Tái sanh duyên 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tái Sanh Duyên

Tình Sử Mạnh Lệ Quân

Hồi Thứ Nhất

Xuân tình phát dậy chốn Bồng Lai,

Thần tiên chịu nếm mùi trần tục.

Thời ấy, có tướng Mông Cổ là Hốt Tất Liệt võ nghệ siêu quần, tài năng bạt tụy lại thêm thao lượt toàn tài nên thường đem binh sang quấy nhiễu Trung Quốc. Vua Tống là Triệu La dốc hết lực lượng ra chống cự nhưng không tài nào đánh lui được quân địch.

Trong cơn nguy cấp ấy, nhờ có vì tôi trung tên Văn Thiên Trường bảo phò chạy trốn đến vùng Phúc Kiến gầy dựng lại cơ nghiệp nên Triệu La ở ngôi được 23 năm. Về sau, Hốt Tất Liệt lại cử binh gia phạt một lần nữa, vua Tống phải chạy đến núi Cang Châu rồi thọ bịnh thăng hà.

Bấy giờ có Lục Tú Phu là tôi trung, liền tôn người con thứ ba là Bỉnh lên nối ngôi, đóng đô tại núi Nhai Sơn. Quân Mông Cổ hay tin cố tìm bắt, Lục Tú Phu phải phò vua vượt biển lánh nạn. Đế Bỉnh không chịu nổi cảnh sống bềnh bồng cực khổ nên bỏ mạng. Thế là Bỉnh làm vua chưa đầy một năm, lại rủi không con kế nghiệp nên nhà Tống đến đây đã tuyệt. Chúa Mông Cổ sang tức vị xưng hiệu là Nguyên trào Thế Tổ.

Lúc ấy trên thượng giới đang mở hội bàn đào. Ngọc Hoàng Thượng Đế triệu tập chư tiên, chư thần về dự yến ẩm, vui say cảnh nước nhược non bồng.

Chấp Phất Nữ Tiên Cô một mình đang lững thững trên đền Linh Tiêu xảy thấy Đông Đẩu Tinh Quân xuất hiện, đôi mắt sang như pha lê, mặt trăng rằm, râu dài suôn đuột, mình mặc khối vàng muôn phần đẹp đẽ. Nàng Tiên Cô liếc mắt nhìn Đông Đẩu Tinh Quân đầy vẻ tình tứ, miệng nở một nụ cười như hoa lài chớm nở. Đông Đẩu Tinh Quân cũng cảm thấy con tim rạo rực trước nhan sắc diễm kiều của Tiên Cô.

Thế là ngọn lửa ái tình bắt đầu bùng cháy...

Đông Đẩu Tinh Quân bước tới thỏ thẻ:

- Tiên Cô ôi! Nếu Tiên Cô có long tưởng đến tôi như vậy, hai ta hãy cùng nhau xuống phàm trần đầu thai, có dịp chung sống với nhau để đáp lại tiếng gọi của tình yêu, chẳng biết Tiên Cô nghĩ sao?

Chấp Phất Nữ long như nở hoa, mỉm miệng cười, đáp bằng giọng tình tứ:

- Nếu được như vậy thì hân hạnh cho bần đạo biết bao!

Rồi hai người nắm tay nhau trao câu ân ái, xảy có Phần Hương Nữ Tiên Cô đi trờ tới thấy vậy cảm thấy động lòng trần, lên tiếng nói:

- Hai người làm như vậy không sợ kẻ khác sanh lòng ghen ghét ư?

Hai nàng Tiên Cô này vốn là bạn chí thân, nên vừa dứt lời, Chấp Phất Nữ với tay nắm tay Phần Hương Nữ, thân mật nói:

- Chúng tôi định cùng nhau xuống phàm trần đầu thai kết duyên chồng vợ, vậy đạo hữu hãy xuống đó luôn thể để chị em ta cùng nhau nâng khăn sửa túi Đông Đẩu Tinh Quân không tiện hơn sao?

Phần Hương Nữ cũng đã để ý đến Đông Đẩu Tinh Quân từ lâu, nay nghe bạn mình nói vậy mừng rỡ đáp:

- Nếu chị có lòng tốt như vậy, em nguyện xuống đầu thai làm thứ nhất để cùng nhau chia chút ái ân.

Cả ba đều hiệp ý nên thích chí cười xòa, bỗng có một Tiên Cô từ phía sau bước tới thình lình vỗ vai Phần Hương Nữ nói lớn:

- Chốn Thiên đình đâu phải là chỗ trao ân tình tự? Nay ta quyết vào tâu với Ngọc Hoàng để người trị tội cho mà xem!

Cả ba nghe nói thất kinh quay lại nhìn, thì ra vì Tiên Cô ấy không ai xa lạ, chính là Bỉnh Khuê Tiên Nữ, người hầu giá đức Ngọc Hoàng.

Đông Đẩu Tinh Quân năn nỉ:

- Đạo hữu có thể nhẫn tâm thật vậy sao?

Lúc nãy giờ Bỉnh Khuê cố ý làm nghiêm để dọa ba người chơi, bây giờ trông thấy Đông Đẩu Tinh Quân quá sợ hãi, nàng cảm thấy thương hại liền cười xòa đáp:

- Nói chơi vậy thôi chứ bần đạo đã đem lòng thương mến ngài từ lâu, nhưng không dám thố lộ tâm tình, nay nếu ngài có thương tình, bần đạo cũng xin theo sau hai chị ấy để cùng hưởng ái ân nồng đượm, cho phỉ dạ ước ao bấy lâu nay.

Đông Đẩu Tinh Quân nghe nói như trút một gánh nặng ngàn cân, bèn đem ý định đầu thai xuống phàm trần tỏ lại cho Bỉnh Khuê nghe.

Bỉnh Khuê nói:

- Dầu sao hai chị cũng là người đến trước, bần đạo là kẻ đến sau, vậy xin nguyện xuống đó đứng vào hàng thứ ba trong cuộc tình duyên này vậy.

Chấp Phất Nữ và Phần Hương Nữ đồng thanh nói:

- Chúng tôi bao giờ dám định thấp cao.

Bỉnh Khuê lắc đầu:

- Giải quyết như vậy là đúng theo lẽ phải. Nhưng thôi! Chúng ta chớ nên phân định nhiều lời, e khi thấu đến tai Ngọc Hoàng, cuộc tình duyên của chúng ta tan vỡ mà còn bị quở phạt nặng nữa đấy.

Mọi người đều khen phải, rồi cùng nhau đằng vân giá võ xuống chốn hồng trần thực hiện theo tiếng gọi của con tim.

Sau đó Ngọc Hoàng ngự ra chánh điện, chư thần vào triều bái xong xuôi, bỗng có một vị thần bước ra quì tâu:

- Muôn tâu Ngọc Đế, hạ thần là Củ Soát Linh Quan vừa điều tra được một việc nên xin tâu lên cho Ngọc Đế đặng tường. Vừa rồi có Đông Đẩu Tinh Quân cùng Chấp Phất Nữ có đính ước với nhau định xuống phàm trần đầu thai kết phàm phu phụ, lại có Phần Hương Nữ và Bỉnh Khuê cũng xin theo xuống làm tiểu thiếp. Việc này quả là một việc dâm ô nên hạ thần không thể bỏ qua được.

Ngọc Đế nghe tâu, nổi giận phán:

- Bấy lâu nay, phàm tiên hạ giáng xuống hồng trần đều được hưởng phú quí vinh hoa, đến khi thâu hồi về thượng giới lại đặng thành chánh quả, nên nay trong hàng thần tiên lại sanh lòng tà vậy. Vậy từ nay kẻ nào muốn giáng trần phải chịu trăm đường cực khổ, nếu kẻ nào làm tròn trung, hiếu, tiết, nghĩa mới đặng thâu về thượng giới, bằng không phải bị đày xuống địa ngục chịu cực hình.

Phán đến đây, Ngọc Hoàng quay lại bảo Thái Bạch Tinh Quân đem sổ tra xét xem dưới phàm trần có kẻ nào tích đức tùng thiện đặng cho Đông Đẩu Tinh Quân cùng ba vị Tiên Cô đầu thai và bắt chịu trăm đường cực khổ.

Thái Bạch lật sổ xem xét hồi lâu rồi tâu:

- Hiện nay có vị Nguyên soái triều Nguyên tên Hoàng Phủ Kính trải mấy đời làm lành mà không con nối dõi, nhưng số trời đã định mười lăm năm sau Hoàng Phủ Kính phải bị tai họa trong ba năm, rồi nhà tan cửa nát, sau đó mới được đoàn viên hưởng phú quí.

Ngừng một lát, tra xét thêm rồi Thái Bạch tâu tiếp:

- Cũng trong triều Nguyên có quan Binh bộ Thượng thơ Mạnh Chiêu, tự là Sĩ Nguyên, và một nhà hàn nho tên Tô Tín Nhơn, cả hai cũng đã mấy đời tu nhơn tích đức không kém. Trước đây đã có ngọc chỉ sai Kim Đờng xuống đầu thai làm thế tử để lên ngôi cửu ngũ nhà Nguyên và Ngọc Nữ đầu thai làm Chánh cung Hoàng hậu, nhưng vì Kim Đồng đã đính ước với Chức Nữ nên Chức Nữ giáng sanh làm con gái họ Lưu hòng chiếm ngôi Hoàng hậu. Chẳng may Chức Nữ bạc phước không hưởng thọ lâu dài. Vậy nay xin Ngọc Đế hãy cho Ngọc Nữ xuống giữ lấy ngôi Hoàng hậu ấy.

Thái Bạch Tinh Quân tâu dứt lời Ngọc Đế truyền chỉ cho Đông Đẩu Tinh Quân phải xuống đầu thai làm con Hoàng Phủ Kính, Chấp Phất Nữ đầu thai làm con gái Mạnh Chiêu, lại phú cho tài cao học rộng đặng làm chánh thất Đông Đẩu Tinh Quân, nhưng cái duyên ấy phải bảy nổi ba chìm, hiệp ly, ly hiệp rồi sau mới đoàn tụ.

Còn Phần Hương Nữ làm con gái Lưu Tiệp, Bỉnh Khuê Nữ làm con gái Tô Tín Nhơn, để sau này nâng khăn sửa túi cho Đông Đẩu Tinh Quân, còn về Ngọc Nữ (chị của Đông Đẩu Tinh Quân), hiện nay ngày giờ gấp rút, cần phải cho cả hai chị em xuống đầu thai một lượt (song thai) cho kịp thời nối ngôi chánh hậu ấy.

Truyền phát dứt lời, Ngọc Hoàng di giá về cung.

Bây giờ xin nói việc trong triều vua Thế Tổ nhà Nguyên có một vị trung thần tên Hoàng Phủ Kính, tự là Đình Sơn, văn võ toàn tài, sức mạnh vô song, tướng mạo phương chi, dung nghi lẫm liệt, trán rộng, tai to, mắt sáng ngời, mặt đỏ, râu dài. Nguyên Hoàng Phủ Kính người huyện Giang Lăng, năm mười tám tuổi thi đõ Võ Trạng, qua năm mười chín tuổi lãnh binh đi chinh phạt Bắc Phiên, đến hai mươi tuổi đắc thắng hồi trào được Nguyên Thế Tổ phong làm chức Kinh dinh Binh mã Đại Nguyên soái.

Hoàng Phủ Kính có vợ là Doãn Thị, vợ chồng ăn ở với nhau ngót ba năm mà không con, nên vợ chồng thường đêm ngày cầu trời khẩn Phật trông mong đặng sanh quí tử.

Quả thật trời, Phật không bao giờ phụ người lành, nên Doãn Thị cầu khẩn chưa được ba tháng đã thọ thai. Nhưng lạ thay, Doãn Thị có mang trên mười tháng trời vẫn không thấy khai hoa nở nhụy. Vợ chồng thấy thế lấy làm lo ngại.

Thời gian cứ nặng nề trôi qua đúng một năm trời; hôm ấy vào ngày rằm tháng tám, bữa cơm chiều chưa xong, Doãn Thị nghe trong bụng quặn đau, bỏ vào phòng nằm yên.

Qua hết canh một, bỗng thấy nữ tì chạy ra báo với Hoàng Phủ Kính:

- Thưa lão gia bây giờ phu nhơn đau bụng rên la dữ lắm.

Hoàng Phủ Kính vội sai người đi rước mụ bà rồi bước vào phòng thăm vợ, Doãn Thị thấy chồng vào vội nói:

- Phu quân ôi! Tôi mới vừa nằm mộng thấy một điềm chiêm bao lạ lùng lắm. Khi tôi đang thiu thiu ngủ bỗng thấy ba người mão cao áo dài đến bảo rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy nhà ta đã ba đời tích thiện, nên sai Ngọc Nữ và Đông Đẩu Tinh Quân xuống đầu thai. Ba người nói xong biến mất, lại thấy một vị Thần Quân và một nàng Tiên nữ đến níu áo tôi gọi bằng thân mẫu. Tôi giựt mình tỉnh dậy trong bụng đau thắt đến bây giờ.

Phu nhân nói dứt lời lại ôm bụng rên la. Hoàng Phủ Kính truyền cho mụ bà và tỳ nữ chăm lo săn sóc rồi bỏ ra nhà ngoài.

Phủ Kính vừa bước ra khỏi cửa phòng đã thấy hai tên gia nhơn chạy vào báo:

- Bẩm lão gia, không hiểu sao bỗng dưng trên mặt trăng tỏa ra một đạo hào quang chiếu thẳng xuống mái nhà mình, thật là một điềm lạ lùng!

Hoàng Phủ Kính nghe nói lấy làm lạ, lật đật chạy ra xem, thì quả nhiên đạo hào quang chiếu sáng khắp bốn phía nhà.

Ông ta nghĩ:

"Thế thì đứa trẻ sắp sanh đây chắc là quí tử".

Còn đang suy nghĩ, bỗng thấy con tỳ nữ chạy ra bẩm:

- Phu nhơn vừa sanh đặng một vị tiểu thơ, mà trong lúc sanh mùi hương tỏa ra thơm nức mũi, căn phòng lại sáng rực lên.

Nghe nói sanh con gái, Hoàng Phủ Kính hơi bất bình, nhưng rồi lại nghĩ:

"Đã có điềm nguyệt hoa chiếu sáng thế này thì dù trai hay gái cũng không phải hạng tầm thường".

Vì nghĩ vậy, lòng ông cũng cảm thấy dễ chịu; kế đó con tỳ nữ khác chạy ra bẩm:

- Phu nhơn sanh rồi nhưng vẫn còn đau bụng, mụ bà lại bảo phu nhơn còn sanh một vị công tử nữa.

Hoàng Phủ Kính nghe nói vội bước ra sân xem trăng, thì thấy ánh hào quang bây giờ đã phai mờ, ông ta lẩm bẩm:

"Đứa trai này tuy không được tốt bằng đứa gái kia, song cũng không phải hạng tầm thường".

Tiếp theo đó lại có tin phu nhơn trổ sanh công tử rồi, Hoàng Phủ Kính bước thẳng vào phòng trông thấy Doãn Phu nhơn thân hình vẫn tráng kiện, hai đứa bé đứa nào cũng dễ thương và giống nhau như đúc, lòng ông như nở hoa, căn dặn vú phải hết lòng chăm nom cẩn thận.

Ngày giờ thắm thoát trôi qua, mới đây mà ăn lễ đầy tháng. Các quan trong triều rải rác đến chúc mừng rất đông. Hoàng Phủ Kính chọn tên cho hai trẻ, ông nghĩ nhớ lại lúc sanh tiểu thơ nguyệt hoa rực rỡ nên đặt Trưởng Hoa, còn lúc sanh công tử nguyệt hoa đã phai mờ nên đặt là Thiếu Hoa.

Tháng ngày như thoi đưa, thắm thoát đã năm năm qua, tiểu thơ và công tử mặt mũi xinh đẹp lạ thường, nhất là Trưởng Hoa dung nghi tề chỉnh, ăn nói đoan trang; Hoàng Phủ Kính quý như vàng ngọc, hằng ngày chăm lo truyền dạy văn chương, hai trẻ đã sẵn trí thông minh lại chăm học nên tiến bộ mau chóng.

Qua năm sau, vào khoảng giữa xuân, khi Hoàng Phủ Kính tấn triều, bỗng thấy quan Huỳnh môn quỳ tâu:

- Vừa rồi có quan Tuần phủ Vân Nam dâng biểu văn về cáo cấp rằng: Vua Thổ Phiên Ngột Tòng Đào đem binh sang cướp phá biên cương nên thượng tấu xin binh cứu viện.

Hoàng Phủ Kính đứng chầu, nghe nói liền bước ra quì tâu:

- Bệ hạ lên ngôi chưa được bao lâu mà Thổ Phiên đã khinh thường dám đem binh cướp phá biên thùy, nếu không kịp thời tảo thanh, chúng sẽ lộng hành nguy hiểm. Hạ thần tuy bất rài, song nếu bệ hạ phát binh, xin nguyện ra sức.

Nguyên Thế Tổ nghe tâu, mừng rỡ phong cho Hoàng Phủ Kính làm Đô đốc Vân Nam Đại Nguyên soái, thống lãnh hai muôn binh đi bình giặc Thổ Phiên.

Hoàng Phủ Kính lãnh chỉ lui về điểm binh mã, rần rộ kéo thẳng đến Vân Nam.

Đến nơi, quan Tuần Phủ Vân Nam là Trương Thiệi Hùng mở cửa thành binh tiếp. Hoàng Phủ Kính hỏi:

- Hành động quân giặc ra thế nào?

Trương Thiệu Hùng đáp:

- Trước đây bọn Thổ Phiên Ngột Tòng Đào thường đem binh đến cướp phá luôn luôn, nhưng từ ngày nghe tin Nguyên soái sẽ đem binh đến, chúng có phần kiêng nể nên rút binh đóng quân cách đây chừng năm mươi dặm.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Bọn Thổ Phiên có nhiều giống, nhưng chỉ có giống Ngột Tòng Đào này là dữ tợn hơn hết, nếu ta phá được toán quân này, tất nhiên bọn khác phải kinh sợ rút lui ngay.

Sáng sớm hôm sau, Nguyên soái Hoàng Phủ Kính thăng trướng, truyền cho phó tướng Phùng Nhựt Thăng lãnh năm ngàn quân kéo đến mai phục phía tả đồn giặc. Tham tướng Thi Tổ Vinh cũng lãnh năm ngàn quân kéo đến mai phục phía hữu, khi nào nghe tiếng pháo nổ là ùa ra vây đánh.

Hai tướng lãnh lịnh đi rồi, Nguyên soái lại khiến hai tướng Trương Phùng Đấu và Hồng Công Cử dẫn mỡi người hai ngàn quân kéo đến phía sau lưng dinh trại địch, chờ khi nào có tiếng pháo lịnh thì xua quân áp tới đốt phá cho hết lương thảo của chúng.

Bây giờ xin nói qua chúa Thổ Phiên có một vi Nguyên soái tên Xích Phong Bất Hoa, sức mạnh đánh muôn người, thường dùng cây phương thiên họa kích nặng ngàn cân, dưới trướng lại có hai viên đại tướng là Hàn Khởi và Hình Thăng thảy đều võ nghệ cao cường, thương pháp tinh thông, vì vậy chúa Thổ Phiên Ngột Tòng Đào nghe tin Hoàng Phủ Kính kéo binh đến liền rút quân cách năm mươi dặm truyền hạ trại rồi nói với chư tướng:

- Ta nghe đồn Hoàng Phủ Kính là tay kiện tướng của Nguyên trào, lâu nay chiến đấu vô cùng lão luyện, vậy nay hắn đến đây thế nào cũng cùng chúng ta quyết định, chư tướng phải cẩn thận lắm mới được.

Xích Phong Bất Hoa nói:

- Trước kia Hoàng Phủ Kính thắng được Bắc Phiên chẳng qua là dịp may mắn chứ có tài giỏi gì đâu? Để biết rõ tài cao thấp, tôi đề nghị ngày mai chúng ta kéo binh đến giao phong với hắn một trận cho biết.

Ngột Tòng Đào gật đầu khen phải rồi truyền quân sĩ chuẩn bị sẵn sàng để hôm sau ra binh.

Lời Bình:

- Người ta thường bảo sự ước vọng của con người vô cùng tận, hẽ đứng núi này thường trông núi nọ. Đã thành tiên tất nhiên không còn gì sung sướng hơn nữa, song lắm lúc vẫn còn thiếu hai chữ tình yêu. Thế thì "ái tình" quả là vị chúa tể oai quyền, nó chỉ huy cuộc sống, nó ngự trị trên mọi tâm hồn, nó có đủ quyền lực làm cho người ta phải sa đọa. Vì thế, chính Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng thông cảm mãnh lực của ái tình nên không trách cứ Đông Đẩu Tinh Quân hay một vì tiên nữ nào khác, ngài phải chọn lựa chỗ đầu thai xứng đáng cho mấy người để rồi bắt buộc họ phải sống một cuộc tình duyên đầy éo le, đó là một hình phạt, chú Ngọc Hoàng cũng không đủ sức để cấm hẳn không cho họ thực hiện theo tiếng gọi của con tim.

Tác giả Tái Sanh Duyên muốn nêu lên sức mạnh của ái tình đến thế, tưởng đã tuyệt bút rồi.

Tình Sử Mạnh Lệ Quân

Hồi Thứ Hai

Hoàng Phủ Kính vẫy vùng Vân Nam trấn

Tần Thừa Ân dẫn mối Mạnh Tiểu thơ.

Hôm sau, chúa Thổ Phiên Ngột Tòng Đào định đích thân dẫn binh ra trận, bỗng thấy Xích Phong Bất Hoa quì tâu:

- Hà tất chúa công phải thân chinh làm chi cho nhọc sức? Thiết tưởng một mình hạ thần cũng đủ sức tiêu diệt chúng rồi.

Ngột Tòng Đào nói:

- Cần phải có ta xuất trận tướng sĩ mới chịu hết lòng, Nguyên soái chớ nên khinh địch.

Ngột Tòng Đào nói rồi mang giáp lên ngựa kéo binh xông ra khỏi trại thì đã thấy quân Nguyên kéo đến sắp đặt hàng ngũ đâu ra đó chỉnh tề rồi.

Sau khi một tiếng pháo nổ vang, binh Nguyên bỗng rẽ ra làm hai, từ phía sau xông ra một viên đại tuớng, mình mặc chiến bào, cỡi con bạch mã, tay cầm giáo, bên tả đeo cung, bên hữu mang tên, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm. Phía sau lại có trương cây cờ lớn đề một hàng chữ "Võ Trạng nguyên Đô đốc Đại Nguyên soái Hoàng Phủ".

Xích Phong Bất Hoa thấy thế giục ngựa lướt tới gằn giọng hỏi:

- Ngươi có phải là Hoàng Phủ Kính không?

Hoàng Phủ Kính gật đầu:

- Phải, còn ngươi là ai, xưng rõ tên họ trước khi dâng đầu cho ta.

Xích Phong Bất Hoa giận dữ vỡ ngực đáp:

- Xích Phong Bất Hoa Đại tướng là ta đây, tài cán ngươi bao nhiêu dám múa rìu qua mắt thợ.

Nói chưa kịp dứt lời, Xích Phong Bất Hoa đã vung kiếm đâm thẳng vào mặt Hoàng Phủ Kính, Hoàng Phủ Kính vung giáo đỡ vẹt ra rồi hai người đánh vùi với nhau chưa đầy vài hiệp đã nghe một tiếng pháo nổ vang. Bên tả Phùng Nhựt Thăng, bên hữu Thi Tổ Vinh xua quân đánh nhầu ra một lượt. Quân Phiên bị đánh bất thình lình, hoảng hốt bỏ chạy tán loạn.

Xích Phong Bất Hoa cảm thấy sức mình không thể cự nổi Hoàng Phủ Kính, lại thấy quân ình cả loạn nên đâm bậy một kích rồi quày ngựa chạy dài.

Lúc ấy, Ngột Tòng Đào lại hay tin lương thảo của mình bị quân Nguyên thiêu hủy hết, thất kinh quày ngựa bỏ chạy. Hoàng Phủ Kính xua quân đuổi theo đến mười dặm mới đánh trống đắc thắng thâu quân trở về.

Về đến trại, Nguyên soái Hoàng Phủ Kính truyền quân sĩ nấu cơm ăn no nê, đặng chờ cho trời tối đi đánh tiếp một trận nữa.

Hoàng hôn vừa phủ xuống, Hoàng Phủ Kính đã phân công cho Phùng Nhựt Thăng đem binh đánh vào phía tả, Thi Tổ Vinh đánh vào phía hữu, còn mình thì bản thân dẫn đại binh đánh thẳng vào đại dinh của Thổ Phiên.

Lịnh truyền ra, quân sĩ rần rộ kéo đi như vũ bão.

Khi Ngột Tòng Đào chạy về đến dinh trại kiểm điểm lại binh tuớng thì thấy chết mất một đại tướng là Hàn Khởi, còn binh mã hao mấy ngàn, quân bị thương không biết bao nhiêu mà kể.

Ngột Tòng Đào mười phần buồn bực, một mình chong ngọn đèn lo lập mưu kế để chống lại quân Nguyên. Qua đến canh ba, bỗng bên ngoài dinh nổ lên một tiếng pháo long trời, rồi quân Nguyên từ ba mặt la ó vang trời dậy đất đánh rốc vào một lượt.

Ngột Tòng Đào và Xích Phong Bất Hoa đều thất kinh, vội vã mang giáp lên ngựa xông ra.

Nhờ có ánh lửa soi sáng, Xích Phong Bất Hoa trông thấy Hoàng Phủ Kính đang đứng trong trận điều khiển quân sĩ, nên vội xông nhào tới. Tướng Nguyên là Trần Thượng Cử thấy vậy vội vung giáo đón Bất Hoa lại giao chiến.

Lúc bấy giờ hai cánh quân của Phùng Nhựt Thăng và Thi Tổ Vinh từ hai bên đánh vào rát quá, khiến Xích Phong Bất Hoa cảm thấy lính quýnh, bị Hoàng Phủ Kính lướt tới đâm một giáo trúng ngay yến hầu té nhào xuống ngựa chết tốt. Tướng Phiên Hình Thăng thấy vậy lòng nóng như lửa đốt vung đại đao xông vào, bị Trần Thượng Cử đâm một giáo thủng tới sau lưng rồi vít ra xa lắc. Hoàng Phủ Kính khiến quân cắt lấy thủ cấp hai tướng Phiên rồi đốc quân ùa vào chém giết binh Phiên thây nằm chật đất, máu chảy thành sông. Binh Thổ Phiên thất kinh hồn vía vỡ chạy, quân Nguyên rượt theo đến hai mươi dặm mới chịu trở lại.

Sau trận đại thắng, Hoàng Phủ Kính truyền mở tiệc khao thưởng, cho tướng sĩ nghỉ ba ngày để dưỡng sức rồi sẽ ra binh.

Trận ấy Ngột Tòng Đào chạy xa đến ba mươi dặm mới dừng chân; sau khi kiểm điểm đám tàn binh thì thấy quân mình hao hơn phân nửa, lại bị mất Nguyên soái Xích Phong Bất Hoa cùng rất nhiều đại tướng.

Ngột Tòng Đào rơi lụy than:

"Ta không ngờ Hoàng Phủ Kính tài giỏi đến thế. Ta đã thua tiếp hai trận, tinh thần binh tướng đã nhược, biết tính sao đây?"

Thừa tướng Cát Siêu Nhân tâu:

- Tôi còn sợ Hoàng Phủ Kính có thể thừa thắng đem quân nã ta nữa, mà hiện giờ binh tướng ta đã mất tinh thần rồi, làm thế nào có thể chống cự nổi. Chi bằng sai sứ đến cầu hòa, lập kế hoãn binh rồi ngày sau sẽ liệu.

Ngột Tòng Đào khen phải, viết một hàng thư đổ lỗi cho Xích Phong Bất Hoa, đoạn sai Thổ Kim Tinh mang đến dinh Nguyên xin hàng.

Thổ Kim Tinh lãnh thư đi thẳng đến dinh Nguyên xin vào ra mắt để dâng hàng thư, quân sĩ chạy vào báo, Hoàng Phủ Kính truyền cho vào. Thổ Kim Tinh vào khép nép quì bẩm:

- Chỉ vì Chúa công tôi nghe lời Xích Phong Bất Hoa nên mới đem binh xâm phạm Thiên triều, nay Xích Phong Bất Hoa tử trận, chúa công đã biết ăn năn tự hối nên sai tôi mang hàng thư kính dân lên Nguyên soái, mong Nguyên soái rộng lòng dung cho chúa tôi một phen, chúa tôi về nước sẽ mang lễ vật sang dâng nạp và đầu hàng.

Thổ Kim Tinh nói dứt lời, hai tay dâng bức hàng thư lên, Hoàng Phủ Kính tiếp lấy giở ra xem rồi gật đầu bảo:

- Được rồi, ta cũng lấy lòng quảng đại dung thứ cho chúa ngươi, nhưng ta hạn cho trong vòng một tháng phải mang đồ cống lẽ sang, bằng bê trễ ta sẽ cử binh sang gia phạt.

Thổ Kim Tinh bái tạ, lui về báo lại vớii Ngột Tòng Đào. Ngột Tòng Đào mừng rỡ vội truyền quân nhổ trại kéo về nước, Hoàng Phủ Kính cũng thâu binh hồi thành rồi viết biểu sai người mang về trào báo tiệp.

Độ nửa tháng sau đã thấy Ngột Tòng Đào sai Thổ Kim Tinh mang đồ cống lễ sang, Hoàng Phủ Kính liền sai Phùng Nhựt Thăng đưa Thổ Kim Tinh đến kinh cho tướng Phiên bái yến Thiên tử.

Thổ Kim Tinh vào triều bái tung hô rồi dâng lên nhiều ngọc ngà châu báu, vua Thế Tổ nhà Nguyên mừng rỡ phán:

- Đã hai lần Hoàng Phủ Kính bình phục được Thổ Phiên. Trẫm muốn triệu va rút quân về triều, chẳng hay các khanh nghĩ sao?

Hữu Thừa tướng Kỳ Thạnh Đức bước ra tâu:

- Bệ hạ mới lên ngôi cửu ngũ, lòng dân chưa được yên ổn cho lắm, vả lại chỗ Vân Nam là nơi trọng trấn, cần phải để cho Hoàng Phủ Kính trấn giữ luôn tại Vân Nam mới được.

Nguyên Thế Tổ khen phải rồi lập tức hạ chỉ phong cho Hoàng Phủ Kính làm Đô đốc Vân Nam Binh mã Đại Nguyên soái để trấn giữ mãi mãi ở Vân Nam.

Tiếp đặng thánh chỉ, Hoàng Phủ Kính sai Tổng binh Trần Thượng Cử đem bớt binh mã về kinh, đồng thời rước gia quyến ra Vân Nam.

Từ đó vị Nguyên soái họ Hoàng trấn thủ Vân Nam hết lòng dạy dỗ dân tình và siêng năng hết mực, đem lại thái bình cho dân trong tỉnh.

Nhân lúc nhàn hạ, ông lo dạy dỗ hai con. Ngày giờ thấm thoát thoi đưa, chẳng bao lâu Trưởng Hoa và Thiếu Hoa tuôi đang đôi mươi, hai chị em nhờ trí thông minh nên tuy tuổi còn nhỏ mà nghề văn nghiệp võ thảy đều lão luyện. Ngày kia hai chị em trò chuyện với nhau, Trưởng Hoa nói:

- Chị đây là gái, dù có giỏi văn thơ gẫm chẳng ích chi, nên chị muốn lo việc nữ công và theo thân phụ học thêm võ nghệ để giữ mình. Còn phần hiền đệ thì nên chăm lo đèn sách để sau này lập thân.

Thiếu Hoa nói:

- Chị nói vậy sao phải. Vả chăng chúng ta là con nhà võ tướng, trước khi thân phụ mới mười tám tuổi đã thi đỗ Trạng nguyên, thế thì em phải luyện võ nghệ để nối gót theo người chớ.

Trưởng Hoa suy gẫm rồi gật đầu khen phải. Sua đó hai chị em bày tỏ chí hướng mình cho Hòang Phủ Kính nghe. Hòang Phủ Kính thấy con mình có chí hiếu học nên mừng rỗ vô cùng bè nói với Trưởng Hoa:

- Tuy con là hạng quần thoa nhi nữ, song con có sức mạnh, lại có khiếu về võ thuật, nếu con dốc lòng luyện tập võ nghệ chắc mai sau sẽ trở nên một nữ tướng hữ dụng cho quốc gia đấy.

Rồi từ đấy hai chị em bắt đầu tập cỡi ngựa bắn cung và thao luyện võ nghệ, không một giờ phút nào xao lãng. Đến khi hai chị em lên mười lăm tuổi cả hai võ nghệ đều tinh thông. Bắn cung bá phát bá trúng, thương pháp xuất quỷ nhập thần.

Hòang Phủ Kính thường khoe với phu nhơn:

- Phải chi triều đình cho con gái vào thi thì chắc Trưởng Hoa Tiểu thơ của chúng ta đây đỗ Trạng nguyên đấy chớ chẳng phải chơi.

Dõan Phu nhơn nói:

- Nếu như lời giới thiệu của phu quân thì nhà ta hữu phước biết bao, nhưng hiện nay chúng nó đã trưởng thành mà việc nhơn duyên chưa định đôi nơi nào, thật tôi lấy làm lo lắng.

Hòang Phủ Kính nói:

- Việc ấy phu nhơn hãy an tâm, vì khi sanh Trưởng Hoa đã có điềm hào quang chói rạng, hương thơm ngào ngạt, tất nhiên tướng mạng nó sau này sẽ được đại phú, đại quí. Phàm trời đã sanh ra kỳ nữ bao giờ cũng đã định sẵn nhơn duyên rồi, ta chớ nên vội vã.

Phu nhơn nói:

- Việc con gái thì mười hai bến nước trong nhờ đục chịu, phó mặc cho trời đã đành, còn việc con trai thì phải liệu sao đây?

Hòang Phủ Kính nói:

- Tuy phước mạng công tử không sánh nổi với tiểu thơ song cũng không phải là hạng tầm thường, tôi đã để ý một nơi xứng đáng rồi.

Phu nhơn hỏi vội:

- Chẳng hay phu quân định chọn nơi nào cho con vậy?

Hòang Phủ Kính đáp:

- Quan Binh bộ Thượng thơ Mạnh Sĩ Nguyên có một người con gái tên Mạnh Lệ Quân, năm nay mới mười lăm tuổi, tài mạo kiêm tòan thật xứng đáng là dâu nhà ta.

Phu nhơn nghe nói lấy làm đẹp dạ, liền hối thúc:

- Nếu Mạnh Thượng thơ có con gái tài mạo như thế thì ta nên cậy người đến cầu thân kẻo lỡ cơ hội thì uổng lắm.

Hòang Phủ Kính khen phải, liền viết thư cậy quan Bố chánh là Tần Thừa Ân đến xin cầu hôn.

Xin nói qua Mạnh Sĩ Nguyên vốn người huyện Côn Minh tỉnh Vân Nam, lúc mười bảy tuổi đã thi đỗ Võ khoa Tấn sĩ, về sau được thăng đến chức Binh bộ Thượng thơ, vợ là Hàn thị đến năm bốn mươi tuổi mới sanh được hai người con. Người con trai lớn tên Mạnh Gia Linh và một người con gái nhỏ tên Mạnh Lệ Quân. Mạnh Gia Linh khi mới lên mười một tuổi cũng thi đổ Võ khoa Tấn sĩ, được bổ làm quan ở Hàn lâm viện, vợ y là Phương thị cũng con nhà võ tướng.

Vừa rồi bà thân mẫu của quan Binh bộ Mạnh Sĩ Nguyên qua đời, nên cả hai cha con đều cáo quan về thọ tang, có lẽ nay hạn tang đã mãn, nhưng hai cha con còn ở nhà chưa đến kinh.

Bây giờ xin nhắc lại lúc Hàn Phu nhơn mang thai Mạnh Lệ Quân đã đi tìm mướn được một người vú rất chân thật để khi sanh ra người ấy nuôi dưỡng.

Thuở ấy, tại huyện Côn Minh có nàng Đỗ thị, lúc nhỏ theo đòi nghiên bút và học tập nữ công, năm Đỗ thị lên mười lăm tuổi kết duyên với một kẻ hàn nho tên Tô Tín Nhơn, tự là Tiểu Tòan. Tô Tính Nhơn vốn chăm chỉ học hành, tháng ngày miệt mài kinh sử, nhưng số phận đen bạc nên không lập được công danh, chỉ trông cậy vào một tay Đỗ Thị hẩm hút cháo rau cho qua ngày tháng.

Năm Đỗ thị được hai mươi lăm tuổi thì có thai. Một đêm nằm mộng thấy người đàn bà mặc áo đỏ dắt theo một nàng tiên nữ đến bảo Đỗ thị:

- Tuy chồng ngươi cố công đèn sách song không có phần khoa danh, lại không được hưởng dương trường thọ. Nay ta đưa Bỉnh Khuê Nữ này đến đầu thai làm con gái nhà ngươi, để sau này ngươi được cậy nhờ sung sướng.

Đỗ thị tỉnh giấc chiêm bao sanh đặng một người con gái vô cùng xinh đẹp, đặt tên là Tô Yến Tuyết. Đỗ thị biết chắc sau này con mình thế nào cũng được vinh hoa phú quí nên cố sức nuôi dưỡng.

Qua năm sau Tô Tín Nhơn thọ bịnh qua đời; Đỗ thị quyết một lòng thủ tiết thờ chồng nên tìm nơi xin làm nhũ mẫu để có điều kiện dưỡng nuôi con trẻ.

Lời Bình:

Ngột Tòng Đào đã biết Hoàng Phủ Kính một tay lợi hại nên rút quân đóng dinh cố thủ, thế mà khi Hoàng Phủ Kính đem binh đến nơi lại không điều tra thám thính, để cho Hoàng Phủ Kính phục kích không hay, còn nghe lời Xích Phong Bất Hoa khinh thường Hoàng Phủ Kính thì đại bại là đáng lắm. Phàm việc binh gia, đã không tìm hiểu để biết tình hình giữa ta và địch, lại còn khinh địch thì không đời nào thắng nổi.

Các bà phu nhơn thời bấy giờ, khi đặt thai vào dạ đã phải lo đi tìm người vú nuôi, vì đó là một việc làm rất quan trọng. Chẳng những phải tìm một người có sức khỏe để có sữa tốt để cho con mình mau lớn mà thôi, còn phải lựa người tánh tình nhơn hậu, lễ phép đoan trang, vì đứa bé lớn khôn gần gũi bà vú nhiều nhất, nếu bà vú hư thân mất nết, tất nhiên con mình cũng thế, vì vậy tuyển chọn một người vú nuôi cũng khó khăn như tuyển một người vợ hiền vậy.

Nàng Đỗ thị quả là hạng đàn bà tảo tần, đủ sức cáng đáng việc tề gia nội trợ, có vậy bà mới có thể một tay làm nuôi ông chồng ăn học miệt mài kinh sử, nhưng không may chồng qua đời, tuổi nàng còn đang độ xuân xanh, mặc dầu nàng thủ tiết thờ chồng, nhưng đã dễ gì ở vậy được? Người ta thường bảo "gái không trai dỗ lâu buồn cũng xiêu". Nàng Đỗ thị có đủ tài làm nuôi chồng ăn học tất nhiên nàng cũng đủ sức nuôi con chứ? Song nàng biết mình không thể sống trong hòan cảnh côn đơn này trong lúc con ong cái bướm bay dập dìu trước cửa như thế được.

Vì vậy việc nàng đi ở vú cho vị Binh bộ Thượng thơ họ Mạnh không phải nàng đi tìm miếng cơm manh áo mà chính nàng đi tìm chỗ dung thân để có điều kiện thủ tiết thờ chồng nuôi con. Thế thì Mạnh Sĩ Nguyên kính trọng nàng, lại truyền cho gia quyến không ai được khinh nàng là phải lắm.

Hồi Thứ Ba

Gái nên, nhiều kẻ muốn cầu hôn.

Họ Mạnh bày cuộc thi kén rể.

Mạnh Sĩ Nguyên tìm được người vú nuôi là nàng Đỗ thị lòng mừng khắp khởi, vì ông ta thấy nàng là người tiết phụ lại thêm cử chỉ đoan trang nên truyền cho gia quyến ông không ai được tỏ vẻ khinh thường nàng, buộc mọi người trong nhà phải kêu nàng là Tô Đại nương.

Đêm hôm ấy Hàn Phu nhơn sắp lâm bồn, bỗng chiêm bao thấy một người đem đến cho nàng một nàng tiên vào bảo:

- Ta vâng lện Ngọc Đế đem Chấp Phất Nữ đến đầu thai làm con gái nhà ngươi, ngày sau sẽ hưởng phú quý vinh hoa.

Khi Hàn Phu nhơn tỉnh dậy, mùi hương bay ngào ngạt khắp gian phòng, sau đó sanh hạ được một nàng con gái mặt mày xinh đẹp như hoa nở. Mạnh Sĩ Nguyên nghe Hàn Phu nhơn thuật lại câu chuyện trong giấc mộng nên đặt tên con là Lệ Quân rồi giao cho Tô Đại nương nuôi dưỡng.

Ngày tháng trôi qua, nàng Mạnh Lệ Quân và Tô Yến Tuyết lên bốn tuổi, cả hai đều xinh đẹp khác thường, hai trẻ chơi với nhau như chị em ruột.

Hai nàng vừa lên năm tuổi đã được theo Mạnh Gia Linh cùng học tập, nhưng trong ba người chỉ có Mạnh Lệ Quân là thông minh hơn cả, nàng học đâu nhớ đó, lại còn có óc nghiên cứu nên nàng có thể biết cả những việc nàng chưa học đến. Mạnh Gia Linh tuy cố tâm học tập song không thông minh bằng Mạnh Lệ Quân, còn Tô Yến Tuyết thì đứng vào hàng thứ ba.

Khi Mạnh Lệ Quân lên bảy tuổi thì ngũ kinh tứ thư thảy đều làu thông, lại có tài thi phú hay xuất chúng. Tuy vậy nàng phải cái tật sợ đau, lại được phu nhơn quá cưng nên không xỏ lỗ tai.

Mạnh Sĩ Nguyên thấy vậy phàn nàn:

- Con gái mà không xỏ lỗ tai thì làm sao gả lấy chồng?

Hàn Phu nhơn đáp:

- Thôi, để khi sắp lấy chồng sẽ xỏ lỗ tai vậy.

Mãi đến năm mười ba tuổi mà ngày nào Mạnh Gia Linh làm văn cũng thua sút em gái mình, thậm chí văn bài của Mạnh Lệ Quân, Mạnh Sĩ Nguyên chấm duyệt không thể sử chữa được một chữ nào.

Mạnh Sĩ Nguyên tấm tắc khen:

- Phải chi triều đình cho con gái vào thi, chắc chắn Mạnh Lệ Quân nó sẽ chiếm bảng Trạng nguyên.

Ngòai việc học hành thi văn kinh sử, Mạnh Lệ Quân còn nghiên cứu qua y bốc, tướng số và rất chuyên cần việc nữ công nên việc bánh trái thêu thùa nàng thông thạo hơn ai hết.

Hàng ngày nàng lúc thúc trong huê viên cùng với mẹ con Tô Yến Tuyết, nàng ít hay trang điểm, nhưng nhan sắc xinh đẹp lạ thường. Còn Tô Yến Tuyết tuy tài mạo chẳng bằng Mạnh Lệ Quân song nghề văn thơ cũng giỏi, nhan sắc cũng tuyệt vời, so với người thường thì ít ai sánh kịp.

Hàn Phu nhơn lại nuôi một đứa tớ gái tên Vinh Lang đã siêng năng, khôn ngoan dễ dạy, tính tình lại lanh lợi ít kẻ bì, nên rất ý hiệp tâm đầu với Mạnh Tiểu Thơ. Vì vậy không bao giờ nàng rời xa nó một bước.

Mạnh Sĩ Nguyên thấy con gái mình đã học rộng tài cao lại thêm trí tuệ sâu sắc, am hiểu việc đời nên có việc chi khó đều hỏi ý kiến nàng, nàng góp ý kiến là giải quyết được ngay.

Lúc bấy giờ rất nhiều hạng vương tôn công tử đến cậy mai mối để đẹp duyên cùng Mạnh Lệ Quân, nhưng quan Binh bộ xét thấy con mình tài mạo tuyệt vời thật khó mà chọn cho được người xứng đôi vừa lứa, vì vậy lần hồi ông ta kiếm lời từ chối hết.

Lúc bấy giờ tại quận Côn Minh có một vì quan Hồ Lô tên Cố Hoằng Nghiệp là một Tấn sĩ xuất thân, năm nay tuổi độ năm mươi, ông cáo quan về hưu để nuôi đưỡng mẹ già. Ngày kia Cố Hoằng Nghiệp tìm đến Mạnh gia trang vào ra mắt Mạnh Sĩ Nguyên. Hai đàng chào hỏi xong vừa phân ngôi chủ khác mời ngồi thì bỗng gia đinh chạy vào báo:

- Có quan Tần Bố chánh đến nữa.

Mạnh Sĩ Nguyên đứng dậy xin lỗi Cố Hoằng Nghiệp rồi ra rước Tần Thừa Ân vào.

Sau khi chủ khách ba người an tọa, trà nước xong xuôi, Mạnh Sĩ Nguyên lên tiếng hỏi:

- Chẳng hay nhị vị đại nhơn đến viếng tôi có điều chi dạy bảo?

Tần Bố Chánh và Cố Hoằng Nghiệp đều đồng thanh nói:

- Chúng tôi đến đây chỉ vì việc hôn nhân của lịnh ái.

Mạnh Sĩ Nguyên hỏi:

- Chẳng hay nhị vị đại nhơn muốn xây dựng cuộc nhơn duyên của con gái tôi cho ai vậy?

Tần Thừa Ân lên tiếng trước:

- Tôi định làm mối lịnh ái cho con Hoàng Phủ Nguyên soái tên Hoàng Phủ Thiếu Hoa.

Cố Hoằng Nghiệp cũng nói:

- Còn tôi đây lại muốn cầu hơn cho cháu tôi là Lưu Khuê Bích, thứ tử của Nguyên Thành Hầu Lưu Tiệp.

Rồi ông ta tự giới thiệu:

- Chẳng phải tôi muốn khoe tài của cháu tôi chứ thật ra Lưu Khuê Bích năm nay mới mười sáu tuổi mà văn võ kiêm tòan, thường ngày đến cùng với Hoàng Phủ công tử, luận võ đàm văn, thi văn, dượt võ không khi nào chịu thua sút. Vả lại, cháu gái tôi nay làm Chánh cung Hoàng hậu đã nhiều lần định tâu cùng Thiên tử yêu cầu trọng dụng Lưu Khuê Bích nhưng chỉ vì anh nó là Lưu Khuê Quang đang trấn thủ tại Bắc thành Nhạn Môn Quan nên phu nhân chẳng nỡ xa, nên mới để ở nhà phục thị. Nếu lệnh ái đây mà gả cho họ Lưu, đã đựơc phú quí vinh hoa lại được gần gũi tiện bề đi lại, chớ như gả cho nhà Hoàng Phủ, mai sau phải về tận Hồ Quảng đường xa diệu vợi thật khó mà viếng thăm.

Tần Thừa Ân cười gằn và nói:

- Việc gả con lấy chồng cốt tìm nơi xứng đáng chứ có ai lại nghĩ đến việc xa gần?

Tuy lúc ấy Tần Thừa Ân không khoe tài Hoàng Phủ Thiếu Hoa, song Mạnh Sĩ Nguyên cũng nhận thấy cả hai người đều đáng mặt giai tế cả, thật khó mà từ chối bên nào, nên kiếm lời nói:

- Lão phu vốn thương yêu con gái lắm nên không nỡ ép con, vậy việc này cần hỏi ý kiến nó mới được, nếu nó ưng nơi nào thì tôi sẽ gả nơi ấy vậy.

Tần Thừa Ân và Cố Hoằng Nghiệp đều gật đầu khen phải và đồng nói:

- Đại nhơn nói như vậy phải lắm, vậy hãy vào hỏi ý kiến tiểu thơ xem sao.

Mạnh Sĩ Nguyên vội bước vào thuật lại sự việc cho phu nhơn và công tử nghe.

Hàn Phu nhơn hỏi:

- Theo phu quân thấy thì hai nhà ấy, nhà nào xứng hơn?

Mạnh Sĩ Nguyên đáp:

- Xét về môn đăng hộ đối thì hai nhà cũng ngang nhau, còn xét về tài mạo của hai vị công tử ấy cũng tùng tiệm với nhau, thật khó phân ai hơn ai kém.

Mạnh Gia Linh nói:

- Theo con thấy thì Lưu Tiệp vốn phường vô lọai xuất thân, ỷ thế lực công thần thường hay hiếp đáp kẻ dưới, còn nhà ta đây là dòng dõi trung lương không nên kết thân với những hạng người ấy. Nếu ta kết thân, không khéo người ta sẽ chê mình là kẻ xu phụ quyền thế. Chi bằng kết thân với Hoàng Phủ Kính là Trạng nguyên xuất thân, một nhà nhân đức biết kính trên nhường dưới, không hai hơn sao?

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Chính ta cũng nghĩ như vậy, nhưng hai bên đến cầu hôn một lượt, nếu gả cho nhà Hoàng Phủ thì e mích dạ họ Lưu, thật chẳng biết nên liệu sao cho phải.

Mạnh Gia Linh suy nghĩ hồi lâu rồi đáp:

- Việc này quả nhiên khó liệu thật.

Hai cha con đang bối rối thì vợ của Mạnh Gia Linh là Phương thị đứng phía sau mỉm cười. Hàn Phu nhơn thấy thế hỏi:

- Việc chi con lại cười mà không nói?

Phương thị thưa:

- Con thấy xưa nay thiếu chi việc khó khăn hơn nữa mà còn giải quyết được thay, huống chi nay việc này cũng nhỏ mọn có gì là khó?

Hàn Phu nhơn lại hỏi:

- Thế thì theo ý con nên giải quyết bằng cách nào cho tiện?

Phương thị thưa:

- Cả hai bên đều là con nhà võ tướng cả, vậy ta hãy lập một cuộc thi tiễn, mời hai vị công tử đến huê viên tranh tài cao thấp. Ta chỉ cần đem một đồng tiền treo trên nhành liễu và cột nối một chiếc áo cẩm bào, đọan phát cho mỗi người ba mũi tên, phát thứ nhất buộc phải trúng nhành liễu, phát thứ hai thì phải trúng vào lỗ đồng tiền, và phát thứ ba phải trúng đích sợi dây treo áo cẩm bào. Nếu ai bắn được ba phát thì gả cho người ấy, tất nhiên không ai trách được.

Hàn Phu nhơn gật đầu đáp:

- Lời con nó đề nghị phải lắm, vậy phu quân hãy y theo đó mà làm.

Mạnh Sĩ Nguyên cười ha hả nói:

- Nếu ta kén rể bằng cách khó khăn như vậy thì biết bao giờ mới xong?

Phương thị thưa:

- Theo con nghĩ, người đã thạo nghề cung tiễn thì đối với việc ấy cũng không khó chi, hơn nữa tiểu thơ nhà ta bậc tài hoa cũng cần phải kén chọn anh hùng dường ấy mới xứng đáng chứ.

Hàn Phu nhơn cũng nói vào:

- Ý tôi cũng vậy, phu quân nên chấp thuận phương pháp ấy là phải - Mạnh Sĩ Nguyên nghe theo, trở ra tỏ ý cho Tần Thừa Ân và Cố Hoằng Nghiệp nghe. Cố Hoằng Nghiệp nghe qua mừng rỡ vô cùng vì lão ta thấy cháu mình rất thiện nghệ về nghề cung tên thế nào cũng sẽ đọat giải.

Cố Hoằng Nghiệp vui vẻ đáp:

- Đại nhơn nghĩ ra việc ấy quả là một sáng kiến hay. Vậy mai này hãy cho mời hai vị công tử đến xem sao.

Tần Thừa Ân nói:

- Tôi thiết tưởng việc lương duyên do trời kia đã sắp đặt sẵn rồi, nếu quả duyên vợ về ai thì người ấy sẽ bắn trúng, chớ không phải do việc giỏi dở mà được.

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Nếu vậy để ngày mai tôi bày tiệc đặng mời nhị vị công tử đến.

Cố Hoằng Nghiệp lại nghĩ thầm:

"Nếu mai này cháu mình đọat giải thì chẳng nói làm chi, bằng thất bại thì còn gì là thể diện của ta?".

Nghĩ đọan, ông ta lên tiếng nói:

- Nếu mai này rủi lão phu có bận việc gì, xin phép vắng mặt để một mình cháu nó hầu đại nhơn cũng được nhé!

Tần Thừa Ân cũng sợ Hoàng Phủ Thiếu Hoa bị thua sút thì thẹn lắm nên cũng nói:

- Ngày mai tôi cũng mắc chút việc quan không đến được, vậy xin phép đại nhơn để cho hai vị công tử đến đây cũng tiện.

Mạnh Sĩ Nguyên vâng lời, rồi cả hai cáo từ ra về.

Tần Thừa Ân ra khỏi phủ, không về nhà lại thẳng đến dinh Hoàng Phủ thuật rõ đầu đuôi câu chuyện cầu hôn nhà họ Mạnh cho Hoàng Phủ Kính nghe. Hoàng Phủ Kính nói:

- Nếu vậy để mai tôi đem tiện nhi nó sang nhà đại nhơn, đặng nhờ đại nhơn dẫn nó sang Mạnh phủ. Sau này cuộc lương duyên con trẻ đặng thành, tôi không bao giờ dám quên ơn của đại nhơn.

Tần Thừa Ân nói:

- Chẳng mấy khi Nguyên soái có việc cậy đến tôi, tôi đâu dám từ thác, song lúc nãy Cố Hoằng Nghiệp đã từ chối không đến, chỉ để một mình Lưu Khuê Bích đến thôi, hơn nữa mai mày tôi cũng có chút việc quan nên cũng xin cáo thối, để một mình công tử đi cũng tiện.

Hoàng Phủ Kính vâng lời, Tần Thừa Ân cáo từ ra về.

Hoàng Phủ Kính vào nhà trong thuật lại cho Doãn Thị Phu nhơn nghe và kêu Thiếu Hoa bảo:

- Ngày mai con qua bên ấy phải cố sức tranh tài cho kỳ được nhé.

Thiếu Hoa lấy làm bất bình nhưng vì thấy cha mình đã quyết không dám cãi, chỉ ngồi làm thinh.

Hoàng Phủ Kính thấy vậy nói khích:

- Tại sao con có vẻ không vui, chắc con cảm thấy tài mình không sánh nổi Lưu Khuê Bích phải không?

Thiếu Hoa thưa:

- Ngày nào con và Khuê Bích cũng thao dượt ngoài võ trường, tài lực ngang nhau có can chi mà con sợ, song nếu tỉ thí như vầy tất nhiên phải có người thua. Nếu con thua thì chẳng nói làm chi, bằng Khuê Bích thua con, tất nhiên tổn thương tình bằng hữu, chi bằng con nhượng cho Khuê Bích thì hay hơn.

Hoàng Phủ Kính cau mày nói:

- Nay việc đã hứa rồi, nếu con không đi thì nhục cho cha biết dường nào! Vả chăng ta đây đường đường một vị Nguyên soái mà đứa con không đủ tài bắn ba phát tên thì ôi thôi còn mặt mũi nào điều khiển ba quân nữa!

Trưởng Hoa Tiểu thơ vội xen vào góp ý:

- Nếu hiền đệ có vì tình bằng hữu thì ngày mai hiền đệ hãy nhường cho Khuê Bích bắn trước, nếu hắn bắn đích ba phát thì hãy nhường luôn đừng bắn nữa, bằng ngược lại hắn bắn trật thì tất nhiên hiền đệ phải bắn, đó là lối xử vẹn toạn vậy.

Thiếu Hoa thấy cha mình giận dữ, chị mình lại phân tỏ lý nên cực chẳng đã phải thuận tình.

Lời Bình:

- Thời xưa hễ sanh con trai thì mừng, trái lại dù sanh năm bảy đứa con gái vẫn xem như chưa có con, đến khi lớn lên con trai học giỏi là hữu phước, bằng con gái dù có học giỏi cũng xem như vô ích. Sở dĩ có quan niệm ấy là vì họ xem đàn bà chỉ là món đồ chơi của đàn ông, chỉ là bộ máy sinh sản để cho giống nòi được tồn tại mà thôi. Ôi! Nếu xem đàn bà như vậy thì biến họ thành những con thú vật. Ngay nay phái nữ cũng đứng ra lãnh trọng trách như đàn ông, có nhiều bà tài năng xuất chúng còn hơn cả đàn ông nữa là khác.

- Mạnh Sĩ Nguyên muốn kén rể nhưng đứng trước hai chàng công tử họ Hoàng Phủ và họ Lưu tài mạo tương đương, gia thế cũng tùng tiệm; khó mà giải quyết nổi nên định hỏi Mạnh Tiểu thơ, hễ nàng ưng ai thì gả cho người ấy, đó là thượng sách rồi, sau khi vào hỏi lại không hỏi ngay con mình mà lại hỏi vợ, nghe lời dâu bày ra việc thi kén chọn để cho mích lòng một trong hai người ấy.

Còn xét về Hoàng Phủ Thiếu Hoa, chàng đã thấy trước vấn đề là ra tỉ thí tất nhiên phải có kẻ thắng người bại, nếu chàng bị thất bại giữa tình trường thì con2 gì cay đắng hơn? Ngược lại Lưu Khuê Bích bị thua thì còn gì là tình bằng hữu? Nhưng khổ thay Hoàng Phủ Kính đường đường là một vị Nguyên soái chẳng lẽ để cho con mình rút lui có trật tự trước ba mũi tên sao? Bề nào Thiếu Hoa cũng phải đi tỉ thí, mà đã tỉ thí thì tất nhiên tình bằng hữu phải bị tổn thương. Thế thì có trách là trách sao cho người bày ra cuộc thi ấy. Làm như vậy chẳng khác nào gài cái bẫy để cho hai họ Hoàng, Lưu thù nghịch nhau vậy. Cho hay phàm làm con gái nếu không ưng người ta thì thôi chứ đừng nên làm mích lòng người, nguy hiểm!

Hồi Thứ Tư

Vì háo sắc, họ Lưu thất bại,

Bởi mến tài, Yến Tuyết tương tư.

Thật vậy, Lưu Tiệp vốn là một tên vô loại xuất thân, nhờ theo Nguyên Thế tổ lập quốc có công nên được làm đến chức Nguyên Thành Hầu.

Lưu Tiệp có cả thảy năm bà vợ, chánh thê là Cố Phu nhơn sanh đặng ba người con, hai trai một gái, vị trưởng tử Lưu Khuê Quang nhờ lập được chiến công nên triều đình sai đi trấn thủ Nhạn Môn Quan, còn thứ nữ Lưu Yến Châu kết duyên cùng Hoàng Tôn Thiết Mộc Nhi. Chỉ vì Thế tổ Đông cung tạ thế, nên mới lập Thiết Mộc Nhi lên làm thái tử.

Năm thứ hai mươi lăm, Thế tổ thăng hà, Thiết Mộc Nhi được hai mươi tuổi lên ngôi xưng hiệu là Thành Tôn Hoàng Đế, lập Lưu Yến Châu làm Hoàng hậu, Lưu Tiệp làm Quốc trượng.

Lúc bấy giờ Lưu Khuê Bích đã mười sáu tuổi còn vợ chồng Lưu Tiệp đã gần năm mươi. Lưu Tiệp còn một người con gái thứ tư con của thứ thiếp Ngô thị, tên Lưu Yến Ngọc, năm nay nàng được mười lăm tuổi; nàng mồ côi mẹ từ thuở mới lọt lòng, Lưu Tiệp giao cho người nhũ mẫu là Giang Tam Tẩu nuôi dưỡng ở quê nhà tại tỉnh Vân Nam.

Cũng cần giới thiệu qua Lưu Khuê Bích vốn là một chàng trai phong lưu tuấn nhã, cung thương, võ thuật đều lão thông, nhưng chỉ có tánh ham lêu lổng chơi bời, không được nên người đoan chánh. Vì vậy khi Cố Hoằng Nghiệp về thuật lại câu chuyện cầu hôn nhà họ Mạnh cần phải thi tiễn với công tử Thiếu Hoa để tranh tài cao hạ. Lưu Khuê Bích cau mày nói:

- Ông xanh kia sao quá trớ trêu, buộc ta phải đương đầu với Thiếu Hoa như vậy?

Rồi sắc mặt buồn dàu dàu trở vào phòng nằm thở vắn than dài, lòng đầy lo ngại.

Lại xin nói qua Mạnh Lệ Quân, nàng cùng Tô Yến Tuyết sống chung thương yêu nhau như chị em ruột. Vì vậy, hai nàng thường ao ước sau này cùng lấy được một chồng cho khỏi phải phân ly.

Hôm ấy, sau khi Mạnh Sĩ Nguyên ước định rồi trở vào bảo cùng phu nhơn, sáng mai phải đem các con lên lầu đặng xem hai chàng công tử tỉ thí cung tiễn. Tô Yến Tuyết nghe xong vội vã chạy báo tin cho Mạnh Lệ Quân hay, Mạnh Lệ Quân buồn bã nói:

- Phụ thân ta nghĩ vậy là lầm rồi! Nếu bày ra cuộc thi tất nhiên phải có kẻ thua, ta e về sau xảy ra điều không tốt!

Yến Tuyết nói:

- Việc này là do ý kiến của Phương thị, nhưng nay đã lỡ ước định rồi, dù muốn thay đổi ý kiến cũng không được, thôi chúng ta hãy chờ xem, chắc cũng không hại gì lắm đâu.

Sáng hôm sau, Hoàng Phủ Thiếu Hoa mặc áo kim bào, cỡi con bạch mã, dắt theo bốn tên gia tướng sang dinh họ Mạnh. Khi ra khỏi ngõ đã gặp Lưu Khuê Bích, hai người lễ phép chào nhau rồi kề ngựa vừa đi vừa chuyện trò ra vẻ thăm dò ý tứ.

Đến nơi, đã thấy Mạnh Gia Linh chờ sẵn bên ngoài rước vào nhà. Mạnh Sĩ Nguyên vui vẻ nói:

- Cha con tôi đây vốn nhà văn học, hôm nay được xem cái tài xạ tiễn của nhị vị công tử thật là vạn hạnh.

Hai vị công tử đồng thanh nói:

- Chúng tôi đâu dám múa rìu qua mắt thợ! Vả chăng, nghề cung mã của chúng tôi còn non nớt, nay vì vâng mạng phải đánh bạo đến đây, vậy nếu có sơ sót xin đại nhơn rộng tình dung thứ.

Mạnh Sĩ Nguyên mỉm cười đáp:

- Tài năng của nhị vị công tử đã được đồn đãi khắp nơi, hà tất phải khiêm nhường.

Dứt lời, Mạnh Sĩ Nguyên hối gia nhơn dọn tiệc lên đặng đãi hai người rồi mới ra thi thố.

Lưu Khuê Bích nghĩ thầm:

"Trước khi thi bắn, lòng ta lo lắng ăn uống sao ngon, chi bằng để bắn rồi sẽ ăn mới thú".

Nghĩ đoạn, chàng nói:

- Nay chúng tôi phụng mạng đến đây thi bắn mà cuộc thi chưa xong, chúng tôi đâu dám ngồi dùng tiệc?

Thiếu Hoa cũng phụ họa:

- Xin đại nhơn hãy cho dự thi trước rồi sau hãy dùng tiệc cũng chẳng muộn.

Mạnh Sĩ Nguyên khen phải rồi sai gia đinh đi mời Hàn Phu nhơn lên lầu để xem mặt nhị vị công tử. Hàn Phu nhơn vội vã dắt Phương thị đi theo. Phương thị vào dắt Mạnh Lệ Quân, nhưng Mạnh Lệ Quân từ chối không chịu đi. Lúc ấy, Tô Yến Tuyết thấy thế nghĩ thầm:

"Ta cùng Mạnh Tiểu thơ đã ước mong lấy chung một chồng, thế thì ta cần phải đến xem mới được".

Nghĩ vậy, nàng nói với Mạnh Lệ Quân:

- Nếu tiểu thơ ngại ngùng không đi thì để tôi đi thế cho.

Tô Yến Tuyết nói rồi vội bước theo Phương thị ra ngoài huê viên leo lên Xuân Minh lầu đứng sau rèm, còn bọn nữ tỳ thì đứng ngoài bao lơn trông xuống.

Mọi việc đâu đó sắp đặt xong xuôi, Mạnh Sĩ Nguyên và Mạnh Gia Linh mời hai vị công tử ra huê viên. Lúc đi ngang qua Xuân Minh lầu, trông thấy trên ấy bọn nữ tỳ đứng rất đông, hai người biết ngay trên ấy có Mạnh Tiểu thơ chờ xem mình, nên cả hai đều hết sức giữ gìn ý tứ.

Tên thơ đồng chỉ hai vị công tử và giới thiệu từng người một cho phu nhân xem. Tô Yến Tuyết hé rèm nhìn kỹ một hồi rồi nói với Phương thị:

- Hôm trước lão gia bảo hai công tử tài nghệ và dung mạo tương đương, nhưng cứ theo nhãn mục của tôi thì hai người cao thấp một trời một vực. Tuy Lưu công tử mặt trắng môi tươi, nhưng trông người ra dáng thô tục, sao bằng Hoàng Phủ công tử nét mặt trông nở nang, dung nghi tề chỉnh, quả người này về sau hưởng phú quí vinh hoa, nếu đặng đẹp duyên cùng tiểu thơ thì tốt biết chừng nào.

Phương thị nói:

- Nàng luận như vậy hạp ý ta lắm.

Lúc ấy ở dưới lầu, Mạnh Sĩ Nguyên đã mời hai công tử ra tài. Lưu Khuê Bích lên tiếng nhường cho Thiếu Hoa bắn trước, nhưng Thiếu Hoa tìm lời từ chối và quyết nhường cho Khuê Bích, khiến Khuê Bích không thối thác được, Khuê Bích cực chẳng đã phải chiều theo.

Trước khi bắn, Mạnh Sĩ Nguyên rót mời Khuê Bích uống ba chén rượu, Khuê Bích tiếp lãnh rồi bước vào trường thi lấy cung tên bắn ra phát thứ nhất.

Mũi tên vừa thoát khỏi cung đã nghe gia tướng vỗ tay rập lên và khen hay. Xem lại mũi tên trúng đích nhành liễu.

Lúc ấy Tô Yến Tuyết thấy Khuê Bích buông tên, nàng vái thầm:

"Vái trời cho Khuê Bích bắn trật hết ba phát, còn Thiếu Hoa thì bắn trúng hết cả ba".

Khi thấy Khuê Bích bắn trúng phát thứ nhất, trong lòng nàng hồi hộp vô cùng. Nàng lật đật bước ra ngoài bao lơn đứng xem không nháy mắt.

Dưới trường, Lưu Khuê Bích bắn trúng phát thứ nhứt đã vững lòng, liền rút tên bánh tiếp phát thứ nhì trúng ngay lỗ đồng tiền.

Lưu Khuê Bích mừng rỡ nghĩ thầm:

"Thế là còn có một phát nữa, làm gì ta cũng đoạt giải".

Trên lầu Tô Yến Tuyết thấy Lưu Khuê Bích bắn trúng hai phát, trong lòng thất kinh, nàng nghĩ thầm:

"Thôi thế nào rồi đây cuộc nhơn duyên của Mạnh Lệ Quân và ta sẽ dang dở".

Trong cơn bối rối nàng không nghĩ đến phận mình, nên bước thẳng ra ngoài rèm nhìn trân xuống. Lúc ấy Khuê Bích đang vói rút mũi tên thứ ba chợt thấy trên lầu Tô Yến Tuyết xuất hiện, mày liễu mặt hoa vô cùng kiều diễm, chàng cảm thấy mê mẩn cả tâm hồn.

Khuê Bích lầm tưởng Mạnh Lệ Quân nên nghĩ thầm:

"Chắc Mạnh Tiểu thơ thấy ta bắn trúng đích hai phát nên nàng đẹp ý phải bước ra ngoài xem mà không biết mắc cỡ là gì".

Nghĩ rồi, Lưu Khuê Bích vội rút bắn mũi tên thứ ba, chẳng dè lúc ấy vì quá mừng rỡ nên nôn nóng, tay chân mất tự nhiên, kéo cung không đúng; mũi tên bay vụt sang một bên, chiếc áo cẩm bào vẫn còn treo lủng lẳng trước mặt.

Khuê Bích biến sắc mặt, vội bước đến xin lỗi Mạnh Sĩ Nguyên. Mạnh Sĩ Nguyên tỏ lời an ủi. Sau đó ông lại rót mời Hoàng Phủ Thiếu Hoa uống ba chén rượu và mời vào thi.

Thiếu Hoa uống cạn ba chén rượu rồi bình tĩnh bước vào trường thi giương cung bắn. Cung kia vừa buông, đã thấy mũi tên đâm nhành liễu, hai bên gia tướng vỗ tay khen dậy lên. Rồi đến mũi thứ hai trúng ngay lỗ đồng tiền và mũi thứ ba trúng đích sợi dây treo áo cẩm bào, làm cho chiếc áo rơi xuống đất. Mọi người ó lên khen ngợi không ngớt lời.

Tiếng khen càng rầm rộ bao nhiêu thì Khuê Bích càng hổ thẹn và ghen ghét bấy nhiêu. Lưu Khuê Bích cảm thấy không còn mặt mũi nào đứng đó nhìn mọi người nữa nên vội xin cáo từ ngay.

Mạnh Sĩ Nguyên vỗ về mời chàng ở lại để dự tiệc, nhưng chàng chối quanh. Thiếu Hoa thấy thế vội chạy tới nắm tay Khuê Bích nói:

- Tài lực Lưu huynh có thua kém gì tôi đâu, nhưng sở dĩ Lưu huynh bắn trật phát thứ ba là vì sự rủi ro đó thôi, xin Lưu huynh hãy nán lại cùng tôi uống vài chén rượu rồi sẽ về.

Mạnh Gia Linh cũng bước tới mời mọc tỏ lời hơn thiệt nên Lưu Khuê Bích cực chẳng đã phải ráng chịu nhục ở lại.

Khi vào nhà, Thiếu Hoa tự tay nhắc ghế mời Mạnh Sĩ Nguyên ngồi giữa và thưa:

- Xin đại nhơn nhận cho hai lạy của tiểu tế.

Mạnh Sĩ Nguyên khoa tay nói:

- Nay tiện nữ được kết duyên với công tử thật đã quá phận rồi, lẽ nào tôi dám nhận lễ ấy?

Thiếu Hoa đáp:

- Đúng theo phép là phải vậy, mong đại nhơn vui lòng nhận cho.

Lưu Khuê Bích ngồi trơ trơ như tượng gỗ, lòng nghĩ thầm:

"Cha vợ chàng rễ, người ta đang thân thiện với nhau sao ta ngồi đây làm gì cho trơ trẽn lắm vậy".

Nghĩ đến đây, vẻ mặt bỗng cau lại, chàng đứng phắt dậy bỏ ra ngoài không thèm đếm xỉa gì đến ai hết. Ra khỏi cửa, chàng gọi gia nhơn đem ngựa đến rồi tung mình lên ngựa ra roi phóng nước đại.

Trước cử chỉ ấy, cha con Mạnh Sĩ Nguyên và Thiếu Hoa không khỏi ngạc nhiên. Mạnh Sĩ Nguyên biến sắc mặt nói:

- Hiện nay thân phụ của va có quyền thế lắm, lại thêm Thiên tử đang quí mến Lưu Hoàng hậu, thế nào việc này cũng sanh chuyện lôi thôi. Vậy công tử hãy thưa cùng lịnh đường nên sớm lo liệu làm lễ cưới sớm chừng nào hay chừng nấy để tránh khỏi sự ghét ghen và tôi cũng được an ổn.

Mạnh Gia Linh cùng Thiếu Hoa đều khen phải rồi cả ba đều ăn uống chuyện trò thân mật đến tối mới xong.

Tiệc mãn, Hoàng Phủ Thiếu Hoa cáo từ rồi lên ngựa dắt bốn tên gia tướng ra về.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa về đến nhà thuật lại cho Hoàng Phủ Kính nghe. Hoàng Phủ Kính nổi giận mắng:

- Hắn cũng là con nhà võ tướng mà sử dụng không được ba mũi tên, lại còn giận dữ bỏ ra về, thật là kẻ mất dạy.

Trưởng Hoa tiểu thơ nói:

- Nếu Khuê Bích là kẻ không biết điều như vậy, con chắc sẽ sanh chuyện lôi thôi, xin phụ thân hãy y theo lời Mạnh Thượng thơ làm lễ cưới cho kịp thì hay hơn.

Hoàng Phủ Kính gật đầu khen phải rồi viết thơ sai người thông báo cho Tần Thừa Ân biết để cùng nhau lo liệu.

Lời Bình:

- Các cô thiếu nữ khi xưa thường kén chồng bằng cách thi cung tiễn cũng là việc thường tình chứ không phải là việc lạ, song phải là con nhà có địa vị quyền thế tột đỉnh không ai có thể oán thù gì được mới có thể kén chọn bằng cách này, hơn nữa đã biết Lưu Tiệp là phường vô loại còn thừa nhận để cho con hắn được ứng thí thì quả là làm một việc gây thù kết hận.

Thật vậy, nếu Lưu Khuê Bích không phải là kẻ mất dạy thì rủi trật một phát tên cũng không lấy gì làm giận, nếu có giận chăng nữa, nên tự trách mình thì hơn, vì hằng ngày chàng cùng Thiếu Hoa thi cung dượt võ hai bên đều ngang nhau, Thiếu Hoa không thể khinh chàng được. Nay bắn bị sai lạc đó là một việc rủi ro, Thiếu Hoa không khi nào dám khinh chàng được, hay nói đúng hơn nếu Khuê Bích vẫn giữ vẻ bình tĩnh, Thiếu Hoa có thể tin rằng Khuê Bích đã nhượng cho Thiếu Hoa, thì Thiếu Hoa càng cảm ơn Khuê Bích nữa là khác. Đàng này Khuê Bích vùng vằng bỏ về, hầm hầm sắc giận làm cho Thiếu Hoa thấy rõ cái tâm trạng đê hèn, tức là mình đã hạ cái phẩm giá của mình vậy.

Lưu Khuê Bích đi cầu hôn cùng tiểu thơ họ Mạnh, song chưa biết Mạnh Lệ Quân ra sao thì đã chắc gì người mình sắp tranh giành đây là vừa ý? Hơn nữa đối với địa vị và tài mạo của chàng thì thiếu gì con gái đẹp trong dân gian yêu chuộng, hà tất phải lấy con gái nhà họ Mạnh mới được, để phải giận hờn thất vọng đến thế? Vì vậy cái bịnh tự ái lắm lúc làm cho người ta mù quáng và thường làm cho người ta đi đến chỗ mất tư cách, đáng khinh.

Hồi Thứ Năm

Nằm mộng, Yến Tuyết kết nhơn duyên,

Si tình, chàng Lưu lập ác kế.

Khi Hoàng Phủ Thiếu Hoa bắn đích ba phát, Tô Yến Tuyết lòng mừng khấp khởi vội bước lại nấp sau tấm bình phong để nghe ngóng. Mãi đến lúc Thiếu Hoa dự tiệc xong, từ tạ ra về nàng mới chạy đi tìm Mạnh Lệ Quân thuật lại đầu đuôi sự việc.

Mạnh Lệ Quân nghe qua chỉ ngồi lặng thinh hồi lâu rồi thở dài nói:

- Quả thật phần số của tôi không ra gì, chẳng biết cuộc lương duyên này biết bao giờ mới thành.

Tô Yến Tuyết nói:

- Chính lão gia cũng sợ Lưu Khuê Bích oán hận gây chuyện lôi thôi nên đã bảo công tử Thiếu Hoa nên gấp rút làm lễ cưới, hễ cưới xong thì chắc bình yên vô sự.

Nói rồi Tô Yến Tuyết trở về phòng thuật lại chuyện ấy cho Tô Đại Nương nghe và tỏ ý khen Thiếu Hoa, chê Lưu Khuê Bích.

Tô Đại Nương nói:

- Mẹ nghe con nói đến cuộc nhơn duyên của tiểu thơ, mẹ lại nghĩ đến phận con, thật mẹ buồn quá, vì mẹ chỉ có một mình con mong kén đặng rể hiền mới hả dạ, nhưng khổ nỗi mẹ đây chỉ là một mụ vú thì dù con có tài mạo cho lắm, người sang trọng cũng chẳng thèm đến cầu thân. Nay Lưu Khuê Bích phải lòng con quả là may mắn cho con, sao con lại chê bai?

Tô Yến Tuyết cười gằn nói:

- Con thiết nghĩ kẻ nào ưng Lưu Khuê Bích tức thì mất kiếp hồng nhan, thà bỏ đến chùa tu còn hơn.

Tô Đại Nương nghe nàng nói, mỉm cười rồi tắt đèn đi ngủ, chẳng dè Tô Yến Tuyết cùng Thiếu Hoa vốn có tiền duyên túc đế nên khi tắt đèn rồi nàng cảm thấy nao nao trong dạ không sao nhắm mắt được. Nàng tương tư về tài mạo của Thiếu Hoa, con tim nàng rung động đến độ tột cùng.

Mãi đến nửa đêm nàng mơ màng thấy mình bước ra khỏi phòng đi dạo chơi ngoài huê viên, xảy gặp Hoàng Phủ Thiếu Hoa.

Sau khi chào hỏi nhau, nàng đánh bạo hỏi:

- Công tử đi đâu đấy?

Thiếu Hoa đáp:

- Tôi có việc đi ngang qua đây, trông thấy vườn hoa tươi đẹp quá nên vào đây thưởng thức.

Nói đến đây, Thiếu Hoa liếc nhìn nàng bằng đôi mắt đầy tình tứ rồi tiếp:

- Khi mai tôi thấy cô nương đứng trên lầu xem bắn, trộm liếc dung nhan tôi đem lòng yêu mến, chẳng hay cô nương cùng Mạnh Tiểu thơ bà con thân thuộc như thế nào xin cho tôi biết.

Tô Yến Tuyết liền nói rõ họ tên cùng tiểu sử của mình cho Thiếu Hoa nghe. Thiếu Hoa cười nói:

- Xin lỗi cô nương, nếu cô nương chưa kết duyên với ai thì khi tôi kết duyên với Mạnh Tiểu thơ rồi, sẽ cưới cô nương về làm thứ nhất cho chị em được sum hiệp một nhà, chẳng biết cô nương nghĩ sao?

Tô Yến Tuyết lấy làm thích chí đáp ngay:

- Nếu được công tử đoái thương, tôi nguyện đợi chờ.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại nói:

- Cô nương đã như vậy thì sẵn đêm nay trăng sáng xin hãy chỉ trăng mà thề, tôi mới chắc nàng hết dạ thương tôi.

Thiếu Hoa nói rồi bước tới nắm tay Tô Yến Tuyết tỏ vẻ âu yếm. Yến Tuyết mắc cỡ quá giựt tay lại và nói:

- Công tử hãy thề trước đi, rồi tôi sẽ thề sau.

Thiếu Hoa liền quì xuống nhìn trăng long trọng thề:

- Tôi là Hoàng Phủ Thiếu Hoa được Tô Tiểu thơ yêu mến nguyện sẽ cùng nhau kết tóc se duyên, nếu ngày sau tôi phụ lời nguyền thì phải chết về nghiệp đao kiếm.

Thiếu Hoa thề xong, Tô Yến Tuyết cũng quì xuống tuyên thệ:

- Tôi Tô Yến Tuyết suốt đời nguyện sống chung cùng Hoàng Phủ Công tử, nếu tôi phụ ước sẽ bị trời tru đất diệt.

Dứt lời, Thiếu Hoa vội vàng đỡ nàng dậy nói:

- Miễn tiểu thơ một lòng chung thủy với tôi thì thôi cần gì phải thể thốt nặng lời?

Rồi chàng nắm tay nàng khẩn khiết:

- Nay nhơn trăng thanh gió mát lại thêm vắng vẻ xin mời nàng vào đây để hai ta được thỏa lòng hoài vọng.

Vừa nói Thiếu Hoa vừa kéo Tô Yến Tuyết vào nhà. Tô Yến Tuyết nghiêm sắc mặt bảo:

- Xin công tử chớ nghĩ lầm mà đánh giá tôi quá thấp hèn như vậy, sở dĩ tôi yêu công tử là vì tài mạo của công tử có một không hai trên đời, chớ thật ra tôi không phải là hạng con gái lăng loàn trắc nết như người khác đâu!

Hoàng Phủ Thiếu Hoa tỏ vẻ hối hận nhưng lại năn nỉ:

- Hai ta đã ước nguyện cùng nhau kết tóc lâu dài thì việc gì phải tiếc tình với nhau?

Tô Yến Tuyết lòng đã muốn xiêu nhưng sực nhớ đến danh tiết của phận gái, lòng nàng phân vân như đứng trước ngã ba đường, không biết nên đối xử với chàng sao cho phải. Đang khi bối rối, bỗng Mạnh Sĩ Nguyên từ trong nhà bước ra, nàng thất kinh vội tìm đường chạy trốn rủi vấp chân ngã quị xuống đất, giật mình thức dậy mới biết là điềm chiêm bao.

Qua giấc chiêm bao sống trong lý tưởng, nàng ngồi nhổm dậy vặn đèn sáng lên chống cằm suy nghĩ:

"Cứ theo điềm chiêm bao này thì chắc chắn ta cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa có tiền duyên rồi. Nhưng sao Mạnh Lão gia lại nỡ phá tan cuộc ái ân của ta đang nồng đượm?"

Càng luyến tiếc giấc mộng lành bao nhiêu, nàng cảm thấy yêu Thiếu Hoa bấy nhiêu. Nàng nhất quyết ở vậy chờ Thiếu Hoa, dù cho đời nàng có chìm nổi thế nào cũng không thay lòng đổi dạ.

Nói về Lưu Khuê Bích, khi chàng tức giận bỏ về, thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho Cố Phu nhân nghe và nói:

- Nếu con chẳng cưới đặng Mạnh Lệ Quân làm vợ thì con thề suốt đời không lấy ai hết.

Cố Phu nhơn nghe Khuê Bích nói vậy, đoán biết chàng ta quá giận nên nói sàm, bà cười nói:

- Con đừng nói vậy, chừng nào ngoài chợ hết bánh đa, trong dân gian mới hết con gái, huống chi trên đời này thiếu chi người tài mạo hơn Mạnh Lệ Quân? Thôi để mẹ đi tìm chỗ khác xứng đáng cho con.

Lưu Bích nghe mẹ nói lòng càng tức giận hơn nữa, liền bỏ vào phòng nằm thiêm thiếp. Chàng Khuê Bích vốn lòng gai dạ độc liền nghĩ ngay một kế, từ đó chàng giấu giếm mối hận sâu tận đáy lòng, ngoài mặt luôn luôn cười cười nói nói, ngày nào cũng đến rủ Hoàng Phủ Thiếu Hoa đến võ trường tập bắn, thái độ càng thân thiện hơn trước để thừa cơ hãm hại.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa tánh tình ngay thật, thấy Khuê Bích không thù hằn mình nên lòng mừng khấp khởi, thật lòng giao du với Khuê Bích không chút nghi ngờ.

Khi Hoàng Phủ Kính tin cho Tần Thừa Ân hay rồi, hai người chọn ngày mười tám tháng năm năm đó đem đồ sính lễ sang nhà họ Mạnh. Mạnh Sĩ Nguyên nhận lễ vật xong, sai con Vinh Lang bưng ra U Hương trao cho Mạnh Lệ Quân. Nàng trông thấy đồ sính lễ trong lòng cũng rộn lên nhưng lại nghĩ không biết duyên nợ của mình có được vuông tròn hay không, nên lòng đầy lo ngại.

Sau khi Lưu Khuê Bích giả dạng thân mật với Thiếu Hoa ít lâu, chàng thấy Thiếu Hoa với mình không chút nghi ngờ nên định ra độc thủ.

Khuê Bích nghĩ thầm:

"Khi ta giết chết Thiếu Hoa rồi, thế nào Mạnh Lệ Quân cũng cải giá, nhưng nếu nàng có bền lòng chặt dạ ở vậy thủ tiết, ta sẽ nhờ Lưu Hoàng hậu tâu lên Thánh thượng yêu cầu người ngự bút tứ hôn cho ta, thì nàng con gái họ Mạnh kia dù cứng đầu đến đâu cũng phải tân theo".

Nghĩ đến đây, Khuê Bích cảm thấy sung sướng vô cùng, chàng bảo gia tướng sửa soạn cung tên cho sẵn sàng rồi tung mình lên ngựa sang rủ Thiếu Hoa đến võ trường tập bắn như thường lệ.

Sau cuộc tập bắn tại võ trường, Khuê Bích lại rủ Thiếu Hoa đến tửu lầu uống rượu, đoạn đưa Thiếu Hoa về đến tận nhà mới chia tay.

Hôm sau Khuê Bích lại đến rủ Thiếu Hoa đi săn đến chiều tối mới về.

Liên tiếp trong mấy ngày, Lưu Khuê Bích tỏ ra rất mật thiết với Thiếu Hoa khiến Thiếu Hoa có chút gì ngờ vực trong lòng cũng phải dẹp bỏ ngay.

Qua đến ngày thứ ba, Khuê Bích sai gia tướng cầm bức thơ sang mời Thiếu Hoa đi chơi thuyền để uống rượu và xem phong cảnh tại Côn Minh trì; nhưng Hoàng Phủ Thiếu Hoa nhận được thơ vội đem đến cho Hoàng Phủ Kính xem chứ không dám tự tiện, vì chàng là con nhà gia giáo, lẽ đâu đi chơi xa lại không cho cha mẹ biết.

Lời Bình:

- Xét ra Tô Yến Tuyết cũng là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, nếu nàng không đẹp sao Lưu Khuê Bích vừa thoáng thấy đã mê mẩn tâm thần đến nỗi bủn rủn tay chân trương cung bắn không được nữa, nhưng nếu Khuê Bích biết rõ nàng là con của một người vú thì chưa chắc gì Khuê Bích muốn. Vì vậy Tô Đại Nương một kẻ già đời thấy rõ quyền thế, địavị nó làm cho tăng giá trị con người, bằng ngược lại, những kẻ không có địa vị trong tay sẽ bị người đời khinh khi không coi ra gì cả. Ba ta muốn con mình có được một người chồng như Khuê Bích đã là hạnh phúc lắm rồi, nhưng Tô Yến Tuyết lại đạp lên cả xã hội quyền thế, nàng không thấy mình con một mụ vú là mất giá trị; nàng chỉ quan niệm giá trị con người ở chỗ tài mạo mà thôi, vì vậy nàng có quyền yêu người lý tưởng của nàng, còn việc người ta có thích nàng hay không, nàng không cần biết đến.

- Lưu Khuê Bích đang giận dữ Hoàng Phủ Thiếu Hoa, thế mà bỗng dưng lại quá thân thiện với Thiếu Hoa mà Thiếu Hoa không một chút nghi ngờ thì quả là ngây ngô hết cỡ. Phàm ở đời việc gì bỗng nhiên có một hiện tượng khác tất nhiên phải có nguyên nhân. Đến nỗi Hoàng Phủ Kính đã lăn lộn nhiều trên đường đời mà cũng không thấy được hành động xảo trá của Lưu Khuê Bích, thật đáng chê.

Hồi Thứ Sáu

Lưu Khuê Bích mưu hại bạn hiền,

Nàng Yến Ngọc ra tay cứu nạn.

Hoàng Phủ Kính xem qua bức thơ của Lưu Khuê Bích rồi nghĩ thầm:

"Quê nhà của Lưu Khuê Bích ở tại Côn Minh là nơi thắng cảnh nên ý lấy tình thân thiết mời con ta đến chơi, vậy ta cũng cần phải cho đi để khỏi có việc xích mích về sau".

Nghĩ đoạn, ông ta gật đầu cho phép Thiếu Hoa đi Côn Minh, Thiếu Hoa mừng lắm, vội viết thơ phúc đáp ngay rồi giao cho tên gia tướng họ Lưu mang về, hẹn chắc hôm sau sẽ đến.

Lưu Khuê Bích tiếp được phúc thơ, lòng khấp khởi, sai gia tướng dọn dẹp một chiếc thuyền và đi kêu hai đứa kỹ nữ đẹp đặng chúng phục rượu cho Thiếu Hoa thật say để có cơ hội ám hại.

Sáng hôm sau, bình minh vừa hiện, Thiếu Hoa đã thấy một tên gia tướng của Khuê Bích đến rước chàng, nên chàng vội vã sắm sửa dắt hai tên gia tướng ra đi gấp để đáp lại tấm thịnh tình của Khuê Bích.

Tên gia tướng của Khuê Bích dắt ba thầy trò của Thiếu Hoa xuống mé hồ Côn Minh; ở đó đã chuẩn bị sẵn một con thuyền. Khuê Bích bước ra lễ phép mời Thiếu Hoa xuống thuyền rồi cùng nhau tâm tình rất nên tương đắc.

Một lát sau đã thấy hai đứa kỹ nữ bưng mâm rượu thịt lên, Khuê Bích rót rượu niềm nở mời Thiếu Hoa và bảo hai con kỹ nữ đờn ca, tiếng nhạc khoan réo rắt trông như cảnh bồng lai, nhưng Thiếu Hoa lại không thích, chỉ uống chút đỉnh thôi.

Khuê Bích thấy vậy vội hối gia tướng mở dây thả thuyền trôi trên mặt hồ, cảnh trời nước một màu xanh biếc, con thuyền từ từ lướt qua đầu gành cuối bãi đập vào mắt Thiếu Hoa biết bao cảnh đẹp thần tiên. Khuê Bích đinh ninh thế nào Thiếu Hoa cũng phải say đắm và dùng nhiều rượu nhưng Thiếu Hoa chỉ uống rượu cầm chừng vui chơi đến trưa, chàng đứng dậy xin cáo từ.

Khuê Bích nắm tay Thiếu Hoa giả vờ rưng rưng nước mắt nói:

- Chẳng mấy khi Hoàng huynh sang đây chơi, sao lại vội ra về?

Thiếu Hoa cực chẳng đã phải nán lại đến khi mặt trời khuất bóng thì xin cáo từ một lần nữa, nhưng lần này Khuê Bích quyết tình giữ lại, chàng nói:

- Hoàng huynh đến đây chơi với đệ chưa được thỏa mãn mà đã ra về thật không gì buồn cho bằng. Thôi bây giờ xin mời Hoàng huynh quá bộ lên huê viên đặng bày thêm tiệc khác, chúng ta cùng hưởng lạc, ở đó phong cảnh rất hữu tình, đệ tin chắc sẽ vừa lòng Hoàng huynh đấy.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Điều ấy thật tình tôi không thể chiều ý Lưu huynh được, vì nếu đêm nay tôi không về chắc song thân tôi nóng lòng trông đợi.

Lưu Khuê Bích cười mơn trớn nói:

- Điều ấy xin Hoàng huynh chớ ngại, vì lịnh đường đã biết Hoàng huynh đến đây chơi với đệ mà không thấy về tất nhiên người biết tôi cầm ở lại rồi. Vả chăng, hai ta kết bạn với nhau đã mấy năm chờ mãi đến hôm nay Hoàng huynh mới sang đây thì phải ở lại tâm tình trong đêm nay cho thỏa lòng mong mỏi chứ.

Dứt lời Khuê Bích không đợi Thiếu Hoa đáp, vội cho phép hai kỹ nữ về rồi nắm tay Thiếu Hoa bước ra khỏi thuyền lên bờ đi thẳng về huê viên.

Huê viên này chiếm một khu đất vô cùng rộng rải; trong ấy có đủ kỳ hoa dị thảo, lầu các đình đài, non bộ, hồ sen, mười phần xinh đẹp, Hoàng Phủ Thiếu Hoa vốn lòng chân thật nên bằng lòng ở lại và khen ngợi chẳng cùng.

Lưu Khuê Bích đưa tay chỉ về phía hữu nói:

- Trong huê viên chỉ có Tiểu Xuân đình là thanh tịnh hơn hết, đêm nay chúng ta ở đó đàm đạo chơi.

Thiếu Hoa gật đầu:

- Thế thì hay lắm, chúng ta hãy đi.

Khuê Bích mừng thầm, dắt Thiếu Hoa vào Tiểu Xuân đình ngồi đàm đạo việc binh thơ.

Chỉ mấy phút sau đã thấy gia tuớng bưng mâm rượu thịt lên, toàn là cao lương mỹ vị.

Thiếu Hoa nói:

- Chúng ta mới vừa dùng tiệc sao còn bày tiệc nữa làm gì?

Khuê Bích nói:

- Chúng ta chỉ ngồi không trò chuyện thì buồn lắm, cần phải có ăn uống mới thêm phần thích thú.

Vứa nói, Khuê Bích vừa dắt Thiếu Hoa vào bàn tiệc, rót rượu mời mọc, còn hai tên gia tướng của Thiếu Hoa là Tào Tín và Ngô Tường thì đứng hầu một bên.

Ngờ đâu đêm ấy bà ngoại của Khuê Bích là Tiền thị qua đời, Cố Hoằng Nghiệp sai người đến báo cho Cố Phu nhơn hay, Cố Phu nhơn lật đật sai nữ tỳ ra Tiểu Xuân đình kêu Khuê Bích vào cùng đi hộ tang.

Khuê Bích hay tin vội khiến gia tướng ở đó hầu Thiếu Hoa, chàng lập tức đi vào hầu Cố Phu nhơn.

Đến nơi, thấy Lưu Yến Ngọc cùng Giang Tam Tẩu đang xếp đặt đồ hành lý, Cố Phu nhơn liền nói rõ cái chết của Tiền thì cho Khuê Bích nghe và bảo chàng phải sửa soạn cùng đi với bà qua hộ tang.

Lưu Khuê Bích giựt mình nghĩ thầm:

"Đêm nay ta quyết phóng hỏa đốt Tiểu Xuân đình giết chết Thiếu Hoa mà sự việc xảy ra bất ngời như vậy biết làm sao đây?".

Nghĩ đoạn, Khuê Bích vòng tay thưa:

- Nếu con theo thân mẫu đi thì việc nhà lấy ai coi sóc?

Phu nhơn nói:

- Việc đi phục tang cho ngoại con vô cùng quan trọng, vệc nhà con chớ lo, vì đã có em con và Giang Tam Tẩu đảm nhiệm, còn ngoài huê viên đã có Giang Tấn Hỉ, mẹ con ta chỉ đi độ và ngày rồi về, không hại chi đâu.

Lưu Khuê Bích cực chẳng đã phải vâng lời, nhưng lại nghĩ thầm:

"Thế nào đêm nay cũng phải giết cho được Thiếu Hoa, bây giờ ta mắc đi thì trách nhiệm này phải giao cho Giang Tấn Hỉ mới được".

Nghĩ rồi, bước ra ngoài cho người gọi Giang Tấn Hỉ.

Giang Tấn Hỉ là con ruột của Giang Tam Tẩu tuổi độ mười sáu, tính tình ngay thẳng, trung hậu, hắn là kẻ tôi tới tâm phúc của Lưu gia, khi nghe Khuê Bích gọi vội chạy đến bẩm:

- Chẳng hay công tử đòi tôi dạy việc chi?

Lưu Khuê Bích nhìn bốn bên thấy vắng bóng người liền kề tai hắn nói rõ ý định mình rồi bảo hắn nội đêm nay phải đốt cháy Tiểu Xuân đình giết chết cho kỳ được Thiếu Hoa, mai sau duyên nợ thành rồi sẽ trọng thưởng.

Giang Tấn Hỉ nghe nói giật mình nghĩ thầm:

"Đêm hôm qua ta nằm chiêm bao thấy một ông già đến mách bảo ta chớ nên hại người để ngày sau ta được hưởng phúc lớn, ta lấy làm lạ vì xét ra ta có thù hiềm với ai đâu mà toan ám hại người? Bây giờ ta mới biết công tử Khuê Bích bảo ta làm việc sát nhơn".

Nghĩ rồi, Giang Tấn Hỉ đáp:

- Nếu công tử bảo việc gì khác tôi không khi nào từ thác, song việc này tôi không dám, vì Hoàng Nguyên soái có quyền tiền trảm hậu tấu, nếu người hay được thì tánh mạng tôi còn gì?

Khuê Bích cười gằn nói:

- Ngươi nghĩ như thế là lầm rồi. Ngươi nên biết rằng cha ta là một vị Quốc trượng, làm sao Hoàng Phủ Kính dám xâm phạm đến? Ngươi cứ việc bạo dạn hành động đi, nếu mai sau Hoàng Phủ Kính hay được cứ việc tuyên bố rằng Thiếu Hoa say rượu đạp đổ đèn nên lửa bắt cháy Tiểu Xuân đình mới thọ hại, chớ không can chi đâu.

Thấy Khuê Bích cố tình ép buộc nên Tấn Hỉ phải vâng lời. Khuê Bích mừng rỡ bảo Tấn Hỉ phóng hoả xong phải cho người qua báo tin cho chàng hay.

Lưu Khuê Bích sắp đặt mưu kế xong xuôi liền theo Cố Phu nhơn sang ngoại gia để phục tang cho Tổ mẫu.

Nói về Lưu Yến Ngọc, em Lưu Khuê Bích là một cô gái dung nhan diễm lẹ, thuở bé theo đòi nghiên bút và trau dồi nữ công, hằng ngày hú hí với bà nhũ mẫu Giang Tam Tẩu và con đầy tớ Phi Diễn ở tại Hiển Vân các. Con đầy tớ Phi Diễn này tánh tình rất sâu hiểm, hắn biết Cố Phu nhơn ít yêu mến Lưu Yến Ngọc nên có việc gì là chạy đi méc nói thêm nói bớt nên nàng ghê sợ nó lắm.

Tối hôm ấy khi Cố Phu nhơn đi rồi, Lưu Yến Ngọc gạt con Phi Diễn cho hắn đi ngủ rồi kề tai nói nhỏ với Giang Tam Tẩu:

- Trưa hôm qua con nằm chiêm bao thấy một người đàn bà xưng là Ngô Huệ Nương, thân mẫu của con. Người cho biết rằng chỉ vì bạc phước không thể sống nuôi con được nên phải để con lại cho Cố Phu nhơn nuôi, nhưng nay tuổi con đã trưởn thành. Cố Phu nhơn lại không nghĩ gì đến chuyện lương duyên vì vậy người hiện hồn lên mách bảo cho con biết: nội đêm nay sẽ có quí nhơn đến tại Tiểu Xuân đình, anh con lại cố tâm phóng hỏa thiêu chết người ấy. Người khuyên con hãy cùng nhũ mẫu đến đó ra tay cứu nạn rồi kết nghĩa đá vàng với người ấy để sau này được hưởng vinh hoa phú quí và cứu cả nhà ta nữa.

Nàng lại kể tiếp:

- Lúc ấy con muốn hỏi xem quí nhơn ấy là ai, nhưng bà ta đã xô con một cái, con giựt mình thức dậy mới biết là chiêm bao.

Giang Tam Tẩu nói:

- Chiêm bao mộng mị cũng không đáng tin lắm, có lẽ tiểu thơ mơ tưởng đến thân mẫu thuở xưa nên mới mơ tưởng như vậy chứ gì?

Lưu Yến Ngọc nói:

- Lúc con mới sanh được vài tháng thì mẹ con qua đời, làm sao con biết được mặt người mà hòng mơ tưởng. Chắc việc này cũng có duyên cớ chi đây.

Giang Tam Tẩu hỏi:

- Vậy tiểu thơ hãy tả hình dạng người ấy xem có giống thân mẫu của tiểu thơ khi trước không?

Lưu Yến Ngọc nói:

- Người đàn bà ấy hình vóc mảnh khảnh, độ hai mươi hai, hai mươi ba tuổi là cùng, mặt tròn, da trắng.

- Cứ như lời ấy thì quả nhiên thân mẫu của tiểu thơ báo mộng rồi. Vậy để tôi hỏi Giang Tấn Hỉ xem đêm nay có ai ở Tiểu Xuân đình không.

Giang Tấn Hỉ vốn người chí hiếu, nên khi nhận lời Lưu Khuê Bích rồi, vội chạy đi tìm mẹ để bày tỏ sự tình. Khi hai mẹ con gặp nhau, Giang Tấn Hỉ liền thuật rõ điềm chiêm bao của mình cùng lời xui bảo của Khuê Bích cho mẹ nghe, rồi lại nói:

- Thưa mẹ, con có thù oán gì với Hoàng Phủ Thiếu Hoa đâu, sao nỡ đang tâm hại người.

Bấy giờ Giang Tam Tẩu mới biết chắc Lưu Yến Ngọc có tiền duyên với Thiếu Hoa, bèn thuật lại điềm mộng của tiểu thơ cho Giang Tấn Hỉ nghe và nói:

- Căn cứ theo điềm mộng của tiểu thơ thì Hoàng Phủ Công tử sau này sẽ đặng phú quí. Vậy ta phải lập kế cứu người mới được.

Giang Tấn Hỉ suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Bây giờ muốn công việc được lưỡng toàn, để tôi gạt hai tên gia tướng của công tử ra ngoài uống rựu rồi thân mẫu dắt tiểu thơ vào đó đính ước kết duyên và bảo công tử lẻn ra cửa sau trốn về, chừng ấy tôi sẽ phóng hỏa đốt Tiểu Xuân đình làm cớ. Nếu sau này Lưu Công tử có tra xét thì thân mẫu nhớ dặn Hoàng Phủ Công tử bảo rằng trong cơn nguy cấp nhờ có thần nhân cứu thoát đem bỏ giữa đồng. Có vậy Lưu Công tử mới khỏi nghi ngờ chúng ta.

Giang Tam Tẩu khen là diệu kế, vội vã vào nhà thuật lại cho Lưu Yến Ngọc hay.

Lưu Yến Ngọc nói:

- Tại sao gia huynh tôi lòng dạ lại độc ác đến thế cơ? Con nguời ác nhơn như vậy thế nào cũng bị tai họa.

Lời Bình:

Hoàng Phủ Thiếu Hoa là chàng trai chí hiếu, mỗi khi đi đâu phải xin phép cha mẹ, khi về phải đúng thời gian đã định và phải trình diện trước mặt song thân, thế mà trước lời đường mật của Lưu Khuê Bích chàng phải bóp bụng ở lại. Thế là lời nói của kẻ gian có mãnh lực phi thường.

Khuê Bích hay tin bà ngoại mình chết mà không muốn đi phục tang, quyết ở nhà giết chết cho được Thiếu Hoa thì quả là con người không chút đau lòng, trái lại không cưới được vợ lại đau đớn hận thù đến thế, thật đáng buồn cười.

Đọc đến hồi này ta nhớ lại việc Tôn Quyền giả kế gả em mình cho Lưu Bị để âm mưu sát hại nhưng âm mưu đã kông thành lại phải gả thật em mình cho Lưu Bị. Ở đây Lưu Khuê Bích âm mưu giết chết Hoàng Phủ Thiếu Hoa không được mà em mình lại phải lòng kẻ thù, cho nên ở đời lòng dạ nham hiểm đã không làm gì người ta được, lại làm lợi cho người nữa là khác.

Hồi Thứ Bảy

Giang Tấn Hỉ phóng hỏa Tiểu Xuân đình

Hoàng Phủ Thiếu Hoa thoát thân đào tẩu.

Giang Tấn Hỉ bước vào Tiểu Xuân đình, trông thấy Công tử Thiếu Hoa đang ngồi dưới đèn, hai bên có hai tên gia tướng đứng hầu. Chàng bước tới mời hai tên gia tướng ra ngoài uống rượu. Hai người tỏ lời từ chối, Thiếu Hoa vội nói:

- Người đã có lòng mời thì chúng bây hãy đi đi, bây giờ ta cũng đã buồn ngủ rồi, không cần phải hầu hạ nữa.

Tào Tín và Ngô Tường thấy tiểu chủ mình cho phép, mừng rỡ nối gót theo Giang Tấn Hỉ ra khỏi Tiểu Xuân Đình. Giang Tấn Hỉ dắt đến một gian nhà nhỏ rồi gọi tên đầu bếp bưng rượu thịt lên đoạn mời hai người nữa ngồi ăn uống.

Rượu được vài tuần, Giang Tấn Hỉ đứng dậy nói:

- Hôm nay Cố Phu nhơn và Lưu Công tử đi vắng, vậy tôi xin phép đi tuần huê viên một tý rồi trở lại ngay, xin cư vị cứ ngồi đây ăn uống tự nhiên.

Nói rồi, Giang Tấn Hỉ bước vào nhà trong tin cho mẹ hay. Giang Tam Tẩu bước lại nói nhỏ với Lưu Yến Ngọc:

- Bây giờ tiểu thơ hãy theo tôi ra Tiểu Xuân đình đặng kết thân cùng Hoàng Phủ Công tử.

Lưu Yến Ngọc nghe nói mắc cỡ quá, đôi má nàng đỏ gay, nói:

- Chẳng lẽ mình là con gái lại đi tỏ lời cầu duyên như vậy coi sao được?

Giang Tam Tẩu thở dài đáp:

- Vẫn biết vậy, song Cố Phu nhơn và Lưu Công tử không ai đề cập đến cuộc lương duyên của tiểu thơ cả, mà nay tiểu thơ còn nệ hà như vậy sao được. Huống chi việc này là tiểu thơ vâng mạng của mẫu thân đã báo mộng chứ có phải lăng loàn trắc nết chi đâu mà ngại?

Lưu Yến Ngọc bất đắc dĩ phải nghe theo, cùng Giang Tam Tẩu thẳng đến Tiểu Xuân đình.

Lúc ấy, Hoàng Phủ Thiếu Hoa đang nằm một mình trong phòng bỗng thấy ngoài cửa có hai người đàn bà đi vào, mỗi người trên tay cầm một cây đèn sáp.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa ngồi phắt dậy hỏi:

- Lưu công tử đã đi vắng rồi, hai người là đàn bà tại sao đến đây làm gì?

Lưu Yến Ngọc nghe hỏi giật lùi một bước đứng yên lặng không dám bước tới cũng không thốt lên lời. Giang Tam Tẩu vội nắm tay Yến Ngọc dắt tới nói:

- Tiểu thơ cứ việc bước vào, có tôi đây không can chi đâu mà ngại.

Lưu Yến Ngọc bước vào một cách miễn cưỡng vẻ mặt sượng sùng, nàng đứng bên cạnh bàn cúi mặt làm thinh. Thấy vậy, Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại nghi là một việc dâm tà nên gằn giọng hỏi:

- Ở đời phàm nam nữ tất hữu biệt, tại sao đêm hôm tăm tối, hai người đàn bà con gái lại dám đường đột đến đây?

Giang Tam Tẩu nghiêm giọng nói:

- Chỉ vì công tử chưa rõ! Nguyên tiểu thơ đây là thứ nữ của Lưu Quốc trượng, linh muội của Lưu Công tử, năm nay mới mười lăm tuổi còn tôi đây là nhũ mẫu của tiểu thơ tên Giang Tam Tẩy, mẹ của Giang Tấn Hỉ, có việc cơ mật nên mới đến đây.

Thiếu Hoa nghe nói có việc cơ mật lấy làm lạ, im lặng lắng tai nghe. Giang Tam Tẩu thuật lại hết đầu đuôi: việc thân mãu của Lưu Yến Ngọc báo mộng, bảo phải đến đính ước kết hôn, cùng việc Lưu Khuê Bích âm mưu phóng hỏa đốt Tiểu Xuân đình ám hại.

Thiếu Hoa nghe rõ đầu đuôi liền đứng dậy chào Lưu Yến Ngọc nói:

- Té ra tiểu thơ đến đây cứu tôi mà tôi không biết, xin cam thất lễ, vậy xin mời tiểu thơ ngồi cho tôi phân tỏ đôi lời.

Giang Tam Tẩu kéo ghế cho Yến Ngọc ngồi, Thiếu Hoa cũng ngồi xuống nói:

- Nhân vì tôi kết thân với nhà họ Mạnh nên xúc phạm đến lịnh huynh. Trong hoàn cảnh trái ngang này làm sao tôi có thể kết hôn cùng tiểu thơ được.

Lưu Yến Ngọc nói:

- Vì tôi vâng lời theo mẫu thân báo mộng nên đến đây, nếu công tử đã đính hôn cùng Mạnh thị rồi thì tôi cam làm thứ thất.

Thiếu Hoa nói:

- Tiểu thơ nói vậy sao phải. Vả chăng lịnh tỷ đang làm Chánh cung Hoàng hậu thì bao giờ Quốc trượng lại gả tiểu thơ cho tôi đặng làm thứ thất sao? Hơn nữa lịnh huynh đang cố tâm ám hại tôi thì bao giờ người lại bằng lòng? Xin tiểu thơ nghĩ lại.

Lưu Yến Ngọc cúi mặt thở dài than:

- Tôi quả là kẻ vô duyên xấu phận, nay tôi vâng lời thân mẫu đến đính ước cùng công tử, nếu không thành nguyện ở vậy thủ tiết chứ không hề vầy duyên cùng ai nữa.

Nói đến đây nàng chỉ ngọn đèn tiếp:

- Có ngọn đèn đây chứng kiến cho tấm lòng tôi, nếu sau này tôi có thay lòng đổi dạ thì trời tru đất diệt.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa thấy Lưu Yến Ngọc quyết tình gắn bó với mình liền đứng dậy long trọng tuyên thệ:

- Tôi đây là Hoàng Phủ Thiếu Hoa, nếu có phụ lời của tiểu thơ xin quỷ thần soi xét.

Sau đó hai người trao quạt đổi khăn làm vật kỷ niệm, bỗng Giang Tấn Hỉ chạy vào nói:

- Bây giờ đã quá canh hai rồi, xin công tử hãy ra cửa sau trồn về cho mau.

Thiếu Hoa nói:

- Ta về thì yên cho phần ta rồi, nhưng về sau Khuê Bích hay được thì chắc ngươi không thể nào thoát khỏi tai nạn.

Tấn Hỉ nói:

- Việc ấy công tử chớ lo, tôi đã dự phòng rồi. Công tử về bên ấy cứ bảo rằng trong khi ngủ ở Tiểu Xuân đình bỗng thấy lửa cháy, may đâu có thần nhân cứu khỏi đem ra bỏ giữa đồng nên mới toàn mạng.

Thiếu Hoa nói:

- Nếu vậy ngươi hãy kêu giùm hai tên gia tướng ta và đặng chúng cùng về với ta luôn thể.

- Công tử làm như vậy thì lậu sự ra còn gì? Công tử cứ việc về trước đi rồi sáng ngày hai người ấy về sau chớ có hại chi đâu.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa gật đầu khen phải, vội vã bước ra ngoài Tiểu Xuân đình. Lưu Yến Ngọc, Giang Tam Tẩu cùng Tấn Hỉ ba người bước theo tiễn đưa chàng ra tận cửa vườn sau rồi mới trở lại.

Thoát khỏi huê viên, Thiếu Hoa đi được một hồi lâu bỗng nghe phía sau có tiếng gọi:

- Ai đó? Có phải Hoàng Phủ Công tử không?

Thiếu Hoa giật mình quay lại trông thấy một chú tiểu tăng, chàng hỏi:

- Tại sao người lại biết tôi?

Tên tiểu tăng mỉm cười đáp:

- Tôi vâng mệnh sự phụ tôi đến đây chờ tiếp công tử, xin công tử hãy ghé vào dùng trà.

Thiếu Hoa đoán chắc sư phụ tên tiểu tăng này không phải là hạng tầm thường, chàng lên tiếng hỏi:

- Chẳng hay sư phụ người pháp danh là gì?

Tiểu tăng đáp:

- Sư phụ tôi chính là Thanh Tu Trưởng lão ở tại chùa Huyên Giác gần nơi đây.

Dứt lời tiểu tăng quay đi, Thiếu Hoa nối gót theo sau, vừa đến cửa chùa đã thấy Trưởng lão bước nhanh nghinh tiếp.

Thanh Tu Trưởng lão nói:

- Tôi mừng cho quí nhơn thoát khỏi hỏa tai, lại gặp được mối lương duyên đẹp.

Thiếu Hoa nghe Trưởng lão nói trúng đích sự việc, chàng giựt mình nhưng giả vời nói:

- Nào tôi có bị tai nạn gì đâu, và cũng không gặp lương duyên nào cả.

Thanh Tu Trưởng lão cười ha hả:

- Công tử lại phải giấu ta làm gì? Vì ta đã thấu hiểu các việc quá khứ vị lai kia mà. Nếu công tử không tin, cứ việc ở lại đây chờ xem ngọn lửa bên Lưu viên rồi mới biết lời của Lưu tiểu thơ là chân thật.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa thấy Trưởng lão hiểu biết tâm sự của mình nên mới chịu thiệt. Trưởng lão hối tiểu tăng dâng trà lên và thong thả nói:

- Công tử cùng Lưu Tiểu thơ vốn có tiền duyên, nên cuộc nhơn duyên nầy về sau thế nào cũng sum hiệp, nhưng công tử phải bị lâm nạn lớn trong vòng ba năm đến nỗi tan nhà nát cửa, cốt nhục phân ly. Tuy vậy ta khuyên công tử chớ nên ưu phiền, phải bền chí làm tròn hai chữ hiếu trung thì sẽ có trời phù hộ. Đó chính là việc thiên cơ vô cùng bí nhiệm, xin công tử chớ nên tiết lậu.

Thiếu Hoa nghe nói thất kinh hỏi phăng:

- Chẳng hay nạn ấy có hại chi đến tánh mạng không, thưa sư phụ?

Thanh Tu Trưởng lão đáp:

- Công tử là bậc quí nhơn, nên dù có tai nạn chi cũng không hại đến tánh mạng. Miễn là chịu đựng cam khổ qua ba năm rồi thì một nhà sum hiệp hưởng phú quí vinh hoa.

Nói rồi, Trưởng lão bảo tiểu tăng đem cờ ra để cùng Thiếu Hoa chơi vài ván đặng chờ xem ngọn lửa bên vườn hoa họ Lưu.

Bây giờ xin nói việc Giang Tấn Hỉ, khi tiễn đưa Hoàng Phủ Thiếu Hoa thoát ra cửa sau về rồi, liền trở vào đem bổi chất đầy xung quanh Tiểu Xuân đình, đợi đến canh ba khi trời nổi gió mới đốt cháy. Lửa gặp bổi khô, gió mạnh nên chỉ trong nháy mắt ngọn lửa bốc cao tột trời. Giang Tấn Hỉ vờ vừa chạy vừa la:

- Lửa cháy! Lửa cháy! Hoàng Công tử uống rượu say đạp đổ ngọn đèn, bắt lửa cháy nhà rồi! Bớ người ta! Đến cứu! Đến cứu!

Tào Tính và Ngô Tường ở ngoài huê viên đang uống rượu nghe la bài hải, lật đật chạy ra hỏi Giang Tấn Hỉ:

- Có thấy công tử tôi chạy ra không?

Tấn Hỉ đáp:

- Chưa, chưa thấy!

Hai người nghe nói thất kinh áp vào kêu réo Thiếu Hoa om sòm mà không nghe tiếng đáp lại, chỉ thấy ngọn lửa bốc cao đốt cháy cây gỗ nổ bôm bốp. Cả hai đều giậm chân khóc rống lên.

Lúc ấy Tấn Phòng Quan hay tin trong vườn Quốc trượng lửa cháy liền đem binh vào tiếp chữa. Tào Tín và Ngô Tường vội nói với Tấn Phòng Quan:

- Hoàng Phủ Công tử tôi đang ngủ trong ấy mà thình lình bốc cháy, hãy mau mau tưới tắt lửa và tìm kiếm tử thi.

Tấn Phòng Quan nghe nói thất kinh:

- Trời ơi! Lại có Hoàng Phủ Công tử trong ấy sao?

Nói rồi đốc thúc quân sĩ, một mặt tưới nước vào như mưa, một mặt quăng câu liêm, câu móc vào giựt sập Tiểu Xuân đình tìm kiếm không sót chỗ nào mà vẫn không thấy tử thi đâu cả.

Tấn Phòng Quan nói:

- Trong đó không có tử thi nào cả, chắc là Hoàng Phủ Công tử đã hay được chạy thoát rồi.

Tào Tín và Ngô Tường không biết sao phải đốt đuốc đặng chạy đêm về báo tin, nhưng rủi cửa thành chưa mở nên phải ngồi chờ đến khuya mới qua được. Còn Giang Tấn Hỉ đợi cho ngọn lửa tàn, giao công việc nhà cho gia tướng rồi tung mình lên ngựa phi nhanh qua nhà họ Cố đặng tin cho Khuê Bích hay.

Lưu Khuê Bích hay tin nửa mừng nửa sợ. Mừng là vì giết được người tình địch thỏa lòng ghen ghét, nhưng sợ là sợ rồi đây Hoàng Phủ Kính sẽ bắt phải đền mạng. Chàng vội vã cùng Giang Tấn Hỉ ra về.

Đến nơi, Lưu Khuê Bích hay tin không tìm được thi thể của Thiếu Hoa thì thất kinh sợ rằng Thiếu Hoa đã thoát khỏi.

Giang Tấn Hỉ biết ý vội nói:

- Xung quanh Tiểu Xuân đình tôi chất bổi nhiều lắm và nổi lửa đốt lên một lượt, tưởng Thiếu Hoa không tài nào thoát khỏi đặng đâu.

Lưu Khuê Bích nghe nói mới an tâm, tỏ lời khen ngợi Giang Tấn Hỉ không ngớt.

Lời Bình:

Người ta thường bải "trâu tìm cột chớ mấy thuở cột tìm trâu"? Thế mà Lưu Yến Ngọc đi tìm Hoàng Phủ Thiếu Hoa để kết duyên thật là hiếm có trên đời.

Ta nên biết rằng, trai tài gái sắc xứng đôi vừa lứa một khi họ gặp nhau thế tất không nhiều thì ít họ cũng có chút ít cảm tình, hay ít ra họ cũng để ý nhau. Nếu trong hoàn cảnh ấy mà một trong hai người không dám mạnh dạn nói lên nỗi lòng của mình thì đôi lứa ấy sẽ uớc duyên với nhau ngay.

Có nhiều người hiểu rõ tâm lý biết được cái nhược điểm ấy cho nên họ thường bạ đâu tỏ tâm trạng mình đó rồi trai gái xằng bậy hóa ra tên Sở Khanh đáng trách. Có người quá chính chuyên sợ tổn thương đến danh dự của mình thậm chí đã thầm yêu nhau tha thiết mà không dám tỏ tâm trạng cho nhau biết để đến khi hối hận là cuộc tình duyên đã dang dở hay gặp nghịch cảnh mất rồi.

Ai cũng phải thừa nhận rằng cuộc tình duyên không nên xây dựng một cách sỗ sàng, nhưng một khi đã thật tình yêu rồi cũng không nên quá rụt rè và khi lương duyên đã thành tựu rồi cũng chớ nên quá đòi hỏi để thỏa mãn vể thể chất, bởi có thể biến thành cuộc tình duyên thấp hèn không bền lâu.

Hồi Thứ Tám

Hoàng Nguyên soái nổi giận tra gia tướng.

Giang Tấn Hỉ bí mật tở chơn tình.

Nhắc lại Thiếu Hoa cùng hai tên gia tướng xin phép qua bên Côn Minh trì chơi thuyền cùng Lưu Khuê Bích, vợ chồng Hoàng Phủ Kính đợi mãi đến chiều tối vẫn không thấy con mình về. Doãn Phu nhơn lấy làm lo lắng hỏi chồng.

- Lạ thật. Không biết Thiếu Hoa có đi chơi thế nào đến bây giờ vẫn không thấy tăm dạng?

Hoàng Phủ Kính vẫn bình tĩnh nói:

- Phu nhơn khéo lo, tôi biết chắc thế nào Thiếu Hoa qua bên ấy cũng bị Lưu Khuê Bích cầm giữ lại không cho về, vì không mấy khi Thiếu Hoa nó qua bên ấy mà cuộc giao du của hai trẻ quá thân thiết làm sao cáo từ được?

Suốt đêm ấy Doãn Phu nhơn lo ngại nên thao thức mãi không ngủ được. Trời vừa rựng sáng, trông thấy Trưởng Hoa Tiểu thơ bước vào phòng. Doãn Phu nhơn vội hỏi:

- Bây giờ trời đã sáng rồi sao không thấy em con về?

Trưởng Hoa Tiểu thơ nói:

- Không biết chừng Lưu Khuê Bích cầm lại dùng cơm sớm mai rồi mới cho về chăng?

Tiểu thơn nói vừa dứt lời bỗng thấy Tào Tín và Ngô Tường từ ngoài ngõ hơ hải chạy vào quì mọp xuống đất vừa lạy vừa khóc đồng thanh bẩm:

- Nguy tai rồi lão gia ôi! Tánh mạng của Hoàng Phủ Công tử thật khó bảo toàn.

Vợ chồng Hoàng Phủ Kính nghe nói thất kinh quát hỏi:

- Tại sao tánh mạng công tử lại khó bảo toàn? Hãy nói mau!

Tào Tín và Ngô Tường gạt nước mắt đem hết sự việc kể lại đầu đuôi cho vợ chồng Hoàng Phủ Kính nghe. Doãn Phu nhơn nghe nói vùng khóc rống lên rồi lớn tiếng mắng hai tên gia tướng:

- Tại sao công tử bay chết thiêu mà chúng bay lại còn sống chạy về đây được? Thế thì cái chết của công tử nếu chúng bay không nhúng tay cũng biết trước nên mới thoát thân được.

Tào Tín và Ngô Tường nghe phu nhơn buộc tội, chúng sợ hãi run rẩy đáp:

- Bẩm phu nhơn, khi Tiểu Xuân đình bị phát hỏa thì hai tôi đang uống rượu ở ngoài nên không hề chi.

Hoàng Phủ Kính nghe nói nổi giận lôi đình vỗ ghế nạt lớn:

- Công tử ở trong phòng sao chúng bay không ở trong đó hầu hạ lại ra ngoài uống rượu, vậy thì đem hai đứa bay theo làm gì?

Hai tên gia tướng sợ hãi khép nép thưa:

- Bẩm Nguyên soái, chỉ vì công tử dạy chúng tôi mới dám. Lúc ấy, có một tên gia nhơn của Lưu gia tên Giang Tấn Hỉ đến mời chúng tôi ra ngoài uống rượu, chúng tôi cố ý từ chối, nhưng công tử thấy hắn có lòng tử tế nên công tử bảo chúng tôi cứ việc đi, chẳng dè khi ra ngoài được một lát thì thấy Tiểu Xuân đình phát hỏa. Không biết tai họa tự đâu đem đến chứ chẳng phải do chúng tôi ham ăn uống mà ra, xin Nguyên soái lượng xét cho.

Trưởng Hoa Tiểu thơ xen vào hỏi:

- Lưu Công tử đã có việc đi vắng, sao em ta lại không về còn ở lại làm gì?

- Thưa tiểu thơ, lúc Lưu Công tử ra đi, công tử tôi cũng tỏ ý muốn cáo từ nhưng Lưu Công tử cầm lại chẳng cho về.

Trưởng Hoa Tiểu thơ hừ một tiếng tỏ vẻ hằn học:

- Thế thì quả nhiên Lưu Khuê Bích đã đem lòng oán hận về việc thi bắn lúc trước cho nên lập mưu ám hại em ta đặng tranh cướp Mạnh thị. Nếu không phải vậy thì phàm chủ nhà đã đi vắng còn cầm khách ở lại làm gì?

Trưởng Hoa Tiểu thơ luận lẽ ấy, cả nhà ai cũng cho là phải. Trưởng Hoa lại lên tiếng hỏi tiếp hai tên gia tướng:

- Chúng bay có biết ai là người coi giữ cái huê viên ấy không? Và lúc ngọn lửa cất cháy có ai cứu chữa không?

Tào Tín và Ngô Tuờng đồng thưa:

- Người giữ vườn là Giang Tấn Hỉ và cũng chính tên ấy vào mời chúng tôi đi uống rượu, hắn trạc độ mười sáu mười bảy tuổi, còn trong khi phát hỏa thì có Tấn Phòng Quan đem binh đến cứu chữa...

Trưởng Hoa lại hỏi:

- Trong lúc quan đến cứu chữa có tìm thấy thi hài không?

- Dạ thưa tiểu thơ lúc ấy chúng tôi có bảo Tấn Phòng Quan đốc quân tìm kiếm nhưng không tìm thấy thi hài nào cả.

Trưởng Hoa ra chiều suy nghĩ rồi quay lại nói với song thân:

- Thế thì con tin chắc em con chưa chết, vì cứ như dung mạo của em con không phải là kẻ yểu tướng, hơn nữa không tìm thấy thi hài tất nhiên em con trốn thoát được rồi.

Tiểu thơ lại gạn hỏi hai tên gia tướng xem lúc Tấn Hỉ đến mời đi uống rượu với thái độ ra sao. Hai tên gia tướng kể lại sự việc Tấn Hỉ mời chúng ra ngoài rồi kêu hai người nữa cùng bắt chén, đoạn hắn bỏ ra huê viên lấy cớ đi tuần phòng, rồi trong lúc phát hỏa hắn lại tri hô lên trước nhất.

Trưởng Hoa cau mày nói:

- Nếu vậy thì thế nào tên Giang Tấn Hỉ ấy cũng có nhúng tay vào vụ này. Chắc là Lưu Khuê Bích bảo Tấn Hỉ rủ hai đứa này ra ngoài chờ cho Thiếu Hoa ngủ say rồi ám hại.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Lời con đoán có lý lắm. Vậy bây giờ ta phải lập tức bắt Giang Tấn Hỉ về đây tra vấn trước đã rồi sau sẽ hỏi Lưu Khuê Bích.

Dứt lời, Hoàng Phủ Kính tung mình lên ngựa tuốt sang Lưu phủ.

Lúc ấy Lưu Khuê Bích đang ngồi trong phòng, bỗng nghe gia đinh chạy vào báo:

- Có Hoàng Phủ Nguyên soái đến.

Khuê Bích lật đậy chạy ra nghinh tiếp, chàng trông thấy Nguyên soái hầm hầm sắc giận, một cái nhìn Nguyên soái cũng đủ làm cho Khuê Bích khiếp đảm lo âu.

Hoàng Phủ Kính gằn giọng hỏi:

- Đêm hôm qua vì cớ gì bên này phát hỏa? Còn con tôi bây giờ hiện ở đâu?

Lưu Khuê Bích đáp:

- Thưa, việc ấy tôi không được rõ, vì đêm hôm qua tôi mắc đi sang nhà cậu tôi hộ tang cho bà ngoại. Lúc ấy lịnh lang ngủ tại Tiểu Xuân đình không biết lý do gì bị hỏa tai. Mãi đến khi gia nhơn tin cho tôi chạy về thì tòa nhà ấy đã biến thành đống tro. Vả lại trong lúc ấy có Tấn Phòng Quan đem binh đến cứu chữa, nhưng tìm bới không thấy thi hài, chắc có lẽ lịnh lang chạy khỏi rồi cũng nên.

Hoàng Phủ Kính xoe tròn đôi mắt nhìn thẳng vào mặt Khuê Bích nói:

- Nếu bảo rằng con ta thoát khỏi, sao đến bây giờ không thấy nó về? Hãy dắt ta vào đó khám xét xem nào.

Lưu Khuê Bích vội vàng đưa Hoàng Phủ Kính ra Tiểu Xuân đình.

Đến nơi, Hoàng Phủ Kính truyền quân bới tìm thật kỹ, nhưng không tìm thấy chi hết. Lúc ấy gia tướng nhà họ Lưu cũng ra đứng vây xem thật đông. Tào Tín và Ngô Tường chỉ Giang Tấn Hỉ nói với Hoàng Phủ Kính:

- Thưa Nguyên soái, đêm hôm qua chính tên này ép mời chúng tôi uống rượu đây.

Hoàng Phủ Kính liền kêu Tấn Hỉ đến. Tấn Hỉ nhận thấy mình là ân nhân của Thiếu Hoa nên không chút ngại ngùng, chàng ung dung bước tới quì xuống.

Hoàng Phủ Kính quát hỏi:

- Ngươi tên họ gì? Có phải ngươi là kẻ coi giữ cái huê viên này không?

Giang Tấn Hỉ bình tĩnh bẩm:

- Bẩm Nguyên soái, tôi tên Giang Tấn Hỉ và chính tôi có nhiệm vụ trông coi cái huê viên này.

Hoàng Phủ Kính gằn từng tiếng:

- Đêm hôm qua ngươi ép hai tên gia tướng của ta uống rượu rồi ngươi lại bỏ đi đâu?

Giang Tấn Hỉ đáp:

- Vì đêm qua Cố Phu nhơn và Lưu Công tử đi vắng nên tôi phải đi tuần huê viên.

- Hừ! Nếu ngươi tuần phòng cẩn mật như vậy tất nhiên việc phát hỏa này vì duyên cớ gì ngươi phải biết rõ chứ?

Giang Tấn Hỉ đáp:

- Lúc ấy tôi đang đi tuần bên ngoài, thình lình thấy lửa dậy vội tri hô lên chứ vì duyên cớ gì thật tình tôi không biết.

Hoàng Phủ Kính nghe hắn chối quanh giận quá nạt lớn:

- Ngươi bảo ngươi mắc việc không thể uống rượu được thì việc gì lại ép người ta uống? Có phải là ngươi dùng kế điệu hổ ly sơn để ám hại con ta không? Chắc chắn việc phóng hỏa do tay ngươi rồi chứ còn chối cãi gì nữa.

Dứt lời, Hoàng Phủ Kính hô quân áp lại bắt Giang Tấn Hỉ đem tra vấn. Tấn Hỉ liền quì mọp xuống lạy thưa:

- Việc mời uống rượu ấy cũng vì tôi có lòng quí trọng hai người, còn việc xảy ra hỏa tai thật tình tôi không biết xin Nguyên soái lượng xét cho.

Lưu Khuê Bích thấy thế sợ Hoàng Phủ Kính đem Tấn Hỉ về tra khảo lậu sự nên bước ra nói:

- Xưa nay Giang Tấn Hỉ vốn kẻ lương thiện, tôi chắc hắn không bao giờ làm chuyện ác nhơn vậy đâu. Nếu Nguyên soái làm vậy oan cho nó tội nghiệp.

Hoàng Phủ Kính nhìn Khuê Bích nghiêm sắc mặt nói:

- Còn công tử mắc đi hộ tang sao cầm con tôi lại làm gì? Tôi chắc việc này do công tử chủ mưu ám hại con tôi.

Lưu Khuê Bích thản nhiên đáp:

- Việc cầm bạn ở lại chơi cũng là việc thường tình. Vả lại, tôi có ngờ đâu lịnh lang lại say rượu đạp đổ đèn làm cháy mất một tòa nhà của tôi. Phải chi tôi biết trước như thế thì tôi cầm cọng làm gì. Nay Nguyên soái bắt gia nhơn của tôi đem về tra vấn, tôi e trái đạo lý chăng?

Hoàng Phủ Kính nghe Khuê Bích nói lý lại càng nghi ngờ hơn nữa, lớn tiếng nói:

- Công tử nói rằng công tử có lòng tử tế mời con tôi ở lại, nhưng nghiệm theo lẽ thì không thể tin được.

Dứt lời Hoàng Phủ Kính ra lệnh áp giải Giang Tấn Hỉ về phủ.

Quân sĩ được lệnh áp tới trói Giang Tấn Hĩ dẫn đi lập tức. Lúc ấy, Giang Tấn Hỉ tưởng Hoàng Phủ Thiếu Hoa đã về đến nhà rồi, còn việc Hoàng Phủ Kính làm như vậy lả để cho Lưu Khuê Bích khỏi nghi ngờ mình nên không sợ sệt gì cả, lại giả vờ kêu lên:

- Lưu Công tử ôi! Hãy cứu tôi với.

Lúc ấy Lưu Khuê Bích cũng muốn cứu nhưng không biết làm sao, đành đứng trơ trơ như tượng gỗ.

Về đến phủ, Hoàng Phủ Kính thuật lại cho Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ nghe. Trưởng Hoa bấm trán suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Nếu không tìm thấy thi hài, thì chắc chắn là em con thoát thân rồi, xin phụ thân hãy an tâm.

Hoàng Phủ Kính thở dài nói:

- Nếu nó thoát được thân sao mãi đến bây giờ không thấy về? Thật ta lo ngại quá! Thôi, để ta đem Giang Tấn Hỉ tra hỏi xem sao.

Dứt lời, Hoàng Phủ Kính truyền quân bày đồ hình cụ ra rồi cho giải Giang Tấn Hỉ vào. Giang Tấn Hỉ đến nơi thấy vậy tưởng Nguyên soái giả vờ để che mắt Lưu Khuê Bích nên chàng vẫn bình tĩnh. Hoàng Phủ Kính lên tiếng hỏi:

- Ta thấy ngươi còn nhỏ tuổi nên chắc việc này chẳng phải do tay ngươi, vậy kẻ nào chủ mưu hãy khai mau.

Giang Tấn Hỉ tưởng Nguyên soái giả cách hỏi vậy thôi, nên chàng đáp ngay không cần nghĩ:

- Bẩm Nguyên soái, việc này do công tử say rượu đạp đổ đèn nên lửa bắt cháy chứ không ai âm mưu ám hại cả, xin Nguyên soái xét lại.

Nguyên soái nghe nói nổi giận nạt lớn:

- Ta thấy ngươi còn nhỏ nên không nỡ gia hình, sao ngươi dám đem lời xảo trá dối ta. Hừ, nếu ngươi không thú thật chớ trách ta sao độc ác!

Bấy giờ Giang Tấn Hỉ có ý giận thầm, hắn nghĩ:

"Tại sao công tử đã thoát thân về được rồi lại còn muốn làm khổ ta như vậy?"

Nghĩ đoạn, Giang Tấn Hỉ vội thưa:

- Bẩm Nguyên soái hãy cho tôi nói một đôi lời.

Hoàng Phủ Kính nghe Tấn Hỉ nói như vậy liều truyền quân sĩ bước ra ngoài hết và bảo:

- Ngươi có điều chi hãy nói đi.

Giang Tấn Hỉ nhìn bốn bên thấy vắng người liền bước đến gần Hoàng Phủ Kính nói nhỏ:

- Bẩm Nguyên soái, cho tôi xin hỏi Nguyên soái một lời. Chẳng hay Nguyên soái giả vờ làm như vậy hay Hoàng Phủ Công tử chưa về?

Hoàng Phủ Kính lấy làm ngạc nhiên:

- Nào! Ta có thấy con ta về bao giờ đâu!

Giang Tấn Hỉ thất kinh nói:

- Trời ơi! Té ra công tử chưa về sao? Thế thì lạ lùng thật!

- Ngươi nói gì vậy, ta không hiểu gì cả. Hãy nói thật ra cho ta biết, chớ nên giấu giếm.

Giang Tấn Hỉ liều quì xuống thuật đầu đuôi mọi việc cho Hoàng Phủ Kính nghe, Hoàng Phủ Kính nghe xong nửa mừng, nửa sợ, nói:

- Nếu vậy thì ngươi là ân nhân của con ta rồi, ta cần phải hậu tạ ngươi mới được, song không biết tại sao mãi đến bây giờ không thấy con ta về?

Giang Tấn Hỉ ra chiều suy nghĩ rồi nói:

- Không biết chừng công tử bị việc chi cản trở dọc đường chăng, nhưng tôi tin chắc sớm tối gì công tử cũng về, xin Nguyên soái chớ lo.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Thôi được, bây giờ ngươi hãy ở lại đây uống rượu chơi, chờ con ta về sẽ nói chuyện.

Giang Tấn Hỉ nói:

- Xin đa tạ tấm lòng đoái thương của Nguyên soái, song bây giờ nếu tôi uống rượu ở đây tất nhiên Lưu Công tử sẽ đem lòng nghi kỵ và làm khó dễ tôi.

Giang Tấn Hỉ vừa nói dứt lời bỗng có quân chạy vào báo:

- Bẩm Nguyên soái, công tử đã về!

Hoàng Phủ Kính nghe nói mừng rỡ vô cùng.

Xin nhắc lại việc Thiếu Hoa ghé vào chùa với Thanh Tu Trưởng lão đánh cờ đặng chờ xem lửa cháy trong vườn họ Lưu. Quả nhiên vào lối canh ba bỗng thấy trong huê viên lửa dậy hừng hực trời. Bấy giờ chàng mới tin Lưu Khuê Bích có lòng hại mình. Sáng hôm sau Thanh Tu cầm Thiếu Hoa ở lại dùng cơm mai rồi mới cho về, nên mới trễ nải như vậy.

Khi Hoàng Phủ Thiếu Hoa bước vô nhà, Giang Tấn Hie liền chạy tới vái lạy và hỏi:

- Tại sao mãi đến bây giờ công tử mới về?

Thiếu Hoa lật đật giơ tay đỡ Giang Tấn Hỉ dậy và nói:

- Người là ân nhân cứu mạng của tôi, xin chớ thủ lễ quá vậy, xin mời người ngồi đây tôi sẽ nói chuyện.

Nói rồi Hoàng Phủ Thiếu Hoa đi thẳng ra sau hậu đường, ai nấy đều mừng rỡ xúm lại hỏi lăng xăng.

Thiếu Hoa thuật lại đầu đuôi mọi việc cho cả nhà nghe, duy có việc Thanh Tu Trưởng lão mách cho biết gia đình họ Hoàng Phủ phải chịu tai họa trong ba năm nhà tan cửa nát, cốt nhục phân ly, chàng không nói ra vì sợ song thân phiền muộn.

Thiếu Hoa còn kể lại việc đính hôn với Lưu Yến Ngọc cho song thân nghe, nhưng chàng căn dặn không nên tiết lậu, sợ Lưu Khuê Bích biết được có hại cho em gái, và Mạnh Lệ Quân hay được cũng sanh lòng ghen tương.

Hoàng Phủ Kính gật đầu khen:

- Con nói phải lắm.

Rồi ông lấy ra mười lượng vàng trao cho Giang Tấn Hỉ, và nói:

- Ta thưởng cho ngươi mười lượng vàng này để đáp lại tấm lòng tốt của ngươi, nếu mai sau ngươi có cần gì cứ việc qua đây ta sẽ giúp đỡ cho.

Giang Tấn Hỉ tỏ lời từ chối:

- Tôi xin đội ơn Nguyên soái, nhưng việc ấy có chi lâm trọng, tôi không dám nhận lấy số tiền thưởng quá to tát như vậy đâu.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Ngươi đã là kẻ cứu mạng của con ta, đáng lẽ ta phải thâu dùng mới phải, chứ mười lượng vàng này có thấm vào đâu. Nhưng ngặt vì ngươi hiện đang ở với họ Lưu, nếu họ Lưu đối đãi tử tế với ngươi thì thôi, bằng không thì hãy qua đây ta sẽ trọng đãi.

Giang Tấn Hỉ nghe nói, mừng rỡ tiếp lãnh số vàng rồi thưa:

- Mẹ con tôi ở nhà họ Lưu từ lúc tôi mới lên chín tuổi, được cả nhà thừa nhận mẹ con tôi là người tâm phúc, nay vì Lưu Công tử lập tâm độc ác tôi phải làm như thế cũng đã bất nghĩa lắm rồi, lẽ nào lại bỏ đó sang đây sao phải. Nhưng tôi chỉ xin công tử một điều là nếu ai có hỏi hãy nói rằng trong khi đang ngủ xay thấy lửa dậy rồi có một thần nhân hiện ra cứu đem bỏ giữa đồng, sáng ngày hôm sau mới hỏi thăm đường về nhà. Nếu công tử thố lộ chơn tình thì chẳng những liên lụy đến tiểu thơ mà thôi, tánh mạng của mẹ con tôi cũng khó bảo toàn.

Cha con Hoàng Phủ Kính nhận lời rồi sai người đưa Tấn Hỉ ra về.

Khi Giang Tấn Hỉ về rồi, Hoàng Phủ Kính kêu Tào Tín và Ngô Tường chỉ vào mặt mắng:

- Hai đứa bay toàn là kẻ tham ăn tham uống rủi chút nữa là con ta chết mất rồi! Thế thì ta còn dùng hai đứa bay sao được.

Tào Tín và Ngô Tường thất kinh quì lại cầu van. Thiếu Hoa thấy vậy thương tình bước tới thưa:

- Xin phụ thân hãy dung cho nó, vì việc này do con bảo chứ chúng nó không dám tự tiện bỏ ra ngoài.

Hoàng Phủ Kính bằng lòng tha thứ nhưng lại nói:

- Chúng bay mới lầm lỡ lần đầu ta cũng thương tình tha cho, nếu lần sau có vậy nữa ta sẽ trị tội nặng.

Hai tên gia tướng mừng rỡ lạy tạ lui ra.

Nói về Lưu Yến Ngọc và Giang Tam Tẩu khi hay tin Hoàng Phủ Kính bắt Giang Tấn Hỉ về, trong lòng lo ngại không yên. Hai người không biết Hoàng Phủ Thiếu Hoa có về đến nhà hay không, nếu có về nhà tại sao Hoàng Phủ Nguyên soái lại bắt Giang Tấn Hỉ?

Ngày sau, Giang Tam Tẩu giả vờ đến khóc lóc với Lưu Khuê Bích:

- Hôm qua Hoàng Phủ Nguyên soái bắt con tôi sang bên đó tra vấn, tôi sợ con tôi bị đòn bọng chịu không nổi khai bậy ra thì biết làm sao?

Trong lúc hai người đang bàn luận, bỗng thấy Giang Tấn Hỉ về; dọc đường Tấn Hỉ đã lấy đất và lọ bôi mặt cho lem luốc trông như người bị khảo tra nhừ tử vậy. Hắn vừa bước vào nhà vừa đi cà nhắc trông bộ thảm thương, Giang Tam Tẩu vừa thấy con, giả vờ kinh hãi chạy ra hỏi:

- Con ôi! Hình như con bị tra khảo nhiều lắm phải không?

Giang Tấn Hỉ thổn thức thưa:

- Khổ lắm mẹ ôi! Hoàng Phủ Nguyên soái bắt con về cột chặt cứng rồi lấy kềm kẹp đau đứt ruột. Nguyên soái buộc con phải khai việc do Lưu Công tử thù hằn về vấn đề lương duyên của Mạnh thị nên phóng hỏa ám hại Hoàng Phủ Công tử. Con nhất định chối từ thì bọn gia tướng lại ra tay kềm kẹp dữ dội, may thay lúc đó có Hoàng Phủ Công tử về, con mới thoát nạn.

Lưu Khuê Bích nghe nói, thất kinh hỏi:

- Ngươi bảo Hoàng Phủ Thiếu Hoa thoát khỏi về đặng được rồi à?

- Vâng, sự thật là như vậy. Tôi nghe Hoàng Phủ Công tử thuật lại rằng: trong cơn lửa dậy mười phần nguy cấp bỗng đâu có một vị thần hiện ra cứu người rồi bay vụt lên không trung, đem bỏ giữa đồng. Vì trời tối mà ở đó đường sá lại lạ lùng nên người đợi đến sáng mới hỏi thăm đường về. Trên đường về, Hoàng Công tử đi quanh lộn mãi đến trưa mới đến nơi.

Lưu Khuê Bích nghe qua, thở dài căm tức vì đã hại người tình địch không được, lại thiếu mất một tòa nhà xinh đẹp trong huê viên.

Lời Bình:

Trong thời gian phong kiến, bọn cường hào luôn có tư tưởng và hành động hà hiếp kẻ khác, chúng muốn gì được nấy, không ai có thể ngăn cản được, nếu ai cả gan nghịch lại, tất nhiên sẽ bị chúng dùng quyền lực làm cho điêu đứng, ta nhà nát cửa. Nhân vật Hoàng Phủ Kính này cũng đường đường là một vị Nguyên soái có quyền tiền trảm hậu tấy, nhưng so với Lưu Tiệp làm chức Quốc trượng trong triều, tất nhiên phải bị lép vế. Vì vậy phải bị nạn cá lớn ăn hiếp cá bé. Vì lẽ ấy Lưu Khuê Bích mới dám nói lý trong khi Hoàng Phủ Kính đến bắt Giang Tấn Hỉ.

Nhân vật Thanh Tu Trưởng lão trong hồi này quả không phải là người phàm tục mà là người trên thượng giới sai xuống cầm chân Thiếu Hoa trong một buổi để cho chàng về chậm mới sanh ra việc Hoàng Phủ Kính đến Lưu phủ và gây thêm sự mâu thuẫn về sau.

Chữ "trung" trong thời phong kiến thật quả máy móc và hẹp hòi, làm tôi phải trung với chủ vô điều kiện; không cần biết chủ ấy là vị hôn quân hay minh quân, chủ bảo chết thì phải chết, có thể nói là triệt để trung thành. Ở đây Giang Tấn Hỉ làm tôi cho họ Lưu thì dù cho họ Lưu có gian ác đến đâu cũng vẫn phải trung thành, cho nên tuy hành động cứu người của Tấn Hỉ là nhân đạo, song như thế là trái với lòng trung với Lưu gia nên chàng phải giấu nhẹm. Nhưng ở đời đã làm việc thiện mà phải lén lút thì thật là khổ tâm.

Hồi Thứ Chín

Nghe lời con, Quốc trượng thi độc kế

Giữ lòng trung, Nguyên soái quyết ra binh.

Lưu Khuê Bích ngồi bấm trán suy nghĩ một hồi lâu rồi cho phép Giang Tấn Hỉ vào nhà an nghỉ.

Tấn Hỉ vào trong đem hết mọi việc thuật lại cho mẹ nghe. Giang Tấn Hỉ liền đến Tiểu Vân các nói cho Lưu Yến Ngọc biết, cả hai mừng rỡ vô cùng.

Trong lúc ấy, bên nhà họ Mạnh có tên gia nhơn tên Mạnh Minh hay tin Hoàng Phủ Thiếu Hoa bị nạn hỏa tai bên Tiểu Xuân đình, nhưng hắn kông biết rõ sống chết thế nào, liền phi báo cho Mạnh Sĩ Nguyên hay, Mạnh Sĩ Nguyên vừa nghe qua đã biết ngay việc ấy do Lưu Khuê Bích âm mưu hãm hại rồi. Cả nhà: Hàn Phu nhơn, Mạnh Gia Linh, Tô Đại Nương, Mạnh Lệ Quân, Tô Yến Tuyết thảy đều thất kinh.

Tô Yến Tuyết nói:

- Việc này chắc chắn Lưu Khuê Bích hận việc tranh hôn nên âm mưu ám hại đây.

Hàn Phu nhơn cũng nói:

- Nếu quả hiền tế ta bị hại rồi thì cuộc nhơn duyên đại sự của con ta bị dang dở còn chi.

Mạnh Lệ Quân ngồi lặng thinh không thốt nên nửa lời song trong lòng tái tê đau đớn khôn xiết.

Tô Yến Tuyết lại tiếp:

- Tôi xem tướng mạo của Hoàng Phủ Công tử không phải là hạng yểu tướng, chắc không can chi đâu.

Hàn Phu nhơn thở dài nói:

- Lưu Khuê Bích thì cố tâm ám hại, còn hiền tế ta thì bất ngờ, làm sao tránh khỏi tai nạn?

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Thôi, các ngươi đừng luận bàn nhiều chuyện, để ta sang nhà Hoàng Phủ hỏi thăm thì rõ ngay.

Nói dứt lời, lão mặc áo lên ngựa ra đi. Đến nơi, Mạnh Sĩ Nguyên cho người vào thông báo, Hoàng Phủ Kính lật đật chạy ra nghinh tiếp vào nhà.

Mạnh Sĩ Nguyên hỏi:

- Chẳng hay lịnh lang vì cớ chi mà phải ở đêm bên nhà họ Lưu đến nỗi phải lâm hỏa hoạn? Việc phát hỏa ấy đầu đuôi ra thể nào, còn lịnh lang hiện giờ ở đâu?

Hoàng Phủ Kính bèn tỏ hết đầu đuôi cho Mạnh Sĩ Nguyên nghe, nhưng Hoàng Phủ Kính chỉ nói dối y theo lời Giang Tấn Hỉ đã xin, còn việc Thiếu Hoa đính ước với Yến Ngọc cũng giấu nhẹm.

Mạnh Sĩ Nguyên ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói:

- Tôi tin chắc sự việc này do Lưu Khuê Bích hận thù về việc tranh hôn mà gây ra. Thế thì từ nay chúng ta cần phải đề phòng hắn mới được.

Hoàng Phủ Kính gật đầu đáp:

- Đại nhơn luận như vậy rất chí lý, chính tôi cũng nghĩ vậy.

Hai người trà nước vãn hồi lâu, Mạnh Sĩ Nguyên đứng dậy cáo từ ra về. Ông ta đi nhanh về thuật lại đầu đuôi cho cả nhà nghe. Ai nấy đều mừng rỡ vô cùng. Trong nét mặt hớn hở của mọi người, chỉ có Tô Yến Tuyết là vui mừng hơn hết. Nàng vội vã chạy vào phòng nói cho Mạnh Lệ Quân hay và bảo:

- Tiểu Thơ thấy lời tôi đoán có trúng không? Tôi chỉ nhìn qua tướng mạo của Hoàng Phủ Công tử là đủ biết, dù người có gặp tai nạn bằng trời cũng không chết đâu mà!

Mạnh Lệ Quân buồn bã đáp:

- Thù oán đã gây nên rồi, tôi chắc Lưu Khuê Bích sẽ còn gây ra nhiều chuyện nữa chứ không phải vậy thôi đâu!

Tô Yến Tuyết nói:

- Hôm nay âm mưu Khuê Bích đã bại lộ tất nhiên Hoàng Phủ Công tử thấy rõ bộ mặt phản bạn của hắn rồi, chắc người sẽ tuyệt giao và hết sức đề phòng thì Khuê Bích làm gì được?

Mạnh Lệ Quân nói:

- Hiện nay nhà họ Lưu đang có thế lực, không khi nào chịu buông tha, nhưng chị cũng hy vọng người lành sẽ có Trời Phật phù hộ thôi.

Hôm ấy nội nhà Hoàng Phủ ai nấy đều hậm hực tên Lưu Khuê Bích lòng người dạ thú. Hoàng Phủ Kính định sáng hôm sau viết biểu đem về triều dâng lên Thiên tử để người trừng trị hành vi ác độc ấy. Nhưng Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại can:

- Xin thân phụ chớ nên phiền lòng, con nguyện từ nay tuyệt giao với Lưu Khuê Bích thì chắc hắn không làm gì con được đâu. Nếu thân phụ tâu lên Thiên tử, tất làm hại bọn Giang Tấn Hỉ và kết thêm oán cừu với Lưu Tiệp không nên.

Hoàng Phủ Kính nghe con nói hữu lý nên đành nuốt hận bỏ qua.

Bây giờ tại Lưu phủ, Lưu Khuê Bích nằm gác tay lên trán nghĩ thầm:

"Ai ngờ đâu Hoàng Phủ Thiếu Hoa không chết mà ta lại bị cháy mất một tòa nhà xinh đẹp. Còn bảo rằng hắn có thần nhân cứu mạng thì phi lý. Hay là Giang Tấn Hỉ tiết lộ ra nên hắn mới thoát đặng chăng?"

Rồi Khuê Bích lại nghĩ:

"Nay Hoàng Phủ Kính đã biết rõ ta âm mưu hai con lão rồi, nếu lão tâu lên Thiên tử trong lúc cha ta chưa biết rõ đầu đuôi thì biết lấy ai bênh vực cho ta? Chi bằng ta viết hơ tỏ cho thân phụ ta biết trước, xin người tìm cách hại Hoàng Phủ Kính để cướp mối lương duyên Mạnh thị về ta thì hay hơn cả. Hơn nữa phụ thân ta yêu mến ta lắm, lẽ nào người lại bác bỏ lời cầu xin của ta?"

Nghĩ đoạn, Lưu Khuê Bích lấy bút mực viết một phong thơ rồi gọi tên gia tướng Du Nhị vào bảo:

- Ta cho ngươi ba chục lạng bạc đây, ngươi hãy cấp tốc đem bức thơ này đến tại kinh trao cho Quốc trượng nhé!

Du Nhị được số bạc khổng lồ, hắn mừng quá vâng dạ rốt rít, Khuê Bích lại cho Du Nhị biết rõ những lời lẽ trong thơ và dạy những câu trả lời phòng khi Quốc trượng có hỏi thì ứng đáp cho phù hợp với lời lẽ láo khoét của chàng.

Du Nhị lãnh thơ lui ra tung mình lên ngựa đi ngay. Chẳng bao lâu hắn đến kinh thành, tìm đến dinh Lưu Tiệp.

Lúc bấy giờ Lưu Tiệp có một người hầu thiếp mến yêu tên Ngô Thục Nương. Người hầu thiếp này nguyên là của một vị môn sanh xuất tiền mua về rồi đem tặng cho Lưu Tiệp. Nàng có sắc đẹp vô cùng quyến rũ, lại có óc thông minh về toán học. Ở với Lưu Tiệp nàng sanh được một đứa con trai chưa đầy một tuổi, đặt tên là Lưu Quí.

Hôm ấy Lưu Tiệp đang bồng Lưu Quí nựng nịu, bỗng thấy con nữ tỳ chạy vào bẩm:

- Có một người ở Vân Nam mang thơ đến xin vào ra mắt.

Lưu Tiệp liền trao con cho Ngô Thục Nương rồi cho đòi vào.

Du Nhị vào đến nơi cúi lạy, Lưu Tiệp nhanh miệng hỏi:

- Cả nhà ta có được mạnh giỏi không?

- Bẩm lão gia, cả nhà đều được bình yên cả, nay công tử sai mang thơi đến dâng cho lão gia.

Vừa nói, Du Nhị vừa giơ hai tay dâng thơ lên. Lưu Tiệp tiếp lấy thơ bóc ra xem ngay.

Xem xong, Lưu Tiệp đứng phắt dậy cười gằn nói:

- Được rồi, nếu ta không trừ được bọn Hoàng Phủ Kính và Mạnh Sĩ Nguyên thì không phải là tay Quốc trượng.

Ngô Thục Nương thấy Lưu Tiệp có vẻ hằn học, vội hỏi:

- Trong thơ nói gì trong ấy mà lão gia lại giận dữ đến thế?

Lưu Tiệp liền trao bức thơ cho Ngô Thục Nương và nói:

- Nàng hãy đọc hết bức thơ này thì hiểu rõ nguyên nhân.

Lúc ấy mấy người hầu thiếp của Lưu Tiệp đều xúm lại xem thơ. Ngô Thục Nương xem xong ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu, đoạn nở một nụ cười nói với Lưu Tiệp:

- Những lời lẽ trong thơ này tôi e không thật, lão gia chớ nên bận tâm là gì vô ích, vì nếu cứ kể thao tước phẩm của Hoàng Phủ Kính thì đối với lão gia có thấm vào đâu. Hơn nữa hiện nay quyền thế của lão gia đệ nhất trong triều há Mạnh Sĩ Nguyên lại không biết sao? Vả lại, công tử nhà ta tài mạo kiêm toàn, nếu công tử cùng Thiếu Hoa cả hai đều bắn trúng cả ba phát thì lẽ nào họ Mạnh lại không gả con cho Lưu Công tử mà lại gả con cho Hoàng Phủ Công tử? (Nguyên vì trong thơ Khuê Bích nói dối rằng mình cũng bắn trúng ba phát như Thiếu Hoa mà Mạnh Sĩ Nguyên lại không gả cho mình).

Nói đến đây, Ngô Thục Nương mỉm cười rồi tiếp:

- Theo tôi đoán thì thế nào Thiếu Hoa cũng bắn trúng ba phát tên còn công tử nhà ta thì bắn không trúng. Nay công tử vì quá say mê nhan sắc của Mạnh thị nên gởi bức thơ này đặng khiến lão gia tức giận làm hại nhà Hoàng Phủ. Còn việc phát nhơn ta đem về tra khảo lại càng nói dối hơn nữa, vì nhà ta là một nhà hầu tước, mà dù nhà thường dân đi nữa Hoàng Phủ Kính cũng phải giữ theo pháp luật chứ có đâu con mình vô sự mà lại vu cáo cho người ta âm mưu hãm hại bao giờ? Thế thì lời lẽ trong bức thư này từ đầu chí cuối đều vô lý, xin lão gia chớ tin.

Lưu Tiệp gật đầu đáp:

- Nàng nói cũng có lý lắm đấy, nhưng con ta yêu Mạnh Lệ Quân sao Hoàng Phủ Kính lại không nhường nhịn, còn cho con mình đến tranh hôn, có phải hắn khinh ta không? Nhất định ta phải làm cho hắn nát cửa tan nhà, nếu không, chính con ta nó khinh ta là hèn nhát chứ đừng nói ai hết.

Nói rồi, Lưu Tiệp vội viết thư trả lời cho Khuê Bích biết và hứa sẽ trả thù cho con.

Tuy Lưu Tiệp là kẻ gian thần nhưng bản tánh của Lưu Tiệp không giống những gian thần khác, gia sản lão dinh dư nên không cần ăn hối lộ của ai. Ngoài cái bản chất độc ác, lão còn có tánh háo thắng nên hễ thấy ai a dua nịnh bợ thì lão bên vực triệt để, cho nên trong triều kẻ xe phụ, khiến thế lực lão càng to lớn hơn, một tiếng hô của lão rất nhiều kẻ hưởng ứng. Hôm nay lão quyết hại Hoàng Phủ Kính thì Hoàng Phủ Kính khó mà tránh khỏi.

Cách vài hôm, khi Thiên tử lâm triều, các quan triều kiến tung hô xong rồi, bỗng có quan Huỳnh môn bước ra quì tâu:

- Vừa rồi có quan Tuần phủ Sơn Đông là Bánh Như Trạch và quan Tổng binh ải Đăng Châu là Ân Diện Tiên dâng biểu văn về cáo cấp rằng có tướng Phiên tên là Ô Tất Khải kéo ba muôn binh đến cướp phá biên cương, quân ta đối định bị thua luôn mấy trận vì Ô Tất Khải sức mạnh phi thường, lại có tên quân sư tên Thần Võ Đạo nhơn có nhiều phép lạ.

Vua Thành Tôn nghe tâu, thất kinh nói:

- Trẫm cũng thấy trước bọn giặc này vô cùng lợi hại nên năm trước trẫm đã truyền chỉ cho quan Tuần phủ Sơn Đông chế tạo thêm chiến thuyền và binh khí đủ loại để phòng bị, thế mà nay vẫn bị thảm bại là ý gì?

Rồi vua truyền đòi Thượng biểu quan vào hỏi:

- Chẳng hay quân giặc tài lực ra thế nào, khanh hãy tường thuật tỉ mỉ lại xem.

Thượng biểu quan vội quì tâu:

- Tên tướng soái của giặc là Ô Tất Khải trạc độ tam tuần, mình cao chín thước, sức mạnh địch nổi muôn người, hắn dùng cặp ngân chùy ước đặng ngàn cân, lại có tên quân sư là Thần Võ Đạo nhơn cũng dềnh dàng lớn vóc, ra trận trường dùng gươm, đặc biệt là hắn biết hô phong hoán võ, phép thuật dị kỳ, quân ta không tài nào chống nổi nên mới dâng biểu về cáo cấp xin binh cứu viện.

Vua Thành Tôn thở dài than:

- Như vậy biết liệu làm sao bây giờ?

Thế là Lưu Tiệp vớ được cơ hội may, lão thầm nghĩ:

"Bọn giặc đã có phát thuật như vậy thì ai mà đánh chúng cho lại? Thôi, để ta tiến cử Hoàng Phủ Kính đi chinh phạt. Thế nào hắn cũng bị thảm hại. Chừng ấy ta sẽ tìm cách hại hết gia quyến hắn là xong".

Nghĩ rồi Lưu Tiệp bước ra quì tâu:

- Nay bệ hạ mới lên ngôi, lòng người vẫn chưa định, cần phải sai danh tướng đi dẹp cho yên, nếu chậm trễ các chỗ khác sẽ bắt trước dấy loạn thì nguy.

Vua Thành Tôn gật đầu nói:

- Chính trẫm cũng ngại như vậy, song bọn giặc này lợi hại lắm, biết ai đâu mà đương đầu nổi?

Lưu Tiệp tâu:

- Hạ thần biết có một vị đại thần đủ sức đánh lui giặc này, nếu bệ hạ bằng lòng giáng chỉ cho người ấy đem binh đi đánh dẹp, nhất định sẽ thành công.

Vua Thành Tôn nóng lòng hỏi vội:

- Chẳng hay Quốc trượng tiến cử người nào?

Lưu Tiệp tâu:

- Hạ thần xin tiến cử Hoàng Phủ Kính hiện làm Vân Nam Tổng đốc Đại Nguyên soái. Người ấy quả là một tay lão luyện về việc chiến chinh. Bệ hạ chỉ cần phát cho vài muôn binh là quân giặc sẽ bị phá tan ngay.

Vua Thành Tôn nghe tâu, mừng rỡ phán:

- Ý khanh rất hợp ý trẫm, Hoàng Phủ Nguyên soái quả thật là một danh tướng, nếu sai người đi thì chắc sẽ thành công.

Dứt lời, vua Thành Tôn vội viết chiếu phong cho Hoàng Phủ Kính làm Chinh Đông Đại Nguyên soái, lại được quyền tiền trảm hậu tấu, lãnh hai muôn binh qua Sơn Đông dẹp giặc.

Viết xong, vua sai một viên quan lãnh chiếu và ấn Nguyên soái cùng ấn tiên phong đem ra Vân Nam cho Hoàng Phủ Kính. Đoạn vua bãi chầu về cung, còn Lưu Tiệp về phủ viết một bức mật thơ sai người đem ra Sơn Đông cho Bành Như Trạch biết rằng Hoàng Phủ Kính là kẻ thù với mình, chờ cho Hoàng Phủ Kính ra binh thất bại sẽ viết biểu về trào vu cáo rằng Hoàng Phủ Kính tạo phản để hại cho hết dòng họ hoàng Phủ Kính mới thỏa lòng căm hận.

Khi Khâm sai lãnh chiếu đi đến Vân Nam, Hoàng Phủ Kính vội vã ra nghinh tiếp. Đọc xong chiếu, Hoàng Phủ Kính hỏi Khâm sai:

- Hiện nay trong triều rất nhiều võ tướng ở không, sao Thiên tử không sai đi dẹp giặc còn ta đang trấn ải quan sao lại chiếu triệu sai đi?

Khâm sai đáp:

- Vì có Lưu Quốc trượng tiến cử nên triều đình mới sai Nguyên soái đi.

Hoàng Phủ Kính nghe qua cười khẩy nói:

- Thế thì Quốc trượng tử tế với tôi đấy chứ. Nhưng ta là võ quan còn sợ chi việc chinh chiến?

Sau đó, Hoàng Phủ Kính truyền dọ tiệc thết đãi Khâm sai. Rượu được vài tuần, Nguyên soái hỏi:

- Bọn Phiên tặc sang quấy nhiễu biên cương với lực lượng ra thế nào mà quân ta phải thua luôn mấy trận liền?

Khâm sai bèn kể lại việc lợi hại của địch quân, nào là Ô Tất Khải sức mạnh phi thưòng, nào là Thần Võ Đạo nhơn thuật phá kỳ dị vân vân.

Tiệc mãn, Khâm sai cáo từ lui ra qua quán dịch, còn Hoàng Phủ Kính thì trở vào hậu đường. Doãn Phu nhơn nói:

- Việc này rõ ràng là Lưu Tiệp nó lập kế báo thù cho con, ta biết liệu sao đây?

Hoàng Phủ Kính thở dài than:

- Nếu ngày trước ta tâu cùng Thiên tử thì làm sao có xảy ra việc như ngày nay!

Doãn Phu nhơn đề nghị:

- Bây giờ cứ việc dâng biểu lên Thiên tử tỏ bày mọi việc cho Thiên tử biết rõ rằng hắn binh con, muốn lập kế hãm hại lão thần cho rõ mặt gian thần hắn ta.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Bây giờ đã có chiếu chỉ mà ta còn tâu lên việc ấy, không khéo triều đình sẽ cho ta là kẻ tham sanh húy tử nên tìm cớ thối thác. Vả lại, năm xưa giặc Thổ Phiên dữ tợn như thế mà ta còn phá tan được thay, huống chi nay bọn giặc nầy, há ta lại sợ sao?

Doãn Phu nhơn nói:

- Phu quân chỉ giỏi về võ nghệ binh pháp chứ làm sao trừ được yêu thuật?

Hoàng Phủ Kính đáp:

- Phu nhơn hãy an tâm, với oai linh của Thiên tử thì tưởng có yêu thuật gì cũng không thắng nổi đâu.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa thấy thế vội bước ra thưa:

- Xin phụ thân hãy cho con theo với, vì con tưởng lúc ra trận, con cũng có thể giúp phụ thân một tay đắc lực.

Hoàng Phủ Kính lắc đầu đáp:

- Việc chinh chiến không phải là việc chơi đâu! Ta đây thọ ơn vua lộc nước nên phải xông pha vào chốn hiểm nguy, còn các con cần phải thu xếp gia sản trở về quê hương phụng sự mẫu thân, giữ tròn câu hiếu đạo, chớ nên tham lam hai chữ công danh mà sa vào tay gian thần Lưu Tiệp.

Doãn Phu nhơn nói:

- Hành động của đấng tu mi, bổn phận thiếp không có quyền cản trở, nhưng còn việc nhơn duyên của hai trẻ chưa thành, biết liệu sao?

Hoàng Phủ Kính nói:

- Phu nhơn nên biết rằng, cứ theo tướng mạo của con gái ta thì làm gì sau này cũng được đại quí, chúng ta chớ nên vội vàng mà uổng cho đời nó, còn con trai của ta cũng còn đang độ thiếu niên, chờ tôi đi chinh chiến về hãy xây dựng cũng chẳng muộn. Tôi đi đây có muộn lắm cũng hai năm, bằng mau lắm cũng một năm thì về, lúc ấy sẽ làm lễ cưới cho nó cùng tiểu thơ họ Mạnh.

Doãn Phu nhơn cúi đầu vâng mạng.

Hôm sau, Hoàng Phủ Kính lo sửa soạn quân mã rồi định đến ngày mồng tám đưa gia quyến theo đường thủy trở về quê hương, qua ngày mười hai sẽ kéo binh sang Sơn Đông dẹp giặc.

Hoàng Phủ Kính trù liệu vừa xong, bỗng nghe gia đinh vào báo:

- Có Mạnh Sĩ Nguyên đến viếng.

Hoàng Phủ Kính vội vã ra nghinh tiếp vào. Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Tôi không dè Lưu Tiệp nó đem lòng độc hiểm âm mưu trả thù cho con hắn nên mới tiến cử Nguyên soái đi dẹp giặc lần này, chẳng hay Nguyên soái nghĩ sao?

Hoàng Phủ Kính mỉm cười đáp:

- Việc này chính tôi cũng thừa hiểu Lưu Tiệp cố tình hại tôi, song tôi đã thọ hưởng ơn vua lộc nước bấy lâu, tất nhiên phải đem thân ra gánh vác. Tôi đã định ngày mười hai tháng tám này khởi binh, còn gia quyến thì đến ngày mùng tám này tôi đưa về quê hương. Tôi định sang đại nhơn, chẳng dè đại nhơn lại sang đây, xin đại nhơn cho phép tôi thưa một việc.

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Chúng ta đây coi như người nhà cả rồi, Nguyên soái có việc gì cứ nói tự nhiên.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Tôi thấy lịnh ái và tiện nhi cũng còn niên thiếu, vậy xin đợi vài năm, chờ tôi dẹp giặc về sẽ tính làm lễ cưới, chẳng hay đại nhơn nghĩ sao?

Mạnh Sĩ Nguyên đáp:

- Hôm nay Nguyên soái bận lo việc nước thì việc nhỏ mọn ấy đợi đến bao giờ lại không được; nhưng tôi nghe nói quân giặc này có phép thuật vô cùng lợi hại nên tôi lấy làm lo lắm.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Tôi chỉ dốc một lòng trung và cậy nhờ đến oai linh của Thánh thuợng thì tưởng yêu thuật cũng không làm gì nổi. Nhưng nói cho cùng, tôi có bề nào đi nữa thì cũng là tròn bổn phẩn của một kẻ tôi trung đối với quốc gia vậy.

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Nguyên soái đã có lòng trung như vậy, chắc trời kia cũng phò cho chóng thành công. Vậy nay tôi xin tiến cử cho Nguyên soái một người đại tướng để trợ lực cùng Nguyên soái ngoài trận mạc, chẳng biết Nguyên soái có bằng lòng dung nạp không?

Nguyên soái hỏi:

- Chẳng hay người ấy là ai vậy?

- Thưa người ấy vốn là biểu đệ của tôi, quê ở Giang Nam trên Vệ Hoán tự là Trấn Tôn, năm nay va tuổi độ bốn mươi, võ nghệ cao cường, hiện làm quan Tổng binh tại tình này.

Hoàng Phủ Kính mừng rỡ nói:

- À, tôi nghe danh người ấy đã lâu, nếu được đại nhơn tiến cử, tôi xin trọng dụng.

Sau đó Mạnh Sĩ Nguyên cáo từ ra về. Hoàng Phủ Kính tiễn chân ra tận ngoài thành mới trở lại.

Lời Bình:

- Xin độc giả hãy cùng tôi đi sâu vào tâm trạng của hai chàng công tử họ Lưu và họ Hoàng. Sự thật hai người này tài mạo tương đương. Đứng về phương diện tướng số mà bình phẩm như Tô Yến Tuyết thì có thể nói Hoàng Phủ Thiếu Hoa quí tướng hơn, chứ kỳ thật Khuê Bích vẫn đẹp trai không thua kém Thiếu Hoa, còn võ nghệ và tài thao lược Thiếu Hoa chưa chắc đã hơn Khuê Bích. Hai người có khác biệt nhau là ở chỗ tâm trạng mà thôi. Khuê Bích thì mang một tấm lòng tà vạy, còn Thiếu Hoa lại ngay thẳng hiền lương.

Cũng vì bản tánh của Khuê Bích như vậy nên khi đến nhà họ Mạnh tỉ thí tranh hôn, chàng ta qua say đắm nên bị run rẩy bắn hỏng mất một mũi tên, còn Thiếu Hoa vẫn bình thản, được hay không cũng không cần, trong lòng luôn luôn an nhiên tự tại, nên bình tĩnh bắn trúng đích cả ba phát.

Đến khi Lưu Khuê Bích bị thất bại lại mang một nỗi lòng ghen ghét, ngồi đứng không an, ăn không ngon, nằm không ngủ, lo lập mưu kế sát hại cho kỳ được Thiếu Hoa. Trong lúc ấy Thiếu Hoa vẫn thật lòng thân thiện với Khuê Bích không biết lo sợ là gì. Khuê Bích bày ra cảnh trăng than gió mát có kỹ nữ hát ca để cho Thiếu Hoa say đắm, nhưng chàng lại không thích khiến Khuê Bích phải thất vọng. Cuối cùng Khuê Bích cố sát hại tại Tiểu Xuân đình thì bỗng dưng có người cứu thoát.

Giết không được Thiếu Hoa, Khuê Bích lại càng đau khổ hơn nữa. Thế thì tâm trạng của kẻ vạy bao giờ cũng đau khổ tức tối; còn người ngay, trong lòng lúc nào cũng được thư thái, không biết buồn giận là gì.

Hồi Thứ Mười

Hoàng Phủ Nguyên soái xua binh đánh Sa Môn

Thần Võ Đạo nhơn giúp Phiên hóa yêu pháp.

Khi Mạnh Sĩ Nguyên về rồi, Hoàng Phủ Kính sai người đi triệu Vệ Hoán đến.

Vệ Hoán quả là một dõng tướng, mình cao tám thước, mặt trắng, mắt sáng như sao băng, đầu hùm râu vắn, nói tiếnt như chuông. Khi được Hoàng Phủ Kính triệu thỉnh thì hăng hái đến ngay.

Hoàng Phủ Kính ra tận ngoài thành nghinh tiếp vào trà nước rất trọng thể. Để dò xét tài năng của Vệ Hoán, Nguyên soái liền hỏi qua việc binh pháp, Vệ Hoán đáp thông suốt như nước chảy, lại tỏ ra một người trunh thành đảm lược. Đáp xong, Vệ Hoán bước xuống thềm, rút gươm múa một hồi: Hoàng Phủ Kính khen ngợi chẳng cùng.

Đêm hôm ấy, hai vị lão tướng ngồi uống rượu trong dinh, trò chuyện rất tương đắc; sáng hôm sau, cùng ra đấu trường thao luyện quân sĩ. Doãn Phu nhơn thấy có người tài năng giúp chồng mình, lòng mừng vô hạn.

Thao luyện quân sĩ đã thuần thục, Hoàng Phủ Kính liền viết chiếu sai người đem về kinh dâng cho Thiên tử, tâu rõ hạn kỳ xuất binh.

Thời gian qua nhanh như tên bay, chẳng bao lâu đã đến ngày mùng tám tháng tám, Hoàng Phủ Kính truyền bày một tiệc đặng vợ chồng tiễn biệt nhau.

Hoàng Phủ Kính căn dặn Doãn Phu nhơn:

- Về quê hương, phu nhơn phải lo nhắc nhở hai trẻ nó luyện tập võ nghệ đừng lêu lỏng chơi bời, cũng đừng ham công danh phú quí mà chuốc lấy tai họa về sau.

Phu nhơn nói:

- Đó là bổn phận của thiếp, xin phu quân chớ nhọc lòng lo lắng. Nay thiếp xin cầu chúc phu quân ra đi sớm đặng thành công để chóng trở về.

Hoàng Phủ Kính mỉm cười tự tất:

- Ta đi phen này chẳng bao lâu sẽ đắc thắng khải hoàn, xin phu nhơn chớ lo, miễn sao ở nhà lo tròn nhiệm vụ tề gia thì tôi mới an tâm.

Sau đó, Hoàng Phủ Kính đưa Doãn Phu nhơn cùng tất cả gia quyến xuống thuyền, các quan lớn nhỏ trong thành cũng đến đưa đón rất đông đảo, người ta thấy còn có cả cha con Mạnh Sĩ Nguyên nữa.

Qua đến ngày mười hai tháng tám, Hoàng Phủ Kính phong cho Vệ Hoán làm Tiên phong rồi tế cờ, phát pháo truyền lịnh tấn binh, rần rộ nhắm Sơn Đông tấn phát.

Đoàn quân tiến như vũ bão, nhưng phải ngót chín ngày mới tới Đăng Châu. Quan Tuần phủ Sơn Đông Bành Như Trạch cùng quan Tổng binh Ân Diệu Tiên mở cửa thành ra nghinh tiếp vào dinh, dọn bày yến tiệc thiết đãi. Trong tiệc rượu, Hoàng Phủ Kính lên tiếng hỏi Ân Diệu Tiên:

- Chẳng hay tình hình quân giặc ra thế nào?

Ân Diệu Tiên đáp:

- Quân giặc có một Nguyên soái tên là Ô Tất Khải lực địch muôn người, lại có nghề lặn dưới nước rất tài tình, và có thể ở dưới đáy biển suốt đêm mà không hề gì cả. Bên cạnh va, còn một tên quân sư tên Thần Võ Đạo nhơn, người này biết hô phong hoán võ dậy lửa, tuôn mưa, mười phần lợi hại. Lâu nay chúng đến quấy nhiễu tung hoành dọc ngang không biết sợ ai cả, nhưng cách mười ngày nay chúng hay tin Nguyên soái sắp kéo đại binh đến nên rút quân đóng trên một chiếc cù lao ngoài khơi, tên là cù lao Sa Môn, chỗ đó là nơi tích thảo đồn lương và tàng trữ binh khí, nếu Nguyên soái có đến đó giáp chiến, cần phải cẩn thận lắm mới được, chẳng biết ý Nguyên soái đợi chúng kéo binh đến sẽ giao phong, hay là độ binh vượt biển đến cù lao ấy phá tan sào huyệt của chúng?

Hoàng Phủ Kính đáp:

- Ta muốn độ binh qua đó đánh thì hay hơn, vì để chúng sang đây mới giao phong thế nào cũng tổn hại bá tánh.

Ân Diệu Tiên gật đầu nói:

- Nguyên soái định lẽ ấy rất phải, nhưng chúng nó có yêu pháp quá lợi hại, tôi e giao chiến trên mặt biển tấn thối bất tiện chăng.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Tôi đã dốc lòng vì nước, lại nhờ có hồng phước của Thánh thượng, há lại sợ yêu thuật của chúng sao?

Mọi người nghe Hoàng Phủ Kính nói, đều rập lên khen phải.

Sáng hôm sau, bình minh vừa ló dạng, Hoàng Phủ Kính đã cho quân xuống thuyền chèo thẳng ra cù lao Sa Môn. Khi gần đến nơi, Nguyên soái lại truyền quân neo thuyền lại làm thủy trại nghỉ binh chờ đi dọ xem địa thế rồi sáng hôm sau giao chiến.

Khi giặc trông thấy Hoàng Nguyên soái đến, chúng vội vã chạy về báo cho Ô Tất Khải hay.

Ô Tất Khải ngửa mặt lên trời cười ngất nói:

- Chắc bọn này đã tận số rồi nên mới kéo ra tận nơi đây nạp mạng.

Rồi Ô Tất Khải sai quân đi báo cho Thần Võ Đại nhơn hay để chuẩn bị tấn công đối phương.

Sáng hôm ấy, sau khi Hoàng Phủ Kính thăng trướng, định đích thân kéo binh ra trận, bỗng Tiên phong Vệ Hoán bước tới thưa:

- Nguyên soái đã cho tôi lãnh ấn Tiên phong thì xin hãy cho tôi ra đánh trận đầu.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Muốn cho ba quân đầy đủ nhuệ khí, trận đầu này chúng ta nhất định phải thủ thắng, tôi chỉ sợ tướng quân không đủ sức lãnh trách nhiệm trọng đại ấy chăng?

Vệ Hoán thưa:

- Đó chẳng qua là bổn phận của tướng Tiên phong, chừng nào tôi ra đó mà không thắng nổi, Nguyên soái sẽ xuất chiến cũng chẳng muộn.

Hoàng Phủ Kính y lời, Vệ Hoán liền hạ lịnh cho ba quân nhổ neo chèo thuyền xông tới.

Quân sỉ chạy vào phi báo. Ô Tất Khải lên tiếng hỏi chư tướng:

- Nay quân giặc đến khiêu chiến, có ai dám ra binh lập công không?

Ô Tất Khải nói dứt lời, xảy thấy tướng Tiên phong là Miêu Thành Long ứng tiếng thưa:

- Tôi xin xuất trận cho.

Ô Tất Khải y lời, Miêu Thành Long vung đại đao hô quân sĩ xuống thuyền giục trống phất cờ xuất trận.

Hai bên vừa gặp nhau, Miêu Thành Long đứng trước mũi thuyền chỉ đối phương nạt lớn:

- Tướng Nguyên tên họ là chi, hãy xưng ra cho mau rồi chịu chết.

Vệ Hoán trỗi giọng như chuông đồng, nói:

- Ta là Tiên phong Vệ Hoán, bộ hạ của Hoàng Phủ Nguyên soái đây, còn ngươi tên họ là chi hãy nói cho mau để ta còn ra tay thủ đoạn.

Miêu Thành Long nói:

- Ta cũng là chánh ấn Tiên phong, bộ hạ của Ô Nguyên soái tên Miêu Thành Long đây.

Thành Long vừa dứt lời đã thấy Vệ Hoán phóng giáo triển thần lực đâm ngay vào giữa mặt đối phương. Miêu Thành Long cử đao đỡ vẹt ra rồi chém thẳng vào đầu Vệ Hoán. Hai người đánh vùi với nhau chừng ba mươi hiệp, Miêu Thành Long nhắm thế cự không nổi, liền quày thuyền chạy dài. Vệ Hoán không để lỡ cơ hội, liền tung mình bật một cái nhảy phóng qua bên thuyền Thành Long đâm một giáo thủng từ trước ngực ra đến sau lưng. Quân sĩ Vệ Hoán thấy vậy hô rập lên một tiếng rồi ập tới chém giết tơi bời.

Quân Phiên thấy chủ mình chết rồi, không dám chống cự, chúng hè nhau quăng binh khí quì xuống một lượt xin hàng.

Vệ Hoán thâu phục rồi truyền quân chèo thuyền thúc trống đắc thắng trở về, vào ra mắt Hoàng Phủ Nguyên soái dâng thủ cấp Miêu Thành Long lên để ghi công. Hoàng Phủ Kính mừng rỡ khen ngợi chẳng cùng.

Ô Tất Khải hay tin Miêu Thành Long tử trận, tức giận muôn phần, liền hạ lịnh cho quân sĩ sửa soạn chiến thuyền đặng sáng ngày xuất trận, quyết kịch chiến một trận để rửa thù cho Tiên Phong.

Ngày sau, quân Nguyên trông thấy chiến thuyền của Ô Tất Khải kéo tới, liền chạy vào phi báo cho Hoàng Phủ Kính hay. Hoàng Phủ Kính lập tức phân binh dàn ra đối địch.

Thuyền lướt tới còn cách thuyền địch vài mươi trượng, đã thấy Ô Tất Khải đứng trước mũi thuyền, mình cao chín thước mặt đỏ gay như huyết dụ, tóc dựng đứng, râu vểnh ngược, hai tay cầm cặp ngân chùy to tướng, đứng dưới cây đại kỳ giống hệt như Hỏa Đức Tinh Quân giáng trần vậy. Ô Tất Khải trố mắt nhìn Hoàng Phủ Kính, trông thấy đối phương mình cao tám thước, mặt trắng, môi son tay cầm phương thiên họa kích tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm, phía sau cũng có cây đại kỳ đề bảy chữ: "Võ Trạng nguyên Hoàng Phủ Nguyên soái".

Hoàng Phủ Kính nhìn thẳng vào mặt đối phương quát lớn:

- Tặc tướng, ngươi có phải là Ô Tất Khải không?

Ô Tất Khải gật đầu:

- Phải! Còn ngươi có phải là Hoàng Phủ Kính không?

Hoàng Phủ Kính nói:

- Đã biết danh ta sao không xếp giáp qui hàng để bảo toàn tánh mạng?

Ô Tất Khải ngửa mặt lên trời cười ngất:

- Dầu ngươi có ba đầu sáu tay cũng không thể đối địch với ta nổi, hãy rút binh về đi, kẻo ta ra tay thì không còn ăn năn kịp nữa đấy.

Hoàng Phủ Kính nổi giận xung thiên, giơ kích đâm nhào tới, Ô Tất Khải cũng cử chùy rước đánh. Hai nguời đánh vùi với nhau, kích đâm qua, chùy đỡ lại, như hai con rồng đang quần trên mặt biển. Lúc ấy viên phó tướng của Ô Tất Khải vội chèo nhanh thuyền tới nhảy lên trợ chiến cùng chủ soái mình. Bên này Vệ Hoán thấy thế liền lướt tới vung giáo ngăn đánh. Chỉ được mười hiệp, Vệ Hoán hét lên một tiếng như sấm nổ, đâm viên phó tướng té nhào xuống biển chết tốt.

Còn Hoàng Phủ Kính đánh với Ô Tất Khải đặng bốn mươi hiệp, Ô Tất Khải đuối sức bị Hoàng Phủ Kính đâm trúng một kích nhầm vai tả, đau quá hoảng kinh. Ô Tất Khải hét lên một tiếng thất thanh rồi quày thuyền chạy như dông. Hoàng Phủ Kính đốc quân rượt theo mội hồi rồi mới thâu binh trở lại.

Về đến nơi, Hoàng Phủ Kính nói với Vệ Hoán:

- Cứ theo lực lượng của địch quân như vầy cũng dễ phá.

Vệ Hoán nói:

- Tôi còn ngại tên quân sư của hắn có yêu thuật, khó mà thắng đặng.

Hoàng Phủ Kính nói:

- Đến lúc giao chiến ta mới thấy rõ lợi hại của đối phương chứ tiếng đồn đãi của người ta đã chắc gì đúng sự thật.

Vệ Hoán khen phải rồi lui thuyền về nghỉ ngơi.

Nói về Ô Tất Khải thất trận, chạy về lấy thuốc băng bó vết thương nhưng vì Hoàng Phủ Kính đâm quá mạnh nên vết thương sâu gần một tấc, đau nhức vô cùng. Trong lúc đang bối rối, bỗng có quân vào báo:

- Có quân sư đến.

Ô Tất Khải mừng rỡ gắng gượng chổi dậy, hối quân chèo thuyền ra tiếp rước.

Ô Tất Khải nói với Thần Võ Đạo nhơn:

- Tôi định tới tiếp kiến Quân sư mà Quân sư lại quá bộ đến đây, thật là may mắn.

Thần Võ Đạo nhơn nói:

- Tôi nhe Nguyên soái giao phong với quân Nguyên bị thất trận, lấy làm lạ nên đến đây hỏi thử lực lượng địch quân ra thế nào?

Ô Tất Khải đem hết việc thất bại liên tiếp hai trận kể lại đầu đuôi cho Thần Võ Đạo nhơn nghe. Thần Võ Đạo nhơn cười gằn nói:

- Được rồi, nếu bọn Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán lợi hại như vậy thì mai đây bần đạo sẽ ra trận bắt quách cho rồi.

Nói dứt lời, Thần Võ Đạo nhơn thò tay vào hồ lô lấy ra một hoàn linh đơn nhai nhỏ đắp vào chỗ vết thương Ô Tất Khải, chỉ trong khoảnh khắc vết thương lành hẳn.

Ô Tất Khải mừng rỡ, tạ ơn Quân sư rối rít rồi hối quân bày tiệc khoản đãi.

Sáng hôm sau Thần Võ Đạo nhơn và Ô Tất Khải kéo quân vượt thuyền đến khiêu chiến. Hoàng Phủ Kính nghe báo liền dàn quân ra đối địch.

Đứng xa xa, Hoàng Phủ Kính đã trông thấy bên chiến thuyền địch có một vị đạo nhơn đứng trước mũi thuyền, mặt xám mày tro, đầu chít khăn đỏ; mặc áo đạo bào, tay cầm thanh bửu kiếm, Hoàng phủ Kính biết ngay là quân sư của đối phương tên là Thần Võ Đạo nhơn nên truyền cho ba quân tướng sĩ phải đề phòng cẩn mật.

Vừa trông thấy Hoàng Phủ Kính, Thần Võ Đạo nhơn lướt thuyền tới hỏi lớn:

- Hoàng Phủ Kính, ngươi chưa từng nghe tiếng pháp thuật của ta lợi hại thế nào, sao dám đến đây tung hoành như vậy? Ta khuyên ngươi hãy xép giáp qui hàng để ta khỏi ra tay nhọc sức.

Hoàng Phủ Kính nghe nói lửa giận phừng lên tím mặt, liền trợn mắt quát:

- Loài yêu đạo chớ buông lời vô lễ. Ta vâng mạng Thiên triều đến lấy thủ cấp mi đây.

Thần Võ Đạo nhơn buông một chuỗi cười đầy vẻ ngạo mạn:

- Tên thất phu kia, cái chết đã kề bên mà còn dám lớn lối nữa hay sao?

Dứt lời, Thần Võ Đạo nhơn giơ cây bửu kiếm chỉ thẳng về phía chiến thuyền Hoàng Phủ Kính, miệng đọc thần chú lâm râm, tức thì bao nhiêu chiến thuyền của quân Nguyên đều bị dồi lên dập xuống như một cơn dông khủng khiếp vậy, khiến bao nhiêu quân sĩ đứng trên thuyền kẻ ngã qua người nhào lại, xây xẩm mặt mày, ói mửa liên miên, Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán vẫn hết sức bình sanh cố đứng cho thật vững, nhưng tâm thần vẫn thấy mờ mệt, đôi mắt hoa lên.

Nguyên soái nhìn Tiên phong Vệ Hoán thở dài than:

- Nếu vậy thì rõ ràng trời đã hại ta.

Than vừa dứt lời, xảy thấy Thần Võ Đạo nhơn giơ tay vẫy một cái tức thì một luồng kình phong thổi tới hốt Hoàng Phủ Kính hổng chân bay vụt lên không rồi sa xuống thuyền địch, Đạo nhơn liền hô quân trói lại. Quân Nguyên thấy chúa soái mình bị bắt, hoảng kinh khóc rống lên, Vệ Hoán gượng đứng vững lại toan hô quân rút lui thì ngọn gió thứ hai đã ùn ùn thổi tới cuốn lôi Vệ Hoãn mất.

Quân Nguyên lúc bấy giờ như con rắn không đầu, chúng hè nhau chèo thuyền bỏ chảy, giặc rượt theo chém giết, lớp chết, lớp bị rơi xuống nước không biết bao nhiêu mà kể.

Lời Bình:

- Lưu Tiệp tiến cử Hoàng Phủ Kính đi dẹp giặc là cố đưa Hoàng Phủ Kính đi vào chỗ chết để thỏa mãn lòng ganh ghét của y, song nếu Hoàng Phủ Kính đủ tài đẩy lui quân giặc thì Lưu Tiệp đã không thực hiện được âm mưu hiểm độc, trái lại Lưu Tiệp đã tạo điều kiện cho Hoàng Phủ Kính lập đặng công thêm. Thế thì sự thất bại của Hoàng Phủ Kính đây phần lớn là do mình không đủ tài, chớ đừng quá trách Lưu Tiệp.

- Lúc mới xuất quân, Hoàng Phủ Kính càng biết đối phương rất lợi hại, nhưng khi ra đến Đăng Châu lại quyết vượt biển ra đảo Sa Môn để phá sào huyệt địch chỉ vì hoàng Phủ Kính không muốn cho dân chúng bị liên lụy vì chiến tranh. Đi đánh giặc mà biết thương dân chúng như vậy thật là ít có.

- Lắm người không ai tránh khỏi cái chết, nhưng xét ra cái chết của Hoàng Phủ Kính trong lúc này là phải lẽ, vì nếu Hoàng Phủ Kính chết đi, tất nhiên tên gian thần Lưu Tiệp không còn lý do gì để sàm tấu nữa. Thế thì ở đời có nhiều cái chết may, và ngược lại, cũng có nhiều cái sống rủi.

Hồi Thứ Mười Một

Bành Như Trạch vu cáo hại trung lương

Doãn Thượng Khanh thông tin cứu gia quyến.

Thần Võ Đạo Nhơn bắt được Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán rồi, liền hạ lịnh thâu binh trở lại.

Ô Tất Khải nói:

- Đã đắc thắng như vậy sao Quân sư không xua binh đuổi theo giết cho tận tuyệt địch quân, lại thâu binh về làm gì mà vội thế?

Thần Võ Đạo nhơn mỉm cười nói:

- Ta chỉ cần bắt cho được Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán là hai tướng lợi hại mà thôi, chứ còn chúng quân ấy như cỏ rác, giết chúng làm gì?

Ô Tất Khải nghe nói khen phải rồi truyền quân sĩ dẫn Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán vào. Quân sĩ vâng lệnh ra lôi hai người vào ngay. Ô Tất Khải vừa trông thấy mặt hai kẻ thù, lửa giận sôi gan như muốn ăn tươi nuốt sống, nhưng Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán vẫn đứng hiên ngang nhìn đối phương bằng đôi mắt ngạo nghễ.

Ô Tất Khải quát lớn:

- Hoàng Phủ Kính, hôm qua ngươi đâm ta một kích đến nay lòng giận vẫn chưa nguôi, sao hôm nay ngươi bị bắt đến trước mặt ta lại cả gan không chịu quì? Ngươi tưởng lưỡi gươm ta chặt đầu ngươi không đứt sao?

Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán, cả hai đều quay lại xoe tròn những cặp mắt nẩy lửa, nhìn thẳng vào mặt Ô Tất Khải lớn tiếng mắng:

- Loài cẩu đầu! Chúng ta đây đều là đường đường thượng tướng của thiên trào, há lại đi quì lụy bọn mao trùng chúng bây sao? Nay đã bắt được ta, hãy đem chém ta đi, chớ có nhiều lời vô ích.

Ô Tất Khải nghe mấy lời, lửa giận phừng gan, liền hô quân sĩ đem ra hạ sát. Thần Võ Đạo nhơn khoa tay cản lại rồi nói với Hoàng Phủ Kính:

- Hai ngươi đều là bậc anh hùng hào kiệt, cần phải thức thời, chớ sao lại chịu cam tâm chết như vầy? Chi bằng qui thuận chúa ta, ngôi công hầu khanh tướng không mất, chúng ta cùng nhau hưởng phú quí vinh hoa, chẳng phải hay hơn sao?

Bằng một giọng ngạo nghễ, Hoàng Phủ Kính đáp:

- Đời nào ta lại chịu đầu hàng quân khuyển mã chúng bay? Hãy giết ta đi, đừng dụ hàng ta vô ích.

Ô Tất Khải lại càng giận dữ hơn nữa, liền hối quân đi hạ sát cho khuất mắt.

Vệ Hoán gằn giọng nói:

- Loài cẩu đầu, muốn giết chúng ta thì cứ giết cần chi phải gầm thét thịnh nộ? Phàm cái chết đối với kẻ trượng phu có nghĩa gì đâu?

Nói rồi, hai người ung dung bước thẳng ra trước mũi thuyền, có ý chờ chết, sắc mặt không chút biến đổi.

Thần Võ Đạo nhơn thấy thế, nói với Ô Tất Khải:

- Hai người này quả là tay võ dõng trên đời ít có, lại có khí phách anh hùng, nếu ta đem giết đi thì uổng quá. Chi bằng giải hết về Vương thành giam cầm đày đọa cho khổ sở, lâu ngày chầy tháng chịu không nổi phải qui hàng. Nếu hai người này mà về tay ta rồi, tất nhiên tình hình Nguyên trào ta biết hết, lại có người nội ứng thì muốn tóm thâu thiên hạ nhà Nguyên có khó gì?

Ô Tất Khải nói:

- Nếu được như vậy thì còn gì quí bằng, nhưng nếu chúng nhất quyết không chịu đầu hàng thì sao?

- Việc ấy Nguyên soái chớ lo. Một lẽ là đày đọa cho chúng khổ sở, một lẽ đối đãi rất tử tế, bề nào cũng thành công, nếu ta biết kiên trì chinh phục.

Nguyên soái Ô Tất Khải ngẫm nghĩ hồi lâu rồi khen lời bàn của Quân sư là chi lý, vội truyền quân mở trói cho hai người, đoạn bỏ vào tù xa áp giải về Vương thành.

Đường về kinh đô Phiên quốc xa ngàn dặm, quân giải sai chi làm tiền hậu đội, gươm giáo sáng ngời, yểm hộ tù xa vô cùng cẩn mật.

Hoàng Phủ Kính buồn rầu, ngồi trong tù xa, đêm ngày cứ nghĩ thầm:

"Nếu vợ con ta hay tin ta bị bắt rồi, chắc là buồn thảm vô cùng".

Nghĩ đến đây, Hoàng Phủ Kính chợt mơ màng trông thấy một vị tiên nữ hiện đến mách bảo:

- Hoàng Phủ Kính, ta đây là Thần Hải nữ thấy ngươi có lòng trung nghĩa nên đến đây mách bảo cho ngươi biết rằng mạng số của ngươi phải bị mắc nạn ba năm, rồi sau đó con của ngươi đem binh đến cứu về triều. Đến lúc ấy gia đình mới được đoàn viên và hưởng phú quí đời đời. Ngươi cần phải bền chí kiên tâm, giữ vững lòng trung liệt, chớ nên sơ thất.

Hoàng Phủ Kính muốn lên tiếng hỏi, nhưng tiếng trống điểm canh vang lên làm giựt mình thức dậy, mới rõ là điềm chiêm bao.

Hoàng Phủ Kính lấy làm lạ, thuật lại cho Vệ Hoán nghe, Vệ Hoán nói:

- Cứ theo điềm thần tiên mách bảo, thì chắc sau này công tử và tiểu thơ sẽ cử binh đến cứu về.

Hoàng Phủ Kính lại nói:

- Chiêm bao mộng mị đã chắc gì là đúng, nhưng chúng ta là tôi trung thành vì nước, dù không ai mách bảo luôn luôn giữ lòng son sắt, há lại đi thay lòng đổi dạ sao?

Vệ Hoán khen phải. Từ đó hai người giữ tấm lòng son, tuy bị cực khổ mà không nao núng, chỉ trông mong đến ngày binh trào đình đến cứu thôi.

Nói về Tuần phủ Sơn Đông là Bành Như Trạch thấy Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán bị bắt rồi, bèn y theo kế Lưu Tiệp, lập tức dâng sớ về kinh vu cáo:

- Nay Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán đã đầu hàng quân giặc, dẫn đường cho giặc đến đánh phá Đăng Châu, tình thế mười phần nguy ngập.

Bành Như Trạch lại viết riêng một phong thư sai người tâm phúc báo tin cho Lưu Tiệp biết rằng mưu kết ấy mình đã thi hành.

Bữa ấy, vua Thành Tôn lâm triều tiếp đặng biểu văn xem xong, mặt mày biến sắc, bèn truyền nội giám trao biểu văn cho quan Trực nhựt học sĩ đọc to lên cho triều thần đồng nghe. Lúc ấy các vị trung thần nghe qua vô cùng ngờ vực, họ không thể tin được Hoàng Phủ Kính là một vị trung thần lại anh hùng nghĩa khí, hôm nay dù có sa cơ bị địch bắt thì thà người chịu chết chứ bao giờ lại chịu đầu hàng địch để liên lụy đến vợ con? Việc này chắc là quan Tuần phủ Sơn Đông âm mưu hại người rồi.

Vua Thành Tôn nghiêm giọng phán:

- Hoàng Phủ Kính thọ ơn triều đình lâu nay mà bỗng dưng lại đem lòng phản trắc đã đầu hàng quân giặc lại rước giặc về đánh phá thành trì, thật cái tội ấy khó dung.

Lưu Tiệp tiếp được mật thư của Bành Như Trạc trước đây mấy ngày nên biết trước rồi, nay nghe vua phán như vậy cũng làm ra bộ ngạc nhiên rồi bước ra quì tâu:

- Muôn tâu bệ hạ! Chỉ vì hạ thần trước kia đã tiến cử Hoàng Phủ Kính cho nên ngày nay mới sanh ra cớ sự như vầy. Xin bệ hạ giao cho triều thần nghị phạt hạ thần để răn người tiến cử bậy. Còn như cái tội của Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán đây thì xin bệ hạ hãy truyền bắt hết gia quyến của hai người đem về kinh hành phạt để làm gương cho kẻ khác.

Vua Thành Tôn phán:

- Quốc trượng tiến cử Hoàng Phủ Kính chỉ vì hết lòng với trẫm mà thôi, nếu đem trị tội Quốc trượng thì sau này ai dám ra tiến cử nữa? Vả chăng Hoàng Phủ Kính làm đến quan đại thần hưởng ơn vua lộc nước bấy lâu mà nay lại phản bội thì tội ấy đáng trừng trị cả toàn gia, còn Vệ Hoãn kia vốn là tên vô danh tiểu tướng cũng không nên hành phạt vợ con hắn làm chi.

Vua Thành Tôn phát dứt lời, lập tức truyền lệnh ch quan Hình bộ phải qua Giang Lăng đặng bắt cho hết toàn gia Hoàng Phủ Kính dẫn ngay về triều.

Quan Hình bộ quì tâu:

- Nay Đăng Châu đang lúc nguy cấp, xin thánh thượng hãy chọn tướng ra ngăn địch trước đã rồi hãy lo đi bắt gia quyến họ Hoàng.

Thành Tôn khen phải rồi giao cho quan Binh bộ lo triệu tập chư tướng tuyển người giỏi đi dẹp giặc. Quan Binh bộ vâng lịnh tuyển quan Trấn uy Đại tướng Dương Bỉnh Nghĩa.

Dương Bỉnh Nghĩa lãnh nhiệm vụ, vào quì trước kim giai, vua Thành Tôn hạ chỉ phong cho Bỉnh Nghĩa làm Đại Nguyên soái, thống lãnh ba muôn binh mã sang Đăng Châu ngăn địch.

Lúc bấy giờ trong triều đình có auan ngự sử Doãn Thượng Thanh tức là anh vợ của Hoàng Phủ Kính khi biết được tin ấy, trong lòng kinh hãi. Lúc bãi triều lật đật về thuật lại cho vợ là Trình Phu nhơn và con gái là Lan Đài nghe. Trình Phu nhơn nghe nói liều khuyên Doãn Thượng Khanh phải báo tin cho Doãn Phu nhơn biết đặng trốn thoát.

Doãn Thượng Khanh y lời, vội viết thư rồi cho gọi tên gia đinh tâm phúc vào bảo:

- Ngươi hãy lãnh thư này lập tức thẳng đến Giang Lăng báo thi cho Doãn Phu nhơn và Hoàng Phủ Công tử hay rằng: triều đình đã nghe lời gian thần nghi cho Hoàng Phủ Nguyên soái đầu hàng địch, nên chỉ sớm tối đây triều đình sẽ sai quân đến bắt cả gia quyến về kinh trị tội. Nhất thiết phu nhơn phải dắt công tử và tiểu thơ đi trốn gấp, kẻo Khâm sai đến thì tánh mạng khó bảo toàn.

Doãn Thượng Khanh còn căn dặn tên gia đinh:

- Còn ngươi đến đó nói xong phải lui ra ngoài gấp, tìm nơi trú ngụ, đợi cho khâm sai đến xem công việc ra thế nào rồi sẽ về báo tin cho ta biết.

Doãn Quí vâng lời vừa bước chân ra, thì Thượng Khanh lại gọi giật trở lại dặn thêm:

- Ngươi nên nhớ rằng khi đến đó báo tinh xong rồi phải lập tức lui ra, chớ nên nghỉ ngơi trong gia đình Hoàng Phủ mà mang hại, nghĩa là Khâm sai đến có thể tưởng ngươi là người nhà của Hoàng Phủ bắt luôn đi, tánh mạng ngươi đã không còn mà ta cũng bị liên lụy.

Doãn Quí vâng lời, lui ra tung mình lên ngựa phóng nước đại. Hắn đi suốt ngày đêm, nên chẳng bao lâu đã đến Hồ Quảng rồi tìm đường thẳng đến Gia Lăng và dinh Hoàng Phủ.

Doãn Quí cột ngựa một cách hấp tấp rồi chạy thẳng vào trong. Doãn Phu nhơn trông thấy người vào nhà vẻ mặt hơ hải, lấy làm ngạc nhiên hỏi vội:

- Chẳng hay có việc chi khẩn cấp lắm mà ngươi đến đây ra dáng hoảng hốt như vậy?

Doãn Quí bước tới toan nói, nhưng lại thấy phía sau Doãn Phu nhơn có ba bốn con tì nữ nên ngập ngừng rồi nín đi. Doãn Phu nhơn như hiểu ý, liền bảo mấy con tì nữa ra ngoài hết rồi gạn hỏi:

- Có điều chi ngươi cứ viêc nói thẳng ra đi.

Doãn Quí ngó xung quanh không thấy ai cả nên từ từ nói:

- Bẩm Phu nhơn, trước đây Hoàng Phủ Nguyên soái phụng chỉ đi đánh giặc, chẳng dè bị địch quân dùng yêu thuật bắt đặng Nguyên soái và tướng Tiên phong đem về giam cầm. Nay triều đình lại theo lời sàm tấu của bọn gian thần nghi cho Nguyên soái tạo phản đầu hàng quân địch và dẫn đường cho quân địch về đánh Đăng Châu! Vì vậy, triều đình đã sai quân đi bắt hết gia quyến của Nguyên soái dẫn về kinh gia hình, nên lão gia sai tôi cấp tốc đến đây bảo phu nhơn hãy mau mau dắt công tử và tiểu thơ đi trốn tránh kẻo Khâm sai đến đây ắt không toàn tánh mạng.

Doãn Quí vừa nói vửa thò tay vào lưng lấy một phong thư có bao sáp bên ngoài dâng lên cho phu nhơn và thưa:

- Lão gia tôi có gởi cho phu nhơn một bức thư đây, nhưng vì người sợ lậu sự nên bọc vào trong viên sáp này, xin phu nhơn hãy bóc ra xem thì rõ việc kiết hung.

Doãn Phu nhơn tiếp lấy rồi bảo Thiếu Hoa hãy lấy dao xẻ bao sáp ra. Hai mẹ con đồng xem một lượt. Xem xong Doãn Phu nhơn tủi lòng rơi lụy dầm dề. Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng sụt sùi nói với mẹ:

- Con thiết tưởng thân phụ con rủi có sa cơ bị bắt cũng không khi nào đầu hàng giặc để lụy cho gia quyến bao giờ, việc này chắc Lưu Tiệp nó a tùng cùng quan Tuần phủ Sơn Đông, xúi bảo hắn dâng biểu về kinh vu tấu, hãm hại gia quyến nhà ta để trả thù riêng đây.

Trưởng Hoa Tiểu thơ cũng thở dài than:

- Nếu đã xảy ra cớ sự như vầy thì nhà ta phải điêu tàn tan nát.

Doãn Quí nói:

- Khi tôi vừa mới đi ra, chính lão gia tôi cũng tiên đoánh như vậy, người có dặn tiểu thơ và công tử chớ nên khóc lóc, vì khóc lóc thì sự việc tiết lậu ra ngoài khó nỗi đào sanh, riêng tôi đây, người dặn khi đến nơi báo tin rồi phải lập tức tìm nhà trú ngụ đặng dọ nghe tin tức tình hình thế nào để về thưa lại cho người hay. Vậy xin phu nhơn hãy viết hồi thư đặng tôi lãnh lấy đi tìm nhà trú ngụ.

Trưởng Hoa tiểu thơ khen phải, quay qua nói với Hoàng Phủ Thiếu Hoa:

- Hiền đệ hãy vào lấy năm chục lượng bạc và bưng chiếc đèn đến đây.

Doãn Phu nhơn nghe Trưởng Hoa bảo em như vậy, lấy làm lạ liền hỏi:

- Con bảo em nó đem đèn lửa ra làm chi vậy?

Trưởng Hoa Tiểu thơ thưa:

- Con định đốt bức thư này kẻo để lậu ra liên lụy đến cậu con.

Doãn Phu nhơn nói:

- Hãy chầm chậm cũng được chứ đốt làm gì vội thế?

Trưởng Hoa tiểu thơ thưa:

- Bức thư này vô cùng quan hệ, rủi sa vào tay Khâm sai thì chắc chắn tánh mạng cậu con không thể nào bảo toàn, vậy xin hãy đốt phứt nó bây giờ thì hay hơn, lại khỏi sợ di lụy về sau.

Doãn Phu nhơn nói:

- Con giải phân thật chí lý, thôi con hãy đốt đi.

Doãn Phu nhơn nói vừa dứt lời thì Hoàng Phủ Thiếu Hoa đã đem năm chục lượng bạc và lửa ra. Trưởng Hoa liền lấy bức thư đốt cháy rồi gọi Doãn Quí lại bảo:

- Bây giờ ta cũng muốn viết thư trả lời cho cậu ta hay, nhưng ta sợ việc này rủi tiết lậu ra gây họa cho cậu ta, nên ta không viết tiện hơn. Còn năm chục lượng bạc đây ta cho ngươi, vậy hãy cất lấy đặng ra tìm mướn nhà ngụ đỡ vài ngày rồi sẽ về.

Doãn Quí vâng lời lãnh số bạc cột vào lưng bái tạ, lui ra tìm nhà mướn ở.

Khi Doãn Quí đi rồi, phu nhơn nói với hai con:

- Việc này tuy là do Lưu Tiệp tư thù lập mưu rửa hận, nhưng dù sao đã có thánh chỉ của triều đình, mà ta đây là một vị Mạng phụ của triều đình nên phải chịu chết cho tròn danh tiết, duy có hai con còn niên thiếu có liên quan gì đến triều đình nên phải mau mau tầm phương lánh nạn để cho họ Hoàng Phủ về sau khỏi bị thất tự.

Lời Bình:

- Một người đã biết coi rẻ cái chết như Hoàng Phủ Kính mà còn sợ hoàn cảnh nào xui khiến có thể thay lòng đổi dạ là phi lý. Nếu bảo rằng nhờ thần linh hiện lên căn dặn, Hoàng Phủ Kính mới giữ được tấm lòng son sắt, thì quả là đánh giá vị anh hùng một cách quá thấp hém.

Lưu Tiệp làm đến chức Quốc trượng quyền thế tột đỉnh rồi mà còn biết kéo bè kéo cánh gây thêm thế lực của mình nữa thì thật là tên gian thần đầy thủ đoạn; lại khi muốn buộc tội Hoàng Phủ Kính, y tự buộc tội mình trước, cho ta thấy Lưu Tiệp vô cùng sâu sắc, vì vậy trong triều cũng có nhiều người biết họ Hoàng Phủ bị vu oan nhưng không tài nào minh oan được.

- Chữ trung của thời xưa nghĩa là vua bảo tôi chết, nếu tôi không chịu chết tức là bất trung, vì vậy Doãn Phu nhơn đã là một bà Mạng phụ trong thời ấy, tất nhiên dù biết trước cũng không bao giờ chịu nghịch để mang lấy chữ bất trung, huống chi chồng bà nay đã vào tay quân địch thì bà còn ham sống làm gì nữa?

Theo lẽ giáo ngày xưa, người đàn bà phải thực hiện cho kỳ được tam cương, ngũ thường. Tam cương nghĩa là: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Tuy vậy trong trường hợp này, chữ tử không phải là con, mà chữ tử là chết!

Hồi Thứ Mười Hai

Vâng lời mẹ, thầy trò lánh nguy,

Giữ lòng trung, mẹ con thọ tội.

Doãn Phu nhơn nói vừa dứt lời, Trưởng Hoa Tiểu thơ cũng ứng tiếng thưa:

- Hôm nay thân mẫu đã quyết chí vì triều đình cho trọn tiết, thì con cũng nguyện theo thân mẫu về kinh cùng chết cho tròn câu hiếu đạo.

Nghe con nói, Doãn Phu nhơn lấy làm cảm kích, nhưng bà lại nghiêm sắc mặt nói:

- Sách có câu "nữ sanh ngoại tộc", con là thân gái tội gì phải làm như vậy?

Tiểu thơ thưa:

- Thân mẫu dạy như vậy cũng phải, song con đây tuy là phận gái mà chưa ra lấy chồng, chưa có thể gọi là ngoại nhơn được, vậy con nguyện theo cùng thân mẫu cho tròn chữ hiếu, xin thân mẫu chớ nên cản trở, duy chỉ có em con cần trốn tránh để ngày sau cho còn người hương khói mà thôi.

Nghe mấy lời chị nói, Hoàng Phủ Thiếu Hoa khóc nức nở nói:

- Chị là thân gái còn biết theo thân mẫu để tròn chữ hiếu, huống chi em đây đấng mày râu chẳng lẽ không biết hiếu nghĩa là gì sao? Thế thì em nhất quyết theo thân mẫu và chị về kinh để cùng chết luôn thể.

Doãn Phu nhơn thấy con trai mình phân bì với chị như vậy, liền nghiêm sắc mặt, gằn giọng nói:

- Thiếu Hoa, cha mẹ đây chỉ sanh vỏn vẹn một mình con là trai, nếu con không biết nghĩ sâu xa thì ngày sau dòng họ Hoàng Phủ đành chịu tuyệt tự sao? Nếu nay con chết đi, tức là trốn tránh nhiệm vụ trọng đại về sau, người đời sẽ cười chê rằng mẹ đây không biết dạy con. Nay mẹ đã bảo con như vậy mà con không nghe thì mẹ không muốn sống thêm một giờ phút nào nữa cả.

Doãn Phu nhơn nói dứt lời liền đứng phắt dậy toan đập đầu vào cột tự vẫn. Trưởng Hoa Tiểu thơ trông thấy thất kinh, vội nhảy tới ôm mẹ lại, vừa khóc vừa nói:

- Xin thân mẫu bớt cơn nóng giận, hai chị em con bao giờ cũng vâng theo lời thân mẫu.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng vội quỳ xuống khóc lóc và năn nỉ:

- Thân mẫu ôi, chẳng phải con dám trái ý thân mẫu đâu, chỉ vì con trốn tránh cầu lấy sự sống trong lúc thân mẫu thọ hình, lòng con không đành đó thôi.

Trưởng Hoa liền buông mẹ ra, bước tới đở em dậy mà nói:

- Hiền đệ nói như thế sai rồi, vì việc này là do nơi Lưu Tiệp âm mưu hãm hại cho tận tuyệt cả nhà ta. Nếu em đến đó cùng chết, chỉ uổng thân mà thôi chớ chẳng ai khen. Vả lại, nếu em đi trốn thế nào triều đình cũng giam mẹ lại, đợi khi nào truy tầm bắt được em sẽ khai đao một lượt, biết đâu trong thời gian ấy có thể địch quân đến đánh phá, triều đình phải treo bảng cầu hiền. Chừng ấy em sẽ đổi tên họ ra ứng thí đi dẹp giặc lập công và cứu thân phụ ta về. Thế là em đã tròn chữ trung mà trả được chữ hiếu, có phải là lưỡng toàn không? Ngược lại, nay em đành chịu chết đã không cứu đặng cha mẹ lại làm cho dòng họ Hoàng Phủ ta vô nhơn kế tự, miệng đời cười chê, lại làm cho bọn gian thần thỏa mãn tấm lòng ghen ghét, em hãy suy sâu nghĩ kỹ lại.

Trưởng Hoa nói dứt lời, Doãn Phu nhơn nhìn thẳng vào mặt Thiếu Hoa, nói:

- Chị con nói vậy, con nghĩ sao?

Hoàng Phủ Thiếu Hoa gạt lệ thưa:

- Nay thân mẫu đã dạy vậy, con xin vâng lời.

Doãn Phu nhơn gật đầu khen:

- Ừ, có như vậy mới là con chí hiếu chứ!

Trưởng Hoa lại nói:

- Nay em con ra đi trốn tránh, thế nào triều đình cũng họa hình tạc tượng treo dán khắp nơi cho thiên hạ tìm bắt, vậy mẫu thân phải tìm nơi nào chí thiết để gởi gắm em con, chứ để hắn bạ đâu trốn đó, tánh mạng khó bảo toàn.

Doãn Phu nhơn suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Con nói rất chí lý, mẹ muốn Thiếu Hoa nó sang ẩn bên nhà họ Mạnh, nhưng mẹ lại sợ Lưu Khuê Bích hay được thì khốn. Ngoài nhà họ Mạnh ra, mẹ không tìm thấy chỗ nào chí thiết nữa cả.

Trưởng Hoa thở dài:

- Thế thì biết liệu sao đây?

Bỗng dưng Doãn Phu nhơn tươi hẳn nét mặt lên nói:

- À, mẹ nhớ ra rồi. Còn một chỗ thân thiết có thể ẩn náu được mà mẹ quên lửng đi mất.

- Chỗ nào vậy hở mẫu thân?

- Nguyên Tổ mẫu nhà ta có một người cháu tên Phạm Hữu tự là Nhơn An quê ở tại Võ Xương. Người này tức anh em cô cậu với thân phụ con, nên con gọi là biểu thúc đó. Trước đây mười năm mẹ ông ta tạ thế, gia đình quá nghèo túng nên có đến nương náu với thân phụ con. Ông ta ở với thân phụ con hơn một năm, tánh tình rất thuần lương lại siêng năng cần mẫn nên thân phụ con lo cưới vợ cho, đồng thời cho ông ngàn lượng bạc để sanh phương buôn bán. Về sau, nghe đâu ông ta phát tài giàu lắm, có đem số bạc trả lại, nhưng thân phụ con không thâu mà cho nốt. Bây giờ ông ta sanh được năm người con, lại là một người biết trọng nhân nghĩa, con hãy tìm đến đó nương náu với người, thế nào cũng được an thân.

Trưởng Hoa nghe nói, vô cùng mừng rỡ:

- Được chỗ này thật là may cho em con lắm. Nhưng thuở bé đến giờ em con chưa từng đi xa, nay phải vượt quãng đường muôn dặm như vậy con lấy làm lo ngại. Con muốn chọn một tên gia nhơn nào tâm phúc để cùng đi với hắn mới được.

Doãn Phu nhơn gật đầu.

- Phải đấy, hiện nhà ta có tên lão bộc Lữ Trung nguyên là tên thơ đồng của tổ phụ khi xưa. Lão ta là kẻ trung thành, lại biết mặt Phạm Hữu nữa, nên cho đi với Thiếu Hoa là tiện lắm.

Dứt lời, Doãn Phu nhơn vội sai nữ tì đi kêu Lữ Trung đến ngay. Lữ Trung vái chào phu nhơn và hỏi:

- Chẳng hay phu nhơn cho gọi tôi có chuyện gì?

Doãn Phu nhơn mời lão Lữ Trung ngồi xuống ghế rồi từ từ thuật hết đầu đuôi sự việc cho lão nghe, nào là việc Hoàng Nguyên soái phụng chỉ đi đánh quân Phiên bị chúng bắt giữ, nào là bị gian thần sàm tấu khiến gia quyến hôm nay phải bị hành hình, may nhờ Doãn Thượng Khanh tin cho biết trước.

Rồi phu nhơn nghiêm giọng nói:

- Dù sao tôi cũng đứng ra chịu chết để tròn trung hiếu, duy có Thiếu Hoa con trai tôi cần phải sống để sau này hương khói cho dòng họ Hoàng Phủ và cứu lấy thân phụ hắn về triều, nhưng vì việc trốn tránh của hắn hiện nay vô cùng nguy hiểm, cần phải có người tâm phúc theo phò trợ. Xét ra ngươi là kẻ đã ở với nhà ta mấy mươi năm trời, xem như người thân thuộc, nên ta giao phó cho ngươi bảo hộ công tử lên đường. Còn phần gia quyến của ngươi, ta sẽ chu cấp tiền nong để tìm chỗ nương thân, ngươi nghĩ sao?

Lữ Trung nghe nói, lòng xúc động, rơi lụy dầm dề. Lão chắp tay thưa:

- Kẻ tôi tớ này trộm nghĩ: Lão gia đường đường một vị anh hùng hào kiệt chỉ có lòng trung chứ không có lòng phản quốc, nay dù có bị địch bắt đi nữa, đời nào lại chịu đầu hàng! Sự việc như vậy kẻ ngu này cũng biết, chắc chắn Lưu Tiệp đã âm mưu hãm hại nguời ngay. Vậy tôi đây lâu nay cậy nhờ cơm áo nhà này nuôi sống cả vợ con, ơn nghĩa ấy ví bằng non biển, nay gặp cơn nguy biến, dầu có hy sinh tấm thân già này cũng cam, nhưng tôi thiết nghĩ phu nhơn cùng tiểu thơ cũng nên cùng trốn đi luôn thể chứ về Kinh chịu chết thật tôi không đành dạ.

Doãn Phu nhơn ôn tồn giải thích:

- Người có lòng thương tưởng đến ta, thật ta vô cùng cảm kích, nhưng ta đây là một vị Mạng phụ của triều đình nên phải cam đành tử tiết, còn tiểu thơ đây cũng vì chữ hiếu mà tình nguyện theo ta, cũng không có lý do gì có thể cản ngăn được. Duy chỉ có công tử là cần phải trốn đi, vì hắn còn mang lấy trách nhiệm trọng đại về sau này, ngươi hãy bảo hộ công tử cho tận tình thì dù ta có chết cũng không bao giờ quên ơn ngươi.

Lữ Trung sụt sùi nói:

- Đến đỗi phu nhơn và tiểu thơ còn không kể gì tánh mạng nữa thay, huống hồ tôi đây dù có nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng quyết chẳng từ nan, nhưng chẳng hay phu nhơn định bảo tôi đưa công tử đi đâu?

Doãn Phu nhơn nói:

- Muốn cho tánh mạng Thiếu Hoa được bảo toàn, ta suy cùng nghĩ cạn chỉ thấy có một mình Phạm Hữu là có thể đến tá tức được mà thôi, chẳng biết ngươi nghĩ sao?

Lữ Trung gật đầu đáp:

- Phạm Hữu vốn người tử tế, hơn nữa va đã thọ ơn của lão gia rất trọng, nay đem công tử qua đó là phải lắm.

Sau đó, Trưởng Hoa vào trong lo thu xếp hành trang cho em mình, còn Lữ Trung cũng về nói lại cho vợ con nghe.

Vợ Lữ Trung là Tưởng thị cùng hai con là Lữ Phước và Lữ Đức đều cho việc cha mình đi theo phò công tử lánh nạn là phải, nhưng khi xếp đặt hành trang xong, tiễn biệt Lữ Trung, vợ và con không khỏi sa nước mắt.

Chỉ trong chốc lát, Lữ Trung đã ứng trực, Trưởng Hoa Tiểu thơ đem ra một gói rất nhiều vàng bạc châu báu và nói:

- Trên bước đường muôn dặm nguy nan, hai người phải lo gìn giữ của quí này để chi dụng cho qua ngày.

Lữ Trung và Thiếu Hoa nhận lãnh rồi đi ăn cơm, thay y phục giả dạng người buôn bán đợi đến tối lên đường.

Trước khi lên đường, Thiếu Hoa cúi lạy mẹ và chị, chàng nức nở nói:

- Biết ai thấu cho sự đau đớn trước cảnh biệt ly này! Chẳng biết rồi đây mẹ con ta có thể trùng phùng tái hội không?

Nói rồi chàng khóc rống lên, Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ cũng phải khóc theo. Tiểu thơ cố gắng ngậm lệ cất tiếng khuyên em:

- Hiền đệ hãy an tâm, nếu triều đình không bắt được hiền đệ tất nhiên mẹ và chị không hề chi đâu, mà chúng ta đã sống trên đời này không kíp thì chầy cũng có ngày gặp nhau.

Cực chẳng đã, Thiếu Hoa phải gạt lệ bái biệt, cùng Lữ Trung dắt nhau lên đường. Hoàn cảnh này ai trông thấy cũng như đứt từng đoạn ruột.

Khi Thiếu Hoa đi rồi, Trưởng Hoa thỏ thẻ với mẹ:

- Nay cửa nhà ta sắp tan nát, vậy bao nhiêu giấy nợ hoặc văn khế cầm cố điền sản của người ta cũng nên kêu họ đến cho họ làm phước, kẻo để Khâm sai đến, bọn phủ huyện sẽ bách sách người ta tội nghiệp.

Doãn Phu nhơn gật đầu khen phải rồi khiến gia nhơn tức tốc đi gọi các con nợ đến. Các con nợ nghe gọi ai ấy đều sợ sết lo lắng, nhưng khi đến nơi lại nghe phu nhơn nói:

- Các ngươi mắc nợ ta, nhưng xét nhà các ngươi cũng không lấy gì là dư dả lắm, nếu phải chạy trả sanh ra túng thiếu tội nghiệp. Vậy nay ta gọi các ngươi đến đây đặng trả lại các khế tờ vay mượn, nếu sau này có ai làm ăn khá giả thì trả cho ta, bằng túng thiếu thì ta cho luôn.

Sở dĩ phu nhơn nói vậy là vì muốn giấu nhẹm việc này, vì thế các con nợ mừng rỡ lãnh giấy ra về, không ai biết gia đình Hoàng Nguyên soái bị mắc nạn cả.

Sau đó, Trưởng Hoa lại nói với phu nhơn:

- Tài sản của nhà ta là do tổ tiên ta khai sáng chớ không phải do bàn tay của thân phụ con tạo lập, nếu để cho Khâm sai đến tịch biên sung công thì ức quá! Vậy thân mẫu hãy đem dâng hết cho chùa Huyền nữ thâu hoa lợi, nếu sau này gia đình ta bị tội thì thôi, bằng vô tội trở về thì chùa hoàn lại. Làm như vậy thế nào các thầy tăng cũng mừng rỡ và nhận lãnh ngay. Hơn nữa, tài sản ta cúng cho chùa rồi chắc cũng không ai mách cho Khâm sai làm gì, chẳng biết thân mẫu nghĩ sao?

Doãn Phu nhơn nói:

- Con nghĩ kế ấy hay lắm.

Rồi phu nhơn lập tức cho đi mời các thầy tăng đến bày tỏ ý định cho mấy thầy nghe, ai nấy đều vui lòng nhận lãnh. Phu nhơn bèn viết một văn tử cúng cho chùa, đề ngày thuộc về năm trước, còn các thầy tăng cũng lập một tờ quản nhận giao lại cho phu nhơn, hứa khi nào gia đình họ Hoàng Phủ vô tội, trở về sẽ trả lại.

Sáng hôm sau phu nhơn lại gọi hết gia đinh tì nữ trong nhà cho mỗi đứa một số tài sản, bảo đi về sanh phương lập nghiệp. Trong số bọn có hai con tì nữa của tiểu thơ là Cẩm Trạch và Giao Sắc không đành xa lìa chủ mình nên khóc lóc thưa:

- Hai đứa tôi nguyện theo hầu phu nhơn và tiểu thơ, dù có chết cũng thỏa dạ.

Doãn Phu nhơn thấy hai đứa chỉ trạc độ mười hai tuổi mà có nghĩa như vậy, cũng thuận tình cho theo.

Sau khi bạn bè và tôi tớ giải tán hết, Trưởng Hoa Tiểu thơ bèn đi lấy ba trăm lượng bạc trao cho vợ con Lữ Trung và bảo hãy về Nam Trang Biên tìm nơi trú ngụ nuôi sống qua ngày. Tưởng thị cùng hai con lãnh bạc rồi từ biệt ngay.

Lúc bấy giờ trong dinh Hoàng Phủ chỉ còn mẹ con Doãn thị và hai con nữ tì nhỏ xíu, ngày nào cũng trông đợi Khâm sai đến bắt.

Mãi đến tám ngày sau, thình lình thấy quan Khâm sai hiệp cùng quan địa phương đến vây phủ xung quanh nhà rồi bước vào lớn tiếng gọi Hoàng Phủ Thiếu Hoa ra tiếp chiếu.

Doãn Phu nhơn nghe gọi liền dắt hai đứa tì nữ bước ra nói:

- Cách đây mấy hôm, con tôi đã qua Sơn Đông đặng dọ tin tức cha nó nên hiện nay không có ở nhà.

Nói rồi phu nhơn bảo hai nữ tì dọn bàn hương án để bà tiếp chiếu. Khâm sai mở chiếu ra đọc một hồi rồi lập tức bắt phu nhơn và tiểu thơ trói lại, đoạn truyền quân lục soát hết trong nhà, nhưng Khâm sai không tìm thấy một người nào nữa cả.

Khâm sai vô cùng ngạc nhiên, hỏi Doãn Phu nhơn:

- Việc này chắc là bà biết trước rồi nên cho trốn đi cả phải không? Chứ lẽ nào trong phủ của một vị Nguyên soái lại chỉ có vỏn vẹn bốn người đàn bà?

Doãn Phu nhơn làm ra vẻ giận dữ đáp:

- Nếu tôi đã biết trước sao tôi lại còn bị bắt đây? Hơn nữa chồng tôi bậc anh hùng hào kiệt đã từng vào sanh ra tử, đánh Đông dẹp Bắc, xây đắp sơn hà, há lại đi đầu hàng quân địch sao? Việc này chắc chắn là do gian thần nó sàm tấu đặng hãm hại mẹ con tôi, thế mà chúng tôi đã tình nguyện chịu chết, các quan còn cật vấn làm gì nữa?

Quan Khâm sai không biết nói sao, đành phải làm thinh truyền cho một toán quân đi lùng bắt Thiếu Hoa, đồng thời truyền họa hình Thiếu Hoa dán khắp nẻo, nếu ai bắt được thì trọng thưởng.

Sau đó Khâm sai cho tịch biên hết nhà cửa họ Hoàn và bắt mẹ con Trưởng Hoa đem nhốt tại huyện, chỉ cho hai con nữ tì của phu nhơn được phép ra vào hầu hạ mà thôi.

Quan Khâm sai ở đó đợi mãi hai ngày sau mà quân sĩ không tìm bắt được Thiếu hoa nên túng thế phải bắt Doãn Phu nhơn cùng Trưởng Hoa bỏ vào tù xa, giải về kinh.

Bây giờ xin nhắc qua Hoàng Phủ Thiếu Hoa cùng Lữ Trung. Khi hai người ra khỏi nhà lại gọi nhau bằng chú cháu ruột cho thiên hạ khỏi hiềm nghi. Ngày kia, hai người qua một cánh đồng rộng mênh mông, thình lình tuyết phủ xuống trắng xóa, gió thổi lạnh tím ruột, nhưng cả hai vẫn cố gắng chịu lạnh đạp tuyết đi cho đến chạng vạng mà vẫn không trông thấy một cái nhà nhỏ nào để nghỉ chân.

Hai người co ra trong chiếc áo mỏng, bước đi khấp khểnh. Thiếu Hoa run lẩy bẩy, vừa đi vừa ngâm lên bốn câu:

"Chiêu đệ hành thoàn thử lộ điêu.

"Đoạn trường minh nhựt đoạn minh triều.

"Giang minh cựu trạch võ nhơn tảo.

"Tuyết đáo xuân hồi thủy đắc tiêu.

Thiếu Hoa ngâm vừa dứt bỗng thấy Lữ Trung ngã huỵch xuống nói trong tiếng rên rỉ:

- Thà đói còn chịu được chứ lạnh đến nước này chắc tôi cóng quá, không tài nào bước nổi nữa.

Thiếu Hoa bước tới đỡ lão dậy, thoa tay chân cho lão, đoạn chàng nhìn xa xa rồi mừng rỡ reo lên:

- Kìa, trước kia có thấp thoáng ánh đèn sáng, chắc chỗ ấy có xóm nhà, vậy chúng ta hãy ráng đến đó nghỉ nhờ một đêm rồi mai sẽ đi nữa.

Lão già Lữ Trung nghe nói, mừng rỡ gắng gượng đứng dậy, khập khễnh bước đi. Đến nơi, quả nhiên dưới lùm cây rậm rạp có một xóm nhà độ sáu bảy chục nóc gia, nhưng lúc ấy đã khuya rổi, nhà nhà đều đóng cửa kín mít, chỉ có một cái nhà phía trước treo đèn kết hoa và hình như người trong nhà còn thức nên thỉnh thoảng vọng ra tiếng cười nói.

Lời Bình:

- Hoàng Phủ Thiếu Hoa là con nhà lễ giáo, hơn nữa trong nên luân lý Á Đông thời ấy, vấn đề "bất hiếu hữu tam, vô hậy vi đại" được dạy trên đầu thì tất nhiên Thiếu Hoa thừa hiểu, nhưng trước cảnh tình mẹ mình chịu hy sinh nên chàng quá xúc động, khiến tình cảm của chàng chế ngự lý trí, không đủ can đảm sống để hoàn thành nhiệm vụ mình sau này. Vẫn biết theo mẹ cũng là thực hiện hiếu mà trốn đi cũng là thực hiện chữ hiếu, nhưng trốn đi là sâu sắc mà chịu chết mới là cầu an nông nổi.

- Trong bọn gia đinh của nhà Hoàng Phủ không thiếu chi kẻ cường tráng, thế mà Doãn Phu nhơn tuyển lựa lão già Lữ Trung để theo phò hộ cho con mình, chỉ vì bà ta muốn tìm một kẻ tôi đòi có nghĩa. Trong lúc Lữ Trung tuổi đã thập bát tùng dư mà đành lìa bỏ vợ con ra đi chân trời góc bể để phò hộ tiểu chủ trong cơn hoạn nạn thì quả là hiếm có trên đời.

Hồi Thứ Mười Ba

Mến người trung, Hùng Hiệu ra tay bảo bọc,

Ham sắc đẹp, Đan Hồng bắt gái ép duyên

Ngôi nhà này là của một nhà cự phú tên Hùng Hiệu, tự là Hữu Hạc, Hùng Hiệu cha mẹ chết sớm để lại một gia tài kếch sù, nhưng tánh y trọng nghĩa khinh tài thường hay giúp đỡ kẻ nghèo khó. Vợ là Từ thị tánh tình cũng hiền lương nên ai ai cũng đều mến phục.

Hùng Hiệu năm nay trạc độ hai mươi mốt tuổi, vóc người ta lớn, võ nghệ cao cường, văn chương cũng giỏi, nước da bánh mật, đôi mắt sáng như sao, biểu lộ sự thông minh hơn người. Năm trước, Hùng Hiệu thi đỗ võ cử, nhưng khi tiến kinh thi hội rủi bị hỏng, đành phải trởi về vui thú điền viên.

Vợ chồng Hùng Hiệu hiền lành phúc đức, nhưng ăn ở với nhau đã mấy năm dư vẫn chưa có con. Hôm nay Từ thị ăn lễ sanh nhựt, nên bà con thấn quyến đến chúc mừng trong ngoài chật ních. Khi tiệc mãn, khách vừa ra về, gia nhơn toan đóng cửa thì Thiếu Hoa và Lữ Trung vừa bước vào.

Thiếu Hoa chắp tay xá người ấy và thưa:

- Chú cháu tôi đi lỡ đường, lại gặp tuyết rơi lạnh lẽo, xin người làm phước cho chúng tôi nghỉ nhờ một đêm.

Tên gia nhơn nhìn chòng chọc Thiếu Hoa hồi lâu rồi nói:

- Các ngươi là khách lỡ đường, sao không thấy mang đồ đạc gì hết thì ai dám chứa?

Thiếu Hoa lên tiếng cầu khẩn:

- Chỉ vì chúng tôi đi đường xa nên không mang gánh theo được, xin người làm ơn cho tôi trú ngụ đỡ một đêm rồi bao nhiêu tiền sáng mai tôi xin dâng đủ số.

Tên gia nhơn nổi giận nộ nạt:

- Không thể được! Tôn ông nhà nầy là bậc giàu có, tiền của dinh dư có bao giờ biết lấy tiền của ai? Nếu muốn thuê nhà nghỉ hãy đi nhà khác.

Tên gia nhơn nói bằng giọng gay gắt, bỗng bên trong có người lên tiếng hỏi:

- Sao đến bây giờ chúng bây không đi ngủ, còn cãi lẫy với ai đó?

Người ấy lễ phép thưa:

- Bẩm lão gia, có hai người lạ mặt xin vào ngủ nhờ, tôi không biết rõ ngay gian nên không cho, họ cứ nài nỉ mãi.

Hùng Hiệu nghe nói vội bước ra, Thiếu Hoa trông thấy Hùng Hiệu tướng mạo hiền hòa, liền cúi chào và lễ phép thưa:

- Chỉ vì gia thúc tôi tuổi già sức yếu không đủ sức chịu nổi với khí trời lạnh lẽo mà bây giờ đã khuya quá, các nhà khác đều đóng cửa ngủ yên, nên tôi mới cố nài nỉ xin nghỉ nhờ ở đây, chẳng dè làm kinh động đến tôn ông, xin tôn ông vui lòng tha thứ!

Hùng Hiệu đứng nhìn Hoàng Phủ Thiếu Hoa một hồi rồi ôn tồn đáp:

- Kẻ gia đinh tôi là hạng quê kệch nên buông lời lỗ mãng, xin người chớ chấp nện hắn làm gì. Mời hai ông bước vào trong rồi chúng ta đàm luận.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Lữ Trung mừng rỡ, liền bước theo Hùng Hiệu. Bước vào một căn phòng sang trọng, Hùng Hiệu lễ phép mời hai người ngồi rồi ôn tồn hỏi:

- Chẳng hay nhị vị quên quán ở đâu, quí tánh đại danh là gì, xin vui lòng bày tỏ cho tôi biết với.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa đáp:

- Thưa tôn ông, tôi tên Lữ Lăng, còn gia thúc tôi đây tên Lữ Trung, quê ở Giang Lăng. Chú cháu tôi đi thăm người bà con, rủi đến đây gặp trời tối lại tuyết xuống lạnh lẽo, nếu không nghỉ được nơi đây thì thật là bơ vơ không biết nương tựa vào đâu được!

Hùng Hiệu lại hỏi:

- Xin lỗi nhị vị, xin nhị vị hãy tha thứ cho câu hỏi quá đường đột của tôi vì tôi tin chắc nhị vị ở Giang Lăng thế nào cũng hiểu rõ sự việc của Hoàng Phủ Nguyên soái, nhị vị hãy thuật lại đầu đuôi việc Nguyên soái đầu hàng địch thế nào và hiện giờ Hoàng Phủ Thiếu Hoa phiêu bạc nơi đâu?

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe hỏi thất kinh, chàng lúng túng hồi lâu mới đáp:

- Chúng tôi đây là kẻ quê mùa mộc mạc không đời nào dám bước chân đến nhà bậc quan gia thành thử không rõ gì cả, mặc dù chúng tôi cùng ở một chỗ với Nguyên soái.

Hùng Hiệu rót rượu mời hai người uống và tự giới thiệu:

- Cái làng này là Tuấn Ngạn thôn, thuộc huyện Bình Giang, còn tôi đây là Hùng Hiệu, tự là Hữu Hạc. Trước kia đã thi đỗ Võ Cử nhơn, nhưng sau thi hội bị thất bại phải trở về. Tôi được thừa hưởng di sản của tổ phụ nên đã lập tâm đem của ấy giúp đỡ cho những người gặp cơn hoạn nạn. Tôi có nghe Hoàng Phủ Nguyên soái tuổi còn nhỏ đã thi đỗ Trạng nguyên lại bao phen bình giặc Phiên, quả là một vị anh hùng hào kiệt, nhưng vừa rồi lại thấy Khâm sai họa hình Hoàng Phủ Công tử dán khắp nơi đặng tìm bắt, tôi lấy làm lạ lắm và thiết nghĩ Hoàng Phủ Nguyên soái là bậc anh hùng dù có bị giặc bắt há lại đi đầu hàng sao? Nhất định việc này có thể là do quan địa phương dọ thám không kỹ rồi đặt điều tầm bậy, vu oan cho người ta, thật đáng thương, đáng tiếc!

Ngừng một lát, Hùng Hiệu tiếp:

- Tôi ước gì được Hoàng Phủ Công tử đến đây cùng tôi hiệp đi đánh Phiên đặng cứu lấy tánh mạng Hoàng Phủ Nguyên soái về cho người trung lương thoát vòng oan khổ, tôi mới vừa lòng.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe Hùng Hiệu nói bấy nhiêu lời vô cùng xúc động, chàng không thể giữ được trạng thái bình thường, chàng sa nước mắt.

Hùng Hiệu nói:

- Tôi thấy ngài tướng mạo khôi ngô lại giống hệt hình vẽ Hoàng Phủ Công tử! Bây giờ lại thấy ngài động lòng rơi lụy thì quả nhiên là Hoàng Phủ Công tử rồi, sao ngài nỡ giấu tôi? Nếu quả vậy xin ngài cứ tỏ thật, không có điều gì bất trắc đâu mà sợ; tôi quyết tâm giúp Hoàng gia đó.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa thổn thức một hồi rồi cúi thưa:

- Tiểu đệ đây chính là Hoàng Phủ Thiếu Hoa vì xét thấy ngài có lòng thương tưởng nên mới tỏ thật tình.

Hùng Hiệu nghe nói mừng rỡ, vội bước tới nắm tay Thiếu Hoa ra chiều quyến luyến và nói:

- Hôm nay tình cờ gặp công tử đây quả là một điều may mắn, chính là do trời xui khiến đấy!

Lúc bấy giờ nỗi vui mừng của hai người không kể sao cho xiết, cả hai đều ngồi cạnh nhau dùng trà đàm đạo. Một lát sau gia nhân bưng rượu thịt lên, Hùng Hiệu khiến dọn riêng một mâm cho Lữ Trung còn một mâm để cho mình cùng ăn uống với Thiếu Hoa.

Rượu được vài tuần, Hùng Hiệu nói với Thiếu Hoa:

- Chẳng hay vì nguyên do nào mà lịnh đường phải mang tai họa như vậy?

Thiếu Hoa thuật lại việc tranh hôn của Lưu Khuê Bích và việc Lưu Tiệp tiến cử cha mình đi đánh quân Phiên mới sanh ra cớ sự ngày nay, chàng còn đoán chắc việc này là do Lưu Tiệp mạo tấu.

Ngừng một lát, Thiếu Hoa tiếp:

- Vì vậy mà tôi phải tìm đến nhà thân thích để nương dựa rồi sau này sẽ thay tên đổi họ ra đầu quân đi đánh quân thù cứu thân phụ tôi về triều cho tròn trung hiếu.

Hùng Hiệu nghe rõ đầu đuôi, vô cùng căm tức tên gian thần Lưu Tiệp, chàng nói:

- Chỉ có những kẻ bất lương mới có thể binh con làm xằng như vậy, hành động bất nhân ấy có ngày phải đền tội.

Rồi hai người bắt đầu thảo luận đến việc võ nghệ binh thơ, mới biết cả hai đều là tay văn võ toàn tài, Hùng Hiệu nức tiếng khen:

- Công tử tài ba như vậy quả đáng mặt là con nhà danh tướng.

Hai người càng chuyện vãn, càng cảm thấy tâm đầu ý hiệp, Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Nay em đây là kẻ có tội, nên sáng mai đây em phải lên đường sớm kẻo các quan địa phương hay được thì lụy đến hiền huynh.

Hùng Hiệu nói:

- Hiện nay quan quân đi dọ tìm công tử rất ngặt, vả lại tướng mạo công tử rất khôi ngô, dung nghi khác hơn người thường thật dễ nhìn, nếu công tử ra đường thì trốn tránh sao cho khỏi trăm ngàn con mắt cú vọ? Chi bằng công tử hãy ở luôn tại đây, một nơi vắng vẻ xa thị thành, chẳng phải tiện hơn sao?

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Em vô cùng cảm phục trước tấm lòng tốt của hiền huynh, song em chỉ sợ rủi ro bại lộ sẽ bị liên lụy đến quí quyến thì lòng em không đành. Hơn nữa, vừa rồi em đã xin ngủ nhờ ở đây một đêm mà bây giờ lại ở luôn, tất nhiên gia nhơn sẽ nghi kỵ.

Hùng Hiệu mỉm cười đáp:

- Việc ấy không khó chi.

Nói rồi Hùng Hiệu kề tai nói nhỏ với Thiếu Hoa và lên tiếng căn dặn:

- Công tử cứ việc làm y theo kế ấy sẽ giấu nhẹm được bọn gia nhơn của tôi.

Cơm nước xong, Hùng Hiệu sai gia nhơn đưa Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Lữ Trung vào phòng nghỉ ngơi. Khi cửa phòng đã đóng, Lữ Trung nói nhỏ với Thiếu Hoa:

- Đường đi còn xa xôi diệu vợi, nếu công tử còn tính việc đi nữa, tôi e bất tiện lắm, vả chăng Hùng Hiệu là người tử tế chân thật lại có lòng quyến luyến công tử, vậy nên ở lại đây thì hay hơn.

Thiếu Hoa gật đầu:

- Ta cũng dự định như vậy.

Sáng hôm sau Hùng Hiệu gọi gia nhơn sửa soạn cơm ăn sáng. Rượu được vài tuần, Thiếu Hoa nói:

- Số phần của đệ vô cùng vất vả lại không có anh em gì cả nên đệ muốn cùng hiền huynh kết làm sanh tử chi giao để sau này rủi ro gặp hoạn nạn cùng tương cứu, phú quí cùng chung hưởng, chẳng biết ý hiền huynh nghĩ sao?

Hùng Hiệu nghe nói mừng rỡ đồng ý ngay, vội khiến gia nhơn bày bàn hương án cùng với Thiếu Hoa vái trời tuyên thệ. Hùng Hiệu hai mươi mốt tuổi làm anh, Hoàng Phủ Thiếu Hoa mới mười sáu tuổi nên làm em. Sau đó, Hùng Hiệu gọi vợ mình là Từ thị ra chào mừng Thiếu Hoa. Từ đó bọn gia nhơn của Hùng Hiệu đều yên trí cho rằng tên Lữ Lăng này là em ông chủ của mình chứ không biết Thiếu Hoa nào cả.

Hùng Hiệu thấy Lữ Trung là người chơn chất thành thật, lại biết đọc biết viết tính toán thông thạo, nên đem việc nhà giao cho Lữ Trung quản trị. Từ đó tuy Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng có nơi ăn chốn ở song ngày đem trong lòng vẫn áy náy chẳng yên, vì không biết Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ bị bắt về kinh tánh mạng sẽ ra thế nào? Hùng Hiệu biết ý liền sai người đến kinh đô dọ nghe tin tức, đồng thời cũng cho người qua Sơn Đông để ngóng tình hình Hoàng Phủ Nguyên soái nữa.

Nói về quan Khâm sai bắt Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ giải về kinh, khi đi ngang qua núi Xuy Đài thuộc tỉnh Sơn Đông, xảy gặp một toán lâu la mai phục, cầm đầu trong bọn có tên Đan Hồng, cỡi ngựa hồng câu, tay cầm giáo.

Đang Hồng nhìn xa xa trông thấy toán quân giải hai người đàn bà đi tới, chẳng những Trưởng Hoa Tiểu thơ có nhan sắc xinh đẹp mà thôi, Doãn Phu nhơn tuổi ngoài năm mươi mà dung nhan cũng còn mỹ lệ, Đan Hồng bè quay lại nói nhỏ với lâu la:

- Ta vừa thấy phía trước kia có một toán quân giải hai người đàn bà rất xinh đẹp trông giống hai mẹ con. Chúng bây hãy mai phục im lặng, chờ cho chúng đến sát hãy ào ra một lượt bắt hai người ấy cho ta.

Trong bọn lâu la có mấy đứa cười khúc khích nói:

- Mới hôm trước đây Tân vương có hạ lịnh hễ ai bắt đàn bà con gái thì bị chém, còn ai gian dâm đàn bà, con gái thì bị lột da, tại sao hôm nay tướng quân lại bảo chúng tôi làm vậy, không sợ Tân Vương lột da sao?

Đan Hồng nói:

- Ta thấy Đại vương năm nay tuổi đang độ xuân xanh làm gì đêm thanh canh vắng lại không buồn? Nên ta tính bắt người con gái đẹp kia đem về cho Đại vương làm áp trại phu nhơn, còn người đàn bà có tuổi kia ta dùng làm vợ. Chúng bây nghĩ coi xử sự như vậy làm gì Đại vương không đẹp lòng.

Chúng lâu la nghe nói cả mừng, quyết ý làm theo lệnh của tướng Đan Hồng.

Khi tù xa vừa đẩy tới, thình lình hai bên rừng tiếng trống đánh liên thanh, rồi bọn lâu la ó lên một lượt vang trời dậy đất, gươmg giáo sáng ngời, đổ xô ra ngăn cản lại. Đan Hồng giục ngựa phóng tới nạt lớn:

- Quan quân nào đây? Hãy nạp cho đủ ba lạng bạc về tiền mãi lộ rồi mới được phép đi qua, bằng không lại chớ mong sống sót.

Khâm sai nghe nói nổi giận lướt tới chỉ vào mặt Đan Hồng hét to như sấm nổ:

- Chúng bây là quân thảo khấu nào lại dám cả gan đến đây nạp mạng?

Nói rồi truyền quân sĩ phải canh phòng từ xa cẩn mật, đoạn rút kiếm ra khỏi vỏ nhìn thẳng vào mặt đối phương gằn giọng:

- Kìa bọn cường đồ. Chúng bây có ăn cước cũng phải điều tra cho cẩn thận chứ sao lại mù quáng như vậy? Ta tin cho bây biết ta đây chính là Khâm sai phụng mạng triều đình đi bắt gia quyến phản nghịch giải về kinh trị tội, tiền bạc đâu có mà chúng bây đòi hỏi. Thôi, hãy tranh đường ra cho ta đi, chớ nên ngăn cản.

Đan Hồng cười gằn nói:

- Nếu người không có tiền của thì phải để tù xa lại đây rồi mau mau về kinh tâu với triều đình đem tiền đến chuộc tù phạm trở lại.

Khâm sai nghe nói càng nổi giận xung thiên, xoe tròn đôi mắt nẩy lửa hét:

- Tên khốn kiếp kia hãy xem ngọn kiếm của ta đây.

Nói dứt lời, liền vung kiếm nhắm ngay đầu Đan Hồng chém tới. Đan Hồng cũng cử giáo gạt ra rồi hai người đánh vùi với nhau. Nguyên quan Khâm sai này là quan văn chưa từng giao phong lần nào thì làm sao có thể chống cự với Đan Hồng là tay võ tướng. Vì vậy chỉ được vài hiệp đao pháp của Khâm sai đã bị bấn loạn, rồi chỉ trong nháy mắt đã bị Đan Hồng cho một giáo té nhào xuống ngựa chết tốt.

Bọn lính giải sai thấy chủ mình chết rồi, hoảng kinh bò tù xa chạy hết. Đan Hồng khiến lâu la đẩy tù xa lên núi, đồng thời thâu đoạt được vàng bạc châu báu rất nhiều.

Khi đẩy tù xa lên được lưng chừng núi, Đan Hồng lại khiến lâu la mở tù xa tháo xiềng cho Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ. Doãn Phu nhơn thấy vậy nghiêm sắc mặt hét:

- Đây là hình cụ của triều đình sao chúng bây dám cả gan xâm phạm đến?

Đan Hồng cười ha hả đáp:

- Sao các ngươi lại nói vậy? Ta đã ra sức giết Khâm sai cứu tử cho, các ngươi đáng lẽ mang ơn ta mới phải, sao lại tỏ vẻ bất bình?

Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ đồng thanh nói:

- Ngươi đã ra tay giết chết Khâm sai là người của triều đình, tất nhiên triều đình nghi kỵ ngươi là kẻ tâm phúc của ta, lại càng làm khó dễ cho ta không làm sao giải được nỗi oan ức. Thôi ngươi hãy mau mau thả chúng ta ra, để chúng ta tình nguyện vê Kinh chịu chết chứ quyết không chịu ở đây mà mang tiếng phản nghịch đâu.

Bọn lâu la không thèm đếm xỉa gì đến lời nói của Doãn Phu nhơn, cứ việc lùa vào tù xa rồi đẩy tuốt lên núi:

Khi đến nơi, Đan Hồng bước vào Tụ nghĩa đường quì tâu với Đại vương: - Hôm nay tôi vừa dắt lâu la xuống núi, bỗng gặp quan Khâm sai giải hai mẹ con một người đàn bà đi ngang qua, tôi đã giết chết Khâm sai và bắt cả hai đem về đây, xin Đại vương định đoạt.

Vị Đại vương cau mày nói:

- Sao chúng bay lại nhiều chuyện thế? Vả chăng, quan Khâm sai là kẻ vâng mạng của triều đình đi thi hành công sự mà giết chết người ta làm gì? Còn ngươi bắt hai mẹ con người đàn bà ấy về đây có ích lợi gì cho chúng ta đâu?

Đan Hồng thưa:

- Chỉ vì hai người đàn bà ấy nhan sắc tuyệt vời, nhất là nàng con gái lại có nhan sắc trầm ngư lạc nhạn, nên tôi muốn đem nàng ấy dâng cho Đại vương dùng làm áp trại phu nhơn, còn người đàn bà có tuổi kia xin Đại vương cho tôi đem về làm vợ. Tôi thiết nghĩ làm như vậy đã cứu được cái chết của hai người mà cả tôi và Đại vương đều được vợ cả, chẳng phải tiện hơn sao?

Đại vương nghe qua chúm chím cười, nói:

- Nếu ngươi lấy mẹ, ta lại lấy con, thì ngươi đương nhiên là cha vợ của ta, thì coi sao cho được?

Đan Hồng nói:

- Tôi chỉ cầu mong Đại vương cho phép tôi được vợ là quí lắm rồi tôi đâu dám nghĩ đến việc làm cha Đại vương, xin Đại vương chớ nói đến điều ấy tội nghiệp.

Đại vương nói:

- Thôi hãy gác việc ấy lại đã, ngươi ra dắt hai người đàn bà ấy vào đây cho ta hỏi đặng xem thế nào rồi sẽ liệu.

Đan Hồng nghe nói mừng rỡ vội vàng chạy ra hối lâu la dẫn hết hai mẹ con Doãn Phu nhơn và hai con nữ tỳ vào. Hai con nữ tỳ sợ hãi run lẩy bẩy, vừa vào đến nơi đã vội quì xuống, chỉ có Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ vẫn đứng thẳng người và quay mặt nhìn ra ngoài.

Vị Đại vương ngồi trên cao nghi6m giọng nói:

- Tại sao hai người đã vào trước mặt ta lại không thi lễ?

Bằng giọng cao ngạo, Doãn Phu nhơn nói:

- Tôi có thể thi lễ đối với viên Tuần tư mà không đời nào chịu khuất phục một vị Đại vương nào cả.

Đại vương nghe nói, chúm chím cười:

- Sao lạ vậy? Chẳng lẽ ta đây không bằng một viên Tuần tư sao?

Doãn Phu nhơn giải thích:

- Viên Tuần tư tuy chức nhỏ song là mạng quan của triều đình, còn Đại vương tuy lớn nhưng là một kẻ phản nghịch, đời nào ta lại chịu khuất phục?

Vị Đại vương suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu:

- Ngươi phân như vậy cũng phải lẽ, nhưng ta muốn biết chồng của nhà ngươi làm quan đến chức chi, phạm tội như thế nào mà gia quyến phải bị bắt giải về Kinh? Người cứ việc tỏ thật đi rồi ta sẽ liệu.

Doãn Phu nhơn bèn đem hết sự tình kể lại cho vị Đại vương ấy nghe và xin tha đặng về kinh bó tay chịu chết.

Nghe xong, bỗng Đại vương ấy mặt mày tươi vui, ôn tồn bảo:

- Thì ra phu nhơn là vợ của Hoàng Phủ Nguyên soái mà tôi không biết, thật đáng trách. Trước kia đã mấy lần tôi nghe danh Hoàng Phủ Nguyên soái đi bình an Phiên tặc, lập nhiều công lao to tát, nay rủi sa cơ lẽ nào lại đầu hàng quân giặc? Tôi tin chắc việc này do bọn gian thần trong triều mạo tấu, tuy vậy nay bà quyết thủ tiết cũng phải, nhưng lịnh ái là nữ sanh ngoại tộc, sao bà nỡ để liên lụy như vậy?

Doãn Phu nhơn nói:

- Chỉ vì tiện nữ của tôi chưa xuất giá nên vẫn còn xem như người trong nhà, thành thử hắn nguyện theo tôi cùng chết cho tròn chữ hiếu.

Đại vương nghe qua gật gù bảo:

- Thế thì lịnh ái quả là bậc hiền tử hiếu thảo ít ai bì. Còn việc giết khâm sai hôm nay chắc chắn bọn gian thần nó sẽ vu cáo cho tôi là bè đảng của Nguyên soái, nếu như phu nhơn và tiểu thơ về kinh thì mười phần bị chết oan uổng chớ không mong gì minh oan được. Tôi cũng xin tỏ thật cho phu nhơn biết, tôi chẳng phải là bọn lục lâm cường đạo xuất thân mà là con nhà lương thiện họ Vệ tên Dõng Đạt, cha tôi làm quan đến chức Ngự sử ở tại kinh, tôi ở nhà coi việc điền viên và lo tập tành võ nghệ. Chẳng may cha tôi bị đứa gian thần dèm pha nên triều đình bắt đi cống bên Phiên quốc chưa về, trong cuộc hành trình vô cùng nguy hiểm ấy không biết sống thác ra thế nào nên tôi tính cùng một người lão bộc ra đi dò la tin tức thân phụ, chẳng dè đi ngang qua núi Xuy Đài này lại gặp tướng giặc trên núi là Hàn Hổ chận đàng đoạt hành lý, tôi nổi giận đâm chết. Lúc ấy bọn lâu la phục tài võ nghệ của tôi nên năn nỉ tôi ở lại cầm đầu chúng nó. Tôi lại nghĩ cũng cần ở lại để chiêu tập binh mã kéo đi cứu lấy phụ thân về triều thi hay hơn, nên tôi thuận tình ở lại chốn này, chứ kỳ thực tôi không có ý định làm nghề lục lâm.

Ngừng một lát, vị Đại vương tiếp:

- Nay tôi muốn tỏ cùng phu nhơn một lời, vả tôi năm nay tuổi đã mười bảy còn tiểu thơ đây cũng chưa gá duyên cầm sắt, chẳng biết có phải trời xui đất khiến đôi lứa gặp gỡ nơi đây chăng. Vậy xin phu nhơn hãy vui lòng gả tiểu thơ cho tôi rồi phu nhơn cũng ở luôn tại đây, đợi lúc nào triều đình đăng bảng cầu hiền để chọn người ra dẹp giặc, chừng ấy chúng ta sẽ đem nhau xuống ứng nghĩa, trước là đi cứu Nguyên soái về, sau lập chút công danh, chẳng biết phu nhơn nghĩ sao?

Nãy giờ Doãn Phu nhơn cùng Trưởng Hoa Tiểu thơ đứng cúi gầm mặt xuống không thèm nhìn mặt vị Đại vương; bấy giờ nghe qua mấy lời, cả hai điều liếc nhìn lên trông thấy Vệ Dõng Đạt diện mạo đoan trang, mày ngài, mắt sáng như sao, nước da trắng như tuyết, mười phần đẹp đẽ. Doãn Phu nhơn giật mình nghĩ thầm:

"Nếu người này là con gái thì dung nhan kia sánh với con gái ta cũng chẳng hơn kém nhau bao nhiêu, thế thì đúng là con nhà quan gia rồi".

Lời Bình:

- Hùng Hiệu, một kẻ đã lăn lộn chốn khoa trường mong lập nên chút danh phận với đời, gã lại có con mắt tinh đời nên mới vừa thoáng thấy chàng công tử họ Hoàng Phủ là nhận ra ngay: đây là con người nhà vua đang tầm nã. Nếu y ra tay bắt nạp về triều thì y muốn chức phận gì lại không được?

Thế nhưng lương tâm của người trung liệt không cho phép nghĩ đến bước thang danh vọng bỉ ổi ấy, trái lại Hùng Hiệu lại cố tình giúp đỡ giấu giếm cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Vẫn biết làm một việc phạm pháp như vậy khi triều đình hay được thì mang tội không nhỏ, nhưng phàm người trung bao giờ họ cũng hành động theo lương tâm chớ không khi nào họ chạy theo danh lợi một cách mù quáng.

Còn Hoàng Phủ Thiếu Hoa, trong lúc giả dạng khách thương và cải danh tánh là Lữ Lăng mong mọi người không để ý đến mình, nay gặp kẻ gọi đích danh mình thì còn gì kinh hãi cho bằng, hơn nữa ở đời những kẻ nham hiểm thường thường tỏ thái độ giống như trượng phu đại độ rất dễ lầm mà đối với Hùng Hiệu, Thiếu Hoa mới gặp lần đầu tiên thì làm sao có thể nhận xét nổi Hùng Hiệu là hạng người nào! Cho nên việc Thiếu Hoa chịu thiệt quả là liều lĩnh trong thế bị vậy.

Cho hay ở đời, người trung thường hay mắc nạn mà luôn luôn có kẻ cứu: còn kẻ nịnh tuy lúc gặp thời dọc ngang như vậy, chớ đến lúc gặp nạn thì đừng hòng ai thương.

Hồi Thứ Mười Bốn

Vệ Dõng Đạt bái nhận mẫu tử

Hùng Hữu Hạc quyết chí tầm sư.

Liếc thấy dung mạo Vệ Dõng Đạt, Doãn Phu nhơn nghĩ thầm:

"Vị Đại vương này tướng mạo khôi ngô, dung nghi mỹ lệ, thế nào về sau cũng đặng đại quí. Nếu đặng đẹp duyên cùng con gái ta thì thật là xứng đôi vừa lứa".

Trưởng Hoa Tiểu thơ t hấy mẹ mình ra vẻ suy nghĩ, sợ bà ta nhận lời chàng, nên vội vói nắm vạt áo bà kéo qua một bên, kề tai nói nhỏ:

- Con quyết không bao giờ bằng lòng kết duyên với tên lục lâm ấy đâu!

Doãn Phu nhơn khẽ hỏi:

- Ta xem nguời nầy là hạng quan gia tử đệ, lại có dung mạo phi phàm thì chắc làm gì sau này cũng đặng phú quí, vả lại, tuổi xuân của người thật xứng đôi vừa lứa với con. Nếu con bằng lòng chắc sau này người sẽ đem binh dẹp giặc cứu phụ thân con về triều chẳng là hay hơn sao?

Trưởng Hoa vẫn khư khư đáp:

- Xin mẫu thân đừng ép con, vì ý con đã quyết, thà chịu chết chứ không chịu kết duyên với tên võ phu!

Vệ Dõng Đạt liếc nhìn thái độ của hai người đoán biết tiểu thơ không bằng lòng nên mỉm cười dịu giọng nói:

- Chỉ vì dung nhan của tiểu thơ mà khiến con tim tôi xao xuyến, sao tiểu thơ nỡ lòng nào để cho tôi thất vọng như vậy? Tiểu thơ hãy xét thử tôi đây cũng dòng quan gia tử đệ xuất thân, lại thêm dung mạo không đến nỗi xấu xí, nay tôi cùng tiểu thơ sánh duyên cầm sắt chẳng phải là xứng đôi vừa lứa lắm sao?

Trưởng Hoa lắc đầu đáp:

- Dẫu cho Đại vương là quan gia tử đệ mà đã sa vào chốn lục lâm này thì thanh danh đã bị hoen ố rồi, tôi đây tuy phận gái thà chịu chết cho tròn tiếng thơm chớ không bao giờ chịu sống nhục.

Vệ Dõng Đạt cố biện minh:

- Tiểu thơ nghĩ vậy là lầm rồi! Tôi ở đây chẳng qua là tạm đỡ trong một thờigian để chiêu tập binh mã hòng ra giúp nước trở về với triều đình đó thôi.

Rồi Vệ Dõng Đạt quay qua nói với Doãn Phu nhơn:

- Xin mời phu nhơn và tiểu thơ lui vào hậu trại ngồi chơi để tôi thưa một chuyện.

Dứt lời, liền truyền lâu la đưa hai người vào hậu trại ngay, đồng thời truyền lâu la mổ heo để khao thưởng ba quân, ăn mừng lễ động phòng hoa chúc của mình.

Vào đến hậu trại, bọn lâu la bưng trà lên cung kính mời hai người uống, nhưng Trưởng Hoa đã nhứt quyết không ưng nên chịu khát chứ không dùng. Doãn Phu nhơn thấy thế tỏ lời khuyên bảo:

- Theo ý mẹ thì mẹ muốn con bằng lòng, vì việc này cũng là điều hay cho chúng ta.

Nhưng Doãn Phu nhơn nói gì Trưởng Hoa cũng vẫn một mực chối từ. Lúc hai mẹ con đang đàm luận thì Vệ Dõng Đạt bước vào ra hiệu cho bọn lâu la lui ra ngoài, rồi với tay đóng chặt cửa lại, đoạn nhìn Trưởng Hoa chúm chím cười ra chiều lả lơi và nói:

- Nay nhạc mẫu đã có lòng đoái thương đến tôi, ý muốn cho tôi đặng vầy duyên can lệ cùng tiểu thơ, cớ sao tiểu thơ lại đành tâm để cho tôi phải ôm mối tình tuyệt vọng?

Nghe qua mấy lời, Trưởng Hoa đánh giá ngay con người của Vệ Dõng Đạt là phường tham dâm háo sắc nên nàng kinh hãi vội bước lùi ra sau, vì nàng sợ đối phương có thể giở trò bất lương thô lỗ.

Vệ Dõng Đạt thấy thế liền rót một chén nước tự tay bưng đến cho tiểu thơ miệng cười chúm chím, liếc mắt đưa tình:

- Dẫu sao tiểu thơ cũng dùng của tôi một chung trà mới phải chứ.

Bấy giờ Trưởng Hoa mặt mày biến sắc, thối lùi mãi ra sau, đôi mắt nàng xạ ra ánh sáng hận thù, hai hàm răng nghiến chặt, lưng dựa vào tường, hai tay như muốn vận nội công thủ thế để tự bảo vệ bản thân.

Vệ Dõng Đạt vẫn lướt tới, bằng cái nhìn mớn trớn. Trưởng Hoa gằn giọng nói:

- Tôi đã mang một tấm lòng sắt đá, mong Đại vương đừng tiến thêm bước nữa vô ích, nếu Đại vương một mực ép liễu nài hoa thì tôi chắc chắn một trong hai ta sẽ bỏ mạng tại đây.

Trước lời nói đanh thép của nàng, khiến Vệ Dõng Đạt phải lùi lại đặt chén nước trên bàn, thong thả nói:

- Xin tiểu thơ đừng sợ, chính tôi đây cũng là hàng nữ lưu như tiểu thơ vậy, sở dĩ tôi làm như vậy là có ý muốn thử lòng tiểu thơ đó thôi.

Doãn Phu nhơn thấy Trưởng Hoa nổi giận, bà muốn chạy đến khuyên nhủ con, nhưng lại nghe Vệ Dõng Đạt nói vậy, bà lấy làm lạ vội hỏi:

- Đại vương nói thế nghĩa là gì? Sao Đại vương lại bảo Đại vương là gái?

Vệ Dõng Đạt không đáp, cứ việc âm thầm bước đến gài thêm cánh cửa cho thật chặt rồi lại ngồi trên ghế từ từ mở chiếc giày mình ra, tháo miếng vải bó chân, để lộ bàn chân nhỏ xíu. Mẹ con Doãn Phu nhơn nửa mừng nửa sợ vội hỏi:

- Người là con gái nhà ai, sao lại dám cả gan nương thân vào chốn lục lâm cường đạo như vầy?

- Vệ Dõng Đạt chỉ mỉm cười không đáp, cứ việc lo quấn vải vào chân rồi mang giày lại, đoạn mời Doãn Phu nhơn ngồi trên rồi cùng Trưởng Hoa Tiểu thơ ngồi dưới. Sau đó Vệ Dõng Đạt mới lên tiếng nói:

- Nguyên thân phụ tôi là Vệ Hoán, tướng tiên phong của Hoàng Phủ Nguyên soái, còn tôi đây tên thật là Dõng Nga. Thân phụ tôi chỉ có một mình tôi chớ không có trai kế tự nên dạy tôi học tập võ nghệ. Chỉ vì kế mẫu của tôi bất hòa với tôi, nên thân phụ tôi lúc thi đậu võ cử nhơn đi làm quan phương xa phải đem gởi tôi cho thúc phụ tôi là Vệ Trấn Tổ nuôi dưỡng. Vừa rồi, thân phụ tôi và Hoàng Phủ Nguyên soái bị giặc Phiên bắt giam cầm cho nên triều đình nghi kỵ sai quan đi bắt gia quyến Hoàng Phủ về kinh trị tội. Lúc ấy có một người bạn đồng niên với thân phụ tôi ở tại kinh mật báo cho thúc phụ tôi biết, thành thử thúc phụ tôi sợ liên lụy không dám chứa tôi nữa. Tôi thiết nghĩ thân phụ tôi là bậc trung can không đời nào chịu đầu hàng giặc, chắc chắn việc này do gian thần mạo tấu để hại người ngay nên tôi cải nam trang cùng với tên lão bộc là Vưu Thận định sang Đăng Châu để dò la tin tức, nhưng chẳng may khi đi ngang qua núi này, Vưu Thận bị Hàn Hổ đón giết chết đoạt đồ hành lý, tôi vừa đến thấy vậy nổi giận giết ngay Hàn Hổ. Bọn lâu la khâm phục tài võ dõng của tôi nên xúm nhau nài nỉ tôn tôi lên làm chủ trại.

Ngừng một lát, nàng tiếp:

- Tôi trộm nghĩ, ra đi đơn phương độc mã cũng không làm gì nên chuyện, nên tính ở lại đây chiêu tập binh mã chờ cơ hội mang quân đi cứu phụ thân về triều cho toàn trung hiếu. Nay tôi cùng tiểu thơ đây cùng chung một số phận, vậy hãy cùng nhau nương náu ở đây chờ cơ hội rửa cho sạch nỗi niềm oan khúc của thân phụ chúng ta.

Doãn Phu nhơn nghe bấy nhiêu lời, lòng mừng khấp khởi, nức tiếng khen:

- Ta không ngờ nàng là con gái lại có chí khí anh hùng như thế. Thiết tưởng trên thế gian này không có một người con gái nào lại dám nương thân vào nơi hổ huyệt như vầy, thật đáng kính phục!

Vệ Dõng Đạt nói:

- Đó chẳng qua là hoàn cảnh tạo nên, ngộ biến phải tùng quyền, xin phu nhơn chớ tiết lậu. Còn việc của phu nhơn, tôi cũng lấy làm lạ là sao phu nhơn đã biết trước mà không chịu trốn đi, còn để cho Khâm sai đến bắt là ý gì?

Doãn Phu nhơn liền đem việc Doạn Thượng Khanh cho hay tin trước, Hoàng Phủ Thiếu Hoa đã đi trốn rồi, còn mình và Trưởng Hoa bằng lòng về kinh thọ tội, đầu đuôi nói rõ cho Dõng Đạt nghe.

Vệ Dõng Đạt gật gù nói:

- Thế thì cái tiết tháo của phu nhơn cùng tiểu thơ thật hiếm có trên đời. Nhưng nay phu nhơn và tiểu thơ đã vào đây, hãy cùng tôi lập chí, chờ thời dẹp giặc, cứu cho được phụ thân chúng ta về triều, cho tròn câu cốt nhục thâm tình.

Doãn Phu nhơn ra vè lo ngại:

- Mẹ con tôi ở đây cũng được, nhưng hiện nay chúng lâu la đều đinh ninh nàng là nam tử thì sao cho khỏi tiếng thị phi chê cười?

Vệ Dõng Đạt nói:

- Việc ấy phu nhơn chớ lo, tôi sẽ có kế, tránh được tiếng thị phi.

Nói rồi Vệ Dõng Đạt kề tai nói nhỏ với phu nhơn một hồi rồi lên tiếng nói:

- Phu nhơn cứ việc làm y theo kế ấy thì không ai có thể hiềm nghi chúng ta được.

Doãn Phu nhơn gật đầu khen:

- Ờ! Thật quả là diệu kế.

Vệ Dõng Đạt cũng mỉm cười nói với Trưởng Hoa Tiểu thơ:

- Cô nương là người cương trực thật ít ai bì, đã rủi sa vào hang hùm nọc rắn mà vẫn giữ một lòng thiết thạch, đáng khâm phục thay!

Câu chuyện của ba người vừa đến đây thì bên ngoài bọn lâu la đã sửa soạn bàn hương án xong xuôi, chúng chờ đợi chủ trại ra để làm lễ động phòng hoa chúc, nhưng đợi mãi không thấy. Một đứa trong bọn nóng lòng lên tiếng nói:

- Đại vương ta thật là nôn nóng quá. Chưa làm lễ mà đã đóng cửa với nàng ấy ở miết trong phòng, chắc hai người thành thân với nhau rồi chớ gì.

Một tên khác nói:

- Sao anh lại nói lạ vậy? Tâm lý ở đời hễ trai tài gái sắc gặp nhau thì ai không vậy? Thôi, bây giờ chúng ta phải đi bẩm tấu Đại Vương kẻo trễ ngày giờ mất.

Mấy tên kia đều khen phải rồi cùng nhau chạy vào phòng gõ cửa bẩm:

- Bẩm Đại vương, chúng tôi đã sửa soạn hương án xong rồi, xin Đại vương hãy ra làm lễ hoa chúc kẻo trễ giờ hoàng đạo.

Vệ Dõng Đạt nghe kêu liền mở cửa bước ra ngồi giữa tụ nghĩa đường, truyền lâu la gióng trống nhóm hết các đầu mục và lâu la đến đủ mặt, đoạn sai người đi mời Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ ra.

Một lát sao hai người đến, Vệ Dõng Đạt bước xuống thi lễ rồi mời Doãn Phu nhơn lên ngồi ghế trên, còn mình và Trưởng Hoa Tiểu thơ thì ngồi ngang nhau ở hai chiếc ghế phía dưới.

Vệ Dõng Đạt đứng lên trịnh trọng tuyên bố:

- Ta thấy Hoàng Phủ Tiểu thơ là một người có nhan sắc nên muốn kết nghĩa tấn tần nhưng nàng không thuận. Vả lại, ta đây cũng là hạng người đứng vào hàng quan gia tử đệ lại có tâm sự giống phu nhơn và tiểu thơ nên ta định cầm phu nhơn và tiểu thơ ở lại đây chờ cơ hội đi bình giặc, báo ơn cho Thiên tử. Nhưng hiện nay ta cùng tiểu thơ đang độ xuân xanh, nàng chỉ nhỏ hơn ta một tuổi, ta định làm lễ phát thệ nhận nàng làm em và phu nhơn làm mẹ ta để tránh khỏi sự hiềm nghi, chẳng hay ý chúng tướng nghĩ sao?

Các tướng đều khen và đồng thanh bẩm:

- Đại vương trọng nghĩa như vậy thiệt trong đời ít có.

Nhưng trong số có vài người cười thầm bàn tán với nhau:

"Một người đẹp như tiên mà không muốn, lại để kết làm anh em, thật là dại dột".

Sau đó Vệ Dõng Đạt mời Doãn Phu nhơn cùng Trưởng Hoa Tiểu thơ ra giữa sân, nơi đã đặt bàn hương án sẵn sàng để làm lễ phát hệ.

Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ đồng nói:

- Đại vương hậu tình trọng đãi như vậy, chúng tôi vô cùng cảm kích, song phận mẹ con tôi tài sơ đức bạc, có xứng chi mà được hân hạnh kết tình máu mủ với Đại vương.

Vệ Dõng Đạt nói:

- Nếu không làm như vậy, làm sao tránh khỏi sự hiềm nghi, xin mẫu thân chớ nên chối từ.

Rồi cả ba đều bước ra sân, Vệ Dõng Đạt cùng Trưởng Hoa Tiểu thơ đồng bước tới bàn hương án cất tiếng thề nguyền kết nghĩa đệ huynh đoạn Vệ Dõng Đạt quì lạy Doãn Phu nhơn gọi bằng thân mẫu.

Lễ tuyên thệ vừa xong, Vệ Dõng Đạt truyền thiết tiệc khao thưởng quân sĩ và thưởng riêng phần Đan Hồng mười lượng vàng ròng. Đan Hồng mừng rỡ nhận lãnh rồi lại tạ lui ra, hắn nghĩ thầm:

"Số mình không đặng vợ đẹp nên Đại vương lại nhận là em gái, nhưng thôi, đành chịu chớ biết làm sao bây giờ?"

Tối hôm ấy, Vệ Dõng Đạt truyền lâu la đưa Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ vào nghỉ nơi hậu trại, lại bảo hai con tỳ nữ Cẩm Trạch và Giao Sắc ở chung để hầu hạ.

Từ đó về sau đôi bên về ở riêng, khi nào có việc chi cần mới sang đàm luận, mỗi lần gặp nhau họ chào hỏi lễ nghi rất minh bạch.

Vệ Dõng Đạt muốn chiêu tập anh hùng, nên không thèm cướp giựt tiền của khách đi đường nữa, chỉ ra tay sát hại bọn tham quan ô lại và những kẻ trọc phú ác tâm để lấy của nuôi quân mà thôi. Vì thế nhân dân cảm phục vô cùng. Còn mẹ con Doãn Phu nhơn cũng mừng vì đặng chỗ yên thân, nhưng còn lo một nỗi là Hoàng Phủ Thiếu Hoa hiện giờ không biết lành dữ thế nào...

Bây giờ xin nhắc lại việc Khâm sai bị tử trận, rồi quân lính thất kinh bỏ tù xa vỡ chạy đến Thanh Châu vào báo cho quan Tổng binh tại đó hay:

- Tướng giặc tại Xuy Đài sơn tên Vệ Dõng Đạt đã đón đường giết chết Khâm sai và cứu mẹ con Doãn Phu nhơn đem về núi rồi.

Tổng binh Thanh Châu nghe báo, giựt mình nói:

- Thế thì bọn giặc Xuy Đài sơn này chính là thân đảng với Hoàng Phủ Thiếu Hoa rồi, nếu không, ai lại dám giết Khâm sai của triều đình? Việc này ta cần phải dâng biểu về triều gấp mới được.

Nói rồi liền biểu tỏ hết sự tình, sai người tức tốc đệ về kinh.

Ngày kia, vua Thành Tôn lâm triều, bá quan quì lạy tung hô vừa xong, bỗng có quan Huỳnh môn bước ra quì tâu:

- Nay có quan Tổng binh Thanh Châu là Châu Triệu Lân dâng biểu về cấp báo rằng: quan Khâm sai Trần Thiên Tích phụng mạng triều đình đi bắt gia quyến Hoàng Phủ Kính, Hoàng Phủ Thiếu Hoa biết trước trốn đi mất, chỉ bắt được vợ hắn và một người con gái mà thôi. Chẳng dè khi giải về kinh, đi ngang qua núi Xuy Đài bị tướng giặc là Vệ Dõng Đạt chận đường giết chết Khâm sai và nhiều tướng sĩ, cướp đoạt tù xa. Hiện giờ còn mấy tên hiệu úy đã về đến, chúng còn đứng ngoài Ngọ môn chờ lịnh.

Vua Thành Tôn nghe tâu, truyền đòi vào ngay. Mấy tên hiệu úy vào quì mọp trước kim giai, đem hết đầu đuôi mọi việc tâu lên cho vua rõ.

Vua Thành Tôn nghe xong, cho mấy tên hiệu úy lui ra rồi đòi quan hàn lâm học sĩ lên điện, bảo đọc tờ biểu chương cho các quan văn võ đồng nghe. Đọc xong, vua nổi giẩn lôi đình phán:

- Xưa ngay, hễ quân lục lâm cường đạo là chỉ chuyên cướp giựt của cải thôi chứ có đời nào lại dám xâm phạm đến quan quân của triều đình, nay xảy ra cớ sự này thì chắc chắn bọn Xuy Đài sơn này là thân đảng của Hoàng Phủ Kính đó. Nếu không trừ đặng chúng thì làm sao giữ yên quốc pháp! Chẳng hay chư khanh nghĩ sao? Và có ai dám cử binh đi dẹp quân cường đạo Xuy Đài sơn không?

Vua phán dứt lời, bỗng thấy hữu Thừa tướng Kỳ Thạnh Đức và tả Thừa tướng Lương Giám cùng bước ra một lượt quì tâu:

- Việc ấy không nên làm!

Vua Thành Tôn ngạc nhiên hỏi:

- Quân cường khấu dám cả gan xâm phạm đến quan quân của triều đình, cần phải tảo trừ chớ sao hai khanh lại bảo là không nên?

Hai viên Thừa tướng đồng thanh đáp:

- Vẫn biết quân cướp đã xâm phạm đến quan quân của triều đình thì cần phải trừng trị, song Xuy Đài sơn nằm trong địa phận Sơn Đông, tất nhiên khi chúng đánh không lại quân của triều đình ắt phải tư thông với quân Phiên. Lúc ấy bên ngoài có giặc xâm lăng, bên trong bọn cường khấu Xuy Đài sơn công phá thì tỉnh Sơn Đông khó bề giữ yên được, chi bằng hãy tạm để yên cho chúng, đợi khi nào dẹp yên được giặc Phiên sẽ đánh Xuy Đài sơn, thì dù chúng có cánh cũng không thoát khỏi.

Thành Tôn suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu đáp:

- Hai khanh nói thế nghe cũng có lý, vậy thì đợi dẹp yên giặc rồi sẽ đánh lấy Xuy Đài sơn. Nhưng tên Vệ Dõng Đạt này chắc là đồng đảng với Hoàng Phủ Thiếu Hoa, vậy quan Công bộ phải họa hình Thiếu Hoa ban hành khắp thiên hạ để sau ai bắt được thì thưởng trăm lượng vàng ròng, còn ai chấp chứa hoặc biết mà không tố cáo thì phải bị phạt nặng.

Rồi vua Thành Tôn truy tặng cho quan Khâm sai, đồng thời châu cấp tiền bạc cho vợ con những kẻ bị hại về trận Xuy Đài sơn.

Lúc ấy Doãn Thượng Khanh ở lại triều hay được tin ấy thì giận cho Doãn Phu nhơn lắm. Trách cho phu nhơn sao không biết suy nghĩ, theo làm chi với quân cường đạo tại núi non để cho nam nữ hỗn tạp, mang tiếng xấu hổ và cũng có hại cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa, không biết bao giờ mới minh oan được.

Xin nhắc lại việc Hoàng Phủ Thiếu Hoa, từ ngày ở tại nhà Hùng Hiệu đến nay không khi nào bước chân ra khỏi cửa, cùng với Hùng Hiệu luyện tập võ nghệ, khi nào buồn lại uống rượu đánh cờ cho giải khuây.

Đêm nằm, Hoàng Phủ Thiếu Hoa thường nghĩ thầm:

"Không biết hiện giờ thân mẫu và hiền tỉ ta ở nơi ngục thất khổ cực đến bực nào, và thân phụ ta bị giam cầm nơi đất địch có đặng bình an không? Còn ta đây hiện nay chắc phải phụ lòng Mạnh Lệ Quân và Lưu Yến Ngọc rồi!".

Mỗi lần Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghĩ vậy, nét mặt chàng âu sầu ảm đạm trông vô cùng thảm não.

Thời giờ thấm thoát quá nhanh, mới đây mà năm cũ đã tàn, năm mới sắp đến. Hôm ấy nhằm Tết Nguyên đánh, Hùng Hiệu cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa uống rượu vui chơi tại thơ phòng, Hùng Hiệu nói với Thiếu Hoa:

- Tôi thiết tưởng quân Phiên biết pháp thuật như vậy thì dầu cho triều đình có đem đại đội binh mã hùng mạnh đến đâu cũng khó nổi cự đương. Quân Phiên mỗi ngày mỗi dữ tợn, tôi e chúng ta đây cũng chưa dễ gì đánh được, chi bằng chúng ta đi tìm một bậc dị nhơn nào học tập tiên thuật, rồi đợi khi nào triều đình đăng bảng cầu hiền, chúng ta sẽ dẹp giặc cứu phụ thân của hiền đệ về.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa gật đầu đáp:

- Lời hiền huynh nói rất hợp ý em, nhưng chúng ta biết đi tìm đâu cho ra dị nhơn bây giờ?

Hùng Hiệu nói:

- Tôi nghe tại thành Võ Xương cách chừng trăm dặm có hòn núi tên là Hoàng Hạc Sơn, trên núi ấy có vị đạo nhơn tên Hoàng Hạc Tiên ông, người tu hành đắc đạo đã thành chánh quả, pháp thuật tinh thông có rất nhiều người đã tìm đến đó để cầu khẩn hỏi việc kiết hung, nhưng hễ ai thành tâm thì mới được gặp, bằng không thì sao tìm thấy. Vậy bây giờ hai ta cứ việc thành tâm ra đi, may ra có thể gặp người.

Nghe nói, Hoàng Phủ Thiếu Hoa mừng rỡ nói:

- Nếu quả có bậc dị nhân như vậy. Để một mình em đi cũng được, chớ như hiền huynh cửa nhà to tát, tiền của rất nhiều mà bỏ ra đi bất tiện lắm. Hơn nữa, gia tẩu còn trẻ tuổi lại đang mang thai, chắc người không bằng lòng cho hiền huynh đi đâu.

Hùng Hiệu bảo:

- Không hề gì đâu! Công việc trong nhà đã có người cai quản nếu ta đi vắng, sổ sách đã có Lữ Trung. Vả lại, nhạc phụ ta là Từ Nhơn Thiện tuy năm nay tuổi đã ngoài năm mươi song vẫn còn tráng kiện. Gia tư giàu có lại nhiều con cháu; ta sẽ qua đó yêu cầu người thường xuyên đến kiểm soát, còn việc trong nhà đã có nội nhơn tôi, người vốn hiểu thông đại nghĩa thế nào cũng bằng lòng cho đi chứ không ngăn cản như hiền đệ tưởng vậy đâu.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Thế thì hiền huynh hãy đi bàn thử với gia tẩu xem sao?

Hùng Hiệu khen phải vội đi thẳng vào nhà trong nói với Từ thị:

- Tôi có việc vô cùng trọng yến muốn bàn với hiền thê.

Từ thị hỏi:

- Chẳng hay phu quân muốn bàn việc chi xin cứ dạy.

Hùng Hiệu thong thả ngồi xuống ghế, thuật hết tình hình giặc Phiên lợi hại thế nào cho Từ thị nghe và nói:

- Tôi muốn cùng nghĩa đệ Lữ Lăng đi tầm tiên học thuật, chờ sau này có cơ hội đi dẹp giặc lập công cho đặng phong thê ấm tử, nhưng Lữ Lăng lại sợ e hiền thê không bằng lòng nên tôi phải vào bàn với hiền thê xem ý kiến của hiền thê như thế nào.

Từ thị nói:

- Phận nam nhi việc tang bồng hồ thỉ tôi đâu dám ngăn trở. Nhưng nay tôi đang mang thai nghén trong mình, chẳng biết ngày nào hoa nở nhụy, chỉ sợ không ai trông nom, lại thêm việc nhà vô cùng bận rộn không biết ủy thác cho ai đó thôi.

Hùng Hiệu nói:

- Khi nào hiền thê lâm sản, đã có nhạc mẫu trông nom, còn việc trong nhà ta đã có Lữ Trung coi sóc, lão ta là một tay đắc lực lại trung thành, có lo chi. Tuy vậy, tôi ra đi cũng phải nhờ đến nhạc phụ thường lui tới kiểm soát thì chắc được vẹn toàn.

Từ thị nói:

- Phu quân tính vậy cũng khéo léo lắm, song cần phải thưa lại với song thân thiếp để các người góp phần liệu định mới xong.

Hùng Hiệu gật đầu đáp:

- Hiền thê nói phải lắm, thế nào tôi cũng mời nhạc phụ và nhạc mẫu để thưa cho hai người rõ mọi việc rồi mới khởi hành.

Rồi Hùng Hiệu gọi gia nhơn sai đi mời vợ chồng Từ Nhơn Thiện đến.

Lời Bình:

- Thời bấy giờ con gái Trung Hoa, quanh năm ở trong phòng khuê không bước ra khỏi cửa. Những kẻ con nhà phiệt duyệt danh gia đều bó chân lại từ lúc còn bé, nên khi lớn lên đôi chân nhỏ xíu đi đứng không vững mà bảo cải dạng nam trang ra tay giết loài cường bạo làm chủ một nhóm lâu la, thật là khó tin vậy.

- Hùng Hiệu cùng Thiếu Hoa đều là những tay võ dõng cao cường, nhưng nhận thấy rằng dù có luyện tập khổ nhọc đến đâu cũng không sao chống nổi tà thuật quân Phiên. Đã biết mình biết địch như vậy quả là một kẻ trí thức, nhưng dắt nhau đi tầm tiên học thuật quả là một việc làm táo bạo. Những kẻ có óc thực tiễn không bao giờ dám nghĩ đến việc ấy.

Hồi thứ Muời Lăm

Vì chữ công danh, anh hùng chịu gian khổ,

Tưởng tình chị em, Hoàng hậu cố tâu bày.

.Chỉ một lát sau, hai ông bà nhạc của Hùng Hiệu đến, Hùng Hiệu tiếp vào, lễ phép mời ngồi rồi hối gia nhơn pha trà dâng lên.

Từ Nhơn Thiện hỏi:

- Chẳng hay hiền tế mời hai ta qua đây có việc chi?

Hùng Hiệu liền trình bày ý định mình muốn tầm tiên học thuật và cậy nhạc phụ trông coi việc nhà hộ cho mình, đồng thời gởi gắm vợ nhà cho nhạc mẫu.

Từ Nhơn Thiện nghe xong chưa kịp mở lời thì vợ là Hồ thị đã vội nói:

- Hiền tế đã thi đậu võ cử nhơn rồi có lo gì không lập đặng công danh, cần gì phải đi học tiên thuật? Vả lại, cái sản nghiệp của hiền tế vô cùng lớn lao, khó mà chọn nguời quản lý được, hơn nữa lúc này vợ nhà đang có thai mà bỏ đi sao đành, cứ như ý nghĩ của ta thì hiền tế nên ở nhà an dưỡng phú quí thì hơn.

Hùng Hiệu phân trần:

- Nhạc mẫu chưa rõ đó thôi chứ cái công danh trong nghề khoa cử thật khó nỗi hiển vinh, may mà con đi bình được giặc Phiên thì chẳng những bản thân cùng thân quyến được vinh hiển mà thôi, người đời lại xem con là bậc trượng phu có tài kinh thiên vĩ địa vậy.

Hồ thị nói:

- Nếu hiền tế đã quyết định như vậy thì để ta bàn với con gái ta xem ý nói thế nào đã.

Hùng Hiệu nghe nói liền lui ra, Hồ thị gọi con gái mình đến hỏi:

- Chồng con có ý định như thế, ý con nghĩ sao?

Từ thị thưa:

- Thưa mẹ, theo con nghĩ thì việc làm của chồng con là một việc làm vẻ vang cho tổ tiên, nên để cho chàng đi mới phải.

Hùng Hiệu nghe vợ nói mừng rỡ đi gọi gia nhơn dọn rượu thịt lên mời vợ chồng Từ Nhơn Thiện ăn uống.

Từ Nhơn Thiện vừa nhắp rượu vừa nói:

- Hiền tế đi tìm dị nhơn, may ra có gặp được, học tiên thuật rồi nên trở về ngay đặng lập công danh, chớ nên chậm trễ.

- Dạ, con xin vâng lời nhạc phụ.

- Thế con định lúc nào lên đường?

- Nay công việc nhà đã sắp đặt xong thì chỉ ít hôm nữa chúng con lên đường.

Cơm nước xong, vợ chồng Từ Nhơn Thiện kiếu từ ra về. Trước khi đi, ông bà nhạc không quên chúc rể mình thượng lộ bình an và hứa sẽ trông coi việc nhà chu đáo.

Khi vợ chồng Từ Nhơn Thiện về rồi, Hùng Hiệu mới định chắc năm ngày sau sẽ khởi hành. Trong thời gian này, Hùng Hiệu lo phân công cho từng người trong gia đình, sắp đặt đâu vào đó rồi sáng hôm ấy Hùng Hiệu cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa khăn gói lên đường thật sớm.

Đi chẳng mấy ngày đã đến thành Võ Xương; khi hai người qua khỏi Nam môn chừng trăm dặm thì đến đồng quê quạnh quẽ, không một hàng quán nào cả, hai người phải vào trong xóm để xin ngủ nhờ, đồng thời dọ xem tin tức dị nhơn.

Sau khi hỏi qua mấy người trong xóm, ai cũng bảo rằng "Câu chuyện về dị nhơn thì ai cũng có nghe nói, nhưng chúng tôi ở đây đã lâu mà không đời nào trông thấy dị nhơn cả".

Một cụ già mỉm cười nhìn hai người, nói:

- Ta khuyên hai người nên lui gót là hơn, chớ nên đi tìm uổng công vô ích.

Hùng Hiệu và Hoàng Phủ Thiếu Hoa vẫn không nản chí đáp:

- Chúng tôi đã quyết chí đi cầu tiên thuật thì dù có hay không và khổ nhọc cách nào chúng tôi cũng không từ.

Mọi người thấy vậy đều cười rộ lên nói:

- Chúng tôi thấy hai ông làm một việc hoài công vô ích nên lấy lời thành thật khuyên hai ông mà hai ông không nghe thì tùy ý vậy.

Hùng Hiệu nói:

- Không phải tôi không tin lời các người, nhưng tấm lòng cầu đạo của anh em chúng tôi khẩn thiết lắm, không thể nào bỏ qua được.

Sáng hôm sau, hai người thức dậy thật sớm. Cơm nước xong, quảy gói lên đường, băng vào con đường vô cùng vắng vẻ, chỉ nghe xung quanh toàn là tiếng chim kêu vượn hú. Đi đến mỏi gối không gặp một bóng người và cũng không thấy thần tiên đâu cả.

Tuy vậy, hai người cũng bền chí đi mãi; hễ đói, giở cơm khô ra ăn, khát xuống khe uống, tối đến, tìm cội cây mà ngủ, dầu gặp phải hổ lang rắn rít cũng chẳng sờn lòng.

Hai người trèo đèo vượt núi chẳng biết bao nhiêu mà kể, chẳng tìm thấy hang động gì cả, chỉ thấy trước mặt mình toàn là cây đá, rừng hoang cỏ rậm mà thôi.

Trải qua tám, chín ngày trường, cả hai đã mỏi mệt, bước đi đã khó khăn. Bỗng một buổi trưa, hai người trông thấy trước mặt có một hòn núi cao lớn khác thường, lại thêm cây cối xinh tươi, bông hoa đua nở, phong cảnh đẹp đẽ vô cùng.

Hùng Hiệu mừng rỡ quay lại nói với Thiếu Hoa:

- Đã mấy ngày ròng hai ta không tìm thấy điều chi lạ, nay gặp quả núi này phong cảnh khác thường, có lẽ thần tiên đã cảm mến tấm lòng thành tầm tiên học đạo của ta mà hiển hiện ra đó chăng?

Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng phụ họa:

- Tôi xem núi này cảnh trí hữu tình chắc là nơi trú ngụ của bậc chân tu, vậy chúng ta hãy cố gắng lên đó xem, may ra có gặp dị nhơn không?

Hùng Hiệu gật đầu đồng ý hai người cố gắng nhảy từ gộp đá này sang gộp đá khác, đi riết hồi lâu xảy thấy một tên đạo đồng đứng giữa lưng chừng núi, trạc độ mười bốn, mười lăm tuổi, đầu cạo chừa hai miếng tóc, vẻ mặt tươi vui; vừa trông thấy hai người, hắn đã chúm chím miệng cười hỏi:

- Ai đó? Có phải Hùng Hữu Hạc và Hoàng Phủ Thiếu Hoa không?

Hai người nghe hỏi đích danh thì thất kinh, vội chắp tay và đồng thanh nói:

- Thưa phải! Chúng tôi chính là Hùng Hiệu và Hoàng Phủ Thiếu Hoa đây. Chúng tôi đã thành tâm lặn lội đến đây cầu tiên thuật xin người ra ơn chỉ giáo cho!

Tên đạo đồng liền chắp tay vái lại và nói:

- Xin nhị vị chớ nhận lầm! Tôi đây chỉ là tên đạo đồng đang hầu sư phụ tôi, người bảo tôi phải xuống núi đón tiếp nhị vị, vì vậy mới biết rõ danh tánh nhị vị, xin nhị vị hãy theo tôi lên núi yết kiến sư phụ.

Hai người nghe nói mừng rỡ bước theo tên đạo đồng bén gót. Đường đi khúc khuỷu quanh co, hồi lâu mới đến một ngôi chùa phía trước có tấm biển đề ba chữ vàng lớn: "Hoàng Hạc Lâu".

Qua khỏi cửa, tên đạo đồng dắt hai người qua một con đường lót toàn đá trắng, hai bên trông rất nhiều kỳ hoa dị thảo, mùi hương bay phảng phất khiến cả hai cảm thấy như mình đã lạc vào chốn bồng lai.

Đến đây, tên đạo đồng quay lại bảo hai người đứng chờ để hắn vào báo tin.

Một lát sau hắn chạy ra nói:

- Sư phụ cho mời nhị vị vào.

Nói rồi, đạo đồng dắt hai người vào trong. Bên trong, lầu cao vòi vọi sơn son thếp vàng rực rỡ, giữa nhà có một vị đạo nhơn cốt cách khác phàm đang ngồi trên một cái sập bát quái, đôi mắt sáng như sao, đầu đội mão thất tinh, mình mặc bạch hạc hào. Hai người liền quì xuống đồng thnah nói:

- Chúng tôi một lòng muốn lập công danh nên cố tâm tìm đến đây, mong sư phụ rộng lòng chỉ giáo.

Hoàng Hạc Đạo nhơn thong thả mời hai nguời ngồi rồi bảo:

- Hai người đã có lòng vì nước, ta vô cùng mến phục, vậy hãy ở đây cùng ta luyện tập ít ngày rồi ta trao bửu bối cho đặng về lập công danh. Nhưng ta rất cảm thương rồi đây sắt cầm biệt điệu.

(Sở dĩ Hoàng Hạc Đạo nhơn nói vậy là người đã biết rằng: rồi đây vợ của Hùng Hiệu bị chết yểu, tuy sanh đặng một đứa con trai là Hùng Khởi Phụng sau thi đỗ võ Trạng nguyên, nhưng khi lâm bồn, nàng tạ thế, không gặp mặt Hùng Hiệu trong giờ lâm chung, nên người mới nói câu "sắt cầm biệt điệu").

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe Đạo nhơn nói vậy làm lạ vội hỏi:

- Sư phụ dạy như vậy chắc là vợ tôi sau này cải giá lấy người khác phải không?

Hoàng Hạc Đạo nhơn lắc đầu bảo:

- Không phải vậy đâu, họ Mạnh vốn người con gái bền lòng trinh liệt, ngươi chớ nên lo ngại.

Nghe vậy, Hùng Hiệu trong lòng nghi hoặc liền xen vào hỏi:

- Sư phụ nói vậy thì chắc vợ tôi ở nhà có việc chi bất trắc rồi chăng?

Hoàng Hạc Đạo nhơn nói:

- Ngươi cũng không nên đi sâu vào vấn đề ấy làm gì, vì thiên cơ bất khả lậu, để ngày sau rồi sẽ biết.

Từ đó, hai người an tâm ở lại chuyên cần học đạo và luyện tập võ nghệ.

Xin nhắc qua việc Lưu Tiệp âm mưu làm cho triều đình nghi kỵ sai quan đi bắt gia quyến Hoàng Phủ Kính đem về kinh gia hình, lão ta mừng lắm, vội viết thư về nhà tỏ cho con thứ mình là Lưu Khuê Bích biết.

Lưu Khuê Bích lòng mừng khấp khởi, liền đem việc này thuật lại cho cả nhà nghe. Giang Tam Tẩu nghe được tin ấy giựt mình kinh hãi, vội vã chạy thẳng đến Hiển Vân các cho Lưu Yến Ngọc hay và bảo:

- Lạ thật, không biết vì sao linh hồn thân mẫu của tiểu thơ lại báo mộng bảo tiểu thơ hãy kết duyên cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa mà bây giờ nhà Hoàng Phủ lại tan nát, làm cho lương duyên của tiểu thơ dang dở thế này?

Lưu Yến Ngọc nghe qua ngồi chết điếng hồi lâu, đôi dòng lệ tự nhiên tuôn xuống như mưa, nàng khóc tức tưởi nói:

- Không dè mẹ tôi báo mộng để hại đời tôi!

Giang Tam Tẩu thấy thế tỏ lời khuyên nhủ:

- Thôi, tiểu thơ cũng không nên lo lắng làm gì, vì việc này ngoài mẹ con tôi ra thì không ai hay biết cả. Thế nào sau này Cố Phu nhơn cũng kén chọn cho tiểu thơ một nơi nương tựa xứng đáng.

Lưu Yến Ngọc lại khóc lớn lên nói:

- Nhũ mẫu nói như thế là lầm rồi! Tôi đây cũng có học sách thánh hiền há lại không biết câu "tùng nhứt nhi chung" hay sao? Vả lại, tôi đã vâng lời mẫu thân tôi kết duyên cùng Hoàng Phủ Công tử, mà nay công tử rủi ro bị hại, tôi không chết theo người được cũng là bất nghĩa lắm rồi, sao lại đi lấy người khác? Nhứt định tôi nguyện thủ tiết thờ chồng nhưng không biết Mạnh Tiểu thơ có thủ tiết đặng hay không?

Giang Tam Tẩu nói:

- Sao Tiểu thơi lại ví mình với Mạnh Tiểu thơ? Vả chăng, Mạnh Tiểu thơ đính uớc kết thân với Hoàng Phủ Thiếu Hoa giữa công thiên, còn tiểu thơ chẳng qua đính ước với nhau trong bóng tối mà thôi. Nếu sau này Lưu Quốc trượng cùng Cố Phu nhơn gạn hỏi tại sao tiểu thơ lại thủ tiết thì tiểu thơ sẽ trả lời ra sao?

Bằng một giọng đanh thép, Yến Ngọc nói:

- Cùng cực mà song thân tôi có gạn hỏi thì nhất định tôi chịu chết chứ không đời nào tôi chịu thất tiết.

Giang Tam Tẩu thấy Yến Ngọc là kẻ khí tiết như vậy, sợ nàng có thể liều mình tự tử nên tỏ lời khuyên giải:

- Tiểu thơ đã có lòng chung thủy như vậy thì lẽ nào trời lại không giúp đỡ. Biết đâu Hoàng Phủ Thiếu Hoa may mắn biết trước trốn đi được rồi sau này cùng tiểu thơ hội ngộ, xin tiểu thơ chớ nên phiền não mà hao tổn tấm thân.

Lời nói của Giang Tam Tẩu như một liều thuốc hồi sinh, khiến Lưu Yến Ngọc đặt bao nhiêu hy vọng ở tương lai. Từ đó nàng cầu trời khẩn phật phò hộ cho Thiếu Hoa được bình yên để cho toại lòng mong đợi.

Cách ít lâu sau, nhân ngày Nguyên đánh, các quan đến chúc thọ Cố Phu nhơn rất đông. Khi các quan về hết, Cố Phu nhơn sực nghĩ một việc, nhìn Lưu Khuê Bích lắc đầu than:

- Năm nay con đã mười bảy tuổi đầu mà không biết gì cả, mẹ nghĩ rất buồn.

Lưu Khuê Bích ngạc nhiên hỏi:

- Mẫu thân nói như vậy là nghĩa gì, thật con không hiểu nổi.

Cố Phu nhơn giải thích:

- Nhà ta vốn là nhà công hầu hiển đạt, mấy năm trước con còn nhỏ chẳng nói làm chi, chứ bây giờ con đã trưởng thành, lại sắp đến tiết Nguyên tiêu, sao con không kêu thợ mả làm đèn để tổ chức cuộc hoa đăng mua vui cho rỡ ràng thiên hạ? Con vẫn mặc nhiên làm lơ, tức là con không biết gì cả?

Lưu Khuê Bích lại nói:

- Con cũng đã nghĩ đến việc ấy. Nhưng con chỉ sợ người ta chê cười rằng nhà ta không xứng đáng bày cuộc hoa đăng đó thôi.

Cố Phu nhơn nghe nói lửa giận bốc lên, bà hằn học:

- Đã nhiều lần ta muốn hỏi vợ cho con mà chỗ nào con cũng không bằng lòng cho nên mãi đến nay vẫn chưa có dâu, thật là hổ thẹn, nay con lại tự hạ giá trị nhà mình như vậy nữa, thật là kẻ bất trị.

Lưu Khuê Bích phân trần:

- Thưa mẹ, không phải con không muốn cưới vợ, song con đã quyết chí, nếu chẳng được cùng Mạnh Lệ Quân kết duyên cầm sắt thì thà con bỏ quá một đời xuân xanh chứ không thèm đi cưới nơi nào nữa cả.

Cố Phu nhơn nghe con nói cũng muốn chiều lòng con, nhưng lại nghĩ thầm:

" Nay gia quyến của Hoàng Phủ Kính bị hại, nhưng Mạnh Sĩ Nguyên vốn dòng thi lễ, đời nào chịu cải giá cho con? Mà nếu người không bằng lòng cải giá thì làm khổ cho đời con ta biết bao".

Rồi bà lại nghĩ:

"Chi bằng ta tâu phứt với triều đình, nhờ triều đình giáng chỉ tứ hôn cho Mạnh Lệ Quân kết duyên cùng con ta thì họ Mạnh kia cũng tránh khỏi được tai tiếng".

Nghĩ đoạn, bà nói với Lưu Khuê Bích:

- Con đã mến nhan sắc của Mạnh Lệ Quân và quyết lấy nàng thì mẹ cũng chiều lòng con. Thôi để mẹ bảo chị con tâu xin Hoàng thượng ngự bút tứ hôn cho Mạnh Lệ Quân được kết duyên cùng con chẳng biết con nghĩ sao?

Lưu Khuê Bích mừng rỡ đáp:

- Nếu con cưới được Mạnh Lệ Quân thì còn gì mãn nguyện cho bằng, nhưng thân mẫu co dâng biểu về triều thì chớ nên nói đến việc bắn sai của con mà mất thể diện. Thân mẫu cứ bảo rằng con và Thiếu Hoa đều bắn trúng đích cả ba phát, song Mạnh Sĩ Nguyên lại sợ oai phong của Hoàng Phủ Kính nên đem gả con cho nhà Hoàng Phủ, và nhờ triều đình đứng trên lẽ công bằng mà giải quyết cho.

Cố Phu nhơn gật đầu rồi theo lời Lưu Khuê Bích thảo ra một tờ biểu đồng thời viết một bức thư riêng gởi cho Lưu Tiệp, dặn Lưu Tiệp bảo con gái là Lưu Hoàng hậu tâu với Thiên tử.

Bà ta viết biểu xong, Lưu Khuê Bích xem qua lấy làm hả dạ, liền gọi tên gia đinh Lưu Thăng vào trao cho hắn tiền lộ phí rất nhiều và căn dặn:

- Ngươi hãy lãnh biểu và thư này lập tức đến kinh đô trao cho phụ thân ta và nhớ khi vào yết kiến người, ngươi hãy nói rằng ta cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa cả hai đều bắn trúng đích ba mũi tên mà Mạnh Sĩ Nguyên lại hứa gả con cho nhà Hoàng Phủ, chớ đừng nói thật ra nhé!

Lưu Thăng lãnh mạng rồi lên ngựa ra roi chạy thẳng về kinh.

Khi Lưu Thăng đến kinh thành, tìm đến Lưu phủ xin vào yết kiến cùng Lưu Tiệp. Lưu Tiệp cho vào, Lưu Thăng vào quì lạy rồi dâng biểu và thư lên.

Lưu Tiệp tiếp lấy xem qua hồi lâu rồi hớn hở bảo:

- Ừ, phải làm như vậy mới rõ cái thế lực của nhà hầu tước chứ!

Rồi truyền cho Lưu Thăng ra hậu dinh nghỉ ngơi, đoạn vào tỏ lại sự tình cho Ngô Thục nương nghe và bảo Ngô Thục nương phải vào cung nói với Lưu Hoàng hậu. Ngô Thục nương vâng lời, sáng hôm sau mang tờ biểu vào cung. Lưu Hoàng hậu ân cần chào hỏi và tiếp đãi trà nước vô cùng trọng hậu.

Hoàng hậu hỏi:

- Gia đình mình độ này có bình an không? Tôi ở trong này nhớ nhung lắm nhưng không thể ra thăm được.

Ngô Thục nương nói:

- Cả nhà đều được bình yên cả, duy chỉ có nhị đệ quốc cựu chưa chốn định hôn nên Cố Phu nhơn phải bảo tôi vào đây nhờ Hoàng hậu tâu cùng Thiên tử, cậy người ngự bút tứ hôn cho.

Vừa nói, Thục nương vừa lấy tờ biểu ra trao cho Hoàng hậu. Hoàng hậu tiếp lấy, vừa xem qua một đoạn đầu đã cau mày hỏi:

- Sao thân mẫu tôi không sớm lo liệu để cho nhị đệ đã mười bảy tuổi đầu mà chưa định nhơn duyên?

Ngô Thục nương nói:

- Xin Hoàng hậu hãy bình tĩnh xem cho hết tờ biểu sẽ rõ chơn tình.

Hoàng hậu xem xong, ra vẻ nghĩ ngợi. Với trí thông minh, Hoàng hậu cũng đoán chắc rằng Lưu Khuê Bích không bắn đích đủ ba phát tên cho nên Mạnh Sĩ Nguyên mới hứa gả con cho nhà Hoàng Phủ.

Tuy nghĩ vậy nhưng Hoàng hậu thương hại cho em mình, bèn nói với Ngô Thục nương:

- Ta đoán chắc việc này do nhị đệ ta quá mê cái nhan sắc của con gái nhà họ Mạnh, nhưng nay Hoàng Phủ Kính đã đầu hàng quân giặc, cả nhà phải mang trọng tội. Mạnh Sĩ Nguyên đã hứa gả lầm làm dang dở cho cuộc đời con gái mình, vậy để tôi tâu cùng Thiên tử ngự bút tứ hôn cho Mạnh Lệ Quân kết duyên cùng nhị đệ, cho nhị đệ ta thỏa lòng.

Ngô Thục nương thấy Hoàng hậu đã bằng lòng, liền cáo từ lui gót. Hoàng hậu nói:

- Hãy ở nán lại đây dự yến tiệc với tôi cho vui sao lại về vội thế?

Ngô Thục nương đáp:

- Tôi rất cảm tạ tấm lòng trọng đại của Hoàng hậu, song chỉ sợ ở lâu Quốc trượng ở nhà trông đợi.

Nói rồi giã từ ra về ngay.

Hôm ấy, khi vua Thành Tôn bãi triều về cung, Lưu Hoàng hậu niềm nở ra tiếp rước vào rồi khiến thế nữ dâng trà. Vua vừa bưng chén trà, Hoàng hậu đã nhìn vua mở miệng cười chúm chím, vua lấy làm lạ hỏi:

- Chẳng hay Hoàng hậu cười chi vậy?

Lưu Hoàng hậu đứng dậy nói:

- Vừa rồi lão mẫu tôi ở Vân Nam có dâng biểu về tâu xin bệ hạ một việc nhưng tôi lại e ngại không dám dâng lên, nên chỉ biết cười mà thôi.

Vua Thành Tôn nói:

- Việc gì, Hoàng hậu cứ nói cho trẫm biết xem nào.

Lưu Hoàng hậu lại nói:

- Nếu bệ hạ vui lòng xá tội thì thần thiếp mới dám tâu.

- Được rồi, không bao giờ trẫm bắt tội Hoàng hậu đâu.

Lưu Hoàng hậu thấy vậy, liền lấy biểu dâng lên và làm ra vẻ ngại ngùng. Vua Thành Tôn tiếp lấy mở ra xem rồi cười gằn nói:

- Lời lẽ trong biểu văn này không thật thà chút nào cả, vì Mạnh Sĩ Nguyên đã ra làm quan đến chức Binh bộ Thượng thơ há lại không biết rõ cái oai phong của Lưu Quốc trượng to lớn đến bực nào sao, sao lại đem con gả cho Hoàng Phủ Kính? Nếu Lưu Khuê Bích mà bắn trúng đích cả ba phát thì nhất định Mạnh Sĩ Nguyên phải gả con cho Lưu Khuê Bích rồi... Căn cứ theo biểu văn này thì trẫm hiểu ngay Lưu Khuê Bích không tài nào bắn đích cả ba phát. Vì vậy, Mạnh Sĩ Nguyên mới dám đem con gái gả cho Hoàng Phủ. Quả thật lời tâu trong biểu văn này dối trá!

Lưu Hoàng hậu nghe vua nói, sợ hãi tâu:

- Bệ hạ nói vậy quả thật là một bực thánh minh, chính lúc nãy thần thiếp vừa tiếp được bức biểu văn của lão mẫu cũng có ý nghi ngờ, nhưng thần thiếp trộm nghĩ, thật đáng thương cho Mạnh Lệ Quân vì lầm mà đính hôn với Hoàng Phủ Thiếu Hoa là dở dang một đời con gái. Vậy nay bệ hạ hãy thương tình cho đứa em của tôi quá say mê nàng họ Mạnh mà hạ bút tứ hôn cho kết duyên cùng Mạnh Lệ Quân thì cả nhà thần thiếp vô cùng đội ơn.

Lời Bình:

- Tâm lý của người đàn bà không gì làm cho họ khổ tâm cho bằng trong lúc họ mang thai mà chồng phải bỏ đi xa, nhất là lúc lâm bồn mà vắng mặt chồng lại làm cho họ đau đớn hơn nữa. Chỉ có những bực gái phi thường như Từ thị mới quan niệm được sự quan trọng trong việc ra đi của chồng, nên mới đành lòng hy sinh hoàn cảnh của mình cho chồng đó thôi.

- Hoàng Hạc Đạo nhơn là một vì tiên đã từng xuất hiện chốn trần gian để chỉ bảo cho bậc trung lương thật lòng vì nước, vì vậy kẻ nào có chí lắm mới có thể gặp được. Những cảnh trí trong hồi này là do vì tiên Hoàng Hạc Đạo nhơn tự tạo ra chứ không phải thực cảnh, cho nên Hùng Hiệu và Hoàng Phủ Thiếu Hoa đã thành tâm tìm sự học đạo thì dù đi một hướng khác cũng có thể gặp tiên ông được, chứ không nhất thiết phải đến Võ Xương.

- Ở đời con gà ghét nhau vì tiếng gáy, con người ghét nhau vì thua sút chút tài ba. Lưu Khuê Bích là con nhà quyền quí cao sang lại thêm đẹp trai hiếm có thì đi tìm vợ đẹp có khó chi? Thế mà y nhất định cưới Mạnh Lệ Quân cho bằng được, mà thật ra Khuê Bích chưa từng trông thấy mặt vị tiểu thơ họ Mạnh kia như thế nào, chỉ có trong lúc thi tiễn chàng thoáng thấy Tô Yến Tuyết thôi, nhưng cũng chỉ nhìn thấy bóng gương lấp ló trong mành, thế mà chàng yêu mê yêu mệt. Do đó, ta hiểu rằng không phải Khuê Bích yêu Mạnh Lệ Quân mà là ganh tị anh chàng Hoàng Phủ kia thôi.

Cho hay làm thân con gái muốn kén chồng không nên bày cuộc tranh giành để chạm lòng tự ái kẻ khác, ngược lại con trai cũng đừng nên sao vào vòng ấy mà gây thù kết hận rất nguy hiểm.

Hồi Thứ Mười Sáu

Vua Thành Tôn ngự bút tứ hôn.

Mạnh Lệ Quân buộc lòng chịu đỡ.

Vua Thành Tôn suy nghĩ hồi lâu, gật đầu nói:

- Vừa rồi quan Khâm sai phụng mạng đi bắt gia quyến Hoàng Phủ Kính, ngờ đâu Hoàng Phủ Thiếu Hoa biết trước, trốn đi biệt tích, nên chỉ bắt được vợ và con gái y thôi. Nhưng khi giả về, đi ngang qua núi Xuy Đài lại bị một toán giặc cướp đón giết chết Khâm sai để cứu lấy mẹ con Doãn thị. Cái tội tày trời của Hoàng Phủ là như thế đó, thế mà họ Mạnh lại lầm gả con để đem tai họa đến cho con mình. Nếu nay trẩm giáng chỉ cho Lưu Khuê Bích được kết duyên cùng Mạnh Lệ Quân thì chẳng những Lưu Khuê Bích được thỏa lòng mà thôi, Mạnh Lệ Quân cũng khỏi mang tiếng xấu. Ngặt một nỗi hiện giờ Lưu Khuê Bích không có chút địa vị nào, nếu trẫm ngự bút tứ hôn thì cũng chẳng vẻ vang gì. Thôi, để trẫm phong cho hắn chức Trấn quốc Đại tướng quân rồi ngự bút tứ hôn mới xứng đáng.

Lưu Hoàng hậu tạ ơn và tâu:

- Bệ hạ có lòng tưởng đến như vậy, cả nhà tôi đội ơn vô cùng... Nhưng tôi e Mạnh Sĩ Nguyên vốn dòng thi lễ có thể người không nghe theo lời giáng của bệ hạ chăng? Vậy xin bệ hạ hãy sai một vị trọng thần phụng chiếu thơ đến nhà họ Mạnh thì họ Mạnh mới không thể từ chối được, và bệ hạ hãy ra lệnh truyền cho Lưu Khuê Bích sau khi kết hôn được mười hai ngày phải về kinh lãnh chức để cho chị em tôi được gần gũi nhau, ấy là ơn trọng của bệ hạ vậy.

Vua Thành Tôn gật đầu khen phải rồi bảo Thái giám y theo lời Lưu Hoàng hậu thảo ra một tờ chiếu thơ, sai quan tả Thừa tướng là Kỳ Thạnh Đức đi làm chủ hôn và dạy sau mười hai ngày phải đem Lưu Khuê Bích về trào lãnh chức.

Sau đó, Lưu Hoàng hậu vội viết một bức thư riêng sai nội giám đi báo tin cho Lưu Tiệp hay. Lưu Tiệp xem thư mừng vui khôn xiết, liền lấy ra sáu trăm lượng bạc mang đến dinh Kỳ Thạnh Đức.

Gia nhơn vào phi báo, Kỳ Thạnh Đức vội vã ra tận bên ngoài tiếp rước Lưu Tiệp vào nhà.

Lưu Tiệp nói:

- Chỉ vì chút lương duyên của tiện nhi mà phải phiền đến Thừa tướng, thật ơn ấy tôi không biết lấy chi báo đáp cho xứng đáng.

Kỳ Thạnh Đức nói:

- Nay tôi đã phụng thánh chỉ thì quản gì đến việc khó nhọc, vả lại tôi sắp làm một việc cho hai nhà được kết thân tất nhiên được uống rượu li bì vui biết mấy.

Lưu Tiệp nói:

- Tôi xem việc này vô cùng trọng yếu, xin Thừa tướng hãy lưu ý cho, vì rằng: Tuy Thừa tướng phụng thánh chỉ đi tứ hôn nhưng trước kia Mạnh Sĩ Nguyên đã hứa gả con cho nhà Hoàng Phủ rồi, bởi thế, tôi e va không bằng lòng chăng. Vì vậy, Thừa tướng cần phải gia tâm lắm mới có thể thành sự được.

Kỳ Thạnh Đức tự tất:

- Tôi đã phụng thánh chỉ đứng ra làm chủ hôn thì làm sao Mạnh Sĩ Nguyên dám trái mạng? Hơn nữa hiện nay cả nhà Hoàng Phủ mang trọng tội nên Thiên tử giáng chỉ tứ hôn để cho họ Mạnh kia khỏi mang tiếng cải giá thì lẽ nào họ Mạnh lại không ưng?

Lưu Tiệp gật đầu:

- Thừa tướng nói phải lắm, nhưng dù sao tôi cũng e ngại nên chỉ trông cậy vào tài năng của Thừa tướng đó thôi.

Dứt lời, Lưu Tiệp lấy sáu trăm lượng bạc ra trịnh trọng để giữa bàn nói:

- Chút của mọn này gọi là lòng cảm tạ tấm thịnh tình của Thừa tướng. Nếu sau khi hai trẻ thành thân được rồi mà Thừa tướng chịu phiền đem tiện nhi về kinh để lãnh chức thì ơn ấy ví bằng sông biển.

Kỳ Thạnh Đức nói:

- Việc ấy xin Quốc trượng chớ lo, thế nào tôi cũng phải đem lịnh lang về kinh, còn lễ vậy này thiệt tình tôi không dám nhận.

Lưu Tiệp cứ nài nỉ mãi. Cực chẳng đã, Kỳ Thạnh Đức phải nhận sáu trăm lượng bạc, Lưu Tiệp từ giã ra về.

Về đến nhà, Lưu Tiệp viết một phong thư, sai người thông tin cho Lưu Khuê Bích hay đặng Lưu Khuê Bích chuẩn bị sẵn sàng tiếp chiếu.

Hôm ấy, Kỳ Thạnh Đức vâng thánh chỉ ra đến Vân Nam, các quan địa phương hay tin đều kéo ra nghinh tiếp.

Kỳ Thạnh Đức nói:

- Ta ra đây với mục đích mang thánh chỉ đến phụ Lưu Quốc trượng đặng đọc lên cho Lưu Khuê Bích biết, vậy các quan hãy sai người đi báo trước cho Khuê Bích hay để chuẩn bị tiếp chiếu.

Các quan địa phương vâng lời, sai quân đi báo tin lập tức. Một lát sau, Kỳ Thạnh Đức mới đến dinh Lưu phủ, Lưu Khuê Bích ra tận bên ngoài nghinh tiếp vào.

Kỳ Thạnh Đức mở chiếu ra đọc, các quan mới hay trong chiếu gia phong cho Lưu Khuê Bích làm Trấn quốc Đại tướng quân và được kết duyên cùng Mạnh Lệ Quân.

Lưu Khuê Bích hớn hở cúi đầu lạy tạ rồi lập tức thay y phục thường, mặc áo mão Tướng quân, hối gia nhơn pha trà để thiết đãi Kỳ Thạnh Đức cùng các quan địa phương.

Uống xong chung trà, Kỳ Thạnh Đức đặt chén xuống nói:

- Tôi không thể ở lâu được, vậy Quốc cựu hãy chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ kết hôn cùng họ Mạnh rồi theo tôi về triều.

Lưu Khuê Bích vâng lời nhưng tỏ ý muốn bày tiệc thết đãi Kỳ Thạnh Đức.

Kỳ Thạnh Đức nói:

- Hãy lo việc lễ cưới cùng họ Mạnh cho xong xuôi rồi việc ăn uống hãy bày biện sau cũng chẳng muộn.

Nói rồi lập tức từ giã sang nhà họ Mạnh.

Xin nói qua Mạnh Sĩ Nguyên, từ khi hay tin gia quyến nhà Hoàng Phủ bị bắt, lòng hằng lo lắng, sợ Mạnh Lệ Quân phiền não nên căn dặn hết thảy người nhà đều giấu nhẹm không cho nàng hay. Nhưng linh cảm của Mạnh Lệ Quân đoán biết thế nào cũng có hung tính nên nàng thường hỏi thăm cha về việc Hoàng Phủ Nguyên soái đi đánh giặc ra thế nào? Mạnh Sĩ Nguyên cứ nói là vì giao chiến ở ngoài mặt biển, sự dọ thám rất khó khăn nên không có tin nào đích xác cả.

Một hôm Mạnh Lệ Quân buồn bã nói với Tô Yến Tuyết:

- Ta sợ Hoàng Phủ Nguyên soái đi đánh giặc lần này có thể xảy việc không may cho nên phụ thân ta không chịu nói thật, mỗi lần hỏi đến thì người cứ trả lời bằng giọng úp mở. Vậy chẳng hay ngươi nghĩ gì về cuộc nhơn duyên của ta sao này?

Tô Yến Tuyết cũng không rõ nên lại khuyên giải:

- Phàm người lương thiện thì luôn luôn có trời giúp, xin tiểu thơ chớ nhọc lòng lo lắng.

Hôm ấy Mạnh Sĩ Nguyên đang đứng ở trên lầu, bỗng có con tỳ nữ chạy vào báo:

- Nay có quan địa phương sai người đến báo tin rằng: có quan Thừa tướng họ Kỳ phụng thánh chỉ đến, bảo lão gia phải sửa soạn ra nghinh tiếp.

Mạnh Sĩ Nguyên nghe báo, giựt mình lật đật xuống lầu. Mạnh Gia Linh liền kề tai cho nói nhỏ:

- Không biết Kỳ Thạnh Đức phụng thánh chỉ đến có việc chi, hay là đến bắt Mạnh Lệ Quân nữa chăng?

Mạnh Sĩ Nguyên lắc đầu:

- Không có lý nào như vậy đây, hãy để coi thử việc gì đây.

Dứt lời, hai cha con sửa soạn áo mão để chờ nghinh tiếp. Kỳ Thạnh Đức và các quan lục tục kéo đến. Mạnh Sĩ Nguyên tiếp rước vào nhà rồi truyền gia nhơn thiết đãi trà nước.

Kỳ Thạnh Đức nghiêm giọng nói với Mạnh Sĩ Nguyên:

- Hôm nay lão phu đến đây để báo tin mừng cho lịnh ái. Hiện có chiếu thơ đây xin tiên sanh hãy mở xem để rồi lo sắm sửa tư trang cho lịnh ái.

Mạnh Sĩ Nguyên tiếp lấy chiếu thơ mở ra xem. Mạnh Gia Linh cũng bước đến cùng xem. Xem xong, Mạnh Sĩ Nguyên vô cùng căm tức, liền nói với Kỳ Thạnh Đức:

- Việc này xin Thừa tướng hãy cho phép tôi thương nghị đôi lời.

Kỳ Thạnh Đức nghe nói có ý bất bình vội nói:

- Chẳng hay tiên sanh định thương nghị điều chi?

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Trước đây tôi đã kén rể bằng một cuộc thi tiễn, nhưng Lưu Khuê Bích chỉ bắn trúng có hai phát tên cho nên tôi mới nhận sính lễ của nhà Hoàng Phủ, không ngờ Lưu Quốc trượng lại binh con, âm mưu tiến cử Hoàng Phủ Kính đi đánh giặc Phiên, làm cho nhà Hoàng Phủ phải tan nát. Nay lại ỷ thế Lưu Hoàng hậu tâu cùng Thánh thượng đặng sai Thừa tướng ra đây làm chủ hôn, bắt buộc tiện nữ phải kết duyên cùng Lưu Khuê Bích. Tôi lấy làm hổ thẹn vì đã con dòng thi lễ thì không khi nào gả con đến hai lần.

Kỳ Thạnh Đức nghe qua biến sắc mặt nói:

- Tôi cùng tiên sanh đều là những bậc đại thần trong triều đình, nay Hoàng thượng đã ngự bút tứ hôn, lẽ nào lại đi trái mạng sao? Tiên sanh nên suy sau nghĩ kỹ, thuận tình làm lễ cưới cho chúng mới phải đạo làm tôi.

Mạnh Sĩ Nguyên thấy thái độ Kỳ Thạnh Đức sợ y bảo tấu với triều đình buộc tội khi quân nên dịu giọng đáp:

- Không phải là tôi dám trái mạng, nhưng tôi sợ thế gian chê cười, cho rằng kẻ vô gia giáo nên mới có con gái mà nhận hai lần sính lễ.

Kỳ Thạnh Đức nghe nói, vẻ mặt đang bực bỗng tưoi hẳn lên, nói:

- Tiên sanh nghĩ như thế là lầm rồi! Vả chăng nay nhà Hoàng Phủ bị tội phản nghịch, nếu có thủ tiết cũng chỉ làm lỡ duyên cho lịnh ái mà thôi. Chớ như Lưu Quốc cựu tài mạo song toàn, lại được Thánh thượng ngự bút tứ hôn thì còn ai dám dị nghị? Thôi bây giờ tôi xin lui về công quán đặng đợi bên họ Lưu chọn ngày làm lễ cưới. Sau ngày cưới độ mười hai hôm thì Lưu Quốc cựu phải theo tôi về kinh để lãnh chức. Vậy tiên sinh hãy lo sắm đồ tư trang cho lịnh ái gấp mới kịp.

Mạnh Sĩ Nguyên cực chẳng đã phải y theo lời, rồi cũng xin thết tiệc đãi Kỳ Thạnh Đức, nhưng Kỳ Thạnh Đức một mực chối từ rồi lui về công quán.

Khi Kỳ Thạnh Đức về rồi, Mạnh Sĩ Nguyên trở vào nhà trong. Hàn Phu nhơn cùng gia quyến đều xúm lại hỏi thăm, Mạnh Sĩ Nguyên gọi Mạnh Lệ Quân đến, nói:

- Con ơi! Xưa nay cha chẳng dám nói đến việc nhà của Hoàng Phủ vì sợ con lo phiền, nay việc đã sắp đến nơi rồi nên cha phải tỏ bày cho con biết.

Dứt lời, Mạnh Sĩ Nguyên đem hết việc của nhà Hoàng Phủ bị tai nạn nói rõ cho con nghe. Mạnh Lệ Quân nói:

- Thế mà con đinh ninh rằng thế nào Lưu Tiệp cũng tâu với triều đình cho con là dâu của nhà Hoàng Phủ nên cho Kỳ Thạnh Đức đến bắt và con đã lập tâm bằng lòng chịu chết cho trọn đạo.

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Không phải thế đâu con ạ! Nguyên vì Lưu Hoàng hậu tậu với Thánh thượng xin người ngự bút tứ hôn cho con kết duyên cùng Lưu Khuê Bích, vì vậy triều đình mới sai Kỳ Thừa tướng đến làm chủ hôn. Cha thiết nghĩ tài mạo của Lưu Khuê Bích cũng chẳng kém gì Hoàng Phủ Thiếu Hoa, lại được Thiên tử phong làm Trấn quốc Đại tướng quân, nếu con ưng thuận thì rồi đây con sẽ đường đường là một vị mạng phụ của triều đình. Cha khuyên con nên nghe theo lời cha để tránh khỏi tội khi quân, và sau nữa lương duyên của con cũng đặng hoàn hảo.

Mạnh Lệ Quân nghe qua mấy lời, cảm thấy bầm gan tím ruột, xây xẩm mặt mày, chỉ rú lên được một tiếng "trời ôi" rồi ngã lăn ra đất bất tỉnh.

Tô Yến Tuyết thấy thế, nghĩ thầm:

"Đối với ta thì đã đính ước cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa trong giấc mộng rồi, nay công tử rủi ro mang tai họa, nhất định ta ở vậy thủ tiết trọn đời!"

Tô Yến Tuyết nghĩ vậy nên hai hàng nước mắt tự nhiên chảy xuống như mưa, rồi cùng mọi người trong nhà chạy đến đỡ Mạnh Lệ Quân dậy thoa bóp, hồi lâu nàng mới tỉnh.

Mạnh Lệ Quân gạt lệ nói:

- Hoàng Phủ Nguyên soái là một vị trung thần, đời nào lại chịu đầu hàng quân giặc để lụy đến vợ con? Theo ý con nghĩ thì Lưu Tiệp nói âm mưu với quan Tuần phủ Sơn Đông cố tình hãm hại nhà Hoàng Phủ đặng tranh mối nhơn duyên này. Nay Lưu Tiệp lại ỷ thế Lưu Hoàng hậu nên bảo tấu với triều đình giáng chỉ tứ hôn. Ôi! Nếu suy ra cho cùng thì phận nữ lưu không đủ tài để cầm dao đâm chết cha con Lưu Tiệp hòng trả mối thù cho chồng, đời nào con chịu thất thân với phường gian nịnh ấy. Thôi để con liều mình tự tử đặng tỏ lòng trinh liệt làm gương cho giới nữ lưu.

Mạnh Sĩ Nguyên không biết nói sao, đành bước tới dịu giọng khuyên nhủ:

- Con chớ nên nghĩ vẩn vơ, vì nay Thánh thượng đã ngự bút tứ hôn thì trong thiên hạ ai dám dị nghị đâu mà con ngại?

Mạnh Lệ Quân khóc tức tưởi, thưa:

- Thân phụ ơi! Con cũng biết thân phụ nói vậy chỉ vì quá thương con, nhưng chẳng lẽ con không biết câu "phụ nhơn tùng nhứt" hay sao? Con sẽ có mưu hay, quyết không để nhục nhã đến tổ tiên đâu.

Dứt lời nàng khóc rống lên vô cùng bi thảm. Hàn Phu nhơn thấy vậy liền kêu Tô Đại nương đến căn dặn:

- Mụ và Tô Yến Tuyết hãy đưa Mạnh Lệ Quân về phòng an nghỉ, và nên tìm lời khuyên giải cho hắn bớt cơn phiền não.

Mẹ con Tô Đại nương vâng lời, vội dắt Mạnh Lệ Quân về U Hương các.

Mạnh Gia Linh thấy em mình đi rồi, nói nhỏ với Mạnh Sĩ Nguyên:

- Con thiết tưởng nhà Hoàng Phủ bị tan nát đây là bởi cha con Lưu Tiệp âm mưu ám hại để tranh hôn, nếu nay mình vì chúng phải vâng lời, có phải chuốc lấy cái hổ nhục cho tổ tiên không! Vậy thì ta nên dâng biểu tâu về kinh nói rõ đầu đuôi cho Thánh thưởng hiểu rằng Lưu Khuê Bích đã phóng hỏa tại Tiểu Xuân đình quyết hại Hoàng Phủ Thiêu Hoa, nhưng hại không được mới nhờ thân phụ y tiến cử Hoàng Phủ Nguyên soái đi dẹp giặc để rồi vu tấu với triều đình, ám hại nhà Hoàng Phủ. May ra Hoàng thượng thấu rõ chơn tình, không biết chừng người thâu hồi đạo chiếu này lại cũng nên.

Mạnh Sĩ Nguyên lắc đầu đáp:

- Việc ấy không được đâu. Ta xem thế lực của Hoàng Phủ Nguyên soái lớn lao biết dường nào, thế mà còn bị Lưu Tiệp nó âm mưu tan hại cả gia sản, huống chi nay ta cả gan dâng biểu không khéo sẽ mang tội khi quân. Vả lại, tài mạo của Lưu Khuê Bích cũng chẳng kém chi Hoàng Phủ Thiếu Hoa, nay lại được gia phong quan tước nữa, nếu con có trao thân gởi phận cũng không lấy làm gì nhục nhã, sao lại đi làm một việc nguy hiểm như thế?

Mạnh Gia Linh lấy làm bất bình, nói:

- Phụ thân dạy vậy thì thà rằng ta cáo quan về ẩn dật chốn lâm tuyền cho được sạch còn hơn.

Mạnh Sĩ Nguyên thở dài nói:

- Đây chẳng qua là hoàn cảnh thúc ép nên vạn bất đắc dĩ phải tùy theo mà thôi, con chớ nói chi nhiều lời.

Mạnh Gia Linh thấy cha không bằng lòng nên không dám nói thêm nữa. Hàn Phu nhơn xen vào nói:

- Thôi, để tôi có tình khuyên nhủ xem nó bằng lòngk hông, rồi sẽ sắm đồ nữ trang, chớ tôi xem ý nó thật khó lắm đấy.

Mạnh Gia Linh trởi về phòng nói với vợ là Phương thị:

- Thân phụ ta nhát gan quá, chớ lâm cảnh như ta thì nhất định phen này đối chọi với Lưu Tiệp một phen, dầu có bị cách chức đi nữa cũng không cần, miễn cho Lưu Tiệp nó rõ mặt mình thì thôi.

Thấy chồng ra vẻ tức giận, Phương thị tỏ lời khuyên nhủ:

- Nay thân phụ ta hành động như vậy chỉ vì việc bất đắc dĩ mà thôi, vả lại Mạnh Tiểu thơ vốn người khí khái, nếu nghe lời phu quân thì chắc nàng liều mình, vậy phu quân có thương em thì nên khuyên giải mới phải chớ.

Mạnh Gia Linh nghe vợ đề cập đến tánh mạng của em mình nên chỉ biết than vắn thở dài chứ không biết nên giải quyết sao cho phải.

Nói về Mạnh Lệ Quân từ khi trở về U Hương các cứ việc khóc hoài. Mẹ con Tô Đại nương đã hết lòng khuyên nhủ mà nàng vẫn không nguôi. Thật ra, trong lòng Tô Yến Tuyết cùng Tô Đại nương cũng căm hận cha con Lưu Tiệp vô cùng nên vẫn thường âm thầm khóc lóc, cả haiu đều bỏ ăn bỏ uống, cảnh tình rất bi thiết.

Vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên thấy thế mười phần lo lắng, lại sợ Mạnh Lệ Quân có thể lén tự tử nên gọi con tớ Vinh Lang vào bảo:

- Tiểu thơ ngươi vốn con người khí khái, nên ta sợ hắn có thể liều mình tự tử, vậy đêm nay ngươi hãy ráng thức coi chừng, nếu tiểu thơ ngươi được bình an vô sự thì công lao của ngươi không nhỏ.

Con Vinh Lang vâng lời rồi vào phòng yên giấc để tối có thể thức canh chừng tiểu thơ.

Chiều hôm ấy, người ta thấy Mạnh Lệ Quân không chịu ăn cơm, Tô Đại nương theo khuyên giải hết lời mà không làm cho nàng xiêu lòng được. Đến tối, mẹ con lén giao cho Vinh Lang canh giữ rồi trở về phòng an nghỉ. Con Vinh Lang cứ mãi theo sát Mạnh Tiểu thơ không rời một bước. Qua đến canh ba, con Vinh Lang thỏ thẻ nói:

- Đêm đã khuya lắm rồi, xin mời tiểu thơi đi nghỉ kẻo tổn hại đến tinh thần.

Mạnh Lệ Quân bảo:

- Ta có chút việc khổ tâm không thể nào ngủ yên được, mi hãy đi ngủ trước đi.

Vinh Lang nói:

- Nếu tiểu thơ chưa đi ngủ thì không bao giờ tôi có thể đành lòng đi ngủ trước được.

Mạnh Lệ Quân lại nghĩ thầm:

"Nếu bây giờ ta có quyên sinh cũng uổng mạng chớ không ích gì. Chi bằng ta hãy gom góp một ít vàng bạc rồi cùng con Vinh Lang cải dạng nam trang trốn đến kinh thành, sẵn năm nay có kỳ thi hương, nếu ta thi đậu thì sang năm ta vào thi hội, may ra chiếm được Trạng nguyên, được vào làm quan tại triều, chừng ấy lập kế trừ cha con Lưu Tiệp để báo thù cho chồng và cứu đặng cả nhà Hoàng Phủ thì tiếng thơm sẽ phưởng phất muôn đời, khỏi thẹn với tấm lòng nhi nữ".

Nhưng rồi nàng lại nghĩ:

"Ta ra đi còn sợ Lưu Khuê Bích nó có thể bảo tấu với triều đình rằng thân phụ ta bất tuân vương mạng nên đem giấu ta đi chăng? Chừng ấy triều đình khép cho người về tội khi quân thì khổ biết bao nhiêu".

Nghĩ đến đây, nàng Mạnh Lệ Quân cảm thấy ruột gan rối bời, sửng sốt giây lâu, bỗng nhớ đến Tô Yến Tuyết, nàng lại nghĩ:

"Hiện nay Tô Yến Tuyết đã xinh đẹp lại giỏi nghề văn thơ không kém gì ta, vả lại nàng chưa gá duyên nơi nào, thôi để ta ra đi sẽ viết một phong thư để lại dặn phụ thân ta đem Tô Yến Tuyết trá hôn thì công việc mới vẹn toàn. Còn ta cũng nên đợi gần đến ngày cưới hãy đi để nàng không một lý do gì chối từ được".

Mạnh Lệ Quân trù tính như vậy nên yên trí nói với con Vinh Lang:

- Vinh Lang ơi! Lâu nay ta rất tin yêu mi, hôm nay ta lâm nạn, nếu có việc gì bí mật ta muốn mưu tính với mi chắc mi cũng vui lòng giữ kín chứ?

Con Vinh Lang nắm tay nàng, rơi lụy thưa:

- Tiểu thơ ôi! Lâu nay tiểu thơ đối đãi với tôi như tình cốt nhục, vậy nếu tiểu thơ có tính mưu gì chẳng lẽ tôi lại dám tiết lộ sao?

Mạnh Lệ Quân nói:

- Ta sẽ bàn với mi một việc nhưng nếu mi tiết lậu thì nhất định ta phải tự tử đấy, mi cần phải hết lòng vì ta mới phải.

Lời Bình:

- Lúc này vua Thành Tôn vừa xem xong tờ biểu của Cố Phu nhơn thì biết ngay là dối trá, không tin Lưu Khuê Bích bắn trúng cả ba phát tên, cũng khá khen cho Thành Tôn thông minh đấy; song lúc trước gian thần sàm tấu rằng Hoàng Phủ Kính đầu giặc phản quốc, sao không chút xét suy? Nếu vua nhìn lại quá trình hoạt động của vị Nguyên soái họ Hoàng Phủ kia thì ít ra cũng có chút ngờ vực, chớ có đâu lại buộc tội một cách mù quáng oan uổng cho người như vậy!

- Hoàng hậu vì thương em mà tâu vua xin giáng chỉ tứ hôn, còn vua Thành Tôn thì vì vợ, đứng ra tác hợp lương duyên cho Lưu Khuê Bích, việc này cũng không đáng trách, vì lúc này nhà họ Hoàng Phủ đối với vua là kẻ thù rồi thì bảo vua đoái tưởng đến sao được. Nếu ta có trách thì trách cho Lưu Khuê Bích ỷ thế cậy thần, ganh hiền ghét ngõ, âm mưu ám hại bạn thân mình. Sâu sắc hơn nữa là trách cả một chế độ phong kiến nó tạo cho kẻ có quyền thế hà hiếp mọi người, buộc tất cả phải cung phụng mình, và thấy ai giỏi hơn mình, thì tìm cách làm hại để nâng cao giá trị của mình, thật không gì tồi bại cho bằng.

Ngày nay chế độ ấy đã cáo chung, nhưng tư tưởng phong kiến vẫn còn tồn tại, vì vậy mới có những tranh giành địa vị, đánh đỗ lẫn nhau, nếu quan niệm được làm cán bộ là công bộc của nhân dân thì đâu đến nỗi xảy ra tình trạng nói trên!

- Việc Mạnh Sĩ Nguyên chấp thuận gả con gái mình cho Lưu Khuê Bích quả là việc làm vạn đắc dĩ, nhưng không thể không thuận, vì đây là lệnh của nhà vua, mà phận làm tôi vua bảo chết một cách vô cớ cũng phải chết thay, huống hồ việc buộc phải gả con có nghĩa gì? Nhưng làm thân con gái như Mạnh Lệ Quân, từ khi nhận sính lễ của Hoàng Phủ Thiếu Hoa chưa thấy mặt chồng mình ra sao mà đã thủy chung như thế, thật là thế gian ít có. Gẫm lại đời nay tưởng không thể tìm cho ra một cô gái như Mạnh Lệ Quân!

Hồi Thứ Mười Bảy

Mạnh Lệ Quân vẽ hình kỷ niệm,

Lưu Khuê Bích nạp sính cầu hôn.

Vinh Lang nói:

- Tiểu thơ đã xem tôi như cốt nhục thì tôi nguyện hết lòng với tiểu thơ, dẫu tôi vào sanh ra tử cũng cam lòng, há lại nỡ tiết lậu việc bí mật của tiểu thơ sao? Xin tiểu thơ cứ việc tỏ thật cho tôi biết, tôi nguyện sẽ hết lòng lo liệu với tiểu thơ.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Ta muốn cùng mi cải dạng nam trang rồi đem tiền bạc theo lén đến kinh thành. Nhân vì năm nay có khoa thi hương, nếu may ra ta thi đỗ thì sang năm sẽ vào thi hội. Nếu chiếm được khoa Trạng nguyên, tất nhiên được làm quan tại triều. Lúc ấy, ta sẽ tha hồ lập kế diệt trừ Lưu tặc để báo thù cho chồng và cứu lấy tánh mạng nội nhà Hoàng Phủ, chẳng biết mi nghĩ sao?

Vinh Lang nghe nói kinh hãi thưa:

- Sao tiểu thơ lại tính việc tày trời thế? Bước công danh đâu có dễ dầu gì? Vả chăng, đường đi từ đây đến Bắc Kinh xa mấy ngàn dặm, tôi mới nghe nói đã bắt rùng mình rồ, huống chi tiểu thơ là cành vàng lá ngọc, lâu nay không bước ra khỏi chốn khuê phòng thì làm sao có thể đi thấu được.

Bằng giọng cương quyết, Mạnh Lệ Quân nói:

- Chúng ta cải dạng nam trang rồi thì dẫu cho chân trời góc biển chúng ta cũng có thể đi đến, hà tất đất Bắc Kinh mà lấy gì làm xa?

Con Vinh Lang suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Tiểu thơ đã có lòng tiết liệt như vậy, biết đâu sẽ có hoàng thiêm yểm hộ, việc ấy tưởng cũng không đáng lo ngại, ngặt một nỗi y phục của tôi và tiểu thơ hiện giờ biết tìm đâu cho có đây.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Nay nhân tiết mùa hạ mà ta đây hàng lụa không thiếu chi, để ta cắt may vài bộ quần áo không khó. Duy chỉ có đôi giày, ta nhờ mi sáng mai mang tiền đến nói dối với anh mi, bảo công tử mượn mua hộ một đôi. Mi hãy chờ mua xong, giấu thật kỹ đem về đây cho ta, còn quần áo của mi thì hãy đánh cắp của anh mi một bộ mà mặc, chắc anh mi cũng có dư, có chi mà ngại.

Vinh Lang nói:

- Việc đánh cắp quần áo và giày của anh tôi thì không khó, chỉ có việc mượn mua giày sợ anh tôi hỏi lại công tử thì lậu sự mất.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Sao mi lại thật thà đến thế? Thế thường hễ cậy mua vật chi mà dư tiền thì ai lại hỏi đi hỏi lại làm gì, chỉ sợ đưa thiếu tiền thì người ta mới hỏi chớ. Thôi để mai ta đưa tiền cho mi khá nhiều thì chắc anh mi sẽ sốt sắng mua giùm ngay, mi chớ lo ngại việc ấy.

Vinh Lang nói:

- Tiểu thơ rành tâm lý lắm đó, nhưng hôm nay Kỳ Thừa tướng đến nói, lão gia đã nhận lời chịu gả tiểu thơ cho Lưu Khuê Bích rồi, nếu tiểu thơ định trốn đi thế nào Lưu Khuê Bích cũng tâu với triều đình đổ tội cho lão gia giấu tiểu thơ thì chắc lão gia bị tội khi quân, xin tiểu thơ suy nghĩ lại, kẻo để lụy về sau.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Chính ta cũng đã nghĩ kỹ điều đó rồi. Trước khi đi, ta sẽ viết một phong thư để lại, dặn dò Tô Yến Tuyết ở nhà thay thế giùm ta. Vả lại, Lưu Khuê Bích vốn chưa biết mặt ta thì làmsao ngờ được.

Con Vinh Lang thở dài nói:

- Chẳng biết kiếp trước Tô Yến Tuyết khéo tu thế nào mà nay lại gặp cuộc lương duyên may mắn đến thế?

Mạnh Lệ Quân nói:

- Mi nói vậy chứ theo ta nghĩ thì đã chắc gì Tô Yến Tuyết chịu thay thế cho ta sao?

Vinh Lanh nói:

- Dù sao Tô Yến Tuyết cũng là con nhà thường dân mà được kết duyên cùng Lưu Khuê Bích trở thành một mạng phụ của triều đình, lẽ nào nàng lại không chịu.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Bấy lâu nay ta cùng Tô Yến Tuyết một phút cũng không rời nhau, nàng hằng mong ước cùng ta kết duyên cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa để đặng sum hiệp một nhà, hơn nữa nàng là người nghĩa khí nên khi thấy ta bị Lưu Khuê Bích cưỡng bức, nàng đã căm hận lắm rồi thì bao giờ nàng lại chịu kết duyên cùng nó?

Con Vinh Lang vẫn giữ vững lập trường của mình, nói:

- Tiểu thơ nói vậy chứ tôi tin chắc khi Tô Yến Tuyết gặp được nhà phú quý của họ Lưu, tất nhiên nàng không còn nghĩ đến việc chi nữa đâu. Quả thật nàng đã gặp được một dịp may hiếm có.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Ta chỉ làm sao cho tròn cái danh tiết của ta và đừng để lụy đến song thân là mãn nguyện lắm rồi, ngoài ra ai sung sướng mặc ai ta không hề quan tâm đến. Vậy việc này mi hãy cố tâm giữ kín vì trừ cái kế này ra ta không còn kế nào hay hơn nữa.

Con Vinh Lang nguyện y lời, rồi chủ tớ đều vào phòng an giấc.

Đêm ấy, Hàn Phu nhơn sợ con mình liều thân tự tử nên cứ nằm thao thức hoài không sao ngủ được. Sáng hôm sau bà ta vội kêu con Vinh Lang vào hỏi:

- Hồi hôm tiểu thơ mi thức đến bao giờ mới đi nghỉ và hắn có khóc lóc nữa không?

Vinh Lang thưa:

- Tôi hết sức tìm lời khuyên nhủ nên tiểu thơ đã nguôi lòng không còn khóc lóc nữa, khoảng hết canh một là tiểu thơ đã an giấc.

Hàn Phu nhơn nghe nói lòng mừng khấp khởi, xảy thấy Phương thị đến, bà ta nói tiếp:

- Hiền tức cũng nên góp phần khuyên nhủ con Mạnh Lệ Quân để cho nó khỏi đeo phiền, nó có đặng vui vẻ ta đây mới yên lòng sửa soạn đồ nữ trang được.

Phương thị vâng dạ rồi cùng Hàn Phu nhơn thẳng đến U Hương các. Vừa thấy mặt Mạnh Lệ Quân, bà ta đã vỗ về bảo:

- Năm trước lúc nhà ta mở cuộc thi tiễn, ta thấy rõ diện mạo của Lưu Khuê Bích trông chẳng kém gì Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Ngày nay Thánh thượng lại giáng chỉ tứ hôn cho con cùng Lưu Khuê Bích kết duyên cầm sắt, mẹ thiết nghĩ thật là xứng đôi vừa lứa, sao con lại đeo phiền làm gì?

Mạnh Lệ Quân nói:

- Thưa mẫu thân, không phải con căn cứ trên sự đẹp xấu mà kén chọn đâu, nhưng chỉ vì con nghĩ trước kia đã đính ước cùng nhà Hoàng Phủ nay lại cải giá lấy con nhà họ Lưu thì thiên hạ sẽ chê cười nên con đau đớn lắm.

Hàn Phu nhơn cau mày nói:

- Con nghĩ như vậy sai rồi! Vì nay đã có chiếu thơ của Thánh thượng định việc hôn nhân thì còn ai dám đem lời dị nghị? Con là người có học thức sao không biết gì cả vậy?

Mạnh Lệ Quân giả vờ tươi cười đáp:

- Con chỉ lấy sự cải giá làm thất tiết nên rất hổ thẹn, nhưng con biết rằng đã có chiếu thơ của Thánh thượng thì không còn mang tiếng nữa. Nếu quả vậy thì cha mẹ định đâu con ngồi đó.

Hàn Phu nhơn nghe Mạnh Lệ Quân nói vậy thì tưởng nàng đã ưng thuận rồi nên mừng rỡ vô cùng. Bà dắt Phương thị lui về; khi đi qua thính đường lại gặp cha con Mạnh Sĩ Nguyên đang ngồi ở đó ngóng trông tin tức Mạnh Lệ Quân.

Mạnh Sĩ Nguyên lên tiếng hỏi:

- Việc ấy có ổn không? Con gái đã vui lòng chưa?

Hàn Phu nhơn chép miệng cười, đáp:

- Con gái ta tuy tinh khôn, nhưng vì tánh còn niên thiếu nên cũng dễ dỗ gạt.

Rồi phu nhơn thuật lại đầu đuôi cho Mạnh Sĩ Nguyên nghe và nói:

- Bây giờ thì chẳng những nó không khóc mà lại có ý vui mừng nữa.

Mạnh Sĩ Nguyên nghe nói cũng khấp khởi mừng thầm, nói:

- Thế thì phu nhơn hãy đi sắm sửa đồ nữ trang gấp lên.

Hàn Phu nhơn khen phải, rồi lấy tiền bạc sai người nhà đi mua sắm đồ nữ trang quí giá cho xứng với con mình.

Khi Hàn Phu nhơn và Phương thị đi rồi. Mạnh Lệ Quân liền mở tủ lấy hàng lụa ra cùng con Vinh Lang cắt mấy bộ y phục đàn ông, trông sắc diện không một chút ngại ngùng. Sau bữa cơm mai, nàng lấy ra năm lượng bạc trao cho con Vinh Lang đi cậy anh nó mua hộ đôi giày cho gấp.

Con Vinh Lang phụng mạng đi ngay, chẳng mấy chốc nó đem giày về; Mạnh Lệ Quân xem qua thấy giày chắc chắn, mừng rỡ cất vào tủ, rồi chủ tớ cùng may riết cho xong mấy bộ áo quần.

Đến trưa, Mạnh Lệ Quân bảo nó đi về nhà lén lấy bộ áo quần và giày của anh nó.

Vinh Lang nói:

- Việc ấy có khó chi, để sáng mai tôi đi lấy cũng chẳng muộn.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Phàm việc gì cũng cần phải chuẩn bị trước cho sẵn sàng càng sớm càng hay, nếu không chuẩn bị trước để đến đó bị khiếm khuyết trở tay sao kịp?

Con Vinh Lang khen phải, vội vã ra đi. Chỉ mấy giờ sau nó đem về đủ cả giày và quần áo. Mạnh Lệ Quân xem thấy, mừng nói:

- Ừ! Có vậy chúng ta mới sẵn sàng cải dạng nam trang chứ.

Nói rồi lấy đem cất hết vào tủ, kế thấy Tô Yến Tuyết đến.

Vừa bước vào, Tô Yến Tuyết trông thấy Mạnh Lệ Quân tươi tỉnh cùng con tớ Vinh Lang may quần áo, nàng thầm nghĩ:

"Ai ngờ một người học rộng tài cao như vầy mà lại không có khí tiết chút nào cả vậy! Quả thật con gái nhà quan phần đông là kẻ bạc tình".

Tô Yến Tuyết lên tiếng chào Mạnh Tiểu thơ, Mạnh Tiểu thơ niềm nở mời Tô Yến Tuyết ngồi.

Tô Yến Tuyết nói:

- Tôi thấy lão gia đã kêu thợ đến may quần áo cưới rồi sao tiểu thơ còn phải nhọc công may vá nữa làm gì?

Mạnh Lệ Quân mỉn cười đáp:

- Nhân lúc rảnh việc ngồi không cũng buồn nên ta may thêm vài bộ quần áo riêng để dùng càng nhiều càng hay chứ sao.

Tô Yến Tuyết khinh thầm:

"Thế mà lâu nay ta cứ tưởng nàng là cành vàng lá ngọc, ai ngờ bên trong lại chứa một tấm lòng vô cùng bỉ ổi".

Vì nghĩ vậy nên Tô Yến Tuyết ghét cay ghét đắng không thèm bước đến gần xem, cho nên nàng không biết rõ y phục ấy là của đàn ông. Tô Yến Tuyết chi ngồi ráng một tí rồi gai mắt quá vội cáo từ lui ra ngay.

Qua đến ngày hai mươi bốn, chủ tớ đã may xong mấy bộ quần áo.

Sáng hôm ấy Kỳ Thạnh Đức đến. Mạnh Sĩ Nguyên cùng Mạnh Gia Linh ra tếip rước vào nhà. Sau khi chủ khách an tọa, Kỳ Thạnh Đức nói:

- Lưu Quốc cựu đã chọn ngày hai mươi bốn tháng ba này làm lễ vấn danh, rồi qua ngày mùng hai tháng tư làm lễ thân nghinh. Vậy nay lão phu đến đây cho hay trước để tiên sanh biết mà sửa soạn.

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Vì chúng tôi mà Thừa tướng phải đi qua đi lại khổ nhọc, tôi chẳng biết lấy chi báo đáp công ơn ây cho vừa.

Kỳ Thạnh Đức nói:

- Vì có mạng lịnh Thiên tử nên dù khó nhọc đến đâu tôi cũng chẳng dám từ, vì vậy đến ngày thân nghinh tôi cũng phải thân hành đến đây nữa mới phải.

Dứt lời, Kỳ Thạnh Đức từ giã lui về.

Mạnh Sĩ Nguyên liền thuật lại cho mọi ngườik trong nhà hay biết. Con Vinh Lang nghe rõ vội vã chạy ra U Hương các nói cho Mạnh Lệ Quân hay, Mạnh Lệ Quân nói:

- Thế thì chúng ta sẽ để đến đêm ba mươi sẽ khởi hành, nhưng phải đi cho sớm chừng lối đầu canh năm mới được.

Vinh Lang ngạc nhiên hỏi:

- Sao tiểu thơ không tính đi cho sớm lại để đến cận ngày quá vậy?

Mạnh Lệ Quân giải thích:

- Ta tính ra đi cận ngày như thế là vì muốn làm cho Tô Yến Tuyết không thể nào từ chối được, phải chịu thay thế cho ta thôi.

Vinh Lang nói:

- Tô Yến Tuyết là con nhà thường dân nay được gởi thân vào nhà gia thế thì tưởng phúc bảy mươi đời rồi, chắc nàng thích lắm mới phải, chớ lẽ nào nàng từ chối sao mà tiểu thơ lo ngại?

Mạnh Lệ Quân nói:

- Mi nhận xét như thế lầm rồi! Mi không thấy tánh tình khí khái của Tô Yến Tuyết sao? Hơn nữa nàng đã lập tâm căm hận Lưu Khuê Bích về sự tranh hôn này, chắc chắn nàng không bằng lòng đâu, để sau này mi mới thấy sự nhận xét của ta là đúng. Nhưng về phần ta có một điều ta rất áy náy, là khi ta bỏ nhà ra đi không biết ngày nào mới cứu đặng phu quân và ngày nào mới gặp lại cha mẹ. Chắc là để thương đề nhớ lại cho cha mẹ, lòng ta không nỡ. Vậy nay muốn họa một bức chân dung để lại, chẳng hay mi nghĩ sao?

Con Vinh Lang gật đầu đáp:

- Tiểu thơ tính việc ấy phải lắm, vậy tiểu thơ phải vẽ gấp lên.

Mạnh Lệ Quân đi lấy cọ màu và giấy đến trước một tấm kiếng lớn rồi nhìn hình mình in trong kiếng mà vẽ.

Nàng nhắm qua, nhắm lại dung nhan của nàng rất ảm đạm u buồn nên cất tiếng than:

- Cảm thương cho số phận long đong của ta, và con đường từ đây đến Bắc Kinh xa ngàn vạn dặm, chẳng biết bao giờ phu phụ mới được trùng phùng. Ta đây chính là kẻ bạc mạng nhất trong thế gian này. Ôi! Ta có nghĩ lắm lại càng đau đớn lắm thôi.

Mạnh Lệ Quân than thở đến đây thì hai hàng lụy tự nhiên tuôn xuống như mưa. Con Vinh Lang thấy thế, bước lại khuyên giải:

- Tiểu thơ đã tính họa bức chân dung của mình để lại cho cha mẹ được yên lòng thì tiểu thơ nên cố gắng yểm lụy, chứ cứ khóc lóc như vậy chẳng lẽ lại họa bức hình với vẻ mặt đau thương thế kia ư?

Mạnh Lệ Quân thổn thức nói:

- Cảnh biệt ly này dẫu cho kẻ gan sắt dạ đồng cũng phải lay chuyển thay, huống chi ta đây cũng là kẻ máu chảy ruột mềm mà mi bảo ta đừng đau xót sao được?

Vinh Lang nói:

- Tiểu thơ khi ra đi thì cha mẹ ở nhà buồn rầu thương nhớ nên mới họa hình để lại, mà tiểu thơ lại khóc lóc rồi vẽ một bức hình với vẻ mặt đau buồn, để cho cha mẹ ở nhà khi nhớ con lại nhìn thấy vóc hình thảm não thế kia thì người lại càng đau buồn hơn nữa, chứ có ích lợi chi?

Mạnh Lệ Quân khen phải, rồi nàng đi rửa mặt, gắng gượng tươi cười, để vẽ theo. Nàng ngồi vẽ mải miết đến trưa mới xong. Nàng vốn có biệt tài cầm kỳ thi họa, nét bút của nàng thật là thần diệu.

Vẽ xong, nàng trao cho con Vinh Lang xem và hỏi:

- Mi xem thử có giống ta không?

Con Vinh Lang xem qua rồi khen lấy khen để. Hắn nói:

- Thật nét bút của tiểu thơ rất thần tình, không một đường nét nào sai sẩy cả. Tôi tin chắc không có tay họa công nào bì kịp tiểu thơ.

Mạnh Lệ Quân cầm bức hình mình nhìn hồi lâu rồi ngửa mặt lên trời than:

- Trời ơi! Có ai ngờ đâu dung nhan Mạnh Lệ Quân như vầy mà phải lưu lạc giang hồ, nghĩ xót thương biết dường nào.

Rồi nàng ngâm lên hai câu thơ:

"Đã sanh ra kiếp má hồng,

Ong xanh nỡ để long đong làm gì".

Ngâm rồi nàng đề sau bức ảnh một bài thơ nguyên văn như sau:

"Phong ba nhứt đáng phúc hà ta,

"Phẩm tiết hề kham ngọc nhiễm hà,

"Tỳ thế bất năng y tất hạ,

"Toàn thân ngưỡng tác ý thiên nha,

"Chỉ duyên đoạn tuyệt phiêu vô tuế,

"Kim cúc vinh nan khủ hữu gia,

"Tha niên lụy phát hoán ô sa".

Rồi nàng lại viết riêng một phong thư để lại, nội dung như sau:

"Vì con muốn giữ tròn danh tiết nên buộc lòng phải trốn mẹ cha; lánh mình tha phương, cam lỗi niềm hiếu đạo. Con ân hận vì không được ở nàh để hầu hạ song thân, nhưng lâm thế bí, đành phải chịu vậy.

Con ra đi là ỷ lại có Tô Yến Tuyết tài mạo cũng chẳng kém chi con, song thân có thể dùng nàng trá hôn để thay thế cho con tiện lắm, xin cha mẹ hãy thi hành mà tha thứ cho hành động của con".

Mạnh Lệ Quân viết xong bức thư, liền niêm phong lại rồi gói theo bức ảnh cất kỹ vào tủ, đoạn nói với con Vinh Lang:

- Bây giờ đây ta cần phải giấu kỹ trong tủ đợi đến lúc ra đi sẽ đem để ra ngoài. Làm như vậy mới khỏi lậu sự.

Vinh Lang cất tiếng khen:

- Tiểu thơ làm việc chi cũng rất chu đáo, thật ít người bì kịp.

Vinh Lang nói vừa dứt lời thì Tô Yến Tuyết đến. Mạnh Lệ Quân đứng dậy niềm nở chào hỏi rồi mời ngồi. Yến Tuyết thấy mấy cái cửa sổ trong phòng đều mở toang, nàng tưởng Mạnh Lệ Quân là kẻ vô tình không nghĩ đến bề trinh tiết nên cất tiếng hỏi bằng giọng mỉa mai:

- Chắc độ này tiểu thơ thong thả nên mới mở cửa sổ rộng như thế dễ thưởng hoa phải không?

Mạnh Lệ Quân cũng thừa hiểu câu nói mỉa mai của nàng nhưng vẫn bình tĩnh đáp:

- Chẳng qua là một lối giải buồn đó thôi.

Tô Yến Tuyết lại nói:

- Phải lắm mà, tiểu thơ sắp có một vị phu quân thì không thưởng hoa sao được. Hơn nữa tiểu thơ là người tài mạo kiêm toàn, nay lại gặp Lưu Khuê Bích một kẻ đa tình háo sắc thì chắc rồi đây vợ chồng sẽ đặng phỉ tình ân ái, thế thì còn điều chi nữa mà phiền, phải không tiểu thơ?

Mấy lời mỉa mai của Tô Yến Tuyết, khiến Mạnh Lệ Quân cảm thấy như mũi dao đâm thẳng vào tim nhưng nàng vẫn cố giữ vẻ thản nhiên, đáp:

- Đó chẳng qua một việc vạn bất đắc dĩ mà thôi, nhưng chưa chắc rồi đây ai sẽ ân ái với họ Lưu; để đến sau này rồi sẽ rõ.

Tô Yến Tuyết là kẻ vô tình nên không hiểu thấu câu nói của Mạnh Lệ Quân, nàng chỉ lấy làm lạ cho Mạnh Lệ Quân sao không biết giữ gìn trinh tiết. Vì vậy nàng chán nản lắm, không thèm nói thêm lời nào nữa, vội cáo từ lui ra.

Nàng vừa đi vừa nghĩ thầm:

"Lưu Khuê Bích đã âm mưu hãm hại chồng ta thì nhất định ta sẽ thủ tiết ở vậy suốt đời chứ không lấy ai cả. Đời ta chỉ biết có một Hoàng Phủ Thiếu Hoa mà thôi".

Khi về đến nhà, nàng quá uất hận, toàn thân nàng nóng bỏng lên, nàng bị bịnh rồi!

Trải mấy ngày vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên đã lo sắm sửa đồ trang sức và quần áo cho Mạnh Lệ Quân xong xuôi. Thấm thoát đã đến ngày hai mươi bốn tháng ba là ngày Lưu Khuê Bích nạp đồ sính lễ.

Ngày hôm ấy các quan viên văn võ đến chúc mừng rất đông. Trong số ấy chỉ có một mình quan Bố chánh Tần Thừa Ân trong lòng rất căm hận, nhưng khổ nỗi chức quan của người nhỏ nhoi không thể nào báo cừu cho nhà Hoàng Phủ được, nên người cáo bịnh không đến.

Lúc bấy giờ dân chúng khắp thành ai ai cũng chê Mạnh Sĩ Nguyên là người bất nghĩa, lại cũng có đôi người thông cảm hoàn cảnh bắt buộc nên đem lòng thương hại.

Khi Kỳ Thạnh Đức đem lễ sính đến Mạnh phủ, cha con Mạnh Sĩ Nguyên ra nghinh tiếp vào rồi truyền gia nhơn thết tiệc khoản đãi.

Kỳ Thạnh Đức từ chối:

- Lão phu tuổi đã già không thể dùng rượu được, hơn nữa hôm nay thế nào lão phu cũng phải qua dự tiệc nhà họ Lưu, vậy xin tiên sanh rộng lòng tha thứ cho.

Dứt lời, Kỳ Thạnh Đức từ giã ra về.

Khi Kỳ Thạnh Đức về rồ, Mạnh Sĩ Nguyên muốn cho Mạnh Lệ Quân được vui lòng nên sai nữ tỳ đem hết lễ vật ấy ra U Hương các trao cho Mạnh Lệ Quân. Con Vinh Lang vừa trông thấy những món đồ đi lễ quí giá ấy, lên tiếng trầm trồ khen ngợi; Mạnh Lệ Quân liền đem dẹp hết vào trong rương. Con Vinh Lang hỏi:

- Những món đồ này tôi xem thứ nào cũng đắt tiền cả, sao tiểu thơ không chọn vài thứ tốt để đem theo dùng trong lúc đi đường?

Mạnh Lệ Quân lắc đầu đáp:

- Của phi nghĩa ấy ta không thèm lấy đâu, vả lại nội của cải ta đem theo đây giá trị hơn ngàn lượng thì đủ dùng chán, hà tất phải lấy của ai?

Vinh Lang gật đầu khen:

- Tiểu thơ quả thật là người khí khái chẳng thèm lấy của phi nghĩa, thật ít kẻ bì. Còn xét nàng Tô Yến Tuyết thật là may phước. Đời nào có chuyện con nhà thường dân lại có thể hưởng cái của quí giá đến thế.

Mạnh Lệ Quân mỉm cười nói:

- Mi nghĩ vậy chứ theo ý ta thì đoán biết nàng sẽ uất ức đến chết tủi đi thôi, để mai đây mi sẽ thấy lời nhận xét của ta là đúng.

Con Vinh Lang nghe nàng nói không dám cãi, nhưng trong lòng vẫn không tin.

Thời giờ trôi qua rất nhanh, nhất là mỗi khi có việc bì lo sợ đến, nói lại càng đến nhanh không thể tưởng tượng. Mới đây mà đã đến ngày ba mươi tháng ba rồi.

Chiều hôm ấy, Mạnh Lệ Quân nói với con Vinh Lang:

- Đêm nay là đêm chúng ta khởi hành, vậy mi hãy mau mau đi lấy cái chìa khóa của sau đem về đây đặng khuya nay đi cho sớm.

Con Vinh Lang vâng lời dạy đi lập tức.

Lời Bình:

- Một cô gái lá ngọc cành vàng như Mạnh Lệ Quân từ thuở bé đến lớn không bước ra khỏi nhà mà toan trốn đi trên bước đường muôn dặm, dấn thân nơi góc bể chân trời, quả là một hành độgn vô cùng táo bạo. Nhưng ở đời chỉ có những hành động táo bạo mới nói lên được tư tưởng của mình, chứ những kẻ tham sanh húy tử suốt đời du dú trong nhà, đến khi nhắm mắt có ai biết đến đâu!

Mạnh Lệ Quân không thể chung tình để cho mang tiếng là con bất hiếu, và cũng không thể ưng người mà mình không ưa không thích. Nàng pảhi làm sao cho vẹn toàn cả hai mới được. Khi nàng đã nghĩ được một kế vẹn toàn rồi, thì nàng không còn buồn rầu đau khổ nữa. Cho hay ở đời con người bị đau khổ khi nào còn lưỡng lự chưa dứt khoát được con đường đi, chứ khi đã dứt khoát rồi thì trong lòng trở nên khoan khái dễ chịu. Biết vậy đời ta cũng nên vạch một con đường đi nhất định để thoát khỏi vòng sầu não.

Hồi Thứ Mười Tám

Vì tiết nghĩa, Mạnh Lệ Quân cải dạng ra đi,

Để đền ơn, Tô Yến Tuyết kết hôn thay thế.

Con Vinh Lang hiểu rõ xâu chìa khóa cửa sau là do vợ của Phan Phát cất giữ, mà tánh tình cô ả này thờ ơ lắm nên việc lấy cắp không khó.

Hắn chạy xuống lầu chỉ trong chốc lát là mang xâu chìa khóa về ngay. Mạnh Lệ Quân mừng rỡ lấy đem cất và nói:

- Thôi thế là xong cả rồi. Khuya này chúng ta sẽ ra đi, không còn sợ điều chi bất trắc nữa.

Cơm tối xong, Mạnh Lệ Quân lại bàn với Vinh Lang:

- Chúng ta ra đi không biết chừng nào mới có thể gặp lại cha mẹ ta, vậy bây giờ mi hãy bưng đèn, đặng đến lựa lời từ giã cha mẹ ta mới an lòng.

Con Vinh Lang vâng lời đi thắp đèn rồi cùng Mạnh Lệ Quân đến phòng Hàn Phu nhơn. Lúc ấy Hàn Phu nhơn đang ở trong phòng lo sắp đặt đồ tư trang.

Mạnh Lệ Quân bước đến một bên ôn tồn hỏi mẹ:

- Chẳng hay thân phụ con đi đâu vắng?

Hàn Phu nhơn đáp:

- Thân phụ con đang ở nhà ngoài lo chỉ bảo công việc cho gia nhơn nó làm, vì sợ để đến ngày mai sửa soạn không kịp.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Cần chi những việc nhỏ nhặt ấy mà song thân phải nhọc công lo lắng?

- Ồ! Sao con lại nói vậy? Việc này có quan hệ đến thể diện nhà ta lắm chớ. Cần phải sửa sang cho rỡ ràng mới được.

Rồi bằng giọng buồn thảm, Mạnh Lệ Quân nói:

- Chuyến này con từ biệt song thân không biết đến bao giờ mới gặp lại. Con xét lại cái ơn dưỡng dục của cha mẹ con chưa được báo đáp mảy may, quả thật con là đứa con đại bất hiếu.

Hàn Phu nhơn nói:

- Cố Phu nhơn có bảo cho mẹ biết rằng người dâu lớn là Lục thị đã theo Lưu Khuê Quang trấn thủ tại Nhạn môn quan rồi, nên một mình phu nhơn ở nhà rất buồn bã. Vì vậy nay con về đó được ở tại nhà, hơn nữa, sau mười hôm, Lưu Khuê Bích phải về kinh lãnh chức, con lại được trở về thăm mẹ chứ có xa cách gì đâu mà con lo ngại.

Bằng giọng úp mở, Mạnh Lệ Quân nói:

- Việc đời thật khó mà đoán ra trước được, phỏng như con không thường về thăm cha mẹ được thì xin cha mẹ cứ an tâm, cho hay sanh con gái có ra gì đâu!

Hàn Phu nhơn nói:

- Thế nhưng hễ nữ sanh thì ngoại tộc, con gái lớn lên phải đi lấy chồng, còn việc phụng dưỡng cha mẹ là nhiệm vụ của con trai.

Mấy lời Mạnh Lệ Quân, Hàn Phu nhơn những tưởng nàng sắp ra đi theo chồng nên mới nói vậy, chớ bà ta có ngờ đâu Mạnh Lệ Quân lại đến giã biệt để trốn đi, hành động theo lương tâm của nàng!

Mạnh Lệ Quân lui ra, kêu con Vinh Lang bảo:

- Mi hãy đưa ta đến phòng Phương thị nhé!

Con Vinh Lang vâng dạ rồi bưng đèn đi trước. Lúc vào đến phòng Phương thị, gặp Tô Đại nương ở đó, còn Mạnh Gia Linh thì vắng mặt.

Mạnh Lệ Quân nói với Phương thị:

- Khi em đi rồi xin chị ở nhà hết lòng phụng dưỡng song thân chứ em đây quả thật là một đứa bất hiếu.

Phương thị nói:

- Tôi đây là dâu có nhiệm vụ phụng dưỡng mẹ chồng, hà tất tiểu thơ phải nhọc lòng căn dặn. Còn tiểu thơ cũng có thể thường xuyên về thăm chứ có hề chi mà tiểu thơ phải lo lắng.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Chị nói vậy cũng phải, song đã bỏ nhà ra đi thì biết bao giờ mới đặng cùng song thân sum hiệp, vì thế việc phụng dưỡng tôi trông mong vào chị.

Phương thị giải thích:

- Phànm sanh con trai lớn lên muốn cưới vợ cho xong, còn con gái thì về nhà chồng, ấy là cái sổ nguyện của mẹ cha, nay tiểu thơ ra lấy chồng tất nhiên song thân vui lòng lắm rồi, còn việc phụng dưỡng là bổn phận của tôi, tiểu thơ chớ lo lắng làm chi.

Mạnh Lệ Quân không dám nói thêm nữa, vội bảo con Vinh Lang mồi đèn rồi từ giã lui ra.

Ra ngoài, Mạnh Lệ Quân nói với Vinh Lang:

- Ngót mười sáu năm trời ta cùng Tô Yến Tuyết sống bên nhau, nay ta sắp đi xa, lại nhờ nàng thay thế cái trách nhiệm nặng nề ấy cho ta, vậy cũng nên đến từ biệt nàng đôi câu mới phải.

Vinh Lang đáp:

- Tiểu thơ nói rất phải.

Dứt lời, hai người đi đến phòng Tô Yến Tuyết. Nàng Tô Yến Tuyết vẫn mang một lòng cừu hận Lưu Khuê Bích đã âm mưu ám hại Hoàng Phủ Thiếu Hoa làm cho lỡ dở cuộc lương duyên của nàng. Nay lại thấy Mạnh Lệ Quân đem dạ phụ phàng, không chút xót thương người mệnh bạc thì đem lòng uất hận, nhưng tiếc rằng nàng là hạng thấp thỏi không thể nói năng gì được.

Suốt mấy ngày nay Yến Tuyết quá sầu tình nên đã nhuốm bịnh nằm liệt suốt mấy ngày. Tối hôm ấy, Tô Đại nương đi qua bên Phương thị, một mình nàng ở trong phòng lại càng buồn thảm hơn nữa. Khi thấy Mạnh Lệ Quân đến, nàng vội vã ngồi dậy ra nghinh tiếp. Mạnh Lệ Quân âu yếm nắm tay Tô Yến Tuyết nói:

- Chị em ta sống chung với nhau ngót mười sáu năm trời, tình nồng đượm xem chẳng khác ruột thịt, nay em sắp phải đi xa nên đến đây xin từ biệt chị và em muốn nói với chị một lời, chẳng hay chị có bằng lòng cho em nói không?

Tô Yến Tuyết nói:

- Bao giờ tôi cũng sẵn sàng vâng theo lời tiểu thơ, chẳng hay tiểu thơ muốn điều chi, xin hãy bảo cho tôi biết.

Mạnh Lệ Quân nói:

- Mai này là ngày em sẽ đi xa, vậy ở nhà nếu song thân em có điều chi cậy đến chị, xin chị chớ từ chối, em đội ơn chị vô cùng.

Tô Yến Tuyết có ngờ đâu Mạnh Lệ Quân tính cậy nàng trá hôn, nên thật thà đáp:

- Hai mẹ con tôi mang ơn lão gia rất nặng, vả lại tôi đâu phải là kẻ vong ân bội nghĩa. Nếu lão gia và phu nhơn có cậy bảo tôi điều chi, dầu phải vào chỗ nước sôi lửa bỏng, tôi cũng chẳng dám từ nan.

Mạnh Lệ Quân mừng rỡ nói:

- Trước mặt em và có con Vinh Lang đây, xin chị khá nhớ lời, bằng phụ bặc chắc sau này đôi ta không còn gặp gỡ nữa đấy.

Tô Yến Tuyết nói:

- Tôi đã nói ra không bao giờ nuốt lời.

Con Vinh Lang đứng một bên nghe Tô Yến Tuyết nói vậy, nó cười thầm:

"Ồ, nàng Tô Yến Tuyếtt thật thà quá. Người ta cậy mình trá hôn mà không biết".

Mạnh Lệ Quân tiếp:

- Chị đã hứa như vậy em an tâm lắm.

Tô Yến Tuyết nói:

- Về việc nhà, xin tiểu thơ chớ lo. Tôi chỉ ước mong cho tiểu thơ được cùng Lưu Khuê Bích thỏa tình ân ái, sớm sanh con rồng cháu phụng là tôi vui mừng.

Mạnh Lệ Quân biết Tô Yến Tuyết nói kháy mình, liền thở dài than:

- Tôi rất cảm ơn tấm lòng tốt của chị, song việc ái ân ấy chưa biết kiếp này hay kiếp sau vậy.

Tô Yến Tuyết nói:

- Lưu Quốc cựu phải tốn biết bao tâm lực để kết duyên cho kỳ được với tiểu thơ, hơn nữa tiểu thơ là người tài mạo kiêm toàn thì khi gặp nhau tất nhiên phỉ nguyền cá nước, chớ sao tiểu thơ lại nói vậy?

Mạnh Lệ Quân lắc đầu:

- Bây giờ ta cũngk không nên bàn đến việc ái ân làm gì, ai là người ân ái với chàng để sau này sẽ rõ.

Tô Yến Tuyết tưởng Mạnh Lệ Quân nói xuyên tạc như vậy để cho đỡ thẹn, nên nàng không nói nữa, Mạnh Lệ Quân đứng dậy giã từ lui ra. Tô Yến Tuyết đưa ra khỏi cửa phòng rồi trở vào, nàng nằm lăn lên giường thở dài ngao ngán và thầm nghĩ:

"Ai có ngờ đâu một cô gái hữu tài hữu học như vậy mà không một chút lương tâm. Cho hay ở đời, địa vị và tiền bạc làm mờ ám cả lương tri là vậy đó".

Khi Mạnh Lệ Quân và con Vinh Lang về đến phòng rồi, liền đóng cửa phòng vặn lu ngọn đèn, cả hai cùng ngồi im lặng chờ cho đến khuya đặng cải nam trang.

Cả hai người im cho đến canh ba, Mạnh Lệ Quân mới lên tiếng bảo:

- Thôi đã khuya lắm rồi, chúng ta thay y phục cải trang đi là vừa.

Dứt lời, nàng vặn đèn sáng lên rồi mở rương lấy quần áo ra, đoạn hai người vấn tóc, đội khăn học trò; độn chân cho lớn để mang giày đàn ông.

Cải trang xong, Mạnh Lệ Quân đứng trước tấm kiếng cười chúm chím nói với con Vinh Lang:

- Bây giờ ta giống một trang thiếu niên anh tuấn quá nhỉ?

Con Vinh Lang nhìn nàng rồi mỉm cười đáp:

- Tiểu thơ ăn mặc như thế trông đẹp trai đáo để, tôi e gặp con gái nó mê liền!

Sau đó, Mạnh Lệ Quân đem phong thư và bức ảnh ra để trên bàn rồi quay mặt về phía nhà thờ quì lạy và lâm râm vái:

- "Chỉ vì hoàn cảnh quẫn bức nên đứa nữ tôn này đành phải ra đi mang tiếng bất hiếu, xin tổ tiên phò hộ cho, may ra lập được công danh, cứu được nhà chồng thoát khỏi vòng tai nạn. Trên bước đường lưu lạc, nếu có xảy bất trắc thì nữ tôn này nguyện vì chữ trinh mà chết cho tròn danh phận".

Khẩn nguyện ông bà xong, nàng quay qua phía phòng song thân thụp lạy và thổn thức nói:

- "Đứa con bất hiếu hôm nay phải bỏ nhà ra đi, phụ hết công sanh thành dưỡng dục, nếu may ra con lập được công danh, cứu vãn nhà chồng thì con cũng sẽ gặp gỡ song thân trở lại: bằng không, chắc con phải trôi nổi nơi đất khách quê người, đó là do nơi số phần của con mạng bạc, xin song thân tha thứ".

Dứt lời, nàng bảo con Vinh Lang ra ngoài tàu lén bắt một con ngựa rồi cùng nhau ra khỏi hoa viên. Đến đây, cả hai đồng leo lên ngựa, Mạnh Lệ Quân để con Vinh Lang ngồi trước, nàng một tay ôm con Vinh Lang, một tay nắm chặt dây cương ra roi thúc ngựa chạy nước đại.

Lúc bấy giờ trống đã điểm canh ba, con ngựa khỏe mạnh chở hai nàng con gái phi nhanh vượt gió chạy mãi đến khi vừng đông ửng hồng thì tính đã dư năm mươi dặm đường.

Bây giờ Mạnh Lệ Quân nhận thấy hai người ngồi chung một ngựa bất tiện quá nên nàng để con Vinh Lang xuống bảo nó theo sau nàng gò cương cho đi chậm chậm. Hai người đi suốt ngày hôm ấy đã hơn trăm dặm đường; Mạnh Lệ Quân nhắm người nhà có theo cũng không kịp nữa nên tìm thuê một lữ quán nghỉ ngơi để lấy sức sáng mai tiếp tục lên đường.

Nói qua Phan Phát là kẻ coi giữ hoa viên, đêm hôm ấy không chịu ở ngoài nhà gác, lại vào trong thơ phòng mà ngủ, mãi đến khuya mới thức dậy trông thấy các cửa vườn mở toang, chàng thất kinh chạy đi xem xét thì thấy xâu chìa khóa bỏ ngay dưới đất, còn cái chốt gài cửa lại ném một bên. Càng hoảng kinh hơn nữa, chàng chạy thẳng và U Hương các, lại thấy ở đây các cửa phòng đều mở trống, chàng sợ toát mồ hôi chạy riết về phòng gõ cửa kêu vợ.

Vợ là Xuân Hương vùng dậy hỏi:

- Việc gì mà phu quân hoảng kinh lên vậy?

Phan Phát vừa thở hào hển vừa thuật lại cho vợ nghe và nói:

- Ta chỉ sợ đồ sính lễ trong phòng tiểu thơ mất cả rồi thì nguy to, vậy em hãy tức tốc chạy báo tin ngay mới được.

Xuân Hương nghe chồng nói như vậy cũng lo sợ vô cùng, vộ chạy thẳng ra u Hương cát lớn tiếng gọi con Vinh Lang. Nhưng kêu hoài vẫn không nghe con Vinh Lang ứng đáp.

Lúc ấy Tô Yến Tuyết đang ngủ, nghe kêu giựt mình chạy ra hỏi:

- Việc chi mà kêu gọi dữ vậy?

Xuân Hương nói:

- Tôi thấy cửa vườn và các cửa trên U Hương các đều mở trống toang hoang, sợ mất mát đồ đạc chi chăng, nên mới kêu hỏi, vậy nhờ cô nương hãy nói giùm với tiểu thơ, bảo kiểm soát lại xem có ai mất mát gì không.

Tô Yến Tuyết nghe nói cũng hoảng kinh, vội chạy đi kêu con Vinh Lang nhưng không tìm thấy nó đâu cả, lại thấy cửa phòng khép trái lại. Nàng kinh hãi nghĩ thầm:

"Lạ thật! Hay là tiểu thơ cùng con Vinh Lang bỏ trốn đi rồi chăng? Thảo nào mấy hôm nay tiểu thơ cười cười nói nói trông như người vô tư vậy".

Nghĩ đoạn, nàng xô cửa bước vào thì thấy đồ tư trang của Mạnh Lệ Quân đâu mất hết, trong phòng lạnh lẽo vắng teo. Bấy giờ Tô Yến Tuyết mới tỉnh ngộ.

Nàng lẩm bẩm một mình:

"Ai ngời tiểu thơ lại lập tâm trốn đi! Nếu vậy quả nàng là người tiết liệt! Ta thiệt dốt quá không biết nhận xét người tý nào cả".

Nói rồi, nàng chạy thẳng xuống lầu, đến phòng Mạnh Sĩ Nguyên kề miệng vào khe cửa gọi:

- Thưa lão gia và phu nhơn hãy mau mau tỉnh dậy, Mạnh Tiểu thơ và con Vinh Lang đã trốn đi rồi!

Vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên nghe kêu, vùng dậy nhìn nhau sửng sốt và than dài:

- Chết rồi! Nếu vậy con gái ta nó làm hại ta rồi! Nay ta đã nhận sính lễ mà nó trốn đi, làm gì Lưu Khuê Bích cũng tâu với triều đình bảo rằng ta gian giấu, ắt phải mang tội khi quân.

Vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên tức tốc thẳng đến U Hương các đồng thời sai nữ tỳ đi báo cho Mạnh Gia Linh biết, chẳng dè lúc ấy Tô Yến Tuyết cùng Mạnh Gia Linh và Tô Đại nương đã đến U Hương các trước rồi. Khi Mạnh Sĩ Nguyên bước vào phòng thì thấy đồ sính lễ của Lưu gia đều còn đủ cả, chỉ mất một mình đồ đạc của Mạnh Lệ Quân mà thôi. Tô Đại nương chợt thấy trên bàn có một gói giấy liền lấy đem trao cho Hàn Phu nhơn.

Hàn Phu nhơn mở ra xem thấy một phong thư và một bức họa chân dung giống hệt Mạnh Lệ Quân, Mạnh Sĩ Nguyên bước lại lấy thư xem xong, hai hàng nước mắt tuôn xuống như mưa và cất tiếng than:

- Con ôi! Con nỡ lòng nào xa lìa cha mẹ! Nay con bày kế "di hoa tiếp mộc" này để cứu lấy tánh mạng cha mẹ đây ư?

Mạnh Gia Linh cũng lấy thư xem qua rồi nhỏ lệ thưa:

- Việc này thật là lỗi tại nơi thân phụ, vì con thừa biết tánh tình em con nhất định không khi nào chịu để nhục nhã thân danh đâu. Bây giờ sự việc đã đến nước này thì xin thân phụ hãy y theo kế em con mà làm để tránh tai họa cho gia đình.

Hàn Phu nhơn thấy vậy cũng nghĩ thầm:

"May cho Tô Yến Tuyết, khi không mà gặp mối lương duyên rạng rỡ, thật là đại phước biết dường nào!".

Nghĩ rồi lên tiếng nói:

- Kế ấy hay lắm! Vì Tô Yến Tuyết nhan sắc cũng tuyệt vời, tài học cũng xuất chúng, có thể giả làm Mạnh Lệ Quân được.

Nói rồi vội lấy bức thư trao cho mẹ con Tô Yến Tuyết xem. Tô Yến Tuyết xem qua, mặt mày thất sắc, hồn xiêu phách lạc, nàng trách thầm:

"Sao tiểu thơ lại nỡ dùng cái kế độc địa quá vậy! Ta đây đời nào chịu phụ lời thề trong mộng với chàng Hoàng Phủ Thiếu Hoa?"

Lời Bình:

- Mạnh Lệ Quân bằng lòng lấy Lưu Khuê Bích thì Tô Yến Tuyết vô cùng khinh bỉ, mặc dù bề ngoài nàng phải vâng lời Mạnh Sĩ Nguyên đến khuyên Mạnh Lệ Quân nên chấp thuận. Nhưng khi biết được Mạnh Lệ Quân quyết từ hôn và trao phần trách nhiệm ấy lại cho nàng thì nàng lại càng đau khổ không biết bao nhiêu mà kể, vì xét mối tình yêu thương Hoàng Phủ Thiếu Hoa, giữa nàng và Mạnh Lệ Quân thì chắc chắn tình nàng sâu đậm hơn. Tuy vậy, Mạnh Sĩ Nguyên nuôi nàng từ bé đến lớn, Mạnh Lệ Quân lại đối xử với nàng như chị em ruột thịt, làm sao nàng có thể để cho người ân mình bị tội khi quân? Tô Yến Tuyết phải hy sinh, thay thế địa vị Mạnh Lệ Quân để trả ơn, trong lúc mọi người xung quanh đều cho nàng là hạnh phúc thế mà nàng chết ruột chết gan, thật là một nghịch cảnh đáng thương thay!

- Nếu đứng bên ngoài mà xét thì Tô Yến Tuyết lấy Lưu Khuê Bích thật là thuận cảnh vì nàng là phận hèn lấy được chồng như Lưu Khuê Bích đã là quá lắm rồi, hơn nữa nàng không phải là người đã hứa hôn với Hoàng Phủ Thiếu Hoa, nhưng nàng đã biết khinh khi Mạnh Lệ Quân khi thấy Mạnh Lệ Quân chấp thuận Lưu Khuê Bích, thì tất nhiên lương tâm sẽ giày vò Tô Yến Tuyết khi nàng làm một việc trái lương tâm.

Hồi Thứ Mười Chín

Ngũ Minh lầu, Lưu Khuê Bích bị hành thích,

Côn Minh Trì, Tô Yến Tuyết chịu trầm châu.

Tô Yến Tuyết khóc lóc nức nở, chắp tay thưa trong tiếng uất nghẹn:

- Lưu Khuê Bích là kẻ đại gian đại ác đã nhẫn tâm âm mưu hãm hại cả nhà họ Hoàng Phủ, nay lại làm cho tiểu thơ phải bỏ nhà trốn đi, không biết rồi đây tiểu thơ phải sống chết như thế nào. Tôi là kẻ đã thọ ơn lão gia và phu nhơn rất nhiều, nhưng tiếc vì thân liễu yếu phận hèn, không thể trả thù cho tiểu thơ được, nay lại còn mặt mũi nào có thể kết duyên với quân thù nghịch. Vả chăng, Hoàng Phủ Thiếu Hoa là người trung hậu, thế nào cũng có Hoàng thiên phù hộ; rồi đây người sẽ xuất hiện giết giặc cứu phụ thân về triều. Đến lúc ấy bao nhiêu mưu gian của họ Lưu đểu bị bại lộ tất nhiên toàn gia bị trừ diệt, vậy bây giờ tôi dại gì chui vào cửa tử? Xin lão gia hãy dâng biểu về triều bảo rằng tiểu thơ đã thủ tiết trốn đi chớ việc này chắc tôi không thể nào vâng lời được.

Mạnh Sĩ Nguyên nghe nói toát mồ hôi, bảo:

- Ta đã lỡ nhận sính lễ của họ Lưu rồi, nếu nay có tâu lên vua, người cũng cho ta là dối trá đem con giấu đi và khép ta vào tội khi quân, nguy lắm! Xét ra tài mạo của ngươi cũng tương đương với Mạnh Lệ Quân, nếu ngươi vui lòng thay thế để cứu lấy tính mạng của nhà ta thì ơn ấy rất trọng. Vậy bây giờ vợ chồng ta sẽ nhận ngươi làm con gái, ngươi chớ nên chối từ.

Tô Đại nương nghe nói, nghĩ thầm:

"Đây là một cơ hội tốt cho con ta mà trăm ngàn người khác cầu xin cũng không được, thế sao con ta lại dại dột chối từ là nghĩa lý gì?".

Nghĩ rồi, bà lên tiếng nói:

- Mẹ con ta chịu ơn lão gia rất nặng, ngày nay lão gia rủi vướng lấy tai nạn như vầy, con chớ nên chối từ.

Rồi bà kề tai nói nhỏ với Yến Tuyết:

- Phận mình là hạng dân giã, nay gặp được cuộc lương duyên thế này là hạnh phúc lắm, sao con lại chối từ?

Bà giục Tô Yến Tuyết bảo phải lạy lão gia và phu nhơn để nhận làm cha mẹ.

Lúc ấy Tô Yến Tuyết bầm gan tím ruột, nàng nghĩ thầm:

"Mẹ ta chỉ muốn làm sui nhà họ Lưu cho được vinh hiển với đời, song người có biết đâu, rồi đây người sẽ mất một đứa con gái! Nhất định phen này ta về nhà họ Lưu sẽ mang theo một con dao nhỏ đặng giết chết Lưu Khuê Bích báo thù cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Tiểu thơ, rồi sau đó ta sẽ tự sát cho toàn danh tiết".

Nghĩ rồi, nàng tươi tỉnh nét mặt lại thưa:

- Thưa lão gia, tôi đâu dám chối từ, nhưng việc lương duyên này là của tiểu thơ, nay nhân lúc xảy ra tai biến tôi lại đi tranh cướp như vậy sao phải lẽ.

Vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên đồng thanh nói:

- Nay tiểu thơ đã bỏ nhà trốn đi, nếu giải quyết không xong tất nhiên chúng ta bị tội với triều đình. Ngươi chịu thay thế tức là cứu mạng chúng ta, cũng là người báo ơn cho ta, sao lại bảo là tranh cướp?

Tô Yến Tuyết cúi lạy và thưa:

- Nếu vậy, con xin lạy lão gia và phu nhơn để nhận làm cha mẹ.

Tô Yến Tuyết lạy xong, vừa đứng dậy, Mạnh Gia Linh vội bước đến làm lễ anh em, nàng Phương thị cũng làm lễ chị dâu. Mạnh Sĩ Nguyên cho gọi hết tôi trai tớ gái trong nhà đến, bắt phải gọi Tô Yến Tuyết bằng Mạnh Tiểu thơ và cấm không cho ai được tiết lộ ra ngoài.

Ai nấy đều vâng mạng và nghĩ thầm:

"Tô Yến Tuyết mà gặp mối lương duyên này thật là đại phước cho nàng".

Riêng phần Tô Đại nương thì mừng rỡ khôn cùng. Hàn Phu nhơn lại nói với Mạnh Sĩ Nguyên:

- Nay Tô Yến Tuyết đã chịu thay thế con Mạnh Lệ Quân rồi, việc này tất yên. Vậy ta hãy sai người đi tìm nó về để khỏi phải tha phương lưu lạc.

Mạnh Sĩ Nguyên cũng quá thương con nên đồng ý nói:

- Phu nhơn nói rất hợp ý tôi, chắc nó đi cũng chưa xa lắm đâu, để ta cho người theo kêu lại.

Mạnh Gia Linh liền cản lại, nói:

- Không được đâu! Cha mẹ há lại không biết tánh ý của em con sao? Nếu có gặp đi nữa, chắc chắn em con không về; vả lại em con ra đi đem theo rất nhiều tiền bạc, mà đời này là đời kim tiền, có việc chi mà ngại. Em con lại là người độ lượng, tánh tình lại sâu sắc, dè dặt, không thể nào bị thiệt hại đến thân đâu.

Vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên nghe nói hiểu ý, gật đầu đáp:

- Lời con nói phải đấy, vậy ta cũng không nên theo đuổi làm gì, rủi lậu sự có thể mang tai họa.

Câu chuyện vừa đến đây, xảy thấy bọn gia nhơn giữ ngửa chạy vào báo:

- Đem nay trong chuồng đột nhiên mất hết một con ngựa và một bộ yên, nhưng cửa chuồng vẫn đóng y nguyên, chúng tôi không hiểu sao cả.

Mạnh Sĩ Nguyên nghe báo biết ngay con ngựa ấy do Mạnh Lệ Quân bắt, nên thản nhiên nói:

- Thôi, việc đã lỡ rồi, ta tha cho chúng bây lần đầu tiên. Từ rày về sau phải coi sóc cho cẩn thận, đừng để sơ thất nữa, không được đấy.

Bọn gia nhơn thấy chủ khoan hồng, mừng rỡ lạy tạ lui ra. Hàn Phu nhơn lại nói nhỏ với Mạnh Sĩ Nguyên:

- Dù sao con Tô Yến Tuyết cũng không phải là con ruột của ta, vậy thì của hồi môn ấy ta chọn một vài thứ nào tốt để lại dùng, chớ nên để cho nó nhiều quá.

Mạnh Sĩ Nguyên gật đầu khen phải nên Hàn Phu nhơn vội đi chọn lựa ngay.

Bấy giờ bên Lưu phủ, cả nhà lo sắm sửa rộn ràng, Lưu Khuê Bích nghĩ thầm:

"Mạnh Lệ Quân vốn người văn học cho nên cuộc động phòng hoa chúc ta cần phải lập tại chốn hoa viên gần bên Côn Minh trì, trước phong cảnh nên thơ, đặng nàng có điều kiện thưởng thức cảnh thanh nhàn, làm thơ ngâm vịnh cho thỏa tình".

Nghĩ rồi, chàng sai gia nhơn sắm sửa chỗ động phòng tại đó. Sáng hôm sau là ngày mồng hai, tức ngày lễ cưới, các quan văn võ đến chúc mừng đông đảo, duy chỉ có quan Bố chánh Tần Thừa Ân không đến. Lưu Khuê Bích mặc đồ tam phẩm, vẻ mặt hớn hở bước ra chào mừng quan khách niềm nở.

Một lát sau, Kỳ Thạnh Đức đến, Lưu Khuê Bích cùng các quan bước xuống thềm nghinh tiếp. Kỳ Thạnh Đức đáp lễ cùng mọi người rồi bước vào nhà, trà nước xong xuôi, Kỳ Thạnh Đức hỏi Khuê Bích:

- Đã sửa soạn lễ vật xong xuôi chưa?

Khuê Bích đáp:

- Thưa xong cả rồi, chỉ còn đợi lịnh Thừa tướng nữa thôi.

Kỳ Thạnh Đức gật đầu ra vẻ hài lòng rồi đứng dậy tạ từ các quan, bước lên kiệu để sang Mạnh phủ làm lễ thân nghinh.

Đến nơi, cha con Mạnh Sĩ Nguyên ra nghinh tiếp vào nhà rồi hối gia nhơn bày tiệc rượu, nhưng Kỳ Thạnh Đức đã khoác tay cáo từ:

- Thôi, tiên sanh chớ bày biện yến tiệc làm gì, vì bây giờ đã đến giờ tốt, tiên sanh hãy đưa lịnh ái khởi hành gấp mới kịp.

Mạnh Sĩ Nguyên vâng lời lui vào hậu đường truyền bảo. Lúc ấy Tô Đại nương đã sửa soạn cho Tô Yến Tuyết xong rồi, nhưng vô tình không thấy nàng có giấu con dao nhỏ trong mình.

Tô Yến Tuyết đội mão mặc áo trông dung mạo đẹp như tiên nữ. Mạnh Sĩ Nguyên sai hai con tỳ nữ vào dắt nàng ra; nàng cúi lạy vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên. Mạnh Sĩ Nguyên cho mời Tô Đại nương vào ngồi chỉnh tể và nói:

- Mụ đã có công nuôi nấng tiểu thơ từ bé đến lớn, vậy hãy ngồi lại đây cho nó lạy để trả ơn.

Tô Đại nương giả cácg từ chối nói:

- Thưa, tôi đây phận hèn, không xứng đáng nhận cái lạy của tiểu thơ.

Vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Không thể như thể được, hãy nhận cho tiểu thơ lạy mới phải lẽ.

Hàn Phu nhơn bước lại kéo Tô Đại nương đến ngồi tại ghế giữa và bảo Tô Yến Tuyết lạy. Tô Đại nương nói:

- Tôi nhận như thế này thật là vô lễ quá!

Nói rồi bước xuống đỡ Tô Yến Tuyết dậy, khiến Tô Yến Tuyết cảm thấy xốn xang vô cùng, nàng nghĩ thầm:

"Phen này ta từ biệt mẹ ta, chẳng biết bao giờ mới được gặp người và không biết ta có còn ở dương trần để gặp người không? Ôi! Thảm thiết biết dường nào!"

Lúc ấy kiệu hoa đã đem đến chờ sẵn ngoài cửa. Cực chẳng đã, Tô Yến Tuyết phải vịn hai con tỳ nữ bước đi từng bước nặng nề, Hàn Phu nhơn cũng theo đỡ nàang lên kiệu rồi mới trở vào.

Người ta thấy trước kiệu hoa có treo một tấm biển vàng đề bốn chữ "ngự tứ hoàn hôn" còn các của hồi môn thì đem theo bày la liệt. Hôm ấy dân chúng đi xem như hội, ai nấy đều trầm trồ khen ngợi.

Kiệu hoa vừa đến Lưu phủ, đã nghe bên trong tuyên bố đúng giờ hoàng đạo, nên người ta vội rước Yến Tuyết vào cùng tân lang làm lễ hoa chúc ngay tại nhà trong.

Bên ngoài, các quan viên điều nói với Kỳ Thạnh Đức:

- Xin mời ngài hãy vào xem lễ hoa chúc!

Kỳ Thạnh Đức làm bộ dụ dự, nhưng kỳ thật trong lòng cũng muốn xem, vì trước kia ông đã nghe quan Bố chánh Tần Thừa Ân thuật chuyện lại nào là việc thi tiễn, phóng hỏa, cùng việc tiến cử Hoàng Phủ Kính đi đánh Phiên tặc nên lão ta không hiểu nhan sắc của Mạnh Lệ Quân như thế nào mà Lưu Khuê Bích lại phải đắm say đến thế? Vì vậy, khi nghe các quan mời vào, Kỳ Thạnh Đức cười nói:

- Không biết lão phu vào xem mặt tân nhơn có nên không?

Các quan đều nói:

- Có việc chi mà không nên.

Kỳ Thạnh Đức đứng phắt dậy ung dung bước vào; lúc ấy tân nhơn trên đầu có phủ một chiếc khăn lụa mỏng nên không nhìn rõ được, nhưng xem qua cốt cách yểu điệu dịu dàng, mình hạc sương mai, cũng có thể biết được tân nhơn đẹp đến mức nào rồi.

Các quan xầm xì khen ngợi chẳng cùng. Kế đó tân lang và tân nhơn làm lễ thiên địa rồi cùng quay về hướng Bắc tạ ơn triều đình, đoạn vào lạy Cố Phu nhơn rồi mới dắt nhau ra Ngũ Minh lầu làm lễ hiệp cẩn. Đến đây, hai con nữ tỳ lấy cái khăn phủ trên mặt nàng xuống.

Lưu Khuê Bích nhìn rõ, quả nhiên là mỹ nhơn mình đã trông thấy trên Xuân Minh lầu lúc mình thi tiễn trước kia, lòng mừng khấp khởi, chàng cố nắn nụ cười hữu duyên nới với Tô Yến Tuyết:

- Lúc trước tôi đến thi tiễn, không phải là nghề bắn của tôi dở đâu, chỉ tại tôi trông thấy phu nhơn ở trên lầu mà mê mẩn cả tâm thần, vì vậy mà run tay bắn trật phát thứ ba, chắc khi ấy phu nhơn cũng lo cho tôi lắm phải không?

Tô Yến Tuyết ghét cay đắng cái giọng si tình ấy, nàng nói thầm:

"Thằng thất phu, mi tưởng được như vầy là đắc chí lắm sao? Đừng lầm! Nội trong đêm nay mi sẽ biết tay ta".

Lưu Khuê Bích thấy nàng không đáp, tưởng nàng hổ thẹn nên ngồi xuống mời uống rượu, nhưng Tô Yến Tuyết vẫn làm lơ. Lưu Khuê Bích không biết sao đành ngồi rót rượu uống một mình.

Khi rượu được vài tuần, xảy nghe ở dưới lầu có tiếng bẩm lớn:

- Nhà ngoài đã bày yến tiệc xong, xin mời Quốc cựu hãy ra tiếp khác.

Cực chẳng đã Lưu Khuê Bích phải xuống lầu ra đi, chớ trong lòng lưu luyến tân nhơn không muốn rời nàng một bước.

Nhắc qua Lưu Yến Ngọc, từ khi nàng nghe Mạnh Lệ Quân bằng lòng kết duyên cùng Lưu Khuê Bích, thường nghĩ thầm:

"Nếu Mạnh Lệ Quân mà thất tiết như vậy thì sau này may ra Hoàng Phủ Thiếu Hoa có cứu đặng phụ thân về triều rồi, chắc ta sẽ được làm chánh thất".

Nhưng rồi nàng lại thầm tiếc cho Mạnh Lệ Quân nên thở dài:

"Tiếc thay một người hữu tài hữu học như vậy mà không biết thủ tiết thờ chồng. Nay nàng đã đến đây, để ta vào xem mặt nàng thử ra thế nào mà lại khiến cho cả nhà Hoàng Phủ Kính phải tiêu tan tận mạt".

Nghĩ rồi, nàng rời khỏi phòng mình rón rén bước sang, nhưng khi đến nơi trông thấy Lưu Khuê Bích còn ở đó nên nàng phải trở lại. Đợi một lát sau Lưu Khuê Bích đi rồi, nàng mới sang chào Tô Yến Tuyết.

- Em xin chào chị.

Tô Yến Tuyết thấy Lưu Yến Ngọc hình dung xinh đẹp, lại lễ phép nết na nên vội đứng dậy mời ngồi. Hai người cùng nhau uống trà trò chuyện.

Lưu Yến Ngọc nói thầm trong lòng:

"Ta tưởng đâu nhan sắc Mạnh Lệ Quân xinh đẹp đến nỗi chim sa cá đắm, song cũng chẳng hơn gì ta".

Lưu Yến Ngọc nói:

- Em cũng có theo đòi nghiên bút đôi chút, song nghề văn thơ không được thạo mấy, bấy lâu nay em trộm nghe tiếng chị lẫy lừng, nay may có chị về đây, xin chị vui lòng chỉ giáo cho em.

Tô Yến Tuyết khiêm nhường:

- Tuy tôi cũng biết chút ít về văn thơ, song cũng chỉ học hỏi của người xưa mà thôi. Tiểu thơ tôn quá lời, thật tôi lấy làm hổ thẹn.

Lưu Yến Ngọc nói:

- Chị là người khuê các giai nhơn, hà tất phải khiêm nhường làm gì?

Tô Yến Tuyết nghĩ thầm:

"Chẳng bao lâu đây ta sẽ đâm chết Lưu tặc, tất nhiên ta cũng phải tự vận, nhưng ta cầm dao tự đâm mình thì đau đớn lắm, vậy ta nhơn lúc này tìm cách chuẩn bị cái chết thế nào cho khỏi đau đớn thì hay hơn".

Nghĩ rồi, Tô Yến Tuyết hỏi Lưu Yến Ngọc:

- Chẳng biết ở đây có phong cảnh chi đẹp không?

Lưu Yến Ngọc đáp:

- Phía trước Ngũ Minh lầu này là đường cái, phía sau là vườn hoa, kế đâ là hồ Côn Minh, một cái hồ rộng lớn, ghe thuyền qua lại dập dìu, vì vậy phong cảnh vô cùng thơ mộng tưởng ít nơi đẹp bằng. Nếu chị thích, em sẽ dẫn chị đến đó xem chơi.

Tô Yến Tuyết nghe nói liền nghĩ ngay một kế:

"Thế thì hay lắm, sau khi hạ sát rồi, ta sẽ trầm mình xuống hồ ấy là tiện hơn cả, làm như vậy thân thể ta mới khỏi đổ máu".

Nghĩ rồi Tô Yến Tuyết đáp:

- Thế thì tiểu thơ hãy vui lòng dẫn tôi ra đó xem qua một tý nào.

Lưu Yến Ngọc vâng lời, đứng dẫh dẫn Tô Yến Tuyết đi ra bờ hồ, hai người cùng leo lên lầu ngồi phía trong bao lơn để xem phong cảnh. Tô Yến Tuyết ngồi suy nghĩ hồi lâu rồi gọi con nữ tỳ bảo:

- Cái bao lơn che khuất bất tiện quá, chi bằng gỡ nó đi thì hay hơn.

Con tỳ nữ vội vàng mở cái bao lơn dẹp đi. Tô Yến Tuyết thấy trống trải có ý mừng thầm nên giả ý ngồi nán lại chuyện trò, nhưng trong thâm tâm nàng chờ cho Lưu Khuê Bích đến để nàng ra tay hạ sát, còn Lưu Yến Ngọc vô tình tưởng nàng vẫn là chị em ý hiệp tâm đầu nên nói nói cười cười vui vẻ.

Hôm ấy ngoài nhà, quan khách rộn ràng. Đến xế chiều, Kỳ Thạnh Đức cảm thấy mình già cả không thể ở lâu được nên đứng dậy cáo từ, Lưu Khuê Bích theo cầm lại, nhưng Kỳ Thạnh Đức quyết cáo lỗi ra về, rồi sau đó các quan cũng lần lượt về hết.

Bấy giờ, Khuê Bích mới thấm rượu say xình xoàng, chàng trở vào Ngũ Minh lầu, nhưng vào đến nơi không thấy nàng Mạnh Lệ Quân đâu cả, chỉ thấy hai con nữ tỳ. Khuê Bích ngạc nhiên hỏi:

- Tân phu nhơn ta đâu rồi?

Hai con nữ tỳ thưa:

- Tân phu nhơn cùng với Lưu Tiểu thơ đi ra phía hậu lầu để ngắm xem phong cảnh.

Nghe nói, Lưu Khuê Bích lật đật chạy thẳng ra hậu lầu, lúc ấy Tô Yến Tuyết đang ngồi trầm tư nghĩ ngợi:

"Rồi đây ta sẽ trầm thân dưới hồ này, tất nhiên được trong sạch. Linh hồn ta sẽ theo phò hộ Hoàng Phủ Thiếu Hoa cùng Mạnh Lệ Quân được gặp gỡ nhau. Ôi! Nào ai có biết chốn này là nơi an giấc ngàn thu của ta".

Vừa nghĩ đến đây, xảy thấy Lưu Khuê Bích hăm hở chạy đến, Lưu Yến Ngọc vội vã đứng dậy chào anh, Khuê Bích gằn giọng khiển trách Lưu Yến Ngọc:

- Chiều tối ở đây hơi nước lạnh lùng, mà chị em trông người yếu đuối, sao lại dẫn ra chỗ gió máy mày?

Lưu Yến Ngọc nghe nói lấy làm khó chịu, nàng nghĩ:

"Chị ta cũng đồng một tuổi với ta, thế mà anh ta lại lo cho chị bị lạnh, rầy la ta như vậy thật không biết nghĩ suy tí nào cả. Thế mới biết ta đây là kẻ bị bạc đãi nhất, nào ai đoái thương đến đâu".

Rồi Lưu Khuê Bích quay qua nói với Tô Yến Tuyết:

- Em nó khờ dại nên khiến cho phu nhơn bị lạnh, vậy phu nhơn hãy cùng ta đi về phòng dùng rượu cho ấm.

Nói rồi trỗi lên một giọng cười mơn trớn, vói nắm tay Tô Yến Tuyết dắt đi.

Lưu Yến Ngọc thấy vậy cười gằn, nghĩ thầm:

"Anh ta thật không biết hổ thẹn tí nào, còn ta ở đây mà hành động quá sỗ sàng!".

Nghĩ rồi Yến Ngọc liền bỏ đi chỗ khác, còn Tô Yến Tuyết thì lửa giận phừng gan, nàng nghiêm giọng mắng:

- Lưu Khuê Bích. Mi quả là con người vô liêm sỉ. Khi đến thi bắn thua người ta đã không biết thẹn, còn đem lòng tàn ác đốt Tiểu Xuân đình ám hải bạn thân, may ra người ngay có trời phò hộ nên mới thoát khỏi tai họa. Sau đó mi vẫn chưa vừa lòng, còn thông mưu với cha mi lập kế tiến cử Hoàng Phủ Nguyên soái đi đánh giặc, để rồi tàn hại cả nhà họ Hoàng Phủ. Bây giờ mi còn thông mưu với chị, tâu cùng Thánh thượng giáng chỉ tứ hôn. Tội ác mi kể sao cho xiết! Chỉ có cái chết của mi mới có thể đền tội được thôi. Mi đừng tưởng lầm rằng đã cưới ta được về đây là đắc chí vênh mày vác mặt, không đời nào ta chịu thất thân với mi đâu.

Bị nàng mắng xối xả, Khuê Bích cảm thấy nóng ran cả mặt mày, nhưng bởi chàng quá say mê sắc đẹp trước mặt, nên chàng đứng trân ra nghĩ thầm:

"Ta đã gầm chiếm được thể xác của nàng, nếu ta nóng giận thì hỏng cả, chi bằng nhẫn nhục đi là hơn".

Vì nghĩ vậy nên Khuê Bích cố gượng cười nói:

- Nay Thánh thượng đã giáng chỉ tứ hôn là vinh hạnh lắm, sao phu nhơn lại nói thế? Hay phu nhơn chưa có phước được làm một bà mạng phụ của triều đình? Dầu sao phu nhơn cũng còn son trẻ, ta không chấp nhứt đâu, thôi hãy cùng ta về loan phòng đi.

Dứt lời, Khuê Bích xáp tới toan nắm tay Tô Yến Tuyết lần nữa. Tô Yến Tuyết nhìn ánh mắt dâm đãng của anh chàng họ Lưu, nàng cảm thấy rùng mình nghĩ thầm:

"Ta định phục rượu cho hắn thật say rồi hạ thủ cho chắc chắn, nhưng hắn hành động theo cái lối này ta e không thể thi hành được, chi bằng ta đâm phứt tại đây rồi luôn tiện nhảy xuống Côn Minh trì cho rồi".

Nghĩ đoạn, nàng giơ tay chỉ thẳng vào mặt Khuê Bích lớn tiếng mắng:

- Kìa Lưu tặc! Mi chính là kẻ thù không đội trời chung của ta, nay ta quyết vì phu quân của ta mà liều sống thác với mi một phen.

Vừa dứt lời, Tô Yến Tuyết nhanh như chớp rút con dao ra nhằm ngay yến hầu Lưu Khuê Bích đâm tới. Khuê Bích hoảng kinh, nhưng chàng ta cũng không kém phần lanh lẹn, vội gục đầu xuống tránh né, nhưng lưỡi dao phóng tới quá nhanh, đâm phập vào trán mé bên tả bóc ra một miếng thịt, mũi dao ghim vào tận xương.

Khuê Bích rú lên một tiếng, đưa tay vuốt trán thấy máu tuôn lai láng, chàng nổi giận hét lớn:

- Con tiện tỳ kia, sao mi dám cả gan giấu dao trong mình hành thích ta? Ta đố mi chạy đường nào thoát khỏi tay ta!

Vừa hét, Khuê Bích vừa nhảy tới chộp bắt Tô Yến Tuyết, nhưng Tô Yến Tuyết đã chạy vụt lại phía lầu tung mình nhảy ùm xuống hồ Côn Minh.

Khuê Bích kinh hãi lật đật chạy xuống mé hồ toan nhảy theo vớt lên nhưng bỗng dưng một ngọn cuồng phong ầm ầm thổi đến làm mặt hồ nổi sóng đập vào bờ ầm ầm cuốn nước dâng lên đến trên lầu khiến Khuê Bích ướt cả áo quần, tối tăm mặt mày không thấy đường nào nữa cả.

Hồi lâu Khuê Bích trấn tĩnh tinh thần, nghĩ thầm:

"Nguy thay! Nàng nhảy xuống hồ, nếu ta không vớt lên được, thế nào Mạnh Sĩ Nguyên cũng buộc tội ta đã giết chết con gái của y rồi giấu biệt thi thể, ta biết lấy lý lẽ gì để gỡ tội?".

Nghĩ đến đây Khuê Bích biến sắc mặt không còn để ý đến thương tích của mình nữa, vội chạy thẳng xuống lầu kêu gia tướng bảo:

- Tân nhơn đã nhảy xuống hồ rồi, các ngươi hãy mau mau đem thuyền đi vớt, kẻ nào vớt được ta thưởng trăm lượng bạc, bằng không vớt được ta cũng thưởng công.

Bọn gia tướng nghe Quốc cựu tuyên bố phần thưởng quá lớn lao nên chúng đổ xô chèo thuyền đi kiếm tưng bừng.

Khi Tô Yến Tuyết nhảy xuống hồ, Lưu Yến Ngọc vẫn còn ờ trên lầu nên câu chuyện giữa Yến Tuyết cùng Khuê Bích nàng được mục kích từ đầu đến cuối. Nàng thầm ngợi khen cho Mạnh Lệ Quân rồi vội vã chạy ra đứng trên lầu nhìn xuống mặt hồ, nàng chỉ thấy làn sóng bạc mênh mông còn thi thể Mạnh Lệ Quân biến đâu mất dạng.

Lưu Yến Ngọc thở dài than thầm:

"Tiếc thay cho một liệt nữ, chỉ vì cuộc tình duyên quá éo le mà phải gieo ngọc trầm châu".

Rồi nàng tử nhủ lấy mình:

"Ta đây cũng quyết không bao giờ phụ lời thề, nếu sau này song thânta có ép gả cho ai, nhất định ta cũng liều mình như vậy thôi".

Lúc ấy bọn gia nhơn lập tức chạy đi phi báo với Cố Phu nhơn. Cố Phu nhơn nghe nói Khuê Bích bị hành thích trọng thương thì hoảng kinh, bươn bả chạy lên lầu, vừa trông thấy quần áo Khuê Bích vấy đầy những máu, bà tái mặt la lên:

- Con ôi! Con bị thương tích nặng quá sao không đi lấy thuốc băng bó, lại cứ lo cứu vớt hắn làm gì mà ráng chịu đau đớn như vậy.

Rồi Cố Phu nhơn hối bọn nữ tỳ chạy đi lấy thuốc đem đến bó rịt vào vết thương cho Lưu Khuê Bích.

Khuê Bích thở dài nói:

- Thân mẫu nên biết rằng Mạnh Sĩ Nguyên chỉ có một người con là Mạnh Lệ Quân thôi, nay lão ta chỉ sợ thánh chỉ mà gả cho con chớ thật ra trong lòng không thích, nếu nay con không tìm ra thi thể nàng thì chắc lão họ Mạnh kia thế nào cũng vu họa cho nhà ta chớ chẳng không.

Cố Phu nhơn nghe nói nổi giận quát:

- Sao con lại nhát gan đến thế? Nó đã xúi con đến đây hành thích, tội ấy tày trời còn ai dám sanh sự nữa? Nếu sau này Mạnh Sĩ Nguyên có đến đây làm khó dễ, để mẹ cãi lý cho con chớ lo.

Rồi Cố Phu nhơn dịu giọng khiển trách:

- Con thật khéo nhiều chuyện! Việc gì vợ mới cưới mà đem nó ra đây làm chi, lại gỡ hàng bao lơn đi để cho nó nhảy xuống hồ một cách dễ dàng. Cái tai họa này quả do con gây ra đó.

Lưu Khuê Bích cũng nghe mẹ rầy, nổi giận chỉ Lưu Yến Ngọc nói:

- Cũng tai cái con nhỏ này đây, lúc tôi đang tiếp khách ở nhà ngoài, nó ở trong này bày đặt dắt dẫn ra đây nên mới có chuyện.

Cố Phu nhơn vốn ghét Lưu Yến Ngọc nên khi nghe Lưu Khuê Bích nói vậy, nổi giận lôi đình chỉ vào mặt Yến Ngọc, nghiến răng mắng:

- Thì ra mi đã bày đặt đem Mạnh Lệ Quân đến đây để hắn nhảy xuống hồ. Nếu mai đây Mạnh Sĩ Nguyên có đến, ta sẽ bắt mi đem thường nhơn mạng đó.

Lưu Yến Ngọc còn trẻ tuổi, có biết pháp lý như thế nào, nên nàng vừa nghe hai tiếng "thường mạng" thì hoảng hốt run rẩy, lạy lục thưa:

- Chỉ vì anh con bảo phải đến tiếp chị dâu nên con mới dám đến, khi anh con đi tiếp khách, chị ấy lại đòi đi xem phong cảnh, con thật có lòng kính trọng nên mới dẫn đến đây, chớ có ngờ đâu lại có việc này, mong thân mẫu nghĩ tình cốt nhục tha thứ cho con một phen.

Cố Phu nhơn nghe nói được thể lại càng tỏ thái độ giận dữ hơn nữa, bà ta gằn từng tiếng:

- Hừ! Nhơn mạng sát nhơn không phải là chuyện chơi đâu. Đi đến nước này thì mi phải đền nhơn mạng cho người ta chứ còn nói lôi thôi gì nữa?

Nói rồi bà hầm hầm sắc mặt bỏ đi xuống lầu. Lưu Yến Ngọc lo sợ quá năn nỉ Lưu Khuê Bích:

- Em dắt chị ấy ra đây chỉ vì vâng lời anh dạy đó thôi, mong anh nghĩ tình huynh đệ cứu em với.

Lưu Khuê Bích đã không xót thương còn nổi giận, chàng xoe tròn đôi mắt nhìn thẳng vô mặt Yến Ngọc, hét to:

- Mày đã làm hại ta chút nữa vong mạng, may nhờ ta lanh lẹ tránh né nên chỉ bị thương như thế này thôi. Nay ta chưa đủ sức lo cho cái thân ta, có đâu lại lo cho mày được.

Dứt lời, Lưu Khuê Bích cũng bỏ xuống lầu, một mình Lưu Yến Ngọc đứng lững thững, hai hàng nước mắt tuôn rơi, nàng sợ hãi lủi thủi đi về Hiển Vân các.

Lời Bình:

- Tô Yến Tuyết nghèo thật, song tài sắc không kém Mạnh Lệ Quân, tấm lòng khí phách của nàng lại có phần trội hơn Mạnh Lệ Quân nữa là khác.

Nàng đã vì đền ơn trả thảo mà vui lòng bước lên xe hoa để rồi lập tâm giết Lưu Khuê Bích trả thù cho họ Hoàng Phủ, quả là một hành động phi thường hiếm có ở thời bấy giờ. Thế mà Hàn Phu nhơn tưởng lầm rằng nàng được ưng Lưu Khuê Bích là hạnh phúc lắm nên lấy bớt của hồi môn. Đọc đến đây nghĩ mà nực cười cho cái tư tưởng phong kiến, họ chuyên đánh giá con người trên tiền tài và địa vị thôi, chứ thật ra mối tình thiêng liêng trên trần thế này không thể dùng tiền tài hay địa vị chinh phục được.

Tô Yến Tuyết đã liều mình chết không kể tấm thân thì còn thiết gì đến của cải nữa mà lấy thêm lấy bớt? Sở dĩ Tô Yến Tuyết không giết chết được Lưu Khuê Bích là vì nàng quá ghê tởm con người của Khuê Bích, nàng không còn đủ nghị lực để nhẫn nhục gần gũi con người ấy một giây phút nào nữa cả. Có người bảo Tô Yến Tuyết vì không sâu sắc nên việc làm bị thất bại. Nếu ta nhận xét như vậy thì thật là phiến diện.

Ta nên biết rằng: Lễ giáo trong thời ấy là nam nữ thọ thọ bất thân. Làm thân con gái muốn giữ tròn trinh tiết mà để cho người ta nắm lấy tay mình, coi như bị mất trinh rồi. Vì Tô Yến Tuyết muốn bảo vệ tiết danh, nàng đành phải ra tay ngay, tuy vẫn biết với võ lực của Khuê Bích, nàng không đủ sức hạ thủ trong lúc ấy.

Hồi Thứ Hai Mươi

Mạnh Thượng thơ bắt đền nhơn mạng.

Cảnh Phu nhơn mừng được con nuôi.

Cố Phu nhơn xuống lầu, đi vào phủ gọi một tên gia tướng vào bảo:

- Bây giờ cũng còn sớm, ngươi hãy đưa hai con nữ tỳ họ Mạnh về nơi ấy đặng chúng nó báo tin.

Tên gia tướng vâng mạng đến Ngũ Minh lầu, bảo hai con nữ tỳ cùng đi với hắn trở về Mạnh phủ.

Nhắc qua bọn gia tướng cố đoạt cho được phần thưởng to tát của Quốc cựu. Chúng chèo thuyền đi tìm kiếm tở mở nhưng tìm mãi không thấy thi thể Mạnh Lệ Quân đâu cả. Chúng thất vọng trở về báo tin cho Lưu Khuê Bích hay, Lưu Khuê Bích lấy bạc thưởng cho chúng theo như lời đã hứa.

Khuê Bích thưởng xong trở vào tân phòng, thấy chiếu giường rượu trà còn đó mà người đẹp không còn nữa, chàng thở dài não ruột rồi than:

"Hôm nay ta những tưởng sắt cầm hảo hiệp, ngờ đâu loan phụng rẽ đôi, kẻ dương gian, người âm cảnh, thê thảm biết dường nào".

Than rồi truyền gia nhơn lập tức dẹp hết kẻo để chàng trông thấy đau lòng xót dạ. Sau đó chàng trở về phòng nằm sóng sượt trên giường, úp mặt nức nở.

Nhắc lại tên gia tướng vâng lời Cố Phu nhơn đưa hai con nữ tỳ về bên Mạnh phủ. Vừa đến nơi, hắn gọi tên giữ cửa:

- Ta vâng lịnh Cố Phu nhơn đưa hai con nữ tỳ qua đây để trả lại cho nhà họ Mạnh đây.

Tên giữ cửa nghe nói lấy làm lạ, hỏi:

- Sao không để hai đứa nữ tỳ ở lại để hầu hạ tiểu thơ, lại đưa chúng về đây trước làm gì?

Tên gia tướng đáp cộc lốc:

- Thì cứ hỏi chúng sẽ rõ hết mọi việc, cần gì phải hỏi ta!

Nói rồi tung mình lên ngựa quay về ngay, không thèm tỏ lời cáo từ.

Lúc ấy cả nhà Mạnh Sĩ Nguyên đang xúm nhau bàn luận về việc gả Tô Yến Tuyết, xảy thấy hai đứa nữ tỳ hơ hãi chạy về. Cả nhà đều lấy làm lạ, Mạnh Sĩ Nguyên lên tiếng hỏi:

- Tại sao hai đức bây lại về đây làm gì?

Cả hai đồng thưa nhanh:

- Nguy tai rồi lão gia ôi! Tiểu thơ chết mất rồi!

Tô Đại nương nghe nói hoảng kinh hỏi:

- Trời ơi! Tại sao lại có thể như thế được?

Hai con nữ tỳ liền thuật lại đầu đuôi việc hành thích rồi Tô Yến Tuyết nhảy xuống hồ tự tử. Mọi người nghe tin ấy như sét đánh vào tai, Tô Đại nương nhào lăn ra khóc rất thảm thiết. Mạnh Gia Linh thấy thế khuyên giải:

- Nàng chết như vậy tức đã làm vẻ vang cho nhà họ Mạnh tôi lắm, vậy từ nay về sau chúng tôi xin thay thế nàng để phụng dưỡng Đại nương, xin Đại nương chớ đem lòng phiền não mà hại tấm thân.

Tô Đại nương nói:

- Tôi mong ơn lão gia đã đoái tưởng mới tránh khỏi nỗi lưu lạc, nhưng thảm thương cho số phận của tôi, chỉ có một đứa con gái mà nay kẻ dương gian, người âm cảnh, sự đau đớn ấy kể sao cho xiết!

Mạnh Gia Linh cũng không ngăn được giọt lệ, chàng thở dài, than:

- Nàng đã gặp được mối lương duyên như vậy kể cũng không đến nỗi bần tiện, nhưng không biết cớ sao nàng lại giấu dao trong mình đi hành thích để xảy ra việc chẳng lành.

Phương thị xen vào nói:

- Tôi thừa hiểu nàng lả kẻ trọng đại nghĩa, nên nàng vô cùng căm hận Lưu tặc đã âm mưu ám hại khiến Mạnh Tiểu thơ phải bỏ nhà ra đi, nên nàng mới ra tay hạ sát để báo thù. Vậy bây giờ ta nên qua nhà họ Lưu để bắt đền mạng cho bõ ghét.

Hàn Phu nhơn nói:

- Cứ theo lẽ ấy thì quả thiệt con ta ra tay hành thích, nhưng khi hành động không thành nên sợ sệt phải nhảy xuống hồ, thì ta còn bắt đền sao được?

Mạnh Gia Linh nói:

- Sao thân mẫu lại nói vậy? Lưu tặc vô cùng độc ác đã âm mưu làm cho Hoàng Phủ Nguyên soái phải tan cửa nát nhà và em con phải ra thân lưu lạc. Nay gặp được cơ hội nhất định ta phải làm khó dễ, may ra trừ diệt được phường gian ác chớ sao lại làm lơ? Thôi, để tôi cùng thân phụ qua bên ấy xem sao.

Mạnh Sĩ Nguyên cũng cho lời Mạnh Gia Linh là phải nên đồng ý ngay. Hôm sau trời vừa rựng sáng, cha con Mạnh Sĩ Nguyên đã đi thẳng đến phủ Lưu Khuê Bích.

Bọn gia tướng vừa trông thấy Mạnh Sĩ Nguyên liền chạy vào phi báo cho Cố Phu nhơn hay. Cố Phu nhơn gọi Lưu Khuê Bích vào bảo:

- Con cứ việc ra nghinh tiếp như thường, nếu Mạnh Sĩ Nguyên có sanh sự điều chi thì để mẹ khống chế cho.

Khuê Bích vâng lời ra nghinh tiếp vào, Mạnh Sĩ Nguyên ngồi giữa nhà hạch hỏi:

- Vì cớ chi mà con ta phải nhảy xuống hồ? Hiện giờ thi hài con ta ở đâu?

Lưu Khuê Bích tái xanh mặt mày, đứng chắp tay kể lại đầu đuôi câu chuyện và nói:

- Tiện tế không baio giờ dám khai dối, chính vết thương trên trán của tiện tế hãy còn đây, mong nhạc phụ hãy thông cảm cho.

Mạnh Sĩ Nguyên gằn giọng nói:

- Nếu con ta chẳng thuận thì đời nào lại chịu cho cưới? Còn bảo con ta nhảy xuống hồ sao lại không vớt thi thể trả cho ta, lại mất tích là nghĩa lý gì? Ta tin chắc việc này do Quốc cựu uống quá chén rồi khinh miệt con ta, cho là gái không biết gì danh tiết cho nên nó mới hổ thẹn cãi lại. Quốc cựu ỷ mạnh giết chết nó đi rồi giấu xác để phi tang, đoạn lập mưu rạch trán che giấu tội lỗi của mình. Ta nói thiệt, đã đến nước này Quốc cựu chớ nên ỷ thế cậy thần nữa, phải thường mạng cho con gái ta, ta mới nghe!

Mạnh Sĩ Nguyên buộc tội cho một hồi, Lưu Khuê Bích thất kinh lính quýnh, chàng ấp úng mãi không thốt nên lời. Cố Phu nhơn đứng nấp sau bình phong trông thấy tình trạng sợ hãi và luống cuống của con mình như thế thì nổi giận bước ra, lớn tiếng với Mạnh Sĩ Nguyên:

- Tiện nhi đã yêu mến lịnh ái mới đến xin cầu hôn, vì vậy làm gì có việc tiện nhi đi nhục hạ lịnh ái? Tôi xin hỏi tiên sanh một điều, tại sao tiên sanh lại xúi giục lịnh ái giấu con dao trong mình để đến đây hành thích? May mà tiện nhi lanh lẹ tránh khỏi chỉ bị thương trên trán mà thôi, nếu không thì tánh mạng còn gì? Thế mà bây giờ tiên sanh lại đến vu oan giá họa cho nhà tôi nữa sao? Tôi bảo cho tiên sanh biết, nhà tôi đây dầu sao cũng đường đường một nhà hầu tước, đời nào lại chịu mang lấy nhục nhã như vậy kìa.

Dứt lời, bà gọi tên gia tướng bảo phải đi mời Kỳ Thừa tướng đến gấp.

Mạnh Sĩ Nguyên cười gằn nói:

- Như vậy càng hay lắm. Tôi chỉ sợ Kỳ Thừa tướng cũng không can nổi sự bắt đền nhơn mạng của tôi nữa đó!

Lúc bấy giờ Kỳ Thạnh Đức vẫn còn trú ngụ tại công quán. Khi nghe Mạnh Lệ Quân giấu dao trong mình hành thích Lưu Khuê Bích rồi nhảy xuống Côn Minh trì tự vận, lão khen ngợi cho Mạnh Lệ Quân là một trang tiết liệt, và thầm nghĩ:

"Ngày nay đã xảy ra như vầy, thế nào Mạnh Sĩ Nguyên cũng đến bắt họ Lưu thường nhơn mạng chớ chẳng không. Thôi để ta qua đó dàn xếp mới được".

Nghĩ đoạn lão mặc quần áo lên kiệu đến dinh Lưu phủ, chẳng dè mới vừa ra khỏi nhà đã gặp tên gia tướng Lưu gia đến, hắn chắp tay vái chào Kỳ Thạnh Đức và nói:

- Vừa rồi có cha con Mạnh Thượng thơ đến bắt thường nhơn mạng về việc Mạnh Tiểu thơ nhảy xuống hồ tự vận nên Cố Phu nhơn sai tôi đi thỉnh Thừa tướng qua để xét xử giùm.

Kỳ Thạnh Đức gật đầu nói:

- Việc ấy ta hay rồi, nên tính đến đó ngay bây giờ.

Tên gia tướng nghe nói mừng rỡ, liền nối gót theo Kỳ Thạnh Đức về Lưu phủ.

Kỳ Thạnh Đức vừa đến nơi đã thấy Lưu Khuê Bích chạy ra vồn vã nghinh tiếp. Cha con Mạnh Sĩ Nguyên cùng Cố Phu nhơn cũng bước ra tiếp rước vào nhà.

Sau khi an tọa, Mạnh Sĩ Nguyên lên tiếng nói:

- Tôi tin chắc việc này do Lưu Quốc cựu có ý khoe khoang về việc thi tiễn lúc trước làm cho tiện nữ hổ thẹn cãi lại nên Lưu Quốc cựu đã nổi giận đánh chết và thủ tiêu thi thê cho mất tang tích. Tôi đây chỉ có một mụn con quí như vàng ngọc, hôm nay nhất định tôi phải đòi mạng cho kỳ được mới nghe.

Cố Phu nhơn nói:

- Không phải vậy đâu, xin Thừa tướng chớ nghe lời. Việc này do Mạnh Tiên sanh xúi con mang dao đến hành thích con tôi, nhưng việc bất thành nên sợ hãi nhảy xuống hồ tự vận đó thôi. Bây giờ Mạnh Tiên sanh lại đến đây sanh sự nữa là lý gì?

Nghe giọng nói hàm hồ của Cố Phu nhơn, Mạnh Sĩ Nguyên nổi giận gằn giọng đáp:

- Hừ! Nếu bảo rằng tiện nữ không ưng thuận, sao lại cho cưới? Còn bảo rằng tiện nữ nhảy xuống hồ tự vận thì ít ra cũng phải vớt thi thể lên trả lại cho tôi chớ. Nay thi hài của con tôi biệt tích, rõ ràng là Lưu Công tử giết thác và thủ tiêu rồi, xin Thừa tướng cứ lấy lẽ công minh mà xét xử.

Kỳ Thạnh Đức nghe nói mỉm cười, lão ngồi đợi cho hai đàng bớt giận rồi mới lên tiếng phân giải:

- Lão phu cũng đã biết rõ tình thế của hai nhà từ trước rồi, vậy bây giờ cứ theo lẽ thật tình mà nói thì Mạnh Tiên sanh đây đã ưng gả con tất nhiên không bao giờ lại xúi con đi hành thích. Còn Quốc cựu cũng vì quá yêu nhan sắc của tiểu thơ nên mới tâu lên Thánh thượng nhờ người giáng chỉ tứ hôn, thì không khi nào lại nỡ giết vợ. Theo lão phu nghĩ thì việc này do Mạnh Tiểu thơ không đành cải giá nhưng vì có thánh chỉ nên buộc lòng phải nghe theo. Vì vậy trong lòng mới căm hận giấu dao trong mình định giết Lưu Quốc cựu để trả thù chồng. May thay Lưu Quốc cựu không chết, trái lại Mạnh Tiểu thơ lìa trần, chắc linh hồn nàng sẽ mãi mãi ngậm hờn nơi chín suối. Thế thì theo thiển ý của lão phu thấy, hai nhà đều là bạn đồng liêu một trào, cũng nên hòa với nhau là hơn, để tôi về triều tâu lên Thánh thượng đặng truyền cho quan địa phương lập một cái bia "tiết nghĩa" để nêu danh Mạnh Tiểu thơ đời đời, xin Mạnh Tiên sanh hãy bóp bụng nghe theo tôi là phải. Chớ như tiên sanh có bảo tấu với triều đình, chắc triều đình cũng xử như thế là cùng.

Mạnh Sĩ Nguyên ngồi im lặng, Cố Phu nhơn lại vung tay hùng hổ nói:

- Thừa tướng nói vậy sao được, Mạnh Tiên sanh đã xúi con đến hành thích, lại còn đến bắt thường làm khó dễ nữa. Vậy phải để cho tiện nhi thân tấu cùng triều đình cho ra đen trắng.

Mạnh Sĩ Nguyên nổi giận điểm mặt Cố Phu nhơn, nói:

- Giết người rồi thủ tiêu còn giả vờ gây thương tích đặng tránh tội, rõ là quân hiểm ác. Việc này tôi cũng phải diện tấu với triều đình mới nghe.

Kỳ Thạnh Đức thấy tình thế căng thẳng vội nói:

- Thôi được, nếu muốn vậy, sẵn dịp Mạnh Tiên sanh phụ tử đã hết hạn giả kỳ, hãy cùng đi với lão phu luôn thể.

Cha con Mạnh Sĩ Nguyên và Lưu Khuê Bích đồng nói:

- Thừa tướng dạy như thế phải lắm, nhưng chẳng biết ngày nào Thừa tướng khởi hành, xin cho chúng tôi biết đặng cùng đi theo với.

Kỳ Thạnh Đức nói:

- Ngày mùng sáu tháng này là ngày tốt, tôi sẽ khởi hành lai kinh.

Dứt lời, Kỳ Thạnh Đức cáo từ lui về công quán, cha con Mạnh Sĩ Nguyên cũng lần lượt trở về nhà.

Về đến nơi, Hàn Phu nhơn và Tô Đại nương vội hỏi:

- Chẳng hay lão gia sang nhà họ Lưu sự việc ra thế nào?

Mạnh Sĩ Nguyên mỉn cười đáp:

- Ta buộc tội cho một hồi, sướng miệng lắm.

Rồi lão ta thuật lại đầu đuôi cho mọi người nghe và nói:

- Đến ngày mùng sáu này, ta cùng Mạnh Gia Linh sẽ theo Kỳ Thừa tướng về kinh để đối chất.

Hàn Phu nhơn lấy làm hài lòng, bà mong sao cho bọn gian tặc ấy bị thất thế phải xuống nước phần nào để chúng khỏi ỷ thế cậy thần, hiếp đáp không ai chịu nổi.

Cha con Mạnh Sĩ Nguyên lo sắm sửa hành lý qua đến ngày mồng sáu từ giã gia quyến cùng Kỳ Thạnh Đức và Lưu Khuê Bích trực thẳng về kinh. Ai nấy đều mong cho Chúa thượng sẽ ban bố lẽ công bằng.

Nhắc qua việc Tô Yến Tuyết, khi nàng đâm Lưu Khuê Bích rồi nhảy xuống Côn Minh trì, bị dòng nước và sóng dữ cuốn đi rất nhanh, may gặp một chiếc quan thuyền vớt nàng lên cứu khỏi thác.

Nguyên vị đại quan trong thuyền này tên Lương Giám tự là Nhĩ Minh, năm nay đã ngoài năm mươi tuổi; quan chức của người vốn nhị giáp Tấn sĩ xuất thân, vợ là Cảnh Phu nhơn có một người con trai tên Lương Chấn Lân làm quan đến chức Lễ bộ Thị lang, đã có vợ có con.

Cách bốn năm trước, Lương Giám phân trần với Cảnh Phu nhơn:

- Tôi ra làm quan lâu nay vẫn giữ một lòng thanh liêm chánh trực. Tôi được phong đến chức Lại bộ Thượng thơ, nay nếu thăng thêm một trật nữa là được chức Thừa tướng, song đợi mãi không được nên tôi cảm thấy chán nản, vậy bây giờ phu nhơn hãy về quê trước để coi sóc gia sản, tôi ở nán lại đây vài năm nữa, nếu không được thăng chức thì tôi sẽ cáo quan về theo để an hưởng tuổi già.

Cảnh Phu nhơn vâng lời về quê quán. Nay vừa rồi có hữu Thừa tướng Tôn Văn Lang tạ thế nên vua Thành Tôn phong Lương Giám lên thay. Lương Giám mừng rỡ sai người trở về quê rước Cảnh Phu nhơn trở lại kinh.

Đêm ấy, thuyền Cảnh Phu nhơn đi ngang qua Quí Châu, khi đến hồ Côn Minh bị thủy thần ngăn trở đi tới không được nữa, nên tài công liền kêu bọn thủy thủ bảo:

- Chúng bây hãy đốt đuốc lên xem thử con thuyền có bị mắc cạn không mà không lướt tới được tý nào cả vậy?

Các thủy thủ vâng lời đốt đuốc lên rọi khắp hai bên thuyền, đột nhiên chúng kinh hãi la lên:

- Ôi chao! Ghê quá! Con thuyền vướng phải một tử thi của người con gái mà không nhúc nhích được tý nào cả.

Một đứa khác nói:

- Ồ, hình như người con gái này chưa chết nên trông mặt mũi còn tươi lắm.

Một đứa khác lại xen vào nói:

- Ôi! Sống chết mặc kệ người ta, mình cứ xô ra mà đi cho rồi, truy hô làm chi cho sanh chuyện.

Rồi mỗi đứa nói một tiếng phản đối nhau cãi lẫy om sòm làm cho Cảnh Phu nhơn đang ở trong mui thuyền giựt mình, bà cùng nữ tỳ bước ra xem.

Mấy con tỳ nữ xem qua rồi reo lên:

- Người này nhan sắc đẹp tuyệt! Chắc chắn người này chưa chết.

Cảnh Phu nhơn truyền lịnh:

- Chúng bây hãy vớt cô gái ấy lên cứu sống làm phước. Nếu đứa nào vớt được ta sẽ trọng thưởng.

Bọn thủy thủ nghe nói trọng thưởng mừng lắm. Chúng lấy câu móc, móc kéo vô rồi rồi vớt lên thuyền. Cảnh Phu nhơn bước lại đặt tay vào ngực nạn nhân, thấy còn hơi nóng và thở tho thóp. Bà ta hối nữ tỳ khiêng nàng vào trong mui, lấy quần áo khô ra thay cho và dùng nước gừng thoa bóp.

Giây lâu, tay chơn Tô Yến Tuyết cử động được, rồi nàng từ từ mở mắt ra. Các nữ tỳ reo lên:

- Sống lại rồi!

Tô Yến Tuyết nghe có tiếng người ồn ào xung quanh, nàng giựt mình dường như nằm mộng mới tỉnh, mở to đôi mắt ngồi nhổm dậy, nàng thấy xung quanh đèn đuốc sáng trưng và toàn người xa lạ.

Nàng ngơ ngác hỏi:

- Tôi đã liều chết, chẳng hay các người ở đâu lại cứu tôi đây?

Bọn nữ đáp:

- Phu nhơn chúng tôi ra tay cứu vớt đấy. Cô nương quả là người có hạnh phước nhứt trần gian. Phu nhơn chúng tôi hiện đang ngồi ở đằng kia kìa, hãy lại mà lạy tạ mau lên.

Tô Yến Tuyết nghe nói, quay lại trông thấy một vị phu nhơn trạc độ năm mươi, vẻ mặt hiện lên nét hiền từ, nàng vội vã chắp tay vái lạy và thưa:

- Phu nhơn đã ra tay tế độ vớt người trầm luân, thật ơn ấy chẳng biết đến bao giờ tôi mới trả cho xong.

Cảnh Phu nhơn nhìn thấy Tô Yến Tuyết hình dung xinh lịch, cử chỉ đoan trang, bà có cảm tình ngay, nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên, bà bảo nữ tỳ nhắc ghế mời nàng ngồi.

Tô Yến Tuyết ké né không dám ngồi. Cảnh Phu nhơn phải ép mãi, nàng mới rón rén ngồi xuống. Nữ tỳ bưng trà lên, Cảnh Phu nhơn mời nàng uống và ôn tồn hỏi:

- Chẳng hay nàng lài ai? ở đâu, có điều chi oan ức lại gieo ngọc trầm châu?

Tô Yến Tuyết thưa:

- Dạ, tôi là người ở huyện Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Thân phụ tôi họ Tô tên Tiểu Toàn, vốn một vì hàn nho nhưng thi chưa đỗ đã vội lìa trần, tôi phải nương náu với mẹ tôi là Đỗ thị, năm nay tôi lên mười sáu tuổi tên Tô Yến Tuyết. Chỉ vì tôi có người anh Tô Thiên Lộc lêu lổng chơi bời đem bán tôi cho một nhà trọc phú kia tên Trịnh Kính đặng làm tiểu thiếp. Tôi quyết hông bằng lòng, nhưng nếu từ chối ngay lại sợ Trịnh Kính kia bắt thân mẫu tôi phải bồi thường lễ cưới, nên tôi phải đợi làm lễ xong, về với Trịnh gia, tôi thừa cơ hội nhảy xuống Côn Minh trì này để kết liễu mạng sống.

Tô Yến Tuyết nói đến đây, hai hàng lụy ngọc tuôn xuống như mưa. Cảnh Phu nhơn cũng lấy làm xúc động, bà nói:

- Tình cảnh của nàng thật đáng thương, nếu bây giờ ta đưa nàng về thì chắc thế nào Trịnh Kính cũng sanh sự, vậy ta tỏ thật cho nàng biết ta đây họ Cảnh, phu nhơn của Lương Giám, hiện đang làm hữu Thừa tướng tại triều, quê quán ở huyện Thái Hòa, tỉnh Quí Châu. Ta vốn sanh được một trai, một gái. Con trai ta là Lương Chấn Lân hiện đang làm Tuần phủ Giang Nam đã có vợ con, còn con gái ta là Đơn Hoa hiện đã theo chồng về Quí Châu, không hiểu tại sao nó giống nàng như đúc. Nay ta sống trong cảnh già hiu quạnh, may gặp người trinh tiết như nàng, ta rất cảm thương nên muốn nhận nàng làm nghĩa tử, chẳng biết nàng nghĩ sao?

Tô Yến Tuyết nghe nói mừng lắm, nàng đáp ngay không nghĩ:

- Nếu được phu nhơn thương tình như vậy, thì còn gì hạnh phúc cho bằng. Nhưng chỉ sợ tôi đây vốn kẻ hồng nhan bạc phận, không biết có được hưởng cái hạnh phúc do phu nhơn ban bố không?

Cảnh Phu nhơn nói:

- Nàng là người tiết liệt đáng kính đáng yêu hà tất pảhi khiêm nhường làm gì!

Tô Yến Tuyết liền cúi lạy và lễ phép thưa:

- Phu nhơn đã có lòng đoái tưởng đến kẻ hèn này, vậy xin nhận nơi tôi vài lạy là tấm lòng thành kính của tôi.

Lời Bình:

- Lưu Khuê Bích là một kẻ si tình, trước sắc đẹp y mê mẩn tâm thần, bị mắng không biết giận, bị chửi không biết hờn, nài nỉ xin xỏ tình yêu một cách bỉ ổi, thì làm gì có chuyện giết vợ?

Sự việc này xảy ra, ai lại không biết Tô Yến Tuyết hành thích Lưu Khuê Bích và nhảy xuống hồ cho tròn danh tiết. Nhưng Mạnh Sĩ Nguyên cố tình bắt thường nhân mạng làm cho bõ ghét. Đứng trên pháp lý, Mạnh Sĩ Nguyên hoàn toàn thắng thế, có vậy Mạnh Sĩ Nguyên mới dám đương đầu với nhà họ Lưu giữa triều đình, chớ Mạnh Sĩ Nguyên cũng thừa hiểu thế lực của Lưu Tiệp đến bực nào rồi.

Kỳ Thạnh Đức cũng hiểu vậy, cho nên mới khuyên Mạnh Sĩ Nguyên nên giữ niềm hòa khí là hơn, vì đến triều đình thế nào vua cũng vị tình Hoàng hậu và Quốc trượng.

Biết vậy sao Mạnh Sĩ Nguyên còn đem sự việc này ra giữa triều đình làm gì?

Thưa rằng: Không phải Mạnh Sĩ Nguyên không biết nhưng xét ra Mạnh Sĩ Nguyên đã mất một đứa con, bị thiệt thòi biết bao nhiêu, nếu vua Thành Tôn có bênh vực Lưu Khuê Bích đi nữa cũng chỉ xử hòa là cùng chứ lý nào lại bắt tội Mạnh Sĩ Nguyên sao? Hơn nữa, việc này đem ra ánh sáng dù không thắng kiện cũng vạch trần được phần nào cái nham hiểm của Lưu gia cho mọi người thấy, và điều lợi thứ hai là làm cho mọi người đinh ninh rằng Mạnh Lệ Quân đã chết rồi, từ nay không ai còn nhắc đến Mạnh Lệ Quân nữa, có lợi cho bước đường phiêu lưu của nàng.

Hồi Thứ Hai Mươi Mốt

Ngoài kim điện, Thành Tôn hòa giải,

Trong nội cung, Hoàng hậu khuyên em

Cảnh Phu nhơn bước tới đỡ Tô Yến Tuyết dậy và bảo:

- Con gái ta đã gả đi lấy chồng phương xa, con dâu ta cũng theo chồng bên Giang Nam, hiện nay chỉ còn hai vợ chồng già hiu quạnh, nay gặp con đây, đã cho ta một nguồn vui vô tận. Vậy con gái ta tên Đơn Hoa, nay ta đặt cho con tên Tố Hoa nhé!

Tô Yến Tuyết vui lòng mang tên Tố Hoa và bắt đầu từ nay cái tên Tô Yến Tuyết của nàng trở nên xa lạ.

Sau đó, bọn nữ tỳ dâng lên cho Cảnh Phu nhơn một chén sâm trà. Cảnh Phu nhơn trao cho Tố Hoa và bảo:

- Con phải trầm mình xuống nước chắc lạnh lẽo lắm, vậy con hãy dùng chén sâm trà này cho ấm.

Tố Hoa từ chối:

- Thân mẫu đã già cần phải bổ dưỡng, chớ con còn trẻ tuổi, cần chi phải dùng đến sâm trà.

Cảnh Phu nhơn cười bảo:

- Thứ sâm trà này con ít uống, chớ mẹ thường dùng, con không nên chối từ. Đã là mẹ con thì bảo gì cũng phải nghe theo mới ngoan chớ!

Tố Hoa nghe nói, liền bưng chén sâm uống. Sau đó Cảnh Phu nhơn lấy ra nhiều gấm lụa, châu ngọc cho Tố Hoa, bảo nàng trang sức và lấy tiền thưởng cho các thủy thủ cùng mấy con nữ tỳ. Mọi người được thưởng, mừng rỡ tạ ơn rối rít.

Khi Tố Hoa trang sức xong, Cảnh Phu nhơn trông thấy nàng đẹp như tiên, bà nói:

- Con trang sức lại càng giống tiện nữ ta như đúc, quả là một vị "thiên kim tiểu thơ".

Dứt lời, bà truyền các nữ tỳ vào lạy mừng Tố Hoa và bảo chúng bắt đầu từ nay phải gọi nàng bằng đệ nhị tiểu thơ.

Bọn nữ tỳ vâng lệnh vào lạy mừng Tố Hoa. Tư cách của Tố Hoa khác hơn người khác ở chỗ biết kính nhường thảo thuận người trên, lại nhân từ khoan dung kẻ dưới, nên Cảnh Phu nhơn càng thêm yêu dấu bội phần.

Khi thuyền đến kinh, Cảnh Phu nhơn kề tai nói nhỏ với Tố Hoa một hồi rồi bảo:

- Đến nơi con cứ việc làm như lời ta dặn, thử xem thân phụ con có biết hay không?

Tố Hoa cúi đầu vâng dạ rồi hai mẹ con cùng lên kiệu thẳng đến dinh Thừa tướng.

Quan hữu Thừa tướng vừa trông thấy Cảnh Phu nhơn đến mừng lắm, vội ra rước vào nhà, lúc ấy kiệu Tố Hoa còn đi sau, hai bên kiệu có nữ tỳ theo hầu. Lương Giám lấy làm ngạc nhiên hỏi Cảnh Phu nhơn:

- Còn ai đi sau nữa kia vậy?

Cảnh Phu nhơn làm thinh không đáp, bà gọi bọn nữ tỳ bảo:

- Sao chúng bay không mời tiểu thơ xuống kiệu đi?

Các nữ tỳ liền vén màn lên, Tố Hoa ở trên kiệu bước xuống, Lương Giám ngỡ là con gái mình nên tỏ ý không bằng lòng, noi:

- Sao phu nhơn lại đèo bồng lắm vậy? Người ta cưới dâu cốt để phụng dưỡng cha mẹ chồng mà phu nhơn lại đem theo như vậy, chắc người ta phiền hà không ít!

Cảnh Phu nhơn nghe nói mỉm cười:

- Phu quân hãy nhìn kỹ lại xem có phải tiểu thơ nhà ta đó không?

Lương Giám nhìn kỹ lại thì lạ thay, nàng này diện mạo giống hệt Đơn Hoa, chỉ khác là tuổi còn trẻ hơn. Lương Giám không hiểu vì cớ gì, lòng đầy nghi hoặc, vội hỏi Cảnh Phu nhơn:

- Nàng này thoạt trông không khác tiểu thơ nhà ta, nhưng cớ sao lại nhỏ tuổi hơn là nghĩa gì?

Cảnh Phu nhơn cười nói:

- Tiểu thơ ta hiện nay đang ở nhà chồng, tôi có đem theo làm chi. Người này là con riêng của tôi, không can hệ gì đến phu quân hết!

Lương Giám nghe nói lại càng ngạc nhiên hơn nữa, thầm nghĩ:

"Lạ thật! Chẳng lẽ phu nhơn lại tư tình với ai mà sanh đặng con riêng này?".

Lương Giám chỉ đứng lặng thinh không biết nói gì cả. Cảnh Phu nhơn liền bảo Tố Hoa:

- Con hãy lạy chào thân phụ con đi!

Tố Hoa vâng lời bước tới cúi lạy, Lương Giám khoát tay bảo:

- Nàng không phải con của ta, ta không nhận lạy đâu.

Rồi Lương Giám quay qua hỏi phu nhơn:

- Sự việc đầu đuôi thế nào, xin phu nhơn hãy nói rõ cho tôi biết, kẻo lòng còn nghi hoặc quá!

Cảnh Phu nhơn liền thuật hết việc Tô Yến Tuyết trầm mình xuống sông, nhờ bà cứu vớt lên, lại thấy dung mạo giống tiểu thơ nên nhận làm nghĩa nữ, đặt tên Tố Hoa, bà không quên ca tụng lòng hiếu thuận của nàng.

Dứt lời, bà dạy nữ tỳ trải chiếu cho Tố Hoa lạy chào Thừa tướng. Bấy giờ Lương Giám đã biết rõ nên mừng lắm. Thừa tướng cười nói:

- Không ngờ một người thường dân lại có khí tiết ít ai bì, thật xứng đáng làm con ta lắm. Thôi con hãy đứng chào cũng được, đừng lạy lục làm chi cho khổ.

Tố Hoa nói:

- Con được đội ơn thọ dưỡng như vầy thật là cái ơn tử sanh cốt nhục, xin để cho con lạy thân phụ mới phải.

Nói rồi nàng ngồi xuống lạy hai lạy. Lương Giám khiến nữ tỳ đỡ dậy mời ngồi sang một một bên. Kế nữ tỳ dọn cơm lên, vợ chồng Lương Giám cùng Tố Hoa ăn uống rất vui vẻ.

Com nước xong, Lương Giám truyền dọn dẹp sửa soạn Lộng Tiêu lầu để làm phòng riêng cho Tố Hoa. Cách hai hôm sau, Lương Giám lại mua hai đứa nữ tỳ nhỏ lối mười hai, mười ba tuổi, một đứa tên Tiểu Loan, một đứa tên Thủy Hạc để ngày đêm hầu hạ Tố Hoa.

Tố Hoa đêm nằm nghĩ thầm:

"Hiện giờ thân mẫu ta ở nhà họ Mạnh thế nào cũng được họ Mạnh trọng đãi, ta không cần phải lo lắng làm chi".

Nàng nghĩ vậy, nên từ đó dốc lòng hiếu thuận hầu hạ vợ chồng Lương Giám. Vợ chồng Lương Giám vô cùng đẹp ý, co nàng như con ruột vậy.

Nhắc qua bọn Kỳ Thạnh Đức lúc về kinh thì Lưu Khuê Bích đã lén sai gia tướng báo tin cho Lưu Tiệp hay.

Ngày kia đến kinh, cha con Mạnh Sĩ Nguyên cùng Lưu Khuê Bích đều đứng trước Ngọ môn, chỉ để một mình Kỳ Thạnh Đức bước vào triều kiến xong xuôi, vua Thành Tôn phán:

- Khanh phụng mạng lo lắng rất khó nhọc, thật trẫm không yên lòng.

Kỳ Thạnh Đức vập đầu tâu:

- Tuy hạ thần rất khổ nhọc, nhưng chẳng nên công cán gì cả, nay nghe mấy lời khen ngợi của chúa thượng, thần lấy làm hổ thẹn.

Thành Tôn ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao vậy? Khanh hãy kể rõ mọi việc xem nào.

Kỳ Thạnh Đức tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, sau khi lãnh mạng, hạ thần đến Côn Minh huyện vào ngày hai mươi tháng ba nên chọn ngày hai mươi tám làm lễ vấn danh, qua ngày mồng hai tháng tư làm lễ thân nghinh. Chẳng dè lúc ấy Mạnh Lệ Quân giấu sẵn trong mình một lưỡi dao, đến lúc làm lễ hiệp cẩn tại nhà Lưu gia thì Mạnh Lệ Quân rút dao ra đâm Lưu Quốc cựu; may cho Lưu Quốc cựu tránh khỏi, chỉ trợt nơi trán mà thôi, còn Mạnh Lệ Quân sợ tội nên nhảy xuống Côn Minh trì, thi thể trôi mất biệt. Qua hôm sau, cha con Mạnh Sĩ Nguyên đến Lưu phủ bắt thường nhơn mạng, người buộc tội Lưu Quốc cựu giết chết con gái người rồi thủ tiêu. Còn Quốc cựu thì bảo là họ Mạnh xúi con đến hành thích. Việc rối rắm như vậy nên hạ thần không biết phân xử bằng cách nào cả. Hiện nay, hai đàng có theo về trào, còn đợi ngoài Ngọ môn, xin Thánh thượng chỉ phán.

Vua Thành Tôn nghe tâu ngạc nhiên vô cùng, hỏi:

- Trai tài gái sắc như vậy, đáng lẽ đẹp đôi vừa lứa mới phải, cớ sao lại giết nhau?

Kỳ Thạnh Đức liền tỏ hết sự tình, nào là Lưu Khuê Bích thi tiễn chỉ bắn trúng có hai phát tên; còn Hoàng Phủ Thiếu Hoa thì bắn trúng cả ba phát, vì vậy Mạnh Lệ Quân lấy làm hổ thẹn trong việc cải giá mới giấu con dao trong mình để hành thích.

Bấy giờ vua Thành Tôn mới tỉnh ngộ, hỏi Kỳ Thạnh Đức:

- Chẳng hay lúc ấy khanh phân xử thế nào?

Kỳ Thạnh Đức tâu:

- Khi ấy hạ thần hứa sẽ tâu lên Thánh thượng xin lập một tấm bia kỷ niệm để nêu gương tiết liệt của Mạnh Lệ Quân, nhưng hai đàng đều không thuận nên cùng theo hạ thần về đây xin vào điện tấu, chẳng hay bệ hạ dạy thế nào?

Vua Thành Tôn ngẫm nghĩ hồi lâu rồi phán:

- Khanh nghĩ như vậy rất hiệp ý trẫm.

Dứt lời, vua truyền chỉ cho hai đàng vào triều kiến.

Mạnh Sĩ Nguyên và Lưu Khuê Bích vào triều kiến xong xuôi, Mạnh Sĩ Nguyên tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, chỉ vì trước kia trong cuộc thi tiễn, Lưu Khuê Bích chỉ bắn trúng có hai phát tên, trong lúc Hoàng Phủ Thiếu Hoa bắn trúng nốt ba phát, nên Lưu Khuê Bích đem lòng căm hận gạt Thiếu Hoa đến Tiểu Xuân đình phóng hỏa ám hại. Ngày nay lại man tấu với Thánh thượng xin giáng chỉ tứ hôn. Hạ thần đặng chỉ liền tuân mạng gả con cho họ Lưu, chẳng dè Lưu Khuê Bích khinh rẻ hạ thần là hèn yếu giết chết tiện nữ rồi thủ tiêu mất, xin Thánh thượng minh xét.

Lưu Khuê Bích cũng quì xuống tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, thần tuy bất tài nhưng thiết tưởng kết duyên cùng họ Mạnh cũng không phải là không xứng đáng, huống chi đã được Thánh thượng giáng chỉ tứ hôn nữa, mà Mạnh Sĩ Nguyên dám cả gan xúi con mình ra tay hành thích, may mà hạ thần lanh mắt nên không đến nỗi thiệt mạng, chỉ bị thương nơi trán mà thôi. Nay tuy đã lành song vẫn còn chiếc sẹo. Mạnh Tiểu thơ làm xằng như vậy nên nàng sợ nhảy xuống Côn Minh trì, lúc ấy hạ thần có sai người đem thuyền cứu vớt, song vì sóng to gió dữ cuốn trôi đâu mất, không tìm ra thi thể. Nay Mạnh Sĩ Nguyên lại còn bắt đền nhơn mạng nữa, mong Thánh thượng xét hành động tàn bạo của họ Mạnh mà xử cho hạ thần nhờ.

Mạnh Sĩ Nguyên tiếp lời tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, nếu lúc ấy hạ thần không bằng lòng gả thì hạ thần lại chịu cho cưới sao? Còn bảo tiện nữ gieo mình xuống sông thì sao lại không vớt xác lên trả cho hạ thần. Việc này quả là Lưu Khuê Bích cậy thân cậy thế, tự phụ khoe khoang, coi tiện nữ không ra gì nên mới hổ thẹn cãi lại và Lưu Khuê Bích nhân lúc say sưa đã giận dữ giết chết rồi thủ tiêu luôn. Nay cái thương tích nơi trán y đó, rõ là một mưu kế vu oan cho tiện nữ để trốn tránh tội lỗi của mình.

Lưu Khuê Bích toan cãi lại, nhưng vua Thành Tôn khoa tay và phán:

- Quốc cựu chớ nên phân biện nữa, để trẫm phân xử cho.

Rồi vua quay qua nói với Mạnh Sĩ Nguyên:

- Vừa rồi Kỳ Thừa tướng đã nói rõ đầu đuôi việc ấy cho trẫm nghe cả rồi. Trước đây chỉ vì trẫm thấy Mạnh Lệ Quân lầm mà đính ước với tên phản nghịch, cho nên trẫm mới giáng chỉ tứ hôn là ý muốn cho họ Mạnh được mối lương duyên xứng đáng. Ngờ đâu Mạnh Lệ Quân một lòng thủ tiết mới giấu dao trong người hành thích, sau khi thấy việc bất thành sợ tội nên mới gieo mình xuống Côn Minh trì. Vậy việc này quyết không thể do ai xúi giục mà chính là trẫm làm cho Mạnh Lệ Quân thác oan đó, chớ chẳng phải do nơi Quốc cựu đâu. Thôi từ đây hai nhà nên giải hòa đặng cùng nhau đồng tâm hiệp lực giúp trẫm, trẫm sẽ truyền cho quan địa phương lập một tấm bia kỷ niệm để nêu cao tấm lòng tiết liệt hiếm có của Mạnh Lệ Quân.

Mạnh Sĩ Nguyên vâng lời lạy tạ. Sau đó vua Thành Tôn liền giáng chỉ cho cha con Mạnh Sĩ Nguyên lãnh y cựu chức, còn Lưu Khuê Bích cũng được lãnh chức mới ở luôn tại triều.

Lưu Khuê Bích quỳ lạy và tâu:

- Hạ thần đội ơn bệ hạ vô cùng!

Vua Thành Tôn nói:

- Lâu nay Hoàng hậu có lòng nhớ mong Quốc cựu, vậy nay Quốc cựu hãy vào cung triều kiến để thỏa lòng nhớ thương vì xa cách.

Nói rồi, truyền cho nội giám dẫn Lưu Khuê Bích vào cung. Vào đến nơi, Khuê Bích liền cúi lạy Hoàng hậu. Lưu Hoàng hậu cười nói:

- Chị em trong nhà hà tất phải thủ lễ.

Lưu Khuê Bích nói:

- Vẫn biết là chị em, song lấy theo lễ chúa tôi, cần phải đủ lễ mới phải.

Lưu Hoàng hậu bảo ngồi rồi truyền cung nữ bưng trà cho Lưu Khuê Bích uống và ân cần hỏi:

- Hiền đệ làm lễ nghinh hôn hôm nào, và khởi hành về kinh hồi nào mà mãi đến nay mới tới?

Lưu Khuê Bích thưa:

- Làm lễ cưới tại ngày mùng hai tháng tư, qua đến ngày mùng sáu khởi hành, tôi cùng Kỳ Thừa tướng mãi đến nay là mùng năm tháng bảy đến đây và đã được vào triều kiến Thánh thượng rồi!

Lưu Hoàng hậu nói:

- Chị em ta xa cách bấy nhiêu năm trường, nay chị thấy em đã trưởng thành thật lòng chị vui mừng lắm! Chẳng hay em cùng tân phu nhơn có được tương đắc không?

Lưu Khuê Bích nghe hỏi buông tiếng thở dài não ruột rồi thuật rõ đầu đuôi việc Mạnh Lệ Quân đâm lủng trán và nhảy xuống Côn Minh trì tự vận cho Lưu Hoàng hậu nghe. Lưu Hoàng hậu nghe qua, giật mình kinh hãi nói:

- Ôi chao! Ai ngờ Mạnh Lệ Quân lại là gái tiết liệt như vậy! Chẳng hay khi nãy Thánh thượng phân xử như thế nào?

Lưu Khuê Bích kể lại việc vua xử hòa và truyền lập bia kỷ niệm cho Mạnh Lệ Quân. Hoàng hậu gật đầu khen phải và không ngớt miệng khen Mạnh Lệ Quân là con người đúng đắn.

Hoàng hậu dịu giọng nói với em:

- Triều đình phân xử như vậy là công bằng lắm đó! Chẳng hay thân mẫu và hiền muội độ này có mạnh giỏi không?

Lưu Khuê Bích nói:

- Nhờ phước ấm của Hoàng hậu nên thân mẫu vẫn được tráng kiện như thường, còn hiền muội nay cũng đã trưởng thành.

Nghe nói, Lưu Hoàng hậu mừng rỡ:

- Nếu vậy thì còn gì vui vẻ cho bằng. Từ đây về sau chị em ta lại được gần gũi nhau cho thỏa lòng mong nhớ.

Nói rồi Hoàng hậu truyền cung nữ dọn tiệc lên và lựa hai nàng cung nữ nhan sắc tuyệt đẹp tên Tần Hiếu Mị và Đỗ Hàm Hương đến hầu.

Giây lát, hai nàng vào yến kiến Hoàng hậu. Khuê Bích thấy hai người nhan sắc mạn mà tuổi độ trăng tròn.

Hoàng hậu bảo cả hai đến đứng hầu Khuê Bích và cười nói:

- Hai tên cung nữ này là Tần Hiếu Mị và Đỗ Hàm Hương, chẳng những cả hai đều có nhan sắc mỹ miều mà cử chị lại đoan trang. Riêng về Đỗ Hàm Hương lại còn giỏi về nghề văn thơ nữa, vì vậy lâu nay chị có lòng yêu mến nên không đem vào hầu hạ Thiên tử. Vậy nay Mạnh Lệ Quân đã chết rồi để chị cho hai nàng này hầu hạ hiền đệ, nếu sanh được quí tử thì hay biết bao nhiêu. Rồi đây chị sẽ xem trong hàng quan đại thần có con gái ai tài mạo song toàn, chị sẽ tâu cùng triều đình xin cho hiền đệ kết duyên nữa, chẳng hay hiền đệ nghĩ sao?

Lưu Khuê Bích mừng rỡ nói:

- Hoàng hậu đã có lòng đoái thương, em lấy làm cảm kích.

Lưu Hoàng hậu quay qua bảo Tần Hiếu Mị và Đỗ Hàm Hương:

- Nếu hai nàng hầu hạ Quốc cựu mà sanh đặng quí tử thì chừng ấy hai nàng sẽ có phần nhờ.

Hai nàng cung nữ liếc thấy Lưu Khuê Bích cũng đẹp trai nên rất vừa lòng, liền cúi đầu lạy tạ Hoàng hậu. Hoàng hậu truyền nội giám đưa Tần Hiếu Mị và Đỗ Hàm Hương đến dinh Quốc trượng trước, còn Lưu Khuê Bích thì ở lại dự yến cùng Lưu Hoàng hậu nơi hậu cung.

Khi tiệc mãn, Khuê Bích cáo từ lui về phủ.

Đến nơi, Khuê Bích vào bái yến Lưu Tiệp và ra mắt Ngô Thục nương. Lưu Tiệp hỏi Khuê Bích về việc gia đạo, cha con gặp nhau đàm đạo không ngớt. Từ đó Lưu Khuê Bích được hai nàng cung nữ hầu hạ rất phỉ tình nên mới an lòng chờ đợi nhơn duyên.

Nói qua quan hữu Thừa tướng Lương Giám, hôm ấy cũng có mặt tại triều, khi nghe qua lời tâu của Mạnh Sĩ Nguyên ông ta nghĩ thầm:

"Chắc Tố Hoa nó là Mạnh Lệ Quân mà giả danh Tô Yến Tuyết đây chớ gì? Nếu quả vậy ta cũng nên cho cha con Mạnh Sĩ Nguyên gặp gỡ cùng nhau kẻo tội nghiệp".

Nghĩ rồi Lương Giám về nhà nói với Cảnh Phu nhơn:

- Tôi có việc cần hỏi con Tố Hoa một chút.

Cảnh Phu nhơn ngạc nhiên hỏi:

- Phu quân muốn hỏi nó việc chi đó?

Lương Giám bèn thuật lại việc họ Mạnh và họ Lưu kiện cáo nhau tại triều cho phu nhơn nghe. Cảnh Phu nhơn nghe xong câu chuyện lên tiếng khen:

- Nếu vậy Mạnh Lệ Quân là người rất tiết liệt can đảm, biết báo thù cho chồng, chết cũng đáng thương. Còn Lưu Khuê Bích kia làm hại một vì liệt nữ như vậy làm gì cũng bị quả báo.

Lương Giám nói:

- Phu nhơn nhận xét như vậy thật chí lý, nhưng tôi có một việc rất hồ nghi! Thiết tưởng con Tố Hoa nhà ta và Mạnh Lệ Quân cũng gieo mình xuống Côn Minh trì mà sao lại trùng cả ngày tháng nữa là lý gì? Chẳng lẽ một xứ lại có đến hai người tiết liệt như vậy sao? Vì vậy tôi nghi Tố Hoa là mạnh Lệ Quân đó.

Cảnh Phu nhơn suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu nói:

- Phu quân nghi như vậy cũng có lý lắm, nhưng nếu quả nàng là Mạnh Lệ Quân thì phu quân xử trí ra thế nào?

Lương Giám nói:

- Ta nên lén đưa nàng về nhà Mạnh Sĩ Nguyên cho cha con được gặp gỡ.

Cảnh Phu nhơn nói:

- Tôi rất yêu mến con Tố Hoa, nếu nó quả là Mạnh Lệ Quân thì hãy cho riêng một mình Mạnh Sĩ Nguyên hay để vui lòng mà thôi, còn con Tố Hoa thì tôi không muốn rời nó.

Lương Giám mỉm cười nói:

- Phu nhơn chớ vội tính, để ta hỏi nó cho minh bạch đã.

Nói rồi sai nữ tỳ đi gọi Tố Hoa đến. Nữ tỳ vâng lịnh chạy thẳng đến Lộng Tiêu lầu nói với Tố Hoa:

- Lão gia và phu nhơn sai tôi đi mời tiểu thơ đến cho người hỏi chuyện.

Tố Hoa vội vã đi theo con nữ tỳ, nhưng vừa đi nàng vừa hỏi:

- Ngươi có biết rõ lão gia và phu nhơn kêu ta có việc chi không?

Con tỳ nữ thuật lại chuyện giữa hai vợ chồng Lương Giám bàn luận việc nghi ngờ nàng là Mạnh Lệ Quân cho nàng nghe rồi nói:

- Nếu quả tiểu thơ là Mạnh Lệ Quân thì chắc lão gia đưa tiểu thơ về Mạnh phủ để cho gia đình được sum họp. Tuy vậy phu nhơn lại không bằng lòng, người bảo rằng người quá yêu mến tiểu thơ nên không thể xa lìa được. Nếu quả như vậy thì chỉ tin cho mạnh Thượng thơ hay để cho người vui dạ mà thôi, còn tiểu thơ thì cứ ở mãi nơi đây.

Tố Hoa nghe nói nghĩ thầm:

"Cũng chỉ vì đứa con gái này mà làm cho hai nhà phải lặn lội đến kinh diện tấu cùng triều đình thật tội nghiệp cho Mạnh lão gia quá. Nhưng thân mẫu hiện nay chắc được Mạnh gia trọng đãi, nếu ngày nay ta nhận là Mạnh Lệ Quân để được đưa về nhà họ Mạnh thì bất quá cũng chỉ là con một bà nhũ mẫu thôi, chi bằng ta cứ một mực nhận là Tô Yến Tuyết thì chẳng lẽ Lương Thừa tướng lại qua hỏi Mạnh Thượng thơ hay sao? Vả lại, hiện giờ ta đương nhiên là một vị thiên kim tiểu thơ thì dại gì lại nhận là họ Mạnh!".

Nàng vừa nghĩ đến đây thì cũng vừa đến nơi, vội bước vào cúi càho vợ chồng Lương Giám và hỏi:

- Chẳng hay song thân kêu con đến để dạy điều chi?

Lương Giám đem câu chuyện của họ Mạnh và Lưu thuật lại cho Tố Hoa nghe và nói:

- Ta thiết tưởng một chuyện nhỏ như huyện Côn Minh không thể nào có hai người liệt nữ như vậy nên ta đoán chắc con là Mạnh Lệ Quân. Nếu quả thật vậy ta sẽ lén đưa con về nhà họ Mạnh để cha con được đoàn tụ, không can chi đâu mà con ngại.

Tố Hoa thưa:

- Trước mặt song thân khi nào con lại dám dối. Con đây thiệt quả là con một nhà hàn sĩ, con không biết Mạnh Lệ Quân là ai cả, con đâu dám nhận càn, xin thân phụ chớ hồ nghi. Vả lại, Côn Minh trì là cái hồ rộng dài hơn mấy dặm, chẳng lẽ một mình Mạnh Lệ Quân mới có can đảm tử tiết sao?

Vợ chồng Lương Giám nghe qua mừng rỡ nói:

- Thật tình vợ chồng ta đây yêu mến con lắm. Chỉ sợ con là Mạnh Lệ Quân thì ta phải vì lẽ bạn chí thân với Mạnh Thượng thơ mà đưa trả lại, chớ nay con quả không phải thì con cứ ở đây với vợ chồng ta. Hai thân già này có người sớm khuya hủ hỉ còn gì vui sướng cho bằng.

Tố Hoa ở nán lại hầu hạ vợ chồng Lương Giám một lát rồi cáo từ lui về Lộng Tiêu lầu.

Về đến nơi, nàng ngồi một mình nghĩ thầm:

"Việc này tưởng Mạnh Tiểu thơ tốt số hơn ta, nhưng ngày nay ta lại được ở yên chốn lầu son gác tía này, ăn sung mặc sướng, kẻ hầu người hạ, còn Mạnh Tiểu thơ phải trôi nổi nơi góc bể chân trời khổ sở biết dường nào".

Rồi nàng lại nghĩ đến tình cũ nghĩa xưa, khiến lòng ngổn ngang trăm mối. Càng nghĩ, nàng càng thương nhớ Hoàng Phủ Thiếu Hoa, đôi dòng lệ tự nhiên tuôn xuống như mưa.

Lời Bình:

- Kỳ Thạnh Đức đã biết rõ sự việc của ba nhà: Mạnh, Lưu và Hoàng Phủ từ trước, nhưng khi vua Thành Tôn giáng chỉ tứ hôn cho Lưu Khuê Bích kết duyên cùng Mạnh Lệ Quân, ông ta cứ việc lầm lũi lãnh mạng thi hành không một lời can gián, là vì thói đời ít ai dám can đảm đứng mũi chịu sào; cái câu "kiến nghĩa bất vi vô dõng" ngàn người chưa chắc đã có một người. Có lẽ Kỳ Thạnh Đức nghĩ rằng: thế lực của họ Lưu đã đến độ tột đỉnh, trên thì có Quốc trượng, dưới lại có Hoàng hậu, tiếng nói của những người này rất có tác dụng đối với nhà vua thì mình có xen vào cản trở cũng chỉ chuốc lấy tai họa mà thôi. Cho nên khi Hoàng Phủ Kính bị buộc tội oan ức, văn võ bá quan trong triều không một người nào dám đứng ra phản đối cả.

Cho hay ở đời rất nhiều kẻ cầu an tiêu cực, ai chết mặc ai, miễn là đừng ai đả động gì đến mình thì thôi.

- Việc Mạnh Lệ Quân nhảy xuống Côn Minh trì tự vận, chính vua Thành Tôn cũng biết cảm phục và tự qui tội cho chính mình, thì xét ra vua Thành Tôn cũng không đến nỗi mê muội lắm. Cho nên gia đình họ Hoàng Phủ bị tàn hại cũng không nên trách vua Thành Tôn mà trách chung các quan văn võ trong triều quá sợ sệt uy thế của Lưu Tiệp, đã không đủ can đảm nói lời phải trái phân giải cho vua tỉnh ngộ.

Hồi Thứ Hai Mươi Hai

Mạnh Lệ Quân sửa đổi tánh danh.

Khương Nhược Sơn không con cưới thiếp.

Nhắc qua Mạnh Lệ Quân cùng con Vinh Lang trốn đi, mãi đến trời rựng sáng thì đã đi xa độ năm mươi dặm đường. Đêm hôm ấy vào ngủ nhờ trong một cái quán kia. Mạnh Lệ Quân nói nhỏ với Vinh Lang:

- Nếu ai có tọc mạch muốn hỏi dò lai lịch, mi cứ bảo rằng ta là một tên học trò ở huyện Côn Minh tên Lệ Quân Ngọc, tự là Minh Đường, hôm nay tính đến kinh đặng lập công danh, còn cái tên Vinh Lang của mi cũng giống đàn bà, hơn nữa mi cũng có sắc đẹp, người ta có thể nghi ngờ, nên ta muốn đổi tên mi là Vinh Phát. Vậy nên nhớ để khi ta cần gọi mà biết đối đáp chứ đừng bỡ ngỡ, nguy lắm đấy!

Từ đó, hai thầy trò đi đường cứ thay đổi nhau, khi thì người này ngồi kiệu, người kia cỡi ngựa, rồi đi một lúc thì đổi lại. Lệ Minh Đường thấy Vinh Phát yếu đuối nên việc chi cũng ra sức đỡ đần cho cả.

Đi mãi đến trung tuần tháng tư thì hai thầy trò đã đến hạt Quí Châu, Vinh Phát quá mệt nhọc nên sanh bịnh. Lệ Minh Đường phải đình bộ mướn nhà tạm trú để săn sóc cho Vinh Phát.

Sau khi đã yên trí chỗ ở, Lệ Minh Đường xem mạch bốc thuốc cho Vinh Phát, nhưng uống vào vẫn không thấy thuyên giảm chút nào. Tuy Lệ Minh Đường có xem sách thuốc biết được dược tánh, nhưng chưa từng làm thuốc, nên chữa ba bốn ngày lại xoay qua chứng hàn nhiệt.

Bịnh tình kéo dài đến ngày hai mươi tháng tư vẫn chưa thuyên giảm, lại gặp tiết mưa dầm. Lệ Minh Đường lấy làm lo lắng bèn nói:

- Hôm nay là ngày hai mươi tháng tư rồi, chẳng biết từ đây đến Bắc Kinh còn bao xa nữa? Ta chỉ sợ vào đến kinh không kịp kỳ khảo thí đó thôi. Nếu rủi ro như vậy phải đợi đến ba năm nữa mới đến khoa sau thì muộn mất.

Vinh Phát cựa mình đáp:

- Thầy đã có chí như vậy, thế nào trời kia cũng giúp đỡ lo gì mà không lập được công danh?

Lúc ấy trong phòng đèn đuốc sáng rực, nhưng Vinh Phát nằm thiêm thiếp một hồi rồi ngủ, chỉ còn một mình Lệ Minh Đường ngồi trơ trơ, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Bỗng trời ùn ùn mưa như nước đổ, rồi rỉ rả dầm dề lại càng gieo trong lòng Lệ Minh Đường một mối buồn man mác. Qua đến canh một, trong lúc đêm khuya canh vắng, Lệ Minh Đường xúc cảnh ngâm lên mấy vần thơ:

"Lương thê tộc tiệm chánh huỳnh hôn,

"Khổ võ biên kinh miễn khách hồn,

"Thích đắc canh thâm vô nhứt sự

"Phương tri cụ vị tả bi lương.

Ngâm xong, trong lòng Lệ Minh Đường lại càng buồn bã hơn nữa. Để cho đỡ buồn, nàng mở gói lấy ra một quyển sách ngồi dựa bàn xem. Trong lúc xem sách, gặp những chỗ văn chương tuyệt bút, Lệ Minh Đường lại cao hứng ngâm lớn lên, quên cả việc đề phòng. Tiếng ngâm của nàng như tiếng chuông ngân lảnh lót khiến phòng kế bên có một vị phú thương giựt mình thức giấc.

Xin giới thiệu qua vị phú thương này là người ở huyện Hàm Ninh, phủ Võ Xương, thuộc tỉnh Hồ Quảng, tên Khương Nhược Sơn tự là Tín Nhơn, có vợ tên Tôn thị. Hai vợ chồng lão ta ăn ở với nhau rất tương đắc nhưng vẫn chưa có con trai, chỉ sanh vỏn vẹn một đứa con gái tên Thăng Kim, hình dung dũng mặn mà.

Khương Nhược Sơn tin rằng số mạng mình không có con trai nên không chịu cưới vợ bé. Lão thường nghĩ thầm:

"Hiện nay con gái ta tuổi đã đến tuần cập kề, vậy ta cần phải kén một chàng rể có tài cao học rộng may ra ngày sau hắn có nổi danh khoa bảng, ta cũng được dự đôi chút vinh hoa".

Nghĩ đoạn, Khương Nhược Sơn đi nói với những người chuyên nghề mai mối, tỏ ý mình muốn tìm một người rể học trò.

Thuở ấy, có một học trò ở trong huyện tên Hoạt Toàn tuổi độ đôi mươi, song thân còn song toàn, gia tư cũng được mười muôn, vốn một nhà đại nông nghiệp. Hoạt Toàn là con trưởng nam, còn bốn đứa em thì còn nhỏ. Năm Hoạt Toàn mười bốn tuổi đi thi khảo may nhờ trúng nhằm bài cũ nên đậu được đệ nhị danh tú tài, vì thế nên ai ai cũng gọi danh anh ta là "thần đồng".

Bọn mai mối giới thiệu cho Khương Nhược Sơn. Khương Nhược Sơn gả con cho y ngay. Hoạt Toàn thấy Khương Nhược Sơn chỉ có một người con gái nên bàn tính với song thân:

- Nhạc phụ con không có con trai nên bây giờ con phải gây tình luyến ái, nghĩa là con qua bên ấy hầu hạ, thế nào nhạc phụ cũng vui lòng, sau này cái gia tài kếch sù ấy cũng về tay con.

Cha mẹ Hoạt Toàn thuận theo lời đề nghị của con, nên cho sang đó ở. Hoạt Toàn liền qua nói với Khương Nhược Sơn:

- Song thân con hãy còn tráng kiện, lại có bốn đứa em con hầu hạ, còn nhạc phụ và nhạc mẫu bên này không có con trai vô cùng hiu quạnh, vậy nay vợ chồng con định sang bên này để hầu hạ cho tròn hiếu đạo.

Tôn thị nghe nói lấy làm mừng rỡ, nhưng Khương Nhược Sơn thừa hiểu âm mưu của chàng rể, lão thầm nghĩ:

"Ta không có con trai, tất nhiên sản nghiệp này sẽ về tay vợ chồng nó rồi, vả lại cha mẹ nó năm nay đã trên sáu mươi tuổi mà nó lại bảo là còn tráng kiện. Còn vợ chồng ta ngày nay mới trên bốn mươi tuổi đầu, có tôi tớ hầu hạ đầy đủ mà nói lại bảo như vậy, tất nhiên nó đã tham sản nghiệp nên nỡ bỏ cha mẹ, quả là đứa bất lương. Nhưng nếu ta nói trắng ra cũng kỳ lắm, hơn nữa vợ ta không phải là người hiểu rộng nhìn xa, nếu ta không thuận thì chắc nó trách ta là kẻ vô tình và hai vợ chồng Hoạt Toàn sẽ cùng oán hờn ta nữa. Chi bằng ta cứ giả vờ vui vẻ cho chúng hưởng chút mảy may để vợ chồng chúng thất vọng chơi".

Nghĩ đoạn, Khương Nhược Sơn nói với Hoạt Toàn:

- Hai vợ chồng con có hiếu hạnh như vậy thì còn gì quí hóa cho bằng!

Hoạt Toàn ngỡ là Khương Nhược Sơn trúng kế mình nên mừng lắm, bèn lập tức về nhà dọn đồ đặc sang ở bên này, ngày đêm hết sức nịnh bợ. Tôn thị thấy vậy trong lòng rất vui đẹp, trái lại Khương Nhược Sơn thì lấy làm gai mắt, lão nhất thiết không cho Hoạt Toàn tham dự việc nhà, thậm trí đến những sản nghiệp trong nhà lão cũng đem phân cắt cho kẻ ăn người ở trong nhà coi giữ, ngay đến Tôn thị cũng không được nhúng tay vào. Vợ chồng Hoạt Toàn muốn dùng việc gì cần tiền phải thương lượng với người quản gia để nhận từng đồng tiền rất phiền phức.

Rồi đến kỳ thi năm ấy, Hoạt Toàn biết mình tài văn còn dốt chỉ sợ mình mất cả chức tú tài nên xin vợ chồng Khương Nhược Sơn một số tiền để mua chức cửu phẩm hàm đặng khỏi phải thế khảo.

Vợ chồng Khương Nhược Sơn cũng sợ Hoạt Toàn bị cách chức nên cũng chi ra mấy trăm đồng để mua chức cửu phẩm cho chàng. Nhưng số tiền xuất nhập hằng ngày không khi nào cho y quản thủ.

Hoạt Toàn lấy làm bực mình, liền theo năn nỉ với Tôn thị. Tôn thị cũng thương tình tỏ cùng Khương Nhược Sơn:

- Tôi xem tâm tánh Hoạt Toàn cũng là kẻ thật tâm và tiết kiệm, sao phu quân lại không cho nó quản thủ sản nghiệp trong nhà để cho mình được an nhàn hơn sao?

Khương Nhược Sơn nói:

- Việc nhà ta đã có người coi giữ bố trí đâu đó đường hoàng, nếu hiền tế muốn tiêu dùng việc chi cứ việc hỏi quản gia chi ra có phải tiện hơn không? Vả lại, ngày nay hiền tế còn phải lo ôn nhuần kinh sử, nếu ta phó thác việc nàh còn thì giờ đâu mà học hành? Làm như vậy tức là thương rể mà hại rể đó.

Tôn thị nghe nói có lý nên không nhắc đến việc ấy nữa, khiến Hoạt Toàn căm hận vô cùng. Khương Nhược Sơn lại nghĩ thầm:

"Chỉ vì ta không có con trai nên chúng mới tính mưu này kế nọ. Vả lại, năm nay tuy ta đã gần năm mươi song nhờ nhiều thuốc thang bổ dưỡng, cơ thể ta cũng không đến nỗi suy kém, nếu ta có vợ nhỏ tuổi, thế nào cũng còn sanh con được".

Nghĩ đoạn, Khương Nhược Sơn đi nói với mấy người mai mối:

- Các ngươi hãy làm ơn đi tìm xem có con gái ai tài mạo song toàn dù tốn bao nhiêu ta cũng cưới về làm thiếp, các ngươi hãy gia tâm, ta trọng thưởng.

Lúc bấy giờ các nhà nghèo có ý tham tiền, nghĩ rằng: Nếu con gái mình về đó mà sanh được quí tử thì cái gia tài kếch sù của Khương Nhược Sơn, con gái mình sẽ được trọn hưởng. Vì thế họ tranh nhau kêu gả rất nhiều.

Khương Nhược Sơn tuyển chọn được một cô gái là Nhu nương, con của nhà hàn sĩ tên Hồng Nhiệm. Nhu nương mới mười bảy tuổi, nhan sắc xinh đẹp.

Nàng về ở với Khương Nhược Sơn, hết lòng chiều chuộng Tôn thị nên giữ được hòa khí trong gia đình.

Nhu nương chỉ sống chung cùng Khương Nhược Sơn trong vòng một tháng đã có thai, Nhược Sơn mừng rỡ vô cùng. Qua đến tháng giêng năm sau Nhu nương sanh đặng một đứa con trai vạm vỡ, Khương Nhược Sơn mừng khấp khởi, đặt tên con là Nguyên Lãng và giao cho một bà nhũ mẫu trông nom.

Hoạt Toàn thấy vậy càng thêm oán hận, đứa bé Nguyên Lãng là cái chướng ngại vật của Hoạt Toàn. Khương Nhược Sơn thừa hiểu tư tưởng của chàng rể của mình, nhưng giả vờ không để ý đến.

Qua năm su, Khương Nhược Sơn lại nghĩ:

"Tuy ta đã sanh được một đứa con trai, nhưng ta vẫn còn giận thằng rể bất lương ấy. Bây giờ ta phải cưới thêm một người hầu thiếp nữa, may ra sanh thêm con trai nữa để xem nó tức mình đến bực nào cho biết."

Nghĩ rồi, Khương Nhược Sơn xuất ba trăm lượng bạc cưới một cô gái nhà nghèo nữa. Cô này tên Đức Thơ con của Trương Đại Hợp, nàng mới mười sáu tuổi, nhan sắc mặn mà. Tuy Tôn thị không bằng lòng nhưng không dám cãi.

Đến năm Khương Nhược Sơn được năm mươi bốn tuổi, ông nghĩ thầm:

"Nay tuổi ta đã già mà con muộn màng, không thể nào nuôi được Nguyên Lãng cho đến tuổi trưởng thàng. Khi ta nhắm mắt thế nào vợ lớn ta là Tôn thị cũng đem sản nghiệp chia cho thằng rể bất lương ấy thì linh hồn ta dưới suối vàng không yên dạ, và tin chắc rằng trong lúc chia của làm gì con trai ta cũng phải chịu thiệt thòi. Chi bằng bây giờ ta còn tráng kiện, ta sẽ xuất tiền ra đi buôn may ra kiếm thêm vài mươi muôn, chừng ấy ta sẽ nghĩ kế chia gia tài cho vừa ý ta".

Nghĩ rồi, Khương Nhược Sơn tuyển chọn bốn tên gia nhơn toàn là những tên thạo nghề buôn bán, phân công cho chúng đi các tỉnh tìm những đồ châu báu tốn đến bảy tám trăm muôn bạc.

Hôm ấy lúc trời mưa tầm tã, Khương Nhược Sơn phải tìm quán nghỉ ngơi, chẳng dè gặp nhằm chỗ với Lệ Minh Đường.

Lúc ấy tuy trời mưa, song hơi đất bốc lên khiến khí hậu nóng bức, Khương Nhược Sơn chỉ nằm mơ màng không ngủ được, đến khi nghe tiếng đọc sách rang rảng ở phòng kê bên thì giật mình ngồi nhổm dậy bước đến khe cửa nhìn xem.

Khương Nhược Sơn thoáng thấy Lệ Minh Đường tóc đen nhánh như đàn bà (vì lúc ấy nực nội nên Lệ Minh Đường lột khăn vấn đầu) lại thêm khuôn mặt đầy đặn, nước da trắng phau, đôi mắt sáng như sao, hai cổ tay nõn nà tròn vo trông như ngọc ngà dễ thương đáo để.

Khương Nhược Sơn nghĩ thầm:

"Với tướng mạo của chàng thiếu niên này thế nào ngày sau cũng được đại phú đại quí. Mắt ta đã từng xem đồ châu báu không khi nào lầm lẫn thì đối với tướng kẻ sang, kẻ hèn, dám tự tất thông khi nào sai lệch. Thôi để ta vào thăm chàng và nếu chàng có lòng tốt, ta tìm cách làm nghĩ phụ của chàng, để sau này chàng có được ra làm quan thì ta cũng được hưởng chút ít thơm lây, nở mặt nở mày với thiên hạ".

Khương Nhược Sơn nghĩ vậy nên đứng chờ cho Lệ Minh Đường đọc xong đoạn sách ấy mới đưa ta gõ nhẹ vào cánh cửa. Lệ Minh Đường nghe gõ cửa, giật mình run sợ vội lấy khăn vấn đầu rồi đứng dậy lên tiếng hỏi:

- Ai gõ cửa đó?

Khương Nhược Sơn ôn tồn đáp:

- Tôi là người khách ngụ phòng kế bên đây, vì nghe người ham đọc sách nên muốn sang hầu chuyện.

Lệ Minh Đường mở cửa tiếp vào mời ngồi và nói:

- Vì đây là nơi lữ thứ nên hoàn cảnh không thuận tiện. Xin lão trượng miễn chấp cho.

Khương Nhược Sơn đáp:

- Ngươi có lòng tử tế như vậy, lão phu lấy làm cảm tạ.

Lệ Minh Đường hỏi:

- Thưa lão trượng, chẳng hay lão trượng quê quán ở đâu, quí danh là chi và buôn bán vật gì, xin lão trượng vui lòng cho tôi biết.

Khương Nhược Sơn đáp:

- Tôi họ Khương, tên Nhược Sơn, tự là Tín Nhơn, quê ở huyện Hàm Ninh, phủ Võ Xương, tỉnh Hồ Quảng, nhân đi mua các đồ châu báu nay sắp trở về quê nhà, đi ngang qua đây gặp mưa nên vào đây mướn phòng trú ngụ. Còn công tử tánh danh là chi, chẳng hay đến đây có việc gì?

Lệ Minh Đườn đáp:

Tôi họ Lệ, Tên Quân Ngọc, tự là Minh Đường quê ở huyện Côn Minh tỉnh Vân Nam. Năm nay tôi lên mười sáu, định vào thi kinh, nhưng vì đến đây rủi đứa thơ đồng mang bịnh, phải đi trễ hỏng mất kỳ thi, vậy nên buồn bã lấy sách ra đọc làm kinh động đến lão trượng, xin lão trượng sẵn lòng tha thứ.

Khương Nhược Sơn nói:

- Ngươi là bậc thiếu niên danh sĩ có chí như vậy thật đáng kính, vả con đường từ đây ra Bắc Kinh giặc cướp rất nhiều mà hai thầy trò còn son trẻ quá, lão phu lo ngại vô cùng.

Lệ Minh Đường nghe nói, thở dài than:

- Mấy lời dạy của lão trượng, vãn sanh cảm thấy là lời vàng ngọc, nhưng vãn sanh đã vì chút công danh thì dẫu có nguy hiểm đến đâu cũng phải cố gắng mà vượt qua.

Khương Nhược Sơn thương hại nói:

- Vẫn biết vậy, nhưng phảm làm việc gì cũng phải suy hơn tính thiệt chớ không nên đánh liều nguy hiểm. Chẳng giấu gì, lão phu đây nhờ buôn bán phương xa nên ở Bắc Kinh cũng có ít người quen biết, nếu người muốn quyên giám để xin ứng thí thì tôi vui lòng giúp cho, thế nào khi người đến nơi cũng được vào thi ngay. Và bây giờ tôi có một ý kiến này nữa, nếu người nghe lời tôi thì còn gì hay cho bằng.

Lệ Minh Đường hỏi:

- Việc gì, xin lão trượng cứ nói thẳng ra, nếu việc đáng làm thì không bao giờ tôi từ chối.

Khương Nhược Sơn liền thuật hết nỗi gia đạo của mình cho Lệ Minh Đường nghe và nói:

- Thiên hạ thấy tôi giàu có nên thường gọi tôi là Khương Bá Vạn, nhưng kỳ thực thì sản nghiệp của tôi độ năm muôn là cùng, nay tôi thấy người tài mạo khác thường, chắc chắn là một tay khoa bảng nên lòng muốn kết giao làm bạn, nhưng so tuổi tác, một già một trẻ kết bạn rất khó coi. Vậy nếu ngươi không muốn phụ lòng mến phục của tôi mà nhận tôi làm nghĩa phụ thì tôi cũng không dam mong người phải thay tên đổi họ, tôi chỉ mong sau này được hưởng nhờ chút ân vinh của người cho thỏa chí mà thôi.

Lời Bình:

- Hoạt Toàn trong hồi này là một trường hợp điển hình, anh ta phụng sự Khương Nhược Sơn không phải vì hiếu thảo, mà là một âm mưu để chiếm đoạt cái gia tài kếch sù kia, nhưng rủi thay, con mắt tinh đời của ông nhạc Khương Nhược Sơn đã nhìn thấy cái dã tâm của chàng nên ghét cay ghét đáng, đã già mà ra cưới vợ bé kiếm con trai làm cho Hoạt Toàn phải vỡ mộng đào mỏ, phỏng như Hoạt Toàn không âm mưu đào mỏ thì chắc chắn Khương Nhược Sơn không cưới vợ bé làm gì, và tự nhiên chàng ta sẽ chiếm được cái gia tài ấy.

Lại xét qua Khương Nhược Sơn nhận Lệ Minh Đường làm nghĩa tử cũng không phải vì thương chàng hay mến phục chàng mà chính ông ta vì muốn có danh vọng trong xã hội mà thôi. Phải lắm, về tiền của thì ông quá giàu không còn thiết gì nữa, ông chỉ còn thiếu địa vị danh vọng, vì vậy ông muốn tìm một chàng rể học giỏi nhưng ông đã lầm gả con cho Hoạt Toàn, một anh học trò dốt gặp thời. Vì thất vọng, ông ta phải xuất tiền ra nuôi Lệ Minh Đường làm nghĩa tử để thực hiện nguyện vọng của mình.

Việc làm của Khương Nhược Sơn ta không thể bảo là một âm mưu được vì khi ông ta thấy tài mạo của Lệ Minh Đường biết chàng ta có hy vọng đạt được công danh nên nhận làm nghĩa tử và nói trắng mục đích mình ra cho Lệ Minh Đường biết rằng mình làm như vậy để mua lấy chút danh phận ở đời. Thì đây quả làm một việc đổi chác công khai không thể bình phẩm Khương Nhược Sơn là người tốt bụng và cũng không thể bảo Khương Nhược Sơn là kẻ âm mưu được. Đây là một việc làm cầu danh lợi một cách công khai bạch nhựt, đáng khen hơn là chê.

Hồi Thứ Hai Mươi Ba

Vì mến tài, Khương Nhược Sơn nhận nghĩa tử.

Quyết lập thân, Lệ Quân Ngọc trổ tài năng.

Ngừng một lát, Khương Nhược Sơn tiếp:

- Nếu người không phụ lòng tôi thì xin người hãy theo tôi về nhà để tôi lo liệu tiền quyên giám cho, chẳng hay người nghĩ thế nào?

Lệ Minh Đường suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Lão trượng đã có lòng đoái tưởng đến tôi, tôi đội ơn vô cùng, nhưng tôi xin tỏ trước một lời là xin lão trượng hiểu cho rằng, dầu sao nhà tôi cũng có chút ít sản nghiệp nên không hề có lòng tham đến sản nghiệp của lão trượng đâu, và xin thề rằng nếu tôi được may phước làm con của lão trượng thì không khi nào chịu lạm thực đến tài sản của lão trượng. Tôi chỉ cầu sao cho tôi được thành danh để lão trượng được phần vinh dự là tôi mãn nguyện lắm rồi!

Khương Nhược Sơn nói:

- Tuy người đã quyết lập chí như thế, đó là thái độ của kẻ anh hùng, nhưng dầu sao lão phu cũng phải định liệu cho phải lẽ chớ!

Khương Nhược Sơn vừa nói dứt, Lệ Minh Đường vội cúi lạy nhận làm nghĩa phụ. Lão Nhược Sơn lấy làm đẹp ý vội đưa tay đỡ Lệ Minh Đường dậy và vui vẻ nói:

- Được như vầy thật lão phu không gì toại nguyện cho bằng, nhưng lão phu chỉ sợ mình bạc phước không được hưởng thọ lâu dài để nhận lấy vinh dự về sau.

Lệ Minh Đường nói:

- Con đang hy vọng vào phúc ấm của nghĩa phụ để bước lên thang danh vọng một cách xuôi chảy, nếu ngày nào con thành danh thì nghĩa phụ cũng được phong tặng, xin nghĩa phụ chớ nên thốt lời bi quan ấy, con buồn lắm.

Khương Nhược Sơn nói:

- Thôi, bây giờ con hãy nghỉ ngơi rồi sáng ngày sẽ qua phòng ta ăn uống và cùng nhau khởi hành.

Nói rồi, Khương Nhược Sơn trở về phòng mình an nghỉ. Qua đến đầu canh năm, Khương Nhược Sơn thức dậy kêu chủ quán dọn rượu thịt lên, đoạn sai người qua mời Lệ Minh Đường.

Lúc ấy, Lệ Minh Đường cũng đã dậy, đang lo sắp đặt hành lý, kế có gia nhơn của Nhược Sơn qua nói:

- Ông tôi dạy sang mời ngài qua dùng rượu.

Lệ Minh Đường vội kêu Vinh Phát dậy coi phòng, rồi nối gót tên gia nhơn sang ăn uống cùng Khương Nhược Sơn.

Trước khi ngồi vào bàn, Khương Nhược Sơn không quên sai người đem bánh qua cho Vinh Phát, và truyền chuẩn bị mướn xe cộ cho sẵn sàng.

Cơm nước xong thì xe vừa đến, Lệ Minh Đường hối Vinh Phát đem hành lý lên rồi cùng Khương Nhược Sơn ngồi chung một xe, đoạn sửa một chiếc xe êm ái cho Vinh Phát nằm.

Cuộc hành trình này chỉ trong vòng hai ngày đã đến Võ Xương, lúc ấy bịnh tình của Vinh Phát đã thuyên giảm nhiều. Đến nơi, người nhà của Khương Nhược Sơn mừng rỡ chạy ra tiếp rước, Hoạt Toàn cũng giả vờ ân cần chạy ra niềm nở thưa:

- Tiện tế chẳng hay nhạc phụ về nên ra tiếp đón trễ nãi, mong nhạc phụ tha thứ cho.

Khương Nhược Sơn đưa tay chỉ Hoạt Toàn, giới thiệu cùng Lệ Minh Đường:

- Đây là anh rể của con đó, con hãy chào anh rể của con đi.

Lệ Minh Đường nghe bảo vội cúi đầu chào Hoạt Toàn. Hoạt Toàn ra vẻ ngạc nhiên, Khương Nhược Sơn liền thuật lại cho Hoạt Toàn biết Lệ Minh Đường là nghĩa tử của mình.

Hoạt Toàn nghe xong lấy làm bất bình, chàng nghĩ thầm:

"Năm ngoái sanh một đứa con trai, phần gia tài này ta đã thiệt mất phân nửa, nay lại đèo bòng thêm con nuôi nữa, chẳng biết rồi đây cái tài sản này sẽ chia ra làm mấy mươi phần!"

Hoạt Toàn tuy nghĩ vậy, song cũng gượng chào Lệ Minh Đường và mời vào nhà. Khương thị là người em gái của Khương Nhược Sơn, năm ấy độ ba mươi tuổi, trông thấy Lệ Minh Đường đi với Nhược Sơn thì lấy làm lạ, cả hai đều ngỡ ngàng không biết hỏi bằng gì.

Khương Nhược Sơn bèn thuật rõ lai lịch cho vợ con và em gái nghe, đồng thời bảo Lệ Minh Đường gọi Tôn thị bằng nghĩa mẫu và chào Khương thị bằng nghĩ Cô mẫu.

Tôn thị thấy thế lấy làm khó chịu, song làm thinh không dám nói. Khương Nhược Sơn lại bảo Lệ Minh Đường chào Thăng Kim và gọi bằng chị. Thăng Kim cũng cúi đầu chào đáp lễ rồi lui vào nhà trong.

Còn hai người tiểu thiếp của Khương Nhược Sơn là Nhu Nương và Đức Thơ đứng ở sau bức rèm liếc thấy Lệ Minh Đường diện mạo khôi ngô, cả hai như bị thôi miên không cầm lòng được, liền giả vờ vô tình bước ra để nhìn rõ mặt chàng trai tuấn tú ấy, nhưng khi giáp mặt Lệ Minh Đường, lại giả vờ hổ thẹn chạy vào.

Khương Nhược Sơn thấy thế liền kêu lại bảo:

- Lệ Minh Đường đã nhận ta là nghĩa phụ rồi. Xét ra người cùng hai nàng niên kỷ bằng nhau nhưng danh phận của nàng đương nhiên là mẫu. Vậy ta cho phép hai nàng ra tiếp chào, đặng từ đây về sau hai nàng sẽ cư xử với Lệ Minh Đường như tình cốt nhục.

Nhu Nương nghe nói liền bước ra chào Lệ Minh Đường, Đức Thơ cũng bước theo chào hỏi. Lệ Minh Đường liền rước bồng đứa bé và tỏ tình thân mật hỏi:

- Chẳng hay em nó tên là chi vậy?

Nhu Nương đáp:

- Nó tên là Nguyễn Lãng.

Sau đó, Khương Nhược Sơn sai người mang tiền lên Bắc Kinh quyên giám để cho Lệ Minh Đường được vào ứng thí. Trong thư, Nhược Sơn ghi rõ tên tuổi của Lệ Minh Đường, nhưng quê quán thì ghi ở huyện Hàm Ninh, phủ Võ Xương, tỉnh Hồ Quảng.

Hoạt Toàn trông thấy sự việc như vậy, lòng đầy căm tức, liền nói với vợ:

- Ta xem Lệ Minh Đường có vẻ xinh đẹp như con đào hát giả trai vậy, hay là nhạc phụ có ý riêng gì chăng, rồi tránh tiếng dị nghị nên mới nhận làm nghĩa tử?

Nàng Thăng Kim nói:

- Thân phụ tôi không khi nào có hành động như vậy đâu, phu quân chớ nên nghĩ bậy bạ mà mích lòng người.

Hoạt Toàn nói:

- Tôi thấy gần đây nhạc phụ đã biến tánh cho nên cưới đến hai nàng tiểu thiếp, thì biết đâu người lại không có hành động ố lem khác!

Thấy vợ mình không nghe, Hoạt Toàn đi nói với Tôn Thị. Tôn Thị nghe qua lấy làm căm hận nói:

- Được rồi, để ta dò xét kỹ lưỡng nếu quả thật như vậy, ta sẽ đánh cho nó một trận rồi đuổi ra khỏi nhà lập tức.

Từ đó Tôn thị hay cau có đá thúng đụng nia, mắng mèo chưởi chó, khiến Khương Nhược Sơn lấy làm bực mình, nhưng Khương Nhược Sơn cũng thừa hiểu đó là do Hoạt Toàn xúi giục, lão bèn dọn riêng một thơ phòng cho Lệ Minh Đường ở đọc sách.

Phòng riêng này tuy không rộng rãi mấy, song cũng mát mẻ đẹp đẽ, trông có vẻ nên thơ. Ngày nào cũng có người bưng cơm nước đến cho hai thầy trò Lệ Minh Đường ăn.

Vinh Phát nói với Lệ Minh Đường:

- Tuy ông Khương Nhược Sơn có lòng tốt thật, song người vợ ông không được tử tế.

Lệ Minh Đường nói:

- Mi nói đúng đấy, chỉ vì bà ta quê mùa dốt nát nên mới nghe lời Hoạt Toàn xúi giục làm như vậy, nhưng ta vì tình nghĩa phụ nên gác bỏ ngoài tai, không nên chấp trách làm gì. Riêng về Nguyên Lãng kia, ta cần phải biếu cho cậu vật gì để gây tình thân mật và kỷ niệm về sau.

Nói rồi, Lệ Minh Đường mở gói ra lấy một xâu chuỗi hột và một đôi vòng bằng ngọc định đem cho Nguyên Lãng rồi hai thầy trò tắt đèn an giấc.

Sáng hôm sau, Lệ Minh Đường đem ba vậy ấy đến phòng Khương Nhược Sơn. Con nữ tỳ vừa trông thấy vội hỏi:

- Tiên sanh đến đây có việc gì mà sớm thế? Ông bà tôi còn ngủ chưa dậy.

Lệ Minh Đường khoát tay, nói:

- Nếu còn ngủ thì chớ kêu làm gì, để ta về rồi một lát sẽ lại.

Lúc ấy Khương Nhược Sơn ở trong phòng nghe tiếng liền bảo nữ tỳ mời vào. Khương Nhược Sơn nhắc ghế mời ngồi rồi pha trà mời uống. Hai nàng tiểu thiếp Nhu Nương và Đức Thơ vì đã say đắm nhan sắc của Lệ Minh Đường nên vội bế Nguyên Lãng đến gần để chào hỏi.

Lệ Minh Đường tươi cười vui vẻ tiếp bồng Nguyên Lãng để vào lòng, rồi bảo nó:

- Hiền đệ ơi! Ta cho hiền đệ mấy cái này nghe!

Nói rồi lấy dây chuỗi hạt châu cùng dây vàng đeo vào cổ cho Nguyên Lãng, còn đôi ngọc thì đeo vào hai cườm tay. Nguyên Lãng mừng rỡ chạy lại khoe với cha:

- Cha ơi, con có mấy cái này tốt lắm!

Khương Nhược Sơn kéo tay Nguyên Lãng lên xem và nói:

- Ối chao! Trẻ con thì nên cho hắn đeo đồ giả cũng được, sao lại dùng vàng ngọc thiệt như vầy, chẳng là phí lắm sao?

Lệ Minh Đường nói:

- Mấy thứ này là vật cũ của con dùng lúc còn thơ ấu, chứ không phải mới mua đâu.

Khương Nhược Sơn xem kỹ lại, rồi cất tiếng khen:

- Con đã có những đồ dùng quí giá như vầy, tất nhiên một nhà đại phú rồi!

Lệ Minh Đường khiêm nhường nói:

- Tuy nhà con cũng có chút sản nghiệp, song vốn quê mùa nên có vật như vậy mà cũng không lấy chi làm trọng.

Nói rồi nàng cáo từ lui về phòng riêng.

Nhắc qua việc Nhu Nương và Đức Thơ, hai nàng hầu thiếp của Khương Nhược Sơn rất mê đắm sắc chàng trai Lệ Minh Đường. Hai người trở vào phòng cùng nhau khen ngợi. Đức Thơ nói:

- Người sao mà đẹp trai đến thế cơ! Ôi con mắt của chàng nó đẹp một cách tự nhiên, dầu một tay danh họa này có tài đến đâu cũng không thể vẽ cho giống hệt được.

Nhu Nương cũng tắc tưởi nói:

- Chẳng những con mắt đã xinh đẹp mà thôi, màu da của chàng cũng nõn nà như tấm lụa trông đẹp quá, nếu sau này cô ả nào được lấy chàng thì thật là hữu phước. Được người chồng đẹp thế thì dầu trọn đời ăn ở với nhau có nghèo khổ đến đâu cũng thỏa dạ.

Nhu Nương lại tiếp:

- Với cái màu da ấy, chẳng những chị đây lớn tuổi không bằng chàng đã đành, đến nỗi màu da của em cũng phải thua sút chàng nữa là khác.

Đức Thơ nghe vậy biết Nhu Nương đã phải lòng chàng rồi, bèn nói:

- Chị em ta ở chung nhau một nhà, tình nghĩa chẳng khác ruột thịt, vậy em xin tỏ thật cùng chị, theo con mắt của em thì tin chắc Lệ Minh Đường này không thể có một chàng trai nào sánh kịp, thậm trí đến hạng nữ lưu cũng ít người bì nổi.

Nhu Nương nói:

- Chị em ta cũng vì cha mẹ quá tham tiền, đem gả cho lão già này phí mất một đời xuân xanh, phải chi được kết duyên cùng Lệ Minh Đường, dầu chỉ được ấp yêu với chàng trong một ngày rồi chết đi cũng thỏa dạ.

Sau đó, hai người cứ bàn qua tính lại xung quanh vấn đề diện mạo anh chàng Lệ Minh Đường rồi than vắn thở dài, trông rất thảm thiết.

Khi dùng cơm sáng xong, Khương Nhược Sơn ra chơi nơi huê viên, Lệ Minh Đường thoáng thấy liền bước ra mời vào thư phòng rồi thưa:

- Chẳng phải con dám thôi thúc, nhưng xét việc công danh vô cùng hệ trọng, xin nghĩa phụ hãy mau mau sai người đến kinh lo liệu giùm, kẻo để trễ không được vào thì tội cho con lắm.

Khương Nhược Sơn mỉm cười đáp:

- Khi mới về đây ta đã lập tức viết thư sai người đi rồi, chớ đâu để ngày nay mà con phải nhắc.

Lệ Minh Đường đáp:

- Thế sao nghĩa phụ không cho con hay để con trao số tiền quyên giám và tiền lộ phí? Và tên họ con, chẳng hay nghĩa phụ khai như thế nào?

Khương Nhược Sơn đáp:

- Ồ! Ta đã là nghĩa phụ của con thì lẽ nào việc nhỏ mọn như vậy lại không lo liệu, để cho con xuất tiền quyên giám sao? Còn tên họ của con thì lão phu vẫn khai là Lệ Quân Ngọc, nhưng ta để con nhập tịch bên Hồ Quảng này, phỏng có được chăng?

Lệ Quân Ngọc nói:

- Sao nghĩa phụ không khai con là họ Khương, lại cứ để nguyên họ Lệ làm cho cha con mình phân biệt như vậy, sao co phải lẽ?

Khương Nhược Sơn nói:

- Nếu có ý tốt như vậy, ta rất vui lòng, nhưng chúng ta nhận nhau là cha con đã là quá phận lắm rồi, hà tất phải đổi tên họ.

Lệ Minh Đườgn nói:

- Con đội ơn nghĩa phụ rất nhiều, dầu cho có đổi họ cũng chẳng sao.

Câu chuyện của hai người vừa đến đây, tên đầu bếp đã dâng lên hai chén cháo bột củ sâm để ăn cho bổ khỏe. Khương Nhược Sơn vừa ăn vừa hỏi Lệ Minh Đường:

- Con thấy người đầu bép nấu nướng như vầy có dễ ăn không?

Lệ Minh Đường đáp:

- Bác đầu bếp này nấu nướng như vầy ăn ngon lắm, vả con yếu đuối có ăn là bao, xin nghĩa phụ dạy cho giảm bớt đi là hơn.

Khương Nhược Sơn cười nói:

- Ta chỉ sợ đầu bếp nấu nướng không ngon, làm cho nghĩa tủ không ăn được thôi.

Dứt lời, lão quay qua dặn tên đầu bếp:

- Ngươi hãy cố nấu nướng như thế nào để cho hiệp ý nghĩa tử ta thì ta trọng thưởng nhé.

Tên đầu bếp vâng dạ rồi lui ra. Sau đó Khương Nhược Sơn sai người đi kêu thợ may đến mướn may rất nhiều quần áo cho Lệ Minh Đường thay đổi.

Khương Nhược Sơn càng đối đãi tử tế với Lệ Minh Đường, Hoạt Toàn càng căm hận vô cùng, nhưng không biết làm cách nào cho bõ ghét.

Khương Nhược Sơn về đến phòng chưa được bao lâu, đã có gia đinh vào báo:

- Hiện có người em rể của lão gia là Ngô Đạo Am đến.

Khương Nhược Sơn mừng rỡ vội ra tận bên ngoài tiếp rước vào nhà. Ngô Đạo Am hỏi:

- Nghe nói lão huynh đi buôn bán, chẳng hay lão huynh về đây bao giờ vậy? Chỉ vì tiểu đệ thường hay đi vắng mãi nên không thường đến đây thăm lão huynh được.

Khương Nhược Sơn đáp:

- Tôi mới về được mấy hôm nay.

(Nguyên Khương Nhược Sơn có một người em gái gả cho Ngô Đạo Am là một nhà hàn sĩ, cha mẹ người mất sớm, nhưng lại có tài học rộng uyên thâm, thi đỗ tú tài, lại rất giỏi về môn y dược. Ông ta được vợ giới thiệu việc Lệ Minh Đường cho nghe nên nay ông ta mới đến hỏi thăm Khương Nhược Sơn).

Lời Bình:

- Lệ Minh Đường, con một vị Thượng thơ của tiền dinh dư, nàng ra đi mang theo vàng bạc không thiếu, tuy nàng nhận Khương Nhược Sơn làm nghĩa phụ, chỉ vì nàng muốn có người đỡ đầu giúp đỡ trên bước đường đi muôn dặm thôi, vì vậy nàng còn sợ Khương Nhược Sơn hiểu lầm rằng mình có ý muốn chia một phần gia tài của nghĩa phụ nên nàng rào đón trước để cho Khương Nhược Sơn khỏi giải quyết theo lẽ phải, nghĩa là sau này Lệ Minh Đường cũng sẽ được một phần gia tài.

Cho hay ở đời những âm mưu thường thường bị thất bại, mà cứ phó mặc cho số mệnh, lại thường đưa đến cái lợi bất ngờ.

- Người ta thường bảo "có tiền mua tiên cũng được". Quả vậy, hai nàng hầu thiếp của Khương Nhược Sơn vừa trông thấy tài mạo của Lệ Minh Đường liền say mê và ước gì được sống chung với chàng dù nghèo hèn đến đâu cũng được. Biết vậy mà hai nàng vẫn lấy một ông già khú như Khương Nhược Sơn, đủ biết đồng tiền có tác dụng đến bực nào!

Hồi Thứ Hai Mươi Bốn

Ngô Đạo Am tinh mắt biết người tài

Lệ Minh Đường văn hay được trúng tuyển.

Ngô Đạo Am hỏi Khương Nhược Sơn:

- Chẳng hay lão huynh đi buôn chuyến này có phát tài không?

Khương Nhược Sơn đáp:

- Buôn bán là nghề chuyên môn của tôi mà! Vì vậy đã đi buôn tất nhiên phải phát tài.

Ngô Đạo Am hỏi:

- Nghe nói lão huynh vừa mới nhận một nghĩa tử mà người ấy là một danh sĩ, chẳng hay tài học của người ấy thế nào?

Khương Nhược Sơn đáp:

- Cứ theo con mắt tinh đời của tôi, tôi đoán chắc nghĩa tử tôi là hạng thông minh xuất chúng, nhưng còn tài học thì thật ra tôi không biết nổi, mong tiên sinh hãy thử xem mới rõ được.

Ngô Đạo Am nói:

- Con mắt của lão huynh châu báu xem không lầm thì đời nào lại không thấy rõ kẻ chân tài?

Khương Nhược Sơn nói:

- Chỉ vì chữ nghĩa tôi quá kém cỏi nên phải cậy tiên sinh thử sức hắn.

Ngô Đạo Am nói:

- Đã là nghĩa tử của lão huynh tức là nghĩa điệt của tôi rồi, để tôi ra đó thăm người một chút mới được.

Nói xong cả hai đều dắt nhau ra huê viên. Lệ Minh Đường vừa thoáng thấy vội chạy ra nghinh tiếp.

Khương Nhược Sơn đưa tay chỉ Lệ Minh Đường giới thiệu cùng Ngô Đạo Am:

- Đây là nghĩa tử của tôi đó.

Nói xong truyền gia nhơn dọn tiệc lên, ba người cùng nhau ngồi uống rượu. Rượu được vài tuần, Ngô Đạo Am hỏi đến việc văn chương sử sách Lệ Minh Đường ứng đáp xuôi như nước chảy, có khi Ngô Đạo Am hỏi chỉ một câu mà Lệ Minh Đường đáp đến mười câu, từ lý sâu sắc, tỏ ra là một bậc kỳ tài, khiến Ngô Đạo Am khủng khiếp không dám hỏi nữa.

Ngô Đạo Am nghĩ thầm:

"Ngày nay mới biết tài học của ta chưa thấm vào đâu, chẳng khác nào cầm sào dò biển, khó mà dò đặng chỗ sâu, chỗ cạn".

Lệ Minh Đường thấy Ngô Đạo Am tuy ít học nhưng ông ta giỏi về thuốc, nên hỏi qua mạch lý thì ông ta giảng giải rất thông suốt.

Sau đó, ba người uống rượu trò chuyện mãi đến chiều mới ta cuộc. Khi Ngô Đạo Am đi khỏi rồi, Khương Nhược Sơn nói với Lệ Minh Đường:

- Ngô Tiên sanh chính là bậc lão thành có tiếng là một nhà học rộng, nếu trên vấn đề văn chương có chỗ nào con chưa thông suốt hãy hỏi người, người sẽ chỉ cho.

Lệ Minh Đường đáp:

- Về văn chương thì con chẳng dám phiền hỏi người, chỉ xin nghĩa phụ nói với người, nhờ người truyền dạy mạch lý cho thì ân ấy rất sâu.

Khương Nhược Sơn nghe nói cười hỏi:

- Không làm thuốc mà tìm học mạch lý làm gì?

Lệ Minh Đường đáp:

- Nghề làm thuốc có thể cứu được tánh mạng con người, một việc vô cùng quan trọng, nếu cần phải học hỏi, dầu không làm thuốc cũng có thể cần dùng khi nguy biến, hay lắm chớ!

Khương Nhược Sơn nói:

- Tưởng con muốn điều chi, chứ điều ấy rất dễ.

Nói rồi vào nhà để thương nghị với Ngô Đạo Am. Ngô Đạo Am vừa trông thấy Khương Nhược Sơn liền bái và nói:

- Tôi rất khâm phục lão huynh có con mắt tinh đời chọn người nghĩa tử ấy.

Khương Nhược Sơn nghe nói mừng rỡ, hỏi:

- Tiên sanh nói như vậy thì chắc Lệ Minh Đường là một bậc kỳ tài nhưng tiên sanh đoán thử sau này có thể thành danh không?

Ngô Đạo Am nói:

- Căn cứ trên kiến thức về văn chương thì Lệ Minh Đường rất có tài khoa bảng, hơn nữa diện mạo của chàng khôi ngô, đoan chánh quá, thế nào chàng cũng là dòng dõi công hầu chẳng sai, nhưng chẳng biết vì cớ gì chàng lại chịu cùng lão huynh kết làm phụ tử?

Khương Nhược Sơn nghe hỏi liền thuật rõ lại mọi việc từ đầu đến cuối cho Ngô Đạo Am nghe.

Ngô Đạo Am lắc đầu tỏ vẻ không tin, nói:

- Tôi chắc Lệ Minh Đường là quan gia tử đệ chi đây mới có tài mạo như thế, chứ bảo rằng nông gia xuất thân thì thật là khó tin quá.

Khương Nhược Sơn lại nói:

- Tuy Lệ Minh Đường có tài cao học rộng như vậy mà còn muốn yêu cầu tiên sanh dạy cho hắn một chuyện.

Ngô Đạo Am nói:

- Tài học của Lệ Minh Đường chẳng những một mình tôi bái phục mà thôi, có thể thân sĩ khắp tỉnh Hồ Quảng này không ai bì kịp, mà bây giờ còn cần đến tôi dạy là dạy điều chi?

Khương Nhược Sơn nói:

- Tiên sanh chớ nên khen quá lời, vừa rồi hắn cậy tôi nói giùm tiên sanh làm ơn truyền dạy mạch lý cho hắn, chẳng hay tiên sanh nghĩ sao?

Ngô Đạo Am nói:

- Điều ấy không khó chi, phàm những người tinh thông văn tự rồi thì chỉ nói sơ qua là hiểu hết.

Bây giờ nhắc lại việc Nhu Nương và Đức Thơ từ khi trông thấy nhan sắc Lệ Minh Đường, đem lòng luyến ái, thường hay nhìn trộm Lệ Minh Đường, hoặc nhân khi đi ra và cố ý tạo những cuộc gặp gỡ để trò chuyện một đôi câu. Lệ Minh Đường thấy vậy đoán biết hai người đã say đắm cái dung nhan của mình nên mỗi lần gặp gỡ tươi cười vui vẻ làm cho hai nàng càng tương tư hơn nữa.

Bữa nọ Khương Nhược Sơn đi vắng, Vinh Phát cũng ra ngoài phố dạo chơi, hai nàng bồng Nguyên Lãng vào huê viên chơi, trông thấy Lệ Minh Đường đang ngồi đọc sách trong thư phòng. Nhu Nương bèn giả cách đi tránh nơi khác để cho Đức Thơ vào trước rồi mình sẽ vào sau.

Nhu Nương nói:

- Em làm ơn bồng giùm Nguyên Lãng cho chị đi có chút việc cần.

Đức Thơ mừng rỡ vội bồng Nguyên Lãng và nói:

- Thôi, chị hãy đi đi.

Nhu Nương quày quả đi liền. Đức Thơ đứng một mình liếc nhìn vào cửa sổ trông thấy diện mạo Lệ Minh Đường xinh đẹp chẳng khác Phan An tái thế, lửa tình bỗng bốc cháy trong lòng không thể nào dằn được. Đức Thơ đánh bạo bước vào đứng trước mặt Lệ Minh Đường, chúm chím cười và nói:

- Tiết trời oi bức như vầy, sao chàng không nghỉ ngơi đôi chút lại miệt mài vào sách vở mãi như vậy, tôi e hao tổn tinh thần.

Lệ Minh Đường biết ngay nàng có ý trêu ghẹo mình nên cố để thử tình xem nàng hành động gì cho biết, nên vội đứng dậy cười đáp:

- Bước công danh vô cùng quan trọng, nếu không chịu khổ như thế, làm sao có thể báo đáp được ơn sâu của nghĩa phụ? Chỗ này trông vắng vẻ chắc không can gì đâu, vậy xin mời nàng ngồi đây chơi với tôi giây lát.

Đức Thơ nghe nói trong lòng như nở hoa, chẳng khác nắng hạn gặp mưa rào, bèn giả bộ nói với Nguyên Lãng:

- Hãy ngồi đây chơi với anh nhé, ngoan lên cưng.

Nói rồi vén màn bước vào để Nguyên Lãng xuống đất. Nguyên Lãng tánh con trẻ ham chơi nên vừa để xuống, nó liền chạy tung tăng chơi khắp phòng.

Lệ Minh Đường kéo ghế mời Đức Thơ ngồi, Đức Thơ cũng làm ra vẻ hổ thẹn rồi mới ngồi xuống vịn tay lên bàn, mắt liếc đưa tình, miệng cười chúm chím.

Cử chỉ ấy kéo dài một hồi, Đức Thơ mới trỗi giọng oanh vàng, nói:

- Tôi cùng chị Nhu Nương thường trộm khen cái dung nhan mỹ lệ của chàng, chắc chàng đang độ xuân xanh chưa có vợ con gì, lắm lúc cũng cảm thấy buồn chớ? Tôi không hiểu tại sao chủ nhân đây lại không nghĩ đến việc ấy, để cho chàng ngày đêm hiu quạnh thật là tội nghiệp.

Lệ Minh Đường nói:

- Tôi đã quyết chí, chừng nào lập được công danh mới bàn đến việc hôn nhân.

Đức Thơ lắc đầu nói:

- Nói vậy sao được. Tuy công danh là việc quan trọng nhưng khách phong lưu bao giờ cũng là kẻ đa tình, há chàng lại không nhớ chuyện ông lý Tịnh đời Đường cùng Hồng Phất Nữ, đôi bên chỉ dan díu với nhau vì một chữ tình mà sau cả hai đều được thành tiên cả sao? Theo tôi, nếu suy nghĩ cho cùng, không phải là một điều phạm đến phong hóa.

Lệ Minh Đường nghe nói, biết nàng cũng thuộc nhiều tích xưa nên đáp:

- Tư mã Tương Như gặp gỡ Trác Văn Quân cũng như Đường Bá Hổ luyến ái Thu Hương đều là một việc hay, nhưng hổ vì tôi đây phước bạc, làm gì được hưởng những sự kỳ ngộ như thế!

Đức Thơ thấy chàng có hảo ý nên vào đề ngay:

- Thật tình tôi không dám ép uổng chàng, nhưng chỉ xin tự tình đôi chút nghĩ cũng không sao. Thiết tưởng chàng là người thông minh nhất đời, hà tất phải nói chi cho nhiều. Chàng ơi! Từ khi tôi gặp mặt chàng, ngày đêm trộm dấu thầm yêu, ăn không ngon, nằm không ngủ. Nếu chàng chẳng phụ cái thân xấu hèn này thì quyết cùng chàng xin chút ái ân để thỏa tình yêu dấu.

Lệ Minh Đường nghe nói, ngẫm nghĩ cười thầm:

"Cũng là bạn má hồng với nhau, sao lại say mê đến thế!".

Lúc ấy Nhu Nương đứng rình ở ngoài thấy vậy chạy vào, vừa cười vừa nói:

- Thế nào? Đã thố lộ hết tâm tình chưa?

Đức Thơ biết không thể nào giấu giếm được, liền nắm tay Nhu Nương nói:

- Chị em mình vốn cùng chung một căn bịnh, chắc chị cũng thừa hiểu, sao chị còn hỏi làm gì?

Nhu Nương liếc nhìn Lệ Minh Đường, mỉm cười, nói:

- Chị em tôi đến với chàng như thế này ngẫm thật hổ thẹn! Song chỉ vì quá yêu cái tài mạo của chàng nên mới dám mặt dày mày dạn, tin chắc rằng chủ nhơn nhà này không nghi ngờ chi đâu, xin chàng chớ ngại.

Nói rồi hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Lệ Minh Đường thấy vậy nghĩ thầm:

"Tiếc thay, hai nàng không biết đem cái nhiệt tình ấy mà đối đãi với nghĩa phụ ta, nếu nay ta không cự tuyệt hai nàng thì làm sao cho phải đạo".

Nghĩ rồi, Lệ Minh Đường nghiêm giọng đáp:

- Tôi rất thông cảm tấm lòng của hai nàng, tôi đây quả thiệt không phải là kẻ vô tình, nhưng vì đối với hai nàng đã có thân phận là mẫu tử không thể nào ví như Hồng Phất Nữ hay Trác Văn Quân được. Vả lại, nếu việc này có vỡ lở ra thì hai nàng bị hại không ít. Vậy xin hai nàng nghĩ lại, hãy dốc lòng lo thờ phụng nghĩa phụ tôi, làm sao cho ngày sau được đông con nhiều cháu là hơn.

Nhu Nương và Đức Thơ nghe nói biến sắc mặt, hối hận vô cùng, bèn năn nỉ xin lỗi:

- Chàng còn trẻ tuổi mà biết trọng đường nghĩa tiết như vậy, quả trên đời hiếm có. Chị em tôi nay được lời chàng khuyên nhủ nên mới khỏi phải thất tiết, thật chị em tôi cảm ơn rất sâu, nhưng những hành động xấu xa của chúng tôi xin chàng làm ơn giữ kín, chớ nên thố lộ mà tội nghiệp.

Lệ Minh Đường nói:

- Tôi đã biết cầm quyển sách lên đọc, tất nhiên không khi nào biết nói xấu ai, vậy hai nàng chớ nên nghi ngại điều ấy.

Hai nàng nghe nói mừng rỡ:

- Chúng tôi không ngờ chàng lại có tình nghĩa chu toàn đến thế, thật chị em chúng tôi cam chịu tội.

Lệ Minh Đường nói:

- Hai nàng cùng tôi đã là mẫu tử rồi, nếu nay tôi đi làm như vậy chẳng hóa ra tôi là kẻ không biết điều sao?

Hai nàng nghe nói khen ngợi chẳng cùng, liền bồng Nguyên Lãng từ tạ lui ra. Từ đó hai nàng rất kính phục Lệ Minh Đường và đối với Khương Nhược Sơn cũng được mặn nồng hơn xưa.

Đến tháng bảy năm ấy, các vị khảo quan phụ trách trường thi tại Hồ Quảng đã lần lượt đến nơi. Viên chánh chủ khảo là Viên Dung Hàn lâm Đại học sĩ, phó chủ khảo là Mạnh Chiêu Lễ bộ Lang trung.

Khi khảo quan vừa đến trường thi, các quan địa phương đều ra tiếp rước trọng thể.

Ngô Đạo Am vốn đã đậu tú tài nên đã có tên thi, chỉ có một mình Lệ Minh Đường phải trông mong vào tên gia nhơn đến kinh để quyên giám mới được vào trường. Lệ Minh Đường đợi mãi đến hôm nay vẫn không thấy tin tức tên gia nhơn, trong lòng bứt rứt lắm, chàng chỉ sợ phải đợi đến khoa sau thì muộn mất. Khương Nhược Sơn cũng lo lắng không yên. Lại thấy học bộ ra tờ bố cáo dạy đến ngày hai mươi bốn thì nạp quyển, khiến Khương Nhược Sơn lại càng nôn nóng hơn nữa.

Đợi mãi đến ngày mười bảy mới thấy hai tên gia nhơn ở Bắc Kinh về đến, Khương Nhược Sơn nổi giận mắng:

- Hai người đi thế nào mà mãi đến nay mới về? Công việc ra thế nào?

Hai tên gia nhơn liền mở gói lấy giám đơn và phong thư của người bạn gởi trao cho Khương Nhược Sơn. Khương Nhược Sơn mừng như kẻ lượm được vàng, vội vã cầm tiếp được giám đơn thì chạy ra huê viên trao cho Lệ Minh Đường và nói:

- Giám đơn đã có rồi đây, con có thành danh hay không cũng do nơi cái này đây!

Lệ Minh Đường mừng rỡ tạ ơn rồi lo sửa soạn nạp quyển đặng vào ứng thí.

Trước ngày chưa ra bảng đỗ, Khương Nhược Sơn đem các quyển giám của Lệ Minh Đường trao cho Ngô Đạo Am xem và hỏi:

- Tiên sanh hãy xem thử văn của Lệ Minh Đường ra sao? Nhắm có thể đỗ được không?

Ngô Đạo Am nói:

- Văn này quả là một bực nhơn tài, lời lẽ như châu ngọc, tôi thiết tưởng ít ai bì kịp.

Ngô Đạo Am lại hỏi thăm Lệ Minh Đường:

- Chàng hãy xem giùm văn của tôi thử ra thế nào?

Lệ Minh Đường lắc đầu từ chối:

- Sức học tôi còn kém, không dám bình phẩm.

Đến ngày hai mươi sáu tháng tám là ngày yết bảng, ba người ở nhà đang đợi tin mừng, xảy thấy một bọn đi báo hỉ đánh thanh la inh ỏi, kéo đến trước nhà Khương Nhược Sơn nói lớn:

- Chúng tôi xin chúc mừng tại nhà này có một vị trúng cử.

Ngô Đạo Am và Khương Nhược Sơn vội hỏi:

- Lệ Quân Ngọc đỗ thứ mấy?

Bọn ấy đáp:

- Chúng tôi không hiểu Lệ Quân Ngọc chỉ biết có Ngô Đạo Am tiên sinh đây trúng cử nhơn số ba mươi hai nên mới đến báo hỉ.

Khương Nhược Sơn hỏi:

- Các người không biết Lệ Quân Ngọc sao?

- Đúng, thiệt tình chúng tôi không biết.

Khương Nhược Sơn nghe nói biết là Lệ Quân Ngọc rớt rồi, bèn lấy tiền thưởng cho bọn báo hỉ. Ngô Đạo Am nói với Lệ Minh Đường:

- Văn của chàng như thế mà đánh hỏng, trái lại văn của tôi như thế mà đậu, quả khảo quan không có mắt. Vậy chàng cũng không nên thối chí ngã lòng, ráng đợi khoa sau sẽ giựt khôi nguyên.

Lệ Minh Đường đỏ mặt đáp:

- Văn bài của tôi xét cũng có nhiều chỗ bất thông, không đỗ được cũng là phải đó.

Vinh Phát thấy thế nói:

- Thôi để tôi ra tại đó xem lại bảng cho rõ ràng thử thế nào.

Nói rồi nó cắm đầu chạy một mạch đến cửa trường. Đến đây nó trông thấy người ta xúm xít chen nhau đông lắm không tài nào chen vào để xem bảng được.

Vinh Phát hỏi thăm một người đứng gần:

- Anh có biết được ai đỗ giải nguyên không?

Người ấy đáp:

- Lệ Quân Ngọc đỗ giải nguyên. Ông giải nguyên này lạ lắm, thuở nay không có ai quen biết cả!

Vinh Phát hỏi vặn:

- Quả thật Lệ Quân Ngọc đỗ giải nguyên sao?

Thấy thái độ mừng rỡ của Vinh Phát, người ấy đoán biết Vinh Phág là người của Lệ Quân Ngọc nên mới hỏi:

- Lệ Quân Ngọc là ai đó? Người ấy quê ở đâu vậy?

Vinh Phát được tin chủ mình đỗ rồi, mừng quá, trống ngực đánh thình thịch, phải nghỉ cho khỏe hồi lâu mới lên tiếng đáp được:

- Người đỗ giải nguyên này chính là nghĩa tử của ông Khương Nhược Sơn ở đây.

Bọn báo hỉ nghe Vinh Phát nói vậy, mừng rỡ vội vàng kéo nhau đi báo hỉ để kiếm tiền, còn Vinh Phát đã hỏi rõ rồi cũng lật đậy chạy dông về nhà mệt thở hào hển.

Lệ Minh Đường trông thấy thái độ Vinh Phát có ý sợ sệt, vội hỏi:

- Thế nào mà mi hoảng hốt như vậy?

Lời Bình:

- Vẫn biết hai nàng hầu thiếp của Khương Nhược Sơn còn trẻ tuổi, so với Lệ Minh Đường rất xứng đôi vừa lứa, song Lệ Minh Đường đã là nghĩa tử của Khương Nhược Sơn rồi, tất nhiên vợ của Khương Nhược Sơn phải là nghĩa mẫu của chàng, dầu muốn dầu không cũng phải bị một bức tường lễ giáo ngăn cách đôi bên, nếu mạo hiểm vượt qua bức tường ấy tất nhiên đã làm một hành động loạn luân. Nhưng than ôi! Một khi họ đã say mê rồi, tình cảm ngự trị cả lương tri khiến họ không còn kể gì đến lễ giáo nữa. Để đến lúc bị Lệ Minh Đường cự tuyệt, hai nàng mới thấy hổ thẹn ăn năn, rồi lại sợ đổ bể ra thì mang tiếng xấu.

Lại có những trường hợp trai tài gái sắc, xứng đôi vừa lứa, đã thầm yêu nhau mà không dám thổ lộ cho nhau biết, để phải ôm ấp mối tình thầm kín suốt đời thì thật là ngu xuẩn đến tột cùng.

- Hoạt Toàn cũng là một tên học trò thi đậu tú tài, nhưng lại là một anh học trò dốt, may mắn được trúng tuyển trong một trường hợp hi hữu, nên khi thấy người học giỏi thường hay ganh ghét. Trái lại, Ngô Đạo Am quả là nhà học giả nên khi nghe kẻ học giỏi thì lần đến kết thân để có dịp hỏi thêm, khi thấy Lệ Minh Đường có sức học uyên thâm thì một lòng khâm phục. Cho hay ở đời không nên đánh giá lực học của mỗi người trên mảnh bằng có khi bị lầm to.

Hồi Thứ Hai Mươi Lăm

Thấy bút tích, Lệ Minh Đường tư tưởng.

Cảnh sắc đẹp, Lưu Khuê Bích ra binh.

Vinh Phát nói trong hơi thở:

- Thầy đỗ giải nguyên rồi! Bọn báo hỉ nó thấy tên mà không biết thầy ở đâu, lúc nãy nghe tôi nói, chúng mừng lắm, lát nữa đây chúng sẽ đến đây báo hỉ đấy!

Nghe nói, Ngô Đạo Am mừng rỡ:

- Ừ, có vậy mới gọi là khảo quan có con mắt tinh đời chứ!

Quả nhiên, chỉ một lát sau đã thấy bọn báo hỉ rầm rộ kéo đến đồng thanh nói lớn:

- Ông Lệ Quân Ngọc là nghĩa tử của Khương lão gia đây, đã đỗ Giải nguyên nên chúng tôi đến đây chúc mừng.

Khương Nhược Sơn vội lấy tiền cho bọn báo hỉ rồi truyền gia nhơn thết tiệc khoản đãi. Sau đó, quan Tuần phủ sai người đi rước Giải nguyên tân khoa đi bái kiến các khảo quan.

Lệ Minh Đường vào bái yến quan chánh chủ khảo là Viên Dung. Viên Dung thấy Lệ Minh Đường là một thư sinh tuổi trẻ lại thêm tướng mạo đoan trang, dung nghi phong nhã, trong lòng khen thầm, liền mời ngồi dùng trà và nói:

- Khi ta chấm đến quyển văn giải tác ấy, ngỡ là một tay lão nho, ngờ đâu lại của một bực thư sinh niên thiếu, thật đáng khâm phục thay! Vậy nay mai đây sắp đến kỳ thi hội, chàng nên mau mau sửa soạn vào kinh ứng thí gấp, ta tin chắc thế nào cũng chiếm được bảng vàng.

Lệ Minh Đường thưa:

- Tôi may được như vầy là nhờ ơn phòng sư đấy!

Nói rồi cúi đầu bái tạ lui ra, đi đến bái yến phó chủ khảo cùng các vị phòng sư khác.

Trong ngày hôm ấy, các hàng quan lại địa phương mang đồ lễ vật đến nhà Khương Nhược Sơn để biếu mừng ông Giải nguyên tân khoa đông như hội, Khương Nhược Sơn bày tiệc khoản đãi rất hậu.

Chiều hôm ấy Lệ Minh Đường làm lễ bái yết tổ miếu và lạy mừng vợ chồng Khương Nhược Sơn, kế qua hôm sau có bọn đồng niên đến mừng nữa làm cho Khương Nhược Sơn vui vẻ chẳng cùng. Qua ngày thứ ba, Lệ Minh Đường vào dự yến để tiễn các vị chánh chủ khảo về kinh. Trước khi đi, các quan ai nấy đều căn dặn Lệ Minh Đường nên đến kinh để thi hội.

Bữa nọ, Lệ Minh Đường hỏi Khương Nhược Sơn:

- Thưa nghĩa phụ, chẳng hay tổ mộ nhà ta ở đây, xin nghĩa phụ chỉ cho con đặng làm lễ bái yết.

Khương Nhược Sơn nói:

- Tổ mộ nhà ta ở huyện Giang Lăng, từ đây đến đó phải tốn bảy tám ngày trường, thật xa xôi quá, con đi làm sao cho được.

Lệ Minh Đường nói:

- Con đã muốn làm lễ bái yết tổ mộ thì dẫu có xa xôi cách trở bao nhiêu con cũng chẳng từ. Vậy xin nghĩa phụ cho con ra đi vào ngày mai này.

Khương Nhược Sơn vô cùng đẹp dạ, gật đầu nói:

- Nếu con có lòng như vậy thì tốt lắm đó.

Rồi Nhược Sơn trở vào thuật lại cho Tôn thị nghe và nói:

- Nghĩa tử ta có tấm lòng chung thủy nên định sáng mai cùng ta về Giang Lăng đặng bái yết tổ mộ, việc này sẽ làm cho ta vinh diệu lắm, vì qua đó hết thảy thân tộc ta sẽ khen ngợi rằng ta có một nghĩa tử xứng đáng.

Tôn thị nghe nói trong lòng cũng sung sướng, lo đi sắm sửa hành lý, đồng thời sai người đi mướn kiệu đặng sáng mai khởi hành cho sớm.

Bảy hôm sau đến nơi, Khương Nhược Sơn vào ở một căn nhà của người trong thân tộc, rồi dẫn Lệ Minh Đường đi thăm các bậc tôn trưởng ở đó. Ai nấy trông thấy tài mạo của Lệ Minh Đường cũng đều khen ngợi, khoản đãi rất trọng hậu.

Khương Nhược Sơn xuất tiền giúp đỡ cho những nhà nghèo khó trong họ, nên mọi người đều cám cảnh chẳng cùng.

Sau khi làm lễ bái yết tổ mộ, Lệ Minh Đường hỏi thăm biết được nhà của Hoàng Phủ Kính xưa kia ở cách đó không xa nên muốn đến đó thăm một chút cho hả dạ. Nàng tỏ ý cho con Vinh Phát biết.

Sáng hôm sau, Lệ Minh Đường nói với Khương Nhược Sơn:

- Hôm nay nhân lúc nhàn hạ, xin nghĩa phụ cho con cùng Vinh Phát đi dạo chơi đặng xem phong cảnh chung quanh đây.

Khương Nhược Sơn nói:

- Đi xem khung cảnh để giải trí là điều hay, nhưng hai thầy trò đều yếu đuối quá, vậy có đi phải mướn kiệu và chớ nên đi xa lắm nhé.

Lệ Minh Đường vâng lời, cùng Vinh Phát ra đi, lần dò hỏi thăm đến nhà Hoàng Phủ Kính.

Khi đến nơi, trông thấy lầu son gác tía, tòa dọc dãy ngang mười phần đồ sộ, nhưng cửa ngõ đều đóng chặt lại có giấy của cẩm y vệ niêm phong trông phong cảnh thật tiêu điều buồn bã.

Phía trước có dán một tờ yết thị khổ giấy to, bản rằng tòa nhà ấy Thượng thư đã giao cho quan địa phương gìn giữ.

Lệ Minh Đường xúc cảnh sanh sầu, đôi hàng lụy ngọc tuôi rơi và nói với Vinh Phát:

- Nhà Hoàng Phủ bị bọn gian thần làm hại đến nỗi tiêu điều như vầy thì vợ chồng ta biết đến bao giờ mới gặp mặt?

Vinh Phát nói:

- Tiểu thơ đã dốc một lòng tiết nghĩa, chắc trời kia sẽ phò trợ, thế nào rồi đây vợ chồng sẽ đặng sum hiệp một nhà chớ chẳng không đâu!

Ngọn gió thoảng quả, mấy chiếc lá vàng rơi lả tả trong cảnh hoang vu khiến Lệ Minh Đường càng thêm cảm động, nàng liền ứng khẩu ngâm tám câu thơ:

Tây phong tú tú yểm trùng môn,

Đạo thị tướng quân cựu trạch tiền?

Quyết chiến dĩ hư trừ tận kích?

Châu tùy sơ tú toản đồng hoàn.

Chinh y chiến mã nhơn hà tại,

Dạ nguyệt không lương yến bất toàn.

Tranh tợ đương niên Vương, Tạ phủ,

Anh hùng đồ ức hạ lang sơn.

Dứt tiếng ngâm, Lệ Minh Đường trở gót lui ra. Đi qua một đoạn đường quanh co, xảy thấy phía trước có một tòa miếu võ rất nguy nga, trước cửa treo tấm biển đề năm chữ "Cửu Thiên Huyền Nữ miếu" bằng vàng chói lọi. Hai thầy trò liền ghé vào xem.

Vào đến nơi, gặp một vị lão tăng, Lệ Minh Đường chào và hỏi:

- Tôi nghe Hoàng Phủ Nguyên soái bị giặc bắt cầm tại Phiên quốc, còn gia quyến bị bắt về kinh, chẳng hay bấy lâu nay có nghe tin tức gì không?

Lão tăng nói:

- Một nhà phước đức như thế mà gặp phải tai họa thật đáng thương. Trước khi Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ bị bắt giải về kinh, chỉ có một mình Hoàng Phủ Thiếu Hoa biết trước nên trốn đi được mà thôi, song bấy lâu nay không nghe tin tức gì hết. Việc này bần tăng nghe đồn rằng: Hoàng Phủ Công tử cùng với một nhà thế hào nào đó tranh hôn để lấy con gái họ Mạnh, kết quả họ Mạnh lại gả con cho Hoàng Phủ Công tử, nên mới xảy ra tai họa này. Ôi! Chỉ vì một chút lương duyên của họ Mạnh mà ra nông nỗi, chẳng biết họ Mạnh kia có gìn lòng thủ tiết đặng không, nếu không thì tội nghiệp cho nhà Hoàng Phủ lắm.

Lệ Minh Đường nghe nói động lòng muốn sa nước mắt, nhưng nàng cố gượng hỏi:

- Nghe nói Hoàng Phủ Công tử võ nghệ tinh thông nhưng không biết về văn chương ra thế nào?

Lão tăng đáp:

- Bần tăng có nghe nói Hoàng Phủ Nguyên soái dạy dỗ công tử và tiểu thơ Trưởng Hoa cả hai đều thông văn võ. - Nói rồi giơ tay chỉ hai câu đối trước ngõ miếu:

- Kìa! Hai câu đối ấy là chính tay Hoàng Phủ Công tử viết ra đó. Tiên sinh hãy xem qua thì biết ngay tài học của người ra thế nào.

Nghe nói, Lệ Minh Đường bước tới xem thì thấy hai câu đôi viết theo lối chữ bát phân, nàng lẩm bẩm đọc:

"Thánh giái nham nghiêu thanh khải viễn,

"Thiền thành tú tịnh vị hương cao.

Bên câu đối lại có viết thêm một hàng chữ nhỏ: "Hoàng Phủ Chi Điền bái đề".

Lệ Minh Đường xem xong, nghĩ thầm:

"Ngờ đâu Hoàng Phủ Công tử văn võ toàn tài như thế này! Ôi, đáng thương, đáng tiếc thay".

Nghĩ rồi, Lệ Minh Đường hỏi lão tăng:

- Hoàng Phủ Công tử tên Chi Điền sao?

- Chi Điền tức là hiệu của công tử đó!

Lúc bấy giờ mặt trời đã ngả về phương tây, Lệ Minh Đường bèn trao tiền cúng lễ rồi cáo từ lui gót. Lão tăng biết ý, cố cầm lại để đãi một bữa cơm chay, nhưng Lệ Minh Đường từ chối, nói:

- Xin lão tăng để cho khi khác, vì đường về còn xa, không thể trì hoãn được.

Lão tăng không dám cầm nữa, liền tiễn chân đưa Lệ Minh Đường ra khỏi cửa miếu, đoạn hai thầy trò lên kiệu trở về.

Từ khi Lệ Minh Đường trông thấy bút tích của Hoàng Phủ Thiếu Hoa, về nhà trong lòng thương nhớ mãi chẳng lúc nào khuây, ăn không biết ngon, nằm ngủ không yên giấc.

Một hôm, Lệ Minh Đường ngủ vừa thức dậy chưa kịp rửa mặt, Vinh Phát trông thấy giựt mình nói:

- Ôi chao! Nhan sắc của tiểu thơ hôm nay sao mà sút kém đến thế?

Lệ Minh Đường không tin liền lấy kiếng ra soi thì quả nhiên dung nhan mình sút kem hơn xưa, nàng ứa nước mắt nói:

- Từ khi ta thấy bút tích của Hoàng Phủ Công tử đến nay ngày đêm trong dạ không yên, không biết hiện giờ công tử phiêu bạt nơi nào!

Vinh Phát nói:

- Tiểu thơ là người hiểu rộng nhìn xa, sao không dẹp bỏ nỗi ưu phiền để gìn giữ tấm thân, lo cầu cho đặng công danh mới có thể tìm phương cứu vớt cho Hoàng Phủ Công tử được, chớ tiều thơ cứ ôm thảm chất sầu mãi, làm cho tinh thần hao tổn, rủi lỡ dịp công danh thì ân hận suốt đời!

Lệ Minh Đường vỗ vai Vinh Phát nói:

- Ta cảm ơn ngươi đã có lời khuyên nhủ ta vô cùng quí hóa, vì vậy từ nay ta quyết dẹp mối tâm sự ấy để thực hiện cho kỳ được chí hướng của mình.

Thật vậy, bắt đầu từ đó trở về Hàm Ninh, Lệ Minh Đường chuyên lo chăm học sách vở luôn luôn.

Ngày kia, Khương Nhược Sơn nói với Tôn thị:

- Ta xem đôi vòng ngọc của Lệ Minh Đường cho Nguyên Lãng trước kia, biết chắc rằng Lệ Minh Đường không phải con nhà thường dân; nay chàng lại đi cùng ta qua tế mộ, thế thì ta cư xử với chàng như vậy thật là phải lẽ lắm.

Tôn thị nói:

- Tôi xem phu quân đối xử với chàng chưa được vừa đấy.

- Ôi chao! Ta cư xử với chàng như vậy còn bảo là chưa vừa thì còn bảo phải làm sao nữa?

- Phu quân tuổi già mà còn cưới thêm hai nàng tiểu thiếp, còn nghĩa tử kia đang độ xuân xanh lại để cho chàng ngày đêm vò võ một mình, chẳng hề nghĩ đến hôn sự, thì sao cho phải phận làm cha?

Khương Nhược Sơn nói:

- Việc ấy, ta cũng đã nghĩ đến từ lâu, nhưng ngặt vì khó tìm được một trang thục nữ xứng đôi vừa lứa với nghĩa tử ta. Bởi vậy ta muốn chờ khi nghĩa tử đến kinh thi hội; ở đó mới có nhiều trang thục nữ tài mạo xứng lứa vừa đôi, rồi ta sẽ tính cũng chẳng muộn.

Tôn thị gật đầu khen phải và nói:

- Phu quân nói phải lắm. Nghĩa tử ta tài mạo như vậy thật khó mà lựa chọn một người đẹp đôi, vậy phu quân đã có ý tính như thế thì cũng nên tỏ cho nghĩa tử ta biết.

Khương Nhược Sơn khen phải rồi thẳng ra huê viên, bước đến thơ phòng thuật hết những điều bàn luận cùng Tôn thị cho Lệ Minh Đường nghe và căn dặn:

- Vậy con có đến kinh, hễ gặp đặng mối nhơn duyên nào xứng đáng, con cứ việc nhận lời chớ đừng viết thư về cho cha làm gì phiền phức lắm.

Lệ Minh Đường nói:

- Con đã nguyện, khi nào chưa lập được công danh thì chưa tính đến việc hôn nhơn.

Khương Nhược Sơn nói:

- Hôn nhơn là việc hệ trọng trong đời, con cần phải lưu tâm đến mới được. Vậy hôm nay con phải lo sửa soạn để cùng Ngô Đạo Am tiên sinh đi lần xuống kinh. Ta cần đi sớm một chút thì tốt hơn.

Lệ Minh Đường vâng lời giở lịch ra xem, thấy cách ba ngày nữa đến ngày huỳnh đạo kiết nhựt, khởi hành rất tốt. Khương Nhược Sơn thì trở vào nhà lấy một trăm lượng vàng ra trao cho Lệ Minh Đường và căn dặn:

- Một trăm lượng vàng này con hãy cất đi và chớ cho ai biết, còn tiền lộ phí thì cha đã giao cho Ngô Đạo Am rồi, con khỏi nhọc lòng lo đến.

Lệ Minh Đường nói:

- Nếu tiền lộ phí cha đã giao cho Ngô tiên sinh rồi thì con còn đem số vàng to tát này theo nữa làm gì?

Khương Nhược Sơn nói:

- Ta muốn con đem vàng này theo đặng phòng khi có nhà quan nào chịu gả con, con sẽ có đủ tiền nạp lễ sính kim; nếu rủi có thiếu chút ít, con hãy hỏi vay của người bạn ta là Du Trí Văn cho khỏi lỡ việc. Vậy bây giờ để ta viết cho con một bức thư để khi đến kinh con cứ vào ngụ tại hiệu Văn Hưng là tiệm bán hàng lụa của Du Trí Văn. Khi nào con cần tiêu xài bao nhiêu đã có ông ta lo lắng cho.

Lệ Minh Đường nghe nói vô cùng cảm động. Sau đó, Lệ Minh Đường cùng với Ngô Đạo Am khởi hành đến kinh. Việc này xin gác lại, bây giờ xin nhắc qua việc quan Tuần phủ Sơn Đông.

Trước kia quan Tuần phủ Sơn Đông đã từng dâng biểu về trào tâu rằng tướng giặc Xuy Đài sơn là Vệ Dõng Đạt đã nhận vợ Hoàng Phủ Kính là Doãn Phu nhơn làm mẹ, còn Hoàng Phủ Trưởng Hoa làm em, chiêu tập côn đồ hơn ngàn tên, tạo thành một đám giặc hùng mạnh. Y xin triều đình phải đem binh đánh dẹp, nhưng lúc ấy vua Thành Tôn lo lắng việc quân giặc Liêu Đông đang hoành hành tại Đăng Châu, tình thế vô cùng nguy ngập nên không thể đem binh trừ giặc Xuy Đài sơn được.

Vua Thành Tôn vô cùng bối rối không biết nên liệu định thế nào. Lúc ấy, Lưu Khuê Bích thấy vậy nghĩ thầm:

"Ta rất lấy làm căm hận Hoàng Phủ Thiếu Hoa cướp mối lương duyên của ta. Chỉ vì hắn mà họ Mạnh giấu dao hành thích ta, làm cho ta đến ngày nay vẫn chưa cưới vợ được. Vậy bây giờ để ta tâu với triều đình lãnh binh đi dẹp bọn Xuy Đài sơn đặng giết Vệ Dõng Đạt và bắt Hoàng Phủ Trưởng Hoa về làm vợ thì hay biết bao!".

Nghĩ rồi, lập tức tỏ bày với gia tướng, ai nấy đều khen phải.

Hôm sau Lưu Khuê Bích vào triều tâu:

- Hạ thần có nghe tin Vệ Dõng Đạt cùng với vợ con Hoàng Phủ Kính tụ hiệp tại Xuy Đài Sơn nhiễu hại nhơn dân. Vậy xin bệ hạ cho hạ thần đem binh đánh dẹp để đền bồi nợ nước.

Vua Thành Tôn nghe tâu, mừng rỡ phán:

- Nếu Quốc cựu đã có lòng cùng trẫm như vậy thì hay biết bao.

Dứt lời, vua Thành Tôn ban cho Khuê Bích một chiếc áo cẩm bào và phong cho làm chức Diệt khấu Đại Nguyên soái, sai quan Ngự tiền chỉ huy làm tiên phong, hiệp cùng Lưu Khuê Bích đem muôn binh ra đánh dẹp Xuy Đài sơn. Lại truyền cho quan Khâm thiên giám phải chọn ngày tốt cho Khuê Bích xuất binh.

Quan Khâm thiên giám chọn ngày mồng ba tháng chạp là ngày thanh long kiết nhựt. Vua Thành Tôn y tấu, liền dạy Khuê Bích vào cung bái yết cùng Lưu Hoàng hậu.

Lưu Khuê Bích vâng lịnh nhập cấm cung, thuật chuyện việc xin đi đánh giặc Xuy Đài sơn cho Lưu Hoàng hậu nghe. Lưu Hoàng hậu trong lòng cả đẹp, nói:

- Hiền đệ đã có chí khí như vậy quả là một thiếu niên anh hùng. Nếu đắc thắng ban sư hồi trào, thế nào cũng được trọng thưởng.

Dứt lời, Hoàng hậu truyền cung nữ dọn yến khoản đãi Lưu Khuê Bích, nhưng chàng chỉ dùng sơ vài chén rượu rồi giã từ lui về phủ. Lúc ấy Lưu Tiệp hay tin vừa sợ vừa giận, ông sai người kêu Khuê Bích vào la rầy:

- Thuở nay mi chưa từng ra trận bao giờ, nay sao mi dám cả gan phụng chỉ đi dẹp giặc?

Khuê Bích nói:

- Con nhận thấy võ nghệ của con có đủ sức dẹp được bọn ấy, xin thân phụ chớ nên lo ngại.

Lưu Tiệp rất bất bình nhưng vì thánh chỉ đã ra rồi làm sao cản trở được, nên dặn Lưu Khuê Bích:

- Lúc ra trận con không nên tự phụ, nghĩa là muốn làm việc chi cũng cần thương nghị với chư tướng, chứ đừng làm càn, con nên biết rằng việc binh gia không phải dễ đâu.

Tuy ngoài miệng Lưu Khuê Bích dạ dạ vâng vâng, song trong lòng không hề để ý đến lời dạy của cha.

Ngày sau Khuê Bích điểm binh ra luyện tập, mãi đến ngày mùng hai tháng chạp mới làm lễ tế cờ rồi cắt cho tướng tiên phong là Liên Đăng lãnh năm ngàn binh đi trước, còn mình dẫn đại binh từ từ kéo theo sau.

Nhắc lại, khi Ngô Đạo Am và Lệ Minh Đường đến Bắc Kinh, gia nhơn dẫn đến tiệm Văn Hưng và trao bức thư của Khương Nhược Sơn cho Du Trí Văn, Du Trí Văn xem thư biết ngay Lệ Minh Đường là nghĩa tử của Khương Nhược Sơn vừa mới đỗ Giải nguyên ở tỉnh, còn Ngô Đạo Am là em rể của người, vừa mới đỗ Cử nhơn, hai người cùng đến kinh đặng dự kỳ thi Hội.

Biết rõ, Du Trí Văn lấy làm mừng rỡ, nghĩ thầm:

"Nếu Khương Nhược Sơn mà được phú quí, chắc chắn ta đây cũng được dự phần vinh hiển".

Nghĩ rồi niềm nở mời hai người vào thơ phòng và truyền gia nhơn thiết tiệc khoản đãi rất trọng hậu.

Trong khi tiếp chuyện, Du Trí Văn thấy Lệ Minh Đường tài mạo song toàn bèn hỏi:

- Chẳng hay quan Giải nguyên năm nay đã được mấy cháu?

Lệ Minh Đường đáp:

- Năm nay tôi mới lên mười sáu, hiện chưa kết hôn.

Du Trí Văn nghe qua ngạc nhiên:

- Tại sao Giải nguyên lại chưa kết hôn?

Lệ Minh Đường nói:

- Vì tôi đã quyết chí nếu chưa lập đặng công danh thì không dám tính đến việc hôn sự.

Du Trí Văn gật đầu khen:

- Quan Giải nguyên có chí lớn như vậy, nếu đem so sánh với Lưu Quốc cựu ở đây thì quả là hai thái cực. Vì Lưu Quốc cựu là con nhà quan mà hay phóng túng, chơi bời háo sắc quá, thành ra mất cả tư cách con người.

Lời Bình:

- Lưu Tiệp, một tên gian thần thì chỉ có tài tiến cử người khác ra đương đầu với giặc, chứ không bao giờ muốn con cái mình đứng ra lãnh nhiệm vụ nguy hiểm ấy. Chẳng những Lưu Tiệp mà thôi, ở đời biết bao người xây dựng địa vị mình trên xương máu của kẻ khác, mà một khi giao phó cho một nhiệm vụ gì thì co đầu rút cổ.

Ngày sau, còn có những kẻ quyền cao chức trọng lại bảo bọc cho người thân của mình trốn tránh nhiệm vụ làm trai, chừng nào diệt được những hành động bất công ấy, mọi người mới hăng hái thi hành nghĩa vụ.

Hồi Thứ Hai Mươi Sáu

Đánh Xuy Đài sơn, công tử Lưu bị bắt.

Muốn vạch âm mưu, Vệ Dõng Đạt khảo tra.

Lệ Minh Đường nghe nói muốn tìm hiểu về Lưu Khuê Bích nên giả vờ ngạc nhiên hỏi:

- Lưu Quốc cựu là ai? Hành động của người thế nào, xin ông vui lòng thuật chuyện lại cho tôi biết với.

Du Trí Văn cười nói:

- Lưu Quốc cựu tức là Lưu Khuê Bích, con của Lưu Tiệp, hiện nay làm chức Trấn quốc Tướng quân và vừa rồi lại được phong làm Diệt khấu Đại Nguyên soái lãnh binh đi dẹp giặc Vệ Dõng Đạt ở tại Xuy Đài sơn.

Lệ Minh Đường nói:

- Tôi cũng có nghe người ta đồn rằng Lưu Khuê Bích cùng với Hoàng Phủ Thiếu Hoa tranh hôn, rồi nhà Hoàng Phủ bị tiêu tan hết, nhưng chẳng biết vợ con Hoàng Phủ Nguyên soái bị bắt giải về kinh rồi triều đình phân xử thế nào.

Du Trí Văn liền nói cho Lệ Minh Đường biết rõ việc vợ con Hoàng Phủ Nguyên soái bị bắt giải về kinh, nhưng khi đi ngang qua núi Xuy Đài bị tướng giặc ở đó là Vệ Dõng Đạt đón giết Khâm sai, rồi bắt hết hai mẹ con đem lên núi.

Lệ Minh Đường hỏi:

- Nếu vợ con Hoàng Phủ Nguyên soái bị giặc bắt như vậy, chắc là tự vận rồi phải không?

Du Trí Văn lắc đầu giải thích:

- Quan Giải nguyên chưa rõ đấy, chớ Vệ Dõng Đạt là một trang thiếu niên tuổi chưa đầy hai mươi mà khí phách anh hùng ít ai bì kịp. Người ta được biết rõ rằng hiện nay Vệ Dõng Đạt đã nhận Doãn Phu nhơn làm mẹ và Hoàng Phủ Trưởng Hoa làm em. Chàng đối xử với hai người tử tế lắm. Lưu Quốc cựu biết Hoàng Phủ Tiểu thơ là người có nhan sắc, nên mới xin triều đình lãnh binh đi đánh dẹp Xuy Đài sơn đặng bắt Hoàng Phủ Tiểu thơ về làm vợ đó.

Lệ Minh Đường hỏi:

- Tôi nghe nói có thánh chỉ cho họ Mạnh kết duyên cùng Lưu Quốc cựu mà sao Lưu Quốc cựu lại bỏ Mạnh Tiểu thơ để thực hiện ý riêng như vậy?

Du Trí Văn bèn thuật cho Lệ Minh Đường nghe chuyện Mạnh Tiểu thơ giấu dao hành thích, nhưng bất thành, chỉ đâm trúng vào trán Lưu Quốc cựu nên sợ hãi nhảy xuống Côn Minh trì tự vận chết rồi. Sau đó mạnh Thượng thơ qua bắt đền nhơn mạng, việc kiện cáo này hai bên đã đến giữa triều đình nhưng Hoàng thượng xử huề, cho lập bia làm kỷ niệm hành động tiết liệt của Mạnh Tiểu thơ thôi.

Lệ Minh Đường nghe qua động lòng thương xót Tô Yến Tuyết, vì nàng đã thủ tiết và báo thù cho mình, đành phải hy sinh tấm thân ngà ngọc.

Nàng không thể nào ngăn được giọt lụy, nên vội lui vào phòng trong nằm khóc một mình.

Hôm sau, Lệ Minh Đường lấy ra bốn chục lượng trao cho Du Trí Văn để làm tiền trà nước trong những ngày ở đây đợi thi. Du Trí Văn chối từ không nhận.

Lệ Minh Đường nói:

- Chúng tôi đến ở đây tất nhiên làm phiền cho ông nhiều lắm, điều này tôi vâng lời nghĩa phụ tôi dạy, nếu ông không nhận số bạc này chắc chúng tôi không dám ở.

Cực chẳng đã, Du Trí Văn phải nhận.

Nhắc qua việc Lưu Khuê Bích, từ khi dẫn binh đi đánh Xuy Đài sơn, dọc đường bị tuyết xuống quá lạnh, binh không thể đi nhanh được, mãi đến ngày mùng mười tháng giêng mới đến Xuy Đài sơn.

Khi còn cách núi độ ba dặm, bèn truyền binh an dinh hạ trại.

Nói về Vệ Dõng Đạt tức là Vệ Dõng Nga đổi tên, trước đây nàng ra sức chiêu tập binh mã quyết một lòng đánh Phiên để cứu thân phụ nàng là Vệ Hoán về triều. Trước kia nàng ở với người chú là Vệ Trấn Tổ, người này có đứa con thứ là Vệ Dõng Bưu sức mạnh phi thường, võ nghệ tinh thông, chỉ nhỏ hơn Vệ Dõng Nga một tuổi.

Chỉ vì Vệ Trấn Tổ sợ để Vệ Dõng Nga ở đó có thể liên lụy đến mình, nên mới buộc nàng qua Đăng Châu để thăm tin tức thân phụ, còn Vệ Dõng Bưu quá thương chị nên lén ăn cắp tiền đi qua Đăng Châu tìm chị.

Khi đi ngang qua Xuy Đài sơn, Vệ Dõng Bưu bị bọn lâu la của Vệ Dõng Nga ào ra cướp giựt nhưng chàng ra sức đánh vỡ tan. Bọn lâu la chạy về phi báo, Vệ Dõng Đạt lên ngựa ra trận, chị em gặp nhau mừng rỡ chẳng cùng, nàng bèn thuật lại việc đổi tên giả trai làm chủ trại rồi bảo Dõng Bưu ở luôn tại đó, chị em chung sức cùng nhau lo việc lớn.

Ngày kia Vệ Dõng Đạt đang ngồi trong trại, xảy thấy lâu la chạy vào phi báo:

- Nay triều đình có sai Trấn quốc Tướng quân là Lưu Khuê Bích thống lãnh một muôn binh mã kéo đến Xuy Đài sơn, hiện còn cách núi chừng ba dặm, và quân sĩ đang lập trại.

Vệ Dõng Đạt nghe báo vội truyền quân canh phòng nghiêm nhặt rồi vào hậu trại yết kiến Doãn Phu nhơn thuật lại việc ấy cho phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ nghe.

Trưởng Hoa Tiểu thơ nghe nói giận phừng gan, nàng nghiến răng, nói:

- Tên Lưu Khuê Bích là kẻ thù không đội trời chung của tôi, nay đã mang thân đến đây, vậy để mai tôi ra trận bắt nó về banh da xẻ thịt cho hả giận.

Vệ Dõng Đạt lên tiếng can:

- Không nên đâu! Tuy hắn là kẻ thù của tiểu thơ thật, nhưng dù sao hắn cũng lãnh sứ mạng của triều đình, nếu tiểu thơ ra đương đầu, tất nhiên triều đình sẽ căm hận, có hại thêm cho Hoàng Phủ Công tử và sẽ gặp nhiều nỗi khó khăn. Chi bằng để tôi sửa trị, vì tôi đã đổi tên tuổi rồi, dẫu triều đình có biết cũng không trách tôi được. May ra có bắt hắn được, ta sẽ dùng cực hình khảo tra, bắt làm tờ cung trạng thú nhận cả tội lỗi rồi sẽ giữ hắn lại, đợi khi nào chúng ta về được tới triều đình dâng tờ cung trạng ấy lên làm tang cớ, Thánh thượng mới thấu rõ lòng gian ác của chúng.

Doãn Phu nhơn nói:

- Con dự định như vậy thật phải, nhưng con cần phải cẩn thận lắm mới được, vì Lưu Khuê Bích là một tay võ nghệ không phải tầm thường.

- Xin thân mẫu chớ lo, con đã lập mưu kế rồi, thế nào cũng bắt được tên gian ác ấy.

Hôm sau Vệ Dõng Đạt ra ngồi giữa tụ nghĩa đường, lớn tiếng truyền lệnh cho các tướng sĩ:

- Lưu Khuê Bích chính là tên gian tặc, chính hắn đã hại cả nhà Hoàng Phủ Nguyên soái, vậy bây giờ ta phải thân hành ra đánh nó mới được.

Vệ Dõng Đạt vừa nói dứt lời, Vệ Dõng Bưu đứng dậy thưa:

- Xin cho em ra đánh trận đầu, nếu không thắng nổi, ca ca sẽ ra đánh sau cũng chẳng muộn.

Vệ Dõng Đạt nói:

- Cũng được, song em có đi thì phải cẩn thận lắm mới được.

Vệ Dõng Bưu lãnh lịnh, cùng với viên phó tướng Ngô Võ đem binh xuống núi. Quân sĩ vào phi báo, Lưu Khuê Bích lập tức kéo binh ra lập trận thế đối địch.

Vệ Dõng Bưu trông thấy Lưu Khuê Bích mặt trắng môi son, mình mặc hồng bào, tay cầm ngân thương, cỡi con bạch mã, phía sau có trương cây cờ màu đỏ thêu một hàng chữ vàng: "Diệt khấu Đại Nguyên soái LƯU".

Vệ Dõng Bưu chưa kịp hành động gì, bỗng thấy tướng tiên phong của Lưu Khuê Bích là Liên Đăng giựt ngựa lướt tới chỉ vào mặt Vệ Dõng Bưu, quát hỏi:

- Kìa tặc tử, ngươi có phải là Vệ Dõng Đạt đó không?

Vệ Dõng Bưu trợn mắt nạt lớn:

- Không phải! Ta là Vệ Dõng Bưu em của Vệ Dõng Đạt đây, còn ngươi tên họ chi hãy nói mau lên.

Liên Đăng nói:

- Ta là tướng tiên phong của Lưu Nguyên soái tên là Liên Đăng, nếu ngươi không phải là Vệ Dõng Đạt thì ta không thèm đánh, hãy mau mau về kêu Vệ Dõng Đạt ra đây nạp mạng.

Ngô Võ đứng sau lưng Vệ Dõng Bưu nghe Liên Đăng nói phách, nổi giận xung thiên, vỗ ngựa xốc tới hét như sấm nổ:

- Quân cẩu đầu, chớ có khua môi múa mỏ, hãy coi đây, đao của Ngô Võ ta đây!

Vừa nói vừa múa đao nhắm ngay đầu Liên Đăng chém sả xuống. Liên Đăng vội cử giáo đỡ vẹt ra rồi đánh vùi với Ngô Võ. Hai đàng đánh nhau hơn mười hiệp vẫn không phân thắng bại. Lưu Khuê Bích đứng sau trận thấy vậy, lén giương cung bắn một phát trúng nhằm yết hầu khiến Ngô Võ té nhào xuống ngựa. Vệ Dõng Bưu nổi giận giục ngựa lướt tới đánh vùi với Lưu Khuê Bích. Được ba mươi hiệp, Vệ Dõng Bưu liệu thế đánh không lại, liền quày ngựa bỏ chạy. Khuê Bích giục ngựa rượt theo, vừa đến chân núi, Vệ Dõng Bưu đã lên núi rồi, lâu ra trên núi ném cây đá xuống tơi bời, Lưu Khuê Bích kinh hãi quất ngựa chạy dài.

Vệ Dõng Bưu vào trại thuật việc giao chiến thất bại cho Vệ Dõng Đạt nghe, Vệ Dõng Đạt thản nhiên, nói:

- Việc binh gia thắng bại là lẽ thường, không đáng ngại. Để ngày mai ta ra trận sẽ có cách phá được chúng nó.

Sáng sớm hôm sau, Lưu Khuê Bích kéo quân đến chân núi khiêu chiến, lâu la chạy vào phi báo; Vệ Dõng Đạt mang giáp lên ngựa dẫn binh xuống núi, Trưởng Hoa Tiểu thơ căn dặn:

- Lưu Khuê Bích là một kẻ hung bạo, ca ca có ra trận cần phải cẩn thận lắm mới được.

Vệ Dõng Đạt gật đầu rồi kéo binh xuống núi lập bày trận thế. Trong đám quân của Lưu Khuê Bích có đứa biết mặt Vệ Dõng Đạt nên nói nhỏ với Lưu Khuê Bích:

- Người cầm thanh trường kiếm ấy là Vệ Dõng Đạt đó.

Lưu Khuê Bích liếc thấy Vệ Dõng Đạt mặt trắng như ngọc, môi tợ thoa son, dung mạo đẹp đẽ muôn phần, chàng giựt mình nghĩ thầm:

"Lạ thật! Ai ngờ đâu tên tướng giặc này hình dung lại tuấn nhã đến thế. Nếu vậy thì chắc nó tư tình với Trưởng Hoa Tiểu thơ rồi".

Nhưng Lưu Khuê Bích lại nghĩ:

"Nghe đồn Trưởng Hoa đẹp lắm, nếu nàng có mất trinh đi nữa, cũng còn hơn những hạng gái khác".

Nghĩ rồi, Lưu Khuê Bích giục ngựa lướt tới lớn tiếng hỏi:

- Ngươi có phải là tặc tướng Vệ Dõng Đạt đó không?

Vệ Dõng Đạt gật đầu:

- Chính ta đây, còn ngươi có phải là gian tặc Lưu Khuê Bích?

Lưu Khuê Bích cười ha hả đáp:

- Đã biết danh ta sao không xuống ngựa đầu hàng, để ta ra tay làm gì cho nhọc sức?

- Kìa Lưu tặc! Chớ có phách lối, hãy xem đường kiếm của ta đây.

Nói rồi vỗ ngựa lướt tới vung thanh trường kiếm bay vun vút nhắm vào yếu huyệt đối phương đâm lia lịa. Lưu Khuê Bích thấy đường kiếm đối phương quả nhiên lợi hại, không dám khinh thường vội tràn sang một bên tránh né rồi vung giáo rước đánh. Hai người đánh vùi nhau, cát bay đá chạy, cây lá xung quanh bị sức gió của đao kiếm gãy rụng tơi bời.

Hai người đánh nhau trên mười hiệp chưa phân thắng bại. Vệ Dõng Đạt nhận thấy Lưu Khuê Bích sực lực mạnh mẽ, nhắm bề khó thắng, bè chém bậy một kiếm rồi giả thua chạy bay về núi. Lưu Khuê Bích giục ngựa đuổi theo, lâu la trên núi thấy vậy giương cung bắn xối xả xuống như mưa. Khuê Bích túng thế phải thâu binh về trại.

Vệ Dõng Đạt về trại thuật lại mọi việc cho mẹ con Doãn Phu nhơn nghe và nói:

- Tên gian tặc Lưu Khuê Bích quả nhiên lợi hại, ta cần phải dựng kế mới có thể bắt hắn được.

Dứt lời, liền gọi Vệ Dõng Bưu vào kề tai nói nhỏ một hồi rồi căn dặn:

- Em cứ việc đem năm trăm binh xuống núi y kế mà làm, thế nào cũng bắt được Lưu tặc.

Hôm sau Khuê Bích dẫn quân đến khiêu chiến nữa, Vệ Dõng Đạt liền dẫn binh xuất trận. Khuê Bích vừa trông thấy Vệ Dõng Đạt đã cười như sấm nổ, nói:

- Mi quả đã tới số rồi! Ta cho mi sống sót được một đêm, nay mi dẫn xác đến đây thật là cả gan!

Vệ Dõng Đạt nạt lớn:

- Lưu tặc! Hôm nay mà ta không bắt được mi, quyết không thèm trở về núi nữa!

Nói rồi múa kiếm chém tới như mưa, Lưu Khuê Bích cử giáo rước đánh, hai người đánh nhau hơn ba mươi hiệp, đột nhiên Vệ Dõng Đạt quày ngựa bỏ chạy. Khuê Bích giục ngựa đuổi theo hét:

- Tặc tướng, chạy đi đâu cho khỏi tay ta. Ta quyết theo lấy đầu mi cho mà xem.

Lúc ấy, bọn lâu la Xuy Đài sơn cũng giả vờ hoảng hốt quăng cả vũ khí bỏ chạy tán loạn. Lưu Khuê Bích đắc chí quất ngựa đuổi nà theo. Liên Đăng thấy vậy giục ngựa tiếp theo cản Lưu Khuê Bích:

- Không tiện đâu Nguyên soái ạ! Quân giặc không chạy lên núi tất nhiên có gian kế gì đây, xin Nguyên soái hãy trở lại là hơn.

Lưu Khuê Bích nghe nói giựt mình gò cương lại. Phía trước Vệ Dõng Đạt cũng gò cương lại giơ kiếm chỉ vào mặt Khuê Bích nói lớn:

- Lưu tặc, hôm nay mi đừng hòng sống sót nữa. Mi đã vào vòng mai phục của ta rồi, hãy mau mau xuống ngựa đầu hàng để bảo toàn tánh mạng là hơn.

Lưu Khuê Bích nghe nói nổi giận xung thiên quát to:

- Hay lắm, quân mai phục của mi đâu? Hãy ra đây ta giết hết không chừa một đứa nào cho mà xem.

Nói rồi giục ngựa lướt tới đuổi nà theo Vệ Dõng Đạt, chứ không nghe lời can gián của Liên Đăng nữa.

Vệ Dõng Đạt chạy ngoằn ngoèo qua mấy nẻo đường, đến một khu rừng rậm kia liền quày ngựa lại nhìn thẳng vào mặt Lưu Khuê Bích, nạt lớn:

- Lưu tặc, mi tới số rồi, hãy xuống ngựa chịu trói cho mau.

Lưu Khuê Bích giận tím gan liền múa giáo lướt tới toan đâm Vệ Dõng Đạt, bỗng dưng nghe dưới chân đất rung chuyển rồi đánh ầm một cái. Thế là Lưu Khuê Bích cả người lẫn ngựa đều sa xuống hầm mất dạng.

Vệ Dõng Đạt ngửa mặt lên trời buông một chuỗi cười khoái trá rồi truyền quân đem câu móc kéo Lưu Khuê Bích lên trói chặt giải tuốt về sơn trại.

Quân sĩ chạy về báo với Liên Đăng. Hắn thất kinh, vội thâu quân rồi sai người đi dọ xem tin tức chủ soái.

Vệ Dõng Đạt giải Lưu Khuê Bích về giam vào ngục, rồi cắt lâu la trông coi kỹ lưỡng, đoạn cho mời mẹ con Doãn Phu nhơn đến tụ nghĩa đường để thương nghị.

Vệ Dõng Đạt nói:

- Con đã bắt được Lưu tặc đem về đây rồi, xin mẫu thân phân xử.

Trưởng Hoa Tiểu thơ nghe nói mừng quá, xen vào nói:

- Lưu Khuê Bích âm mưu hãm hại gia đình ta tan nát, nay đã bắt được rồi, hãy phân thây hắn ra muôn đoạn cho thỏa lòng căm tức.

Vệ Dõng Đạt nói:

- Không nên đâu! Lưu Khuê Bích lãnh mạng của triều đình đến đây, chúng ta không nên giết mà chỉ nên dùng nghiêm hình khảo tra buộc hắn phải làm ra một tờ cung trạng thú nhận hết tội lỗi của hắn, rồi ta đem cái bằng chứng ấy về nạp cho triều đình, mới mong cởi mở nỗi oan ức trước kia được.

Doãn Phu nhơn khen phải, rồi truyền quân dẫn Lưu Khuê Bích vào. Lâu la vâng lệnh, đến ngục thất dẫn Lưu Khuê Bích đến trước sân, nhưng Khuê Bích vẫn đứng hiên ngang với vẻ mặt ngạo nghễ chứ không chịu quì.

Vệ Dõng Đạt nổi giận chỉ vào mặt Khuê Bích, hét:

- Lưu tặc! Mi đã bị bắt đến đây mà còn cứng đầu không chịu quì sao?

Lưu Khuê Bích gằn giọng nói:

- Ta đường đường một vị quan của triều đình, đời nào lại chịu quì lại quân thảo khấu chúng bây. Chúng bây hãy giết ta đi, rồi đây sẽ có quân của triều đình đến đây giết sạch chúng bây không còn chừa một đứa cho mà xem.

Vệ Dõng Đạt cười gằn, nói:

- Mi cậy có Hoàng hậu là chị mi, nên mới âm mưu hãm hại Hoàng Phủ Nguyên soái. Ta hỏi mi, mi có công trạng gì mà được gia phong quyền chức đó? Mi quả thiệt là đứa đại gian ác!

Dứt lời, Vệ Dõng Đạt lên tiếng truyền lệnh:

- Quân sĩ đâu, hãy lấy côn sắt đánh vào đầu gối hắn xem thử hắn có quì không cho biết.

Quân sĩ vâng lệnh, lấy côn nhắm hai đầu gối Lưu Khuê Bích đánh kêu nghe bôm bốp.

Đau quá, Lưu Khuê Bích chịu không nổi, quì xuống năn nỉ:

- Trăm lạy phu nhơn, xin phu nhơn nghĩ tình xưa mà tha thứ cho tôi được về triều thì ơn ấy tôi không bao giờ dám quên.

Doãn Phu nhơn nghe nói càng ghét cay ghét đắng, lớn tiếng mắng:

- Quân gian ác kia, chỉ vì việc tranh hôn mà mi nhẫn tâm phóng hỏa đốt Tiểu Xuân đình toan ám hại con ta, rồi lại thông mưu với cha mi tiến cử phu quân ta ra đương đầu với giặc để rồi sàm tấu cho thánh thượng nghi ngờ. Thế thì hôm nay mi phải cung khai hết ra đây mới khỏi bị tra tấn. Bằng không, nhứt định ta đánh chết bỏ xác tại đây.

Nói rồi truyền quân đem hết hình cụ tra khảo. Quân sĩ vâng lịnh mang ra nào kềm, nào kẹp, nào roi, vồ nọc v.v... Lưu Khuê Bích xem thấy kinh hồn lạc phách, run rẩy nói:

- Thưa phu nhơn, tôi mang quân đến đây chỉ vì mạng Thiên tử chớ không phải tự ý riêng đâu, xin phu nhơn và Đạ vương lượng xét cho tôi nhờ.

Vừa nói, Lưu Khuê Bích vừa lạy lia lịa, Vệ Dõng Đạt nghiêm giọng:

- Tên gian tặc này hiểm ác vô song, nếu không tra tấn nó thì nó không khai đâu.

Nói rồi truyền quân đóng nọc căng Lưu Khuê Bích. Quân sĩ vâng lịnh, đứa nắm đầu, đứa nắm chân, kéo người Lưu Khuê Bích căng ra nằm thườn thượt giữa sân.

Lưu Khuê Bích sợ quá chết điếng đi một hồi, rồi mếu máo năn nỉ xin mở dây ra đặng khai.

Vệ Dõng Đạt truyền quân tháo dây cho Khuê Bích ngồi dậy. Khuê Bích thú thật hết mọi việc, nào là âm mưu phóng hỏa Tiểu Xuân đình, nào là tư thơ cho cha nhờ âm mưu hãm hại Hoàng Phủ Nguyên soái v.v...

Vệ Dõng Đạt nghe xong, truyền quân đem bút mực đến cho Khuê Bích tự tay viết thành tờ cung trạng. Khuê Bích cực chẳng đã phải viết hết mọi việc, không dám giấu giếm tí nào. Vệ Dõng Đạt còn buộc Khuê Bích phải lăn tay vào tờ cung trạng nữa mới bằng lòng.

Tờ cung trạng làm xong, Vệ Dõng Đạt cười gằn hỏi:

- Mi cố tình hãm hại nhà Hoàng Phủ Nguyên soái để cướp mối lương duyên họ Mạnh, nhưng kết quả mi có được gì không?

Khuê Bích thở dài, đáp:

- Chỉ vì họ Mạnh mà làm cho tôi bị gian nan cực khổ muôn phần.

Rồi Khuê Bích thuật hết mọi việc lại và chỉ cái sẹo trên trán mình, nói:

- Nàng Mạnh Lệ Quân dùng dao cố sát tôi, may tôi tránh né khỏi, chỉ trúng vào trán này mang sẹo mà thôi, nếu không thì bỏ mạng rồi còn đâu!

Doãn Phu nhơn nghe Khuê Bích nói Mạnh Lệ Quân giấu dao trong mình hành thích Khuê Bích rồi nhảy xuống Côn Minh trì tự vận rồi; đau xót vô cùng liền khóc òa lên, nói:

- Cảm thương thay cho Mạnh Lệ Quân, một trang hiền đức, chỉ vì nhà ta mà nàng phải thủ tiết liều mình. Ôi! Ta đau khổ biết dường nào!

Vệ Dõng Đạt và Trưởng Hoa Tiểu thơ cũng không ngăn được giọt lệ, cả hai đều sụt sùi, nói:

- Mạnh Lệ Quân giữ dạ trung thành với nhà Hoàng Phủ như vậy thật đáng kính trọng và xót thương vô cùng!

Khóc than một hồi rồi Doãn Phu nhơn chỉ vào mặt Lưu Khuê Bích mắng:

- Tên ác ôn kia! Chính mi đã giết mất một đứa dâu hiền của ta rồi, mi có biết không? Tội ác của mi đã dẫy đầy, ta không đủ can đảm nhìn thấy mặt mi nữa.

Nói rồi truyền quân đem Khuê Bích giam vào ngục tối.

Lời Bình:

- Lưu Khuê Bích xung phong đem quân đi dẹp thảo khấu, không phải với mục đích bảo vệ an ninh cho tổ quốc, mà lại là mượn cái thế lực quân đội của nhà vua để bắt gái về thỏa mãn lòng dục của mình, quả là một tư tưởng bất lương, thảo nào trời không cho cóc mọc đuôi cũng phải. Ngày nay cũng có biết bao người mượn cái chức vụ và địa vị của mình để trả thù riêng hay trục lợi cho cá nhân mình. Những kẻ ấy là những con sâu mọt của quốc gia, cần phải thải trừ sớm chừng nào hay chừng nấy.

- Những kẻ anh hùng luôn luôn biết hy sinh tấm thân mình để phụng sự cho đại nghĩa, ngược lại những kẻ hành động vì cá nhân mình toàn là hạng tiểu nhơn mất tư cách, cho nên sau khi Lưu Khuê Bích bị Vệ Dõng Đạt bắt rồi, lòng đầy kinh hãi. Trước cái chết, hắn run lẩy bẩy cầu xin lấy sự sống với bất cứ giá nào, hắn quì lụy, lạy lục, không còn biết sỉ nhục là gì. Thế thì ta cũng không nên trách Tô Yến Tuyết, con một mụ vú nghèo nàn, sao lại ghét bỏ một công tử con nhà hầu tước.

Hồi Thứ Hai Mươi Bảy

Lương Thừa tướng gieo cầu chọn rể quí,

Tô Yến Tuyết quyết giữ tấm lòng trinh.

Liên Đăng sai quân đi dọ thám, biết Lưu Khuê Bích chỉ bị giam cầm chứ không đến nỗi nguy hại đến tánh mạng, nên yên trí rút quân về, thuật hết mọi việc cho vua Thành Tôn nghe và trách Lưu Khuê Bích vì không nghe qua lời can gián của mình nên mới trúng nhằm mưu kế.

Vua Thành Tôn nghe qua nửa sợ nửa giận, còn Lưu Tiệp thì khóc ròng, vập đầu trước bệ tâu:

- Bởi tiện nhi hết lòng vì nước nên bị bắt, xin bệ hạ kíp sai một viên thượng tướng đem binh đến để cứu hắn và bắt hết bọn Vệ Dõng Đạt cùng Doãn Phu nhơn đem về kinh hành quyết cho rồi!

Vua Thành Tôn gật đầu phán:

- Phải đấy, bọn cường khấu này dám cả gan bắt Lưu Quốc cựu là một vị mạng quan của triều đình, ta phải phát binh đi tiễu trừ gấp mới được.

Vua Thành Tôn vừa dứt lời, xảy thấy hữu Thừa tướng là Kỳ Thạnh Đức và Lương Giám bước ra quì tâu:

- Xin bệ hạ chớ vội phát binh đi đánh Xuy Đài sơn, vì hiện nay giặc Phiên đang đánh phá Đăng Châu gắt lắm, quan Trấn Uy là Dương Bỉnh Nghĩa đã bị luôn mấy trận, nếu bây giờ ta cử binh đi đánh Xuy Đài sơn, thế nào Vệ Dõng Đạt túng thế phải đầu hàng binh Phiên. Bấy giờ ta phải đương đầu với hai thứ giặc: nội chiến lẫn ngoại xâm thì bất lợi cho ta lắm.

Vua Thành Tôn nói:

- Hai khanh nói cũng có lý, song nay Lưu Quốc cựu bị bắt, không biết rồi đây sống thác lẽ nào, nếu không cứu gấp, làm sao trẫm an tâm được?

Hai vị Thừa tướng đồng tâu:

- Hiện nay vợ con Hoàng Phủ Kính có mặt tại Xuy Đài sơn, nếu Vệ Dõng Đạt có ra tay sát hại Lưu Quốc cựu sẽ có hai người ấy cản ngăn, chắc không hề chi đâu, xin bệ hạ chớ lo ngại.

Vua Thành Tôn nghe nói chí lý, liền quay qua nói với Lưu Tiệp:

- Quốc trượng hãy yên chí, đợi khi nào dẹp xong giặc Phiên, trẫm sẽ phát binh đi cứu Quốc cựu về cho.

Lưu Tiệp lòng đầy lo ngại, nhưng bất đắc dĩ phải vâng lời.

Rồi vua Thành Tôn tuyên bố bãi chầu, các quan ai về dinh nấy.

Lúc ấy Lệ Minh Đường hay tin Lưu Khuê Bích bị bắt nên lòng lo ngại, vì hiện thời Doãn Phu nhơn đang có mặt ở Xuy Đài sơn, nếu triều đình cử đại binh đến thì nguy tai, lại có hại cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa sau này. Vinh Phát trông thấy Lệ Minh Đường lộ vẻ lo âu nên lên tiếng khuyên giải:

- Tiểu thơ chớ nên lo lắng lắm mà hao tổn tinh thần, vì lẽ mọi việc ở đời đều do sự xếp đặt của hóa công, vậy nên bổn phận của tiểu thơ ngày ngày là nên lập chí cầu cho được công danh, mới hòng gỡ được nỗi oan tình trước kia.

Lệ Minh Đường nghe lời can gián phải lẽ, nên cũng nguôi bớt nỗi ưu phiền.

Ngày kia, nhằm ngày mười sáu tháng hai, vua Thành Tôn lâm triều, có quan Lễ bộ Thượng thơ là Khổng Thông bước ra quì tâu:

- Năm nay đã đến kỳ hội thi, hiện cử tử bốn phương đã tề tựu về kinh đông lắm, vậy xin bệ hạ hãy chọn khảo quan đặng mở hội.

Vua Thành Tôn vội cử quan hữu Thừa tướng là Lương Giám làm chủ khảo còn quan Lễ bộ Thị lang là Văn Minh Viễn làm phó chủ khảo.

Hai người lãnh chỉ tạ ơn lui ra. Lương Giám về nhà thuật lại với vợ là Cảnh Phu nhơn:

- Vừa rồi, Thánh thượng giao phó tôi làm chánh chủ khảo khoa thi hội năm nay.

Cảnh Phu nhơn nghe nói mừng lắm, Tố Hoa cũng chạy ra chúc mừng, rồi truyền cho gia nhơn sửa soạn hành trang đặng cho Lương Giám cùng với khảo quan khác đến trường thi.

Nhắc qua Lệ Minh Đường cùng vào thi hội kỳ này. Khi treo bảng, thấy Lệ Minh Đường đỗ Giải nguyên, còn Ngô Đạo Am thì đỗ hạng ba mươi ba.

Thấy mình được đỗ cao, Lệ Minh Đường nghĩ thầm:

"Nếu vậy thì trời cũng chiều ta đấy, có lẽ ta báo thù cho nhà họ Hoàng Phủ đặng cũng nên".

Du Trí Văn cũng mừng rỡ khôn cùng, vì ông ta cũng được hân hạnh có hai người học trò ở đậu nhà mình đều đậu cả.

Khi xuất bảng rồi, Lương Giám giở ra xem danh tánh mới hay ông Giải nguyên mới có mười bảy tuổi chưa có vợ, nên thầm nghĩ:

"Người này mới mười bảy tuổi mà đỗ Giải nguyên quả là một bậc kỳ tài trong thiên hạ, nếu diện mạo người không đến nỗi xấu xa cho lắm thì ta quyết gả con ta cho người".

Lương Giám vừa nghĩ đến đây, xảy thấy có gia tướng vào báo:

- Có quan Giải nguyên đến xin vào yết kiến.

Lương Giám truyền lịnh cho mời vào, vừa trông thấy Lệ Minh Đường diện mạo phi phàm, ôi chao, miệng ông Giải nguyên cười tươi như hoa nở. Lệ Minh Đường quì lạy và thưa:

- Tôi tài sơ học thiển nhờ có ân sư giúp đỡ nên mới đựoc như ngày nay.

Sau khi truyền cho gia nhơn bảo đem trà lên mời uống, Lương Giám nói:

- Tôi không ngờ ông Giải nguyên tuổi còn quá trẻ mà văn chương đã lỗi lạc như vậy, có lẽ kiếp trước đã tích đức tu nhơn dày công nên ngày nay mới được hưởng phúc nhất trần gian.

Lệ Minh Đường khiêm nhường nói:

- Thưa Thừa tướng, tiên thế và gia phụ tôi đều không có khoa bảng gì cả, chỉ chuyên nghề ruộng vườn mà thôi. Tôi lớn lên nhờ nghĩa phụ Khương Nhược Sơn ở Hồ Quảng lo lắng dạy dỗ cho nên mới có kết quả như ngày nay.

Lương Giám nghe qua lấy làm lạ hỏi:

- Tại sao tổ phụ là người rẫy bái quê mùa, lại có con cháu tài năng xuất chúng đến thế? Quả là bạch ốc xuất công khanh, thật là đáng khen, nhưng chẳng hay tại sao Giải nguyên đã đến tuổi này mà chưa cưới vợ?

Lệ Minh Đường đáp xuôi:

- Chỉ vì tôi còn nhỏ tuổi, hơn nữa công danh chưa thành đạt nên chưa dám tính đến việc hôn nhơn.

Lương Giám nghe nói càng khen ngợi, lão căn dặn:

- Đến kỳ thi đình này, ngươi nên cố gắng có lẽ đoạt được Giải nguyên đấy.

Lệ Minh Đường hầu chuyện hồi lâu rồi cáo lỗi xin về.

Hôm sau Lương Giám và các quan giám khảo đem các bài thi vào trào cho vua Thành Tôn xem. Vua xem qua quyển văn của Lệ Minh Đường lớn tiếng khen không ngớt. Vua ban thưởng cho Lương Giám và khảo quan đã có công khám xét kỹ lưỡng.

Các quan cúi đầu lạy tạ lui ra ai về dinh nấy.

Hôm sau, đến kỳ thi đình Lệ Minh Đường phục sức chỉnh tề nổi bật hơn cả mọi người, thoạt trông thấy vua đã có lòng mến yêu. Riêng Lương Giám đã đoán chắc thế nào Lệ Minh Đường cũng đoạt được khôi nguyên, nên ông ta đã bàn với vợ mình là Cảnh Phu nhơn rằng:

- Nếu con gái mình mà kết duyên được với Lệ Minh Đường thì thật là hữu phước vậy.

Cảnh Phu nhơn nói:

- Nếu vậy thì thế nào cũng phải mời gã vào cho tôi diện kiến mới được.

Lương Giám đáp:

- Thế nào đến ngày mùng ba tháng tư này ta cũng sẽ lập một huê lầu nơi trước phủ để bày cách gieo cầu cho tiểu thơ bói hôi. Được như vậy, thế nào chàng ta cũng đến đây, chứ nếu mời một cách đường đột, thế nào cũng bị chàng từ chối.

Cảnh Phu nhơn mỉm cười đáp:

- Phu quân dùng cách đó e bất tiện chăng? Vả chăng hôn nhân là việc cần phải có sự chấp nhận cả đôi bên mới được chớ.

Lương Giám mỉm cười đáp:

- Cần gì? Miễn là ta chọn được một người rể lý tưởng là được rồi.

Mấy hôm sau, Tố Hoa thấy cha mình mướn thợ đến lập huê lầu trước cửa phủ thì hỏi Cảnh Phu nhơn:

- Họ lập huê lầu làm gì đó hở mẹ?

Cảnh Phu nhơn nhìn đứa con yêu dấu của mình mỉm cười đáp:

- Con không biết ư? Con hãy lo sửa soạn thêu gối kết hôn thì vừa.

Tố Hoa mặt đỏ bừng bẽn lẽn đáp:

- Sao nghĩa mẫu lại nói vậy?

Cảnh Phu nhơn thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho Tố Hoa nghe. Nghe xong, Tố Hoa biến sắc mặt, nàng nghĩ:

"Trước đây ta cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa thề non hẹn biển, thế mà hôm nay nghĩa mẫu ta vô tình đã tính việc trăm năm cho mình, nhưng trách thay sao nghĩa mẫu ta lại không báo trước cho ta biết?".

Nghĩ rồi, nàng khóc nức nở nói:

- Công ơn lão gia dưỡng dục bấy lâu, con chưa đền đáp được việc gì, như vậy con nhất định không đi lấy chồng đâu.

Cảnh Phu nhơn nói:

- Con nói sao lạ vậy? Gái lớn lên là phải lấy chồng, không lẽ ở vậy hoài với cha mẹ sao? Vả lại ta kén chọn rể là người có tài mạo kiêm toàn, cũng là bậc công hầu khanh tướng, con không bằng lòng ư?

Tố Hoa nói:

- Thà con liều chết chứ con không chịu đâu.

Cảnh Phu nhơn không biết khuyên giải cách nào cho được, bà mặc cho nàng ngồi khóc nức nở, lui ra ngoài lập cách khuyên giải.

Tố Hoa ngồi một mình khóc thầm:

"Ta đã nguyện với lòng như vậy, không biết hôm nay có giữ được danh tiết nữa hay không?".

Hôm sau Lương Giám nói với vợ:

- Bà đã lo liệu gì chưa? Ngày mai đây đã đến ngày gieo cầu kén rể rồi.

Cảnh Phu nhơn bèn thuật lại:

- Không hiểu tại sao con Tố Hoa một mực không chịu, cứ khóc lóc mãi.

Lương Giám thản nhiên nói:

- Phu nhơn đừng bận tâm đến việc ấy. Phàm con gái có chồng e lệ là thường, tôi tin chắc hễ cho hắn gặp Lệ Minh Đường, thế nào cũng bằng lòng ngay.

Cảnh Phu nhơn đáp:

- Tôi biết tánh tình nó khẳng khái lắm. Nếu áp bức, tôi e nó liều chết, biết liệu làm sao?

Lương Giám đáp:

- Bà hãy tin theo ý tôi đi, nếu có việc chi thì lúc ấy hãy lo liệu sau.

Cảnh Phu nhơn nghe nói cũng an lòng.

Một mình Tố Hoa ngồi trong thư phòng, ý nghĩ quyên sinh cứ lởn vởn trong đầu óc nàng, sau những con nức nở thầm trách duyên phận mình trắc trở, nàng ngủ mê đi lúc nào không hay. Nàng nằm chiêm bao thấy một ông già tóc bạc phơ, tay chống gậy tre ung dung bước vào phòng nàng. Tố Hoa lấy làm bất bình la lớn:

- Hãy bước ra mau! Đây là chỗ thư phòng của đàn bà con gái, ông vào đây làm gì?

Ông già mỉm cười đáp:

- Tô Yến Tuyết! Con có biết ta đây là ai không? Ta đây chính là Nguyệt Hiệp lão nhơn, vâng lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế coi việc nhơn duyên cho trần gian, ta nói cho con biết rõ, số con có ba lần động phòng hoa chúc, lần này là lần thứ hai, đó là tiền định, nhưng không có điều chi hại đến tiết trinh của con đâu. Chớ liều mình uổng mạng con nhé!

Nói đến đây, ông lên tiếng ngâm một bài thơ như sau:

"Mạc tu điêu trướng ngộ lương thần,

"Tức nhựt trang đài vọng cố nhân.

"Tịch thế lương duyên chung hội hiệp.

"Tam phiên huê chúc thỏa vi chân.

Ngâm xong, ông ta còn dặn thêm:

- Con hãy nhớ kỹ bốn câu thơ ấy, sẽ có ứng nghiệm sau này về số phận của suốt đời con.

Nói xong, ông ta vói tay chộp lấy Tố Hoa, khiến nàng hoảng hốt dựt mình tỉnh dậy trong niềm xao xuyến lo âu.

Nàng thầm nhủ:

"Không biết giấc mộng có thể biến thành sự thật hay không? À, thì duyên nợ định mệnh của mình đã như thế, không biết ta có gặp được người yêu hay không?" Bỗng một tia hy bọng hiện lên trong lòng nàng vì nàng nghĩ rằng: chắc ngày mai Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng có đến dự cuộc kén rể của cha nàng chăng? Rồi những ý tưởng khác lại kéo đến như những đám mây đen, nàng cảm tưởng ngày mai là một ngày đen tối, nàng tự nhủ: "Thôi! Ta cũng liều nhắm mắt đưa chân, mặc cho số mệnh đẩy đưa".

Nghĩ vậy, nàng cảm thấy đỡ xót thương cho thân phận mình ngày nào.

Rồi nàng lại nghĩ:

"Biết đâu ngày mai này ta lại chẳng gieo cầu vào Hoàng Phủ Thiếu Hoa, rồi ta cùng chàng lại kết duyên cầm sắt cho bõ những ngày ước mơ".

Nghĩ đến đây, nàng sung sướng vô cùng, quyết tâm chờ đợi đến giờ phút ấy.

Lời Bình:

- Thời phong kiến còn cho đàn bà là hạng trí lự thiển cận không làm chi nên chuyện, họ là đồ chơi của đàn ông để rồi sanh con đẻ cái, nâng khăn đỡ trắp cho đấng lang quân. Họ có nhiệm vụ nấp kín trong phòng the để thủ tiết thờ chồng. Cái quan niệm khinh miệt đầy áp bức ấy đã làm cho bao người phẫn nộ.

Tác giả Tái sanh duyên đây cũng cương quyết đá đổ quan niệm ấy, nên đã đưa cô gái Mạnh Lệ Quân ra ngoài đời bằng cách cải dạng nam trang và cho người ta thấy tài năng của nữ giới. Đây quả là một tư tưởng cách mạng thời bấy giờ. Thật đáng khen vậy.

- Phàm con người có một trái tim, tất nhiên chỉ yêu một người mà thôi mới gọi là tình yêu thiêng liêng và cao thượng. Những cô gái như Mạnh Lệ Quân, Tô Yến Tuyết lớn lên, họ có quyền yêu một người mà họ cho là hợp với tư tưởng họ. Một khi họ đã yêu rồi thì không một hoàn cảnh nào khiến họ thay lòng đổi dạ. Cái gương tình cao cả ấy trải qua bao nhiêu thế hệ, tưởng không thể không phủ nhận được. Đàn bà họ cao thượng như vậy, tại sao đàn ông bao nhiêu vợ cũng được? Ôi! Quả là một việc bất công và thấp hèn. Đọc đến đây chắc độc giả không ai là không phản đối quan niệm đa thê này!

Hồi Thứ Hai Mươi Tám

Trúng tú cầu, Lệ Minh Đường cưới vợ.

Thấy kim thoa, Tô Yến Tuyết nghi lòng.

Hôm ấy nhằm ngày mùng ba tháng tư, là ngày xướng danh các vị tân khoa tại cửa Liên môn theo thường lệ, nên vua Thành Tôn ngự ra kim điện để nghe xướng danh.

Quan Thượng thơ đứng trên đài cao, lớn tiếng đọc:

- Thứ nhứt: Đệ nhứt giáp, đệ nhứt danh, Trạng nguyên là Lệ Quân Ngọc, mười bảy tuổi, quê huyện Hàm Ninh, phủ Võ Xương, tỉnh Hồ Quảng.

- Thứ hai: Đệ nhứt giáp đệ nhị danh, Bảng nhãn là Dương Thiên Tước, hai mươi bốn tuổi, quê huyện Tường Phù, phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam.

- Thứ ba: Đệ nhứt giáp, đệ tam danh, Thám hoa là Châu Thiệu Lân, hai mươi hai tuổi, quê huyện Triều Thủy, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông.

Còn nhị giáp và tam giáp tấn sĩ cả thảy ba trăm năm mươi bảy người đều đặng vào lãnh mão áo, rồi bái mạng và dự yến. Lúc ấy Lệ Minh Đường mặt mày hớn hở, sắc diện lại càng thêm xinh đẹp.

Vua Thành Tôn thấy thế phán khen:

- Năm trẫm lên ngôi mười bảy tuổi, nay khanh thi đỗ Trạng nguyên cũng mười bảy tuổi, quả là hiếm có trên đời.

Dứt lời, vua buông một chuỗi cười khoái trá. Lệ Minh Đường quì tâu:

- Hạ thần tài sơ học thiển, mong bệ hạ có lòng thương đến, cho đỗ đặng Trạng Nguyên, thật cái ơn ấy dẫu tan xương nát thịt cũng chưa trả đặng.

Vua Thành Tôn nghe tâu lấy làm đẹp dạ, liền truyền quân đem ngựa đến để mấy ông tân khoa đi du nhai.

Hôm ấy, Mạnh Sĩ Nguyên vì bận việc nhà không vào triều được nên không gặp Lệ Minh Đường, còn Lương Giám khi thấy mấy ông tân khoa lên ngựa đi, vội vàng về phủ nói với Cảnh Phu nhơn:

- Mấy ông tân khoa sắp đến đây bây giờ, vậy phu nhơn hãy mau mau bảo Tố Hoa nó lên ngồi sẵn trên lầu đặng chờ họ.

Cảnh Phu nhơn nghe nói cũng mừng rỡ, vội kêu con nữ tỳ biết mặt Lệ Minh Đường đến dặn:

- Mi hãy theo tiểu thơ lên lầu đứng hầu, hễ thấy Trạng nguyên Lệ Minh Đường đến thì chỉ cho tiểu thơ biết, nếu tiểu thơ không chịu gieo cầu thì mi hãy lấy tú cầu ném đại vào mình Trạng Nguyên. Hễ tú cầu trúng đặng Trạng nguyên thì ta sẽ trọng thưởng.

Rồi Cảnh Phu nhơn lại kêu bọn gia tướng canh ngoài phủ, dặn:

- Khi nào chúng bây thấy tú cầu gieo trúng nhằm Trạng nguyên rồi thì phải xúm nhau hoan hô ông rể mới và mời người vào phủ cho ta.

Bọn gia tướng vâng lệnh lui ra ngoài đứng canh gác như cũ.

Một lát sau, thấy Tố Hoa lên ngồi trên huê lầu, Cảnh Phu nhơn bước lên căn dặn:

- Tố Hoa con ơi! Thân phụ con đã hết lòng vì con nên bày ra cái kế này để kén rể quí. Con nên biết Lệ Minh Đường chỉ có mười bảy tuổi mà đỗ cả tam nguyên cập đệ, thật trên đời ít có. Vậy chốc nữa đây chàng đến sẽ có con nữ tỳ này chỉ cho con biết, con hãy lấy tú cầu gieo cho trúng chàng, kẻo lỡ cơ hội tốt.

Tố Hoa lòng chỉ mong đợi Hoàng Phủ Thiếu Hoa nên khi nghe Cảnh Phu nhơn nói vậy, liền cúi đầu vâng dạ. Cảnh Phu nhơn thấy thế mừng rỡ vô cùng liền bảo tỳ nữ đem trái cầu thêu gấm để sẵn trên huê lầu, lại thêm một dàn nhạc giúp vui nữa.

Lúc bấy giờ, dân chúng kéo đến trước huê lầu đứng xem chật ních, nên phải có người đứng dẹp mới giữ được trật tự.

Tố Hoa ngồi trên huê lầu đảo mắt nhìn bốn bên, có ý tìm kiếm Hoàng Phủ Thiếu Hoa, nhưng tìm mãi không thấy bóng chàng đâu cả, lòng nàng rối như tơ vò. Nàng thất vọng, hai hàng nước mắt tự nhiên tuôn xuống ướt cả đôi má hồng đào.

Một khắc trôi qua, bỗng nghe mọi người reo lên:

- Các quan tân khoa đến rồi!

Lệ Minh Đường cỡi ngựa đi trước, chàng vừa trông thấy huê lầu, vội hỏi quân sĩ:

- Trước cửa quan, Thừa tướng lại lập một tòa lầu để chi vậy?

Quân sĩ đáp:

- Chúng tôi có nghe nói quan Thừa tướng lập huê lầu ấy để kén chồng cho tiểu thơ.

Lệ Minh Đường nghe nói, gò cương ngựa lại, ra vẻ do dự. Dương Thiên Tước và Châu Thiệu Lân ở sau đi tới thấy vậy, hỏi:

- Ủa, tại sao quan Trạng dừng lại làm gì?

Lệ Minh Đường giơ tay chỉ huê lầu, nói:

- Lương Tiểu thơ định gieo cầu để kén chồng, nên tôi không dám đến vội.

Hai người nghe nói cười xòa:

- Nếu vậy thì hay lắm! Chúng tôi đây đều đã có vợ cả rồi, riêng quan Trạng là chưa có vợ, vậy ngày nay quan Trạng đều chiếm cả đại tiểu đăng khoa, còn gì hân hạnh cho bằng! Thôi ta hãy tiến tới, chớ nên e lệ mà hỏng việc.

Lệ Minh Đường nghĩ thầm:

"Hiện nay Lương Giám đang làm Thừa tướng, nếu ta được vào làm rể người thì ta có thể nhờ thế lực họ Lương để trị họ Lưu, báo cừu cho nhà Hoàng Phủ. Riêng về phần Lương Tiểu thơ thì lần lựa ta sẽ dùng trí mà đối xử với nàng. Ôi! Ta đã có gan cải dạng nam trang thi đỗ đến Trạng nguyên, thì ta há lại sợ chi mà không dám cưới vợ?".

Nghĩ đến đây, Lệ Minh Đường mỉm một nụ cười ngạo nghễ, rồi giục ngựa ung dung lướt tới.

Con tỳ nữ đứng trên lầu vừa thoáng thấy Lệ Minh Đường, liền nói nhỏ với Tố Hoa:

- Người trẻ tuổi cỡi ngựa đi trước kia là tân Trạng nguyên Lệ Quân Ngọc đó! Tiểu thơ hãy mau mau gieo cầu xuống cho người đi.

Nhưng Tố Hoa cứ ngồi ngơ ngẩn, hình như không thèm để ý đến câu nói của con tỳ nữ, vì nàng đang chủ tâm tìm kiếm cho được Hoàng Phủ Thiếu Hoa mà thôi, song tìm mãi không thấy, khiến nàng rối loạn cả tâm thần, như người say ngủ, sắc mặt bơ phờ vô cùng thảm hại.

Bọn tỳ nữ thôi thúc mãi vẫn không thấy Tố Hoa nhúc nhích, chúng vội lấy tú cầu ném đại xuống và tú cầu trúng ngay mình quan Trạng nguyên.

Bọn gia tướng ở trước phủ thấy thế, vội vàng vỗ tay reo lên rồi xúm nhau chạy ra đứng trước đầu ngựa Lệ Minh Đường, vòng tay bẩm:

- Chúng tôi kính mừng ông rể mới.

Nói rồi, chúng phò Lệ Minh Đường đi thẳng vào phủ để bái yết vợ chồng Lương Giám. Lúc ấy, vợ chồng Lương Giám đang ngồi sau hậu đường chờ đợi tin mừng, xảy có con nữ tỳ chạy vào bẩm:

- Bẩm lão gia và phu nhơn, tiểu thơ đã gieo cầu trúng nhằm quan tân khoa Trạng nguyên rồi.

Lương Giám mừng rỡ, hỏi:

- Thế sao không thấy tiểu thơ mi về đây?

Nữ tỳ đáp:

- Không hiểu tại sao tiểu thơ lại âu sầu buồn bã, hiện tiểu thơ đã về phòng an nghỉ rồi.

Cảnh Phu nhơn lo ngại, khẽ nói với chồng:

- Nó có thái độ không vui như vậy, ta biết liệu sao đây?

Lương Giám mỉm cười, nói:

- Chắc nó buồn vì một việc riêng gì đây, nhưng được một đấng ông chồng như vậy thì lo gì mà không vui, phu nhơn hãy an tâm, không hề gì đâu mà sợ.

Vợ chồng Lương Giám đang bàn luận, bỗng có tên gia nhơn vào thưa:

- Bẩm lão gia, tiểu thơ đã gieo cầu trúng quan Trạng rồi nên chúng tôi đã mời người vào đây. Hiện các quan tân khoa đã đến trước cửa phủ, xin vào yết kiến và chúc mừng.

Lương Giám nói:

- Mi hãy ra thưa lại rằng: Ta xin từ tạ các quan tân khoa, xin hẹn ngày khác, chỉ mời một mình quan Trạng nguyên vào đây mà thôi.

Gia tướng vâng lịnh, ra thưa lại với các quan tân khoa và mời Lệ Minh Đường vào.

Lệ Minh Đường quay lại tỏ lời xin lỗi với mấy ông bạn đồng liêu:

- Các bạn hãy cho phép tôi được tạm chia tay để vào bái yết Lương Thừa tướng một chút.

Các vị tân khoa đồng nói:

- Quan Trạng cứ việc tự tiện.

Nói rồi họ cùng lên ngựa ra đi, còn Lệ Minh Đường thì theo gia tướng thẳng vào phủ.

Vào đến nơi, Lệ Minh Đường quì xuống vái lạy, Lương Giám vội vã đỡ dậy, mời ngồi và nói:

- Tiện nữ là Tố Hoa vụng về thô kệch, nay may nhờ trời xui khiến gieo tú cầu trúng nhằm Trạng nguyên, thật quả là phước lớn cho tiện nữ vô cùng. Vậy tiện nữ có điều chi sơ suất, xin Trạng nguyên tha thứ và chỉ giáo cho.

Lệ Minh Đường khiêm nhường, nói:

- Tôi vốn con nhà hạ tiện mà nay được kết duyên với lệnh ái, chỉ sợ không xứng đáng. Xin ân sư hãy chọn con nhà thế phiệt khác thì phải hơn.

Lương Giám cười ha ha, nói:

- Việc lương duyên là do trời định, chớ có ai muốn được đâu! Hà tất Trạng nguyên phải khiêm nhường làm gì!

Lệ Minh Đường cúi đầu thưa:

- Nay nhạc phụ đã có lòng đoái thương, tiểu tế đâu dám từ chối.

Dứt lời, Lệ Minh Đường cúi lạy Lương Giám và xin mời Cảnh Phu nhơn ra để được bái yết.

Sau khi bái yết xong, Cảnh Phu nhơn lên tiếng hỏi:

- Chẳng hay lịnh tôn quê ở đâu?

- Thưa, song thân tôi vốn là những người quê mùa chất phác, chuyên nghề nông ở huyện Tương Dương, gia đạo hàn vi. Lúc tôi còn nhỏ, tôi được may mắn nhờ ông Khương Nhược Sơn, một nhà phú thương ở huyện Võ Xương đem về nhận là nghĩa tử và nuôi nấng cho tôi đến lúc trưởng thành.

Lương Giám nói:

- Thế còn gì hay hơn! Hãy chọn ngày tốt làm lễ thành hôn rồi hiền tế hãy ở luôn tại đây cho tiện.

Lệ Minh Đường nói:

- Được vậy thì còn gì hân hạnh cho bằng!

Nói rồi liền cáo từ lui ra, tung mình lên ngựa theo mấy ông tân khoa kia đi du nhai tiếp tục.

Đến chiều tối, Lệ Minh Đường mới trở về quán cũ, Du Trí Văn và Ngô Đạo Am đều mừng rỡ vì thấy Lệ Minh Được gặp được cuộc lương duyên rất xứng đáng. Riêng phần Ngô Đạo Am thì hy vọng rồi đây mình sẽ được nương dựa vào một nơi có thế lực.

Sau đó, Du Trí Văn truyền gia nhơn dọn tiệc ăn mừng. Trong bữa tiệc, Ngô Đạo Am sực nhớ đến một việc, bèn nói với Lệ Minh Đường:

- Nay Thừa tướng đã gả con, tất nhiên ta phải lo đồ sính lễ, nhưng để cho xứng đáng với nhà Thừa tướng, chắc đồ sính lễ phải sắm nhiều lắm, mà ta đem tiền theo rất ít, biết liệu sao đây?

Du Trí Văn nghe nói, cười ha hả, nói:

- Việc ấy không đáng ngại, tôi đây tuy bất tài, nhưng với các lễ ấy tôi có thể đảm đương chu toàn được.

Lệ Minh Đường tỏ lời biết ơn rồi bước vào thơ phòng lấy ra một trăm lượng vàng và một số nữ trang, có thừa để nạp lễ sính.

Du Trí Văn xem qua, lên tiếng khen:

- Tôi biết lắm mà! Ông Khương Nhược Sơn đã làm việc gì là lo chu đáo lắm.

Nói rồi, cả ba đều ngồi lại ăn uống như cũ. Lúc ấy Vinh Phát trông thấy Lệ Minh Đường sửa soạn đồ sính lễ, nó giựt mình nghĩ thầm:

"Ôi chao! Nếu tiểu thơ làm như vậy thì thiệt thòi cho đời Lương Tiểu thơ quá!".

Rồi hắn rón rén bước đến kéo áo Lệ Minh Đường giựt giựt mấy cái tỏ ý bảo đừng, nhưng Lệ Minh Đường giả vờ không hay biết, cứ thản nhiên ngồi uống rượu.

Tiệc rượu mãn, Lệ Minh Đường trở vào phòng với vẻ mặt hớn hở, ra vẻ đắc chí lắm. Vinh Phát ngạc nhiên hỏi:

- Sao tiểu thơ lại cưới vợ là nghĩa lý gì?

Lệ Minh Đường cười gằn đáp:

- Ta đã có gan giả trai thi đỗ Trạng nguyên thì cũng có gan cưới vợ chớ sao?

Vinh Phát cười khẩy, nói:

- Hễ học giỏi có tài thì thi đỗ Trạng nguyên được, chứ đàn bà cưới vợ biết làm sao cho tiện?

Lệ Minh Đường nói:

- Mi chớ lo, ta đã có chước hay giải quyết được việc ấy.

Vinh Phát trố mắt nhìn Minh Đường đầy vẻ ngạc nhiên, hắn nghĩ:

"Chẳng lẽ tiểu thơ có tài hóa ra đàn ông được sao?".

Qua hôm sau, vua Thành Tôn phê cho Trạng nguyên Lệ Minh Đường được bổ vào sở Hàn lâm tu soạn, còn Bảng nhãn, Thám hoa thì bổ vào sở Biên tu. Ngô Đạo Am cũng được bổ làm Thứ cát sĩ, lãnh chức Tri huyện.

Qua ngày mười bảy, Lệ Minh Đường đem nạp sính lễ và định đến ngày hai mươi thì làm lễ cưới, lại còn cậy Tây đài ngự là Hạ Phùng Dị làm mai nhơn.

Khi Lương Giám nhận xong đồ sính lễ, lập tức thiết tiệc đãi Hạ Phùng Dị, cuộc ăn uống kéo dài đến nửa ngày mới mãn. Phùng Dị cáo từ lui về, Lương Giám xem lại các đồ sính lễ thì thấy món nào cũng quí giá vô cùng, Lương Giám nghĩ thầm:

"Chắc con gái ta trông thấy đồ sính lễ này, làm gì cũng vui lòng".

Vừa nghĩ đến đây, bỗng thấy con Thúy Hạc chạy vào thưa:

- Thưa lão gia và phu nhơn, không hiểu sao tôi trông tiểu thơ buồn bã vô cùng, nãy giờ tiểu thơ nằm im lìm trên giường, chốc chốc lại thở dài não ruột.

Cảnh Phu nhơn nhìn Lương Giám, nói:

- Chính tôi cũng không hiểu cớ sao mỗi lần nói đến việc hôn nhơn thì trông nó buồn bã lạ thường.

Bà nói rồi bưng hết đồ sính lễ ra bảo con Thúy Hạc và con Tiểu Loan hãy đem lên lầu cho Tố Hoa. Hai đứa vâng lệnh bưng lên lầu và nói với Tố Hoa:

- Lão gia và phu nhơn dạy đem đồ sính lễ này đến cho tiểu thơ.

Tố Hoa gật đầu:

- Ta biết rồi.

Hai con nữ tỳ muốn làm vui lòng Tố Hoa, nên lấy cây kim thoa có hai con phụng giơ trước mặt Tố Hoa và nói:

- Tiểu thơ hãy trông cây kim thoa này có hai con phụng đẹp nhưng phụng sống vậy.

Tố Hoa cầm lên xem, lấy làm ngạc nhiên, nghĩ thầm:

"Lạ thật... Của này quả là của Mạnh Lệ Quân rồi. Mạnh Tiểu thơ hạ lạc nơi nào mà có vậy ở đây?".

(Nguyên cây kim thoa này của Mạnh Lệ Quân, thuở trước nàng vẽ kiểu mướn thợ làm và thường ngày nàng giắt trên đầu, khi trốn đi nàng lại đem theo, nên nay Tố Hoa trông thấy thì biết ngay).

Đến khi Tố Hoa xem tới dây vàng để xỏ hạt châu thì nàng lại sực nhớ đến một chuyện cũ (vì trước kia, sợ dây vàng ấy đứt, nàng phải nối một khúc dây bạc vào). Thấy vậy, Tố Hoa nghĩ thầm:

"Rõ ràng khúc dây bạc này do ta nối khi trước đây. Thôi, quả vật này là di tích của Mạnh Tiểu thơ rồi".

Rồi nàng soạn ra xem xét hết tất cả các món thì vật nào cũng đều là của Mạnh Lệ Quân cả, Tố Hoa càng ngạc nhiên hơn nữa, nàng suy nghĩ:

"Bao nhiêu bảo vật này đều là của Mạnh Lệ Quân, không còn nghi ngờ gì nữa! Hay là nàng đã chết rồi, còn của này lưu lạc đến đây chăng? Nhưng ta xem tướng mạo Mạnh Lệ Quân không đến nỗi yểu tướng. Hơn nữa, nếu nàng có chết đi thì bảo vật này phải thất lạc mỗi món một nơi, chớ đâu lại hiệp nhau một chỗ thế này! Ôi, lạ thật! Thế thì gã Trạng nguyên Lệ Quân Ngọc này khiến ta nghi ngờ lắm!".

Nằm suy nghĩ một hồi rồi đột nhiên Tố Hoa lẩm bẩm một mình:

"Ôi thôi, đúng rồi! Cái tên Lệ Quân Ngọc này nếu bỏ chữ Ngọc đi thì còn lại hai chữ Lệ Quân. Hay là Mạnh Lệ Quân trốn đi, cải dạng nam trang rồi thi đỗ Trạng nguyên đấy chăng?".

Rồi nàng lại lắc đầu lia lịa:

"Nếu ta nghĩ như vậy cũng vô lý lắm, vì tuy Mạnh Lệ Quân có sức học uyên thâm, song chẳng lẽ nàng lại dám làm một việc khi quân to tát đến thế ư? Ồ, thật khó nghĩ! Nhưng biết đâu chừng, Mạnh Lệ Quân cao hứng mạo hiểm như vậy, không kể gì đến tội khi quân cũng nên. Thôi chắc rồi! Hèn chi mấy hôm nay Lương Thừa tướng cứ khen quan Trạng lịch sự hoài. Lại khi Nguyệt lão Tiên ông báo mộng bảo ta sẽ gặp người cùng tâm sự với ta, thì đúng là Mạnh Lệ Quân chớ còn ai nữa?".

Rồi nàng cố nhớ lại hình dáng của Lệ Quân Ngọc, bỗng nàng vỗ đùi nói một mình:

- Hèn chi hôm ta ngồi trên huê lầu nhìn xuống, tuy không thấy rõ mặt Lệ Quân Ngọc, nhưng trông dáng điệu không khác Mạnh Lệ Quân, vậy thì ta vội gì chết vội, ta sẽ giấu lưỡi dao trong mình, chờ khi làm lễ hiệp cẩn, nếu người không phải là Mạnh Lệ Quân thì chừng ấy ta sẽ liều mình cũng chẳng muộn".

Nghĩ đến đây, nàng cảm thấy yên tâm, không còn lo buồn như trước nữa.

Đêm hôm ấy, Tố Hoa cứ sành soạn xem đi xem lại các món đồ trang sức hoài, càng xem chừng nào, nàng càng quả quyết là của Mạnh Lệ Quân chừng nấy. Nàng nghĩ:

"Nếu quả thật là Mạnh Lệ Quân thì ta cùng tiểu thơ ở chung chờ đợi Hoàng Phủ Thiếu Hoa, hay biết bao nhiêu".

Nghĩ đến đây nàng mừng rỡ vô cùng, bọn nữ tỳ thấy vậy vội chạy đi báo với vợ chồng Lương Giám:

- Mấy hôm nay tiểu thơ buồn bã lắm, nhưng khi trông thấy đồ sính lễ, tự nhiên tiểu thơ vui vẻ hân hoan vô cùng.

Lương Giám nghe nói, mừng rỡ nói với Cảnh Phu nhơn:

- Chỉ vì hắn vốn con nhà thường dân, thuở nay chưa từng dùng đến bảo vật nên trông thấy vậy, tài nào chẳng hài lòng.

Nói rồi lập tức truyền cho nữ tỳ lo sửa sang Lộc Tiêu lầu để làm phòng cưới.

Nhắc qua Lệ Minh Đường, đêm ấy nàng nằm nghĩ thầm:

"Con của Lương Thừa tướng tất nhiên phải có học thức và lễ nghĩa vẹn toàn, vậy sau khi thành thân, ta sẽ đem hết sự tình tỏ cho nàng biết rồi nhờ nàng giữ kín cho, đặng chờ khi Hoàng Phủ Thiếu Hoa xuất hiện, ta sẽ nhường cho tiểu thơ làm chánh thất, chắc thế nào tiểu thơ cũng thương tình ta là người trinh tiết mà giúp đỡ chớ chẳng không".

Nghĩ đến đây, Lệ Minh Đường thở dài than:

"Ta đây quả là một kẻ vô duyên! Trải bao nhiêu gian nan khổ sở, nay mới được đỗ Trạng nguyên, thế mà chưa được cùng phu quân gặp gỡ. Hoàng Phủ Thiếu Hoa ôi! Tiện thiếp đây cũng vì chàng mà tính đi cưới vợ đó, không biết phu quân hiện nay ở nơi nào có biết cho lòng thiếp chăng? Không biết đến ngày nào đôi ta mới được trùng phùng!".

Lời Bình:

Lệ Minh Đường bằng lòng lấy Tố Hoa con Lương Giám làm vợ, vì nàng cho rằng: Tố Hoa, con một vị Thừa tướng, thế nào cũng được học rộng, kiến thức nhiều, nàng sẽ bày tỏ nỗi niềm để rồi hai người âm thầm thông cảm nhau, sau này nàng sẽ nhường cho Tố Hoa làm chánh thất. Ta có thể nói việc làm của Lệ Minh Đường chỉ liều lĩnh mà thôi, chứ lập luận ấy không vững tý nào cả, vì xét như Lưu Khuê Bích con một vị Quốc trượng, em một bà Hoàng hậu, tài mạo tuyệt vời, thế mà sanh lòng dâm ô độc ác, thì đã chắc gì con vị Thừa tướng Lương Giám là kẻ có lương tâm? Hơn nữa, cuộc tình duyên phải một trai một gái chứ hai người cũng chung một giống thì còn gì chán cho bằng. Còn việc Lệ Minh Đường có ý định nhường cho nàng Tố Hoa làm chánh thất khi gặp Hoàng Phủ Thiếu Hoa, lại càng viễn vông hơn nữa. Vả chăng, vấn đề lương duyên ở đời vô cùng phức tạp, người chồng lý tưởng của Mạnh Lệ Quân chưa chắc đã hợp với lý tưởng Lương Tiểu thơ.

Nếu dự định của Lệ Minh Đường không thực hiện được, tất nhiên cơ mưu phải bại lộ và đối với vị Thừa tướng trong triều không phải là việc dễ, liệu cái tội khi quân ấy, nàng có khỏi bị tử hình không?

Cho hay ở đời kẻ nào đã liều lĩnh được một lần thì sau đó họ sẵn sàng liều lĩnh, không ngần ngại nữa. Kẻ gian ác càng liều lĩnh càng sa vào hố sau, tội ác càng dẫy đầy và sự quả báo càng ghê gớm; còn người lương thiện dù có lăn xả vào nguy hiểm đến đâu cũng có đấng thiêng liên phò trợ, nên ta thường thấy họ gặp những cái may bất ngờ.

Kinh nghiệm trên cho ta thấy rằng: Nếu ta biết làm lành lánh dữ, thì đời ta dù có gặp hoàn cảnh éo le đến đâu cũng có thể vượt qua được, không nên nản chí.

Hồi Thứ Hai Mươi Chín

Giữa tiệc cưới, Mạnh Sĩ Nguyên nghi hoặc,

Nhập tân phòng, đôi bạn gái cảm thương.

Hôm sau, Du Trí Văn và Ngô Đạo Am bày tiệc rượu ăn mừng cho Lệ Minh Đường, trong lúc ba người đang vui say, bỗng có nội giám chạy vào thưa:

- Tôi là Lữ Phúc, phụng thánh chỉ đến triệu quan Trạng vào cung.

Lệ Minh Đường nghe nói, vội vã hối gia nhơn dọn bàn hương án tiếp thánh chỉ rồi hỏi Lữ Phúc:

- Chẳng hay thánh chỉ triệu ta vào cung có việc chi?

Lữ Phúc thưa:

- Hôm nay Thánh thượng ngự ra vườn thượng uyển, trông thấy trăm hoa đua nở, cảnh vật vô cùng xinh đẹp, nên vội sai triệu quan Trạng vào, chắc là để cùng người uống rượu thưởng hoa chứ không có gì khác đâu.

Lệ Minh Đường liền vào nhà lấy một gói bạc trao cho Lữ Phúc và nói:

- Tôi xin biếu người một chút lễ mọn, mong người nhận cho.

Lữ Phúc do dự nói:

- Thưa quan Trạng, tôi có công cán gì đâu mà dám nhận số bạc thưởng quá to tát này!

Lệ Minh Đường mỉm cười nói:

- Xin người chớ ngại, hãy nhận đi rồi tôi có việc cậy người giúp.

Lữ Phúc đưa tay nhận lấy và nói:

- Chẳng hay quan Trạng muốn cậy tôi việc chi?

Lệ Minh Đường bèn thuật hết việc Lương Giám gả con cho chàng và hôm nay chính là ngày làm lễ thành thân, mà đã có thánh chỉ tất nhiên không thể thối thác, vì vậy chàng nhờ Lữ Phúc lập kế nào cho chàng ra sớm một chút.

Lữ Phúc nói:

- Tưởng việc chi chứ việc ấy tôi có thể giúp quan Trạng được. Thế nào tôi cũng tìm cách cho quan Trạng về sớm.

Lệ Minh Đường tạ ơn, rồi lên ngựa theo chân Lữ Phúc vào cung.

Đến nơi, Lệ Minh Đường quì lạy vua Thành Tôn và tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, chẳng hay bệ hạ cho đòi hạ thần đến có việc chi?

Vua Thành Tôn nói:

Chỉ vì hôm nay trẫm thấy vườn thượng uyển trăm hoa đua nở nên cho vời khanh đến đây để cùng trẫm uống rượu thưởng hoa.

Lệ Minh Đường nói:

- Kẻ vô tài vô đức này được bệ hạ đoái tưởng đến, cho được cùng dự yến, thật hạ thần cảm kích vô cùng!

Sau đó, vua tôi cùng vào tiệc bắt chén, chuyện vãn rất tương đắc. Lữ Phúc đứng một bên hầu miệng cứ chúm chím cười. Vua Thành Tôn thấy thế hỏi:

- Lữ Phúc, mi cười chi vậy?

Lữ Phúc vội quì xuống tâu:

- Hạ thần cười vì thấy quan Trạng tuy đang ngồi ở đây mà dạ thì tơ tưởng ở đâu đâu, không thiết gì đến việc uống rượu thưởng hoa.

Vua Thành Tôn ngạc nhiên hỏi Lệ Minh Đường:

- Khanh có việc chi mà phải chi phối tư tưởng như vậy?

Lữ Phúc rước lời, nói:

- Nguyên hôm nay là ngày quan Trạng nguyên cưới vợ, nhưng vừa sắp đi làm lễ cưới thì có thánh chỉ triệu vào cung.

Vua Thành Tôn nhìn Lệ Minh Đường, hỏi vặn:

- Ủa! Hôm nay lại là ngày cưới vợ của khanh sao?

Lệ Minh Đường tâu:

- Tâu bệ hạ, quả thật như vậy.

Thành Tôn lại hỏi:

- Thế khanh cưới con nhà ai vậy?

- Tâu bệ hạ, hạ thần được Lương Thừa tướng thương nên gả con cho.

Vua Thành Tôn gật đầu, rồi quay qua trách mắng Lữ Phúc:

- Sao mi dại dột đến thế! Đã biết hôm nay là ngày cưới vợ của quan Trạng thì cứ việc về tâu lại cho ta biết, sao lại triệu vào đây làm gì cho phiền phức như vậy?

Dứt lời, vua Thành Tôn truyền đem tiệc rượu qua phủ Thừa tướng để cho vợ chồng Lệ Trạng nguyên dùng trong lễ hiệp cẩn, và ban cho một đôi Kim liên bửu đăng vô cùng quí giá. Rồi Thành Tôn cười và nói với Lệ Minh Đường:

- Hôm nay chính là ngày quan trọng trong đời của khanh, vậy trẫm cho khanh về sớm để khỏi lỡ việc.

Lệ Minh Đường mừng rỡ, lạy tạ lui ra.

Hôm ấy trong phủ Thừa tướng, các quan đến chúc mừng rất đông, bỗng thấy nội giám đem tiệc rượu của nhà vua đến, Lương Giám mừng rỡ vô cùng, vội khiến gia nhơn đem lên Lộng Tiêu lầu để làm lễ hiệp cẩn.

Bấy giờ Mạnh Sĩ Nguyên đã thăng lên chức Hình bộ Thượng thơ, hôm ấy cũng có đến chúc mừng, duy có Mạnh Gia Linh vì mắc việc nhà không đến được...

Lúc ấy, Lệ Minh Đường đang ngồi, bỗng thấy Hạ Phùng Dị đến bảo:

- Xin mời quan Trạng hãy sang dinh Thừa tướng làm lễ thành thân kẻo trễ mất giờ tốt.

Lệ Minh Đường bèn từ biệt Du Trí Văn và Ngô Đạo Am lên kiệu ra đi. Vinh Phát nối gót theo sau.

Đến nơi, các quan triều thần đều ra nghinh tiếp, Lệ Minh Đường bước xuống kiệu vái chào. Lúc ấy, Mạnh Sĩ Nguyên thấy y hệt là con gái mình, nhưng Lệ Minh Đường sợ tội khi quân nên không dám nhìn cha, cứ nghiễm nhiên như một kẻ xa lạ.

Mạnh Sĩ Nguyên mừng thầm:

"Con gái ta can đảm quá, hắm dám cải dạng nam trang liên trúng tam trường, ngày nay cha con thế nào cũng được gặp gỡ".

Chẳng dè khi Lệ Minh Đường chào hỏi các quan xong, đến lượt cha nàng, nàng cũng chào hỏi một cách lãnh đạm như bao nhiêu người khác. Mạnh Sĩ Nguyên lấy làm nghi hoặc, nghĩ thầm:

"Nếu quả là con gái ta thì tuy không dám nhận ngay bây giờ, cũng có một chút tình quyến luyến, chứ sao lại làm ra vẻ người dưng mặt lạ như vậy? Còn bảo không phải là con ta thì có giống cũng giống phần nào thôi, chứ sao lại giống y hệt như vậy?".

Khi vào dự tiệc, Lệ Minh Đường cũng chẳng hề ngó đến Mạnh Sĩ Nguyên, làm cho Mạnh Sĩ Nguyên càng sanh nghi hơn nữa.

Hồi lâu, nàng mới liếc nhìn Mạnh Sĩ Nguyên, trông thấy cha mình tỏ vẻ âu sầu thì nàng vô cùng đau xót, nhưng vì nàng muốn cứu cho được nhà Hoàng Phủ nên gắng gượng làm ngơ.

Lát sau, đến giờ Hoàng đạo, gia nhơn bước ra mời tân lang làm lễ thành hôn. Lúc ấy ở trong có bốn con nữ tỳ đỡ Tố Hoa ra, nhạc trỗi vang dậy, hai người đồng lạy thiên địa rồi lại tạ hoàng ân, đoạn quay về phía Hồ Quảng bái chào cha mẹ chồng, sau cùng bái khiến nhạc phụ và nhạc mẫu.

Làm lễ xong, hai người bước vào trong động phòng, bọn nữ tỳ gỡ chiếc khăn đỏ trên mặt Tố Hoa xuống, Tố Hoa liếc nhìn kỹ tân lang thì quả nhiên là Mạnh Lệ Quân, ngắm lại dung nhan càng xinh đẹp hơn trước nhiều, Tố Hoa nghĩ thầm:

"Con tạo sắp đặt như thế này, quả là trời đã chiều theo ý ta rồi".

Còn Lệ Minh Đường trông thấy bọn nữ tỳ đứng quanh mình đông đảo nên không dám nhìn tận mặt tân nhơn. Tố Hoa nhìn lại cử chỉ không giống đàn bà thì lòng hơi nghi hoặc, nghĩ thầm:

"Nếu quả là Mạnh Lệ Quân, sao tiểu thơ lại không nhìn được ta?".

Bỗng dưới lầu có tiếng bọn gia nhơn nói vọng lên:

- Nhà ngoài tiệc rượu đã bày xong, xin mời tân lang ra tiếp khách.

Lệ Minh Đường vội vã bước xuống lầu tiếp khách. Mạnh Sĩ Nguyên thấy Trạng nguyên là rể yêu của Thừa tướng nên chưa dám hỏi thăm vội. Kế đó nhạc trỗi vang dậy, bọn tỳ nữ múa hát giúp vui, quan khách thảy đều vui vẻ.

Vinh Phát đứng dưới lầu nói với các nữ tỳ:

- Nhờ bẩm giùm với tiểu thơ, bảo rằng tôi đây là thơ đồng của Trạng nguyên, muốn xin chào mừng tiểu thơ.

Lúc ấy, Tố Hoa ở trên lầu nghe nói thì nhận ra tiếng của con Vinh Lang. Kế đó, bọn nữ tỳ lên thưa:

- Bẩm tiểu thơ, có gã thơ đồng của Trạng nguyên tên Vinh Phát xin lên chào mừng tiểu thơ.

Tố Hoa mừng thầm:

"Rõ ràng là con Vinh Lang nay nó đổi là Vinh Phát đây; thế thì Lệ Minh Đường quả là Mạnh Lệ Quân rồi".

Nhưng nàng lại nghĩ:

"Con Vinh Lang còn nhỏ không chín chắn, nếu để nó lên đây trông thấy ta nó nói lung tung ra thì khốn, chi bằng đừng cho nó lên là phải".

Nghĩ rồi, nàng khoa tay bảo nữ tỳ không cho hắn lên.

Lúc ấy ngoài nhà khách, Lệ Minh Đường đang rót rượu khoản đãi các quan, chàng rót mời mỗi người phải dùng cạn một chung rượu để mừng cho chàng. Đến lượt Mạnh Sĩ Nguyên, Lệ Minh Đường cũng làm như vậy, tuyệt nhiên không tỏ một thái độ nào khác, Mạnh Sĩ Nguyên trách thầm:

"Lạ thật, rõ ràng là con gái ta, cớ sao nó lại vô tình đến thế".

Rồi ông ta lại nghĩ:

"Đúng là ta ngớ ngẩn rồi. Nếu quả là con gái ta thì đời nào nó lại dám đi cưới vợ".

Thế là Mạnh Sĩ Nguyên không dám nghĩ vẩn vơ như trước nữa, chỉ ngồi phiền hà một mình:

"Trên đời sao lại có người giống hệt con ta như vậy. Nhưng anh chàng Lệ Minh Đường này hữu phước quá, đã liên trúng tam trường, nay còn được vào làm rể quan Thừa tướng, còn con ta không biết phiêu bạt nơi đâu? Nay ta trông thấy người lại càng nhớ đến con, đau lòng vô hạn, ta không còn đủ can đảm ngồi lại đây uống rượu nữa".

Nghĩ đến đây, Mạnh Sĩ Nguyên đứng phắt dậy giả đau bụng và cáo từ ra về.

Khi về đến phủ, Mạnh Sĩ Nguyên đem hết mọi việc nói lại cho Mạnh Gia Linh nghe. Mạnh Gia Linh nghe qua, mỉm cười thưa:

- Ở đời có nhiều gương mặt giống nhau là thường, chứ nếu quả là em con thì nó đi cưới vợ làm gì?

Mạnh Sĩ Nguyên nói:

- Chính ta cũng nghĩ như vậy nên không dám chắc là Mạnh Lệ Quân.

(Vì vậy, từ đó về sau, hai cha con gặp nhau tại triều đình vẫn đối xử nhau như bao nhiêu người khác).

Nhắc lại, khi Lệ Minh Đường rót rượu mời Mạnh Sĩ Nguyên uống rồi quay đi, thì trong lòng đau đớn xót xa vô cùng, nàng thầm trách:

"Ta quả là đứa con đại bất hiếu. Chỉ vì muốn cứu tánh mạng nhà Hoàng Phủ mà gặp cha cũng nhẫn tâm làm ngơ đi".

Cuộc rượu này kéo dài mãi, đến chiều tối mới tan, Lệ Minh Đường phải đứng tiếp khách, hai chân đã mỏi.

Khi Lệ Minh Đường bước lên lầu, Tố Hoa vội đứng dậy, nhưng Lệ Minh Đường cũng chưa dám nhìn tận mặt, chỉ cúi gầm mặt xuống và suy nghĩ:

"Chẳng biết đêm nay Lương Tiểu thơ có thương tình ta mà nhận lấy những điều ta cầu khẩn không?".

Lúc ấy Tố Hoa cũng nghĩ thầm:

"Tân lang giống hệt Mạnh Lệ Quân, nhưng không hiểu cớ sao lại không nhìn nhận ta, vả lại thoáng trông cử chỉ thì không giống cử chỉ đàn bà. Nếu như không phải là Mạnh Lệ Quân thì ta sẽ xử trí ra sao đây?".

Rồi Tố Hoa dứt khoát tư tưởng:

"Ôi! Ta có lo gì. Cây dao ta giấu dưới giường còn kia, nếu gặp phải sự chẳng may thì ta liều mình tự tử là yên chuyện".

Sau đó hai người cùng nâng ly rượu hiệp cẩn, Lệ Minh Đường mới nhìn thẳng vào mặt Tố Hoa thì nàng giật nẩy người, vì người trước mặt nàng lại là Tô Yến Tuyết, khiến trong lòng Lệ Minh Đường dây lên niềm vui, mừng, thương, tủi, nàng muốn nhảy tới ôm choàng Tô Yến Tuyết để thỏa tình thương nhớ, nhưng rồi nàng lại bình tĩnh nốc cạn chung rượu rồi bấm trán suy nghĩ:

"Ta nghe nói Lương Thừa tướng quê ở Vân Nam thì chắc là khi phu nhơn đi thuyền về kinh gặp Tô Yến Tuyết vớt lên, nhận làm nghĩa tử rồi".

Còn Tố Hoa trông thấy tân lang ra vẻ trầm tư nghĩ ngợi, lòng càng áy náy hơn nữa, nàng nói thầm:

"Mãi đến bây giờ mà người không nhìn ta, tức không phải Mạnh Lệ Quân rồi. Đây quả là một chàng thư sanh. Ôi! Ta còn mặt mũi nào mà nhìn ngó người nữa".

Nghĩ đến đây, tự nhiên Tô Yến Tuyết hổ thẹn muôn phần, nàng cúi gầm mặt xuống không dám ngó lên như trước nữa.

Lệ Minh Đường cười thầm:

"Ôi chao! Sao Tô Yến Tuyết lại ngốc thế. Việc gì mà phải hổ thẹn?".

Lệ Minh Đường nốc thêm vài chung rượu nữa cho nóng ran cả người, rồi nhìn thẳng vào mặt Tô Yến Tuyết, làm cho trống ngực Tố Hoa đánh thình thịch, đôi má nàng đỏ như gấc.

Lệ Minh Đường lại nghĩ:

"Trông Tô Yến Tuyết thẹn thuồng quá, thôi để ta thử nàng xem sao cho biết".

Nghĩ đoạn, Lệ Minh Đường quay lại bảo bọn nữ tỳ:

- Đêm đã khuya rồi, ta cho phép chúng bay xuống lầu ngủ đi.

Bọn nữ tỳ mừng rỡ kéo nhau đi hết. Lệ Minh Đường liền đứng dậy đóng cửa cài then lại và bước tới ngồi gần bên Tố Hoa, nói:

- Một vị tiểu thơ con quan Thừa tướng tất nhiên có nhan sắc tuyệt vời, nhưng nãy giờ vì có bọn nữ tỳ nên ta không dám nhìn tận mặt, bây giờ là lúc ta thưởng thức cái dung nhan diễm kiều.

Nói rồi, vừa bưng rượu uống, vừa nhìn Tố Hoa không chớp mắt. Cử chỉ ấy khiến Tố Hoa càng bực mình hơn nữa, nàng nghĩ:

"Cứ theo gương mặt thì rõ ràng là Mạnh Lệ Quân, nhưng cớ sao lại nói năng như vậy?"

Rồi Tố Hoa đứng phắt dậy bước lại bên giường ngồi dựa bên tường cúi đầu xuống lẳng lặng làm thinh, lòng đầy nghi hoặc, còn Lệ Minh Đường thấy vậy càng cố ý trêu ghẹo hơn nữa, nên nàng cũng đứng dậy bảo:

- Tôi đã say quá rồi, đôi mắt không còn nhìn rõ được nữa, cần phải khêu đèn cho thật tỏ để thưởng thức sắc đẹp, kẻo phụ tấm lòng của một bực thiên kim tiểu thơ.

Vừa nói, Lệ Minh Đường vừa bước tới vặn đèn cho thật tỏ lên.

Lúc ấy Tố Hoa nhận ra tiếng nói quả là giống người Vân Nam nhưng chẳng biết cớ sao lại bảo là ở Hồ Quảng, nàng đánh bạo đứng dậy nói:

- Tôi nghe quan Trạng là người ở Tương Dương, Hồ Quảng, cớ sao lại nói tiếng Vân Nam? Tôi chắc quan Trạng là gái giả trai, nếu người không thú thật thì tôi sẽ thưa với cha tôi tâu với triều đình trị tội. Đã mang cái tội khi quân, lại thêm cái tội lừa dối một vị tiểu thơ con của quan Thừa tướng.

Lệ Minh Đường nghe nói, cười thầm:

"Cha chả! Đến bây giờ mà vẫn còn nghi ngờ nữa chứ! Thôi để ta thử một mách nữa chơi!"

Nghĩ rồi, Lệ Minh Đường nghiêm sắc mặt đáp:

- Phu nhơn nghĩ lầm rồi! Tôi đây liên trúng tam nguyên, hiện đang được sung vào Hàn lâm viện, nếu tôi là gái giả trai thì lẽ nào các quan lại không biết. Nếu phu nhơn có nghi ngờ, rồi nội đêm nay phu nhơn sẽ rõ.

Tố Hoa nghe giọng nói quả thật là người Vân Nam, bèn mỉm cười đáp:

- Thôi đừng ngụy biện nữa ông Trạng ôi! Tôi còn biết đến cả lai lịch của ông nữa kìa! Ông vốn là con gái họ Mạnh ở Vân Nam, nhơn vì triều đình giáng chỉ tứ hôn cùng họ Lưu nên ông Trạng không bằng lòng, cải dạng nam trang trốn đi, may gặp Khương Nhược Sơn nuôi làm nghĩa tử, rồi bây giờ thi đỗ Trạng nguyên, rõ thật là tội khi quân không thể dung thứ được. Ông chỉ có thể dối trá đối với người khác, chứ làm sao có thể che được mắt tôi!

Lệ Minh Đường nghe nàng nói, nghĩ thầm:

"Hừ! Bây giờ Yến Tuyết ỷ mình là tiểu thơ con quan Thừa tướng muốn dọa hăm mình nữa chứ. Ta há lại sợ nàng sao?"

Lệ Minh Đường nghiêm giọng đáp:

- Tôi cũng thừa hiểu cái lai lịch của nàng. Nàng vốn là con gái họ Tô ở Vân Nam, sao lại cả gan giả làm con gái họ Mạnh? Trước khi về với họ Lưu lại giấu dao trong mình hành thích người ta rồi nhảy xuống sông tự tử, may gặp Cảnh Phu nhơn đây vớt lên nhận làm nghĩa nữ. Nàng làm hai họ thưa kiện đến triều đình, chưa chết sao nàng dám nói chết, nay lại giả làm con Thừa tướng, khi dễ triều đình. Nếu tôi vào tâu với triều đình thì liệu cái tội ấy có thể dung thứ được không?

Lúc bấy giờ Tố Hoa biết rõ quan Trạng là Mạnh Lệ Quân nên trong lòng nửa mừng nửa sợ, mối cảm tình chan chứa, vội giơ tay bụm miệng Lệ Minh Đường và nói nhỏ:

- Ấy chết! Tiểu thơ nói nho nhỏ vậy chớ, kẻo chơn tình bại lộ thì nguy bây giờ đa!

Lệ Minh Đường chép miệng cười, giơ tay nâng cằm nàng nựng một cái rồi đứng dậy lột mão ra, đoạn hai người bắt tay nhau cùng ngồi trên giường.

Tố Hoa bằng giọng cảm kích, nói:

- Tiểu thơ quả là bậc thiên hạ kỳ tài. Một nữ lưu niên thiếu như tiểu thơ mà có thể thi đỗ đến chức Trạng nguyên, quả là một điều không thể tưởng tượng nổi.

Lệ Minh Đường bèn thuật lại hết mọi việc từ lúc ra đi, rồi đến gặp ông Khương Nhược Sơn v.v... cho Tố Hoa nghe và nói:

- Chắc chị cũng không ngờ rằng ngày nay lại có thể gặp em đây chớ.

Tố Hoa tát yêu vào má Lệ Minh Đường, nói:

- Tiểu thơ táo bạo quá! Tôi dám ghê sợ rồi đấy. May được thi đỗ Trạng nguyên như vầy cũng là quá phận rồi, sao dám cả gan kết duyên với con quan Thừa tướng? Hôm nay may gặp tôi đây, chứ nếu gặp con quan Thừa tướng thiệt thì biết liệu sao?

Lệ Minh Đường nói:

- Việc cưới vợ này là do quan Thừa tướng lập kế cưỡng bức em, nếu không thuận theo cũng không được, nên em đã dự định về đây sẽ thú thật cùng tiểu thơ rồi năn nỉ xin người giữ bí mật cho, để rồi khi gặp Hoàng Phủ Công tử, em nhượng cho tiểu thơ làm chánh thất, còn em sẽ làm thứ thế, cùng nhau thờ chung một người quân tử. Chị thử nghĩ em cư xử như vậy, làm gì người lại không thương tình mà bảo bọc cho.

Tố Hoa nghe nói than dài:

- Chẳng biết kiếp trước Hoàng Phủ Công tử khéo tu cách nào mà ngày nay lại đặng một người vợ hiền đức đến thế.

Lệ Minh Đường nói:

- Đó chẳng qua là cái bổn phận của người đàn bà, cần gì chị phải khen quá lời như vậy? Khi em dứt áo ra đi đã tiến cử chị kết duyên cùng Lưu Khuê Bích, nghĩ cũng điều hay, sao chị lại giấu dao theo hành thích rồi nhảy xuống sông, quyết chôn vùi một kiếp hồng nhan là ý chi vậy?

Tố Hoa bèn thuật lại nỗi lòng cho Lệ Minh Đường nghe. Từ khi Hoàng Phủ Thiếu Hoa đến thi bắn, nàng nằm chiêm bao gặp Hoàng Phủ Công tử rồi cùng nhau thề non hẹn biển. Nàng biết rõ tấm lòng Mạnh Lệ Quân rất đại độ, thế nào sao này cũng được theo bồi giá, nên nàng mới quyết tình thủ tiết.

Thuật xong câu chuyện, Tố Hoa lại nói:

- Tôi cũng ngỡ Mạnh Tiểu thơ là người đại độ, ngờ đâu tiểu thơ sắp ra đi lại lập kế cử tôi, thân mẫu tôi lại tham cầu phú quí, theo ép tôi thay thế tiểu thơ về với họ Lưu, nên tôi mới giấu dao theo hành thích, một là quyết giữ trọn lời thề cùng Hoàng Phủ Công tử, hai là báo thù cho tiểu thơ, chẳng dè câu chuyện lại không thành, tôi đành phải gieo mình theo dòng nước, may nhờ Cảnh Phu nhơn cứu khỏi và nhận làm nghĩa nữ. Rồi nay trời xui đất khiến lại gặp tiểu thơ đây, thật quá bất ngờ vậy.

Lệ Minh Đường lại vặn hỏi:

- Chị bảo chị quyết giữ lời thệ ước với Hoàng Phủ Công tử trong giấc mộng, sao nay chị lại gieo cầu bói hôn làm chi?

Tố Hoa nói:

- Việc này do vợ chồng Lương Thừa tướng ép tôi, lúc ấy tôi đã định liều mình tự tử, xảy thấy Nguyệt lão Tiên ông đến báo mộng và ngâm cho tôi nghe một bài thơ ý nói sau này thế nào cũng được cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa hội ngộ; chẳng dè khi lên huê lầu tôi tìm kiếm khắp nơi không thấy hình dáng Thiếu Hoa đâu cả, nên lúc xuống lầu tôi toan bề quyên sinh nữa, kế thấy bọn nữ tỳ đem sính lễ vào, tôi xem qua và nhận biết là bảo vật của tiểu thơ, nên tôi đoán chắc tiểu thơ cải dạng nam trang rồi vào thi đỗ Trạng nguyên chớ chẳng phải người xa lạ. Tuy vậy, tôi cũng còn nghi ngờ, vì biết đâu chừng di vật của tiểu thơ lọt vào tay người khác cũng nên, nên tôi mới chuẩn bị vật này đây.

Nói rồi. Tố Hoa vạch dưới chiếu, lấy ra một lưỡi dao sáng ngời đưa cho Lệ Minh Đường xem.

Lời Bình:

- Chỉ vì muốn minh oan cho nhà chồng, Mạnh Lệ Quân đành ra thân lưu lạc, ngày nay cha con được trùng phùng, thế mà nàng không dám nhìn mặt thì còn gì đau xót cho bằng? Nhưng người ta không thấy nét đau xót lộ trên nét mặt nàng thì quả nàng là con người gan dạ.

Kẻ sâu sắc như vậy mới có thể làm được những việc phi thường. Cảm thương cho Mạnh Sĩ Nguyên vì trông thấy người mà chạnh nhớ đến con mình, lòng đau như cắt, trong lúc mọi người vui say thì ông phải bỏ về vì không thể chịu nổi sự nhớ thương đến cùng tột. Than ôi! Lòng cha mẹ thương con không còn biết lấy gì ví được!

- Tô Yến Tuyết đã từng đứng trước một vị tân lang là Lưu Khuê Bích mà nàng không biết hổ thẹn là gì, nàng nhìn thẳng vào mặt đối phương buông lời mắng nhiếc rồi rút dao hành thích, đến nay nàng cũng đứng trước một vị tân lang là Lệ Minh Đường, nàng e lệ đến đỏ cả mặt. Cho hay tâm lý của đàn bà hễ họ không thích ai thì họ an nhiên tự tại không chút gì e lệ cả, trái lại khi họ thương ai hay mến phục ai thì thái độ họ e lệ vô cùng. Trong trường hợp này, tuy quan Trạng Lệ Minh Đường đối với nàng không phải là người tri kỷ, song ít ra Lệ Minh Đường cũng là người đáng để cho nàng kính phục.

Hồi Thứ Ba Mươi

Cố Hoàng Nghiệp đứng ra mai mối,

Lưu Yến Ngọc quyết chí từ hôn.

Lệ Minh Đường nói:

- Chị đã bằng lòng kết hôn, sao lại giấu dao bén làm gì? Hay là chị tính hành thích em nữa chăng?

Tố Hoa cười đáp:

- Không đâu! Chỉ vì tôi sợ không phải tiểu thơ mà là một chàng thư sinh nào khác, trong giờ phút hiệp cẩn tôi sẽ dùng con dao này quyên sinh vậy. Nhưng hôm nay ông chồng tôi đã là tiểu thơ rồi thì hay biết bao nhiêu, vì từ nay về sau khỏi lo Thừa tướng gả tôi cho ai nữa. Đó quả là phước ngộ trùng lai cho hai ta, vậy hai ta hãy ẩn nhẫn qua ngày để chờ đợi Hoàng Phủ Công tử.

Lệ Minh Đường nói:

- Cũng vì em đây vô duyên bạc phước nên khiến cho giai kỳ của chị cũng phải dang dở. Vậy nếu sau này gặp được Hoàng Phủ Công tử rồi, em xin nhường cho hai chị vai trò chánh thất đó.

Tố Hoa lắc đầu đáp:

- Mẹ con tôi thọ ơn nhà tiểu thơ rất nặng, tưởng không thể nào đền đáp đặng, vậy nay tôi chỉ mong được an phận thứ phòng là toại nguyện lắm rồi.

Dứt lời, hai người nhìn nhau cười xòa, đoạn Lệ Minh Đường ẵm Tố Hoa vào lòng, cất tiếng khen:

- Ôi! Cái nhan sắc của chị sao mà mặn mà đến thế. Chính em đây mà trông thấy cũng phải xiêu lòng thay.

Tố Hoa ngước mặt nhìn Lệ Minh Đường, cười và hỏi:

- Ô hay! Sao tiểu thơ lại nói éo le như vậy?

Lệ Minh Đường cười mơn trớn, đáp:

- Hai chúng mình hôm nay đã nghiễm nhiên là vợ chồng rồi thì phải thương yêu nhau chớ!

Tố Hoa nói trong tiếng cười:

- Tôi nghĩ tức cười cho tôi quá, vì đã hai lần động phòng hoa chúc mà vẫn chưa có chi hết.

Lệ Minh Đường nói bằng giọng tự đắc:

- Tài mạo của em quán chúng như vầy mà may được chị kết duyên cùng em, thế nào đám phụ nữ ở đây cũng ghen thầm chị, chớ chẳng phải không đâu!

Tố Hoa giơ ngón tay xỉa vào mặt Lệ Minh Đường, nói:

- Ôi! Quan Trạng chớ lắm lời khoe khoang, quan Trạng có biết trong hoàn cảnh này quan là người vô dụng không? Nếu tôi đây là con Thừa tướng thiệt thì đêm nay gặp phải ông chồng vô dụng thế này, chắc sáng mai sẽ xảy ra nhiều chuyện buồn cười ngộ nghĩnh lắm!

Tố Hoa nhìn đi nhìn lại Lệ Minh Đường một hồi rồi nói:

- Ngày nay trông tiểu thơ có phần mỹ lệ hơn trước nhiều.

Nói rồi, vói tay ôm Lệ Minh Đường, vừa hôn vừa nói:

- Cái dung nhan của tiểu thơ thật khiến cho người ta đổ quán xiêu đình chớ chẳng chơi.

Nói xong, hai người lặng lẽ cởi áo ngoài ra ngã mình xuống chiếu, ôm choàng nhau an giấc, cái tình âu yếm, vẻ mặn nồng xem còn vui thú hơn vợ chồng thiệt nữa là khác.

Sáng sớm hôm sau, hai người thức dậy, sau khi súc miệng rửa mặt xong, Lệ Minh Đường bèn lấy lượt chải đầu cho Tố Hoa, chẳng dè lúc ấy có con nữ tỳ trông thấy, vội vã chạy xuống nói với vợ chồng Lương Giám:

- Tôi thấy quan Trạng nguyên ở trên lầu đang chải tóc cho tiểu thơ.

Lương Giám nghe nói lấy làm hài lòng, ngồi rung đùi nói với phu nhơn:

- Tôi bảo có sai đâu. Tôi biết thế nào vợ chồng nó cũng tương đắc mà.

Cảnh Phu nhơn gật đầu cười sung sướng:

- Ừ, vợ chồng nó mà được đắc tình với nhau như vậy thì hai ta mới vui lòng chớ.

Giây phút sau, bỗng thấy vợ chồng Lệ Minh Đường từ trên lầu dắt nhau xuống lạy tạ. Vợ chồng Lương Giám trông thấy con rể xứng đôi vừa lứa, dung nhan đều đẹp đẽ cả hai thì lòng như hoa nở. Từ đó, vợ chồng Lệ Minh Đường ở luôn tại phủ, cùng nhau lo phụng dưỡng Lương Giám cùng Cảnh Phủ nhơn.

Khi Lệ Minh Đường lạy xong bước ra ngoài, xảy gặp Vinh Phát. Vinh Phát nhìn chòng chọc Lệ Minh Đường hồi lâu rồi kề tai hỏi nhỏ:

- Thế nào? Sự thể có ổn không? Đêm nay tôi lo cho tiểu thơ quá. Chỉ sợ Lương Tiểu thơ bất bình thì nguy.

Lệ Minh Đường liền kề tai nói nhỏ cho hắn biết Lương Tiểu thơ chính là Tô Yến Tuyết, và căn dặn:

- Tuy biết vậy nhưng khi gặp mặt mi cứ giả vờ không quen biết, kẻo người ta biết được thi nguy đấy, nghe chưa?

Vinh Phát nghe nói Lương Tiểu thơ lại là Tô Yến Tuyết thì mừng quýnh, nói:

- Nếu vậy thì hay quá. Quả thật là trời xui đất khiến, đến xứ lạ gặp người quen thì còn gì sung sướng cho bằng.

Hai thầy trò đang chuyện vãn, xảy thấy gia nhơn đem thiệp đến và thưa:

- Có các quan tân khoa đến chúc mừng.

Lệ Minh Đường nghe nói vội vã ra nghinh tiếp vào. Các quan tân khoa lần lượt chúc mừng rồi cùng nhau đàm đạo giây lát mới kiếu từ ra về.

Sau đó vài hôm, Ngô Đạo Am được bổ đi nhận chức tri huyện Giang Lăng, lúc ấy bao nhiêu giấy tờ văn bằng, bộ trát đều do Lệ Minh Đường lo lắng cho cả, Ngô Đạo Am chỉ việc về quê nhà lo thu xếp đồ đạc và đem vợ con đi trấn nhậm mà thôi.

Khi Ngô Đạo Am về, Lệ Minh Đường có gởi một bức thư thăm vợ chồng Khương Nhược Sơn và xin thêm tiền đặng trả khoản tiền thiếu cho Du Trí Văn. Còn phần vợ chồng Khương Nhược Sơn thì phải đợi xem triều đình bổ làm chức chi rồi mới về rước đến kinh chung hưởng phú quí. Lệ Minh Đường còn gởi về đôi vòng ngọc và một đôi hoa vàng của vua Thành Tôn ban, đặng tặng cho Nguyên Lãng và cầu chúc cho hắn sau này học hành mau tiến bộ.

Nhờ có Lệ Minh Đường thi đỗ Trạng nguyên nên Ngô Đạo Am cũng được các quan lớn nhỏ trong triều kính nể; còn Lệ Minh Đường ở trong triều, bất kỳ việc lớn hay nhỏ cũng đều lấy lời ngay thẳng góp ý và can gián, cho nên nền chính trị trong nước mỗi ngày một thêm hoàn hảo.

Vua Thành Tôn thấy Lệ Minh Đường thông minh cương trực nên hết lòng trọng đãi. Tuy vậy, Lệ Minh Đường không lấy thế làm kiêu ngạo. Đối với các quan triều thần, hễ thấy ai có lỗi dù nhỏ cũng hết sức đùm bọc chở che cho nên ai nấy đều mến phục.

Bây giờ xin nói về Cố Hoằng Nghiệp tức là cậu ruột của Lưu Khuê Bích, có một người chị gái gả cho một người tại xứ kia tên Thôi Thụ Mẫn, nguyên chân Tấn sĩ xuất thân, làm quan đến chức Bố chánh thì qua đời, chỉ sanh được hai người con trai là Thôi Phàn Long và Thôi Phàng Phụng. Thôi Phàn Long nguyên nhị giáp Tấn sĩ xuất thân, tuổi đã ba mươi, năm phụ thân chết thì xin cáo quan về nuôi dưỡng mẹ già, bây giờ đã hết hạn kỳ nên phải về kinh lãnh chức Tri huyện. Còn Thôi Phàn Phụng tuổi mới mười tám, tướng mạo khôi ngô, làu thông kinh sử, lại thêm tánh tình thuần hậu, biết rõ đạo lý khiêm cung. Năm Phàn Phụng lên mười tám tuổi đã cưới con gái họ Trương làm vợ, chẳng dè cách vài năm sau thì Trương thị tạ thế, vì vậy hiện Thôi Phàn Phụng đang chọn gái lành đặng kết hôn.

Ngày kia, Cố Hoằng Nghiệp mời mẹ con Thôi Phàn Phụng đến chơi, xảy gặp Cố Phu nhơn và Lưu Yến Ngọc cũng có đến thăm Cố Hoằng Nghiệp (nguyên lâu nay Cố Phu nhơn ghét Lưu Yến Ngọc, nhưng từ khi Lưu Khuê Bích về kinh rồi, ở nhà chỉ có một mình Lưu Yến Ngọc. Nàng lại hết lòng phụng dưỡng Cố Phu nhơn, nên dần dần bà thương yêu Lưu Yến Ngọc, mới dắt nàng đi thăm Cố Hoằng Nghiệp đó).

Năm ấy, Lưu Yến Ngọc xinh lịch hơn trước nhiều, nên Thôi Phàn Phụng vừa trông thấy đã mê mẩn tâm thần, chàng nghĩ thầm:

"Ôi chao! Ta mới cách biệt đâu vài năm nay, không ngờ nhan sắc của nàng lại sắc sảo mặn mà đến thế! Thôi để ta thưa cùng thân mẫu ta, xin cưới nàng thì hay lắm".

Rồi Thôi Phàn Phụng cứ lén liếc nhìn trộm Lưu Yến Ngọc hoài, khiến Lưu Yến Ngọc vô cùng ái ngại, nàng đoán biết Thôi Phàn Phụng có ý chẳng lành nên nàng nghĩ thầm:

"Ta đã trót thề nguyền với Hoàng Phủ Công tử rồi, vậy bây giờ đây dù ai có tài mạo đến đâu, nhất định không khi nào chịu thất tiết, vậy ta cần phải lánh xa gã này mới xong".

Nghĩ đoạn, nàng vội vã đi vào phòng trong đàm đạo cùng mấy chị em bạn gái bên họ Cố.

Thôi Phàn Phụng thấy nàng đi rồi, bèn tố trần ý muốn của mình cho thân mẫu biết. Thân mẫu của chàng nghe nói cũng đẹp lòng, lập tức cậy Cố Hoằng Nghiệp giúp giùm.

Cố Hoằng Nghiệp sốt sắng nói:

- Nếu cháu nó đã muốn như vậy thì để tôi làm mai cho.

Thôi Phàn Phụng muốn tỏ ra mình kén vợ một cách chu đáo nên bước tới thưa:

- Xin cậu chờ đến bữa cơm cho tôi xem mặt nàng lại một lần nữa đã.

Cố Hoằng Nghiệp nói:

- Việc ấy có khó gì, để ta bảo nó ra cho cháu xem.

Nói rồi dắt hai mẹ con Thôi Phàn Phụng lên tiếng nói với Cố Phu nhơn. Sau khi an tọa, mẹ Thôi Phàn Phụng qua phòng Cố Phu nhơn, nói:

- Tôi mới cách biệt vài năm mà hôm nay trông con Lưu Yến Ngọc nó đã lớn và nhan sắc xinh đẹp quá, thật đáng mừng.

Thôi Phàn Phụng ngồi một bên thấy mẹ mình đã mở hởi rồi, trong lòng hồi hộp liền đứng dậy đi lảng chỗ khác, nhưng cố lóng tai nghe kết quả, còn Cố Phu nhơn thấy mẹ của Phàn Phụng nhắc nhở Lưu Yến Ngọc nên sai nữ tỳ vào kêu Lưu Yến Ngọc ra chào.

Lưu Yến Ngọc biết ý nên do dự không muốn ra, nữ tỳ không biết nói sao, phải ra thưa lại với Cố Phu nhơn:

- Nhị tiểu thơ hổ thẹn không chịu ra.

Cố Phu nhơn nổi giận nói:

- Con bé này lạ thật. Ở đây toàn là người nhà cả, việc gì lại phải hổ thẹn? Chúng bay hãy vào bảo nó ra đây cho mau.

Nữ tỳ vâng lịnh chạy vào nói lại với Lưu Yến Ngọc:

- Tiểu thơ không ra khiến phu nhơn giận lắm, buộc tiểu thơ phải ra ngay lập tức.

Lưu Yến Ngọc cực chẳng đã phải bước ra chào rồi đứng hầu một bên. Mẹ của Thôi Phàn Phụng lên tiếng hỏi, nàng trả lời ít câu rồi cáo từ lui vào trong.

Sau đó Thôi Phàn Phụng theo tỉ tê nài mẹ thế nào cũng hết lòng lo lắng cưới cho kỳ được Lưu Yến Ngọc.

Cơm nước xong, mẹ Thôi Phàn Phụng nói với Cố Phu nhơn:

- Nay mai đây trưởng tử tôi phải về kinh nhậm chức Tri huyện, ở nhà chỉ còn một mình Thôi Phàn Phụng mà thôi, hắn lại chưa đính hôn được nơi nào, tôi lo cho tuổi tác tôi đã già mà trong nhà lại thiếu người trông nom. Nay tôi thấy cháu Lưu Yến Ngọc đây cũng xứng đôi vừa lứa với thứ tử tôi, nên muốn kết tình thân ái cho thêm mật thiết, chẳng hay hiền muội nghĩ thế nào?

Cố Hoằng Nghiệp xen vào nói:

- Nếu Lưu Yến Ngọc mà kết duyên cùng Thôi Phàn Phụng thì thật là trai tài gái sắc, loan phụng hòa minh, xứng đôi vừa lứa vô cùng. Việc này nếu hai nhà đã bằng lòng nhau thì tôi xin đứng ra làm mai cho.

Cố Phu nhơn nói:

- Hiền tỷ và hiền đệ nghĩ như vậy thì hay lắm, ngặt vì con Yến Ngọc nói không phải là con của tôi sanh ra, vậy muốn cho được việc, hiền đệ hãy viết một phong thư rồi hai chị em tôi cũng viết mỗi người một phong thư sai người đem đi; trong thư phải tả rõ tài mạo của Thôi Phàn Phụng, làm gì Quốc trượng cũng bằng lòng.

Mấy người bàn luận xong xuôi, lập tức viết thư sai người đi ngay, Thôi Phàn Phụng lòng như nở hoa. Lúc ấy có con nữ tỳ nghe được sự việc, liền chạy đi mách rõ đầu đuôi cho Lưu Yến Ngọc hay.

Lưu Yến Ngọc nghe qua như sét đánh bên tai, nàng cảm thấy choáng váng cả mặt mày, ruột gan rối như tơ vò, hồi lâu mới trấn tĩnh tinh thần được, nàng nghĩ thầm:

"Thôi rồi! Việc này làm gì thân phụ ta chẳng bằng lòng! Nhưng dù Thôi Phàn Phụng kia tài mạo có tuyệt vời đến đâu đi nữa ta cũng không khi nào chịu ưng, nguyện suốt đời giữ lời thề ước cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa; còn nếu song thân ta có cưỡng bức lắm thì ta quyết mượn dòng nước gởi thân như Mạnh Lệ Quân vậy, cho tròn danh tiết".

Lưu Yến Ngọc càng nghĩ càng thêm uất ức, nàng ước gì có cánh bay thẳng về nhà để bàn mưu kế cùng Giang Tam Tẩu, nhưng Cố Phu nhơn cứ dần dà ở chơi mãi đến bốn ngày sau mới chịu đem Lưu Yến Ngọc về, mấy ngày qua, nàng không ăn ngủ được, khiến gầy ốm đi không ít.

Khi về đến nơi, Lưu Yến Ngọc chạy thẳng lên Hiển Vân các bảo con Phi Diên đi chơi chỗ khác, rồi nói nhỏ với Giang Tam Tẩu:

- Mụ ôi! Tôi đã sắp đến ngày tận số rồi!

Giang Tam Tẩu nghe nàng nói thất kinh hỏi:

- Chẳng hay có việc chi mà tiểu thơ lại thốt lời bi quan đến thế?

Lưu Yến Ngọc liền kể rõ câu chuyện cho Giang Tam Tẩu nghe và nói:

- Tôi đoan chắc việc này thế nào thân phụ cũng bằng lòng, không biết mụ có mưu kế chi cứu tôi được chăng?

Giang Tam Tẩu ngồi bấm trán nghĩ thầm:

"Biết liệu mưu kế chi mà cứu tiểu thơ bây giờ? Vả chăng tánh tình tiểu thơ khí khái, nếu để cho công việc đổ bể ra thế nào nàng cũng quyên sinh. Thôi, bây giờ để ta dùng kế hoãn binh, tìm lời khuyên giải cho nàng yên tâm rồi ta sẽ lo liệu".

Nghĩ đoạn, Giang Tam Tẩu nói:

- Sao tiểu thơ lại cả quyết như vậy? Theo tôi thì chưa chắc Lưu Quốc trượng bằng lòng đâu.

Lưu Yến Ngọc nói:

- Tôi thiết tưởng đối với tài mạo Thôi Phàn Phụng thì thân phụ tôi mến lắm, hơn nữa việc này mà thành thì tình thân thiện mật thiết giữa hai nhà càng thêm gắn bó, lẽ nào thân phụ tôi lại chẳng nghe theo.

Giang Tam Tẩu thản nhiên nói:

- Cuộc lương duyên là do trời định, nào ai có muốn mà được, nhưng nói cho cùng, dù sao Quốc trượng có bằng lòng đi nữa, tôi cũng có kế hay để bảo toàn danh tiết tiểu thơ, xin tiểu thơ chớ lo.

Nghe nói, Lưu Yến Ngọc mừng rỡ:

- Tôi chỉ còn hy vọng ở sự tận tâm của mụ, bằng mụ không có kế hay để cứu tôi thì chắc tôi phải quyên sinh vậy!

Giang Tam Tẩu nói:

- Tiểu thơ cứ việc an tâm, lúc nào gặp việc khẩn cấp, tôi sẽ có kế hay để cứu tiểu thơ thoát vòng khổ não.

Nhắc lại việc Cố Hoằng Nghiệp sai người mang thư đến cho Lưu Tiệp, người ấy đi mãi đến đầu tháng hai năm sau mới đến Bắc Kinh. Lúc ấy nhằm lúc tướng Tiên phong Liên Đăng vào trào báo tin việc Lưu Khuê Bích bị vệ Dõng Đạt bắt. Lưu Tiệp đang khóc lóc xảy thấy tin nhà vội giở ra xem. Trong thư nói:

"Nay Lưu Yến Ngọc đã trưởng thành, có Thôi Phàn Phụng đến cầu hôn nên thỉnh cầu ý kiến..."

Lưu Tiệp nghĩ thầm:

"Thôi Phàn Phụng diện mạo khôi ngô, lại là dòng dõi thư hương, nay muốn kết duyên cùng Lưu Yến Ngọc thì quý hóa biết bao!"

Nghĩ đoạn, Lưu Tiệp không do dự gì cả, vội viết hai bức thư phúc đáp ngay. Một bức thư gởi cho Cố Hoằng Nghiệp, tỏ ý bằng lòng gả Lưu Yến Ngọc cho Thôi Phàn Phụng; còn một bức gởi cho Cố Phu Nhơn, bảo hãy cho Lưu Yến Ngọc theo về nhà chồng.

Lưu Tiệp viết xong, liền trao hai bức thư cho tên gia nhơn ấy mang về. Gia nhơn lãnh mạng lên ngựa đi mãi đến tháng tư mới về đến Vân Nam. Hắn trao một bức thư cho Cố Hoằng Nghiệp, một bức cho Cố Phu nhơn.

Hôm ấy, Lưu Yến Ngọc đang trò chuyện với Cố Phu nhơn trong nhà, xảy thấy có nữ tỳ vào thưa:

- Người mang thư đi Bắc Kinh đã về và thấy có mang hồi thư của Quốc trượng về nữa.

Cố Phu nhơn nghe nói vội đứng dậy đi ra ngoài, Lưu Yến Ngọc nghĩ thầm:

"Bức thư này sẽ quyết định tánh mạng của ta hôm nay".

Nghĩ rồi, nàng lật đật bước theo, Cố Phu nhơn thấy vậy nhớ lại việc năm xưa liền lên tiếng mắng:

- Nghe đến việc nhơn duyên của mình thì sốt sắng đến thế, còn chị dâu mầy năm xưa lại dẫn ra hậu lầu làm cho người ta phải gieo ngọc trầm châu, thật đáng giận thay!

Lưu Yến Ngọc nghe nói hổ thẹn trăm bề, nàng đứng lại mặt mày đỏ như gấc, đợi Cố Phu nhơn ra ngoài khui thư xong mới dám lén ra sau tấm bình phong nghe lóng.

Phu nhơn vừa xem qua mấy câu đầu liền cười đắc chí, nói lẩm bẩm:

- "Ừ, thế mới phải chứ. Đã là chỗ thâm tình mà nay còn cầu thân thêm nữa, thì tài nào phu quân ta lại không bằng lòng".

Lưu Yến Ngọc nghe nói hồn xiêu phách lạc, chạy thẳng vào nhà trong để bàn kế với Giang Tam Tẩu. Ở ngoài này, Cố Phu nhơn xem đến đoạn dưới mới hay Lưu Khuê Bích bị giặc bắt thì thất kinh hồn vía, xây xẩm mặt mày, phong thư trên tay rơi xuống đất lúc nào không hay, bà ta chết giấc.

Bọn nữ tỳ kinh hãi, vội chạy báo cho Lưu Yến Ngọc hay, Lưu Yến Ngọc đang bàn bạc cùng Giang Tam Tẩu, nghe nói liền chạy ra cùng bọn nữ tỳ đỡ Cố Phu nhơn lên giường, rồi lấy bức thư xem, mới hay Lưu Khuê Bích bị giặc bắt, nàng cũng động lòng thương xót.

Giây lâu, Cố Phu nhơn tỉnh dậy, bà ta khóc rống lên và nói trong tiếng nức nở:

- Khuê Bích con ôi! Con bị giặc bắt thì tánh mạng khó toàn, mẹ hay tin này lòng đau như cắt, không biết họa đâu mà đến một cách thảm thương như vậy con ôi.

Vì quá thương xót, bà ta lăn lộn lên giường than khóc nức nở, khiến ai thấy cũng phải động lòng.

Giang Tam Tẩu nói với Lưu Yến Ngọc:

- Nay phu nhơn đang thương tiếc công tử, quả là dịp may, tiểu thơ hãy ráng mà khuyên nhủ người, họa may người có thương tình không nỡ để cho tiểu thơ xuất giá chăng?

Lưu Yến Ngọc thở dài đáp:

- Lâu nay tôi đã hết lòng hiếu thuận chiều chuộng đủ điều, thế mà phu nhơn vẫn cứ phân biệt thân sơ, tôi sợ phương pháp ấy không kết quả gì.

Giang Tam Tẩu nói:

- Tiểu thơ chớ lo, nếu có việc khẩn cấp tôi sẽ có kế hay để cứu tiểu thơ thoát vòng khổ não ấy ngay.

Từ đó Lưu Yến Ngọc hết lòng phụng dưỡng Cố Phu nhơn, không một lúc nào dám rời xa người nửa biết. Mấy hôm sau, Cố Phu nhơn hỏi Lưu Yến Ngọc:

- Thân phụ con đã thuận tình gả con cho Thôi Phàn Phụng rồi, song trong lúc này lòng dạ ta đang rối rắm nên không kịp sắm sửa tư trang, chỉ đem các của hồi môn của họ Mạnh khi trước cho con, con hãy bằng lòng đi rồi sau này sẽ liệu định thêm.

Lưu Yến Ngọc chắp tay thưa:

- Hiện nay vợ chồng trưởng huynh con bận đi trấn thủ phương xa, còn nhị huynh con lại bị giặc bắt, nếu nay con ra lấy chồng thì lấy ai hầu hạ mẫu thân, vậy xin mẫu thân hãy hoãn lại, đợi khi nào chị dâu trưởng con về rồi, chừng ấy con mới an tâm xuất giá.

Cố Phu nhơn đáp:

- Con đã có lòng hiếu thuận như vậy thì mẹ nỡ nào ép con.

Lưu Yến Ngọc nghe nói mừng thầm, từ đó lại hết lòng hiếu kính hơn nữa.

Cách ba hôm sau, cả nhà dùng cơm sáng vừa xong, xảy thấy nữ tỳ vào báo:

- Có Cố Tiên sinh đến.

Cố Phu nhơn bảo nữ tỳ hãy mời Cố Tiên sinh vào, Lưu Yến Ngọc vội vã lui ra nhà ngoài.

Cố Hoằng Nghịêp vào trà nước xong xuôi, Cố Phu nhơ trỗi giọng buồn buồn nói:

- Tiện nhi ở kinh quá dại dột nên xin đi đánh giặc, rủi ro bị giặc bắt, khiến tôi đau xót lo rầu không kể xiết.

Lời Bình:

- Thời xưa, đã là phụ nữ thì không được bước ra khỏi cửa phòng, tất nhiên họ không có quyền tham gia mảy may gì công việc quốc chánh cả. Nhưng có phải là phái nữ lưu họ bất tài đâu! Xét cho kỹ, ta thấy họ còn tỏ ra xuất chúng hơn cả nam phái nữa là khác. Ở đây, tác giả xây dựng nhân vật Mạnh Lệ Quân là muốn cho ta thấy nữ lưu còn thông minh tài trí không ai bì kịp. Nhưng vì xã hội phong kiến không cho phép nữ giới ra gánh vác giang sơn, nàng đành phải cải trang ra tranh tài với bậc mày râu nam tử để cứu lấy nhà chồng và thực hiện mộng tình dang dở.

Đành rằng bước đường lập công danh cũng một phần nào do sự rủi may, nhưng phải có thừa tài năng mới có thể liên trúng tam nguyên, chiếm bảng Trạng nguyên quán quân trong muôn ngàn sĩ tử.

Với tài ấy cũng chưa đủ, cần phải có chí cương quyết, lòng nhẫn nại, đức khiêm tốn và một lòng vì giang sơn xã tắc mới được vua yêu mến và các quan triều thần kính vì như thế!

Xét cho cùng, Mạnh Lệ Quân cải nam trang ra gánh vác giang sơn đề hạt và thu dụng anh tài để đánh tan xâm lăng, đem thái bình cho triều Nguyên, không phải thực chất nàng có lòng yêu nước thương nòi mà chỉ vì mối tình riêng giữa nàng với chàng Thiếu Hoa mà thôi.

Trong trường hợp này, tình nhà nợ nước gắn bó chặt chẽ với nhau, cho nên Mạnh Lệ Quân phải làm thế nào dẹp được giặc, cứu Hoàng Phủ Kính về, nhà Hoàng Phủ sum hiệp, bấy giờ nàng mới thực hiện được mối tình chung thủy bất diệt trong tâm tình của nàng.

Hồi Thứ Ba Mươi Mốt

Lưu Yến Ngọc vào chùa lánh nạn,

Cố Phu nhơn tra khảo gia nhơn.

Cố Hoằng Nghiệp khuyên giải:

- Tuy cháu có bị giặc bắt, song thế nào Quốc trượng cũng lập kế cứu về, cần gì phải thảm sầu ngày đêm như vậy?

Sau một hồi trò chuyện qua loa, Cố Hoằng Nghiệp nói:

- Cứ theo lời trong thư của Quốc trượng, việc hôn nhơn của hai trẻ đã xong, vậy hãy chọn ngày lành làm lễ cưới cho rồi.

Cố Phu nhơn đang rầu rĩ, nghe vậy có ý giận, gằn giọng nói:

- Nhà tôi đang bối rối như vầy, lòng dạ đâu mà vui việc hôn nhơn, hiền đệ quả có lòng tử tế với họ Thôi quá mà không nghĩ gì đến tôi cả.

Nói dứt lời, Cố Phu nhơn giậm chân vỗ chiếu la lớn:

- Bộ các người định giết tôi phải không?

Thái độ của Cố Phu nhơn làm Cố Hoằng Nghiệp sượng sùng, hạ giọng năn nỉ:

- Nếu hiền tỉ chẳng bằng lòng thì thôi, có việc chi đâu mà sanh ra giận dữ.

Dứt lời vội cáo từ lui ra, cắp dù đi về nhà một nước.

Sau đó độ năm sáu ngày, Cố Phu nhơn mạnh giỏi lại như thường. Bỗng có mẹ Thôi Phàn Phụng đến thăm.

Khi chủ khách chào hỏi, trà nước xong, chuyện vãn thăm hỏi hồi lâu, mẹ Thôi Phàn Phụng nói:

- Độ vài hôm nữa, hai vợ chồng trưởng tử tôi phải đem nhau đến kinh, còn thứ tử tôi nó cũng muốn theo đến kinh để lo quyên giáng dự kỳ ứng thí sang năm khiến tôi đây phải chịu một mình hiu quạnh, nếu cưới được tiểu thơ sớm thì hay biết chừng nào.

Cố Phu nhơn nói:

- Hôm trước, hiền đệ đã có đến nói việc ấy với tôi, nhưng vì lúc đó tôi vô cùng bối rối không thể nào yên tâm lo liệu được. Vậy hôm nay tôi đã rảnh trí, nếu muốn tính thì tính đi cũng tiện.

Mẹ Thôi Phàn Phụng nghe nói, mừng rỡ vô cùng. Còn Lưu Yến Ngọc lắng nghe được việc ấy, nàng bủn rủn tay chân, sảng lạc tâm thần, vội vàng đi tìm Giang Tam Tẩu thuật lại việc ấy cho bà nghe và nói:

- Mụ hãy mau mau lập kế cứu tôi, kẻo phải quyên sinh bây giờ.

Giang Tam Tẩu nói:

- Tiểu thơ hãy an tâm, thế nào tôi cũng có kế cứu tiểu thơ, không sao đâu mà sợ.

Lưu Yến Ngọc nghe vậy cũng an tâm phần nào. Lúc ấy mẹ Thôi Phàn Phụng ở nhà ngoài đàm đạo một hồi rồi từ giã Cố Phu nhơn ra về.

Qua ngày thứ ba đã thấy Cố Hoằng Nghiệp đến nói với Cố Phu nhơn:

- Họ Thôi định đến ngày mười tám tháng tư này nạp sính lễ rồi đến ngày hai mươi lăm cũng trong tháng tư này xin làm lễ cưới.

Cố Phu nhơn nhận lời, Cố Hoằng Nghiệp từ giã lui về, Lưu Yến Ngọc vội vã chạy nói cho Giang Tam Tẩu hay và hỏi:

- Chỉ còn năm ngày nữa, người ta đã nạp đồ sính lễ, chẳng hay mụ tính lẽ nào?

Giang Tam Tẩu đáp:

- Tiểu thơ hãy bình tĩnh tôi mới có thể nghĩ ra kế được chớ? Nếu tiểu thơ rộn lên như thế thì tôi rối ruột, làm sao nghĩ cho ra.

Lưu Yến Ngọc thở dài nói:

- Thôi, tôi biết rồi! Mụ dùng cái kế "Hoãn binh" đấy chứ gì? Thà để cho tôi liều mình một thác cho xong, lại phải tìm cách giữ tôi lại làm chi cho ô nhục danh tiết.

Giang Tam Tẩu nghe nàng nói quyết như vậy, sợ nàng tự vận nên vội nói:

- Tôi đã liệu một kế rất hay, nhưng chẳng biết tiểu thơ chịu đựng được nỗi khổ cực ấy hay không?

Lưu Yến Ngọc hỏi phăng:

- Kế ấy thế nào mụ cứ nói thẳng ra xem sao!

Giang Tam Tẩu chậm rãi nói:

- Tôi có đứa em gái năm nay mười bảy tuổi gả cho họ Trương, chẳng dè về chằng bao lâu thì họ Trương qua đời. Em tôi nghĩ vì thân phận bọt bèo mong manh nên thí phát qui y tại chùa Vạn Duyên, lấy pháp danh là Phạm Như. Vị sư tại chùa ấy tên là Vạn Linh, năm nay đã ngoài bốn mươi tuổi. Từ đây đến đó độ chừng trên mười dặm đường, nên tôi muốn cùng tiểu thơ đến nương náu tại đó, chẳng hay tiểu thơ nghĩ sao?

Lưu Yến Ngọc lắc đầu:

- Kế ấy không tiện đâu, vì chùa chiền miếu võ là nơi thường có thiên hạ tới lui, ta không phải là kẻ tu hành mà đến đó, thế nào thiên hạ cũng sanh nghi, họ đồn lên phu nhơn hay đặng thì nguy hiểm lắm.

Giang Tam Tẩu nói:

- Tiểu thơ không rõ đấy chứ, thật ra chùa Vạn Duyên tuy là chốn Phật đài, song xưa nay bọn tu mi ít khi lai vãng, còn phái phụ nữ đến lễ bái cũng ít oi. Hơn nữa, chùa ấy rộng rãi, phòng the cũng nhiều. Tiểu thơ nên nghĩ lại, nếu bằng lòng, tôi xin bảo hộ tiểu thơ đi.

Lưu Yến Ngọc nói:

- Tôi quyết giữ tròn danh tiết, dù chông gai khổ cực đến đâu cũng chẳng sờn lòng.

Giang Tam Tẩu nói:

- Nếu vậy tiểu thơ hãy kíp cùng tôi ra đi, tôi chắc khi tiểu thơ đi rồi, phu nhơn sợ mang tiếng không dám tiết lộ ra đâu.

Lưu Yến Ngọc nói:

- Mụ nói cũng có lý lắm.

Dứt lời, Lưu Yến Ngọc kề miệng vào tai Giang Tam Tẩu nói nhỏ một hồi và dặn:

- Theo ý tôi thì tôi muốn mụ hãy lên trước chùa Vạn Duyên đển yến kiến cùng sư Vạn Linh trình bày mọi việc, nếu ông ta có lòng thương dung nạp, chừng ấy tôi mới an lòng ra đi.

Giang Tam Tẩu nói:

- Sư ông ấy vốn người tham của, nếu người nghe chúng ta đi lánh lạnh có đem theo tiền bạc nhiều thì thế nào cũng vui lòng cho ở, nếu tiểu thơ muốn hỏi trước thì để tôi sai con tôi nó đến đó xem thế nào.

Dứt lời, Giang Tam Tẩu vội vã đi xuống lầu nói rõ việc ấy cho Giang Tam Hỉ nghe và bảo:

- Nay Lưu Tiểu thơ đã quyết trốn lên chùa Vạn Duyên nương náu để chờ đợi Hoàng Phủ Công tử, vậy con hãy lên đó yết kiến cùng sư Vạn Linh nói rõ ý định, nếu người có bằng lòng thì hứa sẽ cúng cho chùa một số tiền to.

Giang Tấn Hỉ nói:

- Tiểu thơ đã có lòng trinh tiết như vậy, tất nhiên sẽ có hoàng thiên giúp đỡ, song con thừa hiểu lão sư Vạn Linh là một kẻ tham lam, nếu sau này tiểu thơ không đủ tiền bạc để nhét vào túi tham của ông a, chắc là bị bạc đãi đấy. Theo ý con thì đừng nên đến đó là hơn.

Giang Tam Tẩu nói:

- Ta đã khuyên tiểu thơ nhiều rồi, nhưng tiểu thơ đã quyết một lòng thủ tiết, sống thác chẳng sờn, vậy con cứ việc đi đi.

Giang Tấn Hỉ chấp tay vâng lịnh và nói:

- Thôi để sáng mai con sẽ lên đó xem sao.

Tuy nói vậy, nhưng công việc ràng buộc, Giang Tấn Hỉ không đi ngay được, thấm thoát đã đến ngày mười tám tháng tư, Cố Hoằng Nghiệp sai cháu là Cố Bản Nhơn đem đồ sính lễ qua nạp.

Cố Phu nhơn nhận lễ rồi cho gọi hết cả tôi tớ trong nhà ra thưởng. Hôm sau, Cố Phu nhơn lấy những vật hồi môn của Mạnh Lệ Quân khi trước làm đồ tư trang cho Lưu Yến Ngọc, khiến Lưu Yến Ngọc bấn lên, nàng hối thúc Giang Tam Tẩu, bà ta phải bảo con lên chùa hỏi thăm gấp.

Giang Tấn Hỉ vâng lời mẹ đi ngay lên chùa Vạn Duyên trong ngày hôm ấy. Đại sư Vạn Linh trông thấy vội hỏi:

- Ngươi đến đây có việc chi trong ra vẻ hấp tấp lắm vậy?

Giang Tấn Hỉ đáp:

- Tôi muốn đến đây tìm dì tôi có việc cần.

Nói rồi Tấn Hỉ đi thẳng vào chùa, vừa gặp Phạm Như, Tấn Hỉ nói:

- Cháu có việc vô cùng cẩn mật muốn tỏ với dì.

Phạm Như hỏi:

- Việc gì, cháu cứ nói thẳng ra đi.

Giang Tấn Hỉ nói:

- Nguyên vì trước kia Cố Phu nhơn tôi đã hứa gả Lưu Tiểu thơ cho Hoàng Phủ Công tử rồi, nay lại ép gả cho họ Thôi nên tiểu thơ quyết tâm thủ tiết không chịu cải giá, đã ba phen nàng toan liều mình tự tử, nhưng thân mẫu tôi cản ngăn, lấy lời khuyên giải, hứa cùng nàng lên chùa này xin nhận việc khâu vá trong chùa náu nương đặng thủ tiết chờ đợi Hoàng Phủ Công tử, nếu đại sư chùa này nhận lời thì Lưu Tiểu thơ sẽ hậu tạ.

Phạm Như nghe qua lắc đầu than:

- Chùa này rất ít người đến lễ bái, còn Đại sư Vạn Linh lại là người tham của cải, nếu tiểu thơ không đủ tiền bạc để làm thỏa mãn túi tham của lão tăng này thì không thể nào ở yên được. Vậy ta khuyên nên đến chốn khác thì hơn, đừng vào nơi địa ngục này mà mang hại.

Giang Tấn Hỉ nói:

- Chính tôi cũng thừa hiểu Đại sư Vạn Linh, người tham của nên đã mấy phen tôi trình bày lợi hại cùng thân mẫu tôi và tiểu thơ, nhưng ngặt vì không tìm được chốn nào để nương thân, hơn nữa tiểu thơ đã quyết một lòng thủ tiết, dù phải cực khổ thế nào cũng cam chịu chứ không hề hối hận. Vậy dì hãy làm ơn đến nói với đại sư có rộng lòng dung nạp cho chăng.

Phạm Như nói:

- Đã có lợi tất nhiên đại sư nhận ngay, chắc chắn không có gì trở ngại đâu. Thôi, cháu hãy ngồi đây để dì lên mời đại sư xuống cũng được.

Dứt lời, Phạm Như chạy đi mời đại sư đến, Giang Tấn Hỉ đứng dậy thi lễ rồi tỏ sự tình cho đại sư nghe.

Vạn Linh nói:

- Lưu Tiểu thơ có lòng trinh tiết như vậy thật đáng phục. Hiện nay trong chùa này còn hai căn phòng trống, ngặt vì giường trần không có chiếu, lại thêm chốn chùa chiền khổ hạnh, chỉ hẩm hút muối dưa qua ngày, nếu tiểu thơ muốn đến đây, cần nhứt phải mang tiền gạo theo cho thật nhiều mới có thể sống được.

Giang Tấn Hỉ nói:

- Tâm tánh của tiểu thơ tôi hiền lành, vóc người lại bé nhỏ, chắc sự ăn uống cũng không tốn kém là bao; còn nói về việc nữ công, người rất thông thạo, có thể giúp đỡ cho nhà chùa lắm.

Phạm Như xen vào nói:

- Chẳng hay lúc nào tiểu thơ đến đây, cần phải hẹn trước mới xong.

Giang Tấn Hỉ nói:

- Vào đêm nay, lối canh ba tiểu thơ sẽ đến, vậy xin vui lòng mở cửa cho người vào.

Đại sư Vạn Linh nói:

- Dầu đến canh nào cũng được, chúng tôi sẵn lòng thức chờ đợi tiếp rước tiểu thơ.

Giang Tấn Hỉ thấy Vạn Linh có lòng sốt sắng nên mừng rỡ vô cùng, vội vàng từ tạ ra về.

Vạn Linh lập tức bảo Phạm Như đi quét dọn hai căn phòng dư để cho Lưu Yến Ngọc đến ở.

Về đến nhà Giang Tấn Hỉ thuật rõ mọi việc cho Giang Tam Tẩu nghe. Giang Tam Tẩu vội đến phòng thông báo cho Lưu Yến Ngọc biết và bảo:

- Tiểu thơ hãy lo sắp đặt đồ tư trang đặng khởi hàng gấp trong đêm nay.

Lưu Yến Ngọc không có tiền bạc riêng tư chi cả, nàng chỉ được chút ít tiền do Cố Phu nhơn cho để mua kim chỉ, nàng tằng tiện dư lại vài lượng bạc, còn các đồ tư trang trị giá năm sáu trăm lượng mà thôi.

Chiều hôm ấy, Lưu Yến Ngọc gọi con Phi Diên đến bảo:

- Đêm nay ta cho mi đi ngủ trước, vì ta cảm thấy trong người ta mệt mỏi, ta cũng sẽ đi nghỉ bây giờ.

Phi Diên nghe bảo mừng rỡ, vội vào phòng riêng đóng cửa an giấc.

Lúc ấy Lưu Yến Ngọc chong đèn ngồi một mình suy nghĩ:

"Ta ra đi đây không biết đến bao giờ mới được gặp mặt phu nhơn. Vậy trước khi đi ta nên vào tìm cách khéo léo giã từ người mới phải đạo".

Nghĩ rồi, Lưu Yến Ngọc bảo Giang Tam Tẩu cầm đèn đưa mình đến phòng Cố Phu nhơn. Đến nơi, nàng trông thấy Cố Phu nhơn đang ngồi uống sâm trà. Cố Phu nhơn vừa thấy Yến Ngọc vội sớt cho nàng nửa chén, bảo:

- Con hãy ngồi xuống đây uống chút sâm trà cho ấm bụng.

Yến Ngọc ngồi ghé một bên Cố Phu nhơn, nốc cạn chén sâm, chuyện vãn thân mật một hồi rồi cáo từ trở lên lầu.

Nàng cùng Giang Tam Tẩu lấy đồ che khuất ngọn đèn ngồi chờ cho đến canh hai mới mang hành lý dắt nhau ra đi.

Xuống khỏi lầu đã gặp Giang Tấn Hỉ đứng chờ, hai người trao hai gói đồ cho Giang Tấn Hỉ mang rồi lấy xâu chìa khóa đi mở hết sáu từng cửa, cả ba lặng lẽ thoát ra ngoài.

Giang Tấn Hỉ nói:

- Để tôi đi dắt con ngựa cho thân mẫu và tiểu thơ đi cho mau.

Lưu Yến Ngọc gật đầu:

- Được, thế thì hay lắm, nhưng cần phải cẩn thận kẻo tên mã phu hay được thì nguy đấy.

Giang Tấn Hỉ vâng lời chạy đi ngay, chỉ một khắc sau hắn dắt con ngựa đến, có thắng đủ yên cương, Giang Tam Tẩu đỡ Lưu Yến Ngọc lên ngồi trước, còn bà ngồi sau, rồi buông cương cho ngựa chạy thong thả. Giang Tấn Hỉ mang gói đồ chạy bộ dẫn đường, nhắm Vạn Duyên thẳng tiến.

Đến nơi Giang Tấn Hỉ kềm ngựa cho hai người xuống rồi bước thẳng vào chùa gõ cửa khẽ gọi. Bấy giờ trong chùa vẫn còn thức chờ đợ. Các sư vội ra mở cửa và rước vào cho ở một gian phòng trống ở nhà sau. Phòng này tuy rộng rãi, nhưng chỉ có một cái giường không chiếu líp gì cả. Giang Tam Tẩu thấy vậy, nói:

- Ôi khổ thật! Thậm chí một chiếc chiếu cũng không có, biết làm sao nằm cho được?

Lưu Yến Ngọc thản nhiên đáp:

- Được rồi, để đến sáng mai ta sẽ mua.

Phạm Như nói:

- Trong phòng tôi còn hai chiếc chiếu cũ, để tôi mang vào đây dùng tạm.

Nói rồi vội chạy đi lấy chiếu, còn Giang Tấn Hỉ mang gói đồ vào để trên giường và nói:

- Bây giờ tôi phải về ngay mới được, nếu ở nhà có xảy việc gì quan hệ, tôi phải đến lập tức báo tin.

Nói rồi từ giã lui ra, tung mình lên ngựa ra roi phi nước đại.

Lưu Yến Ngọc cúi đầu vái chào các sư rồi lấy ra hai chục lượng bạc trao ra và nói:

- Tôi đến nương náu tại đây chắc là phiền lụy đến quí sư nhiều lắm. Vậy hai chục lượng bạc này xin biếu quí vị để tỏ tấm lòng thành, còn vài lượng đây xin nhờ quí sư sắm cho những đồ vật dụng cần thiết.

Các sư thấy bạc tiền nhiều, ai nấy đều hớn hở tiếp lấy và tỏ lời cảm ơn. Lưu Yến Ngọc lại trao cho Đại sư Vạn Linh một gói bạc nữa và lễ phép thưa:

- Tôi xin biếu riêng cho đại sư mười lượng bạc này để làm tiền lương thực cho hai tôi ở đây. Còn như trong chùa có cần đến việc nữ công, chúng tôi nguyện hết lòng giúp đỡ.

Đại sư Vạn Linh dung nạp Lưu Yến Ngọc, đoán chắc sẽ được bạc vàng nhiều lắm, nhưng bây giờ lại thấy chẳng được bao nhiêu, túi tham không được thỏa mãn, nên chỉ nhận lãnh một cách miễn cưỡng đó thôi.

Nói về Giang Tấn Hỉ phi ngựa về đến hoa viên, lén đem ngựa nhốt vào chuồng rồi về phòng khép cửa lên giường nằm im. Qua đến canh năm, bỗng con Phi Diên đau bụng giựt mình thức dậy trông thấy đèn tắt tối đen, hắn mò lần qua phòng Giang Tam Tẩu để tìm lửa thắp đèn, ngờ đâu khi qua đến nơi thì thấy đèn còn chong sáng mà người thì vắng teo.

Đứng ngơ ngác hồi lâu, con Phi Diên đoán chắc Giang Tam Tẩu sang chơi bên phòng Lưu Yến Ngọc nên vội qua đó tìm kiếm.

Đến nơi, hắn lấy làm lạ vì cửa phòng đã khép mà đèn thắp rất lu mờ. Hắn xô cửa bước vào, vặn đèn lên rồi đứng nhìn khắp gian phòng không trông thấy một bóng người. Càng hoảng hốt hơn nữa, con Phi Diên vội vã chạy đi báo cho Cố Phu nhơn hay. Hắn đến phòng Cố Phu nhơn vừa kêu vừa khóc.

Cố Phu nhơn đang ngủ nghe tiếng kêu khóc giựt mình thức dậy thất kinh nghĩ thầm:

"Việc gi mà con Phi Diên nó hoảng lên vậy? Ở đời cái họa không bao giờ đến một mình; con ta mới vừa bị bắt, lòng sầu chưa nguôi, không biết bây giờ lại xảy ra việc gì nữa đây!"

Cố Phu nhơn vùng dậy hỏi lớn:

- Việc gì mà mi khóc ầm lên, hỡi Phi Diên?

Phi Diên xô cửa bước vào bẩm:

- Bẩm phu nhơn, tiểu thơ và Giang Tam Tẩu đã đi đâu mất rồi! Tôi vừa thức dậy đến phòng của hai người thì thấy vắng tanh, nên vội báo tin cho phu nhơn rõ.

Nghe nói, Cố Phu nhơn lấy làm nghi ngờ, bà nói:

- Hay Giang Tam Tẩu có việc chi nên đi ra ngoài chăng? Nhưng còn tiểu thơ mi trong lúc đêm tối mà vắng nhà thì lạ thật.

Nói dứt lời, Cố Phu nhơn hối nữ tì đốt đèn đuốc lên đưa bà ta đến Hiển Vân các lập tức. Đến nơi, phu nhơn tìm kiếm khắp nơi thì quả thật không trông thấy một bóng người thấp thoáng. Bà vội vã vào phòng Lưu Yến Ngọc giở hộp nữ trang ra xem, nhưng vừa mở ra bà đã hoảng kinh la lên:

- Trời ơi! Con này đã theo ai mất rồi nên đồ nữ trang không còn một vật nào cả.

Rồi bà lục soát hết các rương thì thấy không còn một chiếc áo, Phu nhơn không còn nghi ngờ gì nữa, trong lòng lo sợ đến danh giá nhà mình nên thầm nghĩ:

"Việc này chắc chắn là do Giang Tam Tẩu đã dắt thằng gian phu nào đến báo hại con ta đây".

Phu nhơn vội xuống lầu bảo nữ tì gọi Giang Tấn Hỉ đến để hỏi tra, nhưng phu nhơn lại căn dặn:

- Chúng bay nên biết việc này vô cùng xấu xa, ta cấm không đứa nào được hở môi cho ai biết, nếu lậu ra thì ta quyết không dung tha chúng bay đâu.

Rồi Cố Phu nhơn quay lại hỏi con Phi Diên:

- Mi ở trên lầu này, lâu nay mi có thấy thằng nào đến đây không? Nếu có cứ việc khai thật, bằng gian giấu ta đánh chết!

Nói rồi bảo nữ tì đem roi đến, con Phi Diên run rẩy đáp:

- Bẩm Phu nhơn, thật tình lâu nay tôi không thấy một người đàn ông nào lên lầu này cả.

Cố Phu nhơn nghiến răng nhịp roi trên bàn bôm bốp, hét:

- Con này lớn gan dám gian giấu hả! Nếu không có trai đến đây thì cớ sao tiểu thơ lại trốn đi? Ta hỏi mi, tiểu thơ đi theo ai mới được chớ?

Con Phi Diên run rẩy đáp:

- Tôi chỉ thấy từ ngày phu nhơn dắt tiểu thơ qua nhà họ Cố về, không hiểu sao tiểu thơ cứ to nhỏ với Giang Tam Tẩu hoài. Nhiều lúc tiểu thơ thở dài rơi lệ và vừa rồi khi Quốc trượng gởi thư về bằng lòng gả tiểu thơ cho họ Thôi thì thấy sắc diện tiểu thơ kinh hãi vô cùng. Hồi hôm đây khi thắp đèn xong, tiểu thơ lại bảo tôi đi ngủ trước. Bẩm phu nhơn, sự việc đầu đuôi tôi chỉ biết thế thôi, còn việc tiểu thơ trốn đi thật tình tôi không rõ, mong phu nhơn thương tình tha thứ cho...

Cố Phu nhơn nghe nói, sắc mặt hầm hầm nói:

- Lạ thật! Ta đã sai đi kêu Giang Tấn Hỉ đến đây bảo, cớ sao đã nửa ngày mà hắn không đến?

Rồi bà hối nữ tỳ đi đòi Giang Tấn Hỉ đến gấp. Bọn nữ tì vâng lịnh rần rần chạy đến phòng Giang Tấn Hỉ thấy cửa phòng đóng kín, con nữ tỳ đứng ngoài kêu réo mà Giang Tấn Hỉ cứ nằm ngủ ngáy pho pho.

Bọn nữ tỳ vỗ cửa rầm rầm, có đứa thò tay vào cửa sổ nắm chân kéo lôi, Giang Tấn Hỉ giật mình ngồi dậy với vẻ ngơ ngác, nữ tỳ nói:

- Có lệnh phu nhơn đòi, hãy đến hầu gấp lên.

Giang Tấn Hỉ càu nhàu:

- Trời chưa sáng mà kêu bảo việc gì gấp dữ vậy?

Chúng nữ tỳ xoe tròn đôi mắt, nhìn thẳng vào mặt Giang Tấn Hỉ, gắt:

- Thân mẫu của ngươi cùng Tiểu thơ trốn đi đâu mất rồi. Hãy đến cho phu nhơn tra hỏi, chớ nói dông dài mà toi mạng bây giờ.

Bọn nữ tỳ nói vừa dứt lời. Giang Tấn Hỉ giả vờ bệu bạo nói trong tiếng khóc:

- Trời ơi! Nếu mẹ tôi đi mất rồi thì từ nay tôi biết trông cậy vào ai?

Rồi Tấn Hỉ làm ra vẻ kinh hãi, hơ hải chạy thẳng lên phòng Cố Phu nhơn, vừa khóc vừa hỏi:

- Trời ơi! Mẹ tôi đi mất thiệt sao?

Cố Phu nhơn nổi giận nạt lớn:

- Hai mẹ con mi âm mưu dẫn tiểu thơ đi trốn bây giờ mi còn giả vờ hỏi nữa sao?

Giang Tấn Hỉ khóc rống lên nói:

- Mẹ ơi! Sao mẹ đành bỏ con đi như vậy? Từ đây con phải chịu bơ vơ, ngày đêm thương nhớ thảm khổ biết dường nào!

Cố Phu nhơn thấy thái độ của hắn càng thêm giận dữ, bà hét the thé:

- Nay tiểu thơ đã trưởng thành mà bị mẹ mày quyến rũ đem đi trốn, đáng lẽ ta đuổi mày luôn mới phải, nhưng vì ta cảm thương tánh tình chơn chánh của mày lâu nay nên không nỡ. Thôi hãy lui về coi sóc huê viên và chớ nên hở môi cho bọn gia tướng biết được, vì việc này có quan hệ đến danh giá nhà ta lắm!

Giang Tấn Hỉ nghe nói mừng rỡ như trút một gánh nặng, hắn lủi thủi trở về huê viên.

Lời Bình:

Sinh ra sống một kiếp người nô lệ, còn gì xấu hổ cho bằng! Một kẻ dù bị nô lệ cho một cá nhân hay nô lệ cho một thái độ, họ cũng vẫn có đầy đủ một tâm hồn, một hình hài như tất cả những người khác. Nhưng chỉ khác là họ không được sống với ý nghĩa thực chất là con người, mà ngược lại họ bị đối xử như một con vật không hơn không kém. Hàng ngày phải nhận lãnh mọi hình phạt cực nhọc, đày dọa, đời sống vô cùng tối tăm, bản thân của họ không còn nhân phẩm, mất công bằng, thiếu tự do, mọi quyền sống về tinh thần của con người đều bị xâm lạm.

Cái kiếp nô lệ nói trên có nhan nhản trong chế độ phong kiến thối nát. Thời bấy giờ dưới cặp mắt của bọn quan lại quý tộc thì đám thủ hạ của họ chỉ là những kẻ nô bộc có thể mua chác đổi dời, nếu cần có thể sanh sát dễ như trở bàn tay.

Trong hồi này, con đầy tớ Phi Diên là một trường hợp điển hình. Việc Lưu Yến Ngọc lấy chồng, nó không có quyền biết đến, và khi Lưu Yến Ngọc ra đi nó cũng không có thể nào biết được. Nó có tội tình gì đâu! Thế mà Cố Phu nhơn bắt nó khảo tra. Bà phu nhơn kia cũng thừa hiểu là nó không biết, nhưng thói thường trong xã hội phong kiến mỗi khi họ tức giận điều gì mà không biết làm sao, phải đánh chó chửi mèo cho đỡ giận. Thì trong trường hợp này, con Phi Diên dưới mắt của Cố Phu nhơn cũng chẳng khác nào con chó con mèo vậy.

Hồi thứ Ba Mươi Hai

Tại Lưu phủ ? Mai Tuyết Trinh thế hôn

Chốn thiền môn, Lưu tiểu thơ cam khổ

Cố Phu nhơn không ngờ tai nạn lại có thể xảy ra cho nhà lọ Lưu một cách dồn dập như vậy, bà rối ruột bầm gan nghĩ thầm:

- " Chắc là xưa kia phu quân ta gây nhiều tội lỗi, nên phải gặp quả báo thảm thương, không biết rồi đây sẽ ra sao nữa".

Nghĩ đến họ Thôi, Cố Phu nhơn chép miệng than thầm:

- " Họ Thôi kia, đã nạp sính lễ rồi, nếu không được vợ, thế nào cũng sanh chuyện . Ôi , đáng giận cho Lưu Yến Ngọc, sao lúc trước hắn lại không đi đi, để đến nay ta đã nhận xong đồ sính lễ lại bỏ đi báo hại ta như vậy ".

Phu nhơn lo lắng, bỗng có nữ tỳ vào báo:

- "Có bà Mai, Tri phủ Diên Bình xin vào yét kiến.

Cố Phu nhơn liền truyền ra mời vào.

Nguyên Lưu Tiệp có một người em gái gả cho Mai Chiếm Xuân, Mai Chiếm Xuân nhờ thế lực của Lưu Tiệp , làm đến chức tri phủ trấn nhậm tại Diên Bình thuộc tỉnh Phước Kiến. Mai Chiếm Xuân không có con trai, chỉ sinh được một nàng con gái. Lão ta vốn một tên quan lại tham ô, chuyên vơ vét tiền bạc của dân nhét cho đầy túi tham của mình, làm nhiều điều tàn ác, dân chúng oán ghét vô cùng, mới dây dân chúng đồng lòng đau đớn vào báo cùng quan tỉnh, nhưng quan tỉnh sợ oai quyền của Lưu Tiệp phải bỏ qua, chẳng dè lúc ấy có một vị Tuần Phủ tên Châu Trình Tường vốn người chánh trực, ông ta giận lắm, quyết tâm trị tội Mai Chiếm Xuân cho kỳ được, nên sai người mật đi dò xét hành động của y rồi dâng biểu về kinh thượng tấu.

Vua Thành Tôn xem biểu xong, nổi trận lôi đình , lập tức sai người đi bắt Mai Chiếm Xuân về giao cho tòa Tam pháp trị tội. Lưu Tiệp cố lòng tâu xin, nhưng vô hiệu, rốt cuộc phải đày ra Lãnh Nam làm lính.

Vua Thành Tôn còn sai một vị quan ra tỉnh Phước Kiến hiệp cùng quan Tuần phủ tịch biên tài sản của Mai Chiếm Xuân; vì vậy vợ con Mai Chiếm Xuân là Lưu thị cùng con là Mai Tuyết Trinh không còn chút đồ đạc, của cải chi hết, đành phải đem bán vài con tỳ nữ để lấy tiền làm lộ phí sang bên nhà Cố Phu nhơn.

Khi Cố Phu nhơn cho mời Lưu thị vào, hai đàng chào hỏi, trà nước chuyện vãn một hồi, Cố Phu nhơn hỏi:

- " Chẳng hay cô lặn lội đến đây có việc gì cần không?

Lưu thị nói:

- Chỉ vì phu quân quá độc ác, thường hay tham lam giết hại người lành, mẹ con tôi khuyên nhủ mãi mà người không nghe lời; mới đây công việc đổ bể ra , phải bị đày đi làm lính tại Lãnh Nam, còn gia sản đều bị tịch biên hết cả, mẹ con tôi không có chỗ dung thân, buộc lòng phải lăn lội đến đây nhờ gia tẩu nghĩ chút tình thân thuộc cứu đỡ cho trong cơn nguy biến.

Cố Phu nhơn nghe qua tình cảnh động lòng thương, bèn tỏ lời an ủi và hứa sẽ giúp đỡ.

Lưu thị hỏi:

- Chắc Lưu Khuê Bích và Lưu Yến Ngọc năm nay đã thành gia thất cả rồi chứ ?

Cố Phu nhơn trông thấy Mai Tuyết Trinh ngồi đó nên không tiện trình bày, bà chỉ nói sơ qua:

- Công việc nhà tôi bề bộn lắm, con trai vẫn chưa vợ và con gái thì chưa lấy chồng.

Lưu thị lấy làm lạ hỏi:

- Việc nhơn duyên là điều hệ trọng; sao gia tẩu không sớm liệu cho xong?

Cố Phu nhơn không đáp, lại chỉ Mai Tuyết Trinh hỏi:

- Còn con cháu này đã định gã cho ai chưa?

Lưu thị đáp:

- Thưa , chưa ạ! Phu quân tôi không hề quan tâm đến việc nhơn duyên nên năm nay nó đã mười sáu tuổi dầu mà chưa hứa cùng nơi nào cả

Cố Phu nhơn nghe nói nghĩ thầm:

- " Ta xem nhan sắc con Mai Tuyết Trinh này sao với con Lưu Yến Ngọc cũng không hơn nhau mấy, vậy để ta đem Mai Tuyết Trinh này thay thế Lưu Yến Ngọc gả cho họ Thôi để khỏi mang tiếng là hay hơn cả "

Sau đó Mai Tuyết Trinh đi ra ngoài huê viên dạo chơi, trong phòng chỉ còn Lưu thị cùng mấy đứa nữ tỳ, Cố Phu nhơn liền đuổi bọn nữ tỳ ra ngoài, rồi kề tai nói nhỏ với Lưu thị , thuật hết đầu đuôi mọi việc, nào là việc Lưu Khuê Bích xin đi đánh giặc bị giặc bắt, nào là định gả Lưu Yến Ngọc cho họ Thôi nhưng nàng lại trốn đi mất. Nói đến đây bà nghiêm giọng bảo:

- Tôi đã nhận đồ sính lễ của họ Thôi rồi, thế nào họ Thôi cũng sanh chuyện rắc rối, thật nhục nhã cho môn phong tôi hết sức.

Ngừng một lác, Cố Phu nhơn tiếp:

- Lúc nãy tôi thấy cháu nó ngồi đây, sợ nó cười tôi trị gia bất nghiêm nên không dám nói.

Lưu thị nói:

- Giang Tam tẩu âm mưu dụ dỗ tiểu thơ trốn đi như vậy thật đáng giận thay ! Còn họ Thôi kia tuy là tình thân thuộc mặc dầu, nhưng đã nộp đồ sính lễ thì không thể không sanh chuyện được.

Cố Phu nhơn thở dài:

- Tôi biết việc này thế nào cũng rắc rối, nhưng khi nãy tôi thấy con cháu tài mạo đẹp xinh, lại chưa hứa hôn chỗ nào, tôi muốn đem nó thay thế cho Lưu Yến Ngọc đặng họ Thôi thỏa lòng. Thôi Phàn Phụng Chính là một gã thư sinh tài mạo kiêm toàn, nếu con cháu kết duyên cùng hắn thì xứng đôi vừa lứa lắm. Cô nương có bằng lòng thì tôi sẽ viết thư mời mẹ con họ Thôi ngày mai qua đây cho cô nương xem tường tận.

Lưu thị nghe nói nghĩ thầm:

- " Nay cửa nhà ta đều tan nát, con gái ta thật khó tìm nơi xứng đáng để gởi thân. Nay gặp sự may mắn như vầy còn gì quí hóa cho bằng. Vả chăng Thôi Phàn Phụng là dòng quan gia tử đệ, lại thêm tài mạo song toàn thì còn đợi gì nữa mà không bằng lòng".

Nghĩ rồi, Lưu thị vui vẻ đáp:

- Được lắm, thôi xin gia tẩu hãy để ngày mai chúng mình sẽ thương nghị

Cố Phu nhơn mừng rỡ nói:

- Thế thì hay lắm, nhưng cô chớ nên nói cho Mai Tuyết Trinh nó biết sớm làm gì, vì sợ ngày mai nó e lệ làm đôi bên không xem rõ mặt nhau thêm trở ngại

Lưu thị vâng lời, Cố Phu nhơn viết thư sai người đem qua cho họ Thôi, trong thơ nói rõ việc Lưu Yến Ngọc bỏ nhà trốn đi, và hiện nay có Mai Tuyết Trinh tài mạo cũng song toàn , nên mời đến xem, nếu bằng lòng , bà sẽ gả thay cho Lưu Yến Ngọc

Khi gia nhơn đem thư đến, Thôi Phu nhơn mở thư ra xem, bà thất kinh trao cho Thôi Phàn Phụng. Thôi Phàn Phụng xem qua rồi thở dài than:

- " Con nghĩ Lưu Yến NGọc mà kết duyên cùng con thì vinh diệu vô cùng, nhưng chẳng biết cớ sao nàng lại bỏ đi là nghĩa gì "

Thôi Phu nhơn nói:

- Nhà ta và nhà họ Lưu đều là thân thuộc, nếu nói ra nghĩ cũng ngỡ ngàng, nhưng nay đã có con gái họ Mai thay thế , vậy để sáng mai mẹ con ta qua đó xem thử coi, nếu Mai Tuyết Trinh nhan sắc mặn mà thì con cũng nên bằng lòng đi cho khỏi mang tiếng với đời

Thôi Phàn Phụng vâng lời , đợi đến sáng hôm sau sẽ xem tận mặt con gái họ Mai

Chiều hôm ấy. Cố Phu nhơn bày tiệc đãi mẹ con Mai Tuyết Trinh rồi sai nữ tỳ đưa mẹ con lên Hiển Vân các, Mai Tuyết Trinh vào phòng trông thấy để rất nhiều đồ trang sức thì hỏi mẹ:

- Chẳng hay cái phòng này trước kia của ai mà nhiều đồ trang sức như vậy?

Lưu thị đáp:

- Phòng này là của Lưu Yến Ngọc đấy.

Mai Tuyết Trinh lẩm bẩm :

- Hèn chi Cố Phu nhơn nói với con rằng Lưu Yến Ngọc đi thăm ngoại chưa về.

Lưu thị mìm cười rồi thuật lại chuyện Lưu Yến Ngọc cùng Giang Tam Tẩu bỏ nhà trốn đi vào đêm qua. Cố Phu nhơn nghĩ rằng nàng ta có tư thông với chàng trai nào đó nên khi nghe hứa gả nàng thì trốn đi quyết giữ mối tình chung thủy

Mai Tuyết Trinh tỏ vẽ không tin, nói :

- Nhà Phu nhơn đây là nhà đại phước, phú quí vinh hoa không ai bì kịp, hơn nữa hiện thời trưởng nữ làm chánh cung hoàng hậu thì lẽ nào thứ nữ lại hành động theo phường trên bộc trong dâu sao ? Việc này theo con thiển nghĩ thì chắc có lẽ lúc nàng còn nhỏ phu nhơn có đính ước gả cho ai rồi, ngày nay thấy người ấy bần hàn suy kém nên thay lòng đổi dạ, đem gả cho người khác, vì vậy nàng mới cùng Giang Tam Tẩu lánh đi để giữ tròn trinh tiết với chồng. nếu bảo nàng tư thông với ai, sao nàng không trốn đi trước kia , lại đợi đến khi hứa gả nàng mới đi, mà đem Giang Tam Tẩu đi làm gì ? Xin thân mẫu chớ nên tin lời Cố Phu nhơn mà nghi oan cho nàng Lưu Yến Ngọc.

Lưu thị nghe nói rất hữu lý, bà khen lời luận của Mai Tuyết Trinh là phải. Sau đó mẹ con trò chuyện một hồi rồi tắt đèn an giấc.

Sáng hôm sau, khi mọi người dùng cơm xong, xảy có nữ tỳ vào báo :

- Có Thôi Phu nhơn và công tử đến.

Cố Phu nhơn gật đầu đáp :

- Hay lắm , chúng bây hãy ra mời vào đây ngay

Mai Tuyết Trinh nghe nói, xin đi tránh vào nhà trong. Lát sau. Thôi Phu nhơn và Thôi Phàn Phụng vào, Cố Phu nhơn nghinh tiếp rất niềm nở và giới thiệu cùng Lưu thị :

- Thôi Phu nhơn và công tử đây đều là người thân thuộc cả, cô nương hãy bảo lịnh ái ra đây chào mừng đi.

Dứt lời, Cố Phu nhơn vội bước vào nhà trong bảo Mai Tuyết Trinh :

- Hôm nay có gia tỉ sang chơi, con nên bước ra chào mừng người đi.

Cực chẳng đã , Mai Tuyết Trinh mới e lệ bước ra, vừa chạm mặt Thôi Phàn Phụng, nàng thẹn thùng đỏ mặt. Cố Phu nhơn thấy thế, vội nắm chặt tay nàng giới thiệu :

- Đây là hiền sanh Thôi Phàn Phụng con trai của gia tỉ, đều là người nhà cả, không can chi đâu con e lệ .

Thôi Phu nhơn lại bảo Thôi Phàn Phụng :

- Con hãy lạy mừng Lưu thị và chào mừng Mai Tiểu thơ đi.

Thôi Phàn Phụng vâng lời đứng dậy chào hỏi rất lễ phép, Mai Tuyết Trinh hết sức e thẹn, nhưng cực chẳng đã phải thốt lời chào lại.

Cố Phu nhơn đợi cho mẹ con Thôi Phu nhơn trông thấy rõ mặt Mai Tuyết Trinh rồi bà mới chịu buông tay cho nàng vào nhà trong.

Khi nàng vào nhà trong rồi, Thôi Phu nhơn dắt Thôi Phàn Phụng xuống thềm, kề tai hỏi nhỏ :

- Con thấy thế nào? Con có bằng lòng không?

Thôi Phàn Phụng gật dầu đáp:

- Con xin ưng thuận.

Cố Phu nhơn nghe noí, mừng rỡ vỗ vai Thôi Phàn Phụng:

- Hiền sanh đã bằng lòng rồi thì xin từ nay đừng nói đến việc gả thay cho ai biết hết nhé! Dầu cho trước mặt bà Lưu thị hiền sanh cũng chớ nên thố lộ, có như vậy mới bảo toàn được danh giá nhà ta. Thôi, ta định đến ngày hăm năm này làm lễ cưới phứt cho xong.

Còn Lưu thị nghe Thôi Phàn Phụng bằng lòng rồi thì lập tức chạy vào nhà trong thuật lại rõ việc gả thay cho Mai Tuyết Trinh biết, bà còn phân trần:

- Hiện nay nhà ta đang gặp lúc suy nguy mà gặp được cuộc lương duyên này cũng là may mắn. Vả chăng ,Thôi Phàn Phụng vốn dòng quan gia tử đệ lại thêm tài mạo song toàn, con nên ưng thuận đi là phải .

Mai Tuyết Trinh suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu ưng thuận, Lưu thị mừng rỡ bước ra nói lại cho Cố Phu nhơn và Thôi Phu nhơn rõ.

Sau khi Thôi Phàn Phụng về, Cố Phu nhơn cho gọi Mai Tuyết Trinh ra. Thôi Phu nhơn lấy một cây kim thoa dắt trên đầu Mai Tuyết Trinh và nói:

- Đây là vật mọn của già này thân tặng , cháu hãy nhận đi, chớ nên từ chối.

Mai Tuyết Trinh lạy tạ rồi lui vào nhà trong , kế bọn nữ tỳ dọn tiệc lên , chủ khác ăn uống trò chuyện vui chơi tới chiều mới mãn. Sau đó, Cố phu nhơn đem hết của hồi môn của họ Mạnh khi trước sửa soạn làm của hồi môn cho Mai Tuyết Trinh.

Thấm thoát đến ngày hai mươi lăm, tại Lưu phủ trang hoàng rất rực rỡ, đèn bông kết tụi, từ trong đến ngoài đèn chong sáng như ban ngày, bạn bè xa gần đến chung vui đông vô kể. Cố Hoằng Nghiệp đến rước dâu cho Thôi gia . Cố Phu nhơn thấy mọi việc được rỡ ràng, lòng mừng khắp khởi

Sau đó ba hôm, vợ chồng Thôi Phàn Phụng đem nhau sang Lưu phủ lạy tạ Cố Phu nhơn và lấy lễ nhạc mẫu lạy mừng Lưu thị, Cố Phu nhơn thiết tiệc, cả nhà vui mừng hỉ lạc, mãi đến xế chiều, vợ chồng Thôi Phàn Phụng mới cáo từ lui về.

Từ đó Lưu thị ở tại Lưu phủ, Cố Phu nhơn hết lòng hậu đãi.

Nói qua Giang Tấn Hỉ, chàng ta thừa hiểu Đại sư Vạn Linh là kẻ tham của , nên trong lúc Cố Phu nhơn sửa sang yến tiệc, sai chàng đi mua sắm lễ vật, chàng nhân đó ăn nhận được mấy lượng bạc tính mang lên chùa Vạn Duyên để cho Lưu Yến Ngọc chi dùng, nhưng bận mãi đến ngày thứ tư Tấn Hỉ mới lén đi được.

Đến nơi, chàng đi thẳng vào vạn Duyên Am, trông thấy Giang Tam Tẩu cùng Lưu Yến Ngọc đang may vá. Giang tấn Hỉ chào hỏi và nói :

- Chẳng biết lâu nay các sư đối dãi với thân mẫu và tiểu thơ có được tử tế không?

Giang Tam tẩu nói:

- Tiểu thơ đã đưa tiền trước cho nhà chùa rồi lại còn lo lắng giúp đỡ các việc nữ công trong chùa rất tận tình, nhưng chỉ cần mỗi ngày hai bữa tương rau thôi, thế mà xem chừng như người ta không hài lòng , ta đoán chắc chốn này không thể nào nương tựa lâu được.

Giang Tấn Hỉ nói:

- Dẫu sao việc cũng đã lỡ rồi, cần phải ráng kiên tâm chịu khổ. Thế nào người ngay trời cũng phò trợ. Tôi chắc rồi đây Hoàng Phủ Công tử sẽ xuất hiện cứu phụ thân về với triều đình. Chừng ấy họ Mạnh kia đã chết, tất nhiên tiểu thơ sẽ được làm chánh thất, mẹ con mình cũng được nhờ vả sống an nhàn chớ không sao đâu.

Lưu Yến Ngọc nói:

- Nếu ngày sau mà được như lời của ngươi nói thì ta nguyện không bao giờ quên cái công lớn của mẹ con ngươi đâu. Nhưng chẳng hay việc nhà xưa rày ra thế nào? Mẹ con họ Thôi có đến sanh sự gì không?

Giang Tấn Hỉ nói:

- Việc này quả thật có trời xui khiến nên bỗng nhiên có người đến thay thế cho tiểu thơ rồi .

Hắn điểm một nụ cưới rồi nói tiếp:

- Hôm tiểu thơ ra đi, phu nhơn lo buồn la rầy om sòm, xảy đâu có mẹ con Mai Tuyết Trinh đến để nương nhờ nơi Lưu phủ vì phải việc nha lâm nguy biến. Phu nhơn hỏi thăm mới biết nàng con gái họ Mai kia chưa có chồng nên mới đen nàng gả cho Thôi Phàn Phụng để thay thế cho tiểu thơ, còn việc tiểu thơ trốn đi thì phu nhơn cấm nhặt không cho ai được tiết lộ ra ngoài.

Giang Tam Tẩu nói :

- Thật may cho nàng Mai Tuyết Trinh, khi không mà được hưởng ngôi phú quí , còn tiểu thơ đây lại vùi thân vào nơi cực khổ như vầy, chua xót thay.

Lưu Yến Ngọc nói:

- Nàng Mai Tuyết Trinh chịu ưng họ Thôi khiến sự việc được vẹn toàn , thật là may mắn biết bao.

Lưu Yến Ngọc nói dứt lời, Giang Tấn Hỉ lấy ra hai lượng bạc trao cho nàng và nói:

- Tôi mới kiếm được chút ít tiền bạc nên vội đem đến cho tiểu thơ tiêu dùng đỡ, và tôi cần phải trở về Lưu phủ ngay kẻo phu nhơn nghi ngờ. Nếu có việc gì xảy ra, tôi sẽ đến đây thông báo cho tiểu thơ biết.

Lưu Yến Ngọc thấy Tấn Hỉ tỏ lòng tốt với mình nên cảm kích chẳng cùng, vội nhận bạc đem cất vào rương , còn Giang Tấn Hỉ từ tạ lui ra khỏi chùa, tung mình lên ngựa phi thẳng về nhà

Lời bình:

- Ở đây ta thấy Lưu Yến Ngọc nằm mộng thấy mẹ mình về mách bảo phải cứu chàng công tử họ Hoàng Phủ để rồi se duyên với chàng. Nhưng đó chỉ là một động lực thúc đẩy nàng , do tác giả xây dựng cho thành cốt truyện để tạo nên cái dịp đôi trai tài gái sắc gặp nhau mà thôi. Vì tác giả sống trong thời ấy , không thể nào xây dựng cốt truyện ngoài khuôn khổ lễ giáo được. Ta thử hỏi Thiếu Hoa không phải là người tài mạo kiêm toàn thì không đời nào nàng Lưu Yến Ngọc chịu trao thân gởi phận, họa chăng nàng chỉ vâng lời mẹ rủ chút lòng thương hại cứu chàng qua khỏi cơn tai họa là cùng.

Thế thì ta phải kết luận rằng tình yêu chớm nở khi nào hai trái tim hòa chung một điệu, chớ dù bậc anh thành cũng không thể nào tác hợp được. Đến khi nàng Lưu Yến Ngọc đã trao trái tim vàng cho Thiếu Hoa rồi, thì dù cho Thôi Phàn Phụng có tài mạo kiêm toàn đến đâu, đối với nàng cũng không còn có nghĩa nữa.

Lưu Yến ngọc sẵn sàng chịu đựng mọi gian nan , quyết chí từ hôn để giữ một lòng son sắt với người yêu lý tưởng.

Người đàn bà Á Đông nói chung, cái cao quí thanh cao đáng được người đời tôn kính và quí trọng ở hai chữ " tiết trinh" vậy.

Hồi thứ Ba Mươi Ba

Bị mất trộm, Lưu Yến Ngọc buồn rầu

Ỷ tài cao, Lệ Minh Đường chẩn mạch

Khi Giang tấn Hỉ về rồi,một lát sau có Đại sư Vạn Linh đến bảo Lưu Yến Ngọc :

- Tiểu thơ hãy làm ơn qua phòng tôi cắt hộ cái áo.

Lưu Yến Ngọc nói :

- Nếu đại sư muốn may áo, xin hãy đem vào đây chúng tôi cắt may cho tiện hơn

Vạn Linh nói:

- Vì tôi cần may ba cái áo rộng một lượt nên phải mời tiểu thơ qua đó mới cắt được.

Lưu Yến Ngọc vâng lời, vội khóa cửa lại rồi cùng Giang Tam Tẩu qua phòng Vạn Linh. Khi hai người qua cắt xong thì ở nán lại may luôn cùng các sư cho xong.

Nguyên trong chùa này có một người ở đậu tên Tăng Thất, tuổi độ sáu mươi. Lão ta có một người con trai tên Tăng Lễ, tánh ham mê cờ bạc, nên không chăm chú đến việc làm ăn. Cha con trú ngụ tại chùa này đã năm năm nay, lão Tăng Thất cũng cố an phận tu thân khổ hạnh, nhưng từ ngày có Lưu Yến Ngọc đến, Tăng Thất dòm lén theo kẹt cửa thấy trong rương Lưu Yến Ngọc có trên năm lượng bạc, lão ta động lòng tham bèn đi rèn một cái chìa khóa cửa. Sau khi theo dõi một thời gian, lão ta còn biết Giang Tam Tẩu dấu chìa khóa rương dưới đầu giường, nên khi hai người đi cắt giùm áo cho Đại sư Vạn Linh, thì Tăng Thất lén đến mở trộm cửa phòng rồi lấy chiếc chìa khóa dưới chiếu, mở rương tóm thâu hết cả đồ trang sức, đoạn bước ra khóa cửa phòng lại như cũ .

Tăng Thất lấy của đem về cho Tăng Lễ và bảo hãy đem vốn này làm ăn chớ đừng cờ bạc nữa. Sau đó Tăng Thất trở lại chùa, lên giường giả đò ngủ.

Lưu Yến Ngọc cùng Giang Tam Tầu ở lại phòng Đại sư Vạn Linh may áo, mãi đến mặt trời mọc lên cao hơn con sào mới xong. Hai người bước về phòng, Giang Tam Tẩu bước đến bưng chiếc rương để trên bàn đặng trống chỗ nằm ngủ, chẳng dè khi bưng lên bà cảm thấy chiếc rương nhẹ bổng, bà thất kinh la lên:

- Thôi rồi! Bao nhiêu đồ đạc trong rương này bị mất hết!

Lưu Yến Ngọc nghe nói không tin, nàng thản nhiên nói:

- Cửa phòng vẫn còn khóa y nguyên , làm sao đồ trong rương lại mất được?

Lưu Yến Ngọc vừa nói, vừa lấy chìa khóa mở ra, chiếc rương trống không. Giang Tam Tẩu hoảng hốt la lên :

- Trời ơi! Kẻ bất lương nào đã lén vào dây lấy cắp đồ đạc của chúng tôi! Cả thảy có hơn sáu bảy trăm lượng bạc! Ôi ! như vầy là nó giết chết chúng tôi rồi !

Lúc ấy các sư ở ngoài nghe tiếng kêu la lật đật chạy vào hỏi. Lưu Yến Ngọc chỉ chiếc rương trống cho các sư xem và nói:

- Hồi sáng đến giờ, chúng tôi bận sang bên phòng đại sư may áo, chẳng biết quân bất lương nào nó đến mở khóa lấy hết của cải tôi có trên bảy trăm lượng rồi trở ra khóa lại y như cũ.

Giang Tam Tẩu cũng than trời kêu đất , rên siết:

- Việc này chắc chắn là kẻ trộm trong nhà chứ không phải ai lọt vào đây cả; vì chìa khóa tôi dấu dưới chiếu mà biết được lấy ra mở rương.

Các sư ngạc nhiên đồng nói:

- Lâu nay chốn này có ai vào đây được đâu, còn chúng tôi đây là kẻ tu hành , làm gì có chuyện gian giảo như vậy.

Lúc nãy giờ Đại sư Vạn Linh đứng im lặng ra vẻ suy nghĩ. Đại sư nói:

- Thế thường kẻ trộm vào phòng thì nó rinh hết cả rương đi, đời nào đóng khóa kỹ lưỡng như vậy sao. Hay là lúc tiểu thơ ra đi một cách hấp tấp nên quên đồ tư trang ở nhà chăng?

Giang Tam Tẩu nói:

- Hôm trước tiểu thơ tôi có mở rương cho các sư xem, trong rương ấy rất nhiều đồ trang sức giá đáng sáu bảy trăm lượng . Lúc ấy tất cả các sư đều trông thấy cả, sao bây giờ đại sư lại bảo như vậy? Thôi, việc này quả là người trong chùa ăn trộm chứ chẳng có ai vào đây hết.

Đại sư Vạn Linh nói:

- Hôm nay tất cả chúng tôi đều ở trong nhà cả, chính tiểu thơ và mụ biết rõ, làm sao chúng tôi hiễu rõ được chuyện này, chẳng qua là tôi phỏng đoán như vậy thôi.

Lúc ấy, Lưu Yến Ngọc tiếc của đau lòng xót dạ ngồi khóc tỉ tê, còn Giang Tam Tẩu kêu la một hồi mỏi miệng không thèm nói nữa, chỉ lầm bầm chửi rủa đứa gian tham.

Trọn ngày hôm ấy, hai người đều bỏ cơm, cháo. Lưu Yến Ngọc nói với Giang Tam Tẩu:

- Bây giờ của đã mất rồi, dầu có nói gì cũng không thể hoàn lại được. Việc rủi ra này chẳng qua là do số ta khổ cực cam chịu vậy cho xong.

Giang tam Tẩu nói:

- Thật tức quá! Mới ra khỏi cửa có một chút mà nó đã vào lấy hết của tiền thì bảo nín sao được. Tôi phải trù rủa cho thấu trời mới được.

Nói rồi bà ta ngồi trong góc phòng trù rủa cho đến canh hai mới chịu tắt đèn an giấc.

Sáng ngày thức dậy. Giang Tam Tẩu vẫn rủa chửi không thôi. Lúc ấy, Đại sư Vạn Linh biết Lưu Yến Ngọc đã hết sạch tiền của rồi, lại thấy Giang Tam Tẩu

chửi rủa náo động trong chùa thì lấy làm khó chịu. Lão chạy xuống gằn giọng bảo :

- Nếu tôi không nói ra thì các người bảo tôi là kẻ ngu si không biết gì. Tôi bảo cho biết đời nào kẻ trộm mà có lương tâm. Hễ hắn vào nhà thì đồ gì cũng quơ hết không sót lại bao giờ. Hơn nữa hôm qua đây các khóa đều còn nguyên vẹn cả mà bảo là bị mất trộm là nghĩa gì? Ta Thấy rõ ràng các người đã đem giấu hết đồ đạc rồi vu oan giá họa cho chùa phải không? Thôi, cả thảy chúng tôi đây đều là người khổ hạnh , mỗi ngày chỉ dùng hai bữa tương rau, nếu các người không bằng lòng ở đây thì cứ đi tìm chỗ nào khác tử tế hơn mà ở , chứ cần chi phải làm náo động lên như vậy?

Giang tam Tẩu Nghe nói tức mình quá, bà toan cãi lại thì Lưu Yến Ngọc vội nắm tay bà kéo vào phòng , kề tai nói nhỏ:

- Những người xuất gia nếu là kẻ chân tu hiền từ bằng ngược lại thì hiểm độc lắm, thôi mụ hãy nhịn đi chớ nên cãi cọ làm gì. Nếu họ sanh lòng thù oán hận mách với phu nhơn thí chúng ta biết tìm nơi nào dung thân cho được.

Giang Tam Tẩu nói:

- Tiểu thơ đã nói vậy, tôi phải bấm gan ráng chịu , chứ thật ra tôi tức lắm, thế nào tôi cũng đi mua vàng bạc hương đèn đem đến trước bàn Phật Tổ cầu mong Phật Tổ xui khiến cho đứa gian xưng tội ra mới nghe.

Cách vài tháng sau, bỗng dưng Tăng Thất phát điên lên. Lão cứ giơ tay tự đánh vả vào mặt mình và luôn mồm la lên:

- Mày quả là một đứa bất lương , mày nhẫn tâm rình lấy trộm hết đồ trang sức của tiểu thơ đem cho con mày bán đi để làm vốn. Rồi đây mày sẽ trông thấy trời phạt hai cha con mày đến mức nào. Mày phải chịu hình phạt khổ cực nhất trần gian, mày sẽ đi khắp mọi nơi hành khất, lượm từng hạt cơm rơi mới có mà ăn.

Lúc ấy tất cả các sư trong chùa mới biết rõ là Lưu Yến Ngọc thật tình có mất đồ trang sức, bắt Tăng Thất đem đến cho Tăng Lễ, bảo hắn phải tìm thầy chạy thuốc chữa bệnh cho cha. Sau đó quả nhiên Tăng Lễ cờ bạc thua sạch không còn một xu, hai cha con phải dắt nhau đi xin.

Khi Đại sư Vạn Linh trông thấy Lưu Yến Ngọc bị mất hết của tiền thì muốn đuổi ra khỏi chùa, nhưng không có một lý do nào, lão hành hạ hai người bằng cách bắt làm mọi việc trong chùa khổ sở vô cùng.

Lưu Yến NGọc và Giang Tam Tẩu cố gắng làm lụng nhưng cũng không vừa lòng lão ác tăng kia, thường ngày còn bị tiếng nặng tiếng nhẹ khó chịu. Nhưng Lưu Yến Ngọc cố gắng chiều lụy đủ điều, dù có khổ mấy nàng vẫn không nản chí, miễn nàng giữ trọn chữ trinh để chờ Hoàng Phủ Công Tử là nàng thỏa mãn.

Trong hoàn cảnh khổ cực ấy, nhờ có Giang tấn Hỉ lâu lâu có mang đến chút ít tiền bạc tiêu xài tằn tiện qua ngày. Lưu Yến Ngọc cố dành dụm ít tiền cho Đại sư Vạn Linh để cho người bớt hành hạ, nhưng mỗi lần cống hiến tiền bạc thì lão nới tay, bằng vắng tiền đi thì lão khắc nghiệt. LưuYến Ngọc đã bán hết áo quần đến nay không còn một vật chi đáng giá.

Nhắc lại Lưu Hoàng Hậu từ khi kết duyên cùng vua Thành Tôn đến nay đã bảy năm trường mới thọ thai được tám tháng. Vua Thành Tôn vui mừng khôn xiết, chẳng may số phần Lưu Hoàng hậu đã mãn nên sanh bịnh băng huyết phải tiểu sản nằm liệt giường, các quan thái y ngày đêm săn sóc thuốc thang liền liền, nhưng bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng . Hôm ấy, Lưu Hoàng hậu cảm thấy bệnh mình thùy nguy, bèn sai thị nữ đi mời vua Thành Tôn đến và nói:

- Tôi bạc phước nên chẳng may lâm bệnh nhơ bẩn này, xin bệ hạ chớ nên đến gần làm chi, nhưng tôi có một điều muốn tỏ cùng bệ hạ trước khi nhắm mắt lìa trần, song chẳng biết bệ hạ có vui lòng nghe không?

Vua Thành Tôn rơi lụy nói:

- Có điều chi Hoàng hậu cứ nói thẳng ra.

Lưu Hoàng hậu nói:

- Năm nay thiếp đã hai mươi ba tuổi, được hân hạnh ân ái cùng bệ hạ bảy năm trường, làm mẫu nghi trong thiên hạ, dẫu nay thần thiếp có thác đi cũng thỏa tấm lòng, nhưng ngặt vì bệ hạ chưa có hoàng tử để sau này nối nghiệp đế vương, hơn nữa Hoàng Thái hậu năm nay đã sắp đến kỳ đại thọ. Vậy sau khi thần thiếp nhắm mắt rồi, bệ hạ nên lập tức chọn lấy một gái hiền để lập lên Hoàng hậu. Còn thân phụ của thiếp vốn con nhà võ tướng nên không rành về lễ nghi , người lại quá già nua thường hay lẫn lộn, nếu người có rủi phạm tội chi xin bệ hạ hãy vì linh hồn thiếp mà xá tội cho người và cho về quê sống đời dân dã. Được như vậy , linh hồn của thần thiếp dưới suối vàng mang ơn bệ hạ vô cùng, nghuyện theo phò bệ hạ để sớm sanh con rồng chắp nối ngôi trời giữ an bá tánh.

Vua Thành Tôn nghe bấy nhiêu lời, đôi dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Vua sụt sùi nói:

- Nay Hoàng hậu chỉ vì việc sinh sản phải thọ bịnh như vậy, ấy chẳng qua do phần phước của trẫm không có nên Hoàng hậu mới bị lụy. Vậy nếu sau này có bề gì thì trẫm nguyện bảo bọc người thân của Hoàng hậu chứ không bao giờ dám quên những lời căn dặn của Hoàng hậu.

Vua Thành Tôn nói dứt lời, lui ra trở về chánh cung điện. Qua đến canh ba hôm ấy, Hoàng hậu trút hơi thở cuối cùng. Vua Thành Tôn cùng Hoàng Thái hậu thương xót vô cùng, bèn truyền cho quan Lễ bộ lấy theo lễ Hoàng hậu mà mai táng trọng thể.

Năm ấy Hoàng Thái hậu đã năm mươi sáu tuổi, vì quá thương xót cái chết của Hoàng hậu nân lâm bệnh nặng. Vua Thành Tôn triệu thái y vào bốc thuốc tận lực. Các Thái y thấy Hoàng thái hậu tuổi già nên hiệp nhau bốc thang "ông nguyên có bổn" cho uống.

Nguyên thang "ông nguyên" này cốt lấy vị nhơn sâm làm gốc, thành thử làm hại Thái hậu uống quá nhiều nhơn sâm sanh chứng no hơi, không ăn uống gì được, mặt mày nóng bừng, mệt thở chẳng ra hơi, nằm liệt giường không dậy nổi, khi tỉnh , khi mê. Thái hậu thấy bịnh thùy nguy mới triệu vua Thành Tôn đến dặn:

- Trước kia, nhà Tống chỉ vì ham tửu sắc, nghe lời gian nịnh nên giang san nhà Tống mới vào tay ta. Vậy khi ta chết rồi, con hãy cố gắng ngày đêm chăm chỉ việc triều chánh, hãy tuân theo ý kiến hay của các bậc lão thần để trị nước chăn dân. Hãy tu thân tích đức, biết thương dân nghèo, giữ an bờ cõi; nếu làm bậc đế vương mà độc tài gian ác thì ngày sau lâm đại nạn, có cầu khẩn đến đâu cũng vô ích. Mấy lời ta trối dạy, con hãy khắc cốt ghi tâm thì ta có chết đi cũng vui lòng hả dạ.

Vua Thành Tôn nghe mấy lời Thái hậu liền khóc róng rồi kiếm lời an ủi.

Thái hậu nói tiếp:

- Hiện giờ trong bụng ta chướng lên tức tối lắm, ta biết khó bề thoát khỏi tử thần, con chớ nên đặt hy vọng làm gì vô ích .

Nói rồi Thái hậu nhắm mắt nằm mê, khiến vua Thành Tôn đau xót vô cùng. Vua lui ra ngồi chong đèn bấm trán suy nghĩ tìm phương cứu chữa cho thích đáng.

Sáng hôm ấy, vua lâm triều, sau khi văn võ bá quan triều bái tung hô xong, vua Thành Tôn phán:

- Thái hậu thọ bịnh đã bảy hôm nay, các quan thái y hết sức chữa chuyên nhưng bịnh tình mỗi ngày một trầm trọng. Nay lòng trẫm vô cùng rối loạn không biết toan liệu lẽ nào. Vậy chư khanh có biết thầy nào hay hãy tiến cữ giùm cho trẫm, may ra chữa được bịnh tình Thái hậu thì ơn ấy trẫm nguyện không quên.

Các quan văn võ nghe lời vua phán, ai nấy đều nghĩ:

" Các thái y trong triều đều là những bậc danh y mà không chữa được bịnh Thái hậu, thì biết tìm ai?"

Nghĩ vậy nên các quan đều lấy mắt nhìn nhau đứng làm thinh lẳng lặng Vua Thành Tôn nóng lòng hỏi tiếp luôn mấy lượt, xảy có quan tã Thừa tướng là Lương Giám bước ra quỳ tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần này rất nóng lòng về bịnh tình của Thái hậu, muốn tiến cử một người may ra có thể chữa được bịnh.

Một tia hy vọng thoáng lên, vua Thành Tôn cả mừng hỏi phăng:

- Chẳng hay người khanh muốn tiến cử chữa bịnh ấy là ai, hãy nói nhanh ra cho trẫm biết kẻo trẫm nóng lòng lắm.

Lương Giám tâu:

- Hạ thần xin tiến cử Trạng nguyên Lệ Quân Ngọc, vì từ khi Trạng nguyên vào làm rể hạ thần đến nay đã từng chữa bịnh cho nhiều người, bất cứ bịnh nặng đến đâu, Trạng nguyên cũng đều chữa khỏi. Hạ thần xét thấy Trạng nguyên làu thông y học nên mới dám cả gan tiến cử, mong bệ hạ chấp thuận.

Vua Thành Tôn ngạc nhiên nói:

- Thì ra quan Trạng nguyên Lệ Quân Ngọc cũng biết làm thuốc nữa sao? Thật tình trẫm chẳng có ý nghi ngại chi, Nhưng trẫm thiết nghĩ Trạng nguyên Lệ Quân Ngọc tuổi còn trẻ mà đã có theo đòi kinh sử lào thông đến thế thì thử hỏi còn thì giờ đâu nghiên cứu đến khoa y học?

Lương Giám tâu:

- Trong lúc Thái hậu đang lâm bịnh thùy nguy, hạ thần đâu dám tâu dối trá, xin bệ hạ hãy dùng Lệ Quân Ngọc chuyên trị thử xem sao.

Vua Thành Tôn còn đang lưỡng lự, bỗng có quan hữu Thừa tướng Kỳ Thạch Đức bước ra quì tâu:

- Muôn tậu bệ hạ, Lương Thừa tướng là bậc lão thành thì đời nào lại tâu lên điều chẳng thiệt. Hơn nữa xét ra Lệ Quân Ngọc là người cần mẫn lại chín chắn, hạ thần tưởng không đến nổi sơ thất đâu, xin bệ hạ hảy y lời cho vào chẩn mạch đầu thang thử xem.

Vua Thành Tôn y tấu liền bảo Lương Giám về triệu Trạng nguyên Lệ Quân Ngọc vào triều. Lương Giám phụng mạng lui ra, lên kiệu đi thẳng về phủ, thuật lại câu chuyện cho Lệ Minh Đường nghe và bảo Lệ Minh Đường phải mau mau vào cung chẩn mạch cho Thái hậu.

Lệ Minh Đường nghe qua , còn đang suy nghĩ chưa biết nên quyết định ra sao thì Tố Hoa đã bước ra nói:

- Thưa thân phụ, việc này thân phụ tiến cử như vậy không nên đâu, vì năm nay Thái hậu tuổi đã gần giáp lục tuần, tinh thần suy kém, thậm chí những Thái y trong triều toàn là danh y tuyển chọn cả mà còn không chữa được thay , huống chi phu quân còn tài năng có là bao mà dám cả gan vào chửa trị , quả là làm một việc múa rìu qua mắt thợ. Hơn nữa bịnh của Thái hậu đang thụy nguy, nếu chữa mạnh được thì chẳng nói chi, bằng có bề chi thì tánh mạng phu quân con e khó mà bảo toàn, chi bằng đừng đi là hơn.

Cảnh Phu nhơn cũng không bằng lòng nên ứng tiếng phụ hoạ:

- Sao phu quân lại đa sự thế? Việc đã vô phương, cả triều đình không ai dám đứng ra gánh vác, sao phu quân lại đưa hiền tế ta vào chốn hiểm nguy như vậy?

Lương Giám nói:

- Nếu là chỗ bằng hữu lâm bịnh thì ta không lo làm gì cho nhọc trí, song đây là nghĩa chúa tôi, không lẽ vua đang lo buồn đau xót mà ta lại bàng quan tọa thị sao đành! Hơn nữa theo ta biết thì hiền tế ta làm điều chi cũng cẩn thận chín chắn thì việc chữa bịnh cho Thái hậu không đến nỗi thất bại đâu.

Lệ Minh Đường nói:

- Xin nhạc mẫu hãy an tâm, để con vào đó chẩn mạch thử xem, nếu liệu bề chữa được thì con chữa, bằng không thì thôi chớ có can chi đâu mà ngại.

Lệ minh đường nói dứt lời, liền bảo nữ tì lấy áo mão ra mặc vào, rồi lên kiệu theo Lương Giám đi thẳng vào triều.

Đến cửa Ngọ môn, Lệ Minh Đường dừng lại, Lương Giám vào trước quì tâu:

- Tâu bệ hạ, hạ thần đã vời Lệ Quân Ngọc đến, hiện còn đang đứng chờ lịnh ngoài Ngọ môn.

Vua Thành Tôn liền truyền chỉ cho Lệ Quân Ngọc vào và phán:

- Khanh hãy vỉ trẫm mà hết lòng chữa trị bịnh tình cho Thái hậu, nếu khanh chữa khỏi bịnh này, trẫm sẽ trọng thưởng.

Lệ Minh Đường tâu:

- Hạ thần nguyện gia hết tâm lực trong việc chữa bịnh cho Thái hậu, xin bệ hạ hãy cho phép hạ thần vào cung chuẩn mạch rồi sẽ liệu phương

Vua Thành Tôn y lời, truyền bãi chầu rồi dắt Lệ Quân Ngọc vào cung.

Lúc ấy trong cung có tám vị Thái y danh tiếng đang hiệp nhau bàn về việc thuốc men, xảy thấy vua đến liền kéo nhau ra nghinh tiếp. Vua bảo tám vị Thái y theo mình đến chỗ Thái hậu nằm rồi truyền vén màn lên cho Lệ Minh Đưòng chẩn mạch.

Lệ Linh Đường nắm tay Thái hậu chẩn mạch hồi lâu rồi tâu:

- Xin bệ hạ hãy cho phép hạ thần được xem dung nhan của Thái hậu để đoán bịnh mới chắc chắn được.

Vua bèn truyền vén hết màn lên và đem đèn đến cho sáng tỏ để Lệ Minh Đường xem hình xét sắc cho tường tận.

Lệ Minh Đường trông thấy Thái hậu nằm thiêm thiếp , song sắc mặt còn sậm, đôi môi còn tươi tắn, liền đặt tay lên trán sờ xem rồi tâu:

- Bịnh này tuy là trầm trọng , nhưng nếu bệ hạ cho phép hạ thần được hốt trong ba thang thì có thể bịnh giảm được sáu bảy phần mười vậy.

Vua Thành Tôn nghe Lệ Minh Đường nói tự tất , trong lòng bán tín bán nghi. Vua phán:

- Nếu khanh hết lòng chuyên chữa cho Thái hậu khỏi được thì trẫm sẽ trọng thưởng và mang ơn muôn đời.

Lệ Minh Đường nghĩ thầm :

« Thái hậu thân thể hãy còn tráng kiện, chỉ vì quá đau buồn vì cái chết của Hoàng hậu nên sanh bệnh mà các quan Thái y không biết, cứ cho uống sâm thang cho nên đã không công hiệu còn mang hại nữa ».

Nghĩ vậy, Lệ Minh Đường đầu thang « phát tán dược phương » dâng lên cho vua xem.

Vua Thành Tôn xem qua thất kinh nói :

- Thái hậu đã già khí lực suy yếu làm sao chịu nổi thang thuốc phát tán này ? Trẫm cứ tưởng người già nua thì cần phải dùng đến thang « Ôn nguyên cố bổn »mới được , sao khanh lại đầu thang như vậy, trẫm lo ngại quá !

Lệ Minh Đường tâu :

- Tậu bệ hạ, nguyên Thái hậu không phải lâm đại bịnh, nhưng uống phải nhiều sâm quá nên nhiệt khí nó lừng lên, thành thử trong người nóng nảy, bứt rứt, mệt thở no hơi. Vậy bây giờ cần phải phát tán nhiệt khí đi, rồi sau sẽ dùng triêu thực phương thang bồi bổ trở lại khiên cho cơ thể được ôn hòa. Lúc bấy giờ mới có thể dùng thể dùng thang ôn bổ để cho bình phục như xưa. Xin bệ hạ chớ lo ngại, hạ thần quyết không đến nỗi sơ thất đâu.

Vua Thành Tôn nói :

- Lời khanh luận tuy phải, nhưng dầu sao trẫm chẳng an lònh. Vậy để trẫm đem cái toa này cho các quan Thái y xét lại xem họ có ý kiến gì cho biết.

Lệ Minh Đường tâu :

- Chẳng phải hạ thần dám chê các quan Thái y, nhưng vì các quan hiểu lầm, nên cả thảy đều cho bịnh Thái hậu thuộc về loại hư nhược, hạ thần chắc chắn họ đã lầm như vậy thì không bao giờ dám bằng lòng cho Thái hậu dùng toa thuốc này. Vậy xin bệ hạ hãy tự quyết đoán lấy hay hơn và có như vậy mới khỏi hỏng việc.

Vua Thành Tôn nói :

- Căn cứ vào ý kiến của một người thì sợ lầm đi chăng, vậy cần phải phối hợp nhiều người mới có thể quyết đoán được.

Vua Thành Tôn nói dứt lời liền truyền nội giám đem toa thuốc của Lệ Minh Đường ra ngoài đặng hội ý cùng các quan Thái y.

Khi các quan Thái y xem qua toa thuốc ấy, ai nấy đều le lưỡi lắc đầu, nói nhỏ với Lệ Minh Đường.

- Chỉ vì quan Trạng còn nhỏ tuổi nên mới hốt toa thuốc này

Nói rồi quay qua bảo nội giám :

- Xin nội giám hãy vào tâu với thiên tử rằng chúng tôi chỉ biết Thái hậu tuổi già chỉ cần nên dùng thang « Ông nguyên cố bổn »mà thôi, còn cái thang phát tán của quan Trạng này chúng tôi không dám bàn đấn. Nếu bệ hạ có dùng đến toa thuốc này thì chúng tôi không chịu trách nhiệm.

Lệ Minh Đường nghe các quan Thái y nói, trong bụng cười thầm :

« Thế thì những Thái y này không hiểu mạch lý gì hết, dùng những bọn thầy thuốc này thật vô cùng nguy hiểm »

Nghĩ rồi, Lệ Minh Đường nói bằng giọng tự tất :

- Theo thiển ý của tôi thì toa thuốc này không đến nỗi sai lầm đâu, nếu Thái hậu uống vào có bề chi, tôi đây xin đứng ra chịu trách nhiệm tất cả.

Các quan nghe nói đều nghĩ thầm :

« Người ta là một vị Trạng nguyên trong tòa Hàn Lâm, lại là rể quí của quan Thừa tướng nữa, ta bài bác không có lợi, thôi ta cứ lơ đi là hay hơn »

Các quan nghĩ vậy nên không ai kích bác cả, chỉ có mấy ông Thái y già bước ra nói với Lệ Minh Đường :

- Quan Trạng đã quyết chịu hoàn toàn trách nhiệm thì chúng tôi đây không can dự đến nữa, nhưng chúng tôi khuyên quan Trạng hãy suy nghĩ lại vì Thái hậu nay đã già rồi, tưởng ngoài thang « Ôn nguyên cố bổn » ra, không nên dùng thang nào khác nữa, có hại đấy.

Lệ Minh Đường vẫn tự tất :

- Tôi chắc thang thuốc phát tán của tôi đây mà uống vào, làm gì cũng công hiệu.

Nói rồi liền theo nội giám vào cung hầu lịnh của vua Thành Tôn.

Đến nơi, nội giám đem những lời nghị luận của các Thái y tâu lên cho vua rõ, vua Thàn Tôn nghe qua trong lòng càng lưỡng lự hơn nữa, không biết nên quyết định thế nào cho phải. Lệ Minh Đường thấy thế vội quì tâu :

- Bịnh tình của Thái hậu trầm trọng như vậy là do dùng thang « Ôn nguyên cố bổn » quá nhiều, nay hạn thần dốc hết lòng trung, chẳng muốn Thái hậu phải bị mai một vì dùng lầm thuốc. Hạ thần kê cứu phương thang này đã suy nghĩ kỹ càng quyết không thể lầm lẫn được, xin bệ hạ dùng đi, nếu có bề gì thì hạ thần sẽ chịu hình phạt theo quân pháp.

Vua Thành Tôn thấy Lệ Minh Đường quả quyết như vậy, lại thấy bọn Thái y kia chữa không mạnh mà bịnh mỗi ngày một thùy nguy nên cắn răng quyết định.

Vua phán :

- Trẫm cũng thừa hiểu khanh lâu nay làm việc gì cũng cẩn thận, vậy bây giờ trẫm tin theo lời khanh nạp dụng toa thuốc này.

Nói rồi vua thành Tôn bảo nội giám đưa Lệ Minh Đường vào phòng thuốc để chọn thuốc tốt hốt cho đúng cân lượng.

Trong lúc ấy có nội giám vào báo :

- Các quan Thái y không ai công nhận toa thuốc ấy cả nên hiện giờ họ đều xin cáo thối hết.

Vua Thành Tôn liền chuẩn y lời xin, cho phép các Thái y đều lui ra. Một lát sau, Lệ Minh Đường hốt thuốc xong đem ra dâng lên, vuaThành Tôn phán

- Đêm nay khanh phải ở ngũ trong cung đây để phòng khi Thái hậu có bề gì kịp thời ứng phó.

Phán rồi bảo nội giám đưa Lệ Minh Đường vào nội các an nghỉ, rồi hối nội giám sắc thuốc cho chóng để Thái hậu dùng.

Lời Bình :

- Ở đây , vị Đại sư Vạn Linh là một trường hợp điển hình . Cho hay những kẻ chân tu không phải sớm kinh tối kệ mới gọi là tu. Vì vậy thánh nhân có nói : « Tâm hành từ thiện hà tu nỗ lực khán kinh ». Câu nói này thật là chí lý. Một khi ta biết làm lành tránh dữ, đừng đi ngược lại lòng từ bi hỉ xả của đức Phật, tức là ta đã đạt được một kết quả nào trong đạo pháp rồi, cho nên có câu

« Phật tại tâm »là thế !

Kẻ còn đang mê muội ngoài đời, họ không thấy gì cao hơn tiền tài danh vọng, họ không thấy gì rộng hơn bản thân là lẽ đương nhiên , ta không nên phiền trách, mà chỉ thương hại cho họ thôi. Duy chỉ có kẻ âm mưu giẫm chân lên đạo đức của nhà Phật để tác oai tác quái thì thật là đáng tội. Những hạng này liệt vào hạng bất trị, dù cho có giáo hóa bao nhiêu cũng vô ích

Hồi thứ Ba Mươi Bốn

Lệ Minh Đường thăng chức Thượng thơ

Khương Nhược Sơn ấm phong Trung Hiếu

Nội giám sắc thuốc xong, rót ra toan đem đến cho Thái hậu uống thì vua Thành Tôn cản lại nói:

- Hãy khoan dâng đã, vì nếu phương thang này mà trúng bịnh thì mau lành, bằng không thì chắc nguy hiểm lắm, nên trẫm chưa biết liệu định thế nào!

Vua Thành Tôn đang lưỡng lự thì Thái hậu tỉnh lại lên tiếng hỏi:

- Thái y đã hốt thuốc chưa?

Vua Thành Tôn tâu:

- Bẩm Thái y chữa mãi mà chẳng thuyên, nay có quan tả Thừa tướng là Lương Giám tiến cử rể người là Trạng nguyên Lệ Quân Ngọc vào chẩn mạch hốt thuốc, người cho biết rằng quan Trạng rất tinh thông về nghề y dược. Hiện đã hốt thuốc và sắc xong nhưng con còn lưỡng lự chưa dám đem dâng

Thái hậu nói:

- Thuốc đã sắc xong sao không đem cho ta uống, còn lưỡng lự gì nữa?

Vua Thành Tôn tâu:

- Nguyên vì toa thuốc này quan Trạng dùng toàn những vị phát tán nên con chưa dám dâng.

Thái hậu cười gằn nói:

- Uống thuốc bổ mãi vẫn không thuyên giảm lại nặng thêm, thì nay uống thuốc phát tán, may ra khỏi được là phải lẽ. Vậy hãy mau mau đem dây cho ta uống.

Nghe Thái hậu thúc hối, vua Thành Tôn nghĩ thầm:

"Việc này do nơi lòng trời xiu khiến chăng! Nếu uống vào mà có điều gì bất trắc xảy ra là do nơi Thái hậu đó" .

Nghĩ rồi truyền nội giám đỡ Thái hậu dậy, còn vua thì tự thân bưng thuốc đến cho Thái hậu uống. Uống xong, vua đỡ cho Thái hậu nằm ngay ngắn, đoạn đáp mền kín lại và bỏ mùng xuống.

Một lác sau, thấy Thái hậu nằm yên ngủ thiếp đi, vua Thành Tôn càng thêm lo sợ, cứ đi lẩn quẩn quanh giường Thái hậu không dám rời xa .

Đến trưa, vua Thành tôn vén màn lên thăm, thấy Thái hậu còn yên giấc, nhưng sắc mặt bớt đỏ, đầu cũng bớt nóng , hơi nóng trong người cũng ít xông ra như trước. Vua Thành Tôn đoán biết bịnh dã chịu thuốc rồi nên trong lòng vui mừng vô hạn, vội truyền nội tỳ dọn một mâm rượu đem dâng cho Lệ Minh Đường.

Còn Thái hậu ngủ mãi đến chiều tối mới thức dậy, vua Thành Tôn vào hỏi thăm. Thái hậu nói:

- Ta gẫm cười cho bọn Thái y mang danh nghĩa thầy thuốc trứ danh mà không bằng Lệ Quân Ngọc. Ta uống thang thuốc ấy bây giờ trong mình ta khoẻ khoắn vô cùng , không còn bứt rứt khó chịu như trước nữa. Thôi từ rày về sau hãy để Lệ Quân Ngọc hốt thuốc cho ta uống mà thôi. Nhưng bây giờ khát nước lắm, muốn dùng chén trà mà không biết có nên dùng hay không?

Vua Thành Tôn bèn sai nội giám ra hỏi Lệ Quân Ngọc. Giây lát nội giám vào tâu:

- Quan Trạng nói: đang cơn nhiệt khí hoành hành , không nên hốt thuốc vội , để sáng mai hãy xem mạch lại, bây giờ Thái hậu có khát nước hãy dùng trà như thường , nhưng chớ nên cho uống sâm trà.

Vua Thành Tôn nghe nói, liền bảo nội giám đi pha trà cho Thái hậu uống. Thái hậu uống xong lại nằm xuống ngủ yên như trước.

Sáng hôm sau khi Thái hậu vừa thức dậy, vua Thành Tôn vội sai nội giám ra mời Lệ Minh Đường vào, tự tay rót một chén trà trao cho Lệ Minh Đường và nói:

- Khanh quả thật là đại tài. Hôm qua thật tình trẫm trông thấy toa thuốc của khanh mười phần lo sợ nên khi thuốc đã sắc xong mà không dám dâng lên cho Thái hậu uống. Sau khi Thái hậu hối thúc nên trẫm mới đánh bạo dâng liều. Hiện nay nhiệt khí đã tan, Thái hậu ngủ rất yên giấc, tinh thần khoẻ khoắn, nói năng bớt mệt. Vậy khanh hãy cố tâm chuyên chữa, trẫm sẽ trọng thưởng.

Sau đó, vua Thành Tôn dắt Lệ Minh Đường vào thăm mạch lại, Xem xong , Lệ Minh Đường nói:

- Tuy Thái hậu đã bớt nóng nhưng tích thực trong bụng chưa tiêu nên cần phải dùng thang tiêu thực phương để tiêu trừ những vị bổ còn đang tích trữ trong bụng. Khi đã tiêu trừ hết rồi, tự nhiên tinh thần sảng khoái. Lúc ấy có quyền dùng thang ôn bổ cho tuyệt dứt căn bịnh là xong

Vua Thành Tôn nói:

- Hay lắm, khanh cứ việc dụng tâm chuyên chữa, mọi việc trẫm đều phó thác cho khanh. Khanh hãy vì trẫm lo lắng chu đáo , chừng nào Thái hậu thật lành mạnh, khanh sẽ về.

Sau đó Lệ Minh Đường kê thang tiêu thực dâng lên cho vuaxem rồi mới hốt thuốc, đoạn sai quan nội giám sắc đem dâng cho Thái hậu uống.

Thái hậu uống xong độ nửa tiếng đồng hồ thì gọi cung nữ bảo đở bà đi tiêu rồi trong bụng cảm thấy nhẹ nhàng. Vua Thành Tôn sai nội giám ra hỏi thăm Lệ Minh Đường , Lệ Minh Đường bảo nấu cháo cho Thái hậu ăn.

Thái hậu ăn xong, tinh thần định tỉnh , vui cười nói với Thành Tôn:

- Hôm nay mẹ còn được trông thấy con đây là nhờ có Lệ Quân Ngọc đấy, con nên trọng đãi người mới phải.

Vua Thành Tôn nói :

- Trạng nguyên Lệ Quân Ngọc quả là người thông minh, kiến thức rộng. Về văn học người đã uyên thâm mà nghề thuốc lại tinh vi nữa, thật hiếm có trên đời. Xin Thái hậu hãy an tâm, không khi nào con dám quên ơn người đâu.

Trong ngày hôm ấy, Thái hậu vẫn bình an vô sự. Sáng hôm sau, Lệ Minh Đường vào chẩn mạch lại rồi cho uống thang ôn bổ.

Vua Thành Tôn nói với Lệ Minh Đường:

- Khanh đã hết lòng vì trẫm cố gắng chịu khó nhọc, hôm nay Thái hậu đã bớt nhiều, trẫm cho phép khanh được về dinh an nghỉ, nhưng mỗi sáng phiền khanh vào cung thăm mạch đặng hốt thuốc cho Thái hậu dùng.

Lệ Minh Đường lạy tạ lui ra, lên kiệu trở về phủ. Đến nơi, Cảnh phu nhơn và Tố Hoa mừng rỡ xúm lại hỏi lăng xăng.

Cảnh Phu nhơn hỏi:

- Chẳng hay bịnh của Thái hậu bây giờ ra thế nào?

Lệ Minh Đường đáp:

- Bẩm bịnh của Thái hậu đã thuyên giảm đặng sáu bảy phần, độ vài ba ngày nữa sẽ lành mạnh như xưa.

Lương Giám nghe nói, cười đắc chí:

- Ta vẫn biết hiền tế làm việc chi cũng dè dặt lắm, vì vậy ta mới dám tiến cử chớ.

Sau đó Lệ Minh Đường và Tố Hoa dắt nhau về phòng, Tố Hoa nói:

- Tiểu thơ thật là bậc thiên tài hiếm có. Nghề văn đã thắng hết sĩ tử bốn phương, còn nghề thuốc thì cả bọn Thái y trong triều không bì kịp.

Lệ Minh Đường nói:

- Sở dĩ em vào chữa bịnh cho Thái hậu là vì muốn cho mau thăng tước đặng lo cứu nhà Hoàng Phủ, chớ làm việc này quả là làm một việc mạo hiểm vô cùng.

Tố Hoa nói:

- Bao giờ tiểu thơ cũng một lòng lo cứu lấy nhà Hoàng Phủ, lòng đã thành như vậy thì chắc ông xanh kia phò hộ chớ chẳng không?

Lệ Minh Đường nói:

Phải rồi! Chúng ta đây lúc nào cũng trông cậy vào lòng trời, chứ thật ra sức người làm sao vượt khỏi lẽ trời được !

Sáng hôm sau, Lệ Minh Đường lại vào cung xem mạch. Vua Thành Tôn truyền nội giám đỡ Thái hậu ra ngoài cho Lệ Minh Đường chẩn mạch. Lệ Minh Đường kê cứu toa thuốc xong, liền tâu với vua Thành Tôn :

- Hôm nay ngũ tạng của Thái hậu đã điều hòa như thường, từ nay về sau chắc bệnh sẽ lần lần lành mạnh.

Vua Thành Tôn mừng rỡ vô cùng. Vua phán :

- Khanh chớ nên ngại việc khó nhọc, cứ mỗi buổi sáng hãy vào chẩn mạch hốt thuốc cho Thái hậu uống một lần , chớ đến khi nào bệnh tình Thái hậu thật mạnh, trẫm sẽ lượng công ban, thưởng.

Lệ Minh Đường tạ ơn lui về rồi sáng hôm sau cũng vào cung chẩn mạch y như thường lệ. Lúc ấy, Thái hậu chăm chú nhìn thẳng vào mặt Lệ Minh Đường , còn Lệ Minh Đường không để ý, cứ việc chăm chú suy nghĩ nghiên cứu về mạch lý nên sắc diện đều lộ ra . Bà nhận thấy Lệ Minh Đường quả là một mỹ nữ cải dạng nam trang.

« Dám chắc trên đời này không có một nữ nhi nào tài mạo đến thế. Thôi để ta bảo Thiên tử lập nàng lên làm chánh cung Hoàng hậu mới được »

Lệ Minh Đường chẩn mạch hốt thuốc xong ra về, nội giám liền sắc thuốc cho Thái hậu uống . Đến trưa vua Thành Tôn h bãi chầu về cung thăm Thái hậu. Thái hậu mỉm cười nói :

- Con đã làm đến bậc đế vương mà con ngây thơ quá. Ta cho con hay Lệ Quân Ngọc vốn là một mỹ nhơn cải dạng nam trang đấy. Người quả là một nữ nhi có biệt tài đáng phục, vậy con hãy truyền cho người cải trang lại rồi lập làm chánh cung Hoàng hậu đi, vì sang năm đây ta dã ăn lễ lục tuần đại thọ, nếu con được một người vợ như vậy thì đẹp biết bao.

Vua Thành Tôn nghe Thái hậu nói dứt lời , liền phì cười và nói :

- Tại vì Lệ Quân Ngọc lịch sự trai quá nên mẫu hậu mới trông qua giống đàn bà con gái như thế, chứ thật ra chẳng phải con gái đâu.

Thái hậu lắc đầu :

- Ta không tin, ta quả quyết Lệ Quân Ngọc là nữ lưu mà

Vua Thành Tôn giải thích :

- Chính Lệ Quân NGọc đã cưới con quan Thừa tướng làm vợ. Hai vợ chồng tất tương đắc với nhau lăám cơ. Nếu là gái thì đâu có hành động như vậy ?

Thái hậu nghe nói cười xòa :

- Nói vậy chẳng ta lầm sao ? Ai ngờ trên đời này lại có một thiếu niên đẹp đẽ đến thế. Ôi ! Tài đã cao, học lại rộng và nghề thuốc lại còn hơn cả các vị Thái y quan . Ta sống được đây cũng là nhờ Lệ Quân Ngọc đó, con hãy thăng thưởng trọng hậu cho chàng kẻo phụ công chàng đã ra vào săn sóc ta khó nhọc.

Vua Thành Tôn cúi đầu vâng dạ. Sau đó độ mười ngày, Thái hậu mạnh mẽ như thường. Hôm ấy Thành Tôn lâm triều, các quan triều bái tung hô xong, xảy có quan Lại bộ bước ra tâu :

- Muôn tâu bệ hạ, quan Binh bộ Thượng thơ là Châu Khuê Niên đã tạ thế vào đêm qua rồi.

Vua Thành Tôn thở dài than :

- Tiếc thay một vị trung thần mà không được hưởng lộc của triều đình được lâu.

Rồi vua truyền chỉ cho Lại bộ đứng ra thay mặt triều đình ngự tế cho Châu Khuê Niên một tuần rượu.

Quan Lại bộ lại tâu tiếp:

- Vả chức Binh bộ Thượng thơ vô cùng quan trọng, nếu một ngày không có thì các tướng sĩ không người cai quản, hạ thần thiết tưởng không thể bỏ khuyết được, xin bệ hạ hãy chọn lấy một vị danh thần đặng bổ khuyết vào chức ấy.

Vua Thành Tôn suy nghĩ một hồi rồi triệu Lệ Minh Đường đến phán:

- Khanh quả là một bực thiên hạ kỳ tài, vậy trẫm muốn bổ khanh làm chứ Binh bộ Thượng thơ để khanh trổ tài đền bồi xã tắc và trẫm cũng trả được cái ơn chữa

khỏi bịnh của Thái hậu.

Lệ Minh Đường quì tâu:

- Thái hậu được thuyên bịnh chẳng qua là lòng hiếu của bệ hạ cảm đến trời nên mới đặng như vậy, chứ hạ thần có công cán chi mà dám đương nhận chức vị lớn lao ấy. Vả lại , hạ thần tuổi còn thơ ấu nếu làm chứ c vị quá cao sợ e triều thần bất phục, thật hạ thần chẳng dám phụng mạng, xin bệ hạ tha tồi cho.

Vua Thành Tôn nói:

- Trẫm thừa biết cái tài của khanh, đáng ra phải làm đến chức Thừa tướng mới đủ cho Khanh thi thố hết tài năng, chứ cái chức Binh bộ này đã thấm vào đâu, sao khanh lại khiêm nhường đến thế.

Lệ Minh Đường nghe vua phán, liền cúi lạy tạ ơn rồi lãnh áo mão Binh bộ Thượng thơ. Các quan trong triều thảy đều biết rõ Lệ Minh Đường là người thanh liêm chánh trực nên ai nấy đều khâm phục bằng lòng.

Rồi vua Thành tôn phán hỏi Lệ Minh Đường:

- Chẳng hay song thân của khanh làm quan đến chức gì, khanh hãy khá tâu đễ trẫm liệu mà phong thưởng cái công khéo dạy con thành tài.

Lệ Minh Đường quì tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, sanh phụ của hạ thân tên Lệ Triệu Ân, sanh mẫu là Giả thị, xưa nay đều chuyên nghề nông tang rẫy bái, còn việc thành danh của hạ thần là nhờ nghĩa phụ đó thôi.

Rồi Lệ Minh Đường nói rõ việc nhờ Khương Nhược Sơn nuôi nấng dạy dỗ từ bé đến lớn.

Vua Thành Tôn gật đầu phán:

- Nếu Khương Nhược Sơn được như vậy, thiệt trên đời ít có. Vậy trẫm phong cho sanh mẫu của khanh làm Tứ phẩm quan, còn nghĩa phụ của khanh làm Trung hiếu Đại phu, nghĩa mẫu làm Tứ phẩm Phu nhơn. Riêng vợ của khanh , trẫm phong làm Nhứt phẩm Phu nhơn.

Vua Thành Tôn kêu Lương Giám bảo:

- Bịnh Thái hậu mà được lành mạnh đây là nhờ Thừa tướng tiến cử Lệ Quân Ngọc, vậy nay trẫm phong cho khanh làm chức Thái tử Thái bảo.

Lương Giám liền quì lạy tạ. Sau đó bãi chầu, các quan ai về dinh nấy.

Tố Tuyết Hoa trông thấy Lương Giám và Lệ Minh Đường lãnh áo mạo đem về phủ thì mừng lắm; nàng lật đật dọn bàn hương án ra để bái mạng.

Tố hoa nghĩ thầm:

"Không biết chồng thật của ta kia có thể làm cho ta được Nhứt Phẩm Phu nhơn như vầy không! Chứ còn cái ông chồng giả này đã làm cho ta vinh diệu lắm rồi, nhưng dù vinh diệu đến đâu cũng chỉ nhìn mặt nhau chơi thôi chứ không ăn thua gì".

Kế một lát sau, các võ quan mang lễ vật đến chúc mừng Lệ Minh Đường , nhưng Lệ Minh Đường trả lễ vật lại hết; còn các quan văn đến chúc mừng Lương Giám vô cùng trọng hậu.

Hôm sau, Lệ Minh Đường tỏ ý cùng Tố Hoa:

- Bấy lâu nay, Khương Nhược Sơn, nghĩa phụ em, đối đãi với em rất tử tế, nhưng chỉ vì em còn là chức nhỏ bé trong tòa Hàn lâm nên chưa tiện đem nghĩa phụ đến kinh, chớ nay em đã được thăng đến chức Binh bộ Thượng thơ rồi, rm muốn triệu hết gia quyến người về kinh để cùng em chung hưởng phú quí đặng đáp đền cái công ơn ngày trước, chẳng hay chị nghĩ thế nào?

Tố Hoa nói:

- Tiểu thơ làm như vậy thật là phải lẽ!

Rồi cả hai đem việc ấy tỏ cùng Lương Giám; Lương Giám cũng bằng lòng theo. Lệ Minh Đường vội vã viết một phong thư sai tên gia tướng mang cả phong thư và áo mão Trung Hiếu Đại phu của Khương Nhược Sơn cùng áo mão mạng phụ của Tôn thị, đem ra Hồ Quảng cho nghĩa phụ.

Nói về vua Thành Tôn khi thấy bịnh Thái hậu đã thiệt lành mạnh , liền chọn ngày tốt bày tiệc khánh hạ.

Hôm ấy vua là lể tế thiên địa và cho hết các cung nhơn trong nội cung đều được dự tiệc, còn các quan triều thần thì ban yến đãi đằng tại Kim Loan điện.

Trong Bữa tiệc, trừ tả hữu Thừa tướng ra, vua Thành Tôn cho Lệ Minh Đường ngồi trên hết cả mọi người. Lệ Minh Đường từ chối tâu:

- Hạ thần tuổi còn nhỏ, chức tước lại kém cỏi nên không dám vượt bực như vậy.

Vua Thành Tôn nói:

- Nguyên cái tiệc này là của Thái hậu bày ra để tạ ơn một bực danh y. Vì vậy từ quả nhơn đây cho đến hết thảy quan viên cũng đội ơn khanh hết cả. Cho nên chỗ ngồi cao nhứt là để dành cho khanh, khanh chớ nên từ chối.

Lệ Minh Đường nghe vua phán vậy, mới dám ngồi cùng vua và bá quan nhập tiệc. Rượu được vài tuần, xảy thấy Thái hậu sai quan nội giám đem ra ban cho Lệ Minh Đường một Kim tú La bào; một sợi Điêu hoa Ngọc đái và mười hột đại Minh châu vô cùng quí giá.

Lệ Minh Đường lạy tạ rồi lấy Kim tú La bào mặc vào, thắt sợi Điều hoa nGọc đái, trông rất oai nghi.

Một lát sau, vua Thành Tôn cho đòi bọn Thái y vào quở mắng:

- Mậu hậu ta thân thể hãy còn tráng kiện mà các người dùng lầm thuốc , thiếu chút nữa là nguy hiểm đến tánh mạng rồi. Cũng may có Lệ Quân Ngọc đem hết tánh mạngtoàn gia ra cam đoan chữa trị mới khỏi. Quả thật các ngươi không thông hiểu mạch lý chi hết mà dám cả gan ngăn chống không cho người ta dùng thuốc hay. Các ngươi có thấy mình mang trọng tội không?

Các quan Thái y nghe nói thất kinh, đồng quì lạy tâu:

- Chúng tôi xin cam thọ tử tội/

Vua Thành Tôn cười và phán:

- Chỉ vì kiến thức các người còn thiển cận chưa đủ tư cách để chữa bệnh đó thôi. Trẫm không bắt tội đâu, nhưng mỗi người phải dâng cho Lệ Quân Ngọc một chén rượu đầy để kiến làm tôn sư.

Các quan Thái y nghe vua phán vui mừng chẳng xiết . Vội đi rót mỗi người một chén rượu đầy đem dâng cho Lệ Minh Đường uống. Cuộc vui mãi đến xế chiều mới tan, Lương Giám và Lệ Minh Đường dắt nhau về phủ.

Lệ Minh Đường thuật lại việc Thái hậu ban thưởng cho Tố Hoa nghe và bảo nàng đem cất mười hột đại Minh châu.

Nhắc qua tên gia tướng vâng lệnh Lệ Minh Đường mang thư và áo mão ra hổ Quảng để rước gia quyến Khương Nhược Sơn . Hắn đi mãi cho đến cuối tháng tám mới đến nơi. Hai vợ chồng Khương Nhược Sơn mừng rỡ vô cùng, vội vã đặt bàn hương án tiếp nghinh phong cáo, rồi lấy áo mão mặc vào, đoạn quay mặt về hướng Bắc lạy tạ ơn Thiên tử.

Rồi Khương Nhược Sơn khai thư Lệ Minh Đường ra xem, mới hay Lệ Minh Đường ngỏ ý muốn rước gia quyến mình về kinh đặng an hưởng phú quí.

Tôn thị liền hỏi Khương Nhược Sơn:

- Thế Phu nhơn có tính đi hay không?

Khương Nhược Sơn trả lời:

- Chúng ta nên đi là phải, vì đến đó tôi sẽ là suoi gia với quan Thừa tướng, vinh diệu biết dường nào. Nhưng thôi, để tôi cùng nhị tiểu thiếp ra đi, còn phu nhơn hãy ở nhà để giữ gìn sản nghiệp.

Tôn thị nói:

- Tôi cũng muốn đi nữa để đến đó được làm mẹ chồng của một vị thiên kim tiểu thơ chơi.

Thấy Tôn thị đòi theo, Khương Nhược Sơn phân trần :

- Nếu vợ chồng ta đều đi cả thì sản nghiệp đây biết giao php& cho ai ?

Tôn thị nói :

- Thì ta cứ giao hết cho Thăng Kim quản thủ cũng được mà !

Khương Nhược Sơn ngẫm thầm :

« nếu làm như vậy thì thằng tham tâm Hoạt Toàn nó có phước quá !».

Nghĩ vậy, nhưng rồi Khương Nhược Sơn cũng bằng lòng , liền ra nói cho Thăng Kim hay. Thăng Kim nói :

- Thân phụ có đến kinh thì xin thân mẫu hãy ở lại đợi con lâm sản rồi sẽ đi sau. Có như vậy con mới an tâm khỏi lo sợ.

Tôn thị suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Thôi, nếu vậy mẹ phải ráng nán ở lại đợi khi con lẩm sản rồi mẹ sẽ đi cũng được.

sáng hôm sau, Khương Nhược Sơn mở tiệc cho mời hết thân bằng cố hữu đến ăn mừng , rồi chọn ngày tốt, đem hai người tiểu thiếp Nguyên Lãng và mười đứa nô tỳ nhắm kinh đô thẳng tiến.

Khi đến kinh sư, Khương Nhược Sơn sai hai tên gia nhơn vào tin cho Lệ Minh ường hay.

Lệ Minh Đường vội vàng thân hành ra tận bên ngoài rước vào tướng phủ, Lương Thừa tướng cũng bước ra nghinh tiếp.

Khi vào nhà an tọa xong, mời uống trà nước Lương Giám truyền bảo Tố Hoa ra bái yết nghĩa phụ. Tố Hoa lạy xong, Khương Nhược Sơn khiền hai ngưòi tiểu thiếp của mình ra mắt Cảnh Phu nhơn.

Sau đó tiệc được dọn lên. Cả nhà ằn uống vui vầy hỉ hả. Từ đó Khương Nhược Sơn sống tại chốn kinh sư an hưởng nhiều điều phú quí

Lời bình:

- Trong đời, có nhiều việc người ta quan trọng hóa để làm khó cho mình, nhưng đó chỉ là một việc tầm thường mà ai cũng có thể hiểu được

Mẹ của một ông vua đau, chỉ cần một thang thuốc phát tán để lành bịnh, thế mà cả một bầy Thái y mang danh đầu to mặt lớn, mà không ai biết đến một chuyện dễ dàng như vậy, để đến lúc Lệ Minh Đường xem ra mới biết. Đã vậy, mà các Thái y còn chưa tin, cho Lệ Minh Đường là thấp hèn.

Thật ra trong tư tưởng con người nhiều khi chỉ nghĩ đến một việc quan trọng , nên cứ tưởng chừng việc làm của mình cái gì cũng phải quan trọng.

Trong hồi này, tác giả đã châm biếm một lớp người có danh mà không có thực, chỉ biết mang một địa vị, rồi ngồi trên một địa vị ấy cứ tưởng mình là tài cao, thực ra tài năng của những kẻ ấy không có gì đáng kể

Mặt khác , tư tưởng con người cũng có lúc ám ảnh trước một công việc quan trọng nào đó. Giả thử bệnh đau ấy không phải là mẹ của một vì vua, thì có lẽ các vị Thái y kia đã cho uống một thang thuốc phát tán từ đời nào rồi!

Hồi thứ Ba Mươi Lăm

Bành Như Trạch dâng biểu văn cáo cấp,

Lệ Binh bộ đề nghị việc chiêu hiền.

Ngày kia vua Thành Tôn lâm trào , sau khi quần thần bái yết tung hô, có quan Hoàng môn bước ra quì tâu:

- Nay có quan Tuần phủ Sơn Đông là Bành Như Trạch dâng biểu văn về cáo cấp, cho biết quan Trấn uy Đại tướng là Dương Bình Nghĩa đã tử trận rồi. Hiện nay quân Phiên đang kéo đến đánh phá Đăng Châu rất là nguy cấp. Nhưng năm nào đến tháng chín gặp trời lạnh tuyết đông, chúng lại rút về hải đảo nghỉ binh, chờ quan năm tới, gặp tiết ấm trời, lại kéo đến công phá rất nguy hiểm. Giặc Phiên quyết đánh cho đến kinh sư, vậy xin bệ hạ nhân lúc chúng sắp lui binh, hãy sai một viên danh tướng đem binh cứu viện kẻo mang hậu hoạn.

Vua Thành Tôn nghe tâu, liền phán hỏi quân thần:

- Quân dịch tung hoành như vậy, có ai vì ta lãnh binh đi ngăn giặc không?

Vua hỏi mấy lượt nhưng đâu đó đều lặng im, vua cả giận đứng phắt dậy lớn tiếng trách móc:

- Nội trào này chẳng biết bao nhiêu là võ tướng, nhưng đều là những hạng húy tử tham sanh. Hôm nay quốc gia hữu sự, tất cả đều khoanh tay ngồi nhìn thì làm võ tướng làm gì?

Lúc ấy Lệ Minh Đường thầm nghĩ:

"Nay triều đình đang gặp cơn nguy cấp, vậy ta hãy nhân cơ hội này mà cứu lấy nhà Hoàng Phủ thì hay biết bao".

Nghĩ rồi, Lệ Minh Đường bước ra quì tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, chẳng phải là các quan võ tướng trong triều đây không hết lòng trung can vì nước, ngặt bởi lâu nay chưa từng giao phong trên mặt biển nên sợ thất bại nhục đến quốc thể, mà chẳng dám đứng ra lãnh mạng đó thôi!

Vua Thành Tôn nói:

- Lời khanh tâu cũng có lý, song chẳng lẽ ta cứ ngồi khoanh tay để cho quân giặc đánh rốc vào kinh sư sao?

Lệ Minh Đường tâu:

- Theo thiển ý hạ thần thì ngày nay đã gần đến kỳ mưa tuyết, thế nào quân giặc cũng rút lui chờ sang năm mới tấn công nữa. Ta nên nhân cơ hội này ban chiếu ra khắp thiên hạ đặng chiêu mộ các anh hùng nghĩa hiệp bốn phương hiệp nhau thành một sức mạnh kéo binh ra giữa biển chiến đấu cùng địch quân. Trong việc chiêu mộ này, bất cần quan quyền hay dân giả, cũng không nệ lưu đồ tù tội, hễ ai có tài muốn ra gánh vác giang sơn thì hãy đến dinh Binh bộ ghi tên và dự khoa thí võ. Lúc bấy giờ bệ hạ sẽ chọn một vị đại thần cho làm chủ tọa đặng khảo sát, các môn võ nghệ , tuyển một võ Tấn sĩ. Khi đã được nhân tài rồi, bệ hạ hãy phúc duyệt tuyển một người đỗ võ Trạng nguyên phong làm Đại Nguyên soái, còn hai người võ Bảng nhãn và võ Thám hoa thì phong làm tả hữu Tiên Phong. Kỳ dư các tay võ Tấn sĩ kia đều được đi theo trận lập công. Cần nhứt, ngay bây giờ bệ hạ hãy giáng chỉ cho Binh bộ chọn sáu muôn binh rồi sai một viên đại tướng lo huấn luyện phương pháp thủy chiến, vì hạ thần nghe nói Phiên binh chỉ có năm muôn mà đánh mấy trận đều thắng cả, tuy vậy chúng cũng đã hoa tốn hết mấy muôn rồi, nếu ta muốn thắng , cần phải tập luyện thủy quân cho tinh thục. Xin bệ hạ hãy truyền chỉ cho quân Tuần phủ Sơn Đông phải lo sửa soạn đóng chiến thuyền. Cả thảy cho đủ vận tải sáu muôn binh mà để độ binh ra giữa biển giao chiến. Làm như vậy mới khỏi tổn hại bá tánh ở Đăng Châu, chẳng hay ý bệ hạ nghĩ sao?

Vua Thành Tôn nghe qua vừa ý, bèn phán:

- Lời khanh tâu hạp ý trẫm lắm, có làm như vậy thì mới dẹp yên được giặc Phiên, trẫm y theo lời tâu của khanh đấy .

Rồi vua Thành Tôn truyền cho Binh bộ y theo lời tâu của Lệ Minh Đường , thảo chiếu ban hành khắp thiên hạ. Vua còn dặn thêm:

- Trong tờ chiếu nên viết rõ: bất kể lưu đồ tù tội, hễ ai biết võ cứ vào dự thi, chỉ trừ có một mình Hoàng Phủ Thiếu Hoa là kẻ nghịch thần không thể nạp dung mà thôi.

Lệ Minh Đường nghe vua nói, giựt mình nghĩ thầm:

"Sở dĩ ta tâu như vậy là cốt để cứu lấy nhà Hoàng Phủ, mà bệ hạ cương quyết không nạp dung Thiếu Hoa thì kể ta bất thành rồi".

Lệ Minh Đường vội bước ra quì tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, thần thiết nghĩ đã là thánh ân thì phải rộng rãi bao dung như biển ttrời, dân mới phục. nếu bệ hạ chỉ trích một mình Hoàng Phủ Thiếu Hoa thì chẳng lẽ Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại chẳng bằng những kẻ lưu đồ tù tội khác hay sao? Hơn nữa, nếu bệ hạ làm như vậy sợ e nhân dân cho rằng bệ hạ hẹp lưỡng mà không hết lòng hy sinh. Xin bệ hạ hãy bao dung cho bất cứ một lưu đồ nào để daèn chúng thấy rõ lòng nhân từ đại độ của bệ hạ thì việc lớn lia mới thành.

Vua Thành Tôn cau mày gắt:

- Không thể được. Đã mấy đời Hoàng Phủ Kính hưởng lộc của triều đình mà phụng mạng đi bình Phiên lại phản tâm đầu hàng, rước giặc về đánh phá Đăng Châu , làm hại bá tánh khổ cực chẳng biết bao nhiêu mà kể. Lại khi trẫm sai quan ra bắt gia quyến họ Hoàng, Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại bỏ trốn đi biệt, chỉ bắt được có vợ và con Hoàng Phủ Kính thôi. Nhưng rồi khi Khâm sai giải qua núi Xuy Đài lại bị tên tướng giặc Vệ Dõng Đạt đón giết chết Khâm sai cướp tù xa. Trước đây trẫm đã sai Lưu Khuê Bích lãnh binh đi đánh dẹp, Vệ Dõng Đạt lại lập mưu bắt giam cầm, đến nay chưa biết Khuê Bích sống thác lẽ nào.Trẫm ngày đêm hằng căm hận, đợi đến khi bình xong giặc rồi, trẫm sẽ cho binh đến vây chặt Xuy Đài sơn bắt Vệ Dõng Đạt cùng vợ con Hoàng Phủ Kính phân ra muôn đoạn, để làm gương cho những kẻ phản nghịch sau này. Còn Hoàng Phủ Thiếu Hoa kia, trẫm đang cố ý truy tầm thì lẽ nào lại dung nạp.

Lệ Minh Đường tâu:

- Hạ thần từng nghe người ta ca tụng Hoàng Phủ Kính mấy lền đi bình giặc Bắc

Phiên và Thổ Phiên lập rất nhiều chiến công hiển hách. Ngày nay tuy rủi sa cơ bị giặc bắt lẽ nào lại chịu thất tiết qui hàng sao! hạ thần tin chắc rằng trong lúc hai bên giao chiến trên mặt biển, việc thám thính khó khăn nên không rõ thật hư đó thôi. Khi trước hạ thần còn ở Hồ Quảng đã từng nghe danh Hoàng Phủ Thiếu Hoa võ nghệ siêu quần, tinh thông thao lược. Người ấy mang một lòng trunh chánh , nếu nghe đặng chiếu chỉ cầu hiền, thế nào cũng thay họ đổi tên ra đầu quân dẹp giặc. Nếu bệ hạ quyết không dung nạp người thì e người tấn thối lưỡng nan rồi trở đi dầu Phiên tặc kéo về đánh phá Trung Nguyên thì xã tắc thêm nỗi nguy nan. Mong bệ hạ hãy thêm bạn bớt thù là hơn.

Vua Thành Tôn bấm trán suy nghị hồi lâu rồi nói:

- Lời khanh tâu cũng có lý , song chẳng lẽ Hoàng Phủ Kính không đầu hàng quân giặc và không dẫn giặc về đánh phá Đăng Châu mà quan tuần phủ Sơn Đông lại dám cả gan mạo tấu sao? Nếu nay trẫm cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa được đầu quân , như Thiếu Hoa có lòng trung cùng trẫm thì chẳng nói, bằng ngược lại, hắn có lòng , hắn có lòng tà vậy sẽ theo Hoàng Phủ Kính hợp với quân giặc trở về đánh phá thì biết liệu làm sao? Khanh là người trí thức hãy suy nghĩ cho chính chắcn xem nào.

Lệ Minh Đường tâu:

Bệ hạ đề phòng quá sâu xa nên lới e ngại như vậy, chứ theo thiển ý của hạ thần thì dám cam đoan Hoàng Phủ Kính không khi nào chịu đầu hàng giặc, còn Hoàng Phủ Thiếu Hoa làm gì cũng hết dạ tận trung vì nước, xin bệ hạ hãy y theo lời tâu của hạ thần, nếu sau này Hoàng Phủ Thiếu Hoa có phản trắc, hạ thần xin chịu toàn gia tru lục dể làm gương những kẻ mạo tấu.

Vua Thành Tôn gật đầu , nói:

- Theo lời trần tấu của khanh thì cũng có thể Hoàng Phủ Kính không hề chịu đầu hàng giặc. Còn riêng Hoàng Phủ Thiếu Hoa có phản nghịch hay không là do hắn chứ khanh đã lấy lẽ công bằng tiến cử, lẽ nào trẫm lại làm tội khanh sao!

Dứt lời, vua Thành Tôn truyền cho triều thần sửa tờ chiếu lại rồi ban hành khắp mười ba tỉnh trong nước. Lệ Minh Đường mừng rỡ, đoán chắc thế nào Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng ra đầu quân dẹp giặc.

Khi Lệ Minh Đường về đến phủ, Lương Giám tỏ ý phiền hà:

- Sao hiền tế lại đa sự lắm thế? Việc Hoàng Phủ Kính đầu hàng giặc , quan Tuần phủ Sơn Đông đã dângbiểu về trào quả quyết, mà nay hiền tế cả gan bảo cử, nếu sau này Hoàng Phủ Thiếu Hoa đem dạ bất trung thì khi không hiền tế mang họa.

Lệ Minh Đường nói:

- Tiện tế căn cứ trên quá trình hoạt động và tinh thần trung nghĩa của họ Hoàng Phủ, đoán chắc không khi nào Hoàng Phủ Kính lại chịu đầu hàng quân giặc đâu, chẳng qua lúc giao chiến trên mặt biển , việc do thám khó khăn nên mới xảy ra tình trạng cáo oan như vậy thôi. Nay tiện tệ hết sức bảo tấu như vậy là muốn cứu người trung lương rủi gặp hàm oan . Thế na éo rồi đây Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng ra đầu quân dẹp giặc, cứu thân phụ về triều để minh oan cho mà xem

Lương Giám nói:

- Dò sông dò bể chứ đau dễ dò lòng ? Nếu cha con Hoàng Phủ Thiếu Hoa quả thật là những kẻ phản nghịch thì có phải hiền tế chớ nên bảo tấu cho người phạm tội như vậy nữa, nguy hiểm lắm.

Lệ Minh Đường chắp tay nói:

- Lời nhạc phụ dạy rất phải, vậy từ này con nguyện tuân theo.

Sau đó Lệ Minh Đường cùng Tố Hoa dắt nhau lên Lộng Tiêu lầu, Tố Hoa đuổi nữ tỳ xuống hết rồi hỏi Lệ Minh Đường :

- Chẳng hay hôm nay vào chầu có việc chi mà về nhà quan Thừa tướng tỏ vẻ bất bình như vậy?

Lệ Minh Đường bèn thuật lại đầu đuôi mọi việc cho Tố Hoa nghe và nói:

Nếu Hoàng Phủ Thiếu Hoa không phải là chồng của chúng ta thì tội tình gì em phải lấy tánh mạng đứng ra bảo đảm như vậy. Chỉ vì Thừa tướng không rõ sự tình nên mới rầy la em. Thế nào rồi đây Hoàng Phủ Công Tử cũng được ra đầu quân rồi. Cái ngày mà chúng mình được gặp phu quân không xa đâu.

Tố Hoa nói:

Tiểu thơ đã vì Hoàng Phủ Công Tử mà hao mòn biết bao tâm lực, thế nào trời kia cũng phò hộ cho Hoàng Phủ Công Tử dẹp được giặc Phiên, cứu thân phụ về triều. Ôi! Cái ngày loan phụng hòa minh nó đẹp đẽ biết là bao.

Lệ Minh Đường nói:

- Ta cứ làm hết bổn phận thời thôi, còn hạnh phúc tương lai ra sao là do ở trời quyết định, ta không dám đoán trước được.

Rồi sau đó bốn năm hôm, bảng cầu hiền được treo khắp mọi nơi. lệ Minh Đường bảo bọn thơ lại:

- Việc chiêu mộ hiền thần này vô cùng quan trọng. Vậy hễ có ai đến đầu quân thì các ngươi không được làm khó dễ người ta và chỉ được thu khoản tiền tổn từ một trăm hai mươi đồng sắp xuống thôi. Nếu ta hay được kẻ nào thâu lên tiền hay làm khó dễ , ta sẽ chiếu theo hình luật trị tội.

Lúc bấy giờ dân chúng trong thành thấy bảng cầu hiền, liền kéo nhau đến xem đông như hội. Họ bàn tán với nhau:

- Phen này nếu ai có tài cao thì dù cho bạch đinh hay tù tội gì cũng có thể chiếm đặng chức võ Trạng nguyên.

Ai nấy cũng muốn tình nguyện tòng quân, nhưng nghĩ đến giặc có nhiều yêu thuật, lại phải vượt biển chiến chinh vô cùng nguy hiểm, nên cũng có nhiều người thối chí. Ngoài ra cũng có nhiều trang thiếu niên gan dạ không ngại yêu thuật, không kiêng sóng gió, họ lục tục kéo đến tình nguyện tòng chinh đông đảo

Lời bình:

- Xét về lịch sử Trung Hoa thì từ đời Đường đã nặng về các khoa thi. Lối chọn người, lối tiến cử nhân tài đều dùng các khoa thi mà tuey-"n lựa. Những người trong dân dã, nghèo nàn, dù có biệt tài đến đâu, nếu không được vào thi tuyển, và không được giai cấp quí tộc nâng đỡ, thì cũng khó được tuyển dụng vào lãnh vực quan trường. Đó là lối độc tài của gia cấp hoàng tộc, quí tộc, tiến đến một nền phong kiến hoàn bi. Nhưng ở truyện này , tác giả viết vào thời Nguyên, cái thời chính thể phong kiến đang thịnh hành , mọi tầng lớp bình dân bị áp bức , đè bẹp , làm gì có lối tiến cử người bằng lối rao biểu cầu hiền? Điểm này chẳng qua tác giả đã dùng lối tuyển lựa người ở các thế hệ trước, mà tạo cho cốt truyện để có một lối giải quyết, đưa Hoàng Phủ Thiếu Hoa vào lãnh vực quan trường, để sau này tạo thành một câu chuyện tình duyên gây cấn trong cung vàng điện ngọc.

Tác giả đã tạo ra một cái thế quẩn bách, quân giặc đánh thốc vào thành, vua nhà Nguyên phải cầu cứu trong dân dã thật là một điểm sai với lịch sử. Nhà Nguyên chiếm cả lục địa Tung Hoa, còn nước Phiên, một chư hầu nhỏ , làm gì có chuyện lạ lùng như vậy!

Tuy vậy , bố trí câu chuyện thúc ép , tác giả đã nói lên được lòng yêu nước của anh chàng Hoàng Phủ Thiếu Hoa, dù cha mình bị triều đình bắt tội hàm oan, dù mình là kẻ đang bị triều đình truy nã, trong lúc quốc biến gia vong không nghĩ đến thù riêng mà nghĩ đến sự tồn vong của đất nước. Mặt khác , mối tình của Hoàng Phủ Thiếu Hoa là một mối tình chớm nở trong cung điện , con tim Hoàng Phủ Thiếu Hoa không thể nào không mơ ước chốn cung vàng điện ngọc ấy, đó là dộng lực làm cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa yêu nước, quên thù nhà, tạo cho con người Thiếu Hoa một đức tánh anh hùng vậy

Hồi Thứ Ba Mươi Sáu

Núi Hoàng Hạc, thầy trò giã biệt

Chốn Xuy Đài, mẫu tử trùng phùng.

Nhắc lại Hoàng Phủ Thiếu Hoa cùng Hùng Hiệu ở tại Hoàng Hạc sơn, ngày đêm chăm lo luyện tập võ nghệ, không một phút lãng xao.

Hôm ấy Hoàng Hạc ông đang ngồi, xảy thấy một luồng gió thổi tạt qua mặt , ông ta biết ngay là điềm lạ, liền ngửa tay đoán quẻ rồi gọi Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Hùng Hiệu vào bảo:

- Hiện nay giặc Phiên đang đánh phá dữ dội nên triều đình treo bảng cầu hiền, định đến tháng hai sang năm thì mở khoa thi võ đặng chọn một vì võ Trạng nguyên làm Đại Nguyên soái lãnh binh đi bình giặc. Vậy bây giờ đây là lúc thời vận hai người đã đến, hãy trở về đặng đến kinh đầu quân lập công kẻo lỡ cơ hội tốt.

Hùng Hiệu chắp tay thưa:

- Bẩm sư phụ, đệ tử thường dạo chơi trông thấy xung quanh đây toàn là biển cả mênh mông thì làm sao về cho được.

Hoàng Hạc Tiên ông mỉm cười nói:

- Điều ấy người chớ lo. Ta đã bảo , tất nhiên có lối cho ngươi đi chớ!

Hùng Hiệu và Hoàng Phủ Thiếu Hoa đồng thưa:

- Quân Phiên có yêu thuật , làm sao chúng con đối địch nổi?

Tiên ông thản nhiên đáp:

- Ta sẽ có bửu bối cho các người để phá phép chúng mà lập công.

Nói dứt lời, Hoàng Hạc Tiên ông sai tên tiểu đồng vào phòng lấy ra bốn món bửu bối, rồi Tiên ông cầm từng món giải thích:

- Đây là Phi diện chùy, hễ ra trận gặp Thần Võ Đại Nhơn cứ việc dùng chùy này mà đánh với hắn , còn đây là Pha Lãnh cảnh , khi thấy đối phương ném yêu thuật ra cứ việc lấy chiếu ra thì dù cho sóng gió hay khói lửa đều tiêu tan mất hết. Hai món này ta giao cho Thiếu Hoa sử dụng.

Rồi Tiên ông trao cho Hùng Hiệu hai món bảo:

- Cây kiếm này gọi là Trảm xà kiếm và cây roi này gọi là Hóa Long tiên, người hãy cất kỹ, khi ra trận gặp yêu thuật lấy ra sử dụng có hiệu quả ngay.

Hai người cúi đầu lạy tạ rồi lãnh bửu bối. Tiên ông còn phát cho mỗi người một đạo bùa hộ thân. Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại hỏi:

- Thưa sư phụ, chẳng hay Thần Võ Đại Nhơn ấy vốn là chi mà tác oai tác quái nguy hiểm quá vậy?

Hoàng Hạc Tiên ông nói:

- Hắn chính là đồ đệ của Long Sơn Lão tổ và cũng là độ đệ của ta đấy, vì hắn có tánh tham lam sắc dục nên Long Sơn Lão tổ mới đuổi xuống núi. Nay hắn ra giúp chúa giặc dấy loạn là do máy trời sắp đặt.

Nói đến đây, Tiên ông lấy ra một cái cẩm nang trao cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa và căn dặn:

- Con đi dẹp giặc phen này, tất nhiên Thần Võ Đại Nhơn phải thua và khi hắn đã thua, nhất định thừa đêm tối đến hành thích, vậy ta cho con cái Hồng cẩm sách này để dùng bắt nó, nhưng bắt đặng rồi con chớ nên giết chết. Con hãy giở cẩm nang này ra lấy một phong thơ trao cho nó, bảo nó đem về dâng cho Long Sơn Lão tổ. Chừng ấy nó sẽ khuyên chúa giặc đầu hàng trả Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán cho con, và nó sẽ trở về núi tu luyện lại.

Nghe Tiên ông nói, Thiếu Hoa mừng quá hỏi:

- Nói vậy thì thân phụ con hiện nay còn sống sao?

Tiên ông gật đầu:

- Đúng đấy, thân phụ của ngươi trọn lòng thủ tiết, bấy lâu nay chỉ bị giặc giam cầm mà thôi.

Thế là nỗi vui mừng của Hoàng Phủ Thiếu Hoa không biết kể sao cho xiết, chàng vội vã lạy tạ Hoàng Hạc Tiên ông , rồi cùng Hùng Hiệu lo thu xếp hành trang xuống núi.

Lạ thay, khi xuống đến chân núi thì không còn trông thấy biển rộng mênh mông như trước nữa mà xung quanh toàn là đất liền cỏ cây xanh mịt

Hùng Hiệu mừng rỡ nói:

- Ta cứ xem nội việc này đủ biết sư phụ ta pháp thuật thân thông đến bực nào rồi!

Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng nức tiếng khen, rồi cả hai tìm lối lần đi.

Nói qua việc nhà của Hùng Hiệu, từ ngày Hùng Hiệu ra đi tầm sư học đạo, Từ thị ở nhà đến ngày mùng ba tháng tư trổ sanh được một đứa con trai đặt tên là Hùng Hoài, tự là Khởi Phụng, nhưng Từ thị lâm sản được ít lâu thì lâm bịnh nặng qua đời, may có vợ chồng Từ Nguyên Thiện qua trông nom công việc nhà cửa và mướn hai người vú về nuôi Khởi Phụng. Mãi đến tháng chạp năm ấy, Hùng Hiệu và Thiếu Hoa mới về đến nhà.

Cả nhà vừa trông thấy mừng rỡ chạy ra tiếp đón và hỏi thăm:

- Ôi chao, sao mãi đến hôm nay chủ nhơn mới về? Thôi thế là chủ nhơn không còn thấy mặt phu nhơn nữa rồi!

Hùng Hiệu nghe qua thất kinh , hỏi:

- Có phải phu nhơn tạ thế trong khi lâm sản không?

Gia nhơn nói:

- Thưa không phải thế. Sau khi lâm sản, phu nhơn lâm trọng bịnh mãi nữa năm mới qua đời, hiện nay linh cữu còn quàng nơi nhà trong đợi chủ nhơn về mới mai táng.

Hùng Hiệu nghe qua như đứt từng khúc ruột, còn Thiếu Hoa thì âu sầu buồn bã vô cùng. Cả hai đi thẳng vào nhà trong.

Đến nơi, trông thấy một cỗ quan tài bên trên có tấm linh vị đề một hàng chữ: "Hùng môn chánh thất phu nhơn chi linh vị"

Hùng hiệu quá đỗi thương tâm, nhào lăn ra ôm chiếc quan tài khóc rống lên, nói:

- Khi ta bước chân ra đi, những tưởng tìm cách làm cho vợ chồng đặng hiển vinh sau này, ngờ đâu ngày nay vợ chồng âm dương cách biệt. Ôi! Trong cơn đau yếu ta chẳng đặng gần gũi thuốc thang, đến khi tạ thế lại không thấy mặt ta, nỗi đau đớn này kể sao cho xiết.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng động lòng khóc than:

- Hiền tẩu ơi! Việc này cũng do bởi kẻ bất tài nên khiến cho hiền tẩu phải vợ chồng xa cách. Ôi! Kẻ bất tài này xin cam thọ tội, nếu hiền tẩu có linh thiêng , xin thương tìng tình dung thứ.

Lúc ấy vợ chồng Từ Nguyên Thiện hay tin anh em Hùng Hiệu về, mừng rỡ vội đến thăm. Vừa bước vào nhà đã trông thấy anh em Hùng Hiệu ôm quan tài con gái mình khóc lóc thì cả hai ông bà đau lòng không xiết, nhưng gượng bước đến khuyên giải:

- Tiện nữ tạ thế đây gẫm cũng do thiên số, nếu có hiền tế ở nhà cũng không thể nào sữa đổi số trời đưỡc, vậy chớ nên than khóc lắm làm chi.

Hùng Hiệu và Hoàng Phủ Thiếu Hoa đều gạt nước mắt ngồi xuống ghế. Kế đó, mụ vú ẵm Hùng Hoài ra, Từ Nguyên Thiện chỉ Hùng Hoài, nói:

- Con ra chào đời, mãi đến hôm nay mới gặp mặt cha đấy.

Hùng Hiệu trông thấy đứa bé mày xanh mắt sáng, dung mạo đoan trang, lại càng nhớ vợ hơn nữa, chàng vói tay bế Hùng Hoài ẵm vào lòng rồi khóc nức nở.

Từ Nguyên Thiện bèn kể lại chuyện lúc Từ thị sắp lâm chung và những lời Từ thị trối dặn lại. Hùng Hiệu cùng Thiếu Hoa nghe qua càng thêm cảm động thương xót vô cùng.

Từ Nguyên Thiện hỏi:

- Chẳng hay hiền tế và Lữ Lăng đây đã tìm học được tiên thuật chưa? Vừa rồi triều đình có treo bảng cầu hiền chọn người làm chức võ Trạng Nguyên đặng phong làm Đại Nguyên soái đi đánh giặc. Các anh hùng hào kiệt khắp nơi trong nước đua nhau đến kinh ghi tên ứng thí, nếu hiền tế và Lữ Lăng đây đã học được tiên thuật, hãy mau mau đến kinh ứng thí để lập công với đời, kẻo mất dịp may hiếm có này thì uổng lắm.

Hùng Hiệu thở dài than:

- Chúng tôi đã học được tiên thuật, nhưng thiết nghĩ con người ở đời cũng như giấc chiêm bao, còn công danh phú quí tựa đám phù vân. Bây giờ đây tôi cảm thấy chán nản, chẳng muốn điều chi nữa cả.

Từ Nguyên Thiện nói:

- Hiền tế chớ nên vì một mối tình phu phụ mà quá thương tâm nản chí sờn lòng, thiết tưởng cái chết của người đời là do nơi mạng số. Hãy xem đất mà an táng tiện nữ đi, rồi về kinh cho kịp kỳ ứng thí kẻo dở dang nước bước anh hùng, về sau hối hận không còn kịp nữa đấy.

Sau đó Hoàng Phủ Thiếu Hoa lui ra nhà khách, Lữ Trung chạy đến nắm tay, mừng rỡ kể lại sự tình cách biệt nhớ nhung một hồi và nói:

- Từ ngày công tử ra khỏi nhà này thì vợ chồng Từ Nguyên Thiện đến đây muốn xua đuổi tôi đi, đã mấy lần tôi muốn tìm chốn khác náu nương, nhưng chỉ sợ công tử về đây không gặp nữa nên ráng trì chí nhẫn nhục ở cho đến ngày nay, thật cam khổ vô cùng.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Hồ thị là đàn bà kiến thức hẹp hòi, chúng ta cũng chẳng nên chấp nhứt làm chi. Nhưng chẳng hay phu nhơn và tiểu thơ từ khi bị Khâm sai bắt giải về kinh ra thế nào , ngươi có hay tin tức gì không?

Lữ Trung nói:

- Việc ấy, hằng ngày tôi thường quan tâm dọ hỏi nên biết được rằng: Khi Khân sai giải phu nhơn và tiểu thơ về kinh , đi ngang qua núi Xuy Đài, xảy có tên tướng giặc là Vệ Dõng Đạt đón đường giết chết Khâm sai và cứu phu nhơn cùng tiểu thơ đem lên núi. Tôi còn biết rõ Vệ Dõng Đạt là tay thiếu niên hào kiệt năm nay tuổi độ hai mươi.

Thiếu Hoa nghe nói nghĩ thầm:

"Tại sao thân mẫu ta lại không suy lượng, thế thường những quân cường sơn thảo khấu bao giờ lại có lòng trọng nghĩa đâu. Nay hắn đem chị ta lên núi, gái trai hỗn, tạp như vậy, sau này tiếng tăm ấy thấu đến tai thiên hạ thì tiếng xấu ấy biết mấy sông rửa cho sạch?".

Thiếu Hoa còn đang suy nghĩ, Lữ Trung nói tiếp:

- Vừa rồi đây triều đình có treo bảng cầu hiền, cũng may công tử về kịp , xin công tử mau mau về kinh ứng thì kẻo lỡ cơ hội.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Đó chính là mối hy vọng của ta mong tưởng bấy lâu nay

Hai người trò chuyện với nhau mãi đến canh ba mới đi nghỉ.

Sáng hôm sau, Hùng Hiệu mua đồ làm lễ tế Từ thị, Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng lạy khóc rất thảm thê, tế xong , Từ Nguyên Thiện, Thiếu Hoa cùng Hùng Hiệu đồng uống rượu.

Thiếu Hoa hỏi Hùng Hiệu:

- Hiền huynh định an táng cho hiền tẩu xong rồi thì ngày nào cùng em đến kinh kỳ để ghi tên ứng thí?

Hùng Hiệu nghe nói, thở dài than:

- Tôi nghĩ hiền thê tôi đây mới có hai mươi mốt tuổi đầu mà đã hóa ra người thiên cổ. Thế thì con người ở trên đời này như kiếp phù du, tôi không còn thiết gì đến công danh phú quí nữa. Vả lại nay việc gia đình tôi rất đơn chiếc, trong ngoài không quản thủ thì đi làm sao được. Duy việc lập công cứu thân phụ của hiền đệ rất cần thiết, vậy hiền đệ hãy sửa soạn kịp ra đi kẻo lỡ cơ hội mất.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe nói thất Kinh:

- Nếu hiền huynh không đi cùng với em để giúp sức thì làm sao thành công được.

Hùng Hiệu lắc đầu nói:

- Bây giờ tâm trí của tôi đang rối bời, nếu có đi cũng không làm nên chuyện đâu.

Từ Nguyên Thiện thấy Hùng Hiệu quyết chí như vậy, vội khuyên giải:

- Từ lúc tiện nữ thọ bệnh thường bảo hiền tế là người tướng mạo phước hậu , thế nào sau này cũng phú quí vinh hoa. Ngày đêm tiện nữ cứ than thân trách mình sao phước bạc, không được hưởng phú quí về sau. lại khi tiện nữ sắp lâm chung còn trối lại rằng: sau khi tiện nữ thác rồi thì hiền tế lo tìm người chấp nối để coi sóc việc nhà, mới có điều kiện đi lập công danh. Nếu hiền tế được hiển vinh , tiện nữ dưới suối vàng cũng ngậm cười sung sướng. Hơn nữa ta đây năm nay tinh thần vẫn còn tráng kiện, cũng có thể sang đây trông hộ việc nhà cho hiền tế. Hiền tế hãy cùng bạn lo sắp sửa hành lý, lướt dặm đến kinh may ra lập đặng công danh để khỏi phụ lòng ao ước của linh hồn tiện nữ dưới suối vàng. Và nếu được như vậy lão phu đây cũng được chút thơm lây.

Hoàng phủ thiếu Hoa cũng xen vào nói:

- Nếu hiền tẩu đã trối lại muốn cho hiền huynh lập công danh thì thiết tưởng hiền huynh cũng nên gắng công đeo đuổi , để khỏi phụ lòng người quá cố đang mong ước dưới suối vàng .

Hùng Hiệu nghe nói, trong lòng ngần ngại , Từ Nguyên Thiện phải khuyên giải mãi mới chịu nghe lời.

Sau đó Hùng Hiệu rước thầy địa đi xem đất để cất táng hài cốt Từ thị. Việc ma chay tiến hành đến mười ngày sau mới xong. Hùng Hiệu sắp đặt công việc, đồng thời thưởng bạc cho hai mụ vú và giao phó việc chăm sóc Hùng Hoài cho hai người, còn việc nhà thì giao cho Từ Nguyện Thiện cai quản.

Lúc bấy giờ đã gần cuối tháng chạp, ngày giờ quá cận, nên khi sắp đặt mọi việc vừa xong thì khởi hành chứ không coi ngày gì cả .

Hùng Hiệu với Hoàng Phủ Thiếu Hoa cỡi ngựa, còn Lữ Trung thì già yếu cỡi ngựa không tiện nên gánh hành lý lội bộ theo sau. Trên đường đi, Thiếu Hoa nói với Hùng Hiệu:

- Không biết vì cớ chi mẹ và chị tôi lại đem thân vào ở chốn lục lâm, thật tôi vô cùng lo ngại nên tôi muốn thẳng đến Xuy Đài sơn để xem cớ sự thế nào cho biết.

Hùng Hiệu đáp :

- Hiền đệ nghĩ như vậy phải lắm, nhưng tôi thiết nghĩ phu nhơn là một vị mạng phụ của triều đình thì khi nào lại chịu hạ phẩm giá mình theo bọn lục lâm , chắc việc này phải có duyên cớ chi đây, chúng ta nên đến đó xem sao, và tiện đường thẳng tới kinh sư cũng tiện.

Hai người vừa đi vừa chuyện vãn, chẳng mấy chốc đã đến Xuy Đài sơn, Hùng Hiệu và Thiếu Hoa gò cương ngựa lại và đứng ngắm xem địa thế. Thấy núi cao chớm nở, đá dựng chầm chồng, chim kêu vượn hú, vắng vẻ không có một bóng người . Lữ Trung nói:

- Lạ thật, đây là quả núi Xuy Đài , nhưng sao lại lại không có một ai thấp thoáng cả.

Lữ Trung nói dứt lời, xảy thấy từ trong bụi nhảy ra một tốp lâu la, binh khí trên tay sáng ngời, chúng hét to:

- Các ngươi ở đâu, đến đây có việc gì, phải nói cho minh bạch, bằng không chúng ta không dung mạng cho đấy.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa hỏi:

- Tại trên núi này có Vệ Dõng Đạt ở phải không?

Lâu la nói:

- Vệ Dõng Đạt là Đại vương của chúng ta, ngươi muốn chết hay sao lại hỏi thăm ?

Thiếu Hoa nói :

- Các ngươi hãy về thưa lại với Đại vương các ngươi biết rằng có ta là Hoàng Phủ Thiếu Hoa đến đây muốn xin vào yết kiến.

Lâu la nghe nói cười và hỏi :

- Nói vậy người là Hoàng Phủ Công tử đó sao ? Bấy lâu nay Đại vương chúng tôi thường nhắc nhở đến công tử hoài, vậy xin phiền công tử hãy đứng đây để chúng tôi chạy về thông báo.

Dứt lời, bọn lâu là chạy thẳng vào tụ nghĩa đường , phi báo cùng Vệ Dõng Đạt :

- Bẩm Đại vương, hiện dưới chân núi có hai hào kiệt, một trong hai người ấy xưng là Hoàng Phủ Thiếu Hoa muốn xin lên yết kiến Đại vương.

Vệ Dõng Đạt nghe nói mừng rỡ, vội lên ngựa xuống núi nghinh tiếp.

Khi Vệ Dõng Đạt xuống vừa lưng chừng núi, bọn lâu la ở dưới đưa tay chỉ và nói cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa :

- Kia kìa, Đại vưong chúng tôi thân hành xuống tiếp công tử đấy.

Hùng Hiệu và Thiếu Hoa ngước mắt nhìn lên trông thấy Vệ Dõng Đạt thì thất kinh nói nhỏ với nhau :

- Lạ thật ! Ai mà ngờ được trong chốn lục lâm này lại có người tài mạo thế kia.

Rồi người liền xuống ngựa đứng chờ. Thiếu Hoa thầm nghĩ:

"Nếu thân mẫu có đem chị ta gả cho người này cũng đẹp đôi vừa lứa lắm"

Vệ Dõng Đạt xuống đến chân núi nhìn thấy Thiếu Hoa có gương mặt giống Trưởng Hoa Tiểu thơ như đúc, còn Hùng Hiệu thì lẫm lẫm oai phong , biết ngay hai người này đều là những trang anh hùng tuấn kiệt, bèn nhảy xuống ngựa vái chào.

Hùng Hiệu và Thiếu Hoa cũng lễ phép chào lại. Thiếu Hoa nói:

- Thân mẫu và gia tỷ tôi được người ra tay cứu mạng, ân ấy thật ví bằng công biển.

Vệ Dõng Đạt nói:

- Hiện tôi đã nhận phu nhơn làm mẹ rồi nên đối với hiền đệ cũng là anh em một nhà, xin chớ đề cập đến việc ân nghĩa làm chi.

Vệ Dõng Đạt liếc nhìn Hùng Hiệu rồi hỏi Thiếu Hoa :

- Chẳng hay vị anh hùng này là ai vậy?

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:- Người này họ Hùng tên Hiệu tự là Hữu Hạc, đã thi đỗ võ Cữ nhơn, lại là một phú hộ, quê ở huyện Bình Giang , tỉnh Hồ Quảng khi tôi đi lánh nạn, may gặp người cứu giúp và cùng nhau đi tầm tiên học thuật. Hôm nay chúng tôi định xuống kinh ứng thí.

Vệ Dõng Đạt nghe qua gật đầu ra vẻ thán phục nói với Hùng Hiệu :

- Nếu vậy thì ngài quả là một bậc đại danh hào kiệt, đáng cho mọi người kính trọng.

Hùng Hiệu mỉm cười nói bằng giọng khiêm nhường :

- Tôi đây học thiển tài sơ, đỗ được cái chức Võ Cử nhơn là nhờ sự may mắn đó thôi, tôi đâu dám bì với Đại vương được.

Rồi ba người cùng Lữ Trung dắt nhau lên núi, vào ngồi đàm đạo tại tụ nghĩa đường.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Xin nhị vị hãy ngồi đây chuyện vãn, để tôi vào bái yết thân mẫu và gia tỷ tôi một chút.

Vệ Dõng Đạt nghe nói liền sai người đưa Thiếu Hoa và hậu đường? Lúc ấy, Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ đang ngồi trò chuyện, xảy thấy Thiếu Hoa chạy vào khóc rống lên, nói:

- Bấy lâu nay con mãi đi lánh nạn phương xa, không được sớm khuya hầu hạ thân mẫu, thiệt là tội lỗi tày trời!.

Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa trông thấy Thiếu Hoa cũng vô cùng xúc động, tủi nghẹn không nói nên lời. Thiếu Hoa quì xuống lạy phu nhơn và tiểu thơ. Kế đó Lữ Trung cũng chạy vào mừng rỡ thưa:

- Lão nô không ngờ ngày nay lại được gặp phu nhơn và tiểu thơ nơi đây, nỗi vui mừng này thật là vô hạn.

Doãn Phu nhơn nói:

- Người đã hết lòng vì ta lo dìu dắt công tử, chịu biết bao nhiêu nỗi khổ nhọc trên bước đường luân lạc, công ơn ấy ta nguyện không bao giờ quên.

Dứt lời, Doãn Phu nhơn liền bảo nữ tỳ dắt Lữ Trung ra ngoài dọn rượu thịt đãi đằng tử tế. dau đó , Doãn Phu nhơn bày tỏ dầu đuôi mọi việc, từ khi bị Khâm sai đến bắt cho đến việc nhờ Vệ Dõng Đạt cứu thoát đem về rồi chịu làm nghĩa tử v..v..

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Vệ Dõng Đạt quả là người tài mạo hiếm có trên đời, nhưng chẳng biết là trang hào kiệt đang độ xuân xanh sao lại đến chốn lục lâm này làm kẻ lục lâm thảo khấu như vậy?

Doãn Phu nhơn nói:

- Người cũng là hạng quan gia tử đệ, song người đến đây làm đầu đảng một số lâu la như vầy chẳng qua là vì hoàn cảnh nên ngộ biến tùng quyền đó thôi, còn phần con thì từ đó đến nay luân lạc phương nào và bây giờ định đi đâu đây?

Hoàng Phủ Thiếu Hoa bèn thuật lại từ lúc ra khỏi nhà đến khi gặp được vị bằng hữu bảo tâm Hùng Hiệu , rồi cùng nhau đi tầm sư học thuật. Chàng nói:

- Hùng Hiệu quả là người bạn tốt, người đã một lòng vì bạn quên nhà, người dìu dắt con đi tầm tiên học đạo, để đến nỗi vợ nhà lâm chung mà không hay biết, đến nay người còn theo giúp đỡ con ra đầu quân dẹp giặc đặng cứu thân phụ con về triều. Thật cái ơn cao dày ấy chẳng biết đến bao giờ con mới báo đáp được.

Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ nghe rõ lấy làm cảm kích Hùng Hiệu muôn phần, nên muốn ra lạy tạ ơn Hùng Hiệu , Thiếu Hoa liền ra nói trước cho hùng Hiệu biết.

Hùng Hiệu nghe qua thất kinh, nói:

- Ôi chao! Tôi có công lao gì đâu mà phu nhơn đòi ra lạy tạ tôi như vậy?

Hùng Hiệu nói vừa dứt lời thì Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ ra đến. Phu nhơn nói:

- Chẳng may nhà tôi lâm đại nạn, lại làm lâm lụy đến tiên sanh, làm cho tiên sanh phải lìa vợ con, bỏ nhà cửa sản nghiệp cùng với tiện nhi ra đầu quân giết giặc để cứu phu quân tôi về nước. Thất cái ơn sâu ấy dầu tôi có kết cỏ ngậm vành cũng không đền đáp nổi.

Nói dứt lời, Doãn Phu nhơn cùng Trưởng Hoa Tiểu thơ liền thụp lạy Hùng Hiệu để tỏ lòng biết ơn. Hùng Hiệu hỏng kinh vội bước trái sang một bên rồi giơ tay đỡ phu nhơn dậy.

Doãn Phu nhơn bảo Vệ Dõng Đạt:

- Con hãy vì mẹ mà thết một tiệc rượu để tỏ lòng biết ơn người.

Vệ Dõng đạt nói:

- Việc ấy chính là bổn phận của con, xin thân mẫu và hiền muội chớ lo. Xin thân mẫu hãy về phòng an nghĩ.

Doãn Phu nhơn cùng Trưởng Hoa Tiểu thơ từ giã lui ra. Độ một lát sau, lâu la đã dọn xong tiệc rượu, ba người cùng nhau ăn uống và đàm luận võ nghệ, trông thật tương đắc.

Tiệc rượu vui say mãi đến hết canh mới tan. Hoàng Phủ Thiếu Hoa liền xin phép Hùng Hiệu đặng vào hậu trại nói chuyện với phu nhơn . Hùng Hiệu vâng lời , lâu la đốt đèn đưa Thiếu Hoà vào trong; còn Vệ Dõng Đạt tuy có lòng quí mến Hùng Hiệu, song chẳng dám cầm ở lại chung một phòng với mình, vì sợ ngày sau mang tiếng, nên sai người đưa Hùng Hiệu ra nghỉ nơi nhà khách.

Đêm hôm ấy, Vệ Dõng Đạt nằm trằn trọc ngủ không yên giấc, nàng trộm nghĩ:

- " Chẳng biết duyên nợ ta ngày sau ra thế nào? Ôi ! Việc trăm năm là do trời đã định sẵn, dù thế nào ta cũng phải cam. Nhưng ...Nếu mai sau ta được kết duyên cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa hay được cùng Hùng Hiệu thì ta cũng thỏa lòng".

Hoàng Phủ Thiếu Hoa vào đến hậu trai, nói với phu nhơn:

- Chị con nay đã trưởng thành rồi mà con thấy Vệ Dõng Đạt tài mạo kiêm toàn, lại là người ơn của nhà ta nữa, vậy thân mẫu cũng nên gả chị cho người, con thấy rất đẹp đôi vừa lứa đấy.

Doãn Phu nhơn phì cười, nói:

- Con lầm rồi! Vệ Dõng Đạt chính là nữ lưu cải dạng nam trang đấy, chứ nếu quả là nam nhơn thì mẹ đây đã tự vận từ lâu rồi chứ dâu có thể chịu nhẫn nhục cho đến ngày nay, vì mẹ con ta đây đều là hạng thế phiệt danh gia nào lại chịu cái cảnh nam nữ hỗn tạp sao?

Thiếu Hoa nghe mẹ nói vậy, thất kinh nói:

- Ôi chao! Ai ngờ đâu trên đời này lại có hạng gái mạo hiểm đến thế ! Thân liễu bồ mà dám cả gan nương tựa chốn sài lang, lại có cử chỉ anh hùng xưa nay chưa từng thấy. Chẳng những nàng đứng đầu trong giới nữ lưu mà thôi, con dám chắc hàng nam tử cũng khó bì kịp. Thưa mẫu thân, nàng là con gái của ai vậy ?

Doãn Phu nhơn nói :

- Nàng tên là Dõng Nga, con gái của tiên phong Vệ Hoán đấy.

Rồi bà kể hết tình cảnh của nàng và lý do nàng đến cầm đầu bọn lâu la chốn Xuy Đài sơn này. Trong khi kể chuyện , bà không quên giới thiệu lòng can đảm và chí khí anh hùng của nàng.

Rồi bà hạ giọng nói :

- Năm nay Vệ Dõng Nga mới mười chín tuổi, vả lại ngày nay mạnh Lệ Quân đã chết rồi, nếu ngày sau con cứu được thân phụ con về triều rồi thì con hãy cưới nàng làm vợ, mẹ đây mới thỏa tấm lòng. Mẹ biết rõ ràng nàng là người hiền đức, đáng làm dâu nhà ta.

Lời bình :

- Những cuộc cướp ngôi, nhiều lớp hưng phế do hoàng thân ngoại thích, hoặc do những quyền thần từ triều đại này dến thời đại khác không bao giờ dứt. Nhưng những bộ truyện viết về tình ái rất ít. Vì các chế độ vua quan không ai muốn bươi móc những cái thối tha trong cung vàng điện ngọc để cho người sau thấy được.

- Về thời Nguyên, những khuôn khổ của các nữ lưu tuy vẫn còn nằm trong khuôn vàng thước ngọc, nhưng ý thức dân chúng , chuyền hình qua tác giả đã bắt dầu phá vỡ quan niệm « khuê môn bất xuất ». Giới nữ lưu đã bắt đầu sánh vai với nam tử đem tài năng mình phụng sự quốc gia. Một Mạnh Lệ Quân làm đến Binh Bộ Thượng thơ, một Vệ Dõng Nga, trở thành tên chủ tướng cướp...Phủ dưới lớp áo ngụy trang , chẳng phải là ý thức phá bỏ bức tường « khuê môn » sao ?

Như vậy ý thức bình đẳng giữa nam, nữ đã có từ thuở ấy, chứ không phải đợi đến thế kỷ này ý thức nam nữ bình đẳng mới phát sinh.

Tuy nhiên, thời bấy giờ dù có một tư tưởng mới, nhưng nẩy nở trong chỗ phôi thai, thế nào cũng bị nguồn lễ giáo cổ truyền chèn ép.

Việc cải nam trang điển hình cho khuôn phép thời xưa, bên trong chứa đựng một ý thức đua tài giữa chốn ba quân, đó là triệu chứng của lớp nữ lưu muốn cởi bỏ xiềng xích lễ giáo của mình.

Cho nên mặc dù câu chuyện bịa đặt, nhưng không phải vô căn cứ, nó bắt nguồn ở một ý thức nào đó, mà chúng ta không thể từ chối việc tiến bộ của tư tưởng và xã hội thời bấy giờ.

Hồi Thứ Ba Mươi Bảy

Quan Binh bộ trông chồng ra ứng cứ

Chàng Thiếu Hoa đổi tên quyết lập công

Nghe nói Mạnh Lệ Quân chết, Hoàng Phủ Thiếu Hoa điếng người đi vội hỏi :

- Tại sao thân mẫu ở đây lại biết rõ Mạnh lệ Quân chết? Và nàng chết trong trường hợp nào?

Doãn Phu nhơn bèn thuật lại chuyện Lư Khuê Bích bị bắt và làm tờ cung trạng thú nhận những hành động gian ác của hắn đã làm, rồi bà lấy tờ cung trạng ấy trao ra cho Thiếu Hoa xem.

Thiếu Hoa xem xong lại hỏi:

- Thế bây giờ Lưu Khuê Bích ở đâu?

Doãn Phu nhơn nói:

- Khi mới bắt đặng hắn về thì chị con muốn banh da xẻ thịt hắn ra cho đã giận, nhưng Vệ Dõng Đạt sợ sau này triều đình quở trách nên còn giam cầm ở sau ngục, đày đọa nó phải chịu trăm bề cực khổ.

Thiếu Hoa nói:

- Con người gian ác như hắn, dầu có khổ nhục đến đâu cũng chưa đáng tội, chỉ thương thay cho Mạnh Lệ Quân , bởi nhà ta mà phải gieo ngọc trầm châu.

Doãn Phu nhơn nói:

- Sau này con có lập được công danh thì hãy tâu với triều đình truy tặng cho nàng để đền đáp lại tấm lòng tiết liệt ấy.

Thiếu Hoa than thở:

- Sự tiết nghĩa của nàng đối với con, dù cho non mòn biển cạn, con cũng chẳng khi nào dám quên ơn.

Mẹ con chuyện vãn mãi đến hết canh tư mới tắt đèn an giấc.

Hôm sau, Thiếu Hoa cùng Hùng Hiệu ra tụ nghĩa đường đàm đạo với Vệ Dõng Đạt. Một lát, lâu la dọn tiệc lên, ba người cùng nhau ăn uống chuyện trò vui vẻ.

Vệ Dõng Đạt hỏi:

- Chẳng hay nhị vị định đi đâu bây giờ?

Thiếu Hoa đáp:

- Tôi muốn cải họ tên đặng xuống kinh kỳ xin đầu quân.

Vệ Dõng Đạt nói:

- Tôi có nghe triều đình treo bảng cầu hiền, muốn xuống kinh sư đầu quân nhưng lại sợ triều đình đã không bằng lòng dung nạp lại bắt tội nữa thì nguy. Vậy nếu nhị vị xuống kinh có lập được công danh, xin hãy tâu cùng thiên tử xá tội và cho tôi làm tiền bộ tiên phong, để lãnh binh đi dẹp giặc thì tôi cảm đội ơn nhị vị vô cùng!

Thiếu Hoa và Hùng Hiệu đồng thanh đáp:

- Hiền huynh đã hết lòng trọng đãi phu nhơn và tiểu thơ bấy lâu nay, cái ơn ấy rất cao dày. Nếu chúng tôi đi chuyến này may ra có lập được công danh, thế nào cũng thân tấu với triều đình để bảo cử hiền huynh có điều kiện trổ tài với thiên hạ.

Vệ Dõng Đạt nghe nói mừng rỡ, nói với Thiếu Hoa:

- Hiện nay Lưu Khuê Bích bị tôi bắt được đang giam cầm sau hậu lao, hắn chính là kẻ đại cừu của công tử, chẳng hay công tử muốn trông thấy mặt hắn không?

Thiếu Hoa nói:

- Khi hôm thân mẫu tôi có thuật chuyện ấy cho tôi nghe rồi, nhưng nếu bây giờ Đại vương sẵn lòng cho tôi gặp hắn, tôi cảm ơn lắm.

Vệ Dõng Đạt bèn truyền lâu la dẫn Lưu Khuê Bích ra. Thiếu Hoa trông thấy Khuê Bích đầu tóc rối bù như ổ quạ, mặt mũi lọ lem, hai tay bị xiềng tréo ra sau, thân hình tiều tụy trông rất thảm hại. Thiếu Hoa vốn con người đại độ nên thấy vậy động lòng thương xót, bèn nói với Khuê Bích:

- Thật tội nghiệp ngô huynh chất chứa tấm lòng sâu độc cho nên ngày nay phải chịu cực khổ đọa đày như vầy!

Từ ngày Khuê Bích bị giam cầm tới nay, ngày đêm ngồi trong ngục tối đen không trông thấy mặt trời, mặt trăng khổ sở vô cùng. Nay thình lình gặp Hoàng Phủ Thiếu Hoa, lại thấy Thiếu Hoa không tỏ thái độ giận dữ thì mừng lắm, quên hết những điều xấu hổ. Khuê Bích nhìn Thiếu Hoa than thở:

- Hiền huynh ơi, ! Xin hiền huynh cứu tôi phen này, tôi nguyện tri ân muôn thuở. Vả lại những chuyện xưa kia, như việc phát hỏa tại Tiểu Xuân đình thì lúc đấy tôi cùng thân mẫu mắc qua nhà ngoại tổ mẫu nên chẳng rõ nguyên do. Còn như việc Hoàng Phủ Nguyên soái đi bình Phiên bị hại thì tôi đã có tư thư cho thân phụ tôi xin người bào chữa hộ cho Nguyên soái, ngặt vì quan Tuần phủ Sơn ông dâng biểu tâu quyết là Nguyên Soái đầu hàng giặc rồi dắt chúng về đánh phá Đăng Châu, vì thế triều đình mới kết án làm tội, thân phụ tôi hết sức tâu xin mà chẳng được. Đến việc tôi đi đánh Xuy Đài sơn đây là do nơi mạng lịnh của triều đình sai khiến chớ không phải tôi tự chuyện. Cái tờ cung trạng của tôi hôm trước đó là bởi tôi bị nghiêm hình đau đớn quá chịu không nổi nên phải khai liều. Xin hiền huynh chớ nên tin vào đó mà thù ghét tôi. Ôi! Tấm thân của tôi bị giam cầm trong lao tù bấy lâu nay khổ cực muôn phần, mong hiền huynh rũ lòng thương xót, tha cho tôi được trở về thấy mặt mẹ cha, thì cái ơn ấy tôi nguyện không bào giờ dám quên.

Nói dứt lời , Lưu Khuê Bích sụp lạy lia lịa, khóc lóc nỉ non.

Thiếu Hoa nói:

- Đó là tại ngô huynh se dây buộc mình. Hơn nữa ngô huynh vốn dạ hiểm ác, nếu tha về ắt sanh sự lôi thôi. Tôi thấy thân ngô huynh tôi cũng thương tình nhưng thật khó liệu quá.

Thiếu Hoa nói dứt lời liền quay lại bảo Vệ Dõng Đạt:

- Xin Đại vương hãy vì tôi mà tha hắn khỏi bị giam vào ngục tối và cho hắn được ra ngoài ở cho thong thả, đồng thời cho hắn ăn no mặc ấm tử tế.

Vệ Dõng Đạt mỉm cười , nói:

- Cồng Tử đã có lượng khoan hồng như vậy, chẳng lẽ tôi lại không vâng lời sao?

Nói rồi kêu lâu la dạy phải tuân theo lời yêu cầu của Hoàng Phủ Thiếu Hoa nhưng phải giữ gìn cẩn mật.

Lưu Khuê Bích mừng rỡ vô cùng, liền cúi lạy tạ Thiếu Hoa. Thiếu Hoa đỡ dậy an ủi đôi lời rồi bảo lâu la dắt ra sau tắm rửa sạch sẽ và thay quần áo khác.

Từ đó, Lưu Khuê Bích được thảnh thơi hơn lúc trước. Khi Lưu Khuê Bích đi rồi, Vệ Dõng Đạt kêu đem rượu thịt rồi cùng với hai người ăn uống mãi tới trưa mới tan.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa lui vào hậu trai từ biệt Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ, hẹn sáng hôm sau khởi hành đến kinh.

Doãn Phu nhơn nói:

- Con đến kinh lần này, nên gắng chí lập chút công danh, sau này may ra có cứu được thân phụ con về triều rồi, con nên cưới Vệ Dõng Nga làm vợ.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:

- Việc ấy xin thân mẫu chớ vội tính, để đến lúc đó sẽ hay.

Dứt lới, Hoàng Phủ Thiếu Hoa lui ra tụ nghĩa đường gọi Lữ Trung vào bảo:

- Ta thấy ngươi độ rày già yếu lắm rồi, không biết có thể theo ta đến kinh được không?

Lữ Trung đáp:

- Dầu sao lão nô cũng ráng đi theo, chứ lẽ nào lại để công tử đi một mình sao tiện.

Vệ Dõng Đạt xen vào nói:

- Không được đâu. Tôi xem lão Lữ Trung nay già cả lắm rồi, hơn nữa nơi đất Bắc khí trời lạnh lẽo lắm chịu sao cho nổi. Thôi để tôi cho hai tên dõng sĩ tôi là Lý Mãnh và Đinh Tuyên đi theo hầu hạ công tử thì tiện hơn, vì hai tên này có sức mạnh phi thường, tánh tình lại trung hậu.

Dứt lời, Vệ Dõng Đạt cho gọi Lý Mãnh và Đinh Tuyên đến. Thiếu Hoa và Hùng Hiệu trông thấy hai người này tuổi còn trẻ lại thêm thân thể tráng kiện nên rất hài lòng.

Vệ Dõng Đạt nói với hai tên dõng sĩ:

- Hai ngươi hãy đi theo Hoàng Phủ Công tử và Hùng Hiệu tiên sanh này đến kinh . Hãy ráng hết sức hầu hạ hai người rồi sau này ta sẽ trọng thưởng.

Cả hai đều cúi dầu vâng lịnh lui ra.

Hôm sau Vệ Dõng Đạt lại thết tiệc tiễn hành. Thiếu Hoa vào từ biệt mẹ và chị lần chót rồi mới lên đường.

Trưởng Hoa Tiểu thơ nói:

- Nếu em đi chuyến này lập được công danh, lãnh binh đi dẹp giặc, chị cũng nguyện đi theo để góp sức cùng em cứu phụ thân về triều.

Thiếu Hoa nghe chị nói lắc đầu đáp:

- Không nên đâu, chị là phận gái em thân ra chốn chiến trường sao cho tiện! Hơn nữa cuộc giao chiến với bọn giặc Phiên này phải xông pha trên mặt biển, vượt qua sóng gió dữ dội chứ không phải như những cuộc chiến tranh tầm thường trên đất liền đâu.

Trưởng Hoa Tiểu thơ đáp:

- Chị đã nguyện một lòng hiếu thuận thì sóng gió đối với chị có nghĩa gì đâu. Hiền đệ chớ lo, hễ khi thành công rồi, hãy tâu với triều đình xin dùm cho chị đi với.

Thiếu Hoa gật đầu vưng lịnh rồi quay qua nói với Doãn Phu nhơn :

- Năm nay Lữ Trung đã già yếu quá, đi đường thấy bất tiện, vậy con xin để lão ở lại đây hầu hạ thân mẫu.

Doãn Phu nhơn y lời, Thiếu Hoa bái biệt lui ra rồi cùng với Hùng Hiệu dắt Đinh Tuyên, Lý Mãnh lên ngựa buông cương giục vó, nhắm kinh kỳ thẳng tiến.

Vệ Dõng Đạt cũng theo tiễn chân một đỗi xa, rồi nói với Thiếu Hoa:

- Công tử đi chuyến này, nếu có lập được công danh, hãy nhớ tâu với triều đình cho tôi được tùng chinh chuộc tội nhé.

Thiếu Hoa nói:

- Cả nhà tôi mang ơn Đại vương rất nhiều, nay Đại vương sở cậy có một điều, lẽ nào tôi dám quên.

Vệ Dõng Đạt mừng rỡ tỏ lời từ giã rồi quay ngựa trở lại, còn Thiếu Hoa, Hùng Hiệu và hai tên dõng sĩ phi ngựa đi nhanh.

Khi đến Bắc Kinh, Hùng Hiệu và Thiếu Hoa vào quán mướn một căn phòng rộng rãi an nghĩ, đoạn viết đơn xin đầu quân.

Đơn viết xong, hai người tìm vào dinh Binh bộ dâng nạp rồi lui về quán trọ nghỉ ngơi để chờ ngày khảo thí.

Ngày kia, Lệ Minh Đường ngồi suy nghĩ:

-" Không biết hiện giờ Hoàng Phủ Thiếu Hoa ở đâu và đã đến ghi tên ứng thí chưa?"

Nghĩ rồi vội truyền gia tướng đem danh sách đến xem, Lệ Minh Đường xem đến tên Vương Thiếu Phủ hiệu là Tùng Hoa thì trong lòng nghi hoặc, đoán chắc Hoàng Phủ Thiếu Hoa thay tên đổi họ đến rồi, bèn cầm quyển danh sách vào nói với Tố Hoa:

- Trong danh sách có tên Vương Thiếu Phủ tự là Tùng Hoa, em nghi người này chắc là Hoàng Phủ Công tử đấy.

Tố Hoa hỏi :

- Vì sao tiểu thơ lại dám quả quyết chắc như vậy ?

Lệ Minh Đường nói :

- Chị cứ suy nghĩ kỹ thì rõ ngay. Tên Vương Thiếu Phủ Tùng Hoa, nếu bỏ chữ Tùng ra thì còn lại Vương Thiếu Hoa chớ còn gì nữa. Hơn nữa người này năm nay mười tám tuổi thì quả chắc rồi. Người lại cùng đi với tên Hùng Hiệu, một vị Võ Cử nhơn quê ở Bình Giang thì chắc người này cũng là trang hào kiệt đấy.

Tố Hoa nói:

- Tiểu thơ suy đoán như vậy cũng có lý, nhưng để đến ngày khảo thí trông thấy mặt mới dám chắc được.

Thời giờ trôi nhanh quá, chẳng mấy chốc đã đến kỷ khảo thí. Trước ngày khảo thí , nhằm hôm vua Thành Tôn lâm triều, Lệ Minh Đường quì tâu:

- Năm trước hạ thần vâng chỉ bệ hạ chiêu mộ anh hùng, định đến ngày mùng một năm nay thì sẽ mở hội kháo thí. Vậy nay đã gần đến ngày rồi, xin bệ hạ cử một vị Đại Tổng tài đặng đứng ra chủ trương việc khảo thí.

Vua Thành Tôn phán:

- Việc này do khanh đề xướng ra, hơn nữa võ quan thuộc về ty Binh bộ , cần gì phải cử ai làm chi? Khanh cứ việc lấy tư cách Binh bộ Thượng thơ làm Đại Tổng tài cũng được.

Lệ Minh Đường nghe nói, lòng mừng khấp khởi, nhưng muốn cho minh bạch hơn nên quì xuống tâu tiếp:

- Muôn tâu bệ hạ, việc khảo thí này cần phải cho thật công bình mới có thể chọn nhơn tài xuất chúng được; thần e một người làm Đại Tổng tài có thể sơ suất chăng. Xin bệ hạ hãy cử thêm vài vị đại thần nữa đứng ra góp ý lựa chọn, mới có thể làm hài lòng sĩ tử bốn phương.

Vua Thành Tôn gật đầu khen:

- Khanh tâu rất chí lý, vậy để trẫm chọn thêm vài người nữa để ra làm giám thị cùng khanh.

Dứt lời, vua Thành Tôn triệu quan Chánh tư là Thượng Nghị Tiên và quan Đô sát Ngự sử là Du Tái Vật đến dạy:

- Nay trẫm cử nhị khanh làm chức giám thị đặng góp ý cùng Lệ Binh bộ tuyển chọn nhơn tài trong việc khảo thí này. Nhị khanh hãy hết lòng với trẫm để cho việc cả sau này được thành công.

Hai người tạ ơn rồi lui ra nói với Lệ Minh Đường:

- Việc này do đại nhơn làm chủ, vậy xin đại nhơn hãy đại diện công bố cho tử sĩ biết, rồi đến ngày ấy chúng tôi sẽ đến thí trường giám thị với đại nhơn.

Lệ Minh Đường tạ ơn rồi lên kiệu thẳng về trướng phủ. Đến nơi, lập tức truyền biểu thị cho sĩ tử bốn phương biết: vào lúc sáng sớm ngày mồng một tháng hai này, các sĩ tử nào có danh sách ứng thí phải mang cung tên đến thí trường ứng khảo.

Lệnh ban ra , ai nấy đều chuẩn bị sẵn sàng. Hôm ấy Thiếu Hoa và Hùng Hiệu thức dậy vào lúc canh năm, khăn áo chỉnh tề, lên ngựa, dắt Đinh Tuyên và Lý Mãnh đến thí trường.

Đến nơi, hai người xuống ngựa, giao cho Đinh Lý giữ rồi bước vào nhà diễn võ ngồi chờ đợi.

Lúc ấy trời vừa rạng đông, nhưng hai quan phó chủ khảo đã có mặt tại đó rồi. Trời vừa sáng tỏ, bỗng nghe ba tiếng pháo nổ vang, tiếp theo là một hồi trống dài. Một tên quân chạy vào báo với Du Tái vật và Thượng Nghị Tiên:

- Bẩm có quan Chánh chủ khảo đã đến.

Hai người nghe nói vội vã bước ra nghinh tiếp vào. Sau khi ba người an tọa, Lệ Minh đường nói với nhị vị phó chủ khảo:

- Theo ý kiến của nhị vị thì nên định cách thi như thế nào?

Thượng Nghị Tiên và Du tái Vật nói:

- Việc khảo thí này đều tùy thuộc vào Ty Binh bộ . Hơn nữa đại nhơn đã làm Chánh chủ khảo thì thể thức tuyển chọn do ở đại nhơn, chúng tôi chỉ có nhiệm vụ theo đó mà làm thôi.

Lệ Minh Đường nghĩ thầm:

-" Sĩ tử bốn phương về ứng thí quá đông làm thế nào khảo hạch cho chu toàn được, và nếu lược duyệt một số quá đông, thế nào cũng bị lầm. Chi bằng ta ra mtộ tiêu chuẩn thi cho thật khó để cho những kẻ bất tài chúng nhắm sức không kham nổi, lui bớt trước đi thì hay hơn.

Nghĩ vậy , Lệ Minh Đường kêu quan Chánh tư lại bảo:

- Việc giao chiến với địch quân trên mặt biển thì cần nhứt là nghề bắn, vậy nay ta định thi bắn trước, nếu ai bắn trúng hồng tâm được ba phát thì mới cho thi các môn võ nghệ khác. Rồi sau đó mới được vào nội trường để khảo hạch thao lược.

Quan chánh tư vâng lịnh lập tức sắp đặt chổ thi bắn rồi truyền dựng bia lên.

Lúc bấy giờ mặt trời đã mọc, trông vạn vật rất tỏ rõ. Hùng Hiệu nói với Thiếu Hoa:

- Tuy Công tử đẹp trai, nhưng so sánh cũng không bằng quan Chánh chủ khảo đáy. Ôi! Con người sao mà đẹp trai đến thế !

Thiếu Hoa nói :

- Làm thế nào tôi bì ông ta được! Một con người mới mười bảy tuổi mà liên trúng tam nguyên làm quan đến chức Binh bộ Thượng thơ quả là một bực thiên tài, tướng trên thế gian này ít kẻ bì kịp.

Hồi lâu , quan Chánh tư sắp đặt và dựng bia xong, người ta độ chừng từ chỗ đứng nhắm đến chỗ dựng bia xa khoảng hai trăm thước còn cái cung để cho các sĩ tử sử dùng nặng độ hai trăm cân .

Rồi quan Chánh tư trịnh trọng tuyên bố: Hễ ai bắn trật phát thứ nhất thì không được bắn phát thứ nhì, nếu trật phát thứ nhì coi như hỏng cả phát thứ ba. Vì vậy cuộc thi được nhanh chóng lắm.

Lệ Minh Đường ngồi xem mãi cho đến tối vẫn chưa thấy sĩ tử nào đậu cả, chỉ có một số ít người bắn trúng mũi thứ nhứt mà thôi, đến phát thứ hai , phát thứ ba thì sai lạc hết. Hai vị giám khảo kia thấy thế đều le lưỡi lắc đầu, Lệ Minh Đường lên kiệu trở về trướng phủ lên lầu nói với Tố Hoa:

- Ngày mai đây đã đến kỳ khảo thí sĩ tử tỉnh Hồ Quảng, nhưng em chẳng biết diện mạo Hoàng Phủ Công tử như thế nào thì biết làm sao giúp đỡ cho chàng.

Tố Hoa nói:

- Công tử Thiếu Hoa mình cao độ tám thưóc, khuôn mặt đầy đặn, nước da trắng ngà, mắt sáng như sao. Nếu tiểu thơ có ý xem kỹ thì nhận ra ngay.

Hôm sau Lệ Minh Đường đến võ trường khảo thí các tỉnh khác xong thì gọi đến sĩ tử tỉnh Hồ Quảng.

Hùng Hiệu vừa nghe gọi đến tên mình, liền dõng dạc bước ra quì đợi lịnh.

Lệ Minh Đường trông thấy Hùng Hiệu tướng mạo khôi ngô, oai phong lẫm liệt, trong lòng khen thầm, lên tiếng nói:

- Nhà ngươi đã thi đỗ võ Cử nhơn, nay đến đây ứng thí thì chắc là trang hào kiệt. Vậy ta có lời khuyên ngươi hãy cẩn thận trong lúc thi tiễn nhé!

Hùng Hiệu vâng lệnh bước ra, trương cung lắp tên bắn ra phát thứ nhứt . Tên vừa buông ra, đã thấy ghim đích tại hồng tâm, sĩ tử bốn phương đều vỗ tay khen rầm rộ.

Hùng Hiệu khoái chí bắn tiếp hai phát nữa đều trúng đích hồng tâm không sai một mảy may, ai nấy đều thán phục trang anh hùng hiếm có.

Hùng Hiệu bước ra đặt cung lại chỗ cũ, rồi lạy tạ và khiêm nhường nói:

- Tôi mong nhờ phước ấm của đại nhơn nên mới được trúng luôn ba phát.

Lệ Minh Đường vội vàng đỡ dậy nói:

- Đó là do tráng sĩ hữu tài , chứ tôi đây có đức chi. Rồi đây tôi và tráng sĩ sẽ là bạn đồng liêu, xin đừng thủ lễ quá đáng.

Hùng Hiệu xá một cái rồi lui ra. Kế đó quan Chánh tư gọi đến tên Vương Thiếu Phủ.

Hoàng Phủ Thiếu Hoa vội vàng bước ra cúi lạy . Lệ Minh Đường trông qua diện mạo thì quả đúng y như lời của Tố Hoa nói, nàng quả quyết người này là Hoàng Phủ thiếu Hoa rồi.

Lệ Minh Đường thầm thương xót:

" Vợ chàng đây, đã vì chàng mà hao mòn biết bao tâm lực! Mãi đến hôm nay mới được gặp mặt, nhưng ta nỡ lòng nào để cho chàng lạy lục cho đành!".

Lệ Minh Đường nghĩ vậy nên đứng dậy bảo:

- Vương Thiếu Phủ, thôi hãy ra thi bắn đi, chớ có thủ lễ làm gì.

Vương Thiếu Hoa lễ phép thưa:

- Xin đại nhơn cứ để tôi thi hành trọng lễ mới phải đạo .

Nói rồi cứ việc lạy tiếp khiến Lệ Minh Đường bối rối không biết liệu sao, nàng muốn bước tới đỡ dậy nhưng lại sợ vượt ra ngoài lễ giáo không nên, chỉ lấy tay khoát lia lịa và nói:

- Ta miễn lễ cho đó ! Ta trông thấy tướng mạo nhà ngươi đường đường chắc chắn là một trang anh hùng tuấn kiệt. Ta đây chỉ vì quốc gia đứng ra tuyển chọn nhân tài, chớ nên lạy lục như vậy, từ nay về sau ta miễn lễ luôn cho .

Vương Thiếu Thiếu Hoa thấy quan chánh chủ khảo có lòng trọng đãi mình, trong lòng mừng lắm, liền bước tới trương cung bắn luôn ba phát trúng đích hồng tâm, rồi xoay mình bắn trái lại ba phát nữa cũng trúng đích cả. Mọi người đứng xem vỗ tay reo to :

- Con người thần tiễn, dám chắc không ai có thể bì kịp!

Hai vị phó chủ khảo cũng khen vùi, Lệ Minh Đường lòng như nở hoa, nghĩ thầm:

- " Thế là có thể chấm cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa đậu Trạng nguyên rồi! Chàng ta đã bắn ngược xuôi đều trúng đích cả thì chắc không ai bì kịp đâu!"

Rồi Lệ Minh Đường gọi Vương Thiếu Hoa đến khuyên bảo:

- Hảo hớn quả là tay thần tiển , vậy hãy ráng mà lấy cho được chức Trạng nguyên nhé!

Vương Thiếu Hoà cúi lạy và thưa:

- Nếu đại nhơn thương tình đề bạt cho thì ơn ấy ngàn đời không dám quên.

Lệ Minh Đường nói:

- Khi nãy ta đã dặn trước rồi, sao ngươi còn thủ lễ mãi như vậy?

Vương Thiếu Hoa vẫn một mực khiêm nhường:

- Dạ, tôi đâu dám!

Rồi Vương Thiếu Phủ bái tạ lui ra, cùng Hùng Hiệu, trở về quán ngụ.

Lệ Minh Đường trở về phủ, vỗ vai Tố Hoa nói:

- Vương Thiếu Phủ quả thiệt là Hoàng Phủ Thiếu Hoa rồi. Em nhìn kỹ tướng mạo, y như lời chị đã nói.

Rồi Lệ Minh Đường thuật hết chuyện thi tiễn ngày hôm ấy cho Tố Hoa nghe và nói:

- Lúc Hoàng Phủ Công tử vào lạy em, thật trình lòng em xốn xang quá, nhưng không biết làm sao cả. Còn Hùng Hiệu cũng là một bậc anh tài thật xứng đáng làm bạn vời Hoàng Phủ Công tử, nếu kỳ thi tuyển này mà em chấm hai người ấy đậu cao nhứt thì cũng không phải là bất công vậy.

Tố Hoa nghe nói cũng vui mừng không xiết. Hai ngưòi bàn luận vui cười mãi đến khuya mới tắt đèn an giấc.

Lời bình:

- Lưu Bích Khuê là kẻ đại cừu của Hoàng Phủ Thiếu Hoa, vì chỉ một tay hắn đã làm cho gia đình họ Hoàng Phủ ly tan, cha xa con, vợ xa chồng. Người ta có thể nghĩ rằng với mối thù không đội mới hả giận. Trong hoàn cảnh Khuê Bích bị cầm tù tại Xuy Đài sơn, chẳng những Thiếu Hoa đã không trả thù; lại đem lòng thương hại, bao dung , cố xin Vệ Dõng Đạt nên đối xử tử tế với Lưu Khuê Bích . Thái độ ấy thật là trượng phu, quân tử.

Lấy tình nhân ái đối xử với mọi người , thật hiếm có trong xã hội !

- Lưu Khuê Bích điển hình cho kẻ độc ác gian tà. Khi có quyền cao chức trọng thì vênh vang tự đắc, chỉ chuyên dùng quyền lực của mình để lung lạc kẻ khác. Hắn quan niệm rằng hễ giai cấp hoàng tộc thì có thể thực hiện bất cứ một việc gì mình muốn, cho nên phần đông những hạng này thường đi tìm những sự vui sướng trên sự đau thương của kẻ khác và làm giàu trên sự nghèo đói của toàn dân. Thế mà gặp lúc sa cơ thất thế , quyền lực bị tiêu ma, thì khúm núm cúi lòn cầu xin sự sống còn với bất cứ giá nào. Thật đáng khinh bỉ thay!

- Ai còn lạ lùng gì chế độ phong kiến thời bấy giờ làm việc có việc tuyển người một cách bình đẳng như vậy? Kẻ được tuyển dụng vào triều đình phải là giai cấp quí tộc giàu có, còn những hạng cùng dân mạt sĩ dù có khăn gói lều chõng suốt đời cũng khó mà lọt vào trường thi hội. Sỡ dĩ trước kia Lệ Minh Đường được vào kinh trúng tuyển Trạng nguyên là nhờ số bạc kếch sù của Khương Nhược Sơn nạp vào mới được. Nay Hoàng Phủ Thiếu Hoa đã là kẻ tội phạm đang bị truy nã mà có thể vào kinh ứng thí được , quả là một trường hợp hi hữu đối với thời ấy. Vì vậy Lệ Minh Đường phải là đại ân nhân của chàng, trách chi chàng chẳng thủ lễ theo tình sư đệ là phải.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro