Part 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

.  Trí nhớ là gì? Làm thế nào để có trí nhớ tốt?

I. Khái niệm chung về trí nhớ:

1. Định nghĩa:

Theo tâm lý học, trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ảnh những kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo sao đó ở trong óc những cái cái mà con nguời đã cảm giác, tri giác, rung động, hành động hay suy nghĩ trước đây.

 Cũng như cảm giác và tri giác, trí nhớ cũng là một quá trình tâm lí, song cảm giác và tri giác phản ánh những sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta, còn trí nhớ là sự phản ánh những sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần có sự tác động của bản thân chúng trong hiện tại. Nói cách khác, trí nhớ là quá trình tâm lý thành lập, củng cố và làm sống lại những hình ảnh tâm lý trước đây đã hình thành trong não. Trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người, có thể là những hình ảnh cụ thể, có thể là những trải nghiệm hay rung động, những cảm xúc, ý nghĩ, tư tưởng.

2. Cơ sở sinh lý của trí nhớ

Trí nhớ được hình thành từ sự hình thành những đường liên hệ thần kinh tạm thời. Phản xạ có điều kiện được coi là cơ sở sinh lý của sự ghi nhớ. Sự củng cố, bảo vệ đường liên hệ thần kinh tạm thời đã được thành lập là cơ sở của quá trình giữ gìn và tái hiện trí nhớ. Các quá trình đó gắn chặt giúp ta nhớ được những hình ảnh tâm lý.

3. Vai trò của trí nhớ

Trí nhớ có vai trò rất rất to lớn trong đời sống tâm lý của con người, liên hệ chặt chẽ với quá khứ và hiện tại, làm cơ sở định hướng cho tương lai. Không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không thể có bất kỳ một hoạt động nào, cũng như không thể hình thành nhân cách. Ví dụ như chúng ta cần học cách để làm một cái bánh thật ngon, trí nhớ đã giúp ta hình thành các kinh nghiệm qua các lần làm bánh để có thể làm cho chiếc bánh đạt đến độ ngon của nó.

Trí nhớ là điều kiện cần thiết để con người có đời sống tâm lý bình thường, ổn định, lành mạnh. Trí nhớ cũng là điều kiện để con người có và phát triển các chức năng tâm lý bậc cao để con người tích luỹ vốn kinh nghiệm sống của minh và sử dụng vốn kinh nghiệm đó ngày cáng tốt hơn trong đời sống và trong hoạt động xã hội. Vì vậy, ở những người bị hỏng trí nhớ, cuộc sống hàng ngày cuả họ bị rối loạn, không bình thường.

Đối với nhận thức, trí nhớ có vai trò đặc biệt. Nó là công cụ để lưu giữ kết quả của các quá trình cảm giác và tri giác. Trí nhớ là một điều kiện quan trọng để diễn ra quá trình nhận thức lý tính và làm cho quá trình này đạt được kết quả hợp lý. Nó không làm mất đi nhận thức khi quá trình nhận thức đã kết thúc.

Ngày nay, trí nhớ không chỉ giới hạn trong hoạt động nhận thức mà còn là một thành phần tạo nên nhân cách của con người, vì đặc trưng tâm lý nhân cách mỗi người được hình thành trên cơ sở vốn kinh nghiệm cá thể về mọi mặt của họ, mà kinh nghiệm do trí nhớ đem lại. Ví dụ như quá trình hình thành nhân cách của một đứa trẻ phụ thuộc rất nhiều vào trí nhớ của nó về những việc làm nói lên nhân cách của cha mẹ nó. 

II. Phân loại trí nhớ:

Trí nhớ được phân chia thành nhiều loại khác nhau theo các cách phân chia khác nhau. 

1/ Căn cứ vào tính chất của tính tích cực tâm lý trong hoạt động: 

Trí nhớ có bốn loại: Trí nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, trí nhớ hình ảnh, trí nhớ từ ngữ - logic. 

a) Trí nhớ vận động phản ánh những cử động và hệ thống cử động mà ta đã tiến hành trước đây. Ví dụ như trí nhớ về một động tác tập thể dục. 

b) Trí nhớ cảm xúc phản ánh những rung cảm về tình cảm, được nảy sinh và giữ lại trong trí nhớ. Ví dụ như những rung động của con người khi yêu. 

c) Trí nhớ hình ảnh phản ánh những biểu tượng về các giác quan do các sự vật, hiện tượng tác động vào ta trước đây. Ví dụ như trí nhớ về một bức ảnh đã xem, về một bài hát đã nghe qua. 

d) Trí nhớ từ ngữ - logic phản ánh những ý nghĩ, tư tưởng con người được diễn đạt trong lời nói. Ví dụ như kiến thức về chủ nghĩa Mác – Lênin giúp ta có thể phân tích được các hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội.

2/ Căn cứ vào tính chất, mục đích hoạt động:

Trí nhớ gồm trí nhớ chủ định và không có chủ định. 

Trí nhớ chủ định có mục đích riêng biệt, ghi nhớ, gìn giữ và khi cần có thể tái hiện lại. Ví dụ như trí nhớ về bài học của sinh viên khi đi thi. 

Trí nhớ không có chủ định không có mục đích chuyên biệt khi ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện lại.

3/ Căn cứ vào thời gian cũng cố và giữ gìn tài liệu: 

Trí nhớ gồm trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ dài hạn, trí nhớ thao tác. 

Trí nhớ ngắn hạn có biểu tượng chỉ ghi lại trong não thời gian ngắn.

Trí nhớ dài hạn có biểu tượng được lưu giữ trong não một thời gian dài. 

Trí nhớ thao tác là trí nhớ làm việc, giúp cá nhân có thể hành động khẩn thiết, phức tạp.

III. Các quá trình cơ bản của trí nhớ:

Trí nhớ được thực hiện qua bốn quá trình tâm lý: ghi nhớ, giữ gìn, tái hiện và quên.

1/ Sự ghi nhớ:

Quá trình ghi nhớ là giai đoạn đầu tiên của hoạt động nhớ, là quá trình tạo nên dấu vết “ấn tượng” của đối tượng trên vỏ não, đồng thời cũng là quá trình gắn đối tượng đó với những kiến thức đã có, hình thành mối liên hệ giữa các tài liệu mới với nhau. 

Quá trình ghi nhớ rất cần thiết để tiếp thu tri thức, tích luỹ kinh nghiệm. Hiệu quả ghi nhớ phụ thuộc chủ yếu vào động cơ, mục đích, phương thức hành động của cá nhân. 

Căn cứ vào mục đích ghi nhớ người ta chia ghi nhớ thành hai loại: ghi nhớ chủ đinh và ghi nhớ không chủ định.

a) Ghi nhớ không chủ định:

Ghi nhớ không chủ định là sự ghi nhớ không có mục đích đặt ra từ trước, không đòi hỏi phải nỗ lực ý chí hoặc không dùng một thủ thuật nào để ghi nhớ, tài liệu được nhớ một cách tự nhiên. 

Nhưng không phải mọi sự kiện đều được ghi nhớ một cách không chủ định như nhau. Mức độ ghi nhớ phụ thuộc vào sự hấp dẫn của nội dung tài liệu, nội dung tài liệu mà có khả năng tạo ra sự tập trung chú ý cao độ hay một xúc cảm mạnh mẽ thì sự ghi nhớ sẽ đạt hiệu quả cao. Ví dụ như khi nghe một bài hát hay, ta yêu thích bài hát đó, ta hát theo các ca từ có trong bài hát mà không chủ định học thuộc nó từ trước.

b) Ghi nhớ có chủ định:

Ghi nhớ có chủ định là loại ghi nhớ theo một mục đích đặt ra từ trước, nó đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định và cần có những thủ thuật phương pháp nhất định để đạt được mục đích ghi nhớ. 

Thông thường có hai loại ghi nhớ chủ định. 

- Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn giản, tạo ra mối liên hệ bề ngoài giữa các phần của tài liệu ghi nhớ, không cần hiểu nội dung tài liệu. Ví dụ như học sinh nhớ bài bằng cách học vẹt. Cách ghi nhớ này thường được tìm mọi cách đưa vào trí nhớ tất cả những gì có trong tài liệu rất chi tiết và chính xác mà  không dựa trên sự hiểu biết nội dung nên trong trí nhớ gồm toàn những tài liệu không liên quan gì với nhau. Cách ghi nhớ dẫn đến sự ghi nhớ hình thức, tốn nhiều thời gian, khi đã quên khó hồi tưởng lại được. Tuy nhiên, có lúc lại rất cần thiết nhất là khi ta ghi nhớ tài liệu không có nội dung khái quát như số điện thoại, số nhà, ngày tháng năm sinh… 

- Ghi nhớ ý nghĩa (ghi nhớ logic): là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung của tài liệu, trên sự nhận thức được mối liên hệ logic giữa các bộ phận của nó, tức ghi nhớ trên cơ sở hiểu được bản chất, quá trình ghi nhớ gắn liền với quá trình tư duy. Ghi nhớ ý nghĩa là loại ghi nhớ chủ yếu trong hoạt động nhận thức, Nó đảm bảo cho sự lĩnh hội tri thức một cách sâu sắc, bền vững, ít tốn thời gian hơn ghi nhớ máy móc nhưng lại tiêu hao năng lượng thần kinh nhiều hơn.

c) Cách rèn luyện ghi nhớ tốt:

Muốn có trí nhớ tốt phải luyện tập thường xuyên để nâng cao khả năng ghi nhớ. 

Muốn ghi nhớ tốt cần phải tập trung chú ý cao độ khi ghi nhớ, phải có hứng thú, say mê với tài liệu ghi nhớ, phải ý thức được tầm quan trọng của tài liệu ghi nhớ và xác định được tâm thế ghi nhớ lâu dài đối với tài liệu. 

Phải lựa chọn và phối hợp các loại ghi nhớ một cách hợp lí nhất, phù hợp với tính chất và nội dung của tài liệu, với nhiệm vụ và mục đích ghi nhớ.  

Muốn ghi nhớ logic tốt, phải lập dàn bài cho tài liệu học tập, làm điểm tựa để ôn tập và tái hiện khi cần. Phải biết phối hợp nhiều giác quan để ghi nhớ, phải sử dụng các thao tác trí tuệ để ghi nhớ, gắn tài liệu ghi nhớ với vốn kinh nghiệm của bản thân. 

Các bước ghi nhớ logic gồm:

- Phân chia tài liệu thành các đoạn, đặt cho mỗi đoạn một tên thích hợp với nội dung của nó;

- Nối liền những điểm tựa thành một tổng thể phức hợp bằng một tên gọi thích hợp nhất. 

Những biện pháp quan trọng khác để tiến hành ghi nhớ logic là phân tích, tổng hợp, mô hình hoá, so sánh, phân loại và hệ thống hoá tài liệu. 

Biện pháp tái hiện tài liệu dưới hình thức nói thầm (cho mình nghe) cũng quan trọng để ghi nhớ logic. Nên nói thầm khoảng 2-3 lần và nên ghi chép những điều tái hiện được dưới hình thức này ra giấy. 

Khi dùng biện pháp này có thể tiến hành theo trình tự sau: 

- Cố gắng tái hiện toàn bộ một lần; 

- Tái hiện từng phần, nhất là những phần khó; 

- Tái hiện toàn bộ; 

- Định hướng vào toàn bộ tài liệu; 

- Phân chia thành những nhóm yếu tố cơ bản; 

- Xác định những mối liên hệ trong mỗi nhóm; - Xác định những mối liên hệ giữa các nhóm. 

Ôn tập cũng là một biện pháp quan trọng để ghi nhớ một cách vững chắc và lâu dài. Đây là biện pháp sau khi đã làm những việc trên, nhưng không nên lặp lại y nguyên tài liệu đã ghi nhớ mà nên gắn tài liệu dưới những hình thức và vật liệu khác để luyện tập.

2/ Quá trình giữ gìn:

Quá trình giữ gìn là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết hình thành trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. 

Nếu không có sự giữ gìn thì không thể nhớ bền, nhớ chính xác được. 

Có hai hình thức giữ gìn là tiêu cực và tích cực. 

a) Giữ gìn tiêu cực: 

Giữ gìn tiêu cực là sự giữ gìn dựa trên sự tái hiện lặp đi lặp lại nhiều lần một cách giản đơn tài liệu cần ghi nhớ thông qua các mối liên hệ bề ngoài giữa các phần tài liệu nhớ đó.

Ví dụ như luyện tập nhiều lần các động tác thể dục để nhớ nó. 

b) Giữ gìn tích cực:

Giữ gìn tích cực là sự giữ gìn được thực hiện bằng cách tái hiện trong đầu tài liệu đã ghi nhớ mà không cần phải tri giác tài liệu đó. 

Ví dụ như một người giữ gìn hình ảnh của cha mẹ trong đầu.

c) Cách thực hiện quá trình giữ gìn tốt:

Cần phải chủ động ôn tập một cách tích cực theo các trình tự logic của việc tái hiện. Đồng thời, phải ôn tập ngay, không để lâu sau khi ghi nhớ; phải ôn tập xen kẽ, không nên ôn tập liên tục một tài liệu; ôn tập có nghỉ ngơi, không nên ôn tập trong một thời gian dài; ôn tập phải đi kèm sự thay đổi thường xuyên hình thức, phương pháp ôn tập.

3/ Quá trình tái hiện: 

Quá trình tái hiện là quá trình làm sống lại những nội dung đã ghi nhớ và giữ gìn. Tài liệu thường được tái hiện dưới ba hình thức: nhận lại, nhớ lại và hồi tưởng. 

a) Nhận lại:

Nhận lại là hình thức tái hiện khi sự tri giác đối tượng được lặp lại, tri giác lại một lần nữa những thông tin, kiến thức đã tri giác trước đây. 

Sự nhận lại có ý nghĩa trong đời sống mỗi người, nó giúp con người định hướng trong hiện thực tốt hơn và đúng hơn. 

Ví dụ như việc thấy một người bạn lâu ngày mới gặp sẽ làm ta nhớ lại về người bạn đó. 

b) Nhớ lại:

Sự nhớ lại là hình thức tái hiện không diễn ra sự tri giác lại đối tượng, nhớ lại không diễn ra tự nó mà bao giờ cũng có nguyên nhân, theo quy luật liên tưởng, mang tính chất chặt chẽ và có hệ thống. 

Đây là một hành động trí tuệ phức tạp mà kết quả của nó phụ thuộc vào việc cá nhân ý thức rõ ràng, chính xác đến mức nào nội dung của nhiệm vụ tái hiện. Nhớ lại là điều kiện của sự nhận lại. 

Ví dụ như nhớ lại các thao tác của quá trình lập luận văn học. 

c) Hồi tưởng:

Hồi tưởng là hình thức tái hiện khó khăn, rất cần có sự cố gắng nhiều của trí tuệ. 

Trong hồi tưởng, những ấn tượng trước đây không được tái hiện một cách máy móc mà thường được sắp xếp khác đi, gắn với những sự kiện mới. 

Ví dụ như hồi tưởng về tuổi thơ, ta không bao giờ nhớ hết tất cả những gì đã xảy ra, có khi nhớ chuyện này, có khi nhớ chuyện khác, không theo thời gian, không gian.

d) Cách thực hiện tốt quá trình tái hiện:

Muốn thực hiện tốt quá trình tái hiện, ta phải ý thức rằng quên không phải là mất tất cả, phải lạc quan tin tưởng rằng nếu cố gắng ta sẽ hồi tưởng lại được. 

Phải kiên trì hồi tưởng, khi đã hồi tưởng sai thì lần hồi tưởng tiếp theo không nên lặp lại cách thức, biện pháp đã làm mà cần phải tìm ra biện pháp, cách thức mới. 

Cần đối chiếu, so sánh với những hồi ức có liên quan trực tiếp với nội dung tài liệu mà ta cần nhớ lại. 

Cần sử dụng sự kiểm tra của tư duy, của trí tưởng tượng về quá trình hồi tưởng và kết quả hồi tưởng. Có thể sử dụng sự liên tưởng nhất là liên tưởng nhân quả để hồi tưởng vấn đề gì đó.

4/ Quên:

a) Quên là không tái hiện lại được nội dung đã ghi nhớ trước đây vào thời điểm cần thiết. Nó diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau: quên tạm thời, quên cục bộ (không nhớ lại được nhưng nhận lại được), quên vĩnh viễn.

b) Nguyên nhân: Có thể là do quá trình ghi nhớ, có thể là do quy luật ức chế của hoạt động thần kinh trong quá trình ghi nhớ, và do không gắn được hoạt động hàng ngày. 

c) Các quy luật quên: Quên cũng diễn ra theo các quy luật.

- Người ta thường quên những cái gì không liên quan hoặc ít liên quan đế đời sống, những cái gì không phù hợp với hứng thú, sở thích nhu cầu của cá nhân.

- Quên những cái gì không sử dụng thường xuyên.

- Quên khi gặp những kích thích mới lạ hay những kích thích mạnh. 

- Sự quên cũng diễn ra theo một trình tự nhất định : quên cái tiểu tiết, vụn vặt trước, quên cái đại thể chính yếu sau. 

- Sự quên diễn ra với tốc độ không đồng đều. Ở giai đoạn đầu tốc độ quên khá lớn , về sau tốc độ quên giảm dần. 

- Về nguyên tắc, quên cũng là một hiện tượng hợp lý hữu ích, giúp cho não không  bị quá tải. Chẳng hạn, khi chúng ta không cần nhớ những hình ảnh tâm lý không vui, các hoàn cảnh đau thương, các chuyện buồn thì quên thật có ích.

- Quên cũng có mặt tiêu cực là làm ta không giải quyết được công việc kịp thời do thiếu những thông tin được ghi nhớ trước đây. 

d) Các biện pháp chống quên để trí nhớ tốt:

Chống quên bằng cách gắn tài liệu cần ghi nhớ vào tài liệu lưu giữ để học tập.

Kiên trì hồi tưởng, sáng tạo các biện pháp để hồi tưởng.

Đối chiếu, so sánh các tài liệu với nhau

Dùng các biện pháp để tái hiện trí nhớ thủ công.

Thực hiện học đi đôi với hành, kết hợp các kiến thức đã học ứng dụng vào thực tiễn…

IV. Các biện pháp khác giúp có trí nhớ tốt:

Ngoài việc thực hiện tốt các quá trình ghi nhớ tốt, để có trí nhớ tốt chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp khác: 

- Tin tưởng là mình có một trí nhớ tốt và cải tiến được, hiểu được các quy luật của trí nhớ. Đó sẽ là yếu tố tinh thần giúp chúng ta có thể duy trì, cải thiện trí nhớ. 

- Rèn luyện não bộ thường xuyên, luyện tập ghi nhớ. 

- Tập thể dục mỗi ngày để có sức khỏe tốt. 

- Giảm căng thẳng tâm thần (stress) bằng các biện pháp khoa học, khi cần thiết phải đến gặp bác sĩ. 

- Ăn uống điều độ, ăn tốt, ăn đúng, đủ chất, không lạm dụng chất kích thích có hại cho não. 

- Luyện tập ghi nhận tốt các hình ảnh bằng việc tập trung liên tưởng, suy nghĩ, ghi nhớ. 

- Tạo ra một khoảng thời gian cần thiết để ký ức có thể hình thành. 

- Tạo ra những hình ảnh linh hoạt, bắt mắt để dễ nhớ. 

- Lặp đi lặp lại nhiều điều mà bạn cần nhớ. 

- Tập trung, phân chia những điều cần nhớ thành các nhóm. 

- Tổ chức đời sống gọn gàng, xây dựng cuộc sống đơn giản, lành mạnh. 

- Tập các biện pháp thư giản như ngồi thiền, yoga... 

- Không thức quá khuya, cố gắng tạo cho mình giấc ngủ sâu và ngon giấc. 

- Sử dụng các kỹ thuật giúp nâng cao khả năng nhớ như bản đồ tư duy(mind map), lập đề cương, các trò chơi trí nhớ. 

- Mạo hiểm và học hỏi từ các sai lầm, hình thành nên các kinh nghiệm cần thiết. 

- Phòng các bệnh về trí nhớ như Alzheimer, hội chứng korsaroff (hội chứng hay quên)…

V. Kết luận:

Trí nhớ là một quá trình tâm lý rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ đời sống của con người chúng ta. 

Trí nhớ gồm bốn quá trình mang tính độc lập tương đối, vừa  liên quan hệ thống với nhau. 

Trí nhớ của mỗi người là không như nhau về mọi mặt, nhưng trí nhớ có điểm chung là có thể luyện tập để nâng cao được. Vì vậy, con người phải tích cực thực hiện các biện pháp để duy trì, cải thiện trí nhớ và để có trí nhớ tốt hơn nữa, trong đó, chú trọng việc thực hiện tốt bốn quá trình tâm lý của trí nhớ con người. 

Có trí nhớ tốt, con người mới có thể sống tốt, học tập và lao động giỏi để đóng góp nhiều hơn cho xã hội.

Câu 40. các quá trình cỦa trí nhỚ và phương pháp đỂ có trí nhỚ  tỐt

1) Khái niệm:

Kết quả của quá trình nhận thức, những cảm xúc tình cảm của con người về một đối tượng nào đó, những hành động và kết quả của nó… đều được ghi lại trong bộ não với mức độ đậm nhạt khác nhau, khi cần thiết nó lại xuất hiện. Đó là trí nhớ.

Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh vốn kinh nghiệm của con người dưới hình thức biểu tượng bằng cách ghi nhớ, giữ gìn, nhận lại và nhớ lại những điều mà con người đã trải qua.

Trí nhớ là quá trình hết sức phức tạp, có rất nhiều lý thuyết về cơ sở sinh lý của trí nhớ. Học thuyết Paplov cho rằng phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý học của sự ghi nhớ. Ngày nay, qua quá trình nghiên cứu người ta thấy rằng những kích thích xuất phát từ nơron hoặc được dẫn vào những nhánh của nơron hoặc quay trở lại bản thân nơron. Bằng cách đó, nơron được nạp thêm năng lượng. Một số nhà khoa học coi đây là cơ sở sinh lý của sự tích lũy dấu vết và là bước trung gian từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn.

2) Vai trò của trí nhớ

Trí nhớ được phân thành nhiều loại, gồm có: trí nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, trí nhớ hình ảnh, trí nhớ từ ngữ - logic, trí nhớ không chủ định và trí nhớ có chủ định, trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn.

Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người. Không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm  không có thì không thể có bất cứ hoạt động nào, không thể phát triển tâm lý, nhân cách con người.

3) Các quá trình của trí nhớ

Trí nhớ của con người là hoạt động tích cực phức tạp, bao gồm nhiều quá trình khác nhau có mối quan hệ qua lại với nhau: 

3.1.Thứ nhất là quá trình ghi nhớ. Ghi nhớ là khâu đầu tiên của hoạt động trí nhớ. Đó là quá trình gắn tài liệu mới vào chuỗi kinh nghiệm đã có của bản thân. Hiệu quả của việc ghi nhớ phụ thuộc không chỉ vào nội dung, tính chất của tài liệu mà còn phụ thuộc chủ yếu vào động cơ, mục đích, phương thức hành động của cá nhân.

Ví dụ: Ghi nhớ một bài thơ sẽ dễ dàng hơn so với ghi nhớ các khái niệm của triết học hay xuất phát từ động cơ tích cực sẽ ghi nhớ lâu hơn khi bị gò ép.

Có nhiều hình thức ghi nhớ. Căn cứ vào mục đích ghi nhớ ta có thể ghi nhớ có chủ định hoặc ghi nhớ không chủ định:

a) Ghi nhớ không chủ định là loại ghi nhớ không cần đặt ra mục đích ghi nhớ từ trước, tài liệu được ghi nhớ một cách tự nhiên.

Ví dụ: Truyện kể rằng, Lê Quý Đôn có lần ghé cáo quán nước ven đường. Trong lúc rảnh rỗi, ông cầm quyển sổ nợ của chủ quán lên xem. Hôm sau quán nuớc bị cháy, chủ quán hết sức lo lắng vì cháy cả cuốn sổ nợ. Lê Quý Đôn bèn lấy giấy bút ghi lại những gì ông đã nhớ trong cuốn sổ nợ ông đã xem hôm qua, không bỏ sót một chi tiết nào và đưa cho chủ quán.

b) Ghi nhớ có chủ định la loại ghi nhớ theo mục đích đã định từ trước, đòi hỏi nỗ lực ý chí, lựa chọn các biện pháp, thủ thuật để ghi nhớ. Có hai cách ghi nhớ có chủ định là ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa.

- Ghi nhớ máy móc là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại tài liệu nhiều lần một cách đơn giản, tạo ra mối liên hệ bề ngoài giữa các phần của tài liệu cần ghi nhớ không cần hiểu nội dung tài liệu đó.

Ví dụ: Học vẹt là cách học tiêu biểu cho việc ghi nhớ máy móc cảu học sinh, sinh viên.

Ghi nhớ máy móc thường dẫn đến sự ghi nhớ mộ cách hình thức, tốn nhiều thời gian, khó hồi tưởng. Tuy nhiên trong cuộc sống ghi nhớ máy móc lại cần thiết như ghi nhớ số điện thoại, ngày sinh, số nhà, tài khoản…

- Ghi nhớ ý nghĩa là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung tài liệu, trênb sự nhện thức những mối liên hệ logic giữa các bộ phận của tài liệu đó.

Ví dụ: Ôn tập khoa học, ôn tập một cách tích cực là cách ôn tập ghi nhớ ý nghĩa.

Ghi nhớ ý nghĩa là ghi nhớ chủ yếu của nhận thức, đảm bảo lĩnh hội tri thức một cách sâu sắc, bền vững nhưng lại tiêu hao nhiều năng lượng thần kinh.

 3.2.Thứ hai là quá trình gìn giữ. Gìn giữ là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết hình thnàh trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Có hai hình thức gìn giữ là gìn giữ tích cực và gìn giữ tiêu cực.

a) Gìn giữ tiêu cực là sự gìn giữ dựa trên sự tri giác lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn giản, thụ động tài liệu cần ghi nhớ.

Ví dụ: Học vẹt sẽ dẫn đến gìn giữ tiêu cực

b) Gìn giữ tích cực là sự gìn giữ bằng cách nhớ lại trong các tài liệu đã ghi nhớ, không cần tri giác tải liệu đó.

Ví dụ: Ôn tập kĩ càng, khoa học, logic, hiểu nội dung bản chất và ghi nhớ cho kĩ là một cách gìn giữ tích cực.

3.3. Thứ ba là quá trình tái hiện. Tái hiện là quá trình ghi nhớ làm sống lại những nội dung để ghi nhớ và giữ gìn. Quá trình này có thể diễn ra dễ dàng (tự động) hoặc rất khó khăn (phải nỗ lực nhiều). tài liệu thường được tái hiện dưới 3 hình thức: nhận lại, nhớ lại và hồi tưởng.

a) Nhận lại là hình thức tái hiện khi có sự tri giác đối tượng được lặp lại. Sự nhận lại cũng có thể không đầy đủ, do vậy không nên lấy nhận lại làm tiêu chuẩn đánh giá trí nhớ con người.

Ví dụ: Khi ta gặp một người mà ta biết chắc đó là người quen, nhưng lúc đó ta không thể nhớ tên người đó, hoặc ta nhận ra người quen, biết tên anh ta nhưng lại không nhớ ra đã làm quen anh ta lúc nào, ở đâu.

b) Nhớ lại là khả năng làm sống lại những hình ảnh, sự vật, hiện tượng đã được ghi nhớ trước đây trong não, khi sự vật hiện tượng không còn ở trước mắt. Nhớ lại có hai dạnh: nhớ lại không chủ định và nhớ lại có chủ định.

-  Nhớ lại không chủ định là nhớ lại một cách tự nhiên trong một hoàn cảnh nào đó, không cần phải xác định lại nhiệm vụ cần nhớ lại.

Ví dụ: Sực nhớ, chợt nhớ về một việc  gì đó.

- Nhớ lại có chủ định là nhớ lại một cách tự giác, đòi hỏi sự cố gắng, chi phối bởi nhiệm vụ nhớ lại.

Ví dụ: Muốn cắt vải, cố gắng nhớ lại xem đã để cây kéo ở đâu.

- Hồi tưởng là hành động trí tuệ phức tạp, kết quả của nó phụ thuộc vào chỗ cá nhân ý thức rõ ràng, chính xác đến mức nào nội dung của nhiệm vụ tái hiện.

Ví dụ: Một cựu chiến binh hồi tưởng lại trận đánh oanh liệt năm xưa.

3.4. Thứ tư là sự quên. Quên là không tái hiện lại được nội dung đã ghi nhớ trước đây vào thời điểm nhất định.

Quên cũng có nhiều mức độ: quên hoàn toàn (không nhớ lại, nhận lại được), quên cục bộ (không nhớ lại nhưng nhận lại được), quên tạm thời (không nhớ được nhưng lúc nào đó lại đột nhiên nhớ lại).

Quên diễn ra theo trình tự: quên cái tiểu tiết, vụn vặt trước, quên cái đại thể, chính yếu sau.

Quên diễn ra không đều: ở giai đoạn đầu tốc độ lớn sau đó giảm dần.

Ví dụ: Kết quả thực nghiệm của khoa tâm lý trường ĐH Sư Phạm Hà Nội 1 cho thấy học sinh sau giờ học chỉ còn nhờ 44% tài liệu, sau 2 đêm còn nhớ 28%.

Trong một số trường hợp, quên là cần thiết. Vì thế về một mặt nào đó quên là hiện tượng hợp lý, hữu ích.

Ví dụ: Quên đi những kí ức đau buồn.

4) Làm thế nào để có trí nhớ tốt

4.1.Muốn có trí nhớ tốt cần phải luyện tập thường xuyên để nâng cao khả năng ghi nhớ, giữ gìn, tái hiện tài liệu nhớ và có cách chống quên.

Thứ nhất để ghi nhớ tốt phải tập trung chú ý cao khi ghi nhớ, có hứng thú, say mê tài liệu ghi nhớ, có ý thức rõ ràng và xác định tâm thế ghi nhớ lâu dài đối với tài liệu, phải lựa chọn và phối hợp các loại ghi nhớ một cách hợp lý, phù hợp với tính chất nội dung của tài liệu. Phải biết phối hợp nhiều giác quan để ghi nhớ, sử dụng các thao tác trí tuệ để ghi nhớ tài liệu, gắn tài liệu ghi nhớ với kinh nghiệm ucả bản thân.

Thứ hai để giữ gìn (ôn tập) tốt ta phải ôn tập một cách tích cực, nghĩa là ôn tập bằng tái hiện là chủ yếu, theo trình tự:

 -Cố gắng tái hiện toàn bộ tài liệu một lần

- Tiếp đó tái hiện từng phần, đặc biệt là những phần khác

- Sau đó tái hiện toàn bộ tài liệu

- Phân chia tài liệu thành từng nhóm cơ bản

- Xác định mối liên hệ trong mỗi nhóm

- Xây dựng cấu trúc logic tài liệu dựa trên mối liên hệ trong mỗi nhóm

Phải ôn tập ngay, không để lâu, ôn tậo xen kẽ và có thời gian nghỉ ngơi hợp lý.

Thứ ba để hồi tưởng cái đã quên (tái hiện tài liệu nhớ) ta phải lạc quan tin tưởng rằng nếu cố gắng ta sẽ hồi tưởng lại được. Phải kiên trì hồi tưởng, khi hồi tưởng sai thì phải tìm ra biện pháp, cách thức mới, cần đối chiếu, so sánh với dụng sự liên tưởng, kiểm tra của tư duy, của trí tưởng tượng về quá trình hồi tưởng, về kết quả hồi tưởng.

Thứ tư để chống quên ta phải ôn tập ngay sau khi nhớ lại tài liệu. Từ quy luật Ebin Gao, chúng ta cần chú ý tổ chức cho học sinh tái hiện bài học lảm bài tập ứng dụng sau khi học (“xào bài”). Phải ôn tập xen kẽ, không nên chỉ ôn liên tục một tài liệu. Cần tiến hành ôn tập thường xuyên, ôn rải rác, phân tán ra nhiều đợt, không nên ôn tập trung liên tục trong một thời gian dài.

Phải ôn tập một cách tích cực, cụ thể là tích cực nhớ lại vả tư duy ôn tập; vận dụng nhiều giác quan vào việc ôn tập (mắt xem tài liệu, miệng đọc, tay viết…); tích cực vận dụng, luyện tập, thực hành khi ôn tập.

Ôn tập cần kết hợp với nghỉ ngơi hợp lý, thay đổi các hình thức và phương pháp ôn tập để có thể đạt kết quả cao.

4.2. Một số phương pháp

1. Chơi ô chữ và giới hạn thời gian để hoàn thành.

2. Khởi động một ngày mới như sau: tắm mà nhắm mắt, chải răng bằng tay không thuận.

3. Trong lúc đọc sách, thỉnh thoảng hãy đọc lớn lên.

4. Thỉnh thoảng thay đổi lộ trình đến văn phòng làm việc, đừng đi hoài những con đường đã quá quen.

5. Tại văn phòng, sử dụng tay không thuận để làm một số việc linh tinh như bấm kim, bật máy, hoặc dùng điện thoại.

6. Vào bữa cơm tối, trước khi ăn, hãy nhắm mắt và xác định món ăn bằng cách ngửi, nếm, và… sờ.

Tóm lại, các quá trình cơ bản của trí nhớ là một quá trình hết sức phức tạp, có mối quan hệ qua lại với nhau. Các quá trình này có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí nhớ của con người, vì vậy đòi hỏi mỗi chúng ta phải có phương pháp nghiên cứu và học tập một cách khoa học, phù hợp để có một trí nhớ tốt nhất. 

Câu 42: Từ các quy luật của trí nhớ, anh (chị) hãy nêu những biện pháp để có trí nhớ tốt.

Con người luôn nhận thức thế giới khách quan và không ngừng cải tao nó để khắc phục cho cuộc sống của mình. Để thực hiện được điều này con người phải hiểu biết và tích lũy kinh nghiệm trong mọi lĩnh vưc hoạt động thực tiễn của mình,một trong những yếu tố cơ bản để có thể tích lũy được hiểu biết và kinh nghiệm là trí nhớ.

I.Khái niệm trí nhớ.

Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá nhân dưới hình thức biểu tượng,bao gồm sự ghi nhớ,giữ gìn và tái tạo lại sau đó ở trong óc cái mà con người đã cảm giác,tri giác,xúc cảm hành động hay suy nghĩ trước đây.

II.Cơ sở sinh lý của trí nhớ

Trí nhớ là một quá trình rất phức tạp,được nhiều nhà khoa học quan tâm. Học thuyết poplov về những hoạt động thần kinh cao cấp cho rằng :phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý của sự ghi nhớ. Sự củng cố,bảo vệ đường liên hệ thần kinh tạm thời là cơ sở sinh lý của sự giữ gìn và tái hiện. Tất cả những quy trình này gắn chặt và phụ thuộc vào mục đích của hành đông.

Sư giải thích thích những quá trình trí nhớ theo quan điểm vật lý cũng là một lý thuyết sinh lý học của trí nhớ. Theo quan điểm này,những kích thích để lại những dấu vết mang tính chất vật lý (như những thay đổi về điện và về cơ trên các xinap nơ nối liền giữa hai nơ ron thần kinh ). Do đó sự diễn biến có tính chất lặp lại  của kích thích được thực hiện dễ dàng trên con đường đã vạch ra.

III.Các quy luật của trí nhớ.

1.Thường quên những gì diễn ra không thường xuyên trong đời sống.

Ví dụ: tổ trưởng nhắc Lan đi họp nhóm vào sáng thứ 2 tuần kế tiếp tuần đang học. vì cuộc họp nhóm diễn ra không thường xuyên và cố định vào các tuần nên Lan thường xuyên quên.

2.Sự quên diễn ra với tốc độ không đều,giai đoan đầu tốc độ quên nhanh sau đó chậm dần.

  Ví dụ: khi bạn học năm mươi từ mới tiếng anh. Lần đầu tiên học qua một lượt bạn nhớ được khoảng năm đến mười từ.sau vài lần tiếp theo số từ bạn nhớ được tăng lên dần dầ và đạt tới năm mươi từ như đã đặt ra.

3.Quên diễn ra theo trình tự, quên cái tiểu tiết trước cái đại thể chính yếu quên sau.

Ví dụ: khi đọc song một câu chuyện dài chúng ta sẽ nắm rõ được cốt truyện và một số ý phụ. Theo thời gian chúng ta sẽ quên câu chuyện ấy nhưng chúng ta sẽ quên ý phụ trước, cốt truyện quên sau.

4.Quên khi gặp kích thích lạ, kích thích mạnh, ấn tượng.

Ví dụ: Hoa đang có trí nhớ rất bình thường. Nhưng do mẹ Hoa mất đột ngột – đây là một tác động mạnh gây sốc cho Hoa. Sau đó Hoa gần như quên hết mọi chuyện trước đó.

5.Quên phụ thuộc vào mục đích ghi nhớ, độ dài, nội dung, độ khó của tài liệu

Ví dụ: khi đọc một bài thơ chữ hán và một bài thơ lục bát. Thì ta dễ thuộc bài thơ lục bát hơn vì thơ lục bát có vần điệu, ngôn từ dễ hiểu, nội dung dễ nắm bắt.

IV.Làm thế nào để có trí nhớ tốt?

Muốn có trí nhớ tốt phải luyện tập thường xuyên để nâng cao khả năng ghi nhớ,giữ gìn và tái hiên lại tài liệu nhớ.

Làm thế nào để có trí nhớ tốt?

•Phải tập trung chú ý cao khi ghi nhớ, có hứng thú,say mê, và ý thức được tầm quan trọng của tài liệu ghi nhớ, xác định được tâm thế ghi nhớ tài liệu lâu dài đối với tài liệu.

•Phải lựa chọn, phối hợp các loại ghi nhớ một cách hợp lý, phù hợp với tính chất, nội dung của tài liệu với nhiệm vụ và mục đích ghi nhớ. Ghi nhớ logic là hình thức ghi nhớ tốt nhất trong học tập. Để ghi nhớ tốt đòi hỏi người học tập phải lập dàn bài cho tài liệu học, tức là tim ra những đơn vị logic cấu tạo nên tài liệu đó. Dàn ý này được xem là điểm tựa để ôn tập và tái hiện tài liệu khi cần thiết.

•Phối hợp nhiều giác quan khi ghi nhớ, sử dụng các thao tác trí tuệ để ghi nhớ tài liệu, gắn tài liệu ghi nhớ với vốn kinh nghiệm bản thân.

Làm thế nào để giữ gìn (ôn tập) tốt?

•Phải ôn tập một cách tích cực, nghĩa là ôn tập bằng cách tái hiện là chủ yếu. viêc tái hiện tài liệu có thể tiến hành thoe trình tự sau:

Cố gắng tái hiện toàn bộ tài liệu một lần.

Tiếp đó tái hiện phần, đặc biệt là những phần khó.

Sau đó lại tái hiện toàn bộ tài liệu.

Phân chia tài liệu thành những nhóm yếu tố cơ bản của nó.

Xác định mối liên hệ trong mỗi nhóm.

Xây dựng cấu trúc logic của tài liệu dựa trên mối lien hệ giũa các nhóm.

•Phải ôn tập ngay, không để lâu sau khi ghi nhớ tài liệu.

•Phải ôn tập xen kẽ, không nên ôn tập liên tục một môn học.

•Ôn tập phải có nghỉ nghơi, không nên ôn tập liên tục trong một thời gian dài.

•Cân thay đổi các hình thức và phương pháp ôn tập.

Làm thế nào để hồi tưởng cái đã quên ?

•Về nguyên tắc,mọi sự vật hiện tượng tác đông vào não đều có thể tái hiện sau tác động

Quên không phải là mất tất cả, phải lạc quan tin tưởng rằng ,nếu cố gắng ta sẽ hồi tưởng lại được.

Phải kiên trì hồi tưởng. khi đã hồi tưởng sai thì lần hồi tưởng tiếp theo không nên lặp lai cách thức,biện pháp đã làm mà cần phải tìm ra biện pháp cách thức mới.

Cần đối chiếu so sánh với những hồi ức có liên quan trưc tiếp với nội dung tài liệu mà ta cần ghi nhớ.

Cần sử dụng sự kiểm tra của tư duy, của trí tưởng tượng về quá trình hồi tưởng và kết quả hồi tưởng.

Có thể sử dụng sự liên tưởng , nhất là liên tưởng nhân quả để hồi tưởng vấn đề gì đó.

Để hạn chế và chống lại sự quên cho nhọc sinh trong quá trinh giảng dạy cần:

•Thường xuyên ôn tập,yêu cầu học sinh tái hiện lại những điều đã học, làm cho học sinh có nhu cầu hứng thú với nội dung tà liệu.

•Phải ôn tập ngay không nên để lâu sau khi ghi nhớ tài liệu,không nên dạy hai môn kế tiếp nhau với nội dung tương tự nhau. Vì dễ gây ra ức chế.

•Tổ chức ôn xên kẽ,không nên ôn tập liên tục một môn học trong thời gian dài,cho học sinh làm bài tập ứng dụng sau khi học lý thuyết.

•Ôn tập xen kẽ kết hợp nghỉ ngơi,thường xuyên thay đổi hình thức và phương pháp học tập.

V.Phân chia thời gian học tập hợp lý và một số kỹ thuật gợi nhớ.

1.Học trong bao lâu là tối ưu?

Học hai giờ mỗi lần.

Chia thành bốn phần học và nghỉ ngơi năm phút giữa mỗi lần.

Hoàn toàn thư giãn trong lúc nghỉ ngơi

Sau mỗi hai giờ học nên thư giãn nửa giờ.

Học nhồi nhét là không hiệu quả

Nhiều học sinh cho rằng ôn bài sớm chỉ vô ích vì họ sẽ quên hết trước khi thi và phải học lại từ đầu.họ cho rằng nên ôn bài cho mỗi môn học năm ngày trước khi thi, lúc đó chung ta phải nhồi nhét quá nhiều kiến thức. kiến thức mới công kiến thức cũ sẽ tạo cho ta một mớ lùng bùng khó sắp xếp tổng hợp.

Vậy nên ôn bài là cách tốt nhất.không ôn bài trong vòng hai mươi tư giờ bạn sẽ quên tám mươi phần trăm kiến thức vừa học.

Học bằng cách lập sơ đồ tư duy.Nó sẽ giúp bạn tiết kiêm thời gian vì nó chỉ tận dụng các từ khóa và bạn sẽ nhớ bài lâu hơn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro