tam long cao ca - part 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

THÁNG HAI CHIẾC HUY CHƯƠNG XỨNG ĐÁNG

Thứ bảy 4. Sáng hôm nay, ông tổng thanh tra đã đến trường để trao thưởng huy chương cho các học sinh. Ông mặc quần áo màu đen, râu ông đã bạc. Ông vào lớp cùng với thầy hiệu trưởng trước giờ tan học một ít, và ngồi vào cạnh thầy giáo. Ông gọi một vài học sinh lên hỏi, trao chiếc huy chương nhất lớp cho Đêrôtxi. Trước khi trao chiếc thứ nhì ông trao đổi ý kiến nho nhỏ với thầy hiệu trưởng và thầy giáo. Chúng tôi hỏi nhau: "Ai sẽ đọc chiếc huy chương thứ nhì nhỉ?" Ồng tổng thanh tra tuyên bố. - "Người xứng đáng được thưởng huy chương thứ nhì trong tuần này là học sinh Piêtơrô Prêcôtxi, xứng đáng vìđã học tốt ở trường, và ở nhà, vì rất thuộc các bài học và viết chữđẹp".Tất cả học sinh đều tự nhiên ngoảnh nhìn Prêcôtxi, điều đó chứng tỏ các bạn đã vui lòng biết bao về cái phần thưởng này. Prêcôtxi đứng dậy, lúng túng, đến nỗi không biết nên làm gì nữa. "Mời cậu lên đây" ông thanh tra nói. Prêcôtxi ra khỏi ghế, bước lên đứng cạnh bàn thầy giáo Ông tổng thanh tra nhìn chăm chú khuôn mặt bé nhỏ vàng như sáp, cái thân hình bé nhỏ trong bộ quần áo bị thủng rách và bạc màu, đôi mắt hiền hậu và buồn rầu, biểu lộ chuỗi dài những đau khổđã phải chịu đựng, rồị vừa gắn chiếc huy chương lên ngực cho cậu, vừa nói giọng rất dịu dàng. - Prêcôtxi, tôi thưởng cậu chiếc huy chương này vì không ai xứng đáng được đeo hơn cậu. Tôi thưởng cho cậu không phải vì cậu thông minh và có thiện chí, tôi thưởng cho lòng tốt, cho sự can đảm của cậu, cho đức tính của người con quả cảm và trung hậu, - Rồi ông hỏi cả lớp - Có phải là bạn cũng đáng thưởng vì lòng hiếu thảo của một đứa con đối với cha mẹ nữa không? - Vâng ạ, vâng ạ? - Học sinh đồng thanh đáp lại, bao nhiêu người nhưng chỉ có một tiếng. Prêcôtxi quay nhìn chúng tôi, đôi mắt biểu lộ một lòng biết ơn vô hạn. - Thôi, con về chỗ, chúc con sung sướng, ông tổng thanh tra nói. Đã đến giờ tan học. Lớp chúng tôi được ra trước các lớp khác. Vừa qua ngưỡng cửa, chúng tôi thấy bố cậu Prêcôtxi bác thợ rèn, ở gian phòng trước, mặt tái nhợt như mọi khi, đôi mắt hung tợn, tóc xõa xuống tận mắt, chiếc mũ lưỡi trai đội lệch, hai chân không đứng vững. Thầy giáo nhận ra bác ta ngay và ghé tai ông thanh tra nói mấy câu. Ông này liền tìm Prêcôtxi, nắm tay cậu và dẫn đến chỗ bố cậu. Cậu bé run lên. Thầy giáo và thầy hiệu trưởng đi theo cậu, nhiều học sinh đi quanh họ. Ông là bố của cậu này phải không ạ?" ông thanh tra hỏi bác thợ rèn giọng rất thân ái, rồi không chờ câu trả lời ông nói tiếp: "Tôi xin chía sẻ niềm vui với ông. Ông hãy nhìn xem, cậu vừa được huy chương thứ nhì trong lớp trên năm mươi bốn học sinh. Về văn, về toán, về mọi mặt cậu đều xứng đáng cả. Đây là một cậu bé rất thông minh và đầy nghị lực, sau này cậu sẽ thành tài, một cậu con trai tất, mọi người đều quý mến, ông có thể hãnh diện vì cậu, tôi xin bảo đảm với ông như vậy?". Bác thợ rèn đứng nghe, mồm há hốc; bác nhìn chằm chằm ông thanh tra, thầy hiệu trưởng, rồi đưa mắt nhìn con mình đangđứng trước mặt, mắt nhìn xuống đất; run rẩy' dường như lần đầu tiên bác chợt hiểu ra tất cả những nỗi đau khổ mà bác đã đem đến cho đứa bé tội nghiệp này, và nó đã trung hậu kiên trì, anh dũng chịu đựng những nỗi đau khổ như thế nào, bác thợ rèn như biểu lộ nỗi kinh ngạc gần như sửng sốt, nỗi đau đớn quằn quại trong lòng, và cuối cùng một niềm thương yêu vừa mãnh liệt vừa buồn rầu. Vội vàng bác kéo con về phía mình và ôm chặt nó vào lòng. Tất cả chúng tôi đi qua trước hai bố con. Tôi mời Prêcôtxi thứ năm tới nhà tôi chơi cùng với Garônê và Crôtxi. Các bạn khác chào cậu, có bạn vuết ve cậu khi đi qua, bạn khác sờ, ngắm chiếc huy chương của cậu, tất cả ai cũng nói với cậu một lời gì đó. Và ông bố nhìn chúng tôi sửng sốt, càng siết chặt đầu đứa con đang thổn thức vào ngực mình.

QUYẾT TÂM ĐÚNG ĐẮN

Chúa nhật 5. Chiếc huy chương của Prêcôtxi ám ảnh tâm trí tôi. Tôi chưa được thưởng một chiếc nào cả. Ít lâu nay, tôi không học và tự mình rất không bằng lòng mình. Thầy giáo, bố và mẹ cũng không bằng lòng tôi. Tôi chơi cũng chẳng thấy vui thú như trước kia, khi tôi còn học hành chuyên cần. Ngày ấy, làm bài xong là tôi vui vẻ lao ra, chạy đi tìm trò chơi say sưa. Ngồi vào bàn ăn với gia đình, tôi cũng không thấy vui lòng như trước nữa. Tâm hồn tôi như có một cái bóng tối trùm lên, và từ thâm tâm có một tiếng nói luôn luôn bảo tôi: "Thế này không được đâu". Buổi tối, tôi thấy những đứa bé đi làm về qua quảng trường, giữa những tốp thợ thuyền. Họ đều mệt mỏi nhưng vẫn vui vẻ, họ rảo bước mong chóng về tới nhà. Họ nói to, vừa cười vừa vẫy những bàn tay đen những than hạy trắng vì thạch cao. Tôi nghĩ rằng họđã lao động từ sáng tinh mơ cho đến tối như thế này: trong bọn họ có những đứa trẻ cùng lứa tuổi với tôi, suốt ngày ở trên những mái nhà, trước những lò lửa, giữa những máy móc, ngâm mình trong nước hoặc chui xuống dưới đất, và chỉăn có một tí bánh mì thôi. Tôi cảm thấy như hổ thẹn khi so sánh với họ: cũng trong thờl gian ấy, tôi chỉ miễn cưỡng bôi đen được bốn trang giấy nhỏ? Tôi không bằng lòng, rất không bằng lòng! Tôi thấy rõ là Bố đã bực mình và muốn báo cho tôi biết điều đó, là việc của tôi đã làm cho bố rất phiền lòng, nhưng bố vẫn nhẫn nhục. Bố yêu quý, Bố đã làm việc quá, nhiều? Mọi thứđều do bố làm ra cả. Tất cả những thứ gì tôi thấy có trong nhà, những gì tôi mặc, những gì tôi ăn, những gì giúp tôi giải trí, những gì dạy dỗ tôi, và cả những gì đem lại danh dự cho tôi: tất cả những cái đó, đều là kết quả công lao của bố. Thế mà tôi, tôi lại chẳng học hành gì cảl Bố phải chịu những nỗi đau khổ, nhọc nhằn, thiếu thốn mà tôi thì lại lười biếng? Ôi, điều đó rất xấu và làm cho tôi khổ tâm. Tôi muốn ngay từ hôm nay học tập say sưa như Xtacđi, tôi muốn làm việc với tất cả sức mạnh của nghị lực và của lòng can đảm. Tôi muốn thắng cơn buồn ngủ lúc đầu hôm, đậy sớm buổi sáng, chiến thắng không thương tiếc khuynh hướng lười biếng của mình. Vâng, tôi đã quyết tâm chấm dứt cái lối sống nhu nhược và vô ích ấy, nó làm cho tôi thấy hèn hạ và làm cho bố mẹ tôi buồn phiền. Can đảm lên? Bắt ta vào làm việc, với tất cả tâm hồn và gân cất của mình! Và công việc sẽ đem đến cho tôi những sự nghỉ ngơi vui vẻ, những trò tiêu khiển thích thú, những bữa ăn ngon lành; và công việc sẽ trả lại cho tôi nụ cười hiền hậu của thầy giáo và cái hôn âu yếm của bố.

BỘ ĐỒ CHƠI XE LỬA

Thứ sáu 10. Hôm qua Prêcôtxi đến chơi nhà tôi Cùng với Garônê. Các bạn đã được đón tiếp hết sức thân tình. Đây là lần đầu tiên Garônê đến. Cậu hơi ít giao thiệp, vì không muốn người ta biết rằng bằng tuổi cậu mà còn học lớp ba. Cả gia đình tôi ra đón khi nghe các bạn gõ cửa. Crôtxi không đến vì bố cậu mới ở bên Mỹ về, sau sáu lăm xa cách. Mẹ ôm hôn Prêcôtxi; bố giới thiệu Garônê với mẹ rằng: "Đây không những chỉ là một cậu bé tất bụng, mà còn là một cậu bé hào hiệp". Garônê cúi cái đầu to húi trọc và nhìn tôi, tủm tỉm cười. Prêcôtxi đeo huy chương. Cậu rất sung sướng. Bố cậu đã đi làm lại và từ năm hôm nay, không say rượu nữa, cứ giữ con luôn luôn ở cạnh mình trong xưởng, và thay đổi hẳn tính tình. Chúng tôi bắt đầu chơi, tôi đem tất cả đồ chơi ra. Prêcôtxi hết sức ngạc nhiên, thích thú khi thấy bộđường sắt nhỏ của tôi với chiếc đầu máy xe lửa có lò xo, tựđộng chạy được. Cậu chưa bao giờ thấy một cái gì như vậy cả. Cậu trố mắt ngắm các toa tàu sơn màu đỏ và vàng. Tôi dưa cái chìa khóa cho cậu lên dây chiếc đầu máy; thế là cậu quỳ xuống chơi mải miết, không ngẩng đầu lên nữa. Tôi chưa hề thấy cậu vui thích như thế bao giờ. Cậu luôn mồm nói: Xin lỗi, xin lỗi", mỗi khi gạt chúng tôi ra cho chiếc tàu chạy khỏi bị cản đường; rồi cầm lên và để xuống các toa tàu, thận trọng vô cùng, tưởng chừng chúng đều làm bằng thủy tinh và cậu sợ cả hơi thở của cậu có thể làm chúng hoen mờ mất. Cậu lau chùi các toa, nhìn phía trên, phía dưới và cười một mình. Chúng tôi nhìn Prêcôtxi: cái cổ mềm mại của cậu, hai cái tai tội nghiệp mà một hôm tôi thấy be bét máu, cái áo dài quá rộng, tay xắn để thòi ra hai cánh tay gầy guộc, chắc là trước đây thường phải giơ lên để đỡ đòn... Ôi! Lúc ấy tôi những muốn đem biếu cậu tất cả đồ chơi và tất cả sách học của tôi. Tôi muốn nhịn miếng bánh mì cuối cùng đang ăn để nhường cậu ăn, tôi muốn lột hết áo quần để nhường cậu mặc, và tôi tự kìm mình để khỏi nhảy tới ôm chầm lấy cổ cậu, tội nghiệp cậu Prêcôtxi. Tôi sẽ tặng cậu bộđồ xe lửa nhỏ của tôi, tôi nghĩ vậy, tôi muốn xin phép bố trước đã. Đúng lúc ấy thì tôi được dúi vào tay một mảnh giấy. Tôi đọc. Ở đấy Bố đã viết bằng bút chì: "Bộ đồ chơi đường sắt của con làm Prêcôtxi rất thích, bạn ấy không có đồ chơi. Lòng con không bảo con điều gì hay sao?" Tức thì, tôi cầm cả hai tay cái đầu máy và các toa xe đưa cho Prêcôtxi và nói: "Này, Bạn cầm lấy, của bạn đấy!" Cậu nhìn tôi, không hiểu. "Của bạn đấy, - tôi nhắc lại, - tôi biếu bạn". Prêcôtxi kinh ngạc nhìn bố, mẹ và hỏi tôi: "Nhưng tại sao vậy?" - Enricô biếu cháu đấy, - bố nói, - vì cháu là bạn nó và nó yêu cháu lắm. ..ấy là mừng cháu được huy chương... Prêcôtxi rụt rè hỏi: Thế cháu có thểđem về... nhà cháu? Tất nhiên. Lúc ra về, đứng trên ngưỡng cửa Prêcôtxi vẫn chưa dám mang theo của báu của cậu. Cậu sung sướng quá và nói khe khẽ: "Xin lỗi", đôi môi run rụn và tươi cười. Garônê giúp bạn bọc chiếc xe lửa trong cái khăn tay, và khi cúi xuống cậu làm kêu lạo xạo những chiếc bánh ngọt mà Mẹ đã nhét đầy các túi cho cậu. Prêcôtxi nói với tôi: "Thế một ngày vào bạn sẽ đến chơi ở xưởng của bố tôi chứ? Tôi sẽ biếu bạn những chiếc đinh?" Mẹ lại cài vào khuyết áo dài của Garônê một bó hoa nhỏđể cậu đem về tặng hộ mẹ cậu. Garônê Cám ơn, giọng ồm ồm, đầu không ngẩng lên, nhưng đôi mắt phản chiếu tâm hồn cao thượng và trung hậu của cậu:

TÍNH KIÊU NGẠO

Thứ bảy 11. Ấy thế mà khi Prêcôtxi đi qua hơi chạm phải, là Caclô Nôbitx phủi phủi tay áo của mình, kiểu cách lắm. Thằng ấy là hiện thân của tính kiêu ngạo, vì bố nó là nhà giàu. Nhưng mà Đôrôtxi cũng có ông bố rất giàu cơ mà. Cáí thằng Nôbitx muốn ngồi riêng một mình một ghế, vì nó quá sợ các bạn ngồi cạnh làm bẩn nói. Nó nhìn tất cả chúng tôi từ dầu đến chân, chẳng từ ai, và lúc nào cũng với một nụ cười khinh khỉnh. Đừng có vấp vào chân nó mỗi khi xếp hàng đôi để đi ra. Vì một việc không đâu, nó cững văng vào mặt anh một câu chửi rủa hay dọa về đưa bố nó đến. Tuy vậy, bố nó đã cho nó một bài học đích đáng cái hôm mà nó nhiếc cậu con bác bán than là "đồ khố rách áo ôm". Tời không bao giờ thấy một học sinh nào tìm đến với nó. Không ai nói chuyện với nó, không ai chào nó khi chìa tay, không ai nhắc cho nó một câu khi nó không thuộc bài... Còn nó, thì nó không chịu ai hết, và làm bộ khinh Đôrôtxi vì cậu đứng đầu lớp và Garônê vì cậu được mọi người mến. Đôrôtxi không them để ý đến diều đó; và khi có người mách lại Garônê là Nôbitx chế giễu cậu, thì cậu chỉ nới: "Thằng bé ấy kiêu ngạo một cách ngu xuẩn quá nên không đáng để cho ai chú ý đến". Một hôm Nôbitx nhìn cái mũ nồi da mèo của Côretti một cách khinh bỉ, cậu này nói luôn: "Này xin quá bộ một chút đến nhà Đôrôtxi mà học cách làm ông chúa". Hôm qua, Nôbitx phàn nàn với thầy giáo là cậu bé người Calabria chạm bàn chân vào ống quần của nó. Thầy hỏi cậu bé Calabria: Cậu có cố ý không" Thưa thầy, không ạ, - cậu bé thành thật trả lời. - Nôbitx! Cậu thật khó tính quá sức, - thầy bảo. Nôbitx trả lời cách khinh khỉnh: - Tôi sẽ mách bố tôi. Thầy Pecbôni liền quát lên: - Bố cậu sẽ cho là cậu có lỗi, cũng như lần trước thôi. Vả lại, ở đây, chỉ có tôi mới là người phán xử mọi việc. Rồi giọng dịu dàng hơn, thầy nói tiếp: "Này, Nôbitx, hãy ăn ở nhã nhặn và trung hậu hơn với các bạn một chút đi. Tại sao cậu lại không làmđược như những người khác? Làm thế cậu sẽ được vui lòng hơn nhiều, cậu có gì cần trả lời tôi không" Nôbitx nghe thầy giáo nói vẫn với nụ cười khinh khỉnh theo thói quen của nó, và trả lời lạnh nhạt: Thưa thầy, không. - Ngồi xuống, - thầy Pecbôni bảo, - tôi rất phàn nàn cho cậu, cậu là một đứa bé không có quả tim? Câu chuyện tưởng là kết thúc, thì cậu bé thợ nề ngồi ở bàn đầu, quay cái mặt tròn trĩnh về phía Nôbitx ngồi ở bàn cuối, và làm cái trò sứt môi, hài hước đến nỗi cả lớp phải phá lên cười. Thầy giáo mắng cậu, nhưng cũng phải lấy tay che mồm để giấu sự buồn cười của mình. Nôbitx cũng cười, nhưng cái cười bực bội và tức tối không đánh lừa được ai. (165)

NHỮNG NGƯỜI BỊ THƯƠNG TẬT VÌ TAI NẠN LAO ĐỘNG

Thứ hai 13. Nôbitx có thể sánh đôi với Phranti được đấy. Chúng nó chẳng động lòng vì bất cứ cái gì, cả hai đứa; chúng nó dửng dưng trước cái cảnh khủng khiếp mà chúng tôi gặp lúc tan học. Chúng tôi đang cùng với bố nhìn một số trẻ em học lớp hai nằm soài ra mặt băng, lấy áo tơi và mũ cát két cọ băng cho trơn để mà trượt cho dễ, thì bỗng thấy từ cuối phố kéo đến một đámđông người đi rất nhanh, vẻ nghiêm trọng và kinh hãi, và nói với nhau khe khẽ, giữa đám đông là ba người vệ binh thành phố, phía sau họ hai người khiêng một cái cáng. Học sinh từ tứ phía chạy lại. Đoàn người tiến về phía chúng tôi; người ta thấy một người đàn ông nằm trên cáng. Ông ta nhợt nhạt như một cái xác chết, đầu rủ xuống một bên tai, tóc rối bù, bê bết máu; và máu cững chảy từ mồm, từ tai ông ta ra, thật là khủng khiếp. Một người đàn bà đi bên cạnh cáng, bế một đứa bé; bà ta như điên cuồng vì đau khổ và bỗng kêu lên: "Ông ấy chết rồi, chết rồi!. Đi theo sau người đàn bà là một đứa bé con trai, tay cắp cặp học sinh; đứa bé khóc nấc lên. "Cái gì thế" bố tôi hỏi. Một khách qua đường trả lời rằng đó là một người thợ nề bị ngã từ gác tư xuống trong khi đang làm việc. Những người khiêng cáng dừng lại một lát. Nhiều người trong số chúng tôi quay mặt đi vì khiếp sợ. Tôi thấy cô giáo đội mũ cắm chiếc lông đỏ phải đỡ cô giáo lớp một trên của tôi, gần ngất đi. Cùng lúc ấy tôi thấy có người chạm vào khuỷu tay.Đó là cậu bé thợ nề, mặt tái nhợt; cậu run như cầy sấy. Chắc là cậu nghĩ đến bố. Tôi cũng nghĩ đến bố tôi. Khi ở trường tôi rất yên tâm vì tôi biết là bố đang ở nhà, ngồi trước bàn giấy, xa mọi sự nguy hiểm. Nhưng biết bao nhiêu bạn tôi lại nghĩ rằng bố họ đang làm việc trên một chiếc cầu rất cao hay cạnh những bánh xe của một chiếc máy, mà một động tác, một bước hụt có thể làm cho thiệt mạng: họ khác nào con của những người lính, mà bố đang ra trận? Cậu bé thợ nề càng nhìn càng run; bố trông thấy và bảo cậu: "Cháu về đi, cháu ạ; chạy nhanh về với bố cháu, cháu sẽ thấy bố cháu mạnh khỏe, yên lành". Cậu bé thợ nềđi về, nhưng cứđi vài bước lại ngoái lại. Đám người lại đi, và người đàn bà đáng thương cứ kêu lên thảm thiết. "Ông ấy chết rồi, chết rồi!". Không ai cầm lòng cho được. Không, không, ông ấy không chết. - người ta nói với bà từ khắp mọi phía. Nhưng bà không nghe và cứ kêu van mãi. Bỗng tiếng một ai hét lên, tức giận: "Cười à?" Tôi quay lại và thấy một người râu đen đang nhìn Phranti, thằng này vẫn còn cười. Người đó giật lấy mũ lười trai của cái thằng bụng dạ độc ác ấy ném xuống đất và nghiêm khắc bảo nó rằng: "Đồ khốn khổ, ít nhất cũng phải bỏ mũ chào khi trông thấy một người bị tai nạn lao động đi qua".

NGƯỜI TÙ

Thứ sáu 17. Sáng hôm qua tôi theo bốđi đến mạn Môncaliêri xem một ngôi nhà mà bố muốn thuê đểở trong mùa hè. Người giữ chìa khóa ngôi nhà là một ông giáo, đồng thời là thư ký của chủ nhà. Ông ta đưa chúng tôi đi xem nhà, rồi đưa chúng tôi vào phòng ông, mời chúng tôi dùng các thứ giải khát. Trên mặt bàn, gần các cốc nước của chúng tôi, có một lọ mực bằng gỗ, hình chóp nón, chạm trổ một cách rất lạ. Thấy bố tôi nhìn lọ mực ấy, ông giáo nói: Vật này rất quý đối với chúng tôi, và chắc ông cũng sẽ nghĩ vậy nếu ông biết sự tích của nó. - Xin ông kể cho chúng tôi nghe, - bố nói. Thế là ông giáo kể. Mấy năm trước đây, ông tôn giáo ấy ở Tôrinô, được cử đến dạy học cho những người tù trong một nhà giam, suốt cả một mùa đông. Để giảng bài, ông đứng trong một cái phòng hình tròn, chung quanh là tường cao, trơ trụi, và vô số cửa sổ con hình vuông có chấn song sắt hình chữ thập. Mỗi cửa sổấy soi sáng một xà lim nhỏ. Thầy giáo giảng bài, đi đi lại lại trong phòng, người học đều ở phía sau các cửa sổ tí ti ấy, vở áp vào các song sắt, chỉ để lộ trong bóng tối lờ mờ những bộ mặt gầy gò và lo âu, những bộ râu rối bù và lốm đốm hoa râm, những đôi mắt trừng trừng của bọn cướp của giết người. Trong đám tù có một người mang số 78 là chăm chú hơn đồng bọn, anh ta chăm và nhìn thầy giáo với đôi mắt rất cung kính và biết ơn. Đó là một người còn trẻ, râu đen, một kẻ khốn khổ hơn là hung đồ, một người thợ làm đồ gỗ, trong một cơn tức giận đã ném một cái bào vào dầu chủ xưởng, làm người này tử thương. Anh ta bị kết án nhiều năm cấm cố. Trong ba tháng, người tù ấy đã biết đọc, biết viết. Một hôm, buổi học sắp xong, anh ta ra hiệu cho thầy giáo lại gần cửa sổ và buồn rầu báo tin là hôm sau anh sẽ phải chuyển từ nhà giam Tôrinô đến nhà giam ở Vênêzia. Sau khi ngỏ lời từ biệt thầy giáo, người tù giọng cung kính và xúc động khẩn khoản xin được sờ bàn tay của thầy. Thầy giáo đưa tay ra, anh ta hôn và nói: "Xin cám ơn, cám ơn", rồi biến mất. Khi thầy giáo rút tay lại thì tayướt đẫm nước mắt. Từđấy thầy không thấy người tù đâu nữa. Sáu năm đã trôi qua. "Tôi không còn nhớ đến con người khổ sởấy nữa, - ông .giáo kể tiếp, - thì sáng hôm qua tôi thấy một người lạđến đây, quần áo xấu xí, râu đen đã điểm hoa râm. - Có phải thầy là thầy giáo...? - người ấy hỏi tôi. Ông là ai? - tôi hỏi lại. - Tôi là người tù số 78 mà thầy đã dạy cho đọc và viết cách đây sáu năm, - người ấy nói tiếp, - và trong buổi học cuối cùng, thầy đã vui lòng cho tôi được hôn tay... Giờ tôi đã mãn hạn và tôi đến đây xin thầy nhận cho một vật nhỏ tôi đã lao động để làm ra ở trong tù... Chẳng hay thầy có vui lòng nhận cho cái vật chứng tỏ lòng biết ơn của tôi không, thưa thầy? Tôi lặng thinh, và con người đáng thương ấy tưởng là tôi không muốn nhận món quà của anh ta; anh ta nhìn tôi vôi một vẻđau xót hết sức. Động lòng thương người tù học trò cũ của tôi, tôi cầm lấy vật này đây. Bố và tôi nhìn kỹ lọ mực mà thầy giáo đưa cho xem. Hình như nó được chạm trổ bằng mũi nhọn của một cái đinh, và phải có một lòng kiên nhẫn ghê gớm mới hoàn thành nổi. Lọ mực ấy có khắc hình một quyển vở trên có một'ngòi bút vôi dòng chữ: "Kính tặng thầy giáo của tôi, kỷ niệm của số 78 - Sáu năm!" Vàở dưới hàng chữ nhỏ: "Học tập và hy vọng"... Ông giáo không giữ chúng tôi ở lại lâu, và chúng tôi ra về. Nhưng trên đường từ Môncaliêri về Tôrinô, tôi không thể nghĩ đến gì khác ngoài người tù ở đằng sau cái cửa sổ con, đến những lời người ấy từ biệt thầy giáo đến cái lọ mực tội nghiệp ehạm trổở trong tù đã nói lên biết bao nhiêu điều... Đêm đó tôi nằm chiêm bao thấy những việc ấy, và đến sáng hôm sau tôi vẫn còn nghĩ tới... Nhưng thật không thể tưởng tượng nổi việc ngạc nhiên sắp đến với tôi ở nhà trường. Vừa mới vào chỗ ngồi mới bên cạnh Đêrôtxi và sau khi đã làm xong bài thi toán hàng tháng, tôi kể cho bạn nghe câu chuyện người tù, tả cái lọ mực và những dòng chữ khắc trên đó. Tức thì, Đêrôtxi giật nẩy mình, nhìn Crôtxi rồi lại nhìn tôi, Crôtxi con bác bán rau quả ngoài trời ấy, ngồi ở bàn trước mặt chúng tôi, đang tập trung hết sức suy nghĩđể giải bài tính đố. "Này - Đêrôtxi nói khẽ và nắm chặt cánh tay tôi, - Crôtxi có nói với mình hôm kia là bố cậu ấy đi Mỹ về, cồ một lọ mực bằng gỗ hình chóp nón, có khắc một quyển vở và một ngòi bút; chắc là người ấy đấy... Sáu năm! Cũng đúng là thời gian mà bố cậu ấy ở bên Mỹ, như cậu nói. Vậy ra ông ta bị tù. Khi vụ án đem ra xử thì Crôtxi còn bé, nên cậu ấy không nhớ ra; và bà mẹ lại cố tình giấu con. Cậu ấy không biết gì hết. Chúng ta không được nói hở một chút gì hết về chuyện này. Tội nghiệp cậu bé! Phải để cho cậu ta không hay biết gì hết..." Tôi sững sờ, chăm chú nhìn Crôtxi. Trong lúc ấy Đêrôtxi giải xong bài tính, chuyển sang cho Crôtxi, rồi giành từ tay cậu tập bản thảo truyện đọc hàng tháng "Người y tá của ta ta" mà thầy giáo đã giao cho Crôtxi chép. Đêrôtxi sẽ chép hộ để cho Crôtxi đỡ khó nhọc. Cậu lại cho bạn những ngòi bút, đưa tay âu yếm vỗ về đôi vai của cậu bé tội nghiệp. Đêrôtxi còn bắt tôi phải lấy danh dự mà hứa là không nói với bất cứ ai một lời về những điều tôi đã biết. Lúc tan học ra vềĐôrôtxi sốt sắng nói với tôi: "Bố Crôtxi hôm qua có đến đón cậu ấy, sáng hôm nay thế nào cũng đến. Bạn cứ làm theo mình nhé". Thật vậy, ra đến đường chúng tôi thấy bố Crôtxi, râu đen, da rám, vẻ mặt tư lự và xanh nhợt, đứng riêng ra, cách biệt mọi người. Đêrôtxi siết chặt tay Crôtxi, cố ý cho ông bố trông thấy và nói: "Tạm biệt, Crôtxi", vừa nói vừa vuốt cằm Crôtxi. Tôi cũng làm như vậy. Đêrôtxi và tôi, mặc dầu cố nén, vẫn đỏ nhừ mặt; và bố Crôtxi nhìn chúng tôi chăm chú với đôi mắt hiền hậu, nhưng lộ vẻ lo lắng và nghi ngờ làm cho chúng tôi lạnh cả tim.

NGƯỜI Y TÁ CỦA TATA

(Truyện đọc hàng tháng) Sáng sớm một ngày tháng ba, trời mưa, có một cậu bé ăn mặc kiểu nông thôn, áo quần sũng nước và lấm bùn, tay cắp một cál gói, đến gặp người gác cổng bệnh viện lớn ở Napôli(2) và đưa một cái thư, xin vào thăm bố. Cậu bé có gương mặt trái xoan đẹp, nước da nâu nhạt, đôi mắt trầm tư và đôi môi hé mở để lộ hàm răng trắng ngần. Cậu đến từ một cái làng ở ven Napôli. Bố cậu năm trước sang Pháp để kiếm việc làm, vừa trở về Ý. Vừa lên bến Napôli, thình lình ông bị bệnh nặng, chỉ kịp viết mấy chữ gửi cho gia đình báo tin đã về và phải vào bệnh viện. Người vợ nghe tin hoảng hết nhưng không thể bỏ nhà, vì còn một mẹ già tàn tật và một đứa con dại, liền đưa cho đứa con đầu lòng mấy đồng xu, bảo tới Napôli trông nom bố, ta ta của nó theo tiếng nói của người vùng này. Cậu phải đi bộ mười cây số. Người gác cổng sau khi liếc mắt xem bức thư, gọi một người y tá, bảo dẫn cậu bé vào gặp bố. "Bố nó là ai?" - người y tá hỏi. Cậu bé nói tên bố, hồl hộp nghe một tin chẳng lành. Người y tá không nhớ ra cái tên ấy. - Có phải là một người thợ già mới ở nước ngoài về không? - ông y tá hỏi. - Thợ à, vâng, - cậu bé trả lời, mỗi lúc một thêm lo, - còn già thì không già, nhưng đúng là ở nước ngoài về. - Vào viện từ bao giờ? Cậu bé nhìn cái thư và nói: "Khoảng năm hôm nay". Người y tá nghĩ một lát, rồi như chợt nhớ ra: - À, biết rồi! Phòng thứ tư, giường trong cùng... - Bố cháu ốm có nặng lắm không? Hiện giờ ra sao? - Cậu bé lo lắng hỏi. Người y tá nhìn cậu không trả lời, chỉ nói: "Đi theo tôi" Hai người leo lên hai tầng nhà, đi suốt một hành lang rộng, đến một cái cửa mở vào một phòng có kê hai dãy giường. Người y tá vào phòng và lại nhắc: "Theo tôi". Cậu bé đi theo, đôi mắt sợ hãi, hết nhìn bên phải lại bên trái, những bộ mặt xanh xao và tiều tụy của các người bệnh. Có những người mắt nhắm nghiền trông như đã chết; những người khác nhìn lên không với đôi mắt tròn xoe, bất động, khiếp sợ. Những người khác rên hừ hừ như trẻ con. Gian phòng tối mờ mờ, không khí nồng nặc mùi thuốc. Hai bà phước đi đi lại lại, tay cầm những chai thuốc nước. Đến cuối phòng, người y tá dừng lại đầu một chiếc giường, vén màn lên và nói: "Bố cậu đây!. Cậu bé khóc òa lên, để rơi cái gói và tạđầu lên vai người bệnh. Cậu nắm lấy tay bố đang duỗi ra ngoài chăn. Người bệnh nằm yên không nhúc nhích. Cậu bé đứng dậy, nhìn bố rồi lại khóc. Bấy giờ ngươi bệnh mới đăm đăm nhìn cậu và hình như nhận ra. Nhưng đôi môi ông ta không cửđộng. Tội nghiệp, tata thay đối nhiều quá. Con trai không tài nào nhận ra được. Tóc ông đã bạc và râu mọc rậm rì, mặt sưng phù, đỏ mọng, da căng và bóng. Cậu bé chỉ còn nhận ra cái trán và đôi lông mày cong và đen của bố thôi. Người bệnh thở hổn hển khó nhọc. - Tata, tata của con, - cậu bé nói, - con đây, tata không nhận ra con sao? Con là Phransetxcô, Phransetxcô của tata, từ nhà quê lên, mẹ bảo con lên. Bố nhìn con này, không nhận ra con sao? Nói với con một câu đi nào? Nhưng người bệnh, sau khi đã nhìn cậu chăm chú, lại nhắm mắt lại. - Tata, tata làm sao thế? Con đây mà, Phransetxcô của tatađây mà? Người bệnh cũng không nhúc nhích thêm tí nào và tiếp tục thở một cách khó nhọc. Cậu bé lấy một cái ghế ngồi, vừa khóc vừa chờ, mắt không rời khỏi mặt bố. Cậu nghĩ: "Thầy thuốc tất nhiên phải đến thăm và sẽ nói cho mình biết một chút gì? Thế rồi cậu triền miên trong những ý nghĩ buồn bã, nhớ lại bao nhiêu chuyện về người bố hiền hậu của mình. Ngày ông ra đi, cảnh từ biệt trên tàu, những hy vọng mà gia đình xây đắp trên chuyến đi ấy, nỗi thất vọng của mẹ khi nhận được lá thư. Cậu nghĩ đến việc bố chết, đến gia đình trong cơn khốn khổ... Cậu ngồi như vậy một lúc. Bỗng một bàn tay đặt nhẹ lên vai làm cậu giật mình. Đó là một bà phước. - Bố cháu bị bệnh gì vậy? - cậu hỏi. Bố cháu đấy à? - bà hỏi lại. - Vâng, bố cháu đấy, cháu đến để chăm sóc bố cháu. Bốcháu ốm thế nào? - Can đảm lên, con ạ; bác sĩ sắp đến, - bà phước trả lời rồi đi nơi khác, không nói thêm một lời. N ửa giờ sau, một tiếng chuông giật và thấy bác sĩ vào, có một sinh viên nội trú phụ tá, bà phước và người y tá đi theo. Họ bắt đầu thăm bệnh nhân, dừng lại ở từng giường một. Sự chờ đợi đối với cậu bé tội nghiệp tưởng như vô tận, và mỗi bước của bác sĩđi tới càng làm nỗi lo sợ của cậu tăng lên. Cuối cùng bác sĩđến giường bên cạnh. Bác sĩ là một cụ già cao lớn, lưng còng, mặt nghiêm nghị. Trước khi bác sĩ từ bên giường kia sang, cậu bé đã đứng dậy; và khi bác sĩđến gần, Phransetxcô liền òa lên khóc. "Đây là con người bệnh, - bà phước nói với bác sĩ, - cậu từ quê nhà ra sáng hôm nay". . Bác sĩđặt một tay lên vai Phransetxcô, rồi cúi xuống người bệnh, bắt mạch, sờ trán và hỏi bà phước một vài câu; bà này trả lời: "Không có gì mới". Bác sĩ suy nghĩ một lát rồi nói: "Cứ tiếp tục như trước - Thưa bác sĩ, bố cháu bị bệnh gì vậy? - cậu bé hỏi. - Phải can đảm, cháuạ, - bác sĩ trả lời và lại để tay lên vai cậu bé. - Bố cháu bị chứng đan độc ở mặt. Nặng đấy, nhưng tôi không thất vọng. Cháu hãy giúp đỡ bố, sự có mặt của cháu có l ợi cho bố lắm đấy. Nhưng bố cháu không nhận ra cháu! - Cậu bé thốt lên giọng ảo não. Bố sẽ nhận ra cháu... Ngày mai có thể. Ta hãy hy vọng, và cháu phải can đảm. Cậu bé còn muốn hỏi thêm, nhưng không dám; bác sĩđi ra nơi khác. Thế là đối với Phransetxcô bắt đầu cuộc đời của người y tá. Không thể làm d ược gì nhiều, cậu sửa lại cho ngay ngắn cái chăn, thỉnh thoảng sờ tay người bệnh, xua ruồi, cúi xuống nghe ngóng khi thấy có tiếng rên; và khi bà phước đưa thuốc uống đến thì đón lấy cái tách và chiếc cùi dìa đưa cho người bệnh. Một đôi khi người bệnh cũng nhìn cậu bé nhưng không tỏ ra là biết cậu chút nào cả, chẳng qua là nhìn cậu có lâu hơn trước, nhất là khi cậu đưa khăn tay lên lau nước mắt. Ngày đầu tiên đã qua như vậy. Đêm đến, cậu ngủ trên hai cái ghế ghép lại, và sáng dậy lại tiếp tục công việc của người con hiếu. Trong buổi sáng, cái nhìn của người bệnh như lộ ra một chút tỉnh táo. Nghe tiếng nói âu yếm của cậu bé, trên đôi tròng mắt mở trừng trừng của người bệnh án lên một vẻ biết ơn mơ hồ; và có một lần, ông tạ mấp máy đôi môi như muốn nói điều gì. Và sau mỗi cơn mê, khi mở mắt ra, hình như người bệnh muốn tìm người y tá bé nhỏ của mình. Hai lần đi qua, bác sĩ nhận thấy bệnh có dỡ chút ít. Vào buổi tối, khi đưa cốc thuốc cho người bệnh uống, cậu thấy hình như có nụ cười thoáng qua trên đôi môi sưng phù. Thế là cậu bắt đầu vững lòng và hy vọng một tí. Nghĩ rằng bố có thể nghe được, dù chỉ là nghe mơ hồ, cậu nói chuyện rất lâu với bố. Cậu nói nho nhỏ, giọng rất âu yếm, nói về mẹ, về các em gái, về việc bố trở lại nhà và khuyến khích bố hãy can đảm: và lắm lúc cũng sợ bố không hiểu, Phransetxcô vẫn cứ nói, vì thấy hình như người bệnh cũng ít nhiều thích nghe giọng nói của mình. Người bệnh qua ngày thứ hai và ngày thứ ba như vậy; sang ngày thứ tư thì bệnh có giảm một ít, rồi bỗng lại nặng lên. Cậu bé dồn hết tâm trí vào việc chăm sóc người bệnh đến nỗi mỗi ngày chỉăn có hai lần, mỗi lần một chút bánh mì với phomat. Cậu không còn thấy gì xảy ra xung quanh nữa: những người bệnh đang hấp hối, các bà phước đang đêm phải chạy đến cấp cứu, tiếng khóc của những người đến thăm phải ra về không chút hy vọng gì nữa, tóm lại là tất cả những cảnh sầu thảm vàđau đớn của cuộc đời bệnh viện, mà trong hoàn cảnh nào khác có thể làm cho cậu phải sửng sốt, rụng rời. Ngày giờ trôi qua và cậu bé vẫn luôn luôn ở đó, cạnh tata, chăm chú, lo ngại, hồi hộp theo dõi từng hơi thở và từng cái nhìn của người ốm. Bất ngờ, đến ngày thứ năm, bệnh trở nặng. Hỏi bác sĩ thì ông chỉ cúi đầu như để nói rằng thế là hết; cậu bé liền gục xuống ghế, òa lên khóc. Tuy nhiên có một điều làm cho cậu hơi được an ủi. Hình như riêng cậu nhận thấy là mặc dù tình trạng đã tuyệt vọng, người bệnh như tỉnh lại dần dần. Người sắp chết mỗi lúc một nhìn Phransetxcô chăm chú hơn, với cái vẻ mỗi lúc một dịu dàng và thông cảm hơn. Ông ta chỉ muốn uống nước và uống thuốc từ tay đường cậu bé y tá của ông đưa cho thôi, và mỗi lúc một thấy người bất hạnh mấp máy đôi môi nhiều hơn, như muốn nói một điều gì. Có lúc cửđộng ấy rõ đến nỗi cậu bé siết mạnh tay ông và nói với ông, giọng gần như vui vẻ: "Can đảm, canđảm lên, tata ạ, tata sẽ khỏi, chúng ta sẽ ra viện, chúng ta sẽ về gặp mẹ và các em..." Bấy giờ là bốn giờ chiều, đúng lúc cậu bé vừa mới say sưa bộc lộ lòng âu yếm và niềm hy vọng, thì ở phía ngoài cánh cửa đang mở, cậu nghe tiếng chân người đi, rồi một giọng nói to: "Tạm biệt, dì phước ạ!". Nghe giọng nói ấy, cậu bỗng run lẩy bẩy từđầu đến chân và đứng phắt dậy như lò xo bật lên. Một người đàn ông, có một bà phước đi theo, bước vào phòng, tay cắp cái gói lớn. Vừa trông thấy người ấy, cậu bé thét lên một tiếng chói óc, và sững sờ như bịđóng đinh tại chỗ. Người đàn ông quay lại, định thần nhìn cậu một lát, rồi chính mình cũng thét lên: "Phransetxcô!". Ông ta lao tới, cậu bé nghẹn ngào, ngả vào hai cánh tay của bố. Bà phước, y tá, sinh viên nội trú đều chạy lại, ai nấy đều sửng sốt. Cậu bé vẫn chưa nói được nên lời. "Ồi? Phransetxcô của bố ông bố nói sau khi nhìn chăm chú người bệnh và ôm hôn con mình những mấy lần. Làm sao người ta lại đưa con đến giường của người khác như thế này? Còn bố thì tuyệt vọng vì ngóng mãi chẳng thấy con; mẹ có viết thư cho bố nói là đã cho con rađây với bố. Tội nghiệp Phransetxcô, con ở đây đã mấy hôm rồi? Làm sao lại có thể xảy ra sự nhầm lẫn như thế này? Ơn Chúa, bệnh của bố chẳng có gì nguy hiểm. Con thấy đấy, bố khỏi rồi và hôm nay bố ra viện, nào bố con ta về đi... Thật ai mà có thể tưởng tượng ra được một sự nhầm lẫn như thế này!" Cậu bé cố gắng trả lời vài câu, cho bố biết tin tức gia đình. Ôi! Sung sướng quá? - cậu lẩm bẩm, sung sướng quá! Những ngày vừa qua thật là khổ sở..." Cậu nhìn bố không chán, hôn bố không ngớt, nhưng lại có vẻ như không muốn đi theo bố. Đi đi con, chỉ chiều nay chúng ta sẽ đến nhà thôi". Ông bố nói và kéo con đi. Cậu bé quay lại nhìn người bệnh của cậu. "Kìa, con đi chứ?" - ông bố ngạc nhiên hỏi. Phransetxcô nhìn người bệnh, lúc đó cũng đang mở to mắt chằm chằm nhìn cậu. "Tata này, hãy h ượm, - cậu bé nói nhanh thoăn thoắt, - thế này nhá... con không thể. Có bác này, con đã chăm sóc bác ấy năm hôm nay. Bác ấy nhìn con không ngớt. Con cứ yên trí là bố dấy, con thương bác ấy lắm. Bác ấy cứ muốn con ở bên cạnh, chỉ có con ngày đêm cho bác uống nước; giờ, bệnh của bác đang nguy... Tata tha lỗi cho con, thật con không đủ can đảm bỏ mặc bác được... việc đó sẽ làm con rất khổ tâm... Bỏ mặe bác ấy thì thật là nhẫn tâm; kìa tata nhìn kìa, bác ấy như đang đưa mắt gọi con dấy. Con không biết bác ấy là ai, nhưng biết saođược bây giờ, xin cứđể cho con ở lại đây, tata thân yêu nhé!" "Cậu bé trung hậu làm sao!" - người sinh viên nói. Ông bố lưỡng lự, hết nhìn con lại nhìn người bệnh. Người này là ai vậy? - ông hỏi. Một người thợ như ông, - người sinh viên nội trú trả lời, - cũng từ nước ngoài v ề, vào viện cùng một ngày với ông. Người ta đưa ông ấy đến đây trong lúc đang ngất đi và không nói năng gìđược. Chắc là ông ta có một gia đình ở xa, có con cái... Có thể ông ấy tưởng cậu này là con mình. Người bệnh vẫn nhìn Phransetxcô không thôi. - Con ở lại đi, - ông bố nói. - Ở lại cũng chẳng lâu lắm nữa đâu, - người sinh viên nói. - Ở lại, - ông bố nhắc. - Con có lòng tất đấy. Bố về nhà ngay để cho mẹ yên tâm. Con trung hậu của bố nhé, tạm biệt, tạm biệt. Ông ta hôn con lên trán và đi ra. Cậu bé trở lại đầu giường người bệnh, và ông này hình như đỡ lo. Phransetxcô ti ếp tục công việc y tá của mình; cậu không khóc nữa, nhưng vẫn ân cần, nhẫn nại chăm sóc như trước con người tội nghiệp chưa từng quen biết ấy. Cậu trông nom ông ta ngày hôm ấy suốt cảđêm và ngày hôm sau. Nhưng bệnh tình mỗi lúc một trầm trọng, hơi thở càng hổn hển, sự co giật càng tăng lên. Mồm ông ta kêu lên những tiếng ú ớ, mặt sưng phù lên kinh khủng; đến khám bệnh buổi chiều, bác sĩ nói là ông ta không thể qua khỏi đêm nay. Nghe lời nói khẳng định ấy, Phransetxcô càng chăm sóc hết lòng và không rời người đáng thương ra nữa. Người bệnh nhìn cậu, thỉnh thoảng cố gắng lắm để mấp máy dôi môi hình như muốn nói điều gì. Một vẻ dịu dàng vô hạn thoáng qua trong mắt ông ta. Đôi mắt bắt đầu khép lại, mỗi lúc một mờ dần. Đêmấy, cậu bé thức cho đến khi ánh bình mình đầu tiên chiếu sáng cửa sổ. Bà phước đi vào, đến gần giường ghé nhìn người bệnh và vội vã đi ra. Lát sau, bà trở lại với người sinh viên nội trú và một y tá. "Ông ta sắp chết" - người sinh viên nói. Cậu bé nắm tay người bệnh. Ông ta mở mắt, nhìn Phransetxcô chằm chằm, rồi nhắm lại. Đối với cậu bé thì hình như trong phút lâm chung ấy, người bệnh đã siết chặt tay cậu. "Bác ấy siết tay tôi", - cậu kêu lên. Bác sĩ cúi nhìn người hấp hối một lát, rồi ngẩng lên. "Bác ấy chết rồi sao?" - cậu bé hỏi. - Thôi, về đi con, - bác sĩ nói, - sự nghiệp nhân từ, cao thượng của con đã hoàn thành rồi, con hãy về đi và chúc con hạnh phúc, vì con xứng đáng được hưởng hạnh phúc, con ạ. Bà phước đi ra một lúc, rồi trở vào, tay cầm một bó hoa đồng thảo lấy từ một cái lọ đặt trên cửa sổ; bà đưa tặng cậu bé và nói: - Dì chẳng có gì tặng cháu; hãy nhận những bông hoa này làm vật kỷ niệm bệnh viện. - Cám ơn dì, - Phransetxcô nói, một tay cầm lấy bó hoa, và một tay gạt nước mắt; - nhưng cháu còn phải đi xa lắm, hoa sẽ héo mất... - Rồi lấy từng đóa hoa, cậu rải lên giường và nói; - Cháu xin gửi những hoa này kỷ niệm người bất hạnh... Xin cám ơn dì, xin cảm ơn bác sĩ... - xong quay về phía người chết: - Vĩnh biệt... và thế là cái tiếng âu yếm mà cậu vẫn dùng để gọi người bất hạnh năm hôm nay tự nhiên trở lại trên môi, cậu nói: vĩnh biệt tata đáng thương! Nói xong, Phransetxcô ôm bọc quần áo cũ của mình, chầm chậm bước ra, người mệt lả, cậu lên đường... Rạng đông vừa hửng sáng...

XƯỞNG THỢ

Thứ bảy 18. Tối hôm qua Prêcôtxi đến nhắc tôi lời hứa đến thăm xưởng thợ của cậu ấy, và sáng nay lúc ra phố, bố cũng muốn đưa tôi đến đó một lúc. Đến ngưỡng cửa, chúng tôi thấy Prêcôtxi ngồi trên một đống gạch, đang học bài, sách kê lên đầu gối. Thấy chúng tôi đến, cậu đứng dậy và đưa chúng tôi vào một gian nhà rộng đầy bụi than, trên tường treo lủng liểng những búa, kìm, chất và đồ sắt đủ thứ. Ở một góc là cái lò đang đỏ, một cậu bé kéo bễ cho lò cháy liên tục. Bố Prêcôtxi ngồi cạnh một cái đe, và một người phụ việc cầm một thanh sắt nung trong lò than. "À, cậu bé tốt bụng đã cho con tôi bộđồ chơi đường sắt, - bố Prêcôtxi kêu lên khi thấy chúng tôi; - ông và cậu đến xem chúng tôi làm việc đấy ạ? Xin sẵn sàng phục vụ..." Bác vừa nói vừa mỉm cười, bộ mặt không hung tợn và đôi mắt không đục ngầu như trước nữa? Người phụ việc đưa thanh sắt dài đỏ rực một đầu ra, bác thợ rèn đặt nó lên đe. Bác ta rèn một thanh sắt cuốn, làm tay vịn lan can. Giơ một cái búa to tướng lên, bác bắt đầu đập đầu sắt nung đỏ, khi sang bên này, khi sang bên kia, ở quãng giữa lòng đe và mép đe, lại lật mặt này, mặt nọđủ cách. Nhìn thật là thích thú. Dưới những nhát búa nện nhanh và chính xác, thanh sắt cong lại, uốn lên như gợn sóng, rồi dần dần biến thành hình dạng duyên dáng của một ngọn lá, một hình xoáy trôn ốc, mềm mại tưởng như nắn bằng tay vậy. Trong lúc ấy Prêcôtxi nhìn chúng tôi, vẻ hãnh diện, như muốn nói: "Đấy, bố mình làm việc như Thế đấy". "Giờ cậu đã thấy người ta rèn như thế nào rồi chứ?" Bác thợ rèn hỏi tôi khi đã làm xong, tay cầm thanh sắt đầu uốn cong như cây pháp tr ượng của một vị giám mục. Rồi, để nó sang một bên, bác đặt một thanh khác vào lò. Bố nói với bác: "Thế này thật là tốt; giờ thì bác làm việc chứ? Quyết tâm trở lại rồi chứ?" - Vâng, đã trở lại rồi, - bác trả lời, mặt hơi đỏ và đưa tay quệt mồ hôi trán. - Và ông có biết ai đã đem quyết tâm trở lại cho tôi không? Bố làm như không hiểu. Chính th ằng bé can đảm này, - bác nói tiếp, tay chỉ Prêcôtxi, - chính thằng bé can đảm này, nó chăm lo học hành và đem lại vinh dự cho bố, còn bố nó thì lại quên mình trong cảnh lười biếng và đối xử với nó như với con chó... Khi tôi trông thấy cái huy chương này... Ôi, thằng con đáng thương của tôi, người chưa cao hơn một đôi ủng, đến gần đây cho bố nhìn thẳng vào mặt con một tí nào... Prêcôtxi liền chạy đến, bác thợ rèn hai tay nhấc cậu lên, đặt đứng trên cái đe, hai tay gi ữ hai bên sườn cậu. "Này, hãy chùi sạch ngay cái trán đần độn của bốđi." bác bảo con như vậy. Prêcôtxi hôn khắp mặt bố, cho đến khi chính mặt cậu cũng đen thủi đen thui. "Tốt lắm!" bác nói rồi nhấc con đặt xuống đất. "Hết sức tốt, cậu Prêcôtxi ạ" - bố tôi kêu lên. Rồi chào bác thợ rèn và Prêcôtxi, bố dẫn tôi về. Chúng tôi đi ra thì cậu Prêcôtxi nói với tôi: "Xin lỗi và đút vào túi tôi một gói đinh. Tôi Cám ơn và mời cậu đến nhà tôi nhìn qua cửa sổ xem những người đeo mặt nạđi diễu trong hội Nghi trang. Dọc đường bố bảo tôi: "Con đã cho bạn ấy bộđồ chơi đường sắt của con, nhưng giá nó bằng vàng có dính đầy hạt ngọc chăng nữa, thì cũng vẫn là một món quà hèn mọn đối với đứa con tuyệt vời đã hồi sinh lại được trái tim của bố mình".

CẬU BÉ LÀM XIẾC

Thứ hai 20. Cả thành phố tưng bừng rộn rịp, hội Nghi trang sắp kết thúc(2). Ở khắp các quảng trường đã được dựng lên những lều của người làm xiếc ở và những rạp xiếc. Ngay trước các cửa sổ nhà ta cũng có một rạp, mái bằng vải, do một gánh xiếc nhỏ người Vênêzia diễn. Họ có năm con ngựa. Rạp ở giữa quảng trường, và trong một góc là ba chiếc xe lớn để những người làm xiếc ngủ và hóa trang, ba chiếc nhà nhỏ có bánh, có cửa sổ, mỗi chiếc có ống khói bé ư tỏa khói suốt ngày. Từ cửa sổ này sang cửa sổ kia người ta căng dây phơi tã lót trẻ con. Có một người đàn bà vừa nuôi con bú vừa nấu ăn cho cả gánh xiếc, lại vừa múa trên dây. Họ thật tội nghiệp. Thiên hạ gọi họ là saltare in bancon như một lời chửi rủa, nhưng họ kiếm ăn một cách lương thiện,để mua vui cho người khác, mà họ thì phải khó nhọc đến thế nào, có Chúa mới biết rõ được! Suốt ngày, họ chạy từ rạp xiếc đến các xe, trời rét thế mà mình chỉ phong phanh có chiếc áo sợi đan màu hồng. Họăn vội ăn vàng, đứng màăn một miếng bốc bằng tay giữa hai buổi diễn. Không bao giờ những người bất hạnh ấy dược ai dọn bàn ăn cho mà ngồi vào đàng hoàng. Và đôi khi rạp đã đông nghịt khách xem rồi, trời lại nổi gió, xé rách trần màn, tắt hết đèn đóm, thế là đi đời buổi diễn. Trong gánh xiếc có hai đứa bé làm việc. Bố nhận ra đứa bé nhất, trong khi cậu tađi ngang qua quảng trường; đó là con trai ông chủ gánh xiếc, mà năm ngoái chúng tôi thấy làm trò trên lưng ngựa, trong một rạp xiếc ở quảng trường Vittôriô Emmanuêlê(2). Từ dạo ấy cậu ta lớn lên nhiều, chắc nay cũng đã tám tuổi; thật là một đứa bé đẹp, mặt tròn trặn, da nâu nâu, tóc đen xoăn tít tỏa ra quanh chiếc mũ nhọn như những đợt sóng. Cậu ăn mặc theo vai hề, bó người trong chiếc áo chật như cái ống, có hai tay màu lam thêu chỉđen, và đi giày vải. Cậu bé làm xiếc ấy khác nào một con quỉ con. Cậu làm vui lòng tất cả mọi người. Sáng ra từ tinh mơđã thấy cậu quấn mình trong một chiếc khăn quàng, mang sữa về chỗ chiếc nhà có bánh xe của mình, xong đến tàu ngựa săn sóc mấy con ngựa. Cậu bếđứa bé con đi dạo chơi, chuyển những cái vòng, cái ghế, cái ngáng, sợi dây, sợi thừng, chùi rửa xe cộ, nhen lửa, đun bếp; và những lúc rảnh rỗi rất hiếm thì ngồi bên mẹ không rời nửa bước. Bố lúc nào cũng nhìn cậu ta qua cửa sổ, chỉ nói đến cậu và những người thân thích của cậu; họ là những người trung hậu và thương yêu con cái. Một buổi tối chúng tôi đi xem xiếc, trời rét và gần như chẳng cớ ai đến xem, thế mà cậu bé tội nghiệp phải dốc hết sức ra làm trò để cho một nhúm người xem kia phải hồi hộp. Cậu nhào lộn trên không, buộc mình vào đuôi ngựa phi, đi hai tay, chân chồng lên trời, hát, cười, và khuôn mặt xinh xắn làm cho ai ai cũng mến. Bố cậu mặc áo đỏ, quần trắng, đi bết kỵ mã cao, tay cầm roi ngựa, nhìn cậu vẻ buồn buồn. Bố tôi động lòng thương hại những con người tội nghiệp ấy. Hôm sau, họa sĩ Đêlit đến thăm, bốđem chuyện ấy ra nói với ông ta. "Những kẻ đáng thương ấy làm việc đến chết được, - bố nói, - thế mà có kiếm được bao lăm đâu. Nhất là đứa bé kháu quá sức. Ta có thể giúp gì cho họ được không nhỉ?" Họa sĩ có một ý hay, ông nói: Anh là nhà báo, anh vi ết ngay một bài cho hay đăng lên tờ Gazêta. Anh nói đến đức tốt và tài ba của cậu bé, còn tôi thì vẽ chân dung của cậu. Mọi người sẽ đọc báo Gazêta, và ít nhất là ta cũng lôi cuốn khách đến xem được một lần". Nói là làm ngay. Bố viết một bài báo rất dí dỏm, kể lại những điều chúng tôi trông thấy qua cửa sổ nhà mình, làm cho người đọc cứ muốn nhìn, muốn vuốt ve nhà nghệ sĩ tí hon. Họa sĩ thì phác họa một bức chân dung nhỏ, giống như hệt và duyên dáng làm sao, chiều thứ bảy thì in lên báo. Thế là đến buổi diễn hôm chúa nhật, người xemđổ xô nhau đến rạp xiếc. Người ta đã báo tin là buổi diễn thu tiền ủng hộ cậu bé làm xiếc. Bố đưa tôi đến xem, ngồi ghế hạng nhất. Ngay cổng vào những người làm xiếc đã dán tờ báo Gazêta. Rạp chật mịch, nhiều người xem tay còn cầm tờ báo và chỉ cho nhau cậu bé làm xiếc; còn cậu thì lăng xăng chạy đến người này, người nọ, hớn hở quá chừng. Cả ông chủ nữa, tất nhiên xem ra cũng hài lòng! Chưa bao giờ có một tờ báo nào đã đem cho ông ta niềm vinh dựđến như thế, và chiếc quỹ hôm nay thật đầy những đồng xu và hào bạc. Bố ngồi cạnh tôi. Trong đám khán giả, chúng tôi gặp bao nhiêu người quen. Đứng ở chỗ ra vào là thầy giáo dạy thể dục, và trước mặt chúng tôi, ở ghế hạng nhì là cậu bé thợ nề ngồi cạnh ông bố khổng lồ. Vừa thấy tôi, cậu ấy làm luôn cái trò sứt môi với tôi. Xa xa một tí, tôi thấy Garôpphi đang mải đếm số khách xem và tính trên ngón tay số tiền mà gánh xiếc phải thu được đêm nay. Gần chỗ chúng tôi, ở dãy ghế hạng nhất, còn có cậu Rôbetti đáng thương (cái cậu đã cứu sống em bé bị chẹt xe ngựa) đôi nạng để giữa hai chân. Bố cậu, ông đại úy pháo binh, ngồi cạnh cậu, bàn tay đặt lên vai con. Buổi diễn bắt đầu. Cậu bé làm xiếc diễn, tài nghệ tuyệt vời trên lưng ngựa, trên đu bay, trên dây. Mỗi tiết mục đều được vỗ tay nhiệt liệt kéo dài ra mãi. Lại còn các trò khác của những người đi trên đây, những người tung hứng, áo quần lấp lánh những mảnh giấy bạc. Tuy nhiên cứ hễ thiếu mặt cậu bé là có thể nói rằng khán giảđã buồn rồi. Có Một lúc tôi thấy thầy giáo thể dục đứng ở chỗ ra vào, nói nhỏ vào tai ông chủ xiếc. Ông này liền đảo mắt, nhìn khán giả như tìm một người nào. Mắt ông bỗng dừng lại phía chúng tôi. Bốtrông thấy, hiểu rằng thầy giáo vừa cho ông ta biết tác giả của bài báo là ai; và để tránh không cho ông ta cám ơn, bốđi ra và dặn tôi: "Con ngồi lại xem cho hết, Enricô ạ, bố đợi con ngoài cổng". Cậu bé làm xiếc trao đổi mấy câu với bố, rồi lại diễn một mục nữa. Đứng trên lưng ngựa đang phi, cậu thay quần áo bốn bận, lần lượt hiện ra như khách hành hương, như người thủy thủ, như kẻ quân nhân, rồi như tay mãi võ. Mỗi lần lướt qua cạnh tôi, cậu đưa mắt nhìn tôi. Tiết mục chấm dứt, cậu xuống ngựa, đi vòng quanh sân, tay cầm mũ. Tất cả mọi người đều đua nhau ném cho cậu nào xu, nào kẹo. Tôi cầm hai xu để dưa cho cậu; nhưng khi đến gần tôi thì đáng lẽđưa mũ ra, cậu lại rụt mũ về và bước qua rất nhanh. Tôi lấy làm tủi nhục về hành động ấy. Tại sao cậu lại tỏ ra thiếu lễ độ với tôi như vậy? Hết buổi diễn, ông chủ cám ơn khán giả, và mọi người đứng dậy ra về. Tôi đi lẫn vào dámđông, và gần ra đến cổng thì thấy ai nắm lấy tay mình. Tôi quay lại và thấy cậu bé làm xiếc, khuôn mặt hiền lành rất tươi cười hai tay nắm đầy kẹo! Bây giờ tôi mới hiểu. "Anh vui lòng nhận cho thằng bé làm xiếc mấy chiếc kẹo này chứ?" - cậu ta nói. Tôi bằng lòng và cầm lấy ba bốn chiếc. - Vậy nhận thêm cho em chiếc hôn này nữa, - cậu lại nói. - Hôn tôi hai cái đi - tôi đáp lại và chìa má ra. Cậu đưa tay áo quệt trái lớp phấn trên mặt, vòng tay ôm lấy cổ tôi và hôn tôi hai cáiđánh chụt trên hai má, rồi nói: "Này, một cái gửi về cho bố anh?"

NHỮNG TRẺ EM MÙ

Thứ năm 23. Thầy giáo của chúng tôiđang ốm nặng, nhà trường đã cử thầy giáo lớp bốn đến thay. Trước đây thầy đã từng dạy ở Học viện những thiếu niên mù. Là thầy giáo già nhất trong trường, tóc thầy bạc trắng đến nỗi người ta ngỡ thầy đội tóc giả bằng bông. Thầy có một cách nói rất đặc biệt, nhưng thầy nói rất hay và thầy biết rất rộng. Vừa bước vào lớp, thấy một học sinh có một mắt quấn băng, thầy liền đến gần và hỏi cậu làm sao vậy. Con phải cẩn thận giữ gìn đôi mắt", thầy nói: Đêrôtxi liền hỏi: - Thưa thầy, có phải trước đây thầy đã dạy những trẻ mù không ạ? - Đúng đấy, thầy đã dạy đấy nhiều năm - thầy đáp. Đêrôtxi hạ thấp giọng, lại nói: Thế thầy sẽ kể cho chúng con nghe ít nhiều chuyện ở bên ấy, được không ạ? Thầy giáo bước lên bục, ngồi vào ghế của mình. Côretti nói to: "Học viện người mùở phố Nixơ" "Con vừa nói người mù, thầy giáo nhắc lại, - ngheđơn giản như nói người ố m hay người nghèo vậy: Các con có thật hiểu thế nào là nghĩa chữ "mù" chưa? Hãy nghĩ xem nào. Này nhé: Không bao giờ nhìn thấy cái gì cả. Không phân biệt được thế nào là đêm, thế nào là ngày; không trông thấy bầu trời, cũng như bố mẹ họ hàng. Không trông thấy bất cứ cái gì ở quanh ta, bất cứ cái gì mà ta sờ mó. Chìm đắm trong một bóng tối vĩnh viễn, và như là bị chôn vùi trong lòng đất vậy! Các con thử nhắm mắt lại, và thử nghĩ đến nỗi khốn khổ sẽ đến với mình giá mình cứ phải ở mãi trong tình trạng ấy. Chắc chắn là các con sẽ bị nén dưới một sựđè ép đau đớn, một niềm khủng khiếp như không thể nào chịu đựng nổi. Và lập tức các con sẽ gào thét lên một cách tuyệt vọng. "Ấy thế mà khi đến thăm học viện người mù lần đầu tiên, vào giữa giờ ra hơi, nghe các bạn ấy kéo đàn vĩ cầm, thổi sáo khắp nơi, nói to cười lớn, chạy lên chạy xuống các thang gác, đi qua các hành lang và các phòng ngủ một cách tự nhiên, thật người ta không bao giờ có thể ngờ rằng những người khốn khổ kia không hề nhìn thấy ánh sáng. Phải quan sát kỹ thì mới hiểu được họ. Có những thanh niên từ mười sáu đến mười tám tuổi, vạm vỡ và nhanh nhẹn, chịu đựng cảnh mù lòa với một vẻ dửng dưng nào đấy, nhưng khi thấy vẻ buồn trên mặt họ thì người ta cũng hiểu là họđã từng đau khổ ghê gớm trước khi đành nhẫn nhục chịu đựng nỗi bất hạnh vậy. Có những người trên sắc mặt tái nhợt và hiền hậu thấy rõ sự chịu đựng ghê gớm xen với nỗi buồn rầu ghê gớm, và người ta có thểđoán biết rằng đôi khi không có ai họđã phải khóc rất nhiều. Ôi, các con thử nghĩ xem trong những kẻ bất hạnh ấy có những người mù chỉ sau vài ngày ốm thôi, cũng có những người sau nhiều năm bị cơn bệnh hành hạ và sau những phen mổ xẻđau đớn vô cùng. Cuốl cùng, có những người sinh ra đã như vậy, chào đời trong một đêm tối không bao giờ có rạng đông; họ vào đời như vào một nhà mồ mênh mông trong đó họ không thể phân biệt được một hình dạng nào, một màu sắc nào. Các con hãy tưởng tượng họ phải đau khổ như thế nào khi so sánh cuộc đời của họ với cuộc đời của những người sáng mắt. "Tại sao lại có sự khác nhau nhường ấy? Chắc họ phải tự hỏi, vả lại, đối với lương tâm, chúng ta nào có tội lỗi gì? "Thầy đã sống nhiều năm giữa những người mù, - thầy giáo nói tiếp, - thầy không thể nghĩ đến cái lớp mà mọi đôi mắt đều đã nhắm lại mãi mãi, đồng tử đều không biết nhìn và không còn sinh khí nữa, và sau đấy lại thấy các con đây đôi mắt đều sáng ngời mà lại không nói với thầy rằng các con không thể nào không sung sướng được. Hãy nghĩ rằng chỉở nước Ý ta thôi, đã có hai vạn sáu nghìn người mù rồi. Hai vạn sáu nghìn các con nghe rõ chưa". Thầy giáo dừng lại. Lớp học im lặng lạ thường. Đêrôtxi hỏi có thật là những người mù có xúc giác tế nhị hơn chúng ta không? "Thật thế, - thầy giáo lại nói. - Tất cả các giác quan khác của họđều thành tế nhị cả, bởi vì đã được sử dụng để bổ sung cho thị giác và được tập luyện nhiều hơn là ở những người sáng. Buổi sáng trong phòng ngủ, một học sinh mù hỏi một người bạn: "Hôm nay trời nắng không nhỉ? "Người bạn nhanh nhẹn nhất, mặc quần áo, xuống sân, đưa hai tay lên cao và khua để xem không khi có ấm lên do mặt trời sưởi không; rồi chạy lên báo tin vui: "Hôm nay trời nắng?" "Nghe giọng một người nói, họ có thể suy ra được người đó cao hay thấp. Chúng ta đoán biết tính tình của một người qua cái nhìn của người ấy, nhưng họ thì lại đoán qua giọng nói. Họ nhớ giọng nói của người ta rất lâu. Trong một căn phòng có nhiều người mà chỉ một người nói, còn những người khác làm thinh, họ cũng nhận ra được. Nhờ xúc giác, người mù có thể biết được một cái cùi dìa thật sạch hay không lấy gì làm sạch lắm. "Những cô bé có thể phân biệt được len nhuộm màu với len không nhuộm. Khi đi từng đôi một ngoài đường phố, những trẻ em mù có thể nhận ra gần hết các cửa hiệu bằng cách ngửi mùi. Chơi con quay, chỉ cần nghe tiếng vù vù là họ đi thẳng đến, cầm lấy không nhầm. Họ nhảy dây cũng khéo chẳng thua gì những trẻ nhìn rõ. Hơn nữa, họ hái hoa đồng thảo như thể họ trông thấy thật; họ lấy cuội để trang trí những chiếc hòm nhỏ, họ dệt chiếu và đan rổ, tốt những sợi rơm khác màu nhau, nhanh chóng lạ thường vì xúc giác họ quả thật là tế nhị. Xúc giác là thị giác thứ hai của họ và một trong những thú vui lớn nhất của họ là được sờ mó, nắn bóp đểđoán hình dáng của đồ vật. Thật là cảnh tượng cảm động khi nhìn những người mùđược đến xem bảo tàng công nghiệp, mà người ta cho phép họđược sờ mó tất cả những gì họ thích. Với một nỗi vui mừng không thể tả hết, họ lao tới các mô hình nhà cửa, các dụng cụ sản xuất để xem các thứấy dược làm ra như thế nào. Đúng là xem, vì cũng như ta, họ có thói quen nói xem như vậy". Garôpphi ngắt lời thầy giáo để hỏi thầy có phải là những người mù học tính giỏi hơn những người khác không? Rất đúng đấy, - thầy trả lời. - Họ học tính và học đọc. Họ dùng những cuốn sách riêng, khắc chữ nổi. Cứđưa các ngón tay sờ lên, họ nhận ra ngay các chứ và đọc thạo. Và thương quá, các em bé tội nghiệp ấy, mỗi khi đọc nhầm, lại thẹn đỏ cả mặt lên. Họ cũng viết, nhưng không dùng mực. Họ viết trên một loại giấy dày và cứng với một cái dùi nhọn bằng kim khí, bằng cách chấm những lỗ nhỏ và xếp theo một hệ chữ cái đặc biệt. Những lỗ nhỏấy hằn rõ trên mặt nổi của giấy, để cho người học sinh lật trang giấy và dùng tay sờ những điểm nổi lên, có thểđọc lại những gì mình đã viết. Người mù cũng nhận ra được nét chữ của người khác; họ làm những bài văn và viết thư cho nhau. Họ viết chữ số và làm các phép tính cũng bằng cách ấy; nhưng ngoài ra, họ lại làm tính nhẩm dễ dàng một cách không thể tưởng tượng được, vì họ không đãng trí như ta do mải nhìn các vật chung quanh mình, và giá các con biết họ thích nghe đọc sách như thế nào, họ chăm chú làm sao, họ nhớ tất cả và họ tranh luận với nhau, kể cả những cậu rất bé, về mọi vấn đề. Ngồi với nhau bốn hay năm người trên một chiếc băng không phải ngoảnh mặt lại với nhau, họ chuyện trò, có khi người thứ nhất nói với người thứ ba, người thứ hai nói với người thứ tư, mà nói to và tất cả cùng nói một lúc, thế mà họ nghe không sót một lời, vì tai họ thính quá chừng. "Họ coi trọng các kỳ thi hơn các con ở đây, đúng thế, và thương yêu các thầy giáo hơn nhiều. Họ nhận ra thầy giáo bằng cách nghe bước đi, hoặc đánh hơi. Họ đoán biết thầy đang bực hoặc đang vui, đang khỏe hay đang mệt, chỉ bằng cách nghe tiếng thầy nói một lời thôi. Họ muốn được thầy giáo sờ vào họ khi thầy khuyến khích hoặc khen ngợi họ; và họ siết chặt lấy bàn tay và cánh tay thầy để bày tỏ lòng biết ơn. "Các học sinh mù rất thương yêu nhau và thường thường đối xử với nhau rất tốt. Trong giờ ra chơi, gần như lúc nào, những người thường chơi với nhau lại họp nhau thành nhóm. Chẳng hạn các nữ sinh thì họp nhau lại theo nhạc cụ mà họ đang học; những người học vĩ cầm, những người học dương cầm, học sáo, không bao giờ rời nhau ra. Những người mù rất chung thủy trong tình bạn: họ tìmở đấy tất cả niềm an ủi. Họđánh giá lẫn nhau với trí phán đoán rất cao; về cái tốt và cái xấu họ có ý niệm rất rõ ràng và sâu sắc. Họ phấn khởi hơn ai hết khi nghe kể lại một hành động hào hiệp hoặc một sự tích cao cả". Vôtini hỏi họ có giỏi âm nhạc không? "Họ rất say mê âm nhạc, - thầy giáo đáp. - Âm nhạc là đời sống và niềm vui của họ. Những cậu mù bé tí, vừa vào học viện đã mải mê nghe người ta chơi một nhạc cụ nào đấy không biết chán. Họ học nhạc rất dễ và chơi nhạc với tất cả tâm hồn. Nếu có thầy giáo bảo một người mù là không có khiếu về nhạc, thì người đó khổ vô cùng, và lập tức học hết sức như một người tuyệt vọng. À, giá các con được nghe người mù chơi nhạc, giá các con trông thấy họ ngẩng cao vầng trán, nụ cười trên môi, vẻ mặt rạng rỡ, bồi hồi, xúc động, say sưa, lắng nghe một người chơi đàn đang làm rực lên một tia sáng trong bóng tối vô tận mà họ phải chìm đắm, thì các con mới hiểu rằng âm nhạc quả là một niềm anủi thiêng liêng? "Khi một thầy giáo nói với một người trong bọn họ: "Con s ẽ thành một nghệ sĩ" thì không thể nào tảđược nỗi sung sướng của người ấy. Đối với họ, người đứng đầu về môn nhạc, người được toàn thể khâm phục về dương cầm hoặc vĩ cầm chẳng khác nào một ông vua, họ yêu mến và kính trọng. Nếu một cuộc cãi lộn xảy ra giữa hai người bạn thì họ nhờ người ấy hòa giải. Những cậu bé nhất được người ấy dạy nhạc thì xem người ấy như cha. Trước khi đi ngủ, họđến tất cả chúc người ấy ngon giấc. Người mù luôn luôn nói chuyện về nhạc; dù là khi đã nằm trên giường, mệt mỏi vì học hành và lao động, trong cơn nửa tỉnh nửa thức, họ vẫn nói chuyện thì thầm về nhạc kịch, về các bậc thầy, về nhạc cụ, về dàn nhạc. Bỏ của họ một bài tập đọc hoặc một bài nhạc là họ coi như một hình phạt rất nặng, họđau đớn vô cùng đến nỗi gần như chẳng bao giờ có đủ can đảm để phạt họ kiểu ấy. Vả lại âm nhạc đối với trái tim của họ như ánh sáng đối với đôi mắt của chúng ta vậy". Đêrôtxi hỏi là học sinh có thểđược đi thăm những người mù không? "Có th ể, - thầy giáo trả lời, - nhưng đối với các con, vì còn nhỏ, thầy khuyên chưa nên đến đấy. Sau này hãy đi, lúc đủ tuổi để hiểu hết được nỗi bất hạnh của họ và cảm thấy hết nổi thương xót đối với họ. " Đó là một cảnh tượng thương tâm, các con ạ. Đôi khi các con thấy những em bé ngồi sau cửa sổ hé mở, thở không khí trong sạch, vẻ mặt bất động, tưởng như đang ngắm cánh đồng rộng rãi, xanh rờn hay những dãy núi đẹp xanh lam mà các con, chỉ các con trông thấy thôi!... Nhưng khi ta nghĩ rằng các em đó chẳng thấy cái gì hết, rằng sẽ chẳng bao giờ thấy được chút gì những cảnh đẹp huy hoàng đó, thì tim chúng ta thắt lại, đúng như lúc ấy chính chúng tađang bị mù vậy. "Những người vốn đã mù từ lúc mới sinh ra, chưa hề bao giờ trông thấy thế giới chung quanh, thì ít đáng phàn nàn hơn một chút, vì họ không biết những gì mà họ không được hưởng. Nhưng có những em bé chỉ mới mùđộ vài tháng thôi, họ biết và họ nhớ tất cả những gì họ mất. Các emấy lại còn thêm một nỗi đau khổ nữa là thấy cứ tối lại đần dần trong ký ức mình những hình ảnh thân yêu nhất. Có hôm, một trong số những kẻ khốn khổđó đã nói với thầy, vẻ buồn không tài nào tảđược, rằng: "Con mong ước được nhìn thấy lại chỉ một lần thôi, chỉ một phút thôi, đểđược thấy lại khuôn mặt của mẹ mà con không còn nhớ ra nữa" "Khi mẹ các em đến thăm, các em lấy tay sờ khắp mặt mẹ, ngón tay không bỏ sót một đường nét nào, để xem mẹ mình hiện ra sao; và các em chỉ hơi làm cho mình tin rằng mình không còn trông thấy lại mẹ nữa, các em gọi tên mẹ nhiều lần như tha thiết xin mẹ cho các em được nhìn thấy mặt mẹ một lần nữa! "Biết bao nhiêu người đến thăm họ, khi ra về, vừa đi vừa khóc. Khi từ giã họ, người ta tưởng như mình là một ngoại lệ, và mình được cái đặc quyền nhìn thấy thế gian, nhà cửa, bầu trời. Hãy thương xót, các con ạ, hãy thương xót mãnh liệt những người màđối với họ mặt trời không có chút ánh sáng và người mẹ không có cả cái nhìn".

THẦY GIÁO ỐM

Thứ bảy 25. Chiều qua, tan học, tôi đi thăm thầy giáo tôi ốm, thầy ốm vì làm việc quá sức. Thầy dạy mỗi ngày năm giờ thêm một giờ thể dục, và hai giờ dạy lớp ban đêm nữa, tóm lại thầy ngủ ít, ăn vội ăn vàng, nói vỡ phổi từ sáng đến tối tất cả những việc chỉ có thể làmđổ nát sức khỏe của thầy, mẹ bảo thế mẹ vui lòng Đúng cho tôi trong gian phòng chung ở nhà dưới, trong lúc tôi lên gác thăm thầy Pecbôni. Trên cầu thang tôi gặp thầy Côratti, thay giáo có bộ râu đen, làm cho tất cả mọi người đều khiếp sợ, nhưng lại không hề phạt ai cả. Thầy nhìn tôi với đôi mắt to; và đểđùa, thầy bắt chước tiếng sư tử, gầm lên nhưng không cười. Tôi thì cười ngặt nghẽo mãi cho lên đến gác tư, khi tôi gọi chuông ở buồng thầy giáo tôi. Một ngươi đàn bà giúp việc đưa tôi vào một cái buồng tối tăm nơi thầy tôi nghỉ. Thầy nằm trên một chiếc giường sắt nhỏ. Thầy đưa tay lên che trán để nhìn cho rõ, và nhận ra tôi, thầy kêu lên vui vẻ: "Kìa, Enricô". Tôi bước lại gần giường. Thầy Pecbôni đặt tay lên vai tôi và nói: "Cám ơn con, con đến thăm thầy giáo đáng thương của con là một việc rất tốt. Thầy đang ốm thảm hại, con thấy đấy, Enricô. À, lớp ta ra sao? Và học sinh thì thế nào? Tốt lắm phải không? Các cậu không cần có thầy cũng vẫn được đấy nhỉ?" Tôi muốn nói là không phải thế, nhung thầy Pecbôni không để tôi kịp nói. "Tốt, tốt lắm! Thầy biết rằng dù sao các con cũng thương thầy". Thấy tôi nhìn mấy bức ảnh treo trên tường, thầy nói: "Con thấy, ảnh các học trò cũ của thầy đấy. Các anh ấy đã tặng thầy ngoài hai mươi năm rồi. Thật là những cậu bé trung hậu. Đó là vật kỷ niệm của thầy. Khi sắp chết, cái nhìn cuối cùng của thầy sẽ quay về họ. Con cũng sẽ tặng thầy một chiếcảnh của con, Enricô à, khi nào con học xong bậc sơđẳng. Thầy lấy một quả cam trên chiếc bàn nhỏđầu giường, đặt vào tay tôi và nói: Thầy chẳng có gì khác để cho con, đây là món quà của một người ốm. Tôi nhìn thầy lòng thắt lại, rồi thầy nói tiếp: "Con phải chú ý diều này... Thầy hy vọng sẽ khỏi, nhưng nếu thầy không qua được... thì con phải chú ý đến môn toán đấy, đó là chỗ yếu của con...cố gắng một tí, chỉ cần cái gắng sức ban đầu thôi, vì nhiều khi không phải là không có năng khiếu đâu, mà chỉ vì ta cứ có một thành kiến như vậy, rồi thành kiến ấy dễ dàng xui ta lười biếng". Vừa nói thầy vừa hổn hển, rõ ràng là thầy đang đau lắm. "Thầy bị một cơn sốt nặng, - thầy vừa thở dài vừa nói tiếp - con đã nghe rõ rồi phải không Enricô? Phải gạo môn toán và làm nhiều bài tính đố vào. Không thành công ngay bước đầu thì nghỉ ít lâu, rồi lại tiếp tục. Nếu thất bại nữa thì lại tạm nghỉ, rồi lại tiếp tục nữa. Cố tiến lên, nhưng bình tĩnh, không vội vàng, không nóng nảy. Thôi, con chuyển hộ lời thầy chào mẹ của con; và từ nay đừng leo lên bốn tầng gác của thầy nữa nhá; ta sẽ gặp nhau lại ở trường. Ví bằng chúng ta không còn trông thấy nhau nữa... thì thỉnh thoảng con nên nhớ đến thầy giáo lớp ba đường con đã rất yêu mến con". Nghe lời thầy nói, nước mắt tôi cứ trào ra. Thầy bắt tay tôi, kéo tôi vào lòng mà hôn, rồi lại nhắc: "Con về đi", xong thầy quay mình vào phía tường. Tôi chạy xuống thang gác, nhảy hai bậc một; tôi thấy cần phải ôm hôn mẹ tôi ngay.

NGOÀI ĐƯỜNG PHỐ (Thư của bố)

Thứ bảy 25. Chiều nay bố quan sát con qua cửa sổ, khi con ở nhà thầy giáo về. Con đã va phải một bà đi đường. Hãy cẩn thận hơn nữa khi con đi ngoài. Đường phố. Ở đấy cũng có những bổn phận phải làm.Ở trong nhà, con cân nhắc, từng việc làm, từng cử chỉ, cớ sao con lại không làm như vậy ở ngoài đường, là nơi đi lại của tất cả mọi người? Enricô, hãy nhớđiều này: mỗi khi con gặp một cụ già, một kẻ khó, một người đàn bà đang bế con, một người què chống nạng, một người đang phải còng lưng gánh nặng, một gia đình đang tang tóc, con đều phải nhường buộc cung kính. Chúng ta phải kính trọng: tuổi già, nỗi khổ, tình mẹ con, kẻ tật nguyền, sự vất vả và cái chết. Mỗi khi con thấy một kẻ sắp bị xe húc phải, nếu là một người lớn thì con phảl thét lên báo cho người ta tránh, nếu là một em bé thì con hãy chạy đến cứu ngay. Thấy một đứa bé đứng khóc một mình, hãy hỏi tại sao nó khóc và an ủi nó, nếu con có thể làm được. Người già rơi cái gậy, con hãy nhặt lên cho người ta. Nếu hai đứa trẻđánh nhau, con phải can ngay chúng ra. Nhưng nếu là hai người lớn thì con hãy tránh xa ra, để khỏi phải chứng kiến cảnh hung dữ thô bạo, làm cho tấm lòng thành ra sắt đá. Gặp một người đi qua, tay bị xích, hai cảnh binh đi kèm hai bên, con sẽ không hùa vào đám đông để tò mòđộc ác với họ. Đó có thể là một người vô tội. Hãy thôi nói, thôi cười với bạn bè khi có một cái cáng người bệnh hay một đám tang đi qua, biết đâu ngày mai ở nhà con lại không có người chết. Hãy lễ độ khi trông thấy tất cả các trẻ em ở các viện từ thiện đi qua từng đôi một: những em mù, những em câm điếc, những em còi cọc, những em mồ côi những em vô thừa nhận; thấy họ con hãy nghĩ rằng đó là nỗi bất hạnh và lòng từ thiện của con người đang đi qua. Trước một vẻ dị dạng buồn cười hay đáng ghê, con hãy làm ngơđi như tuồng không trông thấy. Người đi qua hỏi thăm đường, con phải trả lời có lễ phép. Con không được nhạo báng ai hết, đừng chạy nhảy, đừng chen lấn ai hết, đừng la hét, phải tôn trọng trật tự của đường phố. Trình độ giáo dục của một dân tộc có thểđánh giá qua thái độ của con người trên đường phố. ỞĐÂU mà con thấy cảnh thô lỗ diễn ra ngoài đường phố thì con có thể chắc chắn là sẽ thấy cảnh thô lỗ diễn ra trong các gia đình vậy. Mai đây, nếu con phải đi xa, con sẽ lấy làm dễ chịu thấy luôn luôn hiện ra trong trí nhớ cái thành phố quê hương của con, Tổ quốc của thời thơấu của con, cái thế giới duy nhất mà con đã được biết trong nhũng năm đầu tiên của đời con. Trong thành phốấy, con đã đi những bước đầu tiên do bàn tay thận trọng của mẹ con dìu dắt; con đã học ở đấy những năm tháng đầu tiên, ở đấy con đã có được những người bạn đầu tiên của con. Hãy yêu thành phố của con, yêu các phố phường và nhân dân trong thành phố, và nếu chẳng may con nghe ai nói xấu thành phố của con thì con phải bênh vực ngay. "Bố của con"

MỘT VỤ CÃI LỘN

Thứ hai 20. Thật thế, không, tuyệt không phải do ganh tị với cậu vì cậu được phần thưởng còn tôi thì chẳng có gì, mà sáng nay tôi lại cãi nhau với Côretti. Thật không phải vì ganh tị, nhưng dù thế tôi cũng phải nhận là mình có lỗi. Thầy giáo xếp cậu ngồi cạnh tôi; tôi đang nắn nót từng chữ trên trang vở viết tập thì Côretti chạm khuỷu tay vào tôi, làm cho cây bút của tôi vẽ ra một cái móc quái gở, lại dây mực vào truyện kể hàng tháng Máu nóng người Rômanha mà tôi chép cho cậu bé thợ nềốm. Tôi nổi giận, nói một câu bất nhã. Côretti cười trả lời rằng: "Mình không cố ý đâu". Lẽ ra tôi phải tin cậụ vì tôi biết cậu ấy lắm, nhưng cái cười của cậu làm tôi bực mình và tới nghĩ: "Giờ nó đã được phần thưởng nó thành rạ kiêu căng". Lát sau, để trả thù, tôi đẩy cậu ta một cáiđến nỗi hỏng hết trang viết tập của cậu. Thế là cậu ta giận đỏ mặt, nói: "Này, cậu _cố ý đấy nhé", vừa nói vừa giơ tay dọa đánh tôi. Thầy giáo nhìn cậu, cậu liền hạ tay xuống, nhưng lại nói thêm: "Lát nữa tao chờ mày ê cổng". Tôi tự thấy khó chịu, cơn giận của tôi đã lắng xuống, và tôi đã thấy hối hận. Không, Côretti không bao giờ lại cố ý ấy mình, vì cậu ta rất tốt. Tôi nhớ lại hôm đến nhà cậu tôi thấy cậu vừa học vừa chăm sóc mẹốm; với lại tôi đã tiếp cậu rất chu đáo tại nhà mình, và bố cũng thấy cậu cũng rất hợp ý bố. Thật tôi chẳng tiếc cái gì đểđánh đổi lấy cái câu ngu xuẩn mà tôi đã buột mồm nói ra, đổi lấy cái cử chỉ phục thù bần tiện ấy. Tôi nhớ lại lời khuyên của bố: - Con có lỗi à? - Vâng. - Vậy con phải xin lỗi người ta. Xin lỗi à! Tôi không đủ can đảm làm việc ấy, phải hạ mình thì tôi xấu hổ lắm. Tôi nhìn Côretti Một bên, tôi thấy cái vai áo chẽn của cậu sứt chỉ, có lẽ vì cậu ta đã vác củi, và tôi cảm thấy tôi yêu cậu, tôi tự nhủ: "Nàol Hãy can đảm lên!" nhưng cái câu "mình xin lỗi cậu" cứ tắc nghẹn trong cổ. Còn cậu thì thỉnh thoảng lại nhìn trộm tôi; tôi cho là cậu ta buồn hơn là giận. Nhưng tôi thì lại nhìn nghiêng, để cậu ta đừng cho là tôi đang sợ. Cậu ta nhắc lại: "Ra ngoài kia ta sẽ gặp nhau". Tôi cũng nhắc lại: "Được! Ra ngoài kia ta sẽ gặp nhau". Thế nhưng tôi nghĩ đến một câu mà có lần Bố đã nói với tôi: "Nếu con trái, thì chỉ được đỡ thôi, không được đánh giá". Và tôi tự nhủ: "Ừ mình chỉ đỡ, chứ không đánh". Tôi vẫn cáu và buồn, không nghe bài giảng của thầy nữa. Cuối cùng đã đến giờ tan học. Khi còn lại một mìnhở ngoài phố, tôi thấy Côretti đi theo tôi. Tôi đứng lại, rút cái thước kẻ cầm tay. Cậu ta đi đến, tôi giơ thước lên... "Ấy đừng, Enricô ạ, - cậu ta nói với một nụ cười hiền hậu, đưa tay gạt cái thước của tôi ra, - hãy trở lại thân nhau như trước". Tôi ngạc nhiên, ngây ra một lúc, rồi tôi thấy như có bàn tay ai đẩy tôi; thế là tôi ôm chầm lấy cậu. Côretti ôm tôi và nói: "Chúng ta sẽ không bao giờ gây nhau nữa, phải không nào?" - Không bao giờ. Không bao giờ! - Tôi trả lời. Chúng tôi chia tay nhau, cả hai đều hài lòng. Nhưng khi về nhà tôi kể lại tất cả cho bố nghe, tưởng làm bố vui lòng, nào ngờ bố mắng: "Đáng lẽ chính con phải đưa tay cho bạn trước, vì con lỗi cơ mà". Bố lại nói tiếp: "Con không được giơ thước dọa đánh một đứa bé tốt hơn con, con dọa con trai của một quân nhân". Rồi giật cái thước tôi đang cầm, bố bẻ ra làm đôi.

MÁU NÓNG NGƯỜI RÔMANHA (Truyện đọc hàng tháng)

Tối hôm ấy, ngôi nhà của Pherucsiô im lặng hơn thường lệ. Bố cậu có cửa hàng bách hóa nh ỏ, đã đi Phoocli mua mấy thứ gì dấy, mẹ cậu đi theo mang cả Luigia, cô con gái béđi không mông quạnh, những đám ruộng dâu bát ngát. Sắp nửa đêm. Mưa rơi, gió thét. Pherucslô với bà còn thức ở trong phòng ăn. Phòng này cách vườn rau một gian nhà chứa đầy đồ cũ. Pherucsiô mới về lúc mười một giờ, sau khi chuồn đi đâu mất mấy tiếng liền, để bà cứ ngồi nhưđóng đinh trong chiếc ghế bành rộng chờ sốt ruột, lo lắng hết sức. Bà cụ tội nghiệp ngồi suốt ngày trên chiếc ghếấy, và nhiều khi suốt cả đêm, vì những cơn đau tức ghê gớm làm cho bà không tài nào nằm xuống được. Trời mưa và gió thổi hắt vào các cửa kính. Đêm tối như mực. Pherucsiô về nhà mệt lử, lấm be bét, áo ngoài rách và trán bầm tím vì một hòn đá ném trúng. Thoạt tiên bè bạn lấy đá ném nhau chơi thôi, rồi dần dần đi đến chỗđánh nhau thật, bao giờ mà chả thế. Tệ hơn nữa là Pherucsiô lại đánh bạc và thua hết sạch tiền, cái mũ nồi cũng rơi mất đâu ở một cái hố. Dù gian nhà chỉ có một ngọn đèn dầu nhỏ, đểở một góc bàn gần ghế bành, bà ngoại đáng thương ấy vẫn thấy ngay vẻ thảm hại của đứa cháu; và qua những lời thú tội, úp mở của cháu, bà cụ đã đoán được phần nào những lầm lỗi của nó, rồi sau cùng còn gì là nó thú ra hết; bà vốn thương Pherucsiô với tất cả tâm hồn, nên bà không nhịn được, bật ra khóc. Yên lặng một lúc lâu, rồi bà nói: "Ôi! Cháu chẳng chút thương xót bà ngoại tội nghiệp của cháu, nếu không cháu đã ehẳng lợi dụng bố mẹ cháu đi vắng để làm những việc như thế. Cháu bỏ bà một mình suốt cả ngày. Cháu chẳng chút thương xót gì bà! Coi chừng, Pherucsiô, cháu đang đi con đường nguy hiểm sẽ đưa cháu đến một kết cục thảm hại đấy. Bà đã thấy những đứa trẻđầu tiên cũng như cháu, thế rồi sau đã thành ra những kẻ vô lại ghê gớm. Người ta bắt đầu bằng trốn nhà đi chơi, đánh nhau với bạn, thua bạc mất tiền, rồi dần dần từ ném đá đi đến đâm nhau, từ cờ bạc đến các tật xấu khác, và từ tật xấu đi đến... trộm cướp". Pherucsiô đứng nghe, cách bà vài bước, mình tựa vào cái tủđầu cúi gầm, cằm sát vào ngực, đôi mày cau lại, còn sôi sục cơn tức giận lúc đánh nhau. Mái tóc xoăn màu hạt dẻ rủ xuống trán, và đôi mắt to xanh rựcmổ mắt. Phải sáng hôm sau họ mới về. Sắp nửa đêm. Người đàn bà làm thuê đã đi về sau bữa ăn tối; ở nhà chỉ còn có bà ngoại liệt cả hai chân với Pherucsiô, cậu bé mới mười ba tuổi. Ngôi nhà chỉ có một tầng và nằm bên đường cái, cách một cái làng ở ven Phoocli, một thành phố xứ Rômanha, độ một tầm súng. Cạnh ngôi nhà nho nhỏ ấy chẳng có nhà cửa nào, ngoài cái đống hoang tàn của một quán trọ bị cháy trước đấy hai tháng. Đằng sau nhà là một vườn rau, giậu rào quanh có trổ một cái cổng nhỏ kiểu thôn quê. Cái cửa của ngôi hàng, đồng thời là cửa ra vào, trông ra đường cái. Chung quanh bốn bề là đồng không mông quạnh, những đám ruộng dâu bát ngát. Sắp nửa đêm. Mưa rơi, gió thét. Pherucslô với bà còn thức ở trong phòng ăn. Phòng này cách vườn rau một gian nhà chứa đầy đồ cũ. Pherucsiô mới về lúc mười một giờ, sau khi chuồn đi đâu mất mấy tiếng liền, để bà cứ ngồi nhưđóng đinh trong chiếc ghế bành rộng chờ sốt ruột, lo lắng hết sức. Bà cụ tội nghiệp ngồi suốt ngày trên chiếc ghếấy, và nhiều khi suốt cả đêm, vì những cơn đau tức ghê gớm làm cho bà không tài nào nằm xuống được. Trời mưa và gió thổi hắt vào các cửa kính. Đêm tối như mực. Pherucsiô về nhà mệt lử, lấm be bét, áo ngoài rách và trán bầm tím vì một hòn đá ném trúng. Thoạt tiên bè bạn lấy đá ném nhau chơi thôi, rồi dần dần đi đến chỗđánh nhau thật, bao giờ mà chả thế. Tệ hơn nữa là Pherucsiô lại đánh bạc và thua hết sạch tiền, cái mũ nồi cũng rơi mất đâu ở một cái hố. Dù gian nhà chỉ có một ngọn đèn dầu nhỏ, đểở một góc bàn gần ghế bành, bà ngoại đáng thương ấy vẫn thấy ngay vẻ thảm hại của đứa cháu; và qua những lời thú tội, úp mở của cháu, bà cụ đã đoán được phần nào những lầm lỗi của nó, rồi sau cùng còn gì là nó thú ra hết; bà vốn thương Pherucsiô với tất cả tâm hồn, nên bà không nhịn được, bật ra khóc. Yên lặng một lúc lâu, rồi bà nói: "Ôi! Cháu chẳng chút thương xót bà ngoại tội nghiệp của cháu, nếu không cháu đã ehẳng lợi dụng bố mẹ cháu đi vắng để làm những việc như thế. Cháu bỏ bà một mình suốt cả ngày. Cháu chẳng chút thương xót gì bà! Coi chừng, Pherucsiô, cháu đang đi con đường nguy hiểm sẽ đưa cháu đến một kết cục thảm hại đấy. Bà đã thấy những đứa trẻđầu tiên cũng như cháu, thế rồi sau đã thành ra những kẻ vô lại ghê gớm. Người ta bắt đầu bằng trốn nhà đi chơi, đánh nhau với bạn, thua bạc mất tiền, rồi dần dần từ ném đá đi đến đâm nhau, từ cờ bạc đến các tật xấu khác, và từ tật xấu đi đến... trộm cướp". Pherucsiô đứng nghe, cách bà vài bước, mình tựa vào cái tủđầu cúi gầm, cằm sát vào ngực, đôi mày cau lại, còn sôi sục cơn tức giận lúc đánh nhau. Mái tóc xoăn màu hạt dẻ rủ xuống trán, và đôi mắt to xanh rực lên những ánh lạ lùng. "Tữ cờ bạc đến trộm cướp! - Bà nhắc lại, vừa nói vừa khóc. - Pherucsiô à, cháu hãy nghĩ đến cái tên vô lại ở xứ này, cái tên Vittôriô Môtzini lưu manh, mới hai mươi bốn tuổi đầu mà đã hai lần ở tù. Nó làm cho bà mẹ tội nghiệp của nó phải chết vì buồn phiền; bà có quen mẹ nó đấy. Bố nó thì tuyệt vọng đã bỏ đất nước trốn sang Thụy Sĩ. Cháu hãy nghĩ đến tên vô lại ấy; nó chào, bố cháu cũng không chào lại, vì xấu hổ; lúc nào người ta cũng thấy nó quần tụ với những quân hung đồ còn tệ hơn nó nữa, cho đến cái ngày phải đi đày khổ sai thôi. Này, thằng Môtzini ấy, bà có biết nó khi nó còn nhỏ, trước kia nó cũng chỉ bắt đầu như cháu, rồi có thể cháu cũng sẽđẩy bố mẹ cháu đến kết cục thảm hại như bố mẹ nó thôi..." Pherucsiô làm thinh. Tấm lòng cậu đâu có độc ác; cậu có trốn nhà đi chơi cũng do dồi dào sinh lực và táo bạo hơn là vì bẩm tính xấu xa. Bố cậu nuông con quá; vì biết rằng trong thâm tâm con có thể có những tình cảm cao thượng nhất và hơn nữa, gặp hoàn cảnh thì có thể có hành động cao cả và hào hiệp, nên ông đã để cho con tự do cho đến ngày con tự hiểu lấy lẽ phải. Pherucsiô trung hậu, nhưng gan lì và khó tính, dù rất hối hận là đã làm bà phật lòng cậu vẫn không tài nào đủ can đảm nói với bà vài lời dễ nghe để bà tha thứ cho: "Vâng, cháu có lỗi, cháu sẽ không làm thế nữa. Cháu xin hứa, bà tha lỗi cho cháu". Tính tự ái giữ kín những lời như thế trong tâm cậu, tuy lòng cậu chan chứa tình thương yêu đằm thắm. Thấy Pherucsiô cứ làm thinh, bà cụ lại nói tiếp: "Ôi! Cháu à, cháu không nói được một lời hối hận sao. Cháu cũng thấy rõ tình cảnh của bà hiện nay: chỉ còn chờđểđược đưa ra đồng nữa mà thôi. Cháu còn có lòng nào mà làm cho mẹ của mẹ cháu phải khóc nữa; bà đã già lắm rồi, gần đất xa trời lắm rồi, nonna(l) tội nghiệp của cháu suốt đời thương yêu cháu, đã ru cháu suốt bao đêm trường thuở cháu còn bé, và chỉ muốn tránh cho cháu tất cả mọi đau đớn, mọi buồn phiền. Bà lúc nào cũng tự bảo rằng: "Đứa bé này sẽ là niềm an ủi của mình đây", nhưng trái lại cháu cứ làm cho bà chết vì lo ngại được. Bà có thể hy sinh tất cả những năm tháng còn lại của bà để cầu cho cháu trở lại ngoan ngoãn và biết vâng lời như trước đây. Cháu có còn nhớ không, Pherucsiô à, những lúc bà dắt cháu đi dạo chơi, cháu nhét đầy sỏi và cỏ vào các túi bà, rồi cháu ngủ bà phải cứ thế bế cháu về nhà. Thuở ấy cháu thương bà cháu lắm. Giờ bà bị liệt, bà cần có lòng thương yêu của cháu như khí trời mà bà thở, cháu hãy nghĩ rằng bà chẳng có gì, chẳng có gì hết ở đời này làm cho bà vui, bà quan tâm nữa, cái thân của bà đã gần đất xa trời lắm rồi cháu ạ". Xúc động, Pherucsiô sắp lao đến với bà thì hình như nghe có tiếng động nhẹ, một tiếng răng rắc từ phòng bên trông ra vườn rau. Nhưng cậu cũng không thể biết đó là tiếng cái cửa chớp bị gió lay hay là tiếng gì khác. Cậu chú ý nghe. Mưa càng nặng hạt. Tiếng động lại càng rõ. Lần này thì bà cũng nghe thấy. Hoảng hốt bà hỏi: "Cái gì thế" Cậu trả lời: "Mưa đấy". Bà vừa lau nước mắt vừa nói: Pherucsiô cháu có hứa với bà là cháu sẽ ngoan và không làm cho nonna tội nghiệp của cháu phải khóc nữa không" Lại một tiếng răng rắc nữa ngắt lời bà. Bà tái mặt kêu lên: "Nhưng không phải tiếng mưa... ra xem cái gì cháu". Rồi bà lại nói thêm ngay: "Thôi đừng, cứở đây" và bà nắm lấy bàn tay Pherucsiô trong lòng tay bà. Hai bà cháu không dám thở nữa. Chỉ nghe thấy tiếng nước chảy. Bỗng họ giật mình, vì hình như eả hai bà cháu đều nghe có tiếng chân bước ở phòng bên cạnh. Pherucsiô hổn hển hỏi: "Ai đấy?" Chẳng ai trả lời cả. Lạnh toát xương sống, cậu bé hỏi lại: "Ai đấy?" Nhưng vừa mới nói thì bà với cháu bỗng hét lên một tiếng kinh hồn. Hai người đàn ông vừa nhảy vào trong phòng. Một người tóm lấy cậu bé, lấy tay bịt miệng, người kia chẹn lấy cổ họng bà cụ. Người thứ nhất nói: "Muốn sống thì câm họng"; Người thứ hai nói: "Im", và giơ dao lên dọa. Cả hai đều đeo mặt nạđen. Hồi lâu chỉ nghe thấy tiếng thở hổn hển và tiếng mưa rơi mỗi lúc một nặng hạt. Bà cụ rên rỉ, đôi mắt mở to như muốn văng ra khỏi đầu. Người giữ cậu bé nói nhỏ vào tai cậu: "Bố mày cất tiền ở đâu?" Cậu bé trả lời lí nhí, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập: "Ở kia... trong tủ ấy". Nó bảo: "Sang đây với tao". Nó lôi Pherucsiô sang chiếc phòng nhỏ, chẹn lấy họng cậu. Trên sàn có một cái đèn đã che kín hết ánh sáng. Nó hỏi: "Tủ dâu?" Cậu bé lấy tay chỉ. Thế là để cho chắc chắn, nó dúi cậu bé bắt quỳ xuống trước mặt tủ, lấy hai chân kẹp cậu lại, rút dao găm ra cắn vào hai hàm răng, sẵn sàng cắt cổ nếu cậu kêu lên. Một tay nó cầm đèn, tay kia lấy trong túi ra một cái kìm, thuồn vào lỗ khóa. Nó ấn mạnh, bẻ khóa ra, mở hai cánh cửa tủ, xáo lung tung mọi thứ lên, nhét đầy túi, đóng tủ lại, rồi lại mở ra, lục lọi lần nữa; xong nó lại tóm lấy cuống họng cậu bé đẩy sang phòng ngoài; ở đấy tên trộm kia đang giữ bà cụ gần ngất đi, đầu ngoẹo một bên, mồm há hốc. Tên này h ỏi nhỏ: "Có thấy không?" Tên kia trả lời: "Có" và nói thêm: "Cậu ra đi..." Tên giữ bà cụ bỏ chạy ra cổng vườn rau xem có ai đi đến không, rồi từ phòng bên gọi sang, giọng cao như một tiếng còi: "Chạy đi. Tên kia còn đứng lại giữ Pherucsiô, giơ dao dọa cậu bé và bà cụđang mở trừng trừng đôi mắt; nó nói: "Kêu lên một tiếng thì tao quay lại giết chết ngay". Qua hai lỗ mắt của chiếc mặt nạ nó nhìn chằm chằm dọa hai bà cháu. Đúng lúc ấy, người ta nghe xa xa trên đường cái có tiếng người vừa đi đến vừa hát. Tên trộm liền quay đầu sang phía cửa và vội vàng làm rơi chiếc mặt nạ của nó xu ống. Bà cụ bất giác kêu lên: "Môtzôni!" Tên trộm bị nhận mặt, gầm lên: "Con mẹ chết tiệt, mày phải ngoẻo thôi?" Thế là nó quay lại, giơ dao lên, bà cụ sợ quá, ngất đi. Tên giết người đâm một nhát. Nhưng nhanh như chớp, hét lên một tiếng tuyệt vọng, Pherucsiô lao tới bà mình, lấy thân mình che cho bà. Hung thủ bỏ chạy, vấp phải cái bàn, đánh đổ và làm tắt cáiđèn. Cậu bé tụt dần xuống đất, thụp quỳ xuống, cứ thế vòng hai tay ôm lấy tấm thân bà cụ, đầu áp vào lòng bà. Mấy khắc trôi qua... Gian phòng tối như mực. Tiếng hát của mấy người nông dân mất hút nơi xa xa. Bà cụ tỉnh lại. Cụ gọi, giọng nghe còn mơ hồ: "Pherucsiô?" Cậu bé thưa: "Nonna ạ!" Bà cụ cố nói một câu, nhưng vẫn sợ, líu cả lưới lại. Cụ ngồi im lặng một hồi, run như cầy sấy. Rồi mới nói lên được: "Chúng nó đi hết rồi à?" - Hết rồi. Chúng nó không giết bà... - bà cụ lẩm bẩm như nghẹn lời. Không ạ... bà không việc gì, nonna thân yêu ạ, - Pherucsiô nói giọng yếu ớt. - chúng nó lấy tiền. Nhưng bố... đã đem đi gần hết. Bà cụ thở ra. Pherucsiô vẫn quỳ và ôm lấy bà, cậu nói: "Bà ạ, bà thân yêu ạ, bà thương cháu chứ, phải không bà?" - Pherucsiô? Cháu tội nghiệp của bà! - Bà cụ trả lời, tay sờđầu cháu, - sợ l ắm phải không cháu? Thắp đèn lên... Thôi cứđể vậy, bà còn sợ lắm... Thưa bà, - cậu bé lại nói, - cháu lúc nào cũng làm bà phiền lòng... Không, Pherucsiô à, không, đừng nói thế, đừng nghĩ đến việc ấy nữa, bà đã quên hết rồi, bà thương cháu lắm. - Cháu luôn luôn làm bà lo phi ền, - cậu bé nói tiếp, giọng run run và phải cố gắng lắm, - nhưng... cháu bao giờ cũng thương bà, bà có tha lỗi cho cháu không...? Bà tha lỗi cho cháu, nonna ạ. - Ừ bà tha lỗi cho cháu, cháu ạ, bà hết lòng tha lỗi cho cháu. Cháu có thể không tin hay sao! Đứng lên cháu yêu dấu của bà. Bà không mắng cháu nữa đâu, cháu ngoan, cháu tất bụng lắm? Thấp đèn lên. Can đảm lên,đứng dậy, Pherucsiô... - Cám ơn bà, - cậu bé nói giọng càng yếu... - Giờ thì cháu yên tâm lắm. Nonna sẽ nhô cháu mãi, phải không ạ? Bà sẽ nhớ châu mãi mãi... nhớ Pherucsiô của bà mãi... Pherucsiô của bà? - Bà cụ kêu lên, ngạc nhiên và kinh hãi, để tay lên vai cậu và cúi đầu nhưđể nhìn rõ vào mặt cậu. Bà nhớ đến cháu, - cậu bé còn lẩm bẩm nói thêm, giọng nói tựa hồ một hơi thở nhẹ. - Bà hôn mẹ cháu... bố cháu.. em Luigina... hộ cháu... Vĩnh biệt... nonna... - Pherucsiô! Pherucsiô thân yêu của bà! Cháu làm sao thế? Bà cụ kêu lên, lo ngại xoa đầu cháu đã nặng trĩu trên hai đầu gối mình. Rồi bỗng bà đem hết sức tàn thét lên, tuyệt vọng: "Pherucsiô? Pherucsiô! Cháu ôi! Cục cưng của bà ơi! Ôi cứu với? Cứu với!" Nhưng Pherucsiô không trả lời. Cậu bé anh hùng đã cứu mẹ của mẹ mình thoát chết, bị một nhát dao đâm vào lưng, vừa trút hơi thở cuối cùng, sung sướng vì đã cứu sống nonna của mình.

CẬU BÉ THỢ NỀ ỐM NẶNG

Thứ ba 28. Cậu bé thợ nề tội nghiệp đang ốm nặng; thầy giáo bảo chúng tôi đến thăm và ba đứa chúng tôi: Garônê, Đêrôtxi và tôi hẹn nhau cùng đến. Chúng tôi có mời cậu Nôbitx kiêu ngạo để xem cậu ta trả lời thế nào. Cậu ấy chỉ trả lời cộc lốc: "Không". Vôtini cũng xin vắng mặt, có lẽ sợ đến đấy dây phải vôi bẩn mất áo đẹp. Tan Học, khoảng bốn giờ chiều, chúng tôiđến nhà bác thợ nề. Trời đổ mưa rào. Garônê đứng lại ngoài phố, mồm đầy bánh mì bảo chúng tôi: "Ta sẽ mua quà gì cho cậu ấy bây giờ? " mồm nói, tay cho vào túi lắc hai đồng xu kêu lèng keng. Chúng tôi góp nhau mỗi người hai xu và mua ba quả cam to. Vào nhà, chúng tôi trèo lên gác xép. Đến trước cửa phòng, Đêrôtxi bỏ huy chương ra đút vào túi. Tôi hỏi tại sao mà làm như vậy. Cậu đáp: "Chẳng biết nữa, để khỏi có vẻ... có vẻ không đeo thì phải hơn". Chúng tôi gõ cửa, bố cậu ra mở, người cao lớn như ông khổng lờ, vẻ mặt đầy lo âu. "Các cậu là ai?" bác ấy hỏi. Garônê đáp: "Chúng cháu học cùng lớp với Antôniô, chúng cháu mang cam lại cho bạn ấy". - Ôi, thằng Tôniô tội nghiệp của tôi, - bác vừa kêu lên vừa lắc đầu. - Tôi e nó không còn có thểăn được cam của các cậu nữa. Và bác đưa tay áo lên lau nước mắt. Bác để chúng tôi đi trước, bước vào một cái phòng trần rất thấp, ở đấy cậu bé thợ nềđang ngủ trên một cái giường sắt. Mẹ cậu ấy quỳ bên giường, trán gục vào hai bàn tay; nghe chúng tôi vào,cũng chỉ khẽ ngoảnh lại, nhìn chúng tôi một tí thôi. Trên tường treo mấy cái bàn chải to, một cái cuốc chim và một cái rây để rây vôi. Cái áo dài của bác thợ nề, trắng những vôi, đắp lên hai chân người ốm. Cậu bé tội nghiệp, gầy gò, xanh xao, mũi dài ra, thở một cách khó nhọc. Cậu Tôniô thân mến ấy, cậu bạn nhỏ của tôi, đáng yêu như thế, vui tính như thế, dù có phải hy sinh cái gì để lại được trông thấy cậu làm cái trò sứt môi tôi cũng không từ, tội nghiệp, cậu bé thợ nề! Garônê để một quả cam lên gối, cạnh má cậu. Mùi thơm làm cậu thức giấc. Cậu cầm lấy quả cam, nhưng lại để nó rơi xuống, và nhìn Garônê không chớp. "Mình đây, Garônê đây, có nhận ra mình không?" Garônê nói. Một nụ cười thoáng qua dôi môi người ốm, cậu cố lấy sức chìa một bàn tay ra, Garônê nắm lấy giữa hai bàn tay mình, cúi xuống hôn và nói: "Antôniô này, can đảm lên, can đảm lên! Cậu sẽ khỏi ngay thôi mà; cậu sẽ lại đi học và thầy Pecbôni sẽ xếp cậu ngồi cạnh mình. Cậu bằng lòng chứ?" Cậu bé thợ nề không trả lời. Mẹ cậu khóc nức nở: "Ôi? Tôniô, tội nghiệp của mẹ, con tốt thế, con ngoan thế, con không sống được nữa hay sao?" - Thôi thôi, - bác thợ nề kêu lên, tuyệt vọng, - thôi thôi bà làm tôi điên đầu lên mất. Rồi bác nói với chúng tôi: "Cám ơn, cám ơn các cháu. Thôi các cháu về đi nhé, ở đây buồn lắm". Cậu bé lại nhắm mắt lại, trông như chết. Cháu có thể giúp bác được việc gì không ạ? - Garônê hỏi. - Không,. cám ơn, cháu thân mến ạ! - Bác thợ nề trả lời. Nói xong, báe tiễn chúng tôi ra và đóng cửa lại. Nhưng xuống chưa được một nửa cầu thang, chúng tôi đã nghe tiếng gọi: "Garônê, cháu Garônê". Cả ba chúng tôi vội vàng chạy lên. - Garônê? - Bác thợ nề kêu lên, mặt mày rạng rỡ, - Tômô vừa gọi cháu dấy? Đã ba hôm liền, nó không nói gì cả thế mà nó vừa gợi cháu hai lần. Ôi? Mong sao đó là một dấu hiệu tốt lành! - Các cậu về nhé, - Garônê nói với chúng tôi, - mình ở lại đây. Rồi cậu ấy theo bác thợ nề vào nhà. Đêrôtxi không cầm được nước mắt. Tôi hỏi: Cậu thương Tôniô à? ... Đã nói được rồi, thế là cậu ấy sẽ khỏi! - Mình cũng tin như vậy, - Đêrôtxi trả lời, nhưng mình không nghĩ đến cậu ấy... mình nghĩ đến Garônê kia. Thật Garônê tốt quá, có một tâm hồn tốt đẹp quá.

THÁNG TƯ MÙA XUÂN

Thứ bảy 1. Mồng một tháng tư? Thế là chúng tôi chỉ còn học có ba tháng nữa mà thôi! Sáng hôm nay là Một trong những buổi sáng đẹp trời nhất trong cả năm. Tôi rất vui vì Côrettiđã rủ tôi ngày kia cùng đi dạo chơi; rồi mẹ lại hứa sẽ dẫn đi thăm một nhà trẻ của trường Vandôccô... Và điều làm tôi vui nhất tất cả lại được biết tin cậu bé thợ nềđã đỡ nhiều. Chiều hôm qua, thầy Pecbôni nói với bố khi đi qua nhà: "Cậu ấy đã khá, khá nhiều rồi". Buổi sáng ngày xuân đẹp thật? Qua các c ửa kính của lớp học, thấy bầu trời xanh, cây cối trong vườn chồi non mơn mởn; và cửa sổ các nhà đều mở rộng, xếp những chậu hoa, lá đã xanh rờn. Thầy giáo không cười, vì thầy không cười bao giờ; nhưng trông thầy có vẻ vui đến nỗi gần như không còn thấy cái vết nhăn sâu trũng chạy dài qua trán thầy nữa. Thầy dạy cách giải một bài toán trên bảng đá, và người ta thấy thầy hít một cách khoan khoái cái không khí thơm mùi đất ẩm và mùi lá non đang tràn qua các cửa sổ vào lớp từng đợt. Tiết trời đẹp như thế này làm cho người ta đã nghĩ đến những cuộc dạo chơi ởđồng quê. Trong khi thầy giảng, người ta nghe tiếng một người thợ rèn đập đê ở một phố lân cận, và từ căn nhà trước mặt vọng qua tiếng hát của một bà mẹ ru con. Xa xa, ở trại Sécnaia vang lên tiếng kèn. Mọi người đều như vui vẻ và hài lòng, kể cả Xtacđi, cái cậu Xtacdi thô lậu như con thú chưa thuần ấy. Có một lúc bác thợ rèn dập mạnh hơn, và bà mẹ hát to hơn. Thầy giáo bỗng ngừng giảng và lắng tai nghe. Rồi đưa mắt nhìn quá cửa sổ, thầy nói chậm rãi: Bầu trời tươi mát, một bà mẹđang hát, một người thợđang làm việc, học trò đang học bài... thật là những sự tốt đẹp đang hài hòa với nhau..." Tan học ra, chúng tôi nhận thấy các học trò khác cũng đều vui như chúng tôi. Tất cả họđi thành hàng, chân đánh nhịp và hát như là ngày mai đã được nghỉ hè rồi. Các cô giáo mom cười vui vẻ. Bố mẹ học sinh chuyện trò với nhau cùng tươi cười và mẹ Crôtxi, bác bán hàng rau quả, mang theo cái thúng đầy hoa đồng thảo làm thơm nức cả phòng chờ. Tôi chưa bao giờ thấy có nhiều nụ cười vui vẻ như buổi sáng mai này, mà mẹ hiền từ của tôi cũng đến đón tôi về. Tôi bước đến với mẹ và nói: "Mẹ à, con thấy rất vui. Không biết tại sao sáng nay, con lại thấy vui lòng thế, hở mẹ?" Mẹ mỉm cười, trả lời tôi rằng bởi vì hôm nay trời đẹp và lương tâm của tôi không có điều gì phải tự trách.

VƯỜN TRẺ

Thứ ba 4. Như đã hứa, hôm qua, sau bữa ăn sáng, mẹ dẫn tôi đến vườn trẻ để gửi đứa em gái của Prêcôtxi cho bà hiệu trưởng. Tôi chưa hề thấy vườn trẻ bao giờ, và vườn trẻ này làm cho tôi thích vô cùng. Ở đấy có hai trăm em bé, gái và trai, cạnh. Chúng thì những chú nhóc lớp một của chúng tôi đã là những người lớn rồi. Chúng tôi đến vừa lúc các em kéo vào nhà ăn. Người ta thấy hai cái bàn rất dài, mặt bàn có khoét những lỗ tròn, trong mỗi lỗđặt một cái bát màu nâu, đầy cháo và đậu, bên cạnh để một cái cùi dìa bằng thiếc. Đi vào, một vài em vấp ngã và cứ nằm sóng xoài ra đấy cho đến khi có một cô giáo đến đỡ dậy. Tuy vậy, nhờđẩy và hò hét: "Tiến lên, tiến lên đi!" rồi cũng xếp được tất cả các em vào chỗ của chúng. Thế là các em bắt đầu ăn. Cảnh tượng thật là buồn cười? Một emăn với hai cái thìa, một em lại ăn bốc; nhiều em cầm từng quảđậu nhét vào túi, trái lại những em khác thì bọc chặt vào chéo áo tạp đề, rồi để tay lên nghiền cho nát ra. Có những em mải nhìn ruồi bay quên cảăn; nhiều em khác ho sặc cháo ra tung tóe chung quanh như một cơn mưa hạt gạo; người ta ngỡđây là một cái chuồng gà, thế nhưng trông thật đáng yêu, hai dãy khuôn mặt hồng hào, nhất là các em bé gái tóc buộc túm trên đỉnh đầu bằng những nơ màu xanh, đỏ lục. Một cô giáo hỏi một tốp em bé gái: "Các em có biết lúa mọc ở đâu không?" Thế là cả tốp há những cái mồm đầy cả cháo và trả lời như hát: "Lúa - mọc trong nước". Tôi nhớ lại thì hình nhưđó là một câu trong cuốn dạy đánh vần mà người ta đã tập cho các em. Cô giáo ra lệnh: "Giơ tay lên". Thế là tất cả những cánh tay bé nhỏ xinh xắn ấy giơ lên, những cánh tay mà mấy tháng trước đây còn bọc trong tấm vải lót, với những bàn tay tí xíu trông như những con bướm trắng và hồng. Sau đó, các em ra chơi; trước khi ra, mỗi em cầm lấy cái làn nhỏ của mình treo ở tường, trong đựng sẵn bữa ăn trưa. Chúng ra vườn và tản ra khắp nơi, đoạn lấy thức ăn ra: bánh mì, những quả mận, một miếng phô ma nhỏ, một quả trứng luộc, một nắm đỗ luộc, một cánh gà giò. Mẹ vào trong vườn để vuốt ve em này em khác. Nhi ều em xúm quanh mẹ, vây lấy mẹ, ngẩng mặt lên đểđược hôn. Một em đưa biếu mẹ một phần tư quả cam đã cắn dở, em khác một miếng vỏ bánh mì, một em bé gái cho mẹ một ngọn lá. Trong lúc đó thì nơi này, nơi khác xảy ra khá nhiều tai nạn làm cho các cô giáo phải chạy vội đến. Có những bé gái khóc và không tháo được cái nút ở chiếc khăn tay ra, có những em tranh nhau mấy hạt táo, cấu nhau và hét ầm lên. Một em bé trai, vấp một chiếc ghế dài lật ngửa rồi ngã, cứ khóc thổn thức chứ không làm sao đứng lên được. Trước khi ra về mẹ ôm ba bốn em vào hai cánh tay, thế là từ tứ phía các em kéo nhau đến đểđược bế, dù mặt mũi bê bết những lòng đỏ trứng hoặc nhoe nhoét nước cam; các em tranh nhau, em thì nắm lấy các ngón tay mẹđể xem những chiếc nhẫn, em thì kéo sợi dây chuyền để xem chiếc đồng hồ, những em khác thì muốn tóm lấy cái bím tóc của mẹ. "Bà cẩn thận? Chúng làm bẩn hết áo", mấy cô giáo bảo mẹ như vậy. Nhưng mẹ chẳng để ý gì đến điều ấy, cứ tiếp tục vuốt ve các em, và tất cả đều muốn đến với mẹ, dang tay về phía mẹ, tranh nhau để chạy đến trước, và đều hét lên "Chào bà, chào bà!" Nhưng rồi chúng tôi cũng thoát ra được khỏi khu vườn, và các emđứng bên trong dán mũi vào lưới hàng rào để nhìn chúng tôiđi qua. Các em thò những cánh tay bé xíu ra ngoài vẫy mẹ, lại biếu mẹ những vỏ bánh mì, những miếng phô ma, những mẩu quả, tất cả cùng kêu to: "Chào bác! Chào bác! Mời bác đến nhá!" Còn mẹ thì đi, nhưng vẫn đưa tay ra vuốt những bàn tay, hàng trăm bàn tay bé nhỏđang về phía mẹ như một hàng rào hoa hồng tươi thắm, sinh động; rồi bước ra phố, áo đầy những mẩu thức ăn, những vết bẩn, đôi mắt nhòa lệ sung sướng nhưđi dự một ngày hội về, và người ta còn nghe từ trong vườn trẻ vọng ra như tiếng chim ríu rít: "Chào bác! Chào bác! Lần sau bác lại đến, bác ạ!"

BUỔI THỂ DỤC

Thứ tư 5. Tiết trời vẫn đẹp. Buổi học thể dục của chúng tôi được chuyển từ trong nhà ra ngoài vườn để tập với dụng cụ. Hôm qua Garônê ở trong văn phòng thầy hiệu trưởng, lúc mẹ cậu Nenli đến xin cho con được miễn những bài tập thể dục mới. Bà ấy để tay lên đầu con, nói một cách khó nhọc với thầy hiệu trưởng: "Cháu không thể tập được..." Nenli r ất buồn vì bị gạt ra, không được tập đu dây, tự thấy tủi nhục. "Rồi mẹ sẽ thấy, cậu ta nói, - con sẽ tập được như các bạn". Bà mẹ lặng lẽ nhìn con, thương yêu và dìu dầng, rồi ngập ngừng bà nói: "Tôi chỉ sợ các bạn...". Bà muốn nói: "chế nó". . Nenli trả lời: "Việc đó không sợ, đã có Garônê. Chỉ cần Garônê không cười con là được rồi..." Thế là người ta để cho cậu được tập thể dục. Trước tiên thầy giáo dẫn chúng tôi đến leo cột - cái cột thẳng đứng, rất cao; phải leo tít lên đến trên cùng, rồi đứng thẳng người trên chiếc xà ngang. Đêrôtxi và Côretti leo như hai con khỉ. Cậu bé Prêcôtxi cũng leo rất giỏi, dù vướng cái áo dài đến đầu gối. Khi cậu ta leo, anh em trêu cho Cậu ta cười bằng cách nhại lại câu nói đầu lưỡi của cậu: "Xin lỗi, xin lỗi...": Xtacđi thì thở hồng hộc, mặt đỏ như con gà tây, nghiến răng như một con chó đang gầm gừ, quyết leo lên đến đích dù sau có phải ở luôn lại đó cũng đành. Và Cậu ta đến đích thật. Còn Nôbitx khi đến lượt cậu leo lên tới xà ngang, thì lấy dáng đứng ở đấy trông rất oai vệ. Vôtini bị tụt hai lần, dù đã thắng một bộ quần áo mới, có sọc xanh rất đẹp, vừa sắm cốt để dùng tập thể dục. Muốn leo cho dễ, tất cả chúng tôi đều xoa tay bằng bột nhựa thông. Người ta biết rằng Garôpphi, nhà kinh doanh ấy, cung cấp cho tất cả mọi người với cá giá mỗi gói một xu, và chắc là thế nào cũng ăn lãi mỗi gói một ít. Đến lượt Garônê. Cậu ta vừa leo, vừa nhá bánh mì, xem dễ như không; và tôi tin rằng cậu ta còn có thể vác thêm một người nữa trên vai là khác, vì cậu ta khỏe thế cơ mà, khác gì một con bò mộng non. Sau Garônê đến lượt Nenli. Vừa thấy cậu ôm cái cột với hai cánh tay dài và gầy, là mọi người đã cười và thì thầm. Nhưng Garônê, hai tay khoanh lại trước ngực, đảo mắt nhìn quanh, cái nhìn hứa hẹn rõ ràng những quảđấm vào đầu; và thế là mọi người bỗng im bặt như có phép thần thông. Nenli bắt đầu leo một cách rất chật vật. Cậu bé đáng thương mặt đỏ như lửa, mồ hôi đẫm cả trán. Thầy giáo bảo cậu: "Thôi xuống đi". Nhưng cậu cứ cố, cố sức leo... Tôi cứ thấp thỏm lo sợ cậu tuột tay rơi huỵch xuống đất bất tỉnh nhân sự. Tôi nghĩ rằng, giá tôi đang ở vào chỗ cậu ta mà mẹ tôi trông thấy thì mẹ sẽđau đớn như thế nào? Và nghĩ như vậy tôi lại càng thêm thương người bạn tội nghiệp của tôi. Tôi có thể hy sinh không biết cái gì đây để cho cậu có thể leo lên đến tận trên cao được; giá tôi có thể lấy tay đẩy cậu ta lên, mà không ai trông thấy!... Trong lúc đó thì Đêrôtxi, Côretti và Garônê luôn mồm khuyến khích: "Lên đi! Lên nữa đi! Nenli! Can đảm lên chút nữa thôi..." Nenli cố hết sức bình sinh rướn người lên một lần nữa, khẽ rên một tiếng, và chỉ còn cách cái xà ngang có hai ngón tay nữa mà thôi. Hoan hô! - Mọi người đứng dưới thét lên, cố lên, tí nữa thôi..." Và thế là Nenli đã nắm chặt được cái xà. Mọi người vỗ tay. "Hoan hô thầy giáo nói, - thế là đủ rồi, con xuống đi!" Nenli không nghe, cậu muốn đứng lên cái xà như những người khác. Sau vài cố gắng nữa, cậu đặt được hai khuỷu tay lên đấy, rồi hai đầu gối, sau cùng là hai bàn chân; thế là cậu đứng thẳng người lên đấy, thở dốc, nhưng rạng rỡ vẻ chiến thắng, nhìn xuống chúng tôi. Chúng tôi lại vỗ tay hoan hô cậu lần nữa. Bấy giờ cậu đưa mắt nhìn ra đường. Tôi ngoảnh về phía ấy và, qua hàng cây trồng để che hàng rào sắt của khu vườn, tôi thấy mẹ cậu đang đi đi lại lại trên vỉa hè, nhưng không dám nhìn cậu. Nenli tụt xuống và mọi người đón cậu, vui như Tết. Cậu vui hẳn lên, linh hoạt lên, đôi mắt long lanh, tưởng đã thành một người khác. Sau buổi học, mẹ cậu đến đón, ôm hôn cậu và hỏi vẻ hơi lo ngại: "Thế nào, cậu bé tội nghiệp của mẹ, con tập thế nào?" Các bạn liền trả lời thay cậu: "Tốt lắm, bác ạ! Bạn leo giỏi lắm, giỏi chẳng khác gì chúng cháu cả; bạn ấy khỏe, bác ạ! Bạn ấy nhanh lắm, bạn ấy leo cũng như mọi người..." Tội nghiệp, bà mẹ vui sướng biết ngần nào. Bà muốn cảm ơn chúng tôi, lắp bắp mấy lời, bắt tay ba bốn đứa chúng tôi, vuốt ve Galônê, rồi dẫn con về. Và chúng tôi thấy hai mẹ con bước nhanh, vừa nói chuyện vừa làm dáng điệu, vẻ hài lòng như chúng tôi chưa bao giờ được trông thấy cả.

THẦY GIÁO CỦA BỐ

Thứ ba 11. Ngày hôm kia lúc sắp ăn chiều, đọc tờ báo, bố bỗng kêu lên một tiếng ngạc nhiên và nói với chúng tôi: "Thế mà bố cứ tưởng thầy ấy đã mất từ hai mươi năm nay, thầy giáo sơđẳng đầu tiên của bốấy mà. Thì ra thầy Vinsenzô Crôxetti đáng thương vẫn còn sống! Năm nay thầy đã tám mươi bốn tuổi rồi! Bố vừa đọc thấy tin bộ tặng thầy huân chương. Biểu dương. Công trạng vì sáu mươi năm trong ngành giáo dục của thầy. Sáu mươi năm! Con nghe rõ chứ? Thầy chỉ mới về hưu cách đây có hai năm thôi. Nhà thầy ở cách Tôrinô một giờ đi bằng xe 'lửa, tại Côndôvê, quê của bà làm vườn cũ của ta ở Klêri ấy. Bố nói thêm: "Enricô à, ta sẽđi thăm thầy". Và su ốt cả buổi tối, bố chỉ nói toàn chuyện người thầy giáo của mình. Cái tên của người thầy giáo đầu tiên đã gợi cho bố nhớ lại hàng nghìn kỷ niệm của thời thơấu, của những bạn ban đầu, của bà Mẹ đã mất. "Thầy Crôxetti thân yêu ấy, - bố nói, - giờđây bố như đang thấy thầy ở trước mắt. Đã bốn mươi năm rồi từ ngày bố học với thầy. Thầy vóc người nhỏ nhắn, bấy giờ lưng cũng đã hơi còng, đôi mắt nhỏ nhắn, không có râu, mặt nghiêm nghị, nhưng táe phong thầy rất lễ độ; thầy thương học trò như cha thương con và không bỏ qua một lỗi lầm nào của học trò mà không uốn nắn. Từ một người nông dân thầy đã thành ông giáo, nhờ cố gắng học tập và chịu đựng mọỉ sự thiếu thốn. Bà nội con rất mến thầy, ông nội xem thầy như bạn thân. Không rõ từ Tôrinô này thầy chuyển về Cônđôvê, rồi ở luôn đấy như thế nào cả?... Thầy sẽ không nhận ra bố, chắc thế, nhưng có hề gì, bố thì sẽ nhận ra thầy ngay!... Bốn mươi bốn năm rồi... Bốn mươi bốn năm, Enricô à? Mai, ta đi thăm thầy. Thế là hôm qua, lúc chín giờ sáng, chúng tôi ra ga Xuxa. Tôi rất muốn được Garônê cùng đi, nhưng không thểđược, vì mẹ cậu đang ốm. Thật là một ngày xuân đẹp. Tàu chạy qua những cánh đồng xanh um và những hàng giậu trồng hoa, tỏa hương thơm ngát. Bố có vẻ vui lòng lắm: chốc chốc lại quàng tay qua cổ tôi, và vừa ngắm cảnh thôn quê vừa chuyện trò với tôi, thân mật như với một người bạn: "Tội nghiệp thầy giáo, bố nói, - sau ông nội, thầy là người thương yêu bố nhất, và đã đem cho bố nhiều điều tốt đẹp nhất. Bố không bao giờ quên được những lời khuyên bảo bổ ích của thầy, và cả những lời trách mắng rất nghiêm khắc của thầy làm cho bố khi vềđến nhà rồi mà cổ vẫn như còn nghẹn. Bố vẫn như thấy thầy đang bước vào lớp học, dựng cái gậy vào một góc tường, treo cái áo rét lên mắc áo, lúc nào cũng vẫn một dáng điệu ấy. Thầy bao giờ cũng bình tĩnh, rất có lương tâm, đầy thiện chí và rất chăm chỉ, như ngày nào thầy cũng mới lên lớp lần đầu tiên cả. Bố vẫn nhớ những lúc thầy gọi bố. "Bôttini này, Bôttini" Hai ngón tay thầy cầm quản bút... Xuống xe ở Cônđôvê là chúng tôi tìm ngay đến nhà bà làm vườn cũ, bà ta có một cửa hiệu nhỏ trong một ngõ cụt. Chúng tôi thấy bà giữa đám con cái, bà tiếp chúng tôi rất niềm nở, cho chúng tôi biết tin chồng đi làmở Giênôva từ ba năm nay và cũng sắp về, tin đứa con gái vừa điếc vừa câm, đang học trường dạy những người câmđiếc ở Tôrinô. Rồi bà bảo cho chúng tôi địa chỉ của thầy Côretti mà cả làng đây ai cũng biết. Chúng tôi ra khỏi vùng này, và theo một con đường vắt qua các ngọn đồi, hai bên toàn những hàng giậu nở hoa. Bố không nói gì nữa, bị thu hút vào những kỷ niệm xưa; thỉnh thoảng mỉm cười, hoặc lắc đầu buồn bã. Bỗng bố dừng lại, nói: "Kìa, thầy kia rồi; cam đoan là đúng như thế". Một cụ già, vóc người nhỏ nhắn, râu bạc, đội cái mũ rộng vành, tay chống gậy, đang đi xuống ngọn đồi trước mặt chúng tôi. Dáng đi của cụ ngập ngừng, hai tay run run. "Đúng là thầy!" bố nhắc lại và rảo bước. Đến gần cụ già chúng tôi dừng lại; cụ cũng đứng lại và nhìn bố. Nét mặt cụ vẫn tươi và đôi mắt sáng. Thưa cụ, có phải là con đang được hân hạnh hầu chuyện cụ giáo Vinsenzô Crôxetti đây không ạ?" bố vừa nói vừa bỏ mũ ra. Cụ già chào lại. "Chíh tôi đây ạ" - cụ trả lời, giọng hơi run, nhưng nghe sang sảng. - Thế thì, - bố nói tiếp và nắm lấy một bàn tay của cụ, xin thầy cho phép một học trò cũ của thầy được bắt tay thầy. Con từ Tôrinô đến đây hầu thăm thầy. - Thật hân hạnh cho tôi quá... Tôi không biết... Ông học với tôi hồi nào nhỉ? Xin lỗi, ông vui lòng cho biết tên. Bố xưng tên và nói rành mạch ngày bố vào trường, lại nói thêm: "Có thể thầy không nhớ con, đó là đương nhiên; nhưng con thì nhận ra thầy ngay!" Cụ giáo cúi đầu suy nghĩ, mồm lẩm bẩm tên bố hai, ba lần; còn bố thì mỉm cười nhìn thầy, đôi mắt xúc động. Bỗng cụ giáo nhớ ra, ngẩng đầu lên, rồi nói chậm rãi: "Anbectô Bôttini, con kỹ sư Bôttini, ở quảng trường Cônxôlata?" Đúng thếạ? - Bố nói và đưa cả hai tay về phía cụ. - Thế thì, cho phép tôi, thưa ông... - và bước tới cụ ôm hôn bố, cái đầu bạc của cụ Crôxetti chỉ mới ngang vai người học trò thôi, và bố đưa môi hôn vào vầng trán tôn kính của cụ "Giờ, xin mời qua bước lại nhà cụ giáo nói." Và không nói gì thêm, cụ quay trở về bằng con đường cũ. Mấy phút sau, chúng tôi đến một mảnh vườn con, cuối vườn là một ngôi nhà nhỏ có hai cửa ra vào một cái quét vôi trắng chung quanh. Cụ giáo mở cửa ấy, đưa chúng tôi vào một căn phòng, bốn bức tường quét vôi trắng. Ở một góc kê một tấm phản, có một cái chăn đắp chân kẻ ô xanh trắng; xa một chút là cái bàn giấy, trên mặt có cái giá sách nhỏ, chung quanh là bốn chiếc ghế tựa. Và một bản đồđã cũđóng đinh vào tường: tất cả đồ đạc trong phòng chỉ có thế. .. Chúng tôi ngồi xuống. Bố và cụ giáo nhìn nhau một lúc yên lặng. Rồi cụ giáo nói to, mắt nhìn nền nhà lát gạch mà ánh mặt trời chiếu sáng nom như một bàn cờ: "Anh Bôttini! Ồ, tôi nhớ rõ lắm, bà thân sinh ra anh là một phụ nữ rất tốt! Năm thứ nhất anh ngồi ở chiếc băng trên cùng, phía bên trái cạnh cửa sổ. Nào anh xem, tôi vẫn còn nhớđấy chứ! Giờđây tôi vẫn như còn nhìn thấy cái đầu tóc xoăn xoăn của anh..." Cụ ngừng lại, suy nghĩ, rồi nói tiếp: "H ồi đó, anh là một cậu con trai rất linh hoạt, phải không nào? Đến năm thứ hai, anh bị bệnh bạch hầu, và bà mẹđau khổ của anh đem anh trở lại trường sau khi khỏi bệnh, gầy, trùm khăn kín mít rữ bấy đến nay đã bốn mươi năm rồi, phải không nào? Anh còn nhớ đến người thầy giáo già của mình, thế là rất quý... Có những học trò cũ như anh đã đến thăm tôi những năm trước đây, có người đã là giáo sĩ, đại tá, tóm lại làở những địa vị và nghề nghiệp rất khác nhau". Cụ Crôxetti hỏi xem bố làm nghề gì; biết rõ, cụ kêu lên: "Tôi rất vui lòng, rất vui lòng!"... Rồi cụ nói tiếp: Ít lâu nay tôi không được gặp lại ai nữa, và tôi e rằng có thể anh là người đến thăm tôi cuối cùng đấy anh ạ!" - Thầy nói gì vậy? Trông thầy vẫn còn mạnh và khỏe nữa, thầy không nên nói như vậy! - Anh tưởng Thế đấy thôi. Này anh xem, tay tôi run đây này, - vừa nói cụ giáo vừa chìa hai tay ra, - đó là một triệu chứng xấu... tôi bị chứng này đã ba năm nay, hồi đó tôi còn đang dạy. Lúc đầu tôi không để ý đến, cho rằng sẽ khỏi thôi. Nhưng trái lại mỗi ngày càng run thêm, và cứ thếđến một ngày nọ tôi không thể viết được nữa.. Ôi, thật là một vốđánh vào tim tôi, anh ạ, cái hôm mà tay tôi đánh rơi một giọt mực lên trang vở một học sinh của tôi? Tôi còn cố kéo dài ít lâu nữa, thế rồi, sau sáu mươi năm dạy học, tôi đành phải bỏ nhà trường, bỏ học trò của tôi; bỏ công tác. Thật là cay đắng, anh thấy không, cay đắng hết sức. Sau buổi lên lớp cuối cùng, toàn thể học sinh đã kéo theo tôi về nhà, làm cho tôi vui; dù sự bày tỏ cảm tình như vậy tôi vẫn buồn, tôi hiểu rằng cuộc đời đối với tôi như vậy là hết rồi... Năm trước đây nhà tôi mất, và cảđứa con trai độc nhất của tôi cũng chết; tôi chỉ còn có hai đứa cháu gọi bằng bác mà thôi. Giờ tôi sống với số tiền hưu trí mấy trăm lừa, tôi chẳng còn làm gì nữa cả, đối với tôi ngày cứ dài như vô tận; thú vui duy nhất của tôi là giở lại những quyển sổ các lớp cũ của tôi, những bộ sưu tập các họa báo, mấy quyển sách mà người ta biếu. Đấy, cụ giáo vừa nói vừa chỉ cái giá sách, - trong ấy dựng tất cả những vật kỷ niệm của tôi, tất cả quá khứ của tôi! Ngoài ra tôi chẳng còn gì khác nữa trên đời này. Rồi bỗng nhiên giọng vui vẻ, cụ nói tiếp: "Tôi sẽ dành cho anh một việc bất ngờ, anh Bôttini thân yêu ạ" Cụ giáo đứng dậy, lại gần bàn làm việc, mở một ngăn kéo. Trong ngăn kéo có rất nhiều tập giấy nhỏ buộc dây lụa, trên mỗi tập có ghi một cái tên và ngày tháng. Cụ tìm một tí, mở ra một tập, lật lật mấy tờ, rồi rút ra một tờ giấy đã ngả màu vàng, đưa cho bố. Đó là một bài tập của bố, ngày tháng đề cách đâyđã bốn mươi năm. Trên đầu trang giấy, thấy ghi: Anbectô Bôttini - Chính tả, ngày mồng 3 tháng tư năm 1838. Bố nhận ra ngay nét chứ trẻ con thô, to của mình, và vừa mỉm cười vừa đọc, nhưng bỗng mắt bố rưng rưng lệ; tôi liền đứng dậy và hỏi bố làm sao vậy. Bố đưa tay quàng lấy người tôi, ôm chặt tôi vào một bên mình và nói: "Con hãy nhìn trang giấy này. Con có thấy không, đây là những chữ sửa lại, do tay bà n ội sửa cho bốđấy Bao giờ bà cũng tô lại những chữ l và t cho bố, còn những dòng cuối bài thì là do tay bà hoàn toàn viết lấy. Bà cố tập viết cho giống nét chữ của bố, và những khi bố mệt hay buồn ngủ thì bà làm nốt bài cho bố, mẹ của bố thật là một bà thánh!" Rồi bố cúi xuống hôn vào trang giấy. "Chính Những vật này, - cụ giáo vừa nói vừa chỉ vào các tập giấy - là những vật lưu niệm của tôi. Cứ mỗi năm tôi để lại một bài tập của mỗi học sinh của tôi; còn đấy cả, sắp xếp thứ tự và đều đánh số rõ ràng. Thỉnh thoảng tôi lại giở ra từng bài, đọc bài này một câu, bài kia một câu, thế là tôi nhớ lại hàng nghìn việc, và hình như tôi đang sống lại trong quá khứ của mình vậy. Biết bao nhiêu học trò, anh ạ: cứ nhắm mắt lại là tôi thấy những khuôn mặt nọ tiếp theo những khuôn mặt kia, lớp này đến lớp khác, hàng trăm và hàng trăm trẻ em. Ai biết được trong sốđó đã có bao nhiêu người chết rồi? Tôi nhớ rõ hơn hết là những học trò tốt nhất và những học trò xấu nhất, những người đã làm tôi vui lòng và những người đã làm tôi đau lòng, vì giữa đám cừu non cũng có những con rắn. Nhưng giờ thì, anh hiểu không, cũng như là tôi đã ở thế giới bên kia rồi, nên tôi đều yêu mến tất cả họ như nhau hết". Cụ giáo ngồi xuống, và hai tay cụ nắm lấy mặt bàn tay tôi. Thưa thầy, - bố vừa hỏi vừa mỉm cười, - thế về phần con thầy có còn nhớ một vài vai nghịch ngợm nào không ạ? Anh ấy à? - cụ giáo cũng vừa trả lời vừa mỉm cười, - không có gì, lúc này có lẽ tôi chưa nhớ ra, như thế không cồ nghĩa là anh không làm việc gì nghịch ngợm cả Thực ra hồi đó trông anh nghiêm trang so với lứa tuổi của anh. Tôi còn nhớ tình thương yêu rất lớn của bà cụđối với anh... Anh éo biết rằng đến thăm tôi thế này là anh rất tốt và rất đáng yêu không? Làm sao mà anh có thể gác công việc bận rộn của mình để đến thăm một người thầy giáo tội nghiệp như thế này? Thế này đây, thầy ạ, - bố trả lời hoạt bát hẳn lên, - con không quên được cái ngày con bắt đầu đi học. Bà mẹđáng thương của con dắt con đến. Đó là lần đầu tiên mà mẹ con phải xa con trong hai tiếng đồng hồ, mà mẹ con đưa con ra khỏi nhà mình và giao con cho những người xa lạ. Đối với một bà mẹ rất hiền từấy, ngày con bước vào trường học cũng như ngày con bước vào đời' nó bắt đầu một chuỗi dài những phen xa cách cần thiết và đau đớn; từ ngày ấy, xã hội đã rút khỏi tay bà đứa con trai để rồi không bao giờ trả lại nó trọn vẹn cho bà nữa. Bà gửi gắm con cho thầy, thầy thân mến ạ, mà giọng bà run run, và khi ra về bà còn mỉm cười với con qua khe cửa mà mắt bà đẫm lệ, và thầy đã đưa tay làm một dấu hiệu để làm yên lòng bà như muốn nói với bà: "Thưa bà, xin bà cứ tin cậy vào tôi". Đấy, chính cái cử chỉấy, cái nhìn ấy làm cho con hiểu rằng thầy chia sẻ nỗi bồi hồi của mẹ con, cái bàn tay ấy của thầy đặt lên trái tim mình để lầm cho người mẹđáng thương được yên lòng; cái cử chỉ hiền từ, nhân hậu, thông cảm ấy, bao giờ con cũng nhớ đến, như đã khắc sâu vĩnh viễn vào lòng con. Chính cái kỷ niệm ấy đã làm cho con từ Tôrmô đến đây đểđược thưa với thầy, sau bốn mươi bốn năm(l) xa cách: "Thưa thầy kính yêu, con xin cám ơn thầy!" Cụ giáo không nói gì, cụ xoa mãi đầu tôi với một bàn tay run run, rồi từđầu cụ xoa xuống trán, và từ trán xuống vai tôi. Trong lúc đó, bố nhìn những bức tường trống trải, chiếc giường gỗ tồi tàn, một mẩu bánh mìđặt cạnh một chai dầu ăn ở khung cửa sổ, và bố có vẻ suy nghĩ: "Tội nghiệp thầy giáo, sau sáu mươi năm làm việc, đó là tất cả phần thưởng của thầy?" Cụ già phúc hậu lấy làm bằng lòng, và lại tiếp tục nói chuyện rất hoạt bát, về gia đình chúng tôi, về những thầy giáo khác thuở ấy , về những bạn học của bố. Bố ngắt câu chuyện, ngỏ ý mời cụ giáo đi xuống Cônđôve ăn bữa trưa với chúng tôi. "Xin Cám ơn anh, nhưng tiếc là tôi không nhận lời được cụ giáo nói. Và xem chừng cụ lưỡng lự, bố cầm lấy hai tay cụ, và lại khẩn khoản mời. Cụ giáo nói: Làm sao mà tôi ăn được với hai bàn tay khổ sở run như cầy sấy thế này? Khác nào là hình ph ạt đối với tôi và đối với những người khác nữa. - Chúng con sẽ giúp thầy, thầy ạ - bố trả lời. Thế là cụ nhận lời, gật đầu với một nụ cười. "Đối với tôi, hôm nay quả là một ngày rất đẹp, - cụ nói và đóng cửa lại, - một ngày rất đẹp, anh Bôttini thân mến ạ, một ngày mà còn sống là tôi còn nhớ, chắc chắn như vậy anh ạ". B ốđưa tay đỡ cụ giáo cùng đi, còn tôi thì nắm lấy bàn tay cụ, và chúng tôi theo con đường nhỏđi xuống dốc. Chúng tôi gặp hai cô gái béđi chân đất đang chăn bò và một cậu bé con trai vác một bó rơm trên vai. Cụ giáo cho biết rằng các cô cậu ấy là học trò lớp hai, buổi sáng họ ra đồng chăn bò và buổi chiều đi giày vào để đến lớp học. Gần đứng bóng thì chúng tôi đến quán hàng, chúng tôi ngồi vào một cái bàn lớn, cụ giáo ngồi giữa hai bố con, và chúng tôi bắt đầu ăn trưa. Quán hàng v ắng lặng. Ông cụ tội nghiệp lại rất vui, và gần như cụ không thể nào ăn được. Bố cắt thịt, cắt bánh, lấy muối vào đa cho cụ. Uống thì cụ phải cầm cốc cả hai tay, thế mà chiếc cốc vẫn vập vập vào răng cụ. Cụ nói chuyện nhiều và say sưa về những quyển sách tập đọc của cụ hồi thơ ấu, đến những lời khen ngợi của các người trên của cụ, tất cả những điều ấy với một nụ cười gần như trẻ trung. Còn Bố thì nhìn cụ với cái vẻ mặt mà thỉnh thoảng ở nhà tôi vẫn bắt gặp, những lúc bố nhìn tôi và mỉm cười vì một ý kín đáo nào đó của mình. M ải nói chuyện, cụ giáo đánh đổ rượu vào áo gilê, bố vội đứng lên lấy khăn của mình lau cho cụ, nhưng cụ thì ngăn lại và nói: "Xin đừng, xin đừng, tôi không dám..." và cụ lại cười, vừa cười vừa nói những tiếng La tinh. Sau cùng, cụ nâng cốc trịnh trọng, nói: "Xin chúc sức khỏe của anh! Và của các cháu! Để tưởng nhớ bà mẹ hiền của anh! - Kính chúc sức khỏe của thầy! Bố vừa đáp lại vừa bắt tay cụ. Từ cuối gian phòng, chủ quán và những người giúp việc nhìn chúng tôi vẻ rất hài lòng, và lấy làm tự hào thấy cụ giáo vùng mình được khoản đãi như thế. Hai Giờ chúng tôi ra về, và cụ giáo ngỏ ý muốn tiễn chúng tôi ra ga. Bố lại đua tay cho cụ khoác, còn tôi lại nắm lấy bàn tay cụ và ầm gậy cho cụ. Những người đi đường đều dừng lại nhìn chúng tôi, vì mọi người đều biết cụ Crôxetti và chào cụ. Đến một quãng đường, chúng tôi nghe từ một cửa sổ mở rộng, những tiếng trẻ em đang cùng đọc bài tập đọc. Cụ già đứng lại và mặt cụđượm buồn, cụ nói: " Đấy việc này làm cho tôi đau lòng, anh Bôttini thân mến ạ; nghe tiếng trẻ con học ở nhà trường mà lại không được ở đấy nữa, nghĩ rằng chúng đã có một thầy giáo khác... Sáu mươi năm rồi, tai tôi đã nghe bản hòa tấu những giọng trẻ emấy và trái tim tôi đã quen thuộc quá rồi... Giờ thì tôi chẳng còn gia đình, chẳng còn đứa trẻ nào nữa! - Xin lỗi thầy, - bố nói, - thầy vẫn còn nhiều đứa con ở khắp nơi trên thế giới. Họ vẫn nhớ thầy, cũng như con suốt đời vẫn nhớ thầy vậy. Không, không, - cụ nói một cách buồn rầu, - tôi không còn có trường học nữa, tôi không còn có trẻ con nữa, và không có trẻ con thì tôi cũng không sống được bao lâu nữa. - Xin thầy đừng nói vậy, - bốđáp lại, - thầy đã làm được biết bao nhiêu việc éo ích, thầy đã cống hiến cảđời mình một cách cao quý biết bao! Cụ giáo nghiêng cái đầu bạc vào vai bố một lúc, rồi siết chặt tay tôi. Chúng tôi vào sân ga, tàu sắp chạy. "Xin tạm biệt thầy", bố vừa nói vừa ôm hôn cụ Crôxetti vào hai má. "Tạm biệt và xin Cám ơn!" cụ giáo trả lời và nắm bàn tay của bố với cả hai bàn tay run rẩy của mình và ghì lên chổ trái tim của mình. Khi tôi ôm hôn c ụ, tôi thấy mặt cụđẫm nước mắt. Bốđẩy tôi lên toa xe, và đến lượt mình bươc lên thì bố nhanh tay lấy ngay cái gậy thô kệch của cụ giáo đang chống, đổi bằng cái gậy rất đẹp của mình tay cầm nạm bạc, có khắc hai chữ cái họ tên mình. "Xin thầy giữ cái này làm vật lưu niệm của con", bố nói. Cụ giáo cố tìm cách trả cái gậy cho bố và lấy lại gậy của mình, nhưng Bố đã bước nhanh vào trong toa và đóng cửa lại. Xin tạm biệt thầy giáo yêu quý của con? Tạm biệt, con! - Cụ giáo đáp lại, trong lúc tàu chuyển bánh, - chúc con được phước lành, vì niềm vui mà con đã đem đến cho một ông già tội nghiệp. "Xin sẽ gặp lại", bố thét to giọng xúc động. Nhưng cụ giáo cúi đầu xuống, dường như muốn nói: "Chúng ta sẽ không còn bao giờ gặp lại nhau nữa". "Có chứ, có chứ, - bố nhắc lại, chúng ta sẽ lại gặp nhau!" Thay cho câu trả lời, cụ giơ bàn tay run rẩy lên. Rồi bóng cụ khuất hẳn.

DƯỠNG BỆNH

Thứ năm 20. Ai mà có thể biết được rằng, sau cuộc đi với bố trở về, lòng tôi còn vui sướng biết ngần nào thì trong mười ngày liền tôi chẳng còn dược nhìn thấy đồng quê, nhìn thấy bầu trời gì nữa? Tôi vừa bịốm, suýt chết. Tôi nghe mẹ khóc thổn thức, tôi thấy bố, mặt tái mét, nhìn tôi, đôi mắt lạc hẳn đi, em Xinvia và em trai tôi nói với nhau thì thầm, và ông bác sĩ lúc nào cũng ở cạnh tôi, nói với tôi những điều mà tôi không nhớ gì hết. Ôi? Mẹ tội nghiệp! Ba hay bốn ngày đã qua, tôi không nhớ rõ nữa, tưởng chừng như tôi đã trải qua một giấc mê tối tăm và hỗn độn. Hình như tôi thấy cạnh giường tôi cô giáo lớp một trên hiền từ của tôi, lấy khăn tay đưa lên mồm cố nén cơn ho. Tôi nhớ mơ hồ rằng thầy giáo của tôi cúi xuống hôn tôi, và râu thầy hơi chích vào má tôi. Tôii thấy đi qua, như sau một màn sương mù, cái đầu tóc đỏ của Crôtxi, những món tóc xoăn bạch kim của Đêrôtxi, cậu bé người Calabria mặc quần áo đen, Garônê mang cho tôi quả quít còn cả lá rồi lại chạy vội đi vì mẹ cậu đang ốm nặng. Rồi tôi tỉnh dậy như sau một giấc ngủ dài, và tôi hiểu rằng tôi đã đỡ, vì thấy bố mẹ mỉm cười và nghe Xinvia hát khe khẽ! Ôi? Giấc mơảm đạm biết bao?... Tuy vậy, tôi đã thấy trong người khá lên, mỗi ngày một khá thêm. Cậu bé thợ nềđã đến và làm cho tôi cười lại lần đầu tiên với cái trò sứt môi; cậu ta làm khéo tệ, từ cái ngày ốm dậy mà mặt cậu dài ngoẵng ra, cái cậu bé tội nghiệp. Côretti cũng đến; Garôpphi cũng đến: cậu biếu tôi hai vé của cuộc xổ số mới mà trúng thì được "một cây bút chì dành cho ta năm điều ngạc nhiên", cậu mua được của một kẻ bán lại ở phố Bectôla. Hôm qua trong khi tôi đang ngủ thì Prêcôtxi đến, cậu ghé môi hôn khẽ tay tôi đểđừng đánh thức tôi dậy; và vì cậu mới từ xưởng rèn của bố về, mặt còn đen những than, nên đã để lại một vết đen trên tay áo tôi. Thức dậy tôi trông thấy mà sung sướng. Chỉ mới có mấy ngày mà cây cối đã xanh tươi đến thế! Và tôi thèm biết bao nhiêu được như các em bé mẹ tôi trông thấy đang chạy đến trưởng, tay cắp sách vở khi bố bế tôi ra chỗ cửa sổ. Và tôi, vài ngày nữa, tôi cũng trở lại trường; tôi sốt ruột quá chừng, mong chóng gặp lại tất cả các bạn học thân yêu, cái ghế băng, cái vườn trường, con đường phố, mong biết tất cả những gì đã xảy ra trong khi tôi ốm, mongđược cầm lại sách vở của tôi. T ưởng chừng như đã một năm rồi tôi không trông thấy sách vở! Tội nghiệp mẹ tôi, mẹ xanh và gầy đi nhiều quá! Tội nghiệp bố tôi! Bố có vẻ mệt nhọc quá! Và các bạn tất của tôi, đã đến thăm tôi, đi rón rén trên đầu ngón chân và ôm hôn trán tôi. Giờ tôi buồn quá, vì nghĩ rằng một ngày kia rồi chúng tôi sẽ phải xa nhau... tôi biết chắc là tôi còn sẽ tiếp tục học với Đêrôtxi và vài bạn khác nữa, nhưng Garônê, Prêcôtxi, Côretti sẽ chẳng đến trường nữa, sau khi học xong lớp bốn; từ biệt các bạn! Chúng tôi rồi sẽ mất hút nhau; các bạn sẽ không còn đến cạnh giường tôi nếu tôi còn ốm lại nữa. Sao? Biết bao cậu bé trung hậu, các bạn rất tất, các bạn rất thân của tôi, tôi không bao giờ được gặp lại nữa sao?

NHỮNG NGƯỜI BẠN THỢ THUYỀN

Thứ năm 27. Tại sao lại không bao giờ nữa, Enricô à? Điều đó là tùy ở cậu thôi. Học xong lớp bốn, cậu vào trường trung học và các bạn sẽđi làm công nhân, nhưng chắc các bạn vẫn cùng ở trong một thành phố với nhau trong nhiều năm nứa, và tại sao mà các cậu lại không gặp lại nhau? Bao giờ cậu vào học trường trung học cấp trên(l) cậu sẽ đến tìm các bạn ở các cửa hiệu của họ hay ở các xưởng thợ của họ, vì cậu sẽ thích thú gặp lại ở đấy những bạn học của cậu, nhưng con người đang lao động. Cậu sẽở lại một lúc với họ, và tìm hiểu cuộc đời với người đời, cậu sẽ thấy là cậu học được ở họ biết bao nhiêu điều về kỹ thuật của họ, xã hội của họ và vềđất nước của cậu, mà những người khác không thể nào dạy cho cậu được. Hãy nghĩ kỹđến điều này: nếu cậu không giữ gìn những tình bạn thời thơấu ấy, thì sau này sẽ khó tìm được những tình bạn như thế, tôi muốn nói là ở ngoài lớp học của mình. Và như vậy là cậu chỉ sống trong có một giai cấp xã hội thôi, và cậu sẽ như người học giả mà chỉđọc có mỗi một cuốn sách thôi. Ngay từ giờ, cậu hãy tự liệu mà giữ lấy những người bạn tất' ấy, dù khi phải xa cách nhau, và hãy vun xới những tình bạn ấy trước mọi việc, chính vì họ là con cái những người thợ thuyền. Này nhá: Những người ở tầng lớp trên là những sĩ quan, còn công nhân là những lính trên mặt trận lao động; trong xã hội cũng như trong quân đội, người lính cũng cao quý chẳng kém gì sĩ quan, vì sự cao quý ở trong lao động chứ không ở trong đồng lương, ở trong giá trị chứ không ở trong cấp bậc; mà nếu nơi nào giá trị cao hơn thìđó là ở phía người lính, người thợ, vì họđược hưởng lợi ít hơn về laođộng của họ. Vậy cậu hãy yêu, hãy kính, trên tất cả mọi sựở đời, con cái của những người lính trên mặt trận lao động; cậu hãy tôn trọng ở họ những nỗi vất vả và sự hy sinh của bố mẹ họ. Hãy thương yêu Garônê, Côretti, Prêcôtxi, cậu bé thợ nề, vì trong lồng ngực của những người thợ tí hon ấy có những trái tim tuyệt vời! Và hãy thề rằng không có sựđổi thay số phận nào mà có thể rứt ra khỏi tâm hồn cậu những tình bạn tất của thời thơấu ấy; rằng sau bốn mươi năm nữa, nếu đi qua một ga xe lửa cậu nhận ra trong bộ quần áo đen những than của người thợ máy, người bạn cũ Garônê của cậu... À, tôi không cần cậu phải thề? Tôi chắc rằng cậu sẽ nhảy lên trên đầu máy và ôm chầm lấy bạn cậu, dù cậu có là thượng nghị sĩ trong vương quốc đi nữa!

BÀ MẸ GARÔNÊ

Vừa ở trường về, tôi được ngay tin buồn. Đã mấy hôm nay, Garônê nghỉ học vì mẹ cậu ốm nặng, và bà ấy mất chiều hôm thứ bảy. Hôm qua khi chúng tôi vào lớp thầy giáo nói: "N ỗi bất hạnh lớn nhất có thể xảy đến cho một người con, nỗi bất hạnh ấy vừa đến với Garônê: cậu vừa mất mẹ. Mai cậu sẽ trở lại lớp, các con ạ, thầy mong các con ngay từ hôm nay tôn trọng nỗi đau khổ lớn lao của bạn. Khi bạn bước vào lớp, các con hãy đón bạn với lòng thương yêu, và nhất là các con phải nghiêm chỉnh. Không ai được cười hay đùa với bạn ấy, thầy mong như vậy". Sáng nay quả nhiên Garônê lại đi học, cậu vào lớp sau các bạn một chút. Tim tôi đau nhói khi thấy cậu mặt tái xanh, đôi mắt đỏ hoe và hai chân bước không vững. Trông cậu như vừa qua một cơn ốm lâu ngày, thật khó mà nhận ra cậu dược. Cậu mặc áo quần đen(l), trông lại càng đáng thương. Trong lớp, không ai nói một câu, và tất cả chúng tôi nhìn cậu, ái ngại và thương xót. Vừa mới bước vào, trông thấy lại các lớp học mà gần như ngày nào mẹ cũng đến đón mình, trông thấy cái bàn mà biết bao lần Mẹ đã cúi xuống để dặn dò mình một lời cuối cùng những khi sắp làm bài thi, và cậu thì đã nghĩ đến bà như thế nào, nóng ruột cố làm cho chóng xong bàl đểđược chạy ra gặp mẹ, cậu òa lên khóc, tuyệt vọng. Thầy Pecbôni kéo cậu lại, ôm cậu sát vào lòng và nói: "Khóc đi, tội nghiệp, con cứ khóc đi, nhưng hãy can đảm, con ạ. Mẹ con không còn dây nữa, nhưng vẫn nhìn thấy con, bà vẫn thương con, bà vẫn sống bên con, và một ngày kia con sẽ gặp lại bà vì con có tấm lòng lương thiện và trung hậu như lòng bà. Can đảm lên, con ạ!" Nói xong thầy dẫn Garônê về chỗ ngồi, bên cạnh tôi. Tôi không dám nhìn Garônê. Cậu lấy sách vở ra, đã mấy hôm rồi cậu chưa giở ra. Vừa giở mấy trang sách tập đọc, cậu bỗng nhìn thấy một hình trang trí vẽ một bà mẹđang dang tay đón con, và cậu lại khóc nấc lên lần nữa, mặt úp vào cánh tay. Thầy giáo ra hiệu cho chúng tôi cứđể yên cho cậu khóc; và thầy bắt đầu giảng bài. Tôi muốn nói điều gìđó với Garônê, nhưng không biết nên an ủi cậu như thế nào. Tôi đặt bàn tay lên cánh tay cậu và thì thầm với cậu: - Thôi đừng khóc nứa, Garônê ạ. Cậu không trả lời và không ngẩng đầu lên. Cậu đặt bàn tay mình vào tay tôi một lúc. Tan Học, không ai dám nói gì với người bạn tội nghiệp; người ta im lặng đi quanh cậu, cung kính, thông cảm. Thấy mẹđang chờ, tôi chạy đến ôm hôn, nhưng nhìn thấy Garônê mẹ gạt tôi ra. Thoạt đầu tôi không hiểu tại sao, nhưng sau đó tôi thấy Garônê. Garônê nhìn tôi vẻ buồn không thể tảđược, hình như cậu muốn nói với tôi: "Cậu hôn mẹ cậu, nhưng mình thì chẳng bao giờ còn được hôn mẹ mình nữa; cậu có mẹ, còn mẹ mình đã chết rồi?". Bấy giờ tôi mới hiểu vì sao mẹ lại ẩy tôi ra; và tôi đi ra, không nắm lấy tay mẹ như thường ngày.

PHẨM GIÁ CÔNG DÂN

(Truyện đọc hàng tháng) Giữa trưa hôm ấy, chúng tôi tập hợp trước tòa thị chính cùng với thầy giáo, để dự cuộc trao huân chương Phẩm giá công dân cho một cậu bé đã cứu được một bạn khỏi chết đuối trong sông Pô. Một lá cờ ba sắc lớn tung bay trên bao lơn chính diện. Chúng tôi kéo vào sân. Ởđây đã đông người. Phía trong cùng kê một cái bàn ph ủ tấm thảm đỏđểđầy những giấy tờ; đằng sau là một dãy ghế bành thếp vàng dành cho ông thị trưởng và các ủy viên trong Hội đồng thành phố. Phía bên phải một trung đội lính cảnh vệ xếp hàng, trong sốđó có nhiều người đeo huân chương; ở một phía khác là đội lính cứu hỏa mặc lễ phục, lại có những lính thuộc đủ các quân chủng kéo nhau đến xem. Trong đámđông có đủ cả các ông các bà, nông dân, sĩ quan và cả trẻ con nữa. Chúng tôi đứng vào một góc sân, nơi có đông học sinh các khu khác đang đứng với thầy giáo. Cách chỗ chúng tôi không xa có những trẻ em khoảng mười đến mười hai tuổi cười cười nói nói; đó là bạn cùng lớp hoặc bạn thân của cậu bé anh hùng sắp nhận huân chương. Trên tất cả các cửa sổ trông xuống sân, những viên chức của tòa thị chính đang chống khuỷu tay nhìn xem. Trên sân thượng của thư viện cũng đầy người, và phía đối diện trên cổng chmh, thấy rất đông nữ sinh của các trường công. Quang cảnh khác nào một nhà hát mà tất cả những lô trên gác và chỗ dưới nhà đều chật ních. Người ta chuyện trò vui vẻ, chốc chốc lại nhìn về phía chiếc bàn xemđã có ai xuất hiện chưa. Đội nhạc dạo những bản nhạc nhẹ. Dưới vòm cổng vào và phía trên các bức tường, mặt trời chiếu rực rỡ. Bỗng tiếng vỗ tay nổi lên từ trong sân, từ trên gác sân và từ các cửa sổ. Tôi kiễng chân lên để nhìn cho rõ. Đámđông tề tựu trước cái bàn đang rẽ ra làm đôi, nhường lối đi cho một người đàn ông và một người đàn bà. Người đàn ông cầm tay dắt theo một cậu bé. Cậu bé đó chính là người đã cứu bạn. Người đàn ông là bố cậu: một bác thợ nề, ăn mặc nhưđi dự hội lớn; người đàn bà, mẹ cậu, vóc bé nhỏ, tóc bạch kim, mặc áo dài đen; cậu bé cũng nhỏ người vạ tóc bạch kim, mặc một chiếc áo dài màu xám. Nhìn thấy người đông như thế, nghe tất cả những tiếng vỗ tay ấy, cả ba người đứng sững lại, không dám nhìn ai, cũng chẳng biết phải làm gì. Một viên môn lại(l) dẫn họđến cạnh chiếc bàn, phía bên phải. Người ta im lặng một lát, rồi những tiếng hoan hô lại nổi lên nhiệt liệt hơn nữa. Cậu bé ngước nhìn các cửa sổ, tay vân vê chiếc mũ. Tôi thấy cậu ta như hao hao giống Côretti. Bố và mẹ cậu thì chỉ cứ nhìn vào cái mặt bàn. Trong lúc ấy thì đám học sinh ở ngoại thành, đứng gần chỗ chúng tôi,đều bước lên trước, lấy tay ra hiệu cho bạn của họ trông thấy họ, hoặc gọi khẽ tên cậu. Gọi mãi rồi cậu ta cũng nghe, cậu ta nhìn các bạn rồi lấy mũ che miệng, mỉm cười. Đúng lúc đó, đơn vị cảnh xệđứng "nghiêm" Ông thị trưởng đeo băng ba màu(2) bước vào, theo sau có nhiều quan chức; ông đứng trước cái bàn, các quan chức khác đứng chung quanh ông. Nhạc ngưng lại, ông thị trưởng giơ tay ra hiệu, mọi người im phăng phắc. Ông bắt đầu nói. Những câu nói đầu tôi không nghe rõ, nhưng tôi hiểu ông đang kể lại hànhđộng dũng cảm của cậu bé. Dần dần tiếng nói của ông to lên và trong trẻo vang lên khắp sân, tôi nghe không còn sót một lời nào. ". Khi Cậu đứng trên bờ thoạt nhìn thấy bạn đang vùng vẫy giằng co với cái chết giữa dòng sông, thì lập tức cậu cởi quần áo, và không một phút ngần ngại, chạy ngay xuống bờ sông. Người ta thét lên: "Đừng xuống? Chết đuối bây giờ!" "Nhưng cậu không trả lời. Người ta muốn giữ cậu lại, cậu đẩy lùi các bạn mà chạy; người ta lại gọi, cậu đã lao mình xuống nước, rồi. Mặt sông đang cồn sóng, thật là nguy hiểm, ngạy cảđối với người lớn. Nhưng cậu đã vật lộn với cái chết bằng tất cả sức mạnh của tấm thân bé nhỏ và của tấm lòng cao cả của cậu. Cậu bơi theo kịp và tóm được ngay người bị nạn đã chìm nghỉm, rồi ngoi lên mặt nước. Cậu cố sức bơi ngược lại dòng nước đang cuốn mình đi, trong khi người bạn cứ ôm chặt lấy cậu. Đã mấy lần cậu bị dấn chìm, nhưng lại ngoi lên do một cố gắng tưởng như tuyệt vọng. Quyết tâm, không gì lay chuyển nổi trong việc làm cao quý của mình, không phải như một cậu bé muốn cứu sống một cậu bé khác, mà như một người lớn, một người bố muốn cứu sống đứa con là nguồn hy vọng và cả cuộc đời của mình; cuối cùng cậu đã cướp được cái mồi của dòng sông và đưa vào bờ. Thế rồi cậu lại còn cùng những cậu khác hết lòng làm những động tác cấp cứu đầu tiên cho người bị nạn. Sau đó cậu về nhà, một mình, ung dung, kể lại việc mình đã làm một cách hồn nhiên. "Thưa các ngài? Lòng dũng cảm của người lớn là đẹp và đáng kính; nhưng ở cậu bé, chưa thể có một ý đồ tham vọng hay lợi lộc gì cả, ở cậu bé phải đem hết gan dạ ra vì sức mình chẳng được bao nhiêu, ở cậu bé mà chúng ta không đòi hỏi một chút gì, không bắt buộc phải làm gì, chỉ cần hiểu được, không cần phải làmđược hành động hy sinh của người khác, làđã đủ cho ta thấy cao quý và dáng yêu rồi; ở cậu bé tôi xin nhắc lại, thì lòng dũng cảm là cao cả! Tuyệt vời! "Tôi không nói gì thêm nữa, thưa các ngài, tôi không muốn góp những lời khen ngợi thừa đối với một việc làm vĩ đại màđơn giản đến thế. Đây, kẻ cứu người quả cảm và cao quý đó đang ở đây, trước mắt quí vị! Hỡi binh sĩ, hãy chào cậu như chào một người anh em. Hỡi các bà mẹ, hãy cầu phúc cho cậu như cho con mình? Hỡi các cháu thiếu nhi, hãy nhớ lấy tên của cậu, ghi sâu hình ảnh của cậu trong trí nhớ và vào trái tim của các con. Bước lại gần đây, con; nhân danh quốc vương nước Ý, tôi xin trao tặng cậu tấm huân chương "Phẩm giá công dân" này. Tiếng hoan hô dậy đất nổi lên từ hang nghìn cửa miệng phát ra. Ổ ng thị trưởng cầm chiếc huân chương trên bàn gắn vào ngực cậu bé. Rồi ông ôm hôn cậu nhiều lần. Bà mẹ cậu bé lấy tay dụi mắt, ông bố thì túi đầu. Sau khi bắt tay hai bố mẹ sung sướng ấy ông thị trưởng cầm tấm sắc lệnh thưởng huân chương buộc băng lụa, trao cho người mẹ. Rồi quay về phía cậu bé, ông nói: "Mong rằng kỷ niệm của ngày hôm nay, một ngày vinh quang biết bao đối với cậu, tốt đẹp biết bao đối với bố và mẹ cậu, sẽ giúp cậu suốt đời trên con đường đạo đức và danh dự? Tạm biệt con nhé". Ông thị trưởng bước ra, nhạc lại nổi lên, tưởng như đã đến lúc kết thúc, thì thấy dội cứu hỏa giãn ra, nhường lối cho một cậu bé độ tám chín tuổi chạy thẳng đến người anh hùng của buổi lễ và ngả vào hai cánh tay của cậu. Những tiếng vỗ tay và những tiếng hoan hô lại rung chuyển cả cái sân; mọi người đều hiểu rằng đó là em bé đã được cứu sống trong dòng sông đã đến cảm ơn người cứu mình. Sau khi hôn cậu, em bé khoác tay cậu cùng đi ra. Hai cậu đi trước, theo sau là ông bố và bà mẹ, phải chật vật để mở lối đi giữa cái hàng rào người đang chen nhau đểđược nhìn và chào họ. Những người đứng gần cậu hơn cả thì đưa tay ra bắt; khi cậu đi qua trước đám học sinh thì họ giơ cao mũ lên vẫy. Các bạn của cậu thiếu niên anh hùng thì reo lên không biết là bao nhiêu tiếng hoan hô chúc tụng cậu. Tôi được thấy cậu đi qua ngay cạnh tôi, mặt đỏửng vì sung sướng, chiếc huân chương buộc dải lụa ba màu. Mẹ cậu vừa cười lại vừa khóc, bố cậu thì đưa một bàn tay run vì xúc động, và như lên cơn sốt, vân vê bộ ria mép. Trên cao, ở các cửa sổ và bao lơn, người ta nghiêng mình ra nhìn và vỗ tay. Bỗng nhiên, đúng lúc cái gia đình hạnh phúc này sắp đi qua cổng chính của tòa thị sảnh thì từ trên bao lơn, nơi có nữ sinh các trường đứng, rơi xuống người họ một trận mưa hoa thực sự, những bó hoa la lan(l), hoa đồng thảo, hoa đại cúc(2) tung tóe trên đầu cậu con, ông bố và bà mẹ trước khi rơi xuống đất. Nhiều người đổ ra nhặt những cành hoa, trao cho bà mẹ, trong lúc dàn nhạc tiếp tục tấu lên những điệu nhạc dịu dàng nhất chúc mừng cậu bé cứu người dũng cảm...

THÁNG NĂM HY SINH

Thứ ba 9. Mẹ là người rất tốt, và Xinvia cũng có tấm lòng cởi mở và độ lượng như mẹ. Hôm qua tôi đang chép một đoạn của truyện đọc hàng tháng. Từ mạch Appenninô đến mạch Anđetr (truyện dài đến nỗi thầy giáo phải giao cho chúng tôi mỗi người chép một đoạn) thì em Xinvia rón rén bước vào, và thì thầm bảo tôi rằng: "Anh hãy cùng em sang chỗ mẹđi. Sáng nay em có nghe bố và mẹ nói chuyện với nhau. Hình như trong một chuyến kinh doanh nào đó rất quan trọng bố vừa bị thất bại nặng. Bố tuyệt vọng và mẹ an ủi bố, như vậy là chúng ta sạt nghiệp rồi đấy. Enricô à? Anh hiểu chứ? Bố mẹ không còn tiền nữa. Cho nên chúng ta cũng phải biết hy sinh, anh em chúng ta ấy mà, có phải không? Anh sẵn sàng chứ? ... Tất lắm. Để em nói với mẹ, còn anh thì anh sẽ làmđúng những gì mà em sẽ nói với anh, anh cam đoan không nào? Tôi hứa với em sẽ làm đúng như thế. Xinvia li ền dắt tay tôi vào buồng mẹ, bấy giờ mẹđang ngồi khâu, vẻ mặt tư lự. Tôi ngồi trên một chiếc ghế dài cạnh mẹ, Xinvia thì ngồi phía bên kia và nói ngay với mẹ: - Mẹạ, mẹ nghe đây, con có điều muốn nói với mẹ. Cả hai chúng con đều có đ iều muốn nói với mẹ. Mẹ nhìn chúng tôi, vẻ ngạc nhiên. "Bố đã bị sa sút rồi, phải không nào?" Xinvia bắt đầu nói như thế. - Con nói cái gì vậy? - Mẹđỏ mặt hỏi. - Làm gì có việc đó! Ai bảo con thế? Làm sao mà con biết? - Con bi ết, mẹạ. - Xinvia nói quả quyết. Vậy thì mẹ nghe chúng con nói, mẹ ạ. Chúng con cũng phải biết hy sinh. Mẹ có hứa cuối tháng sẽ cho con một cái quạt, còn anh Enricô thìđang chờ mẹ cho hộp màu. Chúng con không muốn có những thứấy nữa; chúng con không muốn bố mẹ phải tốn kém vì chúng con nữa, mẹ nghe ra rồi chứ? Mẹđịnh nói, nhưng Xinvia lại tiếp luôn: "Anh Enricô với con đã quyết định như thế rồi. Bố mà còn túng là chúng con không muốn ăn tráng miệng nữa, chỉăn xúp là đủ rồi, và buổi sáng chúng con chỉăn bánh mì thôi. Như thế ta sẽđỡ tốn về tiền ăn uống, và chúng con hứa với mẹ rằng mẹ sẽ thấy chúng con vẫn rất vui lòng. Có phải thế không, Enricô à?" Tôi gật đầu."Và nếu cần phải có những hy sinh nào khác nữa, Xinvia lại nói, vừa nói vừa lấy tay bịt miệng mẹ không cho mẹ nói, thì chúng con vẫn sẵn sàng, về tóc tai, quần áo hay việc khác... Bố mẹ có thể cứđem bán đi các thứđã làm quà cho chúng con; con trước hết, con sẽđưa mẹ những thứ con có. Con sẽ giúp việc mẹ thay bà vú; ta sẽ không thuê làm cái gì ở ngoài nữa, và con sẽ khâu vá suất ngày. Con sẵn sàng làm tất cả mọi việc mà mẹ cần, vâng, tất cả. - Em vừa nói to lên, vừa nhảy lên bá lấy cổ mẹ. - Chỉ cần bố và mẹ không còn phải lo nghĩ quá nứa, chỉ cần thấy bố và mẹ đều yên tâm, vui vẻ giữa hai con, Xinvia và Enricô, chúng con sẽ hiến cả cuộc đời của chúng con cho bố mẹ!". Tôi chưa bao giờ thấy mẹ sung sướng hơn lúc mẹ nghe em tôi nói như vậy... Mẹ hôn chúng tôi lên trán, nửa khóc, nửa cười, nghẹn ngào không nói được; rồi sau cùng mẹ mới bảo cho Xinvia biết chắc chắn rằng emđã hiểu nhầm, rằng gia đình ta rất may mắn, không sa sút như em đã tưởng; rồi tội nghiệp, mẹ cứ cám ơn chúng tới mãi đến nghìn lần? Tối đến, mẹ rất vui, rất sung sướng và kể lại cho bố nghe cuộc vận động của chúng tôi. Bố thì không nóiđược một lời, thật tội nghiệp! Nhưng sáng hôm nay, ngồi vào bàn ăn, chúng tôi liền được một phen ngạc nhiên lớn đồng thời một niềm thích thú hơn. Xinvia thấy cái quạt quà cho em để dưới chiếc khăn của em, còn tôi thì cái hộp màu phần tôi?(37)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro