộc của quần chúng ở khu vực tập thể, khu dân cư để hình thành Tổ an ninh nhân dân cho phù hợp (hiện nay hầu hết các địa phương đang duy trì hoạt động của tổ an ninh nhân dân, tuy nhiên cũng có địa phương gọi là Tổ tự quản, Tổ liên gia an toàn, nhiều nơi lại vừa có Tổ an ninh nhân dân, vừa có Tổ tự quản…nên thống nhất gọi là Tổ an ninh nhân dân là đúng nghĩa nhất, phù hợp với cức năng, nhiệm vụ là tổ chức của nhân dân làm công tác an ninh trật tự, phù hợp với qui định trước đây của Bộ trưởng Bộ Công an về chức năng, nhiệm vụ của Tổ an ninh nhân dân).

Tổ an ninh công nhân được cơ cấu ở các tổ, đội sản xuất, phân xưởng, phòng, ban lớn có thể có nhiềuTổ an ninh công nhân tùy thuộc phạm vi, qui mô, tính chất công việc chuyên môn và yêu cầu thực tế nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, bảo vệ tài sản, bảo vệ an ninh trật tự.

Đội dân phòng là tổ chức chuyên môn của quần chúng được lập ra có nhiệm vụ tuần tra, canh gác bảo vệ an ninh trật tự, phòng cháy, chữa cháy hoặc huy động cho các hoạt động đột xuất về an ninh trật tự.

Các đội thanh niên xung kích an ninh, Đội thiếu niên sao dỏ là tổ chức của Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên lập ra để thu hút thanh thiếu niên vào hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, như vậy nó cũng là tổ chức của quần chúng trực tiếp tham gia bảo vệ an ninh trật tự cần được duy trì hoạt động. Các đội dân phòng, thanh niên xung kích an ninh, hình thành theo thôn, xóm, khu phố, cụm dân cư hoặc cơ cáu theo tổ chức Đoàn thanh niên ( Chi đoàn, Phân đoàn) tùy theo tính chất nhiệm vụ công tác an ninh trật tự ở cơ sở.

+ Nội dung, yêu cầu xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự:

•Cần phải lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn có uy tín với quần chúng, được quần chúng tin yêu, có khả năng và điều kiện đảm nhiệm các mặt công tác về an ninh trât tự ở cơ sở.

•Lựa chọn người có khả năng tổ chức, điều hành các hoạt động có liên quan đến an ninh trật tự, bản thân có ý nghĩa tự giác, tự nguyện và trách nhiệm cao trong việc thực hiện nhiệm vụ, hoàn thành các thủ tục báo cáo cấp có thẩm quyền ra quyết dịnh giao nhiệm vụ cho họ.

•Bồi dưỡng, hướng dẫn để đội ngũ cán bộ cơ sở nắm vững chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc, mối quan hệ công việc cụ thể để cán bộ cơ sở có kế hoạch thực hiện.

•Thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức về pháp luật, nghiệp vụ, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn trong từng thời gian và nhiệm vụ đặt ra trong việc giữ gìn an ninh trật tự. Hướng dẫn để họ biết cách tổ chức vận động quần chúng ở địa bàn dân cư.

•Nắm vững những diễn biến hoạt động của đội ngũ cán bộ cơ sở có kế hoạch thăm hỏi động viên kịp thời đối với cán bộ tốt có năng lực, đồng thời uốn nắn các lệch lạc của cán bộ cơ sở; tạo điều kiện về vật chất và tinh thần, việc làm, đời sống, quan hệ sinh hoạt trong phạm vi điều kiện cho phép, để đội ngũ cán bộ nòng cốt ở cơ sở yên tâm phấn khởi công tác, tích cực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở.

+ Phương pháp xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt được tiến hành như sau:

Xác định hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng. Căn cứ tình hình đặc điểm của dịa bàn, yêu cầu của công tác phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm ở từng nơi, từng lúc; căn cứ điều kiện khả năng nhận thức cũng như khả năng đảm nhiệm những phần việc cụ thể của quần chúng và nhu cầu nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần chúng để định ra hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng một cách khoa học và hợp lí.

Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức quần chúng được xây dựng.

•Mỗi loại hình tổ chức quần chúng khác nhau có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Sau khi đã xác định được hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng, phải xác định một cách cụ thể rõ ràng chức năng, nhiệm vụ , quyền hạn của tổ chức quần chúng, có như vậy mới phát huy được vai trò của tổ chức, tạo điều kiện để tổ chức hoạt động nhịp nhàng, có hiệu quả, không bị mất phuýong hướng hoặc trùng dẫm, chồng chéo, trì trệ

•Chỉ khi nào và ở nơi nào có yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự đòi hỏi cần phải xây dựng hình thức tổ chức quần chúng nào đó thì mới xây dựng. Nếu không có nhu cầu, nhiệm vụ chưa xuất hiện thì chưa cần phải vội vàng thành lập tổ chức quần chúng, bởi vì thành lập tổ chức mà chưa có chức năng nhiệm vụ thì tỏ chức đó sẽ không tồn tại được và dẫn đến tan rã.

•Căn cứ vào pháp luật của Nhà nước, chế độ nội qui qui định của đơn vị, địa phương và yêu cầu của tình hình nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự đặt ra để xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của loại hình tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự.

Đề xuất cấp ủy, chính quyền ra quyết định thành lập tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự.

Sau khi xác định rõ sự cần thiết phải thành lập các tổ chức quần chúng, loại hình tổ chức quần chúng và chức năng nhiệm vụ quyền hạn của loại hình tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự đó, với sự hỗ trợ của lãnh đạo chủ chốt của địa phương. Công an cấp cơ sở báo cáo, đề xuất với cấp ủy và chính quyền địa phương và làm tuhr tục trình Chủ tịch, Phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã phường ra quyết dịnh thành lập tổ chức.

Đây là thủ tục cần thiết để đảm bảo tính hợp pháp của loại hình tổ chức quần chúng theo đúng qui định của pháp luật, đồng thời nâng cao vai trò, vị trí của tổ chức quần chúng, nâng cao trách nhiệm nghĩa vụ của những người tham gia tổ chức cũng như những người khác có liên quan đến hình thức tổ chức quần chúng.

Tuyển chọn những thành viên tham gia tổ chức quần chúng và bồi dưỡng, tập huấn cho các thành viên trong tổ chức quần chúng.

Căn cứ tình hình nắm được về quần chúng, căn cứ vào tiêu chuẩn qui định, tiến hành tuyển chọn, thu nạp các thành viên tham gia tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự đảm bảo đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng. Yêu cầu các thành viên tham gia các tổ chức quần chúng phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt nhiệt tình, hăng hái, tự nguyện tự giác và được quần chúng tín nhiệm.

Tiến hành giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn cho các thành viên nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chế độ chính sách, lề lối phương pháp hoạt động của tổ chức; phương pháp xử lí các tình huống về an ninh trật tự xảy ra; việc xử dụng các phương tiện cần thiết để bảo vệ an ninh trật tự và các kiến thức cần thiết khác có liên quan đến bảo vệ an ninh trật tự để tổ chức quần chúng triển khai hoạt động tự quản, tự phòng, tự bảo vệ an ninh trật tự có hiệu quả.

Việc xây dựng các hình thức tổ chức quàn cúng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự là đảm bảo quyền làm hủ quần chúng , đồng thời tạo lập lực lượng nòng cốt cho phong trào, do đó cần có kế hoạch xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng đa dạng, nhưng phải tránh tình trạng hình thức máy móc, chạy theo số lượng, thành lập tổ chức quần chúng không có tác dụng thiết thực. Trong quá trình xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, từ yêu cầu của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ở từng địa phương đơn vị. Đồng thời phải phát huy dân chủ, phải tổ chức thảo luận công khai lấy ya kiến của nhân dân về sự cần thiết phải xây dựng hình thức tổ chức quần chúng; về loại hình tổ chức quần chúng, về các hình thức, thành viên tham gia cũng như về thái độ chính sách, khuyến khích vật chất, tinh thần đối với các thành viên tham gia tổ chức quần chúng.

Để động viên tích cực các thành viên trong tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự, căn cứ điều kiện hoàn cảnh cụ thể của địa phương, cấp ủy, chính quyền có chế độ chính sách khuyến khích vật chất, tinh thần hợp lí, kịp thời, theo chế độ chung của Nhà nước, của địa phương và nguồn kinh phí đóng góp của nhân dân.

•Xây dựng điển hình và nhân điển hình tiên tiến làm cơ sở để tổ chức vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Điển hình tiên tiến là những cá nhân, đơn vị, cơ sở đạt được thành tích xuất sắc nổi  trội, có đặc thù chung phổ biến giúp các các nhân, đơn vị khác học tập, noi theo. Nhân điển hình tiên tiến là việc tổ chức học tập, phát triển những nhân tố tích cực của phong trào toàn dân thành phổ biến rộng khắp. Thực chất của nhân điển hình tiên tiến là việc phổ biến kinh nghiệm điển hình, động viên thúc đẩy phong trào lên một bước mới có chất lượng cao hơn, đồng đều hơn. Để nhân rộng điển hình tiên tiến cần làm tốt các công việc cụ thể sau đây:

+ Lựa chọn điển hình tiên tiến:

•Căn cứ đặc điểm tình hình địa phường, đơn vị; căn cứ vào kết quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh  Tổ quốc và nhiệm vụ duy trì và phát triển phong trào ở địa phương để phát hiện, lựa chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu, có thành tích nổi bật, có kinh nghiệm tốt, làm hạt nhân điển hình tiên tiens thúc đẩy phong trào bảo an ninh Tổ quốc.

•Việc phát hiện, lựa chọn điển hình tiên tiến được tiến hành thông qua công tác kiểm tra hoạt động của phong trào, thông qua công tác tổ chức cho các cơ sở, đơn vị, quần chúng nhân dân bình chọn, cho đăng kí sau đó tập trung bồi dưỡng một số cá nhân, tập thể đó trở thành điển hình tiên tiến của phong trào bảo vệ an ninh  Tổ quốc.

+ Tổ chức rút kinh nghiệm điển hình tiên tiến: Lực lượng công an chủ trì phối hợp với bộ phận chức năng tổ chức hướng dẫn cá nhân, đơn vị tiên tiến liên hệ kiểm điểm, đánh giá kết quả, rút ra những bài học kinh nghiệm và xây dựng hoàn thiện báo cáo điển hình tiên tiến trong phong trào bảo vệ an ninh  Tổ quốc.

+ Phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến:

-  Phương pháp phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến, đẩy mạnh phong trào thi đua bảo vệ an ninh  Tổ quốc, được tiến hành bằng cách tổ chức cho các cá nhân đơn vị, địa phương có phong trào ở mức trung bình hoặc yếu kém trực tiếp tiếp xúc, gặp gỡ, tham quan, trao đổi học tập kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến, để áp dụng các kinh nghiệm đó vào phong trào ở địa phương, đơn vị mình.

-  Mở Hội nghị nhân điển hình tiên tiến: Tổ chức kí kết giao ước thi đua về xây dựng điển hình, tạo thành phong trào thi đua học tập, đuổi kịp và vượt các điển hình tiên tiến.

-  Kết hợp sử  dụng, phát huy ưu thế của các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình văn hóa nghệ thuật như: Đài phát thanh, truyền hình, tranh ảnh, sách báo…để phổ biến kinh nghiệm của điển hình tiên tiến.

-  Lồng ghép nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các phong trào khác của Nhà trường và của địa phương.

Để thúc đẩy được phong trào và duy trì  phong trào được thường xuyên, tránh được sự suy thoái của phong trào sau một thời gian hoạt dộng, thì việc lết hợp và lồng ghép nội dung của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa phương với các phong trào khác là một hình thức tốt để duy trì và thúc đẩy phong trào.

+ Nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc két hợp với các phong trào khác của Nhà trường và của địa phương như:

•Lồng ghép trong phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công với nước, nội dung đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự là nội dung bảo vệ tài sản công dân phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu, xâm phạm tính mạng, sức khẻo của những người được chăm sóc tạo thành một phong trào chung của địa phương.

•Kết hợp đua nội dung giáo dục những người cần phải giáo dục tại xã phường thị trấn là một nội dung của phong trào xây dựng làng văn hóa, khu phố văn hóa, từ đó tạo thành một nếp sống tốt, lành mạnh phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong cộng đồng dân cư, xây dựng được tổ dân phố, cụm dân cư, làng xã an toàn.

•Trong phòng trào học sinh thanh lịch của Nhà trường cần lồng ghép với phong trào chấp hành luật lệ giao thông, lấy đây là một nội dung tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá một học sinh thanh lịch…

•Để có phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc sâu rộng thu hút được nhiều tầng lớp tham gia trong dó có tầng lớp học sinh thì nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phải được lồng ghép trong các phong trào khác của Đoàn thanh niên và các phong trào của học sinh trong nhà trường như: “Phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên”; phong trào “Phòng chống ma túy trong học đường”, phong trào ngày hè xanh, phong trào đảm bảo vệ sinh môi trường…

+ Để lồng ghép được nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các phong trào khác của nhà trường hoặc của đoàn thanh niên nhà trường, cơ quan công an cơ sở (phường, xã) là chủ thể tiến hành xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, cần phải có kế hoạch, chủ động kết hợp với  nhà trường và Đoàn thanh niên của các trường đóng trên địa bàn đưa các nội dung cần thiết phù hợp với từng phong trào, từng thời điểm thích hợp, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn để đánh giá sự hoạt động, tích cực hoặc thiếu tích cực của từng học sinh.

III/ TRÁCH NHIỆM CỦA HỌC SINH TRONG VIỆC THAM GIA XÂY DỰNG PHONG TRÀO BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC

Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội là trách nhiệm của toàn Đảng toàn dân và cũng là của toàn thể thanh niên Việt Nam. Để gopf phần của mình vào sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc học sinh có trách nhiệm thực hiện tốt một số công việc sau đây:

1/ Mỗi học sinh phải có nhận thức đúng đắn đầy đủ vềvtracsh nhiệm công dân đối với công cuộc bảo vệ an ninh- trật tự của Tổ quốc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để giữ gìn cuộc sống bình yen cho nhân dân và làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển đất nước

Đối với học sinh đang được học tập, rèn luyện trong nhà trường trước hết phải nhận thức được sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc là trách nhiệm của tất cả mọi công dân Việt Nam trong đó lực lượng công an nhân dân làm nòng cốt. công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm giữ gìn an ninh- trật tự là một cuộc đấu tranh gay go và phức tạp cần huy động sức mạnh của tất cả mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội, là thanh niên Việt Nam nói chung và là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nói riêng lại càng gương mẫu và tích cực tham gia vào các công tác giữ gìn an ninh Tổ quốc, cụ thể là các phong trào giữ gìn an ninh- trật tự của địa phương.

Để quán triệt được quan điểm trên: Mỗi học sinh trong thời gian học tập tại nhà trường phải say mê học tập, chăm rèn luyện, có nhận thức đúng những điều hay, lẽ phải, biết các việc nên làm và không được làm; nắm vững và chấp hành đầy đủ các nội qui qui dịnh của nhà trường, các qui định của địa phương và pháp luật của nhà nước; phát hiện và mạnh dạn đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương hoặc ở trong nhà trường.

Nhằm phát huy được những mặt tích cực, hạn chế những tồn tại nhược điểm của học sinh, đóng góp tích cực cho công tác bảo vệ an ninh trật tự của địa phương và các phong trào khác của nhà trường, mỗi cá nhân phải học tập, rèn luyện tốt, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người học sinh, kính trọng thầy cô giáo, tôn trọng các cơ quan chính quyền, tích cực tham gia các phong trào của địa phương.

2/ Mỗi học sinh tự giác chấp hành các qui định về đảm bảo an ninh trật tự của nhà trường và của địa phương nơi cư trú

Để đảm bảo an ninh trật tự, mọi công dân phải tự giác chấp hành các qui định của nhà nước và của địa phương về giữ gìn an ninh trật tự  như: bảo vệ sự lãnh dạo của Đảng, bảo vệ việc thực hiện các chính sách của nhà nước, bảo vệ chính quyền, bảo vệ sự vững mạnh của các tổ chức đoàn thể xã hội; chống kẻ địch phá hoại về chính trị tư tưởng, về kinh tế văn hóa xã hội; xây dựng khối thống nhất toàn dân…

-  Mỗi học sinh đều phải tích cực tham gia vào các haotj động của nhà trường, các đoàn thanh niên hoặc của dịa phương tổ chức.

-  Không xem, lưu truyền, đọc các văn hóa phẩm độc hại, đồi trụy, không nghe, không bình luận các luận điểm tuyên truyền xuyên tạc nói xấu nhà nước xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch, không truy cập vào các Website có nội dung thiếu lành mạnh.

-  Không tự ý thành lập, tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị và các tổ chức có tính chất chính trị trái pháp luật Việt Nam.

-  Phát hiện và đề nghị với thầy cô giáo và các cơ quan chính quyền địa phương nơi cư trú, học tập để có biện pháp ngăn chặn các hành vi hoạt động tệ nạn xã hội (cờ bạc, ma túy, mại dâm), các hành vi xâm hại đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.

-  Tích cực và gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, các thể lệ hành chính qui định về lĩnh vực an ninh trật tự; luật lệ an toàn giao thông; an toàn phòng cháy chữa cháy; vệ sinh môi trường và các qui định khác.

-  Đối với học sinh lưu trú trong kí túc xá:

+Giữ gìn và bảo vệ tài sản của Nhà trường, không được sử dụng một cách bừa bãi, làm hư hỏng mất mát tài sản và trang thiết bị trong kí túc xá.

+ Chấp hành tốt nội qui của kí túc xá, thực hiện đầy đủ những cam kết được ghi trong hợp đồng với Ban quản lí kí túc xá.

+ Không tàng trữ vũ khí, chất độc, chất nổ, chất dễ cháy, hóa chất độc hoặc hàng cấm khác trong kí túc xá.

-  Đối với học sinh tạm trú trong các khu vực dân cư:

+ Thực hiện đầy đủ các qui định về khi báo tạm trú tại khu vực dân cư theo qui định của pháp luật

+Chấp hành tốt các qui dịnh của địa phương nơi cư trú như: vệ sinh mĩ quan, trật tự đô thị, bảo vệ môi trường.

+ Tích cực tham gia các phong trào giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn như: Phòng chống các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lôi kéo học sinh vào các hoạt động chống đối Nhà nước; phòng ngừa các hoạt động của bọn tội phạm hình sự xâm phạm đến tính mạng và tài sản của học sinh; ngăn ngừa, đấu tranh với các trường hợp sử dụng các chất ma túy trong học sinh.

3/ Tích cực tham gia vào các phong trào bảo vệ an ninh trật tự của địa phương

Phong trào toàn dân ở từng cụm dân cư, từng phường, xã có mạnh hay không là do sự đóng góp chung của tất cả mọi thành viên trong cộng đồng khu vực, từ trẻ đến già; từ cán bộ, công nhân, viên chức đến học sinh. Hoạt động này phải trở thành ý thức tự giác và tự quản của từng người dân, trong đó có sự đóng góp tích cực và quan trọng của học sinh.

Với trách nhiệm của người học sinh, là nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước, những mỗi học sinh cũng cần được sự hỗ trợ, định hướng và dìu dắt của Đảng, Nhà nước, nhà trường và của toàn xã hội, do đó mỗi người học không những chấp hành đúng và đủ các qui định của Nhà nước về đảm bảo an ninh trật tự mà còn phải tham gia tích cực vào các phong trào bảo vệ an ninh trật tự  của địa phương, như: “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu vực dân cư”; phong trào “Toàn dân phòng chống ma túy”, “ Tự phòng, tự quản, tự bảo vệ”; phong trào “Toàn dân tham gia cảm hóa giáo dục người lầm lỗi”; cũng như các phong trào bảo vệ an ninh trật tự khác: phong trào xây dựng cụm dân cư an toàn, số nhà an toàn; tham gia vào các tổ chức quần chúng “Đội thanh niên xung kích an ninh”, “Đội thanh niên tự quản”…tích cực tham gia tuần tra canh gác, phòng ngừa các hoạt động tội phạm.

Để thực hiện được các nội dung trên học sinh thông qua các hoạt động của Đoàn thanh niên, các hoạt động khác của nhà trường để lồng ghép các nội dung của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.

4/ Luôn luôn nêu cao ý thức cảnh giác, tích cực tham gia hoạt động phòng chống tội phạm ở địa phương, phát hiện những hiện tượng tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong nhà trường và nơi cư trú kịp thời, cung cấp cho cơ quan công an để có biện pháp ngăn chặn và giải quyết

Để góp phần vào công tác giữ gìn an ninh trật tự, tạo thành phong trào toàn dân phòng chống tội phạm, học sinh cần tích cực tham gia vào các hoạt động giữ gìn an ninh trật tự của địa phương theo khả năng của mình như:

Phát hiện các hành vi tuyên truyền, phát tán các văn hóa phẩm đồi trụy, các tài liệu phản động báo cáo ngay với Ban Giám hiệu nhà trường, với thầy cô giáo chủ nhiệm hoặc cơ quan công an để thu giữ kịp thời.

Phát hiện và ngăn chặn các vụ đánh nhau, gây rối trật tự công cộng báo cáo với nhà trường, ban bảo vệ dân phố, cơ quan công an nơi gần nhất để có biện pháp ngăn chặn, tham gia phát hiện truy bắt các đối tượng phạm pháp bỏ trốn.

Phát hiện các hành vi vi phạm các qui định về trật tự an toàn xã hội như mang chất cháy, chất nổ, chất độc, vũ khí thô sơ dến trường.

Phát hiện và báo cáo kịp thời với nhà trường về những người hoặc các hiện tượng học sinh có biểu hiện sử dụng các chất ma túy, đua đòi ăn chơi tụ tập đua xe, đánh bạc ăn tiền…

Thường xuyên giúp đỡ các bạn gặp khó khăn về điều kiện học tập, động viên các bạn vượt khó để học tập tốt.

BÀI 8

---o0o---

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG

CHỐNG TỘI PHẠM VÀ TỆ NẠN XÃ HỘI

I/ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM

1/ Khái niệm phòng chống tội phạm

Phòng ngừa tội phạm là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.

-  Phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng ngừa không để tội phạm xảy ra; thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ xã hội mới, không để người dân bị xử lí trước pháp luật, không bị tước quyền công dân.

-  Phòng ngừa mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khỏe, danh dự, phẩm giá của mọi người dân.

-  Làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm  mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết kiệm ngân sách Nhà nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước, của công dân trong các hoạt động điều tra truy tố xét xử và giáo dục cải tạo người phạm tội, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm.

Phòng chống tội phạm được tiến hành theo hai hướng cơ bản sau:

+ Hướng thứ nhất: phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện tượng xã hội tiêu cực là những nguyên  nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội và phạm tội cụ thể. Đây là hưỡng mạng tính cơ bản, chiến lược và lâu dài.

+ Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại khi tội phạm xảy ra. Đây cũng là hưỡng quan trọng không thể xem nhẹ, bởi trong thực tế những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm vẫn tồn tại, hoạt động phòng ngừa tội phạm còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nên tội phạm vẫn xảy ra. Hướng này đòi hỏi các cơ quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, cải tạo người phạm tội trở thành người công dân lương thiện.

-  Phòng chống tội phạm mang tính đồng bộ, hệ thống và có sự phối hợp kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các công dân.

Mục đích của công tác phòng ngừa tội phạm là khắc phục, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm từng bước tiến tới loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.

2/ Nội dung nhiệm vụ hoạt động phòng chống tội phạm

-  Nghiên cứu, xác định rõ nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội

Để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm đòi hỏi các cơ quan chức năng phải xác định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xây dựng chiến lược phòng ngừa phù hợp.

Những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hiện nay bao gồm:

+ Sự tác động bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt ưu điểm cũng bộc lộ nhiều mặt trái trở thành những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, đó là:

•Mặt trái kinh tế thị trường hình thành lối sống hưởng thụ xa hoa, trụy lạc của một bộ phận người trong xã hội.

•Tác động mặt trái nền kinh tế thị trường đã làm xuống cấp nhiều mặt về văn hóa, đạo đức, lối sống làm mất đi truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

•Nền kinh tế thi trường làm đẩy mạnh tốc độ phân tầng xã hội, tạo ra sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, một bộ phận giàu lên nhanh chóng trong đó có một số người làm giàu bất chính từ đó dẫn đến phạm tội, mặt khác không ít người không có tư liệu sản xuất phải ra thành phố, thị xã làm thuê kiếm sống bị tác động bởi những hiện tượng tiêu cực dễ dẫn đến phạm tội.

+ Tác động trực tiếp, toàn diện của những hiện tượng xã hội tiêu cực do chế độ cũ để lại.

+ Hậu quả của chế độ thực dân, đế quốc cùng với chiến tranh kéo dài trong nhiều năm đã phá hoại cơ sở vật chất, hình thành lối sống hưởng thụ, tư tưởng tham lam, ích kỉ, sa đọa trụy lạc trong một bộ phận nhân dân.

+ Tư tưởng trọng nam, coi thường phụ nữ; những tác động tiêu cực, tàn dư của chế độ xã hội cũ còn tồn tại lâu dài tác động vào đời sống xã hội làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực trong đó có tội phạm.

+ Sự thâm nhập ảnh hưởng của tội phạm, tệ nạn xã hội của các quốc gia khác.

+ Những sơ hở, thiếu sót trong các mặt công tác quản lí của Nhà nước, các cấp, các ngành, bao gồm: sơ hở thiếu sót trong quản lí con người, quản lí văn hóa, quản lí nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự…

+ Những thiếu sót trong giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hóa của người dân.

+ Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, việc thực thi pháp luật kém hiệu quả, một số chính sách về kinh tế, xã hội chạm đổi mới tạo sơ hở cho tội phạm hoạt động phát triển. Đặc biệt là pháp luật về phòng ngừa  tội phạm còn thiếu, sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật Quốc tế và pháp luật của các nước trong khu vực cũng là một kẻ hở để tội phạm lợi dụng hoạt động. Sự chậm đổi mới chủ trương chính sách về kinh tế xã hội và pháp luật đã bộc lộ những sơ hở khiến cho một số đối tượng lợi dụng để hoạt động phạm tội.

+ Công tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan chức năng nói chung và của ngành công an nói riêng còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu sót; thể hiện trên các mặt:

•Trình độ nghiệp vụ, pháp luật của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn dẫn đến hữu khuynh né tránh, thậm chí có một số cán bộ biến chất, tiếp tay cho tội phạm, buông lỏng công tác đấu tranh trấn áp tội phạm.

•Mối quan hệ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự đồng bộ, thiếu thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, cải tạo phạm nhân. Hoạt động trao đổi thông tin giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa tốt.

•Số vụ phát hiện , điều tra ít hơn so với thực tế tội phạm xảy ra, tội phạm ẩn còn nhiều.

•Hoạt động điều tra, xử lí tội phạm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, xử lí chưa nghiêm minh.

•Hệ thống tổ chức bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và trong nội bộ từng cơ quan chưa thực sự khoa học, hiệu quả vận hành chưa cao.

+ Công tác quản lí  Nhà nước về an ninh trật tự còn bộc lộ nhiều sơ hở. Công tác giáo dục cải tạo chưa xóa bỏ được tư tưởng phạm tội của các đối tượng, số đối tượng phạm tội trở lại còn nhiều.

+ Phong trào quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm ở một số nơi chưa thực sự mạnh mẽ, chưa hiệu quả. Chưa phát huy được sức mạnh của quần chúng trong công tác giáo dục, cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội.

-  Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích hợp nhằm từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm

Tùy thuộc vào nguyên nhân, điều kiện cụ thể của tình trạng phạm tội trên các lĩnh vực để sọan thảo đề xuất các biện pháp đấu tranh xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cho phù hợp, bao gồm:

+ Các giải pháp phát triển kinh tế;

+ Các giải pháp phát về hoàn thiện hệ thống pháp luật.

+ Phòng ngừa tội phạm kết hợp với thực hiện các chính sách xã hội phù hợp với các địa phương cụ thể.

+ Nhà nươc sphair xây dựng chương trình quốc gia phòng chống tội phạm nói chung, đảm bảo các yêu cầu, nội dung sau:

Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, sử dụng đồng bộ hệ thống, các biện pháp phòng ngừa, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành, của công dân.

+ Mỗi cấp, mỗi ngành phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để xây dựng và tổ chức chương trình hành động cụ thể phòng chống tội phạm.

+ Mỗi công dân phải nhận thức rõ trách  nhiệm, nghĩa vụ của mình trong công tác phòng ngừa tội phạm.

+ Nhà nước, chính quyền các cấp phải thườn g xuyên kiểm tra, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần nhằm duy trì và đẩy mạnh công tác phòng ngừa tội phạm.

-  Tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm

Các cấp, các ngành các tổ chức xã hội căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mình để xây dựng ké hoạch và tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm.

-  Chính quyền các cấp tổ chức triển khai thực hiện chương trình phòng ngừa tội phạm nhằm khắc phục nguyên nhân, điều kiện của tội phạm ở mỗi cấp (Trung ương, tỉnh, thành phố, quận huyện, xã phường).

-  Các bộ ngành triển khai chương trình phòng ngừa tội phạm nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm có liên quan đến hoạt động của mình.

-  Từng hộ gia đình, mỗi cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm.

-  Tổ chức tiến hành các hoạt động phát hiện, điều tra, xử lí tội phạm.

Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ tiến hành phát hiện, điều tra, xử lí tội phạm theo qui định của pháp luật có trách nhiệm: chủ động phối kết hợp với các lực lượng có liên quan kịp thời phát hiện các thông tin về tội phạm và có liên quan đến tội phạm; tỏ chức điều tra làm rõ các hành vi phạm tội, con người kẻ phạm tội, làm rõ những vấn đề cần chứng minh theo yêu cầu của pháp luật, phục vụ xử lí tội phạm; các co quan truy tố, xét xử cần căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử lí đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.

3/ Chủ thể và những nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm

-  Chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm

+ Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp

Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp tiến hành phòng ngừa tội phạm trên các phương diện sau:

Chủ động, kịp thời ban hành các đạo luật, nghị quyết, các văn bản pháp lí về phòng chống tội phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật, làm cơ sở cho các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mỗi công dân làm tốt công tác phòng chống tội phạm:

Thành lập các ủy ban, các tiểu ban giúp cho Quốc hội soạn thảo ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung (ủy ban sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, Ủy ban quốc phòng an ninh).

Giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói riêng của các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội.

Hội đồng nhân dân địa phương ra các Nghị quyết về phòng chống tội phạm ở địa phương mình.

+ Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp

Chức năng chính của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong phòng chống tội phạm là quản lí, điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết, thể hiện:

Cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành những văn bản pháp quy hướng dẫn, tổ chức các lực lượng phòng chống tội phạm.

Sử dụng các cơ quan chuyên trách của Chính phủ tiens hành hoạt động phòng chống tội phạm: Công an, Tòa án, Viện kiểm sát.

Phối hợp tiến hành đồng bộ hoạt động giữa các chủ thể khác nhau thuộc cấp mình quản lí theo kế hoạch thống nhất.

Đảm bảo các điều kiện vật chất cho hoạt động phòng chống tội phạm: ngân sách, phương tiện, điều kiện làm việc.

Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và phối hợp điều chỉnh hoạt động phòn chống tội phạm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Đề ra các biện pháp nhằm động viên, huy động sức mạnh của toàn xã hội tham gia hoạt động phòng chống tội phạm: khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến.

+ Các cơ quan quản lí kinh tế, văn hóa, giáo dục, dịch vụ, du lịch trong phạm vi tổ chức hoạt động chuyên môn.

Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh phát triển tội phạm thuộc lĩnh vực mình quản lí.

Đề ra những qui định thích hợp, tham mưu cho Nhà nước ban hành các chủ trương, chính sách đúng đắn góp phần khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.

Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án phòng ngừa tội phạm trong phạm vi cơ quan có hiệu quả.

Phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, làm tốt công tác phòng chống trong nội bộ, ngoài xã hội theo chương trình chung của Chính phủ.

+ Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản

Các tổ chức đoàn thể trên giữ vị trí vô cùng quan trọng trong công tác phòng, chống tội phạm, cụ thể:

Phối hợp, hỗ trợ chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn soạn thảo, tham gia kế hoạch phòng ngừa tội phạm.

Đối với lực lượng công an phải trực tiếp tổ chức, triển khai các hoạt động phòng ngừa hoạt động tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều tra tội phạm.

Viện kiểm sát: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, giữ  quyền công tố.

Tòa án các cấp: Thông qua hoạt động xét xử các vụ án đam rbaor công minh, đúng pháp luật; phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để Chính phủ, các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại trừ.

Bộ Tư pháp trực tiếp tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, khắc phục những sơ hở thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.

+ Công dân

Công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp và bảo vệ an ninh trật tự. Công dân với tư cách là chủ thể trong phòng chống tội phạm phải quán triệt:

Thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được qui định trong Hiến pháp, tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm.

Tích cực, chủ động phát hiện mọi hoạt động của tội phạm và thông báo cho các cơ quan chức năng.

Tham gia nhiệt tình vào công tác giáo dục, cảm hóa các đối tượng có liên quan đến hoạt động phạm tội tại cộng đồng dân cư.

Phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện tốt chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong trào: “Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội khi trở về địa phương.

Trực tiếp làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm ngay trong phạm vi gia đình (quản lí, giáo dục các thành viên trong gia đình).

- Nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm. Nhà nước quản lí; kết hợp giữa chủ động phòng ngừa với chủ động liên tục tiến công; tuân thủ pháp luật; phối hợp và cụ thể; dân chủ; nhân đạo; khoa học và tiến bộ.

4/ Phân loại các biện pháp phòng ngừa tội phạm

Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm được xác dịnh ở hai mức độ khác nhau: Phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và phòng chống riêng ( chuyên môn).

-  Phòng ngừa chung là tổng hợp tất cả các biện pháp về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật, giáo dục.

Đây là quá trình toàn xã hội phải tham gia nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội phạm.

-  Phòng chống riêng ( phòng và chống các lĩnh vực chuyên môn) là việc áp dụng các biện pháp mang tính đặc trưng, chuyên môn của từng ngành, từng lực lượng, trong đó có hoạt động của cơ quan công an với vai trò nòng cốt, xung kích.

Khi nghiên cứu các biện pháp phòng chống tội phạm có thể phân loại thành các hệ thống biện pháp phòng chống như sau:

-  Theo nội dung tác động của phòng ngừa tội phạm: Biện pháp kinh tế, biện pháp giáo dục, biện pháp tổ chức, biện pháp pháp luật.

-  Theo phạm vi, quy mô tác động của các biện pháp phòng chống tội phạm: Có các biện pháp trong một tỉnh, một thành phố, trên phạm vi cả quốc gia.

-  Theo phạm vi các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, xã hội như: Phòng ngừa trong các khu vực: kinh tế, tuyến giao thông trọng điểm.

-  Theo phạm vi đối tượng tác động của biện pháp phòng chống tọi phạm, có:

+ Các biện pháp phòng chống tội phạm nói chung trong cả nước: kinh tế, chính trị, giáo dục.

+ Biện pháp phòn g chống cá biệt: Đối với từng đối tượng phạm tội cụ thể.

-  Theo chủ thể hoạt động phòng chống tọi phạm:

+ Biện pháp của các cơ quan trực tiếp chỉ đạo và thực hiện chuyên môn phòng chống tội phạm: Công an, Viện kiểm sat, Tòa án.

+ Biện pháp của các tổ chức xã hội: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ.

+ Biện pháp của công dân.

5/ Phòng chống tội phạm trong nhà trường

-  Trách nhiệm của Nhà trường

Thực hiện đầy đủ chương trình phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội trong nhà trường; tuyên truyền giáo dục các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm để cho học sinh thấy được trách nhiệm của mình, của nhà trường trong đấu tranh phòng chống tội phạm, từ đó tự giác thanh tra.

Xây dựng nhà trường trong sạch, lành mạnh không có các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội và tội phạm. Xây dựng qui chế quản lí học sinh, quản lí kí túc xá, các tổ chức học sinh tự quản, tổ thanh niên xung kích để tuần tra kiểm soát trong khu vực trường.

+ Tổ chức cho học sinh tham gia kí kết không tham gia tệ nạn xã hội, không có hành vi hoạt động phạm tội. Tổ chức cho học sinh tham gia các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật Hình sự, phòng chống tệ nạn xã hội.

+ Phát động các phong trào trong nhà trường hưởng ứng các cuộc vận động toàn dân tham gia phòng chống tội phạm với nội dung, hình thức phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường.

+ Phối hợp với lực lượng công an cơ sở trong rà soát phát hiện, cung cấp thông tin số học sinh có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội để có biện pháp quản lí, giáo dục; đấu tranh xóa bỏ các tụ điểm hoạt động tệ nạn xã hội ở khu vực xung quanh trường.

-  Trách nhiệm của học sinh

+ Không ngừng học tập nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật và nội dung cơ bản nhất về phòng ngừa tội phạm. Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho mọi người. Chấp hành nghiêm chỉnh những nội qui, qui định của nhà trường trong lĩnh vực học tập, sinh hoạt tập thể.

+ Trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm, tham gia vào các tổ chức thanh niên xung kích tiến hành tuần tra, kiểm soát bảo vệ an ninh trật tự trong khu vực trường, lớp; phát hiện các hiện tượng tiêu cực có thể nảy sinh trong trường, lớp; các quan hệ nam nữ không lành mạnh, các hành vi nghi vấn nghiện ma túy, cờ bạc, chơi lô đề, các cược bóng đá…có thể dẫn đến tội phạm.

+ Khi có vụ phạm tội xảy ra trong khu vực trường, lớp phát hiện và cung cấp cho cơ quan chức năng những thông tin có liên quan đến vụ việc phạm tội, người phạm tội; tùy theo từng điều kiện cụ thể của mỗi người mà có thể tham gia cộng tác giúp đỡ lực lượng công an một cách công khal hay bí mật.

II/ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI

1/ Khái niệm, mục đích công tác phòng chống tệ nạn xã hội và đặc điểm đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội

-  Khái niệm về tệ nạn xã hội: Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã họi tiêu cực, có tính phổ biến, biểu hiện bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội là những hành vi sai lệch chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội, như:

+ Thói hư, tật xấu.

+ Phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu.

+ Nếp sống xa đọa, trụy lạc, mê tín đồng bóng, bói toán…

Bản chất của tệ nạn xã hội là xấu xa, trái với nếp sống văn minh, trái với đạo đức, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tệ nạn xã hội là biểu hiện cụ thể của lối sống thực dụng, coi thường các chuẩn mực đạo đức, xã hội và pháp luật, làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mĩ tục của dân tộc, phá vỡ tình cảm, hạnh phúc gia đình, phá hoại nhân cách, phẩm giá con người, ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, năng suất lao động, làm băng hoại giống nòi dân tộc…là con đường dẫn đến tội phạm.

-  Mục đíchcông tác phòng chống tệ nạn xã hội

+ Ngăn ngừa chặn đứng không để cho tệ nạn xã hội phát sinh, phát triển, lan rộng trên đại bàn.

+ Từng bước xóa bỏ dần những nguyên nhân điều kiện của tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, bảo vệ thuần phong mĩ tục của dân tộc.

+ Phát hiện, đấu tranh, xử lí nghiêm minh những hành vi hoạt động tệ nạn xã hội góp phần giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

-  Đặc điểm của tện nạn xã hội

+ Có tính lây lan  nhanh trong xã hội

+ Tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức; đối tượng tham gia rất đa dạng và phức tạp về thành phần.

+ Các đối tượng hoạt động có nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi để đối phó với lực lượng chức năng và che mắt quần chúng nhân dân thường cấu kết với nhau thành đường dây, ổ nhóm.

+ Tệ nạn xã hội thường có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự, các hiện tượng tiêu cực xã hội khác và có sự chuyển hóa lẫn nhau.

+ Địa bàn tập trung hoạt động thường là những nơi tập trung đông người, các khu công nghiệp, du lịch những nơi trình độ của quần chúng nhân dân còn lạc hậu tháp kém và công tác quản lí xã hội còn nhiều sơ hở thiếu sót.

-  Công tác phòng chống tệ nạn xã hội

Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là quá trình Nhà nước cùng các ngành, các cấp các đoàn thể tổ chức xã hội và mọi công dân (trong lực lượng công an là nòng cốt) tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm phát hiện, ngăn chặn, loại trừ các tệ nạn xã hội.

Đấu tranh loại trừ tệ nạn ra khỏi đời sống xã hội đòi hỏi phải có sự tham gia của các cấp, các ngành, của toàn thể xã hội. Trong đó, lực lượng cơ sở có một vai trò, vị trí quan trọng. Đây là lực lượng chủ công, nòng cốt tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân và trực tiếp thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các biện pháp theo chức năng, nhiệm vụ của mình để phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn.

2/ Chủ trương, quan điểm và các qui định của pháp luật vè phòng chống tệ nạn xã hội

-  Chủ trương, quan điểm

Nghiêm cấm mọi hình thức hoạt động tệ nạn xã hội, xử lí thích đáng những tên hoạt động chuyên nghiệp, hoạt động có ổ nhóm, những tên cầm đầu hoặc tổ chức lôi kéo người khác đo vào con dường hoạt động tệ nạn xã hội. Chủ động phòng ngừa ngưan chặn không để tệ nạn xã hội lây lan phát triển gây tác hại đến đời sống nhân dân và trật tự xã hội. Giáo dục cải tạo những người mắc tệ nạn xã hội làm cho họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Quan điểm trên được thể hiện trên các mặt cụ thể sau:

+ Phòng ngừa là cơ bản, lồng ghép và kết hợp chặt chẽ công tác phòng chống tệ nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội ở địa phương.

Đây là phương hướng cơ bản nhất, vừa thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, mang ý nghĩa kinh tế, vừa phù hợp với  đạo đức, phong tục tập quán của dân tộc.

Để có thể giải quyết, bài trừ triệt để tệ nạn xã hội đòi hỏi phải khắc phục từng bước những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế xã hội, phải thực hiện đồng bộ các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, lồng ghép, gắn kết công tác phòng chống tệ nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội ở địa phương như chính sách về lao động, việc làm, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, các chính sách về văn hóa, giáo dục nhằm điều chỉnh việc xây dựng các chuẩn mực xã hội và định hướng giá trị xã hội lành mạnh, phát huy và kế thừa các phẩm chất đạo đức truyền thống tốt đẹp. Đẩy mạnh chương trình “xóa đói giảm nghèo”, “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” nhằm từng bước ngăn chặn, loại trừ, xóa bỏ tệ nạn xã hội trên địa bàn.

+ Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, phải được triển khai đồng bộ ở các cấp, các ngành, trong đó lấy phòng chống từ gia đình, cơ quan, đơn vị, trường học làm cơ sở.

Trong công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội thì Chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể ở cơ sở và gia đình giữ một vai trò rất quan trọng. Đây là lực lượng trực tiếp thực hiện, biến những chủ trương, chính sách, qui định của Đảng và Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội thành hiện thực. Là nơi thực hiện  các cuộc vận động của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu vực dân cư, góp phần đẩy lùi và bài trù tệ nạn xã hội. Do đó cần xác định đúng vai trò của nhà trường trong đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội.

+Kết hợp chặt chẽ giữa việc xử lí nghiêm khắc với việc cảm hóa, giáo dục, cải tạo dối với những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội.

Xử lí nghiêm minh những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội chuyên nghiệp, những đối tượng chủ chứa, tổ chức, môi giới, cầm đầu trong các đường dây, ổ nhóm hoạt động tệ nạn xã hội, cần tích cực, kiên trì cũng như quan tâm tạo các điều kiện thuận lợi vè vật chất và tinh thần để động viên, giáo dục, cảm hóa đối tượng là nạn nhân của tệ nạn xã hội để họ yên tâm rèn luyện để trở thành công dân có ích cho xã hội.

-  Các qui định của pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội

Trong quá trình đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh công tác này, như: tội hành nghề mê tín dị đoan; tội chứa mại dâm; tội môi giới mại dâm; tội mua dâm người chưa thành niên; tội đánh bạc; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; các tội phạm về ma túy…

3/ Các tệ nạn xã hội phổ biến và phương pháp phòng chống

-  Tệ nạn nghiện ma túy

Là một loại tệ nạn xã hội mà nạn nhân có thói quen sử dụng chất ma túy dẫn đến tình trạng lệ thuộc vào ma túy khó có thể bỏ được. Nghiện ma túy gây hậu quả tác hại lớn cho bản thân người nghiện và cho xã hội.

Hình thức sử dụng ma túy chủ yếu là hút, hít, tiêm chích thuốc phiện, heroin. Hiện nay, hình thức sử dụng ma túy tổng hợp, thuốc lắc đang có xu hướng phát triển mạnh trong thanh thiếu niên và học sinh

Nguyên nhân của tình trạng nghiện ma túy rất đa dạng.: Do hậu quả của lối sống đua đòi, lười lao động, ăn chơi với nhu cầu khoái cảm cao chọn ma túy để mua vui; do gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, bị lôi kéo, rủ rê hoặc bị khống chế…Quản lí học sinh ngoại trú còn có nhiều bất cập; một số học sinh nghiện ma túy nhưng không được phát hiện, giúp đỡ kịp thời nên càng lún sâu vào con đường nghiện ngập.

Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn ma túy:

Phải từng bước kiềm chế, ngăn chặn không để tệ nạn ma túy lây lan phát triển, đặc biệt trong các trường học, trong học sinh và giáo viên. Không để có thêm học sinh mắc nghiện ma túy trong các trường học. Phát hiện, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện hình thành tệ nạn ma túy. Có các hình thức xử lí nghiêm minh các đối tượng có liên quan đến ma túy, các đối tượng hoạt động có tính chất chuyên nghiệp.

-  Tệ nạn mại dâm

Mại dâm là một loại tệ nạn xã hội bao gồm những hành vi nhằm thực hiện các dịch vụ quan hệ tình dục có tính chất mua bán trên cơ sở một giá trị vật chất nhất định ngoài phạm vị hôn nhân.

Tệ nạn mại dâm bao gồm các hành vi: Bán dâm, mua dâm, chứa mại dâm, tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức bán dâm, môi giới mại dâm, bảo kê mại dâm và các hành vi khác liên quan đến tệ nạn mại dâm. Căn cứ vào tính chất của các hành vi, đối tượng tham gia tệ nạn mại dâm bao gồm các loại đối tượng chủ yếu: Người bán dâm, người mua dâm, người chứa mại dâm, người môi giới mại dâm.

Trong những năm qua tình hình mại dâm có nhiều diễn biến phức tạp, có xu hướng tăng lên cả về số vụ và tính chất mức độ nghiêm trọng, thủ đoạn hoạt động ngàn càng tinh vi, xảo quyệt, có nhiều thủ đoạn đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân và hoạt động điều tra của cơ quan công an. Đối tượng tham gia tệ nạn mại dâm thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, ở nhiều độ tuổi khác nhau và có các quốc tịch khác nhau.

+ Đặc điểm đối tượng chủ chứa mại dâm: Chủ yếu là nữ, số đối tượng là nam giới chiếm tỉ lệ nhỏ hơn và tập trung ở độ tuổi từ 30 trở lên. Đa số chủ chứa mại dâm là người có quốc tịch Việt nam, một số ít có quốc tịch nước ngoài. Các đối tượng chủ chứa mại dâm có tiền án, tiền sự chiếm khoảng trên 20%. Các đối tượng chủ chứa mại dâm có trình độ văn hóa thấp kém, số chủ chứa có trình độ văn hóa trung học trở lên chiếm tỉ lệ không đáng kể.

+ Đặc điểm đối tượng môi giới mại dâm: Đa số đối tượng môi giới mại dâm là nam giới và có độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm tỉ lệ trên 50%; phần lớn là làm các nghề có điều kiện để môi giới mại dâm như: xe ôm, xích lô, bảo vệ…Các đối tượng môi giới mại dâm có tiền án, tiền sự chiếm tỉ lệ khoảng gần 20%; phần lớn các đối tượng có trình độ văn hóa thấp, có khoảng trên 20% có trình độ trung học trở lên.

+ Đặc điểm của đối tượng bán mại dâm: Hầu hết các đối tượng bán dâm là nữ, số đối tượng bán dâm là nam giới chiếm tỉ lệ không đáng kể và có độ tuổi chủ yếu là từ 18 đến 30. Điều đáng quan tâm hiện nay là tình trạng trẻ hóa đội ngũ gái bán dâm đang ngày càng gia tăng. Đa số đối tượng bán dâm không có nghề hoặc nghề tự do chiếm tỉ lệ cao, trình độ văn hóa thấp kém, một số ít đang là học sinh, sinh viên…Đa số gái mại dâm có điều kiện kinh tế khó khăn chiếm tỉ lệ trên 50%, chưa có chồng chiếm tỉ lệ cao, sống li thân hoặc li hôn chiếm tỉ lệ trên 30%, số có chồng làm gái mại dâm chiếm tỉ lệ nhỏ.

+ Đặc điểm đối tượng mua dâm: Phần lớn các đối tượng mua dâm là nam giới ( tỉ lệ nữ không đáng kể); độ tuổi 30 trở lên chiếm tỉ lệ cao, khách mua dâm là người nước ngoài đang có xu hướng gia tăng. Các đối tượng mua dâm có nhiều thành phần nghề nghiệp khác nhau song chủ yếu tập trung ở những nghè buôn bán dịch vụ, tiểu thương và cán bộ công chức nhà nước.

+ Đặc điểm về phương thức, thủ đoạn hoạt động: các đối tượng tổ chức hoạt động mại dâm ngày càng có nhiều thủ đoạn hoạt động tinh vi xảo quyệt và có sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà hàng, khách sạn vũ trường, nhà nghỉ…hình thành các ổ nhóm, đường dây hoạt động, có sự ăn chia về quyền lợi. Hoạt động núp dưới các danh nghĩa nhà hàng, khách sạn, các dịch vụ xã hội như massage, giải khát, karaoke…

Các đối tượng hoạt động tệ nạn mại dâm theo phương thức gái gọi và thông qua gái mại dâm là một phương thức phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với các đối tượng buôn bán phụ nữ trẻ em vì mục đích mại dâm; có sự liên kết với các đối tượng tội phạm là người nước ngoài.

+ Đặc điểm về địa bàn hoạt động: Địa bàn hoạt động của tệ nạn mại dâm có ở khắp nơi song chủ yếu hoạt động của tệ nạn mại dâm là thành phố, thị xã, các khu công nghiệp, du lịch, nghỉ mát, những nơi có đông người nước ngoài cư trú…

+ Về hậu quả tác hại: Tệ nạn mại dâm làm xói mòn đạo đức dân tộc, là một trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỉ.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do một bộ phận nhân dân chưa được giáo dục đầy đủ về pháp luật, nếp sống lành mạnh, chạy theo lối sống xa hoa hưởng lạc. Mặt khác công tác quản lí, xử lí đối tượng trên chưa kiên quyết, triệt để, nhiều nơi còn bị buông lỏng. Một số đối tượng còn có điều kiện dụ dỗ, rủ rê, lừa đảo, thậm chí ép buộc, cưỡng bức phụ nữ đi vào con đường mại dâm.

+ Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn mại dâm: Kịp thời phát hiện và ngăn chặn không để tệ nạn mại dâm lây lan phát triển, đặc biệt giữ gìn môi trường lành mạnh trong nhà trường. Từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tệ nạn mại dâm tiến tới đẩy lùi tệ nạn mại dâm ra khỏi đời sống xã hội; phát hiện, điều tra xử lí theo qui định của pháp luật.

-  Tệ nạn cờ bạc: Tệ nạn cờ bạc là một tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi lợi dụng các hình thức vui chơi giải trí để cá cược, sát phạt nhau bằng tiền hoặc vật chất.

+ Tệ nạn cờ bạc bao gồm các hành vi:

•Đánh bạc: Là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để sát phạt được thua thông qua các trò chơi.

•Tổ chức đánh bạc: Là hành vi rủ rê, lôi kéo, tập hợp người khác cùng đánh bạc, người tổ chức cũng có thể cùng tham gia đánh bạc.

•Gá bạc: Là hành vi dùng nhà ở của mình hoặc địa điểm khác để chứa các đám bạc từ đó trục lợi cho mình qua những người đánh bạc.

+ Đối tượng tham gia tệ nạn cờ bạc bao gồm: Đối tượng tổ chức đánh bạc, đối tượng gá bạc và đối tượng đánh bạc.

Tệ nạn cờ bạc trong những năm qua có những diễn biến hết sức phức tạp, có xu hướng tăng cả về số vụ và tính chất nghiêm trọng, xuất hiện nhiều hình thức mới trong hoạt động, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi xảo quyệt, hoạt động có sự câu kết với các đối tượng là người nước ngoài, hoạt động xuyên quốc gia.

+ Đặc điểm của tệ nạn cờ bạc : Tệ nạn cờ bạc được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Tổ tôm, chắn cạ, xóc đĩa, tam cúc, xì tố, xập xám, tú lơ khơ, tá lả…và các hình thức cá cược khác. Tệ nạn cờ bạc có nhiều người mắc phải và có tính lây lan phát triển nhanh, rất đa dạng bao gồm nhiều thành phần có nghề nghiệp, độ tuổi, trình dộ văn hóa khác nhau (cán bộ công nhân viên chức nahf nước, học sinh, đối tượng không nghề, nghề nghiệp không ổn định, lưu manh…)

•Các đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc, chứa bạc có nhiều thủ đoạn hoạt động tinh vi xảo quyệt để đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân và hoạt động điều tra của cơ quan công an. Chúng hình thành các ổ nhóm, đường dây để hoạt động, thường xuyên thay đổi địa bàn, nhiều tổ chức đường dây hoạt dộng liên địa bàn, xuyên quốc gia.

•Tệ nạn cờ bạc có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự và các hiện tượng tiêu cực khác như mại dâm, ma túy; gây ra hậu quả tác hại lớn cho đời sống xã hội và gây khó khăn cho công tác giữ gìn trật tự xã hội.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do bản chất ăn bám, bóc lột, lười lao động, thích hưởng thụ cuộc sống cao sang của một số người; do cuộc sống gia đình gặp khó khăn, bế tắc trong cuộc sống…cùng với sự thiếu sót trong quản lí, kinh tế, xã hội của Nhà nước và các tổ chức.

+ Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn cờ bạc : Kịp thời phát hiện không để tệ nạn cờ bạc lây lan phát triển gây hậu quả tác hại, đặc biệt trong học sinh và nahf trường. Tiến hành đồng bộ các biện pháp để đấu tranh xóa bỏ nguyên nhân , điều kiện của tệ nạn cờ bạc. Phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ quan để đấu tranh triệt phá các ổ nhóm, đường dây tổ chức hoạt động; xử lí nghiêm minh các đối tượng hoạt động cờ bạc.

-  Tệ nạn mê tín dị đoan: Mê tín dị đoan là tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi biểu hiện thái quá lòng tin mù quáng vào những điều huyền bí không có thật, từ đó có những suy đoán khác thường, dẫn đến cách ứng xử mang tính chất cuồng tín, hành động trái với những chuẩn mực của xã hội, gây hậu quả xấu đến sức khỏe, đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đến an ninh trật tự.

+ Đặc điểm tệ nạn mê tín dị đoan:

•Là một biểu hiện của các hủ tục lạc hậu, tàn dư của xã hội cũ còn sót lại trong xã hội hiện nay; nó kích thích và phù hợp với tâm lí của một bộ phận người trong xã hội có trình độ nhận thức thấp kém.

•Tệ nạn mê tín dị đoan được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và có xu hướng lây lan phát triển nhanh nhất là ở những vùng sâu, nhận thức của quần chúng còn lạc hậu. Đối tượng tham gia tệ nạn mê tín dị đoan phần lớn là phụ nữ, những người có trình độ nhận thức thấp kém, hoàn cảnh gia đình gặp nhiều trắc trở, cuộc sống éo le…ngoài ra còn có một số cán bộ công nhân viên chức, một số có học thức cao và một bộ phận nhỏ học sinh cũng mắc phải tệ nạn này.

•Đối tượng reo rắc mê tín dị đoan: Lợi dụng lòng tin, lợi dụng thàn thánh, trời phật, may rủi có hành vi cầu cúng, đồng bóng, bói toán nhằm buôn bán thần thánh để kiếm lời hoặc tuyên truyền, reo rắc mê tín dị đoan gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.

•Địa bàn xảy ra có ở khắp nơi song chủ yếu tập trung ở những nơi công tác quản lí xã hội, quản lí văn hóa còn bộc lộ nhiều yếu kém, trình độ nhận thức của quần chúng còn lạc hậu.

•Tệ nạn mê tín dị đoan hiện đang được các đối tượng phản dộng và các thế lực phản cách mạng triệt để lợi dụng để chống ohas cách mạng Việt Nam, nhất là ở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc ít người trình độ nhận thức còn lạc hậu, thấp kém.

•Tệ nạn mê tín dị đoan gây nên những hậu quả xấu cho xã hội như làm tan vỡ hạnh phúc nhiều gia đình, ảnh hưởng đến tình trạng, sức khỏe con người, gây thiệt hại đến tài sản của quần chúng, ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự.

+ Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn mê tín dị đoan: Nâng cao trình độ nhận thức cho toàn dân và học sinh để họ tự giác đấu tranh với tệ nạn mê tín dị đoan; phân biệt được những hành vi mê tín dị đoan với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong quần chúng nhân dân, với những hoạt động lễ hội truyền thống văn hóa dân tộc. Kịp thời phát hiện các hình thức hoạt động mê tín dị đoan  để có biện pháp ngăn chặn.

4/ Trách nhiệm của nhà trường và học sinh trong phòng chống tẹ nạn xã hội

-  Đối với nhà trường

Thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục trong nhà trường về phòng chống tệ nạn xã hội; tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh trong phòng chống các tệ nạn nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc; phân định rõ mê tín dị đoan với các hoạt động tôn giáo, tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân dân; giáo dục lối sống lành mạnh, đấu tranh chống lối sống buông thả, lối sống trụy lạc, sống gấp.

Xác định rõ hậu quả tác hại từng loại tệ nạn xã hội, nguyên nhân và con đường lây lan; phối hợp với các cơ quan chức năng, lãnh đạo chỉ đạo các tổ chức Đoàn, Hội phụ nữ…trong đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội; phối kết hợp với lực lượng công an cơ sở, chính quyền địa phương và gia đình quản lí chặt chẽ học sinh ngoại trú để chủ động phát hiện các hành vi hoạt động ma túy, mại dâm, cờ bạc, đồng bóng, bói toán…có biện pháp ngăn chặn kịp thời.

Nắm chắc tình hình học sinh có hành vi hoạt động các tệ nạn xã hội, cung cấp cho lực lượng bảo vệ, cơ quan công an những tụ điểm, tổ chức, đường dây hoạt động tệ nạn xã hội, phối hợp xử lí theo qui định của pháp luật. Phối hợp cùng chính quyền địa phương, lực lượng bảo vệ văn hóa làm trong sạch địa bàn trong trường và khu vực xung quanh.

Giúp cho học sinh hiểu rõ các âm mưu của các thế lực phản động trong việc lợi dụng tự do tín ngưỡng để chống phá cách mạng Việt nam. Phát hiện các trường hợp rủ rê lôi kéo học sinh tham gia vào các tà đạo, các hoạt động tệ nạn xã hội.

Tổ chức cho học sinh các lớp kí cam kết không tham gia các hoạt đọng tệ nạn xã hộ; xây dựng các nội qui, qui chế quản lí ki túc xá, xây dựng các tổ tự quản trong học tập, rèn luyện, vui chơi. Tổ chức các hoạt động thi tìm hiểu pháp luật, pháp lệnh, các văn bản của Đảng, Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội, đặc biệt tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc đang có dấu hiệu tăng nhanh trong giới trẻ. Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao để thu hút học sinh tham gia.

-  Đối với học sinh

Nhận thức rõ hậu quả của tệ nạn xã hội, con đường dẫn đến tội phạm; không tham gia các tệ nạn xã hội dưới bất kì hình thức nào; không bị lôi kéo cam dỗ bởi những khoái cảm, những lối sống trụy lạc, coi trọng đồng tiền, chà đạp lên đạo đức, pháp luật, bán rẻ sự nghiệp của bản thân.

Có trách nhiệm phát hiện những hành vi hoạt động tệ nạn xã hội, các con đường dẫn đến tệ nạn xã hội, đường dây hoạt động ma túy, mại dâm, cờ bạc…báo cáo kịp thời cho nhà trường hoặc lực lượng công an cơ sở.

Không có các hành vi mê tín dị đoan hoặc tham gia vào các hủ tục lạc hậu khác. Bằng các kiến thức đã được học phân biệt được các trường hợp tự do tín ngưỡng, các trường hợp tham quan di tích văn hóa với việc lợi dụng để hoạt động mê tín dị đoan. Cảnh giác trước các hành vi của các đối tượng “ buôn thần bán thánh” và âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực phản động; phát hiện các hình thức biểu hiện mới của tệ nạn mê tín, của các loại tà đạo nảy sinh trong lớp, trong trường báo cáo với nhà trường, chính quyền địa phương để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.

Chủ dộng phát hiện các trường hợp học sinh trong lớp có những dấu hiệu khác thường, những hoàn cảnh éo le, gặp trắc trở trong học tập, trong tình yêu để có biện pháp động viên, giúp đỡ để họ không bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội, tin vào cầu cúng, bói toán; đam mê, khoái cảm…gặp gỡ, động viên những học sinh làm lỗi, cảm hóa, giáo dục họ tiến bộ trở thành người có ích.

Kí cam kết không tham gia vào các hoạt động tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm…Có thái độ học tập nghiêm túc, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia các tổ tự quản, thanh niên xung kích tuần tra kiểm soát bảo vệ kí túc xá, bảo vệ nhà trường.

                                                      -----------------------ii--------------------------

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truong