Tam quy ngũ giới

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tam quy ngũ giới

tác giả: Thích Chân Tính

Tam quy ngũ giới

I. Tam quy

Trong cuộc sống, hằng ngày mỗi buổi sáng khi thức dậy, chúng ta suy nghĩ làm sao có tiền, có tình, có địa vị, có thức ăn ngon, có ngủ nghỉ thỏa thích. Để được hưởng thụ những thứ đó, chúng ta phải tính toán, làm việc vất vả, thậm chí nhúng tay vào tội lỗi. Rồi một ngày nào đó theo định luật sinh, trụ, dị, diệt, chúng ta nhắm mắt tắt hơi, bỏ lại những thứ mình ham muốn, suốt đời khổ cực tìm cầu. Đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, ra đi cũng hai bàn tay trắng, chỉ còn nghiệp theo mình, đưa mình đến một trong sáu đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, người và trời. Từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta quanh quẩn mãi trong sáu đường này; mỗi lần sinh, mỗi lần tử là mỗi lần tạo nghiệp, dẫn đến quả báo đau khổ. Máu và nước mắt của chúng ta, nếu tích tụ lại nhiều như nước biển. Xương và thịt của chúng ta, nếu gom lại chất cao như núi. Vì sao chúng ta phải chịu đau khổ sinh tử trong sáu đường này? Vì vô minh. Như người đi trong đêm tối không biết phương hướng, cứ đi mãi vào con đường hiểm nạn, nên bị sụp hầm té hố. Nếu không có ánh đuốc soi đường, chúng ta sẽ mãi mãi đi vào con đường hiểm không có lối ra. Sáu nẻo luân hồi là những con đường hiểm nạn. Tam bảo là ngọn đuốc soi đường, hướng dẫn chúng ta ra khỏi đường hiểm đến chỗ an vui giải thoát.

Phật là bậc đã giác ngộ, giải thoát khỏi sáu đường, Ngài chỉ cho chúng ta lối ra. Pháp là ngọn đuốc sáng soi đường. Tăng là những vị thầy hướng dẫn chúng ta đi đúng đường. Cho nên, chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.

1. Tam quy là gì?

Tam quy nói cho đủ là quy y Tam bảo.

Quy y: Quy là trở về, quay đầu. Y là nương tựa. Quy y là trở về nương tựa.

Tam bảo: Tam là ba, bảo là báu. Tam bảo là ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.

Quy y Tam bảo là chúng ta quay về nương tựa vào Phật, Pháp và Tăng. Như người con vì si mê đã bỏ cha mẹ đi hoang, bị cuộc đời vùi dập, chịu biết bao đau khổ, đói rách; nay quay về nương tựa cha mẹ để được che chở, thương yêu và hạnh phúc. Như người lái xe đi lầm đường, quay đầu trở lại đi đúng đường. Như người bị đắm thuyền, trôi dạt trên biển cả, bỗng gặp chiếc thuyền khác đến cứu mạng. Sắp chết chìm trong lòng đại dương được thuyền đến cứu vớt, được sống yên ổn trên thuyền, được đưa vào bờ an toàn sinh mạng thì còn niềm vui nào lớn hơn.

2. Tại sao Phật, Pháp, Tăng quý báu?

a. Phật có những đặc điểm:

- Nhận thức nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết của con người, từ bỏ cung vàng điện ngọc, dứt bỏ hưởng thụ ngũ dục, chẳng ham vương vị quyền thế, vào rừng tu hành khổ hạnh, tìm cầu chân lý để cứu độ chúng sinh.

- Chứng được Tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh. Thiên nhãn minh là có thể nhìn thấu suốt ba cõi sáu đường, thấy biết rõ thật tướng của vũ trụ, nhân sinh. Túc mạng minh là biết được quá khứ của mình và của tất cả chúng sinh từ một kiếp đến vô lượng kiếp về trước. Lậu tận

minh là dứt sạch tất cả mọi phiền não cấu uế.

- Luôn tỉnh giác, làm chủ ba nghiệp. Thân, khẩu, ý trong sạch không có tỳ vết. Thân tướng trang nghiêm với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

- Đầy đủ phước đức, trí tuệ. Có khả năng hướng dẫn chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử, đạt đến giác ngộ, giải thoát rốt ráo.

- Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

b. Pháp có những đặc điểm:

- Pháp là lời dạy của Phật, là chân lý.

- Pháp giúp ta thấy được nhân quả nghiệp báo và nguyên nhân của sinh tử luân hồi.

- Pháp là con đường đưa người đến chỗ an vui, hạnh phúc và giải thoát khỏi ba cõi sáu đường.

- Pháp là những phương pháp giúp ta chuyển hóa si mê thành trí tuệ, đau khổ thành hạnh phúc, phiền não thành Bồ đề, chúng sinh thành Phật.

c. Tăng có những đặc điểm:

- Là một đoàn thể sống hòa hợp thanh tịnh (lục hòa).

- Cắt ái ly gia, từ bỏ đời sống hưởng thụ ngũ dục, xuất gia tu học, sống đời phạm hạnh.

- Là người giữ gìn giới luật của Phật. Là mô phạm cho chúng sinh noi gương học tập.

- Xem tất cả mọi người là thân bằng quyến thuộc.

- Sống trọn đời vì lý tưởng phục vụ chúng sinh, hoằng truyền Phật pháp, hướng dẫn mọi người tu học.

Tóm lại, Phật được gọi là Lưỡng Túc Tôn vì đầy đủ phước huệ. Pháp được gọi là Ly Dục Tôn vì có thể khiến cho hết thảy chúng sinh thoát ly dục lạc. Tăng được xưng là chúng trung tôn vì làm bậc thầy, là khuôn mẫu cho chúng sinh noi theo, bậc tôn quý trong đại chúng. Công đức của Phật, Pháp, Tăng rất nhiều, chúng ta chỉ nêu một vài đặc điểm để dẫn chứng, đủ chứng minh Phật, Pháp, Tăng là quý báu. Ở thế gian này, vàng bạc, ngọc ngà, châu báu tuy quý, nhưng chỉ giúp chúng ta được an vui hạnh phúc tạm thời, không thể giúp chúng ta thoát khỏi sinh tử luân hồi, đau khổ trong sáu đường. Phật, Pháp, Tăng có đủ năng lực hướng dẫn chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi, đến chỗ an vui giải thoát rốt ráo. Cho nên, Tam bảo là quý báu, chúng ta cần phải nương tựa.

3. Tam bảo có ba bậc:

Có ba bậc Tam bảo chúng ta cần phải biết

a. Thế gian trụ trì Tam bảo: Là Phật, Pháp, Tăng tại thế gian.

* Phật tại thế gian: Là hình tượng Phật mà chúng ta tôn thờ.

* Pháp tại thế gian: Là tam tạng kinh, luật, luận ghi chép trên giấy hoặc băng đĩa hình.

* Tăng tại thế gian: Là những vị xuất gia tu học Phật pháp, sống đời phạm hạnh.

b. Xuất thế gian Tam bảo: Là Phật, Pháp, Tăng ra khỏi thế gian.

* Phật xuất thế gian: Là đức Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Phật đã vượt ra khỏi Tam giới, chứng quả Vô sinh bất diệt.

* Pháp xuất thế gian: Là giáo pháp của Phật như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ vạn hạnh v.v... có khả năng chuyển phàm thành Thánh, chúng sinh thành Phật.

* Tăng xuất thế gian: Là những vị Tăng đã chứng quả A-la-hán, vượt ra khỏi thế gian, như các ngài Ca Diếp, Xá Lợi Phất, A-nan v.v...

c. Đồng thể Tam bảo: Là chúng sinh cùng thể tánh với Phật.

* Đồng thể Phật bảo: Phật là bậc giác ngộ, có đầy đủ trí tuệ, Tam minh Lục thông. Chúng sinh cũng có đầy đủ trí tuệ và khả năng thành Phật như Phật.

* Đồng thể Pháp bảo: Phật là bậc có đầy đủ đức tính từ bi, nhẫn nhục, tinh tấn... chúng sinh cũng có đầy đủ những đức tính ấy.

* Đồng thể Tăng bảo: Phật có đầy đủ đức tính thanh tịnh, hòa hợp. Chúng sinh cũng có đầy đủ đức tính ấy.

4. Sự Lý quy y Tam bảo:

Quy y Tam bảo có Sự và Lý. Sự là hình thức, Lý là nội dung. Nhờ có Tam bảo bên ngoài, chúng ta mới biết Tam bảo bên trong. Nhờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni chúng ta mới ngộ được Phật tính trong mình. Nhờ kinh, luật, luận chúng ta mới biết pháp chân chính trong mình. Nhờ chư Tăng chỉ dẫn chúng ta mới thấy được vị thầy thanh tịnh trong mình. Muốn ngộ Phật tính, trọn đời chúng ta phải tuân theo đức Phật. Muốn chứng pháp chân chính, trọn đời chúng ta phải học kinh, luật, luận. Muốn thấy tự tính thanh tịnh, trọn đời chúng ta phải nương theo sự hướng dẫn của chư Tăng. Chúng ta phải thể hiện đầy đủ Sự Lý quy y Tam bảo thì việc tu học mới có lợi ích thiết thực.

* Sự quy y Phật: Đức Phật là người đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vượt khỏi Tam giới, tự tại giải thoát. Chúng ta là những người còn chìm đắm trong bể khổ sinh tử luân hồi sáu nẻo, cần phải nương nhờ vào chiếc thuyền để qua khỏi biển khổ. Người có đủ khả năng để đưa chúng ta đến bờ an vui giải thoát là đức Phật. Do vậy, chúng ta phải quy y Phật. Muốn trở thành người Phật tử, chúng ta phải quy y Tam bảo, phải đối trước hình tượng đức Phật để phát nguyện trọn đời nương tựa, phải tự mình dự lễ quy y và phát nguyện trước Tam bảo. Có những người quy y Tam bảo bằng cách nhờ người nhà quy y dùm là sai nguyên tắc. Trừ trường hợp người muốn quy y bị bại liệt, bệnh nặng hoặc già yếu không thể đến đàn quy y được. Chúng ta có thể phương tiện bằng cách thu hình hoặc thu âm buổi lễ quy y đem về mở cho họ xem, nghe và yêu cầu họ phát nguyện như trong đĩa ghi âm, ghi hình. Có như vậy, người già, bệnh đó mới thật sự hiểu biết ý nghĩa quy y Tam bảo và mới có lợi ích. (Hiện chùa Hoằng Pháp có thực hiện đĩa VCD, DVD lễ quy y Tam bảo, quý vị nên tìm xem).

Trường hợp có những em còn nhỏ tuổi, chưa nhận thức được ý nghĩa và lợi ích của quy y Tam bảo, cha mẹ vì muốn các em gieo duyên với Phật pháp nên đã đưa đến chùa dự lễ quy y. Khi lớn lên các em không có ấn tượng về buổi lễ quy y và cũng không biết những lời nguyện, những giới điều đã thọ nên giảm đi sự lợi ích của việc quy y Tam bảo. Trường hợp này cha mẹ phải có trách nhiệm hướng dẫn con cháu của mình hiểu biết Phật pháp. Mỗi năm một lần nên đưa các em đến đàn quy thính giới, để ôn lại những giới điều đã thọ. Tốt hơn hết nên để các em đủ hiểu biết hãy khuyến khích quy y Tam bảo.

* Lý quy y Phật: Kinh Hoa Nghiêm dạy: "Hết thảy chúng sinh vốn sẵn đủ đức tướng, trí tuệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí đều sẽ hiện tiền". Đức Phật là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành. Mỗi người đều có đầy đủ Phật tính, đều có khả năng thành Phật. Như mặt trăng luôn tỏa sáng, vì mây che khuất nên tối tăm, chỉ cần gió thổi tan mây mù thì ánh sáng hiện ra. Như viên ngọc bị bụi đất bám vào, chúng ta chịu khó lau chùi, mài dũa thì viên ngọc sẽ hiển lộ.

Tự quy y Phật là quay trở về bản tính giác ngộ, cảnh giới tuyệt đối của tâm linh. Từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta bị vô minh che lấp Phật tính, gây tạo biết bao nghiệp chướng để phải trả quả, trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử. Ngày nay, chúng ta quay trở lại xem xét chính mình, hằng tỉnh thức, làm chủ thân khẩu ý, ba nghiệp thanh tịnh, dứt sạch các lậu hoặc thì mình chính là Phật, không phải tìm Phật đâu xa.

* Sự quy y Pháp: Pháp là những lời dạy của đức Phật, là chân lý. Pháp được ghi chép trong kinh, luật, luận. Hằng ngày, chúng ta đọc tụng, nghiên cứu học hỏi; trong lúc đọc tụng kinh, ý không nghĩ điều ác, khẩu không nói lời ác, thân không làm việc ác; ba nghiệp chúng ta sẽ được thanh tịnh. Tụng kinh hằng ngày giúp chúng ta thâm nhập kinh tạng, khai mở trí tuệ. Sở dĩ chúng ta hành động sai lầm dẫn đến khổ đau là do suy nghĩ, hiểu biết sai lầm. Chúng ta đọc tụng kinh điển là để có được nhận thức đúng đắn về nhân sinh vũ trụ, về nhân quả nghiệp báo. Từ chỗ nhận thức đúng, chúng ta sẽ có lời nói đúng, hành động đúng. Khi thân, khẩu, ý hành động đúng sẽ đem lại an vui hạnh phúc cho chúng ta trong hiện tại và tương lai.

Ngày nay, ngoài việc đọc tụng kinh điển, chúng ta còn có các phương tiện nghe nhìn Phật pháp như băng cassette, băng video, hoặc đĩa CD, VCD, DVD do quý thầy giảng giải giúp chúng ta dễ hiểu, dễ thâm nhập Phật Pháp. Chúng ta phải thường xuyên trau dồi sự nghiệp trí tuệ này.

* Lý quy y Pháp: Chuyển đổi hiểu biết sai lầm của mình thành hiểu biết chân chính. Sở dĩ chúng ta chìm đắm trong ngũ dục, tham luyến thế gian này là do vô minh, do hiểu biết sai lầm. Ngày nay, chúng ta chuyển hiểu biết sai lầm đó thành cái thấy sáng suốt, chân chính, không còn tham ái, chấp trước, cống cao, dục nhiễm, gọi là tự quy y Pháp.

Trong tâm của chúng ta có đầy đủ các pháp từ bi, trí tuệ, bình đẳng, nhẫn nhục, tinh tấn. Chúng ta phải làm cho những pháp này nảy nở bên trong chúng ta, như phải nuôi dưỡng và mở rộng tình thương đến với chúng sinh, phải thường quán sát về nhân duyên, quả báo để thấy rõ thật tướng của vũ trụ nhân sinh. Phải có tâm bình đẳng đối với kẻ oán người thân, kẻ tốt người xấu vì ai cũng có Phật tính. Phải có sức chịu đựng để vượt qua những khó khăn thử thách. Phải tinh tấn tu hành để thành tựu Phật quả. Phải chuyển hóa hiểu biết sai lầm thành hiểu biết chân chính, sống thật sự với giáo pháp để khai mở trí tuệ, gọi là Lý quy y Pháp.

* Sự quy y Tăng: Cung kính vâng lời những vị xuất gia tu học Phật pháp. Những Tăng Ni đã cắt ái ly gia, xa lìa ngũ dục, hiến trọn đời mình tu học, hoằng dương chánh pháp, phụng sự chúng sinh. Khi đã quy y Tăng, không chỉ riêng thầy mình cung kính, mà tất cả chư Tăng đều phải cung kính, vì Tăng là một đoàn thể hòa hợp thanh tịnh từ bốn vị trở lên. Người thầy quy y cho mình chỉ là đại diện cho chư Tăng. Cho nên, dù là Tăng thanh tịnh hay không thanh tịnh chúng ta đều phải cung kính, không khởi tâm phân biệt hoặc phỉ báng. Đức Phật đã nhập diệt, giáo pháp nằm trong ba tạng kinh điển, chỉ có Tăng là người thay Phật hoằng truyền chánh pháp, làm cho hình bóng Tam bảo thường trụ tại thế gian, chúng ta phải hết lòng tôn kính cúng dường.

* Lý quy y Tăng: Là quay về với tự tính thanh tịnh sẵn có xưa nay của mình. Hằng ngày, do sáu căn tiếp xúc với sáu trần sinh ra phân biệt, chấp trước, đắm mê khiến cho tâm của chúng ta bị ô nhiễm. Tâm ô nhiễm dẫn đến thân ô nhiễm. Do thân tâm ô nhiễm chúng ta tạo nghiệp ác, trở lại làm mê mờ tự tính thanh tịnh của mình. Ngày nay, chúng ta quay về với tự tính thanh tịnh của mình, không phân biệt chấp trước, không khởi tâm tham, sân, si, dần dần tâm của chúng ta trở lại thanh tịnh. Tự quy y Tăng là quay trở về với bản tính thanh tịnh, hòa hợp của chính mình.

5. Lợi ích của quy y Tam bảo:

Muốn trở thành một người Phật tử, bước đầu tiên chúng ta cần phải quy y Tam bảo. Ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng được xem như ba chỗ nương tựa vững chắc nhất cho mình. Khi phát nguyện quy y trước Tam bảo, nhờ năng lực thanh tịnh của chư Phật và sự chứng minh trang nghiêm của chư tôn đức hiện tiền sẽ giúp chúng ta tinh tấn giữ trọn lời nguyện. Có những người sống không quen với những phép tắc, giáo pháp của nhà Phật, nghĩa là họ sống một cuộc đời tự do theo bản năng và dục vọng. Nhưng từ khi phát nguyện quy y, họ sẽ tự ý thức được mình đã quy y Tam bảo rồi, cho nên trong cuộc sống thường ngày, họ luôn luôn biết dè dặt, biết cẩn trọng hơn trong từng lời nói, việc làm.

Hiện nay, chúng ta được làm người, sống trong cuộc đời này là nhờ đã gieo nhiều nhân lành ở quá khứ. Điều này trong nhà Phật thường nói tới, đó là luật nhân quả. Nghĩa là chúng ta gieo nhân nào sẽ gặt quả đó. Ví dụ mình gieo nhân xấu chắc chắn sẽ bị quả xấu, gieo nhân tốt sẽ được quả tốt. Cũng như muốn vài năm nữa có cam để ăn, thì ngay hôm nay, chúng ta phải biết trồng nhân cam. Luật nhân quả Phật dạy rất rõ ràng, không có gì mơ hồ cả. Nếu biết quy y Tam bảo đời nay, đời sau chúng ta sẽ không bị đọa vào những đường dữ. Do nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích như vậy, chúng ta nhất định phải quy y, phải nương vào Tam bảo.

Còn một điều quan trọng nữa, là nếu biết quy y Tam bảo, biết trở về dưới ánh sáng trí tuệ và từ bi của Phật, Pháp, Tăng, hiện đời chúng ta sẽ có một cuộc sống hết sức bình yên, ngày sau chắc chắn chúng ta sẽ tiến dần lên quả vị Chánh giác.

Tại sao biết quy y Tam bảo thì cuộc sống đời này được bình yên? Điều này cũng rất dễ hiểu. Ví như, trước kia chưa biết quy y Tam bảo, chúng ta cứ mặc sức gây tạo những điều xấu ác. Còn bây giờ biết quy y Tam bảo rồi, chúng ta sẽ không dám liều lĩnh hành động trái phép, không dám làm những việc gây phiền muộn và đau khổ cho người. Đã không gây đau khổ và phiền muộn cho người thì người cũng sẽ không gây đau khổ và phiền muộn lại cho mình. Vậy cho nên, có quy y Tam bảo, cuộc sống của chúng ta sẽ được an vui và thanh thản hơn.

Còn nói quy y Tam bảo ngày sau chắc chắn chúng ta sẽ tiến lên quả vị Chánh giác là sao? Quả vị Chánh giác tức là quả vị Phật. Người nào muốn hướng đến quả vị Phật không thể không quy y Tam bảo. Vì có quy y Tam bảo, như đã nói ở trước, là nền tảng đầu tiên hết sức căn bản để bước dần lên những nền tảng khác. Có quy y Tam bảo, chúng ta mới thọ trì được Ngũ giới, Bát quan trai giới hay Thập thiện giới, cho đến những giới cao hơn v.v... Thọ giới và giữ giới càng cao, chúng ta sẽ đi gần đến quả vị tối thượng, tức là Phật quả. Cho nên, muốn tiến lên quả vị Phật, chúng ta cần phải có giới nhiều; muốn có giới nhiều, đầu tiên chúng ta phải quy y Tam bảo.

Trong kinh Phật có kể một câu chuyện rất hay. Hồi đó, trong một khu rừng nọ, có một ông tiều phu, ngày nào cũng vào rừng đốn củi, mang về làng để đổi gạo nuôi thân. Một hôm, ông cũng tiếp tục với công việc cũ, nhưng hôm đó xui xẻo cho ông, ông đang đốn củi bỗng nghe tiếng hổ gầm, ông hoảng hốt nhìn dáo dác, chợt thấy từ xa có một con hổ đang nhìn ông với bộ mặt thèm thuồng, giận dữ. Không nghi ngờ gì nữa, ông vội leo lên một cây cao để trốn. Con hổ cũng không bỏ cuộc, nó đứng dưới gốc cây, gặm qua gặm lại mãi. Ông tiều phu trong giờ phút đó hoảng kinh tột độ, chẳng biết phải làm gì để thoát thân, bỗng dưng ông la lớn lên: "Nam mô Phật!", tức thì, con hổ nghe thấy, tự nhiên hoảng sợ, chạy thẳng một mạch vào rừng. Sau này, nhờ câu niệm Nam mô Phật lần đó mà ông đủ duyên được đức Phật cho xuất gia tu hành và cuối cùng ông cũng được chứng quả A-la-hán.

Chúng ta thấy, ông tiều phu chỉ cần một lần niệm "Nam mô Phật", sau này nhờ nhân đó gặp Phật tu hành được chứng Thánh quả, huống gì chúng ta bây giờ đã biết Tam bảo, biết quy y! Thế nên, quy y Tam bảo nghĩa là chúng ta đang gieo nhân lành để sau này gặt được quả lành. Hay nói khác hơn, biết quy y Tam bảo là chúng ta đang gieo nhân để sau này thành Phật.

Vì những lợi ích thiết thực và hết sức căn bản ấy của Tam bảo, cho nên chúng ta cần phải quy y.

Có quy y Tam bảo rồi, bước tiếp theo, chúng ta mới có thể thọ trì Ngũ giới.

II. Ngũ giới

Sau khi chúng ta quy y Tam bảo rồi, cần phải thực hành những lời Phật dạy, những giới điều để ngăn ngừa việc ác, thúc liễm thân tâm, trau dồi đạo đức, nhân cách của người Phật tử. Khi đã quy y Tam bảo, chúng ta chính thức là đệ tử của Phật. Đệ tử Phật phải học theo hạnh Phật, con phải giống cha. Phật là người đạo đức mẫu mực, chúng ta cũng phải có đạo đức. Đạo đức có từ oai nghi giới luật. Do vậy, người Phật tử phải giữ gìn năm giới cấm căn bản là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Năm giới cấm này là nền tảng xây dựng tòa nhà hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

1. Không sát sinh: Là không giết chết mạng sống chúng sinh từ loài người đến loài vật. Chẳng những không giết mà còn không được khởi ý nghĩ làm tổn hại sinh mạng. Nếu tự mình giết, hoặc bảo người giết, hoặc thấy người giết mình vui theo đều phạm vào tội sát sinh cả. Vì mạng sống quý báu hơn bất cứ thứ gì tại thế gian. Chúng ta biết đau, biết sợ khi có người đánh giết mình, mình biết chống trả, bảo vệ. Thú vật cũng tham sống, sợ chết. Chúng ta không ỷ mạnh hiếp yếu, không vì khoái khẩu mà giết ăn thịt. Người có tâm sát hại sinh mạng là thiếu lòng từ bi, không tôn trọng Phật tính. Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Người có lòng từ không thể cầm dao giết hại mạng sống, không thể đâm, chặt, cắt, mổ chúng sinh, không nỡ lòng nào nhìn thấy những súc vật vì mình bị chết đau đớn, rên la quằn quại. Giết chết mạng sống là tội ác, là gây nhân quả, oán thù đời này đời khác. Hiện đời, giết người sẽ bị quả báo tù tội, tử hình. Giết những động vật khác chắc chắn sẽ bị quả báo đền mạng trong tương lai. Người giết thú vật, thú vật chuyển kiếp làm người giết lại, khiến cho thế giới này không bao giờ chấm dứt chiến tranh.

Người không sát sinh là không gây nhân quả báo ứng đền mạng, được trường thọ, ít bệnh, lòng từ tăng trưởng, thương yêu chúng sinh như bản thân mình. Đó là giới thứ nhất người Phật tử cần phải giữ.

2. Không trộm cắp: Là không lấy những vật thuộc quyền sở hữu của người, từ cây kim cho đến vàng bạc của cải và những đồ vật quý báu. Nếu người ta không cho mà mình lấy, với bất kì hình thức nào cũng đều gọi là trộm cắp, như cân non, đong thiếu, trốn thuế, tích trữ đầu cơ, hối lộ móc ngoặc, ỷ mạnh cậy thế để thâu đoạt của người... đều là trộm cắp. Đồ vật, của cải mình tạo ra bằng mồ hôi nước mắt mình biết bảo vệ, giữ gìn để sử dụng. Đồ vật của người, người ta cũng cần có để sử dụng, không vì lợi dưỡng của bản thân mà chiếm đoạt của kẻ khác. Một khi chúng ta làm việc bất chính, gây đau khổ cho kẻ khác thì sẽ bị quả báo đau khổ. Người có tâm gian tham trộm cắp hiện đời sẽ bị người khinh chê, bị luật pháp giam cầm tù tội, đời sau làm trâu ngựa để đền trả. Nếu được tái sinh làm người thì nghèo cùng khốn khổ, cơm không đủ no, áo không đủ ấm.

Người giữ giới không trộm cắp được mọi người tin dùng, có thể giao trách nhiệm lớn, bản thân không lo sợ tù tội. Đó là giới thứ hai người Phật tử cần phải giữ.

3. Không tà dâm: Tà dâm là quan hệ tình dục bất chính. Chánh dâm là quan hệ tình dục hợp tình, hợp pháp. Như nam nữ tình nguyện sống với nhau được gia đình và xã hội công nhận là vợ chồng gọi là chánh dâm. Những hành động dụ dỗ, lừa gạt, cưỡng ép, ngoại tình, bỏ tiền mua... để thỏa mãn tình dục đều gọi là tà dâm. Đến như những người đồng giới tính quan hệ tình dục với nhau cũng là tà dâm. Tội lỗi nhất trong các thứ tà dâm là phá phạm hạnh người giữ tịnh giới, như dụ dỗ quan hệ tình dục với người xuất gia, những người đang thọ trì Bát quan trai giới. Đê tiện nhất trong các thứ tà dâm là việc quan hệ tình dục giữa cha và con. Điều này trên thực tế đã xảy ra. Hành động này tưởng như thú vật mới có, không ngờ một số người cũng hành động như thú vật. Trong gia đình, người vợ hay chồng có tâm tà dâm, sẽ gây mất niềm tin với nhau. Vợ chồng chung sống với nhau mà cứ tưởng nguyệt mơ hoa thì chắc chắn tình cảm vợ chồng sẽ rạn nứt, hạnh phúc gia đình sẽ đổ vỡ, dẫn đến ly dị, gây đau khổ cho con cái.

Để bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ hạnh phúc gia đình, đức Phật dạy người Phật tử không được tà dâm. Đó là giới thứ ba người Phật tử cần phải giữ.

4. Không nói dối: Tâm nghĩ miệng nói trái nhau gọi là nói dối. Nói dối có bốn cách:

a. Nói không đúng sự thật: Là chuyện không nói có, chuyện có nói không; thấy nói không thấy, không thấy nói thấy; nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; làm nói không làm, không làm nói làm v.v... nói sai sự thật đều là nói dối. Có những trường hợp có thể nói dối vì lời nói dối xuất phát từ lòng từ bi, đem lại lợi ích an vui cho người, không làm tổn hại cho ai. Ngoài ra không nên nói dối.

b. Nói thêu dệt: Là lời nói hoa mỹ trau chuốt làm người nghe đắm nhiễm. Nói những lời ngọt ngào để lợi dụng tình cảm, những lời kích dục, những lời dụ dỗ người sa vào con đường dâm ô, xì ke, trộm cắp v.v...

c. Nói hai chiều: Đến người này nói xấu người kia, đến người kia nói xấu người này; gây chia rẽ, đấu tranh, mất đoàn kết. Những lời nói làm cho bạn bè xa lìa, vợ chồng ly dị, anh em bất hòa, cho đến đất nước này thù oán đất nước kia, chiến tranh lẫn nhau.

d. Nói lời thô ác: Là lời nói thô lỗ, mắng nhiếc, hủy nhục, chửi tục v.v... làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi.

Người không nói dối sẽ được mọi người tin yêu, công việc làm ăn thuận lợi dễ dàng, không gây thù oán với người. Đó là giới thứ tư người Phật tử cần phải giữ.

5. Không uống rượu: Rượu là thứ làm say mê người, làm mất giống trí tuệ, làm tăng sự nóng giận, làm hư hoại cơ thể. Người uống rượu say rất dễ gây tạo các điều tội lỗi như: sát sinh, trộm cắp, tà dâm... Đến những thứ làm say mê như xì ke, ma túy... có hại thân tâm cũng không được dùng. Ngay cả đến những loại thuốc kích dục cũng không được sử dụng. Những chất gây say này làm cho người ta mất sáng suốt dẫn đến hành động tội lỗi. Biết bao tai họa xảy ra cho bản thân, cho gia đình, xã hội đều từ những chất gây say này. Phật tuy cấm uống rượu nhưng cũng có trường hợp cho phép như khi bệnh cần có rượu làm thuốc thì được dùng.

Để giữ gìn hạt giống trí tuệ, bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của bản thân, đức Phật dạy người Phật tử không được uống rượu. Đó là giới thứ năm người Phật tử cần phải giữ.

Tóm lại, năm giới cấm này là nền tảng của trí tuệ, đạo đức, tình thương và giải thoát. Người có nhận thức rõ ràng nhân quả tội báo mới giữ giới luật được, nên gọi là người có trí tuệ. Người không phạm vào các hành động trộm cắp, tà dâm, uống rượu là người có đạo đức. Người không giết hại thú vật để ăn thịt là người có tình thương. Người giữ giới luật nghiêm túc sẽ không gây tạo ác nghiệp, không bị quả báo luân hồi trong ba ác đạo, là nhân của giải thoát, vì có giới sẽ có định, có định sẽ có huệ. Giới định huệ là nền tảng của giải thoát. Như vậy, người giữ giới luật đầy đủ là người có trí tuệ, có đạo đức, có tình thương và giải thoát. Một người giữ trọn vẹn năm giới này là một người an vui hạnh phúc. Một nhà giữ trọn vẹn năm giới này là một nhà được hạnh phúc. Một xã hội giữ trọn vẹn năm giới này là một xã hội hạnh phúc. Một đất nước giữ trọn vẹn năm giới này là một đất nước hạnh phúc. Cả thế giới giữ được năm giới này thì thế giới biến thành Tịnh độ.

Tám điều cần biết của người Phật tử

Quy y Tam bảo rồi, người Phật tử phải biết một số điều cần thiết để trợ duyên cho việc tu học của mình được phước huệ đầy đủ, Sự Lý viên dung.

1. Thờ Phật

Là người Phật tử, trong nhà cần phải có một bàn thờ Phật để hằng ngày chiêm ngưỡng, quán tưởng và lễ bái. Nhìn tượng Phật, chúng ta nghĩ tưởng như Ngài đang hiện diện, nguyện noi gương Ngài để tinh tấn tu học. Bàn thờ nên bố trí nơi trang trọng nhất trong nhà. Nếu nhà rộng nên dành riêng một phòng làm nơi thờ Phật. Trên bàn thờ nên tôn trí hình tượng của đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, không nên thờ hình tượng nhiều làm giảm sự trang nghiêm. Phật nào cũng có đầy đủ đức tính vô lượng thọ, vô lượng quang và vô lượng công đức. Cho nên, thờ một Phật là thờ tất cả Phật. Thực tế, không ai nhìn thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà. Khi chúng ta nghĩ Phật nào là Phật đó, vì mỗi đức Phật đều có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Trường hợp người tu theo pháp môn Tịnh độ vì tôn kính, ngưỡng mộ hình ảnh đức Phật A Di Đà, chúng ta có thể thờ, nhưng bố trí như thế nào để khi nhìn lên bàn thờ cân đối và đẹp. Nếu thờ hình Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà thấy không cân đối, chúng ta nên thờ thêm đức Phật Dược Sư cho đủ ba vị. Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Ta bà, Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực lạc phương Tây, Phật Dược Sư giáo chủ cõi Tịnh độ phương Đông. Hoặc thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà, Di Lặc. Hình tượng thờ kích cỡ phải bằng nhau, không nên lớn nhỏ sai khác, không đặt hình trên dưới hoặc cao thấp. Bàn thờ Phật và bàn thờ ông bà phải thờ riêng. Trường hợp nhà không có chỗ, nên đặt bàn thờ Phật phía trên, bàn thờ ông bà phía dưới. Trên bàn thờ không nên để đồ vật khác ngoài bình bông, lư hương, ly nước, đèn và đĩa quả. Hằng ngày, chúng ta phải thay nước cúng, nước bình bông và lau chùi bàn thờ thật sạch, sáng tối phải thắp nhang. Mỗi lần thắp một cây hoặc nhiều lắm là ba cây. Tốt nhất nên mua nhang trầm đốt, dù một cây nhưng mùi thơm làm mình dễ chịu, tinh thần sảng khoái hơn là đốt nhiều những thứ nhang mạt cưa chỉ thêm khói bụi. Người thờ Phật cả tháng không thắp nhang, không chăm sóc lau chùi bàn thờ, không có lợi ích trong việc tu tập. Chúng ta quan tâm đến bàn thờ Phật chính là quan tâm đến việc tu tập của mình. Mỗi khi thắp nhang, chúng ta chiêm ngưỡng Phật, nguyện noi gương Ngài để tu sửa thân tâm, không phải để cầu tài cầu lộc. Mỗi khi thắp nhang chúng ta cầu nguyện đức Phật gia hộ cho mình: "Có trí tuệ nhìn thấy rõ sự vô thường, vô ngã của nhân sinh; biết phân biệt đúng sai, phải trái, thật giả để không bị ngũ dục làm mê mờ. Có đầy đủ nghị lực để vượt qua khó khăn thử thách. Có sức tinh tấn để thẳng tiến trên con đường tu học. Có tình thương vô ngã vị tha để san sẻ tinh thần vật chất cho mọi người. Có giới luật để thúc liễm thân tâm, trau dồi đạo đức, ba nghiệp trong sạch v.v...". Hằng ngày, chúng ta thắp nhang trước bàn Phật, khấn nguyện như vậy sẽ có lợi ích rất lớn trong đời sống tu tập của mình.

Người đã quy Tam bảo phải biết tôn kính tượng Phật. Khi đi chùa hoặc nơi có thờ hình tượng Phật phải cung kính xá chào, lễ bái, xem hình tượng Phật như là Ngài đang còn tại thế. Hiện nay, có rất nhiều hình Phật được in làm nhãn hiệu bao nhang, sau khi dùng xong, những người thiếu ý thức đã vất bỏ bừa bãi. Nếu gặp những bao nhang có hình Phật như vậy, chúng ta nên nhặt lấy và đem đốt. Những tượng Phật bị hư hỏng nên sửa chữa lại. Nếu không còn dùng được, chúng ta đem thả xuống sông, biển hoặc đào hầm chôn, không nên bỏ nơi bất tịnh.

2. Học giáo pháp của Phật

Người quy y Tam bảo mà không học giáo pháp của Phật thì không biết được con đường mình đi. Như người đi đến một nơi nào đó, nếu không nắm rõ địa chỉ sẽ đi lạc. Muốn hiểu rõ Phật pháp, chúng ta phải đọc tụng kinh điển hoặc nghe quý thầy giảng pháp, hoặc dự học các lớp giáo lý do chùa tổ chức. Hiện nay, những bài giảng Phật pháp được ghi âm vào băng catssette, đĩa CD, VCD, DVD chúng ta nên thỉnh về xem nghe. Điều quan trọng chúng ta cần lưu ý, người Phật tử phải biết cuộc đời của đức Phật, cũng như con phải biết tên cha, biết cuộc đời của cha, nếu không biết là một lỗi lầm lớn. Do vậy, bước đầu học Phật, chúng ta phải tìm hiểu cuộc đời của Ngài. Để hiểu biết Phật pháp có căn bản từ thấp lên cao, chúng ta nên đọc bộ Phật Học Phổ Thông do Hòa thượng Thiện Hoa biên soạn, hoặc cuốn Đức Phật Và Phật Pháp của Narada do Phạm Kim Khánh dịch. Đọc kỹ một trong hai bộ sách này, chúng ta có một số kiến thức Phật học cơ bản, tạm đủ làm hành trang tu tập. Mỗi ngày, chúng ta cố gắng để thời gian đọc kinh sách hoặc nghe băng giảng như một thói quen, như là bữa ăn hằng ngày. Nếu không đọc cảm thấy thiếu vắng, như tới bữa cơm không ăn cảm thấy đói vậy. Học Phật pháp giúp chúng ta sáng suốt thấy rõ thật tướng của vũ trụ nhân sinh. Học Phật pháp giúp chúng ta nhàm chán ngũ dục, xa lìa trần cấu. Học Phật pháp giúp chúng ta thêm nghị lực để vượt khó khăn thử thách. Học Phật pháp giúp chúng ta tinh tấn đạt đến chỗ chân thiện mỹ, rốt ráo thành Phật. Học Phật pháp giúp chúng ta mở rộng lòng thương, vô ngã vị tha. Học Phật pháp giúp chúng ta có đạo đức, nhân cách cao thượng. Mỗi lần học là mỗi lần chúng ta thêm sáng trí, thêm tinh tấn, thêm vững niềm tin trên con đường tu học của mình. Do vậy, chúng ta phải thường xuyên trau dồi Phật pháp, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ sẽ rộng lớn như biển.

3. Thực hành Phật pháp

Giáo pháp của Phật dù có tốt đẹp cao siêu đến đâu, nếu chúng ta không thực hành sẽ không được lợi ích thiết thực. Nếu quy y Tam bảo để có được pháp danh thôi thì chưa đủ. Có người đến chùa quy y một lần và khi thầy chết đến một lần nữa là coi như xong bổn phận. Theo đúng nghĩa quy y Tam bảo là nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng để tu học, không phải quy y để lấy pháp danh, để Phật phù hộ hoặc để mọi người biết mình có quy y. Sau khi quy y Tam bảo, người nam gọi là Ưu Bà Tắc, người nữ gọi là Ưu Bà Di. Ưu Bà Tắc nghĩa là cận sự nam, người nam thân cận Tam bảo để học pháp, tu hành và phụng sự. Ưu Bà Di nghĩa là cận sự nữ, người nữ thân cận Tam bảo để học pháp, tu hành và phụng sự. Nếu vì hoàn cảnh xa chùa hoặc vì công việc làm ăn, chúng ta cũng phải cố gắng ít nhất mỗi tháng một lần về chùa sám hối, nghe giảng hoặc tu tập. Nếu vì quá bận, một năm phải về chùa vào những ngày lễ lớn như Phật đản 15/04, Vu Lan 15/07 hoặc ngày tết cổ truyền để dự lễ, thăm viếng Bổn sư, học Phật pháp nhằm thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, tri ân báo ân của người con Phật. Nếu vì đường xá xa xôi cách trở không về chùa Bổn sư được thì có thể đến ngôi chùa gần nhà nhất để dự những ngày đại lễ.

Pháp của Phật vô lượng vô biên, chúng ta cần phải học hiểu và chọn cho mình một pháp môn thích hợp. Căn tính chúng sinh có cao thấp, trí, ngu, nhanh, chậm... Phật pháp cũng có nhiều môn nhằm thích hợp với căn tính của từng người tu tập. Ví như, bệnh có nhiều thì thuốc cũng có nhiều để đối trị. Thuốc nào cũng để chữa khỏi bệnh, đem lại sức khỏe cho người. Pháp môn của Phật tuy nhiều nhưng cũng chỉ có một mục đích đem đến an lạc giải thoát cho chúng sinh. Học pháp thì nhiều nhưng tu tập chỉ nên chọn một pháp tu thích hợp với căn cơ của mình thì mới có kết quả. Như khi chúng ta học tiểu học, trung học thì học tổng hợp các môn, nhưng khi vào đại học phải học chuyên môn mới có thể ứng dụng trong đời sống. Người tu Tịnh độ tụng kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ. Người tu thiền tụng kinh Kim Cang, Bát Nhã, Viên Giác, Lăng Già Tâm Ấn. Người tu Pháp Hoa tụng kinh Pháp Hoa... Tùy theo chúng ta tu pháp môn nào nên chuyên tụng kinh pháp môn đó sẽ có kết quả hơn. Mỗi ngày, sáng hoặc tối nên công phu tụng kinh, niệm Phật hoặc ngồi thiền. Cố gắng giữ thời khóa cho đều đặn. Có một câu Phật ngôn căn bản trong kinh Pháp Cú mà bất cứ người học Phật tu theo pháp môn nào cũng phải thực hành, là:

"Chớ làm các việc ác,

Hãy làm các điều lành,

Giữ tâm ý trong sạch,

Đó là lời Phật dạy".

Trong khi tu tập, chúng ta không nên khởi tâm phân biệt khen pháp mình tu, chê pháp người khác tu, không nên vì quyền lợi cá nhân chê bai đả kích lẫn nhau. Tự mình chuốc họa, lại tiếp tay làm cho Phật pháp suy yếu.

4. Giữ gìn oai nghi

Phật tử là con Phật, con phải giống cha, chúng ta phải học tập tác phong, đạo đức của Phật. Khi chúng ta đến trường học, đầu tiên thầy cô giáo dạy chúng ta lễ phép trước rồi sau mới dạy chữ. Cho nên mới có câu: "Tiên học lễ, hậu học văn". Người vào chùa xuất gia, năm năm đầu học oai nghi giới luật, năm năm sau mới học kinh, có thể nói là: "Tiên học luật, hậu học kinh". Chính oai nghi giới luật giúp chúng ta thúc liễm thân tâm, hoàn thiện nhân cách. Do tầm quan trọng đó cho nên người Phật tử phải học luật nghi. Những oai nghi cơ bản cần biết của người Phật tử là: chắp tay, xá chào, lễ lạy, đi, đứng, nằm, ngồi, nói, ăn...

- Chắp tay: Chắp hai bàn tay mười ngón bằng nhau, khít lại, không so le, không bọng giữa, không xòe mười ngón ra. Vị trí chắp cổ bàn tay để trên chỗ lõm trước ngực, mười ngón tay hướng lên, không nên để cao tới cằm hoặc thấp ngang bụng, không quay bàn tay chìa ra phía trước.

- Xá chào: Khi gặp quý thầy hoặc bạn đồng tu chúng ta chắp tay xá, đầu mình cúi xuống, kèm theo câu A Di Đà Phật.

- Lễ lạy: Khi lạy Phật hoặc lạy chư Tăng, chúng ta đứng ngay thẳng, hai bàn chân khép hình chữ V, chắp hai tay đưa lên trán rồi lạy xuống. Hai bàn tay úp lại, khi đầu chạm đất ngửa hai bàn tay ra, đầu đặt giữa hai bàn tay, quay mười ngón về phía trước, hai bàn chân duỗi ra, mông đặt xuống sát gót chân (lưu ý: không để mông quá cao, mất thẩm mỹ). Hai tay, hai chân và đầu sát đất. Khi đứng dậy úp hai bàn tay lại, chống người đứng lên.

Người Phật tử khi đến chùa, lúc ra về phải chào thầy trụ trì, phải vào chánh điện lễ Phật. Đi đâu gặp tượng Phật hay gặp chư Tăng chúng ta phải cung kính xá chào.

Đi, đứng, ngồi, nằm chúng ta luôn ý tứ, giữ thân mình nghiêm chỉnh, khoan thai, nhẹ nhàng và đẹp. Như khi ngồi giữ lưng thẳng, không lắc chân, rung đùi; không ngồi chồm hổm, không ngồi chống chân lên ghế, những thế ngồi này không được đẹp. Khi nói chuyện nên nói nhỏ nhẹ, không nên nói cười lớn tiếng nhất là lúc lên chùa hoặc nơi giảng pháp, nơi trai đường, nơi ngủ nghỉ chúng ta phải giữ im lặng. Khi đi dự lễ, đi chiêm bái các Thánh tích, chúng ta phải giữ gìn oai nghi của người Phật tử, không nên ồn ào chen lấn, không ăn uống thô tháo, xả rác bừa bãi, không nên đùa giỡn nói cười lớn tiếng. Khi đến chùa, giới nữ phải trang phục kín đáo, không mặc quần áo quá mỏng, màu sắc lòe loẹt, không mặc áo sát nách, hở cổ, hở bụng, zuýp ngắn. Nam không mặc áo thun, quần ngắn. Cần có áo tràng để khi đến chùa mặc cho trang nghiêm. Không nên mặc áo tràng vào nhà vệ sinh. Lúc lên chánh điện lễ Phật, trên bàn thờ, lư hương có nhang rồi, chúng ta không nên thắp thêm, tâm thành Phật chứng không nhất thiết phải thắp nhang. Không được tự tay đánh chuông, mõ, trống, nếu chưa được phép của quý thầy. Khi cúng dường tiền hoặc phẩm vật đến chư Tăng, chúng ta nên đặt trên đĩa để trên bàn, không nên trao tay hoặc nhét vào túi. (Nên tìm xem đĩa VCD, DVD Oai Nghi Của Người Tu Phật Thất hướng dẫn kỹ hơn. Đĩa do chùa Hoằng Pháp sản xuất).

Đó là một số oai nghi mà người Phật tử cần phải biết. Hằng ngày, chúng ta giữ gìn oai nghi là chúng ta sống có chánh niệm, tỉnh giác. Thực hành thường xuyên thì đạo đức nhân cách chúng ta sẽ hoàn thiện, cao thượng. Được như vậy, mới thật đúng nghĩa đệ tử Phật, noi theo gương hạnh Phật.

5. Ăn chay

Ăn chay là ăn các loại thực vật như rau, củ, quả, đậu... Người Phật tử vì lòng từ bi không nỡ ăn thịt chúng sinh. Trong vô lượng kiếp đến nay, ta và chúng sinh có mối quan hệ thân thiết với nhau. Ăn thịt chúng sinh cũng có nghĩa là ăn thịt người thân của mình. Chúng ta ăn để sống, không phải sống để ăn. Các loài thảo mộc cũng có đầy đủ chất dinh dưỡng nuôi sống thân thể chúng ta. Điển hình những vị xuất gia ở chùa (Bắc tông) suốt đời ăn chay mà vẫn khỏe mạnh hồng hào. Có người cho rằng ăn chay thiếu máu, ốm yếu xanh xao. Chúng ta có thể đặt lại câu hỏi: "Người không ăn chay có ốm yếu xanh xao không?". Thưa vẫn có. Vậy không thể kết luận người ăn chay là thiếu máu, là ốm yếu xanh xao. Có chăng là do chúng ta không biết ăn, cứ ăn rau luộc chấm nước tương thì làm sao không ốm yếu! Nếu chúng ta ăn đầy đủ chất dinh dưỡng thì vẫn mạnh khỏe hồng hào. Có người cho rằng ăn chay là mất sức, sinh bệnh. Vậy người không ăn chay có mất sức sinh bệnh không? Thưa vẫn có. Không tin chúng ta đến bệnh viện hỏi xem, người không ăn chay hay người ăn chay nằm viện nhiều. Bệnh là do nghiệp của mỗi người, không phải là do ăn chay hay không ăn chay. Theo luật nhân quả, nếu bạn giết hại chúng sinh, làm chúng đau khổ thì quả báo bạn sẽ bị đau khổ, bệnh tật, giảm thọ và đền mạng. Nhân nào quả nấy rất rõ ràng.

Ăn chay có những lợi ích như:

- Nuôi dưỡng lòng từ bi, xem mạng sống của chúng sinh như mạng sống của mình, cũng có đầy đủ Phật tính. Ăn chay là thực hiện giới sát sinh một cách tốt nhất.

- Gián tiếp khuyên người không sát sinh. Chúng ta ăn thịt thì mới có người giết thịt để bán. Nếu chúng ta ăn chay, sẽ không có người giết thịt bán.

- Tránh nhiễm độc từ thú vật. Hiện tại, thú vật có rất nhiều thứ bệnh, chúng ta ăn vào sẽ hại đến sức khỏe. Hơn nữa, mỗi khi thú vật chết sẽ khởi tâm sân hận, chúng ta ăn vào cũng ảnh hưởng đến tâm sân hận. Thú vật có nhiều loại nặng về dâm dục, chúng ta ăn vào cũng ảnh hưởng đến dâm dục.

- Góp phần hòa bình thế giới. Nguyên nhân sâu xa của chiến tranh là do nghiệp sát của chúng sinh từ vô thỉ kiếp đến nay. Chúng ta giết thú vật, mối thù này sẽ còn mãi mãi, khi đủ duyên gặp nhau sẽ chém giết lẫn nhau. Muốn chấm dứt chiến tranh, chúng ta phải chấm dứt sát sinh. Ăn chay là cách tốt nhất giúp chúng ta không sát sinh, góp phần hữu hiệu vào nền hòa bình thế giới. Chúng ta nên tập ăn chay một tháng hai ngày rồi bốn ngày, mười ngày, lâu ngày quen dần ăn trường chay. Nên cữ các thứ hôi nồng kích thích dục vọng như hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu.

6. Hoằng pháp lợi sinh

Người Phật tử hiểu biết và hưởng sự lợi ích an vui của việc tu học Phật pháp, phải có lòng thương đem truyền bá cho mọi người cùng hiểu, cùng hưởng lợi ích. Mình có một ngọn đèn sáng, đem mồi cho nhiều ngọn đèn khác cùng sáng thì ngọn đèn của mình càng sáng hơn, cuộc đời này sẽ bớt đi đêm tối. Còn rất nhiều người chưa được ánh sáng Phật pháp soi rọi, họ vẫn sống trong đêm tối vô minh, chưa tin nhân quả, chưa biết tội phước, bị tham sân si sai sử tạo biết bao nhiêu đau khổ cho mình và người. Nhiều người làm ác mà ta có sống tốt cũng không yên với họ được, vì cuộc đời này có mối tương quan mật thiết với nhau. Như thân thể của chúng ta có một cái mụn nhọt hoặc khối u, không chỉ đau chỗ đó mà nó ảnh hưởng đến toàn thân. Một xã hội nhiều người xấu ta cũng không yên. Do vậy, chúng ta phải có trách nhiệm đem Phật pháp đến với mọi người. Họ sống có an vui hạnh phúc thì chúng ta cũng được an vui hạnh phúc. Có rất nhiều cách để đem Phật pháp đến cho mọi người, như:

- Bản thân mình sống có đạo đức, an vui; lời nói từ ái, đi đứng nhẹ nhàng khoan thai, tỏa sự bình an tươi mát khiến người nhìn thấy cảm mến tu học theo.

- Khuyến hóa cha mẹ, vợ chồng, con cháu tin nhân quả, tội phước, hiểu biết Phật pháp, quy y Tam bảo. Tạo điều kiện thuận lợi cho họ đến chùa hoặc tiếp cận Phật pháp qua băng giảng, sách vở, đĩa hình...

- Trong cuộc sống ai cũng có bạn, chúng ta tìm cách đem Phật pháp đến với họ. Phải có tình thương của người mẹ đối với con nhỏ. Hình ảnh người mẹ đút cơm cho con ăn, con mải mê ham chơi không chịu ăn, mẹ phải đi theo năn nỉ, dụ dỗ con ăn. Mặc dù con ăn con no chứ không phải mẹ no, nhưng con có no thì mẹ mới yên. Chúng ta phải kiên nhẫn đem Phật pháp đến với mọi người, như người mẹ đút cơm cho con. Phải có tình thương như vậy mới có thể hoằng truyền Phật pháp được.

- Góp tiền ấn tống kinh sách, băng giảng, đĩa hình đem tặng cho người chưa hiểu Phật pháp. Phát nguyện đem kinh sách đến tặng cho người ở vùng sâu, vùng xa, những nơi biên địa cuộc sống người dân còn rất nhiều khó khăn về kinh tế. Cả đời họ chỉ biết chén cơm manh áo, không biết gì đến Phật pháp, chúng ta cần phải quan tâm đến những người này nhiều hơn.

- Phát nguyện khuyến hóa, hướng dẫn mười người tin hiểu, thực hành Phật pháp. Nên phát nguyện như vậy để làm động lực giúp chúng ta tinh tấn hoằng pháp lợi sinh. Nguyện một đời mình ít nhất cũng phải khuyến hóa được mười người biết tu học Phật pháp. Nếu ai cũng phát nguyện như vậy thì Phật pháp sẽ được phổ biến đến mọi người. Ai cũng tin nhân quả tội phước, biết tu hành thì cuộc đời này sẽ tốt đẹp biết bao.

7. Làm điều thiện

Phật tử ngoài công phu tu hành, trau dồi trí tuệ cần phải tu phước. Đức Phật là bậc đã tu hành đầy đủ phước huệ nên gọi là bậc Lưỡng Túc Tôn. Chúng ta muốn thành tựu Phật quả cũng phải đi theo con đường tu tập của Ngài. Trên thế gian này, con người có sự chênh lệch nhau về trí tuệ và thân tướng, như kẻ xấu người đẹp, kẻ sang người hèn, kẻ khổ đau người hạnh phúc, kẻ nghèo người giàu, kẻ ngu người trí v.v... đều do quả báo của mỗi người. Chúng ta muốn hiện đời và đời sau được hưởng quả báo tốt đẹp thì phải làm điều thiện. Thông thường, chúng ta nghĩ cạn cợt đem của cải cho người là mất. Thật sự, cho chính là còn, ăn xài mới là hết. Làm phước sẽ có phước, hưởng phước sẽ hết phước.

"Cho là còn, có mất đâu

Gieo nhân hái quả cũng thâu về mình".

Khi chúng ta gieo một hạt lúa xuống đất, hạt giống sẽ hủy hoại để nảy mầm lên cây, sau đó ra bông kết hạt. Một hạt lúa mất đi, lên cây sinh ra hàng trăm hạt lúa khác. Nếu chúng ta gieo nhiều hạt thì kết quả sẽ thu được nhiều lúa hơn. Việc thiện dù nhỏ chúng ta cũng phải cố gắng làm. Như giọt nước nhỏ giọt lâu ngày cũng đầy lu. Những việc có lợi cho mình và người thì nên làm, còn những việc có lợi cho mình mà hại người thì không làm. Việc ác cũng thế, dù nhỏ chúng ta cũng không nên làm. Ví như, lỗ nhỏ trên thuyền nếu không kịp thời bịt kín sẽ nhận chìm cả con thuyền.

Tất cả của cải vật chất ở thế gian này, chúng ta sẽ bỏ lại hết khi nhắm mắt tắt hơi, chỉ đem theo mình tội và phước. Chúng ta phải có cái nhìn sáng suốt để chuẩn bị tư lương cho hiện tại và tương lai của mình tốt đẹp hơn. Đem của cải bố thí, giúp đỡ những người khốn khó là cách giữ của cải khôn khéo nhất, là gởi vào ngân hàng "nhân quả" bảo đảm nhất. Vua Hacsa ở Ấn Độ có câu nói rất hay: "Ngày xưa, khi góp nhặt những của cải này, trẫm lúc nào cũng áy náy, e sợ phải tìm cách cất giấu vào một nơi nào thật vững chãi kín đáo. Ngày nay, do bố thí, trẫm đã có thể gửi gắm tất cả những thứ đó trên cánh đồng phước lành và trẫm coi như của cải ấy được giữ gìn mãi mãi". Hơn nữa, người học Phật vì lòng từ bi thấy người khổ cũng như mình khổ, phải tìm cách cứu giúp họ. Làm sao cho mọi người bớt khổ, mọi người được an vui hạnh phúc, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi là bản hoài của chư Phật và cũng là của người con Phật chúng ta. Mạng sống ngắn ngủi, của cải là giả tạm, chúng ta phải biết tận dụng thời gian, của cải để làm lợi ích cho người theo tinh thần vô ngã vị tha mà đức Phật đã dạy. Biết san sẻ của cải vật chất cho người khốn khó chính là làm vơi đi tính ích kỷ, trừ diệt tâm keo kiệt bỏn sẻn, mở rộng lòng thương.

8. Không quy y ngoại đạo, tà giáo

Để trở thành người Phật tử, chúng ta phát nguyện trước Tam bảo: "Chúng con tên là:............. xin suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng". Khi quy y Tam bảo rồi, chúng ta không được quy y thiên thần, vì những vị này chưa ra khỏi Tam giới. Đức Phật đã đoạn tận lậu hoặc, ra khỏi Tam giới, phước trí viên mãn, đầy đủ pháp để chúng ta học tập, nương tựa tu hành. Ví như, chúng ta học tập dưới sự hướng dẫn của giáo sư tiến sĩ thì vững chắc hơn là thầy giáo cấp một mới ra trường. Đức Phật nói: "Những điều ta dạy chỉ là nắm lá trong tay, những điều ta biết như lá trong rừng". Tam tạng kinh điển của Phật đã chứng minh trí tuệ của Ngài là siêu việt, là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tam tạng kinh điển chỉ là nắm lá trong tay Phật, mà chúng ta học cả đời chưa hết. Chúng ta muốn học làm người, có pháp dạy làm người gọi là Nhân thừa. Chúng ta muốn học làm trời có pháp dạy làm trời gọi là Thiên thừa. Chúng ta muốn học làm Thanh văn có pháp dạy làm Thanh văn gọi là Thanh văn thừa. Chúng ta muốn học làm Duyên giác có pháp dạy làm Duyên giác gọi là Duyên giác thừa. Chúng ta muốn học làm Bồ tát có pháp dạy làm Bồ tát gọi là Bồ tát thừa. Chúng ta muốn học làm Phật có pháp dạy làm Phật gọi là Phật thừa. Phật pháp có đầy đủ như vậy, chúng ta học cả đời chưa hết, không cần phải nương tựa thiên thần để học. Người Phật tử phải có niềm tin chân chính nơi pháp của đức Phật, không nên tin mê. Đức Phật khuyên chúng ta hiểu thấu đáo vấn đề rồi hãy tin, ngay như những lời Ngài dạy, Ngài cũng khuyên chúng ta nên suy nghĩ kĩ, nếu khi thực hành có lợi ích an lạc cho mình thì nên tin. Khi chúng ta đã tin hiểu một cách vững chắc Phật pháp rồi thì không nên để những tà thuyết làm lung lay. Như nghe nói ông nọ bà kia linh thiêng cầu gì cũng được, chúng ta đến van xin thọ giáo để cầu tài cầu lộc.

Trên thế giới, từ xưa đến nay có một vài Tôn giáo dùng vũ lực cưỡng ép hoặc tình cảm, tiền bạc dụ dỗ người theo đạo. Người Phật tử phải nên cảnh giác với những Tôn giáo này để không bị dụ dỗ lừa gạt. Bởi lẽ, Tôn giáo mà dùng thủ đoạn để mua chuộc lôi kéo người của Tôn giáo khác theo mình đều có ý đồ không tốt. Ví như, người câu cá móc con tép ở lưỡi câu để nhử bắt những con cá lớn. Họ bỏ miếng mồi tiền bạc ra dụ dỗ chúng ta theo Tôn giáo họ, khi cá dính câu rồi thì sinh mạng chúng ta nằm trong tay họ, trở thành nô lệ, thành con cừu non để họ chăn dắt, sai sử. Có những người vì mê tiền, mê tình đã phản bội lại lời phát nguyện quy y Tam bảo, phản bội lại lý tưởng mình tôn thờ, đánh mất lương tâm con người, dẹp bỏ bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà Tổ tiên để thờ một vị "thần" nào đó. Vì hưởng thụ tiền bạc của họ nên phải nghe lời, biến mình thành kẻ mất nhân tính. Nhân danh đấng giáo chủ, họ xúi dục chúng ta đi phá hoại, chém giết để truyền đạo, để mở mang nước "trời". Một vài Tôn giáo cuồng tín trên thế giới đã từng làm việc này. Chúng ta phải hết sức tỉnh thức để không bị tiền làm mê mờ lý trí. Hiện nay, người trí thức theo Phật giáo ngày một nhiều, vì đạo Phật là đạo trí tuệ, khoa học không phải đạo mê tín. Người có lý trí, lương tâm không thể bỏ Phật pháp, chỉ có người mê tiền, mê tình mới bỏ Phật pháp mà thôi.

Người quy y Tam bảo rồi không quy y đồ chúng ngoại đạo. Chúng ta phải giữ vững lời nguyện này dù chết cũng không thay đổi. Không vì tiền vì tình mà bỏ Phật pháp, bán rẻ lương tâm. Có những gia đình cha mẹ quy y Tam bảo, tin sâu Phật pháp nhưng con lại bị tình cảm lôi cuốn theo ngoại đạo. Để tránh tình trạng đau lòng này xảy ra, bậc làm cha mẹ phải có bổn phận hướng dẫn con am hiểu Phật pháp, cảnh giác những sách vở của ngoại đạo tà giáo, uốn nắn kịp thời mối quan hệ tình cảm của con với người ngoại đạo để khỏi hối hận về sau. Vì một vài Tôn giáo đưa ra luật lệ khắt khe: Ai lấy vợ lấy chồng phải theo Tôn giáo họ. Cho nên, để tránh tình trạng cha mẹ, con cái phải chia cắt tình cảm tín ngưỡng Tôn giáo, cha mẹ phải quan tâm giáo dục con theo đúng chánh đạo, đừng để con mình bị tình, tiền làm lầm đường lạc lối, theo đồ chúng ngoại đạo.

Tóm lại:

- Người quy y Tam bảo phải thờ Phật để hằng ngày chiêm ngưỡng, quán tưởng, lễ bái, nguyện noi theo gương hạnh của Ngài để tinh tấn tu hành.

- Học Phật pháp để biết đường lối tu tập, có kiến giải chân chính, khai mở trí tuệ.

- Thực hành lời dạy của Phật để được an vui giải thoát.

- Giữ gìn oai nghi để thúc liễm thân tâm, tịnh hóa ba nghiệp, nhân cách đạo đức cao thượng.

- Ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi, tránh quả báo luân hồi đền mạng.

- Nguyện đem ánh sáng Phật pháp đến với mọi người nhất là những người ở vùng sâu vùng xa.

- Nỗ lực làm việc thiện, tô bồi phước đức cho mình, diệt trừ tâm ích kỷ, bỏn xẻn, mở rộng lòng thương.

- Kiên trì giữ vững lời nguyện quy y Tam bảo, không để bị tiền bạc, tình cảm làm mê mờ lý trí, theo đồ chúng ngoại đạo.

Người quy y Tam bảo phải làm cho thân tâm của mình ngày một thêm tốt, thêm đẹp, thêm mới, thêm an vui giải thoát.

- Khi quy y Tam bảo, chúng ta từ bỏ các thói hư tật xấu như uống rượu, cờ bạc, nói dối... để trở thành người tốt.

- Giữ gìn oai nghi giới luật. Thân không sát sinh, trộm cắp, tà dâm; miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói hai chiều, nói lời ác; ý không tham, sân, si. Ba nghiệp trong sạch là làm cho mình thêm đẹp.

- Luôn trau dồi trí tuệ bằng cách thường xuyên đọc tụng kinh sách, nghe quý thầy giảng Phật pháp để mỗi ngày mình hiểu biết thêm nhiều điều hay điều mới.

- Hiểu rõ được sự vô thường của thế gian, sự giả tạm của thân người, không chấp trước, ít muốn biết đủ, vì mọi người phục vụ, sống một đời có ý nghĩa, tâm ta ngày một an vui giải thoát.

Được vậy, mới thật sự là người quy y Tam bảo.

Giải nghi

1. Hỏi: Xin cho biết Bổn sư và Y chỉ sư khác nhau thế nào?

Đáp: Bổn sư là vị thầy đứng chủ lễ quy y Tam bảo và đặt pháp danh cho mình. Y chỉ sư là vị thầy mà chúng ta đến nương tựa học Phật pháp. Sau khi quy y với Bổn sư, chúng ta có thể đến nương tựa một vị thầy nào đó để cầu học Phật pháp, vị thầy đó gọi là Y chỉ sư. Chúng ta chỉ đến cầu pháp không cần phải quy y lại.

2. Hỏi: Pháp danh là gì?

Đáp: Khi chúng ta mới sinh ra, cha mẹ đặt tên cho mình, tên đó gọi là thế danh hay tục danh. Khi chúng ta quy y Tam bảo, chính thức bước vào cửa Phật, vị Bổn sư đặt cho mình cái tên đạo gọi là pháp danh.

3. Hỏi: Khi đến chùa gọi vị Tăng là thầy, đến Tịnh xá gọi là Sư. Thầy và Sư danh xưng có gì khác?

Đáp: Thầy và Sư danh xưng giống nhau. Sư nguyên là chữ Hán, dịch ra chữ Việt là thầy. Chư Tăng Nam tông và hệ phái khất sĩ thường dùng chữ Sư; chư Tăng Bắc tông thường gọi là thầy.

4. Hỏi: Vì sao gọi Bắc tông và Nam tông?

Đáp: Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt tại Ấn Độ, giáo pháp của Ngài truyền ra nước ngoài chia thành hai dòng phái chính. Dòng phái truyền qua Trung Á đến Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản... gọi là Bắc truyền hay Bắc tông, thuộc Phật giáo phát triển. Dòng phái truyền đến vùng Đông Nam Á bao gồm các nước Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Lào... gọi là Nam truyền hay Nam tông, thuộc Phật giáo Nguyên thủy. Tại Việt Nam chúng ta, có cả hai dòng phái Nam tông và Bắc tông.

5. Hỏi: Cùng tu học Phật pháp, vì sao quý thầy Bắc tông ăn chay, quý Sư Nam tông không ăn chay?

Đáp: Quý Sư Nam tông theo truyền thống khất thực thời đức Phật còn tại thế, dân chúng dâng cúng thức ăn gì thì nhận, không phân biệt chay hay mặn. Nếu dân chúng cúng chay, quý Sư cũng vẫn ăn chay. Quý thầy Bắc tông không đi khất thực, ở tại chùa, có nhà bếp tự nấu thức ăn nên việc ăn chay thuận lợi hơn quý Sư Nam tông.

6. Hỏi: Làm sao phân biệt Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng?

Đáp: Một người xuất gia tu học Phật pháp, khi thọ giới Tỳ-kheo gọi là Đại đức. Theo quy định của hiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, vị Đại đức tu học thời gian 25 năm sau khi thọ Tỳ-kheo, tuổi đời phải từ 45, có đạo hạnh, có công đức với đạo pháp được Giáo hội tấn phong giáo phẩm Thượng tọa. Thượng tọa tương đương với Ni sư bên Ni giới. Vị Thượng tọa tu học thêm 15 năm tuổi đạo nữa (cộng với 25 năm là 40 năm), tuổi đời từ 60, có đạo hạnh, có công đức với đạo pháp, được Giáo hội tấn phong Hòa thượng. Hòa thượng tương đương với Ni trưởng bên Ni giới. Giáo hội Phật giáo Việt Nam chúng ta chưa có dấu hiệu nào để phân biệt ai là Thượng tọa, Hòa thượng. Chúng ta chỉ biết qua cách gọi của chư tôn đức với nhau.

7. Hỏi: Người xuất gia thường gọi là Sa-di hoặc Tỳ-kheo, xin cho biết ý nghĩa?

Đáp: Sa-di là người nam xuất gia thọ 10 giới. Sa-di có ba nghĩa: tức từ, cần sách và cầu tịch. Tức từ là dứt ác làm lành, cần sách là siêng năng tinh tấn tu hành, cầu tịch là dứt trừ phiền não cầu Niết-bàn.

Tỳ-kheo là người xuất gia thọ 250 giới, gọi là Cụ túc giới. Tỳ-kheo có ba nghĩa: khất sĩ, bố ma và phá ác. Khất sĩ là trên cầu giáo pháp của Phật để tu dưỡng pháp thân huệ mạng, dưới xin món ăn của người để nuôi dưỡng thân tứ đại; bố ma là làm cho ma vương khiếp sợ; phá ác là đoạn trừ các phiền não.

8. Hỏi: Nghe quý Phật tử thường gọi nhau là đạo hữu hoặc liên hữu, xin cho biết sự sai khác của hai từ này?

Đáp: Đạo hữu là bạn đạo, cùng nhau tu học Phật pháp. Từ này được dùng chung cho Phật tử khi gọi nhau. Liên hữu là bạn sen, từ này thường chỉ để gọi những người cùng tu theo pháp môn Tịnh độ. Người tu Tịnh độ được sinh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà từ trong hoa sen, nên gọi là bạn sen.

9. Hỏi: Xin cho biết Bồ tát và bố tát khác nhau hay gọi lầm Bồ tát thành bố tát?

Đáp: Bồ tát và bố tát khác nhau, không phải do gọi lầm. Bồ tát là chỉ cho người tu hạnh Bồ tát; bố tát chỉ cho việc đọc tụng giới luật Phật.

Bồ tát dịch là giác hữu tình. Người tu hành trên cầu Phật đạo bằng trí tuệ, dưới hóa độ chúng sinh bằng tâm từ bi. Hợp lại mà nói trên cầu Phật đạo để tự giác, dưới hóa độ chúng sinh để giác tha, đây là ý nghĩa của Bồ tát.

Bố tát dịch là thuyết giới, trưởng tịnh... pháp mà cứ mỗi nửa tháng vào ngày 14 hoặc 15 và 29 hoặc 30 các Tỳ-kheo nhóm họp lại một chỗ để tụng giới, thỉnh một vị Tỳ-kheo tụng giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa để xét lại hành vi của các Tỳ-kheo trong nửa tháng qua xem có đúng giới bổn hay không. Nếu có ai phạm giới phải sám hối trước chúng Tăng. Mỗi nửa tháng tụng giới như vầy giúp các Tỳ-kheo an trụ lâu dài trong tịnh giới, nuôi lớn pháp lành, thêm nhiều công đức gọi là bố tát.

10. Hỏi: Công phu, công quả khác nhau như thế nào?

Đáp: Công phu là sự nỗ lực tu tập như: tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật, quán tưởng, chánh niệm tỉnh giác... thuộc về tu tuệ.

Công quả là đem sức mình giúp đỡ những việc trong chùa như quét dọn, lau chùi chánh điện, thay nước cắm hoa, trồng cây, nấu cơm... thuộc về tu phước.

11. Hỏi: Con là một Phật tử thuần thành, gia đình con có truyền thống Phật giáo đều quy kính Tam bảo. Con thường xuyên đến chùa tụng kinh, học hỏi giáo lý. Vì hoàn cảnh riêng nên phải lên thành phố học tập và làm việc. Trong thời gian này, con đã yêu một người con gái, cô ấy cũng thương con và chúng con có ý định tiến đến hôn nhân. Tiếc rằng, người yêu của con bắt buộc con phải theo Tôn giáo của cô ấy và nói rằng đó là điều kiện để đi đến hôn nhân. Con không muốn mất cô ấy, khuyên cô ấy theo con thì con không có khả năng mà bỏ đạo thì con không thể. Xin tổ tư vấn cho con một lời khuyên.

(Trần Văn Trung, Pháp danh Nguyên Sáng, Linh Chiểu, Thủ Đức, TP. HCM).

Đáp: Bạn Nguyên Sáng thân mến!

Một trong những yếu tố cơ bản để cấu thành cuộc hôn nhân bền vững, ngoài tình yêu là hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Trong hôn nhân, cố nhiên tình yêu vốn cực kỳ quan trọng, song chỉ có tình yêu đơn thuần thì chưa đủ. Một tình yêu đúng nghĩa phải vượt lên tất cả những chướng ngại bằng bao dung, vị tha và đặc biệt là sự tôn trọng.

Có thể các bạn thương nhau nhưng chưa thực sự đạt đến độ chín của tình yêu chân thật. Trở ngại lớn nhất giữa các bạn bây giờ là niềm tin Tôn giáo và tín ngưỡng lại thuộc về phạm trù thiêng liêng, vốn bất khả xâm phạm. Theo như tâm sự của bạn trong thư thì chính bản thân bạn cũng như người yêu của bạn cả hai đều có lập trường kiên định trong việc bảo vệ niềm tin của mình.

Giữ vững niềm tin là điều tốt song éo le ở chỗ là Tôn giáo hiện hữu trên đời để hướng thiện con người, giúp con người ngày một thăng hoa và tiến bộ trên phương diện đạo đức và tâm linh, trong đó có vấn đề bảo vệ và xây dựng tình yêu chứ không phải làm chướng ngại, ngăn cách tình yêu. Vấn đề đặt ra ở đây là người yêu của bạn "thách cưới" bằng việc bắt buộc bạn phải từ bỏ Tôn giáo của mình để theo Tôn giáo của cô ấy. Nếu không thỏa mãn yêu cầu này thì hôn nhân chỉ là chuyện trong mơ. Chính yêu cầu này bộc lộ một điều rằng cô ấy quá ích kỷ, hẹp hòi; bảo vệ niềm tin một cách thiển cận, thiếu tôn trọng và yêu Tôn giáo của mình hơn yêu bạn.

Một khi lập trường hôn nhân của người yêu bạn nghiêng nặng về Tôn giáo hơn là tình yêu, đồng thời ra điều kiện cho bạn muốn đi đến hôn nhân với cô ấy thì phải bỏ đạo, chính bạn cần phải sáng suốt cân nhắc và kiểm định lại quyết định hôn nhân của mình. Bởi lẽ, điều kiện trên đã cho thấy người yêu của bạn sẵn sàng hy sinh tình yêu để bảo vệ Tôn giáo, đồng thời lộ rõ sự thiếu tôn trọng, xúc phạm đến niềm tin Tôn giáo thiêng liêng của bạn.

Còn đối với bạn, dù yêu thương cô ấy và có dự định hôn nhân nhưng vẫn giữ lập trường kiên định về niềm tin Tôn giáo của mình. Bạn đã có một quyết định đúng đắn và sáng suốt. Đạo Phật không chủ trương lợi dụng hôn nhân để quy nạp tín đồ đồng thời cũng không khắt khe đến độ cực đoan khi bắt buộc người chung sống với mình phải cải đạo. Người Phật tử, quy hướng đạo Phật xuất phát từ niềm tịnh tín, với ý thức tự giác và tự nguyện đồng thời rất tôn trọng tín ngưỡng và niềm tin của người khác. Do vậy, bạn cũng không cần người yêu của bạn bỏ Tôn giáo của mình để theo bạn nếu không xuất phát từ tự giác và tự nguyện, nhưng đối với riêng bản thân bạn thì cần phải sáng suốt, không mù quáng và nhất là không đánh mất lòng tự trọng của người Phật tử, vốn dĩ cao quý và thiêng liêng.

Đạo Phật là đạo giác ngộ, được làm người Phật tử là đã đặt chân lên thềm thang giác ngộ, đó là một trong những căn lành mà không phải bất kỳ ai cũng có được. Do vậy, nếu bạn không muốn trầm luân, đọa lạc trong đời này và đời sau thì phải giữ vững niềm tin của mình. Hôn nhân có thể đem lại cho bạn hạnh phúc trong một đời nhưng để đạt được hạnh phúc trước mắt vốn mong manh ấy mà phải thay đổi lý tưởng và niềm tin là một điều tệ hại nhất trong các điều tệ hại, vì đánh mất chánh kiến nên chắc chắn bị đọa lạc trong những đời sau.

Vẫn biết rằng, nếu cùng một chí hướng và niềm tin thì rất tốt cho việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Song thực tế, quan điểm của hai người hiện giờ thì điều ấy trở thành không thể. Giải pháp "đạo ai nấy giữ" dù còn nhiều giới hạn và trở ngại nhưng vẫn không có tính khả thi vì điều kiện bắt buộc để tiến tới hôn nhân của cô ấy là bạn phải bỏ đạo. Và đây cũng là tín hiệu rõ ràng nhất của vấn đề rằng chuyện tình yêu của các bạn còn một khoảng trống bất hòa khá lớn, chưa hội đủ các điều kiện cần và đủ cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc và bền vững. Do vậy, nếu đi đến hôn nhân khi tình yêu cũng như quan điểm chưa đạt đến độ hòa hợp chín muồi thì chắc chắn sẽ bất hạnh, đổ vỡ và chuốc lấy thất bại mà thôi.

Người Phật tử luôn vận dụng trí tuệ để làm hành trang cho cuộc sống. Bạn phải luôn ý thức để quán niệm rằng hôn nhân (nếu may mắn) chỉ đem lại hạnh phúc một đời, còn chánh pháp sẽ dẫn bước và soi đường cho bạn đạt đến hạnh phúc và an vui trong đời này và mãi mãi về sau.

Chúc bạn luôn sáng suốt và hạnh phúc!

(Câu hỏi số 11 trích trong mục "Tư Vấn Bạn Đọc" tuần san Giác Ngộ số 243, ngày 23/09/2004).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro