Truyện ma Cô Hường

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Truyện ma: CÔ HƯỜNG
Nguồn: Vivu80

Chuyện em sắp kể ra đây liên quan đến bà cô họ của em (bố cô ấy với bố của bố em, là hai anh em ruột), tên cô là Hường. Cô sinh năm 1960, nếu năm nay còn sống thì cô đã 57 tuổi, kể cả tuổi mụ, tiếc thay vì nghiệp quả trái ngang, cô đã tức tưởi ra đi năm 1987, để lại trong dòng họ nhà em nhiều nỗi buồn đau và để lại cho làng xóm nhiều nỗi kinh hoàng mà đến tận bây giờ vẫn còn lưu truyền như...
CHẬP I:

Chuyện em sắp kể ra đây liên quan đến bà cô họ của em (bố cô ấy với bố của bố em, là hai anh em ruột), tên cô là Hường. Cô sinh năm 1960, nếu năm nay còn sống thì cô đã 57 tuổi, kể cả tuổi mụ, tiếc thay vì nghiệp quả trái ngang, cô đã tức tưởi ra đi năm 1987, để lại trong dòng họ nhà em nhiều nỗi buồn đau và để lại cho làng xóm nhiều nỗi kinh hoàng mà đến tận bây giờ vẫn còn lưu truyền như một giai thoại ở làng em mỗi lúc rỗi việc nông nhàn hay là lúc trà dư tửu hậu.
Cô Hường lúc trẻ rất xinh và thông minh nhưng vô cùng bướng bỉnh, bọn con trai cùng lứa hầu như sợ cô một phép, nhiều người bị cô cào cho rách cả mặt. Tóc cô dài, đen tuyền, da trắng bóc nhưng bàn tay trông lại rất thô, các ngón như dùi đục, thêm nữa tiếng cười của cô nó the thé, mắt lại buồn buồn. Ông nội em từng nói: cái Hường rồi sẽ ai oán một kiếp người, cái oan cái nghiệp gì nó đầu thai vào nhà ta đây. Ông chú em giận lắm, bảo anh trai là: mang tiếng học cao hiểu rộng, mà nói con cháu toàn những câu gở mồm. Ông nội em chỉ buồn và lặng thinh. Lúc nhỏ cô học thuộc dạng xuất sắc, nhiều lần được tuyên dương toàn trường. Ấy thế mà học hết lớp 7 thì cô em phải nghỉ vì mẹ cô chết đuối. Nói thêm về gia cảnh nhà cô em, nhà có 4 anh chị em, chị cả rồi đến anh trai, chị thứ ba và cô là út. Mẹ mất, chị gái, anh trai đi thoát ly cả, một mình cô và bố cáng đáng việc nhà, ông chú em thì thuộc dạng vô lo vô nghĩ, vụng tính, chỉ biết cắm đầu vào làm, thành ra mọi việc trong nhà cân đong đo đếm, chấm điểm, chấm công với hợp tác xã đều do cô em đảm đương.
Lúc cô đến tuổi cập kê, vì có tiếng sắc sảo giỏi giang nên trong làng trong xã cũng nhiều người đánh tiếng, nhưng lạ một nỗi là ai đến cô cũng chỉ nhõn một câu: không lấy trai vùng này, giời bắt lấy thằng Thổ thằng Mán cơ. Đận ấy có cả mấy mối làm bên Nông nghiệp hay Mậu dịch oách xà lách đến nhà nhưng cũng chỉ nhận được câu trả lời tương tự. Rất khó hiểu. Dần dần chả ai đến hỏi xin cô nữa, vì người ta nghĩ cô bị điên, hoặc nghĩ cô chê mà đuổi khéo. Cứ thế thời gian trôi đi, đến năm cô 22 tuổi, người ta nói ra nói vào, ông chú em cứ hở ra là chửi cô thậm tệ vì cô không chịu lấy chồng, các anh chị em của cô cũng vậy. Chán. Cô bỏ lên Lạng Sơn đi chợ rừng. Rồi bẵng đi 1 thời gian cả nhàchả ai biết cô còn sống hay đã chết, chú em làm bên quân đội, đóng ở Quảng Ninh cũng đã nhiều lần nhờ anh em bên xứ Lạng dò tìm mà cô vẫn bặt vô âm tín. Ai cũng tưởng cô chết rồi.
Đùng 1 cái năm 1987, vào khoảng mùa thu, cô về mang theo cái bụng bầu lùm lùm, ăn mặc như 1 bà người Thổ chính hiệu. Em còn nhớ như in buổi sáng hôm ấy, mẹ em hớn hở khoe: cô Hường về, cô Hường về, lên cô cho kẹo nhanh. Nhà em với nhà ông chú (em ông nội em) cách nhau từ xóm giữa cho đến xóm ngoài. Em quần thủng đít, cởi trần chạy bật cả móng chân vào xin kẹo cô, vì mẹ em kể lúc cô còn ở nhà thì hay bế em lắm, em thì chả biết mặt mũi cô ra sao vì lúc cô đi em còn quá nhỏ.
Lên đến nhà cô thấy cả nhà đầy người, cười nói râm ran, có cả tiếng khóc sụt sịt nữa. Em lẻn vào trong thấy một cô ăn mặc lạ đời (sau này em mới biết là quần áo của dân thổ mán), mồm nhai trầu đỏ tươi đang ngồi trên chiếu huơ tay múa chân hào hứng lắm, xung quanh là các bà lớn tuổi cứ mắt tròn mắt dẹt i ô. Thấy em phát cô đứng phắt dậy xốc nách thằng cháu lên cười the thé: hé hé hé hé ... thằng đẻ khó đây rồi, lớn thế rồi cơ à, rồi cô thơm túi bụi vào mặt em, đến nỗi má em chi chít vết son trầu. Em lúc ấy có biết gì đâu, chưa cần cô cho kẹo đã nhoài người túm luôn mấy cái kẹo dồi ở chiếu rồi trườn ra ngoài lỉnh mất, bỏ lại đám đông lao xao sau lưng.
Sau đấy 1 thời gian em cũng chả lên nhà cô nữa, vì hồi ấy em bắt đầu đi học rồi, đánh khăng, thả diều, tập bơi còn vui gấp nhiều lần như thế. Nhưng mà cứ tối đi ngủ là em hay nghe loáng thoáng bố mẹ em nói chuyện: cái Hường trái tính lắm, cái Hường nói gở lắm, cái Hường khóc nhiều ... Em cũng chả quan tâm, lơ mơ tí rồi ngủ tít. Sau này lớn hơn chút nữa, nghe mẹ em kể lại mới biết là cô Hường dạo ấy về nhà toàn nói chết, nói sống, biểu hiện lạ kỳ. Đại khái cô cứ nửa đêm là ra gốc sấu trước nhà ngồi khóc sụt sịt không ai dỗ được, giữa trưa thì cô cứ nhảy tưng tưng trước ban thờ rồi dập đầu côm cốp xuống nền gạch kêu tổ tiên cứu vớt ... Cô còn lấy dao định mổ bụng mình ra, may bà chị dâu ngăn kịp, cô bảo: mổ nó ra, ném nó đi, nó là cái ma xó ma gà theo em từ trên Thổ về để giết em đấy. Bà chị dâu chửi um: mày dở à, ai lại đi giết con. Quãng chừng 3 tháng sau thì cô em chết thật, lúc ấy giữa trưa, em vửa đi học vệ thì thấy mẹ em khóc hu hu, bà nhấc nồi cám ra đổ vào máng cho đàn lợn sề rồigạt nước mắt nghẹn ngào: cô Hường hết rồi. Em lịm hết cả người vì sợ nhưng bản tính tò mò nên quăng cái xà cột vào trong nhà rồi phi lên nhà cô ngay tức khắc. Tới nơi thấy cả nhà xúm đen xúm đỏ quanh cái giường buông màn vải xô màu cháo lòng. Em le te phi vào vạch màn ra và tí nữa thì chết ngất: mắt mũi, mồm, miệng, tai cô đầy những máu, hai mắt cô vẫn mở trừng trừng, mồm thì ngậm chặt, méo giật về một bên như là bị kinh phong vậy. Em sợ quá khóc ré lên rồi có ai đó nhấc bổng em lên và mắng: trẻ con đi ra ngoài, biết gì, khóc nước mắt dây vào cô à. Em té về nhà ông nội, phi lên giường đắp chăn run như nhái quật. Đám ma cô, đến bây giờ làng em vẫn kháo nhau là lạ kỳ nhất từ trước tới nay. Nội cái chuyện khiêng quan tài từ trong nhà ra xe tang cũng ba bốn lần cả đám trai tráng phải quỵ xuống vì quá nặng. Mà có gì đâu, mỗi xác cô với cái áo quan gỗ tạp. Mỗi lần như thế lại phải đốt giấy vàng khấn vái thì tự nhiên nó lại nhẹ bẫng lên để cho mình khiêng đi. Trên đường ra bãi tha ma, xe tang đến mười mấy người đẩy mà cũng còn chật vật, dừng đi dừng lại không đi nổi, lại phải vàng mã liên hồi.
CHẬP 2:

Chưa kể đêm kèn thờ trống cây, mùa đông gió lạnh cắt da, hồi ấy quê em còn dùng đèn măng xông, chưa có điện, phải đến cả chục con chim lợn cứ đậu đỉnh mái ngói nhà ông chú em éc lên thê lương, rùng rợn vô cùng. Anh trai cô ấy còn rút súng ra bắn chỉ thiên mấy phát mà cũng chả ăn thua, nó bay tí rồi lại lượn về kêu eng éc, thợ kèn mất vía bỏ dở giữa chừng luôn. Ai cũng bảo cô căn cao, số nặng, chết nhằm giờ độc mất rồi.
Đưa cô ra đồng xong, cả nhà ông chú em và chính xác hơn là cả cái xóm ấy, vì họ nội tộc nhà em sinh sống trên cùng 1 phiến đất, có khoảng hơn chục nhà, chung 1 cái ngõ dài, đều rợn hết cả người vì cô. Các bà các thím kháo nhau: "đêm qua cái Hường về, nó đi giật lùi lên cầu thang, mùi hôi rình", "đêm qua cái Hường về, nó xin con lợn, sáng nay ra chuồng lợn chết từ lúc nào", " trưa nay lên thắp hương, vừa khấn tên nó bát hương cháy phừng phừng, tao sợ quá chạy mất, còn nghe thấy nó kêu eo éo: cháu xin cái lược, tóc rối quá thím Nhu ơi", "đêm qua cái Hường về, nó xin cái võng để ru con, sáng nay tao đốt cho nó rồi", "đêm qua cái Hường về...." ...
Xóm nhà ông em phải nói dạo ấy kinh hoàng, hầu như ai cũng gặp cô về và biết cô về, đàn ông cho chí đàn bà, lớn cho chí nhỏ, chó cho đến mèo đều rơi vào trạng thái bất an, hoảng loạn. Kể cả những người như ông nội em, biết và cứng nhất cũng phải ngày sáng tối 2 lần thắp hương lầm rầm "cháu ơi, sống khôn chếtthiêng đừng trêu nhà ta nữa, có oan ức gì thì báo mộng để cả nhà biết mà giải oan" .... Rồi nhà ông chú em vì thấy cô về nhiều quá, cả nhà cứ ban ngày thì còn lấp ló ở nhà, chập tối là di tản sang các nhà khác trong xóm, không dám ngủ nhà nữa vì kiểu gì cũng thấy 1 bà mặc quần áo thổ, tóc xõa xượi chấm gót chân, lúc ngồi bể nước, lúc vắt vẻo cành cây, lúc sà lên đình màn đen sì, nửa đêm phía tràng kỷ thường có cái bóng mờ mờ cất tiếng khóc nỉ non, ai oán. Có đêm cô kéo quan ôn, quỷ sứ về chật một ngõ, chó mèo cả xóm dựng hết lông gáy, con thét, con gào, con sủa nhặng xị hết cả lên, mọi người đều biết nguyên nhân, không ai bảo ai cả xóm cửa đóng then cài. Mấy bà già trong ngõ túm tụm nằm ổ rơm chuyện phiếm, tự dưng bà Nhu (là thím của cô Hường, em dâu ông nội em) rùng mình cái rồi ngủ gục, một lúc sau bà choàng dậy hét ầm lên: cái Hường dẫn quan ôn, quỷ sứ về đầy ngõ rồi, nó xin tôi đàn lợn khao quân.
Bà Nhu vừa thốt ra mồm xong thì ở đầu ngõ, chuồng lợn nhà bà có mấy tiếng éc dài, tiếc của bà tung chăn chạy về, hai bà khác cũng chạy theo. Về đến nơi soi đèn thấy 5 con lợn ộc máu mồm nằm thẳng cẳng, mắt trợn ngược kiểu bị vật chết tươi, mấy chú con trai bà Nhu ra thấy thế cũng vãi cả linh hồn, rúc vào nhà khóa cửa trùm chăn kín mít. Sau này bà Nhu kể, lúc ngủ gật bà thấy cô Hường mặc quần áo trắng như Quan Âm, tóc tai rũ rượi, hai chân đi trên hai lưỡi cày, 1 tay bế đứa bé đỏ hỏn, tay kia cầm cái cờ lệnh màu đen. Mắt cô lồi ra như hai cái tong phong đèn, lưỡi đỏ lòm thè dài như chiếc đòn gánh, xung quanh cô toàn quỷ đầu trâu mặt ngựa, quan ôn quỷ sứ mặt đen sì. Cô phất cờ chỉ bà Nhu: thím cho cháu xin đàn lợn khao quân. Bọn quỷ sứ, quan ôn nghe thế cười sằng sặc, bà Nhu chưa kịp trả lời thì cô đã thè cái lưỡi dài về phía chuồng lợn liếm liếm vài cái. Lúc đó chính là lúc bà Nhu tỉnh giấc và tất cả mọi người nghe tiếng lợn kêu. Rồi có hôm cô xin cả một đàn gà nhà ông nội em, bác dâu cả nhà em kể: vừa mới chập tối chứ có khuya khoắt gì cho cam, đang băm nốt đám rau lợn ngoài sân tự dưng thấy lạnh rùng mình 1 cái như có người lướt qua đằng sau lưng giọng eo éo: cho em đàn gà nấu cháo nuôi quân. Nghe tiếng gà giãy đành đạch ngoài chuồng bác em cầm dao chạy ra luôn, thấy không 1 con nào sống sót, cả đàn gà hơn chục con chết như bị bẻ ngoẹo cổ không kịp kêu tiếng nào. Bác em hãi quá ném dao chạy vào trong nhà khóc tu tu, ông nội em sai anh con trai cả nhà bác ý ra sân vãi gạo vãi muối tứ tung tận đầu ngõ mới yên chuyện. Ông em cũng là người hiểu biết, thấy cô về quấy quả gia đình nhiều mới sang tận Bắc Giang mời được 1 hầy phù thủy cao tay về giúp cho. Đàn tràng lập oai phong lắm, lễ lạt không thiếu thứ gì, hương nhang nghi ngút. Thầy phù thủy ăn mặc chỉnh tề tay cầm kiếm gỗ, tay kẹp bùa chú nhảy choi choi giữa nhà cô, miệng lầm rầm niệm chú càng lúc càng nhanh, kiếm múa vun vút. Được khoảng gần nửa tiếng thì tự nhiên gió ở đâu nổi lên ào ào, bụi bay mù mịt, gió xộc vào nhà thổi tắt nến, đổ đàn tràng, vỡ cả chai rượu cúng, cả nhà nhốn nháo xôn xao. Ông thầy phù thủy hai tay chống kiếm giữa nhà, mặt cắt không còn giọt máu bảo ông em: bác ... bác ... bác ... nhờ cụ Tự giúp cho, pháp lực của nó cao lắm, quan ôn quỷ sứ đi theo đông lắm, tôi không giúp được. Nó chết oan, chết vì trúng bùa trúng bả, không siêu thoát được đâu. Nói xong ông ấy lảo đảo nằm vật xuống, mấy người nhà em phải đưa lên giường đánh gió đến tận chiều ông thầy mới tỉnh để sang đò về Bắc Giang.
Chuyện xảy ra lúc đầu chỉ trong xóm nhà ông em, dần dần cả làng em nhiều người cũng gặp, nên cho đến tận bây giờ bà con cứ nhắc đến cô Hường là đều thần hồn nát thần tính. Bãi tha ma làng em cách khá xa khu dân cư, đầu bãi có 2 cây duối phải nói là cổ thụ, cành lá xum xuê um tùm. Chỗ ấy sát bờ đê sông Cầu, ngay chỗ cái vực sâu nhất và nhiều cá nhất nên đêm nào các Ngư phủ cũng tụ tập chỗ này. Từ đận cô em mất, các Ngư phủ kỳ cựu trong làng đều rỉ tai nhau chuyện cứ đêm khuya thanh vắng là nghe tiếng võng đưa kẽo kẹt rồi tiếng ru con văng vẳng từ bãi tha ma vọng sang. Ru chán thì lại khóc, mẹ khóc con khóc, tiếng khóc của ma nó ai oán, tỉ tê, đứt đoạn đến thê lương.
CHẬP 3:

Đi đánh cá ở cái vực này thì đường về làng ngắn nhất chính là đi qua cái lối gần bãi tha ma đó, nếu ko thì phải đi vòng hơn km đường đê mới có lối đi xuống làng. Mấy lão này gan dạ, toàn cắt ngang chỗ chôn người chết, cá 1 bên, chài lưới 1 bên, giữa là cái đòn gánh trên vai nhún nhảy về làng. Từ ngày nghe tiếng người ru con, rồi có ông còn thấy cả cánh võng đưa kẽo kẹt giữa 2 gốc duối, thì cả đội không ai bảo ai đều biết là ma cô Hường. Họ không dám đi về 1 mình nữa mà toàn đợi cất lưới xong 3-4 ông cùng nhau quẩy cá, quẩy lưới về, thế mà cũng chả thoát được cô.
Đêm ấy quãng 3-4 giờ sáng mấy ông xong việc, nối đuôi nhau đi về, vừa đi vừa hí hửng nay được buổi vớ mẻ cá to, ông nào ông ấy nặng trĩu hai vai. Lúc đi đến gần bụi duối thấy rõ ràng có cái võng đay tanh tưởi, thum thủm thối chầm chậm đong đưa, lúc chập tối đi qua không thấy có. Biết có sự lạ mấy người không cả dámngẩng mặt mà cứ cắm đầu muốn đi thật nhanh để thoát khỏi bãi tha ma, người đi đầu tiên tự dưng thấy cá trong sề rộ lên cười he hé, một bên quang gánh bỗng nhẹ bẫng, bên còn lại nặng như chì, nhấc chân không nổi. Hoảng quá ông ấy vứt luôn cá lẫn lưới phi 1 nhát xuống cái ao bên cạnh, vốn là chỗ khi sang cát người ta mang xương cốt ra rửa ráy lau chùi. Ông thứ hai thấy thế cũng đ.ái cả ra quần, cũng định quẳng gánh chạy mau nhưng cái quang gánh nó cứ dính vào vai ông ấy bập bềnh bập bềnh, ông đằng sau thì rú ầm lên: ối Tác ơi, Tác ơi, cái Hường nó ngồi lên đòn gánh mày kìa. Hô xong ông ấy quỵ luôn xuống, ko đi nổi nữa chắp tay vái như bổ củi, khóc rống cả lên giữa đồng không mông quạnh hoang vu. Ông tên là Tác lúc ấy lấy hết can đảm mở mắt ra nhìn ngang vai thì thấy một bóng người trắng toát, tay bế đứa con ngồi ngay đầu đòn gánh ông ấy. Cái bóng ấy tóc bay phần phật, mặt phẳng như mặt trống, chỉ mỗi cái miệng đỏ lòm như chậu máu đang ngoác ra cười nhăn nhở: cho xin ít cá nấu cháo cho con điiiiii... cho cá nấu cháo điiiiii.... Ông Tác lúc này 7 vía đã tụt mất 3 quỳ xuống vái lấy vái để: Hường ơi .... Hường ơi chú lạy cháu ... đừng .... đừng bắt chú để chú còn về nuôi vợ nuôi con. Ông phi xuống ao lúc bấy giờ cũng mò lên, ra xốc nách ông đang khóc bò lết đến chỗ ông Tác đang vái lấy vái để. Cả 3 người khóc ồ ồ giữa đêm khuya. Sau này ba hắn kể lại là lúc bọn hắn khóc lóc dưới bóng ma cô Hường thì bọn quỷ sứ, đầu trâu ở đâu từ hai ngọn cây Duối mò ra quây quanh cười rú lên, rồi con thì nhặt lưới, con thì nhặt cá lẩn vào trong bãi tha ma. Ba lão chẳng ai bảo ai vùng dậy chạy 1 mạch về làng, làng em sáng hôm sau lại xôn xao. Vài thanh niên cứng vía bảo không tin, tự mình ra nghĩa địa kiểm tra, ra đến nơi bố nào bố nấy mặt cũng cắt không còn giọt máu. Lưới thì vẫn còn cắm nguyên ở đầu quang gánh, phía còn lại là dộng cá thì lúc bấy giờ toàn gạch đá với xương trâu xương bò (hoặc xương người), tuyệt chả thấy con cá nào như ba lão Ngư kia khăng khăng thề thốt lúc về làng. Sau bữa ấy cái vực làng em ban ngày thì còn có người lai vãng, ban đên tuyệt chả có bóng nào, ba ông gặp ma đêm ấy về nhà lăn ra ốm lăn ốm lóc, phải mời sư thầy làng bên đến cúng cho mấy ngày liền, lấy rổ chao vía khắp nơi mới dần bình phục. Gần cái bãi tha ma ấy nhất là xóm Đầm, nói gần là gần so với các xóm khác chứ nó cũng cách nhau cả cây số chả ít. Trong xóm ấy có nhà bà Tụy giàu nhất, vì có tận 2 người con làm bên Thương nghiệp huyện, từ thời bao cấp nhà bà Tụy đãthuộc hàng ăn không hết thịt lợn, gan lợn rồi. Bà này có của, lại được hai con cung phụng tốt nên người ngợm đẫy đà, da dẻ hồng hào, mặt núng nính toàn thịt. Bà Tụy thuộc dạng rách giời rơi xuống, đanh đá nanh nọc nhất làng, bà luôn tự hào ngày trước làm thanh niên xung phong đi dọc Trường Sơn, bế không biết bao đồng đội chết trên tay nên bà chẳng sợ gì. Nghe làng đồn ầm lên chuyện cô
Hường quấy quả, bà bĩu môi: toàn thần hồn nát thần tính, làm gì có ma cỏ gì, cái con chửa hoang đấy có giỏi thì hiện hồn về gặp tôi xem, tôi bổ cho cái quốc vào mặt ấy chứ. Rồi bà vuỗi mông, ngúng nguẩy bỏ đi trông như con Hà mã núng nính đang dạo chơi đủng đỉnh.
Từ xóm Đầm ra đến bãi tha ma là 1 con đường đất dài tít tắp, hai bên đường trồng cơ man nào là phi lao cao lênh khênh, bọn em hay thả bò lối ấy, mùa đông nhặt lá phi lao bỏ vào ống bơ nổi lửa lên nướng cua nướng cá tuyệt cú mèo. Nhà bà Tụy nằm chênh chếch con đường ấy, làng có đám ma toàn dừng trước cổng nhà bà trước khi đưa người trên ra đồng. Một đêm tầm khoảng đầu giờ Tý cả xóm bỗng nghe tiếng hai con bò nhà bà Tụy rống lên thảm thiết, chó nhà bà sủa râm ran, gà qué giác loạn cào cào. Con cháu xung quanh vội vàng cầm đèn pin chạy sang thì đập vào mắt họ là 1 cảnh tượng hãi hùng: bà Tụy xõa mãi tóc bạc phơ đứng sững như Từ Hải giữa sân, mồm bà há to, mắt bà trợn ngược, dớt dãi chảy lòng thòng, hai cánh tay còn như huơ về phía trước cứng đơ đơ. Trong chuồng hai con bò hộc máu mồm máu mũi, gếch cổ lên cái toang chuồng chết tự lúc nào, đàn chó thấy người sang thì chạy quẩn rúc vào chân, rên ư ử cứ như vừa gặp hổ vậy.
Con cháu đỡ bà vào nhà, có người biết xem mạch thấy bà còn thoi thóp, họ giã gừng lấy nước đổ vào miệng bà, mấy cô cháu gái thì nặn chân, nặn tay, xoa lưng xoa ngực liên hồi, cả xóm hồi hộp xôn xao. Họ xì xà, xì xầm .... Sáng hôm sau nguồn tin từ xóm Đầm bắn ra, đêm qua xoa bóp đến gần 3h sáng thì bà Tụy tỉnh lại, việc đầu tiên sau khi hoàn hồn là bà ngồi bật dây rú lên: Hường ơi, cô xin, cô xin, tha cho cô đi, cô chưa muốn chết đâu. Mọi người trước đấy vốn cũng đã đoán già đoán non rồi, nhưng đợi đến khi chính cái bà hổ vồ này thốt ra thì cả xóm mới hết bán tín bán nghi: đêm qua cô Hường đã về nhà bà Tụy, bắt đi hai con bò rồi còn dọa cho cái bà lúc nào cũng tự nhận mình cứng vía nhất làng đến chết ngất giữa sân nhà.
CHẬP 4:

Chiều hôm sau nhà bà Tụy làm cái lễ to lắm, con cái tay xách nách mang đem vàotận mộ cô Hường, ỏ còn chưa kịp lên, họ bày lễ khấn vái sụt sùi thành kính tợn.
Cô con gái bà Tụy thì cứ vác cái sề chạy dọc đường phi lao tru lên ông ổng: ba hồn chín vía, mẹ ở đâu thì về với chúng con hú hú ú ú. Rồi làm động tác chao chao cái sề như người ta vợt châu chấu cào cào trên ruộng lúa, bọn em đứng xem còn ôm bụng cười ngặt nghẽo với nhau. Làm lễ xong thì mấy hôm sau bà Tụy có vẻ hoàn hồn thực sự, bà bắt đầu lết cái cặp mông Hà mã lên xóm nhà ông em kể lể sự tình, khuôn mặt bà khi ấy tuy có hơi xanh nhưng tự dưng trở ra hiền lành, phúc hậu hơn hẳn so với lúc bình thường. Số là đêm hôm ấy bà Tụy thắp đèn dầu đi nằm, bà ở 1 mình nhà chính, bên cạnh là nhà của ông con giai, cô con gái bà ở ngay đằng sau, cách nhà bà mỗi cái rặng mít. Bà đang thiu thiu thì tự nhiên thấy gió thổi ào ào, quái lạ, hơn tháng nữa Tết rồi, lại có gió mùa đông Bắc tăng cường nữa đây. Cái cánh cửa chính nhà bà bị đập ra đập vào liên hồi, khiến cho then cửa chỉ chực rời ra. Sợ gió thổi tung cửa bà mới lật đật quờ dép chạy ra dí lại cái then cho chắc, vửa ra đến nơi thì gió thổi bật cửa luôn, bà nhắm mắt ngoảnh mặt vào trong nhà tránh gió Bắc, hai tay kéo hai cánh cửa tính khép lại. Lạ thay bà cố sức đến mấy cũng không khép được, lạ quá, bà quay đầu ra cửa và mở mắt thì ôi thôi ... Trước mặt bà lúc này một cái bóng trắng toát chân đi lưỡi cày loẹt quẹt, tay bế đứa nhỏ khóc oe óe, đầu tóc xõa xượi đang nhìn bà bằng cặp mắt xanh lè to như hai bóng đèn đầu. Cái bóng trắng ấy ở ngay dưới thềm tỏa hơi lạnh buốt, sực mùi hôi rình, bà Tụy đ.ái ồ ồ ướt sạch cả cái váy satanh, mắt chữ O mồm chữ A cứ thế đứng trân trân: cô Tụy bảo cháu về để bổ cuốc vào đầu đấy, một giọng the thé âm u cất lên, cháu đã chết oan mà cô còn chả thương. Nào đi với cháu đi, ư hư, đi ... đi, ra ngoài đây. Bà Tụy chính là đã sợ chết đứng, chân tay cứng đờ, ấy thế mà khi cái bóng trắng đi giật lùi ra ngoài sân thì bà cũng tự dưng cứ nhảy choi choi theo nó thôi. Ra đến giữa sân bóng trắng lại hét lên: quân bay, nhà nó có hai con bò béo múp, bắt mang về chia nhau. Lúc ấy dù là chết khiếp nhưng bà Tụy vẫn nhận ra đằng sau lưng bóng trắng còn đến cả đàn những bóng màu đen hình thù kỳ dị.
Cái bóng trắng lại eo éo: mụ già này sợ chết sợ sống cũng không thoát được đâu, hôm nay bắt nhà mày hai còn bò, cho sống thêm 2 chục ngày nhé quan Ôn. Từ phía những bóng đen sau lưng có cái giọng ồm ồm, khê khê, khàn khàn "Dạ!" lên 1 tiếng rợn người. Bà Tụy vẫn đứng chết trân giữa sân, cả người bà cứng đơnhững đầu óc thì vẫn còn phần nào hoạt động, bà thấy cái bóng trắng bế con đi giật lùi, lưỡi cày loẹt quẹt va nền gạch, đến cuối sân rồi mồm nó còn ngoác ra thè cái lưỡi đỏ lòm liếm bà 1 cái bung hết cả dây vấn tóc trên đầu, rồi thoắt cái nó ra cổng, thoắt cái lên đỉnh ngọn phi lao bên đường, nó đứng đỉnh ngọn cây cười ré một tràng. Tiếng cười vừa dứt thì cũng là lúc các bóng đen hình thù cổ quái lao vào chuồng bò nhà bà, tiếng hai con bò rống lên rồi tắt lịm, đàn chó lúc này mới sủa râm ran náo loạn cả khu để hàng xóm và con cháu nhà bà chạy qua.
Chiều ấy bà Tụy ngồi trên xóm nhà cô Hường khóc hết nước mắt, bà bảo, cái Hường nó hẹn hai chục ngày nữa bắt bà đi. Bà cầu bà xin xóm trên này cứu bà, chẳng gì lúc sống nó cũng là con cháu trong nhà, các bác khẩn cầu nó giúp em. Mấy bà nhà em thì cũng đồng cảm gật gù, bà Nhu nhanh nhảu nhất đi thắp hương luôn, hương cháy được nửa cây thì bà Nhu vẫy vẫy bà Tụy giọng trấn an: đấy đấy cô Tụy, nó đồng ý tha cho cô rồi đấy, xem kìa, hương cong vút thế kia cơ mà. Bà Tụy thấy có người động viên thì cũng gạt nước mắt ngó nhìn mấy nén hương đang cháy, tuy nhiên bà vừa ngẩng mặt nhìn lên thì bát hương bỗng bốc cháy đùng đùng. Hốt quá, bà tót ngay ra cửa, quên cả dép, quên cả gậy một mạch chạy tuốt về nhà dưới xóm Đầm.
Về đến nhà bà ngã bệnh và nằm bệt trên giường, chả ăn chả uống gì được, cứ nửa đêm là bà gào lên: ối giời ơi, quan ôn tha cho tôi, tha cho tôi. Tay bà cứ chỉ trỏ: con Hường nó nằm trên đình màn đây này, con Hường nó ngồi trên kèo nhà kia kìa .... làm cả họ nhà bà sợ vỡ mật. Hai con bà tiêm cả thuốc an thần cho mẹ cũng chả ăn thua, không tiêm thì 12h đêm bà gào, tiêm thì khoảng 2h sáng bà gào. Bọn họ cũng đón cả thầy cúng mấy nơi về nhưng các thầy làm lễ xong là cút, mồm cứ im như thóc thối vậy, nửa câu cũng chả thốt ra. Đúng hai tháng sau kể từ ngày gặp ma bà Tụy trút hơi thở cuối cùng, nghe nói bà chết khổ chết sở lắm, chết gì mà đau đớn đến cùng cực, mắt mũi tai miệng đều rỉ máu, đau đến nỗi cái mồm mím chặt và méo giật hẳn về một bên như bị trúng phong.
Sau cái chết của bà Tụy dưới xóm Đầm thì làng em hoang mang kinh khủng, mọi người túm năm tụm ba thì thào trong nỗi sợ hãi vô bờ. Người nhà bà Tụy kể: rằm tháng Chạp tuần đầu, bà về nhập vào đứa cháu họ tên là Hoa khóc cực khóc nhục, bảo là trót phạm Quan Ôn, Quỷ Sứ giờ xuống đấy bị nó hành hạ khổ sở lắm, trưa nào cũng bị ác điểu mỏ nhọn dài rỉa thịt, moi gan. Mấy người con cháu ruột của bà nghe kể thế cũng tồ tồ khóc theo vì thương mẹ thương bà. Bà Tụynhập vào đứa cháu ỉ ôi ột hồi kể khổ thì mò lên giường nằm nghiêng, mặt úp vào trong tường, tay với cây phướn trắng cạnh ban thờ che kín đầu. Các con các cháu vây quanh, người sờ người nắn, người ôm bà, khóc than sùi sụt bi ai. Ôm mãi cũng mỏi tay, khóc mãi cũng ráo nước mắt, cô con gái bà mới hỏi han: mẹ ơi, bây giờ cũng chiều tối rồi, thôi mẹ về dưới đấy đi, trả thân xác lại cho cái Hoa không cháu nó mệt mẹ ơi. Hồn bà Tụy trong xác cái Hoa vẫn giữ chặt cây phướn trắng che đầu, bà gắt lên: tao không về, tao không về, về đấy để chúng nó bỏ tao vào vạc dầu à, tao cứ ở nhà thế này thôi. Úi xời, cả nhà bà lại được một phen hốt hoảng, mẹ về chơi tí thì được chứ về cướp xác con cháu thế này thì không xong rồi. Ngay lập tức họ đạp xe sang xã bên mời cô đồng Mân về ... đuổi ma.
CHẬP 5:

Cô Mân này cũng có căn có quả, nổi đồng từ thời bao cấp, có khi trước cả lúc em sinh ra đời, cô cứ xem cứ giúp cho người xung quanh thôi, công an huyện nó chả tạm giữ cô mấy lần rồi, nhưng cô mặc kệ, giữ chán nó lại thả, cô cứ nhai trầu bỏm bẻm kệ bố chúng mày làm gì bà thì làm. Quãng hơn 5h chiều thì cô Mân được đèo về nhà bà Tụy, thấy cô đồng đến bà Tụy trong xác cái Hoa bật dậy luôn, lúc này cả cây phướn trắng chi chít những lời ai điếu bằng mực đen đã bị bà giật đứt, bà trùm nó lên đầu ngồi xếp bằng thù lù giữa giường. Cô Mận lên hương làm phép, bà Tụy lắc lư lắc lư, sau đấy là màn đối đáp cô Đồng – hồn ma như hát đối nỉ non. Phải hơn 1 tiếng cứ đối đáp như hát văn như thế bà Tụy vẫn không chịu ra khỏi xác cái Hoa, cô đồng Mận len lén thò tay vào tay nải lấy ra lá bùa màu vàng, rồi cô vừa tiến lại chiếc giường vừa hát ỉ ôi, bà Tụy đang trùm phướn cũng lắc lư ỉ ôi theo. Đến sát mặt bà nhanh như cắt cô đồng Mận lật cái phướn lên, dán thẳng cái bùa vào trán bà, bà rú lên 1 tiếng thất thanh, xác cái Hoa ngã vật xuống giường nằm thẳng cẳng, cô đồng hô: đi rồi, đi rồi! Lúc này trời đã nhá nhem tối, cô Mận vừa hô lên như thế thì cánh cổng nhà bà Tụy tự dưng mở toang ra, tiếng con lăn gỗ cót ca cót két, mọi người rởn hết gai ốc đổ dồn về phía cổng, tự nhiên thấy có màn sương đen giống như đàn muỗi dày đặc xộc vào trong cổng chừng mười bước chân, dừng lại 1 chút rồi cuốn luôn ra ngoài mất dạng. Cô đồng Mận ngồi bệt trước thềm than thở: quỷ sứ, cô hồn về bắt cụ đi đấy, mai lên chùa làm lễ cầu siêu cho cụ đi, để thế này không được đâu. Các con cháu bà nghe thế lại hè nhau khóc tồ tồ váng hết cả nhà, ai cũng thương mẹ thương bà bị quý sứ lâu la bắt về Âm ty hành hạ. "Ối bà ơi, ối mẹ ơi ... hứthứt, hu hu ..." đồng thanh nghẹn ngào, hàng phi lao gió lùa hù hù, hút hút như phụ họa theo khiến buổi cuối chiều xóm Đầm tang thương và bi ai khôn tả. Sau vụ ma bắt bà Tụy thì tình hình im ắng một thời gian, xóm giữa nhà ông em cũng không ai gặp cô về nữa, cả làng cũng chẳng có ai kháo nhau là bị cô trêu thời gian này, năm ấy mọi người ăn cái Tết Mậu Thìn khá yên ổn. Đêm 29 quãng 2 giờ sáng lợn đã kêu eng éc inh ỏi khắp làng, sáng ba mươi nhà nhà vác rá, vác rổ đi lấy thịt lợn đụng về. Bánh trái ninh xình xịch thơm lừng mùi gạo rồng, đỗ xanh, nhân ba chỉ hạt tiêu. Pháo nổ đì đùng khắp nơi vương mùi khói, giấy đỏ tung tóe khắp đường quê. Cả làng cả tổng râm ran, hân hoan. Thời ấy đói vêu mồm, cả năm trông mỗi 3 ngày Tết được ăn thịt lợn thịt gà, dân thì "dĩ thực vi tiên", hẵng được cơm no rượu say đã, ma cỏ gì cũng tạm thời quên luôn. Mà có khi Âm phủ cũng Tết nhất như ai, nên tạm thời không xuất quân quấy phá. Cứ thế Tết trôi đi trong yên bình !
Ngoài Giêng khi mọi người xuống đồng cày cấy, cuộc sống trở lại bình thường thì chuyện cô Hường lại được xới lên, làng xóm lại xì xà xì xầm. Xóm ngoài nhà em có 2 chú lúc bấy giờ cũng phải 23-24 rồi, tên là Quân và Chương, đi đào vàng biệt tăm tết rồi mới về quê, nghe chuyện cô Hường mới bán tín bán nghi. Các cụ các mợ bảo, 23-24 thì là cái tuổi nếu đi lính được nghỉ phép về nhà thăm vợ, có khi về đến nhà xộc thẳng vào buồng, chán chê mê mỏi xong mới nhớ ra là quên chưa tháo ba lô. Tuổi ấy sung sức, khỏe mạnh và dũng mãnh lắm. Lúc cô Hường mất thì hai ông tướng này không ở làng, khi cô ấy bắt bà Tụy và trêu mọi người thì các ông ấy cũng có biết đấy là đâu nên cóc tin. Đêm ấy, sau bữa thịt ngan với mấy lít rượu sắn Vân Hà say quắc cần câu, hai kễnh thách nhau với đám bạn nhậu là: đứa nào đưa tao cối thóc, 12h đêm nay tao ra tao đóng mẹ nó cái cọc tre dài 1 mét lên mả "con bé Hường". Cả mâm ồ lên, nhất trí luôn. Chú Quân cười hềnh hệch, nhe cái răng cửa bịt vàng bảo: chúng mày ngồi đấy, bố đi vót cọc tre, lát thằng Chương "gù" nó hoàn thành nhiệm vụ. Các bố mày đây lê khắp Bắc Thái, ngủ toàn mồ mả mà có thấy con ma đếch nào đâu. Chú
Quân gù vỗ đùi đen đét phụ họa: ma.. ma cái máu l.ồn ấy, mẹ mấy thằng nhát như cáy ngày. Nói rồi chú vác dao ra rặng tre trước cổng hì hục chặt, vót, bọn trong nhà ngồi quây trên chiếu uống nước chè. Khoảng 11h30 đêm Chương gù cầm cọc tre vót nhọn đầu đi con xe đạp khung tam giác đen sì xuất phát. Gọi làChương gù vì người hắn to bè, đi mặt cứ cúi gằm gằm, lưng lại khom khom, chứ không phải gù thành tật. Hắn 1 tay lái xe vun vút, đèn pin buộc ngang tai loang loáng soi đường, tay kia cầm cái bao tải đựng cọc tre với vồ nhằm bãi tha ma thẳng tiến.
Chờ đến gần 2h sáng mà Chương gù chưa thấy bóng, lúc này rượu đã bay hơi quá nửa, cả đám bạn nhậu ngoài mồm thì nói cứng nhưng răng thì cứ đánh vào nhau lập cập cả đám rồi. Chỉ có mỗi Quân răng vàng là vẫn hăng tiết vịt: mẹ kiếp, đ.éo thấy nó về, khéo khi thằng này đang phịt nhau với con Hường cũng nên. Cả đám cười rộ lên. Quân răng vàng vung tay: đi, tao với chúng mày ra bãi tha ma tìm nó. Nghe câu này mấy ông bạn nhậu ngậm tịt mồm rồi len lén nhìn nhau, ông nào ông nấy co đầu rụt cổ không phản ứng. Chú Quân tức quá chửi: tổ cụ chúng mày, đi với bố, ma hiện ra tao cho quả mìn tung cái bãi ấy luôn. Vừa dứt mồm thì có tiếng éo éo vọng vào: không phải đi đâu ... tao về rồi. Cả bọn xồ ra cửa thấy Chương gù quần ống thấp ống cao đứng dưới sân, tay dắt xe đạp, tay xách cái bao lúc trước đựng cọc tre và vồ gỗ. Cái bao có vẻ ướt, nước còn nhểu tành tạch xuống sân. -Mày làm đếch gì mà ướt như chuột thế này? Sao người mày lạnh như ma thế?
Có đóng được cọc không? Có bị con Hường dẫn âm binh quỷ sứ đuổi theo không? ... Mọi người xúm vào hỏi dồn Chương gù, đáp lại chỉ là 1 cái gật đầu cùng nụ cười méo xệch và đôi mắt dại ngờ dại nghệch từ từ lướt qua khuôn mặt từng người. Quân răng vàng vỗ vỗ vai ông bạn: thôi mày say quá rồi, về ngủ đi sáng mai tao với bọn nó ra kiểm tra, chuẩn thì trưa bọn nó mang thóc đến đổ bồ nhà mày. Lại gật 1 nhát vô hồn. Cả đám thấy mã đáo công thành thì hỉ hả ra về, còn mỗi Quân răng vàng và Chương gù ngồi bậu cửa, lúc này cái giọng eo éo lại cất lên: mày ra búi tre .... vót cho tao cái cọc nữa đi ... Thấy ông bạn vàng nửa tỉnh nửa say đòi vót thêm cho cái cọc tre nhọn nữa Quân răng vàng chột dạ đốp luôn: vót cọc làm đếch gì nữa, mày đóng cọc còn chưa chán à? Cái giọng âm u như có như không lại phát ra từ cái mặt dại nghệch của Chương gù: tao cần ... tao ... có việc cần. Quân răng vàng nghĩ bạn chắc say quá hóa lẫn mắng váng lên: thôi thôi thôi thằng nỡm ơi, mày cút mẹ về ngủ đi, tao díp hết cả mắt rồi đây này, ở đấy mà cọc với chả lệch. Vì hắn quát rất to nên bà cụ nhà hắn vốn đang ngủ bên nhà chị dâu cả cũng lọ mọ chống gậy sang: Quân ơiQuân, đêm hôm rồi à chúng mày ồn ã thế, có để cho hàng xóm láng giềng ngủ không.
Thấy kinh động đến mẹ già cả hai bèn cắp đ.ít đứng lên, Chương gù thì lập bập, kềnh càng từng bước một ra đầu ngõ, hay tay huơ huơ ngang trước người, Quân răng vàng loạch xoạch đóng cửa đi ngủ. Trước khi đóng cửa chính hắn nhìn sau lưng thằng bạn vàng đang bước ra cổng mà chột dạ thắc mắc: thế đếch nào thằng này hôm nay đi người cứ cứng đơ đơ thế kia, trông như con trâu tập đi bằng hai chân. Hắn vừa nghĩ xong thì Chương gù cũng đi tới cái chuồng trâu đầu ngõ, con trâu đực trong chuồng tự dưng hực lên 1 tiếng như muốn phá chuồng xông ra ngoài. Buồn ngủ díp cả mắt, hắn chốt cửa đánh khặc 1 tiếng rồi quay vào trong nhà luôn chả thèm quan tâm.
Đã chuẩn bị đi nằm rồi thế mà lòng hắn cứ thắc thỏm không yên, hắn thấy hình như mình còn quên cái gì, xem nào, cửa rả đóng rồi, xe cũng đã cất vào nhà ngang ... còn cái gì nữa nhỉ? Ngâm nga 1 lúc hắn à lên: còn cái bao tải đựng vồ để ngoài sân bị ướt, chắc phải đem nó phơi lên cho khô không thì để ẩm chả mấy mục hết bao. Nghĩ là làm, hắn vác đèn pin phi luôn ra sân chỗ cái bao nãy thằng Chương gù dúi vào một góc. Hắn nhấc cái bao lên thấy nằng nặng nhưng không thấy cái cán vồ đâu, bụng bảo dạ: chắc nó quên mẹ cái vồ gỗ ngoài bãi tha ma rồi, nhưng mà có cái đếch gì bên trong nhỉ, chẳng nhẽ cá? Hắn di dí mũi chân vào đáy bao thấy mềm mềm, ươn ướt, chắc là cá rồi, thằng gù này cũng tài, bảo nó đi đóng cọc lại còn bắt được cả cá đem về, con này cũng khá đây, xem cá gì nào.
Hắn ngậm đèn pin vào mồm tay cầm miệng bao, tay nhấc đáy đổ đến phạch 1 cái xuống nền sân, vừa soi đèn vào cái thứ đổ ra từ bao hắn chết lặng chỉ ú ớ mà không kêu lên được thành tiếng vì đèn pin chắn họng. Dưới ánh đèn, một cái đầu người máu me be bét, mắt trợn trừng, tóc tai lòa xòa ướt nhẹp, nhe răng đầy mồm, đang trân trân nhìn hắn.
CHẬP 6:

Quân răng vào thiếu nước nuốt luôn chiếc đèn pin vào trong bụng, hắn hồn vía lên mây đứng chôn chân một lát rồi cuống cuồng chạy sang nhà chị dâu. Hắn vừa lao đi vừa ú ớ không thành tiếng vì đèn pin vẫn ngậm trong mồm. Giữa nhà hắn và nhà chị dâu là cái tường đất bùn trộn rơm cao chừng mét rưỡi, dày cũng phải 2-3 chục phân, có xẻ cái lối đi ngay sát nách nhà. Bình thường cái tường này khá chắc, thế mà chả biết thần lực nào hỗ trợ, Quân răng vàng nhằm chính giữa tường phi như chỗ không người, cái tường đổ "uỳnh" 1 phát chấn động cả xóm, hắn bụi đất đầy người tót vào trong nhà huơ tay múachân loạn cả lên. Lúc này nhà bà chị dâu cũng đã đèn đóm sáng trưng, mẹ già hắn cũng tỉnh dậy, thằng cháu đích tôn 14-15 cũng dụi dụi mắt bước ra ngoài. Thấy cảnh kỳ dị, đứa em chồng mồm ngậm đèn pin, chân tay khua khoắng ú a ú ớ, bà chị dâu hỏi có việc gì thế chú? Bà mẹ già cũng đã ra tới nơi nhìn thằng con như bị dại cũng khò khè: mày làm sao thế hở con? Quân răng vàng vẫn tiếp tục hoa chân múa tay và ú ớ, hàng xóm lúc này nghe tiếng tường đổ rồi đèn sáng cũng lục tục chạy qua. Hai ba thanh niên người đè người rút cật lực mới lôi được chiếc đèn pin ra khỏi họng
Răng vàng, rảnh mồm hắn gào lên và chỉ trỏ loạn xạ: đầu người ... đầu người ... giết người .... Cả nhà hỏi dồn: đầu người ở đâu? Hắn chỉ tay sang phía sân nhà hắn rồi nói ngắt quãng: vứt ... vứt ở sân kia. Mọi người nghĩ chắc có án mạng mới khua đèn chạy qua sân nhà Quân, hắn cũng lẽo đẽo chạy theo. Đâu, đầu người ở đâu? Cả chục cái đèn pin loang loáng soi khắp sân, nhao nhao người hỏi. Quân răng vàng ú ớ, hắn nhìn khắp sân làm gì có cái đầu người nào,chỉ còn cái bao ướt là vẫn nằm yên chỗ cũ. Thấy vậy hắn chỉ cái bao: đây đây ... cái bao. Ngay lập tức có 1 người cầm cái bao dốc ngược ra, đầu người chả biết có hay không nhưng đổ ra từ cái bao nhung nhúc toàn là đỉa trâu dài cả gang tay đen sì sì, có dễ đến lưng bao đỉa. Đám đàn bà con gái nhảy choi choi, mấy bố đàn ông cũng giật mình lùi lại. Lấy đâu ra nhiều đỉa thế nhỉ? Lũ đỉa được giải phóng khỏi cái bao giờ bò lổm ngổm khắp sân. Quân răng vàng mắt tròn mắt dẹt, hàng xóm cảm thấy bực hết cả mình, có người quát tháo: lũ chúng mày toàn đứa vô công rồi nghề, tối rượu chán chê lại còn đi bắt đỉa về dọa nhau. Rồi: thằng này thần hồn nát thần tính ấy mà, thấy cái bao lùm lùm nó lại tưởng cái đầu người. Rồi họ lục tục ra về, bà chị dâu và đứa cháu cầm chổi quét lũ đỉa gom thành một đống quây rơm đốt, mẹ già chống gậy ngồi bên thềm thở ngắn than dài, Quân răng vàng tối oai phong là thế mà giờ thu lu núp sau lưng bà cụ. Lông tóc hắn dựng hết cả lên, lúc mẹ với chị về bên nhà thì hắn cũng líu ríu theo sau chứ ko còn gan nào ở 1 mình bên này nữa. Lúc đi qua cái tường đổ, từ đâu cái giọng éo éo âm u bỗng vẳng bên tai hắn: cho chị lên Bắc Thái chơi điiii ... Quân ơiiiiii .... Hắn rùng mình chạy tót vào nhà bà chị dâu, phi lên giường trùm chăn rên hừ hừ, thi thoảng lại nấc lên: chị ơi, chết em rồi, mẹ ơi chết con rồi ....
Răng vàng cứ nức nở như thế, mặc mẹ già với chị dâu sốt sình sịch hỏi han: làm sao mà chết? Ai chết hả con? Mày làm sao hở Quân kia? Hỏi han hỏi chê mà hắnchỉ lắc đầu nước mắt lưng tròng, bà chị dâu đi lấy dầu gió xoa xoa hai bên thái dương hắn. Mẹ già thì sụt sịt nhang đèn, ối ông Đoàn ơi là ông Đoàn, ông về đây mà xem thằng con ông đây này, nó dở không ra dở điên không ra điên, ối ông
Đoàn ơi iiii... Ối thằng cả ơi là thằng cả, về đây mà xem em mày này ... hu hu hu... ối giời ơi... ối giời ơi ... Lúc bấy giờ trời cũng tảng sáng rồi, gà gáy le te khắp nơi, bà chị dâu bảo: thôi bà đừng khóc nữa, chắc chú ấy say quá thôi, bà đi nằm một lúc đi, còn xuống bếp nấu ít cháo hoa cho chú ăn mau tỉnh.
Nói là làm, bà chị dâu hắn mở cửa bước ra sân định xuống bếp nổi lửa nấu cháo cho em, bà chị xuống gần cửa bếp thì tự nhiên quay ngoắt người chạy tuốt vào trong nhà đóng cửa hổn hển: ối mẹ ơi ma, có con ma ngoài sân ... Mẹ già Quân răng vàng hớt hải: ma đâu hở con ...? Chị dâu líu hết cả lưỡi: con ....con ... đi đến gần ... cửa bếp ... chỗ chỗ cây cau thì thấy có cái bóng trắng trên .... trên cây ... tụt ... tụt xuống nó ... nó ôm con ... lạnh toát ... Bà mẹ nấc lên: thế ... thế nó đâu rồi? Chị dâu nghẹn ngào: nó bay ... bay ra chỗ bể nước rồi mẹ ơi ... nhanh lắm ... vèo một cái ... nó đã ngồi trên nóc nhà chú ... chú Quân rồi ....Khỏi nói, Răng vàng loáng thoáng câu được câu chăng, nghe đến đây thì ngất xỉu luôn trên giường ... Ối ... ông Đoàn ơi ... ối ông Đoàn ơi ... về mà cứu con ông này ... Ối thằng cả ... ơi ... Bà mẹ già lại cất giọng rền rĩ, vừa khấn vừa khóc vừa vái lấy vái để. Chị dâu Quân răng vàng cũng quỳ trước ban thờ lạy như tế sao.
Vừa lúc ấy ngoài ngõ xôn xao: bà Đoàn dậy chưa bà Đoàn ơi, rồi tiếng người nhấc cái cánh cổng đan bằng liếp loẹt xoẹt và bước nhanh từ ngõ vào nhà rồi gõ cửa lách cách. Lúc này trời đã sáng hẳn rồi, chị dâu Răng vàng lấy hết can đảm ra hé cửa nhìn rồi hỏi: ai thế? Em Ánh vợ Chương đây, anh Quân có bên này không chị? Bà chị dâu thở phào quay mặt về phía mẹ già: cái Ánh mẹ ạ, Ánh vợ thằng Chương gù xóm bên. Đoạn chị dâu Quân mở tung cửa cho Ánh bước vào, con chào bà, bà dậy sớm thế, nói đoạn chị chàng chạy ngay ra chiếc giường tre vỗ vỗ mạnh vào mặt Quân Răng vàng: dậy dậy anh Quân ơi, anh Quân ơi!!! Quân vốn bất tỉnh nhân sự vì quá hãi nhưng vì bị vả bôm bốp vào mặt nên đau đành mở mắt, chưa kịp ô ê gì đã bị hỏi dồn: anh có biết Chương nhà em đâu không? Tối hôm qua sang nhà anh uống rượu giờ vẫn chưa về.
Quân lúc này phần vì trời đã sáng bảnh, phần vì ăn mấy tát, phần vì lo cho thằng bạn nối khố thân thiết từ tấm bé nên cố gắng ngồi dậy ú ớ: tao .... tao ... có biết đâu ... Chết rồi, có khi say rượu ngã chỗ nào rồi cũng nên. Mắt Ánh giờ đã rơmrớm con tôm. Đi tìm nó thôi, Quân bật dậy, giờ hắn đã quên nỗi sợ đêm rồi trải qua, trong lòng chỉ còn sự an nguy của thằng bạn thôi thúc. Nói dại nhỡ nó chết bờ chết bụi có phải mang tiếng sang nhà mình uống rượu rồi chết không, hắn bụng bảo dạ. Quân nhảy tót về bên nhà, xách chiếc xe đạp ra ngõ, cứ thế hắn và vợ Chương gù phóng như bay đến nhà đám bạn nhậu đêm qua để hỏi han. Lướt hết một vòng các nhà, đứa nào đứa nấy đều lắc đầu không biết, đêm qua về phát ngủ luôn, có hai thằng nữa cũng vác xe đạp lên đi tìm cùng. Ra đến giữa làng cả bọn gặp 1 bà đi tát nước sớm, vai vác khau sòng, mấy xe đi nhanh tí lao vào người ta, bà vác khau mắng váng lên: tiên sư chúng mày,mù à, đi đâu đi như ăn cướp thế. Vợ Chương gù nhanh nhảu: cô Thước đi tát về sớm thế, bọn cháu đi tìm anh Chương, đêm qua đi đâu chả thấy về. Bà già nghe thế ô lên: tao tát nước ở cửa Đình thấy thằng chồng mày tha thẩn ở nghĩa trang ngoài ấy từ sáng sớm mà, nó cứ lúi húi như dọn cỏ dọn cây ấy. Nghe thế cả bọn mừng rú lên, phóng xe như bay ra nghĩa trang cửa Đình.
CHẬP 7:

Làng em chỗ hung táng thì cách làng rất xa, sang cát rồi thì người ta đưa hài cốt cát táng về mấy nghĩa trang xung quanh làng, cái nghĩa trang cửa Đình là bãi riêng của dòng họ Đinh Văn nhà Chương gù. Gù lưng chổng tí guồng xe thì một lúc sau đám người cũng đến được nghĩa trang họ Đinh Văn, họ ném xe ngay ven đường, nhảy qua mương nước hối hả chạy về mấy ngôi mộ tròn xanh cỏ. Đến nơi cả bọn sững người, Chương gù chân quỳ chân ngồi, tay cầm hòn gạch đang ra sức đóng chiếc cọc xuống 1 ngôi mộ ngay trước mặt, vừa nện hắn vừa cười the thé và lẩm bẩm: đóng ... đóng ... đóng chết mẹ mày đi cái nòi Đinh Văn. Hai tay hắn bê bết máu, cả tay cầm gạch lẫn tay đợ cọc, từ lúc ở nhà Quân răng vàng về cho đến lúc này, Chương gù đã kịp đóng hết 9 cái cọc trên tổng số 14 ngôi mộ từ cao tằng tổ khảo cho chí mộ cha mẹ hắn trong khu nghĩa trang gia đình.
Vợ Chương gù thấy chồng như thế vội vàng lao đến hô thất thanh: anh làm gì thế này? Chị chàng giang hai tay định ôm lấy chồng, còn chưa kịp vòng qua người thì"Bốp", ăn nguyên viên gạch chỉ vào giữa mặt nằm quay đơ xuống nền cỏ. Răng vàng với hai ông bạn nhậu hoảng hồn xông vào người giữ tay, người giữ chân tính đè nghiến Chương gù xuống, hắn lắp bắp quát lên: đì...đì...đ.ịt mẹ ... mà ..ày làm gì thế ... hở Chương? Chửi chưa dứt mồm "Bốp" thêm phát nữa, Quân răng vàng thu tay về ôm cái mồm nát bét quỳ gập người ngay cạnh vợ Chương kêu be be, cái răng vàng dính máu bắn ra nằm trên cỏ xanh phản chiếu ánh mặt trời banmai lấp lóa. Còn hai ông đang ghì Chương gù bị hắn "ù...uồm" một nhát hất văng ra, đang lồm cồm trỗi dậy thì "Vụt" "Vụt" hai tiếng nữa, mỗi cụ ăn một nhát cọc tre vào mang tai nằm thẳng đuỗn chi chi.
Chương gù mắt đỏ lừ lăm lăm chiếc cọc tre đực trong tay, hắn thở phì phò, nghiến răng ken két, mép sùi bọt trắng xóa, chân bước lập bập lập bập hai hàng tiến ra cái đống gạch cũ năm trước nhà hắn xây mả tổ còn sót lại. Hằn giờ trông giống như một con quỷ hoặc ôn thần chứ chả có gì mang nét con người. Cúi người vớ lấy 1 viên gạch tím phồng, hắn tung tẩy vài cái xem có đầm tay không rồi lập bập quay lại. Quân răng vàng còn đang rên la thảm thiết thì thấy thằng bạn vàng kề ngay cái cọc tre nhọn vào bụng con vợ nó đang ngất xỉu, nó giơ viên gạch lên kịch tầm tay và nện xuống hết sức bình sinh. "Tao đóng ... chết ... cha ... con vợ mày này ....há há há..." Chương gù gầm lên đinh tai. "Phụp" chiếc cọc tre nhọn hoặt đục thủng nền đất cỏ! Quân răng vàng vào lúc chín chết một sống đã nhoài người ôm cổ vợ Chương gù vớt về phía hắn rồi lăn đi mấy vòng, thoát chết trong gang tấc.
Lúc này hắn kinh hồn táng đởm lắm rồi, nhưng dù sao cũng là buổi sáng, ban ngày ban mặt, kinh quá hóa căm, Răng Vàng cũng chả cần biết trời đất là gì nữa.Nhân cái lúc Chương gù còn đang loay hoay dùng hai tay khom lưng cố rút chiếc cọc vừa đóng hụt, hắn phi đến vồ lấy viên gạch táng đánh "Bốp" 1 nhát vào gáythằng bạn thân. Dính đòn đau Chương gù quay lại vằn mắt chiếu tướng Răng vàng, "Bốp, bốp, bốp" ba nhát táng liền vào thái dương nữa, thằng gù lúc này mới hai tay rời cọc ngã nghiêng ra ngất xỉu. Hai ông bạn kia chả biết đã tỉnh lại từ lúc nào, lúc Chương gù bị hạ thủ thì mới rõ mỗi ông đang ôm 1 ngôi mộ tròn run lẩy bẩy. "Ánh ơi... Ánh ơi ... dậy... tỉnh dậy đi", ba gã đồng thanh người hô người tát vào mặt vợ Chương gù. Lát sau thì Ánh ú ớ tỉnh dậy, thấy chồng đầu tóc bê bết máu mới khóc nấc lên "Ối làng nước ơi...anh Chương làm sao thế này?" Đoạn chị chàng nhảy sang chỗ chồng nằm ngồi phệt xuống rồi nhấc đầu hắn đặt lên đùi mình khóc tồ tồ.
Chương gù khò khè nằm trên lưng 1 gã trong nhóm, vợ hắn đợ sau lưng, Răng vàng và gã còn lại hai người dắt 3 chiếc xe đạp thất thểu đi về làng. Người đi làmđồng bâu lại thấy ông nào ông nấy người máu me loang lổ tưởng lũ này gây sự đánh nhau, hỏi han vợ Chương gù thì thị chỉ khóc, họ rủa váng: tổ sư bố mấy thằng động rồ, đi làm đi ăn chả chịu lại đi đánh nhau từ sáng sớm. Cả bọn đưaChương gù về nhà hắn, đặt nằm ngay ngắn trên giường, rửa ráy băng bó xong xuôi cho hắn thì giục vợ hắn đi nấu cháo để lát tỉnh còn có cái đổ vào mồm cho ấm bụng, vật vã cả đêm qua chắc rã hết cả xương rồi chứ đùa. Xong cả bọn mắt lấm lét nhìn nhau và giải tán trong im lặng, lơ mơ trong đầu là biết cái quỷ sự này nó từ đâu mà đến rồi.
Quân răng vàng lóc cóc đạp xe về, hắn lái bằng một tay, tay kia cầm khăn mặt bịt cái mồm sưng vếu. Vừa đi hắn vừa rởn gai ốc nghĩ về mấy chuyện vừa rồi mà timcứ đổ thùng thùng. Về đến đầu ngõ đã thấy đàn bà trẻ con túm năm tụm ba xì xào, hắn nghe loáng thoáng nào đầu người, nào đỉa trâu, rồi cả ma trèo cây cau ... Vừa thấy bóng hắn người ta đã í ới Quân ơi, Quân ời ... hắn mặc kệ lượn xe vào nhà ngang rồi mở cửa bước vào nhà và đổ uỵch xuống giường. Cả một đêm kinh hồn táng đởm, sáng sớm lại quần nhau với Chương gù khiến hắn chết mệt, chưa đầy nửa giây hắn đã chìm sâu vào cơn ngủ.
Mẹ già với chị dâu hắn cứ lúc lúc lại chạy qua xem hắn ra sao, thấy hắn mồm miệng sưng vêu cũng muốn hỏi xem sự tình gì nhưng vì hắn ngủ tít nên mọi người cứ mặc kệ cho ngủ đẫy mắt. Lúc tỉnh dậy trời đã nhá nhem tối, có dễ cũng phải hơn 6h chiều, hắn dụi dụi mắt vươn vai bước xuống giường, chắc mẹ hay chị dâu hắn đã đốt đèn lên rồi, ánh sáng vàng le lói mấy gian nhà. Chợt nhớ tới
Chương gù sáng nay ăn mấy hòn gạch vào đầu không biết thế nào, hắn lại vớ lấy cái đèn pin rồi xách xe đạp ra ngõ. Bà chị dâu thấy hắn đi ra ngoài thì hỏi với: chúở nhà ăn cơm đã rồi đi đâu thì đi. Hắn nhấc cái mông lên yên xe rồi ngỏng cổ lại bảo bà chị: em sang nhà Chương tí em về.
Chẳng biết cái "tí" của người bình thường là bao lâu, nhưng "tí" của Quân răng vàng thì là ngót 3 ngày, cho tới khi một bà đi vớt bèo buổi sáng quờ phải mái tóchắn lẫn với rễ bèo nổi lập lờ trong cái ao cá bên xóm Đình, chỉ cách nghĩa trang nhà Chương gù một quãng. Bà đó gần như chết lịm tại chỗ, may còn nhớ ra là phải chạy lên bờ rồi tru tréo lên trong hoảng loạn. Dân làng đổ ra xem đông nghịt, mấy ông cứng vía lội xuống nước dìu cái xác trương phình lên, đặt hắn nằm ngửalên chiếu cói. Vợ Quân răng vàng mấy hôm nay về nhà ngoại xã bên nghỉ dưỡng thai, mấy ngày bặt tin chồng đã vội vàng quay về. Khi mẹ, chị dâu rồi vợ hắn ra tới nơi và khóc ồ lên thì cái xác tái nhợt, trương phềnh, chân tay co quắp ấy bỗng hộc máu mồm phun ra cả nắm đỉa trâu bò lổm ngổm trên manh chiếu cói. Lúcđưa hắn về khâm liệm, người nhà thấy bàn tay phải của Quân còn nắm chặt chiếc răng vàng.
Nghe phong phanh là tối chập tối hôm ấy có người thấy Quân răng vàng dắt xe đi bộ cùng một bà người Thổ người Mán gì đó, quần áo xanh đỏ tua rua, chít khăn đen quẩy hai chiếc sọt mây hình vuông trên vai đi về phía xóm Đình. Làng em hồi ấy thi thoảng lại thấy mấy bà mế vùng cao gánh thuốc nam về làng bán, người ấy cứ nghĩ Quân răng vàng đưa bà mế đến chữa thương cho Chương gù, bạn hắn. Sau hỏi vợ Chương mới biết là tối ấy chả có thầy thuốc hay ông bạn nào ghé qua.
Chương gù một đêm xuất quân đóng cọc tròn mười cái mả, mộ cô Hường là công trình đầu tiên, chín tác phẩm sau cao tằng tổ khảo cho chí phụ mẫu thân sinh nhà hắn thụ hưởng trọn. Sáng sớm hôm sau lại độc chiến quần hùng, một mình một ngựa tung dăm sáu phát đà đao, đến vợ cũng chẳng tha, lĩnh ngay một phát vào giữa mặt. Cuối cùng vẫn là mãnh hổ nan địch quần hổ, bị vây công bởi địch nhân rồi ngã xuống vì đối phương đánh lén bằng 4 viên gạch chỉ. Hắn nằm mê man suốt mấy ngày, tỉnh dậy thì thấy đầu băng trắng lốp, vợ cũng dán cao kín mặt, ú ớ hỏi: mẹ mày làm sao đấy? Sao sao cái gì, dậy nhanh mà đi viếng anh Quân kìa, vợ hắn đốp thẳng. Chương gù chống hai tay ra sau lưng nhổm dậy mà vẫn u u mê chả biết chuyện gì. Hai vợ chồng đến viếng Quân răng vàng với bộ dạng thảm thương, tiều tụy. Ngồi trong đám giữa tiếng kèn trống thê lương hòa cùng tiếng khóc nỉ non, ai oán của gia đình thằng bạn nhưng hắn vẫn láng máng nghe người ta nói cái gì "cô Hường", "cô Hường" ... Đầu còn chưa tiêu hóa hết 4 viên gạch chỉ nên hắn nhớ nhớ quên quên chả nghĩ ra, ngồi 1 lúc rồi vợ hắn ra dìu về. Đi đúng đến cái chuồng trâu nhà Quân răng vàng ở đầu ngõ, chợt hắn thấy từ sâu trong người có thứ gì nó cứ ù oàm vang vọng, hắn tự dưng rùng mình đứng sững lại, tiếng ù oàm càng lúc càng to dần, đùng cái hắn thấy mình bị cái tiếng ù oàm kia nuốt chửng.
Vợ Chương còi vốn đang dìu chồng rời đám, bỗng dưng thấy chồng lắc người vùng khỏi tay thị lao tới sát cửa chuồng trâu nhà Quân răng vàng, thò cổ vào hầmhè. Con trâu đực trong chuồng hực lên 1 tiếng rồi lồng lên muốn phá toang chui ra nghiền nát hắn. May có vợ kéo lại chứ không quả ấy chắc hắn nát gáo với con trâu, ấy thế mà hắn chẳng hề tỏ ra sợ hãi, cứ đứng trân trân vằn hai tròng mắt đỏ quạch gườm gườm nhìn con trâu đực trong chuồng. Vợ hắn hét toáng lên: bố mày dở à, muốn chết à, tự dưng đi đánh nhau với trâu. Mấy người trong đám cũng chạy ra kìm giữ hắn, họ chửi hắn xa xả, bảo là thằng rồ thằng dại, ma chay đau buồn là thế mà lại còn làm trò, rồi họ lôi hắn ra cổng và bảo vợ hắn áp tải chồng về. Sau này Ánh, vợ Chương gù kể lại là ra đến cổng tự dưng chồng thị rùng mình 1 cái rồi ngã dựa luôn vào sườn vợ, doc đường về nhà vợ hắn phải dìutừng bước khật khừ.
CHẬP 8:

Quãng chục ngày sau thì Chương gù khỏi hẳn, lúc này trong làng mọi người đã râm ran chuyện cô Hường hóa thành bà mế Thổ rủ đi rồi dìm chết Quân răng vàng, đội bạn nhậu đêm ấy vì quá sợ hãi nên cũng đã tiết lộ hết nguồn cơn. Xóm nhà ông chú em tức tốc điều mấy thanh niên vào mộ cô Hường kiểm tra thì thấy đúng là có chiếc cọc tre đóng ngay đỉnh mộ, hơi chếch về phía đằng chân. Ngay lập tức chiếc cọc được rút lên và người nhà cô rầm rập kéo đến nhà Chương gù vấn tội. Trưởng tộc nhà hắn cùng các bậc cao lão phải thay mặt bố mẹ "thằng mất dạy" này (nguyên văn câu nói của họ) đứng ra xin lỗi bên nhà cô em. Trong lúc hai bên đang phát biểu, tự dưng Chương gù cất giọng mai mái lành lạnh: thôi nhà bên ấy cứ về đi nó bị quan Ôn chấm sổ rồi. Nói xong hắn phủi đ.ít đi lập bập hai hàng ra cửa, sau lưng hai họ sững hết cả người.
Mấy hôm sau tự dưng Chương gù mất tăm mất tích, vợ hắn run run bảo hắn đi làm ăn xa, rồi sau chả thấy về làng, có người đi làm kinh tế trong Lâm Đồng gặp hắn về kể lại là Chương gù tiều tụy lắm. Hắn lấy vợ hai ở đó rồi, mấy năm trước bị trâu nó vằng cho nhát thủng cả bụng, chạm vào cột sống, đưa đi viện nhanh nên giữ được cái mạng, bụng vá kịp nhưng cột sống thì không, giờ hắn bán thân bất toại rồi. Người phía nhà Chương gù loan tin là ngay sau khi phái đoàn nhà cô em về thì ông bác ruột Chương gù họp nội tộc luôn, tại đó Ánh, vợ Chương, cũng kể lại hết những quỷ sự hắn làm suốt mấy ngày qua. Nội tộc họ Đinh Văn cho người ra nghĩa trang dòng họ rút hết 9 chiếc cọc tre lên, đồng thời mang lễ mang lạt đến trước bài vị vong linh cô Hường tại nhà tạ tội nguyên 1 ngày, thành tâm hối lỗi lắm.
Nghe đồn thế vẫn chưa xong, tối ấy vợ chồng Chương gù ngồi nói chuyện trên bộ tràng kỷ để giữa nhà, hắn ăn năn hối hận vì ngu dốt hỗn láo mà khiến hai họ suýt đánh nhau, vợ hắn cứ mỗi câu lại đay nghiến chì chiết chồng. Đang khi gay cấn thì ngoài sân chó sủa rộ lên, Chương gù nhoài người ngó ra bỗng nhiên chiếc đèndầu trong nhà tắt lịm, hai vợ chồng hắn đều cảm thấy có một luồng hơi hôi hám lạnh buốt quấn quanh người, muốn kêu mà không kêu nổi. Có tiếng ai nheo nhéo trong tai: Chương ơi iiii .... Chị đây .... Chị đưa thằng Quân về thăm em đây ... nó mới xuống còn nhớ bạn nhớ bè lắm ... mày xuống đây với nó cho đỡ buồn ... hư hư ... Ngoài sân rộ lên tiếng cười ha hả, tiếng gì như tiếng móng tiếng guốc nện khắp mặt sân.
Vợ Chương gù sau này kể là: thị với chồng cứ như bị đóng băng, đóng đá, không cựa quậy nổi, hàng chục cái bóng mờ chạy nhảy vòng quanh, mỗi lần qua nó lạichạm vào người một cái, cơ thể dần trở nên lạnh buốt. Tưởng sắp bị bắt đi đến nơi thì đột nhiên trên cổ Chương gù phát ra tiếng đinh – đang rất vang, vòng vâychợt lỏng ra, đinh-đang tiếng nữa đã thấy hơi lạnh cuốn ra ngoài cửa, có tiếng éo éo vọng vào trong nhà đầy căm tức: a, thì ra họ nhà mày có Chuông đuổi quỷ ...a,được lắm, .... hôm nay tạm lui quân. Lại đinh-đang tiếng thứ 3 thì tiếng huỳnh huỵch đã tít xa đầu ngõ. Hai vợ chồng hắn còn cứng đờ người vì sợ, lúc lâu sau mới hoàn hồn ra chốt cửa thật chặt rồi chui vào buồng đắp chăn run lẩy bẩy. Trên cổ Chương gù tòong teng 1 chiếc chuông màu đen chỉ nhỏ bằng ngón chân cái, là thứ hôm họp nội tộc khi nghe vợ hắn trình bày xong thì ông bác ruột vội chống gậy đi nhanh về nhà tìm kiếm. Lúc lâu sau ông bác mới trở lại đưa cho hắn cái chuông đó và bắt đeo vào cổ ngay, cấm được tháo ra, từ lúc đeo chuông thì tiếng ù oàm kỳ bí kia bỗng biệt tăm biệt tích như chưa từng hiện diện trong người. Nói thêm về cái cố sự Chuông trừ quỷ này nhà Chương gù, số là nhiều đời về trước cao tằng tổ khảo họ Đinh Văn nhà hắn vốn là dân vùng Thanh Hoa ngoại (nay là Ninh Bình) phiêu bạt ăn xin đến cái đất này. Tổ tiên hắn ban đầu đói khổrách nát lắm, nhưng bản chất vốn hiền lành thật thà, lại có căn quả nên may mắn được một thầy pháp nổi danh vùng Kinh Bắc trên đường vân du gặp gỡ rồi thu nhận làm tiểu đồng. Từ đấy cụ tổ nhà Chương gù chuyên tâm theo hầu hạ thầy.
Thầy pháp ấy xưa gọi là thầy phù thủy, vị này ở gần đền thờ Thánh Độc Cước đất Từ Sơn, chuyên trừ ma diệt quỷ cứu độ chúng sinh. Pháp lực cao tuyệt nhưngdanh lợi chẳng màng, một đời chỉ biết cứu nhân độ thế, không vợ không con, chỉ có một căn điện nhỏ gần đền Thánh và cũng là nơi trú ngụ.
Lúc thầy trăm tuổi sắp mất có gọi tiểu đồng vào dặn: "Đời ta chỉ có duy nhất một đệ tử đích truyền, nó tính phiêu lưu, hành tung hạc nội mây ngàn. Con theo thầyhầu hạ nhiều năm, tận tâm tận sức, hiếu đễ, chân thành, tiếc là tư chất không cao nên ta chẳng thể truyền nghệ cho con, của nả thầy chẳng có gì, có chiếc Trấn Quỷ Chung này theo ta cả đời giờ đưa con đeo phòng thân, gắng mà giữ lấy, sau này sẽ có truyền nhân dòng pháp của ta đến thu hồi". Thời ấy người ít ma nhiều, rừng rú còn khắp nơi ở cái vùng Kinh Bắc này, ai chẳng cầu có vật trừ tà phòng thân. Đời sau nhà Chương gù lại phiêu bạt tiếp tới làng em, sáu bảy đời trôi qua rồinhưng đời nào cũng cất giữ chiếc chuông nhỏ xíu ấy như báu vật. Chả biết nó làm bằng gì, chỉ thấy 1 màu đen tuyền khắc toàn những chữ như giun bò, tuy là nhỏcỡ ngón chân cái nhưng không hề nhẹ, tiếng kêu rất vang vọng, có uy có hồn. Nó chính là cái thứ đã cứu mạng vợ chồng Chương gù đêm hôm ấy. Người làng em kể, sau vụ Chương gù nhờ đeo chuông mà thoát chết, hắn trốn biệt tăm biệt tích luôn, hồn ma cô Hường thời gian sau lại kéo về dọa cho vợ con hắn chết khiếp. Bất kể là ban ngày hay ban đêm, cứ mở mắt không sao, hễ nhắm mắt vào là vợ hắn nhìn thấy 1 bà người Thổ mắt sắc lẻm đang nhai trầu bỏm bẻm trước mặt. Chị chàng mất ngủ triền miên, tinh thần hoảng loạn người còn có mỗi hai cái hốc mắt sâu hoắm và xanh lét. Đứa con trai Chương gù tự dưng nổi mẩn khắp người khóc gãi suốt ngày, đưa ra tận huyện chữa mà không khỏi, người ta nói bị ma cấu, chả biết có đúng không nhưng mà đeo cho nó cái chuông thì 1-2 hôm mẩn đỏ tự nhiên lặn sạch. Người thì chớ đến con vật cũng chả được yênthân, lần lượt chó mèo lợn gà nhà Chương gù cứ như bị ai vặn cổ chết tức tưởi. Ông bác ruột hắn, người đưa chiếc chuông, đang yên đang lành bỗng hóa điên hóa dở, cứ trèo lên bàn thờ ngồi nhom nhỏm, sùi bọt mép quắc mắt mắng chửi cháu con mất dạy, đi trêu chọc ôn thần quỷ sứ để nó dẫn quân đến quấy phá "chúng tao".
Mấy người bạn nhậu tối hôm ấy tại nhà Quân răng vàng cũng chả hay ho gì, ông thì đau ruột thừa suýt mất mạng, mổ xong về đêm cứ khóc đòi đi theo chị Hường, ông đi hàng xáo bị cướp nó trấn mất cả xe lẫn hàng, lại còn bị trận đòn no nê, què lê bất dệt may mắn lắm mới không bỏ mạng ngang đường, ông đi bừa dưới đồng bị răng bừa xuyên nát bàn chân ... tất cả xảy ra trong khoảng thời gian rất gần sự kiện thách nhau đóng cọc đêm nọ. Làng em ai cũng táng đởm, kinh hồn, 7h tối chả còn ai dám thò mặt ra đường, 11h trưa không thấy bóng người lang thang đồng ruộng, nhiều người kể nhìn thấy cô dẫn theo quan ôn quỷ sứ lướt vèo vèo đỉnh ngọn phi lao, về nhà sợ đến phát ốm phát sốt. Nhà Chương gùvà nhiều người liên quan khác cử đại diện đến sắp lễ tạ lỗi trước mả cô Hường,vừa khóc như cha chết vừa lải nhải van lơn. Xong, họ kéo về xóm giữa nhà ông em, cầu xin gia đình cô Hường đón thầy pháp cao tay về xua ma đuổi quỷ, chứ chả may cô chưa tha thứ thì chỉ có nước họ phải bỏ xứ mà đi. Họ nhà em cũng họp bàn chán chê, cuối cùng quyết định đi mời cụ Tự về trấnvong cô Hường. Cụ Tự, hay còn gọi thầy Tự, là một thầy pháp nức tiếng không chỉ vùng nhà em mà còn mấy tỉnh xung quanh, cụ mới mất năm 2004, thọ hơntrăm tuổi. Lúc trước chẳng phải là ông nội em không biết danh thầy này nên phải sang tận Bắc Giang mời về một ông khác rồi thất bại, mà là vì em trai thứ 3 của ông nội em trước làm Chánh án ngoài huyện, từng phạt thầy Tự mấy tháng tù giam vì tội truyền bá mê tín dị đoan. Thế nên ông nội em ngại, chả muốn mặt mo đi mời cái người mà trước đây đứa em mình từng xử tệ với người ta. Nhưng chuyện đã đến nước này, dân làng hoảng loạn bất an, cứ tiếp diễn nhà em thành ra bị người ta oán trách, dù gì cô Hường lúc sống cũng là con cháu trong nhà, ông nội em quyết tâm gạt nỗi e dè trong lòng, bảo chú út nhà em đạp xe chở đến nhà thầy Tự, làm theo lời khuyên của ông thầy bên kia sông Cầu hôm ấy: ca này phải nhờ cụ Tự giúp cho.
CHẬP 9:

Ngay trong cái buổi sáng mà chú em đạp xe đèo ông nội ra thỉnh cụ Tự về trấn vong cô Hường thì bên họ Đinh Văn nhà Chương gù lại xảy chuyện. Số là ông bácruột Chương gù cứ khùng khùng điên điên mấy ngày không dứt, anh con trai cả của bác ấy biết bố bị vong hành mới chạy qua Chương tính lấy tạm cái chuông vềđeo cho bố tính trục quỷ trừ vong. Ông bác này vốn làm nghề thợ mộc, vợ mất đã lâu, đận ấy cũng độ ngoài năm chục rồi, bác ở cùng gia đình con trai trưởng. Anh con trai này sang nhà thì không thấy mẹ con Ánh đâu cả, hỏi han mới biết hai mẹ con nhà thị được bên ngoại đón về từ chiều qua, không hề chậm trễ, anh mượn xe phóng sang làng bên để lấy chuông về.
Quãng hơn 9h sáng anh về tới nhà thì thấy vắng tanh vắng ngắt, gọi vợ con chẳng thấy thưa, kêu "thầy ơi" cũng chả thấy ai lên tiếng. Linh cảm thấy chuyện chẳng lành, anh chạy vào nhà lùng khắp buồng trong buồng ngoài, chạy cả xuống bếp rồi ra chuồng trâu, chuồng lợn cũng chả thấy bố đâu. Chắc mẩm vợ con đưa ông sang nhà chú hai gần đấy chơi cho khuây khỏa, anh bước vội ra cổng tính đi tìm, lúc đi qua cái đống rơm chất ngay khoảng vườn đầu ngõ, chợt nghe "kếch ...kếch ... kếch" lạ tai anh mới rẽ ngang đi vòng ra sau đống rơm xem là tiếng gì.
Vừa ló mặt ra thì anh chàng chết đứng luôn tại chỗ, trước mắt anh, dưới chânđống rơm, ông bố lom khom nửa ngồi nửa quỳ cầm chiếc đòn vuông cỡ bắp chân, nện từng nhát đều đều, dứt khoát vào cán chiếc dùi đục gỗ đang cắm sâu trước bụng. Ông bố lấy dùi đục tự đóng thủng bụng mình, máu chảy lênh láng nhưng lại không hề tỏ ra đau đớn, sợ hãi. Thấy con trai xuất hiện, ông ngước đôi mắt đỏ ngầu lên đầy hung dữ và tàn độc rồi ngoác miệng cười man dại: hé hé hé hé ... đóng ... đóng chết mẹ ... cái nòi Đinh Văn ... này! Chữ "NÀY" vừa dứt cũng là lúc tay cầm đòn của ông giang hết cỡ nện đánh "cốp" vào cán đục, "xạt" 1 tiếng đầu chiếc đục đã lòi ra phía sau lưng, nhểu máu tươi tành tạch xuống nền rơm vàng vung vãi.
Hai tay ông vẫn 1 bên cầm đòn, bên kia giữ cán đục, đôi mắt đỏ lòm gườm gườm nhìn con trai, anh con trai đang chết đứng tại chỗ bỗng hét lên một tiếng thật to "Á .... Á....Á...." rồi chạy giật lùi ra ngoài ngõ, ông bố tay huơ đòn, tay giữ cán đục lom khom lom khom đuổi theo sau. Chạy ra cổng được vài bước chợt nghe "đinh-đang" 1 tiếng, ông bố rùng mình khựng lại, giây lát sau tay buông đòn, tay buông đục đổ ập xuống nền đường giãy giãy, mặt mũi méo mó biến dạng vì đau đớn dàyvò. Hàng xóm láng giềng nghe anh con trai hét lạc giọng mới nhốn nháo chạy qua, ai nấy đều chết khiếp, anh con trai tay cầm chiếc chuông cũng khóc ồ ồ quaylại chỗ bố nằm, "thầy ơi ... ới thầy ơi ...thầy..." anh phủ phục bên người bố thảm thiết gào vang.
Ông nội em kể lại là buổi sáng ra tới nhà cụ Tự thì hình như cụ đã biết trước có người nhờ vả việc trọng đại, nguy hiểm rồi, vừa tới cổng người nhà cụ đã chờ sẵn đưa luôn vào trong gặp cụ, ông nội và chú út em lật đật bước theo sau, dọc lối đi từ cổng vào bát hương cũ chất đống hai bên. Ngôi nhà cụ Tự đơn sơ giản dị lắm,cũng chỉ nhà ngói năm gian có phần cũ kỹ, ba gian chính, hai gian phụ cùng dãy nhà ngang bên sườn. Ba gian nhà chính ngoài điện thờ bày biện công phu rakhông có gì đặc biệt, chỉ là bộ tràng kỷ cũ mèm cùng chiếc sập gụ bóng màu thời gian. Người nhà cụ Tự vừa đưa ông nội và chú út em vào còn chưa kịp ngồi thì đãnghe trong buồng 1 giọng khàn khàn mệt mỏi vọng ra: đấy, nó lại bắt thêm người nữa rồi đấy, con ác quỷ, ôn thần này đâu ra mà lại tác quái nơi đây?
Rồi từ trong buồng có một ông lão gầy gò, dong dỏng, tóc để búi tó, râu ba chòm lốm đốm dáng vẻ mỏi mệt nhấc chân bước qua cái bậu gỗ chầm chậm đi ra,người nhà cụ và chú út em vội chạy lại tính đỡ cụ nhưng cụ xua tay tỏ ý khôngsao. Ông nội em thấy cụ bước ra thì cũng xỏ dép đứng dậy hỏi han: cụ vẫn khỏechứ? Cụ Tự chậm rãi đi tới điện thờ thắp một nén nhang, cụ vái mấy vái rồi ra ngồi xuống ghế ho lụ khụ mấy tiếng, sau mới gượng cười đáp: bẩm lão huynh, đệvẫn khỏe, chỉ hơi mệt chút thôi. Ông nội em và cụ Tự ngồi đối diện nhau, chú út em đứng sau lưng ông, người nhà cụ Tự lúi húi châm trà pha nước, ông nội em lên tiếng: thưa cụ, nay chúng tôi ra đây có việc thỉnh cầu, việc này nguy ngập nhưng thấy cụ ốm mệt thế này thành ra cứ băn khoăn chửa biết nói làm sao. Lão huynh cứ nói, không có việc thời chẳng lên chùa, khà khà, vì cây dây quấn cả thôi, đệ giúp được gì sẽ cố tận tâm tận sức, cụ Tự cười nói tự nhiên. Chưa để ông nội em kịp trình bày thì cụ đã tiếp luôn: mà đệ hỏi khí không phải,nay lão huynh giá đáo chỗ đệ, hay chăng là vì cái quỷ sự kia? Ông nội em từ lúc cụ Tự cất tiếng trong buồng đã nể phục trong lòng, nay thấy cụ ngồi trước mặt mìnhmà phán thẳng ra như thế thời muôn phần bội phục, ông đan tay chắp vào nhau làm động tác vái vái cụ Tự rồi sốt sắng: cụ tuệ nhãn tinh thông, quả là chúng tôi nay đến quấy quả cụ vì việc ấy. Rồi ông em lần lượt trình bày câu chuyện cô Hường từ lúc đi chợ rừng Lạng Sơn đến khi hóa thành ác quỷ bắt đi mấy người trong làng cùng cơ man nào gà lợn, trâu bò khiến xóm làng kinh hồn táng đởm.
Cụ Tự trầm ngâm uống trà nghe kể chuyện, thi thoảng từ đôi mắt tưởng như lờ đờ ấy lại bắn qua phía ông em một ánh nhìn như điện xẹt. Sau khi nghe rõ đầuđuôi cụ mới vuốt râu chậm rãi: lão huynh may mắn lắm đấy, đệ vốn trúng hàn, cơ thể mỏi mệt, đã dán chiêu bài không tiếp khách nửa tháng nay, sáng ngày bấm độn thấy có khách quý đến vì việc quan trọng nên mới phá lệ đón huynh. Nếu là khi khỏe mạnh đệ chẳng mấy khi được nhàn tản thế này, gặp huynh e là rất khó .. hà hà. Huynh đệ ta cũng là hữu hạnh tam sinh đấy nhỉ? Nói xong cụ hay háy ánh mắt nhìn sang phía ông nội em.Ông nội em gặp ánh mắt ấy chột da, lại làm động tác đan hai bàn tay chắp vào nhau rồi vái vái: cụ đại xá cho, chú nó ngày xưa vì phép công mà mạo phạm tới cụ, tôi là phận anh cũng chưa giáo em được đến nơi đến chốn, xin cụ thứ lỗi. Cụ Tự nghe thế xua tay cười xòa: đại huynh nhắc chuyện ấy làm gì, trong mệnh đệ có định hạn lao tù thì cũng khó lòng cưỡng nổi số trời, nào dám trách người thực thi công vụ. Ông em cũng cố gượng cười theo cho tự nhiên rồi lại vái thêm mấy vái kiểu tạ lỗi. Cụ Tự đánh mắt lên phía điện thờ rồi quay ra nhìn ông em nhỏ nhẹ: việc trên đời dù là tốt hay xấu đều do nghiệp quả mà nên, cứ như đứa cháu gái nhà lão huynh thì hẳn là đã trúng bùa của thầy mo miền sơn cước. Loại bùa nàychí độc, chí tà nếu cứ tuân theo sai sử của thầy mo thì không sao, lỡ mà cao chạy xa bay thì nội trong vòng bách nhật mất mạng là cái chắc. Chưa kể chết đi sẽ không được nhẹ nhõm như người thường, ma tính mất dần, quỷ tính trỗi dậy biến thành ôn thần, ác quỷ gây họa trùng trùng. - Cụ Tự dừng hơi chiêu mộtngụm nước chè rồi tiếp: thôi bây giờ việc đã đến nước này, đệ không thể thấy chết mà làm ngơ, để nó thêm ngày nào ngày ấy chỗ huynh còn hung hiểm. Con này pháp lực cao đây, lại ranh mãnh, tàn độc và được lắm lâu la yểm trợ. Đệ bày cho huynh cách này ... Cụ ghé tai ông nội em thì thầm ... như thế ... như thế ... Bảy ngày sau đệ sẽ đích thân vào trong ấy tróc nó đi. Chú út em vừa đèo ông về đến nhà thì nghe tin bác của Chương gù tự đục thủng bụng mình chết đau chết đớn, ngay lập tức ông em ra lệnh cho các bà, các thím, các dâu trong nhà ra ngoài rộc nhổ thật nhiều cỏ năn về. Cái giống cỏ chuyên mọc ở những vùng trũng thấp, nước ngập lưng chừng, cỏ ấy cao chừng nửa mét, mọc thành khóm, lá hình khoang tròn, bên trong rỗng tuếch, trâu rất thích ăn. Thế rồi trong vòng có hơn 1 ngày đội quân đàn bà phụ nữ họ nhà em lấy cỏ năn kết ra một đống những nhân hình, thú hình kỳ dị màu xanh lét bao gồm: 1 hình người lớn có tóc, chắc là đàn bà, 1 hình nhỏ như đứa trẻ con sơ sinh, trâu bò dê ngựa, chó lợn mỗi loại 5-7 con, thêm hai hình người đàn ông có mũ quan mặt được bôi đen bằng nhọ nồi. Vì không phải là dân đan lát chuyên nghiệp nên hình thú, hình nhân không được đẹp đẽ, nuột nà như bày bán ở chợ huyện.
Sau khi hoàn thành việc chế hình nhân, cả nhà ông chú em (bố của cô Hường) rút hết xuống nhà ông nội em ở, ông em và bà Nhu cùng mấy người khác bày 2 hình nhân mẹ con nằm tại giường của cô Hường cũ, buông màn xuống hẳn hoi, mấy loại trâu bò chó ngựa thì đặt ngay ngắn dưới nền nhà, hai ông mặt đen hai bêncạnh bàn thờ. Sau lưng mỗi hình nộm đều có dán một lá phù màu trắng với nét vẽ loằng ngoằng rối rắm mang từ nhà cụ Tự về. Rồi ông nội em đuổi hết mọi người ra ngoài, tự mình gõ mõ lên hương xì xụp khấn vái rất lâu ... Tối hôm ấy, bắt đầu từ giờ Tý trở đi chó mèo, gà lợn xóm giữa nhà ông em lại gào thét, hộc lên, tru lên loạn xạ xì ngầu, đến khi bọn gia súc gia cầm ấy chịu im tiếng thì phía trên nhà ông chú em lại văng vẳng tiếng mẹ ru con eo éo, tiếng hí, tiếng be, tiếng vó, tiếng guốc nện xuống sân lộp cộp. Mấy đêm sau sự việc cũng diễn ra tương tự, cả làng sau đám ma bác Chương gù thì đều đổ dồn con mắt về quái sự buổi đêm diễn ra ở xóm giữa nhà ông em.Cứ thế trong vòng 1 tuần, quái sự chỉ còn diễn ra ở nhà ông chú em, cô Hường và đám quan ôn quỷ sứ hình như đã bị phù chú của cụ Tự dụ về nhập hết vào đám hình nhân được kết bằng cỏ năn bữa nọ. Ban ngày thì mọi việc tương đối bình thường, ông nội em cứ giờ Ngọ bắt các chú trong xóm bê mâm cơm cúng thật to đủ cả lợn gà, bánh trái, hoa quả lên trên đó nhang khói chừng nửa tiếng rồi rút về.
Cả làng bình an, không thấy cô trêu hay bắt ai nữa, nhưng mọi người vẫn thì thào trong sợ sệt về những chuyện quái dị xảy ra buổi đêm trong nhà bố đẻ cô Hường. Bảy ngày chầm chậm trôi đi trong sự chờ mong đến cháy bỏng của những người trần mắt thịt chốn dương gian, nhất là mọi người ở xóm nhà ông em. Cái cảm giác phải sống chung với oan hồn, lệ quỷ nó nặng nề, rùng rợn lắm.
CHẬP 10:

Sáng tinh mơ ngày thứ 8, nhà em sai 2 chú trong xóm đi đón cụ Tự, ra tới nhà cụ thì người nhà bảo cụ xuất hành từ lúc hơn 5h rồi, cụ đi tắt qua đường đồng, haingười lục tục quay xe vòng đuổi theo. Làng em với làng cụ Tự cách nhau chừng 8km, nếu đi tắt đường đồng thì chỉ còn 5km thôi, vì đường nhỏ lại gồ ghế nên ít khi người ta đi xe đạp theo lối này. Hai ông chú đạp đuổi chừng 1km thì thấy một cụ già mặc áo nâu, vai khoác tay nải, đầu đội mũ lá chống gậy khoan thai đi phíatrước, chú út nhà em từng gặp cụ nên nhận ra và gọi to: thưa cụ, anh em chúng con đến đón cụ về làng.
Vừa tích cực guồng xe vừa gọi luôn mấy lần như thế, vậy mà cụ già ngay phía trước như không hề hay biết cứ nhàn tản bước đi. Hai chú gọi chán cụ chả thưa trong bụng nghĩ thầm: hay cụ bị nặng tai, thôi kệ, cụ đi bộ, mình đạp xe, chỉ độ mấy cái chớp mắt nữa là mình bắt kịp. Cụ cứ khoan thai tiến bước, hai ông chú em gù lưng chổng tĩ phóng xe vù vù, thế mà suốt quãng đường còn lại về tới tận gốc đa đầu làng em, lúc nào hai thanh niên hùng hục sức trâu cũng ở sau cụ một quãng dăm chục mét không tài nào đuổi kịp. Cho đến tận bây giờ, thi thoảng chú cháu ngồi với nhau, hễ nhắc chuyện cụ Tự thì hai ông kia vẫn lè lưỡi lắc đầu: sao mà kỳ lạ thế không biết ???
Lúc cụ Tự đến nhà ông em nội thân chinh dẫn các bậc cao niên trong xóm (toàn là anh chị em nhà ông) ra đón cụ từ đầu ngõ, ông thứ 3 nhà em trước làm Chánh ántống giam cụ Tự cũng tham gia, dù ông có hơi ngượng ngập, ngại ngùng. Cụ Tự lúc này bệnh tình đã vơi đi quá nửa, thần sắc khá hơn mấy ngày trước nhiều, duy có đôi mắt là vẫn nguyên một kiểu, cứ lờ đờ hấp háy thi thoảng lại bắn ra 1 tia nhìn như điện xẹt, cảm giác ánh mắt ấy chạm vào ai thì từ tâm can cho đếnnhững điều xương tủy người đó sẽ phơi bày lồ lộ. Cứu tinh đã đến, cả họ nhà em tay bắt mặt mừng, các bà các thím xôn xao, xôn xao.
Ngay sau tuần trà sáng sớm, trai tráng xóm giữa được huy động đi chặt tre đóng cọc thành một hình tròn to gần như nuốt trọn cái sân trước nhà ông chú em. Hồi ấy đa phần là sân đất nên việc đóng cọc diễn ra khá nhanh gọn, cọc tre đóng lưng chừng, còn thừa khoảng 3 chục phân lồi lên trên. Đóng cọc xong thì cụ phát cho nắm phù ngũ sắc đi dán vào từng cái cọc một, không sót cái nào. Sau cụ bắt mọi người khiêng đến một chiếc bàn to, đặt giữa vòng tròn, trên bàn cụ yêu cầu có 3 đĩa gạo, 3 đĩa muối, hai cây chuối to bằng bắp chân để hai bên, một cái bát hương, một cành tre cắm lọ cạnh bát hương. Đồ cúng lễ thì có 1 con gà luộc, một cái thủ lợn, một đĩa xôi.
Đằng sau chiếc bàn tế cụ treo cây phướn to tướng màu sắc kỳ dị, xanh xanh, đỏ đỏ, tim tím với toàn chữ như cái âu cái xoong úp ngược to bằng quả trứng. Saunày em mới biết đây là chữ Phạn. Ở giữa cái phướn ấy là 1 hình người ba đầu sáu tay, có mặt dữ, mặt hiền, mặt nghiêm, sáu tay mỗi tay cầm 1 loại binh khí. Người ấy mặc mỗi cái quần xà lỏn, da dẻ trắng ngần, chân dẫm lên 2 bánh xe đang bốc lửa, đầu thì đội mũ chu sa trông rất sống động. Giờ em vẫn chưa biết hình vị ấy là ai. Bên phải chiếc bàn cụ treo một hình vẽ ông thần mặc giáp trụ, mặt đỏ phừng phừng, mắt xếch ngược, mồm có răng nanh hẳn hoi, tay cầm cây đao to, vô cùng dữ tợn, điều đặc biệt là ông thần này chỉ có mỗi 1 chân. Về sau em mới hay đó là thánh Độc cước. Bên trái cụ treo hình một ông cũng dị hình dị dạng, mắt xếch lồi, râu ria lởm chởm, đội mũ quan, mặc quan bào, đi hài đen, tay cầm thanh kiếm bạc giơ ngang sườn, tay cầm quạt giấy khép trước ngực, nhìn cũng hết cả hồn. Lớn lên tìm hiểu em mới rõ đấy là Chung Quỳ Thiên Sư, vị thần tiên trừ ma diệt quỷ trong truyền thuyết đạo Giáo.
Dân làng thấy nhà ông em mời thầy phù thủy về tru ma diệt quỷ thì kéo đến ùn ùn, cái ngõ nhỏ xóm ông em bình thường vắng người qua lại, nay chật ních chennhau lúc nhúc như giòi. Người ta vây kín mít quanh đàn tràng, dưới sân hết chỗđứng thì họ trèo lên tường, lên cây mấy nhà hàng xóm xung quanh ngỏng cổ hóng. Có dễ đến cả ngàn người chứ chả ít, không gian ồn ào huyên náo một góc làng. Dân mình lạ kỳ, từ khi cô Hường hóa quỷ gây họa khắp làng, ngay giữa ban ngày ban mặt hiếm có người nào dám thò mặt đến xóm này, trừ trường hợp bắt buộc. Thế mà hôm nay kéo đến kìn kìn, chỉ vì họ chưa bao giờ được chứng kiến thầy phù thủy bắt ma, đám đàn ông còn chỉ trỏ cười hô hố khoe mấy bộ nhai đen xỉn lẫn vàng khè.
Đúng 12 giờ trưa, cụ Tự áo mão chỉnh tề, tay chuông tay kiếm bước lên đàn, cụ thắp 7 nén nhang cầm trên tay ngửa mặt lên trời lầm rầm khấn khứa, xong cụ quay người vái đủ tứ phương rồi trịnh trọng cắm mớ hương ấy vào lư để trên bàn và chắp hai tay vái thêm 3 lần nữa. Sau đấy cụ tay múa kiếm, tay lắc chuông hết chỉ Đông lại chỉ Tây, vừa chầm chậm di chuyển vừa lầm rầm cái gì đó trong miệng, cứ mỗi lần chỉ kiếm về một hướng là cụ lại lắc chuông ting-tong, tingtong. Chán múa thì cụ lại ngồi phệt xuống cái bồ đoàn bằng cói đặt trước đàn, cụ bỏ cả chuông lẫn kiếm xuống rồi cầm dùi gõ mõ lốc ca lốc cốc và thì thầm, lẩm bẩm, xì xụt như mấy bà vãi trong chùa. Ngồi mỏi cụ lại đứng dậy cầm mấy lá phù dí vào lửa nến rồi vẩy vẩy xung quanh, tất nhiên miệng vẫn niệm chú. Cứ làm đi làm lại mấy vòng kiếm, mõ với phù như thế thì cụ dừng lại ngửa mặt lên trời, hai tay giơ ngang, lòng bàn tay xòe ngửa rồi từ từ chắp lại, cứ như thế cụ vái luôn 7 nhát. Vái xong cụ đổ 3 đĩa muối và 3 đĩa gạo vào 1 cái mâm đồng, trộn đều với nhau rồi ném tung tóe khắp nơi. Hết gạo hết muối cụ lại chắp tay vái tứ phía rồi mở miệng nói đúng 2 từ: xong rồi!
Đám đông hiếu kỳ "Ồ" lên rõ to, từ khi thầy áo máo chỉnh tề lên đàn, tới khi kết thúc chỉ chừng non 1 giờ đồng hồ, múa vài nhát kiếm, gõ mấy tiếng chuông, thếmà đã "xong rồi". Xem ra ma cô Hường với cái lũ quan ôn quỷ sứ cũng chả có gì làm ghê gớm lắm, mới làm phép có tí đã bắt trọn cả đàn. Từ trên cây thị nhà bên có tiếng đàn ông ồm ồm: ồi dồi .... tưởng bắt ma khó thế nào ... chứ dễ như cúng ông công ông táo thế này thì mỗi ngày tôi chẳng bắt cả thúng. Nói dứt mồm là một tiếng "huỵch", gã đó nhảy từ chạc 3 cây thị xuống phủi đ.ít ra về. Dân làng được thể cười ầm lên, họ chỉ trỏ cụ Tự và chế nhạo, dè bỉu, cứ như là ông em mướn nhầm người vậy, vừa cười vừa nói họ lục tục ra về. Trong vòng tròn, cụ Tự cứ điềm nhiên thu dọn đồ nghề bày ra trên đàn, mặc kệ ngàn lời đàm tiếu của đám đông, mấy ông chú bà thím nhà em cũng thất vọng ra mặt, tưởng bắt ma hấp dẫn thế nào chứ. Ông nội em thấy mọi người về hết thì sai các thím thu dọnđồ lễ rồi sắp cơm để đại gia đình cùng cụ Tự ăn trưa, chừng một lúc sau bốn phía lại quay về với sự tĩnh lặng như bao ngày.
Cơm nước xong thì cũng ngót 2h chiều, mấy bà thím nhà em tưởng bắt ma xong rồi mới lục tục gánh mạ, gánh phân tính đi cấy tiếp, các ông chú thì muốn về váccày vác bừa ra đồng. Ông nội em thấy thế quát: từ giờ đến hết đêm nay, tao cấm đứa nào bước ra khỏi cái ngõ này, việc đã xong đâu mà chúng mày bỏ đi như thế hả. Nghe ông nội em mắng mọi người mới ớ ra, thế là lại quây vào trong nhà, cụ Tự ngồi tràng kỷ vừa uống trà xỉa răng, vừa lừ đừ đôi mắt hấp háy nhỏ nhẹ dặn dò đám hậu sinh trong xóm.
Chiều tối hôm ấy trời mưa phùn lâm thâm, hoa xoan tim tím rụng rơi lả tả xuống khắp tế đàn, cái tiết tháng Giêng năm nào chẳng thế, cứ là u ám mông lung. Bêntrong vòng tròn cọc tre, cụ Tự đang dùng cái bút lông nhúng vào cái ang chất lỏng sền sệt màu đỏ tươi bốc mùi hôi hám, hăng hắc ngoáy ngoáy những hình thù kỳ cục nửa giống chữ Nho nửa giống giun xuống 4 góc Đông – Tây – Nam – Bắc đàn tràng. Thực tình gọi cái ý là "bút lông" thì hơi cưỡng ý, vì nó vốn là chiếc chổi đót dùng để quét vôi nhà ông em. Còn cái chất lỏng sền sệt màu đỏ ấy, chính là máu của con chó mực nhà bà Nhu vừa bị cắt tiết ban nãy trộn với phân gà trong chuồng. Cụ Tự vẽ mấy lá phù loằng ngoằng, đốt lên rồi trộn lẫn cùng phân gà, máu chó để ra cái thứ "mực" đặc chủng này.
Trên đàn giờ không còn xôi gà, thủ lợn nữa mà là đủ thứ hầm bà lằng: cờ tam giác, kiếm sắt đen sì, một bình hồ lô ố vàng mở nắp, một chiếc túi gấm to cỡ 2 bàn tay đầy chữ Hán bên ngoài, 1 chiếc chuông bạc có chữ mạ vàng và tất nhiên không thể thiếu mớ phù chú đủ loại, từ ngũ sắc đến trắng trơn, cái dài cái ngắn đủ cả ... Cụ bảo mấy ông chú em vào nhà bê hết mấy hình nhân, hình thú kết bằng cỏ năn ra đàn. Hình thú thì cụ bắt để rải rác trong vòng tròn cọc tre, hai hình người mặt đen thì cụ bẻ gập cái chân, bắt quỳ cạnh đàn, riêng hình nhân hai mẹ con cô Hường thì cụ phiền dựng 1 cái cột cao, buộc dây vào cổ rồi treo lên gần chỗ đặt bồ đoàn cụ ngồi. Sau rốt cụ bảo mấy bà thắp nến gắn lên tất cả những chiếc cọc tre đóng thành hình tròn trước đó.
Bài trí xong xuôi cụ xuống nhà dùng cơm tối với đại gia đình ông em, lúc ăn cơm nét mặt cụ khá nghiêm trang tư lự, như đang cân nhắc điều gì, cả bữa cụ chẳngnói 1 câu, chỉ lẳng lặng ăn 2 bát cơm rồi lên tràng kỷ ngồi uống nước. Cụ nhờ ông em đuổi hết con cháu trong nhà ra ngoài, đóng cửa lại rồi hai người to nhỏ thầm thì với nhau rất lâu, chả biết cụ nói gì với ông em mà sau khi mở cửa ra thì mặt mũi ông em cũng vô cùng khẩn trương và trầm trọng. Đúng 9h tối, cụ Tự mặc áodài có hình bát quái âm dương trước bụng, chít 1 lá bùa trắng vòng quanh trán, đầu trần xõa tóc, nét mặt nghiêm cẩn, đi chân đất từ nhà ông nội em bước lên tế đàn đặt trong sân nhà cô Hường. Lúc này trời tối đen như mực, mưa phùn lất phất bay, ban thờ cô Hường trong nhà lập lòe ánh đèn dầu, dưới sân tế đàn cũng lập lòe vài ánh nến, ngoài ra còn có 1 ngọn chủ đăng rất to đốt bằng dầu thơm cháy sáng lung linh, xung quanh nến gắn trên các cọc tre cũng bập bùng chiếu sáng. Từ già cho chí trẻ trong xóm nhà em tập trung hết trong nhà bà Nhu, mởhai cửa sổ ra hóng lên sân nhà cô Hường.
Cụ Tự lên nhang đèn xong thì hai tay nâng thanh kiếm sắt đen sì có khắc hình 7 ngôi sao phỏng theo Bắc đẩu thất tinh lên ngang người chầm chậm đi quanh đàn,vừa đi cụ vừa xì xầm niệm chú, đi hết một vòng thì cụ quay về đàn lấy cây cờ đen dắt vào đai lưng rồi nhón tay với chiếc hồ lô hớp 1 ngụm. Sau đấy cụ phun lên 2hình nhân đang treo lòng thòng cách chỗ cụ ngồi chừng 2 sải tay, cụ đốt mấy lá bùa huơ huơ trước mắt rồi xếp bằng trên bồ đoàn xì xầm trì chú tiếp, thi thoảng lại thấy cụ lắc cái chuông bạc ting-tong. Không khí lúc này vô cùng nặng nề, nhà em giờ thì ai cũng biết đây mới là lúc cụ pháp sư trổ tài bắt ma, mọi người mắt thì dán về phía đàn tràng nhưng không ai dám hé răng nửa lời. Cụ Tự cứ ngồi xếp bằng niệm chú, lăc chuông như thế cho đến khoảng đầu giờ Tý thì tự dưng chó mèo, gà lợn xóm nhà ông em thay nhau sủa, kêu, gào thét nhặng xị từ đầu ngõ tiến vào. Ai nấy kinh hồn táng đởm vì biết là cô Hường dẫn quan ôn, quỷ sứ về, mọi người hè nhau đóng chặt 2 cửa sổ rồi nằm im không cả dám thở mạnh, chỉ có vài ông đàn ông là còn dám hé mắt nhìn qua khe cửa hóng lên trên.
Chỉ trong giây lát, tiếng móng guốc gõ cồm cộp, tiếng lưỡi cày loẹt xoẹt, tiếng thở phì phò, tiếng trẻ con khóc oe óe đã tiến đến trước sân nhà ông chú em (nhàbố cô Hường). Đang khi huyên náo như vậy thế mà tự dưng im bặt, cứ như là đám quan ôn, lệ quỷ ấy chợt sững lại vì phát hiện ra có người ngồi giữa cái đàn tràng giữa sân. Cụ Tự vẫn ngồi yên trên bồ đoàn, tiếng niệm chú của cụ bắt đầu to hơn 1 chút so với lúc đầu. Nến trên đàn, ngọn chủ đăng, nến gắn tại các cọc bất ngờ như được bơm thêm oxy, tự dưng ngọn lửa phồng to lên 2-3 lần, giữa lúc ấy từ trên ngọn cây sấu phát ra tiếng cười the thé chói tai: hé hé hé ... chúng màydám mời pháp sư về ... bắt tao ư ... ư hư ... hé hé hé .... Rồi cái bóng trắng lượn xuống mờ mờ ảo ảo lướt quanh bên ngoài tế đàn, vừa lướt đi nó vừa ru con eo éo: ả à ời ... ả à ơi ... Cụ Tự vẫn điềm tĩnh như không, tiếng niệm chú lại càng lớn hơn, trên bồ đoàn vẫn một dáng ngồi nghiêm cẩn, vững chãi như núi. Bóng trắng kia thấy cụ không suy suyển tinh thần, nó mới lồng lên xỉa xói bằng cái giọng âm u quỷ quái: ... mày ... là ai? ... mày ... dám lập đàn ... bắt tao ... cút ngay ... tao bóp chết tươi bây giờ .... Hú u uu uuuu ... Người ngồi trên bồ đoàn vẫn không hề suy suyển, chú ngữ vẫn lầm rầm tuôn ra càng lúc càng nhanh.
CHẬP 11:

Bóng ma cô Hường rợn rợn quát lên the thé giọng ngắt quãng: quân bay ... xông vào .... vật chết lão già kia ... cho ta... Lũ quỷ trâu, quỷ ngựa "hực" lên một tiếng, gõ móng cồm cộp, đoạn từng đàn bóng đen hình thù cổ quái kỳ dị lướt qua đám cọc xông vào tế đàn, hơi lạnh ở đâu bỗng ào đến thể như âm khí từ âm ti địa ngục thoát ra cô đặc không gian. Sau này nghe mấy ông chú nhà em kể lại thì lúc mà đám oan hồn đầu trâu mặt ngựa ấy xông vào trong đàn thì bỗng dưng đèn nến như bị sương đen nuốt chửng, đêm tháng Giêng vốn đã tối, vậy mà lúc ấy ai cũng cảm giác như mình bị nhúng đầu vào chậu mực tàu vậy. Thế nhưng khi đám lệ quỷ ấy vừa vặn chui hết vào trong vòng tròn cọc tre thì đèn nến lại sáng trưng như chưa có gì xảy ra. Cụ Tự lúc này mới đứng dậy tay cầm kiếm thất tinh, tay cầm cờ tam giác, cụ chỉ kiếm về phía đống hình thú đặt trong đàn miệng quát lên đanh gọn: Thu! Lời vừa thốt thì cây cờ nhỏ xíu hình tam giác làm bằng nhiễu đen cũng phất xuống 1 cái. Ngay lập tức những tấm phù dán trên đám hình thú kết bằng có năn ánh lên lao xao như đom đóm lập lòe, rồi đám hình thú ấy thay nhau động đậy, lăn lộn dịch chuyển, tiếng trâu lồng, ngựa hí rộn rã trong đêm. Cụ Tự phất cờ thêm cái nữa rồi trầm giọng: Định! Giây lát sau đám hình thú nằm im chịu trận, vẻ như đã bị tỏa hồn phù của cụ khuất phục, thảy đều bị giam cầm không sót con nào.
Cô Hường vẫn hiện lên mờ mờ ảo ảo một màu trắng ởn, vỗ vỗ đứa trẻ trên tay, cô lướt vèo vèo vòng quanh tế đàn và rít lên ai oán : ... a ... thì ra ... lão già mày ...cao tay... bắt hết quân tao ... tao ... giết ... Vừa nói dứt lời cô ngoác cái miệng đen sì rộng đến mang phun ra một luồng khí hôi thối nồng nặc về phía kẻ thù, chưahết tay cô bỗng tự nhiên dài ra như chiếc sào với móng vuốt nhọn hoắt vồ lên đầu cụ. Cụ Tự cũng nhanh không kém, tay cầm kiếm huơ lên một vòng trước mặt, tay kia tung cái túm gấm lên và quát lớn: Hấp! Ngay lập tức đám khí đen tanh tưởi,hôi thối đầy chết chóc ấy bị cuốn trọn vào miệng túi, cụ thít luôn dây buộc lại, cánh tay cô Hường vốn là muốn bóp vỡ sọ cụ nhưng gặp kiếm thất tinh chém ra một đường cũng vội vã thu về. Con quỷ thấy ra đòn bị thua thiệt thì cay cú lắm, nó loáng một cái đã bay đỉnh ngọn sấu, bỗng đâu từ trên cao gạch đá tuông xuống ào ào, hé hé hé ... lão già ... mày chết đi ... nó cười lên man dại giữa đêm. Giữa tế đàn cụ Tự đứng sững, chỉ kiếm lên trời, ba cái phướn vẽ ba hình kỳ dị lúc sáng cụ treo cạnh bàn tế tự dưng như dài rộng ra che trên đầu cụ, múa gạt khắp nơi đánh văng đám đá gạch sang một bên. Thấy cụ vẫn bình yên sau cơn mưa củ đậu, bóng trắng lại lướt xuống, lần này nó lướt đi trong yên lặng, tay vẫn bế đứa trẻ con, mắt nó quắc lên xanh lè tựa hai nắm đấm. Nó nghiến răng trèo trẹo vẻ căm tức vô cùng, cứ lướt như thế vài vòng đột nhiên nó phóng cái lưỡi dài đỏ lòm như đòn gánh thẳng về phía bụng cụ Tự, nhanh như cắt cái hình vẽ thánh Độc cước trên phướn bên phải bỗng dưng lóe lên, từ đâu bỗng xuất hiện một cánh tay giáp trụ vảy vàng mờ mờ ảo ảo chộp luôn lưỡi nó. Cụ Tự ngay lập tức vồ lấycái chuông bạc trên đàn rung lên liên hồi ting-tong, ting-tong, ting-tong và quát lên: Nhập đàn! Bóng trắng bị bàn tay kia giật mạnh cái lưỡi một cái bay qua đámcọc lướt sâu vào trong vòng tròn cọc tre. Nó cố gắng vẫy vùng mà không tài nào thoát khỏi vòng tròn, phần vì đầu lưỡi bị bàn tay Độc Cước nắm chặt, phần vì phù chú dán khắp nơi ngăn cản nó không cho ra. Vật vã một hồi nó mới run rẩy "Xin... xin ... thầy tha cho ... thầy tha cho ..." nó vừa bế đứa con vừa quỳ trước đàn tế, cụ Tự lúc này chỉ kiếm thẳng mặt ác quỷ hô lớn: yêu nghiệt ở đâu tới đây tác họa, bản chức đêm nay nhất định diệt ngươi, chém làm ba đoạn, đày xuống địa ngục vĩnh viễn. Con quỷ nấc lên éo èo èo: ... xin thầy ... tha cho ... ta biết tội rồi ... chẳng qua chúng nó ... phạm ta ... Cụ Tự quát lớn: dương có dương luật, âm có âm quy, mày trái luật trời không về âm ti mà ẩn náu dương gian giết người vô tội, một lời phạm thì có thương thiên hại lý gì, mày tàn mày ác, bản chức vâng mệnh chư thiên đêm nay giết ngươi tại đàn. Tingtong, ting-tong, ting-tong. Ba tiếng chuông lại vang lên, cụ Tự cầm kiếm xuyên mấy lá phù rồi châm lửa, nhập hình, nhập hình, tiếng cụ gằn đanh. Hai lá bùa dán trên lưng hai hình nhân mẹ con được treo trên cái sào cạnh đàn chợt ánh lên, ngay lập tức bóng trắng và đứa bé trên tay bị hút vào trong hai cái hình nộm một lớn 1 bé mất tăm mất tích, cụ Tự vuốt luôn 1 lá phù dài dán lên thân sào đoạn hô: trấn! Chiếc sào rung bần bật 1 lúc lâu rồi đứng sững lại, đến đây cụ mới thu kiếm ngồi xếp bằng lên bồ đoàn cói trước đàn.Lại xì xà xì xầm một hồi rồi cụ đứng lên chắp tay hô to: bản chức cung kính thỉnh Chung Quỳ lão đạo xuất kiếm hàng yêu! Từ trên chiếc phướn treo phía trái đàn, cái hình ông râu xồm cầm kiếm lóe lên 1 cái, đám quỷ trâu quỷ ngựa bị khốn trong hình nộm nằm lăn lóc dưới sân lúc này chợt động đậy liên hồi, cứ như là biết chúng nó sắp bị chém đến nơi. Lạ cái là đống hình nộm ấy lăn cỡ nào thì lăn, cứ chạm cọc tre là bị hất văng trở lại, mỗi lẫn như thế lại vẳng nghe tiếng kêu rống thê lương. Vùng vẫy một hồi biết là không thoát nổi, lại bị phù lực chấn cho tơi tả, chúng nó đành năm im chịu chết. Lúc này cụ Tự mắt sáng quắc, tay cầm chuôi kiếm, tay đỡ lưỡi kiếm dõng dạc trầm bước lên, dáng vẻ khác xa con người xuất hiện ở xóm em từ ban sáng, mà trông thần thái hệt hình vẽ Chung Quỳ. Cụ cất giọng ồm ồm: oan ngưu, oán mã, hùa theo ác quỷ gây tội khắp nơi, bản chức vâng mệnh chư thiên bắt các ngươi đền tội. Rồi "Phập" "phập" "phập" ... ngọtxớt vang lên, chừng đôi ba phút cả đống hình thú đều bị chém làm ba đoạn nằm lăn lóc. Giữa lúc Chung Quỳ trong hình hài cụ Tự xuất kiếm trảm yêu thì hai cái hình nộm quan ôn vốn đã bị cụ bẻ gập chân quỳ cạnh tế đàn bỗng rung rinh rồi từ từ đứng dậy. Chúng nó âm thầm lướt đến chân cây sào treo lủng lẳng hai mẹ con cô Hường và phun ra cái thứ gì màu đen nhuộm kín lá phù. Hé hé hé ... Chung Quỳ ta đi đây .... Sợi dây treo hai mẹ con cô Hường đứt làm cái "phựt", hai bóng trắng tụ lại thành hình mờ mờ, rồi mẹ bế con lướt ra phía sau tế đàn. Hai hình nộm quan ôn xong việc cũng xụi lơ, nằm quay đơ dưới chân cột, đàn tràng quay mặt hướng Nam, cái hướng con quỷ lướt đi là hướng Bắc, mấy lá phùdán trên cọc tre có thể khốn được đám quỷ trâu, quỷ ngựa ma lực yếu kém chứ khốn làm sao được nó. Tưởng thoát đến nơi ai dè đúng đến sát chân rào rồi bỗng dưng máu chó phân gà ở đâu phun ra tạo 1 màn sương đỏ ô uế tỏa mùi tanh lợm giọng trùm kín lên bóng trắng mờ. Nó lăn lộn trong đám sương ấy nghiến răng ken két căm hờn: ... thì ra... mày giỏi ... đốt đèn dầu thơm che cái thứ này ... hừ ... hừ .... hừ .... tưởng khốn được ta sao. Cụ Tự lúc này vẻ như đã không còn thần lực của Chung Quỳ nữa chầm chậm vung kiếm bước tới: sử được quan ôn như thế, mày đã cướp mạng bao nhiêu người rồi? Từ trong đám sương màu đỏ tanhmùi máu có cái giọng eo éo vang lên: Chung Quỳ, Độc Cước thật tao còn phải tránh chứ pháp lực của mày thì mời được bao phần? Cái tiếng này tuy là eo éo âm u na ná tiếng cô Hường, nhưng nó lạnh băng gấp mấy, lại có mùi sát khí ghê rợn bội phần. Cụ Tự rùng mình lẩm bẩm: vẫn biết mày theo về dưới xuôi đã lâu, nhưng ta cònchưa truy mày ẩn chỗ nào, nay đã giáp mặt, sao còn không hiện hình một lần quyết chiến. Bản chức lập đàn tràng nơi đây, bằng sắc có đủ, chư thiên chứng giám, nội nhật đêm nay ta sẽ liều chết diệt ngươi. Hé hé hé ... tiếng cười ghê rợn vừa dứt thì trong đám sương hồng ấy phóng ra đứa trẻ con màu đỏ hỏn, nó trần truồng khoanh tay nhe hàm răng trắng ởn đứng đối diện cụ già. Bản tọa thành tinh đã mấy trăm năm, uống biết bao nhiêu là tinh huyết, ăn vô số kể phách hồn, lần này vâng mệnh tôn chủ về bắt đứa con gái này, thấy nơi đây còn chưa có chủ mới tính thu thêm bộ hạ, nhãi nhép như mày lập đàn trừ yêu khiến ta phải xuất đầu lộ diện, không nhai nuốt được mày đêm nay cho hả giận ta thề không quay trở về. Mày là giống yêu nghiệt miền rừng, đã theo về giết người ta thì chớ, lại còn tỏa hồn, khốn phách bắt nó phải làm việc ác cho mày, tội mày tày đình như thế không tha được, xem kiếm ta đây. Cụ Tự rùng mình 1 cái rồi trợn mắt nhảy lò cò như người bị cụt 1 chân tay kiếm tay bùa tiến về phía đứa trẻ con trước mặt, miệng hô lớn"Độc Cước hiện thân". Thằng bé thấy vậy chỉ nhếch mép ngoan độc: mày cầu được mấy phần thần lực của nó, nhìn tao đây. Nói rồi chưa kịp để cụném bùa vung kiếm thoắt cái nó đã đứng đỉnh ngọn sào, từ trên cao nó cầm cái chùy bằng xương người đen sì nhằm hướng Độc Cước nhảy đến giã luôn 1 cái, cụ Tự ngã ngồi phệt xuống đất, kiếm bùa lăn lóc, tóc tai rũ rượi thở hồng hộc. Hé hé hé tiếng cười man dại, ma quái lại cất lên, chớp mắt cái đã thấy nó nhảy đỉnh tế đàn giơ cái chày xương đập thẳng vào bức tranh Độc Cước, từ trong bức tranh đôi mắt dữ tợn của vị thánh một chân chợt vằn lên sống động chiếu thẳng con yêu. Nó khựng người lại 1 chút rồi thẳng tay vung chày, bức phướn cứ như thế mà bị rủ xuống, xụi lơ như cờ đám ma rồi mủn dần rụng rơi tơi tả. Cụ Tự thấy con ác quỷ nhảy lên phá đàn mới cuống cuồng giơ chuông bạc lên lắc lấy lắc để: ting-tong, ting-tong ... nghe tiếng chuông nó quay lại ngoác cái mồm đầy răng trắng ởn chế giễu: Trấn Quỷ Chung thật thì tao còn nể vài phần, cái thứ đồ giả trong tay mày thì dọa ai chứ đừng dọa tao hé hé hé hú hu hu . Thoắt cái cái tay nhỏ xíu của nó đã thò trước mắt cụ giật lấy cái chuông và ngoác cái miệng đỏ lòmnuốt luôn vào bụng rồi cười ré lên điên cuồng. Loắng cái nó lại hiện hình trên tế đàn, tay vung chùy nện luôn vào bức tranh Chung Quỳ râu xồm bên phía trái,"keng" 1 tiếng ngân trầm bỗng vang lên, con ác quỷ ngẩn người ra rồi lạnh giọng: mày đỡ chùy tao đã gãy gươm chưa? Nó dứt lời thì bức tranh Chung Quỳ cũng chịu chung số phận với bức tranh Độc Cước. Được thể nó giơ tay tính giã chùy vào chiếc phướn chính giữa thì bỗng đâu có tiếng xì xầm rất khẩn trương, nó quay lại thấy cụ Tụy đang nghiêm cẩn ngồi xếp bằng, hai bàn tay nắm chặt vào nhau, ngón trỏ ngón giữa dựng lên rung rung đọc chú liên hồi, bên mép cụ máu nhỏ giọt tành tạch. Con ác quỷ gào lên the thé: á ... á ... mày dám cắn lưỡi thành huyết chú để bắt tao à ... mày giỏi ... Chết này. Vừa dứt mồm thì nó đã vung tay táng cái chùy xương màu đen tuyền ấy về phía cụ Tự, đúng lúc ấy từ chính giữa đàn tế chiếc phướn có hình người ba đầu sáu tay tự dưng rực hồng lên phóng to gấp mấy lần phồng lên như cái vó cuốn luôn con ác quỷ vào trong rồi túm lại. Không gian trong tế đàn bỗng ngập tràn âm thanh trầm bổng, hùng hồn "Om ma ni pad me hum" như phát ra từ trong sâu thẳm bức tranh. Cái phướn dần dần thu nhỏ lại thành một bọc, tiếng niệm phật vẫn vang rền, con ác quỷ bên trong giãy giụa đầy oán hận: ... thằng nhãi kia ... biết điều thả tao ra ngay ... mày còn bao nhiêu máu để giam tao ... bản chủ thoát ra sẽ xé xác mày ... tao bắt mày đi làm nô vĩnh viễn ... Cụ Tự lúc này mặt mũi bơ phờ mỏi mệt, râu tóc bạc thêm mấy phần, hình dong tiều tụy lắm rồi. Trong cái bọc, con ác quỷ miền rừng vẫn vùng vẫy không thôi, nó nghiến răng trèo trẹo, căm hận vô cùng. Cứ như thế chừng nửa tuần trà thì cụ Tự nhăn mặt phun ra 1 bụm máu, tiếng trì chú đột ngột dừng lại, tiếng phật hiệu trong chiếc phướn đang trói chặt ác quỷ cũng nhỏ dần, nhỏ dần. Phừng! chiếc phướn đột ngột bung ra, hé hé hé hé ... con ác quỷ đỏ hỏn cười như điên dại nhảy choi choi ra ngoài tay vung chùy lên nện thẳng xuống đầu cụ Tự. "Đinh-đang", "đinh-đang", ối...hự ... "Đinh-đang" tiếng chuông ngân rền từ trên cao xuống mặt đất, kèm đó là tiếng "huỵch" như rơi từ trên cây xuống vậy. Ác quỷ vốn là đang hung hăng tột đỉnh, bất ngờ nghe tiếng chuông ấy nó sững người như chết trân, tiếng chuông thứ 2, thứ 3 vang lên nó như 1 thứ vô tri vô giác hết thần hết khí tự động cuốn trôi về phía làn sương máu chó, phân gà còn đang bao phủ hồn ma cô Hường. Tiếng chuông ấy không những làm con quỷ xiêu hồn bạt phách mà nó còn khiến cụ Tự đang chín chết một sống vội đứng bật lên nhìn ra phía góc vườn nơi có cây nhãn sum suê, cụ thốt lên vui mừng "Trấn Quỷ Chung"!!!
Cây cờ nhỏ trong hình tam giác hướng về phía gốc nhãn nơi phát ra tiếng đing- đang vừa rồi phất lên 1 cái, ngay lập tức tiếng đing-đang nhộn nhịp vang lên, từđằng xa, một vật nhỏ màu đen trong nháy mắt đã nằm gọn trong lòng bàn tay cụ. "Ui da ... ui", cùng lúc một bóng đen xuýt xoa lồm cồm bò dậy đoạn tót ra phíacổng nhà cô Hường phóng mất dạng. Nắm vật ấy trong tay cụ Tự như quên hết đớn đau, mệt mỏi đã trải qua từ tối đến giờ, cụ thì thào trong nỗi phấn khởi:chuông trừ quỷ, thật là cố vật quy nguyên, mệnh ta chưa tận. Không hề chậm trễ, cụ pháp sư già quay lại tế đàn, nơi ấy bốn cái hình nhân bằng cỏ năn còn nằm lăn lóc, cụ vớ lấy một lá phù màu vàng để trên bàn có vẽ Huỳnh Cân lực sỹ đang quắc mắt giương oai, lẩm nhẩm đọc chú rồi vuốt lên ngực mình. Lá phù lóe sáng rồi ẩn đâu mất thể như đã lặn tít sâu trong da thịt cụ già. Nhập lá phù xong, cụ Tự da dẻ bỗng trở nên hồng hào, khí sắc hưng vượng, đạo bào có hình âm dương trên người phình căng như được bơm hơi, chẳng còn đâu vẻ tiều tụy điêu linh trước đó. "Chuyển" tiếng lão pháp sư trầm hùng, ngay lập tức khối sương máu chó, phân gà bao phủ mẹ con cô Hường bỗng nhúc nhích rồi từ từ bay từ đằng sau ra đằng trước tế đàn theo cờ hiệu trên tay cụ phất.
Cụ Tự lúc này oai phong lẫm liệt, chỉ kiếm thẳng khối sương máu trừng mắt lên quát: yêu nghiệt đã biết tội chưa? Đing-đang, đing-đang tiếng chuông lại ngânlên lanh lảnh tựa ngàn mũi tiêm đao đâm xé quỷ hồn. Từ trong khối sương có tiếng rên rỉ âm u rờn rợn phát ra: ...ta chịu phép rồi ... chịu rồi ... đừng lắc chuôngnữa ... Lão pháp sư lại sang sảng: ngươi là giống ma xó thành tinh rừng thiêng nước độc, chuyên bức hại người vô tội, nay bản chức chém ngươi tại đàn để thỏa nguyện các oan hồn. Đing-đang, đing-đang, đing-đang ... Đám sương máu trôi nổi lập lờ trước mặt lão pháp sư rung bần bật theo từng tiếng chuông rồi im bặt, không còn dấu hiệu phản hồi. Nhanh như chớp cụ dựng 2 hình nhân mẹ con cô Hường lên lầm rầm đọc chú rồi phất cây cờ nhỏ, từ trong đám sương máu 2 màn khí trắng mờ một nhỏ một lớn bay ra và chui thẳng vào trong lớp cỏ năn xanh mướt. Ngay khi hai làn khí trắng ly khai, làn sương đỏ thẫm ấy bỗng tụ thành từng giọt máu chó đỏ tươi trộn lẫn lốm đốm phân gà rơi lộp độp xuống nền đất ẩm rồi bốc khói nghi ngút. Dán thêm 1 chiếc bùa nữa lên mặt 2 con hình nhân ấy rồi cụ phất tay, lập tức chúng lướt đến tựa lưng vào tế đàn, cái hình nhân côHường thì đứng im bất động, còn hình nhân đứa trẻ con tựa như đang cố sức vặn vẹo để thoát ra, các nút lạt tre cố định chân tay nó kêu ken két. Lão pháp sư nhón tay với chiếc hồ lô vẫn mở nắp từ hồi chiều để trên bàn há miệng hớp 1 ngụm to, cụ phun thứ chất lỏng ấy đẫm thanh kiếm sắt rồi hét vang: "Thất tinh trảm yêu".Thanh kiếm đen sì chợt lập lòe ánh lửa rồi theo cánh tay điêu luyện của cụ già lướt qua lướt lại 3 lần hình nhân đứa trẻ con.
Cỏ năn tươi xanh là thế, ấy vậy mà lưỡi lửa xanh lét vừa quét qua thì bốc cháy phừng phừng như được tẩm dầu, ba đoạn hình nhân vương thành 3 đống lửa lăn lóc dưới chân đàn, mùi khét lẹt, hôi ám, tanh tưởi kèm tiếng nổ lách tách rộ lênnhư rang ngô. Yêu nghiệt ma xó thành tinh rên la thảm hiết, quằn quại oằn mình chịu hỏa ngục đốt thiêu quỷ hồn, rồi cứ thế mà tan thành khói bụi đền tội cho mấy trăm năm tác quái.Diệt xong ác quỷ thành tinh, cụ pháp sư hẩy mũi kiếm, ngay lập tức hai hình nhân quan ôn mặt đen sì bị dựng lên, ba vòng kiếm xanh biếc lướt qua, chín đoạn nhân hình bốc cháy lên thê thảm: hai đứa mày vốn là quản sự Âm tào – Địa phủ chốn này, vậy mà dám hùa theo ác quỷ hại người, nay dùng thần hỏa tiễn các ngươi về Địa ngục. Hai con ôn quỷ lúc trước vốn đã bị khốn trong hình nhân nhưng chúng pháp lực cao hơn lũ đầu trâu, mặt ngựa nên trong lúc ác quỷ gặp nguy vẫn cố sức bình sinh lướt đến phun chất ô uế làm hỏng tấm phù chấn cột sào. Nay bị chém làm ba, thần hỏa nung nấu, rốt cuộc chịu chung thảm tử.
Bấy giờ đã qua giờ Dần, đó đây gà gáy le te, nến xung quanh vòng tròn đã cháy hết tim tắt lụi chỉ còn vương sáp, nến trên tế đàn cũng đã tàn, chỉ còn ngọn chủ đăng đốt bằng dầu thơm vẫn le lói sáng. Một người xõa tóc, chống kiếm trước đàn, một hình nhân bằng cỏ năn xanh rờn đối diện. Lão pháp sư giờ đã hết sứcHuỳnh Cân trở ra mỏi mệt bơ phờ, khóe mép vẫn còn vết máu khô mằn mặn, ba phướn treo lúc chiều giờ chỉ còn một, cũng nhàu nhĩ xác xơ, nội trong mấy canh giờ mà cảnh vật vốn là nghiêm cẩn, oai linh bỗng trở ra hoang tàn, thảm hại. – Nhờ lão Huynh thu xếp hộ cái tàn cục! Tiếng cụ Tự khàn khàn uể oải vang lên, ông nội em vội đốc thúc cháu con ra dọn dẹp tế đàn, người lau người quét xôn xao. Lão pháp sư sau khi thu lại các vật dụng hành nghề thì đích thân túm cổ cái hình nhân cô Hường vào trong nhà rồi đặt lên chiếc giường cũ của cô vốn đang buông màn. Xong cụ bước tới và đổ vật xuống chiếc sập gụ phía gần cửa sổ rồi thiếp đi trong cơn mệt mỏi rã rời.
CHẬP 12 (KẾT)

Đọc đến đây nhiều cụ/mợ sẽ thắc mắc hình như em đang nhầm lẫn giữa tả thực và tiên hiệp, các cụ/mợ hoàn toàn có lý. Chuyện xảy ra đã lâu, cũng ngót 3 chụcnăm rồi, từ ngày em còn bé tí, việc cô Hường bị con ma xó thành tinh hành hạ đến nỗi phải chết tức tưởi oan ức, rồi nó còn tỏa hồn, khốn phách sai khiến bắt liên tiếp mấy người trong làng cùng vô số lợn gà, trâu bò thì hình như tới tận bây giờ vẫn là giai thoại mà mỗi khi có đám ma hoặc có quái sự gì thì các cụ từ trung đến cao niên còn nhắc mãi. Nhất là đám ma ông/bà nào trong lịch sử có thời gian đi chợ rừng hoặc đóng quân tại miền Lạng Sơn, Cao Bằng. Cơ bản ký ức mọi người là giống nhau nên sự sai biệt chỉ ở một phạm vi rất nhỏ. Về chuyện cụ Tự dùng bùa phép đấu với đám quan ôn, quỷ sứ và mẹ con cô Hường thì còn ly kỳ vàmông lung hơn vì mỗi người phách một kiểu, không ai giống ai, ngay cả các ông bà, chú thím trong xóm nhà em cũng kể lại khác nhau, có lẽ không ai đủ duyên chứng kiến sự việc từ đầu chí cuối rành mạch, rõ ràng.
Có điều em dám khẳng định việc cụ pháp sư tên Tự đánh nhau với ác quỷ dưới sân nhà ông chú em là hoàn toàn có thực, những chi tiết: cụ lập đàn như thế nào,đánh nhau trong bao lâu, cụ cố gắng đến hộc cả máu mồm, rồi quan ôn, quỷ sứ kéo về khiến chó mèo, lợn gà nháo nhác là có độ xác tín cao vì nhiều người đều nói thế. Những chi tiết như đứa bé mà cô Hường bế trên tay là con ma xó thành tinh, rồi cụ Tự suýt chết vì nó là do chính cụ ấy kể với ông nội em, sau này thi thoảng trà dư tửu hậu ông em có nhắc lại. Còn lại những chi tiết khác thì là em hóng được từ nhiều người khác nhau, mỗi người kể mỗi khác nên em cứ cóp nhặt vào đây thêm da thêm lông tí cho nó sinh động, chứ em hoàn toàn khôngchứng kiến tận mắt. Lúc ấy em mới 8 tuổi, ông nào nửa đêm gọi em dậy bảo đi xem phù thủy đánh nhau với ma chắc em đ.ái mọe nó ra quần chứ chả đùa.
Trước khi viết cái đoạn này em cũng đã rất cân nhắc, có nên viết theo tưởng tượng qua những gì mình cóp nhặt được cho thành một chapter có hơi hướng hư ảo, liêu trai? Hay là viết theo tinh thần khoa học biện chứng đếch nhìn thấy thì đếch tin như bây giờ, nghĩa là em chỉ gói gọn việc đánh ma của cụ Tự trong 1 câu ngắn ngủi: cụ ấy múa kiếm rồi niệm chú đến phọt cả máu mồm rồi sau mấy tiếng đồng hồ cũng chém được hết lũ ác quỷ cô hồn? Rồi em quyết định viết theo trí tưởng tượng của mình, chuyện đã xảy ra kinh hoàng như thế, cái kết của nó cũng phải xứng đáng chứ không thể cụt ngủn vô duyên, đó là lý do các cụ đọc đầu truyện thì rất thực tả (chỉ thêm tí mắm muối) còn đến đoạn giết quỷ thì chả khác gì tiên hiệp kỳ tình.
Thôi không lan man nữa, đêm nay em sẽ kết thúc cái truyện này cho em đỡ mất ngủ và cho các cụ đỡ tức mắt, dài dòng mãi có khi thành dở hơi Chuyện là thếnày, đến trưa hôm sau thì cụ Tự tỉnh dậy sau trận quyết chiến hung hiểm bội phần với con ma xó thành tinh đã mấy trăm năm, việc đầu tiên cụ làm là yêu cầu nhà ông chú em chuẩn bị cho một cái lễ câu hồn vào buổi chiều. Biết cụ chẳng quản an nguy của bản thân, tận sức bình sinh trừ đi mối họa cho nhà em cũng như cho dân làng thì mọi người trong xóm vô cùng cảm kích. Bà Nhu đích thân sai con dâu đi nấu nguyên một nồi cháo gà thơm lừng để khi cụ dậy ăn cho ấm bụng. Ngồi xếp bằng trên sập gụ, cầm bát cháo với cái thìa nhôm trên tay mà lão pháp sư một đời chuyên đi trừ tà bắt ma còn run rẩy mãi không thôi.Chiều ấy, hình nộm cô Hường vẫn nằm yên vị trên giường buông màn tang tóc, sau màn trì chú, tụng kinh của cụ cùng khói nhang nghi ngút thắp lên giữa bàn thờ cô Hường, cụ yêu cầu chính bà chị ruột của cô là cán bộ bên Lương thực huyện đội khăn đỏ dẫn vong. Khăn đỏ vừa trùm đầu thì cụ rì rầm khấn vái đoạn rút lá cờ chĩa vào hình nhân cỏ năn quát lên: Xuất! Ngoài trời lúc ấy không gió mà hai cánh màn giường cô bỗng nhè nhẹ rung lên, cụ Tự chỉ tiếp cây cờ về phía bà cô trùm khăn hô: Nhập! Bà cô tự dưng rùng mình 1 cái rồi khó khăn lắm mới mở mồm cố thốt lên những âm thanh gần như vô lực: .... cháu đội ... ơn thầy ... giải thoát ... ma xó ... kia ... Đoạn cô ấy ngoảnh sang chỗ bà Nhu tiếp: ... thím Nhu têm cháu ... miếng trầu ... Cả nhà từ già chí trẻ, từ lớn chí bé đều tin rằng ấy là cô Hường đã nhập vào chị gái vì bình thường bà chị gái này ăn sóng nói gió, giọng cứ là sang sảng đàn ông, và từ bé cho chí lớn chả bao giờ bà ấy ăn trầu. Cô Hường thì lại khác, rất hay nhai trầu bỏm bẻm mỗi khi ngồi với bà Nhu hoặc đi đám cưới, đám ma trong làng.
Cả nhà lúc ấy ai cũng nước mắt lưng tròng vì đều cảm thấy là có thể truyện trò cùng người thân ruột thịt của mình dẫu đã là âm dương cách trở, cô Hường lúcnày trong lốt bà chị khác xa con quỷ cái hàng đêm tác oai tác quái gây kinh hoàng táng đởm chốn thôn quê. Bà Nhu gạt nước mắt lã chã tay run run têm trầu rồi đưa cô: trầu đây con ơi, bỏ miếng trầu vào miệng cô nhai chóp chép ngon lành, mắt cô cũng nhòa lệ. Rồi vừa nhai trầu cô vừa khóc cực khóc nhục, khóc như chưa bao giờ được khóc, những tiếng ai oán, trách phận than thân, kể tủi khoe hờn được tuôn ra bằng những lời nấc nghẹn, nước mắt nước mũi cô quyện cùng nước bã trầu đỏ thắm nhòe nhoẹt trên má, trên miệng, trên mắt rồi chảy xuôi xuống chiếu như máu rỉ ra vì uất hận đau thương. Cụ Tự lúc này vẫn ngồi lim dim trước ban thờ mới nhẹ rung chiếc chuông trấn quỷ "đing-đang" rất khẽ, ngay lập
tức hồn ma cô Hường hốt hoảng dừng khóc chao đảo người vì sợ. Có oan tình gì thì mau nói ra tường tận, ta biết con chết oan chết uổng, chịu khổ nhiều năm rồi,nào ... nói ra kẻo ta rút phép thông công, cụ Tự trầm giọng cất lời. Cô Hường lúc này mới vừa sụt sịt vừa nức nở kể ra những gì mình tao ngộ bấy lâu nay .... Số là đận ấy vì cám cảm bản thân cô gom góp hết vốn riêng mua một gánh xoong nhôm, chậu nhôm lên vùng Lạng Sơn đi chợ đồng rừng cùng vài người bác họ xalấy chồng tận Bắc Giang. Xoong chậu đổi lấy gạo rồi lại mang gạo về Bắc Giang bán kiếm lời, cứ thế vòng quay tiếp nối sau hai năm cô đã có một số vốn kha khá.Trong những lần bôn ba khắp mạn Lạng Sơn và vùng giáp ranh Cao Bằng cô có quen và yêu một anh chàng người Nùng tên A Sềnh cũng là dân chạy chợ, hai người rất tâm đầu ý hợp cùng nhau hùn vốn làm ăn một dải miền rừng, họ đã dắt nhau về bản nhà A Sềnh ra mắt. Đây là lúc bi kịch bắt đầu, trong bản của A Sềnh có lão thầy mo chột mắt, mặt chuột tai dơi, dáng đi lòng khòng tên là A Hủi. Tên này tà pháp nổi tiếng miền biên viên, không chỉ Lạng Sơn – Cao Bằng mà cả người bên kia biên giới cũng thường ghé qua nhà hắn mỗi khi có việc cần kíp trong nhà. A Hủi là kẻ vô cùng háo sắc, hắn có tới 5 bà vợ nhưng bà nào cũng chỉ sống được với hắn chừng một vài năm là lại đột ngột quy tiên, dân vùng đó người bảo hắn sát vợ, người xì xầm rằng nó giết vợ đi để lấy máu nuôi ma xó trong nhà.
Cái ngày cô Hường ra mắt nhà chồng tương lai cũng là cái ngày mà A Hủi vì là họ hàng nội tộc, còn là vai chú của A Sềnh mà được mời đến xem mặt "cháu dâu",thấy cô có chút nhan sắc hắn nảy tà tâm chiếm đoạt cô cho bằng được. Sau lễ ra mắt bảy ngày, A Sềnh đi rừng bị trượt chân ngã đập đầu vào đá mà chết tức tưởi, cô Hường hay tin vội vàng gác chuyện làm ăn về bản chịu tang. Đám ma của chồng tương lai vừa xong thì cũng là lúc người ta thấy cô thập thò trong nhà A Hủi, mặt đờ đẫn như kẻ mất hồn. Rồi cô và gã thầy mo độc ác ăn ở như vợ chồng với nhau mặc lời dèm pha của bố mẹ chồng "hụt" cũng như bà con dân bản, người hiểu chuyện thì biết ngay là A Hủi đã dùng con ma xó chiếm cô rồi. Tuy nhiên chẳng ai dám nói ra vì truyền đời nhà A Hủi vẫn âm thầm lưu truyền một câu chuyện liên quan đến con ma xó đã tồn tại mấy trăm năm trong nhà hắn, con ma xó này đã thành tinh, hung ác vạn phần, tà pháp rất cao, cơ hồ loanh quanh mấy tỉnh biên viễn chẳng ai làm gì được nó. Sau này khi cô Hường đã có thai với A Hủi thì gã mới nới lỏng cô phần nào, vì thế đầu óc cô cũng bớt u mê hơn so với những ngày đầu, vốn thông minh cô nhận ra sự khác lạ trong người, thêm nữa chạy chợ miền rừng mấy năm, những chuyện ma gà, ma xó, bùa bả ... không phải cô chưa từng nghe. Việc đã đến nước này cô đành cắn răng tỏ ra thân mật, nhất tâm nhất ý chiều chuộng hắn. Những lúc gần cận lão thầy mo già, hắn cũng cao hứng lộ ra chuyện con ma xó trong nhà, ngày ấy cách đây đã hơn hai trăm năm, vì muốn luyện ra một con ma xó uy lực vô song tổ tiên hắn đã tự tay bóp chết tươi đứa con đầu lòng ngay khi vừa lọt lòng mẹ. Xác hài nhi ấy cùng dây rốn lòng thòng được bỏ vào trong ống tre luồng to cỡ bắp đùi chứa đầy nước thuốc bí truyền và dán bùa, khắc chú khắp xung quanh để làm ma xó. Cái ống luồng ấy được đặt trong xó tối góc nhà. Hàngngày tôn chủ của con ma xó ấy, cũng chính là bố đẻ, đều đều nặn bảy giọt máu rỏvào nuôi nó qua cái miệng lỗ đỉnh ống luồng, hàng ngày đều dành thời gian thắp nhang, đọc chú rồi trò chuyện hỏi han, dụ dỗ rồi dạy bảo con ma, dần dần khoảng ba tháng sau hễ cứ tôn chủ hỏi gì thì con ma lên tiếng léo nhéo trả lời từ trong ống. Để con ma xó ấy trở nên linh diệu thì ngày thứ 100 trở đi, cứ giữa một tuầntrăng lại phải giết tươi một đứa trẻ khác lấy máu cho nó uống, cứ thế sau một năm nữa, khi con ma đã tạm gọi là "thành" thì tổ tiên hắn tự tay chém phăng cổ vợ, mẹ đẻ con ma xó, hứng máu vào cái chậu to, chế thêm ma thang rồi bỏ cái ống luồng chứa con ma xó ngâm vào trong hỗn hợp ấy suốt bảy ngày. Lúc ấy con ma vốn bị bóp chết tươi ngay khi vừa cất tiếng oe oe chào đời oán khí đã chất chồng, lại được nuôi bằng máu từ khi mới luyện để tăng sát khí, lúc cuối thì lại được ngâm vào chậu máu của mẹ ruột mình, mẹ con tương phùng, mẹ uất con oán, sẽ tạo ra một con ma xó tàn ác tà đạo vô biên.
Ma xó thông thường chỉ giữ nhà giữ cửa, ai vào lấy cắp cái gì thì cũng tự động mang trả, không trả vật chết tươi ngay, kể cả là ăn vụng một miếng nhà nó cũngkhông xong. Đi lên miền rừng, nhất là Lạng Sơn – Cao Bằng, khách lỡ độ đường tìm thấy một nhà dân, đang cơn đói ngấu lại thấy có bát thức ăn mới bốc một miếng bỏ vào mồm, vừa mới trệu trạo nhai chợt nghe từ một góc tăm tối nào đó trong căn nhà tiếng trẻ con léo nhéo đếm "Một", thì đấy chính là tiếng ma xó, lỡ may người ấy không để ý lại bốc tiếp miếng nữa bỏ mồm thì tiếng léo nhéo lại vàng lên "Hai". Hễ là đàn ông cứ bị đếm 7 tiếng là chết không cứu được, đàn bà thì chín tiếng chẳng sai. May mắn gặp chủ nhà về thì còn giải kịp, chứ không thì cầm chắc cái chết kinh hoàng. Những người bị ma xó bắt thường chết vô cùng đau đớn, gan ruột cồn cào như bị ai cắt nát, xương co gân rút như bị trừu tủy luyện hồn, khiến mặt mũi biến dạng, méo mó. Đến lúc cực điểm thì thất khiếu chảy máu, mắt trợn trừng trừng mà bỏ mạng. Con ma xó nhà A Hủi tàn độc và uy lực hơn nhiều, nó là thứ để A Hủi và tổ tiên hắn ngồi lên đầu các thầy mo nuôi ma xó khác trong vùng, cũng là công cụ để chúng ra tay sát hại những ai chúng muốn giết. Mấy trăm năm tung hoành, mạng người mất dưới tay con ma xó thành tinh ấy phải lên đến con số kinh hoàng. Thời gian tím ruột bầm gan, cắn răng nhẫn nhục sống với lão thầy mo già, bản thân cô Hường từng chứng kiến biết bao tội lỗi mà A Hủi cùng con ma xó thành tinh của mình gây ra. Bản tính vốn thiện lương nên cô thấy vô cùng sợ hãi, nhưng vì còn e con ma xó trong nhà lão thầy mo tà đạo nên cô chưa dám tính chuyệntrốn đi, thêm nữa bụng cô hiện đang mang cốt nhục của hắn, vác cái bụng bầu về quê để chịu tiếng chửa hoang thời bấy giờ là cái việc tày đình. A Hủi có 3 người con giai với 5 bà vợ trước đó, thằng con giai cả cũng theo nghiệp thầy mo giống bố nhưng mà ít tiếng tăm vì hắn pháp lực chưa cao, 2 đứa còn lại thuộc dạng đầu trâu mặt ngựa hoành hành khắp nơi dọc dải Cao Bằng – Lạng Sơn. Từ khi bắt cô về hắn đối xử cũng không hề tệ, nếu không nói là hơn hẳn so với 5 đời vợ trước, hắn bắt mấy đứa con dâu trong nhà phục dịch cô còn hơn cả phục dịch bà hoàng, đặc biệt kể từ khi hắn thăm mạch cô và biết cô có thai với hắn. Con trai con dâu nhà hắn thấy bố như vậy thì đều mắt tròn mắt dẹt, cảm giác lạ lẫm vô cùng.
Một đêm cô Hường đang say ngủ, chợt nghe có người gọi giật giọng: Hường ơi, Hường ơi ... anh đây, anh về thăm em đây. Rồi cô thấy A Sềnh từ hồi nào đãđứng ngay trước mặt, A Sềnh quần áo bê bết máu, trên đầu còn nguyên vết sọ vỡ toác từ cú ngã chí mạng trong rừng. Thấy người yêu về thăm cô vùng dậy chạy đến ôm choàng lấy A Sềnh và khóc trong mừng tủi, A Sềnh ôm cô hồi lâu rồi thì thào: đêm nay thằng A Hủi nó dẫn con ma xó và đám âm binh, quỷ sứ sang Cao Bằng làm chuyện ác nên anh mới dám đến gặp em. Em biết hồn biết hút thì trốn ngay đi, chờ khi đứa bé trong bụng em tròn 9 tháng là nó mổ bụng moi ra luyện thành con ma xó nữa đấy. Cô Hường bàng hoàng tỉnh giấc, mồ hôi mồ kê vã ra đầy mình, không thấy A Sềnh đâu cả, chỉ thấy tiếng côn trùng rả rích kêu dưới ánh trăng tàn cuối tháng buồn miên man. Dù sợ nhưng cô vẫn cố gắng nghĩ xem giấc mơ này có phải là thật hay không? Và cô rùng mình nhớ đến cái cảnh thằng con trai lớn lão A Sềnh thường len lén nhìn trộm cái bụng lùm lùm của cô với con mắt rất khao khát, đợi chờ. Thôi nguy rồi, cô ngồi chết lặng hồi lâu ...
Chiều hôm sau khi A Hủi về nhà thì không thấy cô Hường đâu nữa, lão chột gầm lên như con thú bị thương, lão dùng chiếc hèo gỗ mun đánh mấy đứa con dâu không tiếc tay vì tội để cô trốn thoát. Đánh chán thì lão vào nhà đốt đèn, lên nhang rồi lầm rầm đọc chú, xong lão chỉ tay vào góc nhà quát lên: theo về xuôi giết nó cho tao. Đáp lại lời lão chột là tiếng trẻ con léo nhéo: tôn chủ lại cho ta đi chơi à ... nó đang có mang, người cống ta đứa con nó nhé, lâu rồi ta không được ăn thịt tiểu nhi ... hé hé hé ... hô hô ... Lão già ngồi xếp bằng trước ban thờ ma xó cau mày lại suy tính, giây lát sau hắn nhắm mắt lại và chầm chậm gật đầu. Tiếng cười hi hi he he lại rộ lên rồi im bặt, từ trong xó nhà lão, một đám sương màu đen tanh tưởi mùi máu mủ thoắt cái đã ào ra cửa chính rồi mất dạng. Hà ... vốn là muốn luyện cho thằng cả con ma xó mới mà giờ lại sinh chuyện, hầy .... chậc chậc... giá pháp lực mày cao thì tao trăm tuổi sẽ giao mày con ma xó tổ truyền ... giận cái là mày không chế nổi nó thôi ... hài ... ài. Lão buồn bực thở dài đoạn đứng phắt dậy vén mành bước ra ngoài.
Cô Hường ngay trong đêm ấy đã nhanh tay vớ lấy mấy bộ quần áo, vài ống cơm lam rồi lựa lúc mấy đứa con dâu nhà lão chột ngủ say sưa trèo tường trốn đi.Chẳng dám đi đường chính, cô cứ nhằm hướng Nam đường rừng lối chuột chạy nhỏ xíu mà chạy. Mấy ngày lội suối trèo đèo cô về đến địa phận Bắc Giang, lúc này áo quần tơi tả may gặp bà mế người Thổ tốt bụng lấy cho cô hai bộ quần áo, mặc nguyên bộ đồ dân tộc ấy cô ghé nhà người bác gái họ xa. Cô kể là đang nằm võng ở nhà bà bác nghỉ ngơi thì thấy bào thai trong bụng đạp mạnh khác thường, rồi cứ như bị thứ gì bóp mạnh, đứa con trong bụng cô giãy đành đạch hồi lâu, mà lạ kỳ thay, cô lại không hề cảm thấy đau đớn chút nào, chỉ thuần là linh cảm của người mẹ khiến cô hình dung việc ấy. Biết là có chuyện chẳng lành cô vội nhờ người anh con trai bác kia chở ngay ra đường 1 bắt xe về Bắc Ninh, cứ tưởng vác cái bụng bầu về nhà thì thầy với anh chị từ mặt, thế mà khi thấy 1 cô người Thổ dập dềnh trước ngõ thì bố cô sau khi nhìn ngắm kỹ càng, đã nhận ra cô con gái thất tung bấy lâu nay, cụ khóc nấc lên rồi ôm cô vào lòng như thể cô vẫn là đứa con gái bé nhỏ ngày xưa của cụ.
Về đến nhà được một vài hôm, sau khi họ hàng tới thăm hỏi nhiệt tình thì một đêm cô nghe thấy trong bụng mình có tiếng cười gằn khác lạ, tiếng cười mamãnh, quỷ quyệt, lạnh lùng, tàn ác đến rợn người. Cứ mấy đêm thấy tiếng cười như vậy thì cô nghe trong bụng mình có tiếng trẻ con phát ra: Hường à ... Hườngà ... mày chạy không thoát đâu ... tao đang ăn gan uống máu đứa con mày đây ... thưởng thức nó xong tao sẽ vật chết tươi mày ... hé hé hé ..há há ... Và chuyện vềsau là những gì em kể với các cụ trong những post trước đó ...
Sau khi cô Hường trong xác người chị gái làm bên Lương thực huyện kể rõ ngọn ngành đầu đuôi thì cả nhà đều khóc ngất, ma khóc người khóc, rất là bi đát đauthương. Chú anh ruột cô vốn bên quân đội, bình thường rất vô thánh vô thần, thế mà chiều ấy cũng không cầm nổi nước mắt, chú nghiến răng kèn kẹt đòi sang Bắcgiang hỏi bà bác về cái bản nơi lão thầy mo chột mắt ấy cư trú để găm cho nó mấy phát đạn vào hộp sọ. Cụ Tự nghe thế thì xua tay: chớ chớ anh ơi, rồi nó phải báo ứng ngay thôi, chớ mất công làm gì, nay tôi đã trừ đi con ma xó tổ truyềnnhà nó rồi, vốn là cái nòi quỷ thì mất căn mất rễ cây tự hoại thôi. Rồi cụ lấy lá cờ tam giác màu đen phất về phía chị gái cô Hường, rùng mình 1 cái cô ấy đổ vật xuống chiếu như say ngủ, cụ khuyên nhà cô Hường nên ra chùa làng làm cái lễ cầu siêu để linh hồn cô được mát mẻ siêu sinh. Xong, cụ xin ra về vì việc đã xong, ông em đưa tiền thù lao cụ chỉ lấy chút ít cho phải phép, cụ bảo: sinh ra làm cái nghề này cũng là cái nghiệp, nhất bần nhị yểu tam vô tự thôi, rồi cụ ngâm nga "đã mang cái nghiệp vào thân lão huynh ạ". Và cụ thở hắt một hơi thật dài ...
Khi cụ Tự còn đang gói ghém đồ đạc vào trong tay nải thì ngoài ngõ nhà ông em chó cắn lao xao, có bóng ai đó thập thò cánh cổng, ngập ngừng chốc lát rồi ngườiấy thẹn thùng bước vào trong sân đánh tiếng: ông thầy pháp còn đây không? Cả nhà ngó ra thì thấy anh con trai cả nhà ông bác ruột Chương gù đang tiến vào. Họnhà em với họ Đinh Văn lúc ấy còn căm nhau lắm nên làm mặt lạnh chả ai nói gì, mọi người còn tỏ ra khó chịu, anh kia bố vừa mất chưa qua tuần đầu mà khi nhìnthấy cụ Tự thì cứ xoa tay khét mù nhe nhởn cười: ông ơi ông cho con xin lại cái chuông. Lão pháp sư đầu râu tóc bạc như đã biết trước cuộc viếng thăm này, cụ nheo nheo con mắt hấp háy nhìn anh ta rồi đáp: tổ tiên nhà anh có phải từ Ninh Bình ra đây không? Anh kia giật mình nghĩ ngợi rồi gật đầu: dạ vâng ông ạ. Cụ Tự ôn tồn: Chuông trấn quỷ này vốn là vật của tổ sư ta, truyền thừa không biết bao nhiêu đời, còn ghi trong gia phả, cách đây hơn hai trăm năm mới được giao cho người bên nhà anh giữ hộ đó thôi. Anh kia cúi đầu ngẫm nghĩ rồi lại gật. Lão pháp sư tiếp: chuông này tối cần cho thầy phù thủy, dùng nó ta cứu khổ phò nguy cho thiên hạ, nó còn là thứ đời đời dòng pháp nhà ta thầy truyền cho trò, ta vẫn để tâm tìm nó khắp nơi mà đến bây giờ mới thu hồi lại được. Nể tình nhà anh có duyên với tổ sư ta, lại có công gìn giữ vật này bấy lâu, giờ ta lấy tiền trả anh coi như mua lại nhé. Anh chàng vẫn cúi đầu chẳng nói gì, hồi lâu sau quay đ.ít chuồn thẳng, chả thèm mở mồm ra nói một câu, vẻ như cam chịu bằng lòng. Số là anh này thấy bố bị hồn ma cô Hường đóng dùi đục vào bụng chết tức tưởi thì cũng căm thù lắm, hắn cũng ranh ma nữa, trưa hôm ấy sau khi chứng kiến cụ Tự lập đàn rồi múa may một lúc thì cả làng đều nghĩ cụ đã diệt quỷ xong xuôi, chỉ có hắn là ban chiều còn quay lại nhà hàng xóm ông chú em để dò la tình hình. Thấy đàn tràng vẫn nghiêm cẩn bày giữa sân, hắn biết là cuộc vui còn tiếp diễn, vì vậy tối hôm ấy hắn lấy hết đảm lược dắt trong người chiếc chuông, lén trèo lên cây nhãn góc vườn nhà cô Hằng để rình xem cụ pháp sư bắt mấy con ác quỷ ấy. Định bụng khi nào lão pháp sư bắt được thì hắn sẽ xông ra dùng cái chuông kia lắc liên hồigiết sạch cô Hường cùng lũ quỷ sứ quan ôn trả thù cho bố. Nhưng mà người tínhchẳng bằng trời tính, đúng lúc gay cấn nhất hắn sợ đến mất mật, bị ngã từ trên cây nhãn xuống vườn, rồi bị cụ Tự thu lấy cái chuông nhỏ xíu màu đen đầy huyền bí đó.
Ông em lại sai 2 chú đưa cụ Tự về nhà, sáng qua cụ đi bộ, nhưng đến chiều nay thì cụ mệt mỏi bơ phờ, bằng lòng ngồi sau xe đạp để về nhà. Ngay ngày hôm sau nhàcô Hường đã làm lễ cầu siêu rất chu đáo cho cô ở chùa làng em. Người ta đồn sau vụ bắt ma, trừ quỷ ấy, cụ Tự nghỉ dưỡng sức đến nửa năm mới bắt đầu trở lại nghề phù thủy ...
Bảy năm sau ngày cô Hường mất, tức là năm 1994, vào 1 buổi chiều mùa hè xóm nhà ông em lại xôn xao vì có một chú người Thổ tầm ngoài 30 tuổi bị cụt 1 chânđến sát bẹn được bà bác họ xa cô Hường bên Bắc Giang tự dưng dẫn đến nhà cô. Vừa bỏ cái nạng ra là người Thổ ấy quỳ mọp xuống và dập đầu binh binh, vừa khóc lóc thảm thiết vừa khẩn cầu cái gì đó bằng tiếng Thổ ú ớ trước bàn thờ cô Hường. Sau khi cơn xúc động lắng xuống, người nhà em vừa hỏi chuyện chú kia vừa truy vấn bà bác họ ấy thì mới hay: người Thổ cụt chân này chính là con út lão A Hủi. May cho hắn là ông anh ruột cô Hường lúc ấy vừa hết phép lên đơn vị, chứ không chắc hắn no đòn bữa ấy chứ chả đùa. Ông nội em và ông đẻ ra cô Hường bình tĩnh hỏi han sự tình, người Thổ ấy trả lời bằng thứ tiếng Kinh lơ lớ, phải nhờ bà bác họ kia nhiệt tình phiên dịch thì cả nhà mới thủng câu chuyện.
Số là vào mùa xuân năm 1988, bố đẻ anh này lão A Hủi, sau một đêm thức dậy bỗng trở nên điên cuồng, man dại, lão cứ như người bị bóp chặt cổ, mặt mũi dồnmáu đen sì, con mắt duy nhất của lão lồi tướng muốn phọt ra khỏi hốc, mũi mồm sưng vù, lão gầm lão gào, kêu rống lên như bò váng hết cả bản, rồi lão cứ đập đầuvào tường côm cốp đến bật cả máu ra. Chưa hết, lão cầm con dao quắm trên tay tự chặt chân tay mình, lúc ấy cả nhà đi nương hết, còn mỗi cô con dâu út đangbụng chửa vượt mặt là tận mắt chứng kiến. Lão băm nát hai chân rồi lại dùng dao tự xẻo thịt trên người mình, từng miếng từng miếng thịt đỏ lòm vương vãi, hởxương trắng hếu, lóc thịt chán lão cầm con dao rạch ngược bụng mình rồi thọc tay vào bới ra bao nhiêu là gan ruột ruột lòng thòng. Đến nỗi lúc sau lão ngoẹo cổchết thì người lão giống như một đống thịt bầy nhầy máu me khủng khiếp, cô con dâu ngất lên ngất xuống ngã từ trên nhà sàn xuống sân rực thai cũng đi luôn sau đó một ngày. Vừa ma chay cho lão và cô con dâu xong xuôi thì sau đấy chừng 3 tháng, đứa con trai cả của lão chẳng hiểu tại sao bỗng dưng ban đêm treo cổ lênxà nhà tự tử, tờ mờ sáng người nhà tỉnh dậy thấy cái xác không hồn treo lủng lẳng gần chỗ ban thờ. Sau đó 3 tháng nữa thì ông con trai thứ 2 vốn chuyên đi cướp thì lại bị băng cướp khác mai phục gần bản dùng súng kíp bắn cho nát xác, đến nỗi khi lau rửa khâm liệm người ta thấy rơi ra cả vốc đạn chì. Chỉ còn ông con trai út này sợ quá bỏ sang tít bên Trung Quốc làm ăn được yên ổn mấy năm, tự dưng cuối năm 1993 bị gỗ đè nát chân, phải cưa sát tận bẹn, những ngày nằm dưỡng thương hắn mơ thấy bố với anh về liên tục bảo là: vì con ma xó tổ truyền bị giết, nên các oan hồn không còn ai chế ngự đã nhè cả nhà hắn ra mà vật, rồi chúng nó sẽ giết sạch cả nhà. Muốn sống sót thì tìm về dưới xuôi nơi con ma xó bịtiêu diệt mà nhờ chính cái người giết nó họ viết cho cái lệnh trục vong đem dán ban thờ, vì người đã giết được con ma xó ấy hẳn pháp lực phải rất cao thâm, đủ sức hóa giải lũ oan hồn này. Hắn nghe lời và mất mấy tháng dầm dề cũng đã dò tìm được về tới nhà cô em ...
Cơ trời vốn cao thâm bí hiểm, nhân quả vốn cũng khó rõ ngọn ngành, khi hắn biết cụ Tự chính là người trừ được con ma xó nhà hắn thì cũng là lúc cụ được đón vào miền Nam giúp một người thân trong đó. Đợt suốt mấy ngày hắn tuyệt vọng ra về ... Thời gian sau bà bác họ cô Hường về chơi có kể: người con trai út của lãothầy mo chột mắt ấy đi đám ma về ngã xuống suối chết chìm, lúc vớt được xác thì cua cá đã rỉa cho rã xương rã thịt, không ai còn nhận ra mặt, chỉ nhờ cái chân cụt
mới biết hắn chính là đứa con trai út nhà A Hủi. Kể từ sau lễ cầu siêu thì vong linh cô Hường rất hiếm khi hiện về, xóm nhà ông em cũng như cái làng quê nho nhỏ xinh xinh cạnh dòng Như Nguyệt ấy không còn ai nói bị cô trêu nữa, chỉ có mấy lão già đánh cá ngoài đê chỗ đối diện bãi tha ma cứ khăng khăng thi thoảng giữa đêm còn vẳng nghe tiếng võng đưa kẽo kẹt ...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tl