tam ly lua tuoi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tâm lí học lứa tuổi

Câu 2:Đặc điểm trí tuệ của thiếu niên & thanh niên

Thiếu niên:

Ở lứa tuổi này hoạt động

a. Tri giác: các em đã có khả năng phân tích, tổng hợp các sự vật, hiên tượng phức tạp hơn khi tri giác sự vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch, cơ trình tự và hoàn thiện hơn.

b. Trí nhớ: của thiếu niên cũng được thay đổi về chất. Đặc điểm cơ bản của trí nhớ ở lứa tuổi này là sự tăng cường tính chấtchủ định, năng lực ghi nhớ có chủ định được tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu suất ghi nhớ cũng được nâng cao.

Học sinh trung học cơ sở có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ. Các em có những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy, biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hóa, phân loại nhằm ghi nhớ tài liệu.

c. Tư duy :

Hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở có những biến đổi cơ bản:

- Tư duy nói chung và tư duy trừu tượng nói riêng phát triển mạnh là một đặc điểm cơ bản của hoạt động tư duy ở thiếu niên. Nhưng thành phần của tư duy hình tượng - cụ thể vẫn được tiếp tục phát triển, nó vẫn giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc của tư duy.

- Các em hiểu các dấu hiệu bản chất của đối tượng nhưng không phải bao giờ cũng phân biệt được những dấu hiệu đó trong mọi trường hợp. Khi nắm khái niệm các em có khi thu hẹp hoặc mở rộng khái niệm không đúng mức.

- Ở tuổi thiếu niên, tính phê phán của tư duy cũng được phát triển, các em biết lập luận giải quyết vấn đề một cách có căn cứ. Các em không dễ tin như lúc nhỏ, nhất là ở cuối tuổi này, các em đã biết vận dụng lí luận vào thực tiễn, biết lấy những điều quan sát được, những kinh nghiệm riêng của mình để minh họa kiến thức.

Thanh niên

Ở học sinh trung học phổ thông, tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức.

- Tri giác: tri giác của thanh niên có độ nhạy cảm cao, tri giác có mục đích đạt tới mức độ rất cao. Quan sát trở nên có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự chi phối của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách rời khỏi tư duy ngôn ngữ. Thanh niên có thể điều khiển được hoạt động của mình theo kế hoạch chung và chú ý đến mọi khâu. Tuy nhiên tri giác của học sinh trung học phổ thông cần có sự hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát vào một nhiệm vụ nhất định và yêu cầu các em không nên kết luận vội vàng khi chưa tích lũy đầy đủ các sự kiện cần quan sát.

- Trí nhớ: Ở học sinh trung học phổ thông, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, mặt khác vai trò của ghi nhớ lôgíc trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ. Các em đã biết tài liệu nào cần nhớ chính xác, tài liệu nào chỉ cần hiểu mà không cần nhớ...Nhưng có một số em còn ghi nhớ đại khái, chung chung, đánh giá thấp của việc ôn tập.

- Chú ý: Chú ý của học sinh trung học phổ thông có nhiều sự thay đổi. Thái độ lựa chọn của học sinh đối với các môn học quyết định tính lựa chọn của chú ý. Do có hứng thú ổn định đối với môn học nên chú ý sau chủ định của các em trở thành thường xuyên hơn. Năng lực di chuyển và phân phối chú ý cũng được phát triển và hoàn thiện một cách rõ rệt. Các em có khả năng vừa nghe giảng, vừa chép bài, vừa theo dõi câu trả lời của bạn. Tuy nhiên, các em không phải bao giờ cũng đánh giá đúng đắn ý nghĩa quan trọng của tài liệu nên các em hay chú ý không chủ định khi giáo viên đề cập tới ý nghĩa thực tiễn và sự ứng dụng tri thức nhất định vào cuộc sống.

- Tư duy: Do cấu trúc não phức tạp và chức năng của não phát triển, do sự phát triển của các quá trình nhận thức và do ảnh hưởng của hoạt động học tập mà tư duy của học sinh trung học phổ thông có thay đổi quan trọng về chất.

Hoạt động tư duy của các em tích cực, độc lập hơn. Các em có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Các em thích khái quát hóa, thích tìm hiểu những quy luật và những nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn ; tính phê phán của tư duy cũng phát triển.

Những đặc điểm này tạo điều kiện cho học sinh trung học phổ thông thực hiện các thao tác tư duy lôgíc, phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và xã hội...Tuy nhiên, hiện nay số học sinh trung học phổ thông đạt mức độ tư duy như trên chưa nhiều. Thiếu sót cơ bản trong tư duy của các em là thiếu tính độc lập. Việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên. Giáo viên cần hướng dẫn các em tích cực suy nghĩ trong khi phân tích hoặc tranh luận để học sinh tự rút ra kết luận.

Câu 4:Bản chất của hoạt động dạy và hoạt động học

Bản chất của hoạt động dạy

Hoạt động day là hoạt động của người lớn tổ chức và điều khiển hoạt động của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hóa - xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lí, hình thành nhân cách của chúng.

Bản chất của hoạt động học

a.Đối tượng của hoạt động học là tri thức và những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng với nó.

- Cái đích mà hoạt động học hướng tới là chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của xã hội thông qua sự tái tạo của cá nhân.

- Muốn học có kết quả, người học phải tích cực tiến hành các hành động học tập bằng chính ý thức tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân mình.

b. Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính mình. Thông thường hoạt động khác làm thay đổi đối tượng nhưng hoạt động học không làm thay đổi đối tượng mà làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động học.

- Nội dung tri thức mà lòai người tích lũy được là đối tượng của hoạt động học, không hề thay đổi sau khi bị chủ thể hoạt động học chiếm lĩnh. Chính nhờ có sự chiếm lĩnh này mà tâm lý của chủ thể mới được thay đổi và phát triển.

- Dõi nhiên, hoạt động học cũng có thể làm thay đổi khách thể, nhưng đó không phải là mục đích tự thân của hoạt động học, mà chính là phương tiện không thể thiếu của hoạt đông này nhằm đạt được mục đích làm thay đổi chính chủ thể hoạt động.

- Hoạt đông học làm diễn ra những biến đổi trong bản thân học sinh như:

Những biến đổi ở cấp độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.

Những biến đổi ở cấp độ hình thành những yếu tố của hoạt động học tập hoạt động nghề nghiệp.

Những biến đổi ở mức độ năng lực trí tuệ và nhân cách.

c. Hoạt động học là họat động điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.

d. Hoạt động học không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, mà còn hướng vào việc tiếp thu cả phương pháp dành tri thức đó. Nó là công cụ, là phương tiện không thể thiếu được để đạt mục đích của hoạt động học.

Từ khái niệm của bản chất học, cho ta thấy việc hình thành hoạt động cũng phải được xem là mục đích của hoạt động dạy.

Câu 6 Hành vi đạo đức và các tiêu chuẩn đánh giá hành vi đạo đức

a. Hành vi đạo đức : bao giờ cũng diễn ra trong một hoàn cảnh xã hội lịch sử với điều kiện rất cụ thể, được biểu hiện trong đối nhân xử thế, trong lối sống... Nghĩa là trong những điều kiện lịch sử cụ thể, con người có nhu cầu đạo đức và cùng với ý thức đạo đức sẽ nảy sinh hành vi đạo đức. Hệ thống những quan niệm đạo đức chỉ có thể tồn tại dưới hình thức hành vi đạo đức

Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa xã hội về mặt đạo đức.

b. Tiêu chuẩn để đánh giá hành vi đạo đức

Để đánh giá một con người có đạo đức hay không, người ta căn cứ vào hành vi của người đó. Hành vi đạo đức có các tiêu chuẩn sau :

- Tính tự giác của hành vi : chủ thể ý thức đầy đủ về về mục đích, ý nghĩa của hành vi của mình và tự mình thực hiện dưới sự thúc đẩy của động cơ.

Ví dụ : tự nguyện nhường quyền lợi vật chất cho người khác.

- Tính có ích của hành vi : thúc đẩy xã hội tiến lên theo hướng có lợi cho công cuộc chung của Tổ quốc.

- Tính không vụ lợi của hành vi : hành vi đạo đức phải là hành vi có mục đích vì người khác, vì xã hội (mình vì mọi người), không tính toán đến lợi ích của mình mà vì người khác...

Câu 9: Đặc điểm lao động của người thầy giáo

a. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người

Trong xã hội, có nhiều nghề quan hệ trực tiếp với con người. Nhưng đối tượng của người thầy giáo là những con người đang trong thời kỳ hình thành những phẩm chất và năng lực cần thiết của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội đang phát triển. Do đó, hoạt động của người thầy giáo là tổ chức, điều khiển cho trẻ lĩnh hội, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của loài người.

Vì đối tượng quan hệ trực tiếp với con người, nên đòi hỏi người thầy giáo trong quan hệ với học sinh cần có : sự tôn trọng, lòng tin, tình thương, sự đối xử công bằng, thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị ...

b. Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình

Nghề nào cũng cần có công cụ lao động, công cụ càng tốt, càng hiện đại thì kết quả lao động càng cao. Công cụ đó có thể ở trong hay ở ngoài người lao động.

Trong dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để tác động đến học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, là sự giác ngộ về lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, là lòng yêu nghề, mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp, là lối sống, cách cư xử và kỹ năng gtiếp của người thầy giáo.

K.D. Usinki đã khẳng định : "Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách "

Hơn nữa nghề dạy học là nghề lđộng nghiêm túc, ko được phép có thứ phẩm như ở một số nghề khác.

Vì công cụ lao động chủ yếu của người thầy giáo là nhân cách của chính mình, cho nên nghề dạy học đòi hỏi người thầy giáo phải có những phẩm chất và năng lực rất cao. Do đó, thầy giáo phải luôn luôn tự tu dưỡng và tự hoàn thiện nhân cách của mình.

c. Nghề dạy học là nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội

Để tồn tại và phát triển, xã hội loài người phải sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần. Muốn vậy, con người phải cần đến sức lao động.

Sức lao động là toàn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần của con người để sản xuất ra sản phẩm vật chất hay tinh thần có ích cho xã hội.

Chức năng của giáo dục, chính là bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đó ở trong con người, trong đó thầy giáo là lực lượng chủ yếu tạo ra sức lao động xã hội đó. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư có lãi nhất, sáng suốt nhất.

Ngày nay, do thành tựu của khoa học, kỹ thuật, người lao động đã chuyển từ việc lao động bằng cơ bắp sang lao động chủ yếu bằng sức mạnh tinh thần, sức mạnh trí tuệ. Chính nhà trường, thầy giáo là nơi tạo ra sức mạnh đó theo phương thức tái sản xuất mở rộng.

d. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật & tính sáng tạo cao

- Lao động sư phạm là một loại lao động căng thẳng, tinh tế, không dập khuôn, một loại lao động không đóng khung trong một giờ giảng, trong khuôn khổ nhà trường. Dạy học sinh biết giải một bài tóan, đặt một câu đúng ngữ pháp, biết làm một thí nghiệm... không phải khó, nhưng dạy sao cho học sinh biết con đường đi đến chân lí, nắm được phương pháp phát triển trí tuệ ... mới là công việc đích thực của ông thầy

- Muốn thực hiện được công việc dạy học sinh theo tinh thần đó, đòi hỏi người thầy giáo phải dựa trên những nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn, cũng như khoa học giáo dục và có những kỹ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, thích ứng với từng cá nhân. Cho nên công việc của người thầy giáo vừa phải dựa trên nền tảng khoa học vằ đòi hỏi tính sáng tạo cao. Lao động của thầy giáo trong một mức độ đáng kể giống như lao động của một người thợ cả làng nghề, một nhà khoa học, một nhà văn và một nghệ sĩ của quá trình sư phạm.

e. Nghề dạy học là nghề lao động trí óc chuyên nghiệp

- Khác với người lao động chân tay, người lao động trí óc trăn trở ngày đêm, có khi hàng tháng cũng không chắc đã cho ra một sản phẩm gì. Lao động của người thầy giáo cũng có tính chất như vậy, nhất là khi phải giải quyết một tình huống sư phạm phức tạp và quyết định.

- Lao động của người thầy giáo có "quán tính" của trí tuệ, có khi ra khỏi lớp học thầy giáo còn miên man suy nghĩ về cách chứng minh một định lí, suy nghĩ về một trường hợp chậm hiểu của học sinh ...

- Do những đặc điểm trên, nên công việc của người thầy giáo không hẵn đóng khung trong lớp học hoặc thời gian làm việc như giờ hành chính được mà là ở khối lượng, chất lượng và tính sáng tạo của công việc.

Tóm lại:

Từ sự phân tích trên cho thấy, nghề sư phạm quả là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Vì vậy, muốn cho hoạt động sư phạm có kết quả thì thầy giáo phải có những phẩm chất nhân cách nhất định và năng lực sư phạm. Và nó cũng đặt ra cho xã hội phải dành cho thầy giáo một vị trí tinh thần và sự ưu đãi vật chất xứng đáng, như Lênin đã nói : "Chúng ta phải làm cho giáo viên ở nước ta có một địa vị mà từ trước đến nay họ chưa bao giờ có".

Câu 10: Năng lực sư phạm của người thầy giáo

Năng lực sư phạm gồm các nhóm : năng lực giáo dục, năng lực dạy học và năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm.

1. Nhóm năng lực dạy học

a. Năng lực hiểu trình độ học sinh trong dạy học và giáo dục

- Năng lực hiểu trình độ học sinh trong dạy học và giáo dục là khả năng thâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục.

-Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương yêu học sinh và sâu sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lí khác như năng lực quan sát, óc tưởng tượng, khả năng phân tích và tổng hợp ...

b. Tri thức và năng lực hiểu biết của thầy giáo

- Đây là một năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng lực trụ cột của nghề dạy học.

Do tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, nên xã hội đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với trình độ văn hóa chung của thế hệ trẻ, mặt khác cũng làm cho hứng thú và nguyện vọng của thế hệ trẻ ngày càng phát triển.

Thầy giáo có nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện đặc biệt là tri thức, quan điểm, kỹ năng, thái độ, nhất là những tri thức khoa học thuộc lĩnh vực giảng dạy của mình.

Tạo ra uy tín cho người thầy giáo.

- Người thầy giáo phải nắm vững và hiểu biết rộng môn mình phụ trách.Thường xuyên theo dõi những thành tựụ mới trong lĩnh vực khoa học thuộc môn mình phụ trách.Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình.

c. Năng lực chế biến tài liệu học tập

- Năng lực chế biến tài liệu học tập là năng lực gia công về mặt sư phạm của thầy giáo đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với trình độ, với đặc điểm nhân cách học sinh và đảm bảo lôgic sư phạm.

- Năng lực chế biến tài liệu học tập được thể hiện :

Đánh giá đúng đắn tài liệu, xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh .

Biết xây dựng lại tài liệu để hình thành cấu trúc bài giảng vừa phù hợp với lôgic nhận thức, vừa phù hợp với lôgic sư phạm, lại thích hợp với trình độ nhận thức của trẻ.

d. Năng lực truyền đạt tài liệu (Nắm vững kỹ thuật dạy học).

Kết quả lĩnh hội tri thức phụ thuộc vào ba yếu tố : trình độ nhận thức của học sinh, nội dung bài giảng và cách dạy của thầy.

- Chuẩn bị bài tốt nhưng muốn dạy học đạt kết quả cao, người thầy giáo phải có năng lực truyền đạt tài liệu. Năng lực truyền đạt tài liệu là năng lực tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức cho học sinh qua bài giảng.

- Người thầy cần nắm vững kỹ thuật dạy học mới. Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học sinh.Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập.Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập.

- Việc hình thành một năng lực như vậy, nắm vững được kỹ thuật dạy học mới nêu trên quả là không dễ dàng mà nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc và rèn luyện tay nghề công phu.

e. Năng lực ngôn ngữ

- Năng lực ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ, tình cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ.

- Năng lực ngôn ngữ là một trong những năng lực quan trọng của người thầy giáo. Nó là công cụ sống còn đảm bảo cho người thầy giáo thực hiện chức năng dạy học và giáo dục của mình.

2. Nhóm năng lực giáo dục

Năng lực giáo dục bao gồm :

a. Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh

- Đó là năng lực biết dựa vào mục đích giáo dục, yêu cầu đào tạo, hình dung trước cần phải giáo dục cho từng học sinh những phẩm chất nhân cách nào và hướng hoạt động của mình để đạt tới hình mẫu trọn vẹn của con người mới.Nhờ có năng lực này, công việc của giáo viên trở nên có kế hoạch và chủ động hơn.

b. Năng lực giao tiếp sư phạm

- Năng lực giao tiếp sư phạm là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của học sinh và bản thân, đồng thời biết sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức điều khiển và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục.

- Năng lực giao tiếp sư phạm được biểu hiện ở các kỹ năng chính như :

Kỹ năng định hướng giao tiếp : thể hiện ở khả năng dựa vào sự biểu lộ bên ngoài như : sắc thái biểu cảm, ngữ điệu thanh điệu của ngôn ngữ, cử chỉ, đông tác, thời điểm và không gian giao tiếp mà phán đoán chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.

Kỹ năng định vị : đó là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng và biết tạo ra điều kiện để đối tượng chủ động, thoải mái giao tiếp với mình.

Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp thể hiện ở : kỹ năng điều khiển đối tượng giao tiếp, kỹ năng

làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân và kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp.

*) Kỹ năng làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân : Đó chính là biết điều chỉnh và điều khiển các diễn biến tâm lí của mình cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.

*) Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp. Phương tiện giao tiếp đặc trưng của con người là lời nói. Kỹ năng này biểu hiện ở chỗ : giáo viên biết lựa chọn những từ "đắt", thông minh, hiền hòa, lịch sự...trong giao tiếp ; mặt khác biết sử dụng những phương tiện phi ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười...

- Ngoài ra, thầy giáo còn có sự tiếp xúc với đồng nghiệp, với phụ huynh học sinh, với các tổ chức xã hội khác. Thông qua sự giao tiếp này, thầy giáo đóng góp công sức của mình vào việc thống nhất tác động giữa các lực lượng giáo dục, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.

Việc rèn luyện năng lực giao tiếp không tách rời với việc rèn luyện các phẩm chất của nhân cách.

c. Năng lực cảm hóa học sinh

- Năng lực cảm hóa học sinh là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của mình bằng tình cảm và ý chí đối với học sinh. Nói cách khác đó là khả năng làm cho học sinh nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm và niềm tin.

d. Năng lực đối xử khéo léo sư phạm

Trong quá trình giáo dục, thầy giáo thường đứng trước nhiều tình huống sư phạm khác nhau đòi hỏi người thầy giáo phải giải quyết linh hoạt, đúng đắn và có tính giáo dục cao. Sự khéo léo đối xử sư phạm là một thành phần quan trọng của "tài nghệ sư phạm".

- Sự khéo léo đối xử sư phạm là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động đến học sinh một cách hiệu quả nhất, là sự cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư phạm cụ thể phù hợp với những đặc điểm và khả năng của cá nhân cũng như tập thể học sinh trong từng tình huống sư phạm cụ thể .

3. Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm

- Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là khả năng tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác của công tác dạy học và giáo dục trong mọi hoạt động của học sinh; Biết tổ chức lớp thành một tập thể đoàn kết, thân ái và có kỹ luật chặt chẽ, đồng thời còn biết tổ chức và vận động nhân dân, cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo một mục tiêu xác định.

Câu 7: Con đường giáo dục đạo đức

a.Tổ chức giáo dục của nhà trường có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh

- Cung cấp cho học sinh những tri thức đạo đức là một khâu quan trọng trong việc giáo dục đạo đức của nhà trường. Thông qua các giờ học đạo đức và các môn học khác, học sinh sẽ được trang bị những tri thức về đạo đức một cách khái quát và hệ thống.

- Thông qua các hoạt động ngoại khóa.

- Thông qua với việc tiếp xúc với người thực việc thực...

b. Không khí đạo đức của tập thể là môi trường phát sinh, điều kiện tồn tại và củng cố các hành vi đạo đức.

* Trong nhà trường một học sinh có thể đồng thời là thành viên của 1 số tập thể khác nhau. Khi sinh hoạt trong tập thể, các em quen dần với việc tôn trọng ý kiến của tập thể. Trong tập thể, dư luận tập thể cũng có tác dụng điều chỉnh, kiểm tra việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức của từng thành viên.

Do đó, giáo viên phải chú ý: Xây dựng tập thể học sinh vững mạnh (Có mục đích thống nhất, có tinh thần trước xã hội, có yêu cầu chặt chẽ với mọi thành viên, mọi thành viên phải phục tùng ý chỉ của tập thể, có sự lãnh đạo thống nhất và có sự bình đẳng giữa các thành viên). Xây dựng được dư luân tập thể thống nhất. Hướng dư luận tập thể theo một hướng nhất định và dẹp bỏ những dư luân không đứng đắn , không có lợi cho việc giáo dục đạo đức.

* Mọi dư luận tập thể về những hành vi đạo đức sẽ tạo ra không khí đạo đức của tập thể. Và chính không khí đạo đức của tạp thể lại trở thành môi trường, điều kiện tồn tại và củng cố những hành vi đạo đức của học sinh.

c. Nề nếp sinh hoạt và sự tổ chức giáo dục ở gia đình có ý nghĩa đặc biệt trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.

- Gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu tiên của con ng. Trong gia đình, các thành viên có sự gắn bosmaatj thiết với nhau. Vì vậy, sinh hoạt trong gia đình có ảnh hưởng lớn tới sự hình thành đạo đức cho học sinh, trong đó nề nếp sinh hoạt và sự tổ chức giáo dục của gia đình có ý nghĩa quan trọng. Trẻ em không chỉ nhận giáo dục của gia đình mà còn có các quan hệ xã hội khác, các em còn chịu sự tác động của hoàn cảnh xã hội. Vì vậy cha mẹ phải làm gương về đạo đức và phải giúp trẻ chống lại những ảnh hưởng xấu...

Gia đình cần phải xác định rõ mục đích của việc giáo dục đạo đức cho con cái của mình.

Cha mẹ có sức thuyết phục lớn và quyền uy đối với con cái. Vì vậy, cha mẹ cần xây dựng quyền uy cho đúng đắn.

d. Tự tu dưỡng là yếu tố quyết định trực tiếp trình độ đạo đức của mỗi học sinh.

- Sự hình thành và phát triển đạo đực của mỗi cá nhân là quá trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình đó, các tác động bên ngoài và bên trong thường xuyên tác động đến nhau và vai trò của mỗi yếu tố thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của con ng. Sự hình thành đạo đức của các em do ảnh hưởng cảu tác động bên ngoài mà trước hết là do tác động giáo dục cảu nhà trường, của tập thể, của gia đình sẽ dần chuyển thành sự tự giáo dục mà trong đó sự tự tu dưỡng là yếu tố quan trọng.

- Tự tu dưỡng về mặt đạo đức là một hành động tự giác, có hệ thống mà mỗi cá nhân thực hiện đối với bản thân mình nhằm khắc phục những hành vi trái đạo đức và bồi dưỡng những hành vi đạo đức của mình, thúc đẩy sự phát triển nhân cách.

- Tự tu dưỡng là một yêu cầu tự nhiên của cá nhân ở trình độ ý thức đã phát triển. Mọi ng đều cần làm cho mình tốt hơn, khắc phục những thói hư tật xấu, phân biệt được điều thiện với điều ác. Chính hoàn cảnh sống, sự giáo dục và kinh nghiệm của các em là nguồn gốc của sự tự tu dưỡng của các em.

- Điều kiện để tiến hành tự tu dưỡng: Học sinh phải nhận thức được bản thân minh, đánh giá đúng mình, luôn có thái độ phê phán nghiêm túc với những hành vi đạo đức của mình. Học sinh phải có viễn cảnh về cuộc sống tương lại, về lí tưởng của đời mình. Học sinh phải có nghị lực và ý trí mạnh. Có sự giúp đỡ của tập thể, được dư luận đồng tình ủng hộ, được sự hướng dẫn cúa giáo viên....

*Chính vì vậy, ng giáo viên cần giúp đỡ mỗi học sinh: Nắm vững mục đích, pjuwowng pháp và tổ chức tự tu dưỡng của các em. Giáo viên cần hướng dẫn các em lập kế hoạch tự tu dưỡng. Trong kế hoạch tự tu dưỡng bao gồm những nét đạo đức mà các em cần rèn luyện, củng cố hay khắc phục. Hiểu được tự tu dưỡng diễn ra trong quá trình hoạt động thực tiễn mới đem lại kết quả. Biết tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hoa