VIẾNG LĂNG BÁC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Viếng lăng Bác

               Viễn Phương

Bác Hồ là tên gọi thân yêu vang âm trong trái tim bao người, là niềm tin, là sức mạnh, là phẩm giá của con người Việt Nam, một người bạn lớn đối với tâm hồn mỗi con người, đối với thiên nhiên tạo vật... Sự vĩ đại, vẻ đẹp của Bác, lòng kính yêu với Bác đã trở thành cảm hứng cho các các nghệ sĩ sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bất hủ. Đến sau trong đề tài thơ về Bác do điều kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ở ngoài tiền tuyến...nhà thơ Viễn Phương đã để lại bài thơ "Viếng lăng Bác" độc đáo, có sức cảm hóa sâu sắc bởi tình đẹp, bởi lời hay.

Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Báo trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này. Khổ thơ đầu tiên đã diễn tả sâu sắc cảm xúc của một người con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giờ phút được trở về bên Bác.

Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng Nhà thơ kể: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa, Nhà thơ nói mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. Đó là cuộc trở về để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi khen. Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dòng thơ, đầu bài thơ. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách. Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”. “Viếng” chính là từ dùng để chỉ hành động đến chia buồn với người đã mất; ấy nhưng ở câu thơ đầu bài thơ, tác giả lại dùng từ “thăm” chứ không phải là “viếng”. “Thăm” lại là hành động đến thăm hỏi, trò chuyện và gặp gỡ với người còn sống. Cách nói giảm, nói tránh này vừa giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát vừa khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu. Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Cách xưng hô và cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu. Cái hay của khổ thơ không chỉ ở từ ngữ bình dị mà còn ở hình ảnh cây tre vô cùng thân thuộc. Chắc nhà thơ phải đến xếp hàng từ rất sớm mới thấy được hàng tre trong sương như vậy. Những “hàng tre xanh xanh Việt Nam” ấy chính là hình ảnh tượng trưng cho làng quê,cho con người Việt Nam bền bỉ, cần cù, chịu thương chịu khó. Tác giả bật lên một tiếng “Ôi !” vừa đầy thương cảm vừa mang vẻ tự hào. Thương cảm vì dân tộc ta phải trải qua bao nhiêu “bão táp mưa sa", khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tự hào vì tre vẫn “đứng thẳng hàng” như người Việt ta luôn kiên cường, bất khuất trước mọi gian lao, thử thách. Đức tính cao quý ấy cũng được thể hiện trong thơ Nguyễn Duy:

“Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên luy nên thành tre ơi".

Nhưng Viễn Phương không chỉ ca ngợi đất nước, con người Việt Nam mà còn muốn nói đến mối liên kết giữa Bác với quê hương, với người dân. Ngày xưa, Bắc từ giã làng quê với hàng tre xanh để ra đi tìm đường cứu nước, và bây giờ Bác lại trở về giữa vòng tay của quê hương, giữa những con người cần cù, chịu khó. Những “hàng tre bát ngát” bao quanh lăng như vòng tay của quê hương, của Tổ quốc đang bao bọc lấy vị lãnh tụ vĩ đại, như hình dáng những người con của dân tộc đang đứng canh giấc ngủ của Người. Nghệ thuật ẩn dụ ấy vừa hay vừa tạo sự kết nối chặt chẽ vì cây tre, Bác và đất nước có mối liên hệ đặc biệt. Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.

Không chỉ vậy, khổ thơ đầu tiên còn mở ra những suy ngẫm và xúc cảm sâu lắng hơn

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lắng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân... Xuyên suốt khổ thơ là nghệ thuật điệp ngữ và ẩn dụ. “Ngày ngày” vốn đã là một từ láy, lại được dùng điệp ngữ nên càng gợi nên cảm giác thời gian như kéo dài vô tận trong khổ thơ, đồng thời cũng dùng để miêu tả một chân lí vĩnh hằng — sự vĩ đại của Bác. “Mặt trời” trong câu thơ thứ nhất là tả thực, còn “mặt trời” trong câu thơ thứ hai chính là ẩn dụ để chỉ Bác. Bác là người đã mở ra chân lí cách mạng cho cả dân tộc, mang độc lập, tự do đến cho đất nước. Cũng giống như mặt trời thực đem sự sống đến cho vạn vật, Bác đã đem lại cho người dân sự ấm no, hạnh phúc. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng viết : " Người làmột mặt trời cách mạng", nhưng so sánh hình ảnh hai mặt trời như của Viễn Phương lại là một sáng tạo rất độc đáo. Mặt trời kia chỉlà cái nền, là đòn bẩy để tôn vinh mặt trời Bác. Cụm từ “rất đỏ” vừa gợi nhớ đến trái tim luôn tràn ngập lòng yêu nước, thương dân của Bác, vừa gợi ra luồng sáng rực rỡ tỏa ra từ tâm hồn Bác – ánh sáng của lí tưởng cách mạng. Ánh sáng ấy sống mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam, giữ mãi tấm lòng chúng ta dành cho Bác. Lần thứ hai, từ “ngày ngày” được sử dụng, nhưng là dùng để diễn tả một điều bất diệt như lòng thành kính của nhân dân đối với Bác. Chỉ có tình cảm thiêng liêng như vậy mới ó thể tạo nên được “dòng người đi trong thương nhớ” không bao giờ dứt. Cũng chỉ có tình cảm thiêng liêng ấy mới có thể kết nên được những tràng hoa đẹp nhất để dâng lên Bác. “Tràng hoa” ấy không chỉ là tràng hoa tươi bình thường, mà còn là ẩn dụ của dòng người nối tiếp nhau. Phải rất tinh tế và sáng tạo nhà thơ mới có thể từ đoàn người đi vào lăng, dòng ra sau, qua bên lăng, đi ra nối tiếp thành một vòng tròn mà liên tưởng đến một tràng hoa. Tràng hoa ấy là tràng hoa đẹp nhất vì được kết nên từ những bông hoa đất – những con người Việt Nam chăm chỉ, bất khuất, từ tấm lòng của những con người ấy. Từ “dâng” càng tô đậm thêm tình cảm ấy – một niềm kính yêu trân trọng sâu sắc nhất và trọn vẹn nhất. Không chỉ có thể, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để ví cuộc đời Bác như “bảy mươi chín mùa xuân”. Mùa xuân được xem là mùa đẹp nhất trong năm, còn Bác là người Việt Nam đẹp nhất. Hình ảnh ấy cũng từng xuất hiện trong thơ Tổ Hữu : “Bảy mươi chín tuổi xuân trong sáng / Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay”. Bác đã hiến dâng những gì đẹp nhất của cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Và giờ đây, những người con của dân tộc đang dâng lên cho Người lòng biết ơn sâu sắc nhất. Lời thơ trang trọng nhưng vô cùng tha thiết, gợi ra nhiều suy tưởng sâu lắng, mênh mông. Có thể nói khổ thơ thứ hai là đẹp nhất trong cả bài, với những hình ảnh ẩn dụ giàu giá trị biểu cảm nói lên sự vĩ đại của Bác và lòng thành kính của người dân đối với Người.

Nếu như cái đẹp của khổ hai là ở những phép ẩn dụ đầy sáng tạo và tinh tế thì cái hay của khổ ba lại nằm ở sự dâng trào cảm xúc trong từng lời thơ
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim! Hình ảnh Bác hiện lên thật gần gũi. Có cảm giác như Bác không hề ra đi mà chỉ đang nằm ngủ. “Vầng trăng sáng” có thể hiểu như những ánh đèn dịu nhẹ như ánh trăng trong lăng Bác. Hình ảnh ấy cũng gợi cho ta nhớ đến vầng trăng trong cuộc đời, trong thơ ca của Bác. Trăng làm bạn với Bác khi Người ngồi tù (Ngắm trăng), trăng theo Bác trong những năm tháng kháng chiến ở Việt Bắc (Cảnh khuya, Rằm tháng Giêng),...và bây giờ, ảnh trăng lại canh giữ giấc ngủ của Bác. Hay như đọc đến từ “dịu hiền”, ta lại tự hỏi, phải chăng “vầng trăng sáng” kia cũng có thể hiểu đó là ánh trăng tỏa ra từ tâm hồn thanh cao của Bác, và nhà thơ khi vào thăm lăng đã cảm nhận được ánh sáng rạng ngời ấy. Cảnh lăng Bác hiện lên qua hai câu thơ đầu thật yên bình, tĩnh lăng, càng gợi lên giấc ngủ êm đềm của Bác. Nghệ thuật tả thực đã diễn tả được bầu không khí trang nghiêm, lặng yên trong lăng Bác, làm nền cho cảm xúc thăng hoa trong hai câu thơ cuối. Từ hình ảnh Bác nằm như đang ngủ, nhà thơ liên tưởng đến sự bất diệt của Người. “Trời xanh” là ẩn dụ để chỉ Bác và những điều Người đã làm cho non sông. Bác đã ra đi nhưng lí tưởng của Người, tấm gương đạo đức của Người không hề chết. Hình ảnh của Người đã hòa cùng với trời cao, nhập vào từng thước đất của Tổ quốc. Những công lao của Người cũng mãi còn đó như một tượng đài sừng sững chạm tới trời. Từ láy “mãi mãi” đã tô đậm và hoàn chỉnh hình ảnh đó. Hình ảnh “trời xanh” ấy cũng giống như hình ảnh “mặt trời" ở khổ hai, đều là những hình ảnh mang tính biểu tượng để ca ngợi sự vĩ đại bất diệt của Bác. Nhà thơ hiểu rằng Bác vẫn còn sống mãi trong trái tim mình, trong tim mọi người dân nước Việt, nhưng vẫn không thể quên đi sự thật đầy đau xót là Người đã ra đi... Sự thật ấy hiện lên thật buồn, thật đau qua cặp từ tương phản “vẫn biết” – “mà sao". Nỗi đau ấy tràn ngập trong tim và trào lên ở từ “nhói”, như thể xuyên thẳng vào tim người viết, vào tim người đọc. Dường như tất cả sự thương tiếc, xót xa của nhà thơ đều gói gọn lại trong đó, một nỗi đau không thể diễn tả hết được. Nhà thơ Thu Bồn đã có lần viết về nỗi đau ấy
"Niềm đau vô tận thời gian

Nhớ thương nhưng chở lệ tràn đầm mi”. Có lẽ Viễn Phương cũng nghĩ như vậy nên câu thơ cuối bật ra như một tiếng khóc nghẹn ngào đau xót. Cả khổ thơ vang lên đầy sâu lắng và tha thiết, và có thể nói câu thơ cuối chính là chìa khóa thành công của cả khổ. Nó khiến trái tim ta như đập cùng một nhịp, đau chung một nỗi đau với tác giả. Khổ thơ đã bày tỏ cảm xúc của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác với giọng thơ bình dị mà tràn đầy cảm xúc.

Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bắc thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bắc. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt, lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào" diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bắc nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người: Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên “con chim”,"đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàngtre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiểu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.

Bài thơ thành công bởi Viễn Phương đã chọn được một hình thức và giọng điệu phù hợp với nội dung trữ tình. Đó là giọng điều vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào, thể hiện rất đúng tâm trạng của nhà thơ và mọi người khi vào lăng viếng Bác. Thể thơ tám chữ xen kẽ những dòng thơ bảy hoặc chín chữ. Cách gieo vẫn khá linh hoạt, có khi là vẫn liền, có khi là vẫn cách. Nhịp thơ chậm rãi, diễn tả sự trang nghiêm và cảm xúc thành kính. Riêng ở khổ thơ cuối, nhịp thơ nhanh hơn. Điệp ngữ “muốn làm” được lặp lại ba lần, thể hiện mong ước thiết tha và nỗi lưu luyến không rời của tác giả. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo. Nhà thơ kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng. Đặc sắc nhất là những hình ảnh ẩn dụ có tính chất biểu tượng: “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh”, “vầng trăng” vừa quen thuộc, gần gũi, vừa trang nghiêm, sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm rất lớn.

“Viếng lăng Bác” là một bài thơ hay bởi nó được tạo ra từ những cảm xúc, rung động chân thành của trái tim nhà thơ, đồng thời cũng là tiếng lòng của tất cả chúng ta. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ như một thiên thần thoại của thế kỉ hai mươi. Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất! Nhà thơ Pita Rôđrighết của đất nước Cu-Ba anh em đã tự hào khẳng định: Hồ Chí Minh – tên Người là cả một niềm thơ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#vanhoc