tamlyhoc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 TÂM BỆNH HỌC

                                                             (PSYCHOPATHOLOGY)

                                                                                         BS.Phan Thiệu Xuân Giang

 ĐỊNH NGHĨA VỀ TÂM BỆNH HỌC:

Không có một định nghĩa chung được chấp nhận cho tâm bệnh học.      

PSYCHO : Tâm lý

PATHOLOGY : Bệnh học

Ta có thể tham khảo một số định nghĩa:

-Tâm bệnh học là thuật ngữ chỉ đến MÔN HỌC nghiên cứu về bệnh lý tâm thần hoặc các khó khăn nặng nề về tinh thần hoặc các biểu hiện về hành vi và các trải nghiệm mà từ đó có thể chỉ ra cho biết có bệnh lý tâm thần hoặc suy kém về tâm lý.

-Tâm bệnh học là môn học nghiên cứu về nguồn gốc ( nguyên nhân), sự phát triển và biểu hiện của các rối loạn sức khoẻ tâm thần  hoặc rối loạn về hành vi.

-Tâm bệnh học cũng được sử dụng để gọi tên các hành vi hay các trải nghiệm mà qua đó cho thấy có bệnh lý tâm thần. Ngay cả khi nó không tạo thành một chẩn đoán đầy đủ. Ví dụ: ảo giác ( hallucination) có thể  được xem là một dấu hiệu tâm bệnh lý ngay cả khi không có đủ các triệu chứng biểu hiện tiêu chuẩn đầy đủ cho một chẩn đoán rối loạn được liệt kê ở DSM (Diagnostic and Statistic Manual of Mental Disorders) hay ICD (International Classification of Diseases).

-Tâm bệnh học trẻ em ( Child psychopathology): Nghiên cứu tâm bệnh của trẻ em

-Tâm bệnh học phát triển ( Developmental Psychopathology): Là một tiếp cận để hiểu được làm thế nào tâm bệnh lý phát triển trong suốt cuộc đời, là môn học về quá trình phát triển góp phần vào tâm bệnh lý hay bảo vệ chống lại tâm bệnh lý.

-Tâm thần học (Psychiatry): Là một ngành thuộc y học, nghiên cứu, phòng ngừa và điều trị các rối loạn sức khoẻ tâm thần ở con người.

Có nhiều nhà chuyên môn làm việc trong lãnh vực tâm bệnh học như : BS tâm thần, nhà tâm lý lâm sàng, nhân viên xã hội…16 nhu cầu cơ bản của con người. 

Tài liệu tham khảo : sách “The Normal Personality- A NEW WAY OF THINKING ABOUT PEOPLE” của Steven Reiss
Tất cả mọi người đều có 16 nhu cầu cơ bản nhưng được họ ưu tiên theo cách khác nhau. Cách mà mỗi cá nhân ưu tiên thỏa mãn nhu cầu được gọi là một Reiss Motivation Profile (RMP),nó tiết lộ về những giá trị ( values ) của người đó. 
5 đặc điểm của 1 nhu cầu cơ bản :
1. Động cơ phổ quát (UNIVERSAL MOTIVATION) . Những nhu cầu cơ bản thúc đẩy mọi người hành động. 
2. Những nhu cầu tâm lý (PSYCHOLOGICAL NEEDS ). Sự thỏa mãn 1 nhu cầu cơ bản luôn luôn mang tính tạm thời- nhiều giờ hoặc nhiều ngày sau khi thỏa mãn được 1 mục tiêu thì nhu cầu cơ bản của con người lại được xác lập lại và nó ảnh hường đến hành vi một lần nữa. Ví dụ, khi chúng ta thỏa mãn nhu cầu tò mò về 1 chủ đề, lĩnh vực nào đó , sớm hay muộn gì chúng ta cũng trở nên tò mò về những chủ đề khác. 
Tại sao những nhu cầu cơ bản lại tự xác lập lại sau khi chúng ta đã thỏa mãn chúng ?
Bởi vì những nhu cầu cơ bản thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những trải nghiệm thỏa mãn ở 1 mức độ nhất định. Ví dụ, nhu cầu ăn uống thúc đẩy chúng ta tiêu thụ khoảng 2500 calo mỗi ngày. Khi bạn ăn ít hơn số calo trong 1 ngày, bạn sẽ đói. Khi bạn ăn nhiều hơn, bạn sẽ thấy nặng nề. Khi bạn ăn đủ lượng thức ăn , bạn sẽ cảm thấy thỏa mãn. Sự thỏa mãn của bạn chỉ là tạm thời.
3. Động cơ nội tại (INTRINSIC MOTIVATION ). People pursue basic desires for no reason other than that is what they want. Ví dụ, nhu cầu ngăn nắp gọn gàng thúc đẩy chúng ta tổ chức, sắp xếp cuộc sống của mình bởi vì chúng ta đánh giá cao tính trật tự, có kế hoạch ; trong khi đó nhu cầu muốn được người khác chấp nhận thúc đẩy chúng ta tránh né bị phê bình chỉ trích bởi vì chúng ta đánh giá cao sự chấp nhận.
Những nhu cầu khác nhau có thể là động cơ thúc đẩy hành vi giống nhau. Ví dụ , khi chúng ta sắp xếp lại nơi làm việc vì chúng ta đề cao tính trật tự, chúng ta bị thúc đẩy bởi nhu cầu ngăn nắp. Khi chúng ta sắp xếp lại nơi làm việc để tránh bị người quản lý phê bình thì chúng ta bị thúc đẩy bởi nhu cầu muốn được người khác chấp nhận. Khi chúng ta sắp xếp lại nơi làm việc vì cả 2 lý do trên, chúng ta bị thúc đẩy bởi nhu cầu ngăn nắp và muốn được chấp nhận.

4. Những giá trị nội tại (INTRINSIC VALUES) . We are a species motivated to assert our values.
5. PSYCHOLOGICAL SIGNIFICANCE 
Sau đây là 16 nhu cầu cơ bản:
1. Acceptance, the desire to avoid criticism and rejection - Nhu cầu chấp nhận : muốn tránh không bị phê bình và chối bỏ.

2. Curiosity, the desire for cognition : Nhu cầu tò mò : khát khao về mặt nhận thức.

3. Eating, the desire for food : Nhu cầu ăn uống : khát khao với thức ăn

4. Family, the desire to raise one’s own children : Nhu cầu gia đình : nuôi dạy con cái.

5. Honor, the desire to behave morally Nhu cầu tự trọng : muốn hành xử theo đạo đức.

6. Idealism, the desire for social justice- Nhu cầu công bằng : khát khao về sự công bằng xã hội

7. Independence, the desire for self-reliance Nhu cầu độc lập 

8. Order, the desire for structure Nhu cầu trật tự

9. Physical Activity, the desire to move one’s muscles Nhu cầu vận động cơ thể

10. Power, the desire for influence of will Nhu cầu quyền lực, khát khao ảnh hưởng đến mọi người

11. Romance, the desire for sex Nhu cầu tình dục

12. Saving, the desire to collect Nhu cầu tiết kiệm, tích lũy

13. Social Contact, the desire for friendship Nhu cầu kết nối xã hội, bạn bè

14. Status, the desire for prestige Nhu cầu địa vị xã hội, khát khao danh tiếng

15. Tranquility, the desire for inner peace Nhu cầu bình an nội tâm
16. Vengeance, the desire to get even Nhu cầu trả thù 

Cường độ nhu cầu mạnh : chỉ về nhu cầu của người đó mạnh hơn những người bình thường ( trên 20% khi so sánh với dân số nói chung) . Người đó sẽ phát triển những nét tính cách, hoặc những thói quen để thỏa mãn nhu cầu được lặp đi lặp lại. Ví dụ, 1 người có nhu cầu suy nghĩ cao (a high-intensity need to think) sẽ dành nhiều thời gian cho hoạt động trí tuệ , người ấy sẽ bộc lộ những tính cách của người trí thức, học giả.
Cường độ nhu cầu yếu : Chỉ về nhu cầu của người đó yếu hơn, thấp hơn so với những người bình thường ( thấp hơn 20% khi so sánh với dân số nói chung). Người đó sẽ phát triển những nét tính cách, hoặc những thói quen để thỏa mãn nhu cầu được lặp đi lặp lại. Ví dụ, 1 người có nhu cầu suy nghĩ thấp (A person with a low-intensity need to think) sẽ dành ít thời gian cho hoạt động trí tuệ và người đó sẽ bộc lộ những tính cách của 1 người thiên về thực hành, thiên về hành động (traits of a practical, action-oriented).

Cường độ nhu cầu trung bình – bao gồm 60% dân số. Những nhu cầu đó được thỏa mãn hằng ngày và không yêu cầu phát triển những thói quen riêng biệt hoặc những nét tính cách để thỏa mãn những nhu cầu đó.Người có cường độ nhu cầu trung bình thỉnh thoảng sẽ bộc lộ những tính cách gắn liền với cường độ nhu cầu mạnh và thỉnh thoảng lại bộc lộ những tính cách gắn liền với cường độ nhu cầu thấp.

Bây giờ ta sẽ phân tích từng nhu cầu cụ thể.

1. Nhu cầu chấp nhận .
Là 1 nhu cầu mang tính phổ quát . Nhu cầu này thúc đẩy bạn tránh né những tình huống, hoàn cảnh mà bạn có thể bị chỉ trích và từ chối và tránh xa những người mà họ không thích bạn.Nhu cầu chấp nhận là lý do khiến bạn thỉnh thoảng cảm thấy lo lắng khi bạn bị đánh giá, bị kiểm tra hoặc phỏng vấn xin việc.
Bạn cần sự chấp nhận của 1 vài người nhiều hơn những người khác. Khi bạn còn bé, bạn đặc biệt cần sự chấp nhận của bố mẹ bạn. Khi trưởng thành, bạn có thể tìm kiếm sự chấp nhận từ người bạn tình, từ bạn bè trang lứa , từ đồng nghiệp và cộng đồng. Có lẽ cách đơn giản nhất để hiểu bạn cần sự chấp nhận của ai nhất , đó là tự hỏi mình rằng những lời phê bình chỉ trích nào gây tổn thương cho bạn nhất.
Sự chấp nhận làm cho khao khát được sống của bạn trở nên mạnh mẽ hơn. Khi bạn cảm thấy được chấp nhận, bạn có được niềm say mê, vui vẻ trong cuộc sống. Khi bạn bị chối bỏ, bạn có thể sẽ nghi ngờ bản thân và có xu hướng to be down in the dumps. Một vài người trải nghiệm sự chối bỏ ( mang tính hủy hoại ) thì họ sẽ có những suy nghĩ tự tử. 
Sự chấp nhận là 1 nhu cầu nội tại. Acceptance is about being valued for who you are.
Những ngừơi có nhu cầu được chấp nhận cao thì sẽ thiếu sự tự tin. Họ thường cảm thấy bất an và có xu hướng bị tổn thương bởi những lời phê bình, bởi sự từ chối và thất bại. Họ nhìn bản thân theo hướng tiêu cực và nhanh chóng đổ lỗi cho bản thân khi có vấn đề. Họ có thể lo lắng rằng mình sẽ bị đánh giá là thua kém người khác. Như Karen Horney (1939) đã mô tả , khi 1 người ( luôn cảm thấy bất an ) bắt gặp 1 người lạnh lùng, họ sẽ đổ lỗi cho bản thân vì người khác không nồng nhiệt với họ. Khi 1 người bạn không đáp lại cuộc điện thoại của họ 1 thời gian , họ có thể sẽ tự hỏi liệu người bạn đó không còn thích họ. Những người hay cảm thấy bất an thường đòi hỏi sự ủng hộ, cổ vũ từ người khác để thử làm những điều gì đó mới mẻ.Những nét tính cách có thể dùng để mô tả về họ bao gồm : thiếu tự tin, nỗ lực không nhất quán, bất an, nghi ngờ bản thân, bi quan , u sầu hoặc không quyết đoán.
Người có nhu cầu chấp nhận thấp/yếu là người tự tin . Họ lạc quan về những gì họ muốn có trong cuộc sống và kỳ vọng sẽ thành công. Khi gặp phải sự phê bình, từ chối hoặc thất bại, họ thường xử lý theo cách có tính xây dựng.Họ có cái nhìn tích cực về bản thân và kỳ vọng gây được ấn tượng yêu thích. Họ có thể không cần người khác nói với họ rằng họ xinh đẹp hoặc thông minh bởi vì trong sâu thẳm con người mình họ tin những điều này về mình. Những nét tính cách có thể dùng để miêu tả về họ bao gồm tự tin , sẵn sàng trải nghiệm mọi việc, lạc quan .
2. Nhu cầu tò mò
Tò mò là nhu cầu mang tính phổ quát về hoạt động trí tuệ ( nhu cầu nhận thức ). Sự thỏa mãn nhu cầu này sẽ tạo ra cảm xúc ngạc nhiên, trong khi đó sự không thỏa mãn nhu cầu này sẽ tạo ra sự nhàm chán.
Sự tò mò của bạn sẽ quyết định tiềm năng của bạn trong việc trải nghiệm những lĩnh vực thuộc về trí tuệ trong cuộc sống. Những đứa trẻ tò mò hỏi người lớn nhiều câu hỏi để kích thích suy tư(Maw & Maw, 1964).Những người lớn tò mò thích tham gia vào những cuộc nói chuyện mang tính trí tuệ. 
Người không tò mò thì hỏi rất ít và tránh né những cuộc nói chuyện mang tính trí tuệ bởi vì họ không thích suy nghĩ...
Những kết quả từ cuộc nghiên cứu của chúng tôi cho rằng rất nhiều ( nhưng không phải là tất cả ) những người trưởng thành trải nghiệm sự giảm sút sự tò mò khi họ già đi. Nhiều giáo sư trở nên kém tò mò khi họ ở lứa tuổi 40 và 50, nhưng một vài người vẫn duy trì được tính tò mò cao trong suốt cuộc đời họ. 
Sự tò mò có giá trị sinh tồn. Khi kiến thức con người được mở rộng, khả năng tìm kiếm và sản xuất thức ăn, tự bảo vệ bản thân và phòng tránh, điều trị bệnh tật.
Người có nhu cầu tò mò cao : yêu thích việc theo đuổi về trí tuệ ví dụ như suy nghĩ, đọc sách, viết lách và nói chuyện. Những ý tưởng và lý thuyết có ý nghĩa rất lớn đối với họ. Bất kể hoàn cảnh sống của họ ra sao – như nghèo khổ, chiến tranh... thì những người đó vẫn theo đuổi việc học tập. Họ dễ trở nên buồn chán ( bored ) và có nhu cầu được kích thích về mặt trí tuệ thường xuyên để cảm thấy hạnh phúc (They are easily bored and need frequent intellectual stimulation to be happy). Những lĩnh vực họ quan tâm rất rộng lớn, và họ cũng có thể tập trung vào 1 lĩnh vực cụ thể. Họ có thể suy nghĩ về 1 vấn để lặp đi lặp lại cho đến chừng nào họ cảm thấy hiểu về nó. Họ có thể trở nên chìm đắm vào trong những suy nghĩ của mình. Họ có thể hướng đến những gì logic hoặc sáng tạo, những ý tưởng tưởng tượng. Những nét tính cách có thể dùng để mô tả về họ bao gồm : suy nghĩ sâu sắc, thông minh, hay chiêm nghiệm, tò mò.
Người có nhu cầu tò mò thấp : muốn giảm tối thiểu hoạt động trí tuệ. Họ trở nên dễ dàng chán nản khi họ cố gắng suy nghĩ. Họ hiếm khi đọc sách, xem phim tài liệu trên tivi, tranh cãi về các ý tưởng hoặc thích những buổi nói chuyện mang tính trí tuệ. Họ có thể ít kiên nhẫn với những vấn đề mang tính trí tuệ và thậm chí xem những nhà học giả, những vấn đề trí tuệ là tiêu cực. Họ thích nói chuyện bằng hành động hơn là bằng ngôn từ. Những nét tính cách có thể dùng để miêu tả về họ bao gồm : khuynh hướng hành động (action-oriented), người thực hành, thực tế.
3. Nhu cầu ăn uống
Người có nhu cầu ăn uống cao : thức ăn là một trong số những niềm vui lớn nhất của họ trong cuộc sống. Họ có thể thích thưởng thức nhiều loại thức ăn khác nhau. Khi trưởng thành họ có thể trở nên thừa cân. Những nét tính cách có thể dùng để mô tả về họ bao gồm : ăn quá nhiều, tính tham ăn, người theo chủ nghĩa khoái lạc.
Người có nhu cầu ăn uống thấp : ít hứng thú với thức ăn. Họ có thể hiếm khi nghĩ đến chuyện ăn uống và có thể kén chọn món ăn. Những nét tính cách có thể dùng để mô tả về họ bao gồm :ăn như mèo, gầy còm, người kén ăn.
4. Nhu cầu gia đình
Người có nhu cầu gia đình cao: muốn có nhiều con và dành phần lớn thời gian nuôi dạy chúng. Những đứa con có thể là tất cả đối với họ. Chăm sóc gia đình là niềm hạnh phúc lớn nhất đối với họ. Họ đánh giá cao việc làm cha mẹ và giá trị của gia đình. Những nét tính cách có thể dùng để mô tả về họ bao gồm : con người của gia đình ,motherly (or fatherly), and perhaps nurturing.
Người có nhu cầu gia đình thấp xem những bổn phận, nhiệm vụ làm cha mẹ như 1 gánh nặng. Họ có thể không muốn trở thành cha mẹ. Nếu họ có con, họ có thể không dành nhiều thời gian để nuôi dạy chúng. Những nét tính cách có thể dùng để mô tả về họ bao gồm : người không có con, noninvolved parent, and absentee parent.
5. Nhu cầu danh dự
Đó là nhu cầu muốn hành xử 1 cách có đạo đức. Việc thỏa mãn nhu cầu này sẽ tạo ra cảm giá trung thành, trong khi đó việc không thỏa mãn nhu cầu này tạo ra cảm giá tội lỗi và xấu hổ. Nhu cầu danh dự thúc đẩy bạn trở thành người trung thực, trung thành, đánh tin và có trách nhiệm.
Những người có nhu cầu danh dự cao là những người ngay thẳng. Họ có thể tập trung vào những vấn đề như tính nết, đạo đức và những nguyên tắc. Họ có thể trung thành với nhóm đạo đức và bố mẹ họ. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : trung thực, trung thành, phụ thuộc, đáng tin, chu đáo.
Những người có nhu cầu danh dự thấp là những người mưu mô ( expedient ). Họ có khuynh hướng làm bất cứ điều gì cần thiết để đạt mục tiêu quan trọng của họ. Họ có thể nghĩ rằng chẳng có gì sai trái khi thay đổi quan điểm và nuốt lời hứa khi hoàn cảnh thay đổi. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : mưu mô, chủ nghĩa cơ hội, nuốt lời hứa.
6. Nhu cầu lý tưởng idealism 
Đó là khao khát muốn cải thiện xã hội. Sự thỏa mãn nhu cầu này tạo ra cảm giác nhân ái, trong khi việc không thỏa mãn nó tạo ra cảm xúc nổi giận trước những bất công của xã hội. Việc khao khát chủ nghĩa lý tưởng thúc đẩy con người trở nên quan tâm, tham gia vào những nguyên nhân của xã hội, chú ý đến những vụ ngoại tình hoặc quyên tiền cho các hội từ thiện.
Người có nhu cầu lý tưởng cao là những người bị ấn tượng bởi chủ nghĩa nhân đạo và tham gia tình nguyện. Sự công bằng xã hội và sự công bằng nói chung rất quan trọng đối với họ.Họ có thể quan tâm sâu sắc đến những vấn đề như hòa bình thế giới, sức khỏe thế giới; sự áp bức. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : nhân đạo, công bằng, chủ nghĩa lý tưởng, người mơ mộng, người tình nguyện, và có thể là người hy sinh đời mình , liệt sỹ.
Người có nhu cầu lý tưởng thấp : họ thường tập trung vào những sự kiện trong cuộc đời họ hơn là những vấn đề to tát của xã hội. Họ có thể nghĩ rằng sự bất công là 1 phần của cuộc sống và cá nhân ít có khả năng làm được gì trừ phi nó liên quan trực tiếp đến cá nhân đó hoặc đến những người thân yêu của họ. Họ có thể ít quan tâm đến những sự kiện về hòa bình thế giới. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : người thực tế, thực dụng.
7. Nhu cầu độc lập
Nhu cầu này thúc đẩy bạn tự chăm sóc bản thân và không yêu cầu sự giúp đỡ hoặc tiền bạc của người khác. Nó thúc đẩy bạn tự đưa ra quyết định của mình. Sự thỏa mãn nhu cầu này đem lại niềm vui của sự tự do cá nhân, trong khi đó sự không thỏa mãn nhu cầu nàu tạo ra cảm giác lệ thuộc.
Người có nhu cầu độc lập cao : sự tự do cá nhân có thể là tất cả đối với họ. Họ có thể không thích dựa vào người khác. Điều quan trọng đối với họ là làm mọi việc theo cách của họ.Họ có thể thích logic, lý trí, khoa học hơn là dựa vào trực giác khi đánh giá những tình huống và những người khác. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : tự chủ, độc lập, tự dựa vào bản thân, bướng bỉnh , tự hào.
Người có nhu cầu độc lập thấp: tin tưởng vào người khác để đáp ứng những nhu cầu của họ. Họ đánh giá cao sự hỗ trợ tâm lý, đặc biệt khi đưa ra quyết định. Họ xem nhẹ việc thể hiện tính cá nhân. Họ có thể dựa vào trực giác khi đánh giá những tình huống và những người khác. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : khiêm tốn, phụ thuộc lẫn nhau, thần bí.
8. Nhu cầu trật tự
Sự trật tự, ngăn nắp có lợi ích về mặt sinh tồn bởi vì nó thúc đẩy những sự sạch sẽ. Theo nhà tâm lý trị liệu Judith L. Rapoport (1990),sự bẩn thỉu, những vết thương và tạo ra ấn tượng của sự... “out of place” on the skin. Động vật liếm vết thương và có những nghi thức loại bỏ sự bẩn thỉu và chất gây ô nhiễm. Con người chúng ta muốn mọi thức ở đúng vị trí của nó và thích sự sạch sẽ hơn là bẩn thỉu. Xã hội con người đánh giá cao sự sạch sẽ hơn là bẩn thỉu.
Người có nhu cầu trật tự cao là những người có tính tổ chức. SỰ gọn gàng, sạch sẽ và đúng giờ là rất quan trọng đối với họ. Họ có thể chú ý đến những chi tiết, luật lệ và lịch trình; họ có thể thấy thoải mái với những tình huống đoán trước được và không thay đổi. Họ thích làm theo những lề thói. Họ nghĩ rằng chỉ có 1 cách duy nhất để làm mọi việc. Họ có thể gặp khó khăn khi thích nghi với sựu thay đổi; họ không thích làm mọi việc theo cách ngẫu hứng. Những nét tính cách mô tả về họ là : ngăn nắ, cẩn thận, không linh hoạt, biết tổ chức, chính xác, đúng giờ, chuẩn bị, sạch sẽ.
Người có nhu cầu trật tự thấp là người linh hoạt. Họ chịu đựng được sự mơ hồ, không rõ ràng. Họ có thể không thích tính trật tự, cấu trúc, và ghét tuân theo những luật lệ và thời gian biểu. Họ thường xuyên thay đổi kế hoạch. Họ có thể tập trung vào bức tranh tổng thể và bỏ qua những chi tiết chính. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : không trật tự, ko biết tổ chức, linh hoạt, ghét lập kế hoạch, ngẫu hứng, không sách sẽ.

9. Nhu cầu vận động thân thể
Người có nhu cầu vận động thân thể cao tìm kiếm 1 phong cách sống năng động. Làm việc ngoài trời hoặc thể thao là 1 phần quan trọng trong cuộc sống của họ. Họ đánh giá cao sự khỏe mạnh thân thể, sức sống, sức dẻo dai, sức mạnh. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : năng động, vận động viên, tràn đầy năng lượng, khỏe mạnh.
Người có nhu cầu vận động thân thể thấp thích 1 lối sống ít di động, ở yên 1 chỗ. Họ cần sự cổ vũ khuyến khích và những lý do bên ngoài – ví dụ như sức khỏe để tập thể dục thường xuyên. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : thụ động, ở yên một chỗ, thờ ơ.
10. Nhu cầu quyền lực
Thúc đẩy con người đạt thành công,sức mạnh ý chí, làm lãnh đạo. SỰ thỏa mãn nhu cầu này tạo ra sự vui sướng về khả năng bản thân . Việc không thỏa mãn nhu cầu này tạp ra sự hối tiêc hoặc xấu hổ.
Người có nhu cầu quyền lực cao thích tự chịu trách nhiệm cho những hoàn cảnh và thích đóng vai lãnh đạo. Họ có thể tìm kiếm sự thách thức và làm việc chăm chỉ để đạt được những mục tiêu. Họ có thể thích cho người khác lời khuyên. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : tham vọng, làm việc chăm chỉ, tự quyết định, ương ngạnh,ngay thẳng.
Người có nhu cầu quyền lực thấp : không thích sự tự khẳng định bản thân . Họ có khuynh hướng để cho mọi việc xảy ra mà không can thiệp vào. Họ có thể thiếu tham vọng và không ra lệnh. Họ có thể không thích vai trò lãnh đạo hoặc không thích cho lời khuyên hoặc chỉ dẫn người khác. Họ biết cân bằng giữa công việc và cuộc sống gia đình. Họ có thể tránh né những thử thách và những mục tiêu thành công. Họ không phải là người lười biếng hoặc không quna tâm; họ chỉ là không thích kiểm soát hoặc can thiệp đến người khác. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : không tham vọng, dễ tính, không ra lệnh, thoải mái.
11. Nhu cầu lãng mãn.
Khao khát tình dục .Sự thỏa mãn nhu cầu này tạo ra khoái cảm, sự không thỏa mãn nhu cầu tạo ra cảm giác ham muốn , thèm khát.
Nhu cầu này thúc đẩy bạn quan tâm đến ngoại hình bản thân và theo đuổi những đối tác tình dục tiềm năng.
Ham muốn tình dục giảm dần trong suốt tuổi trưởng thành.
Người có nhu cầu tình dục cao : theo đuổi đời sống tình dục. Họ đánh giá cao những kỹ năng tình dục hoặc đam mê. Họ có thể thường xuyên nghĩ về tình dục. Họ có thể bị thu hút bởi nhiều đối tác tiềm năng. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm :Lãng mạn, đam mê, tình dục quá mức, ưa tán tỉnh.
Người có nhu cầu tình dục thấp : có thể dành ít thời gian suy nghĩ về tình dục hoặc theo đuổi tình dục. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm :thuần khiết, trong sạch, người độc thân, khắt khe.
12. Nhu cầu tiết kiệm
Là nhu cầu muốn tích lũy đồ vật. Con người tích lũy, sưu tầm nhiều đồ vật khác nhau, bao gồm đồ lưu niệm, tranh ảnh, điện thoại, quần áo, sách, tranh sức,đồ chơi... 
Việc tiết kiệm thúc đẩy con người đánh giá cao sự thanh đạm và phản đối việc lãng phí. Việc tiết kiệm mang giá trị sinh tồn bởi vì nó thúc đẩy con người tích trữ những vật dụng quan trọng.
Người có nhu cầu tiết kiệm cao là những người thích sưu tầm. Họ có thể ghét việc vứt đồ đạc đi và rất tằn tiện về tiền bạc. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : người thích tích trữ, tiết kiệm, keo kiệt.
Người có nhu cầu tiết kiệm thấp là những người có xu hướng sử dụng đồ vật. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm :lãng phí, trụy lạc, ngông cuồng, spendthrift.

13. Nhu cầu kết nối xã hội
Người có nhu cầu kết nối xã hội cao là người thân thiện. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : nồng nhiệt, quyến rũ, duyên dáng, tinh nghịch, hướng ngoại, vui vẻ, hòa đồng.
Người có nhu cầu kết nối xã hội thấp là người thích sự cô độc solitude ( lưu ý là cô độc solitude khác với cô đơn lonely ). Họ không thích tiệc tùng, ít quan tâm đến những người mà họ gặp. Họ có thể có rất ít bạn bè . Họ thường trông có vẻ nghiêm túc. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : hướng nội, nghiêm túc, riêng tư, ẩn sỹ, tách biệt.
14. Nhu cầu địa vị xã hội
Là ước muốn về chỗ đứng, vị trí xã hội dựa trên sự giàu có, danh tiếng, tầng lớ xã hội . Sự thỏa mãn nhu cầu này đem lại cảm giác về sự quan trọng của bản thân và cao siêu hơn người khác; trong khi đó sự không thỏa mãn nhu cầu tạo ra cảm giác thua kém, mình là người không quan trọng. Alfred Adler (1971/1927) cho rằng con người tìm kiếm địa vị xã hội để bù trừ cho cảm giác vô thức về sự thua kém (unconscious feelings of inferiority). Nhưng tác giả cuốn sách này lại cho rằng con người tìm kiếm địa vị vì họ đánh giá cao sự tôn trọng. Nhìn chung, khi mọi người chú ý đến bạn thì đó là dấu chỉ cho thấy địa vị, vị trí của bạn. Con người thường chú ý đến những người quan trọng (important people) và phớt lờ những người không quan trọng.
Địa vị là 1 cái gì đó mà người khác trao cho bạn; bạn không thể tự trao nó cho chính mình. 
Nhu cầu về địa vị thúc đẩy con người chú ý đến và đánh giá cao danh tiếng của họ.
Nhu cầu về địa vị thúc đẩy con người xem xét đến yếu tố giai tầng xã hội khi lựa chọn bạn đời. Người có nhu cầu về địa vị cao sẽ hướng đến việc kết hôn với những người ở tầng lớ cao, giàu có , hoặc kết hôn với người xinh đẹp. Người có nhu cầu địa vị thấp có thể không quan tâm đến tiền bạc hoặc tầng lớp xã hội khi lựa chọn bạn đời.
Nhu cầu địa vị cũng thúc đẩy con người quan tâm đến vấn đề ăn mặc, quần áo, kiểu tóc, thời trang và phong cách của những ngôi sao.
Người có nhu cầu địa vị cao sẽ đánh giá cao sự giàu có, vật chất và giai cấp xã hội. Họ có thể gắn bản thân mình với những thứ gì đó phổ biến, nổi tiếng và chia tách với những gì không nổi tiếng. 
Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm Hình thức, quý tộc, kiểu cách, cao cả , trang nghiêm, vật chất.
Người có nhu cầu địa vị thấp không mấy ấn tượng với những người tầng lớp cao, với sự giàu có và nổi tiếng. Họ tin rằng sẽ là sai lầm khi ngưỡng mộ người nào đó bởi vì người đó được sinh ra trong 1 gia đình giàu có. Họ có thể không quan tâm đến việc người khác nghĩ gì về họ. Họ có thể đồng nhất mình với những người ở tầng lớp trung lưu hoặc tầng lớ thấp. Những nét tính cách dùng để mô tả về họ bao gồm : giản dị, không kiểu cách , bình đẳng.
15. Nhu cầu an toàn
Mong muốn tránh né sự trải nghiệm lo lắng hoặc đau đớn. Sự thỏa mãn nhu cầu này đem lại cảm giác thoải mái, thư giãn. Sự không thỏa mãn nhu cầu này đem lại cảm giác lo lắng , sợ hãi. Nhu cầu này ảnh hưởng đến những thái độ của bạn trước sự an toàn, sự mạo hiểm và có thể là những rủi ro tài chính. Nhu cầu an toàn có giá trị sinh tồn vì nó thúc đẩy con người tránh né rủi ro, nguy hiểm. Khi đứng trước 2 lựa chọn “ chiến đấu hoặc bỏ chạy “, nhu cầu an toàn thúc đẩy bạn bỏ chạy ( flight )
Người có nhu cầu an toàn cao: đánh giá cao về sự an toàn của bản thân. Họ có thể có nhiều nỗi sợ và rất nhạy cảm với nỗi đau cơ thể. Họ có thể lo lắng về tiền bạc, về tình cảm, về công việc , sức khỏe hoặc tương lai (Horney, 1939). 
Họ có thể là những người tránh né rủi ro. Những nét tính cách dùng để mô tả về họ bao gồm : sợ hãi, lo lắng, e ngại, thận trọng, nhút nhát, là người hay lo lắng.
Người có nhu cầu an toàn thấp : là những người tìm kiếm sự mạo hiểm. Họ có thể không biết sợ. Họ có khả năng cao trong việc xử lý với stress. Họ dám đương đầu với nguy hiểm. Những nét tính cách dùng để mô tả về họ bao gồm : dũng cảm, bình tĩnh, can đảm, nhà thám hiểm, không sợ hãi , thoải mái, và mạo hiểm.
16. Nhu cầu trả thù
Là ước muốn trả thù người làm chúng ta thất vọng hoặc xúc phạm chúng ta.
Người có nhu cầu trả thù cao : nhanh chóng đương đầu với người khác. Họ đề cao việc cạnh tranh và chiến thắng. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : đối thủ cạnh tranh, hay gây gổ, và có lẽ hung hăng, tức giận, tranh cãi, chiến đấu, đê tiện.

Người có nhu cầu trả thù thấp : tránh né đối đầu , đánh nhau, bạo lực. Thường thì phản ứng đầu tiên của họ là giảng hòa, hợp tác hơn là thách đố, cạnh tranh. Họ đề cao sự hòa bình, thỏa hiệp, hợp tác và không bạo lực. Họ phản đối việc tranh cãi, đánh nhau, thách đố. Những nét tính cách mô tả về họ bao gồm : hợp tác xã, tốt bụng, thương xót, khong gây hấn, và sứ giả hòa bình.

16 nguyên tắc của động cơ

Principle I. Basic desires, also called psychological needs, predict behavior in natural environments. Những nhu cầu cơ bản, hau còn gọi là những nhu cầu tâm lý, dự đoán hành vi của con người trong môi trường tự nhiên.

Principle II. Motivation is the assertion of deeply held values, not the discharge of psychic energy.

Principle III. We can distinguish between means and ends. Only ends can explain personality and behavior. Chúng ta có thể phân biệt được giữa những phương tiện và những mục đích cuối cùng. Chỉ có những mục đích cuối cùng mới có thể giải thích được tính cách và hành vi.

Principle IV. Human motivation is multifaceted and cannot be reduced to just two or three kinds. Sixteen basic desires (psychological needs) drive the human psyche. Động cơ của con người có nhiều mặt và không thể giảm bớt xuống chỉ còn hai hoặc ba loại động cơ. 16 nhu cầu cơ bản ( những nhu cầu tâm lý ) thúc đẩy tâm lý con người.

Principle V. Basic desires have two significant characteristics, called intrinsically valued goal and satiating intensity. The intrinsically valued goal is the aim of a basic desire. The satiating intensity is the desired amount, frequency, or intensity of the intrinsically valued goal. Những nhu cầu cơ bản có 2 đặc tính quan trọng, gọi là mục tiêu có giá trị bên trong và cường độ thỏa mãn. Mục tiêu có giá trị bên trong là mục tiêu của 1 nhu cầu cơ bản. Cường độ thỏa mãn là chỉ về số lượng, tần số , cường độ của mục tiêu có giá trị bên trong.
Principle VI. Each of the sixteen basic desires can be considered as a continuum of motivation. The points on these continua represent different intensities of motivation. A “sensitivity” or “Aristotelian mean” or “satiating intensity” is the desired point of temporary balance

Principle VII. The sixteen basic desires make us individuals. Everybody embraces the sixteen basic desires, but to different extents. The satiating intensities with which an individual experiences the sixteen basic desires reveal his/her normal personality traits. 16 nhu cầu cơ bản tạo ra cá nhân con người. Mỗi người đều có 16 nhu cầu cơ bản nhưng với cường độ nhu cầu khác nhau. Cường độ thỏa mãn mà 1 cá nhân trải nghiệm về 16 nhu cầu tiết lộ những nét tính cách của người ấy.

Principle VIII. Strong satiating intensities motivate interest in multiple gratification objects. Cường độ thỏa mãn nhu cầu mạnh thúc đẩy con người quan tâm đến nhiều đối tượng đem lại sự hài lòng.

Principle IX. Self-report often is a valid method for learning somebody’s basic desires and psychological needs. Bản đánh giá cá nhân thường là 1 phương pháp có hiệu lực trong việc nghiên cứu những nhu cầu cơ bản của người nào đó.

Principle X. People should learn how to make smart choices that gratify basic desires. Con người nên học hỏi cách đưa ra những lựa chọn thông minh để thỏa mãn những nhu cầu cwo bản của mình.

Principle XI. Analyses of childhood feelings and experiences are often of little help in resolving an adolescent’s or adult’s personal problems

Principle XII. We have a natural tendency to assume that our values are best, not just for us, but potentially for everyone. Such “self-hugging” motivates (1) personal blind spots; (2) intolerance of people with different values; and (3) a tendency to confuse individuality with abnormality. Chúng ta có khuynh hướng tự nhiên là giả định rằng những giá trị của chúng ta là tốt nhất, không phải chỉ đối với bản thân mình mà còn đối với tất cả mọi ngừi. Điều đó dẫn đến (1) sự mù quáng của cá nhân, (2) Không chấp nhận sự khác biệt về giá trị của những người khác , và (3) có khuynh hướng lẫn lộn giữa tính cá nhân với tính bất thường.

Principle XIII. People bond to those with similar values and separate from those with opposite values. Con người gắn kết với những người có cùng giá trị sống và tách biệt với những người có giá trị sống đối lập.

Principle XIV. People pay attention to stimuli relevant to their basic desires and tend to ignore stimuli irrelevant to their basic desires. Con người chú ý đến những kích thích liên có quan đến những nhu cầu cơ bản của họ và có xu hướng phớt lờ những kích thích không liên quan đến những nhu cầu cơ bản của họ.

Principle XV. Positive and negative emotions signal the temporary satiation or frustration of an intrinsically desired goal

Principle XVI. The sixteen basic desires potentially motivate vicarious experiences, including preferences for plays, movies, and stories

Khi bạn muốn dự đoán khả năng 1 người đã kết hôn sẽ ngoại tình, chúng ta cần xem xét độ mạnh yếu của nhu cầu về danh dự và nhu cầu về tình dục.
- Nhu cầu tình dục cao, nhu cầu về danh dự thấp = khả năng ngoại tình cao.
- Nhu cầu tình dục cao, nhu cầu về danh dự cao = khả năng ngoại tình trên mức trung bình
- Nhu cầu tình dục thấp, nhu cầu về danh dự thấp = khả năng ngoại tình dưới mức trung bình
- Nhu cầu tình dục thấp, nhu cầu về danh dự cao = khả năng ngoại tình thấp.Người học và hành Tâm lý suy tư ra sao?  1. Tính phê phán 
Mặc định người học và hành tâm lý thường duy trì là không tin; bởi họ vốn hay hoài nghi, cần được thuyết phục thông qua chứng cứ cho sự kiện nào đó là xác thực, đúng đắn.
2. Phẩm chất uyên thâm
Trong công việc, người làm nghề tâm lý muốn nhìn thấy các khung tham chiếu bài bản (references): chúng đảm bảo thẩm quyền giải quyết và sự tham khảo sáng giá.
Điều này cực kỳ thiết yếu vì tâm thế chịu ơn vô số học giả (scholars) đi trước từng đề cập cùng vấn đề bản thân đang chia sẻ, và đến phiên mình, nhận bổn phận đáp ứng trung thực để bất kỳ ai cũng tiếp cận, dõi theo vấn đề triển khai đến đâu rồi kiểm tra, đối chứng…
3. Thói tò mò
Háo hức tìm hiểu, khám phá các hiện tượng và lý thuyết mới.
Điều này dẫn tới…
4. Năng lực đả phá thần tượng
Nhiệm vụ dài hơi của người học và hành tâm lý nên nhắm tới tích tụ, chọn lọc các chứng cớ hiển nhiên đủ sức vượt qua các lý thuyết đã xuất hiện lâu nay, thậm chí, với chính sản phẩm của mình.
Cơn cớ gì mà chẳng cởi mở với những sự kiện trái ngược, đối chọi với niềm tin bấy lâu ung dung sở hữu chứ?
5. Nhìn nhận nhiều chiều, đa diện
Người học và hành tâm lý biết rõ họ có thể đưa ra các cách tiếp cận, với các mức độ phân tích khác nhau, về bất kỳ một vấn đề nào.
6. Phân tích cụ thể
Người học và hành tâm lý thuộc kiểu người mê phân tích, ít nhiều ám ảnh với những định nghĩa, xếp loại và phân biệt.
( theo Ngô Toàn ) Post: #1 Đoán biết tâm lý con người qua ngôn ngữ cơ thể 
- Để đảm bảo cho sự sinh tồn , bộ não có những phản ứng tinh tế trước hiểm nguy hoặc sự đe dọa . Những phản ứng này được thể hiện dưới 3 hình thức : đứng im ( freeze ) , chạy trốn ( flight ) và đấu tranh ( fight )
- Những trẻ em bị ngược đãi thường bộc lộ những hành vi đứng im . Trước sự có mặt của cha mẹ hoặc 1 người lớn hay ngược đãi trẻ em , cánh ta chúng sẽ không cử động và được đặt ở 2 bên hông , đồng thời chúng tránh giao tiếp bằng mắt như thể điều đó giúp chúng không bị họ nhìn thấy . Bằng cách này , chúng đang lẩn trốn giữa thanh thiên bạch nhật – đây là 1 công cụ để sinh tồn đối với những đứa trẻ tội nghiệp này .
- Theo tiềm thức , người ta ngả người về phía sau để tránh xa nhau khi họ bất đồng ý kiến hoặc cảm thấy khó chịu với nhau .
- Nhắm mắt là 1 hành vi bộc lộ rất rõ sự khiếp sợ , hoài nghi và bất đồng .
- Trong quá trình tiến hóa với tư cách là 1 giống loài , chúng ta cùng với những động vật có vú khác – đã phát triển “ chiến lược “ biến nỗi sợ hãi thành cơn thịnh nộ để chống lại kẻ tấn công .
Trong xã hội hiện đại , cuộc tấn công được thể hiện dưới hình thức 1 cuộc tranh luận . Mặc dù nghĩa gốc của từ “ cuộc tranh luận “ chỉ đơn giản là cuộc tranh cãi hoặc thảo luận , nhưng từ này ngày càng được sử dụng để miêu tả 1 cuộc đấu khẩu . Một cuộc tranh luận quá gay gắt về bản chất chính là 1 cuộc “ đấu tranh “ ( theo nghĩa không sử dụng cơ thể ) . Việc dùng những lời lăng mạ , những cách nói làm tổn thương lòng tự trọng người khác , sự phản bác , những lời chê bai về địa vị nghề nghiệp , những lời công kích , chế nhạo , tất cả , theo cách riêng của chúng , đều là những hành vi tương đương với sự đấu tranh ( nhưng được sử dụng trong XH hiện đại ) , bởi vì đó đều là những hình thức của sự tấn công . Không cần dùng đến chân tay thì người ta vẫn có thể bộc lộ sự hung hăng qua thế đứng , đôi mắt , cái ưỡn ngực hoặc xâm phạm không gian riêng của người khác . 
- Hành vi sờ cổ xuất hiện khi 1 người có cảm giác khó chịu , ngờ vực hoặc bất an.
- Sờ má hoặc mặt là 1 cách để xoa dịu khi người nào đó có cảm giác bồn chồn tức giận hoặc lo lắng .
- Thở ra đồng thời phồng má lên là 1 cách tuyệt vời để giải tỏa căng thẳng và xoa dịu . Hãy lưu ý là người ta rất thường thực hiện hành vi này sau khi vừa “ thoát nạn “.
- Hành vi lấy tay che hõm cổ giúp làm dịu cảm giác bất an , khó chịu , sợ hãi hoặc lo lắng ở 1 thời điểm nào đó . Hành vi mâm mê vòng cổ cũng thường được thực hiện nhằm mục đích tương tự .
- Hành vi xoa trán thường là 1 dấu hiệu đáng tin cậy cho thấy 1 người đang vật lộn với vấn đề nào đó hoặc đang trải qua cảm giác từ hơi khó chịu đến rất khó chịu . 
- Nếu người ở trạng thái căng thẳng là kẻ nghiện thuốc lá , họ sẽ hút thuốc nhiều hơn ; nếu người đó nhai kẹo cao su , họ sẽ nhai nhanh hơn . Tất cả những hành vi xoa dịu này đều nhằm thỏa mãn 1 nhu cầu của bộ não : bộ não yêu cầu cơ thể thwujc hiện 1 điều gì đó để kich thích các đầu dây thần kinh , giải phóng các chất làm dịu thần kinh trong não ; vì thế bộ não có thể được xoa dịu .
- Các hành vi sờ vào mặt , đầu , cổ , vai , cánh tay , bàn tay hoặc cẳng chân để phản ứng trước 1 tác nhân kích thích tiêu cực đều là hành vi xoa dịu . Những cử chỉ vuốt ve này giúp chúng ta giữ được bình tĩnh khi gặp rắc rối . Đàn ông thích sờ vào mặt , còn phụ nữ thích sờ vào cổ , quần áo , đồ trang sức , cánh tay và tóc .
- Khi nói đến các hành vi xoa dịu , mọi người đều cso nhwuxng sở thích riêng . Một số người lựa chọn việc nahi kẹo cao su , hút thuốc lá , ăn nhiều hơn , liếm môi , xoa cằm , vuốt mặt , mân mê các đồ vật ( bút , son môi hoặc đồng hồ ) , kéo tóc hoặc gãi cảng tay . Đôi khi các hành vi xoa dịu còn được thể hiện tinh vi hơn , vd vuốt vạt áo hay chỉnh lại cà vạt . Có vẻ anh ta chỉ đơn giản là làm đỏm nhưng trên thực tế , anh ta đang làm dịu sự căng thẳng của mình bằng cách đưa cánh ta vắt ngang người và giúp bàn tay có việc gì đó để làm .
- Đàn ông chỉnh lại cà vạt khi có cảm giác bất an hoặc khó chịu . Hành vi này giúp che vùng hõm cổ . 
- Sờ hoặc vuốt cổ là 1 trong những hành vi xoa dịu thường gặp và quan trọng nhất được chúng ta sử dụng để phản ứng lại tình trạng căng thẳng .
- Đàn ông có xu hướng xoa bóp hoặc vuốt cổ để làm dịu sự căng thẳng . Khu vực này có nhiều dây thần kinh , khi được xoa bóp , chúng sẽ làm giảm nhịp tim.
- hành vi che cổ ở đàn ông được thể hiện rõ ràng hơn so với phụ nữ . Ngay cả việc sờ cổ thật nhanh cũng sẽ giúp làm dịu cảm giác lo lắng hoặc khó chịu . 
- Sờ hoặc vuốt mặt là phản ứng xoa dịu thường thấy ở con người để đối phó với tình trạng căng thẳng . Tất cả các động tác như xoa trán , sờ hoặc xoa , liếm môi , dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ kéo hoặc xoa dái tai , vuốt mặt hoặc râu và mân mê tóc được dùng để tự xoa dịu khi đối mặt với tình huống căng thẳng . 1 số người sẽ xoa dịu bằng cách phồng má lên rồi từ từ thở ra . Do có vô số đầu dây thần kinh nên khuôn mặt trở thành khu vực lí tưởng của cơ thể được não rìa lựa chọn để xoa dịu .
- Các hành vi xao dịu bằng âm thanh : Huýt sáo để tự xoa dịu khi đang đi trong 1 khu vực lạ hoặc đi trong bóng tối , hay đi trên 1 con đường vắng . Để cố gắng xoa dịu trong thơi gian bị căng thẳng , 1 số người thậm chí còn nói chuyên 1 mình hoặc nói rất nhanh khi bồn chồn . 1 số hành vi lại kết hợp sự xoa dịu thính giác và xúc giác như gõ nhẹ bút chì hoặc gõ gõ các ngón tay .
- Người ta cũng có thể ngáp quá nhiều khi đnag trong tình trạng căng thẳng .
- Khi căng thẳng hoặc lo lắng , người ta sẽ “ chà “ lòng bàn tay lên đùi để tự xoa dịu . Động tác này thường bị khuất dưới gầm bàn , nhưng lại là 1 dấu hiệu rất chính xác cho thấy người nào đó đang khó chịu hoặc lo lắng .
- Động tác thông khí : Trong động tác này , 1 người ( thường là đàn ông ) đặt những ngón tay của mình ở giữa cổ áo và cổ rồi kéo cổ áo ra xa phần da . Động tác thông khí này thường là 1 phản ứng trước sự căng thẳng và là dấu hiệu đáng tin cậy cho thấy người này không vui với những điều mình đang nghĩ đến hoặc trải qua trong cuộc sống . 1 phụ nữ có thể thực hiện hành vi phi ngôn từ này tinh tế hơn chỉ bằng cách thông khí cho vạt áo hoặc hất tóc phía sau lưng lên không khí để giúp cổ được thông khí . 
- người nào càng căng thẳng thì họ sẽ thực hiện hành vi vuốt mặt hoặc cổ càng nhiều.
- đôi bàn chân nhún nhảy là tín hiệu cho thấy 1 người vô cung tự tin . Tuy nhiên , việc lắc lư bàn chân và đôi chân có thể chỉ đơn giản biểu lộ sự mất kiên nhẫn .
- chúng ta có xu hương xoay người về phía những điều mình thích hoặ khiến mình dễ chịu . Và chúng ta có xu hướng quay đi để khỏi nhìn thấy những điều mình không thích hoặc khiến mình khó chịu .
- Khi một người xoay bàn chân sang phía khác thì đó thường là 1 tín hiệu rút lui , cho thấy họ mong muốn thoát khỏi nơi mình đang ngồi .
- Động tác chuyển hướng bàn chân ;à 1 tín hiệu cho thấy người đó muốn đi .
- Động tác bàn tay ôm đầu gối và chuyển trọng tâm xuống bàn chân là 1 dấu hiệu thể hiện ý định cho thấy 1 người muốn đứng dậy và đi khỏi.
- Những động tác chống lại trọng lực của đôi bàn chân 
- Khi đang có tâm trạng vui vẻ và phấn khởi , chúng ta đi như đnag bước trên không khí . Trọng lực dường như không phải là rào cản đối với những người đang có tâm trạng vui vẻ .
- Khi thích thú 1 điều gì đó hoặc cảm thấy rất lạc quan về tình thế của mình , chúng ta có xu hướng chống lại trọng lực bằng cách làm những động tác như nhảy lên nhảy xuống trên mu tròn của bàn chân hoặc bước đi với bước chân hơi nhún nhảy .
- Khi các ngón chân hướng lên trên thì tín hiệu này thường có nghĩa là người đó đang có tâm trạng vui vẻ , đang suy nghĩ hoặc nghe thấy điều gì đó lạc quan .
- Khi người ta cố gắng kiểm soát các phản ứng của não rìa hoặc các động tác chống lại trọng lực của bản thân , chúng sẽ có vẻ giả tạo . Chúng xuất hiện quá thụ động , thiếu tự nhiên trong tình huống đó hoặc xuất hiện thiếu sinh động . 1 cánh tay giơ lên 1 cách giả tạo để vẫy chào sẽ không dừng lại đột ngột . 
- Những động tác chiếm hữu không gian : hầu hết các động vật có vú và con người đều có biểu hiện chiếm hữu không gian khi đnag có căng thẳng hoặc lo lắng , khi đang bị đe dọa hay ngược lại , đnag đe dọa những con vật khác . Cảnh sát và binh lính sử dụng những hành vi này vì họ đã quen với việc chỉ huy người khác . Đôi khi họ sẽ cố ganh đua với nhau và lúc đó sự việc trở nên khôi hài khi mỗi người đều cố choãi chân rộng hơn đồng nghiệp của mình với 1 ý nghĩ trong tiềm thức là phải nỗ lực chiếm nhiều không gian hơn .
- Khi người ta nhận thấy mình đangg rơi vào những tình huống đối đầu , chân và bàn chân họ sẽ choãi rộng ra . Họ thực hiện hành vi này không chỉ để giữ thăng bằng tốt hơn mà còn để khẳng định mình chiếm nhiều không gian hơn . Khi 2 người kết thúc cuộc gặp trong tình trạng bất đồng ý kiến , bạn sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy họ bắt chéo chân đến mức bị mất thăng bằng. 
- nếu quan sát thấy 2 bàn chân của 1 người chuyển từ tư thế đặt cạnh nhau sang tư thế mở rộng ra 2 bên , bạn có thể thật sự tin rằng người này đang ngày càng trở nên buồn bực . Tư thế “ làm chủ không gian “ này rõ ràng truyền tải thông điệp :” có điều gì đó không ổn và tôi sẵ sàng giải quyết nó “...người đó có nguy cơ nổi cơn thịnh nộ . 
- Tầm quan trọng của không gian đối với loài người và các loài động vật khác : chúng ta càng có ưu thế về địa vị , kinh tế xã hội thì chúng ta càng đòi hỏi không gian rộng hơn . Những người có xu hướng chiếm nhiều không gian ( lãnh thổ ) hơn trong các hoạt động hàng ngày thường tự tin hơn , bạo dạn hơn và dĩ nhiên là có nhiều khả năng hơn trong việc đạt đến địa vị cao hơn . 
- Tất cả chúng ta rất có ý thức bảo vệ không gian riêng của mình , bát kể nó rộng hay hẹp . Chúng ta không thích người khác đứng quá gần mình . 
- Chúng ta thường bắt chéo chân khi cảm thấy thoải mái . Nếu 1 người mà ta không thích đột ngột xuất hiện thì ta sẽ buông chân .
Khi bạn bắt chéo 1 chân trước mặt người khác trong lúc đang đứng , trạng thái thăng bằng của bạn bị giảm đáng kể . Xét về khía cạnh an toàn , nếu có 1 mối đe dọa thực sự , bạn không thể đứng yên dễ dàng cũng không thể bỏ chạy bởi trong tư thế đó , về cơ bản bạn chỉ giữ thăng bằng treen1 chân . Do đó , não rìa cho phép chúng ta thực hiện hành vi này chỉ khi chúng ta cảm thấy thoải mái hoặc tự tin . Giả sử 1 người đang đứng 1 mình trong thang máy , 1 chân bắt chéo lên chân kia . Nếu có người lạ bước vào thang máy , cô ta sẽ buông chân ngay lập tức và đứng bằng cả 2 chân thật vững vàng trên sàn . Với tín hiệu này , não rìa đang truyền đi thông điệp :” không thể phó thác cho sự may rủi ; có thể cô phải đối mặt với 1 mối đe dọa tiềm ẩn hoặc 1 vấn đề rắc rối ngay bây giờ , vì thế hãy đặt 2 bàn chân thật vững trên sàn .”
- Nếu 2 người đang nói chuyện với nhau và cả 2 đều bắt chéo chân , thì đây là 1 tín hiệu cho thấy họ rất thoải mái khi giao tiếp với nhau .”
- Khi 1 người nói chuyện với bạn mà bàn chân họ lại hướng sang phía khác thì đây là 1 dấu hiệu đáng tin cậy cho thấy họ muốn đi nơi khác . Hãy quan sát những người có lời lẽ không thân mật và đang ở trong tư thế này , bởi đây là 1 hình thức thể hiện sự xa lánh .
- Khi ai đó đang đứng cạnh 1 kẻ đáng ghét hoặc 1 người mà mình không thích , thân trên của anh ta sẽ xoay ra xa kẻ đó.
- Người ta ngả người về phía nhau khi cảm thấy vô cùng thoải mái và có sự nhất trí cao độ . Hành vi bắt chước này xuất hiện khi chúng ta còn bé.
- Khi 1 người đột ngột khoanh tay trong lúc đang nói chuyện thì có thể đó là tín hiệu cho thấy anh ta cảm thấy khó chịu.
- Khi khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần , chúng ta sẽ quan tâm đến vẻ ngoài của mình và vì vậy làm đỏm cũng như tự chải chuốt cho mình .
- Ngả người về phía sau là 1 biểu hiện khẳng định không gian riêng.
- Động tác hơi nhún vai báo hiệu sự thiếu quả quyết hoặc bất an.
- Vai nhô lên về phía tai tạo nên hình ảnh “ rùa rụt cổ “ : nó gửi đi thông điệp về sự yếu đuối , bất an và những cảm xúc tiêu cực . Động tác này gợi ta nhớ đến hình ảnh các vận động viên bại trận trên đường trở về phòng thay quần áo .
- Khi vui vẻ , chúng ta không hạn chế các cử động của cánh tay ; thực ra chúng ta có xu hướng tự nhiên là chống lại trọng lực và đưa cánh tay lên cao quá đầu . Khi 1 người thực sự tràn trề sinh lực và hạnh phúc , cánh tay của họ sẽ thực hiện động tác chống lại trọng lực . Các hành vi chống lại trọng lực có liên quan đến những cảm xúc tích cực . Khi 1 người cảm thấy thoải mái , tự tin , anh ta sẽ vung vẩy cánh tay 1 cách dứt khoát ,chẳng hạn trong lsuc đang bước đi . Chính những người có cảm giác bất an thường kiềm chế cánh tay của mình theo tiềm thức , dường như họ không thể chống lại sức nặng của trọng lực .
- Sự hạn chế các cử động của cánh tay hay còn gọi là sự bất động của cánh tay , đặc biệt khi điều này xuất hiện ở trẻ em , đôi khi có thể ẩn chứa những thông điệp đáng sợ hơn . Khi nghiên cứu những dấu hiệu cho thấy sự ngược đãi trẻ em , người ta rút ra kinh nghiệm sau : những đứa trẻ này sẽ hạn chế các cử động của cánh tay khi có mặt những người cha , người mẹ ngược đãi chúng hoặc những kẻ nguy hiểm khác . Điều này giúp bản năng sinh tồn trở nên hoàn thiện bởi tất cả các loài động vật , đặc biệt là thú ăn thịt , thường chú ý đến những mục tiêu chuyển động . Theo bản năng , đứa trẻ bị ngược đãi biết rằng nó càng cử động thì càng có khả năng bị chú ý và sẽ có nguy cơ trở thành mục tiêu của kẻ ngược đãi . Hệ não rìa của đứa trẻ sẽ tự điều chỉnh để đảm bảo rằng 2 cánh tay của nó không thu hút sự chú ý .
- Hành vi cháp tay sau lưng có nghĩa là “ đừng đến gần tôi “ , đôi khi nó còn được gọi là “tư thế vương giả “ . Bạn sẽ thấy những người trong hoàng gia sử dụng hành vi này để giữ khoảng cách với mọi người .
- Chúng ta cảm thấy buồn lòng khi bị khước từ sự đụng chạm . Khi đưa tay ra để chạm vào người khác mà không được đáp lại , chúng ta sẽ cảm thấy bị hắt hủi và thất vọng . Sự đụng chạm rất quan trọng đối với sức khỏe con người . Người ta cho rằng sức khỏe , tâm trạng , sự phát triển trí tuệ và thậm chí tuổi thọ bị ảnh hưởng bởi số lần chúng ta chạm vào người khác và tần suất của sự đụng chạm tích cực . Nghiên cứu cho thấy chỉ cần vuốt ve 1 chú chó cũng khiến nhịp tim của 1 người giảm xuống và cử chỉ này có tác dụng như 1 liều thuốc giảm đau . Có lẽ điều này đúng bởi các con vật nuôi thường mang đến cho chúng ta tình yêu thương vô điều kiện đến mức chúng ta không bao giờ phải lo lắng về việc đáp lại .
- Chúng ta đưa tay về phía những vật mình thực sự thích và giữ khoảng cách với những vật mình không thích . Nếu đưa cho ai đó 1 miếng tã bẩn để vứt đi , bạn sẽ thấy phản ứng xảy ra ngay tức khắc là người đó dùng rất ít ngón tay ( càng ít càng tốt ) để cầm nó và giữ cho cánh tay xa cơ thể . Chẳng ai dạy ta làm điều đó . Nhưng tất cả chúng ta đều làm được bởi não rìa đã hạn chế sự tiếp xúc với các đồ vật gây khó chịu, mất vệ sinh hoặc nguy hiểm đối với chúng ta.
- những người tự tin hoặc có địa vị cao sẽ dùng 2 cánh tay để chiếm nhiều không gian hơn những người kém tự tin hoặc có địa vị thấp . VD 1 người đàn ông đầy quyền lực có thể đặt cánh tay quanh thành ghế để mọi người biết rằng đây là lãnh địa của anh ta ; hoặc trong lần hẹn hò đầu tiên , anh ta có thể tự tin quàng 1 cánh tay qua vai 1 phụ nữ như thể cô ấy thuộc về mình . 
- 2 tay chống nạnh là hành vi xâm chiếm không gian được sử dụng để khẳng định vị thế và tạo ra 1 hình ảnh quyền uy , hoặc để thông báo rằng giữa mọi người đang có “ vấn đề “.
- Động tác đan 2 bàn tay sau đầu là 1 dấu hiệu thể hiện sự thoải mái và quyền lực . Thông thường , những người có địa vị cao trong cuộc họp sẽ có tư thế “ che đầu “ như vậy .
- Cánh tay dang rộng và đặt lên thành ghế như muốn nói với cả thế giới rằng bạn đang cảm thấy tự tin và thoải mái.
- Các đầu ngón tay choãi rộng và chống lên mặt bàn là 1 động tác khẳng định không gian quan trọng . Nó thể hiện sự tự tin và quyền uy của 1 người . 
- Ở khắp nơi trên thế giới , người ta thường phô trương sự giàu có bằng việc đeo những đồ vật hoặc trang sức quý giá trên cánh tay . Nam giới sẽ đeo những chiếc đồng hồ đắt tiền để thể hiện địa vị kinh tế xã hội hoặc mức độ giàu có của mình .
- Khi đến gần 1 người lạ trong lần gặp đầu tiên , bạn hãy thử thể hiện thái độ nồng nhiệt bằng cách thả lỏng 2 cánh tay , tốt nhất là để lộ thân trên và thậm chí là lòng bàn tay sao cho người đó có thể nhìn thấy rõ . Đây là 1 cách hiệu quả giúp bạn gửi đến hệ não rìa của họ thông điệp sau :” xin chào , tôi là người vô hại “. Nó giúp các bạn nói chuyện với nhau dễ dàng hơn.
- Khi nói chuyện trực tiếp với người nào đó , hãy luôn bảo đảm rằng họ nhìn thấy đôi tay của bạn , nếu không họ sẽ nghi ngờ bạn . Và nếu bạn đã từng nói chuyện với ai đó mà người này để tay dưới gầm bàn thì chắc chắn bạn sẽ nhanh chóng cảm thấy cuộc nói chuyện không được thoải mái . Khi giao tiếp với người khác , chúng ta luôn muốn nhìn thấy đôi tay của họ , bởi bộ não xem đôi tay như 1 phần không thể thiếu của quá trình giao tiếp . Khi người khác không nhìn thấy tay bạn hoặc bạn ít bộc lộ cảm xúc qua đôi tay thì điều này sẽ làm giảm giá trị và tính chân thực của các thông tin được trao đổi qua lại .
- Chỉ tay vào người khác là 1 trong những cử chỉ xúc phạm nhất mà con người thực hiện . Cử chỉ này mang ý nghĩa tiêu cực trên khắp thế giới .
- Chải chuốt cho bản thân là điều có thể chấp nhận được , nhưng bạn hãy tránh thực hiện hành vi này khi người khác đang nói chuyện với bạn vì đây là 1 dấu hiệu cho thấy sự thiếu tôn trọng người khác .
- Trong 1 mối quan hệ , tần suất thực hiện các hành vi chải chuốt giữa những người yêu nhau chính là cơ sở đáng tin cậy cho thấy sự hòa hợp và mức độ thân mật giữa họ .
- Hành vi cắn móng tay được cho là dấu hiệu của sự bất an hoặc căng thẳng.
- Động tác chắp tay hình tháp chuông : thể hiện sự tự tin cao độ , cho thấy bạn tin tưởng vào suy nghĩ và quan điểm của mình . . Nó giúp người khác biết chính xác cảm nhận của bạn về việc gì đó và sự tâm huyết của bạn đối với quan điểm của mình . Những người có địa vị cao thường sử dụng động tác này như 1 phần trong chuỗi hành vi thường ngày vì họ tin tưởng vào bản thân và địa vị của họ .
- Siết chặt bàn tay là 1 cách phổ biến để thể hiện rằng chúng ta đang căng thẳng hay lo lắng.
- Phụ nữ thường chắp tay dưới gầm bàn hoặc để tay ở vị trí rất thấp , điều này làm giảm sự tự tin vốn có của họ .
- Thò ngón tay cái ra ngoài túi áo là động tsac thường dược thấy ở những người có địa vị cao . Nó thể hiện rằng họ rất tự tin .
- khi 1 người giơ ngón tay cái lên thì đó là dấu hiệu cho thấy họ đang đề cao bản thân hoặc tin tưởng vào những suy nghĩ hay hoàn cảnh hiện tại của mình .
- khi 1 người ( thường là nam giới ) đút ngón tay cái vào túi quần và để lộ các ngón còn lại ở 2 bên hông thì điều này có thể chứng tỏ họ có cảm giác tự ti .
- đôi khi nam giới , từ trong vô thức , sẽ móc ngón tay cái vào bên trong cạp quần ( từ cả 2 bên khóa kéo ) vè kéo quần lên hoặc thậm chí còn để ngón cái ở vị trí đó , vì các ngón tay đung đưa là cách để họ khẳng định giới tính . Động tác khẳng định giới tính là động tác rất hiệu quả trong việc thể hiện ưu thế của bản thân . 
- Nghiên cứu chỉ ra rằng những người nói dối có xu hướng ít làm các điệu bộ hơn , ít thực hiện các hành vi đụng chạm hơn và ít cử động tay chân hơn so với những người trung thực . Bởi vì khi đối mặt với 1 mối đe dọa ( trong trường hợp này là việc nói dối bị phát hiện ) , chúng ta ít di chuyển hơn hoặc đứng im nhằm tránh thu hút sự chú ý . Hành vi này thường rất dễ nhận ra trong cuộc trò chuyện , bởi cánh tay của 1 người có khuynh hướng bị kìm giữ và không cử động khi họ nói dối nhưng lại rất linh động khi họ nói thật.
- Việc đan các ngón tay vào nhau là 1 dấu hiệu rất chính xác thể hiện sự căng thẳng tột độ .
- Những cảm xúc hạnh phúc mà chúng ta thật sự trải qua và không thể kìm nén sẽ được phản ánh qua khuôn mặt và vùng cổ . Khi ta có những cảm xúc tích cực , các nếp nhăn trên trán sẽ giãn ra , các cơ quanh miệng được nới lỏng , đôi môi trở nên đầy đặn ( chứ không mím chặt ) và đôi mắt mở to vì các cơ xung quanh được thư giãn . Khi ta thật sự thoải mái thì các cơ trên khuôn mặt sẽ giãn ra và đầu ta nghiêng sang 1 bên , để lộ vùng dễ bị tổn thương nhất – cổ .Và đây là hành vi mà ta gần như không thể bắt chước được khi cảm thấy khó chịu , căng thẳng , ngờ vực hoặc bị đe dọa .
- Nếu ta thích những thứ mình nhìn thấy , đồng tử của ta sẽ giãn ra ; còn nếu ta không thích , đồng tử sẽ co lại .
- Nhắm mắt hoặc lấy tay che mắt là 1 cách hiệu quả để chuyển tải thông điệp :” tôi không thích những gì mình vừa nghe , thấy hoặc biết .”
- Hành vi chạm tay lên mắt thật nhanh trong 1 cuộc nói chuyện có thể là manh mối tiết lộ cho bạn biết rằng người nào đó có nhận định tiêu cực về vấn đề đang được thảo luận .
- Nhắm mắt tạm thời khi nghe 1 thông tin nào đó hoặc nhắm mắt 1 lúc lâu là dấu hiệu thể hiện những cảm xúc tiêu cực hoặc thái độ không hài lòng .
- Khi người nào đó nhắm mắt thật chặt thì có nghĩa là họ đang cố gắng chối bỏ hoàn toàn 1 tin xấu hoặc sự kiện không hay nào đó .
- hành vi nhướng mày lên : dấu hiệu chắc chắn cho thấy người đó đang có những cảm xúc tích cực.
- Khi chúng ta cảm thấy hài lòng , đôi mắt ta như giãn và chỉ hơi căng ra 1 chút .
- Hành vi mở mắt sáng rực có thể xuất hiện khi chúng ta cảm thấy phấn khích khi nhìn thấy ai đó hay khi lòng ta đầy ắp những cảm xúc tốt đẹp mà ta không thể kìm nén được.
- Khi chúng ta nhìn thẳng vào mắt người khác thì điều đó có nghĩa là chúng ta thích họ , tò mò về họ hoặc muốn đe dọa họ .
- Khi trò chuyện với bạn bè , ta thường xuyên nhìn đi chỗ khác vì cảm thấy thoải mái khi làm như vậy ; lúc đó não rìa nhận thấy không có mối đe dọa nào từ người này . Vì vậy , đừng đánh giá 1 người nào đó đang lừa dối , thiếu quan tâm hoặc bực dọc chỉ vì họ nhìn đi chỗ khác . Khi nhìn đi chỗ khác , ta sẽ hình dung rõ hơn 1 ý nghĩ nào đó , và đó là lí do khiến ta thwucj hiện hành vi này .
- Trong nhiều nền văn hóa , người ta được dạy là phải nhìn xuống đất hoặc nhìn đi chỗ khác khi có sự hiện diện của cấp trên hoặc người có quyền thế . Trẻ con cũng thường được dạy phải nhìn xuống 1 cách nhún nhường khi bị cha mẹ hoặc người lớn phạt . Trong những tình huống gây lúng túng , nguwofi nghe có thể nhìn đi chố khác vì phép lịch sự đòi hỏi như vậy . Vì những lí do trên , bạn đừng bao giờ kết luận rằng hành vi nhìn chằm chằm và hướng xuống là dấu hiệu của sự lừa dối .
- Trong tất cả những nền văn hóa nơi mà hành vi nói trên được nghiên cứu , giới khoa học thừa nhận rằng những người có địa vị cao thường thoải mái hơn khi thực hiện hành vi nhìn chằm chằm . Về cơ bản , họ có quyền nhìn bất cứ chỗ nào mình muốn . Tuy nhiên , những người có địa vị thấp lại bị hạn chế hơn về phạm vi nhìn cũng như thời điểm nhìn . Sự khiêm nhường khiến người ta phải cúi đầu trước sự hiện diện của những thành viên thuộc hoàng gia , chẳng hạn trong nhà thờ . Như 1 qui luật phổ biến , những người có địa vị cao thường không nhìn những người có địa vị thấp , trong khi đó những người có địa vị thấp thường nhìn chằm chằm vào nguwofi có địa vị cao từ xa . Nói cách khác , những người có địa vị cao có thể tỏ ra thơ ơ , còn những người có địa vị thấp được yêu cầu phải chú ý bằng cách nhìn chằm chằm . Tóm lại , 1 vị vua có thể nhìn bất cứ người nào mình muốn nhưng tất cả thần dân đều phải hướng mắt về phái nagfi , ngay cả khi họ lùi bước cáo từ .
- Nhiều nhà tuyển dụng cho rằng trong 1 cuộc phỏng vấn , họ rất ghét những ứng cử viên nào cứ đảo mắt khắp phòng “ như thể mình là chủ ở đây vậy “ . Bởi việc đảo mắt nhìn khắp nơi sẽ khiến 1 người trông thờ ơ hoặc trịch thượng , và hành vi này luôn để lại ấn tượng xấu . 
- Chúng ta chớp mắt nhiều hơn khi bị kích động , khi cảm thấy khó chịu , căng thẳng hoặc lo lắng ; và ta sẽ chớp mắt bình thường khi cảm thấy thoải mái .
- Chúng ta lườm người khác khi ta nghi ngờ hoặc không vững tin vào họ .
- Khi ai đó mím môi thì nguyên nhân thường là do căng thẳng hoặc lo lắng .
- hãy chú ý rằng đôi môi đầy đặn thường là dấu hiệu cho thấy người nào đó cảm thấy hài lòng.
- Khi mím môi thật chặt và 2 khóe miệng bị kéo xuống thì điều này có nghãi là các cảm xúc và lòng tự tin của 1 người đang giảm sút trong khi sự căng thẳng và lo lắng lại tăng lên .
- Chúng ta bĩu môi hoặc chẩu môi khi không đồng ý với điều gì đó hay người nào đó , hoặc khi ta đang nghĩ đến 1 giải pháp khả thi .
- Cái nhếch mép thoáng qua thể hiện thái độ thiếu tôn trọng hoặc khinh miệt . Nó gửi đi thông điệp :” tôi không quan tâm đến anh hay suy nghĩ của anh .”
- Liếm môi là hành vi xoa dịu , nó giúp bạn bớt căng thẳng và trấn tĩnh lại . Bạn có thể thấy nó trong lớp học ngay trước giờ kiểm tra.
- Người ta thè lưỡi khi bị bắt quả tang đang làm 1 việc mà mình không nên làm , khi làm việc gì đó rất kém hoặc khi thoát nạn . Hành vi này chỉ xuất hiện thoáng qua.
- Hành vi nhăn trán là dấu hiệu giúp bạn dễ dàng kết luận người nào đó đang khó chịu hoặc lo lắng . Bạn hầu như không nhìn thấy hành vi này khi người ta hạnh phúc và thỏa mãn .
- Chúng ta chun mũi lại để thể hiện thái độ không thích hoặc ghê tởm .
- Câu tục ngữ “ hãy ngước cằm lên “ là lời khuyên dành cho nhwuxng người đang trong tâm trạng buồn nản hay đang gặp những chuyện không may . Câu tục ngữ phổ biến này phản ánh chính xác phản ứng của não rìa trước nghịch cảnh . 1 người hướng cằm xuống bị xem là thiếu tự tin và đang có những cảm xúc tiêu cực , trong khi 1 người ngước cằm lên được đánh giá là đang có tâm trạng tích cực . 
( Tham khảo ở sách Ngôn ngữ nữ cơ thể cuủa Allan và Barbara Pease)ìm hiểu "đồng tính luyến ái"  Nguồn: http://www.boyvn.com/index.php?op=timhie...a5e14ef73c

------------------------------

Tìm hiểu về đồng tính luyến ái

"Đồng tính luyến ái là hiện tượng những người cùng giới có quan hệ tình dục với nhau" - Đại từ điển Tiếng Việt 

Những biểu hiện bên ngoài : Thích những người đồng giới và thể hiện rất rõ thái độ không thích những người khác giới. 

Ở phương diện y học, đồng tính luyến ái chia làm 2 loại : 
Đồng tính luyến ái thật: là những người có rối loạn các chất nội tiết tố hoặc cơ quan sinh dục bị dị hình. 
Đồng tính luyến ái giả : không có những rối loạn thực tế như đồng hính luyến ái thật mà do yếu tôt tâm lý, do sự rủ rê lôi kéo của bạn bè 

Ở những người bị đồng tính luyến ái thật, người ta dùng phương pháp điều chỉnh các chất nội tiết tố hay chỉnh hình cơ quan sinh dục. 
Ở những người đồng tính luyến ái giả, người ta dùng những biện pháp tâm lý để điền trị như : thay đổi nếp sống, cách nhìn và môi trường sống. 

Đồng tính luyến ái (ĐTLA) là một hiện tượng đã có từ lâu trong lịch sử, ở tất cả các nước. ĐTLA là yêu thương, có quan hệ tình dục với người cùng giới, xảy ra ở người đã trưởng thành. Nam với nam thì gọi là pédérastie (gọi tắt là pêđê hoặc gay), nữ với nữ gọi là lesbian. Không nên nhầm mại dâm nam là ĐTLA. Thực tế những người bán dâm làm việc này để kiếm tiền chứ không phải yêu thương tự nhiên Theo các điều tra khoa học, tỷ lệ ĐTLA ở một số nước như Mỹ, Pháp, Đức... là 1-2%. Ở Việt Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này và trước đây nó ít được nhắc tới. Gần đây, báo chí, phim ảnh đề cập nhiều hơn đến ĐTLA, gây cảm giác là hiện tượng này đang gia tăng. 

Hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân gây ĐTLA là gì. Có một số giả thiết cho rằng tình trạng này mang tính bẩm sinh hoặc liên quan đến rối loạn nội tiết, vấn đề tâm lý, thần kinh, môi trường, xã hội... Người ta đã tìm thấy một vài chất nội tiết có tỷ lệ bất thường ở người ĐTLA, nhưng cũng có những ý kiến bác bỏ. Hoàn toàn chưa có cơ sở khoa học để kết luận ĐTLA là một bệnh. Hoàn cảnh sống, môi trường xã hội, ảnh hưởng của bạn bè góp phần làm cho ĐTLA thể hiện rõ hơn. Tốt nhất là nên tránh giao du quá thân mật với người ĐTLA, đừng để ai tiếp xúc dễ dàng. Nếu có bức xúc, lo lắng, cần trình bày, hỏi ý kiến người lớn, thầy thuốc tâm lý, tình dục học... Cũng không nên khinh bỉ, xa lánh người ĐTLA. Nếu thật sự tự thấy mình có khuynh hướng này, cần bình tĩnh tìm hiểu, tham vấn để tự đề ra cách sống hợp lý nhất. Vì không phải là bệnh nên cũng chẳng có thuốc để chữa. 

Trong quan hệ tình dục, đa số nhân loại có quan hệ với người khác giới tính, nam đến với nữ và nữ cũng chỉ chấp nhận nam. Nhưng có một số nhỏ (3%) lại có quan hệ với người đồng giới tính mà thường gặp nhất là nam - nam. 

Điều quan trọng trước hết cần nắm rõ là hiện nay y học không xem đồng tính luyến ái (homosexuality) là bệnh. Họ không bị tâm thần, không loạn dâm như nhiều người nghĩ, không bị thiếu testosterone. Cũng không phải vì hồi nhỏ những đứa trẻ đó được cha mẹ cho mặc đồ con gái hay do tính tình có vẻ ẻo lả, thích chơi trò con gái mà sau này lớn lên thành "gay". Y học chưa rõ vì sao, có giả thiết cho rằng đó là do biến đổi của gene khiến trung tâm nhận diện đối tượng tình dục ở não của những người này chỉ tiếp nhận hình ảnh của người cùng giới tính. 

Do không phải là bệnh nên không có thuốc gì để chữa trị. Hoàn toàn không nên dùng testosterone cho những người này, vì thuốc chẳng những không có tác dụng nào mà còn có thể gây hại. Răn đe, cấm đoán chỉ vô ích; càng không nên ép buộc phải có bạn gái, lấy vợ. Những người đồng tính luyến ái thực thụ thường kín đáo, rất nhạy cảm. Bạn nên chấp nhận . 

Tình dục đồng giới (TDĐG) có phải là một bệnh tinh thần hoặc có vấn đề về đời sống tình cảm không? 

Không. Các nhà tâm lý, tâm thần và các chuyên gia về sức khỏe tinh thần đều thống nhất rằng TDĐG không phải là một bệnh - rối loạn tinh thần hay có vấn đề về cảm xúc. Nhiều công trình nghiên cứu khách quan trong 35 năm qua đã chứng minh rằng XHTD đồng giới không phối hợp với những vấn đề về cảm xúc và xã hội. 

Năm 1973, Hội tâm thần học Mỹ đã khẳng định tầm quan trọng của những nghiên cứu mới bằng cách không để TDĐG vào danh sách các bệnh về tình cảm và tinh thần. Năm 1975 Hội Tâm lý Mỹ cũng đã thông qua một nghị quyết ủng hộ chủ trương nói trên. TDĐG không được xếp vào danh sách các bệnh tinh thần hay rối loạn tình cảm. Cả hai Hội đều yêu cầu các chuyên gia về sức khỏe tinh thần tham gia vào việc xóa bỏ cái tiếng xấu đã từng một thời gán cho TDĐG là bệnh tinh thần. 

Những người TDĐG nam hay nữ có thể là những bậc cha mẹ tốt không? 

Có. Đã có nhiều công trình nghiên cứu so sánh những đứa trẻ do các bậc cha mẹ TDĐG nuôi dạy với những đứa trẻ do các bậc cha mẹ có xu hướng tính dục khác giới nuôi dạy thì thấy không có sự khác biệt nào giữa 2 nhóm trẻ này về mặt chỉ số thông minh, điều chỉnh tâm lý - xã hội, chan hòa với bạn bè, phát triển giới tính, bản sắc giới và XHTD. Cũng còn có một sự ngộ nhận nữa cho rằng người TDĐG nam có xu hướng nhiều hơn những người nam bình thường về mặt quấy rối tình dục trẻ em. Thật ra chưa có bằng chứng nào về mặt này. 

Tại sao một số người TDĐG công khai nói về XHTD của họ? 

Vì được chia xẻ với người khác cũng là điều rất cần thiết cho sức khỏe tinh thần, để không bị dồn nén. Quá trình phát triển bản sắc ở những người TDĐG nam và nữ, thường được gọi là quá trình bộc lộ, có liên hệ mật thiết với sự điều chỉnh tâm lý - những người TDĐG nam hoặc nữ càng khẳng định bản sắc của mình thì càng có sức khỏe tinh thần tốt hơn và có sự tự tin hơn. 

Tại sao "quá trình bộc lộ" lại khó khăn đối với một số người TDĐG? 

Vì những định kiến sai lầm của cộng đồng đối với họ, làm cho quá trình bộc lộ của họ có thể trở nên rất khó khăn, đến mức đau đớn, khắc khoải, thậm chí bế tắc muốn tự tử. Những người TDĐG nam nữ thường cảm thấy cô đơn khi lần đầu tiên có ý thức về sự hấp dẫn đối với người cùng giới của mình. Họ cũng lo sợ bị gia đình, bè bạn và cả tôn giáo của mình xa lánh nếu họ bộc lộ ra. 

Ngoài ra, những người TDĐG cũng thường là đối tượng để xã hội kỳ thị và đàn áp. Sự đe dọa này là trở ngại chính để cho những người TDĐG không phát triển được. Năm 1989, khảo sát ở Mỹ cho thấy 5% những người TDĐG nam và 10% những người TDĐG nữ cho biết là họ đã bị lạm dụng về thân thể hoặc bị tấn công do tình trạng tính dục của họ, 47% cho biết đã từng phải chịu một hình thức kỳ thị nào đó trong cuộc đời. Nhiều công trình điều tra khác cũng cho những tỷ lệ tương tự về sự kỳ thị và tấn công. 

Làm gì để giúp những người TDĐG vượt qua những thành kiến và kỳ thị? 

Những người biểu lộ thái độ dung nạp với hành vi TDĐG là những người hiểu rõ về một số người này. Do đó, các nhà tâm lý cho rằng thái độ không dung nạp là thái độ không dựa trên cơ sở thực tế mà chỉ dựa trên những định kiến. 8 bang của Mỹ đã có luật cấm kỳ thị đối với các xu hướng tình dục khác nhau. 

Có liệu pháp nào có thể thay đổi được XHTD không? 

Không. Mặc dù XHTD đồng giới không phải là một bệnh tâm thần và không có lý do khoa học nào khiến phải tìm cách biến những người TDĐG nam hay nữ thành những người có hành vi tình dục khác giới, một số người cũng tìm cách thay đổi XHTD của chính mình hoặc của người khác (ví dụ bố mẹ tìm cách chữa trị để thay đổi XHTD của con cái). Một số người làm công việc điều trị để thay đổi XHTD này báo cáo là họ đã thay đổi được XHTD cho khách hàng của họ (từ chỗ có hành vi tình dục đồng giới đã chuyển sang hành vi tình dục khác giới) nhưng xem xét kỹ những báo cáo của họ thấy rằng có nhiều yếu tố đáng ngờ: họ thuộc về những tổ chức có quan điểm duy ý chí đối với XHTD chứ không phải là những nhà nghiên cứu về sức khỏe tâm thần, cách điều trị và kết quả không có bằng chứng cụ thể, thời gian theo dõi khách hàng sau điều trị còn quá ngắn. Năm 1990, Hội tâm lý Mỹ đã tuyên bố rằng các bằng chứng khoa học cho thấy việc thay đổi XHTD không đem lại hiệu quả và có hại nhiều hơn có lợi. Thay đổi XHTD của một người không chỉ đơn thuần là thay đổi hành vi tính dục của người đó mà còn phải thay đổi cả cảm xúc, cảm nhận về bản thân và giới tính của họ. Mặc dầu một số nhà nghiên cứu về sức khỏe tâm thần cố gắng thay đổi XHTD nhưng nhiều nhà khoa học khác đã đặt vấn đề về đạo lý của những công việc đó, tại sao lại phải thay đổi một tính cách không phải là một rối loạn và rất quan trọng cho bản sắc của một con người. Không phải tất cả những người TDĐG nam nữ tìm đến với trị liệu pháp là muốn thay đổi XHTD của họ mà họ muốn được tư vấn như mọi người khác: được giúp đỡ về mặt tâm lý để có thể bộc lộ hoặc để vượt qua những thành kiến, kỳ thị và bạo lực. 

Tại sao cộng đồng cần hiểu biết hơn về TDĐG? 

Mọi người cần có hiểu biết hơn về các XHTD và TDĐG để giảm bớt những kỳ thị và thành kiến. Những thông tin chính xác về TDĐG là cần thiết cho giới trẻ để họ xác định bản sắc tính dục của họ. Có người lo ngại nếu tiếp xúc với những thông tin về TDĐG sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành XHTD, những lo ngại này hoàn toàn không có căn cứquot;Đồng tính đồng ái!" Bạn nghĩ sao?  Nguồn: http://www.talawas.de/

***

Ý Nhi

[size=14px]Ðồng tính đồng ái[/size]

Nắm tay, quàng vai, bá cổ, gác chân, dung dăng, dung dẻ, chăm sóc một người đồng giới tính mà được vui vẻ chấp thuận thì gọi là tình bạn thắm thiết. 

Nắm tay, quàng vai, bá cổ, gác chân, dung dăng, dung dẻ, chăm sóc một người đồng giới tính mà bị xa lánh, hắt hủi, kinh tởm thì gọi là đồng tính luyến ái. 

Kỳ thị đồng tính luyến ái đối với tôi vô lý như là chuyện anh da trắng ghét cay ghét đắng người da vàng bởi vì cặp mắt của họ sao mà ti hí, da của họ sao mà vàng bủn, mũi của họ sao mà tẹt dí... những đặc điểm rất thân thương đối với tôi. Ghét là cái lưng lót đường cho quyền lực, là cái thùng rác để trút những bực tức trong đời, là sự sợ hãi do kiến thức hạn hẹp. 

Từ thuở nào đến giờ trong trời đất xảy ra biết bao là sự kiện, riêng nhà sinh vật học Bruce Bagemihl đã dành 750 trang để ghi chép lại hành vi đồng tính luyến ái của 450 loại động vật trong cuốn “Biological Exuberance”. Vào mùa hè, bọn cá voi sát thủ (killing whale) dành một phần mười thời giờ cho sinh hoạt đồng tính luyến ái, và bọn hải mã đực thì cứ đù khú giao cấu với nhau. Bọn hươu cao cổ đực có cạ cổ, gợi dục, với nhau hơn là với các con cái, thì đó là chuyện rất bình thường. Lại có những cặp ngỗng mái xin tinh trùng của anh ngỗng đực nào đó, rồi tách riêng ra để cùng nhau ấp trứng và nuôi con. Giống kỳ nhông Cnemidophorus thì hoàn toàn thiếu mặt của con đực; tất cả đều mang bộ phận sinh dục cái, làm hành động giao hợp giả, và tự sanh những đứa con giống mình như đúc. Bagemihl nhận xét đồng tính luyến ái xảy ra trong bốn trường hợp: quan hệ tình dục, bày tỏ tình cảm, đồng dưỡng, và liên kết bầy đàn. Trong trường hợp cây cỏ, phần đông nở hoa hoàn chỉnh, gồm hai bộ phận sinh dục nam và nữ - nhị và nhụy - ví dụ như hoa hồng, hoa đinh hương, táo, mận, v.v.. Những loại cây như bạch dương và thông đều là lưỡng tính, cả hai loại hoa đực và hoa cái cùng xuất hiện trên một cây. Thế giới này lại có những câu chuyện kỳ lạ như cây củ cải hoang, còn được gọi là củ cải Ấn độ, bắt đầu cuộc đời bằng giới tính nam. Hai năm sau, hoặc khi được dời qua vùng đất màu mỡ, chúng chuyển sang giới tính nữ và đơm hoa kết nụ. Nếu chẳng may môi trường thay đổi đột ngột, chúng sẽ nhanh chóng biến thành cây củ cải đực trở lại. 

“Nguyên nhân của đồng tính luyến ái” là một câu hỏi rối rắm chẳng thua gì câu hỏi “Ðàn ông đàn bà từ đâu ra?” hoặc “Từ một ông Adam và một bà Eva, tại sao con cháu của họ lại đen vàng trắng đỏ khác nhau?”. Hỏi ông Freud thì ông ấy sẽ nheo mắt trả lời đấy là vấn đề tâm lý, khó hiểu lắm. Ðại khái Freud cho rằng khởi đầu tất cả trẻ con là lưỡng tính và chúng trải qua nhiều giai đoạn sinh lý để rồi cuối cùng đi đến giai đoạn tình dục khác giới tính. Hai giai đoạn đầu quanh quẩn cái mồm và hậu môn. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn “chim chóc” mà đứa bé trai sẽ mãi mê khám phá cảm giác kỳ diệu của bộ phận mình. Nếu không tiếp tục phát triển, đồng tính luyến ái sẽ dừng ngay đây và dục vọng sẽ được chuyển sang người đồng phái khác. Hỏi khoa học gia như Deborah Miller và Alex Waignady thì họ sẽ đưa ra cái thuyết rằng có nhiều người trẻ quay qua hướng đồng tính luyến ái vì trong quá khứ họ đã bị tổn thương trầm trọng trong quan hệ tình dục khác giới tính. Hỏi giáo sư Daryl Bem của đại học Cornell thì ông ta sẽ khẳng định rằng cường độ kích thích tố ảnh hưởng hành vi tính dục và do đó là nguyên nhân của đồng tính luyến ái. Một thí nghiệm khoa học cho thấy những con chuột đực bị nữ tính hóa bằng kích thích tố estrogen trong giai đoạn còn là bào thai và thiến lúc sơ sinh, sẽ có hành vi giao cấu của chuột cái. Cũng tương tự như vậy, nghiên cứu của Dennis McFadden và Edward Pasanen của đại học Texas cho thấy ốc tai của đàn bà dị tính nhạy cảm gấp ba lần đàn ông dị tính; ngược lại, sự nhạy cảm này của đàn bà đồng tính luyến ái rất tương tự với đàn ông dị tính và chỉ bằng một phần ba của đàn bà dị tính. Kết quả này chứng minh rằng mức độ androgen, một loại kích thích tố nam, ảnh hưởng sự phát triển và nhạy cảm của ốc tai từ lúc tiền sản, cao hơn trong phụ nữ đồng tính luyến ái so với phụ nữ dị tính. Hỏi nhà sinh vật học Dean Hamer và Steve Kangast thì họ sẽ thuyết phục, à đây là vấn đề gen. Trong công trình phân tích gen với viện Ung bướu Quốc gia, họ khám phá rằng 33 cặp trong 40 cặp anh em đồng tính luyến ái mang một dấu di truyền giống nhau ở đoạn Xq28 của thể nhiễm sắc X. Mỗi vị mỗi lẽ, đây chỉ là vài thuyết và bằng chứng điển hình chúng ta có thời giờ nói tới. Tóm tắt: nguyên nhân đồng tính luyến ái là một hệ thống xa lộ phức tạp để đến một địa điểm. 

Bay lên cao, nhìn xuống thấp, tôi thấy một chuỗi tính dục lấp lánh muôn vàn màu sắc, giăng quanh quả đất này. Nằm ở hai đầu là màu hồng và màu xanh cho nhóm dị tính, cận đó là màu tím cho nhóm đồng tính luyến ái, ngay giữa là nửa xanh nửa hồng cho nhóm lưỡng tính, rồi lại có những màu biến hóa khó tả cho nhóm nằm ngay rìa bên này mép bên kia viền bên nọ. Thỉnh thoảng lại có đoạn trong veo, sáng ngời; đó là nhóm vô giới tính như hầu hết các loại động vật đơn bào và vài động vật đa bào như loài ruột khoang và bọt biển. Sợi chuỗi đẹp vậy mà lại có người muốn túm lấy và giựt cho đứt. Chẳng lẽ tôi phải ví người đồng tính luyến ái như những con ong thợ, chỉ biết làm việc siêng năng, đóng thuế chăm chỉ và tận tụy chăm sóc con ong chúa dị tính, ngày đêm chỉ biết ăn và đẻ. Chẳng lẽ tôi phải nói tiếp rằng bầy ong thợ có khả năng hè nhau đốt phù tay kẻ khiêu khích, đe dọa chúng quá trớn, thì may ra ít ai dám với tay, giựt đứt sợi chuỗi giới tính muôn màu của thiên nhiên? Ðồng tính luyến ái và lưỡng tính đầy dẫy trong thiên nhiên, bởi vậy tôi mong người chính nghĩa có phản đối thì phải phản đối cho đồng đều - đừng quên cầm biểu ngữ, viết bài và hô hào chống luôn cây cỏ và thú vật trong vườn hoa, rừng, biển, sa mạc.... Thật sự con người không hiểu gì nhiều về thiên nhiên, nhưng chúng ta lạm dụng quyền lực tập thể và đám đông để áp đặt cái đúng và sai, có thể rất thiển cận và giới hạn, trên sự sống và quyền tự do của kẻ khác như Nazis đã làm đối người Do Thái và người đồng tính luyến ái. 
_______________________________________Stress hay những sự kiện cuộc đời.  Trong cuộc sống, bạn sẽ phải đối đầu với hàng loạt những sự việc xảy ra hằng ngày. Những sự việc mà tạo dấu ấn có liên quan đến bạn tạm gọi là "những sự kiện cuộc đời".
Mỗi người sẽ phản ứng rất khác nhau với cùng một sự kiện, hoặc với nhiều sự kiện khác nhau lại có cùng một hình thức phản ứng. 
Cách thức phản ứng của mỗi người tùy thuộc vào 3 yếu tố sau:
1. Bản chất của sự kiện.
2. Ý nghĩa của sự kiện đó với cá nhân.
3. Tính nhạy cảm của cá nhân.
Ví dụ:
- Sự kiện một người cha qua đời: một người em 15 tuổi và một người anh 35 tuổi sẽ có những phản ứng khác nhau.
- Hai chị em sinh đôi cùng yêu một chàng trai. một trong hai chị em đã từng có một mối tình, người kia mới yêu lần đầu. Hai người nữ này sẽ phản ứng rất khác nhau với chàng trai kia, mặc dù chàng trai đó cư xử với họ như là những người bạn gái không thiên vị.
- Cùng là thi rớt đại học, nhưng ở 10 thí sinh, mỗi người có một tâm trạng khác nhau.rạng thái tâm lý của Bill Gates ngày ra đi?  Ngày làm việc cuối cùng Hôm nay là ngày làm việc cuối cùng của ngài Chủ tịch hãng phần mềm khổng lồ Mỹ - công ty do ông thành lập cách đây 33 năm để đưa máy tính cá nhân trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.


Hôm nay là một ngày quan trọng đối với ngành công nghệ. Bill Gates, một trong những người giàu nhất thế giới và cũng là một trong những người có ảnh hưởng lớn đến thế giới IT, sẽ chính thức nghỉ hưu để tập trung thời gian làm từ thiện cùng với vợ.

Rời cương vị là Kiến trúc sư trưởng, chuyển giao trách nhiệm này lại cho Ray Ozzie, phụ trách phát triển phần mềm, và Craig Mundie, phụ trách chiến lược phần mềm và Office. Ngài Chủ tịch Bill Gates sẽ dành phần lớn thời gian cho Tổ chức nhân đạo Bill and Melinda Gates. Mỗi tuần, Bill Gates sẽ đến làm việc và gặp gỡ đồng nghiệp 1 ngày.

*Những dấu mốc quan trọng trong lịch sử Microsoft:

1975: Paul Allen và Bill Gates là hai bạn thân đã cùng nhau viết một ngôn ngữ lập trình cho máy tính cá nhân Altair. Đây là sản phẩm đầu tiên của Microsoft.

Tháng 1/1979: Dinh thự của Microsoft chuyển từ Albuquerque đến thành phố Seattle.

Năm 1980: Microsoft được IBM đặt hàng phát triển hệ điều hành cho máy tính đầu tiên. Đó là hệ điều hành MS-DOS. Cũng thời gian này, Steve Ballmer gia nhập Microsoft.

Ngày 12/8/1981: IBM chính thức trình làng PC đầu tiên chạy hệ điều hành MS-DOS.

Năm 1983: Microsoft ra mắt chương trình xử lý văn bản Word, và công bố kế hoạch phát triển hệ điều hành Windows. Allen rời bỏ cương vị Phó Chủ tịch nhưng vẫn tham gia trong Hội đồng quản trị.

Tháng 11/1985: Microsoft xuất xưởng phiên bản Windows đầu tiên.

Ngày 13/3/1986: Cổ phiếu của Microsoft chính thức lên sàn chứng khoán

Ngày 1/8/1989: Microsoft khai trương gói phần mềm Office dành cho doanh nghiệp đầu tiên.

Năm 1991: Ủy ban thương mại liên bang (FTC) điều tra cáo buộc cho rằng Microsoft độc quyền thị trường hệ điều hành máy tính. Điều tra kết thúc sau 2 năm mà không có kết luận chính thức.

Ngày 1/1/1994: Bill Gates cưới vợ là bà Melinda French tại đảo Hawai.

Tháng 7/1994: Ủy ban chống độc quyền Mỹ và châu Âu tham gia vụ kiện chống độc quyền với Microsoft. Lúc này, Microsoft đồng ý chia sẻ công nghệ với các hãng sản xuất máy tính. Việc sắp xếp này đã bị tòa án liên bang phản đối. Năm 1995, vụ kiện lại tiếp tục được đưa lên bàn tọa.

Ngày 24/8/1995: Microsoft ra mắt HDH Windows 95.

Ngày 27/11/1995: Microsoft khai trương trình duyệt Internet Explorer 2.0, thách thức trình duyệt web Navigator của Netscape.

Ngày 7/12/1995: Gates lên kế hoạch chi tiết tập trung phát triển lĩnh vực Internet.

Ngày 6/8/1997: Microsoft và Apple Computer đồng ý chia sẻ công nghệ và gạt mối thù truyền kiếp sang một bên.

Ngày 20/10/1997: Bộ Tư pháp kiện Microsoft, cho rằng hãng đã vi phạm quy định đồng thuận ban hành năm 1994, bắt buộc các hãng sản xuất máy tính nếu cài đặt HDH Windows thì phải sử dụng trình duyệt Internet Explorer.

Ngày 18/5/1998: Bộ Tư pháp và 20 bang kiện Microsoft vì đã vi phạm luật chống độc quyền. Sau đó 1 bang rút khỏi vụ kiện.

Ngày 21/7/1998: Ballmer trở thành Chủ tịch của Microsoft.

Ngày 19/10/1998: Vụ kiện chống độc quyền bắt đầu, và kéo dài đến mùa hè năm 1999.

Ngày 5/11/1999: Thẩm phán Penfield Jackson tuyên bố Microsoft đã độc quyền công nghệ.

Ngày 13/1/2000: Gates nhường vị trí Giám đốc điều hành CEO cho Steve Ballmer. Gates vẫn làm Chủ tịch và trở thành Kiến trúc sư trưởng của Microsoft.

Ngày 17/2/2000: Microsoft phát hành HDH Windows 2000.

Ngày 7/6/2000: Thẩm phán Jackson yêu cầu Microsoft tách thành hai công ty.

Ngày 26/9/200: Tòa án tối cao từ chối đơn kháng cáo của Microsoft và chuyển vụ án sang tòa án Liên bang.

Ngày 6/9/2001: Bộ Tư pháp cho rằng Microsoft không cần tách đôi nữa.

Tháng 11/2001: Microsoft và Bộ Tư pháp không giải quyết dứt khoát vụ kiện chống độc quyền.

Ngày 25/10/2001: Microsoft chính thức phát hành Windows XP trên toàn cầu.

Tháng 8/2002: Thực hiện theo yêu cầu của Bộ Tư pháp, Microsoft thay đổi các chiến lược phát triển sản phẩm và kinh doanh.

Ngày 23/7/2003: Microsoft ra mắt HDH dành cho điện thoại di động Windows Mobile.

Ngày 24/3/2004: Ủy ban châu Âu phạt Microsoft số tiền kỷ lục 613 triệu USD vì vi phạm luật chống độc quyền. Lệnh trừng phạt này đã bị gián đoạn vì Microsoft kháng án.

Ngày 2/4/2004: Sun dàn xếp cáo buộc với Microsoft với số tiền là 1,95 tỷ USD.

Ngày 30/6/2004: Tòa án Mỹ đồng ý phán quyết của Bộ Tư pháp.

Ngày 22/12/2004: Tòa án EU phản đối đơn kháng cao của Microsoft.

Ngày 12/5/2005: Microsoft ra mắt máy chơi game Xbox 360. Đầu game này chính thức “lên kệ” vào tháng 11.

Ngày 1/7/2005: Microsoft đồng ý nộp phạt cho IBM số tiền 75 triệu USD bằng tiền mặt và 75 triệu USD bằng phần mềm để dàn xếp vụ kiện.

Ngày 11/10/2005: RealNetworks dàn xếp vụ kiện với Microsoft với số tiền là 761 triệu USD.

Ngày 23/3/2006: Microsoft tuyên bố sẽ “cải tổ” lại bộ phận Windows. Hai ngày sau thì cho biết hoãn kế hoạch ra mắt phiên bản Windows mới, kế hoạch ban đầu sẽ ra mắt vào cuối mùa hè.

Ngày 15/6/2006: Bill Gates tuyên bố kế hoạch nghỉ hưu vào tháng 7/2008 để tập trung làm từ thiện.

Ngày 14/11/2006: Microsoft ra mắt máy nghe nhạc Zune.

Ngày 30/1/2007: Microsoft phát hành hệ điều hành Windows Vista và Office 2007 sau nhiều lần trì hoãn.

Ngày 31/1/2008: Microsoft đề nghị mua lại Yahoo với số tiền 44,6 tỷ USD nhưng Yahoo từ chối mặc dù đã nâng giá lên 47,5 tỷ USD.

Hôm nay, 27/6/2008: Bill Gates nghỉ hưu, nhưng vẫn giữ chức Chủ tịch, sẽ làm việc mỗi tuần một ngày.

*Ấn tượng về một con người - một thương hiệu


-Tôi còn nhớ một câu của ông khá nổi tiếng, đại ý thế này: Tương lai trên 10 đầu ngón tay
Lúc đó tôi cũng không hiểu nhiều, rồi đến khi chiêc điện thoại trở nên phổ biến (công nghệ ngón tay cái). Tôi mới hiểu một phần, và bây giờ cũng vẫn đang ...tìm hiểu.
-Nói đến Bill người ta nghĩ đến 2 thương hiệu: Một là Microsoft và hai là chính ông với quỹ từ thiện cùng tên.
Con người ấy 2 lần đến Việt nam ( làm tôi phải điêu đứng để có được một tấm ảnh về đăng bài), một con người luôn mang đến sự tươi mới và hấp dẫn cho giới trẻ. Một con người mà ngay cả thủ tướng cũng phải nói đùa: Để ông ấy gia nhập Đảng� đựơc không?
- Có rất nhiều tấm gương doanh nhân - danh nhân. Có những người thân thiện, có người không. Có người là thày, có người đơn giản họ chỉ là Vip mà chẳng có ý nghĩa gì với ta cả...Nhưng tất cả họ là những con người làm nên : Sự kiện - chính trị - tiền bạc và lịch sử, trong khi chúng ta sống cùng thời cũng đang cố viết cho mình "một dấu ấn" trong cõi đời này! Từ slogan và logo, nghĩ đến TLH quảng cáo 
Mình ko có chuyên môn về TLH quảng cáo, tiếp thị, chỉ thấy thích, định là sẽ nghiên cứu nhiều sau này. Vì thế mình cũng ko vỉết về chuyên môn, nên để topic này ở đây, như một cuộc trò chuyện vui. Và ban đầu mình cũng chỉ muốn thỏa cái sở khoái của mình là suy nghĩ về những yếu tố trong lĩnh vực này, trong đó có slogan (tạm hiểu là khẩu hiệu, thông điệp mà nhãn hiệu mong muốn người tiêu dùng ghi nhớ).

Quảng cáo ngày nay đã trở nên ko thể thiếu đối với con người. Dù các bạn có ghét QC đến đâu, như kiểu "Đang xem Bao Công đến đoạn Triển Chiêu đâu thì... Đại tràng hoàn PH"� , hay nhí nhố dưới chân màn hình trong các chương trình truyền hình cáp bây giờ, thì QC vẫn tồn tại mặc nhiên như hơi thở...

Slogan, cùng với logo, là một trong những biểu tượng của một nhãn hiệu (rộng hơn là một sự vật, hiện tượng nếu như thoát ra ngoài tầm thương mại). Tiêu chí của QC là làm cho người ta thấy --> nhớ. Và chỉ cần như vậy! Chuyện người ta có mua sản phẩm của tôi hay ko, mua nhiều như thế nào, chưa cần biết. Cái quan trọng là "tốc độ" gắn kết (đồng nhất hóa) giữa nhu cầu của khách hàng với sản phẩm của tôi thông qua các biểu tượng. Do vậy, slogan hay logo phải có tiêu chí là "dễ nhớ". Từ tiêu chí đó, người viết slogan sẽ đi theo hướng dài hay ngắn, cụ thể hay khái quát, có duyên hay... vô duyên. Từ từ chúng ta sẽ bàn đến đặc điểm của slogan, và hy vọng gắn nó với Tâm lý học, nếu ko topic này sẽ nhanh chóng bị xóa đi mất� 

Vậy trước hết, theo bạn, câu slogan của nhãn hiệu nào bạn thích nhất?

Mình bỏ phiếu đầu tiên cho slogan của Heineken (ko hẳn là vì mình thích uống Heineken đâu nhé): "Chỉ có thể là Heineken". Một slogan rất lâu đời, khẳng định đẳng cấp của Heineken qua chất lượng sản phẩm, và qua các clip QC rất... Heineken (đến nỗi màu xanh ve chai từ lâu đã trở thành màu của Heineken). Ý nghĩa đầy đủ: Chỉ có Heineken mới đủ khả năng làm chuyện đó!
[img width=346 height=431]http://aeipm.ipm.edu.mo/phtoto/heineken.gif[/img]

Rất nhiều người thích slogan của Heineken nhưng ít ai biết nó được dịch từ slogan gốc là gì.

"It could only be Heineken"
[img width=424 height=300]http://designdepartment.files.wordpress.com/2006/06/heineken-line-up-bates-singapore-2000.jpg[/img]

Quả thật là một sự thành công khi chuyển ngữ slogan này sang tiếng Việt vừa sát nghĩa lại rất tuyệt vời!

Nào, mời mọi người tiếp! Mình nghĩ chủ đề này cũng hay, lại có nhiều cái để nói, và quan trọng là nó... kích thích suy nghĩ sáng tạoỪm, đó là một slogan chuyển thể sang tiếng Việt của một sản phẩm rất nổi tiếng ở nước ta từ gần 10 năm nay, đánh dấu sự tấn công ồ ạt của loại hình bảo hiểm nhân thọ đến từ nước ngoài, "Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu". Câu này thời gian sau đã bị xuyên tạc khá nhiều do dân ta vẫn chưa ưa với loại hình dịch vụ mới này, với các nhân viên bảo hiểm đến thu tiền thì cười nhăn cười nhở, đến khi bồi thường thì chậm chạp, thành ra "Luôn luôn lắng nghe, lâu lâu mới hiểu"... Nhưng Prudential cóc cần biết, chính những xuyên tạc đó đã chứng minh thương hiệu PRUDENTIAL đã rất thành công. Marketing chỉ cần có thế!Cái slogan ấy đã bị xuyên tạc nhiều lắm đấy Béo à�  
Có 1 slogan cũng rất hay "Dù bạn không cao, nhưng người khác vẫn phải ngước nhìn"

Ở đây có một trích đoạn trong bài: "Làm gì để có được một "slogan" hay?"
Một slogan hay phải hội tụ được một số yếu tố sau:

Thứ nhất là mục tiêu. Một slogan khi được tung ra phải mang một mục tiêu nhất định và hướng đến mục tiêu đó. Ví như khi Pepsi ra đời thì Coca Cola đã là một người khổng lồ trong ngành giải khát rồi. Muốn phát triển được thì phải có một slogan nhắm đến một mục tiêu là lấy lại được thị phần từ Coca Cola. Hãng nước giải khát Pepsi đã lấy slogan là: "Generation Next" (Thế hệ tiếp nối), ý nói đó là một loại nước uống của thế hệ mới và ngầm ý chê bai đối thủ trực tiếp Coca Cola là loại đồ uống cổ lỗ sĩ. Với slogan hay mang trong mình mục tiêu rõ ràng là đánh vào khách hàng trẻ tuổi, Pepsi đã thu hút được phần đông giới trẻ và vươn vai trở thành một đối thủ đáng gờm của Coca Cola.
Thứ hai là ngắn gọn. Một slogan hay luôn phải là một slogan ngắn gọn, dễ hiểu, dễ đọc. Với nhiệm vụ phải đi vào tiềm thức của khách hàng, không ai đi xây dựng một slogan dài dằng dặc đầy đủ toàn bộ về tính năng, tác dụng, đim ưu việt của sản phẩm cả, bởi khách hàng sẽ chẳng ai bỏ công đi nhớ một slogan dài lõng thõng như vậy. Cà phê Trung Nguyên đã phải bỏ slogan dài cũ: "Mang lại nguồn cảm hứng sáng tạo mới" bằng "Khơi nguồn sáng tạo". Quả thực slogan sau ngắn gọn, ấn tượng và dễ nhớ hơn nhiều.
Thứ ba là không phản cảm. Slogan phải tuyệt đối tránh những từ ngữ có thể gây phản cảm hoặc xúc phạm đến người khác cho dù đó chị là một bộ phận khách hàng rất nhỏ. Nhà cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh DHL đã từng mắc lỗi này khi tung ra một slogan gây một ấn tượng không tốt: "Đến chậm gậm xương".
Thứ tư, cần nhấn mạnh vào lợi ích sản phẩm. Slogan phải thể hiện được tính năng và lợi ích khi khách hàng sử dụng sản phẩm. Ví như: "Connecting People" (Kết nối mọi người) của hãng điện thoại di động Nokia hay "Luôn luôn lắng nghe. Luôn luôn thấu hiểu" của hãng bảo hiểm quốc tế Prudential.

Một slogan có liên quan tâm lý của Tâm Việt Group:
"Làm tâm người Việt sáng hơn
Nâng tầm người Việt cao hơn"
Mà Long thấy trong banner của tamlyhoc.net có:
"Tâm lý học và bạn"
là slogan? hay là???ừ slogan và logo, nghĩ đến TLH quảng cáo 

Một số slogan tiêu biểu:1. Biti's
“Nâng niu bàn chân Việt”

2. VISO
Trắng gì mà sáng thế

3. Vinaphone
Nối liền mọi khoảng cách

4. Heineken
Chỉ có thể là Heineken

5. NIVEA
Sự chăm sóc nhẹ nhàng cho làn da 

6. Johnson & Johnson
Chăm sóc bé yêu ngay từ thuở lọt lòng 

7. Puppy
Hiểu cả những điều bé yêu chưa nói.

8. Chinsu
Thơm ngon đến giọt cuối cùng

9. Tiger
Bản lĩnh đàn ông thời nay

10. Bia Foster
Bia phong cách Úc

11. AIA
Gửi trọn niềm tin

12. Bia Bến Thành
Uống bia phải biết cách

13. kotex xìtin 
Phong cách rất xìtin ( Và một ngày tôi sẽ là một ngôi sao )

14. Nippo
Sơn đâu cũng đẹp

15. 177
Điện thoại quốc tế giá rẻ

16. Cà fê Trung Nguyên
Khơi nguồn sáng tạo

17. Comfor
Thật nhẹ nhàng và dịu êm là comfor

18. DHL
Chúng tôi thông thạo Châu Á TBD như lòng bàn tay

19. NoKia
"Connecting People" (Kết nối mọi người)
"Ở Nokia, chúng tôi gọi đó là công nghệ mang tính nhân bản" - (cũ)

20.Prudential
Luôn luôn lắng nghe. Luôn luôn thấu hiểu

21. NIKE
"Just Do It!" (Hãy làm điều đó!).

23. Anpelibe
Ngọt ngào như vòng tay âu yếm

24. Tinh Vân software company
“Cùng nhau toả sáng - Together We Shine”

25. La vie
“ Một phần tất yếu của cuộc sống”

26. Nutifood
“Vì trí tuệ Việt, Vì tương lai Việt”

27. Coca-cola
“Ăn bóng đá-ngủ bóng đá-uống Coca-Cola”

28. Tiger
“It’s time - Còn chần chờ gì nữa”

29. Duracell
”Liên tục, liên tục...liên tục ”

30. Suzuki
"Suzuki là sành điệu"

31. Ajinomoto
"Vòng quanh thế giới, Ajinomoto"

32. Kotex
"Tinh tế và nhẹ nhàng"

33. Double Mint
"Giữ hơi thở thơm tho một cách tự nhiên"

34. Anlene
" Mọi lúc mọi nơi giúp ngừa bệnh loãng xương"

35. Double Rich
“Ấn tượng khó phai”

36. Triumph
“Thời trang và hơn thế nữa”.

37. Lioa
Cho ngay nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau

38. Sữa Mika
“Càng lắc càng ngon”

39. Neptune
Điểm 10 cho chất lượng

40. Essance 
Càng ngắm càng yêu

41. Oral-B
Nhãn hiệu các nha sĩ tin dùng

42. Tường An
Tường An, dầu ăn thượng hạng 

43. Clear
Sạch gàu và quyến rũ hơn dưới nắng hè.

44. X-Men
Đàn ông đích thực.

45. FPT
Cùng đi tới thành công

46. SPT 
Kết nối hôm nay với tương lai.

47. S-fone
Nghe là thấy

48. MobiFone
Hãy yêu sự lựa chọn của bạn

49. VNPT
Cuộc sống đích thực.

50. Bia Sài Gòn
Có thể bạn không cao, nhưng người khác cũng phải ngước nhìn

51. Điện Quang
Ở đâu có điện ở đó có điện quang

52. Sơn Nippon
Nếu bạn có bề mặt, chúng tôi có sơn

53. EZ-up
“Cho mắt ai mãi tìm”

54. Du Lịch Việt Nam
Vẻ đẹp tiềm ẩn (hide charm)

55. Việt Nam
Điểm đến của thiên niên kỷ mới

.....
(Theo: sangtaovietonline)Một số slogan tiêu biểu:

9. Tiger
Bản lĩnh đàn ông thời nay ==> Bản lĩnh đàn ông

19. NoKia
"Connecting People" (Kết nối mọi người)
"Ở Nokia, chúng tôi gọi đó là công nghệ mang tính nhân bản" - (cũ) - Câu này là 1 thồng điệp trong dòng sản phẩm 8x10 của Nokia năm 2001

21. NIKE
"Just Do It!" (Hãy làm điều đó!). ==> Cứ làm đi! - thực ra đây là slogan mà Nike ko hề có ý định chuyển ngữ sang bất kỳ thứ tiếng nào, bởi nó rất đơn giản, dễ nhớ mà lại rất tự do nữa 

28. Tiger
“It’s time - Còn chần chờ gì nữa” - Chính xác là "It's time for a Tiger" - slogan này xuất hiện năm 1930, như là slogan đầu tiên của bia Tiger. Năm 2006 Tiger đã gửi 1 thông điệp rất hoành tráng "Rạng danh trên toàn thế giới"

48. MobiFone
Hãy yêu sự lựa chọn của bạn ==> Đã đổi thành "Mọi lúc, mọi nơi"

50. Bia Sài Gòn
Có thể bạn không cao, nhưng người khác cũng phải ngước nhìn - là của bia Saigon Special

54. Du Lịch Việt Nam
Vẻ đẹp tiềm ẩn (hide charm) - The Hiden Charm sự phát triển và hình thành nhân cách 

� Nhân cách sáng tạo là một phẩm chất phát triển của con người, trong đó, con người, thông qua hoạt động sống của mình, tạo nên những giá trị tinh thần, giá trị vật chất có tính mới về chất đối với nhu cầu và lợi ích của sự phát triển xã hội. Bản chất con người vốn có khả năng sáng tạo, song, tiềm lực này có được "thực tế hóa" hay không, lại phụ thuộc vào điều kiện xã hội, giáo dục cộng đồng và ý thức cá nhân. Nhân cách sáng tạo được hình thành trong quá trình con người lao động và hoạt động thực ti ễn nói chung, cùng với sự ti ếp nhận những thành tựu ti ến bộ xã hội và giáo dục xã hội. Đồng thời, nhân cách sáng tạo cũng là năng l ực tự phát tri ển của m ỗi cá nhân con người, l à khả năng "đổi m ới" của nó được nảy sinh trong hoạt động thực tiễn, học hỏi xã hội và giáo dục nhà trường. Một nhân cách sáng tạo bao giờ cũng bi ết tự ý thức, chủ động và tích cực tạo nên một sản phẩm m ới (tinh thần, vật chất), m ột "hiện thực m ới", nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích và mục đích đa dạng, ngày càng tăng của sự phát tri ển con người và xã hội. Bởi, xét tới cùng, như V.I.Lênin vi ết: "nghĩa l à thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của m ình" Có thể nêu ra những nhân tố của nhân cách sáng tạo, bao gồm:  Vốn tri thức mà xã hội đã tạo ra, tích l ũy được đặc bi ệt là những tri thức khoa học tiên ti ến, li ên quan đến l ĩnh vực sáng tạo m ới hướng tới.  Hoạt động thực tiễn dưới hình thức thực ti ễn vật chất hoặc thực ti ễn tinh thần. Năng lực nắm bắt và thực hành phương pháp "tạo ra hi ện thực m ới" từ vật liệu, nguy ên liệu, tài li ệu do chính hiện thực đã có và đang có cung cấp.  Phẩm chất xã hội và lý tưởng trong xã hội của chủ thể sáng tạo phù hợp với yêu cầu nhân văn hóa con người trong một đời sống cộng đồng đang hướng tới những giá trị, mục ti êu phát triển bền vững, nhằm thực hiện m ột xã hội "dân giàu, nước m ạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", m ột thế giới tiến bộ, nhân văn. Như thế, để có được nhân cách sáng tạo, con người không phải chỉ có nỗ lực cá nhân, mà còn phải được gi áo dục, tức l à có sự chuẩn bị, trang bị và hướng dẫn nhân cách trở thành nhân cách sáng tạo, con người sáng tạo. Có thể đưa ra đây những y êu cầu chủ yếu đối với hoạt động giáo dục hi ện nay để "sản xuất" ra những nhân cách sáng tạo nhằm đáp ứng y êu cầu phát triển bền vững trong thời đại toàn cầu hóa. Cung cấp những tri thức nhiều m ặt mang tính hiện đại do các thành tựu khoa học mà nhân loại hiện nay đã đem l ại với tính cách l à tài sản chung của mọi xã hội. Những tri thức khoa học này không chỉ là mảnh đất nuôi dưỡng trí tuệ con người, m à điều chủ yếu hơn, chúng l à bàn đạp để mọi sáng tạo của cá nhân có thể nảy nở, cất cánh. Trong bức tranh sôi động và sinh động toàn cầu hóa hi ện nay, khi mà mọi hoạt động của con người phải mang tính tri thức, thì sự sáng tạo với tính cách l à động lực tối ưu của phát triển bền vững, tất y ếu phải l à sáng tạo tri thức, sáng tạo bằng trí tuệ tinh khôn nhất và hiệu quả nhất. Hiện nay, tri thức đang trở thành một loại tư li ệu chủ yếu của sản xuất xã hội, khoa học, tri thức khoa học - sản phẩm sáng tạo của con người đang trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", "l ực l ượng sản xuất độc lập", như C.Mác từng dự báo (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 4, tr. 187). Bất cứ một sáng tạo nào cũng đều bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định, thúc đẩy, đánh giá,kiểm chứng, định hướng và cuối cùng là hiện thực hóa m ục đích của sáng tạo. Chính vì vậy, mọi nội dung hay mọi phương thức giáo dục đều phải được tồn tại trong thực ti ễn. Một nhân cách sáng tạo phải được đào luyện trong thực ti ễn mà nhân cách đó muốn tham gia bằng sự sáng tạo của mình. Quá trình hoạt động thực tiễn cũng chính là môi trường học tập để sáng tạo, thử nghiệm, thử thách sự sáng tạo và xác định m ục tiêu của sáng tạo. Giáo dục khả năng nắm bắt thực ti ễn và hoạt động thực tiễn là một yêu cầu, một nguyên tắc của gi áo dục nhân cách sáng tạo. Hoạt động sáng tạo l à một tổng thể bao gồm cả phương thức, phương pháp sáng tạo tức là cách chuyển năng lực sáng tạo của chủ thể sáng tạo và tư li ệu sáng tạo của cuộc sống hiện thực thành kết quả sáng tạo, sản phẩm sáng tạo. Nếu phương thức sáng tạo, phương pháp sáng tạo là một công cụ khoa học, thì việc gi áo dục, đào tạo con người sử dụng công cụ đó có một ý nghĩa cần thiết và quan trọng. Tính quy định của giáo dục phương thức sáng tạo phương pháp sáng tạo là ở chỗ: Chủ thể sáng tạo phải được trang bị các phương thức, phương pháp sáng tạo đã được xác định cùng với những nguyên tắc chung, nguy ên l ý phổ biến của chúng. Chủ thể sáng tạo phải có năng lực l ựa chọn phương thức sáng tạo, phương pháp sáng tạo sao cho phù hợp với đối tượng sáng tạo và mục ti êu sáng tạo. Khả năng chủ quan của chủ thể sáng tạo phải làm chủ được phương thức, phương pháp sáng tạo có trong tay, đồng thời, tạo ra được những cái cần thiết chưa có trong chúng để có thể đáp ứng đầy đủ các y êu cầu cụ thể, ri êng bi ệt do quá trình thực thi sáng tạo đặt ra. Kỹ năng, kỹ xảo và công nghệ sử dụng phương thức sáng tạo, phương pháp sáng tạo là yêu cầu bắt buộc đối với m ọi nhận thức và mọi hành động cụ thể trong quá trình sáng tạo. Rõ ràng l à, việc giáo dục nhân cách sáng tạo bao gồm cả yêu cầu hoàn thiện nhân cách đó bằng các chỉ dẫn, hướng dẫn, định hướng đối với phương thức, phương pháp sáng tạo. Như trên đã nêu, nhân cách sáng tạo là một hiện tượng xã hội, mang giá trị xã hội' nhất định, đồng thời cũng chịu sự qui định của xã hội. Một nhân cách sáng tạo chỉ thật sự hữu ích đối với đất nước, nhân dân và cộng đồng nhân loại, khi hoạt động thực tiễn và ý thức con người của nhân cách đó nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, cho dân tộc, cho xã hội nói chung. Điều đó đòi hỏi một phẩm chất tư tưởng, tình cảm của nhân cách sáng tạo phải trong sáng, cao đẹp, một phẩm chất của con người XHCN. Ở đây, việc gi áo dục con người có năng lực sáng tạo không thể tách rời việc gi áo dục “ đạo làm người", giáo dục nhân cách nhân văn, nhân cách "tiên ti ến, đậm đà bản sắc dân tộc", nhân cách của "hiền tài , trong thời đại Hồ Chí Minh, nhân cách của m ột thành viên trong hệ thống nhân loại tiến bộ và nhân văn. Đồng thời, chính phẩm chất tích cực trên đây không chỉ là nền tảng vững chắc m à còn l à động lực m ạnh mẽ cho m ọi sáng tạo đúng đắn, chân chính của con người. Cần lưu ý rằng, nội dung, mục đích của bất kỳ một sáng tạo nào cũng đều phải nhằm nhân văn hóa con người và xã hội, cải thiện môi trường sinh thái tự nhiên. Nhân cách sáng tạo l à nhân cánh tự chủ, tự ý thức và tự giác. Không có sự nỗ lực, chủ động và tích cực của cá nhân thì sẽ không có sự sáng tạo, sự tìm tòi cái m ới tiến bộ hơn, giá trị hơn. Chính vì thế, giáo dục nhân cách sáng tạo l à tạo ra mọi nhân tố mọi điều ki ện để bản thân nhân cách sáng tạo tự chuyển hóa chúng thành năng l ực cá nhân, thành khả năng bên trong, thành "do mình, của mình". Mọi sự áp đặt, gi ản đơn, máy móc, khô cứng trong gi áo dục nhân cách sáng tạo l à hoàn toàn xa lạ, phản tác dụng. Nói cách khác, đó là sự đị nh hướng, chỉ đường, hỗ trợ, tạo mọi tiền đề cần thiết để chủ thể sáng tạo tự khẳng định "cái mới" của m ình. Để đáp ứng nhu cầu giáo dục nhân cách sáng tạo trong phát tri ển bền vững, ngành gi áo dục và xãhội cần có những quan tâm và giải pháp tương ứng, nhằm tạo ra một "thế hệ vàng" phù hợp với dòng chảy phát triển nguồn nhân lực của dân tộc ta trong thời đại toàn cầu hóa hi ện nay. Về nhận thức cũng như về chủ trương, chính sách, ngành giáo dục và đào tạo nên xem việc gi áo dục nhân cách sáng tạo nằm trong tầm chi ến lược con người, thuộc phạm vi hạt nhân của nguồn lực phát triển xã hội nói chung, của phát tri ển "trồng người" nói riêng. Một sự đầu tư thích đáng về nhiều mặt cho giáo dục nhân cách sáng tạo là một yêu cầu thực tiễn có giá trị cấp thi ết và bền vững. Hệ thống giáo dục và nhà trường, từ mẫu giáo đến đại học, sau đại học, cần tạo m ọi điều ki ện vật chất và tinh thần để có thể phát hiện, nuôi dưỡng, bồi dưỡng những nhân cách sáng tạo. Thừa nhận nhân cách sáng tạo là động l ực tích cực, quan trọng của phát tri ển đất nước và hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là thừa nhận rằng động lực đó phải do chính xã hội tạo ra, trong đó trước hết và chủ yếu l à từ nhà trường, từ một nền gi áo dục có tính tiên tiến về mặt khoa học và có tính nhân văn về mặt xã hội. Bởi vậy, nhà trường cần xem việc "đào tạo nhân cách sáng tạo" như là một quá trình được đầu tư hoàn chỉnh, vững chắc, khẩn trương và lâu dài. Như mọi hoạt động giáo dục khác, hoạt động giáo dục nhân cách sáng tạo, với tính cách l à một hình thái giáo dục xã hội, cần được xã hội hóa theo tinh thần đổi mới, định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế phát tri ển bền vững của thế giới ti ến bộ hiện nay. Tính đặc thù của xã hội hóa gi áo dục nhân cách sáng tạo l à ở chỗ: tạo ra m ột "phong trào" dư luận xã hội, ý thức xã hội và hành động xã hội đối với giáo dục nhân cách sáng tạo, từ phát hi ện, bồi dưỡng, khuyến khích đến sử dụng, khai thác, như một sự nghiệp và tài sản quốc gia, cùng với việc đưa đến cho nhân cách đó mọi điều ki ện cần thi ết về vật chất và tinh thần để hình thành và phát tri ển. Nhân cách sáng tạo l à một trong những nguồn động lực nội sinh tối ưu của phát tri ển con người và xã hội. Giáo dục nhân cách sáng tạo cũng chính l à con đường tạo dựng "thế hệ hiền tài" - "Hiền tài là nguy ên khí quốc gia" (Thân Nhân Trung). Một nền gi áo dục vì phát triển bền vững trong thời đại hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa cần xem việc gi áo dục nhân cách sáng tạo l à một nội dung quan trọng, một phương thức hiệu nghiệm, m ột thành tố thiết yếu để khẳng định gi á trị của m ình. Đó cũng l à một y êu cầu đối với giáo dục của m ột quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghi ệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng CNXH, thực hi ện thắng l ợi mục ti êu "dân gi àu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đang đòi hỏi một nguồn lực sáng tạo m ới. Đó là những sáng tạo trong hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương m ại, dịch vụ, nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa thẩm m ỹ, văn học, nghệ thuật, quản lý xã hội và hành chính sự vụ, thậm chí trong cả sinh hoạt thường nhật, vui chơi, giải trí... Nâng cao dân trí, xây dựng xã hội học tập, đào tạo công dân tri thức, tạo l ập xã hội văn minh, văn hóa l à những ti ền đề trực tiếp cho "phong trào sáng tạo". Trên cơ sở này, nhà trường, giáo dục học đường, đang trở thành "trung tâm" và "hạt nhân" của việc đào tạo m ột "thế hệ sáng tạo" nhằm đáp ứng y êu cầu "tăng trưởng m ọi mặt" của dân tộc ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay. Vì thế, xã hội, ngành gi áo dục, các cơ sở nghiên cứu khoa học, cần "Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy m ọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn l ực trí tuệ và nhân tài cho đất nước", như cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng đã xác định (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, tr.7). Quá trình phát tri ển bền vững, công cuộc đổi mới là một dòng chảy của tiến bộ hóa, nhân văn hóa con người và xã hội, trong đó phải đồng thời bảo đảm sự hài hòa, hoàn thiện m ối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, giữa l ợi ích xã hội và lợi ích tự nhiên, giữa lợi ích trước m ắt và lợiích lâu dài, trên mẫu số chung l à sự song hành, thống nhất của sản xuất lợi ích (nền tảng. điều ki ện) và hưởng thụ lợi ích (mục tiêu, tác nhân). "Quá trình lợi ích" này luôn luôn ở trong "thế vận động" theo chi ều hướng ngày càng đa dạng và rộng mở hơn, sâu sắc và to lớn hơn, triệt để và hợp lý hơn. Điều đó đòi hỏi chủ thể, nhân cách sáng tạo, không ngừng "làm mới m ình", "sáng tạo lại m ình", nhằm "tái sáng tạo" những thành tựu mới, những hiệu quả mới đối với “ lợi ích". Đây cũng chính là nguồn động l ực chủ yếu, tất yếu và khách quan của sự phát tri ển bền vững cùng với lợi ích mà nó đem lại cho mỗi con người và toàn xã hội. Để "bắt kịp" các nước đi trước, ta không chỉ học hỏi, ti ếp nhận những thành tựu sáng tạo đang được ứng dụng ở các nước phát triển, mà điều chủ yếu hơn là, phải tự tìm l ấy con đường đi riêng cho sự sáng tạo do mình, vì mình, tức l à "của m ình". Chính con đường tự sáng tạo của m ỗi người, của m ọi tài năng và của toàn xã hội trong hoạt động thực tiễn là giải pháp hi ệu quả nhất và ít tốn kém nhất đối với sự phát tri ển bền vững của đất nước ta hi ện nay. X-(  :* Blogging - cái tôi trong thế giới ảo - dưới góc độ Tâm lý học  Cái tôi trong thế giới thực vẫn còn là 1 vấn đề lớn, thú vị mà Tâm lý học nói riêng và các ngành KHXH nói chung còn chưa nghiên cứu hết, thì nay xuất hiện một vấn đề khác ko kém phần đặc biệt, đó là "cái tôi trong thế giới ảo". Thế giới ảo mà mình muốn đề cập ở đây là thế giới Internet. Cái thế giới này tuy ko thực nhưng nó lại khiến cho con người ta có thể sống và hình thành thái độ ko khác gì ngoài đời. Đặc biệt hơn, đối với một bộ phận cá nhân, nó còn quan trọng hơn thế giới thực, làm biến cải con người theo nhiều cách khác nhau: tích cực hơn cũng có, tiêu cực hơn càng có. Vấn đề này đã được một vài nhà nghiên cứu, các tờ báo rải rác lên tiếng với cách tiếp cận Xã hội học. Thế còn chúng ta, những người đang theo đuổi Tâm lý học, thiết nghĩ nên xem đó là 1 chủ để cần đưa vào trong suy nghĩ và thảo luận!

Cái tôi trong thế giới ảo được thể hiện qua các hình thức nào?
- Hiện diện trên các diễn đàn
- Trang web cá nhân
- Blog
- Các cộng đồng chia sẽ trực tuyến
- Game trực tuyến
- ...?

Trong đó, mình thấy Blog hiện đang dần trở thành công cụ hữu hiệu nhất và có nhiều chuyện để nói nhất khiến cho 1 cá nhân quảng bá cái tôi của mình trên thế giới Internet (ko cần nghi ngờ, bởi gần như mỗi chúng ta đều có ít nhất 1 Blog). Ko cần định nghĩa Blog là gì nữa, cũng ko cần trích dẫn các bài báo về hiệu quả hay hậu quả của blog nữa. Chúng ta hãy nói ra ý kiến của mình theo cách hiểu của những người học Tâm lý.

Mình mới chỉ nghĩ ra "lý do chọn đề tài thôi", còn nội dung thì vẫn còn nằm trong đầu, từ từ sẽ viết ra. Rất mong được đọc ý kiến của các bạn! Đây cũng là 1 đề tài khá hay cho những ai mong muốn thực hiện 1 công trình nghiên cứu nho nhỏ. Tại sao ko nhỉ?Theo một khảo sát do Trung tâm Tương lai kỹ thuật số của Mỹ thực hiện trong 6 năm về thái độ người dùng web cho thấy, trong năm nay, mỗi thành viên truy cập Internet đã kết thân với 4,6 người bạn ảo.


Bạn ảo cũng mang lại niềm vui, nỗi buồn với người dùng Internet - 43% cư dân mạng đang cảm thấy cuộc sống trên Internet với những người bạn chưa một lần gặp gỡ cũng có vai trò quan trọng như những bạn bè trong cuộc đời thực của họ.

Mỗi năm, trường Đại học Nam California đều công bố số liệu về thái độ của người dân đối với Internet. Jeffrey Cole, GĐ Trung tâm Tương lai kỹ thuật số, cho biết: “Hơn một thập kỷ kể từ khi các cổng giao tiếp worldwideweb ra đời, và đến bây giờ, chúng ta đang được chứng kiến Internet giống như một kênh giao tiếp cá nhân và xã hội đầy uy lực”.

Giao tiếp xã hội trên web đã trở thành một hiện tượng trong vài năm gần đây với sự xuất hiện của những website, như MySpace, Bebo, Youtube... và cả xu hướng phát triển các thế giới ảo Second Life.

Tuy nhiên, khảo sát nhận thấy tình bằng hữu trong cuộc sống thực không gắn liền với máy tính. 

Khảo sát cho thấy, 40% người dùng mạng sử dụng web để liên lạc với mọi người và 37,7% tin rằng Internet giúp họ giữ liên lạc thường xuyên hơn với bạn bè và người thân trong gia đình. Trong khi đó, 7,4% chia sẻ tâm tư với bạn bè bằng website cá nhân blog - gấp đôi so với năm 2003. Trong 2 năm qua, số người đăng ảnh lên các site chia sẻ tăng từ 11% đến 2,6%.

Theo khảo sát, hơn 3/4 người Mỹ là cư dân mạng thường xuyên, trung bình mỗi tuần lướt web khoảng 8,9 giờ. Số nữ giới vào mạng cũng “ngang ngửa” phái mạnh.

Ông Cole cho rằng, Internet đang trở thành kênh giao tiếp, thông tin, giải trí quan trọng.

TAH_OneloveGần đây, câu chuyện “thế giới phẳng” được khá nhiều người nhắc tới, thậm chí trong một số trường hợp, nó trở thành như một thứ “mốt” về mặt ngôn từ. Nhưng có đúng là thế giới chúng ta thực sự đang phẳng, hay đây lại là một thứ huyền thoại mới của công nghệ thông tin? 


Quyển Thế giới phẳng của Thomas Friedman, bình luận viên nổi tiếng của tờ New York Times, vừa được dịch ra tiếng Việt (1) đã gây xôn xao không ít trong dư luận. Thực ra đây không phải là một công trình nghiên cứu về toàn cầu hóa, mà là một dạng bút ký xen với bình luận, trong đó chứa đựng nhiều mẩu chuyện sinh động do chính tác giả ghi nhận qua các chuyến đi của mình nhằm mục tiêu giải thích quá trình toàn cầu hóa, thể hiện dưới bút pháp hấp dẫn của một nhà báo. Ở Mỹ, ngay sau khi ra đời vào đầu năm 2005, nó đã nhanh chóng trở thành một cuốn bestseller và nhận được cả những lời tán dương lẫn những lời phê phán. Bài viết sau đây muốn điểm lại một vài ý kiến phê phán mà chúng tôi cho là đáng chú ý khi đọc cuốn sách này.

Toàn cầu hóa hay “Mỹ hóa”?
Theo Friedman, lịch sử toàn cầu hóa của thế giới đã trải qua ba giai đoạn. Lần đầu kể từ năm 1492 khi khám phá ra châu Mỹ cho tới khoảng năm 1800, với vai trò quan trọng của các quốc gia và của sức mạnh cơ bắp. Lần thứ hai từ năm 1800-2000, với vai trò động lực của các công ty đa quốc gia và sự ra đời của động cơ hơi nước và đường sắt. Và lần thứ ba kể từ năm 2000 trở lại đây, lần này với động lực là các cá nhân được kết nối với mạng lưới cáp quang toàn cầu [xem bản dịch, tr. 25-27]. Chính là ở giai đoạn thứ ba này đã hình thành nên cái mà Friedman gọi là “hệ thống thế giới phẳng”.

Luận điểm chính của cuốn sách là cho rằng thế giới đang được “làm phẳng” (flattening), nghĩa là một thế giới trong đó con người ngày càng kết nối với nhau do các thành tựu của tin học, Internet, các công cụ tìm kiếm trên mạng và các công nghệ khác. Nhờ đó, các công ty đa quốc gia bây giờ có thể xây dựng những chuỗi cung ứng và đặt gia công (outsourcing) ở tận Trung Quốc, Ấn Độ và Nga, nơi mà các nhân viên và lập trình viên có thể làm việc trực tuyến cho những công ty có trụ sở mãi tận Hoa Kỳ...

Mặc dù cuốn sách dày tới mấy trăm trang, nhưng Friedman lại không đưa ra được một định nghĩa xác đáng xem thế nào là “thế giới phẳng”, thế nào là “toàn cầu hóa”, mà chỉ nói đi nói lại hàng trăm lần cái từ “phẳng”, làm như thể ông ta mới phát hiện ra một sự thật mới mẻ trong khi người ta đã bàn luận về các đặc điểm của quá trình toàn cầu hóa từ lâu. Theo GS. Jean-Jacques Salomon (2), tác giả đã quá giản lược hóa sự phân kỳ lịch sử đến mức chỉ còn quan tâm tới thế giới kinh doanh và vai trò của các đại công ty mà quên đi những thực tại vô cùng phức tạp khác của thế giới như đời sống công nghiệp, như vai trò của các quốc gia, của các lực lượng xã hội hay tôn giáo. Salomon cho rằng cái nhìn thiển cận của tác giả Thế giới phẳng đã dẫn ông ta đến chỗ lầm lẫn giữa quá trình toàn cầu hóa với quá trình “Mỹ hóa” (américanisation). 

Vốn nhiệt tình ủng hộ lý thuyết tân tự do kinh tế, Friedman không chỉ kêu gọi các nước nghèo hãy tự do hóa kinh tế vì “các thị trường mở và cạnh tranh là phương thức bền vững duy nhất để đưa một quốc gia thoát khỏi nghèo đói” [tr. 577], ông còn có khuynh hướng coi nước Mỹ là kiểu mẫu phát triển duy nhất đúng đắn trên thế giới ngày nay. Theo Salomon, do chỉ tiếp xúc với những chuyên gia thuộc tầng lớp ưu tú ở các nước, Friedman tưởng rằng ở đâu người ta cũng nói cùng một thứ ngôn ngữ, sống, vui chơi và làm việc giống như nhau khi ông ta nhìn thấy những bảng hiệu IBM, Microsoft, HP, Texas Instruments hay cái mũ có nhãn 3M trong sân golf ở Bangalore - một thung lũng Silicon của Ấn Độ. Ông quên rằng chỉ cần bước ra ngoài cái hàng rào của những cái lõm công nghệ cao của các công ty đa quốc gia ấy thì người ta có thể chứng kiến ngay lập tức những thực tại khốn khổ của sự nghèo đói, thất học và phân hóa xã hội của một đất nước đông hàng tỉ người này.

Theo Michael Sandel (Đại học Harvard), lối nói về sự hợp tác hàng ngang trong thế giới phẳng thực ra “chỉ là một cái tên hoa mỹ để gọi khả năng thuê mướn nhân công rẻ ở Ấn Độ” (3). Roberto Gonzalez, Giáo sư nhân học tại San Jose State University, cho rằng mục tiêu của cuốn sách của Friedman là “quảng cáo” cho một lối sống, đề cao một thế giới quan chỉ biết tôn vinh các công ty đa quốc gia và ca ngợi một xã hội tiêu thụ, coi đấy là những con đường duy nhất để đi tới sự tiến bộ xã hội (4). 

“Thế giới phẳng” làm cho thế giới bớt xung đột?
Mặc dù cho rằng thế giới phẳng “khiến cho các xã hội và nền văn hóa khác nhau tiếp xúc trực tiếp với nhau nhiều hơn” và “kết nối người ta lại với nhau” [tr. 687], nhưng Friedman cũng nhìn nhận sự xuất hiện của những tổ chức khủng bố Hồi giáo cực đoan. Ông hiểu sai hoàn toàn về lịch sử văn minh của các nước Ảrập Hồi giáo, và giải thích sở dĩ có “sự giận dữ” chống Mỹ hiện nay chính là vì người ta “gần gũi nhau” và dễ dàng so sánh mình với người khác [tr. 688], và vô hình trung ông lại đi đến một nhận định nghịch lý với chính mình khi nói “quá trình phẳng hóa thế giới chỉ làm tăng thêm sự bất hòa này” [tr. 696]. Như vậy phải chăng ông hàm ý nói rằng cần phải “phẳng hóa” hay đồng nhất hóa theo mô hình của Mỹ thì mới là một sự “phẳng hóa” đúng đắn?

Friedman còn đề ra cái mà ông gọi là “lý thuyết Dell về ngăn ngừa xung đột”, cho rằng “không có hai quốc gia nào cùng nằm trong một dây chuyền cung ứng toàn cầu, như dây chuyền Dell chẳng hạn, sẽ gây chiến với nhau, chừng nào họ vẫn còn ở trong cùng dây chuyền đó” [tr. 745]. Có lẽ ông quên rằng trong thực tế lịch sử thế giới, những nước sắp gây chiến luôn luôn tính toán hơn thiệt các chi phí do cuộc chiến gây ra, và nếu thấy có lợi hơn thì họ vẫn đánh, cho dù giữa hai nước đã có những mối quan hệ thương mại hay những “dây chuyền” cung ứng như thế nào đi nữa (5). 

Quyết định luận kỹ thuật
Friedman định nghĩa “hệ thống thế giới phẳng” là “sản phẩm của sự hội tụ giữa máy tính cá nhân (...) với cáp quang (...) và phần mềm xử lý công việc (cho phép các cá nhân trên khắp thế giới cộng tác trên cùng cơ sở dữ liệu số, bất kể từ nơi đâu với khoảng cách như thế nào)” [tr. 27]. Cũng theo chiều hướng này, trong chương 2, ông trình bày 10 nhân tố “làm phẳng” thế giới, trong số đó nhiều cái đều ít nhiều liên quan tới máy tính, Internet và các phương tiện truyền thông. Theo ông, chính nhờ sự bùng nổ về công nghệ thông tin mà quá trình toàn cầu hóa phiên bản 3.0 làm cho “các cá nhân từ mọi ngõ ngách của thế giới phẳng đều được trao quyền” [tr. 28]. 
Friedman nhìn nhận ông ta “đã tuyệt đối hóa sức mạnh của công nghệ” [tr. 660]. Cách nhìn đề cao cực đoan vai trò của kỹ thuật trong việc tạo ra “thế giới phẳng” dẫn ông ta đến chỗ quan niệm rằng sự phát triển của công nghệ thông tin có thể “trao quyền” cho cá nhân, làm như thể chỉ cần có chiếc máy tính và Internet thì các cá nhân kể từ nay có thể làm chủ được số phận của mình cũng như được tham gia một cách bình đẳng vào đời sống toàn cầu! Friedman đã nhầm lẫn khi nghĩ rằng nhân tố kỹ thuật đóng vai trò quyết định đối với sự chuyển biến của cấu trúc xã hội cũng như của các lĩnh vực văn hóa và chính trị. Quan niệm của Friedman thực chất phản ánh lý thuyết quyết định luận kỹ thuật ngây thơ và ảo tưởng mà nhiều người từng mắc phải mỗi khi xuất hiện một loại kỹ thuật mới, tương tự như khi ra đời đài phát thanh hay truyền hình vào nửa đầu thế kỷ 20. Điển hình là quan niệm của nhà nghiên cứu nổi tiếng về truyền thông, Marshall McLuhan, từng cho rằng các phương tiện truyền thông điện tử có thể làm cho thế giới hiểu biết nhau hơn, gắn kết và gần gũi nhau giống như trong một “ngôi làng toàn cầu” (6).

Chính vì rơi vào quan niệm giản lược hóa yếu tố kỹ thuật mà Friedman đã không trả lời được cho vấn nạn mà Bill Gates đặt ra, khi Gates nói: “Phải, thế giới đã nhỏ đi, nhưng có phải nhờ thế mà chúng ta nhìn thấu được điều kiện sống của mọi người không? Hay là thế giới vẫn còn rộng lắm, đến nỗi chúng ta vẫn chưa thể thấy hết hoàn cảnh nghèo khổ của người khác” [tr. 668], và “tôi lo rằng sẽ chỉ có một nửa thế giới trở nên phẳng và tình trạng đó sẽ không thay đổi” [tr. 667]. Lúc này, chúng ta mới thấy Friedman buộc phải thoát ra khỏi phần nào quan điểm quyết định luận kỹ thuật khi nói, một cách rất chung chung và mơ hồ, rằng: “Lối thoát duy nhất giờ đây là sự hợp tác giữa các phần phẳng và không phẳng của thế giới” [tr. 668].

Nhận xét chung về cuốn sách
Một bài điểm sách trên tờ The Economist cho rằng Thế giới phẳng của Thomas Friedman là một sự “thất bại ảm đạm”, vấn đề không phải là thiếu các chi tiết, mà là có quá ít cái để nói thông qua các chi tiết ấy, và tác giả lúc nào cũng lặp đi lặp lại rằng thế giới này đang nhỏ đi, quá trình này là không thể tránh khỏi, bao nhiêu thứ đang thay đổi, và chúng ta không nên sợ điều này...(7) Còn GS. Roberto Gonzalez thì đánh giá nặng nề hơn, cho rằng đây là một cuốn sách “thông tin sai lạc về văn hóa, thiếu sót về lịch sử và nghèo nàn về trí tuệ” . Khi so sánh mình với Kha-luân-bố (Colombo), người đã khám phá ra châu Mỹ vào năm 1492 mà cứ tưởng là mình khám phá ra Ấn Độ (vì thế mới gọi người da đỏ là “Indians”), Friedman cho rằng mình đã khám phá ra “thế giới phẳng” khi đến Ấn Độ - nhưng có lẽ chính ông cũng một lần nữa lại rơi vào ngộ nhận vì thế giới này thực ra không hề phẳng như ông ta mong muốn! Tự tử 

Chà, một vấn đề khó, xin post lại một bài trên báo và nhờ mọi người cùng phân tích các nguyên nhân dẫn tới hành động tự tử của một số người trẻ tuổi.

Nguồn: http://www.dantri.com.vn/Sukien/2005/4/50113.vip


****************

[size=14px]Tự tử hàng loạt ở Tiền Giang[/size]

Chỉ trong ba tháng đầu năm nay, nhiều vụ tự tử đã xảy ra trên địa bàn huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. 37 trường hợp tự tử sau khi phát hiện đã được chuyển vào bệnh viện tuyến huyện để cấp cứu, một số khác được cấp cứu ở những trung tâm y tế xã hội rồi trả về gia đình hay chết tại địa phương.


Đa số trường hợp tự tử khi tuổi đời còn quá trẻ, trên dưới 20 và họ tìm đến cái chết bằng thuốc rầy có sẵn trong nhà.

Em Võ Thanh Hùng (sinh năm 1988) ở ấp Phú Bình, xã Phú Nhuận, huyện Cai Lậy tự tử đã qua đời ngày 20/2. Vợ chồng anh Võ Văn Sơn (1967) cùng chị Nguyễn Thị Bé (1963), cha mẹ của em Hùng, òa khóc nức nở: “Chúng tôi chỉ có một đứa con trai duy nhất nhưng không hiểu sao nó lại dại dột như vậy...”. 

Bằng giọng đứt quãng, nghẹn ngào, anh Sơn cho biết: “Bình thường thằng Sơn (tên thường gọi ở nhà của em Hùng) ngoan hiền lắm. Cô giáo chủ nhiệm lớp 11 đánh giá cháu học giỏi, đối xử rất tốt với bạn bè trong lớp. Chỉ có hôm đó, đi học về, mẹ bảo đi gom lúa, nó dùng dằng thì bị la mắng vài câu. Chỉ vậy thôi mà nó bỏ ra nhà sau rồi cầm chai thuốc rầy uống ngay, chúng tôi trở tay không kịp...". Những ngày trước lúc xảy ra chuyện này, vợ chồng anh chị cũng chẳng thấy nó có biểu hiện gì khác thường. Anh chị có nghe bạn bè nó nói là ở trường Sơn có bạn gái nhưng về nhà nó không nói gì. Sau khi nó mất, anh chị mới tìm thấy một tấm hình của đứa bạn gái học cùng lớp với Sơn ở trong cặp sách. 

Cũng tại xã Phú Nhuận, cách đây không lâu, cha mẹ của em Nguyễn Thị Hồng Dung (sinh năm 1988) cũng đau khổ không kém khi đứa con gái vĩnh viễn ra đi. Gia đình Dung rất nghèo, phải gửi em đi ở đợ cho người quen trên xã. Được ba tháng, sáng 27/11/2004, bà con đi chợ bắt gặp Dung cầm một chai nhỏ rồi uống cạn, một người hỏi: "Mày uống gì vậy Dung?" thì em trả lời: “Có uống gì đâu”. Nhưng ngay sau đó em nôn oẹ dữ dội, mọi người lập tức chở Dung vào bệnh viện cấp cứu nhưng không kịp . Theo lời hàng xóm của Dung thì em rất ngoan hiền, lại xinh xắn nhưng không hiểu vì sao phải uống thuốc rầy tự tử. Các cơ quan chức năng đã khám nghiệm, phẫu thuật tử thi nhưng không tìm thấy dấu hiệu bị đánh đập hay lạm dụng thân thể. Hành vi tự tử của em đến nay vẫn chưa tìm được một lời giải thích.

Tương tự, chuyện tự tử của chị Đường cũng rất “lãng xẹt”. Chị Lê Thị Đường (sinh năm 1986), quê ở Sóc Trăng kết hôn cùng anh Nguyễn Thanh Pha (sinh năm 1984) ngụ ấp 11, xã Mỹ Thành Nam (Cai Lậy). Theo lời ông Nguyễn Thanh Khá, ba chồng của Đường: “Sau khi cưới, hai vợ chồng nó sống tại nhà tôi. Ở nhà, tôi thấy vợ chồng nó cũng không có xích mích gì. Những ngày trước khi con Đường tự tử tôi thấy nó có vẻ buồn buồn. Chiều 9/3, trong lúc con trai tôi đi vác lúa mướn, tụi tôi nấu cơm và nói con dâu vào ăn nhưng nó nói: “Thôi chờ chồng về ăn luôn”. Vậy mà lúc ăn cơm xong vợ tôi ra vườn thắp nhang thì thấy nó nằm bất động ở đó. Chở vào bệnh viện cấp cứu mới biết nó tự tử bằng dây thuốc cá trong vườn, không cứu được. Ông Phá nghẹn ngào thêm: "Đêm hôm đó tôi khóc cả đêm, con cái giận cái gì thì nói cho cha mẹ biết chứ sao lại ra nông nỗi như vầy!". 

Tại ấp 10 (xã Mỹ Thành Nam), Nguyễn Thanh Vinh (24 tuổi) cũng đã uống thuốc rầy tự tử tại nhà và cũng không qua khỏi sau khi được đưa đi cấp cứu. Theo những người dân trong ấp thì Vinh đem lòng yêu thương một cô gái cùng xã nhưng vì gia đinh hai bên ngăn cản nên đã dẫn đến sự việc đau lòng. 

Bên cạnh những trường hợp tự tử dẫn đến tử vong, có nhiều trường hợp may mắn thoát khỏi cái chết sau khi được đưa cấp cứu kịp thời, như trường hợp của Nguyễn Chí Tuấn (SN 1984) ngụ ấp Mỹ Vĩnh, xã Long Khánh (Cai Lậy). 

Tuấn, một thanh niên khỏe mạnh, cao lớn, thật thà kể lại: “Học lớp 6 xong thì mình nghỉ ở nhà phụ giúp cha mẹ làm ruộng và xin làm dân quân tự vệ xã. Ở địa phương mình có nhiều bạn bè thân, buổi tối hay tụ tập đi chơi, nhậu. Nhiều hôm đi nhậu mình cũng hay quá chén và ba mẹ có rầy la nên đâm ra buồn bực. Đêm hôm đó (5/2) mình đi nhậu về thì bị mẹ mắng, cảm thấy tức quá liền ra sau nhà lấy thuốc rầy uống. Lát sau mẹ phát hiện, gọi mọi người đưa đi cấp cứu. Khi tỉnh dậy mình cũng không nhớ gì, sau nghe mọi người kể lại mới thấy sao mình dại vậy. Bây giờ mình lo làm ăn, sau khi ra quân xin lên thành phố làm việc để dành tiền cưới vợ thôi!”. 

Trường hợp tự tử của Phan Thị Mỹ Xuân (SN 1988), ấp Bình Thạnh, xã Tam Bình khá oái oăm. Hôm Xuân đi học (lớp 9 Trường PTCS Tam Bình) về, đúng lúc chị Hai của em để một số tiền trên bàn rồi ra nhà sau tắm. Khi trở vào, người chị kêu mất tờ 100.000 đồng và đổ thừa Xuân lấy. Mặc cho Xuân thanh minh, giải thích là mình không lấy tiền nhưng người chị vác roi dọa đánh em nếu không trả tiền lại. Thế là chiều 22/2, Xuân ra sau nhà cầm chai thuốc rầy nốc cạn. Được chở lên Bệnh viện Đa khoa khu vực Cai Lậy cấp cứu kịp thời, Xuân được cứu sống và phải nằm viện 4 ngày, sau đó phải nghỉ học một tuần để phục hồi sức khỏe. Điều đáng nói là sau khi sự việc xảy ra, gia đình mới biết người lấy tiền là anh trai của Xuân. 

Trả lời câu hỏi: “Nếu sau này bị oan em có hành động dại dột nữa không?”. Xuân trả lời tỉnh queo: “Em cũng không biết nữa, có mới tính...”. 

Còn nhiều trường hợp tự tử tương tự như trên ở Cai Lậy. Có xã trong ba tháng đã xảy ra 5 vụ tự tử mà nguyên nhân chủ yếu là mâu thuẫn gia đình. Phần lớn những người tìm đến cái chết bằng thuốc rầy sẵn có trong nhà (những gia đình ở đây sống chủ yếu bằng nghề làm vườn, ruộng). Nguy hiểm hơn là nạn tự tử tại đây có tính chất “lây lan" và dường như có sự "bắt chước" lẫn nhau: Coi tự tử là một cách phản ứng và chứng tỏ mình trước những mâu thuẫn gia đình, xã hội... 

Ông Lê Văn Dũng - Phó Chủ tịch UBND huyện Cai Lậy (phụ trách văn hóa - xã hội) - cho biết: “Hiện tượng này xảy ra là do một vài người có những suy nghĩ lệch lạc rồi dẫn đến hành động nông nổi. Còn vấn đề yêu đương không thành rồi dẫn đến tự tử thì tôi chưa nhận được thông tin nào!". Bà Trần Thị Chờ - Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Cai Lậy - nhận xét: "Nguyên nhân dẫn đến nạn tự tử như vậy thường là do một số em không lo học, đi chơi đánh bi da, uống rượu... về bị gia đình rầy la dẫn đến hậu quả đáng tiếc như vậy. Còn trường hợp yêu nhau gia đình cấm đoán thì ở đây chưa có". 

Điểm qua nhiều vụ tự tử ở Cai Lậy thì nguyên nhân chủ yếu là mâu thuẫn trong gia đình không được giải quyết rốt ráo, thậm chí có những nguyên nhân được nhiều người cho là “cỏn con”, có nguyên nhân ảnh hưởng từ đạo đức, lối sống của giới trẻ, bị hạn chế bởi trình độ, nhận thức, lối giáo dục của gia đình... 

Tự tử 
Theo ý kiến cá nhân tôi, nguyên nhân quan trọng dẫn tới việc tự tử là do những mối quan hệ cá nhân của những người đó với những người khác trong một thời điểm đột nhiên đều xấu đi, khiến người muốn tự tự cảm thấy "không có gì quan trọng níu giữ mình trên đời nữa", "sống còn khổ hơn chết"...

Thật ra để nói thế nào là ý nghĩa của cuộc sống, hay sống để làm gì cũng khó. Nhưng để tự tử thì đâu phải tự dưng múôn là làm được ngay, vì chúng ta tồn tại cùng vô số mối liên hệ với người khác. Ví như tôi muốn chết cũng phải nhớ tới mẹ và nghĩ tới nỗi đau của mẹ nếu tôi ra đi ... Hỏi cuộc sống là gì? Tại sao phải sống thì nhiều người hỏi rồi. Tôi tự trả lời mình rằng, nhiều khi cái ý nghĩa không tự có, mà là do ta tạo nên. Nếu loài người chán, tự tử hết sạch (giả dụ thế) thì đúng là cuộc sống có lẽ chẳng có ý nghĩa gì (dù cũng đã thải khá nhiều ô nhiễm vào vũ trụ), nhưng với sự nỗ lực của con người rất có thể đến một ngày nào đó, sự tồn tại của con người sẽ hiển nhiên rất có ý nghĩa đối với sự tồn tại của cả vũ trụ này chẳng hạn.

Nói xa xôi quá , và tiếp tục xa xôi nữa nhé . Cứ cụ thể là bạn nhọc nhằn tạo ra 1 sản phẩm nào đó đương nhiên bạn muốn gìn giữ nó. Bạn hẳn muốn nó tồn tại ngay cả sau khi bạn chết, vậy cần có thằng sống để tiếp tục gìn giữ và làm tốt hơn cái sản phẩm ấy (hay đó chính là một hình thức tồn tại tiếp tục của chính bạn).... Và chúng ta được tạo ra bởi những người đi trước, có mục đích nối tiếp cuộc sống của họ và bảo tồn những giá trị họ làm ra. Cứ thế, cứ thế...

Nhấn mạnh lại là theo thiển ý của tôi, cuộc sống được tạo ra bởi, duy trì bởi và cái cuộc sống để lại tiếp chính là những mối dây liên hệ giữa con người với con người. Nguyên nhân sâu xa gây nên việc tự tử là do.. nhiễu các mối dây liên hệ hoặc các mối liên hệ trở nên lỏng lẻo, bị cảm nhận, giải thích tiêu cực, bi quan bởi chủ thể.

Những ngừơi tự tử chắc hẳn đều ở trong trạng thái đang bị trầm cảm, hoặc trầm uất, phần lớn có kiểu hình thần kinh nghệ sỹ...

Dù gì đi chăng nữa, theo tôi những mối quan hệ với mọi người đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với chất lượng cuộc sống và tình yêu cuộc sống của chúng ta. Những ai tạo được cho mình những mối quan hệ bền chặt thì bất kể lúc nào cũng có bạn bè, người thân gần quanh và giúp đỡ kịp thời khi cần chia xẻ hoặc có gì bất thường.

Và như thế, giáo dục gia đình và nhà trường cần thêm 1 nội dung quan trọng để giúp thanh niên tồn tại, phát triển trong xã hội: dạy thiết lập, duy trì, phát triển và giải mãi tích cực các mối quan hệ. Cuộc đời là những chuyến đi... 
Nguyên nhân tự tử ở tuổi Thiếu niên 

Nói về những nguyên nhân đưa các em thiếu niên đến chỗ tự tử, người ta thấy có nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết, nói về nguyên nhân hay ảnh hưởng của xã hội. Xã hội chúng ta đang sống có quá nhiều lo lắng và căng thẳng trong tinh thần, khiến một số người không chịu nổi, phải tìm đến cần sa ma túy hoặc cái chết để chạy trốn tất cả. Nhưng còn đối với những đứa con của chúng ta, chưa phải đối phó với đời sống, tại sao lại chán đời đến nỗi phải tự tử? Người ta nghiên cứu và cho thấy xã hội có những ảnh hưởng sau đây trên nan đề tự tử của tuổi thiếu niên.

1. Thay đổi về tiêu chuẩn đạo đức
Tuổi thiếu niên tuy thấy như là tuổi muốn làm điều quấy nhưng sâu kín trong lòng các em muốn có một tiêu chuẩn đạo đức rõ ràng để noi theo. Với tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội ngày càng hạ thấp và thay đổi luôn, các em hoang mang, không biết nương vào đâu để hành động. Trong khi bạn bè xấu lôi cuốn vào chuyện sai quấy, cha mẹ và người lớn không làm gương, không chỉ dạy, các em không rõ đâu là điều phải để theo, đâu là điều quấy để tránh.

2. Thay đổi nơi ở, nơi sinh sống quá nhiều
Ngày nay ít có gia đình nào ở một chỗ từ thế hệ này sang thế hệ khác, bà con cũng không ở gần nhau. Vì lý do đó con em chúng ta thiếu tình thân yêu của người trong xóm, không có tình thân của người trong đại gia đình. Mỗi lần thay đổi chỗ ở, các em phải đổi trường, vì thế mất bạn, mất bà con, mất tình thân của đại gia đình. Điều này khiến con cái chúng ta mất đi sự hỗ trợ, nâng đỡ của người chung quanh.

3. Ly dị 
trở thành chuyện thông thường và hầu như được chấp nhận
Sự kiện vợ chồng ly dị nhau quá thường cũng khiến con em chúng ta bị ảnh hưởng. Người lớn không làm gương trong vấn đề ràng buộc trong hôn nhân, gia đình đổ vỡ quá dễ dàng, vì thế gia đình không còn là nơi cho các em nương tựa khi gặp khó khăn.

4. Sự lan tràn của rượu, thuốc lá, cần sa ma túy
Sự lan tràn của rượu, thuốc lá, cần sa ma túy cũng có ảnh hưởng trên các em thiếu niên, liên quan đến nạn tự tử. Đây là những thứ độc hại các em có thể lấy được cách dễ dàng, khi gặp chuyện khó khăn hay buồn đau. Các em dùng những thứ này để quên thực tại, vì thế tinh thần bị tê dại, không còn khôn ngoan để nhìn thấy những suy nghĩ dại dột của mình.

5. Phim ảnh, sách báo và ti-vi về bạo động 
Phim ảnh, sách báo và ti-vi nói về sự bạo động bạo hành trong xã hội quá nhiều, lắm khi hầu như ca tụng bạo động, bạo hành, và trình bày chuyện giết người, chuyện chết chóc như là điều bình thường của đời sống. Một khi xem mãi những hình ảnh này, con em chúng ta sẽ nghĩ rằng tiêu hủy mạng sống con người không phải là chuyện nghiêm trọng, phải tránh.

6. Súng đạn
Việc sở hữu và sử dụng súng ống quá dễ dàng cũng đóng góp một phần trong nan đề tự tử trong giới trẻ. Khi cần, các em đều có thể kiếm được súng cách dễ dàng. Người lớn cũng như trẻ con, nếu trong những phút tuyệt vọng, tức giận, thiếu khôn ngoan mà có khí giới để hủy hoại thân thể trong tay, người ta sẽ khó tránh được những hành động nguy hiểm chết người.

7. Người khác tự tử
Nạn thanh thiếu niên tự tử gia tăng cũng ảnh hưởng đến những em có ý muốn tự tử. Khi báo chí, bạn bè và người chung quanh nói đến chuyện tự tử thường xuyên, điều này có thể gieo tư tưởng tự tử trong trí những em đang gặp khó khăn hay đang chán đời, khiến các em nghĩ đó là con đường giải thoát tốt đẹp nên các em muốn bắt chước.

Là cha mẹ chúng ta thường nghĩ rằng con mình con nhỏ, la mắng nặng lời một chút cũng không sao, có lẽ con buồn một tí nhưng rồi sẽ quên, nhưng trong khi đó các em lại nghĩ rằng vì cha mẹ không thương mình nên mới la mắng như thế. Trong khi cha mẹ nghĩ rằng con mình là trẻ con, ngây thơ và vô tư, ngoài chuyện học hành không phải lo lắng chuyện gì cả nhưng trong thực tế con em chúng ta suy tư rất nhiều về đời sống, nhiều khi có những suy tư lệch lạc nên đâm ra chán đời, không muốn sống nữa. Cha mẹ cũng thường cho rằng mình không có chuyện gì cần nói với con, hoặc nghĩ rằng mình là cha mẹ nên đã biết rõ con; hơn nữa cha mẹ còn phải lo bao nhiêu công việc quan trọng làm sao có thì giờ trò chuyện với con. Vì những lý do đó chúng ta không biết con cái đang lo nghĩ điều gì, mơ ước gì hoặc có những điều buồn phiền lo lắng nào. Thêm vào đó, các em thiếu niên khi có chuyện lo buồn lại hay giấu cha mẹ vì thế mỗi khi có chuyện không hay xảy ra, cha mẹ rất kinh ngạc kinh hoàng vì không hay biết gì cả.

Có một điều mà không ai có câu trả lời thỏa đáng đó là những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong xã hội tự do này thường có những suy nghĩ rất khác với những em được trưởng dưỡng tại Việt Nam. Vì thế các em có những tâm lý rất phức tạp và khó hiểu mà cha mẹ phải theo dõi và tế nhị lắm mới có thể biết được. Chẳng hạn như ngày xưa bên Việt Nam cha mẹ có đánh oan hay mắng chửi vô lý con cũng phải chấp nhận. Ngày nay trong môi trường này, nếu cha mẹ la mắng con oan ức, vô lý hoặc sửa phạt mà không giải thích, các em sẽ không chấp nhận.

Ngoài ra, những băng nhạc mà các em thường nghe, phim ảnh các em thích xem hoặc sách các em đọc cha mẹ cũng cần để ý. Có những bài hát, những quyển sách và những cuốn phim khuyến khích thanh thiếu niên tự tử. Đặc biệt là âm nhạc, có những bài hát ca tụng chết chóc, kêu gọi người nghe nếm thử cái chết, cũng có những quyển sách dạy người đọc cách tự tử thế nào cho êm ái. Thưa quý vị những điều này các em hay bàn thảo với nhau nhưng không bao giờ nói cho cha mẹ biết. Chúng ta cũng cần để ý xem trong phòng trong tử các em thường chưng hình của ai, những người đó là ai. Nhiều khi thần tượng của các em tự tử, các em cũng muốn tự tử theo. Thông thường khi con đến tuổi thiếu niên, giữa cha mẹ và con cái đã có một khoảng cách lớn. Nếu cha mẹ nghiêm khắc, độc đoán, buộc con làm theo ý cha mẹ trong mọi việc, khoảng cách đó lại càng lớn hơn. Nếu cha mẹ vì công việc làm ăn, vắng nhà thường xuyên trong khi đó con cái lúc nào cũng ở trong phòng, nghe nhạc, nói điện thoại hoặc đi chơi với bạn, cha mẹ và con cái không bao giờ gặp mặt trò chuyện, khoảng cách đó lại càng kinh khủng và có thể rất nguy hiểm, vì cha mẹ không thể biết con mình đang suy nghĩ hay toan tính điều gì.

Điều cần hơn hết trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là cha mẹ cần dành nhiều thì giờ ở gần bên con, trò chuyện tâm tình với con và yêu thương con vô điều kiện, có như thế khi gặp chuyện khó giải quyết hoặc khi buồn chán các em mới dám đến với cha mẹ để xin cha mẹ giúp đỡ. (Viết bởi Minh nguyên http://www.tamly.caigi.com)

Riêng Mặt Trời chỉ có một mà thôi, và Mẹ em chỉ có một trên đời... e: Tự tử 

Tự tử - "Sát nhân thầm lặng" ở châu Á

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tự tử đã trở thành vấn đề đáng báo động ở châu Á: trung bình mỗi ngày có tới 1.100 người chết vì tự tử. Đáng sợ hơn, tổng số người tự tìm đến cái chết cao gấp 20 lần con số này, song thất bại.


Những con số biết nói

Theo ước tính của WHO, tỷ lệ tự tử ở châu Á là 19,3/100.000 người trong khi tỷ lệ toàn cầu là 14/100.000. Cụ thể, ở Nhật Bản, cứ 100.000 người thì có 27 người chết vì tự tử - một trong những tỷ lệ cao nhất thế giới. Thống kê cho thấy, hơn 32.000 người ở xứ hoa anh đào đã tự kết liễu cuộc đời trong năm 2004. Theo báo cáo của Bộ Y tế Nhật Bản, tự tử là nguyên nhân thứ 6 gây chết ở nước này sau ung thư, bệnh tim và một số bệnh hiểm nghèo khác. Trong khi đó, báo cáo của Bộ Y tế Trung Quốc cho thấy, tự tử là nguyên nhân phổ biến thứ 5 dẫn đến những ca tử vong trên toàn quốc, trong đó những người tự tử chủ yếu ở độ tuổi 20 - 35. Gần đây, số vụ tự tử ở đất nước đông dân nhất hành tinh đã tăng mạnh, lên tới khoảng 250.000 vụ/năm. Riêng số ca tự tử không thành là 2,5 - 3,5 triệu. Tỷ lệ tự tử ở Trung Quốc khá cao: 22/100.000. Riêng tại Thái Lan, tỷ lệ này trong năm 2004 là 6,9/100.000.

Đâu là nguyên nhân?

Theo WHO, có nhiều nguyên nhân khiến con người tìm đến cái chết, trong đó có sự thay đổi về kinh tế xã hội. Điều này bao gồm cả công việc và điều kiện sống. Việc dễ tiếp cận các phương tiện giúp tự tử như thuốc độc, súng cũng là một nguyên nhân khác nữa. Ngoài ra, bệnh tật, đổ vỡ trong quan hệ hôn nhân, gia đình cũng là những lý do đẩy con người đến chỗ tự tử. Bên cạnh đó, việc lạm dụng thuốc phiện, ma túy, rượu bia hay tình trạng tù tội cũng khiến nhiều người tìm cách giải thoát mình bằng cái chết. Thống kê cho thấy, những rắc rối về sức khỏe chiếm gần 45% số ca tự tử ở Nhật Bản và hơn 25% là do thất bại về tài chính. Trong khi đó, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tự tử ở Trung Quốc là do áp lực từ công việc, học hành và hôn nhân ngày càng cao. 

Biện pháp khắc phục

Ông S.Omi - Tổng giám đốc WHO tại châu Á - cho rằng hạn chế con đường tiếp cận các loại thuốc trừ sâu hay các loại súng ống là việc làm cần thiết để giúp ngăn chặn tự tử. Gần 58% vụ tự tử ở Trung Quốc có liên quan đến việc dùng thuốc trừ sâu. Ngoài ra, cần sớm đưa ra các biện pháp hữu hiệu chữa trị chứng buồn chán hay rối loạn thần kinh. WHO cũng kêu gọi các nước quan tâm nhiều đến các cơ sở y tế cộng đồng, hơn là chỉ tập trung vào các bệnh viện điều trị tâm thần lớn. Ông Omi còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của vai trò gia đình, cộng đồng và công sở trong việc giúp giảm tỷ lệ tự tử. Trong khi đó, theo ông Wang Xiangdong - Cố vấn y tế của WHO tại châu Á, ý thức cộng đồng, xác định người có nguy cơ tự tử cao và công khai số liệu là những biện pháp giúp thực hiện thành công việc ngăn ngừa tự tử. Ngoài ra, việc thành lập các đường dây nóng để tư vấn tâm lý cho người dân là rất quan trọng. (BangkokPost, Business Week)

Châu YênXin ghi lại bài giảng của thầy Lê Khanh về tâm lý học hành vi. Tâm lý học hành vi được phân ra làm hai bộ phận: tâm lý học hành vi cổ điển và tâm lý học hành vi hiện đại
Watson và Skiner là những đại diện tiêu biểu của tâm lý học hành vi cổ điển.
Theo quan điểm của tâm lý học hành vi, bản chất của hành vi là phản ứng của cơ thể ® đáp ứng lại tác động của môi trường (S) và tạo nên công thức nổi tiếng S---->R. 
Cặp S---->R này dựa trên quan điểm triết học thực chứng.
Để dự đoán và kiểm soát được hành vi, chúng ta có thể áp dụng phương pháp của khoa học tự nhiên: qua tính toán, quan sát, thực nghiệm....Ví dụ như dự đoán được người A trong tình huống B sẽ có những hành vi CDF nào...Tâm lý học hành vi nghiên cứu hành vi theo cách như vậy.
Như vậy ngay từ đầu, cách đặt vấn đề cũng như trong phương pháp nghiên cứu, tâm lý học hành vi đi theo hướng "thực dụng". 
Chỉ căn cứ vào những cái nhìn thấy được, nghe thấy được, cảm nhận trực tiếp được từ đấy đi đến việc phán đoán hành vi, điều khiển hành vi. ("Thực dụng" không hiểu theo nghĩa là tiêu cực của nó) Chính vì vậy, quan điểm tâm lý học hành vi được ứng dụng rất nhiều trong thực tiễn.

Hi hi, lâu ngày quá mới gặp lại Đinh Hùng. Ông khỏe không?� :cheer:

Sao tớ thấy tâm lý học hành vi này nó làm sao ấy ông ạ. Những tiền đề nêu trên xem ra trình bày con người một cách quá đơn giản. 

"Bản chất của hành vi là phản ứng của cơ thể ® đáp ứng lại tác động của môi trường (S) và tạo nên công thức nổi tiếng S---->R.": Sao lại thế được nhỉ? Khi gặp cùng một hoàn cảnh, các giống lòai sinh vật khác có thể có cùng phản ứng như nhau, nhưng với con người thì tớ không tin thế. Có thể về mặt sinh học thì như nhau: ví dụ gõ vào điểm nào đó ở đầu gối thì chân ai cũng giật lên cả, trừ phi mấy sợi thần kinh ở chỗ đó có vấn đề. Nhưng hành vi của con người đâu phải chỉ được quyết định bởi mấy sợi thần kinh sinh học?� �

"Để dự đoán và kiểm soát được hành vi, chúng ta có thể áp dụng phương pháp của khoa học tự nhiên: qua tính toán, quan sát, thực nghiệm....Ví dụ như dự đoán được người A trong tình huống B sẽ có những hành vi CDF nào...Tâm lý học hành vi nghiên cứu hành vi theo cách như vậy.
Như vậy ngay từ đầu, cách đặt vấn đề cũng như trong phương pháp nghiên cứu, tâm lý học hành vi đi theo hướng "thực dụng". 

Tớ nghĩ dù hiểu hai chữ "thực dụng" theo nghĩa tích cực mấy đi nữa thì quan niệm như trên vẫn quá đơn giản, không thể áp dụng được vào đời sống con người. Một ví dụ nhé: trong gia đình, mấy đứa nhỏ có cùng bố mẹ, cùng hoàn cảnh sống... - nói chung là cùng "môi trường" - nhưng có phải cứ mỗi tình huống trong nhà thì mọi đứa con đều phản ứng giống y như nhau đâu!? Cái gì làm mỗi đứa con phản ứng môt cách khác, có khi rất khác? 

Mà còn hơn thế: với cùng một tác động từ bên ngòai, môt người có thể có hai phản ứng rất khác nhau ở vào hai thời điểm khác nhau. Cái đó tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố mà "khoa học tự nhiên" không thể tiên liệu hết được. 

Lạ nhỉ? Ông Hùng có thể nói thêm về tâm lý học hành vi này không? Có những ví dụ cụ thể nào không cho thấy lý thuyết trình bày trên có thể áp dụng đúng vào thực tế cuộc sống con người?� � � Mình tiếp tục nhận xét chung về dự đoán và kiểm soát hành vi, qua thói quen, sở thích, quan điểm... lấy ví dụ thói quen "sớm, muộn" để dự đoán cho cuộc hẹn gặp hôm nay bạn sẽ đến "sớm, muộn, hay đúng giờ"... Sở thích "yêu, ghét" đề tài gì, đưa ra đúng đề tài "yêu hay ghét" biết trước phản ứng cảm tình của bạn... sở thích "ăn, uống" thế nào, biết trước phản ứng khi đưa ra món bạn ghét hay thích... Vấn đề "tôn giáo" nói chung cũng vậy, nếu bạn theo Đạo Phật, nhưng nói về Công Giáo và Hồi Giáo bạn có phản ứng tiêu cực hay tích cực v.v...

Những người có thái độ hòa hiếu, có tinh thần tích cực, yêu chuộng hòa bình, hòa hợp các tôn giáo... có thể dự đoán trước được sau khi chết đi, linh hồn người đó tồn tại ở muôn ngàn cảnh giới... còn những người chỉ yêu chuộng tôn giáo này mà bài bác, không thích hoặc đố kỵ tôn giáo khác, dự đoán khi chết đi, linh hồn người đó chỉ thuộc về cảnh giới của tôn giáo mà người đó tin theo, nhưng không hòa hợp với cảnh giới của tôn giáo khác v.v.. Bởi sống thiện là sống thân thiện với môi trường sống chung, nếu sanh lòng đố kỵ là chống lại sự sống.

Tiếp tục dựa theo môi trường sống gồm: đời sống sinh hoạt, giáo dục, truyền thống văn hóa gia đình và xã hội, kết hợp với những tính cách, đặc tính riêng và thông qua lý tưởng, mục đích sống mà mỗi người đang hướng tới để dự đoán tiếp, căn cứ vào động cơ thúc đẩy sự chuyển hóa nhận thức thành hành vi tương ứng... Ví dụ, thấy tai nạn bất ngờ, Nhà Sư sẽ niệm: Mô Phật và kêu gọi cứu giúp... Linh Mục sẽ niệm: Lạy Chúa và tham gia cứu giúp... người yêu công tác xã hội tham gia cứu giúp... người vô tâm thì dửng dưng... người gây tai nạn có lương tâm thì dừng lại cứu giúp, nếu không thì bỏ chạy... kẻ gian thì thừa cơ trộm cắp v.v... Ví dụ điển hình về tư tưởng chính trị, tôn giáo hiện nay: dù khác biệt tư tưởng chính trị, vẫn làm bạn, hợp tác, quan hệ ngoại giao thân thiện với nhau bởi "tình người". Mục đích là chỉ thay đổi tư duy bằng cách chuyển hóa tâm hồn bằng tình thương, sự bao dung, nghĩa là không tiêu diệt con người đó mà chỉ chuyển hóa "tư duy xấu" của người đó thành "tư duy tốt" để người đó sống hạnh phúc, thay vì tư tưởng dùng chiến tranh tiêu diệt sự sống của nhau, để giải quyết mâu thuẫn như trước đây âm lý học hành vi 

VẠN VẬT DO TÂM TẠO: Tâm dẫn đầu tất cả, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả NGHIỆP DUYÊN đến, đi, luân, chuyển, trải qua chu kỳ giao hợp, tận diệt, sanh khởi, tái tạo vận hành liên tục không ngừng đều thông qua cổng giao diện NÃO BỘ do TÂM chỉ huy, điều hành mọi hoạt động kết nối, thu phát và xử lý thông tin, vận hành mọi hành vi, quá trình tiến hoá cụ thể qua các MÃ LỆNH phát ra từ TÂM.

TÂM SANH VẠN VẬT: không có nghĩa là dùng tâm biến mù thành sáng, biến bệnh thành khỏe, biến ra cái máy vi tính, ra cái ly nước trước mặt, ra ngôi nhà và cả những người trong đó... Mà tất cả đều tiến hóa theo quy luật nhân quả, nghĩa là tâm sanh ra khái niệm cái ly là nguyên nhân dẫn đến các hoạt động tạo thành "quả" là cái ly, hòa hợp với các duyên khác để có nước ở trong, sau khi hội tụ đầy đủ tác nhân ta có "ly nước"

Ngôi nhà và cả những người trong đó cũng vậy, cũng không dùng tâm biến ra như một phép nhiệm màu, mà từ khái niệm xây nhà của anh A cho đến khi hoàn thành, rồi cưới cô B, cùng với thời gian họ sinh ra bé C và D... tất cả đều thông qua quá trình lao động và sáng tạo để tích góp, xây dựng, yêu thương, hòa hợp và cùng chung sống... Cho thấy tất cả vạn sự, được sắp đặt, tiến hóa theo quan hệ nhân quả, do tâm bên trong tương tác với các tác nhân bên ngoài... Nhưng sau một lần gặp tai nạn gia đình anh A bắt đầu quan tâm đến quan hệ nhân quả.

Bởi CUỘC SỐNG LÀ MỤC TIÊU DI ĐỘNG nên NGHIỆP DUYÊN là bất định và không có sẵn vì nó tuỳ thuộc vào diễn biến của mọi hoạt động trong cuộc sống và tiến trình hành vi của mỗi người bắt đầu từ cái TÂM, tương tác, tạo nghiệp, và khởi duyên, khi đã tạo NGHIỆP khởi DUYÊN rồi thì sẽ có NGHIỆP BÁO và NỢ DUYÊN, vì tạo nghiệp mới có nghiệp báo, khởi duyên mới có nợ duyên, nghĩa là tạo nhân rồi tất thành quả. Khi đã tạo NHÂN thì hành trình QUẢ BÁO sẽ đuợc vận hành theo lập trình đã định từ NHÂN đó. Muốn hoá giải QUẢ BÁO cố định đó ta phải có giải pháp cụ thể và liên tục không ngừng tác động tích cực bằng mọi cách để thay đổi lộ trình vận hành của nó.

(Trên đây là phần giới thiệu, mình sẽ có bài viết về cách hóa giải "nghiệp báo và nợ duyên" sau). Chúc bạn Chi Rứa an vui.    Tìm hiểu về khái niệm biểu tượng và biểu tượng xã hội 

Khái niệm biểu tượng 
1.1 Khái niệm chung về biểu tượng :
Biểu tượng là một khái niệm đang được đẩy mạnh nghiên cứu trên thế giới bởi đến nay khái niệm biểu tượng vẫn là một lĩnh vực chứa đựng nhiều bí ẩn.
Ở các nước có nền TLH phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…, người ta đẩy mạnh không ngững các nghiên cứu về biểu tượng xã hội (BTXH). Chẳng hạn nhă hiện nay, trong TLH Pháp có bốn dòng lớn nghiên cứu BTXH: Một dòng chuyên khảo miêu tả nhằm ghi lại các biểu tượng của nhóm về một đối tượng nào đó (Moscovisi và các học trò của ông). Dòng thứ hai nghiên cứu ảnh hưởng của các BTXH lên ứng xử (Codol, Arbic). Dòng thứ ba chuyên nghiên cứu các kỹ thuật đo lường các BTXH nhằm nắm bắt các cấu trúc của chúng, và dòng cuối cùng chuyên tìm hiểu những biến đổi của các BTXH (Jodelet, Di Giacomo, Flament, Arbic), cũng như tìm các cơ chế ngầm ẩn của các sự biến đổi này.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về BT vẫn còn hạn chế cả về mặt lí luận và thực tiễn . Nguyên nhân có thể là do các nhà khoa học chưa ý thức hết được tầm quan trọng của nó, hoặc cũng có thể do sự né tránh những tranh cãi sẽ gặp phải khi bàn đến hệ thống khái niệm và phạm trù của khái niệm này.
Trên thực tế, khái niệm biểu tượng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau. Trong khuôn khổ của đề tài này, chúng tôi chỉ đề cập tới khái niệm biểu tượng trên bình diện của ngành TLH. 
Theo từ điển TLH (Vũ Dũng- NXB KHXH - 2000 ), "Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai."
Theo từ điển Tiếng Việt (GS Hoàng Phê CB):"Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt".
Như vậy, BT là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới được hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. BT không phải hoàn toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri giác. Tuy nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là kết quả chủ quan xuất phát từ những hoạt động tâm trí của chủ thể .
BT chính là hiện� tượng chủ quan của đối tượng về hiện tượng khách quan đã được tri giác từ trước .

1.2 Cấu trúc của BT:
Theo luận điểm của I.M Xêtrênốp : "Các biểu tượng là kết quả trung gian từ các tri giác phân chia thành từng thành phần riêng lẻ của sự trừu tượng hoá một tổng số nhất định các vật thể cùng loài và thành phần của sự trừu tượng hoá này bao gồm ngoài các dấu hiệ bề ngoài còn có các dâú hiệu không phơi bày ra một cách trực tiếp mà phải nhờ một sự phân tích chi tiết về mặt trí tuệ và thể chất các vật thể, cũng như quan hệ giữa chúng với nhau và giữa chúng với con người ".
Qua luận điểm này, chúng ta thấy cấu trúc của BT có thể phân chia thành: 
- Những biểu hiện bề ngoài vô cùng đa dạng của hiện thực .
- Những dấu hiệu của sự vật, hiện tượng của hiện thực mà tự chúng không phơi bày ra .
Khi có sự phân tích của trí tuệ về các sự vật, hiện tượng cũng như về các hành vi thì các bộ phận riêng lẻ được tách ra của các BT sẽ được liên kết với các hình ảnh hoàn chỉnh. Do đó, cuối cùng sẽ dẫn đến những BT đầy đủ và hoàn chỉnh hơn .
Ngoài ra, một đặc điểm nổi bật của các BT là chúng vừa được giữ lại trong trí nhớ của chủ thể, đồng thời dưới ảnh hưởng của tri giác mới (tác động của thế giới khách quan) và tưởng tượng thì nội dung của chúng lại được bổ xung và phong phú thêm.
Như vậy, BT là yếu tố động, luôn thay đổi, tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của tri giác tác động cũng như tuỳ thuộc vào trí tưởng tượng phong phú của mỗi cá nhân.
1.3 Phân loại BT và vai� trò của BT trong hoạt động tâm lí:
a. Phân loại BT:
Dựa vào tiêu chí : Hình tượng của sự vật và hiện tượng tri giác từ trước được sắp xếp lại trong ý thức con người đến mức độ nào, người ta phân chia BT thành hai loại : 
+ BT của trí nhớ : là hình ảnh của tri giác lúc trước được tái hiện lại trong một hoàn cảnh nhất định.
+ BT của tưởng tượng : là hình ảnh mới được trí tưởng tượng tạo nên trên nền của biểu tượng cũ.
BT của tưởng tượng khác về chất so với BT của trí nhớ. BT của tưởng tượng là hình ảnh mới, được chế biến lại từ những BT của trí nhớ, là:" BT của BT ", thường được chủ thể sáng tạo dựa trên các cách thay đổi số lượng , kích thước, chắp ghép, liên hợp, nhấn mạnh, điển hình hoá.
Do đó, sự phản ánh của BT tưởng tượng mang tính chất gián tiếp và khái quát cao hơn so với BT trí nhớ.
b. Vai trò của BT trong hoạt động tâm lí:
BT là một trong những hình thức quan trọng của sự phản ánh chủ quan về thế giới khách quan. Không có BT thì không thể có ý thức. Do gắn với các yếu tố tổng hợp nên BT là bậc thang chuyển hoá từ hình ảnh cụ thể đến khái niệm trừu tượng, từ cảm giác và tri giác đến tư duy. Ngoài ra, do BT mang tính chất biến đổi rộng rãi , rõ nét - cho phép xây dựng hình ảnh mới, nên chúng đóng vai trò quan trọng và cần thiết trong hoạt động sáng tạo của con người .
2 BT xã hội :
- Có các loại BT: BT xã hội, BT tập thể,...
- Khái niệm"BT xã hội" được nhà Xã hội học Durkheim đưa ra năm 1898 với tư cách là một phạm trù xã hội học và đến năm 1961 được Moscovici sử dụng như là một khái niệm TLH trong cuốn sách của ông có nhan đề: "Phân tâm học – hình ảnh và tác giả của nó".
2.1. Những yếu tố định nghĩa:
BT xã hội được hiểu như là một kiến thức ngây thơ, tự nhiên, khác cơ bản với kiến thức xã hội. Nó chỉ ra kiến thức chung được hình thành theo mô hình đơn giản, dân giã cung cấp khuôn khổ cắt nghĩa về thực tế. Để có BTXH, mỗi một người xuất phát từ những điều được chứng kiến, được quan sát thấy hay từ các thông tin được truyền đạt từ bên ngoài; sau đó, ở chủ thể xuất hiện một hoạt động tâm lí nhằm tiếp cận các tri thức đó, biến nó thành tri thức của mình, chia sẻ được nó với những cá nhân khác trong cùng nhóm, cùng xã hội, giải thích nhiều hiện tượng, sự vật dưới hình thức một thực tế được tóm tắt.
Các BT xã hội là tập hợp các ý kiến, quan điểm, là tri thức về một đối tượng nào đó. Chúng rất đa dạng, nhiều vẻ và chuyển động gần gũi với một nền văn hoá.
Ngôn ngữ, sự trao đổi, các cuộc đàm thoại và các tương tác xã hội đóng vai trò cơ bản trong việc hình thành BT xã hội .

2.2. Định nghĩa
+ Theo Moscovici-(1961): “BT xã hội là một dạng hiểu biết đặc biệt, một dạng tri thức có nghĩa chung mà các nội dung của nó thể hiện thao tác của các quá trình phát sinh và chức năng đánh dấu bởi xã hội. Rộng hơn, nó chỉ ra một dạng tư duy xã hội” (Jodelet,1984, tr361)
+ Theo Guimelli, BT xã hội là "Phương thức đặc biệt của hiểu biết chung mà tính đặc thù của nó nằm trong tính cách xã hội của các quá trình tạo ra nó”," là một tập hợp các tri thức, niềm tin, các ý kiến được chia sẻ bởi một nhóm đối với đối tượng XH nào đó" (1994).
Như vậy nhìn chung các định nghĩa đều xem BT xã hội là một cách thức đặc biệt nắm bắt thực tế, là cái gợi lại sự vật, hiện tượng được tri giác và tâm trí về thực tế qua đó biến đổi các đối tượng xã hội (con người , bối cảnh, hoàn cảnh, các hiện tượng, các sự kiện ,...) thành những phạm trù tượng trưng (giá trị, niềm tin, tư tưởng, quan điểm, quan niệm) dưới hình thức nhận thức, cho phép nắm bắt các khía cạnh của cuộc sống thường nhật trong lòng các tương tác XH.
2.3.Các chức năng cơ bản của BT xã hội :
BT xã hội có rất nhiều chức năng, trong đó có thể kể dến các chức năng sau:
- Chức năng gắn bó các thành viên của một nhóm với nhau thông qua sự thống nhất với nhau về tư duy.
- Chức năng tổ chức môi trường: BT xã hội đóng vai trò trong tri giác môi trường. Chúng tri giác môi trường như chúng ta nhìn thấy nó thông qua bộ lọc mà các BT đã thiết lập nên cho chúng ta trên con đường xã hội hoá.
- Chức năng điều chỉnh hành vi và chức năng giao tiếp .
- Chức năng hoà hợp: các BT xã hội có chức năng thiết lập, củng cố và duy trì tính cố kết của nhóm.

(Không tìm được nguồn tài liệu trích dẫn)ÊU THƯƠNG, THÔNG CẢM,QUA NHỮNG KHÁC BIỆT 

Sau khi đã thành hôn và chung sống với nhau một thời gian, hai người đều biết nhau từ thể xác tới tính tình, từ những điều đại cương đến những chi tiết tỉ mỉ. Có thể hai người sẽ yêu nhau hơn, nhưng cũng có thể hai người bắt đầu chán nhau.

Điều rất quan trọng là hai người cần luôn nhớ rằng:

CÓ NHỮNG ĐIỂM HOÀN TOÀN KHÁC BIỆT GIỮA NGƯỜI NAM VÀ NGƯỜI NỮ VỀ THỂ LÝ LẪN TÂM LÝ.

Chính cái khác biệt này tô điểm cho trần gian thêm đẹp, nhưng cũng đem lại bao nhiêu khốn khổ cho đời sống lứa đôi, đời sống lẽ ra phải hạnh phúc. Tìm ra những khác nhau này và nhớ lấy nó, sẽ giúp giảm bớt nhiều khốn khổ trong gia đình, mà khốn khổ cuối cùng là "Tình nghĩa đôi ta có thế thôi".

Nam nữ có những điểm khác nhau:

Khác về thể lý (thân xác). 

Khác về tâm lý (tâm hồn, tính tình):

Năm luật tâm lý khác nhau giữa nam nữ:

1. Luật Ưu tiên: Nam xác, nữ hồn.

Người đời thường nói: "Gái ham tài, trai ham sắc", "Đàn ông ưa đẹp mắt, đàn bà thích bùi tai". Nam ưu tiên nhìn cái đẹp nơi thân xác nữ và tìm cách chiếm đoạt- Nữ ưu tiên nhìn cái tài ba, cao thượng nơi tâm hồn nam.

-Cái đẹp thân xác nữ, có thể là một khuôn mặt, một mái tóc, một nụ cười, một lời nói, một cái nhìn, một thân hình, một làn da, một lối đi đứng, một mùi thơm, một vẻ duyên dáng rất đàn bà...

-Nam làm việc rất hăng, cực nhọc, gian nan, xốc vác...oai hùng ngoài mặt trận, nhưng lại yếu mềm, mất hết khí phách trước một người đẹp, trước lời nỉ non, trước dòng nước mắt của một "bông hoa biết nói".

-Cái đẹp tâm hồn nam, có thể là tính tình hiền lành, chịu khó, đứng đắn, cao thượng, thành thật, vui vẻ, hài hước, ăn nói có duyên, việc làm tốt., can đảm, khéo léo, hát hay, đàn giỏi, có học thức, dễ thương, nghề nghiệp vững chắc (bằng cấp, tàu càng, kỹ sư, bác sĩ...), có tương lai, có thể tin tưởng, có thể trao thân gửi phận.

-Từ sự tin tưởng, phục tài ba (dù nhiều khi là giả tạo, sở khanh...Việt kiều về nước...Nữ có cảm tình, thấy an toàn vì có người yêu thương mình, an toàn cho tương lai mình, có nghề nghiệp bảo đảm cho đời mình, nữ chấp nhận trao thân, nhiều khi quá sớm...sợ mất chàng. Chấp nhận có bầu. Tất cả cuộc đời từ nay là của chàng. Tự an ủi mình: "Thân con gái 12 bến nước, trong nhờ, đục chịu"đ.

� � 2. Luật Phân cách: Nam xã hội, nữ gia đình

Đàn ông ngoài chuyện gia đình, còn lo công danh chức phận trong xã hội, Đàn bà chuyên chú lo chuyện gia đình.

-Sở thích của đàn ông: lịch sử, chính trị, nghệ thuật, thể thao, cờ bạc, rượu chè, trai gái, nghiện hút. Chàng đi ra ngoài căn nhà để tìm bạn bè, lo chuyện làng nước... Đầu chàng có nhiều ngăn: Vợ, Việc, Vị (địa vị chính trị, xã hội, cộng đoàn), Vui chơi theo sở thích. Chàng cần có bạn sở, bạn nhậu, bạn cờ, ... Ngược lại, nhiều đàn ông không muốn vợ xã giao rộng!!!

-Sở thích của đàn bà: muốn mình đẹp nhất, thích thời trang, mỹ phẩm, hoa, cảnh, vàng, kim� cương, hạt xoàn..., bếp núc, con cái, gia đình, tình yêu, kỷ niệm...

-Đàn bà có một mối tình, có một ngôi nhà, nàng yêu đời sống gia đình, suốt ngày chỉ nghĩ tới yêu, yêu chồng, yêu con, mọi sự vì yêu, nên họ cũng muốn được yêu lại. Nếu được yêu lại... nàng sẽ sống chết cho chồng mà không ân hận.đ

3. Luật Chi tiết: Nam đại cương, Nữ chi tiết.

- Tục ngữ người Phi châu nói: "Đàn ông thấy rừng, đàn bà thấy cả cây lẫn lá". Đàn ông đi chợ tới chỗ đặt hàng mua rồi về, đàn bà đi coi từng món đồ, so sánh giá cả.

- Đàn ông yêu con bằng kiếm tiền mua sữa. Đàn bà yêu con bằng lo thuốc men, cơm cháo, áo quần, tắm rửa. Lo trang hoàng nhà cửa, lo cho chồng con từng chi tiết...

- Đàn bà mong muốn chồng để ý đến mình trong mọi chuyện: Khi khoẻ, khi bệnh, khi nhàn, khi bận, khi vui, khi buồn...dễ cảm kích về quà tặng. Nếu được chồng để ý tới qua những món quà nhỏ khi đi xa về, những dịp kỷ niệm sinh nhật của nàng, ngày kỷ niệm thành hôn, nàng sẽ vô cùng cảm động, quên hết mệt nhọc...

Thánh Phêrô, người đã có kinh nghiệm gia đình khuyên:"Anh em là chồng thì hãy biết điều mà sống cảnh gia đình với họ, hợp với thân phận nữ tính của họ (1 Pr 3,1-7)đ.

� � 4. Luật bất đồng cảm: Nam mau phát mau tàn, Nữ chậm phát chậm tàn.

-Đàn ông, "Việc đã qua cho qua luôn", nhưng đàn bà, việc đã qua rồi, họ vẫn còn để tâm suy nghĩ....

-Trong phạm vi tình: Đàn ông yêu lẹ... đàn bà yêu chậm nhưng chắc... đàn bà khi yêu, tim họ rung động dần dần, nhưng đến một cường độ bền bỉ. Khi bị phản bội, họ khổ sở, nhớ mãi không quên.

-Trong phạm vi dục: đàn ông mau phát mau tàn....đàn bà chậm phát lâu tan. Rất đúng trong việc chăn gối vợ chồng, và là cớ sinh nhiều bực bội.đ

5. Luật thính giác: Nam yêu nhưng ngại nói, Nữ lại thích nghe yêu.

-Chồng yêu vợ, tận tâm đi làm kiếm tiền, nhưng dần dần không để ý tới những lời nói, cử chỉ nữa, mà vẫn NGHĨ là yêu. Vợ lại muốn chồng NÓI YÊU, TỎ RA YÊU.

-Nhiều ông khi đã có vợ rồi ra như tiếc lời yêu đương, khen ngợi vợ, xin lỗi, nhưng đôi khi lại buông ra những lời cộc cằn.

-Nhiều bà thích nghe những lời đường mật. Có những chàng "sở khanh" dẻo mép đã thành công, vì biết tâm lý "Đàn bà thích bùi tai".đ

1.3. Những sở thích của đàn ông:

Đàn ông thích vợ luôn là đàn bà, nghĩa là:

� � - Thân xác đàn bà: Mềm mại, tươi mát, sạch sẽ, thơm tho, không cần trang điểm quá đáng như tài tử cải lương.

� � - Tư tưởng đàn bà: Luôn hướng về chồng con.

� � - Lời nói đàn bà: Êm dịu, nhẹ nhàng, cảm thông khích lệ chồng, không cằn nhằn đay nghiến, dây dưa, không la lối om xòm, không ngồi lê đôi mách, không bình phẩm chuyện thiên hạ.

� � - Hành động đàn bà: Săn sóc cơm nước ngon lành, đúng giờ; nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng; áo quần chồng con tươm tất; tận tụy với gia đình

� � - Tính tình đàn bà: Tiền: không tiêu xài hoang phí, đề� phòng lúc hoạn nạn, biết tiết kiệm tránh cho gia đình khỏi thiếu hụt. Tình: Thuỷ chung. Luôn yêu chồng con, chiều chồng chốn phòng riêng, kính trọng chồng, không hạ nhục chồng trước người khác, không lấn lướt coi thường chồng như đầy tớ. Không ghen bừa bãi. Tiếng: Được coi là phụ nữ có đức hạnh, biết cư xử đẹp với họ hàng, khách xá.

1.4. Những sở thích của đàn bà:

Đàn bà thích chồng luôn là đàn ông, nghĩa là:

� � - Thân xác đàn ông: cứng rắn, khoẻ mạnh, sạch sẽ, không lù khù, bạc nhược.

� � - Tư tưởng đàn ông: Luôn hướng về vợ con, chung thuỷ trọn vẹn, không chia sẻ. (Đàn ông đừng quá thiên về lý trí mà quên rằng vợ sống về tình cảm, cảm giác, lý luận theo cảm giác, ưa thực tế� hơn lý luận dài dòng).

� � - Lời nói đàn ông: ăn nói có duyên, cương quyết nhưng không gắt gỏng, chửi thề, la lối, quát nạt, lấn át vợ, cảm thông khích lệ vợ, chia sẻ với vợ những vui buồn trong ngày. Nói với vợ những lời yêu đương, biết ơn, khen vợ vì đẹp, vì nết. (Đừng chê họ. Chê họ, họ bị tổn thương. Họ thích đẹp, thích trẻ mãi, thích diện - thà chịu lạnh, chịu khổ, chịu đói, chịu mất tiền, mất giờ trang điểm hơn là chịu xấu).

� � - Hành động đàn ông: Âu yếm, săn sóc, giúp đỡ vợ khi khoẻ khi bệnh, giúp đỡ, chia sẻ khi với vợ khi nấu ăn, rửa chén, cho vợ những săn sóc bất ngờ... nhất là những ngày kinh nguyệt, họ mệt nhọc, khó chịu, nóng nảy. Bảo vệ họ, đừng để họ cô đơn, buồn tủi, vì họ không "bạo gan" mấy.

� � - Tính tình đàn ông: Tiền: không cờ bạc - rượu chè - trai gái - hút xách, Tình: Đàn bà sinh ra để yêu, lúc nào cũng yêu và cũng muốn được yêu. Họ muốn chồng tuyệt đối yêu họ, không ngoại tình. Yêu chiều vợ mỗi lúc, mỗi ngày. Khi đàn bà yêu là họ cho, cho hết, đừng trả lại. Họ muốn được yêu lại, cho lại bằng những món quà nhỏ nhân ngày kỷ niệm sinh nhật của vợ, ngày kỷ niệm thành hôn..., chiều vợ chốn phòng riêng, kính trọng vợ, không hạ nhục vợ trước người khác, không lấn lướt coi thường vợ như đầy tớ. Hiểu biết những cảm giác, tâm tình, nỗi lòng của vợ. Không ghen vợ bừa bãi. Tiếng: Được coi là đàn ông có đức hạnh, biết cư xử đẹp với họ hàng, khách xá.

(Bạn có thể đọc thêm các tác phẩm sau để thêm kiến thức: Hoàng Xuân Việt, Đời Uyên Ương; Giấu tên, Hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng Tin Mừng; Barbara De Angeles, Secrets about Men, A Dell book, 1990; William F. Harley, Jr. His Needs, Her Needs, Revell, 1986; John Gray, Ph. D., Men are from Mars, Women are from Venus, Harper Collins,1992; John Gray, What your mother couldn't tell you & your father didn't know, Harper Collins, 1994).Hiện đại hóa và tâm lý xã hội 

Hiện đại hóa và tâm lý xã hội
[right]Nguyễn Kiên[/right]
[right]Tạp chí Tia Sáng[/right]

Nước ta đang ở trong quá trình chuyển tiếp từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại và nhiều người tưởng rằng cứ tập trung sức lực vào xây dựng công nghiệp, xã hội hiện đại sẽ hiện ra, không hiểu rằng xã hội hiện đại không chỉ bắt nguồn từ trạng thái kinh tế mà còn là một trạng thái văn hoá và tâm lý. Do vậy nếu chúng ta không tạo ra được những con người cá nhân ngày càng độc lập và chủ động thì chưa có đủ tiền đề để đi tới xã hội hiện đại.
Những kẻ hãnh tiến đang kìm hãm và phá hoại độc lập vừa manh nha của số đông và cũng đang hủy hoại nhân cách cá nhân của mình đồng thời tạo ra hiện tượng loạn cương xã hội.
Sự hình thành và phát triển của các cá nhân độc lập đỏi hỏi những định chế thông thoáng về lập pháp, đòi hỏi một Nhà nước pháp quyền thật sự đảm bảo các quyền công dân một cách đầy đủ, xóa bỏ triệt để cách làm (và tâm lý) “xin - cho”của một Nhà nước gia trưởng, để mỗi công dân có thể tự do làm tất cả những gì không bị luật pháp ngăn cấm.
Trước mắt chúng ta đang diễn ra một quá trình lịch sử lớn về tất cả các mặt đời sống xã hội theo hướng hiện đại hoá, và về mặt tâm lý là từ bỏ tâm lý lệ thuộc và xây dựng tâm lý độc lập của các cá nhân với hai nét nổi bật: Thứ nhất, nói chung, các cá nhân chưa phát triển (và chưa thể phát triển) đến trình độ tính độc tập cao. Thứ hai, một số cá nhân "nhạy bén” dựa vào thế lực xã hội của mình đã và đang lợi dụng quá trình này để trục lợi riêng, để đầu cơ ăn bám, để sống theo lối hãnh tiến trên những khó khăn và nghèo khổ của toàn xã hội. Tôi gọi hiện tượng thứ nhất là sự yếu ớt tiên thiên (bẩm sinh) của các cá nhân và hiện tượng thứ hai là sự loạn cương của một số cá nhân. Hai hiện tượng này tác động qua lại với nhau.
Những trở lực trên con đường hình thành tính độc lập
Trong tiến trình tìm kiếm tính độc lập và từ bỏ tính lệ thuộc của mình, các cá nhân vấp phải những trở lực rất khó vượt qua, cả bên trong lẫn bên ngoài bản thân mình. Sống trong môi trường "cộng đồng trên hết" quá lâu đời, ý thức cộng đồng cho đến nay vẫn trội hơn hẳn ý thức cá nhân. Dù ý thức cộng đồng đã suy yếu so với trước nhiều, nó vẫn mạnh hơn sự khẳng định cá nhân. 
Thậm chí có người coi tính độc lập và tự do của các cá nhân như những gì trái nghịch. Người ta coi sự lệ thuộc cá nhân như một cái gì hiển nhiên. Vả chăng, sống với tâm lý lệ thuộc dễ dàng hơn sống với tính độc lập nhiều: không phải tự mình lo nghĩ, tính toán, xoay sở, cách tân gì hết. Mọi cái cứ theo lề thói cũ, và những vấn đề lớn cua đất nước (“ quốc gia đại sự "), có khi cả của cá nhân mình, đã có người lo hộ, nghĩ hộ. Sống với tâm lý lệ thuộc, thụ động, chắc chắn người ta chỉ có thể kiếm vừa đủ để tồn tại (kinh tế tiền hiện đại chính là kinh tế để tồn tại - économie de subsistance), chưa thể tính đến mức sống ngày càng tăng, đến cái được gọi là lối sống tiêu dùng thường được hiểu theo lối tiêu cực, trong khi xã hội hiện đại là đồng nghĩa với xã hội phúc lợi và tiêu dùng, với những đòi hỏi, những "giá trị tiêu dùng" ngày càng cao.
Kinh tế thị trường đã dần dần giúp cho, hay nói đúng hơn, đòi hỏi con người phải chủ động hơn, phải tự mình xoay sở việc làm và thu nhập không thể trông chờ một "bầu vú” nào. Nhưng tâm lý lệ thuộc không thể bị trừ bỏ ngày một ngày hai. Do đó, tâm lý con người hiện nay nhìn chung đang nằm trong trạng thái giao nhau, xen cài nhau và cũng xung đột nhau giữa tính lệ thuộc và tính độc lập cua cá nhân.
Lẽ ra quá trình này có thể rút ngắn hơn, nếu các cá nhân được bảo đảm hơn về tính độc lập. Nhưng như đã nói, sau một thời gian dài sống lệ thuộc và thụ động, các cá nhân bị suy yếu đi rất nhiều. Không có sở hữu, không có những điều kiện vật chất và pháp lý (chế độ “xin - cho” vẫn được duy trì khá bền vững) để có thể có một đời sống độc lập, nhiều người đang ở trong trạng thái suy nhược kinh tế bẩm sinh, khó lòng thoát ra, lại dễ bị lâm vào tình trạng lệ thuộc mới. Cứ nhìn hàng nghìn, hàng vạn “thợ xây dựng” từ nông thôn kéo ra các thành phố lớn, cũng đủ thấy rõ các hình thức lệ thuộc thay thế nhau như thế nào. Không còn sự lệ thuộc kiểu nông dân xã viên lệ thuộc vào HTX nông nghiệp nữa, nhưng là sự lệ thuộc của những “chủ thầu”, những “đầu nậu”, với những điều kiện sống và làm việc dã man. Có thể kể ra bao nhiêu hình thức lệ thuộc “mới" khác có trong các lĩnh vực khác nhau, ở thành thị và nông thôn. Nhưng những người lệ thuộc “mới" này biết tìm đâu ra lối thoát và bao giờ mới thới? Tính độc lập trong tạo những trường hợp này nghe như một nốt nhạc nghịch tai, xa lạ. 
Trong hoàn cảnh chuyển tiếp từ xã hội truyền thống sangxã hội hiện đại ở nước ta hiện nay, trừ một số ít người có thể còn kiếm được những nguồn thu nhập độc lập, nói chung người ta vẫn đang phải lo lắng tìm chỗ đứng chân của mình, đặc biệt là những thanh niên đến tuổi lao động, kể cả nhữngngười được đào tạo Đại học. Có thể nói rằng, nếu không có sự giúp đỡ của xã hội, của hàng nghìn, nhà nước, nhất là trong điều kiện Nhà nước nắm giữ phần lớn những nguồn lực kinh tế, thì không hy vọng gì ở sự hình thành những cá nhân độc lập một cách lành mạnh và nhanh chóng. Nhà nước phải coi công việc đó như một nhiệm vụ hàng đầu của mình nếu thật sự muốn thúc đẩy quá trình chuyển nếp từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Vì một lý do rất đơn giản: không có các cá nhân độc lập, không thể có xã hội hiện đại, hoặc nhiều lắm chỉ có một khu vực kinh tế hiện đại nào đó, cho một bộ phận xã hội nào đó, một xã hội "nhị nguyên” (dualiste), phân đôi, trong đó một số người hưởng thụ những thành quả của hiện đại hoá về kinh tế và khoa học - công nghệ, còn đại đa số dân cư bị gạt ra ngoài lề hiện đại hoá. 
Sự hình thành và phát triển của các cá nhân độc lập đòi hỏi những định chế thông thoáng về luật pháp, đòi hỏi một Nhà nước pháp quyền thật sự bảo đảm các quyền công dân một cách đầy đủ, xoá bỏ triệt để cách làm (và tâm lý) "xin- cho" của một Nhà nước gia trưởng, để mỗi công dân có thể tự do làm tất cả những gì không bị luật pháp ngăn cấm. Điều đó cũng đòi hỏi xã hội và Nhà nước thực hiện những biện pháp hỗ trợ về cơ sở vật chất, tín dụng, thông tin, liên hệ với bên ngoài cho các cá nhân.
Hãnh tiến- kẻ phá hoại tính độc lập
Trong khi số đông đang nằm trong sự giằng co giữa tính lệ thuộc và tính độc lập của cá nhân, dù một bộ phân xã hội có vẻ như đã đạt tới "tính độc lập cao”. Trên thực tế, đó là những kẻ hãnh tiến đang kìm hãm và phá hoạt tính độc lập vừa manh nha của số đông và cũng đang huỷ hoại nhân cách cá nhân của mình, đồng thời tạo ra hiện tượng loạn cương của xã hội. Từ điển xã hội học, (Nguyễn Khắc Viện chủ biên, Nxb Thế giới, 1994) định nghĩa loạn cương (anomie) như "một xã hội không có quy tắc đạo đức và pháp lý để tổ chức nền kinh tế của mình, một trạng thái khủng hoảng về mối liên hệ của cá nhân với hệ thống giá trị, khiến cho xã hội mất tính cố kết. Những kẻ hãnh tiến này không phải "tiến thân một cách may mắn” như một cuốn từ điển định nghĩa, mà là hững kẻ thành đạt trong cuộc sống cá nhân bằng bất cứ phương tiện nào, không một chút ngại ngùng, như Từ điển Robert định nghĩa (xem chữ arriviste). Những thành đạt mà họ nhắm tới là những đặc quyền đặc lợi, những bảo đảm cho họ giành được một vị thế xã hội vượt trội cả về danh (thật ra là hư danh), quyền (thật ra là mua quan bán chức) và lợi (thật ra là những của cải chiếm đoạt phi pháp). Một nét tính cách chung của họ là "hợm”, tự cho mình có quyền đức hơn người khác, mà thật ra đó là sự chiếm đoạt quyền lực bằng những thủ đoạn gian dối hay bằng lối "cánh hầu” (từ X Y.Z. dừng trong Sửa đổi làm việc, 1948), trong khi cả tài lẫn đức đều không xứng đáng. Về thực chất, cái họ có không phải là tính độc lập cá nhân, mà chính họ sống trong một sự lệ thuộc sâu sắc và huỷ hoại nhân cách của họ.
Nhóm hãnh tiến chính là cái ổ gây ô nhiễm nguy hiểm nhất đối với đời sống xã hội hiện nay. Vấn đề không chỉ là sự đánh mất cá nhân và nhân cách của họ, đó còn là một sức mạnh tác động tai hại tới tâm lý con người nói chung, về hai mặt. Một mặt, nó làm cho nhiều người không thể sống yên tâm về những gì mình đang có và có thể có một cách chính đáng, mặt khác là nhóm hãnh tiến trên thực tế đã và đang nêu lên những tấm gương phản diện nhưng rất hấp dẫn của một lối sống "trên tiền”, ăn bám, đòi hỏi tiêu dùng quá khả năng, hy vọng làm giàu nhanh chóng dù bằng những con đường bất chính.
Con người cá nhân trong xã hội hiện đại?
Ronald Inglehart, trong hiện đại hóa và hậu hiện đại hóa, đã trình bày khá thuyết phục về những chuyển đổi hệ gía trị từ hiện đại hoá sang hậu hiện đại hoá. Nói một cách hết sức tóm lược, theo tác giả này, trong quá trình hiện đại hoá, thành tựu kinh tế cá nhân được coi là một mục tiêu then chốt. Được đặt lên hàng đâu là những ưu tiên, những giá trị vật chất (materialistic values). Còn trong xã hội hậu hiện đại, thành tựu kinh tế cá nhân, từng được coi là ưu tiên số một, đang nhường chỗ cho chất lượng sống. Những chuẩn mực hướng tới thành đạt về vật chất đang nhường chỗ cho sự lựa chọn lối sống cá nhân và tự thể hiện cá nhân. Các giá trị vật chất nhường chỗ cho các giá trị hậu vật chất (postmaterialistic values). Các giá trị này không được hiểu như những giá trị phi vật chất hay "phản vật chất". Thuật ngữ "hậu vật chất" ở đây muốn nói tới những mục tiêu được nhấn mạnh sau khi con người đạt được sự an toàn vật chất, và còn vì con người ta đạt được sự an toàn.
Trên thế giới và ngay ở nước ta, đang diễn ra những chuyển đổi giá trị rất phức tạp, không theo đường thẳng mà theo những đường quanh co, gẫy gập, những vòng tròn giao nhau. Những giá trị truyền thống, hiện đại và hậu hiện đại, trong khá nhiều trường hợp, tồn tại bên cạnh nhau, bện kết với nhau. Nhưng trên bình diện phát triển cá nhân và xã hội, đó là những nấc thang tiếp nối nhau, không thể bỏ qua một nấc nào cả. 
Gần đây, trong các cuộc thảo luận về "kinh tế tri thức", tức là kinh tế hậu hiện đại, có ý kiến đề xướng những bước "đi tắt, đón đầu” để nước ta có thể nhảy ngay lên trình độ này. Không coi nhẹ và phủ nhận những khả năng "nhảy cóc" nào đó trong một vài lĩnh vực kinh tế và kỹ thuật nào đó (quá trình toàn cầu hoá cũng đang đòi hỏi phải làm như vậy), nhưng tôi vẫn nghĩ rằng trình tự chuyển đổi theo những nấc kế tiếp nhau là trình tự bắt buộc. Có thể rút ngắn thời gian cho từng nấc, nhưng không thể bỏ qua một nấc cơ bản nào cả.
Và ngay cả khi đạt tới trình độ hậu hiện đại, cũng không nên nghĩ rằng, đến đó, mọi vấn đề của con người sẽ được giải quyết trọn vẹn. Hậu hiện đại, cũng như hiện đại, đem lại cho sự phát triển cá nhân những khả năng mới, nhưng cũng đẻ ra không ít vấn đề của cá nhân con người ở những trình độ cao hơn, phức tạp hơn và cũng làm nảy sinh những nguy cơ lớn hơn cho sự phát triển cá nhân con người.Một số nguyên nhân gia tăng nạn hiếp dâm 

Con người ta luôn fải tri giác. Và khi tri giác thì sẽ để lại trong não những hình ảnh tâm lý về đối tượng ta tri giác. Khi một sự vật hiện tượng được tri giác nhiều lần, cứ lập đi lập lại thì sẽ để lại một hình ảnh tâm lý wen thuộc trong chủ thể tri giác và chắc chắn nó sẽ ảnh hưởng, tác động đến sự fát triển tâm lý của chủ thể đó. Tri giác một sự vật hiện tượng tốt thì sẽ để lại một hình ảnh tâm lý tốt và ngược lại sẽ để lại một hình ảnh tâm lý xấu. cái gì xấu thì lại hay làm cho con người ta tò mò và rất dễ bắt chước. vì bắt chước điều xấu bao giờ cũng dễ hơn là học hỏi điều tốt. điều này có thể giải thích cho những hiện tượng tâm lý xấu đang ngày fát triển ở nước ta. Những hiện tượng ấy đang đi ngược với những thuần fong mỹ tục, những truyền thống đạo đức được gìn giữ từ ngàn năm nay nhưng cho đến hôm nay nó đang bị mai một, thóai hóa mà khiến ta tự hỏi " ko biết cái xã hội này rồi sẽ đi về đâu?,. chắc quay lại với thời kỳ ăn lông ở lỗ chăng?", " Khoa học công nghệ đang fát triển như vũ bão nhưng đạo đức lại xuống cấp trầm trọng" hay như một bác hưu trí nói " xã hội có đổi mới, có tiến bộ đó nhưng xã hội nó vẫn cứ làm sao ấy ". cái " làm sao" ấy nghe chua xót wá, chứa đựng bao ẩn ý trong đó.
Trong bài viết này, tôi muốn nói đến một hiện tượng tâm lý xã hội đang làm chúng ta ko ít lần fải dựt mình để rồi cười trong nước mắt, trong cái tặc lưỡi lắc đầu ngao ngán đó là tò mò và thích xem những hình ảnh khiêu dâm đồi trụy để rồi dẫn đến hiện tượng đau lòng đó là nạn hiếm dâm, cưỡng bức. hiện tượng này rất đáng được wan tâm, nghiên cứu để có thể đưa ra những biện fáp hữu hiệu nhất triệt để hiện tượng vô đạo đức ấy. những nhà tâm lý nói chung và nhất là những nhà tâm lý xã hội ko thể ko chú ý, wan tâm.
Những con số, những vụ án hiếp dâm ko cần nói ra tất cả chúng ta cũng đều đã biết. vì sao nó lại bùng fát? Thủ fạm lại chính là những đứa trẻ chưa đến tuổi vị thành niên cho đến những ông già gần đất xa trời mà chúng ta vẫn hay gọi bằng cụm từ ngắn gọn đầy fẫn nộ " YAMAHA".
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này?

Thứ nhất : SỰ FÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 
Con nguời đang sống trong một thế giới số, thế giới của internet băng thông rộng. Tất cả những gì bạn muốn chỉ cần một cái click chuột là có ngay. Và đương nhiên những trang web đen có hình ảnh ko lành mạnh cũng có đất để sống. vì tò mò, vì thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh và vì nhiều lý do khác nữa mà những hình ảnh ấy kích thích bản năng tình dục của con người. Theo Frued, đó là " năng lượng libido". Ông cho rằng " bản năng tình dục chi fối mọi hoạt động của con người". Nếu đem thuyết của Frued ra so sánh trong xã hội bây giờ thì có đúng ko nhỉ khi mà những hình ảnh ko lành mạnh đang xuất hiện nhan nhản và con người ngày càng bị "fần con " chiếm hữu. Điều này có vẻ hơi bi wan. Nhưng ko nghĩ thế sao được khi mà fáp luật đã từng xét xử những vụ án hiếp dâm mà nạn nhân và thủ fạm lại là một gia đình và càng ghê tởm hơn khi chính cha ruột đi hãm hại chính con gái của mình. Bótay.com thật rồi. Ko biết nguyên nhân tâm lý nào có thể khiến họ hành động chẳng khác gì một con vật như thế. Bệnh hoạn chăng? Mất ý thức điều chỉnh tạm thời chăng? Hay một lý do khác? Dù thế nào thì cũng khó có thể biện minh cho hành động không thể tha thứ ấy. 

Thứ hai : GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở VIỆT NAM
Điều này vẫn chưa được chú trọng. vẫn còn wá nhiều ý kiến xung wanh vấn đề này. " vẽ đường cho hươu chạy ư? ". thực tế cho thấy " ko vẽ đường hươu vẫn chạy quá tốc độ". Chính vì thiếu hiểu biết về tâm lý giới tính, về kiến thức quan hệ tình dục lành mạnh và an tòan nên một số thanh niên đã fạm tội hiếp dâm ngay từ khi còn đang đi học. Nếu chúng ta ko có cách bắt ai đó đừng làm thì hãy chỉ cho họ cách fòng tránh tổt nhất.

Thứ ba : SỰ WẢN LÝ LỎNG LẺO CỦA GIA ĐÌNH.
Nhiều bậc cha mẹ vẫn chỉ có công sinh mà chưa có công dưỡng. trong đó, theo tôi công sinh chỉ là một, công dưỡng mới là 10. nhiều khi sinh ra một đứa bé chỉ theo lẽ tự nhiên bản năng nhưng dưỡng dục con cái lạ là cả một quy trình gồm nhiều giai đoạn mà công cụ chính là tình yêu thương vô bờ, sự wan tâm, lòng hy sinh bao la và một trách nhiệm cao cả của cha mẹ.

Thứ 4 : CÁCH ĂN MẶC CỦA CON GÁI BÂY GIỜ
Một bộ fận ko nhỏ ăn mặc wá hở hang và khiêu gợi. Những hình ảnh của những cô gái ấy sẽ được tri giác ( dù ko muốn nhưng cũng fải tri giác) một cách cặn kẽ dưới những con mắt của kẻ tò mò và đương nhiên nó sẽ là một hình ảnh ko tốt cho sự fát triển tâm sinh lý của con người. Nó góp fần ko nhỏ để kích thích mạnh mẽ bản năng tính dục cùng với những fim ảnh thiếu lành mạnh. Chúng tôi vẫn cứ hay nói đùa về cách ăn mặc thiếu vải của các cô gái là " cứ ăn mặc hơ hớ vậy bố ai mà chịu nổi? ". đã đến lúc chúng ta cần fải nhìn lại văn hóa thời trang, văn hóa ăn mặc. 

Thứ 5 : SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA FILM. 
Những cảnh hôn nhau và đụng chạm wá giới hạn trong những cảnh quay của các bộ film cũng ảnh hưởng xấu đến sự fát triển tâm sinh lý của trẻ. Nhất là film Việt Nam, đôi khi những cảnh quay như thế còn rất là thô và người coi rất là ngượng. đặc biệt là khi cả nhà cùng xem film. Tôi đã từng coi một bộ film đang coi ngon lành thì tới một cảnh hơi ấy một tí bỗng một đứa bé nó hỏi " ơ hai người này lớn rồi mà vẫn còn chơi vật lộn àh? ". Một câu hỏi làm tôi ngượng đỏ mặt cùng những người đang xem. Một câu hỏi ngây thơ nhưng biết đâu chính những hình ảnh ấy sẽ để lại trong não của trẻ thơ những hình ảnh thiếu lành mạnh nếu nó cứ xem đi xem lại những cảnh ấy wa các bộ film. Rõ ràng điều này cho thấy trong cách giáo dục con cái, cha mẹ hiện nay cần fải wan tâm, chú ý đến các chương trình trên ti vi. Ko nên cho chúng xem những chương trình mà hoàn toàn chưa fù hợp với lứa tuổi của chúng. 

Thứ 6 : SỰ ĐỔ ĐỐN KO THỂ THA THỨ ĐƯỢC CỦA NHỮNG ÔNG GIÀ GẦN ĐẤT XA TRỜI. 
Chỉ có thể nói được như vậy thôi. 

Thứ 7 : RƯỢU
Những cơn say bí tỷ làm mất hết khả năng ý thức, khả năng điều chỉnh cũng là nguyên nhân gia tăng hiếp dâm. ất cả ý kiến của các bạn đều đúng cả. Nhưng là những nhà Tâm lý học thì chúng ta còn phải nhìn đằng sau những hiện tượng mang tính bề nổi đúng không?

Tôi lấy ví dụ: Nhóm nhu cầu sinh học mà một nhu cầu cụ thể trong đó đó là nhu cầu thoả mãn tình dục của con người đến nay không ai phủ nhận được. Dù bất kỳ một người đàn ông nào (tính từ tuổi dậy thì đến khi về già) đều có xúc cảm dương tính khi nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp. (Điều này đã có nhà khoa học nghiên cứu và chỉ ra). Ngược lại cũng vậy thôi sự tri giác về đàn ông của phụ nữ trước một người đàn ông dễ nhìn và lịch lãm, có tài...
Nhưng hành vi hiếp dâm diễn ra ở người này mà không phải ở người khác. với người A mà không phải người B. Cụ thể hơn là nguyên nhân dẫn tới sự hiếp dâm là do cả về phía chủ thể hiếp dâm và người bị hiếp dâm. Đó là một câu hỏi cho các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà Tâm lý học.
Có một bài nghiên cứu về sự hiếp dâm gần đây còn chỉ ra nguyên nhân còn cả từ phía người phụ nữ bị hiếp dâm. Ví dụ, đi vào chỗ vắng người, đi vào giờ khuya, dễ cả tin....
Nếu sâu hơn nữa thì chúng ta nói cho giáo dục, nhưng phải cụ thể hơn là môn giáo dục về việc biết từ chối (lời mời của người lạ, mới quen, nghi ngờ....)
Còn từ phía chủ thể hiếp dâm cần nghiên cứu:
- Nhân cách của người đó (lệch lạc...)
- Sự tác động của của các yếu tố bên ngoài (phim ảnh....)
- Hoàn cảnh tâm lý của bản thân...Bác NguyenHuuToan đã mổ xẻ vấn đề rất hay và rất sâu. Cám ơn bác. 


Vâng, cả 7 nguyên nhân mà bạn Tamlyvn đã dẫn ra đó, đều là khung cảnh sống, hoàn cảnh sống mà rất nhiều người trong xã hội gặp phải hằng ngày. Tại sao chỉ có một số ít người phạm vào hành vi hiếp dâm ? Còn có nguyên nhân nào khác sâu hơn và tiểm ẩn hơn chăng ? Bác NguyenHuuToan đặt vấn đề về sự lệch lạc tâm lý và / hoặc hoàn cảnh tâm lý của bản thân những người đó. Vâng, tớ hy vọng topic này sẽ tiếp tục và chúng ta sẽ thử đào sâu hơn về sự lệch lạc này, hay những hoàn cảnh tâm lý điển hình có thể đẩy ngưởi ta đến hành vi tội phạm này. 

Nhưng đến đoạn bác viết: "Có một bài nghiên cứu về sự hiếp dâm gần đây còn chỉ ra nguyên nhân còn cả từ phía người phụ nữ bị hiếp dâm...", thì quả thật đề tài này đã được đào rất sâu và trở nên không còn đơn giản nữa. Tớ rất đồng ý với nhận xét đó, bác N.H.Toan ạ. Đúng là có những "nạn nhân" mà thực ra xét cách nào đó, cũng chính là "đồng phạm" trong các vụ án hiếp dâm. Điều đáng nói là theo tớ, thường thì chính họ cũng không ý thức được rằng họ cũng là "đồng phạm". Dường như có một thứ "ma đưa lối quỉ dẫn đường" nào đó đưa đẩy họ đến chỗ "gặp nạn", và họ cứ thế mà nhắm mắt đi theo như người bị ám. Tâm lý học có thể can thiệp vào "lộ trình ma ám" này được không ? Bắng cách nào và với những điều kiện gì ? ..v.v... 

Đề tài quả là thách đố, nhưng cũng rất thú vị phải không bác N.H.Toan nhỉ ? Tớ rất thích thú quan tâm đến đề tài này vì các lẽ:
- Nó đưa đến những chỉ dẫn quan trọng giúp chúng ta hiểu biết hơn trong việc giáo dục con cái, cả con trai và con gái.
- Nó là một bằng chứng nữa cho thấy bên dưới bề mặt ý thức mỏng manh của con người, là cả một "vùng tối" vô thức thăm thẳm, bí ẩn, dữ dội mà con người không dễ gì làm chủ được. 

hân cách của dân nghiền Rock! 

' dateline= Wrote:Nghiền - Nghiện : là ham thích đến mức thành thói quen khó bỏ (theo từ điển Tiếng Việt-Hoàng Phê chủ biên). Ở đây tui muốn nói đến những người ham thích Rock một cách thực sự. Tôi không muốn nói đến những fan hạng 2 hạng 3.

Tôi là 1 rocker chân chính! (đúng ra phải gọi là metalhead, vì tôi tôi thích thứ âm thanh kim loại có thể phá hủy màng nhĩ của các bé gái yếu tim ) Nếu xét theo độ nghiện thì tôi nghiện hạng 1, vì tôi đã bỏ nhà nửa năm, và suýt nữa tôi bỏ ngang đại học tất cả chỉ vì bố tôi phản đối tình yêu của tôi với rock và sự tự do. Sau nửa năm tự lập đó thì cụ cuối cùng cũng chịu thua, và tôi trở về nhà sống bình yên cho tới giờ. 

Sự nghiệp rock điên rồ của tôi được các đồng môn công nhận rộng rãi khi từ 1999 đến 2001, tôi giữ cương vị chủ tịch CLB Rock HN, là tiền thân của công ty cổ phần thương mại Rock Hà Nội

' dateline= Wrote:Rất có thể chưa có một nghiên cứu nào, và cũng vì tôi chưa tìm thấy nghiên cứu nào về vấn đề này nên mới đưa ra đây để mọi người cùng thảo luận và đưa ra ý kiến riêng của mình. Và cũng tất nhiên là trong lĩnh vực nào cũng có người thế này người thế khác, nhưng ở đây chúng ta đang nói đến đa số người nghiền Rock. Và tôi rất muốn hiểu thêm từ những fan của Rock, còn những người ít tiếp xúc với fan của Rock thì sẽ chẳng biết roài.

Ở sâu trong lòng rock HN trong nhiều năm, tôi có thể mạnh dạn đưa ra nhận xét của mình:

Những cú riff của metal vào những năm 90 còn là điều lạ lẫm, và các bác ở sở văn hóa luôn nhìn cục phơ tè (Thiết bị làm méo tiếng guitar rất phổ biến trong các tác phẩm rock) bằng con mắt ngờ vực. Trong thời gian "tại ngũ" ở CLB, tôi đã tổ chức vài chục buổi biểu diễn từ HN đến Hải Phòng, và các buổi biểu diễn dù quy mô k0 lớn (vài trăm người) cũng có các bác công an văn hóa đến vừa thưởng thức vừa đề phòng xem có bạo động thì còn gọi đội phản ứng nhanh đến gấp  Những buổi biểu diễn rock những năm 90 hay xảy ra sự cố vì khi khán giả quá "phê", lại thêm rượu (chỉ rượu thôi chứ hiếm khi dùng cần sa, và thời đó chưa có thuốc lắc) k0 kìm chế được bản thân, thường đập phá, đốt lửa, đánh nhau, ném chai lên sân khấu, hoặc trèo lên sâu khấu ... Đôi lúc 1 số thành viên trong CLB cũng được ngủ trong "khách sạn" công an phường 1 đêm vì thành tích phá rối trật tự . Khá nhiều buổi biểu diễn bị buộc phải kết thúc sớm để tránh dẫn tới bạo động.

Còn ở VN vào thời điểm 2005 này, giới trẻ đa số thích 1 thứ nhạc gọi chung là pop-rock, đó là nhạc pop, nhưng cũng pha những chất liệu của rock như riff, lead, thế nên trẻ sơ sinh cũng đã nghe thấy những âm thanh đó rồi, về sau có thích cũng chẳng có gì lạ, dù sao nó cũng ít chát chúa và dễ nghe hơn tiếng ... tàu hỏa .

Vì vậy có thể tổng kết như sau: rock vốn là 1 sự nổi loạn trong âm nhạc, vì thế những người đến với nó trong lúc đa số xã hội còn xa lánh đa số cũng là những người khác biệt với số đông theo xu hướng nổi loạn, chí ít là nổi loạn về 1 số khía cạnh tâm lý nào đó. Còn khi rock đã đi sâu hơn vào với số đông thì bạn sẽ khó có thể nhận thấy sự khác biệt của giới nghiện rock với giới nghiện nhạc sến.

Một tỷ lệ rất cao những rocker mà tôi từng biết là người dám sống hết mình vì thứ nghệ thuật mà họ say mê. Sinh ra là người bình thường, nhưng vì nghệ thuật, họ dám làm những điều khác thường, ví dụ có rocker kéo dài thời gian học đại học lên tới 7 năm, rất khác thường phải k0.

Còn về sự lập dị thì rõ ràng là có sự khác biệt, hình ảnh chung của 1 rocker nhất thiết phải rất "rock", k0 thể như các nghệ sỹ khác, vì thế những người nghe thường có xu hướng bắt chước, đặc điểm dễ nhận thấy nhất là dòng punk, ăn mặc te tua, xích sắt, vòng da, và còn xỏ khuyên mũi, khuyên môi, khuyên lông mày, ... khá là bắt mắt 

12-19-2005 01:48 AM

comay0183  
Junior Member

 
Posts: 4
Thanks Given: 0
Thanks Received: 0 in 0 posts
Joined: Mar 2005 
Reputation: 0

Post: #2

nghiền- nghiện matuy 

Nhân nhắc đến nghiền, nghiện. Comay đang quan tâm đến vấn đề tâm lý của người nghiện matuý, mời các bác vào cho ý kiến, cũng như những kiến thức về vấn đề này, giúp comay mở mang thêm đi.

Sâu trong đáy mắt, anh nói gì?

04-17-2006 06:38 PM

Lipton  
Member

 
Posts: 244
Thanks Given: 1
Thanks Received: 14 in 13 posts
Joined: Feb 2006 
Reputation: 0

Post: #3

Re: Nhân cách của dân nghiền Rock! 

Hii, cái này cỏ may có thể liên hệ với bác Nguyễn Hữu Toàn trong diễn đàn này! Cái bác này nghe nói làm bên "ngạch" cảnh sát! Chắc sẽ có vài đáp án cho bạn! Tớ có nhớ mang máng là bác này ...am hiểu vấn đề này hơn!� ; ;. Mà lâu nay, bác này cũng ít ghé qua! Vậy, cỏ may nên....pm! Tớ còn cho nick chát này: nguyenhuutoan7681� :-$ :-$ (Đừng nói là tớ..nói nhé! ) Hiii

Chúc may mắn!

Chán kí rồi....

04-17-2006 08:18 PM

comay0183  
Junior Member

 
Posts: 4
Thanks Given: 0
Thanks Received: 0 in 0 posts
Joined: Mar 2005 
Reputation: 0

Post: #4

Re: Nhân cách của dân nghiền Rock! 

Cảm ơn bạn nhiều. Còn các bạn khác cho ý kiến đi ạ.

Sâu trong đáy mắt, anh nói gì?

04-20-2006 05:06 AM

Lipton  
Member

 
Posts: 244
Thanks Given: 1
Thanks Received: 14 in 13 posts
Joined: Feb 2006 
Reputation: 0

Post: #5

Re: Nhân cách của dân nghiền Rock! 

(04-20-2006 05:06 AM)comay0183 link Wrote:Cảm ơn bạn nhiều. Còn các bạn khác cho ý kiến đi ạ.


Hii,, mà sao bạn không nêu quan điểm của mình trước nhỉ? Như vậy mới thảo luận được chứ! Có khi những người ở đây không ai hiểu rõ lắm đâu!� 

Chán kí rồi....

04-20-2006 07:52 AM

Lipton  
Member

 
Posts: 244
Thanks Given: 1
Thanks Received: 14 in 13 posts
Joined: Feb 2006 
Reputation: 0

Post: #6

Re: Nhân cách của dân nghiền Rock! 

Chứng nghiện thuốc độc do lạm dụng các chất kích thích.
Nhóm các chứng nghiện chất độc này phát triển khi sử dụng thường xuyên các chất kích thích hoạt động thần kinh cấp cao (cafein, các amin kích thích tâm thần như: phenamin, ritalin, pecvetin và các thuốc khác). Người sử dụng các chất kích thích thường có cảm giác sảng khoái, sung sức, và nghị lựu, tăng khả năng công tác, khả năng tập trung chú ý, và tính tích cực. Song việc sử dụng thường xuyên các chất kích thích cũng đưa tới nghiện. 

Trong các chứng bệnh nghiện chất độc mà thầy thuốc hay gặp nhất là bệnh gây ra do thuốc phiện, các chất ancaloit và dẫn xuất của nó (mocphin, codein,...) cũng như các chất tổng hợp có tác dụng nghiện dùng thay thế cho nhau, gây ra cảnh lâm sàng bệnh giống nhau. 
Ngộ độc cấp tính do thuốc phiện và các chế phẩm của nó có biểu hiện dưới dạng khoái cảm thụ động có màu sắc đặc biệt: thờ ơ với ngoại cảnh, khí sắc yên lặng - chiêm ngưỡng, các ham muốn và thích thú khác bị ức chế. Với liều lớn, hô hấp giảm, nhu động ruột chậm lại, da khô, các tuyến nước bọt tiết giảm.

Thói quen dùng thuốc phiện các các dẫn xuất của nó phát triển nhanh, dùng liên tục vài tuần, và đôi khi vài ngày dẫn tới khả năng chịu thuốc, thuốc thôi không còn tác dụng gây khoái cảm, mất hiệu lực gây tê, giảm tác động trên hô hấp. Múôn đạt được những khoái cảm trước đây, người nghiện phải tăng liều lượng ma tuý, có lúc phải dùng những lượng lớn. 
Hội chứng cai thuốc trong nghiện ma tuý biểu hiện rõ ràng: rối loạn hoạt động của cơ thể (khó chịu, suy yếu, kiệt sức, khí sắc trầm cảm, dễ bị kích thích, hay khóc, dễ bùng nổ, giận dữ...)

Trong trạng thái cai thuốc, hành vi của người bệnh biến đổi sâu sắc: họ lồng lộn trong bệnh khoa, cầu cứu hoặc đòi thuốc, trong cơn tức giận, họ xông vào nhân viên, chực chạy, phá cửa...


Hành vi, tác phong của người bệnh do các rối loạn thực vật và toàn thân thuộc hội chứng cai thuốc chi phối, phần lớn là đau dần khớp gối, vùng thắt lưng kèm theo vã mồ hôi, rãi rơi ròng ròng, nước mắt giàn giụa, rét run. ĐỒng từ giảm, nhịp tim và hô hấp tăng. Trong thời gian cai thuốc, người bệnh thường bị ỉa chảy, và sốt nhẹ. 
Trong hội chứng cai thuốc nặng có thể gây truỵ tim mạch do hoạt động của huyết áp và tim giảm mạnh.


Vì sợ hội chứng cai thuốc nên người nghiện buộc phải dùng lại chất ma tuý, sinh ra lệ thuộc vào nó trở thành� nô lệ cho thói xấu của mình.
(Tâm thần học, Nxb Y học - Hà Nội, tr.197)

(Hii, xin lỗi anh routeskeeper, bài này lạc nhầm vào topic của anh)  

Chán kí rồi....

(This post was last modified: 04-20-2006 08:36 AM by Lipton.)

04-20-2006 08:14 AM

ph0enix_in_autumn  
Junior Member

 
Posts: 27
Thanks Given: 0
Thanks Received: 0 in 0 posts
Joined: Sep 2005 
Reputation: 0

Post: #7

Re: Nhân cách của dân nghiền Rock! 

văn hoá rock bây giờ rất khác thập niên '90. Rock bây giờ không còn tách biệt với các loại hình văn hoá khác nữa. Giới rock vào thập niên '90 không khác nhau là mấy, có phong cách khá giống nhau, dễ hoà nhập với nhau. Cái nhìn về rock nói chung khá chung chung. Rock là một cái gì đó của tự do, của nổi loạn, rock là âm nhạc nặng, tóc dài, quần áo rách rưới... Nhưng ngày nay, với việc xuất hiện của nhiều loại hình văn hoá có cùng những đặc điểm như trên (hip-hop, latin,...) thì lý do gắn bó với rock đã thay đổi nhiều, lý do đến với rock cụ thể hơn, đa dạng hơn:mức độ nghiền cao thấp khác nhau, bây giờ rock fan ko dễ tính như ngày trước nữa, sở thích cũng thu hẹp hơn, với mỗi một thể loại lại gắn với những giá trị khác nhau, quan điểm khác nhau, nhiều khi là đối lập, hiểu biết về âm nhạc cũng sâu sắc hơn, phân biệt rành rẽ hơn đặc điểm của từng thể loại. Phong cách cá nhân cũng rất khác nhau, không phải lúc nào cũng nhìn thấy được bằng mắt thường - bằng quần áo hay xích móc. Rock fan bây giờ khôn ngoan và có điều kiện hơn - thiêu thân cho rock thì không cần thiết vì có nhiều cách khác để sống với rock hơn.  Quan điểm thế nào là rock trong giới nghe rock NẾU CHƯA CÓ MỘT NGHIÊN CỨU ĐẦY ĐỦ VÀ KHOA HỌC như một đề tài KHXH khác thì không ai có quyền đưa ra định nghĩa về rock bây giờ càng không thể nói ROCK LÀ nổi loạn, rock  là thế này là thế kia... 

với tôi, cách nhìn của anh đây (nếu không nhầm thì là Mr Bình quecuix) ko trái chiều với tôi nhưng qúa lỗi thời và lạc hậu, chủ quan và áp đặt. Tôi không thích những khái niệm mơ hồ như Rocker chân chính, rock fan hạng 2 hạng nhất, hy sinh hết mình .v.v.v Không ai dặt ra tiêu chuẩn đó và bắt người khác phải dùng nó làm hệ quy chiếu; tôi cũng cho rằng vào năm 2006 này những người nghe rock dù nghe ít hay nghe nhiều, những từ ngữ như "chân chính", "hy sinh" cống hiến cũng không còn xuất hiện nhiều trong đầu họ. Nếu là rocker (người chơi rock, họ chắc chắn phải quan tâm đến khả năng chạy ngón, hay độ vững nhịp của mình hơn, nếu là dân nghe nhạc thì họ chỉ quan tâm đĩa nhạc này hay dở ra sao, nếu là dân tổ chức show thì họ quan tâm làm sao xin giấu phép, xin tài trợ như thế nào. Cái thời chung chung đại khái đấy đã qua rồi. Viết bài trên một diễn đàn khoa học xã hội thì bài viết nên có tính khoa học, chính xác và khách quan. 

Lấy dẫn chứng: rock fan bây giờ dù là ghièn nặng cỡ nào thì họ không còn "dong cửa" như ngày trước nữa, rock dẫu chưa được biết đến nhiều nhưng đã có một sự phổ biến nhất định trong xã hội. Những rock fan vẫn có thể nói chuyện với non rock fan về rock, vẫn có thể cùng người không nghe rock chia sẻ một ca khúc rock, vẫn có thể đầu độc ở môt mức độ nào đó những người khác. Như thế , nhìn chung, cuộc sống của một rock fan một cách khách quan đã cởi mở hơn trước rất nhiều. Như thế giới rock tác động lên giới không rock, muốn nghiên cứu về nhạc Rock thì phải nghiên cứu cả những rock fan loại 2 loại 3, kể cả chỉ để hiểu về những người nghiền rock vì đó là ảnh hưởng của rock, nếu không sẽ là siêu hình, cứng nhắc.


CLB ROCK HÀ NỘI tôi đã từng tham gia và đã được chứng kiến khả năng quản lý kém hiệu quả cũng như thiếu minh bạch + bảo thủ thiếu sáng tạo của anh chủ tịch CLB. 

Tôi không thích viết bài gây hấn nhưng đã viết thì ít ai đủ sức đọc hết, hi vọng là anh đọc được đến đây. Nói thực là tôi không thích những người như anh. Mong anh đừng tự huyễn hoặc mình nữa

you don't burn out of running too fast - you burn out of running too slow and getting BORED/ CLiff Burton - former bassist of METALLICA 1962 - 1986<br /><br />Obey MY master

(This post was last modified: 05-02-2006 08:23 PM by ph0enix_in_autumn.)

05-02-2006 07:42 PM

routeskeeper  
Member


Posts: 81
Thanks Given: 0
Thanks Received: 1 in 1 posts
Joined: Dec 2005 
Reputation: 0

Post: #8

Re: Nhân cách của dân nghiền Rock! 

(05-02-2006 07:42 PM)ph0enix_in_autumn link Wrote:với tôi, cách nhìn của anh đây (nếu không nhầm thì là Mr Bình quecuix) ko trái chiều với tôi nhưng qúa lỗi thời và lạc hậu, chủ quan và áp đặt. Tôi không thích những khái niệm mơ hồ như Rocker chân chính, rock fan hạng 2 hạng nhất, hy sinh hết mình .v.v.v 

CLB ROCK HÀ NỘI tôi đã từng tham gia và đã được chứng kiến khả năng quản lý kém hiệu quả cũng như thiếu minh bạch + bảo thủ thiếu sáng tạo của anh chủ tịch CLB. 

Tôi không thích viết bài gây hấn nhưng đã viết thì ít ai đủ sức đọc hết, hi vọng là anh đọc được đến đây. Nói thực là tôi không thích những người như anh. Mong anh đừng tự huyễn hoặc mình nữa

Tôi là người tiền nhiệm của Bình, CLB Rock HN những năm 1999-2000 do tôi là chủ nhiệm và Bình que củi là phó, tôi không liên quan gì đến những cách thức làm ăn không minh bạch của Bình, bạn nên tìm hiểu kỹ rồi hẵng buông lời hằn học chứ 

(This post was last modified: 05-03-2006 05:28 AM by routeskeeper.)

05-03-2006 05:25 AM

ngacnhien  
Administrator

 
Posts: 1,120
Thanks Given: 198
Thanks Received: 293 in 132 posts
Joined: Feb 2006 
Reputation: 4

Post: #9

Re: Nhân cách của dân nghiền Rock! 

Hi hi, rất may là không phải ông Route yêu qúi cùa nhà mình !� 

Thế nhưng PhOenix ạ, tớ xin bạn đừng đưa những đả kích nhắm đến cá nhân (bất cứ ai) vào đây, bạn ôi ! (hic, nếu được, xin bạn xoá đi những dòng đó). Có thể bạn đã phê phán rất đúng, nhưng ta vẫn không nên ghi ra chốn công khai như vậy, nhất là khi ở đây không phải là diễn đàn chuyên về văn nghệ.

Những nhận xét về nhạc Rock và các fans Rock của PhOenix độc đáo quá ! Tớ tuy không có chút máu rock nào trong người,�  nhưng cũng phải nhìn nhận rằng bạn nói rất có lý ! 

Cho tớ hỏi các bác sành rock ở đây câu này nhé: khi mình "máu" một thể loại nhạc đặc biệt nào, cái đó có dần dần ảnh hưởng nhiều đến nhân cách của mình không nhỉ ? Có lẽ là có phải không ? Tỷ như một người cứ ham nghe nhạc buồn riết, đâm ra tính tình cũng dễ đi đến chỗ bi quan ? Thế thì riêng "ghiền" rock, có ảnh hưởng nào le6n nhân cách sẽ được coi là đặc thù nhất không ? Ảnh hưởng ấy lành mạnh hay độc hại ? Ý các bác ra sao ?

05-03-2006 11:33 AM

ph0enix_in_autumn  
Junior Member

 
Posts: 27
Thanks Given: 0
Thanks Received: 0 in 0 posts
Joined: Sep 2005 
Reputation: 0

Post: #10

Re: Nhân cách của dân nghiền Rock! 

:O 
Đặc trưng về nhân cách dân ghiền rock, theo như quan sát chưa đầy đủ của tôi thì giới rock cũng giống như một xã hội thu nhỏ, nghĩa là cỏ đủ các thành phần với nhân cách khác nhau. Nhưng có một nét chung chỉ ra được có thể diễn tả được bằng từ "Thái quá". Từ trên đây không mang mootj ý nghĩa tiêu cực **--__> mà chỉ là để diễn tả việc những tính cách đặc trưng của một cá nhân khi chịu ảnh hưởng của vh rock thường được phát triển đến mức độ cao hơn và ít bị cản trở hơn người bình thường. Nghĩa là một người bộc chực thì sẽ rất nóng nảy, một người dễ gần thì cực kỳ xởi lởi, ai đó lạnh lùng thì dễ đạt đến độ băng giá. Một người ham học hỏi nghiền rock thì cực kỳ chăm chỉ [Giả thuyết: có thể là do nhạc rock khởi nguồn từ mỹ, một đất nước có sự chuyên môn hoá rất phát triển]... 

KHác với suy nghĩ của nhiều người, coi MẠNH MẼ, NỔI LOẠN� là tính cách đặc trưng của dân rock. Quan niệm này đã có phần lỗi thời. Đó chỉ là những người dễ nhận thấy nhất, và chỉ là tính cách đặc trưng khi người ta không có con đường nào khác để đến với rock ngoài quan hệ cá nhân (người này đầu độc người kia). Ngược lại ngày nay vơi internet và công nghệ sao chép, MTV có NHIỀU NGƯỜI HƠN có điều kiện tiếp xúc với NHIỀU THỂ LOẠI ROCK hơn. kỳ thực thì với mọi loại hình tính cách thì đều có thể tìm cho mình một mảng rock để yêu thích.

Nếu mạnh mẽ và dữ dội thì có thể chia sẻ bằng Heavy Metal;
Nếu ham tìm hiểu thì đi cùng Progressive
Thật thà và lãng mạn không thể bỏ Blackmore's Night
Chán đời cùng Nirvana đi tìm niềm tuyệt vọng
Vui nhộn thì sống với Funk
Và còn nhiều nhiều nhiều để lăng nhăng cùng rock

( sưu tầm ) Cách từ chối khéo để tránh xa ma túy 

CÁCH TỪ CHỐI KHÉO ĐỂ TRÁNH XA MA TÚY

Đây là những bước của cách từ chối khéo để bạn tham khảo nếu lần tới có bị người ta ép uổng, hút hoặc chích.

1. Đặt câu hỏi. Hãy nêu những câu hỏi thật gay gắt. Chúng sẽ thực sự làm bạn suy nghĩ về điều bạn sắp làm.

"Tại sao tôi muốn hút thuốc?"
"Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tối nay tôi bị "xỉn"/ "phê"?

2. Gọi đích danh những rắc rối. Rán nhìn tận mặt những điều bạn sắp làm.

"Hút cần sa/ bồ đà là phạm pháp"
"Thuốc lá sẽ tàn phá hai lá phổi của tôi"

3. Nêu rõ các hậu quả. Cân nhắc các hậu quả của điều bạn sắp làm.

"Tôi có thể� bị bắt khi đang sử dụng ma túy".
"Nếu tối nay tôi bị "say xỉn"/ "phê thuốc", một người nào đó sẽ lợi dụng tôi".

4. Đề nghị một trò vui thay thế. Hãy có sẵn một danh sách những trò vui thay thế khi bạn bị dụ dỗ:

"Này, tại sao mình không đi xem phim?"
"Tôi thích chơi bóng rổ hơn"

5. Chuồn. Nếu bạn bị kẹt trong một tình huống không sáng sủa, hãy chuồn lẹ và đừng lo người khác nghĩ gì về bạn.

"Xin lỗi mọi người, tôi phải đi đằng này."Sao lại nói "Tôi cần gì ở ma túy?" nhỉ! Hiii

- Tớ cần nó để ...chữa bệnh
- Tớ cần nó...cho đỡ buồn
- Tớ cần nó..vì thấy ..mọi người bảo "Thích lắm, chơi thử mà xem!"
- Tớ cần nó vì..."Tôi cũng thích là một..dân chơi - mà dân chơi thì cần biết đến ma túy một chút!"
- Tôi cần nó ...đơn giản...thử cái...có chết ai đâu
...............
Vô vàn cái! 
Và đúng vậy..trong mọi cái cán dỗ: ví dụ như uống rượu, hút thuốc ....thì ma túy cũng cần biết cách từ chối khéo...để không phải đặt ra câu hỏi cho chính mình "tôi cần gì ở ma túy! Vì khi hỏi như vậy...coi như..đã...thôi rồi!  và đã phải bắt đầu đi tìm giải pháp...cai nghiện, từ bỏ con đường ma túy!

- Đôi khi...chơi trong nhóm bạn, ở một môi trường....phức tạp..vẫn cần phải...từ chối khéo chứ, hoặc giả vì...sĩ diện...có khi...chết! 
Rock không hút được tất cả mọi người nhưng không có kiểu người nào mà không thể yêu thích rock. 

Và với đặc tính riêng về cường độ, nhịp độ thì dù bất cứ ở trường phái nào thì tính cách riêng của người nghe đều có một chỗ dựa để phát triển mạnh mẽ. không khoan nhượng.

Cũng vì nhạc rock thường có xu hướng bài xích (những loại hình văn hoá, các hình thức tuyên truyền...) nên cá nhân bị ảnh hưởng bởi VH Rock không dễ tin 100% vào bất cứ một loại hình tuyên truyền hay không dễ bị tập nhiễm một tư tưởng, một loại hình văn hoá có sẵn nào đó. Ngược lại, với xu hướng luôn luôn hướng tới, giao lưu, học hỏi và sáng tạo thì đây là mảnh đất màu mỡ để phát triển những đặc điểm RẤT RIeng của cá nhân. Các cá nhân nghe rock luôn có xu hướng phát triển tập trung vào những nét riêng của mình, chính vì thế nên có nhân cách không hài hoà các mặt như người kHÁC.ĐỐI XỬ NHƯ THẾ NÀO ĐỐI VỚI NGƯỜI NHIỄM HIV

Nguyễn Thị Oanh
Cử nhân xã hội học - Cao học phát triển cộng đồng


AIDS ở đất nước chúng ta hiện nay là một nguy cơ có thật. Tuy rằng chúng ta chưa đủ phương tiện để thử máu  trên diện rộng, số người phát hiện được đang tăng ở tốc độ ngày càng nhanh.

Khả năng kiểm soát AIDS trong một nước  không chỉ tùy thuộc vào tài chánh và kỷ thuật mà còn ở trình độ ý thức xã hội. Và có thể  nói ý thức xã hội là chủ yếu vì chưa có thuốc chữa. Đây không chỉ có nghĩa là sự tự giác của từng người để ngừa bệnh mà còn là cách đối xử với người bị nhiễm HIV toàn xã hội.

Phản ứng của xã hội tác động trực tiếp đến khả năng kiểm soát AIDS. Ngay từ khi phát hiện ca đầu tiên, chuyên gia y tế thế giới co khuyến cáo ta như thế này “Nếu các bạn dùng biện pháp trấn áp (mesures répressives) AIDS càng lây lan mạnh.” Biện pháp trấn áp là như thế nào? Đó là thái độ xem người bịnh như người có tội, phê phán họ về mặt đạo đức, cô lập họ và nhất là xu hướng kiểm soát họ chặt chẽ theo kiểu biện pháp an ninh.

Khi đối tượng bị lên án, phê phán, theo dõi, họ sẽ lẫn trốn và từ đó nhân viên y tế, tâm lý, xã hội sẽ không tiếp xúc được với họ để hỗ trợ về tinh thần và nhất là tham vấn về tâm lý để họ tự giữ gìn sức khỏe và góp phần phòng ngừa cho người xung quanh. Xu hướng “giật gân” của báo chí  một dạo suýt làm lộ danh tánh của các bệnh nhân là một điều không nên làm vì đã sợ hãi trước sự chết, bệnh nhân còn lo âu trước dư luận xã hội. Trên đời này chúng ta có hai cái sợ: sợ chết và sợ bị xã hội ruồng bỏ. Điều đáng buồn là ở khắp nơi, người bị nhiễm HIV hay bị đối xử với thành kiến, bị tránh né và cô lập. 

Sự cô đơn, đau khổ về tinh thần ở một số trường hợp khiến cho họ còn giao lưu bừa bãi để rửa hận.

Bây giờ xin mời các bạn cùng chúng tôi thử phân tích phản ứng của xã hội. Chúng ta biết rõ là AIDS chỉ lây qua đường máu và đường sinh dục. Nói chuyện, ăn cơm chung, bắt tay, vuốt ve v.v…không lây. Dù vậy người bị nhiễm HIV vẫn bị xã hội xa lánh, cô lập. Tại sao?

Trước tiên có thể nói đây là một phản xạ vô ý thức xuất phát từ chỗ chúng ta rất sợ nhìn thẳng vào sự đau khổ và sự chết. Chúng ta lúng túng với người đang bị cái chết  đe dọa cho dù đó là người bệnh ung thư. AIDS hay bệnh hiểm nghèo khác . Chúng ta muốn tránh họ cho khuất mắt. Nhưng thông thường  hơn, AIDS được phát hiện lúc đầu chủ yếu trong giới đồng tính luyến ái, mãi dâm, nghiện ngập. Do đó, cũng trong tiềm thức ta liên kết bệnh này với sự thiếu đạo đức, sự tội lỗi. Làm như thế không chỉ ta phản ứng mù quáng mà còn hết sức bất công với số ngày càng nhiều những người mẹ, những trẻ em vô tội bị nhiễm HIV. Và nghĩ cho kỹ hơn kể cả bậc tu hành cũng có thể bị nhiễm HIV do một sơ xuất về kỹ thuật y khoa khi phẫu thuật, nhổ răng hay truyền máu chẳng hạn.

Đối với người bị nhiễm HIV có hai vấn đề phải quan tâm. Thứ nhất là giúp họ đối phó với khủng hoảng tâm lý, thứ hai là giúp họ tự chủ trong hành vi tình dục.

Một điều mà khoa học xã hội ngày càng khẳng định là để tác động đến thái độ và hành vi của con người thì lời nói suông nhất là những lời khuyên chung chung, sự lên lớp giảng đạo đức là vô hiểu. Ngay cả những người mà xã hội cho là tội lỗi, sự trừng phạt, răn đe có thể làm cho họ sợ và tạm thời ngưng những hành vi phạm pháp. Nhưng sự cảm hóa thật sự cần đến một mối quan hệ giữa người và người trung thực, chân thật, bình đẳng, tôn trọng và thông cảm. Có thể tôi không tán thành hành động của anh, chị, nhưng con người của anh, chị tôi phải tôn trọng, chấp nhận và cảm thông. Đây là thái độ nghề nghiệp bắt buộc phải có đối với nhân viên y tế, tâm lý, xã hội trực tiếp làm việc với người bị nhiễm HIV. Ngành tham vấn tâm lý hay công tác xã hội gọi đây là thái độ không phê phán (non-judgmental attitude) mà nhờ đó trong tiếp xúc với nhân viên chuyên môn người bệnh sẽ tin tưởng, dám bộc lộ những suy nghĩ thầm kín của mình mà không sợ bị chê cười, lên án. Nói như thế không phải ta không có một quan điểm đạo đức riêng, hay không phân biệt phải trái. Nhưng vai trò của nhân viên y tế xã hội khác với nhà đạo đức học, luật sư hay công an. Và nói cho cùng sự đối xử văn minh trong xã hội ngày nay phải là như thế.

Ngay trong giáo dục con em, các bậc cha mẹ có kinh nghiệm không dùng những biện pháp trấn áp như rầy la, lên lớp giảng Mo-ran mà gần gũi tâm tình với thái độ khoan dung. Kẻ yếu đuối mới kiểm soát rình rập, theo dõi sự hành động, đi đứng của con mình, chính cách làm này mới làm cho con cái càng ngày càng giấu giếm sự thật và xa lánh chúng ta.

Thông thường ta thích nói hơn là lắng nghe, độc thoại hơn đối thoại. Nếu những người ta muốn giúp đỡ không tự rút vào vỏ ốc để khỏi bị “tra tấn”, họ cũng phản ứng theo kiểu nước đổ lá môn. Vì không ai quyết định thay cho người khác được và những thay đổi trong hành vi của một người chỉ có thể xuất phát từ ý chí của người đó.

Nói thì dễ chớ thay đổi rất khó vì phong cách ra lệnh, áp đặt ăn rất sâu trong tập quán phong kiến của chúng ta. Muốn tiến lên giáo dục và quản lý hiện đại các nước đi trước đã vận dụng tối đa các khoa học mới về hành vi để tạo ra được phong cách đối xử mới nhất là nới người có trách nhiệm.

Phản ứng của xã hội hiện đại đối với người khuyết tật, với các đối tượng xã hội cho thấy chúng ta còn ở mức phát triển khá lạc hậu so với các nước khác. Nhân dân ta có lòng nhân hậu nhưng mới ngưng ở từ thiện, nghĩa là ban phát từ trên xuống nhưng chưa chấp nhận sự hòa nhập xã hội của người có khuyết tật hay có lỗi lầm.

Tất cả chúng ta đều mong muốn sống bình thường, được xã hội chấp nhận, được sống có ích. Người bị nhiễm HIV lại càng có nhu cầu này. Quả thật nhiều bệnh nhân AIDS trở thành những chiến sĩ thật sự , những nhà tham vấn cho người đồng bệnh, tích cực hoạt động xã hội và nhờ thế họ kéo dài cuộc sống. Người thân, xã hội chung quanh nên tạo cho họ  sống cuộc sống có ích và có ý nghĩa này.

Để thực hiện các điều trên cần phải tăng cường không phải là những biện pháp an ninh mà là kiến thức tâm lý, xã hội…Không phải huy động mạnh hơn các lực lượng công an hành chánh mà là giúp nhân viên y tế thông hiểu tâm lý hơn và đào tạo thêm các nhân viên tâm lý lâm sàng, nhân viên công tác xã hội hiện diện, không những  ở cơ quan y tế xã hội mà cả cộng đồng dân cư , ở các xóm ăn chơi, biết lăn lộn giữa những người nghiện ngập, những trẻ lang thang bụi đời và mọi tầng lớp khác.MUỐN GIÚP NGƯỜI CÓ HIỆU QUẢ PHẢI CÓ CÁI NHÌN ĐÚNG

Nguyễn Thị Oanh
Cử nhân xã hội học - Cao học phát triển cộng đồng


Chúng ta có cái từ “tệ nạn xã hội” gây dị ứng đối với các tổ chức xã hội quốc tế vì khi đánh giá, nhất là dán nhãn cho một ai đó là “tệ” thì khó giúp họ tự vươn lên. Họ vừa là phạm nhân vừa là chủ yếu của nạn nhân.

Các cuộc nghiên cứu ở Mỹ và Philippin cho thấy từ 50 – 60% phụ nữ bán dâm lúc nhỏ là nạn nhân của hiếp dâm, lạm dụng tình dục…Họ thấy cuộc đời mình đáng “vứt đi” nên xả láng. Các cuộc nghiên cứu còn cho thấy đối với một nữ bán dâm có 5-6 người “ăn theo” phần lớn là nam giới. Ví dụ như chàng ma cô, mụ tú bà, chú tài xế, ông chủ phòng trọ, cả em bé canh gác và cũng có những ông chồng ép vợ làm mại dâm để nuôi họ.

Một trẻ vị thành niên phạm pháp bắt đầu lang thang bụi đời và chịu không nỗi không khí ngột ngạt của gia đình. Trẻ rơi vào nghiện ngập vì gia đình rạn nứt, lơ là hay quá khắt khe.

Việc phê phán, lên án các hành vi xấu  là cần thiết nhưng đối với từng con người khi ta muốn giúp họ trong CTXH hay tham vấn tâm lý  thì hai yêu cầu tuyệt đối là chấp nhận và tôn trọng họ. Vì trước tiên đó là con người và quá trình đưa họ tới tình trạng có vấn đề này là rất phức tạp mà họ không làm chủ.

Ở các nước tiên tiến người ta tránh đánh giá, lên án trong cách gọi. Ví dụ ta hay dùng chữ trẻ em “hư”, chưa ngoan, từ từ thay vì một tính từ mang tính đánh giá chúng ta gọi các em  bằng một danh từ khách quan như trẻ đường phố chẳng hạn. Từ từ nhận ra rằng trẻ là nạn nhân của các quá trình xã hội nên người ta gộp trẻ đường phố, trẻ khuyết tật, mồ côi.v.v..vào chung một phạm trù là “trẻ trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn”.

Muốn giúp đỡ một nạn nhân của xã hội tự vươn lên cách nhìn của xã hội đối với họ mang tính quyết định. Do đó các nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà hoạt động xã hội đã không ngừng tìm tới tới cách nhìn đúng đắn để hành động có hiệu quả nhất. Diễn biến của cách nhìn này từ trước đến nay thay đổi khá nhiều như sau.

Đầu tiên là cách nhìn đạo đức: theo đó nạn nhân của xã hội bị xem như tội nhân và bị lên án , kết tội và “dạy dỗ”, “lên lớp” bằng các bài học đạo đức.

- Cái nhìn y khoa: Xem họ như người bịnh và tìm cách chữa trị họ. Đây là tiến bộ đáng kể. Nhưng người “bịnh” là người yếu đuối, bất lực, thụ động, hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng và lòng tốt của bác sĩ. Họ không tự lực được.

- Cái nhìn giáo dục: Tin vào khả năng thay đổi của con người dưới tác động của nhà giáo dục. Cuối cùng và hiệu quả nhất là…

- Cái nhìn phát triển: Tin rằng trong từng cá nhân cho dù người đó là ai, quá khứ của họ ra sao cũng có tiềm năng thay đổi to lớn không những để vươn lên mà còn có tác động đem lại sự thay đổi cho xã hội.
Cái nhìn này bên cạnh các mặt yếu , chú trọng và phát huy mặt mạnh của đối tượng. Dù họ là phạm nhân, người đang cai nghiện cũng nhờ họ góp phần vào quá trình giáo dục bản thân và người đồng đẳng. Trên thế giới từ vài năm nay giáo dục đồng đẳng là một nguồn lực cải tạo xã hội mạnh mẽ. Lấy trẻ em giáo dục trẻ em, người nhiễm giúp đỡ người nhiễm, mại dâm giúp mại dâm…Nhiều  chị em được giúp vốn làm ăn, được giới thiệu việc làm nhưng vẫn không hoàn lương. Có ý nghĩ cho rằng họ quen xài lớn nên thu nhập ít ỏi của công việc lương thiện không đủ cho họ. Trong giáo dục đồng đẳng người ta không đòi hỏi chị em bỏ nghề mà chủ yếu cần họ hướng dẫn chị em khác bảo vệ sức khỏe,  phòng bịnh cho mình và người khác. Làm công tác đồng đẳng các chị phải đi sớm về trễ, tìm gặp chị em khác ở đầu đường xó chợ và tiền bồi dưỡng rất khiêm tốn. Ấy vậy mà có người bỏ nghề vì họ thấy thật sự đổi đời, cuộc sống của họ có ý nghĩa vì họ có ích cho xã hội.

Họ đã tìm lại cái đã bị đánh mất nơi họ. Đó là ý thức về giá trị bản thân. Có vậy là nhờ cái nhìn phát triển của những người giúp đỡ họ.


you don't burn out of running too fast - you b

Hiệu ứng Pygmalion. 

Hiệu ứng Pygmalion.

Hầu hết sinh viên khoa Tâm lý học đều biết hiệu ứng mang tên truyền thuyết về một nhà điêu khắc Hy Lạp mê đắm bức tượng do chính mình tạc chạm đến độ thần tượng nó và sự kỳ diệu đã xảy ra: bức tượng trở thành một người sống thực. 

Tương tự cái gọi là "sự tiên đoán tự thực hiện/ self-fulfilling prophecy", hiệu ứng Pygmalion/ Pygmalion effect nhấn mạnh ảnh hưởng của niềm mong đợi/ expectation của giáo viên đối với thành quả học tập của học sinh; tuy gây tranh cãi về nền tảng phương pháp luận, song hiệu ứng Pygmalion vẫn còn được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống.

Theo Fischer trong Les Concepts Fondamentaux de la Psychologie sociale. Paris, 1987/ Những khái niệm cơ bản của Tâm lý học xã hội. Huyền Giang dịch, Hà Nội: Nxb. Thế giới và Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em, 1998) thì hiệu ứng Pygmalion là "một quá trình tạo ra ở người khác những mong đợi, mà thật ra đó là kết quả của một tri giác ít hay nhiều rõ ràng về đối tượng của mình." (tr. 157)

Dưới đây là bình luận của của Fischer cho việc giải thích hiệu ứng Pygmalion qua kết quả thực nghiệm được Rosenthal và Jacobson (1968) thực hiện (tại trường Tiểu học Oak, San Francisco, Hoa Kỳ).

Nội dung thực nghiệm đại khái là: vào dịp khai giảng, người ta tiến hành trắc nghiệm chỉ số thông minh IQ ở học sinh. Các giáo viên được báo là từ kết quả IQ ấy sẽ cho phép rút ra một xác suất về khả năng phát triển trí tuệ trong tương lai gần của học sinh. Người làm thực nghiệm đã sửa chữa kết quả test và báo cho giáo viên danh sách những học sinh có sự phát triển đặc biệt tích cực về mặt trí tuệ trong năm học. 

Kỳ thực, số học sinh này được chọn ngẫu nhiên và chiếm 20% của mỗi lớp. Nhóm nghiên cứu muốn tạo nên ở các giáo viên sự mong đợi tích cực đối với một bộ phận học sinh ở mỗi lớp, trong khi chẳng hề có mong đợi gì ở số còn lại. Mục đích của người thực nghiệm là kiểm tra giả thuyết rằng những mong đợi hình thành tùy tiện lại dẫn tới thái độ phân biệt đối xử, rõ ràng hướng đến việc khẳng định thành đạt trí tuệ của những học sinh nói trên. (tr. 158)

Còn bây giờ là đoạn giải thích hiệu ứng Pygmalion từ kết quả thực nghiệm:

"- Trước hết, sự tồn tại của một hệ thống liên hệ ưu đãi giữa các giáo viên và một số học sinh thể hiện thành những ứng xử riêng biệt của các giáo viên: họ thường mỉm cười, tỏ ra có thái độ tích cực, chú ý tới những em này lâu hơn những 
em khác.

- Sau nữa, sự phân phối những thông tin không ngang nhau ở trong lớp: các giáo viên hướng các học sinh được ưu đãi tới những môn học khó hơn; người ta cũng nhận thấy một sự nâng đỡ có lựa chọn hơn khi luyện tập:các giáo viên tỏ ra kiên nhẫn hơn với những học sinh ưa thích của họ mà họ thường để cho các em có cơ hội tự biểu hiện.

- Cuối cùng, một sự điều chỉnh khi chữa các bài tập: các giáo viên đánh giá một cách thường xuyên và cụ thể hơn những bài làm của các học sinh được họ ưa thích.

Hiệu ứng Pygmalion, như vậy, cũng cho phép nắm được một quá trình phân biệt khác, chỉ rõ tầm quan trọng của khả năng làm thay đổi ứng xử do các biểu tượng xã hội đem lại. Hiệu ứng này không chỉ xảy ra trong môi trường nhà trường; nó cũng có trong tất cả các hoàn cảnh xã hội trong đó chúng ta đánh giá "một cách khách quan" những phẩm chất hay những thành đạt của người khác, tùy theo những mong đợi mà bản thân chúng cũng lại được quy định hay được hướng dẫn một cách tích cực hay tiêu cực đối với người khác." 
(tr. 160)

Hy vọng, vượt qua những câu chữ chuyển dịch lòng thòng, bạn cũng nắm được phần nào cách lý giải của Fischer về hiệu ứng Pygmalion- tác giả được xem là nguồn tham khảo hàng đầu của sinh viên khi theo course Tâm lý học Xã hội.

Và bây giờ, thay vì bình luận ngoài lề, tôi xin dẫn toàn bộ phần viết về hiệu ứng Pygmalion trong Bách khoa toàn thư Tâm lý học giản yếu/Concise Encyclopedia of Psychology [Raymond J. Corsini & Alan J. Auberbach. (eds.) USA: John Wiley & Sons, 2nd edn, 1996, p.762].

"Thuật ngữ Hiệu ứng Pygmalion/ Pygmalion effect được sử dụng từ kịch của Geogre Bernard Shaw, được xem là đồng nghĩa với sự tiên đoán việc tự thực hiện/ self-fulfilling prophecy.

Robert Roshenthal và Lenore Jacobson là những người đầu tiên sử dụng khái niệm hiệu ứng Pygmalion mô tả về những hiệu ứng mong đợi của giáo viên đối với hành vi của học trò. 

Khởi thủy là thực nghiệm thu nhập dữ kiện về niềm mong đợi của giáo viên và lượng giá ảnh hưởng của nó đến điểm số IQ của học sinh. Theo đó, người ta chọn ngẫu nhiên 20% học sinh/ student trong 18 lớp, và giáo viên được thông báo là những học sinh này có tiềm năng đáng nể cho sự thành tựu học đường (bloomers). Khi so sánh với số còn lại trong trường, điểm số của những học sinh được giáo viên mong đợi rất ghê này tức thời chứng tỏ ấn tượng về tổng điểm IQ và điểm số suy luận, phán đoán.

Dù nghiên cứu dẫn trên bị chỉ trích về nền tảng phương pháp luận, song nó đáng chú ý khi đề cập về những hiệu ứng của sự mong đợi của giáo viên đối với việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh ở trường.

Và nó mang hàm ý đặc biệt cho việc giáo dục trẻ chậm tiến, đối tượng học hành kém cỏi do giáo viên có mức độ mong đợi thấp về chúng.

Hai giải thích đối với hiệu ứng Pygmalion.

- Tác giả Cooper cho rằng, giáo viên tin là họ ít kiểm soát đối với học sinh họ mong đợi thấp so với đối tượng được họ rất mong đợi. Do đó, để tăng cường sự kiểm soát, giáo viên thường phản hồi giả vờ/ affective feedback đối với số học sinh nhóm trước, trong khi số học sinh nhóm sau lại nhận được phản hồi nhiều hơn dựa trên nỗ lực của chúng.

Những khác biệt trong sự đánh giá như thế có thể làm cho số học sinh mong đợi thấp không tin là nỗ lực tác động đến kết quả học tập. 

- Theo tác giả Bar-Tal thì sự mong đợi của giáo viên đánh giá về kết quả học tập của học sinh phụ thuộc vào những tri giác nhân quả/ causal perceptions của chính họ liên quan đến thành tựu hay thất bại trong học hành của học sinh.

Nếu giáo viên tin là những nguyên nhân của việc thất bại của một học sinh không thể biến cải được, họ sẽ không trông chờ sự thành công trong tương lai của học sinh và đối xử với các em tương thích với niềm tin ấy.

Việc hình thành niềm mong đợi là hiện tượng mang tính nhân loại và không thể phòng tránh nổi. Khi những sự mong đợi tỏ ra không chính xác và/ hoặc khắc nghiệt quá thì đó là dấu chỉ của sự kém thích nghi trong thực hành giáo dục của 
giáo viên.

Một cách thức nhằm hạn chế khả năng tiêu cực của hiệu ứng Pygmalion là việc giáo viên xác định nhận thức của bản thân về hiện tượng này và những hậu quả có thể xảy đến."

Ảnh hưởng của hiệu ứng Pygmalion còn có thể xảy ra giữa bố mẹ và con trẻ, nhà trị liệu và thân chủ, và thậm chí, giữa người chủ và nhân viên. (McNatt, 2000).

Dưới tiêu đề Pygmalion trong lớp học/ Pygmalion in Classroom, cuộc nghiên cứu do R. Rosenthal và L. Jacobson tiến hành năm 1968, ngay trong lần đầu tiên được xuất bản đã được chào đón với sự bất mãn. 

Nếu sự mong đợi tích cực của giáo viên có thể nâng cao việc thực hiện của học sinh thì sự mong đợi tiêu cực dẫn đến kết quả ngược lại? Những gì là ám chỉ xã hội/ social implications? Liệu có thể bảo rằng những đứa trẻ mà giáo viên có ý định cho thành công và những đứa trẻ cầm chắc thất bại là do sự mong đợi khác biệt của giáo viên về chúng? 

Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ trích và họ nghi ngờ về tính phổ quát của kết quả nghiên cứu về hiệu ứng Pygmalion. 

Trước tiên, có lẽ sự mong đợi của giáo viên dựa trên kiến thức hay tiếng tăm, hình dáng bên ngoài, sự thể hiện học tập buổi đầu và điểm số của các bài kiểm tra chính thức của học sinh để rồi thay đổi hành vi phù hợp hướng đến học sinh. Nếu giáo viên mong đợi cao hơn, học sinh nhận được nhiều hơn sự quan tâm, hỗ trợ tình cảm, giao bài tập khó về nhà làm và được khen ngợi. 

Ở một tầm mức nào đấy, sự mong đợi của giáo viên là dự báo sẵn về sự thực hiện học tập của học sinh vì những lượng giá ban đầu của giáo viên về năng lực của học sinh thường khá chính xác. (Jussim, 1989). 

Tuy thế, điều quan trọng là nhận ra sự mong đợi của giáo viên- ngay cả khi họ bị tạo dựng, bịa đặt toàn bộ bởi các nhà nghiên cứu- đã ảnh hưởng/ influenced đầy ý nghĩa đến sự thực hiện của học sinh với 36% trong số 400 thực nghiệm được thiết kế để kiểm tra giả thiết. (Rosenthal, 1985).

Hiện tượng này cũng xảy ra ở những môi trường không tập trung vào tính giáo dục, như các tổ chức kinh doanh và quân đội. Chẳng hạn, trong một nghiên cứu 29 trung đội gồm hàng ngàn binh sĩ của lực lượng đặc nhiệm phòng vệ Israel/ Israeli Defense Forces, Dov Eden (1990) dẫn dụ một số chỉ huy trung đội rằng nhóm chiến binh của họ có tiềm năng to lớn (thực tế, những nhóm này chỉ đạt mức độ trung bình). Sau 10 tuần, những chiến binh được ấn định nhiều sự mong đợi này đã dành điểm số cao hơn hẳn, so với số chiến binh khác, trong bài kiểm tra viết về khả năng thao tác vũ khí. 

[Sharon S. Brehm & Saul M. Kassin. (1996) Social Psychology. (3rd edn). USA: Houghton Mifflin Company, p. 111].

Như thế, ảnh hưởng của tri giác/ perception và sự mong đợi/ expectation đối với tiềm năng phát triển, trưởng thành hay không của người ta phụ thuộc vào những nhãn gán/ labels tương ứng, được biểu lộ một cách ấn tượng qua hiệu ứng Pygmalion.

Các nghiệm viên đã giải thích hiệu ứng Pygmalion trên cơ sở những quan sát của họ, thích hợp với 4 yếu tố sau: giáo viên (a) tạo một bầu không khí học tập mang tính hỗ trợ và nồng ấm dành cho các học sinh đặc biệt của mình; (b) ban tặng nhiều phản hồi với học sinh về sự thực hiện việc học hành của chúng; © giao cho chúng nhiều tài liệu và bài tập khó hơn; và (d) tạo cho chúng nhiều cơ hội để đặt câu hỏi và đáp ứng các thắc mắc của chúng. 

[A. B. (Rami) Shani & James B. Lau. (1996). Behavior in Organizations- An Experiential Apprroach. (6th edn). USA: Irwin, p. M7-13].

Rõ ràng, thực nghiệm về hiệu ứng Pygmalion của Rosenthal và cộng sự (nếu muốn tìm hiểu sâu hơn nữa, bạn có thể đọchttp://www.ntlf.com/html/pi/9902/pygm_1.htm) đã chạm đến một loạt khái niệm căn cốt trong chuyên ngành Tâm lý học Xã hội như: thái độ xã hội/ social attitudes, mẫu rập khuôn/ stereotypes, sự mong đợi và sự tiên đoán tự thực hiện/ self- fulfilling prophecy , sự mong đợi và học hỏi/ expectation và learning,…Hiệu ứng tâm lý Rosenthal


Nhà tâm lý học Mỹ kiệt xuất Robert Rosenthal có lần đến nghiên cứu việc giảng dạy ở một trường tiểu học nọ. Một hôm ông tuyên bố với lãnh đạo nhà trường là ông sẽ làm một cuộc “Trắc nghiệm xu thế phát triển trong tương lai”. Rồi ông đưa cho hiệu trưởng và các giáo viên liên quan một bản danh sách “Những học sinh có triển vọng học giỏi nhất” và nói với giọng tán thưởng cứ như thật về các em học sinh có tên trong bản danh sách đó. Ông dặn họ giữ kín chuyện này, nhằm tránh ảnh hưởng tới tính chính xác của kết quả trắc nghiệm.
Kỳ thực Rosenthal chỉ tung ra một “Lời dối trá có tính quyền uy” mà thôi, vì các học sinh trong danh sách ấy đều do ông tùy tiện nhặt ra mà không qua sự lựa chọn nào cả.
Tám tháng sau, chuyện thần kỳ xuất hiện: tất cả các học sinh trong danh sách của Rosenthal đều có tiến bộ rõ rệt trong học tập, đạt thành tích xuất sắc trên tất cả các mặt.
Thành công của Rosenthal là ở chỗ các kết luận có tính quyền uy của ông đã khiến cho các em học sinh tự nhận thấy mình là người giỏi giang xuất chúng, qua đó chúng vô cùng phấn khởi và tự tin; trong học tập xuất hiện phong trào sôi nổi ganh đua, thúc đẩy các em phát huy tiềm năng của mình, ai cũng cố giành phần thắng.
“Bản chất của giáo dục là khích lệ, cổ vũ, thức tỉnh” – ai đó từng nói như vậy. Người nào biết cách cổ vũ và khích lệ học sinh thì người đó sẽ thành công. Rosenthal chẳng qua cũng chỉ làm đúng như thế mà thôi, nhưng vì ông là nhân vật có quyền uy trong giới học thuật nên lời nói của ông có sức nặng hơn người, do đó tạo ra hiệu quả người ta gọi là “Hiệu ứng Rosenthal” hoặc hiệu ứng Pygmalion [1]. Hiệu ứng nói trên thông thường được gọi là “Hiệu ứng do mong mỏi của thày giáo” (teacher-expectancy effect), khi đó các học sinh học tốt hơn trước đơn giản chỉ vì chúng thấy mình được thày cô mong đợi làm như thế.

Robert Rosenthal là giáo sư của hai trường đại học California và Harvard, từng được tặng rất nhiều giải thưởng cao quý. Năm 1968/1992, ông cùng với Lenore Jacobson tiến hành các thực nghiệm phát hiện hiệu ứng trên. Hoạt động học tập dưới góc độ tâm lý học 

1/ Khái niệm hoạt động học.
Khi nói đến hoạt động học cần làm rõ khái niệm học và khái niệm hoạt động học. Trong cuộc sống đời thường con người luôn luôn có quá trình tích tiếp thu, tích luỹ� những kinh nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền khoa học, làm cơ sở tiếp thu những khái niệm khoa học ở trong nhà trường. Đó chính là việc học, là cách học theo phương pháp của cuộc sống thường ngày, giống như con người khi sinh ra đến khi chết học ăn học nói học gói học mở, đi một ngày đàng học một sàng khôn…Trên thực tế, chỉ có phương thức đặc thù( phương thức nhà trường) mới có khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, qua đó hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học, năng lực mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn; và trong tâm lý học sư phạm, hoạt động học là khái niệm chính được dùng để chỉ hoạt động học diễn theo phương thức đặc thù, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.

1.1/ Bản chất của hoạt động học.
Hoạt động học tập là hoạt động chuyên hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở người học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Sự thuận lợi cho người học ở đây đó là con đường đi mà để phát hiện lại đã được các nhà khoa học tìm hiểu trước, giờ người học chỉ việc tái tạo lại. Và để tái tạo lại, người học không có cách gì khác đó là phải huy động nội lực của bản thân ( động cơ, ý chí, …), càng phát huy cao bao nhiêu thì việc tái tạo lại càng diễn ra tốt bấy nhiêu. Do đó hoạt động học làm thay đổi chính người học. Ai học thì người đó phát triển, không ai học thay thế được, người học cần phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, vì mình trong quá trình học. Mặc dù hoạt động học có thể cũng có thể làm thay đổi khách thể. Nhưng như thế không phải là mục đích tự thân của hoạt động học mà chính là phương tiện để đạt được� mục đích làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động.
Hoạt động học� là hoạt động tiếp thu những tri thức lý luận, khoa học. Nghĩa là việc học không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà học phải tiến đến những tri thức khoa học, những tri thức có tính chọn lựa cao, đã được khái quát hoá, hệ thống hoá.
Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt động học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học phải biết cách học, phương pháp học, nghĩa là phải có những tri thức về chính bản thân hoạt động học. 
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh. Do đó nó giữ vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển tâm lý của người học trong lứa tuổi này.
1.2/ Đối tượng của hoạt động học.
Nếu gọi chủ thể của hoạt động học là người học thì đối tượng của hoạt động học hướng tới đó là tri thức. Nhưng tri thức mà học sinh phải học được lựa chọn từ những khoa học khác nhau, theo những nguyên tắc nhất định, làm thành những môn học tương ứng,� và được cụ thể ở những đơn vị cấu thành như: khái niệm, kĩ năng, thái độ… Đối tượng của hoạt động học có liên quan chặt chẽ với đối tượng của khoa học. Tuy vậy, có sự khác nhau về nguyên tắc giữa hoạt động học và hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động học là hoạt động tái tạo lại những tri thức đã có từ trước ỏ người học, còn hoạt động nghiên cứu khoa học đó là phát hiện những chân lý khoa học mà loài người chưa biết đến. Có thể nói: đối tưởng của hoạt động học là cái mới với cá nhân nhưng không mới đối với nhân loại. 
1.3/ Phương tiện học tập.
Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, và chủ thể phải có những phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh đối tượng. Trong hoạt động học tập, ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính…mà nó còn mang tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là mọi yếu tố của quá của nó đều được hình thành trong quá trình học tập. Phương tiện của học tập không có sẵn trong tâm� lý chủ thể mà hình thành chính trong quá trình chủ thể tham gia hoạt động học tập. 
Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là các hành động học tập: so sánh, phân loại, phân tích, khái quát hoá.. Tâm lý học đã khẳng định so sánh, phân loại là những hành động học tập là phương tiện đắc lực cho việc hình thành những khái niệm kinh nghiệm, còn phân tích, khái quát hoá là phưong tiện để hình thành nên những khái niệm khoa học.
Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học, phương tiện chủ yếu là tư duy. Trong giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan trọng và cần thiết.
1.4/ Điều kiện học tập.
Hoạt động học muốn được diễn ra phải có điều kiện của nó. Điều kiện đầu tiên đó là có sự tham gia của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng dẫn của thầy, sách, vở, bút, máy tính, giáo trình…Và điều kiện thứ hai đó là có sự vận động của chính bản thân người học hay còn gọi là yếu tố nội lực. Đó là những tri thức mà người học học được, trình độ trí tuệ hiện có của người học, động cơ, ý chí, hứng thú của người học…Có đầy đủ những điều kiện đó, người học dù trong hoàn cảnh có thầy với trò, hay không có đối mặt với thầy thậm chí khi ra trường, hoạt động học vẫn diễn ra. Từ đó có thể hiểu học là quá trình tương tác các yếu tố ngoại lực và yếu tố nội lực thông q1.5/ Sự hình thành hoạt động học tập.

1.5.1/ Động cơ học tập.
Các yếu tố của hoạt động học được hình thành trong chính hoạt động học. Nói đến hình thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình thành động cơ học tập.
Hoạt động học với chủ thể là người học, còn đối tượng của nó là những tri thức khoa học, với mục tiêu cuối cùng là hình thành nhân cách cho người học. Chủ thể khi tiến hành hoạt động học, chiếm lĩnh tri thức thì chính tri thức đó trở thành cái tinh thần, thôi thúc người học. Vì vậy có thể hiểu động cơ học tập là sức mạnh tinh thần điều khiển, điều chỉnh hoạt động học nhằm chiếm lĩnh tri thức khoa học, để thoả mãn nhu cầu nào đó của. 
Động cơ của hoạt động học tập ở học sinh được hiện thân ở những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà giáo dục ở nhà trường mang lại cho các em. Trong thực tiễn giáo dục, động cơ học tập được chia thành hai loại: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội. Thuộc về loại động cơ hoàn thiện tri thức ở đây là lòng ham mê, khát khao mở rộng tri thức, say mê với những môn học. ..Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này nó không chúa những mâu thuẫn bên trong và nó đòi hỏi phải có những nỗ lực ý chí để đạt được nguyện vọng chứ không phải hướng vào đấu tranh với chính bản thân mình. Động cơ quan hệ xã hội đó là sự thưởng phạt hoặc đe doạ, những áp lực gia đình, nhà trường, công việc, sự hiếu danh hoặc mong đợi sự hạnh phúc..ở mức độ nào đó động cơ này mang tính cưỡng bách, và có lúc xuất hiện như một vật cản cần khắc phục để vượt qua đạt được mục đích của mình. 
Xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định. Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì chính nó ( tức là đối tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt động ấy. Động cơ hoàn thiện tri thức là động cơ chính của hoạt động học tập. Nhưng trên thực tế còn có động cơ quan hệ xã hội. Nó “bám vào”, “hiện thân” trên động cơ hoàn thiện tri thức, trở thành một bộ phận của động cơ hoàn thiện tri thức. Khi động cơ hoàn thiện tri thức được đáp ứng thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả mãn. Cả hai loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng hoàn cảnh cụ thể, điều kiện nào đó mà động cơ này hay động cơ kia chiếm vị trí quan trọng hơn, nôỉ lên và chiêm ưu thế trong thứ bậc động cơ. Sự phân chia động cơ như vậy chỉ có tính chất tương đối.
1.5.2/ Mục đích học tập.
Theo tâm lý học hoạt động, mục đích được hiểu là cái mà hành động đang diễn ra hướng tới. Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ và nó được tiến hành dưới các hành động học. Vậy mục đích của hoạt động học là các khái niệm, các giá trị, các chuẩn mực…..mà hành động học đang diễn ra hướng đến nhằm đạt được nó. Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ việc hình thành trong chủ thể dưới các dạng là các biểu tượng sau đó được tổ chức để hiện thực hoá biểu tượng trên thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục đích được hoàn thành. Mục đích của hoạt động học cũng được hình thành như vậy, chỉ có điều nó có tính đặc thù riêng đó là việc hình thành mục đích học tập hướng đến là để thay đổi chính chủ thể ở đây là người học.� Và mục đích này chỉ có thể được bắt đầu hình thành khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào thực hiện hành động học tập của mình. Trên con đường chiếm lĩnh đối tượng nó luôn diễn ra quá trình chuyển hoá giữa mục đích và phương tiện học tập. Mục đích bộ phận được thực hiện đầy đủ nó lại trở thành công cụ để chiếm lĩnh các mục đích tiếp theo.
1.5.3/ Sự hình thành các hành động học tập
Học� tập là một quá trình do đó khi nói đến hoạt động học tập phải nói đến sự hình thành các hành động học tập. Hành động học ở đây được hiểu là hành động� trí óc, nhằm chiếm lĩnh tri thức. Hành động học có rất nhiều các hành động khác nhau, và bản chất nhất, cơ bản nhất có các hành động chính sau:hành động phân tích ( tìm ra nguồn gốc nội tại, cấu trúc lôgíc của đối tượng), hành động mô hình hoá ( giúp con người diễn đạt các khái niệm một cách trực quan, nó bao gồm mô hình gần giống với vật thật, mô hình tượng trưng, mô hình mã hoá, nó được dùng nhiều trong sinh học…), hành động cụ thể hoá (nhằm vận dụng giúp người học hiểu được rõ nhất bản chất của vấn đề, giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ cụ thể từng lĩnh vực.
1.6/ Đặc điểm chung của hoạt động học tập của sinh viên.
+ Hoạt động học tập của sinh viên có tính chất độc đáo về mục đích và kết quả hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng� mà thay đổi chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách người chuyên gia tương lai.
+ Hoạt động học tập được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch vì nó phụ thuộc vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo.
+ Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, sách vở, máy tính…
+ Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng thẳng, mạnh mẽ về trí tuệ.
+ Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập cao
Cái cốt lõi của hoạt động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về động cơ mục đích, biện pháp học tập.
1.8. Tính tích cực trong hoạt động học của sinh viên.
Việc tạo ra tính tích cực học tập của sinh viên là nhiệm vụ chủ yếu của người thầy giáo trong nhà trường đại học. Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng mạnh tới tính tích cực hoạt động tập của sinh viên là do sự vận dụng một cách thích hợp phương pháp giảng dạy của thầy.
Theo Thái Duy Tiên thì "Tính tích cực học tập của sinh viên là tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người sinh viên từ đối� tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức. để nâng cao hiệu qủa học tập"
Tính tích cực học tập của sinh viên được thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản sau:
- Trong giờ học sinh viên có chú ý tới bài giảng hay không
- Mức độ tự giác tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi thảo luận, ghi chép…
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập được giao
- Hiểu bài và có thể trình bày lại theo cách hiểu của mình
- Có hứng thú học tập
- Biết vận dụng những tri thức được học vào thực tiễn
- Có sáng tạo trong quá trình học tập.
Tài liệu tham khảo
1. Tuyển tập Tâm lý học
Tác giả: Phạm Minh Hạc
2. Tâm lý học xã hội- Những vấn đề lý luận
Tác giả: Trần Hiệp – Hà Nội năm 1996
3. Tâm lý học( Tập I-II)
Tác giả: Phạm minh Hạc- Phạm hoàng Gia- Lê Khanh- Trần trọng Thuỷ.
NXB Giáo dục –1989.
4. Từ điển tâm lí học.
Nguyễn Khắc Viện ( chủ biên)
NXB Thế Giới-1995.
5. Tâm lý học sư phạm đại học, NXB Giáo Dục 1992
Tác giả: Nguyễn Thạc – Phạm Thành Nghị
6. Giáo dục học hiện đại, NXB ĐHQG 2001-� Thái Duy Tiên
7. Bài giảng môn “Tâm lý học sư phạm” của PGS.TS Lê Khanh.

Sự khác biệt về nhận thức giữa nam và nữ 

Về chủ đề này, cho tới nay các học giả vẫn hoàn toàn chưa có một sự thống nhất. Khởi đầu từ bài báo của tác giả Lynn: "Lynn,R,(1993) „Sex Differences in intelligence and Brain Size: A Paradox Resolved“ năm 1993, hàng loạt các nhà khoa học đã vào cuộc để cùng tìm hiểu, bảo vệ hay bác lại quan điểm của Lynn. Quan điểm chính của Lynn là có sự khác biệt giới trong nhận thức, và điều đó có căn nguyên dựa vào một sự thật là TB não của nam giới lớn hơn, dung lượng não TB của nam giới là 1442cm[sup]3[/sup], của nữ giới là 1332cm[sup]3[/sup] và nặng hơn não TB của nữ giới khoảng 100g (sau khi đã xét tới sự khác biệt về trọng lượng và độ lớn của cơ thể) (nghiên cứu của Rushton và Akney).

Lynn dẫn ra một loạt các nghiên cứu về trí thông minh (Wechler Tests, mô hình thứ bậc Burt-Vernon, mô hình thức bận Cattell-Gustafsson), qua đó đều cho thấy TB nam giới có chỉ số IQ (theo các test và mô hình trên) cao hơn nữ khoảng 4 điểm. Điều này cũng phù hợp với các đo đạc về khác biệt chỉ số thông minh từ sự khác biệt về trọng lượng não (theo Willerman et al.)

Bên cạnh đó Lynn cũng dựa vào các điều tra từ trường phổ thông và đại học từ năm 84-89 ở nhiều nước chỉ ra rằng, tỷ lệ học sinh/sinh viên nam đạt điểm cao trong học tập nhiều hơn nữ, và sử dụng đây là một minh chứng nữa cho luận điểm: nam thông minh hơn nữ.

Dựa trên sự phát triển khác nhau trong thời kỳ dậy thì, Lynn cũng tìm thấy những nghiên cứu cho thấy ở tuổi trước và trong dậy thì, sự khác biệt về chỉ số IQ giữa nam và nữ ít hơn ở tuổi trưởng thành, điều này một lần nữa ủng hộ quan điểm về sự liên quan giữa khối lượng não và trí tuệ.

Ngoài ra Lynn còn tìm hiểu về cấu trúc não và các vùng cư trú của các khả năng như khả năng định hướng không gian, khả năng ngôn ngữ... và tương quan với những khả năng đó ở nam và nữ, các kết quả cũng phần nhiều ủng hộ cho luận điểm của ông.

Tuy nhiên, số lượng các nhà khoa học bác bỏ lại những kết quả trong bài báo của Lynn cũng không ít, và lý luận không kém phần thuyết phục. Trong số đó phải kể tới Halpern và cuốn sách của ông: Halpern, D.F. Sex differences in cognitive abilities.

Những luận điểm chính của Halpern bác bỏ Lynn như sau:

Trước tiên, không thể chỉ hiểu trí thông minh dựa trên 1 vài tests đơn lẻ như Lynn đã làm. Cần phải hiểu về trí thông minh của con người là một tổng thể các năng lực khác nhau. Ví dụ ngày nay IQ tests đã được phát triển rộng hơn bao trùm nhiều nội dung, chủ đề khác nhau, bên cạnh đó còn có EQ-Tests, CQ-Tests, SQ-Tests.... Quan trọng hơn là, khi xây dựng các test người ta đã tính tới yếu tố khác biệt về giới, do vậy cấu trúc các câu hỏi đã được xây dựng để loại bỏ yếu tố khác biệt giới tính. Chính vì thế, việc sử dụng test để tìm hiểu về khác biệt giới trong nhận thức là không thích đáng, kết quả không đáng tin cậy. 

Một điều đáng lưu ý nữa, là cách chúng ta làm test cũng ảnh hưởng rất nhiều tới kết quả. Ví dụ: test ở đâu, tại nhà, trường học hay trong phòng thí nghiệm, hay dạng câu hỏi là multiple-choice hay câu hỏi viết cũng ảnh hưởng nhiều tới kết quả. Điều lưu ý này đã được kiểm chứng bởi rất nhiều thí nghiệm và điều tra khác nhau tại nhiều thời điểm và ở nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt là kết quả cho thấy nữ giới đạt điểm cao hơn khi làm test viết so với dạng multiple-choice (và đã được áp dụng cho các bài thi lấy học bổng ở Mỹ, kết quả là số lượng nữ sinh đạt được học bổng nhiều hơn hẳn trước đó).

Khẳng định về mối liên hệ giữa khác biệt khối lượng não với khác biệt về chỉ số IQ đặc biệt bị nghi ngờ, dựa trên những nghiên cứu khác với những kết quả khác so với nghiên cứu mà Lynn dẫn ra. Ví dụ nghiên cứu của Flynn (1998,1999), Jensen (1998) và Stumpf and Stanley (1996) cho thấy ko có sự hơn - kém về trí thông minh giữa nam và nữ, mà chỉ có sự khác biệt trong nhận thức. Nam nhỉnh hơn ở 1 số năng lực, nữ nhỉnh hơn ở 1 số năng lực khác. Thêm vào đó, rất nhiều nghiên cứu cũng đã cho ta biết, các chức năng nhận thức của não là hệ quả của những tế bào/ hệ thống thần kinh phù hợp, chứ không có liên quan gì tới khối lượng hay kích thước não.

Việc dựa vào điểm số ở trường học cũng ko phải là ý kiến thông minh, bởi Lynn mới chỉ thấy rằng ở khu vực điểm cao, tỷ lệ nam nhiều hơn nữ, mà không thấy rằng ở khu vực điểm thấp cũng như thế. Ở khu vực giữa (VD: TB, TB Khá) không có sự khác biệt về tỷ lệ giữa 2 giới. Gần đây có 1 số nghiên cứu bên sinh học ủng hộ điều này, họ đặt vấn đề rằng do nam giới chỉ có 1 NST X, trong khi nữ có 2 NST X, mà các gen về trí thông minh đều nằm tại X chứ ko phải Y, nên nếu X chứa gen thông minh tốt thì người nam sẽ có ưu thế về khả năng nhận thức và ngược lại, trong khi khả năng nhận thức của nữ do gen ở cả 2 NST X chi phối. Mặt khác nữa, điểm số ở trường không chỉ được quyết định bởi trí tuệ, mà còn các yếu tố khác như tuổi, mục đích, động cơ, môi trường bạn bè.... chi phối. Vì thế kết quả học tập không thể là yếu tố tin cậy để khảo sát sự khác biệt nam - nữ.

Một cách ngắn gọn, với những bằng chứng của mình Halpern chỉ ra rằng, những khẳng định của Lynn là không đáng tin cậy. Một kết luận đáng tin cậy hơn, là có sự khác biệt trong khả năng nhận thức giữa nam và nữ ở 1 số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên tổng hợp lại, thì không có sự hơn - kém giữa nam và nữ.

Tóm lại, cho tới hiện nay số người ủng hộ Lynn - rằng thật sự nam giới thông minh hơn nữ giới không ít, và những người chỉ trích - như Halpern - cũng ko ít hơn. 

Theo quan điểm của riêng tôi, tôi nghiêng về phía Halpern. Đặc biệt dưới góc độ tâm lý học, chúng ta phải thấy rằng, sự phát triển của mỗi người chịu sự chi phối khá lớn từ môi trường bên ngoài. Nam và nữ cho tới giờ vẫn có những nhiệm vụ và mong đợi riêng từ phía xã hội, gia đình và cả bản thân. Thang giá trị của 1 người nữ và 1 người nam khó có thể nói là giống nhau. Vì thế mỗi giới sẽ tập trung năng lượng và thời gian của mình để phát triển những năng lực và giá trị khác nhau.

Mặt khác, chúng ta nhiều người biết rằng cho tới giờ mỗi người chỉ mới sử dụng được 4-5% tiềm năng não của mình. Vì thế sự khác biệt về trọng lượng não có nên được tính tới ở đây không?

Sự thống nhất trong giới khoa học cho tới giờ chỉ dừng lại ở: nam giới luôn đạt kết quả tốt hơn trong khả năng định hướng không gian và toán học. Điều này có thể bắt nguồn từ lịch sử xa xưa, nam giới đi ra ngoài hái lượm còn phụ nữ chỉ ở nhà lo việc trồng trọt, nội trợ...� Nếu chúng ta tiến hành nghiên cứu ở 1 dân tộc, nơi mà nhiệm vụ xã hội của nam và nữ ngược lại có thể sẽ cho kết quả khác. (nếu tôi nhớ ko nhầm thì ở VN còn 1 dân tộc ít người như thế thì phải, nơi nữ ra ngoài làm việc, còn nam ở nhà chăm con và nấu nướng).

Phụ nữ nói chung ở cả châu Âu và châu Á mới được quyền học tập gần đây (vài thế kỷ), trong khi đàn ông được học tập ngay từ khi có những trường học đầu tiên trên thế giới. Đây cũng có thể là 1 yếu tố ảnh hưởng.

Tựu trung lại, quan điểm của tôi là không có sự hơn - kém trong khả năng nhận thức giữa nam và nữ, chỉ có sự khác biệt, mà điều này ít do cấu tạo sinh học, mà do nhiệm vụ và điều kiện xã hội định hướng. Trong tương lai, khi sự phân vai trò nam - nữ trong gia đình, xã hội ít đi, đồng thời những ưu đãi xã hội dành cho nam, nữ ít đi, thì sự khác biệt này có thể ngày càng thu hẹp lại và tiến tới mất đi. 

Những phần cụ thể khi có thời gian tôi sẽ trình bày tiếp dựa theo nội dung Seminar về Sự khác biệt nam nữ trong khả năng nhận thức mà tôi học kỳ vừa rồi. Một số link về đề tài này để mọi người tham khảo thêm:Mọi đứa trẻ đều có thể tiên tri và thần giao cách cảm 

Mọi đứa trẻ đều có thể tiên tri và thần giao cách cảm
Dịch giả: Thuận An (từ tạp chí Pravda)

Một số người có khả năng thấy trước tương lai, đặc biệt là trẻ nhỏ. 
Theo một số học giả, tất cả những em bé sơ sinh đều được trời phú cho ít nhất là 7 năng lực, trong đó có khả năng nhìn trước tương lai và thần giao cách cảm. Tuy nhiên, hai năng lực đặc biệt này biến mất mà không để lại dấu vết trong vòng 6-7 năm sau đó.

Tại sao chúng lại biến mất? Bất chấp vô số bằng chứng được ghi nhận về khả năng tiên tri, đến nay người ta vẫn chưa có được câu trả lời thỏa đáng nào.

Ví dụ thường gặp về khả năng đặc biệt như sau: "Một lần, tôi không thể nhớ ra mình để bản tài liệu quan trọng ở đâu trong nhà. Tôi đã tìm khắp nơi mà không thấy. Đột nhiên, đứa con trai nhỏ 5 tuổi mỉm cười và nói với tôi: 'Tờ giấy bố đang tìm ở trong bếp, gần cái tivi'. Và sau đó tôi chợt nhớ ra chính tay mình đã đặt nó ở đó. Làm thế nào đứa con trai bé nhỏ lại biết điều này? Nó không hề có mặt quanh bếp vào thời điểm ấy".

"Chúng tôi sử dụng từ 'trực giác' và 'linh cảm' khá thường xuyên khi thảo luận về các vấn đề khác nhau", giáo sư Vladimir Vorobyev, nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Sức khỏe tâm thần thuộc Viện hàn lâm y học Nga, cho biết. "Đôi khi chúng tôi sử dụng chúng để giải thích hành động của chúng ta: 'Tôi làm việc ấy vì có cảm giác như thể tôi đã biết rằng mình nên làm'. Đó là điều gì vậy? Là giác quan thứ sáu hay chỉ là cách nói sai ngữ pháp? Các nhà khoa học từ lâu đã cố gắng giải quyết bí ẩn này nhưng đến nay mọi nỗ lực của họ đều kết thúc trong thất bại", Vorobyev nói.

"Nhiều nhà khoa học ở khắp nơi trên thế giới, trong đó có Liên Xô đã tham gia vào nghiên cứu về hiện tượng nhìn trước tương lai. Một phòng thí nghiệm được dựng nên ở Matxcơva vào cuối những năm 1970. Quay trở lại đó, chúng tôi đã kiểm tra rất nhiều "nhà tiên tri" tại phòng thí nghiệm của mình. Hầu hết trong số họ té ra chỉ là những kẻ lừa đảo. Tuy nhiên, một vài bệnh nhân dường như được trang bị khả năng nhìn thấy tương lai và nói trước những sự kiện mà họ có thể không biết gì về nó".

"Tôi nhớ một người tên là Olga Dubrova, 35 tuổi, một cư dân thành phố Penza. Olga dường như khá liều lĩnh khi đến văn phòng của chúng tôi. Cố kìm nén nước mắt, cô ấy nói rằng cuộc đời mình đã trở thành một cơn ác mộng. Cô ấy không thể nói chuyện với mọi người một cách bình thường vì cứ đến một thời điểm nào đó cô ấy lại nhìn thấy cái cách mà người ta sẽ chết. Hoặc Olga có thể đọc được suy nghĩ của người hàng xóm khi bà cụ này đi bộ qua trước mặt cô".

Richard Feinman, một nhà vật lý lớn của Mỹ từng đoạt giải Nobel, đưa ra lời giải thích của mình về những sự trùng hợp không thể tin nổi, thường được lý giải bằng một hành động trực giác. Theo ông, vấn đề ở chỗ chúng ta thường có xu hướng quên đi một sự kiện mà chúng ta cảm nhận rằng nó sẽ không bao giờ trở thành sự thật. Chúng ta chỉ ghi nhớ những sự trùng hợp. Song, là một nhà khoa học thực thụ, Feinman không bao giờ phủ nhận khả năng tồn tại một vài dạng giác quan bí ẩn mà đến giờ chúng ta vẫn chưa biết tới.

Để tìm hiểu năng lực của các bệnh nhân, nhóm nghiên cứu đã sử dụng một kỹ thuật kiểm tra của nhà tâm lý học người Mỹ George Rhine. "Chúng tôi sử dụng 25 tấm card có mặt lưng giống nhau, mỗi cái có một hình ảnh riêng biệt ở phía trước, đó là: hình chữ thập, một ngôi sao, một vòng tròn hay một đường chấm... Mỗi bệnh nhân được yêu cầu đoán bức ảnh phía trước tấm card một cách ngẫu nhiên. Về lý thuyết, một người bình thường có thể đoán đúng tấm card với xác suất 1/5. Thực tế là những người có năng lực đặc biệt có thể đoán đúng cả 5 tấm".

Olga đã rất nhức đầu và ho nghiêm trọng, nhưng cô ấy đã đoán đúng hình ảnh trong hầu hết các lần thí nghiệm. Thậm chí, cô ấy có thể trả lời còn nhanh hơn khi không có ai mách nước.

Kết quả thu được còn ấn tượng hơn nữa khi thực hiện một loạt thí nghiệm với trẻ em. Nhóm nghiên cứu đã kiểm tra 1.500 bé tuổi từ 3 đến 5. Và thực tế số trẻ đoán đúng cao hơn 27% so với kết quả trung bình. Đáng lưu ý là càng nhỏ tuổi, trẻ càng nhận được nhiều "điểm".

Những trẻ rất nhỏ đã biểu hiện khả năng tiên tri kỳ diệu. Đây là câu chuyện do Irina Petrakova từ thành phố Saratov kể lại. Đứa con nhỏ của cô ngủ trong một cái xe đẩy trẻ em được để gần cửa ra vào của một cửa hàng mà Irina dừng lại để mua vài món đồ. Đứa bé này thông thường rất trầm lặng. Nhưng hôm đó nó lại xử sự rất kỳ lạ. Bé bắt đầu la hét giống như người điên chỉ một phút sau khi bà mẹ bước vào cửa hàng. Irina quay trở lại và dỗ dành nó. Nhưng một lần nữa đứa bé lại khóc thét lên hết cỡ khi mẹ trở vào trong. Irina hoảng sợ đưa con ra khỏi cái xe đẩy và ấp nó vào ngực. Ngay lúc đó, một tài xế xe tải mất lái đâm vào khiến chiếc xe đẩy lật nhào.

Tuy nhiên, theo tiến sĩ khoa học Andrei Lundin, vẫn còn một lời giải thích đằng sau thí nghiệm về những tấm card, mà không cần dùng đến bất cứ giả thuyết nào về các giác quan bí ẩn.

Theo ông, các nhà nghiên cứu thường tin tưởng rằng họ có thể phân biệt giữa tài năng thực thụ với mánh khóe của bàn tay. Song thực tế lại khác. Rosa Kuleshova khẳng định rằng trong lòng bàn tay của cô có các "con mắt". Cô đã cố gắng để lừa gạt vài ủy ban chuyên gia tại Viện hàn lâm khoa học USSR. Hóa ra, người phụ nữ trên có trí thông minh đáng kể. Cô là một họa sĩ bắt chước tài ba. Kuleshova cuối cùng cũng bị lật tẩy bởi các thuật sĩ, những người có thể dễ dàng lặp lại những trò xảo thuật của cô.

Vì thế, một thí nghiệm đoán card có thể được thẩm định bởi một chuyên gia chơi bài, người sẽ chứng kiến quy trình này từ đầu đến cuối. Song, khả năng về cảm nhận siêu phàm không hoàn toàn được loại bỏ. Chúng ta không có bằng chứng chắc chắn về sự tồn tại của những giác quan bí ẩn này, dù là thứ 6 hay 16.Bàn về linh cảm 

Khả năng linh cảm đặc biệt của con người
(An ninh thế giới)

Trên thế giới không ít người có thể cảm nhận được tương lai của mình. Khả năng đặc biệt này theo các nhà khoa học, là do họ thừa hưởng được một phần di truyền từ cha ông. Nếu để ý sẽ không quá khó để nhận biết những người có khả năng như vậy.

Ví dụ như có những người thường xuyên chơi xổ số và luôn trúng. Họ được xếp vào loại may mắn thường xuyên nhờ linh cảm đặc biệt của mình 

Cố Thủ tướng Anh Winston Churchill là một trong những người nổi tiếng may mắn kiểu vậy. Năm 1941, sau khi đi kiểm tra một khẩu đội pháo cao xạ, Churchill quay trở về xe của mình, nhưng bất ngờ lại từ chối ngồi vào chỗ viên sĩ quan tùy tùng đề nghị. Ông bỏ qua chiếc cửa trước đã mở và chui xuống hàng ghế sau. Chẳng bao lâu, một quả bom đã nổ ngay phía trước xe, khiến viên sĩ quan tùy tùng ngồi hàng ghế trước bị tử vong. Về sau, Churchill quả quyết là trước khi vào xe, ông đã nghe thấy một giọng nói cảnh báo nguy hiểm nào đó. Lần khác, trong thời gian một trận ném bom của quân Đức, Churchill còn cứu mạng sống của cả đội ngũ nhân viên nhà bếp của mình. Ông đã ra lệnh cho tất cả phải xuống hầm trú ẩn, trước khi nhà bếp bị bom đánh trúng. 

Nhà nghiên cứu các hiện tượng dị thường Vadim Chernobrov đã thu thập được một số lượng lớn những trường hợp may mắn đến khó tin trên. Ví dụ điển hình nhất là trường hợp của thầy tu Monmoren. Ông đang cầu nguyện trong một ngôi đền, bỗng nhiên cảm thấy có một sự thôi thúc đổi chỗ đến mức không thể cưỡng lại. Ngay khi vừa chuyển chỗ, một viên đá to từ trên nóc nhà rơi đúng vào vị trí ông vừa ngồi. 

Có không ít những câu chuyện liên quan đến linh cảm trước những tai nạn hàng không. Như vận động viên quần vợt người Thụy Sĩ Mark Rosse cần phải bay từ New York về Genève vào ngày 3-9-1998. Nhưng anh ta đã trả lại vé vì dường như có một giọng nói vô hình nào đó từ bên trong ngăn cản không cho đi. Kết quả là chuyến bay đó của chiếc Boeing-747 đã bị vỡ tung khi rơi xuống Halifacs, khiến toàn bộ hành khách tử nạn. 

Ngày 24/8 năm ngoái, đã có hai chuyến bay của Nga cất cánh từ sân bay Domodedovo bị nổ tung vì khủng bố. Một điều đặc biệt khiến mọi người chú ý là số hành khách của hai chuyến bay này thấp đến mức khác thường: trên chiếc Tu-134 tới Volgograd chỉ có 35 hành khách (tức là 50% chỗ ngồi), còn chiếc Tu-154 tới Sochi chỉ có 46 người trên tổng số 180 ghế. Trong khi thời điểm đó đang là mùa đi nghỉ mát nên các chuyến bay thường kín chỗ. Các nhà nghiên cứu thường chú ý tới một chi tiết: trên các chuyến tàu hay gặp tai nạn, số hành khách thường ít hơn hẳn những chuyến bay thông thường. Chuyên gia xã hội học James Staunton của Mỹ đã phân tích tổng cộng 250 trường hợp tai nạn và đi đến kết luận: số hành khách trên những chuyến đi bất hạnh này chỉ chiếm trung bình 61%, trong khi những chuyến thông thường là 76% - sự khác biệt 15% này là một con số khổng lồ đối với lĩnh vực thống kê. Như vậy có nghĩa là một yếu tố gì đó đã giúp không ít người tránh khỏi những tai nạn đáng sợ. Nhưng vấn đề là yếu tố này thực chất là gì? Đó có thể coi là linh cảm hay không? 

Khoa học đã có thuật ngữ gọi là "proscopia" dùng để chỉ một hiện tượng bí ẩn, hay khả năng cảm nhận về sự kiện chưa diễn ra, mà đôi khi còn nhìn thấy trước được chúng. Mọi người hẳn vẫn còn nhớ Công nương Diana từng nói rằng bà sẽ chết trong một tai nạn giao thông. Về khả năng đặc biệt này phải kể đến đạo diễn nổi tiếng Andrey Tarkovski của Nga. Ông đã từng tới Stockholm để tìm địa điểm cho một cảnh quay trong bộ phim Lễ Hiến Sinh. Tarkovski đã dừng xe tại một khu vực của thành phố này nói: "Đây chính là địa điểm xảy ra thảm họa”. Chỉ vài tháng sau, Thủ tướng Thụy Điển Olof Palmer bị ám sát ngay chính nơi đây. Còn khi quay bộ phim Stalker, ông đã chỉ thị cho người quay phải ghi hình tờ lịch bị rơi xuống nước có đề ngày 28/12. Về sau, chính đạo diễn này đã chết vào đúng ngày này. Vậy đó có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên? 

“Nhà văn Steven King đã giải thích khả năng linh cảm này như là một giác quan mà cha ông ta từng có. Đối với chúng ta, nó gần như đã biến mất, do nền văn minh đã gần như tác động trực tiếp lên hết các giác quan", Chernobrov cho biết. "Chỉ trong những trường hợp cực kỳ nguy cấp (tất nhiên là không phải ở tất cả mọi người) linh cảm này mới được khỏi động lại. Đó như là một dạng du hành theo thời gian: con người khi cảm thấy mối đe dọa chết người trong tương lai sẽ gửi lại cho mình một tín hiệu cảnh báo về quá khứ”. 

Nhưng nhà toán học Sergey Subanov lại lý giải hiện tượng này theo cách khác: "Tất nhiên là những trường hợp linh cảm như trên khiến mọi người phải mê hoặc. Nhưng ta cũng cần phải xem xét đến lý thuyết về xác suất. Trong cuộc sống của mỗi người, trung bình có tới vài chục ngàn ngày. Vì sao lại không thể có trong đó vài ngày "kỳ diệu" hay có những trùng hợp không thể tin nổi? Còn liên quan đến chuyện gặp may ư? Trên trái đất hiện đang có gần 6 tỉ người sinh sống. Trong số này, giả sử có khoảng 1 triệu người thường xuyên gặp may đi nữa, nhưng đó chỉ là một giọt nước trên biển (chiếm chưa đầy 0,2% dân số). Nhưng từng ấy trường hợp cũng khiến người ta phải nói và viết không bao giờ hết".Bí ẩn của linh cảm 

Bí ẩn của linh cảm 
(Khoahoc)
Thật kỳ lạ, trong đời sống mỗi người đều có ít nhất một lần được linh tính mách bảo. Linh cảm hay linh tính ấy thường được gọi là "giác quan thứ 6" và hiện nay vấn đề này còn được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. 

Lịch sử đã có nhiều minh chứng cho điều ấy. Nhà bác học Nga Mendeleev (1834-1907), người đã phát minh ra định luật tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đã nằm mơ thấy hiện rõ ra trước mắt toàn bộ bảng tuần hoàn. Điều này có thể giải thích được vì có lẽ ông đã nghiên cứu hàng chục năm vấn đề này và đến khi chín mùi thì kết quả đã hiện ra trong giấc mơ, ông chỉ việc ngồi bật dậy và chép lại. 

Nhà thơ Nag Lermontov (1814-1841) đã kể lại câu chuyện khi ông còn là sĩ quan biên phòng ở Kabkaz. Có một hôm ông đang ngồi đánh bài với lính của mình và nhìn thấy một người có vẻ mặt khác lạ so với ngày thường, ông bèn nói với người ấy: "Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất đắc kỳ tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về". Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đã bị một người say rượu đâm chết. 

Về những khoa học còn mang đầy tính chất tiên đoán như kiến tạo học cũng đã có nhiều nhà bác học phát minh ra mỏ nhờ linh cảm. Viện sĩ Xobolev của Nga tìm ra kim cương ở vùng Iakutsk, viện sĩ Muratov (1908-1983) tìm ra dầu mỏ ở vùng Tây Xibêri đều do linh tính mách bảo. Điều này cũng có thể được giải thích bằng kinh nghiệm và sự so sánh kiến tạo với các miền khác trên thế giới của họ, nhưng mặt khác, linh tính cũng đóng vai trò rất quan trọng. 

Nhiều lúc linh tính hoàn toàn trái ngược với logic, tư duy nhưng lại thích hợp. Napoleon (1769-1821) khi đánh vào nước Nga năm 1812 đã linh cảm là sẽ thất bại nhưng ông vẫn cứ tiến hành, vì theo ông, cái vĩ đại chỉ cách cái lố bịch có một bước. 

Rõ ràng là từ lâu, nhiều học giả đã phải đau đầu vì cái thế giới cảm tính bao giờ cũng lẩn quất quanh ta, ngay trong ý nghĩ của ta nhưng lại cực kỳ bí ẩn. 

Vừa rồi, tờ Zarubejom (tháng 11/1995) đã đăng lại bài của tờ Time (tháng 8/1995): "Linh cảm là một cảm giác hay một quy luật?". Sau đây xin trích một đoạn của bài báo ấy: "Vấn đề linh cảm rõ ràng là một bí mật lớn. Có một tư duy rất biện chứng của các nhà khoa học mà nhiều khi chúng ta quên đi: Trước một vấn đề mà ta không hiểu thì ta đừng giải thích bừa, vì làm như thế là ta tự dẫn ta vào ngõ cụt. Trong những trường hợp ấy, tốt nhất là ta tự thừa nhận cái chưa biết của mình và cũng đừng cho đó là một sự thật hiển nhiên. Bởi vì, vũ trụ là vô tận, đầy bí mật và mỗi ngày chúng ta chỉ biết thêm một chút trong cái ta chưa biết vô cùng lớn ấy. Nhưng như con kiến tha lâu đầy tổ, chúng ta cứ chịu khó tìm tòi và biết đâu sẽ tìm ra một quy luật chi phối toàn vũ trụ". 

Điều khó hiểu hơn cả là tín hiệu mà ta cảm nhận được, cái mà ta gọi là "giác quan thứ 6" là lời mách bảo của một sức mạnh siêu nhiên nào đó hay là thuộc tính tự nhiên của loài người? Vì rõ ràng, linh tính không phải là kết quả quá trình tư duy, nó nằm ngoài phạm trù logic và biện chứng. Nhưng thật ngược đời, sự logic mà linh tính mách bảo, trong nhiều trường hợp dường như lại hợp lý và lại là điều cần phải làm. 

Xưa nay, quan niệm thông thường cho rằng phụ nữ có linh cảm cao hơn nam giới. Người đàn bà giải quyết nhiều vấn đề xuất phát từ cảm tính. Ngược lại, người đàn ông bao giờ cũng đi từ logic của vấn đề. Nhưng cũng có nhiều phát minh nổi tiếng của các nhà bác học nam giới lại bắt đầu từ cảm tính. Nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo là Mozart (1756-1791) khẳng định rằng, mỗi tác phẩm âm nhạc của ông là sự kết tinh của nguồn cảm hứng, tư duy sáng tạo và do linh tính mách bảo. Nhà vật lý, toán học và thiên văn học người Anh là Newton (1642-1727) đã phải công nhận linh tính đã đưa ông đến những phát minh vĩ đại. 

Trong lịch sử, không những các nhà khoa học, các nhà quân sự mà cả những nhà chính trị cũng có khả năng linh cảm trước một số vấn đề. Một số người nổi tiếng cũng nhờ "giác quan thứ 6" mà thoát chết. Nhà chính trị người Anh Churchchill (1874-1965), được giải thưởng Nobel văn học năm 1953, hai lần làm Thủ tướng nước Anh (1940-1945) và (1951-1955), một lần thoát chết trong trận oanh tạc của không quân phát xít Đức là do linh tính mách bảo. Năm 1944, ông Churchchill vừa chuẩn bị rời trận địa tên lửa thì máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người tài xế vội vàng nổ máy cho xe đi. Không hiểu sao, Churchchill không chịu vào xe mà vòng chạy ra phía sau. Đúng lúc ấy, một quả bom nổ ngay cạnh cửa xe, làm thành một hố bom lớn, ngay chỗ Churchchill vừa đứng. Trong tập hồi ký của ông, Churchchill viết: "Dường như có một sức mạnh nội tâm đã mách bảo tôi phải rời ngay chỗ đứng". 

Đến đây một câu hỏi đặt ra: "Những người bình thường có khả năng linh cảm không?" Như trên đã nói, ai cũng có ít nhiều khả năng này. 

Tờ báo Scandal ở Mỹ năm 1994 có đăng một câu chuyện về giấc mơ kỳ lạ của một người mẹ: "Chuyện kể rằng, 1865, một chú bé bên là Maks Hoffman 5 tuổi bang Wisconsin bị mắc chứng bệnh tả. Bác sĩ nói rằng không còn tia hy vọng nào cứu sống được chú. Ba ngày sau đó, chú bé trút hơi thở cuối cùng và mọi người đem chôn chú trong nghĩa địa của làng. Đêm hôm đó, trong giấc mơ, bà mẹ nghe thấy tiếng con trai trở mình trong quan tài. Bà kêu lên rồi chạy đến bên chồng, xin ông hãy ra mộ để cứu con. Ông chồng tất nhiên đã từ chối. Ông giải thích cho vợ mình rằng bà đã quá thương con nên đã thấy như vậy. 

Nhưng đêm hôm sau, bà mẹ lại mơ thấy y như thế. Lần này, bà đã quyết tâm cùng người nhà ra cứu con. Lúc ấy đã gần nửa đêm. Mọi người treo đèn lên trên cành cây bên cạnh mộ và cặm cụi đào. Khi nắp quan tài vừa mở, ai cũng sửng sốt, vì thấy cậu bé nằm đúng tư thế mà người mẹ nhìn thấy trong mơ: "Cậu nằm nghiêng về phía bên phải, 2 tay xếp dưới má phải". Cậu bé không có biểu hiện gì của sự sống. Nhưng người cha vẫn bế con lên rồi bằng mọi cách hô hấp nhân tạo. Sau một giờ, điều kỳ diệu đã xảy ra: Cậu bé dần dần tỉnh lại. Rồi mọi người đã tìm các biện pháp giúp cậu phục hồi sức khỏe và chữa khỏi bệnh tả cho cậu. Về sau, Maks Hoffman đã sống tới 80 tuổi (1860-1940) tại thành phố Lincoln (bang Iowa, Mỹ). Vật kỷ niệm quý giá nhất đời ông là cái núm sắt nhỏ ở nắp quan tài mà từ trong đó, ông đã được cứu sống nhờ giấc mơ của người mẹ.Tự tử ở thanh thiếu niên 

Xin đóng góp cùng các bạn bài báo này của tôi đã được đăng trên báo Phụ nữ Việt Nam nhân trong thời gian qua, có rất nhiều hiện tượng tử tử ở các em học sinh. Xin các bạn bình luận thêm

Tự tử� ở thanh thiếu niên 
một vấn đề cần được xem xét nghiêm túc.

Trần Thành Nam
Khoa Tâm lý học - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Hành vi tự tử (suicidal behaviour) theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới bao gồm 3 thành phần: ý tưởng tự sát (chỉ thể hiện trong ý nghĩ); toan tự sát (có hành vi để tự tử, nhưng không thành công); tự sát (có hành vi tự tử đi đến tử vong)
Theo những số liệu thống kê về tỉ lệ tự tử chung của thế giới của nhóm tuổi từ 12-15 là 97-131 người/100.000 dân; nhóm tuổi từ 16-20 là 277-341 người/ 100.000 dân. Tỉ lệ này đang có xu huớng gia tăng và trẻ tuổi hoá. Dự báo của Tổ chức Y tế thế giới đến năm 2020 tự tử sẽ là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở các nước phát triển và hàng thứ 2 ở các nước đang phát triển.
ở Việt nam tự tử trong thanh thiếu niên cũng có xu hướng trẻ hóa và gia tăng. Qua các phương tiện truyền thông đại chúng gần đây, chúng ta từng biết đến những vụ tự tử hết sức thương tâm của các em học sinh vì những lý do không đáng như thi trượt đại học, bị bố mẹ mắng, bị phát hiện quay cóp hay do nợ nần...
Vậy sự kiện này được nhìn nhận như thế nào dưới con mắt của các nhà khoa học? 

Trước hết, dưới góc độ sinh học, phải xác định rằng lứa tuổi thanh thiếu niên (12 – 18 tuổi) là giai đoạn trong đó tính độc lập của trẻ thay thế tình trạng phụ thuộc vào cha mẹ và những người lớn khác. Sợi dây ràng buộc với gia đình trở nên giãn ra do thanh thiếu niên dành nhiều thời gian hơn cho cuộc sống bên ngoài tổ ấm gia đình. Các em có nhu cầu muốn có tình bạn thân thiết, muốn được bạn bè cùng trang lứa chấp nhận và tán thưởng ngày càng lớn. Do đó các em rất lo sợ bị bạn bè tẩy chay. Trong giai đoạn này, ở các em có những sự biến đổi lớn về sinh học và cơ thể nên rất nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Nhận thức về các vấn đề xã hội cũng sâu sắc hơn nên thích tranh cãi, phản kháng người lớn, khi phát hiện ra những khiếm khuyết, các em dễ trở nên thất vọng. Những đặc điểm trên của lứa tuổi khiến cho nguy cơ tử tử của thanh thiếu niên ngày càng có xu hướng gia tăng.

Bên cạnh những đặc điểm sinh học lứa tuổi, các nhà xã hội học cho rằng mỗi chúng ta đều thuộc về một nhóm xã hội nào đó và chúng ta luôn có nhu cầu được mọi người trong nhóm chấp nhận những giá trị của mình. Đặc biệt trong giai đoạn thanh thiếu niên, nhu cầu được người khác chấp nhận và tán thưởng rất lớn. Một đứa trẻ sẽ thà hy sinh cuộc sống chứ không chịu chấp nhận sự chối bỏ và chê bai của người khác. Chính vì thế mà một em bé được cha mẹ nhìn nhận là học giỏi, chắc chắn đỗ đại học sẽ có nguy cơ tự tử cao hơn những em được đánh giá học lực khá khi nhận được tin thi trượt đại học. Ngược lại, một số em khác thu hút sự tán thưởng của người khác bằng chính hành vi tự tử của mình. Đó chính là hiện tượng tự tử hàng loạt do bắt chước nhau. Khi báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng rầm rộ đưa tin và chia sẻ với một hành vi tự sát nào đó. Đứa trẻ bỗng hiểu rằng khi nó tự tử, nó cũng được quan tâm, chú ý như thế. Điều này làm cho các ngành truyền thông lúng túng vì 1 mặt họ phải thông báo cho công chúng, mặt khác họ cần phải làm sao để vấn đề đừng trầm trọng hơn.
áp lực xã hội cũng là một nguyên nhân chính dẫn đến tự sát. Có thể nói hiện nay thanh thiếu niên chịu rất nhiều áp lực xã hội trong đó, áp lực nặng nề nhất có lẽ là áp lực học tập. Để “bằng bạn bằng bè” nhiều bậc cha mẹ chỉ chăm chú dầu tư cho con cái hết học chính đến học thêm mà quên mất chăm sóc sức khỏe tinh thần cho con. Hành vi tự tử của các em là con đường cuối cùng để phản kháng lại những áp lực đó (Sự kiện về các em học sinh Hàn Quốc tự tử do áp lực học tập quá lớn là một ví dụ điển hình).
Trong xã hội phương Đông như Việt Nam, các em gái thường phải gánh chịu nhiều áp lực xã hội hơn vì có nhiều định kiến và chuẩn mực phải tuân theo. Các em thường khó sửa chữa những lỗi lầm của mình hơn các em nam. Hơn nữa, các em nữ ít có điều kiện để giải tỏa trạng thái stress hơn. Tuy nhiên, tỉ lệ các em nam tự tử thành công lại cao hơn các em nữ. Có thể ý tưởng tự tự xuất hiện ở nữ nhiều hơn nhưng để dẫn đến việc tự tử thành công các em nữ thường phải cân nhắc các chuẩn mực trước khi hành động chứ không nóng vội quyết định như các em nam. 
Trong một môi trường đầy áp lực và với tính cách dễ bị tổn thương của lứa tuổi. Đối với thanh thiếu niên, mỗi một sự kiện gây khó chịu từ nhẹ đến mạnh qua cách nhìn của các em đều có thể là giọt nước cuối cùng làm tràn ly dẫn đến những hành vi tiêu cực mà không có sự cân nhắc lợi hại. Chính vì thế mà nhiều em đã tìm đến cái chết chỉ vì bị bố mẹ đánh mắng, bố mẹ không quan tâm...

Các nhà tâm lý học khi xem xét tự tử thường nhấn mạnh đến đến yếu tố nhân cách của cá nhân. Họ cho rằng các em bé tự sát thường có quan điểm niềm tin, suy nghĩ lệch lạc về thế giới và chính nó đã tạo nên ở các em những xúc cảm tiêu cực dẫn đến những hành vi tiêu cực. Niềm tin sai lệch thường gặp là gì? Đối với một số em, thế giới được nhìn nhận hoặc là toàn màu đen, hoặc là toàn mầu hồng. Một sự kiện dù tốt đến mấy nhưng sau khi bị các em phát hiện ra một khiếm khuyết sẽ trở thành một sự kiện xấu xa, tồi tệ. Lúc này, niềm tin của các em sụp đổ, hoang mang, không biết nên tin vào cái gì.� Một số em khác lại có xu hướng trầm trọng hóa vấn đề, xem một lỗi nhỏ như một tai họa lớn; khái quát hóa quá mức (chỉ vì bị một điểm 5 môn Toán và cho rằng mình không có khả năng học toán; chỉ vì một câu mắng của bố mẹ mà kết luận rằng bố mẹ chẳng yêu thương gì mình) hoặc là luôn tự ám thị mình sẽ không có khả năng chịu đựng được thất bại (không thể chịu nổi việc bị bạn bè chê cười vì một hành vi nào đó). Tất cả những thời điểm như vậy rất dễ xảy ra những hành vi dại dột.
Nguy cơ tự sát cũng có thể xảy ra khi đứa trẻ không tìm được ý nghĩa của cuộc sống, cảm thấy bản thân vô tích sự, vô giá trị. Nhiều em đã tự dấn mình vào các trò chơi nguy hiểm (đua xe, đánh nhau), vào cờ bạc, vào các tệ nạn (rượu chè, ma túy) để khám phá ý nghĩa của cuộc sống. Rồi từ đó, đứa trẻ bị dính vào những mâu thuẫn mà bản thân không thể giải quyết được nên dùng cái chết để chạy trốn hoặc để trừng phạt mình.

Quan điểm của các nhà y học thì cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tự tử là do bệnh trầm cảm. Theo các con số thống kê thì có tới 2/3 số người tự tử bị trầm cảm. Những trẻ trầm cảm thường có khí chất khó khăn, khó thích nghi, trầm buồn, có tính lệ thuộc cao và có khuynh hướng dễ bị suy sụp sau một sự kiện bất lợi như bị từ chối, hắt hủi, hay thất bại...
Bệnh cơ thể cũng là một yếu tố đi kèm thường gặp của sự tự sát (nhất là ở những trẻ mắc những bệnh không thể chữa như ung thư hoặc mắc bệnh xã hội như HIV/AIDS). Tự sát có ở nhóm người bệnh tâm thần có nguy cơ cao gấp 10 lần ở quần thể bình thường.

Còn theo quan điểm của các nhà giáo dục thì nguyên nhân gây ra tự tử chính là do sự thiếu hụt các kỹ năng xã hội, kỹ năng giải quyết vấn đề. Đứng trước một vấn đề mâu thuẫn khó khăn, do không có kỹ năng giải quyết vấn đề nên các em trở nên bế tắc. Các em lại không có kỹ năng xã hội nên không thể huy động các nguồn trợ giúp. Sự bế tắc và cô đơn cùng cực trong giai đoạn khủng hoảng của lứa tuổi này góp phần làm nguy cơ tự sát tăng cao.

Vậy chúng ta phải làm gì? Đây là một vấn đề lớn và chúng ta không thể giải quyết nó một cách đơn độc. Cần có sự vào cuộc của các ban ngành cũng như sự kết hợp chuyên môn chặt chẽ của các nhà giáo dục học – y học – tâm lý học ở trường học. Đối với mỗi phụ huynh, cần có thái độ nghiêm túc khi xem xét vấn đề này. Hãy tìm hiểu về sự phát triển tâm lý lứa tuổi và quan tâm chăm sóc sức khỏe tinh thần của con em mình. Tìm cách loại trừ tối đa các áp lực xã hội cũng như trang bị cách nhìn nhận các vấn đề xã hội một cách đúng đắn, kỹ năng đương dầu và giải quyết các vấn đề khó khăn. Hãy theo dõi các biểu hiện tâm lý của con em mình, khi cảm thấy có điều gì bất thường, hãy liên lạc ngay với các bác sỹ hoặc nhà tâm lý.Dư luận xã hội 

Định nghĩa dư luận xã hội


Thuật ngữ Dư luận xã hội� được nhà văn và cũng là nhà hoạt động nhà nước người Anh J.Solsbery sử dụng lần đầu tiên vào thế kỉ 12. Tuy nhiên, chính� Rousseau mới được coi là người đầu tiên sử dụng nó vào năm 1744 theo nghĩa hiện đại khi ông là bộ Trưởng Bộ ngoại giao Pháp. Trong tiếng Việt, thuật ngữ Dư luận xã hội còn được gọi theo những cách khác bằng những thuật ngữ tương đương như công luận, dư luận công chúng, ý kiến công luận, ý kiến quần chúng…Thuật ngữ này sử dụng nhiều trong đời sống xã hội, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, và trong một số ngành khoa học cũng như chính trị học, triết học và trong tâm lý học xã hội. …Tuy nhiên, cho dù được sử dụng khá phổ biến, nhưng khái niệm này lại không có nội dung xác định, không có một ý nghĩa thống nhất. Chính vì vậy, có những trường hợp cả hai nhóm ủng hộ và phản đối một vấn đề gì đấy thì được nói rằng Dư luận xã hội đứng về phía họ. Nói cách khác, trong nhiều lĩnh vực, người ta sử dụng khái niệm Dư luận xã hội như một thói quen, mà không có định nghĩa cụ thể về nó.
Chính vì tính chất không xác định của khái niệm Dư luận xã hội từ trướccho đến nay tồn tại rất nhiều những định nghĩa khác nhau về Dư luận xã hội. điển hình là một số định nghĩa cơ bản sau:
- Socrat: ý kiến là cái gì đó nằm giữa sự mù quáng và tri thức.
- E.Kant: YÝkiến nằm ở cấp độ thấp hơn so với kiến thức và niềm tin.
Theo các nhà dịch giả hiện đại thì Dư luận xã hội là ý kiến và thái độ của những nhóm lớn, còn gọi là công chúng những người có chung đặc điểm n ào đó: thí dụ ngưuơì dân Việt Nam, người dân châu Á, những cử tri, thanh niên Việt Nam…Khái niệm Dư luận xã hội có liên quan chặt chẽ với khái niệm Thái độ và khái niệm Niềm tin 
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về Dư luận xã hội. Theo Young, Dư luận xã hội được hình thành theo cách hợp lý hoá. Dư luận xã hội là sự đánh giá của một cộng đồng tự ý thức về một vấn đề có tầm quan trọng chung, sau mộDư luận xã hội thảo luận công cộng. 
Máckinon thì lại nghiêng về phái quan điểm thượng lưu về Dư luận xã hội. ÔNg cho rằng Dư luận xã hội đó là ý kiến của nhóm có đủ thông tin - Dư luận xã hội có thể được xem là tình cảm, về bất kì chủ đề gì mà đựơc những người có nhiều thông tin nhất, trí tuệ nhất, và đạo đức nhất của cộng đồng ấp ủ. 
Theo quan điểm của Folson, Dư luận xã hội là ý kiến chỉ của nhóm thứ cấp: khi có sự tham gia của công chúng, hay là� một nhóm thứ cấp hơn là nhóm sơ cấp nhóm giao tiếp trực diện, chúng ta có Dư luận xã hội.
…..
Hiểu một cách chung nhất, Dư luận xã hội chính là ý kiến còn lại sau quá trình thảo luận, trao đổi trong xã hội. Nói cách khác, nó là kết quả của quá trình thảo luận xã hội. Quá trình thảo luận dài hay ngắn và theo hình thức nào tùy theo bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội và đặc điểm văn hoá và tính thuần nhất của mỗi quốc gia.
Như vậy, Dư luận xã hội được coi là� những trạng thái đặc trưng của ý thức xã hội, tâm trạng xã hội. Tính đặc trưng của Dư luận xã hội thể hiện ở chỗ nó không tồn tại như một dạng độc lập với các trạng thái ý thức xã hội như chính trị, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật….mà nó xuyên suốt trong các dạng ý thức xã hội đó. Dư luận xã hội không phải là bản thân chính trị, thế nhưng nó có mặt và hoạt động tích cực trong hành vi, ý thức chính trị của cá nhân. Dư luận xã hội không phải là khoa học nhưng chúng ta có thể gặp nhiều tình huống Dư luận xã hội lên tiếng về những vấn đề khoa học như việc nhân bản vô tính con người, vấn đề đa dạng sinh học, hay sự nóng lên của trái đất…
Như vậy, có thể hiểu rằng, Dư luận xã hội chính là một thành phần thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội, và tính chất của nó bị quy định bởi tính chất các quan hệ kinh tế trong xã hội. Nói cách khác, xã hội nào thì Dư luận xã hội kiểu đó. Tuy vậy, với tư cách là một phần của kiến trúc thượng tầng, Dư luận xã hội “Bảo thủ hơn” hay “tiến bộ hơn” so với sự phát triển của các quan hệ kinh tế trong xã hội. 
Dư luận xã hội mang tính chỉnh thể. Dư luận xã hội được hình thành trên các cơ sở ý kiến của cá nhân nhưng nó không phải là một tập hợp cơ học các ý kiến cá nhân. Nói các khác, không thể coi Dư luận xã hội là đơn giản chỉ là kết quả trung bình cộng cơ học của những ý kiến khác biệt của các cá nhân. Ở đây, chúng ta cần hiểu rằng, kết quả trưng cầu ý kiến thể hiện qua thảo luận, đối thoại của người trả lời với các cá nhân và nhóm xã hội khác hoặc đối thoại với chính bản thân họ thông qua những chuẩn mực và giá trị xã hội mà họ công nhận. Người trả lời trong các cuộc điều tra Dư luận xã hội chỉ là ngưòi thể hiện (người mang Dư luận xã hội)
Tóm lại, Dư luận xã hội ý kiến có tính chất đánh giá về cá vấn đề xã hội mà nhóm công chúng cảm thấy có ý nghĩa với họ hoặc là vấn đề đó động chạm đến lợi ích chung, các giá trị chung.Mấy ý nghĩ về hiện đại hóa và tâm lý xã hội 

Mấy ý nghĩ về hiện đại hóa và tâm lý xã hội
ở Việt Nam hiện nay

[right]Nguyễn Kiến Giang[/right]
“… Một xã hội hiện đại không thể là một xã hội của những nhân cách què quặt, bệnh hoạn, dù có xây được bao nhiêu cao ốc, xa lộ... thật to lớn như những gì chúng ta đang chứng kiến. …”

Ghi chú của tác giả: Bài này viết để tham gia cuộc hội thảo về “Tâm lý dân tộc với con đường phát triển hiện đại”, do Trung tâm nghiên cúu tâm lý dân tộc (TPHCM) tổ chức tại Hà Nội cuối năm 2000. Bài này được in trong tập san Nghiên cứu tâm lý dân tộc (TS Phạm Bích Hợp chủ biên), số Xuân (tháng giêng 2001). Sau đó không lâu, cả Tập san lẫn Trung tâm bị đình chỉ hoạt động.

******

Xã hội Việt Nam hiện đang ở trong những quá trình chuyển tiếp, ai cũng nói thế. Nhưng điều đó có nghĩa là gì? Cách đây mấy năm, tôi ngẫu nhiên được gặp ông I. Licevich, một nhà triết học Nga, sang làm việc ở Việt Nam theo thỏa thuận trao đổi khoa học của hai nước. Khi tôi nói tới sự chuyển tiếp (transition) của xã hội Việt Nam, ông ngắt lời tôi với nụ cười hóm hỉnh: “Ở nước Nga chúng tôi, người ta cũng nói nhiều tới khái niệm này. Nhưng chuyển tiếp từ cái gì đến cái gì thì ý kiến còn rất khác nhau, nhất là ‘đến cái gì’...”. 

Ở nước ta, có lẽ cũng chẳng sáng rõ hơn mấy. Nhưng nếu không hình dung được các quá trình chuyển tiếp này, thì không thể hình dung được bức tranh xã hội Việt Nam trước mắt và trong tương lai gần. Chắc không ai phản đối khi nói rằng nước ta đang ở trong quá trình chuyển tiếp từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Không coi nhẹ những nội dung xã hội - kinh tế của quá trình này, nói chung chúng ta chưa hình dung thật rõ quá trình này về mặt tâm lý xã hội. Có người tưởng rằng cứ tập trung sức lực vào xây dựng công nghiệp đi, xã hội hiện đại sẽ hiện ra, không hiểu rằng xã hội hiện đại không chỉ có mặt kinh tế, cũng không chỉ bắt nguồn từ trạng thái kinh tế, mà còn là một trạng thái văn hóa và tâm lý và cũng bắt nguồn từ cả hai yếu tố này. Nói rõ hơn, nếu chúng ta không tạo ra được những con người cá nhân ngày càng độc lập và chủ động, nếu chúng ta vẫn duy trì những cá nhân lệ thuộc, thì không thể có xã hội hiện đại, và cũng chưa có đủ tiền đề để đi tới xã hội hiện đại. Tất nhiên, con người cá nhân chưa thể hình thành và phát triển đầy đủ khi xã hội hiện đại chưa hình thành và phát triển, nhưng nói ngược lại cũng đúng. 

Nhìn một cách đại thể, con người Việt Nam hôm nay đang ở trong sự giằng co giữa tâm lý lệ thuộc và tâm lý độc lập của cá nhân. Trong một thời gian rất dài, tính lệ thuộc chi phối đời sống cá nhân của con người ở những trình độ lớn, thậm chí tất cả. Trong xã hội gia trưởng ngày xưa, tính lệ thuộc gần như là một điều kiện sống của các cá nhân, khi chưa cắt bỏ được cái “cuống nhau” nối liền với cộng đồng (gia đình, làng xã, quốc gia), nói theo Marx. Từ trước đến nay, người ta bàn tới tính lệ thuộc về mặt xã hội - kinh tế nhiều hơn mặt tâm lý xã hội, mà đó mới là chiều sâu nhất của vấn đề. 

Tâm lý học xã hội cho phép chúng ta hiểu rõ hơn tính lệ thuộc trong mối quan hệ của con người với chính bản thân nó, mà không chỉ là giữa người này với người khác (hay với cộng đồng). Ðây là tính lệ thuộc được con người nhập tâm (intérioriser, dịch theo Nguyễn Khắc Viện), thể hiện dưới hai dạng chủ yếu: theo khuôn phép và tuân phục, cũng là hai trình độ lệ thuộc khác nhau. Theo khuôn phép (của đại đa số người trong xã hội truyền thống) là khi con người tự thấy mình không thể sống và phát triển ở bên ngoài các hoàn cảnh, các bối cảnh áp đặt cho mình ít hay nhiều định hướng ứng xử, khiến con người bị đẩy tới chỗ lệ thuộc vào người khác. Nhưng đó không phải là sự lệ thuộc tuyệt đối, vì ngay từ trong xã hội truyền thống, con người với tư cách cá nhân, hay nói theo C. Jung, trong quá trình cá nhân hóa (individualisation), đã không ngừng “cựa quậy” để nới lỏng sự lệ thuộc của mình. Có thể nói, cá nhân nằm trong một sự vận động trái chiều, nó cảm thấy cần phải khác với người khác, tạo nên những xung đột công khai hoặc ngấm ngầm giữa cá nhân và cộng đồng, mà trong xã hội truyền thống không có cách giải quyết nào khác ngoài tính khuôn phép để con người có thể tồn tại một cách an toàn. Có lẽ nên hiểu tính lệ thuộc trong xã hội truyền thống ở nước ta ở trình độ theo khuôn phép như vừa nói là thích hợp với thực tế chăng? Cách hiểu này có thể lý giải một thực tế lịch sử, cả về mặt xã hội cũng như về mặt văn học nghệ thuật, là trong khi lệ thuộc vào cộng đồng, vào uy quyền chính trị và tư tưởng, đã có những người dám “nới lỏng” sự lệ thuộc để có những ứng xử khác với số đông, nghĩa là muốn tỏ ra “khác với người khác”. Thuật ngữ “nhà nho tài tử” do Trần Ðình Hượu đưa ra có lẽ nhằm để chỉ những cá nhân này. Thuật ngữ ấy là đúng, miễn là đừng hiểu đó là một tầng lớp người, vì thật ra đó chủ yếu là một phương thức ứng xử trong khuôn khổ tính khuôn phép mà thôi (một nhân vật tiêu biểu là Nguyễn Công Trứ, vừa là một triều thần mẫn cán và trung thành, một nhà nho lăn lộn nơi cửa Khổng sân Trình, vừa là một người công nhiên ca ngợi sự hành lạc). Tính khuôn phép, trong những điều kiện xã hội và lịch sử dễ thở, có thể dung dưỡng sự ra đời của con người cá nhân ngày càng ít khuôn phép hơn, để rồi dần dần trở thành các cá nhân ngày càng độc lập, các cá nhân vừa giống những người khác trong cộng đồng, vừa khác họ, để đi tới những cá nhân mang tính độc lập thật sự. 

Nhưng cũng có những người mang tính lệ thuộc dưới dạng thuần phục, tuy số này nói chung không chiếm đa số. Về mặt tâm lý, đó là những người chịu lệ thuộc đến cùng, mà theo Milgram, một nhà tâm lý học xã hội, đó là những cá nhân tuyệt đối phục tùng những đòi hỏi của uy quyền, ngay cả khi họ biết rằng uy quyền ấy là sai lầm. Họ sẵn sàng thực hiện bất cứ mệnh lệnh nào phát ra từ người có uy quyền, thậm chí đi tới chỗ từ bỏ lương tâm và đạo đức để phục tùng mù quáng mọi mệnh lệnh của uy quyền. Số người này, tuy chỉ là thiểu số, chính là một lực cản rất lớn đối với những biến đổi tiến bộ của xã hội. Nhưng các nhà tâm lý học lưu ý rằng, ngay cả những người lệ thuộc dưới dạng tuân phục mù quáng như vậy, cũng trải qua những hoàn cảnh bi kịch, những xung đột nội tâm dữ dội và một số trong đó có thể trở thành không hoàn toàn phục tùng như trước, nhất là khi hiện thực xã hội cho thấy sự tuân phục mù quáng ấy không đem lại lợi ích và đặc quyền cho họ nữa. 

Tôi đã đi xa quá rồi chăng? Không, tôi muốn nói lên cách hiểu của mình (thật ra là dựa theo các nhà tâm lý học xã hội) về một nét tâm lý cơ bản trong sự chuyển tiếp từ truyền thống sang hiện đại. Tình hình ở nước ta đang diễn ra theo hướng các cá nhân ngày càng từ bỏ tính lệ thuộc, nhất là dưới dạng tuân phục, để trở thành các cá nhân ngày càng độc lập. Cũng xin nói ngay rằng trong mọi xã hội, kể cả xã hội hiện đại hay hậu hiện đại đi nữa, không có một tính độc lập tuyệt đối của cá nhân. Tính độc lập cá nhân ở đây được hiểu là tự mình lựa chọn những hoạt động sống phù hợp với những thiên hướng và những khả năng có thể có của mình, tự mình tạo ra “chỗ đứng chân” của mình trong cuộc sống mà không xâm phạm lợi ích của người khác cũng như của cộng đồng. 

Chúng ta đang chứng kiến sự ra đời dần dần nhưng ngày càng rõ nét của con người cá nhân mang tính độc lâp trong những năm đổi mới. Trước đây, trong cái gọi là “chế độ quan liêu bao cấp”, sự lệ thuộc của các cá nhân đạt tới điểm tuyệt đối hay gần như thế. Con người chỉ có thể có những hoạt động sống của chính mình khi bám được vào guồng máy sản xuất vật chất và tinh thần của nhà nước hay của tập thể (cũng là một dạng nhà nước hóa), hoặc như người ta nói, khi bám được “bầu vú sữa nhà nước”. Tâm lý lệ thuộc, do đó thật nặng nề: “người nhà nước” được coi như mẫu người lý tưởng, chưa phải “người nhà nước” là chưa thành người, hoặc ít ra chưa thành người được người khác trọng thị. Hậu quả tai hại nhất của chế độ quan liêu bao cấp này chính là nó đã triệt tiêu khả năng trở thành con người cá nhân mang tính độc lập, mà nếu không có nó thì mọi ý định “hiện đại hóa” nghe tốt đẹp đến đâu cũng chỉ là giả tưởng. 

Không có gì quá đáng khi nói rằng con người Việt Nam hiện nay, ở bất cứ lĩnh vực nào, đang hướng tới tính độc lập của mình không những về kinh tế mà cả về tâm lý. Như đã nói trên đây, người ta thường nói nhiều tới mặt kinh tế của vấn đề, mà ít nói tới mặt văn hóa và tâm lý, nhưng chính mặt này mới thể hiện đầy đủ hơn và là cơ sở lâu bền hơn cho những biến đổi xã hội. (Xin nhắc lời Lênin: chỉ có cái gì đi vào văn hóa mới bền vững, xin thêm vào câu nói ấy hai chữ tâm lý). Lấy một ví dụ: việc xây dựng lại gia phả. Trong một thời gian dài, hầu như người ta quên mất gia phả của mình. Không ai ra lệnh cấm cả, nhưng người ta thấy nó “cũ kỹ”, “lạc hậu”, không phù hợp với không khí tâm lý chung thế nào ấy. Những ai có tổ tiên mình là quan lại, địa chủ... chẳng hạn, còn giấu biệt gốc tích của mình đi. Ngày nay người ta đang đua nhau chép lại, bổ sung gia phả với tấm lòng thành đối với cha ông. Gia phả lại trở thành thiêng liêng. Hiện tượng này nói lên điều gì? Theo tôi, chính nó biểu hiện sự đi tới tính độc lập của con người cá nhân. Mỗi người đang tìm lại “căn cước” của chính mình. Vì khi đã có thể tự hỏi “tôi là ai”, người ta không thể không đụng tới nguồn gốc của riêng mình. Gia phả chính là nguồn cung cấp “căn cước” ấy. Ðúng là có những sự thái quá, những sự phô trương... trong việc khôi phục lại gia phả, nhưng tôi vẫn coi việc khôi phục đó là một hiện tượng có ý nghĩa tích cực, giúp cho các cá nhân khôi phục nguồn gốc cá nhân cụ thể của chính mình, làm cho mỗi người thấy mình không phải là một cái gì phi cá nhân (impersonnel), chỉ gắn với con người tập thể, cộng đồng. Gia phả ghi những tổ tiên của chính mình mà không phải của người khác. Việc xây lại mồ mả cha ông, cũng như việc khôi phục cúng giỗ tổ tiên cũng mang một ý nghĩa tương tự. Tất nhiên, chúng ta không thể đồng tình với những sự thái quá, những sự ganh đua theo lối phô trương (đã trở thành một gánh nặng đối với nhiều người), nhưng không vì thế mà phủ nhận ý nghĩa cá nhân hóa của những hiện tượng rất cũ mà cũng rất mới ấy. 

Ðây cũng là một điều lạ so với sự hình thành xã hội hiện đại ở một số nước phương Tây. Ở đó, hiện đại hóa gắn liền với cá nhân hóa đã đành, nhưng cũng gắn liền cả với thế tục hóa (sécularisation) hiểu theo nghĩa bác bỏ những yếu tố thần linh (tín ngưỡng, tôn giáo). Còn ở nước ta, trên ngưỡng cửa đi vào hiện đại hóa lại xuất hiện việc quay trở lại với đời sống tâm linh của con người, điều mà các xã hội hiện đại phương Tây cũng đang đi tới (hay trở về), nhưng là sau khi xã hội hiện đại chuyển sang xã hội hậu hiện đại. 

Tất nhiên, sự hình thành và phát triển tính độc lập trong mười mấy năm nay (từ lúc “đổi mới”) biểu hiện trước hết trong đời sống kinh tế của con người. Người ta tìm kiếm chỗ đứng chân và làm ăn riêng của mỗi người hay nói cụ thể hơn, tìm kiếm sở hữu riêng và những hoạt động sống riêng của mình. Người này thành đạt, người kia chưa thành đạt, nhưng rõ ràng đó là một hiện tượng mới, gắn liền với những chuyển đổi xã hội - kinh tế và tâm lý ở nước ta hiện nay. Nếu cách đây chưa lâu, chế độ tư hữu và tâm lý tư hữu (óc tư hữu) còn là một đối tượng phê phán không chỉ về xã hội mà cả về đạo đức - một vị lão thành cách mạng có lần nói với tôi: “Cái thời chúng mình đi làm cách mạng, “óc tư hữu” bị coi là một trong những tội nặng, cùng với “óc duy tâm” và “óc quốc gia”...” - thì hiện nay tình hình đã đổi khác rất nhiều. Người ta đang lao vào những thứ “của riêng”, từ nhà ở đến nơi hành nghề (một cửa hiệu, một “mặt bằng sản xuất”, một góc bán hàng, hợp pháp và cả bất hợp pháp). Về mặt này, cũng có những thái quá, những giành giật, những thủ đoạn... để có thể có những “của riêng”, nhưng hiện tượng coi trọng “của riêng” là một sự thật và có ý nghĩa tích cực, gắn với hiện đại hóa ở nước ta. 

Về mặt đời sống chính trị, sự hình thành các cá nhân mang tính độc lập di theo một tiến trình chậm chạp hơn, nhưng không phải không có những biểu hiện mới, khá rõ. Ðúng là ở nước ta, truyền thống khuôn phép và tuân phục (của các cá nhân bị lệ thuộc) là một truyền thống lâu đời. Người dân Việt Nam rất giàu tinh thần đấu tranh dân tộc (chống ngoại xâm, giành độc lập) và sẵn sàng trả giá về của cải và cả tính mạng cho các cuộc đấu tranh này, nhưng không giàu mấy về tinh thần đấu tranh xã hội (chống bạo quyền, giành quyền sống). Trong lịch sử, hầu như không có cuộc cách mạng xã hội nào, thậm chí không có một cuộc cải cách xã hội triệt để nào cả. Nói cách khác, ở nước ta, người dân trong các xã hội truyền thống mang nặng tâm lý “thần dân” mà chưa bao giờ có được tâm lý “công dân”. Phục tùng uy quyền chính thống là một tâm lý quen thuộc. Nhưng tâm lý này cũng đang thay đổi, tuy chưa thật mạnh mẽ. 

Cuối cùng, về đời sống văn hóa và tư tưởng, những thay đổi cũng đang diễn ra theo hướng ngày càng tăng thêm tính độc lập của cá nhân. Nếu trước đây, tính độc lập về mặt này chỉ thấy le lói ở một số ít người, thì ngày nay, nó đang trở thành một xu hướng ngày càng được khẳng định và thừa nhận. Nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật mang tính đa dạng ngày càng lớn, mà tính đa dạng chính là một biểu hiện của tính độc lập cá nhân trong sáng tạo. Người ta đang vươn tới những giá trị mới, không theo truyền thống và chính thống. Nhưng cũng như trong đời sống chính trị, tính độc lập trong đời sống văn hóa và tư tưởng chưa biểu hiện thật mạnh mẽ thành những trào lưu của số đông. Hàng thế kỷ sống theo những khuôn mẫu tinh thần truyền thống và chính thống (mọi biểu hiện phi chính thống đều bị coi là “chống đối”, có liên quan với sự an nguy của con người) thì tâm lý “phò chính thống” theo lối khuôn phép đã trở thành một tâm lý quá quen thuộc và không dễ gì từ bỏ. ít ra, người ta quen dần với những lối nghĩ và lối hành động “nước đôi”. 

Kinh nghiệm của các xã hội phát triển cao hơn cho thấy nếu không có những biến đổi căn bản về mặt tư tưởng, thì không thể chuyển từ xã hội truyền thông sang xã hội hiện đại một cách triệt để. Các xã hội Tây Âu, phải mất hàng trăn năm, đặc biệt phải trải qua một thế kỷ Khai sáng, mới làm thay đổi được tâm lý lệ thuộc để đi tới tính độc lập về tư tưởng như một tiền đề không thể thiếu để từ giã xã hội và tâm lý lệ thuộc truyền thống. 

Có lẽ ở các nước chậm phát triển hơn, cũng phải có những vận động tương tự, nếu không phải về hình thức thì cũng về thực chất chăng? Và may ra, trong một thế giới chuyển động mạnh mẽ như thế giới chúng ta đang sống, chúng ta sẽ trả giá về mặt thời gian cho tiến trình này ít hơn chăng? Xin hy vọng là thế. 
*
Vậy, trước mắt chúng ta đang diễn ra một quá trình lịch sử lớn về tất cả các mặt đời sống xã hội theo hướng hiện đại hóa. Về mặt tâm lý, điều đó có nghĩa là theo hướng từ bỏ tâm lý lệ thuộc và xây dựng tâm lý độc lập của các cá nhân. 

Ở đây, chúng ta thấy có hai nét nổi bật: Thứ nhất, nói chung, các cá nhân chưa phát triển (và chưa thể phát triển) đến trình độ tính độc lập cao. Và, thứ hai, một số cá nhân “nhạy bén” dựa vào thế lực xã hội của mình đã và đang lợi dụng quá trình này để trục lợi riêng, để đầu cơ ăn bám, để sống theo lối hãnh tiến trên những khó khăn và nghèo khổ của toàn xã hội. Tôi gọi hiện tượng thứ nhất là sự yếu ớt tiên thiên (bẩm sinh) của các cá nhân, và hiện tượng thứ hai là sự loạn cương của một số cá nhân. Hai hiện tượng này tác động qua lại chặt chẽ với nhau. 

1. Trong tiến trình tìm kiếm tính độc lập và từ bỏ tính lệ thuộc của mình, các cá nhân vấp phải những trở lực rất khó vượt qua, cả bên trong lẫn bên ngoài bản thân mình. Sống trong môi trường “cộng đồng trên hết” quá lâu đời, ý thức cộng đồng cho đến nay vẫn trội hơn hẳn ý thức cá nhân. Dù ý thức cộng đồng đã suy yếu so với trước nhiều, nó vẫn mạnh hơn sự khẳng định cá nhân. Không phải chúng ta không có ý thức vềđộc lập và tự do như những giá trị tinh thần lớn nhất (và cũng là những giá trị phổ quát của con người nói chung). Câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Không có gì quí hơn độc lập tự do” đã trở thành một châm ngôn sống của chúng ta trong nhiều năm qua. Nhưng trong cách hiểu của số đông người, độc lập và tự do - những giá trị được Hồ Chí Minh đưa lên hàng đầu ấy - không phải là những giá trị của cá nhân, cho cá nhân, mà là của tập thể, của Tổ Quốc và cho tập thể, cho Tổ quốc. Ðáng lẽ những giá trị này cũng phải là những giá trị của đời sống cá nhân, nhưng cho đến nay, chưa phải như thế. Thậm chí có người coi tính độc lập và tự do của các cá nhân như những gì trái nghịch. Người ta coi sự lệ thuộc cá nhân như một cái gì hiển nhiên. Vả chăng, sống với tâm lý lệ thuộc dễ dàng hơn sống với tính độc lập nhiều: không phải tự mình lo nghĩ, tính toán, xoay xở, cách tân gì hết. Mọi cái cứ theo lề thói cũ, và những vấn đề lớn của đất nước (“quốc gia đại sự”), có khi cả của cá nhân mình, đã có người lo hộ, nghĩ hộ. Nhất là trong thời bao cấp, con người được lo cho mọi cái từ mấy mét tã lót khi sinh ra đến cỗ quan tài khi chết đi, tính lệ thuộc đưa tới tính thụ động gần như hoàn toàn. Không phải không có lý khi có người ví kiểu sống đó với kiểu sống của “gà công nghiệp”. Sống với tâm lý lệ thuộc, thụ động, chắc chắn người ta chỉ có thể kiếm vừa đủ để tồn tại (kinh tế tiền hiện đại chính là kinh tế để tồn tại - économie de subsistance), chưa thể tính đến mức sống ngày càng tăng, đến cái được gọi là “lối sống tiêu dùng” thường được hiểu theo lối tiêu cực, trong khi xã hội hiện đại là đồng nghĩa với xã hội phúc lợi và tiêu dùng, với những đòi hỏi, những “giá trị tiêu dùng” ngày càng cao. 

Kinh tế thị trường đã dần dần giúp cho, hay nói đúng hơn, đòi hỏi con người phải chủ động hơn, phải tự mình xoay xở việc làm và thu nhập, không thể trông chờ một “bầu vú” nào. Nhưng tâm lý lệ thuộc không thể bị trừ bỏ ngày một ngày hai. Do đó, tâm lý con người hiện nay nhìn chung đang nằm trong trạng thái giao nhau, xen cài nhau và cũng xung đột nhau giữa tính lệ thuộc và tính độc lập của cá nhân. 

Lẽ ra quá trình này có thể rút ngắn hơn, nếu các cá nhân được bảo đảm hơn về tính độc lập. Nhưng như đã nói, sau một thời gian dài sống lệ thuộc và thụ động, các cá nhân bị suy yếu đi rất nhiều. Không có sở hữu, không có những điều kiện vật chất và pháp lý (chế độ “xin - cho” vẫn được duy trì khá bền vững) để có thể có một đời sống độc lập, nhiều người đang ở trong trạng thái suy nhược kinh tế bẩm sinh, khó lòng thoát ra, lại dễ bị lâm vào tình trạng lệ thuộc mới. Cứ nhìn hàng nghìn, hàng vạn “thợ xây dựng” từ nông thôn kéo ra các thành phố lớn, cũng đủ thấy rõ các hình thức lệ thuộc thay thế nhau như thế nào. Không còn sự lệ thuộc kiểu nông dân xã viên lệ thuộc vào hợp tác xã nông nghiệp nữa, nhưmg là sự lệ thuộc của những “đội quân làm thuê” vào những “chủ thầu”, những “đầu nậu”, với nhưng điều kiện sống và làm việc dã man. Có thể kể ra bao nhiêu hình thức lệ thuộc “mới” khác trong các lĩnh vực khác nhau, ở thành thị và nông thôn. Nhưng những người lệ thuộc “mới” này tìm đâu ra lối thoát và bao giờ mới thoát? Tính độc lập trong những trường hợp này nghe như một nốt nhạc nghịch tai, xa lạ. 

Và, nói chung, hàng triệu người hiện nay đang lệ thuộc vào một thứ “kinh tế thị trường hoang dã”. Không những thế, đang sống trong một “xã hội thị trường hoang dã”, trong đó dạy học, chữa bệnh, xử kiện... đều trở thành những phương tiện đục khoét không thương xót đối với bao nhiêu người bất hạnh. Lẽ ra không thể có “xã hội thị trường” mà chỉ có “kinh tế thị trường”, lẽ ra không phải là “thị trường hoang dã” mà là một thị trường văn minh, trong đó các chủ thể thị trường tham gia một cách độc lập và bình đẳng với nhau, tạo điều kiện cho sự hình thành tâm lý độc lập, chủ động của mỗi cá nhân, thì những gì đang diễn ra trước mắt chúng ta lại đi theo hướng ngược lại. Sự giằng co giữa tính lệ thuộc và tính độc lập đang kéo dài mà chưa thấy điểm kết thúc ở đâu. 

Trong hoàn cảnh chuyển tiếp từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại ở nước ta hiện nay, trừ một số ít người có thể kiếm được những nguồn thu nhập độc lập, nói chung người ta vẫn đang phải lo lắng tìm chỗ đứng chân của mình, đặc biệt là những thanh niên đến tuổi lao động, kể cả những người được đào tạo đại học. Có thể nói rằng, nếu không có sự giúp đỡ của xã hội, của nhà nước, nhất là trong điều kiện nhà nước nắm giữ phần lớn những nguồn lực kinh tế, thì không hy vọng gì ở sự hình thành những cá nhân độc lập một cách lành mạnh và nhanh chóng. Trái với một số nước phương Tây, ở đó các cá nhân độc lập hình thành trước khi nhà nước có thể nắm được những nguồn lực dòi dào của quốc gia để tự biến thành “nhà nước phúc lợi”, ở nước ta, một điều thật nghịch lý là nhà nước phải đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo ra những cá nhân độc lập. Bài toán nghe ra thật phi lý: nhà nước theo nguyên lý cộng đồng lại phải làm công việc tạo ra những cá nhân độc lập. Nhưng lúc này, chính nhà nước phải làm công việc đó như một nhiệm vụ hàng đầu của mình nếu thật sự muốn thúc đẩy quá trình chuyển tiếp từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Vì một lý do rất đơn giản: không có các cá nhân độc lập, không thể có xã hội hiện đại, hoặc nhiều lắm chỉ có một khu vực kinh tế hiện đại nào đó, cho một bộ phận xã hội nào đó, tạo thành một nền kinh tế, một xã hội “nhị nguyên” (dualiste), phân đôi, trong đó một số người hưởng thụ những thành quả của hiện đại hóa về kinh tế và khoa học - công nghệ, còn đại đa số dân cư bị gạt ra ngoài lề hiện đại hóa. 

Sự hình thành và phát triển của các cá nhân độc lập đòi hỏi những định chế thông thoáng về luật pháp, đòi hỏi một nhà nước pháp quyền thật sự bảo đảm các quyền công dân một cách đầy đủ, xóa bỏ triệt để cách làm (và tâm lý) “xin- cho” của một nhà nước gia trưởng, để mỗi công dân có thể tự do làm tất cả những gì không bị luật pháp ngăn cấm. Ðiều đó cũng đòi hỏi xã hội và nhà nước thực hiện những biện pháp hỗ trợ về cơ sở vật chất, tín dụng, thông tin, liên hệ với bên ngoài cho các cá nhân. 


2. Trong khi số đông đang nằm trong sự giằng co giữa tính lệ thuộc và tính độc lập của cá nhân, thì một bộ phân xã hội có vẻ như đã đạt tới “tính độc lập cao”. Trên thực tế, đó là những kẻ đang kìm hãm và phá hoại tính độc lập vừa manh nha của số đông và cũng đang hủy hoại nhân cách cá nhân của mình. Tôi muốn nói tới những kẻ ăn bám mới trong xã hội chúng ta hiện nay, những kẻ hãnh tiến, tạo thành hiện tượng loạn cương của xã hội. Từ điển xã hội học (Nguyễn Khắc Viện chủ biên, Nxb Thế giới, 1994) định nghĩa loạn cương (anomie) như “một xã hội không có qui tắc đạo đức và pháp lý để tổ chức nền kinh tế của mình, một trạng thái khủng hoảng về mối liên hệ của cá nhân với hệ thống giá trị, khiến cho xã hội mất tính cố kết. Ðiều đó xẩy ra khi xã hội bị xâu xé bởi mâu thuẫn giữa hợp tác và tranh đua, giữa cố kết và xung đột. Các mục tiêu và phương tiện bị cá nhân hóa, vì tổ chức xã hội không thể bảo đảm sự hài hòa xã hội được nữa”. Trạng thái loạn cương ấy không chỉ có ở nước ta, nó là một trạng thái xẩy ra ở khá nhiều xã hội khác trong thời kỳ chuyển tiếp. 

Ðập vào mắt chúng ta trước hết là những kẻ làm giàu vô cùng nhanh chóng, sống một cuộc sống giàu có không kém gì những kẻ giàu có ở các nước phát triển nhất, với bao nhiêu của chìm của nổi không thể biết hết được. Nếu sự “giàu có” này là do tài năng trí tuệ thì không nói làm gì, nhưng hầu như mọi người đều biết đó là những của cải ăn cắp và ăn cướp. Trong một xã hội tập trung quyền lực cao, những kẻ đó tất nhiên là những kẻ có quyền lực hay có liên hệ mật thiết với những kẻ có quyền lực. Ở đây tôi không làm việc phân tích về nhóm người này, chỉ xin nói đôi chút về tác động của họ về mặt tâm lý học xã hội. 

Tôi muốn dùng thuật ngữ “tâm lý hãnh tiến” để chỉ chung tâm lý của nhóm người này, không phải theo nghĩa “tiến thân một cách may mắn” như một cuốn từ điển định nghĩa, mà để chỉ tâm lý của những kẻ muốn thành đạt trong cuộc sống cá nhân bằng bất cứ phương tiện nào, không một chút ngại ngùng, như Từ điển Robert định nghĩa (xem chữ arriviste). Những thành đạt mà họ nhắm tới là những đặc quyền đặc lợi, những bảo đảm cho họ giành được một vị thế xã hội vượt trội cả về danh (thật ra là hư danh), quyền (thật ra là mua quan bán chức) và lợi (thật ra là những của cải chiếm đoạt phi pháp). Một nét tính cách chung của họ là “hợm”, tự cho mình có quyền đức hơn người khác, mà thật ra đó là sự chiếm đoạt quyền lực bằng những thủ đoạn gian dối hay bằng lối “cánh hẩu” (từ X.Y.Z. dùng trong Sửa đổi lối làm việc, 1948), trong khi cả tài lẫn đức đều không xứng đáng. Nhưng chính vì không xứng đáng nên càmg làm oai, càng sử dụng uy quyền (chức tước và tiền bạc) để áp đặt ý muốn độc tôn của mình. Về thực chất, cái họ có không phải là tính độc lập cá nhân, mà chính họ sống trong một sự lệ thuộc sâu sắc và hủy hoại nhân cách của họ. 

Ðiều cần nhấn mạnh ở đây là tâm lý hãnh tiến này đang lây lan ngày càng rộng, trở thành một nhân tố thuận lợi cho sự hoành hành của nhiều tệ nạn xã hội, nhất là nạn tham nhũng đã đạt tới trạng thái “ung thư”. Khi những kẻ muốn chiếm đoạt những gì không do chính năng lực của mình tạo nên, mà bằng những thủ đoạn phi pháp, kẻ đó dám phạm vào những tội ác và trên thực tế đã gây ra nhiều tôị ác xã hội. Khắc phục và ngăn ngừa tâm lý hãnh tiến, theo tôi, là một điều kiện không thể thiếu để cá nhân và xã hội tồn tại và phát triển một cách bình thường, để cho tính độc lập của các cá nhân hình thành và phát triển như một điều kiện của hiện đại hóa. Một xã hội hiện đại không thể là một xã hội của những nhân cách què quặt, bệnh hoạn, dù có xây được bao nhiêu cao ốc, xa lộ... thật to lớn như những gì chúng ta đang chứng kiến. 

Nhóm hãnh tiến chính là cái ổ gây ô nhiễm nguy hiểm nhất đối với đời sống xã hội hiện nay. Vấn đề không chỉ là sự đánh mất cá nhân và nhân cách của họ, đó còn là một sức mạnh tác động tai hại tới tâm lý con người nói chung, về hai mặt. Một mặt, nó làm cho nhiều người không thể sống yên tâm về những gì mình đang có và có thể có một cách chính đáng, vì người ta không thể sống yên ổn bên cạnh những tên ăn cắp ngấm ngầm và công khai, do đó một trạng thái tâm lý bất ổn nảy sinh, lan rộng và tồn tại dai dẳng ở nhiều người và trong toàn xã hội. Cảm giác sống trong những bất công xã hội nhiều khi thật trần truồng, có thể đẩy người ta đến những bùng nổ khó kiểm soát. Nhưng, mặt khác, cũng không kém phần quan trọng, đó là nhóm hãnh tiến trên thực tế đã và đang nêu lên những tấm gương phản diện nhưng rất hấp dẫn của một lối sống “trên tiền”, ăn bám, đòi hỏi tiêu dùng quá khả năng, hy vọng làm giàu nhanh chóng dù bằng những con đường bất chính. Xã hội hiện đại đúng là xã hội tiêu dùng, nhưng đó phải là sự tiêu dùng những của cải do chính bàn tay và khối óc của mình làm ra, hoàn toàn không giống với sự tiêu dùng của nhóm hãnh tiến. 
*
Vấn đề tâm lý xã hội và hiện đại hóa không chỉ đóng khung vào sự biến đổi tâm lý từ tính lệ thuộc sang tính độc lập của cá nhân con người như đã trình bày trên đây. Có thể nói đụng vào lĩnh vực nào, chúng ta cũng đụng phải những vấn đề tâm lý xã hội hết sức phức tạp. Trong lĩnh vực công nghiệp hóa, chẳng hạn, chúng ta chuẩn bị cho con người như thế nào trong quá trình công nghiệp hóa đất nước hôm nay? Hoặc về đô thị hóa, chúng ta sẽ thực hiện nó như thế nào để cho người dân đô thị không phải sống giữa nhưng cái “làng cổ hủ”, với đủ thứ lề thói tản mạn và lạc hậu đè nặng lên các cá nhân, mà là được sống trong những đô thị có tổ chức cao, trong đó các cá nhân được tôn trọng và làm cho họ có thể hòa vào một đời sống công cộng vừa thoải mái, vừa chặt chẽ? Bao nhiêu vấn đề tâm lý xã hội được đặt ra mà, tiếc thay, chưa có những công trình nghiên cứu nào được tiến hành một cách nghiêm túc cả. 

Bức tranh tâm lý xã hội ở ngưỡng cửa hiện đại hóa mà chúng tôi hình dung ra trên đây, dù chỉ đề cập một khía cạnh của nó, còn quá ư sơ lược, với những sắc màu tương phản cực độ mà thiếu đi những sắc màu “trung gian” hết sức phong phú và gần đúng với hiện thực hơn. Mục đích chủ yếu được nhằm tới ở đây là nhận diện (bước đầu) những nét tâm lý thuận và nghịch với hiện đại hóa. Rõ ràng đang có những nét thuận và nghịch ấy. Phải có những nghiên cứu sâu, dựa trên những cuộc điều tra rộng lớn ở nhiều địa bàn khác nhau, trong những lĩnh vực hoạt động sống khác nhau, mới có thể đánh giá được tỷ trọng thuận/nghịch này. Theo cảm nhận của tôi, cả hai mặt đang nằm trong một thế quân bình mong manh. 

Niềm hy vọng lớn nhất của chúng ta là ở tính độc lập cá nhân đã bắt đầu hình thành và đang tăng lên ở một bộ phận ngày càng lớn trong xã hội. Nhưng nhìn thật kỹ, tính độc lập ấy chưa vững chắc, vì bên trong mỗi con người và trên phạm vi toàn xã hội, sự giao tranh giữa tính độc lập và tính lệ thuộc đang diễn ra tuy âm thầm nhưng thật quyết liệt. Trong khi đó, những tâm lý xã hội tiêu cực vẫn đang hủy hoại đời sống tinh thần của con người ở mức độ đáng lo ngại. Nhất là khi những tâm lý tiêu cực ấy gắn với quyền thế của nhóm hãnh tiến. Dù vậy, tôi vẫn hy vọng. Vì đứng về mặt tâm lý mà nói, xu hướng đi tới tính độc lập của cá nhân là không thể đảo ngược, và cũng vì thế giới chúng ta đang sống chuyển động nhanh chóng và mạnh mẽ chưa từng thấy, khi quá trình toàn cầu hóa thúc đẩy các quá trình hiện đại hóa (ở các nước dang phát triển) và hậu hiện đại hóa (ở các nước phát triển) theo nhịp độ gia tốc và dưới hình thái bện kết giữa các quá trình đó. Riêng một sự cảm nhận về tình trạng “tụt hậu” của nước ta hiện nay cũng đủ (tôi tin thế) để tất cả chúng ta - mỗi công dân cũng như toàn cộng đồng - huy động tất cá những năng lực cần có và có thể có nhằm tạo ra những biến đổi căn bản trong quá trình hiện đại hóa, nếu không muốn để đất nước bị đặt ra ngoài lề dòng chảy văn minh chung. 
*
Cuối cùng, xin nói thêm một điều hết sức cần thiết. Trong quá khứ không xa, chúng ta không ít lần nuôi hy vọng về một “ngày mai ca hát” trên đất nước mình, để rồi sau đó thấy rằng cái “ngày mai” ấy không đến như mong đợi. (Ở đây, tôi muốn nói tới mặt biến đổi xã hội chứ không phải về mặt giải phóng dân tộc mà chúng ta đã đạt được những thành công to lớn với bao nhiêu hy sinh và nỗ lực). Bước vào hiện đại hóa, một nấc thang trên con đường phát triển của đất nước, tôi không nghĩ rằng chúng ta lại sẽ có được những “ngày mai ca hát” dễ dàng ấy. Hiện đại hóa chắc chắn không phải là “phép màu” để giải quyết mọi vấn đề cá nhân và xã hội. Kinh nghiệm nhiều nước đi trước chúng ta trên con đường hiện đại hóa (và cả hậu hiện đại hóa) cho thấy không ít những bài học thất bại, đổ vỡ, và ngay ở những nước được coi là thành công về mặt này, người ta thấy rằng hiện đại hóa theo lối họ đã làm không phải là tối ưu. Trong Phê phán tính hiện đại, A. Touraine đã nói tới kiểu hiện đại hóa phiến diện ở các nước phương Tây khi bỏ qua sự phát triển của cá nhân với tư cách chủ thể. Người ta đã tìm kiếm - và tìm kiếm khá thành công - những hiệu quả kinh tế và kỹ thuật, hay nói đúng hơn, những giá trị vật chất cao hơn cho đời sống con người. Nhưng người ta lại bỏ qua, bỏ quên chính bản thân con người, đặt con người vào tình trạng lệ thuộc mới vào những phương tiện tiêu dùng hơn là biến con người thành những chủ thể đích thực của chính mình. Một tác giả đã khái quát rất hay rằng xã hội phương Tây đang đứng trước sự biến đổi từ “xã hội tiêu dùng” (société de consommation) sang “xã hội tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống” (société de sens). Xã hội hậu hiện đại đang xuất hiện liệu có giúp cho sự chuyển biến này không? Có thể, ít ra là có thể hy vọng như thế. Ronald Inglehart, trong Hiện đại hóa và hậu hiện đại hóa, đã trình bày khá thuyết phục về những chuyển đổi hệ giá trị từ hiện đại hóa sang hậu hiện đại hóa. Nói một cách hết sức tóm lược, theo tác giả này, trong quá trình hiện đại hóa, thành tựu kinh tế cá nhân được coi là một mục tiêu then chốt. Ðược đặt lên hàng đầu là những ưu tiên, những giá trị vật chất (materialistic values). Còn trong xã hội hậu hiện đại, thành tựu kinh tế cá nhân, từng được coi là ưu tiên số một, đang nhường chỗ cho chất lượng sống. Những chuẩn mực hướng tới thành đạt về vật chất đang nhường chỗ cho sự lựa chọn lối sống cá nhân và tự thể hiện cá nhân. Các giá trị vật chất nhường chỗ cho các giá trị hậu vật chất (postmaterialistic values). Các giá trị này không được hiểu như những giá trị phi vật chất hay “phản vật chất”. Thuật ngữ “hậu vật chất” ở đây muốn nói tới những mục tiêu được nhấn mạnh sau khi con người đã đạt được sự an toàn vật chất, và còn vì con người đã đạt được sự an toàn này. 

Trên thế giới, và ngay ở nước ta, đang diễn ra những chuyển đổi giá trị rất phức tạp, không theo đường thẳng mà theo những đường quanh co, gẫy gập, những vòng tròn giao nhau. Những giá trị truyền thống, hiện đại và hậu hiện đại, trong khá nhiều trường hợp, tồn tại bên cạnh nhau, bện kết với nhau. Nhưng trên bình diện phát triển cá nhân và xã hội, đó là những nấc thang tiếp nối nhau, không thể bỏ qua một nấc nào cả. 

Gần đây, trong các cuộc thảo luận về “kinh tế tri thức”, tức là kinh tế hậu hiện đại, có ý kiến đề xướng những bước “đi tắt, đón đầu” để nước ta có thể nhảy ngay lên trình độ này. Không coi nhẹ và phủ nhận những khả năng “nhảy cóc” nào đó trong một vài lĩnh vực kinh tế và kỹ thuật nào đó (quá trình toàn cầu hóa cũng đang đòi hỏi phải làm như vậy), nhưng tôi vẫn nghĩ rằng trình tự chuyển đổi theo những nấc kế tiếp nhau là trình tự bắt buộc. Có thể rút ngắn thời gian cho từng nấc, nhưng không thể bỏ qua một nấc cơ bản nào cả. 

Và ngay cả khi đạt tới trình độ hậu hiện đại, cũng không nên nghĩ rằng, đến đó, mọi vấn đề của con người sẽ được giải quyết trọn vẹn. Hậu hiện đại, cũng như hiện đại, đem lại cho sự phát triển cá nhân những khả năng mới, nhưng cũng đẻ ra không ít vấn đề của cá nhân con người ở những trình độ cao hơn, phức tạp hơn, và cũng làm nảy sinh những nguy cơ lớn hơn cho sự phát triển cá nhân con người. 
Tháng mười hai 2000 
Nguyễn Kiến GiangMột số nét tâm lý đặc trưng về định hướng giá trị của thanh niên hiện nay 

Một số nét tâm lý đặc trưng về định hướng giá trị của thanh niên hiện nay

[right]Đỗ Ngọc Hà[/right]
[right]Tạp chí Tâm lý học[/right]

Những năm gần đây các đề tài khoa học xã hội khi tiếp cận đến đối tượng thanh niên đã đặt ra nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Trong đó hướng tiếp cận trên bình diện giá trị và định hướng giá trị được đặc biệt chú trọng và được xem như là nhân tố quan trọng, chủ yếu khi tiếp cận đến vấn đề nhân cách của thanh niên. Bởi vì một mặt, bản thân giá trị và định hướng giá trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự hình thành nhân cách, lối sống và có ảnh hưởng đến toàn bộ hành vi cá nhân. Mặt khác, khi tiếp cận trên bình diện giá trị và định hướng giá trị chúng ta có thể hiểu sâu được những quá trình xã hội điều khiển sự hoạt động của các cộng đồng, các nhóm xã hội.
Năm 1998, 1999 trong chương trình nghiên cứu thanh niên vấn đề định hướng giá trị của thanh niên cũng được đề cập đến và xem xét, đánh giá trên các khía cạnh về ý nghĩa, mục đích cuộc sống của thanh niên, cũng như những giá trị cuộc sống hàng ngày, các hiện tượng xã hội và mối liên quan mật thiết giữa chúng... 
Dưới đây là một số nhận xét được rút ra từ kết quả nghiên cứu trên 1700 các đối tượng thanh niên thuộc ba khu vực Bắc, Trung, Nam.
1) Giá trị trong cuộc sống hàng ngày
Giá trị đối với thời gian nhàn rỗi
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu sử dụng thời gian nhàn rỗi và tiêu dùng của thanh niên có sự tăng lên, đồng thời thanh niên có những cách nhìn khác nhau đối với việc sử dụng thời gian nhàn rỗi. Như vậy ở đây cho thấy: 
Thứ nhất, việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của thanh niênđc tập trung trên một số hoạt động thoe một phạm vi thống nhất, tuy nhiên sự lựa chọn tùy thuộc vào sự quan tâm và cách nhìn của từng người đối với những giá trị có thể đạt được.
Thứ hai, đa số thanh niên ngày nay ưa thích sử dụng thời gian rỗi của mình vào hoạt động văn hóa, nghệ thuật thể thao, tiếp xúc bạn bè, giải trí... Đồng thời với nó sự tiêu dùng văn hóa của thanh niên cũng có sự biến đổi mạnh mẽ. Lớp trẻ hiện nay có xu hướng thích những loại hình nghệ thuật hiện đại, quan niệm và cách nhìn về cái đẹp cũng có sự thay đổi lớn so với trước đây.
Thứ ba, bên cạnh sự phát triển của nhu cầu giải trí, việc học tập nâng cao tri thức trở thành một trong những hoạt động chính trong thời gian rỗi của thanh niên. Trong phạm vi nhất định, điều này phản ánh thanh niên ngày nay đang theo đuổi giá trị làm giàu kiến thức của họ cũng như sự ham muốn đối với cuộc sống văn hóa. Có thể nói thời gian nhàn rỗi của thanh niên ngày nay có sự biến đổi mạnh mẽ cả về cấu trúc, tính chất lẫn nội dung.
Định hướng giá trị trong việc lựa chọn hành động
Việc lựa chọn hành động phản ánh bản chất bên trong về những mong muốn của thanh niên đối với những khuôn mẫu hành vi trong thực tế. Cùng với quá trình đổi mới, mở cửa của đất nước và tác động của nền kinh tế thị trường, nhiều chuẩn mực, giá trị, quan niệm của thanh niên có sự biến đổi. Trong ý thức của đại đa số thanh niên, nhiều giá trị được đề cao trong quá khứ được nhường chỗ cho những giá trị mới. Mặc dù có sự thay đổi thứ tự ưu tiên hay những khác biệt của một vài yếu tố, song dường như có sự thống nhất chung ở thanh niên đối với những giá trị được đề cao như sự đổi mới, hướng vào tương lai, tính năng đống, sáng tạo có thể trong công việc, trong giao tiếp. 
Thanh niên ngày nay đề cao sự năng động, tự chủ của cá nhân hơn là sự phụ thuộc, tính thực tiễn và hiệu quả, tính không công thức trong quan hệ, trong công việc dần thay thế cho mô hình giao tiếp mang tính công thức, phụ thuộc và tình nghĩa. Một điều đáng lưu ý là, mặc dù trong điều kiện của nền kinh tế thị trường nhưng thế hệ trẻ vẫn đề cao sự “hợp tác” hơn là sự “ganh đua, cạnh tranh". Điều đó nói lên sức mạnh của những giá trị truyền thống tích cực vẫn đang tồn tại và chi phối nếp nghĩ của thế hệ trẻ hiện nay.
2) Giá trị xã hội
Giá trị xã hội, đạo đức
Đối với khía cạnh trách nhiệm xã hội, thanh niên đã kế thừa và phát huy tốt những giá trị xã hội tích cực, hướng về cái tốt, cái đẹp, cái thiện, sống tình nghĩa, bảo vệ chính nghĩa, đề cao sự công bằng xã hội. Đối với câu hỏi "Bạn hãy xác định vị trí của mình đối với công cuộc CNH, HĐH đất nước?" có 69,17% thanh niên trả lời "Hiểu rõ trách nhiệm của mình đối với đất nước và hăng hái tham gia", 28,1 % trả lời "Có quan tâm nhưng không tin tưởng vào vai trò của bản thân" và chỉ có 2,75% nói rằng "ít quan tâm, cho đó là cống việc và trách nhiệm của người khác". Và khi hỏi "Bạn sẽ làm gì khi gặp hiện tượng tiêu cực?” gần một nửa số người được hỏi (48,9%) cho rằng "Cần tích cực đấu tranh dù có thiệt hại đến mình", 27,5% cho rằng "Chống tiêu cực là chuyện của xã hội" và 23,7% "không tham gia vì lo lắng không có kết quả, nhiều khi mang vạ vào thân".
Giá trị đối với mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể hay nói cách khác giữa cá nhân và xã hội là một phạm vi quan trọng phản ánh ý thức của con người đối với giá trị. Cùng với sự biến đổi của xã hội, những quan niệm, chuẩn mực xã hội cũng có sự thay đổi và đã tác động đến nhận thức của thanh niên về giá trị. Giá trị "sống hiến dâng toàn ,bộ cho lợi ích xã hội", "tất cả vì tập thể"... được đề cao trong quá khứ và nó có giá trị lịch sử của nó, nhưng ngày nay có sự thay đổi trong ý thức của thanh niên. Cuộc điều tra cho thấy, giới trẻ hiện nay quan tâm nhiều hơn đến lợi ích cá nhân và mục đích sống "tất cả vì xã hội" chỉ chiếm khoảng 15%. Tất nhiên, với những câu hỏi trả lời độc lập khó có thể phản ánh đầy đủ sự lựa chọn về giá trị của thanh niên. Và điều gì sẽ xảy ra đối với thanh niên khi có sự va chạm giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của xã hội. Cuộc điều tra cho thấy, mặc dù thế hệ trẻ định hướng đến lợi ích cá nhân nhiều hơn, nhưng bằng cách hỏi suy phóng thông qua những tình huống cụ thể kết quả là, trong nhận thức, hành động của thanh niên ngày nay không chỉ quan tâm đến lợi ích của tập thể, của xã hội.
Với câu hỏi: "Để tập thể hoạt động có hiệu quả, theo bạn cần làm gì?" kết quả cho thấy:
• Ban lãnh đạo tập thể phải là người thiết kế được nội dung hoạt động thiết thực 9,72%. 
• Mọi thành viên phải tích cực tham gia thiết kế nội dung hoạt động 87,22%. 
• Tôi thấy ý kiến cá nhân tôi cũng không làm thay đổi được gì 3,05 %
Như vậy ở đây cho thấy, trong ý thức của đại đa số thanh niên đã xác định việc đạt được lợi ích của cá nhân chỉ có thể có được khi nó được gắn với lợi ích tập thể, đồng thời mỗi cá nhân phải là chủ thể tích cực trong những hoạt động nhất định. Rõ ràng điều này phản ánh xu hướng cộng đồng, liên kết kết trong hành động của thanh niên hiện nay, hơn nữa đó là thái độ liên kết trong mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân. 
3) Giá trị đối với cuộc sống
Đối với thanh niên, giá trị đối với cuộc sống và sự lựa chọn sâu sắc tạo thành quan điểm sống của họ. Ở đây, chúng ta sẽ xem xét cách nhìn của thanh niên về giá trị đối với mục đích, ý nghĩa của cuộc sống, về giá trị của lao động.
Mục đích cuộc sống của thanh niên được xem xét ở đây là sự mong chờ của họ về tương lai và những mưu cầu trong cuộc sống. Nhìn chung việc xác định mục đích sống của thanh niên hiện nay hướng về vai trò và vị trí của cá nhân trong cuộc sống. "Thành đạt trong nghề nghiệp được đa số thanh niên đề cao (44,2% và được xem như là mục đích cơ bản của cuộc sống. Điều này nói lên nhu cầu tự khẳng định, cũng. như uy tín và vị thế xã hội của cá nhân được phát triển mạnh ở thanh niên ngày nay. Một dấu hiệu đáng quan tâm là thanh niên mong muốn được sống như họ nghĩ, họ thích (24,1%). Điều này phản ánh mẫu hình con người sống có tính, không lệ thuộc đang là xu hướng theo đuổi của một bộ phận quan trọng trong thanh niên. Mục đích sống làm giàu (theo cắt nghĩa là giàu cho cá nhân, cho gia đình cũng là làm giàu cho xã hội) xét tương quan chung nó đứng ở vị trí thứ ba trong các mục đích sống của thanh niên. Đây là kết quả của sự cời mở về các chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. 
Đối với việc định hướng khẳng định vai trò của cá nhân trong cuộc sống và thái độ quan tâm tới hạnh phúc của cuộc sống, thanh niên hiện nay tin rằng ý nghĩa của cuộc sống chỉ có thể khẳng định khi đánh giá được giá trị, khả năng của chính mình (48,7%). Đồng thời có 25,4% thanh niên mong muốn được sống có ích cho xã hội. Số thanh niên bàng quan, thờ ơ với cuộc sống chỉ chiếm 7,2% trong số thanh niên được điều tra. Như vậy, ở đây có tới trên 2/3 số thanh niên đã đánh giá được ý nghĩa cuộc sống của bản thân - xác định ý nghĩa cuộc sống là ở chính khả năng của mình và sống có ích cho mọi người.

Trong nhận thức về giá trị của lao động thanh niên hiện nay có sự thay đổi thái độ đối với lao động. Đối với đa số thanh niên, lao động là quá trình thể hiện mình, thông qua hiệu quả của quá trình lao động (70%). Vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng xét về phương diện nhận thức, bởi vì, nó sẽ chi phối đến toàn bộ quá trình lao động nghề nghiệp của mỗi cá nhân.
Có thể nói công cuộc đổi mới của đất nước cũng như sự thay đổi, phát triển nhanh của xã hội trong hơn một thập kỷ qua là nền tảng của sự chuyển đổi và phát. triển những giá trị của thanh niên. Từ những 'phân tích của cuộc khảo sát, chúng tôi xin rút ra một số nhận xét chung về định hướng giá trị của thanh niên như sau:
Ngày nay thanh niên nhìn nhận vấn đề bản chất cuộc sống tích cực và duy vật hơn, thừa nhận sự thành công trong cuộc sống là do sự nỗ lực của bản thân hơn là sự phụ thuộc hay là do số phận hoặc sự may rủi nào đó. Có thể nói thanh niên hiện nay đang định hướng và khẳng định vai trò của họ trong cuộc sống.
Mặc dù có sự thống nhất về những giá trị chung ở thanh niên, tuy nhiên cuộc điều tra cũng cho thấy có sự đa dạng hóa trong định hướng giá trị của thanh niên khi xem xét nó trên những tiêu chí riêng biệt. Nhìn chung thanh niên ở các vùng khác nhau, trình độ văn hóa khác nhau và nghề nghiệp khác nhau có sự khác biệt nhất định trong định hướng giá trị đặc trưng cho nhóm mà họ tham gia.
Hệ thống định hướng giá trị của thanh niên có tính mâu thuẫn nội tại của nó, song có thể nói đây là những nét tính cách xã hội mới đang được định hình và phát triển theo xu thế phát triển của xã hội. Nếu được quan tâm đúng mức, nó sẽ là những định hướng giá trị có lợi cho sự phát triển của xã hội.

Phân tâm học với vấn đề trong tham vấn 

Các lý thuyết tiếp cận trong tham vấn tâm lý(phan I)
1. [size=18px]Lý thuyết phân tâm học[/size]
S. Feud là người khỏi xướng và đặt nền móng cho phân tâm học. Ông triển khai mô hình phân tâm học của mình trong thời gian nửa thế kỉ từ 1880 đến 1930. Nhiều kĩ thuật trị liệu của ông vẫn còn được sử dụng đối với công tác tham vấn và tâm lý trị liệu hiện nay. Về sau, các tác giả đi theo thuyết của ông như là Anna Freud, Carl Jung, Sullivan…
Lý thuyết của phân tâm học trong tham vấn.
Theo phân tâm học, nhân cách của con người được cấu tạo từ mối liên hệ phức tạp của năng lực cá nhân và những trải nghiệm từ thời thơ ấu. Những hành vi của một cá nhân, do đó là kết quả của những mẫu hành vi thơ ấu và có nguồn gốc vô thức. Nói cách khác, chúng ta có những nhu cầu và ước muốn bị dồn nén và nhờ vào các mối quan hệ với những người khác trong� thời thơ ấu mà chúng ta học được những cách thức rõ ràng để thoả mãn những dồn nén này. Nếu mỗi cá nhân mà không học được cách thoả mãn nhu cầu bị dồn nén thì cá nhân ấy sẽ trở thành những người� không bình thường.Ví dụ như khi đứa trẻ sinh ra mà bị kiểm soát quá ngặt nghèo của bố mẹ thì đứa trẻ sẽ sinh ra nhút nhát, mặc cảm, tự ti. Từ đó sẽ dẫn tới các cơ chế phòng vệ như là sự đè nén, sự phóng chiếu, sự né tránh, sự viện lý, sự di chuyển, sự thoái bộ, sự đồng nhất hoá, sự huyễn tưởng, sự hợp lý hoá, sự phủ định, sự hình thành phản ứng. 
Trong tham vấn, nhà tham vấn phải biết rõ và kĩ càng về các cơ chế tự vệ để phá vỡ nó, mặt khác làm cho bản thân không phòng vệ với thân chủ, tạo� được mối quan hệ thấu cảm với thân chủ, làm tiền đề cho buổi tham vấn diễn ra tốt đẹp, có hiệu quả.
Phương pháp sử dụng trong phân tâm học làm tham vấn sử dụng phương pháp trò chuyện- đàm thoại. 
Mục đích của phương� pháp tiếp cận phân tâm là giúp con người tìm lại những cội rễ vô thức của các vấn đề của mình nảy sinh những xung đột bị dồn nén bằng cách là sau khi giải phóng những cảm xúc của mình, con người sẽ cấu trúc lại nhân cách của mình trên cơ sở mới. Điều này cũng đã bao hàm loại bỏ các chứng bệnh.
Để đạt được điều đó phải sử dụng các kĩ thuật của phâm tâm học như là:
- Sự đồng cảm: Cho phép nhà tham vấn thiết lập mối quan hệ với thân chủ mà vẫn có khoảng cách nhất định. Chúng cũng cho phép nhà tham vấn thiết lập mối quan hệ chuyển dịch.
- Liên tưởng tự do: là kĩ thuật sử dụng nhằm khám phá vô thức và giải phóng những điều bị dồn nén. Thân chủ được khuyến khích biểu lộ những cảm giác mạnh bị dồn nén. Phương pháp này khích lệ thân chủ đương đầu với những cảm xúc bị dồn nén mạnh để thiết lập lại cảm xúc lành mạnh. Nhờ đó có thể khỏi bệnh.
- Lý giải hành vi chống đối: Thỉnh thoảng trong quá trình liên tưởng tự do, thân chủ sẽ bộc lộ những hành vi mang tính chất chống đối. Sự chống đối ngăn cản không cho những xung đột bị đè nén bên trong bộc lộ ra ngoài: thường là có liên quan đến khoái cảm tình dục, cảm giác thù địch, phẫn uất với bố mẹ…Nhà tham vấn cần phải tinh tế nhận ra vấn đề này khi thân chủ không muốn nói đến nó, lảng tránh. Nhà tham vấn cần phải phá vỡ sự chống đối đó, giúp thân chủ đối mặt với những suy nghĩ của mình. Đây là một quá trình rất khó khăn và đòi hỏi thời gian.
- Giải mộng: Freud chính thức biến việc phân tích giấc mơ thành một liệu pháp trong phân tâm học khi ông viết: “Diễn giải giấc mơ”. Khi con người ngủ, siêu thức có vẻ yếu đi trong việc kiểm duyệt những xung đột không thể chấp nhận được có nguồn gốc từ vô thức. Vì vậy những xung đột đó hàng ngày không được biêủ lộ ra thì trong giấc mơ� nó lại có cơ hội được phát triển. Từ đó nhà tham vấn có thể phân tích giấc mơ của thân chủ để lý giải vấn đề của thân chủ.
- Chuyển dịch và chuyển dịch ngược: Trong quá trình tham vấn, thân chủ luôn có những phản ứng cảm xúc mạnh đối với nhà tham vấn, nhà tham vấn thường được đồng nhất hoá với người nào đó là trung tâm của� những xung đột trong quá khứ của thân chủ. Đó chính là sự chuyển dịch ngược. Đôi khi sự chuyển dịch ngược đấy là có thể là những tình cảm yêu thương, sự kính phục.
Công việc của nhà tham vấn là phải điểu chỉnh những cảm xúc này. Đó là một công việc khó khăn và có thể nguy hiểm do tính dễ bị tổn thương về xúc cảm của thân chủ.Tuy nhiên đây là công việc giúp nhà tham vấn “phiên dịch” lại những tình cảm chuyển dịch hiện có bằng cách tình hiểu nguồn gốc, xuất xứ của chúng ở những trải nghiệm thơ ấu.
Chuyển dịch ngược có liên quan đến cái gì xảy ra khi tham vấn viên thích hay không thích thân chủ. Thông qua chuyển dịch ngược, nhà tham vấn phát hiện ra những động cơ vô thức của thân chủ, do những cảm xúc tương tác qua lại trong tham vấn và tính dễ tổn thương của thân chủ, nhà tham vấn phải cảnh giác để không thể bước qua ranh giới nghề nghiệp và những vấn đề riêng tư, cá nhân của thân chủ.
Tóm lại, triết lý nền tảng của phân tâm học là coi vấn đề nền tảng là vấn đề bản năng. Tỏng quá trình tham vấn, nhà tham vấn cần chú trọng tới vấn đề này. Khi đưa ra lời giải thích cần nhấn mạnh đến các giai đoạn phát triển của cá nhân. Mục đích của phương pháp trị liệu trong tham vấn là tái tại lại cấu trúc nhân cách của con người, làm cho thân chủ nhận thức được cái gì nằm trong vô thức của mình. Đó cũng chính là vai trò của nhà tham vấn. Nhưng nhược điểm của phương pháp này trong tham vấn đó là thời gian làm rất lâu. Do đó liên quan đến kinh phí, việc giải quyết vấn đề của thân chủ….Mặt khác, việc quá đề cao cái vô thức, nhấn mạnh đến bản năng tính dục là cái trung tâm đã khiến cho nhiều vấn đề của thân chủ bị quy về mặt này, đặc biệt nhiều vấn đề chỉ xảy ra ở người lớn những khi trị liệu cho trẻ em cũng bị quy kết như những vấn đề liên quan đến tình dục…

Chị thấy mấy vấn đề này khá rắc rối trong ngành của chúng ta đấy. Thậm chí ở chỗ BV chị , ghi liệu pháp hết lượt là tham vấn tâm lý mới đau khổ. Nhận xét của em rất đúng đấy, tuy nhiên do vấn đề mấy người dịch thuật mang luôn cả mặc cảm kiểu định nghĩa khái niệm tuyệt đối của mình vào sách vở tài liệu rồi mặt kệ cho con cháu thế hệ sau giải quyết đâm ra là thuật ngữ rối tung, mỗi người dịch một kiểu không ra làm sao cả . Theo chị, mấy từ đó nên đặt theo thứ giá trị chuyên môn từ thấp đến cao như sau 

1. Tham vấn , từ nội hàm rộng nhất, dành cho mọi ngành nghề , kiểu cố vấn , lời khuyên, gửi thư hỏi han qua đài báo , sách vở cẩm nang, ti vi ngành xây dựng rồi luật, chế tạo thủ công mỹ nghệ sành sứ vvv các kiểu . Nhưng là chỉ quan trọng người ít kinh nghiệm hỏi người nhiều kinh nghiệm hơn chỉ bảo người ít kinh nghiệm hơn bất kỳ về linh vực nào ko nhất thiết người trả lời ( có thể một hoặc nhiều người cùng lúc ) phải có chứng chỉ nghiêm túc về chuyên môn, và người trả lời thì có thể khuyên răn áp dặt thoải mái, ko nhất thiết là người hỏi kinh nghiệm kia co svuwaf ý hay không . Và việc hỏi han này mang tính tình huống xã hội, tình huống được chỉ dẫn, tình huống tham khảo thêm cho vui cho biết . trong ngành Tâm lý thì nên ít dùng dùng từ này, nhất là người đã làm việc với tư cách chuyên môn. 
2. Tư vấn Từ nội hàm hẹp hơn tư vấn, chỉ mối quan hệ có tính chất riêng tư. tình huống lâu dài hơn với một người được tin cậy và một người tìm sự giúp đỡ vấn đề riêng tư khó khăn của họ mà họ ko thể tự giả quyết một mình được. Chỉ dành cho một vài ngành nghề quan trọng như luật , tâm lý ( kiểu sức khoẻ sinh sản tình yêu hôn nhân gia đình ) .

3. Trị liệu . Từ nội hàm cô đặc nhất, chỉ dành cho ngươi có chúng chỉ bằng cấp chuyên môn được nhà nước công nhận làm việc trong cơ sở nhà nước, đặc biệt là bệnh viện, chăm chữa, thấu hiểu chia sẻ những rắc rối cho người bệnh bằng những liệu pháp tâm lý, có kế hoặch mục tiêu cụ thể . vvv. 

Chị không nhắc lại vì mấy định nghĩa này chắc bọn em biết hết cả rồi. Theo chị mấy thứ mình học ở trường nên gọi bằng từ liệu pháp, trị liệu hoặc tư vấn , chứ nhất thiết không nên dùng từ tham vấn. Từ này, thực chất sẽ làm người dân xem thường tính chất công việc chuyên môn của những nhà tâm lý được đào tạo như chúng ta. Hiện tượng phóng ngoại của nhân cách. 

Hiện tượng phóng ngoại của nhân cách và phương pháp phóng ngoại trong tâm lý học.

Thực tiễn nghiên cứu tâm lý con người đã khiến các nhà tâm lý học muốn nghiên cứu không chỉ những khuynh hướng và động cơ hành vi được con người ý thức rõ ràng, mà cả những khuynh hướng động cơ không được ý thức rõ ràng hoặc hoàn toàn không được ý thức của nhân cách nữa. Nguyện vọng đó đã dẫn đến chỗ: các phương pháp phóng ngoại (Projective Methods) đã chiếm vị trí quan trọng trong số các phương pháp nghiên cứu nhân cách, các đặc điểm, khuynh hướng, tâm thế của nó. 
Học thuyết phân tâm của S. Freud đã có ảnh hưởng đến sự quan tâm của các nhà khoa học đối với các phương pháp phóng ngoại. Ai cũng biết rằng, S. Freud đã đề xuất ý nghĩa của những nguyện vọng vô thức trong đời sống và hoạt động tâm lý của con người và sự cần thiết phải vạch ra những nguyện vọng đó – những nguyện vọng vốn có trong những bản năng nguyên chất của con người – bằng những phương pháp đặc biệt, bởi vì những nguyện vọng này có thể bị che dấu đối với chính bản thân con người và thường hay được bộc lộ trong những hội chứng tâm lý khác.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu quy hẹp ý nghĩa của các phương pháp phóng ngoại ở chỗ: chúng có sứ mệnh giải quyết những vấn đề có thực hoặc tưởng tượng về động lực của đời sống tâm lý con người mà S. Freud đã nêu ra với những lý thuyết của mình về vai trò của Libido trong quá trình sống của con người. Mục đích của các phương pháp này là bằng con đường gián tiếp để vạch ra những khuynh hướng ít được ý thức của nhân cách.
Có thể xem luận điểm sau đây là có căn cứ: động lực hành vi của nhân cách, những đặc điểm động cơ của nó có thể được quyết định bởi những nhân tố được bản thân con người ý thức dưới dạng không phù hợp (hoặc được ý thức trong những hoàn cảnh đặc biệt). Trong những hoàn cảnh sống bình thường, những đặc điểm này (đôi khi được thể hiện đối với những người xung quanh) lại thường không đi đến ý thức của bản thân chủ thể một cách rõ ràng. Tình hình đó đã tạo lên sự cần thiết phải sử dụng phương pháp cho phép nhận biết được, vạch ra được và có thể đo lường được các khuynh hướng, động cơ không được ý thức đầy đủ của nhân cách. Lần đầu tiên thuật ngữ “phóng ngoại” (Projection), như là một thuật ngữ tâm lý học, được xuất hiện trong tài liệu phân tâm học và thuộc về S. Freud (1894). Về sau, khái niệm “phóng ngoại” được nhiều nhà nghiên cứu xem xét và đã trải qua nhiều sự biến đổi. Ngày nay, khi nói đến sự phóng ngoại thì cần phải thấy rằng, ít nhất cũng có 4 quan niệm khác nhau
Trước tiên là quan niệm kinh điển (S. Freud. 1894) thì phóng ngoại được xem là một cơ chế tự vệ, có nhiệm vụ làm trung hòa tác động gây bệnh. Quan niệm như vậy vẫn còn được dùng cả trong phân tâm học hiện đại (phân tâm học hiện đại có nói đến hơn 20 loại cơ chế tự vệ, khác nhau về mức độ hiệu quả, mức độ chín muồi, cũng như về sự định khu (Localization) xung đột: trong lĩnh vực ý hướng, tâm thế đạo đức hay thực tiễn bên ngoài.
Ở đây cần thấy rằng, tư tưởng về sự tự vệ tâm lý phản ánh một mặt có thật rất quan trọng của hoạt động tâm lý cá nhân. Nhưng phân tâm học lại muốn co hẹp khái niệm này thành cơ chế tác động qua lại của “cái tôi” và cái vô thức.
Đến năm 1923, S. Freud đã cho rằng sự phóng ngoại tồn tại không chỉ với tư cách là một chế tự vệ, mà còn là một cơ chế quyết định sự mô tả các sự vật và hiện tượng của thế giới biên ngoài. Từ đó khái niệm “phóng ngoại đặc trưng” (Attrubutive Projection) đã ra đời. Nó có nghĩa là sự bộc lộ các đặc điểm tâm lý của một nhân cách nào đó trên cơ sở sự mô tả về chúng của nhân cách đó cho người khác.
V.X. Méc lin đã nhận xét rằng, sự nhận thức về các thuộc tính của mình (sự tự ý thức của cá nhân) có ảnh hưởng rất rõ ràng đến việc tri giác các sự vật, hiện tượng bên ngoài, ông phân biệt sự phóng ngoại như thế với sự phóng ngoại các thuộc tính của mình một cách vô ý thức[1].
Khía cạnh này của sự phóng ngoại được thấy rõ trong một loạt các công trình nghiên cứu tâm lý xã hội. A. A. Bôđaliôv đã viết rằng: “Việc nghiên cứu những đặc trưng cho việc hình thành ấn tượng về người khác đã cho phép xác lập rằng, chủ thể nhận thức có thể “đặt” trạng thái của mình vào một người khác, mô tả ở người đó những đặc điểm mà thực tế đang có ở chính bản thân nó”[2].
Một quan niệm khác về sự phóng ngoại cũng đang tồn tại quan niệm tự kỷ (Autism) về sự phóng ngoại. Bằng thực nghiệm, các nhà tâm lý học phương Tây đã chỉ ra rằng, sự không thỏa mãn các nhu cầu nào đó, với sự tăng cường độ và cụ thể hóa chúng ở một mức độ nhất định sẽ dẫn đến sự phong ngoại nội dung của nhu cầu vào sự tưởng tượng, giấc mơ, sự hứng thú (Mc. Cleland D.C và Atkinson J.W. 1948)
Quan niệm phóng ngoại “hợp lý hóa” cũng đã được hình thành trên cơ sở thực nghiệm tâm lý xã hội. Thì ra là, sự đánh giá phù hợp của nhân cách về những đặc điểm âm tính (nhược điểm) của mình được kết hợp với sự di chuyển chúng sang người khác, nghĩa là ở đây sự phóng ngoại được bộc lộ như là một yếu tố cần thiết để biện hộ (hợp lý hóa) cho hành vi của mình theo nguyên tắc “mọi người đều làm thế cả mà” (Frenkel – Brunswik, 1939).
Như vậy là, khái niệm “phóng ngoại” đã được các đại diện của các trường phái tâm lý học khác nhau sử dụng và nó không phải chỉ có liên quan với tâm lý thuyết phân tâm mà thôi.
Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “các phương pháp phóng ngoại” là L. Frank (1939). Theo ông, phương pháp phóng ngoại “chứa đựng trong mình việc đưa ra một cách tương ứng những kích thích phải suy nghĩ, lựa chọn…để làm sao cho nghiệm thể (người được nghiên cứu) có thể bộc lộ sự phán đoán riêng của mình, tùy thuộc vào các đặc điểm tâm lý của họ”[3].
Ngày nay, khi nói đến những đặc điểm riêng của phương pháp phóng ngoại, người ta thường nêu các dấu hiệu sau:
1. Tính không xác định của tài liệu kích thích hoặc của lời chỉ dẫn nhiệm vụ (ví dụ, các vết mực loang trong trắc nghiệm Rorschach…), nhờ đó mà nghiệm thể được tương đối tự do trong việc lựa chọn câu trả lời hay chiến thuật hành vi.
2. Hoạt động của nghiệm thể diễn ra trong không khí thân mật và trong hoàn cảnh hoàn toàn không có thái độ đánh giá của nghiệm viên (cán bộ nghiên cứu). Đồng thời, nghiệm thể thường không biết rằng cái gì trong câu trả lời của mình có giá trị chẩn đoán. Tất cả những điều đó sẽ dẫn đến sự phóng ngoại tối đa của nhân cách, không bị giới hạn bởi những quy phạm và sự đánh giá xã hội.
3. Các phương pháp phóng ngoại không phải do chức năng tâm lý hay chức năng tâm lý kia, mà là do cái cung cách, chuẩn mực (modus) của nhân cách trong mối quan hệ qua lại với môi trường xã hội xung quanh.
Có nhiều phương pháp phóng ngoại khác nhau, người ta thường chia 7 nhóm sau đây[4]:
1. Các phương pháo cấu trúc hóa (đưa ra tài liệu không được dàn dựng, nghiệm thể phải cho nó một ý nghĩa chủ quan): gồm các trắc nghiệm Rorschach, trắc nghiệm các đám mây, trắc nghiệm phóng ngoại 3 chiều.
2. Các phương pháp thiết kế (xây dựng và giải thích cái toàn bộ từ những chi tiết có dàn dựng) như phương phưps MAPS, trắc nghiệm thế giới và cái biến thể đa dạng của nó.
3. Các phuơng pháp giải thích như: T.A.T, trắc nghiệm Rosenzweig vv…
4. Các phương pháp bổ sung: các câu chưa hết, các câu chuyện bỏ lửng, trắc nghiệm liên tưởng của Jung…
5. Các phương pháp thanh lọc (Catharsls): kịch tâm lý, (Psychodrama) trò chơi tâm lý vv…
6. Các phương pháp nghiên cứu sự biểu cảm (còn gọi là các phương pháp khúc xạ): phân tích nét chữ, phân tích đặc điểm giao tiếp bằng ngôn ngữ, phương pháp cơ – vận động của Myra – Y – Lopez.
7. Các phương pháp nghiên cứu sản phẩm sáng tạo: Trắc nghiệm vẽ hình người, trắc nghiệm vẽ cây cối của Koch, trắc nghiệm vẽ nhà, hình các ngón tay vv…
Ngày nay, các nhà tâm lý macxit đã chấp nhận các phương pháp phóng ngoại trên lập trường phương pháp luận cho rằng: tri giác là một quá trình có cấu trúc phức tạp, tất yếu phải chứa đựng trong mình những đặc điểm về tâm thế, khuynh hướng, động cơ của nhân cách. Do đó, “sự phóng ngoại có thể hiểu như là sự thể hiện của cái nhân cách trong tri giác”[5].
Lịch sử phát triển của phương pháp phóng ngoại đã chỉ ra rằng, nó không tồn tại bên ngoài lý thuyết về nhân cách, đồng thời mối liên hệ giữa phương pháp phóng ngoại và lý thuyết nhân cách cũng không phải là đơn trị và bất biến.

Trần Trọng Thủrò chuyện không định hướng trong tham vấn 

TRÒ CHUYỆN� KHÔNG ĐỊNH HƯỚNG TRONG THAM VẤN

Nguyễn Hạc Đạm Thư

I. Xác định vai trò nhà tâm lý trong tham vấn mang tính trị liệu

C.Rogers, nhà tâm lý trị liệu người Mỹ theo khuynh hướng nhân bản ở nữa đầu thế kỷ 20, là người đầu tiên nêu quan điểm là trong tâm lý trị liệu không được gọi người đến chữa trị bằng phương pháp tâm lý là “người bệnh” mà gọi là thân chủ

Chính họ là nhân vật trung tâm trong trị liệu. Nhà tâm lý chỉ tạo điều kiện thuận lợi để thân chủ bộc lộ ra ngoài các yếu tố gây rối nhiễu, đau khổ trong nội tâm, tự trách móc, hối hận, mặc cảm tội lỗi, tự ty…

Những tình cảm tiêu cực nói trên gây cho thân chủ bối rối, lo âu, phiền muộn, hoảng sợ khiến họ lẩn tránh thực tế, không dám nhìn thẳng vào sự thật để giải quyết vấn đề. Trong tâm trạng chao đảo, hoảng loạn họ dễ chán nản, muốn trút bớt gánh nặng quá tải vào người khác. Sẽ là sai lầm nếu nàh tâm lý lại đón nhận gánh nặng đó, an ủi, khuỵên nhủ, dỗ dành, thuyết phục họ, tìm giải pháp hộ họ.

Theo. C.Rogers, khi thân chủ phơi bày được ra ngoài những tình cảm tiêu cực trong nội tâm của họ một cách tự nhiên, không bị người khác định hướng, thúc ép hoặc gây ảnh hưởng thì khi đó họ không cảm thấy bị tù túng nữa, họ có thể bình tâm đón nhận những cảm nghĩ, những suy tư, những trải nghiệm của mình và lấy lại được cảm giác an toàn.

Trong trạng thái an toàn, thân chủ lấy lại được tự tin để nhìn thẳng vào thực tế, xem xét, kết nối những cảm xúc lộn xộn, mơ hồ, và tự họ sẽ cân nhắc lựa chọn các giải pháp. Vì chính họ là người hiểu rõ hơn ai hết những vấn đề của họ để tìm ra giải pháp thích hợp với họ. Không ai có thể làm thay họ.

Do đó cách trò chuyện ở đây không được định hướng, xác định rõ ràng vai trò của mình, nhà tâm lý sẽ không lẫn lộn cách trò chuyện trong trò chuyện trong trị liệu với các dạng sau đây:

II. Phân biệt tham vấn trị liệu với các dạng khác

1. Không giống phỏng vấn báo chí nhằm thu thập thông tin sau đó công bố cho quảng đại quần chúng biết. Ở đây� nội dung câu chuyện chỉ có hai người và những điều đã biết chỉ nhằm vào trị liệu. Nhà tâm lý cần giữ những bí mật riêng tư, không tiết lộ ra ngoài.

2. Không hỏi chuyện như kiều lục vấn cảnh sát nhằm điều tra một vấn đề. Kiểu đưa câu hỏi liên tiếp thường làm cho thân chủ mệt mỏi, cảm thấy mình là “nạn nhân”, họ sẽ ngán và trả lời qua loa có tính đối phó để kết thúc. 

3. Không giống kiểu tu sĩ lắng nghe con chiên thú tội, nếu ta an ủi, thân chủ sẽ có xu hướng muốn trút bỏ gánh nặng một cách thụ� động, không gây được tự tin cho họ để tự vươn lên.

4. Không biến mình thành người thuyết giảng, đưa ra quan điểm này khác để thân chủ nghe mình giải thích. Không đưa ra tranh luận, tìm hiểu đúng sai. Nên nhớ là thân chủ hiểu vấn đề của họ hơn mình. Mình cần lắng nghe thân chủ nói để họ yên tâm bộc lộ những nỗi niềm của họ.

5. Không giống bác sĩ thăm khám bệnh nhân nhằm chẩn đoán ra bệnh. Nếu đi theo hướng này, thân chủ mất vai trò trung tâm của họ, ta biến họ thành người thụ động, dựa dẫm, và nhà tâm lý không còn ở tư thế lắng nghe chăm chú tâm sự của thân chủ.

III. Thái độ của nhà tâm lý trong tham vấn trị liệu

Thái độ của nhà tâm lý hết sức quan trọng và là điều tiên quyết để thân chủ bộc lộ� tâm sự một cách tự nhiên thoải mái, chân thật hoặc ngược lại e ngại, đối phó, hoài nghi, chống chế.

1. Thái độ chấp nhận:

Lắng nghe chăm chú thân chủ mà bình thản. Không gây sức ép hay gây ảnh hưởng. Không áp đặt quan điểm, không phê phán, không thuyết phục, không khuyên nhủ…Để họ tự do, thoải mái. Nhà tâm lý chỉ khơi cho dòng tâm sự của thân chủ được bộc lộ ra ngoài như nước nguồn trong khe núi chạy ra.

2. Thái độ tôn trọng:

Dù thân chủ có những hành vi lỗi lầm, ta cần tôn trọng con người họ, không có ý nghĩ phê phán, ghét bỏ, coi thường…Trong tâm trạng bối rối, đau khổ, thân chủ dễ có mặc cảm tự ty, họ rất nhạy cảm để nhận ra ngay khi người khác có thái độ không tôn trọng họ. Khi đó họ sẽ không tin cậy và không thoải mái bộc lộ tâm tư, nhất là những điều dở, điều ác v.v…

3. Thái độ trung lập:

Một mặt nhà tâm lý cần tạo bầu không khí thân thiện, cởi mở để thân chủ thoải mái, tin cậy, song không được tỏ ra vồn vã, nhiệt tình quá khiến thân chủ muốn trút gánh nặng của họ sang ta, hoặc lôi kéo ta vào cuộc, có ý kiến này nọ về họ. Ngược lại nhà tâm lý không được có định kiến, thờ ơ, lạnh lùng, ác cảm.

Có thái độ trung lập là ta chấp nhận những cảm xúc kể cả tích cực và tiêu cực của họ, nhưng không chia sẻ với họ những cảm xúc đó, nếu không họ sẽ lôi cuốn ta vào cuộc và dễ ỷ lại, mong muốn ta tìm giải pháp thay cho họ. 

Trường hợp thân chủ đang kể bỗng bật khóc hoặc khóc lặng lẽ, ta không nên bùi ngùi xúc động hoặc xót xa ái nại; để tỏ thiện cảm ta có thể lấy nước mời họ uống, tỏ ra thông cảm những gì không hòa đồng với cảm xúc của họ. Ngoài ra giữ thái độ trung lập cũng để tránh quan hệ quá mật thiết với thân chủ, không để thân chủ gắn bó sau khi rời phòng tham vấn.

IV. Cách tiến hành một buổi tham vấn

1. Thiết lập hợp đồng giao tiếp:

Trong lần tiếp xúc đầu tiên với thân chủ (trực tiếp hoặc qua điện thoại, thư từ…) cần xác định rõ khung cảnh gặp gỡ (làm ở địa điểm nào, thời gian nào, mấy lần trong một tuần, tiến hành bao lâu). Nên chọn khung cảnh yên tĩnh, nhất là khi dùng máy ghi âm, không để có nhiễu về tiếng quạt chạy, máy điện thoại nên tắt, không có người ra vào. 

Cần có sự giải thích để tránh cho sự hiểu lầm khi chỉ có hai người tâm sự. Nên khẳng định để thân chủ yên tâm là tâm sự riêng tư là điều� bí mật giữa hai người, không lộ cho người khác biết. Ngay với trẻ em ta cũng cần tôn trọng nguyên tắc này, nếu không trẻ sẽ mất lòng tin, và sau đó không thể hợp tác được, trẻ sẽ không tâm sự nữa. 

Nói rõ cho thân chủ biết là trong quá trình tham vấn, thân chủ thoải mái kể chuyện một cách tự nhiên các suy tư, cảm xúc của mình cùng các quan điểm, mà không có sự tranh luận, phê phán, hỏi han, ngắt lời. Nếu dùng máy ghi âm cần giải thích là để� ghi nhận một cách� trung thành và giữ nguyên tắc bí mật. Dù có máy ghi âm vẫn nên chuẩn bị sổ ghi chép những điềm chính cùng thái độ của thân chủ khi nói chuyện (cười, khóc, diễu cợt …) Nhưng tránh mải ghi mà không chăm chú lắng nghe, không theo dõi những diễn biến khi thân chủ kể. Dùng máy ghi âm� phải chuẩn bị kỹ thiết bị, pin khỏe, và thử mấy câu đầu để xem máy chạy tốt hay không.

2. Tạo ấn tượng tốt:

Điều quan trọng để thân chủ được thoải mái tự nhiên là nhà tâm lý tạo được ấn tượng tốt ngay từ đầu và gây được cảm tình khiến thân chủ yên tâm, tin cậy mà dốc bầu tâm sự. Vì thế cần có thái độ nghiêm túc, cách nói, giọng nói, cử chỉ thân mật và tôn trọng, khiêm tốn, giản dị, không hề có chút nào tỏ ra mình hiểu biết hơn họ. Cần xác định hết sức chăm chú lắng nghe thân chủ trình bày dù họ kể những vấn đề mình không thích thú. Nghe với thái độ thông cảm, tức là đặt được mình vào địa vị của thân chủ, chấp nhận những ý tưởng của họ mà không được ngạc nhiên hoặc phán xét…

3. Quá trình tiến hành:

Nếu chỉ mới làm quen qua điện thoại thì khi gặp thân chủ nên tự giới thiệu ngắn gọn về mình, và nếu là nghe tâm sự về một đoạn đời (kể chuyện đường đời) cần có câu gợi chuyện. Thí dụ, tìm hiểu đời sống của người phụ nữ co con tàn tật, nạn nhân chất độc màu da cam, nếu ta gợi bằng câu: “Xin chị cho biết cảm tưởng và suy nghĩ của chị khi lập gia đình và thực tế đã diễn ra như thế nào trong lĩnh vực nhà cửa, vợ chồng,� nuôi dạy con cái” thì câu đó thiên về lý tính và người kể sẽ trả lời như một kiểu được kiểm tra. Nếu có mào đầu một câu như: “Chị hình dung cuộc sống gia đình chị như thế nào trước khi lập gia đình� và thực tế diễn biến ra sao?” sẽ dễ dàng cho việc liên tưởng tự do, thoải mái.

Sau câu khơi mào nên kiểm tra ngay hoạt động của máy ghi âm. Khi thân chủ bắt đầu nói, nên chăm chú lắng nghe, nắm bắt mọi chi tiết về cử chỉ, thái độ, giọng nói, vẻ mặt, kể cả phút ngập ngừng, im lặng chốc lát. Ghi vào sổ tay những điểm chính có thể đánh dấu nếu có chỗ chưa rõ để sau hỏi thêm.

Sau một hồi kể có thể thân chủ ngừng. Phải� nắm bắt xem sự im lặng này là cần thiết để thân chủ sắp xếp lại các ý tưởng trong đầu, hay là im lặng “rỗng” hết chuyện để nói. Cần bình tĩnh chờ đợi, chưa nên vội đặt câu hỏi ngay vì câu hỏi nói vội không ăn nhập với dòng suy nghĩ của họ, dễ làm mất đi, “dòng tâm tư” của họ. Nếu ta đưa ra câu hỏi của ta, rất có thể thân chủ chuyển hướng tâm tư thành hướng chờ� đợi ta đặt câu hỏi để họ trả lời từng điểm. Khi đó mất đi chuyện kể tự nhiên mà chuyển thành chuyện kể do ta chỉ định, điều khiển. Vì thế khi họ im lặng thì ta cũng phải suy nghĩ xem ý cuối đoạn� kể của họ, để nếu họ còn im lặng lúng túng thì ta đưa đẩy câu chuyện một cách nhẹ nhàng như: “thế rồi sao nữa ạ,”� “theo tôi hiểu chị đã…” và ta phản hồi ý nghĩ của họ để tỏ ra ta theo dõi đúng và hiểu ý nghĩ của họ. Như thế là gợi cho họ sắp xếp ý tưởng của mình và đẩy đà cho họ kể tiếp ý nghĩ, cảm xúc của họ như dòng chảy lại được khơi thông.

Thực ra có được� câu đưa đẩy đúng ý, gợi sâu thêm� ý tưởng của họ là rất khó, thường phải qua nhiều trải nghiệm mới có trực giác đúng. Tuy vậy� không nên cầu toàn vì thực tế mỗi cuộc mỗi khác, không thể suôn sẻ hết.

Khi đã gần hết thời gian quy định, còn vài phút ta nên nhắc khéo để chốt lại. Nếu cần, hỏi họ có muốn lần sau tiếp tục thì hẹn tiếp. Trường hợp không qui định thời gian cụ thể, nên để để tự do kể đến khi nào họ muốn kết thúc. Lúc đó ta tắt máy ghi âm. Sau đó có thể hỏi thêm những thông tin cần biết, những ý chưa rõ và rất có thể khi hỏi, họ lại nẩy ra những ý nghĩ muốn kể tiếp, lúc đó ta lại bật lại máy ghi âm vì có khi lại là những ý nghĩ quan trọng mà trước đó họ chưa nhớ ra.

4. Nghe băng ghi âm và ghi ra giấy:

Yên lặng lắng nghe băng ghi âm và ghi trung thực, không bỏ sót câu� chữ, kể cả những câu họ lặp lại, và những chỗ họ ngập ngừng, im lặng chốc lát. Nên nghe đi nghe lại băng vài lần mới nắm hết từng câu, từng từ. Đối chiếu với những điều ghi trong sổ tay. Suy ngẫm cho kỹ những điều đã nghe và ghi , ta có thể phát hiện những từ họ dùng rất điển hình, đặc trưng. Thí dụ, người bị HIV lâu năm họ coi như đã nhận bản án tử hình, họ gọi là “thây ma đi rong”. Những người kể có thể là nông dân, công nhân, chiến sĩ bình thường, thương binh, nhưng khi họ có những đau khổ, họ ngẫm nghĩ nhiều về cảnh ngộ của họ, đường đời đã trải qua với biết bao cay đắng, vinh nhục, vui buồn, Vấn đề nhân cách trong tâm lý học phương Tây 

VẤN� ĐỀ NHÂN CÁCH� TRONG TÂM LÝ HỌC PHƯƠNG TÂY


A. Vấn đề nhân cách trong Tâm lý học thế giới và Tâm lý học phương tây
Sự phát triển và hoàn thiện nhân cách con người đang trở thành trung tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu.� Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay, nhân tố con người trở lên cấp bách thì sự hiểu biết về vấn đề nhân cách là tiền đề của việc đầu tư có hiệu quả vào sự phát triển con người - yếu tố quyết định mọi sự phát triển trong xã hội.
Trong Tâm lý học vấn đề nhân cách là một vấn đề quan trọng bậc nhất và nghiên cứu gặp nhiều khó khăn nhất vì những lý do, thứ nhất là việc nghiên cứu đụng chạm đến những quan tâm chính trị của xã hội. Vì vậy, nhiều lý thuyết được tạo ra tuỳ thuộc vào sự định hướng của các tác giả mà mang tính chất duy tâm hay duy vật. Thứ hai là nhân cách là một cấu tạo rất phức tạp, vì vậy các hướng tiếp cận nghiên cứu nhân cách rất đa dạng dựa trên những quan điểm, quan niệm về nhân cách khác nhau. Ngay từ năm 1949, G.Allport� đã dẫn ra 50 định nghĩa khác nhau về nhân cách. Ngày nay đã có tới hàng trăm định nghĩa.
Trong Tâm lý học Xô viết có một khối lượng lớn các lý thuyết nghiên cứu về nhân cách có thể chia thành 4 nhóm sau:
- Hướng tiếp cận đối với nhân cách từ góc độ cơ cấu bên trong của nó có các quan niệm của các nhà tâm lý học như A.G. Côvaliốp, K.K.Platônốp,V.M.Blâykhe, L.Ph. Burơchúc. Nhiều nhà nghiên cứu về nhân cách� cho rằng nhân cách là một hệ thống có cấu trúc phức tạp, bao gồm 4 bộ phận: xu hướng, những khả năng, phong cách hành vi và hệ thống điều khiển của nhân cách.
Nghiên cứu� vấn đề thái độ của con người trong cấu trúc nhân cách V.V.N. Miaxisép và các cộng sự của ông cho rằng: các quan hệ ( thái độ) qui định tính nhiều mặt và sự phong phú của nhân cách. Sự thể hiện cơ động của nhân cách được qui định không chỉ bởi đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp cao, mà còn bởi những mối quan hệ ( thái độ) nảy sinh trong quá trình sống của con người 
- Nhóm nghiên cứu của L.I. Bôgiôvit, nghiên cứu sự hình thành nhân cách, cho rằng vai trò chủ đạo trong cấu trúc nhân cách thuộc về hệ thống các nhu cầu và ý hướng của chủ thể. Những cái đó quyết định hành vi của con người, bộ mặt tâm lý cá nhân và đặc điểm lứa tuổi của nó. Sự hài hoà giữa yêu cầu của môi trường� với thái độ của chủ thể đối với những yêu cầu đó có ý nghĩa quyết định trong sự hình thành nhân cách.
- BM, Chéplốp trong lý thuyết về năng lực cho rằng năng lực� là phẩm chất của nhân cách. Sự phát triển năng lực ở một chừng mực nhất định thuộc vào tư chất - tiền đề tự nhiên về mặt giải phẫu - sinh lý của hệ thần kinh. Nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của sự khác biệt về đặc điểm chất lượng trong cấu trúc của năng lực, tức là tính� đặc thù cá biệt ở mỗi người.
- Trường phái tâm lý học Grudia đứng đầu là D.N.Udơnatde lập thành một phương hướng đặc biệt trong lý thuyết về nhân cách: đó là vấn đề tâm thế. Họ cho rằng tâm lý học trước hết phải nghiên cứu chủ thể, nhân cách, trong đó khái niệm tâm thế giữ vị trí trung tâm. Tâm thế cũng giống như những hiện tượng tâm lý khác, nó là trạng thái chung của nhân cách. Tâm thế biểu hiện mối quan hệ tích cực của chủ thể đối với thực tại bằng sự thể hiện hành động thoả mãn nhu cầu. Bản chất của nhân cách được biểu hiện ra trong các loại tâm thế.
Tuy hiện nay có nhiều quan điểm và quan niệm khác nhau về nhân cách trong Tâm lý học Xô viết nhưng những nguyên tắc cơ bản, những lập trường xuất phát của các nhà nghiên cứu đều thống nhất trên quan điểm quyết định luận duy vật biện chứng: coi nhân cách là một phạm trù xã hội và có mối liên hệ với các đặc điểm tự nhiên của con người, là một chủ thể có ý thức mang đặc điểm tâm lý tổng hoà các mối quan hệ xã hội trong đó nó sống và hoạt động.
ở Việt nam các công trình nghiên cứu về nhân cách đều thống nhất trên quan điểm quyết định luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Khái niệm nhân cách được xem là toàn bộ những đặc điểm phẩm chất tâm lý của cá nhân, qui định giá trị xã hội và hành vi của họ. Nhân cách được phân tích trên 3 bình diện thống nhất với nhau:
- Nhân cách được xem xét từ bên trong cá nhân như là một đại diện của toàn xã hội, giá trị của nhân cách thể hiện ở tính tích cực của nó trong việc khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và hạn chế của bản thân.
- Nhân cách được thể hiện trong các mối quan hệ và liên hệ mà nó gia nhập vào đó. Giá trị của nhân cách được xem xét trong các hành vi, cử chỉ xã hội của nó.
- Nhân cách là một chủ thể đang thực hiện tích cực chủ tâm hay không có chủ tâm những biến đổi trong những người khác bằng hoạt động của mình. Giá trị của nhân cách được xem xét ở những hành động gây ra những biến đổi ở những nhân cách khác.
Về cấu trúc nhân cách theo quan niệm của Việt nam� các tác giả đưa ra 2 bộ phận thống nhất với nhau là đức và tài, hay phẩm chất và năng lực dưới sự chỉ đạo của ý thức bản ngã ( cái tôi). 
Phẩm chất nhân cách bao gồm những yếu tố sau;
- Phẩm chất xã hội: thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, lập trường. thái độ chính trị, thái độ lao động
- Phẩm chất cá nhân: các tính nết.
- Phẩm chất ý chí; tính kỷ luật, tự chủ, tính mục đích...
- Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí....
Năng lực bao gồm những yếu tố sau:
- Năng lực xã hội hoá: khả năng thích ứng sáng tạo, linh hoạt trong toàn bộ cuộc sống xã hội.
- Năng lực chủ thể hoá: khả năng biểu hiện tính độc đáo, cái bản lĩnh... của cá nhân.
- Năng lực hành động; kỹ năng hành động có mục đích, điều khiển chủ động, tích cực.
- Năng lực giao lưu: kỹ năng thiết lập và duy trì quan hệ với người khác.
Vấn đề nghiên cứu nhân cách ở Việt nam đang được đặt ra cấp bách� vì nó có ý nghĩa khoa học và thực tiễn thực sự đối với việc xây dựng, đào tạo con người để tạo nguồn năng lực tương xứng với đòi hỏi của công cuộc đổi mới của đất nước. Các nhà nghiên cứu đang cố gắng đưa ra các căn cứ khoa học một cách đầy đủ hơn, có hệ thống hơn về cấu tạo và bản chất tâm lý của nhân cách con người Việt nam.
ở phương Tây vấn đề nhân cách được nghiên cứu khá sớm. Từ năm 1900� � � � W. Stern đã đưa ra khái niệm " Person" để chỉ bất cứ thực thể nào có khả năng tự� xác định và tự phát triển kể cả trong thế giới vô cơ lẫn hữu cơ. ở trình độ con người� thì những " Person"� này có được những thuộc tính của nhân cách. Lý thuyết của W.Stern về nhân cách là duy tâm vì ông đã đưa tất cả các loại " Person" vào thuộc tính của nhân cách.
Trong tâm lý học phương Tây hiện đại đang tồn tại nhiều quan niệm rất đa dạng, thường mâu thuẫn đối lập nhau về nhân cách. Các quan niệm đó có thể chia thành 2 nhóm. Nhóm theo quan niệm sinh vật và nhóm theo quan niệm xã hội.
Các lý thuyết về nhân cách� như Phân tâm học, thuyết siêu đẳng và bù trừ của A. Adler, thuyết Lo lắng của K.Horney, thuyết phát huy bản ngã của A. Maslow, thuyết Đặc trưngcủa G. Allport, thuyết nhu cầu tâm lý của H. Murray, thuyết tương tác xã hội của G. Mead, thuyết Liên cá nhân của R. Sears, thuyết cái tôi của C. Rogers, thuyết Trường tâm lý của K.Lewin, thuyết chạy trốn tự do của E. Fromm... Trừ thuyết phân tâm học của S.Freud là thuyết theo quan niệm sinh vật, các lý thuyết khác đầu có xu hướng ngày càng nhấn mạnh đến yếu tố nhân văn, xã hội của con người.
Sự phong phú của các lý thuyết về nhân cách trên đây chứng tỏ rằng tồn tại nhiều lập trường khác nhau về nhân cách và mỗi lý thuyết có sự phiến diện nhất định. Các lý thuyết chưa thống nhất được các luận điểm cơ bản , có luận chứng đầy đủ về cấu tạo và bản chất tâm lý của nhân cách.
Việc nghiên cứu vấn đề nhân cách trong Tâm lý học� phương Tây hiện nay là rất cần thiết. Trên cơ sở phê phán, đánh giá các mặt mạnh, mặt yếu của các lý thuyết đó làm tăng thêm hiểu biết về lý luận và tiếp thu có chọn lọc những nhân tố hợp lý trong việc ứng dụng vấn đề nhân cách.

Chán kí rồi....

Re: VẤN ĐỀ NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC PHƯƠNG TÂY 

B. Các lý thuyết về nhân cách
1. Lý thuyết về nhân cách của Sigmund Freud ( 1856 - 1939 )
� � � Trong trào lưu chống lại tâm lý học duy tâm chủ quan vào đầu thế kỷ 20 xuất hiện một dòng tâm lý học với cương lĩnh xây dựng một nền tâm lý học khách quan. Đó là lý thuyết phân tâm do S. Freud bác sĩ tâm thần ở áo xây dựng nên. Lý thuyết này có ảnh hưởng rộng lớn nhất trong số những thuyết theo quan niệm sinh vật, đồng thời cũng là thuyết bị phê phán nhiều nhất hiện nay.
Lý thuyết về nhân cách của S. Freud gồm 3 mặt:
- Cấu tạo của nhân cách
- Sự phát triển của nhân cách
- Tính động lực của nhân cách
a. Cấu tạo nhân cách gồm 3 phần
- Nguyên ngã ( Id ): cái tôi bản ngã
- Thức ngã ( Ego): cái tôi ý thức
- Thiện ngã ( Super Ego): cái tôi siêu thức
Nguyên ngã là một phần trong nhân cách bao gồm các động cơ, phản ứng bản năng để thoả mãn động cơ. Những động cơ này được gọi chung là Libido ( dục năng). Nguyên ngã là cái tự nó vốn có, tự nó có nguồn năng lượng đảm bảo cho toàn bộ thế giới tinh thần. Nguyên ngã tồn tại theo nguyên tắc thoả mãn.
Thức ngã bao gồm những suy nghĩ, ý thức của con người về các qui định của các qui luật cuộc sống và các mối quan hệ thường ngày, cách thức ứng xử đã tập luyện được trong cuộc sống bằng kinh nghiệm. Nó kìm hãm việc thoả mãn các động cơ của thức ngã hoặc hướng dẫn các động cơ đó biểu hiện ở những hình thức được xã hội chấp nhận, giúp con người thích nghi với hoàn cảnh thực tế của đời sống.Thức ngã tồn tại theo nguyên tắc thực tiễn.
Thiện ngã là những cái siêu phàm, những cái mà con người thật không bao giờ vươn tới được, những cái như là lương tâm, các lý tưởng. Nó gồm những sự kiềm chế thu được trong quá trình phát triển nhân cách về các hoạt động của nguyên ngã và thức ngã. Thiên ngã ngăn cấm thức ngã không làm những điều trái để thảo mãn các động cơ của nguyên ngã. Nó thúc đẩy cá nhân tiến đến lý tưởng mà thức ngã thu được trong quá trình sống.
Thiên ngã và thức ngã thường ngăn chặn dục ngã ( libido). Khi bị ngăn chặn dục ngã có thể tìm những biểu lộ được thức ngã và thiện ngã chấp nhận.
Sự lo lắng ( Anxiety) xảy ra là do nguyên ngã thường hay xung đột với thức ngã và thiện ngã. Những phương pháp mà cá nhân tiêu trừ� sự lo lắng gọi là cơ chế tự vệ ( Defense mechamism).
b. Sự phát triển của nhân cách: 
Từ lúc sơ sinh đến tuổi trưởng thành nhân cách phát triển qua 4 giai đoạn. Các giai đoạn này bao chùm lên nhau không có ranh giới rõ rệt. Ba giai đoạn đầu ( giai đoạn miệng, giai đoạn hậu môn, giai đoạn dương vật) là các giai đoạn tiền sinh dục. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn sinh dục, bắt đầu ở tuổi dậy thì. ở một trong ba giai đoạn đầu nếu gặp phải quá nhiều sự thất vọng gay gắt, bất ổn trong tinh thần sẽ trở thành " cố định hoá" ( Fĩation), lúc trưởng thành sẽ có nhũng hội chứng nhân cách.
Trong ba giai đoạn đầu cá nhân chú trọng hướng vào bản thân mình. ở giai đoạn sinh dục cá nhân bắt đầu chú ý đến người xung quanh, để tâm đầy đủ đến các vai trò xã hội và ham thích tình dục với người khác giới.
c. Tính động lực của nhân cách:
Phân tâm học cho rằng những tư tưởng và hành vi của cá nhân là do những động cơ là những bản năng và những thúc đẩy của nguyên ngã muốn biểu lộ ra bên ngoài. Động cơ có thể bị dồn nén do không biểu lộ được trực tiếp và bị chèn ép, kiểm soát của thức ngã, thiện� ngã, hoặc có thể biểu lộ dưới các hình thức cải biến, nguỵ trang như những hành vi sơ xuất, giấc mơ, sự lãng quên... Động cơ của nguyên ngã tồn tại mà cá nhân ít biết đến nên được gọi là động cơ tiềm thức. Hoạt động của động cơ tiềm thức là động lực của nhân cách.
Phân tâm học được đánh giá ở các cấp độ khác nhau: y học, Tâm lý học, Triết học.
Đối với y học ( cụ thể là tâm thần học) thì học thuyết này có giá trị là đã đưa ra một phương pháp trị liệu tâm lý mới ( liệu pháp tâm lý phân tích - analitical Psychotherapy). Chỉ ra một số nguyên nhân của bệnh tâm căn xuất phát từ vô thức. Những sai lầm của phân tâm học thể hiện trong lý thuyết về các bệnh tâm căn. Lý thuyết này cho rằng nguyên nhân về các bệnh tâm căn là do " những mặc cảm tình dục ấu thơ".
Đối với Tâm lý học Phân tâm học đặt ra một loạt các vấn đề� Tâm lý học quan trọng như vô thức, động cơ bị che dấu của hành vi người bệnh, thu hút sự chú ý vào tầm quan trọng của yếu tố vô thức trong đời sống cá nhân. Các khái niệm của phân tâm học được sử dụng phổ biến trong tâm lý học hiện đại.
Hạn chế của Phân tâm học thể hiện ở cơ sở phương pháp luận : coi cái tôi vô thức là yếu tố quan trọng nhất của toàn bộ nhân cách. xem đối tượng của tâm lý học là vô thức, Phân tâm học đã sinh vật hoá con người và xem nhẹ vai trò của ý thức và điều kiện xã hội trong sự phát triển nhân cách.
Đối với triết học, phân tâm học là một triết thuyết phản khoa học và phản động đã phủ nhận vai trò của nhân tố xã hội trong ý thức, biện hộ cho các giai cấp thống tị của xã hội tư bản trong các hành vi phạm tội và làm sa đoạ tầng lớp thanh niên trong sự tuyên truyền, cổ động cho cuộc " cách mạng tình dục"

2. Thuyết siêu đẳng và bù trừ của Alfred Adler ( 1870 - 1937 )
A. Adler là một nhà tâm lý học người áo, một môn đệ của S.Freud. Lý thuyết của ông chú trọng đến vấn đề nhu cầu hay động cơ thúc đẩy cá nhân dành địa vị siêu đẳng hơn người khác. Theo ông các đam mê sinh dục, nhận thức về sự thiếu hụt và sự� � phải bù trừ những khuyết tật chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển nhân cách.
Nhận thức về sựu thiếu hụt có thể do nguyên nhân cơ thể như sự không hoàn thiện về mặt thể chất, hình thái, do khó khăn trong giao tiếp ngoài xã hội... Nhận thức này là động cơ thúc đẩy nên cá nhân luôn có khát vọng vượt qua bằng hình thức muốn dành ưu thế - địa vị siêu đẳng, muốn làm chủ môi trường xung quanh.
Theo A.Adler sự " mặc cảm tự ti" nảy sinh khi cá nhân nhận thấy sự thua kém của bản thân cố gắng vượt qua những nhược điểm, nhưng nhiều lần bị thất bại hoặc quá chú ý đến sự kém cỏi củabản thân. Trong lý thuyết này khái niệm " bù trừ" dùng để chỉ những khát vọng, muốn hoàn thiện. Khát vọng giành lấy địa vị siêu đẳng trong một lĩnh vực khác chính là sự bù trừ thừa mức mà cá nhân trở nên siêu việt hơn người về chính các phương diện mà nguyên nhân là các nhược điểm của họ.
� � � � � A. Adler đối lập với S. Freud trong quan niệm về yếu tố xã hội trong sự phát triển nhân cách. Ông cho rằng nhân cách không chống đối xã hội. Nhân cách như là phong cách sống. Sự hình thành phong cách sống phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình, trước tiên là người mẹ và phụ thuộc vào môi trường xã hội mà nó đang sống. ông chia cuộc sống của cá nhân thành 3 lĩnh vực cơ bản: Hoạt động nghệ nghiệp, quan hệ xã hội với người khác, tình yêu và hôn nhân. Nhân cách bình thường được thể hiện trong việc thực hiện 3 lĩnh vực trên, còn cá nhân không có khả năng hoà nhập xã hội và thực hiện được 3 vấn đề quan trọng đó thì sẽ có biểu hiện hành vi lệch lạc trong quá trình phát triển. Nhân cách bệnh lý có đặc điểm là sự nhận biết về những thiếu hụt được tăng cường, các hứng thú xã hội kém phát triển và mục đích vươn tới sự ưu thế được hoạt hoá hơn mức bình thường. đối với trẻ em, có 3 nhóm điều kiện gây ra cảm giác thiếu hụt.
- Thiếu hụt về thể chất
- Giáo dục không đúng tạo ra những đứa trẻ không nhận thấy giá trị bản thân.
- Giáo dục không đúng tạo ra những đứa trẻ luôn có quan hệ thù địch với mọi người
Theo A.Adler: sự khuyết tật không tiền địch số phận phát triển của cá nhân và có thể bù trừ trong quá trình giáo dục.
Mặc dù A.Adler tiếp nhận các quan điểm của Phân tâm học trong lý thuyết của mình, cho rằng cái vô thức bẩm sinh là động lực của hành vi nhưng ông là người đầu tiên có xu hướng xã hội hoá trong Phân tâm học đã khẳng định vai trò của yếu tố xã hội trong sự phát triển nhân cách.
Sự đóng góp của A. Adler cho Tâm lý học chính là phát hiện ra hiện tượng bù trừ trong đời sống tâm lý con người: cảm giác về sự yếu kém của mình và nguyện vọng muốn bù trừ và bù trừ thừa mức.
Mặt hạn chế của A.Adler thể hiện ở sự đánh giá thấp vai trò quyết định quan trọng của yếu tố xã hội đối với nguyện vọng phương hướng của sự bù trừ, quan niệm nhân chủng hoá về bản tính xã hội của con người, cá thể hoá và tâm lý hoá nguyện vọng của cá nhân muốn hoàn thiện khắc phục những thiếu sót, yếu kém của mình.

3. Thuyết lo lắng của Karen Horney ( 1885 - 1952)
K. Horney là nhà tâm lý học người Mỹ trong học thuyết của mình đã chú trọng đến vấn đề sự lo lắng cơ bản. Bà cho rằng sự lo lắng phát sinh là do những ảnh hưởng xã hội lịch sử trong sự phát triển của đứa trẻ chứ không phải do sự xung đột giữa các động cơ sinh lý với thức ngã và thiện ngã.
Sự lo lắng của đứa trẻ nảy sinh trong hoàn cảnh làm nó sợ hãi ( cha mẹ xung đột, trẻ bị đối xử lãnh đạm, thờ ơ...). Những cách thức đối phó với sự lo lắng được trẻ tập được trong hoàn cảnh sống trở thành những nhu cầu ưu uất ( Neurotic needs ). Nhu cầu này do học tập, do kinh nghiệm mà có và có nhiều loại tuỳ theo đứa trẻ cần cái gì để trấn áp sự lo lắng ( ví dụ nhu cầu về tình thương, sự khuyến khích ... để đối phó với hoàn cảnh lo lắng của trẻ ).
K. Horney đã thử lập một bảng liệt kê gồm gần 10 nhu cầu như: nhu cầu thương yêu, lệ thuộc, quyền lực, uy thế, thành đạt...
Trong lý thuyết của mình bà đề cập nhiều tới vấn đề xung đột và cho rằng quan trọng nhất là xung đột giữa bản thân các nhu cầu ( ví dụ: vừa cần có người nương tựa đồng thời lại muốn tự túc, độc lập). Việc giải quyết xung đột của các nhu cầu sẽ quyết định thuộc tính tâm lý cá thể và quyết định cá thể là người bình thường hay bệnh thần kinh.
Theo K. Horney tính gây hấn, tính thù địch với người khác, nguyện vọng an ninh như là những phản ứng tự vệ có tính chất tâm bệnh của những cá nhân đang cảm thấy mình bị đe doạ, đang bị lừa dối, chịu nhục
Bà khẳng định chính mối quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa là nguồn gốc thường xuyên của mối đe doạ, đã sinh ra các kiểu nhân cách tâm bệnh đặc biệt trên. Bà đã phân tích một vài đặc điểm của xã hội tư bản như cạnh tranh... và thấy chúng không chỉ là động lực phát triển kinh tế mà còn xuyên suốt cuộc sống riêng của từng người trong xã hội. Các mối quan hệ con người trong xã hội tư bản đều mang tính cạnh tranh. Mọi người thường so sánh mình nói với người khác để vươn tới. Quá trình sống đã tạo ra cảm xúc sợ hãi nặng nề trước những thất bại có thể xảy ra. Sự bất an được nảy sinh từ hoàn cảnh của cuộc sống của từng cá thể.
K.Horney đã có những đóng góp vào lý luận chung về nhân cách bằng việc vạch ra tính quy định xã hội - lịch sử của các hình thức bệnh tâm căn. Tuy vậy, lý thuyết của bà cũng có những hạn chế nhất định. Bà đã không đề ra các con đường để biến đổi cơ bản cái xã hội mà bà phê phán, những nhân tố xã hội của sự hình thành nhân cách lành mạnh về mặt tâm lý, không giải thích được sự tồn tại của một kiểu nhân cách độc lập, dũng cảm dám xoá bỏ những truyền thống ngăn cản sự tiến bộ và xây dựng lại xã hội cần thiết cho sự phát triển hài hoà nhân cách con người.

4. Thuyết phát huy bản ngã của Abraliam Maslow ( 1908 - 1970)
A. Maslow là nhà tâm lý học người Mỹ là tác giả của thuyết phát huy bản ngã vào năm 1954. Đây là thuyết nhiều nhân tố, trong đó ông đưa ra 5 trình độ nhu cầu xếp thành đẳng cấp từ thấp đến cao như sau:
- Nhu cầu sinh lý ( đói, khát, tình dục )
- Nhu cầu an toàn ( an ninh, yên ổn, trật tự)
- Nhu cầu sở thuộc và yêu mến ( thương mến, hệ thức, đồng nhất hoá)
- Nhu cầu ngưỡng mộ ( uy tín, thành công, tự trọng )
- Nhu cầu phát huy bản ngã ( phát triển tiềm năng cá nhân )
Việc xếp hạng các nhu cầu phù hợp với sự xuất hiện chúng trong quá trình phát triển cá nhân và cũng là thứ tự thoả mãn các nhu cầu đó. Các nhu cầu thấp cần được thoả mãn thì mới có sự đòi hỏi thoả mãn ở các nhu cầu sau. Trong các nhu cầu trên thì nhu cầu phát huy bản ngã là cao nhất. Đó là nhu cầu muốn phát triển triệt để tiềm năng cá nhân của mình. Trong quá trình đó có người thành đạt trong xã hội, có người sự thành đạt chỉ là những sự bù trừ nên họ vẫn thất vọng và đau khổ về phương diện khác.
Đóng góp của A.Maslow cho Tâm lý học là đưa ra được năm nhu cầu cơ bản của con người và sự cần thiết của việc thoả mãn các nhu cầu đó trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Mặt hạn chế của lý thuyết này là coi tính người của nhu cầu được hình thành trong quá trình phát sinh loài người. hệ thống thứ bậc nhu cầu mang tính di truyền. Đây là lập trường nhân chủng hoá các động cơ của cá nhân, coi cái thúc đẩy - động cơ của con người giống nhu các xung đột của nguyên ngã ( Vô thức ) như quan điểm của S.Freud. Vì vậy, thuyết này phủ định sự cần thiết phải hình thành có mục đích các nhu cầu của con người.

5. Thuyết đặc trưng của Gordon Allport ( 1897 - 1969 ).
Trong thuyết này G.� Allport đưa ra hai khái niệm quan trọng của nhân cách.
- Khái niệm " Tính có một không hai " của nhân cách dùng để chỉ tính độc đáo riêng biệt của từng người không giống người khác. G. Allport cho rằng mục đích chính của Tâm lý học nhân cách là nghiên cứu tính có một không hai của nhân cách mỗi người đó là cá tính. Khái niệm " Thiên hướng " của ông là sự hoà nhập của một số đặc điểm không lặp lại của cá thể vào một chỉnh thể của nhân cách.
- Khái niệm về sự tự trị điều hành của các động cơ: Các động cơ mới nẩy sinh trong quá trình phát triển của cá nhân sẽ tiếp tục điều hành một cách tự trị không cần có sự củng cố của những điều kiện sinh lý vốn là nguyên nhân sinh ra chúng lúc trước. Sự tự trị điều hành động cơ là cơ chế hình thành các động cơ mới. Sự hình thành nhân cách trước hết là sự phát triển của các động cơ.
Khác với các nhà hành vi mới như N.E.Miller và I. Dollard cho rằng nguồn gốc của các động cơ thứ phát xuất phát từ trạng thái cơ thể, từ nhu cầu sinh lý, G. Allport giải thích sự hình thành động cơ mới bằng sự chuyển hoá các phương tiên của hoạt động thành mục đích và động cơ của hoạt động. Sự hình thành các thuộc tính cơ bản nhân cách là sự thống nhất giữa sự phát triển các động cơ vơí việc hình thành các kỹ xảo của hành vi.
Lý thuyết G.� Allport có mặt tích cực trong Tâm lý học là coi trong những đặc điểm riêng biệt độc đáo không lặp lại ở người khác và sự tự điều hành động cơ hình thành liên tục nhân cách con người. Mặt hạn chế của ông là coi cơ chế hình thành động cơ mới là cơ chế duy nhất, chủ yếu hình thành nhân cách con người. Ông đã không tính đến hệ thống các mối quan hệ xã hội là điều kiện quy định sự xuất hiện các động cơ trong quá trình hình thành nhân cách con người.

6. Thuyết nhu cầu tâm lý của Herny Marray
H. Marray dùng phương pháp thực nghiệm để xác định những nhu cầu nhận thấy ở con người và đưa ra 1 bảng liệt kê gần 28 nhu cầu ( như: thành đạt, lệ thuộc, hung hãn, tự trị, phản công, cung kích tự vệ, chế ngự, phô trương... ). Ông cho rằng chỉ giải thích một nguyên nhân động cơ nào đó thì quá đơn giản mà cần phải nghiên cứu những nhu cầu mới có thể giải thích được tất cả mọi hành vi nhận thấy ở con người. Nhân cách con người khác nhau là do cường đôk khác nhau của những nhu cầu tâm lý, ông đã soạn trắc nghiệm tri giác chủ đê T.A.T để đo lường các nhu cầu ấy.
Theo H. Murray nhân cách là một thực thể của hành động và giao tiếp. Hành động là thành phần đơn giản nhất trong hoạt động của nhân cách, hành động thực hiện sự cải tổ môi trường xung quanh nhằm tiến gần đến một mục đĩch nhất định nào đó. Sự kế tục của các hành động hướng vào cùng một mục đích sẽ tạo thành chuỗi hành động. toàn bộ các chuỗi tạo thành các tích hợp hành động. Hệ thông các tích hợp hành động sẽ định rõ đặc tính của nhân cách như là một chỉnh� thể.
Theo H. Murray mỗi hành động của cá nhân là sự tác động qua lại của chủ thể và người khác mà cả hai người đều bị kích thích bởi các nhu cầu thoả mãn lẫn nhau và bởi các thuộc tínhnhân cách. Trong hệ thống hai người thống nhất, một cực sẽ hình thành sức căng của sự dư thừa, còn cực kia sức căng cụ thiếu hụt. Sự kích thích hành động ở người kia của chủ thể được gọi là " áp lực� của hành vi". Sự kích thích nảy sinh trong sự trả lời " áp lực " sẽ được củng cố trong thuộc tính nhân cách.
Lý thuyết nhu cầu tâm lý của H. Murray đã đề cập tới sự phong phú của các nhu cầu của con người và thành phần của hoạt động, cơ chế của giao tiếp trong sự hình thành nhân cách đó là mặt tích cực trong Tâm lý học.Tuy nhiên thuyết này có những mặt hạn chế thể hiện là vấn đề nội dung tính quy định xã hội của nhu cầu, động cơ không được làm sáng tỏ trực tiếp mà chỉ chú trọng đến tính cá nhân trong xu hướng nhân cách, không quan tâm đến lý tưởng nhân đạo đến hạnh phúc của nhân loại. H. Murray xem xét xu hướng ích kỷ của nhân cách theo chủ nghĩa nhân chủng học, phủ nhận tính quy định xã hội của xu hướng, xem� xu hưóng đó như bản tính của con người. Quan điểm này gần với S.Freud.

7. Thuyết tương tác xã hội của G.H.Mead và thuyết liên cá nhân của R.Sears.
Thuyết này do nhà Tâm lý học người Mỹ G.H.Mead đề xướng trong Tâm lý học xã hội. Tác giả cho rằng sự phát triển nhân cách được thực hiện trong quá trình giao tiếp, hoạt động� cùng nhau. Xã hội, tập thể là cái quyết định quá trình tương tác xã hội chứ không phải nhân cách. Hành vi của nhóm xã hội không phải là sự cộng lại của những cá nhân riêng lẻ tạo thành nhóm, đó là một chỉnh thể xã hội từ hoạt động phức tạp của nhóm . Các hệ thống và quan hệ xã hội đều là sự phát triển của quan hệ gia đình, là sự mở rộng của các quan hệ cha mẹ và các cá nhân trong gia đình. Như vậy tác giả coi nhân cách là cái thứ nhất chứ không phải xã hội.
Thuyết này về sau� được R.Sears kế tục còn gọi là thuyết " Liên cá nhân" ông đưa khái niệm " hệ thống hai người ", cho rằng các thuộc tính nhân cách được hình thành lần đầu tiên thông qua hoạt động và giao tiếp trong "hệ thống hai người". Hệ thống này là những hành động liên hợp của các cá nhân, là một cấu tạo độc lập, tự quyết định. Hành động của cá nhân bao giờ cũng định hướng vào hành vi của người khác và phụ thuộc vào nó vì vậy không có hành vi nào mang tính cố định bất biến.
Cùng với H.Murray và R.Sears là một trong các nhà Tâm lý học phương Tây hiếm hoi đã xem nhân cách là một thực thể của giao tiếp và hoạt động.
Lý thuyết R.Sears đã nhận định đúng về hành động xã hội của cá nhân là kết quả của sự tác động qua lại với những người khác trong xã hội. Nhưng giải thích " hệ thống hai người " là một cấu tạo độc lập, tự xác đinh bên trong là không đúng vì sự tác động qua lại giữa các cá nhân còn nằm trong hệ thống rộng lớn của các quan hệ xã hội như nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc.

: VẤN ĐỀ NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC PHƯƠNG TÂY 

8. Thuyết " cái tôi " Carl Rogers ( sinh năm 1902 )
Thuyết này đề cập tới mối tương quan giữa ba mặt sau:
- Nội dung đích thực của nhân cách 
- Các biểu tượng của con người về mình - về " cái tôi " của họ
- Các biểu tượng của con người về " cái tôi lý tưởng " của họ
Sự bất đồng sâu sắc giữa ba mặt này của nhân cách là nguyên nhân chính của bệnh tâm căn. Trong quá trình chữa bệnh Ông đã nhận thấy sự bất an, lo lắng xuất phát từ sự không trùng hợp giữa biểu tượng của mình và kinh nghiệm hành vi của con người. Những tình cảm, động cơ, ý muốn của con người bị chèn ép khi chúng không trùng hợp với biểu tượng của họ về bản thân. Ông đã đưa ra phương pháp chữa bệnh có tên� gọi " liệu pháp" tập trung vào bệnh nhân" nhằm để thứ nhất, hình thành ở nhân cách bệnh nhân một hình ảnh mới phù hợp với bản thân mình, thứ hai, làm cho " cái tôi lý tưởng" của họ hiện thực hơn, phù hợp hơn với khả năng của con người,Ông cho rằng sau này trình độ của " cái tôi lý tưởng" sẽ có thể nâng cao lên được nhưng với điều kiện phải nhận thức được những ưu điểm và thiếu sót của mình.
Ông đưa ra khái niệm " điều kiện của thể diện " ( condition of Worth ) là sự không phù hợp của " cái tôi lý tưởng " với khả năng thực tế của cá nhân, là sự nội tâm hoá đối với hệ thống các ý kiến và sự đánh giá của xã hội đối với các chuẩn mực của nhân cách đang nắm được, các thể diện mà con người muốn vươn tới trái ngược với thiên hướng, năng lực của bản thân. Theo C.Rogers, một xã hội mà ở đó giưã con người và con người tồn tại những quan hệ nhân đạo, thì nó sẽ tạo ra những khả năng tốt nhất cho sự nhật thức về mình. Đối với bệnh nhân thái độ đầm ấm của thày thuốc là điều kiện cần thiết của sự phát triển nhân cách của họ, tăng cường việc tự kiểm tra tính tổ chức của nhân cách. 
Những đóng góp của C.Rogers trong Tâm lý học là đã đặt ra vấn đề phức tập của nhân cách bệnh tâm căn có nguyên nhân là do mâu thuẫn căng thẳng giữa " cái tôi " hiện thực và "cái tôi" lý tưởng và đưa ra phương pháp trị liệu tâm lý. Mặc dù hạn chế của ông là đánh giá không đúng vai trò của " không khí điều trị bệnh ấm ám" trong sự phát triển nhân cách bệnh nhân, coi đó là nhân tố duy nhất để giải quyết mâu thuẫn nêu trên trong nhân cách mà không thấy được yếu tố điều khiển, giáo dục, của người thầy thuốc đối với bệnh nhân., cũng như quyết định xã hội đối với sự phát triển nhân cách.

10. Thuyết trường tâm lý của Kurt Lewin� ( 1890 - 1947 )
K.Lewin, người đề ra thuyết này là một đại diện tiêu biểu của trường phái Tâm lý học Gectalt. Theo thuyết này thì xung quanh con người tồn tại một thế giới các sự vật có những tiêu trị nhất định cho nên con người luôn tồn tại trong một " trường tâm lý" nào đó . Mối quan hệ tác động qua lại của chủ thể và môi trường xung quanh mang tính chất cơ động. Mọi hành động của con người trong hoàn cảnh trước mắt đều làm biến đổi mối tương quan về lực trong hoàn cảnh ấy và quyluật hành vi của chủ thể trong hoàn cảnh mới. Ông đã tiến hành thực nghiệm để chứng minh sự tồn tại của" trường tâm lý" và tiêu trị của các sự vật và thấy rằng trong hoàn cảnh mà chủ thể không thực hiện được một hành động có ý nghĩa thì hành vi sẽ trở thành hành vi tức cảnh (hành vi thoảng qua) do " trường" quy định.
K.Lewin cho rằng điều quan trọng là " trường " tâm lý xung quanh ẩn chứa trong mình khả năng gây ra hành động hướng về sự vật có tiều trị dương hoặc tránh xa những sự vật có tiêu trị âm, các tiêu trị này có liên quan sự thoả mãn nhu cầu. Hành vi con người được hình thành trong mối quan hệ tác động qua lại giữa tiêu trị của các sự vật và các nhu cầu. ý chí, hành động có chủ định xuất hiện là do sự khắc phục các lực tồn tại trong " trường ", không chịu ảnh hưởng của " trường " .
Trong thuyết của ông không có khái niệm " hành động có ý thức ". ở những người bệnh thì hành vi ưu thế là nguồn gốc quy định hành vi của chủ thể.
K.Lewin sau này đề cập nhiều tới khái niệm" không gian cuộc sống ", nó bao gồm cả " trường " tâm lý - đó là nhân cách và môi trường xã hội. Theo ông hành vi của con người là do cả nhân cách và môi trường tâm lý xung quanh quyết định chứ không phải do đặc điểm của môi trường quyết định và biểu đạt mối quan hệ này bằng công thức B = f(P.E) [ B: hành vi; P: nhân cách; E: môi trường] Hành vi B là hàm số của nhân cách và môi trường xung quanh.
Thuyết " trường " tâm lý có những đóng góp nhất định trong Tâm lý học. Nó đã nêu ra được bằng thực nghiệm những tương quan giữa nhân cách và môi trường xung quanh, xem xét nhân cách trong một hoàn cảnh trọn vẹn trong nhóm và cả bên trong bản thân nhân cách . Mặt hạn chế của thuyết này là� hành vi con người là hành vi miễn cưỡng bị quy định bởi lực hút và đẩy của môi trường xung quanh, không tính đến sự quy định của vấn đề kinh tế và chính trị đối với hành vi của nhân cách.

11. Thuyết chạy trốn tự do của Erich Fromm ( 1900 - 1980 ).
� E. Fromm là nhà Tâm lý học theo phái Phân tâm mới. Vị trí trung tâm trong lý thuyết của ông là vấn đề bản� chất xã hội của con người trong đó có cái vô thức. Ông cho rằng cơ sở của các bệnh tâm căn ở con người hiện đại là con ngươi� ngày càng tách rời khỏi các thành viên khác của xã hội. Con người ngày càng trở nên tự do, nhưng cũng càng cô đơn và bơ vơ. Vì vậy, con người cố gắng bằng các cách khác nhau chạy trốn khỏi sự tự do đó. Theo E. Fromm, các cách chạy trốn tự do của con người là cách thức mà cá thể giải quyết các vấn đề tồn tại của mình, được xây dựng trên cơ sở nhu cầu trốn khỏi sự yếu kém và cách ly của bản thân. Hình thức này mang tính tự vệ vì nó không khắc phục được các nguyên nhân sợ hãi, không giải quyết được các vấn đề tồn tại của con người. Ông đã liệt kê một số cơ chế cơ bản để đào thải khỏi sự cô độc, thiết lập với tập thể để làm mất cảm giác bơ vơ. Theo ông, cơ chế đào thải này là chủ đề quan trọng của nhân cách.
E. Fromm vạch ra được mối quan hệ của xã hội tư bản gắn liền với các dạng tâm bệnh nhưng lại không nhìn thấy sự cần thiết phải cải tổ có tính chất cách mạng những mối quan hệ đó. Vì vậy, cuối cùng ông đã chuyển sang lập trường duy tâm tìm lối thoát trong sự truyền bá tình yêu và trong hoạt động sáng tạo.
Trên đây là một số lý thuyết điển hình trong Tâm lý học phương Tây hiện đại. Nhìn chung những lý thuyết đó có những mặt tích cực và thiếu xót nhất định. Mặt tích cực thể hiện ở những điểm sau:
- Xu hướng ngày càng phủ định nguyên nhân sinh vật của sự thù địch giữa nhân cách và xã hội., nhấn mạnh nhu cầu " nhân văn" của con người.
- Sự cố gắng chứng minh khả năng phát triển không ngừng của nhân cách.
- Phát hiện những hiện tượng, sự kiện phong phú trong đời sống tâm lý của con người.
- Chú ý đến tính đặc trưng và tính cơ động của nhân cách.
- Đề xuất một số phương pháp nghiên cứu nhân cách có giá trị.
Những thiếu xót cơ bản là;
- Xem nhân cách có trước và tồn tại song song với xã hội nếu không phải là hiện tượng thứ nhất đối với xã hội, nhân cách bị nhân chủng hoá và tâm lý hoá.
- Giải thích các quan hệ xã hội như quan hệ liên nhân cách, thuần tuý có tính chất cá nhân.
- Giải thích hành vi xã hội của con người bằng những thuộc tính đóng kín trong bản thân nhân cách hoặc� của môi trường phủ nhận những qui luật phát triển thực tế của xã hội, của các nhóm xã hội, của nhân cách.
Các lý thuyết Tâm lý học phương Tây với sự đa dạng của nó đã cung cấp một phần nào những thông tin cần thiết cho những nhà nghiên cứu để có thể nhìn nhận bao quát hơn về vần đề nhân cách,
Để giải quyết vấn đề nhân cách thì cần phải hiểu rõ về nó, vì vậy các kết quả nghiên cứu� của các lý thuyết trên mặc dù có sự phiến diện và những hạn chế nhất định nhưng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong tâm lý học thế giới.
Nhân cách và sự phát triển văn hóa xã hội ở tuổi thiếu niên 

Thiếu niên thường có khả năng kết hợp một cách khéo léo giữa sự trưởng thành với tính ngây thơ trong quá trình chuyển đổi từ trẻ em thành người lớn. Bên cạnh đó, sự kết hợp vụng về và đôi khi là nực cười này giữ chức năng quan trọng trong sự phát triển. Thiếu niên vượt qua được những cú sốc do thay đổi về cơ thể và vai trò mới như thế nào phụ thuộc nhiều vào sự phát triển nhân cách của các em trong những năm trước đó. Để vượt qua những vấn đề mới này các em phải huy động những hiểu biết, nguồn dự trữ và sức mạnh được tích luỹ trước đó.
Trong chương trước chúng ta thấy rằng, giai đoạn chuyển đổi từ trẻ em thành người lớn khác nhau rất nhiều ở các nền văn hoá. ở một số xã hội, việc trở thành người lớn đạt được một cách dễ dàng và nhanh chóng, bởi vì� những xã hội này rất cần những con người trưởng thành mới và thường xuyên có nhu cầu với nhóm dậy thì mới. Ngược lại, ở các nước công nghiệp, để việc chuyển đổi thành người lớn thành công thì đòi hỏi phảI có sự giáo dục thường xuyên và sự chuẩn bị nghề nghiệp. ở những xã hội này, lứa tuổi thiếu niên bắt đầu từ khi phát dục và kéo dài ít nhất là tới 18 - 19 tuổi và nhiều hơn nữa, như vậy, thiếu niên được rèn giũa trong một thời gian dàI. Mặc dù đã có sự trưởng thành về mặt thể chất và trí tuệ nhưng nhiều thiếu niên không được giao những công việc quan trọng.
Giai đoạn thiếu niên kéo dàI, một mặt, mang lại cho các em nhiều cơ hội thực nghiệm những kiểu hành vi khác nhau của người lớn, mặt khác, tạo nên những căng thẳng và mâu thuẫn nhất định. Chẳng hạn, muốn trở thành người tự lập, lĩnh hội những kinh nghiệm cá nhân nhưng lại phụ thuộc bố mẹ về tài chính.
Một số thiếu niên gặp phải áp lực mạnh mẽ từ phía người lớn, những người mong muốn con mình thành đạt và có vị thế xã hội cao, điều mà bản thân họ không đạt được (Elkind, 1998). Thiếu niên phải vượt qua áp lực bên ngoàI cũng như áp lực bên trong. Ngoài ra, các em cần phải hoàn thành những giai đoạn cơ bản của sự phát triển và vận dụng những kết quả này vào việc đồng nhất về chức năng. Trong chương này chúng ta sẽ thấy: Thiếu niên vượt qua những vấn đề nêu trên như thế nào? Họ trải nghiệm những chiến thắng và thất bại của mình như thế nào? Thiếu niên lĩnh hội các chuẩn mực và giá trị xã hội, giáo dục lòng trung thành và trở thành người trưởng thành như thế nào? Tham gia vào quá trình này có cha mẹ và những bạn cùng lứa bao gồm nhóm và những người bạn thân, sự lựa chọn ở đây rất phong phú, bởi chính sự đa dạng của xã hội. Chúng ta sẽ phân tích những khó khăn trong quá trình này và các kiểu hành vi không thích nghi cơ bản dẫn tới nguy cơ sử dụng các chất gây nghiện, phạm tội, trầm cảm và tự tử.
Những nhiệm vụ phát triển của lứa tuổi thiếu niên
Mỗi giai đoạn phát triển của cuộc đời đòi hỏi những kỹ năng và câu trả lời mới, dó đó có những vấn đề và khó khăn khác nhau. Đa số các nhà nghiên cứu tán thành rằng, thiếu niên gặp� phải 2 nhiệm vụ cơ bản sau:
1. Dành được quyền tự quyết và độc lập với cha mẹ (ở các nền văn hoá khác nhau, điều này diễn ra dưới các hình thức khác nhau)
2. Hình thành tính đồng nhất, biểu hiện "cái tôi" sáng tạo và độc lập, kết hợp một cách hài hoà giữa các thành tố khác nhau của nhân cách. ở các nước phương Tây, lứa tuổi thiếu niên thường được xem xét như là giai đoạn "nổi loạn và bất trị", giai đọan xáo trộn mạnh mẽ trong tình cảm và hành vi. Nguồn gốc của thuật ngữ này xuất phát từ phong trào văn học Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. (Sturm and Drang). Anna Freud sử dụng thuật ngữ này để biểu thị trạng thái xúc cảm đặc trưng cho lứa tuổi thiếu niên. Bà đã đi xa tới mức khẳng định rằng: "là một người bình thường ở lứa tuổi thiếu niên nghĩa là điều không bình thường" (1958, tr. 275). A.Freud, những người theo quan điểm của Freud và sau đó là những người theo chủ nghĩa Freud mới chứng minh rằng, bắt đầu sự chín muồi về mặt sinh học và ham muốn tình dục mạnh lên gây ra mâu thuẫn với những bạn cùng lứa, với cha mẹ.
Các em thiếu niên có hay gặp phải những điều khó chịu không? Vâng, với một số em thì có. Tuy nhiên chúng ta biết rằng, phần lớn các em trải qua giai đoạn này một cách thầm lặng. Phần đông các em thích ứng tốt và không có mâu thuẫn bên trong gay gắt, cũng như là không có vấn đề với cha mẹ và những bạn cùng lứa, chỉ có từ 10 đến 20 % thiếu niên có những rối loạn về tâm lý, và tỷ lệ này cũng giống như ở người lớn. (Powers et al, 1989)

Chán kí rồi.... Nhân cách và sự phát triển văn hóa xã hội ở tuổi thiếu niên 

Sự độc lập và sự phụ thuộc lẫn nhau
Theo quan điểm thống trị hiện nay, thì thiếu niên sử dụng xung đột và quậy phá để giành được quyền tự quyết và sự độc lập với cha mẹ. Từ giữa những năm 1960, các phương tiện truyền thông chú ý nhiều đến vấn đề "đoạn giao giữa các thế hệ" và mâu thuẫn gay gắt giữa cha mẹ và con cái. Lịch sử vấn đề này phong phú và đầy rẫy bế tắc, tuy nhiên chỉ có một số lượng nghiên cứu rất ít ỏi khẳng định điều này. Phần lớn các công trình trong lĩnh vực này cho thấy, mâu thuẫn giữa thiếu niên và gia đình đã bị thổi phồng đáng kể.
Mặc dù ở giai đọan đầu tuổi thiếu niên, khoảng cách xúc cảm giữa thiếu niên và cha mẹ nói chung là tăng lên (Steinberg), điều này không nhất thiết dẫn tới việc quậy phá hoặc là phủ định các giá trị của cha mẹ.
Daniel Offer và những đồng nghiệp của ông đã nghiên cứu 6 nghìn thiếu niên ở 10 nước khác nhau: úc, Banglades, Hungari, Israel, ý, Nhật, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ và Tây Đức cũ dựa trên bảng hỏi nhằm nghiên cứu sự đánh giá của các em về các mối quan hệ trong gia đình(Offer, Ostrov, Howland & Atkison, 1998). Họ nhận thấy, ở tất cả các nước, số đông thiếu niên có quan hệ tốt với cha mẹ và đánh giá tích cực các mối quan hệ gia đình, chỉ có một tỷ lệ không lớn thiếu niên đồng ý với những khẳng định tiêu cực sau:
Cha mẹ em xấu hổ vì em (7%)
Em đã từ lâu không hài lòng với cha mẹ (9%)
Em rất thường xuyên thấy mẹ em xử sự không đúng (9%)
Em rất thường xuyên thấy cha em xử sự không đúng (9%)
Trong tương lai, em sẽ làm cha mẹ thất vọng (11%)
Câu trả lời của thiếu niên ở các nước khác nhau có khác nhau chút ít, điều này nhấn mạnh tới tầm quan trọng của ngữ cảnh văn hoá trong sự phát triển của thiếu niên. Chẳng hạn, thiếu niên Israel thông báo về những mối quan hệ gia đình tích cực hơn, có thể là do sự quan tâm đặc biệt trong các gia đình thuộc nền văn hoá châu Âu truyền thống. Nói chung, những số liệu của Offer đối lập hoàn toàn với quan điểm của Freud cho rằng, mâu thuẫn do những nhu cầu và những thay đổi về mặt sinh học là không tránh khỏi.
Cần phải xem xét lại quan điểm về quyền tự quyết như là sự thoát khỏi ảnh hưởng của bố mẹ. Khi phân tích sự độc lập thì cần phải hiểu rằng bố mẹ vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới các em trong và sau khi kết thúc tuổi thiếu niên. John Hill đề xuất một cách tiếp cận lý thú với việc tìm kiếm tự do cho thiếu niên. Ông đi đến kết luận, có thể xác định quyền tự quyết thông qua việc tự điều chỉnh. Quyền tự quyết được hiểu như là việc tiếp nhận những đánh giá riêng và điều chỉnh hành vi của mình, điều này có thể xác định bằng câu "Hãy suy nghĩ về chính bản thân mình". Nhiều thiếu niên học chính cách này. Các em đánh giá lại những luật lệ, những giá trị và những hạn chế của lứa tuổi trẻ em khi ở nhà và ở trường học. Đôi khi các em gặp phải sự chống đối quyết liệt của cha mẹ, điều này có thể dẫn tới mâu thuẫn. Bên cạnh đó, thông thường cha mẹ cùng với các em cố gắng vượt qua vấn đề này bằng cách giảm bớt phạm vi mâu thuẫn, giúp các em phát triển tư duy độc lập và tự điều chỉnh hành vi của mình (Hill, 1987). 
Chắn chắn rằng, việc trở thành người lớn sẽ dần dần kết thúc. Bước chuyển đổi này cùng một lúc đòi hỏi sự độc lập và sự phụ thuộc lẫn nhau. Mối liên hệ lẫn nhau có thể xác định như sự phụ thuộc lẫn nhau. Những quan hệ xã hội phụ thuộc lẫn nhau, chẳng hạn, các mối quan hệ trong công việc. Những nhà kinh doanh phụ thuộc vào sản phẩm mà những người công nhân sản xuất ra, những người công nhân phụ thuộc vào sự lãnh đạo nhà máy thành công của nhà kinh doanh. Như vậy sự phụ thuộc lẫn nhau là những trách nhiệm lâu dài và làm gắn kết mọi người với nhau (Enlligem, 1987).
Hình thành tính đồng nhất
Trước tuổi thiếu niên, chúng ta coi mình xuất phát từ một loạt những vai: bạn, thù, sinh viên, người thủ môn, người chơi đàn ghi ta, và cả trên cơ sở là thành viên của nhóm bạn tri kỷ, của câu lạc bộ hoặc là của nhóm bạn nào đó.� ở giai đoạn này với khả năng nhận thức rộng hơn (Chương 11) cho phép chúng ta phân tích chúng, làm rõ các thành tố không phù hợp, xung đột, và sắp sếp lại các vai này, dần dần tiến gần tới sự đồng nhất của bản thân. Đôi khi chúng ta từ bỏ những vai trước đó; trong một số trường hợp chúng ta thiết lập những mối quan hệ mới với cha mẹ, anh chị em và những bạn cùng lứa. Erikson chỉ ra những cản trở cơ bản mà thiếu niên cần phải vượt qua để trở thành người lớn một cách thành công trong việc hình thành tính đồng nhất. Bước chuyển tiếp sẽ thuận lợi khi các em có biểu tượng rõ ràng về mình là ai, và về các biện pháp thích nghi với các mối quan hệ xã hội.

Các yếu tố ảnh hưởng tới đồng nhất. Nhiều ý tưởng của thiếu niên về vai trò và về giá trị được xác định bởi việc các em thuộc nhóm tham chiếu nào. Nhóm xã hội tham chiếu có thể gồm các cá nhân mà thiếu niên thường xuyên tác động qua lại và có mối quan hệ qua lại gần gũi. Những nhóm này có thể là những nhóm xã hội lớn hơn mà thiếu niên chia sẻ lý tưởng, chẳng hạn: tôn giáo, dân tộc, bạn cùng lứa hoặc là nhóm những người cùng sở thích, thậm chí là cả nhóm những người tán gẫu trên Internet. Không phụ thuộc vào số lượng thành viên, những nhóm tham chiếu có thể tán thành hoặc là bác bỏ những giá trị cũ của các em và đôi khi hình thành những giá trị mới. 
Thiếu niên phải đồng tình với những nhóm tham chiếu khác nhau. Việc là thành viên của các nhóm ở thời thơ ấu một cách hiển nhiên - như gia đình, hàng xóm hoặc là cộng đồng tôn giáo không còn là điều sang trọng và thích thú như trước kia nữa. Nhiều khi các em cảm thấy mâu thuẫn về thái độ trung thực với gia đình, với những bạn cùng trang lứa và những nhóm tham chiếu khác.
Đôi khi, những giá trị và những mục đích của cá nhân nào đó, chứ không phải là của nhóm tham chiếu thu hút các em. Đó có thể là người bạn thân, thầy/cô giáo mà các em yêu quý, anh trai hoặc là chị gái, nhân vật trong phim, thể thao hoặc là một người nào đó có tư tưởng và hành vi làm cho thiếu niên khâm phục. Mặc dù nhân vật có ý nghĩa này có thể ảnh hưởng đến mọi giai đoạn của cuộc đời, nhưng nó ảnh hưởng đặc biệt tới lứa tuổi thiếu niên.
Như vậy, thiếu niên đóng rất nhiều vai do các nhóm tham chiếu và mọi người yêu cầu. Những vai này cần phải liên kết vào sự đồng nhất cá nhân, còn những thành tố mâu thuẫn trong các vai cần phải được hoà giải hoặc là loại bỏ. Quá trình này còn phức tạp hơn khi có mâu thuẫn về vai, chẳng hạn: mâu thuẫn giữa việc là thành viên của nhóm bạn cùng lứa và vai một người học trò tốt; hoặc là khi có mâu thuẫn giữa những người có uy tín khác, chẳng hạn: mâu thuẫn giữa anh trai hoặc là chị gái với người yêu.

Học thuyết đồng nhất của Ericson.Trong các nghiên cứu của mình, Ericson quan tâm nhiều tới vấn đề của thiếu niên và của những người mới trưởng thành. Công trình của ông về quá trình thiết lập "cảm xúc nội tâm về tính đồng nhất" đã ảnh hưởng lớn tới tâm lý học phát triển. Theo Ericson, việc hình thành tính đồng nhất thường là quá trình lâu dài và phức tạp của việc tự ý thức. Việc hình thành tính đồng nhất đảm bảo cho quá khứ, hiện tại và tương lai của cá nhân không bị gián đọan. Nó xác định việc tổ chức và thực hiện hành vi trong những lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Nó dung hoà thiên hướng và tài năng của bản thân cá nhân với những vai mà cha mẹ, bạn cùng lứa hoặc là xã hội giao cho trước đây. Nó cũng cung cấp nền tảng cho việc so sánh xã hội để giúp con người hiểu vị trí của mình trong xã hội. Kết quả là cảm giác đồng nhất mang lại xu hướng, mục đích và ý nghĩa cho cuộc sống của con người (Ericson, 1989)
Các kiểu hình thành tính đồng nhất. James Marcia phát triển học thuyết của Ericson và xác định 4 trạng thái khác nhau hay là 4 dạng hình thành tính đồng nhất. Các dạng hoặc là "các quy chế đồng nhất" bao gồm: quyết định sơ bộ, khuyếch tán, trì hoãn và đồng nhất. Bên cạnh đó, còn phải tính đến: Cá nhân có trải qua giai đoạn ra quyết định được gọi là khủng hoảng đồng nhất hay không? Cá nhân có chịu trách nhiệm về những lựa chọn như: hệ thống giá trị hoặc kế hoạch về nghề nghiệp trong tương lai hay không?
Dạng quyết định sơ bộ, thiếu niên nhận những trách nhiệm khi còn chưa đạt tới giai đoạn quyết định. Các em lựa chọn nghề nghiệp, các quan điểm tôn giáo, lý tưởng và các khía cạnh khác về sự đồng nhất của mình. Tuy nhiên, việc lựa chọn này các em đã làm sớm hơn và thường hay do bố mẹ hoặc thầy cô xác định chứ không phải là bản thân các em. Bước chuyển tiếp thành người lớn của các em diễn ra suôn sẻ và chỉ gặp những mâu thuẫn không đáng kể, nhưng trong bước chuyển tiếp này không có sự thử nghiệm tích cực. 
Dạng khuyếch tán, thanh niên không có định hướng hoặc là thậm chí không có cả mong muốn định hướng. Những em này không bị khủng hoảng và không lựa chọn nghề nghiệp hoặc mã hành vi cho bản thân mình. Đơn giản là các em chốn tránh đụng chạm tới vấn đề này. Một số em thoả mãn một cách hời hợt (một cách vô bổ) những nhu cầu và mong muốn của mình; một số khác thực nghiệm những mục đích và những dạng hành vi khác nhau khi không có kế hoạch và mục đích cụ thể (Cote, Levine, 1988).
Những thiếu niên và những người mới trưởng thành ở dạng trì hoãn nằm ở khoảng giữa của khủng hoảng đồng nhất hoặc là ở giữa giai đoạn ra quyết định. Những quyết định này có thể liên quan tới việc lựa chọn nghề nghiệp, những giá trị tôn giáo hoặc là triết lý dân tộc. Thiếu niên dạng này khao khát "tìm kiếm bản thân" 
Cuối cùng là đạt được đồng nhất. Đó là dạng đồng nhất đối với những người đã trải qua khủng hoảng đồng nhất và nhận những trách nhiệm của bản thân. Kết quả là họ tự lựa chọn công việc của mình và cố gắng sống theo những quy tắc đạo đức do chính mình thiết lập. Giai đọan này thường được xem như giai đoạn mong muốn nhất và trưởng thành nhất (Marcia, 1980).
Hệ quả của các dạng đồng nhất. Những kết quả nghiên cứu cho phép kết luận rằng dạng đồng nhất ảnh hưởng sâu sắc tới những mong đợi xã hội, hình ảnh "cái tôi" và phản ứng với sốc của thiếu niên. Ngoài ra, những nghiên cứu xuyên văn hoá ở Mĩ, Đan Mạch, Israel và ở những nước khác cho phép giả định rằng, ít nhất là đối với những nền văn hoá có giai đoạn thiếu niên kéo dài và định hướng theo chủ nghĩa cá nhân thì 4 dạng đồng nhất của Marcia là một phần của quá trình phát triển toàn diện. Hãy khảo sát 4 dạng đồng nhất tác động qua lại với một số vấn đề của lứa tuổi thiếu niên ở những nền văn hoá này như thế nào. 
Lo âu là cảm xúc thống trị ở những thanh niên trong dạng trì hoãn, nó là hậu quả của việc trần chừ. Các em thường xuyên đấu tranh với những giá trị và những sở thích xung đột với nhau, thường xuyên gặp phải những điều bất ngờ và những điều mâu thuẫn. Các em có mối quan hệ lưỡng cực với cha mẹ; đấu tranh đòi tự do, các em sợ cha mẹ không hài lòng hoặc là tức giận khi không hài lòng với những hành động của các em. Nhiều sinh viên các trường cao đẳng nằm trong dạng trì hoãn.
Ngược lại, những thiếu niên ở dạng quyết định sơ� bộ cảm thấy ít lo âu hơn. Những giá trị của các em độc đoán hơn so với những thiếu niên ở các dạng khác, các em có sự ràng buộc mạnh mẽ và tích cực với những người có ý nghĩa. Những nam thanh niên trong dạng quyết định sơ bộ có xu hướng đánh giá mình thấp hơn so với nam thanh niên ở dạng trì hoãn và� những người khác dễ làm cho họ thay đổi quan điểm của mình trong vấn đề nào đó.
Có thể, dạng khuyếch tán thường hay gặp ở những thiếu niên do cha mẹ lạc hậu hoặc là không quan tâm, bỏ rơi hoặc là miệt thị các em. Các em có thể bỏ học, uống rượu hoặc sử dụng ma tuý. Những em có cha mẹ "thờ ơ" thường hay uống rượu nhiều hơn (Chương 8).
Những thiếu niên đạt được đồng nhất có cảm giác cân bằng với cha mẹ và với gia đình mình hơn. Việc tìm kiếm tự do của các em ít mang tính xúc cảm hơn so với những thiếu niên ở dạng trì hoãn và không có cảm giác bị cô lập và bị bỏ rơi như những em ở dạng khuyếch tán (Marcia, 1980).
Rõ ràng, số lượng người ở dạng đạt được đồng nhất tăng lên cùng lứa tuổi. ở lứa tuổi PTTH số lượng các em ở dạng khuyếch tán và quyết định sơ bộ nhiều hơn một cách đáng kể so với dạng trì hoãn và đạt được sự đồng nhất. Phụ thuộc vào khía cạnh xem xét, dạng đồng nhất cũng có thể khác nhau. Học sinh trung học phổ thông có thể nằm trong tình trạng quyết định sơ bộ đối với những ưu việt của giới tính, trong tình trạng trì hoãn đối với việc lựa chọn nghề nghiệp hoặc là niềm tin tôn giáo và trong tình trạng khuyếch tán đối với triết lý chính trị. Nhân cách và sự phát triển văn hóa xã hội ở tuổi thiếu niên 

Những khác biệt về giới. Marcia và các nhà nghiên cứu khác đã nhận thấy những khác nhau đáng kể giữa nam và nữ trong hành vi và thái độ khi nằm ở những dạng đồng nhất khác nhau. Chẳng hạn, nam giới ở dạng đạt được đồng nhất và trì hoãn thông thường có sự tự đánh giá cao bản thân. Nữ giới ở những dạng này lại có nhiều mâu thuẫn không tháo gỡ được, đặc biệt là đối với gia đình và lựa chọn nghề nghiệp.
Những nghiên cứu tiếp theo khẳng định phần nào những số liệu ban đầu, nhưng cho phép hình dung về vấn đề một cách sâu sắc hơn. Chẳng hạn, Saly Archer nhận thấy, đối với gia đình và đối với việc lựa chọn nghề nghiệp, học sinh nữ PTTH thường hay nằm trong dạng quyết đinh sơ bộ, còn học sinh nam trong dạng khuyếch tán. Hơn nữa, những nữ thiếu niên ở dạng quyết định sơ bộ và trì hoãn thể hiện tính bất định lớn khi giải quyết những mâu thuẫn liên quan đến nghề nghiệp và gia đình. Tuy nhiên, cả những nam thanh niên và nữ thiếu niên đều nói rằng họ có kế hoạch kết hôn, nuôi dạy con cái và hoạt động nghề nghiệp. Những nữ thiếu niên thường hay lo lắng về những mâu thuẫn có thể có giữa gia đình và nghề nghiệp. Khi hỏi về mức độ lo lắng, 75% nam thiếu niên� và 16% nữ thiếu niên phủ nhận hoàn toàn sự có mặt của lo lắng, 25% nam thiếu niên và 42% nữ thiếu niên công nhận có sự lo lắng ở mức độ thấp, trong khi đó 0% nam thiếu niên và 42% nữ thiếu niên tuyên bố rằng họ cảm thấy rất lo lắng về những mâu thuẫn có thể có giữa gia đình và nghề nghiệp. Kết quả nghiên cứu cũng nhận thấy rằng, nam thiếu niên kết hợp được cả đồng nhất bên trong nhân cách và đồng nhất liên nhân cách. (Lytel, Bakken & Roming, 1997).
Kết quả nghiên cứu rất khác nhau� đối với các khía cạnh khác như: tôn giáo và lập trường chính trị. Các nhà nghiên cứu không tìm thấy những khác biệt đáng kể về giới đối với tôn giáo. Có thể có những khác biệt đáng kể trong dạng đồng nhất giữa nam và nữ thiếu niên đối với lập trường chính trị: nam thiếu niên thường hay nằm ở Dạng đồng nhất, trong khi đó nữ thiếu niên� thì nằm ở dạng quyết định sơ� bộ (Waterman, 1985).
Hình thành đồng nhất, văn hoá và môi trường xung quanh. Như đã nói ở chương 2, học thuyết của Ericson chú ý nhiều tới vấn đề phát triển ở các xã hội phương Tây, nơi hướng tới việc hình thành tính cá nhân chứ không phải là hình thành tính nhóm và tính tập thể. Điều này ảnh hưởng lớn đến quan điểm của ông về việc hình thành tính đồng nhất ở lứa tuổi thiếu niên. Ericson đặc biệt chú ý tới việc hình thành nhân cách cá nhân, nhân cách tương đối tự trị, chứ không phải là thành viên của nhóm như ở các xã hội thuộc nền văn hoá tập thể, nơi ít quan tâm tới tính tự trị. Thường thì, ở các nền văn hóa tập thể, lợi ích của cá nhân phải phù hợp với lợi ích của nhóm. Trong trường hợp này, khái niệm “nhóm” có thể hiểu như là gia đình, bạn cùng lứa, hàng xóm, thành phố hoặc là xã hội nói chung. Như vậy, ở các nền văn hóa tập thể, trẻ em hoặc là thiếu niên ít để ý tới tính tự trị, mà sẵn sàng phụ thuộc vào người khác (Matsutomo, 2000). Chắc chắn rằng, học thuyết của Ericson nói chung là đúng với từng giai đoạn khủng hoảng, tuy nhiên có thể có những khác nhau rất lớn về cái mà mỗi nền văn hoá coi là chiếm ưu thế nhất trong việc giải quyết từng cuộc khủng hoảng (Matsutomo, 2000). Như vậy, tính đồng nhất cũng như học thuyết "cái tôi" có nguồn gốc sâu xa là nền văn hoá và môi trường xung quanh (Adams, Marshall, 1997; Porters, Duham&Catstilio, 2000; Yoder,2000). 
Giả định của Marcia về các dạng đồng nhất ở lứa tuổi thiếu niên đã được kiểm chứng nhiều lần trong các nghiên cứu sau này. Và cho đến ngày nay những giả định này vẫn đúng. Mặc dù, một số nhà nghiên cứu khẳng định những dạng này không phải là các giai đoạn khác nhau rõ ràng hoặc không phải là những cách thức đạt được tính đồng nhất (Meeus, Iedama, Helsen&Vollenberg, 1999); một số khác cho rằng những dạng� này ít nhất là có ích để hiểu trạng thái của thiếu niên và hiểu được những vấn đề của các em khi trở thành người lớn ở những xã hội có tuổi thiếu niên tương đối dài. (Jensen, Karlsen&Kroger, 1999). Nói chung, các dạng đồng nhất của thiếu niên không phụ thuộc vào nền văn hoá. Theo quan điểm của A. Waterman, văn hoá ảnh hưởng tới thời điểm hình thành các dạng đồng nhất, tới tính ổn định của những dạng đồng nhất và những khác biệt về giới (A. Waterman 1990). Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ thiếu niên ở mỗi dạng đồng nhất phụ thuộc vào nền văn hoá và cả hệ tư tưởng và tôn giáo ( Markstrom-Adams, Smith, 1996; Taylor, Oskey, 1995)hân cách và sự phát triển văn hóa xã hội ở tuổi thiếu niên 

Động thái gia đình
Trong suốt quá trình hình thành tính đồng nhất, thiếu niên luôn phải so sánh những giá trị và hành vi của bản thân với những giá trị và hành vi của gia đình mình. Một mặt, bằng tình thương yêu, các bậc cha mẹ làm cho các em có cảm giác an toàn và là chỗ dựa vững chắc cho các em. Mặt khác, họ khuyến khích các em trở thành người lớn tự lập, có khả năng hoạt động trong xã hội mà không phụ thuộc vào những người khác.
Chính sự tác động qua lại của cha mẹ với thiếu niên sẽ ảnh hưởng đáng kể đến sự trưởng thành của các em. Hệ thống gia đình rất nhạy cảm: sự thay đổi hành vi của một thành viên trong gia đình sẽ ảnh hưởng tới tất cả mọi người còn lại. Bởi vì, lứa tuổi thiếu niên là giai đoạn có những thay đổi đáng kể và thường là những thay đổi bi đát, do đó mà gia đình cũng như� bản chất giao tiếp giữa các thế hệ cũng bị thay đổi theo.
Giao tiếp giữa các thế hệ
Nhu cầu tự quyết� và tự lập xuất hiện ở thiếu niên thường dẫn tới một số xung đột trong gia đình và nhu cầu giao tiếp với cha mẹ trong quá trình giải quyết một số vấn đề tăng lên. Gia đình vẫn ảnh hưởng mạnh mẽ tới thiếu niên, mặc dù quan hệ của các em với cha mẹ có phần rắc rối hơn. Những nghiên cứu cho thấy, mâu thuẫn giữa thiếu niên với gia đình ít hơn nhiều so với quan niệm của mọi người. Theo kết quả thu được, những mâu thuẫn nghiêm trọng giữa cha mẹ và thiếu niên chỉ có ở 15 - 25% số gia đình. Thông thường, sự rắc rối xuất hiện trong những vấn đề thường ngày như: các công việc gia đình, thời gian về nhà, hẹn hò, kết quả học tập, hình dáng bên ngoài và kiểu cách ăn uống. Hiếm khi có mâu thuẫn giữa cha mẹ và thiếu niên về những giá trị quan trọng như: tôn giáo, xã hội và chính trị. (Hill, 1987). Một số tương đối ít thiếu niên trong giai đoạn học ở THPT hoặc là ở trường cao đẳng đưa ra quan điểm hoàn toàn độc lập về hệ tư tưởng (Waterman 1985)
Nói chung, đầu tuổi thiếu niên là thời kỳ mâu thuẫn mạnh hơn so với giai đoạn sau. Khi thiếu niên và cha mẹ mình trưởng thành hơn, họ sẽ hiểu thấu hơn về sự phức tạp của vấn đề tự trị và độc lập. Cả người lớn và thiếu niên phải ý thức được rằng nếu như họ có khả năng duy trì tiếp xúc và trao đổi quan điểm với nhau thì họ sẽ tâm đầu ý hợp để giải quyết những vấn đề phức tạp.
Cha và mẹ ảnh hưởng tới con cái ở các mức độ khác nhau. Mặc dù, việc miêu tả các mối quan hệ gia đình giữa nam thiếu niên và nữ thiếu niên có sự khác nhau không đáng kể (Hauser, 1987; Youniss, Keterlinus, 1987), nhưng hành vi và vai trò của mẹ và cha khác nhau đáng kể (Steinberg, 1987a). Thông thường, người cha hay khuyến khích phát triển trí tuệ, thường tranh luận và giải quyết các vấn đề gia đình. Kết quả là cả nam thiếu niên và nữ thiếu niên thường trao đổi những ý nghĩ và mhững điều mà mình quan tâm với cha. Quan hệ của thiếu niên với mẹ phức tạp hơn nhiều. Sự tác động qua lại giữa mẹ và các em thường diễn ra ở những việc như: công việc nội trợ, trách nhiệm gia đình, quy tắc (ở nhà cũng như ở những nơi khác) và việc nghỉ ngơi (Montemayor, Brownlee, 1987). Mặc dù những tác động qua lại này có thể gây nên những căng thẳng trong quan hệ, mâu thuẫn giữa mẹ và con cái, nhưng nó cũng làm cho họ gần gũi nhau hơn (Youniss, Keterlinus, 1987) 
Phong cách giáo dục của cha mẹ. Chương 8 chúng ta đã thảo luận ảnh hưởng của những phong cách giáo dục tới đặc điểm tâm lý của trẻ. Những ảnh hưởng này tiếp diễn ở lứa tuổi thiếu niên. Phong cách uy tín (có xác xuất cao nhất) dẫn tới hành vi bình thường hoặc là lành mạnh của thiếu niên (Baumrind, 1991) với đặc điểm là thiếu niên hành động có trách nhiệm, độc lập và tự kiểm soát bản thân. Ngược lại, những thiếu niên được nhận phong cách giáo dục độc đoán có thể sẽ trở thành người phụ thuộc và hay lo lắng sự có mặt của những nhân vật có quyền lực hoặc là trở thành người xấc xược và xâm kích.
Mặc dù không phải bao giờ cũng đúng, nhưng người ta thường thấy sự ảnh hưởng tiêu cực của phong cách giáo dục độc đoán, cũng như sự ảnh hưởng tích cực của phong cách giáo dục uy quyền ở các dân tộc khác nhau (Lamborn, Dornbush&Steinberg, 1996)
Những bậc cha mẹ có uy quyền sẽ có kiểu kiểm soát thiếu niên một cách thân thiện và đúng đắn, và điều này làm cho các em cảm thấy yên tâm. Bằng kiểu hành vi này, các bậc cha mẹ đã che chở những đứa con của mình. Khi bị thất bại thì đó không phải là điều không thể sửa chữa được, bởi vì các bậc cha mẹ giúp các em "hàn gắn những mẩu vở vụn" lại. Những bậc cha mẹ uy quyền cũng chú ý tới cả những thế mạnh trong năng lực nhận thức của các em. Cha mẹ và con cái có thể giao tiếp với nhau trên cơ sở tình yêu thương (Baumrind, 1987)
Khối liên minh gia đình. Khối liên minh gia đình đóng một vai trò quan trọng trong giao tiếp. Giống như phong cách giáo dục, khối liên minh gia đình hình thành hành vi từ trước lứa tuổi thiếu niên. Anh trai có ảnh hưởng lớn đến em trai ở thời thơ ấu thì cũng có thể có ảnh hưởng tới em trai ở mức độ như vậy ở lứa tuổi thiếu niên; con gái khi 6 tuổi là "con gái rượu của bố" cũng có thể sẽ trở thành người thân thiết với bố ở 16 tuổi.
Mặc dù khối liên minh giữa các thành viên của gia đình là lẽ hiển nhiên và lành mạnh, nhưng điều quan trọng là cha mẹ phải ủng hộ nhau và có khoảng cách rõ ràng giữa mìng với con cái. Cha mẹ cũng phải cùng nhau giáo dục con cái; mối liên hệ chặt chẽ của một người với con cái sẽ đi kèm với việc con cái không có mối liên hệ với người kia. Điều này có thể có những hậu quả nghiêm trọng. Khi nằm ngoài các mối quan hệ, cha hoặc mẹ sẽ mất uy tín, mất ý nghĩa là một người trung gian trong quá trình xã hội hoá. Những kiểu mất cân bằng khác như: sự vắng mặt một người do ly hôn hoặc là ly thân cũng gây ra những vấn đề nhất định. Khi thiếu niên thử đóng những vai mới và cố gắng đạt tính đồng nhất mới, uy tín của cha (mẹ) ở những gia đình khuyết thiếu có thể� bị phủ định.

Những thay đổi về cấu trúc gia đình
ảnh hưởng của gia đình trong thời kỳ chuyển tiếp mà chúng ta đã bàn tới ở chương trước, tiếp tục ảnh hưởng ở lứa tuổi thiếu niên.
Điều đáng quan tâm là những thay đổi trong các gia đình ở Mỹ ảnh hưởng như thế nào tới trách nhiệm của thiếu niên đối với những công việc gia đình. Kết quả hoàn toàn bất ngờ (Benin, Edwards, 1990). Những thiếu niên trong các gia đình có cả bố và mẹ đi làm thường ít làm việc nhà hơn so với những thiếu niên có mẹ không đi làm. Ngoài ra, phụ thuộc vào giới tính, những yêu cầu đối với các em là khác nhau. Chẳng hạn, những nam thiếu niên có cả bố và mẹ đi làm chỉ làm việc nhà bằng 1/3 thời gian so với những nam thiếu niên sống trong gia đình truyền thống. Bên cạnh đó, nữ thiếu niên có cả bố và mẹ đi làm thì làm việc nhà nhiều hơn 1/4 so với những nữ thiếu niên trong các gia đình truyền thống. Trong khi đó, những người mẹ mong đợi những đứa con gái và con trai sẽ làm khối lượng công việc nhà như nhau. Vì sao xảy ra điều này? Các nhà nghiên cứu nói rằng, những người mẹ đi làm tin tưởng con gái làm những việc gia đình hơn là tin con trai, vì vậy, họ hay giao việc cho con gái. Mẹ có thể bắt con trai làm những công việc nhà khi có sự chỉ đạo trực tiếp của mình.
Thiếu niên phản ứng như thế nào với những cú sốc do những thay đổi về cấu trúc gia đình? Một số em nhận thêm trách nhiệm về mình. Một số khác thể hiện những trải nghiệm tiêu cực một cách công khai và có những xung đột, dẫn tới là bị lôi kéo vào những hành vi chống đối xã hội, những hành vi bất bình thường. Tuy nhiên, một số em lại chọn cách sống xa gia đình để hướng tới hoạt động với bạn cùng lứa.
Sự thích nghi của những thiếu niên sẵn sàng sống xa gia đình là một công việc không đơn giản. Cha mẹ và con cái cần phải thoả hiệp lại các vai trò của mình. Các em cần tìm kiếm sự ủng hộ khác, chẳng hạn, giúp đỡ các em nhỏ bởi vì bằng cách đó các em sẽ lĩnh hội được tính độc lập nhanh hơn. Tính tự lập và tự khẳng định không phải là những phẩm chất tiêu cực, những phẩm chất này có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển. Một số gia đình thì khuyến khích có những phẩm chất này, còn một số khác thì phản đối chúng.
Các nhà nghiên cứu xác định 3 chỉ số về chức năng của gia đình. Tính cố kết, tính thích ứng và chất lượng giao tiếp (Barnes, Olsen, 1985) Tính cố kết và tính thích ứng của gia đình ở mức độ trung bình, chứ không phải là ở mức độ tốt nếu xảy ra hiện tượng sống xa gia đình. Gia đình tốt nhất là gia đình linh họat và thích ứng, nhưng không phải là tự do tới mức trở thành hỗn loạn. Gia đình phải có tính cố kết, chứ không phải là nơi làm "nghẹt thở" mọi người. Việc thích ứng với tình huống mới sẽ ít bị căng thẳng hơn nếu như các thành viên trong gia đình tính đến nguyện vọng và nhu cầu của từng người và thoả hiệp những thay đổi một cách hợp lý. Tính cố kết của gia đình có thể duy trì được nếu như cha mẹ và những thiếu niên muốn sống xa gia đình tác động qua lại với nhau như những nhân cách và thiết lập những mối qua hệ phụ thuộc lẫn nhau (Grotevant&Cooper, 1985)
Việc giao tiếp cởi mở sẽ bảo toàn tính cố kết của gia đình, bởi vì nó cho phép các thành viên hình dung về tình huống rõ ràng hơn và khắc phục các vấn đề đang xuất hiện.
Một số nhà nghiên cứu nói rằng những ông bố đóng vai trò quyết định trong việc giúp đỡ thiếu niên tìm thấy sự cân bằng cần thiết giữa phân ly và thống nhất, sự cân bằng kéo dài cho tới khi thiếu niên sẵn sàng sống xa gia đình. Những ông bố có thái độ quan tâm đến việc phân ly của con mình sẽ cung cấp cho các em "một không gian" nơi mà các em sẽ hình thành tính đồng nhất của bản thân và nhận trách nhiệm về những hành vi của mình. Nhìn chung, các em thiếu niên thường ít xung đột với bố hơn là với mẹ. Điều này làm xuất hiện ý nghĩa rằng bố ít can thiệp vào công việc của các em và tôn trọng sự độc lập của các em hơn là mẹ. Như vậy, thay vào chỗ phải tranh luận, nhiều thiếu niên có thể hành động theo sở thích của bản thân (Shulman, Klein, 1993).
Những gia đình khuyết thiếu có thể gặp phải những khó khăn trong việc giúp đỡ các em hình thành tính đồng nhất của bản thân và sống xa gia đình. Trong những gia đình này thì việc tham gia của một người lớn khác, chẳng hạn ông, cô chú hoặc là giáo viên, sẽ làm cho bước chuyển tiếp này trở đơn giản hơn đối với cả cha mẹ và cả các em (Dornbusch et at 1985)ự hình thành và phát triển KNS với tư cách là một mặt quan trọng của nhân cách 

[/align]Sự hình thành và phát triển kỹ năng sống với tư cách là một mặt quan trọng của nhân cách con người hiện đại[align=center]

Hiện nay, việc giáo dục kỹ năng sống đã được chú trọng và đang dần đưa vào chương trình học chính quy. Không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của môn học này trong việc rèn luyện và hình thành nhân cách con người, là tác nhân tạo nên một môi trường ứng xử hài hòa, tốt đẹp tạo ra một xã hội công nghiệp hiện đại, phồn vinh và thịnh vượng.
1. Kỹ năng sống là gì? 
Có nhiều quan niệm về KNS và mỗi quan niệm lại được diễn đạt theo những cách khác nhau. 
Theo UNESCO quan niệm coi KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày.
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) quan niệm coi KNS là những kỹ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khoẻ mạnh. KNS là những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hằng ngày để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày.
Có thể thấy quan niệm về KNS của UNESCO có nội hàm rộng hơn quan niệm của WHO ở chỗ:
Thứ nhất là những năng lực để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày sẽ bao gồm cả những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng đọc, viết, làm tính...trong khi đó những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng giao tiếp để giải quyết có hiệu quả những tình huống trong cuộc sống... là những kỹ năng phức tạp hơn đòi hỏi sự tổng hợp các yếu tố kiến thức, thái độ và hành vi.
Thứ hai là những kỹ năng tâm lý-xã hội thuộc phạm vi hẹp hơn trong số những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống hàng ngày.
Tương đồng với quan niệm của tổ chức y tế thế giới, còn có quan niệm KNS là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống
Như vậy, các KNS nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức- "cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị - "cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành động thực tế - “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính chất xây dựng.
KNS vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. KNS mang tính cá nhân vì đó là năng lực của cá nhân. KNS còn mang tính xã hội vì trong mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, ở mỗi vùng miền lại đòi hỏi mỗi cá nhân có những KNS thích hợp. Chẳng hạn: KNS của mỗi cá nhân trong thời bao cấp khác với KNS của các cá nhân trong cơ chế thị trường, trong giai đoạn hội nhập; KNS của người sống ở miền núi khác với KNS của người sống ở vùng biển, KNS của người sống ở nông thôn khác với KNS của người sống ở thành phố ...
2. Một số cách phân loại kỹ năng sống
Phân loại kỹ năng sống theo môi trường sống:
- Kỹ năng sống tại trường học
- Kỹ năng sống tại gia đình
- Kỹ năng sống tại nơi làm việc
Phân loại kỹ năng sống theo các lĩnh vực tâm lý:
- Kỹ năng nhận thức: Kỹ năng ra quyết định, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy tích cực, kỹ năng tư duy có phê phán…
- Kỹ năng xã hội: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng từ chối, kỹ năng quyết đoán, kỹ năng hợp tác, kỹ năng xây dựng và duy trì các mối qaun hệ liên cá nhân, kỹ năng vận động…
- Kỹ năng quản lý bản thân: Kỹ năng chế ngự stress; kỹ năng làm chủ cảm xúc tình cảm; kỹ năng nâng cao nội lực kiểm soát…
Phân loại kỹ năng sống theo UNESCO-WHO-UNICEF:
- Giải quyết vấn đề. 
- Suy nghĩ / tư duy phân tích có phê phán.
- Kỹ năng giao tiếp hiệu quả.
- Ra quyết định.
- Tư duy sáng tạo.
- Kỹ năng giao tiếp ứng xử cá nhân.
- Kỹ năng tự nhận thức/tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị.
- Thể hiện sự cảm thông. 
- Ứng phó với căng thẳng và cảm xúc.
Phân loại kỹ năng sống ở Việt Nam:
Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình (tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tự trọng, tự tin…).
Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với người khác (giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ chối , hợp tác …).
Nhóm các kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả (tìm kiếm và xử lý thông tin, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định…).
3. Vì sao phải hình thành và phát triển kỹ năng sống cho thế hệ trẻ
Hiện nay đã có hơn 155 nước trên thế giới quan tâm đến việc đưa kỹ năng sống vào nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào chương trình chính khoá ở Tiểu học và Trung học. Việc giáo dục KNS cho HS ở các nước được thực hiện theo 3 hình thức:
+ Coi KNS là một môn học riêng biệt (chỉ một số nước).
+ KNS được tích hợp vào một vài môn học chính.
+ KNS được tích hợp vào nhiều hoặc tất cả các môn học trong chương trình (đa số các nước – tránh quá tải cho chương trình).
- Giúp mỗi người phát triển kỹ năng cá nhân và xã hội mà họ cần để giữ gìn bản thân an toàn trở thành người có tinh thần độc lập sáng tạo. 
- Có khả năng làm chủ tình cảm và cảm xúc của mỗi cá nhân. 
- Chúng ta hiểu có một khoảng cách giữa kiến thức và hành vi con người ngược lại nếu có được KNS thì sự tác động lên cuộc sống của họ sẽ tích cực. 
- Khi những KN mỗi người phát triển và nâng cao thì sự tự tin và tự trọng cũng tăng theo điều này rất quan trọng vì sự tự trọng là nhân tố quyết định hành vi của mỗi người.
Lợi ích về mặt sức khoẻ
- Giáo dục KNS góp phần xây dựng hành vi sức khoẻ lành mạnh cho cá nhân và cộng đồng.
- Giáo dục KNS sẽ giúp các em giải quyết được những nhu cầu để chúng phát triển.
- Giáo dục KNS góp phần xây dựng môi trường sống lành mạnh, đảm bảo cho trẻ phát triển tốt về thể chất và tinh thần.
Lợi ích về mặt giáo dục
Giáo dục KNS sẽ có những tác động tích cực đối với:
- Quan hệ giữa thầy và trò, bạn và bạn.
- Hứng thú trong học tập.
- Để hoàn thành công việc của mỗi các nhân một cách sáng tạo và có hiệu quả. 
- Đề cao chuẩn mực đạo đức cũng như vai trò chủ động, tự giác của học sinh trong quá trình học tập, tu dưỡng.
Lợi ích về mặt văn hoá xã hội
- Giáo dục KNS thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, góp phần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh.
- Giáo dục KNS có giá trị đặc biệt đối với thanh thiếu niên lớn lên trong xã hội văn hoá đa dạng, nền kinh tế phát triển và thế giới là một mái nhà chung.
Lợi ích về mặt kinh tế chính trị
- Hình thành những phẩm chất mà các nhà kinh tế và chính trị trong tương lai cần có.
- Giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền trẻ em, giúp các em xác định được nghĩa vụ của mình đối với bản thân gia đình và xã hội, góp phần củng cố sự ổn định chính trị của quốc gia.

Giới thiệu một số tài liệu về kỹ năng sống:
1. Đào Thị Oanh (chủ biên) (2007), Vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày nay, NXB Giáo dục.
2. Nguyễn Thị Oanh (chủ biên) (2008), 10 cách thức rèn kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên, NXB Trẻ, TPHCM.
3. Nguyễn Thị Oanh (2008), Kỹ năng làm việc nhóm, NXB Trẻ, TPHCM.
4. Nguyễn Thị Oanh (2008), Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên, NXB Trẻ, TPHCM.
5. Huỳnh Văn Sơn (2009), Bạn trẻ và kỹ năng sống, NXB Lao động – Xã hội, TPHCM.
6. Bài viết của GS. TS Nguyễn Quang Uẩn “KhTâm lý phụ nữ yêu mù quáng 

Tham khảo sách “ Phụ nữ yêu như thế nào “ ( women who love too much) của tác giả Robin Norwood – Nhà xuất bản Trẻ.
Các đặc điểm điển hình của người phụ nữ yêu mù quáng:
1. Lớn lên trong 1 gia đình bất thường, không được đáp ứng các nhu cầu tình cảm.
2. Ít nhận được sự quan tâm, chăm sóc của người thân nên họ cố khỏa lấp cảm giác thiếu vắng bằng cách quan tâm nhiều hơn đến cảm xúc của người khác và tự nguyện chăm sóc người ấy, đặc biệt là những ai có nhu cầu.
3. Vì không thể thay đổi cha mẹ mình nên họ dễ dàng hướng đến tuýp đàn ông vô cảm tương tự cha mẹ với hy vọng thay đổi được người ấy bằng tình yêu của mình.
4. Vì lo sợ bị bỏ rơi nên họ sẽ làm tất cả để giữ mối quan hệ tránh xa bờ vực tan rã.
5. Để “giúp” được người đàn ông mình yêu thương, họ chẳng tiếc thời gian hay tiền bạc.
6. Vốn đã quen với việc thiếu thốn tình yêu trong các mối quan hệ, họ sẵn lòng chờ đợi, hy vọng và cố gắng nhiều hơn để làm vui lòng đối phương.
7. Họ sẵn sàng gánh chịu hơn 50% trách nhiệm đối với tội lỗi hay sai lầm trong mối quan hệ của đôi bên.
8. Lòng tự trọng của họ cực thấp và tận sâu trong lòng, họ không tin mình xứng đáng được hạnh phúc. Họ một mực tin rằng mình cần phải làm một điều gì đó thì mới được quyền tận hưởng cuộc sống.
9. Vì trải qua tuổi thơ bất hạnh nên họ có nhu cầu tha thiết mong được kiểm soát người đàn ông mình yêu thương cũng như các mối quan hệ tình cảm khác. Họ biện hộ cho những nỗ lực kiểm soát đó là vì chúng “ có ích cho mọi người”.
10. Họ thường mơ mộng về 1 tình yêu lý tưởng hơn là chấp nhận thực tại của mối quan hệ.
11. Họ không thể sống thiếu đàn ông và những nỗi đau tình cảm.
12. Về mặt cảm xúc cũng như về mặt sinh học họ dễ rơi vào tình trạng lạm dụng ma túy , rượu hay một số loại thức ăn nào đó , đặc biệt là những thức ăn ngọt.
13. Bằng cách hướng đến những người đang gặp rắc rối cần được giúp đỡ hoặc đau khổ, họ lảng tránh trách nhiệm đối với chính bản thân mình.
14. Họ có xu hướng giữ lấy những chuyện đau khổ lâu dài, trong đó họ cố ngăn chặn tình trạng bị kích động và gặm nhấm niềm vui trong mối quan hệ bấp bênh.
15. Họ không thích những người đàn ông tốt bụng, ổn định, đáng tin cậy và yêu thương họ bởi họ cho rằng những người đàn ông “tử tế” ấy thật đáng chán.

**
Trong tâm lý học có 1 quan điểm quen thuộc đến mức cũ kỹ mà hầu như ai cũng biết, đó là khi trưởng thành, con người thường có xu hướng kết hôn với người giống với hình ảnh cha/mẹ mình khi còn bé . Thật ra, khái niệm này cũng không hoàn toàn chính xác. Không hẳn là chúng ta sẽ chọn người bạn đời y hệt như cha/mẹ mình, mà ta sẽ chọn người nào mang đến cho ta cảm giác tương tự như những gì ta đã từng trải nghiệm thời niên thiếu. Điều đó thường tạo nên cảm giác mà ta vẫn gọi là tình yêu. Khi đó, ta sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu như ở nhà, “ hòa hợp và hoàn toàn ăn ý” với người có thể tái tạo cho ta những cảm xúc và vũ điệu thân quen thời bé. Ngay cả trong trường hợp những vũ điệu đó không đẹp mắt hoặc không thoải mái thì chúng vẫn là điều thân quen nhất với ta. Trước những người đàn ông này, ta thường có 1 cảm xúc hết sức đặc biệt : cảm giác hoàn toàn thuộc về họ. Và điều tất yếu là ta sẽ quyết định cố gắng hết sức để tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với những người đàn ông như thế.
Chẳng có hoạt chất nào hấp dẫn bằng cảm giác thân quen bí ẩn khi 1 người đàn ông và 1 người đàn bà đến với nhau mà lại có những suy nghĩ, hành vi, lối sống tương hợp với nhau như các mảnh ghép hoàn hảo. Nếu người đàn ông còn có khả năng tạo cho người phụ nữ cơ hội để níu kéo và nỗ lực chiến thắng những nỗi đau, cảm giác cô đơn, vô dụng thì sự hấp dẫn đó càng trở nên mãnh liệt. Trong thực tế, nỗi đau tuổi thơ càng lớn, người phụ nữ càng có khuynh hướng tái hiện và chế ngự nỗi đau đó rõ rệt hơn khi trưởng thành.
Nếu ngày bé, trẻ phải trải qua 1 cơn chấn động về tinh thần, tình cảm thì trẻ sẽ có xu hướng tái hiện lại những nỗi đau đó nhằm chế ngự, kiểm soát được chúng. Ví dụ, nếu 1 đứa trẻ từng bị phẫu thuật thì có thể em sẽ thích chơi trờ bác sỹ với các con búp bê hoặc đồ chơi của mình. Trẻ sẽ tưởng tượng mình là bác sỹ hoặc bệnh nhân trong các tình huống tương tự cho đến khi nào không còn sợ cơn phẫu thuật đó nữa. Những người phụ nữ yêu mù quáng cũng hành động tương tự : họ tái hiện và trải nghiệm lại những mối quan hệ bất hạnh nhằm kiểm soát được chúng.
1 mối quan hệ càng chứa đựng và tái hiện nhiều yếu tố khó khăn quen thuộc thời thơ ấu đối với người phụ nữ trong cuộc bao nhiêu thì nó càng khó chấm dứt bấy nhiêu. Sở dĩ họ yêu mù quáng là vì họ cố khắc phục những nỗi sợ hãi, giận dữ, phiền muộn và đau đớn đã trải qua khi còn bé cũng như cố chứng tỏ bản thân mình.
Khi cố dứt khỏi mối quan hệ đó, người phụ nữ cảm thấy như có 1 luồng điện đau thương đang chạy khắp người mình. Cảm giác trống rỗng ngày xưa trỗi dậy và không ngừng ám ảnh họ.
Cảm xúc hưng phấn, say mê lẫn cảm giác thôi thúc phải tìm đến người đàn ông thuộc tuýp cần được chăm sóc, bảo vệ và ý nghĩ phải thay đổi anh ta, khiến cho mối quan hệ dù có trở nên tốt đẹp cũng không hề giống những mối quan hệ bình thường. Chính ý muốn điều chỉnh, sửa đổi mọi thứ cho đúng hơn, tốt hơn cùng tham vọng giành lại tình yêu đã mất thời thơ ấu cũng như đạt được sự thừa nhận của người khác là những lý do vô thức đã khiến những người phụ nữ yêu quá mức lao vào tình yêu.
Đó cũng là lý do vì sao họ không cảm thấy thú vị trước những người đàn ông tử tế, yêu thương họ. Vì những người đàn ông đầy cảm thông, chia sẻ đó không thể nào mang đến cho họ những tình cảm đầy kịch tính, đau đớn, căng thẳng lẫn những cảm xúc hưng phấn. Đó là vì ở những phụ nữ yêu mù quáng, khái niệm đúng đắn và sai lệch đã hoán chỗ cho nhau. Những điều lẽ ra rất tệ hại lại mang đến cho họ cảm giác tốt đẹp, thân quen, trong khi những điều thật sự tốt đẹp lại khiến họ cảm thấy xa lạ, nghi ngờ và không thoải mái. Kinh nghiệm sống cùng những trải nghiệm lâu dài trong quá khứ đã khiến họ cảm thấy gần gũi với sự đau khổ.
Một người phụ nữ lớn lên trong gia đình bình thường, hạnh phúc sẽ có những phản ứng và mối quan hệ khác hẳn. Vì những người này vốn xa lạ với việc phải chịu đựng, phải nỗ lực và chưa từng trải qua đau khổ lúc còn nhỏ nên họ sẽ cảm thấy khó bề chấp nhận những mối quan hệ tiêu cực đó. Nếu gặp phải người đàn ông khiến họ cảm thấy tổn thương, lo lắng, thất vọng, cáu giận, ghen tuông hoặc phải chịu đựng những cảm xúc tiêu cực khác, họ sẽ lập tức cảm thấy bất bình và do vậy sẽ tránh né mối quan hệ đó thay vì theo đuổi nó.
Những người phụ nữ yêu mù quáng thường phải đối diện với tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong mối quan hệ yêu đương không hạnh phúc mà vấn đề tình dục lại rất tuyệt vời. Nhiều người nghĩ rằng tình dục chỉ thăng hoa trong 1 tình yêu đích thực, và ngược lại, tình dục không thể nào thỏa mãn trọn vẹn nếu tình yêu gặp trắc trở. Nhưng điều này không đúng với những phụ nữ yêu mù quáng. Xuất phát từ động cơ của họ, tình dục hoàn toàn có thể thăng hoa trong 1 mối quan hệ tệ hại. Tình yêu của họ càng gian truân, trắc trở thì tình dục của họ càng trở nên mãnh lieejy và mức độ gắn bó của họ với đối phương cũng tăng lên. Ngược lại, khi quan hệ với 1 người bình thường, không đòi hỏi phải nỗ lực hay cố gắng nhiều, tình dục đối với họ bỗng giảm độ nồng nàn, say mê. Vì không cảm thấy hứng thú, hồi hộp thường xuyên đối với người đàn ông ấy cũng như tình dục lúc này chẳng dùng để chứng tỏ điều gì nên họ cảm thấy nhàm chán, tẻ nhạt trong mối quan hệ của cả hai. SO với những mối quan hệ đầy bão tố mà họ từng biết, kiểu tình cảm êm đềm này càng khiến họ khẳng định niềm tin rằng “ tình yêu đích thực” phải chứa đầy chông gai, thử thách, đau đớn và thăng trầm.

**
Người phụ nữ yêu mù quáng thường sở hữu tình yêu si mê đối với người đàn ông không thể đáp ứng được nhu cầu tình cảm của họ. Thật ra, đấy mới chính là lý do khiến họ say mê người kia nhiều đến thế. Để duy trì được sự si mê đó, mối quan hệ giữa cả hai phải tồn tại những khó khăn, trắc trở để vượt qua. Si mê hiểu theo nghĩa đen chính là sự chịu đựng và thường thì sự chịu đựng càng lớn, niềm si mê càng sâu đậm. Cảm giác phấn khích mãnh liệt của mối tình si mê khác hẳn với cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng của mối quan hệ gắn bó, ổn định. Do đó, nếu nhận được những gì đã từng khao khát, người phụ nữ yêu mù quáng sẽ không còn sống trong cảnh chịu đựng nữa và do đó, niềm si mê của cô cũng tàn lụi theo. Có thể khi đó, cô sẽ nghĩ rằng mình đã hết yêu người kia.
Tình yêu si mê vốn chứa đầy cảm giác phấn khích, chịu đựng và đau khổ nhưng vẫn tồn tại cảm giác thiếu thốn một điều gì đó. Đó chính là sự gắn bó, hứa hẹn – những yếu tố mang lại cho người trong cuộc cảm giác an toàn. Nếu những trở ngại đó được giải quyết và 1 sự gắn bó thật sự xuất hiện, cả hai sẽ nhìn nhau và thắc mắc rằng cảm giác đam mê đã đi về đâu ? Họ cảm thấy an toàn ,ấm cúng trong tình yêu của nhau nhưng đồng thời cũng cảm thấy đôi chút thất vọng khi ngọn lửa đam mê đã tàn lụi và họ không còn khao khát nhau như ban đầu.
Cái giá mà ta phải trả cho sự si mê chính là nỗi lo sợ và sự đau đớn- những điều vừa có tác dụng nuôi dưỡng vừa hủy hoại tình yêu si mê ấy. Cái giá mà chúng ta phải trả cho mối quan hệ gắn bó, ổn định thật sự chính là cảm giác tẻ nhạt và sự an toàn – những yếu tố vừa có tác dụng gắn kết vừa là nguyên nhân khiến cho mối quan hệ trở nên khô cứng, thiếu sức sống.
Để duy trì sự phấn khích và thú vị trong mối quan hệ sau hôn nhân, cả hai cần tạo dựng mối quan hệ trên nền tảng của sự khám phá bất tận chứ không phải sự đau khổ hay khát khao.
Cảm giác phấn khích, hào hứng thường xuất phát từ sự tò mò nhiều hơn là sự quen thuộc. Đa số chúng ta khi đã đạt đến giai đoạn gắn bó ổn định trong mối quan hệ thường chấp nhận cuộc sống thoải mái, bình lặng bởi ta sợ phải khám phá ra những điều sâu kín trong người bạn đời của mình cũng như thể hiện mọi ngóc ngách tâm hồn của mình. Vì thế, vô tình chúng ta đã né tránh và br quên món quà quý giá nhất : tình yêu đích thực. Đối với những phụ nữ yêu mù quáng, họ chỉ có thể đạt được tình yêu đích thực sau khi trở lại cuộc sống khỏe mạnh, cân bằng.
**
Quan niệm sai lệch rằng phụ nữ có thể thay đổi người yêu của mình, miễn là tình yêu trong cô đủ lớn.Các tạp chí dành cho phụ nữ được mọi người ưa thích dường như luôn có những bài viết đại loại như :” Làm thế nào để anh ấy trở thành ...”, trong khi những đề tài như “Làm thế nào để cô ấy trở thành...” lại không bao giờ xuất hiện trên các tạp chí dành cho nam giới. Và thế là, phụ nữ cố gắng làm theo những lời khuyên trên các tạp chí ấy với hy vọng sẽ giúp được người đàn ông mình yêu trở thành mẫu hình mình mong muốn. Vậy thì tại sao ý nghĩ thay đổi 1 ai đó, từ trạng thái tiêu cực, bất hạnh hoặc ốm yếu thành 1 người yêu hoàn hảo lại hấp dẫn chúng ta đến thế ? Câu trả lời rất rõ ràng : hầu hết chúng ta đều được dạy dỗ rằng phải luôn giúp đỡ những người bất hạnh hơn mình và thương xót, bao dung trước những hoàn cảnh khó khăn. Giúp đỡ thay vì phán xét gần như là phương châm sống của nhiều người.Đây chính là động cơ dẫn đến trạng thái yêu mù quáng ở hàng triệu phụ nữ - những người chấp nhận sống bên người bạn đời hoặc bạn tình nhẫn tâm, xa cách, nghiện ngập, lạm dụng và không hề có ý định gắn bó với họ. Sở dĩ như thế là vì họ luôn mong muốn được kiểm soát người mình yêu thương.
Trong chuyện cổ tích, “ người đẹp “ không hề có ý muốn thay đổi con quái vật. Cô ngợi ca và chấp nhận chính bản thân con quái vật cũng như trân trọng những đức tính của nó. Cô không hề có ý biến đổi nó từ con quái vật thành hoàng tử. Cô ta không hề nói :” Tôi sẽ hạnh phúc nếu chàng biến thành người”. Cô cũng không hề thương hại nó. Và bài học nằm ngay ở đây . Nhờ thái độ chấp nhận của “người đẹp”, con quái vật cảm thấy tự do để thể hiện những mặt tốt nhất ở mình. Việc con quái vật hóa thân thành hoàng tử điển trai ( và trở thành người bạn đời hoàn hảo của “người đẹp”) chính là sự tưởng thưởng cho việc biết chấp nhận thực tế của cô. 
Chấp nhận bản chất vốn có của 1 con người mà không hề cố ý thay đổi người ấy là sự thể hiện của 1 tình yêu cao cả nhưng lại rất khó thực hiện đối với hầu hết chúng ta. Thật ra, nguồn căn của những nỗ lực thay đổi người khác trong chúng ta chính là động cơ mang tính ích kỷ, với niềm tin rằng sự thay đổi của người ấy sẽ mang đến hạnh phúc cho mình. Ở đây, mong muốn được sống hạnh phúc không có gì là sai trái cả, nhưng đi tìm hạnh phúc từ những yếu tố bên ngoài bản thân hoặc đặt nó trong tay người khác đồng nghĩa với việc ta đã tránh né khả năng lẫn trách nhiệm của bản thân trong việc thay đổi cuộc sống của mình.
Trong khi đó, chính hành động chấp nhận thực tế của ta lại có khả năng thay đổi được người khác. 
Giả sử 1 cô gái có người yêu nghiện việc và cô không ngừng giảng giải, tranh cãi với anh ta về việc anh ta cứ vắng nhà biền biệt. Vậy thì kết quả thông thường của hành động này là sao ? Anh ta sẽ vắng nhà nhiều hơn và cảm thấy mình có quyền làm thế để thoát khỏi những lời ca thán bất tận của cô. Khi la rầy, van xin và cố gắng thay đổi người yêu của mình, cô gái ấy lại khiến cho anh ta tin rằng vấn đề của họ không phải nằm ở tật tham công tiếc việc của anh ta mà chính là thói ca cẩm của cô. Không những thế, việc cô gái không ngừng thúc bách người yêu của mình thay đổi có thể đào sâu thêm hố ngăn tình cảm giữa 2 người.
Tham công tiếc việc cũng là 1 chứng rối loạn nghiêm trọng và nó cũng giống như mọi hành vi mang tính ép buộc khác. Có thể anh ta nghiện việc là nhằm bảo vệ bản thân khỏi những trải nghiệm tình cảm khiến anh ta cảm thấy sợ hãi, đồng thời giúp ngăn chặn việc nảy sinh những cảm xúc bất ổn khác, mà trước hết là sự lo lắng và tuyệt vọng. Nghiện việc là biện pháp mà những người đàn ông xuất thân từ các gia đình bất ổn dùng để tránh né bản thân mình. Cái giá mà anh ta phải trả cho thái độ né tránh của mình chính là cuộc đời đơn điệu, không tận hưởng hết được những niềm vui trong cuộc sống. Chỉ khi nào thật sự thức tỉnh, anh ta mới có thể chấp nhận đương đầu với mọi rủi ro để thay đổi mình. Và nhiệm vụ của người phụ nữ đứng sau những người đàn ông này không phải là cố gắng sửa chữa anh ta mà chính là cải thiện bản thân mình.
Phần lớn chúng ta đều có khả năng được sống hạnh phúc và thỏa mãn nhiều hơn những gì ta có thể nhận biết. Nhưng thường thì ta lại không nhận ra điều đó vì mãi bị chi phối bởi hành vi của người khác. Chúng ta phớt lờ trách nhiệm của mình trong việc phát triển bản thân nhưng lại luôn tìm cách thay đổi và lôi kéo người khác, để rồi trở nên giận dữ, thất vọng và đau khổ khi gặp thất bại. Cố gắng thay đổi người khác thường chỉ mang lại cho ta đau khổ và bực dọc; trong khi sử dụng sức mạnh vốn có để thay đổi bản thân lại có thể giúp ta tạo ra nhiều niềm vui lớn.
Để vợ của người nghiện việc có thể tự do sống 1 cuộc đời trọn vẹn bất kể người chồng có làm gì chăng nữa thì cô ấy phải tin rằng vấn đề của anh ta cũng như việc thay đổi anh ta nằm ngoài khả năng , trách nhiệm và quyền hạn của cô. Cô cần phải học cách tôn trọng quyền tự do của anh ta.
1 khi làm được điều đó, người phụ nữ sẽ cảm nhận được cảm giác tự do: không còn oán giận vì sự bất tài của chồng mình, thoát khỏi gánh nặng và cảm giác tội lỗi khi không thể thay đổi được anh ta ( vốn là điều cô không thể làm được ). Khi đó, cô có thể yêu thương và trân trọng chồng mình nhiều hơn vì những phẩm chất tốt đẹp ở anh.
Một khi từ bỏ thói quen thay đổi người bạn đời của mình và chuyển nguồn năng lượng của bản thân sang việc phá triển những sở thích cá nhân, người phụ nữ ấy sẽ trải nghiệm được những mức độ khác nhau của hạnh phúc. Cuối cùng, cô có thể đạt được những mục tiêu của mình và được tận hưởng cuộc sống xứng đáng với mình mà không cần phải dựa dẫm quá nhiều vào chồng. Hoặc có thể khi ấy, cô sẽ quyết định sống 1 cuộc đời tự do, không ràng buộc với cuộc hôn nhân không xứng đáng. Và cả hai tình huống đó chỉ xảy ra khi cô từ bỏ mong muốn thay đổi người bạn đời của mình. Nếu không, cô mãi mãi sẽ sống trong cuộc đời ảo mộng , luôn chờ đợi vieecn cảnh 1 ngày nào đó người ấy sẽ thay đổi và cô có thể bắt đầu 1 cuộc đời mới cho mình.
**
Khi người đàn ông mà họ yêu thương phản bội hoặc làm cho họ thất vọng thì họ lại càng lệ thuộc vào anh ta nhiều hơn. Đó là do họ chỉ còn biết chú tâm vào người đàn ông kia cùng những vấn đề của anh ta. Càng tiếp tục tìm cách thay đổi anh ta thì họ càng bị suy kiệt. Chẳng mấy chốc, người đàn ông kia trở thành nguồn vui, nguồn sống của cuộc đời họ. Nếu mối quan hệ giữa 2 người xấu đi , lập tức họ sẽ tìm cách sửa chữa bản thân hoặc người kia để khắc phục. Quá bận rộn với việc tìm cách khắc phục tình cảm của mình, họ chẳng còn thời gian để tìm niềm vui ở những nơi khác. Họ tin rằng chỉ cần họ làm cho người đàn ông họ yêu thương hạnh phúc thì anh ta sẽ đối xử tử tế hơn với họ và nhờ vậy, họ cũng hạnh phúc. Vậy là họ trở thành người canh gác cần mẫn, luôn tìm cách giữ cho cuộc sống của anh ta được ổn thỏa. Họ cảm thấy có lỗi mỗi khi anh ta không vui, không hạnh phúc hoặc khi anh ta gặp thất bại. Nhưng có lẽ trên hết, họ cảm thấy có lỗi khi bản thân mình không thể sống hạnh phúc.
Tuyệt vọng vì những lời than phiền nhỏ nhặt và các rắc rối vặt vãnh, họ tha thiết muốn được nói chuyện với người mình yêu thương. Thế là sẽ có 1 cuộc thảo luận dài ( trong trường hợp anh ta chịu trò chuyện ) nhưng lại không hề đề cập đến các vấn đề cần thiết. Nếu anh ta mắc tật uống rượu quá nhiều, họ, với thói quen chối bỏ thực tế, cứ tìm cách hỏi anh ta vì sao buồn bã đồng thời cho rằng tật uống rượu đó không quan trọng bằng việc anh ta đang buồn. Nếu anh ta ngoại tình, họ sẽ hỏi anh ta mình phải làm gì để hấp dẫn hơn đồng thời tự đổ lỗi cho bản thân vì sự việc đã xảy ra.
Người đàn ông kia trở thành thước đo cảm xúc của cô. Còn cô sẽ không ngừng theo dõi từng cử chỉ, động thái của anh ta. Mọi cảm xúc của cô đều xuất phát từ những gì anh ta đã làm. Trong khi cho phép anh ta cái quyền xoay chuyển và chi phối đời sống tình cảm của mình, cô cũng đồng thời tíc cực can thiệp vào cuộc sống của anh ta. Cô cố gắng cải thiện vẻ ngoài của anh ta và luôn chứng tỏ mình là 1 đôi hạnh phúc trước mắt mọi người. Cô biện minh cho những thất bại của anh ta lẫn những thất vọng của bản thân. Trong lúc che dấu sựu thật với mọi người, cô đồng thời che giấu sự thật đối với bản thân mình. Do không thể chấp nhận được thwucj tế con người của người đàn ông mình yêu thương cũng như sự thật rằng rắc rối của anh ta không hề liên quan đến mình, cô cảm thấy hoàn toàn thất bại trong việc nỗ lực nhằm thay đổi anh ta. SỰ thất vọng và đau buồn đó sẽ dấy thành cơn giận dữ, dẫn đến các cuộc tranh cãi và thậm chí ẩu đả do cô khởi xướng. Cũng như đã từng biện minh cho những lỗi lầm của anh ta, giờ đây, cô lại tự gánh lấy mọi trách nhiệm. Cô cảm thấy chỉ có mình là người duy nhất phải nỗ lực vun đắp cho mối quan hệ của đôi bên. Cô cảm thấy có lỗi và không ngừng tự hỏi tại sao mình lại giận dữ như thế và tại sao mình lại không đủ đáng yêu để anh ta phải thay đổi vì mình.
Với tha thiết muốn thay đổi người mình yêu thương, người phụ nữ sẵn sàng làm mọi thứ để đạt được điều đó. Họ bắt đầu hứa hẹn với nhau, rằng cô sẽ không càm ràm nếu anh không say xỉn, về khuya hoặc lăng nhăng nữa. Thế nhưng, chẳng ai trong số họ giữ được những lời hứa và cô lờ mờ nhận ra rằng mình hoàn toàn mất kiểm soát, chẳng những đối với anh ta mà còn đói với chính bản thân mình. Cô không thể ngăn mình khỏi việc tiếp tục đánh nhau, la mắng , dụ dỗ và năn nỉ anh ta. Lòng tự trọng của cô hoàn toàn tuột dốc.
Có thể họ vẫn tiếp tục mối quan hệ và cho rằng nguyên nhân của mọi rắc rối là các yếu tố bên ngoài chi phối, chẳng hạn như gia đình, bạn bè hay công việc. Cũng có thể mọi chuyện sẽ khá hơn trong một thời gian, nhưng chỉ là 1 thời gian ngắn mà thôi. Và chẳng mấy chốc, chuyện cũ sẽ lại tái diễn.
Đến lúc này thì người phụ nữ đã cạn kiệt mọi năng lượng lẫn thời gian. Khi đó, nếu họ có con cái thì đứa trẻ sẽ thiếu sự quan tâm của người lớn, thậm chí là bị bỏ rơi. Do vậy, mọi thứ đều trở nên ngừng trệ. Cuộc sống của họ chất đầy cay đắng và việc giữ thể diện trước mọi người trở thành 1 thử thách lớn. Việc thiếu tiếp xúc với thế giới bên ngoài càng khiến người phụ nữ yêu mù quáng trở nên cô độc hơn. Họ đã đánh mất mối dây liên kết quan trọng với thực tế cuộc sống. Và chính vì thế, mối quan hệ với người đàn ông kia lại càng có dịp chiếm lĩnh toàn bộ cuộc sống của họ.
Ngày xưa. Chính lối sống vô trách nhiệm và nhu cầu được giúp đỡ của người đàn ông kia đã khiến họ say mê. Lúc ấy, họ tin rằng mình hoàn toàn có thể thay đổi được anh ta. Còn giờ đây, họ nhận ra mình đang phải đảm đương những gánh nặng của anh ta. Dù cảm thấy oán giận anh ta ghê gớm nhưng họ vẫn cảm thấy thích thú khi được kiểm soát mọi thứ, từ tài chính cho đến con cái trong gia đình.
Trong giai đoạn này, có thể người phụ nữ mắc phải chứng rối loạn ăn uống mà trước đây họ chưa từng bị. Nhằm tưởng thưởng cho những nỗ lực của bản thân cũng như để đè nén cơn giận và sự oán hận sôi sục trong lòng, cô bắt đầu sử dụng thức ăn như 1 chất gây nghiện nhẹ. Hoặc cũng có thể cô sẽ quên hẳn việc ăn uống do các chứng bệnh liên quan đến dạ dày cũng như thái độ sống “ tôi chẳng còn thời gian để ăn”. Hoặc cũng có thể cô sẽ quan tâm đặc biệt đến chế độ ăn uống của mình để bù lại trạng thái mất kiểm soát đối với những cảm xúc cá nhân. Đến đây, những người phụ nữ này có thể bắt đầu lạm dụng rượu hoặc “ các chất gây nghiện có tính tiêu khiể “ khác, và các loại thuốc an thần sẽ thường xuyên có mặt trong cuộc sống của họ nhằm đối phó lại những tình huống mà họ cảm thấy hoàn toàn bất lực.
...
Và khi cơ thể bắt đầu suy kiệt vì căng thẳng, họ bắt đầu chuyển sang giai đoạn nguy kịch. Dấu hiệu nhận biết giai đoạn này rõ nhất chính là việc họ mất hẳn khả năng tư duy. Theo đó, họ không còn khả năng nhận định tình thế của mình được nữa. Lúc này, sự quẫn trí của người phụ nữ yêu mù quáng bắt đầu phát triển ở mức cao. Họ không còn khả năng đưa ra những chọn lựa của mình trong cuộc sống. Hầu hết những gì họ làm chỉ nhằm phản ứng lại người yêu của mình. Đối với họ, việc chuyển mối bận tâm sang người khác hoặc các thú vui khác cũng mang đầy sự ám ảnh.
Họ bắt đầu cay đắng và ghen tỵ với những người không phải chịu những tình cảnh như họ. Càng ngày, họ càng cảm thấy khó chịu đối với mọi điều xảy ra trong cuộc sống, thể hiện qua các mối xung đột ngày càng gia tăng với người bạn đời hoặc con cái trong gia đình.
Khi 1 người phụ nữ yêu mù quáng nhận ra rằng dù đã làm mọi thứ để thay đổi người đàn ông của đời mình nhưng vẫn thất bại , họ sẽ tìm kiếm sự giúp đỡ từ 1 người nào đó, chẳng hạn như 1 nhà chuyên môn, để thay đổi được người họ yêu. Và điều quan trọng nhất ở đây là, nhà chuyên môn đó phải giúp họ nhận ra rằng, người cần được giúp đỡ và thay đổi chính là bản thân họ chứ không phải ai khác.
Điều này rất quan trọng bởi yêu mù quáng là 1 căn bệnh có quá trình tiến triển hẳn hoi.
Bệnh nghiện nam giới và sự phục hồi:
1. Nhu cầu được kiểm soát người khác cao, chọn bạn tình vô trách nhiệm để thỏa mãn nhu cầu của bản thân.
2. Đảm nhận trách nhiệm và quan tâm đến người khác quá mức, do họ lớn lên trong gia đình thiếu tình thương.
3. Cảm thấy hấp dẫn trước những ngươi sống phụ thuộc vào họ.
4. Cố gắng “yêu” chồng/ bạn tình cũng như đã từng cố “yêu” cha mẹ mình.
5. Bắt đầu chối bỏ thực tế của mối quan hệ.
6. Ngày càng lệ thuộc tình cảm vào người đàn ông.
7. Nhu cầu cấp thiết phải thảo luận các rắc rối với nam giới.
8. Bắt đầu hoài nghi về cảm nhận bản thân.
9. Ngày càng chú tâm vào hành vi của chồng/ bạn tình.
10. Biện minh cho hành vi của đối phương với mọi người.
11. Luôn tìm cách che đậy rắc rối.
12. Cư xử hùng hổ với chồng/ bạn tình, mong muốn trả thù.
13. Cảm giác thất bại.
14. Luôn tìm cách kiểm soát thất bại của chồng/ bạn tình.
15. Luôn ăn năn vì đã xung đột với đối phương.
16. Cố né tránh chồng/ bạn tình bằng khoảng cách địa lý.
17. Mất dần các thú vui khác.
18. Gặp rắc rối trong công việc và tài chính, gánh lấy trách nhiệm của chồng/ bạn tình.
19. Né tránh gia đình và bạn bè.
20. Ăn uống vô độ hoặc thờ ơ với thức ăn.
21. Oán giận vô cớ.
22. Bắt đầu sử dụng các loại thuốc an thần.
23. Biểu lộ chứng rối loạn thần kinh.
24. Suy sụp thể chất.
25. Có thể hình thành thói quen lệ thuộc vào rượu hoặc các chất kích thích khác.
26. Ngoại tình, nghiện rượu, luôn nghĩ đến các thú vui bên ngafoi.
27. Đau khổ kéo dài.
28. Oán ghét những “ người bình thường”.
29. Suy nghĩ lệch lạc.
30. Không có khả năng tự khởi hành động.
31. Sợ hãi vu vơ, hoang tưởng.
32. Ngày càng bạo lực với chồng/ bạn tình, con trẻ.
33. Hoàn toàn bị ám ảnh bởi chồng/ bạn tình.
34. Có ý định tự tử.
35. Gặp các vấn đề nghiêm trọng về tình cảm dành cho bản thân và con trẻ.
36. Mọi nỗ lực kiểm soát cuộc sống đều thất bại.
37. Hoàn toàn thừa nhận thất bại.
38. Sẵn sàng tìm kiếm sự giúp đỡ.
39. Thành thật mong muốn được giúp đỡ bất kể chồng/ bạn tình có làm gì đi nữa.
40. Nhận biết “ yêu mù quáng” là 1 căn bệnh.
41. Biết rằng mình có thể hồi phúc, bất kể có sự hiện diện của chồng/ bạn tình hay không.
42. Đối diện với sự bất lực.
43. Bất đầu trị liệu theo nhóm.
44. Gặp gỡ các phụ nữ “ yêu mù quáng” đã hồi phục.
45. Bắt đầu suy nghĩ đúng đắn.
46. Bắt đầu có những hy vọng mới.
47. Tập trung vào bản thân thay vì chồng/ bạn tình.
48. Đón nhận những khả năng của cuộc sống mới.
49. Không còn lo sợ trước tương lai.
50. Được giúp đỡ trong việc cai nghiện.
51. Lấy lại lòng tự trọng.
52. Tham gia các buổi họp nhóm đều đặn.
53. Không còn có ý muốn lẩn trốn, bởi khả năng nói” không “ ngày càng mạnh mẽ.
54. Suy nghĩ thực tế.
55. Chấm dứt việc tạo điều kiện cho chồng/ bạn tình sống vô trách nhiệm.
56. Mọi thành viên cùng tham gia chương trình trân trọng những nỗ lực của họ.
57. Phát triển các mối quan tâm đến sức khỏe cá nhân.
58. Tái sinh tinh thần và lý tưởng của bản thân.
59. Được hỗ trợ trong việc nhìn nhận lại bản thân.
60. Trân trọng sự tiến triển của bản thân.
61. Gia tăng khả năng kiểm soát tình cảm.
62. Chấm dứt nhu cầu kiểm soát người khác.
63. Bước đầu đạt được niềm tin vào bản thân.
64. Lấy lại sự tin tưởng của con trẻ.
65. Chăm sóc diện mạo bản thân.
66. Sống hạnh phúc mà không phụ thuộc vào hành vi của chồng/ bạn tình.
67. Bước đầu nhận diện thói quen biện minh.
68. Gia tăng trách nhiệm đối với cuộc sống của bản thân.
69. Trị liệu theo nhóm và tiếp tục giúp đỡ lẫn nhau.
70. Con đường lý thú và tươi sáng mở ra trước mắt, hứa hẹn những điều tốt đẹp chưa từng có.

Quyết tâm đạt được sự hồi phục còn đòi hỏi bạn phải gia giảm đáng kể hoặc bỏ hẳn thói quen uống rượu hay sử dụng các chất kích thích khác trong quá trình điều trị. Lý do là vì các chất kích thích đó sẽ cản trở bạn cảm nhận trọn vẹn những cảm xúc mới mẻ mà bạn sẽ khám phá trong thời gian này.
Quá trình bình phục của bạn diễn ra tương tự như khi bạn học 1 ngôn ngữ mới vậy. Nó buộc ta phải tiếp cận với cách phát âm hoàn toàn mới mẻ mà bạn sẽ không thể thuần phục được nó nếu không thường xuyên thực hành. Chỉ khi thực lòng theo đuổi chúng thì bạn mới có thể biến chúng thành thói quen của mình suốt đời.
Dừng việc kiểm soát và quản lý người bạn đời : nghĩa là bạn hãy từ bỏ vai trò động viên và tán thưởng người đàn ông của mình. Rất có thể bạn sử dụng phương thức này để khiến người ấy làm theo những gì bạn thích. Điều đó có nghĩa là cách làm đó đã trở thành công cụ để bạn lôi kéo, vận động anh ta. Tán thưởng và động viên cũng gần như trừng phạt; và khi bạn làm như thế nghĩa là bạn đang cố tìm cách kiểm soát cuộc sống của anh ta. Hãy nghĩ xem vì sao bạn lại khen ngợi người bạn đời của mình sau 1 việc làm nào đó ? Liệu đó có phải là nhằm tôn vinh giá trị anh ta hoặc để anh ta tiếp tục làm những gì bạn đã khen ngợi ? Thực tế, đó là để vận động, lôi kéo anh ta. Hay bạn phải làm thế để người ấy biết rằng bạn rất tự hào về anh ta ? Nếu thế thì những lời khen ngợi của bạn sẽ trở thành gánh nặng đối với anh ta. Hãy để người ấy tự phát triển niềm tự hào riêng từ những gì anh ta đã đạt được trong cuộc sống. Nếu không, bạn sẽ phải gánh vác vai trò đáng ngại là trở thành mẹ của anh ta.
Tập chấm dứt việc luôn dõi theo cuộc sống của anh ta đồng thời tập trung vào cuộc đời của mình nhiều hơn. Thỉnh thoảng , khi bạn bắt đầu buông lơi mọi việc thì anh ta lại bắt đầu làm những việc khiến cho bạn lúc nào cũng phải chú ý đến anh ta và cảm thấy có trách nhiệm với hậu quả sự việc. Nhưng bạn hãy mặc kệ.Chính anh ta mới phải là người chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, chứ không phải bạn.
Tách biệt cái tôi của mình khỏi những cảm xúc của anh ta.
Để thực hiện được bước này, bạn phải biết nói không và không làm gì cả. Đây là 1 trong những nhiệm vụ khó nhất mà bạn phải thực hiện trong quá trình bình phục.
Bước này còn đòi hỏi bạn phải dám đối diện với những nỗi lo sợ khi nghĩ đến những gì có thể sẽ xảy đến với anh ta và mối quan hệ của 2 người nếu bạn không còn kiểm soát mọi thứ nữa. Hãy tập trung tìm cách chấm dứt nỗi lo sợ của mình thay vì tìm cách tác động đến anh ta.
Can đảm nhìn vào thực tế chứ không phải những gì bạn mong muốn nhìn thấy. Khi học cách từ bỏ thói quen kiểm soát, bạn cũng phải bỏ đi suy nghĩ “ mình sẽ hạnh phúc nếu anh ấy thay đổi” bởi rất có thể người bạn đời của bạn sẽ chẳng bao giờ thay đổi. Vì vậy hãy học cách sống cuộc đời hạnh phúc cho riêng mình.
Một khi còn tập trung vào chuyện thay đổi 1 người nào đó mà mình lại hoàn toàn không thể ( tất cả chúng ta đều không thể thay đổi người khác, mà chỉ có thể thay đổi được chính bản thân mình ) thì bạn vẫn chưa thể tập trung mọi nguồn năng lượng của bản thân vào việc giúp đỡ chính mình. Nhưng điều đáng nói là việc thay đổi người khác thường hấp dẫn hơn thay đổi chính bản thân chúng ta rất nhiều. 
Phần lớn cảm giác tuyệt vọng và sự điên cuồng mà bạn trải qua đều là do bạn luôn cố tìm cách quản lý và kiểm soát những gì mình không thể. Hãy thử nghĩ về những điều mà bạn đã cố làm : không ngừng giảng giải, van xin, đe dọa, dỗ dành , thậm chí là dùng cả bạo lực nhưng vẫn không thể làm cho mọi thứ khác đi. Và hãy nhớ lại cảm giác của bạn sau mỗi lần thất bại mà xem. Lòng tự trọng của bạn bị sút giảm nhiều hơn trong khi bạn lại cảm thấy lo lắng, tuyệt vọng và giận dữ hơn. Cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng này là hãy chấm dứt nỗ lực kiểm soát những điều mình không thể kiểm soát.
Cuối cùng, bạn nhất thiết phải chấm dứt thói quen kiểm soát của mình bởi vì người bạn đời của bạn hầu như không bao giờ thay đổi trước áp lực từ bạn. Dù anh ấy tìm cách xoa dịu bạn bằng cách hứa hẹn sẽ thay đổi, thì chắc chắn một lúc nào đó anh ta cũng sẽ trở lại thói quen cũ và khi đó, bạn sẽ càng cảm thấy oán giận hơn. Nếu bạn là lý do để anh ta từ bỏ 1 thói quen nào đó thì chính bạn cũng sẽ là lý do để anh ta trở lại đường cũ.
Bạn cần phải từ bỏ thói quen tỏ ra “ hữu ích”. Điều nực cười là việc bạn ngừng kiểm soát người mình yêu thương lại chính là điều hữu ích nhất mà bạn có thể và nên làm cho họ. Thật ra, cốt lõi của việc tỏ ra “hữu ích” chỉ là nhằm thể hiện cái tôi của mình. Nếu bạn thật sự muốn tỏ ra hữu ích, hãy ngừng kiểm soát và quản lý người mình yêu thương.
Khi bạn không còn ý muốn kiểm soát và quản lý người bạn đời của mình nữa, 1 số lớn năng lượng của bạn sẽ được giải phóng và bạn có thể dùng chúng vào việc khám phá, phát triển và củng cố bản thân. Tuy nhiên, bạn cũng nên ghi nhớ rằng bản thân bạn rất dễ bị cám dỗ trong việc tìm kiếm lẽ sống bên ngoài mình. Vì thế, hãy kiềm chế xu hướng trượt dốc này và tập trung vào bản thân.
Bạn cũng sẽ phải học cách sống không có những cao trào cảm xúc như khi sống trong những mối quan hệ thăng trầm, căng thẳng. Nhiều phụ nữ yêu mù quáng đã chôn vùi cảm xúc của bản thân sâu đến nỗi họ cần phải có tác động từ những cảm xúc căng thẳng, hồi hộp từ những lần cãi vã, đánh nhau, chia tay rồi tái hợp thì mới cảm thấy mình đang sống. Hãy cảnh giác. Có thể lúc đầu bạn cảm thấy cuộc sống tẻ nhạt vì chẳng cảm thấy gì ngoài thế giới nội tâm của mình. Nhưng nếu bạn vượt qua được cảm giác đó, bạn đã bước qua được giai đoạn tiếp theo của quá trình bình phục.
Làm phong phú bản thân
Có nghĩa là bạn hãy chủ động tìm kiếm cho mình những niềm vui trong cuộc sống. Nếu bạn quá bận bịu vì lúc nào cũng chạy theo người ấy đồng thời đánh mất cuộc sống riêng của mình thì hãy thử bắt đầu tìm kiếm xem liệu còn có điều gì khác thu hút bạn hay không.Đối với phụ nữ yêu mù quáng, vì đã xem người đàn ông đó là tất cả cuộc đời mình trong suốt 1 thời gian dài nên họ sẽ cảm thấy khó chịu khi chuyển mối quan tâm của mình sang chính bản thân. Mỗi tuần, hãy cố gắng tìm kiếm niềm vui bằng cách thực hiện 1 điều gì đó mới mẻ.
Nói tóm lại là bạn phải làm những điều mà trước nay không đủ can đảm thực hiện.
Bạn sẽ phải đối diện với cảm giác trống trải khi không còn chú tâm vào người khác nữa. Đôi lúc sự trống trải đó lớn đến nỗi bạn cảm thấy hoang hoác trong lòng. Hãy sống chan hòa với sự trống trải đó và hiểu rằng đây chỉ là cảm xúc nhất thời mà thôi. Một khi đã trải nghiệm thấu đáo cảm xúc đó và biết chấp nhận bản thân mình, bạn sẽ cảm thấy ấm áp hơn.
Bạn càng độc lập với nam giới thì bạn càng có khả năng trở thành 1 người vợ, người yêu lý tưởng. Và một phụ nữ hấp dẫn bao giờ cũng có khả năng tìm được 1 người đàn ông tốt hơn.
Tỏ ra quá hữu ích và luôn tập trung vào người khác là một phần của căn bệnh mà bạn đang mang. 
Nếu tin rằng mình có bệnh, bạn cũng cần nhận thức rằng căn bệnh đó có thể sẽ tái phát. Nếu không thường xuyên cảnh giác, có thể bạn sẽ đi vào vết xe đổ trước đây; tức là suy nghĩ , cảm nhận và hành động như xưa. Làm việc với những người mới tham gia chữa trị sẽ gisp bạn nhớ lại những khoảnh khắc yếu đuối của mình ngày trước cũng như làm thế nào mình đạt được 1 cuộc sống tinh thần khác biệt như ngày nay.
Sau đây là những đặc điểm của 1 người phụ nữ đã thoát khỏi tình trạng yêu mù quáng:
1. Họ hoàn toàn chấp nhận bản thân, ngay cả khi muốn thay đổi một phần nào đó trong con người mình. Đây chính là nền tảng của tình yêu bản thân và lòng tự trọng, nghĩa là biết nuôi dưỡng bản thân cẩn thận đồng thời phát triển cá nhân có mục đích.
2. Họ chấp nhận con người thật của mọi người xung quanh mà không hề có ý muốn thay đổi người đó.
3. Họ cảm nhận sâu sắc nhu cầu và thái độ của bản thân về mọi khía cạnh diễn ra trong cuộc sống của mình, kể cả đời sống tình dục.
4. Họ nâng niu mọi khía cạnh của bản thân : tính cách, diện mạo, niềm tin và giá trị cá nhân, thú vui cũng như những thành tựu đạt được. Họ công nhận giá trị bản thân thay vì phụ thuộc vào 1 mối quan hệ nào đó để cảm nhận được điều đó.
5. Họ tự tin về bản thân và có thể sống thoải mái cùng mọi người, đặc biệt là những nam giới cũng tốt đẹp như họ. Họ không cần được người khác nương nhờ mới cảm thấy mình có giá trị.
6. Họ cho phép bản thân sống cởi mở và tin cậy vào những người thích hợp. Họ không ngại bộc lộ bản thân ở mức độ sâu sắc nhưng cũng không để những người không thật sự yêu mến họ lợi dụng.
7. Họ biết băn khoăn về mối quan hệ hiện tại :” Mối quan hệ này có tốt cho mình không ? Liệu nó có giúp mình phát huy mọi khả năng của bản thân ?”
8. Khi mối quan hệ ảnh hưởng không tốt đến mình, họ có thể dứt bỏ nó mà không cảm thấy đau khổ hay tuyệt vọng. Họ có bên cạnh nhiều người thân, bạn bè và các thú vui lành mạnh khác để có thể vượt qua được điều đó.
9. Họ coi trọng sự bình yên trong tâm hồn mình. Tất cả mọi mâu thuẫn, đấu tranh, bi kịch, xáo trộn của quá khứ đều không còn hấp dẫn với họ nữa. Họ biết tự bảo vệ bản thân, sức khỏe cũng như sự an vui của mình.
10. Họ hiểu rằng để có được 1 mối quan hệ tốt đẹp thì 2 người phải cùng chia sẻ những giá trị, thú vui, mục tiêu chung, đồng thời cả hai đều phải có khả năng yêu thương. Họ cũng hiểu rằng mình xứng đáng nhận được những gì tốt đẹp nhất mà cuộc sống trao tặng.
Một khi đã chấp nhận và yêu quý bản thân, chúng ta đã sẵn sàng thực hành có ý thức bài tập “là chính mình” mà không phải diễn trò có tính toán để được người khác yêu thương hay thừa nhận. Có thể ta cảm thấy mình kỳ quặc hoặc dễ bị tổn thương khi chỉ là chính mình. Khi phải tự đấu tranh để bản thân tin rằng mình thật sự đáng yêu ( mà thực tế là thế ), và xứng đáng với tình yêu của 1 ai đó, rất có thể đôi lúc ta cảm thấy thèm được diễn 1 trò nào đó để làm vừa lòng người ấy. Tuy nhiên, nếu quá trình bình phục của ta đã đạt được 1 mức độ nhất định thì ta sẽ biết cách từ chối ý muốn quay trở lại cách sống và lối suy nghĩ cũ.
Chẳng phải sự đau khổ đã níu chân chúng ta . Chúng ta vẫn thường chịu đựng những mức độ khác nhau của sự đau khổ mà không hề biế đến khái niệm giải thoát, trừ khi ta chịu thay đổi. Điều níu chân chúng ta chính là sự sợ hãi, sợ những điều mình chưa biết.The sexual key : Sử dụng logic cảm xúc của phụ nữ để quyến rũ họ( tác giả J D Fuent) 

Nguyên tắc con voi hồng : Khi tôi yêu cầu bạn ko nghĩ về 1 con voi hồng, bạn chắc chắn sẽ tưởng tượng về nó Khi bạn miêu tả về cái gì thì người nghe sẽ trải nghiệm trực tiếp những gì mà bạn miêu tả, cùng với tất cả những cảm xúc đi kèm với trải nghiệm đó.
Khuấy động trí tưởng tượng của phụ nữ bằng cách dùng màu sắc, âm thanh khi mô tả + cảm xúc của bạn + những gì bạn nhìn thấy, nghe thấy
Những gì bạn nói với phụ nữ phải tạo cho cô ấy cảm giác quen thuộc, gần gũi.
Bắt chước điệu bộ của cô ấy : nếu cô ấy đứng, bạn cũng đứng. Nếu cô ấy khoanh tay, bạn cũng làm y như vậy. Khi cô ấy hít vào bạn cũng hít vào. Nó sẽ có tác động mạnh mẽ đến cô ấy.
Dùng ngôn ngữ mơ hồ, ko rõ ràng. Nếu những gì bạn nói phù hợp với quan điểm của cô ấy, cô ấy sẽ tin tưởng những gì bạn nói.
Khi bạn kể câu chuyện về người khác, cô ấy sẽ ko cảm thấy bối rối. Bạn ko kể chuyện cô ấy đang yêu ai mà bạn hãy kể chuyện 1 người bạn của bạn đang yêu như thế nào. Bạn đã trực tiếp đưa những yêu cầu, mong muốn của bạn cho cô ấy mà ko phải chịu trách nhiệm.
Bạn càng mô tả nhiều bao nhiêu, cô ấy sẽ càng cảm thấy vui sướng.
Hãy nói nhiều về cảm xúc mà bạn muốn khuấy động trong cô ấy.
Cảm xúc của người đàn ông thường ngắn gọn, bất chợt, tạm thời. Cảm xúc của 1 người phụ nữ thì mạnh mẽ hơn nhiều. Như thể đó là 1 đại dương mà cô ấy hoàn toàn chìm đắm trong đó. Cảm xúc quyết định nhận thức của phụ nữ. Cảm xúc mà cô ấy cảm nhận tại thời điểm này sẽ quyết định cách thức mà cô ấy diễn giải về sự vật, sự việc tại thời điểm đó.
Cảm xúc và ngôn ngữ của phụ nữ rất phức tạp. Sự phức tạp của cảm xúc phụ nữ có liên quan trực tiếp đến sự phức tạp của ngôn ngữ cô ấy dùng.
Đối với đàn ông, ngôn ngữ là thông tin. Chúng ta lắng nghe ai nói là để thu thập thông tin và hoàn thành nhiệm vụ. Đối với đàn ông, giao tiếp có cùng chức năng của 1 tờ báo.
Đối với phụ nữ, ngôn ngữ là thông tin nhưng nó cũng là cảm xúc nữa. Ngôn ngữ kết nối với cảm xúc. Khi bạn dùng lối nói đầy ình ảnh, bạn đã kích thích trí tưởng tượng của phụ nữ. 50% số sách bán được hằng năm là tiểu thuyết lãng mạn.
Vật thể/ sự vật và hành động là những cái đàn ông quan tâm thì đối với phụ nữ, chúng chỉ là những phương tiện đem lại cho họ cơ hội được trải nghiệm nhiều cảm xúc.
Công thức : 1 kích thích bên ngoài -> Cảm xúc đau / thỏa mãn -> Cảm xúc 1 -> Cảm xúc 2 -> cảm xúc 3 …-> Cảm xúc n.
Mẫu hành vi của đàn ông : Hành động -> Thỏa mãn / Đau đớn -> Hành động.
Mẫu hành vi của phụ nữ : Hành động -> Thỏa mãn / Đau đớn -> Cảm xúc 1 -> Cảm xúc 2 -> cảm xúc 3 …-> Cảm xúc n -> Hành động.
Đàn ông trải nghiệm cuộc sống : Đặt mục tiêu -> Đương đầu -> Đấu tranh -> Chinh phục.
Phụ nữ trải nghiệm cuộc sống : Nhận diện vấn đề -> Chấp nhận -> Cởi mở -> Kết nối -> Sáp nhập.
Đàn ông vượt qua và làm chủ, chinh phục hoàn cảnh.
Phụ nữ nhận diện và kết nối với bản thân.
Kết luận : Bạn càng mô tả nhiều bao nhiêu thì phụ nữ càng kết nối với bạn mạnh mẽ bấy nhiêu.
Sự thỏa mãn của phụ nữ đến từ những trải nghiệm cảm xúc sâu đậm và mạnh mẽ.
Ghi nhớ : Những từ ngữ miêu tả cảm xúc có thể buồn cười và vô nghĩa với 1 người đàn ông nhưng nó lại có ý nghĩa sâu sắc đối với phụ nữ.
Phụ nữ luôn luôn muốn nhiều hơn. Phụ nữ muốn có nhiều cảm xúc mạnh mẽ, sâu sắc. Cô ấy ko chỉ muốn 1,2 cảm xúc mà muốn đến n cảm xúc. Và khi cô ấy đã trải nghiệm đến cảm xúc n thì bạn hãy nói cô ấy tưởng tượng về cảm xúc đó 2 lần, 3 lần và 1 triệu lần…
Đàn ông muốn có nhiều trải nghiệm vật chất. Đàn ông ko chỉ muốn có trải nghiệm cảm xúc với 1 phụ nữ mà muốn với rất nhiều phụ nữ.
Phụ nữ thì muốn có nhiều trải nghiệm cảm xúc.
Công thức : Khi bạn nói về X , nó giống như Y và nó sẽ dẫn đến cảm xúc của Z. Z bây giờ là ý nghĩa của X.
Bạn cần dùng nhiều từ ngữ và ẩn dụ, biểu tượng. Đối với phụ nữ, cảm xúc bên trong quan trọng hơn sự kiện bên ngoài.
Nếu bạn muốn khuấy động cảm xúc ân ái ở phụ nữ, hãy miêu tả về những cảm xúc hay trải nghiệm giống với hoạt động tình dục. Nếu bjan vẫn giữ được vẻ mặt nghiêm túc và “ có vẻ “ như ko nhận ra mình đang miêu tả về sex, phụ nữ sẽ tin là bạn chỉ mô tả về cảm xúc sâu sắc. Cơ thể và trí tưởng tượng của phụ nữ sẽ bị “ kích1000 câu hỏi phỏng vấn người yêu ( tác giả Michael Webb – 1000 question for couples ) 

Cho dù bạn đang hẹn hò với người yêu được 5 tháng hay 500 tháng thì bạn nhất định cần phải biết được câu trả lời của người yêu cho 1000 câu hỏi sau đây. Bạn đừng nên tránh né những câu hỏi liên quan đến chủ đề : nhân cách, nghề nghiệp, tiền bạc, tình dục, gia đình, sở thích, nuôi con. Vì đó là những vấn đề bạn buộc phải đối mặt sau khi kết hôn. Với 1000 câu hỏi này , bạn sẽ phát hiện được nhiều điều về người yêu mà bạn không ngờ tới, tránh tình trạng sau khi kết hôn thì bạn mới thấy những điểm khác biệt giữa hai người là khó chấp nhận được. Ở đây mình chỉ dịch được hơn 500 câu hỏi thực sự cần thiết, phù hợp với người Việt Nam. Nếu bạn muốn đọc hết 1000 câu hỏi bằng tiếng Anh thì hãy download ebook 1000 questions for couples. Và trước tiên bạn cần phải tự mình trả lời những câu hỏi trên trước khi hỏi người yêu. 
1 Điều gì ở tôi khiến bạn nhớ đến một người nào đó trong quá khứ của bạn ( ví dụ như người yêu cũ hay người bạn tốt nào đó )?
2 Bạn nghĩ gì về năng lực của tôi? Bạn có nghĩ là mình cũng có một vài năng lực nào đó giống tôi ?
3 Bạn đã từng tham gia bao nhiêu trận đánh nhau ? Bạn có phải là người bắt đầu gây ra xung đột ? Tại sao bạn đánh nhau ?
4 Có người thân yêu nào của bạn đã qua đời chưa ? Bạn xử lý việc đó như thế nào ?
5 Bạn sợ nhất điều gì ? Những nỗi sợ đó ngăn không cho bạn làm những việc bạn thích như thế nào ?
6 Đã bao nhiêu lần bạn nghĩ là trực giác của bạn là đúng ? Khi nào thì bạn nghĩ là trực giác của bạn không đúng?
7 Kĩ năng nào mà bạn mong muốn được học nhưng chưa thực hiện được ( vd chơi piano, học 1 ngoại ngữ …)?
8 Nói chuyện trước đám đông có khiến bạn sợ ? Bạn đã có nhiều kinh nghiệm về việc này chưa ?
9 Khi bạn nổi giận thì bạn thường có kiểu hành xử như thế nào ?
10 Liệu việc bộc lộ cơn giận bằng hành động bạo lực thì có đúng đắn ko ? Nếu đúng thì khi nào và như thế nào ?
11 Bạn xử lý như thế nào trước những sang chấn lớn như cái chết của một người thân yêu, bị đuổi việc hoặc những hụt hẫng nghiêm trọng khác ?
12 Bạn thường có phản ứng như thế nào khi có ai đó phê bình bạn ?
13 Có điều gì, lĩnh vực gì mà bạn cảm thấy mình ích kỷ nhất ?
14 Bạn có nghĩ mình đủ khả năng bình tĩnh, hành động khôn ngoan trong những tình huống khẩn cấp? 
Bạn hãy nêu ví dụ về những tình huống đó.
15 Bạn cảm thấy như thế nào khi 1 con vật bạn yêu thương bị chết ?
16 Bạn có giấc mơ nào lặp đi lặp lại nhiều lần ko ? Giấc mơ đó là gì ?
17 Bạn cảm thấy điều gì là khó kiểm soát nhất?
18 Bạn cảm thấy điều gì là khó bộc lộ nhất ?
19 Bạn nghĩ tôi có thể xử lý bản thân mình như thế nào khi tôi đang ở trong 1 hoàn cảnh khó khăn?
20 Nếu bạn được lựa chọn để biết tất cả mọi thứ về 1 chủ đề nào đó, thì bạn muốn trở thành chuyên gia trong lĩnh vực nào ?
21 Nếu một người đang hạnh phúc thì anh ta sẽ nói những gì ? Nếu anh ta buồn …
22 Bạn có phải là 1 người biết tổ chức 
23 Nếu ngôi nhà của bạn bị ngọn lửa thiêu rụi thì bạn sẽ làm gì ? Nếu bạn có thể đem 3 vật ra khỏi ngôi nhà thì đó là vật gì
( giả định là không có ai ở trong ngôi nhà lúc lửa cháy )
24 Nếu bạn là 1 nhà viết sách tài năng và bán được 100.000 bản cho mỗi cuốn sách bạn viết thì đó sẽ là cuốn sách gì ?
25 Bạn cảm thấy mùa ( thời tiết ) nào ;àm bạn hạnh phúc hơn cả ? Tại sao ?
26 Bạn có thích cái tên của mình ko ? Bạn có muốn mình có 1 cái tên khác ko ? Nếu có thì đó là tên gì ?
27 Khi bạn ốm và cảm thấy khốn khổ thì bạn muốn ở một mình hay muốn được chăm sóc và có ai đó ở bên?
28 Hafh động chăm sóc nào đáng nhớ nhất mà bạn đã từng làm ?
29 Bạn có nghĩ là người bạn đời ucar mình dành nhiều thời gian chăm sóc con cái, thú nuôi và nó khiến bạn ghen tỵ ?
30 Bạn có thích trầm trọng hóa mọi việc?
31 Bạn thích được sinh ra ở quốc gia nào, tại sao ?
32 Bạn có nghĩ mình là con người công bằng trong suy nghĩ, hành xử ?
33 Bạn có phải là người dễ dàng thích nghi với hoàn cảnh ? Nêu ví dụ
34 Thỉnh thoảng bạn có tính trẻ con ko ? Bạn đã từng làm những hành động trẻ con gì ?
35 Bạn có phải là người lạc quan, bi quan hay là người thực tế ?
36 Bạn có thường hay khóc ? Và khóc trong những tình huống nào ?
37 Điều gì khiến bạn cảm thấy an toàn ?
38 Bạn có khuynh hướng phân tích những quyết định của mình trước khi nói về chúng hay là bạn nói trước khi suy nghĩ ?
39 Bạn mô tả mình là người giữ gìn hòa bình hay là người ưa gây sự ?
40 Bạn thích tiếp xúc với mọi người trong 1 nhóm nhỏ hay là trong nhóm lớn?
41 Bạn thích tiệc tùng hay là nói chuyện với 1 người ?
42 Bạn là người thiên về hướng ngoại hay hướng nội ? 
43 Bạn có xu hướng cất giữ những suy nghĩ, cảm xúc của mình hay là thoải mái chia sẻ nó với mọi người ?
44 Bạn có dễ dàng mất bình tĩnh?
45 Bạn có cho tiền những người ăn xin ko ? Tại sao và tại sao ko ?
46 Bạn có những trải nghiệm nào khiến bạn tràn ngập niềm vui ko ?
47 Bạn có nghĩ là hiện tại mình đã trưởng thành và có đủ trải nghiệm để xây dựng 1 mối quan hệ thành công ko?
Khi nào thì bạn cảm thấy mình đã sẵn sàng ?
48 Trong hoàn cảnh nào bạn cảm thấy bình an nhất ?
49 Câu hỏi cho đàn ông : Bạn nghĩ điều gì là tuyệt vời nhất khi là 1 người đàn ông. 
Câu hỏi cho phụ nữ : Bạn nghĩ điều gì là tuyệt vời nhất khi là phụ nữ ?
50 Nếu có ai đó cho bạn 1 triệu đô la và yêu cầu bạn cho 1 vài người nào đó hay 1 tổ chức nào đó, thì bạn sẽ cho ai ?
51 Bạn có thích ôm người khác ko ? Bạn có thích được ôm ko ?
52 5 điều bạn từng làm trong quá khứ khiến bạn cảm thấy tự hào nhất ?
53 Kể cho tôi nghe 1 lần bạn khóc nhiều nhất trong quá khứ
54 Nếu người bạn đời của bạn có mối quan hệ tình cảm với ai đó thì bạn sẽ phản ứng thế nào ?
Bạn có tha thứ cho cô/anh ấy ko ?
55 Nếu người bạn đời của bạn có tình 1 đêm với ai đó do uống quá say,
bạn phản ứng thế nào, có tha thứ ko ?
56 Bạn có thể giữ bĩ mật ko ? Điều đó có gây khó khăn cho bạn ko ?
57 Bạn có nghĩ là sự may mắn đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống ?
58 Bạn có thấy khó khăn khi thỏa hiệp điều gì đó ko ?
59 Bạn có sợ cô đơn , bị từ chối, ko được yêu thương ?
60 Điều gì khiến bạn cảm thấy nhớ nhà , cảm thấy ủy mị ?
61 Bạn có thần tượng ai ko ? Bạn có cố gắng bắt chước giống thần tượng ở 1 lĩnh vực nào đó ?
62 Bạn nghĩ bản thân mình có khả năng làm người lãnh đạo hay là người đi theo ?
63 So với cách đây 5 năm , bạn nghĩ mình thay đổi theo hướng tốt lên hay tệ đi ?
64 Điều gì khiến bạn cảm thấy liên tục lo lắng ?
65 Nếu bạn được trả lương để làm việc cho 1 tổ chức từ thiện trong 1 năm thì bạn sẽ chọn tổ chức nào ?
66 Giả sử : bạn muốn mình bị câm hay mù hay điếc hơn ? Bị khuyết tật nào trong 3 cái đó là tồi tệ nhất?
67 Bạn nghĩ mình là người thú vị hay tẻ nhạt ?
68 Bạn có nghĩ mình là người nhạy cảm so với phần lớn những người cùng giới tính với bạn ?
69 Bạn có thường xuyên yêu cầu được giúp đỡ hay là bạn thích tự mình làm rồi thất bại hơn ?
70 Nếu có 1 mất mát tài chính lớn xảy ra đối với bạn, gồm mất nhà, 
mất xe thì điều đó ảnh hưởng đến lòng tự trọng của bạn ra sao ?
71 Điều gì khiến bạn cảm thấy mình quan trọng ?
72 Bạn đánh giá mức độ trưởng thành của mình so với bạn bè đồng trang lứa như thế nào ?
73 Điều gì khiến bạn cảm thấy thất vọng nhất ?
74 Bạn có bao giờ làm 1 công việc gì đó hết mình nhưng cuối cùng ko được trả lương chưa ?
75 Bạn có 1 nới chốn nào đặc biệt của mình ko ? Tại sao nơi đó lại có ý nghĩa đối với bạn ?
76 Tại sao bạn cảm thấy mình là con người đáng tin cậy ?
77 Bạn có nghĩ mình là người thích cạnh tranh ? Trong những lĩnh vực nào
78 Những lề thói nào mà bạn làm hằng ngày ?
79 Bạn cảm thấy như thế nào khi 1 người gần gũi với bạn nhưng lại ko ủng hộ bạn ?
80 Những lĩnh vực nào trong cuộc sống bạn cảm thấy như mình là người độc lập ?
81 Trong những lĩnh vực nào mà bạn phụ thuộc vào người khác ?
82 Điều gì khiến bạn cảm thấy tức giận ? Bạn thường phản ứng như thế nào khi tức giận ?
83 Bạn có cố gắng giảm cân nếu người bạn đời của bạn yêu cầu ?
84 Tài năng nào mà bạn muốn có ?
85 Bạn có thường viết những ngày quan trọng như sinh nhật, ngày lễ vào sổ ko ?
Bạn có dùng lịch ko ? Bạn có thường nhớ những ngày đó ko ?
86 Bạn có chơi nhạc cụ nào ko ?
87 Nếu bạn được nổi tiếng thì bạn muốn nổi tiếng ở lĩnh vực gì ?
Bạn nghĩ nổi tiếng là tốt hay xấu cho mối quan hệ của bạn ?
88 Nếu bạn biêt smifnh sẽ chết trong 2 ngày nữa thì bạn sẽ sử dụng thời gian như thế nào ?
89 Điều gì khiến cuộc sống là đáng sống ?
90 Bạn có nghĩ là tôi giống với 1 thành viên nào đó trong gia đình bạn ko ? Tôi giống người đó như thế nào ?
91 Bạn quan niệm như thế nào về việc khóc ?
92 Bạn có thể nghĩ 1 vài nét tính cách nào đó của tôi khiến bạn nhớ đến bố hay mẹ bạn ko ?
93 Bạn có phải là người biết cân bằng mọi việc trong cuộc sống ? Bạn cân bằng như thế nào ? 
Nếu ko, bạn làm những việc gì để đạt được sự cân bằng ?
94 Nếu bạn có thể thay đổi 3 điều trong hệ thống trường học của chúng ta, đó là những điều gì ?
95 Bạn thích nhận món quà đắt tiền hay là món quà thể hiện tình cảm nhưng rẻ tiền ?
96 Bạn có biết hầu hết những người hàng xóm của bạn ko ?
97 Bạn đã từng sống 1 mình chưa ? Bạn có thích cuộc sống đó ko ?
98 Bạn cảm thấy như thế nào nếu người bạn đời của bạn đọc thư riêng của bạn ?
99 Bạn có thấy xấu hổ khi có camera ko ? Tại sao 
100 Bạn có làm to-do list ko ? 
Bạn có thích nó ko hay bạn có trở nên phòng vệ nếu người bạn đời giúp bạn làm 1 cái to-do list?
101 Bạn có cảm thấy mình lãng phí nhiều thời gian ko ? Bạn có cảm thấy người bạn đời 
của mình lãng phí nhiều thời gian ko ? 
Điều đó có gây phiền não cho bạn ko ?
102 Bạn là người đúng giờ hay thường xuyên trễ hẹn ?
103 Điều gì khiến bạn cho là lãng phí thời gian ?
104 Bạn có thích hầu hết nhân cách ( tính cách ) của tôi ko ?
SỞ THÍCH
106 Thể loại âm nhạc yêu thích của bạn
107 Nhà hàng yêu thích của bạn. Bạn thường ăn ở đó mấy lần/tuần
108 Thể loại sách yêu thích thời bé của bạn
109 Loại phim yêu thích? Diễn viên? Hài kịch 
110 Loại rượu yêu thích của bạn ?
111 Loại thức ăn yêu thích mà bạn thường dùng ?
112 Đâu là thời gian yêu thích trong ngày của bạn?
113 THÚ NUÔI
114 Nếu bạn có đủ không gian và tiền để nuôi thú thì bạn sẽ muốn nuôi con vật nào ?
115 Bạn có dị ứng với vật nuôi ? Nếu người bạn đời của bạn dị ứng với thú nuôi thì bạn có 
sẵn lòng cho con vật ấy cho gia đình khác ?
116 Những con vật nuôi nào mà bạn ko muốn sống cùng ( vd chó, mèo, rắn…)
117 Bạn có đồng ý để những con vật nuôi leo trèo vào đồ đạc trong nhà ( giường, tủ, bàn, ghế…)
118 Bạn có nhốt con vật nuôi vào 1 chỗ hay là cho chúng chút không gian chạy nhảy…
119 Bạn có nghĩ rằng nhốt chó vào cũi là tội ác 
120 Bạn nghĩ thế nào về việc cho con vậ nuôi ngủ cùng giường với bạn ?
121 SỰ HẤP DẪN, THU HÚT
122 Nếu bạn ko thích kiểu tóc hay quần áo của người bạn đời, bạn có nói với cô, anh ấy ko ?
Ngược lại Bạn muốn người bạn đời nói với bạn ko?
123 Điều gì ở tôi quyến rũ bạn trong lần gặp đầu tiên ? Liệu nét quyến rũ đó có thay đổi về sau này ko ?
124 Nếu bạn biị hói đầu, bạn có xem xét đến việc mang tóc giả ko ?
125 Nếu người bạn đời của bạn yêu cầu bạn cạo râu hoặc ko cạo lông ( mặt, chân, lông nách, và cạo lông ở bộ phận khác ) thì bạn có làm ko ?
126 Những đặc điểm nào về ngoại hình và tính cách của một ai đó khiến bạn bị thu hút ?
127 Bạn có tin vào tình yêu sét đánh ko ? Nếu có, thì tại sao hàng triệu trường hợp bắt đầu từ tình yêu sét đánh lại tan vỡ ?
128 Bạn có thực sự thích cách ăn mặc của tôi ko ? Tôi có thể thay đổi những điểm gì trong cách ăn mặc để làm bạn hài lòng ?
129 Những lĩnh vực nào mà bạn cho là mình thông minh ?
130 Bạn cảm thấy thế nào nếu người bạn đời muốn mặc giống bạn ?
131 Bạn thấy ngoại hình của tôi có điểm nào khiến bạn bị thu hút ?
132 Bạn có sợ trông mình già hơn ?
133 Quan điểm của bạn về những phụ nữ chi tiền cho việc làm móng tay/chân? Bạn thích móng tay/chân của phụ nữ như thế nào?
134 Bạn cảm thấy thế nào nếu biết tôi từng đi nâng ngực
135 Nếu bạn có thể thay đổi 1 thứ ở cơ thể bạn thì đó là thứ gì ?
136 Bạn thích trang phục nào của tôi ? Tại sao?
137 Liệt kê 1 hoặc 2 thay đổi nhỏ mà tôi có thể thực hiện đối 
với ngoại hình của tôi khiến cho tôi trở nên quyến rũ hơn?
138 SỨC KHỎE, THỨC ĂN 
139 Bạn có những nỗi sợ nào liên quan đến việc đi khám bác sỹ?
140 Bạn có quan tâm đến những thói quen lành mạnh và không lành mạnh của tôi ko ?
141 Hút thuốc thụ động là một trong những nguyên nhân dẫn đến ung thư và các bệnh hô hấp.
Liệu bạn có đồng ý cho ai đó hút thuốc gần con của bạn ? 
Nếu bạn hút thuốc thì bạn có cố gắng từ bỏ nó trước khi có con ko ?
142 Bạn đã từng trải qua những cơn trầm cảm chưa . Nếu có thì nó kéo dài bao lâu ?
143 Bạn đã từng có ý nghĩ tự tử chưa ?
144 Lần đầu tiên bạn hút thuốc là khi nào ?Tại sao bạn thử nó ? 
Bạn hút thuốc trong bao lâu ? Nếu bạn vẫn hút thuốc , bạn đã từng nỗ lực thử bỏ hút chưa ?

146 Bạn sống để ăn hay ăn để sống ?
147 Bạn đã từng ăn kiêng chưa ? Chế độ ăn kiêng mà bạn thường thực hiện?
148 Bạn có thường đau ốm ko ( cảm lạnh, cúm…)
149 Bạn có hay để ý mình thường ăn uống khi cảm thấy buồn chán, bị stress hay lo lắng ko ?
150 Một ngày/tuần bạn tập thể dục trong bao lâu ? Bạn nghĩ là mình nên dành bao nhiêu thời gian để tập thể dục?
151 Bạn có mối bận tâm nào về vấn đề sức khỏe bản thân ko ( vấn đề tim mạch, huyết áp, tiểu đường…)
152 Bạn có kiểm tra sức khỏe định kỳ ko ? Lần kiểm tra cuối cùng diễn ra khi nào ?
153 Bạn nấu ăn hay dùng thức ăn chế biến sẵn ( đồ hộp )? Bạn thường ra ngoài ăn mấy lần/tuần?
154 Bạn thích loại hình thể dục nào ?
155 Bạn có biị rối loạn giấc ngủ ko ?
156 Bạn có thích dùng lại đồ ăn thừa ko ? Bạn có từ chối dùng đồ ăn thừa ko ?
157 Khi say rượu bạn từng có hành động ngu ngốc, nguy hiểm nào ko ?
158 Bạn có thường dùng thuốc bổ sung vitamin ko ? Bạn có nghĩ thức ăn bạn dùng
đã đủ vitamin tự nhiên ?
159 Bạn đã thử ăn những bữa ăn lành mạnh chưa ? Vd như thức ăn hữu cơ
Hiện tại bạn có dùng thuốc điều trị nào ko ?
161 Bạn uống rượu mấy lần/tuần ?
162 Bạn có kế hoạch nấu ăn cho cả tuần hay là nấu ăn theo tâm trạng ?
163 Bạn có hay chỉ trích những loại thức ăn và dịch vụ ăn uống ở ngoài ko ?
164 Bạn có sợ vi khuẩn, thức ăn nhiễm độc và có xu hướng vứt những loại thực phẩm 
để trong tủ lạnh quá 1 tuần ko ?
165 Bạn có uống café ko ? Bao nhiêu lần /tuần và bao nhiêu cốc café/ngày ? 
Bạn có cảm thấy mình cần nạp 1 lượng caffeine nhất định để có thể làm việc trong ngày ?
166 Bạn đã từng uống rượu và lái xe chưa
167 Bạn có bị chứng dị ứng nào ko?
168 Bạn từng bị bạo hành chưa ( bạo hành về thể chết, tình dục, tinh thần ). 
Những cảm xúc đó vẫn còn lưu giữ đến bây giờ ko ? Bạn đã đi tham vấn về vấn đề đó chưa ?
169 Bạn là người sành ăn( thích thưởng thức tất cả những loại thức ăn trên thế giới ) 
hay bạn chỉ thích dùng những loại thực phẩm cơ bản hằng ngày ?
170 Bạn có nhớ lần đầu tiên uống rượu của mình ko ? Hoàn cảnh lúc đó như thế nào ?
171 Bạn nghĩ ai là người chịu trách nhiệm đi chợ và nấu cơm trong cuộc sống vợ chồng ? 
Khi bạn kết hôn thì bạn nghĩ nên ra ngoài ăn bao nhiêu lần/tuần ?
172 Bạn ko thích loại thức ăn nào ? Có những loại thức ăn nào bạn ko dùng vì lý do 
sức khỏe hoặc vì những lý do khác ?
173 Bạn đã từng đi bệnh viện cấp cứu chưa ? Trải nghiệm đó như thế nào ?

NHỮNG KỲ NGHỈ PHÉP
176 Bạn đã từng đi du lịch nước ngoài chưa ? Bạn có hộ chiếu chưa ?
177 Bạn có thường làm việc trong kỳ nghỉ phép ko ( vd trả lời email,điện thoại…), 
việc đó chiếm bao nhiêu thời gian/ngày và có cần thiết ko
178 Bạn thích 1 kỳ nghỉ kéo dài 1 tuần ở 1 địa điểm tốn 50 triệu hay
1 kỳ nghỉ kéo dài 1 tuần ở 3 nơi khác nhau nhưng chỉ tốn 17 triệu ?
179 Đối với bạn thì 1 kỳ nghỉ phép kéo dài tối đa bao nhiêu ngày thì ko ảnh hưởng công việc của bạn ?
180 Nếu bạn có thể lên kế hoạch cho kỳ nghỉ của chúng ta , thì bạn muốn đi du lịch ở đâu ?
181 Khi đi du lịch, mục tiêu của bạn là : thư giãn, gặp gỡ bạn bè, gia đình, thưởng thức món ăn, văn hóa …?
182 Liệu bạn có đi du lịch ở một nơi liên tục hay bạn thích khám phá những miền đất mới ?

184 Một năm bạn đi du lịch mấy lần ? Mấy lần vì công tác và mấy lần để thư giãn?
185 Một kỳ nghỉ của bạn tốn kém Trung bình bao nhiêu tiền ?
186 Đâu là kỳ nghỉ tuyệt vời nhất mà bạn từng có ?
187 Bạn có thích cắm trại ko 
188 Ai trông nom nhà cửa cho bạn khi bạn đi du lịch?
189 Bạn xử lý vấn đề về ngôn ngữ như thế nào khi đi du lịch nước ngoài ?
VẤN ĐỀ VỀ NIỀM TIN ĐẠO ĐỨC, CHÍNH TRỊ
190 Nếu chúng ta có quan điểm chính trị trái ngược nhau, nó sẽ ảnh hưởng 
như thế nào đến mối quan hệ ?
Những quan điểm chính trị khác biệt nào mà bạn thấy khó chấp nhận được ?
191 Bạn đã từng phạm tội ác chưa? Bạn đã từng bị bắt giam chưa ?
192 Bạn có đồng ý việc tử hình người phạm tội giết người ko ?
Bạn nghĩ như thế nào về phim ảnh khiêu dâm ? Bạn có nghĩ là nó cũng có ích lợi nào đó ko ?
193 Có người nào đó khiến bạn sẵn sàng chết vì họ ko ?
194 Bạn có đi bầu cử đều ko ?
195 Hiện tại bạn có tham gia vào hoạt động phạm pháp nào ko ?
196 Bạn có sẵn sàng ăn cắp 1 chiếc xe đáng giá 20 triệu ko nếu bạn chắc chắn là mình sẽ ko bị bắt?
197 Bạn cảm thấy thế nào khi 1 người bạn tiết lộ với bạn cô , anh ấy là gay ?
Bạn có muốn tiếp tục mối quan hệ với cô ấy ko ?
198 Bạn nghĩ thế nào về cờ bạc?
199 Bạn đã từng nói tục chưa ? Tại sao? Bạn có thấy bực mình khi nghe ai đó nói tục ko ?
200 Có điều gì đó có thể khiến bạn đánh nhau với ai đó ko ?
201 Nếu bạn thấy 1 chiếc ví có 6 triệu , bạn có trả lại cho người mất ko ? Bạn có gửi cho cảnh sát nếu 
ko xác định được chủ của chiếc ví ?
203 Bạn là người tự do, bảo thủ hay ở giữa 2 người đó ?
204 Từ những mối quan hệ trong quá khứ, bạn có nghĩ là chúng ta học hỏi được từ
sai lầm hay người ta chỉ đơn giản lặp lại những sai lầm đó ?
205 Bạn có tin rằng phần lớn mọi người là đáng tin và trung thực ko ?
206 Kể cho tôi 1 lời nói dối lớn nhất bạn từng nói ? Tại sao bạn nói dối và bạn cảm thấy thế nào sau đó ?
207 Bạn làm gì để bảo vệ môi trường ? Bạn có nghĩ là mình nên làm nhiều hơn ko ?
208 Bạn đã từng uủng hộ tiền, thời gian cho 1 tổ chức từ thiện nào chưa?
209 Bạn có tin rằng ở đâu đó trong cuộc đời có 1 người bạn đời phù hợp dành cho bạn , 
hoặc có rất nhiều người bạn đời tiềm năng mà bạn có thể chung sống cùng ?
210 Loại cảm xúc nào sau đây mà bạn nghĩ là ko phù hợp để bộc lộ nơi công cộng : giận dữ, buồn…?
211 Bạn đã từng ăn trộm chưa ?Tại sao?
VẤN ĐỀ VỀ TÔN GIÁO, TÂM LINH
212 Bạn có nghĩ là cung hoàng đạo ( theo tháng sinh ) đại diện cho tính cách 1 con người ?
213 Bạn có tin vào Chúa ? Bạn được dạy dỗ như thế nào để tin vào tôn giáo ?
214 Trải nghiệm tiêu cực nhất của bạn về tôn giáo của bạn hoặc những tôn giáo khác
215 Trải nghiệm tích cực nhất của bạn về tôn giáo của bạn hoặc những tôn giáo khác
216 Bạn đi nhà thờ bao nhiêu lần 1 tháng. 1 năm
217 Bạn có tin rằng nếu bạn ủng hộ tiền cho nhà thờ hoặc hội từ thiện thì 
bạn sẽ nhận được phần thưởng tiền bạc ko ?
218 Bạn có tin vào thần linh, ma quỷ ko ?
219 Có những con đường nào mà ta có thể dùng tôn giáo để giúp cho cuộc hôn nhân tràn đầy tình yêu, an lạc?
220 Bạn có muốn 1 đám cưới ở nhà thờ ko ?
221 Bạn có thường cầu nguyện ko ? Tại sao bạn cầu nguyện?
222 Bạn có những hành vi mê tín nào ko ? Liệt kê.
223 Nếu bạn và bạn đời có những niềm tin tôn giáo khác nhau, bạn có muốn người bạn đời
dạy con cái những điều trái ngược với niềm tin của bạn ?
224 Niềm tin tôn giáo của bạn giúp bạn đương đầu với vấn đề của mình như thế nào ?
225 Lệu có những linh hồn ma quỷ trong thế giới này ko ? Bạn có sợ chúng ko?
226 Khi còn bé bạn có sợ Chúa ?
227 Tôn giáo của bạn có điều luật nào về sự tránh thai ko?
228 Bạn dành bao nhiêu giờ 1 tuần cho tôn giáo: đi nhà thờ, cầu nguyện, nghiên cứu kinh…)
229 Bạn có tin vào sự đầu thai ?
230 Những tôn giáo nào mà bạn cho là có hại nhất ?
231 Bạn có sợ Chúa ko? Tại sao và tại sao không ?
QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI
232 Bạn có từng bị trêu chọc khi còn bé chưa ? Nó khiến bạn cảm thấy thế nào? 
Bạn đã từng trêu chọc ai chưa ?
233 Bạn đã từng là 1 đứa con ngoan hay bạn đã từng làm cho bố mẹ phiền lòng ?
234 Bạn có luôn gặp rắc rối khi còn bé ?
235 Bạn đã từng bỏ nhà ra đi chưa ? Tại sao?
236 Bạn có tham gia thể thao và hoạt động gì khi học đại học ko ?
237 Những mục tiêu trong cuộc hôn nhân của bạn ?
238 Có điều gì bạn muốn hoàn thành trước khi chết ?
Những bước nào bạn cần tiến hành để đạt mục tiêu đó?
239 3 mục tiêu của bạn trong năm nay ?
240 10 mục tiêu trong cuộc đời bạn
241 Mối quan hệ tình cảm này giúp đỡ hay cản trở bạn đạt đươc những mục tiêu đó ?
NHÀ Ở VÀ CUỘC SỐNG SINH HOẠT HẰNG NGÀY
242 Đâu là nơi bạn cảm thấy sinh sống thoải mái nhất ? 
Thành phố hay nông thôn, gần biển hay gần núi? Thời tiết nóng, ấm hay lạnh?
243 Khi kết hôn thì bạn nghĩ mình sẽ ko làm những công việc nhà nào : đổ rác, vệ sinh phòng tắm…
244 Loại nhà bạn thích ở : căn hộ, nhà riêng
245 Bạn có lưu giữu lại những đồ vật mà bạn ko thực sự 
cần dùng hay sẽ ko bao giờ dùng lại như báo cũ, những vật bị hỏng…?
246 Bạn mất bao lâu để khởi động cho 1 ngày mới ?
247 Bạn cảm thấy thế nào khi bạn đời tự ý chỉnh sửa nhà mà ko hỏi ý kiến bạn ?
248 Bạn có cho phép ai đó hút thuốc trong nhà ?
Bạn thích phân công công việc nhà hay làm việc nhà tùy thích ?
249 Bạn có thuê người làm vệ sinh trong nhà ? Bạn có nghĩ như vậy là lãng phí hay là điều đó xứng đáng chi tiền ?
250 Bạn tưởng tượng ngôi nhà thực tế của chúng ta trông như thế nào ? Kiến trúc, màu sắc, vườn…
251 Bạn có thường nghe nhạc ở nhà ? Loại nhạc, mức độ ồn ?
252 Bạn thích và ko thích điều gì ở nơi bạn lớn lên ?
253 Bạn giữ ngôi nhà của mình sạch sẽ như thế nào ?
254 Bạn lau chùi bếp ăn ngay sau mỗi bữa ăn chứ ? Bạn rửa chén ngay sau khi ăn xong ?
255 Bạn có thấy phiền ko nếu tôi khỏa thân đi lại trong nhà ?
256 Bạn có ngáy ko? Người ngủ phòng bên cạnh có nghe được tiếng ngáy của bạn ko ?
257 Bạn có thói quen ngủ như thế nào ( lấn giường, giành chăn, ngáy …)
258 Khi ngủ bạn có để đèn, để tivi mở ko ? Bạn có muốn chúng ta đi ngủ vào 1 thời gian nhất định ? 
Nếu bạn đời của bạn ngủ muộn hơn bạn và dậy trễ hơn bạn thì bạn thấy sao ? 
259 Bạn cảm thấy thế nào nếu bạn đời của bạn dùng bàn chải đánh răng của bạn ?
260 Bạn nghĩ nên làm vệ sinh phòng tắm bao nhiêu lần/tuần ? Bạn đã từng cọ rửa toilet chưa ?
261 Bạn tắm mấy lần 1 ngày ? Bạn tắm vào buổi sáng hay buổi tối ?
262 Bạn đánh răng mấy lần/1 ngày?
263 Một ngôi nhà sạch quan trọng như thế nào đối với bạn ?
Bạn có sẵn sàng dọn sạch ngôi nhà theo ý bạn nếu người bạn đời ko lau chùi sạch sẽ như bạn mong muốn ?
SỞ THÍCH VÀ GIẢI TRÍ
264 Bạn nghĩ là những quyển sách hay bộ phim nào mà tôi nên đọc, nên xem? Tại sao.
265 Bạn đi mua sắm quần áo mấy lần/tháng ?
266 Loại hình party nào bạn thích tham gia ? 
Bạn tham gia 1 lúc hay bạn ở lại cho đến khi hầu hết mọi người đã về ?
267 Bạn có thích dđi chơi ở công viên giải trí ko ? Tham gia những trò chơi mạo hiểm ?
268 Bạn có thường xuyên đi xem phim, nghe hòa nhạc ko ?
269 Bạn nghĩ là bạn đọc sách quá nhiều hay quá ít ?
270 Bạn có sưu tầm thứ gì ko ? Bạn chi bao nhiêu tiền cho thú vui sưu tầm của mình ?
271 Loại hình nghệ thuật yêu thích của bạn ?
272 Bạn đọc bao nhiêu quyển sách 1 năm ? Loại sách bạn đọc.
273 Quán bar hoặc nơi giải trí yêu thích của bạn ? Bạn thường đến đó mấy lần/tuần?
274 Bạn có nghĩ là gia đình mình nên giới hạn1 thời gian nhất định cho việc xem tivi mỗi ngày ? 
Bạn có sẵn sàng bắt đầu từ tuần này?
275 Nghệ tuật đóng vai trò gì trong cuộc sống của bạn ?
276 Sở thích của bạn ? Bạn dành bao nhiêu thời gian cho sở thích ?
277 Bạn xem bao nhiêu bộ phim trong 1 tháng ?
278 Trung bình 1 ngày bạn dành bao nhiêu thời gian xem tivi? Bạn xem tivi vào lúc nào và khi nào dừng ?
279 Bạn dành bao nhiêu giờ 1 ngày cho máy tính, internet ? ( ko kể thời gian làm việc với máy tính )
280 Thể hiện tình yêu ở nơi công cộng như thế nào được xem là đúng đắn ?
281 Bạn thường xem loại báo gì ? Bạn có thường xem thời sự ko ?
282 Bạn có tham gia phòng chát ko ? Phòng chat về chủ đề gì ?
283 Loại thể thao bạn xem trên tivi
284 Bạn có thích shopping ko ? Mua sắm quần áo, thức ăn hay đồ điện tử ?
285 Nếu bạn đời của bạn thích thể thao hay hoạt động nào đó mà bạn ko thích, 
liệu bạn có cố ép mình thích nó hay khuyến khích bạn đời tham gia hoạt động đó mà ko có bạn ko ? 
Nếu bạn đời của bạn ko thích những sở thích của bạn thì lệu bạn có bỏ sở thích đó ?
286 Điều gì tôi từng làm khiến bạn băn khoăn liệu tôi có yêu bạn hay ko ?
287 Những thói quen, lề thói nào cần được bổ sung vào mối quan hệ của chúng ta hằng ngày, 
hằng tuần, hằng tháng, hằng năm có thể giúp chúng ta gần gũi hơn ?
288 Bạn có nghĩ mình là người lãng mạn ?
289 Bạn thể hiện tình yêu với đối tác như thế nào ( những điều bạn nói, bạn làm, những món quà…)
290 Bạn có nghĩ đối tác của mình là người lãng mạn? Nếu ko, làm thế nào để người ấy cải thiện ?
291 Những điều mà bạn đời làm khiến bạn cảm thấy mình được yêu thương ?
292 Điều lãng mạn nhất mà ai đó đã từng làm cho bạn ?
293 Điều lãng mạn nhất bạn đã từng làm ?
294 Có nhiều kiểu tình yêu khác nhau. Bạn có thể kể tên và nói ra sự khác nhau giữa chúng ko ?
295 Bạn đã từng viết thư tình chưa ? Bạn có lưu giữ những bức thư tình thời xưa ko ?
296 Mọi người thích thể hiện tình yêu bằng nhiều cách khác nhau. 
Những cách nào bạn thích dùng để thể hiện với đối tác bạn yêu họ ?
297 Từ những mối quan hệ trước, buổi hẹn hò tuyệt nhất mà bạn từng có là ra sao?
Buổi hẹn hò tuyệt nhất mà chúng ta có là gì ?
298 Bạn định nghĩa như thế nào về từ " lãng mạn "
299 Bạn có cảm thấy khó khăn khi nói " I love you"
300 Bạn có cần nghe câu " I love you " hay những từ tương tự thường xuyên từ người bạn đời ko ?
301 Bạn cảm nhận như thế nào về cách mà cha mẹ nuôi dạy bạn ?
Những điều họ đã làm tốt và chưa tốt ?/
302 Người họ hàng nào của bạn mà bạn ko yêu thích nhất ? Bạn có tìm cách tránh mặt cô, anh ấy ko ?
303 Người họ hàng mà bạn yêu thương ? Điều gì khiến họ trở nên đặc biệt đối với bạn ?
304 Gia đình có quan trọng đối với bạn ko ? Vì sao ?
305 Bạn có nghĩ mình đủ khả năng sống xa cha mẹ, anh em nhiều hơn 6 giờ ?
306 Bạn làm điều gì khi ở cùng bạn bè ?
307 Bạn có nghĩ là bố mẹ lựa chọn người bạn đời cho bạn tốt hơn là bạn lựa chọn ?
308 Nếu gia đình bạn ghét người mà bạn đang hẹn hò và phản đối bạn cưới người ấy, 
bạn có làm đám cưới với người đó ko ?
309 Cuộc tranh cãi lớn nhất của bạn với gia đình là gì ? Vấn đề đó đã được giải quyết ổn chưa ?
310 Bạn có thường về thăm gia đình mình ? Bạn nghĩ mức độ thăm như vậy là đủ là là quá nhiều ?
311 Gia đình tôi đã làm điều gì khiến bạn bực bội ko ?
312 Truyền thống gia đình bạn? Bạn có muốn con cái bạn tiếp tục những truyền thống đó ?
313 Điều quan trọng nhất mà bạn học được từ cha là gì ? Ông ấy dạy bạn những gì ?
314 Điều khác biệt giữa cha mẹ tốt và che mẹ tuyệt vời ?
315 Sức ép của bạn bè có tác động mạnh như thế nào đối với bạn ? 
Bạn có cảm thấy mình cần sống giống cách sống của bạn bè ko ?
Bạn có những vấn đề nào liên quan đến sức ép của bạn bè vào những năm thơ ấu ko ?
316 Bạn gần gũi với thành viên nào trong gia đình nhất ?
317 Bạn sẽ chăm sóc bố mẹ khi về già như thế nào ?
318 Mối quan hệ của bạn với anh chị em trong gia đình bạn ?
319 Đâu là điều khác biệt giữa 1 người chồng/vợ tốt và 1 người chồng/vợ tuyệt vời ?
320 Bạn thích làm điều gì nhất với gia đình khi bạn còn bé ?
321 Bạn có thường xuyên nhìn thấy cảnh bố mẹ tranh cãi khi bạn còn bé ko ? Điều đó khiến bạn cảm thấy thế nào ?
322 Điều quan trọng nhất mà bạn học được từ mẹ là gì ? Bà ấy dạy bạn những gì ?
323 Cha bạn yêu bạn nhiều hơn mẹ bạn hay ngược lại ?
324 Bạn nghĩ là sẽ ko lành mạnh nếu người bạn đời của bạn có 1 người bạn thân khác giới ?
325 Ai là người thành công nhất trong những người bạn của bạn ? 
Bạn có muốn đạt được thành công ngang với người đó ko ?
326 Những điều tích cực mà bạn học được từ cuộc hôn nhân của bố mẹ ?
327 Khi bạn có mối quan hệ khác giới thì bạn có xu hướng lờ đi những người bạn của mình ko ? 
Bạn có những người bạn nào mà sau khi kết hôn họ ko còn liên lạc với bạn bè ko ? 
Bạn có mong chờ điều đó ko ?
328 Bạn đã từng giải quyết mâu thuẫn trong gia đình bạn chưa ? Bạn giải quyết như thế nào ?
329 Ông bà nội, ngoại đã từng dạy bạn những điều gì quan trọng hay sâu sắc chưa ?
330 Bạn có thể nói " Không " với bố mẹ khi họ muốn bạn làm điều gì đó mà bạn ko thích ko ?
331 Nếu bạn kết hôn, bạn có muốn tiếp xúc với những người bạn mới ko ?
332 Bạn có hài lòng với số lượng và chất lượng của mối quan hệ bạn bè bạn có ko ? Vì sao ?
333 Trong giai đoạn hẹn hò mới ban ầu, bạn xem xét ý kiến của bố mẹ và bạn bè 
như thế nào đối với việc có nên tiếp tục mối quan hệ với người mới này ?
334 Lần cuối cùng mà bạn gọi điện cho mẹ chỉ để nói bạn yêu bà là khi nào ?
335 Bạn có thường xuyên gọi điện hỏi thăm các thành viên gia đình mình ko ?
336 Ai là người bạn thân nhất của bạn ? Điều gì ở con người này khiến họ trở nên đặc biệt ?
337 Những người bạn của bạn đã dạy bạn điều gì ?
338 Bạn có ganh tỵ với thành viên nào trong gia đình mình ko ? Tại sao ?
GIAO TIẾP
339 Có những điều gì trong cuộc sống riêng tư của lứa đôi mà ko thể thảo luận với bạn bè hay gia đình ?
340 Bạn có nghĩ người bạn đời có thể vừa lắng nghe bạn vừa làm việc khác ( như xem tivi, đọc báo) 
cùng 1 lúc ? Và bạn ?
341 Bạn có nghĩ người bạn đời của mình nói quá nhiều qua điện thoại và phớt lờ bạn
hoặc những điều quan trọng khác ?
342 Có những điều gì mà bạn cảm thấy dễ dàng thảo luận với bạn bè hơn là với người bạn đời ?
343 Khi nào bạn thực sự cảm thấy ko thích nói chuyện với tôi, tại sao ?
344 Bạn muốn giữ liên lạc với mọi người bằng thư, email hay điện thoại ?
345 Khi bạn hỏi bạn đời điều gì, liệu anh ấy có thường xuyên trả lời ? 
Bạn cảm thấy thế nào nếu bạn ko nhận được 1 hồi âm từ họ?
346 Nếu có điều gì đó trong quá khứ của tôi khiến tôi cảm thấy đau đớn hay ko thoải mái chia sẻ thì liệu có ổn với bạn ko? 
Bạn có thể cam kết với ai đó khi họ ko thể chia sẻ với bạn tất cả mọi điều ko ?
347 Người bạn đời có thường ngắt lời bạn ? Bạn có thấy cáu ko ?Hay người bạn đời độc chiếm buổi nói chuyện ?
348 Những thành viên trong gia đình bạn có hay chia sẻ về tình cảm, cảm xúc ko ?
349 Bạn có cảm thấy rằng người bạn đời thường dành 10 phút để nói với bạn về điều gì 
đó trong khi nó chỉ cần nói trong 30 giây ? Điều đó có làm phiền bạn ko ?
350 Bạn có thích nói về bản thân - công việc, những thành tựu của bạn ko ?
351 Bạn có thường trả lời hồi âm điện thoại hay email chi trong 1 ngày ko?
352 Bạn có cảm thấy là mọi người nghĩ rằng bạn nói quá nhiều về bản thân mình ko ?
353 Bạn có cảm thấy dễ dàng khi nói chuyện với người lạ ?
354 Chủ đề nào mà bạn muốn tôi có thể trao đổi cởi mở, thoải mái ko ?
355 Bạn đã từng hẹn hò với đồng nghiệp chưa? 
NGHỀ NGHIỆP
356 Mục tiêu nghề nghiệp của bạn trong 1 năm, 5 năm, 20 năm ?
357 Trung bình bạn làm iệc bao nhiêu giờ 1 tuần ?
358 Nếu 1 người quan sát tất cả những Việc bạn làm , người í sẽ cho bạn điểm gì : A B C D E F ?
359 Bạn có hài lòng với sếp của mình ?
360 Bạn làm việc một mình tốt hơ hay làm việc nhóm tốt hơn? Tại sao ?
361 Trong công việc hiện tại, bạn nghĩ mình sẽ kiếm được bao nhiêu tiền trong 5 năm, trong 10 năm ?
362 Bạn có mang công việc về nhà ko ?
363 Bạn có nghĩ là mình làm việc chăm chỉ hơn hầu hết mọi người trong công việc.
Bạn có hạnh phúc khi làm những công việc trung bình ?
364 Liệu có ổn ko nếu bạn đời gọi điện cho bạn khi bạn làm việc , đến thăm bạn ?
365 Nếu bạn và bạn đời khác nhau về trình độ học vấn, bạn có cảm thấy khó khăn khi nói chuyện ?
366 Bạn có hài lòng với công việc hiện tại ko ? Nếu ko, tại sao ?
367 Công việc tốt nhất mà bạn từng có ? Tại sao ?
368 Liệu có ổn ko nếu bạn hay người bạn đời của bạn ko làm việc ?
369 Việc người bạn đời của bạn là người thông minh thì quan trọng như thế nào với bạn ? 
Liệu nó quan trọng hơn hay ít hơn so với ngoại hình của người đó ?
370 Bạn có mong ước đi học thêm nữa ko? Bạn muốn học về lĩnh vực gì ? Khi nào bắt đầu học ?
371 Bạn từng học đại học chưa ? Ở đâu? Bằng cấp
372 Hiện tại bạn dành bao nhiêu thời gian để làm việc ? Liệu nó có thay đổi khi bạn kết hôn ?
373 Khi bạn còn bé, bạn muốn trở thành người như thế nào khi lớn lên ?
TIỀN BẠC
374 Bạn có cảm thấy bị stress khi tình hình tài chính của bạn eo hẹp , khó khăn ?
375 Bạn đã có kế hoạch nào khi về hưu chưa ?
376 Bạn có đầu tư tiền vào chứng khoán ko ?
377 Bạn có nghĩ là gia đình của chúng ta có quyền biết về tình hình tài chính ( bạn giàu có hay đang mắc nợ )?
Bạn sẽ nói gì với họ nếu họ hỏi bạn kiếm được bao nhiêu tiền và bạn có bao nhiêu tiền trong ngân hàng ?
378 Bạn có khả năng kiểm soát việc chi tiêu của mình dựa trên số tiền kiếm được mỗi tháng ko >
379 Bạn có cảm thấy mình bị lợi dụng về tiền bạc ?
380 bạn cso cảm thấy người bạn đời ko tôn trọng những đồng tiền vất vả 
mà bạn kiếm được khi người ấy chi tiêu hoang phí ?
381 Ai trong chúng ta có kỹ năng về chi tiêu tiền, kỹ năng đầu tư ?
382 Bạn có xu hướng mua những món hàng xa xỉ ko hay bạn là người 
383 Trong ví bạn hiện tại có bao nhiêu thẻ tín dụng ?
384 Bạn thích sống tiết kiệm và về hưu ở tuổi 50 hay bạn thích sống hoang phí và về hưu ở tuổi 65 ?
385 Bạn đã từng kiếm việc làm thêm để chi trả cho những món hàng chưa thật sự thiết yếu chưa ?
386 Hiện tại bạn dđã có di chúc chưa ? Nếu ko, vì sao ?
387 Nếu bạn rơi vào cảnh khó khăn tài chính thì bạn sẽ làm gì để thoát khỏi hoàn cảnh đó ?
388 Bạn sẽ làm gì khi biết người bạn đời được thừa kế một khoản tiền?
389 Bạn có nghĩ là người bạn ddwofi của mình quản lý tài chính kém ko ?
390 Bạn có nợ nần tiền bạc của ai ko? Số tiền bao nhiêu ?
391 Thu nhập của chúng ta có đủ chi tiêu tối thiểu ko ? Chúng ta sẽ chi bao nhiêu tiền cho : 
thức ăn, quần áo, nhà ở, giải trí, nự nần và những khoản tiền ko tên khác? 
Chúng ta có nên cắt bớt chi tiêu trong 1 số việc ko ?
392 Nếu bạn kết hôn với người mà đang có nhiều nợ nần tài chính, bạn cảm thấy thế nào về việc giúp đỡ bạn đời trả nợ ?
393 Bạn dđã từng lâm vào cảnh phá sản chưa ?
394 Nếu thu nhập của bạn và bạn đời tăng gấp đôi, lối sống của bạn sẽ thay đổi như thế nào ?
395 Đến một mức độ nào thì bạn sẽ xem mình là người " giàu có"?
396 Bạn đã từng hẹn hò với ai đó chỉ vì họ có ( hoặc bạn nghĩ họ có ) nhiều tiền ko ?
397 Kế hoạch tiết kiệm tiền để đem lại sự an toàn tài chính ?
398 Khi hẹn hò, bạn nghĩ ai là người nên trả tiền cho buổi hẹn ?
399 Sau khi kết hôn, bạn dự định sẽ chi bao nhiêu tiền để mua quần áo ?
400 Bạn nghĩ mình là người quản lý tiền tốt hay tệ ? 
Làm thế nào tôi có thể giúp bạn cải thiện khả năng quản lý tiền và ngược lại ?
401 Bạn có nghĩ rằng mình quá ám ảnh bởi chuyện tiền bạc ?
Việc kiếm tiền, tiêu tiền có phải là một trong những việc quan trọng nhất đối với bạn hay ko ?
Bạn có suy nghĩ về tiền bạc hằng ngày ko ?
402 Những vấn đề nào cần xem xét về tài chính trong gia đình, ví dụ như tiền của em, tiền của anh ?
403 Chiếc xe mơ ước của bạn ?
404 Bạn có nghĩ rằng mua bảo hiểm là sự đầu tư khôn ngoan ?
MỐI QUAN HỆ - QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI
406 Những điều gì bạn đã học hỏi được từ tôi ?
407 Bạn nghĩ thế nào về việc hẹn hò với nhiều người cùng 1 lúc ?
408 Bạn có nghĩ rằng mình đã hẹn hò nghiêm túc đủ để biết được người ấy có chắc chắn phù hợp với mình ko ?
409 Bạn dành bao nhiêu phút để chú ý ( quan tâm ) đến người yêu ? Thời gian như vậy đã đủ chưa ?
410 Lý do khiến bạn thích kết hôn vào 1 ngày nào đó ?
411 Điềuu gì mà bạn cảm thấy thích nhất khi sống độc thân ?
412 Điều gì mà bạn thấy ko thích khi sống độc thân?
413 Nếu bạn đang hẹn hò với ai đó, đến 1 giai đoạn nào mà bạn nghĩ là nên bàn luận về vấn đề hôn nhân ? 
Nếu bạn nếu ra vấn đề đó quá sớm trước khi 2 người sẵn sàng 
chuyển sang giai đoạn đó, thì nguy cơ nào sẽ xảy ra ?
414 Hôn nhân có ý nghĩ như thế nào ối với bạn ( 1 cách chính xác ) 
415 Bạn đã từng có 1 mối quan hệ với ai đó mà bạn tin là người đó đổ lỗi 100% cho điều gì đó gây ra rắc rối cho họ ko ?
416 Bạn nghĩ là mối quan hệ của chúng ta sẽ được cải thiện như thế nào nếu chúng ta ko xem tivi ?
417 Có người nào mà bạn ko bao giờ muốn nói chuyện lại với họ ko ?
Điều gì khiến bạn ko muốn nói chuyện lại với họ ?
418 Bạn có thích hôn trong buổi hẹn đầu tiên? Điều gì khiến bạn ko thích việc đó xảy ra ?
419 Bạn đã hẹn hò với bao nhiêu người và nói " I love you " với họ ?
420 Có điều gì mà bạn xem là quan trọng hơn cả người bạn đời ko?
421 Cần phải đợi bao nhiêu thời gian là đủ để nói với ai đó là bạn yêu họ ? 
Có nên xây dựng 1 tình bạn tốt đầu tiên ko?
422 Có điều gì mà bạn từng nói với tôi mà bạn ước là mình đừng nói ko?
423 Bạn có nỗi sợ nào về việc yêu thương ai đó sâu sắc ko?
424 Để có thể tin tưởng vào ai đó, bạn cần nhìn thấy điều gì ở họ ?
425 Bạn có nghĩ mình và người bạn đời dành đủ thời gian ở bên nhau có chất lượng 
426 Bạn cảm thấy thế nào nếu tôi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn cho sở thích 
của mình nếu nó lấy đi nhiều thời gian dành cho mối quan hệ của chúng ta ?
427 Những sai lầm nào bạn thấy ở những cặp đôi khác mà bạn muốn chắc chắn 
sẽ ko xảy ra trong cuộc hôn nhân của bạn ?
428 Bạn cảm thấy thế nào về việc bạn đời của bạn chào hỏi bạn bè hay người lạ với 1 nụ hôn ?
429 Bạn nghĩ là bạn sẽ giúp tôi trở thành 1 người tốt hơn như thế nào ?
430 Có người nào trong quá khứ mà bạn còn tình cảm mãnh liệt dành cho họ ? Người đó còn sống ko ?
431 Điều gì ở đàn ông/ đàn bà nói chung khiến bạn cảm thấy thất vọng nhất ?
432 Bạn đã từng đánh ai trong các mối quan hệ trước đây chưa ?
433 Đã có ai đó làm điều gì đó đối với bạn khiến bạn không bao giờ tha thứ cho người đó ko ? 
Việc đó là gì, vì sao bạn ko thể tha thứ cho họ ?
434 Bạn cảm thấy mình trái ngược với bạn đời ở lĩnh vực nào ?
435 Bạn có xu hướng hẹn hò với người già hơn hoặc trẻ hơn bạn 
436 Bạn thường cảm thấy như thế nào khi bạn ở cạnh tôi suốt 1 ngày ?
437 Điều gì khiến bạn nghĩ mình sẽ là 1 người chồng/vợ tuyệt vời ?
438 Liệu chúng ta có vài bất đồng nào đó chưa được giải quyết ko ?
439 Bạn muốn duy trì cuộc sống độc thân ở mức độ nào sau khi bạn kết hôn ?
440 Bạn đã từng có mối quan hệ với ai đó mà bạn ước là đừng có nó ko ?
441 Bạn cần điều gì từ người bạn đời để cảm thấy mình hoàn toàn đủ đầy, trọn vẹn?
Liệu điều đó có thay đổi theo thời gian ko ?
442 Bạn từng có cuộc chia tay tồi tệ nào chưa ? Tại sao nó lại tồi tệ ?
443 Nếu tôi đi nhảy ở vũ trường một mình mà ko có bạn, bạn sẽ cảm thấy thế nào ?
444 Bạn định nghĩa như thế nào về từ " lừa dôi " với bạn tình ?
445 Bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu bạn tình mở xem hộp thư email của bạn ?
446 Nếu có 1 cặp đôi cảm thấy ko hạnh phúc khi chung sống với nhau trong 5 năm 
và đã cố gắng đi tư vấn tâm lý nhưng ko thành công, bạn có nghĩ là họ nên chia tay nhau,
ngay cả khi họ ko hề lừa dối nhau hay bạo hành về tinh thần, thể chất lẫn nhau ?
447 Bạn đưa ra những quy tắc cho buổi hẹn hò như thế nào , vd như ko cầm tay nhau cho đến khi 2 người yêu nhau,
không hôn nhau trước khi 2 người nói chuyện về hôn nhân, Không quan hệ tình dục trước hôn nhân, 
ko hẹn hò người khác tôn giáo của mình. Bạn đã từng phá vỡ những quy tắc đó chưa ?
448 Bạn có nghĩ là lành mành ko nếu 1 cặp đôi xảy ra mâu thuẫn, tranh luận, gây tổn thương cho nhau về tinh thần hay thể chất ?
Có những cách nào có thể giúp chúng ta thể hiện những bất đồng của mình
1 cách trưởng thành mà ko cần dùng những cách trên ko ?
449 Bạn đã từng cam kết trong 1 mối quan hệ với ai đó những lại ngủ với người khác chưa ?
Bạn có cảm thấy có lỗi ko ?
450 Nếu có điều gì trong quá khứ bạn cần tiết lộ mà nó có thể gây hậu quả nghiêm trọng 
cho mối quan hệ của chúng ta trong tương lai ?
451 Nếu 1 cô bé teen xin bạn lời khuyên về cách tốt nhất để tìm thấy người bạn đời mà họ 
có thể chung sống hạnh phúc với nhau suốt đời, thì bạn sẽ nói gì ?
452 Bạn cảm thấy như thế nào nếu phải hy sinh hoặc thỏa hiệp một số điều
trong mối quan hệ của chúng ta để đem lại hạnh phúc?
453 Điều khiến bạn bực mình nhất ở người yêu cũ ?
454 Bạn có nghĩ rằng bạn tình mình đang lừa dối mình khi người ấy 
chia sẻ những ý nghĩ và mơ ước về tình dục qua mạng với những người khác ko ?
455 Làm thế nào mà bạn biết là khi nào thì bạn đang yêu 
456 Những điều gì mà người yêu cũ hay than phiền nhất về bạn ?
457 Nếu trong 1 mối quan hệ mà người phụ nữ kiếm được nhiều tiền hơn
người đàn ông thì điều đó khiến bạn cảm thấy thế nào ?
458 Bạn có thể nhớ lại những điều khiến bạn yêu một người nào đó trong quá khứ ko ?
459 Những điều gì là nguyên nhân chính gây ra tranh luận trong mối quan hệ của bạn ?
460 Có người nào đó gây ra sức ép buộc bạn phải kết hôn ko ?
461 Bạn đã từng làm điều gì đó hoặc tôi đã từng làm điều gì đó khiến bạn 
cảm thấy ko tin tưởng ��

1000 câu hỏi phỏng vấn người yêu ( tác giả Michael Webb – 1000 question for couples ) 

462 Bạn có thích đi tán tỉnh người khác ? Tại sao 
463 Hơn 75% số đôi sống thử trước khi kết hôn chia tay. 
Bạn có nghĩ trường hợp của mình là ngoại lệ ko hoặc bạn có nghĩ rằng sống thử 
trước khi kết hôn sẽ làm tổn hại đến mối quan hệ của bạn nhiều hơn là lợi ích của nó mang lại ?
464 Bạn đã từng bị ai đó trả thù chưa ? Họ đã làm gì ? Bạn đã đáp trả lại như thế nào ?
465 Bạn cảm thấy như thế nào nếu người bạn đời lớn tiếng trước bạn ?
466 Bạn nghĩ cách nào là tốt nhất để 1 cặp đôi giải quyết bất đồng của họ ?
467 Từ những kinh nghiệm trước đây của bạn, khi bạn tranh luajan, cãi cọ với người bạn đời, 
việc đầu tiên bạn làm là hỏi ý kiến lời khuyên của gia đình,
bạn bè hay là cùng làm việc với người bạn đời để tìm ra giiar pháp ?
468 Nếu tôi yêu cầu bạn giảm bớt thời gian dành cho mọi người hoặc thời gian dành cho 
những hoạt động khác để dành nhiều thời gian hơn cho tôi thì bạn có làm ko ?
469 Tôi đã từng có những hành xử nào với mọi người khiến bạn cảm thấy không được thoải mái ?
470 Mối quan hệ kéo dài nhất mà bạn có ? Bạn có hối tiếc vì nó kéo dài quá lâu như vậy ko ?
471 Lời khuyên tốt nhất mà bạn nhận được về quan hệ tình cảm ?
Người đưa ra lời khuyên ấy có cuộc hôn nhân tuyệt vời ko ?
472 Bạn nghĩ gì về những người đợi đến khi kết hôn rồi mới quan hệ tình dục ?
473 Bạn có mong người bạn đời của mình ghen nhiều hơn hay ghen ít đi ko ?
474 Theo bạn thì đâu là 3 điều tuyệt vời nhất ở người yêu của bạn ?
475 Bạn có cảm thấy người bạn đời của mình quá nghèo túng ?
476 Bạn đã thấy nhiều cặp đôi yêu nhau trong thời gian qua, đâu là 
cặp đôi bạn cho là hạnh phúc nhất ? Điều gì ở cặp đôi ấy mà bạn muốn có ?
477 Nếu người yêu của bạn muốn bỏ việc để đi học, viết tiểu thuyết hay làm những
công việc gì đó ko kiếm ra tiền, thì bạn sẽ ủng hộ người yêu được trong bao lâu ?
478 Làm thế nào tôi có thể giúp cho cuộc sống của bạn dễ dàng, thoải mái hơn ?
479 Nếu người yêu bạn khi giận dữ sẽ đập phá đồ đạc, thậm chí đánh bạn,
dùng lời lẽ gây tổn thương bạn, thì bạn sẽ làm gì ?
480 Nếu 1 người quyết định là họ cảm thấy ko hạnh phúc trong mối 
quan hệ lâu năm với bạn, thì bạn có muốn họ kết thúc mối quan hệ đó ?
481 Bạn có cảm giác rằng người yêu muốn thay đổi 1 vài nét tính cách hay
hành vi nào đó của bạn ko ? Đó là tính cách, hành vi gì ?
482 Hiện tại, bạn mong muốn được bao nhiêu sự riêng tư, tự do cá nhân trong mối quan hệ tình cảm ?
483 Trong mối quan hệ iện tại của bạn, bạn có cảm thấy rằng mình phải nỗ lực, 
làm việc nhiều hơn so với niềm vui nhận được? Hay là bạn cho rằng đó là
dấu hiệu cho thấy có điều gì bất ổn trong mối quan hệ ; hoặc bạn nghĩ rằng 
tất cả những mối quan hệ tình cảm đều diễn ra như vậy ?
CON CÁI
484 Đến 1 giai đoạn nào trong cuộc đời mà bạn nghĩ là mình nên có con ? 
485 Nếu bạn bị vô sinh/ hoặc ko có khả năng sinh con thì bạn nghĩ sao về ý tưởng nhận con nuôi ?
486 Bạn nghĩ thức ăn nào thì tốt cho con. Liệu bạn có thay đổi thói quen ăn uống 
của mình để phù hợp với con ko ?
487 Về vấn đề đặt tên con
488 Bạn có nghĩ mình nên đăng ký khóa học làm cha mẹ ?
489 Bạn có nghĩ mình nên chuyển nơi ở mới có chất lượng trường học tốt cho con bạn ?
490 Sau khi có con thì bạn có giảm bớt thời gian dành cho công việc ? 
Bạn có đồng ý ở nhà chăm con trong 1 khoảng thời gian nào đó ko ?
Vd ở nhà chăm con đến khi bé được 3 tuổi chẳng hạn.
491 Về vấn đề kỷ luật/phạt con trong thời thơ ấu, tuổi thanh thiếu niên ? Nêu cụ thể
492 Bạn có nghĩ rằng liên tục mua đồ chơi mới cho con sẽ khiến bé trở nên mau chán với đồ chơi ?
493 Bạn có thường xuyên chu cấp tiền bạc cho con khi nó đến tuổi trưởng thành ko? Vì sao ? 
494 Những giới hạn nào cần đặt ra cho con trong việc xem tivi, internet, nghe nhạc, đọc báo…
495 5 phẩm chất tâm lý mà bạn muốn hình thành ở con.
496 Bạn nghĩ rằng một căn phòng đầy đồ chơi cho trẻ con thì sẽ có lợi hay có hại 
cho sự phát triển thể chất và tâm lý của bé ?
497 Bạn nghĩ rằng chúng ta cần phải ổn định tài chính ở mức độ nào trước khi quyết định có con ?
498 Tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ ? Bạn nghĩ là nên cho con bú trong bao lâu ( 6 tháng ?, 3 năm ?)
499 Bạn nghĩ rằng những người quyết định ko có con là ích kỷ hay khôn ngoan ?
500 Bạn nghĩ gì về việc uống rượu trước mặt con?
501 Bạn nghĩ người chồng nên chăm sóc trẻ bao nhiêu là đủ ? Cho con bú, thay tã, chăm con vào ban đêm ?
502 Những công việc nhà bạn muốn con làm ? Bắt đầu ở độ tuổi nào ?
503 Bạn dđã từng đọc sách dạy làm cha mẹ chưa ? Bạn nghĩ đọc loại sách 
do chuyên gia viết đó là ý kiến hay hay bạn chỉ làm theo bản năng, kinh ngiệm của ông bà để lại ?
504 Vấn đề đưa ra những quyết định trong gia đình. Bạn có nghĩ là người chồng là
người có quyền đưa ra quyết định?
505 Bạn thể iện tình cảm với con như thế nào ? Theo bạn ccash nào là tốt nhất ?
506 Bạn có nghĩ là mình nên yêu thương con, chăm sóc con nhiều hơn dành cho người bạn đời ?
Bạn có nghĩ đó là điều tự nhiên khi các bậc cha mẹ yêu thương con nhiều hơn yêu thương bạn đời ?
507 Khi có con thì bạn nghĩ mối quan hệ vợ chồng sẽ thay đổi như thế nào ?
508 Sau khi kết hôn, bạn cần bao nhiêu năm để ổn định cuộc sống gia đình rồi mới quyết định có con ?
509 Bạn có nghĩ là người cha bắt buộc phải có mặt vào ngày vợ sinh, ngày đứa bé chào đời hay ko ?
510 Bạn cảm thấy thế nào nếu mình chỉ sinh được con trai hay con gái. 
Bạn có mong muốn phải sinh bằng được con trai ko ?
511 Bạn có cảm thấy phiền ko nếu con bạn bắt đầu quan hệ tình dục ở độ tuổi quá sớm ?
512 Nếu bạn biết chắc chắn 100 % rằng khi có con sẽ làm giảm đi 30% mức độ 
hạnh phúc, thỏa mãn trong hôn nhân, thì liệu bạn vẫn muốn có con ko ?
513 Bạn sẽ dành bao nhiêu thời gian 1 ngày để chơi với con cái ?
514 Trong những lĩnh vực nào mà bạn nghĩ là cha mẹ nên hy sinh vì con cái, 
và trong lĩnh vực nào cha mẹ ko nên hy sinh vì con ?
515 Những lý do mà 1 cặp đôi nên có con. Những lý do mà họ ko nên có con.
516 Ai sẽ chi trả tiền cho đám cưới ? Liệu người chi tiền cưới ấy sẽ kiểm soát toàn bộ kế hoạch đám cưới ko ?
517 Bạn dự tính sẽ mời bao nhiêu người bạn đến đám cưới của mình ?
518 Bạn tưởng tượng về tuần trăng mật hoàn hảo của mình như thế nào
TÌNH DỤC
519 Bạn vẫn còn trinh chứ ? Bạn có giữ gìn trinh tiết đến khi kết hôn ko ?
520 Bạn nghĩ sao về việc quan hệ tình dục khi phụ nữ có kinh nguyệt ?
521 Đâu là sự khác nhau giữa tình dục và lãng mạn ?
522 Bạn sẽ làm gì khi người đàn ông bị chứng xuất tinh sớm ?
523 Bạn thích quan hệ tình dục vào buổi sáng hay buổi tối hơn ?
524 Những thời điểm nào bạn muốn quan hệ nhanh ? " quickie"
525 Bạn có thích nói tục trong khi quan hệ tình dục ?
526 Việc người phụ nữ ko thể lên đỉnh trong quan hệ tình dục thì điều đó có
ảnh hưởng đến mối quan hệ của họ ko / Bạn giải quyết vấn đề đó như thế nào ?
527 Bạn có thích ôm ấp sau khi sex?
528 Tôi có thể làm những gì để giúp bạn đạt được khoài cảm tình dục ?
529 Bạn có tin rằng khi 1 đôi quan hệ tình dục với nhau lần đầu tiên thì họ
cũng sẽ có những cam kết với nhau ko ?
530 Bạn có cảm thấy khó khăn khi nói với bạn tình những kiểu quan hệ / những điểm kích thích tình dục ?
531 Quá khứ tình dục của bạn đời có là vấn đề quan trọng với bạn ko nếu bạn thực sự yêu họ ?
532 Bạn nghĩ là mình phải cần 1 thời gian trước khi có cuộc sống tình dục đam mê vì
những trải nghiệm tình dục trong quá khứ hoặc do những gì bạn được cha mẹ, thầy cô dạy về tình dục hồi bé ?
533 Bạn có thích làm tình ở nơi công cộng ? Nếu bạn tình yêu cầu thì bạn có làm ko ?
534 Những bài hát khiến bạn nghĩ đến tình dục ?
535 Bạn định nghĩa như thế nào về " thỏa mãn tình dục"
536 Bạn đã từng quay phim, chụp ảnh khỏa thân chưa ?
537 Bạn cảm thấy thế nào nếu tôi nói mình ko có tâm trạng để làm tình với bạn khi bạn yêu cầu ?
538 Nếu tôi cảm thấy chúng ta cần đi trị liệu tình dục, liệu bạn có đi cùng tôi ?
539 Theo thang điểm từ 1-10, mức độ ham muốn tình dục của bạn là mấy ? Nó tăng lên hay giảm đi?
540 Bạn thích quan hệ tình dục khi tắt đèn hay khi để đèn sáng, hay là dùng nến ?
541 Có những khoảng thời gian nào trong tháng mà ngực bạn nhạy cảm 
hoặc bạn ko muốn ai đụng vào mình ?
542 Những kiểu quần áo nào bạn thấy gợi cảm ? Bạn thích tôi mặc những kiểu đồ lót nào ?
543 Tình dục trong khi mang thai
544 Bạn thích dùng những biện pháp tránh thai nào ? Tại sao ?
545 Nếu tôi yêu cầu bạn đi làm kiểm tra ở bệnh viện về các bệnh tình dục thì bạn có làm ko ?
546 Ai là người mà bạn cảm thấy thoải mái nhất khi nói chuyện với họ về vấn đề tình dục? 
Bạn có nghĩ là người đó đủ trình độ để đưa ra cho bạn sự giúp đỡ và lời khuyên hữu ích ko ?
547 Bạn sẽ làm gì nếu bạn tình nói rằng họ bị mắc bệnh liên quan đến tình dục sau khi quan hệ với bạn ?
548 Bạn đã từng quan hệ với người nào đó mà bạn biết chắc là họ đang mắc bệnh
do quan hệ tình dục chưa (STD).
Bạn đã từng đi kiểm tra ở bệnh viện để xem mình có bị bệnh STD chưa ?
549 Bạn có nghĩ là kích cỡ của ngực và dương vật sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quan hệ tình dục ko?
550 Bạn có nghĩ rằng thủ dâm là xấu ? Hay là có thể chấp nhận thủ dâm khi bạn tình
của mình ko có tâm trạng để đáp ứng cho mình ?
551 Bạn đã từng làm ai mang thai chưa ?
552 Bạn từng xem phim sex chưa ? Bạn xem phim sex mấy lần/tháng? Còn tạp chí khiêu dâm thì sao?
553 Nếu bạn nghiện xem phim sex, tôi có thể làm gì để giúp bạn bỏ thói quen này ?
554 Tôi có thể nói điều gì hay làm gì để bạn nhận biết là tôi muốn làm tình với bạn ?
555 Chất lượng quan hệ tình dục sẽ thay đổi như thế nào nếu tôi tăng thêm vài ký ?
556 Những vấn đề tình dục nào bạn thảo luận cùng bạn bè ?
557 Bạn cảm thấy thế nào về tình dục đường hậu môn ?
558 Bạn có nghĩ là mình nghiện tình dục ko ? Bạn có thấy mình thường xuyên bị tình dụ
c kiểm soát thay vì bạn kiểm soát những ham muốn tình dục ?
559 Bạn có nghĩ rằng sách là 1 nguồn tài liệu hay để học hỏi thêm những kỹ thuật mới về tình dục ?
560 Nếu bạn có kế hoạch chỉ quan hệ tình dục sau khi kết hôn thì những kiểu thân mật nào 
sau đây là có thể chấp nhận được khi yêu nhau : cầm tay, hôn, hôn lâu, vuốt ve …)
561 Điều gì khiến bạn cảm thấy mất hứng thú tình dục ?
562 Bạn nhìn nhận thế nào về những kinh nghiệm tình dục sau đây.
Chúng là lành mạnh hay 
ko thể chấp nhận được : Oral sex tình dục miệng, sextoy Đồ chơi tình dục, bondage nô lệ tình dục , 
threesomes tình dục gồm 3 người
563 Sử dụng tình dục như 1 công cụ để thương lượng có phải là điều đúng đắn ? Liệu có phải là cách hay
khi người vọ/chồng trừng phạt bạn đời bằng cách ko cho quan hệ ?
564 Bạn có thích tắm chung?
565 Bạn cảm thấy thế nào nếu nbạn tình hút thuốc lá sau khi quan hệ ?
566 Bạn đã từng quan hệ với ai mà không mang bao cao su chưa ?
567 Những cách tránh thai nào mà bạn khoogn dùng ?
568 3 điểm nhạy cảm nhất trên cơ thể bạn ?
569 Bạn nghĩ mục đích của quan hệ tình dục là gì ?
570 Bạn có nghĩ rằng trả lời những câu hỏi về tình dục sẽ là 1 kinh nghiệm tốt cho chúng ta ko ?
*** bạn nghĩ thời gian nào là tốt nhất cho việc làm tình ?
572 Bố mẹ bạn đã từng thảo luận với bạn về quan điểm tình dục của họ chưa ?
573 Ham muốn tình dục của bạn thay đổi như thế nào theo thời gian ?
574 Những tư thế, hoạt động tình dục nào mà bạn chưa bao giờ thử nhưng bạn muốn thử ?
575 Bạn có nghĩ là bao cao su làm giảm khoái cảm tình dục ? 
Hay là nó giúp bạn tránh xuất tinh sớm ?
576 Bạn có cảm thấy mình hiểu biết nhiều về tình dục từ kinh ngiệm
bản thân hay có nhiều điều bạn cần học hỏi thêm ?
577 Bạn thường hay tưởng tượng mình làm tình ở nơi nào ?
578 Làm thế nào để đời sống tình dục của chúng ta trở nên tốt hơn ?
XE 
580 Bạn cảm thấy người yêu lái xe cẩn thận, an toàn hay lái quá nhan462 Bạn có thích đi tán tỉnh người khác ? Tại sao 

463 Hơn 75% số đôi sống thử trước khi kết hôn chia tay. 
Bạn có nghĩ trường hợp của mình là ngoại lệ ko hoặc bạn có nghĩ rằng sống thử 
trước khi kết hôn sẽ làm tổn hại đến mối quan hệ của bạn nhiều hơn là lợi ích của nó mang lại ?
464 Bạn đã từng bị ai đó trả thù chưa ? Họ đã làm gì ? Bạn đã đáp trả lại như thế nào ?
465 Bạn cảm thấy như thế nào nếu người bạn đời lớn tiếng trước bạn ?
466 Bạn nghĩ cách nào là tốt nhất để 1 cặp đôi giải quyết bất đồng của họ ?
467 Từ những kinh nghiệm trước đây của bạn, khi bạn tranh luajan, cãi cọ với người bạn đời, 
việc đầu tiên bạn làm là hỏi ý kiến lời khuyên của gia đình,
bạn bè hay là cùng làm việc với người bạn đời để tìm ra giiar pháp ?
468 Nếu tôi yêu cầu bạn giảm bớt thời gian dành cho mọi người hoặc thời gian dành cho 
những hoạt động khác để dành nhiều thời gian hơn cho tôi thì bạn có làm ko ?
469 Tôi đã từng có những hành xử nào với mọi người khiến bạn cảm thấy không được thoải mái ?
470 Mối quan hệ kéo dài nhất mà bạn có ? Bạn có hối tiếc vì nó kéo dài quá lâu như vậy ko ?
471 Lời khuyên tốt nhất mà bạn nhận được về quan hệ tình cảm ?
Người đưa ra lời khuyên ấy có cuộc hôn nhân tuyệt vời ko ?
472 Bạn nghĩ gì về những người đợi đến khi kết hôn rồi mới quan hệ tình dục ?
473 Bạn có mong người bạn đời của mình ghen nhiều hơn hay ghen ít đi ko ?
474 Theo bạn thì đâu là 3 điều tuyệt vời nhất ở người yêu của bạn ?
475 Bạn có cảm thấy người bạn đời của mình quá nghèo túng ?
476 Bạn đã thấy nhiều cặp đôi yêu nhau trong thời gian qua, đâu là 
cặp đôi bạn cho là hạnh phúc nhất ? Điều gì ở cặp đôi ấy mà bạn muốn có ?
477 Nếu người yêu của bạn muốn bỏ việc để đi học, viết tiểu thuyết hay làm những
công việc gì đó ko kiếm ra tiền, thì bạn sẽ ủng hộ người yêu được trong bao lâu ?
478 Làm thế nào tôi có thể giúp cho cuộc sống của bạn dễ dàng, thoải mái hơn ?
479 Nếu người yêu bạn khi giận dữ sẽ đập phá đồ đạc, thậm chí đánh bạn,
dùng lời lẽ gây tổn thương bạn, thì bạn sẽ làm gì ?
480 Nếu 1 người quyết định là họ cảm thấy ko hạnh phúc trong mối 
quan hệ lâu năm với bạn, thì bạn có muốn họ kết thúc mối quan hệ đó ?
481 Bạn có cảm giác rằng người yêu muốn thay đổi 1 vài nét tính cách hay
hành vi nào đó của bạn ko ? Đó là tính cách, hành vi gì ?
482 Hiện tại, bạn mong muốn được bao nhiêu sự riêng tư, tự do cá nhân trong mối quan hệ tình cảm ?
483 Trong mối quan hệ iện tại của bạn, bạn có cảm thấy rằng mình phải nỗ lực, 
làm việc nhiều hơn so với niềm vui nhận được? Hay là bạn cho rằng đó là
dấu hiệu cho thấy có điều gì bất ổn trong mối quan hệ ; hoặc bạn nghĩ rằng 
tất cả những mối quan hệ tình cảm đều diễn ra như vậy ?
CON CÁI
484 Đến 1 giai đoạn nào trong cuộc đời mà bạn nghĩ là mình nên có con ? 
485 Nếu bạn bị vô sinh/ hoặc ko có khả năng sinh con thì bạn nghĩ sao về ý tưởng nhận con nuôi ?
486 Bạn nghĩ thức ăn nào thì tốt cho con. Liệu bạn có thay đổi thói quen ăn uống 
của mình để phù hợp với con ko ?
487 Về vấn đề đặt tên con
488 Bạn có nghĩ mình nên đăng ký khóa học làm cha mẹ ?
489 Bạn có nghĩ mình nên chuyển nơi ở mới có chất lượng trường học tốt cho con bạn ?
490 Sau khi có con thì bạn có giảm bớt thời gian dành cho công việc ? 
Bạn có đồng ý ở nhà chăm con trong 1 khoảng thời gian nào đó ko ?
Vd ở nhà chăm con đến khi bé được 3 tuổi chẳng hạn.
491 Về vấn đề kỷ luật/phạt con trong thời thơ ấu, tuổi thanh thiếu niên ? Nêu cụ thể
492 Bạn có nghĩ rằng liên tục mua đồ chơi mới cho con sẽ khiến bé trở nên mau chán với đồ chơi ?
493 Bạn có thường xuyên chu cấp tiền bạc cho con khi nó đến tuổi trưởng thành ko? Vì sao ? 
494 Những giới hạn nào cần đặt ra cho con trong việc xem tivi, internet, nghe nhạc, đọc báo…
495 5 phẩm chất tâm lý mà bạn muốn hình thành ở con.
496 Bạn nghĩ rằng một căn phòng đầy đồ chơi cho trẻ con thì sẽ có lợi hay có hại 
cho sự phát triển thể chất và tâm lý của bé ?
497 Bạn nghĩ rằng chúng ta cần phải ổn định tài chính ở mức độ nào trước khi quyết định có con ?
498 Tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ ? Bạn nghĩ là nên cho con bú trong bao lâu ( 6 tháng ?, 3 năm ?)
499 Bạn nghĩ rằng những người quyết định ko có con là ích kỷ hay khôn ngoan ?
500 Bạn nghĩ gì về việc uống rượu trước mặt con?
501 Bạn nghĩ người chồng nên chăm sóc trẻ bao nhiêu là đủ ? Cho con bú, thay tã, chăm con vào ban đêm ?
502 Những công việc nhà bạn muốn con làm ? Bắt đầu ở độ tuổi nào ?
503 Bạn dđã từng đọc sách dạy làm cha mẹ chưa ? Bạn nghĩ đọc loại sách 
do chuyên gia viết đó là ý kiến hay hay bạn chỉ làm theo bản năng, kinh ngiệm của ông bà để lại ?
504 Vấn đề đưa ra những quyết định trong gia đình. Bạn có nghĩ là người chồng là
người có quyền đưa ra quyết định?
505 Bạn thể iện tình cảm với con như thế nào ? Theo bạn ccash nào là tốt nhất ?
506 Bạn có nghĩ là mình nên yêu thương con, chăm sóc con nhiều hơn dành cho người bạn đời ?
Bạn có nghĩ đó là điều tự nhiên khi các bậc cha mẹ yêu thương con nhiều hơn yêu thương bạn đời ?
507 Khi có con thì bạn nghĩ mối quan hệ vợ chồng sẽ thay đổi như thế nào ?
508 Sau khi kết hôn, bạn cần bao nhiêu năm để ổn định cuộc sống gia đình rồi mới quyết định có con ?
509 Bạn có nghĩ là người cha bắt buộc phải có mặt vào ngày vợ sinh, ngày đứa bé chào đời hay ko ?
510 Bạn cảm thấy thế nào nếu mình chỉ sinh được con trai hay con gái. 
Bạn có mong muốn phải sinh bằng được con trai ko ?
511 Bạn có cảm thấy phiền ko nếu con bạn bắt đầu quan hệ tình dục ở độ tuổi quá sớm ?
512 Nếu bạn biết chắc chắn 100 % rằng khi có con sẽ làm giảm đi 30% mức độ 
hạnh phúc, thỏa mãn trong hôn nhân, thì liệu bạn vẫn muốn có con ko ?
513 Bạn sẽ dành bao nhiêu thời gian 1 ngày để chơi với con cái ?
514 Trong những lĩnh vực nào mà bạn nghĩ là cha mẹ nên hy sinh vì con cái, 
và trong lĩnh vực nào cha mẹ ko nên hy sinh vì con ?
515 Những lý do mà 1 cặp đôi nên có con. Những lý do mà họ ko nên có con.
516 Ai sẽ chi trả tiền cho đám cưới ? Liệu người chi tiền cưới ấy sẽ kiểm soát toàn bộ kế hoạch đám cưới ko ?
517 Bạn dự tính sẽ mời bao nhiêu người bạn đến đám cưới của mình ?
518 Bạn tưởng tượng về tuần trăng mật hoàn hảo của mình như thế nào
TÌNH DỤC
519 Bạn vẫn còn trinh chứ ? Bạn có giữ gìn trinh tiết đến khi kết hôn ko ?
520 Bạn nghĩ sao về việc quan hệ tình dục khi phụ nữ có kinh nguyệt ?
521 Đâu là sự khác nhau giữa tình dục và lãng mạn ?
522 Bạn sẽ làm gì khi người đàn ông bị chứng xuất tinh sớm ?
523 Bạn thích quan hệ tình dục vào buổi sáng hay buổi tối hơn ?
524 Những thời điểm nào bạn muốn quan hệ nhanh ? " quickie"
525 Bạn có thích nói tục trong khi quan hệ tình dục ?
526 Việc người phụ nữ ko thể lên đỉnh trong quan hệ tình dục thì điều đó có
ảnh hưởng đến mối quan hệ của họ ko / Bạn giải quyết vấn đề đó như thế nào ?
527 Bạn có thích ôm ấp sau khi sex?
528 Tôi có thể làm những gì để giúp bạn đạt được khoài cảm tình dục ?
529 Bạn có tin rằng khi 1 đôi quan hệ tình dục với nhau lần đầu tiên thì họ
cũng sẽ có những cam kết với nhau ko ?
530 Bạn có cảm thấy khó khăn khi nói với bạn tình những kiểu quan hệ / những điểm kích thích tình dục ?
531 Quá khứ tình dục của bạn đời có là vấn đề quan trọng với bạn ko nếu bạn thực sự yêu họ ?
532 Bạn nghĩ là mình phải cần 1 thời gian trước khi có cuộc sống tình dục đam mê vì
những trải nghiệm tình dục trong quá khứ hoặc do những gì bạn được cha mẹ, thầy cô dạy về tình dục hồi bé ?
533 Bạn có thích làm tình ở nơi công cộng ? Nếu bạn tình yêu cầu thì bạn có làm ko ?
534 Những bài hát khiến bạn nghĩ đến tình dục ?
535 Bạn định nghĩa như thế nào về " thỏa mãn tình dục"
536 Bạn đã từng quay phim, chụp ảnh khỏa thân chưa ?
537 Bạn cảm thấy thế nào nếu tôi nói mình ko có tâm trạng để làm tình với bạn khi bạn yêu cầu ?
538 Nếu tôi cảm thấy chúng ta cần đi trị liệu tình dục, liệu bạn có đi cùng tôi ?
539 Theo thang điểm từ 1-10, mức độ ham muốn tình dục của bạn là mấy ? Nó tăng lên hay giảm đi?
540 Bạn thích quan hệ tình dục khi tắt đèn hay khi để đèn sáng, hay là dùng nến ?
541 Có những khoảng thời gian nào trong tháng mà ngực bạn nhạy cảm 
hoặc bạn ko muốn ai đụng vào mình ?
542 Những kiểu quần áo nào bạn thấy gợi cảm ? Bạn thích tôi mặc những kiểu đồ lót nào ?
543 Tình dục trong khi mang thai
544 Bạn thích dùng những biện pháp tránh thai nào ? Tại sao ?
545 Nếu tôi yêu cầu bạn đi làm kiểm tra ở bệnh viện về các bệnh tình dục thì bạn có làm ko ?
546 Ai là người mà bạn cảm thấy thoải mái nhất khi nói chuyện với họ về vấn đề tình dục? 
Bạn có nghĩ là người đó đủ trình độ để đưa ra cho bạn sự giúp đỡ và lời khuyên hữu ích ko ?
547 Bạn sẽ làm gì nếu bạn tình nói rằng họ bị mắc bệnh liên quan đến tình dục sau khi quan hệ với bạn ?
548 Bạn đã từng quan hệ với người nào đó mà bạn biết chắc là họ đang mắc bệnh
do quan hệ tình dục chưa (STD).
Bạn đã từng đi kiểm tra ở bệnh viện để xem mình có bị bệnh STD chưa ?
549 Bạn có nghĩ là kích cỡ của ngực và dương vật sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quan hệ tình dục ko?
550 Bạn có nghĩ rằng thủ dâm là xấu ? Hay là có thể chấp nhận thủ dâm khi bạn tình
của mình ko có tâm trạng để đáp ứng cho mình ?
551 Bạn đã từng làm ai mang thai chưa ?
552 Bạn từng xem phim sex chưa ? Bạn xem phim sex mấy lần/tháng? Còn tạp chí khiêu dâm thì sao?
553 Nếu bạn nghiện xem phim sex, tôi có thể làm gì để giúp bạn bỏ thói quen này ?
554 Tôi có thể nói điều gì hay làm gì để bạn nhận biết là tôi muốn làm tình với bạn ?
555 Chất lượng quan hệ tình dục sẽ thay đổi như thế nào nếu tôi tăng thêm vài ký ?
556 Những vấn đề tình dục nào bạn thảo luận cùng bạn bè ?
557 Bạn cảm thấy thế nào về tình dục đường hậu môn ?
558 Bạn có nghĩ là mình nghiện tình dục ko ? Bạn có thấy mình thường xuyên bị tình dụ
c kiểm soát thay vì bạn kiểm soát những ham muốn tình dục ?
559 Bạn có nghĩ rằng sách là 1 nguồn tài liệu hay để học hỏi thêm những kỹ thuật mới về tình dục ?
560 Nếu bạn có kế hoạch chỉ quan hệ tình dục sau khi kết hôn thì những kiểu thân mật nào 
sau đây là có thể chấp nhận được khi yêu nhau : cầm tay, hôn, hôn lâu, vuốt ve …)
561 Điều gì khiến bạn cảm thấy mất hứng thú tình dục ?
562 Bạn nhìn nhận thế nào về những kinh nghiệm tình dục sau đây.
Chúng là lành mạnh hay 
ko thể chấp nhận được : Oral sex tình dục miệng, sextoy Đồ chơi tình dục, bondage nô lệ tình dục , 
threesomes tình dục gồm 3 người
563 Sử dụng tình dục như 1 công cụ để thương lượng có phải là điều đúng đắn ? Liệu có phải là cách hay
khi người vọ/chồng trừng phạt bạn đời bằng cách ko cho quan hệ ?
564 Bạn có thích tắm chung?
565 Bạn cảm thấy thế nào nếu nbạn tình hút thuốc lá sau khi quan hệ ?
566 Bạn đã từng quan hệ với ai mà không mang bao cao su chưa ?
567 Những cách tránh thai nào mà bạn khoogn dùng ?
568 3 điểm nhạy cảm nhất trên cơ thể bạn ?
569 Bạn nghĩ mục đích của quan hệ tình dục là gì ?
570 Bạn có nghĩ rằng trả lời những câu hỏi về tình dục sẽ là 1 kinh nghiệm tốt cho chúng ta ko ?
*** bạn nghĩ thời gian nào là tốt nhất cho việc làm tình ?
572 Bố mẹ bạn đã từng thảo luận với bạn về quan điểm tình dục của họ chưa ?
573 Ham muốn tình dục của bạn thay đổi như thế nào theo thời gian ?
574 Những tư thế, hoạt động tình dục nào mà bạn chưa bao giờ thử nhưng bạn muốn thử ?
575 Bạn có nghĩ là bao cao su làm giảm khoái cảm tình dục ? 
Hay là nó giúp bạn tránh xuất tinh sớm ?
576 Bạn có cảm thấy mình hiểu biết nhiều về tình dục từ kinh ngiệm
bản thân hay có nhiều điều bạn cần học hỏi thêm ?
577 Bạn thường hay tưởng tượng mình làm tình ở nơi nào ?
578 Làm thế nào để đời sống tình dục của chúng ta trở nên tốt hơn ?
XE 
580 Bạn cảm thấy người yêu lái xe cẩn thận, an toàn hay lái quá nhanh Cách kiềm chế cảm xúc 

Xin chào các bạn.Mình hiện nay là sinh viên.Trong 1 năm trở lại đây,không hiểu sao mình rất hay khóc mỗi khi giận dữ và mỗi lần như vậy mình đều muốnđập phá đồ đạc,thậm chí là dùng tay đấm,chân đá vào một cái gì đó.Đôi khi chỉ là một chuyện bình thường nhưng cũng khiến mình khóc nức nở,điều mà trước đây không có.Khi bình tĩnh lại mình thường phân tích vấn đề làm mình nóng giận nhưng vẫn không hiểu chuyện"khóc nức nở".Mình xin ví dụ :
Buổi tối em trai mình thường đi mua đồ ăn tối cho mình và nó.Mình đều dặn nó chạy xe cẩn thận.Mẹ mình thấy như vậy hay nói là trời tối đường đông,sao hay sai em con mua đồ.Mình đã giải thích là 2 chị em đều muốn ăn,và nó là con trai ,lấy xe ra vô nhanh nên nó đi sẽ tiện hơn.Mẹ ko wan tâm lắm.Hôm nay cũng như thường lệ,nó cũng đi mua đồ ăn,nhưng lại muốn mua báo sớm do nôn đọc tin nó thích (dù mình đã nói mai mua cũng đc và không biết là nó đi mua báo) và khi về nó nói với mẹ là nó mệt.Mẹ nghe xong bèn bảo mình trời tối mà con còn sai em nó đi mua .Mình nghe xong lập tức cáu giận,và lại nghĩ mẹ wá lo lắng cho em mà la mình,mình có nói rõ nhưng mình lại thấy mẹ ko wan tâm mình nói gì mà cứ nghĩ là do mình ganh tỵ mẹ thương e hơn cho nên giở tính hờn mát.Nhưng mình cáu giận ở đây là mẹ cứ nghĩ mình ganh tỵ,tính trẻ con,chuyện nhỏ nhặt mà cũng khóc,thật sự việc khóc mình ko kiềm đc.Càng khóc thì càng nóng giận
Việc mình lo ở đây là tâm trạng của mình ,1 việc ko đáng gì nhưng có thể làm mình có hành động như vậy,và mình rất lo khi cứ khóc nức nở,giống như có 1 cục ức ở cổ.Chỉ cần một lời nói hay hành động đụng chạm cũng khiến mình giận dữ.Tâm trạng lúc này cũng rất dễ buồn bã.

Ví dụ trên chỉ là 1 trong những chuyện cũng có thể làm mình khóc.Giải mã tính cách qua cách cầm cốc. 

Một nhà tâm lý học mới đây đã nghiên cứu và phát hiện thấy con người có 8 cách cầm cốc, phản ánh những kiểu tính cách khác nhau.

8 kiểu cầm cốc được tiến sỹ Wilson phân loại.


Đó là công trình nghiên cứu của Tiến sỹ Glenn Wilson, một nhà tâm lý học. Ông đã quan sát ngôn ngữ cử chỉ của 500 người uống rượu, bia và chia họ ra làm 8 loại tính cách khác nhau, gồm: Ve vãn, buôn chuyện, yêu chơi bời, “gái ế”, nữ hoàng băng giá, tay chơi, “bố tướng” và “đầu gấu”.

Tiến sỹ Wilson đã làm nghiên cứu tại chuỗi quán bar Walkabout, Anh, và khẳng định cách cầm cốc “phản ánh con người bạn”.

Dưới đây là 8 kiểu người theo nghiên cứu của Tiến sỹ Wilson:

Kiểu ve vãn

Đây thường là kiểu của phụ nữ, cầm cốc với những ngón tay xinh xinh mở rộng, như một cách để “khiêu khích”.

Có thể người này đặt cốc hơi xa so với người mình để thu hút sự chú ý hoặc nhìn đăm đắm qua viền cốc/ly để “kết nối” với ánh mắt khác khi nhấp môi. Hoặc cô cũng có thể dùng ngón tay “đùa giỡn” với viền ly, nhúng ngón tay vào rồi mút khô nó.

Kiểu buôn chuyện

Và kiểu này cũng thường phổ biến ở phụ nữ ngồi túm tụm cùng bạn bè. Cô có thể đang nói chuyện về những người khác hoặc phán xét điều gì đó. Cô cầm dưới đáy ly, dùng nó để “khoa tay múa chân” và đưa ra luận điểm trong cuộc trò chuyện.

Cô có xu hướng đổ người về phía chiếc ly, về phía người khác để bộc bạch. Kiểu người này thường có một nhóm vài người bạn gắn bó và có xu hướng ít mở rộng để có thêm bạn. Vì vậy, tiếp cận của người ngoài thường không được chào đón.

Kiểu yêu chơi

Kiểu người uống này có thể là đàn ông hoặc phụ nữ. Họ có xu hướng thích giao du, tiệc tùng và “thích cười”.

Họ thích cầm cả chai để uống để không bị bỏ quãng câu chuyện. Chai thường được cầm lỏng ở phần cổ. Kiểu người này luôn thích được mở rộng nhóm bạn. Vì vậy cách tiếp cận tốt nhất với họ là xen trực tiếp vào cuộc nói chuyện một cách nhẹ nhàng, hài hước và làm cho họ cười.

Kiểu “gái ế”

Người này thường dễ bảo, nhút nhát, cầm ly theo hướng “phòng thủ”, rất chắc, thể như sợ ai đó lấy mất.

Lòng bàn tay được giấu kín và chiếc ly được dùng như là một vật “cứu cánh”. Không bao giờ ly được uống hết, luôn bớt lại một ít để “phòng thân”. Ly uống thường nhỏ.

Người này cũng có thể uống bằng ống hút, những lúc bồn chồn, và dùng nó để quấy giữa những lần nhấp môi.

Kiểu người này cần được tiếp cận theo cách nhẹ nhàng, tình cảm, có lẽ cần một vài lời khen ngợi để xây dựng sự tự tin. Nhưng cũng có thể bắt đầu bằng một lời đề nghị.

Kiểu nữ hoàng băng giá

Kiểu này chủ yếu có ở phụ nữ, người có phong cách “lạnh” và kín đáo.

Cô thường uống bằng ly, được nắm chắc trong tư thế hình thành một “rào chắn” ngang cơ thể để ngăn chặn những tiếp cận không thân thiện.

Thường rất mất thời gian để tiếp cận kiểu phụ nữ này; cô sẵn sàng làm bẽ mặt người khác ngay. 

Kiểu tay chơi

Đây là người đàn ông năng động và tự tin, một kiểu “Don Juan”.

Anh ta dùng ly dài hoặc cả chai như một vật trang trí tự nhiên, chơi đùa với nó một cách “khêu gợi”. Anh ta có xu hướng thích sở hữu và có thể thích sờ mó những người bạn nữ của mình. 

Kiểu “bố tướng”

“Con công trống” này thường ý thức được hình ảnh của mình và sẽ uống bia trong chai. Anh ta có xu hướng tự tin và ngạo mạn. Cử chỉ của anh ta có xu hướng “lấn chiếm”, choáng càng nhiều chỗ càng tốt. Ví dụ đẩy chiếc cốc ra thậtBàn về &quot;sành điệu&quot; 

Có lẽ vấn đề này cũng quá quen thuộc với mọi người, nhưng nay tớ muốn chúng ta cùng bàn về "sành điệu" dưới góc độ những người học và quan tâm đến Tâm lý học xã hội. Tớ xin mở đầu bằng một bài báo, có thể chưa nổi bật 2 chữ "sành điệu" lắm, nhưng hy vọng sẽ khiến các bạn nổi máu tranh luận cho nó... có không khí sành điệu )
(Nếu chủ đề không hấp dẫn thì tớ cũng sẽ vui lòng xóa bỏ và thay bằng chủ đề khác hấp dẫn hơn  )

Học đòi “sành điệu” 

Phỏng vấn 4 sinh viên tại sao chọn cách giải trí đến vũ trường, các bạn cho biết ban đầu chỉ là đi thử vũ trường xem sao nhưng sau đó thấy “cũng đáp ứng sở thích của mình” nên cứ tiếp tục đi. Mỗi lần đi như vậy tốn bao nhiêu tiền? Họ cho biết, trong túi có bao nhiêu chơi bấy nhiêu. 

Chi tiêu phung phí

Năm 1999, N.V.Th. từ Tiền Giang lên TP.HCM học đại học ngành báo chí. Chỉ sau năm học thứ nhất, Th. bắt đầu vắng học nhiều để lao vào làm thêm. Nhưng mục đích kiếm tiền không phải để đóng học phí mà là trang trải cho các khoản vui chơi không lành mạnh. Th. chọn làm nhân viên ở quán bia ôm để có đủ tiền tiêu xài. Không còn thời gian đến lớp học nên Th. thi môn nào rớt môn đó.

Trường hợp như Th. không phải là cá biệt. Nhiều sinh viên tỉnh lên TP được 1 năm đã nhanh chóng thay đổi lối sống chân chất giản dị ở quê nhà bằng lối sống “sành điệu” còn hơn cả thanh niên TP. Khảo sát 216 sinh viên ở 6 khoa thuộc 3 trường ĐH công lập, bán công , dân lập TP.HCM trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học “Ảnh hưởng của môi trường đô thị đến nhận thức, lối sống của sinh viên tại TP.HCM” của nhóm sinh viên ĐH Bán công Tôn Đức Thắng đã phản ánh hiện tượng này. 

Một số sinh viên cho biết chi nhiều tiền nhất vào việc mua sắm quần áo và sinh nhật bạn bè. Khảo sát chung, 20,4% sinh viên chi tiền vào việc mua sắm quần áo, 19,4% cho sinh nhật bạn bè. Cũng theo nhóm nghiên cứu, 30% số sinh viên tỉnh được khảo sát thì cứ 3 đến 5 tháng lại thay đổi điện thoại di động. Nếu đang xài điện thoại cỡ 1,5 triệu đồng thì thay bằng điện thoại có giá 2,5 triệu đồng và cứ như thế “nâng cấp” lên. Tập trung nhiều vào các sinh viên năm thứ hai, thứ ba. 

Nguy cơ tha hóa

Khảo sát cũng đưa ra con số giật mình, một số sinh viên tham gia vào các loại hình ăn chơi thiếu lành mạnh như đi vũ trường, thậm chí là karaoke ôm... Có 13/216 số sinh viên khảo sát thỉnh thoảng có đi vũ trường và 4/216 đi vũ trường thường xuyên. Đặc biệt, 4 sinh viên này đều là ở tỉnh. Và tiền tiêu xài của họ đều do gia đình chu cấp. 

Nếu có 500.000 đồng thì đi loại sang một chút, nếu có 200.000 đồng thì đi chỗ 200.000 đồng. Đáng lo ngại là ở một số vũ trường, sinh viên dễ bị lôi kéo vào tệ nạn, ban đầu là mua thuốc lắc, sau đó đến dùng ma túy... 

Trong lúc thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu phát hiện một hiện tượng tiêu cực của một số nam sinh viên nội thành là dịp cuối tuần rủ rê nhau ra khu vực ngoại thành để đàn đúm, hát karaoke ôm... Các bạn tập hợp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm khoảng 7-12 sinh viên thuộc nhiều trường. Tại sao phải ra ngoại thành? Các sinh viên cho biết vì giá cả “chơi bời” ở đây vừa túi tiền. 

Học chẳng bao nhiêu

Ngoài việc “sành điệu”, chạy theo mốt, tham gia vào các cuộc vui thiếu lành mạnh, đề cao lợi ích vật chất và sống thực dụng thì một bộ phận sinh viên cũng thể hiện thái độ học cầm chừng, chưa cố gắng hết mình. Một số sinh viên có khuynh hướng học tủ, học gạo theo kiểu “mì ăn liền” để lấy được chứng chỉ hoặc bằng cấp mà không màng đến việc tích lũy kiến thức cho công việc sau này. 

Theo khảo sát, có 18/216 sinh viên không bao giờ đọc sách báo, xem tivi trong giờ rảnh rỗi và 19 sinh viên không bao giờ đến thư viện. Nhóm tác giả cho rằng do ý thức chủ quan của sinh viên coi nhẹ việc tra cứu tài liệu, chưa có phương pháp học tập tích cực. Phỏng vấn sâu các sinh viên này đã thể hiện thái độ học tập đơn giản, chỉ là sao cho đủ điểm lên lớp là được.

Sinh viên Nguyễn Văn Phượng, Trường ĐH Bán công Tôn Đức Thắng, đại diện nhóm thực hiện đề tài: Giáo dục lối sống, nâng cao kiến thức 

Chúng tôi đã bỏ ra 8 tháng thực hiện. Đầu tiên là phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi với 216 sinh viên thuộc 6 khoa của 3 trường công lập, bán công, dân lập. 

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi nhận thấy bên cạnh phần lớn sinh viên tỉnh đi đúng hướng trong việc tiếp cận lối sống văn minh đô thị, học tập tiến bộ khoa học, cũng còn một số ít sinh viên có những biểu hiện lối sống không lành mạnh. Tôi cho rằng, trước nhất cần có sự liên kết giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục. Cần tạo môi trường sinh hoạt lành mạnh cho sinh viên; quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống bên cạnh việc nâng cao kiến thức cho sinh viên. Về phía sinh viên, cần nỗ lực vươn lên trong học tập, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, luôn thể hiện tinh thần giúp đỡ bạn bè trong cuộc sống cũng như học tập.

Theo Diệu Hằng
(Báo Người Lao Động)

Nguồn: Thanh Nien Online xa mình và tựa lưng vào ghế. e: Bàn về &quot;sành điệu&quot; 

Các bạn biết công ty máy tính Apple chứ? Vâng chúng ta nhiều người cũng biết đến Apple với biểu tượng Quả táo bị cắn 1 miếng. Giới trẻ sẽ sành điệu hơn khi vừa dạo phố vừa giắt lưng chiếc máy nghe nhạc kỹ thuật số nổi tiếng Ipod Nano siêu mỏng giá vài trăm USD của công ty Apple. Các doanh nghiệp và nhân viên văn phòng cao cấp sẽ sành điệu hơn khi cầm trên tay chiếc laptop mỏng gọn I-book của Apple. Và dân làm đồ họa chuyên nghiệp sẽ được xem là rất pro nếu trên bàn làm việc của họ là chiếc máy tính Apple chạy hệ điều hành Macintosh thay vì những chiếc PC rẻ tiền chạy Uin-đầu Ích-xì-pê. Thông thường những nhận định trên đầu đúng trong thời đại công nghệ này. Bởi tất cả sản phẩm của Apple rất đắt, từ phần cứng đến phần mềm. Đặc biệt hệ điều hành máy tính Macintosh cực đẹp, chuyên dùng để xử lý đồ họa và media "nặng ký". Rõ ràng, ai chơi được những món hàng đó quả ko hổ danh "sành điệu".
Thế nhưng mấy ai biết được người sáng lập ra những "biểu tượng sành điệu" này lại có một quá khứ "sành điệu" ko thua gì Bill Gates. Để mở hàng tiếp cho chủ đề sành điệu, tớ giới thiệu với mọi người một cuốc đời "sành điệu" mang phong cách cực kỳ của ông Steve Jobs, Giám đốc điều hành của tập đoàn máy tính Apple

Giữa tháng 6/2005, một bài phát biểu ở lễ trao bằng tốt nghiệp của trường ĐH danh tiếng Stanford (Mỹ) đã gây chấn động lớn ở các giảng đường ĐH và được đăng tải ở các báo giáo dục và kinh doanh trên thế giới, loan rộng trên internet. Chủ nhân bài phát biểu này là ông Steve Jobs, Giám đốc điều hành của tập đoàn máy tính Apple Computer và xưởng sản xuất phim hoạt hình Pixar Animation Studio. 

Không hàm chứa những lời hô khẩu hiệu giáo điều, bài phát biểu của ông Jobs đơn giản là một chuỗi các tự truyện của một doanh nhân thành đạt đã trải qua một cuộc đời nhiều sóng gió và bất ngờ: bỏ học ĐH, mày mò lắp ráp máy tính, bị đuổi khỏi công ty do chính mình sáng lập để rồi cuối cùng lại quay về thống trị…  

Đặc biệt hơn cả, thay vì chúc các tân cử nhân Stanford một sự nghiệp thành công, tương lai chói lọi như thường các đại biểu vẫn làm ở lễ tốt nghiệp, Jobs đã nói: “Hãy cứ đói khát và dại dột” (Stay hungry. Stay foolish”). Bởi vì chỉ có mạo hiểm, mơ ước, và sống đúng với đam mê của mình, mới có thể thật sự thành công và mãn nguyện".

VietNamNet giới thiệu bài phát biểu của Steve Jobs (mà ông gọi là ba câu chuyện cuộc đời mình) với hy vọng thêm một góc nghĩ cho các bạn trẻ Việt Nam trước  những cuộc thi căng thẳng và những quyết định lớn của cuộc đời.   

Câu chuyện đầu tiên - “kết nối các sự kiện” 

Tôi bỏ học ở trường ĐH Reed sau sáu tháng nhưng vẫn ở lại loanh quanh đến tận 18 tháng nữa mới thực sự ra đi. Tại sao tôi lại chọn bỏ học? 

Mọi thứ bắt đầu từ lúc tôi chào đời. Mẹ đẻ của tôi là một SV trẻ mới tốt nghiệp ĐH, chưa chồng. Vì thế, bà quyết định mang tôi cho làm con nuôi.  Bà tin rằng nên để những người có bằng ĐH mang tôi về nuôi và đã sắp xếp sẵn mọi thủ tục cho con với 2 vợ chồng luật sư. Chẳng thể ngờ, đến lúc tôi chào đời, họ lại đổi ý muốn có con gái. 

Thế là, bố mẹ tôi bây giờ, lúc đó đang trong danh sách chờ đợi, nhận được một cú điện thoại lúc nửa đêm: “Có một bé trai mới sinh chưa ai nhận. Ông bà có muốn nhận không?”  Họ vui mừng  đồng ý ngay.  Khi mẹ đẻ mới biết bố mẹ tôi chưa bao giờ tốt nghiệp ĐH, thậm chí cha tôi còn chưa tốt nghiệp cấp ba, bà nhất định không ký giấy cho con nuôi và chỉ nhượng bộ khi bố mẹ tôi hứa sau này sẽ cho tôi vào ĐH. 

17 năm sau, tôi vào ĐH thật. Nhưng tôi lại ngu ngốc chọn một trường đắt tiền ngang với Stanford, và toàn bộ số tiền ít ỏi của bố mẹ tôi, những người lao động chân tay, đổ vào trả tiền học.

Sau sáu tháng, tôi thấy việc đầu tư như vậy thật vô nghĩa. Tôi không biết mình muốn làm gì và cũng không biết trường ĐH sẽ giúp mình như thế nào. Thế mà tôi vẫn ngồi đây, tiêu tốn những đồng tiền bố mẹ bỏ bao mồ hôi công sức cả đời mới kiếm được. Tôi quyết định bỏ học và tin rằng, mọi thứ rồi cũng được thu xếp ổn thoả. Lúc đó thật sự rất run, nhưng bây giờ nhìn lại, tôi hiểu rằng, đấy là quyết định đúng đắn nhất của đời mình. Ngay khi quyết định bỏ học, tôi đã bỏ những môn bắt buộc mà mình không thích và bắt đầu kiếm các lớp có vẻ thú vị hơn.   

Tôi không được ở KTX, vì vậy tôi ngủ ở sàn nhà phòng các bạn, trả vỏ lon Coca để lấy 5 cent mua thức ăn, và đi bộ hơn 10 cây số dọc thành phố vào các ngày chủ nhật để đến ăn một bữa làm phúc hàng tuần của đền Hare Krishna. Tôi thật sự thích cuộc sống đó. Và chính những gì đã xem, nghe, thấy, khám phá bằng trí tò mò và tri giác của tuổi trẻ…lúc đó đã biến thành những kinh nghiệm quý báu cho tôi sau này.

ĐH Reed lúc đó có trường học dạy thiết kế thư pháp, có lẽ là đỉnh nhất trong cả nước.  Mọi mẫu chữ trên các poster, biển hiệu… xung quanh trường đều rất được thiết kế rất đẹp. 

Lúc ấy, coi như đã bỏ học và không phải học những môn bắt buộc nữa, tôi quyết định chọn lớp học về mẫu chữ mỹ thuật để tìm hiểu cung cách thiết kế. Tôi đã tìm hiểu về các mẫu chữ serif, san serif, về các khoảng cách khác nhau giữa các mẫu chữ, về các phương cách làm cho kiểu in (typography). Những kiểu cách vẽ chứ đó thật gợi cảm, tinh tế, giàu lịch sử. Chúng mê hoặc tôi từ lúc nào không hay.  

Những thứ viển vông này chắc chẳng đem lại một ứng dụng thực tế nào cho cuộc đời tôi.  Thế nhưng 10 năm sau, khi bắt đầu thiết kế chiếc máy tính Macintosh đầu tiên, tất cả quay trở lại. Chúng tôi đã dồn hết kiến thức của mình vào thiết kế chiếc Mac này. Đó là chiếc máy đầu tiên có kiểu chữ rất đẹp. 

Nếu tôi đã không bước chân vào lớp học thiết kế chữ hồi ĐH, chiếc Mac bây giờ sẽ không bao giờ có các kiểu dáng chữ và các phông chữ có khoảng cách đều nhau như thế này. Và vì thế, có lẽ cũng chẳng máy tính cá nhân nào trên thế giới có các kiểu chữ này (vì Windows cóp hoàn toàn từ Mac). Nếu không bao giờ bỏ học, tôi đã không đi học lớp thiết kế chữ này, và các máy tính cá nhân cũng không có được những mẫu chữ tuyệt diệu hôm nay. Dĩ nhiên, khi còn ngồi ghế nhà trường, làm sao tôi có thể kết nối các sự việc theo hướng như vậy? Nhưng 10 năm sau nhìn lại, tất cả đều rất rõ ràng. 

Dĩ nhiên, các bạn không thể kết nối các sự việc khi nhìn về phía trước, chỉ có thể làm như vậy khi ta nhìn lại một quãng đường. Vì vậy, các bạn  phải tin tưởng rằng các hành vi, sự kiện của hiện tại có một mối liên quan nào đó đến tương lai. Bạn phải tin tưởng vào một điều gì đó - linh tính, số phận, cuộc đời, thuyết nhân quả…bất kỳ cái gì. Lối suy nghĩ này chưa bao giờ làm tôi thất vọng, và chính nó đã tạo nên tất cả những khác biệt trong cuộc đời mình. 

Câu chuyện thứ hai: Tình yêu và sự mất mát 

Tôi đã rất may mắn khi tìm thấy điều mình thực sự yêu thích khi còn trẻ tuổi. Woz và tôi bắt đầu thiết kế máy Apple trong gara ô tô của bố mẹ tôi hồi tôi mới 20 tuổi. Chúng tôi làm việc rất chăm chỉ, và trong vòng 10 năm sau, Apple đã trưởng thành. Từ một bộ sậu chỉ có 2 người biến thành một tập đoàn trị giá 2 triệu đô la với hơn 4.000 nhân viên. Chúng tôi đã cho ra đời sản phẩm đỉnh cao nhất của mình -máy Macintosh - năm trước đó, lúc tôi mới bước sang tuổi 30.   

Rồi tôi bị đuổi việc. Làm sao có thể bị đuổi việc khỏi một công ty bản thân mình sáng lập nên? Chuyện là thế này. Khi Apple mở rộng, chúng tôi thuê một người mà tôi nghĩ là rất tài năng để điều hành công ty cùng mình. Một hai năm đầu, mọi thứ đều ổn. Nhưng rồi những định hướng tương lai có điểm bất đồng, cuối cùng, chúng tôi cãi nhau. Hội đồng quản trị đã đứng về phía anh ta, tôi thì ra khỏi công ty, khi 30 tuổi. 

Tâm huyết của cả một thời kỳ đã tiêu tan, tôi hoàn toàn tuyệt vọng. 

Một vài tháng sau đó, không biết phải làm gì, tôi cảm thấy đã không phải với các bậc tiền bối, đã bỏ lỡ cơ hội khi nó đến tầm tay. Tôi đã gặp David Packard và Bob Noyce và cố gắng nói lời xin lỗi vì đã làm hỏng mọi chuyện. Là một trường hợp thất bại mà công chúng đều biết đến, thậm chí tôi còn nghĩ đến việc bỏ chạy khỏi thung lũng nơi mình sống.

Nhưng rồi có một điều mà dần dần tôi nhận ra - tôi vẫn rất yêu những việc mình làm! Những biến đổi ở Apple đã không hề làm giảm sút niềm đam mê đó. Tôi đã bị từ chối, nhưng vẫn yêu. Vì thế, tôi quyết định làm lại.  

Lúc đó, tôi không thể nhận thức được rằng, chính việc bị đuổi khỏi Apple là điều tuyệt vời nhất đã diễn ra trong đời. Những gánh nặng của vinh quang được thay thế bởi cảm giác nhẹ nhõm khi bắt đầu lại từ đầu và không chắc chắn về mọi thứ. Tôi được tự do bước vào thời kỳ sáng tạo nhất của cuộc đời. 

Trong vòng 5 năm sau đó, tôi bắt đầu một công ty tên là NeXT, một công ty khác tên Pixar, và đem lòng yêu một người phụ nữ tuyệt vời sau này đã trở thành vợ tôi. 

Pixar bắt đầu sản xuất các phim hoạt hình sử dụng công nghệ máy tính đầu tiên của thế giới, bộ phim Câu chuyện đồ chơi (Toy Story), và bây giờ đã trở thành một trong những xưởng sản xuất phim hoạt hình thành công nhất thế giới.  

Vật đổi sao dời, cuối cùng thì Apple lại mua lại NeXT và tôi trở về Apple, sử dụng chính những công nghệ đã phát triển ở NeXT vào phục hưng lại cho Apple. Tôi và Laurence  đã cùng nhau xây dựng một gia đình đầm ấm. 

Tôi tin chắc rằng, những điều kỳ diệu trên đã không xảy ra nếu tôi không bị đuổi khỏi Apple. Đó là một liều thuốc đắng, nhưng đúng là bệnh nhân cần có nó.  Đôi lúc cuộc đời quẳng một cục gạch vào đầu bạn. Đừng mất niềm tin.  

Tôi tin rằng, điều duy nhất tiếp sức cho mình là việc tình yêu những việc mình làm.  Bạn cũng vây, phải tìm thấy niềm đam mê của mình. Đối với công việc hay với người tình đều thế cả. Công việc sẽ chiếm một phần lớn cuộc sống của bạn, và cách duy nhất để thực sự toại nguyện là làm được những điều bạn nghĩ là vĩ đại nhất. Và cách duy nhất để làm được những điều vĩ đại là yêu việc mình làm. Nếu chưa tìm thấy thì bạn cứ tiếp tục tìm đi. Đừng bằng lòng với sự ổn định. Giống như trong tình yêu vậy, bạn sẽ biết ngay khi bạn tìm thấy nó. Và cũng giống như trong bất kỳ mối quan hệ nào, nó sẽ chỉ tốt đẹp thêm theo năm tháng mà thôi.  Bạn cứ tìm đến khi bao giờ thấy, đừng dừng lại.  

Câu chuyện thứ ba: Cái chết 

Khi 17 tuổi, tôi đọc một câu rằng: “Nếu ngày nào bạn cũng sống như thể đó là ngày tận thế của mình, đến một lúc nào đó bạn sẽ đúng”. Câu nói đó để lại ấn tượng lớn với tôi, và trong suốt 33 năm qua, tôi luôn nhìn vào gương mỗi ngày để tự hỏi mình: “Nếu hôm nay là ngày cuối của đời mình, liệu mình có muốn làm những việc hôm nay mình sắp làm không?” Và khi nhận ra câu trả lời là “không” ngày này qua ngày khác, tôi biết mình cần thay đổi điều gì đó. 

Ghi nhớ rằng "một ngày nào đó gần thôi, mình sẽ chết đi" là một bí quyết vô cùng quan trọng giúp tôi quyết định những lựa chọn lớn trong đời. 

Bởi vì hầu hết mọi thứ - những mong đợi của người khác, lòng kiêu hãnh, nỗi lo sợ xấu hổ khi thất bại - tất cả đều phù phiếm trước cái chết, để lại những gì thật sự quan trọng. Luôn nhớ rằng mình sẽ chết là cách tốt nhất mà tôi biết để tránh sa vào cái bẫy suy nghĩ rằng mình không muốn mất đi cái gì đó. Ta đã hoàn toàn vô sản rồi. Chẳng có lý gì để không đi theo tiếng gọi trái tim.   

Một năm trước đây, tôi bị chẩn bệnh ung thư. Tôi đi soi người lúc 7h30 sáng và phát hiện có một khối u trong tuyến tuỵ. Lúc đó, tôi còn chẳng hiểu tuyến tuỵ là gì. Bác sĩ bảo rằng chắc là một loại ung thư không chữa được, và tôi chỉ sống được 3-6 tháng nữa thôi. Bác sĩ khuyên tôi về nhà sắp xếp lại mọi công việc, có thể ngầm hiểu như thế là chuẩn bị mọi thứ trước cái chết.  Có nghĩa là phải gói gọn những điều muốn nói với các con trong 10 năm tới trong vòng một vài tháng. Có nghĩa là đảm bảo mọi thứ được sắp xếp ổn thoả để cả mọi thứ đều dễ dàng suôn sẻ khi tôi ra đi.  

Cả ngày hôm đó tôi nghĩ đến lời chẩn bệnh.  Tối đó tôi lại ngồi khám, người ta cho đèn nội soi vào cổ họng xuống dạ dày và ruột non, lấy kim châm vào tuyến tuỵ để lấy ra một số tế bào từ khối u.  Lúc đó tôi rất bình thản, nhưng vợ tôi kể lại lúc đó khi các bác sĩ soi các tế bào dưới kính hiển vi họ đã bật khóc vì phát hiện ra đây là một trông số rất ít loại  u ác tính có thể chữa bằng phẫu thuật. Tôi đã qua phẫu thuật và giờ thì khoẻ rồi. 

Không ai muốn chết cả. Kể cả những người muốn lên thiên đàng cũng không muốn chết ở đó. Thế mà cái chết lại là điểm đến của tất cả chúng ta.  Không ai có thể trốn khỏi nó.  Có lẽ đó cũng là điều hợp lẽ, bởi Cái chết là sản phẩm tuyệt vời nhất của Cuộc sống.  Nó là yếu tố làm thay đổi cuộc sống.  Nó gạt bỏ cái cũ và mở đường cho cái mới.  Ngay bây giờ “cái mới” là các bạn, nhưng không xa nữa bạn sẽ trở thành cái cũ và bị loại bỏ. Thứ lỗi cho tôi nếu nói như thế là quá gay cấn, nhưng mà đúng như vậy đấy. 

Thời gian của các bạn là có hạn, nên đừng phí phạm bằng cách sống cuộc đời của người khác. Đừng rơi vào bẫy của sự độc đoán, giáo điều của người khác. Đừng để những ý kiến ồn ào xung quanh đánh chìm tiếng nói bên trong bạn. Và quan trọng nhất, hãy có dũng cảm để đi theo tiếng gọi của trái tim và linh tính. Chúng biết bạn thực sự muốn gì. Mọi thứ khác chỉ là thứ yếu thôi. 

Khi tôi còn trẻ, có một tuyển tập tuyệt diệu tên là Catelogue toàn trái đất, được coi như cuốn sách gối đầu giường của thế hệ chúng tôi.  Một tác giả tên Stewart Brand đã viết cuốn sách này, và ông đã làm cho nó vô cùng sống động bằng những chấm phá lãng mạn của mình trong đó. Đó là những năm cuối thập kỷ 60, khi chưa có máy tính cá nhân, nên được tạo nên hoàn toàn bằng máy chữ, kéo, và máy chụp ảnh polaroid. Nó giống như một Google trên giấy vậy: rất lý tưởng, tràn đầy các công cụ hay ho và ý tưởng vĩ đại. 

Steward và nhóm của ông đã cho ra đời một vài số Catelog toàn trái đất.  Số cuối cùng ra vào giữa những năm 70, lúc đó tôi bằng tuổi các bạn bây giờ. Ở bìa sau cuốn tuyển tập có bức ảnh một con đường ở nông thôn vào một sớm mai, cảnh vật rất thích hợp cho những người thích phiêu lưu tự đi bộ du hành.  Ở dưới có dòng chữ: “Hãy cứ đói khát và dại dột” (Stay hungry. Stay foolish).  Đó là lời tạm biệt của họ trước khi kết thúc. Và tôi luôn ước muốn điều đó cho bản thân. Và bây giờ, khi các bạn tốt nghiệp và bước đến những chân trời mới, tôi cũng chúc các bạn như vậy.

Khánh Ngọc (tổng hợp)Nô lệ số"…


Ai đời… vợ tầng 1 chồng tầng 2 cũng SMS nhắc nhau sang bà ngoại đón con…”. Chị cười như mếu… 
Kỷ nguyên số đưa nhiều người trẻ đến “lối sống số”, “thói quen số”! Và cả những “hệ lụy số”?!... Làm chủ công nghệ và “nô lệ số”, dường như chỉ cách nhau một ranh giới mỏng manh.

“Thói quen số” 

Giờ nghỉ trưa, Hương (nhân viên văn phòng) chạy qua chỗ Quỳnh: “Qua đây, có chuyện này muốn tâm sự”. “Ôi trời! Có gì sao không “Buzz” một cái mà chạy qua đây làm gì?”. 
Ừ!, ai chả biết là quen rồi! Quen chat, quen online, nên nhiều khi không còn ai thấy hai đứa bạn thân chụm đầu tâm sự khúc khích cười như ngày trước. 

“Mà nào có xa xôi hay bất tiện gì, hai đứa thân nhau như chị em ruột, bây giờ làm cùng một công ty, ngồi cách nhau hai dãy bàn, mà động một tí cứ phải thông qua mấy dòng tin nhắn cụt lủn và ba cái “mặt cười” - Hương thoáng buồn. 
Ở cơ quan nọ, có một chị mới sinh con đầu lòng, nhưng hình như anh chồng rất hay nhậu nhẹt về khuya, nên cãi vã luôn. Chị kể, mỗi lần như thế, hai vợ chồng lại ngủ riêng, anh nằm phòng khách, chị nằm trong buồng, rồi nhắn tin điện thoại … cãi nhau. 

“Khi nói, dễ dẫn đến kém kìm chế và có nhiều lời bốc đồng, xúc phạm nhau bởi nhiều khi bức xúc.. nói bừa. Nhưng nhắn tin SMS, ai cũng phải nghĩ trước và chọn lựa lời lẽ, nên có phần bình tĩnh hơn. 
Nhưng dần dà sau những lần như thế, tình trạng lại xấu đi, vợ chồng ngày càng ít nói chuyện với nhau, cứ như có hố sâu ngăn cách. Ai đời… vợ tầng 1 chồng tầng 2 cũng SMS nhắc nhau sang bà ngoại đón con…”. Chị cười như mếu… 

Việt Hưng (nhân viên văn phòng, 24 tuổi – Ngõ 120 chùa Láng – HN) là một người trẻ tình nguyện sống theo “nguyên tắc số”. Mọi hoạt động trong ngày của anh đều “gắn chặt với công nghệ”, “nguyên tắc như một cái máy công nghệ số”. 
Hưng dùng một chiếc Mobile khá hiện đại, và mọi kế hoạch trong ngày, thậm chí kế hoạch tuần đều được cậu lưu trong máy, đổ chuông nhắc việc chính xác đến từng phút! Chúng tôi đã quen với cảnh anh em đang ngồi quây quần, đột ngột một tiếng chuông chói lên những âm thanh kim loại lạnh ngắt: “Việc quan trọng nên tôi để chuông to, thôi, chào mọi người”... Tự nhiên ai cũng thấy hụt hẫng. 

Nhiều người trẻ bây giờ sống theo kiểu “ăn mobile, ngủ mobile”, thức thì GameOnline, Internet… ngôn ngữ thường ngày của họ cũng theo đó thay đổi, quanh quẩn chỉ thấy những “chat chit, voice, mail, nhạc số, chuông lạ, online, offline.. ” lúc nào cũng thành câu cửa miệng… 

Càng ngày càng có nhiều từ ngữ “không tìm thấy trong từ điển”, nó xuất phát từ ngôn ngữ chat, SMS… len lỏi vào văn hóa giao tiếp của những người trẻ: Họ không nói buồn quá mà “Bun wa”, không phải “biết rồi” mà “bit rui”. Họ tạm biệt nhau bằng “pai pai”, Cu 29 (see you tonight – hẹn gặp tối nay), G9 (good night – chúc ngủ ngon)... Rồi thì đủ loại từ ngữ không hiểu nổi ”he he”, “ke ke”, “ka ka”, “oài”, “oạch”, “hic hic”, “ac ac” (ặc ặc)…vv, được đem ra xài vô tội vạ trong đời sống... 

“Nô lệ” máy móc và những “hệ lụy số”… 

“Nhiều khi thấy mình bị lệ thuộc kinh khủng, một lần điện thoại hỏng không kịp đi sửa, mọi việc cứ rối tung lên, mới giật mình nhận ra từ lâu rồi đã không còn thói quen ghi nhớ trong đầu những việc cần làm nữa”, “ra đường mà điện thoại hết tiền? Thiếu tự tin hẳn! Một ngày không lên mạng vài tiếng? Thấy kém năng động lắm”… Đã hơn một lần Việt Hưng than phiền những lời như vậy! 

Có mấy cô cậu trẻ măng, tôi đoán là sinh viên, có khi là học sinh cấp 3 chưa biết chừng - ngày nào cũng lên quán cafe Wi-Fi gần cơ quan tôi, nào là điện thoại đời cao, nào là Laptop xịn, không ngày nào không có mặt cười nói rôm rả. Nhưng để ý mới biết, các cô cậu chỉ ngồi "cop" đi "cop" lại vài bản nhạc chuông, share cho nhau mấy cái hình nền nhiều mầu sắc và … chat. 

Một cậu trong nhóm cười, "thời đại CNTT, phải thế này mới sành điệu, mới có khả năng tiếp cận được công nghệ chứ?" Nghe vậy tôi cũng vui, thầm trách mình suy nghĩ cổ hủ, bố mẹ các bạn có điều kiện trang bị cho các bạn phương tiện số nhằm tiếp cận những cái tiên tiến nhất, là đáng mừng lắm chứ? 

Tiếc là tôi không được mừng lâu, khi chứng kiến cảnh một cậu tranh cãi về số tiền thừa với nhân viên quán, nhẩm mãi không ra lại lôi điện thoại ra cộng cộng trừ trừ. Một người ngoại quốc lịch sự hỏi họ vài câu bằng tiếng Anh, cả nhóm ngơ ngác vì không hiểu và phá lên cười giễu cợt… 

Những thói quen, những cái giá của sự xâm thực văn hóa truyền thống đến với người trẻ còn là chuyện nhỏ. Câu chuyện về những “hệ lụy số” đáng buồn mà một số người trẻ gặp phải mới thật đáng trăn trở. 
Những cạm bẫy trong thế giới ảo 

19 tuổi, cậu sinh viên ĐH BK TPHCM đam mê CNTT và có thiên khiếu trong tìm hiểu các vấn đề liên quan đến tấn công, xâm nhập trên mạng. Từ một lần tình cờ có được tài khoản “chùa” của người nước ngoài, cậu đã thử mua hàng qua mạng bằng số tài khoản đó. 

Mọi việc thành công, nhận thấy cơ hội kiếm tiền quá dễ dàng, người trẻ tuổi ấy đã liên tiếp sai lầm khi tìm mọi cách thử nghiệm, sau đó làm giả thẻ ATM rút hàng tỉ đồng tiền phi pháp để tiêu xài. 
Chính cậu đã thừa nhận, quyền lực làm chủ công nghệ, “quyền lực điều khiển thông tin là một ma lực”, rất dễ đưa người ta đến sai lầm. Và cuối cùng chàng trai đã bị ma lực ấy điều khiển, đó là một hệ lụy tiêu cực mà không ai muốn xảy ra, nhưng những nguy cơ của nó hiện hữu. 

Anh D.T. giám đốc một doanh nghiệp tư nhân ở Hà Nội cũng từng kể cho tôi nghe về một câu chuyện gây sốc. Một cô bé chưa tốt nghiệp cấp 3 có hoàn cảnh bố mẹ thường xuyên cãi vã và bị coi thường đã bỏ nhà đi hàng tháng trời, “dạt vòm” để sống trong thế giới ảo. 

Sẵn sàng online cả ngày trong cái vỏ bọc tự dựng lên là “một du học sinh ở Anh Quốc”, ngoan ngoãn xinh xắn, luôn được cộng đồng mạng, (trong đó có một nhóm bạn thân thiết quen nhau qua chat) – tôn trọng và yêu quý như cô công chúa nhỏ. 

Và để có thể cả ngày sống trong thế giới ảo ấy, cô bé sẵn sàng ngồi lỳ ở quán chat cả ngày mà không có một đồng dính túi, vừa chat với nhóm của mình, cuối ngày cô vừa lên các phòng chat (room) khác kêu cứu “kẹt nét” và sẵn sàng đi theo người lạ, miễn là người đó trả tiền net, cho cô một chỗ ăn, chỗ ngủ và dăm bảy chục ngàn để ngày hôm sau… chat tiếp. 

Đây không phải là một trường hợp cá biệt. Đang có cả một lớp người trẻ như thế, trốn tránh hiện thực để sống trong thế giới ảo mà họ cảm thấy mình có địa vị, hoặc cảm giác tinh thần tốt hơn, bất chấp những hậu quả. Họ đang trở thành những “nô lệ số” ?!

Theo VNN Từ chối

14:39:28, 12/07/2006 


Thật là khó từ chối khi có ai nhờ vả bạn giúp điều gì đó, nhất là lúc bạn không rảnh. Bạn muốn từ chối nhưng không biết nói sao cho người kia không phật lòng, mà cũng để mình khỏi áy náy. 


Càng khó từ chối hơn khi bạn là người “cả nể”. Có lẽ tiếng khó nói nhất là nói... “không”. Dễ tính quá thì bị coi thường hoặc bị lợi dụng, mà khó quá thì bị chê ghét. Cũng có lúc bạn cần can đảm và thẳng thắn từ chối, nhưng vẫn phải khéo léo và tế nhị. Đây là những điều nên và không nên: 

1. Hãy nhạy bén với động thái từ chối

Cần lưu ý mức độ thân thiết của mối quan hệ và cách từ chối. Nhờ vậy mà bạn khả dĩ quyết định nên làm gì. Hãy cân nhắc mức ảnh hưởng của sự từ chối đối với mối quan hệ (bạn bè, thân thuộc, công việc,...). 

2. Biết rõ việc được nhờ

Chúng ta có thể quyết định ngay mà lại không biết “lượng” sức mình có giữ đúng lời hứa hay không. Tuy nhiên, từ chối “thẳng thừng” thì lại kèm tế nhị. Hãy “hoãn binh” một lúc để “chọn” từ ngữ, giọng nói và thể ngữ (ngôn ngữ cơ thể) cho hợp lý để tránh căng thẳng cho cả hai. 

3. Đánh giá yêu cầu

Hãy cân nhắc chi tiết và lĩnh vực được yêu cầu. Cố gắng tìm một thỏa hiệp để đẹp lòng đôi bên. Bạn có thể phân tích để giúp người kia hiểu rõ hoặc đề nghị cách giải quyết khác. Như vậy là bạn đã thể hiện sự cảm thông và chia sẻ với người kia. 

4. Xác định khả năng

Trước khi từ chối, hãy xác định là bạn không thể thỏa mãn yêu cầu của họ, vì bạn không đủ khả năng hoặc bạn quá bận. Nếu đúng sở trường mà bạn từ chối thì bạn có thể mất uy tín, vì vậy bạn nên cân nhắc kỹ lưỡng. 

5. Cảm thông và hiểu biết

Biết người và biết ta để tránh ảnh hưởng xấu tới mối quan hệ. Hãy chân thành và xin lỗi nếu bạn không thể giúp họ, đồng thời tỏ ra bạn luôn lắng nghe, nhưng vì “lực bất tòng tâm”. 

6. Đừng gởi tin nhắn, email hoặc lời nhắn

Nên gặp trực tiếp hoặc gọi điện thoại để tránh hiểu lầm. Nếu không, bạn có thể bị đánh giá thấp vì họ hiểu là bạn coi thường họ. Gặp nhau trực tiếp là cách tốt để có thể hiểu nhau hơn, không bị “tam sao thất bổn”. 

7. Đừng trì hoãn khi đã quyết định

Đừng để đến ngày mai những gì bạn có thể làm ngay hôm nay. Quán tính sẽ làm bạn lần lữa, e ngại, và khiến người khác hiểu sai về bạn. Đừng quên: “Một sự bất tín, vạn sự không tin”. Đó cũng là chính mình hạ giá mình! 

8. Đừng “thế thủ”

Bạn không nên tỏ vẻ độc đoán hoặc chê trách họ. Hãy biết phục thiện, nhận khuyết điểm và cảm thông khi đối thoại. Cố chấp và bảo thủ là các động thái “đào sâu” hố ngăn cách, không thể tái lập bình thường hóa. 

9. Đừng nói “không” đang khi thảo luận

Cũng vẫn từ chối, nhưng thay vì nói “không”, bạn hãy dùng cách nói “nhẹ” hơn như “Tôi hiểu rằng...”, “Tôi không thể, vì...”. Và nên tránh “cướp lời”, lắng nghe và gật đầu để thể hiện sự cảm thông. 

10. Đừng “thổi phồng” vấn đề

Hãy bình tĩnh trước vẻ tức giận và thất vọng của đối phương, chú ý những gì họ nói ngoài những từ ngữ không đẹp mà họ nói. Đừng “nhiễm” cơn nóng của họ hoặc đừng “đổ dầu vào lửa”. 

Biết rằng không dễ từ chối, nhưng trước khi từ chối, hãy đặt mình vào hoàn cảnh của họ và hiểu sự ảnh hưởng đối với họ khi bạn từ chối. Khi họ nhận thấy bạn vẫn quan tâm và cảm thông, họ sẽ dễ chấp nhận lời từ chối của bạn hơn.

(Theo webgiadinh.info)
http://www2.thanhnien.com.vn/Doisong/200...155417.tno

Hãy chia sẻ những kinh nghiệm ^^

]“Nói không” trong những tình huống nào ?[/b]

Thường chúng ta hay nghĩ đến là phái nam có thôi thúc mạnh và chủ động trong vấn đề tình dục. Ngày nay, một số thanh nữ cũng đi bước trước và khơi gợi trong vấn đề này. Dù nam hay nữ, phụ huynh cũng cần dạy con em biết đình hoãn những thôi thúc và ước muốn quan hệ tình dục. Làm sao cho chúng sống có chuẩn mực, giữ chuẩn mực trong các mối quan hệ và thấy những ý nghĩa của quan hệ tình dục và lợi ích của việc đợi chờ.. cũng như tác hại của hành vi không đúng thời đúng buổi..Nếu làm được như thế, con em của quý vị sẽ có hình ảnh và sự đánh giá rất tích cực về chính bản thân mình. Đây là điểm then chốt giúp con em dấn thân vào đời với sự tự tin, và có đủ năng lực để đối diện với những biến cố lớn nhỏ xảy ra “ dài dài” trong tiến trình cuộc sống.

[b]“NÓI KHÔNG” MÀ KHÔNG LÀM CHẠNH TỰ ÁI CỦA BẠN MÌNH[/b]

Nhắc nhở con em là luôn tế nhị trong ứng xử, và chú ý đến tình cảm của bạn mình. Ngược lại, những bạn trai nào không chú ý đến những gì bạn gái mình cảm, nghĩ hoặc muốn ..thì nên dè dặt đặt lại vấn đề có nên tiếp tục giữ mối tương quan với người đó nữa không. Xin quý vị nhắc nhở con em những điều sau đây khi tiếp xúc với bạn khác phái.
1. Đặt mình trong địa vị của người khác : luôn chú ý xem bạn trai hay bạn gái mình có thể cảm thấy như thế nào, và cho họ cảm nghĩ gì về mình ? Thành thật với bạn mình, và tỏ ra tôn trọng cũng như tỏ ra tán thưởng và đánh giá cao về thái độ biết tôn trọng người khác của mình.
2. Tỏ ra ngưỡng mộ và quý mến của mình đối với bạn : Nếu sau một thời gian quen biết , .mà thấy bạn thật sự yêu quý mình, cần tỏ ra cho biết mình rất tán thưởng và thích điều đó, nhưng đừng bao giờ quên đặt chuẩn mực cho mối tương quan.
3. làm sao cho bạn mình hiểu" nói không" , không có nghĩa là từ khước hay xem thường bạn, vì có bạn trai xem điều này như là chạm đến niềm tự hào của họ, cho họ thấy rõ đây là cách mà mình tự bào vệ, và cho con em chúng ta có quyền làm điều đó.
4. Hãy cương quyết và giữ vững lập trường. Thêm và sự tế nhị vá quan tâm, thanh thiếu niên cố kiên quyết với những gì mình đã xác tín. Bạn trai cần biết mình muốn gì, và những gì mình nói, mình làm có ý nghĩa như thế nào, và điều này chắc chắn sẽ gây thêm sự tôn trọng một cách sâu xa hơn. Xin nhớ là phải nhất quán trong đường lối của mình ngay từ đầu.
Con em quý vị cần biết là các thanh niên thích những gì có vẻ “thách đố”, và khi con gái đề ra giới hạn, thì con trai , với bản tính tự nhiên sẽ tìm đủ cách để vượt qua. Phụ huynh cần nhắc nhở con em mình là đừng phê phán hay nói nặng các bạn trai có vẻ “bạo” nơi họ. Cứ tế nhị từ chối, và hãy kiên quyết theo đường lối mình đã vạch ra và không nhượng bộ vì áp lực hay sự cố công “ giành chiến thắng”
Về phía con trai, quý vị phụ huynh cũng luôn nhấn mạnh đến lòng tự trọng và tế nhị nghĩ đến những gì bạn mình cảm , nghĩ..sau đây là một số điều nhắc nhở các thanh niên
1. Đừng bao giờ ép buộc bạn gái làm những gì mà họ không muốn. Khi bạn gái nói “ không “ thì mình phải tôn trọng, dù có nghĩ là bạn gái sẽ thay đổi ý kiến. Bạn gái có quyền nói không mà không có nghĩa là không quý mến và tôn trọng mình.
2. Con gái không phải là được tạo nên để thoả mãn sự ham muốn của con trai. Các con trai quý vị cần xây dựng mối tương quan lâu bền và ngang hàng, để họ cùng đồng hành, chia sẻ những tâm tình niềm vui, và để yêu thương. Để nâng đỡ, hiểu nhau, học hỏi lẫn nhau và chia sẻ cuộc sống. Nếu mối quan hệ tốt đẹp, thì có thể tiến tới tạo dựng gia đình và xây đắp tổ ấm.
3. Lắng nghe bạn mình và nhất là chú ý đến tâm tình của họ. Bạn gái sẽ mến phục vì sự nhạy cảm của mình, và qua đó sẽ thiết lập một mối tương quan tốt đẹp và sâu xa.
4.Từ chối quan hệ tình dục không có nghĩa là không muốn tiến sâu vào tình yêu hay mối tương quan. Bạn trai hãy tỏ ra tán thường thái độ đứng đắn và cương quyết rõ ràng của bạn mình, đừng vì sự từ chối mà tỏ ra thô bạo hay quay lưng với họ. Họ là những người có bản lĩnh khi dám làm như thế, họ cũng giúp bạn giữ được tư cách và làm cho cuộc sống bạn thêm giá trị. Họ có thể là những người vợ đầy năng lực và sức mạnh để đảm nhận những trọng trách trong cuộc sống gia đình về sau đấy.
5. Khi bạn gái có ý dấn sâu xa về quan hệ tình dục, bạn trai có quyền nói không. Nam tính sẽ không bị tổn thương vì sự từ chối ấy, trái lại chúng tỏ bạn cương nghị và có tư cách. Hãy lịch sự và nói cảm ơn, tỏ ra thừa nhận sự yêu thích của của họ đối với mình, nhưng chính mình sẽ có cách thân thiện gần giũ khác, được như thế, chắc chắn bạn gái sẽ quý trọng và thấy mình hấp dẫn hơn đấy !
Nếu có cơ hội thuận tiện có thể đối thoại với con em và làm như một cuộc đóng vai, để con em được “ tập dượt’, điều này sẽ giúp chúng thêm tự tin và tăng kĩ năng ứng phó với tình huống. Một cuộc đối thoại tương quan giữa 2 bạn trong ngày hẹn hò, hay cuộc gặp gỡ bất ngờ, hoặc những cuộc vui chơi chung.
Phụ huynh có thể tiên liệu những tình huống và thử cho con em suy nghĩ cách ứng phó, ví dụ
• Nếu bạn trai đề nghị hai người nằm trên sàn hay nghế dài để nói chuyện bạn gái có thể nói là bạn muốn ngồi đổ nói chuyện, và bạn không thấy thoải mái lắm khi thấy ngồi quá gần ,nếu bạn cứ nài nỉ, tốt hơn bạn nên rời anh ta.
• Nếu bạn trai hay bạn gái chà vuốt lưng bạn, nhất là dưới lớp áo, bạn cứ yêu cần anh ta ngưng ngay việc ấy, vì bạn không thấy dễ chịu khi làm điều ấy.
• Nếu bạn trai nhéo mông của bạn, bạn cứ yêu cầu anh ta ngưng làm điều ấy.
• Một người bắt đầu đề cập đến những gì họ tưởng và mơ về tình dục, tốt hơn là nên đề nghị đổi đổi tài nói chuyện, hay bảo cho người kia là bạn không quan tâm về điều này.
• Nếu bạn trai mời bạn đến nhà khi không có ai ở nhà, bạn nên cho anh ta biết là bạn không bằng lòng khi ở một mình với anh ta, mà đề nghị đi xem phim hay một nơi khác có nhiều người.
• Một bạn cứ nói những chuyện tiếu lâm về tình dục, bạn sẽ không cười, nếu anh ta tiếp tục, bạn cứ tự nhiên yêu cầu anh ta đừng nói những chuyện đó với bạn.
• Nếu bạn trai rời bạn hay không đến với bạn nữa vì bạn không chịu đi xa hơn những cái hôn, thì tốt hơn cứ để cho anh ta đi.
Xin quý vị phụ huynh nhắc nhở con em làm những điều trên với sự tế nhị và lịch sự, đừng để cho bạn mình thấy là mình lượng giá con người của họ.
Biết " nói không ' là một điều không thể thiếu trong mớ hành trang mà quý phụ huynh cần chuẩn bị cho con em mình khi chúng bước vào tuổi thiếu niên. Biết " nói không "cũng là hành trang cho suốt cuộc đời của con em quý vị nữa.
�   Giao tiếp ngôn ngữ hiện đại - Tiếng lóng 

� � Chậc! Tìm mãi chả biết bỏ cái này vào đâu. Thôi đành cho vào đây vậy, có gì thay đổi sau� 

� � Đây là 1 sự tổng hợp nho nhỏ theo kinh nghiệm riêng những từ ngữ mà thế hệ @ ngày nay thường dùng nhất, mà trong từ điển chính thống dường như ko thấy, hoặc có nhưng nghĩa đã được dùng khác đi - đích thị là tiếng LÓNG. Ban đầu mình sẽ nhớ từ nào thì ghi ra từ ấy. Các bè bạn gần xa nếu biết từ nào thì chỉ cho mình, hoặc gợi ý để mình bổ sung vào - xin được thỉnh giáo. Có thể có những từ hiện đại, có thể là những từ dùng lâu rồi, nhưng chủ yếu vẫn là làm sáng tỏ thêm cho ngôn ngữ thời hiện đại. Đáng ra cần phải phân tích sâu vào Tâm lý học giao tiếp cho nó đúng bài đúng bản, nhưng việc đó cần có thời gian. Đây chỉ là 1 chút chia sẻ� 

A


1- @: a còng / a gù - là một ký tự đặc biệt chuyên dùng để định nghịa địa chỉ email, xuất hiện trên bàn phím máy tính. Sau đó được dùng như biểu tượng của thế giới mạng và những gì liên quan đến Internet. Bây giờ thì được dùng như biểu tượng của giới trẻ năng động, sáng tạo, thành thạo các kỹ năng Internet. Đôi khi gắn với những thanh niên con nhà giàu, nhiều tiền (vì hãng Honda cho ra đời chiếc xe @ đắt nhất bấy giờ dành riêng cho người nhiều tiền)
- Văn cảnh: thế giới @, thế hệ @


2- Ầu ơ ví dầu: xuất xứ từ trong bài hát ru ngày xưa. Nay được dùng để chỉ người có hành vi ko dứt khoát, lúc thế này lúc thế kia, làm người xung quanh bực mình (từ này thường được người miền Nam sử dụng).
- Văn cảnh: Làm gì làm đại đi, cứ ầu ơ dzí dzầu hoài! 


3. À ha: xuất phát từ cách giao tiếp năng động của người nước ngoài trong tiếng Anh (aha). Ngày trước chúng ta giao tiếp nhau thường ko thể hiện sự chăm chú của mình qua ngôn ngữ nói, nét mặt hay cử chỉ. Mà dùng các từ như "vậy hả, thế à..." thì dài quá, nên từ "aha" được dùng (cùng với sự xâm nhập mạnh mẽ của ngoại ngữ) khi nghe người khác nói tỏ vẻ mình đang theo dõi chăm chú và ủng hộ họ.


4. Ặc: âm thanh giống như mình bị bóp cổ ko nói được. Thường được dùng trong ngôn ngữ "chat", thể hiện khi ai đó làm mình giật mình, hết hồn... và ko biết phải nói sao, nên đành ặc... ặc... 


5. A cay - chim cú (tức là "cay cú"): Đây là tiếng lóng vừa mang tính chơi chữ, vừa mang tính "kế thừa" văn chương Image. Cụm từ này thể hiện sự không hài lòng, bực tức, cay cú về người khác nhất là khi họ làm được 1 cái gì đó hơn mình, ngược lại với mong đợi của mình. Từ này đích thị dân Bắc dùng.
- Văn cảnh: Thằng ấy vừa làm tao một quả chim cú thật!
(Thanks BnW!)


B


1. Bác: nghĩa gốc là từ chỉ người lớn có vai lớn hơn cha hoặc mẹ mình (ngoài ra còn có nghĩa là "tráng trứng"). Trong giao tiếp thông thường của người miền Bắc, từ này dùng chỉ ngôi thứ 2 (thay cho cách xưng hô của con mình - giả định) và chỉ có người có hoặc sắp có gia đình mới dùng. Nhưng ngày nay giới trẻ ko kể miền nào đều dùng từ này thay cho "bạn, cậu, anh, you, mày" để thể hiện sự thân tình. Nhiều nhất là xưng hô trên các diễn đàn.
- Văn cảnh: Em xin các bác bỏ quá cho câu hỏi vớ vẩn của em ạ! 


2. Bó tay: từ này vốn xưa nay vẫn là từ bình thường, dùng trong các văn cảnh để chỉ những việc gây khó khăn, hóc búa cho mình, nhiều khi ko giải quyết được. Nhưng từ năm 2000 trở lại đây, "bó tay" có những buớc thăng trầm trong cung cách nói chuyện của mọi người, vẫn giữ nguyên nghĩa đó nhưng được dùng vô tội vạ, nhiều khi ko nhất thiết chỉ sự khó khăn, mà là để diễn tả tâm trạng ko chịu nổi, chịu thua, hay bái phục 1 hành vi, câu nói độc đáo, ngộ nghịnh hay vô duyên của ai đó.
- Văn cảnh: Tui bó tay với ông luôn!
- Các biến thể của "bó tay": bó chân, bó giò, bó bột, bó toàn thân, bó gối, bó chiếu, pó tay, pohand, bótay.com... (thiệt là bó tay với ngôn ngữ nói)


3. Bẩn: đồng nghĩa với dơ, ko sạch. Nhưng trong văn nói, có khi ko dùng "bẩn" để chỉ mức độ vệ sinh, mà là ngụ ý chê bai tính cách của 1 ai đó ko tốt, ko đẹp, ko hẳn là đã xấu... nhưng nói chung là "chơi ko được".
- Văn cảnh: Tay đó tính bẩn lắm! 


4. Bở: dễ dàng (như ăn trái dưa bở). Nhưng thường dùng trong câu văn để cảnh báo ai đó hãy cẩn thận, đừng tưởng là dễ mà xem thường.
- Văn cảnh: Đừng có mà tưởng bở nhé! 


5. Bà cố: Mẹ của ông bà thì gọi là bà cố. Nhưng khi được giới trẻ dùng trong ngôn ngữ nói thì nghĩa đã hoàn toàn khác! Từ này đi theo sau 1 tính từ nhằm tăng giá trị của tính từ ấy lên gấp nhiều lần, đồng nghĩa với "quá trời", "quá chừng", "dễ sợ"... - người miền Nam dùng nhiều.
- Văn cảnh: Thằng đó xạo bà cố luôn! (tức là rất rất xạo!) / Ngu bà cố luôn! Image - Thuật ngữ "xạo bà cố" dường như còn nổi tiếng hơn cả "bó tay" vì đã xuất hiện trong plug in của Yahoo Messenger 8.0, dành riêng cho các chatter Việt Nam! 


6. Buôn: Buôn tức là buôn bán, trao qua đổi lại. Còn trong giao tiếp người ngoài Bắc, thì nghĩa của nó là "buôn chuyện", tức là nhiều chuyện, tán dóc, tán phét những chuyện nhiều khi ko phải của mình, dẫn đến lan truyền tầm bậy tầm bạ, có khi mang tiếng cho người khác. "Buôn chuyện" là còn nhẹ, nặng hơn là "buôn dưa lê" - "dưa" trong từ "dây dưa", "lê" trong từ "lê lết", mà trái "dưa lê" cũng có nghĩa của nó, ăn vào chả có vị gì cụ thể cả, nhạt thếch, phải ăn kèm với mắm muối. Thành ra "buôn dưa lê" chỉ hành vi nhiều chuyện ghê gớm, đáng ghét.
- Văn cảnh: Con nhỏ đó chuyên buôn dưa lê đấy, cẩn thận! 

C


1. Chuối: cũng ko rõ lắm vì sao lại chọn loại trái cây này để ngụ ý 1 việc gì đó, một sự vật nào đó hơi khó khăn, hơi vô duyên, khiến mình hơi ko thoải mái, bực bội. Có lẽ xuất phát từ cảm giác đau, khó chịu khi... trượt vỏ chuối! Để hoàn thành được một công việc "chuối" thì rất vất vả, ko sung sướng gì.
- Văn cảnh: Ôi cái hồ sơ này chuối thật đấy!
- Biến thể: củ chuối, chuối nải 


2. Chua: chua thì sẽ nhăn mặt, giọng nói nhão nhoét thì gọi là "chua như gấm", công vệc khó khăn thì sẽ khến ta nhăn mặt, lắc đầu - cũng có nghĩa là chua.
- Văn cảnh: Cậu đi gặp giám đốc à? Chua lắm chứ tưởng đùa đâu! 


3. Cào cào: dùng để chỉ 1 hành vi nhăng nhít, nhặng xị, rối tít mù lên khiến người khác buồn cuời hay bực bội
- Văn cảnh: loạn cào cào, khí thế cào cào 


4. Chết liền: bản thân cụm từ này đứng 1 mình thì gần như vô nghĩa, nhưng đi kèm với 1 từ chỉ mức độ "nhận thức" phía trước thì trở nên 1 từ thông dụng hiện nay, nhiều khi được dùng hơi bị lố, đó là "biết chết liền", "hiểu chết liền"... Nhớ ko lầm thì thuật ngữ này xuất phát từ 1 tiểu phẩm của chương trình Gala cười đầu tiên. Từ đó đến nay nó trở thành 1 thuật ngữ bình dân, mang nghĩa phủ định, đồng nghĩa với KHÔNG. Được người trong Nam dùng nhiều.
- Văn cảnh: Nãy giờ nói có hiểu ko? - Hiểu chết liền đó! (nghĩa là ko hiểu chút nào hết, vì ko thể "chết liền" được)
(Thanks Viking!)


5. Cưa: hay cổ hơn là "cua", chỉ quá trình chinh phục tình cảm của một người khác giới nhưng ít tính nghiêm túc và mối quan hệ ban đầu đặt ra ko lâu dài (thường là chàng trai "cưa" cô gái). "Cưa" là sự chinh phục, tán tỉnh mang tính chủ định, đôi khi xuất phát từ 1 cuộc cá cược, khiêu khích của bạn cùng nhóm. Nếu "cưa" thành công thì có 1 đôi (thường là đôi ăn chơi) xuất hiện. Thời gian tồn tại của đôi này thì chỉ có trời mới biết .
- Văn cảnh: Tao mới cưa được 1 con nhỏ hay lắm!
- Đồng nghĩa và biến thể: cưa cẩm, cua


D - Đ


1. Đú đởn: nghĩa gốc được dùng chỉ những người ăn chơi ko lành mạnh. Nay được dùng cũng hơi nhiều trong giao tiếp thân tình để chỉ những cuộc chơi vui nhộn, hết mình (chứ ko mang nghĩa xấu như trên)
- Văn cảnh: Chủ nhật này cả hội mình rủ nhau đi ăn chơi đú đởn đi! 


2. Đạn: được dùng chỉ tiền, là tiếng lóng (giờ cũng ít dùng đến) khi giao dịch hay mượn tiền bạc của nhau.
- Văn cảnh: Anh còn đạn ko bắn em vài băng! 


3. Độc: thường đi kèm với 1 số danh từ thành ra "hàng độc, quán độc, đồ độc", để chỉ 1 thứ gì đó lạ, mới ko giống bất kỳ của ai.
- Văn cảnh: Tên đó thường săn hàng độc ko à! 


4. Dở hơi tập bơi: đây chẳng qua là lối nói chơi chữ (lối nói này được người ngoài Bắc dùng khá nhiều), "tập bơi" được dùng cho vần với "dở hơi". Dở hơi nghĩa là ko bình thờng, nói hoặc làm gì đó vớ vẩn, khiến người khác bực mình. Hành vi "tập bơi" phần nào cũng nói lên sự nhắng nhít, loăng quăng.
- Văn cảnh: Thằng này dở hơi tập bơi à mày? 

E

G


H


1. Hoành tráng: chỉ cái gì đó vượt hẳn hơn mức bình thường về hình thức (quá đẹp, quá hay, quá to...), tương đương với "nguy nga", "tráng lệ", "lộng lẫy", "huy hoàng"... Nhưng bây giờ cũng được dùng vô tội vạ, để khen nhau, để khích nhau (mang tính vui đùa thôi).
- Văn cảnh: Vừa mua xe à? Khao cho hoành tráng lên nhá! 

I


K


1. Khoai: nghĩa nhẹ hơn là "chuối" 1 chút. Có nghĩa là ko đến nỗi chua hay chát như chuối, cũng bùi bùi nhưng khó nuốt, lại dính răng. Để chỉ 1 việc nào đó hơi khó khăn nhưng cũng sẽ làm được.
- Văn cảnh: Cái kế hoạch này cũng khoai lắm đây! 


2. Ky bo: keo kiệt, bủn xỉn, thường được người ngoài Bắc dùng.
- Văn cảnh: Không cho thì thôi làm gì mà ky bo thế! 

L


1. Lăn tăn: hình ảnh chỉ bọt khí sôi lên trong nước. Nhưng khi dùng trong giao tếp, nghĩa lại khác - chỉ sự ko thoải mái, hay lo nghĩ lung tung những thứ ko đáng lo (ngoài Bắc dùng).
- Văn cảnh: Anh ko vệc gì phải lăn tăn chuyện ấy. Cứ để em! (tức là "Anh đừng lo quá!") 

M


N


1. Nấu cháo: không phải là công việc bếp núc đâu nhé! Từ này thường đi với từ "điện thoại" thành cụm từ "nấu cháo điện thoại" - chỉ hành vi nhiều chuyện kéo dài khi gọi đện thoại. Cơm nấu mãi thì nát ra thành cháo = nói chuyện điện thoại cà kê đủ thứ trên trời dười đất, thì cũng dẫn đến nát bét thời gian, tiền bạc (nói đến nỗi cái điện thoại cũng nát như cháo luôn).
- Văn cảnh: Khiếp, con bé đó nấu cháo suốt từ 7h đến tận 12h chưa xong! 


2. Ngựa: là con vật chạy rất nhanh với hình dáng bên ngoài cũng rất đẹp, hùng dũng và gợi cảm. Là tiếng lóng, từ này được dùng khá xưa, chỉ hành vi điệu dàng, khoe mẽ, chải chuốt mất thời gian.
- Văn cảnh: Kìa, trông thằng đó ngựa chưa kìa! 

O


P


1. Pờ rồ: gốc là từ Pro trong tếng Anh, chỉ dân chuyên nghiệp trong một lĩnh vực nào đó. Mặt trái lại, trong giao tếp còn dùng để nói xỏ nhau, ám chỉ những người gàn gàn, dở dở, thích chứng tỏ mình giỏi giang, sành sỏi mà thực ra chả biết được bao nhiêu (có thể đọc ra thành "pờ zồ" )
- Văn cảnh: Thằng này, công nhận mày pờ rồ nhỉ!
(Thanks BnW!)

Q


R


1. Ruồi bu: hình ảnh 1 đám ruồi bu đen 1 cái gì đó cũng đủ gợi lên nghĩa của cụm từ này. Chỉ hành vi vô ích, vô tích sự, ko ai quan tâm.
- Văn cảnh: Mày toàn làm chuyện ruồi bu ko hà! 
(Thanks Viking!)

S


T


1. Trâu bò: ko phải để chỉ chính con trâu hay con bò nào, mà là chỉ sức khỏe 1 ai đó. Hện đại hơn, từ này để chỉ độ bền của 1 món đồ nào đó với 1 niềm tự hào của chủ nhân.
- Văn cảnh: Chiếc xe này chạy trâu bò lắm / Cái di động này pin trâu cực kỳ! 


2. Tinh tướng: chỉ thái độ kiêu ngạo nhưng ko có cơ sở thuyết phục, ko xem ai ra gì, gây ra sự khó chịu cho người xung quanh.
- Văn cảnh: Mày đừng có mà tinh tướng nhá! (người ngoài Bắc hay dùng) 


3. Tinh vi: chỉ thái độ một ai đó luôn thích tỏ vẻ am tường về mọi mặt, thích lên mặt dạy bảo nhưng kiến thức thì chẳng đến đâu. Thường dùng cùng với "tinh tướng"
- Văn cảnh: Thằng ấy ra vẻ tinh vi lắm cơ. 


4. Té: nghĩa gốc tương đương với "ngã", mất thăng bằng và nằm ra đất ngoài ý muốn. "Ngã" là ngoài Bắc dùng, còn trong Nam dùng "té". Nhưng "té" theo nghĩa lóng thì lại dùng bởi người ngoài Bắc, chỉ một hành vi bỏ đi một mạch.
- Văn cảnh: Thôi xong chuyện rồi, té đi chúng mày! 
(Thanks Mints!)


5. Tám: tức là con số 8. Ngày xưa, người miền Nam có tích về 1 bà nhiều chuyện ko có việc gì làm cứ đi từ đầu phố đến cuối phố nghe ngóng chuyện người này rồi kể lại cho người kia, nhiều khi thêm mắm thêm muối thành ra sai bét. Dân tình xung quanh ko ưa nên cứ nghe nhắc đến bà Tám là tránh, hoặc chuyện gì "trong nhà chưa biết ngoài ngõ đã tường" thì thủ phạm đích thị là Bà Tám. Có tiểu phẩm hài dựng nên còn gọi nhân vật này là "Bà Tám lựu đạn sét" - tức là hay nổ, nói tầm bậy. Ngày nay từ này chỉ hành vi tán dóc, tán phét với nhau khi rảnh rỗi ko có việc gì làm, do vậy mức độ cũng nhẹ đi phần nào. Từ này đồng nghĩa với "buôn dưa lê" mà ngoài Bắc hay dùng.
- Văn cảnh: Trời, coi tụi nó xáp vô là tám dữ chưa kìa! 

U


V

1. Vãi: nghĩa gốc chỉ hình ảnh cái gì đó rời khỏi cái vật đang chứa nó vì quá đầy (thóc vãi khỏi khạp). Nhưng giờ đây được dùng để chỉ cái gì đó khỏe kinh khủng, tuyệt vời, khó tưởng tượng được, tràn trề, tràn đầy. Cũng được người ngoài Bắc dùng nhiều.
- Văn cảnh: Con xe này chạy khỏe vãi / vãi hàng, vãi lúa 


2. Vô tư: từ này cũng ko đặc biệt lắm, được dùng khá lâu - nghĩa là ko suy nghĩ, ko lo nghĩ. Khi ai đó nói "vô tư đi" có nghĩa là người đó thể hiện sự thoải mái, thật lòng với anh em bạn bè, ko ngại ngần gì hết.


X


1. Xám hồn: hết hồn vì nể phục ai đó đã làm 1 điều lạ lùng, khó tưởng tượng. Gần nghĩa với sợ, nhưng là đùa vui.
- Văn cảnh: Trời đất, xám hồn chưa! 


2. Xì tin: gốc từ tếng Anh = style - phong cách, phong thái. Biến thể tiếng Việt chỉ sự phù hợp, trẻ trung, nổi bật khác mọi ngày trong cách thể hiện ăn mặc, được dùng để khen, cổ vũ, khích lệ.
- Văn cảnh: Chà, hôm nay trông bồ xì tin quá ta! 
(Thanks Viking!)

Y

Nếu đang uống với bàn bè anh ta chắc chắn sẽ nhiệt tình chào đón những người ngoài nhóm tiếp cận đến. 

Kiểu “đầu gấu”

Kiểu này thường cho đàn ông, thích uống cốc hoặc chai lớn, được anh ta sử dụng như một vũ khí tượng trưng. Anh ta thường cầm nó rất chặt, vung nó như kiểu “dằn mặt”, đe dọa. 

Giống như kiểu “ông biết tuốt”, anh ta có thể cà khịa người khác, qua tranh luận hoặc qua lời châm biếm, pha trò. Cần tiếp cận người này theo cách rất thận trọng, hoặc đừng nên “đụng” vào nếu không cần thiết.

Nguồn: BBC?


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro