Văn 12: Chiếc thuyền ngoài xa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bài 1:

Người ta thường nói văn của Nguyễn Minh Châu là thứ văn chương thuộc loại đạm sau khi đã nồng lên nhiều tầng lớp ý nghĩa. Nó không cạn, không mỏng mà ấm, mà dày khiến bạn đọc phải day dứt, và là một lần nữa cho nhà văn tự vấn lại chính mình. Đọc "Chiếc thuyền ngoài xa" dường như ta thấy được những triết lý sâu sắc về nghệ thuật về sáng tác của một ngòi bút sống "bén rễ" ở cuộc đời. Tác phẩm ra đời năm 1983 – thời kì mà dân tộc bước vào giai đoạn đổi mới và văn học cũng phải thay một tấm áo mới. Rằng văn học phải là cuộc sống, một cuộc sống đa chiều không dễ phản ánh nắm bắt theo lối chụp ảnh, đã đến lúc người nghệ sĩ thoát khỏi một nền văn học minh họa, đừng đi vào " cái hành lang hẹp và thấp ấy", để cho chính mình một khoảng đất rộng rãi hơn mà sáng tạo.

Bàn về nhân vật trong tác phẩm, có ý kiến cho rằng: "Nhà văn sáng tạo nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời''. Và nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng đã gửi gắm tư tưởng của mình vào nhân vật Phùng. Đó cũng là sự đổ bóng của nguyễn Minh Châu, ông để cho Phùng là người kể chuyện xuyên suốt toàn tác phẩm. Với tình huống nhận thức, vừa chứa đựng những nghịch lý, vừa mang tính chất khám phá, nhân vật Phùng được Nguyễn Minh Châu phó thác cho vai trò tìm kiếm vẻ đẹp nghệ thuật chân chính trong cuộc đời. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh được phân chụp một bộ lịch "Không có con người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật" – một thứ nghệ thuật không quan tâm đến con người. Hiện thực cuộc đời ở đó chỉ là những hình ảnh thật êm đềm. Và nếu răm rắp nghe theo, Phùng chỉ có thể làm được thứ nghệ thuật minh họa cho vị trưởng phòng. Chuyến đi tới miền biển kia đã cho Phùng có một cuộc đối chứng về nghệ thuật giữa nghệ thuật? minh họa theo ý cấp trên và nó khác xa với nghệ thuật nói lên ý cuộc sống- một cuộc sống đầy phũ phàng và khắc nghiệt, nó khác xa với lớp sương hồng bảng lảng thơ mộng.

Chắc Nguyễn Minh Châu đã phải đắn đo nhiều trước khi quyết định để cho nhân vật Phùng xuất hiện trong truyện với tư cách một phóng viên nhiếp ảnh. Là bởi, nghề nhiếp ảnh không cho phép nghệ sĩ tạo nên tác phẩm của mình chỉ bằng những gì anh ta hư cấu, giống như cách một nhà văn, một họa sĩ hay một điêu khắc gia...có thể và vẫn thường làm. Chính vì thế, cái cảnh tượng đẹp như mơ mà Phùng nói rằng mình đã thu vào ống kính, rồi sau đó, diễn tả lại dưới đây phải là cảnh tượng tận mắt anh chứng kiến, chứ không phải do anh tưởng tượng ra.

Nguyễn Minh Châu đã miêu tả rất xúc động cái giây phút người nghệ sĩ xúc động trước cái đẹp mà mình vừa chạm vào nó. Chi tiết này được miêu tả rất ám ảnh, rất ấn tượng. Bởi lẽ Phùng là người cả đời đi săn cái đẹp, cả đời anh thu vào trong cái ống kính của mình những cái vẻ đẹp của cuộc sống, của cuộc đời. Do đó, anh đâu có lạ trước cái đẹp. Thế mà để một người nghệ sĩ cả đời đi thu vào trong ống kính của mình cái đẹp, mà lại xúc động đến mức độ như thế thì cái đẹp đấy nó phải đạt đến cái mức độ "trác tuyệt" như thế nào. Ấy thế nhưng, cái đẹp ấy lại không phải là "tranh tinh xảo với hóa công", mà là cái đẹp của những điều rất giản dị. Khung cảnh rộng lớn của biển với chiếc thuyền ngoài xa mà "mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như có sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào", trên thuyền là vài bóng người ngồi im phăng phắc. Nó chỉ là một cái thuyền lưới vó bình thường, chỉ là những thứ hết sức giản dị. Tất cả hiện lên dưới ánh sương mai hồng hồng, nhưng cái giản dị ấy lại hòa hợp đến mức độ toàn bích, từ đường nét đến màu sắc, từ ánh sáng đến bố cục. Cái gì cũng đạt đến độ "trọn vẹn". Chính vì cái vẻ đẹp giản dị đạt đến mức độ toàn bích ấy đã tạo nên một biểu trưng của cái đẹp. Đó là cái đẹp khiến cho trái tim của Phùng như có cái gì đó bóp thắt chặt lại. Lần đầu tiên, Phùng hiểu cái đẹp chính là đạo đức. Chúng ta nhận ra rằng: Khi nào cái đẹp trở thành đạo đức, và một khi đạo đức là cái đẹp thì đó đích thực là đạo đức.

Đứng trước cái đẹp tâm hồn trở nên đẹp đẽ hơn, thanh tao hơn. Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối và "trái tim như có cái gì bóp thắt vào". Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Không cần lựa chọn xê dịch gì nữa, "anh bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn". Đây chính là sự nhạy cảm của trái tim người người nghệ sĩ. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền giữa biển trời mờ sương, anh đã bắt gặp cái "tận Thiện, tận Mỹ", thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc đó là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Để có được niềm hạnh phúc ấy, người nghệ sĩ phải kiên trì, phải vượt khó, phải đam mê hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hòa hợp kỳ lạ giữa cảnh vật và con người, đơn giản và hoàn mỹ.

"Có những hình ảnh thoạt mới nhìn thì đẹp, thậm chí là rất đẹp, nhưng nếu nhìn kĩ bên trong, đi sâu vào bản chất của nó thì hoàn toàn ngược lại". Cuộc sống nhiều khi thường "đánh lừa" ta như thế. Vậy nên, con người phải có con mắt tinh tường, nhìn thấu "gan ruột" cuộc sống để khám phá, phát hiện thì mới mong tìm ra đúng bản chất của nó. "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn như vậy. Việc nghệ sĩ Phùng bất ngờ phát hiện một cảnh đẹp "trời cho" – là cảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển mù sương, khiến cho tâm hồn anh như được thăng hoa trong cái đẹp, trong niềm hạnh phúc ngọt ngào. Thế nhưng, cũng chính chiếc thuyền ấy, anh lại bất ngờ chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài, khiến cho anh phải sững sờ, kinh ngạc.

Đâu phải ngẫu nhiên khi Nguyễn Minh Châu đã mô tả người đàn ông trong bộ dạng của một con gấu dữ dằn, với những đám lông đen loăn xoăn, với tảng lưng khum khum và "hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng". Người đàn bà mặt rỗ thì như được vùng đầm phá đẻ ra từ những gì xấu xí, thô kệch, hèn dại của mình. Và thằng Phác, nó nhanh mạnh, dũng cảm như một chú sói con, nhưng cũng câm lặng và hoang dại như chính thiên nhiên của vùng biển xa vắng đó. Những con người ấy sống bên nhau, quần tụ, rồi xâu xé, chống chọi nhau, cứ như thể xã hội này không hề có văn hóa và luật pháp.

Tuy nhiên, sẽ quá giản đơn, nếu hiểu Chiếc thuyền ngoài xa chỉ là một tiếng nói lên án thói bảo hành trong gia đình, hay trong xã hội. Cũng không nên vội coi truyện ngắn chỉ là một bức tranh có hai màu sáng tối soi chiếu vào nhau, để làm nổi bật lẫn nhau: bên này là mơ, bên kia là thực, bên này là vẻ tuyệt diệu của thiên nhiên, bên kia là sự xấu xa nơi nhân thế. Một tác phẩm mang ý tưởng giống như của V. Huy-gô trong tiểu thuyết Chín mươi ba: "Hãy nhìn xem, thiên nhiên làm được gì, con người thì làm được những gì?".

Tạo ra tình huống đối lập ấy, nhà văn muốn truyền tới người đọc thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ sĩ và cuộc đời. Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lí tưởng như nghệ thuật. Điều này không mới. Cách ta hơn sáu mươi năm, Nam Cao chẳng đã từng nói "Nghệ thuật không cần phải là... không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than..." . Những tác phẩm nghệ thuật vô giá không phải tự dưng mà đến, đó là kết quả của quá trình lao động miệt mài hăng say. Khi bắt gặp cảnh đẹp người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình trong sáng vô ngần. Từ đây nhà văn muốn nhấn mạnh đến khả năng nhân đạo hoá con người của nghệ thuật chân chính: "Cái đẹp cứu vớt con người". Để có được phát hiện thứ nhất, người nghệ sĩ phải trăn trở tìm kiếm và lựa chọn, cảnh đẹp ở rất xa nhưng vì niềm đam mê và khát vọng cống hiến cho nghệ thuật nên phải đi tìm kiếm. Phát hiện thứ hai lại ở rất gần, ngay bên cạnh cuộc sống mỗi người, nhưng đó lại là sự thật trần trụi và thô ráp, chỉ mang những nỗi khổ đau, bất bình. Đôi khi ta cứ mải miết theo đuổi những thứ xa vời mà bỏ qua những sự thật ngay trước mắt.

Như vậy, thông qua sự đối lập trong hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn nêu ra một điều chiêm nghiệm sâu sắc: Cần phải gắn nghệ thuật với cuộc đời, bởi "nghệ thuật chân chính luôn được khơi dậy từ cuộc đời và quay trở lại cuộc đời". Người nghệ sĩ không được phép nhìn sự vật một cách đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng biết trăn trở về con người, phải đào xới vào những tầng sâu của đời sống để làm hé lộ những "hạt ngọc trong tâm hồn" có thể còn mang những lấm láp của cát bụi đời thường. Nghệ thuật và cuộc sống luôn luôn có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu nghệ thuật không bám sâu vào đời sống thì nghệ thuật sẽ như cái cây bị héo khô vì thiếu những mạch nước ngầm. Hiện thực xã hội là mảnh đất sống của văn chương, là chất mật làm nên tính chân thực, tính tự nhiên, tính đúng đắn, tính thực tế của tác phẩm văn học. Một tác phẩm có giá trị hiện thực bao giờ cũng giúp người ta nhận thức được tính quy luật của hiện thực và chân lý đời sống. Người nghệ sĩ phải "thọc tay", đi sâu vào cuộc sống để làm sáng lên cốt lõi của cuộc sống. Nếu xa rời cuộc sống, người nghệ sĩ cũng sẽ đánh mất đi chức năng cao quý nhất của nghệ thuật: Nghệ thuật vị nhân sinh. Nếu người nghệ sĩ tự hài lòng với bản thân rằng mình đã khám phá hết vẻ đẹp của con người và cuộc sống thì đâu còn đâu mà sáng tạo, còn đâu là niềm vui của nghệ thuật. Thời điểm người cầm bút có suy nghĩ đó, tức là tác phẩm anh ta viết ra không khác gì một điếu văn khai tử.

"Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó" (Bêlinxki). Tìm đến những tác phẩm văn học người đọc đâu chỉ mong chờ vài phút giây giải trí bông quơ. Trang sách đóng lại tác phẩm nghệ thuật mới mở ra và "cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương". Quả thực để có một tác phẩm để lại cho đời cho người, nhà văn luôn không ngừng " đãi cát tìm vàng" tích lũy những hạt bụi trần gian ngoài kia làm thành những kiệt tác. Thiết nghĩ mỗi một tác phẩm đều được hạ sinh từ những "cơn trở dạ" của nhà văn với cuộc đời. "Chiếc thuyền ngoài xa cũng vậy", qua tác phẩm người đọc đến với lát cắt cuộc sống rất thực để mà day dứt cảm thông và trân trọng hơn cả là thứ nghệ thuật vị nhân sinh mà Nguyễn Minh Châu tâm niệm suốt một đời cầm bút. Văn là đời, người nghệ sĩ không được phép quên. Và có làm được như vậy "đứa con tinh thần" của nhà văn mới vượt qua quy luật của sự băng hoại, sự đào thải khắc nghiệt của thời gian mà ngấm sâu vào lòng người. Trân trọng thay cho tấm lòng của một người cầm bút như vậy...

Thế nhưng, lẽ đời kỳ lạ ở chỗ lòng những người khốn khổ tột cùng nhiều khi lại quảng đại, bao dung, sáng suốt. Như Xô-ni-a ở "Tội ác và trừng phạt" hay như Từ ở "Đời thừa". Người đàn bà ở Chiếc thuyền ngoài xa cũng thế.
Không, đó không hề là sự lạc hậu để người phụ nữ ấy phải xin ai chiếu cố, lượng tình. Đó là sự nhân hậu, lòng vị tha, cội nguồn nhân bản nghìn đời ngưng kết lại trong tâm hồn người lao động.

Không những thế, Nguyễn Minh Châu cũng làm cho người đọc không thể bỏ qua trong cách nhìn lại tấm ảnh của Phùng "tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai". Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, cái chất thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng. Nhưng nó không hoàn toàn xám xịt, hay đen tối làm cho người ta cảm thấy buồn rầu, mà khi để hết tâm trí nhìn ngắm, người ta vẫn có thể phát hiện ra những điểm hồng nào đó. Chẳng qua là màu hồng kia bị che lấp bởi vô vàn cái bùng nhùng, rối rắm của cuộc đời - cũng như cuộc đời thầm lặng, vô danh của người phụ nữ hàng chài kia tưởng như không có gì đáng nói mà thật ra, một cách tình cờ, Phùng đã phát hiện ở chị những phẩm chất đáng quý khiến anh phải suy ngẫm rất nhiều và thay đổi quan niệm về con người và cuộc sống.

Nguyễn Minh Châu là tiên phong cho cả một con đường mà đến tận bây giờ văn học nước nhà vẫn đang phấn đấu phát triển. Ta hiểu rằng đời sống
vẫn đang tiếp diễn, văn học vẫn đang vận động, máu và tinh tuý của nhà văn vẫn đang sẵn sàng tuôn ra đầu ngòi bút để xăm lên mặt đời những tác phẩm văn học mới đầy hấp dẫn. Suy cho cùng văn học phục vụ cho con người. Và những tác phẩm mang tính nhân bản như "Chiếc thuyền ngoài xa" sẽ mãi mang giá trị đó tồn tại cùng thời gian.

Bài 2:
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
                                                   ( NGUYỄN MINH CH U )
     Mỗi khi cầm bút, người nghệ sĩ dù muốn hay không, dù không nói ra hay bộc lộ trực tiếp thì đều viết dưới ánh sáng của một " tuyên ngôn nghệ thuật "nào đấy. Ta thường bắt gặp nhiều tuyên ngôn nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ lớn như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh,.....Những tuyên ngôn nghệ thuật ấy không còn của riêng các ông nữa mà còn là của cả một thế hệ cầm bút, hơn nữa còn là của cả một thời đại văn học. Viết "Chiếc thuyền ngoài xa "nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn đưa ra suy nghĩ và quan điểm của cuộc sống, con người và nghệ thuật (...)
     Sau ngày 30/4/1975 – ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tiếng súng đã ngừng nổ trên bầu trời Việt Nam, giang sơn thu về một mối, Bắc – Nam sum họp một nhà. Chúng ta đã trải qua ba mươi năm của hai cuộc kháng chiến và giờ đây từ chiến tranh chúng ta lại trở lại với thời hòa bình. Đây chính là giai đoạn chuyển mình của đất nước, và cũng ở giai đoạn này, bao giờ cũng vậy, trên các diễn đàn văn chương sẽ xuất hiện những tác phẩm luận đề. Những tác phẩm luận đề là gì? Những tác phẩm luận đề là những tác phẩm bàn luận để đưa ra vấn đề nào đó. Và thời thế đã thay đổi thì cách viết của nhà văn cũng cần phải được đổi thay. Tiêu biểu hơn cả là nhà văn Nguyễn Minh Châu, ông được mệnh danh là vị khai quốc công thần của nền văn học Việt Nam thời đại mới. Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nói: "Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này ". Nguyễn Minh Châu ( 1930 – 1989 ), ông sinh ra ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là nhà thơ trường thành từ cách mạng, trước năm 1975, ông cũng viết nhiều tác phầm về vẻ đẹp con người trong kháng chiến, nổi bật là tác phẩm "Mảnh trăng cuối rừng ". Nhưng nếu chỉ nhận xét về Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 thì lại là một thiếu xót lớn.
     Trong tác phẩm "Đôi mắt "của nhà văn Nam Cao, mà tiền thân là truyện "Tiên sư anh Tào Tháo ", nhà văn Nam Cao đã từng nói: "Hãy rũ bỏ đôi mắt cũ để nhìn cuộc đời mới, bởi càng đi nhiều, càng quan sát lắm, anh sẽ chỉ cảm thấy chán nản hơn mà thôi ". Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 là người đi tiên phong cho công cuộc lột xác văn chương, khép lại cảm hứng sử thi và mở ra cảm hứng thế sự. Ta có thể hiểu nôm na nghĩa là, không viết nhiều về chiến tranh nữa mà viết nhiều hơn về cuộc sống và chiêm nghiệm nhiều hơn về cuộc đời. Những tác phẩm của ông phải kể đến như: "Bức tranh ", "Cỏ lau ", "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ", "Bến quê ",.... và đặc sắc nhất phải kể đến tác phẩm: "Chiếc thuyền ngoài xa ". Thông qua các tác phẩm ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đưa ra những tuyên ngôn nghệ thuật về cuộc đời.
     Nhắc tới tác phẩm "Bến quê "- một tác phẩm đã được học ở năm lớp 9 cũng là của nhà văn Nguyễn Minh Châu, ông viết về một nhân vật, anh ta tên là Nhĩ, cả cuộc đời Nhĩ đi khắp thế gian để rồi những ngày tháng cuối đời nằm liệt trên giường bệnh anh mới nhận ra những vấn đề trong cuộc sống. Thứ nhất, anh ta phát hiện cái bờ bãi bên kia sông – chính là quê hương của anh ta mà anh ta chưa một lần về thăm. Vậy cả đời này anh ta đi khắp thế gian thì có ý nghĩa gì? Thứ hai chính là hình ảnh người vợ tần tảo sớm hôm quan tâm lo lắng chăm sóc anh từng chút một mà anh không hề cảm nhận và làm được điều gì cho cô ấy, mãi tới khi anh nằm liệt trên giường thì anh mới nhận ra hơi ấm từ người vợ của mình nhưng bây giờ thì anh còn có thể làm được điều gì nữa? Thứ ba, anh nhờ cậu con trai của mình qua bờ bãi bên kia sông hộ bố nhưng cậu con trai lại vướng vào một cuộc đánh cờ và bỏ lỡ chuyến đò cuối cùng trong ngày sang sông. Tuổi trẻ thì thường vướng vào những thú vui trong cuộc sống mà quên đi những mong ước đời thường. Từ đây cho ta thấy sự lột xác của Nguyễn Minh Châu trong văn chương lẫn cách viết, cho thấy sự khởi đầu của ông cho những sáng tác tiếp theo.
     Nhan đề của tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa "là sự biểu trưng của nghệ thuật, là thứ nghệ thuật đạt tới sự hoàn mỹ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc. Nhưng khi chiếc thuyền tiến vào gần thì đó chính là hiện thực, là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, éo le, thậm chí là những trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
     Trong mỗi truyện ngắn thường có ba kiểu tình huống: tình huống hành động, tình huống tâm lí – tâm trạng và tình huống nhận thức. Thành công của tác giả đã xây dựng một tình huống nhận thức có tính luận đề mới mẻ, khác hẳn với các tác phầm văn chương trước năm 1975. Giống như ở tác phẩm "Bến quê "tình huống tự nhận thức là nhân vật Nhĩ, Nhĩ nhận ra ý nghĩa cuộc sống trong những ngày tháng cuối đời mình. Trong một tác phẩm truyện ngắn, tình huống truyện bao giờ cũng là yếu tố quyết định sự thành công của tác phẩm. Tình huống truyện là một điểm nhấn đặc biệt mà tại đó được bộc lộ lên rõ nét nhất ý đồ và tư tưởng của tác giả. Ngoài ra còn giúp mạch truyện linh hoạt và xây dựng thành công tính cách các nhân vật. Nếu tình huống hành động nhằm tới hành động có tính bước ngoặt, tình huống tâm lí – tâm trạng thường khám phá diễn biến tâm lí của nhân vật thì tình huống nhận thức lại là giây phút "giác ngộ " ra chân lí cho các nhân vật.
     Sự tự nhận thức đầu tiên có lẽ bắt nguồn từ hình ảnh nhiếp ảnh gia Phùng. Anh được cấp trên giao cho nhiệm vụ chụp ảnh cảnh biển cho một bộ lịch nghệ thuật thuyền và biển. Sau bao nhiêu ngày trở về chiến trường xưa, lang thang ở bãi xe tăng hỏng, Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp bức anh mà anh chụp được, đó chính là hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang được tưới thẫm lên bằng màu của sương khói. Đó là một bức ảnh "đắt " như trời cho. Bức ảnh mang nét tráng lệ thời cổ "bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ ". "Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khom khom, đang hướng vào mặt bờ ". Toàn bộ khung cảnh "từ đường nét cho đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản mà toàn bích ". Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác như thế, người nghệ sĩ trở nên bối rồi và "trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào ". Bức ảnh đã khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động, cảm xúc thẩm mĩ đang cháy lên trong lòng anh. Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn "khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn ". Nguyễn Tuân đã từng nói: " Cái đẹp cảm hóa lòng người "và cũng không phải ngẫu nhiên, ông được mệnh danh là một người cả đời đi tìm cái đẹp. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, anh đã tìm thấy cái chân, cái thiện của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa, trắng trẻo, tinh khôi. Phùng bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim để thu lại khoảnh khắc tuyệt đỉnh của chiếc thuyền ngoài xa.
     Tất cả những hình ảnh tuyệt vời ấy có lẽ sẽ không bị phá vỡ và Phùng có lẽ cũng sẽ không kinh ngạc khi con thuyền trở vào gần bờ và bắt đầu xuất hiện những tiếng quát tháo. Bước ra từ chiếc thuyền là người đàn bà hàng chài xấu xí, mệt mỏi "Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ "và người đàn ông to lớn dữ dằn "Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mặt đầy vẻ độc dữ.... ". Một cảnh tượng thật tàn nhẫn đã xảy đến: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo "trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, vừa đánh lão vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi lần quất xuống lão lại rên rỉ đau đớn "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ! "". Mâu thuẫn được đẩy lên cao trào khi người đàn bà kia bị đánh mà không hề trốn chạy cũng chẳng kêu van nửa lời. Đó là một sự nhẫn nhịn, cảm thông và chia sẻ. Phải chăng chị ta bị đòn nhiều tới mức quen rồi, chẳng còn biết đau là gì nữa. Hay chị ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình? Hay đó là một sự lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kỹ lưỡng, sáng suốt? Rồi bỗng dưng thằng Phác – con trai chị từ đâu chạy tới, vì thương mẹ đã đánh lại cha rồi nhận lại hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát. Ta nhận thấy đứa con trong gia đình này được miêu tả chẳng khác nào một viên đạn, nó đập vào hình ảnh của người cha và đâm xuyên qua trái tim của người mẹ. Bây giờ thì ta đã nhận ra khoảng lặng của tác phẩm. Có lẽ ít ai hình dung và tưởng tượng được rằng không hiểu tại sao cảnh tượng phũ phàng ấy lại xảy ra khi con người ta đang xây dựng cuộc sống mới trong thời đại mới mà Tố Hữu đã từng viết; "Người với người, sống để yêu nhau ".
     Dù bị chồng đánh như vậy nhưng chị đâu có khóc. Nhưng sau khi biết được hành động vũ phu của chồng bị chính con trai mình là thằng Phác và vị khách lạ - nhiếp ảnh gia Phùng phát hiện thì chị lại cảm thấy đau đớn, xấu hổ và vô cùng nhục nhã. Đó chỉ có thể là một người đàn bà giàu lòng tự trọng. Nhiều khi đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, nó đúng trong trường hợp này của chị. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao những nhọc nhằn, hy sinh ấy chỉ rơi khi đứa con trai bị cha nó đánh. Với chồng thì chị cam chịu nhưng với con thì chị luôn luôn bao bọc, chở che, tránh cho chúng bị tổn thương, chị ta luôn mang nặng trong mình những nỗi mặc cảm với các con của mình. Những giọt nước mắt của người đàn bà cũng chính là giọt nước mắt của tác giả, khi nói đến bạo lực trong gia đình của người đàn bà hàng chài, tác giả đã khơi dậy trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn lo âu trước tình trạng phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về cả nguy cơ nếu như trẻ em tiếp xúc gần sẽ sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn thương về tâm hồn, đánh mất đi cái gọi là niềm tin vào cuộc sống. Nhà văn không chỉ phê phán và lên án bạo lực mà còn phê phán sự ngu muội, không chỉ bày tỏ tình yêu thương với những con người nhỏ bé, bất hạnh mà còn cảnh báo một nguy cơ đáng sợ: Nếu không giải phóng con người ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, tăm tối thì không thể đẩy lùi được cái ác. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
     Nhiếp ảnh gia Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ: "Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu tôi cứ đứng há mồm ra nhìn ". Người nghệ sĩ như chết lặng. Những điều bất công xảy ra trước mắt người chiến sĩ từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng của đất nước, giải phóng con người đã bùng lên một cơn giận dữ. Bản thân anh, anh nghĩ về người đàn ông kia là một kẻ độc ác, tàn nhẫn nhất thế gian, còn người đàn bà kia là một nạn nhân đáng thương trong nạn bạo hành gia đình. Sở dĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể tin được. Phùng xót xa khi nhận thấy cái xấu xa, ngang trái bi kịch trong gia đình của người dân chài đã làm cho bức ảnh anh chụp nhuốm một màu đau thương ghê sợ! Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai mà che đi nỗi đau thương khiếp rợn mà ghê người kia.
     Qua hai phát hiện của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không nên dừng lại ở vẻ đẹp ngoài, nhất là cái tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải nhìn vào bề sâu của cuộc  đời, đó là hiện thực không hề đơn giản, mà nó là những bi kịch trái ngang với nhiều nhọc nhằn, đau khổ. Cuộc đời đâu chỉ toàn màu hồng mà cuộc đời còn chứa đựng nhiều những nghịch lí. Cuộc đời luôn tạo ra những mặt đối lập, những mâu thuẫn xấu - đẹp, thiện – ác,..... Vì thế mà nhà văn có dụng ý khi để cảnh tượng "trời cho " hiện ra trước mắt như là vỏ bọc bên ngoài hòng để che giấu bản chất thực sự bên trong. Và không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói rằng: "Văn chương và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm, tâm của nó chính là con người "
     Nghệ sĩ Phùng là một người có lòng tốt, không thể chấp nhận những bất công nhưng anh lại quá đơn giản khi nhìn nhận cuộc sống để rồi đưa mình đến tình huống vỡ lẽ thứ hai trong tác phẩm này. "Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà đứa em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương ". Chứng kiến cảnh người đàn bà bị gã chồng đánh đập dã man không lí do như thế, nghệ sĩ Phùng đã xông ra đánh nhau với gã chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương và để lại những dấu tích trên mặt. Người đàn bà bị mời đến tòa án huyện để giải quyết công việc gia đình, từ đây đã có một cuộc tranh luận giữa ba người là Phùng, người đàn bà hàng chài và Chánh án Đẩu. Được mời đến tòa án huyện lần này là lần thứ hai, " người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng...liền tìm đến một góc tường để ngồi". Cái sợ sệt và lúng túng đó ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị ta thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Nhìn chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thu người lại, dường như chị ta đang cố tự vệ dù đã được Chánh án Đẩu nói bằng những lời lẽ rất thân mật và cảm thông. Nguyễn Minh Châu đã nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi tiếp xúc nói chuyện với Chánh án Đẩu, chị còn xưng "con" với "quý tòa"có lúc đã van xin "Con lạy quý tòa, quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó ". Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục mặt bỗng người đàn bà hàng chài ngẩng hẳn mặt lên, nhìn thẳng và lại đổi cách xưng hô thành "chị" và "các chú". "Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn....cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc...". Sự thay đổi bất ngờ khiến cho Phùng và Đẩu cũng hết sức ngạc nhiên. Mới bước vào cuộc tranhh luận thì ta nhận thấy người đàn bà hàng chài này có vẻ đáng trách, rung túng cho việc bạo lực gia đình diễn ra một cách rất thường xuyên "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước ta không người nào như hắn". Thế nhưng đọc kĩ và ngẫm nghĩ lại thì đó lại là những điều mà Phùng và Đẩu bị lỡ vẽ ra. Đẩu vốn là một chánh án, được mệnh danh là Bao công phố huyện vùng biển, là người có kiến thức về luật pháp, còn Phùng là người hiểu biết về nghệ thuật, chuyên đi săn lùng cái đẹp vậy mà cả hai đã bị người đàn bà thuyết phục hoàn toàn. Chị ta đã nói cho Đẩu và Phùng biết sự nguy hiểm khôn lường của người đàn bà trên chiếc thuyền đánh cá không có đàn ông, nhất là những khi biển động. Người đàn bà hàng chài với lời lẽ thuyết phục ấy đã lộ ra cái sắc sảo của mình, người đàn bà không tên này càng ngày càng thể hiện mình là một người hiểu biết và từng trải trong cuộc sống. Thì ra cái nghề chài lưới này  không thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì tồn tại cho gia đình thì họ phải hợp sức lại làm quần quật để nuôi một đàn con mà nhà nào cũng có trên dưới cả chục đứa và ý chính người đàn bà còn khẳng định người chồng của chị ta vốn là: "một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm", nhưng vì hoàn cảnh đói nghèo, khắc nghiệt mà trở nên vũ phu tàn nhẫn và ích kỷ. Đó là câu chuyện về kế sinh nhai, về những người làm ăn lam lũ khó nhọc. Có thể nói chị ta là một người giàu lòng vị tha và cao cả. Chị nghĩ rằng mình sống cho con chứ không phải cho bản thân, lúc nào cũng tự an ủi là nếu như các bà vợ khác chấp nhận được các ông chồng nghiện rượu thì mình cũng có thể chấp nhận được ông chồng đánh đập thường xuyên. Chị chỉ xin chồng hãy đánh ở trên bờ và đừng để các con thấy được cảnh đấy. Tất cả những suy nghĩ của chị đều chỉ dành cho chồng cho con, đó là điều đáng thương mà cũng đáng quý biết nhường nào!
     Ở đây lẽ đời đã chiến thắng. Những người lao động lam lũ nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con và thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ uy quyền có sức công phá lớn. Nó đã làm cho nghệ sĩ Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra quá nhiều điều, nhận ra nỗi nhọc nhằn khó khăn của cư dân miền biển. Nhận ra mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng bên ngoài, cuộc sống bấp bênh  khiến họ phải chấp nhận nghịch cảnh, chấp nhận những ngang trái. Cả Đẩu và Phùng đều chua chát nhận ra rằng : Trên thuyền cần có một người đàn ông...dù hắn có man rợ,tàn bạo thì vẫn có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp. Và cái bản chất ở đây chính là cuộc sống sinh nhai không thể một mực áp dụng pháp luật được. Họ còn nhận thức được rằng, với người phụ nữ kia vẫn tìm thấy một chút niềm vui, hạnh phúc rất nhỏ nhoi trong cuộc sống này dù biết nó còn đầy rẫy những  khó khăn, gian khổ, vẫn luôn có một tinh thần lạc quan và tình yêu cuộc sống. Hành trình tìm kiếm hạnh phúc của họ không đơn giản nhưng họ vẫn hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con của họ được ăn no. Tình yêu thương gia đình của người đàn bà đã khiến cho "một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị bao công phố huyện vùng biển lúc này". Đó là vỡ lẽ về quan niệm tình yêu, hạnh phúc, lòng nhân ái và sự khoan dung mang giá trị sâu sắc. Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, không còn phải đương đầu với quân xâm lược nữa nhưng chúng ta lúc bấy giờ lại phải tổ chức lại nhịp sống, khôi phục lại kinh tế, hàn gắn lại vết thương chiến tranh, tuy nhiên công việc này cần cả một quá trình chứ không phải trong ngày một ngày hai là có thể làm được. Dù là một người đàn bà ít học, suốt ngày lênh đênh trên biển, nhưng lại rất am hiểu cuộc sống khiến cho Phùng và Đẩu bị vỡ lẽ. Từ một người với tư cách là bị can, người đàn bà ấy đã nhanh chóng trở thành quan tòa công minh luôn coi tình yêu thương con cái và hy sinh là nguyên tắc sống của bản thân. Họ đã phát hiện ra bên trong người đàn bà thô kệch ấy, là một trái tim vô cùng nhân hậu, một vẻ đẹp tâm hồn mà không ai có thể nhận ra được. Vẻ đẹp ấy hoàn toàn đối lập với cảnh biển vào lúc buổi sáng, nhưng đó cũng là một vẻ đẹp, mà không phải ai cũng có thể khám phá ra được. Giọng người đàn bà bớt sầu não hẳn khi nói về sự hy sinh của bản thân của mình. Bên ngoài có thể chị ta là một kẻ quê mùa, thất học, nhưng bên trong lại là một người từng trải và vô cùng thấu hiểu lẽ đời. Bên cạnh đó là đời sống nghèo nàn của người dân trên biển không biết giãi bày với ai. Người đàn bà hàng chài gọi Phùng và Đẩu là "các chú cách mạng", gọi như thế vừa thân  thương vừa xa lạ, bởi các chú đâu có hiểu cuộc sống đời thường và những chuyện vất vả như thế này đâu?
     Hình như người đàn bà hàng chài chẳng bao giờ để lộ ra ngoài cái vẻ đau khổ của mình, sự nhẫn nhục cam chịu gần như chi phối toàn bộ suy nghĩ và hành động. Thấp thoáng ở người đàn bà ấy là một người mẹ nhân hậu đảm đang, một người vợ bao dung và hy sinh tới quên mình. Và cả cái hình ảnh khi chị vì con mà nén cam chịu bao đau thương nhục nhã để vái lạy cha nó để coi như nhận lỗi về mình khi nó đánh lại cha bảo vệ mẹ nó. Phải là một người có tấm lòng yêu thương con cái sâu sắc như vậy mới có thể sẵn sàng làm được những việc đấy. Hạnh phúc của người đàn bà thật quá đỗi giản dị mà không kém phần sâu sắc. Đó là triết lí về cuộc sống con người. Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé nhưng đôi khi lại có thể nằm ngoài tầm tay.
     Người đàn bà ấy sau mọi nỗi đau, mọi thăng trầm trong cuộc sống thì những thứ đấy chưa bao giờ là điều thừa thãi với chị, tất cả cũng chỉ vì tình yêu thương con cái vô bờ bến. Người đàn bà hàng chài là hiện thân cho vẻ đẹp khiêm nhường và thế giới tâm hồn phức tạp và có phần bí ẩn của con người. Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài ta bắt gặp đâu đó hình ảnh những người phụ nữ Việt Nam từ ngàn đời xưa nhân hậu bao dung và ngập tràn đức hy sinh.
     Đã có những bi kịch tiềm ẩn khiến cọn người ta phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng chứa đựng nhiều phát hiện mới mẻ bởi tình huống nhận thức giúp ta nhận ra những chân lí về đời sống về nghệ thuật và về con người. Nếu chỉ suy nghĩ một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ khiến người dân lao động đổi đời, sẽ xóa tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Nhưng Nguyễn Minh Châu đã lí giải những bi kịch mà còn chứa đựng những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua đau khổ để đối diện với hiện thực con rất nhiều thách thức. Điều thống nhất trong hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu vẫn luôn là nỗi sầu lo và khắc khoải về con người, về cuộc sống. Đây cũng là lí do mà Nguyễn Minh Châu một đời cầm bút với hy vọng: "Văn học sinh ra đời để gìn giữ trong từng con người - một cái gì hết sức mong manh vì luôn luôn run rẩy....một cái gì đó thật là như vậy, nhưng thiếu nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa quần thể loài người được, và trở thành một tai họa cho loài người"
     Nếu như trước kia, giai đoạn văn học năm 45 – 75 khi viết về con người bao giờ các nhà văn cũng nói về sức sống mãnh liệt vượt qua nghịch cảnh khó khăn như ta tìm thấy ở anh Cu Tràng trong "Vợ Nhặt" của Kim Lân hay anh Chí Phèo của Nam Cao bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính vẫn trải qua sóng gió để trở về với con đường lương thiện. Khi diễn tả con người các nhà văn thường đi theo hướng tích cực , vượt lên hoàn cảnh và hồi sinh trong tâm hồn thì những minh họa ấy trở nên phiến diện trong thời đại văn học mới. Nguyễn Minh Châu đã không đi theo đường mòn ấy, ông đi tiên phong theo cái cách riêng của ông, để khẳng định nghịch lí xuất hiện như một lẽ đương nhiên trong cuộc sống. Bằng thái độ cảm thông và những hiểu biết sâu sắc về con người , kết hợp với những điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo mà ông đã cung cấp cho bạn đọc những cái nhìn toàn thể, chân thật từ bề sâu tới bề nổi. Ông là một nhà văn luôn hướng về con người và luôn giải mã những gì phức tạp nhất về cuộc đời. Bức tâm thư về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống chính là nhận thức thấm thía nhất: " Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật, và nếu muốn khám phá những bí ẩn đằng sau thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng với cuộc đời" ( Lê Ngọc Chương )
     Kết thúc truyện, người đọc vẫn chẳng biết người đàn bà hàng chài kia tên là gì, phải chăng là tác giả sơ xuất? Không, đó chính là dụng ý của tác giả, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi là mụ, khi thì gọi là chị ta,.....nghĩa là người đàn bà ấy là chỉ một trong số đông những người đàn bà lam lũ, nhọc nhằn, những con người như thế đông đúc và vô danh. Tuy nhiên khi khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh này thì dư âm của nó vẫn mãi còn đó, day dứt và ám ảnh người đọc. Qua đây, Nguyễn Minh Châu đã sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ngoại hình với tính cách, giữa cảnh đẹp buổi sáng trên biển với bi kịch của một gia đình, giữa hoàn cảnh và tính cách để làm rõ đức hy sinh của người phụ nữ. Đó cũng là những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống như: tình trạng bạo hành, gia đình nghèo đói, tha hóa về nhân cách,..... và những ngang trái lẫn nghịch lí trong cuộc sống.
     Với điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo và đa diện, lời văn giản dị mà sâu sắc, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để lại một kiệt tác cho văn học Việt Nam hiện đại mà ở đó nhân vật người đàn bà hàng chài với những vẻ đẹp " khuất lấp" và tình huống truyện đặc sắc độc đáo đã mang đến một bài học về cách nhìn nhận cuộc sống, và cách phát hiện ra bản chất thật sâu bên trong vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Vì thế mà nhà văn Nguyễn Minh Châu từng viết: " Không thể nhìn con người một cách đơn giản, nhà văn phải phấn đấu để đào xới vẻ đẹp của con người, khám phá "hạt ngọc" long lanh đằng sau cái lấm láp bụi bẩn đời thường"
     Qua đó ta thấy rằng, tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa"  thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn: " Văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người....". Quan niệm ấy đã khiến cho tác phẩm ở giai đoạn này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm của ông, người ta day dứt, đau đớn về thân phận con người tràn đầy khát vọng làm người cao đẹp. Đồng thời nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào của cuộc đời đi chăng nữa !

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro