Tâm Lý Đạo Đức2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. ĐỊNH NGHĨA. 

Đố kỵ ( trong đạo Phật gọi là tật đố )là thù ghét những ai hơn mình, những ai được nhiều quyền lợi hơn mình. Ở đây chúng ta không gọi là tật đố vì nghe có vẻ xa lạ với những người bên ngoài, dùng chữ đố kỵ phổ thông hơn, dễ hiểu hơn. 

Tâm đố kỵ rất nguy hiểm cho cuộc đời tu hành của chúng ta. Người nào không thoát được tâm này thì ba đường ác sẽ mở ra, không biết ngày nào sẽ kéo mình đi xuống. Vì tâm đố kỵ nguy hiểm như vậy nên người tu không được coi thường.

Dấu hiệu dễ thấy nhất của tâm đố kỵ là thái độ khó chịu khi thấy người khác hơn mình. Ví dụ, trong lớp học, thấy có người huynh đệ học giỏi hơn mình, được nhiều điểm tốt hơn mình, chúng ta cảm thấy khó chịu. Khi sự khó chịu làm chúng ta bực bội, cảm thấy ghét người kia thì đó chính là đố kỵ. Tất nhiên, khi lòng có sự bực bội nghĩa là trong tâm đã tiềm tàng sự đố kỵ. 

Thường khi đang còn là học Tăng, mọi việc đã có quý Thầy lớn lo, quyền lợi cũng giống nhau nên chúng ta không bận tâm việc gì cả, cũng không có gì phải hơn thua, ganh ghét. Nếu có hơn thua nhau cũng chỉ là hơn thua ở điểm số. Nhưng khi ra ngoài làm việc, bắt đầu có chút quyền lợi, chúng ta không tránh khỏi sự hơn thua, đụng chạm quyền lợi với người này người khác. Nếu không biết tu, lúc đó tâm đố kỵ sẽ xuất hiện và chúng ta sẽ thấy thù ghét người hơn mình. Đây là một tâm vô cùng bất thiện, thậm chí có thể gọi là ác tâm. Người có tâm đố kỵ không thể nói đến chuyện giải thoát, giác ngộ, chỉ chờ ngày đọa địa ngục mà thôi. Tâm đố kỵ rất nguy hiểm và hậu quả của nó cũng thật khủng khiếp. 

Vì vậy, bây giờ tuy chưa gánh vác việc gì lớn lao nhưng chúng ta phải chuẩn bị điều này. Sau này, khi đã tu hành tốt, bắt đầu có những trách nhiệm, có uy tín, có ảnh hưởng với mọi người, chúng ta phải cẩn thận. Nếu không diệt trừ được tâm đố kỵ, khi đụng chạm với người khác chúng ta để tâm đố kỵ khởi lên sẽ vô cùng nguy hiểm.

 Theo định nghĩa thì đố kỵ là thù ghét những ai hơn mình. Vậy những cái hơn đó là gì?

 Cái hơn thứ nhất là về tài năng. Tài năng là điều làm cho người ta hay ganh tỵ với nhau. Vì tài năng thường đem lại danh dự, đem lại thành công cho con người. Và tất nhiên, thành công đó cũng đem lại lợi ích về vật chất. Vì vậy, nếu ai đó hơn mình về tài năng, tự nhiên chúng ta cảm thấy người đó có danh tiếng hơn mình, uy tín cũng hơn mình, sự thành công cũng vượt hơn, có ảnh hưởng lớn hơn và sẽ thu hoạch được vật chất nhiều hơn. Trong khi đó, tâm lý sâu thẳm của con người là chỉ muốn hơn chứ không bao giờ muốn thua kém người khác cho nên nảy sinh tâm đố kỵ.

Ví dụ, trong lớp chúng ta đang học sẽ có người học kém, có người học giỏi. Đây là giai đoạn chúng ta hay có sự đố kỵ về tài năng, về sức học. Nếu thấy người nào học giỏi hơn, được tin tưởng, được khen ngợi nhiều hơn mà trong lòng mình cảm thấy có sự bực bội khó chịu, chúng ta biết rằng mình đã có tâm đố kỵ, phải nhanh chóng diệt trừ. Nếu cảm giác này chưa xuất hiện nhiều, chúng ta cũng cần phải đề phòng, tránh để tâm đố kỵ xuất hiện sau này gây nên những hậu quả nguy hiểm. 

Sự đố kỵ thường xảy ra với những đối tượng cùng trang lứa. Khi đang còn là học Tăng, chúng ta không đố kỵ với quý Thầy lớn vì họ là những người đi trươc, có giỏi hơn cũng là điều đương nhiên. Lúc này, chúng ta chỉ ganh tỵ với những huynh đệ đồng học nhưng hơn mình. Khi lớn lên, được giữ chức vụ gì đó, chúng ta bắt đầu ganh với lớp người ngang với mình. Với lớp đàn em, chúng ta không còn để ý ganh tỵ trừ những người học sau, tu sau mà tỏ ra giỏi hơn, tỏ ra qua mặt mình. 

Trong môi trường tu hành, vấn đề này còn nhẹ nhàng nhưng ở ngoài đời, người ta sống chết, tranh giành hơn thua với nhau từng ly, từng tí và tạo thành những nghiệp khủng khiếp. Tuy nhiên, dù không khốc liệt như ngoài đời, nhưng tâm đố kỵ tồn tại trong môi trường tu hành sẽ làm cho Phật pháp ngày càng suy yếu vì không có sự đoàn kết tạo nên sức mạnh. Trong một đất nước cũng vậy, nếu con người có tâm hẹp hòi, hay đố kỵ lẫn nhau thì đất nước sẽ suy yếu, không tập hợp được sức mạnh. 

Nhìn vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chúng ta sẽ thấy rõ điều này. Những năm tháng đất nước bị ngoại xâm, toàn dân có chung một kẻ thù nên cùng chung lưng đấu cật, góp sức người sức của đấu tranh chống kẻ thù, giành lại giang sơn xã tắc. Nhưng khi đã đuổi được kẻ thù ra khỏi bờ cõi, con người bắt đầu quay lại tranh giành quyền lực, ganh tỵ, chống đối lẫn nhau. Đó là tâm đố kỵ. Chính tâm đố kỵ này đã làm cho con người không tập hợp được sức mạnh để xây dựng đất nước ngày càng phát triển, ngược lại còn làm cho đất nước thêm suy yếu. 

Nói ra điều này càng thêm buồn lòng nhưng đây là một sự thật. Người Việt Nam chúng ta còn bị tâm đố kỵ rất nặng nề. Hễ thấy ai giỏi hơn là cảm thấy khó chịu, đố kỵ, ganh ghét và tìm cách chỉ trích, chống đối, mưu hại lẫn nhau, triệt hạ lẫn nhau. Cứ như vậy, bản thân người hay đố kỵ đã không làm gì được nhưng người có tài cũng không phát huy được năng lực của mình. Đất nước, vì thế cũng không phát triển được. 

Trong khi đó, cũng là con người như chúng ta nhưng châu Âu lại có sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật rất cao, xây dựng được những công trình vĩ đại. Sở dĩ như vậy vì tư tưởng của họ rất thoáng. Một phát minh khoa học có thể là kết quả lao động miệt mài, tận tụy của nhiều nhà khoa học. Hoặc có thể đó là sự kế tục công trình của người đi sau đối với người đi trước. Điểm hạn chế của chúng ta là không phát huy được sức mạnh trí tuệ của nhiều nguời. Khi gian khổ có thể chung tay góp sức, đồng tâm hiệp lực nhưng khi yên bình, sung sướng lại đấu đá, giành giật với nhau. 

Điều này cũng đã đi vào trong Phật pháp. Thực tế cho thấy, tình trạng ganh ghét, đố kỵ giữa người này với người khác, nhóm này với nhóm khác, chùa này với chùa khác đã làm cho Phật pháp chia rẽ, không tập hợp được sức mạnh. Ví dụ, một người đang là giảng sư giỏi, có nhiều uy tín bỗng phát hiện ra ở chùa kia cũng có một giảng sư từ đâu về, cũng nổi danh, được nhiều người mến mộ, ngợi ca. Cho rằng vị giảng sư kia đang giành ảnh hưởng, uy tín, quyền lợi  với mình, người này cảm thấy khó chịu, đâm ra thù ghét và tìm cách chỉ trích, công kích. 

Chính sự thù ghét, chỉ trích công kích đó đã gây nên sự nghi kỵ, chia rẽ trong Phật pháp và làm cho Phật pháp ngày càng suy yếu. Thật đáng tiếc ! Vì nếu không vì lòng đố kỵ, chống đối lẫn nhau làm giảm hiệu quả làm việc của mỗi người, những người tài giỏi ấy biết hợp lại với nhau sẽ làm được biết bao nhiêu điều lớn lao cho Phật pháp. 

Có những vấn đề mà mười người không thông minh bàn mãi, bàn mãi cũng không giải quyết được. Nhưng những người thông minh thật sự, khi hợp lại, bàn với nhau thì sẽ phát hiện ra được nhiều điều rất độc đáo mà một mình họ không nghĩ ra. Có những trường hợp chỉ cần một người giỏi thôi cũng giải quyết được tất cả, những người khác cứ thế làm theo. Trong khi đó, nhiều người họp bàn với nhau lại không đem lại hiệu quả vì không biết tôn trọng ý kiến của nhau.

Nếu người tu chúng ta biết quý nhau, tôn trọng nhau, hợp lại thì sẽ xây dựng được nhiều điều tốt đẹp cho Phật pháp và có lợi cho chúng sinh. Ngược lại, nếu có tài mà cứ ganh tỵ với nhau vì cá nhân mình, không những chúng ta làm cho tài năng của mình và người bị giảm bớt mà còn gây thiệt thòi cho Phật pháp, cho chúng sinh. Như vậy, chẳng những không ai được phước lại còn mang nặng nghiệp. 

Tóm lại, tài năng là giá trị trên cao của một con người nên là khởi điểm dễ khiến người ta giành giật, ganh tỵ với nhau. 

 Một yếu tố nữa khiến người ta có thể ganh tỵ với nhau là tiền bạc. Nhắc đến tiền bạc, sự giàu có, chúng ta không thể không nghĩ đến “Công tử Bạc Liêu”. Đây là nhân vật có thật nhưng xung quanh sự thật về cuộc đời Trần Trinh Huy (Công tử Bạc Liêu), người ta đã dựng nên không biết bao nhiêu giai thoại. Trong những câu chuyện về Công tử Bạc Liêu có chuyện ganh nhau về tiền bạc và muốn chứng tỏ mình giàu giữa Công tử Bạc Liêu (Hắc Công Tử) và Phước Georges (Bạch Công Tử)- đệ nhất phong lưu ở Mỹ Tho. Trong Công tử Bạc Liêu- Sự thật và giai thoại, Phan Trung Nghĩa kể: “Một bận, gánh hát cải lương Phước Chương của Bạch Công tử về Sóc Trăng hát, Bạch Công tử liền mời Hắc Công tử lên xem. Vãn hát, Bạch Công tử tổ chức ăn nhậu với Hắc Công tử… Đang nhậu, Một người nào đó đánh rơi một vật dưới gầm bàn rồi cúi xuống mò tìm trong bóng tối. Thấy vậy, Bạch Công tử liền móc tờ giấy con công (năm đồng) đốt làm đuốc soi cho tìm vật đánh rớt. Với ý chơi khăm và cũng để “giật le” trước hai người đẹp, Hắc Công tử liền bật hộp quẹt đốt tờ giấy bộ lư (100 đồng) cũng để làm đuốc (thuở ấy ai có tờ giấy bạc bộ lư là đã bị “lính kín” theo dõi”. Chuyện đã lan truyền thành giai thoại “Công tử Bạc Liêu đốt tiền”. Tiền bạc có thể làm cho người ta ganh nhau đến mức ngông cuồng như vậy. 

Trong cuộc sống của người thế gian, chúng ta cũng gặp rất nhiều trường hợp ganh ghét, đố kỵ với nhau về tiền bạc. Chẳng hạn, lâu nay mình sống trong ngôi nhà hai tầng sang trọng, bề thế không nhà nào sánh được. Bỗng nhiên, một hôm bên cạnh mọc lên ngôi nhà ba tầng sừng sững. Từ đó, đi ra đi vào chúng ta cảm thấy khó chịu vì nhà mình thấp hơn. Tất nhiên, việc người ta xây ngôi nhà ba tầng lầu như vậy chẳng ảnh hưởng gì đến mình, chẳng làm mình thiệt thòi điều gì. Nhưng cảm giác khó chịu xuất hiện là do bản thân mình cảm thấy bị mất thể diện. Đó là tâm hơn thua của con người.

Người tu chúng ta cũng vậy. Có người trong tâm chưa diệt sạch đố kỵ nên đôi lúc cũng có sự khó chịu trước thành công của người khác. Có khi đó là sự thi đua, hơn thua về thể diện, lúc nào cũng muốn mình nổi bật hơn người khác. Trong bài Khiêm hạ, khi nói về vấn đề danh dự, chúng ta đã khẳng định người tu chân chính không đặt vấn đề danh dự, không đặt vấn đề thể diện. Nhưng nếu không tu tỉnh, chúng ta vẫn xem điều đó là quan trọng nên cảm thấy phải có sự hơn thua. Chính điều đó làm chúng ta phiền não và tạo nghiệp. 

 Điều thứ ba để con người ganh tỵ với nhau nữa là địa vị. Ở ngoài đời, vấn đề này có thể làm cho con người giành giật lẫn nhau bất kể sống chết. Vì địa vị, chức vụ, người ta có thể giết hại lẫn nhau. Trong lịch sử thế giới, chúng ta từng nghe kể về những vụ ám sát Tổng thống. Có những vụ xuất phát từ động cơ chính trị nhưng cũng có những vụ do tranh giành địa vị, quyền lợi. Nhiều lãnh tụ vì đụng chạm quyền lợi vẫn có thể bị người dưới mưu sát. Đây là điều rất nguy hiểm. 

Sự ganh ghét, đố kỵ về địa vị dễ khiến con người nảy sinh những suy nghĩ, những hành động bất thiện. Phim ảnh, sách vở đã nói nhiều đến vấn đề này. Chẳng hạn, trong một phim, một vị Tổng thống luôn bị người ta âm mưu lật đổ, đã nói nửa đùa nửa thật trong một cuộc họp với các cố vấn cao cấp: “Cái chết của Tổng thống làm cho Phó Tổng thống quan tâm”. Vì Hiến pháp của Mỹ quy định: Tổng thống chết, Phó Tổng thống sẽ lên thay. Câu nói đùa của Tổng thống cũng ám chỉ vị Phó Tổng thống nào cũng mong cho Tổng thống chết bất đắc kỳ tử để mình được lên thay. 

Trong cuộc sống cũng vậy. Khi  đang giữ chức phó gì đó, người ta hay cầu mong người trưởng gặp bất trắc để mình được thăng tiến. Vì vậy, nhiều khi thấy người trưởng gặp nanï, họ không nói ra nhưng trong bụng mừng thầm. Hoặc có khi ngấm ngầm cầu cho người ta tiêu tan mất, đừng tồn tại nữa. Tuy không khởi thành hành động, cũng không thành lời nói, chỉ ngấm ngầm ở trong tâm, nhưng đó là tâm ác độc. Tất cả những điều đó đều xuất phát từ tâm đố kỵ, hơn thua, tranh giành quyền lợi với nhau. Những người có tâm như vậy không thể tu được, không thể giải thoát, giác ngộ được.

Có người kể rằng, khi còn đi học, vì là người học giỏi, thường giúp đỡ bạn bè nên họ bị người khác (lúc bấy giờ là lớp trưởng) ganh ghét và tìm cách hãm hại. Người ta vu khống đủ điều khiến người này cũng bị khốn đốn một thời gian. Nhưng về sau, gần hai mươi năm trôi qua, khi người này đã đi tu, tình cờ đọc báo và biết rằng người bạn cùng lớp năm xưa nay là công an đã bị bắt, bị kết án mười sáu năm tù vì vi phạm pháp luật nặng nề. Ngày xưa, anh ta lúc nào cũng mưu hại để người khác phải vào tù. Bây giờ bản thân anh ta phạm tội nặng phải chịu cảnh tù tội. Phải chăng, lòng đố kỵ đã hại con người nặng nề như vậy ?

 Người tu chúng ta không đến nổi có những ác tâm như vậy, nhưng nếu không khéo tu, vẫn có sự ganh tỵ hơn thua với nhau về vị trí, về chức vụ và cũng tìm cách triệt hạ nhau một cách ngấm ngầm, thấp kém, không xứng đáng là người xuất gia. Đây là trường hợp rất đáng sợ nên chúng ta phải cẩn thận .

Ví dụ, trong chúng, mình là người tu trước, tuổi hạ cao nhưng không được giao chức trưởng chúng. Điều đó làm chúng ta cảm thấy bực bội. Sự bực bội đó chính là đố kỵ - điều làm cho chúng ta gây nghiệp. Trong phạm vi này, những biểu hiện của sự đố kỵ xuất hiện chưa nhiều. Nhưng về sau, khi bước ra làm việc, bắt đầu giữ chức vụ gì đó trong chùa, trong Giáo hội… thì việc so sánh hơn thua giữa chức này, chức kia sẽ làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu nhiều hơn và tâm đố kỵ dễ khởi phát hơn. 

Trong Phật pháp, có khi chúng ta cũng gặp nhiều sự đố kỵ, xỉa xói của người đời khi chúng ta đem khả năng mình đóng góp nhiệt tình vào việc chung. Nếu không vững tâm, có khi ta sẽ dao động, sợ hãi và lui bước. Vì tránh né sự đố kỵ của người mà ta đành phải hủy bỏ công đức, cũng là một sự thất bại. Chúng ta nên quan niệm rằng nếu đóng góp được, chúng ta cũng nên nhiệt tình đóng góp, miễn đừng tự cao, đừng vì danh lợi. Vì người tu vẫn còn sự đố kỵ nên chúng ta cẩn thận, đề phòng, đừng gây sự khó chịu cho người chung quanh khi ta đóng góp được nhiều cho cộng đồng. Còn riêng trong tâm, lúc nào chúng ta cũng mong có được nhiều người hơn mình, không bao giờ muốn tranh giành bất cứ điều gì với ai để tránh đi ý niệm đố kỵ. 

Nếu ai cũng biết đem khả năng của mình ra đóng góp thì cộng đồng này, xã hội này hay Phật pháp sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Nhưng chính vì còn tồn tại những điều đố kỵ nên nhiều người không dám bộc lộ khả năng của mình. Đó  cũng là điều bất lợi, điều thiệt thòi cho tất cả mọi người, cho Phật pháp. Sống trong môi trường có quá nhiều đố kỵ, hơn thua, chỉ có những người can đảm mới không sợ sự ganh ghét, đố kỵ, mạnh dạn đem khả năng của mình ra cống hiến cho xã hội, cho Phật pháp. Có lẽ trong hai cách sống- im lặng, không làm gì để tránh sự đố kỵ và can đảm chấp nhận đố kỵ - chúng ta nên chọn cách sống thứ hai. Vì nếu cứ cảm thấy khó chịu khi đụng chạm với người xấu, nếu cứ sợ bị ganh ghét đố kỵ mà chúng ta bỏ cuộc thì xã hội này sẽ rơi vào tay những người xấu, rất nguy hiểm. Những người quân tử, những người tốt thường mắc phải bệnh này. Vì vậy, sống trong môi trường hơn thua, đố kỵ, ganh tỵ đủ điều, chúng ta cố gắng trụ lại, cố gắng chịu đựng để có thể đóng góp được nhiều điều tốt cho đất nước. 

Một nguyên nhân nữa cũng khiến cho người ta đố kỵ là danh tiếng. Chúng ta vẫn biết danh tiếng là cái rất hão huyền nhưng người ta vẫn cứ tranh giành, hơn thua, đố kỵ với nhau. Ngài Động Sơn trước khi  tịch có nói một câu: “Ta có tiếng tăm ở đời, danh tiếng ở đời, ai vì ta mà dẹp được”. Nghe vậy, một vị Tăng bước ra đảnh lễ và nói: “ Hòa thượng cho con xin”. Lúc ấy, ngài Động Sơn mới trả lời rằng: “ Tiếng tăm của ta đã hết”. 

Thực ra, Ngài muốn thử xem các đệ tử của mình ngộ đạo đến mức nào. Người đã ngộ đạo sẽ biết tiếng tăm là chuyện hão huyền, không có thật, không phải là cái gì cụ thể. Bởi vậy, khi đứng ra nói: “ Hòa thượng cho con xin” nghĩa là vị Tăng kia đã hiểu được điều này. Làm sao Hòa thượng có thể đưa cho đệ tử mình cái danh tiếng vốn hão huyền đó được ? Trả lời: “Tiếng tăm ta đã hết” là Hòa thượng muốn khen vị Tăng đã hiểu đúng ý nghĩa của danh tiếng. Người xưa quả rất thâm thuý. Chỉ một câu nói ngắn gọn nhưng đã thể hiện được trí tuệ cao siêu của một bậc giác ngộ. 

Danh tiếng là hão huyền, không có thật tại sao con người cứ phải tranh giành nhau? Sở dĩ người ta chấp ghê gớm và giành giật với nhau về danh tiếng vì họ chưa đủ trí tuệ để thấy được nó là hão huyền. Chúng ta phải tu hành làm sao để thấy được tiếng tăm là hão huyền như vị Tăng kia. 

Sự giành giật danh tiếng cũng tuỳ theo cấp độ. Ví dụ, chúng ta có tâm rất tốt, phát nguyện đi về một vùng xa xôi nào đó để giáo hóa. Sau một thời gian dài giảng giải, giáo hóa, chúng ta được nhiều người hâm mộ, quý mến, phát tâm tu theo Phật pháp. Thời gian cứ thế trôi qua. Bỗng một hôm, chúng ta nhận ra số người nghe mình giảng Pháp giảm xuống. Hỏi ra mới biết có một thầy khác từ đâu mới đến cũng giảng pháp rất hay, nhiều người thích và đến đó nghe giảng. Nghe như vậy, chúng ta cảm thấy khó chịu trong lòng vì sự xuất hiện của người này vừa có sự hơn thua danh tiếng, vừa đụng chạm đến quyền lợi của mình. Nếu có tiếng tăm, người đó sẽ được san sẻ quyền lợi, sự cúng dường mà bấy lâu nay thuộc về độc quyền của ta ở khu vực đó. 

Như vậy, mặc dù tu rất tốt nhưng chúng ta vẫn không kiểm soát được tâm mình, không diệt trừ được đố kỵ. Khi có người xuất hiện gần như giành quyền lợi với mình, tâm đố kỵ của chúng ta đã khởi lên ngay. Phải chăng, việc giảng pháp hay, làm lợi ích chúng sinh thực chất chỉ che đậy những tham vọng tiềm tàng của riêng mình, không thực lòng vì Phật pháp, vì chúng sinh ? Vì nếu thật lòng thương yêu chúng sinh, khi nghe có thêm người giảng hay, chúng ta phải vui mừng. Ở đây, chúng ta lại sợ mất uy tín, mất ảnh hưởng, mất quyền lợi của mình. Đây chính là tâm đố kỵ. Chúng ta phải cẩn thận điều này. Nếu thấy chúng sinh được lợi ích, chúng ta phải vui mừng dù họ được hóa độ bởi bất cứ ai. 

Hiểu được điều này, ngay từ bây giờ chúng ta phải đề phòng tâm đố kỵ. Mỗi đêm, chúng ta phải phát nguyện độ cho tất cả chúng sinh. Mỗi khi ăn cơm, chúng ta cũng: “nguyện đoạn nhất thiết ác, nguyện tu nhất thiết thiện, nguyện độ nhất thiết chúng sinh”. Nhưng chúng ta phải cẩn thận khi nguyện độ cho chúng sinh được giác ngộ giải thoát. Vì có khi việc nguyện đó chỉ vì quyền lợi, vì danh tiếng của mình chứ không phải vì chúng sinh. Nghĩa là chúng ta muốn chỉ một mình độ chúng sinh chứ không muốn có ai cùng làm việc đó. 

Như vậy, tùy mức độ những người bằng mình hay hơn mình mà tâm đố kỵ xuất hiện để chúng ta cố gắng vươn tới, giành tới. Ở mức độ thấp (khi còn là Tăng Ni sinh), nếu có tâm đố kỵ hơn thua cũng chỉ ganh tỵ hơn thua với nhau trong vấn đề học hành. Khi lớn lên ra làm việc, tùy theo mức độ, phạm vi làm việc mà người ta ganh tỵ nhau. Ví dụ, nếu nổi tiếng ở mức độ làm việc trong tỉnh, chúng ta không ganh tỵ với những người nổi tiếng ngoài tỉnh, nổi tiếng cả trong nước, mà chỉ ganh với người trong tỉnh. Khi tiếng tăm đã lớn đến tầm quốc gia, đất nước thì chúng ta bắt đầu ganh tỵ với những người nổi tiếng ở mức độ cả nước, còn người trong tỉnh chúng ta không còn quan tâm, ganh tỵ nữa. Đến khi nổi tiếng khắp thế giới, chúng ta lại không ganh tỵ với người trong nước mà ganh tỵ với những người nổi tiếng cả thế giới như mình…. 

Bạn lữ cũng là yếu tố làm cho con người đố kỵ với nhau. Khi thấy người khác có nhiều bạn trong khi mình chẳng có ai quan tâm, thăm hỏi, chúng ta ngấm ngầm bực bội. Đó cũng là đố kỵ. 

Ở đây chúng ta phải hiểu rằng, người được nhiều người mến đều có nguyên nhân. Đó là cái phước, cái duyên với chúng sinh. Có thể đời trước họ có duyên với nhiều người nên bây giờ người ta cứ tìm đến. Còn chúng ta, có thể kiếp trước thích ẩn tu nên bây giờ ít ai biết đến. Nếu không biết nguyên nhân, chúng ta sẽ sinh lòng đố kỵ. Khi có ai hỏi đến họ, chúng ta sẽ tỏ thái độ bực bội hoặc nhiều khi nói xấu, chỉ trích. Đây là điều rất nguy hiểm.

 Một yếu tố nữa cũng khiến người ta ganh tỵ với nhau là nhan sắc. Điều này ít xảy ra ở người nam nhưng lại phổ biến ở người nữ. Chẳng hạn, một cô gái mỗi ngày soi gương nhận thấy mình đẹp nhất nhì thiên hạ nhưng ra đường chỉ toàn nghe người ta khen người khác đẹp, cô ta cảm thấy trong lòng bực bội. Ngược lại, nếu được ai khen đẹp, cô sẽ cảm thấy vui sướng vô cùng. 

Vậy, nguyên nhân làm cho tâm đố kỵ xuất hiện là gì? 

Nguyên nhân là do ngã chấp. Tất cả mọi phiền não, lầm lỗi của con người đều xuất phát từ chấp ngã ban đầu. 

Tuy nhiên, chấp ngã chỉ là nguyên nhân chung. Thật sự, ngoài chấp ngã còn có nhiều nguyên nhân khác. Chấp ngã phát sinh ra nhiều bệnh, trong đó có bệnh tự tôn. Đây là bệnh rất kỳ quái. Nó không phải là kiêu mạn. Kiêu mạn là dựa vào một ưu điểm của mình để thấy mình hơn người và có cảm giác thích thú bởi việc hơn thua đó. Còn tự tôn là tự cho mình hơn mọi người mặc dù chính mình không có điểm gì đặc biệt. Chúng ta thường bắt gặp trường hợp này nơi những người không có tài năng, danh vọng, tiền bạc nhưng luôn thích làm ra vẻ quan trọng, lúc nào cũng thấy mình hơn người khác. 

Vì không muốn thua ai, nhưng không có cách nào để hơn người nên người này hay xuất hiện tâm lý thù ghét những ai hơn mình. Sở dĩ như vậy vì họ sợ bị thua thiệt, mất quyền lợi, mất ảnh hưởng. Đây cũng là vị kỷ. 

Như vậy, chấp ngã đưa đến tự tôn (không muốn thua người khác)và vị kỷ (muốn có quyền lợi hơn người khác). Tự tôn  cộng với vị kỷ sẽ đưa đến đố kỵ (thù ghét những người hơn mình). 

Cũng có trường hợp kiêu mạn dẫn đến đố kỵ. Vì kiêu mạn, chúng ta  nghĩ rằng mình hơn tất cả mọi người nhưng khi có người giỏi hơn xuất hiện, chúng ta sinh lòng đố kỵ, thù ghét họ. Hiểu được điều này, chúng ta cố gắng  sống một đời vị tha, thương yêu tất cả mọi người, không tự tôn, không kiêu mạn, lúc nào cũng thấy mình thấp bé để tâm đố kỵ không xuất hiện. 

2. ĐỐ KỴ KHIẾN NGƯỜI TA GÂY NHÂN XẤU NẶNG NỀ.  

Việc đầu tiên mà người có tâm đố kỵ hay làm là thích chỉ trích để hạ uy tín của người giỏi, người làm được việc. 

 Ví dụ, nghe người ta khen thầy nào đó giảng hay, được nhiều Phật tử mến mộ, chúng ta liền chỉ trích, nói xấu. Có thể người ta chưa tin ngay điều mình nói nhưng niềm tin, lòng kính trọng đối với vị thầy kia phần nào sẽ bị giảm sút. Khi đến nghe Pháp, họ không còn nghe trọn lòng nữa. Như vậy, sự chỉ trích để triệt hạ uy tín lẫn nhau sẽ làm thóai tâm nhiều người khác. Đó là điều rất tai hại. 

Hậu quả của tâm đố kỵ rất nặng nề nhưng nhân quả rõ nhất là chúng ta sẽ mất tâm đạo. Có người kiếp trước từng tu rất tốt nhưng bây giờ mất hết đạo tâm, không tu hành được nữa, sống không nhà, không cửa, không vợ con, lang thang hết nơi này đến nơi khác… Đó là nhân quả của việc nói xấu người khác, nói xấu những vị Tôn túc, làm cho Phật tử thoái tâm. 

Vì lời chê bai, chỉ trích làm người ta chia rẽ, làm Phật tử thóai tâm, góp phần làm cho Phật pháp suy tàn nên chúng ta không nên nói xấu chỉ trích, ngược lại cần phải khen nhiều hơn. Ví dụ, khi Phật tử đến thăm chùa, chúng ta nên khen các thầy trong chúng. Nếu họ có hỏi về thầy nào, chúng ta cũng tìm những hạnh tốt để khen. Tất nhiên, sống trên đời không ai tránh được khuyết điểm, nhưng chúng ta tránh nói khuyết điểm, chỉ nói ra những ưu điểm nhằm giúp Phật tử tăng thêm tín tâm với đạo. Vì trong chùa có nhiều người tốt, người ta sẽ tin Phật pháp là tốt đẹp. Hơn nữa, những lời khen ấy cũng tạo thành phước rất lớn cho chúng ta.

Những người làm giảng sư rất dễ có phước vì khi giảng, thế nào họ cũng ca ngợi Đức Phật, ca ngợi các vị Thánh Tăng. Một lời họ nói ra không phải chỉ một hai người nghe mà rất nhiều người nghe. Do đó, phước họ có được là vĩnh viễn, đời đời. Lời khen rất dễ có phước. Nhưng nếu người giảng sư đứng trên bục giảng cứ công kích người này, nói xấu nguời kia thì sẽ bị tổn phước, không còn giảng được nữa, không còn tiếng tăm uy tín nữa. Những người viết sách cũng vậy. Viết sách ca ngợi Phật, ca ngợi chư Tăng, họ sẽ được đời đời hưởng phước. Nói chung, phước khen ngợi Đức Phật có thể kiếp sau mới được hưởng nhưng nghiệp chê người này, chỉ trích người kia chúng ta sẽ bị đọa ngay trong hiện tại. 

Việc hay chỉ trích, công kích, chê bai không những làm cho chúng ta tổn phước, làm thoái tâm những người khác mà tai hại hơn nữa còn khiến Phật pháp (điều tốt) không phát triển được. Phật pháp phát triển được hay không là do sự phát tâm của từng người, từng ngôi chùa, từng đạo tràng. Nếu mỗi người thoái tâm một chút, nếu mỗi người cứ đố kỵ, chỉ trích để triệt hạ uy tín lẫn nhau, chúng ta sẽ không phát huy được sức mạnh và làm cho Phật pháp suy tàn. 

Cộng với tâm ác độc, người đố kỵ có thể mưu hại người khác một cách hèn hạ. Ngoài đời, ác tâm của con người thật kinh khủng. Vì tranh hơn thua với nhau, họ sẵn sàng dùng bất cứ thủ đoạn gì để giết hại nhau. Người tu có thể còn tâm đố kỵ nhưng ác độc không nhiều vì biết tin Nhân Quả. Ngay đến việc giết một con vật nhỏ chúng ta còn không dám, làm sao có thể dám hại con người. Nhờ biết tin và sợ Nhân Quả, quả báo nên lâu ngày, tâm ác của chúng ta cũng giảm đi rất nhiều. Tuy nhiên, nếu không biết tu, không kiểm soát tâm mình, không có lý tưởng giải thoát thật sự thì khi có nhiều quyền lợi quá, người tu chúng ta vẫn tranh giành với nhau, vẫn có thể hại nhau đến mất hết uy tín, đến tiêu tan cả sự nghiệp. 

Chẳng hạn, ở một vùng nọ có một Thầy chánh đại diện vì muốn vị trí mình vững vàng không ai giành được nên khi thầy nào có năng lực muốn xin về đó ông ta đều tìm cách triệt hạ ngay từ đầu. Đó chính là đố kỵ, sợ đụng chạm quyền lợi, cũng là một mưu hại, tuy chưa nặng lắm. Nếu ác tâm mạnh hơn nữa, họ có thể vu khống người ta vi phạm chính trị để mọi người nghi ngờ đuổi đi nơi khác hoặc để công an bắt giam. 

Chúng ta còn nhớ câu chuyện Lục Tổ Huệ Năng được trao y bát. Ngài được Tổ Hoàng Nhẫn trao cho y bát nhưng phải truyền trao một cách lén lút vào lúc nửa đêm. Rồi sau đó Tổ phải đưa Ngài ra sông để trốn đi luôn. Tại sao như vậy? Vì Tổ Hoàng Nhẫn không tin vào tâm của chúng mình. Họ vẫn còn đố kỵ nhiều quá. Nói ra điều này chúng ta cũng cảm thấy đau lòng vì không hiểu vì sao thời đó gần Tổ mà con người vẫn còn tâm đố kỵ nặng nề như vậy. Có thể nhiều khi họ rất hiểu Thiền lý nhưng những quan điểm về Đạo đức vẫn chưa vững nên vẫn còn đố kỵ khi thấy người ta hơn mình. 

Phân tích tâm đố kỵ của những người trong chúng đối với Lục Tổ Huệ Năng, chúng ta thấy có nhiều lý do. Tổ Huệ Năng là một cư sĩ mới đến chùa được sáu tháng, mới hơn hai mươi tuổi trong khi những người khác đã xuất gia ít ra cũng trên hai, ba chục năm, hạ lạp y áo đàng hoàng. Vậy mà Tổ Huệ Năng được trao y bát, tương lai sẽ được giữ địa vị Tổ- một địa vị quá lớn lao, bao nhiêu người từng ao ước. Điều này đã làm cho họ không thể chịu đựng nổi. Lòng đố kỵ cộng thêm sự tự ái đã làm cho sức mạnh tăng lên dữ dội nên họ đã đuổi theo giành lại y bát. Thái độ của họ rất hùng hổ, sẵn sàng đánh giết để đoạt y bát trở lại. Đó cũng là tâm ác. 

Trong khi đó, ngài Thần Tú vẫn rất nhẹ nhàng. Ngài là người có Đạo đức. Sau khi trình bài kệ không được Ngũ Tổ chấp nhận, Ngài cũng bình an ở lại giữ núi. Khi Ngũ Tổ tịch, Ngài vẫn tiếp tục tu hành, dạy chúng bình thường và sau này cũng rất nổi tiếng. Sự đạt ngộ của Ngài có thể không bằng ngài Huệ Năng nhưng Ngài có công phu tu hành chân chính, có Đạo đức rất vững. Ngài cũng có sở đắc tâm linh, cũng nhập định rất  tốt. Khi còn ở trong chúng, ai cũng nể phục tài đức của Ngài. Họ tin chắc rằng, ngoài Ngài ra không ai xứng đáng được nhận y bát. Quả thật, Ngài cũng xứng đáng với sự tin yêu đó. Nhưng ngài Huệ Năng lại quá đặc biệt, quá siêu việt nên đã lãnh mất y bát khiến những người chúng dưới không chịu nổi. Còn ngài Thần Tú vẫn bình thản, coi như không có chuyện gì xảy ra vì Ngài tin vào sự chọn lựa của Thầy mình. 

Truyện Thái Dương Sơn Bình Thị Giả quật mồ ngài Minh An- thầy mình - trong Thiền Lâm Bảo huấn cũng cho chúng ta bài học về lòng đố kỵ. Lúc bấy giờ, ngài Minh An thuộc về tông Tào Động. Ngài là một Thiền Sư nổi tiếng đến mức ngài Phần Dương Thiện Chiêu - thuộc tông Lâm Tế - phải cho những đệ tử của mình qua đó tham học. Chúng ta biết rằng, tông Lâm Tế rất nổi tiếng và ít nể phục ai. Vậy mà thời đó ngài Phần Dương là người nối tông Lâm Tế chính tông lại cho đệ tử mình sang học với thầy Minh An. Điều này chứng tỏ ngài Minh An rất giỏi đồng thời cũng cho chúng ta thấy Đạo đức của cổ nhân. Những bậc đạo sư đúng nghĩa là như vậy. Họ không có sự riêng tư. Đọc chuyện này, chúng ta nể phục ngài Minh An bao nhiêu càng kính trọng ngài Phần Dương Thiện Chiêu bấy nhiêu. 

Khi sang học, hai đệ tử của tông Lâm Tế được ngài Minh An khen ngợi. Ngài còn nói hai người đó sẽ nối Pháp của Ngài làm cho tông Tào Động được hưng thịnh. Nhưng hai vị từ chối vì cho rằng ngài Bình Thị Giả mới thực sự là người tài giỏi. Hai vị đã ngộ đạo mà khen như vậy chứng tỏ ngài Bình Thị Giả cũng đã ngộ đạo. Vì trong Thiền tông, người đã ngộ đạo chỉ cần dùng trực giác để nhìn hoặc nghe người khác nói một vài câu sẽ biết ngay người đó đã ngộ hay chưa. Nhưng ngài Minh An lại không công nhận ngài Bình Thị Giả ngộ đạo. Ngài nói: “Vì trong đây không tốt, sau này sẽ chết ở đây”. “Ở đây” là trong bàn tay của mình, người Trung Hoa còn gọi là hổ khẩu tức miệng cọp. Nghĩa là Ngài muốn nói ngài Bình Thị Giả tâm không tốt nên sau này sẽ chết ở miệng cọp. 

Chuyện cứ thế trôi qua. Trước khi chết, ngài Minh An nói với mọi người: “Khi ta chết cho đến mười năm, không có chuyện gì. Nhưng sau mười năm sẽ có Thái Dương Sơn đánh ta.” Nói xong, Ngài ngồi tịch một cách tự tại vì Ngài đã đắc đạo cao siêu. Sau đó, thân Ngài được đem vào nhập tháp trong tư thế ngồi như thế. Ngài Bình Thị Giả tiếp nối trụ trì, gọi là Thái Dương Sơn Bình Thị Giả. Nhưng không hiểu vì sao càng ngày ông càng đố kỵ với cái tháp của thầy mình. Hình như ông cảm thấy cái tháp có vẻ uy nghi, đẹp đẽ sừng sững đứng trấn ở vị trí đó khiến ông không phát được. Thời gian cứ thế trôi qua, lòng đố kỵ với thầy mình của ngài Thái Dương Sơn càng ngày càng lớn. Cho đến mười năm sau, cảm thấy lòng đố kỵ đã đủ, ông nói: “Cái tháp Tiên sư để đây với ta có chướng ngại, thôi quật cái tháp đi, lấy xác thiêu và đem cốt vào thờ”. Chúng không chịu nhưng ông vẫn ra lệnh quật tháp. Điều ngạc nhiên là dù chết đã mười năm nhưng cơ thể ngài Minh An vẫn còn tươi tắn, hồng hào, râu tóc vẫn ra dài. Đây là điều rất độc đáo. Những vị khác tịch mười năm có thể nhục thân không hoại nhưng sẽ bị khô đi. Thân thể Ngài Minh An vẫn tươi như còn sống nên chất củi đốt cũng không thể cháy được. Thần lực Ngài Minh An để lại thật khủng khiếp! Thấy như vậy, Thái Dương Sơn bèn lấy búa rìu dùng chẻ củi chém xả vào đầu, vào thân ngài Minh An cho đến khi tan nát. Sau đó, ông tưới dầu vào và đốt cho thân thể tiêu tan. 

Hành động cầm búa rìu chém vào nhục thân thầy mình mười năm không hoại ấy đã khiến cho mọi người không ai chịu đựng nổi. Quá đau lòng, những người còn lại trong chúng đã chạy lên báo với quan huyện. Rất may, vị quan này vốn kính thờ ngài Minh An. Nghe tin, ông rất giận dữ sai quân lính đến lột y và đuổi Thái Dương Sơn ra khỏi chùa, không cho làm người tu nữa. Quả báo đã đến ngay tức khắc như vậy và ông ta đã hết phước làm Tăng. Sau đó, Bình Thị Giả đổi tên là Hoàng Tú Tài và đi nơi khác sống. Nhưng đi đến đâu, ông cũng không được trọng dụng. Một hôm, đi đến ngã ba đường, ông bị cọp vồ chết đúng như lời ngài Minh An đã nói trước kia. 

Lòng đố kỵ cộng với ác tâm khiến người ta có thể làm nhiều chuyện động trời như vậy. 

Ở mức độ nhẹ hơn, người có tâm đố kỵ thường quấy phá lặt vặt nhằm hạ uy tín của người khác. Ví dụ, cùng học với nhau, nhưng thấy người kia làm bài được nhiều điểm hơn, người có tâm đố kỵ sẽ tìm cách lấy bớt một vài trang trong bài làm của họ xé bỏ đi. Người kia không hay biết, vẫn mang bài đến nộp nên không được điểm cao. Hoặc thấy một huynh đệ được thầy trụ trì quí mến, vì đố kỵ, họ cảm thấy bực bội. Đến phiên người ấy nấu bếp, họ phá bằng cách lấy muối bỏ thêm vào nồi canh vv…. 

Trong Góp nhặt cát đá có câu chuyện về người mù và Thiền Sư Bankei.   Thiền Sư Bankei dạy đạo ở một ngôi chùa. Trước cổng chùa có một người mù. Tuy không nhìn thấy nét mặt của người khác nhưng người mù có cái tai rất nhạy và chỉ cần nghe tiếng nói, ông có thể đánh giá được tâm trạng người khác, biết họ thật tình hay không. Ông từng nói: “Khi nghe một người khen sự thành công của người khác, tôi cũng nghe được cái bí mật trong lòng họ, đó là một sự ganh tỵ. Khi nghe một người chia buồn với nỗi đau khổ của người khác, tôi vẫn nghe được trong tâm họ cái bí mật của một sự vui mừng hả hê.” Ông nói: “Chỉ có Thiền Sư Bankei khi khen ai một điều gì, hay chúc mừng ai một điều gì, tôi nghe trọn lòng chân thành, sự vui mừng của Ngài. Khi nghe Ngài tỏ sự buồn bã đối với nỗi buồn của ai, tôi nghe trọn vẹn cái nỗi buồn như thế”.

Vì tu thiền kiểm soát được tâm vững chắc, kỹ lưỡng nên Thiền Sư Bankei có lòng thương người rất chân thành, không đố kỵ. Câu chuyện nhằm khen ngợi đức tính ấy của ông. 

Cái tâm của con người là như vậy. Thấy người nào thua mình thì vui mừng, thấy ai hơn mình dù mở miệng khen nhưng trong lòng vẫn có sự bực bội. Hoặc thấy người hơn mình bị nạn, tâm vui mừng một cách lộ liễu hoặc thầm kín.

Ví dụ, người nữ hay hơn thua nhau về sắc đẹp. Thấy người kia được nhiều người khen đẹp, người này cũng khen nhưng trong lòng ấm ức, bực bội. Đó là khen không thật tình vì lòng không thật vui khi thấy người ta đẹp hơn mình. Hoặc nghe tin người có tài năng, có danh tiếng hơn mình bị tai nạn, chúng ta không dám bộc lộ niềm vui một cách lộ liễu nên miệng vẫn xuýt xoa: “Tội nghiệp” nhưng trong lòng lại vui mừng quá đỗi vì từ nay ông ta không đi giảng được nữa, không hơn mình được nữa. Đó là tâm bí mật của con người. 

Từ trong thâm sâu, chúng ta phải cố gắng kiểm soát tâm để khi thấy sự thành công của người khác, chúng ta xem như đó là thành công của chính mình; trước niềm vui của người khác, chúng ta cũng vui như chính niềm vui của mình. Vì vậy, trong bài Khấn nguyện chúng ta vẫn tụng hằng ngày có đoạn: 

Xin cho con sung sướng

Khi thấy người thành công

Hoặc gây tạo phước lành

Như chính con làm được

Chúng ta tụng như vậy là để diệt lòng đố kỵ, khởi được tâm tùy hỷ trước sự thành công của người khác.

Tâm đố kỵ có quả báo rất kinh khủng. Có lẽ chúng ta còn nhớ câu chuyện về Tôn giả Losaka Tissa bị quả báo đói kém. Vào thời Đức Phật Ca Diếp, Ngài là một trụ trì ở một tinh xá đầu làng. Ngài cũng hiền lành, cả làng chỉ có mình Ngài ở ngôi chùa đó. Một hôm, một vị trưởng lão Alahán đi đến làng và gặp vị địa chủ. Người địa chủ này sau khi nói chuyện, thấy vị Tôn giả này quá trí tuệ bèn thỉnh thọ cơm rồi nói:

-  Thưa Tôn giả, đầu làng này có một ngôi tinh xá, xin Tôn giả hãy đến đó nghỉ ngơi, chiều con sẽ đến thăm Tôn giả.

 Vị Tôn giả Alahán đến tinh xá gặp vị trụ trì. Sau khi chào nhau, vị trụ trì hỏi: 

- Ngài đã dùng cơm ở đâu chưa?.

Hòa Thượng trả lời:

- Thưa Ngài, tôi có dùng cơm ở nhà vị trưởng làng. 

Chiều hôm đó, người địa chủ mang cơm, thức ăn, sữa và một số vật phẩm đến cúng dường hai vị và đảnh lễ xin nghe Pháp của Tôn giả Alahán. Vị trụ trì thấy vậy rất khó chịu.

 Sau khi đảnh lễ và nghe pháp xong, người địa chủ đảnh lễ thỉnh luôn hai vị:

- Con xin thỉnh hai vị trưa mai đến nhà con thọ thực.

Cả đêm đó, vị trụ trì không ngủ được vì bỗng dưng từ đâu có người đến giành bớt Phật tử của mình. Sáng hôm sau, ông dậy rất sớm để đến nhà người địa chủ nhưng không gọi vị Tôn giả Alahán kia đi cùng. Thực ra, ông có gõ cửa hai tiếng rất nhẹ, gõ nhưng cố ý không cho người kia nghe.

Khi đến nơi, người địa chủ hỏi:

- Vị Tôn giả hôm qua đâu?. 

Vị trụ trì trả lời:

- Hôm qua ông ăn cái gì đó chắc còn đầy bụng, tôi có gọi mà ông không dậy.

Câu nói tuy nhẹ nhưng là một lời chỉ trích, nói xấu làm cho người nghe có cảm giác vị Tôn giả kia ăn no, ngủ quên không chịu tu hành. Ăn xong, vị địa chủ lấy riêng một bát thức ăn và nói: 

- Con mong thỉnh Ngài, Ngài đem về cho vị kia giùm con. 

Đi giữa đường, gặp đám than hồng người ta đang đốt, ông đổ tất cả bát cơm vào đó. Lúc bấy giờ, ở tinh xá, vị Tôn giả Alahán đã biết tất cả mọi chuyện. Thấy ông này quá đố kỵ, ông đắp y, mang bát bay lên hư không qua vùng khác ở và không về đó nữa. 

Về đến nơi không thấy vị kia, vị trụ trì giật mình nghĩ: “Hay là vị này đã chứng đạo biết được tâm ta đố kỵ nên bỏ đi không ở lại. Ôi, ta vì ngu si đã làm một chuyện lầm lỗi”. Sau đó, ông buồn rầu, hối hận rồi chết. 

Khi chết, ông xuống địa ngục mấy ngàn năm, bị thiêu đốt ở đó. Hết nghiệp địa ngục, ông lên làm quỷ đói, trong năm trăm năm không hề được ăn một miếng gì trừ cái bào thai chết của người ta trục ra một hai lần. Sau khi mãn năm trăm năm ngạ quỷ, ông bị đọa làm chó năm trăm đời. Trong thời gian làm chó, không bao giờ ông được người ta cho ăn uống đàng hoàng, chỉ được ăn khi người ta nhậu say nôn ói ra ngoài. Con chó ấy gầy ốm rồi chết. Sau đó, được trở lên làm người. Nhưng nơi  ông được sinh ra, cả làng luôn mang tai hoạ. Ông bị người ta đuổi ra khỏi làng, sống lang thang vất vưởng. Sau này, ông gặp Đức Phật (lúc đó Ngài còn là Bồ Tát). Ngài giáo hóa theo Phật để củng cố lại nhân duyên với Phật pháp. 

Trong kiếp cuối cùng thời Đức Phật sinh ra đời, ông cũng được sinh ra tại một làng đánh cá. Vào ngày ông ra đời, không ai đánh được một con cá nhỏ nào, hồ nước dự trữ cho làng cũng bị cạn, một số nhà trong làng bỗng nhiên bốc lửa cháy, rồi tự nhiên vua ra lệnh bắt cả dân làng….Những chuyện xui cứ tới dồn dập. Thế là người ta nghĩ trong làng đã xuất hiện một người nào đó xúi quẩy, phải tìm cách loại ra. Lúc đầu, họ chia làng thành hai phần độc lập, không giao thiệp với nhau nữa. Phân nửa làng không có ông thì làm ăn phát đạt trở lại, còn nửa làng kia vẫn tiếp tục bị xui xẻo. Thế là, phân nửa làng đó lại được chia làm đôi. Cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại gia đình ông. Họ đuổi gia đình đó ra khỏi làng và làng lại làm ăn trở lại bình thường. Khi bị đuổi, người chồng đuổi luôn người vợ ra khỏi nhà. Vì núm ruột mình đứt ruột đẻ ra, người vợ không nỡ dứt bỏ nên cố gắng làm lụng nuôi ông trong đói khổ. Khi ông lẫm chẫm cầm bình bát đi xa được, bà sai con đi xin ăn và ở nhà bà trốn đi. Thế là từ ngày đó, ông bắt đầu cuộc đời đói khổ, tự lập thân sống như con quỷ ăn bùn. Nhiều khi chỉ xin được mấy hạt cơm người ta làm rơi ở sàn nước để ăn cho đỡ đói. Đến khi gặp ngài Xá Lợi Phất, bằng đạo nhãn, ngài Xá Lợi Phất thấy rằng người này có duyên với Phật pháp, có thể tu được dù nghiệp rất khắc nghiệt. Ngài hỏi:

-           Cha mẹ con ở đâu ?

-           Thưa, mẹ con vì con mà quá khổ sở nên đã bỏ con.

-           Con có muốn xuất gia không?

-           Lành thay Tôn giả! Nếu có thể cho con được xuất gia!. 

Thế là ngài Xá Lợi Phất đem ông về, cạo tóc cho xuất gia. Mặc dù đã tu chứng Alahán nhưng suốt một đời, không bao giờ Ngài được ăn no cho đến ngày chết.

 Quả báo đố kỵ kinh khủng, đáng sợ như vậy. Vì Ngài đã đố kỵ với vị Alahán nên bị đoạ đày không biết bao nhiêu kiếp. 

Trong cuộc sống, những người hay đố kỵ phải chịu nhiều quả báo. Nếu không có tài năng, luôn ganh tỵ với người, đời sau chúng ta sẽ không có tài năng. Thấy ai thành công, chúng ta chỉ trích, bực bội thì đời sau, thành công sẽ không đến, làm gì cũng thất bại. Bởi vậy, những người làm việc hay thất bại thường do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có nguyên nhân do đời trước có tâm đố kỵ nặng quá. Ngoài ra, người có tâm đố kỵ còn chịu một quả báo nữa là bị thân quyến bỏ rơi. Vì chỉ trích cho người ta bỏ nhau, ghét nhau thì chúng ta sẽ chịu quả báo sống cô đơn, bị người thân ghét bỏ. Và quả báo nặng hơn nữa là bị đọa ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. 

3. ĐỀ PHÒNG TÂM ĐỐ KỴ. 

Tâm đố kỵ đem lại quả báo khủng khiếp như vậy nên chúng ta phải đề phòng, đừng để nó khởi phát. Nhưng đề phòng tâm đố kỵ bằng cách nào? 

Trong phạm vi gần: Đối với những huynh đệ cùng lớp, cùng trường và nhất là cùng trình độ với nhau, lúc nào chúng ta cũng chân thành cầu mong huynh đệ hơn mình. Nếu lỡ học kém, chúng ta cũng cầu mong cho huynh đệ mãi mãi hơn mình. Như thế, chúng ta sẽ có phước và dần dần sẽ học giỏi hơn. Nếu lúc nào cũng muốn hơn người, chúng ta sẽ ngày càng kém sút. 

Khi thấy huynh đệ được nhiều người mến (đắc nhân tâm), chúng ta đừng phủ nhận mà phải tìm thấy ưu điểm nào đã khiến họ được như vậy. Có thể họ có phước gì đó trong quá khứ và ưu điểm gì đó trong hiện tại. Tìm những ưu điểm của bạn để chúng ta học hỏi, tuyệt đối không được chê bai, dè bĩu. 

Trường hợp huynh đệ mình có uy tín, được người lớn giao nhiệm vụ (trông coi hương đăng, tiếp khách, tri sự, quản chúng… ), chúng ta phải tận tình phụ giúp để huynh đệ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chúng ta đừng vì ganh ghét mà lén lút phá đám. 

Sau một thời gian tu hành, thấy huynh đệ mình tu tiến, ngồi thiền được lâu, thuyết giảng hay…, chúng ta phải hoan hỷ và thật lòng kính trọng. Vì người có trí tuệ, định lực tăng tiến cũng chính là thầy mình. 

Đối với những huynh đệ kém hơn, chúng ta phải tận tình chỉ dạy, không giấu giếm để huynh đệ vượt lên. Thâm tâm chúng ta phải lúc nào cũng mong cho huynh đệ tốt hơn mình. Nếu thấy huynh đệ nào chữ viết còn xấu, chúng ta chỉ họ cách rèn từng chữ để dần dần chữ viết được đẹp hơn. Hoặc thấy huynh đệ viết câu văn chưa chuẩn, chưa suông, chấm câu còn tùy tiện…, chúng ta phải hướng dẫn họ nắm lại những qui tắc ngữ pháp cơ bản vv… Nói chung, chúng ta luôn tận tình chỉ dạy cho huynh đệ mình tiến lên. 

Ở phạm vi xa: (lúc trưởng thành làm việc lớn)

Đây là lúc tâm đố kỵ dễ có điều kiện khởi phát nhất. Vì lúc này, mối quan hệ của chúng ta rộng rãi hơn, quyền lợi cũng nhiều hơn. Bởi vậy, chúng ta càng đề phòng tâm đố kỵ cẩn thận hơn.

Khi nghe có giảng sư nào thuyết pháp hay, được nhiều người hâm mộ, chúng ta phải chân thành tìm thấy ưu điểm của vị đó để tán thán, học hỏi. Có khi, giữa chúng ta và người ấy không đồng quan điểm nhưng nếu họ được nhiều người hâm mộ, khen ngợi, tán thán, chúng ta cũng phải tìm hiểu nguyên nhân và chân thành học hỏi. Trước những ưu điểm của người, chúng ta phải đảnh lễ, kính trọng. Có như vậy, tâm đố kỵ mới bị tiêu trừ và chúng ta mới có thể tiến bộ.

Đối với những vị tu có kết quả tâm linh, chúng ta phải chân thành kính trọng. Vì đó chính là những vị Thánh của cuộc đời, là chỗ dựa cho chúng sinh. Làm một giảng sư hay không bằng những người đắc định, ngộ đạo thật sự trong tâm. Họ mới thật sự là chỗ dựa của chúng sinh. Có thể người đó nhỏ tuổi hơn chúng ta, tu sau chúng ta nhưng nếu họ đạt được kết quả tâm linh thì tận trong thâm tâm, chúng ta phải xem họ là thầy mình và thật lòng kính trọng, không được khởi tâm đố kỵ. Nếu gửi đến các bậc Thánh lòng kính trọng, sau này chúng ta cũng sẽ đạt được nhiều điều tốt lành. 

Mặt khác, chúng ta phải giới thiệu những vị có Tài Đức cho nhiều người biết để cùng học hỏi. Chẳng hạn, bác Như Sanh là người Hòa Hảo nhưng sách Bác viết rất hay và sâu sắc. Khi giảng Pháp, nhờ giới thiệu cuốn sách cho nhiều người biết, chúng ta đã làm được một điều tốt là tạo mối quan hệ giữa Hòa Hảo và đạo Phật mặc dù lâu nay, giữa hai đạo này vốn không có thiện cảm với nhau. Như vậy, khi chân thành ca ngợi cái hay của người khác, chúng ta sẽ góp phần làm cho thế giới này đoàn kết hơn. 

Đối với những người có chức vụ cao hơn mình, chúng ta cố gắng phụ lực để giúp họ làm tròn trách nhiệm. Tận trong thâm tâm, chúng ta không mong cầu tín đồ, tiền bạc, địa vị, danh tiếng … vì tất cả chỉ là hư ảo. Vì không mong cầu nên chúng ta không có cảm giác bị đụng chạm quyền lợi với ai và không nảy sinh lòng đố kỵ khi thấy người khác hơn mình. 

Nói tóm lại, tâm đố kỵ  rất đáng sợ. Vì vậy, chúng ta phải thương yêu mọi người chân thành, lúc nào cũng mong mọi người hơn mình. Đó là những nguyên tắc để diệt trừ tâm đố kỵ.

1. GIẢI THOÁT LÀ MỤC TIÊU CỦA ĐẠO PHẬT. 

 Khi đến với đạo Phật, tất cả chúng ta đều xác định mục tiêu là tìm đến sự giác ngộ, sự giải thoát. Đó là lời khẳng định đúng đắn con đường đi của đạo Phật. Nhưng trong đạo Phật, ý niệm đem lợi ích cho chúng sinh cũng là một mục tiêu quan trọng không kém. 

Như vậy, vừa tìm đến sự giải thoát, vừa đem lại lợi ích cho cuộc sống của con người luôn luôn là đôi cánh của con chim mà người tu theo Phật phải nhận thức chắc chắn không lầm lẫn. Đó cũng là sự minh chứng hùng hồn rằng Đạo Phật hoàn toàn không phải là đạo tiêu cực. 

Nhưng để thiết tha đi tìm sự giải thoát, trước hết chúng ta phải hiểu sâu sắc thế gian này là ràng buộc, là đau khổ. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy được ý nghĩa của sự giải thoát. Nếu không ý thức được cuộc sống hiện nay là đau khổ thì lý tưởng giải thoát sẽ trở nên vô nghĩa. 

Bao giờ cũng vậy, khi rơi vào hoàn cảnh bức xúc, ngặt nghèo, lý tưởng tìm đến giải thoát sẽ mạnh mẽ hơn. Trong hòan cảnh sung sướng no đủ, người ta dễ mãn nguyện và không thiết tha tìm cầu điều gì vượt thóat hơn. Đạo Phật được gọi là đạo của trí tuệ chính vì ngay trong bất cứ hòan cảnh nào, dù khổ đau hay sung sướng, người ta cũng được soi sáng một chân trời cao siêu hơn, tòan thiện hơn. Người ta sẽ luôn luôn được cảnh báo rằng cái sung sướng mà họ đang hưởng thực chất cũng chỉ là cạn cợt, tầm thường, mong manh và nguy hiểm.Đây là trí tuệ then chốt của người học Phật . 

Nếu không hiểu sâu sắc sự đau khổ của cuộc sống, chúng ta sẽ không có khát vọng hướng đến sự giải thoát. Một lúc nào đó, có người không tin tôn giáo, thắc mắc rằng tại sao Đức Phật nói cuộc đời là khổ trong khi con người, ai cũng có lúc khổ, có lúc sướng, chúng ta sẽ lúng túng không trả lời được. Hỏi như vậy, có nghĩa là người ta cảm thấy sự khẳng định của Đức Phật là cực đoan và cách nhìn thế gian của đạo Phật quá bi quan. 

 Về sự khổ, chúng ta đã học một phần trong kinh: Bát Đại Nhân Giác. Trong Tứ Diệu đế, khổ được chia ra làm tám loại: Sanh, lão, bệnh, tử, cầu bất đắc, oán tán hội , ái biệt ly và ngũ ấm xí thạnh. Chúng ta chưa bàn đến Sanh, lão, bệnh, tử vì đó là những vấn đề lớn. Cầu bất đắc  là cầu không được. Ái biệt ly là thương yêu mà phải chia cách. Oán tắng hội là ghét mà cứ gặp hoài. Ngũ ấm xí thạnh là thân tâm là một khối khổ. 

Xét từng trường hợp, chúng ta thấy rằng, có người cầu mong điều gì đều được như ý. Người ấy không có gì phải đau khổ. Như vậy, làm sao khẳng định rằng cuộc đời này toàn là đau khổ? Hoặc nói ái biệt ly là đau khổ. Nhưng nếu người mình thương yêu luôn ở bên cạnh, không hề xa cách, thì làm gì có sự đau khổ. Như vậy, khẳng định cuộc đời này toàn là đau khổ, phải chăng đó là điều không đúng? Hoặc nói oán tắng hội là ghét mà gặp mặt hoài là khổ. Nhưng có những người mình ghét mà chẳng ở chung với họ thì không có gì gọi là khổ v.v… Nhiều người cứ lý luận như vậy, nếu chúng ta không hiểu rõ được nỗi đau khổ của cuộc đời thì sẽ không trả lời được. Cho nên, dù làm Giảng sư hay không, chúng ta cũng phải chuẩn bị cho mình những lý luận cơ bản để có thể giải thích vấn đề một cách hợp lý. Trứơc hết, chúng ta phải hiểu rõ nỗi đau khổ của cuộc đời để thiết tha tu hành. Nhưng làm sao chúng ta nhận ra cuộc đời mình đang sống là đau khổ, là ràng buộc ? 

Để trả lời điều đó, chúng ta phải biết so sánh. Chẳng hạn, nếu nhìn một con chó hoang ghẻ lác, lông rụng hết, mùa đông đến, phải sống trong giá lạnh, lại bị con người xua đuổi, phải sống lang thang ngoài đường phố, chúng ta sẽ thấy thân phận nó khổ biết chừng nào. So sánh với thân phận con người, chúng ta sẽ nghĩ nếu thoát được thân chó và làm người, chắc chắn nó sẽ sung sướng hơn. Hoặc nhìn thấy những con kiến bé nhỏ đang ì ạch tha mồi mang về hang, về tổ, chúng ta sẽ xót thương thân phận chúng vô cùng, vì chúng quá cực khổ. Thân phận con kiến đã quá bé nhỏ lại phải cần mẫn tha từng miếng mồi to hơn mấy lần thân nó một cách vất vả. Với con người chúng ta, miếng mồi ấy có đáng gì, có thể đó chỉ là mảnh vụn rơi ra từ cái bánh ta vừa ăn. Nhưng đối với họ nhà kiến, miếng mồi ấy quí giá vô cùng. Như vậy, thử so sánh thân phận con kiến với con người, chúng ta sẽ thấy nó quá khổ còn mình thật sung sướng, hạnh phúc. Dẫu sao, chúng ta cũng có cái ăn, có cái dự trữ, chúng ta còn được đi đó đi đây, xa hơn và tự do hơn. Trong khi đó, con kiến bị ràng buộc trong một phạm vi nhỏ hẹp. 

Bao giờ cũng vậy, nhìn xuống dưới, chúng ta luôn thấy mình sướng hơn nhiều người, nhưng nếu so sánh với Chư Thiên, chúng ta sẽ chợt thấy đời mình đầy ắp những nỗi khổ đau. Chư Thiên sống một cuộc sống thong dong an vui, tự do, tự tại và muốn gì được nấy.  Nếu muốn đi đâu, chỉ cần khởi ý niệm bên này, chư Thiên sẽ biến mất và hiện ngay lập tức ở bên kia. Hoặc muốn liên lạc với ai, chỉ bằng ý niệm của mình, Chư Thiên sẽ làm cho người kia nhận ngay được ý tưởng. Các vị sống trong một thế giới mà mọi điều đều tốt đẹp. Rõ ràng, so sánh như vậy, chúng ta sẽ thấy con người sống khổ hơn rất nhiều so với chư Thiên.

Trong cuộc sống,  cũng có những lúc chúng ta thấy mình được vui, được hạnh phúc, nhưng cái vui của thế gian này nếu so sánh với Niết Bàn tuyệt đối của Phật chẳng có ý nghĩa gì. Như vậy, sở dĩ Đức Phật tuyên bố cuộc đời này đau khổ là vì Ngài dựa vào Niết Bàn tuyệt đối mà Ngài đã chứng được. Khi đã chứng được Niết  Bàn tuyệt đối, Ngài mới hiểu rằng, mọi cái gọi là niềm vui hay hạnh phúc của thế gian thực chất chỉ là đau khổ vì nó quá tầm thường. Chúng ta chưa chứng được điều đó, chỉ nghe Phật nói nên thường hiểu không sâu sắc. 

 Sự thật, những gì chúng ta gọi là hạnh phúc ( được nhà cao cửa rộng, lắm của nhiều tiền…) so với trạng thái Niết Bàn tuyệt đối của Chư Phật, chỉ là điều vụn vặt không đáng kể. Nếu so sánh với con kiến, chúng ta thấy nó quá cực khổ, quá ràng buộc, còn mình quá tự tại thì Đức Phật nhìn cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Ngài thấy mình tự do, tự tại mà chúng sinh phải lặn hụp kiếm từng miếng ăn nho nhỏ chẳng khác gì con kiến.

  Chúng ta thử hình dung chứng kiến cảnh hai con kiến đang giành nhau một mẩu bánh của con người làm rơi, chúng ta sẽ nghĩ gì ? Có thể lúc ấy chúng ta cảm thấy buồn cười vì sự tranh giành lặt vặt, xâu xé lẫn nhau vì một vật không đáng gì của chúng. Điều đó chẳng khác gì cách nhìn và cách nghĩ của Chư Thiên hay Chư Phật đối với chúng ta. Đối với các vị Bồ Tát, Alahán, địa vị, danh lợi chỉ là những thứ tầm thường chẳng khác gì hạt bụi rơi ra từ chiếc bánh.  Vậy mà, chúng ta lại cứ giành nhau, xâu xé lẫn nhau, cho đó là những gì quí nhất, quan trọng nhất. Khi hiểu được như vậy, chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời này thật sự là bể khổ. Những lúc cảm thấy sung sướng là do chúng ta chỉ so sánh lẩn quẩn  trong phạm vi cuộc sống của con người. Nếu so sánh với hạnh phúc của Chư Thiên hoặc với sự an lạc của một vị Bồ Tát, một vị Alahán, một vị Phật…thì những cái gọi là sung sướng trong cuộc đời này thật quá tạm bợ, quá nhỏ bé tầm thường.  Chừng nào hiểu sâu sắc  ý nghĩa đau khổ của cuộc đời, hiểu được thân phận tầm thường, nhỏ nhoi của mình, chừng ấy chúng ta mới hiểu sâu sắc đạo Phật và thiết tha đi tìm sự giải thoát. 

Vậy, nguyên nhân của đau khổ là gì ?  

Đó là do khuynh hướng vị kỷ. Chúng ta biết rằng, vị kỷ sinh ra nhiều hệ quả, trong đó có một hệ quả quan trọng là sự đau khổ. Hay nói cách khác, tất cả những đau khổ của con người đều bắt nguồn từ vị kỷ. Nói vị kỷ sinh ra đau khổ thường dựa trên hai ý nghĩa. Một là trên hệ quả của tâm lý hiện tại và một là trên hệ quả của luật Nhân Quả đưa đến vị lai. 

Ví dụ, khi có người nào đó đem đến cho chúng ta một vật quí, chúng ta sợ phải chia lại cho người khác nên vội vàng tìm cách cất giấu và hưởng thụ riêng. Đó là tâm lý vị kỷ. Như vậy, điều đau khổ thứ nhất là chúng ta rơi vào trạng thái bất an. Hệ quả bất an là hệ quả về tâm lý. Đó cũng là đau khổ  trong hiện tại. Về vị lai, qua một kiếp nào đó, theo luật Nhân Quả, chúng ta sẽ không được may mắn trong cuộc sống. Muốn làm điều gì, chúng ta cũng bị ràng buộc,  khó khăn, chướng ngại, và cuối cùng không làm được việc gì có ý nghĩa. Còn gì đau khổ hơn khi sống mà chỉ có thất bại và hèn kém! Như vậy, vị kỷ là nguyên nhân của đau khổ. 

 Ngược lại, người sống vị tha, sống cho người khác sẽ được nhiều phước nên dần dần được tự do và làm điều gì cũng được như ý nguyện. Đây là công thức rất đúng, tuyệt đối đúng. Nhìn vào thực tế, chúng ta sẽ thấy điều này rất rõ. Chẳng hạn, người thiếu phước muốn đi đâu, làm gì cũng khó khăn vì không đủ điều kiện. Trong khi đó, người có phước được giàu có về vật chất, muốn điều gì họ sẽ thực hiện được ngay, không bị ai ngăn cản. Như vậy, người không được tự do làm theo ý mình muốn là người thiếu phước. Hay nói cách khác, càng có phước chúng ta càng được tự do. Tiên đề này rất quan trọng. Tự do còn có nghĩa là giải thoát. Trong tiếng Anh, giải thoát và tự do đều được dùng một chữ là freedom, hoặc liberty, là sự tự do. 

Nói càng có phước chúng ta càng được tự do nghĩa là càng được giải thoát. Cho nên, chúng ta phải sống vị tha để tạo thêm phước. Nếu sống vị tha nhiều, phước sẽ càng lớn và chúng ta càng tự do hơn. 

Người tu đến độ vị tha hoàn toàn tuyệït đối là người cả cuộc đời chỉ sống cho mọi người, tuyệt đối không cầu cho mình điều gì dù chỉ trong ý nghĩ. Những người ấy sẽ có được Phước đến vô biên và Tự do không còn giới hạn. Đó thực sự là người được giải thoát. Như vậy, có hai con đường để chúng ta đi đến giải thoát. Một là tu tập trí tuệ Thiền định để phá chấp ngã, phá vô minh và đạt được giải thoát. Hai là chúng ta sống cuộc đời vị tha, tạo phước cho đến vô biên vô lượng, để đạt được sự Tự do tuyệt đối. 

 Thực ra, hai con đường này chỉ có chung một lối. Con đường tu tập Thiền định, trí tuệ để phá chấp ngã, phá vô minh gọi là con đường tu Huệ. Con đường thứ hai gọi là tu Phước. Phước Huệ song tu là điều Đức Phật đã nói từ ngàn xưa. Chúng ta đi tìm sự giải thoát phải đi trên cả hai con đường này, vừa tu Phước vừa tu Huệ. Gọi là tu Phước, tu Huệ nhưng sự thật chỉ có một lối duy nhất để đi đến giải thoát. 

Có người hỏi Như Sanh rằng, đạo Phật là đạo tìm sự giải thoát vượt ra ngoài cả thiện và ác. Vậy khi tu hành giải thoát trong đạo Phật, chúng ta không làm tội cũng không tạo phước, điều đó có đúng không? Như Sanh đã trả lời không đúng. Ông lý giải rằng, càng có tội, người ta càng bị ràng buộc và càng làm phuớc, người ta càng được tự do. Người ta chỉ được tự do trong phước và bị ràng buộc trong tội. Câu trả lời ấy làm cho đạo Phật viên mãn. Vì khi đi tìm sự giải thoát, chúng ta sẽ sống một cuộc đời hết sức vị tha, làm lợi ích cho tất cả mọi nguời. Điều này hoàn toàn trái với quan niệm cho rằng, muốn tìm sự giải thoát phải buông bỏ tất cả, quên hết tất cả mọi người, chỉ lo đóng cửa tu tập, lo cho chính mình. Đó là quan niệm rất sai lầm. 

Xét lại chuyện Tôn giả Losaka Tissa bị đói suốt đời, đến giờ phút cuối cùng nhờ thần lực và Đức của ngài Xá Lợi Phất mới được ăn một bữa  no đủ trước khi nhập diệt, và sau đó được chứng Alahán, chúng ta có quyền hoài nghi. Vì một người thiếu phước như ngài Losaka Tissa làm sao có thể đạt được sự giải thoát như vậy. Chúng ta luôn nhớ một điều, sự Tự do, sự Giảøi thoát bao giờ cũng phải xuất phát từ Phước. Trong suốt truyện tích về ngài Losaka Tissa, chúng ta chỉ thấy từ nghiệp đố kỵ mà Ngài bị quả báo quá nặng nề. Trong khi đó, không có chi tiết nào kể về việc Ngài tạo phước lớn hơn để vượt qua sự quả báo ấy. Vậy mà, cuối cùng Ngài vẫn chứng được Alahán.

    Chính vì những sự vô lý như vậy nên một số học giả phương Tây thường tỏ ra hoài nghi những Kinh điển cổ. Trong chuyện này họ cho rằng, người sau có thể thêm thắc vào để có một kết thúc như vậy. Vì một người đang trong tình trạng thiếu phước cực độ không thể có được sự giải thoát. Chúng ta khi bàn đến vấn đề này, cũng có quyền xét lại câu chuyện về tôn giả Losaka Tissa. Có thể ngài còn một cái Nhân lành rất đặc biệt khác nữa để trợ giúp cho sự chứng ngộ mà kinh điển không ghi ra hết. 

2. MỤC ĐÍCH GIẢI THOÁT CHO MÌNH CHỈ LÀ SỰ VỊ KỶ TRÁ HÌNH.  

Khi biết chắc rằng cuộc đời này vô cùng đau khổ, chúng ta xác định phải đi đến sự giải thoát. Nhưng nếu chỉ đi tìm sự giải thoát cho chính mình, chúng ta sẽ rơi trở lại tâm vị kỷ. Mà vị kỷ chính là nguyên nhân của mọi đau khổ trên đời. Bởi vậy, không ít người muốn thoát khỏi đau khổ nhưng không ngờ lại gieo nhân đau khổ. Đây là cái vòng lẩn quẩn mà không phải ai cũng dễ dàng thoát ra được. Chúng ta phải cẩn thận điều này. Nếu phát tâm tinh tấn tu hành mà chỉ tu cho bản thân mình, vĩnh viễn không bao giờ chúng ta đạt được sự giải thoát. Thực tế đã chứng minh điều đó. 

Chúng ta phải hiểu rằng, thực chất của việc đi tìm sự giải thoát, giác ngộ nằm ngay trong cuộc sống của chúng ta. Nếu tách khỏi đời sống, những danh từ ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Muốn giải thoát, mỗi người phải xem lại mình có thương yêu mọi người hay không, có giữ được tâm khiêm hạ hay không. Nếu nói chuyện giải thoát giác ngộ thật xa vời để rồi trong đời sống, chúng ta không có tình yêu thương, chúng ta cứ hống hách kiêu mạn, cứ ganh ghét đố kỵ với mọi người thì sự giải thoát, giác  ngộ chỉ là vô nghĩa. 

 Đức Phật xuất gia vì có một mục đích rõ ràng là đi tìm đường giải thoát cho chúng sinh. Mặc dù sống một cuộc đời sung sướng vương giả nhưng do lòng thương yêu của một vị Bồ Tát nên Ngài nhìn thấy thân phận con người là vô nghĩa. Lúc bấy giờ, ở Ấn Độ, người đã tin có luân hồi và Đức Phật cũng theo tín ngưỡng thời đó. Vì tin có luân hồi nên Ngài nhìn thấy sự đau khổ của con người.  Người ta cứ sinh ra, lớn lên, già đi rồi chết, rồi lại tái sinh. Cứ sống trong vòng lẩn quẩn như thế không biết bao giờ con người mới thoát ra được. Trong vòng lẩn quẩn đó, có khi con người cũng cảm thấy được sung sướng nhưng không phải là sự sung sướng đích thực. Tất cả rồi cũng trôi qua, con người rồi cũng vướng vào sự hơn thua, tranh giành, hận thù, tham lam, ích kỷ rồi cuối cùng cũng chấp nhận cái chết. Có thể bây giờ nghe câu chuyện này, chúng ta cảm thấy bình thường nhưng so sánh với những người  khác, chúng ta sẽ thấy được sự vĩ đại trong cái nhìn của Đức Phật. 

    Hiện nay, trên thế giới cũng có nhiều nhà từ thiện, nhìn thấy những nỗi  đau khổ nào đó của kiếp người. Họ cũng nỗ lực làm điều gì đó để xoa dịu nỗi đau cho con người. Chẳng hạn, có một nhóm người thấy rằng sử dụng mìn bẫy trong chiến tranh là điều rất vô nhân đạo. Không biết bao nhiêu người dân vô tội đã bị thương tật, đã bị bỏ mạng bởi vướng phải những quả mìn ấy. Nhìn thấy đó là một nỗi khổ lớn của nhân loại, họ đã đoàn kết kêu gọi các nước trên thế giới chấm dứt sản xuất mìn bẫy, chấm dứt sử dụng mìn bẫy trong chiến tranh để giết hại con người. Họ đấu tranh dữ dội khiến một số nước lớn đã phải ngồi vào bàn Hội nghị để thảo luận và thống nhất vĩnh viễn chấm dứt sản xuất mìn. Những việc họ làm thật vĩ đại. Những người ấy cũng nhìn thấy nỗi đau khổ của kiếp người và ra sức làm điều gì đó có lợi cho con người. Hoặc có người nhìn thấy nỗi đau khổ của những người bị bệnh phong cùi, tay chân bị mòn dần, thân hình lở lói khiến người ta sợ hãi, xa lánh mà động tâm. Họ tìm cách giúp đỡ những con người bất hạnh ấy. Những nhà khoa học thì miệt mài trong phòng thí nghiệm để tìm ra loại thuốc chữa bệnh cùi. Những người khác thì không ngần ngại vào những trại cùi để săn sóc, an ủi bệnh nhân cùi. Họ quả thật là những con người vĩ đại. 

Trong cuộc sống, còn biết bao nhiêu tấm gương sống vị tha như thế. Họ đều là những người biết yêu thương con người, thấy được nỗi khổ của con người và cố gắng làm một cái gì đó có lợi cho chúng sinh. Họ đều là những con người vĩ đại. Nhưng tất cả những cái họ nhìn thấy chỉ là một góc nhỏ trong nỗi khổ của kiếp người. Còn nỗi khổ lớn, bao trùm vĩnh viễn lên kiếp người là Luân hồi thì họ không nhìn thấy được. Đây là chỗ khác biệt giữa họ và Đức Phật. Khi nhìn thấy bên kia làng có một số người nghèo khổ, vất vả không có miếng ăn, Ngài cảm thấy đó thật sự là nỗi khổ nhưng chưa phải là nỗi khổ cuối cùng. Hoặc thấy những người bị bệnh, lăn lóc đau đớn không có thuốc thang, không người chăm sóc, Ngài biết là khổ thật nhưng vẫn chưa phải là nỗi khổ cuối cùng. Nỗi khổ cuối cùng, lớn nhất theo Ngài, đó chính là Luân hồi . 

   Chúng ta biết rằng, trong kiếp người này, dù người giàu hay người nghèo, dù người bệnh hay người khỏe, may mắn hay bất hạnh, tất cả đều phải bệnh, phải già, phải chết, phải tái sinh. Con người cứ lẩn quẩn một cách mệt mỏi như thế. Nếu chúng ta hiểu được rằng, không phải đây là lần duy nhất mình vào ra thế gian này mà mấy triệu kiếp rồi, và sẽ còn nhiều kiếp nữa phải tiếp tục lang thang, vào ra như thế, chúng ta sẽ thấy chán ngán và mệt mỏi. 

Trong bài Khấn nguyện chúng ta vẫn tụng hằng đêm, có đoạn viết:

                        Cúi lạy mười phường Phật

                         Đau khổ đã nhiều rồi 

                         Vô lương kiếp luân hồi 

                         Đắng cay và mỏi mệt. 

Như vậy, khi hiểu được mình đã lang thang vô lượng kiếp bây giờ còn phải lang thang nữa, chúng ta sẽ cảm thấy cay đắng và mệt mỏi. Đức Phật nhìn thấy ngay điều đó và thấy được nỗi khổ bất tận của chúng sinh nên quyết tâm tìm con đường giải thoát để cứu chúng sinh. Động cơ xuất gia của Đức Phật hoàn toàn vị tha. Và sau đó, Ngài sống những năm tháng lặn lội, khổ sở trong rừng để tu tập cũng vì chúng sinh.

Chúng ta cũng vậy, phải xác định dù tu hay học cũng vì lợi ích cho chúng sinh, đừng bao giờ nghĩ đến lợi ích của chính mình. Trong từng giây phút tu hành, chúng ta phải tinh tế nhìn ra điều sai điều đúng, kiểm soát tâm mình để rút ra những kinh nghiệm quí báu. Khi đã có kinh nghiệm, nếu có duyên chúng ta sẽ đứng trên pháp đàn tuyên dương hoằng hóa đạo Phật, thay Phật thay Tổ đem chánh pháp đến cho mọi người. Nếu không có duyên, chúng ta vẫn có lời để khuyên lơn, an ủi những người đang đau khổ khi họ tìm đến với mình. Làm được điều đó nghĩa là chúng ta đã làm lợi ích cho chúng sinh. Nếu cứ vị kỷ, học hành tu tập để được bằng cấp, danh tiếng cho mình, chắc chắn sau này cái chờ đợi chúng ta là khổ đau chồng chất vì lúc ấy chúng ta bị ràng buộc đủ điều. 

Để làm được những điều ấy, chúng ta phải nhìn kỹ tâm mìmh, xem mình có còn tâm đố kỵ, còn ganh tị với người khác hay không. Nếu tâm đố kỵ còn tồn tại, chúng ta phải sám hối cho thật kỹ. Nói gạn lọc tâm mình là như vậy. Chúng ta phải sống hết sức vị tha, vượt qua hết những phiền não. Nhiều khi, chúng ta cũng mắc phải những lỗi lầm. Điều quan trọng là mỗi người phải chân thành nhận đó là lỗi để sửa chữa, để tìm cách vượt qua. Nhờ những lầm lỗi và sự chân thành nhận lỗi mà chúng ta có thêm nhiều kinh nghiệm tu hành. Đó là những kinh nghiệm mà chúng ta tu tập để dạy cho người khác. Người có lỗi mà không cho đó là lỗi sẽ không bao giờ tiến bộ.

 Như vậy, nhờ những lời dạy của Phật, những lời dạy của Thầy Tổ, kết hợp với sự chân thành nhìn lỗi của mình, chúng ta rút ra được nhiều kinh nghiệm, nhiều nguyên tắc để truyền đạt lại cho người sau. Xét cho cùng, khi phạm sai lầm, chúng ta biết rút kinh nghiệm là đã nghĩ đến người khác. Nếu đã phạm sai lầm, chúng ta phải làm sao cho người khác đừng mắc phải sai lầm như mình. Đó là vị tha. 

Ngược lại, được điều gì hay chúng ta đều muốn cho chúng sinh cùng được. Ví dụ, khi được hướng dẫn ngồi Thiền điều thân, biết được toàn thân và nhận ra đây là căn bản quan trọng của Thiền, chúng ta phải nhớ đến những người khác. Chúng ta mong sao mọi người trước khi vào ngồi Thiền đều biết được sự điều thân, vì điều này rất có lợi cho công phu của họ. Như vậy, được điều gì đúng, chúng ta luôn luôn mong cho mọi người cùng được. Và vấp điều gì dở, chúng ta lại muốn mọi người không bị vấp như mình.  Đó là vị tha. 

Chẳng hạn, khi tâm mình khởi lên điều ham thích nào đó, chúng ta biết ngay đó là điều dở. Từ chỗ nhận thức như vậy, chúng ta phải tìm cách vượt qua. Khi  vượt qua được, chúng ta sẽ nghĩ đến bao nhiêu người khác còn đang vướng kẹt và mong mỏi giúp họ đều vượt qua như thế. Ví dụ vấn đề ái dục, nếu có con đường, có phương pháp đúng đắn để vượt qua được ái dục sẽ có lợi cho những người tu hành biết bao nhiêu. Từ đó, mỗi người một ý kiến để có thể tìm ra được con đường ấy, giúp cho đời sống tu hành của Tăng Ni được thanh tịnh hơn, trong sạch hơn. 

Tóm lại, chúng ta không nên đặt ra mục đích giải thoát cho bản thân mình. Vì đó làsự vị kỷ. Là người tu hành, chúng ta phải luôn tìm đến mục đích giải thoát cho chúng sinh. 

3. BIỂU HIỆN CỦA GIẢI THOÁT LÀ ĐẠO ĐỨC. 

   Đạo đức là nền tảng ban đầu. Khi tu, chúng ta bắt đầu bằng Đạo đức,     phải rèn luyện bằng Đạo đức. Nhờ có Đạo đức, chúng ta mới tạo được Phước. Nhờ Phước, chúng ta mới giữ được Giới. Người không có Phước, không thể giữ Giới được. Vì vậy, chúng ta phải tạo Phước, phải lạy Phật, sống một cuộc sống vị tha, phải khiêm hạ…để có bản lĩnh giữ được Giới cho trong sạch. Khi đã giữ được Giới, chúng ta mới vào Định được. Khi Định đã thành, chúng ta sẽ được Tuệ giải thoát. Và biểu hiện của giải thoát lại là Đạo đức. 

   Vì khi đã đạt được Tuêï giải thoát, Đạo đức còn sáng tỏ hơn bao giờ hết. Chúng ta bắt đầu bằng Đạo đức và kết thúc cũng bằng Đạo đức. Người được xem là tu tiến trong Phật pháp cũng biểu hiện bằng Đạo đức, không phải là điều gì xa xôi, khó hiểu. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng, người được giải thoát là người có những lời nói bí hiểm kỳ lạ, có hành vi khó hiểu, có cuộc sống ung dung, nhàn hạ chỉ thích ngao du sơn thủy: 

Bình bát cơm ngàn nhà

 Thân chơi muôn dặm xa.

 Mắt xanh xem người thế 

 Mây trắng hỏi đường qua.

Hòan tòan không phải như thế. Người được giải thoát là người có Đạo đức, sống cuộc đời vị tha, lo cho người khác. Những người sống phong lưu, nhàn hạ vân du nơi này nơi khác mà chúng ta gặp chưa hẳn là người đã được giải thoát. Vậy, biểu hiện của Đạo đức là gì ? 

Trước hết, đó là tâm từ bi, từ  bi rất mạnh. Khi chưa giải thoát, chúng ta phải tu tập lòng từ bi. Khi giải thoát rồi, lòng từ bi sẽ cực mạnh. Có người ngay từ nhỏ đã là người tốt, sẵn sàng giúp đỡ người khác. Khi lớn lên, biết Đạo người ấy lại càng tốt hơn, rất giàu đức hy sinh. Nhất là khi hiểu Đạo một cách sâu sắc, thấy lòng từ bi là một thuộc tính quan trọng không thể thiếu của người tu, người ấy rất siêng năng tu tập từ bi. Khi trở thành Giảng sư, đi giảng khắp nơi, vị chân tu ấy cũng luôn kêu gọi mọi người phải tu tập từ bi, sống với nhau trong tình thương yêu. Vậy mà, có lúc vị này chợt nhận ra mình chưa biết thương ai. Đây là điều rất  lạ. Dù đã sống rất tốt, hy sinh tất cả cho mọi người, không giữ lại gì cho riêng mình, cực khổ gian nan cũng không nề hà, nhưng vẫn có lúc thấy mình chưa đủ tình yêu thương với mọi người. 

Sở dĩ nhận ra điều ấy là do vị chân tu vừa đạt được sự từ bi đích thực. Người chợt hiểu sự quan tâm đến người khác, hy sinh cho người khác của mình trước kia chưa phải từ bi. Đó là cái tốt của lý trí. Nghĩa làvì hiểu Đạo lý, hiểu Đạo dạy phải sống tốt, phải hy sinh, không được ích kỷ mà người ấy đã đối xử tốt với mọi người. Cái tốt đó không xuất phát từ lòng thương yêu thật sự của trái tim. Chỉ khi nào người tu hành cảm thấy trái tim mình thật sự có lòng thương yêu con người thì lúc ấy mới gọi là có từ bi. Và chính lúc ấy, chúng ta mới nhận ra trước kia mình chưa thực sự thương ai. Đây là điều rất khó. Khi đã có một chút từ bi, nhìn thấy ai chúng ta cũng có thể khởi lòng thương yêu. Ngay cả những người sống giang hồ, quậy phá, nói năng thiếu văn hóa, chúng ta cũng có thể khởi lòng thương yêu mà không hề ghét bỏ. Điều này chúng ta đã được học trong bài Tâm từ. Tuy nhiên, tình yêu thương con người của chúng ta như vậy vẫn chưa đủ, cường độ vẫn còn yếu. Chúng ta chưa thể có tình yêu phủ trùm pháp giới một cách mạnh mẽ như Chư Phật hay Chư Bồ Tát. Đó là lý do vì sao nói người đã được giải thoát, từ bi rất mạnh. 

Nếu không cố gắng tu tập, lòng từ bi sẽ bị chai lì đi, chúng ta sẽ không thương yêu được chúng sanh và dễ dàng rơi trở về tâm vị kỷ. Lúc ấy, đau khổ sẽ ngập tràn. Bởi vậy, chúng ta phải tu tập từ bi để hỗ trợ cho Đạo đức của sự giải thoát. Mỗi khi lễ Phật hay ngồi Thiền, chúng ta đều phải tác ý quán từ bi, thương yêu chúng sanh. Cứ thế đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ nhận thấy trong trái tim mình tràn ngập tình thương yêu đối với chúng sinh. Đó là lúc chúng ta bắt đầu có được lòng từ bi. Và điều đó chỉ bản thân chúng ta mới hiểu được. 

Một biểu hiện khác của Đạo đức giải thoát làsự khiêm hạ, khiêm hạ rất sâu  vì có trí tuệ Vô ngã. Khiêm hạ là khiêm tốn, không khoe khoang, không tranh hơn thua với bất cứ ai. Người nào hiểu, chúng ta giãi bày, dạy dỗ. Người nào không hiểu, chúng ta không trình bày, không khoe, không nói. Họ có coi thường cũng mặc, chúng ta không quan tâm. 

 Khi chưa được vô ngã, chúng ta giữ khiêm hạ bằng Đạo lý. Hàng ngày, hàng đêm, chúng ta luôn thấy mình như cỏ rác, cát bụi, mọi lời khen chê chỉ là bóng mây. Tự nhủ thường xuyên như vậy, tự nhắc nhở thường xuyên như vậy nhưng cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, chúng ta vẫn chưa hẳn đạt được khiêm hạ thật sự. Chỉ trừ khi được giải thoát hòan tòan, chúng ta mới mong đạt được điều đó. Khi chưa thật sự giải thóat, Ngã chấp luôn tồn tại. Rồi chấp ngã luôn tạo nên khuynh hướng kiêu  mạn. Những tâm niệm kiêu mạn ấy rất dễ khởi lên trong tâm của mỗi người để thấy mình hơn người khác. Điều đó luôn luôn có thể xảy ra nếu chúng ta không kiểm soát kỹ tâm mình. 

Xuất phát từ chấp ngã, những tâm kiêu mạn có thể khởi ra từng giờ, từng phút, nếu chúng ta không biết tỉnh táo thường xuyên kiểm soát tâm mình. Nếu chúng ta không siêng năng lạy Phật, không siêng năng phát nguyện thì những tâm niệm kiêu mạn ấy sẽ tàn phá hết tâm hồn mình. 

Trong bài Lời khấn nguyện, chúng ta vẫn thiết tha mỗi ngày:


Cho con biết khiêm hạ

Biết tôn trọng mọi người

Tự thấy mình nhỏ thôi



Việc tu còn kém cỏi .



    Đó là những lời tâm niệm để giữ tâm hồn mình lại. Nếu không giữ được, kiêu mạn sẽ xuất hiện. Người giải thoát do đạt được trí tuệ Vô ngã nên không một hạt bụi nào có thể che mờ tâm các Ngài. Hay nói cách khác, tâm phiền não hay kiêu mạn dù nhỏ như một hạt bụi cũng không ngự trị trong tâm các Ngài. Bao giờ cũng vậy, các Ngài luôn kiểm soát tâm mình rất kỹ nên tâm kiêu mạn không khởi lên được. Những người như vậy rất khiêm hạ, rất kín đáo, nhẹ nhàng.

 Cũng có những người được gọi là tu có tiến bộ, có tâm linh, có sở đắc, nhưng trong lời nói của họ vẫn còn cái ngông nghênh. Những người ấy rõ ràng chưa thật sự giải thoát, vẫn còn ngã chấp rất nặng. Đây là chỗ để chúng ta đánh giá mức độ tu tập của người khác và rút ra kinh nghiệm cho bản thân mình. Đừng bao giờ nghĩ rằng, tâm linh tiến bộ là hết kiêu mạn. Có người tu vào được Định lại kiêu mạn hơn trước. Đây cũng là điều mà chúng ta phải cẩn thận. 

   Với người giải thoát, Đạo đức còn được biểu hiện ở sự tùy hỷ với ưu điểm và thành công của người khác. Nghĩa là khi nghe nói người khác có đức, có nhiều ưu điểm, có lòng từ bi, chúng ta phải mừng vui thực sự. Ví dụ, khi gặp một vị Thầy tinh tấn tu hành, gương mặt phúc hậu, tỏa ra vẻ đẹp tâm hồn chân chính, nghiêm túc, chúng ta phải vui mừng vì biết đây là một trong những cột trụ của Phật Pháp. Có thể bây giờ chưa có tiếng tăm gì, nhưng sau này chắc chắn người ấy sẽ làm lợi ích cho nhiều người. Nghĩa là sau này khi đến với họ, chúng sinh sẽ được an lạc, hoan hỷ. Chúng ta phải thực sự vui mừng khi nhìn thấy trong Đạo có những con người như thế. Trước ưu điểm và sự thành công của người khác, người đã giải thoát sẽ thấy lòng tự nhiên chan hòa, vui sướng. Như vậy gọi là tùy hỷ. Hạnh tùy hỷ ngược lại đố kỵ.

Một điều quan trọng nữa là người đã được giải thoát không bao giờ khinh  miệt người kém hơn mình, không bao giờ khinh miệt người lầm lỗi. Họ luôn mong cho tất cả mọi người trở thành người tốt dù biết rất rõ ai cũng có khuyết điểm. Đây là điều rất quan trọng. Người đã giải thoát rồi dù không muốn, không suy nghĩ nhưng tính cách của họ, tâm của họ lúc nào cũng bao dung như người cha, người thầy, người bạn lành của chúng sinh. Khi chưa giải thoát, chúng ta ai cũng có khuyết điểm, nhưng giải thoát rồi khuyết điểm không còn nữa. Lúc ấy, nhìn thấy những người khác có khuyết điểm, chúng ta vẫn không khinh bỉ, chỉ mong cho họ tốt lên . Đó chính là lòng bao dung, lòng từ bi cao cả.

Người giải thoát thật sự  có thể được xem là bóng cây râm mát, làm nơi che chở, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. Ví dụ, khi biết rằng, tâm bao dung là biểu hiện của Đạo đức, người giải thoát có tâm bao dung như một người cha, một người thầy, chúng ta có thể yên tâm đem lỗi của mình giãi bày với họ. Những lỗi đó chúng ta bí mật giấu kín trong lòng không cho ai biết, nhưng khi đến với người đã giải thoát, chúng ta không ngaiï ngần nói ra tất cả. Nghĩa là chúng ta tin ở lòng thương yêu và bao dung của họ. Chúng ta biết rằng, khi nghe nói lỗi, người ấy sẽ không tỏ ra khinh bỉ mà vẫn bao dung, vẫn răn dạy mình, vẫn khuyên mình những điều sáng suốt để mình vượt qua được lỗi lầm. Đó là tấm lòng, là tính cách của người giải thóat. Ngược lại, khi có lỗi, chúng ta thường che giấu người khác vì biết họ không thương yêu mình, không đủ sức cảm thông với mình. 

 Người giải thoát có khả năng bao dung được các Pháp môn tu hành trong đạo Phật. Đạo Phật có nhiều Pháp môn, người giải thoát có thể đắc đạo nhờ một Pháp môn nào đó nhưng vẫn bao dung được các Pháp môn khác. Không bao giờ họ cho rằng, chỉ có Pháp môn mình tu mới đúng, còn những Pháp môn khác là sai. Đây là điểm để chúng ta nhận ra người đã giải thoát thật sự và người chưa thật sự giải thoát, cũng là điểm để kiểm tra chính mình đã đi gần đến sự giải thoát hay chưa. Ví dụ, một người niệm Phật có kết quả nên chê những Pháp môn khác, người đó chưa phải là người giải thoát. Hoặc người tu quán hơi thở, nhiếp được vào trong Định, gặp Pháp môn nào cũng chê cả. Cái định của họ chưa phải là giải thoát. Bởi vậy, tâm bao dung là một thuộc tính của Thánh. Một vị được gọi là chứng Thánh, được giải thoát phải có tâm bao dung, trước hết là trong đạo Phật và sau nữa là đối với các tôn giáo khác. 

Hiện nay, ở nước ta có 6 tôn giáo được Nhà nước công nhận : Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo và Hồi giáo. Giữa các tôn giáo có nhiều điểm khác biệt. Người theo tôn giáo nào sẽ cho tôn giáo đó là đúng nhất. Chúng ta cũng vậy. Vì tin tưởng chắc chắn đạo Phật là chân lý đúng nhất nên chúng ta đã tu theo đạo Phật. Nhưng hãy nhớ rằng, không vì có niềm tin như vậy chúng ta chê bai, phỉ báng các tôn giáo khác. Một trong những biểu hiện Đạo đức của người giải thoát là luôn tìm những chỗ tương đồng giữa các tôn giáo.. 

Ví dụ, giữa đạo Thiên Chúa và đạo Phật có nhiều điểm rất khác nhau. Chúng ta không tin có Thượng đế và không tin chính Thượng đế tạo ra muôn lòai. Trong khi đó, những người theo đạo Thiên Chúa lại rất tin điều đó. Đây là điểm khác nhau rất căn bản giữa hai tôn giáo. Nhưng không để ý đến sự khác biệt đó, chúng ta nên tìm những điểm tương đồng như tình thương yêu, lòng bác ái, sự công bằng, thưởng phạt nghiêm minh của Thượng đế…Những điều ấy chúng ta vẫn có thể lý giải để thấy sự tương đồng với đạo Phật ở lòng từ bi, ở luật Nhân Quả….Từ đó, khi gặp người theo đạo Thiên Chúa, chúng ta vẫn có điểm để tôn trọng họ. Chúng ta tin rằng, khi thực hiện những giáo lý đó, họ cũng trở thành những người tốt. Chúng ta đừng nghĩ rằng, chỉ có đạo Phật là chánh, những đạo khác là tà.

Hoặc đối với đạo Hồi, một đạo thật khủng khiếp, tàn bạo, chỉ nói chuyện bằng bom đạn, chúng ta vẫn cố gắng tìm những điểm hay của họ. Ví dụ, trong cuộc sống, họ rất khắc khe với người phụ nữ. Phụ nữ đi ra đường phải trùm kín từ đầu đến chân, chỉ ló ra hai con mắt. Vì họ cho rằng, thân hình của người phụ nữ sẽ làm kích động dục vọng của người đàn ông, che kín như vậy để đàn ông không bị kích động dục vọng. Quả thật là quá bất công đối với người phụ nữ!

Thay vì qui định phụ nữ đừng ăn mặc quá hở hang khi ra đường, lẽ ra phải buộc đàn ông phải lo giữ tâm mình, đừng dễ dàng xao động, họ lại đổ tất cả trách nhiệm lên đầu người phụ nữ, buộc họ phải sống tù túng khổ sở suốt đời như vậy. Đó chính là sự bất công của đạo Hồi. Tuy nhiên, chúng ta phải thấy rằng, những luật lệ nghiêm khắc của họ đã góp phần làm cho xã hội ổn định. Điều này chúng ta sẽ đề cập trong một bài khác.

   Một biểu hiện Đạo đức nữa của người giải thoát là tùy duyên mà sống, làm lợi ích cho mọi người, dù lớn hay nhỏ. Nghĩa là dù làm một việc rất lớn là đăng đàn thuyết Pháp, hoằng hóa đạo Phật cho nhiều người hay chỉ một vài lời khuyên giúp người đau khổ, chúng ta cũng không từ nan. Việc lớn chúng ta cũng làm, việc nhỏ cũng không bỏ qua, miễn là những việc ấy đem lại lợi ích cho tất cả mọi người. 

   4. SỰ KHỦNG HOẢNG ĐẠO ĐỨC CỦA THẾ GIỚI VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẠO PHẬT. 

 Hiện nay, sống trong một thế giới mà văn minh vật chất và kỹ thuật hiện đại đang phát triển đến chóng mặt, con người dần dần đánh mất đi những giá trị đạo đức, những giá trị tinh thần đã từng ngự trị trong đời sống của họ từ bao đời nay. Vì thế, tội phạm lan tràn trên mọi lĩnh vực, ở khắp mọi nơi, mọi giới, mọi lứa tuổi. Ngành nghề nào cũng có người phạm tội, khó mà kiểm soát được. 

  Ông bà ta thường nói: Túng quá hóa liều hoặc Đói ra ma, no thành Phật. Có nghĩa là vì hoàn cảnh quá khó khăn, hoặc rơi vào bước đừơng cùng, con người thường làm liều để trở thành kẻ phạm tội. Ngày nay, kẻ phạm tội không hoàn toàn là những người nghèo túng, khó khăn hay ngu si không biết luật pháp. Họ còn là những trí thức, rất am hiểu luật pháp, là những người giàu có, những kẻ có chức quyền trong xã hội…Những con người này, một khi đã cố tình phạm tội, rất khó phát hiện bởi thủ đọan của chúng quá tinh vi, và hậu quả để lại vì thế thật khôn lường. Chẳng hạn, một bác sĩ, người được tôn vinh là luơng y như từ mẫu lại là con át chủ bài trong đường dây mua bán số đề. Người ấy dám bỏ ra một trăm năm mươi cây vàng để công ty xổ số phải ra đúng con số mà ông ta cần. Tất nhiên, ông bao tất cả con số đó khắp các tỉnh và trúng một quả rất đậm trong khi bao nhiêu người phải rơi nước mắt. Khi bị bắt, ông ta lại tha thiết kêu oan rằng bị người khác gài chứ mình không phạm tội. Đó là một ký giả có tài đi tống tiền người khác bằng cách tìm đến những công ty, xí nghiệp có sai phạm trong kinh doanh để hù dọa. Nếu không muốn công ty mình bị phá sản và bản thân mình bị pháp luật sờ gáy  thì Giám đốc, bằng bất cứ giá nào cũng phải mua bằng được bài báo đó. Cứ thế, vị ký giả ấy tha hồ sắm xe hơi, tậu nhà lầu. Đó là một cán bộ chống buôn lậu có cỡ nhưng lại tiếp tay cho bọn buôn lậu. Nhờ thế, bao nhiêu vụ buôn lậu xuyên quốc gia cũng đều trót lọt, làm thất thoát hàng trăm tỉ đồng của Nhà nước.

Gần đây nhất, vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn được đưa ra trước pháp luật đã làm nức lòng nhân dân khắp nơi trong nước. Nhưng khi được đưa ra ánh sáng, vụ án ấy cũng để lại trong lòng người bao nỗi xót xa. Bởi người ta biết rằng, bao nhiêu năm tung hoành ngang dọc, gây ra biết bao đau khổ cho người dân lương thiện, bọn chúng vẫn không bị sa lưới pháp luật là nhờ sự “bảo hộ” của những cán bộ Nhà nước có uy tín. Những con người ấy, vì lợi ích cho bản thân mình đã phụ lòng tin yêu của hàng triệu triệu người dân. 

Tình trạng chủ bóc lột công nhân đang xuất hiện phổ biến trên đất nước ta cũng là một hình thức phạm tội, vi phạm Bộ luật Lao động của Nước cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng ta biết rằng, từ thế kỷ XVIII-XIX, do bất mãn về việc người chủ có tiền mở xưởng sản xuất, thuê công nhân và bóc lột công nhân tàn tệ, Các Mác đã tìm ra con đường phát triển xã hội theo hướng Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Xã hội. Bước đầu, do sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các nước Tư bản phương Tây đã sửa  lại Bộ luật lao động, buộc các giới chủ phải chú ý đến quyền lợi của công nhân.  Vậy mà hiện nay, khi đất nuớc chúng ta mở cửa cho các nhà tư bản nước ngoài vào đầu tư, tình trạng bóc lột xuất hiện trở lại. Những công ty, xí nghiệp ấy đã bắt buộc công nhân phải làm thêm giờ, trả lương thấp, thậm chí còn giữ lại tiền lương của công nhân ....

Chưa hết, báo chí thỉnh thoảng vẫn đăng những tội lỗi trời không dung, đất không tha khác như : cưỡng hiếp trẻ em, con giết cha mẹ vì tranh giành tài sản, vợ giết chồng rồi chặt thành từng khúc v..v...Biết bao cảnh đau lòng như thế đã xảy ra trong xã hội ngày nay. Nguyên nhân gây nên những tội lỗi ấy là do Đạo đức của con người xuống cấp nghiêm trọng. Một khi không có Đạo đức, không có lương tâm, con người sẽ không từ bất cứ việc gì. Vì thế, họ cứ gây ra đau khổ triền miên cho nhau.

   Để chống lại những điều đó, Nhà nước phải làm gì?

   Nhà nước đã sọan thảo nhiều Bộ luật như : Luật Hôn nhân gia đình, Luật Lao động, Luật Tố tụng Hình sự, Luật Dân sự…Luật pháp có vẻ cụ thểù, nhưng luôn luôn đi sau tội lỗi và rốt cuộc vẫn lệ thuộc vào Đạo đức của người thi hành. Đó là lực lượng Công an, cán bộ Viện Kiểm sát, các quan tòa… 

  Ví dụ, luật pháp rất nghiêm, rất cụ thể, minh bạch. Người phạm tội gì, được quy định rõ ràng phải chịu mức án bao nhiêu năm. Nhưng khi có một người phạm tội, đưa đến Công an xử lý, gia đình họ mua chuộc cán bộ Công an, thế là kẻ phạm tội được xử một cách nhẹ nhàng hoặc thả trôi theo thời gian. Hoặc Công an làm việc nghiêm túc, xử lý điều tra rồi chuyển qua Viện Kiểm sát nhưng người ta lo lót cho ông Viện trưởng nên vụ án rồi cũng chìm xuồng. Trường hợp Công an, Kiểm sát thi hành đúng luật và đưa lên Tòa án để xét xử, nếu các quan tòa được mua chuộc sẽ tuyên bố trắng án, hoặc tuyên mức án rất nhẹ so với tội danh…. Như vậy, nếu người thi hành luật pháp không có Đạo đức, luật pháp sẽ không đem lại hiệu quả. 

Trở lại vấn đề Đạo đức, khi nói đến các cán bộ tham nhũng, chúng ta thường gặp trên các báo, nhất là báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh cụm từ “cần cái tâm trong sáng của người cán bộ”. Nói đến cái tâm trong sáng của người cán bộ nghĩa là nói đến Đạo đức của họ. Nhưng chúng ta thấy, cái gọi là giáo dục Đạo đức ở nước ta cũng như trên thế giới chưa ổn, chưa có đường lối rõ ràng, dứt khoát. Bước chân đến trường, học sinh được học rất nhiều môn, thậm chí có những môn quá nặng nề so với độ tuổi của các em, nhưng Đạo đức lại được học rất ít và đó là môn được xem là không quan trọng. So với các môn khác như Toán , Văn, Ngoại ngữ…, môn Đạo đức chỉ là môn hệ số 1. Đó là lý do vì sao học sinh không tập trung học tập và rèn luyện Đạo đức. Bởi vậy, ở nhiều nước trên thế giới trong đó có nước ta, biết bao thế hệ con người lớn lên nhưng không được giáo dục Đạo đức một cách kỹ lưỡng. Một xã hội cứ tiếp tục sản sinh và lớn lên những con người không được dạy kỹ về Đạo đức, xã hội ấy sẽ hỗn loạn, Đạo đức ngày càng suy đồi và tội lỗi sẽ tràn lan. 

Nếu mỗi người được dạy Đạo đức từ nhỏ thì xã hội sẽ tốt đẹp và lành mạnh biết bao nhiêu. Trước tình trạng Đạo đức suy đồi như hiện nay, chúng ta luôn mong ước mỗi đệ tử Phật phải trở thành một chiến sĩ trên mặt trận Đạo đức.  Nghĩa là tự mình sống rất Đạo đức và truyền bá Đạo đức cho mọi người. 

Trong khi chúng ta vẫn cho rằng, đạo lý đạo Phật là đúng đắn nhất, phong phú nhất và xuất hiện sớm nhất. Tạng kinh của đạo Phật thật mênh mông, đồ sộ. So với những Đạo khác, chúng ta thấy rằng, chỉ có đạo Phật mới có hệ thống Kinh điển rất lớn cho đến bây giờ vẫn chinh phục được tầng lớp trí thức. Nhiều nhà bác học khi đọc giáo lý của đạo Phật đều chấp nhận và ngợi ca. Nhưng theo con số thống kê sơ bộ, chúng ta thấy giữa đạo Phật và những đạo khác có sự tương quan rất lớn về số lượng tín đồ. Chẳng hạn, Hồi giáo xuất hiện sau đạo Phật một ngàn năm. Hiện nay, họ có khoảng một tỷ hai trăm năm mươi triệu tín đồ trên toàn thế giới. Đạo Thiên Chúa sau đạo Phật khoảng sáu trăm năm. Hiện nay, họ có khoảng một tỷ một trăm mười triệu tín đồ trên toàn thế giới. Trong khi đó, đạo Phật xuất hiện sớm hơn hai Đạo này nhưng hiện nay chỉ có không tỷ ba trăm năm mươi triệu tín đồ trên toàn thế giới. 

Nguyên nhân chính là do đâu? Do những người tu hành như chúng ta không làm hết trách nhiệm, bổn phận của mình. Không ít người đến với đạo Phật chỉ  lo tu cho bản thân mình, thờ ơ với mọi người, không thiết tha với sự nghiệp truyền bá Chánh pháp. Vì vậy, trước tình trạng này, chúng ta không được tu một cách thụ động như trước nữa, phải mạnh mẽ hơn. Mỗi người phải sống vị tha, siêng năng dạy dỗ truyền bá để cho ánh sáng Phật Pháp được lan tỏa khắp mọi nơi. 

   Những người chưa hiểu đạo Phật, đi theo đạo khác, không phải ai cũng tìm được chân lý của mình. Nếu được về với đạo Phật, họ sẽ trong sáng hơn, thanh thản hơn. Bởi vậy, nếu để thêm một người bước sang con đường khác là lỗi của chính chúng ta, nhất là khi họ được dẫn đi theo con đường của bạo lực, con đường của mê tín, mù quáng. 

Phật hóa gia đình là vấn đề rất quan trọng trong việc hoằng hóa Phật pháp. Hễ một người biết đạo Phật, người ấy phải làm cho cả gia đình theo đạo Phật. Chúng ta phải dạy điều đó cho các Phật tử, dứt khoát không để xảy ra tình trạng mình biết đạo Phật nhưng những người trong gia đình muốn đi đâu đi. Để họ rơi vào tà kiến, rơi vào tội lỗi, không tin Nhân Quả, không kính trọng Phật Pháp, không những là điều thiệt thòi cho họ mà còn là lỗi của chúng ta. Cho nên, một người trong nhà biết Đạo, phải làm cho tất cả mọi người đều biết Đạo. Nhất là những em bé, nếu từ nhỏ đã biết lễ Phật, đã quy y Tam Bảo, lớn lên chắc chắn sẽ có một cuộc đời tốt đẹp đồng thời sẽ là một người tốt cho xã hội. Chúng ta phải hiểu rằng, nếu để lại cho con cái một gia tài đồ sộ mà không để lại Trí tuệ hay Đạo đức, gia tài ấy rồi cũng sẽ bị phá cho tiêu tan. Nhưng nếu để lại phước, để lại Đạo đức cho con cái, thì kiếp này đến những kiếp sau, nó sẽ được sung sướng, an vui. 

    Vậy, sức mạnh nào khiến người Phật tử mạnh dạn đem hết cả gia đình mình vào đạo Phật ? Tất nhiên, sức mạnh ấy không phải tự nhiên mà có. Chính những người tu hành chúng ta đã truyền sức mạnh đó cho họ. Khi có lý tưởng thiết tha tu hành và tích cực ra làm việc, giáo hóa, chúng ta sẽ truyền cho Phật tử sức mạnh, niềm tin giúp họ cảm hóa được mọi người trong gia đình. Như vậy, việc Phật pháp không được phục hưng, không được phát triển trước hết là do lỗi của người xuất gia. Đây là điều chúng ta phải nhìn thấy và phải lưu ý. 

      Khi thấy những kẻ tội phạm, trộm cướp, giết người…, chúng ta phải tự nghĩ ra cách nào đó để cải hóa tâm hồn họ, làm cho họ trở nên lương thiện. Tuyệt đối chúng ta không ghét ai cả. Chẳng hạn, khi nghe có tên cướp khét tiếng, giết người cướp của không ghê tay bị đem ra xử tử, chúng ta không thấy thấy hả hê mà cảm thấy lòng mình xót xa. Vì họ cũng là người như bao con người khác nhưng chỉ vì trong tâm có chủng tử của tội lỗi mà trở thành một kẻ cướp của giết người. Nếu cũng với con người đó, vẫn mái tóc bồng bềnh đó, vẫn đôi mắt, đôi tay khỏe mạnh đó, nhưng tâm của họ được thay bằng những tư tưởng Đạo đức, chắc chắn họ sẽ trở thành con người tốt cho xã hội. 

    Như vậy, lỗi không phải ở tòan bộ con người họ mà là ở Tâm của họ, mà Tâm là cái có thể thay đổi được. Cho nên, chúng ta không bao giờ được ghét bỏ ai, kể cả người gây nhiều tội lỗi. Chúng ta phải suy nghĩ, phải băn khoăn tìm cách làm cho họ tốt hơn. Đây chính là trách nhiệm của người tu hành. 

    Ở Ấn Độ có trường hợp cho phép người ta vào dạy Thiền trong nhà tù. Trước kia, có nhiều vị Thầy đã vào nhà tù để giảng Đạo cho tù nhân. Ở nước ta, việc này chưa làm được, nhưng chúng ta phải nghĩ đến điều đó, nghĩ đến việc cải hóa Đạo đức cho phạm nhân. Chúng ta đừng nghĩ cứ trừng phạt cái thân của họ, giam giữ đày đọa cái thân của họ sẽ làm họ thay đổi. Một khi tâm chưa thay đổi thì những việc làm đó mới chỉ chỉ là nắm cái ngọn mà thôi . 

     Là người tu theo đạo Phật, chúng ta phải luôn mơ ước mọi người đều hiểu luật Nhân Quả. Muốn vậy, chúng ta phải vận động Nhà nước, nhà trường đưa Đạo đức - Nhân Quả vào trong học đường dạy cho học sinh để trẻ thấm nhuần Đạo đức từ bé. Nếu từ nhỏ được dạy Nhân Quả nghiệp báo, những đứa trẻ ấy lớn lên sẽ là người tốt, biết cân nhắc thiện ác, tội phước. Vì sở dĩ người ta sống tội lỗi là vì họ không tin Nhân Quả, tội phước.

Thực ra, hiện nay rất nhiều người, trong đó có những cán bộ, công an tin là có Nhân Quả. Nhiều giáo viên theo đạo Phật cũng tin Nhân Quả là có thật. Nhưng chưa ai dám chính thức, công khai nói mạnh điều ấy trong nhà trường vì sợ vi phạm. Chúng ta thấy Nhân Quả là điều có thật, là sự công bằng của cuộc đời. Điều quan trọng là làm sao đưa được môn học này vào trong nhà trường, dạy cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 12. Được như vậy, xã hội sẽ thay đổi, sẽ có rất nhiều người tốt xuất hiện trong cuộc đời này. Đây là ước mơ của tất cả chúng ta. Hy vọng rằng, mơ ước này sớm trở thành hiện thực. 

Hiện nay, tình trạng Đạo đức của Tăng Ni có dấu hiệu xuống cấp. Bởi vậy, dạy môn Tâm lý Đạo đức là để phục hồi lại Đạo đức cho Tăng Ni. Mong rằng, sau khi ra trường, nhiều người sẽ tiếp tục dạy Tâm lý Đạo đức cho thế hệ Tăng Ni khác để cây Đạo đức mãi mãi nở hoa trong đạo Phật và trong lòng người. 

     5. ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA ĐỜI SỐNG VỊ THA CỦA NGƯỜI HƯỚNG VỀ GIẢI THOÁT VỚI NHỮNG NHÀ TỪ THIỆN LỚN CỦA CÁC TÔN GIÁO.  

     Giữa đời sống vị tha của người hướng về Giải thoát trong đạo Phật với những nhà từ thiện lớn thuộc các tôn giáo khác đều có điểm giống nhau là có lòng tốt, lòng thương người ( hy vọng là như vậy). Nhưng giữa hai đối tượng ấy cũng có những điểm khác. Trước hết, đạo Phật hướng về mục tiêu Vô Ngã tuyệt đối, còn những nhà từ thiện khác không có mục tiêu đó. 

    Thứ hai, khác nhau ở quan điểm, cách nhìn về thế giới (thế giới quan). Đạo Phật thấy thế giới này là tạm bợ. Trong khi đó, những nhà từ thiện kia lại thấy thế giới này là thật. Vì thấy là thật nên họ xây dựng thế giới này cho tốt đẹp. Chúng ta, tuy thấy thế giới này là giả, là tạm bợ nhưng vẫn thương yêu con người, vẫn xây dựng thế giới này tốt đẹp. 

Một sự khác nhau nữa là khác ở sự thực hành Thiền Định. Chúng ta thực hành Thiền Định, kiểm soát những tâm niệm bí mật để thoát khỏi mọi ham muốn về danh tiếng, mọi  ước mơ về quả báo.

     6. LÀM GÌ ĐỂ GIẢI THOÁT VÀ GIẢI THOÁT ĐỂ LÀM GÌ?  

Đây là câu hỏi cuối cùng chúng ta phải đặt ra khi nói về vấn đề Giải thoát. Chúng ta sống vị tha để được Giải thoát và Giải thoát cũng để sống vị tha. Nhưng nếu chỉ hướng về Giải thoát cho riêng mình, đó là sự vị kỷ. Nếu thiếu Đạo đức thì sự tu hành của chúng ta chỉ là công phu của ngoại đạo. Bởi vậy, chúng ta phải nhớ rằng, Đạo đức là vấn đề rất quan trọng.

     Và điều quan trọng cuối cùng chúng ta phải luôn tâm niệm là cả cuộc đời mình, dù Giải thoát hay chưa Giải thoát, đều phải làm lợi ích cho chúng sinh.

1.         TIN LÀ CHẤP NHẬN ĐIỀU GÌ ĐÓ ĐÚNG SỰ THẬT 

            Con người sống trên đời này không thể không có một niềm tin. Niềm tin là chấp nhận có cái gì cao đẹp để ta vươn tới. Có thể niềm tin đó đã được kiểm chứng chắc chắn, và cũng có thể chưa, chỉ là tin suông. Hoặc là ta tin rằng có thần linh theo dõi hành vi thiện ác của con người để thưởng phạt công minh; hoặc ta tin rằng sống trên đời phải biết hy sinh cho đất nước. Trong thái độ ứng xử cũng như trong việc chọn lựa con đường đi cho cuộc đời mình, niềm tin là điều rất quan trọng. Nhưng quan trọng hơn cả là tin điều gì, tin ai và tin như thế nào?

Cuộc sống vốn rất phức tạp. Xung quanh chúng ta hằng ngày xảy ra bao nhiêu chuyện vui buồn, bao nhiêu điều đúng sai, có những điều đáng tin và những điều không đáng tin. Đôi khi vì cả tin, chúng ta mắc phải những sai lầm đáng tiếc. Cũng có lúc vì quá hoài nghi, vì mất niềm tin, chúng ta lại bỏ qua những cơ hội tốt cho cuộc đời mình, thậm chí còn phụ mất bao tấm lòng trong thiên hạ. Bởi vậy, thái độ đối với niềm tin của mỗi người rất quan trọng. Nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, chúng ta phải có trí tuệ và bản lĩnh để chọn cho mình một cách xử lý thông tin đúng đắn nhất, có hiệu quả nhất. 

Tin là chấp nhận một điều gì đó là đúng sự thật. Chúng ta có thể tin vào một câu chuyện kể, tin nhân cách của một con người, tin một lý thuyết hoặc một giáo điều…Nhưng chúng ta chỉ tin khi nào ? Trước một câu chuyện kể, chúng ta phải cân nhắc. Nếu nghe người ta kể lại một câu chuyện, chúng ta không suy xét mà tin ngay, đó là lối tin sai lầm. Vì ngay cả những chuyện xảy ra trong lịch sử đã được ghi vào sử sách cũng có lúc sai. Chuyện kể về Công Chúa Ngọc Hân, Hoàng hậu vua Quang Trung là một ví dụ. Chuyện kể rằng, khi Tây Sơn bị quân Nguyễn Ánh đánh bại, bà Ngọc Hân vẫn ở lại kinh đô Phú Xuân- Huế. Sau đó, Nguyễn Ánh thấy bà đẹp quá nên giữ lại và bà tiếp tục làm vợ của Nguyễn Ánh. Câu chuyện được người đời thêm “gia vị” vào càng trở nên hấp dẫn. Nhưng đến bây giờ, qua nghiên cứu, tìm hiểu, những nhà sử học đã phát hiện ra đó là chuyện bịa đặt, sai lầm. Như vậy, một thời gian dài, ai cũng tin chuyện đó là có thật. Thực ra, khi có biến cố xảy ra, bà cùng hai người con chạy trốn khỏi kinh thành. Sau đó, ba mẹ con bà bị quân Nguyễn Ánh bắt và giết chết. Trên thực tế, không có một Ngọc Hân nào ở lại làm vợ vua Nguyễn Ánh cả. 

Hoặc một câu chuyện khác trong đạo Phật, chuyện về tiền thân của Đức Phật. Thái Tử Tu Đại Noa tu hạnh bố thí, bố thí Ba la mật, ai xin gì Ngài cũng cho. Chính vì điều đó nên vua cha giận và đày đi nơi khác mang theo cả vợ con. Trên đường đi, người ta xin vợ con, Ngài cũng cho nốt. Vì đây là câu chuyện được kể lại trong kinh Phật nên được rất nhiều người tin. Theo tư duy của con người lúc bấy giờ, người ta cho rằng câu chuyện đó có thật. Vì đối với người đàn ông, vợ con là sở hữu của họ. Một khi đã là sở hữu, họ muốn cho ai cũng được. Đối với người có tâm bố thí rộng lớn, cái sở hữu lớn nhất, quý nhất là vợ con ruột thịt, họ cũng sẵn sàng cho đi. Như vậy, người ấy đúng là người có hạnh bố thí viên mãn. Đó là lý luận của người xưa. Nhưng nếu đặt ngược lại vấn đề, chúng ta sẽ thấy quan điểm ấy hòan tòan trái với đạo Phật. Bởi vì, khi sẵn sàng cho cả vợ con, Thái Tử tỏ ra tốt với người khác nhưng không tốt đối với vợ con mình. Ngài có biết khi vợ con mình về ở với người kia, họ có được đối xử đàng hoàng hay không? Nếu cứ nhắm mắt cho liều, không băn khoăn, day dứt, dù là cái mình yêu quý nhất, để được gọi là tu hạnh bố thí Balamật thì đó là điều rất vô lý, không thể chấp nhận được. Xét trên góc độ nhân bản, người này không có trí tuệ, không biết cân nhắc, đối xử vợ con như vậy là không tôn trọng, không hợp với đạo lý. 

Một câu chuyện bộc lộ nhiều điểm vô lý, sai lầm như vậy mà cả thời gian dài chúng ta đã tin là thật. Phải thừa nhận rằng, không phải mọi câu chuyện trong Đạo được kể lại đều là sự thật, đều chính xác. Tính xác thực của những câu chuyện cổ trong đạo Phật rất thấp. Bởi vậy, trong quá trình thuyết giảng cho đệ tử, chúng ta chỉ kể những câu chuyện mình tin chắc là có thực. Sống trong thời đại khoa học, văn minh, con người thường cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tin một vấn đề. Chúng ta phải cẩn thận, nếu không sẽ làm mất niềm tin trong lòng họ, có khi lại trở thành trò cười cho thiên hạ. 

Trong đạo Phật có chuyện Lòng hiếu của chim Oanh Vũ. Chuyện kể về tiền thân Đức Phật lúc đó là con chim Oanh Vũ. Vì ba mẹ bị mù, chim Oanh Vũ  đi gắp lúa về nuôi ba mẹ. Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất là một điền chủ trồng lúa. Khi bị mắc bẫy, chú chim cất lên tiếng nói, tiếng nói của con người. Những câu chuyện như thế này chỉ mang tính chất ngụ ngôn chứ không có thật. Bởi vậy, khi sử dụng những câu chuyện ấy để chứng minh cho bài giảng của mình, chúng ta không được khẳng định đây là chuyện có thật trong đạo Phật mà phải nói rõ chuyện được xem như là một chuyện ngụ ngôn để răn dạy người đời. 

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng nghe được những câu chuyện lạ. Những chuyện ấy rất hấp dẫn nhưng vì không kiểm nghiệm được nên thật khó tin. Chẳng hạn, chúng ta từng nghe chuyện lạ về một người thợ săn. Vào thời Pháp thuộc, khi rừng Sác còn dày đặc, còn nhiều những cây cao bóng cả, với muông thú rất nhiều. Có một người thợ săn hằng ngày mang súng vào rừng săn bắn. Một ngày nọ, ông vào rừng săn như thường lệ. Nhưng một điều rất lạ là đã vào sâu trong khu rừng mà ông vẫn không nghe một tiếng chim, không nhìn thấy một con thú nào. Bốn bề vắng lặng, tịnh không một bóng chim, một con thú nào. Thế rồi ông đi mãi, đi mãi tới một khu rừng lạ mà trước đây ông chưa hề đặt chân tới. Khi qua khu rừng vắng, đến một cánh đồng cỏ, ông nhìn thấy xa xa có một bà già đội nón lá lụp sụp đang đi về phía ông. Trong rừng vắng, gặp được con người, ông lấy làm ngạc nhiên lắm. Nhưng do kinh nghiệm hoặc nghe phong thanh điều gì đó, ông bèn ngồi xuống nhìn cho kỹ. Lúc bấy giờ ông mới phát hiện ra chân của bà già đi không chạm đất. Ông nghĩ rằng hôm nay mình đã gặp quỷ và giương súng lên, hướng mũi súng về phía bà già. Với cái nón lá lụp sụp, bà ta cũng đang đi về phía ông. Hai người đi dần dần về phía nhau. Lúc bà già đến vừa tầm ngắm, ông bắn liền một phát. Tiếng súng nổ, bà già phóng đến chỗ ông đang đứng. Với kinh nghiệm của một người thợ săn, khi bắn xong, ông lăn ngay sang một bên. Khi bà già nhảy xuống đúng chỗ ông đứng, ông bắn thêm một phát nữa, bà ta ngã lăn ra chết và hiện nguyên hình là một con cọp bạch. Sau đó, ông về làng kêu mọi người vào rừng kéo xác con cọp về. Biết là cọp bạch, lại là cọp thành tinh, họ rất sợ nênï lập miếu thờ. Từ đó, người thợ săn giải nghệ luôn, không dám đi săn nữa. Ông cho rằng quỷ đã dụ ông vào rừng săn, có nghĩa là thời của ông đã hết. Nếu ông vẫn cứ lì lợm, vẫn tiếp tục đi săn sẽ động đến “chúa sơn lâm”. 

Câu chuyện cũng hấp dẫn, người kể cũng có lý luận, nghe hay hay nhưng không biết thật giả ra sao. Những câu chuyện nghe có vẻ hấp dẫn như vậy chúng ta đừng vội tin. Nếu tin nghĩa là chúng ta đã chấp nhận điều đó là đúng sự thật. Nhưng để xác nhận một điều có thật, chúng ta phải rất cẩn thận, cảnh giác. Chúng ta chỉ tin vào những điều mình đã kiểm nghiệm, không được nghe điều gì tin ngay điều đó. Đó mới thật sự là thái độ sống đúng đắn. 

Đối với nhân cách của một con người cũng vậy, trong cuộc sống, qua việc gặp gỡ, tiếp xúc, chúng ta sẽ có sự đánh giá đúng đắn về mọi người hơn. Tùy mức độ tin cậy, chúng ta sẽ có mối quan hệ giao tiếp đúng mực. 

Ví dụ, khi biết một người là xấu, chúng ta chỉ quan hệ giao thiệp với họ trong một chừng mực nào đó, không để họ đi sâu vào cuộc đời mình, cũng như chúng ta không cần đi sâu vào cuộc đời của họ. Chúng ta nên biết rằng, đó không phải là người tốt, nếu gặp nhau ngoài đường, chỉ cần chào xã giao hay mời nhau ly nước và sau đó không cần mời họ đến nhà và mình cũng chẳng đến nhà họ. 

Trong quan hệ giao tiếp, một khi  đã tin nhân cách của người khác, chúng ta có thể hợp tác dễ dàng hơn. Trong cuộc sống, nhu cầu hợp tác với nhau rất quan trọng bởi không ai muốn mình sống cô đơn, cô độc giữa cuộc đời này. Chúng ta luôn cần có người để hợp tác, quan hệ. Khi có niềm vui, nỗi buồn, chúng ta cũng cần có người để sẻ chia, tâm sự. Nhu cầu được kết bạn là nhu cầu lớn của con người. Nhưng chúng ta phải biết “chọn mặt gửi vàng”, không phải gặp ai cũng đem chuyện đời mình ra tâm sự. Đôi khi những lỗi lầm trong quá khứ chúng ta đã vượt qua rồi, nhưng khi kể cho người khác nghe, họ lại  đồn ầm lên và thêm chút “gia vị” vào, vậy là lỗi lầm trở nên mới như chúng ta vừa phạm phải. Điều ấy không tốt chút nào và bao nhiêu phiền phức từ đó lại nảy sinh. 

Khi hợp tác với người khác cũng vậy. Trong quá trình đi làm Phật sự, có khi chúng ta mời huynh đệ nào đó về chùa ở chung với mình, cùng hợp tác lo việc Đạo với mình. Nhưng lúc ấy, chúng ta phải biết rõ người đó như thế nào, phải tin được  nhân cách của họ mới có thể hợp tác được. Trong trường hợp làm Trụ trì, muốn nhận đệ tử, chúng ta cũng phải tin tưởng phần nào vào nhân cách của người học trò mình. Còn tin như thế nào, tin ở mức độ nào, điều đó  phụ thuộc vào sự đánh giá của mỗi người, vào bản lĩnh của mỗi người. Nếu là người có bản lĩnh, chúng ta sẽ nhìn sâu sắc hơn, hoặc do tiếp xúc lâu ngày, chúng ta sẽ đánh giá chính xác đối tượng và có niềm tin. Có khi nghe người ta nói, chúng ta tin, hoặc cũng có khi tin do trực giác.

Ví dụ, có người đến với chúng ta và hay tự kể chuyện tốt về họ, nào là cúng dường chùa này, chùa khác; nào là giúp đỡ người nọ, người kia…Nghe kể, chúng ta tin họ là người tốt thật. Đây là điều chúng ta hay mắc phải. Nếu chỉ tin nhân cách của một người qua lời nói của họ mà chưa một lần chứng kiến, kiểm nghiệm, là chúng ta đã sai lầm. 

Trường hợp tin người do sống gần với nhau lâu ngày là niềm tin có cơ sở nhất. Bởi sống với nhau lâu ngày, không ai giấu người khác được điều gì. Ông bà ta rất thâm thúy khi đưa ra kinh nghiệm trong việc đánh giá một con người: 

“Thức đêm mới biết đêm dài. 

Ở lâu mới biết lòng người cạn sâu”. 

Quả thật, nhìn nhận, đánh giá con người để có một niềm tin qua thời gian gần gũi tiếp xúc là cách chắc chắn nhất. 

Có khi chúng ta dùng trực giác để tin. Nghĩa là gặp một người nào đó, bằng trực giác, chúng ta cảm nhận ngay ban đầu là người này tốt hay xấu. Điều này thường thấy ở người phụ nữ. So với nam giới, người phụ nữ có linh cảm, có trực giác mạnh hơn. Nhưng sở dĩ họ vẫn sai lầm trong quan hệ, đánh giá là do họ rất dễ xiêu lòng. Ban đầu, chỉ cần thoáng nhìn qua, họ biết ngay đó là người không tốt, nhưng nghe người ta khen mình hay quá, người ta ngọt ngào quá lại tin ngay. Người nam không có trực giác mạnh như phụ nữ nhưng bù lại, họ rất cứng rắn. 

Ngoài việc tin vào nhân cách của một người, chúng ta còn có những niềm tin khác, tin vào một lý thuyết. Đó có thể là lý thuyết về kinh tế, chính trị hay vật lý… Đây là niềm tin về những vấn đề trừu tượng cao cấp hơn .

Một thời gian dài ở Âu Châu người ta tin rằng, cứ để cho con người làm ăn tự do thì xã hội sẽ giàu mạnh, phát triển. Nhưng đến một lúc nào đó, vì tự do quá, xã hội sẽ xuất hiện tình trạng người bóc lột người. Người có nhiều tiền, làm chủ một xưởng sản xuất, khi người công nhân đến làm việc phải chịu sự quản lý, đối xử của người chủ. Vì có quyền hành trong tay, ông chủ muốn trả lương cho người lao động bao nhiêu mặc kệ, hoặc muốn bắt họ làm bao nhiêu giờ trong ngày mặc kệ. Nếu ai không đồng ý, không chấp hành sẽ bị chủ đuổi việc. Như vậy, vì sự sống còn, người làm công phải lệ thuộc hoàn toàn vào chủ. Và những tay chủ thấy mình có quyền cứ ra sức bóc lột công nhân, bắt họ làm việc nhiều, điều kiện làm việc thiếu thốn, trả lương ít để được lợi nhuận cao. Xã hội đã có sự bất công.

 Có thời gian, người ta lại thay đổi quan điểm. Họ nghĩ rằng, không nên để con người tự do như vậy, Nhà nước phải quản lý, điều khiển mọi hoạt động kinh tế. Sau một thời gian làm việc, tình trạng làm việc cầm chừng xuất hiện. Vì người ta cho rằng mọi cái đều là của Nhà nước và không ai chịu làm việc. Nhà nước đã có chế độ bao cấp, làm nhiều hay làm ít họ cũng đều được nhận một mức lương ổn định trong một tháng. Không ai chịu nỗ lực làm việc, công chức thì cứ “sáng vác ô đi, tối vác về” nên kinh tế bị suy giảm nghiêm trọng. 

Hiện nay, ở một số nước phương Tây, người ta vẫn tin rằng cứ để con người tự do thì xã hội sẽ phát triển. Nhưng gần đây, ( khoảng hai năm nay) ở vùng Đông Nam Á xuất hiện tình trạng khủng hoảng kinh tế, bắt đầu từ Thái Lan, qua Inđônêxia, vòng  lên đến Nhật Bản, Đại Hàn… Lúc bấy giờ, các nước Đông Nam Á bắt đầu xét lại cái gọi là thị trường tự do để thấy được những hạn chế của nó. Vì tin tưởng một cách tuyệt đối và áp dụng triệt để những lý thuyết kinh tế ấy nên nhiều nước đã thất bại. Bởi vậy, chúng ta không nên tin một cách tuyệt đối, cần phải cẩn thận để tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc.

Có khi đó là niềm tin vào một lý thuyết về vật lý, về sinh vật, là các lý thuyết về khoa học …Chẳng hạn, thuyết tiến hóa của Darwin cho rằng mọi sinh vật trên trái đất tiến hóa từ các loài đơn giản đến phực tạp, phức tạp nhất là loài  người. Và trước con  người là loài Khỉ. Hay nói cách khác, theo học thuyết ấy thì tổ tiên của loài người là loài khỉ.  Xét cho cùng, chúng ta thấy rằng thuyết tiến hóa của Darwin dù được rất nhiều người tin nhưng mới chỉ là một thuyết,  chưa được chứng minh một cách khoa học. Trong khi đó, chúng ta chưa tin vào điều gì khác để tạo nên một sự ứng xử mới. 

Thử tưởng tượng nếu tin rằng con người có nguồn gốc từ loài khỉ thì trong chúng ta sẽ có người nhìn thấy trước mặt mình bao nhiêu con người với những gương mặt đáng yêu, đáng mến cũng như nhìn thấy những con khỉ. Họ sẽ ứng xử ra sao với mọi người ? Có thể đó là một sự coi thường, vì họ nghĩ rằng xét cho cùng con người cũng chỉ là con vật mà thôi. Đây là điều chúng ta nên cẩn thận. 

Trong đạo Phật của chúng ta có một lý thuyết: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Phật tánh là cái gì tuyệt đối, cao cả nằm trong thâm sâu tâm hồn mình. Nếu chúng ta tin vào điều đó, tin là nơi mình có Phật tánh và nơi người cũng có Phật tánh thì trước mắt chúng ta những gương mặt đều trở nên đẹp đẽ, đáng yêu. Bởi nhìn thấy những gương mặt này, chúng ta không phải nhìn thấy những con người nữa mà thấy trong họ hình ảnh của Phật. Nếu nhìn thấy tất cả hiền lành, từ bi như Phật, chúng ta sẽ tôn trọng và thương yêu. Như vậy, chúng ta có thể rút ra một kết luận, niềm tin trong lý thuyết nào đó sẽ tạo nên thái độ ứng xử cho con người. Nếu niềm tin đó đúng sẽ tạo ra một lối ứng xử tốt cho cuộc đời mình, cho quan hệ giữa người và người trong xã hội. Ngược lại, nếu tin một cách mù quáng, tin vào những điều không có căn cứ, chúng ta sẽ có những cách ứng xử sai lầm. 

Hoặc là có một lý thuyết là Big bang, một vụ nổ lớn đầu tiên của vũ trụ. Khi đưa kính thiên văn nhìn lên vũ trụ, các nhà khoa học học nhìn thấy các thiên hà đang càng ngày càng rời xa nhau. Chúng ta hình dung, một thiên hà có tỉ tỉ những ngôi sao như  mặt trời tập hợp thành. Trong các ngôi sao đó có thể có nhiều hành tinh vây quanh như Thái dương hệ của của chúng ta vậy. Mặt trời cũng chỉ là một ngôi sao rất nhỏ, một thiên hà gồm hàng tỉ các mặt trời giống như mặt trời của chúng ta. Từ chỗ nhìn lên bầu trời hấy các thiên hà ngày càng rời xa nhau, các nhà khoa học suy luận rằng ngày xưa chắc chắn nó gần nhau. Họ cho rằng những suy luận ấy là hợp lý. Và vì trước kia các thiên hà tập trung một chỗ nên hấp lực rất cao. Các nhà khoa học tin rằng vũ trụ ngày xưa chỉ là một điểm duy nhất, sau đó bùng nổ thành một vụ nổ lớn. Trong quá trình bùng nổ của vũ trụ, sự sống hình thành, các hành tinh hình thành, con người, sinh vật thành hình… 

Ngày nay, rất nhiều nhà khoa học lớn, những nhà bác học lớn đều tin vào thuyết Big bang, tin rằng vũ trụ bắt đầu bằng một vụ nổ. Tuy nhiên, chúng ta có thể không tin vì nhận ra có nhiều điểm rất vô lý. Thật khó tin rằng vũ trụ bắt đầu bằng vụ nổ. Các nhà bác học đang ra sức chứng minh thuyết này, chứng minh bằng tất cả phương tiện hiện đại của vệ tinh, bằng phương tiện của máy tính. Một trong những nhà bác học lớn của thế giới, rất nhiệt tình và cố gắng chứng minh thuyết ấy là ông Stephen Hawking. Ông vốn bị tật không nói được, không nhúc nhích được, chỉ có bàn tay là còn hoạt động, có thể bấm phím được. Vậy mà ông vẫn đi giảng ở các trường Đại học và ra sức chứng minh thuyết Bigbang. Nhưng nhiều người cho rằng không bao giờ các nhà bác học chứng minh thành công, họ không bao giờ tin vào thuyết đó. Như vậy, trong cuộc sống này có nhiều thuyết rất hấp dẫn nhưng không phải mọi cái đều có thể đem lại cho chúng ta niềm tin. Chúng ta chỉ tin những gì đã được chứng minh, đã được kiểm nghiệm. Và thuyết Big bang đúng hay sai, chúng ta phải chờ câu trả lời của khoa học và thời gian.

Ngoài những vấn đề trên, chúng ta còn những niềm tin khác nữa, tin vào một giáo điều (tín ngưỡng). Chẳng hạn, chúng ta là người Phật tử, tin theo lời Phật dạy, tin rằng trên đời này có Nhân quả, có luân hồi. Đó là điều may mắn cho chúng ta vì niềm tin ấy hòan tòan đúng đắn. Khi tin có Nhân quả, chúng ta sẽ biết cân nhắc cuộc sống của mình, cân nhắc mọi hành động của mình để trở thành người có Đạo đức. Nhưng cũng có nhiều người không có được cái may mắn ấy vì họ chưa có niềm tin hoặc tin vào những giáo lý khác. Hiện nay, ở Mỹ tồn tại hàng trăm ngàn đạo, có đạo chỉ một người, có đạo hai ba người, có đạo hàng trăm ngàn người. Như vậy, tín ngưỡng là vấn đề rất quan trọng đối với đời sống con người. Nếu tin vào một giáo lý đúng, cuộc đời chúng ta sẽ thăng hoa, tốt đẹp. Ngược lại, nếu tin vào những giáo lý sai lầm, chúng ta sẽ rơi vào tà kiến. Đó là điều rất nguy hiểm và cũng rất đáng thương. Tóm lại, trong cuộc sống có nhiều điều để chúng ta tin, nhưng có thể khái quát trong bốn điều: Tin vào câu chuyện kể, tin vào nhân cách một con người, tin vào một lý thuyết (về kinh tế, chính trị…) và tin vào một giáo điều nào đó. 

Đây là những điều thường gặp trong cuộc sống và có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời mỗi con người. Nếu có niềm tin vào những điều đúng đắn thì cuộc đời chúng ta sẽ tốt đẹp. Nếu tin vào những điều không đáng tin, cuộc đời chúng ta có thể đi xuống địa ngục .

2. NHỮNG CÁCH TIN. 

Trước một sự kiện, một vấn đề, có thể có nhiều cách tin. Điều này phụ thuộc vào tính chất của sự việc, vào bản thân người truyền thông tin và người nhận thông tin. 

Trước hết là tin một cách dễ dàng không suy xét. Trường hợp này người ta gọi là cả tin. Người cả tin là người đứng trước một vấn đề, một câu chuyện nào đó không có sự suy xét mà tin một cách dễ dàng, thậm chí tin một cách rất ngây thơ. Những người như vậy thường là người không có bản lĩnh, không có trí tuệ. Đây cũng có thể xem là một căn bệnh. Vậy, người thường mắc căn bệnh này là ai ? Đó là những người quá thật thà, nghĩ rằng ai cũng tốt như mình. Nhiều khi vì quá thật thà, những người ấy đã phải trả giá rất đắt cho cuộc đời mình vì họ đã bị người khác lợi dụng lòng tin mà không biết. Bởi vậy, ông cha ta thường nói :“Thật thà là cha đứa dại ”. Một đối tượng khác cũng được xếp vào loại người cả tin là những người đàn bà hay ngồi lê đôi mách. Họ rất dễ tin lời người khác. Khi qua nhà hàng xóm chơi, nghe kể chuyện gì họ cũng thấy hấp dẫn cả và tin ngay. Khi đã tin, trong lòng lại không yên muốn báo tin ngay cho người khác. Cứ thế, câu chuyện được truyền đi rất nhanh và có khi được thổi phồng lên so với sự thật ban đầu. Lafontaine, nhà thơ dược coi là bậc thầy về thơ ngụ ngôn của thế giới, đã có bài thơ “ Bí mật với đàn bà” rất hay. Từ câu chuyện đức ông chồng qua một đêm ngủ dậy bỗng hô lên mình đẻ được một quả trứng vàng, người vợ đã tin là thật và đem câu chuyện lạ kỳ ấy qua kể cho bà hàng xóm nghe như một điều bí mật. Dù đã được dặn dò kỹ lưỡng là phải giữ bí mật vì tôi chỉ kể cho mình chị nghe, nhưng chờ cho người đàn bà ra khỏi nhà, người bạn quí hóa ấy đã vội chạy sang hàng xóm kể lại câu chuyện vừa nghe được. Cứ thế, câu chuyện qua đến người thứ 10 thì người đàn ông kia không phải đẻ được một nữa mà là mười quả trứng vàng. Mà sự thật, ông ta có đẻ được quả trứng nào đâu.

Câu chuyện hết sức vô lý ấy đã được các bà tin một cách dễ dàng và truyền đi rất nhanh. Thói quen thích có chuyện để làm quà, bất kể là chuyện gì từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, miễn là cho vui miệng, đã trở thành thói quen xấu đối với một số phụ nữ. Vì cả tin, vì gặp nhau không có chuyện gì để nói, những câu chuyện của họ đôi lúc đem lại cho người khác những hậu quả khôn lường. 

Trong Đạo, điều này càng phải cẩn thận hơn nữa. Khi nghe được những chuyện không đâu, những điều sai lầm, có người không chịu phán đoán, suy xét mà tin ngay. Đó là những người không có bản lĩnh. Những người ấy rất dễ tin và vì thế cũng dễ bị người khác lừa gạt. Trong cuộc đời, chúng ta gặp biết bao tình huống bất ngờ, nghe biết bao chuyện “động trời”. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải biết phán đoán, không phải nghe nói điều gì cũng tin ngay. 

Ví dụ, một hôm, có người từ đâu chạy vào chùa hớt ha, hớt hải kêu lên: “Trời ơi ! Ngoài đường có một vụ đánh lộn, đâm chém nhau thật kinh khủng”. Trước tin ấy, chúng ta có tin hay không? Tại sao? Chúng ta phải phán đoán, xem chuyện ấy có thật hay không. Nhưng dựa vào đâu để biết là có thật hay không ? Nếu không phải là người cả tin, trước hết chúng ta cứ bình thản nghe người ta nói, sau đó là kiểm tra, thăm dò bằng cách dựa vào thái độ và nét mặt của những người khác. Nếu có thêm vài người cũng chạy vào hớt ha, hớt hải như thế, chúng ta tin chuyện người ấy nói là đúng. Nếu nhiều người cũng từ ngoài đường đi vào chùa, nhưng họ không tỏ ra hốt hoảng, cũng chẳng có thái độ gì khác, chúng ta biết ngay là không có chuyện gì xảy ra ngoài ấy. Vì nếu quả thật có chuyện đâm chém nhau động trời xảy ra như vậy làm sao họ có thể bình thản được. Như vậy, có thể người ta muốn dựng chuyện lừa chúng ta cho vui vậy thôi. Trong cuộc sống có nhiều chuyện đến với mình như thế, chúng ta phải phán đoán, đừng vội tin ngay. 

Hoặc nhiều khi có những chuyện rất buồn cười nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến người khác nếu chúng ta tin một cách vội vã, không suy xét. Ví dụ, có một người nào đó đến chùa chơi và trong lúc huyên thuyên đủ điều, người ấy bỗng nhìn thấy một Thầy đi sau nhà Tăng và nói, Thầy đó trước kia ở gần nhà tôi, vì cha mẹ không đồng ý cho ông ta cưới người mình yêu nên đã hận đời bỏ đi tu. Nghe câu chuyện đó, chúng ta nên có thái độ như thế nào? Phải phán đoán xem  chuyện đó có thật hay không. Vậy, chúng ta dựa vào đâu để biết sự thật và có thái độ tin hay không tin?

Có người cho rằng, vì chưa tận mắt chứng kiến nên họ không tin chuyện đó. Nhưng thực tế, cũng có không ít những điều có thật mà chúng ta không được tận mắt nhìn thấy. Như vậy, chỉ dựa vào việc được “mục sở thị” hay không để phán đoán, có khi không chính xác. Chúng ta phải suy luận dựa trên những yếu tố khác. Trong trường hợp này, tốt nhất là chúng ta nên nhìn vào thái độ tu của Thầy ấy. Nếu đó là người tu hành nghiêm túc, hoan hỉ phấn khởi thì chúng ta không thể tin điều người ta nói là thật. Nếu cứ tin một cách vội vã và truyền những thông tin sai sự thật ấy đi, chúng ta sẽ mang tội với người khác. 

Bên cạnh việc tin một cách dễ dàng, không suy xét còn một cách tin khác là tin vì thấy điều đó hợp lý. Sự hợp lý ấy lệ thuộc vào khả năng phán đoán sâu hay cạn của người nghe. Khi nghe bất cứ chuyện gì, chúng ta phải phán đoán xem có đúng hay không rồi hãy tin. Nếu phán đoán không cạn lẽ, điều chúng ta tin cũng không chắc chắn lắm. Nếu phán đoán một cách sâu sắc, điều chúng ta tin tạm coi là xác thực. 

Ví dụ, có tin đồn rằng, năm 2000 là năm “tận thế”. Điều này có đáng tin hay không chủ yếu dựa vào khả năng phán đoán, kiểm tra của mỗi người. Trước hết, chúng ta phải hỏi người truyền thông tin dựa vào đâu mà nói năm 2000 tận thế. Nếu họ cho rằng dựa vào kinh, chúng ta phải tìm hiểu là kinh nào. Nếu là kinh của ông “đạo Dừa” thì chuyện ấy rõ ràng là bịa. Nếu họ khẳng định khoa học  nói 2000 có một thiên thạch, hành tinh đụng vào Trái Đất, báo đã đăng tin, chúng ta cũng không được tin ngay, phải hỏi báo nào đã đăng tin đó và yêu cầu người ta cho xem trực tiếp bài báo. Nếu quả thật, có một tờ báo đã đăng kết quả nghiên cứu của một nhà khoa học với lý luận rất hợp lý, chúng ta có thể tin. Dựa vào đường đi của các thiên thạch, sự vận hành của quỹ đạo Trái Đất, họ cho rằng sẽ có một thiên thạch cắt ngang rất gần quỹ đạo của Trái Đất. Họ tính toán thời điểm cắt ngang này vào đúng năm 2000. Lúc ấy, sự va chạm lớn này sẽ gây ra một cuộc tận thế, có thể Trái Đất bị móp đi, nước biển bị sôi trào lên, sự sống bị tiêu diệt…

Tuy nhiên, điều đó cũng không chắc chắn. Vì từ thời điểm họ tuyên bố kết quả nghiên cứu của mình đến thời điểm xảy ra sự cố còn một khoảng cách khá lớn về thời gian và sự tính toán có thể bị sai số nửa giây. Trong nửa giây đó, đường đi của thiên thạch có ïthể chệch đi khoảng ba trăm cây số. Đối với kích thước của vũ trụ, khoảng cách ấy có thể chỉ là hạt cát, nhưng đối với Trái Đất , khoảng cách ấy quá lớn. Bởi vậy, theo tính toán, chúng ta có thể tạm thời tin nhưng điều ấy chưa chắc đã xảy ra. Trong hiện tại, chúng ta không có gì phải lo ngại, cứ tiếp tục sinh hoạt bình thường, cứ bình thản nghe giảng kinh và niệm Phật. Tóm lại, khi nghe điều gì chúng ta phải suy xét cho cạn lẽ, suy xét một cách hợp lý, không phải ai nói gì cũng tin. 

Một cách tin nữa là vì dựa vào uy tín của người nói. Khi nghe người khác nói điều gì, chúng ta phải xem người đó có uy tín đến mức nào. Nếu đã từng sống và làm việc với họ nhiều năm qua, thấy họ nói điều gì cũng đúng, chưa hề mất uy tín với ai, chúng ta có thể tin điều họ nói là đúng. Tin như vậy gọi là dựa vào uy tín mà tin. Nếu họ chưa nói dối ai, nhưng cũng chưa có gì đặc biệt để có thể tin, trước một thông tin quan trọng mà họ nói ra, chúng ta cũng không nên tin vội. 

Có một câu chuyện mà người ta kể cho nhau nghe để làm bài học kinh nghiệm, chúng ta cũng nên lưu ý. Đó là chuyện quan hệ giữa một người đàn ông người Tàu với người đàn ông Việt Nam. Người đàn ông gốc Tàu quen biết với người đàn ông Việt Nam rất giàu có. Một hôm, ông ta đến mượn bạn mình một ngàn đồng vì có việc cần đột xuất và hứa ba ngày sau sẽ trả. Đúng hẹn, ba ngày sau ông mang số tiền ấy đến trả, kèm theo một nải chuối và một ít trái cây. Khoảng một tháng sau, ông ta lại đến mượn năm ngàn đồng và hẹn hai ngày sau sẽ trả. Đúng hai ngày sau, ông mang số tiền đã mượn đến trả cùng với ít trái cây để hậu tạ. Cứ thế, ông ta đã gây được niềm tin cho người khác. Trong vòng ba năm mượn rồi trả rất đúng hẹn như thế, người bạn ông không tỏ chút nghi ngờ. Cuối cùng, khi số tiền mượn lên đến hàng triệu, một số tiền rất lớn, ông ta đã biến mất tăm. Đây là lối “kinh doanh uy tín”, nghĩa là tạo uy tín cho người ta tin mình, rồi lừa họ. Bản chất của những con người như vậy không thật. Tuy nhiên, trường hợp này rất khó nhận định. Còn thông thường, chúng ta tin người nào đó qua quá trình tiếp xúc với họ. Thường ngày họ vốn nói thật, bây giờ nói điều gì chúng ta có thể tin được.

Thứ tư là tin vì truyền thống. Nghĩa là ngày xưa, tổ tiên ông bà nói một điều gì đó, qua thời gian thấy điều đó là hợp lý, chúng ta có thể tin được. Chẳng hạn, người xưa cho rằng, 

“Muốn sang thì bắt cầu kiều,

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”

Nghĩa là cha mẹ có kính trọng thầy cô giáo thì con cái mới có thể chăm học vì cũng vâng lời thầy cô. Y

Tuy nhiên, có những điều ông bà ta để lại không còn phù hợp với thời đại ngày nay. Nếu tin như vậy, chúng ta sẽ có sự bất công trong việc đối xử. Chẳng hạn, trong thời đại phong kiến, người ta quan niệm rằng: “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, một người con trai cũng cho là có, mười người con gái cũng cho là không. Xã hội ấy coi trọng con trai hơn con gái. Vì họ cho rằng, con trai trai là người nối dõi tông đường, thờ phụng tổ tiên, còn con gái là con người ta, lớn lên sẽ theo chồng, gánh vác giang sơn nhà chồng. Quan niệm ấy ăn sâu vào đời sống của người dân Việt Nam từ bao đời nay và để lại không ít những bi kịch cho người phụ nữ. Thực ra, ngày nay không ít con trai lập gia thất rồi chỉ biết vợ con, bỏ bê cha gìa mẹ yếu. Ngược lại, không ít những người con gái hiếu thảo dù ở trong hoàn cảnh nào cũng lo lắng cho cha mẹ mình. 

Chúng ta tin vào truyền thống của cha ông nhưng tùy hoàn cảnh, tùy đối tượng mà vận dụng cho hợp lý. Nói đến truyền thống, chúng ta nhớ lại bài kinh Kalama: 

 Một lần, Đức Phật đến vùng Kalama, các trưởng lão ở đó đến gặp Ngài và nói:

-Thưa tôn giả Gotama, người ta đồn rằng tôn giả có bùa khiến các đệ tử của những đạo khác gặp tôn giả rồi bỏ đạo theo tôn giả. Chúng tôi không muốn xuyên tạc tôn giả, chúng tôi không muốn xuyên tạc sự thật . Xin tôn giả hãy xác nhận điều đó đúng hay không, tôn giả có bùa hay không?

 Đức Phật trả lời : 

- Đừng tin những gì do lời đồn đại, đừng tin những gì do truyền thống để lại, đừng tin những gì do một người có vẻ khả kính nói ra, đừng tin những gì do ý nghĩ chủ quan của mình cho là đúng. Hãy tin điều gì chúng ta đã thực hành, suy xét, cân nhắc và thấy rõ kết quả. 

Đức Phật không trả lời câu hỏi của các trưởng giả mà có một lời khuyên. Câu trả lời của Ngài đã trở thành một tuyên ngôn độc đáo của đạo Phật mà bây giờ cả thế giới đều ca ngợi. Vì người ta cho rằng, không một giáo chủ nào khuyến khích sự hoài nghi, giáo chủ nào cũng kêu mọi người tin mình, chỉ có Đức Phật khuyên mọi người phải biết suy  xét, phải biết hoài nghi. Nhà triết học nổi tiếng Descart cũng từng nói rằng: “Tôi hoài nghi là tôi tư duy. Tôi tư duy là tôi tồn tại”. Ở đây, Phật đã cho chúng ta một thái độ hoài nghi đúng đắn. 

Cũng có trường hợp tin vì nghe nhiều người đồn đại. Quả thật, trước một sự việc, nghe nhiều người đồn chúng ta sẽ rất dễ tin. 

Ngày xưa, có một ông vua trong thời gian trị vì nghe rất nhiều người tâu trình là vị  quan kia không tốt, một đại thần không tốt. Vua bèn hỏi Án Tử. Án Tử tâu rằng:

-           Thưa Bệ hạ, có một người nói với Bệ hạ ở chợ có cọp, Bệ hạ có tin không ? 

-           Trẫm không tin, chợ làm sao có cọp - Vua trả lời. 

Lúc đó, Án Tử hỏi tiếp: 

-           Nếu có người thứ hai cũng đến nói với Bệ hạ là ở chợ có cọp, Bệ hạ có tin không ?

-           Bây giờ Trẫm bắt đầu tin vì đã có hai người nói. 

-           Nếu có người thứ ba đến nói  với Bệ hạ ở chợ có cọp, Bệ hạ có tin không? 

-           Bây giờ thì Trẫm tin vì đã ba người nói cùng một thông tin - Vua nói một cách dứt khoát. 

Bấy giờ, Án Tử mới trả lời: 

-           Bệ hạ thấy không, chuyện ở chợ có cọp là chuyện không thể có, ngay từ đầu Bệ hạ đã không tin nổi. Nhưng tới người thứ ba nói điều ấy, Bệ hạ đã tin rồi. Như vậy, trên cuộc đời này cũng có những điều không có thật, không thể tin được, nhưng vì nhiều người lặp đi, lặp lại khiến chúng ta tin. Bệ hạ hãy cẩn thận. 

Nghe xong, nhà vua mới vỡ lẽ. Từ đó ông không nghe những lời dèm pha nữa. Vì có những Đại Thần rất tốt nhưng bị ganh ghét, dèm pha nhiều lần nên nhà vua tin và truất phế. 

Trong cuộc sống có không ít những chuyện tương tự như vậy nên chúng ta phải cẩn thận. Có chuyện vui về cách chữa bệnh của một bác sĩ nhưng ngẫm ra cũng rất thâm thúy. Một hôm, có một bệnh nhân bị tai nạn được đưa đến bệnh viện cấp cứu. Sau khi xem xét và xử lý vết thương, bác sĩ điều trị nói với người nhà bệnh nhân rằng: “Vết thương không có gì nghiêm trọng, bệnh nhân chỉ cần ở lại một hôm là có thể ra viện”. Gia đình rất mừng, chuẩn bị làm thủ tục xuất viện. Nhưng sáng hôm sau gặp lại, vị bác sĩ ấy làm ra vẻ rất quan trọng và yêu cầu bệnh nhân phải nằm điều trị tại bệnh viện ít nhất một tháng. Gia đình thắc mắc và được bác sĩ trả lời :“Đúng là hôm qua tôi thấy không có gì nghiêm trọng nhưng khi về nhà, ai cũng cho rằng như thế là nghiêm trọng và tôi cũng thấy như thế nên phải quyết định để bệnh nhân lại tiếp tục điều trị”. Chuyện đúng là cười ra nước mắt. 

Hoặc khi nghe một người nào đó nói rằng chính mắt họ nhìn thấy các Thầy trong chùa đi chợ mua thức ăn mặn, lúc đầu không ai tin. Nhưng hôm sau, một người khác lại nói tương tự như vậy, rồi đến người thứ ba, thứ tư…Nghe nhiều người đồn, người ta bắt đầu tin, mặc dù người trước đó họ không hề tin.

Những lời đồn vốn có sức mạnh rất lớn, có thể giết chết con người. Bởi vậy, chúng ta phải tỉnh táo thoát ra những lời đồn đại. Trước những lời đồn, chúng ta đừng vội tin, phải suy xét cho kỹ. Nếu sự thật  điều ấy không bao giờ xảy ra nhưng do nghe đồn nhiều quá mà chúng ta tin là thật thì niềm tin ấy đem lại tội cho chúng ta. Hãy nhớ rằng, nghĩ sai cho một người tốt là chúng ta đã mang tội.   

Một cách tin khác là tin vì dựa vào cảm nhận của trực giác. Nghĩa là khi có một người nào đó kể cho chúng ta nghe một câu chuyện ở đâu đó, chỉ nghe qua chúng ta đã đoán câu chuyện có thật và có một niềm tin. Hoặc có những câu chuyện kể không có thật, nghe qua chúng ta cũng đoán ra ngay. Điều này dựa vào trực giác của mỗi người. Người tu lâu thường có trực giác như vậy. Cách tin do trực giác không lý luận được, không lý giải được. Khi nào còn phước, trực giác sẽ còn, còn có tu, nếu không thì sẽ hết. 

3. HAI CÁCH TIN SAI LẦM 

a.         Mê tín:  

Mê là mê muội, không biết phán đoán. Mê tín là tin một cách vô lý về những điều thần bí, không dùng lý trí để phán đoán. Chính việc tin một cách mù quáng những điều sai lầm tà kiến đã dẫn dắt chúng ta đi vào lầm lỗi, phước bị suy tổn. Vậy, tin như thế nào, tin vào điều gì sẽ bị gọi là mê tín?. 

Trước hết, đó là tin vào những giáo điều quá sai lầm, phần lớn những giáo điều này thuộc về tôn giáo. 

Ví dụ, ngày xưa, vì không giải thích được mọi hiện tượng tự nhiên nên con người thường cho rằng, mỗi hiện tượng là do một vị thần tạo nên. Chẳng hạn, họ tin rằng, chính Thần Lửa đã tạo ra lửa cho muôn loài. Người xưa tìm lửa rất khó khăn, gian khổ. Họ phải lấy đá đánh vào nhau và đặt cây bùi nhùi ở giữa. Khi nóng, cây bùi nhùi sẽ bốc cháy và có lửa. Sau đó, người ta phải đốt củi để giữ lửa. Nếu lửa bị tắt, phải mồi lại rất khó. Từ chỗ kiếm được lửa khó khăn như vậy nên họ phải luôn cầu nguyện các vị Thần cho lửa. Họ nghĩ rằng, khi cọ lửa phải gọi tên một vị Thần nào đó, lửa mới nhanh xuất hiện. Và họ tin là có vị Thần Lửa. Vì tin như vậy nên họ coi Thần Lửa là vị thần rất thiêng liêng. Họ đốt lửa, nhảy múa xung quanh để cầu nguyện, rồi cúng bái, tôn thờ…Tín ngưỡng thờ cúng Thần Lửa tồn tại rất lâu trong đời sống người dân. 

Như vậy, chỉ vì kỹ thuật làm ra lửa của người xưa rất sơ đẳng nên họ phải tin vào một điều hoàn toàn không có thật. Phần lớn thời gian quí báu họ dành cho việc đốt lửa lên và cứ thế qùy lạy ngọn lửa, vì tin trong đó có một vị Thần. Bây giờ sống trong thời đại văn minh, muốn có lửa, con người chỉ cần bật hộp quẹt ga một cách nhẹ nhàng. 

Hoặc người ta tin rằng, trên đời này có Thượng Đế, là đấng tối cao đầy quyền uy. Mọi tội phước trên cuộc đời này không phải do con người mà do Thượng Đế quyết định. Nếu con người đã làm tổn hại đến chúng sinh, giết người, cướp của, chỉ cần quỳ xuống trước Thượng Đế cầu xin, sám hối, mọi tội lỗi sẽ không còn nữa. Đó là niềm tin rất mù quáng, sai lầm. Người ta có thể gây ra bao tội lỗi rồi mua lễ vật dâng lên Thần linh, Thượng Đế để xin tha tội và khi chết, cũng được lên Thiên Đường. Nếu có một niềm tin như thế, chúng ta sẽ trở thành loại người độc ác vô cùng. Vậy mà, trên thế giới niềm tin này vẫn đang tồn tại. Có những tôn giáo vẫn khuyến khích con người tin theo kiểu như thế. Và thậm chí, con người có thể giết hại, tàn sát lẫn nhau miễn điều đó làm đẹp lòng Thượng Đế của họ. Đó là những giáo điều hết sức sai lầm, nếu tin theo, con người  sẽ đi vào con đường sai lầm, tà kiến. Hay gọi là mê tín, không phán đoán, suy xét. 

Thứ hai là tin vào vận số mà không dựa vào luật nghiệp báo.

Điều này chúng ta thường gặp trong đời sống, sinh hoạt của người dân. Ví dụ, người ta tin rằng hễ con người được sinh ra trong một gia đình giàu có, lớn lên chắc chắn sẽ sung sướng. Hoặc sinh ra trong gia đình dòng dõi quan lại thì con người sẽ giỏi giang. Ngược lại, người nào sinh ra trong một gia đình nghèo khó, sau này họ chỉ là người hạ tiện, tầm thường v..v…Niềm tin đó không có cơ sở, không có Nhân Quả. Đức Phật phủ nhận: “Không có giai cấp khi mà máu người cùng đỏ”. Giá trị của con người không nằm ở việc xuất thân từ dòng dõi giàu sang hay nghèo hèn mà ở nhân cách, trí tuệ và đức hạnh của họ. Không cần biết nguồn gốc và hoàn cảnh xuất thân, chỉ nhìn trong hiện tại, nếu một người có Đạo đức, có trí tuệ, họ đã xứng đáng để chúng ta tôn trọng. Bởi vậy, điều Đức Phật nói là dựa vào Nhân Quả thực; còn tin vào giai cấp, dòng dõi là một lối tin sai lầm, cũng có thể gọi là mê tín. Chính cách tin này khiến cho con người có những sai lầm trong việc đối xử cũng như trong việc tu dưỡng, rèn luyện. Người xuất thân từ gia đình dòng dõi, giàu có sẽ ỷ lại, không phấn đấu, rèn luyện. Người xuất thân nghèo hèn sẽ mặc cảm, tự ti và bi quan không muốn nỗ lực để thay đổi cuộc đời mình. 

Trên thực tế, có một điều nữa hiện nay nhiều người vẫn còn tin nhưng không biết đúng sai như thế nào. Đó là tin vào ngày giờ “Hoàng đạo”. Người ta cho rằng, nếu đi ra đường vào ngày giờ tốt, công việc sẽ tốt đẹp; ngược lại gặp giờ xấu, công việc sẽ không thành công, hay gặp chuyện xui xẻo. Thực ra, việc coi ngày, coi giờ là việc rất khó hiểu, khó lý giải. Có trường hợp người ta nghiệm ra cũng đúng nhưng nếu dựa vào lý Nhân Quả lại sai.

Ví dụ rõ nhất là vấn đề tử vi của con người. Khi chấm ngày giờ sinh của một người nào đó, theo lá số tử vi người ta biết cuộc đời của họ sẽ ra sao. Nhiều lúc, trải qua những thăng trầm của cuộc sống, so lại với số tử vi, họ thấy những điều được luận giải trong ấy rất đúng. Như vậy, người ta tin thời gian, thời điểm con người được sinh ra đời báo hiệu cuộc đời của họ. Nhưng xét cho cùng, sinh vào ngày giờ nào là do Nghiệp, do Nhân Quả. Chỉ cần sinh nhích vào giờ đó, chúng ta sẽ có một cuộc sống sung sướng, nhưng Nhân Quả không cho, Nghiệp đã khiến như vậy, biết phải làm sao. 

Hoặc trường hợp dựa vào thời gian để bấm độn, tính toán sự thành hay bại của con người. Nhiều người rất tin vào điều này. Họ có quy luật bấm độn hẳn hoi. Nhưng điều này cũng có lúc đúng, có lúc sai, không tuyệt đối. Có người cũng thử bấm độn và cho rằng tỷ lệ đúng khoảng 50% đến 60%. Bởi vậy, chúng ta không nên tin việc này là đúng tuyệt đối để tránh bị lừa bịp, phải hiểu rằng, gốc của sự đúng tuyệt đối là ở Nhân Quả. Cứ tin rằng, trong cuộc sống nếu làm những điều lành, chúng ta sẽ gặt hái được những điều tốt. Tin vào Nhân Quả như vậy gọi là chánh tín. Đừng bao giờ tin rằng, không cần giúp đỡ ai, không cần cúng chùa, không cần bố thí, phóng sanh, không cần làm điều thiện gì, chỉ cần chọn được ngày tốt để khởi hành, để bắt đầu công việc là chúng ta sẽ thành công. Đó là mê tín, tin không cơ sở. 

Thứ ba là tin vào những chân lý còn giới hạn ( khoa học). Khoa học rất tiến bộ, khoa học vốn đúng nhưng không hoàn toàn tuyệt đối. Sự thật, khoa học vẫn còn nhiều giới hạn, vẫn còn nhiều điều phải bó tay. Vậy mà rất nhiều người, nhất là những người có học thức, thường tin tưởng một cách tuyệt đối vào khoa học. Họ cho rằng, cái gì khoa học nói đúng là đúng, cái gì khoa học nói sai là sai và hay viện khoa học để chứng minh cho ý kiến của mình trong những cuộc tranh luận. Đây cũng là một loại mê tín. 

Ví dụ, hiện nay trong y học có nhiều bệnh tây y không chữa được nhưng uống thuốc nam và châm cứu nhiều lần có thể hết (bệnh thấp khớp). Hoặc bệnh viêm thận mãn, hai quả thận bị viêm sẽ dần dần bị teo lại ,không còn chức năng lọc máu, lọc nước nữa. Người mắc bệnh này nước bị giữ lại, huyết áp tăng lên, người phù ra và rất dễ chết. Tây y không chữa được. Thông thường, người ta chữa bằng cách cắt bỏ quả thận bị viêm và xin thận của người khác ghép vào hoặc chạy thận, mỗi tuần chạy vài ba lần rất đau đớn, khổ sở. Những người bị bệnh này, gần như không đi đâu xa bệnh viện, không rời xa máy lọc thận, sống rất khổ sở. Vậy mà, có những ngườiï gặp thuốc nam, thuốc bắc lại hết. Có nhiều bệnh nhân bị bệnh viện trả về vì bó tay nhưng nhờ theo đông y lại qua khỏi… 

Có những điều khoa học phán đoán, kiểm nghiệm qua thực tiễn lại hoàn toàn không đúng. Hoặc có những điều khoa học chưa nhìn thấy được. Một thời gian dài vì khoa hocï không thấy thế giới siêu hình nên phủ nhận sự tồn tại của thế giới siêu hình, không tin có linh hồn. Nhưng thực tế cho thấy đó là điều có thật, thế giới tâm linh là điều có thật. Hiện nay, qua một số hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, nhiều người đã tin và tập hợp những thông tin trên khắp thế giới về thế giới siêu hình. Tuy nhiên, chưa ai tìm ra con đường để chứng minh điều đó. 

Chẳng hạn, hiện tượng đĩa bay xuất hiện cách đây khoảng tám, chín năm ở nước Mỹ đã làm đau đầu biết bao nhà khoa học. Trên các xa lộ ở nước Mỹ, người ta thắp đèn điện sáng choang nên đĩa bay đã ghé xem. Một lần, đài Rađa của quân đội báo động là có một vật thể lạ bay trên bầu trời nước Mỹ. Nghe báo động, hai máy bay tức tốc tìm cách đuổi theo. Theo dõi trên màn hình Rađa, các chuyên gia nhận thấy một đĩa bay hiện ra rất rõ. Người phi công trưởng bấm nút thâu lại hình ảnh đó trong máy Cassette, trong băng Vidéo. Khi lao gần đến đĩa bay, bỗng nhiên họ thấy  đĩa bay hạ độ cao rất đột ngột, từ trên cao vèo một cái, đĩa bay hạ xuống mặt đất rồi biến mất. Khi nghiên cứu, tính toán qua việc xem băng Vidéo, người ta mới nhận ra tốc độ gia tốc của đĩa bay quá nhanh. Gia tốc của trái đất khoảng 9,8 m/s2. Trong khi đó, gia tốc của đĩa bay, người ta tính toán được  đến mấy ngàn. Chỉ trong một vài giây, nó có thể tăng tốc khủng khiếp và biến mất. Người ta không hiểu động cơ nào đĩa bay có thể tăng tốc nhanh như vậy, trái đất không thể làm được việc đó. Thậm chí, nó có thể tàng hình, không còn dấu vết như một bóng ma. Nền khoa học của họ tiến xa như vậy đó, chúng ta còn lâu mới có thể bắt kịp. 

Thứ tư là chủ quan tin vào ý nghĩ của mình. Hễ nghĩ ra điều gì, chúng ta tuyệt đối tin điều đó là đúng. Đó cũng là một loại mê tín do kiêu mạn mà ra. Nếu chủ quan do kiêu mạn, lúc nào cũng tin ý nghĩ của mình là đúng, chúng ta sẽ rơi vào cách tin sai lầm, cũng là mê tín. Chính mê tín đưa đến tổn phước. Bởi vậy, mỗi lần suy nghĩ một điều gì, chúng ta nên suy xét trong một thời gian. Nếu thấy hợp lý, lúc ấy chúng ta hãy nghĩ rằng điều mình nghĩ là đúng. Đây cũng là một kinh nghiệm quý báu cho chúng ta trong cuộc sống để tránh khỏi những sai lầm.

b.         Cuồng tín. 

Cuồng tín  là tin một điều gì quá cuồng nhiệt, dẫn đến hành vi thái quá.

Ví dụ, trước một ngôi chùa nọ có một cây mít sống lâu năm, rất to. Một hôm, bỗng dưng có một người từ đâu đến nhìn nó và bảo: Cây mít này linh lắm, che chở cho cả vùng này, mọi người không được chặt phá nó. Người nào muốn học giỏi, hằng ngày  phải thắp nhang quỳ lạy cây mít. Lúc đầu, mọi người nửa tin, nửa ngờ. Sau đó, ai cũng tin một cách cuồng nhiệt và bắt đầu bảo vệ, làm hàng rào, thắp nhang lạy nó. Thậm chí, có người còn đứng đó canh chừng, ai đi qua đều bị bắt cúi đầu xá, không xá sẽ bị phạt…Tin như vậy gọi là cuồng tín. Vì tin một cách cuồng nhiệt, không có cơ sở dẫn đến hành vi thái quá.

Một số tôn giáo có những chủ trương cuồng nhiệt, bảo vệ tôn giáo bằng bạo lực, truyền bá Tín ngưỡng cũng bằng bạo lực. Chẳng hạn, những người theo đạo Hồi giáo nói chuyện với nhau toàn bằng súng đạn. Nếu ai xúc phạm họ, xúc phạm đến đạo của họ sẽ bị giết ngay. Họ tin rằng hành động đó được Thánh Ala khen ngợi. Điều này hoàn toàn trái với chủ trương của đạo Phật. Đức Phật khuyên chúng ta rằng, phải biết nhẫn nhục và cảm hóa những kẻ xúc phạm mình bằng lời nói, bằng lý lẽ, chứ không phải bằng vũ khí, bạo lực.

 Hoặc có những tôn giáo tin rằng khi chết con người sẽ được lên Thiên đường nên họ đã tự thiêu (giáo phái Đền Mặt Trời ở Thụy Sĩ ). Đó cũng là sự cuồng tín. Hoặc có trường hợp những tín đồ của tôn giáo Cổng Thiên Đường đã uống thuốc độc tự tử vì tin rằng sẽ được lên hành tinh khác sống sung sướng hơn. Tất cả những hành động ấy đều cực đoan, thái quá xuất phát từ sự cuồng tín của con người. Bởi vậy, chúng ta phải cẩn thận. Khi tin điều gì mà cảm thấy điều ấy gây cho mình một sự nóng nảy, nhiệt tình, chúng ta phải nhận ra ngay là mình đã bắt đầu sai, bắt đầu xa chân lý, vì chân lý chỉ đưa đến sự an lạc, điềm đạm. Hay nói cách khác, tin vào điều đúng con người chúng ta sẽ trở nên điềm đạm, còn tin một điều gì mà tỏ ra vội vàng, nóng nảy thái quá, lúc đó hãy cẩn thận, điều mình tin là sai. 

Hiện nay trên thế giới có những trường hợp do cuồng tín đã dẫn đến  những cuộc xung đột sắc tộc đẫm máu. Chẳng hạn, ở Phi Châu có nhiều bộ tộc căm thù nhau, vì bộ tộc nào cũng tin rằng chỉ có họ mới đúng, còn những bộ tộc khác là kẻ thù. Vì vậy, họ tìm cách chém giết lẫn nhau rất dã man. 

Ở Rwanđa, sắc tộc Hutou và Tussu rất căm ghét nhau, có khi tàn sát nhau khủng khiếp. Bộ tộc này nếu gặp trẻ con mới đẻ của bộ tộc kia sẽ nắm hai chân xé toạt ra. Họ đối xử với nhau thật độc ác. Chúng ta nhìn vào chỉ thấy người châu Phi ai nấy đều tóc quăn, da đen, răng trắng lóa, ai ai cũng giống nhau.  Nhưng giữa họ có những khoảng cách, những sự khác nhau rất lớn. Họ tin rằng, mình mới là người đáng sống, còn người bên kia đáng để chết. Rõ ràng, tin như vậy, họ sẽ giết nhau một cách không thương tiếc. Đó cũng gọi là cuồng tín. Tất nhiên, điều này cũng do nghiệp quá khứ nào đó, nhưng không phủ nhận thái độ cuồng tín của họ đã dẫn đến hành vi thái quá.

Sự phân biệt màu da dẫn đến bạo lực cũng là một biểu hiện của cuồng tín. Ngay khi sống vào thế kỷ này mà ở nước Mỹ vẫn còn tình trạng phân biệt màu da, người da trắng được ưu đãi, người da đen lại bị hất hủi. Người da đen bị tước cả quyền được bầu cử của một công dân. Ở đó, có những nhà hàng chỉ dành cho những người da trắng;  có những trường học, học sinh da đen không được vào; lên xe buýt, người da đen luôn ngồi ở phía sau. Chính vì có sự kỳ thị như vậy nên ở Mỹ liên tục xảy ra những cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng của người da den. Một mục sư nổi tiếng trong việc đấu tranh cho quyền bình đẳng ấy là Luther King Ông vốn là một nhà hùng biện nên nói chuyện rất hay. Năm 1968, ông bị ám sát bởi tay của những người da trắng cực đoan. Họ muốn giết ông để ngăn chặn làn sóng đấu tranh ấy. Lúc bấy giờ, nước Mỹù xuất hiện nhóm KKK là Klu Klux Klan. Mỗi khi hành động, nhóm này mặc toàn đồ trắng, trùm mặt nạ, xông vào đốt nhà, bắt giết những người da đen và phá nhà thờ của họ. Nhóm này bây giờ vẫn còn tồn tại, nhưng hoạt động lén lút. Có thời gian,  FBI lùng bắt bọn chúng rất ráo riết. 

Sở dĩ có sự phân biệt và dẫn đến bạo lực như vậy là do người da trắng tin rằng chỉ có họ mới là con người, là ngưòi thông minh nhất; còn người da đen không phải là con người, chỉ đáng sống để làm nô lệ mà thôi. Mục sư Luther King đã vận động nhân dân khắp nước Mỹ đấu tranh chống sự phân biệt này, đấu tranh một cách hòa bình. Những lời nói của ông làm mọi người cảm động. Ông nổi tiếng khắp nơi  nhờ tài hùng biện, nhất là bài diễn thuyết: “Tôi có một giấc mơ”. Trong những lần diễn thuyết, ông thường nói :“ Tôi có một giấc mơ” nhưng không nói rõ đó là giấc mơ gì. Một lần, khi diễn thuyết đề tài về sự đấu tranh sắc tộc, ông cũng nói :“Tôi có một giấc mơ”. Khi bài diễn thuyết vừa chấm dứt, chợt có một người la lên: “Xin ông hãy nói cho tôi nghe giấc mơ của ông”. Lúc ấy, ông ứng khẩu nói say sưa về giấc mơ của mình và bài diễn thuyết ấy đã trở thành tuyệt tác của nhân loại . 

Ông nói rằng: Tôi có một giấc mơ, trong giấc mơ đó, con người trên thế giới sống với nhau, thương yêu nhau không phân biệt màu da hay chủng tộc. Tôi có một giấc mơ, trong giấc mơ đó có một ngôi trường mà những trẻ em da trắng và da màu nắm tay nhau vui đùa, thương yêu nhau.Tôi có một giấc mơ mà trong đó con người bỏ hết ý nghĩ về sự phân biệt màu da, chủng tộc chỉ còn biết thương yêu, biết xây dựng cuộc sống này tốt đẹp như một Thiên đường.Tôi có một giấc mơ … 

Ông cứ nói say sưa như vậy khiến người nghe ai cũng xúc động và bật khóc.  Đây là bài thuyết pháp nổi tiếng của ông. Khi ông qua đời, nỗi bức xúc dâng lên cao độ và chính quyền Liên bang phải ra những sắc lệnh nghiêm khắc về sự bình đẳng giữa người da đen va người da trắng. Xóa được điều này là xóa đựơc sự cuồng tín tồn tại bao nhiêu năm, gây ra bao nhiêu đau khổ cho người dân da đen sống  trong lòng nước Mĩ.

Một biểu hiện nữa của cuồng tín là sự đấu tranh chính trị khủng khiếp. Nói về Đạo, chúng ta không muốn liên hệ đến chính trị. Nhưng phải hiểu rằng, chính trị  đã đưa con người đến cuồng tín. Chẳng hạn, khi lên cầm quyền, Hitler đã tuyên bố rằng, chủng tộc Anglo thượng đẳng của người Đức là chủng tộc xứng đáng cai trị cả loài người này, còn mọi chủng tộc khác chỉ đáng làm nô lệ mà thôi. Lý thuyết ấy đã truyền niềm tin vào người dân Đức một cách mãnh liệt, cuồng tín. Vì thế, người Đức đã không ngần ngại xếp hàng cầm súng lên đường đi đánh chiếm hết nơi này đến nơi khác. Như vậy, tin vào một lý thuyết nào đó để có thể chém giết người khác được, đó cũng là một loại cuồng tín. Chủ thuyết chính trị có thể dẫn đến những cuộc chiến tranh tàn bạo, khốc liệt. Bởi vậy, chúng ta phải cẩn thận tránh xa. 

Là đệ tử Phật, chúng ta tin vào giáo lý từ bi của đạo Phật để sống, để xây dựng một cuộc sống thanh bình cho con người, tránh xa những lý thuyết làm tăng lòng sôi sục, căm phẫn để phải chém giết đồng loại của mình. Hãy nhớ rằng, cuồng tín đưa đến tạo tội rất nặng và mê tín sẽ đưa đến tổn phước. Dĩ nhiên, mê tín cũng có tội nhưng không nặng bằng cuồng tín. Cuồng tín gây nghiệp khủng khiếp nên chúng ta cần có sự tỉnh táo, không bao giờ để rơi vào cuồng tín. 

4. NIỀM TIN ĐÚNG ĐEM LẠI NHIỀU PHƯỚC LÀNH VÀ LỢI ÍCH. 

Ngược lại với mê tín và cuồng tín là niềm tin đúng. Nó đem lại nhiều phước lành và lợi ích cho chúng ta. Vậy, tin những gi đựơc gọi là có niềm tin đúng?

Đó là tin Phật. Quả thật, tin Phật đem lại cho chúng ta nhiều phước lớn. Vì chúng ta đã đặt niềm tin đúng nơi một vị Thầy cao cả, siêu việt, viên mãn về đức hạnh. Khi tin Đức Phật, trong chúng ta sẽ xuất hiện lòng tôn kính. Ai cũng biết rằng, tôn kính một vị Thánh thì chính mình dần dần sẽ xuất hiện nhân cách của một vị Thánh. Đây chính là chìa khóa để chúng ta phát triển trí tuệ, nhân cách. Hiểu điều này, chúng ta sẽ thương yêu, tin tưởng, hy vọng nơi con người và không khinh miệt bất cứ ai. Thấy một người lầm lỗi, chúng ta không khinh miệt vì biết người đó chưa có lòng tôn kính Phật. Nếu một ngày nào đó có lòng tôn kính Phật, họ sẽ vượt ra khỏi lầm lỗi. Do có điểm Nhân Quả này mà chúng ta có niềm tin nơi con người, không ruồng bỏ bất cứ ai. 

Ngay cả người xuất gia, nếu  quên lễ Phật, tưởng là mình đã bằng Phật thì phước sẽ tiêu tan. Người ấy sẽ hoàn tục và trở thành con người xấu xa, có nhân cách tầm thường. Có lẽ chúng ta đã nghe không ít chuyện về những thầy tu hoàn tục, ra đời quậy phá hơn cả những người thường. Đó là chuyện có thật.  Tại sao lại có chuyện hoàn tục ? Vì do có một tà kiến nào đó, họ tin mình bằng Phật, không chịu lễ Phật thường xuyên, không tôn kính Phật, không thấy mình đối với Phật chỉ là hạt cát mà thôi. Từ đó, họ không còn phước và phải hoàn tục. Cũng con người đó, nếu biết tôn kính Phật trở lại thì nhân cách của họ sẽ nâng cao dần dần và sẽ có nhiều phước. Họ có thể xuất gia trở lại mà không gặp trở ngại gì. 

Bởi vậy, chúng ta nói rằng, lòng kính Phật là chìa khóa để mở ra muôn công hạnh lành. Điều này đã được khẳng định trong bài: Hiểu và tôn kính Phật. Khi tin Phật và có sự tôn kính Phật, chúng ta sẽ có niềm tin vào Niết Bàn Tuyệt Đối. Đó là nơi mà tất cả chúng ta đều phải trở về, đều phải đạt đến trong vô số điều tuyệt đối khác : An lạc tuyệt đối, Đức hạnh, Trí tuệ tuyệt đối, Từ bi tuyệt đối… 

Một niềm tin tốt nữa là tin Nhân Quả luân hồi. Chúng ta không tin rằng quả báo tốt là do ai đem đến mà chỉ tin rằng có luật Nhân Quả, làm điều lành, sẽ được hưởng Quả lành; làm điều xấu, sẽ chịu Quả xấu. Tin như vậy, chúng ta sẽ có sự cân nhắc kỹ trong hành vi, ý nghĩ và lời nói của mình. Hay nói cách khác, niềm tin đối với luân hồi Nhân Quả khiến cho con người tu sửa được Đạo đức. Cho nên, chúng ta phải làm sao truyền bá giáo lý Nhân Quả thật mạnh, thật rộng khắp. Làm được như vậy là chúng ta đã góp phần xây dựng xã hội này tốt đẹp hơn. 

Dù khoa học chưa chứng minh được, nhưng tin được giá trị Tâm linh chúng ta cũng đã có một niềm tin đúng. Chúng ta tin rằng, trong con người ngoài sức mạnh vật chất còn có sức mạnh Tâm linh. Nếu phát huy được, năng lực ấy sẽ trở nên vĩ đại. Hoặc chúng ta tin là có thế giới siêu hình tồn tại, trong đó cũng có nhiều chúng sinh đang sống. Có thể không nhìn thấy, nhưng một khi đã tin đó là điều có thật, chúng ta vẫn tôn trọng họ. Tin như vậy, chúng ta sẽ sống mà không quá lệ thuộc vào thế giới vật chất này, không lệ thuộc vào đồng tiền thế gian giả tạm này. Dù sống trong cảnh giàu sang, chúng ta vẫn không chấp vào nó. Vì chúng ta tin rằng thế giới tâm linh cao siêu hơn, còn cái hữu hình thường dễ hoại. 

Hoặc tin được Đạo đức là nền tảng của mọi tiến bộ xã hội là chúng ta đã có một niềm tin đúng. Khi tin rằng, xã hội cần nhiều người tài giỏi, Kỹ sư, Bác sĩ, Luật sư…nhưng ngoài tài năng, những con nguời ấy phải có đạo đức, xã hội mới tốt được, chúng ta sẽ suốt đời phấn đấu không ngừng để rèn luyện Đạo đức cho mình và truyền bá Đạo đức cho mọi người. Có như vậy, chúng ta mới xây dựng được một xã hội thực sự tiến bộ. 

Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay của các nước trong khu vực Đông Nam Á phần lớn cũng bắt nguồn từ lối ứng xử thiếu Đạo đức của con người. Chẳng hạn, một quốc gia láng giềng của chúng ta được coi là một đất nước giàu có, nhưng sự thật đó là một nơi ăn chơi trác táng, tồn tại nhiều tệ nạn xã hội. Du khách đến Thái Lan không ít người chỉ nhằm mục đích thoả mãn những ham muốn tầm thường của mình. Do vậy, khủng hoảng tất yếu phải xảy ra. Ở mỗi sự khủng hoảng, nếu đi tìm nguyên nhân, chúng ta sẽ nhận thấy phần lớn đều do sự thiếu Đạo đức của con người. Như vậy, muốn xã hội thực sự tiến bộ, thực sự ổn định, con người phải lấy Đạo đức  làm nền tảng. Chúng ta tin tưởng chắc chắn vào điều đó. 

Một điều tin đúng nữa là tin được một vị chân sư . Quả thật, tìm được một vị chân sư để tin là một điều may mắn, là niềm hạnh phúc lớn lao trong cuộc đời mỗi chúng ta. Nếu tìm đúng vị chân sư để gửi gắm niềm tin, cuộc đời của chúng ta sẽ đi theo một hướng tốt lành. Nhưng điều này thực ra là do duyên may vì chúng ta khó đánh giá đúng, khó nhận ra ai thật sự là chân sư. Khi đã biết phân biệt vị nào đúng, vị nào sai, vị nào tài giỏi để nương tựa, chúng ta cũng đã giỏi, đã đạt đến một trình độ nhất định rồi. Bởi vậy, lúc này chúng ta chỉ biết thường xuyên cầu Tam Bảo gia hộ cho mình gặp được Thầy lành, bạn tốt. 

5. ĐA NGHI VÀ CẢ TIN ĐỀU LÀ BỆNH 

Trong cuộc sống, bên cạnh những người rất dễ tin, chúng ta còn gặp rất nhiều người hay đa nghi, ít chịu tin hoặc không tin vào bất cứ điều gì. Cả hai đều là bệnh. Vậy, tại sao chúng ta hay đa nghi, ít tin vào người khác ? 

Trước hết, ít chịu tin vì chính mình hay nói dối. Thật sự, người hay nói dối thường ít tin ai vì “suy bụng ta ra bụng người”. Như vậy, gặp những người hay đa nghi, chúng ta phải cẩn thận, không chừng người ấy là chuyên gia nói dối. Trong lịch sử Trung Quốc, có một nhân vật nổi tiếng đa nghi. Đó là Tào Tháo. Sở dĩ đa nghi đến nổi khi chết đi, phải xây 72 ngôi mộ giả rải rác khắp nơi để người đời không quật mộ trả thù được vì lúc sống, ông ta là một kẻ bị cho là nhiều thủ đọan tuyệt gian (bên cạnh Lưu Bị tuyệt nhân, Quan Công tuyệt nghĩa, Trương Phi tuyệt dũng, và Khổng Minh tuyệt trí). 

Trường hợp khác, có người ít chịu tin vì có tính kiêu mạn. Đó là mẫu người ai nói gì cũng không chịu nghe, luôn cho rằng ý nghĩ của mình là hay hơn, là đúng hơn, người khác không thể bằng mình. Người như vậy rất khó thành công trong cuộc đời. 

Trường hợp thứ ba, ít chịu tin vì không đủ trí tuệ phán đoán. Chúng ta gặp nhiều người vì không nhận ra điều người khác nói là đúng hay sai nên không dám tin  chắc chắn. Nếu có đủ trí tuệ phán đoán, trước lời nói của người khác, chúng ta sẽ biết được điều đó đúng hay sai để có một niềm tin, một thái độ đúng đắn.

Ví dụ, có một người đến nói với chúng ta là cần tiền để cất chùa nên đi quyên góp. Nhìn vẻ ngoài, có thể không nhận biết họ nói thật hay không, chúng ta phải có cách kiểm tra. Chẳng hạn, hỏi Thầy tên gì? Chùa Thầy ở đâu? Chùa tên gì ? Sau đó, chúng ta có thể điện thoại đến địa phương xem có chùa đó hay không, chùa đang xây dựng như vậy phải không vv…Chúng ta phải kiểm tra trước khi đặt niềm tin để tránh khỏi sai lầm. Trong trường hợp này, vội tin hay vội nghi đều sai nên cần phải kiểm tra cẩn thận. 

Ngược lại, trong cuộc sống còn có nhiều người rất dễ tin, vì sao? 

Trước hết, người dễ tin vì tính tình thật thà, hiền lành. Người thật thà, không bao giờ biết nói dối thường rất dễ tin người vì nghĩ ai cũng thật thà như mình. Đây cũng là một bệnh nguy hiểm. Vì cuộc đời không đơn giản như chúng ta nghĩ, có rất nhiều người dối trên lừa dưới, lừa thầy, phản bạn. Nếu quá tin người, chúng ta sẽ phải trả giá đắt cho cuộc đời mình.

Cũng có trường hợp dễ tin vì nghiệp đời trước hay dụ người khác. Ví dụ, có người trước kia thường hay dụ dỗ trẻ con để lấy đồ của, tiền bạc. Vì gieo nhân đó nên kiếp sau họ bị người khác lừa mà vẫn tin một cách mê muội, không nhận ra được. Đó là do nghiệp báo của quá khứ. Hiểu như vậy, sống ở đời, chúng ta đừng bao giờ lừa dối ai, dù là việc rất nhỏ. 

Cũng có trường hợp dễ tin vì yếu lòng. Có người mắc “bệnh” yếu lòng nên ai nói gì cũng nghe, cũng tin. Đó là người không có lập trường vững chắc với lẽ phải, không có trí tuệ phán đoán. 

Tóm lại, cả tin và đa nghi đều là bệnh, chúng ta cần phải tránh để đừng mắc phải. Nói về niềm tin, một nhà thơ Nga nổi tiếng đã khẳng định: 

                                    Trong chúng ta, ai là người đau khổ nhất?

                                    Đau khổ nhất là người chẳng ai tin.

                                    Trong chúng ta, ai là người đau khổ nhất?

                                    Đau khổ nhất là người chẳng tin ai.

6. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA THỜI ĐẠI  

Trong niềm tin, chúng ta phải cẩn thận đối với các Tín ngưỡng mới. Đó là sự pha trộn của khoa học giả tưởng và các Tín ngưỡng cổ truyền. Quý Phật tử phải cẩn thận để không bị lạc lòng.

Ví dụ, tín ngưỡng cổ truyền nói rằng, có một Thượng đế tạo ra muôn loài. Còn khoa học giả tưởng cho rằng có những người ngoài hành tinh tới. Người ta trộn hai loại đó lại thành một Tín ngưỡng mới. Tín ngưỡng đó nói rằng, Đức Thượng đế Javê ở hành tinh khác sai Thiên sứ đi bằng đĩa bay xuống đây để tiếp xúc với con người. Nếu ai tin theo, sẽ được ông đưa lên đĩa bay, bay về gặp Thượng đế. Đó là cách trộn hợp giữa Tín ngưỡng cổ truyền và khoa học giả tưởng mới để đáp ứng được tâm tình của thời đại. Nhưng những điều ấy đều sai lầm. 

Gần đây, chúng ta nghe tin đạo này, đạo kia xuất hiện trong đó có đạo Địa mẫu. Người theo đạo này tin rằng có một đạo mẫu là mẹ của Phật Thích Ca, đẻ ra mọi loài mẹ( Phật, Bồ Tát …). Đó là niềm tin vô lý, là sự mê tín. Vậy mà, không ít tín đồ nghe theo. Hoặc có trường hợp tin rằng Thượng đế nhập vào một người đàn bà để giảng pháp cho mọi người nghe, để phán xử con người vv… Đó là những lý luận hoàn toàn giả dối, lừa bịp của những kẻ thích nổi tiếng, thích được người khác tôn sùng. 

Một vấn đề mang tính chất thời đại nữa là sự tuyên truyền, xuyên tạc, công kích giữa người này với người kia, giữa Đạo này với Đạo kia do tính xấu của một số người. Hiện tượng này rất thường xảy ra trong cuộc sống. Bởi vậy, trước những sự tuyên truyền, công kích, chúng ta không nên tin. Trong lòng chúng ta chỉ có một niềm mơ ước mọi người đều trở thành người tốt nên khi nghe những điều này, chúng ta cảm thấy đau lòng, không muốn nghe nữa, không muốn tin nữa. Nếu tin theo, chúng ta sẽ bị nghiệp lây.

Qua bài Niềm tin, chúng ta phải có thái độ đúng đối với những thông tin mình nghe được, không bao giờ vội vã chấp nhận ngay mà phải luôn luôn suy xét. Đặc biệt, chúng ta cần tránh hai bệnh đa nghi và cả tin./. 

1. SỐNG TRONG CỘNG ĐỒNG LÀ MỘT ĐẶC TÍNH CHUNG.  

Chúng ta biết rằng, trong vũ trụ không có một sự vật, hiện tượng nào có thể tồn tại độc lập mà không có mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Một chiếc lá vàng rơi, một con kiến bé nhỏ bò trên mặt đất, một hạt cát giữa sa mạc mênh mông…tưởng rằng sẽ không liên quan gì đến nhau, không liên quan gì đến con người. Nhưng thực ra, tất cả đều có một sự tương tác với môi trường sống chung quanh. Có thể sự tương tác đó quá nhỏ chúng ta không nhìn thấy được. Đó là cách nói theo vật lý. Theo lý thuyết của kinh Hoa Nghiêm thì vạn vật là “trùng trùng  duyên khởi”, một hạt bụi có thể chứa đầy cả mười phương Chư Phật. Lý thuyết đó vô cùng cao siêu khi nói đến sự tương quan chặt chẽ giữa một cá thể với toàn thể Pháp giới. Đó là cách nói trên lý Bát Nhã. Trong bài này, chúng ta không nói về lý Bát Nhã. Sau này, khi đã có duyên, chúng ta sẽ đề cập vấn đề này. 

Như vậy, dù nói theo lý Đạo hay trên vật lý, chúng ta cũng thừa nhận rằng, không ai có thể tồn tại độc lập giữa thế gian này mà tất cả đều phải có sự tương quan. Trong cuộc sống, chúng ta không thể tách mình ra khỏi môi trường chung quanh. Ngay cả trường hợp người nhập thất cũng vậy. Người nhập thất không tiếp xúc với người chung quanh. Nhưng trên thực tế, ít nhất họ cũng còn một người hộ thất, lo vấn đề cơm nước. Qua đó, họ còn có sợi dây liên lạc với thế giới bên ngoài, chứ không hoàn toàn tách biệt. Tất nhiên, lúc đó mối tương quan giữa người nhập thất và mọi người chung quanh giảm đi rất nhiều vì họ phải xoay vào nội tâm để tu hành. Hoặc trường hợp người tội phạm bị biệt giam. Vì phạm tội quá nặng, thuộc vào loại tội phạm nguy hiểm, họ bị giam riêng, gần như bị cắt đứt mọi mối quan hệ với người chung quanh. Tuy nhiên, người biệt giam vẫn có sự quan hệ với người cán bộ canh giữ tù, vẫn còn một chút quan hệ chứ không hoàn toàn mất hẳn. 

Người ta hay truyền tụng câu chuyện về Robinson Crusoe để nêu bài học quý báu về trí thông minh, tinh thần dũng cảm, vượt khó cho con người. Bị đắm tàu, lạc vào trong một hoang đảo, đối mặt với biết bao khó khăn nguy hiểm nhưng Robinson vẫn kiên trì, tự sáng chế ra mọi cách để sống giữa thiên nhiên hoang dã bằng vốn kiến thức của thời đại mình. Tuy nhiên, nhà văn đã đưa vào tác phẩm nhân vật người da đen để làm bạn với Rôbinsơn. Điều này có ý nghĩa gì ? Phải chăng nhà văn muốn khẳng định, nhu cầu tiếp xúc, quan hệ giữa con người với con người là một nhu cầu không thể thiếu. Chúng ta không thể nào sống cô độc, tách khỏi mối dây liên hệ với mọi người chung quanh. Chúng ta không thể sống mà không có mối tương quan với cộng đồng loài người được. Vì sống như vậy, con người sẽ buồn đến chết, thậm chí có thể hoá điên. Nhất là những người bị lạc vào rừng, sống lâu trong rừng vắng, cuối cùng đã trở thành những “người rừng” trông thật đáng sợ. 

Hằng ngày, trong mọi sinh hoạt, chúng ta đều có quan hệ gần gũi với người khác nên cảm thấy rất bình thường. Nhưng một lúc nào đó, nếu chỉ một mình ta sống trong một thành phố hoang, không một bóng người, bên này bên kia đều là những cánh cửa mở toang, những ngôi nhà đã sụp đổ … tưởng tượng chúng ta sẽ sống như thế nào? Chúng ta sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng, khủng hoảng về tinh thần đến không chịu đựng nổi. Và có thể, nếu kéo dài tình trạng đó, chúng ta sẽ chết trong cô độc vì đau khổ, buồn chán. Như vậy, tương quan giữa người và người là nhu cầu có thật trong đời sống của chúng ta.

Trong truyện “Lặng lẽ Sapa”, nhà văn Nguyễn Thành Long đã xây dựng một nhân vật rất đáng để chúng ta cảm phục. Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn ở Sapa. Suốt ngày, một mình thui thủi trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m với công việc đo mưa, đo gió.. Anh ta sống gần như cách biệt với con người. Bởi vậy, một lần vì thèm nghe tiếng nói của con người quá, người thanh niên đã tìm cách lăn cây ra đường, chặn một chuyến xe khách đi ngang và mời mọi người lên tham quan nơi ở, nơi làm việc của mình khiến ai cũng xúc động. Thế mới biết nhu cầu được giao cảm, giao hòa với ngưòi khác trong mỗi người mãnh liệt biết chừng nào. 

Chúng ta cũng đã từng nghe câu chuyện về vị Thánh Sư Milarepas. Ông sống ẩn tu mười một năm trên núi hoang, không tiếp xúc với một ai. Khi tuyết rơi xuống trắng xóa, ông vẫn ngồi thiền lặng lẽ chịu đựng cái lạnh buốt giá ấy. Phải thừa nhận rằng, ông thành tựu Định lực rất vững khiến ai cũng cảm phục. Sau mười một năm sống cách biệt với cộng đồng để tu tập, ông trở ra giáo hóa và rất thành công. Người Tây Tạng tôn thờ ông như tôn thờ một vị Thánh. Đó là trường hợp rất hiếm hoi và cá biệt. Khi đã có được cái Định ở trong tâm, người ta cảm thấy nhu cầu về mối tương quan với con người không còn là điều bức xức nữa. Còn đa số chúng ta đều sống trong sự tương quan và phải có bổn phận với người khác. 

Không ai có thể sống cô độc mãi trên cuộc đời này. Bây giờ sống với nhau trong một tập thể, một cộng đồng, có khi chúng ta cảm thấy không cần phải thương nhau, có khi chúng ta coi thường tình cảm của người khác. Nhưng những người hay phụ bạc tình nghĩa đó sau này sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Hãy nhớ rằng, hễ phụ bạc điều gì, chúng ta sẽ mất nó mãi mãi. Đó là Nhân Quả. 

Ví dụ, một người còn phước, sống trong giàu có sung sướng và thường đến ăn uống ở những nhà hàng lớn. Bao nhiêu lần họ gọi thức ăn thừa mứa để rồi phải đổ đi. Cuối cùng, quả báo cũng xảy ra. Một lần nọ, trong một chuyến xe đang đi vào đường rừng, băng qua một cái đèo, nửa chừng xe bị chết máy, phải nằm lại ba, bốn ngày. Khi đó, vì không mang theo thức ăn dự trữ nên họ đành phải nhịn đói suốt mấy ngày liền. Mặc dù tài sản, tiền bạc vẫn còn đầy ắp nhưng họ cũng phải rơi vào một hoàn cảnh éo le, phải nhịn đói, nhịn khát để trả cái quả báo những lúc phí phạm thức ăn. Bởi vậy, ngày xưa ông bà chúng ta thường khuyên con cháu phải biết quí trọng từng hạt gạo, hạt cơm. Đó là những “hạt ngọc”. Khi ăn, một hạt cơm rơi xuống chúng ta cũng phải nhặt lên. Đạo lý ấy tưởng như đơn giản nhưng thực ra sâu sắc vô cùng. Mỗi người không bao giờ được coi thường điều đó.

 Thực tế đã cho chúng ta nhiều bài học về vấn đề Nhân Quả. Không ít vị giám đốc khi còn đương nhiệm đã không ngần ngại quăng tiền qua cửa sổ, lao vào những cuộc chơi, sống sa đọa, trác táng. Họ có thể tiêu hàng chục triệu đồng chỉ trong một đêm. Vì lúc đó, tài sản trong tay họ tính bằng tỉ, số tiền vài chục triệu đồng ấy có nghĩa lý gì. Như vậy, coi thường, phung phí đồng tiền, quả báo xảy ra với họ là gì ? Đến một lúc nào đó làm ăn phá sản, họ trở thành những kẻ trắng tay. Từ một vị giám đốc sang trọng “lên xe xuống ngựa”, có khi họ trở thành một người nghèo khổ, nợ nần bao vây, thậm chí phải ngồi tù. 

Điều dễ thấy nhất là khi sống trong tình thương yêu của cha mẹ, con cái thường coi thường, phụ bạc. Một ngày nào đó lớn lên thành gia thất, được làm cha làm mẹ mới chợt hiểu ngày xưa cha mẹ mình đã thương mình biết chừng nào. Khi nhận ra, biết thương yêu cha mẹ thì mọi cái đã muộn mất rồi, có khi không còn gặp lại nữa.

Hiểu như vậy, chúng ta phải biết quí trọng những gì mình có hôm nay để không phải chịu quả báo. Cùng sống bên nhau trong một mái trường, cùng đi một con đường, chung một lý tưởng mà chúng ta không tôn trọng mối quan hệ gắn bó, không tôn trọng tình nghĩa huynh đệ đồng học với nhau, sau này chúng ta cũng sẽ bị quả báo. Đó chính là sự cô độc, không bạn bè, không người sẻ chia những nỗi niềm trong cuộc sống. Có thể chúng ta cũng thành đạt, ra ngoài làm việc sẽ được làm Trụ trì hoặc sẽ đi thuyết giảng. Nhưng  dù làm gì, quanh đi quẩn lại chúng ta vẫn một mình, vẫn thấm thía sự cô độc. 

Trong cuộc sống, mối quan hệ tốt đẹp, hòa hợp là một nhu cầu cũng là một yếu tố của hạnh phúc. Nghĩa là, nếu đó là mối quan hệ xấu, chúng ta sẽ đau khổ. Ngược lại, đó là mối tương quan tốt, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc. Về tương quan xấu khiến con người đau khổ, chúng ta đã được  biết đến trong giáo lý: “Tứ Diệu Đế”. Trong bát khổ, có một nỗi đau khổ mà con người khó tránh khỏi là oán tắng hội, ghét mà gặp nhau. Quả thật, ghét mà gặp nhau cũng là một nỗi khổ lớn của con người. 

Chẳng hạn, chúng ta, nhất là người đời, thường có cái thương ghét phàm tình. Nhưng dân gian thường nói :“ Ghét của nào trời trao của đó”. Thường những người mình ghét, trời xui đất khiến lại cho gặp nhau, thậm chí còn phải ở chung phòng, làm chung công việc. Bởi vậy, đi ra đi vào chúng ta hay cảm thấy bực mình, khổ sở. Đó là đau khổ, gọi là oán tắng hội. Nghĩa là mối tương quan không tốt đã làm cho mình đau khổ. Để vượt qua điều đó, chúng ta  chỉ có một cách là đừng ghét người ta nữa. Khi không ghét nữa, tự nhiên chúng ta thấy mọi cái bình thường, không có gì phải khổ sở. Tuy nhiên, không phải điều gì cũng đơn giản như chúng ta nghĩ, điều ấy còn phụ thuộc vào sức mạnh của nghiệp quá khứ. 

Nếu oán tắng hội là một trong những điều khổ của con người thì thương nhau mà gặp nhau, ở bên nhau là điều hạnh phúc, là niềm vui. 

Là đệ tử Phật, chúng ta phải cố gắng xây dựng mối tương quan tốt đẹp với cộng đồng. Khi còn là Tăng Ni sinh, không có gì để cho nhau, chúng ta hãy cho nhau cái tương quan tốt đẹp, cách cư xử tốt đẹp. Đó cũng là cách giúp nhau được hạnh phúc. Chúng ta phải sống làm sao để thương được tất cả mọi người và mọi người cũng thương mình. Khi nói điều này, có người cho rằng chúng ta lý tưởng quá, thậm chí thành ảo tưởng. Vì người ta nghĩ rằng, con người sống với nhau luôn luôn có thương, có ghét, không bao giờ có tình thương trọn vẹn. Hay nói cách khác, chúng ta không thể thương yêu tất cả mọi người và không phải mọi người ai cũng thương mình. Đó là thực tế.

Trong cuộc sống, có rất nhiều lý do để người ta ghét nhau. Có những lý do rất vô lý, rất vặt vãnh cũng khiến cho họ ghét nhau, không thể thương nhau. Bởi vậy, khi nói chúng ta thương tất cả mọi người, điều ấy có vẻ như ảo tưởng. Nhưng đó là những suy nghĩ của thế gian. Người thế gian thường dựa vào thực tế để đối xử. Nghĩa là, sống trong trong cuộc đời này, họ biết có người thương mình và cũng có người ghét mình. Vậy, ai thương họ sẽ được họ thương lại, ai ghét họ cũng sẽ bị họ ghét lại. Đó là cuộc sống thường tình. Còn những người tu theo đạo Phật phải vượt lên thường tình và phải tìm đến sự hoàn hảo. Nói đến tình thương và sự hòa hợp trong Đại chúng, mỗi người phải sống làm sao để thương được tất cả mọi người và cũng để mọi người thương mình. Chúng ta không đòi hỏi điều đó, nhưng được mọi người thương lại là dấu hiệu tốt của tâm mình. Tuy điều đó khó có thể thực hiện nhưng chúng ta vẫn phải tìm đến, vẫn phải thực hiện cho bằng được. 

Tuy nhiên, đạt được đạo lý về sự hòa hợp của đạo Phật trong Đại chúng vẫn chưa đủ. Cái tâm của chúng ta là phải đi tìm được sự hòa hợp với tất cả mọi người trên thế giới này. Làm sao dưới mắt chúng ta mọi người ai cũng là người để mình thương yêu, trìu mến. Đó là ước mơ, là lý tưởng của người đệ tử Phật. Đó là lý tưởng rất cao mà có người cho là “không tưởng”, nhưng chúng ta vẫn quyết tâm đạt đến lý tưởng đó, nhất định không dừng lại. Trước mắt, chúng ta phải phấn đấu  sống một đời tốt đẹp, hòa thuận trọn vẹn với những người xung quanh. Còn Tâm phải trải rộng đến tất cả mọi người trên thế giới này.

2. TINH THẦN LỤC HÒA.  

            Nhắc đến đạo lý về sự hòa hợp, trong đạo Phật có giáo lý Lục Hòa. Lục Hòa là sáu điều hòa hợp. Ý nghĩa lục Hòa thường được Phật chỉ dạy cho Tăng chúng trong một trú xứ để sống một đời hòa hợp với nhau. Học bài Hòa hợp, chúng ta không thể không tìm hiểu, phân tích giáo lý này. 

a. Thân hòa đồng trú:

Đây là sự hòa thuận khởi đầu nơi việc ở chung với nhau trong một trú xứ. Sự hòa thuận này là khởi điểm để có năm sự hòa hợp tiếp theo. 

Chúng ta từ muôn phương có mặt ở đây, trong một tập thể, thì thân xác này, hình hài này ( gọi theo bây giờ là hộ khẩu) phải bước vào một cuộc sống hòa thuận. Cuộc sống hòa thuận này dựa vào những điểm nào ? Tuy có nhiều lớp người khác nhau nhưng chúng ta phải có sự nương tựa, tin cậy và giúp đỡ lẫn  nhau. Đó là tinh thần hòa thuận trong một môi trường sống. Trong một ngôi chùa, có thể chúng ta có nhiều điều khác biệt về nơi xuất thân: người đến từ “ vùng nước mặn đồng chua”, người về từ vùng quê “đất cày lên sỏi đá”…Điều quan trọng là chúng ta vẫn từ bỏ hết những khác biệt đó để sống chung với nhau trong một trú xứ và hòa thuận được với nhau. Nhưng điều này không phải bắt đầu từ chúng ta mà từ các vị Thầy lớn: Thầy Trụ Trì, Thầy Giám viện, Giám hiệu, Thầy Thư ký…Trước hết, trong chùa, Thầy Trụ trì phải là người vượt qua mọi sự sai biệt, thương yêu, đối xử bình đẳng, không phân biệt với tất cả mọi người. Chính tinh thần ấy của Thầy sẽ là tấm gương cho những đệ tử trong chúng noi theo. Đối với chúng ta, khi còn trong chúng, phải biết quan sát cách làm việc của quý Thầy lớn để học tập, rút ra ưu khuyết điểm về sau. Có người khi còn ở trong chúng đã được Thầy mình nhờ viết tài liệu dạy cho một khóa Trụ trì và viết rất thành công. Sở dĩ làm được như vậy là do người ấy thường xuyên quan sát sự làm việc, quản lý của quý Thầy lớn và rút ra được những kinh nghiệm, những kết luận.

Quý Thầy lớn đã nêu tấm gương, tạo sự hòa hợp cho chúng ta- sự hòa hợp trải rộng không có một chút phân biệt nào. Bản thân chúng ta cũng phải vượt qua mọi sai biệt để thân hòa đồng trú, thương yêu nhau, nương tựa, tin cậy và giúp đỡ lẫn nhau. Sống như vậy, một ngày nào đó gặp lại sau bao nhiêu năm xa cách, chúng ta vẫn vui, vẫn tình cảm tràn đầy. Nếu đã từng trải qua những năm tháng gắn bó, sẻ chia những khó khăn, vui buồn trong cuộc sống, chúng ta sẽ nhận ra rằng, tình Đạo còn thiêng liêng hơn cả tình ruột thịt. Đó không phải là sự cường điệu hay ảo tưởng. Đó là sự cảm nhận sâu sắc khi chúng ta trải qua bao nhiêu năm tu hành gian khó. Chúng ta ai cũng có gia đình, cha mẹ, anh chị em…, vẫn sống trong tình yêu thương trìu mến của gia đình nhưng ngẫm lại, chúng ta vẫn thấy tình máu mủ không thiêng liêng bằng tình Đạo. Điều này thật khó giải thích cặn kẽ. Chỉ khi nào thương được những người huynh đệ chung quanh mình, khi nào nhắc đến họ, lòng mình trào dâng bao tình cảm thương yêu, khi đó chúng ta sẽ thấy đúng là tình Đạo vượt lên trên tình của thế gian. Tình gia đình cũng không bằng được. Thật ra, gia đình, máu mủ là duyên nghiệp của nhiều đời. Đôi lúc người ta cũng chẳng còn coi đó là vấn đề thiêng liêng nữa. Không ít gia đình, anh em đã giết nhau để tranh giành gia tài. Chỉ có Đạo đức mới có thể chuyển cái không  thành cái có. Ví dụ, chúng ta là những con người xa lạ, từ khắp nơi về đây, không một chút ràng buộc nào cả. Nhưng nếu ai cũng có Đạo đức, cũng thương nhau trên tình Đạo trong lý tưởng của Phật pháp, chúng ta sẽ thấy mình sống với nhau vui hơn, hạnh phúc hơn là sống trong gia đình, nhất là gia đình không có Đạo đức. Nếu đem Đạo đức đối xử với nhau, chúng ta sẽ hạnh phúc hơn bất cứ điều gì khác trên đời này.

Tóm lại, hòa thuận chỉ là bước đầu, điều quan trọng là chúng ta phải đạt đến được sự đối xử với nhau như ruột thịt. Muốn đối xử với nhau như ruột thịt, chúng ta phải sống như thế nào? Mỗi người tự cân nhắc lại thái độ của mình, cách cư xử của mình trong quá trình sống với huynh đệ sẽ thấy rõ hơn. 

Nếu còn ở trong chúng, sống được như vậy, chúng ta sẽ là tấm gương Đạo đức tuyệt vời cho mọi người noi theo. Nếu thờ ơ, dửng dưng với mọi người xung quanh, khi bước ra làm Phật sự, Tâm chúng ta sẽ còn khô khan lạnh lùng nhiều hơn nữa. Lúc ấy, chúng ta không thể là hình ảnh Đạo đức cho mọi người noi theo, cũng không thể là một tàng cây che mát cho mọi người được. Chúng ta phải nhớ rằng, người ta nương tựa vào người tu là nhờ lòng thương yêu, một lòng thương yêu chúng sinh mênh mông và không phân biệt. Điều này chúng ta đã được học trong bài Tâm từ. Để phát huy điều đó, chúng ta phải xem môi trường huynh đệ là môi trường tốt nhất để mình thực hành. 

b. Khẩu hòa vô tránh:

 Là sự hòa thuận bộc lộ nhiều ở lời nói. Trước hết, sự hòa thuận này được biểu hiện ở việc không tranh cãi nặng lời. Trong một ngày, chúng ta thường làm ít hơn nói. Chỉ có một vài người đặc biệt, làm nhiều hơn nói. Dĩ nhiên, những người ấy làm chuyện tốt chứ không phải chuyện xấu. Khi đi học, họ cứ lặng lẽ không nói gì. Những người đó rất tốt, tâm khá an định. Còn bình thường, đa phần chúng ta nói nhiều hơn làm. Trong việc thiết lập tương quan với mọi người, lời nói là đường dây quan trọng. Theo kinh Phật, lời nói phải êm dịu, tao nhã, khả ái đẹp lòng người. Đó là lời nói tốt để tạo thành tương quan tốt. Chúng ta phải cố gắng tập luyện, phải học nói lời hay, phải cố gắng giữ gìn lời nói của mình. Vì nếu không tập, không sửa được chúng ta sẽ nói lời thô bạo, làm mất lòng người khác. Tất nhiên, lời nói xuất phát từ Tâm. Nếu để ý lời nói một chút, chúng ta sẽ nhận xét được cái Tâm của mình.

Chẳng hạn, khi có một huynh đệ sẵng giọng với mình, chúng ta cũng bực bội phản ứng lại bằng lời nói sẵng. Chính lời nói không đẹp ấy khiến chúng ta không thiết lập được mối  tương quan tốt. Chúng ta sống không phải vì mình mà vì chùa mình, vì Phật pháp. Nếu lỡ nói nặng lời, chúng ta phải nhìn Tâm của mình ngay, tập sửa Tâm mình để lời nói phát ra trở thành ái ngữ , làm đẹp lòng người. Trong cách xưng hô của người Việt Nam, chúng ta cần tránh năm từ tiêu biểu cho sự kém văn hóa là thằng, con, mày, tao, nó. Đó cũng là một trong những yếu tố khiến người Việt Nam chúng ta tổn phước so với các nước khác trên thế giới. Những cách xưng hô như vậy, người đời có thể dùng nhưng người tu chúng ta hoàn toàn không nên. Khi nói về người thứ ba, chúng ta chỉ nên gọi bằng tên, không cần dùng đại từ. Trong Đạo, khi nói chuyện, xưng hô với nhau, chúng ta nên dùng Pháp danh.

Một biểu hiện nữa của khẩu hòa vô tránh là không nói xấu sau lưng. Nói xấu người khác sau lưng là một việc không tốt. Nếu nghe được, người ta sẽ rất giận và dẫn đến mất hòa khí, mất đoàn kết. Mối tương quan hòa hợp vì thế cũng không còn. Nói xấu sau lưng thường có hai trường hợp: ác ý và không ác ý. Người nói xấu sau lưng người khác có ác ý là người thực sự muốn hạ nhục người kia, muốn hạ uy tín người kia. Trường hợp còn lại, người nói không có ác ý nhưng do vô tình mà trở thành nói xấu người khác. Có khi chỉ là một câu nói đùa, không có ác ý nhưng sự thật vẫn làm cho người nghe đánh giá thấp về người được nói đến. Cho nên, dù  có ác ý hay không ác ý, chúng ta cũng không nên nói sau lưng người khác. Khi nghe được, họ sẽ buồn lòng và mối tương quan giữa chúng ta với họ sẽ không còn tốt đẹp nữa. Nếu không đồng ý với người ta ở điểm nào đó, chúng ta cũng không được phát ngôn một cách tuỳ tiện, nhất là khi có người hỏi đến người đó. Vì nhiều khi do sự bất đồng, chúng ta không kìm chế được buộc miệng nói ra những điều không hay. Như vậy, vô tình chúng ta trở thành kẻ nói xấu sau lưng người khác. Tốt hơn hết, khi có sự bất đồng, chúng ta nên trực tiếp góp ý với họ. Nếu thấy không có duyên hay không tiện, chúng ta cũng im lặng, đừng nói qua người thứ ba làm mất uy tín của họ. 

Một điều cần lưu ý nữa là chúng ta đừng gây gổ với nhau. Thực ra, điều này cũng đã từng xảy ra trong giới tu sĩ ở một vài chùa. Để xảy ra gây gổ nặng nề như vậy chứng tỏ việc kiểm soát ngôn hạnh và cái  tâm của người tu còn kém. Nếu không đồng ý với nhau, lòng mình vẫn điềm tĩnh, tìm xem lỗi từ ai. Nếu lỗi thuộc về mình, chúng ta phải thành thật nhận lỗi và quyết tâm sửa chữa. Nếu lỗi thuộc về người, chúng ta cố gắng góp ý để giúp họ vượt qua. 

c. Giới hòa đồng tu: Là cùng nhau giữ được giới pháp, Đạo đức thì sự hòa thuận dễ đạt được. 

Những oai nghi giới luật mà chúng ta cùng nhau giữ được, cuộc sống sẽ vui hơn. Ví dụ: Chùa có luật là bước ra khỏi giới tràng( khuôn viên của chùa) phải xin phép. Chúng ta phải tuân thủ điều đó. Dù có đi bách bộ buổi chiều, chúng ta cũng chỉ ra đến cửa rồi lại quay vào. Như vậy, mọi người sẽ nhìn nhau bằng niềm vui vì ai cũng giữ giới. Hoặc chúng ta cùng nhau thực hành những vấn đề về Đạo đức như Từ bi, Khiêm hạ thì cuộc sống sẽ rất vui và hạnh phúc. Khi tu tâm Từ bi, chúng ta thương yêu những người huynh đệ xung quanh mình. Khi có huynh đệ bị bệnh, chúng ta sẽ chăm sóc trong tình yêu thương. Khi chúng ta đau ốm, lại có người khác chăm sóc cho mình. Cứ như thế, cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Nếu ngược lại, vấn đề tu tập, rèn luyện Đạo đức không đồng với nhau, cuộc sống sẽ mất đi niềm vui, không còn tương quan hòa thuận nữa. 

d. Kiến hòa đồng giải: Là chia sẻ sự hiểu biết với nhau, nhất là trong giáo pháp. 

 Sự hiểu biết của con người vốn không đồng đều. Khi biết điều gì hay, chúng ta không cố ý giữ lại cho riêng mình mà muốn cho người khác, muốn cho chúng sinh đều biết. Những người sống được như vậy, đời sau sẽ có trí tuệ vượt bậc và sẽ được nhiều phước. Trong giáo lý cũng vậy. Khi nghe Thầy giảng, nếu hiểu vấn đề một cách sâu sắc, chúng ta không nên giấu điều mình hiểu được mà cố gắng phân tích thêm để huynh đệ cũng hiểu sâu sắc như mình. Và nhờ thế, bài học càng được mở rộng thêm. Điều đó sẽ làm cho huynh đệ phấn chấn, cùng nhau tu hành ngày một tiến bộ. 

Trong dụng công tu Thiền, nói ra những điều mình đạt được sẽ mất công phu, nhưng nếu thấy cách dụng công nào hay, chúng ta cũng tìm cách chỉ cho huynh đệ biết để cùng đạt được trạng thái an lạc. Ví dụ, thấy điều hòa hơi thở là cách dụng công có kết quả tốt, chúng ta hướng dẫn huynh đệ cách hít thở để đạt được trạng thái khinh an, hỷ lạc…Nhưng chúng ta không nói với huynh đệ là mình tu được như vậy mà chỉ nói là nghe người khác hướng dẫn. Đó cũng là cách giảng giải cho nhau, không muốn giữ gìn cái hay cho bản thân mình. 

Không chỉ  riêng về giáo lý, trong cuộc sống, có những điều vặt vãnh chúng ta cũng có thể chia sớt kinh nghiệm cho người khác. Chẳng hạn, khi phạm lỗi lầm gì, chúng ta mong người khác đừng bao giờ phạm lỗi như mình. Hoặc trong sự lầm lỗi đó, nếu đã cố gắng vượt qua, chúng ta cũng nên phân tích và đưa ra kinh nghiệm để người khác có cách vượt qua lỗi lầm. Tấm lòng mình lúc nào cũng chan hòa, khám phá ra được điều gì hay đều muốn san sẻ cho người khác để ai cũng được ích lợi, tiến bộ trong sự tu hành cũng như trong đời sống. Như thế chính là kiến hòa đồng giải. Người tu chúng ta chẳng có gì để cho nhau. Bởi vậy, cho nhau vốn hiểu biết chính là món quà vô giá, đừng bao giờ giữ một chút gì  cho riêng mình. 

Sau này, nếu có duyên đi giảng pháp nhiều nơi, được Phật tử khen ngợi, chúng đừng vội tự hào. Trong bài  Khiêm hạ, chúng ta đã nói đến tâm tự hào bí mật. Đó là điều rất nguy hiểm, chúng ta cần dập tắt ngay bằng những suy nghĩ rất đơn giản. Chúng ta có thể nghĩ rằng, người nghe băng mình giảng phần lớn là những người bình dân, trình độ còn thấp nên thấy hay. Nếu người có trình độ cao, nghe những điều mình giảng sẽ cảm thấy bình thường, không có gì phải khen cả. Hoặc chúng ta có thể nghĩ mình giảng hay thật, sâu sắc thật nhưng xin nguyện cho tất cả những vị Giáo Thọ, Giảng Sư đều giảng hay hơn mình. Và lúc nào, ở đâu trên mọi nẻo đường của Phật pháp, chúng ta đều mong gặp được những vị giảng sư giỏi, giảng pháp hay. Khi đến bất cứ môi trường nào, dù là Phật tử hay Tu sĩ cũng đều được nghe những bài pháp tuyệt vời và tăng được tín tâm với Phật pháp. Cao hơn nữa, chúng ta luôn cầu nguyện cho thế giới này ai ai cũng là những vị Thánh, không còn ai muốn hơn ai nữa. Đó là một Thế giới tuyệt vời tốt đẹp. Khi có tâm nguyện mong điều tốt đến được với mọi người, chúng ta sẽ thấy mình vô cùng bình thường, chẳng có gì đặc biệt và sẽ dập tắt niềm tự hào có thể trỗi dậy trong lòng mình. 

e. Ý hòa đồng duyệt: Là trong tâm nghĩ tốt về nhau, tự nhiên niềm vui phát sinh giữa mọi người. 

Sở dĩ khi nhìn huynh đệ tâm chúng ta cảm thấy vui vì chúng ta biết nghĩ tốt về huynh đệ mình. Nghĩa là chúng ta thường nhìn thấy ưu điểm của huynh đệ. Điều này rất sâu sắc. Sống trong một môi trường mà nhìn thấy ai cũng là người tốt: người học rất giỏi, có trí tuệ sâu sắc; người rất siêng tu, lạy Phật, sám hối, ngồi thiền đều đặn; người có hạnh  thích công quả; người hay dùng lời nói để khuyên giải, giúp người khác vượt qua lỗi lầm vv…, tự nhiên chúng ta sẽ thấy niềm vui tràn ngập trong lòng. Một khi tâm ý mình luôn  luôn vui vẻ với mọi người, không nhìn điểm xấu, không soi mói, ác cảm, luôn bao dung tha thứ, chỉ dựa vào điều tốt để sống, chúng ta sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm sống và nhiều niềm vui. Đó là Ý hòa đồng duyệt.

g. Lợi hòa đồng quân: Là chia sẻ đồng đều các quyền lợi như quần áo, thức ăn, thuốc men, giường chiếu, tập viết, giờ nghỉ ngơi, phiên nhập thất v.v…

Những sự hòa hợp thuộc về tâm ý thường đơn giản hơn những vấn đề liên quan đến quyền lợi. Nếu quyền lợi gì cũng chia đều không cẩn thận sẽ dẫn đến bất công. Chẳng hạn, quyền lợi, chế độ của người ốm sẽ khác với ngườì bình thường, mọi người không thể đòi hỏi được hưởng như nhau. Hoặc người làm việc nhiều, làm những công việc nặng nhọc phải được ưu tiên hơn về quyền lợi…Vì vậy, Lợi hòa đồng quân phải dựa trên tình thương yêu. 

3. TÌNH THUƠNG LÀ GỐC CỦA SỰ HOÀ HỢP.  

Như đã nói ở trên, không phải chia sẻ quyền lợi đồng đều một cách răm rắp mới gọi là Hòa hợp. Chính tình thương mới là gốc của sự hòa hợp. Quyền lợi chia sẻ xuất phát từ tình thương yêu sẽ thành lợi hòa đồng quân một cách hợp lý. Có những trường hợp đặc biệt chúng ta không thể xử lý đồng đều. Ví dụ, theo tiêu chuẩn, mỗi người trong một năm được may một bộ quần áo. Trong đó, một Thầy rất siêng năng làm lụng, gặp chuyện gì bất kể là mưa hay gió cũng xông xáo nên quần áo bị rách trước. Nếu cứ theo nguyên tắc cứng nhắc, chưa đến kỳ may đồng loạt, người ấy phải chờ đợi với bộ quần áo rách trên mình thì sẽ bất công và vô lý. Như vậy, chia đồng đều có thể ngược với ý nghĩa công bình. 

Sự nhường nhịn chính là biểu hiện của sự hòa hợp vì xuất phát từ tình thương yêu. Bởi vậy, trong những trường hợp cần thiết, chúng ta có thể hy sinh quyền lợi của mình, nhường nhịn cho người khác. Chẳng hạn, thấy mùa lạnh đến, Phật tử mang đến cúng cho mỗi Thầy trong chùa một cái áo ấm. Nhưng do nhầm lẫn nên họ cúng thiếu một cái. Trên nguyên tắc, nếu chia từ quý Thầy lớn trở xuống, tính ra tuổi hạ chúng ta vẫn nhận được một phần, chỉ có người nhỏ nhất là bị mất quyền lợi. Điều đó cũng hợp lý nhưng trên Đạo đức, điều ấy hoàn toàn sai vì thiếu đi tình thương yêu, sự nhường nhịn. Nếu là người đầu tiên biết sẽ thiếu một chiếc áo, chúng ta phải chấp nhận không có áo mặc để nhường cho người khác cần hơn. Trong trường hợp này, nhường nhịn mới là lục hòa chứ không phải theo nguyên tắc chia từ trên xuống dưới, người chức lớn thế nào cũng được phần, người nhỏ phải chịu thiệt thòi là lục hòa. Được lục hòa mà mất đạo lý là hoàn toàn không nên. Bởi vậy, mọi khía cạnh khác của lục hoà  đều cần cái gốc tình thương. 

4. BỎ QUA SỰ KHÁC BIỆT ĐỂ HƯỚNG ĐẾN CÁI TƯƠNG ĐỒNG.  

Muốn tìm đến sự Hòa hợp với mọi người, chúng ta phải bỏ qua sự khác biệt để tìm đến cái tương đồng. Nếu cố tìm sự khác biệt, chúng ta sẽ thấy giữa người và người sống với nhau đầy rẫy sự khác biệt. 

Trước hết, đó là sự khác biệt về ngoại hình: người cao, người thấp; người mập, người ốm; người có gương mặt đẹp, người trông lại khó coi…Trong cuộc sống, không ít người vì quá coi trọng ngoại hình mà gây phân biệt, chia rẽ. Tiếp theo là khác nhau về giọng nói. Mỗi địa phương có một giọng nói riêng, có vùng nói giọng rất dễ nghe, có nơi giọng nặng nề không nghe được. Từ đó, dựa vào giọng nói, người ta có cảm tình với người nơi này, lại có ác cảm với người nơi khác. Vì giọng nói, con người cũng có thể xa cách nhau. Hiện nay, ở một vài chùa xảy ra tình trạng phân biệt địa phương, quê quán rất gay gắt. Đây là điều trái với đạo lý của dân tộc ta :“Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tất nhiên, lúc đầu chỉ do một vài người có sự phân biệt, sau đó người khác hùa theo rồi trở thành phong trào. Khi gặp trường hợp như vậy, chúng ta phải tìm cách hoá giải, phải giúp nhau vượt qua tư tưởng kỳ thị địa phương  để sống hòa hợp. Vì theo đạo Phật, mười phương chúng sinh đều cùng một Phật tánh.

Quá trình tu tập cũng là điểm khác biệt có thể làm cho con người phân biệt, chia rẽ nhau. Ngườøi này tự hào mình vào chùa tu lâu hơn người kia nên thấy có sự khác biệt, thấy người đó không bằng mình và không có sự hòa hợp với mình. Ngoài ra, giữa con người còn có sự khác biệt về địa vị , dòng dõi , trí tuệ, thể chất… Nếu cứ dựa vào những khác biệt đó, chúng ta sẽ kỳ thị, chia rẽ, ác cảm với nhau và dần dần xa cách nhau. 

Vì vậy, chúng ta cố gắng tìm kiếm sự tương đồng và sẽ thấy giữa con người đâu chỉ có sự khác biệt, mà còn có vô số điểm tương đồng. Sự tương đồng lớn nhất là nước mắt cùng mặn và máu cùng đỏ. Chúng ta nhớ rằng, thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ chia ra nhiều giai cấp. (Tất nhiên, thời đó sự phân chia giai cấp không gay gắt như xã hội Ấn Độ vào khoảng thế kỷ XVIII-XIX). Vậy mà, Đức Phật không chấp nhận sự phân biệt giai cấp và đã lên án quyết liệt. Khi thấy một người thuộc đẳng cấp Tăng lữ Bàlamôn có vẻ tự thị bởi dòng họ của mình, bởi giai cấp của mình, Phật phản đối ngay. Ngài từng nói :“ Không có giai cấp khi mà máu cùng đỏ, không có giai cấp khi mà nước mắt cùng mặn”. Lời khẳng định ấy tuyệt vời trên cả hai phương diện: Đạo đức và Nghệ thuật. 

Về phương diện Đạo đức, Triết học, đó là một tư tưởng tuyệt vời. Về phương diện nghệ thuật, đó cũng là một câu văn tuyệt vời, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Máu tượng trưng cho sự sống. Trên đời này, ai cũng quý sự sống. Và nơi sự sống đáng quý này, tất cả mọi người đều bình đẳng, không có sự hơn kém. Không phải vì người này giàu, người kia nghèo mà sự sống người này quý hơn người kia. Nước mắt tượng trưng cho sự đau khổ. Sống trong cuộc đời này, con người chúng ta đều phải chịu đựng những nỗi khổ rất giống nhau. Ai cũng phải già, phải bệnh, phải chết, phải chia ly với người thân yêu của mình, phải gặp mặt người mình ghét, có những điều mong cầu không đạt được … Nghĩa là những nỗi khổ trong cuộc sống này rất giống nhau. Và chính những nỗi khổ ấy đay nghiến chúng ta, dằn vặt chúng ta một cách bình đẳng. Những giọt nước mắt chảy ra từ những nỗi đau khổ ấy của người giàu sang hay người nghèo khổ đều như nhau. Đó là điểm tương đồng trước hết chúng ta phải ghi nhận để thương yêu hoà hợp với nhau trong cuộc sống. 

Một điểm tương đồng nữa là lý tưởng. Khi đến với đạo Phật, trong lòng chúng ta ai cũng có lý tưởng về sự giác ngộ, giải thoát. Đây là điểm để chúng ta có thể thương yêu nhau. Vì có những người không cùng chung lý tưởng nhưng trên lòng từ bi của đạo Phật, chúng ta còn phải thương họ huống hồ là những huynh đệ cùng chung câu niệm Phật, cùng sống trong một bầu không khí thanh tịnh của đạo Phật, cùng hướng về sự giác ngộ giải thoát. 

Chưa hết, chúng ta còn một điểm tương đồng nữa là cùng chung một loài người . Chúng ta giống nhau về lý tuởng, giống nhau trong nỗi đau khổ và giống nhau cả trong sự lầm lỗi nữa. Có thể người này đã vượt qua, người kia chưa vượt qua được nhưng những lầm lỗi trong cuộc đời này từ ngàn xưa đến bây giờ mà con người mắc phải đều rất giống nhau. Đó là những lầm lỗi hơn thua, tham lam, kiêu mạn, chấp ngã, oán hờn, vị kỷ … Rồi chúng ta còn cùng một Tôn giáo, cùng Thầy Tổ, cùng trường lớp nữa. Bởi vậy, khi thấy mọi người chung quanh có quá nhiều điểm giống mình, chúng ta phải thương nhau, không còn xa cách, không còn phân biệt nữa. 

Đó là tình thương yêu trong Đại chúng. Nhưng như vậy cũng chưa đủ. Vì đạo Phật không có biên giới. Giữa nhân loại bao la, chúng ta phải thường xuyên đi tìm cái tương đồng để đạt đến sự hòa hợp. Đó là lý tưởng, là con đường của đạo Phật. Ví dụ, giữa đạo Phật với đạo Thiên Chúa có nhiều điểm khác nhau nhưng chúng ta vẫn tìm ra những điểm tương đồng, thậm chí rất giống nhau. Đọc kinh Tân ước ( kinh Phúc âm), những lời dạy của Chúa Jêsu, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều điểm giống với đạo Phật. Chúng ta có thể kết luận: “Chúa Jêsu là một vị Bồ Tát thị hiện” để cải cách đạo Do Thái. Đạo Do Thái dựa vào Cựu ước, mà Cựu ước quả là có nhiều điểm sai lầm. Chúa Jêsu xuất hiện và cải cách lại. Những lời dạy của Chúa tập hợp lại thành một cuốn gọi là Phúc Âm. Năm người viết về cuộc đời Chúa ( Bộ kinh gọi là Phúc Âm có đến năm quyển) có điểm giống, có điểm khác nhau nhưng chúng ta phát hiện trong đó rất nhiều điểm giống đạo Phật. Nếu nghiên cứu sâu, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. 

Hoặc điều mà chúng ta lo sợ nhất hiện nay là vấn đề Hồi giáo. Họ chỉ nói chuyện với nhau bằng bom đạn, rất đáng sợ. Hiện nay, chúng ta chưa tìm được nhiều tài liệu về Hồi giáo để nghiên cứu, để có thể bắt đầu từ một điểm tương đồng nào đó chuyển hóa được họ, khiến họ từ bỏ con đường bạo lực, sống hòa bình với nhân loại, trước hết là trên lý luận. Hiện tại, họ chỉ muốn tiêu diệt tất cả những đạo khác để trên thế giới chỉ còn lại một đạo Hồi. Họ thực hiện điều đó bằng bạo lực và với một quyết tâm rất cao. Nếu không ý thức được điều này là chúng ta có tội với nhân loại. Bởi vậy, mỗi người trong quá trình tu phải nhìn thấy những vấn đề lớn lao trên thế giới đang chờ rất nhiều người góp tay xây dựng, không được tu một cách thụ động. 

Là Đạo của hòa bình, của khoan dung hòa hợp, của từ bi, chúng ta phải nhìn thấy điều đó để chuyển hóa họ. Bây giờ, chúng ta chưa tìm được cách có thể hóa giải tư tưởng bạo lực của họ nhưng tin rằng, trong tương lai chúng ta sẽ có cách giúp người anh em đạo Hồi của mình đang chìm trong sai lầm, tà kiến, chìm trong sự hung dữ của bạo lực sống trở lại trong sự hòa thuận với thế giới, với nhân loại. Đối với những nhà chính trị, Hồi giáo cũng là một mối lo ngại lớn. Họ đang tìm mọi cách, lập đủ âm mưu để triệt hạ lẫn nhau. Trên quan điểm đạo Phật, chúng ta cũng thấy Hồi giáo là một nỗi lo lắng của mình. Nhưng khác với họ, chúng ta dựa trên đạo lý, đạo đức và sự khoan dung mà chuyển hóa chứ không phải bằng sự đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau. 

Là người tu theo đạo Phật, chúng ta phải thấy vấn đề Hồi giáo là vấn đề lớn. Và còn nhiều vấn đề lớn khác nữa của thế giới loài người, chúng ta phải tự mình nhận lấy trách nhiệm để giải quyết. Hãy nhớ rằng, mơ ước tu hành tiến bộ để được làm Giảng sư, Giáo thọ, Trụ trì… chỉ là những mơ ước tầm thường. Là người tu chân chính, chúng ta phải vượt lên những cái tầm thường ấy để hướng đến mục đích, lý tưởng cao cả hơn.

5. NƠI VÔ NGÃ, MỌI CÁI TRỞ THÀNH ĐỒNG NHẤT.  

Trong đạo Phật có một Trí tuệ cao tột, đó là Trí tuệ Vô ngã. Chúng ta tu tập rất nhiều nhưng cuối cùng cũng hướng tới Vô ngã. Có thể đang nhiếp tâm trong Thiền định, Tâm chúng ta sẽ được Định. Nhưng phải nhớ một điều, chúng ta dùng cái Định này để đi đến Vô ngã, không còn thấy mình nữa. Càng hướng về Vô ngã bằng Thiền định, Tâm tự nhiên sẽ chan hòa với mọi người, mọi vật. Chúng ta đừng bao giờ tự nhận mình đã Giác ngộ, đã có Trí tuệ, đã thành tựu, đã có sở đắc . Đây là điều nguy hiểm của một người tu Thiền. 

Thông thường, khi dụng công có kết quả, chúng ta hay nghĩ đến trí tuệ, thần thông, năng lực …và thấy giá trị của mình tăng lên. Khi đã nhiếp Tâm vào Định, hàng loạt những ý niệm bí mật ấy nảy sinh. Và chính những điều này đã làm cho Định mất, hoặc làm cho ngã chấp tăng lên. Bởi vậy, một điều quan trọng chúng ta phải nhớ là khi Tâm vừa vào được Định, chúng ta vẫn nghĩ mình chưa đạt đến cái cần đến và nguyện buông bỏ hết mọi điều khác để hướng đến cái Vô ngã. Phải tâm nguyện như vậy, chúng ta mới không bị cảm giác của cái Định lừa mị. 

Khi đi đến Vô ngã như vậy, Tâm chúng ta tự nhiên sẽ chan hòa với mọi người, mọi vật. Đây là một điều không có lý luận, không cần giải thích. Từ đầu, chúng ta đi tìm sự hòa hợp trên lý luận, giải thích vì sao chúng ta phải sống hòa hợp thương yêu nhau. Nhưng nếu một người vào được Định và hướng về Vô ngã thì không cần nói một lời nào, Tâm vẫn tự nhiên chan hòa với mọi người. Trước khi chưa có Định, chúng ta thấy Tâm mình chỉ ở trong đầu mình thôi. Nhưng khi đã có Định, chúng ta lại thấy mọi người ở ngay trong Tâm mình và lòng thương yêu, sự hòa thuận tự nhiên lan tỏa. Đó chính là giá trị của Định, mà phải là Định hướng về Vô ngã. 

Ngược lại, người có Định mà chỉ nghĩ đến những sự sai biệt với người khác, chấp ngã sẽ tăng lên, lại cách biệt với mọi người và càng rời xa Vô ngã. Vì Vô ngã làm cho chúng ta tìm thấy được sự tương đồng, còn chấp ngã khiến chúng ta tìm thấy sự sai biệt. Hiểu như vậy, mỗi người chúng ta cố gắng tu tập Thiền định, siêng năng Tinh tấn đến khi nào Tâm chan hòa với mọi người, mọi vật. Dù không nói nhưng sự hòa hợp thương yêu trong chúng ta vẫn lan tỏa, vẫn tràn đầy với mọi người.

Trong Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò, câu chuyện ba Tôn giả Anuruddha, Nadiya và Kimbila sống đời sống thanh tịnh hòa hợp được giới thiệu và tán thán. Đức Phật ấn chứng rằng, ai nghe đến tên của ba Tôn giả Alahán sống hòa hợp này sẽ được nhiều công đức lành. Khi Đức Phật đến thăm ba vị Tôn giả, Ngài hỏi: 

- Các ông có thể sống hòa thuận với nhau được hay chăng?

Các Tôn giả trả lời: 

- Chúng con sống với nhau hòa thuận như nước hòa với sữa. 

Đức Phật lại hỏi:

- Làm thế nào các ông sống được như vậy ? 

- Kính Bạch Đức Thế Tôn! Vì con không sống bằng tâm của con mà con sống bằng tâm của huynh đệ con. 

Câu trả lời thật tuyệt vời! Trước thời Đức Phật chưa có câu trả lời này và vĩnh viễn đời sau không có câu trả lời hay hơn nữa. “Con không sống bằng tâm con mà con sống bằng Tâm của huynh đệ con”. Sở dĩ các Tôn giả ấy sống hòa hợp một cách tuyệt vời như vậy vì họ sống bằng Tâm của huynh đệ mình. Một khi thân khác nhau nhưng Tâm vẫn tương đồng, họ sẽ nhìn nhau bằng ánh mắt thiện cảm, sống vui vẻ bên nhau, không tranh cãi hơn thua. Đó là một điều tuyệt đẹp trong cuộc sống. Chỉ trong Đạo Phật, những vị chứng được cái Vô ngã của Alahán mới có thể nói được như vậy, mới có thể sống được cuộc đời như vậy. 

Là đệ tử Phật, chúng ta cần phải hướng đến điều này để sống hòa hợp với mọi người. Nghĩa là dù chưa đạt được Alahán, chưa đạt được Vô ngã nhưng nếu cố gắng bỏ ý riêng của mình để sống theo tâm ý của huynh đệ, chúng ta cũng gieo được Nhân để đạt được Vô ngã, đạt được Thánh vị Alahán. Hằng ngày, huynh đệ muốn làm việc gì có ích, chúng ta nên cùng làm với họ. Nghĩa là chúng ta sống hòa thuận theo huynh đệ, không còn cái gì của riêng mình nữa, nhất là về ý kiến, về tư tưởng. Tất nhiên, đạo lý phải thống nhất, không thể sai. Khi huynh đệ đi sai đạo lý, chúng ta kiên quyết không theo. Đạt được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ có một cuộc sống hòa thuận tuyệt đẹp với mọi người.

1.  KÍN ĐÁO LÀ KHÔNG NÓI VỀ BẢN THÂN MÌNH CHO NGƯỜI KHÁC BIẾT.  

Thông thường, sự kín đáo không nói về bản thân mình cho người khác biết được xét trên hai phương diện: một là Đạo đức, hai là sự khôn ngoan. Đang học về Tâm lý Đạo đức cho nên chúng ta chỉ tìm hiểu sự Kín đáo như một hạnh đẹp của Đạo đức. 

Là một người tu hành, dù là cư sĩ hay người xuất gia, vì Đạo đức, chúng ta ít nói về bản thân mình. Ngay cả khi có những điều hay, chúng ta cũng không nói cho người khác biết. Trong khi đó, theo tâm lý thường tình của con người, khi thấy mình có những điều hay, người ta dễ bộc lộ ra bên ngoài hoặc kể lại cho người khác nghe. Có chút tài năng gì, có một tài sản gì, họ cũng nói ra. Hoặc làm được một việc phước lành, họ cũng kể cho người khác biết. Hay nói cách khác, những gì làm cho mình có giá trị trước mắt mọi người, họ đều thích kể cho nhiều người biết. 

Thích nói ra những cái hay, cái tốt của mình cho người khác biết, đó là tâm lý thường tình của con người. Vì người ta nghĩ rằng, những điều đó làm cho họ tăng thêm giá trị và khiến người khác phải nể phục. Tâm lý thèm khát sự cảm phục của người khác là tâm lý rất mãnh liệt của con người. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, Kín đáo- không kể những điều tốt của mình cho người khác biết là một biểu hiện của Đạo đức. Vì trong thâm sâu, chúng ta không thấy mình là người quan trọng, không cần sự nể phục của người khác nên cũng không cần phải kể những chuyện tốt của mình. Đây là Tâm của một người có chấp ngã tương đối nhẹ. Thường những người ấy đã đạt được Thiền định rất tốt sẽ không thấy mình là quan trọng. Thực ra, họ không muốn kể cho ai nghe về mình chứ không phải giấu giếm điều gì về mình. Chúng ta phải phân biệt được hai trường hợp như vậy. Vì có những người vẫn thấy mình quan trọng nhưng muốn giấu người khác nên không nói ra. Tâm của những người này chưa thật sự hợp với Đạo. 

Ví dụ, một người thấy mình có một món tiền kha khá nên rất tự hào vì nghĩ mình có giá trị hơn mọi người nhưng họ vẫn giấu, không nói ra vì sợ phải giúp đỡ những người khác. Rõ ràng, trường hợp này cũng giấu, cũng kín đáo không nói về bản thân mình nhưng không phải là biểu hiện của Đạo đức. Điều này hoàn toàn khác với người biết mình có nhiều tiền hơn người khác nhưng cho rằng như vậy không có gì quan trọng. Trên thực tế, số tiền ấy cũng chưa cần phải giúp ai nên họ không cần nói ra. Bởi thấy những gì thuộc về mình không quan trọng nên khong cần phải bày tỏ cho người khác biết. Đây là yếu chỉ căn bản nhất của hạnh Kín đáo. 

Khi nói ra những cái hay của mình nghĩa là chúng ta đang khoe khoang, trong tâm chúng ta đang ngầm có sự kiêu mạn về điều hay, điều tốt đó của mình. Đây là sự tổn thất trong Đạo đức, chúng ta phải cẩn thận. Khi lớn lên, càng tu hành, càng giữ giới, càng làm được nhiều việc thiện, chúng ta càng có công đức với Phật pháp và phước cũng tăng lên. Sự ngưỡng mộ của người khác cũng dần dần xuất hiện. Lúc đó, chúng ta dễ chấp vào nó và sinh tâm kiêu mạn. Chính kiêu mạn là cái gốc làm nên sự khoe khoang. 

Trong bài Khiêm hạ, chúng ta đã nói rất nhiều về kiêu mạn, kiêu mạn ở trong tâm. Bây giờ, sự kiêu mạn dễ nhìn thấy hơn khi đã thốt lên thành lời khoe khoang. Thật vậy, có những lỗi trong tâm mình, chúng ta không dễ dàng nhìn thấy, trong đó có sự kiêu mạn. Nhưng khi buột miệng nói ra lời khoe khoang, tự nhiên chúng ta sẽ sực tỉnh: “Thì ra mình vừa mới khoe khoang, mình đã có sự kiêu mạn”. Như vậy, trường hợp không đủ trí tuệ để nhìn thẳng vào tâm, để thấy kiêu mạn trong tâm mình, chúng ta sẽ nhờ lời nói để biết được lầm lỗi tiềm tàng trong tâm mình.

Chúng ta biết rằng, tâm của con người rất phức tạp, thường có 2 phần:  ý thức và vô thức. Ý thức là phần tâm mình thấy được. Vô thức là những hoạt động của tâm mà mình không tự thấy được. Ví dụ, những suy nghĩ, hình ảnh mà chúng ta có thể tưởng tượng, hình dung được, biết được đều thuộc về ý thức. Hoặc một người nào đó nói một câu nặng làm mình buồn. Cái buồn đó chúng ta có thể thấy được, cảm được nên thuộc về ý thức. Ngoài ra, trong con người còn có nhiều tâm phức tạp của vô thức. Hoạt động của vô thức rất nhiều, rất bí mật, chúng ta không thể nhìn thấy được. Muốn thấy được hoạt động của vô thức, chúng ta phải vào trong Định rất sâu. Bình thường, ranh giới giữa ý thức và vô thức trong con người chúng ta không rõ ràng. Điều này tùy thuộc vào trí tuệ bẩm sinh của mỗi người. Có người, sự ý thức rất hạn chế, nghĩa là tâm nào rất thô mới nhìn thấy, còn tâm hơi tế một chút, họ sẽ không nhìn thấy được. Trong khi đó, có người trí tuệ rất sáng, ý thức rất sâu nên có thể thấy được nhiều tâm bí mật trong lòng họ. Người ta gọi đây là người có trí tuệ. Những người này, khi phạm lỗi, họ sẽ thấy ngay hoặc chỉ cần người khác nhắc nhẹ là họ nhận ra ngay lỗi của mình. Vì họ nhìn rất sâu vào trong tâm họ, những lỗi lầm tiềm ẩn họ đều nhìn thấy. Đây là người có căn cơ tu hành. Ngược lại, những người kém trí tuệ, chỉ nhìn thấy tâm thô, thường khó nhìn thấy lỗi mình. Những người này căn cơ thấp, rất khó tu. 

Có khi kiêu mạn phát ra thành hành động. Trong mỗi trường hợp, hành động phát ra sẽ khác nhau. Nhờ hành động, chúng ta sẽ biết mình đã bị kiêu mạn chi phối. Ví dụ, một người mới vào chùa để làm điệu tu hành. Trong chùa có một ông già vốn là trí thức nhưng thất cơ, lỡ vận phải vào nương chùa ở để sống qua ngày. Cứ một, hai ngày, đứa con gái của ông ta lại vào thăm cha và tiện thể nhờ cha giảng bài cho. Một hôm, chú tiểu đang nằm võng ở nhà kho xem kinh, ông già đến hỏi một bài Hoá học (có lẽ cô con gái lại vào nhờ cha giảng giúp bài vở). Chú tiểu thấy bài quá dễ nên vẫn nằm trên võng, tay cầm lấy cuốn vở của ông già và giải thích cho ông ta. Khi hiểu ra được, ông rất vui, vội cầm vở chạy về phòng mình để giảng lại cho con gái. Sau đó, một Thầy lớn thấy vậy đã nhắc chú tiểu rằng hành động của chú đã sai. Vì chú là người mới tu, còn nhỏ nhưng khi nói chuyện với một người lớn tuổi như thế vẫn nằm trên võng. Rõ ràng, trong tâm người ấy có sự kiêu mạn tiềm tàng và đã bộc lộ bằng hành động. Điều ấy không chối cãi được. Nhờ bộc lộ bằng hành động và được người khác nhắc nhở mà người ấy biết rằng mình đã kiêu mạn mà bản thân không nhìn thấy được. 

Trong cuộc sống có nhiều trường hợp tương tự như vậy. Điều quan trọng là khi được nhắc nhở, chúng ta phải chân thành nhận lỗi và phải sám hối ngay, tuyệt đối không được chối cãi. Vì đây chính là chỗ mà chúng ta không đủ trí tuệ để nhìn thấy chính mình. Một khi đã nhận ra được lỗi và cố gắng sửa, có tâm nguyện sửa, chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua được. 

Người hiếu danh thường khoe khoang về mình. Bởi vậy, không nói về mình cho người khác biết nghĩa là chúng ta không hiếu danh, không mong muốn được kính trọng. Chữ danh ngoài nghĩa là tên còn có nghĩa là tiếng khen, là danh dựï, là sự cảm phục trong lòng người khác. Thói thường, con người chúng ta hay mắc một bệnh, bệnh thèm khát sự cảm phục của người khác. Nhiều khi vì sự thèm khát ấy trỗi dậy quá mãnh liệt, người ta đã giả mạo, đã bịa đặt bao nhiêu chuyện để lừa dối mọi người. Sự cảm phục về người này chỉ xuất hiện trong tâm người kia nhưng có thể làm cho họ sung sướng khi biết người khác cảm phục mình. Đều này có sức mạnh thật ghê gớm. Trong cuộc đời, người ta theo đuổi rất nhiều thứ: tiền bạc, tình yêu, danh lợi…Trong đó, thèm muốn sự cảm phục của người khác cũng là điều khiến con người đuổi theo một cách dữ dội. Đây cũng có thể xem là nhu cầu của con người, một nhu cầu rất tai hại. 

Chúng ta từng nghe người ta nói với nhau về công án của ngài Động Sơn.  Ngài nói: “Ta có tiếng tăm ở đời, ai có thể vì ta trừ dẹp nó”. Một vị Tăng trả lời bằng cách xoè tay ra:“ Hòa Thượng cho con đi”. Ngài Động Sơn nói:“ Vậy là tiếng tăm ta đã hết”. Nghĩa là vị Tăng kia thấy được sự cảm phục của người khác nằm trong tâm của người ta chỉ là một cái gì đó giả dối, không cầm, không nắm được. Vậy mà, con người cứ chấp nó là có thật để rồi vui buồn theo nó. Khi được người ta cảm phục thì vui. Khi bị người ta khinh ghét lại buồn. Xòe bàn tay ra xin Hòa Thượng cho tiếng tăm là vị Tăng muốn nói cái đó không có thật, không cụ thể như cơm ăn áo mặc, vô hình, giả dối. Bởi vậy, ngài Động Sơn đã nói : “Tiếng tăm của ta đã hết”. Thực ra, đó là một lời khen, khen vị Tăng kia đã hiểu được bản chất vấn đề. 

Khi còn nhỏ, trong chúng ta không ít người được người lớn khen vài lần. Nếu từng được người khác khen ngợi và tỏ ra cảm phục, chúng ta sẽ rất khó quên cảm giác sung sướng ấy. Đó là cảm giác rất mạnh, rất rõ mà chính chúng ta cũng không sao hiểu nổi. Như vậy, được người khác cảm phục cũng là một hạnh phúc và điều ấy luôn được người ta đeo đuổi, thèm khát. Cũng chính nó đã gây nên biết bao nhiêu thảm cảnh, bao nhiêu oan trái trong cuộc đời này. 

Chúng ta phải nhìn thấy tâm thèm khát sự cảm phục của người khác là điều rất nguy hiểm, là một ảo tưởng, ảo vọng, giả dối và phải vượt qua được điều đó. Chúng ta nên chấp nhận sống một đời thanh bai, kín đáo, không cần ai biết đến mình. Có thể trong cuộc đời, chúng ta sẽ làm được nhiều việc tốt cho Đạo, được nhiều người biết đến và nể phục. Những lúc ấy, chúng ta càng cần phải cẩn thận, đừng rơi vào trạng thái thèm khát sự cảm phục của người khác.

2.         KÍN ĐÁO KHÁC VỚI THÂM HIỂM. 

Kín đáo trong Đạo là không mong sự cảm phục của người khác, vì chúng ta không muốn sinh tâm kiêu mạn, không muốn thấy mình là quan trọng trước mắt moi người. Như vậy, xét trên khía cạnh Đạo đức, chúng ta cần phải sống kín đáo, không khoe khoang về mình. Nhưng trong thế gian, không phải bao giờ người kín đáo cũng là người tốt. Có những người kín đáo vì thâm hiểm. Thâm nghĩa là sâu. Hiểm là hiểm độc. Người thâm hiểm thường giấu kín ý định xấu của mình để thừa cơ hội ra tay thực hiện. Những ý định xấu đó là mưu hại người, làm những điều ác độc với cuộc đời. Bề ngoài, lúc nào cũng thấy họ ít nói, chỉ im lặng hoặc mỉm cười nhưng bên trong họ là người thâm hiểm, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để hại người khác. 

Trong cuộc sống, chúng ta gặp nhiều người rất ít nói. Có người ít nói vì hiền lành. Tâm họ rỗng rang, thanh thản, không bận tâm nên không có gì để nói. Theo khoa học, đó là người có vùng não của ngôn ngữ  không hoạt động nhiều nên ít nói. Những người như vậy là người có căn tu, hiền lành, hợp với Đạo. Nhưng có trường hợp ít nói không phải là hiền lành. Họ vẫn có thể là người độc ác hoặc cộc cằn. Chúng ta phải cẩn thận khi đánh giá hai loại đối tượng này để tránh nhầm lẫn. Muốn biết một người ít nói là hiền lành, hợp với Đạo hay thâm hiểm, chúng ta nên nhìn vào đôi mắt của họ. Người ta nói :“Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Quả thật như vậy. Nếu nhìn đôi mắt họ từ ái, thong dong, thư thả, chúng ta biết đó là người hiền lành. Còn nhìn vào đôi mắt sâu hiểm, chúng ta biết ngay con người ấy cộc cằn và ác độc. 

Không ít người từng rơi vào hòan cảnh thất điên bất đảo cũng vì những con người có bề ngoài tưởng như hiền lành ấy. Một Thầy kể rằng, khi được Thầy lớn giao về Trụ trì một ngôi chùa trong làng để giữ khu đất mới khai khẩn, các Phật tử họp bàn, đồng ý và Thầy đã về nhận chùa. Khi về, chùa đã có sẵn một người giữ chùa, gọi là chủ chùa. Nhờ các Phật tử thuyết phục, ông ta đồng ý cho Thầy ấy về Trụ trì. Ở đấy, ai cũng bảo rằng ông ta hiền. Ông ta rất ít nói nhưng khi đã tiếp xúc, mới biết đây là con người rất thâm hiểm và ác độc. Được một tuần, vào lúc trời vừa rạng sáng, thừa lúc chùa không có ai, ông ta vào chùa và yêu cầu vị Trụ trì mới phải rời chùa ra đi. Thì ra, bao nhiêu Thầy, bao nhiêu Ni cô đến đây đều phải ra đi vì bị ông ta đuổi đi một cách bí mật. Những người ấy cũng ngại điều gì đó nên không nói cho ai biết, lặng lẽ xách gói ra đi. Riêng vị Trụ trì này không chấp nhận yêu cầu của ông ta, cũng không tự ái nên đã đề nghị hỏi ý kiến Phật tử. Tối hôm đó, Phật tử và cả mặt trận chính quyền họp lại. Tất cả đều  ủng hộ vị Trụ trì đó. Cuối cùng, chính ông ta đã bỏ đi khỏi chùa. Sau đó, ông ta vẫn nuôi hận trong lòng và mưu hại vị Trụ trì kia thật thê thảm. Con người được mọi người cho là hiền lành, ít nói ấy thực chất là như vậy. 

Cũng có những trường hợp, người ta giấu sở trường, giấu tài sản, giấu ưu thế, giấu thực lực… của mình. Đây là loại người có bản lĩnh. Chúng ta chưa nói như vậy là xấu hay tốt nhưng phải thừa nhận rằng họ là người có bản lĩnh. Có khi chúng ta cũng phải biết áp dụng cái bản lĩnh ấy trong cuộc sống. Không nói ra thực lực, sở trường của mình trước hết là vì Đạo đức, sau nữa là vì khôn ngoan. Người khôn ngoan thường không nói ra những gì mình có được, nhất là về tiền bạc. Trong thế gian, những người hay khoe cái mình có thường là người không có bản lĩnh. Trường hợp người không có tiền của cũng cố gắng chạy vạy mua sắm cho bằng thiên hạ càng cạn cợt hơn nữa. Những người như vậy rất khó làm nên việc lớn. 

Những người có dịp tiếp xúc với giới xã hội đen đều cho rằng, những tay trùm, những tay  anh chị thường là những người tỏ ra hiền lành, nói năng lịch sự, khác hẳn với bọn đàn em luôn tỏ ra dao búa, gặp đâu gây đó, nói năng thô tục. Đó là những người có bản lĩnh, biết giấu thực lực của họ để không bị người khác nhòm ngó. Trong giới kinh doanh cũng vậy, những người làm ăn lớn thường không cho người khác biết thực lực của mình vì sợ bị cạnh tranh. Hiện nay, việc “ăn cắp” kỹ thuật trong sản xuất để cạnh tranh là một trong những vấn đề bức xúc nhất trên thế giới. Bởi vậy, người ta thường giấu những bí mật về công nghệ, về kỹ thuật. Ngày xưa, người Việt Nam ta và người Trung Hoa thường có hiện tượng “giấu nghề”, nhất là những nghề gia truyền. Cho nên, có nhiều nghề dần dần bị mai một đi và thất truyền, bây giờ không còn nữa. 

Trong khi đó, ở phương Tây, khi phát minh ra những lý thuyết về khoa học, người ta thường công bố cho mọi người cùng biết. Ví dụ, một nhà khoa học người Anh phát minh ra một kỹ thuật hiện đại trong chế tạo máy hơi nước. Sau đó, nhà khoa học người Đức lại tiếp tục nghiên cứu và phát minh ra kỹ thuật khác hiện đại hơn. Nền văn minh của họ vì thế mà tiến bộ vượt bậc. Hiện nay, về khoa học - kỹ thuật, chúng ta phải học theo phương Tây rất nhiều. Có thể nói, họ gần như cho không nhân loại về công nghệ kỹ thuật. Tuy nhiên, khi xã hội có sự canh tranh gay gắt về kinh tế, người ta cũng bắt đầu giấu sở trường, giấu những cái hay, sự tiến bộ của mình. Bởi vậy, luật bảo vệ tác quyền của con người ra đời. Tất cả những sáng chế, phát minh đều được đăng ký bảo vệ. Nếu ai bắt chước, tác giả có thể nhờ luâït pháp can thiệp. Nhưng sau 50 năm, những sở hữu trí tuệ đó đều trở thành của chung nhân loại, ai cũng có quyền sử dụng. Nhờ vậy mà nhân loại ngày càng tiến bộ. 

Như vậy, người có bản lĩnh, khôn ngoan, thường giấu sở trường của mình. Nhưng không phải bao giờ người khoe khoang cũng là người cạn cợt, không đáng sợ, không làm được việc lớn. Có trường hợp, khoe khoang mà vẫn khôn ngoan, thủ đoạn. Đó là trường hợp khoe khoang để lừa đảo. Chúng ta thường gặp đối tượng này trên hai lĩnh vực : tôn giáo và kinh tế. 

Trong tôn giáo, những người này thường bắt chước Phật và Chúa. Khi Phật đắc đạo, Ngài tuyên bố là Ngài thành Phật, thành đấng Giác Ngộ. Chúa cũng nói Ngài là con của Đức Chúa Trời. Nhưng cuộc sống của các Ngài đã chứng minh những lời nói đó là thật. Chúng ta phải thừa nhận rằng, những giáo pháp mà Đức Phật để lại thật tuyệt vời. Trước Ngài, không ai nói được như vậy. Và sau Ngài, cũng không ai có thể nói hay hơn. Ngày nay, người ta nói rất nhiều, sách viết về Phật còn nhiều hơn Phật thuyết. Nhưng tất cả đều phải dựa vào những điều Phật đã nói. Cuộc sống của Phật là cả một bức tranh Đạo đức tuyệt vời, không ai có thể sánh bằng. Bởi vậy, những điều Ngài nói về Giác ngộ đã được Ngài chứng tỏ trong suốt cuộc sống rất Thần thông, Trí tuệ và rất Đạo đức của Ngài. Chúa cũng chỉ đi giảng đạo 3 năm rồi mất nhưng Ngài đã thể hiện được thần thông, phép lạ, Trí tuệ và Đạo đức của mình. 

Về sau, nhiều tôn giáo đã được thành lập bởi những giáo chủ cũng lớn tiếng khoe khoang, quảng cáo về mình. Họ tự xưng mình là Thần, là Thánh và mười người nghe được cũng có đến hai, ba người tin. Bởi vậy, gặp những đối tượng nói như đinh đóng cột là đã chứng đạo, chúng ta phải cẩn thận, không khéo họ thuộc về trường hợp này. Ví dụ, giáo chủ của đạo Aum Shrykyu cũng từng tuyên bố là mình đã đắc đạo. Nhiều người nghe hấp dẫn quá đã tin theo và cúng cho ông ta bao nhiêu là tiền bạc. Ông ta cho xây dựng những trung tâm chế tạo vũ khí, chế tạo chất hoá học với mục đích chiếm và cai trị luôn nước Nhật. Cuối cùng, việc đã không thành, ông ta và các tín đồ đã bị bắt. 

Ở miền Tây nước ta, trước kia có một người tên là Nguyễn Long Châu cũng tự xưng là Thần, Thánh. Ai chống lại sẽ bị ông ta bí mật cho người hạ thủ ngay. Hoặc có một thời, người ta truyền cho nhau nghe cuộn băng thu giọng nói của một người đàn bà tự xưng là được Thượng đế nhập để giảng đạo. Những điều bà ta nói không có gì sâu sắc, giọng nói cũng không có vẻ gì thần lực. Nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn lạy lục để bà ta ban phép…

 Người đời cũng lắm kẻ dễ tin. Cho nên, lợi dụng lòng tin của con người, nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng đã được thành lập. Mục đích của những tôn giáo ấy là lừa bịp để thỏa mãn những tham vọng cá nhân. Trong đạo Phật của chúng ta cũng có người cố làm ra vẻ mình là người đã đắc đạo để tìm sự ngưỡng mộ của Phật tử. Tuy trường hợp này trong đạo Phật không nhiều vì có giới cấm, nhưng chúng ta phải cẩn thận. 

Ở những quốc gia cho tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, nhiều người đã lập nên nhiều đạo kỳ quái, truyền bá những tư tưởng sai lầm, đem lại tà kiến cho con người. Tất nhiên, sau khi chết, những kẻ ấy phải đoạ địa ngục để trả lại những điều dối trá mà họ đã gây nên. Nhưng trong cuộc sống hiện tại, bước đầu họ đã đạt được tham vọng, chiếm được sự quy phục, ngưỡng mộ của một số người dễ tin. 

Trên lĩnh vực kinh tế, có nhiều trường hợp khoe khoang về thực lực của mình để lừa người khác. Thực tế đã cho thấy, không ít người tan cửa nát nhà vì tin vào sự giàu có của người khác. Tiền bạc họ dành dụm được từng đồng đã góp cho các chủ hụi để rồi trắng tay, chỉ còn cách ngửa mặt kêu trời. Nhiều vụ án động trời xảy ra gần đây phần lớn đều có liên quan đến vấn đề kinh doanh của những công ty lớn. Các vị Giám đốc không ngần ngại phô trương tài sản của mình để vay thế chấp Ngân hàng và lao vào vòng quay nghiệt ngã của nền kinh tế thị trường. Cuối cùng, khi mọi việc vỡ lỡ, người ta mới biết rằng đó cũng là một cách lừa đảo vay chỗ này, thế chấp chỗ kia. Đây là trường hợp khoe khoang nhưng hoàn toàn không phải do cạn cợt mà là thủ đoạn. 

3. TRONG SỰ TU HÀNH, HẠNH KÍN ĐÁO LÀ QUAN TRỌNG 

Đó là vấn đề kín đáo, khoe khoang đối với người đời. Trong sự tu hành, hạnh Kín đáo là điều quan trọng. Vì khi nói cho người khác biết về cái hay của mình thì điều không hay sẽ xuất hiện. Đó cũng là lý do tại sao cuộc sống của chúng ta lại lắm thăng trầm. Thăng vì đôi lúc chúng ta biết khiêm hạ nhưng trầm vì chúng ta còn mắc bệnh khoe khoang. 

Ví dụ, một người thấy mình có nhiều ưu điểm: giỏi giang, siêng năng, lanh lợi, làm việc chu đáo, liền đem khoe với người khác, sau đó điều không hay đã xảy ra ngay. Họ làm việc gì cũng gặp điều xui xẻo, không thành công. Không chỉ riêng người tu hành, các Phật tử cũng thường mắc phải điều này. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy, hễ cái gì mình tự cho là hay, cái không hay đó sẽ đến ngay. 

Về công phu tu tập mỗi ngày, chúng ta cũng phải kín đáo. Nếu nói ra cho người khác biết, chúng ta sẽ gặp trở ngại, không thực hành được nữa. Ví dụ, một người ngồi Thiền rất siêng năng, mỗi ngày ngồi ba thời đều đặn. Một hôm, trong lúc nói chuyện với người khác, người ấy bộc lộ: “Một ngày tôi ngồi Thiền được ba lần”. Bỗng dưng qua ngày sau, người ấy không ngồi Thiền được nữa. Đến giờ ngồi Thiền, chuyện không đâu tự nhiên kéo đến: khi bệnh hoạn, ốm đau, khi trở ngại công việc... Cứ thế, có khi họ phải bỏ luôn cả tháng trời không ngồi Thiền được. 

Hoặc một người tu pháp môn niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi…họ đều niệm Phật. Nếu chỉ niệm trong tâm thì không ai biết. Nhưng vì muốn khuyến khích Phật tử tu hành, người ấy đã nói cho Phật tử biết: “Thầy lúc nào cũng vậy, đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm Phật”. Sau đó, người ấy gặp nhiều khó khăn trở ngại trong việc niệm Phật. Nhiều khi cũng niệm Phật nhưng Thầy toàn nghĩ đến những chuyện đâu đâu. Câu niệm Phật vì thế cũng biến đâu mất.

Nói chung, chúng ta không được lộ công phu thực hành ra cho người khác biết. Ngay cả lúc ngồi Thiền, chúng ta cũng phải tìm chỗ kín đáo, không được ngồi chỗ trống trải nhiều người biết, trừ khi ngồi Thiền tập thể ở trong chúng. Nếu ở gia đình, quý Phật tử tập ngồi Thiền cũng cần phải kín đáo. Đến giờ ngồi Thiền, mỗi người nên vào phòng đóng cửa lại, không cho ai biết. Có như vậy, việc ngồi Thiền của chúng ta mới được lâu bền. Đó chính là công phu tu tập của chúng ta. 

Có một vị Sư từng khoe là mình tu Thiền rất tốt. Một lần, ông ta đắp y, mặc áo vàng, ngồi Thiền trên một tảng đá. Vị trí ngồi Thiền của vị Sư ấy rất trống trải, ai qua lại cũng nhìn thấy. Ngồi được ngày thứ nhất, ngày thứ hai, rồi sau đó ông chẳng bao giờ ngồi Thiền được nữa. Lý do thứ nhất là vị Sư ấy đã khoe khoang công phu của mình bằng lời nói, sau đó là khoe khoang về hành động. Ngồi Thiền nhưng ông đã chọn vị trí mà những Phật tử đi qua đi lại đều nhìn thấy. Công phu của ông vì thế mà mất hết. 

Như vậy, một lời nói có khi làm mất công phu của mình đến hàng tháng, có khi vài ba năm hoặc vài ba kiếp. Nhiều khi đã nhìn thấy lỗi, chúng ta phải sám hối đến mấy tháng sau mới lấy được công phu trở lại. Có những trường hợp, vì lỡ một lời mà vài ba năm hoặc vài chục năm sau, có khi vài ba kiếp sau, chúng ta mới lấy lại được. Bởi vậy, chúng ta phải cẩn thận trong lời nói, đừng bao giờ khoe khoang. 

Chúng ta cũng không nên nói về kết quả đạt được vì sẽ bị thối thất. Trong cuốn Luận về Nhân Quả, tác giả có dẫn câu chuyện về ngài Trí Khải và một vị Tăng trong Tùng Lâm tuyển tập. Khi ngài Trí Khải đến gặp vị Tăng, ông ta không thèm ngồi dậy chào mà chỉ nói về Định mà mình có được. Ông cho rằng, mình đã được Định. Nhờ Định này, khi nghe trong núi có một chấn động, hướng tâm về đó, ông ta biết có một vị Tăng đang quán lý Vô thường và quán rất đắc lực. Cho nên, khi thần lực đó phát ra, ở đây nhờ có Định, ông ta nhận được điều đó. Vị Tăng hỏi ngài Trí Khải: “Đó là định gì ?”. Ngài Trí Khải trả lời: “Đó là biên Định, chưa sâu, mới chỉ bên ngoài nhưng vì nói ra nên mất”. Nghe nói, ông ta giật mình, đứng lên và nói: “Mất rồi”. Ông vừa nói xong, tự nhiên Định đang có trong Tâm mấy tháng nay, mấy năm nay đã biến mất. Muốn lấy lại Định đó không phải là chuyện đơn giản, có khi phải mất hai ba chục năm sau. Vì nguy hiểm như vậy nên chúng ta phải cẩn thận, không nói về những kết quả tốt mà mình đạt được. 

Ví dụ, khi tu Thiền đã nhiếp tâm được vào trong Định, chúng ta sẽ cảm thấy an lạc, hạnh phúc. Cảm giác sung sướng, hạnh phúc, an lạc ấy không thể diễn tả được bằng lời. Đôi khi không kiềm chế được, chúng ta bộc lộ cho người khác biết. Như vậy, chúng ta sẽ mất ngay cái Định đó. Nhưng vì sao chúng ta lại nói ra cái hay của mình ? Quá trình này thường trải qua hai giai đoạn. Trước hết, trong tâm chúng ta tự công nhận mình có cái hay và sau đó là nói ra cái hay đó.

Ví dụ, chúng ta là người tu hạnh Nhẫn nhục, tùy thuận ở trong chúng. Nghĩa là trong chúng ai nói nặng nhẹ điều gì, chúng ta cũng hoan hỷ, không giận hờn ai. Đây là điều tốt mà chúng ta có được trong nhiều năm nay. Một hôm, thấy người này người kia hay cãi nhau, hay sân với nhau, chúng ta bỗng so sánh và chợt nhận ra mình là người nhẫn nhục. Nghĩa là trong tâm ta đã tự công nhận mình là người nhẫn nhục trước. Khi đã thừa nhận điều này, một lúc nào đó, khi nói chuyện với người khác, chúng ta bỗng nói : “Tôi là người rất nhẫn nhục”. Nói như vậy, tưởng không có gì quan trọng nhưng sau đó chuyện bực mình đã liên tiếp xảy ra khiến chúng ta nổi giận. Nghĩa là sự nhẫn nhục không còn nữa. 

Đó là những chuyện nhỏ. Trong quá trình tu tập, có những chuyện lớn hơn, quan trọng hơn nhất là công phu tu tập, những Trí tuệ đạt được, những Định đạt được…, chúng ta phải hết sức kín đáo. Khi có điều gì hay và chúng ta đã tự công nhận thì phải nhớ tâm niệm: “ Điều ấy chưa chắc chắn đâu”. Nếu nói ra, tất cả điều tốt ấy sẽ mất hết, sẽ tan vỡ hết. Chúng ta phải luôn ý thức rằng, vì chưa thật sự chứng Thánh nên hạnh mà mình có được, điều hay mình có được chưa chắc chắn. Hoặc tuy có hạnh tốt ngày hôm nay nhưng có thể chưa qua thử thách, khi gặp khó khăn, trở ngại chưa chắc mình giữ được vv…Hễ vừa phát hiện ra điều tốt của mình, chúng ta phải tự nhủ điều ấy. Vượt qua giai đoạn thứ nhất, chắc chắn chúng ta không vấp phải sai lầm ở giai đoạn thứ hai là nói lời khoe khoang. 

Có những điều hay mất đi chỉ vài tháng sau chúng ta có thể lấy lại, nhưng  cũng có những cái trầm trọng đến vài ba kiếp sau mới lấy lại được. Nói như vậy hoàn toàn không cường điệu. Có vị tu Thiền đắc đạo, phát ra được trí tuệ, bát nhã, thong dong, tự tại, đối đáp Thiền ngữ như mây, như gió. Trong những bài giảng pháp, vị này nói rằng chỉ một cái tâm này là Phật, cái tâm rỗng rang như không, cái tâm trùm khắp pháp giới. Nghĩa là, người ấy diễn tả cái tâm mình chứng được và nói tâm đó là Phật, nghĩ mình là triệt ngộ bằng Phật, không cần tìm đâu nữa. Đến khi chết, ông ta ngồi kiết già tịch đàng hoàng. Đến mức độ như vậy, chúng ta cũng nghĩ rằng  chưa chắc chắn. Vì sao? Vì qua kiếp sau, tùy phước, có khi ông ta lên làm vua. Qua một kiếp làm vua như vậy, nhân ái dục đã  gieo sẽ kéo dài đến bao nhiêu kiếp mới có thể lấy lại được. Có khi đi qua hai ba chục kiếp dần dần vị ấy mới hiểu được lỗi của mình và cố gắng lấy lại công phu trong kiếp mình chứng được. Chúng ta biết rằng, công phu ngồi kiết già tịch phải mất hai chục kiếp sau mới có thể lấy lại đúng trình độ đó. 

Chúng ta ít nhiều đều biết đến Tô Đông Pha ( Trung Quốc ), con người có tâm hồn phóng khoáng nhưng lại lận đận trong chốn quan trường. Người ta kể rằng, kiếp trước ông ta là Sư Giới, tu ở chùa Ngũ Tổ. Vị Thiền sư Sư Giới này có sức ngộ rất khủng khiếp. Bao nhiêu người dùng Thiền Ngữ đối đáp với ông đều thất bại. Vì sắc bén như vậy nên ông được các Thiền sư khác khen ngợi. Khi chết, ông đầu thai thành Tô Đông Pha. Vậy, tại sao người ta biết Tô Đông Pha là hậu thân của Ngũ Tổ Sư Giới ? Chuyện kể rằng, một lần, nhân có công việc gì đó, ông Tô Đông Pha đã đi đến vùng nọ. Trong khi đó, có ba người, kể cả hai vị sư nữa cũng đi đến đó. Khi đến nơi, ba người cùng kể là đêm qua mình nằm mơ thấy Ngũ Tổ Sư Giới. Họ không hiểu tại sao hôm nay người mình gặp chính là Tô Đông Pha. Lúc ấy, ông Tô Đông Pha mới nhớ ra rằng, khi còn nhỏ  (khoảng bảy, tám tuổi ), ông thường nằm mộng thấy mình là một vị Tăng ở ngôi chùa mà kiếp xưa có ông Ngũ Tổ Sư Giới tu tại đó. Từ những câu chuyện như vậy mà người ta cho rằng ông Tô Đông Pha là hậu thân của Ngũ Tổ Sư Giới. Cả cuộc đời, ông Tô Đông Pha chịu biết bao long đong, lận đận, bị đày lên, đày xuống trong chốn quan trường. Trong khi đó, đời trước ông từng là một vị Tăng xuất sắc. 

Như vậy, có những trường hợp chỉ lỡ một lời hay có sự hiểu sai về một điều gì đó, con người phải chịu biết bao gian truân, và những công phu, những điều hay có được bị mất đi đến hai, ba kiếp hoặc có khi hai, ba chục kiếp sau mới lấy lại được. Bởi vậy, chúng ta phải luôn có câu “thần chú” gì đó để hộ mạng mình, để giữ miệng mình không bật ra lời nói khoe khoang. 

Trong cuộc sống, có những kế hoạch làm việc, đôi khi chúng ta cũng không nên nói sớm. Những người hay nói trước điều mình định làm thường hay gặp trở ngại trong công việc. Quả thật, sống lâu ở ngoài đời, chúng ta sẽ thấy điều này rất đúng. Dân gian ta có câu: “Nói trước bước không tới”. Còn ngạn ngữ phương Tây cho rằng: “ Một trong những bí quyết giúp con người thành công là phải giữ bí mật đến cùng”. Để rút ra những kinh nghiệm như vậy, chắc chắn người xưa phải trải qua những thất bại cay đắng lắm.

Vì vậy, có những công việc, thường là dự định việc gì, chúng ta chỉ bàn với những người có bổn phận, có trách nhiệm và với những người có quyết tâm, không nên nói rộng rãi cho người khác biết. Khi đã nói ra dự định, chúng ta có cảm giác như mình đã làm rồi, đã hưởng được danh dự rồi và vì thế mà không làm được nữa. Điều này nghe có vẻ kì lạ, không giải thích được nhưng lại là điều có thật, chúng ta cần phải lưu ý.

Ví dụ, có người gặp ai cũng luôn miệng nói : “ Mai mốt, chắc chắn tôi đi tu, tôi sẽ làm Phật”. Thực tế cho thấy, người ấy không bao giờ đi tu được nữa, đừng  nói là được làm Phật. Có một Thầy kể rằng, khi chưa xuất gia, Thầy cùng với một người bạn ước hẹn với nhau là sẽ đi tu và chỉ có hai người biết điều này thôi. Nhưng mấy hôm sau, không ngờ những người bạn khác cũng biết chuyện đó, biết chuyện người bạn định đi tu. Rồi ý định của hai người không thực hiện được vì không hiểu sao hoàn cảnh lúc ấy rất khó khăn, duyên hình như cũng chưa đến. Cho đến khi bất ngờ, duyên hiện ra, người này không nói với ai hết và vào chùa luôn. Sau này, người ấy mới biết anh bạn cùng ước hẹn với mình khi xưa đã lập gia đình, không bước chân vào con đường tu hành. 

Không chỉ riêng trong việc tu hành, việc ngoài đời cũng vậy. Những kế hoạch làm việc, nếu nói sớm quá, người thế gian cũng khó thành công. Bởi vậy, làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng nên âm thầm, lặng lẽ, lặng lẽ một cách khiêm tốn, không khoe khoang, chắc chắn chúng ta sẽ thành công. 

4. NHỮNG TRƯỜNG HỢP CÓ THỂ KỂ VỀ ƯU ĐIỂM CỦA MÌNH. 

 Tuy nhiên, trong cuộc sống cũng có những trường hợp có thể kể về những ưu điểm của mình. Đó là những người có sự hiểu biết uyên thâm, có được nhiều điều hay. Khi tự biết mình được mười, người ấy có thể kể một hoặc hai khi cần khuyến khích người khác. Ví dụ, khi thấy một người vào chùa tu hành nhưng ít lạy Phật, chúng ta khuyên người ấy nên cố gắng lạy Phật. Để có sức thuyết phục, chúng ta có thể kể những điều mình có được khi siêng năng lạy Phật. Nhưng phải lưu ý một điều, những cái đạt được có thể rất đặc biệt, chúng ta chỉ nói rất ít thôi. Chẳng hạn, nhờ siêng năng lạy Phật, tự nhiên chúng ta có được trực giác, có thể biết chuyện này, chuyện kia. Hoặc khi lạy Phật nhiều, đi đến nơi nào, chúng ta cũng đem may mắn đến cho người khác. Hoặc ai đối xử tốt với mình, hôm sau họ sẽ gặp may mắn vv…Tất cả những điều ấy, chúng ta phải giấu, không nên nói ra. Khi khuyên người khác lạy Phật, chúng ta chỉ kể một chút rất nhỏ để khuyến khích họ. Chúng ta có thể nói cho họ biết, nhờ lạy Phật mà đạo tâm mình vững hơn, lỗi lầm mình bớt phạm hơn.

Một ví dụ khác, khi thấy một người vào chùa mà không siêng năng công quả, chúng ta biết người ấy sẽ không có phước. Người đã xuất gia phải sống một đời hết sức vị tha, lo cho Tam Bảo, cho Phật pháp; lo cho huynh đệ, cho chúng sinh, lo cho tất cả mọi người, không bao giờ chỉ lo cho bản thân mình hay đi tìm sự nhàn nhã. Có như vậy, phước mới dần dần tăng trưởng. Có thể người ấy hiểu Đạo chưa sâu nên lười công quả. Chúng ta phải khuyên người ấy cố gắng công quả, siêng năng làm việc, coi như lấy công quả để cúng dường Tam Bảo. Chúng ta có thể nói, nhờ siêng năng công quả mà mình cảm thấy đời sống được dễ chịu, khi cần cái gì tự nhiên không bao lâu sẽ lại có được… Kể về những điều có được của bản thân mình cho huynh đệ biết là để khuyến khích, sách tấn họ. Sự thật, kết quả đạt được do công quả gấp mười lần như vậy nhưng chúng ta không nói. Khi siêng năng công quả, tâm Vị tha sẽ phát triển. Rồi tâm Vị tha sẽ là nguồn sức mạnh ủng hộ cho Thiền định rất hiệu quả. Siêng năng công quả sẽ tạo nên Phước, Phước đi sâu vào trong đầu, Trí tuệ được mở ra, bỗng nhiên chúng ta học rất sáng, học rất giỏi, có thể thuyết Pháp rất sâu…Những điều hay do công quả chúng ta không nói hết, chỉ nói những cái phước nhỏ để khuyên huynh đệ mình. Đây là trường hợp được mười mà chỉ kể một, hai. 

Trường hợp thứ hai có thể nói chuyện mình đó là người đã tu đến chỗ không thấy mình nữa. Tuy kể chuyện mình mà người ấy vẫn thấy như chuyện của người khác. Vì thấy rằng, đó là quy luật tất nhiên phải xảy ra. 

Ví dụ, khi gặp một Phật tử, chúng ta nói: “Đường sá trong làng hay hư, quý Phật tử cố gắng làm, đắp đường có phước lắm. Tôi rất siêng đắp đường. Ở đâu có đường hư là vác cuốc đi làm, tìm đắp những ổ gà, có chút tiền là thuê người phụ làm đường. Sau này, khá hơn một chút, lại làm những con đường lớn hơn.  Nhờ vậy mà bây giờ tôi có xe hơi đi”. Cách nói như vậy không hay lắm. Hãy kể giống như vậy, nhưng giả định câu chuyện đó thuộc về một người khác: “Ngày xưa có một người hay siêng năng đắp đường….”.  Kể chuyện của chính mình nhưng chúng ta làm như kể chuyện của người khác, không xem mình là quan trọng nữa. 

Trường hợp thứ ba, chúng ta có thể kể về mình là khi kể một ưu điểm thì tự kể thêm vài khuyết điểm. Ví dụ, khi khuyên Phật tử cố gắng tu hạnh Khiêm hạ, chúng ta lỡ lời, tự khoe mình Khiêm hạ, lúc nào cũng thấy mình như cát bụi, nhờ vậy trong đời sống luôn được huynh đệ thương và mọi chuyện dễ thành công vv… Sau đó, chúng ta phải kể thêm vài lỗi của mình để bù lại. Trong cuộc sống, có nhiều người làm chúng ta phải ngạc nhiên vì họ không bao giờ kể những thành công hay những điều tốt của mình mà toàn kể chuyện xấu, chuyện thất bại. Những người ấy đáng để cho chúng ta học hỏi. 

Trường hợp thứ tư, chúng ta có thể kể chuyện mình khi tâm hiếu danh không còn nữa. Chúng ta không có tâm thèm khát sự cảm phục của người khác, không muốn được kính trọng, chỉ kể để sách tấn hoặc giúp người khác một kinh nghiệm tu hành. Tất nhiên, chúng ta phải diệt tận gốc tâm hiếu danh, tâm thèm khát được người khác kính trọng. Khi nói chuyện của mình, chúng ta cũng sẽ bị tổn phước, bị mất công phu nhưng đôi khi vì kinh nghiệm đó cần thiết, chúng ta cũng phải nói để người khác biết mà tu hành, nhất là những lắc léo trong Thiền định. 

Riêng trường hợp Phật hay các vị Alahán tuyên bố quả vị mình vì tâm của các Ngài đã hoàn toàn Vô ngã. Phật tuyên bố vì Ngài hoàn toàn Vô ngã, không còn tâm hiếu danh. Đây cũng là sự cần thiết để xác định danh nghĩa. Cũng như các vị Alahán khi chứng xong, cái ngã tan biến, các Ngài cũng tuyên bố: 

Ba minh ta chứng được

Lời Phật dạy làm xong.

Ngài nói một cách vinh quang, rống lên tiếng rống của con sư tử bởi vì Ngài không còn ngã. Ngài nói câu đó không phải vì tâm tự hào, hiếu danh nữa. Còn chúng ta không nên nói vì chưa có cái Vô ngã nên nói ra dễ bị lỗi, dễ bị bản ngã lừa gạt.

Những vị Bồ Tát thị hiện cũng ít khi bộc lộ thân phận. Các Ngài thường giấu kín thân phận mình. Phật và các vị Alahán còn nói về mình, các vị Bồ Tát thị hiện bao giờ cũng giấu. Có khi thị hiện vào trong cuộc đời, các Ngài giả vờ làm vài lầm lỗi để chúng sinh đừng nghĩ các Ngài là cao siêu. Khi mọi người nghĩ các Ngài cũng bình thường như bao người khác, các Ngài dễ gần gũi và giáo hoá họ hơn. Và nếu không có lầm lỗi, nếu đặc biệt quá, người ta sẽ nghi ngờ, sẽ dè dặt, cẩn thận, các Ngài không làm được những chương trình mà mình đã vạch ra. 

Chúng  ta hay kể câu chuyện ngài Hư Vân đi triều sơn, về Ngũ Đài Sơn, đi lễ Bồ Tát Văn Thù, cứ 3 bước lạy 1 lạy. Ngài đi qua mùa đông tuyết phủ và bị bệnh, Bồ Tát Văn Thù hiện ra làm ông già tên là Văn Cát cứu chữa cho Ngài. Lúc đi, Ngài thấy ông già đi ngược đường lại. Khi Ngài bệnh, ông ta săn sóc cho cho Ngài xong rồi đi luôn. Lúc bệnh phải nằm lại, Ngài lại thấy ông ta. Ông nói: “Tôi vừa mới đi về trở lại”. Cứu chữa cho Ngài xong, ông ta vác hành lý giúp Ngài Hư Vân để Ngài  lạy Bồ Tát. Thấy vậy, ông già nói: “Thôi, lạy đủ rồi, đừng lạy nữa”. Ngài Hư Vân đâu biết ông là Bồ Tát Văn Thù nên nói một cách kiên quyết: “Tâm tôi đã quyết, tôi thà sinh mạng bỏ chứ phải lễ Bồ Tát”. Thấy tội nghiệp quá, ông già bảo: “Thôi, Thầy đưa hành lý tôi xách cho để Thầy lạy cho khoẻ ”. Thế là ông già, vị  Bồ Tát mà Ngài Hư Vân lạy, xách túi đi đằng sau, còn Ngài cứ đi 3 bước lạy 1 lạy về phía trước. Khi Ngài hỏi: “Tiên sinh tên gì?” Ông già trả lời : “Tôi tên là Văn Cát”. “Tiên sinh ở đâu?” “Tôi ở núi Ngũ Đài Sơn. Thầy đến Ngũ Đài Sơn hỏi tôi, ai cũng biết”. Ngài Hư Vân cứ tưởng ông già hay đi chơi lòng vòng mấy chùa nên ai cũng biết, đâu có ngờ chùa nào ở Ngũ Đài Sơn lại không thờ Bồ Tát Văn Thù. Sau khi đến nơi, Ngài đi hết chùa này đến chùa kia và hỏi: “Ở đây có tiên sinh Văn Cát không?”. Không ai biết cả. Sau đó, khi gặp một Thượng tọïa, Ngài kể lại câu chuyện gặp ông già Văn Cát trên đường đi triều sơn, Thượng toạ giật mình : “Thôi chết rồi, Bồ Tát Văn Thù đó”. Câu chuyện nghe rất thấm thía nhưng đó cũng là cách chứng minh các vị Bồ Tát thị hiện thường giấu kín thân phận. 

Đôi khi, bên cạnh chúng ta cũng có một Bồ Tát thị hiện mà chúng ta không nhận ra vì vẻ ngoài rất bình thường, thậm chí còn rất ngu ngơ, còn mắc phải những lỗi lầm. Chúng ta phải cẩn thận, không nên coi thường những người như vậy. 

5. NHỮNG ĐIỀU TRONG TĂNG CHÚNG, KHÔNG NÊN NÓI RA NGOÀI. 

Trong Tăng chúng, có những điều chúng ta phải kín đáo, không nên nói ra ngoài. Ví dụ, chúng ta không được nói vấn đề tài chính của chùa. Chùa giàu hay nghèo, chỉ những người trong chùa biết mà thôi. Vì nếu nghèo, chúng ta nói ra ngoài, người ta sẽ cho là mình tham, cầu cúng dường. Nếu nói rằng chùa giàu, người ta không hiểu sẽ cho là mình khoe khoang. Điều này rất nguy hiểm.

Hơn nữa, chúng ta không hiểu hết những dự định của Thầy mình. Đôi khi, Thầy cần tích lũy một số tiền để trùng tu lại chùa hay làm một việc gì đó nhưng Thầy kín đáo, không nói ra. Nếu đi đâu cũng khoe về nguồn tài chính tích lũy được của chùa, vô tình chúng ta đã hại Thầy mình, khiến Thầy không làm được Phật sự lớn như ý nguyện nữa. Bởi vậy, tốt nhất là chúng ta không nên nói về vấn đề tài chính của chùa cho ai biết. 

Đối với những lỗi lầm của huynh đệ, của Tăng Ni, chúng ta cũng không nên nói ra ngoài. Ai sống mà không phạm lỗi lầm. Hơn nữa, lỗi lầm đâu phải là cái cố định, không sửa được. Nhiều khi, hôm trước chúng ta thấy huynh đệ phạm lỗi đó nhưng hôm sau họ đã sửa rồi. Người xưa thường nói : “ Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Nếu lỡ nói ra ngoài về lỗi lầm của họ, chúng ta sẽ không thu hồi lại được và người ta sẽ tiếp tục nghĩ xấu cho huynh đệ mình. Vì vậy, chúng ta đừng nói lỗi lầm của huynh đệ ra bên ngoài mà cố gắng tìm cách chỉ lỗi để huynh đệ sửa chữa. 

Khi lớn lên, đi làm Phật sự bên ngoài, tiếp xúc với nhiều người, chúng ta sẽ nghe nhiều chuyện động trời về những lỗi lầm của người tu có thể khiến mình choáng váng. Có những trường hợp, nghe xong chúng ta bàng hoàng, không hiểu tại sao có thể xảy ra như vậy. Nhưng rồi, chúng ta vẫn phải im lặng. Im lặng vì chúng ta biết được nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của họ cũng như tin rằng lỗi ấy không cố định, một ngày nào đó, người ấy sẽ vượt qua được lỗi lầm của mình. Nếu bây giờ, ai cũng nói lỗi ấy rộng rãi ra ngoài, đến khi người ta sửa được rồi, tiếng xấu vẫn còn. Do đó, trước lỗi lầm của người khác, chúng ta phải bình tĩnh. Nghĩa là vẫn hi vọng, vẫn chờ đợi sự sửa đổi, vẫn tin vào những điều tốt đẹp của con người, không nên nghĩ rằng những lỗi họ phạm là vĩnh viễn. 

Có những dự định đặc biệt của chùa mà điều kiện chưa đủ để thực hiện, chúng ta cũng không nên nói. Nhiều khi nói ra sớm quá, mọi việc sẽ không tiến hành được suôn sẻ. 

Chúng ta cũng không được khoe khoang uy tín của Thầy mình, của tông phái mình. Có thể Thầy mình là người tài giỏi, có đức độ, giáo hoá được nhiều nhưng chúng ta cũng không nên khoe. Thực ra, nói những điều hay cho người ta quy hướng cũng tốt, nhưng không cẩn thận dễ lẫn bản ngã trong đó. Vì khoe Thầy cũng có nghĩa là trong đó có bản thân mình. Cho nên, tốt nhất là chúng ta nên im lặng. 

Một điều nữa chúng ta cũng cần phải bàn là lợi ích về giáo lý và hệ quả của nó - sự ngưỡng mộ. Ví dụ, sau này khi ta đi giáo hoá, được nhiều Phật tử hay Tăng Ni lắng nghe,  hiểu được, tu được và sinh lòng ngưỡng mộ. Đó là một hệ quả rất tự nhiên, nhưng ta không nên bận tâm về hệ quả đó. Mục đích của chúng ta là đi giảng dạy, đem lợi ích về giáo lý đến cho mọi người, làm sao cho người khác nghe, hiểu và tu được. Khi đi giáo hoá, chúng ta chỉ phát nguyện một điều là đem  giáo lý, đem ánh sáng Phật Pháp để khai mở cho mọi người. Chỉ có vậy thôi. Bởi vậy, khi có hệ quả phát sinh là sự ngưỡng mộ của Phật tử hay của những người khác, ta phải cắt ngay, tuyệt đối không để vướng phải điều này. Chúng ta không cần người ta biết tới mình, ngưỡng mộ, kính phục mình mà chỉ cần họ hiểu được Phật pháp và tu được. Đây là điều rất quan trọng,  người tu phải ghi nhớ. Có thể ban đầu mới đi giảng, người ta chưa ngưỡng mộ nhiều, chúng ta không bị đắm vào đó. Nhưng một thời gian dài, xuất hiện lòng ngưỡng mộ, chúng ta rất dễ bị đắm vào sự khát khao ngưỡng mộ ấy. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta bắt đầu sai lầm. Cho nên, mỗi người  phải giữ tâm này cho thật kỹ. 

6. MỘT CHÚT Ý NGHĨA VỀ ÂM DƯƠNG.  

Trong bài Hơi thở và xả Thiền, chúng ta có tìm hiểu qua về Âm Dương. Âm là phần khuất kín bên trong, Dương là phần bộc lộ bên ngoài. Trong một cấu thể, phần khuất kín là phần quan trọng, phần bộc lộ ra ngoài là phần dành đề sử dụng. Theo vua Văn Vương (Trung Quốc), tỷ lệ thể hiện sự khôn ngoan là 5/ 1. (5 âm thì 1 dương). Nếu thực lực bên trong của mình có 5, chúng ta để lộ ra bên ngoài cho người ta biết chỉ có 1 mà thôi. Hay nói cách khác, làm được 5 phần, chúng ta chỉ bộc lộ 1 phần, không nên để cho người ta biết nhiều. Những cái hay mình có được, không nên bộc lộ tất cả ra ngoài. Chỉ có những người sống gần gũi lâu ngày với mình mới biết được cái hay của mình mà thôi. Có như vậy, những cái hay, cái tốt của mình mới giữ được bền lâu. 

Trong một ngôi chùa, hình thức ngôi chùa thuộc về dương và nội dung tu hành trong tâm của Tăng Ni thuộc về âm. Như vậy, nội dung tu hành phải gấp 5 lần hình thức của ngôi chùa. Nếu chùa nào đạt được tỉ lệ này, chùa ấy sẽ phát triển, sẽ vững bền. Ngược lại, những ngôi chùa rất đồ sộ, bên ngoài hào nhoáng, đẹp đẽ nhưng  bên trong Tăng chúng ít tu, chỉ sau một thời gian, chùa đó sẽ suy tàn. Cho nên, khi đánh giá một ngôi chùa, chúng ta cần xem sức tu tập của Tăng chúng như thế nào. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng, hình thức bên ngoài thường phá nội dung tu hành. Chúng ta phải cẩn thận, luôn luôn chú trọng tâm linh hơn hình thức. Có thể chùa không đẹp, không lớn nhưng chúng ta tu tốt vẫn có giá trị hơn là sống trong ngôi chùa đẹp quá, lại khó tu. 

Hình thức của y phục cũng vậy. Khi phủi tóc, mặc áo cà sa đi ra đường, chúng ta đã tự khoe khoang rồi. Vì hình thức ấy đã ngầm nói với mọi người chúng ta là Thầy tu, là người có Đạo đức. Bởi vậy, chúng ta phải tu nhiều hơn người ta nghĩ về mình. Nếu người ta nghĩ chúng ta từ bi, độ lượng, chúng ta càng phải từ bi, độ lượng nhiều hơn, gấp 5 lần điều người ta nghĩ để bù lại hình thức mà mình đã lỡ khoe khoang ra ngoài. Chưa kể, nếu đeo thêm một sợi dây chuỗi, đội thêm cái mão Tì Lư, đắp y, mang giầy trịnh trọng nữa, chúng ta phải tu rất nhiều mới bù lại nổi. Hình thức nhiều bao nhiêu, chúng ta phải cần nội dung lấp đầy hình thức đó nhiều bấy nhiêu. Ví dụ, khi thấy chúng ta đeo xâu chuỗi thường xuyên bên mình, người ta sẽ nghĩ chắc là chúng ta siêng năng niệm Phật, tu chắc cao siêu lắm. Nếu người ta nghĩ mình một ngày niệm cả trăm xâu chuỗi, chúng ta phải niệm năm trăm xâu chuỗi mới đủ. Nếu chỉ đeo xâu chuỗi, đi đâu cũng lần tràng hạt, đầu cứ đội mão Tì Lư mà bên trong không tu thì một thời gian, chúng ta sẽ hết phước và phải hoàn tục vì trong chúng ta, nội dung không bằng hình thức. Hiểu như vậy, chúng ta phải biết giấu hình thức, cho nội dung thật nhiều để cuộc đời tu hành của mình được bền bỉ. Đây là điều rất khó, chúng ta phải cố gắng mới làm được. 

 Khi làm từ thiện, những đoàn Phật giáo cũng nên kín đáo, không nên quay phim, chụp ảnh nhiều để phô trương danh tiếng. Nếu ít khoe khoang thì mọi cái sẽ được bền lâu.

I. CÔNG DỤNG CỦA LỜI NÓI. 

Lời nói thường có hai công dụng: 

-   Lời nói biểu hiện nội tâm

-   Lời nói là phương tiện để giao tiếp.

1. Lời nói biểu hiện nội tâm.

Khi nghe một người thốt lên lời nói, chúng ta có thể biết được quan điểm, đạo đức, cá tính, sở thích cũng như trình độ, trí tuệ…của họ. Nhưng tìm hiểu lời nói dưới góc độ Tâm lý Đạo đức không phải chỉ để chúng ta nhận xét, đánh giá người khác mà còn để đánh giá được chính mình.

Trước hết, qua lời nói, cách nói, chúng ta có thể hiểu đựơc quan điểm của người đối diện. Chẳng hạn, khi chúng ta nói chuyện với họ về tôn giáo, về tâm linh, về Nhân quả, họ tỏ ra không quan tâm lắm, cũng không tranh cãi điều gì. Nhưng khi có dịp, họ chỉ nói toàn những vấn đề về kinh tế, khoa học - kỹ thuật, chúng ta biết ngay người này không có khuynh hướng về tín ngưỡng, về tâm linh.

 Hoặc qua lời nói, chúng ta có thể đánh giá được Đạo đức của người khác. Thông thường, khi đã tu dưỡng Đạo đức được một thời gian dài, chúng ta trở nên sắc bén hơn trong việc nhìn nhận và đánh giá người khác. Vì đã trải qua không ít những sai lầm trong cuộc sống và biết quá rõ về mình nên chỉ cần người khác có những biểu hiện rất nhỏ, chúng ta cũng có thể biết ngay họ là người như thế nào. Nhưng chúng ta phải hiểu, không phải biết để phê phán mà để thương yêu và thông cảm. Nếu có điều kiện, có duyên, chúng ta còn giúp họ vượt qua những lỗi lầm mà họ phạm phải. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, khi bước ra làm việc Đạo, chúng ta rất cần dựa vào lời nói để đánh giá người khác. Trong quá trình giao tiếp, nhờ vào lời nói, chúng ta có thể nhận xét được người khác và công việc sẽ dễ dàng hơn. Đó là vấn đề thuộc về bản lĩnh làm việc và chúng ta sẽ khai thác trong một dịp khác. Bây giờ, chúng ta chỉ tìm hiểu lời nói trong việc tự đánh giá chính mình. Trong cuộc sống, có những điều khi đã buột miệng nói ra, chúng ta mới giật mình nhận ra đó là lời nói sai và tự trách mình sao lại nói những điều sai lầm như vậy. Rõ ràng, nhờ vào lời nói, chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình, ngăn chặn được nghiệp bất thiện và tăng trưởng được Tâm thiện. 

Ví dụ, khi nghe người đối diện thốt lên lời thô tục, thiếu văn hoá, có thể chúng ta sẽ xuất hiện hai cách phản ứng: nguyền rủa người ấy hoặc cảm thấy tội nghiệp họ. Nếu trong tâm ta phát ra lời nguyền rủa người ấy, chúng ta là người không có Đạo đức, không có tâm Từ bi. Chúng ta phải hiểu rằng, tâm Từ bi không chỉ dành để thương yêu con người khi họ lâm vào cảnh khổ mà phải thương ngay cả lúc họ gieo nhân xấu. Trước lỗi lầm của người khác, chúng ta sinh tâm bực bội quá đáng, thậm chí ghét bỏ nguyền rủa họ là chúng ta thiếu Từ bi, gây nên ác nghiệp. Khi đã lỡ lời, chúng ta phải ăn năn, sám hối để chuộc lại tội lỗi của mình. Nếu khi nhìn vào Nhân xấu rồi nghĩ đến Quả báo xấu của một người và thấy thương họ hơn vì sống mà không biết nhân quả, tội phước, đó là chúng ta có tâm Từ bi. Như vậy, qua một lời nói trước một vấn đề, chúng ta có thể đánh giá được Đạo đức, đánh giá được Tâm của con người. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ không nói những lời ác độc. 

Những cá tính, sở thích hay những thói xấu, lòng ham muốn…còn đang tiềm ẩn trong con người cũng dễ được bộc lộ ra qua lời nói. Trong lúc nói chuyện, nhiều khi vô tình, chúng ta đã để lộ ra những điều xấu còn tiềm ẩn trong tâm mình. Chính nhờ vào những lời nói vô tình đó, chúng ta có thể phát hiện và loại bỏ những thói xấu, những ham muốn tầm thường mà trước kia ta chưa biết. 

Lời nói cũng thể hiện được trí tuệ của con người. Nhờ lời nói, chúng ta biết  được trình độ, trí tuệ của người đối diện. Ví dụ, khi trở thành Thầy, làm Giáo thọ, Giảng sư hay Trụ trì, có người đến chùa hỏi: “ Tại sao tôi tu lâu mà không tiến bộ?”, chúng ta phải trả lời như thế nào? Mỗi người có thể trả lời một cách theo quan điểm của mình nhưng câu trả lời có trí tuệ là: “ Do thiếu Công Đức”. Vì  đây là câu trả lời có thể giúp đỡ người khác hiểu được vấn đề và biết tu như thế nào cho đúng. 

Công Đức bao gồm Đạo đức và Phước. Nếu Công Đức chưa đủ, người tu phải tạo thêm Công Đức bằng cách cố gắng tu dưỡng Đạo đức và làm việc Phước. Tuy nhiên, trả lời như vậy vẫn chưa sâu sắc vì mỗi người đều có nghiệp riêng. Chúng ta phải chỉ rõ được nghiệp của họ: đố kỵ, ích kỷ, khoe khoang, kiêu mạn hay giải đãi… Có người tu không tiến bộ vì họ ít bố thí quá, sống hẹp hòi quá. Với những người như vậy, chúng ta khuyên họ phải biết buông xả, đừng chấp giữ vật chất vì vật chất là vô thường. Bố thí giúp đỡ người khác sẽ tạo thành Phước trong tâm. Có người thiếu công đức lễ Phật nên tu không tiến bộ. Chúng ta khuyên họ phải cố gắng lễ Phật. Có người vì khoe khoang, tu được điều gì cũng đem nói cho mọi người biết nên mất hết Phước, không còn hạnh Kín đáo nữa. Người ấy tu cũng không tiến bộ. Vì vậy, chúng ta khuyên họ phải kín đáo. Hoặc có người sống hay đố kỵ với người khác, thấy ai thành công cũng tỏ ra ganh ghét nên việc tu hành của họ không tiến bộ được. Với loại người này, chúng ta lại khuyên đừng đố kỵ, phải cố gắng tập hạnh tùy hỷ với người khác vv… 

Nhưng điều quan trọng là làm sao khi nhìn vào mỗi người, chúng ta biết được Nghiệp của họ để có những lời khuyên sâu sắc, hợp lý ? 

Nhiều khi người hỏi câu ấy là một người hoàn toàn chưa quen biết nhưng chúng ta phải nhìn thấy ngay được cái nghiệp của họ để trả lời cho có trí tuệ. Đây là cái khó của người Thầy. Nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm trong đời sống tu tập của mình thì chưa đủ. Vì có những “bệnh” người ta có mà chúng ta hoàn toàn không có. Như vậy, chúng ta cần dựa vào những cái họ bộc lộ ra bên ngoài qua lời nói. Tất nhiên, phải có mối quan hệ gần gũi với người ấy, chúng ta mới đánh giá được cá tính, nội tâm của họ qua lời nói cũng như việc làm. 

Còn trường hợp người hỏi điều đó chưa hề sống gần gũi với mình mà chúng ta vẫn biết được là nhờ vào quá trình tu hành của mình. Vì nhờ tu tốt, tâm linh phát triển, trực giác phát triển, chúng ta có thể biết được nội tâm của người khác. Nhưng phải hiểu một điều là chúng ta biết để giáo dục người chứ không phải để khoe khoang. Phật gọi điều này là giáo hóa thần thông. Nghĩa là thần thông dùng để giáo hóa, không phải thần thông dùng để làm điều lạ. Có được điều này không phải dễ nhưng đã theo con đường của đạo Phật, ai cũng cần phải có một chút trực giác. Nhờ trực giác, khi người ta đến với mình, chúng ta sẽ biết quan tâm, đối xử với họ đến mức độ nào để giúp họ gỡ cái nghiệp mà họ đang gánh nặng. Không phải lúc nào chúng ta cũng dạy được người khác, nhưng biết người ta nặng nghiệp ở chỗ nào, khuyên họ xoáy vào chỗ đó để dễ vượt qua cũng là điều rất cần thiết. Mặt khác, trả lời người khác một cách chính xác cũng thể hiện được trí tuệ, trình độ tu tập của người Thầy. 

Với những câu hỏi đơn giản như vậy, chúng ta có thể theo trực giác trả lời để giúp họ tu tập được tiến bộ.

Trường hợp khi được hỏi những câu thuộc về đạo lý, sâu sắc hơn, chúng ta phải có trí tuệ rất cao mới trả lời được. Có một Thầy kể lại câu chuyện có thật mà mình gặp phải, chúng ta nghe để thấy rằng, trả lời đúng một câu hỏi lắt léo của Phật tử không phải là chuyện đơn giản. Một lần, người ấy ngồi nói chuyện với một nhóm Phật tử, trong đó có một người có khả năng kiến giải rất cao. Anh ta kể về trình độ tu tập của mình khiến ai cũng nể phục. Mặc dù chỉ là cư sĩ nhưng anh ta đã từng ngồi thiền Yoga và có được sự đốn ngộ như một nhà Thiền. Trong nhóm Phật tử, người hỏi câu này, người hỏi câu kia, chỉ có anh ta là nói nhiều hơn cả để chứng tỏ mình là người có kiến giải đặc biệt trong đạo Phật. Quả thật, những điều anh nói đều rất sắc bén. Trong lúc nói chuyện, bất ngờ anh quay sang hỏi vị Thầy một câu: 

- Thưa Thầy ! Không biết tại sao khi nhìn mặt ông bà già bảy tám mươi tuổi, tôi vẫn thấy họ nhỏ hơn tôi nhiều?

Câu hỏi ấy không phải dễ trả lời. Nhưng anh ta vừa dứt câu hỏi, ông Thầy ngồi đó đã trả lời ngay : “Kiếp trước anh tu làm Tiên trường thọ sống đến hai, ba trăm tuổi nên ông bà già bảy tám mươi tuổi đối với anh vẫn còn là trẻ con”. Ngay lúc đó, một người bạn anh ta mới nói tên của anh ta là Nguyễn Thọ Trường. Lúc này, anh ta mới tiết lộ : Từ khi còn là cậu bé bảy, tám tuổi, anh đã biết được phép tu tiên, đã luyện Yoga, luyện khí công rất thành công. Anh có thể nhập Định giữ không cho mạch nhảy, không cho tim đập. Nghĩa là mức độ luyện khí công, luyện các phép tu Tiên của anh khá thành công. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy kiếp trước anh đã luyện thành công nên bây giờ gặp lại phép đó, anh đã tu rất sớm và rất thành công. Và kiếp trước anh tu làm Tiên trường thọ nên bây giờ, cái nghiệp đã rơi vào tên của anh là Nguyễn Thọ Trường. 

Thực ra, ông Thầy mới gặp anh ta lần đầu, không hề biết những chuyện ấy, nhưng không hiểu sao lại trả lời đúng, lại giải thích được một vấn đề anh ta còn băn khoăn khiến anh ta rất nể phục. Từ đó, hình như cái ngã của anh ta lắng xuống, anh ít nói hơn, biết lắng nghe hơn. Câu trả lời như vậy là có trí tuệ. Tất nhiên, đó không phải là câu trả lời duy nhất. Có thể một người khác cũng hỏi câu tương tự như vậy nhưng trường hợp này không phải do tuổi thọ lớn hơn mà có khi do đời trước họ từng làm vua. Vì đứng trước ông vua dù còn rất trẻ, một ông già bảy, tám mươi tuổi cũng phải quỳ. 

Như vậy, không phải trường hợp nào cũng giống trường hợp nào, chúng ta phải có cách trả lời cho phù hợp. Trong việc giáo hóa hay giao tiếp, chúng ta sẽ đối diện với nhiều đối tượng, nhiều trường hợp khác nhau. Nếu trả lời một cách sâu sắc, chúng ta sẽ giúp người khác có niềm tin vào Phật pháp, có hướng đi đúng đắn và có sự tinh tấn trong cuộc sống cũng như trong việc tu hành. 

 Đặc biệt, khi tiếp xúc với người khác, chúng ta phải dùng lời nói giúp người tin sâu Nhân Quả. Vì luật Nhân Quả chi phối mọi mặt trong đời sống cũng như sự tu hành. Nếu dựa vào đó để giải thích, chúng ta sẽ ít bị sai lầm. Có Phật tử từng là đệ tử của một vị Thầy khá nổi tiếng đã tâm sự với một Thầy khác rằng: “Thầy của con không đi sâu vào Nhân Quả mà nghiêng về tâm lý học, xã hội học. Ông thường dùng những lý luận của tâm lý xã hội để giải thích nhưng áp dụng vào cuộc sống lại không thích hợp. Khi nghiên cứu về Nhân Quả, con thấy hợp lý hơn, tâm con yên hơn và dễ chấp nhận hơn”. Đây là một lời tâm sự rất chân thành. Những điều mà người Phật tử ấy nhận xét là có cơ sở. Bởi vậy, chúng ta hiểu sâu Nhân Quả để hướng dẫn, giáo hóa sẽ đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh. 

Và như vậy, chúngta có một phương pháp tu khá hay là luôn luôn quan sát lời nói trước khi phát ra. Đó là Chánh niệm trong lời nói. Trước khi nói,  chúng ta phải kiểm soát xem mình sắp nói ra điều gì. Có nhiều người, khi được người khác hỏi đến, không bao giờ suy nghĩ mà vội vàng trả lời ngay nên không kiểm soát được tâm mình. Nếu có trí tuệ đi trước, chúng ta sẽ biết mình nên nói điều gì và nói điều gì trước, điều gì sau để tránh khỏi sai lầm. 

Ví dụ, khi nghe người khác khen một Thầy nào đó học giỏi, luôn luôn được điểm cao, chúng ta suýt buột miệng nói: “ Chắc có cảm tình riêng với Giáo thọ nên được điểm cao chứ giỏi giang gì”. Nhưng nhờ sự tỉnh giác, kiểm soát trước lời nói, chúng ta đánh giá được ngay đó là lời hàm ý chê bai và được xuất hiện từ tâm đố kỵ nên không thốt ra. Chúng ta biết rằng, tâm đố kỵ rất nguy hiểm, người còn tâm đố kỵ sẽ tạo nên nhiều nghiệp khủng khiếp sau này. Như vậy, nhờ đánh giá trước lời nói, chúng ta giữ lại được những lời nói không hay nên tránh tạo thành nghiệp. Đồng thời, chúng ta cũng biết trong tâm mình còn sự đố kỵ và quay về lạy Phật sám hối để vượt qua. 

Chúng ta tuyệt đối không nói lời đố kỵ, chỉ trích mà chỉ nên hoan hỉ khen điều tốt của người. Khi nghe ai khen người khác, chúng ta nên vui mừng thật sự và cũng bày tỏ sự khen ngợi, cảm phục của mình. Ví dụ, nghe một người khen một vị Giảng sư rất nổi tiếng, làm được nhiều việc tốt cho Phật pháp, chúng ta dựa vào Nhân Quả và khen rằng, có lẽ vị này đã có Công đức trước đó rất lớn, có nhiều hạnh tốt ở trong tâm nên có một sự thành công như vậy. Người ấy chỉ giảng những giáo lý cơ bản, không có gì sâu sắc nhưng lại được nhiều người nghe và khen ngợi, chắc chắn người ấy phải có đức, có phước gì đó rất lớn. Khen được như vậy, trước hết tâm chúng ta phải biết hoan hỷ. 

Khi nghe người khác tài giỏi, thành công, chúng ta phải vui mừng. Đây là điều người tu chúng ta nên lưu ý. Trong cuộc sống, người đời hay có bệnh ganh tị nhau như con gà ghét nhau tiếng gáy. Nhưng là người tu, chúng ta phải vượt qua được điều đó. Có thể rồi chúng ta sẽ làm nhiều việc cho Phật pháp, khi làm việc cho Giáo hội, khi đi dạy cho Phật tử, cho Tăng Ni... nhưng nghe ở đâu có người giảng hay, chúng ta phải thực sự vui mừng. Vì trong đạo Phật, có được nhiều người giảng hay như vậy, nhiều chúng sinh sẽ được hoá độ.

Nói tóm lại, chúng ta phải kiểm soát lời nói của mình. Muốn nói điều gì, chúng ta phải nhìn trước lời nói đó và khi thốt ra lời, phải thong thả, chậm rãi, trầm tĩnh.

 Chúng ta biết, lời nói là biểu hiện của nội tâm. Nhưng cũng có những trường hợp lời nói và nội tâm trái ngựơc nhau. Đó là trường hợp nói không thật tâm hay còn gọi là giả dối. Ví dụ, trong lòng ghét cay ghét đắng người nào đó nhưng vờ nói thương. Hoặc ghét người nhưng không dám nói thẳng rồi nói xấu sau lưng. Hoặc không có đạo đức nhưng làm ra vẻ đạo mạo để mọi người tôn trọng vv… Người tu chúng ta không nên rơi vào trường hợp này, cần sống buông bỏ, không giận ghét bất cứ ai và nghĩ như thế nào, nói như thế đó. Người chân tu phải chân thật, thẳng thắn nhưng khả ái, dịu dàng không thô tháo, không nói nặng lời để làm mất lòng nhau. Lời nói phải có ái ngữ.

Tại sao người tu phải sống chân thật ? Vì không thích ai đó nhưng cứ giả vờ nịnh hót, nói ngọt để lấy lòng họ, chúng ta sẽ trở thành con người hèn hạ. Đó là lối sống của kẻ tiểu nhân. Người đời sống theo đạo Nho, đạo làm người quân tử cũng tránh lối sống giả dối như vậy( trừ một số trường hợp). Cho nên, là người của đạo Phật, đi tìm danh vị Thánh, chúng ta không bao giờ được sống luồn lách, dối trá. Mỗi người phải sống thật như chính tâm hồn mình. 

Không những lời nói biểu lộ nội tâm mà giọng nói cũng biểu lộ nhiều điều. Có những điều qua lời nói chúng ta không nhận ra được nhưng giọng nói lại biểu lộ rất rõ. Bởi vậy, khi đánh giá một người, nhiều khi không cần nghe họ nói điều gì, chúng ta chỉ cần nghe giọng nói họ như thế nào. Giọng nói của con người thường biểu lộ hai điều: Phước và Đức. Phước là cái nhân quả họ đã gieo. Đức là những tính tình của họ.

 Nếu nghe một người có giọng nói vang ấm, trang trọng, chúng ta biết đó là người giàu có, thậm chí là người nổi tiếng. Trong đời sống, có những người tuy khỏe mạnh nhưng giọng nói lại yếu ớt. Những người như vậy thường có cuộc sống nghèo khổ hoặc chết sớm. Người có giọng nói không rõ ràng là người vị kỷ, nham hiểm. Người có giọng nói nghe chát chúa, khó ưa là người có tính tình hung dữ và thô tháo. Người này hay nói những điều làm mất lòng người khác. Trong khi đó, không ít người có giọng nói rất êm ái, rất chuẩn. Đó là những người có tâm Từ bi. Vì xuất phát từ lòng từ bi, thương yêu nên khi nói với người đối diện, người ấy như đang chan rải tình thương. Gặp những người như vậy, chúng ta rất dễ có cảm tình. Một khi đã có tâm từ, chắc chắn họ đã làm nhiều việc phước nên những người này cũng là người giàu có tuy không nổi tiếng, không có uy quyền. Còn trường hợp giọng nói êm nhưng chưa chuẩn, nghĩa là Tâm từ mới xuất phát, có thể người này chưa giàu vì Nhân mới gieo, Quả chưa đến. Có người nói giọng êm nhưng uốn éo. Đây là người có tâm đa tình, đa cảm. Người này thường yếu đuối, thiếu lập trường. Ngoài đời, chúng ta thấy nhiều người lẳng lơ, lăng nhăng cũng có giọng kiểu này. Không ít người trong cuộc sống gặp nhiều điều rắc rối, phức tạp cũng vì giọng nói ngọt ngào, êm ái mà đa tình ấy. 

Có những trường hợp, giọng nói biểu lộ được cá tính, nội tâm của con người rất rõ. Nghe giọng nói bên trong có vẻ gì vừa dứt khoát, cương nghị vừa  êm ái, chúng ta biết đây là người  vừa có đạo đức, vừa có ý chí. Có nhiều người tướng mạo bên ngoài đẹp đẽ nhưng giọng nói không dứt khoát, yếu đuối. Đó là người rất khó tu. Trong việc nhận xét con người, những thầy tướng thường cho rằng giọng nói quan trọng hơn gương mặt. Ví như người có gương mặt đẹp mà giọng nói không tốt vẫn có thể bị phá tướng. Bởi vậy, mỗi nguời phải có ý thức sửa dần giọng nói của mình. 

Nếu để ý chúng ta sẽ thấy giọng nói cũng có những “tật” riêng. Có người nói quá lớn, có người nói quá nhanh, có người lại nói lắp, ngọng nghịu… 

Người nói quá nhanh thường là nguời thông minh. Trong vùng não của họ có những tư tưởng phát ra rất nhanh. Nhưng những người nói nhanh cũng biểu lộ một nhược điểm là vội vàng, hấp tấp. Nếu biết mình có “tật” nói nhanh, chúng ta phải tập kiểm soát lời nói của mình trước khi phát ra. Như vậy, lời nói tự nhiên sẽ chậm lại. Người có giọng nói quá lớn thường là người không có chiều sâu, hay khoe khoang và thường là người không có bản lĩnh. Người có giọng nói bị lắp, ngọng nghịu là người thiếu phước và gây nghiệp xấu ở đời trước. Nói lắp (còn gọi là nói cà lăm) là trong một câu nói thường có một vài chữ lặp đi lặp lại nhiều lần khiến câu nói không suông. Người có “tật” nói lắp thường khó thành công trong cuộc sống. 

Người ta có kể một câu chuyện vui về người nói lắp như sau: Khi huấn luyện cho những người lính tập nhảy dù, huấn luyện viên có dặn khi nhảy ra khỏi máy bay phải đếm một, hai, ba…đến mười thì giật dây cho dù bung ra, từ từ rơi xuống đất. Sau khi buông dù, huấn luyện viên kiểm lại thấy thiếu một người. Thì ra, anh ta rơi xuống bị “lệch pha”, cũng may là rơi trên đống rơm nên không nguy hiểm. Hỏi ra mới biết anh ta chưa đếm đến mười thì đã rơi xuống đến đất rồi. Lúc ấy mọi người mới biết anh ta bị nói lắp, đếm đến năm, sáu bị lặp lại nhiều lần quá nên buông dù không kịp. 

Khác với nói lắp, nói ngọng là người nói phát ra phụ âm không rõ. Ví dụ, trong một câu thơ viết về những anh chàng “ngọng”, nhà thơ Hồ Xuân Hương có viết: Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông.

Chúng nó bảo nhau: “ ấy ái uông”.( “thấy cái chuông”-NV)

Chúng ta biết rằng, trongVăn học cổ Việt Nam, Hồ Xuân Hương nổi tiếng là một nữ sĩ có cá tính ngang tàng, độc đáo. Viết những câu thơ này, bà muốn mỉa mai những anh học trò tài năng còn non kém, tài thơ còn “ngọng nghịu” mà dám làm thơ chọc ghẹo mình. 

Người nói lắp, nói ngọng thường là người bị cái nghiệp gì đó trong quá khứ. Họ phải  phải sám hối thật nhiều trong đời này. Như vậy, căn cứ vào giọng nói, chúng ta có thể biết được Nghiệp và Tâm mình để sám hối, sửa đổi. 

2. Lời nói là phương tiện giao tiếp.

Đây là công dụng thứ hai của lời nói. Trước kia, khi chưa có chữ viết, chúng ta giao tiếp với nhau chủ yếu bằng lời nói. Từ thế kỷ thứ X, ta có chữ Hán; thế kỷ XIII, cha ông ta chế ra chữ Nôm và đến thế kỷ XVII, chúng ta sử dụng chữ Quốc ngữ với mẫu tự Latin làm phương tiện ghi lại lời nói. Nhưng phương tiện giao tiếp chủ yếu giữa con người với con người trong cuộc sống vẫn là lời nói. Bởi vậy, lời nói có vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự tương quan giữa người và người.  Chúng ta phải cẩn thận trong lời nói để tạo nên mối tương quan tốt. Dù bày tỏ ý nghĩ của mình cho người khác nghe hay nhờ vả, sai bảo, thuyết phục, chào hỏi…, lời nói cũng cần phải có đạo đức. Tuy nhiên, dùng lời nói để thuyết phục người khác là một điều rất khó. 

Chẳng hạn, khi ra giáo hóa, gặp người nào đó chưa tin luật Nhân Quả, chúng ta phải dùng lời nói có đủ sức thuyết phục để họ tin đạo lý Nhân Quả. Vì không tin luật Nhân Quả là điều bất hạnh lớn trong cuộc đời. Khi không hiểu luật Nhân Quả, không biết về sự quả báo, họ sẽ làm nhiều điều lầm lỗi. Để có sức thuyết phục, chúng ta phải có đủ lý lẽ và phải nắm được trình độ của họ. Thuyết phục cho người ta làm điều họ chưa làm, tin điều họ chưa biết, từ bỏ lối sống cũ, chuyển qua lối sống mới và tu hành tốt hơn là điều rất khó của Giảng sư . Điều này hoàn toàn khác với việc trình bày một đề tài cho người khác hiểu của người đi giảng ở thế gian. Trình bày cho người ta hiểu chỉ đơn giản người trình bày hiểu sâu sắc vấn đề và có tài ăn nói khéo léo một chút.Trong đạo, người Giảng sư không chỉ làm cho người khác hiểu mà còn phải thuyết phục họ thay đổi cách sống. Cái sức mạnh chuyển hóa người khác ấy phải xuất phát từ chính sự tu hành của mình. 

Trong giao tiếp, người phát ngôn luôn luôn có đối tượng tiếp nhận. Nếu khi nói chuyện với người đối diện hoặc với hai, ba người với nhau, chúng ta phải cẩn thận từng lời nói thì khi chuyển lời của mình thành sách, chúng ta càng phải cẩn thận hơn. Vì chúng ta không thể hình dung bao nhiêu đối tượng sẽ đọc sách của mình. 

Cũng có trường hợp nói mà không có đối tượng, người nói chỉ lẩm nhẩm một mình. Đó là những trường hợp đặc biệt. Người nói có vấn đề không ổn về thần kinh hoặc có khi người bình thường ghét ai đó nhưng không dám nói thẳng nên lầm bầm chửi rủa một mình. Người tiểu nhân thường có tính xấu đó. 

Sở dĩ chúng ta phải cẩn thận từng lời trong khi nói vì nếu lỡ nói lời không hay, xúc phạm đến người khác, chúng ta sẽ làm đổ vỡ tình cảm. Mà tình cảm một khi đã đổ vỡ thật khó hàn gắn lại nguyên vẹn như xưa. Người ta thường nói : “Mọi sự chắp nối, dẫu tinh vi cũng còn dấu vết”. Ông bà ta cũng từng nói một câu rất chí lý: “Ly nước đổ ra hốt lại sẽ không đầy”. Nếu trong lúc nóng nảy, lỡ nói những lời càn dở, sau này chúng ta có ân hận cũng không kịp nữa. Bởi vậy, tốt hơn hết, chúng ta phải cẩn thận, đừng nói lời quá nặng, xúc phạm đến người khác. Trong cuộc sống, chúng ta luôn nhớ một điều: 

“Vết dao đâm có thể lành thương tích.

Lời nói đâm nhau, hận một đời”. 

Trong khi nói chuyện, chúng ta nên khen điều tốt của người hơn chê bai, chỉ trích. Vì sao như vậy?  Vì lời chê bai, chỉ trích  thường làm buồn lòng người khác và gây nên sự bất hòa. Hơn nữa, theo luật Nhân Quả, nếu chê ai điều gì, chúng ta sẽ bị quả báo, sẽ mắc những điểm xấu giống như vậy. Ngược lại, nếu khen điểm tốt của người, chúng ta sẽ được những điều tốt ấy. Bởi vậy, trong giao tiếp, chúng ta cứ nhìn vào ưu điểm của người khác để có lời khen ngợi, đừng bao giờ chỉ chăm chăm vào những điểm xấu của họ. 

Trong lời nói còn có một “bệnh” đáng để ý nữa là nói nhiều. Chúng ta phải hiểu rằng, giá trị của lời nói nằm ở ngay trong việc làm của chúng ta. Hay nói cách khác, việc làm chính là cái gốc giá trị của lời nói. Liên hệ đến Kinh tế học, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều đó. Như chúng ta đã biết, đồng tiền lưu hành có giá trị là nhờ có cái gốc của nó. Mỗi quốc gia thường có một cách xác định giá trị của đồng tiền. Chẳng hạn, có quốc gia dùng vàng để xác định giá trị đồng tiền. Họ quy định một lượng vàng bằng một trăm đồng chẳng hạn. Muốn phát hành tám tỉ đồng cho lưu hành ra ngoài, trong kho bạc Nhà nước, họ phải dự trữ một số vàng tương ứng. Như vậy, đồng tiền lưu hành ra ngoài có giá trị là nhờ vào số vàng cất trong kho Nhà nước làm cái gốc giá trị cho nó. Đồng tiền hoàn toàn không phải là tờ giấy đơn thuần được in ra. Nhưng nếu một lúc nào đó, do lạm phát, kinh tế khó khăn, họ in ra hai mươi tỉ đồng. Giá trị của đồng tiền bị giảm đi vì không có cái gốc. 

Có quốc gia lại xác định giá trị đồng tiền của nước mình dựa vào ngoại tệ mạnh ở nước ngoài như đồng đôla của Mỹ. Một đôla, họ quân bình thành bao nhiêu tiền của nước họ. Tương tự như vậy, số tiền phát hành bên ngoài tương ứng với số đô la họ dự trữ trong Ngân hàng Nhà nước. Nếu có trường hợp bị lạm phát, số tiền họ in ra nhiều hơn thì đồng tiền của họ sẽ bị giảm giá.

Từ ý nghĩa kinh tế học, chúng ta suy ra giá trị của lời nói cũng vậy. Lời nói có giá trị là lời nói có sức thuyết phục đối với người khác. Cái gốc giá trị của lời nói nằm ở việc làm của mỗi người. Đó là việc làm bố thí, vị tha, thương yêu giúp đỡ người khác một cách tận tuỵ, đối xử tử tế với tất cả mọi người… Trong cuộc sống, có nhiều người rất khéo nói, nói rất nhiều nhưng không làm được bao nhiêu. Đó là những lời nói không có giá trị. Chúng ta không cần nói nhiều nhưng làm tất cả mọi điều giúp đỡ người khác, lời nói của chúng ta chắc chắn sẽ có giá trị, có sức thuyết phục mạnh mẽ. 

Ví dụ, chúng ta sống một đời bố thí, buông xả, không bao giờ giữ bất cứ cái gì cho riêng mình. Khi nhìn thấy một huynh đệ sống ích kỷ, không bố thí quảng đại, không buông xả, chúng ta chỉ khuyên một câu nên sống một đời buông xả, rộng rãi bố thí, đừng giữ cái gì cho riêng mình, một câu ngắn thôi nhưng người ấy đã hiểu ra và thay đổi. Sức mạnh của lời khuyên ấy nằm ở những việc làm bố thí, ở cả một đời sống vị tha của chúng ta. Hiểu như vậy, chúng ta không nên nói nhiều (cũng như đồng tiền phát hành nhiều nên mất giá trị ). Mỗi ngày, chúng ta nên tổng kết lại mình làm được bao nhiêu việc tốt. Nếu cân đối lại, thấy mình đã nói nhiều hơn làm việc tốt, chúng ta sẽ khắc phục hôm sau sẽ làm nhiều hơn nói, để lời nói không mất giá trị. Hơn nữa, nói nhiều cũng là biểu hiện của “bệnh” chấp ngã, lúc nào cũng muốn người ta phải để ý đến mình, thấy mình là người quan trọng. Người nói nhiều không những dễ bị sai lầm mà còn làm phiền người khác. Đây là một loại “bệnh” cần phải sửa. Hằng ngày, chúng ta phải có ý thức sám hối, sửa chữa mới vượt qua được. 

Trong cuộc sống, chúng ta gặp không ít người rất ham nói, ham biện luận. Nhưng đó là loại người biện luận rỗng, cố nói để thuyết phục người nghe tin vào lý luận của họ. Đó là những người giả dối, lừa đảo mà chúng ta cần phải tránh. Theo kinh nghiệm, chúng ta thấy người nói nhiều thường ít nói thật. Không phải tự nhiên mà khi nói với đệ tử của mình, một vị Giảng sư đã nói: “ Muốn thuyết pháp, trước hết phải biết im lặng”. Nghĩa là người nói phải làm chủ được lời nói của mình, làm chủ được tâm hồn mình, sống mà không còn mong cầu điều gì hết, không còn mong cho người khác phải tin theo mình, phải tu theo mình, không thấy mình là quan trọng nữa. Người sống như vậy, không còn điều gì để nói hết. Họ thuyết phục người khác bằng chính nội tâm có tu hành, từ nội tâm buông xả của mình chứ không hoàn toàn bằng lời nói. 

Sự thật, làm Giảng sư không phải là tìm cách nói cho nhiều, nói cho hay. Trên thực tế, biết bao nhiêu người học làm Giảng sư nhưng số người nói có giá trị, có sức thuyết phục chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguyên nhân được tìm thấy là do phần lớn họ không có tu tập, cuộc đời chưa trải qua những khổ đau, thử thách; chưa có sự rèn luyện Đạo đức, chưa có những giờ phút yên lặng ngồi Thiền, chưa có những lúc thiết tha lạy Phật sám hối vv… Nếu cứ học cho nhiều, ghi chép thật đầy đủ, khi đi dạy đem những điều mình đã học được nói lại cho người khác thì chúng ta chẳng khác gì cái máy. Những lời giảng của chúng ta phải thoát ra từ nội tâm mới có sức thuyết phục người khác. Nếu cứ giảng cho mọi người rằng hãy sống nhẫn nhục nhưng trong tâm mình chưa bao giờ thực hành điều đó, chưa bao giờ nhẫn nhục trước nghịch cảnh cuộc đời thì làm sao những lời nói ấy có thể đi vào tráùi tim người nghe. Ngược lại, nếu xuất phát từ trái tim, từ những đau khổ, trở trăn, từ những giờ phút tinh tấn của chính mình thì những lời nói ấy sẽ đi vào tâm người nghe làm cho họ chuyển hóa, bị thúc đẩyï phải tu tập. 

Trên lĩnh vực khác, chúng ta không cả quyết,  nhưng nói chuyện Phật pháp thì phải xuất phát từ trái tim biết tu tập. Ánh sáng phát ra từ trái tim ấy sẽ thắp vào những trái tim khác cũng biết tu tập như vậy. Cứ như thế, trái tim biết tu tập này lại thắp sáng những trái tim khác tạo thành những ngọn đèn nối nhau từ trái tim đến trái tim. 

Sức thuyết phục của lời nói không có được do học tập mà từ sự hành trì tu tập, kiên nhẫn lễ Phật, Toạ Thiền, Bố thí, Vị tha… Do vậy, chúng ta cố gắng tu hành, lễ Phật, ngồi Thiền, sống vị tha thương yêu huynh đệ, chịu đựng những nghịch cảnh, dấn thân vào những việc khó khăn… để có sức mạnh nói được những lời pháp có giá trị, chuyển hóa giáo dục được bao nhiêu tâm hồn khác. Sức thuyết phục ấy còn được tạo nên từ nơi phước của công quả. Câu chuyện một Ni Sư ngộ đạo nhưng không chịu nấu bếp nên không giảng pháp được là một ví dụ. Khi đã ngộ đạo, bà bỏ ngang không chịu nấu cơm tiếp ba năm như đã hứa. Phật hiện ra bảo: “ Nếu con không nấu cơm hết ba năm, con không thuyết pháp được”. Bà vẫn không nghe và ngang bướng bỏ đi luôn. Quả thật, dù đã ngộ đạo nhưng đến khi chết, bà cũng không thuyết pháp được do thiếu phước. Đây là điều rất lạ. Chúng ta đừng tưởng mình có thể đem cái tàng thức có được từ kiếp trước qua kiếp sau. Nếu không chịu làm phước, dù kiếp trước có là giảng sư, đời này chúng ta cũng không thể làm giảng sư được.

Trái với người nói nhiều, có người thốt ra lời nói thật khó khăn, không diễn tả được tâm trạng của mình. Nguyên nhân thứ nhất là do ít học, ít viết lách nên vùng ngôn ngữ trong não không phát triển. Muốn khắc phục được tình trạng này, chúng ta phải tập viết thật nhiều. Viết nhiều, chúng ta có điều kiện trau chuốt  câu văn, cộng thêm những công hạnh khác, lời nói của chúng ta sẽ dễ thuyết phục. Nguyên nhân thứ hai là do vùng não kém phát triển làm giọng nói không lưu loát. Đó là người thiếu phước, cần lễ Phật sám hối.

 Trong giao tiếp, có khi ta bắt gặp những người có lời nói thiếu chính xác do không phán đoán được phản ứng của người nghe. Đây là chỗ biểu hiện Trí tuệ khôn ngoan của người nói. Chưa bàn đến vấn đề có thuyết phục trước đông người hay không, chỉ trong phạm vi trao đổi trong từng người, chúng ta cũng nhận ra điều này. Khi nói xong một câu, chúng ta phải hiểu người nghe phản ứng ra sao,  trong tâm họ hiểu chưa. Nếu đoán họ chưa hiểu, chúng ta sẽ lặp lại vấn đề một lần nữa. Nếu họ hiểu rồi, chúng ta có thể chuyển sang vấn đề khác. Hoặc khi nói ra điều gì, chúng ta phải đoán được người nghe hoan hỷ hay tự ái, buồn lòng, để kịp điều chỉnh. Khi thuyết pháp trước đám đông, chúng ta vẫn phải đoán được phản ứng của người nghe dù rất đông. Như vậy, lời giảng mới hấp dẫn và có hiệu quả. 

II. ĐẠO ĐỨC CỦA NGÔN NGỮ. 

Trong đạo Phật, đạo đức của ngôn ngữ thể hiện ở sự ái ngữ. Mọi người phải dùng lời khả ái dễ nghe, biểu hiện thái độ nhã nhặn, lịch sự. Người tu không được nói lời thô tháo, cộïc cằn hay có thái độ khinh bỉ,  miệt thị người khác. Lúc nào trong lời nói, chúng ta cũng biểu lộ hai điều : thương yêu và tôn trọng. Đối xử với người nhỏ hơn, chúng ta phải thể hiện lòng thương yêu và sự tôn trọng, không quát tháo, nạt nộ. Đối với người lớn hơn, chúng ta cũng biểu lộ sự thương yêu và kính trọng đúng mực. Sự thương yêu, tôn trọng ấy chủ yếu biểu hiện ở cách xưng hô hay ở giọng nói, lời nói. Chúng ta phải xưng hô rõ ràng, hợp lý và  đúng mực; giọng điệu phải từ tốn, lễ phép, chậm rãi ; lời nói phải rõ ràng, dễ nghe. 

Không chỉ thương yêu, tôn trọng, với người nhỏ hơn, chúng ta phải bảo bọc, phải hy sinh nhiều hơn. Chúng ta đừng bao giờ có suy nghĩ mình tu lâu hơn, phải được hưởng nhiều quyền lợi hơn. Đó là quan niệm sai lầm, tạo nên một định kiến, một tiền lệ không hay trong Đạo Phật. Là người tu trước, hiểu đạo nhiều hơn, có đạo đức hơn, sức chịu đựng cũng nhiều hơn, chúng ta phải hy sinh nhiều hơn cho người nhỏ. Đó là tư cách của người tu trong Đạo Phật. 

Đặc biệt, chúng ta không được hơn thua trong lời nói, không được bộc lộ sự khoe khoang. Người có tâm hơn thua thường hay biểu lộ ra lời nói, muốn tranh hơn với người khác, nhất là trong Giáo lý. Điều này sẽ làm tổn phước. Bởi vậy, chúng ta nên nhường nhịn nhau trong lời nói. Ví dụ, khi nghe người ta nói một lời muốn chứng tỏ họ hay hơn mình, chúng ta nên im lặng, mỉm cười. Vì chúng ta biết họ đang có tâm hơn thua, không muốn nghe mình. Khi nào người ta muốn nghe, chúng ta sẵn sàng trình bày những kiến giải của mình một cách chân thành. Có như vậy, họ mới nể phục mình. 

Những người mới tu thường bộc lộ sự khoe khoang, hơn thua với huynh đệ. Họ hay bắt chước những Thiền sư trong Thiền ngữ thử kinh nghiệm nhau, thử sức ngộ của nhau bằng cách bác bỏ lời của nhau. Nói đến Thiền ngữ, chúng ta hay nhắc đến ngài Đại Huệ. Ông chuyên môn đặt những câu hỏi bắt bí người khác. Ai trả lời được, người ấy thực sự là giỏi. Một hôm, có một vị Tăng bước vào cốc của ông ta, ông hỏi : 

- Không cùng vạn pháp làm bạn là người nào?

 “Vạn pháp” là mọi chuyện trên đời này: hơn thua, ganh ghét, tình tiền… Không làm  bạn với những thứ đó là ai ? Tất nhiên là người đã giải thoát. Ông Tăng trả lời ngay :

- Kẻ không mặt mày. 

Câu trả lời cũng hay nhưng ngài Đại Huệ nói : 

- Lúc nãy có một người trả lời như ông đã bị ta đánh đuổi ra. 

Nghe vậy, ông Tăng chựng lại ngay và ngờ ngợ không biết tại sao câu trả lời hay như vậy mà bị đánh đuổi ra ngoài. Thấy thế, ngài Đại Huệ đánh đuổi ông Tăng ra liền. Rõ ràng, vị Tăng kia nói được mà Tâm chưa chứng được. Mới nghe ngài Đại Huệ thử một câu đã chựng lại ngay. Đọc những câu Thiền ngữ đó, người mới tu thường hay bắt chước hỏi về Đạo, muốn tỏ ra hơn người khác. 

Một biểu hiện khác trong đạo đức của ngôn ngữ là nên khen nhiều hơn chê. Trước khi khen ai câu gì, chúng ta phải suy nghĩ. Vì một lời khen không đúng cũng có nghĩa như một lời chê. Nhưng trước khi chê ai điều gì, chúng ta càng phải suy nghĩ nhiều hơn. Muốn chê trách ai, chúng ta phải có đủ đức độ. Khi đã có đức rất lớn, chúng ta chê trách, người ta không giận mà còn tiếp thu, sửa chữa. Nếu chưa đủ đức, chúng ta chê trách, chỉ trích người khác sẽ khiến họ giận ghét, tạo ra tương quan không tốt giữa người và người. 

Trong cuộc sống cũng như trong đạo, khi có duyên với nhau, mỗi lời nói đều đem lại sự vui vẻ, thú vị. Những lúc như vậy, chúng ta nên nói. Trường hợp nói mà người khác không nghe, chúng ta đừng bao giờ nói. Phật pháp cũng như thuốc bổ vậy, đúng liều, đúng đối tượng sẽ có lợi; quá liều, không phù hợp với đối tượng, sẽ trở thành thuốc độc. Đây là chỗ tế nhị, chúng ta nên cẩn thận.

Mỗi lời nói đều là sự lan truyền hoặc tốt, hoặc xấu nên khi nói, chúng ta phải nghĩ đến hậu quả của lời nói, phải cân nhắc, thận trọng trước khi nói. Chẳng hạn, khi chê ai một điều gì, chúng ta phải nghĩ nếu lời chê bai của mình lan ra thì hậu quả sẽ như thế nào, ảnh hưởng đến Phật pháp ra sao…? Hoặc chúng ta nói cho người đối diện nghe một giáo lý thì phải hình dung người đó nói lại cho người khác nghe sẽ có lợi hay có hại cho Phật pháp. Đây cũng là điểm cần phải cẩn thận. Các vị Thiền sư thường hay có cách phá chấp cho người trước mặt, nhưng qua người thứ hai thì sẽ trở thành bất lợi. 

Ví dụ, ngài Đức Sơn nói : “Mười phương Bồ Tát giống như đống phân chuột”. Có thể câu nói phá chấp của ông làm cho người đối diện ngộ đạo, nhưng lời nói ấy lan truyền tạo ra một sự ngông cuồng trong giới những người học Thiền. Từ đó, người học Thiền thích nói bậy bạ làm tổn phước, không còn ai tu chứng được nữa. Như vậy, chỉ một người mà gây hại cho không biết bao nhiêu người. Trong khi đó, Đức Phật luôn nói lời có lợi cho mọi người. Phật nói với người này nhưng nếu đem cho người khác, lời nói ấy vẫn có ích lợi vì lời nói của Ngài luôn luôn chuẩn. 

Khi có Phật tử tìm đến nhờ giải đáp một vấn đề gì về đạo hoặc về chuyện gia đình, chúng ta phải cân nhắc trước khi trả lời. Có thể lời khuyên của chúng ta làm cho họ tỉnh ngộ nhưng áp dụng cho người khác lại không phù hợp, lại sai lầm. Chúng ta phải lường trước điều này. Làm sao khi một lời nói ra dẫu có lan truyền sang người khác vẫn không để lại hậu quả. Muốn vậy, chúng ta phải kiểm soát kỹ lời nói của mình để khỏi mắc sai lầm. 

Khi nói đến đạo đức của ngôn ngữ, chúng ta thường khuyến khích ít nói. Tuy nhiên, có lúc cần phải nói nhiều. Đó là khi can đảm nói lên sự thật để minh oan hay bênh vực cho những người yếu thế, giải tỏa những oan ức cho họ. Hoặc có khi chúng ta dùng lời nói để khuyên lơn, dạy cho người khác biết điều hay để tránh lỗi lầm. Biết người ta mắc sai lầm mà không mạnh dạn ngăn cản, chỉ lo cho bản thân mình là chúng ta thiếu trách nhiệm đối với Phật pháp. Tất nhiên, khi đã làm Giảng sư, chúng ta không thể nói ít được. Lúc ấy phải nói nhiều nhưng phải nói hay và nói đúng được đạo lý, lời nói mới có ý nghĩa. Có những lúc gặp được người tâm đầu ý hợp như tri kỷ gặp nhau, chúng ta nói chuyện cả ngày không biết chán. Nhưng có những khi nguời ta khen mình hết lời, chúng ta lại dè dặt, không nói gì. Nói như vậy để chúng ta hiểu rằng, không phải lúc nào cũng ít nói, có khi cũng cần phải nói nhiều, nói cho mạnh mẽ.

Trong một bài kinh, Đức Phật nói : “Sau 45 năm ta chưa hề nói một lời”. Nghĩa là dù nói suốt đời mà Phật lại chẳng thấy mình nói lời nào. Đức Phật sống trong Định rất sâu, Ngài không chấp một điều gì, Ngài có nói cũng vì chúng sinh mà nói. Thuyết pháp 45 năm nhưng Ngài vẫn thấy mình không nói gì hết là  điều rất tự nhiên, không lý luận được. Ai từng sống trong cái Định sẽ hiểu sâu sắc được điều Ngài nói. Thử sống trong thanh tịnh một ngày, chúng ta sẽ thấy mình làm rất nhiều việc nhưng lại thấy như không làm gì cả. Chúng ta cần học theo Đức Phật để giữ Chánh Niệm trong lời nói. Dù nói chuyện với người nhưng chúng ta vừa kiểm soát được tâm mình, giữ tâm mình cho thanh tịnh để khi người ta đi rồi chúng ta vẫn thấy mình như chưa nói gì hết. Đó là cái đạo, là con đường của Phật pháp mà chúng ta phải đi theo. Có thể bây giờ chưa thực hiện được nhưng nếu luyện tập, chắc chắn chúng ta sẽ làm được.

Có những trường hợp chúng ta phải nói và dùng lời nói để cho không khí giao tiếp thêm vui tươi, nói để độ người. Điều này nghe hơi lạ nhưng sự thật nhiều khi rất cần.Ví dụ, một vài Phật tử có chuyện gì buồn ở ngoài vào chùa chơi cho yên tĩnh. Thấy vậy, chúng ta mời vào chùa lễ Phật, sau đó mời qua nhà khách uống nước. Họ chẳng biết Phật pháp là gì để nói chuyện nên cứ im lặng. Lúc ấy, nếu chịu khó một chút, chúng ta sẽ hỏi chuyện xem họ làm việc gì, có hay đi chùa không, hay xem Kinh không? vv… Sau đó, chúng ta có thể cho họ mượn cuốn sách mình thấy hay. Trong khi nói chuyện, chúng ta nói nhẹ nhàng, từ ái, thong thả, nói trong sự vui vẻ, người ta cũng cảm thấy vui vui. Hôm sau có dịp họ lại đến chùa. Nhờ vậy, họ dần dần biết Đạo, phát triển được Đạo tâm. Đây cũng là một cách độ người. Như vậy, khi cần thiết phải nói cho vui, đó là đạo đức của ngôn ngữ, chúng ta không cố chấp. Nhưng lúc cần phải im lặng để mọi người niệm Phật, giữ Tâm, chúng ta không nên nói làm xao động, làm loạn Tâm người khác. Chúng ta cần phân biệt được hai trường hợp này.

Học bài Làm chủ lời nói nhưng điều cuối cùng chúng ta cần chốt lại là phải để Tâm nói nhiều hơn miệng. Ví dụ, trong chúng có những người có Tâm thương yêu huynh đệ rất mực. Từ ánh mắt, nụ cười cho đến việc làm của họ đều biểu lộ tình thương yêu huynh đệ chan chứa nhưng họ lại rất ít nói. Khi tiếp xúc, chúng ta sẽ hiểu và cảm nhận được ngay. Tự nhiên, trong Tâm chúng ta cũng yêu mến họ. Có người lại nói rất nhiều, gặp ai cũng nói thương mến nhưng trong Tâm chẳng có tình thương yêu. Khi tiếp xúc, chúng ta cũng nhận ra ngay. Bởi vậy, dù họ rất khéo léo, nhỏ nhẹ trong lời nói, ân cần trong việc làm, chúng ta cũng cảm thấy nhạt nhẽo, không có cảm tình. 

Sống trong cuộc đời này, để Tâm nói nhiều hơn miệng, chúng ta phải huân  tập Từ Tâm thật sâu rộng. Làm sao khi mắt vừa thấy người, Tâm Từ đã khởi phát ngay. Người ta nói, Tâm Từ bi lan đến cỏ cây vạn vật là như vậy. Mỗi ngày ngồi Thiền, chúng ta trải Tâm Từ đến tất cả chúng sinh. Mọi người xung quanh sẽ cảm nhận được điều đó. Ngay cả những người sống trong thế giới vô hình cũng cảm nhận được. Trong cuộc sống cũng vậy, khi ra đường, nhìn thấy những người xa lạ, chúng ta đều khởi Tâm thương yêu thì trong vô hình, họ đều có cảm ứng trở lại. Họ sẽ nhìn người tu chúng ta một cách trìu mến, có cảm tình. Ngược lại, nếu không khởi Tâm thương yêu mà tỏ ra bực dọc, người ta cũng sẽ nhìn mình với ánh mắt khó chịu. Trong tâm, tự nhiên họ nảy ra ý mỉa mai, xỉa xói người tu. 

Đây cũng là điều rất lạ. Bởi vậy, chúng ta cố gắng tu tập Tâm Từ cho thật mạnh. Trong bài Tâm từ , chúng ta đã nói nhiều đến vấn đề này. Khi mắt chạm đến chúng sinh là lòng thương yêu mình khởi phát ngay. Cả một cuộc đời, chúng ta phải sống được như vậy, phải tập được như vậy. 

Một điều chúng ta cần chú ý khi học về ngôn ngữ là các phương tiện ngôn ngữ giao tiếp thay đổi theo thời đại. Ngày xưa, cách đây mấy ngàn năm, thời Đức Phật, người ta giao tiếp với nhau chủ yếu bằng lời nói vì chưa có chữ viết. Người này nói, người kia nghe và truyền lại cho người khác. Cứ thế, đời này truyền lại kinh nghiệm sống, ý tưởng, tình cảm cho đời sau đều bằng con đường truyền miệng. Một thời gian dài, Văn học hình thành, phát triển và lưu truyền cũng bằng hình thức này, gọi là Văn học Dân gian. Tất nhiên, khi truyền miệng qua con đường trí nhớ thì sẽ không giữ được nguyên vẹn những lời nói, ý tưởng ban đầu. Người ta gọi hiện tượng này là: “Tam sao thất bổn”. 

Phát minh ra chữ viết là một tiến bộ vượt bậc của xã hội loài người. Khi có chữ viết, con người giao tiếp với nhau phong phú hơn, tiện lợi hơn. Lúc đầu, người ta viết trên thẻ tre, sau đó là viết trên giấy dó ( một loại giấy thô làm bằng vỏ cây), rồi giấy lụa… Chữ viết đã trở thành một phương tiện giao tiếp quan trọng giữa con người với con người. Những người không biết chữ sẽ cảm thấy lạc lõng giữa xã hội. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, không biết chữ là một thiệt thòi rất lớn của con người. Bởi vậy, Nhà nước ta đã có chủ trương xoá nạn mù chữ, đem “cái chữ” về vùng sâu, vùng xa; đưa ra chương trình phổ cập cấp 2 cho người dân ở các Quận , Huyện trong thành phố vv… 

Ngày nay, máy vi tính cũng đã trở thành một phương tiện giao tiếp hiện đại, quan trọng trong đời sống con người. Vào thời điểm này, phương tiện giao tiếp trên computer còn mới mẻ, nhưng đến một lúc nào đó, nó sẽ được sử dụng phổ biến. Người ta nói chuyện điện thoại, gởi Fax, E-mail, Chat, truy cập thông tin, tính toán sổ sách… đều bằng computer. Nếu ai không biết sử dụng computer, người ấy sẽ trở nên lạc hậu, sẽ đứng ra ngoài xã hội.

1. ĐỊNH NGHĨA. 

 Hối hận là nỗi buồn khi nhận ra mình đã làm nên chuyện sai lầm về mặt Đạo đức. 

Trong cuộc đời, chỉ có hai hạng người không biết hối hận. Đó là những vị Thánh đã giải thoát, không còn lỗi lầm và những người cực kỳ ác độc, không hề biết tội phước là gì. Ngoài hai hạng người trên, những người bình thường sở dĩ không hối hận là do họ không biết lỗi. Nếu biết lỗi của mình, trong lòng ai cũng đều có sự hối hận thầm kín. Nhìn lại bản thân mình, chúng ta sẽ thấy không ít lần trong đời, chúng ta đã buồn và hối hận thật sự về những sai lầm mình đã gây nên. 

Tùy mức độ lỗi lầm lớn hay nhỏ mà sự hối hận của chúng ta sẽ nhiều hay ít. Có khi đó là những lỗi lầm của thuở còn thơ. Khi theo chúng bạn đi chơi, bạn xúi mình làm điều không tốt ( hái trộm quả chín trong vườn người ta hay bắt trộm gà về làm thịt…), chúng ta cũng làm theo. Chuyện đã trôi qua trong dĩ vãng. Cho đến ngày biết Phật pháp, tin được luật Nhân Quả, chúng ta mới hiểu rằng việc làm thuở nhỏ của mình là sai lầm. Vì không những phạm tội trộm cắp, chúng ta còn phạm tội sát sinh. Cả hai tội đều nặng. Khi đã hiểu được đó là một điều xấu, lòng chúng ta cứ ray rứt, hối hận, buồn phiền vì chúng ta biết đó là tội và sẽ có quả báo về sau.

 Hối hận của buồn phiền hoàn toàn khác với tâm tiếc rẻ vì không đạt được mục tiêu bất kỳ trong cuộc sống, nhất là những hành vi bất thiện. Thực tế, có những người luôn tỏ ra buồn phiền sau một việc làm bất thiện nào đó nhưng không phải là buồn vì hối hận mà buồn vì không thực hiện được mục đích của mình. Ví dụ, một người nọ có tính tham lam, hay lấy cắp của người khác. Một lần vì không lấy cắp được món đồ quý của ai đó nên người ấy cứ tiếc mãi trong lòng. Tâm lý đó gọi là tâm tiếc rẻ.

Trường hợp thứ hai chúng ta cũng thường gặp là hối tiếc vì đã đánh mất một cơ hội để đạt được lợi ích cho bản thân mình. Chẳng hạn, khi đi trên đường, bất ngờ thấy người ta đánh rơi một gói tiền, chúng ta vội vã chạy nhanh đến để nhặt nhưng không ngờ người khác nhanh chân hơn đã chộp mất. Về đến nhà, chúng ta vẫn còn hối tiếc vì lỡ mất cơ hội làm giàu.  Sự hối tiếc đó cũng không phải là hối hận. 

Như vậy, chúng ta cần phân biệt rõ ba loại tâm lý ấy. Trong đó, sự hối tiếc do tâm muốn làm việc bất thiện mà không làm được thuộc về tâm ác độc. Sự hối tiếc do đánh mất  đi cơ hội cho cá nhân thì thuộc về người sống không thanh thản, tâm còn bị ràng buộc. Còn trường hợp hối hận, ray rứt, buồn phiền vì biết mình đã phạm phải lầm lỗi thuộc về người có Đạo đức.

2. TÂM HỐI HẬN LÀ DẤU HIỆU CỦA ĐẠO ĐỨC. 

Chúng ta là những người có nhiều thiện căn nên tuổi đời vừa lớn đã vào chùa xuất gia. Dựa vào điều đó có thể đánh giá lúc còn nhỏ chúng ta không từng làm việc gì quá đáng để đến nỗi hối hận nhiều. Và cũng chính vì thế, chúng ta không nhìn rõ được tâm hối hận. Nhưng trong cuộc sống, trong quá trình tu hành từ nay cho đến mãi về sau, chúng ta sẽ có rất nhiều cơ hội tạo lầm lỗi. Nếu không cẩn thận giữ mình, sẽ có lúc chúng ta gây nên những tội lỗi lớn để phải thấm thía thế nào là hối hận. 

Tâm hối hận là dấu hiệu của Đạo đức. Vì thế, khi đã mắc phải lỗi lầm, chúng ta phải chân thành nhận thấy điều đó để hối hận và sửa chữa. Chúng ta biết rằng, khả năng tự biết lỗi là căn bản của Trí tuệ. Người tự biết lỗi của mình phải là người có Trí tuệ. Khi tu đến mức độ cao, chúng ta có thể biết nhiều điều nhờ có Trí tuệ, nhưng điều quan trọng là phải biết được lỗi của mình. Tâm vừa khởi nhẹ một niệm tiện hay ác là chúng ta phải thấy ngay, phải đánh giá chính xác ngay về ý niệm đó liền. 

Trong cuộc sống, con người thường có chung một nhược điểm là hay tự biện hộ, tự bênh vực cho mình khi làm điều gì sai trái. Ở đây, chúng ta không tự biện hộ mà phải tự trách mình, tự biết lỗi của mình. Vì thế, chúng ta nói rằng, hối hận là dấu hiệu của Đạo đức, cũng là chỗ căn bản của Trí tuệ. 

Như vậy, phải tự nhận lỗi rồi mới hối hận, mới có nỗi buồn. Tiến trình ấy bắt đầu từ việc chân thành nhận lỗi nhưng tất cả đều xuất phát từ chỗ có Trí tuệ. Có thể còn một chuỗi tâm lý xuất phát tiếp theo rất vi tế mà chỉ có chúng ta mới nhận ra được. Chẳng hạn, khi trao đổi với huynh đệ về đạo lý Thiền, chúng ta cảm thấy không vừa ý nên phủ nhận ý kiến của huynh đệ và khẳng định những ý kiến của mình là đúng. Người ngoài nhìn vào chỉ thấy đó là một cuộc đàm đạo bình thường giữa hai tu sĩ với nhau về vấn đề Thiền học, nhưng nhìn sâu vào lòng, chúng ta chợt nhận ra mình đã phô trương kiến thức, tỏ ra hơn thua với huynh đệ. Tâm tỏ ra khoe khoang, hơn thua ấy không ai nhìn thấy, chỉ tự chúng ta nhận thấy. Khi biết mình vừa phạm lỗi khoe khoang, vừa phạm lỗi hơn thua- dấu hiệu của sự sa sút Đạo đức- chúng ta cảm thấy hối hận ngay. 

Như vậy, chúng ta phải nhận ra được lỗi của mình chứ không chờ dư luận bên ngoài đánh giá. Người ngoài có thể không thấy lỗi của mình hoặc có khi lại đánh giá quá đáng, thiếu chính xác. Thử lấy một ví dụ rất đơn giản, chúng ta sẽ thấy rõ điều này. Một lần, vì cảm thấy mệt mỏi, chúng ta vào bếp xin một ly nước chanh. Nhưng lúc ấy nhà bếp không có ai nên chúng ta tự pha lấy. Vậy mà, có người để ý và nói với mọi người là ngày nào chúng ta cũng xuống bếp lục đồ ăn. Tự chúng ta biết là mình không có lỗi ấy nhưng người ta đã nói quá cho mình. Ở đây, chúng ta chỉ có lỗi là không nói qua với người có trách nhiệm một tiếng để có người làm chứng là mình đã không tự ý. Nhưng thực ra, lỗi đó cũng không đáng kể. 

Như vậy, trong việc đánh giá lỗi lầm, chúng ta không bỏ qua dư luận vì có khi người ta gợi ý hoặc chỉ ra lỗi mình rất hay nhưng cũng không quá coi trọng dư luận. Tốt nhất là chúng ta tự biết lỗi mình để hối hận và vượt qua.

Một khi đã xuất hiện nỗi buồn hối hận về một lỗi lầm mình đã gây nên, chúng ta sẽ tâm niệm, ước ao rằng mình đã không làm điều sai lầm đó. Thậm chí, chúng ta còn ước ao thời gian quay lại để mình không làm việc sai lầm đó nữa. Đây chính là Nhân lành để về sau chúng ta không bao giờ lặp lại lỗi lầm cũ. Chúng ta không thể quay ngược thời gian, trở về quá khứ để làm lại từ đầu, nhưng nếu tâm vẫn hướng về quá khứ và ước mình chưa bao giờ làm chuyện không hay đó thì tâm niệm ấy sẽ thành Nhân tốt cho vị lai và chắc chắn chúng ta sẽ không phạm lỗi lầm ấy nữa. 

Ví dụ, khi còn nhỏ, chúng ta đã từng nói dối cha mẹ xin tiền mua sách vở nhưng lại mang tiền đi chơi, ăn uống với bạn bè. Khi lớn lên, biết Phật pháp, nghĩ lại chúng ta thấy thương cha, thương mẹ vô cùng. Từ chỗ hối hận, chúng ta ước ao giá như lúc đó mình đừng nói dối, giá như lúc ấy mình lo học nhiều hơn, thương cha mẹ nhiều hơn… Chính ý nghĩ về quá khứ đó đã biến thành cái Nhân của vị lai. Qua kiếp sau, chắc chắn chúng ta sẽ trở thành một người con ngoan, một người con hiếu thảo.

Có những người sống một đời mà chưa từng hối hận. Đó thường là những người ác độc. Vì sao như vậy ? Vì chỉ có những bậc Thánh, những người đã giải thoát mới không có lỗi lầm để không hối hận. Còn tất cả chúng ta, sống trên cuộc đời này không ai không từng có lầm lỗi. Chỉ có những người có tâm ác độc mới không biết được phải trái, đúng sai, không biết tội phước nên chưa bao giờ hối hận.

3. GIÁC NGỘ ĐƯỢC ĐẠO LÝ MỚI CÓ THỂ HỐI HẬN LẦM LỖI CŨ 

Sở dĩ có thể hối hận được lầm lỗi cũ là do chúng ta giác ngộ được đạo lý. Chẳng hạn, trước đây, khi chưa biết được tội phước, chúng ta có thể phạm tội sát sanh khá nặng ( sẵn sàng giết heo, giết bò phục vụ cho đám cưới, đám tang… khi có người nhờ đến ). Khi học được đạo lý, chúng ta mới thấy rằng muôn loài đều cần sự sống và cũng hiểu được nỗi đau đớn của con vật khi bị giết. Vì thế, chúng ta cứ hối hận không nguôi. 

Như vậy, nhờ biết được đạo lý, biết được nhân quả mà chúng ta biết  hối hận. Khi hiểu được đạo lý, chúng ta sẽ biết so sánh cái thiện của đạo lý đã học với cái bất thiện mình đã phạm phải. Vì thế, mỗi khi học được những điều hay, lẽ phải, chúng ta thường xuất hiện tâm hối hận. Không ít người trong chúng ta khi bắt đầu biết Phật pháp cứ buồn phiền, hối hận mãi vì trước đây đã có sự đối xử không đúng với mọi người; với cha mẹ, anh chị em trong gia đình... Khi đã đi tu, mỗi ngày trôi qua, khám phá ra được một đạo lý, chúng ta quay  nhìn lại quá khứ, càng hối hận hơn vì những lầm lỗi cũ. Cứ thế, trong suốt cuộc đời dài dặc này, con người đã vấp không biết bao nhiêu lầm lỗi nên cứ phải hối hận hoài. 

Chúng ta còn nhớ trường hợp vua Asoka ( vua A Dục ) vì tin sự cao cả của Phật pháp đã biết hối hận và tạo nên công đức. Trước kia, ông là một Hoàng tử ác độc. Vua cha có nhiều Hoàng tử nhưng trong đó Asoka là người hung dữ nhất. Nghĩ rằng Asoka là người hung dữ sau này sẽ làm loạn hại những người anh em khi ông qua đời nên nhà vua đã sai Hoàng tử cầm quân ra ngoài trấn biên giới. Nghe lời vua cha, Asoka lên đường. Khi trấn quân biên giới, với tính tình nóng nảy, ác độc, ông đã muốn đem quân xâm chiếm nước người. Nhưng vì chưa có lệnh vua cha, hơn nữa, đạo quân vua cha giao cho cũng không đủ mạnh nên Asoka không dám làm loạn. Đó cũng là dụng ý của nhà vua. Đưa Asoka ra biên giới, vua cha cũng đã tính kỹ mọi đường. Khi ông nằm xuống, Asoka sẽ không về kịp, Hoàng tử được chọn kế vị ngôi vua sẽ đăng quang kịp thời. Khi về đến nơi, mọi việc đã đâu vào đó, Asoka sẽ không dám làm loạn. Vua cha tính toán thật chu đáo nhưng không ngờ Asoka còn nhanh hơn ông tưởng. Nghe tin cấp báo vua cha hấp hối, ông ta kéo quân về ngay lập tức. Về tới kinh thành, ông giết sạch các anh em của mình một cách dã man và lên làm vua. 

Một ông vua lên ngôi bằng hành động độc ác như vậy chắc chắn không thể “trị quốc, bình thiên hạ” được vì người dân nghĩ rằng ông ta lên làm vua được là nhờ giết bao nhiêu anh em mình. Như vậy, để cuộc đời sung sướng, họ cũng phải giành giật với người này, phải giết hại người kia. Vì thế, khắp nơi trong nước, dân chúng đã nổi loạn. Cuối cùng, vua Asoka đã tỉnh ngộ và quay về với Phật pháp. Có hai thuyết nói về sự tỉnh ngộ của ông.

Thuyết thứ nhất kể rằng: Vì ông là con người có hành động nổi tiếng tàn bạo nên trong nước dân cứ nổi loạn liên tục. Nơi này trộm cướp nổi lên, nơi kia xảy ra lừa đảo, giết người… Ông bèn xây một nhà ngục giao cho một tay chủ ngục ác độc có nhiều thuộc hạ hành hình tội nhân cai quản. Hồi đó, xã hội không có sự công bằng. Người phạm tội gì cũng bị quăng vào ngục hành hạ cho đến chết. Ông cho chủ ngục quyền sinh, quyền sát. Tay chủ ngục cũng là kẻ độc ác nên ai đã vào ngục, không mong ngày được trở ra. Trong khi đó, nhà vua chỉ lo đem quân đi xâm lược các nước láng giềng. Ông cất quân đánh nước này, thôn tính nước kia, mở rộng đế quốc Ấn Độ. Lúc bấy giờ, lục địa Ấn Độ trở thành một vương quốc thống nhất là nhờ tài cầm quân, nhờ sự tàn bạo của vua Asoka.

Một lần, có một Sa môn - một nhà sư Phật giáo- không hiểu thế nào lại vào thẳng trong ngục. Tên cai ngục tưởng là tội nhân mới được bên ngoài gởi vào để trừng phạt. Nhưng khi được hỏi đến, ông ta ngơ ngẩn không biết cách trả lời, hắn bực mình ném ông vào chảo dầu đang sôi. Trong chảo dầu, ông vẫn giặt giũ, tắm rửa, kỳ cọ thoải mái. Tên chủ ngục kinh ngạc đứng nhìn. Hắn thấy nhà sư thỉnh thoảng bay lên không trung rồi lại hụp xuống tiếp tục tắm. Cai ngục chạy vào báo cho vua Asoka biết chuyện kỳ lạ và mời nhà vua ra xem. Vua A Dục vội vàng chạy đến xem và vô cùng ngạc nhiên khi thấy vị Tỳ kheo nghiêm trang cất mình giữa hư không. Lúc đó, tâm hồn ông bỗng nhiên bị lay động. Từ trước đến nay, ông không tin trong cuộc đời này có những chuyện thần thánh nên đã đối xử tàn bạo với mọi người. Hành động tàn bạo đầu tiên là giết anh em mình để giành ngôi vua, sau đó là đem quân xâm lược khắp nơi, chém giết con người một cách tàn bạo để giành đất đai. Hôm nay, chứng kiến sự kiện lạ ấy, ông tin rằng cuộc đời có chuyện thần thánh và cảm thấy lòng mình xao động. Ngay lúc đó, vị Tỳ kheo đã thuyết pháp cho ông. Nhà vua bừng tỉnh, thấy được lỗi lầm của mình và quỳ xuống xin sám hối. Vị Tỳ kheo khuyên nhà vua nên dùng đạo đức để cai trị dân, không nên dùng những hình phạt nghiêm khắc, tàn bạo như vậy. Vua thỉnh vị Tỳ kheo về cung điện và dần dần ra lệnh sửa đổi luật pháp cho khoan thư  hơn. 

Khi thấy vua cùng vị Tỳ kheo đi khỏi ngục, tay chủ ngục níu vị Tỳ kheo lại và nói: 

-           Tâu Đại Vương, Đại Vương có luật là ai vào đây là không thể ra.

 Vua Asoka nói:

-           “Đúng. Và ngươi phải là người như vậy. 

Nói xong, ông túm lấy tay chủ ngục quăng vào chảo dầu. Đó là hành động độc ác cuối cùng của ông khi bắt đầu gặp được Phật pháp. Sau đó, ông thỉnh vị Tỳ kheo về cung để học hỏi Phật pháp. Đây cũng là duyên may cho đạo Phật vì Asoka truyền bá Phật pháp mạnh mẽ sau khi ông đã dùng bạo lực đánh chiếm các nước khác và xây dựng một đất nước thống nhất. Bởi vậy, cả lục địa Ấn Độ thời đó đều theo Phật. Có thể nói, bạo lực đi trước, Phật pháp đi sau. Dựa vào uy lực của vua mà đạo Phật tràn lan khắp Ấn Độ và người đạo Phật cũng tùy hỷ trước việc ông xâm lăng cũng như trước những chiến công của ông. Và quả báo cũng đã tới. Vào thế kỷ thứ XIII, quân Hồi vào giết hết người theo đạo Phật tại Ấn Độ. Nhà sư bị giết, đền đài bị đập phá nên đạo Phật biến mất. Chỉ còn những nước lân cận như Tây Tạng, Tích Lan, Hồi giáo không đặt chân tới được nên Phật pháp còn tồn tại. Đó cũng là Nhân quả vì người ta đã truyền bá đạo Phật bằng con đường bạo lực mà người theo đạo Phật vẫn tùy hỷ. 

Thuyết thứ hai nói về Kalinga. Sau một trận chiến khủng khiếp, xác người chết đầy đồng, đàn bà trẻ con chết đầy đường…, chợt có đội quân cưỡi ngựa đến báo tin cho nhà vua biết Hoàng hậu ở nhà hạ sinh được một Hoàng tử. Nghe tin báo, ông vui mừng khôn xiết. Tình cha con trỗi dậy đã làm cho những tình cảm khác sống dậy trong ông. Nhìn những đứa trẻ chết trên bãi chiến trường cùng với những người mẹ của nó, rồi những cụ già chết la liệt trong chiến tranh, ông hối hận và kéo quân về. Trên đường về, ông gặp một vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo đã thuyết pháp, giáo hóa cho ông. Từ đó, ông hồi đầu về với Phật pháp. Thuyết này không có sức thuyết phục lắm nhưng cũng cho chúng ta biết vào thời đó đã có một vị Thánh nhân, một vị Tỳ kheo chứng Đạo đủ sức cảm hoá một ông vua bách chiến, bách thắng như vua A Dục để ông ta trở về với đạo Phật. 

Như vậy, khi tin được sự cao cả của Phật pháp, chúng ta mới biết hối hận. Nếu không cúi đầu trước sự cao cả của Phật pháp, chúng ta sẽ không thấy được những lỗi lầm mình đã phạm trước đây. 

Đọc lại một câu chuyện trong Góp nhặt cát đá, chúng ta sẽ thấy hối hận còn xuất phát từ đâu. Chuyện kể rằng, một vị Thiền Sư đang tụng kinh thì một tên cướp xông vào. Hắn gí dao vào cổ Thiền Sư và bảo ông đưa tiền. Ông cũng bình tĩnh tụng kinh, không nhúc nhích gì và chỉ cho tên cướp biết tiền để trong tủ. Sau đó, ông vẫn tiếp tục tụng kinh. Khi tên cướp lấy tiền xong quay đi, ông mới ngừng tụng kinh và nói: “Nhận tiền xong phải cám ơn”. Hắn nói :“Cám ơn”, rồi đi thẳng. Ông vẫn tiếp tục tụng như không có gì xảy ra. Sau khi cướp tiền của vị Thiền Sư, tên cướp lại đến cướp thêm ở nơi khác và bị công an bắt. Hắn cũng hối hận và thật lòng khai ra những vụ trộm cướp hắn đã thực hiện, trong đó có vụ cướp tiền của vị Thiền Sư. Công an giải hắn đến chùa và hỏi vị Sư : “Thưa Ngài, có phải là tên này đã vào đây chỉa dao vào cổ Ngài và lấy tiền của Ngài không?”. Vị Thiền Sư trả lời: “Không. Tôi có cho và nó có cám ơn”. Nhờ câu nói ấy nên tên cướp được giảm án vì người ta nghĩ hắn chưa đến độ táng tận lương tâm dám vào chùa cướp của. Khi ra tù, hắn đã đến chùa xin xuất gia, làm đệ tử vị Thiền Sư ấy. 

Trong trường hợp này, điều gì đã làm cho tên cướp hối hận ?  Đó chính là lòng từ bi, cao thượng của vị Thiền Sư. Trong cuộc đời, có những người làm việc ác vì họ chưa từng gặp điều cao cả, cao thượng, chưa gặp được tình thương yêu. Họ thấy xung quanh mình luôn tồn tại những điều ác độc, con người chỉ biết tranh giành nhau mà sống; kẻ mạnh, lắm mưu mô xảo quyệt sẽ thắng kẻ yếu đuối, lành hiền. Họ không tin có nhân quả. Sống như vậy cho đến khi bắt gặp tình thương yêu, sự cao thượng từ người khác, họ cảm thấy hạnh phúc và chợt nhận ra thế gian này đâu chỉ toàn là điều ác độc, quanh họ vẫn còn đầy tình thương yêu. Sống trong tình thương yêu của con người, họ hối hận và muốn mãi mãi được tắm trong tình thương yêu đó. 

Trong cuộc sống, có thể chúng ta sẽ gặp rất nhiều người xấu. Qua câu chuyện này, chúng ta hiểu được họ vẫn có thể còn biết khởi tâm hối hận và cố gắng dùng tình thương để cảm hóa họ. Lúc nào chúng ta cũng phải giữ tâm thương yêu. Chỉ có tâm thương yêu, không ganh ghét đố kỵ, không hơn thua kiêu kỳ mới có thể cảm hoá được người xấu. Chính lòng thương yêu của chúng ta sẽ làm cho họ có niềm tin vào cuộc sống, con người và biết hối hận để quay về với nẻo thiện. Để làm được điều đó, chúng ta phải huân tập tâm Từ bi thật sâu đậm. Ngoài những lời nói, trong tâm chúng ta phải thật sự có tình thương yêu. Chúng ta phải hiểu rằng, cho người khác niềm tin vào sự cao cả, niềm tin ở điều thiện, niềm tin vào tình thương yêu để họ biết hối hận, là một công đức lớn.

Một điều rất hay nữa là hối hận có thể rửa được tội. Có Thầy kể rằng, khi còn nhỏ chưa biết Phật pháp, đọc sách của ông Krisnamurti - người Ấn Độ từng đi giảng khắp Tây Phương- người ấy không hiểu gì cả nên tỏ ra không thích. Sự không hiểu ấy một phần do người viết, một phần do người dịch chuyển ngữ  không thích hợp với văn Việt nên câu văn tối nghĩa. Sau này, khi lên Đại học, học qua lý thuyết dịch, Thầy mới hiểu ra điều ấy. Nghĩa là người dịch phải dịch nghĩa chứ không phải dịch chữ. Chẳng hạn, I go to school ( dịch theo chữ là Tôi đi tới trường ) nhưng nghĩa lại là Tôi đi học. Một câu văn theo nguyên văn có khi dài dòng, phức tạp, người dịch phải tìm ra nghĩa rồi chuyển sang câu văn tiếng Việt cho dễ hiểu. Đó cũng là lý do khiến Thầy không hiểu và không thích ông Krisnamurti. Khi nói chuyện trao đổi đạo lý với mọi người, Thầy đã bài bác ông ta. Cho đến khi gặp được Phật pháp, học được Thiền, Thầy mới chợt tỉnh là mình đã bài bác nhầm một bậc Thánh. Ông quả thật là một bậc Đạo Sư đã giác ngộ. Khi hiểu ra điều đó, vị Thầy ấy cứ hối hận, ray rứt mãi. Khoảng được nửa năm, một đêm trong giấc mơ, Thầy thấy ông hiện ra, gương mặt sáng như ánh trăng rằm nhìn mình cười tha thứ rồi biến mất. Khi thức giấc dậy, sự hối hận giày vò Thầy suốt nửa năm qua đã tan biến. Thầy hiểu rằng, tâm hối hận của mình đã được chứng minh và Thầy đã rửa được tâm bất thiện trong quá khứ. 

Như vậy, Hối hận là một tâm niệm vô cùng quý giá. Nếu sống mà không biết hối hận, chúng ta không bao giờ rửa được sự bất thiện mình đã gây ra trong quá khứ.

Cách đây không lâu, trong một tài liệu giảng về Phật giáo Nam Tông, một vị Sư Nam Tông đã cho rằng : Tâm hối hận là tâm bất thiện. Và ông đã kể ra một câu chuyện để chứng minh điều đó. Thời Đức Phật, có một vị Tỳ kheo vì mến mộ Phật pháp nên đã xuất gia. Vị Tỳ kheo này là con một, xuất thân từ một gia đình giàu có, đã có vợ nhưng chưa có con. Khi gặp Phật, người ấy  đã theo Phật đi tu. Một hôm, khi trở về thăm lại gia đình, cha mẹ ông nói cho ông biết tài sản của gia đình rất lớn. Ông là con một, nếu đi tu mà không để lại một đứa con nào nghĩa là gia đình coi như tuyệt tự. Theo luật pháp Ấn Độ thời bấy giờ, khi cha mẹ ông chết, tài sản của gia đình sẽ bị sung vào công quỹ nếu như ông không để lại đứa con nối dõi. Cha mẹ ông muốn ông phải để lại một đứa con. Thương cha mẹ và bị thuyết phục quá, vị Tỳ kheo xiêu lòng ăn ở lại với vợ được một đứa con rồi ra đi. 

Thời đó Phật chưa có chế giới, chỉ có người đi tu tự biết làm Sa môn là phải giữ phạm hạnh. Người tu phải sống theo lương tâm mình. Bởi vậy, khi để lại một đứa con, vị Tỳ kheo không thấy mình phạm quy. Nhưng thẳm sâu trong lương tâm, ông biết mình đã phạm sai lầm nên vô cùng hối hận. Nỗi buồn phiền ấy day dứt mãi trong lòng ông lúc trở lại Tăng đoàn. Sau đó, ông lâm bệnh rất nặng. Nghe tin ông bệnh, Đức Phật đến thăm và hỏi rõ sự tình (thực ra, Ngài đã biết hết mọi điều). Vị Tỳ kheo thành thật trình bày sự việc và sám hối. Lúc bấy giờ, Đức Phật thuyết một bài pháp để vị Tỳ kheo hiểu được lỗi lầm và ca ngợi đời sống phạm hạnh. Sau đó, Đức Phật cũng chế ra giới luật. Nhờ Phật thuyết pháp, an ủi nên tâm hối hận của vị Tỳ kheo biến mất. Ông trở lại tiến tu và về sau cũng chứng Đạo.

Kể chuyện này, vị Sư Nam Tông muốn kết luận: Tâm hối hận là tâm bất thiện. Chúng ta biết rằng, Phật giáo Nam Tông vốn có truyền thống bảo thủ, người trước nói sao, người sau nói vậy, nếu nói trái sẽ bị phê bình là ngoại đạo. Vì vậy, bên Nam Tông Nguyên thủy nhìn các thầy Đại Thừa như là người ngoại đạo Bà La Môn, không phải đạo Phật, mặc dù họ vẫn thờ Phật. Cho nên, có thể câu kết luận tâm hối hận là tâm bất thiện ấy không phải của vị Sư kia mà của một vị Sư trước đó. Vị Sư này nghe người trước mình nói như vậy nên nói lại. Cũng có nghĩa là điều đó đã được truyền qua mấy ngàn năm rồi. Điều đáng ngạc nhiên là câu kết luận sai lầm này đã được giữ cho đến ngày hôm nay. 

Thật ra, đạo Phật có nhiều Tông phái. Tông phái nào cũng cho mình là chân lý, là đúng đạo Phật. Đây là điều mà chúng ta phải tỉnh táo xét lại. Dù đi theo bất cứ Tông phái nào( Nam Tông, Bắc Tông Đại thừa hay Khất Sĩ…), chúng ta cũng không bao giờ được tin một cách mù quáng. Chẳng hạn, dù Bắc Tông Đại thừa không sử dụng cuốn Chân lý của Đức Minh Đăng Quang bên Khất Sĩ vì có nhiều điểm không hợp với Tam Tạng Kinh điển, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, đạo hạnh của Đức Minh Đăng Quang rất tuyệt vời và cuốn Chân lý cũng có nhiều điểm hay. Thời đó, Ngài không có dịp tham khảo hết Tam Tạng Kinh điển nên có những điều Ngài đoán giảng theo suy nghĩ của mình, không phù hợp với Tam Tạng Kinh điển. Hơn nữa, lúc bấy giờ đạo Phật chưa chấn hưng nên sách chưa nhiều, ai hiểu thế nào cứ giải thích thế ấy nên có khi không phù hợp với Giáo điển. Đó cũng là điều dễ hiểu. 

Ở đây, chúng ta xem nỗi buồn là một hệ quả, nỗi buồn của hối hận là nỗi buồn vô cùng cao đẹp. Nếu nỗi buồn do ích kỷ là sự xao động tầm thường, thì nỗi buồn vì lỗi lầm là nỗi buồn có khả năng thanh lọc, làm sáng tâm mình và rửa được những tội lỗi. Chúng ta phải hiểu rằng, trong con người vốn có nhiều tình cảm. Nếu tình cảm được sử dụng đúng chỗ sẽ làm tăng trưởng được thiện pháp, giúp con người đi dần về phía giải thoát. Ngược lại, những tình cảm được đặt không đúng chỗ sẽ đưa chúng ta đi dần về phía ràng buộc. 

Ví dụ, tâm xót xa vốn thuộc trạng thái động. Khi thấy một người nào đó khổ, chúng ta khởi tâm xót xa thì sự xót xa đó gọi là bi, là thương xót trước nỗi khổ của người khác. Đây là một tình cảm động, nhưng lòng bi ấy cho thấy thiện pháp trong chúng ta đang tăng trưởng, tâm hồn chúng ta trở nên cao thượng và đang đi dần về phía giải thoát. Trong trường hợp này, nếu giữ tâm cho tịnh, chúng ta lại rơi vào tâm ích kỷ. Còn trường hợp xót xa cho chính bản thân mình (như than thân trách phận) là tình cảm động nhưng khiến ta đi về phía ràng buộc luân hồi, vì đó là cái động của sự ích kỷ.

Hoặc tình thương yêu cũng là tình cảm “động”. Nếu vướng vào tình yêu đôi lứa, chúng ta sẽ bị ràng buộc, phiền não rồi đi về phía sinh tử luân hồi. Nhưng cũng tình thương yêu ấy nếu đem ra chan rải khắp thế gian, thương yêu tất cả chúng sinh, chúng ta sẽ đi về phía giải thoát. Bởi vậy, nếu được sử dụng đúng chỗ, tình cảm sẽ giúp cho tâm hồn thăng hoa, cao thượng hơn. Chúng ta đừng sợ những tình cảm ấy làm tâm mình xao động. Không phải lúc nào cũng giữ tâm mình phẳng lặng, yên tĩnh như cát, như đá là chúng ta đã tu tốt. Thấy người khác khổ mà không xót xa, nhìn thấy chúng sinh mà không khởi lòng thương yêu, đó không phải là người tu theo đạo Phật. Chúng ta dám khẳng định chắc chắn như vậy. 

Tương tự như thế, người tu hành phải sống hiền lành, không bao giờ được hung dữ nhưng sự hung dữ nếu sử dụng đúng chỗ cũng là một điều hay. Nếu có duyên, chúng ta sẽ tìm hiểu chữ “dữ” này và như thế nào là “dữ” đúng chỗ trong Phật pháp. 

Khi biết so sánh đạo lý cao xa với việc làm sai lầm của mình, chúng ta sẽ xuất hiện tâm hối hận. Cứ mỗi ngày tìm ra được điều gì mới, chúng ta càng hối hận vì trước đây mình đã không biết được điều này, đã ứng xử sai lầm. Khi đã hối hận, ngoài việc xảy ra tâm niệm ước ao mình đừng làm điều ấy trong quá khứ, chúng ta còn phát sinh một tâm lý khác là muốn tạo công đức. Hối hận lỗi cũ có thể giúp chúng ta tạo nên công đức mới như một sự chuộc lỗi. 

Nói đến điều này, chúng ta không thể không nhắc đến câu chuyện người kiếm sĩ đào con đường hầm trong Góp nhặt cát đá. Vì đây là câu chuyện tiêu biểu cho việc muốn tạo công đức để chuộc lại lỗi lầm sau khi hối hận của con người. Chuyện kể về một kiếm sĩ theo tinh thần võ sĩ đạo của Nhật. Vì phải lòng người vợ của một viên quan, ông ta đã giết viên quan đó và mang người vợ đi. Khi sống gần nhau, ông mới phát hiện ra người đàn bà mà ông thương yêu bấy lâu để phải làm nên tội lỗi ấy lại là một người đàn bà tầm thường, tham lam và ích kỷ. Ông đã từ bỏ người đàn bà đó và ra đi trong nỗi hối hận khôn nguôi. Đểø chuộc lại tội lỗi của mình, ông đã phát tâm đục một con đường hầm đi xuyên qua núi để người dân địa phương qua lại không phải bỏ mạng trên đường đèo.

Người con trai của viên quan nọ sau một thời gian học kiếm thuật đã tìm đến ông để trả thù. Cuối cùng, người thanh niên gặp được người đàn ông ấy trong lúc ông ta đang ngồi đục đá trong hang núi. Người con trai của viên quan nói: “Ngươi hãy quay lại cầm kiếm đấu với ta, ta không muốn giết kẻ thù từ phía sau lưng”. Người học kiếm thuật thường quân tử như vậy. Họ không muốn làm việc hèn hạ. Ông già vẫn tiếp tục ngồi đục đá, không quay lại mà trả lời: “Cậu hãy đợi tôi đục xong con đường hầm này, tôi sẽ dâng mạng sống của tôi cho cậu”. Người kia không biết làm sao vì giết người ta sau lưng thì không phải là người quân tử. Hơn nữa, việc đục con đường hầm này cho mọi người đi của ông ta cũng là điều tốt, không nên ngăn cản. Anh ta cầm gươm ngồi chờ ông già đục xong con đường. Ban ngày, ông đi xin ăn, chiều tối lại về đục. Người thanh niên cứ lẽo đẽo cầm gươm đi theo. Thời gian trôi qua, cảm thấy ngồi chờ ông già đục đường như thế cũng buồn, người thanh niên bèn làm phụ ông. Hai người cứ sống với nhau như vậy suốt bao nhiêu năm. Khi đường hầm được hoàn thành, người kiếm sĩ già cầm cây gươm đưa cho người thanh niên và nói: “Đầu tôi đây, cậu hãy cắt đi !”. Người kia quỳ xuống: “Làm sao con có thể cắt đầu Thầy được”. Câu chuyện đã kết thúc một cách rất cảm động. 

Như vậy, nhờ tâm hối hận, qua bao nhiêu năm làm phước, ông đã tẩy sạch hết tội lỗi, tẩy sạch hết tâm bất thiện của mình trong quá khứ khiến người từng coi ông là kẻ thù đã nhận ông làm Thầy.

Chúng ta biết rằng, tội lỗi được cấu thành phải có hai yếu tố: Bên ngoài là tội làm tổn hại chúng sinh, bên trong là tâm bất thiện. Cái hay của tâm hối hận là vừa xóa được sự bất thiện trong tâm vừa xóa được phần tội bên ngoài. Trường hợp ông kiếm sĩ già trong câu chuyện này là một ví dụ tiêu biểu. Bao nhiêu năm trời hối hận, lại tạo được phước nên sự bất thiện trong tâm ông đã bị xóa sạch và tội bên ngoài, tội giết viên quan ngày xưa cũng được xoá đi phần lớn. Người con trai viên quan kia không giết ông để trả thù đã chứng minh điều đó. Có thể kiếp sau ông sẽ bị trả quả báo nhưng chắc chắn sẽ trả một cách nhẹ nhàng. 

Tin Nhân Quả cũng giúp cho chúng ta biết hối hận, nhất là khi thấy mình gặp nghiệp quả không may. Vì tin Nhân Quả, khi gieo Nhân, chúng ta suy luận được quả báo nên biết hối hận, biết nhận ra được lỗi của mình. Do đó, trong suốt cuộc đời làm việc đạo, chúng ta cố gắng truyền cho người khác niềm tin về Nhân Quả. Đó cũng là cách làm cho đạo đức tăng trưởng trong cuộc đời này và làm cho mọi người được lợi ích. 

Trường hợp nhận quả báo, chúng ta suy luận ngược lại cái Nhân mình đã gieo và cũng phát sinh tâm hối hận. Ví dụ, một người nọ không may gặp tai nạn phải mất một cánh tay. Khi ngồi suy luận Nhân Quả, người ấy nghĩ đời trước chắc mình đã làm điều gì ác với  người khác nên đời này mới gặp quả báo như vậy. Vì tin Nhân Quả nên bây giờ người ấy hối hận và chắc chắn suốt quãng đời còn lại, họ không dám làm điều ác nữa. 

4. NHỮNG CÁCH CHUỘC LỖI. 

Thông thường, người ta có ba cách chuộc lỗi:

Thứ nhất là chuộc lỗi với đối tượng mà mình đã phạm. Chẳng hạn, khi lỡ nặng lời với người nào đó, chúng ta đến gặp họ để xin lỗi. Hoặc một lần nào đó không kiềm được lòng tham, lỡ lấy cắp của người ta một vật gì đó, chúng ta hối hận tìm đến họ xin lỗi. Như vậy, chúng ta đã chuộc lỗi với đối tượng mà mình đã phạm. Khi chuộc lỗi với họ, lỗi trong tâm chúng ta sẽ hết. 

Trong cuộc đời có rất nhiều tình huống để chúng ta phạm lỗi. Có những trường hợp đối tượng mình đã phạm không còn nữa để mà xin lỗi. Lúc ấy, chúng ta cũng có thể chuộc lỗi bằng cách phát lồ trước Đại chúng. Đây là một nghi thức rất hay trong đạo Phật. Khi có lầm lỗi, chúng ta ra trước Đại chúng nói lên lỗi của mình, tâm bất thiện về lỗi đó sẽ không còn nữa. Phát lồ với Đại chúng là biểu hiện rất cao lòng can đảm của người phạm lỗi. 

 Cách thứ ba là chuộc lỗi bằng cách lễ Phật. Có những lỗi lầm không tiện nói với người mình đã phạm lỗi, cũng không có cơ hội để phát lồ với Đại chúng, chúng ta chỉ có thể thiết tha trình bày lỗi và ăn năn sám hối với đấng tối cao là Đức Phật. Ví dụ, khi phát hiện ra trong mình còn tồn tại tính tham lam, chúng ta không biết thổ lộ, sám hối cùng ai. Những tâm niệm rất tế đó, chúng ta chỉ có thể quỳ lạy trước Phật mà sám hối. Vì Đức Phật là đấng tuyệt đối hoàn hảo về công đức, trí tuệ, từ bi… Lòng tôn kính Phật, công đức lạy Phật sẽ làm phước của chúng ta tăng trưởng và tội lỗi của chúng ta vơi đi rất nhiều. Khi lễ lạy Phật, chúng ta luôn hướng về tội lỗi của mình, lỗi sẽ được xóa đi rất nhanh. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải biết đúng lỗi, có tác ý đúng lỗi và hướng về lỗi đó mà ân hận. Có như vậy, chúng ta mới vượt qua được lỗi lầm. 

Ngoài ra, trong đạo Phật còn có nghi thức sám hối định kỳ, mỗi tháng sám hối hai lần. Đây cũng là nghi thức rất có ý nghĩa. Vì không ai sống mà không có lầm lỗi. Mỗi ngày trôi qua, chúng ta đều có thể phạm lỗi lầm. Nếu cứ nửa tháng được sám hối một lần, tâm hồn ta sẽ trở nên thanh thản. Nhưng vấn đề là sử dụng nghi thức sám hối như thế nào. Hiện nay, có nhiều nghi thức sám hối : Hồng Danh, Lương Hoàng sám, Thủy sám… Ở một số chùa, các vị Thầy lớn cũng đặt thêm những nghi thức sám hối khác. 

Nhìn chung, nghi thức sám hối đều có hai ý nghĩa: kể lỗi và lạy Phật. Hai việc làm này rất đúng trong việc sám hối nên hầu hết các vị Tổ đặt ra các bài sám đều dựa trên hai ý nghĩa này. Trong đó, bài tụng Lương Hoàng sám rất hay. Khi tụng, người sám hối phải kể tội từng li, từng tí. Như vậy, họ sẽ nhìn lỗi mình kỹ lưỡng hơn. Ví dụ, xung quanh việc ăn cắp, chúng ta phải thấy rõ: ăn cắp là môt cái tội, xúi người ta ăn cắp cũng là một cái tội, thấy người ta ăn cắp mà mình tùy hỷ cũng là một cái tội… Trong tâm, chúng ta phải nhìn thấy từng lỗi như vậy để sám hối, lạy Phật rất nhiều. 

Nghi thức chung đang sử dụng hiện nay chỉ sám hối lỗi tổng quát rồi lạy Phật. (sám hối Hồng Danh, người sám hối phải lạy 89 lạy, còn phần kể tội, kể lỗi không nhiều). Hơn nữa, văn kinh bài sám hối lại bằng chữ Nho nên rất khó hiểu. Sở dĩ nghi thức sám hối này được phổ biến vì không quá dài như những bài sám khác, vừa đủ thời gian cho Phật tử tụng. Trong cuốn Những bài kinh tụng do chùa Phật Quang ấn hành có soạn một bài sám hối ngắn để Phật tử có thời gian tụng. Trước hết, bài sám hối ca ngợi Đức Phật. Mỗi đoạn ca ngợi một đức tính của Phật trong sáu câu (như trí tuệ, từ bi, sự thanh tịnh… ). Sau mỗi đoạn ca ngợi Phật, người tụng lạy Phật một lạy. Cứ thế, khi ca ngợi Phật xong, chúng ta đối chiếu lại lỗi của mình, kể lỗi mình và tiếp tục lạy Phật. Ví dụ,

            Từ chấp ngã ban đầu

            Biến thành tâm ích kỷ

            Chỉ nghĩ lợi phần mình

            Mà quên đi tất cả

            Bây giờ con ăn năn

            Xin nguyện chừa lỗi trước.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lạy)

Như vậy, suốt bài kinh, chúng ta lạy khoảng mười lăm lạy. Bài sám hối vừa gọn vừa dễ hiểu, dễ tụng lại được phước. 

Nói tóm lại, có nhiều cách chuộc lỗi. Nhưng áp dụng nghi thức phát lồ hàng tháng cho từng người sẽ hiệu quả hơn. Vì khi Đại chúng tập trung, từng người có lỗi lên phát lồ sám hối, họ sẽ có dịp nhìn thẳng vào lỗi của mình.

5. TÂM HỐI HẬN TẠO NÊN CÔNG ĐỨC. 

Trong chúng ta, không ai vừa hối hận lại vừa kiêu mạn. Vì hối hận chỉ phát sinh khi chúng ta đã phạm lỗi lầm. Bởi vậy, tâm hối hận sẽ giúp chúng ta phát khởi tâm khiêm hạ. Ngoài việc xóa lỗi, hối hận còn tạo nền tảng đạo đức cho tâm khiêm hạ.  Đây là một lợi ích lớn của tâm hối hận. 

Ví dụ, một người tài giỏi dễ phát sinh tâm kiêu mạn. Hệ quả tất yếu của tâm kiêu mạn là ô nhiễm. Do tâm bị ô nhiễm nên chúng ta tạo ra lỗi lầm. Khi đã phạm lỗi lầm và thấy được lỗi lầm, chúng ta sẽ hối hận. Khi đã biết hối hận, trong chúng ta sẽ xuất hiện tâm khiêm hạ. Đó là quá trình tất yếu. Nhưng từ tâm kiêu mạn, một người tài giỏi học được tâm khiêm hạ phải trải qua quá trình gần cả một đời người. Trong suốt quá trình đó, đôi khi chúng ta phải trả bằng sự đau khổ, tan vỡ, phải trả bằng những giá rất đắt mới học được sự khiêm hạ. Đôi khi thấy người tài giỏi mà kiêu mạn, chư Phật, chư Bồ Tát đẩy họ vào lầm lỗi để họ học được đức khiêm hạ. Đây là điều rất đáng sợ. Bởi vậy, ngay từ đầu chúng ta phải cẩn thận kiểm soát tâm mình, đừng để kiêu mạn phát sinh. Đó cũng là lý do vì sao khi học môn Tâm lý Đạo đức, chúng ta lại bắt đầu bằng bài Khiêm hạ. 

Những người kiêu mạn sau này thường bị phạm phải lỗi lầm. Nhờ có lỗi lầm, họ biết hối hận và nhờ hối hận, họ học được hạnh khiêm hạ. Đó là điều đáng quý. Lỗi lầm có thể nặng, có thể làm chúng ta đau khổ, ray rứt nhưng điều quan trọng là cuối cùng chúng ta đã học được hạnh khiêm hạ từ lầm lỗi ấy. Chúng ta biết rằng, với con người, kết quả đạt được sau khi đã trải qua bao đắng cay, chấp nhận bao nhiêu điều mất mát là điều quý giá nhất. Bởi vậy, đôi khi chúng ta cũng nên “cảm ơn lầm lỗi”. 

Khi chưa có lỗi lớn, chúng ta phải biết sám hối những lỗi nhỏ để ngăn ngừa dần. Lỗi nhỏ mà không được nhìn ra, không hối hận, không sám hối sẽ đưa chúng ta đến lỗi lớn. Như vậy, cách tốt nhất để tránh lỗi lớn là biết cẩn thận sám hối từng lỗi nhỏ.

6. BẤT HỐI. 

Bất hối là không còn hối hận. Khi Thiền định, sắp vào sơ thiền, phá được năm triền cái ( tham ái, sân hận, thùy miên, trạo hối, nghi ngờ), chúng ta sẽ không còn bị tâm hối hận giày vò nữa vì lúc này, tâm được thanh tịnh. Như vậy, tâm bất hối có được là do Thiền định. Mặt khác, người không lầm lỗi cũng sẽ không còn hối hận. Vậy, Thiền  định đưa đến bất hối và không có lỗi cũng đưa đến bất hối. Ở đây, chúng ta phải hiểu một điều là Thiền định có nghĩa là không còn lỗi. Người muốn đạt được Thiền định phải là người có đạo đức rất chuẩn mực, không có lỗi lầm. Chính đời sống trong sạch như băng tuyết mới giúp chúng ta đạt được Thiền định. Lâu nay, nhiều người lầm tưởng cứ ca ngợi một pháp môn nào đó, thực hiện được pháp môn nào đó sẽ đạt được Thiền định. Thực ra, muốn có được Thiền định, chúng ta phải bắt đầu bằng đạo đức. 

Thiền định đưa đến bất hối. Chính Đức Phật đã nói điều này. Phá được năm triền cái để vào Sơ thiền, chúng ta sẽ đạt được bất hối. Khi phạm lỗi lầm, chúng ta liền biết lỗi và không tái phạm nhưng trong tâm không có hối hận. Ngay bây giờ, khi chưa chứng được nội tâm vắng lặng, chúng ta phải cố gắng tẩy sạch lỗi. Trong việc tẩy sạch lỗi có một điều quan trọng là chúng ta phải sống một đời hết sức vị tha, không vì bản thân mình. 

Trong cuộc đời, không ai thật sự đã hết lỗi, trừ những vị Thánh giải thoát. Vì vậy, chúng ta nên khéo giữ gìn tâm hối hận để giữ được Đạo đức. Điều ấy mới nghe qua tưởng chừng vô lý nhưng đó là sự thật. Vì hối hận là một nỗi buồn, nhưng là một nỗi buồn rất đẹp và cao cả. Chúng ta đừng nghĩ mình học Đạo, sống trong môi trường Đạo thì không có lỗi. Hãy nhìn sâu vào tâm mình, chúng ta sẽ nhìn thấy tất cả những vô minh trong đó. Đó chính là lỗi. Khi hiểu rằng lỗi mình chưa hết, chúng ta phải cố gắng giữ tâm hối hận để giữ được Đạo đức. Giữ tâm hối hận cũng như giữ một pháp môn Thiền định: giữ một câu niệm Phật, giữ phương pháp điều hòa hơi thở… Lúc nào chúng ta cũng xét lỗi mình để hối hận. Hễ lỗi này tan rồi, chúng ta tìm lỗi khác để tiếp tục hối hận. Cứ như thế cho đến khi tội lỗi tan ra, tan ra, chúng ta sẽ đạt được cái bất hối của Thiền định. Như vậy, hối hận cũng có thể được xem là một pháp môn để chúng ta nhập được vào định. 

Những lỗi lớn, tâm hối hận dễ thấy. Nhưng những lỗi vi tế, tâm hối hận khó thấy hơn. Tuy nhiên, chúng ta cố gắng giữ tâm hối hận vì tham, sân, si, mạn chưa bao giờ thật sự đã được nhỗ sạch gốc. Trong chúng ta, không ai dám khẳng định là mình đã chấm dứt được tham, sân, si. Khi tin rằng mình còn tham, sân, si, mạn, chúng ta luôn luôn hối hận về bốn điều này để dần dần tẩy rửa chúng. Chúng ta biết rằng, lỗi chỉ tiếp tục tồn tại và phát triển khi chúng ta không hối hận về nó. Một khi đã biết lỗi và hối hận, lỗi sẽ không phát triển được nữa. Đó cũng là một cách để xóa được tội.

Chúng ta đã từng nghe bài kệ: “Tánh tội vốn không do tâm tạo, tâm nếu diệt rồi tội sạch trong, tội trong tâm diệt cũng là không, như thế mới là chân sám hối”. Bài kệ còn nhiều điểm phải bàn. Trước hết, nói “tánh tội không do tâm tạo” cũng có thể chấp nhận được. Thực ra, tội làm ra bên ngoài không có thật nhưng do tâm bất thiện khởi lên nên mới tạo tội ra bên ngoài. Nhưng cho rằng: “tâm nếu diệt rồi tội sạch trong”- diệt cái bất thiện bên trong rồi thì cái tội bên ngoài mất- là điều cần phải xem lại. Có khi tâm bất thiện đã rửa được nhưng tác hại đã gây ra cho người khác vẫn còn nguyên vẹn. Người tạo tội vẫn phải chịu trả quả báo. Chúng ta phải hiểu tội làm bên ngoài và tâm bất thiện có sự khác nhau. Tâm thanh tịnh nghĩa là cái bất thiện bên trong không còn nữa nhưng tội mình đã gây ra cho chúng sinh bên ngoài vẫn còn đó, quả báo vẫn còn chờ đó. Bởi vậy, câu nói : “Tâm nếu diệt rồi tội sạch trong” là không chính xác. Người viết câu này muốn đi tìm chân sám hối bằng cách giữ tâm thanh thản. Sợ hối hận là cái “động”, không phù hợp với Đạo nên họ đưa ra một bài kệ giúp người học đi tìm tâm thanh thản mà không tìm tâm hối hận. Thực ra, đi tìm tâm thanh thản sớm quá mà bỏ qua hối hận, buồn phiền là một điều tai hại. Nếu không có hối hận, tội của chúng ta sẽ không bao giờ hết. Chừng nào trả xong quả báo, chừng đó tội tác hại chúng sinh bên ngoài mới hết. Vậy, không có con đường nào làm hết tâm bất thiện bằng con đường hối hận. Phải nhìn thấy lỗi và hối hận vì mình đã gây ra lỗi ấy thì bất thiện sẽ không còn. 

Như vậy, đừng bao giờ chủ quan tin mọi điều mình đã học là đúng. Chúng ta phải cảnh giác với điều bài kệ đã nêu, đừng vội tìm sự thanh thản khi tâm bất thiện chưa thật sự hết. Trong cuộc đời tu hành, chúng ta cứ mạnh dạn đi tìm sự buồn phiền của hối hận. Vì đó là một nỗi buồn rất đẹp, nỗi buồn làm sáng lên nhân cách của mình, làm cho tâm mình trở nên cao thượng hơn. Nhờ vậy mà chúng ta sẽ được giải thoát. Có nhiều pháp môn dạy chúng ta vội vàng đi tìm sự thanh thản, bỏ qua việc tẩy trừ tâm bất thiện. Đó là điều nguy hiểm. Chúng ta phải ghi nhớ một điều: Cái tội của tâm được xem là hết khi sự hối hận được cố ý giữ gìn cho đến khi tự tan biến. Nhưng quả báo vẫn phải trả. 

Ví dụ, khi đã lỡ tay tát huynh đệ một cái, chúng ta biết mình sân và hối hận hết ngày này sang ngày khác. Nỗi hối hận cứ giày vò mình mãi, không lúc nào buông. Đến một ngày nào đó, chúng ta cố gắng giữ mà không giữ được nữa. Đó là lúc hối hận đã tự tan biến, cũng là lúc tội mình đã hết. Cái bất thiện đã tan, cái tội đối với huynh đệ bên ngoài cũng xóa được một nửa. Tâm hối hận rất hay. Vì thế, khi có lỗi, chúng ta cố gắng giữ tâm hối hận cho kỹ, đừng buông, đừng quên nó. Đến khi không giữ được nữa nghĩa là tội đã tan và chúng ta đã thành công. 

7. KHI CHỈ LỖI CHO NGƯỜI. 

Sau này khi lớn lên, chúng ta sẽ có sư đệ hoặc đệ tử. Khi thấy họ phạm lỗi lầm, chúng ta phải chỉ dạy. Chừng nào nhận thấy người có lỗi thật sự khởi lên niềm hối hận, chừng đó chúng ta mới tin họ đã nhận lỗi. Để nhận biết điều này, chúng ta phải dựa vào kinh nghiệm. Khi chỉ lỗi, phân tích lỗi cho đệ tử, nhìn trên nét mặt họ thấy nỗi buồn của hối hận hiện lên, chúng ta biết ngay người ấy đã nhận ra lỗi. Ngược lại, khi phân tích lỗi cho đệ tử nghe, họ chỉ vâng dạ và chắp tay cung kính nhưng nét mặt vẫn tỉnh, không có vẻ gì buồn bã hay xúc động, chúng ta biết rằng người ấy chưa nhận ra lỗi, chỉ giả vờ cho qua chuyện. 

Khi phân tích lỗi rất kỹ, rất khéo mà người có lỗi vẫn không nhận ra lỗi, không hối hận, chúng ta phải xem lại. Một là do thiện căn của người có lỗi ít quá. Nếu có thiện căn lớn, họ sẽ nhận lỗi rất nhanh. Ngược lại, nếu thiện căn ít, họ khó nhận ra lỗi của mình. Hai là do cách chỉ lỗi hoặc do đức độ, trí tuệ của mình. Nếu có đức lớn, chúng ta sẽ giúp người ta nhận ra lỗi nhanh hơn. Nếu đức độ và trí tuệ kém, sự chỉ lỗi của mình không những không thuyết phục được người có lỗi thậm chí còn gây cho họ sự chán nản, bất bình. 

 Bởi vậy, khi chỉ lỗi cho người mà không đem lại kết quả, chúng ta phải xét lại hai nguyên nhân để khắc phục. Nếu đức độ, trí tuệ của mình còn kém, chúng ta phải tu tập thêm tâm từ bi, phải lạy Phật thật nhiều để tăng đức độ. Nếu cảm thấy mình đã có đủ những điều kiện ấy nhưng người có lỗi vẫn không chịu hối hận, chúng ta biết họ thiện căn thấp quá nên khó tu. Với những người như vậy, chúng ta khoan độ cho xuất gia, giữ họ tu tại gia thêm. Nói tóm lại, sự cảm hoá lệ thụôc vào thiện tâm của người có lỗi và đức độ của người chỉ lỗi.

1. ĐINH NGHĨA.

Xét trên khía cạnh Đạo đức, can đảm là dám đương đầu với nguy hiểm để làm điều tốt. Trong đạo Phật, đó là Hùng lực hay Dũng trong Bi- Trí -Dũng. 

Can đảm khác với táo tợn, liều lĩnh khi làm điều không chính đáng. Vì vậy, hành động cướp giật của một tên cướp không phải là hành động can đảm mà là táo tợn, liều lĩnh mặc dù phải rất có gan hắn mới làm được điều đó. Ở đây, chữ can đảm bao hàm ý nghĩa Đạo đức.

 Trong đạo Phật, một vị Thánh hay một người đệ tử Phật chỉ xứng đáng được ca ngợi khi phải hội  đủ ba đức tính là Bi- Trí - Dũng. Bi  là lòng thương yêu chúng sinh. Trí là trí tuệ, hiểu rõ mọi điều. Nhưng Bi, Trí chưa đủ, phải có Dũng-sự gan dạ, can đảm- mới có thể làm được những điều tốt. Vì không phải mọi điều tốt trên đời này đều dễ dàng thực hiện. Có rất nhiều điều tốt nằm trong hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn. Nếu không đủ hùng lực, dũng cảm, chúng ta sẽ không thực hiện được. 

Trong cuộc sống, khi muốn làm việc thiện, chúng ta có thể đối diện với vô vàn những nguy hiểm, khó khăn. Trong đó, nguy hiểm nhất là cái chết. Có khi để làm được một việc thiện, chúng ta phải đánh đổi bằng cả sinh mạng của mình. Nếu dám hy sinh như vậy, chúng ta được coi là người rất dũng cảm. Nguy hiểm đứng thứ hai sau cái chết là sự thương tật. Khi cứu người khác, chúng ta có thể sẽ bị thương tật, phải chịu đựng những đau đớn. Ngoài ra, những nguy hiểm chúng ta có thể gặp là bị tù đày, có khi phải hứng chịu sự căm ghét, sự phỉ báng của người khác… Quả thật, làm việc thiện không phải lúc nào cũng đơn giản. Nhưng bù lại những nguy hiểm, khó khăn ấy, chúng ta có thể làm được vô số những điều tốt. Đó là cứu người khi lâm nguy, dấn thân trên chiến trường để bảo vệ đất nước, lên tiếng bày tỏ sự thật mặc dù sự thật đó làm cho mọi người bất bình, căm ghét hay vạch trần sự bất công, chống lại tội ác - nhất là những tội ác được tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi….

 Như vậy, khái niệm Can đảm chỉ được dùng cho những hành động hướng về điều thiện. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta phải đối diện với những nguy hiểm, và trong những trường hợp đó, can đảm là yếu tố cần thiết giúp chúng ta vượt lên hoàn cảnh và sống tốt hơn. Cuộc đời vốn không bình yên, phẳng lặng như mặt hồ thu mà luôn chứa đựng những bất trắc, những nghịch cảnh éo le, những nguy hiểm. Chúng ta, những đệ tử Phật phải xác định được điều đó và sẵn sàng vượt qua bằng lòng can đảm của mình. 

Trong quá trình làm việc Đạo, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp thuận lợi, dễ dàng. Ngay cả những việc thiện đơn giản trong đời sống cũng đòi hỏi lòng can đảm. Chẳng hạn, khi có một món tiền lớn, chúng ta có thể sẵn sàng bớt ra giúp đỡ người khác một trăm ngàn mà không cần băn khoăn, tính toán. Vì số tiền nhỏ đó không ảnh hưởng đến cuộc sống của mình. Nhưng nếu chỉ có trong tay năm chục ngàn, người khác lại rơi vào hoàn cảnh cấp bách cần cả số tiền đó, liệu chúng ta dám nhịn ăn để cho họ hay không? Đây chính là lúc đòi hỏi chúng ta phải có đức hy sinh, lòng can đảm. Tất nhiên, điều này cũng không khó bằng việc phải nhảy vào đám lửa để cứu người vì khi nhảy vào đám lửa có thể chúng ta phải đánh đổi cả sinh mạng của mình. Phải có một quyết tâm rất cao, phải có lòng can đảm, chúng ta mới làm được điều đó. 

Chúng ta biết rằng, cái phước có được ở kiếp sau của con người được tính bằng một công thức. Công thức phước ấy được tính bằng tích số giữa việc làm lợi ích cho người khác với sự cố gắng của chính bản thân mình. Ví dụ, khi có trong túi một triệu đồng, chúng ta cho người khác một trăm ngàn thì sự cố gắng không có bao nhiêu. Và phước chúng ta có được sẽ không lớn. Nhưng nếu chỉ có năm chục ngàn đồng, người ta cần, chúng ta cho sẵn sàng tất cả thì lúc này sự cố gắng rất cao. Như vậy, số tiền tuy ít nhưng nhân với hệ số cố gắng lớn, phước của chúng ta sẽ lớn hơn. 

Từ ví dụ đơn giản ấy, chúng ta thấy hành động nhảy vào lửa để cứu người đòi hỏi một sự cố gắng vượt bậc. Vì lúc đó, người nhảy vào lửa biết mình có thể bị phỏng, bị nguy hiểm đến tính mạng mà vẫn cố gắng làm. Vì vậy, cái phước có được sẽ rất lớn. 

Chúng ta nhớ lại câu chuyện kể về tiền thân Đức Phật. Trong một kiếp, Đức Phật là một vị Sa Môn tu hành. Một lần, Ngài thấy một con chim Cắt, loài chim ăn thịt các con vật khác, đang rượt đuổi một con chim Bồ Câu.  Chim Bồ Câu sợ quá bay núp vào người Ngài. Chim Cắt nói rằng, đây là bữa ăn của nó. Nếu Ngài cứu con chim Bồ Câu thì nó sẽ đói. Đây là sự công bằng của cuộc sống. Nó đi săn được mồi để sống, Ngài giành con mồi của nó chắc chắn nó không chịu. Nghe vậy, Ngài đành phải cắt một miếng thịt của mình cho chim Cắt ăn, thay cho mạng sống của chim Bồ Câu. Như vậy, Ngài sẵn sàng chịu thương tật đau đớn để cứu mạng chú chim Bồ Câu tội nghiệp. Đó là một thái độ, một hành động rất dũng cảm, người thường không làm được. Câu chuyện thực ra mang tính ngụ ngôn hơn là có thật, nhưng cũng giúp chúng ta hiểu được tấm gương sáng về lòng can đảm, đức hy sinh cứu người của Đức Phật. Sau này, nhiều chùa đã vẽ biểu tượng ấy lên tường với ý nghĩa Đức Phật đã từng cắt thịt cho chim Cắt ăn để cứu mạng chim Bồ Câu.

Trong thực tế, chúng ta cũng gặp không ít  những gương hy sinh cứu người rất cảm động. Không chỉ người lớn mà trẻ em cũng làm được điều đó. Báo chí đã từng đưa tin về một bé gái dám hy sinh thân mình để cứu bạn. Khi cùng với bốn người bạn đi chơi ngoài bờ đê, dòng nước chảy xiết đã làm bốn người bạn rơi xuống đê. Trong tình huống nguy cấp đó, đứa bé đã nhảy xuống lần lượt kéo từng bạn vào bờ. Nó vốn bơi giỏi nhưng kéo được người thứ ba thì sức gần như cạn kiệt. Biết còn người bạn nữa đang cần sự giúp đỡ của mình, đứa bé lại nhảy xuống tiếp tục cứu. Khi đưa được người thứ tư vào bờ thì nó kiệt sức và bị dòng nước cuốn đi mất. Như vậy, trong lúc quá mệt nhưng nghĩ đến người bạn đang sắp chết đuối ngoài kia, đứa bé đã hết sức cố gắng. Đó là sự cố gắng vượt bậc. Khi vớt được xác đứa bé, người ta đã an táng đàng hoàng và mọi người đến viếng với lòng quý trọng, tiếc thương vô hạn. Với sự cố gắng đánh đổi cả sinh mạng của mình để cứu người, công đức của cô bé vô cùng lớn và chắc chắn cô sẽ được lên cõi trời sau khi chết.

Hoặc câu chuyện sẵn sàng chịu tù đày thay bạn của một người trong giới xã hội đen cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Người ta kể rằng, một lần nọ do nóng giận, người này đã đánh người  kia đến chết. Khi Công an ập tới bắt thủ phạm đánh chết người, một người khác, bạn của anh ta đứng ra nhận mình là thủ phạm vì vợ của người kia có mang gần đến ngày sinh nở. Người này đã chấp nhận ở tù cực khổ để bạn mình ở lại nuôi vợ con. Thái độ ấy tưởng đơn giản nhưng thực ra rất can đảm. Dù không đồng tình, thậm chí còn lên án những hành động làm ăn phi pháp, giết người tàn bạo của bọn giang hồ trong giới xã hội đen nhưng chúng ta cũng thừa nhận rằng, họ sống rất hào hiệp, rất tình nghĩa, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nhau. 

Hành động dấn thân ngoài mặt trận, sẵn sàng đối diện với cái chết của những người chiến sĩ cũng là hành động can đảm vì điều tốt. Nếu là một người lính chiến đấu trong cuộc chiến tranh phi nghĩa thì tội sẽ rất nặng vì họ cầm súng giết người, vừa phạm tội sát sanh vừa mang tội cướp nước. Nhưng người lính chiến đấu chống xâm lăng, bảo vệ đất nước thì phước của họ rất lớn. Khi đối diện với cái chết, trong tâm họ vẫn nghĩ đến sự bình yên cho đất nước, nghĩ đến hạnh phúc của nhân dân. Chính vì thế, không ít những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ… đã viết lời ngợi ca họ: “Một ba lô cây súng trên vai. Người chiến sĩ quen với gian lao. Đường dài đêm thâu, bóng tối quân thù trước mặt . Nặng tình quê hương anh dâng trọn tuổi đời thanh xuân. Cho em thơ ngủ ngon, và vui bước sớm hôm đến trường…” 

Những người dám đứng ra bảo vệ sự thật, vạch trần sự bất công, chống lại tội ác đều là những người can đảm. Vì họ dám đương đầu với nguy hiểm để làm điều tốt. Đó có thể là những ký giả ở một số nước tham gia đấu tranh chống tiêu cực.  Trong những năm qua, người ta thống kê trên thế giới có khoảng ba đến bốn ngàn ký giả bị bắt, bị giết, bị tù đày vì họ dám nói lên sự thật để chống lại những bất công đang tồn tại trong xã hội. Khi sự thật được phơi bày, điều xấu sẽ bị khống chế. Nếu sợ hãi, không dám lên tiếng bảo vệ sự thật thì cái xấu sẽ tồn tại và tiếp tục phát triển. Bởi vậy, nói điều đúng, nói điều có lợi cũng sẽ tạo nên công đức lớn.

2. SỰ TẠO THÀNH 

Tâm can đảm được tạo thành bởi hai điều: Một là tinh thần mạnh mẽ, vững vàng. Hai là sự thúc đẩy của Thiện tâm. 

Tinh thần mạnh mẽ là cái  không thể định nghĩa được. Nó cũng giống như tình thương yêu, lòng từ bi vậy. Trong bài Tâm từ, chúng ta đã hiểu tình thương yêu không thể định nghĩa được bằng lời. Chúng ta chỉ nhìn thấy biểu hiện của nó và biết rằng lúc ấy tình thương đang hiện diện. Tinh thần mạnh mẽ cũng vậy. Chúng ta chỉ hiểu, chỉ cảm nhận được tinh thần ấy trong những trường hợp bị thử thách mà vẫn quyết đoán, vẫn bền gan, vững chí. Đó chính là những biểu hiện của tinh thần mạnh mẽ. 

Một chuyện rất đơn giản là đi qua cầu khỉ của người miền Tây cũng đòi hỏi  ở chúng ta lòng can đảm. Những người chưa đi quen sẽ rất sợ hãi khi nhìn chiếc cầu bắc qua dòng nước đang cuộn trôi chỉ là một thân cây trơ trọi. Nếu lần đầu tiên về miền Tây và tập đi cầu khỉ, chúng ta phải hết sức can đảm, tinh thần phải vững vàng, không dao động. Lúc bấy giờ , nếu sợ hãi, chúng ta sẽ bị ngã xuống sông. Khi qua rồi, chúng ta sẽ thấy mình làm được điều đó là nhờ có một lòng can đảm, một quyết tâm rất cao. 

Hoặc chuyện kể về những người dẫm chân đi trên than hồng thật khó tin nhưng đó là điều có thật. Lửa than cháy đỏ rừng rực, họ dẫm chân lên, miệng tụng những câu thần chú bí hiểm. Thực ra, đó không phải là điều gì mầu nhiệm. Những câu thần chú ấy sẽ làm cho họ vững tâm hơn, có niềm tin hơn. Khi đã vững tâm, họ bước đi một cách tự nhiên mà chân không hề bị bỏng. 

Người ta kể rằng, có một ông Thầy dạy đệ tử mình đi trên than hồng. Thầy rải than và bắt đệ tử đi trên đám lửa cháy đỏ rực. Trước khi thực hành, Thầy đi qua một lần cho họ xem nhưng những đệ tử vẫn không dám đi. Lúc ấy, Sư phụ yêu cầu họ lấy mỗi người một tờ giấy và viết lên đó nỗi sợ hãi của mình. Tất cả đều viết:     “Bước lên sợ nóng chân, sợ phỏng chân”. Sư phụ cầm những tờ giấy đứng niệm điều gì đó một lát. Niệm xong, ông đốt đi và nói : “Thầy đã đốt  hết những sợ hãi. Bây giờ các con không còn sợ hãi nữa, hãy dẫm lên mà đi, chân sẽ không bị cháy”. Nghe lời Thầy, họ vững tin đứng lên than và đi được một cách dễ dàng. 

Hoặc có người  biểu diễn cho người khác xem bằng cách cầm cái chai đập vào đầu, nhưng chai vỡ mà đầu không vỡ. Người ta cho rằng đó là kết quả của việc rèn luyện ý chí chứ không có  gì đặc biệt. Khi cầm cái chai, họ cứ chí nguyện quyết đập vỡ cái chai mà đầu không vỡ. Khi lòng tin đã vững, họ đập mạnh một cái, chai sẽ vỡ mà đầu không hề gì. 

Tinh thần, ý chí của con người có sức mạnh ghê gớm như vậy. Sức mạnh đó luôn tiềm ẩn trong tâm mỗi người mà chúng ta chưa phát huy được. Chính tinh thần mạnh mẽ, vững vàng ấy làm cho con người gan dạ, can đảm hơn khi đối diện với nguy hiểm. Trước cái chết, trước những hoạn nạn, khó khăn, họ vẫn vượt qua được.

Can đảm còn được tạo thành bởi sự thúc đẩy của Thiện tâm - tâm thương người, vì người. Chẳng hạn, khi thấy một đứa bé rơi xuống sông đang loi ngoi  vật lộn với cái chết trong khi nước sông lại sâu, lòng sông lại rộng, sức mình bơi không nổi nhưng vì tình thương trỗi dậy, chúng ta liều nhảy xuống để cứu nó. Thấy vậy, những người khác tiếp tục quăng phao xuống cứu và cả hai thoát chết. Thực ra, bình thường chúng ta không phải là người can đảm nhưng vì tình thương đối với đứa bé mà mình trở nên can đảm và làm được việc tốt. 

Ngày xưa, vào thời nhà Trần, quân Mông - Nguyên đã ba lần đem quân sang xâm lược nước ta. Chúng đi tới đâu, chém giết tới đó, cỏ cây cũng không mọc nổi dưới vó ngựa của chúng. Triều đình phải tổ chức tiêu thổ kháng chiến. Nghĩa là người dân bồng bế, dắt díu nhau mang theo lương thực vào rừng ẩn náu. Sau đó, quân đội tổ chức chiến đấu. Có những người do căm phẫn tột độ trước sự độc ác của quân thù đã tham gia vào quân đội để chiến đấu. Lòng căm phẫn ấy xuất phát từ tình yêu đối với quê hương, đất nước, đối với nhân dân. Chính tình yêu thương đã tạo cho họ lòng can đảm, thúc đẩy họ làm những điều tốt, sẵn sàng xả thân vì  đất nước : “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa”, họ vẫn cam lòng.

Người không có khả năng, trí tuệ, sức khỏe, thế lực… khó có một tinh thần mạnh mẽ.  Thậy vậy, khi không đủ trí tuệ để phán đoán, nhận định một sự vật, hiện tượng nào đó, người ta thường cảm thấy bất an khi đối diện với nó. Chẳng hạn, chúng ta hay nghe người đời nhắc đến ma. Khi còn nhỏ, nhiều người rất sợ ma và khi đã trở thành người lớn, không ít người vẫn còn sợ. Ngay trong một ngôi chùa, khi nghe có người kể là đã nhìn thấy ma, ai đi lại ban đêm cũng sợ. Có lần vào lúc nửa đêm, nghe chó sủa quá, một Thầy sợ ăn trộm vào chùa nên thức dậy xem. Khi đi từ nhà tăng qua nhà khách, Thầy thấy một người không rõ nam hay nữ cầm một vật rất sáng, theo sau là một đám trẻ con, nhưng tất cả đều bước đi rất nhẹ, chân không chạm đất. Khi qua chiếc cầu bắc ngang con suối nhỏ, cả đoàn nhảy lên cây sộp và biến mất. Lúc ấy, Thầy vẫn còn nghe léo nhéo tiếng trẻ con nói: “Cho ăn gì, đói quá!”. Có lẽ mấy ngày Tết vì quá mệt, chùa cúng thí thực không đàng hoàng nên thế giới siêu hình ăn không được no. Sau khi nghe kể chuyện, chùa đã bày một mâm cơm ngon lành cúng cho họ. Nhưng cũng từ đó, nhiều người không dám qua cầu ban đêm nữa vì tin ở đó có ma. 

Như vậy, vì sao trong nhiều trường hợp, người ta tin và sợ ma ? Có lẽ người ta sợ ma vì không biết rõ về nó. Vì là “hồn ma bóng quế” nên chúng thoắt ẩn, thoắt hiện, lúc vô hình khiến người ta sợ hãi . Nếu biết rõ ma ở đâu, đi lại ra sao, gương mặt như thế nào, có lẽ con người không còn sợ chúng nữa. Trong cuộc sống cũng vậy, những điều làm chúng ta sợ hãi thường do chúng ta không biết rõ về nó. Hay nói đúng hơn là do chúng ta không có trí tuệ để nhận định. 

Trường hợp người ta hay đồn về những ông thầy bùa cũng vậy. Ông ta có thể yểm, có thể thư  người khác được. Nếu ghét người nào, ông chuốc bùa người đó bệnh rồi chết. Nghe đồn như vậy, đa phần ai cũng sợ thầy bùa. Sở dĩ chúng ta sợ vì chúng ta không biết rõ bùa là gì . Nếu biết rõ về nó, về lực của bùa chú, chúng ta sẽ không sợ. Thực ra, bùa cũng có tác dụng nhất định. Bùa có tác dụng của tâm linh, của niềm tin nhờ sự luyện tập lâu ngày và nhờ định lực của thầy bùa. Nhưng tác dụng bùa chú còn lệ thuộc vào nghiệp. Ví dụ, một cái đánh của người khác tác động lên cơ thể làm chúng ta đau, nhưng nó lệ thuộc vào nghiệp. Nếu không bị cái nghiệp nào đó thì người ta không đánh mình được. Bùa cũng vậy. Nếu không mắc cái nghiệp gì đó thì người ta không đánh bùa mình được. Nó không phải là cái gì quá huyền bí, quá siêu nhiên mà con người không thể biết được. Khi hiểu về nó, chúng ta sẽ không còn sợ hãi nữa.

 Nói đến bùa chú, chúng ta không thể không liên hệ đến chuyện ngài A Nan với Ma Đăng Già. Vì ngài A Nan rất đẹp nên cô Ma Đăng Gìa gặp vài lần đã đem lòng thương nhớ rồi lâm bệnh. Người mẹ tìm hiểu và cô đã kể thật mọi điều. Thương con nhưng bà mẹ không biết làm cách nào cho con khỏi bệnh. Nghe lời mách, bà đến nhờ một thầy bùa. Thầy bùa làm phép và cô gái đã tỉnh ra. Đợi ngài A Nan khất thực đi ngang, cô gái bước ra chào để cúng dường. Do sự thúc đẩy vô hình không ngờ được trong tâm mình, ngài A Nan tự nhiên đi theo cô gái vào nhà. Khi Ngài đi vào, cô Ma Đăng Già nói lời yêu thương tha thiết. Tâm đạo Ngài rất vững nhưng bị bùa khống chế nên bị lung lay. Lúc ấy, Phật biết chuyện nên dùng thần thông hóa độ cho Ngài thoát ra. Sau đó, Phật cũng độ cho cô Ma Đăng Già xuất gia luôn. 

Qua câu chuyện, chúng ta thấy tác dụng của bùa chú thật ghê gớm. Ngài A Nan là người đã tu tập đàng hoàng vậy mà vẫn bị năng lực của bùa chú tác động. Sự thật, điều này còn do nghiệp quá khứ. Trong quá khứ, ngài A Nan và Ma Lăng Già đã từng có duyên vợ chồng với nhau, đã từng thương yêu nhau thắm thiết nên  bây giờ gặp nhau, duyên xưa trỗi dậy. Cả hai yếu tố hợp lại khiến tâm Ngài bị lung lay chứ không hoàn toàn do bùa chú. 

 Cũng có trường hợp  nhiều người đi trên xe bị người ta đánh bùa, lấy sạch đồ đạc. Điều này không chỉ do bùa mà còn do nghiệp của người ấy trong quá khứ. Có thể trước kia, họ cũng đã làm điều gì đó nên bây giờ đến lúc phải trả nghiệp. Khi hiểu được điều này, hiểu nhân quả chi phối, chúng ta sẽ không sợ hãi thế lực siêu nhiên nữa. Nếu ai nói ông thầy bùa này ghê gớm, cao tay ấn, chúng ta cũng không sợ. Chỉ cần giữ được đạo đức, giữ lòng tôn kính Phật và siêng năng làm việc thiện, chúng ta sẽ không sợ bất cứ thế lực nào, kể cả những thế lực siêu nhiên. 

Như vậy, can đảm cũng do trí tuệ mà có. Nếu đã có Trí, có Bi, chúng ta cũng dễ dàng có được cái Dũng. 

Tinh thần mạnh mẽ khiến chúng ta trở nên gan dạ,  có thể đối diện với hiểm nguy còn được tạo nên nhờ sức khỏe. Một người không có sức khỏe, cơ thể yếu đuối, thường có tinh thần bạc nhược. Khi có sức khỏe, chúng ta cảm thấy xốc vác trong công việc, dám làm mọi việc dù rất khó khăn, vất vả. Cũng nhờ có sức khỏe,  tinh thần chúng ta vững vàng hơn và dám làm được những điều mà người khác e ngại. ( Tất nhiên, trừ một số trường hợp ngoại lệ ). Nếu chùa có việc gấp, dù giữa trưa nắng chang chang hay giữa lúc mưa tầm tã, chúng ta cũng sẵn sàng nhận lãnh. 

Chúng ta cũng gặp không ít trường hợp người có thể chất yếu đuối nhưng tinh thần vô cùng mạnh mẽ. Có được điều đó là nhờ họ có phước. Chính phước cũng tạo nên tinh thần mạnh mẽ cho con người. 

Những người có khả năng, giỏi giang sẽ có sự tự tin, tinh thần cũng vững vàng và làm được nhiều việc. Gặp bất cứ việc gì họ cũng có thể làm được. Ngược lại, những người không có khả năng dễ mất tự tin, tinh thần cũng yếu đuối, không mạnh dạn bắt tay vào việc. Ai nhờ làm việc gì, họ cũng ngại không dám nhận lời. Bởi vậy, sự vụng về, thiếu khả năng cũng làm cho con người ta xuống tinh thần, luôn mang mặc cảm và khó thành công. 

Người có tiền bạc, có địa vị, có thế lực thường là người có tinh thần mạnh mẽ. Nếu có một cơ sở vật chất vững chắc, khi ngoại giao hay trao đổi làm ăn với ai, chúng ta cảm thấy mình có một tư thế vững vàng. Nếu quá nghèo khó, tiếp xúc với người khác, chúng ta thường rụt rè, không đủ tự tin. Hoặc một người có quyền hành trong tay thường quyết định mọi việc một cách dễ dàng. Những người này tinh thần cũng mạnh mẽ. Trong khi đó, những người không có quyền hành gì, thường là dân đen, chỉ biết nghe theo lời người khác. Tinh thần họ cũng trở nên yếu đuối. 

Như vậy, người có trí tuệ, có khả năng, có sức khỏe, có tiền bạc, có địa vị…  thường là những người có tinh thần mạnh mẽ, vững vàng.  Tất cả những điều ấy có được đều do phước. Hay nói cách khác, người có phước sẽ có tinh thần mạnh mẽ. Dựa vào đó, chúng ta có thể đánh giá được những người sống quanh mình. Nhìn người nào có tinh thần mạnh mẽ, chúng ta biết người đó có phước bên trong. Những người tinh thần bạc nhược, yếu đuối, lúc nào cũng rụt rè sợ sệt, muốn nói mà không dám nói, muốn làm cũng không dám làm thường là người thiếu phước.

Trên cơ sở đó, chúng ta cũng có thể đánh giá được cái phước có được nơi bản thân mình. Nếu từ trước đến nay, bản thân là người xốc vác, dám nói, dám làm, chúng ta biết mình là người có phước. Hiểu như vậy, chúng ta cố gắng nuôi dưỡng, giữ gìn. Còn nhận ra bản thân mình lúc nào cũng sợ sệt, rụt rè, chúng ta biết mình thiếu phước, phải cố gắng làm phước nhiều hơn. Mỗi ngày, chúng ta nên giúp đỡ mọi người, làm lợi ích cho Phật pháp. Dần dần, tinh thần chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Nếu chịu khó quan sát chúng ta sẽ thấy điều này rất hiệu nghiệm. Nhiều người khi mới vào chùa trông hiền lành, thậm chí còn khờ khạo, ai nói gì cũng nhịn, ai sai gì cũng làm nhưng lại cặm cụi lo công quả, tu tập. Sau này, người đó rất có uy đức, trở thành cột trụ của Phật pháp. 

Một điều chúng ta cần nhớ là khi đã có phước, tinh thần, cá tính được mạnh mẽ, chúng ta không nên lấn át người khác vì nếu sử dụng không đúng chỗ, phước dần dần sẽ hết. Khi đó, tinh thần của chúng ta lại trở nên yếu đuối. Thói thường, những người được nhiều người khen, được nhiều người cung kính hay xuất hiện tâm tự hào. Một khi tâm tự hào xuất hiện, họ bắt đầu chấp vì danh lợi và coi thường người khác. Bởi vậy, khi tu có tiến bộ, có những kết quả, được người khác sùng bái, khen ngợi, chúng ta phải cẩn thận, phải chuẩn bị một đạo lý, một công phu gì đó để làm cho nó trở nên vô hiệu.

Sự tham lam ích kỷ, thù hận có thể thúc đẩy con người dám làm những điều nguy hiểm. Ví dụ, những tên cướp dám hành động giữa ban ngày hoặc những tên trộm, ban đêm dám leo tường vào cạy cửa nhà người ta để trộm tiền bạc, của cải đều là những người có “gan to”. Nhưng cái gan của họ có được không phải do tinh thần mạnh mẽ, do sự thúc đẩy của Thiện tâm hoặc do trí tuệ mà do lòng tham. Chính lòng tham đã thúc đẩy họ dám làm những việc khó khăn, nguy hiểm ấy. 

Ở nông thôn, có nhiều người ăn trộm rất liều. Họ thường lẻn vào nhà người khác lúc xâm xẩm tối, khi chủ nhà chưa đóng cửa và chui xuống gầm giường nằm im ở đó. Khi gia đình người ta đã tắt đèn đi  ngủ, người ăn trộm từ từ bò ra lấy đồ đạc và mở cửa tẩu thoát. Họ ăn trộm một cách nhẹ nhàng mà táo bạo như vậy. Tất nhiên, sự gan dạ ấy có được là do họ còn phước. Khi hết phước, họ sẽ rơi vào trạng thái yếu đuối, sợ hãi. Trường hợp “Phước tám ngón” là một ví dụ. Đây là một tên cướp nổi tiếng, từng cướp của, giết người không gớm tay, dám đưa ngón tay mình  ra chặt trước mặt mọi người, Công an phải truy nã bao nhiêu năm mới bắt được. Nhưng khi vào tù, phước hết nên tinh thần cũng xuống. Ngày bị đem ra pháp trường xử bắn, anh ta run sợ, chân không bước nổi nữa. Sở dĩ phước của những tên cướp như “Phước tám ngón” không còn khiến tinh thần bị sa sút trầm trọng vì  trước kia họ đã gây nên quá nhiều lầm lỗi. 

Ngược lại, những người thật sự có Thiện tâm, tinh thần sẽ mạnh dần đến lúc chết. Lịch sử còn ghi lại những tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu, hy sinh vì quê hương đất nước của những chiến sĩ cách mạng. Họ chiến đấu dũng cảm, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, tinh thần họ vẫn vững vàng. Liệt sĩ Nguyễn Thái Học, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng bị bắt trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, khi bị đưa lên đoạn đầu đài vẫn hiên ngang, không hề run sợ. Trước lúc chết, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn còn hô lớn: “Việt Nam muôn năm !” Sở dĩ tinh thần của những chiến sĩ mạnh mẽ cho đến phút cuối cùng vì họ có phước lớn. Họ đã sống và chiến đấu vì quê hương đất nước, vì tâm thiện. 

Trong cuộc sống, nhìn vào tinh thần của những người già, chúng ta cũng sẽ biết trong suốt cuộc đời, họ có làm nhiều điều thiện hay không. Những người lớn tuổi mà đầu óc vẫn minh mẫn sáng suốt, tinh thần vẫn vững vàng, mạnh mẽ là những người suốt cả một đời chất chứa điều thiện. Ngược lại, những người già có tinh thần yếu đuối, hiu hắt như ngọn đèn trước gió thường là những người không làm được bao nhiêu điều thiện trong cuộc đời mình. 

Nếu nhìn thấy những người thân của mình có một tinh thần yếu đuối, các Phật tử hãy khuyên họ làm phước. Chúng ta biết rằng, người sắp lìa khỏi cuộc đời mà tinh thần yếu đuối thì khi chết sẽ không được đi về cõi siêu thoát. Ngược lại, những người đến lúc chết vẫn vững vàng sáng suốt, hiền lành, tỉnh táo thì khi chết sẽ được đi về nơi sang quý, về cõi trời. Đặc biệt, những người còn trong độ tuổi thanh xuân thường có sức khỏe tốt nên tinh thần mạnh mẽ. Nếu ở vào tuổi này mà cảm thấy tinh thần yếu đuối, chúng ta phải lo làm phước, sống một đời hy sinh cho người khác.

3. MỘT VÀI TẤM GƯƠNG. 

Tìm hiểu một vài tấm gương của người xưa, chúng ta sẽ có thêm những bài học quý trong việc rèn luyện tinh thần, ý chí. Ngày xưa, vào thời Đức Phật, trong những khu rừng Ấn Độ có rất nhiều thú dữ, nhất là cọp, beo, sư tử, mãng xà… sinh sống. Vậy mà, có những lúc Phật chấp nhận sống một mình cô đơn trong rừng sâu để tu tập, nhất là trong 49 ngày Ngài ngồi thiền nhập định, trước khi thành tựu Phật quả. Đó là một thử thách ghê gớm đòi hỏi phải có một lòng can đảm đặc biệt.  Khi nhập được định vào khoảng Nhị thiền, những ảo ảnh Ma Vương hiện ra quấy phá Ngài. Trong những cảnh quấy phá ấy có cảnh Ma Vương muốn làm cho Ngài phải khiếp sợ, phải di động cơ thể để mất Thiền định. Muôn ngàn Ma quân cầm gươm dao chém tới tấp vào Ngài. Cảnh hiện ra trông như thật chứ không phải là ảo ảnh. Chỉ cần cơ thể nhúc nhích, tâm dao động là Ngài sẽ mất ngay Thiền định. Nhưng lúc ấy, Ngài vẫn không nhúc nhích. Vì trước khi bắt chân lên ngồi, Ngài đã phát lời đại nguyện : “Nếu không thành tựu vô thượng chánh đẳng chánh giác, ta thà tan xương, nát thịt chớ không rời khỏi tòa này” - một lời thề thật quyết liệt. Vì vậy, khi muôn cảnh hiện ra với những người cầm dao chém tới tấp, Ngài coi như mình đã chết, ngồi yên không cử động. Nhưng tất cả vẫn không chém được Ngài bởi đó chỉ là ảo ảnh. Một lần khác, khi Ma quân cầm cung tên bắn vào người Ngài, Ngài vẫn ngồi đó, chấp nhận chết, quyết không nhúc nhích cơ thể. Nhưng kỳ lạ thay, những mũi tên ấy bay tới biến thành những đóa hoa rơi lả tả quanh Ngài. 

Đây là một câu chuyện đẹp và lãng mạn ca ngợi tinh thần dũng cảm, lòng can đảm, cái đại hùng đại lực của một người  trên đường đi tìm sự giác ngộ vì con đường đi đến giác ngộ không phải là con đường đơn giản. 

Hoặc chuyện ngài Quy Sơn Linh Hựu đối diện với cọp trên núi cũng là một gương sáng về lòng can đảm. Một thầy Địa lý đã nói cho ngài Bá Trượng, ngài Quy Sơn một thắng cảnh tốt có thể quy tụ cả một ngàn năm trăm người. Ngài Quy Sơn  xin đi về vùng núi đó. Khi đến nơi, Ngài chỉ cất một cốc nhỏ, một am tranh để ở và tu. Trên đường đi, có khi Ngài phải lượm trái rừng mà ăn, có khi còn gặp cọp, beo… nhưng Ngài vẫn không sợ. Chúng ta biết, cọp là loài vật hung dữ, có tướng đi vững chắc, oai vệ, đôi mắt sáng rực, tiếng gầm vang cả núi rừng. Người yếu đuối đứng trước mặt một con cọp sẽ bủn rủn tay chân, có khi ngất xỉu vì quá sợ hãi trước thần lực của nó. Muông thú trong rừng đều sợ họ nhà cọp. Nhiều con vật khi đã gặp nó, không đủ sức chạy nữa vì sức thôi miên của nó. Nhưng tinh thần ngài Quy Sơn Linh Hựu vẫn vững vàng. Thấy con cọp chặn đường, Ngài nói : “Nếu ta có duyên với núi này, ngươi tránh qua bên; còn nếu ta không có duyên, ngươi cứ ăn thịt”. Nói rồi, Ngài xăm xăm đi tới. Nhưng con cọp đã tránh qua một bên. Thần lực của Ngài rất vững vàng, tinh thần của Ngài rất mạnh mẽ đến cọp cũng phải nể. 

Chuyện cọp vào quy y với ngài Hư Vân cũng thật kỳ lạ. Hòa thượng Hư Vân là người rất đặc biệt. Khi Ngài giảng Kinh trong chùa, một con cọp trên núi cũng xuống vào chùa xin quy y. Gần đây nhất là câu chuyện ngài Hư Vân dám đi thẳng vào quân trại gặp thống binh Lý Căn Nguyên để ngăn chặn việc phá chùa, bắt Tăng ở Trung Hoa. Khi Cách mạng Tân Hợi thành công (1911) đánh đổ được triều đại nhà Mãn Thanh, chấm dứt triều đại phong kiến tồn tại hàng mấy ngàn năm và thành lập nước Trung Hoa Dân quốc, Tôn Văn ( là Tôn Dật Tiên ) lên làm Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa. Ông là người theo Tây học và có theo đạo Thiên Chúa. Vì vậy, chính quyền của ông rất có ác cảm với đạo Phật và ra lệnh đập phá chùa chiền, bắt Tăng sĩ. Trong đó, thống binh Lý Căn Nguyên là người cực đoan, chống lại đạo Phật rất quyết liệt. Ông đem quân tràn xuống miền Vân Nam, nơi ngài Hư Vân đang ở, bắt Tăng sĩ giam vào tù, phá dỡ hết chùa chiền. Nghe nói ngài Hư Vân rất nổi tiếng, là người thuộc hàng lãnh đạo của Phật giáo, ông ta có ý định sẽ đến đó bắt giam luôn Ngài. Ông đưa quân về đó lập doanh trại nên Tăng chúng trong các chùa đều xin đi nơi khác, không ai dám ở lại. Ai cũng lo sợ, khuyên Ngài hãy đi lánh nạn nhưng Ngài nói: “Các vi muốn đi thì cứ đi. Nếu phải trả nghiệp báo thì lẩn trốn có ích chi. Ta sẵn sàng đem thân mạng mình hy sinh cho Phật pháp”. Rồi Ngài đích thân một mình đi đến doanh trại xin gặp ông thống binh. Khi tới cổng trại, những người lính biết Ngài là bậc chân tu đã khuyên Ngài nên trốn đi, nếu không tai họa sẽ ập đến. Nhưng Ngài nói : “Không, cho tôi vào gặp thống binh” và đi thẳng vào doanh trại. Vốn không có cảm tình gì lại thấy Ngài dám vào nói chuyện với mình, thống binh Lý Căn Nguyên sắc mặt nóng giận hỏi Hòa thượng:

- Phật giáo dùng để làm gì, có ích lợi chi ?

Hòa thượng Hư Vân đáp:

- Ân đức giáo hóa của Thánh nhân thật vô lượng.… Phật giáo dùng để cứu  đời, làm lợi ích cho nhân dân. Từ lời dạy đơn sơ đến lý lẽ thâm sâu đều vì tạo việc lành, dẹp trừ điều ác… Phật giáo dạy người trị bịnh trong tâm. Tâm là gốc của muôn ngàn sự vật. Nếu gốc chân chính thì muôn việc đều bình an, trời đất luôn thái bình. 

Nghe Hòa thượng trả lời như vậy, ông ta hỏi tiếp:

- Vậy chứ còn tượng đồng, tượng gỗ để làm gì vậy, chỉ tốn hao tiền của dân chúng thôi chứ ích lợi gì ?

……

- Nếu thế, tại sao các tăng sĩ không làm những việc tốt mà lại đi làm các việc kỳ quái, như những kẻ phế thải trong xã hội ?

…….

Khi nói chuyện, ông ta công kích đạo Phật rất dữ dội. Tất nhiên, trước sự công kích của người khác, chúng ta phải suy nghĩ lại. Chúng ta phải nghĩ xem trong thời đó, quý Thầy đã làm gì để người ta kết luận sự hiện diện của đạo Phật không đem lại ích lợi cho cuộc đời này mà đem lại sự tốn kém; còn các Tăng sĩ như những kẻ phế thải trong xã hội ? Suy nghĩ về lời phê phán nặng nề của người khác một cách sâu sắc, chúng ta sẽ thấy được lỗi của mình. Trong trường hợp này, ngài Hư Vân đã bình tĩnh trả lời từng câu hỏi của ông thống binh bằng đạo lực và uy đức của mình. Nhờ vậy, từ một con người công kích đạo Phật rất nặng, bắt hết Tăng sĩ, dọa  bắt luôn ngài Hư Vân, vị thống đốc kia trở nên có cảm tình với Ngài và cảm tình với đạo Phật. Ông ta đã nhận ra Phật pháp thật cao siêu . Sau này, vị tướng họ Lý vào chùa xin quy y, nguyện xin làm đệ tử của Hòa thượng và thỉnh Ngài làm tổng trụ trì toàn núi Kê Túc.

Câu chuyện cho thấy tấm gương can đảm của ngài Hư Vân. Nếu không do đức tu hành khổ hạnh và lòng can đảm, làm sao Hòa thượng có thể chuyển tâm được viên tướng Lý  Căn Nguyên trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như thế? Chuyện ngợi ca những gương can đảm trong đạo Phật như vậy rất nhiều. Chúng ta chỉ nêu một vài chuyện tiêu biểu để làm gương.

Trong chiến tranh, có biết bao tướng sĩ dũng cảm xông pha vào chỗ chết để chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Chúng ta từng nghe sử sách kể về tấm gương can đảm của ông Trần Bình Trọng. Vào thời nhà Trần, quân Mông Cổ đem quân xâm lược nước ta. Bọn chúng là những kẻ hiếu sát và khát máu. Gặp quân ta, chúng giết ngay chứ không cần bắt làm tù binh. Nhưng khi bắt được Trần Bình Trọng, bọn chúng không giết mà yêu cầu ông hợp tác và hứa nếu ông đồng ý, chúng sẽ phong Vương cho ông. Trần Bình Trọng trả lời một cách khảng khái : “ Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Câu trả lời nổi tiếng của ông đã đi vào sử sách và tên tuổi của ông đã được lưu danh muôn thuở. 

Tuy sự nghiệp của Trần Bình Trọng không được sử sách viết nhiều nhưng là người tu học, chúng ta phải suy luận xem ông có uy đức gì khiến những tên lính khát máu đó phải nể phục ? Có thể nói, Trần Bình Trọng có một thần thái phi thường, phát ra bên ngoài ở sự cương nghị, ở phong thái đĩnh đạc và tư thế hiên ngang, bất khuất. Nếu không bị bắt, không bị giết chết, có lẽ ông sẽ có nhiều cống hiến lớn lao hơn cho  đất nước. Con người ấy rất phi thường mà chúng ta không thể nào khai thác hết được. 

Hoặc chuyện kể về Nguyễn Biểu cũng được lịch sử ghi lại như một tấm gương sáng về lòng can đảm. Khi  quân Minh sang xâm lược nước ta, ông đại diện cho Lê Lợi đến thương lượng với giặc. Một mình ông dám đi vào doanh trại của giặc trong khi bọn chúng đang tìm cách tiêu diệt lực lượng kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn. Khi tiếp kiến, bọn giặc đã chặt đầu một tù binh đem hấp, mắt còn mở trừng trừng và đặt lên bàn để đãi  ông. Nhưng ông vẫn bình tĩnh lấy đũa gắp hai con mắt bỏ vào miệng nhai nuốt trước sự ngạc nhiên của bọn giặc. Con người ấy quả thật có một lòng can đảm, một tinh thần mạnh mẽ, vững vàng. 

Lật lại từng trang lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc từ xưa đến nay, chúng ta còn thấy lấp lánh biết bao tấm gương khác về lòng can đảm, về tinh thần dũng cảm, không khuất phục trước kẻ thù. Chúng ta rất tự hào khi tổ tiên mình có những con người phi thường như thế… 

Hiện nay, trên thế giới vẫn đang tồn tại những tổ chức tội ác rất tinh vi như: Mafia ở Âu Châu hay Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông… Bọn Mafia hoạt động có tổ chức rất chặt chẽ và có một quy định gần như thành luật, luật bất thành văn gọi là luật im lặng. Nghĩa là thấy chúng giết người hay làm bất cứ việc gì ở đâu, mọi người đều phải im lặng. Nếu không, chúng sẽ trừng trị thẳng tay, không tha thứ. Vì vậy, suốt một thời gian dài, không ai dám tố cáo bọn tội phạm đó. Chúng vẫn lộng hành nhưng cảnh sát không thể nào điều tra được. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, toàn dân Ý đã đứng lên chống lại. Họ chấp nhận chết, quyết không chịu im lặng. Nhờ phá vỡ luật im lặng ấy mà tổ chức tội phạm Mafia dần dần bị tiêu diệt. Trong cuộc chiến đấu chống lại bọn tội phạm ấy, có những vị quan tòa đã phải trả giá bằng cả sinh mạng của mình. Tiêu biểu cho những con người kiên quyết chống lại bọn Mafia ấy là Falcon. Ông chiến đấu chống bọn tội phạm rất có hiệu quả. Nhưng cuối cùng, bọn chúng điều tra và nắm được lộ trình của ông. Một lần trên đường đi về từ sân bay, xe ông bị chúng đặt bom làm nổ tan tành. Ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng của mình. Những người sau vẫn kế tục sự nghiệp chống bọn tội phạm của ông một cách gan dạï, kiên trì, không mệt mỏi. 

Trong cuộc đời, nếu nhiều người dám chống lại tội ác, không hề sợ hãi, tội  ác sẽ dần dần bị đẩy lùi. Nếu chúng ta lúc nào cũng dè dặt, sợ hãi, tội ác sẽ lan tràn mãi, lan tràn mãi như cỏ dại gặp mùa xuân.

4. CÔNG ĐỨC. 

Chúng ta biết rằng, tạo phước trong điều kiện dễ dàng, phước sẽ không nhiều. Chính sự cố gắng quá độ mới đem lại cho chúng ta phước lớn. Nếu tạo phước trong  điều kiện nguy hiểm thì công đức vô cùng lớn. Đây là điều chúng ta cần khẳng định lại. 

Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, Phật pháp còn gặp rất nhiều khó khăn. Nếu nghĩ rằng Phật pháp hiện nay đang phát triển trong hoàn cảnh thuận tiện, chúng ta sẽ mất đi ý thức phấn đấu để giáo hóa chúng sinh, để xây dựng Phật pháp. Sở dĩ đạo Phật gặp nhiều khó khăn là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trước hết, bên cạnh những cán bộ có thiện cảm, giúp đỡ cho đạo Phật phát triển, vẫn có nhiều viên chức Nhà nước còn ác cảm với đạo Phật, luôn gây khó khăn, cản trở những người làm Phật sự. Đây là một sự thật. Vì vậy, hoạt động Phật pháp trong hoàn cảnh có nơi chính quyền có thiện cảm với đạo Phật, có nơi không có thiện cảm, chúng ta sẽ rất vất vả. Nhiều cán bộ còn ảnh hưởng tư tưởng cho rằng đạo Phật, tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng theo tín ngưỡng cũng đồng nghĩa với mê tín. Vì thế, họ luôn luôn gây khó khăn cho chúng ta. Nhiều khi họ còn nghi kỵ những người về vùng hẻo lánh mang Phật pháp, đạo đức đến cho con người.  Họ cho rằng những người ấy có liên quan đến chính trị và luôn theo dõi, rình rập. Những lúc như vậy, nếu sợ hãi, không dám đương đầu với nguy hiểm, chúng ta sẽ không làm được việc cho Phật pháp. Mỗi người phải can đảm, cứ tiếp tục làm việc Phật pháp để giáo hóa chúng sanh. Chính những việc làm tốt của chúng ta, chính nhân cách đạo đức của chúng ta sẽ giúp họ hiểu ra sự thật. 

Bên cạnh đó, còn có không ít những quần chúng còn chỉ trích tu sĩ. Đó là những người không có tín ngưỡng, không có niềm tin vào Phật pháp. Nhiều khi  nhìn thấy người tu, họ còn xem thường, thậm chí công kích. Tất nhiên, người xuất gia chúng ta cũng cần xem lại nhân cách, tư cách đạo đức của mình. Có thể có trường hợp “một con sâu làm rầu nồi canh”, khiến họ “vơ đũa cả nắm” và có ác cảm với người tu. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng, phấn đấu rèn luyện tư cách đạo đức của mình để làm gương cho những người đi sau. Chúng ta làm sao cho tất cả những người tu đều có đạo đức tốt, đều có lòng thương yêu chúng sanh, có lý tưởng thiết tha hướng về sự giác ngộ giải thoát. Có như vậy, cuộc đời này sẽ bớt đi người xấu và quần chúng bên ngoài bớt đi sự công kích. Đó cũng là cách để chúng ta đền ơn Phật. Chúng ta quyết không để vì một người xấu mà ảnh hưởng đến uy tín của đạo Phật. 

Ngoài những nguyên nhân trên, các cuộc cạnh tranh tôn giáo cũng gây khó khăn cho sự phát triển của đạo Phật. Đạo Phật vốn rất hiền lành, thậm chí nhu nhược trong khi các tôn giáo khác luôn âm thầm có những kế hoạch lôi kéo tín đồ. Chẳng hạn, một người trong đạo lấy chồng hay lấy vợ đều phải chọn người theo đạo hoặc buộc người khác phải theo đạo của họ. Hoặc con cái sinh ra phải theo đạo của cha mẹ. Trong khi đó, đạo Phật không quan tâm đến điều này. Nhiều người theo đạo Phật nhưng khi lấy chồng, lấy vợ lại bỏ đạo để theo đạo của chồng hoặc vợ mình. Có khi, cha mẹ theo đạo Phật nhưng lại không hướng cho con cái theo đạo Phật, cứ quan niệm khi lớn lên, tùy con cái lựa chọn tín ngưỡng cho mình… Đó là thái độ vô trách nhiệm của Phật tử hiện nay mà người tu chúng ta cần phải lưu ý.

Không chỉ đơn giản là giành tín đồ, một số tôn giáo còn có những kế hoạch phá đạo Phật rất thâm hiểm. Chúng ta biết rất rõ điều đó. Mặc dù lòng vẫn từ bi, không thù ghét nhưng chúng ta cũng phải hiểu đây là một sự đe dọa lớn đến việc phát triển đạo Phật. 

Đối với đạo Thiên Chúa, việc truyền bá đạo cũng nằm trong khuôn khổ luật pháp nên không gây nhiều khó khăn cho các tôn giáo khác. Nhưng Hồi giáo là một trong những đạo tranh giành tín đồ, tranh giành đất đai bằng súng đạn. Tại những vùng đạo Hồi phát triển, thân phận người theo đạo Phật rất nguy hiểm. Có những vùng trước kia là đạo Phật, bây giờ trở thành đạo Hồi cũng bằng con đường bạo lực, bằng sự mạnh mẽ, cuồng tín của họ. I-ran, Ba Tư ngày xưa được coi là những nước có đạo Phật phát triển mạnh, bây giờ trở thành một nước chỉ có đạo Hồi ngự trị. Hay một đất nước Ấn Độ rộng mênh mông, trước kia đạo Phật chiếm lĩnh, bây giờ thành đất nước của Hồi giáo, của Ấn Độ giáo. Những vùng như Indonesia, Mã Lai cũng là nơi đạo Phật phát triển bây giờ đã thành vùng đất của Hồi giáo. Hay ở Thái Lan, Phật giáo vốn là Quốc giáo, bây giờ miền Nam Thái Lan đang dần dần trở thành đất của Hồi giáo…. 

Hiện nay, tại Việt Nam, một số đền thờ Hồi giáo đã xuất hiện. Họ cũng đang ngấm ngầm nhận được sự tài trợ để truyền bá đạo của mình. Nếu chúng ta cứ thờ ơ, không nhìn xa, nhìn rộng, không thấy được trách nhiệm của mình đối với đạo Phật thì tiền đồ của Phật pháp sẽ không thể nào tươi sáng. Ngay từ đầu, chúng ta đã xác định là không có hành động tranh giành tín đồ nhưng mỗi người phải có trách nhiệm đem Phật pháp giáo hóa rộng rãi khắp nơi để mọi người biết được luật Nhân Quả. Không biết luật Nhân Quả là một thiệt thòi lớn cho chúng sinh. Vì vậy, chúng ta phải truyền bá Phật pháp để truyền được luật Nhân Quả, đem ánh sáng trí tuệ đến cho con người. Nếu chúng sinh tin được luật Nhân Quả, họ sẽ có chánh kiến vững chắc để đi trong luân hồi bớt đau khổ. Đồng thời, họ được soi mình trong ánh sáng của Phật pháp. 

Trong đạo Phật còn có lý tưởng, có con đường đưa đến sự giải thoát giác ngộ. Đó là nơi hạnh phúc, an vui thật sự tuyệt đối mà các đạo khác không có. Chính vì vậy, chúng ta luôn luôn cố gắng đem Phật pháp truyền bá cho mọi người. Tuy nhiên, lý tưởng thật  cao đẹp nhưng do tinh thần yếu đuối, nhu nhược nên cuối cùng chúng ta đã để biết bao nhiêu chúng sinh rơi vào tà kiến của các tôn giáo khác. Đó là một nhược điểm mà chúng ta phải khắc phục. 

Hiện nay, ngay trong nội bộ đạo Phật cũng chưa có sự đoàn kết, vẫn còn những phần tử kết bè phái để mưu hại người tốt. Đây là điều đau lòng nhất trong Phật pháp. Không ít người tuy mang hình thức Tăng sĩ nhưng sự thật là người không tốt. Có những người do quen biết, có thế đứng trong Giáo hội, nắm được thế lực nhưng lại dùng thế lực ấy để hà hiếp người khác, vơ vét quyền lợi cho mình, không lo lắng gì cho Phật pháp. Sống trong những môi trường như vậy, chúng ta cũng phải can đảm, không ngần ngại khi nói ra sự thật này. Có những lúc không đấu tranh được, chúng ta phải biết chịu đựng nhưng cũng chịu đựng với một thái độ gan dạ. 

Một điều nữa chúng ta cũng cần phải quan tâm. Đó là những cách thức có tính hủ bại trong sinh hoạt của Tăng sĩ. Ở đây chúng ta không tiện phân tích kỹ nhưng sự thật có nhiều chuyện rất đau lòng, cần phải được chấn chỉnh. Nói  ra điều này, chấn chỉnh điều này chắc chắn chúng ta sẽ gặp những phản ứng gay gắt, thậm chí còn bị nhiều người thù ghét, công kích và tìm cách mưu hại. Trong hoàn cảnh hiện nay, sự căm ghét, mưu hại cũng là một trong những mối nguy hiểm mà chúng ta phải  đối phó trong quá trình sinh hoạt Phật giáo. Khi bước ra làm việc đạo, chúng ta phải xác định rằng mình phải đi trong chông gai, trong sóng gió, biết bao hiểm nguy đang rình rập. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải trang bị cho mình lòng can đảm cao độ để có thể vượt qua những khó khăn, nguy hiểm để có thể làm được nhiều điều lợi ích cho chúng sinh, góp phần xây dựng Phật pháp. Và quan trọng hơn nữa là để chúng ta đền ơn chư Phật, chư Thánh, đền ơn những vị Tôn túc đã đi trước dẫn dắt chúng ta. Được sống trong môi trường yên ả, thanh bình để tu học, chúng ta hoàn toàn nhờ vào công lao của những bậc Tôn túc đi trước, gần nhất là quý Thầy trong Ban Giám hiệu, xa hơn nữa là bao nhiêu vị Hòa thượng chân tu đã tiếp nối giáo hóa Phật pháp. Chính các vị đã giáo hóa rất nhiều Phật tử cho những thế hệ đi sau mình. Chúng ta phải hiểu rằng, việc hộ đạo luôn luôn là việc của cư sĩ. Không có họ, chúng ta khó có thể duy trì được Phật pháp. Nghĩ đến điều đó, chúng ta phải tiếp tục giáo hóa để Phật tử về sau lại tiếp tục hộ đạo, duy trì Phật pháp, nuôi dưỡng chư Tăng ở thế hệ sau. Đó cũng là trách nhiệm vô cùng thiêng liêng của mỗi chúng ta. 

 5. NHỮNG PHẢN ỨNG PHỤ.

Tâm can đảm cũng có những phản ứng phụ. Trước hết, sự can đảm dễ trở thành sự kiêu mạn; người can đảm cũng dễ là một người kiêu mạn. Vì qua một lần sử dụng sức mạnh của tinh thần, tự nhiên bản ngã được kích động và lớn dần lên.

 Ví dụ, một lần nọ, mấy tay du côn ở đâu kéo đến chùa, tấn công mọi người. Trong chùa, có một Thầy biết võ, gan dạ đứng ra đánh lại bọn chúng bảo vệ chùa, bảo vệ Tăng đoàn, Tăng chúng. Sự can đảm, chiến thắng những kẻ du côn hung bạo đó đã làm cho người ấy kiêu mạn, tự hào. Đó là tâm lý rấât dễ xuất hiện trong mỗi người. Bởi vậy, chúng ta phải xác định, đi tìm sự giải thoát phải vừa can đảm, vừa khiêm hạ. Dũng là một đức tính rất cần thiết của người tu nhưng trong gian nguy, làm được điều gì cho Phật pháp, chúng ta cũng phải thấy mình chỉ là cỏ rác, cát bụi mà thôi. Có như vậy, tâm kiêu mạn mới không có dịp khởi lên. 

Sự can đảm cũng dễ tạo thành tính nóng nảy. Thông thường, những người có tinh thần mạnh mẽ, xốc vác, dám xông pha vào những nơi khó khăn cũng là người dễ nổi sân. Vì kiêu mạn nổi lên thì sân sẽ đi theo. Do đó, chúng ta phải lưu ý điều này. Chúng ta rất gan dạ, rất can đảm nhưng cũng rất hiền lành, điềm đạm. Đó là tính  cách đặc biệt của người theo đạo Phật. 

Đọc những câu chuyện viết về cuộc đời ngài Hư Vân, chúng ta thấy con người này có phong thái ung dung, tính tình vô cùng hiền lành nhưng khi gặp nguy hiểm lại can đảm đối diện, không hề sợ hãi. Chúng ta phải học theo tinh thần ấy của Ngài. Nếu gặp khó khăn nguy hiểm, chúng ta sẵn sàng gánh vác cho mọi người nhưng lúc nào cũng giữ thái độ khiêm tốn, phong thái hiền lành, nhẹ nhàng. 

Một điều chúng ta cũng thường thấy là sau một khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành công việc tốt, người ta dễ sinh tâm niệm cậy công. Đó là sự kể công, là nhớ công lao của mình. Ví dụ, một người rất can đảm, từng xông xáo trong đám lửa cháy rừng rực để cứu của, cứu người thoát nạn nhưng sau đó cứ nhớ mãi việc làm của mình. Thỉnh thoảng, người ấy nhắc lại với một niềm tự hào, một chút cậy công theo kiểu: “Nếu không nhờ tôi, tất cả bây giờ đã trở thành tro bụi …”. 

 Tâm niệm cậy công cũng là một điều làm  chướng đạo. Chúng ta phải tránh tâm niệm ấy. Trong hiểm nguy, gian khó, nếu đã quyết tâm làm được điều gì tốt thì chúng ta phải để công lao đó bay theo mây, theo gió, đừng bao giờ nhớ đến nữa, cũng đừng mong ai phải nhớ điều đó nữa. Thử liên hệ đến truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, chúng ta sẽ thấy không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta ngày xưa đã để cho câu chuyện “Thánh Dóng” kết thúc một cách hoang đường kỳ lạ như vậy.  Người anh hùng làng Dóng sau khi đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi nước nhà đã phi ngựa lên núi Sóc Sơn, cởi nón sắt, giáp sắt bỏ lại, một mình một ngựa bay thẳng lên trời biến mất.  Đó cũng là biểu hiện của tấm lòng vì nước, vì dân, sẵn sàng chiến đấu nhưng không cần người đời ghi nhớ và biết ơn. 

Tâm can đảm còn có một phản ứng phụ khác. Đó là sau khi đối diện với  hiểm nguy, chết chóc trở về, con người dễ trở thành những người tàn nhẫn. Thực tế đã chứng minh điều đó. Nhiều người lính từng có những năm tháng gian khổ, cận kề với cái chết từ chiến trường trở về đã có những biểu hiện rất tàn nhẫn. Họ ra đi chiến đấu vì chính nghĩa là điều hoàn toàn đúng. Nhưng khi đối diện với nguy hiểm, lòng can đảm, sự gan dạ sẽ tăng lên. Rồi bản ngã, sự tàn nhẫn vì thế cũng tăng lên theo. Khi trở về hậu phương, nếu không biết tu sửa, kiềm chế, họ dễ có những hành động thô bạo. Nhiều khi chỉ cần người khác nói điều gì không vừa ý,  họ có thể đánh đập môït cách tàn nhẫn. 

Hiểu được những phản ứng phụ đi theo tâm can đảm như vậy, chúng ta phải rất cẩn thận. Một mặt, chúng ta phải can đảm gan dạ, đối diện với nguy hiểm nhưng mặt khác lại hết sức từ bi, thương yêu con người. Đó là lý do vì sao Phật đưa yếu tố Bi lên trước Trí và Dũng. 

Là đệ tử Phật, chúng ta phải tu tập tâm từ thuần thục, ngày đêm quán từ bi cho thật kỹ để làm nền tảng cho tính can đảm ( Hùng lực). Quán từ bi là việc rất quan trọng nên chúng ta phải huân tập lâu dài. Khi quán được tâm từ bi, chúng ta sẽ thấy mọi việc trong cuộc sống dần dần thay đổi và thái độ của chúng ta đối với con người cũng thay đổi. Được như vậy, sau này  chúng ta sẽ làm được nhiều việc tốt cho Phật pháp nhưng vẫn giữ được đức khiêm tốn, vẫn thương yêu con người, vẫn không xem mình là quan trọng. 

Khi còn là Tăng sinh, dù được quý Thầy che chở , được sống trong môi trường bình yên, nhưng biết can đảm, dũng lực, là một đức tính quan trọng của người tu Phật, chúng ta phải tập dấn thân vào nguy hiểm, khó khăn để rèn luyện đức tính ấy. Khi có việc khó khăn, cực nhọc hoặc nguy hiểm, chúng ta không ngần ngại giành lấy về mình, không được tránh né hay tỏ ra sợ hãi. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải tích lũy phước từng chút để tinh thần được mạnh mẽ. Chính tinh thần mạnh mẽ là yếu tố cơ bản để tạo nên tính can đảm về sau. Nếu tinh thần yếu đuối, khi gặp chuyện nguy hiểm, chúng ta sẽ không dám đương đầu. 

1. BIẾT ƠN LÀ TÍNH CHẤT CỦA ĐẠO ĐỨC.  

Sống trên cuộc đời này, chúng ta đã chịu ơn rất nhiều người. Nhưng đối với vấn đề ơn nghĩa, con người thường có hai thái độ: Một là biết ơn ân nhân của mình và luôn nghĩ đến chuyện đền trả. Hai là tỏ thái độ vô ơn. 

Ở đây, chúng ta thừa nhận một điều : Người biết ơn là người có Đạo đức, còn người vô ơn là người không có Đạo đức. Nhưng tại sao thái độ biết ơn là biểu hiện thuộc về Đạo đức ? Phân tích rõ điều này, chúng ta sẽ chọn cho mình một cách sống thích hợp. 

Ngay ở tiêu đề, chúng ta đã định nghĩa biết ơn là một tính chất của Đạo đức. Để hiểu điều này, chúng ta phải dựa trên một cơ sở lý luận. Trước hết, mỗi người là sở hữu chủ của chính mình và phải tự lo cho bản thân mình, tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình. Dẫu lâm vào cảnh nghèo khổ, đói rách, không người giúp đỡ, chúng ta cũng không có quyền trách bất cứ ai. Hoặc thấy người hàng xóm đói khổ, chúng ta không quan tâm cũng chẳng ai trách móc hay bắt tội mình. Đó là lý thường tình trong cuộc đời. Nghĩa là trên nguyên tắc, điều đó không ai bắt buộc được ai. Đây là một nguyên tắc căn bản. Nếu trong cuộc sống, con nguời có sự san sẻ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn là nhờ những nguyên tắc ứng xử giữa người với người khi đạo đức xã hội phát triển. 

Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng tự lo được cho mình một cách chu đáo. Có những lúc, thực sự chúng ta không đủ sức để lo cho mình. Đó là những lúc rơi vào hoàn cảnh hoạn nạn, ốm đau mà ngay đến những việc đơn giản nhất trong sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, tắm rửa, giặt giũ…, chúng ta cũng không tự làm được. Những lúc ấy, có người đến chia sẻ trách nhiệm đó với mình hay nói đơn giản hơn là đến giúp đỡ mình, chúng ta cảm thấy đó là điều rất quý. Khi quý trọng sự giúp đỡ của người khác, trong chúng ta xuất hiện một tâm lí gọi là biết ơn. Như vậy, biết ơn là quý trọng sự giúp đỡ, là luôn nhớ đến ân nhân của mình với lòng quí mến và mong có dịp đền ơn. 

Từ tâm lí đó, chúng ta có thể suy ra biết ơn cũng có nghĩa là quý trọng lòng tử tế, sự hy sinh của người khác. Vì hành động giúp đỡ của người khác đối với chúng ta là biểu hiện của đức hy sinh, lòng tử tế. Người yêu thích sự tử tế, xem trọng sự tử tế nghĩa là xem trọng tính thiện của con người trong cuộc đời.  Từ đó, chúng ta cũng xuất hiện một tâm lý là chính mình sẽ cư xử tử tế với người khác. Theo định nghĩa, Đạo đức là những khuynh hướng tốt ở trong tâm, được biểu lộ ra bên ngoài trở thành sự ứng xử tốt đẹp giữa người và người với nhau. Vì vậy, biết ơn là tính chất của Đạo đức. 

 Trái với lòng biết ơn là thái độ vô ơn. Vô ơn nghĩa là không quý trọng sự tử tế, sự giúp đỡ của người khác đối với mình. Chẳng hạn, một lần rơi vào cảnh khó khăn, thiếu thốn, chúng ta được người khác giúp đỡ nhưng khi đã vượt qua cơn khó khăn đó, chúng ta lại không quan tâm, không nhớ đến, nghĩa là không quý trọng sự giúp đỡ của họ. Như vậy, đối với sự tử tế trong cuộc sống, chúng ta đã không trân trọng. Điều đó cũng có nghĩa là chính mình không cần tử tế với ai. Vô ơn là thái độ trái với Đạo đức, với lẽ phải nên thường bị người đời lên án, chỉ trích. 

2. CẢ MỘT ĐỜI TRĨU NẶNG ÂN NGHĨA.  

Nhìn lại quãng đời đã qua, chúng ta sẽ thấy mình mang nặng ơn nghĩa của không biết bao nhiêu người. Trước hết, là ơn của cha mẹ. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này sâu sắc hơn trong đề tài Hiếu. Tuy nhiên, nói đến lòng biết ơn, chúng ta không thể không nhắc đến ơn cha mẹ. Vì đây là công ơn trời bể. 

Cha mẹ đã sinh ta ra, cho ta hình hài thể xác để đựợc làm người trên cuộc đời này. Chỉ như thế thôi, công ơn ấy đã không có gì so sánh được. Khi chúng ta chưa thể tự lo cho mình, cha mẹ đã không quản sớm hôm, nhọc nhằn vất vả để nuôi dạy chúng ta nên người. Ân nghĩa ấy không thể cân đong đo đếm được. Dẫu có ví với “núi Thái Sơn” hay “nước trong nguồn chảy ra” cũng không diễn tả hết được công ơn “sinh thành dưỡng dục” của cha mẹ. Nhiều người trong chúng ta bước vào con đường tu hành quá sớm nên chưa thấm thía được công ơn của cha mẹ. Ngoài đời, không ít người tâm sự khi đã có gia đình mới biết thương cha mẹ. Khi có con, phải lo lắng, thức khuya dậy sớm chăm sóc trong những hôm con trái gió trở trời, họ mới nhận ra ngày xưa cha mẹ mình cũng vất vả như thế và càng thấm thía hơn công ơn của cha mẹ. 

Bây giờ thử nghĩ lại, những lúc bị bệnh không giặt nổi quần áo phải nhờ huynh đệ giặt giúp, chúng ta thấy cảm đôïng và biết ơn vô cùng. Vậy mà, những việc ấy cha mẹ đã làm giúp chúng ta cả hàng ngàn lần. Hoặc hôm nào đó lỡ đường, bụng đói, được người khác tốt bụng, mời cơm nước tử tế, chúng ta luôn biết ơn họ. Trong cuộc đời, không biết đã bao nhiêu lần cha mẹ cho ta ăn  no, mặc đẹp. Từ lúc mới chào đời, chúng ta đã được cha mẹ cho bú mớm, nâng niu để nên vóc nên hình. Ân nghĩa đó lớn như trời bể. Chưa kể những lúc chúng ta ốm đau, mẹ cha phải thức canh hôm sớm. Nếu một lần đi đường, lỡ bị ngã  chân đau không thể nào đi được và người nào đó đã cõng chúng ta cả cây số đến trạm xá để cấp cứu, chúng ta sẽ biết ơn họ vô cùng. Và cũng vì thế mà chúng ta thấm thía hơn công ơn cha mẹ. Vì cả quãng đời thơ ấu của mình, cha mẹ đã bồng ẵm, nâng niu, đã vất vả biết bao nhiêu mỗi khi chúng ta đau bệnh. Viết bao nhiêu, kể bao nhiêu cũng không hết được ơn nghĩa ấy. 

Bây giờ, có thể ký ức tuổi thơ trong mỗi chúng ta đã nhạt nhòa theo năm tháng. Chúng ta không nhớ được tất cả những hình ảnh ấy. Những lo toan, vất vả trong việc chăm sóc con cái để gợi nhớ công ơn cha mẹ, chúng ta cũng không thể trải qua. Nhưng chắc chắn ai cũng hiểu rằng, ơn nghĩa đó không thể so sánh với bất kỳ ơn nghĩa nào khác. Nghĩa là trong cuộc sống của chúng ta từ đây cho tới khi lìa khỏi cuộc đời này, sẽ không bao giờ có một ân nghĩa thứ hai nào có thể so sánh được với ân nghĩa của cha mẹ. Khi đã trưởng thành, nhìn mái tóc pha sương của cha mẹ, chúng ta mới thấm thía nghĩ rằng mái tóc ấy bạc là để tóc con ngày một xanh hơn. Hay nhìn dáng mẹ cha gầy yếu, lưng còng, chúng ta càng hiểu rằng lưng mẹ cha còng xuống là do đã dành trọn sức lực của cuộc đời mình cho con khôn lớn, trưởng thành. 

Đúng ra, chúng ta phải tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình nhưng cha mẹ lại lo cho chúng ta từng ly, từng tí. Công ơn đó lớn không sao tính kể được. Bởi vậy, chúng ta phải biết ơn cha mẹ. Biết ơn là một trong những tính chất của lòng Hiếu. Để làm tròn đạo Hiếu, con cái phải biết ơn, đền ơn cha mẹ, kính thương, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ khi người tuổi cao sức yếu. Theo quan niệm Đông phương, Hiếu có nghĩa là thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của người con đối với cha mẹ. Trong tiếng Anh, người ta không có khái niệm về chữ hiếu, chỉ có chữ obedient là ngoan, vâng lời, dễ bảo; hoặc chữ  pious là ngoan. Vì vậy, có thể nói khái niệm biết ơn cha mẹ của người Tây phương không sâu sắc bằng người phương Đông chúng ta.

  Người thế gian phải đền ơn cha mẹ bằng lòng hiếu. Còn người xuất gia chúng ta đền ơn cha mẹ bằng cách nào? Người thế gian còn sống với gia đình nên có trách nhiệm phải lo cho cha mẹ lúc tuổi già để đáp đền ơn nghĩa. Nhưng người xuất gia không còn cơ hội đó nữa. Vì chúng ta đã từ giã gia đình vào chùa đi tu là nhận lấy trách nhiệm đối với Phật pháp. Chúng ta được quyền không đền ơn cha mẹ như cách của người thế gian, nghĩa là không cần phải chăm sóc, phụng dưỡng. Tuy nhiên, chúng ta không được quên ơn cha mẹ và phải luôn luôn có ý thức đền ơn theo cách của người tu. Là người xuất gia, chúng ta đền ơn cha mẹ bằng cách làm cho công lao của cha mẹ không dừng lại nơi mình. Nghĩa là đem công lao tạo thành hình hài cho chúng ta của cha mẹ biến thành sự tu tập, sự thương yêu, sự lợi ích cho tất cả chúng sanh. Như vậy, công lao cha mẹ tạo ra mình không còn dừng lại nơi mình mà trở thành lợi ích cho toàn thể chúng sinh. Chúng ta làm cho cha mẹ có một phước đức vô lượng vì đã may mắn tạo ra mình. Đó là sự đền ơn vô cùng lớn lao.

Hiểu như vậy, chúng ta phải cố gắng làm sao để trong cuộc đời tu hành của mình có vô số chúng sinh được lợi ích. Nghĩa là chúng ta sẽ tu học, thực hành cho tốt để sau này đem Giáo pháp trang trải khắp nơi. Đó chính là cách đền ơn cha mẹ có ý nghĩa nhất. 

Nhắc đến lòng hiếu của người xuất gia, chúng ta nhớ lại câu chuyện về “Hòa Thượng Cua”. Ngày xưa, ở miền Bắc Việt Nam có một gia đình nọ, người chồng chết, chỉ còn hai mẹ con sống với nhau. Bà mẹ rất  thích ăn cua, hay đi bắt cua hoặc ra chợ mua cua về ăn. Một hôm, bà sai người con đi bắt cua nhưng người con không chịu. Khi bà bắt cua về, người con đem giỏ cua đổ đi vì thấy thương quá. Bà giận con, rượt đánh nó. Cậu bé đâm đầu chạy trốn trận đòn rồi đi luôn, không bao giờ trở lại. Qua trận đòn đó, bà vô cùng hối hận và bỏ tất cả công việc để đi tìm con. Bà lang thang ăn xin nơi này, nơi khác để mong tìm được con mình, nhưng tin tức của con ngày một vắng. Ba, bốn chục năm sau, bà đã già và cũng sống bằng cách xin ăn bên đường. Một hôm, một vị Hòa thượng gặp bà và hỏi : 

- Nhà bà ở đâu? Tại sao bà ngồi đây ăn xin? Con của bà đâu?

Bà già trả lời:

- Tôi không có con. Tôi chỉ có một đứa nhưng một lần tôi giận đánh, nó đã bỏ tôi đi và không bao giờ trở lại. Bao nhiêu năm nay tôi vừa ăn xin, vừa đi tìm con nhưng chưa gặp.

Nghe vậy, Ngài nói:

- Thôi, bây giờ bà về chùa làm công quả, sống không nhà, không cửa lang thang xin ăn như vậy rất khổù.

Bà đồng ý và về chùa cùng Hòa Thượng. Ngài cho bà ăn chay, mặc áo nâu sòng, chỉ công quả quét lá và niệm Phật vì bà tuổi già, sức yếu. Một hôm, trước khi đi vắng, Ngài dặn Tăng chúng trong chùa: 

- Thầy đi rồi có thể bà già mất. Nếu bà mất, các con đừng chôn, quàn để đó chờ Thầy về.

Quả thật, khi Ngài đi rồi, bà già đã qua đời. Vì có đạo nhãn hay đã đắc đạo nên Ngài biết được cả quá khứ lẫn vị lai. Khi Ngài về, xác bà cụ vẫn còn để đó. Ngài đứng trước hòm và nói: 

- Kinh nói là khi một người thành Đạo thì cha mẹ bảy đời được siêu sinh lên cõi trời. Nếu đúng như vậy thì mẹ Ngài phải được sinh lên cõi trời. Nếu không đúng thì lời chư Phật nói là dối. 

Ngài vừa nói xong, bà cụ hiện lên giữa hư không với hào quang sáng chói, với hình ảnh của một thiên nữ. Bà nói ra những điều kì lạ, chứng tỏ bà đã được sanh về cõi trời, rồi biến mất. Lúc đó, Tăng chúng hiểu được hai điều: Điều thứ nhất là Ngài đã thành Đạo. Điều thứ hai là bà già làm công quả đó chính là mẹ Ngài. Vậy mà, lâu nay Ngài đã giấu kín trong lòng, không nói cho ai biết. 

Thực ra, Ngài vẫn hiểu nỗi nhớ con, nỗi đau khổ tìm con trong bao nhiêu năm qua của người mẹ. Nó ray rứt, thấm thía lắm. Nếu biết đã tìm được con mình, chắc bà sẽ rất hạnh phúc. Hạnh phúc ấy vô cùng lớn lao và không thể diễn tả thành lời. Hiểu như vậy, đúng ra Ngài đã cho bà hạnh phúc đó, đúng ra Ngài đã nói cho bà biết mình là con ruột của bà. Là người có trí tuệ, Ngài hiểu rằng hạnh phúc đó sẽ mang theo mầm họa. Khi biết bà là mẹ mình, Ngài không thể nào bỏ rơi bà nên đã đem bà về chùa nuôi. Nhưng nếu biết mình là mẹ của một vị Trụ trì, bà sẽ xuất hiện lòng kiêu mạn, sẽ đối xử với Tăng chúng không đàng hoàng. Từ trước đến nay, bà vốn không phải là người tu, là người hiểu Đạo. Mấy chục năm qua sống lang thang ngoài đường xin ăn, không biết gì đến việc tu tập, bây giờ bất ngờ trở thành mẹ của một vị trụ trì danh giá, chắc chắn tâm kiêu mạn của bà sẽ khởi lên. Chính tâm kiêu mạn này sẽ làm cho bà thoái đọa về sau. Là người tu, Ngài thấy rằng cho bà hạnh phúc tìm lại được con không quý bằng giữ cho bà tâm khiêm hạ. Vì tâm khiêm hạ quý hơn những hạnh phúc tạm bợ, nhỏ nhoi, ngắn ngủi đó. Nếu giữ được tâm khiêm hạ khi có người con đi tu đắc đạo, sau này bà sẽ được hưởng phước một cách trọn vẹn. 

Qua câu chuyện, chúng ta thấy trí tuệ của Ngài rất siêu việt. Ngài luôn quý trọng Đạo đức, quý trọng tâm khiêm hạ. Đồng thời, câu chuyện của Ngài cũng cho chúng ta thấy lòng hiếu đặc biệt của người xuất gia. Đó là mong cho mẹ mình được an vui lâu dài về sau chứ không chỉ đem lại hạnh phúc tạm bợ nhỏ nhoi trong cuộc đời thường. Câu chuyện cảm động về lòng hiếu của Hòa thượng Cua đã đem lại cho chúng ta bài học quí báu. Chúng ta cũng sẽ cố gắng tu hành đắc đạo, làm lợi ích cho chúng sinh để đền ơn cha mẹ mình. Hiện tại, chúng ta phải biết giữ tâm khiêm hạ vì nó quý hơn tất cả mọi hạnh phúc khác, mọi niềm vui tạm bợ trên thế gian này. 

Ngoài việc chịu ơn cha mẹ, chúng ta còn chịu ơn anh chị, em trong gia đình. Đó là những người gần gũi thân yêu nhất của chúng ta. Trong suốt thời gian sống bên nhau dưới một mái ấm gia đình, anh chị em đã thương yêu và thường xuyên giúp đỡ nhau. Trong đó, những người em thường chịu ơn anh chị nhiều hơn. Vì bao giờ cũng vậy, anh chị lớn tuổi hơn nên phải chịu đựng, gánh vác nhiều trách nhiệm. Ông bà ta từng dạy: “Làm chị lành, làm anh khó”. Bởi vậy, sự nâng đỡ nhau của những người thân trong gia đình đã trở thành ơn nghĩa lớn  trong cuộc sống này mà mỗi chúng ta phải luôn ghi nhớ.

Trong quan hệ xã hội, chúng ta còn chịu ơn của nhiều người khác. Trước hết, đó là ơn của thầy cô giáo. Đây cũng là ơn nghĩa lớn. Ngày xưa, người Á Đông theo đạo Nho rất coi trọng công ơn của người thầy. Họ đã đặt sự tôn trọng theo thứ bậc : Quân – Sư – Phụ. Quân là Vua. Hiểu theo bây giờ là những viên chức nhà nước, những người có công điều hành đất nước, giữ gìn đất nước bình yên để người dân có thể sống yên vui, yên tâm học hành, làm việc. Với người dân, ơn bảo vệ sự ổn định cho đất nước là một ơn nghĩa lớn. Hơn nữa, ngày xưa, người ta tôn Vua lên hàng đầu còn vì quan niệm Trung quân. Người được tôn kính thứ hai sau Vua là Sư- người thầy. Sau đó, mới đến Phụ- người sinh thành ra mình. Đây là điều rất lạ. 

Vậy, tại sao người xưa lại coi công ơn thầy cô nặng hơn công ơn cha mẹ ? Phân tích điều này, chúng ta mới thấy đựơc sự sâu sắc trong cách nghĩ của người phương Đông. Quan niệm như vậy vì người ta cho rằng công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái không thể tính kể được nhưng dẫu sao công ơn đó cũng mang ý nghĩa vật chất. Cha mẹ cho chúng ta hình hài, nuôi chúng ta khôn lớn…. nhưng tất cả những điều đó đều thuộc về vật chất. Còn thầy cô cho chúng ta trí tuệ, đời sống tâm hồn. Đó là những yếu tố thuộc về giá trị tinh thần nên có ý nghĩa lớn lao. Thử nghĩ, nếu không biết đọc, biết viết, không được dạy dỗ về lẽ sống, về cách cư xử…, chúng ta sẽ sống như thế nào ? Chúng ta sẽ không hiểu biết gì về cuộc sống, chúng ta tỏ ra hỗn láo với người lớn tuổi, sẵn sàng gây gổ với mọi người. Lúc ấy, chúng ta không có một chút giá trị nào vì giá trị của con người được đánh giá trên khía cạnh tinh thần hơn là vật chất. Điều này được biểu hiện qua trí tuệ, đạo đức, khả năng ứng xử với mọi người. Người tu hành, người đệ tử Phật hay người thế gian sống trong cuộc đời này đều cần những điều ấy để làm tăng giá trị của mình. Bởi vậy, thân tuy quan trọng nhưng giá trị tâm hồn, giá trị tinh thần còn quan trọng hơn. Người Á Đông đã khẳng định điều đó. Đây là điều rất sâu sắc, táo bạo mà người phương Tây không nghĩ đến. 

Nhưng giá trị tinh thần ấy có được phần lớn là nhờ công ơn dạy dỗ của thầy cô giáo. Nhờ được học hành mà chúng ta có trí tuệ, hiểu sâu sắc những vấn đề về tự nhiên - xã hội, biết nói năng lễ độ, biết cư xử đúng mực, không xâm phạm đến quyền lợi của người khác vv... Chính vì thế mà người phương Đông đã đặt công lao của người thầy trên công lao của cha mẹ. Cho đến hôm nay, truyền thống “Tôn sư trọng đạo”, “Uống nước nhớ nguồn” đều được mỗi thế hệ người dân Việt Nam gìn giữ và phát huy. Tuy nhiên, theo hệ thống giáo dục ngày nay, từ khi mới chập chững vào trường cho đến khi thành tài, chúng ta đã được rất nhiều thầy cô dạy dỗ, chăm sóc. Mỗi người lớn lên đều mang theo biết bao nhiêu hình ảnh thầy cô trong trái tim mình. Vì vậy, để bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những người đã dạy dỗ mình không phải là điều đơn giản. Năm tháng qua đi, cuộc sống có biết bao thay đổi, nhiều khi hình ảnh các thầy cô giáo đã dõi theo bước chân mình một thời thơ ấu cũng dần nhạt phai. Đôi lúc nghĩ lại, chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động, biết ơn thầy cô vô vàn nhưng có thể sẽ không bao giờ được gặp lại. Vì vậy, biết ơn thầy cô, chúng ta chỉ cần sống tốt, tu dưỡng tài năng, đạo đức từng ngày góp phần đem lại lợi ích cho chúng sinh. Đó cũng là cách đền ơn có ý nghĩa nhất đối với những người đã có công bồi dưỡng cho chúng ta những giá trị tinh thần. 

Trong cuộc đời, không ai có thể sống mà không có bạn bè. Bên cạnh những người thân trong gia đình, những người bạn tốt cũng có thể chia sẻ với chúng ta những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Những lúc gặp khó khăn, bạn bè sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua để cùng hướng về phía trước. Nếu có những người bạn tốt, chúng ta có thể san sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau những điều hay lẽ phải để cùng tiến bộ. Chúng ta cũng phải quý trọng và biết ơn những người bạn ấy. 

Khi đọc cuốn Trở về từ cõi sáng của Nguyên Phong, chúng ta sẽ thấy có một chi tiết hơi khó hiểu. Nội dung chuyện kể về một người đàn ông, sau khi chết, ông ta gặp một vị Thiên sứ trong thế giới vô hình.  Ông nói với vị Thiên sứ về ý nguyện của mình là muốn đi theo lý tưởng phụng sự cho Chúa. Nghe xong, vị Thiên Sứ trả lời rằng: “Muốn đạt được ý nguyện đó, ông phải sống một đời cô độc, không vợ con, không bè bạn, chấp nhận mọi nghịch cảnh đau khổ…”. Những điều kiện khác có thể hiểu được nhưng không có bè bạn là điều rất lạ, rất khó lý giải. 

Con người sống cũng không thể tách rời mối quan hệ với cộng đồng, xã hội. Trong cuộc đời, chúng ta còn chịu ơn của láng giềng, của bà con hàng xóm. Ông bà ta thường nói : “Bà con xa không bằng xóm giềng gần”. Những lúc “tối lửa tắt đèn”, những khi gặp khó khăn hoạn nạn, hàng xóm láng giềng là người gần gũi nhất có thể giúp đỡ chúng ta. 

Càng trưởng thành, càng hiểu biết nhiều, chúng ta càng thấy rõ tương quan xã hội là một ân nghĩa lớn. Chúng ta gần như bị đặt trong mối tương quan ơn nghĩa chằng chịt của xã hội. Bát cơm chúng ta ăn là kết quả những ngày lao động vất vả “một nắng hai sương” của người nông dân. Quần áo chúng ta mặc có công lao của những người thợ dệt. Những vật dụng hằng ngày chúng ta vẫn sử dụng như: cây bút, quyển vở, bàn ghế, tủ giường, chén đũa vv… có công lao không nhỏ của những người công nhân – kỹ thuật, những người thợ. Chúng ta phải biết ơn tất cả những con người ấy. Vì thế, khi ăn cơm xong, chúng ta thường thấy các vị chủ lễ tụng bài Hồi hướng:

   Thân phi nhất lũ, thường tư chức nữ chi lao. 

   Nhật thực tam xan, mỗi niệm nông phu chi khổ… 

Thân phi nhất lũ - thân này mặc một manh áo thô sơ phải nghĩ đến nỗi cực nhọc của những cô gái làm nghề dệt (thường tư chức nữ chi lao). Nhật thực tam xan, mỗi niệm nông phu chi khổ - mỗi ngày ăn ba bữa, trong mỗi bữa ăn vẫn nghĩ đến công lao khó khổ của người nông dân. Cái hay của đạo Phật là vậy. Khi ăn cơm vẫn nhắc người tu nhớ đến ân nghĩa chằng chịt trong cuộc sống mà mình phải chịu. Trong đó, ơn nghĩa của những người đáp ứng hai nhu cầu căn bản nhất của con người (ăn và mặc) là ơn nghĩa lớn nhất, đáng ghi nhớ nhất. 

Suy rộng ra, trong cuộc sống còn rất nhiều người chúng ta cần phải biết ơn. Đối với người tu, lòng biết ơn càng phải lớn hơn, sâu sắc hơn. Không chỉ biết ơn người nông dân tạo ra lương thực, người thợ dệt tạo ra vải vóc, chúng ta còn biết ơn tất cả những người đã góp phần xây dựng cuộc sống này, xã hội này. Bất kể họ đã làm được điều gì, miễn là có ích cho xã hội, đều tạo thành ơn nghĩa đối với chúng ta. Những người cảnh sát giữ gìn an ninh trật tự đem lại cho mọi người cuộc sống bình yên cũng làm chúng ta biết ơn. Nếu không có họ, xã hội sẽ rối loạn, mạnh ai nấy sống, chúng ta cũng không thể yên tâm tu hành. Bệnh tật là một nỗi khổ lớn của con người. Những bác sĩ, những thầy thuốc đã cố gắng xoa dịu phần nào nỗi đau khổ về bệnh tật cho chúng ta. Mỗi người chúng ta ai cũng phải biết ơn họ. Những người lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước (trừ những người lãnh đạo độc tài, tham nhũng, vơ vét, bóc lột nhân dân… ) đều là những người chúng ta phải biết ơn. Vì họ đã “đứng mũi chịu sào”, lo cho dân, cho nước, tìm cách làm cho xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ. Nếu chúng ta luôn mong cho xã hội được phát triển, tăng tiến về mặt Đạo đức, ai cũng biết thương yêu nhau thì những người làm trong bộ máy Nhà nước mong xây dựng một đất nước có nền kinh tế phát triển, vật chất dư thừa, đời sống người dân ổn định vv… Nói đến điều này, chúng ta nhớ đến một sự kiện xảy ra gần đây ở Đài Loan khiến nhiều người phải ngạc nhiên. Sau khi tốt nghiệp Đại học, mấy chục sinh viên không đi làm việc mà vào chùa tu hành. Một vị lãnh đạo cao cấp của Đài Loan, trong một bài diễn văn, cho rằng đây là một ngày ảm đạm của đất nước. Vì bao nhiêu nhân tài đã bỏ công lao học tập để đi tu. Nhưng qua tìm hiểu, người ta tỏ ra rất nể phục vị Hòa thượng đã làm cho những con người trẻ tuổi đầy mơ ước ấy dám khước từ tương lai phía trước để đi vào cuộc sống tu hành đạm bạc. Phải là người tu hành chân chính, đầy uy đức, vị Hòa thượng mới có thể làm được điều đó. 

Qua sự kiện này, chúng ta thấy suy nghĩ của vị Tổng thốâng không giống với suy nghĩ của những người tu. Chúng ta cảm thấy vui mừng khi có những người tuổi trẻ, học cao chọn con đường tu hành làm lý tưởng cho cuộc đời mình. Vì những người có trình độ như vậy, khi đi đi tu, chắc chắn sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Phật pháp, có thể đem chánh pháp đến cho chúng sinh. Chính điều này sẽ góp phần làm cho xã hội tăng trưởng đạo đức, tăng điều thiện, giảm đi cái xấu, cái ác. Sự chọn lựa của họ không những không gây trở ngại cho sự phát triển của đất nước mà còn đem lại nhiều lợi ích. 

Tuy lý tưởng của người tu và lý tưởng của những người trong bộ máy lãnh đạo của chính quyền có nhiều điểm không giống nhau nhưng chúng ta vẫn biết ơn họ vì họ phải lo lắng ưu tư, có khi phải làm việc vất vả suốt ngày đến quên ăn, quên ngủ để tìm ra kế sách đưa đất nước đi lên. 

Sống trong thời bình, nhiều người không nghĩ đến công ơn của những chiến sĩ đã từng chiến đấu ngoài mặt trận. Nhưng nếu sống trong hòan cảnh đất nước có chiến tranh, chúng ta mới thấy được công ơn của họ lớn đến mức nào. Họ không tiếc tính mạng, tuổi xuân của mình, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho Tổ quốc, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Gần đây nhất là cuộc chiến tranh chống bọn Khơmer Đỏ trên chiến trường Campuchia. Sau năm 1975, ở Campuchia, bọn Khơmer Đỏ lên nắm chính quyền. Chúng tiến hành cuộc thanh lọc chủng tộc rất tàn bạo. Người nào bị liệt vào danh sách không tốt đối với việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, chúng đập đầu cho đến chết. Khoảng hai triệu người dân đã bị giết trong cuộc thanh lọc đó. Trong khi đó, tổng số dân Campuchia lúc bấy giờ chỉ  vào khoảng bốn triệu người. Thật khủng khiếp! Chưa hết, chúng còn tràn qua vùng Châu Đốc, vào làng Ba Chúc, giết hàng loạt người dân Việt Nam. Hiện nay, Nhà nước ta còn trưng bày hàng đống sọ để ghi lại tội ác của bọn chúng. Đó là vào khoảng năm 1979. Không chịu nổi sự tàn bạo ấy, Nhà nước ta đã lập kế hoạch đem quân qua đánh đuổi Khơmer Đỏ, giải phóng Campuchia. Lúc bấy giờ, sự diệt chủng của quân Khơmer Đỏ mới tạm dừng lại. Ngày nay, người dân Campuchia phải biết ơn chính phủ ta. Nếu không có bộ đội ta đổ biết bao xương máu để giải phóng họ thoát khỏi tay bọn Khơmer Đỏ thì liệu Nhà nước Campuchia có còn tồn tại và nhân dân Campuchia còn được bao nhiêu người sống sót ? Vậy mà, lúc ấy, Quốc tế lại cho rằng Việt Nam xâm lược Campuchia và lên án chúng ta. Đối với Campuchia, Việt Nam là ân nhân của họ. Người dân Campuchia đến bây giờ vẫn chưa biết cái ơn đó mặc dù chúng ta đã cứu họ bằng xương máu của mình. Cho đến mười mấy năm sau, bộ đội Việt Nam vẫn tiếp tục qua Campuchia chống bọn Khơmer Đỏ trong rừng. Số bộ đội chết còn nhiều hơn trong chiến tranh hai chục năm trước. Nhà nước ta đã không kể công vậy mà Quốc tế cứ lên án Việt Nam đi xâm lược. Nhưng sự thật vẫn luôn là sự thật. Chúng ta đã đổ bao nhiêu máu xương để giúp nhà nước Campuchia đồng thời giữ được sự bình yên cho miền Tây Nam bộ của đất nước mình. Chúng ta không thể phủ nhận công lao và sự hy sinh của những chiến sĩ trong những năm tháng ấy. 

Cho đến hôm nay, mỗi khi nghe lại những bài hát viết về anh bộ đội, lòng chúng ta vẫn bùi ngùi xúc động và vô cùng biết ơn họ. Sống ở hậu phương, xa rời tiếng bom, tiếng súng, chúng ta cứ thanh thản ăn ngủ và làm việc. Trong khi đó, suốt cả ngày đêm, ngoài trận tuyến, những anh bộ đội phải đối diện với quân thù, đối diện với cái chết từng ngày, từng giờ. Vì vậy, ơn nghĩa của họ đối với quê hương, đất nước to lớn vô cùng. Nếu chỉ biết thỏa mãn với đời sống yên lành như hôm nay, chúng ta sẽ không hiểu được sự hy sinh thầm lặng của họ ngày hôm qua. 

Nói tóm lại, chúng ta phải luôn nhớ rằng, sống trong cuộc đời này mình đã chịu biết bao ơn nghĩa chằng chịt và mỗi người phải có ý thức đền ơn. 

3. ƠN TAM BẢO LÀ VÔ BIÊN VÔ LƯỢNG 

Chúng ta biết rằng, thân xác này đến một lúc nào đó sẽ tan hoại, không thể tồn tại vĩnh viễn. Cho nên, ơn nghĩa về vật chất mà bao nhiêu người đã cho chúng ta cũng tương đối tạm bợ, không lâu bền. Cuộc đời này lại lắm niềm vui, nhiều đau khổ và cũng đầy sự đày đọa.  Có lúc con người sống giàu sang sung sướng, có khi lại rơi vào nghèo khổ lầm than. Nói như vậy để chúng ta hiểu một điều, trong cuộc sống này, chúng ta mang ơn rất nhiều người nhưng cũng chịu không ít những vui buồn sướng khổ mà cuộc đời đem lại. Vì vậy, ơn nghĩa mà chúng ta chịu của bao nhiêu người có khi rất quý, cũng có khi không còn quý nữa. 

Lấy ví dụ từ câu nói đơn giản của một đứa trẻ, chúng ta có thể hiểu được điều này. Có một đứa bé đang chơi thì bị muỗi cắn. Nó khóc và trách mẹ: “Trời ơi, sao đẻ con ra làm chi để cho muỗi nó cắn con”. Lời trách rất trẻ con nhưng cũng gợi cho chúng ta những suy nghĩ. Đúng là cha mẹ cho chúng ta cuộc sống này; thầy cô giáo chăm sóc, vun đắp cho chúng ta cuộc sống này; người nông dân, người thợ dệt, người bác sĩ, kỹ sư … góp phần đem lại cho chúng ta cuộc sống này. Nếu hạnh phúc, chúng ta sẽ vô cùng biết ơn họ. Nhưng cuộc sống lại có khi vui sướng, có khi khổ đau tê tái. Đôi lúc quá đau khổ, chúng ta đâm ra hận những người đã cho mình cuộc sống này và không biết ơn họ nữa. Điều đó chẳng khác gì lời trách của đứa bé đối với mẹ. 

Vì vậy, tuy biết ơn mọi người nhưng chúng ta vẫn hiểu cuộc sống này chỉ tương đối, vừa ngắn ngủi vừa khổ vui đắp đổi. Ơn nghĩa của bao nhiêu người cho ta vô cùng nặng nhưng cũng tương đối, cũng ngắn ngủi, cũng tạm bợ vậy thôi. Nói như thế không phải chúng ta tỏ ra vô ơn mà để so sánh với một ơn nghĩa khác lớn lao hơn, vĩnh hằng hơn, thiêng liêng hơn, bất diệt hơn. Đó là ơn Tam Bảo, ơn của người cho chúng ta con đường về với ánh sáng vô tận, cho chúng ta con đường đi đến nơi an lạc vĩnh hằng, đến nơi giải thoát không còn biên giới. So sánh như vậy để chúng ta thấy cái ơn mà chúng ta phải chịu đối với Tam Bảo là vô biên vô lượng, không thể tính kể được. 

Mặt khác, chúng ta cũng biết luân hồi vốn vô tận. Nghĩa là trong mỗi kiếp sống, chúng ta đã thọ ơn và cũng đã đền ơn. Khi đã chết, qua kiếp sống khác, chúng ta lại thọ ơn và lại đền ơn. Cứ tiếp tục như vậy, thật là đắng cay và mỏi mệt. Quả thật, chúng ta phải chịu trách nhiệm đối với bản thân mình nhưng cũng chịu bao nhiêu sự giúp đỡ của người khác nên phải biết ơn. Nhưng những cái ơn ấy cũng chỉ lẩn quẩn trong luân hồi, ràng buộc, cay đắng, mỏi mệt. Vì vậy, dù chịu ơn rất nhiều người, chúng ta vẫn khổ đau chứ không có an vui, hạnh phúc thật sự. 

Trong vòng luân hồi này, Nhân Quả thật đáng sợ. Chỉ cần làm một điều lỗi là chúng ta phải trả giá ngay, chỉ cần làm một điều lỗi là quả báo đến liền. Có người chỉ lỡ nói một câu không đúng mà bị hóa điên bao nhiêu năm trời mới khỏi. Hoặc có người trong lúc giận, lỡ đánh người khác một cái, quả báo trả đến năm, mười năm chưa hết. Nhân Quả đáng sợ như vậy, cho nên, sống trong cuộc đời này, ơn nghĩa bao nhiêu người vẫn không bằng ơn của một người cho chúng ta ánh sáng, đường đi và chân lý. Chỉ riêng giáo lý về Nhân Quả thôi đã cho chúng ta con đường để đưa cuộc đời mình đi về nơi bình yên, thánh thiện và hạnh phúc. Nhờ hiểu được Nhân Quả của Phật dạy, chúng ta cẩn thận trong từng hành vi, từng lời ăn tiếng nói, tránh Nhân xấu, mãi mãi cố gắng gây tạo những Nhân lành. Nhờ gây tạo Nhân lành, cuộc đời chúng ta dần dần phát triển. Có thể chặng đầu của cuộc đời, chúng ta là con người tầm thường, nghèo khổ nhưng nhờ biết tin theo lời Phật dạy, biết làm phước giúp người, biết làm việc công quả mà quãng đời còn lại chúng ta sống sung sướng hơn. Khi chết, qua kiếp sau, chúng ta còn vinh quang hơn nữa. Như vậy, chỉ nhờ biết Nhân Quả mà cuộc đời chúng ta đã dần dần chuyển sang hướng tốt đẹp, yên vui thánh thiện. 

Cao hơn nữa, với giáo lý Giải thoát, Thiền định…, Phật đã mở cho chúng ta con đường thoát khỏi tam giới ngục tù này. Trong vô lượng kiếp trước, chúng ta là những kẻ còn lang thang trong luân hồi, không có ánh sáng, không có lối ra. Mãi mãi chúng ta sẽ chìm sâu trong bóng tối của vô minh, của si mê, của tham lam hờn giận, chỉ biết sống cho mình, giành giật đấu tranh chém giết và gây tạo nhiều điều lầm lỗi nếu không có Đức Phật mở ra con đường đi về nơi ánh sáng, thoát khỏi luân hồi đầy đắng cay và mỏi mệt này. Trên con đường ấy, chúng ta biết vượt qua chính mình, thoát khỏi sự hận thù nhỏ nhoi, tầm thường, ích kỷ; biết trải lòng thương yêu, lo cho tất cả mọi người. Chính những Nhân lành ấy giúp chúng ta đi trong luân hồi bớt đau khổ. Nhân lành ấy cũng giúp chúng ta đi dần ra khỏi luân hồi, khỏi tam giới hướng về phía ánh sáng.

Một khi chúng ta đã giác ngộ, bước ra khỏi luân hồi thì niềm vui, niềm hạnh phúc có được là bất tận, không có giới hạn. Vì vậy, khi làm lễ giỗ Hòa thượng Thiện Hoa, Thầy mình, Hòa thượng Thanh Từ có nói một câu rất hay : “Cha mẹ con cho con cái hình hài này, rồi sau mấy chục năm cũng phải tan hoại. Nhưng Thầy cho con trí tuệ, mà một khi con mắt trí tuệ này mở thì đường luân hồi vĩnh viễn bước ra”. Đây là sự nhận định rất sâu sắc, chính xác đối với Tam Bảo. Chúng ta có được ngày hôm nay, có được giá trị này đều nhờ ơn của người đầu tiên là Đức Phật. Nếu không có luật Nhân Quả, chúng ta không biết cuộc đời mình hôm nay sẽ ra sao. 

Mỗi ngày đi lại trên đường phố, chúng ta vẫn thường thấy những con người nghèo khổ không nhà cửa, trong đêm mưa bão phải co ro nấp vào mái hiên của người khác hay trú dưới những gầm cầu. Chúng ta cảm thấy thương họ khi bị rơi vào hoàn cảnh khốn cùng như thế. Nhưng xét trên Nhân Quả, có lẽ trước kia họ đã gây nên những lầm lỗi gì đó nên bây giờ phước không còn, họ phải chịu quả báo như vậy. Khi nghĩ đến điều này, chúng ta biết ơn Tam Bảo vô hạn. Chính nhờ Phật dạy dỗ luật Nhân Quả, nghiệp báo mà từ nhiều kiếp trước, chúng ta đã cố gắng giữ được tư cách của con người, biết làm điều hay, lẽ phải, biết tránh những điều xấu, điều ác nên bây giờ có một cuộc sống bình yên. Là Tăng Ni, chúng ta được thảnh thơi tu hành. Là Phật tử, chúng ta cũng là người có giá trị trong cuộc sống, không ai dám khinh bỉ. 

Chỉ giáo lý đó thôi mà Phật đã mở ra cho cuộc đời chúng ta không biết bao nhiêu an vui, hạnh phúc. Khi tin được Nhân Quả, biết làm điều thiện, giáo lý đó in sâu vào lòng chúng ta từ kiếp này sang  kiếp khác. Cứ như vậy, ở kiếp nào chúng ta cũng dễ gặp được Phật pháp, dễ làm được những điều thiện và tránh rơi vào đau khổ. Cũng nhờ tin được giáo lý Giải thoát, nhờ phát tâm tu tập Thiền định, phát những lời nguyện đi về phía giải thoát mà kiếp này sang những kiếp khác, chúng ta luôn luôn gặp được Phật pháp để tu hành. Chúng ta biết niệm Phật, biết ăn chay, biết giữ giới, thực hành thiền định…  để từng bước, dần dần đi ra khỏi luân hồi đau khổ. Vì vậy, ơn nghĩa mà chúng ta chịu đối với Phật rất lớn, không thể tính kể được.

Thử so sánh niềm vui có được trong cuộc sống bình thường tạm bợ, ngắn ngủi này với niềm vui Tam Bảo đem lại, chúng ta sẽ thấy sự bình yên, thánh thiện, niềm vui, niềm hạnh phúc… mà Phật pháp cho chúng ta thật cao cả và trường cửu. Niềm vui đó vượt hơn hẳn vật chất tầm thường. Chúng ta đã thừa nhận giá trị của con người là ở tâm hồn, mà Phật pháp làøđỉnh cao của giá trị tinh thần nên sự bình yên thánh thiện mà Tam Bảo đem lại cho chúng ta là vô giá. Vì vậy, lòng biết ơn của chúng ta đối với Tam Bảo là vô hạn. 

Mặt khác, vì giá trị của sự giác ngộ siêu thoát là tuyệt đối nên lòng biết ơn của chúng ta đối với Phật là tuyệt đối. Khi mới bước vào con đường tu hành, nghe nói điều này, nhiều khi chúng ta chưa cảm nhận được. Một ngày nào đó, khi đã cố gắng tu hành, lễ Phật, cố gắng tu tập Thiền định, làm bao nhiêu điều lành và bất ngờ đạt được sự giác ngộ, đạt được một sự bừng ngộ thật sự, tâm hoàn toàn chuyển sang một trạng thái khác vô cùng an lạc; lúc đó chúng ta mới có cảm xúc mãnh liệt đối với ơn nghĩa của chư Phật, đối với ơn của Tam Bảo. 

Ngày nay, gặp được Phật Pháp, chúng ta biết ơn vô số các bậc tôn túc, Tổ sư đã giữ gìn chánh pháp. Đó là những người tu hành sâu sắc, trí tuệ lỗi lạc, gây được ảnh hưởng và phát triển được Phật pháp. Như chúng ta biết, Phật pháp đã trải qua nhiều giai đoạn, tâm tình con người luôn thay đổi, lời Phật dạy lại cô đọng. Nếu không có các vị Tổ sư sáng suốt, tùy tâm tình mà phát triển làm phong phú thêm cho Phật pháp, gây được ảnh hưởng lâu dài đối với con  người thì ngày hôm nay, chúng ta có còn gặp được Phật pháp hay không ? Vì vậy, ơn nghĩa của các  vị Tổ sư cũng vô cùng lớn lao. 

Hiện nay, chúng ta được tu học trong trường là nhờ công lao của các bậc tiền bối Tôn sư. Vì chính các vị ấy đã có công giáo hóa, dạy dỗ những tín đồ cư sĩ giúp đỡ chúng ta tu học. Biết ơn đàn na tín thí cũng có nghĩa là chúng ta biết ơn những vị Hòa thượng, những bậc tiền bối Tôn sư ấy. 

Chưa hết, chúng ta còn biết ơn của Bổn sư quy y đầu tiên, người đã cho chúng ta thọ được tam quy ngũ giới. Khi quy y, có nhiều vị Bổn sư giỏi đã dạy cho đệ tử được nhiều điều hay trong cuộc sống. Chúng ta không thể không nhớ ơn người có công đầu tiên ấy. Bên cạnh đó, chúng ta còn biết ơn vị Bổn sư thế độ, người đã cho mình xuống tóc để bước vào hàng ngũ của Tăng sĩ. Khi vì  nhân duyên học hỏi, chúng ta tìm đến với một vị Y chỉ để nương tựa. Công lao của vị này cũng rất lớn, chúng ta phải nhớ ơn. Khi đã bước vào cuộc sống tu hành, chúng ta phải biết ơn Giới sư, những người đã có công truyền giới, dạy luật cho chúng ta. 

Trong thời gian đang tu học tại trường, chúng ta phải biết ơn của Giáo thọ, Giám viện, Giám hiệu. Đó là những vị đã cưu mang, lo lắng cho chúng ta từng ly, từng tí. Cứ nhìn ra ngoài thế gian, thấy nỗi vất vả, khó nhọc của cha mẹ trong quá trình nuôi dạy con cái như thế nào, chúng ta sẽ hiểu được nỗi cực nhọc của quý Thầy lớn trong Ban giám hiệu khi lo lắng cho bao nhiêu người chúng ta yên tâm tu học. Công lao đó lớn vô cùng. Thực ra, quý Thầy quan tâm lo lắng như vậy không phải vì lợi ích của bản thân mình sau này mà vì tiền đồ của Phật pháp. Tạo điều kiện cho thế hệ sau tu học là quý Thầy mong chúng ta trở thành người tốt, lớn lên giữ gìn Phật pháp, đem Phật pháp giáo hóa lại cho vô số những chúng sanh về sau. 

Ngoài ra, để được yên tâm tu học, chúng ta còn biết ơn của Giáo hội, Tăng đoàn. Đạo Phật chúng ta có truyền thống tập hợp các chư Tăng lại trong một tổ chức đểø giúp đỡ, nương tựa lẫn nhau. Trong đó, những vị trong Giáo hội thường là người gánh vác trách nhiệm nhiều nhất (trừ một vài trường hợp cá biệt, đó là những người ở trong Giáo hội nhưng ích kỷ, không lo được cho Tăng chúng). 

Nói tóm lại, để được ổn định tu học như ngày hôm nay, chúng ta đã chịu ơn vô biên vô lượng từ Tam Bảo. Ở đâu, lúc nào, chúng ta cũng có thể nhìn thấy được công ơn đó. 

 4. ĐỀN ƠN.  

Biết ơn là một tính chất của Đạo đức. Bởi vậy, từ lòng biết ơn sâu sắc đối với tất cả những ơn nghĩa đã thọ trong cuộc sống, chúng ta nguyện sẽ đền ơn xứng đáng. Nhưng ân nghĩa mà chúng ta đã thọ nhận trong suốt cuộc đời này là vô hạn, không tính kể được trong khi cuộc đời chúng ta thì ngắn ngủi, đôi tay chúng ta lại nhỏ bé, làm sao để đền ơn cho xứng đáng ? Làm sao chúng ta có thể đem đôi tay nhỏ bé này, cuộc đời hữu hạn này để đền được công ơn vô hạn của bao nhiêu người đã cho ta trong cuộc sống này ? 

Để đền đáp công ơn vô hạn ấy, chúng ta nguyện lòng đem cả cuộc đời này sống vì Phật pháp, sống để làm lợi ích cho chúng sinh. Nghĩa là, chúng ta phải thực hiện một cuộc sống vị tha trọn vẹn. Vì khi đã hiểu được ơn nghĩa mà mình đã thọ nhâïn như vậy, nếu chỉ sống cho mình, chúng ta không xứng đáng làm người đệ tử Phật nữa. Nếu trong tâm còn tồn tại, dẫu rất ít ỏi, dấu hiệu của sự vị kỷ thì không bao giờ chúng ta đền được ơn nghĩa lớn lao mà trong đời mình đã thọ nhận. Chúng ta chỉ còn một cách duy nhất là nguyện sống trọn đời vị tha. Trong mỗi lời nói, hành động cũng như trong những ý nghĩ thầm kín, chúng ta đều vì mọi người, không bao giờ vì bản thân mình. Phải tích lũy hết kiếp này đến kiếp khác chúng ta mới có thể đền được ơn nghĩa lớn lao mà người khác đem đến cho chúng ta từ bên ngoài thế gian cũng như trong Đạo. Như vậy, sống vị tha là cách đền ơn hay nhất đối với Tam Bảo. Trong đó, quan trọng nhất là chúng ta phải làm cho mọi người đều biết Phật pháp. 

Sự thật, trong cuộc sống không phải lúc nào chúng ta cũng có thể trực tiếp đền ơn trở lại người mà mình đã thọ ơn. Chẳng hạn, khi đã lớn, thấu hiểu công ơn cha mẹ, chúng ta muốn đền đáp công ơn to lớn ấy nhưng cha mẹ lại không còn nữa. Hoặc một lần nào đó trong đời, chúng ta rơi vào tình cảnh éo le, giữa đường bị trộm vét sạch túi. Lúc bấy giờ, một người tốt bụng đã cho tiền chúng ta về xe. Chỉ gặp nhau trong thoáng chốc giữa đường luân hồi vô tận này rồi người ta đi mất, biết bao giờ chúng ta tìm được họ để đền ơn ? 

Một cư sĩ kể rằng, một lần, khi trở về từ một làng quê, trong túi anh ta không còn lấy một đồng trong khi bụng đói, lại phải cuốc bộ trên con đường rất dài giữa trưa nắng. Lúc ấy, trông thấy một ngôi chùa, anh ghé vào xin cơm ăn. Nghe anh nói rất thành thật, Sư cô đã vồn vã, ân cần mời anh ăn cơm, sau đó còn cho anh tiền về xe nữa. Ân nghĩa đó suốt đời anh không quên. Vì trong lúc khốn cùng, anh đã được người ta giúp đỡ lại giúp trong thái độ ưu ái. Sau này, nghĩ đến điều đó, lòng anh cứ canh cánh một điều mong tìm lại chốn cũ để đền ơn Sư cô, đền ơn ngôi chùa đó. Nhưng do bận sinh kế, vợ con hàng ngày, anh chưa có điều kiện trở lại. Khi tâm sự với một Thầy trụ trì ngôi chùa gần nhà, Thầy đã khuyên anh đừng bận tâm nghĩ đến chuyện đền ơn ngôi chùa và Sư cô đã giúp mình mà có thể giúp đỡ bất cứ người nào xung quanh mình bằng tình thương yêu như Sư cô đã từng giúp anh. Làm được như vậy nghĩa là anh đã đền ơn được Sư cô ấy. Nghe lời khuyên, anh đã hiểu ra và nguyện sẽ sống tốt với mọi người. Từ khi  thay đổi quan niệm về cách trả ơn, anh cảm thấy lòng mình tự nhiên rộng mở hơn. 

Như vậy, nhiều khi chúng ta không đền ơn trực tiếp mà chỉ đền ơn gián tiếp với những người khác. Điều ấy còn cao cả hơn, quý giá hơn là mong đền ơn trực tiếp với ân nhân của mình. Chỉ nghĩ đến việc trả ơn người đã giúp mình, tâm chúng ta còn quá nhỏ hẹp. Hãy nghĩ rằng, không đền ơn trực tiếp được cho cha mẹ, chúng ta sẽ đền ơn bằng cách làm lợi ích cho bao nhiêu người khác; không đền ơn được Phật, chúng ta đem Phật pháp cứu giúp những người khác.  Đó là cách đền ơn tốt nhất. Tương tự như vậy, đối xử tốt với mọi người là chúng ta đã trả được ơn đối với ân nhân của mình. 

5. SỰ ĐỀN ƠN CÓ Ý NGHĨA NHẤT. 

Trong tất cả những sự đền ơn, việc đem Phật pháp đến với chúng sinh là sự đền ơn có ý nghĩa nhất. Vì sao như vậy? Vì vật chất luôn tạm bợ. Nếu chúng ta cho người khác tiền của nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không có ý nghĩa vì đến lúc nào đó, tiền của cũng hết. Nhưng nếu cho mọi người lòng tin hiểu Nhân Quả để đi trong luân hồi, chúng ta có thể cứu họ thoát khỏi đau khổ. Đó mới là điều đáng quý. Vì vậy, chúng ta đền ơn Phật, đền ơn Tam Bảo không phải chỉ biết lạy Phật, cúng dường tiền bạc mà phải tiếp tục đem Phật pháp cao quý đến những người chưa biết. Chúng ta phải xem việc những người xung quanh mình chưa biết Phật pháp là nỗi đau khổ của chính mình. Chừng nào người biết Phật pháp còn ít, chừng đó thế gian này bóng tối còn nhiều hơn ánh sáng. Khi nhìn thấy trên cuộc đời này còn nhiều người nhởn nhơ, sống một cách theo cảm tính, không có ánh sáng, không có đạo lý, chúng ta phải biết đau xót và nguyện lòng đem Phật Pháp đến cho họ. Làm được như vậy nghĩa là chúng ta đã đền ơn Phật, đền ơn Tam Bảo. 

Từ những người xung quanh mình, chúng ta mở rộng tầm nhìn ra thế giới. Hiện nay, thế giới có khoảng năm tỷ người. Trong đó chỉ có hơn ba trăm triệu người biết Phật pháp. Trong khi đó, Thiên Chúa giáo chiếm khoảng hơn một tỷ, Hồi giáo hơn một tỷ… Ngoài ra, một số ít người theo Ấn Độ giáo và đạo địa phương, số còn lại không có đạo. Đó là nỗi đau của tất cả những người con Phật có lương tâm, có lòng biết ơn Tam Bảo. Chúng ta hãy nghĩ đến bao nhiêu tỷ người trên thế giới này chưa biết Phật pháp, phải nhận đó là trách nhiệm của mình và phải có sự phát nguyện lớn - phát nguyện làm cho họ biết Phật pháp. 

Trước hết, chúng ta không được sống tầm thường, tu cho qua ngày hay tu vì mục đích lớn lên làm trụ trì, làm giảng sư cho có tiếng tăm. Chúng ta phải nghĩ đến thế giới còn nhiều người chưa biết đến Phật pháp. Ơn nghĩa chúng ta nhận được là vô hạn nên chúng ta cũng phải làm điều gì có ý nghĩa lớn lao để đền lại ơn ấy. Hãy bắt đầu bằng lòng vị tha, sau đó đem Phật pháp đến cho mọi người và xa hơn nữa là làm cho tất cả mọi người trên trái đất này đều có Đạo đức. Chúng ta cứ phát nguyện như vậy. Một khi đã biết ơn Tam Bảo, đã nguyện lòng đền trả thì dù gặp bao nhiêu khó khăn, dù kiếp này hay nhiều kiếp nữa, chúng ta cũng phải thực hiện cho bằng được. 

Một điều nữa là chúng ta phải cho mọi người giáo lý Thiền định để họ đi dần ra khỏi luân hồi. Vì chỉ có Thiền định mới là con đường đi ra khỏi luân hồi sinh tử. Muốn dạy người khác giáo lý Thiền định, chúng ta phải thực hành trước, phải tu hết sức tinh tấn, hết sức hoàn hảo vì nếu còn nhiều điểm sơ hở, chúng ta rất khó giáo hóa người khác. Tất nhiên, bây giờ chúng ta không thể đạt đến sự tuyệt đối nhưng phải khá hoàn hảo, ít có tì  vết để có thể đủ sức mạnh đem giáo pháp đến với mọi người. 

Tóm lại, muốn đền ơn Tam Bảo, muốn đền ơn cuộc đời này, chúng ta phải sống rất vị tha, phải làm lợi ích cho mọi người và đem Phật pháp đến cho họ. Và muốn đem Phật Pháp đến cho mọi người, chính chúng ta phải tu hành cho tinh tấn. 

6. VÀI KHÍA CẠNH KHÁC.  

Như chúng ta đã biết, sự sống của con người có tương quan chặt chẽ với thiên nhiên. Chúng ta không thể tồn tại được nếu không có rừng cây, không khí, sông nước, mặt trời… Bởi vậy, không chỉ biết ơn con người, biết ơn Tam Bảo, chúng ta còn phải biết ơn thiên nhiên. Hãy nhớ rằng, yêu thiên nhiên cũng là một tính chất của Đạo đức, nhất là đối với nguời tu sĩ. Biết ơn thiên nhiên, mỗi người phải có ý thức bảo vệ thiên nhiên. Điều này chúng ta sẽ tìm hiểu sâu sắc hơn trong bài Yêu thiên nhiên. 

 Nói đến biết ơn và trả ơn, chúng ta cũng cần lưu ý một điều: Biết ơn nhưng chúng ta cũng biết cách đền ơn theo chánh pháp vì có nhiều khi ân nhân chưa phải là người chân chính, chúng ta không nên lệ thuộc vào họ. Chẳng hạn, một tên tướng cướp thường có nhiều lâu la, nhiều tay chân vì kiếp trước, những tên tay chân đó đã thọ ơn của tên cướp ấy. Vì mang ơn nên bây giờ khi người đó làm tướng cướp, những người này phải đi theo và nghe lời sai bảo. Hoặc người giúp việc trong một gia đình Phật tử (vì kiếp trước có mắc nợ gia đình ấy) chắc chắn cũng bị ảnh hưởng Phật pháp. Hàng ngày, thế nào chủ nhà thường sai người ấy thắp nhang, lau tượng Phật, đem kinh cho người khác, đem gạo cho hàng xóm…

Như vậy, thọ ơn một người xấu, chúng ta phải đi theo con đường xấu; thọ ơn người tốt, chúng ta sẽ đi theo con đường tốt. Nhưng cái khó là chúng ta không biết kiếp trước mình đã thọ ơn ai. Có khi chúng ta đã lỡ thọ ơn người xấu nhưng phải cẩn thận, phải tỉnh táo, không bao giờ được lệ thuộc bởi ân nhân của mình. Có thể chúng ta đã mắc nợ ơn nghĩa của họ nhưng quyết không trả nợ bằng cách để họ sai xử. Chúng ta phải tỉnh táo thoát ra và trả ơn họ bằng cách khác, đúng với chánh pháp. 

Đối với người tu chúng ta, ơn phải nhớ, thù phải quên. Trong cuộc sống, nếu được người khác giúp đỡ, chúng ta không được phép quên. Nhưng nếu bị người khác nói nặng lời, gây gổ hoặc mưu hại, chúng ta phải quên, phải gạt ra khỏi tâm. Chúng ta phải biết dùng tình thương xóa bỏ hận thù, biết đền ơn nhưng không trả oán. 

Điều cuối cùng chúng ta cần nhớ là trước khi ngồi thiền phải cố gắng nghĩ đến những ơn nghĩa mà mình đã thọ trong cuộc sống này. Như vậy, chúng ta sẽ được tăng thêm sức mạnh của sự tinh tấn. Mỗi khi ngồi thiền gặp khó khăn, tâm không nhiếp được, chúng ta lắng lòng nghĩ đến ơn nghĩa của Tam Bảo, của cha mẹ, của đàn na tín thí, của Thầy trưởng, Sư trưởng…. rồi quyết nhiếp tâm, không nản chí, chúng ta sẽ đạt được. Trong cuộc sống tu học cũng vậy, nhiều lúc gặp những khó khăn, trở ngại, chúng ta hãy nhớ rằng mình đã chịu ơn nhiều quá, không thể lui bước mà phải tấn tới, thực hiện trọn vẹn lý tưởng của Phật pháp để sau này đền ơn tất cả. Lòng biết ơn cũng làm cho chúng ta tăng thêm sức mạnh, tăng thêm sự tinh tấn.

1. YÊU THIÊN NHIÊN LÀ ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI. 

Tại sao nói yêu thiên nhiên là một tính chất của Đạo đức ? 

Thiên nhiên là cái nôi tạo nên sự sống của muôn loài trong đó có loài người. Có thể nói, loài người là đỉnh cao trong sự sáng tạo của thiên nhiên. Vì vậy, chúng ta phải yêu thiên nhiên, và đó cũng là một biểu hiện của Đạo đức. 

Ngược dòng thời gian, quay về với hàng tỷ năm trước, chúng ta tìm hiểu xem Trái đất và vạn vật muôn loài đã được hình thành như thế nào. Có người cho rằng, cách đây khoảng hơn mười lăm tỷ năm, vũ trụ được bắt đầu thành lập từ một vụ nổ lớn. Đó là những người theo thuyết Big bang. Theo một vài tôn giáo thì vũ trụ được thành lập bởi Thượng Đế. Điều này hoàn toàn không có cơ sở nên chúng ta không thể tin được. Đạo Phật không chấp nhận có một Thượng Đế đã tạo ra tất cả. Theo Đức Phật, trái đất và sự sống muôn loài do nhiều yếu tố, nhiều nhân duyên, nhiều điều kiện tạo thành. Câu nói ấy tuy đơn giản nhưng không bao giờ sai. Khoa học dù tiến bộ đến đâu cũng thừa nhận rằng, tất cả mọi sự vật, sự việc đều được hình thành do nhân duyên, do nhiều yếu tố khác nhau. May mắn của chúng ta là được dựa vào một giáo lý đúng đắn như vậy. 

Nói về sự hình thành trái đất, chúng ta biết rằng thời xưa khi thành hình Thái dương hệ, Trái đất được thành lập. Lúc bấy giờ, trên Trái đất chưa có sinh vật, cây cối, chưa có con người chỉ có đất, đá và nước. Lượng nước luôn không ổn định. Những cơn mưa thường trút xuống ầm ầm, gột rửa đi những lớp đất trên bề mặt, làm đá trơ ra, rồi gây nên cảnh ngập lụt. Nước lại bốc hơi lên rất nhanh tạo thành những đám mây, gặp không khí lạnh tạo thành nước. Trời lại tuôn mưa xuống. Khí hậu rất khắc nghiệt, mưa nắng thất thường. 

Rồi dần dần sự sống bắt đầu hình thành từ thiên nhiên với những vi thể vô cùng nhỏ. Những nguyên tố căn bản làm tiền đề cho sự sống là : Carbon, Oxy , Hydro và Nito. Bốn nguyên tố này tạo thành các chất hữu cơ của sự sống và các chất hữu cơ ngày càng phức tạp dần. Theo điều kiện trái đất, những nguyên tố đó được sắp xếp thích hợp thành nước, dưỡng khí, các chất hữu cơ, đạm… Có người còn cho rằng, ban đầu sao chổi đã va chạm vào Trái đất và để lại ở đấy một vài chất hữu cơ làm tiền đề cho sự sống. 

Dĩ nhiên, sự sống hình thành phải có đủ hai yếu tố: vật chất và tinh thần. Từ xa xưa, dù bên ngoài bề mặt Trái đất chưa xuất hiện bất cứ một sự vật nào, không có cây cối, không có sinh vật nhưng thế giới siêu hình đã xuất hiện. Lúc bấy giờ đã có thế giới của chư Thiên, thế giới của ngạ quỷ, của chúng sinh. Nghĩa là theo nhân duyên, họ đã tồn tại trong thế giới đó. Họ vẫn chờ đợi một điều kiện thuận tiện để xuất hiện. Vì sao như vậy ? Vì nghiệp của con người, nghiệp của chúng sinh chưa được giải thoát, lúc nào cũng muốn xuất hiện, muốn tồn tại. Chính tâm đó thúc đẩy con người chúng ta đi trong luân hồi không cưỡng lại được. Lúc đó, trong thế giới siêu hình, tâm của những chúng sinh vẫn hướng về trái đất đang có nước, có mây, có sông, có núi - hướng về đó để có thể tồn tại, để có thể xuất hiện. Lúc đó Trái Đất đẹp như một thiên đường hạ giới với núi non hùng vĩ, sông biển mênh mông, rừng cây bạt ngàn, chim ca hoa nở, bình minh rực rỡ, hoàng hôn dịu dàng… Lúc đó chưa có cái cảnh vứt rác ngoài đường, phơi quần áo ngoài cửa, hàng xóm đứng chống nạnh chưởi bới nhau như bây giờ. Những Thiên tử sắp hết phước cõi trời say mê vẻ đẹp của Trái Đất và ước ao làm cư dân ở đây. Chính ước muốn mãnh liệt đó đã thúc đẩy những thay đổi về gène và môi trường để dọn đường cho con người xuất hiện. Đó là một yếu tố bí mật bên trong, nếu chỉ lý luận bên ngoài chúng ta không thể hiểu được. 

Dựa vào khoa học, chúng ta có thể lý luận theo học thuyết của Darwin: men nấm xuất  hiện, rồi những đột biến gien giúp cây tiến hoá dần dần. Chúng ta có thể không phủ nhận điều đó nhưng vẫn phải nhớ một điều: Động vật tồn tại luôn luôn có hai mặt là tinh thần và vật chất. Con người chúng ta, ngoài thể xác còn có thế giới tinh thần rất phức tạp. Khi chết đi, thân xác này bị tiêu hủy nhưng theo dân gian, linh hồn vẫn còn tồn tại. Đạo Phật gọi đó là thần thức hay thân trung ấm. 

Như vậy, khi Trái đất này mới thành lập, chưa có con người thì trong thế giới vô hình, chúng ta đã có mặt rồi. Chúng ta đang an trú trong cõi trời hay  đang an trú trong cõi thấp hơn. Cũng có thể chúng ta đang còn là những sinh thể thấp hơn nữa nhưng đã hướng về Trái đất, bắt đầu quây quần tụ hội bao quanh Trái đất khô khan, không có sự sống đó. Lúc bấy giờ, Trái đất đã có sự sống của thế giới tâm linh bao phủ chuẩn bị và thúc đẩy sự phát triển của nó. Hay nói cách khác, những sự sống trên Trái đất dần dần thành hình là do sự thúc đẩy trong vô hình của thế giới tâm linh. Đây là điều quan trọng trong việc hình thành sự sống của Trái đất. Vì vậy, chúng ta đừng nghĩ sự sống Trên trái đất chỉ được hình thành từ những yếu tố vật chất mà thôi.

Trở lại với thế giới vật chất, chúng ta biết rằng, bắt đầu từ những may mắn nào đó, trong điều kiện thuận lợi nào đó, những loại men nấm dần dần xuất hiện dưới hình thức vi sinh. Những men nấm ấy có cấu trúc tế bào rất đơn giản để có thể tự phân bào. Những tế bào nấm phải có nhân bên trong. Đó là những màng nước chứa, nếu phân ra thì có những protein phức tạp. Một nhân tế bào tự tách ra làm đôi để tạo thành tế bào khác. Vì thế, những men nấm cứ lan dần, lan dần. Tuy nhiên, nó cũng không thể tồn tại lâu dài. Có khi chỉ tồn tại trong một buổi sáng, khi nắng chiếu lên là những men nấm ấy sẽ chết. Chỉ những loại men nấm thích nghi được với sự thay đổi khí hậu khắc nghiệt mới có thể tiếp tục tồn tại. Trong quá trình xuất hiện rồi tàn rụi, các men nấm ấy đã thải vào trong không khí những chất khí và để lại xác mục rữa tạo thành phân hòa vào trong đất, trong nước. Cứ thế, qua hàng triệu năm, nhiều loại men nấm xuất hiện rồi bị hủy diệt, chất khí được thải vào không khí cũng như cặn bã để lại trong đất và nước ngày càng nhiều. Vì thế, môi trường Trái đất cũng thay đổi ngày càng phong phú hơn, phức tạp hơn. 

Khi môi trường Trái đất trở nên phong phú hơn thì một loài thực vật tương ứng với môi trường đó xuất hiện (như rong, rêu). Cứ như vậy, qua nhiều triệu năm, những cặn bã rong rêu để lại làm cho môi trường Trái đất phức tạp hơn. Lúc bấy giờ, những loài thảo mộc đơn giản xuất hiện, lúc đầu chỉ là những cây nhỏ, sau đó những cây lớn cũng xuất hiện. Khi thảo mộc đơn giản xuất hiện, vi khuẩn động vật cũng xuất hiện. Dần dần, trên Trái đất xuất hiện những rừng cây bạt ngàn, những đồng cỏ lớn tạo thành môi trường sống thuận lợi cho những loại động vật kế tiếp xuất hiện và phát triển. 

Có hai cách lý giải sự xuất hiện của các loài vật trên trái đất. Theo nhà bác học Darwin là do hiện tượng đột biến gien theo di truyền. Do môi trường bên ngoài phong phú hơn, tác động lên cơ thể con vật, kích động nhân di truyền AND làm cho nhân di truyền này bị thay đổi cấu trúc. Vì cấu trúc nhân AND bị thay đổi nên có hiện tượng đột biến gien, loài vật này có thể dần dần biến đổi thành một loài khác gần với nó. Ví dụ, con thằn lằn nhỏ bị đột biến gien dần dần thành con khủng long hoặc con người là hiện tượng đột biến gen của loài khỉ. Nói chung, theo học thuyết của Darwin, sự xuất hiện các loài vật cũng do môi truờng bên ngoài kích động, thúc đẩy.

Cách lý giải thứ hai có vẻ thần thoại hơn. Chẳng hạn, người ta có thể lý giải sự ra đời của một con cá như sau: Trong một cái hốc đá nào đó có một khối nước đứng yên, không có dòng nước nào tác động vào, vô tình hội đủ nhiều yếu tố của sự sống, có cả yếu tố tâm linh của một loài nào đó trong vô hình. Nghĩa là muôn loài trong thế giới vô hình muốn sống và tìm được một cái hốc đá có nước, hội tụ nhiều yếu tố, nhiều nguyên tử của sự sống, đồng thời có tâm linh, rồi hướng về và hòa nhập vào đó. Một thời gian, từ trong đó bơi ra một con cá. Sự việc diễn ra như một phép lạ, một thần thoại. Chúng ta phải tu đến mức đắc đạo mới có thể kiểm tra được điều này. Ngay cả con vật to lớn như con voi cũng vậy. Trong một đống lá có nhiều lớp dày lên cả năm, sáu trăm thước được ủ khuất trong rừng sâu, có một hốc khí hội tụ nhiều điều kiện của sự sống mà lúc đó vi khuẩn có thể chưa phát triển để ăn kịp. Một sinh thể vô hình muốn xuất hiện, muốn tồn tại nên hướng vào đó, nhập vào đó và dần dần từ trong đống lá ấy xuất hiện một con vật tương tự như con voi. Mấy triệu năm sau, khi môi trường thay đổi, nó trở thành một con voi như chúng ta thấy bây giờ. Người ta cũng cho rằng, có một thời trong những đống lá như vậy, những con khủng long đã xuất hiện. 

Hai học thuyết, hai cách lý giải hoàn toàn khác nhau. Nhưng qua đó chúng ta cũng thấy rằng, sự sống được hình thành do nhiều yếu tố. Trong đó, sự chi phối của yếu tố tâm linh rất quan trọng. 

Như vậy, thảm thực vật đã xuất hiện đầy đủ hay nói cách khác là rừng cây bạt ngàn đã bao phủ Trái đất là điều kiện cho động vật xuất hiện. Trong quá trình tự biến đổi, tự phát triển, tự điều chỉnh, thiên nhiên đã dần dần tạo ra muôn loài và cuối cùng là con người xuất hiện. Cho nên, chúng ta có thể khẳng định thiên nhiên và nhất là rừng cây là cái nôi tạo nên sự sống con người. Vì vậy, chúng ta phải biết yêu quý thiên nhiên. Yêu quý thiên nhiên là tôn trọng sự sống của mọi loài, là biết ơn tổ ấm của mình. Đó cũng là một tính chất của Đạo đức. Trong bài Tâm từ, chúng ta cũng đã bàn đến vấn đề này. 

Nếu yêu thiên nhiên là yêu sự sống của chính mình, là một tính chất của Đạo đức thì phá hủy thiên nhiên là hủy diệt sự sống, ngày tận thế sẽ đến. Tất nhiên, tận thế sẽ đến bằng nhiều cách, nhưng phá rừng là cách làm cho tận thế đến nhanh nhất. Điều này cũng dễ hiểu vì hiện nay, thành phần không khí chúng ta đang thở chủ yếu là Oxy,  chiếm 1/ 5 lượng không khí. Chính quá trình quang hợp của cây xanh đã hấp thụ lượng Carbonic do con người thải ra và cung cấp lượng khí Oxy cho con người. Như vậy, chính rừng cây đã tạo nên khí Oxy nuôi sống con người. Tỷ lệ khí Oxy trong không khí rất khó thay đổi trừ khi con người chặt cây, phá rừng. Khi nạn phá rừng diễn ra, tỷ lệ ấy sẽ thay đổi, có thể từ 1/ 5 xuống 1/ 10. Lúc ấy, con người sẽ cảm thấy khó thở hơn. Nếu chúng ta không ngăn chặn, để nạn phá rừng diễn ra ngày càng nhiều thì tỷ lệ Oxy trong không khí sẽ giảm rất nhanh. Qua khỏi 1/10, tỷ lệ ấy sẽ giảm nhanh hơn nữa. Chỉ cần một yếu tố nào đó tác động, lượng khí Oxy sẽ mất hẳn. Lúc bấy giờ, con người sẽ không còn không khí để thở, chỉ còn cách giãy chết. Đó chính là ngày tận thế của con người. Điều này rất dễ xảy ra vì hiện nay nạn phá rừng đang xảy ra nghiêm trọng ở khắp nơi. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau. 

2. SỐNG PHÙ HỢP VỚI THIÊN NHIÊN MẶC DÙ VẪN TÔN TRỌNG SỰ TIẾN BỘ CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT 

Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mà trình độ khoa học kỹ thuật có sự tiến bộ vượt bậc. Khó có thể hình dung được, trong tương lai khoa học kỹ thuật sẽ tiến bộ đến mức độ nào. Hiện tại, những thành tựu của khoa học đã làm cho chúng ta choáng ngợp. Càng lúc, con người càng hưởng được nhiều tiện nghi hiện đại do khoa học đem lại. Nhưng điều đáng lo ngại là sự tiến bộ của khoa học làm cho con người ngày càng xa rời thiên nhiên. Khi có đầy đủ tiện nghi, con người gần như không cần đến thiên nhiên nữa. Ngày xưa, khi trời nóng nực, con người thường ngồi hóng gió dưới bóng cây hay chạy ra sông tắm mát.  Nhưng ngày nay, chúng ta đã có máy lạnh, máy quạt đem gió về… 

Khoa học kỹ thuật là điều không thể thiếu đối với một xã hội văn minh tiến bộ. Nhưng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật có khi đi ngược lại quy luật tạo nên sự sống của thiên nhiên. Chưa kể đến việc dựa vào sự tiến bộ của khoa học, con người còn chế tạo vũ khí, đạn dược để giết hại lẫn nhau. Chỉ cần ngồi một chỗ bấm nút, người ta có thể điều khiển những quả tên lửa vượt hàng trăm ngàn cây số xuống oanh tạc đất nước của đối phương. Hiện nay, những loại vũ khí hạt nhân có thể giết người hàng loạt đã trở thành mối đe dọa lớn đối với nhân loại. Người ta cho rằng, số lượng bom nguyên tử trên thế giới có thể làm nổ tung mười trái đất này. Vậy mà, một số cường quốc vẫn chạy đua chế tạo vũ khí hạt nhân một cách điên cuồng làm cho sự sống của thế giới ngày càng đến gần bờ vực của sự tiêu diệt. Đây là điều rất nguy hiểm. Gần đây nhất, trong cuộc chiến tranh ở Iraq, Mỹ đã sử dụng tất cả những loại vũ khí tối tân nhất để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến theo kế hoạch. Đây cũng là dịp để Mỹ thử nghiệm một số vũ khí hiện đại mà mình mới chế tạo. 

Đời sống tiện nghi làm cho con người xa rời thiên nhiên. Càng xa rời thiên nhiên, người ta càng hủy hoại cuộc sống của mình. Ví dụ, vào những năm 1970 của thế kỷ này, loài người đã biết đến tiện nghi phòng lạnh. Nhưng sống và làm việc trong môi trường máy lạnh, rất nhiều chứng bệnh đã phát sinh. Theo Business Week, 10/1994, một trong những chứng bệnh được coi là vấn nạn cho những người đang làm việc trong tiện nghi phòng lạnh- nhất là tại các cao ốc- là SBS ( sick building syndrome). Hai quốc gia có tỷ lệ người mắc chứng SBS cao nhất là Mỹ và Úc. Ngoài hội chứng SBS, giới Y khoa còn phát hiện một thứ bệnh khác có tên building-  related illness (BRI – bệnh liên quan đến building). Đây là căn bệnh phát sinh do ngộ độc thức ăn, nhiễm khuẩn … từ phòng lạnh. Viêm xoang, nhức đầu, chóng mặt, viêm họng, khô cổ… là các chứng bệnh thường xuyên xuất hiện nhất khi làm việc trong môi trường phòng lạnh. Nghiêm trọng hơn nữa, khí CSC thoát ra từ máy lạnh bay lên trời có khả năng phá hủy tầng Ozon - một lớp khí được liên kết bởi ba phân tử Oxy có tác dụng bảo vệ trái đất, tránh sự tác động của những tia bức xạ, trong đó có tia cực tím của mặt trời.  Lượng khí Clo thải ra từ công nghiệp, từ công nghệ làm lạnh sẽ làm thủng tầng Ozon. Hiện nay, lỗ thủng của tầng Ozon ở Bắc cực và Nam cực ngày càng lớn nên nhiệt độ của quả đất ngày càng tăng. Điều nguy hiểm là những tia cực tím tác động trực tiếp lên trái đất đã gây nên bệnh ung thư da. Ở những nơi tầng Ozon bị thủng, nhiều loài đã bị tiêu diệt. Những động vật lớn có khả năng chịu đựng cao vẫn còn sống sót nhưng lại phát sinh những căn bệnh không thể cứu chữa được. 

Như vậy, sự tiến bộ của khoa học đã đem lại nhiều tiện nghi cho con người đồng thời cũng hủy diệt dần sự sống của con người và vạn vật. Mặt khác, hưởng một cuộc sống quá tiện nghi, phước của con người cũng dần dần mất đi. Đây chính là tiền đề của Nhân Quả. Nhưng thực tế, chúng ta ai cũng thích sự tiện nghi cho cuộc sống của mình. Điều dễ thấy nhất là trước kia người ta chỉ đi bộ hoặc dùng xe đạp để làm phương tiện đi lại. Khi cuộc sống khá hơn, mọi người đua nhau sắm xe máy. Vì nhu cầu công việc, vì điều kiện sức khỏe…, nhiều người lại sắm cả xe hơi. Ngay cả một số chùa, quý Thầy cũng phải dùng xe hơi để lo việc chùa hoặc đi giảng Pháp ở những nơi xa. Trong tương lai, khi đời sống phát triển, có người sẽ về thành phố lớn cất những ngôi chùa cao tầng. Lúc bấy giờ, Thầy trụ trì sẽ ở tầng cao nhất, lên xuống bằng thang máy. Tầng hầm sẽ là nơi để xe. Trong chùa, quý Thầy sẽ trang bị tiện nghi đầy đủ vv…

Mặt khác, càng sống tiện nghi, càng rời xa thiên nhiên, con người càng bận tâm nhiều hơn. Vì thế, cuộc sống sẽ mất đi sự hồn nhiên, thanh thản. Trong khi đó, chúng ta sống là để đi tìm hạnh phúc. Tùy theo đạo đức, quan điểm vị kỷ hay vị tha mà con người sẽ đi tìm hạnh phúc cho mình hay cho người khác. Là đệ tử Phật, chúng ta chọn cho mình lý tưởng sống là đi tìm hạnh phúc cho người khác. Hơn ai hết, chúng ta hiểu rõ những nỗi đau khổ do tâm vị kỷ đem lại. Nhưng muốn đem hạnh phúc đến cho mọi người, chúng ta phải có quan điểm đúng đắn về hạnh phúc. Nhiều người cho rằng, có tiền là hạnh phúc. Vì theo họ, “có tiền mua tiên mua tiên cũng được”, họ sẽ làm được bất cứ điều gì mình muốn. Người khác lại quan niệm: có địa vị, quyền thế là hạnh phúc vì khi có địa vị, quyền thế, họ có thể sai khiến được mọi người. Những người thâm trầm, có kinh nghiệm sống sẽ nghĩ khác về hạnh phúc. Có người nói :“Một phút hoan lạc để ngìn đời nuối tiếc, hạnh phúc thật sự là sự thanh thản của tâm hồn”. Đó có thể là kinh nghiệm được rút ra khi người ấy đã trải qua một thời tuổi trẻ ăn chơi, lêu lổng. Qua cái thời nông nổi ấy, ngoảnh nhìn lại, người ta thấy những gì gọi là trò vui trên cuộc đời này từng làm cho tâm hồn mình xao động cuối cùng cũng chỉ là đau khổ, bất an. Lúc này, với họ, hạnh phúc thật sự chỉ là sự thanh thản của tâm hồn. Nhưng hiểu được điều này không phải đơn giản. Ở tuổi thanh niên, chúng ta chưa thấm thía được điều này. Vì khi còn trẻ, tâm sinh lý đang phát triển, người ta thấy đời chỉ vui khi tâm hồn mình có những xao động, những thương yêu, thù hận, ganh ghét, nhớ nhung… Là những người có thiện căn vào chùa tu hành, chúng ta có thể tin sự bình an là hạnh phúc. Nhưng phải đến một độ tuổi nào đó, khi đã đi qua cuộc sống phức tạp, lăng xăng xao động, chúng ta mới thật sự hiểu được điều đó. 

Theo quan điểm của đạo Phật, hạnh phúc thật sự là nội tâm an tịnh. Nhưng sống trong thời đại ngày nay, những tiện nghi khoa học kỹ thuật lại làm cho chúng ta bận tâm nhiều hơn. Điều này nghe có vẻ vô lý nhưng lại là một sự thật. Ví dụ, trước kia, đi lại bằng đôi bàn chân, chúng ta cũng cảm thấy mỏi mệt nhưng không phải bận tâm điều gì. Bây giờ, đi bằng xe máy, xe hơi, chúng ta có bao nhiêu việc phải bận tâm, lo lắng. Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu để có những kiến thức cơ bản về kỹ thuật phức tạp của nó. Thỉnh thoảng, xe hư hỏng phải sửa chữa rất tốn kém, chưa kể những lúc bị hư hỏng dọc đường. Rồi khi tự mình lái xe, chúng ta phải lo thi bằng lái… Nói chung, xe máy, xe hơi rất thuận tiện cho công việc nhưng không đem lại cho chúng ta sự bình an như khi còn đi bộ. 

Thực ra, từ ngày xưa con người đã nhận ra được điều này. Người ta kể rằng, một hôm khi đến một xứ nọ, Trang Tử nhìn thấy một ông già đang vất vả gánh đôi thùng nước tưới cây. Trong khi đó, ở những làng xung quanh, người ta đã chế được dụng cụ tưới nước nhanh hơn, tiện lợi hơn. Thấy vậy, Trang Tử hỏi ông già : “Sao ông không bắt chước những người hàng xóm chế những khí cụ tưới nước cho đỡ vất vả ?”. Ông cụ trả lời: “Cơ khí đem lại cơ tâm”. Nghĩa là khí cụ máy móc cũng làm cho tâm mình máy móc, phức tạp hơn. Ông cho rằng, thà vất vả một chút nhưng khỏi phải bận tâm điều gì. Với ông, sự thanh thản trong tâm hồn quý hơn đời sống tiện nghi. Câu chuyện đơn giản nhưng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Đúng là khi có được kỹ thuật tiến bộ, chúng ta phải bận tâm nhiều hơn. 

Trong thời đại ngày nay, sự ra đời của máy vi tính đã đánh dấu bước tiến bộ vượt bậc của xã hội loài người. Máy vi tính rất tiện lợi cho con người trong học tập và trong công việc. Ngoài những chức năng như nhập dữ liệu, in ấn, lưu giữ và xử lý thông tin; qua mạng máy tính, người ta có thể trò chuyện trực tiếp với nhau dù cách xa nửa vòng trái đất. Nhiều viện Đại học trên thế giới đã tiến hành việc giảng dạy từ xa qua trung gian của mạng Minitel. Các Giáo sư ngày càng sử dụng nhiều hơn các phương tiện hiện đại như phần mềm vi tính đào tạo từ xa, đĩa CD-ROM, đĩa compact tương tác…. trong việc giảng dạy. Nhưng với công nghệ kỹ thuật hiện đại, tinh vi và phức tạp như Computer, muốn tiếp cận, học hỏi chúng ta phải có một trình độ nhất định. Những chuyên viên lập trình phải hiểu cặn kẽ từ máy móc, cơ cấu truyền tín hiệu đến hệ thống phần mềm đa dạng của nó. Không những thế, con nguời còn phải luôn tìm cách chống lại sự tấn công của virus. Nếu không cẩn thận, khi có sự cố xảy ra, tất cả những thông tin, dữ liệu của chúng ta sẽ bị mất sạch. 

Như vậy, sử dụng máy vi tính, chúng ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức. Nhưng đầu óc chúng ta phải luôn hoạt động để bắt kịp những thông tin mới nhất. Và vì thế, tâm chúng ta cũng khó có được sự bình yên, thanh thản. 

Ngoài những máy móc tinh vi, phức tạp như máy vi tính, những ngành công ngiệp khác cũng đem lại cho cuộc sống chúng ta nhiều vật dụng rất tiện lợi như: chén bát, thau chậu, ly … bằng nhựa. Thành tựu của khoa học kỹ thuật mới làm cho vật liệu của chúng ta đẹp hơn, bền hơn. Nhưng chính những sản phẩm polyme khó phân hủy ấy đã làm cho rác trên thế giới này đầy nhanh hơn. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường, góp phần hủy hoại sự sống trên trái đất. 

Những tiến bộ thật sự của con người thường kéo theo sự hủy hoại. Đây là một nghịch lý nhưng lại là điều có thật. Trải qua hàng triệu năm thay đổi, biến hóa, thiên nhiên mới tạo ra được sự sống. Nhưng con người với sự thông minh kỳ diệu của mình đã tạo nên những kỹ thuật hiện đại trở lại hủy diệt thiên nhiên. Có thể xem đây là một sự phản bội. Bởi vậy, khoa học phát triển là hợp với quy luật nhưng chúng ta cần phải có sự cân nhắc, chọn lựa, không được phát minh một cách bừa bãi, trở lại tiêu diệt nguồn cội đã tạo ra sự sống cho chính mình.

Một câu chuyện vui về khoa học giả tưởng đã làm không ít người phải suy nghĩ. Trong câu chuyện, người ta nói rằng vài thế kỷ sau, trên Trái đất sẽ không còn sự sống của con người mà chỉ còn những con Rôbôt. Vì con người đã tìm cách chế tạo ra Rôbôt và mỗi ngày càng cải tiến cho nó trở nên thông minh hơn. Một ngày nào đó, trí thông minh của Rôbôt thoát khỏi sự kiểm soát của con người, nó sẽ tìm cách tiêu diệt con người và làm chủ Trái đất này vì nếu để con người sống sót, sẽ có ngày những thiên tài có khả năng phát minh những kỹ thuật hịên đại xuất hiện và tiêu diệt Rôbôt, giành lại quyền làm chủ Trái đất. Tuy nhiên, trong một vài Rôbôt có sử dụng lại những bộ phận của con người như: gan, phổi… Một lần, máy báo động của cơ quan phát tín hiệu báo động có sự sống của con người trong cơ quan. Nhận được tín hiệu báo động của máy, trưởng ban tiêu diệt con người tức tốc đi tìm. Khi vào căn tin, thấy hai người uống rượu say đang nghiêng ngả, ông ta tưởng con người bèn tóm lấy nhưng chúng xin lỗi ông và cho biết chúng là Rôbôt đã được lập trình hễ uống rượu say là phải nghiêng qua, ngả lại. Tìm đến chỗ khác, ông nghe nhạc nổi lên và nhìn thấy mấy con Rôbôt đang khiêu vũ với nhau. Ông lại tưởng là con người nhưng không phải. Đây là loại Rôbôt có chức năng khi nghe nhạc phải có những vũ điệu như vậy. Ông tìm mãi vẫn không phát hiện ra con người. Sau đó, ông ta tập trung tất cả nhân viên trong cơ quan lại và nói : “Trong cơ quan chúng ta còn có con người sống sót nhưng tôi không tìm ra được. Như vậy, tôi đã không làm tròn trách nhiệm của mình. Tôi sẽ dùng cây súng này để tự sát”. Nghe vậy, bà Giám đốc nói: “Nhưng anh sẽ không biết đau vì anh là người máy, anh là Rôbôt”. Rôbôt trả lời: “Không, trong cơ thể tôi còn gắn một lá phổi của con người. Khi bắn vào đó, tôi sẽ biết đau”. Ông đưa súng vào ngực và bắn một phát. Khi tiếng súng nổ, máu từ ngực ông phun ra nhưng ông vẫn chưa chết. Lúc bấy giờ, trong đám người đứng dưới bỗng có tiếng thét lên. Ông chạy ngay xuống nắm lấy người đó kéo lên và nói : “Đây là một con người, vì chỉ có con người mới biết đau nỗi đau của đồng loại”. 

Câu chuyện kết thúc nhưng lời kết luận ấy vẫn khiến người đọc ray rứt. Rõ ràng, khác với máy móc, con người có tình cảm, có lý trí nên biết đau nỗi đau của đồng loại mình. Máy móc dù có tinh vi bao nhiêu đi nữa cũng không thể có điều đó. Vậy mà, chúng ta cứ đi tìm sự tinh vi trong máy móc, không biết rằng hạnh phúc không phải là sự tiện nghi có thể thay thế cho con người. Hạnh phúc là sự thông cảm, thương yêu giữa con người với nhau. Nếu cứ chạy theo kỹ thuật hiện đại, chúng ta sẽ đánh mất dần những hạnh phúc thật sự vì đầu óc chúng ta sẽ phức tạp hơn, nội tâm bất an hơn. 

Người tu bây giờ cũng không thể đi ngược lại với Khoa học kỹ thuật vì nó là sự tiến bộ tất yếu của con người. Nhưng chúng ta phải khéo chọn lọc và giữ gìn sự gần gũi với thiên nhiên. Vì vậy, nếu được phép chọn lựa, chúng ta nên tìm về những làng quê xa. Ở đó chúng ta được sống giữa không khí trong lành, có những hàng cây che bóng mát, có những cánh đồng lúa xanh tươi, những con sông quanh co uốn khúc, có tiếng gà gáy buổi sáng, có tiếng chim kêu ríu rít v.v… Tâm hồn chúng ta sẽ thanh thản hơn khi gần gũi với thiên nhiên. Đồng thời, chúng ta phải có những kiến thức về di truyền, về môi sinh, về những chất thải, về đời sống của thực vật, động vật… Có sự hiểu biết về những mặt đó, chúng ta sẽ có ý thức tìm cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống chung quanh mình. 

Ở phương Tây, con người cũng dần dần quay về với thiên nhiên. Nếu trước kia, người ta chế tạo những loại hóa dược để chữa bệnh thì bây giờ họ lại kết hợp chế ra những loại thảo dược. Những loại thuốc tây có thể làm bệnh nhân nhanh chóng khỏi bệnh nhưng lại có những tác dụng phụ rất nguy hiểm. Trong khi đó, các loại thảo dược vừa chữa được bệnh tật vừa tăng sức đề kháng cho cơ thể mà không gây phản ứng phụ mặc dù thời gian có thể kéo dài hơn. Điều này đã được y học phương Đông áp dụng từ xưa. Khi có triệu chứng bệnh, người ta thường tìm hiểu nguồn gốc căn bệnh, xem những tạng phủ nào bị suy yếu, giảm sức đề kháng để tìm cách làm tăng sức đề kháng lên. Như vậy, các loại thuốc được bào chế từ thảo mộc có thể chữa bệnh tận gốc mà không tàn phá cơ thể như hóa dược. Cơ thể chúng ta được cấu tạo từ những Protein rất phức tạp nên cấu trúc của cỏ cây thiên nhiên mới tương thích hơn là cấu trúc phân tử đơn giản của hóa chất. 

Thực ra, trong thiên nhiên có sẵn những hoa cỏ, lá cây tương thích với sự phức tạp của cơ thể con người. Chúng có thể điều chỉnh cơ thể của chúng ta một cách đúng mức, phù hợp với thiên nhiên. Vì vậy, nếu càng tiến bộ, chúng ta càng phải biết gần gũi với thiên nhiên, yêu quý thiên nhiên. Hơn nữa, là đệ tử Phật - những người có lòng thương yêu muôn loài, lòng thương yêu sự sống đơn giản, lòng biết ơn sâu sắc - chúng ta càng yêu quý thiên nhiên hơn.

3. TẠO KHUNG CẢNH THIÊN NHIÊN 

Yêu thiên nhiên, chúng ta phải tạo ra khung cảnh thiên nhiên hài hòa với sự sống của mình. Với chúng ta, nếu được sống trong một ngôi chùa tọa lạc ở miền quê, gần gũi với thiên nhiên, xung quanh có những đồng lúa mênh mông, được nghe những tiếng gà gáy canh khuya hay mỗi đêm về sáng là một điều hạnh phúc. Có những người được sống trong khung cảnh như vậy nhiều năm cảm thấy điều này thật bình thường. Nhưng nếu phải sống trong thành phố lớn, luôn đối mặt với cuộc sống xô bồ, chúng ta sẽ thèm nghe vô cùng những âm thanh quen thuộc của thiên nhiên. Vì vậy, dù ở đâu, chúng ta cũng nên trồng cây xanh, trồng càng dày càng tốt. Hiện nay, môi trường càng ngày càng ô nhiễm, chúng ta càng phải tích cực trồng cây xanh.

Về chỗ ở, chúng ta nên chọn nơi rộng rãi, thoáng mát, đừng chọn nơi chen chúc, chật chội. Có người thích sống ở thành phố nên chỉ cần mua một căn nhà nhỏ, cất thêm một cái gác nhỏ, đặt bàn thờ Phật và gọi đó là chùa. Bước vào những nơi như thế, người ta đâm ra hoang mang. 

Chúng ta biết rằng, yêu thiên nhiên là một tính chất tự nhiên của Đạo đức. Những người yêu thiên nhiên là những người có Đạo đức. Hơn nữa, người tu hành chân chính theo đạo Phật luôn thích sự tự do, giản dị và gần gũi với thiên nhiên. 

Trong cuộc sống, nếu phải chọn lựa giữa hai giải pháp: kỹ thuật và sinh học, chúng ta nên chọn giải pháp sinh học vì giải pháp sinh học gần gũi với thiên nhiên hơn. Ví dụ, trong chùa có đất trống, trừ những chỗ cần thiết phải tráng xi măng (giải pháp kỹ thuật), chúng ta nên dùng giải pháp sinh học để bảo vệ nguồn đất (trồøng cỏ để giữ đất ). Hiện nay, giải pháp sinh học đang được mọi người sử dụng. Ở những đoạn đường mới đắp, người ta chỉ rải nhựa trên mặt cắt của con đường, hai bên bờ thay vì xây đá kè, người ta trồng cỏ để giữ không cho lớp nhựa bị sụt lở. 

Trước kia, khi chưa hiểu tác dụng của cỏ, người ta rất căm ghét chúng. Với người nông dân, bọn cỏ dại là kẻ thù. Họ cho rằng: “Công trồng là công bỏ, công làm cỏ là công ăn”. Trồng được cây lúa, cây ngô chưa chắc đã có ăn. Chỉ khi nhổ sạch cỏ, hoa màu lên tốt thì mới hy vọng đạt được kết quả.  Nhưng khi biết cỏ có vai trò vô cùng quan trọng đối với môi trường sinh thái, người ta tạo điều kiện cho cỏ phát triển. Nhất là những nơi đất không màu mỡ, nếu làm cho cỏ mọc càng dày, càng tốt. Vì chỉ một thời gian sau, nơi ấy sẽ xuất hiện lớp đất màu, chúng ta có thể trồng được cây xanh. 

Ngoài giải pháp sinh học, chúng ta có thể dùng giải pháp thủ công. Chẳng hạn, muốn diệt chuột ngoài đồng, bên cạnh việc sử dụng giải pháp kỹ thuật như điện hoặc dùng chất hóa học như bã độc, keo dính, người ta còn đặt các loại bẫy (bẫy lồng, bẫy kẹp). Đây là giải pháp thủ công vừa hiệu quả vừa không gây tác hại cho môi trừơng. ( ở đây chúng ta chưa bàn đến vấn đề tội phước sát sinh của con người ). 

Trong cuộc sống, còn nhiều vấn đề khác liên quan đến giải pháp kỹ thuật hay sinh học mà chúng ta phải chọn lựa. Ví dụ, để tô điểm cho cuộc sống, chúng ta nên dùng hoa thật thay vì hoa giả. Hoặc để cây cối xanh tươi, chúng ta nên dùng phân hữu cơ thay vì phân hóa học. Trong ăn uống, chúng ta nên để cho thức ăn có màu sắc, hương vị tự nhiên thay vì dùng các loại phẩm màu hay bột ngọt v.v… Nói chung, trong mọi trường hợp, nếu được chọn lựa, tốt nhất chúng ta nên chọn giải pháp sinh học hoặc thủ công. 

Ngoài ra, chúng ta cũng đừng nuôi chim trong lồng, cá trong chậu vì vừa tạo nghiệp vừa phản thiên nhiên. Có người biện minh cho việc nuôi chim, cá của mình là để được nghe tiếng hót vui tai, được nhìn đàn cá bơi lội cho vui mắt và nơi ở có khung cảnh thiên nhiên. Thực ra, đó là việc làm phản thiên nhiên. Vì với chim - cá, còn gì tự nhiên hơn, sung sướng hơn khi được tung bay dưới bầu trời tự do, được tung tăng bơi lội trong dòng nước mát lành. Đó mới chính là môi trường, là thiên nhiên của chúng. Nếu cứ tạo môi trường thiên nhiên cho mình bằng cách tiêu diệt sự tự nhiên của loài vật, con người sẽ tạo tội. Sau này, đôi khi không có tội gì cũng bị ở tù một cách oan uổng. Đó là quả báo do kiếp trước nuôi chim trong lồng, nuôi cá trong chậu.

Hiện nay, ở Âu Mỹ, chim thú rất gần gũi với con người. Những Phật tử từng sống ở Mỹ kể rằng, có khi con người chỉ cần lấy tay gõ gõ mấy cái là những con sóc đang sống trong hang sẽ bò ra để ăn cơm. Ở những nước phương Tây tiến bộ, dần dần con người rất yêu quý loài vật. Họ không giết hại chúng nên con người và con vật sống rất hài hòa. Nhiều người phương Tây sang Việt Nam tỏ ra rất sợ hãi khi thấy trong các nhà hàng, người ta chế biến món ăn từ những con ếch. Có khi đã chế biến xong, con ếch vẫn như còn sống trong tư thế đang nhảy. 

Điều hết sức khó hiểu là ở một chùa nọ, Thầy trụ trì rất có “sáng kiến” khi cho xây bồn nuôi cá ngay dưới chánh điện thờ Phật. Khi lạy Phật, những chú điệu cứ ngước lên, nhìn xuống xem những con cá đang bơi tung tăng trong hồ nước. Là người tu, chúng ta phải yêu quý thiên nhiên, tôn trọng sự tự do của muôn loài , không nên làm những điều như vậy.

  Trong cuộc đời Đức Phật - Đạo Sư của chúng ta- có bốn sự kiện trọng đại đều diễn ra tại rừng cây. Trước hết, Ngài được sinh ra ở rừng cây. Theo tục lệ, gần đến ngày sinh nở, Hoàng hậu Maya phải về quê của mình ở Devadaha. Nhưng khi đoàn người đi đến vườn Lâm Tỳ Ni thì Hoàng hậu lâm bồn. Đức Phật đã ra đời trong hoàn cảnh như thế. Hình như Ngài từ chối cung vàng điện ngọc để được ra đời nơi rừng cây xanh mát. Đến khi thành đạo, Ngài cũng ở dưới cội cây Bồ đề. Lần thuyết pháp đầu tiên của Ngài lại diễn ra tại vườn Nai. Nơi ấy có những chú nai chạy tung tăng, gần gũi với con người. Những lần sau, thỉnh thoảng Ngài cũng thuyết pháp trong giảng đường nhưng lần thuyết pháp đầu tiên đã diễn ra dưới rừng cây. Cuối đời, Ngài lại viên tịch tại rừng cây. Tuy Ngài không nói nhưng bốn sự kiện lớn trong cuộc đời Ngài đã để lại cho những người đời sau một thông điệp quan trọng. 

Thông điệp đó là gì ?  

Trước hết, chúng ta phải thừa nhận rằng, Đức Phật có những lời dạy quan trọng mà Ngài không nói thành lời. Nếu có đủ trí tuệ, chúng ta sẽ nhìn ra được những lời dạy đó qua chính cuộc đời Ngài. Ở đây, chúng ta chỉ nói đến hai điều quan trọng mà Ngài để lại. Thứ nhất là Thiền định. Trước khi nhập Niết Bàn, Ngài chỉ im lặng, nằm nghiêng và bắt đầu nhập xuất từng mức định. Chúng không ai biết, nhưng những vị Thánh tăng biết. Lúc ấy, Ngài Anurudha nói cho mọi người biết : Đức Thế Tôn vừa nhập Sơ thiền, Đức Thế Tôn vào Nhị thiền, Đức Thế Tôn vào Tam thiền, Đức Thế Tôn vào Tứ thiền, Đức Thế Tôn trở lại Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền, Đức Thế Tôn lại nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Đức Thế Tôn vào Niết Bàn. Tại sao Ngài không nhập thẳng vào Niết Bàn như các Thiền sư mà phải nhập xuất nhiều mức định như vậy ? Phải chăng, đó là lời dạy cuối cùng cực kỳ quan trọng mà Ngài muốn gởi lại cho hậu thế ? Phải chăng Ngài muốn những đệ tử của mình phải thực hiện được việc xuất nhập các mức Thiền định một cách tự tại như thế ? Nghĩa là người tu Thiền muốn vào mức Thiền nào phải vào được mức Thiền đó. Làm chủ được như vậy, tự tại được như vậy là chúng ta đã thực hiện thành công lời dạy của Ngài. Nếu không, dù học hết bao nhiêu tạng Kinh điển, dù có thể giảng pháp thao thao bất tuyệt, dù có thể ra nước ngoài tu học lấy đựơc bằng Tiến sĩ, chúng ta vẫn chưa hiểu, chưa làm tròn đựơc di ngôn không lời cuối cùng của Đức Phật. 

Vì vậy, khi còn trẻ, chúng ta phải vừa học vừa cố gắng tu. Khi lớn lên, phải vừa làm việc Đạo tạo công đức vừa nghiên cứu nhưng phải cố gắng tinh tấn tu tập Thiền định để có thể xuất nhập các mức thiền một cách tự tại như hoài bão, như thông điệp quan trọng mà Đức Phật đã để lại cho chúng ta trong giờ phút cuối cùng thiêng liêng của cuộc đời mình. 

Thông điệp quan trọng thứ hai chúng ta có thể hiểu được qua bốn sự kiện trọng đại trong đời Ngài. Đó là việc Ngài sinh ra, thành Đạo, giảng Pháp lần đầu tiên và viên tịch đều ở tại rừng cây. Phải chăng, vì hiểu giá trị kín đáo mà lớn lao ẩn trong sự sống của cây rừng nên Ngài muốn dạy chúng ta phải yêu quý thiên nhiên, phải gần gũi với thiên nhiên? Vào thời Đức Phật, điều này không quan trọng lắm vì lúc đó rừng cây chưa bị tàn phá. Nhưng bây giờ, khi rừng cây bị tàn phá quá nhiều, điều này đã trở nên bức thiết. Hiểu thâm ý của Ngài và thực hiện lời dạy ấy, chúng ta sẽ thấy những lợi ích lớn lao mà rừng cây đem lại cho sự sống của con người. 

Bởi vậy, dù sống trong thời đại mà khoa học kỹ thuật có những tiến bộ không ngừng, chúng ta vẫn nhớ thông điệp không lời mà Đức Phật để lại. Khoa học kỹ thuật hiện đại có thể giúp con người xây dựng những ngôi nhà lớn, có thể đem lại cho cuộc sống con người đầy đủ tiện nghi nhưng chúng ta cố gắng đừng xa rời thiên nhiên. Lúc nào chúng ta cũng giữ sự gắn bó với cây xanh để có thể tìm ra được những điều quý giá từ nơi ấy. 

4. SỰ TƯƠNG TÁC CỦA CÂY XANH VỚI ĐỜI SỐNG TÂM LINH CON NGƯỜI 

Cây xanh không chỉ giúp con người duy trì sự sống mà còn có sự tương tác với con người trên lĩnh vực tâm linh. Thật vậy, thực vật cũng có đời sống tâm linh, cũng có tình cảm và cũng biết những gì xảy ra chung quanh. Nhưng cây xanh vốn thụ động, không thể biểu lộ được phản ứng tâm lý của mình dù có biết, có phản ứng. Nếu chúng ta cầm dao định chặt cây nào đó là toàn thân chúng có sự báo động. Hình như chúng cũng tỏ ra đau khổ, van xin con người nhưng chúng ta lại không biết sự báo động, không thấy sự van xin, sự đau khổ ấy. 

Các phương pháp luyện ngãi cũng dựa trên nguyên tắc tương tác tâm linh giữa người và thực vật. Vì cây xanh cũng có đời sống tâm linh nên những thầy bùa đã khai thác đặc điểm đó bằng cách tìm cây ngãi - một trong những loại cây có tâm linh đặc biệt hơn những cây khác - để luyện ngãi. Đầu tiên, ông ta cho những cây ngãi ăn những thức ăn rất đặc biệt. Người ta nói rằng, có loại ngãi được cho ăn bằng trứng gà, bằng cả con gà. Chỉ cần quăng vào bụi ngãi một quả trứng hay một con gà, một lát sau chỗ đó chỉ còn lại vỏ trứng hoặc lông gà. 

Có người cam đoan rằng chính mắt mình đã từng trông thấy những loại ngãi ăn bắp rang. Khi thầy bùa cho bắp rang vào những chậu ngãi nhỏ, một điều lạ là mặt đất trên chậu ngãi đang bình thường tự nhiên có sự chuyển động lên xuống và từ từ cuốn những hạt bắp vào trong lòng đất. Thầy ngãi nuôi cây và cho ăn như vậy suốt mấy năm trời nên nó có sự biết ơn sâu đậm đối với chủ. Đến lúc đó, ông ta mới luyện cách sai khiến tâm linh của cây theo mục đích của mình. Vì tâm linh của cây xanh biết nhiều chuyện hơn con người, nếu muốn làm thầy bói, ông ta sẽ luyện cây ngãi để biết trước mọi việc và bói cho người khác. Khi thân chủ đến đặt quẻ, ông thầy khấn cây ngãi và nó sẽ báo cho ông biết quá khứ của người ấy. Cứ thế, ông ta chỉ cần lặp lại theo những tiếng nói văng vẳng bên tai. Hoặc muốn yểm, muốn thư ai, ông ta sai cây ngãi phát tâm linh đến hại người đó khiến họ nhức đầu, đau bụng quằn quại v.v… chữa trị hoài không hết. Đó là cách luyện ngãi. Nguyên tắc luyện bùa cũng vậy. Trong thế giới vô hình có nhiều loại âm binh đói khát, thầy bùa chú tâm cúng cho họ ăn thường xuyên từ năm này qua năm khác. Dần dần, xung quanh ông ta có cả một lực lượng âm binh, âm hồn từng chịu ơn ông. Lúc bấy giờ, ông sai làm điều gì họ sẽ làm điều đó. 

Vì cây xanh có tâm linh nên khi sống lẫn với cây xanh và có lòng yêu quý cây, tự nhiên con người dễ có trực giác hơn. Khi nhìn người khác, có người có thể biết được người ấy như thế nào. Người ta gọi đó là sự tương tác tâm linh giữa cây xanh và con người. Chính vì lòng thương yêu đối với cây xanh, con người được nó truyền cho năng lực. Sau một thời gian, tâm con người trở nên minh mẫn hơn. Đây là điều rất lạ. Vì vậy, những người đồng bào dân tộc sống ở vùng cao thường có năng lực tâm linh rất mạnh. Thỉnh thoảng, chúng ta vẫn gặp vài người ra chợ bán thuốc nam. Họ có năng lực rất đặc biệt. Chỉ cần nhìn qua, họ có thể nói vanh vách chúng ta đang bị bệnh gì, điều gì sẽ xảy ra với chúng ta trong thời gian đến... Những người tu tập Thiền định nếu ở nơi chung quanh có nhiều cây xanh và có lòng thương yêu, chăm sóc nó, sau một thời gian sẽ dễ nhiếp tâm hơn, vọng tưởng khởi lên dễ biết hơn.

Sống giữa một thế giới ít cây xanh, tâm hồn con người cũng sẽ cằn cỗi, khô khan. Vì vậy, đến một nơi có nhiều cây xanh, tự nhiên chúng ta có cảm giác con người sống ở đó hiền lành, tử tế. Ở Phương Tây, người ta rất yêu quý cây xanh. Có người kể rằng, chỗ một cây con đang vươn lên, một công nhân ngành điện lực đến định chặt đi để đặt dây cáp ngầm. Nhưng một du khách đi ngang đã cản lại. Người công nhân không chịu vì cho rằng mình làm theo lệnh của cấp trên. Hơn nữa, đây cũng là việc công. Nhưng người kia đã nói một cách cương quyết: “Có chặt thì chặt tôi chứ không được chặt cây”. Những người đi đường, trong đó có một cô gái là minh tinh màn bạc, thấy vậy cũng dừng lại, vây quanh người công nhân không cho người ấy chặt cây. Sống trong một đất nước văn minh, con người có sự hiểu biết nên yêu quý sự sống, yêu quý thiên nhiên như vậy. Và có lẽ nhờ thế mà họ cũng hưởng được nhiều phước hơn những nơi khác. 

Điều cuối cùng chúng ta phải thừa nhận là sống với rừng cây, tâm hồn con người cũng sẽ yên tĩnh hơn. Đây là một nguyên tắc rất đúng nhưng phải tinh tế chúng ta mới nhìn thấy được.

5. TRỒNG RỪNG LÀ MỘT CÔNG ĐỨC LỚN. 

Nói đến thiên nhiên, chúng ta thường nghĩ ngay đến rừng cây. 

Sở dĩ chúng ta kêu gọi mọi người trồng lại những khu rừng lớn vì rừng cây có hai tác dụng. Trước hết, rừng tạo lại môi trường sống. Rừng sẽ giữ được nước ngầm, chống được hạn hán, lũ lụt. Nhờ có rừng, nước được giữ lại trên bề mặt, không bị tụt sâu vào lòng đất. Chính nước trên bề mặt rất cần cho sự sống con người cũng như tất cả những sinh vật trên Trái đất. Thực tế đã chứng minh điều đó. Tại một lâm trường nọ, sau khi trồng một trăm mẫu rừng tràm, tự nhiên đất xung quanh biến thành ruộng nước. Người dân ở đó đều trồng lúa. Sau một thời gian, người ta phải khai thác gỗ, cây xanh bị cưa sạch, xung quanh lại biến thành đất cằn cỗi, khô khan. Như vậy, rừng cây có tác dụng kéo nước lên sát bề mặt làm cho con người và muôn loài có được sự sống. 

Tác dụng thứ hai là rừng cung cấp Oxy cho con người, góp phần thanh lọc không khí. Nếu cứ chặt phá rừng một cách bừa bãi, Oxy sẽ không còn nữa, ngày tận thế sẽ đến với con người và muôn loài trên trái đất. Chúng ta yêu thương loài người, yêu quý sự sống trên trái đất này thì phải cứu rừng, tạo lại rừng cây xanh để giữ gìn sự sống cho muôn loài. Đó là công đức rất lớn. Mặc dù chúng ta cũng làm nhiều công đức như cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lụt lội nơi này nơi khác nhưng hiện nay, việc cực kỳ quan trọng là phải tạo lại rừng để cứu thế giới. Thực ra, thiên tai xảy ra là do lỗi lầm của con người. Chúng ta có thể giúp họ khắc phục phần nào khó khăn do thiên tai gây ra nhưng không bao giờ giúp họ thoát được nỗi khổ khi họ vẫn tiếp tục sống sai lầm. Chỉ có cách giúp mọi người sống có Đạo đức, cho họ niềm tin vào Nhân Quả đồng thời kêu gọi trồng lại rừng…, chúng ta mới có thể giúp họ thoát khỏi những nỗi khổ đó.

Ngoài việc tạo lại môi trường sống, giữ nước trên bề mặt, rừng còn có tác dụng tạo lại sự tương tác tâm linh cho thế giới. Hiện nay, tâm hồn con người dần dần khô cằn đi vì rừng cây ngày càng bị giảm bớt. Vì vậy, chúng ta phải tạo lại rừng cây để nâng cao tâm hồn con người. Nếu có nhiều rừng cây xanh, đời sống tâm hồn con người sẽ thay đổi, sẽ tốt hơn rất nhiều.

Hiện nay, chùa chiền được xây dựng khá nhiều nên chúng ta không cần cất thêm những ngôi chùa to nữa. Việc quan trọng bây giờ là phải trồng thật nhiều rừng vì thế giới đang cần rừng. Nhiều người không khuyến khích thầy tu cất chùa mà khuyên nên trồng rừng. Lời khuyên nghe hơi lạ nhưng rất có lý. Vì trồng rừng là một công đức lớn, trồng rừng quan trọng hơn cất chùa. Chỉ những nơi có học viện, tập trung Tăng Ni đông, chùa cần phải xây rộng rãi để tiện cho việc học hành, sinh hoạt của Tăng Ni. Còn các chùa bình thường cũng thi nhau cất cho to, cho đẹp là dấu hiệu cho thấy Phật pháp suy tàn. 

Thời gian vừa qua, nhiều người đã nghiên cứu về các đạo giáo rất công phu và thắc mắc không hiểu vì sao đạo Phật đời Lý, Trần rất hưng thịnh nhưng sau đó suy tàn cho đến thời Pháp thuộc. Trong khi đó, có những đạo giáo ở miền Tây chỉ trong vài năm đã thu hút hàng triệu tín đồ. Cuối cùng, người ta tìm ra nguyên nhân là do việc cất chùa. Vào đời Trần, các vua (như vua Trần Anh Tông) rất thích cất chùa. Họ nghĩ rằng mình được làm vua là do đời trước cất nhiều chùa nên có công đức lớn. Năm đó, trong nước bị hạn hán, mất mùa nhưng nhà vua vẫn cho người vào rừng đốn gỗ tiếp tục cất những ngôi chùa lớn. Những ông quan xuất thân từ nhà Nho cho rằng lý luận và việc làm của những ông vua như vậy là không đúng đạo lý nên đã chống đối kịch liệt. Với họ, việc cấp thiết trước mắt là phải lo cho dân vì dân đang đói khổ. Bởi vậy, lúc bấy giờ đã phát sinh một phong trào gọi là “nhà Nho chống đạo Phật” mặc dù người theo đạo Phật là những vị vua đứng đầu thiên hạ. Cũng chính từ đó, tinh thần đạo Phật sa sút dần cho đến thời Pháp thuộc. Sau này, đạo Phật được chấn hưng trở lại nhờ một số vị cao Tăng. Nhưng thực chất, vì hoàn cảnh cấp bách, các vị cũng chỉ lo đi học để nâng cao kiến thức, lo cất chùa, lo tổ chức Giáo hội chứ chưa thật sự đi sâu vào sự tu .

Thực ra, đạo Phật nằm ở trong tâm con người chứ không nằm ở hình thức. Đạo Phật chỉ tồn tại khi con người biết sống vị tha, thương yêu lo lắng cho nhau chứ không tồn tại nhờ những ngôi chùa to mà bên trong Tăng Ni không hòa hợp. Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng xây những ngôi chùa to là có nhiều công đức. Trồng rừng mới là việc làm đem lại nhiều công đức lớn cho thế giới. Tất cả đệ tử Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều phải phát nguyện trồng thật nhiều rừng. 

Sống trên cuộc đời này, tất cả chúng ta đều mắêc nợ rừng. Từ cái ghế ta ngồi, cái bàn ta viết, nhà cửa ta ở đến những công trình … , tất cả đều làm bằng gỗ lấy từ rừng cây xanh. Vì vậy, chúng ta phải biết ơn rừng và phải trồng lại rừng cây. Mặt khác, chúng ta phải biết hạn chế sử dụng gỗ. Nếu nơi nào kêu gọi ủng hộ việc xây dựng chùa, chúng ta phải xem điều đó có thật sự cần thiết hay không. Nếu cất chùa với mục đích thi đua, chạy theo hình thức, xa rời tư tưởng của đạo Phật thì chúng ta không cần ủng hộ. Chúng ta chỉ nên ủng hộ việc trồng rừng. Hiểu được lợi ích của rừng, có Thầy luôn dặn dò đệ tử của mình ghi nhớ hai điều: Điều thứ nhất là không được cất chùa to. Điều thứ hai là khi Thầy qua đời, đệ tử không được mua hòm, chỉ cần quấn một manh chiếu đơn giản rồi đem chôn để đỡ tốn kém. Cái tâm ấy thật đáng trân trọng. Sau này, khi đi làm Phật sự, nếu có nhiều Phật tử cúng dường tiền bạc, chúng ta không cần phải xây thêm chùa mà nên tạo lại rừng cây. Công đức này lớn hơn việc cất những ngôi chùa to. Vì trồng rừng là giữ lại sự sống cho thế giới. Điều này cũng có ý nghĩa như bố thí thuốc men, tiền bạc, cơm gạo; cũng như thả phóng sinh chim, cá… 

Có thể những Kinh điển, những Kinh sách của đạo Phật từ trước tới nay không nói đến điều này vì lúc bấy giờ, việc phá rừng chưa nghiêm trọng.  Nhưng ngày hôm nay, việc phá rừng đã diễn ra tràn lan đến mức báo động thì việc trồng rừng, bảo vệ rừng là điều hết sức quan trọng. Chúng ta phải có thái độ đối với việc phá rừng, phải thấy đó là tội ác chống nhân loại. Rất tiếc, hiện nay nhiều người chưa ý thức đúng mức điều đó. Ngay đến những nhà lãnh đạo (Việt Nam cũng như thế giới ) cũng chưa thấy được mức độ nguy hiểm của việc phá rừng nên chưa triệt để trừng trị những kẻ phá rừng. Chừng nào những vị lãnh đạo của các nước trên thế giới hiểu được phá rừng là tội ác chống nhân loại, chừng đó họ mới có ý thức mạnh mẽ hơn trong việc bảo vệ rừng. Hiện nay, họ chỉ thấy tội ác chống nhân loại ở việc cầm súng bắn giết con người. Họ không ngờ những người cầm cưa máy vào rừng cũng là những người chống nhân loại. Vì thế,  rừng sẽ còn tiếp tục bị tàn phá và sự sống của con người còn tiếp tục bị đe dọa. 

6. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI THIÊN TAI 

Ngày nay, thiên tai thường xuyên xảy ra đe dọa cuộc sống của con người trên khắp thế giới. Nguyên nhân chính là do thái độ sống của con người. Chúng ta đã có những sai lầm, ích kỷ, sống ngược với thiên nhiên, phản thiên nhiên. Vì vậy, thiên nhiên đã “trả thù” chúng ta. Đó là phản ứng tất nhiên, là quả báo mà chúng ta phải chịu. Điều quan trọng là con người phải tự thấy nghiệp quả của chính mình và bắt đầu bằng việc sửa chữa lối sống sai lầm cũ. 

Nếu chỉ một vài người có ý thức sửa chữa, điều chỉnh thái độ sống thì không đủ thay đổi tình hình thế giới bây giờ. Chúng ta phải giúp nhiều người cùng hiểu. Nghĩa là nếu chúng ta biết luật Nhân Quả thì phải làm sao tất cả những người khác cũng biết. Nếu chúng ta biết sống đời vị tha, biết yêu quý thiên nhiên thì phải làm cho những người khác cũng biết sống như mình. Khi thế giới có nhiều người sống đúng, nhiều người tin Nhân Quả, nghiệp báo, sống vị tha yêu quý thiên nhiên, Trái đất này sẽ dần dần bớt đi thiên tai. Bởi vậy, việc giáo dục làm lan truyền Phật pháp là một điều rất quan trọng, còn việc đem tiền bạc cứu trợ những vùng bị thiên tai, lũ lụt chỉ là tạm thời, có tính chất an ủi. Trách nhiệm của Tăng Ni hiện nay là phải giáo dục Phật tử sống cho phù hợp với thiên nhiên và Đạo đức để bảo vệ thế giới. Vì chúng ta là những người đã nhận được thông điệp yêu quý thiên nhiên, yêu quý rừng cây của đức Phật. 

Chúng ta phải góp sức bảo vệ Trái đất yêu quí này. Người ta cho rằng, ngày xưa, những con khủng long đã tàn phá môi trường rất khủng khiếp. Chúng vốn to lớn, ăn lá cây, tàn phá rừng cây. Có những con khủng long còn ăn thịt đồng loại của mình. Vì thế, loài khủng long phải chịu quả báo, tất cả đã bị diệt chủng. Có thể nói, ngày nay, loài người chúng ta cũng đang lặp lại việc làm của những con khủng long. Nghĩa  là cưa sạch rừng cây, bắt sạch cá dưới biển, bắt sạch thú trong rừng và chuẩn bị đón nhận ngày tận thế. Là con người, chúng ta không được ngu si nhắm mắt đi theo con đường của loài khủng long. Chúng ta hãy làm việc của một con người thông minh có ý thức, có trách nhiệm đối với thế giới.

Hãy yêu quý thiên nhiên, cứu lấy thiên nhiên, bảo vệ rừng cây! Đó là lời kêu gọi khẩn thiết nhất mà chúng ta tha thiết gửi đến tất cả mọi người.

1. KHÔNG AI CÓ ĐẠO ĐỨC MÀ LƯỜI BIẾNG.  

Hai chữ Tận tuỵ gợi cho chúng ta hình ảnh cặm cụi, chịu khó, siêng năng. Nhưng khác với tinh tấn tu dưỡng nội tâm, khác với phấn đấu cho sự nghiệp riêng mình, Tận tụy hàm ý rất rõ là siêng năng vì mọi người. 

Ví dụ, sự nỗ lực học tập của chúng ta hoặc sự cần cù chịu khó cày sâu cuốc bẫm, dầm mưa dãi nắng của người nông dân cũng gọi là siêng năng tinh tấn. Nhưng trước hết, đó là sự siêng năng vì bản thân, vì gia đình mình. Những tinh tấn siêng năng đó chưa được gọi là tận tụy. Tận tụy là sự chịu khó, siêng năng có ý nghĩa vì người khác chứ không vì bản thân mình. Như vậy, sự tận tụy cũng có ý nghĩa gần với cuộc sống vị tha. Tuy nhiên, giữa hai khái niệm này vẫn có những điểm khác biệt. Khác với vị tha, tận tụy gợi cho chúng ta hình ảnh một người cặm cụi, hết lòng làm lợi cho người khác trong sự thầm kín, lặng lẽ. 

Tận tụy có tính chất Đạo đức. Điều này đã quá rõ ràng, chúng ta không cần phải chứng minh mà chỉ khẳng định một điều: không ai có Đạo đức mà lười biếng, chỉ thích ở không, thích hưởng nhàn. Những người thích ở không, thích hưởng nhàn chắc chắn là người kém Đạo đức. 

Trong cuộc sống, nhiều công việc cần thiết cho các nhu cầu căn bản của chúng ta luôn luôn xuất hiện như nấu ăn, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa… Chỉ riêng bản thân mỗi người đã có rất nhiều công việc đòi hỏi phải làm. Khi nhiều người sống chung với nhau, nhu cầu lại phát sinh thêm và trở thành nhu cầu chung. Ví dụ, khi nấu ăn, chúng ta không phải chỉ nấu cho mình; khi dọn dẹp nhà cửa, chúng ta cũng ý thức đó không phải là nhà của riêng mình mà là ngôi nhà chung. Nghĩa là những công việc liên quan đến nhu cầu của chúng ta tự nó bày ra, tự nó xuất hiện rất nhiều, và khi sống chung với mọi người, nhu cầu của mình cũng là nhu cầu chung của mọi người. Nếu không làm là chúng ta đã dành công việc đó cho người khác. Như vậy, có thể khẳng định người làm biếng là người không có Đạo đức. Thậm chí có người còn cho rằng: “người làm biếng là người ác”. Nói như vậy cũng hơi quá nhưng không phải là không đúng. Khi đã sống chung trong một môi trường có nhiều nhu cầu phải làm chung với nhau, nếu lười biếng bỏ mặc công việc cũng có nghĩa là chúng ta bắt người khác phải làm. Điều này cũng đồng nghĩa với sự ích kỷ. Người có Đạo đức không bao giờ chấp nhận lối sống đó. Họ sẽ hăng hái, sốt sắng làm thay cho người khác. Đó là lối sống vị tha, sống vì người khác. 

Khi Đạo đức tăng trưởng, nhiều công việc khác sẽ phát sinh để chúng ta giúp đỡ mọi người. Những công việc đó hoàn toàn không liên quan gì đến chúng ta. Ví dụ, ra ngoài, thấy con đường hư hỏng, chúng ta rủ mọi người cùng nhau sửa lại mặc dù mình chẳng đi lại trên con đường đó. Hoặc thấy nhà hàng xóm bị dột nhưng neo người không ai sửa, chúng ta đi xin ván, xin lá lợp lại cho họ... Sống trên đời là vậy, chúng ta phải biết chịu đựng cực khổ. Đừng bao giờ nghĩ rằng bước vào con đường tu hành là chúng ta đi tìm sự nhàn nhã, thảnh thơi. Hạnh phúc chỉ đến khi chúng ta đem lại được niềm vui, niềm hạnh phúc cho người khác, làm được điều lợi cho người khác. Hạnh phúc không phải là sự hưởng thụ. Nhạc sĩ Thế Hiển đã sáng tác một bài hát rất hay, rất có ý nghĩa: Chuyện đời nay đời xưa. Bài hát mở đầu bằng câu chuyện đời xưa, chuyện một nàng Công chúa, sống trong giàu sang nhung lụa nhưng tâm hồn vấn vương bao nỗi buồn vì nàng Công chúa ấy cần hạnh phúc. Sự giàu sang sung sướng trong hoàng cung không đem lại cho nàng hạnh phúc đích thực. Ngay cả khi được Hoàng tử cầu hôn với muôn ngàn châu báu nhưng nàng vẫn không màng đến, trái tim ấy luôn buồn rầu, khắc khoải một niềm hạnh phúc. Bài hát được tiếp tục với câu chuyện đời nay, chuyện những chàng trai, những cô gái trẻ đi vào chốn rừng hoang xây dựng cuộc sống, mà bài nhạc tập trung cho công trình thủy điện Trị An. Họ sống với núi xanh cây rừng trong niềm vui bất tận, trên môi luôn nở nụ cười tươi. Kết thúc bài hát là lời khẳng định: Cuộc đời là hạnh phúc không ai sống riêng ai, cuộc đời là hạnh phúc, phải sống vì mọi người. Thật vậy, con người chỉ cảm nhận được hạnh phúc đích thực khi biết sống vì mọi người. 

Hạnh phúc thế gian có nhiều loại. Có những hạnh phúc tạm bợ do cuộc sống hưởng thụ ích kỷ đem lại. Thấy người khác mặc bộ quần áo đẹp, chúng ta cũng may một bộ như thế. Đạt được điều đó, trong lòng chúng ta cũng cảm thấy thích thú, hạnh phúc. Nhưng thứ hạnh phúc đó không bền, chỉ làm tăng trưởng sự ích kỷ, rồi đau khổ sẽ đến sau đó. Hạnh phúc thế gian là như vậy. Sự hạnh phúc do thỏa mãn nhu cầu được hưởng thụ chỉ là tạm bợ, ngắn ngủi, một lúc nào đó sẽ làm chúng ta chán chường. Tác giả bài hát cũng cho chúng ta thấy được hạnh phúc không phải là sự hưởng thụ, hạnh phúc không ngự trị ở những nơi có đời sống vật chất dư thừa. Hạnh phúc chỉ đến với những người biết yêu lao động, biết sống vì người khác, đem lại lợi ích cho người khác. 

Chính vì vậy, khi xuất gia, chúng ta không đi tìm cuộc sống nhàn rỗi mà lại tìm một cuộc sống cực khổ. Nghĩa là khi xin phép gia đình vào chùa tu hành, chúng ta phải có tâm nguyện là từ bỏ quá khứ nhàn rỗi và hiểu rằng, con đường trước mắt chúng ta nhiều chông gai, gian khổ hơn lúc còn ở thế gian. Hiểu được điều đó, chúng ta phải hy sinh nhiều hơn, chịu cực khổ nhiều hơn và không bao giờ chấp nhận hưởng thụ bất cứ hạnh phúc nào. 

Những người có đạo đức tăng trưởng, ngoài việc siêng năng giải quyết nhu cầu chung của mình với mọi người còn nghĩ ra việc để làm lợi cho người khác. Những người có tâm và có duyên còn tổ chức được những công việc thiện nguyện lớn lao hơn như : cứu trợ, vệ sinh đường phố, chăm sóc người già, trồng cây ven đường, đắp sửa đường sá, giáo dục trẻ em đường phố vv…

Vì sao muốn làm việc từ thiện, ngoài cái tâm chúng ta còn phải có duyên? Vì nếu tâm thúc đẩy chúng ta làm việc thiện nhưng không có duyên, không có điều kiện, chúng ta rất khó thực hiện được. Ví dụ, chúng ta có tâm muốn cứu giúp tất cả các trẻ em tàn tật trên thế giới, muốn đem lại cho các em niềm vui để bù đắp những thiệt thòi mà các em phải chịu đựng, nhưng làm sao có đủ điều kiện ra khỏi đất nước để thực hiện điều đó? Chúng ta chỉ làm được khi có đủ duyên. Vì vậy, người ta thường phát tâm để kiếp sau thực hiện. Hoặc thấy người già yếu, chúng ta muốn nâng đỡ, muốn giúp họ sống những ngày tháng cuối đời được thanh thản nhưng điều ấy cũng không dễ dàng làm được. Hoặc khi có một địa phương nào đó bị thiên tai, lũ lụt, chúng ta muốn kêu gọi nhiều người góp phẩm vật để tổ chức một chuyến cứu trợ cũng phải có duyên mới làm được. Tuy nhiên, chúng ta cứ nuôi dưỡng tâm thiện, khi duyên đến tự nhiên, thuận tiện, chúng ta sẽ làm được những điều mình mong muốn. Đó là Nhân- Quả. Ý nghĩ của chúng ta là Nhân, hành động sẽ là Quả. Muốn làm điều gì tốt đẹp, trước hết chúng ta phải nuôi dưỡng trong tâm mình những ý tưởng, những  nhân lành. Thực ra, những người làm được việc thiện không phải họ mới nảy sinh ý nghĩ gần đây mà đã nghĩ từ những kiếp trước. 

Những người già không làm được những việc thiện lớn, chiều chiều đi quét rác, nhặt rác trên đường cũng là một việc thiện. Việc làm này không có nghĩa là làm thay cho những công nhân vệ sinh mà mang ý nghĩa giáo dục. Nhiều người không có ý thức thường vứt rác bừa bãi ngoài đường vì nghĩ rằng đã có người ăn lương của nhà nước để chuyên làm việc quét dọn. Nếu không phải là công nhân vệ sinh mà chúng ta vẫn chịu khó quét rác, nhặt rác ngoài đường sẽ khiến nhiều người ngạc nhiên. Dần dần họ sẽ hiểu chúng ta làm như vậy là vì vẻ đẹp của đường phố và không vứt rác ra đường nữa. Ý nghĩa giáo dục của việc làm ấy rất lớn. 

Chăm sóc người già cũng là một việc thiện lớn. Trong thời đại mới, người già thường cô độc vì ít con cháu do sinh đẻ có kế hoạch. Con cái lại bận đi học, đi làm ăn xa, ít có dịp chăm sóc. Thấy vậy, năm bảy người có thể tập hợp lại với nhau đến thăm hỏi, chuyện trò, giặt quần áo, nấu cơm… giúp họ. Chúng ta cũng có thể mời y tá đến chăm sóc sức khoẻ cho những người già yếu. Những việc làm ấy góp phần an ủi những người già trong buổi xế chiều. Khi họ đã quý mến mình, chúng ta có thể khuyên họ tu hành, niệm Phật để đời sống được thanh thản. Như vậy gọi là việc thiện đi trước, việc đạo theo sau. 

Hoặc trồng cây xanh ven đường cũng là việc thiện có ý nghĩa. Trong bài Yêu thiên nhiên, chúng ta đã hiểu được vai trò của cây xanh đối với đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta phải tích cực trồng cây. Những đoạn đường nào chưa có cây xanh, chúng ta có thể mang cây đến trồng vừa tạo bóng mát, vừa giúp điều hòa không khí. 

Hiện nay, tình trạng trẻ em sống lang thang, cơ nhỡ đang trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Phần lớn các em không nhận được sự quan tâm, giáo dục của gia đình ngay từ nhỏ nên hư hỏng. Các em có thể làm bất cứ việc gì để sống: khi cướp giật, khi ăn xin… để rồi trở thành tội phạm. Chúng ta có thể tìm cách gần gũi, khuyên lơn, giáo dục các em trở thành người tốt. Đây cũng là một việc thiện mà phải có duyên chúng ta mới có thể làm được. Vì công việc này không đơn giản, nhiều khi còn rất nguy hiểm. Muốn giáo dục đạo đức cho những đối tượng ấy, chúng ta phải tập hợp nhiều người, phải có sức khỏe, có lòng kiên nhẫn. 

Những việc thiện ấy làm cho chúng ta bận rộn hơn, nhọc nhằn hơn nhưng chúng ta vẫn cố gắng làm để giúp đỡ người khác. Sự chấp nhận cực khổ đó gọi là tận tụy, hy sinh, vị tha. 

2. TĂNG SĨ SỐNG NHÀN RỖI, PHẬT PHÁP SẼ SUY TÀN. 

Nếu là đệ tử Phật, chúng ta không được sống nhàn rỗi. Vì sống nhàn rỗi, dựa vào người khác là biểu hiện của người không có Đạo đức. Đó là người ác, người tàn nhẫn. Không ít người cho rằng sống ngoài đời quá khổ nên tìm đến cuộc sống tu hành để được nhàn rỗi. Đó là quan niệm sai lầm. Chúng ta phải xác định, đi tu là khép lại cuộc đời nhàn rỗi ở thế gian để dấn thân vào con đường gian khổ, hy sinh, phụng sự … nhiều hơn trước. 

Tăng sĩ là biểu tượng của Đạo đức nên không được quyền sống một cách nhàn rỗi. Tăng sĩ sống nhàn rỗi là Phật pháp suy tàn. Đối với Phật pháp, đối với chúng sinh, chúng ta còn bao nhiêu việc chưa làm được. Mỗi người phải cố gắng thực hiện. Ví dụ, hiện nay, Phật pháp còn tình trạng phân chia thành nhiều hệ phái, nhiều tông phái. Như chúng ta biết, chân lý chỉ có một, có thể ví như đầu chấm bút chì, chỉ cần nhích một chút là sẽ lệch ngay. Chính vì mỗi người có cái nhìn chưa đúng nên chúng ta không đến được chân lý chung. Vì vậy, điều chúng ta cần đi tìm là chân lý chung để sự khác biệt trong Phật pháp không còn nữa, tất cả đều thống nhất với nhau, hòa hợp với nhau. Khi đã tìm ra chân lý chung, chúng ta mới có đủ sức mạnh thuyết phục người khác. Chẳng hạn, khi chúng ta đưa chân lý này đến Nam tông, người Nam tông từ bỏ bớt kiến chấp của mình để phát triển. Khi chúng ta đưa chân lý chung này đến với Bắc tông, người Bắc tông sẽ từ bỏ những gì khiến họ bị rơi vào ngoại đạo, lui trở về trong chánh pháp. Chúng ta đến với Khất sĩ, đến với Phật giáo Hòa Hảo, đến với Cao Đài… sẽ làm cho tất cả trở nên sáng tỏ. Người ta sẽ từ bỏ những sai biệt cố hữu của mình để có thể nắm tay nhau trong tình hòa hợp. Tìm ra chân lý chung ấy là việc quan trọng, gian khổ mà chúng ta cần phải làm. 

Đó là trong phạm vi một tôn giáo. Hiện nay, trên thế giới còn tồn tại bao nhiêu tôn giáo, bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu thành kiến, bao nhiêu triết thuyết… đầy rẫy sự khác biệt. Chúng ta phải làm thế nào để một ngày nào đó trên trái đất này, cả nhân loại chỉ còn một chân lý chung. Tư tưởng ấy thật quá lớn, không phải ai cũng có thể nhìn thấy được. Chỉ những người có trí tuệ mới nhìn thấy những việc cần phải làm cho thế giới này, cho nhân loại này. Những cái cần làm đó gọi là chí nguyện. Như vậy, khi có trí tuệ, chúng ta sẽ có chí nguyện, sẽ biết mình phải làm thêm điều gì cho con người, cho Phật pháp mai sau. Người không có trí tuệ, học bao nhiêu, nghe giảng bao nhiêu chỉ biết bấy nhiêu, không nghĩ thêm được điều gì. Đó là những người khó có chí nguyện lớn. 

Là Tăng sĩ, chúng ta cố gắng tu học, vì còn quá nhiều điều chưa hoàn hảo, còn quá nhiều điều phải làm cho chúng sinh, cho thế giới này. Con người còn phân hóa, còn thù hận, còn ganh ghét nhau bởi những sự khác biệt. Chân lý vẫn còn ẩn khuất đâu đây và con người chưa được thuyết phục để có thể nắm tay nhau, thương yêu nhau. Thấy được điều này, chúng ta phát tâm nguyện đi tìm chân lý ấy. Sự quyết tâm ấy gọi là chí. Chính cái chí này làm cho chúng ta có Trí tuệ. Nghĩa là khi nuôi nấng một hoài bão nào đó, hoài bão sẽ tạo thành nhân quả, thành phước khiến chúng ta tập trung tu hành và nhìn thấy được nhiều vấn đề. Như vậy, chí nguyện cũng làm mở mang trí tuệ. 

Vừa qua, ở Mỹ xảy ra nạn những đứa học trò cầm súng bắn xả vào bạn học. Chúng bắn giết không vì động cơ ích kỷ hay trả thù, cũng không muốn cướp tài sản của ai, chỉ thích bắn giết cho vui rồi lại kê súng bắn vào đầu mình. Những kiểu văn hóa như vậy thực chất là một sự đổ vỡ lớn. Văn hóa của Tây phương, cái gọi là tự do của Tây phương không phải là chỗ dựa cho nhân loại vì dần dần nó đã tạo nên những “con bệnh” nguy hiểm. Nó tiêu diệt lại chính nhân loại, làm hủy diệt nhân cách và gây tai họa cho cộng đồng. 

Thế giới còn nhiều điều suy đồi, còn nhiều việc chưa tốt như thế, chúng ta không được phép chỉ nghe cho biết, nghe cho vui mà phải tự hỏi mình sẽ làm được điều gì cho con người. Chính những băn khoăn đó làm cho chúng ta có chí nguyện. Từ nay, chúng ta luôn ý thức rằng mình không được sống cuộc đời nhàn rỗi. Tăng sĩ sống nhàn rỗi là có lỗi lớn với chúng sinh. Ngoài những chí nguyện, những đạo đức, chúng ta còn phải cố gắng tu tập. Thời gian tu tập là giai đoạn quan trọng chuẩn bị cho chúng ta một bản lĩnh, một đạo lực để làm được những việc lớn lao mà mình hằng mong ước. Người không có bản lĩnh khó làm nên việc lớn. Với chúng ta, bản lĩnh ấy có được nhờ sự tu tập chuyên cần trong suốt một thời gian dài. 

Theo dòng lịch sử, chúng ta thấy cả một thời gian dài từ cuối đời Trần cho đến thời Pháp thuộc, Phật giáo Việt Nam trở nên thụ động, kém sinh khí và suy yếu. Dĩ nhiên, có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng đó nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là do Tăng sĩ thích nhàn rỗi, thích đánh cờ tướng, tiêu dao, dạo chơi, chăm sóc cây cảnh non bộ, đối đáp thơ ca vv… Ngày trước, khi phương tiện đi lại còn khó khăn nhưng nghe ở đâu có cảnh đẹp, quý Thầy cũng vác tay nải đi bộ đến đó chơi, thăm Thầy, thăm huynh đệ. Việc ấy rất mất thời gian của người tu. Nghĩ sâu xa hơn, tu sĩ sống đời nhàn nhã, thích tiêu dao:“nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du”, cứ ôm bình bát đi chơi như vậy là thiếu trách nhiệm với cuộc đời, với Phật pháp. 

Hiện nay, ở một số chùa, các Tăng sĩ thỉnh thoảng cũng tổ chức đi chơi, đi hành hương nơi này nơi khác. Điều này hoàn toàn không nên. Chúng ta chỉ đi khi có việc cần thiết cho chùa, cho Giáo hội, còn những cuộc đi chơi vô bổ phải hạn chế. Làm bất cứ việc  gì, trước hết chúng ta phải nghĩ đến lợi ích chung, đừng bao giờ thỏa mãn sự ham thích của mình. Mặc dù vẫn biết đi du lịch là một nhu cầu thật sự của con người nhưng chúng ta đừng phí thời gian và tiền bạc vào việc đó. 

Đối đáp thơ ca cũng vậy. Trong chúng ta, có nhiều người rất thích làm thơ và làm thơ rất hay. Tất nhiên, đó cũng chỉ là những bài thơ nói về đạo, ca ngợi thiên nhiên, non nước… nhưng việc làm ấy vừa không thiết thực vừa rất mất thời gian. Chúng ta chỉ làm thơ khi nào có nhu cầu phục vụ cho mục đích chung hoặc chỉ viết những bài tụng bằng thơ để Phật tử dễ nhớ, dễ tụng. Nghĩa là làm việc gì, chúng ta cũng phải nghĩ đến lợi ích của người khác, đừng bao giờ nghĩ làm để giải trí cho vui. 

Nói đến việc quý thời gian, sống vì người khác, chúng ta vẫn quý câu chuyện về ngài Dương Kỳ. Chúng ta biết, Tông Lâm Tế truyền đến ngài Từ Minh thì tách ra làm hai nhánh. Ngài Từ Minh truyền được hai đệ tử xuất sắc là ngài Hoàng Long Huệ Nam và ngài Dương Kỳ Phương Hội. Nhưng ngài Dương Kỳ là sự truyền thừa chính, còn ngài Hoàng Long là nhánh rẽ mặc dù sự chứng đắc của hai vị bằng nhau. Đọc câu chuyện, chúng ta mới hiểu vì sao ngài Từ Minh truyền cho ngài Dương Kỳ. 

Ngài Dương Kỳ đắc đạo nổi tiếng nhưng nơi ở cực kỳ đơn sơ, mái lá dột nát đến nổi mùa đông tuyết bay vào phủ đầy giường, Ngài phải chịu lạnh lẽo. Cảm thán trước cảnh này, Ngài đã làm một bài thơ:

Dương Kỳ xạ trú ốc bích sơ

Mãn sàng tận tản tuyết trân châu

Xúc khước hạgn ám ta hu

Phiên  ức cổ nhân thọ hạ cư.

Dịch nghĩa: Dương Kỳ ở tạm mái nhà tranh đơn sơ. Tuyết phủ đầy giường lấp lánh như ngọc châu. Co gối gục đầu thầm than thở. Nhung nhớ người xưa dưới cội cây. ( Người xưa  ở cội cây là Đức Phật). Một cư sĩ thấy vậy đến xin cất lại ngôi thất đang dột nát cho Ngài, Ngài hỏi: 

- Ông đã ngộ đạo chưa? 

Cư sĩ trả lời: 

- Dạ thưa Hòa Thượng, chưa. 

- Chưa thì đâu có thời giờ cất thất cho ta. 

Một vị Hòa Thượng nổi danh, phước lớn vô kể mà không chịu cất lại nơi ở của mình cho đàng hoàng vì quý thì giờ tu tập của người khác mặc dù người đó chỉ là cư sĩ (chưa phải là tu sĩ). Ngài quý sự tu hành của người khác như vậy. Đó là tâm hy sinh, là thái độ tận tụy vì người rất đáng trân trọng. 

Người xưa sống như vậy đó. Họ rất quý thời gian tu hành. Họ không sống vì mình mà lúc nào cũng muốn làm việc gì đó cho người khác. Không những bản thân mình không phí thời gian, họ cũng không cho phép người khác phí thời gian mà muốn cho mọi người xung quanh mình thiết tha tinh tấn tu hành để được ngộ đạo, để được giải thoát. 

Trong Thánh kinh của Do Thái giáo (kinh Cựu ước) có một ngày nghỉ gọi là ngày sabbath. Theo truyền thuyết của Thánh kinh, lúc đó Đức Chúa Trời tạo dựng ra thế giới loài người trong sáu ngày, nghĩa là từ lúc tạo nên trời đất cho đến khi hoàn chỉnh ông Adam và bà Eva là sáu ngày, ngày thứ bảy là ngày nghỉ. Ngày đó, người Do Thái gọi là ngày sabbath, ngày nghỉ của Chúa. Theo ý nghĩa thiêng liêng đó, mọi người theo Do Thái giáo đều phải nghỉ ngày sabbath, ngày thứ bảy trong tuần. Bây giờ, người Do Thái vẫn tranh thủ nghỉ ngày thứ bảy, không ai được đi làm trong ngày này. Chúa Jésus hôm đó bận chữa bệnh cho người khác, những người theo đạo Do Thái đến làm khó dễ Ngài. Ngài nói :“ Cha của ta là Thiên Chúa trên trời không bao giờ nghỉ ngơi, cho nên ta cũng không bao giờ được nghỉ ngơi”. 

Chúng ta không đủ đạo nhãn để nhìn suốt ba ngàn thế giới, nhìn suốt các tầng trời để xem Thiên Chúa có ý nghĩa gì mà không bao giờ được nghỉ ngơi. Chúng ta chỉ hiểu rằng, Thiên Chúa mà Chúa Jésus nói cũng như những vị Thiên Tử giáo hóa cho các Bồ Tát và không chỉ giáo hóa ở cõi trời Đẩu Xuất mà Ngài còn hóa hiện trong vô lượng cõi nước khác để làm lợi ích cho chúng sinh. Những hóa thân như vậy đúng là không bao giờ được nghỉ ngơi. Còn Vua cõi trời như Trời Đế Thích hay Trời Phạm Thiên cũng không bao giờ nghỉ ngơi. Thần lực và lòng từ bi của các Ngài phủ trùm chúng sinh, lúc nào cũng lo toan bận rộn, sắp xếp công việc. Điều này hoàn toàn không giống như hình ảnh mà Tề Thiên Đại Thánh đã nói : “Ông trời  ngồi nhìn các tiên nữ múa hát”. Các Ngài đều là những Bồ Tát luôn luôn siêng năng, luôn luôn bận rộn và giàu lòng tận tụy. Chúng ta chưa đủ đạo nhãn để biết được công hạnh của một đại Bồ Tát vĩ đại như thế nào, liên tục như thế nào, chỉ tạm hiểu câu nói của Chúa Jésus như vậy. Nhưng rõ ràng, Ngài đã phá cái chấp của người Do Thái giáo, không chấp nhận ngày sabbath họ đặt ra. Vì người có Đạo đức là người tận tụy, không bao giờ nghỉ ngơi. Chúa Jésus cũng là người như vậy. 

3. TU NGHĨA LÀ LÀM VIỆC, LÀM VIỆC NGHĨA LÀ TU. 

Tại sao lại nói tu nghĩa là làm việc, làm việc nghĩa là tu ? 

Chúng ta biết rằng, làm việc là hành động tượng trưng cho những gì nhọc nhằn cực khổ. Tu là việc của nội tâm. Đó cũng là những công việc nhọc nhằn như tọa thiền, quán từ bi, niệm Phật, tìm lỗi trong tâm…Nhìn bên ngoài, chúng ta thấy có vẻ nhàn rỗi nhưng bên trong lại rất vất vả, khác với cái nhàn rỗi của người không biết tu. Chẳng hạn, những người tu ngồi thiền bất động tưởng như không làm gì nhưng sự thật họ rất cực khổ. Ai đã từng ngồi thiền sẽ hiểu được nỗi vất vả, cực khổ ấy. Từng giờ, từng phút người tu phải vất vả chiến đấu với vọng tưởng, lúc tâm vào được định, khi tâm lại bị loạn. 

Hoặc khi tu tập quán Từ bi, người tu không những quán trải lòng thương yêu tất cả chúng sinh khi ngồi thiền mà trong đời sống cũng quán như vậy. Những điều đó chỉ diễn ra âm thầm trong tâm, không ai nhìn thấy nhưng rất cao cả, rất vất vả. Sự cực khổ, nhọc nhằn đó chúng ta cũng gọi là làm việc. Hoặc một người niệm Phật, từng giờ từng phút đều giữ câu niệm Phật trong tâm mình cho vững với một lòng tôn kính. Những điều đó cũng rất vất vả. Chỉ có những người đã từng tu tập cực khổ vất vả mới biết kính trọng người tu. Những người chưa tu thường nhìn người tu với ánh mắt khinh thường vì nghĩ rằng họ không làm việc gì cả, suốt ngày chỉ tụng kinh gõ mõ chờ Phật tử đến cúng dường. 

Tương tự như vậy, chiến đấu với lầm lỗi của bản thân mình cũng là việc rất ghê gớm. Như đã biết, mỗi người chúng ta ai cũng mang đầy lầm lỗi và vượt qua những lầm lỗi ấy trong cuộc đời không phải là điều đơn giản. Vậy mà những người tu phải từng bước đi sâu vào tâm linh, tìm cách vượt qua những lỗi lầm của chính mình. Vì vậy, chúng ta phải biết kính trọng người tu. Sự vất vả tu tập đó của người tu chúng ta gọi là làm việc. 

Người tu không được lãng phí thời gian. Chính những giây phút chiến đấu trong tâm là sự chuẩn bị cho những bài pháp tuyệt vời về sau. Khi lớn lên, chúng ta có thể đem giáo pháp của Phật rao giảng, giáo hóa khắp nơi. Nhưng đừng nghĩ rằng đó là kết quả do chúng ta học được từ sách vở. Thực ra, để nói lên những giáo pháp vi diệu của Phật, chúng ta phải trải qua quá trình tu tập, tích lũy, chiến đấu với nội tâm của mình, thấy được những lỗi lầm của mình trong từng giờ, từng phút ngày hôm nay. 

Có những người kém duyên phước, không được học nhiều vì hoàn cảnh khó khăn nhưng họ vẫn tự đọc sách và tu. Họ luôn cố gắng tìm lỗi của mình. Mỗi bước tu, họ nhìn thêm được một số lỗi và trong tâm luôn mong người khác đừng vướng phải lỗi của mình, mong cho người khác vượt qua được lỗi lầm như mình đã vượt qua. Khi vượt qua lỗi gì đó, họ có kinh nghiệm và có thể giúp được người khác thoát được lỗi lầm như mình. Chỉ với một tấm lòng chân thành thương yêu và biết lỗi như vậy mà họ đã thành công, có thể đem giáo pháp đến cho nhiều người khác. 

Nói như vậy để chúng ta thấy rằng, bên cạnh học để bồi bổ kiến thức, chúng ta phải hết sức nỗ lực tu hành trong tâm, từng giờ từng phút chiến đấu để nội tâm tăng trưởng từ bi, khiêm hạ. Sau này, những lời chúng ta nói ra sẽ trở thành bài pháp vi diệu, có sức thuyết phục người khác phải tu hành theo mình. Chính vì thế, chúng ta gọi tu nghĩa là làm việc. Sự vất vả bên trong của người tu không ai thấy nhưng sẽ tạo thành cái Quả, sau này có thể chuyển hóa được thế gian. 

Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà trong một bài thơ tặng Thầy mình nhân dịp cùng Thầy về thăm quê cũ, một đệ tử đã xúc động viết: 

Người đứng đó bình an và thanh thản

Dưới bóng cây từng che mát tuổi thơ 

Mảnh đất xưa thời bé nhỏ dại khờ

Người đã sống suốt quãng đời niên thiếu

Ôi đáng quý mảnh đất này kỳ diệu 

Đã nâng niu thời hoa mộng của Người

Để hôm nay vang mãi khắp nơi nơi 

Thành bất tuyệt pháp âm trần nhân thế.

( Chơn Quang )

Lời thơ cũng nhắc nhở chúng ta phải quý những giờ phút tu hành vất vả trong tâm để sau này thành “bất tuyệt pháp âm tràn nhân thế”. 

Còn làm việc tức là tu là chúng ta làm việc vì người khác chứ không phải vì bản thân mình. Những việc làm ấy cũng nhọc nhằn vất vả. Khi làm việc, người nhỏ có thể làm công quả trong chùa, làm với lòng vị tha hy sinh. Người lớn có thể làm công quả cho Giáo hội, cho lợi ích của chúng sinh. Tất cả đều làm việc không mệt mỏi, đều chịu cực khổ, tận tụy vì người khác. 

Động cơ để mỗi người làm việc luôn luôn là động cơ vị tha, hy sinh cúng dường. Đó chính là hạnh phúc chân thật. Nếu tu là làm việc, là chịu cực khổ để sau này biến thành những bài pháp chuyển hóa thế gian thì làm với động cơ vị tha (nghĩa là tu ) cũng có quả báo của nó. Sau này, chính đời sống vị tha sẽ làm tâm mình vào định. Chúng ta biết, sức định ở trong tâm là do phước tạo thành, mà phước có được là do đời sống vị tha. Trên thế gian này không có một phương pháp nào có thể giúp người tu đạt được điều vi diệu: tâm lúc nào cũng tỉnh giác, cũng sáng tỏ. Chỉ có một yếu tố duy nhất có thể làm được điều đó là phước. Nghĩa là chúng ta phải sống như thế nào để tạo phước cho đủ. Khi  đã đủ phước thì bất cứ pháp môn nào cũng có thể làm cho chúng ta tỉnh giác thường xuyên, không bị mất đi. Khi đủ phước, chúng ta niệm Phật, tâm sẽ vào trong định; hoặc nếu nhiếp tâm trong hơi thở, tâm cũng sẽ định trong hơi thở.

Chúng ta phải hiểu, gốc ở đằng sau là phước nhưng nói đến phước là phải nói đến tội. (điều này đã được nói đến trong bài Hối hận). Cho nên, người hết tội, tăng được phước thì tâm sẽ dễ dàng vào định. Nhưng làm thế nào để hết tội? Sám hối là cách tốt nhất giúp chúng ta hết tội. Nhiều người tu chỉ để ý các pháp môn cao siêu, coi thường việc sám hối. Thực ra, sám hối rất quan trọng, nhất là sám hối đúng lỗi của mình. Mọi người đều có lỗi và lỗi thường không giống nhau. Vì vậy, người nào thấy mình bị sân, cứ sám hối sân; người nào có tội tham, cứ nhắm đến tham mà sám hối; người kiêu mạn, cứ nhân sự kiêu mạn mà sám hối… Cứ như thế, khi hết lỗi, tâm sẽ dần dần vào định. 

Song song với việc sám hối lỗi lầm, chúng ta vẫn tạo phước. Chính đời sống vị tha, làm việc tận tụy, vất vả vì người khác, đem lại lợi ích an vui cho người khác sẽ biến thành một kết quả giúp chúng ta xuất hiện định ở trong tâm. Như vậy gọi là làm tức là tu. 

4. LÀM MÀ KHÔNG LÀM. 

Đây là ý rất cao siêu. Làm mà không làm nghĩa là tuy làm lụng cực khổ nhưng chúng ta vẫn thấy như không làm gì cả. Chúng ta phải tránh tư tưởng cậy công hay chấp công. Có thể chúng ta rất siêng năng, tận tụy làm việc cho người khác nhưng làm rồi cứ nhớ mãi và nói cho mọi người biết công lao của mình, tâm chấp công sẽ dần dần tăng lên. Càng làm được nhiều bao nhiêu, sự chấp công của chúng ta càng tăng lên bấy nhiêu. Chấp công sẽ tạo ra kiêu mạn và qua kiếp sau xuất hiện hai quả báo: Điều làm lợi cho người khác sẽ đem lại vinh quang, nhưng kiêu mạn đem đến cho chúng ta sự hống hách, kiêu ngạo, tự cao, coi thường người khác…Tất cả những điều ấy chuẩn bị cho một sự đổ vỡ ở nhiều kiếp sau. Điều này rất nguy hiểm. 

Như vậy, làm mà thấy mình có làm là một cái họa. Tuy có phước trước mắt nhưng đổ vỡ, đau khổ, hèn kém sẽ chờ đợi mình ở nhiều kiếp sau. Thực ra, không cần đến nhiều kiếp sau, ngay trong kiếp này, nếu cứ chấp công, làm gì cũng nhớ công, tâm cứ khoe công mình thì quả báo cũng xảy ra ngay. Chúng ta sẽ bị rơi vào một hoàn cảnh nào đó: hoặc bị đau ốm, hoặc bị một tai nạn bất ngờ…để không thể làm việc được nữa. Lúc ấy, chúng ta chỉ có thể nhờ vào người khác để trả lại tư tưởng chấp công của mình. 

Tư tưởng cậy công nguy hiểm như vậy nên chúng ta cần phải tránh. Có hai cách giúp chúng ta tránh tư tưởng cậy công, làm mà vẫn không thấy mình làm gì. Cách thứ nhất là làm mọi việc nhưng lúc nào chúng ta cũng giữ chánh niệm trong công việc. Nếu lúc nào cũng giữ tâm trong chánh niệm, trong chánh định thì tự nhiên chúng ta làm mà không thấy mình làm. Điều này rất vi diệu, lạ lùng không thể giải thích được. 

Ví dụ, một ngày nào đó, trong chùa có việc, quý Phật tử vào làm công quả: nấu cơm, chẻ củi, dọn dẹp… nhưng khi làm việc lúc nào cũng giữ câu niệm Phật trong tâm. Những người như vậy có phước sẽ vào định luôn. Hoặc có khi cả ngày chúng ta làm việc vất vả nhưng khi có người hỏi ngày nay làm được việc gì, ngẫm nghĩ mãi cũng thấy mình làm gì đó nhưng tự nhiên không thấy mình có làm nữa. Đây không phải là đạo lý gì cao siêu mà do định đã đạt được nên tự nhiên như vậy. Cái định thật vi diệu! Chính Đức Phật chúng ta từng thuyết pháp suốt cuộc đời 45 năm, cuối cùng cũng tự nhận: “ 45 năm ta chưa hề nói một lời”. Nói như vậy vì Ngài đã thuyết pháp trong chánh định. 

Vì vậy, người giữ tâm trong chánh niệm, chánh định khi làm việc, nói năng sẽ không có tư tưởng chấp công. Hiểu được điều này, chúng ta cố gắng tận tụy làm lụng cho mọi  người nhưng phải giữ tâm tu hành, lúc nào cũng giữ tâm trong thiền định, tùy theo pháp môn mình đang tu tập. 

Cách thứ hai để diệt trừ  tâm cậy công, chấp công là chúng ta phải tác ý suy nghĩ. Dù làm được việc, chúng ta cũng nghĩ những điều mình làm được trong những năm tháng qua chưa đáng gì so với chư Thánh, chư Phật, chư Bồ Tát. Các Ngài trong vô lượng kiếp đã làm biết bao nhiêu điều đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nhờ suy nghĩ như vậy, chúng ta không rơi vào tư tưởng chấp công, tránh được quả báo về sau. Đó là hai cách giúp chúng ta tuy làm rất nhiều mà vẫn không thấy mình làm điều gì hết. 

Để giữ được ý nghĩa của tận tụy, chúng ta cũng cần lưu ý một điều là nên làm mọi điều một cách thầm lặng, tránh tâm niệm muốn mọi người biết đến việc làm tốt của mình. Có như vậy, công việc chúng ta làm mới được bền bỉ. Nếu chấp công, lại không kín đáo, khoe khoang công của mình cho người khác biết thì về lâu dài, chúng ta sẽ không duy trì được việc làm phước của mình, tất cả sẽ bị đổ vỡ. Vì thế, Tận tụy hàm nghĩa siêng năng nhưng là sự siêng năng trong thầm lặng. 

5. VIỆC LÀM PHẢI ĐEM LẠI LỢI ÍCH THIẾT THỰC. 

Tuy tận tụy làm việc nhưng chúng ta phải xét xem việc làm đó có đem lại lợi ích thiết thực cho mọi người hay không. Có những việc làm cũng rất vất vả nhưng vô bổ, không mang ý nghĩa, không đem lại lợi ích cho ai. Trên thực tế, một số chùa còn mắc phải điều này. Xét cho kỹ, chúng ta thấy trong chùa hiện nay còn tồn tại một số nghi lễ rất vô nghĩa. Nói ra điều này có thể đụng chạm đến một số chùa, một số Thầy nhưng chúng ta cũng không nên tránh né. Nhất là thế hệ đi sau, chúng ta phải nhìn vào thực tế để có ý thức sửa đổi. 

Thử xét qua ý nghĩa của một số nghi lễ trong đạo Phật, chúng ta sẽ thấy nghi lễ nào cần thiết và nghi lễ nào không cần thiết. Trước hết là lễ khánh thành chùa. Lễ được tổ chức sau khi chùa đã xây cất hoàn chỉnh. Thông thường, các chùa tổ chức lễ khánh thành với ý nghĩa tạ ơn sự giúp đỡ của mọi người. Đây là nghi lễ có ý nghĩa, các chùa nên tổ chức. Cất được một ngôi chùa là nhờ sự đóng góp của rất nhiều người. Khi chùa đã cất xong, đây là dịp quý Thầy mời mọi người gặp mặt như là một sự tạ ơn. 

Thứ hai là lễ đặt viên đá đầu tiên. Một số chùa tổ chức lễ này khi chùa mới bắt đầu đặt viên đá đầu tiên. Đây là lễ cầu nguyện chư Phật gia hộ cho công trình sẽ được viên mãn, đồng thời cũng có ý thông báo rộng rãi cho mọi người biết để góp phần ủng hộ.

Nhiều chùa tổ chức hết lễ này đến lễ khác khiến Tăng Ni chúng trong chùa chuẩn bị, lo toan quá cực khổ. Chỉ riêng việc dọn dẹp, mượn bàn ghế, chuẩn bị chén đũa, đi chợ nấu ăn… cũng đủ làm mọi người quay đến chóng mặt. Lễ quả thật có đông vui nhưng quá vất vả. Nếu chùa cứ tổ chức hết lễ này đến lễ kia, cực khổ mất thời gian như vậy, trong nhân quả, người Trụ trì sẽ bị tổn phước rất nặng. Vì chính người Trụ trì đã làm cho chúng trong chùa mình mất thời gian tu học, chạy theo nghi lễ hình thức, không có chiều sâu. 

Người thế gian cũng bị những tục lệ, những lễ lộc rất tốn kém chi phối, nhất là trong việc tổ chức đám cưới. Họ thường thích làm đám cưới rình rang để rồi đôi bạn trẻ phải trả nợ ba, bốn năm chưa hết. Họ đâu biết rằng, đám cưới linh đình không phải là điều kiện để bảo đảm trăm năm hạnh phúc cho lứa đôi. Hạnh phúc trăm năm có được là do đạo đức, tình thương yêu cùng với duyên nợ nhiều kiếp đem lại. 

Hiện nay, việc đi cứu trợ, làm từ thiện ở một số nơi vẫn còn mang tính hình thức. Một số người tổ chức đi cứu trợ mà tiền vật dụng ít hơn tiền xe. Như vậy là không thực tế, có tính phô trương, khoe khoang. Việc đi cứu trợ nặng về hình thức như thế chưa biết có tạo được phước hay không nhưng trước mắt chỉ thấy đó là sự phí phạm. Vì vậy, làm việc gì, chúng ta cũng phải suy nghĩ, cân nhắc. Phải hiểu rằng, chúng ta tận tụy, siêng năng là vì lợi ích thiết thực cho con người chứ không vì hình thức. 

Tóm lại, chúng ta tận tụy làm lợi ích cho người khác phải xét trên hai phương diện chính: nâng cao Đạo đức cho con người hoặc giúp con người đạt sâu vào trong Thiền định. Chẳng hạn, giáo dục trẻ em đường phố chúng ta cũng nhằm tăng trưởng được Đạo đức cho các em. Hoặc đến giúp đỡ người già chúng ta cũng kết hợp khuyên các cụ niệm Phật tu hành để được yên ổn cho đời này, đời sau. Đó mới là những việc làm thiết thực trong cái nhìn của đạo Phật. Nếu đi xa quá hai mục đích đó, chúng ta phải xét lại. Không cẩn thận, sự siêng năng tận tụy của chúng ta sẽ đi xa Phật pháp, trở thành những việc làm hình thức, vô nghĩa. 

6. QUÝ THỜI GIỜ. 

Ngạn ngữ phương Tây có một câu rất hay :

Mất tiền bạc là mất ít

Mất thời gian là mất nhiều

Mất sức khoẻ là mất tất cả.

Thời gian đối với con người và vạn vật quý giá vô cùng. Vì thời gian đã qua đi, không bao giờ trở lại. Qua câu chuyện của ngài Dương Kỳ, chúng ta thấy Ngài rất quý thời gian, luôn dành thời gian cho sự tu học. Vì vậy, chúng ta cũng phải biết quý thời gian. Trong mọi lúc, mọi nơi, chúng ta phải tận dụng thời gian để tu học, để làm việc, đừng bao giờ để thời gian trôi qua trong lãng phí. Chúng ta phải luôn luôn ý thức được nhiệm vụ của mình. Ngay cả những lúc mệt mỏi, không thể làm việc tay chân được nữa, chúng ta nằm nghỉ ngơi nhưng vẫn giữ câu niệm Phật, không để phí phạm thời gian. Đã là người tu, chúng ta không bao giờ chấp nhận tình trạng bên trong tâm không tu, bên ngoài lại không có việc gì làm. Có thể lúc nào đó, bên ngoài không làm gì nhưng bên trong chúng ta vẫn kiểm soát tâm, không được để giây phút nào trống trải. Điều cấm kỵ đối với người tu là để rơi vào tình trạng trống trải, chán chường phải tìm đến đối tượng nào đó để tâm sự. Nếu để cho lòng cảm thấy trống trải, không biết phải làm gì là chúng ta đã có sai lầm trong bổn phận của một tu sĩ.

Để tận dụng mọi thời gian cho việc tu học, chúng ta cố gắng tránh những nghi thức rườm rà, mất thì giờ. Đạo Phật thường có lễ trai Tăng. Thực ra, nghi lễ này không cần thiết. Vì quý Phật tử cúng dường trai Tăng làm mất rất nhiều thì giờ của quý Thầy. Có khi ở rất xa nhưng được Phật tử mời, quý Thầy cũng phải về dự lễ trai Tăng. Nếu dành thời gian đi lại đó cho việc khác, chúng ta sẽ làm được nhiều việc có ý nghĩa. Ông bà ta chẳng nói: “Ăn một bữa giỗ lỗ ba bữa cày”đó hay sao? Sở dĩ đạo Phật thích làm lễ trai Tăng vì cho rằng trai Tăng cúng dường là có phước. Thực ra, phước chưa thấy nhưng e rằng có tội vì đã làm quý Thầy nhọc nhằn, mất thời gian tu học. Trong hoàn cảnh bây giờ, thực tế nhất là quý Phật tử nên đem đến chùa cúng. Tiền gạo dù ít, dù nhiều cũng quý lại không làm mất thì giờ quý Thầy. Làm như vậy sẽ có phước hơn. 

Tất nhiên, đối với những nghi lễ cần sự trang trọng để in sâu vào lòng người những ấn tượng, ý niệm tốt lành nào đó, chúng ta phải tổ chức đàng hoàng, không được sơ sài. Vì nếu tổ chức sơ sài, chúng ta sẽ mang tội. Ví dụ, lễ quy y cho Phật tử là lễ quan trọng, các chùa không được tổ chức sơ sài. Vì giờ phút quy y là giờ phút người ta bước vào cuộc sống mới, trở thành đệ tử Phật. Buổi lễ quy y phải có một ý nghĩa trang trọng, thiêng liêng; phải đem lại một ấn tượng tốt đẹp để họ ghi nhớ suốt đời. Tuy nhiên, nhiều chùa lại tổ chức lễ quy y rất sơ sài. Điều này sẽ khiến không ít người có cảm giác những chùa ấy muốn ghi danh sách Phật tử vào chùa cho đông. Vậy thôi. Vì có trường hợp, Phật tử quy y rồi nhưng hỏi Pháp danh gì lại không nhớ. Hỏi ra mới biết, người ấy có người quen vào chùa ghi tên quy y hộ, hôm sau lại gửi cho lá phái nên họ chẳng có chút ấn tượng gì về việc quy y. 

Hoặc buổi lễ xuất gia cũng vậy. Đây là bước ngoặt quan trọng đối với cuộc đời một con người. Quyết định xuất gia là người ta từ giã gia đình, bạn bè, người thân; từ bỏ những mơ ước của một thời tuổi trẻ để bước vào cuộc sống tu hành. Bổn phận của họ là phải tu hành cho tốt, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Từ giây phút này, họ không còn là một người thế gian vất va vất vưởng nữa, không còn là đứa con hoang lang thang trong luân hồi vô tận nữa. Từ đây, họ có được vị Cha lành – một bậc Thầy vĩ đại, có chư Tăng để nương tựa, có Giáo pháp để học hỏi. Vì vậy, các chùa phải tổ chức sao cho không quá rườm rà nhưng thật có ý nghĩa để người ta phải nhớ bổn phận của mình suốt đời. 

Vì thời gian là vốn quý nhất của con người nên chúng ta phải biết tiết kiệm, biết tận dụng thời gian. Người phí thời gian sẽ không sống thọ (mặc dù biết rằng thọ mạng còn do nhiều nguyên nhân khác ). Điều này cũng dễ hiểu. Vì theo quy luật Nhân Quả, chúng ta “phí cái gì sẽ mất cái đó”. Ví dụ, những người thường quen nấu cơm thừa mứa rồi đổ bỏ sẽ bị quả báo. Nhiều khi phước còn đó nhưng có lúc rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo vẫn phải bị đói. Còn khi đã hết phước thì sẽ rơi vào cảnh nghèo đói, không làm ra tiền bạc, thậm chí đi xin cũng không ai cho. Vì vậy, nếu ăn cơm còn dư, không có ai để cho, xung quanh cũng chẳng có chó, mèo, heo, gà, chúng ta cũng phải tìm cách đem cho chim, chuột ăn. Mặc dù hành động cũng giống như đem đổ nhưng bên trong, chúng ta không có tâm đổ bỏ, luôn nghĩ là đem cho chim, chuột ăn. Tâm như vậy là tâm bố thí, sẽ không có tội và không mắc quả báo. 

Trong thời đại ngày nay, nhiều người khi có chức có quyền, làm ra tiền như nước đã không ngại vung tiền qua cửa sổ. Họ đắm chìm trong những cuộc nhậu thâu đêm, những cuộc chơi bời trác táng. Có khi họ uống một chai rượu Tây bằng cả gia tài của một người lao động nghèo khổ. Có khi tàn một cuộc vui, họ đã lãng phí hàng mấy chục triệu đồng. Trong khi đó, số tiền này là giấc mơ cả một đời của những người nghèo khổ. Chỉ cần có nó, một người nghèo có thể gầy vốn làm ăn để thay đổi cuộc đời mình. Chưa kể, trong lúc hào hứng, những tay Giám đốc giàu có ấy có thể boa cho những cô tiếp viên hàng trăm dolla. Những việc làm đó quá sức phí phạm. Và quả báo đã xảy ra ngay trong hiện tại. Không ít những vị đã có kết cục là “tay trắng trắng tay” hoặc được nghỉ ngơi trong tù để có dịp hồi tưởng lại những tháng ngày qua đã từng vẫy vùng trong thiên hạ. Trong khi đó, người biết Đạo không bao giờ phí phạm. Họ rất tiết kiệm nhưng lại rất rộng rãi. Khi cần thiết, họ sẵn sàng bỏ tiền của ra để giúp người mà không hề tính toán thiệt hơn. Có như vậy, họ mới giữ được phước lâu dài.

Tương tự như vậy, nếu ai phí thời gian thì sẽ bị quả báo là thời gian không còn nữa. Không còn thời gian nữa có nghĩa là không còn cơ hội tồn tại trên cõi đời này nữa. Những người như vậy thường hay chết yểu. Tất nhiên, có nhiều nguyên nhân dẫn đến chết yểu ( trong đó có nguyên nhân do đời trước sát sanh nhiều ) nhưng nguyên nhân không kém phần quan trọng là do phí thời gian nhiều quá nên những người này không đáng sống nữa, thọ mạng chấm dứt sớm. Đây cũng là điều rất lạ. Nói như vậy nhưng chúng ta cần hiểu rằng, vấn đề không phải là sống lâu hay sống ngắn ngủi. Điều cốt yếu là chúng ta chỉ mong được sống để làm lợi ích cho người khác. Có những công việc cần thiết phải làm để đem lại lợi ích cho Phật pháp, cho chúng sinh mà chưa làm được thì chúng ta phải sống. Và để được phước sống lâu, chúng ta đừng bao giờ phí thời gian, phải sống cho hợp lý. 

Trong cuộc sống, chúng ta phải siêng năng làm việc, tận tụy vì người khác. Tuy nhiên, phải khéo léo, đừng làm quần quật để rồi kiệt sức, về sau không làm gì được nữa. Là người hiểu Đạo, chúng ta biết thân này không phải của mình. Khi đã chọn con đường tu hành thì thân này là của Phật pháp, của chúng sinh. Trước đây, vì nghĩ thân này là của mình nên chúng ta hoặc cung phụng nó quá đáng, hoặc đày đọa nó quá đáng bằng cách làm quần quật để kiếm tiền. Bây giờ, khi đã hiểu Đạo, có lý tưởng tu hành, biết thương yêu tất cả chúng sinh, biết trân trọng gần gũi Phật pháp, chúng ta cũng biết thân giả tạm này không phải của mình nữa mà là của chư Phật. Cuộc đời chúng ta từ đây đã đặt vào bàn tay của Phật, chúng ta chỉ là tôi tớ của Phật. Do đó, chúng ta không được quyền cung phụng hay đày đọa nó. Chúng ta phải đối xử với thân mình một cách khéo léo để nó là một công cụ, phương tiện giúp mình làm việc Phật pháp được lâu dài. Có như vậy, chúng ta mới có thể làm những việc Đạo đức, những điều lợi ích, đem lại hạnh phúc cho chúng sinh. Nghĩa là chúng ta cũng làm việc, cũng hy sinh vì mọi người. Nhưng mọi việc phải khéo léo, không quá đáng để giữ gìn công việc lâu dài. Tất nhiên, công việc lâu dài đó không phải cho mình mà vì Phật pháp, vì chúng sinh. Chúng ta luôn nhớ một điều, động cơ sâu thẳm cũng là vì người khác nhưng biện pháp xử lý đối với công lao, đối với sức khỏe như thế nào cho hợp lý là một biểu hiện của sự khôn ngoan, của trí thông minh.

1. ĐỊNH NGHĨA.  

Khác với nhẫn nhục là giữ lòng bình thản khi gặp những điều trái ý, nghịch lòng, nhường nhịn có nghĩa là để dành quyền lợi tốt đẹp cho người khác. Nhường nhịn có nghĩa tương tự như bố thí, đều nhường cái mình có cho người khác. Nhưng nếu xét một cách kỹ càng, giữa hai khái niệm này vẫn có điểm khác nhau. Bố thí, theo ý nghĩa tổng quát, thường là chia sẻ cái mình đang có cho người khác và vẫn còn lại phần nào đó cho mình. Nếu trong tay có một triệu đồng, chúng ta có thể bố thí một phần ba hoặc một nửa số tiền đó và mình vẫn còn lại phần nào. Trong khi đó, nhường nhịn lại hàm nghĩa khác. Nếu nhường cho người khác rồi, chúng ta sẽ không còn nữa. 

Ví dụ, để quý Thầy tiện việc theo dõi giờ giấc học hành, một Phật tử phát tâm cúng cho chùa mười cái đồng hồ. Trong khi đó, chùa có đến năm chục người. Vì vậy, trừ những người đã có đồng hồ, số còn lại, quý Thầy chia đều từ trên xuống dưới. Chúng ta nằm trong số những người được chia đồng hồ nhưng lại sẵn sàng nhường cho người khác. Tuy hành động nhường lại ấy không rõ ràng như bố thí ( vì đồng hồ không phải của mình ) nhưng rất đáng quý. Vì nhường cho người khác nghĩa là chúng ta chấp nhận không còn trong tay vật ấy nữa. Do đó, so với bố thí, nhường nhịn  cao hơn và khó thực hiện hơn. 

Chúng ta biết rằng, trong thẳm sâu tâm hồn của mỗi người ai cũng bị tâm vị kỷ chi phối. Chính tâm vị kỷ đã đưa đến những tham lam, sân hận, tranh giành lẫn nhau giữa con người với con người vì điều chúng ta muốn, người khác cũng muốn. Đây là khuynh hướng chung, cả thế gian này không ai có thể thoát ra được. Chính vì muốn giành giật những điều tốt về mình nên chúng ta đụng chạm đến những ham muốn của người khác. Đôi khi chỉ là một lời khen, một danh hiệu trong lớp học nhưng vì nhiều người cùng muốn nên có sự tranh giành với nhau và sinh ra thù oán, chia rẽ. Con người là như vậy. Và cả thế giới này, cả nhân loại này cũng vậy. Không biết bao nhiêu triệu năm, bao nhiêu thế hệ đã đi qua, con người ta cứ đi tìm sự chia rẽ trong oán thù vị kỷ như vậy. Chính vì thế, sẵn sàng nhường nhịn, dành quyền lợi tốt đẹp cho người khác là một điều hoàn toàn không đơn giản đối với con người. 

Trong rất nhiều điều có thể nhường nhịn, có bốn điều được gọi là ưu thế để lập hạnh nhường nhịn. Đó là : Địa vị, tiền bạc, danh dự và tình cảm. 

 Trong cuộc đời một con người, khát khao địa vị được coi là nỗi khát khao lớn nhất, mãnh liệt nhất. Để có được địa vị trong xã hội, con người có thể làm nhiều điều tội lỗi: giành giậït, mưu hại lẫn nhau, tiêu diệt lẫn nhau. Tất cả đều xuất phát từ cái chấp ngã quá lớn. Cái chấp ngã có quyền lực làm cho người ta muốn được tôn vinh, muốn có quyền sai khiến được nhiều người khác, nghĩa là muốn có địa vị.  Vì là nỗi khát khao lớn của con người nên địa vị trở thành một trong những ưu thế để lập được hạnh nhường nhịn. Có người chiếm ưu thế ở vào địa vị đó nhưng sẵn sàng nhường cho người khác vì cảm thấy không cần thiết. Trong phạm vi hẹp là một lớp học, sự nhường nhịn địa vị cũng có thể thực hiện được. Chẳng hạn, trong số những người được đưa ra để chọn làm lớp trưởng, chúng ta là người có ưu thế, có điều kiện nhưng lại từ chối vì  muốn nhường cho người khác. Đó là sự nhường nhịn về địa vị. Sau này lớn lên, đôi khi có duyên, được giao chức gì đó trong giáo hội nhưng chúng ta không nhận mà nhường cho người khác. Đó cũng là nhường nhịn địa vị. Thực ra, nhường nhịn địa vị là việc rất khó. Điều này tùy thuộc vào mức độ Đạo đức của mỗi người. Phải có tâm vị tha đến mức nào đó, chúng ta mới có thể nhường cho người khác những điều được coi là khó buông xả trong cuộc đời. 

Khi còn ở trong chúng, những cạnh tranh về quyền lợi chưa nhiều ( chỉ đơn giản là vài lời khen, một ít vật dụng, một số tứ sự cúng dường…), chúng ta có thể nhường nhịn nhau được. Nhưng một ngày nào đó, khi đã lớn, quyền lợi nhiều gấp bội lần thì vấn đề nhường nhịn sẽ trở thành một thử thách lớn đối với tâm hồn, đạo đức của chúng ta. Lúc ấy, chỉ có tâm hồn lớn mới có thể vượt khỏi sự ràng buộc về vật chất của thế gian để nhường nhịn cho người khác. Suy cho cùng, đạo đức con người không phải là vô hạn mà cũng có “cái giá” của nó, có “trị số” của nó. Chỉ khi đối mặt với thử thách, chúng ta mới biết đạo đức của mình có trị giá như thế nào. Có thể hiểu điều này một cách nôm na qua một vài ví dụ đơn giản trong cuộc sống : 

Một hôm, khi đang đi trên đường, chúng ta tình cờ nhặt được một trăm ngàn đồng do ai đó đánh rơi. Nếu nhặt được số tiền đó, chúng ta đem trả lại cho người bị mất thì có thể khẳng định đạo đức của mình lớn hơn một trăm ngàn. Vì đạo đức có hơn  số tiền đó, chúng ta mới không cần đến nó. 

Hoặc khi đang cùng huynh đệ làm vườn, chúng ta phát hiện được một gói vàng, trong đó có ba lượng. Ngay lúc ấy, chúng ta không nói cho ai biết mà lập tức đau bụng đòi về nhà. Theo bài học Tâm lý Đạo đức thì nhặt được của rơi phải trả cho người đánh mất. Nhưng trên thực tế, số vàng bắt được không phải nhỏ. Ba cây vàng ấy, nếu giữ lại có thể mua được một chiếc xe gắn máy để đi lại làm Phật sự. Đó không phải vì mục đích cá nhân. Hơn nữa, nếu trả lại cũng không biết trả cho ai trong khi chiếc xe cũng là vật rất cần thiết. Chúng ta tìm mọi cách tự lý luận để giữ lại số vàng và cứ băn khoăn mãi. Như vậy, giá trị đạo đức của chúng ta chỉ được tính bằng ba cây vàng thôi vì chúng ta còn giằng co, lưỡng lự trước khi quyết định. Nếu giá trị đạo đức của mình lớn hơn ba cây vàng đó, chúng ta sẽ nghĩ cách trả lại mà không hề băn khoăn. Ngược lại, nếu giá trị đạo đức của mình nhỏ hơn, chúng ta sẽ lặng lẽ cất số vàng đó và viện cớ này nọ xin Thầy về quê để thực hiện ý định của mình, không cần phải thao thức nghĩ suy. 

Chính vì vậy, chúng ta nói đạo đức con người không phải vô hạn. Có người chỉ vì vài trăm ngàn có thể đánh mất tư cách, đạo đức của mình. Có người vì hai, ba cây vàng hoặc có khi đến mười cây vàng mới làm cho đạo đức gãy đổ. Nhưng cũng có những người bị thử thách nhiều hơn vẫn giữ dược giá trị đạo đức của mình. Tất cả đều tùy thuộc vào tâm hồn, trí tuệ của họ. 

Chúng ta có nhiều cách để đánh giá tâm hồn, trí tuệ của con người. Nhưng cách chính xác nhất là dựa vào thời gian họ suy nghĩ hay hướng về. Nghĩa là căn cứ vào số lượng thời gian họ hướng về bao lâu, chúng ta có thể biết được trí tuệ, tâm hồn họ lớn đến mức nào.

Ví dụ, người có tâm hồn, trí tuệ bình thường, suy nghĩ của họ chỉ giới hạn trong vòng một vài ngày. Họ chỉ quẩn quanh với những suy nghĩ về ăn uống, ngủ nghỉ, công việc... trong ngày hôm nay, xa lắm là đến ngày mai. Người nhìn xa hơn một chút, thời gian được nghĩ đến có thể một tuần. Trong tuần đến, mình sẽ học hành, làm việc gì, họ đã chuẩn bị từ hôm nay. Có người lại nhìn đến một vài năm. Khi còn học năm thứ nhất của trường Cơ bản Phật học, họ đã nghĩ đến chương trình của những năm sau. Ngoài việc cố gắng hoàn thành tốt những môn đang học, họ còn tranh thủ thời gian mượn tài liệu, nghiên cứu trước những môn sẽ học sau này. Có người lại nhìn xa hơn đến năm, bảy năm sau. Bây giờ đang học Cơ bản, họ đã nghĩ đến việc học xong mình sẽ làm gì? Lúc bấy giờ, mình nên tiếp tục học ở Học viện cao cấp để lấy bằng hay tu tập thiền quán trong vài năm để củng cố đạo lực rồi mới tiếp tục học thêm ?…

Những người có tâm hồn lớn, trí tuệ lớn có thể suy nghĩ luôn chương trình cho cả một đời. Hiện tại, đang còn đi học nhưng họ đã suy nghĩ, định hướng cho tương lai. Nhìn thấy những vấn đề còn tồn tại trong đạo Phật, họ nghĩ sau này sẽ cố gắng làm Phật sự cho thật tốt. Những điều tốt, họ sẽ phát huy, những điều chưa tốt trong Phật pháp, họ sẽ tìm cách khắc phục để Phật pháp được hưng thịnh. Làm sao để những đệ tử Phật ai cũng trở nên thánh thiện, hoàn hảo; những tu sĩ trong Phật giáo đều là những người tốt, những người tự tại, giải thoát, đều là những bóng cây che mát cho mọi người ? Họ băn khoăn, suy nghĩ và vạch ra kế hoạch làm việc cho cả cuộc đời mình, một cuộc đời tận tụy vì Phật pháp. Đó là người có trí tuệ lớn, có thể nhìn được đến cả một đời.

Những người có tâm hồn, trí tuệ siêu việt không chỉ nhìn trong một đời này mà suy nghĩ có thể vượt qua cả những kiếp sau. Đó là người có trí tuệ của bậc Thánh. Vì những vị Thánh không bao giờ chỉ suy nghĩ lẩn quẩn trong kiếp con người mà luôn nhìn ra nhiều kiếp luân hồi, có thể quán xuyến từ thời gian gần cho đến thời gian xa. Đang ở kiếp này, các vị có thể nhìn luôn cả nhiều kiếp về sau và còn biết mình phải làm gì một cách rất rõ ràng. 

Có lần, một đứa bé chỉ mới 11-12 tuổi nhưng tự nhiên nói với người khác một câu rất lạ:“Kỳ qúa, con người ta cứ sinh ra rồi lớn lên làm việc đến già, đến chết, cứ lẩn quẩn như vậy hoài”. Qua câu nói, chúng ta thấy trong đứa bé có tố chất của một bậc Thánh. Chỉ có bậc Thánh mới băn khoăn về kiếp người, trăn trở về luân hồi, mới thấy con người đi từ kiếp này sang kiếp kia, mới thấy cái vô nghĩa của một đời người, sinh ra lớn lên đấu tranh vất vả để rồi cuối cùng lại trở về với cát bụi. Còn đa phần chúng ta đều bị vướng bận bởi những lo toan cơm áo gạo tiền, những buồn vui, đau khổ trước mắt. Tâm chúng ta khó vượt ra khỏi những điều tầm thường đó. Ai khen một câu, chúng ta phấn khởi và nhớ hoài; ai chê một câu, chúng ta buồn khổ hết ngày này qua ngày khác. Khi giàu sang, chúng ta cảm thấy vinh quang; khi nghèo khổ thì luôn buồn phiền, tủi hận. Nghĩa là tâm hồn chúng ta luôn bị những thăng trầm trong cuộc đời chi phối. Chúng ta không có con mắt trí tuệ có thể nhìn vượt ra khỏi kiếp người này để thấy được những kiếp người khác. Nếu thấy được cái vô lý của kiếp người tại sao cứ sinh tử, tử sinh, tự trong thâm sâu chúng ta sẽ có niềm mong mỏi, niềm khát khao được giải thoát.

Ngẫm lại, chúng ta thấy việc Đức Phật từ bỏ ngai vàng, nhường ngai vàng để đi tu cũng là hạnh nhường nhịn vĩ đại xuất phát từ trí tuệ siêu việt của một vị Thánh. Xét hoàn cảnh lúc bấy giờ, điều này hoàn toàn không đơn giản. Chúng ta có thể hiểu như thế này: Thời Đức Phật, vương quốc Ấn Độ bao gồm nhiều tiểu quốc. Ở miền Bắc là vương quốc lớn, vương quốc Kosala. Tiểu quốc Sakya của dòng dõi Sakya, dòng dõi Thích Ca, nằm ở phía Đông Bắc của vương quốc Kosala này. Ngoài tiểu quốc Sakya, những nước kế bên đều là chư hầu của vương quốc Kosala. Ngôi vị vua của các nước chư hầu, kể cả của dòng dõi Sakya muốn tồn tại đều phải được sự đồng ý của đại vương Kosala. Vương vị của vua Tịnh Phạn được nhiều người trong quần thần bầu lên và được đại vương Maha Kosala chấp nhận. Sau đời vua Maha Kosala, vua Pasanadi ( tức vua Ba Tư Nặc, người cùng trang lứa với Đức Phật ) kế vị. Ở tiểu quốc Sakya, việc truyền ngôi vua cũng do hội đồng bầu lên và được đại vương Kosala đồng ý. Vì vậy, ngôi vua không phải được mặc định mà luôn bị nhiều người nhăm nhe. Vua Tịnh Phạn là người có bản lĩnh. Khi đã ở vào tuổi 40 mà chưa có con, ông cũng lo lắng. Nếu ông không có con thì ngai vàng sẽ thuộc về những nhánh khác mặc dù cũng trong vương tộc Thích Ca. Có thể một đại thần nào đó của ông sẽ được bầu lên làm vua khi ông qua đời. Bởi vậy, khi sinh được Thái tử Sĩ Đạt Ta, ông vô cùng mừng rỡ vì nghĩ rằng sẽ có người nối ngôi vua của mình. Điều đáng mừng hơn là ông nhìn thấy được tính cách xuất chúng của Sĩ Đạt Ta. Trong khi đó, những đại thần chung quanh rất thất vọng vì ngai vàng ở Sakya mà ai cũng lăm le giành giật bây giờ có khả năng rơi vào tay Thái tử Sĩ Đạt Ta. Ngay từ khi còn nhỏ, tính cách của Sĩ Đạt Ta đã quá siêu việt. Dung mạo Ngài lại đẹp đẽ, uy đức rực rỡ. Từ tướng đi, dáng đứng, từ giọng nói, ánh nhìn…, Thái tử đều toát lên vẻ rực rỡ, uy nghi khiến ai cũng cảm phục. 

Hơn nữa, Ngài lại học rất giỏi. Bao nhiêu vị Thầy được mời đến, Ngài đều lãnh hội được một cách sâu sắc, có khi còn hiểu hơn cả Thầy mình. Ngài quả thật là người văn võ song toàn. Ngài càng lớn, người ta càng nhìn thấy rõ rằng đây là người sẽ làm chủ tiểu quốc Sakya trong tương lai, không ai có thể tranh giành được, thậm chí có thể mở mang bờ cõi rộng lớn hơn nhiều. Nhưng với trí tuệ của một vị Thánh, vương vị của Sakya đâu đáng để Đức Phật của chúng ta bận tâm. Cái nhìn của Ngài vượt ra khỏi những điều tầm thường đó.  Từ khi còn nhỏ, các vị trưởng lão Bà La Môn đã tiên đoán sau này Ngài sẽ là Chuẩn Luân Thánh Vương, nghĩa là một người không chỉ làm vua tiểu quốc Sakya mà còn làm cho tất cả những quốc gia chung quanh thần phục. Phước của Ngài đủ để Ngài làm chủ một đế quốc vô cùng rộng lớn. 

Dĩ nhiên, khi Ngài lớn lên, mọi người đã nói cho Ngài nghe điều đó, nhất là vua Tịnh Phạn, vì nhà vua không muốn Ngài đi tu. Ông muốn Ngài ở lại giữ ngôi vua và luôn luôn hy vọng, đúng như những lời tiên tri kia, khi Ngài lên làm vua thì Sakya không còn là chư hầu của nước Kosala nữa. Lúc đó, Ngài sẽ cai trị luôn nước Kosala, cả Magadhi, Magadha- hai quốc vương rất rộng lớn bên cạnh. Tuy được vua Tịnh Phạn cũng như nhiều người nhắc lại lời tiên tri đó với niềm hy vọng nhưng Ngài không vẫn màng đến. Ngài thấy quyền chức cao sang chỉ là hạt bụi dính vào bàn chân. Trí tuệ của Ngài vượt xa hơn những điều tầm thường đó nên Ngài đã từ bỏ Hoàng cung để đi tu. Ngài lặng lẽ ra đi là muốn nhường ngôi vua lại cho người khác. Nếu vua Tịnh Phạn qua đời, ngôi vua sẽ thuộc về một người nào đó trong dòng tộc Thích Ca. Vì con trai của Ngài là La Hầu La lúc ấy còn quá nhỏ sẽ không làm được điều gì. Biết điều đó nhưng Ngài vẫn không quan tâm. Trong Tứ Thập Nhị Chương, Ngài nói : “Cả thế gian này là vô nghĩa”. Đúng vây, cả thế gian này đối với Ngài như cỏ rác, cát bụi có gì đáng đâu. Ngài ra đi là để tìm đến những giá trị vĩnh cửu hơn, cao siêu hơn. Ngài muốn để lại cái giá trị đó mãi mãi muôn đời cho tất cả chúng sinh, còn vinh quang, quyền chức chỉ là cái gì đó vô thường, hư ảo. 

Như vậy, mức độ nhường nhịn đối với người khác phụ thuộc vào tâm hồn, đạo đức của chúng ta. Nếu tâm nhỏ hẹp, chúng ta chỉ nhường được những điều nhỏ nhặt. Khi động chạm đến những điều lớn, chúng ta sẽ đấu tranh đến cùng để giành cho bằng được. Chỉ có những tâm hồn vĩ đại mới có thể khước từ tất cả, nhường hết tất cả cho người khác, không giữ lại điều gì cho mình. Việc nhường nhịn ngai vàng, chẳng giành quyền lợi cho mình, cho con cái, dòng họ mình của Đức Phật đã cho chúng ta bài học lớn về sự nhường nhịn và về tâm hồn cao thượng của một con người. Với một người có tâm hồn vĩ đại, không một điều gì của trần gian có thể trói buộc được. Đức Phật đã chứng minh được điều đó. Chúng ta phải cố gắng noi gương Ngài trong suốt cuộc đời tu hành của mình, không xem bất cứ điều gì quan trọng để phải bám giữ, phải tranh giành với huynh đệ, với đồng loại mình dù chỉ là một tiếng tăm, một tình cảm.

Ngoài địa vị, tiền bạc cũng là yếu tố quan trọng để lập hạnh nhường nhịn. Chúng ta phải thừa nhận một điều, tiền bạc có vai trò rất quan trọng đối với đời sống con người. Không ai có thể sống mà không nhờ vào vật chất, tiền bạc. Thậm chí, có người còn nói “đồng tiền liền khúc ruột”, ai dứt đồng tiền của mình ra cũng như dứt đi khúc ruột của mình, đau đớn không chịu nổi. Vì vậy, với những gia sản phải đổ mồ hôi nước mắt, phải gửi cả tâm huyết cuộc đời mình vào đó mới tạo dựng được, người ta không dễ gì nhường lại cho người khác. Chính vì tiền bạc có ý nghĩa đối với con người như vậy nên nó đã trở thành yếu tố quan trọng thứ hai để chúng ta tu tập  hạnh nhường nhịn.

            Điều quan trọng thứ ba là danh dự. Chúng ta biết rằng, danh dự không phải là cái gì thuộc về vật chất có thể nuôi sống được con người như đồng tiền bát gạo, nhưng lại làm cho chúng ta thích thú, sung sướng. Nó có thể đem lại cho con người cảm giác hạnh phúc. Sống giữa mọi người, chúng ta ai cũng mong mình luôn được người khác nể phục, khen ngợi, không ai muốn mình bị chê bai, khinh bỉ. Đó cũng là tâm lý bình thường. Nếu ai đã từng trải qua những giây phút được khen thưởng bởi thành tích học tập của mình khi còn thơ ấu sẽ khó quên được cảm giác sung sướng, phấn chấn, tự hào ấy. Khi đã trở thành người lớn, mỗi khi tìm ra được một giải pháp thông minh để giải quyết những tình huống khó khăn và được mọi người cảm phục, chúng ta cũng cảm thấy sung sướng vô cùng. Vì vậy, không ít người muốn đạt được cảm giác đó đã nghĩ rằng cần phải thủ đắc, phải chiếm đoạt danh dự về cho mình.

            Cách đây khá lâu, trong giới văn nghệ sĩ đã xuất hiện một tin đồn có liên quan đến vấn đề danh dự của con người. Câu chuyện thực hư thế nào, cho đến nay vẫn chưa ai dám công bố. Đó là sự kiện một nhà văn cho ra đời một tác phẩm khá hay và được nhiều người biết đến. Dần dần, tác giả ấy được cất nhắc và giữ những chức vụ quan trọng trong Hội nhà văn. Nhưng mấy chục năm sau, kể từ khi tác phẩm nổi tiếng đó ra mắt bạn đọc, tác giả không viết được cuốn sách nào nữa. Điều này đã làm cho nhiều người hoài nghi và đi tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề. Cuối cùng, người ta đồn ầm lên rằng, cuốn sách kia không phải do chính tay nhà văn này viết mà là tác phẩm của người bạn anh ta. Trong chiến tranh, nhà văn này có một người bạn chiến đấu rất thân thiết. Chính người ấy đã viết tác phẩm này nhưng chưa kịp công bố thì qua đời. Người bạn còn sống đã nhận đó là tác phẩm của mình và đưa đến Nhà xuất bản xin giấy phép. Không ngờ, cuốn sách được đánh giá cao và được phổ biến rộng rãi. Thế là, “tác giả”…giả trở nên nổi tiếng. 

Nếu đó là câu chuyện có thật, chúng ta thử nghĩ xem vì sao trước khi chết, tác giả kia đã giao lại tất cả những vật dụng trong đó có tác phẩm văn học  cho bạn mình ? Chắc hẳn, khi còn sống hai nguời là bạn thân, từng đối xử tốt với nhau. Người được gọi là tác giả, trước kia có thể đã nhường nhịn cho bạn mình những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống : khi nhường nhau chén cơm, bát cháo, khi nhường viên thuốc lúc ốm đau…Nhưng trước sự vinh quang, trước danh dự khi được làm tác giả của một tác phẩm nổi tiếng, ông ta không thể chịu nổi nên đã giành về cho mình. Với ông, danh dự ấy quá lớn, ông không đành lòng để cho bạn mình được hưởng một cách uổng phí trong khi người bạn đã chết. 

Như vậy, danh dự tuy không là gì  nhưng con người rất khó bỏ qua để nhường lại cho người khác. Trong cuộc sống, trước một danh dự sắp thuộc về mình, nếu người nào sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi để người khác được sống trong cảm giác sung sướng, hạnh phúc vì sự nổi tiếng, vì danh dự, người đó xứng đáng được coi là người có hạnh nhường nhịn cao cả. 

Yếu tố thứ tư được gọi là ưu thế để lập hạnh nhường nhịn là tình cảm. Trong cuộc sống con người, tình cảm được coi là lĩnh vực rắc rối, phức tạp nhất. Những vấn đề có liên quan đến tình cảm đều rất khó giải quyết một cách rốt ráo vì đây là điều tế nhị. Thực tế cho thấy, con người luôn có sự tranh giành tình cảm với nhau. Tất cả đều xuất phát từ lòng ích kỷ. Khi thương ai, người ta thường muốn người đó chỉ thuộc về mình. Không ai muốn người mình thương yêu đi chia sẻ tình cảm cho người khác. Ngay trong một gia đình, khi cha mẹ thương người này nhiều hơn, người kia cũng thấy lòng buồn tủi và đâm ra hờn dỗi. Khi lớn lên, quan hệ với bạn bè, lòng đã biết “nhớ người dưng”, nếu thấy người mình thương trò chuyện với người khác, không ai có thể chịu đựng nổi và lòng bắt đầu ghen tuông vô cớ. Người đời là vâïy, ai cũng có sự ích kỷ trong tình cảm, lúc nào cũng muốn giành tình cảm về mình chứ không muốn nhường cho người khác. Bởi vậy, thật hiếm khi chúng ta bắt gặp ngoài đời một tình yêu cao thượng, yêu một người mà chấp nhận để người ấy đi thương người khác rồi nhìn thấy họ hạnh phúc mà vui. Ngược lại, chúng ta chứng kiến bao nhiêu bi kịch xảy ra ngoài đời xuất phát từ tình yêu. Không ít người vì ghen tuông, vì giành giật người thương đã nói chuyện với tình địch của mình bằng dao hoặc bằng acid. 

                        Đó là chuyện ngoài thế gian. Trong chùa, nếu không cẩn thận, người tu chúng ta cũng rơi vào sự ích kỷ trong tình cảm. Chẳng hạn, khi được quý Phật tử mến mộ, hay lui tới gặp gỡ trò chuyện, nếu ích kỷ, chúng ta chỉ muốn Phật tử giữ tình cảm đó cho riêng mình. Trong khi đó, người không ích kỷ lúc nào cũng muốn san sẻ tình cảm, muốn Phật tử thương yêu tất cả những huynh đệ của mình. Khi các Phật tử đến chùa, chúng ta nên tạo điều kiện để huynh đệ khác có dịp gặp gỡ để Phật tử thương mến họ như đã từng thương mến mình. Đó cũng là cách nhường nhịn, san sẻ tình cảm cho người khác. 

Vì tình cảm cũng là yếu tố quan trọng đối với con người và đôi khi người ta phải tranh giành với nhau một cách khốc liệt như vậy nên nhường được nó cho người khác là một điều rất khó. Nếu ai đó vẫn cho rằng bản chất của tình cảm trên cuộc đời này là không thể sẻ chia thì chúng ta vẫn luôn tâm niệm phải biết sống vì người khác. Khi cần thiết đem lại niềm vui, hạnh phúc cho người khác, chúng ta có thể nhường lại những gì mình đang có, kể cả những gì quý nhất. Sống được như vậy là chúng ta đã thành tựu được hạnh nhường nhịn.

Nhường nhịn thường có hai trường hợp. Có khi là nhường điều mình đang có sẵn cho người khác. Cũng có khi đó là điều đang đến, mình có ưu thế để thủ đắc nhưng sẵn sàng nhường lại cho người. 

Trường hợp thứ nhất, nhường cái gì mình đang có sẵn, cũng có ý nghĩa như bố thí, cúng dường. Chúng ta đang sở hữu một vật và khi nhường cho người khác thì vật ấy không còn nữa. Ví dụ, chúng ta có một cuốn sách phục vụ cho việc học. Cuốn sách quan trọng nhưng rất hiếm, cả lớp chỉ có được vài cuốn. Cảm thấy nếu giữ riêng chỗ mình, hằng ngày huynh đệ đến mượn để tham khảo rất bất tiện nên chúng ta liền nhường lại cho một huynh đệ nào đó vì chỗ người này có kệ sách đàng hoàng, các huynh đệ khác đến tham khảo tiện hơn. Như vậy, vì lợi ích của mọi người, mình sẵn sàng nhường cái mình đang có. 

Trường hợp thứ hai khó hơn một chút, nhường cái đang đến với mình cho người khác. Ví dụ, vào một buổi chiều đẹp trời nào đó, một Phật tử đến chùa phát tâm cúng dường một cái đồng hồ. Người ấy cũng chưa biết rõ sẽ cúng cho ai nhưng vì gặp chúng ta đầu tiên nên họ có ý định cúng luôn. Như vậy, chúng ta là người có ưu thế để nhận món quà ấy. Nhưng nghĩ mình không có gì đặc biệt để xứng đáng nhận chiếc đồng hồ trong khi cũng không cần lắm ( vì trong phòng đã có đồng hồ lớn ) nên chúng ta từ chối, đề nghị Phật tử cúng dường cho người khác cần hơn. Đó là nhường cái đang đến cho người khác ( trong khi mình không có ).

2. Ý NGHĨA ĐẠO ĐỨC CỦA HẠNH NHƯỜNG NHỊN. 

Nói đến hạnh nhường nhịn, chúng ta hiểu ngay đây là vấn đề mang ý nghĩa Đạo đức. Vì vậy, chúng ta không cần chứng minh vì sao nhường nhịn là Đạo đức mà chỉ cần nhận định ý nghĩa Đạo đức của công hạnh này. 

Trước hết, nhường nhịn gần giống với hạnh bố thí. Điều này cũng dễ hiểu vì từ cái đang có hay sắp có, mình nhường cho người khác để không có nữa. Đó là biểu hiện của Đạo đức, của tâm không vị kỷ.

Thứ hai, nhường nhịn cần có gốc tình thương. Vì phải thương yêu được người khác, chúng ta mới có thể nhường những ưu thế mình có cho họ. Nếu không thương yêu, dù ở ngoài đời hay trong Đạo, chúng ta cũng không thể nhường nhịn cho ai. Một khi đã nghĩ đến người khác, đã quý trọng thương mến họ, chúng ta sẵn sàng nhường cho họ những quyền lợi mình có. Khuynh hướng của lòng thương yêu là muốn cho người mình thương được tốt đẹp hơn, được nhiều thuận lợi hơn. Quyền lợi càng lớn, tình thương càng phải lớn hơn, chúng ta mới có thể nhường được. Nếu tình thương nhỏ hơn quyền lợi, chúng ta không bao giờ lập được hạnh nhường nhịn. 

 Với người tu chúng ta, được Trụ trì một ngôi chùa to cũng có thể coi là quyền lợi lớn. Nếu Phật tử nào đó đến cúng một ngôi chùa to và mình là người được Thầy chọn về làm trụ trì, chúng ta khó có thể nhường cho người khác vì quyền lợi quá lớn trong lúc mọi người trong chùa ai cũng ước mơ có được điều đó. Nhưng chúng ta thấy trong hàng huynh đệ còn có một người có đạo đức, độ lượng xứng đáng được hưởng quyền lợi này. Trong quá trình sống với nhau, chúng ta được người ấy thương yêu, nâng đỡ từng chút. Mặc dù học giỏi hơn và được Thầy chọn làm trụ trì nhưng chúng ta vẫn tìm cách thưa với Thầy, xin Thầy cho Sư huynh trụ trì và mình nguyện về đó làm Tri sự giúp Sư huynh. Như vậy, được trụ trì ngôi chùa to là một quyền lợi lớn nhưng tình thương đối với Sư huynh còn lớn hơn nên chúng ta sẵn sàng nhường lại. Chính vì vậy, chúng ta nói rằng  nhường nhịn cần cái gốc tình thương. 

Để thành tựu được hạnh nhường nhịn, chúng ta phải là người ít tham muốn, ít tham vọng và nhẹ ngã chấp. Ở đây, chúng ta cần phân biệt rõ hai khái niệm: tham muốn và tham vọng. Cả hai đều là tham, nhưng tham vọng là tham những điều lớn ( thường là về địa vị, quyền lực, danh tiếng…), còn tham muốn là tham những điều nhỏ nhặt, gần gũi trong cuộc sống. Vậy, muốn nhường nhịn được, hai cái tham này phải tồn tại rất ít trong con người. Lúc nào cũng thấy tâm hồn nhẹ nhàng tự nhiên, không vướng bận, không ham muốn điều gì cho mình, chúng ta sẽ dễ dàng nhường nhịn cho người khác. Từ những cái nhỏ nhặt như một cây viết đẹp, một chiếc đồng hồ đến những cái lớn lao hơn như chức vụ trong Giáo hội…, trong thâm tâm chúng ta không muốn nó là của mình nên sẵn sàng nhường lại cho huynh đệ. 

Người nhiều tham muốn luôn luôn mong mỏi có được nhiều thứ. Do đó, tâm họ rất mệt mỏi, phiền muộn. Vì họ phải luôn tranh giành, suy tư, vọng tưởng, tìm đủ mưu kế để có thể thu được mọi quyền lợi về mình. Trong khi đó, người tu hành chân chính, lòng nhẹ nhàng như mây, như gió không màng đến danh lợi. Người ít tham muốn, ít tham vọng chắc chắn sẽ có ngã chấp rất nhẹ. Khi gặp chuyện gì cũng nhường cho người khác, họ sẽ không giận hờn, không nổi sân khi bị người khác xúc phạm. 

Ngoài những yếu tố trên (có tình thương, ít tham muốn, ít tham vọng, chấp ngã nhẹ), chúng ta biết nhường nhịn còn do có suy nghĩ đúng. Ví dụ, nhân mùa Phật Đản, quý Phật tử mang vải vào cúng dường chùa. Chúng ta là người trực tiếp đứng ra nhận số vải đó và biết rất rõ, so với số Thầy trong chùa thì vải cúng dường thiếu một phần. Biết rằng, nếu chia đều từ trên xuống dưới, thế nào chúng ta cũng được một phần vì là người chúng lớn nhưng chắc chắn sẽ có một người không được nhận nên chúng ta đấu tranh tư tưởng hoài đến không ngủ được. Nếu nhường cho người khác thì chúng ta không có. Nếu im lặng, chúng ta vẫn được một xấp vải, người khác không có đành chịu, nhưng lương tâm ta không cho phép làm như vậy. Cuối cùng, chính suy nghĩ đúng đắn đã giúp chúng ta nhường nhịn cho người khác một cách dễ dàng.

Thứ nhất, chúng ta nghĩ rằng, nếu mình không nhận thì các huynh đệ sẽ được nhận đủ, ai cũng vui vẻ. Thứ hai, tuy không được bộ quần áo mới nhưng những bộ cũ của mình vẫn còn tốt. Mình chưa cần lắm nên nhường cho người khác cần hơn. Vả lại, không có vải, mình sẽ biết chủ động tiết kiệm vải vóc. Mặt khác, chúng ta nghĩ rằng, là người đầu tiên biết vải thiếu mà không làm gì để người khác chịu phần thiếu đó thì không xứng đáng với đạo đức của người xuất gia. Và đây cũng là dịp thử thách đạo đức của mình… Sau khi suy nghĩ như vậy, chúng ta quyết định không nhận phần của mình nhưng vẫn không nói cho ai biết vì nếu nói ra, chúng ta sẽ là người khoe khoang điểm tốt của mình. Điều đó hoàn toàn không hay. Hơn nữa, không nói ra là chúng ta muốn huynh đệ yên tâm, vì nếu biết chúng ta không có phần, những huynh đệ sẽ áy náy, sẽ rơi vào tâm trạng bất an. Đó là trường hợp nhờ suy nghĩ đúng mà chúng ta biết nhường nhịn. 

Hoặc khi được Thầy cử làm người đại diện cho trường đi dự một đại hội về Phật giáo, chúng ta cứ băn khoăn không biết có nên nhận danh dự đó hay không. Vì hơn ai hết, chúng ta rất hiểu bản thân mình. Tuy học giỏi và cũng có phần lanh lợi hoạt bát nhưng xét kỹ, chúng ta thấy mình chưa thật sự có uy đức. Trong đời sống, có những điều chúng ta nói vẫn chưa thuyết phục được huynh đệ. Nếu trước đại hội, những ý kiến phát biểu của chúng ta không hay sẽ hưởng đến uy tín của trường. Vì vậy, chúng ta đã xin Ban giám hiệu cho huynh đệ khác đi thay. Có thể về tài năng, người ấy không bằng mình nhưng chắc chắn họ có uy đức lớn hơn. Trong cuộc sống, huynh đệ ấy đã từng nhiều lần nói điều gì cũng được người khác nghe theo. Như vậy, do suy nghĩ đúng, chúng ta đã nhường danh dự cho người khác. 

Điều cuối cùng là do sức định nên chúng ta có thể nhường nhịn một cách dễ dàng. Người có định, trong tâm thường không có gì. Thực ra, định có nhiều lớp. Ở lớp đầu tiên, người vừa mới được định nhìn vào thấy tâm mình không có gì nhưng sự thật bên trong vẫn còn ẩn chứa những phiền não. Khi định sâu hơn, phá được nhiều phiền não, người tu sẽ thấy trong tâm không có gì. Chính chỗ tâm không có gì đó làm cho chúng ta biết đây là vốn sống, là điều đi ngược lại quan niệm sống của con người. Vì khi tâm chưa định, chúng ta nghĩ hạnh phúc là đạt được những gì cần phải có. Nhưng khi  đã được định, thấy được hạnh phúc của cái không có gì, chúng ta mới hiểu từ trước đến nay mình đã có quan niệm sai lầm. Người hiểu chính cái không có gì lại là hạnh phúc thì sẽ nhường nhịn được rất tự nhiên, dễ dàng. Chuyện gì đến, họ không muốn nắm giữ vì sợ phiền toái. Trong khi đó, để tâm rảnh rang, họ thấy khỏe hơn nhiều. 

Người có định, tâm không ở trong đầu mà chan hòa khắp nơi. Điều này chúng ta đã nói đến trong bài Hòa hợp. Người không có định, khi nhìn mọi người sẽ thấy mình và họ khác nhau. Nhưng người có định, tâm phủ hết mọi người nên thấy mình và người không khác nhau.  Cái mình có cũng như người ta có và người ta có cũng như mình có, không hơn thua, không tranh giành. Vì thế, khi quyền lợi đến, họ nhường cho mọi người một cách dễ dàng, không giữ lại gì cho bản thân mình. 

Như vậy, cái định có khả năng làm cho chúng ta dễ buông xả, nhường nhịn và làm thành Đạo đức. 

3. SỰ NHƯỜNG NHỊN - YẾU TỐ QUAN TRỌNG ĐƯA ĐẾN SỰ HOÀ HỢP, ĐOÀN KẾT, THÂN ÁI. 

Nói sự nhường nhịn là yếu tố quan trọng đưa đến sự hòa hợp, đoàn kết thân ái vì trước hết, nó giống với bố thí, có thể giúp chúng ta kết duyên lành với người khác. Hay nói cách khác, nhường nhịn làm cho người ta quý mến, thọ ơn mình. Ví dụ, chúng ta có một món đồ đẹp nhưng thấy người bạn thích quá nên nhường cho họ. Khi nhận món quà mình nhường lại, chắc chắn người bạn sẽ thương quý mình hơn. Hành động nhường nhịn ở đây cũng giống như bố thí vậy. Đó là kết duyên lành với người khác.

Một Thiền sư nói rằng : Khi một người đã đắc đạo thì nên đi kết duyên với chúng sinh để sau này giáo hóa. Nhiều khi ra ngoài, gặp ai đó, mình chửi mấy câu cho người ta chửi lại cũng là kết duyên để sau này giáo hóa. Thực ra, Bồ Tát không làm như thế. Bồ Tát chỉ kết duyên lành để sau này khi gặp lại, chúng sinh thương mến mà nghe mình giáo hóa chứ không bao giờ kết duyên dữ với chúng sinh. Sự nhường nhịn là cách tốt nhất để kết duyên lành. Sống với nhau trong một đại chúng, người này biết nhường nhịn người kia sẽ tạo thành duyên lành với nhau. Mọi người sẽ nhìn nhau bằng ánh mắt thương mến, tạo nên sự đoàn kết, thân ái.

Sống trong cuộc đời này, con người đã đấu tranh khốc liệt để giành giật với nhau từng quyền lợi. Sự đấu tranh đó dù công khai hay ngấm ngầm đều xuất phát từ lòng vị kỷ. Có khi thấy người khác được mọi người thương mến, dù không nói ra nhưng trong lòng mình nảy sinh sự ganh ghét. Khi có cơ hội, mình sẽ nói xấu một cách bí mật để hạ uy tín của họ. Đó là sự cạnh tranh ngấm ngầm. Hoặc có khi sự cạnh tranh diễn ra công khai hơn, khốc liệt hơn. Nhìn vào một số quốc gia trên thế giới mỗi kỳ bầu cử Tổng thống, Thủ tướng…, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Họ tìm mọi cách tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng để giành địa vị, quyền chức cho mình, kể cả mạt sát, nói xấu đối tượng cùng ra tranh cử. Những lúc như vậy, họ không cần che giấu tham vọng cũng như  ý đồ của mình. Họ chỉ biết đấu tranh quyết liệt, không lịch sự, không nhường nhịn. 

Giữa thế giới đầy sự cạnh tranh khốc liệt như vậy, người biết nhường nhịn tự nhiên thoát ra ngoài một cách an nhiên, tự tại. Đó cũng là một sự giải thoát. Cứ nhìn hình ảnh những con chó đang đùa giỡn với nhau bỗng quay ra cắn xé lẫn nhau khi có người quăng cho một khúc xương, chúng ta sẽ giật mình nghĩ đến thân phận làm người của mình. Lúc bình thường, mọi người đều sống với nhau rất vui vẻ. Nhưng đứng trước một quyền lợi nào đó (tiền bạc, danh dự, địa vị…), họ bắt đầu nhìn nhau bằng ánh mắt khó chịu, nghi kỵ lẫn nhau và tìm mọi cách giành giật quyền lợi về mình. Cuộc đời này là như vậy. Trong vòng luân hồi sanh tử quay cuồng, vị Thánh giải thoát là người bước ra khỏi vòng sanh tử một cách an nhiên tự tại. Trong hiện tại, chúng ta chưa đủ sức để bước ra khỏi vòng sanh tử nhưng nếu có đạo đức, biết nhường nhịn, chúng ta sẽ bước ra khỏi guồng quay khắc nghiệt của cuộc đời một cách nhẹ nhàng thanh thản như hình ảnh của người được giải thoát. Và khi đã nhường nhịn, tự nhiên chúng ta không còn là đối tượng của sự ganh tỵ nữa. 

Chúng ta đã biết, sống trên cuộc đời này, con người rất cần tình thương. Không ai có thể sống cô đơn, không cần sự tương quan, giao lưu với người khác. Mỗi người đều có trái tim khao khát tình thương yêu, luôn mong muốn được yêu thương người khác và được người khác thương yêu mình. Đó chính là hạnh phúc lớn lao nhất của con người. Bởi vậy, người có Đạo đức luôn có ý thức xây dựng tình đoàn kết thân ái giữa người và người. Nếu ai phá sự hòa hợp, phá tình đoàn kết giữa người và người, nhất là trong Tăng chúng, sẽ phạm tội rất nặng. Trong năm tội lớn được nhắc đến trong đạo Phật có tội phá hòa hợp. Trong phạm vi hẹp, đó là phá sự hòa hợp Tăng chúng, làm cho Tăng chúng chia rẽ. Nhưng hiểu rộng hơn, đó là phá đi sự đoàn kết giữa người và người. Chuyện đó có thể được coi là tội ngũ nghịch, là đại tội.

Trái lại, người xây dựng được sự hòa hợp cho Tăng chúng, phước sẽ rất lớn. Có nhiều cách xây dựng sự hòa hợp giữa người và người, giữa Tăng chúng với nhau nhưng cách tốt nhất vẫn là nhường nhịn. Nếu ai cũng biết nhường nhịn, không tranh giành với nhau điều gì thì Tăng chúng sẽ vui vẻ, hòa hợp. Chúng ta có thể lấy một ví dụ đơn giản như sau: Một hôm, trong Tăng chúng bầu ra một người giữ chức gì đó nhưng ai cũng muốn nhường cho huynh đệ mình. Người này nhường qua, người kia nhường lại. Cuối cùng cũng chọn được một người nhưng người được bầu cũng không muốn giữ chức đó. Vì thế, tuy cũng có người giữ chức cao hơn, có ưu thế hơn nhưng trong Tăng chúng không có sự chia rẽ vì trong thâm tâm, ai cũng muốn nhường điều tốt cho người khác, không ai là đối tượng ganh tỵ của ai. 

Như vậy, chỉ cần có tâm nhường nhịn, chúng ta đã tạo được công đức vô cùng lớn vì xây dựng được hòa hợp cho đại chúng. Các cư sĩ cũng vậy, muốn giữ tình thân ái giữa người và người, phải biết nhường nhịn lẫn nhau. 

Để dễ được thiện cảm với người khác, một điều nữa cần lưu ý là chúng ta luôn nhận phần ít hơn và đứng ở chỗ thấp hơn. Nếu trong đám đông, chúng ta luôn chen lấn để được đứng trước mọi người thì sẽ gây cho họ cảm giác khó chịu. Vì việc giành vị trí tốt ấy khiến người ta nghĩ rằng mình muốn nổi bật và muốn hưởng quyền lợi nhiều hơn. Lúc ấy, người ta sẽ không có thiện cảm với mình, sẽ coi thường mình. Trong khi đó, nếu cứ tìm một chỗ đứng khiêm tốn, cứ nhận phần thiệt thòi nhất, tự nhiên chúng ta sẽ được mọi người thương mến.  Đó cũng là một kinh nghiệm sống rất hay mà mỗi người cần phải học hỏi.

4. NHỮNG ĐIỀU TỒN TẠI TRONG TĂNG ĐOÀN. 

Hiện nay, trong Tăng đoàn cũng có nhiều điều để các thầy cạnh tranh với nhau rất khốc liệt. Trong đó, tín đồ cũng là đối tượng cạnh tranh ngấm ngầm giữa các thầy và các chùa vì đó là nguồn lợi và cũng là danh dự. Chùa nào hoặc thầy nào có đông tín đồ cảm thấy mình vẻ vang hơn, nổi tiếng hơn. Nếu muốn xây chùa to, họ sẽ có được nhiều người đóng góp hơn, đời sống cũng thuận lợi hơn… Nói ra điều này, chúng ta cảm thấy đau lòng nhưng đó là sự thật không thể phủ nhận được. Đôi khi muốn giành Phật tử về mình, có thầy đã tìm cách hạ danh dự của thầy khác. Nhiều khi thầy này còn tỏ ra khó chịu khi nghe Phật tử đã quy y với chùa khác. Đây chính là nguyên nhân làm chia rẽ Phật pháp. Những người như vậy về sau sẽ mất tất cả, vì nếu gặp người có trí tuệ, họ sẽ đánh giá ngay đó là người không tốt, vừa gặp mặt đã nói xấu người khác. Đó là nguyên nhân gần. Xa hơn nữa, người hay nói xấu người khác sẽ bị quả báo. Sau này, chính mình phạm rất nhiều điều tồi bại, mất danh dự, mất tất cả, không còn ai coi trọng mình nữa. Theo luật Nhân Quả, chỉ có những người luôn nhường cho người khác sau này sẽ được tất cả mọi điều. Tất nhiên, không phải ai nhường nhịn cũng vì muốn được tất cả sau này, mà nhường nhịn chỉ vì tình thương yêu, nhưng quả báo sẽ như vậy. 

Để tạo không khí hòa hợp trong Phật pháp, trong buổi lễ quy y, Thầy bổn sư nên căn dặn Phật tử ghi nhớ quy y Tăng là quy y muời phương Tăng. Tuy chỉ  quy y với một Thầy bổn sư nhưng quý Phật tử đều phải đến nương tựa, học hỏi, thừa sự, cúng dường bất cứ nơi nào có Thầy, Cô tu hành chân chính. Ngay cả trong giáo lý, không phải lúc nào chúng ta cũng đồng quan điểm với mọi người. Nhưng dù bất đồng quan điểm, chúng ta cũng không được phép vì thế mà tạo sự chia rẽ trong Phật pháp. Điều gì chưa thống nhất, chúng ta nên góp ý, xây dựng với nhau bằng tình thương yêu, không được chê bai, dè bĩu, nói xấu để dẫn đến chia rẽ. 

Chức vụ trong Giáo hội cũng là một nguyên nhân khiến nhiều người trong đạo đấu tranh giành giật lẫn nhau. Một vài nơi, người ta tìm cách đấu tranh, hành động ngấm ngầm bên trong, mua chuộc chính quyền để giữ được chức gì đó trong Giáo hội. Trong khi đó, những Thầy thực sự có năng lực, đạo hạnh lại không muốn giữ chức gì cả. Hiện nay, trong Giáo hội cũng có những người tốt, lo được cho Tăng Ni nhưng trường hợp này rất ít. Đây cũng là điều đau lòng còn tồn tại trong Phật giáo. 

Địa vị trụ trì trong Phật giáo cũng vậy. Sau vị khai sơn ban đầu, vị trí trụ trì cũng là điều cạnh tranh dữ dội giữa các huynh đệ. Khi vị Thầy lớn đã viên tịch, những huynh đệ ngang hàng với nhau ai cũng muốn mình là người thay Thầy giữ chức trụ trì. Đây cũng là điều khó xử. Câu chuyện về Thầy Thiện Phát, từng giữ chức trụ trì chùa Thường Chiếu, cũng là bài học về sự nhường nhịn. Trước kia, khi còn ở dưới miền Tây, do là người đức độ nên Thầy được Sư phụ giao lại chùa để trụ trì khi Sư phụ tịch. Lúc bấy giờ, trong chùa chỉ có hai huynh đệ. Nhưng người Sư đệ quyết vận động Phật tử đấu tranh để giành chùa. Vừa thấy được ý đó của Sư đệ, trong một đêm tối trời, Thầy đã rời khỏi chùa trong tay chỉ có một tay nải với một vài bộ quần áo. Thầy không muốn xảy ra  tình trạng tranh giành, nói xấu lẫn nhau nên để cho Sư đệ ở lại trụ trì chùa. Sau đó, Thầy tiếp tục đi học. Nhưng người có đạo đức, nhất là có tâm nhường nhịn thường có phước nên đi đâu cũng được trọng vọng. Còn vị Sư đệ kia ở lại với chức trụ trì ngôi chùa đó đã làm những điều xằng bậy, vì người ấy trụ trì xuất phát từ tâm xấu, từ tâm tranh giành, chiếm đoạt. Một khi khởi điểm không tốt, người ta sẽ tiếp tục làm những điều không tốt. Đó là lẽ đương nhiên. 

Hiện nay, Giáo hội thường mở những khoá tập huấn trụ trì để các vị Thầy trụ trì có thêm kiến thức, có thêm quan điểm làm việc đạo tốt hơn. Đây cũng là điều tốt. Nhưng nếu không cẩn thận, việc làm này dễ nảy sinh tiêu cực. Vì sau khi kết thúc khoá học, trong tâm ai cũng ước mơ sau này được làm trụ trì. Nhiều thảm cảnh của Phật giáo xảy ra bắt đầu từ đó. Ví dụ, trong lớp có 50 học Tăng, ai cũng mơ ước sau này mình trụ trì một ngôi chùa. Nếu điều đó thành hiện thực nghĩa là phải xây thêm 50 ngôi chùa nữa. Phật tử làm sao có đủ khả năng để xây thêm 50 ngôi chùa như thế ? Hơn nữa, nếu ai cũng mong được làm trụ trì, chùa sẽ phát sinh một cách bừa bãi góp phần làm cho Phật giáo ngày càng suy yếu. 

Giáo hội nên xem trụ trì là một hệ thống điều hành của chùa chứ không phải là vị trí của một người. Bên cạnh người trụ trì, chùa còn có những người giáo thọ, tri sự, giám viện, tri khố…Đó là những người có trách nhiệm hỗ trợ cho nhau, cùng làm việc đạo với nhau tạo nên sức mạnh đoàn kết làm cho đạo Phật ngày càng phát triển. Vì vậy, những khoá tập huấn trụ trì cần bổ sung về giá trị của những vị đứng ở vai trò hỗ trợ cho trụ trì hơn là chỉ nói về vai trò trụ trì khiến các tu sĩ chỉ thích kiếm chùa trụ trì mà không tập hợp để hỗ trợ cho nhau. 

Nếu 50 người trong khoá học đều không muốn làm trụ trì, vì không tham vọng, thích nhường nhịn và thích hỗ trợ cho người khác thì việc đạo sẽ rất tốt. Nếu ai cũng giành chức trụ trì thì mỗi chùa một người, suốt ngày lo việc giành Phật tử với chùa khác làm sao lo được việc cho đạo. Ngược lại, trong 50 người ấy chỉ cần có 3 ngôi chùa để mọi người cùng về ở chung với nhau, cùng lo việc đạo. Nếu phải nhận thêm hai, ba trăm người nữa, trong chùa vẫn tràn đầy tình thương yêu, vẫn hòa hợp đoàn kết. Nhờ vậy, Phật pháp được chấn hưng rực rỡ. Đó là phước của Phật pháp, phước của chúng sinh. 

Khi còn ở trong đại chúng, chúng ta phải tập hạnh nhường nhịn. Bắt đầu là nhường nhịn những điều nhỏ nhặt như : một lời khen, ít vải vóc, bánh trái hay một sự ưu ái… Tập hạnh nhường nhịn, chúng ta sẽ diệt trừ tâm tham lam, tranh giành. Sau này, trước những quyền lợi lớn lao hơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhường nhịn cho người khác. 

5. NHÂN QUẢ.  

Vậy, Nhân Quả của một người biết nhường nhịn là gì ? 

Trước hết, người có hạnh nhường nhịn sẽ được hạnh phúc trong hiện tại với lòng thanh thản. Một khi đã không tham lam, không tranh giành với ai, luôn nhường nhịn điều tốt đẹp cho người khác, lòng chúng ta sẽ bình thản, an vui không có điều gì phải phiền não.  Mặt khác, nếu biết nhường nhịn, chúng ta sẽ được nhiều người thương yêu,  quý mến. 

Trong tu tập Thiền định, người biết nhường nhịn là người không tham sân nên dễ vào định. Những người như vậy chắc chắn sẽ đi đến giải thoát thật sự về sau. 

Về lâu dài, người luôn nhường nhịn sẽ được quả báo lành đến một cách tự nhiên, thuận lợi và bền bỉ. Trường hợp của vua Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn) là một ví dụ. Khi vua Lê Ngọa Triều mất, quần thần tự nhiên bầu ông lên làm vua mà không cần phải đấu tranh, giành giật với ai. Đó là quả báo của việc nhường nhịn ở những đời trước. Quả báo ấy đến một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và bền bỉ vì không ai cạnh tranh, ganh tỵ. Tất nhiên, khi nhường nhịn, chúng ta không mong điều gì cho mình nhưng nhân quả là vậy, điều tốt vẫn đến tự nhiên và bền bỉ, vững chắc. 

6. BỐN  HẠNG NGƯỜI TRONG CUỘC ĐỜI.

Trong cuộc đời, người ta thường chia con người ra làm 4 hạng : người tiểu nhân, người quân tử, người gian hùng và người anh hùng. 

Người tiểu nhân là người kém tài mà vô đức. Hạng người này có tâm hẹp hòi, tính tình gian xảo, chuyên nói xấu, công kích thiên hạ. 

Người quân tử là người có đạo đức nhưng chưa hẳn là người có tài năng lớn. Hạng người này tuy chưa làm được việc gì lớn cho cuộc đời nhưng đạo đức lan tỏa chung quanh làm cho mọi người dễ chịu an vui. 

Người gian hùng là người rất có tài nhưng cũng rất mưu mô, xảo quyệt và thâm hiểm. Vì có tài, họ có thể chi phối, tác động được nhiều người. Vì mưu mô, họ có thể giành quyền lực và tiền bạc, thao túng và gây ảnh hưởng lớn đến cuộc đời. Hạng người này có tài lớn nhưng không có lợi cho mọi người. Nếu nắm được tiền bạc và quyền lực, họ sẽ là tai hoạ cho xã hội. 

Ngược với kẻ gian hùng là người anh hùng. Đó là người có đạo đức lớn và tài trí cao. Chỉ có những người này mới có thể chống lại kẻ gian hùng để bảo vệ cuộc đời. Nếu không có họ, suốt đời chúng ta chỉ sống dưới cái bóng, dưới quyền lực của những kẻ gian hùng. Trong cuộc đời, nếu có được nhiều người anh hùng, con người có thể chống lại được âm mưu của những người xấu. Là người tài giỏi nhưng có đạo đức cao nên khi nắm được quyền thế, người anh hùng không bao giờ vì bản thân mình mà luôn vì lợi ích của mọi người. 

Thực ra, người quân tử có một nhược điểm lớn là có đạo đức mà không có tài, đôi khi trở nên nhu nhược. Trước sự mâu thuẫn, tranh giành, họ thường bỏ cuộc, sẵn sàng nhường địa vị, trách nhiệm lại cho kẻ xấu. Vì thế, quyền hành trong xã hội , trong cơ quan dễ bị người xấu, người bất tài vô dụng nắm giữ. 

Mặc dù chúng ta khuyến khích mọi người tập hạnh nhường nhịn nhưng nhường nhịn phải hợp lý, đúng đối tượng. Sự nhường nhịn sai lầm cũng là một tai họa cho nhiều người và gieo một nghiệp bất thiện cho chính mình. Ví dụ, một người có đức, có tài xứng đáng làm Chủ tịch huyện nhưng trước sự tranh giành của người khác, người ấy nhường luôn vị trí đó. Người được nhường lại là người xấu nên khi nắm quyền, họ tham ô, hối lộ, làm mất uy tín của Nhà nước, làm tổn hại quyền lợi của nhân dân…Vậy, việc nhường nhịn đó đã gây tai hại cho mọi người nên tội rất nặng.

 Không chỉ riêng việc ngoài đời của người Phật tử, việc trong chùa, trong chúng, trong giới tu hành cũng vậy. Chẳng hạn, nếu chúng ta giữ chức chúng trưởng thì đại chúng trong chùa ổn định. Nhưng thấy có người thích quá, chúng ta lại nhường cho họ. Khi làm chúng trưởng, người ấy không có khả năng, lại nay chuyện này, mai chuyện nọ làm cho chúng không tu được. Vì thế, tội của chúng ta cũng rất nặng. 

Một điều nữa chúng ta cũng cần lưu ý là phải dùng trí tuệ phán đoán khi nào nên nhường nhịn và khi nào phải gánh vác trách nhiệm. Chúng ta thường quan niệm giải thoát là cái gì an nhiên tự tại, thong thả, bước ra bên ngoài, khác với thái độ xông pha, gánh vác trách nhiệm. Vì vậy, trước sự tranh giành trên cuộc đời này, chúng ta lại có khuynh hướng không xông pha, thích lui về ở ẩn. Nhưng chúng ta đâu biết rằng, sự giải thoát cần công đức rất lớn. Đối với việc nhường nhịn, nếu nhường nhịn đúng sẽ tạo thành công đức, ngược lại, nếu nhường nhịn sai, chúng ta sẽ mất công đức. Một khi công đức đã mất, chúng ta không thể đi đến giải thoát được. Đây là điều rất khó. Bởi vậy, không phải lúc nào chúng ta cũng nhường nhịn, cũng chứng tỏ mình là người có đạo đức vì có khi sự nhường nhịn của chúng ta chỉ đem lại yên ổn cho bản thân mình, trong khi đó những người khác phải chịu những tai họa.

 Đức Phật của chúng ta là người có hạnh nhường nhịn rất cao cả. Ngài sẵn sàng nhường lại ngai vàng cho người khác để bước vào con đường tu hành gian khổ. Nhưng trong cuộc đời mình, có lúc Ngài cũng rất cương quyết, không dễ dàng nhường nhịn cho người khác. Một lần, Đề Bà Đạt Đa nói với Đức Phật: 

- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn bây giờ đã già rồi, xin Thế Tôn hãy giao quyền lãnh đạo Tăng đoàn lại cho con, con sẽ thay Thế Tôn lãnh đạo Tăng đoàn.

Ngài đã trả lời:

- Này Đề Bà Đạt Đa, Như Lai tự biết làm việc gì đúng thời, nghĩa là cái gì đúng, hợp lý Như Lai sẽ làm. 

Đức Phật không nói thẳng là ta không giao Tăng đoàn lại cho ông nhưng rõ ràng Ngài đã không nhường. Ngày xưa, Ngài đã từng nhường ngai vàng cho người khác. Vì ngai vàng, vương vị với đầy những cung vàng điện ngọc, vàng bạc, quyền hành tuy vinh quang, vẻ vang nhưng chỉ phù du, tạm bợ. Lúc lãnh đạo Tăng đoàn, Ngài lại không nhường. Mặc dù quyền lãnh đạo Tăng đoàn không lớn lao, không có gì vinh quang nhưng với Ngài nó là giềng mối của đạo đức muôn đời cho nhân loại. Ngài phải giữ gìn giềng mối đạo đức ấy cho chúng sinh. Sau này, tự Tăng đoàn đã xếp mình dưới quyền lãnh đạo của ngài Ma Ha Ca Diếp vì ngài Ma Ha Ca Diếp là người có đức độ lớn. Cứ thế, quyền lãnh đạo Tăng đoàn dần dần truyền qua những vị khác. 

Ngày nay, cũng có những người quyết đấu tranh không nhường nhịn vì quyền lợi của mọi người. Cách đây không lâu, có một Thầy được mời về trụ trì một ngôi chùa nhưng người giữ chùa đã bí mật tìm cách đuổi vị Thầy đó đi. Biết đây là người không có đạo đức nên vị Thầy ấy đã không đi và yêu cầu mời các Phật tử họp lại để họ quyết định. Khi Phật tử họp lại, tất cả đều đồng ý để vị Thầy kia làm trụ trì. Sau đó, người giữ chùa đã tìm cách hại Thầy trụ trì đủ điều nhưng người ấy vẫn kiên trì chịu đựng. Thầy quyết tâm giữ lại chùa để giao lại cho người tốt. Sau này, chùa được giao lại cho các Sư cô trụ trì. Việc làm của vị Thầy kia hoàn toàn đúng đắn. Dù không ở được, Thầy cũng không để cho người xấu ở, kiên quyết đấu tranh giữ chùa cho người tốt nhằm góp phần phát triển Phật pháp. 

Vì vậy, không phải lúc nào nhường nhịn cũng là việc làm đúng. Chúng ta phải cân nhắc, suy xét dựa vào tài đức của mỗi người và phải nghĩ đến lợi ích của mọi người. Chẳng hạn, trước một chức vị gì đó, chúng ta biết ưu thế đang thuộc về mình nhưng nếu muốn nhường cho huynh đệ khác, chúng ta phải cân nhắc giữa mình và người huynh đệ kia, ai tài đức lớn hơn. Nếu thực sự người kia có tài đức hơn mình, có thể đem lại lợi ích cho Tăng chúng nhiều hơn, chúng ta sẵn sàng nhường vì nghĩ đến lợi ích của nhiều người. Nếu xét kỹ, thấy tài đức của huynh đệ kia không thể làm lợi cho Tăng chúng khi giữ chức vị này, chúng ta không được nhường. Vì lúc ấy, việc nhường của chúng ta trở thành việc bất thiện, làm mất công đức. 

Tóm lại, chúng ta không có tiêu chuẩn rõ ràng để nhường nhịn nhưng mỗi người phải có trí tuệ tự xét đoán trong từng trường hợp và đừng để rơi vào ảo tưởng. Vì có những trường hợp, nếu nhu nhược, nhường cho người kém tài kém đức, chúng ta sẽ đem lại tai họa cho người khác. Nhưng có trường hợp quá chủ quan, tưởng mình giỏi hơn người khác, chúng ta không chịu nhường mà giữ lại cho mình cũng gây nên tai họa cho người và tạo nghiệp bất thiện cho mình.  Cả hai trường hợp đều sai lầm. Bởi vậy, trong việc này, chúng ta cần phải tỉnh táo, sáng suốt.

1. TRONG CUỘC SỐNG, RẤT NHIỀU GIAO ƯỚC CHO TƯƠNG LAI ĐƯỢC THIẾT LẬP BỞI LỜI HỨA. 

Giữ lời hứa là bài học thứ ba nói về Đạo đức của ngôn ngữ (sau hai bài: Hạnh chân thật và Làm chủ lời nói). Chúng ta đã biết, hứa hẹn là việc hướng về tương lai, nhưng người tu theo đạo Phật thường sống theo quan niệm: 

“ Không truy tìm quá khứ

Không ước vọng tương lai

Quá khứ đã qua rồi

Tương lai lại chưa đến

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính là đây

Bất động chẳng lung lay

Hãy thực hành như thế”

Người biết tu theo Phật pháp không bận tâm về những việc đã xảy ra trong quá khứ, cũng không ước mơ hướng đến cuộc sống vị lai. Họ chỉ thanh thản sống trong đời sống của hiện tại. Sự thật, khi đi tìm đến tận cùng của cái gọi là hiện tại để mình có thể an trú, chúng ta lại không thấy cái gì gọi là hiện tại nữa. Trên thực tế cuộc sống, hiện tại không bao giờ là một khoảnh khắc độc lập với quá khứ và vị lai. Hiện tại vẫn là một mắc xích trong sự diễn tiến của thời gian không bao giờ dừng trụ. Vì vậy, từ bỏ quá khứ hay vị lai để an trú trong hiện tại cũng không phải là điều có thật mặc dù trên sự dụng công tu tập, chúng ta tưởng là như thế. 

Vì hiện tại là kết quả của quá khứ nên bao nhiêu việc chúng ta làm trong quá khứ đều tạo thành đời sống trong hiện tại. Và con người đang sống ngày hôm nay có muôn ngàn tiếng vọng của ngày hôm qua. 

Ví dụ, ngày hôm nay có thiện căn được thanh thản tu tập, không bị bao nhiêu điều gia duyên ràng buộc làm lụy phiền đau khổ để một mai đem trí tuệ, đạo hạnh ra giữ gìn Phật pháp, làm lợi ích cho chúng sinh, chúng ta đã phải tạo biết bao công hạnh từ những kiếp trước. Nghĩa là chúng ta đã thường xuyên cúng dường Tam Bảo, tu tập thiền định, làm rất nhiều điều lành. Với mái đầu còn xanh tóc, chúng ta đã khước từ được cuộc sống thế gian để bước vào con đường đạo là kết quả của việc tích lũy từ của quá khứ. Không nói đâu xa, bây giờ được ngồi đây tu tập, chúng ta cũng trải qua biết bao ngày tháng phấn đấu tu hành. Từ lúc còn sống với gia đình đến khi gặp Phật pháp, tập ăn chay, đi chùa, rồi xin cha mẹ xuất gia…, chặng đường ấy vô cùng khó khăn, không đơn giản chút nào. Khi được vào chùa, chúng ta cũng phải nỗ lực học tập, phấn đấu để được Thầy Tổ cho đi học lớp Cơ bản Phật học và nhiều chương trình cao hơn nữa. Nếu bây giờ chúng ta phá vỡ kết quả ấy thì vị lai sẽ đi qua một hướng khác. Chúng ta không còn bình yên để tu tập nữa. 

Như vậy, quá khứù đã tạo nên hiện tại và hiện tại sẽ tạo nên cuộc sống vị lai cho con người. Nếu trong hiện tại chúng ta học giỏi, tu tập tiến bộ thì tương lai sẽ gặt hái được những điều tốt đẹp. Chẳng hạn, một người học hành giỏi, có uy tín sẽ được quý Thầy trong trường sắp xếp cho đi học lớp Cao cấp Phật học. Hoặc người nào phát tâm tu hành, quý Thầy sẽ trợ duyên cho nhập thất. Hoặc người có hạnh tốt, đối với chúng luôn từ bi thương yêu, hy sinh nhường nhịn thì lớn lên quý Thầy sẽ đề nghị cho trụ trì hay làm Giáo thọ ở một ngôi chùa nào đó. Hoặc trong hiện tại, nhờ biết siêng năng tinh tấn tu tập, biết hy sinh, nhường nhịn mọi điều cho huynh đệ nên sau này phước lành sẽ đến với chúng ta một cách tự nhiên. Chúng ta sẽ được người khác đem đến biết bao điều tốt đẹp. Rõ ràng, quá khứ đã làm nên hiện tại và quá khứ cùng với hiện tại làm thành vị lai. Đó là một tiến trình tự nhiên. 

Vậy, vị lai có ảnh hưởng ngược lại hiện tại không?  

Vị lai là cái chưa xuất hiện nhưng sự thật lại có ảnh hưởng đến đời sống hiện tại của chúng ta. Những dự định, những toan tính cho tương lai đã tạo cho mình một thái độ ứng xử trong hiện tại. Ví dụ, khi còn học lớp Cơ bản, có người đã dự định sau này sẽ học lên Cao cấp, quyết tâm thi vào Học viện Phật giáo. Người có hướng như vậy sẽ rất siêng năng, ngày đêm nghiên cứu sách vở, trau dồi Anh Văn để thi vào cho đạt. Trong khi đó, người khác lại dự định học xong Cơ bản sẽ nhập thất ba năm nên không học một cách miệt mài, cuồng nhiệt. Họ chỉ cần học vừa đủ để đối phó và thời gian còn lại chuyên dành cho việc ngồi thiền, đọc sách thiền. Người khác được Thầy hứa sẽ cho trụ trì một ngôi chùa sau khi học xong nên việc quan trọng với họ lúc này là tìm hiểu “nghệ thuật” trụ trì. Suốt ngày người ấy cứ băn khoăn không biết khi trụ trì làm sao để nhiều Phật tử nghe theo, muốn cất chùa phải như thế nào, làm sao nuôi được chúng ? Nghĩa là người ấy chỉ lo toàn chuyện trụ trì, không lo nhiều đến việc học cũng như việc tu. Như vậy, dự định cho vị lai đã ảnh hưởng rất lớn đến thái độ sống, tu học của chúng ta trong hiện tại. 

 Ngoài ra, còn một điều nữa cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiện tại. Đó là lời hứa hẹn. Trong cuộc sống, rất nhiều kế hoạch của người này dựa vào lời hứa của người kia. Chẳng hạn, có người hứa cho mình một điều gì đó. Thế là chúng ta đã đặt hy vọng và vạch kế hoạch cho đời sống của mình dựa vào lời hứa của họ. Nếu người ta hứa với mình một điều nhỏ, chúng ta sẽ đặt một phần nhỏ cuộc đời mình vào đó. Nhưng nếu họ hứa điều lớn lao hơn, chúng ta sẽ đặt vào đó phần lớn cuộc đời mình. 

Thử lấy một ví dụ trong cuộc sống của người thế gian, chúng ta sẽ hiểu điều đó: Người A có ngôi nhà trị giá khoảng bốn chục cây vàng. Người ấy muốn mua ngôi nhà khác khoảng sáu chục cây để tiện việc buôn bán nhưng không đủ tiền nên chưa tiến hành được. Người B thấy vậy bèn hứa: “ Bây giờ anh bán nhà đi, tôi sẽ cho anh mượn hai mươi cây vàng nữa để mua ngôi nhà đó”. Người A mừng quá vội bán ngôi nhà của mình và vạch ra kế hoạch làm ăn khi mua ngôi nhà mới. Như vậy, kế hoạch của người A đã dựa vào lời hứa của người B.

Tuy nhiên, nếu lời hứa không được giữ thì kế hoạch có thể thất bại. Ví dụ, ông A bán xong ngôi nhà nhưng ông B lại nuốt lời vì lý do có nhiều việc xảy ra bất ngờ nên không có tiền cho mượn nữa. Vì vậy, ông A không thực hiện được kế hoạch của mình và rơi vào một hoàn cảnh éo le, phải sống vất va vất vưởng một thời gian khi chưa mua lại được căn nhà khác. Nếu cứ đặt cuộc đời mình vào lời hứa của người khác mà người ấy không giữ lời hứa, chúng ta sẽ bị thất bại. Đây mới chỉ là một trường hợp rất đơn giản. Vì dù sao ông A vẫn có một số tiền có thể xoay xở theo cách khác. 

Hoặc có người hứa nếu chúng ta cố gắng học, xong lớp Cơ bản và đậu lớp Cao cấp họ sẽ cho một chiếc xe máy để đi học. Chúng ta đã hết sức cố gắng, ngày đêm miệt mài học tập và kết quả đã được như ý nguyện. Nhưng lúc bấy giờ người kia không giữ lời hứa. Khi đi học, chúng ta phải đạp xe mấy chục cây số. Tuy nhiên, điều này cũng không ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của chúng ta vì lời hứa của họ chỉ là một phần trong cuộc sống và chúng ta cũng chỉ đặt vào đó một phần niềm tin mà thôi. 

Trong cuộc sống của người thế gian, có những trường hợp vì người này thất hứa với người kia mà xảy ra những bi kịch đau lòng. Ví dụ, một chàng trai hứa với một cô gái sẽ lấy cô ta làm vợ và yêu thương cô ấy suốt đời. Nhưng anh ta lại không giữ lời hứa. Hoàn cảnh sống thay đổi, gặp người mới, anh ta vội quên cảnh cũ người xưa. Còn cô gái, vì đã đặt hết niềm hy vọng của cuộc đời mình vào lời hứa ấy nên vô cùng đau khổ. Trong cơn tuyệt vọng, cô ta đã hành động mù quáng là tìm đến cái chết để mong thoát khỏi nỗi đau khổ tột cùng ấy. Hoặc thấy một cô gái nghèo khổ đang cần tiền để thay đổi cuộc đời mình, người ông nọ liền gieo niềm hy vọng là hứa giúp vốn để cô gái làm ăn. Như người chết đuối vớ được chiếc phao, cô gái từ bỏ tất cả để theo người đàn ông với hy vọng được ông ta giúp đỡ. Nhưng không ngờ, những lời hứa của ông ta chỉ là những lời nói dối. Cô gái quá thất vọng vì rơi vào bước đường cùng nên đã quyên sinh. 

Như vậy, hứa một lời quan trọng khiến người ta đặt hết cuộc đời vào đó nhưng chúng ta lại không giữ lời hứa làm họ thất vọng là một bất thiện nghiệp. Chúng ta sẽ mang tội rất nặng. Tuỳ theo lời hứa lớn hay nhỏ mà tội sẽ nhiều hay ít. Lời hứa tuy thuộc về vị lai nhưng lại ảnh hưởng lớn đến cuộc sống trong hiện tại của con người. Do đó, chúng ta phải cẩn thận trong lời hứa, không được hứa bừa cho qua chuyện. Một khi đã hứa với ai điều gì, chúng ta phải quyết tâm thực hiện cho bằng được. 

Có hai trường hợp vi phạm lời hứa:

Có khi lúc đầu người ta hứa thật lòng nhưng sau đó đổi ý. Đây là tội bội tín. Nghĩa là không giữ lời hứa, làm ngược lại với uy tín, với lời hứa của mình. Có thể lúc ấy, do sự bồng bột hoặc do thích thú điều gì đó một cách nhất thời, người ta đã hứa rất nồng nhiệt, chân thành. Nhưng khi suy nghĩ lại, thấy lời hứa của mình thật vô lý, dại dột, người ấy đã đổi ý. Ví dụ, trong lúc cao hứng, muốn chứng tỏ mình là người rộng rãi, hào phóng, nguời này đã hứa với người kia: “ Bao giờ anh cất nhà, tôi sẽ giúp anh mười bao xi măng”. Nhưng khi về nhà tính lại, thấy mười bao xi-măng không phải là món quà nhỏ, người hứa đâm ra tiếc. Vì thế, khi người kia đến báo là mình bắt đầu cất nhà và nhắc chuyện mười bao xi-măng, người này đã tìm cách thoái thác. Đó là bội tín, hứa thật lòng nhưng không giữ được lời hứa. 

Trường hợp thứ hai là khi hứa, người hứa biết rõ rằng mình chỉ hứa suông, biết rõ rằng mình sẽ không thực hiện nhưng vẫn hứa. Đây là tội nói dối kèm với bội tín. Vì vậy, tội nặng hơn. Nếu sự thất hứa đem lại hậu quả nghiêm trọng, người hứa có thể bị kết tội lừa đảo, có thể bị truy tố về hình sự….Trong việc làm ăn, trường hợp này thường xảy ra. Những người chuyên lừa đảo thường hứa hẹn những điều tốt đẹp để người khác tin. Biết bao nhiêu người bị mắc lừa nên tiền của mất sạch. Càng ngày, việc lừa đảo càng diễn ra tinh vi hơn. Nhiều người đã làm giấy tờ giả đóng vai những cán bộ cao cấp trong bộ máy Nhà nước đi lừa những công ty, xí nghiệp. Họ hứa sẽ “chạy” giấy tờ để được phê duyệt những dự án lớn hoặc vay vốn đầu tư vv…Trước khi lời hứa trở thành hiện thực, các công ty ấy phải chi tiền cho họ nhiều lần để “ngoại giao”. Cuối cùng, khi đã ôm được món tiền kha khá, những  tay ấy đã tìm cách “đánh bài chuồn”. Những người này, khi hứa thừa biết là mình nói dối để lừa người khác nên tội rất nặng. 

Trong cuộc sống, cũng có những lời hứa suông như vậy nhưng không gây hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ, khi vui miệng, người này nói với người kia: “Anh cứ yên tâm đi học đi, để việc này tôi làm cho”. Nói như vậy, nhưng khi người kia trở về, mọi việc vẫn đâu còn đấy. Vì người người nói biết chắc sẽ không làm nhưng vẫn nói dối để người kia tin. Tuy không có hậu quả nghiêm trọng nhưng hứa như vậy vừa phạm tội bội tín vừa nói dối, chúng ta không nên để điều này xảy ra. 

2. CÁC LOẠI LỜI HỨA. 

Chúng ta có thể phân ra nhiều loại lời hứa: 

Thứ nhất là hứa giúp đỡ. Hứa giúp đỡ thường xuất phát từ lòng tốt. Chúng ta gặp rất nhiều những lời hứa giúp đỡ như: “ Anh cứ lo công việc đó, còn phần việc này tôi sẽ giúp anh” hoặc :“ Anh cứ  cất nhà đi, tôi sẽ sang anh cho đỡ bớt tiền công”… Có khi đó là lời hứa bố thí: “Anh cứ tập trung học đi, tôi sẽ lo cho anh từ giấy viết đến học phí”. Đó là những lời hứa giúp đỡ do xuất phát từ lòng tốt, lòng vị tha, lòng thương người. Đó không phải là những lời hứa suông mà là hứa thành thật và chắc chắn sẽ được người hứa thực hiện.

    Thứ hai là hứa cất giùm tài sản. Ví dụ, một người có việc phải đi xa một thời gian nên gửi lại khối tài sản lớn của mình cho người bạn giữ giùm. Người ấy dặn dò: “ Đây là tất cả tài sản của tôi. Tôi phải đi xa nhưng không thể mang theo được, nhờ bạn giữ giúp. Khi nào trở về, tôi sẽ nhận lại. Nếu tôi không về, phiền anh giao lại cho người thân của tôi hiện đang ở tại…. ”. Giao lại một tài sản lớn cho bạn, rõ ràng người gửi phải có độ tin cậy nhất định vào uy tín của bạn mình. Và người hứa giữ giúp tài sản phải là người không tham lam mới thực hiện được lời hứa của mình. Điều này không phải đơn giản. Bản chất người ấy phải là không tham lam, không màng đến của cải của người khác nên mới có uy tín. Nhưng trong trường hợp này, giữ tài sản là việc khó hơn nhều. Thử so sánh hai tình huống chúng ta sẽ thấy rõ hơn. 

Ví dụ, khi đi đường, chúng ta thấy ai đánh rơi một sợi dây chuyền trị giá mười lượng vàng. Là đệ tử Phật, biết lấy cái không phải của mình là điều sai lầm nên chúng ta không lấy mà đem nộp cho chính quyền địa phương nhờ họ tìm và trả lại cho người đánh mất. Việc làm đó tuy khó (vì  đây là một số tiền lớn) nhưng vì đạo đức, vì vâng lời Phật dạy nên chúng ta vượt qua được. Hơn nữa, thời gian từ lúc nhặt được sợi dây chuyền đến khi giao cho chính quyền không dài nên chúng ta vượt qua sự tham lam một cách dễ dàng. Nhưng trong trường hợp người khác giao cho chúng ta hai trăm lượng vàng nhờ cất giữ từ năm này qua năm khác thì mọi cái không còn đơn giản nữa. Đây là lúc mà Đạo đức của chúng ta bị thử thách gay gắt nhất. Nếu người kia trở về, chúng ta sẵn sàng giao lại mà không cần phải suy nghĩ điều gì. Đằng này, người thì đi biền bịệt, của vẫn nằm ngay trong nhà mình. Đây quả là một thử thách lớn đối với người có “sứ mệnh” cất giữ tài sản cho người khác. 

Trong trường hợp này, người nào vẫn giữ được lời hứa của mình, vẫn tìm cách trao lại cho thân nhân người gửi tất cả tài sản ấy, không chiếm đoạt một lượng nhỏ nào dù thời gian có đằng đẳng đến mười năm, người đó quả là có đạo đức đặc biệt. Người này có công đức trong tâm rất lớn mặc dù có thể bên ngoài, công đức của họ không lớn. Vì việc chịu đựng được sự quyến rũ của tài sản trong mười năm trời, không tơ hào một đồng nào của ông ta cũng không đem lại lợi ích nhiều cho người khác. Có khi bản thân người gửi không còn sống để hưởng số tiền ấy và người thân của ông ta cũng không biết mà hy vọng. Vì thế cũng chẳng có ai phải đau khổ vì thất vọng. Chính vì vậy, việc giữ số tài sản ấy cả mười năm rồi giao lại cho người ta không đem lại nhiều phước cho người giữ. Nhưng cái đức ở trong tâm được khẳng định, không gì có thể so sánh được. 

Chúng ta phải thừa nhận một điều, nói đến đạo đức, ai cũng có thể nói được. Nhưng chỉ khi đối diện với nghịch cảnh, đối diện với những cám dỗ, chúng ta mới khẳng định được đạo đức của mình. Ngay cả người chuyên đi giảng về đạo đức cho người khác cũng thú nhận nếu ai đó giao cho mình một trăm cây vàng có lẽ mình cũng ăn ngủ không yên. Hoặc khi có người nào nói nặng lời, lòng cũng thấy giận... Việc cất giùm tài sản trong bao nhiêu năm để thử lòng không tham của mình cũng vậy. Nếu giữ được điều đó, phước không nhiều nhưng công đức của chúng ta rất lớn. Khi chết, có thể chúng ta còn được lên cõi trời nữa. 

Thứ ba là hứa từ bỏ sự sai lầm. Trong cuộc sống, con người không ai không mắc phải sai lầm. Điều quan trọng là khi biết mình phạm lỗi lầm, con người có quyết tâm từ bỏ hay không. Để từ bỏ được lỗi lầm, người phạm lỗi thường hứa với một đối tượng nào đó, có khi tự hứa với lòng mình. Ví dụ, một người lúc đầu do tham lam, thích lấy của người khác làm của riêng cho mình dần dần trở thành một căn bệnh - bệnh ăn cắp. Người xưa thường nói: “Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt”. Điều đó quả không sai. 

Có người sống trong gia đình tương đối khá giả nhưng hễ thấy người khác sơ hở là lấy cắp ngay. Khi bị người xung quanh phát hiện và được gia đình phân tích cho thấy nếu ăn cắp, sau này sẽ mắc quả báo nghèo khổ, mất mát, hư hao, đau khổ, thất vọng… , người ấy đã hiểu ra và hứa sẽ không ăn cắp nữa. Đó là lời hứa từ bỏ tính xấu. Hoặc có người mắc sai lầm là hay giao du với kẻ xấu. 

Một cô gái sống trong gia đình danh giá lại giao du với một người con trai thuộc loại du côn chẳng hạn. Khi được gia đình khuyên bảo ân cần, cô gái hối hận, hứa với gia đình sẽ cắt đứt quan hệ với người ấy. Đó cũng là hứa từ bỏ sai lầm. 

Hoặc có người mắc sai lầm là nghiện ngập. Hiện nay, sống giữa bao nhiêu sự cám dỗ: ma túy, rượu chè, bài bạc, quan hệ nam nữ bừa bãi … nếu không có bản lĩnh, con người sẽ bị những thú vui đó làm cho đam mê, trở nên nghiện ngập. Chúng ta biết rằng, những cái làm cho con người nghiện ngập thường tạo ra cảm giác nội tại. Cũng như tất cả hạnh phúc trên thế gian này sự thật không phải do hoàn cảnh mà chỉ là cảm giác nội tại mà thôi. Những người nghiện rượu, có thể uống từ ly này qua chai kia, không có rượu không chịu nổi là do rượu khi vào cơ thể đã đem lại cho họ cảm giác nội tại gì đó khiến họ thích thú. Với họ, lúc bấy giờ hạnh phúc chỉ có thể nằm ở đáy ly. Chính cảm giác thích thú đó khiến họ muốn uống rượu thường xuyên và sinh ra nghiện. Tùy theo cảm giác mạnh hay yếu mà sự nghiện đó sẽ khó bỏ hay dễ bỏ. 

Người nghiện bài bạc cũng vậy. Điều gì đã làm cho họ trở thành người nghiện? Ngoài việc bị lôi cuốn vì thắng thua, được mất, có thể cảm giác nội tại làm  cho họ thích thú còn nằm ở chỗ hồi hộp khi nặn từng con bài. Chính cái hồi hộp ấy tạo nên cảm giác nội tại khiến người ta thích thú, say mê. Nhưng trong tất cả những cái làm con người nghiện ngập, đáng sợ nhất là ma túy. Sự xuất hiện của ma túy là một tai họa cho nhân loại. Nhưng nhiều người chưa ý thức được điều đó nên vẫn chạy theo. Không ít người vì đồng tiền mà buôn bán chất ma túy, đẩy người khác vào chỗ chết. Theo nhận xét của nhiều người, một trăm người nghiện ma túy, chưa có người nào thắng được nó. Vì cảm giác nội tại mà ma túy đem lại rất mạnh. Đến nỗi, khi đã nghiện ma túy, người ta sẽ bỏ tất cả những thứ khác trước đây từng làm họ say mê. Người nghiện ma túy khi đã hiểu ra, đã tỉnh ngộ, hứa với mọi người sẽ từ bỏ nó. Đó cũng là lời hứa thoát khỏi sự sai lầm trong cuộc đời mình.

Những lời hứa ấy không dễ dàng thực hiện được vì khoái cảm nội tại do những thứ ấy đem lại quá mạnh, thôi thúc họ muốn mãi mãi có được cảm giác đó. Vì vậy, phải có công đức rất lớn người bị nghiện mới từ bỏ được những cái xấu đã từng lôi cuốn mình. 

Một trường hợp khác cũng được coi là hứa từ bỏ sai lầm. Đó là hứa bỏ tính hay thù hận. Có người từ nhỏ thường có tính hay thù vặt. Bị ai làm điều gì xúc phạm, họ cứ để trong bụng và tìm cách hại lại người ta để trả thù. Chẳng hạn, khi còn đi học, bị bạn đánh mà không dám đánh trả nên cứ phá lặt vặt sau lưng như lén đổ mực vào sách vở bạn, hái trái “mắt mèo” chà lên ghế ngay chỗ ngồi của bạn hoặc tìm cách nói xấu sau lưng… Đó là lối trả thù vặt. Khi trở thành người lớn, nếu không sửa chữa, tật xấu đó trở thành điều nguy hiểm. Nếu hận ai, ghét ai, họ sẽ nghĩ cách trả thù. Nhưng khi hiểu đạo, biết đó là tật xấu, người mắc bệnh thù vặt hứa sẽ từ bỏ nó. 

Tất nhiên, đối với con người, loại lời hứa nào cũng khó giữ, nhất là hứa từ bỏ sự sai lầm. Khi bị mọi người phát hiện và chỉ ra lỗi lầm, ai cũng cảm thấy xấu hổ nên hứa sẽ từ bỏ. Nhưng từ lúc hứa đến khi từ bỏ hẳn sai lầm, chúng ta phải trải qua nhiều lần vấp ngã. Những lúc xung quanh không còn ai, chúng ta dễ bị thói quen thúc đẩy, lôi kéo trở lại con đường cũ. Chỉ có lòng quyết tâm và ý chí mạnh mẽ, chúng ta mới có thể từ bỏ được sai lầm. Nếu biết lạy Phật thường xuyên, chúng ta cũng có thể bỏ được những tật xấu đó. 

Đó là ba loại lời hứa thường gặp trong cuộc sống. Tùy theo mỗi loại lời hứa, muốn thực hiện được, chúng ta phải có lòng tốt, lòng vị tha, không tham lam ích kỷ và phải có ý chí rất lớn. 

Ngoài ba loại lời hứa trên, chúng ta còn gặp một loại lời nói cũng thể hiện đạo đức của ngôn ngữ nhưng ở mức độ nhẹ hơn lời hứa, đó là…hẹn. Hẹn là lời giao ước làm việc gì đó hay gặp gỡ ai vào một thời điểm nào đó. Hứa bao gồm cả hẹn nhưng hẹn thường nhấn mạnh ý nghĩa về thời điểm, thời gian. Nếu hẹn vào một giờ giấc nhất định mà chúng ta không thực hiện được gọi là lỡ hẹn. Khi lỡ hẹn, chúng ta thường làm ảnh hưởng đến công việc và kế hoạch của người khác. Bởi vậy, khi đã hẹn với ai điều gì, chúng ta nên đúng hẹn. Nhất là trong công việc, chúng ta cần nghiêm chỉnh giờ giấc. Mỗi người cần phải sống theo nguyên tắc: “Hẹn gặp ai phải đến trước người đó, thà chờ người khác chứ đừng bao giờ để người khác chờ mình”. Trong cuộc sống cũng vậy, chúng ta nên nhận phần thiệt thòi về mình. Cứ sống theo quan niệm: “Thà để người phụ mình chứ mình không phụ người”, chúng ta sẽ cảm thấy lương tâm thanh thản hơn vì không phải sống trong mặc cảm có lỗi với người khác. Trong việc hẹn, nghiêm chỉnh giờ giấc cũng là một biểu hiện của tư tưởng lớn. Người Việt Nam chúng ta còn một nhược điểm là không nghiêm túc về giờ giấc mà mọi người quen gọi là “giờ cao su”. Đó là biểu hiện của sự kém tư cách và yếu về đời sống tinh thần. Những người hay trễ hẹn thường khó làm được việc lớn. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy những người làm việc lớn rất nghiêm túc về giờ giấc. 

Cao hơn lời hứa là lời thề. Lời thề có tính chất quyết liệt hơn. Đôi khi người ta còn lấy một hình phạt nào đó ra bảo chứng cho lời thề nếu vi phạm.  Trong tình yêu, người thế gian thường hay sử dụng những lời thề. Để đảm bảo cho lời thề thủy chung son sắt của mình, họ còn mượn những hình tượng kỳ vĩ, vĩnh hằng trong vũ trụ: 

Dù cho sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thề xưa.

( Tản Đà )

Với họ, những lời “thề non hẹn biển” ấy thật có ý nghĩa. Dù núi có dời, biển có cạn, lòng này vẫn không bao giờ thay đổi. Mà biển cả có bao giờ cạn, núi non ngàn năm vẫn còn đó nên tình này vẫn vĩnh viễn thủy chung. 

Hoặc có khi người đời còn mượn ánh trăng để chứng giám cho lời thề của mình:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

( Nguyễn Du)

Thậm chí, có người còn đem cả tính mạng của mình đặt vào lời thề. Chúng ta hay nghe những câu thề độc: “ Nếu tôi gian dối, ra đường sẽ bị xe cán”, hoặc: “Nếu tôi nói không thật sẽ bị chết hộc máu”. Những lời thề như vậy chính là cái Nhân và sẽ có quả báo ra nếu làm sai lời thề. Chúng ta đừng nghĩ những chuyện đó không bao giờ xảy ra. Khi chúng ta thốt ra lời thề, nhiều người trong thế giới vô hình đã chứng minh điều đó. Lời thề có tính quyết liệt như vậy nên trước khi thề thốt điều gì, chúng ta phải hết sức cẩn thận. 

Trong đạo Phật, có một loại lời thề rất quan trọng. Đó là lời thề lúc thọ giới. Đây chính là lúc chúng ta phát lên một lời thề thiêng liêng, lớn lao trước trời đất. Tuy thường hay ca ngợi nhưng nhiều người vẫn không hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của việc thọ giới. Vì nếu hiểu một cách chính xác theo từ ngữ thì thọ là nhận, thọ giới là nhận giới cấm để gìn giữ. Hiểu như vậy rất đơn giản. Đúng ra, phải hiểu đó là một lời thề trước trời đất, trước Tam Bảo, trước mười phương chúng sinh, chúng ta mới thấy hết sự thiêng liêng của nó và buộc mình phải giữ suốt đời, phải thực hiện điều đó suốt đời. Nhiều khi vì khung cảnh của giới đàn, chúng ta không hiểu hết. Vì theo luật, khi thọ giới chúng ta không thọ trước Phật mà thọ trước Giới Sư, là nơi hình Phật được che ngang bởi một tấm vải, không còn thấy Phật chỉ có Tam Sư thất chứng. Và chúng ta nhận giới từ các vị đó. Trong các giới đàn, người được chọn là Tam Sư thất chứng thường là những người có uy đức, có giới đức trong sạch để giới tử nhìn vào, lấy đó làm gương mà phát tâm. Chúng ta không ngờ rằng, lúc nhận giới là lúc mình phát lời thề thiêng liêng trước trời đất. Khi đã thọ giới, chúng ta phải cố gắng giữ, không được coi thường. Vì vậy, trước khi thọ giới, chúng ta phải cân nhắc xem mình đã đủ sức giữ giới hay chưa. Ở các đạo khác, thọ giới được gọi là vow (lời thề / nguyền). Khi một tu sĩ không giữ được lời thề gọi là break the vow (sự tan vỡ lời thề). Nói chung, trong trường hợp nào chúng ta phải cố gắng đừng để phạm lời thề. 

Tuy nhiên, việc giữ giới không đơn giản. Vì những Giới điều trong đạo Phật cũng có những điểm không còn phù hợp, cần nghiên cứu lại. Theo một số sách để lại thì trước lúc nhập Niết Bàn, Phật có dặn ngài A Nan:

- Sau khi Như Lai diệt độ, những giới nào xét ra không còn cần thiết và phù hợp, có thể bỏ bớt .

Nhưng lúc đó, ngài A Nan buồn quá nên không hỏi kỹ Phật là giới nào. Đến khi họp đại hội chư vị Alahán, ngài Ca Diếp mới hỏi ngài A Nan. Ngài A Nan thưa rằng: 

- Thưa chư Tôn giả, tôi có nghe Đức Thế Tôn nói như vậy, giới nào không còn cần thiết nữa thì có thể bỏ.

Ngài Ca Diếp hỏi: 

- Hiền giả có hỏi Thế Tôn là giới nào hay không? Có hỏi cụ thể hay không ?

Ngài A Nan trả lời:

- Bạch thưa Tôn giả, tôi không hỏi.

Thế  là ngài Ca Diếp trách phạt ngài A Nan vì đó là một lỗi lớn. Một người làm thị giả cho Phật, một người có ký ức cực kỳ mạnh để giữ gìn giới pháp, giữ gìn giáo pháp lại không hỏi cho cặn kẽ một chi tiết quan trọng liên quan đến vận mệnh, đến đời sống của Tăng đoàn. 

Thực ra, Ngài A Nan cũng đáng thương. Đặt vào hoàn cảnh đó, Ngài chỉ nghe và hiểu ý tổng quát của lời dặn chứ không hỏi lại. Nhưng ngài Ca Diếp sâu sắc quá, đời sống của Ngài tinh tế quá nên nhận ra điều đó. Nếu không hỏi cho cặn kẽ, chỉ nghe một cách tổng quát làm sao biết được giới nào nên giữ, giới nào nên bỏ ? Bởi vậy, Ngài quyết định tạm thời giữ lại toàn bộ các giới. Theo Nam Tông, Tỳ kheo Tăng có hai trăm hai mươi bảy giới, theo Bắc Tông là hai trăm năm mươi giới; Tỳ kheo Ni là ba trăm bốn mươi tám giới. 

Những giới căn bản, quan trọng, chúng ta phải giữ. Nhưng những giới phụ, bây giờ xét lại có nhiều điều không còn phù hợp nữa, chúng ta có thể vận dụng một cách linh hoạt. Ví dụ giới về y bát. Có lẽ lúc ấy bát ăn cơm còn khan hiếm nên Phật dặn phải giữ bát ăn cơm rất kỹ, không được để vỡ. Thời đó, vải vóc cũng thiếu nên phải giữ y bát cho kỹ để giữ tư cách. Nếu để rách, mất y bát người thầy tu ra đường có vẻ luộm thuộm, không có tư cách. Trong thời đại ngày nay, điều này không còn phù hợp vì đi đến đâu, chúng ta cũng có chén bát ăn đầy đủ. Chưa kể đến nhà Phật tử, thôi thì đủ kiểu chén sang trọng, đẹp mắt. Vì vậy, vấn đề này không còn quan trọng nữa. Nếu đi ăn cơm, lúc nào người tu cũng mang theo cái bát thì cồng kềnh quá. Cái y  cũng vậy. Thời đó, ngoài ý nghĩa thiêng liêng, cái y của người tu còn  có ý nghĩa thực dụng. Còn bây giờ, quý Thầy đi dạy chỉ cần mặc chiếc áo tràng; các Thầy ngồi học Pháp cũng chỉ mặc áo tràng, không ai quấn y nữa. Chúng ta giữ lại cái y như giữ lại một biểu tượng của Phật pháp, mang ý nghĩa nghi lễ thiêng liêng. Lúc bấy giờ, nói Tỳ kheo ba y, nghĩa là ba cái y quấn từng vòng. Y năm điều là cái y để lao động; y bảy điều là để ăn cơm, tụng kinh, lễ Phật, tọa thiền v.v… Còn y chín điều mới có tính nghi lễ. Khi truyền giới, thuyết giảng, quý Thầy  mới đắp y chín điều. Như vậy, chỉ riêng y bát đã chiếm đến mấy chục giới.

Vấn đề y bát ngày xưa rất quan trọng. Vì vậy, có chuyện kể rằng: Khi có một người ngộ đạo đến xin Phật truyền giới Tỳ kheo, Phật hỏi:

- Ông đã có đủ y bát chưa? 

Người ấy trả lời:

- Bạch Thế Tôn! Chưa. 

Phật nói: 

- Như Lai không truyền giới cho người chưa đủ y bát. 

Mặc dù tâm người ấy đã chứng đạo đến mức A Na Hàm (so với bây giờ là cả một trời một vực) nhưng Phật vẫn không truyền giới Tỳ kheo. Ngài bảo ông ta đi kiếm y bát. Chừng nào xin đủ y bát, Ngài mới cho thọ Tỳ kheo. Để làm một Tỳ kheo, người tu phải có hình thức, tư cách chuẩn mực. Ngày nay, vấn đề y bát không còn quá quan trong như trước nữa. 

Những giới khác, chúng ta phải cố gắng giữ nhưng tùy từng trường hợp mà có sự linh hoạt, không cố chấp. Vì giới không phải là khuôn mẫu cố định mà thuộc về trí tuệ. Chính Phật đã dựa vào trí tuệ, đạo đức của mình mà chế thành giới. Ngày nay, muốn giữ được giới, chúng ta cũng phải có trí tuệ, có định lực, có đạo đức. Nếu cứ giữ giới một cách rập khuôn, cứng nhắc, không khéo chúng ta bị rơi vào giới cấm thủ. Đó là sự cố chấp về giới luật. Sự cố chấp đó đi ngược lại với tinh thần giải thoát của đạo Phật, có thể coi là một chướng đạo giải thoát. Vì vậy, tùy từng trường hợp mà chúng ta có sự linh hoạt khi giữ giới. Điều quan trọng là khi học về việc giữ lời hứa, chúng ta phải nhớ thọ giới là một lời thề lớn, cần phải giữ suốt cuộc đời mình. 

3. NGƯỜI ĐỆ TỬ PHẬT PHẢI LUÔN CỐ GẮNG GIỮ LỜI HỨA. 

Người đệ tử Phật phải luôn cố gắng giữ lời hứa. Vì nếu thất hứa, chúng ta sẽ làm mất uy tín với người khác. Mất uy tín có nghĩa là mất tư cách, làm mất niềm tin của mọi người. Vì khi đã hứa mà không thực hiện, người ta sẽ nghĩ rằng chúng ta là người không có quyết tâm, không có ý chí, và đạo đức cũng có vấn đề. Người không có đạo đức, không có tư cách chắc chắn không được người khác tin. Điều này ảnh hưởng đến danh dự chung của đạo Phật. Nếu gặp những Phật tử thuần thành, họ hiểu y pháp bất y nhân nên không dựa vào cá nhân một người tu mà đánh giá cả đạo Phật. Họ sẽ hiểu cá nhân có thể sai lầm nhưng đạo tuyệt đối không bao giờ sai. Nhưng với những người không có niềm tin vững chắc vào đạo, chỉ đánh giá đạo dựa vào những người tu theo đạo đó, nếu chúng ta cứ hứa suông mà không thực hiện thì họ sẽ không tin vào đạo. Vì vậy, việc giữ lời hứa cho mình kỳ thực là giữ danh dự cho đạo, giữ được niềm tin của người khác đối với đạo. Đó là việc nhỏ nhưng công đức rất lớn. 

Mặt khác, giữ được lời hứa còn làm tăng sức mạnh tinh thần, làm lớn thêm uy đức, khiến lời nói của chúng ta có sức mạnh vô hình có thể thuyết phục người khác vì đằng sau việc giữ lời hứa là một quyết tâm lớn. Thử quan sát một vài người xung quanh, chúng ta sẽ thấy được điều này. Nếu người nào nói điều gì, làm điều đó, sau một thời gian, người ấy sẽ trở nên phương phi, rắn rỏi, mạnh mẽ. Người hứa mà làm được phải là người có quyết tâm rất lớn. Sự quyết tâm ấy cứ thôi thúc ngấm ngầm trong lòng họ và dần dần biến thành năng lực tinh thần mạnh mẽ. Năng lực tinh thần đó phát ra bên ngoài, hiện lên trên khuôn mặt khiến họ trở nên phương phi, có uy đức và có tinh thần mạnh mẽ, vững vàng. Nhìn vào những người có khuôn mặt như vậy, tự nhiên chúng ta cũng cảm thấy nể phục. Đó là công đức được tạo thành do quyết tâm giữ lời hứa, thực hiện lời hứa. Ngược lại, người nào cứ “nói để mà nói”, nói mà không cần thực hiện, chỉ vài năm sau khuôn mặt sẽ xuống sắc, xuống tinh thần, trở thành người yếu đuối, tầm thường. Nhìn những người như vậy, ít ai tỏ ra kính trọng. Tất nhiên, không phải người ta không kính trọng vì biết người đó hay thất hứa mà do họ không còn năng lực tinh thần, không còn uy đức để người khác cảm mến. 

Thật ra, giữ lời hứa là một việc rất khó khăn. Vì từ lúc hứa đến lúc thực hiện có nhiều việc xảy ra dễ làm chúng ta quên hoặc đổi ý. Nhiều người đã mắc phải điều này. Có khi hứa rồi nhưng vì nhiều việc quá nên chúng ta quên bẵng đi. Đến khi được nhắc lại, chúng ta mới giật mình nhớ ra và cảm thấy mình có lỗi. Cũng có trường hợp không phải quên nhưng vì một lý do nào đó cảm thấy không thực hiện được nên chúng ta thay đổi ý định, rút lại lời hứa. Ví dụ, một lần nọ, thấy người bạn gặp khó khăn đang cần vốn làm ăn, trong lúc cao hứng, chúng ta hứa sẽ giúp họ số tiền ba triệu đồng để mở quán bán hàng tạp hóa. Nhưng khi về nhà, nghĩ lại thấy số tiền đó lớn quá, lại bị những người trong gia đình nói ra, nói vào nên chúng ta đã thay đổi ý định, không giúp nữa. Đó là trường hợp thất hứa do ngoại cảnh tác động, do không giữ được lập trường. Khi đã hứa giúp người khác, chúng ta phải chấp nhận sự thiệt thòi. Trong trường hợp sự vị kỷ lớn hơn vị tha, nếu không có quyết tâm chúng ta sẽ không giữ được lời hứa. 

Về Nhân Quả của việc giữ lời hứa, trong một bài kinh, Đức Phật có nói: Một gia chủ cư sĩ đến với một Sa môn Bàlamôn và thưa rằng: “Thưa Tôn giả! Con sẽ cúng dường Tôn giả thế này thế kia”. Sau đó, người này không thực hiện như đã hứa. Khi đi ra làm ăn buôn bán, người ấy luôn bị thất bại vì hứa mà không thực hiện làm người khác thất vọng. Như vậy, quả báo của việc thất hứa là chúng ta sẽ thất bại, không đạt được điều gì cả.

Đoạn thứ hai, Phật nói: Một cư sĩ đến với một Sa môn Bàlamôn và thưa rằng: “ Thưa Tôn giả1 Con sẽ cúng dường Tôn giả thế này thế kia”. Rồi người đó thực hiện sự cúng dường như đã hứa. Sau đó, khi đi ra làm ăn, buôn bán, người này đều thành công như kế hoạch mình đã định. Nghĩa là khi đã hứa với ai điều gì, nếu thực hiện đúng, chúng ta sẽ gặp quả báo là đạt được những gì mình đã định. 

Trường hợp thứ ba, Phật nói:  Một gia chủ cư sĩ đến với một Sa môn  Bàlamôn và thưa rằng: “ Thưa Tôn giả! Con sẽ cúng dường Tôn giả cái này, cái kia”. Sau đó, người này thực hiện vượt hơn lời đã hứa. Khi ra làm ăn buôn bán, người đó đều thành công vượt hơn kế hoạch đã dự định. Như vậy, kiếp nào hay kiếp này, nếu hứa một mà làm được hai, ba thì chúng ta sẽ thành công lớn. Đó là những lời Phật dạy về vấn đề giữ lời hứa đối với người cư sĩ. 

Trong đạo Phật, việc giữ lời hứa có khả năng hỗ trợ thiền định. Vì chính quyết tâm giữ gìn, thực hiện những lời hứa tốt đẹp sẽ tạo thành sức mạnh tinh thần, tạo thành sức mạnh nhiếp tâm trong Thiền định. Chúng ta đã biết, việc nhiếp tâm trong Thiền định đòi hỏi sức mạnh tinh thần rất lớn. Những người có tinh thần yếu đuối không thể nhiếp tâm vào định. Như vậy, trong nhiều yếu tố tạo nên sức mạnh tinh thần cho con người, giữ lời hứa cũng là một trong những yếu tố quan trọng. 

4. TÂM NGUYỆN.

Khi đến với Phật pháp, chúng ta thường phát nguyện mỗi ngày. Lời phát nguyện sẽ định hướng cho chúng ta trong việc tu hành ở kiếp này và trong những kiếp sau. Đến với Phật pháp mà mỗi ngày không phát nguyện là một thiếu sót lớn. Lời nguyện có hai điều: tâm nguyện và cầu nguyện. 

Cầu nguyện là xin thần lực của Phật gia hộ cho chúng ta đạt được những điều mình muốn. Việc cầu xin đó thường vượt ra ngoài khả năng của chúng ta. Trong bài này, chúng ta không bàn đến việc cầu nguyện, chỉ bàn đến tâm nguyện. 

Tâm nguyện là phát nguyện, là điều chúng ta hứa để thực hiện. Tuy nhiên, giữa lời hứa và phát nguyện vẫn có sự khác nhau. Những điều chúng ta hứa thường là những việc nhỏ nhưng cụ thể, rõ ràng. Đó có thể là lời hứa ba năm nữa chúng ta sẽ bắt đầu nhập thất; có thể là lời hứa xin Ban Giám hiệu giúp huynh đệ nào đó để họ được vào học… Trong khi đó, tâm nguyện thường rất lớn và trừu tượng. Chẳng hạn, chúng ta nguyện với Phật sẽ độ hết chúng sinh. Lời nguyện đó lớn mênh mông và vô cùng trừu tượng vì biết đến bao giờ chúng ta mới độ được tất cả chúng sinh. Nhưng chúng ta vẫn cứ nguyện để tạo thành cái Nhân cho kiếp sau và cho nhiều kiếp về sau. 

Lời nguyện và lời hứa có sự khác nhau như vậy. Tuy lời nguyện có vẻ mạnh mẽ nhưng thực ra không chắc chắn bởi nó mơ hồ, trừu tượng, không có thời hạn để con người thực hiện. Ngược lại, lời hứa tuy nhỏ hơn nhưng cụ thể, chắc chắn hơn. Tuy nhiên, dù sao chúng ta cũng phát nguyện đều đặn mỗi ngày vì đó cũng là cái Nhân đưa đến hành động mạnh mẽ ở những kiếp về sau. 

Ví dụ, hằng ngày, chúng ta luôn nguyện “đem Phật pháp hoằng hóa nơi nơi”, nghĩa là nguyện làm Giảng sư. Nếu có Nhân chắc chắn sẽ có Quả.  Nếu có tâm nguyện như vậy, cuối cùng chúng ta sẽ làm được điều đó. Hiện nay, trên đất nước ta cũng như trên thế giới có rất nhiều Giảng sư. Có thể những người này trong một kiếp nào đó cũng đã có lời nguyện “đem Phật pháp hoằng hóa nơi nơi” nên đạt được như vậy.

 Tuy nhiên, trở thành Giảng sư chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta sẽ giảng như thế nào ? Lời giảng của chúng ta có chứa đựng chân lý sâu xa trong đó hay không ? Chúng ta chỉ tìm cách nói cho hấp dẫn người nghe hay giảng từ nội tâm tu tập của mình ? Rồi việc giáo hóa của chúng ta có bền vững hay không, chúng ta có duyên với chúng sinh hay không ? vv… Người Giảng sư phải hội đủ những yếu tố này. Bởi vậy, ngoài những lời nguyện ở kiếp trước, chúng ta phải tu tập nhiều công hạnh khác. Có như vậy, chúng ta mới trở thành một Giảng sư tuyệt vời. Nếu chỉ giảng một cách bình thường, công đức của chúng ta sẽ không lớn. Sau này, khi nào có điều kiện, chúng ta sẽ nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. 

Xưa nay, các vĩ nhân trên thế giới, những người có ảnh hưởng đến nhân loại đều có cái tâm gì đó ở kiếp trước. Có thể đó là cái tâm nghĩ đến loài người, đến nhân loại. Vì vậy, bây giờ hành động của họ tự nhiên có ảnh hưởng đến cả nhân loại. Điều này gọi là cái tâm đi trước hành động theo sau. Nếu bây giờ chúng ta không nghĩ đến nhân loại, chỉ nghĩ đến bản thân hoặc những người xung quanh thì kiếp sau, hành động của chúng ta cũng chỉ ảnh hưởng đến một phạm vi nhỏ hẹp mà thôi. Hiểu điều này, chúng ta phải cố gắng khởi tâm nghĩ đến tất cả chúng sinh, không nên nghĩ đến những điều nhỏ nhặt, tầm thường.

Bài Khấn nguyện mà chúng ta thường tụng vừa là tâm nguyện vừa là cầu nguyện. Vì trong đó có những đoạn chúng ta chỉ xin Đức Phật: 

Xin cho khắp muôn loài

Sống yên lành bên nhau

Không ganh ghét oán thù

Không chiến tranh giết chóc.

Hoặc có đoạn: 

Xin cho nơi địa ngục

Chúng sinh đang đọa đày

Khởi được tâm từ bi

Để xa lìa cảnh khổ.

Những điều này chúng ta xin Phật chứ không thể làm được. Nhưng khi cầu cho thiên hạ, cho chúng sinh, trong chúng ta lại phát sinh tâm vị tha một cách bí mật. Bởi vậy, bài Khấn nguyện có vai trò rất quan trọng trong việc tu tập đạo hạnh. Những đoạn khác là những đoạn phát nguyện: 

Cho tay con rộng mở

Biết san sẻ cúng dường

Biết giúp đỡ yêu thương

Đến những người khốn khó.

Hoặc tâm tùy hỷ, tự chúng ta phát nguyện nhưng vẫn phải xin Phật:

Xin tâm con sung sướng

Khi thấy người thành công

Hoặc gây tạo phước lành

Như chính con làm được.

Có người khi đọc Lời khấn nguyện tỏ ra không đồng ý với tác giả. Vì người ấy cho rằng trong đạo Phật không có chuyện xin xỏ như thế. Thực ra, viết như vậy là tác giả có dụng ý của mình. Mặc dù đó là lời phát nguyện nhưng chúng ta vẫn dùng từ xin, cho ở đầu mỗi lời nguyện vì những từ đó rất có lợi cho người đọc. Chẳng hạn, khiêm hạ là tự mỗi người tu nhưng chúng ta phải xin Phật:

Cho con biết khiêm hạ

Biết tôn trọng mọi người

Tự thấy mình nhỏ thôi

Việc tu còn kém cỏi.

Tại sao như vậy? Nếu để ý chúng ta sẽ thấy lời cầu nguyện cho mình được khiêm hạ có thể làm chúng ta nhu nhược. Trong khi đó, lời phát nguyện khởi động ý chí, làm chúng ta mạnh mẽ nhưng dễ phát sinh kiêu mạn. Hòa hai điều đó lại có thể tiêu diệt sự kiêu mạn đang ẩn trong lời phát nguyện. Dù phát nguyện những điều tốt nhưng chúng ta vẫn nghĩ rằng nhờ sự gia hộ của chư Phật mà chúng ta đạt được. Đó chính là thâm ý mà tác giả muốn gửi trong lời khấn nguyện. 

5. RÚT LẠI LỜI HỨA.

Theo nguyên tắc, đã hứa thì phải giữ lời hứa. Nhưng trong cuộc sống, có những trường hợp hứa rồi mà không giữ được vì khi hứa, chúng ta không đủ trí tuệ để thấy sự sai lầm của lời hứa. Sau này khi có trí tuệ, hiểu ra được vấn đề, chúng ta muốn rút lại, không giữ lời hứa nữa. Ví dụ, trong lúc nói chuyện, chúng ta hứa sẽ cho bạn mượn một cuốn sách trước kia mình đã đọc vì cuốn sách cũng hay hay. Nhưng trước khi cho mượn, chúng ta phát hiện ra trong đó có nhiều điểm sai lầm, không tốt cho người đọc nên quyết định không cho mượn nữa. Như vậy, chúng ta không giữ lời hứa nhưng xuất phát từ thiện tâm, vì lợi ích cho người khác chứ không vì lợi ích cho bản thân mình. Nghĩa là chúng ta không vì lòng ích kỷ mà bội tín, mà vì lòng thương tưởng đến chúng sinh. Trước đây, lời hứa đó đã được thốt ra bởi sự thiếu sáng suốt, chưa đủ chín chắn, chưa nhận định thấu suốt vấn đề. Lúc này, khi đã tu tập, đã có trí tuệ, chúng ta mới nhìn thấy được những điểm sai lầm. Vì vậy, trong trường hợp này, chúng ta phải rút lại lời hứa. Tuy nhiên, khi muốn rút lại lời hứa, chúng ta phải nói sớm cho người ta biết để không bị lỗi bội tín hoàn toàn, không bị coi là một người mất tư cách. Nhưng nếu báo sớm vì lý do chính đáng, chúng ta chỉ phạm một phần lỗi bội tín, lại được phước lớn. 

Có những trường hợp do hoàn cảnh, chúng ta không thể nào giữ được lời hứa. Nhưng trong trường hợp này, chúng ta không có lỗi. Ví dụ, Chúng ta hứa cho người khác một món quà, chiếc xe Dream chẳng hạn. Nhưng hôm sau, ăn trộm vào lấy sạch sẽ đồ của, tiền bạc nên chúng ta không thể thực hiện được lời hứa. Tuy nhiên, trong trường hợp này, không ai trách chúng ta là bội tín cả. Vì chúng ta không thực hiện lời hứa không phải do tâm mà do hoàn cảnh. 

Nếu không thực hiện được lời hứa, chúng ta phải xin lỗi và đền bù bằng cách khác. Ví dụ, một người cư sĩ cùng em đi ngang một shop thời trang. Thấy em thích chiếc áo đầm màu xanh ấy quá, chị liền hứa: “Hôm nào lãnh lương, chị sẽ mua cho em chiếc áo đầm ấy”. Nhưng sau này khi đến cửa hàng đó, người chị mới phát hiện ra kiểu áo mà em thích có vẻ hở hang quá, không phù hợp với em nên không mua nữa. Người chị nói rõ với em điều đó và hứa sẽ mua cho em một chiếc đầm khác đẹp hơn. Như vậy, tuy không giữ lời hứa hoàn toàn nhưng đã đền bù bằng cách khác nên người chị cũng không mắc lỗi bội tín. 

 Đức Phật là một biểu tượng toàn vẹn của Đạo đức và đạo Phật là một đường lối hoàn thiện của Đạo đức. Là người đệ tử Phật, đi theo con đường Phật dạy, chúng ta phải giữ Đạo đức rất kỹ lưỡng. Một trong các tiêu chuẩn quan trọng của Đạo đức là giữ lời hứa. Vì vậy, trước khi hứa với ai điều gì, chúng ta phải cân nhắc kỹ. Và khi đã buông lời hứa, chúng ta phải quyết tâm thực hiện, dù lâu dài. Nếu hứa rồi bỏ qua, không quyết tâm thực hiện, không những chúng ta là người có Đạo đức kém mà còn làm mất niềm tin của người khác với Đạo. Như vậy, chúng ta sẽ mang tội rất lớn. 

6. Ý NGHĨA NGƯỜI QUÂN TỬ TRONG ĐẠO NHO. 

Nói đến đạo Khổng, chúng ta thường nghĩ đến hình ảnh nhập thế. Người theo đạo Khổng là người hay dấn thân, xông xáo, gánh vác mọi việc trong cuộc đời. Điều này ngược lại với người theo đạo Lão, là người xuất thế, luôn tìm cách thoát ra khỏi cuộc đời. Vì những kinh điển của Lão Tử để lại trong Đạo đức kinh luôn luôn nói về những gì vượt ra ngoài thế gian. Trong khi đó, những lời dạy của Khổng Tử đối với học trò còn để lại trong các Kinh điển, trong sách Luận ngữ v.v… lại luôn luôn nói về vai trò, trách nhiệm của một người đối với xã hội. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ, chúng ta sẽ thấy hình ảnh người quân tử mà Khổng Tử dựng lên rất đẹp. Đó là mẫu người rất chuẩn, có đạo đức, sống ở đời có nhân nghĩa, có tính cách thẳng thắn, lời nói chân thật, biết giữ chữ tín và lễ độ với mọi người. Họ không phải là người xuất thế, nhưng là người vừa tiêu sái, thung dung vừa nhập thế. Hình ảnh ấy rất tuyệt vời, rất trung dung, phù hợp với đạo Bồ Tát của Phật. Ngày xưa, trong văn học, người ta thường mượn hình ảnh cây tùng, cây trúc để ngợi ca người quân tử. Vì đó là những loài cây thân mọc thẳng, cứng cỏi, chịu đựng được mưa nắng, tuyết sương. 

 Một lần, Khổng Tử hỏi về sở thích của đệ tử mình. Từng người lần lượt  trình bày sở thích của mình với Thầy. Có người thích làm quan lớn để dạy dân, giáo hóa dân cho tốt đẹp hơn. Trong đó, học trò tên là Nhan Hồi lại thích đi hát, được tắm lội trên dòng sông trong một ngày mùa hạ, được ngả người dưới bóng cây râm mát đánh đàn, ca hát, tiêu dao; sống cuộc đời ung dung tự tại, không bận tâm đến cuộc đời. Nghe trả lời như vậy, Khổng Tử khen nức nở. Chúng ta vẫn thấy, đạo của Khổng Tử có tính chất tiêu sái, thoát tục. Vì theo định nghĩa của Khổng Tử, người quân tử là người sống đơn giản nhưng sâu sắc trong đạo lý. Tuy sống cuộc đời đơn giản nhưng họ không bao giờ biết chán bởi những đạo lý thâm sâu trong đó. Những lời dạy của khổng Tử thật độc đáo, không khác đạo Phật bao nhiêu. 

Người quân tử còn là người dám chịu trách nhiệm và biết nhận lỗi. Khi làm điều gì sai, họ sẵn sàng nhận lỗi về mình, dám chịu trách nhiệm về hậu quả việc mình làm chứ không tránh né, không đổ lỗi cho người khác. Đó còn là người biết sử dụng lý trí. Nghĩa là biết phân biệt đúng- sai, thiện- ác rõ ràng, không mơ hồ. Tuy việc phân biệt thiện- ác quá mức có thể trở thành cố chấp nhưng biết giữ điều thiện, vứt bỏ cái ác cũng là một điều tốt giữa cuộc đời vốn có không ít người chạy theo cái ác. 

Chính vì có những tiêu chuẩn sống đẹp đẽ như vậy nên nhiều người theo đạo Nho có cái chết khá an lành tự tại. Chúng ta biết rằng, cái chết an lành là dấu hiệu của một đời sống thánh thiện. Vì vậy, nếu chúng ta tu theo đạo Phật là muốn làm Thánh thì người tu theo đạo Nho chỉ muốn làm một người quân tử. Trong xã hội, giá trị của một người quân tử được đánh giá thấp hơn so với một vị Thánh. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng, tính cách của người quân tử là nền tảng của một bậc Thánh. Muốn làm Thánh theo tiêu chuẩn đạo Phật, trước hết chúng ta phải có chất quân tử của đạo Nho. Nghĩa là chúng ta phải sống một đời trong sạch, quang minh chính đại, không quanh co, dối trá, luồn lách, thủ đoạn theo kiểu tiểu nhân. Trong thực tế, có những người tu theo đạo Phật, đi tìm con đường siêu thoát thế gian, vượt khỏi tam giới nhưng trong cuộc sống đời thường đã có những việc làm dối trá, quanh co, thủ đoạn, luồn lách của một kẻ tiểu nhân. Đây là điều rất đáng buồn. 

Bởi vậy, dù bây giờ chưa phải là một vị Thánh, chưa đắc đạo nhưng chúng ta hãy sống như một người quân tử của đạo Nho. Chúng ta phải làm sao để khi đến với đạo Phật, người ta tin tưởng ở tiết tháo, tư cách, đạo đức của chúng ta, xem chúng ta là con người nhân ái giữa đời, biết lễ độ khiêm cung, biết nhận lỗi, dám có trách nhiệm, sống có lý trí… Chỉ cần người đệ tử Phật giữ được những đạo đức căn bản như đạo Nho như vậy, đạo Phật chúng ta sẽ hưng thịnh. Ngoài những điều đó, nếu có thêm những điều siêu thoát hơn, có trí tuệ của giáo lý Bát nhã, có những công phu Thiền định thì thật sự, chúng ta đang trên đường trở thành một vị Thánh. Tóm lại, đối với người đệ tử Phật nói riêng và người đời nói chung, giữ lời hứa là một Đạo đức quan trọng mà chúng ta không thể coi thường.



1.  ĐỊNH NGHĨA. 

Nhu thuận (nhu là mềm, thuận là xuôi theo): là vâng lời, nghĩa là làm theo lời dạy, làm theo sự sai bảo, làm theo tâm tình của mọi người. Tuy không phức tạp nhưng đây cũng là hạnh căn bản, hạnh quan trọng cho cuộc đời tu hành của một tu sĩ. 

Tuy nhiên, muốn vâng lời người khác, chúng ta phải từ bỏ ý kiến của mình, từ bỏ những dự định, quan điểm của mình. Đây không phải là điều dễ làm. Sống trên cuộc đời này, mỗi con người là một vũ trụ riêng tư, có tư tưởng, tình cảm, có những suy nghĩ riêng, có lối sống riêng không lặp lại với người khác bao giờ. 

Chưa nói đến việc phải gác lại những điều lớn lao để làm theo yêu cầu của người khác, chỉ lấy một ví dụ đơn giản trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta sẽ thấy làm theo ý người khác khó như thế nào. Chẳng hạn, đến giờ làm việc cá nhân, chúng ta sắp xếp quần áo chuẩn bị đi tắm thì Sư huynh gọi lại và bảo đi làm giúp ông việc khác. Chưa biết việc Sư huynh yêu cầu quan trọng đến mức nào nhưng cả ngày vất vả, tranh thủ giờ nghỉ tắm rửa cho khỏe khoắn lại bị  ngăn cản, yêu cầu làm ngay việc khác, chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu, bực bội. Sự vâng lời khiến chúng ta phải từ bỏ ý định của mình, cũng có nghĩa là chạm đến bản ngã của mình, nên rất khó thực hiện. Chỉ khi không chấp ngã, chấp nhận sự thiệt thòi, mất mát, chúng ta mới có thể vâng lời người khác một cách dễ dàng. 

Ngoài xã hội, tổ chức nào cũng cần có sự tuân phục của người dưới đối với người trên. Vì có như vậy, tổ chức đó mới mạnh mẽ, vững chắc. Ví dụ, Quân đội là nơi có kỷ luật nghiêm ngặt nhất. Người ta thường nói “Kỷ luật là sức mạnh của quân đội”. Trong đó, người lính phải toàn tâm, toàn ý, biết vâng lời cấp trên một cách không điều kiện. Cấp trên yêu cầu làm điều gì, họ phải răm rắp tuân theo mà không cần giải thích, không cần biết lý do. Nếu không làm theo, họ sẽ chịu những hình phạt nghiêm khắc của quân đội. Tùy theo mức độ vi phạm mà người lính phải chịu hình phạt nặng hay nhẹ. Trường hợp đang xung trận, nếu người lính không vâng lời chỉ huy có thể bị chỉ huy bắn bỏ ngay tại trận. Nói chung, yêu cầu về kỷ luật, về sự tuân phục trong quân đội rất gay gắt. Chính nhờ sự vâng lời, sự tuân phục đó mà quân đội có được kỷ cương, sức mạnh để chiến đấu. 

Ở một số tổ chức khác ngoài đời cũng vậy. Nếu người dưới không vâng lời hoặc không tuân phục người trên, họ phải chịu một sự trừng phạt thích đáng. Có khi sự trừng phạt đó gây thiệt hại thật sự đến cuộc sống của người bị trừng phạt như: giảm tiền lương, bị cách chức, bị đuổi việc hoặc bị rêu rao, làm mất danh dự… Vì vậy, khi bước vào làm việc trong một cơ quan, một tổ chức nào đó, người ta phải tuân thủ theo kỷ luật mà cơ quan đã đề ra. 

Đạo Phật chúng ta không có kỷ luật nghiêm khắc áp dụng đối với một tu sĩ khi phạm lỗi. Đây là chỗ hở rất lớn của đạo Phật. Vì thế, người ta vẫn thường cho Đạo Phật dễ dãi, lỏng lẻo về mặt tổ chức so với các tôn giáo khác, các tổ chức khác. Ví dụ, một Tăng sĩ làm điều sai quấy, Giáo hội không có biện pháp xử lý, không có một sự trừng phạt thật sự để người ấy sống tốt hơn và làm gương cho những người khác. Cùng lắm, người có trách nhiệm chỉ rầy rà, kiểm điểm mà thôi. Bản thân đạo Phật không cũng có phương tiện, biện pháp chế tài bất cứ người nào. Hàng ngày, người ta vẫn gặp những cư sĩ giả danh tu sĩ đi khất thực. Họ cũng mặc bộ quần áo màu vàng, tay cầm cái bát nhưng mặt mày lơ láo, không có vẻ oai nghi tế hạnh của người tu. Hiện tượng này vẫn đang diễn ra nhưng Giáo hội chỉ lên tiếng cảnh báo cho mọi người biết đó là “tu sĩ giả danh” chứ không có biện pháp gì để ngăn chặn. Nếu nhìn thấy họ đi khất thực lơ ngơ láo ngáo ngoài đường mà không bị công an bắt, chúng ta cũng không biết làm gì. Chính vì không có biện pháp kỷ luật nghiêm ngặt ấy mà đạo Phật chúng ta yếu đi về mặt tổ chức so với các tôn giáo khác. Bên Thiên Chúa giáo, nếu tu sĩ làm điều gì sai trái, họ có biện pháp trừng phạt rất nghiêm khắc. Sự trừng phạt đó thật sự gây thiệt hại cho bản thân người tu sĩ bị phạm tội. Vì vậy, trong Thiên Chúa giáo, các Linh mục, Thầy dòng tuân phục kỷ luật rất tốt . Nhờ vậy, tổ chức của họ khá chặt chẽ. 

Sở dĩ chúng ta không thể áp dụng một kỷ luật nào cho người tu sĩ vì  giáo lý của đạo Phật từ bi, khoan dung quá. Chính Đức Phật cũng không có biện pháp gì để xử lý những trường hợp vi phạm giới luật. Thời Đức Phật, do có sự bất hòa, hai vị Tỳ kheo đã cãi nhau kịch liệt. Đức Phật khuyên răn thế nào họ cũng không chịu nghe.  Họ còn nói: 

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn già yếu rồi, Thế Tôn nghỉ đi, chuyện của chúng con để chúng con lo. 

Khuyên can hoài không được, Đức Phật đã bỏ đi. Sau đó, nhờ giới cư sĩ kéo đến phản đối, đòi cắt viện trợ, các Tỳ kheo đó mới sợ, không dám cãi nhau nữa và đi thỉnh Phật trở về. Cứ theo truyền thống ấy, đến bây giờ đạo Phật cũng không có biện pháp kỷ luật gì đối với tu sĩ. 

Như vậy, sức mạnh của đạo Phật nằm ở đâu? Sức mạnh của đạo Phật không nằm ở khâu tổ chức mà ở đạo lý. Vì vậy, tuy về mặt tổ chức có yếu nhưng thời đại nào có những bậc chân sư xuất hiện, đạt được đạo lý một cách vững chắc, thuyết phục và làm cho mọi người bị cuốn hút, tăng thêm đạo tâm, hướng về đạo, làm nhiều việc từ thiện, thực hành tu tập nghiêm túc…, thời đại đó đạo Phật hưng thịnh. Ngược lại, thời đại nào không xuất hiện những vị chân sư có đạo lý thì đạo Phật sẽ dần dần bị suy thoái. Như vậy, đạo Phật hưng thịnh nhờ vào đạo lý, còn tổ chức không đủ sức giữ cho đạo Phật tồn tại và phát triển. Đây là điểm khác nhau giữa đạo Phật và các tôn giáo hay các tổ chức khác. Ở các tôn giáo khác, chỉ cần có tổ chức chặt chẽ, tôn giáo họ có thể tồn tại và bành trướng được. Nói lên điều này, chúng ta sẽ thấy được bổn phận của người tu theo đạo Phật. 

Thứ nhất, tất cả chúng ta đều phải có bổn phận làm cho đạo Phật được hưng thịnh. Đây là điều hiển nhiên. Phải làm cho đạo Phật được hưng thịnh là lý tưởng của một tu sĩ. Không ai đi tu mà không nghĩ đến điều này. Nhưng đạo Phật hưng thịnh hay không là nhờ vào đạo lý. Chính chúng ta mới là người làm cho đạo lý của đạo Phật ngày càng phát triển mạnh mẽ, vững chắc và sâu rộng. Chúng ta phải tu, phải học thế nào để làm cho đạo lý Phật giáo được phát triển. Đó là cách làm cho đạo Phật thêm sức mạnh để hưng thịnh. 

Thứ hai, chúng ta phải làm thế nào để lấp chỗ trống về kỷ luật trong đạo Phật. Tính kỷ luật ấy biểu hiện ở sự tuân phục. Các tôn giáo khác đòi hỏi có sự kềm chế, sự tuân phục, bởi  đằng sau là kỷ luật và sự trừng phạt. Đạo Phật chúng ta không có điều này. Vì vậy, mỗi sĩ chúng ta phải tự giác, tự nguyện tuân phục, vâng lời người trên, người trước của mình. Chúng ta phải tự mình lấp đầy lỗ hổng đó của đạo Phật để đạo của chúng ta ngày càng vững chắc. Nếu vì không có biện pháp kỷ luật mà chúng ta không cần vâng lời, tuân phục thì tự nhiên đạo Phật sẽ yếu dần đi. Sở dĩ chúng ta đòi hỏi sự tự nguyện tự giác ở mỗi người vì đây là vấn đề thụôc về đạo đức. Nghĩa là sự vâng lời theo kỷ luật là sự vâng lời bắt buộc, kèm theo sau đó là sự kiểm soát và sự trừng phạt. Còn sự vâng lời được gọi là đạo đức thì hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Nếu từng người chúng ta tự giác tập hạnh vâng lời thì chùa sẽ mạnh. Mỗi chùa đều khép mình trong quy chế của Giáo hội, cố gắng làm đúng theo quy chế của Giáo hội, hòa hợp với Tăng đoàn thì tự nhiên Giáo hội cũng mạnh lên. Phật giáo vì thế cũng trở nên hưng thịnh. 

Ở trên, chúng ta nói sự vâng lời người trên, người trước nhiều khi cũng làm cho chúng ta khó chịu vì phải từ bỏ ý muốn, dự định của mình, vì nó chạm đến bản ngã. Nhưng nếu người nào đã thuần thục hạnh nhu thuận thì khi người khác yêu cầu làm việc gì, họ sẽ vâng lời, sẵn sàng bỏ việc của mình đi làm việc khác một cách toàn tâm, toàn ý. Và khi vâng lời, họ cảm thấy trong mình có một niềm vui đang lan tỏa. Tất nhiên, người thật sự có hạnh nhu thuận, làm theo người khác  một cách toàn tâm toàn ý và trong lòng xuất hiện niềm vui không phải là nhiều. Những người tập được hạnh nhu thuận, ai bảo gì làm nấy (như một người máy) phải là người tu ở mức độ rất khá. Khi thực hiện hạnh nhu thuận một cách thuần thục, họ sẽ cảm thấy hạnh phúc mà người khác không cảm nhận được. Lúc ấy, họ đã diệt được nhiều chấp ngã trong tâm. Chúng ta đã biết, đỉnh cao của đạo Phật là vô ngã, sự tuyệt đối vô ngã cũng là Niết Bàn tuyệt đối, là đại giải thoát, đại an lạc. Hễ đạt được vô ngã thì chúng ta sẽ đạt được sự an lạc, vô tận an lạc, tuyệt đối an lạc. Chúng ta đừng nghĩ sự an lạc trong vô ngã là hư không. Nó thật sự là niềm vui lớn, tuyệt đối mênh mông, khác với cảm giác xao động theo cái niềm vui của thế gian. 

Ví dụ, khi được người khác khen điều gì, chúng ta cảm thấy sung sướng. Niềm vui đó, cảm giác sung sướng đó là thuộc về thế gian vì nó xao động và lệ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Trong khi đó, trong Thiền định, dù được một phần vô ngã thôi, chúng ta cũng cảm thấy hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc đó không lệ thuộc vào lời khen hay điều kiện bên ngoài, tự nó có mà lại như không có bởi nó không xao động. 

Ơû đời, mọi khổ vui của chúng ta là do cảm giác từ thọ ấm phát sinh, cảm giác ấy thường xao động. Vì vậy, một bậc giải thoát, bậc trí tuệ thường phân biệt rất rõ hai niềm hạnh phúc ấy. Hạnh phúc của thế gian, của thọ ấm thường xao động, bất an và cuối cùng là đau khổ. Bởi vậy, Phật nói: thọ thị khổ. Còn trong Thiền định, tưởng như lặng lẽ hư vô nhưng niềm an lạc, hạnh phúc rất mạnh, rất lớn. Hai niềm hạnh phúc mà con người có được (hạnh phúc của thọ ấm khởi lên và hạnh phúc của Thiền định do đạt được vô ngã) hoàn toàn khác nhau. Tương tự như vậy, khi nhu thuận, chúng ta đã được một phần của vô ngã nên cũng được một phần niềm an lạc này. Trên lý luận là vậy nhưng sự thật phải thực hành, chúng ta mới thấy được điều này. Nghĩa là khi sống trong đại chúng, với Thầy Tổ, với huynh đệ, nếu biết vâng lời một cách toàn tâm toàn ý, không làm theo ý mình, chúng ta sẽ có được niềm vui thật sự của đời sống tu hành. 

Đối với người xuất gia, bước đầu vào đạo phải triệt để thực hành hạnh nhu thuận để làm nền tảng cho đức hạnh lâu dài về sau, vì hạnh nhu thuận giúp người tu phá trừ chấp ngã, diệt trừ kiêu mạn rất tốt. Thật ra, vô ngã phải do công phu Thiền định nhiều năm, nhiều kiếp mới đạt được. Dù có được định, chúng ta cũng chưa đạt được vô ngã. Bên cạnh Thiền định còn nhiều hạnh khác hỗ trợ cho việc phá chấp ngã, trong đó có hạnh nhu thuận. Người xuất gia buổi ban đầu, nếu không thực hiện được hạnh nhu thuận, vâng lời thì sẽ không thực hiện được những hạnh khác. Vì vậy, nhu thuận vừa là hạnh giúp chúng ta phá chấp ngã vừa mở đường cho vô số công hạnh khác, điều tốt đẹp khác đến với chúng ta.

Ví dụ, khi thấy chúng ta nóng nảy, Thầy khuyên: “Con đừng nóng nữa, hãy cố gắng nhẫn nhục, hãy sống hòa thuận với huynh đệ”. Điều Thầy dạy hoàn toàn đúng. Nếu có thói quen vâng lời, có hạnh nhu thuận, chúng ta sẽ  triệt để cố gắng thực hành lời dạy của Thầy. Có thể lúc đầu còn khó khăn nhưng mỗi lần nóng nảy, nhớ lời nói từ tốn của Thầy, chúng ta sẽ dần dần thực hiện được. Như vậy, nhờ có hạnh nhu thuận mà chỉ một câu nói ngắn gọn, nhẹ nhàng của Thầy thôi chúng ta đã ghi xương khắc cốt suốt đời để thực hiện. Và sau đó, bao nhiêu hạnh lành khác mở ra. Ngược lại, nếu có thói quen không vâng lời, khi nghe Thầy khuyên, chúng ta sẽ mặc kệ, không ghi tâm. Vì thế sẽ không bao giờ sửa đổi được tính nóng nảy của mình.

Trong cuộc sống đạo, những cái xấu Thầy bảo bỏ chúng ta phải cố gắng bỏ; những cái tốt chưa có, Thầy bảo phải tu tập, chúng ta cố gắng huân tập cho được. Đó là hạnh vâng lời. Khi vâng lời như thế, chúng ta sẽ được vô số những điều lợi ích về sau. Ví dụ, khi thấy chúng ta sáng dạ, Thầy gửi chúng ta vào trường học và dặn dò: “Con phải cố gắng học, đừng để phụ công lao, sự hy vọng của Thầy”. Vâng lời Thầy, ngay từ khi bước chân vào trường, chúng ta không dám chểnh mảng việc học. Ngoài việc học, chúng ta còn tranh thủ thời gian ngồi Thiền. Nhờ vâng lời Thầy mà chúng ta thực hiện được điều đó. Và cuối cùng, chúng ta là người có lợi, bao nhiêu công đức lành cứ thế mở ra. 

Nếu không biết vâng lời, Thầy yêu cầu làm điều gì cũng nhăn nhó, dần dần Thầy không nói đến nữa, công đức chúng ta sẽ bị tổn giảm. Chúng ta nên nhớ rằng, người tu sĩ giữ được lập trường tu hành không phải nhờ vào tài hay tướng mà nhờ vào công đức. Có người vì thiếu công đức, thiếu phước phải hoàn tục, không được làm Tăng nữa. Không vâng lời Thầy cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chúng ta tổn phước. Vì vậy, hạnh vâng lời rất quan trọng đối với người tu.

Một điều nữa cũng cần lưu ý là chúng ta đừng vội phê phán, nhận định lời giáo huấn hay sự sai bảo của người trên. Trong cuộc sống, nhiều người có thói quen hay phê bình, nhận xét lời dạy của Thầy mà không hoàn toàn nhu thuận vâng lời. Ví dụ, khi Thầy bảo: “Bây giờ con mang cây này sang trồng chỗ khác”. Tuy không nói ra nhưng trong bụng người đệ tử không phục: “Cây này trồng như vậy được rồi sao phải dời đi chỗ khác, không biết sự thẩm mĩ thầy để ở đâu”. Mặc dù làm theo ý thầy nhưng người đó vẫn có sự phê bình, nhận xét, không hoàn toàn tuân phục một cách vô điều kiện sự sai bảo của Thầy. 

Hoặc có trường hợp Thầy dạy một đạo lý nào đó, người không vâng lời cũng âm thầm cãi lại. Chẳng hạn, Thầy khuyên: “Con cố gắng niệm Phật, vì học bao nhiêu, làm phước bao nhiêu cũng không bằng sự tu tập”. Không nói ra nhưng trong bụng người ấy cũng phản đối: “Thầy lạc hậu thật! Thời buổi này người ta tu thiền, kiến tánh thành Phật còn bắt người ta niệm Phật”… 

Là đệ tử nhưng trong lòng luôn có sự phản kháng ngầm ngầm hoặc nhận xét lại lời giáo huấn, sự sai bảo của người trên như vậy là không nên. Vì lúc này, chúng ta tu chưa nhiều, ngã chấp chưa bớt, trí tuệ chưa sáng nên sự phê phán đó chưa chính xác. Khi đã lớn, đã tu hành qua nhiều công hạnh, qua nhiều công phu Thiền định, ngã chấp nhẹ hơn, chúng ta sẽ nhìn vấn đề đúng hơn, sự nhận xét sẽ chính xác hơn. 

Ngay cả người thế gian, bước đầu dạy con cũng phải tập cho con trẻ hạnh vâng lời, sau đó mới dạy thêm vô số đức tính khác. Đây là bài học kinh nghiệm về giáo dục con cái của các bậc cha mẹ. Nếu ngay từ nhỏ, cha mẹ không dạy cho con hạnh vâng lời, cuộc đời của đứa bé sau này sẽ hỏng. Thực tế cho thấy, giáo dục con trẻ không phải là điều đơn giản vì có những đứa trẻ rất dễ bảo, nhưng cũng có những đứa rất khó bảo, cha mẹ phải nghiêm khắc dạy dỗ, thuyết phục ngay từ buổi đầu. 

Nhiều bậc phụ huynh tỏ ra không cương quyết trong việc dạy con. Khi sai con làm việc gì, nếu con không làm, cha mẹ lại tự làm lấy. Cứ thế, đứa trẻ sẽ nghĩ rằng không vâng lời cha mẹ cũng chẳng sao. Càng ngày, cha mẹ càng không sao sai khiến nổi. Hoặc có trường hợp cha mẹ hay bào chữa, chống chế cho con. Khi nhà có khách, cha mẹ gọi con ra chào, đứa trẻ tìm cách trốn mất. Lúc ấy, không những không la rầy, cha mẹ còn nói đỡ cho con: “Cháu có tính nhút nhát, nhất là khi có người lạ”. Thật ra, chính cha mẹ đã dung túng cho sự thật không vâng lời của con mình. Cứ thế, sau này đứa trẻ sẽ tiếp tục không vâng lời và trở thành đứa hư hỏng. Ông bà ta từng nói:

Uốn cây từ thuở cây non

 Dạy con từ thuở con còn ngây thơ.

Do không biết “Uốn cây từ thuở cây non” mà nhiều gia đình đã rơi vào hoàn cảnh bất hạnh. Con cái lớn lên không vâng lời cha mẹ còn bắt cha mẹ phải vâng lời mình. Lúc bấy giờ, nếu cha mẹ không vâng lời con thì tai họa sẽ ập đến. Vì vậy, với trẻ con, cha mẹ phải dạy cách vâng lời vô điều kiện ngay từ buổi ban đầu. Dù có khi phải trừng phạt nặng nề để con cái sợ hãi mà vâng lời, chúng ta cũng phải chấp nhận. Khi đã có thói quen vâng lời, cha mẹ không cần phải trừng phạt hay quát tháo, chỉ cần liếc mắt nhìn là con trẻ sẽ hiểu mình muốn gì và sẽ ngoan ngoãn thực hiện. Trên cơ sở đó, cha mẹ dạy con những đức tính khác một cách rất dễ dàng. 

2. THỰC HÀNH. 

Trong tâm con người, khuynh hướng nhu thuận thường không nhiều (đôi khi khuynh hướng bướng bỉnh nhiều hơn) nên chúng ta phải có một công phu tu tập để dần dần vượt qua sự bướng bỉnh đó. Trước hết, bằng lời tâm nguyện, hằng ngày khi lễ Phật, ngồi thiền, chúng ta luôn cầu xin Phật gia hộ cho mình được hạnh nhu thuận để sống toàn tâm, toàn ý theo Thầy, theo huynh đệ. Nhờ lời cầu nguyện, sự bướng bỉnh trong chúng ta dần dần giảm đi. Khi Thầy sai bảo điều gì, dạy điều gì, tự nhiên chúng ta thực hiện dễ dàng hơn. Như vậy, sức mạnh của lời nguyện có thể giúp chúng ta vượt qua khuynh hướng bướng bỉnh, chỉ thích làm theo ý mình. 

Ở mức độ cao hơn, nhu thuận được thực hiện ngay cả những lúc không có Thầy. Nghĩa là khi Thầy vắng mặt, chúng ta cũng cân nhắc, cố gắng không làm trái ý Thầy. Tất nhiên, tự kiểm soát, tự ràng buộc mình khi không có sự kiểm soát của người khác là điều rất khó, chúng ta phải tu tập nhiều mới thực hiện được. Bản thân người trụ trì cũng phải tự ràng buộc mình, phải cân nhắc trong từng lời nói việc làm. Khi làm việc gì cũng nghĩ xem người khác có vui không. Khi Phật tử cúng dường tiền bạc, người trụ trì muốn sắm sửa vật gì cũng cân nhắc, dùng tâm quán sát xem thí chủ cúng dường có vui hay không khi mình sắm sửa vật đó? Như vậy, dù không có ai kiểm soát, nhắc nhở, chúng ta cũng phải cố gắng thực hiện hạnh nhu thuận.

Cao hơn nữa( gọi là nhu thuận cấp ba) là công phu tu hành bí mật bên trong. Đi sâu vào công phu tu hành của nội tâm, chúng ta cần phải cẩn thận vì sự dụng tâm thầm kín bên trong chỉ tự mình biết. Ví dụ, đến giờ ngồi thiền, niệm Phật, chúng ta có tu hay không thực ra không ai biết được vì không có người kiểm soát. Đây là lúc chúng ta càng phải vâng lời Thầy, càng phải thực hành đúng theo sự hướng dẫn của Thầy. Thực tế cho thấy, nhiều người không tuân thủ theo sự hướng dẫn của thầy trong khi đi vào công phu tu hành nội tâm bí mật đã đi vào sai lầm. Cũng có trường hợp, người đệ tử thực hành khác Thầy vẫn thành công, nhưng trường hợp này rất ít. Tốt hơn hết là chúng ta nên thực hiện theo lời dạy của Thầy vì Thầy là người đi trước, có nhiều kinh nghiệm trong việc tu hành nội tâm. Thực hiện theo sự chỉ dẫn của Thầy vẫn có lợi cho chúng ta hơn.

Tóm lại, chúng ta vâng lời Thầy mình trên ba mức độ:

- Mức độ thứ nhất: Khi có mặt Thầy.

- Mức độ thứ hai: Khi vắng mặt Thầy.

- Mức độ thứ ba: Khi đi sâu vào công phu tu hành nội tâm. 

Thực hiện được cả ba mức độ đó là chúng ta đã đạt được hạnh nhu thuận một cách sâu sắc. 

Ngoài việc vâng lời Thầy, đối với sư huynh, sư tỉ, chúng ta cũng phải cư xử một cách nhu thuận để bày tỏ lòng kính trọng. Dù chưa thể bằng Thầy nhưng sư huynh, sư tỉ là những người đến với đạo trước, có kinh nghiệm hơn chúng ta. Nhu thuận với họ, ngã chấp của chúng ta sẽ giảm đi rất nhiều. Chúng ta sẽ học được những kinh nghiệm quý báu của sư tỉ, sư huynh. Hơn nữa, sự nhu thuận của người dưới đối với người trên, người đi sau đối với người đi trước sẽ giúp cho tình huynh đệ thêm thắm thiết. Đó là tâm lý chung của con người. Bản thân chúng ta cũng vậy. Khi người nhỏ hơn biết nhu thuận vâng lời, tự nhiên chúng ta thấy thương họ hơn. Tất nhiên, khi chúng ta biết nhu thuận vâng lời các sư huynh, sư tỉ và họ thương mình hơn thì đạo Phật rất có lợi.

Trong đạo, tình huynh đệ là tình cảm rất thiêng liêng và cao quý. Nếu tình đạo, tình bạn, tình huynh đệ đó được gìn giữ cho đến mãi về sau thì nó trở thành vô giá. Thử nghĩ, một ngày nào đó, tất cả những người cùng học với nhau ngày hôm nay đều trở thành Hòa thượng nhưng vẫn thương nhau, vẫn liên lạc với nhau, vẫn hỗ trợ cho nhau trong cuộc hoằng pháp thì tình cảm đó quý giá biết chừng nào! Có thể nói, tình cảm ấy không thể đánh đổi bằng bất cứ điều gì trên cuộc đời này. Những người may mắn giữ được tình huynh đệ trong thời gian dài mấy chục năm, dù ở xa nhau vẫn liên lạc, vẫn hỗ trợ cho nhau khi cần thiết sẽ đem lại nhiều lợi ích cho việc đạo. Hiểu được điều này, khi còn sống với nhau, chúng ta phải yêu thương, tùy thuận với nhau để duy trì tình huynh đệ tốt đẹp ấy đến suốt cuộc đời. 

Đối với các sư đệ, bổn phận làm sư huynh, chúng ta phải biết phụ thầy dạy dỗ. Những lúc cần thiết, chúng ta phải nghiêm khắc với các em nhưng phải lưu ý thực hiện một điều gần như công thức:“thương năm, phiền trách một”. Nghĩa là tình thương phải lớn hơn sự nghiêm khắc. Có như vậy sư đệ mới cảm phục và vâng lời. Mặt khác, chúng ta cũng phải biết nhu thuận với các em, nghĩa là cũng thương yêu, chìu chuộng các em. Có những điều rất nhỏ nhặt trong cuộc sống nhưng chúng ta biết chìu chuộng các sư đệ nghĩa là chúng ta đã nhu thuận với họ. Ví dụ, khi hai huynh đệ đang ngồi học với nhau, sư đệ bỗng kêu buồn ngủ và nói: “Em mệt quá, sư huynh đưa chân cho em ngả lưng một chút, năm phút sau gọi em dậy học bài nhé!”. Lúc ấy, chúng ta vui vẻ để sư đệ gối đầu ngủ và đúng năm phút sau gọi em dây học bài. Như vậy là chúng ta đã thương yêu, nhu thuận với sư đệ của mình.

3. ĐỐI VỚI SAI VÀ ĐÚNG CỦA CUỘC ĐỜI. 

 Khi lớn lên, chúng ta phải đối diện với cuộc đời với muôn ngàn đúng sai, phức tạp. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, con người ai cũng có lúc đúng, lúc sai. Có khi người ta làm điều này đúng nhưng có lúc lại nói điều khác sai. Người chưa chắc sai hoàn toàn, cũng chưa chắc đúng hoàn toàn và chúng ta cũng vậy. Do đó, chúng ta đừng quá tin vào ý kiến chủ quan của mình để luôn phản bác người khác. Không phải lúc nào những điều chúng ta nghĩ, những điều chúng ta hiểu biết cũng đúng. Có những điều bây giờ chúng ta cho là đúng nhưng một thời gian sau, khi nhìn lại, chúng ta thấy điều đó không đúng nữa. Hoặc có khi ba năm trước, chúng ta nói một câu mà bao nhiêu người cho là chí lý, cảm phục nhưng bây giờ chính chúng ta lại giật mình vì điều mình đã nói không đúng với Phật pháp. Vì vậy, chúng ta không được cố chấp, không được chủ quan trước đúng sai của người khác và của chính bản thân mình. 

Nhưng nếu không dựa vào sự hiểu biết của mình thì chúng ta dựa vào đâu để nhận định những sai đúng của cuộc đời ? Điều này rất khó xác định. Chúng ta chỉ tin vào phước đức của mỗi người. Nếu là người có phước, tự nhiên chúng ta sẽ biết được sự sai đúng của người khác, sự sai đúng của cuộc đời để chọn đường đi đúng đắn. Nếu vô phước, tự nhiên chúng ta nhận định mọi điều đều không chính xác. Phước  rất quan trọng nên người tu phải siêng năng lễ Phật để được nhiều phước. Nhờ có phước, chúng ta sẽ sáng suốt, nhận định chính xác những điều sai, điều  đúng trong cuộc đời để tránh bớt những lỗi lầm. 

Đối với trường hợp tư tưởng, ý kiến của người là đúng, chúng ta phải biết trân trọng, quý hóa. Điều này vừa hợp lý vừa giúp chúng ta giữ được tâm khiêm hạ. Vì người khác nói được điều đúng, làm được việc đúng sẽ khởi lên trong tâm chúng ta sự kính trọng. Khi kính trọng người khác, chúng ta là người được lợi ích đầu tiên, được hạnh khiêm hạ. Chúng ta đã biết, hạnh khiêm hạ có thành tựu hay không phụ thuộc vào việc chúng ta có kính phục nhiều người hay không. Nếu sống trên đời, lúc nào cũng chỉ nhìn thấy khuyết điểm của người khác và chê bai, dè bĩu, sự tự cao của chúng ta sẽ tăng lên và đạo đức sẽ dần dần tan vỡ. Ngược lại, nhìn ai cũng thấy điểm tốt và tỏ ra kính phục thì tự nhiên khiêm hạ của chúng ta tăng thêm và đạo đức cũng tăng theo. 

 Như vậy, người khác tốt nhưng chúng ta lại được lợi ích. Nói điều này chúng ta sẽ thấy trách nhiệm của mình đối với mọi người. Nhiều khi nhìn vào nhân loại, vào thế giới, chúng ta cảm thấy lo lắng vì không được bao nhiêu người tin vào nhân quả, không có bao nhiêu người kiểm soát được lầm lỗi của mình để vượt qua tham lam, thù hận. Nhưng càng suy nghĩ, chúng ta càng phát hiện ra một điều: lầm lỗi của con người không phải do bản thân họ gây nên mà do người khác.  Điều này có vẻ hơi vô lý nhưng lại là một sự thật.

Ví dụ, Sân là một trong năm yếu tố của ô nhiễm. Nhưng ô nhiễm do đâu mà có? Chính kiêu mạn đã sinh ra ô nhiễm. Kiêu mạn xuất hiện là do không biết kính phục ai hay không có ai để mình kính phục. Vì vậy, khi thấy người nào đó rơi vào lầm lỗi, chúng ta chỉ biết trách mắng, nguyền rủa họ mà không tìm hiểu nguyên nhân là một sai lầm. Nguyên nhân gây nên lầm lỗi ấy là do kiêu mạn, do không có ai để họ kính phục. Thế gian này quá thiếu những vị Thánh. Nếu được gặp một vị Thánh nhân trong cuộc đời, không lầm lỗi, từ bi, có trí tuệ, giải thoát thật sự, họ sẽ kính phục và không kiêu mạn. Nhờ vậy, họ sẽ có hạnh khiêm hạ và không bị đổ vỡ về đạo đức. Khi hiểu được điều này, chúng ta sẽ thấy lầm lỗi đầy rẫy trên thế gian là do tất cả chúng ta gây nên. Là người tu, chúng ta phải cố gắng tu tập, hoàn chỉnh giới hạnh, trí tuệ để người khác kính phục. Tất nhiên, mục đích chúng ta không phải chỉ dừng ở chỗ để được kính phục mà để người khác được tâm khiêm hạ, được tăng trưởng về đạo đức. Nếu xét một cách công bằng, một người bị đỗ vỡ đạo đức là do họ không có trí tuệ để nhìn thấy cái hay của người khác mà kính trọng nhưng trong đó cũng có lỗi của những người xung quanh. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng sống và tu học cho thật tốt để mỗi người là một vị Thánh cho người khác dựa vào, tăng trưởng được thiện pháp. 

Trường hợp đã cân nhắc kỹ và thấy ý kiến, tư tưởng của người khác là sai, không thể chấp nhận, chúng ta cũng hết sức cẩn thận, đừng lên giọng công kích, miệt thị quá đáng để chứng tỏ mình hay hơn. 

Ví dụ, một Thầy khi giảng pháp luôn khuyến khích mọi người cố gắng làm phước để cầu phước cho kiếp sau. Điều này không đúng. Vì đạo Phật là đạo “tri ân bất cầu báo”, làm phước không cầu quả báo. Làm phước mà cầu phước cho mình thì không phải xuất phát từ lòng thương yêu. Nhưng khi có Phật tử đến hỏi điều này, chúng ta phải trả lời rất khéo léo để họ vừa hiểu được vấn đề vừa không gây chia rẽ trong đạo Phật. Có thể chúng ta giải thích cho Phật tử hiểu rằng, Thầy dạy như vậy là dạy căn bản bước đầu để mọi người biết tin vào nhân quả. Nghĩa là người ta hy vọng được hưởng phước ở đời sau nên đời này cố gắng làm việc thiện. Khi đã tiến bộ hơn, Thầy sẽ dạy chúng ta làm phước mà không cầu phước. Phật tử nghe giải thích như vậy sẽ không nhận ra chúng ta không đồng quan điểm với vị Thầy đó đồng thời cũng hiểu đúng hơn về việc làm phước. Trong những trường hợp như thế, nếu chúng ta lên giọng công kích, miệt thị quá đáng sẽ làm cho Phật tử thấy kẽ hở trong đạo Phật là sự chia rẽ nội bộ. Hiện nay, không ít người bên ngoài lợi dụng những kẽ hở này làm cho các Thầy mâu thuẫn nhau, chùa này công kích chùa kia khiến đạo Phật bị chia rẽ, mất đoàn kết. Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận, đừng bao giờ để trong tâm mình có sự hiềm khích, công kích hạ thấp người khác. 

Người thuần thục hạnh nhu thuận, khi phân tích sự sai lầm của người khác vẫn giữ được vẻ từ bi, hiền lành, không hung hăng hiếu thắng. Lão Tử từng nói:“ Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa”. Người quân tử tuy không đồng quan điểm, tuy giữ vững lập trường, lý tưởng nhưng vẫn sống hòa thuận với mọi người. Đó là những người tốt. Ngược lại, kẻ tiểu nhân tuy đồng quan điểm nhưng lại cư xử với nhau bất hòa. Họ là những người xấu. 

Ví dụ, đối với một Linh mục Thiên Chúa giáo, mặc dù không đồng quan điểm với họ nhưng chúng ta vẫn có thái độ hòa nhã, vẫn từ bi khoan dung độ lượng. Đó là thái độ của người quân tử theo quan niệm của Lão Tử. Chúng ta không nên vì bất đồng mà dẫn đến bất hòa. 

Hiện nay, trên thế giới liên tục xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo, chiến tranh sắc tộc đẫm máu là do có sự bất đồng trong quan điểm và dẫn đến bất hòa. Ở Bắc Ireland, Tin Lành và Thiên Chúa giáo từng bắn giết nhau rất dã man cũng vì có sự bất đồng. Trong đạo Phật, vẫn còn tình trạng chùa này với chùa kia, Thầy này với Thầy kia đồng nhau về quan điểm nhưng cư xử với nhau nhiều khi không hòa thuận, thích chỉ trích, hiềm khích, hơn thua với nhau. Theo Lão Tử, đó là :“đồng nhi bất hòa”. Như vậy, vô tình chúng ta trở thành những người tiểu nhân như Lão Tử đã phê phán. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải cố gắng xây dựng đạo Phật trở thành một cộng đồng gồm những người vừa đồng lại vừa hòa. Đó là những người đồng hướng đến con đường giải thoát, đồng thờ kính Đức Phật và cư xử với nhau hết sức nho nhã, hòa thuận. Đây là mục tiêu mà tất cả chúng ta phải hướng đến.

Về sau, khi đã trải qua nhiều năm tháng tu hành chín chắn, đôi lúc chúng ta nhận ra Thầy mình, sư huynh mình vẫn có những điểm chưa hoàn toàn đúng. Đây là một thực tế, một sự thật chúng ta cần phải đối diện, cũng là sự cần thiết cho đạo Phật. Vì sở dĩ đạo Phật phát triển được là nhờ người sau biết học hỏi người trước và người sau giỏi hơn người trước. Tuy nhiên, khi nhận ra những điểm chưa đúng của Thầy hay của sư  huynh, chúng ta phải có thái độ đúng đắn trong cư xử. Chúng ta không được phản bác Thầy, phải biết bỏ qua những điểm không đáng để giữ chặt tình thầy trò, tình huynh đệ. Vì đó là những tình cảm vô cùng thiêng liêng. 

Khi còn nhỏ, chúng ta vâng lời Thầy, vâng lời sư tỉ, sư huynh để học hỏi. Khi lớn lên, dù ở vị trí nào, chúng ta cũng tiếp tục nhu thuận, vâng lời để thầy bạn được vui. Vì lúc này, hạnh nhu thuận không phải để học hỏi mà là biểu hiện của lòng hiếu. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình đã hơn Thầy và tỏ ra tự cao, tự đại. Đó là tội bất kính, bất hiếu với Thầy, người đã cưu mang, dạy dỗ, cho mình niềm tin và ánh sáng để đi trong cuộc đời này. Chúng ta phải luôn ghi nhớ: dù là người nổi tiếng, dù ở tột đỉnh vinh quang, muôn đời chúng ta vẫn là người học trò bé nhỏ trước Thầy. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng vâng lời Thầy. Đó chính là lòng hiếu trong đạo Phật. 

4. ĐỐI VỚI PHẬT PHÁP.

Thời đại ngày càng phát triển, tư tưởng con người ngày càng tiến bộ và sâu sắc hơn. Đạo Phật cũng phải phát triển và tiến bộ vượt hơn thời đại mới xứng đáng là ánh sáng dẫn đường cho nhân loại. Thời Đức Phật, Ngài nói rất đơn sơ, cô đọng, các vị Thánh có thể hiểu được nhưng người đời sau không thể nào hiểu nổi. Vì vậy, qua sáu trăm năm kể từ khi Phật nhập Niết Bàn, rất nhiều vị luận sư đã viết những bộ luận nổi tiếng để bổ sung cho lý luận của đạo Phật. Đó là việc làm rất cần thiết để đạo Phật phát triển. Càng về sau, giáo lý của đạo Phật càng được các vị luận sư phân tích và bổ sung thêm. Bên Nam tông, sự bổ sung giáo lý không nhiều nhưng Bắc tông, điều này thể hiện rất rõ. Phát minh được điều gì, các vị bổ sung ngay vào giáo lý của đạo Phật.

Ngày nay, sự phát triển trong đạo Phật còn đòi hỏi gay gắt hơn trước nữa. Cùng với khoa học, tư tưởng con người đã tiến bộ vượt bậc. Nếu vẫn còn tin rằng đạo Phật là chân lý tuyệt đối, là ánh sáng phía trước soi rọi cho thế gian đi theo, chúng ta phải có bổn phận đưa đạo Phật phát triển vượt lên trước thời đại. Muốn làm được điều đó, chúng ta phải tiếp tục phát triển trên lý luận của đạo Phật. Nhờ kiến thức, nhờ kinh điển, nhờ kinh nghiệm tu hành, chúng ta phải luôn luôn tìm tòi những điều mới, điều đúng để góp phần làm cho đạo Phật phong phú hơn. Đây thực sự là điều cần thiết và cũng là bổn phận của tất cả các Tăng sĩ trong thời đại hôm nay. Sống trong thời đại khoa học phát triển rất nhanh, tư tưởng con người phát triển vượt bậc như vậy mà đạo Phật không theo kịp thì đạo Phật không còn là chỗ dựa, là người dẫn đạo cho thế gian, cho cuộc đời nữa. Đến lúc đó, người ta sẽ không cần đến chúng ta và đạo Phật cũng khó mà tồn tại. 

Nghĩ đến điều này, chúng ta phải làm sao cho đạo Phật phát triển mạnh mẽ để khi nhìn vào, mọi người vẫn thấy đạo Phật tràn đầy ích lợi cho cuộc sống của họ. Chúng ta phải làm sao để con người dù có bay vào không gian, lên được đến sao Hỏa, sao Kim hay lặn sâu xuống đáy đại dương; dù cuộc sống có đầy đủ tiện nghi: xử lý mọi việc bằng computer, có đầu máy vidéo, ti vi, tủ lạnh,… họ vẫn thấy đạo Phật thật sự cần thiết cho cuộc sống của họ. Đạo Phật sẽ hướng đạo và đem lại ích lợi cho họ. Lúc ấy, con người sẽ tìm đến với đạo Phật, tìm đến với chúng ta. 

Tuy nhiên, phát triển đạo Phật, bổ sung thêm được nhiều điều mới mẻ cho đạo Phật nhưng chúng ta phải luôn luôn dựa vào giáo lý đã có, phải tôn trọng kinh điển cũ. Đó cũng là sự nhu thuận đối với cổ nhân. Đừng bao giờ vì tìm được những điều mới mà chúng ta làm cuộc cách mạng thay đổi tất cả, gây nên sự khuấy động quá lớn trong đạo Phật. Đó là hành động cực đoan, quá khích và hiếu thắng của những người trẻ tuổi. Chúng ta phải tỏ ra chín chắn, trưởng thành, già dặn hon so với điều mình vừa tìm được. Dù tìm ra được những điều rất mới nhưng lúc nào chúng ta cũng nhẹ nhàng, tôn trọng cái cũ. Làm như vậy, những người đã từng quen với nề nếp cũ vẫn hoan hỉ đón nhận những giáo lý mới của chúng ta. Nhờ vậy, đạo Phật ngày càng phát triển mà không có sự chống đối, mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ. Thái độ ấy của chúng ta gọi là nhu thuận, nhẹ nhàng, tôn trọng cổ nhân.

1. ĐỊNH NGHĨA. 

Tham ái là tình cảm thương yêu giữa Nam và Nữ, thường khiến người ta tiến đến hôn nhân và tình dục. Đây là bản năng mạnh thứ hai so với bản năng sinh tồn của con người.

Sống trên đời này, chúng ta bị nghiệp quá khứ cũng như bản năng nơi chính mình thúc đẩy tìm đến tình yêu đôi lứa với người khác phái để rồi từ tình yêu đôi lứa đó, chúng ta tiến đến hôn nhân và tính dục. Tạo hóa đã sắp đặt điều này để cho con người duy trì nòi giống của mình. Không chỉ riêng loài người, các loài vật khác cũng đều như vậy. Tuy nhiên, người tu không được phép nhiễm vào tham ái vì đây là vấn đề thuộc về giới cấm. Vừa thuộc giới cấm vừa do những khía cạnh tế nhị khác nên vấn đề tham ái cũng ít được nói đến. 

Tình yêu nam nữ hay tham ái (gọi theo danh từ trong đạo Phật) là khái niệm thuộc về tình cảm. Chúng ta đã biết, tình cảm là điều không thể định nghĩa được. Trong bài Từ bi, chúng ta cũng đã khẳng định Tâm từ là lòng thương yêu, là cái gì không thể định nghĩa được. Tình cảm nằm ở mức độ sâu hơn ý thức. Ở ý thức, chúng ta có ngôn ngữ gọi tên, có suy luận, có sự diễn đạt. Còn những trạng thái của tình cảm lại nằm ở cấp độ sâu hơn nên ngôn ngữ của ý thức không thể định nghĩa được. Con người chỉ có thể nhận thấy biểu hiện của nó và dựa vào đó biết rằng mình đã yêu. Đối với những lớp tình cảm  còn nằm sâu trong vô thức, chúng ta lại càng không thể dùng tâm để điễn tả được.

Ví dụ, trong nhà Thiền, chúng ta thường nghe nói đến trạng thái thiền định, tam muội, đại định…, nhưng những trạng thái ấy không thể suy tư được và ngôn ngữ cũng không bàn đến được. Càng vào sâu, càng chìm sâu vào lớp tâm thức ở phía dưới, ngôn ngữ càng không với tới được. So với những trạng thái này, tình cảm vẫn cạn hơn nhưng lại sâu hơn ý thức. Do đó, ngôn ngữ cũng không định nghĩa được. Đó là lý do vì sao khi nhắc đến tình yêu, người ta đã than: 

Làm sao định nghĩa được tình yêu.

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều.

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt. 

Bằng mây nhè nhẹ gió nhẹ hiu hiu.”

 (Xuân Diệu)

Tình yêu muôn đời vẫn là cái gì đó vô cùng bí ẩn mà con người không thể cắt nghĩa được, không thể hiểu hết được. Tagore - ông hoàng của thơ tình thế giới - cũng từng nói đến cái vô biên, vô tận của tình yêu:

                        Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim

                        Nào ai biết được chiều sâu và bến bờ của nó

                        Em là nữ hoàng của vương quốc đó

                        Ấy thế mà em có hiểu gì về biên giới của nó đâu.

Cũng như bao nhiêu người khác, Xuân Quỳnh - nữ thi sĩ viết về tình yêu hay nhất trong văn học Việt Nam - cũng đi tìm nguồn gốc của tình yêu nhưng cuối cùng đành bất lực và thú nhận:

                        Sóng bắt đầu từ gió 

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau.

Tình cảm là như vậy, phức tạp và bí ẩn. Tuy nhiên, một điều lạ là tuy không định nghĩa được, chỉ cảm nhận thôi nhưng nó lại mạnh hơn ý thức. Phải chăng, cái gì càng hướng về chiều sâu, càng có sức mạnh hơn những cái xuất hiện trên bề mặt ? Ý thức vốn là cái xuất hiện trên bề mặt nên những suy luận  của ý thức (chúng ta gọi là lý trí ) thường không chiến thắng được tình cảm.

Trong thực tế, có những mối tình ngang trái, thậm chí vô lý mà người ta vẫn lao vào, bất chấp danh dự, bất chấp sự nghiệp, bất chấp tương lai, bất chấp cả cái chết. Chẳng hạn, một cô gái xinh đẹp, con nhà giàu có lại đi thương một anh chàng “du thủ, du thực”, không đạo đức, không nghề nghiệp, chỉ biết chơi bời lêu lỏng. Mặc dù gia đình ngăn cấm, tình yêu của họ vẫn ngày càng cháy bỏng. Khi người bố hỏi: “Con thấy người ấy có ưu điểm gì?”, cô gái không thể nào trả lời được. Không phải cô gái kia không nhìn thấy những điểm xấu của người yêu mình nhưng lúc này, lý trí đã làm theo sự sai bảo của con tim. Nếu hỏi tại sao lại đi yêu người đó, cô gái cũng không lý giải được. Hoặc có trường hợp, một người phụ nữ đã ở vào tuổi “ngũ thập” vẫn yêu một chàng trai hai mươi tuổi đến say đắm như thời còn vàng son con gái. Đó là tình yêu rất kỳ khôi, bình thường không thể chấp nhận được nhưng họ vẫn cứ yêu, không lý lẽ nào có thể giải thích được. 

Tại sao như vậy? Vì tình yêu luôn luôn mạnh hơn lý trí. Người ta vẫn thường nói: “Con tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu nổi”. Đúng như vậy. Sức mạnh của tình yêu vượt lên những lý lẽ thường tình. Chính vì tình cảm có sức mạnh đáng sợ như vậy nên người tu chúng ta phải biết đề phòng. Bây giờ, sống trong môi trường với đại chúng, với giới luật, được quý Thầy lớn và huynh đệ bảo bọc, chúng ta cảm thấy bình yên. Nhưng đây chỉ là sự bình yên tạm thời. Một ngày nào đó, khi ra làm Phật sự, chúng ta sẽ đối diện với không ít những thử thách, có khi có cả sự thử thách của tham ái. Nếu không đề phòng, không cẩn thận, nó sẵn sàng đẩy chúng ta vượt ra ngoài khuôn phép. Do đó, chúng ta phải có sự hiểu biết về tình yêu, hiểu được sức mạnh cũng như nguyên nhân của nó để có phương pháp hoá giải và vượt qua.

Sở dĩ tình cảm có sức mạnh ghê gớm như vậy vì nó thuộc bản năng của con người. Như đã nói ở trên, đây là bản năng mạnh thứ hai so với bản năng sinh tồn của con người. Bản năng sinh tồn là sức mạnh tiềm tàng, thâm sâu trong con người, buộc con người phải duy trì sự sống. Bản năng mạnh thứ hai là bản năng hưởng thụ, là khuynh hướng thôi thúc con người đi tìm hạnh phúc. Và trong những vấn đề mà con người gọi là hạnh phúc ấy, có tình yêu. Tình yêu cũng là một loại hạnh phúc vì trong cuộc sống, con người luôn khao khát yêu thương và khao khát được thương yêu. Sống trên cuộc đời này, nếu không hề thương yêu ai cũng không được ai yêu thương, con người sẽ vô cùng đau khổ. Những người rơi vào hoàn cảnh như vậy thật đáng thương. Thậm chí, có người không chịu đựng nổi sự cô đơn, đau khổ ấy đã muốn tìm đến cái chết. 

Vì là bản năng mạnh thứ hai của con người nên tình cảm, nếu không được thỏa mãn, cũng gây nên những hậu quả đáng sợ. Bình thường, con người phải ưu tiên cho bản năng sinh tồn (duy trì sự sống) trước, sau đó mới đi tìm tình yêu, hạnh phúc. Nhưng có những lúc, tình yêu đã lấn át bản năng thứ nhất, đã tranh giành với bản năng thứ nhất. Nghĩa là đôi khi vì tình yêu mà con người phải tự tử, phải hủy hoại sự sống của mình. Thực tế đã cho thấy điều này. Không ít những chàng trai, cô gái vì thất vọng trong tình yêu đã uống thuốc độc hoặc nhảy xuống sông tự tử. Lịch sử văn học thế giới còn truyền tụng, ngợi ca mối tình bất hủ của chàng Rômêô và nàng Juliet. Bất chấp sự mâu thuẫn, thù địch giữa hai dòng họ, đôi trai tài gái sắc ấy vẫn yêu nhau say đắm. Khi bị người lớn phát hiện và tìm cách chia rẽ, họ đã tìm đến cái chết để được mãi mãi bên nhau. Chính cái chết của họ đã xóa đi ranh giới hận thù giữa hai dòng họ. Câu chuyện về mối tình trong sáng, thủy chung, mãnh liệt của Rômêô và Juliet đã trở thành kiệt tác của văn chương thế giới. 

Tình yêu có sức mạnh thật khủng khiếp. Tình yêu mạnh hơn cả cái chết. Với không ít người, tình yêu chính là sự sống. Vì vậy, khi đã thất bại trong tình yêu, họ sẽ vô cùng đau khổ và sự sống với họ lúc ấy không còn ý nghĩa nữa.  Nói điều ấy để chúng ta thấy được sức mạnh khủng khiếp của tình yêu và luôn có ý thức giữ mình. Vì thuộc về bản năng nên tham ái luôn tiềm tàng trong mỗi con người. Trong đó có cả nguyên nhân của sinh lý là nội tiết tố sinh dục. Ở người nam có nội tiết tố nam là Testosterone. Người nữ có nội tiết tố nữ là Estrogen. Khi đến tuổi trưởng thành, những tuyến nội tiết của người nam và người nữ sẽ tiết ra hai nội tiết tố này tạo thành trạng thái tâm lý đặc biệt để người nam đi tìm người nữ và người nữ chờ đợi người nam. Đó là lý do vì sao khi lớn lên, con người lại phải yêu thương nhau. Theo các tài liệu y khoa, chính nội tiết tố nam là Testoterone đã thúc đẩy người nam yêu thích người nữ đã phát triển giới tính. Vì vậy, đứng trước một đứa trẻ khác giới, người đàn ông cảm thấy bình thường. Nhưng khi bé gái ấy đến tuổi dậy thì, tự nhiên người đàn ông sẽ nảy sinh tình cảm khi nhìn nó. Điều ấy diễn ra rất tự nhiên. Với người nam, không có thời điểm đặt dấu chấm hết cho tình yêu, cho sự rung động vì nội tiết tố vẫn còn hoạt động nên họ luôn bị thúc đẩy và vẫn cảm thấy thương yêu khi đứng trước người phụ nữ. 

Trong bộ phim Những con chim ẩn mình chờ chết có một nhân vật nữ rất thương vị linh mục trong khi bà ta đã lớn tuổi mà vị linh mục còn quá trẻ. Tất nhiên, vị linh mục đã từ chối tình yêu của người đàn bà ấy. Ông nói rằng: “Bà đã già rồi”. Bà ta trả lời: “ Tuy tôi già nhưng trái tim tôi không già”. Đó là câu nói rất nghiêm túc, rất chân thật. Đây cũng là điều mà tất cả chúng ta phải cảnh giác. Một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ già nhưng trái tim chúng ta sẽ không bao giờ già đi cùng tuổi tác. Nội tiết tố sinh dục chưa bao giờ chịu ngừng chảy trong máu mỗi người kể cả phụ nữ lẫn nam giới. Và vì thế, chúng ta không bao giờ chấm dứt được tình thương yêu. 

Vậy, làm sao con người biết được mình đang yêu hay đang rung động vì tình yêu? 

Tình yêu là loại tình cảm đặc biệt mà chúng ta chỉ có thể gọi tên chứ không định nghĩa được. Nhưng dựa vào bốn biểu hiện của tình cảm, con người có thể biết được mình đã và đang yêu. 

Thứ nhất, khi gặp người ấy, chúng ta cảm thấy lòng vui sướng .

Thứ hai, khi xa người ấy, chúng ta thấy buồn nhớ và luôn nghĩ về họ. 

Thứ ba, chúng ta luôn muốn giúp đỡ người ấy (vì có tình yêu là do nợ quá khứ, chúng ta muốn giúp đỡ là để trả nợ).

Thứ tư, do khuynh hướng ích kỷ, chúng ta chỉ muốn người đó thuộc về mình.

Nếu thấy trong tim xuất hiện bốn hiện tượng này, chúng ta biết rằng mình đã yêu và ráng mà tìm cách vượt qua. 

Trong tình yêu, ngoài nguyên nhân thuộc về sinh lý còn do nghiệp duyên từ quá khứ. Vì duyên nợ ân nghĩa quá khứ, tham ái đã khiến con người sống kết đôi trong đời sống hôn nhân. Khi thương yêu ai, chúng ta phải hiểu rằng giữa mình và người ấy đã có mối quan hệ từ quá khứ xa xăm. Nếu mạnh mẽ, sự tương quan đó sẽ thúc đẩy chúng ta tìm đến với “người ta” để nên vợ, thành chồng. Chỉ với đời sống vợ chồng, con người mới lo lắng, chăm sóc, giúp đỡ nhau suốt năm này qua năm khác để trả nợ nhau. Nếu nợ quá khứ không nhiều, ơn nghĩa quá khứ không nhiều nhưng có duyên, con người vẫn có tình thương yêu trong một thời gian ngắn. Trong tình yêu, nếu để ý chúng ta sẽ thấy, ai mắc nợ nhiều sẽ thương người kia nhiều hơn.

2. TÌNH YÊU NAM NỮ ĐEM LẠI CẢM GIÁC HẠNH PHÚC CHO CON NGƯỜI.  

Với con người, thương yêu và được yêu thương là một niềm hạnh phúc. Tất nhiên, hạnh phúc chỉ đến trong buổi ban đầu, về lâu dài tình yêu sẽ làm cho con người đau khổ. Nhưng tại sao tình yêu nam nữ làm cho con người có cảm giác rất hạnh phúc? Điều này không thể lý giải được một cách rõ ràng. Nhiều khi chúng ta có cảm giác như đây là một cái bẫy mà tạo hoá đã giăng ra để con người vướng vào. Và một khi đã vướng phải, con người thật khó tìm được lối ra. Trong bài Ta yêu em lầm lỡ, một nhà thơ - nhạc sĩ đã thốt lên:

Ôi chông gai đầy lối,

Cất bước đi về đâu?

Bản chất của tình yêu là vậy. Do Nhân Quả quá khứ nên chúng ta bị thúc đẩy, bị hướng về, bị dồn tâm vào một đối tượng nào đó và tạo thành tình yêu. Trừ trường hợp những người mắc bệnh “đa tình”, hoặc bị đổ vỡ về nhân cách, họ có thể hướng tâm về nhiều người nhưng không theo duyên nghiệp quá khứ mà theo sự thúc đẩy của nội tiết tố. Gặp bất cứ người con gái nào, người đàn ông cũng tán tỉnh, cũng dụ dỗ, cũng muốn chiếm đoạt. Họ chọc ghẹo tán tỉnh, nói lời yêu thương với người khác nhưng đó không phải là tình yêu nghiêm túc. Họ chỉ theo bản năng của nội tiết tố đi tìm niềm vui cho mình để thỏa mãn sự háo thắng, thỏa mãn khuynh hướng chiếm đoạt của một người đàn ông. Đó là những người không có đạo đức.

Chính nội tiết tố đã tạo ra hai khuynh hướng khác nhau giữa người nam và người nữ. Người đàn ông thích chinh phục hay tìm đến, còn người phụ nữ lại chờ đợi sự chinh phục và rất dễ xiêu lòng. Ở các nước phát triển, xã hội ngày càng văn minh, người ta bắt đầu đòi quyền bình đẳng cho người phụ nữ. Nữ giới không chỉ biết chờ đợi mà còn có thể chinh phục nam giới. 

Cảm xúc hạnh phúc trong tình yêu rất mãnh liệt đã tạo nên niềm hứng khởi, nguồn cảm xúc tràn đầy trong các tác phẩm nghệ thuật của thế giới, của nhân loại. Từ xưa đến nay, chúng ta có vô số những thi phẩm, nhạc phẩm nói về tình yêu. Nghệ thuật là sự sáng tạo trên cơ sở của cảm xúc. Tình yêu đã cho người nghệ sĩ cảm xúc và thúc đẩy sự sáng tạo. Tuy nhiên, nhiều nghệ sĩ chưa vượt khỏi tình cảm thường tình của con người để tìm đến và có cảm xúc mạnh mẽ đối với những tình cảm cao thượng hơn. Đây là điều đáng tiếc. Thỉnh thoảng, bắt gặp một vài nhạc sĩ, thi sĩ ca ngợi những tình cảm khác ngoài tình yêu, chúng ta trân trọng, quý giá vô cùng. Đó có thể là những bài thơ ca ngơiï quê hương: 

Quê hương là chùm khế ngọt.

Cho con trèo hái mỗi ngày…

Quê hương là con đò nhỏ. 

Êm đềm khua nước ven sông… 

 (Đỗ Trung Quân)

Hoặc tự hào về đất nước: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…”. Rồi những bài ca thời kháng chiến dạt dào cảm xúc như: Nương chiều

Chiều ơi! 

Lúc chiều về ngập ánh trăng phai.

Hoặc: 

Chiều ơi! 

Biết chiều nào còn đứng trên nương,

Phố phường nhiều chiều vắng quê hương.

Những câu hát ca ngợi nét đẹp buổi chiều, ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi cánh đồng quê thật tuyệt vời. Trước cảnh đẹp ấy, con người bỗng lo sợ một ngày nào đó khi phố phường mọc lên đầy, người ta không còn nhìn thấy quê hương qua hình ảnh nương dâu, rẫy mía… nữa. Nghe những bài thơ, bài hát ấy, tâm hồn chúng ta như được thư giãn, cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản hơn.

Sau một thời gian Nhà nước ngăn cấm không cho phép hát những bài hát tình yêu uỷ mị, trong thời kỳ đổi mới, người ta bắt đầu quay lại sáng tác những bản nhạc tình yêu. Những năm gần đây, một số ca khúc viết về tình yêu cũng được giới trẻ ưa chuộng. 

Khuynh hướng của tình yêu nam nữ luôn tiềm tàng trong con người như một lẽ tự nhiên và người ta xem đó là cái đẹp. Vì vậy, nhiều khi chưa có người yêu, người ta vẫn có thể đưa vào thơ mình những lời bay bướm chỉ dành cho tình yêu. Đây là lời “tự thú” của một Thầy khi nói về thời trai trẻ của mình. Vào năm mười bảy, mười tám tuổi, nhân dịp Tết khi sống một mình trong rẫy, xung quanh chỉ có dòng suối trong uốn lượn, chim hót véo von và sương rơi rơi trên lá, người ấy đã cảm xúc và làm một bài thơ về Tết. Trong bài thơ mùa xuân ấy có đoạn:

Này cô bé có yêu tôi sẽ biết

Trong lòng tôi vui vẻ biết bao nhiêu.

Khi thấy cô đôi má thắm đỏ nhiều

Theo tuổi lớn tình xuân nồng phơi phới.

Thực ra, lúc bấy giờ người ấy vẫn chưa yêu ai. Điều này chứng tỏ rằng, tình yêu nam nữ luôn tiềm tàng, luôn chờ đợi đâu đó trong mỗi con người. Nhưng niềm hạnh phúc cũng như nỗi đau khổ của tình yêu luôn dằn vặt nhân loại qua nhiều thời đại. Sự hưởng thụ hạnh phúc luôn làm phát triển khuynh huớng ích kỷ. Đây là công thức tuyệt đối đúng. Trong bài Ý nghĩa của hạnh phúc, chúng ta đã nói đến vấn đề này. Ở đây, chúng ta không bàn kỹ nhưng nói một cách tổng quát, tâm ích kỷ sẽ làm con người đổ vỡ đạo đức và tạo nghiệp. Khi đã tạo nghiệp, chúng ta sẽ chịu nhiều đau khổ. Mà nguyên nhân tạo thành ích kỷ là sự thụ hưởng hạnh phúc. Tất nhiên, bản thân hạnh phúc không có lỗi nhưng khởi tâm hưởng nó là trong chúng ta bắt đầu phát triển tâm ích kỷ. 

Thực ra, khi biết đạo, chúng ta sẽ sống tốt, thương yêu con người, làm được nhiều việc phước giúp đỡ mọi người. Theo luật Nhân Quả, những điều đó sẽ đem đến cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc vào ngày mai. Nhưng khi hạnh phúc đến, nếu tận hưởng, dần dần chúng ta sẽ trở thành con người ích kỷ. Ngược lại, nếu không hưởng, chúng ta sẽ không rơi vào ích kỷ. Nhưng hạnh phúc đến mà không hưởng là điều rất khó. Điều này đòi hỏi rất nhiềâu ở bản lĩnh tu tập của chúng ta. 

Ví dụ, một cư sĩ do kiếp trước bố thí rộng rãi nên đời này được giàu sang. Khi giàu sang, họ có trong tay tiền muôn bạc vạn, nhà cao cửa rộng, xe cộ xênh xang. Nếu tận hưởng sự giàu sang ấy, họ cảm thấy thích thú vì mình hơn những người khác và đâm ra kiêu ngạo. Rồi họ sẽ trở thành người ích kỷ. Đây là lý do tại sao có những người giàu lại rất ích kỷ. Trong khi đó, những Phật tử có căn lành sâu dày hơn, đời trước làm phước đời này được giàu sang nhưng vẫn biết tu giữ tâm mình. Khi thấy tiền bạc đến, họ không xem đó là vinh quang, không tận hưởng, vẫn biết dùng tiền bạc đó tiếp tục bố thí. Những người như vậy tuy giàu sang vẫn không ích kỷ.

Hoặc do đời trước trồng nhiều căn lành, làm được nhiều việc phước thiện, bây giờ thành công và được nhiều người ca ngợi, xưng tụng, chúng ta cảm thấy sung sướng, hạnh phúc. Đó là quả báo đời trước. Nhưng nếu chúng ta tận hưởng, khởi thích thú tận hưởng thì dần dần sự ích kỷ sẽ xuất hiện. Nếu trước những sự xưng tụng của người khác, lòng chúng ta vẫn bình thản thì ích kỷ sẽ không xuất hiện. Tuy nhiên, phải có bản lĩnh chúng ta mới làm được điều này.

Tương tự như vậy, hạnh phúc trong tình yêu buổi ban đầu luôn làm tăng khuynh hướng ích kỷ của con người vì tình yêu đem lại cảm giác hạnh phúc rất mạnh. Hạnh phúc càng lớn, ích kỷ càng dữ dội. Vì vậy, trong thực tế, chúng ta từng chứng kiến nhiều trường hợp người ta giành giật, ghen tuông với nhau một cách gay gắt và khốc liệt.

Như vậy, tình yêu nam nữ (tham ái) luôn luôn tạo thành sự ích kỷ. Theo Tứ Diệu Đế, ích kỷ là nguyên nhân của đau khổ. Ích kỷ làm đổ vỡ dần Đạo đức, đưa con người đến tham lam, tranh giành, sân hận…Và nghiệp bất thiện cũng được hình thành từ sự ích kỷ đó. Vì vậy, theo giới luật, tu sĩ không được phép yêu thương, luyến ái riêng tư . Và không riêng gì tình yêu, tất cả những gì đưa đến khoái cảm của hạnh phúc, người tu cũng bị cấm. Nếu vướng vào tình yêu, vào những khoái cảm hạnh phúc, người tu sẽ rơi vào ích kỷ, tạo nghiệp rồi đau khổ. Điều này đi ngược lại với mục tiêu Giải thoát của đạo Phật. 

3. THAM ÁI KHÔNG ỔN ĐỊNH. 

Một điều chúng ta thường thấy là tình yêu thường không bền vững, dễ thay đổi mặc dù khi yêu, người ta luôn thề non hẹn biển, nguyện yêu nhau đến suốt đời. Sở dĩ như vậy vì bản chất của tình yêu là trả nợ quá khứ và tìm hạnh phúc cho riêng mình. 

Xét theo Nhân Quả, chúng ta thương yêu người nào là có duyên với người đó ở quá khứ. Chính duyên nợ quá khứ thúc đẩy chúng ta phải thương yêu. Xét theo khía cạnh tâm lý, chúng ta thương yêu người khác vì nghĩ rằng khi gắn bó với họ chúng ta sẽ được hạnh phúc. Mỗi người có cách đánh giá, chọn lựa người bạn đời cho mình theo tiêu chuẩn riêng. Thông thường, người nam thích chọn người phụ nữ đẹp. Có thể ban đầu, đẹp là tiêu chuẩn đầu tiên nhưng sống với nhau lâu ngày, người ta lại thích người có tính tốt. Đây là kinh nghiệm chung của không ít người nam. Trong khi đó, người nữ lại thích người có tài, khâm phục người có tài. Tâm lý của người phụ nữ là chỉ thương yêu khi có sự kính phục. Như vậy, xét đến cùng, bản chất của tình yêu vẫn là sự ích kỷ. Dựa trên hai yếu tố đó, chúng ta có thể kết luận tình yêu không có sự bền vững. 

Vì bản chất của tình yêu là trả nợ cũ nên người ta thương nhau khi còn nợ, và khi đã hết nợ, tình thương cũng không còn. Có những cặp vợ chồng yêu nhau say đắm nhưng ở với nhau được bốn, năm năm, tự nhiên tình cảm lạnh như băng không sao hiểu nổi. Điều này chỉ có thể giải thích bằng nguyên nhân do đã trả hết nợ quá khứ. Ví dụ, trong hai người, người vợ là người mắc nợ nên tự nhiên yêu thương say đắm người đàn ông kia và làm quần quật để nuôi ông ta. Người chồng vì có người nuôi nên ỷ lại, sống phè phỡn, suốt ngày chỉ lo ăn nhậu. Người vợ vì còn nợ nên cố gắng làm việc cực khổ nuôi chồng. Nhưng bốn, năm năm sau, khi đã hết nợ, tự nhiên cô ta trở nên lạnh băng băng. Tình yêu của bốn năm trước đã biến mất, không còn một chút nào. Sau đó có thể là một cuộc chia tay. Như vậy, tình yêu không ổn định vì lệ thuộc vào nợ nhiều hay ít của quá khứ. 

Ngoài ra, sự ích kỷ cũng là nguyên nhân khiến cho tình yêu không bền vững. Ví dụ, ngày xưa, khi còn yêu nhau, người đàn ông cảm thấy người bạn đời có thể đem đến cho mình hạnh phúc vì người này vừa xinh đẹp, vừa giỏi giang. Nhưng sống với nhau một thời gian, ông ta mới phát hiện ra người vợ có những tật xấu như: lười biếng, ích kỷ, hay cằn nhằn, không quý mến gia đình chồng vv… Người chồng cảm thấy chán nản vì người vợ không đem đến cho mình hạnh phúc. Tình yêu trong lòng ông ta cũng biến mất. 

Tình yêu vốn không ổn định và không có gì có thể bảo đảm sự lâu dài, bền vững cho tình yêu kể cả hôn nhân, giá thú. Một khi không còn yêu thương nhau, tờ hôn thú vốn được coi là sự ràng buộc kia cũng chẳng có ý nghĩa gì. Người ta có thể xé bỏ nó hoặc ra tòa xin ly hôn. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta thấy sự đời hay vô thường, thay đổi. 

Một yếu tố khác làm nên sự không bền vững của tình yêu là do thiên hướng của người nam và người nữ. Người nam thích chinh phục và cho rằng càng chinh phục được nhiều người càng chứng tỏ mình tài giỏi, đào hoa. Có người còn quan niệm: “Yêu hai mươi, chọn mười, lấy một”. Hoặc chơi với nhau một nhóm, người nào cũng thi nhau có nhiều người yêu để có thành tích bằng nhau. Như vậy, đó chỉ là bản năng, sự háo thắng của người đàn ông chứ không phải là tình yêu. Trong khi đó, thiên hướng của người nữ là dễ xiêu lòng. Người ta thường nói: “ Đàn ông yêu bằng mắt, phụ nữ yêu bằng tai”. Nghĩa là người đàn ông thường bị chinh phục bởi sắc đẹp, còn phụ nữ dễ bị xiêu lòng bởi những lời đường mật. Nhiều người thấy mình tương đối đẹp trai, ăn nói khéo léo nên gặp ai cũng chọc ghẹo và nói lời yêu thương. Những lời nói ấy không chân thật nhưng phụ nữ vốn dễ xiêu lòng nên chấp nhận tình yêu. Cuối cùng, những mối tình ấy nhanh chóng tan thành mây khói. 

Mặt khác, tâm lý thích thú với cái mới cũng ảnh hưởng đến tình yêu và hôn nhân, khiến cho tình yêu, hôn nhân không bền vững. Tâm lý con người là vậy, thích một bản nhạc hay nhưng nghe hoài lại chán; thích một món ăn ngon nhưng ăn liên tục nhiều lần lại cảm thấy sợ. Trong tình yêu cũng vậy, người ta thường hay thích cái mới. Điều này thường gặp ở người nam hơn người nữ. Người phụ nữ thường chung thủy hơn người nam. Người đàn ông dù có vợ con đề huề nhưng ra đường gặp cô nào xinh đẹp cũng để ý, làm quen. Nhiều phụ nữ cho rằng đàn ông mang bản chất của loài bướm, thấy bông hoa nào xinh đẹp, thơm tho cũng sà vào. Đây cũng là vấn đề tế nhị nhưng quả thật, càng ngày người ta càng không tin vào đàn ông. Chính sự không chung thủy, ham thích cái mới, cái lạ ấy của con người đã khiến không ít cuộc hôn nhân bị tan vỡ. Tâm lý ấy cũng do yếu tố nội tiết tố quy định. 

Vì vậy, khi bước vào con đường tình yêu, chúng ta phải hiểu đó là bước vào con đường chông gai, bước vào biển đời sóng gió. Chúng ta đừng nghĩ đơn giản, khi trưởng thành, kết duyên đôi lứa là yên thân, là có cuộc sống ổn định. Tuy nhiên, trong cuộc sống cũng có những người yêu chân thật và đem lại cho tình yêu sự bền vững. Đó là những người có đạo đức và rất thông minh. 

Vì tình yêu thuộc về bản năng, có cảm xúc mãnh liệt và ích kỷ mạnh mẽ nên để có một tình yêu chân chính, bền vững, những người yêu nhau phải đạt những tiêu chuẩn nhất định. Ông Schopenhower từng nói: “ Chỉ có những triết nhân mới có thể sống hạnh phúc trong tình yêu hôn nhân nhưng chỉ tiếc hễ là triết nhân thì không lập gia đình và không yêu ai”. Theo ông, triết nhân có nghĩa là người có đạo đức và rất thông minh. Chỉ những người có đạo đức cao và rất thông minh mới yêu một cách đúng nghĩa. 

Trong cuộc sống, để có một gia đình hạnh phúc, khi bước vào cuộc sống hôn nhân gia đình, người ta phải tế nhị, phải chiều chuộng nhau, phải biết hy sinh bản thân mình, biết sống vị tha, quan tâm đến người khác, phải nhận ra những điều còn sâu kín chưa biểu hiện ra bên ngoài, phải biết chịu đựng cực khổ… Tiêu chuẩn cho con người trong đời sống gia đình khó và mệt mỏi như vậy. Cho nên, những người chưa bước vào cuộc sống hôn nhân tốt hơn hết là đem sự thông minh, đạo đức của mình thương yêu tất cả mọi người. 

4. TU SĨ PHẢI VƯỢT KHỎI THAM ÁI.  

Vì tham ái ràng buộc con người trong sự ích kỷ và tạo nghiệp nên người tu phải có bổn phận vượt ra khỏi tham ái. Trên nguyên tắc, Tu sĩ phải giữ tâm không bị tham ái chi phối để khuynh hướng ích kỷ không phát triển và dành trọn tâm hồn thương yêu tất cả chúng sinh, dành trọn cuộc đời lo cho Phật pháp. Chưa nói đến lý tưởng giải thoát đòi hỏi sự trong sạch tuyệt đối, nếu phải bận tâm, yêu thương một người, chúng ta không thể nào mở lòng thương yêu tất cả chúng sinh. Nhưng trên thực tế, Nghiệp tham ái chi phối tất cả mọi người vì đó là bản năng bên trong và nghiệp từ quá khứ. Có thể trong vô lượng kiếp trước, chúng ta đã từng sống đời sống vợ chồng với người này hoặc người kia và bây giờ không biết người đó là ai. Nhân Quả luyến ái ấy vẫn còn ràng buộc, kéo dài đến kiếp này. 

Ví dụ, đời trước, khi là vợ chồng, nếu đối xử với nhau tốt, bây giờ gặp lại, hai người sẽ cảm thấy như bị tiếng sét ái tình làm cho say đắm: “Phút đầu gặp em tinh tú quay cuồng, lòng đang giá băng bỗng rộn ràng muôn tia nắng”. Nhưng nếu đời trước không đối xử tốt với nhau, trong đời sống hôn nhân thường bực bội, chán chê, gây gổ, cứ muốn bỏ nhau, qua kiếp sau gặp lại có thể hai người có một chút tương quan nhưng rồi sẽ chán chường và chia tay nhau. Nghiệp tham ái trải nhiều đời như vậy nên chúng ta không biết những ai đã từng là vợ là chồng của mình trong những kiếp xưa. Có khi người ấy đang ở đâu đây, rất gần chúng ta và một ngày nào đó bỗng xuất hiện, làm cho chúng ta điên đảo. Đây là điều rất nguy hiểm, người tu chúng ta phải cẩn thận. 

Ngoài nghiệp từ quá khứ, con người còn bị nội tiết tố chi phối nên khó thoát ra được khỏi tham ái. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình đã già và không còn tham ái. Người ta kể rằng, có trường hợp một cụ già đã bảy mươi tuổi, khi gần chết bỗng nhiên đòi hỏi tham ái mãnh liệt rồi mới trút hơi thở cuối cùng. Đó là những cái nghiệp nằm sâu trong con người, chờ cơ hội thuận tiện sẽ khởi lên trong khi chúng ta lại luôn bị động trước nghiệp do chính mình tạo nên. Một khi nghiệp quá khứ nào đó đã khởi lên, chúng ta sẽ không tránh khỏi vướng vào tham ái. Có thể bây giờ chúng ta không tạo nghiệp nữa nhưng thực ra mình đã bị động vì nghiệp quá khứ. Vì vậy, tuy ngày hôm nay rất trong sạch trước đại chúng nhưng chúng ta vẫn chưa yên tâm tin rằng suốt quãng đời còn lại mình sẽ trong sạch nếu không biết phương pháp. Rõ ràng, trên nguyên tắc chúng ta không được tham ái, nhưng trên thực tế, nghiệp tham ái vẫn luôn luôn chi phối chúng ta. 

Trong đời, chỉ có hai hạng người không bị tham ái chi phối. Đó là người chưa bị nghiệp khởi và người đã chứng Thánh quả. Đối với người đã chứng Thánh quả, nội tiết tố vẫn hoạt động nhưng không tạo thành tâm lý thích thú, yêu thương người khác phái nữa vì sức định của họ rất vững vàng. Người chưa chứng Thánh quả, dù đã có được một phần định, nội tiết tố vẫn tạo thành tâm lý tình yêu.

Đối với chúng ta, những tu sĩ, nếu nghiệp chưa khởi, đừng để khởi. Chúng ta đừng bao giờ chủ quan vì tham ái rất mạnh. Mỗi người phải biết phương pháp, biết đường đi nước bước của nó để ngăn chặn, không cho nó khởi. Khi đã khởi, chúng ta phải biết phương pháp để vượt qua. Ở đây, vì học về tâm lý đạo đức nên chúng ta không kết tội những người phạm vào tham ái như theo quan điểm của giới luật. Chúng ta thương yêu và luôn mong con người vượt qua lầm lỗi. 

Điều gì có thể giúp chúng ta vượt qua tham ái ? Không phải tài năng mà chính công đức là yếu tố quan trọng giúp con người vượt qua tham ái. Ba công đức căn bản mà chúng ta đã học là: Siêng lễ Phật (hoặc niệm Phật) với lòng tôn kính tuyệt đối; Từ bi - trải tâm thương yêu chúng sinh, và Khiêm hạ - lúc nào cũng thấy mình kém cỏi. Đó là ba công hạnh căn bản cũng là ba tiêu chuẩn quan trọng. 

Theo Nhân Quả, tôn kính những bậc Thánh, chúng ta sẽ dần dần xuất hiện những tính chất của bậc Thánh đó. Đức Phật là một bậc Thánh tuyệt đối. Nếu tôn kính Ngài, sự trong sạch, sự vô nhiễm, sự cao thượng của Ngài sẽ dần dần xuất hiện và ngự trị trong tâm hồn chúng ta. Dù trong quá khứ, chúng ta có những nghiệp gì đó nhưng trong hiện tại, nếu thường xuyên lễ Phật, niệm Phật với lòng tôn kính thì những nghiệp ô nhiễm của thế gian trong chúng ta sẽ dần dần được xoá đi. 

Công hạnh thứ hai - lòng Từ bi - cũng giúp chúng ta vượt qua tham ái. Lòng từ bi thương yêu chúng sinh sẽ hóa giải được tình thương yêu chỉ dành cho một người. Đây là điều rất hay. Có Thầy thú nhận, một lần bị dao động trước một người nữ, Thầy liền khởi quán Từ bi và xóa được sự dao động đó. 

Công hạnh thứ ba - tâm Khiêm hạ- có thể giúp con người vượt lên tham ái vì kiêu mạn làm tham ái khởi rất nhanh. Nếu giữ được tâm Khiêm hạ thì kiêu mạn không khởi và không có điều kiện cho tham ái khởi lên. 

Đó ba công hạnh quan trọng mà chúng ta phải tích lũy suốt đời để giữ không cho tham ái khởi. Nếu một ngày nào đó, tham ái trong lòng mình phát khởi, chúng ta phải hiểu rằng mình đã thiếu ba công hạnh quan trọng này. 

Để tránh được tham ái, chúng ta phải hiểu những yếu tố nào có thể làm cho tham ái khởi lên. Trước hết, kiêu mạn, hơn thua làm tham ái khởi nhanh nhất. Một người chưa biết giỏi hay không nhưng nếu vẫn còn kiêu mạn, lúc nào cũng thấy mình hơn người khác, chắc chắn sẽ có lúc người ấy rơi vào tham ái. Trong thực tế, trường hợp này xảy ra rất nhiều. Chẳng hạn, một người lúc đầu là cư sĩ sau đó xuất gia, có công phu tu hành rất tốt. Ai cũng phải công nhận người ấy có sở đắc trong ngộ thiền rất cao, hiểu sâu sắc Thiền ngữ. Tuy nhiên, người ấy hơi có chút hơn thua trong khi đối đáp Thiền ngữ. Lúc nào anh ta cũng muốn hơn người khác. Nhiều người thấy vậy cũng tỏ ra lo lắng và hy vọng nhờ sở đắc tâm linh, người ấy có thể giữ tâm yên ổn, tu hành chân chính một đời. Nhưng sau mười mấy năm tu tập, người đó đã vấp ngã. Mặc dù công phu vững vàng nhưng theo hệ thống tâm lý nội tiết tố thì sức định chưa cắt được sự chi phối của nội tiết tố nên người ấy đã rơi vào nghiệp tham ái. 

Vì vậy, chúng ta phải cố gắng giữ gìn. Sau này, dù giỏi bao nhiêu, dù thành công bao nhiêu, lúc nào chúng ta cũng tìm một lý luận nào đó để giữ cho mình được khiêm hạ. Có thể chúng ta quán thấy mình là cỏ rác, cát bụi để không khởi tâm kiêu mạn. Không ít người đời này không kiêu mạn nhưng vẫn sụp đổ vì đời trước đã lỡ kiêu mạn. Có thể đời trước họ không cố ý kiêu mạn, tu hành rất tốt, nhưng giáo lý nào đó khiến cho họ kiêu mạn. Nhân Quả là vậy. Nhân Quả khiến cho con người kiêu mạn đời trước đến đời này vẫn bị vấp ngã.

 Một yếu tố khác cũng làm cho tham ái bộc khởi là khi tu thiền được định, chúng ta cho rằng mức thiền định mình chứng được là cao. Nhiều người đã mắc phải điều này. Chúng ta nên nhớ, khi tu thiền, tâm bắt đầu vào định, vô số những điều vi diệu sẽ xuất hiện không thể dùng lời diễn tả được. Lúc đó, chúng ta sẽ rất thích thú vì những điều có được quá mới mẻ. Bao nhiêu năm sống làm người, một người rất bình thường, hôm nay nhiếp được tâm vào định, một chân trời mới mở ra, một cuộc sống mới mở ra vô cùng vi diệu, tự tại, trí tuệ, bình an, hạnh phúc…, chúng ta cảm thấy bị choáng ngợp. Vì bị choáng ngợp trước kết quả mới mẻ đó, chúng ta cứ ngỡ điều mình đạt được quá cao nên tự hào mình đã tự tại, đã chứng được Thánh. Nếu chỉ nói với chính mình thôi, sau này chúng ta sẽ bị tham ái khởi lên. Nếu đem điều này nói cho người khác nghe, sự tu hành của chúng ta sẽ bị sụp đổ hoàn toàn. Đây là điều mà những người tinh tấn tu thiền cần phải cảnh giác. 

Sống không lý tưởng cũng là yếu tố làm cho tham ái bộc khởi. Chúng ta đã biết, mục tiêu lớn của lý tưởng là sống vì người khác, vì lợi ích cho  xã hội, cho đất nước, quê hương, cho nhân loại. Nếu một người sống không có lý tưởng, chỉ nghĩ đến bản thân mình, tâm ích kỷ sẽ phát triển và tham ái cũng phát triển theo. Người tu hành cũng vậy. Do nhân duyên đời trước, một người được vào chùa xuất gia tu tập nhưng cứ sống một cách nhàn nhã, không nghĩ gì đến Phật pháp, đến chúng sinh, không nghĩ đến lý tưởng vĩ đại của Phật pháp là sự giác ngộ, giải thoát vô biên, vô lượng... thì tâm ích kỷ sẽ dần dần phát triển và tham ái sẽ đến, không thể tránh khỏi. Đây là điều có thật. Nếu để ý, tiếp xúc với một người tu không có lý tưởng, không có mục tiêu lớn với Phật pháp, không thiết tha tu hành chỉ làm bổn phận hằng ngày của mình một cách bình thường, chúng ta sẽ chứng kiến cảnh một ngày nào đó người ấy bị một “nàng thơ” xuất hiện và “êm ái trao cho một vết thương”(Thơ TTKH).

Lý tưởng và tham vọng đều là những mục tiêu lớn trong cuộc đời con người. Nhưng mục tiêu lớn của tham vọng là vì chính mình, để được vinh quang cá nhân. Tham vọng, ích kỷ cũng làm tham ái phát triển. Tham vọng của người đời là luôn mong mình có chức vụ cao, giàu có hơn người. Tham vọng của người trong đạo là sẽ trở thành Chánh đại diện tỉnh, Trưởng ban trị sự tỉnh hoặc là Hiệu trưởng, giảng sư nổi tiếng… Đó là những tham vọng cá nhân. Dù là người đời hay người tu, nếu sống vì tham vọng thì không bao lâu tham ái sẽ bộc khởi. Thực tế cho thấy, những vị lãnh tụ chính trị thật sự vì dân vì nước, sống có lý tưởng, không tham vọng, cuộc đời sẽ không vướng vào tham ái, rất nhẹ nhàng, thanh thản. Ngược lại, những vị lãnh tụ có lắm vụ “xìcăngđan”, bê bối trong chuyện tình ái lăng nhăng thường là những người có tham vọng, có mục tiêu phấn đấu để giành quyền lực. Nhờ có phước, họ đã đạt được mục tiêu lớn, bản thân được vinh quang nhưng khi vinh quang đến thì tham ái cũng xuất hiện. Nó chinh phục, chiếm hết tâm hồn khiến họ bị đổ vỡ. 

Vì vậy, sống trên đời, chúng ta phải có mục tiêu lớn nhưng mục tiêu lớn đó phải vì chúng sinh, vì Phật pháp, không được vì bản thân mình. Chúng ta không bao giờ được phép mơ ước một ngày kia mình đắc đạo để mọi người phải cúi đầu bái phục hay mơ ước một ngày kia được trụ trì ngôi chùa lớn nhất thế giới để được nhiều người biết đến vì tham vọng sẽ kéo theo tham ái hủy hoại cuộc đời tu hành của mình. 

Có người chỉ một vài lần thoát được cám dỗ đã vội tưởng mình vững vàng. Điều này cũng làm cho tham ái xuất hiện. Ví dụ, Lúc đầu, một người nào đó xinh đẹp, giàu có đến mời gọi tha thiết, người ấy từ chối được vì nghĩ việc đạo quan trọng hơn. Thời gian sau, một người khác đến cũng tha thiết không kém nhưng người ấy lại khước từ được. Khoảng vài ba lần như thế, họ cảm thấy tự hào là tâm đạo mình đã vững vàng, không bao giờ thối chuyển. Nhưng tình cờ người thứ tư xuất hiện, họ lại không vượt qua được. Đây là điều chúng ta phải cẩn thận. Nếu một ngày đẹp trời nào đó, ánh nắng vàng rải nhẹ trên ngàn hoa cỏ nội; mây trắng nhè nhẹ vờn bay; chim đầu cành hót ríu rít…, chúng ta phát hiện ra trái tim mình đã thuộc về một người nào đó thì phải hiểu nguyên nhân là do sự chủ quan tưởng rằng mình đã vững. Rõ ràng, điều bất ngờ ấy xuất hiện không phải vì cô gái kia gộïi đầu bằng Pantein V hay tắm bằng Lux tím của các ngôi sao mà vì chúng ta tham vọng, kiêu mạn, chủ quan, tưởng mình đã vững vàng trước mọi cám dỗ. Chúng ta không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh mà phải tự chất vấn để thấy được những lỗi lầm của mình về đạo đức. Vì đó mới chính là nguyên nhân khiến cho tham ái khởi lên. 

Sau những thành công, được người khác ngưỡng mộ, tâm tự hào xuất hiện cũng làm cho tham ái phát khởi. Khi ra ngoài làm việc Phật pháp và gặt hái được nhiều thành công, chúng ta sẽ được nhiều người ngưỡng mộ. Đây là cũng là điều dễ ảnh hưởng đến quá trình tu hành của mình, chúng ta phải cẩn thận. Vì lúc ấy, tâm tự hào dễ xuất hiện và tham ái cũng theo đó mà đến với chúng ta. Đó là lý do vì sao chúng ta thường thấy nhiều người khi thành công, lên đến tột đỉnh vinh quang lại bị sụp đổ. Nhìn những người đạt đến thành công mà vẫn giữ được lâu bền, chúng ta biết ngay họ là người có đạo đức sâu dày, có tâm khiêm hạ bền vững. Những người ấy thường có khuôn mặt hiền lành, bình thản. Họ sẽ còn tiếp tục thành công hơn nữa trong cuộc đời. Tất nhiên, giữ cho tâm tự hào không xuất hiện khi được người khác ngưỡng mộ là việc khó vô cùng. Điều này đòi hỏi bản lĩnh tu hành của chúng ta qua nhiều năm tháng trước khi đi đến thành công. Vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta phải tu dưỡng đạo đức, tinh tấn thiền định. 

Một yếu tố khác cũng làm cho tham ái khởi là chê bai người bị vấp ngã. Khi thấy người khác bị vấp ngã, chúng ta phải hiểu nguyên nhân là do nhiều nghiệp trước chi phối, đến lúc họ không cưỡng lại nổi vì tham ái có sức mạnh rất mãnh liệt. Tham ái đã khởi lên rồi sẽ dồn người ta vào chỗ không thể thoát ra được. Thậm chí nó khả năng chiến thắng bản năng sinh tồn (như đã nói ở phần trước). Vì vậy, khi thấy một người bị nghiệp tham ái khởi, trở nên mất tự chủ, chúng ta phải có biện pháp giúp họ vượt qua. Chúng ta không nên chê trách vì: “dù có ước, có ước ngàn lời, có trách một đời cũng đã muộn rồi” (nhạc Ngô Thụy Miên). Nghĩa là khi thấy người ta vấp ngã, chúng ta phải hiểu đó là Nhân quả, chỉ xót xa và tìm cách giúp đỡ họ. Nếu chê bai họ, chúng ta cũng sẽ bị vấp ngã. Trong bài Khấn nguyện, chúng ta đã từng tha thiết:

Cho con biết im lặng,

Không nói lỗi của người, 

Chỉ lặng lẽ dùng lời,

Cầu cho người hết lỗi.

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta gặp những người bên ngoài có vẻ cứng rắn, mạnh mẽ nhưng bên trong lại yếu đuối. Đó cũng là một nguyên nhân làm cho con người vấp ngã. Bên ngoài phải nhu hòa, hiền lành, bên trong phải cương quyết mới có thể giúp con người vững vàng. Điều này rất phù hợp với tính chất của đạo Phật. Thông thường, người nữ vốn mềm mại, dịu dàng; người nam thì cứng rắn. Nhưng nếu tu đúng, hai tính chất này sẽ được dung hòa. Dần dần, người nữ từ nhu hòa trở nên cứng rắn và người nam từ chỗ cứng rắn bên ngoài trở nên nhu hòa hơn. Lúc ấy, cả người nam và người nữ đều có điểm giống nhau: thái độ bên ngoài hiền lành, nhẹ nhàng, dịu dàng nhưng bên trong cứng như sắt đá. Nếu người nào bên ngoài mềm mỏng, bên trong cũng yếu đuối là tu chưa đúng với tiêu chuẩn của đạo Phật. Những người như vậy rất dễ bị vấp ngã. Chúng ta cũng gặp không ít người làm ra vẻ cứng cỏi, nói năng mạnh bạo, thấy phụ nữ là quay đi có vẻ bất cần nhưng thực chất, bên trong rất mềm yếu. Chỉ cần bị đối tượng “tấn công” là người ấy ngã gục ngay. 

Bởi vậy, sự cứng cỏi bên ngoài hay sự thể hiện ý chí bên ngoài thật nguy hiểm. Người thật sự có ý chí là người cứng rắn ngầm ở bên trong nhưng bên ngoài vẫn mềm mỏng. Không riêng gì nam giới, phụ nữ cũng vậy. Có khi chúng ta gặp một cô gái gương mặt trông rất hiền, nói năng nhỏ nhẹ, có vẻ rất biết chịu đựng. Nhưng nếu để ý chúng ta sẽ thấy, trước một công việc nào đó, cô gái tỏ ra rất cương quyết. Nếu để công việc đem lại hiệu quả, đỡ phí phạm, cô sẵn sàng chấp nhận cực khổ làm theo cách của mình, không dễ dàng xuôi theo ý người khác. 

Một điều nữa cũng cần lưu ý là khi chịu ơn ai nhiều quá mà không đem giáo pháp đền bù được, chúng ta cũng bị tham ái ràng buộc. Ví dụ, một nữ thí chủ thường xuyên đến cúng dường thầy nào đó. Một hôm, người ấy nói: “Con đã mua một miếng đất rất lớn, con sẽ cất ngôi chùa và xin thỉnh Thầy về. Thầy cứ yên tâm tu hành, những việc khác con sẽ lo hết”. Nhưng sự thực, Thầy không bao giờ yên tâm tu được vì đã chịu ơn người ấy quá nhiều. Nếu không đem được giáo pháp tương xứng để đền bù lại ơn nghĩa ấy thì người chịu ơn phải trả bằng tham ái. Điều này đã xảy ra trong thực tế. Có người kể rằng: Một Thầy đang làm trụ trì rất tốt bỗng hoàn tục với một nữ cư sĩ. Khi được hỏi lý do tại sao, ông ta đã trả lời vì mình chịu ơn người đó quá nhiều. Khi tiếp xúc lâu ngày, tham ái khởi lên quá mạnh cùng với ơn nghĩa quá nhiều, vị thầy kia đã không cưỡng lại được. Đây là điều chúng ta nên cẩn thận. Sau này, trong cuộc đời tu hành, chúng ta đừng để phải chịu ơn người nào đó quá nhiều. Nghĩa là, lúc nào chúng ta cũng phải cố gắng siêng năng tu học để gặp ai, mình cũng có giáo pháp đền trả cho họ. Nếu không tự nói được, chúng ta có thể tìm băng, sách độ cho họ. Đừng bao giờ chịu ơn mà không đền trả, cũng đừng bao giờ chịu ơn một người nhiều quá. 

Tạo điều kiện gần gũi mãi cũng là nguyên nhân để tham ái bộc khởi. Chúng ta thường nghe một câu rất hay: “ Rong đóng đầu cầu (cầu tiêu), nhìn lâu cũng đẹp”. Bởi vậy, những người thường xuyên gặp gỡ nhau, nhìn thấy mặt nhau, dần dần sẽ nảy sinh tình cảm. Có thể trước đây, gặp người ấy, chúng ta cảm thấy bình thường. Nhưng sau một thời gian gần gũi, chúng ta bắt đầu nhận thấy nụ cười người ấy cũng có duyên, nói năng lại nhỏ nhẹ, lễ phép và lòng cảm thấy xao xuyến. Cho nên, trong giao tiếp, chúng ta nên tránh những cuộc tiếp xúc quá dài hoặc quá thường xuyên. 

Nếu quan sát, chúng ta sẽ thấy trong những nguyên nhân khiến tham ái khởi còn có nguyên nhân thuộc về phước. Người bị tổn phước nặng, khi nghiệp tham ái khởi, họ không còn nghĩ đến chuyện thoát ra mà chỉ hướng thẳng tới. Những người như vậy sẽ bị đọa rất lâu, không biết khi nào thoát khỏi. Còn người bị tổn phước nhẹ, khi nghiệp tham ái khởi, họ thường ray rứt, bất an và muốn tìm cách thoát ra. Lúc này, họ bị giằng xé giữa một bên là lý tưởng tu hành với một bên là tình yêu. Nếu biết phương pháp, những người như vậy vẫn thoát ra được khỏi vòng tham ái. 

Điều gì có thể giúp con người thoát khỏi tham ái? Như trên đã nói, ý chí không đủ giúp chúng ta thoát ra tham ái. Phải có thật nhiều công đức lễ Phật, sám hối, công quả một cách âm thầm, chúng ta mới dần dần thoát ra từ nội tâm đến hoàn cảnh. Nói về tham ái, ngoài đời thường xảy ra rất nhiều chuyện đau lòng. Ví dụ, một cư sĩ bao nhiêu năm ăn chay trường và lo việc Phật pháp rất nhiệt tình. Bao nhiêu tài sản, tiền bạc làm ra anh đều dành cho Phật pháp. Anh ta đã có vợ và hai con nhưng vẫn có ý định đi tu. Không ngờ, đúng vào năm anh định xuất gia, tai họa đã ập đến. Anh đã bị người khác trao cho một vết thương lòng. Không còn cách nào khác, anh ta về thú thật với vợ con là bao nhiêu năm nay anh chưa biết yêu. Đây là lần đầu tiên trong đời anh biết thế nào là tình yêu, thế nào là hạnh phúc và sự say nồng của nó. Anh xin phép được ly dị vợ và chia gia tài một cách sòng phẳng. Sau đó, anh ta sống với cô gái kia nhỏ hơn mình hai mươi lăm tuổi. Mặc dù quý Thầy khuyên rất nhiều (vì anh có duyên với các chùa và làm Phật sự rất nhiều) nhưng anh bỏ ngoài tai tất cả những lời khuyên ấy. Anh cho rằng, bao nhiêu năm nay anh không tìm thấy lẽ sống và hạnh phúc và đây mới là lẽ sống của cuộc đời anh. Vì vậy, anh đã bất chấp tất cả để chạy theo tiếng gọi của tình yêu, chạy theo lẽ sống của mình, bỏ lại sau lưng những kỷ niệm vui buồn của một thời. 

Tham ái có sức mạnh thật kinh khủng như vậy! Một người bao nhiêu năm ăn chay, khắc kỷ làm công đức, có giáo lý rất vững, có thể thuyết về Bát Nhã thao thao bất tuyệt như vậy cuối cùng cũng bị tham ái làm cho ngã gục. Có lẽ anh ta đã tạo nghiệp gì quá nặng. Nhưng chúng ta hy vọng, những việc phước đã làm đối với Phật pháp sẽ có ngày giúp anh thức tỉnh, quay lại với gia đình. Như vậy, muốn thoát khỏi tham ái, chúng ta phải tích lũy thật nhiều công đức. Nhiều người chỉ lo học, không chịu tích lũy công đức sẽ dễ bị tham ái chi phối và khi tham ái đã khởi, họ không thoát ra được. 

Song song với các công đức đó, chúng ta phải tọa thiền đều đặn để tìm cái Định sâu đủ phá được tham ái nằm sâu trong Hành Ấm. Lúc nào đạt được Định có thể cắt được đường nối giữa nội tiết tố và tâm lý, lúc đó chúng ta mới yên tâm rằng mình đã vững vàng, có thể thoát được tham ái thật sự. Nếu chưa có sức Định như vậy, chúng ta phải hiểu kiêu mạn và tham ái trong tâm mình vẫn chưa hết và phải luôn luôn cẩn thận. 

Điều cuối cùng là chúng ta phải kiểm soát tâm vị kỷ thầm kín của mình, đừng bao giờ để tâm vị kỷ lường gạt một cách vi tế. Muốn được như vậy, chúng ta phải dành trọn cuộc đời cho Phật pháp, cố gắng sống hoàn toàn vị tha. Vì nếu sống vì cá nhân mình, tham ái sẽ theo đó mà khởi phát. 

5. NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG BÌNH THƯỜNG. 

Đồng tính luyến ái là một hiện tượng không bình thường. Đây là trường hợp người cùng phái thương yêu nhau. Hiện nay, hiện tượng này xảy ra rất nhiều trong xã hội Việt Nam cũng như các nước phương Tây. Ở một số nước, người ta lên án vì cho rằng điều này không hợp với đạo lý, không có đạo đức. Nhưng bản thân những người trong cuộc lại cảm thấy rất bình thường. Họ vẫn yêu nhau say đắm, vẫn ghen tuông, hờn giận mà không cảm thấy có gì tội lỗi. Gần đây, khoa học phát hiện ra đây là một loại tật nằm trong não. Vì là tật nằm trong não nên thương một người cùng giới tính, người ta vẫn thấy bình thường. 

Trong đạo Phật, chúng ta gọi đó là người có nghiệp rất nặng. Vì tham ái đã vượt ra khỏi khuôn phép bình thường. Những người bị bệnh đồng tính luyến ái không được phép xuất gia, trừ những người đã tu tập rất lâu và đã vượt qua điều đó. Thực ra, trong cộng đồng tu sĩ nữ cũng như nam, hiện tượng này đã xuất hiện một cách thầm kín nhưng ít bị phát hiện. Tuy nhiên, những người bị bệnh này phải hiểu là nghiệp rất nặng và không được duy trì, phải sám hối rất nhiều để vượt qua. 

Hiện nay, có những giáo phái cho phép tu sĩ có gia đình. Vì họ nghĩ rằng, việc có gia đình không ảnh hưởng gì đến việc tu, thậm chí còn giúp tu sĩ yên tâm tu hành. Sự thực, điều này không đơn giản như vậy. Nếu bị tổn phước nặng, nghiệp tham ái vẫn khiến người ta vượt khỏi giới hạn cho phép. Có khi họ không chấp nhận cuộc sống một vợ mà còn cưới thêm hai, ba nguời nữa. Nhìn vào cuộc sống của người thế gian, chúng ta cũng thấy rõ điều đó. Nhà nước cho phép một vợ một chồng nhưng khi đã tổn phước, bị nghiệp tham ái khởi, người ta vẫn vượt ra ngoài khuôn phép, đi tìm thêm người khác nữa. Thậm chí, có cụ già bảy mươi tuổi vẫn đòi cưới vợ lần thứ ba. Đây là nghiệp do làm điều gì đó tổn phước, cũng là một sự trừng phạt chứ không phải là điều hạnh phúc như nhiều người vẫn nghĩ.

Trong cuộc sống, những yếu tố như văn hoá phẩm uỷ mỵ, đồi trụy cũng là một tác nhân đáng sợ. Hiện nay, nhiều cuốn phim “sex” vẫn được lén lút truyền cho nhau xem khiến con người bị kích động, đạo đức sụp đổ, lòng tham muốn tình dục trỗi dậy. Đó là nguyên nhân dẫn đến những vụ tội phạm tính dục như cưỡng dâm, mại dâm, lạm dụng tình dục ở trẻ em… Theo quy luật tình cảm, tham ái xuất hiện trước, tham dục mới đến sau nghĩa là có tình yêu thương mới dẫn đến tính dục. Nhưng với một số người, tham dục nặng đến nổi không cần tình cảm, không cần tình yêu, người ta chỉ dùng sức mạnh bạo lực để thỏa mãn tham dục. Những người như vậy, phước đã tổn rất nặng. 

Nếu những hiện tượng đó lan tràn nghĩa là Đạo đức xã hội đang xuống dốc nghiêm trọng. Là người tu, chúng ta phải thấy trách nhiệm của mình. Nghĩa là phải cố gắng tu hành, không để tham ái chi phối. Mặt khác, chúng ta cố gắng xây dựng Đạo đức cho xã hội. Sở dĩ người ta cứ trôi mãi, trôi mãi trong vòng tham ái, tham dục làm cho xã hội bị xáo trộn vì họ không biết cách tu dưỡng đạo đức, không biết cách nâng cao công đức của mình. Chúng ta phải giúp họ biết lạy Phật, biết thương yêu mọi người, biết sống  khiêm tốn, không ích kỷ… Có như vậy, Đạo đức xã hội mới được nâng cao và tránh được những chuyện đau lòng.

1. KHẢ NĂNG CON NGƯỜI LÀ HỮU HẠN. 

Trong cuộc sống, do ngã chấp sâu kín nên con người thường có những bệnh bắt đầu bằng chữ “tự” như: tự ái, tự cao, tự hào, tự mãn, tự tôn… Ở đây, chúng ta chỉ nói đến tự mãn, tự tôn - tự thấy mình là hay, là quan trọng. Điều này xuất phát từ tự ngã. Do tự ngã, chúng ta thấy những điều mình biết hoặc những điều mình làm được là rất hay, rất đủ, rất tuyệt vời. Từ đó, trong chúng ta thường xuất hiện bệnh “tự khen mình”. Chẳng hạn, khi nói ra điều chưa ai nói, chúng ta thấy mình hơn thiên hạ; hoặc khi làm được một việc thiện nào đó, chúng ta cảm thấy mình rất hay, rất cao thượng. Đó là những bệnh phát ra từ trong tự ngã. Đó là những bệnh sai lầm, chúng ta không được để chúng xuất hiện trong tâm mình, trong sự nghiệp tu hành của mình. Không riêng người tu, bất cứ người nào để bệnh này phát ra trong tâm đều bị thất bại, đổ vỡ. 

Vì sao chúng ta biết những điều mình đã biết được, đã học được, đã chứng được chưa phải là viên mãn? Vì so với những người khác, với những vị khác cao hơn, (chưa dám so với Phật ), tất cả những điều chúng ta biết, những việc chúng ta làm được chưa đáng là bao. Như vậy, dựa vào người khác, chúng ta có thể đánh giá được bản thân mình và vượt qua được bệnh tự mãn. Việc dựa vào người khác để đánh giá lại mình gọi là vượt qua chính mình, không còn đứng lại với mình nữa. Sở dĩ con người thường thấy mình hay, thấy mình giỏi vì họ chỉ đứng ở vị trí của mình để nhìn công việc mình làm, để quan sát những điều mình biết. Lúc ấy, họ thấy dường như không có gì hay hơn nữa.

Ví dụ, khi học bài Kinh Kim Cang, hiểu được một điều lý thú, chúng ta cảm thấy nó quá hay, không thể hơn được nữa. Vì trước đây, chúng ta chưa hiểu được như vậy. Nhưng nếu cứ nghĩ như thế thì chúng ta chưa vượt qua được chính mình, vẫn còn đứng lại nơi mình.

Khi đã bước ra khỏi mình, có thể dựa vào trí tuệ của những vị khác để đánh giá ngược lại mình, là chúng ta đã vượt qua chính mình. Đây là điều rất khó, vừa đòi hỏi trí tuệ vừa phải có đạo đức. Trong cuộc sống, chúng ta thường dựa vào chủ quan của mình để đánh giá chính mình hoặc người khác. Điều này thường không chính xác. Với một trí tuệ phát triển, chúng ta sẽ thấy chân lý trong vũ trụ mênh mông vô tận, những điều mình  biết được chưa là gì cả. Vì vậy, những nhà bác học xuất sắc trên thế giới thường nói một câu rất giống nhau: “càng học càng thấy mình ngu dốt”. Điều này mới nghe qua tưởng chừng vô lý nhưng càng nghĩ, chúng ta càng thấy đúng. 

Khi mới bắt đầu hiểu biết, chúng ta thường so sánh những điều mình học được với chính mình ngày hôm qua và thấy mình ngày càng giỏi hơn, hiểu biết sâu sắc hơn. Nhưng khi trí tuệ phát triển, con người không còn nhìn lại, so sánh với những hiểu biết của mình trước đây nữa. Nhờ trí tuệ, họ nhìn về phía trước và bỗng nhiên mơ hồ nhận ra bầu trời trí tuệ mênh mông vô tận, có biết bao điều mình chưa học được, chưa hiểu được. Những người bắt đầu có trí tuệ là những người vượt qua chính mình, không còn dựa vào mình nữa. Không chỉ riêng các nhà bác học, những người trí thức chân chính dù chưa học xong phổ thông, đại học hay đã học xong Thạc sĩ, Tiến sĩ đều có cái nhìn giống nhau như vậy. Càng học, họ càng nhận ra những điều mình đã học được, biết được, những gì mình phấn đấu cả một thời xuân trẻ chưa là gì trong chân lý mênh mông của vũ trụ này. Chân lý của vũ trụ là vô hạn, mà trí tuệ con người là hữu hạn. Chúng ta đừng bao giờ cho mình đã hiểu biết đầy đủ.

Có một thời gian, chúng ta nghe đồn rộ lên về việc người nước ngoài phát hiện ra hiện tượng đĩa bay (UFO) xuất hiện trên Trái đất. Đó là dấu hiệu có người ngoài hành tinh ghé thăm Trái đất với phương tiện di chuyển là đĩa bay. Trước hiện tượng đó, con người trên Trái đất chúng ta xuất hiện nhiều tư tưởng khác nhau. Có người cho rằng đây là chuyện có thật. Họ tin rằng, quả thực có trí tuệ của vũ trụ ngoài Trái đất đã đến thăm chúng ta. Có người không chấp nhận, cho đó chỉ là ảo ảnh người ta nhìn thấy rồi tưởng tượng ra. Có người nói rằng đó là một loại máy bay đặc biệt của của những cường quốc nhưng còn giấu kín… Nói chung, người ta không chịu tin là có trí tuệ vượt hơn trí tuệ khoa học của người sống trên địa cầu. Qua những chứng cứ thu thập được, chúng ta thấy quả thực là có trí tuệ ở ngoài vũ trụ, cao siêu hơn chúng ta rất nhiều. Gần đây, trong chuyên mục Những điều kỳ thú, nguời ta đã tiết lộ những thông tin rất lý thú về người ngoài hành tinh mà các nhà khoa học Mỹ đã “bắt được” và chăm sóc, theo dõi trong suốt thời gian qua. 

Trong một bộ phim do nhóm các nhà khoa học thực hiện, người ta đã chứng tỏ rằng cách đây năm nghìn năm, người ngoài vũ trụ đã đến viếng Trái đất. Dấu hiệu đó còn ghi trên những hang động, những tảng đá, những phong tục tập quán của người dân sống ở những vùng xa xôi như : Nam Mỹ, Phi châu v.v… Ở Úc châu, người ta cũng có những truyền thuyết về dấu hiệu cho thấy người ngoài vũ trụ đã đến đấy từ rất lâu. Những chứng cứ mà các nhà khoa học nêu ra quá mạnh mẽ, vững chắc, chúng ta không thể phủ nhận được. Những người tin như vậy cũng được gọi là người vượt qua chính mình, vì họ có trí tuệ biết rằng kiến thức khoa học của người địa cầu chưa đủ cao siêu. Bên cạnh đó, một số nhà khoa học lại khăng khăng chứng minh điều gì khoa học địa cầu không nói đến, điều đó không có thật. Vì vậy, họ phủ nhận hiện tượng đĩa bay. Đó là những người chưa vượt qua được chính mình. 

Nếu theo dõi báo chí, chúng ta sẽ thấy ở Việt Nam cũng có một nhà khoa học tên tuổi rất lừng lẫy, là Giáo sư - Tiến sĩ giảng dạy ở nhiều trường Đại học nổi tiếng (chúng ta không tiện nói tên) không chịu tin hiện tượng đĩa bay. Qua một số bài báo, ông ta dựa vào trình độ khoa học của địa cầu để phủ nhận hiện tượng này vì cho rằng nó không phù hợp với khoa học của địa cầu. Chúng ta rất lấy làm tiếc vì nhà khoa học của chúng ta chưa có tầm cỡ của Einstein, Newton hay Pascal. Mặc dù là người có bằng cấp cao, nổi tiếng khắp nơi trong nước, ông vẫn chỉ dựa vào sự hiểu biết chủ quan của mình để đánh giá người khác, chưa thể vượt qua chính mình để nhìn thấy được vấn đề. 

Chúng ta không có thời gian để nói nhiều về hiện tượng đĩa bay vì đây là một hiện tượng lạ, mang ý nghĩa khoa học rất cao. Nhưng chúng ta có thể xem xét một vài điều để thấy được những chân lý tồn tại trong vũ trụ. Ví dụ, với trình độ khoa học hiện nay, chúng ta có thể chế tạo được những loại máy bay với đôi cánh tựa không khí hoặc hỏa tiễn bay ra ngoài quỹ đạo nhưng tốn rất nhiều nhiên liệu. Trong khi đó, đĩa bay lại chuyển động rất êm, không thấy khỏi xịt ra từ động cơ và gần như không còn chịu lực hút của Trái đất. Chúng ta có thể suy luận người ngoài hành tinh đã có những phương pháp, những kỹ thuật hiện đại để có thể thắng được trọng lực của lực hấp dẫn giữa các thiên thể, trọng lực của Trái đất. Nhưng với trình độ khoa học của mình, chúng ta không thể hiểu được, không thể lý giải được điều này. 

Nếu liên hệ đến đạo Phật, chúng ta nhớ lại những chuyện kể về việc ngày xưa Đức Phật từng dùng thần thông để bay đi hoặc các vị Alahán đã từng dùng thần thông để vân du. Gần đây nhất, những nhà Yoga ngồi thiền có thể nhấc thân thể lên cao rất giống với phương pháp bay của đĩa bay.  Có thể nơi  hành tinh nào đó trong vũ trụ, người ta đã đạt đến trình độ tâm linh cao và vận dụng vào khoa học để chế tạo những loại máy móc có thể bay theo phương pháp của thần thông. Đây là điều rất đặc biệt. Có lẽ họ đã nối được khoa học với tâm linh nên trong kỹ thuật cơ khí lại áp dụng được phương pháp của tâm linh. Con người chúng ta chưa làm được điều này. Với trình độ văn minh của địa cầu như hiện nay, khoa học và tâm linh vẫn là hai lĩnh vực còn đối lập, mâu thuẫn nhau. Nhiều người tin vào khoa học đã phủ nhận tâm linh. Ngược lại, những người coi tâm linh là cao cả lại quay lưng với khoa học. Cả hai thái độ đó đều cho thấy con người chưa vượt qua được chính mình. 

Sống trong hiện tại, chúng ta có thể mơ ước về tương lai với những điều tốt đẹp. Đó cũng là biểu hiện của sự vượt qua chính mình. Ví dụ, Chúng ta mơ ước tại một hành tinh nào có sự sống trong vũ trụ, tất cả con người đều là Thánh nhân. Ngay từ nhỏ, người nơi đó đã được dạy dỗ Đạo đức, Thiền định, Nhân quả. Họ có phương pháp học tập thật siêu việt. Trong ba năm, họ có thể học bằng ba trăm năm ở Trái đất. Hoặc hai mươi năm học, nhưng trình độ, kiến thức của họ có thể bằng 1000 năm chúng ta học ở Trái đất. Họ có Trí tuệ siêu việt và tâm linh rất cao, sống với nhau như những bậc Thánh vv…. Chúng ta có thể mơ mộng như vậy. Ngày xưa, Voltaire - nhà văn Pháp nổi tiếng- cũng từng có những mơ ước như vậy. Ông là nhà văn có tư tưởng tiến bộ cách mạng, thông minh, viết nhiều sách với những lý luận rất nổi tiếng. Trong một tác phẩm, ông đã viết về một hòn đảo với trí tưởng tượng phong phú. Lúc bấy giờ, trên Trái đất chưa xuất hiện hiện tượng người ngoài hành tinh. Người ta cũng chưa khám phá ra được những vùng đất xa xôi trên Trái đất này. Con người chỉ thấy thế giới này là duy nhất và người ta có quyền mơ mộng về một  hòn đảo, một quốc gia nào đó trên Trái đất mà họ chưa biết đến. Khi đọc lại những câu chuyện đó, chúng ta có thể thấy những đoàn thám hiểm đi lạc vào những vương quốc xa lạ như trong truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Trong truyện của mình, ông Voltaire đã viết về một vương quốc trên đảo. Ở đó, người ta sống như Thánh trong một thể chế theo chế độ Cộng hòa. Con người đối xử với nhau rất Đạo đức, thương yêu, đoàn kết với nhau… Thực ra, nhận thấy tại đất nước mà ông đang sống cũng như các lục địa ở Âu châu, con người sống với nhau rất phi đạo đức nên ông bất mãn và mơ mộng về một thế giới khác. Đó cũng là sự vượt qua chính mình. Người ta tin rằng, ít ra vẫn còn có nơi nào đó tốt hơn nơi mình đang sống. 

Sống trong thế giới hiện nay, con người cũng có tâm trạng như vậy. Khi đối mặt với một cuộc sống đầy những giành giật, bon chen, thủ đoạn hơn thua, ích kỷ, tàn hại lẫn nhau…, con người thường xuất hiện hai cách phản ứng:  Những người biết Đạo sẽ mơ ước tìm về một nơi khác tránh xa cõi đời  đầy tham lam, thù hận này. Có thể người ta theo pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu chết để bỏ xứ này, đi về cõi Phật đẹp đẽ hơn, sống sung sướng hơn. Đó là thái độ quay lưng với thực tại. Những người khác lại cho rằng, sống giữa thế gian xô bồ, chen đua, giành giật này phải khôn ngoan, thậm chí có thể thủ đoạn, lừa lọc để tồn tại chứ không bao giờ chịu thất bại, buông xuôi. 

Trước hai thái độ ấy, chúng ta có thể nhận định rằng: Người đến với cuộc đời còn tồn tại nhiều điều xấu và chấp nhận sống song song với nó là người chưa vượt qua được chính mình. Họ vẫn chưa thấy được những cái đẹp sâu xa, cao thượng ở ngoài những gì đang hiện hữu này để mơ ước và vượt lên. Ngược lại, những người sống nơi cõi đời đầy rẫy cái xấu, cái  ác này vẫn có niềm tin, vẫn hy vọng đâu đây còn lấp lánh những vẻ đẹp thánh thiện mà mình chưa tìm thấy được. Nghĩa là họ vẫn hy vọng tìm được nơi thân hiện hữu này những điều cao hơn, tốt hơn. Thái độ như vậy cũng gọi là vượt qua được chính mình. 

Tóm lại, chân lý của vũ trụ là vô hạn, có nhiều điều chúng ta không thể biết hết được. Chúng ta phải có trí tuệ, có cái nhìn vượt khỏi những điều mình biết. Đây là tiền đề để chúng ta vượt qua được chính mình. Điều thứ hai, chúng ta phải biết trong vô biên tuyệt đối chân lý của vũ trụ, trí tuệ của con người là tương đối và hữu hạn. Đây là hai điều mà chúng ta cần phải nhận định trước khi đi sâu vào vấn đề. 

Trí tuệ con người luôn luôn hữu hạn và tương đối. Vậy, khi nào trí tuệ ấy đạt đến tuyệt đối và vô hạn? Chỉ khi đã thành Phật, trí tuệ con người mới trở nên vô hạn. Vì sao như vậy? Chúng ta biết rằng, giác ngộ là đạt được Vô ngã, con người không còn là mình nữa mà trở thành vũ trụ. Chúng ta không nói ra điều này vì không muốn phô trương, quảng cáo, tạo thành một kiến giải để người ta hơn thua, lý luận trong Phật pháp. Chính chư Phật, chư Tổ cũng đều giấu điều này. Mặc dù không nói ra nhưng chúng ta phải hiểu sự giác ngộ rất vi diệu và vô cùng vĩ đại. Đó là trí tuệ cao nhất trong đạo Phật, là sự chứng đắc cao nhất trong đạo Phật. 

Có một thời gian, người ta ca ngợi Phật tánh, người ta bàn luận làm sao ngộ được Phật tánh, chứng được Phật tánh, thấy được Phật tánh mà không để ý đến Vô ngã. Điều này đã trở thành một căn bệnh nghiêm trọng trong Phật pháp và kéo dài hơn cả ngàn năm trong đạo Phật. Vì chỉ hướng đến Phật tánh mà không để ý đến Vô ngã nên có nhiều vị khi chứng được một mức định nào đó vội cho rằng mình đã chứng được, đã thấy được và đã đạt được Phật tánh. Nhưng khi đã ngộ, trong cái định đạt được đó, bản ngã vẫn còn tồn tại. Chính vì bản ngã vẫn còn tồn tại nên mọi phiền não, mọi bất thiện vẫn còn trong tâm dù người đó đã đạt được định. Vì thế, bao nhiêu bệnh không dứt được vì ngã chấp vẫn còn. Đây là điều rất nguy hiểm. 

Hiểu điều này, chúng ta phải cẩn thận, dù được định ở mức nào cũng không bao giờ kết luận là mình đã đạt Phật tánh. Chúng ta phải biết, bản ngã vẫn tiếp tục tồn tại song song với định. Sở dĩ chúng ta nói trí tuệ con người là hữu hạn vì chấp ngã vẫn còn. Trong khi đó, trí tuệ của Phật là vô biên, vô hạn; trí tuệ của các bậc Alahán là vô hạn vì ở các vị ấy, ngã chấp không còn nữa. Tuy nhiên, không phải đơn giản chứng Alahán vô ngã là biết được tất cả. Sau này, nếu còn có duyên, chúng ta sẽ trao đổi thêm về những mức độ tu chứng tâm linh. Ở đây, chúng ta chỉ cần hiểu tiên đề: Chân lý của vũ trụ là vô hạn, trí tuệ của con người là hữu hạn, đừng bao giờ cho mình đã hiểu biết đầy đủ. 

Con người chúng ta thường mắc hai “bệnh” để gọi là chưa vượt qua được chính mình. Thứ nhất là bệnh tự mãn, cho rằng sự hiểu biết của mình đã đầy đủ. Đó là người chưa có trí tuệ nhìn xa hơn điều mình thấy, điều mình hiểu biết. Thứ hai là “bệnh” không muốn ai sau này hay hơn mình. Bệnh thứ nhất thuộc về Trí tuệ, bệnh thứ hai thuộc về Đạo đức. Người có tâm vượt qua được chính mình luôn thấy hiểu biết của mình chưa đủ, chưa hay, mình chưa phải là người toàn vẹn và luôn mong người đến sau hay hơn, giỏi hơn mình. Như vậy, vượt qua được chính mình vừa là Trí tuệ cũng vừa là Đạo đức. 

2. BỐN HẠNG NGƯỜI 

Trong cuộc sống, chúng ta có thể tạm phân biệt con người thành bốn hạng: 

Hạng thứ nhất: Người kém dở và biết mình kém, công nhận có nhiều người khác hơn mình. Đây là hạng người kém nhưng biết vượt qua chính mình.

Hạng người thứ hai: Kém dở nhưng bướng bỉnh, không biết chỗ kém dở và lỗi lầm của mình, không thấy cái hay của người khác. Nghĩa là người này có lỗi lầm nhiều trong cuộc sống mà không bao giờ thấy lỗi của mình. Cái hay của người khác họ cũng không thấy, chỉ thích chê bai. Trường hợp này quá tệ. Hạng người này không biết đến bao giờ mới có thể thoát ra được chính mình, và ở những kiếp về sau có thể bị đọa xuống những loài rất thấp kém. Điều này không phải là không có chứng cứ. Có Thầy đã chứng kiến và kể lại rằng: Ngày trước, Thầy từng sống với một ông già không có bà con thân quyến. Khi chết, ông cũng giấu, không cho biết gia đình ông ở đâu nữa. Vì là người duy nhất ở với ông nên những ngày cuối đời bệnh hoạn, người ấy đã chăm sóc, lo lắng cho ông đến khi ông qua đời. Trong cuộc đời mình, ông chỉ khen hai người là Đức Phật và Đại đức Narada ở Tích Lan. Còn lại, từ lãnh đạo đến thường dân, từ Hòa thượng, Sư Bà đến Tăng Ni… , ai cũng bị ông chê bai, chửi rủa. Sau khi ông chết, vị Thầy sống với ông lên núi cất chùa mang theo toàn bộ vật dụng của ông, vì nghĩ cũng là cách để ông có phước. Trong các vật dụng ấy có một cái ghế bố ông hay nằm. Khi mang lên chùa, nhiều người đã nằm trên chiếc ghế ấy. Sau một thời gian, chùa được người ta cho một con chó con để nuôi. Hằng ngày, con chó cứ nhảy lên ghế nằm. Một lần, một Phật tử thấy vậy bèn ẵm nó xuống vì sợ dơ ghế. Đêm đó, cô nằm mơ thấy ông già về trách: “Ghế tao, tao nằm sao mày cứ bắt tao xuống hoài vậy”. Chính ông già đó đã đọa thành chó. Ít hôm sau, con chó cũng chết. Nhưng không biết chỉ một kiếp đó ông đã đủ trả hết nợ của mình chưa. 

Nếu suy luận Nhân Quả qua những điều ông kể và trong cuộc sống hiện tại, ông già không gây tội gì nhiều, chỉ thấy khẩu nghiệp của ông nặng quá, luôn chê bai, nguyền rủa mọi người. Như vậy, người kém dở mà không biết lỗi của mình, không thấy cái hay người khác để ca ngợi, chỉ chê bai, sẽ rất dễ mất thân người mà không biết bao giờ mới được lên trở lại. 

Hạng người thứ ba: Tài giỏi nhưng kiêu mạn, không biết được giới hạn của mình ở đâu. Nghĩa là hạng người này giỏi nhưng chưa đạt đến trí tuệ tuyệt đối, lại bị bệnh kiêu mạn nên không thấy giới hạn, không thấy mình giỏi đến mức nào. Hạng người này cũng chưa vượt qua được chính mình. Trong cuộc sống, chúng ta hay gặp loại người này. Đó là những người tài giỏi, thấy mình có khả năng làm được mọi việc, thấy mình luôn hơn người khác. Những người như vậy dễ rơi vào tham vọng nguy hiểm. Vì cứ nghĩ mình giỏi, có thể làm được tất cả mọi việc nên họ dễ bị người ta xúi giục đi tìm quyền lực chính trị, tập họp thành từng nhóm, từng bè đảng để đấu tranh. Họ không hiểu có quyền lực, địa vị là do Nhân Quả chứ không do tham vọng. Người đạt được quyền cao, chức trọng trong xã hội là nhờ duyên phước của những đời trước chứ không phải do tham vọng, tự cao mà thành tựu được. 

Đây là người không vượt qua được chính mình vì không biết giới hạn của mình ở đâu. Sự thật, mình có thể giỏi trong lĩnh vực nào đó nhưng không thể làm tất cả mọi điều. Đặc biệt, chính trị là lĩnh vực vô cùng phức tạp, rối rắm, đòi hỏi con người phải rất giỏi, phải có đạo đức và có nhân duyên từ nhiều đời trước mới có thể đạt được quyền lực. Đây là điều chúng ta phải hiểu và phải tránh. Những người giỏi mà không vượt qua được chính mình rất dễ mắc sai lầm và ngày càng lún sâu vào sai lầm để rồi phải đổ vỡ. Ngoài việc thất bại, họ còn đổ vỡ về đạo đức, về sau họ sẽ làm những chuyện xấu xa, tội lỗi khiến người đời chê cười. Chỉ riêng kiêu mạn, không thấy được giới hạn của mình - một lỗi thuộc về trí tuệ- họ đã chuẩn bị để phải đối diện với sự thất bại ở mai sau. Huống hồ, nếu đổ vỡ thêm về đạo đức, nghĩa là không muốn ai về sau hơn mình, thế nào họ cũng làm những điều bậy bạ. Đây là điều rất nguy hiểm.

Hạng người thứ tư: Tài giỏi nhưng biết sẽ còn nhiều người giỏi hơn và luôn chờ đợi những người đến sau có khả năng hơn mình. Hạng người này vượt qua được chính mình. Đây là trường hợp rất đáng ca ngợi. 

Trong bốn hạng người ấy, chúng ta thấy có hai hạng người xuất hiện nhiều trong cuộc sống. Đó là hạng thứ nhất, người kém mà vượt qua được chính mình. Đây là điều đáng mừng cho thế giới vì những người này sẽ tiến lên được. Hạng người thứ ba, người giỏi mà kiêu không vượt qua được chính mình, không muốn ai hơn mình cũng là hạng người thường gặp. Đây là điều đáng buồn vì trên thế giới sẽ không có nhiều thiên tài, sẽ không có nhiều Thánh nhân. Người giỏi biết vượt qua được chính mình mới có thể thành Thánh nhân, thành thiên tài. 

Hai hạng người chúng ta ít gặp trong cuộc sống là hạng thứ hai - người kém mà không biết mình kém, không thấy cái hay của người khác và hạng người thứ tư - người giỏi mà vượt qua được chính mình, giỏi mà biết cái giỏi mình có giới hạn, mong những người đến sau sẽ giỏi hơn mình. Những người như vậy sẽ trở thành thiên tài vì họ đã gây được cái Nhân rất tốt trong cuộc sống. Rất tiếc, hạng người này lại xuất hiện quá ít. Học bài này, mục đích của chúng ta là tìm nhiều bậc giải thoát, nhiều Thánh nhân cho Phật pháp và cho thế giới. Sở dĩ Phật pháp và thế giới ít Thánh nhân là do hạng người thứ tư này còn quá ít.

 Như vậy, người kém mà biết mình kém sẽ trở thành người giỏi; người giỏi mà biết vượt qua chính mình sẽ trở thành người ưu tú cho thế giới. Phân biệt bốn hạng người này là chúng ta muốn đem đến cho nhân loại một cái Nhân, một con đường đi để con người biết đi từ giỏi đến xuất sắc, từ xuất sắc trở thành thiên tài. Những thiên tài đó sẽ trở thành những bậc Thánh nhân cho nhân loại. Hạng người thứ tư ngày càng nhiều thì thế giới này sẽ vô cùng hạnh phúc. 

 Trong bốn hạng người này, chúng ta nên so sánh và chọn con đường đi cho mình. Nếu thấy mình kém, chúng ta cố gắng vượt qua để trở thành trung bình, khá, rồi đến giỏi. Nếu được giỏi, chúng ta lại tiếp tục vượt qua chính mình để được xuất sắc và trở thành thiên tài. 

3. PHẢI VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH ĐỂ KHÔNG CẢN TRỞ SỰ PHÁT TRIỂN PHẬT PHÁP. 

Tìm hiểu bài này, chúng ta nhằm đến hai mục đích: Hiểu được con đường  dẫn chúng ta đi lên và không cản trở sự phát triển của Phật pháp. Nếu không vượt qua chính mình, chúng ta sẽ làm cản trở sự phát triển của Phật pháp.

Chúng ta đã biết, đạo Phật mênh mông, giáo lý đạo Phật vô cùng sâu sắc nhưng có hai điều vô cùng quý giá mà đạo Phật đem cho thế giới. Đó là luật Nhân Quả và sự giải thoát giác ngộ.

 Trước hết, luật Nhân Quả là điều quý giá mà đạo Phật đem lại vì luật Nhân Quả là tiền đề cho Đạo đức. Đây là “cái thềm” để chúng ta đi đến Đạo đức chứ chưa phải là Đạo đức. Một người có thể đã đọc nhiều cuốn sách nói về Nhân Quả và tin được Nhân Quả, hiểu được Nhân Quả nhưng chưa hẳn đã có Đạo đức. Tin Nhân Quả chỉ là nền tảng, là cơ sở để chúng ta có những lý luận tiếp tục và có thể sửa được nội tâm mình. Học mỗi bài về Tâm lý Đạo đức, chúng ta đều phân tích dựa trên luật Nhân Quả. Nếu không có chỗ dựa về Nhân Quả, chúng ta không thể phát triển về đạo đức. Chính vì thế, chúng ta coi Nhân Quả là một tiên đề vô cùng quý giá cho sự tăng trưởng Đạo đức của con người trên thế giới này. 

Điều đáng buồn cho thế giới hiện nay là rất nhiều tổ chức, đảng phái chính trị hoặc các tôn giáo… nhận ra sự quan trọng của Đạo đức con người, kêu gọi các thành viên trong đoàn thể của mình rèn luyện về Đạo đức nhưng họ lại không lý luận về Nhân Quả. Cho nên, dù nói về Đạo đức rất nhiều nhưng họ không thể nói một cách sâu sắc, không thể nói cao hơn được, chỉ kêu gọi chung chung. Nếu những thành viên trong đoàn thể của họ không thực hiện, họ cũng không cần, chỉ dựa vào luật pháp. Nhưng luật pháp cũng không thể nào giữ cho con người không vi phạm Đạo đức. Vì thực chất, luật pháp do con người tạo ra và chính con người nắm giữ luật pháp. Nếu con người không có Đạo đức thì luật pháp còn có ý nghĩa gì? Cứ cấp trên kiểm soát cấp dưới nhưng nếu cấp trên không Đạo đức, gây nên tội thì ai sẽ kiểm soát họ? Như vậy, nếu mỗi công dân có Đạo đức, sống và làm việc theo đúng pháp luật thì những người công an, những người nắm giữ luật đỡ vất vả. Nếu không có Đạo đức, xã hội luôn luôn cần những người có trách nhiệm kiểm soát công dân, cần những tổ chức cao hơn kiểm soát những tổ chức cấp dưới. Nhưng nếu những tổ chức trên không làm đúng luật, những tổ chức cao hơn nữa phải đứng ra giải quyết… Cứ như thế, Nhà nước tốn không biết bao nhiêu con người, bao nhiêu lương bổng vào việc  giữ gìn an ninh, trật tự chỉ vì người dân không có Đạo đức. 

Gần đây, những vụ án lớn xảy ra gây chấn động dư luận cũng xuất phát từ chỗ không có Đạo đức. Công dân vi phạm luật pháp. Những người nắm giữ luật pháp lại thông đồngï với tội phạm làm những điều sai trái. Nhà nước đã tin tưởng, giao cho họ quyền quản lý tài sản, kiểm tra người dân nhưng họ không làm đúng chức năng. Và khi phát hiện ra thì sự tổn hại đã quá lớn. Đến một lúc nào đó, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới sẽ kêu gọi Đạo đức vì Đạo đức con người đã xuống dốc nghiêm trọng trong khi những quy định về luật pháp không bao giờ đủ, không bao giờ có thể giữ được con người. 

Hiện nay, nạn tham nhũng xảy ra tràn đầy tại các quốc gia ở Nam Mỹ, ở Á châu không phải vì các nước đó không có luật pháp hay luật pháp không chặt chẽ mà vì con người không có Đạo đức. Nguyên nhân không có Đạo đức là do mặc dù vẫn kêu gọi, vẫn nói về Đạo đức nhưng người ta không có “cái nền” của Đạo đức là Nhân Quả. Nói đến Đạo đức mà không nói đến Nhân Quả chẳng khác nào xây nhà lầu trên cát. Nhưng điều khó khăn là nói đến Nhân Quả, chúng ta phải nói đến luân hồi. Hiện nay, luân hồi lại chưa chứng minh được nên người ta chưa tin Nhân Quả. 

Luật Nhân Quả rất quan trọng đối với chúng ta. Nếu một ngày nào đó, thế giới chấp nhận và tin vào luật Nhân Quả, Đạo đức con người sẽ phát triển, xã hội sẽ hạnh phúc. Bởi vậy, bổn phận của chúng ta là gieo rắc, truyền bá cho con người niềm tin hiểu về luật Nhân Quả, Nghiệp báo để họ sống tốt hơn, để Đạo đức tràn ngập trên cuộc đời này. 

Điều quý giá thứ hai mà đạo Phật đem đến cho nhân loại là sự giải thoát, giác ngộ. Đây là lý tưởng tối hậu mà chúng ta phải hướng đến. Con người luôn sống trong giày vò, bất an, đau khổ, ràng buộc… mà không thể tìm được con đường nào vượt lên để có cuộc sống hạnh phúc. Chính đạo Phật đã cho người ta con đường ấy. Trong mức độ cạn của cuộc sống này, người ta bình an hơn, hạnh phúc hơn, cởi mở hơn. Nếu thực hành lời Phật dạy sâu xa hơn nữa, họ sẽ tìm được trí tuệ, sự từ bi, sự hạnh phúc an lạc, sự giải thoát trong tâm hồn… mà không ngôn từ nào có thể diễn tả được. 

Dù thế giới văn minh, tiến bộ đến đâu thì hai điều này vẫn còn thiếu và đạo Phật vẫn luôn cần thiết cho nhân loại. Tất nhiên, chưa tiếp nhận được điều quý giá thứ nhất (luật Nhân Quả) thì con người khó hình dung ra điều thứ hai (lý tưởng về giải thoát, giác ngộ). Bởi vậy, tất cả chúng ta - Tăng Ni, cư sĩ, những đệ tử Phật nói chung - phải có bổn phận, có sứ mạng làm sứ giả cho Phật, đem Nhân Quả và lý tưởng giải thoát giác ngộ đến cho nhân loại. 

Nhưng làm thế nào để thực hiện được điều ấy?  

Nếu gặp bất cứ ai chúng ta cũng nói với họ mình sẽ cho họ hai điều quý giá nhất của đạo Phật là luật Nhân Quả và lý tưởng giải thoát giác ngộ, người ta sẽ từ chối không nhận. Vì sao như vậy ? Sở dĩ cho mà người ta không nhận là do nhìn vào chúng ta, họ không có độ tin cậy. Chưa nói sâu xa, trong cuộc sống, nếu cho ai điều gì quý giá mà người ta chưa có, chúng ta- người đem cho - phải là người thân thiết và phải giỏi hơn họ. Vì có như vậy, người ta mới tin là đó là cái quý giá. Ví dụ, đang đi trên chiếc xe Dream, chúng ta gặp một người đi chiếc xe đạp quá cũ, lại không có thắng, mỗi khi thắng phải chà hai chân xuống đường đến mòn cả dép. Người đó gọi chúng ta dừng lại và tỏ ý muốn tặng một chiếc nhẫn bằng vàng. Dù họ có chân thật bao nhiêu đi nữa, chắc chắn chúng ta cũng không nhận vì chưa đủ độ tin cậy. Chúng ta có thể nghi đó là vàng giả. Ngược lại, nếu họ đang đi trên chiếc xe hơi bóng lộn, chúng ta có thể tin và nhận món quà của họ vì thấy họ giàu hơn mình. 

Tương tự như vậy, sở dĩ chúng ta đem đến cho nhân loại Nhân Quả và lý tưởng giải thoát nhưng họ chưa nhận vì người ta thấy mình còn lạc hậu, trí tuệ chưa hẳn đã vượt hơn họ. Vào thời Đức Phật, người biết chữ rất ít, trong năm sáu ngàn người chỉ có vài ngàn người biết chữ, biết đọc biết viết. Vì vậy, lúc bấy giờ người ta xem việc biết đọc, biết viết là việc không cần thiết, không quan trọng. Người xuất gia không cần biết đọc, biết viết tu vẫn chứng được như thường. Rất nhiều vị Alahán không hề biết đọc, biết viết. Nhưng sau Phật khoảng 1000 năm (khoảng thế kỷ thứ IV, thứ V), nếu người tu sĩ không biết đọc, biết viết thì người đó không đáng là Thầy thiên hạ. Đặc biệt, trong thời đại ngay nay, một tu sĩ không biết chữ không thể đi nói chuyện đạo cho người khác nghe được. Những người đó không xứng đáng là người Thầy dạy đạo lý cho họ. Người Thầy dạy đạo phải giỏi hơn họ, là người đáng kính trọng trong xã hội. 

So sánh với thời Đức Phật để chúng ta nói đến một tình trạng tương tự xuất hiện trong xã hội ngày nay. Hiện nay, máy vi tính (Computer) được coi là một phát minh chứng tỏ sự tiến bộ vượt bậc của loài người. Trong thời điểm này, nếu người tu không biết sử dụng máy vi tính hoặc sử dụng chưa thuần thục cũng có thể chấp nhận được. Hằng ngày, họ vẫn tu, vẫn ăn chay, niệm Phật, mỗi sáng vẫn ngồi thiền đều đặn. Có người không biết vi tính vẫn đi giảng đạo, vẫn làm Thầy người ta được. Nhưng khoảng hai mươi năm sau, người tu sĩ không biết vi tính là hạng người không đáng được nhắc đến trong xã hội. Chúng ta phải nghĩ đến điều đó và phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. 

Để thế giới chấp nhận đạo Phật thì đạo Phật phải vững vàng, có bản lĩnh, đủ lý luận và không lạc hậu. Đạo Phật phải đồng hành được với thế giới và hướng đạo được cho thế giới. Chính vì vậy, đạo Phật phải phát triển không ngừng. Nghĩa là phải có nhiều đệ tử - Tăng Ni hay Phật tử cư sĩ - thật xuất sắc, hiểu biết khoa học kỹ thuật, nắm vững giáo lý và tinh tấn tu tập để phát triển lý luận của đạo Phật lên cao, ngang tầm với thời đại và lên cao mãi đến vô tận. 

Nếu chúng ta cho rằng lý luận của đạo Phật như vậy là đủ, tu như vậy là đã chứng rồi, không cần tu nữa là chúng ta đã cô phụ sứ mạng mà Phật đã trao lại cho mình. Chúng ta phải hiểu những sách vở, những lý luận của Phật pháp hôm nay không bao giờ đầy đủ cho con người, cho thế giới. Nếu đã đủ, hiện nay đạo Phật đã chinh phục được cả thế giới. Vì vậy, chúng ta không được quay lưng với thế giới, không được mắc bệnh tự tôn tự kiêu, không bao giờ được đứng yên một chỗ mà phải biết vượt qua chính mình - cũng có nghĩa là vượt qua trình độ của Phật pháp ngày hôm nay. Muốn làm được điều đó, người đệ tử Phật tương lai phải hội đủ ba điều kiện như đã nói: Có kiến thức của thời đại, nắm vững giáo lý, tinh tấn tu tập. Tất nhiên, điều này một người không thể làm được mà phải có sự “đồng tâm hiệp lực” của nhiều người, phải có sự tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. 

Ví dụ, hôm nay, tự nhiên trong đạo Phật chúng ta xuất hiện một vị Tăng, một Sư cô rất giỏi, phát triển được những lý luận mới, thuyết giảng hay, làm cho nhiều người thích thú tìm đến với đạo Phật. Chúng ta phấn khởi, xem đó là một bước tiến nhưng phải thấy rằng, điều đó cũng chưa đủ, cần phải có những con người xuất sắc tiếp tục phát triển lý luận cao hơn, sâu hơn. Có như vậy, chúng ta mới có thể làm cho Phật pháp đồng hành và hướng đạo được cho thế giới.

Nếu hôm nay có phát triển điều gì mới cho đạo Phật, chúng ta không được xem đó là điều cuối cùng của chân lý, phải biết chờ đợi những người đến sau giỏi hơn, khám phá ra được những điều mới mẻ, phát triển thêm cho đạo Phật. Chúng ta phải hiểu rằng, biết vẫn chưa đủ, vẫn chưa phải là Đạo đức, đó mới là trí tuệ. Phải khát khao, mong mỏi người đến sau mình giỏi hơn để phát triển được Phật pháp mới được gọi là Đạo đức. Đó cũng chính là khát vọng vượt qua chính mình. 

Ví dụ, Schopenhower, một triết gia người Đức- đã viết những cuốn sách về triết học nhưng không được mọi người để ý. Khi ông được bảy mươi tuổi, thế giới mới phát hiện ra những điều hay trong triết lý của ông. Người ta bắt đầu xưng tụng ông. Hầu hết những triết lý ấy ông đều mượn từ đạo Phật và phát triển thành những lý luận rất sâu sắc. Sau này, nhiều triết gia cũng mượn lại ý tưởng, triết lý của ông. Có lẽ ông đã sống một đời tốt đẹp nên chết rất thanh thản. Người hầu bàn đã phát hiện ra ông chết trên bàn ăn vào đúng dịp kỷ niệm sinh nhật của mình mặc dù trước đó ông vẫn khỏe mạnh. Tuy nhiên, khi còn sống, ông mắc bệnh chủ quan khi cho rằng mình là người đã khám phá được chân lý cuối cùng của con người. Ông không ngờ sau này người ta còn phát triển cao hơn, nhiều điều còn sâu sắc hơn, hay hơn triết lý của ông. Đây là điều mà chúng ta cần để ý. 

Ví dụ, khi viết được hai cuốn sách về Nhân Quả: Nghiệp và Kết Quả và Luận về Nhân Quả, tác giả cuốn sách được rất nhiều người khen. Thậm chí có người còn cho rằng: “Lý luận về Nhân Quả phải được chia làm hai thời kỳ: trước và sau khi cuốn sách ra đời”. Nghĩa là so với những cuốn truyện tranh nho nhỏ trước kia nói về Nhân Quả rất đơn giản, lý luận về Nhân Quả trong hai cuốn sách này đã phát triển qua một thời đại mới, có sự lập luận chặt chẽ. Nhưng bản thân tác giả vẫn nhận ra trong lý luận về Nhân Quả của mình còn nhiều điểm mơ hồ. Nếu bây giờ viết lại, tác giả phải viết thêm cho rõ ràng hơn. Tuy vậy, học theo hạnh của chư Phật - vượt qua chính mình - tác giả khát khao chờ đợi sau này có những người khác viết về Nhân Quả cao hơn, sâu hơn. 

Một điều cũng làm cho chúng ta mất đạo đức là khi đã có sự sáng tạo, trở thành người xuất sắc trong thời đại mình, có uy tín, được nhiều người hâm mộ, chúng ta đã tạo thành một bức tường uy tín vây quanh để bảo vệ mình, làm cản trở những người đến sau. Đây là điều phải cẩn thận. Chúng ta đừng bao giờ vội vàng, chủ quan dùng uy tín của mình công kích, cản trở những người đến sau có phát kiến mới vì điều này có thể sẽ làm cản trở sự phát triển chung của đạo Phật. 

Ví dụ, hôm nay chúng ta viết được một vài cuốn sách, giảng được mấy chục đề tài và có uy tín với Phật tử. Sau này, một người nào đó nói khác mình, chúng ta không đồng ý và tìm cách bác bỏ. Vốn là người có uy tín, được nhiều người nghe, chúng ta đã lợi dụng uy tín đó phủ nhận ý của người kia trước công chúng. Như vậy, chúng ta đã dùng uy tín để chặn đứng sức phát triển của người khác. Đây là một điều vừa phi đạo đức vừa làm cản trở sự phát triển của Phật pháp. 

Hiểu được điều đó, sau này dù tài năng phát triển, làm được nhiều điều cho Phật pháp; dù trở thành Hòa thượng hay Ni sư, Ni trưởng có uy tín rất lớn, chúng ta cũng phải biết đón nhận những cái hay của những người đến sau, mở đường cho họ tiến lên, góp phần vào công cuộc phát triển Phật pháp. 

4. ĐIỀU THIỆN LÀ VÔ TẬN. 

Là đệ tử Phật, chúng ta phải ý thức được rằng: Chừng nào tất cả mọi người trên trái đất này đều tin hiểu Nhân quả, chừng đó người đệ tử Phật mới được dừng nghỉ. Chừng nào tất cả chúng sinh đều thoát khổ, chừng đó người đệ tử Phật mới xong đại nguyện. Ở đây, chúng ta không chỉ nói trong phạm vi một quốc gia mà nói đến thế giới, đến nhân loại. Người tu theo đạo Phật không giới hạn quốc gia, lúc nào cũng nhìn thấy cả thế giới trong tâm mình, trong trái tim mình. Vì vậy, ngày nào còn thấy thế giới này xảy ra xung đột, hận thù, chiến tranh, giết chóc còn người không tin Nhân Quả…, ngày đó chúng ta chưa được quyền nghỉ ngơi, trái tim còn thổn thức vì những nỗi đau khổ của nhân loại. Chỉ khi nào mọi người đều nắm được giáo lý, có Đạo đức, có thực hành Thiền định và đạt được sự an lạc, hạnh phúc…, chúng ta mới được quyền dừng lại đại nguyện. 

Mặt khác, chúng ta phải hiểu điều thiện cần cho thế giới này quá vô tận, một người không bao giờ làm được tất cả. Vì vậy, mỗi người phải góp một tay. Trước hết, chúng ta phải khuyến khích, giúp đỡ người khác làm điều thiện. Ai có thể làm được điều gì, cố gắng làm điều ấy và chúng ta không bao giờ được cản trở. Cách thứ hai là chúng ta phải hợp tác với người khác làm điều thiện. Trong trường hợp này, có thể chúng ta có khả năng hơn, có tiền bạc nhiều hơn, có trí tuệ hơn nhưng sẵn sàng chia sẻ công việc, trách nhiệm, tâm tư của mình với người khác. Nghĩa là chúng ta có điều kiện hơn nhưng không cố chấp, biết vượt qua chính mình, phụ với người khác làm điều thiện. Chúng ta không cho rằng, chỉ một mình làm điều thiện, không cho ai làm để chứng tỏ mình hơn thiên hạ, mình làm được điều tốt còn thiên hạ không làm được. Điều thứ ba là chúng ta luôn mong mỏi người sau làm được những điều thiện lớn lao hơn. Ví dụ, trong cuộc đời mình, nếu chúng ta đã nâng được Phật pháp đến một mức độ nào đó, đã độ cho bao nhiêu người biết được Phật pháp, đã giúp cho bao nhiêu người quy y, đã giúp cho bao nhiêu người có giáo lý để học hỏi… thì chúng ta ước ao những người đến sau mình sẽ giúp cho số người tin được Phật pháp lên gấp nhiều lần. Phải có sự khát khao, mong mỏi những người khác làm được nhiều điều tốt hơn mình, chúng ta mới thành tựu được Đạo đức. Nếu không trực tiếp làm điều thiện, chúng ta phải có tâm hoan hỉ trước việc làm điều thiện của người khác, không bao giờ được cản trở. Đó cũng chính là sự vượt qua chính mình.

Có thể bước đầu tu hành, nghe những điều này chúng ta cảm thấy hơi xa lạ. Nhưng trong tương lai, khi đã vượt qua khỏi vị trí hiện tại của mình, những điều này rất cần thiết đối với chúng ta. Lúc bấy giờ, chúng ta cũng có thể làm Hòa thượng, Ni sư, Sư bà… được thuyết pháp, làm Phật sự độ chúng sinh, cảm thấy có trách nhiệm với thế giới, chúng ta sẽ áp dụng những điều này một cách thiết thực hơn. Còn hiện tại, nếu ai nghe và hiểu được những điều này nghĩa là người ấy đã biết vượt qua chính mình. 

 Điều cuối cùng là chúng ta phải làm sao cho khuynh hướng làm điều thiện lan truyền từ người này sang người khác chứ không dừng lại nơi mình. Có người kể rằng, khi còn đi học, thấy một người bạn thiếu máy để học, họ đã mua tặng cho người bạn ấy một cái máy. Khi cô bạn đến cảm ơn, người ấy cũng cảm động và nói: “Bạn đừng bận tâm, chỉ mong sau này bạn cố gắng đối xử tốt với mọi người”. Chỉ nói vậy thôi, nhưng không ngờ một thời gian sau, người này hay tin cô bạn kia khi ra làm việc đã giúp đỡ được rất nhiều người trong cơ quan mình. Như vậy, điều thiện đã được lan truyền. 

Chúng ta phải làm sao để điều thiện lan tràn trong cuộc sống này. Khi được giúp đỡ, người ta phải biết suy nghĩ và sau này sẽ trở thành người tốt, giúp đỡ được nhiều người khác. Đối với mỗi người đệ tử Phật, dù là người xuất gia hay tại gia, khi đã thấm nhuần đạo lý đều phải trở thành một sứ giả của điều thiện: Làm điều thiện và truyền giảng điều thiện. Chúng ta không được tu một cách thụ động, chỉ biết ngồi ở nhà tụng kinh gõ mõ mà phải mở cửa bước ra đường, làm một điều gì đó có ích cho cuộc đời này. Đồng thời phải khuyến khích điều thiện lan đi, lan đi mãi. Người nào chưa biết Phật pháp, chúng ta phải làm cho họ biết Phật pháp. Người nào gặp khó khăn, chúng ta cố gắng giúp đỡ trong khả năng của mình. 

5. PHẢI THẬN TRỌNG VỀ MỨC ĐỘ TÂM CHỨNG KHI CÁCH PHẬT ĐÃ XA. 

Nói đến hạnh vượt qua chính mình, chúng ta cần lưu ý một điều: phải thận trọng về mức độ tâm chứng khi cách Phật đã xa. 

Chúng ta đã biết, trạng thái định là điều rất mới lạ, không ai có thể biết được đâu là chỗ chứng ngộ cuối cùng nhưng lại rất dễ tạo nên tâm lý tự mãn, cho rằng mình đã chứng cao tột. Vì vậy, mặc dù đã đạt được định, mức độ trước đây mình chưa từng có, chúng ta cũng phải cẩn thận, không bao giờ được cho đó là mức độ cuối cùng. Đây là chỗ phải vượt qua chính mình. Nghĩa là chúng ta phải thấy vượt khỏi mức độ định này còn mức độ định cao hơn, vi diệu hơn. Nhiều người đã chứng đến mức độ đó và tự mãn cho là xong nên chưa vượt qua được chính mình. Hơn nữa, vì chúng ta cách Phật đã xa nên không có ai ấn chứng cho mình những mức định đã đạt được. Nếu cứ đoán mò hoặc dựa vào lời xác nhận của thầy mình, chắc chắn không chính xác. Vì chưa hẳn thầy mình đã nói đúng. 

Một điều nữa chúng ta phải ghi nhớ là ngã chấp vẫn tồn tại song song với trạng thái định, dù rất sâu. Nhưng ngã chấp còn tồn tại ở đâu chúng ta không đủ trí tuệ để thấy khi tâm đã định, vì ngã chấp luôn kín hơn cái định mà mình thấy được. 

Ví dụ, khi đang còn vọng tưởng đầy rẫy, do tin lời Phật dạy, chúng ta biết mình có ngã chấp nhưng ngã chấp nằm ở đâu, chúng ta không thấy được. Trong định cũng vậy, có thể ví ở lớp tâm thức đầu tiên như những đợt sóng của vọng tưởng, tâm thức mạnh, chúng ta nhìn vào không thấy điểm nào là của chấp ngã. Sau khi tu một thời gian, thanh tịnh lặng lẽ như mặt hồ thu, chúng ta cũng không tìm thấy chấp ngã. Chính vì không thấy chấp ngã nằm ở đâu nên ta đã vội vã cho rằng cái định này là Phật tánh, cho rằng đây là chỗ viên mãn. Nếu đào sâu hơn nữa, chúng ta còn thấy những điều vi diệu, bao la, vô tận… trong đó nhưng cũng không tìm thấy chấp ngã nằm đâu. 

Chấp ngã luôn luôn thoát khỏi sự nhìn thấy của con người. Đây là chỗ chúng ta cần có phước để tin được rằng mình vẫn còn chấp ngã. Nghĩa là người nào khi đã vào định, nhìn trong tâm thấy lặng lẽ, bằng phẳng, thanh thản, trống rỗng không tìm thấy chấp ngã ở đâu và tưởng rằng mình vô ngã, người đó thiếu phước, không có phước để tiến xa hơn nữa. Người có phước, có Đạo đức, có niềm tin và có lòng tôn kính Phật sâu xa, tuyệt đối thì dù vừa có định mênh mông, rỗng không, tự trong tâm vẫn xuất hiện niềm tin rằng chấp ngã còn lẩn khuất trong đó. Khi đã biết chấp ngã vẫn còn, người ấy không bao giờ coi trạng thái định của mình là Phật tánh và luôn tự nhủ vẫn còn cái định sâu hơn để không sinh ra bệnh tự kiêu, tự mãn. 

Gần đây, người ta đã lạm nhận vấn đề chứng ngộ Phật tánh rất nhiều. Người nào mới đạt được định, được chút tỉnh giác rỗng rang, thanh tịnh liền tuyên bố mình đã kiến tánh. Họ đâu ngờ rằng đó chính là hang ổ của ngã chấp dễ sinh ra tự kiêu, tự mãn. Không ít người tu đã bị thoái lui, bị đọa lạc do lạm nhận, hiểu lầm như vậy. Vì lẽ đó, người tu không bao giờø được ung dung, làm ra vẻ tự tại mà lúc nào cũng phải biết lo, biết giữ mình cẩn thận. Đó mới là thái độ đúng. 

Những điều được đề cập trong những bài cuối cùng này vượt khỏi vị trí, trình độ của một Tăng Ni sinh. Tuy nhiên, chúng ta phải hết sức cố gắng đem tâm trí của mình ra để nghe, hiểu vì những vấn đề này rất cần thiết cho chúng ta trong tương lai. 

6. SỰ PHÁN ĐOÁN. 

Phán đoán là khi đã vượt qua khỏi chính mình, chúng ta bắt đầu đánh giá người khác. Nếu đánh giá người khác khi ta chưa vượt qua được chính mình và chưa đủ yêu thương thì thường không chính xác. Lúc ấy, chúng ta chỉ thấy cái sai, cái dở của người khác. Người nào vượt qua được chính mình, không coi mình là chân lý cuối cùng, người đó đã đủ lòng thương yêu mọi người. 

Ví dụ, khi có một người đến sau, nói điều gì đó khác hơn mình, chúng ta lắng nghe, cân nhắc thì sự phán đoán sẽ đúng. Sau khi cân nhắc, chúng ta khẳng định họ nói sai thì thực sự họ đã sai vì lúc đó chúng ta không còn chủ quan, không còn dựa vào chính mình mà đủ lòng thương yêu chúng sinh. Ngược lại, khi chưa vượt qua được chính mình, còn tự mãn, chúng ta chê người ta sai thì thực tế họ không sai. Có thể điều người ta nói quá mới, lúc ấy chúng ta không hiểu nổi. Như vậy, khi chưa vượt qua được chính mình và chưa đủ yêu thương, chúng ta thường không công nhận điều phát kiến mới của người khác. Phải vượt qua được chính mình và đủ lòng thương yêu thì sự phán đoán của chúng ta mới có thể đúng. 

Khi đã có sự phán đoán đúng, chúng ta chân thành góp ý điều chưa đúng của người nếu có duyên cũng như công nhận nhanh chóng những phát kiến độc đáo của người.

Ví dụ, người đến sau nói những điều rất lạ nhưng khi đã vượt qua chính mình và nhận định rõ đúng sai, nếu có duyên, chúng ta chân thành góp ý về cái sai của họ. Nếu họ đúng, chúng ta phải công nhận, ca ngợi và giới thiệu cho nhiều người biết để thế giới này có thêm được nhiều điều mới lạ và độc đáo. 

Trong cuộc sống tu hành, có hai thái độ cực đoan chúng ta cần phải tránh. Đó là giữ chặt cái cũ không chịu phát triển hoặc phát triển rồi đi quá xa với đạo Phật. Chúng ta phải có thái độ trung đạo. Nghĩa là không bảo thủ, không cố chấp, phải phát triển nhưng sự phát triển đó luôn đúng với Nhân Quả, đúng với tinh thần vô ngã, giải thoát của đạo Phật. Chúng ta đã biết, chân lý là điều khó. Không bảo thủ, phải phát triển, mà vẫn không sai, là điều khó. Vì vậy, mỗi người chúng ta phải cố gắng để đạt được chân lý đó. 

1. ĐỊNH NGHĨA. 

Bản thân chữ Tự tại khó có thể định nghĩa được một cách chính xác. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu Tự tại là những cách sống, biểu hiện của chính mình không còn lệ thuộc, chi phối và lay động bởi ngoại cảnh. Đây cũng là bài quan trọng trong chuỗi bài nói về đạo đức của một người tu theo Phật. 

2.BIỂU HIỆN CỦA TỰ TẠI. 

Ở các tôn giáo khác, người ta có thể ca ngợi những giá trị nào đó của con người theo quan niệm của tôn giáo mình. Riêng trong đạo Phật, chúng ta ca ngợi rất nhiều về tinh thần tự tại, ung dung trong đau khổ, trong chết chóc và khi đối diện với những nghịch cảnh của cuộc đời. Tinh thần tự tại được xem là một đạo đức rất cao của những người tu theo đạo Phật. Vì vậy, một người khi gặp những nghịch cảnh đau lòng mà vẫn thản nhiên, không buồn khổ được gọi là người đã tu tập rất cao, có thái độ ung dung, tự tại trong đời sống. 

Trong đạo Phật, chúng ta từng được nghe kể rất nhiều về gương sống Tự tại của Đức Phật, chư Tổ, của các vị Thiền sư. Đó là những con người trước muôn trùng sóng gió, đau khổ của cuộc đời vẫn đối diện một cách vững chắc và bình thản. Họ không bị ngoại cảnh làm phát khởi đau khổ, làm cho phiền não. Không chỉ riêng trong đạo Phật, ngay cả các Tôn giáo khác, nếu vị giáo Tổ hay vị triết gia nào thể hiện được tinh thần ung dung trước nghịch cảnh cũng đều được muôn đời sau ngợi ca, tin tưởng và xem như đó là một sự thành tựu vững chắc trong triết lý, tư tưởng của họ. 

Ví dụ, Khổng Tử - một chính trị gia, một triết gia nổi tiếng của phương Đông- cũng được ca ngợi là người có tinh thần ung dung, tự tại. Có lần, ở nước Trần, Khổng Tử rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, bị người ta hất hủi, xua đuổi, không có gì để ăn nhưng ông vẫn ung dung ngồi đánh đàn. Những đệ tử thấy vậy than phiền vì trong hoàn cảnh khốn cùng như vậy mà Thầy vẫn coi như không có gì xảy ra. Khổng Tử đã nói với họ rằng: “Cuộc đời cứ ung dung trôi đi, còn con người cứ bình thản mà sống”. Chính thái độ sống như vậy đã khiến cho những người theo đạo Nho đến bây giờ vẫn tin tưởng vào vị giáo Tổ của mình - con người không bị lung lay bởi ngoại cảnh. Mặc dù không giải thích được nhưng người ta vẫn cho rằng đó là sự thành tựu rất cao của tư tưởng, của tâm hồn, của nhân cách một con người. 

Hoặc Lão Tử – một con người siêu việt, một người có tâm linh đặc biệt – cũng được người đời ngợi ca. Ông đã viết cuốn: Đạo đức kinh  để lại cho đời sau một triết lý sống rất cao cả. Tuy sống một cuộc đời đạm bạc nhưng Đạo đức của ông cao ngất khiến ai cũng khâm phục. Phải là người chứng ngộ tâm linh rất cao, ông mới có thể vượt thoát mọi ràng buộc, không màng đến danh lợi và để lại một triết lý thâm sâu như vậy. 

Chính sự xuất hiện của những người như Lão Tử, Khổng Tử đã làm phong phú cho nền văn hóa cũng như cho triết lý của phương Đông mà đến muôn đời sau, người ta vẫn còn phát triển và vận dụng. Triết lý ấy đã tạo nên một lối sống vừa nghiêm cẩn vừa thanh thoát của người phương Đông. Vì vậy, khi đạo Phật du nhập sang Trung Hoa, gặp gỡ hai tư tưởng ấy và đã kết hợp để tạo nên một nền văn hóa thật tuyệt vời. Có thể nói, đỉnh cao trí tuệ, triết học của loài người tụ hội lại nơi mảnh đất Trung Hoa. Là nước lân cận, Việt Nam chúng ta cũng tiếp nhận được cả ba nguồn văn hóa đó nhưng hoàn chỉnh nhất và đầy đủ nhất vẫn là đạo Phật. Chúng ta có thể xem đạo Phật như là cái nền có khả năng dung hợp được những tư tưởng của các tôn giáo khác. 

Nhắc đến những người nổi tiếng có cuộc sống ung dung tự tại, chúng ta không thể không kể đến Socrate - một triết gia Hy Lạp, người được xem là có công khai sáng nền triết học phương Tây. Ông là một nhà tư tưởng, nhà triết học đồng thời cũng là một nhà giáo dục đã để lại cho nhân loại nhiều tư tưởng quý báu. Thời ông sống, không có phương tiện truyền thông như bây giờ. Vì vậy, ông chỉ truyền bá tư tưởng của mình bằng cách đi hết nơi này đến nơi khác để nói chuyện. Những lúc như vậy, ông cảm thấy như đó là một thiên chức, một sứ mạng cao cả nên rất hứng khởi và nói rất say sưa. Ông có một nghệ thuật, một cách nói rất thuyết phục khiến nhiều người tin tưởng và đi theo triết lý của ông. Đôi lúc, thấy ông không lo làm ăn, chỉ đi nói chuyện, vợ ông cũng buồn và có vài  phản ứng. Thậm chí, có lúc bà còn mắng ông, đuổi ông ra khỏi nhà; có khi còn tiện tay tạt luôn ly nước vào mặt ông…  nhưng ông vẫn coi như không có gì xảy ra, không giận, không buồn. Nhiều lúc ông còn tự hào, nhờ có bà vợ như vậy mà ông trở thành triết gia. Trong sự nhẫn nhịn trước những phản ứng của vợ, ông đã tìm ra nhiều đạo lý sống. 

Là nhà tư tưởng nhưng Socrate có những biểu hiện khiến người đời không sao hiểu nổi. Một lần, khi đang đi ngoài đường phố, ông đứng lại suy tư, trầm ngâm rồi nhập định luôn. Cứ thế, suốt một ngày, một đêm ông đứng bất động ngoài đường phố, sáng hôm sau mới xuất định và trở về nhà. Đó là những con người không đơn giản. 

Ngày xưa, ở phương Tây, người ta dùng chữ philosopher để chỉ những triết gia. Nhưng chính xác, philosopher phải hiểu là đạo sĩ. Những người như vậy thường có năng lực tâm linh rất lớn. Ngoài việc có tư tưởng, đạo lý để tryền bá cho mọi người, họ còn có năng lực tâm linh rất phi thường. Càng về sau này, những người đuợc gọi là philosopher chỉ còn khả năng thuyết giảng, không còn tâm linh phi thường như những philosopher trước kia nữa. Điều này cũng có thể hiểu tương tự như trong đạo Phật chúng ta. Thời Đức Phật, Ngài có trí tuệ, từ bi, thầân thông diệu dụng… nhưng bây giờ chúng ta giảng về đạo Phật chỉ có triết lý chứ không còn những biểu hiện siêu việt như Ngài. 

Đệ tử của Socrate là Platon, đệ tử của Platon là Aristote là những người được coi là những vị giáo Tổ, để lại bao nhiêu tư tưởng quý giá cho nền triết học Tây phương. Sau đó, nền triết học Tây phương có ảnh hưởng rộng khắp trên thế giới. Tuy nhiên, xét cho cùng, hiện nay người ta vẫn thích triết học Đông phương hơn. Nhiều người đã học theo Tây phương rất nhiều cuối cùng cũng tìm đến triết học Đông phương vì sự sâu sắc, thâm thúy của nó. Triết học của người phương Tây không đi sâu vào tâm linh như người phương Đông nên khả năng đứng bất động như Socrate không được truyền dạy lại và vì thế cũng dần dần bị mai một đi. 

Trở lại những câu chuyện kể về Socrate, chúng ta thấy ông thường hay nói chuyện đạo với người khác và dĩ nhiên khi nói chuyện đạo, ông có sửa những sai lầm của người này, người nọ nên đụng chạm đến những người có thế lực đương thời. Xung đột ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi đó, quần chúng theo ông ngày càng đông. Một lần, do có người ganh ghét, vu khống, ông bị bắt và bị buộc phải uống thuốc độc. Ông đã ung dung thanh thản đón nhận cái chết bằng cách bưng ly thuốc độc uống và tiếp tục nói chuyện với các đệ tử của mình trong khi họ đang đứng khóc chung quanh ông. Sau đó, ông mệt quá, nằm xuống và nói với các đệ tử: “Bàn chân đã lạnh rồi, lạnh dần lên đầu gối rồi, lạnh lên đến ngực là chết”. Khi cơ thể đã lanïh đến bụng, ông dặn dò đệ tử vài điều rồi trút hơn thở cuối cùng. 

Tất cả những điều đó đã để lại cho chúng ta sự cảm phục. Rõ ràng, phải có sự thành tựu thật sự trong nội tâm, trong tinh thần, họ mới nói được đạo lý và có những biểu hiện rất tự tại như vậy. Chính sự tự tại đó làm cho họ có sức mạnh, có sức sống, niềm tin, niềm hạnh phúc và có giá trị để không còn lệ thuộc bên ngoài nữa, khiến cho mọi người thán phục. 

3. NHỮNG ĐIỀU CẦN PHẢI NHÌN LẠI. 

Một thời gian rất dài, khi đến với đạo Phật, nhiều người cũng hâm mộ thái độ tự tại đó. Mấy chục năm trở lại đây, Thiền tông xuất hiện trở lại ở Việt Nam. Những sách vở thiền luôn ca ngợi sự tự tại của thiền sư khiến những người hậu học chúng ta đâm ra quá thích thái độ tự tại đó. Vì  quá thích và ước muốn đời sống tự tại trong khi công hạnh chưa dày, phước lực mỏng nên nhiều người đã bị đổ vỡ. Đây là điều rất tai hại không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả Phật pháp. Thật ra tự tại là kết quả của bao nhiêu chuỗi công hạnh phía trước. Khi đã có được chuỗi các công hạnh, tự tại mới xuất hiện như là một biểu hiện rất tự nhiên. Nhưng vì vội vã tìm đến tự tại sớm quá nên tự tại bị mất căn bản, phát sinh nhiều phản ứng phụ, làm đổ vỡ sự tu hành của chúng ta. 

Chúng ta biết rằng, Thiền định đưa đến trí tuệ. Nhờ công phu Thiền định sâu thẳm, chúng ta cũng có được sự tự tại. Nghĩa là, tự tại chỉ là một nhánh nhỏ, một hệ quả nhỏ của Thiền định. Nhưng nếu không biết, chỉ lấy tự tại làm mục tiêu để hướng đến, chúng ta sẽ sinh ra ngông cuồng, làm tổn phước rất nặng. Khi đến với chùa, không ít cư sĩ nghe người ta nói lõm bõm về một đạo Phật có các vị Thánh, các vị Thiền sư sống một cách ung dung tự tại, có những biểu hiện lạ lùng, vượt ra ngoài khuôn phép bình thường. Thế rồi họ cũng bắt chước, nhiều khi cũng nói năng ngông cuồng. Những điều đó làm cho họ tổn phước. Vì vậy, tự tại cũng nguy hiểm vì có những phản ứng phụ, chúng ta phải cẩn thận. 

4. HIỂU SAI VÀ LẠM DỤNG.  

Tự tại có rất nhiều ý nghĩa nhưng có thể bị hiểu sai và lạm dụng. 

Trước hết, tự tại có thể bị hiểu sai trở thành ích kỷ. Bản thân chữ tự có nghĩa là chính mình. Trong đạo Phật, chữ tự này xuất hiện rất nhiều. Trong Thiền tông, chúng ta thường nghe câu: “Phản quang tự kỷ bổn phận sự”. Nghĩa là nhiệm vụ, việc làm gốc của người tu là soi lại chính mình. Đặc biệt, danh từ Thiền giáo thường nhấn mạnh đến: tự tánh, tự tâm, tự kỷ… Đó là những chữ nhắc nhở người tu thiền luôn luôn đi tìm những giá trị tồn tại nơi chính mình. Nếu người nào hướng ngoại, đi tìm những giá trị từ bên ngoài, đều bị các thầy lớn nhắc nhở: “ Kho báu trong nhà không tìm mà lang thang ra bên ngoài”. Nghĩa là nơi chính mình có đầy đủ hạnh phúc, trí tuệ, giá trị, trăng gió xưa nay chưa từng hết, cứ nơi đó mà tha hồ thưởng ngoạn, không có gì phải sợ hết, không việc gì phải tìm ra bên ngoài. Chữ tự có nghĩa là vậy. Nhưng chữ tự ấy cũng chính là tự ngã. Quả thật, khởi điểm của sự tu hành phải chính nơi nội tâm của mỗi người, nhưng cứ đứng tại đó thì chúng ta sẽ củng cố cái bản ngã của mình, củng cố cái chấp ngã của mình, dễ làm cho tự ngã tăng trưởng. 

Mặt khác, người tự tại không bận tâm gì đến ngoại cảnh nên cũng không bận tâm gì đến những người chung quanh. Sống như vậy, vô tình họ đánh mất đi sự vị tha mà không hay biết. Một khi không sống vị tha nghĩa là vị kỷ đã xuất hiện. Bởi vậy, nếu không có gốc, cứ đi tìm tự tại trong khi bao nhiêu công hạnh phía trước không thực hiện được, dần dần chúng ta sẽ rơi vào sai lầm. Nhiều người khi đi tìm sự tu tập, khát khao giải thoát, khát khao giác ngộ, hết sức tinh tấn, vào thất đóng cửa ngồi thiền định hoặc ở trong đại chúng mà sống như giữa không người, không quan tâm đến ai, không lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài… và cứ tưởng như vậy là sự giải thoát, tự tại. Không ngờ, lối sống đó làm lòng ích kỷ lớn dần, không còn thông cảm đến những cảnh vui khổ của người. 

Chúng ta vẫn thường ước mơ về một thế giới mà ở đó con người luôn luôn biết thương yêu nhau. Chưa nói gì đến những vấn đề cao siêu, nếu mọi người đều thương yêu nhau thì thế gian này sẽ trở thành thiên đường, hạnh phúc sẽ tràn ngập. Hiện tại, có thể chúng ta còn bị thiên tai, đói khổ, bệnh tật đe dọa nhưng trong hoàn cảnh đó nếu con người ai cũng yêu thương nhau, cũng giúp đỡ nhau thì hạnh phúc, niềm vui vẫn tràn đầy. 

Mãi về sau tôi có viết những dòng thơ để nói 

Sẽ chỉ nói lên để ca ngợi tình thương

Của con người vì nhân loại quê hương

Của hạnh phúc thoát ra ngoài tội lỗi 

Mãi về sau tôi có viết những dòng thơ để nói

Sẽ nói lên để ca ngợi sự an nhiên

Hạnh phúc nào thong thả tựa thần tiên

Rất thanh thoát ung dung và đỉnh đạc

Mãi về sau tôi có viết những dòng thơ để hát

Sẽ đoàn kết mọi người trong một trái tim chung

Hạnh phúc thiêng liêng và vĩ đại  vô cùng 

Một là tất cả và tất cả mọi người là một.

Khi công phu tu hành đúng hướng, tâm chúng ta dần dần trở nên quan tâm đến những người chung quanh nhiều hơn. Nhu cầu của huynh đệ, nét buồn trên gương mặt khách, vẻ xanh xao của bạn… đều được ta nhận ra nhanh chóng và tìm cách giúp đỡ. Nếu dụng công sai, chúng ta sẽ càng lúc càng tự tại mà quên dần người chung quanh.

Đức Phật đã từng dạy, một giáo lý phải thực hành, phải xem xét tới lui đến khi tin chắc đây là lẽ phải mới chấp nhận. Giáo lý về sự tự tại cũng vậy, cũng phải được xem xét tới lui qua nhiều góc độ để thấy rõ ưu và khuyết điểm của nó. Và rồi chúng ta đều sẽ thấy rằng người tu khi bớt lo cho bản thân mình, nghĩa là bớt ngã chấp, thì vị tha sẽ xuất hiện rất tự nhiên. Lúc ấy, cuộc sống của huynh đệ chung quanh hiện ra trước mắt để họ phải lo lắng, giúp đỡ và đó cũng là một bổn phận, một đạo lý, một bước tiến nho nhỏ trên đường tu. Còn người nào có thể tiến xa, vượt trội hơn để sống một cuộc đời vị tha trọn vẹn vì tất cả chúng sinh thì điều đó quá lý tưởng, là niềm mong ước của tất cả mọi người. 

Cần lưu ý một điều, khi đi tìm sự tự tại, nhất là càng chứng tỏ sự tự tại của mình bao nhiêu, người ta càng mất vị tha bấy nhiêu. Vì vậy, lúc đầu có người hơi nghi ngờ về giáo lý của sự tự tại. Mãi đến sau này, trải qua một thời gian dài tu hành, người ta mới củng cố lại được lý luận về sự tự tại để hiểu thế nào là sự tự tại đúng và thế nào là tự tại sai. 

Như vậy, biểu hiện của tự tại sai trước hết là lệch qua ích kỷ vì điều gì cũng cho là do chính mình, do nơi mình mà quên đi mọi người. Biểu hiện thứ hai là hiểu sai tự tại trở thành thờ ơ, lãnh đạm. Cứ đi tìm và duy trì sự an nhiên tự tại của chính mình nên đối với ngoại cảnh, chúng ta không còn trách nhiệm, chỉ sống bàng quan, dửng dưng. Ngay đối với niềm vui và nỗi khổ của chúng sinh, chúng ta cũng thờ ơ để trở thành người thiếu từ bi, thiếu tình người.

Sở dĩ chúng ta xem đây là một lệch lạc của Tự tại vì người tu đúng sẽ bất động khi những nghịch cảnh như khen chê, đau khổ, mất mát… ập đến với chính mình nhưng phải đồng cảm với khổ vui của người, không được tỏ thái độ bàng quan, dửng dưng. Ví dụ, khi bị một người nào đó mắng chửi, chúng ta không giận dữ là lúc ấy chúng ta bất động. Đó là một thái độ rất đúng đắn. Nhưng khi có người nào đó đến nói với mình đêm qua nhà họ bị cháy, tất cả tài sản không cứu được, chúng ta không được tỏ thái độ lãnh đạm. Tất nhiên, chúng ta không khổ theo nỗi khổ của chúng sinh mà phải có sự đồng cảm, tìm cách an ủi, giúp đỡ họ. Chúng ta phải hiểu, đồng cảm là vui với niềm vui của người và sẻ chia nỗi khổ với họ khi họ tìm đến với mình. Đây là đạo đức mà người tu không thể thiếu được. 

Chúng ta còn nhớ câu chuyện một người mù ca ngợi thiền sư Bankei. Ông bị mù, không nhìn thấy được nét mặt người khác nên chỉ đánh giá con người qua tiếng nói của họ. Chẳng hạn, có người nghe người khác khổ cũng tỏ ra tội nghiệp nhưng trong âm thanh lời nói vẫn có cái mừng trong đó, mừng vì người ta sẽ thua mình. Có người thấy người khác thành công cũng khen nhưng trong lời khen đó ông vẫn lắng nghe điều gì bực bội, đó là cái bực bội vì người ta hơn mình. Với ông, chỉ có thiền sư Bankei mỗi khi san sẻ nỗi buồn của người khác, trong âm thanh của lời nói có trọn vẹn nỗi buồn. Hoặc khi Ngài khen sự thành công của người khác, ông nghe được trong âm thanh ấy trọn vẹn nỗi vui mừng. Nghĩa là Ngài luôn đồng cảm, sẻ chia một cách chân thành với niềm vui và nỗi khổ của chúng sinh. 

Nếu muốn đạt đến Tự tại mà trước đó không chuẩn bị một cách căn bản thì sự Tự tại của chúng ta sẽ kéo theo những sai lầm. Đó là sự ích kỷ, lãnh đạm, thờ ơ. Vì vậy, đối với bản thân mình, người tu không để khổ vui chi phối nhưng đối với khổ vui của chúng sinh phải có sự đồng cảm. Tuy nhiên, sự đồng cảm của chúng ta không giống người đời. Nghĩa là không có buồn khổ uỷ mị hay vui hả hê theo khổ vui của người khác. Sự đồng cảm, vui buồn của người tu phải thật sự nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. 

Ví dụ, với người đời, ghét là không ưa, trong lòng bực bội tức tối, ghét cay ghét đắng. Nhưng với chúng ta, nếu nói ghét điều gì đó (người mặc áo dài mà mặc quần xà lỏn chẳng hạn) có nghĩa là không bằng lòng, không thích như vậy chứ không tức tối, bực bội hay phải ruồng bỏ. Nghe chữ ghét có vẻ nặng nề, cường điệu nhưng thật sự trong tâm chúng ta rất nhẹ nhàng, chỉ là sự không bằng lòng mà thôi. 

Sở dĩ chúng ta không tỏ ra quá quắt khi đồng cảm vì khi người ta đến với mình, trong sự bất động đó, chúng ta khởi được cái dụng. Nếu nghe người ta có chuyện buồn, chúng ta có nỗi buồn cùng họ. Trước nỗi đau khổ ghê gớm của người, chúng ta vẫn có tâm trạng buồn để chia sẻ nhưng nỗi buồn ấy không thành một cái xao động của cảm giác quá mạnh ở phía trên. Đó chính là cái dụng của tâm, của sự đồng cảm do Đạo đức của lòng từ bi phát ra chứ không phải là nỗi buồn bình thường. 

Những người hiểu lệch về tự tại, cố biểu hiện tự tại cũng sẽ trở thành kiêu mạn. Vì sao như vậy? Vì người ấy lo đi tìm giá trị tự tại, chỉ sống với chính mình không cần tôn trọng ai. Chúng ta biết rằng, khiêm hạ có được là do mình biết tôn trọng người khác. Càng tôn trọng nhiều người, tâm khiêm hạ càng lớn. Một khi không còn ai để tôn trọng, kiêu mạn sẽ phát sinh. Đây là điều rất nguy hiểm.

Khi tu tập cũng vậy. Trước hết, chúng ta phải biết lạy Phật với trọn lòng tôn kính để giữ gốc công đức. Công đức lễ Phật làm chúng ta được phước rất lớn nhưng tâm khiêm hạ vẫn chưa nhiều. Vì Phật là một vị Thánh quá tuyệt đối. Khi tôn kính Ngài, nơi tâm chúng ta sẽ dần dần xuất hiện những công đức vi diệu, những tư cách của bậc Thánh nên công đức rất lớn. Nhưng tâm khiêm hạ vẫn chưa nhiều vì trước một bậc Thánh quá vĩ đại như vậy, chúng ta có đảnh lễ, tôn kính cũng là điều bình thường. Nhưng nếu tận trong thâm tâm có được lòng cung kính, biết ơn đối với những vị có niên cao, lạp trưởng nhưng kém tài hơn mình thì tính khiêm hạ lại càng lớn hơn. 

Ví dụ, gặp một vị Thượng tọa, một vị Hòa thượng tu trước dù vị đó chưa đắc đạo, có khi  còn kém tài hơn mình, chúng ta vẫn cúi đầu đảnh lễ, vẫn tôn kính thì tâm khiêm hạ của chúng ta rất lớn. Dù sao họ vẫn là những người đi trước, thời gian tu hành tích lũy lâu, có đức hơn chúng ta và là một trong những mắc xích quan trọng nối tiếp nhau giữ gìn Phật pháp qua từng thời đại, qua từng thế hệ. Đảnh lễ những vị tôn túc ấy là chúng ta biết ơn họ, tôn kính họ – những người đã có công giữ gìn Phật pháp. Tôn kính được những người bình thường ấy chứng tỏ tâm khiêm hạ của chúng ta đã vững. 

Hoặc cung kính, biết ơn các huynh đệ ngang hàng với mình, tâm khiêm hạ của chúng ta càng lớn hơn và có thể tiêu trừ được kiêu mạn. Ví dụ, khi có lỗi lầm gì, chúng ta ra trước đại chúng sám hối, đảnh lễ một cách chân thành dù đó chỉ là những huynh đệ ngang với mình, thì tâm khiêm hạ rất cao. Chính sự khiêm hạ này là công đức gốc làm cho kiêu mạn không còn nữa. 

Như vậy, đối tượng kính trọng càng tầm thường bao nhiêu, tâm khiêm hạ của chúng ta càng lớn bấy nhiêu. Hiện nay, người tu hành chúng ta đã đảnh lễ được đến đại chúng, đến những huynh đệ ngang với mình. Nhưng lý tưởng trong đạo là chúng ta phải tôn trọng những đối tượng thấp hơn nữa như lời một bài hát: “ Xin Phật dạy cho con được lòng khiêm cung, hiểu mình như sương như bụi, xin quỳ lạy nơi nơi, dù cỏ cây hay cánh chim bạt trời”. 

5. TIẾN TRÌNH ĐƯA ĐẾN TỰ TẠI. 

Chúng ta đã biết, khởi điểm của sự tu hành là ba công hạnh căn bản: Tôn kính Phật - Từ bi và Khiêm hạ. Từ ba công hạnh này sẽ xuất hiện vô số những công hạnh khác mà chúng ta đã khảo sát trong những bài trước. 

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là giới. Giới có hai mức: thấp hơn Đạo đức và cao hơn Đạo đức. Thấp hơn Đạo đức là những giới điều bình thường, những quy định bình thường như: đi chứ không được chạy.  Giới cao hơn Đạo đức chính là sự vô cấu, vô nhiễm. Phải có công đức rất vững mới đạt được sự vô nhiễm này. Người nào muốn giữ được sự vô nhiễm phải thực hành kỹ ba tâm hạnh trên. 

Khi đã có đủ các yếu tố ấy, chúng ta mới thành tựu Thiền định, nghĩa là trong tâm chúng ta mới xuất hiện được định lực khi ngồi Thiền. Khi đã thành tựu Thiền định, trí tuệ và sự giải thoát mới xuất hiện. Người nào cứ hăm hở tu Thiền mà không biết đến những công hạnh phía trước, người đó sẽ không thành công. 

Như đã nói ở phần trước, Thiền định có nhiều nhánh. Tự tại là một nhánh quan trọng của Thiền định, là một biểu hiện tự nhiên của người tu tập chứ không phải là đường đi chính của Thiền định. Tự tại sẽ xuất hiện song song với Thiền định một cách tự nhiên chứ không phải là mục tiêu phấn đấu để đạt được. Do vậy, cứ cố ý đi tìm tự tại, chứng tỏ tự tại là chúng ta đã hiểu sai về Phật pháp. Khi nội tâm bất động, thái độ tự tại sẽ xuất hiện. Đó là cái chúng ta không quan tâm, không cố ý đi tìm nhưng nó vẫn xuất hiện. Chúng ta nên nhớ điều này. 

Tương tự như vậy, trên con đường thẳng đi đến Thiền định, có vô số những biểu hiện bất ngờ xuất hiện. Đó cũng là những cái chúng ta không quan tâm. Nếu cứ chứng tỏ cho mọi người thấy mình sống trên đời này an nhàn, ung dung, tự tại là chúng ta đã sai. Đó chỉ là sự khoe khoang. 

6. TỰ TẠI ĐÚNG BAO GỒM CÁC HẠNH KHÁC. 

Tự tại đúng phải bao gồm những đức hạnh khác. Trước hết, đó là sự nhẫn nhục trước nghịch cảnh. Khi đã tự tại, chúng ta không có sự sầu khổ vì những chuyện buồn phiền xảy đến với mình, nhưng vẫn có lòng bi mẫn đối với nỗi khổ của chúng sinh. Đây là sự đồng cảm mà chúng ta đã đề cập ở phần trước. Ví dụ, khi bị mất một chiếc xe, lòng chúng ta vẫn bất động, không có sự lo lắng, buồn phiền hay chán nản. Đó là tự tại nhẫn nhục. Nhưng khi người khác bị mất xe, chúng ta laiï xót xa, đồng cảm với họ. Điểm này gọi là trung đạo. Hai thái độ này trái ngược nhau nhưng hỗ trợ, làm nên sức mạnh cho nhau. Cái này xuất hiện, cái kia sẽ không có và ngược lại. Hay nói cách khác, khi vị tha xuất hiện thì vị kỷ sẽ vắng mặt và ngược lại, vị kỷ tồn tại thì vị tha sẽ biến mất. Trong cuộc sống, nếu đồng cảm, quan tâm đến những vui, buồn của người khác thì tự nhiên chuyện của mình sẽ không còn nữa, chúng ta trở thành người tự tại mà không hay. Nếu cứ quan tâm, buồn vui sướng khổ theo chuyện của mình thì chuyện của người, chúng ta không quan tâm được. Vì vậy, tự tại đúng nghĩa phải là không bận tâm vì chuyện của mình nhưng rất bi mẫn, rất đồng cảm với chuyện của người. Chính sức mạnh của lòng thương yêu, đồng cảm với những khổ vui của người người (vị tha) đã làm cho vị kỷ tan biến và tự tại xuất hiện.

Một biểu hiện khác của tự tại là không có tham vọng, không lo toan, chạy vạy đi tìm danh lợi cho mình. Người có tham vọng là người luôn bận tâm và khổ sở vì những mưu mô, tính toán, tranh thủ lấy lòng người này, người khác. Họ có những nỗi sầu khổ, bận tâm do tham vọng thúc đẩy. Trong khi đó, người tự tại là người không còn ham muốn đó nữa, không còn tham vọng đối với danh lợi thế gian nữa. Tuy nhiên, họ không phải sống một đời an nhàn, ung dung, giải thoát mà suốt đời tận tụy hy sinh vì Phật pháp, vì chúng sinh. Với khả năng của mình, lúc nào họ cũng hết lòng hỗ trợ cho Chánh pháp. 

Trước đây, nhiều người đã hiểu sai về vấn đề này. Họ cứ nghĩ đi tu là tự tại, là vô tác - không làm gì cả. Người tu chỉ cần một cái cốc đầy đủ tiện nghi và suốt ngày ở trong đó tụng kinh, ngồi thiền là đủ. Một triết gia Trung Hoa ảnh hưởng tư tưởng “Vô vi” của Lão Tử đã phát biểu rằng: “Bạt nhất mao lợi thiên hạ bất vi” (Nhổ một sợi lông để làm lợi cho khắp thiên hạ cũng không làm). Ông chủ trương :“vô tác vô vi”- không làm gì hết - và xem đó là đạo lý. Người hiểu đạo như vậy là sai lầm. Tuy cũng đi tìm sự ung dung, tự tại, nhưng do hiểu lệch nên họ không còn tận tụy, hy sinh vì người khác. Ở đây, người có thái độ đúng là người trong thẳm sâu tâm hồn không còn mong ước, đấu tranh, tìm kiếm lợi ích cho bản thân mình nhưng lại tận tụy, vất vả một đời vì cuộc sống của mọi người. 

Nói đến điều này, chúng ta cần tránh hai cực đoan: Thứ nhất, người không còn ý niệm mong cầu cho riêng mình nên thích sống ẩn dật, xa lánh mọi người. Thứ hai, người có quá nhiều tham vọng nên trong công việc chung luôn tranh giành, thủ đoạn rất vất vả. 

Người tu chúng ta không cầu mong điều gì cho mình. Trong tận đáy sâu tâm hồn, thấy ai hơn mình, chúng ta vui mừng nhưng lúc nào cũng bận rộn, tận tụy, giúp được ai điều gì chúng ta cũng sẵn sàng. Ví dụ, sau này, chúng ta có thể làm giáo thọ, về dạy ở một làng quê nào đó trong khi người huynh đệ cùng lớp với mình lại về một Huyện lớn làm Chánh đại diện. Khi người huynh đệ nhờ phụ giúp một số việc vì họ quá bận, nếu sắp xếp được chúng ta cũng sẵn sàng về phụ. Có thể đó là công việc lo giấy tờ giúp cho huynh đệ rất vất vả, không ai biết đến nhưng chúng ta vẫn vui vẻ. Vì là người có đạo đức, chúng ta không nề hà bất cứ việc gì miễn là việc ấy có lợi cho Phật pháp, có lợi cho chúng sinh. Chúng ta làm mà không hề mong cầu điều gì khác cho mình. Đó mới là thái độ đúng. Nếu có năng lực, có sức khoẻ nhưng cứ ngại cuộc đời danh lợi, bon chen mệt mỏi mà tìm đến nơi nào vắng vẻ để tu, không đóng góp vào Phật pháp là chúng ta đã có thái độ sai lầm. 

7. NHỮNG ĐỨC HẠNH CẦN THIẾT ĐI KÈM VỚI TỰ TẠI. 

Đức hạnh thứ nhất là không bận tâm về sự đánh giá, khen chê của người (vượt lên trên dư luận) nhưng vẫn chân thành lắng nghe và học hỏi cái hay của người. 

Người tự tại không bận tâm về sự khen chê của người khác. Khi ra làm việc hoặc đi thuyết giảng, nếu có người khen hoặc chê điều gì, chúng ta cũng không bị động tâm. Đó chính là sự không động tâm vì dư luận bên ngoài. Tuy nhiên, chúng ta cũng không phải như cỏ cây, sắt đá vô tri vô giác, không biết nghe ý kiến người khác. Trước lời khen chê của người, chúng ta phải xét lại bản thân mình, xem lời khen tiếng chê đó đúng sai ở mức độ nào mặc dù không để lòng mình buồn vui theo điều đó. 

Ví dụ, khi người khác khen mình giảng hay, rất cảm động, chúng ta phải xét xem những điều người ta nói có thật hay không. Nếu lời khen ấy là đúng, chúng ta phải tìm ra nguyên nhân vì sao giảng hay, thuyết phục để có thể truyền kinh nghiệm cho những người khác. Hoặc khi người ta nói về cái sai của mình, chúng ta phải bình thản. Nếu những điều họ nói là đúng, chúng ta phải tìm lỗi mà sửa. Nếu lời phê bình của họ sai, chúng ta cũng không vì thế mà giận. Đó chính là thái độ đúng của người tự tại. Nếu cứ bỏ mặc ngoài tai những ý kiến của người khác, chúng ta sẽ trở thành người lì lợm, bướng bỉnh. Điều này không phù hợp với chủ trương của đạo Phật. 

Chúng ta phải tinh ý quan sát cái hay của người để học hỏi một cách chân thành. Nếu biết nhìn vào cuộc đời, nhìn vào con người để học, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm của người khác đồng thời học hỏi được những cái hay, cái tốt đẹp của họ. Người xưa đã từng dạy: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên” (Trong số ba người cùng đi với ta chắc hẳn có một người là thầy ta). Cứ học hỏi cái hay của người, chắc chắn chúng ta sẽ thành công. Có người không được học nhiều, chỉ học một số giáo lý căn bản của Đức Phật, chư Tổ, chư Thánh nhưng biết quan sát trong cuộc sống kết hợp với kinh nghiệm bản thân mình nên đã thành công. 

Một điều nữa chúng ta phải để ý là người tự tại có nội tâm bình lặng, không lăng xăng nhưng tràn đầy lòng thương yêu chúng sinh. Nói như vậy nghĩa là người có nội tâm trống rỗng, không còn điều gì, không lăng xăng điều gì không phải là người tu đúng. Ví dụ, một mảnh đất đầy gai góc, cỏ dại, chúng ta dọn cho sạch rồi để đó, mảnh đất vẫn chưa có lợi. Mảnh đất tốt phải là mảnh đất được dọn sạch cỏ dại, gai góc, cày xới và được con người trồng lên đó những hàng cây ăn quả, những khóm hoa, những loại cỏ đẹp v.v… Tâm hồn con người cũng vậy. Lúc đầu, trong tâm hồn ấy có đầy đủ tham, sân, si, hận, thù, thương, giận, ghét… Khi biết đạo, chúng ta dọn sạch những xấu xa, tội lỗi, những sai lầm, mê muội nhưng phải lấp đầy trong đó lòng từ bi, lòng thương yêu chúng sinh. Vì vậy, nội tâm đúng phải là một nội tâm thanh tịnh mà tràn đầy tình thương yêu. 

Ở đây, nếu đừng bị tà kiến tấn công thì khi có được một chút định nào, từ bi sẽ tự nhiên theo đó mà nảy nở. Nhưng khi đã bị tà kiến xâm nhập vào tâm (do mới tu chúng ta đã học một giáo lý gì đó sai lầm), lúc nào chúng ta cũng sẽ giữ tâm khô khan, bất động, không thương không ghét một ai. Lúc ấy, càng định bao nhiêu, tâm chúng ta càng trống bấy nhiêu, không có một chút từ bi nào trong đó. Hiểu được điều này, khi khởi điểm cho sự tu hành, chúng ta phải chuẩn bị trước tâm từ bi để khi việc tu tiến dần, tiến dần về phía trước, từ bi cũng sẽ theo đó mà nảy nở suốt cuộc đời mình.

Tất nhiên, lòng từ bi không phải dễ dàng có được. Thông thường, người nam (quý Thầy) ít có tình cảm hơn người nữ (quý Cô). Người nữ vốn nhạy cảm, dễ thương yêu dù sự thương yêu của họ có thể nhỏ bé, ích kỷ. Nhưng nếu bỏ đi sự ích kỷ nhỏ nhặt, họ sẽ phát triển lòng từ bi nhanh hơn người nam. Ngược lại, quý Thầy được ưu điểm là không cố chấp nhỏ nhặt nhưng lòng lại khô khan hơn, tu tập từ bi khó hơn. Nếu muốn từ bi trong tâm mình xuất hiện tràn đầy, quý Thầy phải quán tâm nguyện và từ bi ít nhất từ ba năm trở lên. Ngay cả những người thường ca ngợi lòng thương yêu con người cũng đã thú nhận cả một thời gian dài tu tập mà vẫn thấy lòng mình trơ như sỏi đá. Phải qua nhiều năm, họ mới bắt đầu thấy tâm từ bi dần dần xuất hiện. Và khi nó đã xuất hiện, chúng ta mới tin được Phật pháp có sự vi diệu. 

Nói chung, những vấn đề về lòng từ bi vốn vô hạn, không thể diễn tả hết được. Mỗi người tự tu tập đồng thời vẫn tin vào Phật pháp sẽ thấy được điều đó. Khi chưa có từ bi mà nói về nó, chúng ta cũng chỉ nói một cách hời hợt. Phải quyết tâm tu tập từ bi trong một thời gian dài, có thể ba năm, năm năm hay mười năm, chúng ta mới thấy được giá trị của tâm này. 

Một đức hạnh nữa đi kèm với tự tại là có tinh thần phóng khoáng nhưng không phóng túng. Chúng ta không cố chấp nhỏ nhặt nhưng nghiêm túc, ung dung, kỹ lưỡng, nhẹ nhàng. Cố chấp nhỏ nhặt sẽ trở thành người khó tính một cách vô lý. Nhưng chúng ta cũng đừng bao giờ nghĩ rằng người tự tại sống không cầøn điều gì, không cố chấp rồi buông tuồng, phóng túng. Đó là suy nghĩ lệch lạc, không phải tự tại đúng nghĩa. 

Chúng tôi có gặp một Ni sư ở nước ngoài về. Qua câu chuyện, chúng tôi biết bà làm phước rất nhiều, luôn luôn giúp đỡ người khác. Khi về già có tiền hưu, bà cũng để dành mang về Việt Nam làm phước. Nhưng trên gương mặt Ni sư ấy xuất hiện những nét khó chịu. Quả thật, bà là người rất khó tính. Cái khó tính của bà là do cố chấp nhỏ nhặt. Điều này, người Ni rất dễ mắc phải vì họ có đến ba trăm bốn mươi tám giới. Làm gì cũng thấy tội phước nên họ rất lo sợ và giữ thật kỹ. Khi giữ được, họ lại muốn mình hơn thiên hạ nên hay bắt bẻ người này, người kia và đâm ra khó tính. Thực ra, không phải như vậy. Đạo Phật rất kỹ lưỡng nhưng có những cái rất bao dung, tha thứ, không xem là quan trọng. 

Chẳng hạn, luật có quy định người xuất gia không được ăn cơm chung với người tại gia để giữ nề nếp, tôn ti trật tự.  Nhưng thực tế, có những lúc chúng ta vẫn ăn cơm với họ rất bình thường. Vì sao vậy ?  Vì trong hoàn cảnh nào đó, ngồi ăn cơm chung với cư sĩ là chúng ta thể hiện tình thương, sự hòa đồng, không phân biệt, không thấy mình hơn thiên hạ. Đúng là khi không ăn cơm chung, chúng ta giữ được nề nếp nhưng nếu cứ giữ mãi nề nếp ấy, chúng ta sẽ thấy mình hơn thiên hạ, nghĩa là người tu mình hơn người tại gia. Đó là quan điểm kiêu mạn. Nghĩ như vậy, kiếp sau chúng ta sẽ không được làm người xuất gia nữa.  Thực ra, có nhiều cư sĩ đời trước là người xuất gia nên bây giờ rất giỏi, kinh điển rất thông nhưng không bao giờ xuất gia được. Đơn giản là vì đời trước khi xuất gia rồi, người ấy cứ nhìn thấy thiên hạ thua mình. 

Vì vậy, giữ được nề nếp, giữ được sự cách biệt giữa Tăng và tục, làm cho người tục có được niềm tin với người xuất gia cũng là điều hay. Nhưng không cẩn thận, có khi chúng ta trở nên phân biệt, tự cao và thiếu tình thương. Cho nên, tùy trí tuệ của mình, đôi lúc chúng ta cũng nên ăn cơm chung để thể hiện tình thương, sự hòa đồng. 

Mặt khác, sở dĩ Phật quy định người xuất gia không ăn cơm chung với người tại gia vì đề phòng đôi khi người xuất gia còn những sơ xuất, khi quá gần gũi với cư sĩ sẽ bị họ nhìn thấy. Một khi thấy những sơ xuất của người tu, cư sĩ sẽ mất niềm tin với Phật pháp. Vì vậy, phải giữ khoảng cách với cư sĩ cũng là điều cần thiết. Sự thật, điều này đã xảy ra. Có người từng làm việc với quý Thầy trong các chùa đã tâm sự là không muốn đi chùa nữa, vì từ khi làm việc chung với quý Thầy, họ thấy được những lỗi của người tu và bất mãn, mất niềm tin với Phật pháp. Nghe những lời tâm sự ấy, chúng ta rất đau lòng. Nhưng đây cũng là một thử thách đối với tất cả chúng ta. “Thiệt vàng chẳng sợ chi lửa”, trong hoàn cảnh phải gần gũi với Phật tử, chúng ta cố gắng chứng minh được bản lĩnh, được đạo lực của mình. 

Ví dụ, có thể trên một chuyến hành hương xa hoặc trong một chuyến ủy lạo từ thiện nào đó, chúng ta cùng đi chung với Phật tử.  Hoặc có khi người cư sĩ đến chùa làm công quả. Hằng ngày, họ làm việc, tụng kinh, ăn uống… với chúng ta. Những lúc như vậy, chúng ta không bao giờ để họ tìm thấy lỗi của mình. Đó chính là vàng thật không sợ lửa. Chúng ta phải tu tập nội tâm vững chắc để khi sống gần gũi với mình, Phật tử càng có niềm tin vào Phật pháp. Như vậy là chúng ta đã thành công.

Tóm lại, chúng ta không được cố chấp giới điều, phải tùy nghi ứng xử cho thích hợp. 

8. TỰ TẠI LÀ BIỂU HIỆN CỦA THIỀN ĐỊNH VÀ UY ĐỨC. 

Chúng ta vẫn giữ oai nghi rất kỹ lưỡng vì tự tại là một biểu hiện của thiền định và uy đức. Người có thiền định tự nhiên rất có uy. Khi đến gần họ, dù chưa nghe nói tiếng nào, chúng ta cũng có sự nể phục. Đó là một trong những biểu hiện của thiền định. Nhưng dù tự tại, họ vẫn có uy đức, nhìn vào chúng ta thấy mọi cử chỉ của họ đều nghiêm trang, cẩn trọng. Đó là sự dung hòa. Nếu tu tập thiền định, đi tìm tự tại mà không có uy đức là chúng ta đã sai. Đó là tự  tại không có gốc. 

Khi xét về tự tại, chúng ta thấy có nhiều mức độ khác nhau. 

Mức độ thứ nhất: Nhờ ba tâm hạnh Kính Phật – Vị tha – Khiêm hạ thuần thục, chúng ta xuất hiện tự tại. Ví dụ, khi có được đời sống vị tha, không lo cho mình, không bận tâm vì mình nữa, ai nói gì cũng không làm mình động tâm, chúng ta sẽ đạt được sự tự tại. 

Có một vị Thầy kể lại chuyện mình đỡ đẻ cho một sản phụ khiến rất nhiều người khâm phục. Trên đường đi, vị Thầy ấy gặp một sản phụ đang lên cơn đau đẻ. Lúc ấy, ông đành phải xuống xe và đỡ đẻ cho bà một cách rất bình tĩnh. Không phải ai cũng làm được điều này. Nếu lúc nào cũng giữ nề nếp, oai nghi, giữ giới luật, chúng ta sẽ không dám giúp người ta điều đó. Khi đã vị tha, tự nhiên chúng ta sẽ có sự tự tại, không sợ hãi, không mắc cỡ cũng không sợ bị người ta dèm pha, dè biũ. Đó cũng là sự tự tại do tâm vị tha tạo thành. Như vậy, chỉ ở mức độ đạo đức thôi, vị tha cũng đã tạo thành tự tại.

 Mức độ thứ hai: Khi tu thiền định, xuất hiện được trạng thái chánh niệm tỉnh giác, tâm hồn chúng ta càng ung dung, tự tại. Lúc đó, những phiền não mới chớm nhẹ trong tâm sẽ được hóa giải. Nhờ chánh niệm tỉnh giác thu phục tất cả tạp niệm lăng xăng mà chúng ta đạt được tâm bất hối. Điều này chúng ta đã đề cập khi nói về năm triền cái .

Ví dụ, khi làm điều gì sai, được mọi người cho biết đó là lỗi, chúng ta không hối hận nhưng quyết không bao giờ tái phạm. Đó là bất hối của người được chánh niệm tỉnh giác. 

Mức độ thứ ba: Khi chứng Sơ thiền, người tu không còn dụng công nữa, tâm vào định một cách tự nhiên, vô cùng thanh tịnh, tham dục biến mất. Mức độ tự tại lúc này cao hơn trước. 

Càng chứng những bậc thiền cao hơn, thân và tâm càng ung dung tự tại hơn nữa. Khi đã đạt đến trình độ như Đức Phật hoặc bằng các vị Alahán thì tự tại đó thoát ra ngoài sự ràng buộc của ba cõi, sáu đường và hoàn toàn giải thoát. 

 Còn một mức tự tại mà chúng ta hay nghe kể là muốn sống, chết tùy theo ý mình. Một Thiền sư muốn tịch giờ nào có thể tịch giờ đó. Nhưng chỗ này chúng ta cần hiểu thêm: Tự tại trên sống chết cũng chưa hẳn là đạt mức tuyệt đối của Thiền định, chưa phải là chứng ngộ hoàn toàn. Có người chỉ mới đắc đạo một phần cũng có thể làm được điều đó. 

Có chuyện kể rằng, ông Tri sự trong ngôi chùa nọ nghe nói có một vị Tăng tu hành có công phu đặc biệt nên đến hỏi một câu Thiền ngữ. Vị Tăng đó không trả lời, sau đó bước vào phòng ngồi kiết già và tịch luôn. Sau khi vị Tăng tịch, chùa đem thiêu và được mấy chục viên xá lợi. Đại chúng rất ngạc nhiên khi một người  tu có thể tịch tự tại, thiêu có xá lợi như vậy lại không trả lời được câu Thiền ngữ khi người khác hỏi. Vị Tri sự kia đã nói:“Dù cho ông được ba đấu xá lợi cũng không bằng lúc đó ông hạ một chuyển ngữ, trả lời một câu Thiền ngữ cho sắc bén, cho độc đáo”. Cho nên, dù đã tịch tự tại, dù thiêu có xá lợi nhưng người Tri sự vẫn chê vị Tăng kia tu chưa đúng với đạo Phật, chưa đúng với Phật pháp thật sự, chưa đạt đến mức chứng ngộ chuẩn mực của Thiền. 

Như vậy, người tu đạt đến sinh tử tự tại cũng là điều quá tuyệt vời. Nhưng đó cũng chỉ là một mức độ tự tại tương đối mà thôi. 

Nói đến tự tại, chúng ta nhận xét lại một vài trường hợp gọi là tự tại trong nhà Thiền. Chúng ta từng nghe chuyện kể về ngài Đơn Hà. Ngài Đơn Hà lúc đầu đến với Mã Tổ, sau Ngài đến với ngài Thạch Đầu. Ở đó, ông đắc đạo lúc nào không ai biết, chỉ có ngài Thạch Đầu biết. Sau đó, Ngài từ giã ngài Thạch Đầu trở về Mã Tổ, đi vào trong chùa cưỡi lên cổ Phật. Mã Tổ ra nhìn, thấy đệ tử mình đắc đạo, Ngài nói: “Con ta, Thiên Nhiên” (Ngài đã đặt cho ngài Đơn Hà pháp danh là Thiên Nhiên. Về sau, người ta gọi là ngài Đơn Hà Thiên Nhiên). Có lần, mùa đông đến, chùa lạnh quá, Ngài Đơn Hà đã chẻ tượng Phật ra sưởi ấm. Ông còn nói: “Tượng gỗ làm gì có xá lợi” và càng đốt thêm nữa. 

Nếu giải thích, phân tích kỹ, chuyện cũng có nhiều ý nghĩa. Người xưa có nói một câu rất hay: “Linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Mọi vật linh hay không là do tâm của chúng ta. Khi người thợ tạc tượng nghĩ đây là tượng Phật thì trong tượng ấy đã có cái linh rồi. Sau đó, người ta thỉnh về đưa lên đảnh lễ như đảnh lễ Phật thì tượng còn linh hơn nữa. Vì vậy, khi lạy Phật với lòng tôn kính (dù chỉ là lạy tượng), công đức của chúng ta cũng gần bằng lạy Phật lúc còn tại thế. Tất nhiên, nếu gặp Đức Phật còn tại thế, lòng tôn kính của chúng ta càng lớn, không thể tưởng tượng được. Thời Đức Phật, hễ gặp Ngài là người ta đi theo đạo Phật liền, vì uy đức của Phật quá mãnh liệt nên mặc dù Ngài đã tịch sáu, bảy trăm năm, cả ngàn năm sau, Phật pháp vẫn cực thịnh, vẫn nề nếp, quy cũ như thời Ngài còn sống. Nếu mỗi ngày vẫn lễ lạy Phật nhưng tâm hời hợt, phước chúng ta sẽ không được bao nhiêu. Lòng tôn kính Phật vô biên chính là công đức nền. Có người cho rằng không cần lạy Phật nữa vì đó chỉ là cục xi măng, là cục gỗ thôi. Nói như vậy là một tà kiến vì không tạo cho chúng sinh có công đức. 

Như vậy, điều quan trọng chúng ta phải hiểu là linh hay không linh là do tâm của mình. Đúng đó là một cục gỗ nhưng nếu đã quy định là tượng Phật, ai cũng công nhận đây là tượng Phật mà chúng ta nói chỉ là cục gỗ nghĩa là cặp mắt của mình không nhìn thấy được cái tâm linh vi diệu, cái tâm cảm ứng  mà Phật đã chứng từ lòng thành của con người. Những người nói tượng Phật không có gì hết, không có linh thiêng, chỉ là cục gỗ, cục đá là người tà kiến, hiểu không thấu vấn đề mà gieo rắc tai họa cho chúng sinh. 

Hơn nữa, tùy mức độ tâm lắng như thế nào, chúng ta sẽ nhìn mọi vật trên đời này như thế đó. Ví dụ, khi cầm viên phấn vẽ lên bảng một hình người đầu trọc, ở mức độ thứ nhất, thô nhất, chúng ta thấy đây là phần đầu của một vị Tăng. Nếu lắng tâm đó xuống, chúng ta chỉ thấy đó là những nét phấn. Hoặc nhìn lại bức tranh trên tường, chúng ta thấy đó là tranh vẽ hoa sen. Nhưng lắng xuống một chút, chúng ta chỉ thấy đó là màu sơn. Nếu lắng xuống một chút nữa, chúng ta chỉ còn thấy đó là miếng vải có phết màu… Như vậy, tùy mức độ lắng xuống của tâm mà chúng ta thấy được bản chất của sự vật, sự việc. 

Tương tự như vậy, trở lại chuyện của ngài Đơn Hà Thiên Nhiên chúng ta thấy, khi Ngài leo lên tượng Phật, chẻ tượng Phật đem thiêu là Ngài muốn biểu thị mức Thiền định sâu thẳm của mình. Nghĩa là Ngài muốn chứng tỏ Ngài đã lắng tâm xuống tới đáy, thấy rõ thực tướng của vạn vật, thân tâm và vũ trụ vốn đồng thể tan hòa vào nhau. Tuy nhiên, đó là lúc Ngài cần chứng tỏ cho Thầy mình biết, còn những lúc bình thường, Ngài có thể khởi tâm thấy ngay đó là tượng Phật và vẫn luôn tôn kính. Tự tại nhưng phải tùy mức độ như vậy, nếu không sẽ trở thành cuồng ngạo. 

Câu chuyện một vị Tăng bế cô gái đi qua đường lầy cũng vậy. Đường lầy lội quá, cô gái lại đang mặc quần áo đẹp nên không dám băng qua. Vị Tăng đã bế giúp cô gái qua đường. Khi sư huynh đi cùng tỏ ra giận dữ, vị Tăng đã trả lời một cách rất thản nhiên: “Trời, tôi đã bỏ cô gái xuống đó rồi sao huynh còn mang theo tới đây”. Điều này không đánh giá theo tướng mà theo tâm. Vị Tăng làm việc đó mà trong lòng không ham muốn, không lay động. Đó chính là tự tại. 

Hoặc chúng ta cũng đã nghe chuyện Tế Công Phật sống (Tế Điên Hòa thượng). Chuyện về Ngài có rất nhiều và được người ta thêu dệt thành những thiên tiểu thuyết hấp dẫn. Nhưng sự thật, lịch sử của Ngài có một số chuyện rất độc đáo. Ví dụ, có một lần ông đang tắm trong khi trong nhà giảng, Thầy đang giảng đạo. Khi nghe thầy hỏi một câu về đạo lý rất quan trọng, ông vội quấn khăn và chạy ra nói với Thầy: “Con trả lời được”. Thầy hỏi: “Trả lời sao?”. Ông lộn nhào một cái, tấm khăn quấn trên người bỗng rơi ra nên tất cả hiện bày trọn vẹn trước mắt mọi người. 

Một lần khác, chùa ông bị cháy. Đêm đó, Hoàng Thái Hậu nằm mơ thấy một vị Alahán đến kêu bà cúng tiền cất chùa. Bà đến chùa kể lại giấc mơ. Khi gặp ông, bà quỳ xuống lạy: “Đây mới chính Ngài”. Sau đó bà hỏi: “Xin Ngài cho con biết về sau con sẽ như thế nào ?”. Ông không nói gì, tuột quần xuống và bỏ đi vào trong. Mọi người trong chùa ai cũng kinh ngạc vì đó là tội phải bị chém đầu. Quân sĩ tức giận định hành động nhưng Hoàng Thái Hậu cản lại: “Không, ta hiểu ý Ngài. Ngài muốn nói ta kiếp sau chuyển thân thành nam giới”. Ngài cũng ăn thịt uống rượu rất dữ nhưng thần thông diệu dụng, phi thường. Có thể Ngài có một đạo lý gì đó rất lạ để dạy người, chúng ta không dám phê bình vì Ngài đắc đạo quá cao siêu.

Trong cuộc đời giáo hóa của mình, Đức Phật cũng gặp nhiều sóng gió, tai ương nhưng Ngài quá tuyệt vời, lúc nào cũng tự tại. Có chuyện kể rằng: Một hôm, vua Bình Sa mời Ngài về kinh đô để an cư. Khi Ngài về đến nơi, ông ta lại quên mất sự có mặt của Ngài. Thế là Ngài phải ở luôn ngoài trời. Nhưng lúc ấy Ngài vẫn tự tại như không có gì xảy ra. Chư Thiên Long thấy vậy không cho trời đổ mưa mặc dù lúc bấy giờ đang là mùa mưa. Thấy trời luôn nắng, nhà vua vừa ngạc nhiên vừa kinh hoảng bèn hỏi Đại thần. Một người tự nhiên sáng ý trả lời: “Hay là Đại Vương mời Thế Tôn về đây rồi quên lo chỗ ở cho Ngài nên trời không dám mưa”. Lúc đó, nhà vua giật mình chạy lại thỉnh Phật về, dựng tinh xá cho Ngài ở. Sau đó trời mưa trở lại. 

Như vậy, dù rơi vào hoàn cảnh nào, Ngài vẫn tự tại nhưng không phải tự tại để chứng tỏ bản lĩnh của mình mà để cho người khác đừng khổ tâm. Đó là sự tự tại vị tha rất cao quý.

Một điều nữa cần lưu ý là chúng ta không nên cố ý chứng tỏ mình tự tại. Người tu theo Phật hay ca ngợi sự tự tại và nhiều khi ca ngợi quá đáng nên đâm ra ngông cuồng. Có khi phạm lỗi, được người khác chỉ lỗi lại không biết sửa vì cho là mình tự tại. Đó là bệnh lớn của người tu theo đạo Phật. Chúng ta phải nhớ một điều: Biểu hiện tự tại là do người khác nhìn thấy và nhận xét cho mình, còn bản thân chúng ta không nên quan tâm đến điều đó. Cái chúng ta cần quan tâm là thương yêu muôn loài. Nếu cứ cố ý biểu hiện ra vẻ tự tại, chúng ta dễ trở thành người khoe khoang, lập dị.

1. ĐẠO ĐỨC NƠI CÁC BẬC THÁNH LÀ VÔ HẠN.



Trong Những bài kinh tụng, chúng ta đã được nghe nhiều về “ba ngàn oai nghi” và “tám muôn tế hạnh”. Đó là những oai nghi và tế hạnh nói về Phật, về chư Đại Bồ Tát, về các vị Thánh Tăng. Ở đây, người tu chúng ta cần nắm vững hai điều: Oai nghi bên ngoài và Đạo đức bên trong. 



Về Oai nghi, trong luật chúùng ta đã học hai mươi bốn thiên Oai nghi,  trong khi đó, Oai nghi của chư Thánh được Kinh diễn tả có đến ba ngàn.  Về Đạo đức, chúng ta chỉ tìm hiểu những Đạo đức căn bản trong khoảng ba mươi bài. Bấy nhiêu cũng đủ làm cho chúng ta cảm thấy vất vả, khó khăn. Vậy mà, đối với chư Thánh, Đạo đức được thể hiện ở “tám muôn tế hạnh”. 



Vậy “tám muôn tế hạnh” là bao nhiêu ? 



Chúng ta đã biết, một muôn là mười ngàn. “Tám muôn tế hạnh” là tám mươi ngàn tế hạnh, tám mươi ngàn điều về Đạo đức. Như vậy, so sánh với Đạo đức của các vị Thánh, chúng ta còn khoảng cách khá xa. 



Tuy là bài kết thúc môn Tâm lý Đạo đức nhưng bài học này lại khởi đầu cho một cuộc đời tu hành, khởi đầu cho nhiều kiếp tu hành sắp đến; là bài học gợi ý cho chúng ta bước vào một đoạn đường mới, một cuộc tu dưỡng mới vất vả hơn, khó khăn hơn. Chúng ta phải nắm vững để phấn đấu không những cho kiếp này, kiếp sau mà còn cho tám mươi ngàn kiếp về sau nữa. 



Bài học này cho chúng ta cơ hội chiêm ngưỡng tính cách của chư Thánh, giúp chúng ta hiểu thêm về Oai nghi, về Đạo đức của các vị ấy. Ngoài những Tâm hạnh Đạo đức chính, một vị Thánh trong đạo Phật còn phải thành tựu một tư cách đặc biệt. Dù biết rằng không thể nào làm nổi như các vị nhưng chúng ta vẫn cố gắng vận dụng từng chút, từng chút để hiểu sâu hơn, để thấy được cái vĩ đại, cái cao siêu của các bậc Thánh, của chư Đại Bồ Tát trong Phật pháp.



Trước hết, chúng ta nói đến Oai nghi. Oai là oai đức, nghi là dung nghi. Oai nghi là những cử chỉ bên ngoài thể hiện được oai đức, sự đẹp đẽ, sự thanh thản của người tu hành. Khi diễn tả về Oai nghi của những vị Thánh, chúng ta thường nghe nói đến “ba ngàn oai nghi”. Vậy, “ba ngàn oai nghi” đó là gì ? Đã bao giờ chúng ta được nghe liệt kê từng oai nghi tạo thành “ba ngàn oai nghi” ấy chưa ? 



Thực ra, “ba ngàn oai nghi” này chưa hề được liệt kê ở một văn bản nào cả. Nhưng dựa vào trí tuệ, chúng ta tự xét để có thể hiểu “ba ngàn oai nghi” là gì. Chúng ta phải hiểu rằng, với một nội tâm thanh tịnh, sáng suốt, người tu hành có sự kiểm soát rất chặt chẽ, rất kỹ lưỡng những cử chỉ bên ngoài để toát ra một vẻ oai nghi thanh tịnh, đĩnh đạc, đẹp đẽ… Vấn đề này cũng tồn tại yếu tố mỹ thuật, hay nói xa hơn đây là một nghệ thuật. Nghệ thuật này có được là do trí tuệ. 



Ví dụ, một nghệ sĩ nghiên cứu về mỹ thuật và nghệ thuật chưa hẳn là người có Thiền định, có trí tuệ mặc dù họ cũng cảm nhận được một cách sâu sắc cái đẹp, cái mỹ thuật để tạo nên nguồn cảm hứng, sự rung động và sáng tạo. Trong khi đó, một người đạt được trí tuệ, Thiền định thanh tịnh, luôn luôn có những biểu hiện, những khả năng về mỹ thuật và về nghệ thuật. Đó cũng là một trong những lý do vì sao các vị Thiền sư hay làm thơ và làm thơ khá hay. 



Trong oai nghi cử chỉ cũng vậy. Bình thường, nếu tâm không thanh tịnh, sự đi đứng của chúng ta có thể không được đẹp mắt. Nhìn những người đi đứng đẹp đẽ, nghiêm trang, chúng ta có thể biết được nội tâm của họ. Đó là người đàng hoàng, có Đạo đức, có Trí tuệ. Tất cả những oai nghi đều do trí tuệ Thiền định thanh tịnh tạo nên. Ví dụ, khi đang đứng, chúng ta không thể tự thấy, không tự biết mình đứng như thế nào. Chỉ có người ngoài nhìn vào mới biết chúng ta đứng có đàng hoàng hay không. Nhưng khi tu, tâm đã  kiểm soát được thân thì chúng ta sẽ tự biết được thân mình đang đứng trong tư thế đàng hoàng hay không. Hoặc khi ngồi cũng vậy, khi ngồi xổm mà tâm có sự kiểm soát thân thì vẫn khác. Cho nên, cũng ngồi giống nhau, đi đứng giống nhau nhưng người có tâm thanh tịnh kiểm soát được thân thì có sự khác hẳn.



Có người băn khoăn làm sao có thể biết được người tu tâm đã thanh tịnh hay chưa. Điều này thật đơn giản. Không cần thần thông hay phép mầu gì cả, chỉ cần nhìn họ đi, đứng, ngồi… có sự kiểm soát được thân, chúng ta biết người này thanh tịnh dù họ không cố ý kiểm soát. Đây là điều rất lạ. Chúng ta nên biết, cố ý giữ hình dáng thân cho đẹp là không đúng. Đó chỉ là cái ngọn của sự tu tập Thiền định chứ không phải là gốc. Nếu cố ý tạo dáng thân nghĩa là chúng ta chỉ đi ra ngọn thôi. Ở đây, ta không cố ý tạo dáng cho thân, chỉ giữ một pháp môn đúng, tâm họ định và từ trong định đó toát ra trí tuệ kiểm soát thân một cách rất tự nhiên. 



 Ví dụ, một người niệm Phật chỉ biết niệm Phật thôi nhưng trong cái định đó phát ra một trí tuệ kiểm soát được thân. Cho nên, dù vẫn chăm chú niệm Phật nhưng từng bước đi của họ đĩnh đạc, nhẹ nhàng. Hoặc có người lạy Phật rất đẹp. Sở dĩ được như vậy là do người ấy có nội tâm thanh tịnh. Chính nội tâm thanh tịnh, sáng suốt đã kiểm soát mọi cử chỉ nhỏ nhặt tạo thành oai nghi thong dong, đẹp đẽ, nghiêm trang. Dù ở nơi vắng người hay đông người, họ vẫn tự biết thân mình đang trong tư thế, cử chỉ đàng hoàng hay không. 



Ví dụ khi có một việc gì đó cần thiết phải chạy (cháy nhà chẳng hạn), nếu lặng lẽ nhìn bao nhiêu người chạy, chúng ta sẽ biết được người nào có tu, người nào có chánh niệm và người nào mất chánh niệm. Có người chạy hết mình, không còn biết gì nữa; có người rất nhanh lẹ nhưng vẫn giữ vẻ bình tĩnh, ung dung, đĩnh đạc, kiểm soát được thân. Nhìn vào, chúng ta biết người này tâm rất khá, trong lúc vội vàng mà vẫn biết được toàn thân. 



Hoặc việc leo cây chẳng hạn. Trong giới luật, Phật cấm không cho tu sĩ leo cây vì khi leo cây, người tu khó giữ tư thế cho đàng hoàng. Nhất là vào thời xưa, tu sĩ chỉ quấn y vòng vòng, khi leo cây lỡ có sơ xuất gì trông rất khó coi. Nhưng vì có một vị Tỳ kheo bị cọp đuổi mà không dám leo cây đã bị cọp ăn thịt nên Đức Phật chế lại giới, người tu có thể leo cây trong những trường hợp bất đắc dĩ. Tuy nhiên, khi leo cây, người kiểm soát thân vẫn khác người không kiểm soát được thân; người có oai nghi vẫn khác người không có oai nghi. Dù cũng leo, cũng níu, cũng chuyền cành nhưng người có tâm tỉnh giác thanh tịnh vẫn có sự ung dung, đĩnh đạc, đẹp đẽ, khác hẳn người có tâm không thanh tịnh… 



Tất cả những điều đó gọi là oai nghi. Vậy, tế oai nghi là gì ? 



Tế oai nghi là những cử chỉ rất nhỏ nhưng chúng ta kiểm soát được như ánh mắt, nụ cười, âm thanh của lời nói vv... Chẳng hạn, ánh mắt của một người thanh tịnh thường bình thản, nhìn đúng nơi, đúng chỗ, vừa đủ chứ không nhìn trừng trừng hay láo liên. Cái nhìn của đôi mắt cũng có sự oai nghi của nó. Khi nói chuyện với một người, chúng ta phải nhìn nhau. Nhưng đôi mắt khi nhìn đã phát ra điện. Nếu hai người cứ nhìn nhau đăm đăm sẽ rất khó chịu vì lúc đó có sự phản kháng của hai luồng điện. Vì vậy, khi nói chuyện, chúng ta chỉ thoáng nhìn người đối diện rồi đưa mắt đi chỗ khác. Đó là cách khéo giữ ánh mắt của mình. Hoặc khi nói chuyện, chúng ta chỉ nhìn những chỗ đáng nhìn. Giả sử đang nói chuyện, người đối diện có việc phải mở bóp lấy tiền, chúng ta phải đưa mắt nhìn đi chỗ khác. Trường hợp ai đó cố ý nhìn thật sâu vào mắt mình khi đang nói chuyện mà mình không thể tránh được, không thể nhìn sang chỗ khác được, chúng ta nên nhìn lại nhưng phải nhìn bằng tâm từ bi. Nếu tia điện của ánh mắt họ chiếu vào gặp ánh mắt bao dung mở rộng, không phản kháng của chúng ta, họ sẽ không cảm thấy khó chịu. Đó là oai nghi, là tế oai nghi của ánh mắt nhìn. 



Nụ cười cũng có sự oai nghi, tế oai nghi. Có những trường hợp chúng ta chỉ cần mỉm cười, cười nhẹ là đủ. Có lúc chúng ta nở nụ cười tươi, có khi lại bật cười thành tiếng. Nghĩa là chúng ta phải biết mức độ vui của câu chuyện, của khung cảnh mà tặng cho mọi người một nụ cười thích hợp. Nếu câu chuyện chỉ đáng mỉm cười mà chúng ta cười ha hả thì sẽ mất đi sự oai nghi. Khi giao tiếp, chúng ta phải biết kiềm chế, biết kiểm soát, không để mất tự chủ trong các câu chuyện vui. Nhưng những lúc người ta đang nói chuyện vui, chúng ta cứ tỏ ra lạnh lùng cũng không phù hợp. Trong mọi trường hợp, chúng ta phải hài hòa, chừng mực để phù hợp với câu chuyện, với mọi người.  Những lúc có Phật tử đến chùa, dù đó không phải người quen, dù không phải nhiệm vụ của mình, chúng ta cũng phải cúi chào hoặc mỉm cười để thể hiện lòng từ bi của người tu đối với các Phật tử. Nếu gặp những Phật tử không quen, chúng ta không quan tâm coi như người xa lạ là một sai lầm lớn. Rất nhiều người tu mắc phải điều này. Nhất là ở những ngôi chùa có chúng đông, nhiều khi chúng ta thấy các Thầy chỉ tiếp những Phật tử quen. 



Ngay cả âm thanh của lời nói cũng vậy. Người có tỉnh giác sẽ kiểm soát, điều chỉnh được âm thanh của mình sao cho vừa đủ, nghe êm ái lại vừa có cái gì thanh thản. Nếu âm thanh giọng nói của một người có những nốt cao thấp, không phù hợp hài hòa, chúng ta biết người này chưa điều chỉnh được âm thanh, chưa kiểm soát được tâm thanh tịnh. Giọng nói là một oai nghi rất tế. Nghe âm thanh của một người, chúng ta có thể đánh giá được đạo đức của họ. Ví dụ, một người bên ngoài trông rất đẹp trai, con nhà giàu nhưng nếu nghe trong âm thanh lời nói, những dấu thanh điệu không phối hợp cân đối, chúng ta biết đạo đức người này chưa kỹ, chưa kiểm soát được thân và tâm. Hoặc những người có giọng nói hay một cách tự nhiên (không phải hay do làm điệu) là người rất tốt. 



Ngoài oai nghi của ánh mắt, nụ cười, âm thanh…, chúng ta còn thấy nhiều oai nghi cho những cử chỉ nhỏ nhặt hơn nữa. Ví dụ như oai nghi trong cử chỉ của những ngón tay. Khi nói chuyện với người khác hoặc ngay cả khi ngồi một mình, nếu không kiểm soát các ngón tay, chúng ta sẽ có những cử chỉ rất buồn cười: có khi đưa tay vân vê gấu áo, có khi xé giấy vứt xuống nền nhà, có khi tiện tay cào xước mặt bàn vv… Những điều này quá tế, vượt qua sự kiểm soát của mình nên chúng ta phải cẩn thận. Nếu có sự kiểm soát, chúng ta sẽ biết làm như thế nào là đúng. Ví dụ, khi ngồi nghe Pháp, có người chống tay rất đẹp, rất ung dung vì có sự kiểm soát. Nhưng có người chống tay trông như buồn ngủ hoặc như có điều gì bất mãn, chán đời. 



Từng điểm nhỏ như vậy đều là oai nghi. Trong cuộc sống tu hành, chúng ta rất khó đếm hết tất cả là bao nhiêu oai nghi. Con số “ba ngàn oai nghi” cũng chỉ là con số mang ý nghĩa tượng trưng. Chúng ta cũng lưu ý “ba ngàn oai nghi” ấy là những gì chân thật toát ra từ nội tâm thanh tịnh chứ không phải là sự cố ý làm dáng làm điệu. Chỉ cần kiểm soát tâm thôi, tự nhiên thân chúng ta sẽ trở nên đẹp. Những người có Trí tuệ thường là những người luôn giữ được oai nghi.



“Tám muôn tế hạnh” cũng vậy. Đó chỉ là con số tượng trưng cho rất nhiều tế hạnh của các bậc Thánh mà chúng ta khó có thể đếm được một cách cụ thể. Tế là nhỏ, tế hạnh là những Đạo đức toát ra rất sâu sắc ngay cả trong những điều nhỏ nhặt. Chính Trí tuệ vô cùng sắc bén đã kiểm soát được Chấp ngã nên tạo thành vô số tâm hạnh Đạo đức vi tế trong sự ứng xử với chúng sinh. 



Thử so sánh với việc cư xử tế nhị, chúng ta sẽ hiểu thế nào là tế hạnh. Trong cuộc đời chúng ta đã từng gặp nhiều người có lối cư xử rất tế nhị. Đó là người rất sáng ý trong mỗi tình huống giao tiếp. Họ đoán được tâm trạng của  những người đang đối diện để cư xử sao cho những người đó không buồn lòng. Họ rất tinh tế. Và càng tinh tế bao nhiêu, họ sống càng tế nhị bấy nhiêu. 



Tế nhị và tế hạnh có chỗ hơi khác nhau. Tế nhị thuộc về cách cư xử lịch sự. Nếu bên ngoài cư xử lịch sự nhưng bên trong không có đạo đức, chúng ta chỉ gọi đó là người lịch sự, có văn hoá. Người có cách cư xử lịch sự bên ngoài, bên trong lại có đạo đức mới là người có tế hạnh. Tuy nhiên, dù chưa đạt được tế hạnh, chúng ta cũng phải cố gắng cư xử cho tế nhị với mọi người. Nngười sống tế nhị thường rất khéo léo, sâu sắc, đoán được ý người khác nên không làm họ buồn, có khi còn đem đến những niềm vui bất ngờ cho mọi người. Trong cuộc sống, nếu ai cũng cư xử tế nhị với nhau thì cuộc sống sẽ dễ chịu biết chừng nào. 



Ví dụ, khi đóng cửa phòng, chúng ta nên nhẹ nhàng (dù lúc đó trong phòng không có ai) . Điều này thuộc về oai nghi. Nhưng hành động đóng cửa nhẹ nhàng sẽ biến thành đạo đức trong trường hợp có người đang ngồi trong phòng nói chuyện với mình. Vì sự nhẹ nhàng ấy biểu lộ sự tôn trọng người khác. Nếu trong phòng còn người mà đóng cửa thật mạnh nghĩa là chúng ta đang bực bội, tức giận hoặc coi thường họ. 



Người Việt nam chúng ta có những phong tục thể hiện sự tế nhị trong cư xử với người khác. Chẳng hạn, khi khách đến nhà chơi, chúng ta không được quét rác. Vì hành động ấy biểu lộ thái độ đuổi khách. Nếu trường hợp cần thiết phải quét nhà, chúng ta phải xin phép trước để biểu lộ sự tôn trọng người khác. 



Trong việc cư xử tế nhị, có khi có sự chân thành của đạo đức, có khi đó là sự đãi bôi, lịch sự bên ngoài theo phong tục tập quán của mỗi vùng, mỗi đất nước. Vì vậy, chúng ta phải có sự hiểu biết, không nên chủ quan để xảy ra thất thố trong giao tiếp. Nếu sang các nước Nhật, Pháp, Mỹ…, chúng ta sẽ bắt gặp những lời nói, những lối cư xử tế nhị nhưng thực chất đó chỉ là thói quen,  là một nét trong văn hoá giao tiếp của họ mà thôi. 



Ví dụ, khi gọi nhầm số điện thoại, chúng ta sẽ được người ở đầu dây bên kia cho biết: You have a wrong number ( Bạn đã gọi sai số). Nếu chúng ta nói lời xin lỗi, người ấy sẽ trả lời : You’re welcome. Dịch sang tiếng Việt có nghĩa là: “Không có chi”. Nhưng nếu hiểu sát nghĩa từng chữ, câu nói đó có nghĩa là: “Bạn/ Ông/ Bà vẫn được đón tiếp”. Đó là câu nói xã giao theo thói quen nhưng thực chất trong lòng có khi không phải như thế. 



Hoặc khi đang nói chuyện với chúng ta, nếu nghe không rõ họ sẽ hỏi lại: Pardon ? ( Xin hãy tha thứ cho tôi). Nghĩa là họ không cho rằng chúng ta nói sai hay nói khó nghe mà tự nhận lỗi về mình, cho rằng lỗi là tại họ không nghe được. Đó là nét đẹp trong văn hoá giao tiếp của người phương Tây. Những lúc như vậy, chúng ta đừng nghĩ là họ có lỗi thật. 



Hiểu điều này, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi xem một đoạn phim nước ngoài: Trên xe buýt, một thanh niên đang ngồi, đứng dậy nhường chỗ cho một phụ nữ có thai. Anh ta vừa đứng lên và người phụ nữ kia chưa kịp ngồi xuống thì một người da đen ở đâu bước đến ngồi đúng vào chỗ đó. Anh ta nói rất đàng hoàng: “ Thưa ông, ghế này không phải của ông” .Nhưng người da đen kia nóng nảy văng tục. Anh thanh niên hỏi: “Pardon?” đồng thời lấy kiếng ra nhờ người phụ nữ cầm giúp rồi đánh cho anh kia một trận. 



Như vậy, dù vẫn rất lịch sự, vẫn dùng từ Pardon để nói với người kia nhưng anh thanh niên vẫn sẵn sàng đánh để cảnh cáo anh ta. 



Không nói đâu xa, ngay trên đất nước chúng ta cũng có nhiều địa phương rất lịch sự, tế nhị trong cư xử, nhưng thực chất đó chỉ là văn hoá. Ví dụ, khi đến thăm một gia đình người miền Bắc vào đúng lúc họ đang ăn cơm, chúng ta sẽ được mời rất vồn vã: “Mời anh ăn cơm ! Mời chị ăn cơm ạ !” mặc dù lúc ấy nồi cơm đã hết sạch và họ chẳng đứng dậy lấy thêm cái chén, đôi đũa nào. Nếu không hiểu, chúng ta mau mắn ngồi vào mâm là sẽ gây khó khăn cho gia chủ. 



Tất cả những điều chúng ta vừa nói đều thuộc về việc cư xử tế nhị. Nếu muốn biến cư xử tế nhị thành tế hạnh, chúng ta chỉ cần thêm lòng chân thành thương yêu và sự tôn trọng. Lòng thương yêu xuất phát từ Từ bi, sự tôn trọng xuất phát từ Khiêm hạ. Cả hai đều bắt nguồn từ những Đạo đức căn bản mà chúng ta đã học. Nhờ thương yêu và tôn trọng con người nên chúng ta có những cách cư xử đẹp, vi tế, không làm buồn lòng, không làm tổn thương người khác. Một người ở trong đạo, khi tâm thanh tịnh, tràn đầy lòng thương yêu, tôn trọng người khác, tâm sẽ rất sáng. Họ có thể thấu suốt tâm trạng chúng ta và có sự đối xử thích hợp, khéo léo, nhẹ nhàng, ân cần và sâu sắc. Như vậy gọi là tế hạnh. 



Những người có lòng Từ bi thì Trí tuệ sẽ xuất hiện. Vì từ bi là nhân mà trí tuệ là quả. Chúng ta đừng nghĩ định sẽ sinh được huệ. Nếâu không có từ bi, định vẫn không sinh được huệ. Ví như một người ngồi thiền đạt được định vẫn có thể rơi vào không ngơ, vào chấp không, vô ký. Nhưng chỉ cần người ấy quán từ bi, thương yêu chúng sinh thì từ nơi định đó, trí tuệ sẽ xuất hiện. Tương tự như vậy, trong cuộc sống, khi chúng ta thương yêu mọi người, tự nhiên trí mình sẽ sáng lên.  Và chỉ khi nào thật sự thương yêu, chúng ta mới được quyền hiểu về con người. Đây là quy luật do trời Phật đặt ra, cũng là Nhân Quả. Chỉ khi nào thương yêu ai, chúng ta mới được quyền hiểu về người đó. Nếu không yêu thương, chúng ta sẽ hay nghĩ sai, hay chê bai những nhược điểm của họ. Chẳng hạn, khi nhìn những Phật tử đến thăm chùa, do có lòng thương yêu, chúng ta sẽ quan tâm đến họ, hiểu những nỗi vất vả khi họ phải vượt một chặng đường khó khăn để đến với chùa. Từ đó, chúng ta sẽ có sự quan tâm đúng mực: lo cơm nước, sắp xếp chỗ nghỉ ngơi… 



Bao giờ cũng vậy, khi có sự quan tâm, chúng ta mới hiểu về người khác. Chính tình thuơng yêu làm cho chúng ta có sự quan tâm và chính sự quan tâm làm cho chúng ta có trí tuệ, hiểu sâu sắc về con người. Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà chúng ta nói từ bi sinh ra trí tuệ. 



Trong cuốn Cặn bã ký ức, bác Hai Như Sanh có kể câu chuyện: Một lần, khi đi trên xe, bác lấy chai dầu gió ra xoa. Thấy người phụ nữ có đứa con nhỏ đang nhìn chăm chăm vào chai dầu, bác biết người ta cũng đang cần nên đưa chai dầu bảo bà ta dùng. Bà mừng quá, vì từ sáng đến giờ trong người cảm thấy ớn lạnh, khó chịu nhưng không có dầu để xoa. Khi bà dùng xong trả lại, bác mở chai dầu xoa thêm một chút rồi đóng nắp lại, tặng luôn cho bà.



 Đây là chỗ thể hiện “tám muôn tế hạnh”. Nếu lúc người ta vừa trả  lại, bác không lấy mà cho luôn, họ sẽ nghĩ rằng bác thấy người ta nghèo khổ, lam lũ, dơ bẩn nên không muốn lấy lại nữa. Như vậy, bác đã làm cho họ bị tổn thương. Việc cầm lại chai dầu xoa thêm lần nữa trước khi cho chứng tỏ bác cho người ta vì chân tình, vì sự ưu ái, quý mến, vì lòng tốt chứ không phải vì sợ dơ hay sợ lây bệnh. Giúp người mà vẫn không làm tổn thương người, đó là cách cư xử khéo léo của một bậc trí tuệ. 



Khi đi làm việc thiện cũng vậy, Phật tử nên kín đáo, biết tôn trọng mọi người, đừng bao giờ giúp người khác được ít gạo, ít áo quần mà đăng báo quảng cáo khắp nơi, vì làm như vậy là chúng ta không tôn trọng người khác và làm mất đi ý nghĩa của việc thiện. Người ta sẽ nghĩ chúng ta giúp đỡ họ là vì danh lợi chứ không vì tình yêu thương. Giúp đỡ người khác phải kín đáo, tế nhị, đó chính là tế hạnh. 



2. TIÊU CHUẨN CỦA VÔ SỐ TẾ HẠNH.



Biết rõ luật Nghiệp Báo và gạn lọc kỹ càng tâm vị kỷ là khởi điểm của Tám muôn tế hạnh. Vì khi biết rõ điều này, chúng ta sẽ làm được những việc rất tốt cho con người dù trong những tình huống không mấy dễ dàng. Cuộc đời nhiều khi rất phức tạp, chúng ta phải cư xử thế nào cho hợp lý dựa trên luật Nhân Quả. 



Ví dụ, mặc dù chùa còn nghèo nhưng những khi Tăng Ni  cần giúp đỡ, chúng ta cũng sẵn sàng trong khả năng của mình. Tất nhiên, giúp cho Tăng Ni không có gì khó khăn vì chúng ta lấy của thường trụ đem ra giúp thập phương Tăng nên không thành tội, đỡ phải suy nghĩ. Nhưng cũng có trường hợp những cư sĩ có tình với chùa gặp hoàn cảnh khó khăn, chúng ta không cầm lòng được, đành lấy tiền chùa ra giúp. Như vậy là chúng ta đã phạm luật. Trong luật Tỳ kheo không cho phép người tu làm điều đó. Nhưng nếu không giúp, chúng ta sẽ vô cùng áy náy. Trong những tình huống khó xử như vậy, chúng ta phải suy nghĩ tìm cách biện hộ cho việc làm của mình. Thứ nhất, chúng ta phải tìm ra công lao của họ và cho rằng đây là người đã từng có công với Phật pháp nên xứng đáng được hưởng số tiền này. Thứ hai, nếu người ấy không có công lao gì, chúng ta có thể biện minh ra lý do rằng nên gieo duyên để họ mắc nợ chùa. Biết đâu hết kiếp này đến kiếp khác, họ vào chùa công quả và nhờ vậy học được Phật pháp để tu hành. 



Biện ra đủ cách, đủ lý do để lấy tiền chùa giúp cho cư sĩ là những tế hạnh ở trong tâm. Chúng ta suy nghĩ về Nhân Quả và phải biết về Nhân Quả, biết phước, biết tổn phước như thế nào chứ không làm phước để cầu phước. Chúng ta cũng đừng bao giờ nghĩ bố thí luôn luôn đem lại phước. Ngược lại, có khi còn bị tổn phước nữa nếu không bố thí đúng cách. Vì vậy, chúng ta tự biện minh trong Nhân Quả để được yên tâm rằng mình không làm điều sai và người kia cũng không đến nỗi quá tệ dù thực ra đó cũng là một sự tổn phước.



Một tiêu chuẩn để tạo thành vô số tế hạnh nữa là tâm thanh tịnh trong Thiền định. Bình thường, chúng ta sống với tâm thanh tịnh nhưng khi gặp việc phải ứng xử ngay, phải hiện thành Đạo đức dù là việc rất nhỏ nhặt. Như vậy gọi là tế hạnh. Có những Phật tử rất tinh ý và chu đáo. Chỉ cần ngồi nói chuyện với chúng ta trong khoảng thời gian rất ngắn nhưng họ biết ngay chúng ta cần những gì và hôm sau mang đến cúng. Chúng ta cũng có thể học ở họ những điều như vậy trong cư xử. Trong cuộc sống, khi đối diện với ai, chúng ta nên để ý, quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của họ dù đó là những điều rất nhỏ. Ví dụ, khi đang ăn cơm nửa chừng bỗng có người về trễ, chúng ta không được ngồi yên, tiếp tục ăn mà phải vội vàng đi lấy chén đũa và mời họ cùng ăn. Nếu để người kia lặng lẽ ngồi vào bàn ăn là chúng ta đã đối xử không có tình với họ, không thương yêu tôn trọng họ, không có sự quan tâm, và không cư xử tế nhị lịch sự. Những điều nhỏ nhặt đó gọi là tế hạnh, là sự thương yêu tôn trọng mọi người một cách sâu sắc. 



Hãy nhớ rằng, Đạo đức luôn luôn làm chúng ta vất vả. Chỉ có những người ích kỷ mới có cuộc sống an nhàn. Vì vậy, muốn sống một đời vị tha, chúng ta phải chấp nhận sự vất vả, khổ cực. Từng lời nói, từng hành động của chúng ta phải làm sao chuyển tải được tình thương yêu, sự tôn trọng của mình đến với người khác. Một khi quan tâm đến những nhu cầu của người khác để giúp đỡ họ thì cây Đạo đức trong lòng chúng ta sẽ bắt đầu ra hoa kết trái. 



Một điều nữa cũng cần phải nói đến là thái độ cư xử của chúng ta đối với mọi người. Chẳng hạn, người tu phải nghiêm túc, đứng đắn, không được xuề xòa để người khác coi thường. Nhưng nếu lúc nào cũng nghiêm túc thì không khí sẽ rất căng thẳng. Vì vậy, chúng ta phải làm sao cân đối được hai thái độ, hai cách sống đó. Người Thầy thường hay nghiêm khắc với đệ tử để họ cố gắng học hành, tu tập cho giỏi. Tuy nhiên, nếu lúc nào cũng nghiêm thì không đúng với Đạo. Có những lúc thầy trò phải vui vẻ, khôi hài với nhau để cuộc sống bớt đi sự căng thẳng. 



Trong cuộc sống, có những sự kiện xảy đến đơn giản, dễ ứng xử nhưng cũng có những sự kiện phức tạp khó ứng xử, chỉ cần lệch một chút là chúng ta sẽ giải quyết sai. Vì vậy, tùy từng trường hợp chúng ta phải xử sự một cách tinh tế. 



Về điều này, chúng ta phải noi gương Đức phật. Còn nhớ, lần đầu tiên Phật về thăm Hoàng cung, khi vào thăm bàø Da Du Đà La, Đức Phật không cho ai đi theo trừ hai vị đệ tử đã đắc đạo. Vì Ngài đoán trước đây là một tình huống rất khó xử, bà Da Du Đà La sẽ không kiềm chế được xúc động. Trước khi bước vào, Ngài căn dặn những vị đệ tử: “Các Thầy để yên nếu Da Du Đà La có ôm Như Lai”. Sau đó ba người cùng vào. Quả đúng như dự đoán của Ngài. Khi gặp lại người chồng mà mình hằng thương yêu, quý kính sau bao nhiêu năm xa cách nhớ nhung, bà không kiềm nén nỗi cảm xúc và ôm Ngài khóc nức nở. Lúc ấy, Ngài vẫn đứng bình thản, không phản ứng. Hai vị đệ tử đứng lặng yên một bên. Cảnh tượng thật cảm động, thật thiêng liêng và rất đỗi tế nhị, sâu sắc. Nếu lúc đó Đức Phật la lên : “ Đừng đụng vào tôi ! đừng đụng vào tôi” thì tình thương yêu, nhung nhớ nhiều năm kia có thể biến thành sự bất mãn, hận thù. Lúc ấy người vợ sẽ cảm thấy mình bị xúc phạm. Nhưng chính cách cư xử tế nhị của Ngài đã làm bà cảm động. Bao nhiêu năm xa cách, nỗi nhớ nhung thương mến đó đã không bị ruồng rẫy mà vẫn được tôn trọng, bà cảm thấy lòng mình ấm áp. Cách cư xử của Đức Phật đã lay chuyển được tâm bà và sau này bà đã đi tu. Đây là tế hạnh, là cách xử sự rất hay của Đức Phật. Tất nhiên, lúc bấy giờ không có người khác đi theo, Ngài mới có thể xử sự như vậy. Nếu trước đông đảo mọi người, Ngài để cho bà Da Du Đà La ôm như vậy là không ổn vì có thể biết bao nhiêu người sẽ nghĩ không tốt về Ngài. Hai vị đệ tử đi theo Ngài là những người đã chứng đạo, hiểu rõ tâm của Thầy mình vẫn thanh tịnh nên không có gì phải ngại. Như vậy, Ngài đã xử sự mọi điều rất đẹp, rất độc đáo. Đây là một trong những tế hạnh của Đức Phật. 



Một câu chuyện khác cũng minh chứng cho điều chúng ta vừa nói. Đó là việc Ngài hóa độ cho một người Bà La Môn nông dân. 



Khi người Bà La Môn đang phát cơm cho những thợ cày của mình, Đức Phật cũng ôm bát đứng đó chờ đợi. Người nông dân kia không cho còn nói:



- Này Tôn giả ! Tôi cày ruộng nên tôi có ăn, Tôn giả cũng nên cày ruộng, Tôn giả sẽ có ăn.



Đây là một câu nói xúc phạm. Nếu ở vào trường hợp ấy, chúng ta sẽ nổi sân, sẽ bực tức hoặc dẫu không nói cũng buồn bã bỏ đi. Nhưng Đức Phật vẫn rất điềm tĩnh nói:



- Như Lai cũng cày ruộng và Như Lai cũng có ăn.



Ngài đã tùy thuận theo lý luận của vị Bà la môn mà không chống đối. Nghe vậy, ông ta nói:



- Ngài nói Ngài cày ruộng, Ngài có ăn nhưng tôi có thấy luống cày đâu? Tôi có thấy con bò với cái ách của Ngài đâu?. 



Đức Phật trả lời: 



- Như Lai cày trên luống ruộng tâm của mình. Đôi bò là sức mạnh của tinh tấn, cái ách là giới luật, ngọn roi là sự kiểm soát nội tâm. 



Nghe xong, người Bà La Môn kia hiểu ra, quá kính nể Ngài, bèn bày tỏ sự khâm phục và xin cúng dường. Nhưng lúc đó Ngài từ chối và nói rằng: 



- Không được, vì ba đời Như Lai đều không bao giờ nhận cúng dường sau khi nói Pháp. Điều đó giống như bán Pháp mà ăn, đó là tà mạng. 



Nói xong, Ngài ôm bát đi chỗ khác. 



Ngài xử sự rất hay, không có điểm nào sơ hở, vừa kiên nhẫn độ lượng, vừa giữ khoảng cách cần thiết. Đó là tế hạnh. Nếu lúc đó nói xong, được người khác đổi tâm cúng dường mà vẫn nhận, Ngài sẽ trở nên rất tầm thường. 



Một ví dụ khác cũng cho thấy cách cư xử hoàn hảo của Ngài. Khi Đức Phật bắt đầu nổi tiếng, người ngoại đạo ganh ghét toan mưu hại Ngài. Họ đã giết một cô gái và chôn xác ngay trong Kỳ Viên Tịnh Xá để vu khống Đức Phật và Tăng đoàn. Họ đã hô hoán lên rằng: “Chư Tăng ở Tịnh Xá giết người để bịt miệng”. Sự việc nghiêm trọng như vậy nhưng Đức Phật vẫn rất điềm tĩnh, không hề bàn đến. Mấy vị Tỳ kheo chưa đắc đạo lo lắng hỏi Phật. Ngài nói: “Coi vậy chứ không có gì, ít bữa sẽ hết”. Quả thật như vậy, sau một thời gian ngắn, tự nhiên mọi người không tin là Đức Phật và Chư tăng làm điều gì sai trái, liên quan đến cái chết cuả cô gái. Nếu trong trường hợp đó, Ngài phản ứng hoặc tìm cách thanh minh, đính chính sẽ làm cho sự việc trở nên phức tạp hơn. Vì vậy, Ngài cứ im lặng, mặc cho mọi người nói gì, nghĩ gì. Cách xử sự đó thật tế nhị và hiệu quả. Đó cũng chính là tế hạnh. 



Trong cuộc sống, chúng sanh khó có thể hiểu thấu hành vi của một bậc Thánh nên nhiều khi chỉ phê bình theo tâm thiển cận của mình. Thực ra, có những điều chúng ta không thể nào hiểu nổi. Vì vậy, đừng bao giờ lấy tâm lượng, trí óc của mình để nhận xét về cách cư xử của các bậc Thánh. Một vị Thầy có trí tuệ thì từng việc làm, lời nói hay tiếng khóc, nụ cười … đều nằm trong sự kiểm soát của họ. Họ biết lúc đó mình phải làm gì. Điều này không đơn giản dễ hiểu nên chúng ta phải khiêm tốn, đừng vội vã phê bình, đánh giá. Đó là với những vị Thầy có trí tuệ. Đối với Thánh nhân, chúng ta càng phải cẩn thận hơn nữa trong đánh giá. Có những vị Thiền sư đắc đạo mà ngôn hạnh phát ra đến bây giờ cũng chưa ai giải thích được. Người ta kể rằng, có một vị Thiền sư đắc đạo, cuối đời ngồi kiết già tịch một cách đàng hoàng, tự tại nhưng trong suốt những năm tháng tu hành, ông chỉ ăn thịt, uống rượu. Thái độ và cách sống đó đến bây giờ chúng ta vẫn không giải thích được nhưng cũng không dám phê bình. Vì ông có Thiền định sâu sắc, Thiền ngữ đối đáp trôi chảy và với đệ tử, ông lại rất nghiêm khắc. 



Chính vì vậy, khi muốn phê phán ai điều gì, chúng ta phải dè dặt, cẩn thận. 



3. MỖI ĐỨC HẠNH CÓ NHIỀU NHÁNH RẼ,  NHIỀU MỨC ĐỘ VÀ GIAO XEN PHỐI HỢP VỚI NHAU.



Chúng ta biết rằng, mỗi đức hạnh có nhiều nhánh rẽ, nhiều mức độ và có những giao xen phối hợp với những đức hạnh khác. Và chính sự phức tạp này đã tạo thành oai nghi tế hạnh. 



Ví dụ, lòng từ - lòng thuơng yêu chúng sinh có ba nhánh rẽ. Khi thương chúng sinh, chúng ta đau nỗi đau của họ, đó là bi. Thương yêu chúng sinh, chúng ta vui mừng truớc hạnh phúc của họ, đó là hỷ. Và thương yêu chúng sinh, chúng ta mới tha thứ được những lỗi lầm của họ, đó là xả. ( chữ “xả” này không có nghĩa là bỏ. “Xả” trong “tứ vô lượng tâm” có nghĩa là ‘tha thứ”). Lòng từ cũng có nhiều mức độ. Ở mức độ cạn, đó chỉ là tâm nguyện: “Con tâm nguyện xin thương yêu chúng sinh”. Vì là tâm nguyện nên khi gặp chuyện, chúng ta cũng có thể phản ứng gay gắt, chưa bộc lộ lòng thương yêu. Ở mức độ cao hơn, chúng ta ngồi quán hằng đêm trải lòng thương yêu chúng sinh. . Mức độ thứ ba là tâm được vào định. Trong định, chúng ta tu từ bi tam muội trải lòng thương yêu tất cả chúng sinh, dù ngã chấp vẫn còn. Và ở mức độ cuối cùng như chư Phật, A La Hán, ngã chấp biến mất, lòng từ trở thành tuyệt đối. 



Lòng từ bi có thể phối hợp với các hạnh khác. Ví dụ, Từ bi phối hợp với hạnh chân thật sẽ thể hiện ở chỗ chúng ta đã nói thật như thế nào. Lúc nào chúng ta cũng nói thật vì thương yêu chúng sinh. Hoặc từ bi phối hợp với tâm bình đẳng sẽ thể hiện ở cách đối xử đúng mực với con người. Vì thương yêu chúng sinh mà chúng ta đối xử bình đẳng, không phân biệt giữa người giàu với người nghèo. Hoặc lòng từ bi phối hợp với vượt qua chính mình sẽ giúp chúng ta thương yêu mọi người, mong cho những người đến sau giỏi hơn mình, nói được những điều độc đáo hơn mình để Phật pháp ngày càng phát triển.



Như vậy, một tâm hạnh vừa có nhiều nhánh rẽ, vừa có nhiều mức độ, vừa phối hợp với những tâm hạnh đạo đức khác tạo nên vô số tế hạnh. Chúng ta có thể phối hợp giữa hiền lành và kiên định. Hiền lành thể hiện ở sự tùy thuận với người khác. Kiên định thể hiện ở việc giữ vững lập trường của mình. Do vậy, phối hợp hai tâm hạnh này, chúng ta sẽ tùy lúc mà ứng xử cho đúng. Có những lúc chúng ta phải hiền lành nhưng cũng có khi chúng ta phải kiên định. Đó là trí tuệ của tế hạnh. 



Chúng ta có thể phối hợp giữa sâu sắc và buông xả. Sâu sắc là tinh tế, biết rõ người khác. Sống với người sâu sắc, chúng ta phải rất ý tứ trong việc làm, lời nói. Vì chỉ cần sơ ý một chút là họ biết chúng ta thuộc loại người nào: hời hợt, kỹ lưỡng, thông minh hay ngu dốt, tu được hay tu không được …Tuy nhiên, người sâu sắc thường biết mà tỏ ra không biết, đó là buông xả. Họ biết nhưng không cố chấp cái biết của mình, vẫn ưu ái, thương yêu mọi người. Nếu như các vị Thánh lúc nào cũng biết mà tỏ ra biết, chúng ta sẽ không bao giờ dám đến gần họ. Ở đây, biết mà như không biết, sâu sắc mà buông xả là xuất phát từ tâm từ bi, tâm thanh tịnh. Đó cũng là tế hạnh. Vì vậy, người chưa có tế hạnh, chưa kín đáo thường hay bộc lộ sự hiểu biết của mình trước mặt mọi người.



 Hoặc chúng ta có thể phối hợp giữa nghiêm trang và hoan hỷ. Trong cuộc sống, nếu lúc nào cũng nghiêm trang thì sẽ tạo nên không khí nặng  nề. Môt ngôi chùa quá nghiêm trang, trông có vẻ nặng nề thì Phật tử sẽ không dám đến. Nhưng nếu lúc nào cũng hoan hỷ, xuề xòa thì người ta lại coi thường. Khi đến cửa chùa, họ sẽ không biết tôn nghiêm, không biết sợ. Vì vậy, chúng ta phải kết hợp hài hòa giữa hai thái độ này. 



Hoặc người tu phải khiêm hạ nhưng không hèn hạ, khúm núm. Đó cũng là biểu hiện của tế hạnh. Khi gặp người khác, chúng ta luôn tôn trọng họ nhưng tuyệt đối không khúm núm, không có thái độ của một kẻ cầu cạnh vì đó là thái độ của người mất tư cách. Người mất tư cách, hay cầu cạnh thường tỏ ra khúm núm trước người khác.



4. THIỀN ĐỊNH VÀ ĐẠO ĐỨC KHÔNG THỂ TÁCH RỜI.



Chúng ta luôn nhớ rằng: Thiền định và Đạo đức là hai mặt không thể tách rời. Chúng ta tu dưỡng Đạo đức là làm cho Thiền định phát triển. Và khi Thiền định phát triển thì  trí tuệ trong định sẽ làm cho Đạo đức trở nên hoàn thiện. Khởi điểm của Thiền là thanh lọc tâm cho thuần thiện. Sự cảnh giác về Đạo đức cũng là sự tỉnh giác kiểm soát tâm. Ngược lại, sự tỉnh giác kiểm soát tâm cũng sẽ tạo thành Đức hạnh. 



Có người không hiểu điều này nên khi nghe nói đến tu tập Đạo đức đã phản đối : “Đạo đức là cái tương đối, còn Phật tánh là tuyệt đối”. Người lý luận như vậy là người không có kinh nghiệm tu hành vì bỏ Đạo đức thì không bao giờ có được Thiền định. Nếu người nào may mắn có được phước đời trước để được định hôm nay thì cái định ấy cũng sẽ nhanh chóng tan vỡ. Vì vậy, chúng ta tu tập Thiền định phải đi song song với Đạo đức. Suốt một đời tu hành, chúng ta phải huân tập Thiền định và Đạo đức mà không được thiên về bên  nào. 



Tất nhiên, Định mà chúng ta nói ở đây là Chánh Định – là cái Định làm phát triển Đạo đức. Nó hoàn toàn trái ngược với những loại định chỉ biết có mình. Trong Đạo đức có cuộc sống vị tha, sống vì người khác. Ngay trong thanh tịnh vắng vẻ, chúng ta ngồi thiền cũng vì cứu vớt chúng sinh đang trầm luân. Nếu có rút bớt thời giờ tu tập Thiền Định, chúng ta cũng vì chúng sinh. Hoặc những khi dành được nhiều thời gian tọa Thiền cũng là vì lợi ích của chúng sinh. Từng giờ, từng phút ngồi Thiền định trong yên lặng, trong vắng vẻ, trong cô đơn không ai biết, chúng ta cũng vì chúng sinh. Cho nên, Thiền định tức là Đạo đức. Nếu cứ nghĩ tu dưỡng Đạo đức để được điều này, điều nọ là chúng ta đã vị kỷ, đã đi sai con đường của đạo Phật. Hoặc khi tinh tấn ngồi Thiền với mục đích để đắc đạo, sáng đạo, chúng ta cũng đã vì mình, không phải vì chúng sinh, nghĩa là cũng là đi sai con đường của đạo.



Vì vậy, khi làm bất cứ điều gì, chúng ta cũng phải tâm niệm một điều là làm vì chúng sinh, vì Phật pháp. Dù có nhập thất, chúng ta vẫn nhớ nhập thất quyết liệt, tinh tấn cũng vì chúng sinh chứ không vì được điều gì vẻ vang cho bản thân mình. Một khi đã vì chúng sinh, nếu tu không được gì, chúng ta cũng không buồn phiền, vẫn kiên nhẫn làm đến cùng. Nhưng nếu tu vì mình mà không được gì, chúng ta sẽ buồn vô hạn, có khi thất vọng dẫn đến gãy đổ nửa chừng. 



Như vậy, làm sao đánh giá được sự tiến bộ của Thiền định? 



Muốn đánh giá được sự tiến bộ của Thiền định ở một người nào đó, chúng ta nên nhìn vào Đạo đức của họ. Kết quả tu tập Thiền định của một người được biểu hiện nơi sự đối xử với chúng sinh càng lúc càng Đạo đức hơn, tinh tế hơn. Nếu thấy người nào ngày càng phát triển về Đạo đức, tế hạnh càng lúc càng sâu, oai nghi càng lúc càng tế, chúng ta sẽ biết đó là người Thiền định tiến bộ. Ngược lại, nếu thấy người ngồi Thiền nhiều nhưng còn hời hợt trong ứng xử với mọi người, chúng ta biết người đó định chưa vững, có thể bị đổ vỡ. 



5. KHÔNG BAO GIỜ  ĐƯỢC TỰ MÃN VỚI NHỮNG ĐẠO ĐỨC CÓ ĐƯỢC.



Điều cuối cùng chúng ta muốn nói ở đây là không bao giờ  được tự mãn với những Đạo đức có được. Vì mỗi Đức hạnh có nhiều mức độ sâu cạn khác nhau. Ngày hôm nay chúng ta hiểu được mức độ này nhưng không có nghĩa là đã đạt được trọn vẹn hết Đức hạnh đó. Chúng ta phải hiểu rằng, từ Đạo đức đi đến hoàn thiện, đến tuyệt đối là một con đường rất xa, không phải ai cũng có thể đạt được. Vì vậy, chúng ta không bao giờ được tự mãn. 



Ngược lại, chúng ta phải chiêm ngưỡng đời sống của những vị Thánh để học hỏi, bắt chước. Ngày nay, Đức Phật đã cách xa chúng ta nhưng qua những bài Kinh, những truyện cổ, truyện tích về những tế hạnh của Ngài, chúng ta phải nghiềm ngẫm, phải suy tư để những điều hay lẽ phải, những oai nghi tế hạnh ấy dần dần thấm vào tâm hồn chúng ta. 



Tế hạnh có được là do Thiền định nên không dễ gì chúng ta đạt được. Do đó, khi học bài Tám muôn Tế Hạnh, chúng ta phải hiểu đây là bài học cho vô lượng kiếp về sau.




Viết xong mùa xuân năm 2004



Thích Chân Quang









Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro