Tâm lý : Lo âu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Rối loạn lo âu (tiếng Anh: anxiety disorder) là một trong các rối loạn tâm lý có tính phổ biến cao[1][2], bệnh thường kết hợp với nhiều rối loạn khác như trầm cảm, rối loạn nhân cách, rối loạn ăn uống, rối loạn dạng cơ thể. Rối loạn lo âu là sự lo sợ quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất vô lý, lặp lại và kéo dài gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống[3]. Khi lo âu và sợ hãi quá mức ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, vẫn tiếp tục ngay cả khi mối lo thực tế đã kết thúc thì đó là bệnh lý. Nguyên nhân chính xác của rối loạn lo âu không được biết rõ, nhưng nó bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, chủ yếu liên quan tới các sang chấn tâm lý kết hợp với yếu tố nhân cách có xu hướng lo âu[3].

Rối loạn lo âu
Chuyên khoa
tâm thần học, tâm lý học, tâm lý trị liệu
ICD-10
F40-F42
ICD-9-CM
300
DiseasesDB
787
eMedicine
med/152
MeSH
D001008
Các dạng rối loạn lo âu Sửa đổi

Rối loạn lo âu lan tỏa (GAD) Sửa đổi
Bài chi tiết: Rối loạn lo âu lan tỏa

Các tình huống hàng ngày qua cách nhìn của người bệnh đều rối như tơ vò, mọi cái dường như đều bất thường, đáng phải âu lo
Thường bắt đầu từ 20-30 tuổi gặp ở nữ 2 lần nhiều hơn nam, đặc điểm của rối loạn này là sự lo âu lan tỏa, dai dẳng và không giới hạn hay nổi bật trong bất cứ tình huống, đối tượng đặc biệt nào. Bệnh có các biểu hiện về tâm trạng như luôn bất an, hồi hộp, còn thể chất thì hay run rẩy, căng cứng bắp thịt, vã mồ hôi, thắt ngực, nóng lưng, đau bụng, khó ngủ. Do các biểu hiện này bệnh nhân thường tìm đến các bác sĩ đa khoa để tìm các tổn thương thể chất cho đến khi không tìm được nguyên nhân thì mới tìm đến các bác sĩ tâm lý. Một trong các tiêu chuẩn chẩn đoán quan trọng là lo âu quá mức hàng ngày trong thời gian ít nhất 6 tháng.

Với những người bị rối loạn lo âu lan tỏa, mỗi ngày diễn ra họ đều phải trải qua cảm xúc lo lắng và căng thẳng quá mức, mặc dù có rất ít hoặc không có vấn đề nghiêm trọng nào. Họ hay dự đoán các sự kiện bất trắc và quá quan tâm đến các vấn đề sức khỏe, tiền bạc, gia đình, hoặc khó khăn trong công việc...

Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) Sửa đổi
Bài chi tiết: Rối loạn ám ảnh cưỡng chế

Có người rửa tay đến vài chục lần mỗi ngày, thực tế thì tay không bẩn nhưng họ bị ám ảnh rằng nó không được sạch
Trước đây do có ít bệnh nhân đến khám và chịu thừa nhận nên rối loạn này được cho là không phổ biến nhưng những con số thống kê gần đây cho thấy quan niệm này cần phải đính chính lại, theo ước tính ở Mỹ có khoảng 2% người mắc, nam nữ có tỉ lệ như nhau[4]. Đặc điểm của bệnh là các ý nghĩ ám ảnh và hành vi cưỡng chế, người bệnh không làm chủ được các ý nghĩ lặp đi lặp lại một cách vô lý và để giảm bớt độ thôi thúc gây khó chịu cho bản thân họ buộc phải thực hiện hành vi cưỡng chế. Một số hành vi cưỡng chế cụ thể như là nhìn đồng hồ hoặc rửa tay liên tục, sưu tầm các vật vô giá trị, ngăn nắp quá mức, tìm kiếm sự cân đối[5]... Nhiều người ý thức được tính chất bất thường của hành vi nhưng không khống chế được chúng, họ miêu tả điều đó giống như khi bị nấc dù rất muốn nhưng không thể nào dừng lại được.

Người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế phần nào hiểu rõ tính chất vô ích của ám ảnh. Đôi khi chính họ cũng công nhận ý nghĩ ám ảnh và hành vi cưỡng chế của họ là phi lý. Nhưng phần lớn họ không có nhận định chắc chắn về sự sợ hãi của mình hoặc thậm chí có niềm tin mạnh mẽ rằng những hành vi đó là phù hợp. Những người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế phải đấu tranh rất quyết liệt để xua những ý nghĩ không mong muốn và hành vi cưỡng chế. Rất nhiều người có thể ngăn các triệu chứng ám ảnh cưỡng chế xuất hiện trong nhiều giờ khi họ ở trong lớp học hay ở nơi làm việc. Nhưng qua thời gian đó sự kháng cự yếu đi và họ bị chi phối bởi hành vi ám ảnh mang tính chất lễ nghi rất mạnh, nó ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của bệnh nhân và đôi khi khiến họ khó có thể ở một nơi nào đó ngoài căn nhà của mình.

Rối loạn stress sau sang chấn (PTSD) Sửa đổi
Bài chi tiết: Rối loạn stress sau sang chấn

Trải qua một sang chấn tâm lý lớn, chẳng hạn như thảm họa thiên nhiên, tai nạn có thể dẫn đến căn bệnh này
Sau một trải nghiệm đau buồn như người thân mất, bị ngược đãi, chiến tranh, thiên tai... phần lớn chúng ta lấy lại được cảm xúc quân bình theo thời gian, tuy nhiên ở một số người nó lại trở thành nỗi bất an dai dẳng, cảm giác đau buồn không nguôi này gọi là rối loạn stress sau sang chấn. Tên gọi PTSD chính thức ra đời sau khi người ta nhận thấy rằng rất nhiều cựu binh Mỹ tham chiến ở Việt Nam sau khi trở về nước mặc dù có cuộc sống như mọi người nhưng lại có nhiều biểu hiện tâm lý bất thường. Các triệu chứng thường thấy là người bệnh hay nhớ lại hoàn cảnh sang chấn ngoài ý muốn hoặc nó có thể đến trong cơn ác mộng. Những người có tuổi thơ bất hạnh, bị lạm dụng tình dục, chứng kiến cái chết thảm khốc của người mà mình thương yêu có khả năng cao mắc bệnh này.

Người ta nhận thấy sự tác động khác nhau của sự kiện gây sang chấn đến những người khác nhau, với người này thì để lại hậu quả nghiêm trọng người khác thì không. Trong cùng một biến cố thì người trực tiếp là nạn nhân có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người chỉ gián tiếp liên quan, chẳng hạn như chỉ nhìn thấy sự kiện. Ngoài ra cũng phải kể đến yếu tố tâm lý riêng của từng người, những người có khả năng chịu đựng stress tốt hơn thì ít nguy cơ hơn, tuy nhiên tất cả mọi người đều có mức độ chịu đựng nhất định, hiếm có người nào sống sót trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã mà lại không bị tổn thương về tâm lý[6].

Ám ảnh sợ xã hội Sửa đổi
Bài chi tiết: Ám ảnh sợ xã hội

Những tình huống giao tiếp đôi khi trở thành nỗi sợ hãi - điều ấy ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống bình thường
Như tên gọi, người bệnh luôn cảm thấy sợ hãi quá mức trong các tình huống mang tính xã hội như trong các buổi tiệc, nói chuyện trước đám đông, hay thậm chí chỉ là nói chuyện với người khác hoặc bị một ai đó nhìn. Có các biểu hiện như đỏ mặt, run rẩy, buồn nôn... Khi hành động thì luôn sợ hãi rằng mình sẽ làm các hành vi ngớ ngẩn để rồi phải xấu hổ. Theo thống kê khoảng 3.7% người Mỹ mắc căn bệnh này tức là xấp xỉ 5.3 triệu người, nữ có tỉ lệ mắc cao gấp đôi nam giới, thế nhưng tỉ lệ nam giới chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ để chữa trị lại nhiều hơn[7]. Bệnh thường khởi phát trong thời kỳ thơ ấu hoặc đầu trưởng thành hiếm khi bị bệnh sau tuổi 25. Nếu không được chữa trị bệnh sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống. Một số tình huống xã hội mà người bệnh thường tránh né nhất đó là[8]:

Nói chuyện trước đám đông
Làm việc khi ai đó đang nhìn mình
Nói chuyện trên điện thoại
Gặp người lạ
Hẹn hò
Ăn ở nơi công cộng
Trả lời câu hỏi trong lớp học
Rối loạn lo âu khi xa cách Sửa đổi
Biểu hiện sự lo âu thái quá khi phải xa cách môi trường hoặc người đem lại cảm giác an toàn. Bệnh có xuất hiện ở người trưởng thành nhưng đối tượng chủ yếu mắc bệnh là trẻ em. Cần nhớ rằng lo âu khi xa cách là một giai đoạn trong quá trình phát triển tự nhiên của trẻ[9] (rất dễ quan sát ở trẻ sơ sinh chúng có thể khóc ngay khi đến nhà người lạ) do vậy chẩn đoán mắc bệnh chỉ có ý nghĩa với các biểu hiện vượt mức cần thiết.

Các rối loạn tâm thần kết hợp Sửa đổi

Theo thống kê riêng ở Mỹ của dự án nghiên cứu National Comorbidity Survey trong năm 2005 (một dự án nghiên cứu về tỉ lệ các rối loạn tâm thần ở người Mỹ) thì 58% bệnh nhân được chẩn đoán trầm cảm có rối loạn lo âu, trong số đó 17,2% là rối loạn lo âu lan tỏa, 9,9% là rối loạn hoảng sợ. Bệnh nhân rối loạn lo âu cũng có tỉ lệ cao bị trầm cảm ngoài ra 22,4% bệnh nhân mắc ám ảnh sợ xã hội, 9,4% bệnh nhân sợ khoảng trống và 2,3% rối loạn hoảng sợ. Nhiều trường hợp các triệu chứng không đủ mạnh để chẩn đoán là rối loạn lo âu hay trầm cảm khi đó chẩn đoán đầu tiên của bệnh nhân sẽ được áp dụng[10].

Điều trị Sửa đổi

Cũng như nhiều rối loạn tâm lý khác việc điều trị bao gồm hai phương pháp chính, đó là sử dụng thuốc và các liệu pháp tâm lý trong đó có liệu pháp hành vi nhận thức, tham vấn tâm lý, thư giãn (người bệnh thực hành những bài tập thả lỏng cơ kết hợp với tập thở khí công...)[3]

Liệu pháp hành vi nhận thức Sửa đổi
Trị liệu bằng các liệu pháp hành vi nhận thức hiện còn chưa được phổ biến ở Việt Nam. Việc điều trị bao gồm nhiều nội dung khác nhau như là giáo dục về tâm lý, hướng dẫn cách xử lý khi có những biểu hiện của lo âu, hoảng sợ như là tập thư giãn, tập hít thở sâu, hoặc có những liệu pháp giúp bệnh nhân dần dần thích nghi được với các hoàn cảnh gây ra tình trạng lo âu và các triệu chứng sẽ dần biến mất. Để điều trị hiệu quả thường kết hợp cả hai phương pháp dùng thuốc và hành vi nhận thức.

Dùng thuốc Sửa đổi
Loại thuốc đang được dùng phổ biến hiện nay là nhóm thuốc ức chế hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) mà một số hoạt chất phổ biến như là fluoxetine, sertraline, paroxetine... và loại thuốc chống trầm cảm 3 vòng amitriptylin cùng nhóm benzodiazepine. Tuy nhiên việc lựa chọn loại thuốc nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như là bệnh nhân có bệnh lý khác kết hợp hay không, điều kiện tài chính. Cũng cần phải hết sức lưu ý tác dụng phụ của thuốc khi sử dụng, SSRI là loại thuốc ít có nguy cơ về tim mạch, kháng cholinergic và ngộ độc liên quan đến quá liều nhưng nó có tác dụng phụ trên chức năng tình dục. Khi dùng loại thuốc nhóm benzodiazepin thì có những nguy cơ phụ thuộc thuốc khi sử dụng lâu dài, chỉ nên sử dụng ở các bệnh nhân buộc phải được kiểm soát các triệu chứng một cách nhanh chóng như là bệnh nhân có nguy cơ nghỉ việc, nghỉ học. Loại thuốc chống trầm cảm 3 vòng thường có các nguy cơ tác dụng phụ lên hệ tim mạch, vì vậy cần đặc biệt lưu ý với những bệnh nhân cao tuổi (thường có hệ tim mạch yếu) và những người có bệnh lý cơ thể kèm theo.
Nguồn : Link : https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Rối_loạn_lo_âu

Tác giả : Wikipedia

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lý#tâm