2. Bipolar disorders ( Rối loạn lưỡng cực )

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Rối loạn lưỡng cực ( Bipolar disorders ), hay còn được biết đến với tên gọi bệnh hưng - trầm cảm, là một loại bệnh lý tâm thần khá thường gặp trong xã hội hiện đại.

Biểu hiện đặc trưng thường thấy của bệnh là sự thay đổi rõ rệt tâm trạng, cảm xúc, hành vi cũng như năng lực cá nhân. Những thay đổi này diễn tiến theo từng giai đoạn. Khi người mắc Rối Loạn Lưỡng Cực trong trạng thái hưng cảm (mania) biểu hiện quá mức những cảm giác phấn chấn, vui vẻ, hào hứng. Ngược lại, khi người bệnh trong giai đoạn trầm cảm (depression) sẽ rơi vào tình trạng trầm uất, buồn chán, thờ ơ. Đôi khi, một giai đoạn bao gồm biểu hiện của cả hai trạng thái hưng cảm và trầm cảm (trạng thái hỗn hợp - mixed state).

Chứng Rối Loạn Lưỡng Cực thường được bắt đầu bằng một giai đoạn trầm cảm. Giai đoạn hưng cảm kế tiếp đó thường chỉ đến sau vài tháng, thậm chí vài năm sau. Nhiều trường hợp xuất hiện cùng lúc với trầm cảm trong trạng thái hỗn hợp hoặc sau giai đoạn bình thường không có triệu chứng (Stober et al., 1995)

Bệnh hưng- trầm cảm được chia làm 3 loại với những đặc điểm về thời gian, chu kỳ và mức độ cảm xúc khác nhau: Rối Loạn Lưỡng Cực loại I, II và Cyclothymia.

Rối Loạn Lưỡng Cự loại I:

Bệnh nhân trải qua cả 2 mức độ trạng thái cảm xúc hưng phấn và trầm cảm rõ rệt. Thời gian diễn tiến của cả 2 giai đoạn này tương đối đồng đều.

Rối Loạn Lưỡng Cực loại II:

Người mắc có thời gian rơi vào trạng thái trầm cảm lâu hơn và thường xuyên hơn so với loại I. Ngoài ra, cảm xúc hưng phấn chỉ ở mức nhẹ (hypo-mania) chứ không biểu hiện rõ rệt. Đây là loại Rối Loạn Lưỡng Cực nguy hiểm, tỉ lệ người tự sát hoặc có ý định tự sát cao hơn so với 2 loại còn lại.

Cyclothymia:

Dạng hưng- trầm cảm nhẹ hơn loại I và II (dưới ngưỡng Rối Loạn Lưỡng Cực). Các biểu hiện thay đổi cảm xúc, hành vi của người mắc không rõ ràng, khó phát hiện. Người mắc không hoàn toàn cảm nhận rõ cảm giác thực sự hưng phấn hay trầm cảm. Ước tính có khoảng từ 15 - 50% các ca bị chứng Cyclothymia tiến triển thành Rối Loạn Lưỡng Cực loại I hoặc II.

Tỉ lệ người mắc chứng Rối Loạn Lưỡng Cực tại Mĩ vào khoảng 3% trên tổng dân số. Con số này rơi vào tầm 1% tại các quốc gia khác. Đa phần các ca phát hiện ra triệu chứng vào độ tuổi từ 15 đến 25. Nhìn chung, tỉ lệ mắc Rối Loạn Lưỡng Cực bao gồm cả 3 dạng ở nam và nữ là như nhau. Tuy vậy, phái nữ có xu hướng chịu trầm cảm nhiều hơn (loại II), trạng thái hưng cảm thấp hơn so với nam giới.

Nguy cơ dẫn đến tự tử ở những người mắc chứng Rối Loạn Lưỡng Cực khá cao ở mức 6% trong vòng 20 năm trở lại đây. Tỉ lệ tự hủy hoại, hành hạ bản thân còn đáng lo ngại hơn với 30- 40% trên tổng số các ca xác nhận (Anderson et al., 2012)

Nguyên nhân

Theo nghiên cứu của các chuyên gia thì nguyên nhân gây Rối Loạn Lưỡng Cực thường không đến từ một yếu tố đơn lẻ mà là tác động tổ hợp. Cho đến nay, người ta phát hiện ra 3 yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình phát triển bệnh.

Yếu tố di truyền: nghiên cứu trên những cặp sinh đôi chỉ ra rằng có 1 sự " đóng góp đáng kể về mặt di truyền" của gen đối với chứng Rối Loạn Lưỡng Cực. Những người có quan hệ huyết thống với người mắc Rối Loạn Lưỡng Cực thường có nguy cơ cao mắc bệnh. Một nghiên cứu bởi nhóm các nhà khoa học trên toàn thế giới được đăng trên tạp chí Neuron chỉ ra rằng một số sao chép biến thể hiếm và sự dị thường trong trình tự sắp xếp cấu trúc của DNA đóng vai trò quan trọng dẫn đến chứng Rối Loạn Lưỡng Cực.

Đặc điểm sinh học: Một số nhà nghiên cứu cho rằng bệnh nhân mắc chứng hưng- trầm cảm có những điểm khác biệt đáng kể trong cấu trúc não bộ. Đây là nhận định ban đầu cần có thời gian kiểm chứng và tìm ra lí do giải thích xác đáng.

Ngoài ra, sự mất cân bằng hóa chất truyền dẫn thần kinh (neurotransmitter) ảnh hưởng trực tiếp đến những loại rối loạn cảm xúc mà Rối Loạn Lưỡng Cực là một trong số đó. Chất dẫn truyền thần kinh bao gồm serotonin, norepinephrine và dopamine.

Yếu tố môi trường: Tình trạng bị lạm dụng, căng thẳng thần kinh kéo dài cũng như những cú sốc tâm lí có thể dẫn đến chứng Rối Loạn Lưỡng Cực. Những tổn thương tâm lí lớn như mất người thân, mất công việc, li dị, biến cố trong gia đình ảnh hưởng lớn đến các rối loạn cảm xúc.

Những nghiên cứu gần đây còn phát hiện ra một số nguy cơ mắc Rối Loạn Lưỡng Cực cho trẻ nếu thai phụ bị cảm cúm trong quá trình thai kì. (Parboosing et al., 2013)

Rối loạn lưỡng cực ảnh hưởng đến cuộc sống

Người bị Rối Loạn Lưỡng Cực thường có xu hướng lạm dụng rượu bia và sử dụng các loại hóa chất kích thích, thuốc ngủ như một "cứu cánh" cho tình trạng suy giảm giấc ngủ.

Do sự rối loạn cảm xúc nên người mắc Rối Loạn Lưỡng Cực thường khó duy trì các mối quan hệ xã hội, nhiều khi bị mọi người xung quanh xa lánh, coi thường.

Ngoại trừ những giai đoạn hưng phấn, người mắc Rối Loạn Lưỡng Cực có thể đạt được những đột phá thì khi rơi vào giai đoạn trầm cảm, năng suất làm việc, học tập đều sa sút rõ rệt, hậu quả của sự suy giảm trí nhớ cũng như khó tập trung, quyết định thiếu chính xác.

Như đã đề cập phần trên, giai đoạn hưng cảm, người bệnh thường xuyên cảm thấy lạc quan thái quá dẫn đến việc phung phí, tiêu pha, mua sắm vô độ. Họ cũng rất dễ bị kích động bởi những tác nhân bên ngoài "trái với" ý định của họ. Suy nghĩ chớp nhoáng, thiếu cân nhắc để lại nhiều hậu quả đến đời sống.

Ngược lại, khi giai đoạn trầm cảm bắt đầu, sự buồn chán, bi quan làm người mắc Rối Loạn Lưỡng Cực mất đi những thú vui, sở thích thường vẫn có khi bình thường. Họ dễ dàng từ bỏ khi gặp khó khăn và tệ hơn nữa, ý định tự hủy hoại bản thân, tự sát luôn thường trực trong tâm trí họ.

Thông tin thêm

Vincent van Gogh (1853-1890), danh họa người Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Đêm đầy sao (Starry night), Hoa hướng dương, Hoa diên vĩ (Les Iris)... Rất nhiều các tác phẩm để đời của ông được thực hiện trong 2 năm cuối đời, cũng là thời gian ông lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Nhiều biểu hiện của ông được ghi chép lại như chứng hoang tưởng, thường xuyên gặp ảo giác, hành hạ bản thân (self-harm - tự cắt phần dưới cánh tay). Nhiều giả định cho rằng ông bị rối loạn cảm xúc, trong đó không loại trừ trường hợp Rối Loạn Lưỡng Cực. Tác phẩm Đêm đầy sao được hoàn thành trong thời gian ông được chữa trị trong bệnh viện tâm thần tu viện Saint Rémy (6/1889).

Một vĩ nhân khác là cố thủ tướng Anh Sir Winston Churchill (1874-1965)cũng được biết đến với kỉ lục phi thường khi hoàn thành bộ sách khảo cứu " Lịch sử dân tộc nói tiếng Anh" ( A History of the English Speaking peoples). Chính tác phẩm này đã đem lại cho ông giải Nobel văn học năm 1953. Winston Churchill để lại tới 15 tấn tài liệu cá nhân, đa phần trong số đó là các bài viết, bài báo, 43 bộ tác phẩm dài với 72 cuốn.

Vị cố thủ tướng Anh có những đặc điểm tâm lí dễ nhận thấy của người mắc Rối Loạn Lưỡng Cực. Trong một số giai đoạn nhất định, Churchill được mô tả lại là một con người khá lập dị. Ông có thói quen thức dậy từ 8 giờ sáng và làm việc cho đến tận 4 rưỡi sáng ngày hôm sau. Winston Churchill còn nổi tiếng với khả năng độc thoại dài đến hơn 4 tiếng đồng hồ. Trong các mối quan hệ cá nhân, ông tỏ ra là một con người lấn lướt. Khi đề cập đến vấn đề chiến tranh, Churchill thường miêu tả sự hào hứng của ông như "cuộc chiến vẻ vang" hay "chiến tranh là việc thường tình của người đàn ông".

Tuy vậy, cuộc đời ông đã có những giai đoạn trầm cảm mà ông gọi đó là "Chó đen - Black Dog". Trong nhiều bài viết, ông có đề cập đến trạng thái suy sụp của mình.

"Tôi không thích đứng gần sát sảnh ga khi tàu (tàu biển) sắp tới gần. Tôi thích đứng lại phía sau và nếu có thể có một trụ chắn giữa tôi và toa tàu. Tôi không thích ở thành tàu và nhìn xuống dưới nước. Một hành động thứ hai nào đó có thể chấm hết tất cả. Một vài giọt tuyệt vọng..."

Những nhân vật nổi tiếng, thường xuyên chịu áp lực với truyền thông, công chúng là đối tượng dễ mắc chứng rối loạn cảm xúc. Không ít các diễn viên, ca sĩ nổi tiếng đã thừa nhận rằng mình bị Rối Loạn Lưỡng Cực. Có thể kể ra nhiều cái tên khá quen thuộc như Robert Downey Jr., Steven Fry, Mel Gibson, Axl Rose( Guns n' Roses), Kurt Cobain (Nirvana)...

Điều trị chứng Rối loạn lưỡng cực

Liệu pháp Lithium

Thông thường, Rối Loạn Lưỡng Cực không điều trị bằng các loại thuốc chống trầm cảm bởi các loại thuốc này gây ra sự thay đổi nhanh hơn là ổn định lại cảm xúc của bệnh nhân. Lithium bicarbonate ( thường gọi tắt là Lithium) được dùng với những biến đổi khí sắc ở mức độ nhẹ. Kết quả nghiên cứu chứng minh độ hiệu quả trong quá trình điều trị, giảm nguy cơ tự sát ở người bệnh. Tuy nhiên, thuốc cũng có tác dụng phụ không mong muốn như rối loạn dạ dày, suy tuyến giáp, ảnh hưởng chức năng thận. Ngoài ra liều lượng sử dụng cũng là vấn đề đáng quan tâm bởi ranh giới giữa 1 liều không hiệu quả và 1 liều lithium gây ngộ độc là rất mong manh.

Bên cạnh liệu pháp Lithium, ngày nay bệnh nhân còn được sử dụng các loại thuốc chống loạn thần (anti-psychotic) như Clozapine, thuốc chống co giật (Carbamazepine) cho hiệu quả cao hơn Lithium cũng như giảm các tác dụng phụ.

Ngoài việc sử dụng thuốc, xây dựng lối sống lành mạnh, điều hòa cũng góp phần làm giảm chứng RLLC. Người bện cần có chế độ ăn ngủ hợp lí cũng như tránh các tác nhân gây rối loạn như căng thẳng, trấn động tâm lí. Hạn chế sử dụng các chất kích thích, rượu bia cũng được khuyến nghị trong quá trình điều trị.

Giúp đỡ người bị mắc chứng Rối loạn lưỡng cực

Người mắc chứng Rối Loạn Lưỡng Cực thường không thông báo cho người nhà hay bệnh viện biết một khi sự rối loạn đã đến mức đỉnh điểm. Cần phát hiện sớm triệu chứng và có những pháp đồ điều trị tích cực để giúp người mắc hạn chế hậu quả không đáng có.

Thường xuyên trò chuyện, trao đổi với người bệnh. Giúp đỡ cũng như động viên tinh thần người Rối Loạn Lưỡng Cực, nhất là trong giai đoạn trầm cảm. Gợi mở các hoạt động mang tính tích cực để người bệnh không rơi vào khủng hoạng sâu như đi bộ dã ngoại, cắm trại, tham gia các nhóm điều trị để trao đổi thông tin cũng như tương trợ giúp đỡ nhau...

Giúp người mắc RLLC kiểm soát sự mất cân bằng cảm xúc. Tạo lập biểu đồ thay đổi cảm xúc của người bệnh ( http://www.blackdoginstitute.org.au/docs/12.MoodChartforBipolarDisorder.pdf ) sẽ tạo điều kiện cho bác sĩ chuyên môn tìm ra phương pháp điều trị hữu hiệu.

Tùy thuộc vào mức độ nên chọn pháp đồ điều trị rõ ràng, phù hợp với đặc điểm cá nhân. Đừng tự tìm cách điều trị theo ý kiến chủ quan hay theo phương thức chữa trị cho người khác mà nên nhờ sự giúp đỡ từ chuyên gia.

Việc điều trị dứt điểm chứng Rối Loạn Lưỡng Cực không thể hoàn thành trong một sớm một chiều mà cần thời gian cũng như sự kiên trì. Tác dụng điều trị của thuốc cũng như sự động viên, hỗ trợ từ phía gia đình, bạn bè sẽ giúp người RLLC giảm dần triệu chứng và khỏi bệnh.

Lithium- Nirvana

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tâmlý