Tanh - Truyện kinh dị - Musfantn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lý Tây Mân

TANH

Dịch giả: Nguyễn Thanh An

Phần I - Chương I

SỐNG VÌ NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT

1   Hoàng hôn ngày 18 tháng Tư âm lịch năm Dân Quốc thứ ba mươi lăm, mặt trời lúc xế tà đã thu hết những tia nắng màu hồng cuối cùng từ những đám mây đen xếp chồng lên nhau như những mảnh ngói. Anh chàng họa sĩ Tống Kha với dáng người dong dỏng, sắc mặt nặng nề bước vào thị trấn Đường. Trong mắt Tống Kha, thị trấn nhỏ vùng núi hẻo lánh này đúng là mảnh vải rách cũ kỹ, chẳng sinh động như trong tưởng tượng của anh. Sau tiếng thở dài, anh có cảm giác từng lỗ chân lông trên cơ thể mình dãn ra một cách kỳ lạ, anh tham lam hít mùi thơm của gỗ thông tỏa ra trong làn khói, mùi vị này khiến anh vừa hứng khởi vừa cảm thấy có gì bất ổn. Lúc Tống Kha đi trên con đường hẹp, dài hun hút duy nhất của thị trấn Đường, mọi người ném về anh những ánh mắt xa lạ, cảnh giác, xen chút nghi ngại. Tống Kha cảm thấy ánh mắt mình vô cùng yếu ớt, anh không dám nhìn vào những đôi mắt muôn hình vạn trạng kia, anh chỉ là một kẻ tha hương không nơi nương tựa. Một con chó nhà đang thay lông nằm bên vệ đường bổng đứng dậy, thè cái lưỡi ướt nhèm, gầm gừ bước tới. Từ trước tới giờ, Tống Kha chưa từng nhìn thấy con chó nào xấu xí đến vậy, tim như thắt lại, anh dừng bước. Con chó tiến tới, cách anh khoảng một mét thì dừng lại, nó ngẩng đầu, dõi ánh mắt u uất nhìn Tống Kha. Con chó không ngừng chun mũi, dường như nó đang ngửi cái mùi đặc thù trên người Tống Kha. Tống Kha hết sức căng thẳng, anh không biết phải làm gì với con chó này. Anh không biết nó có đột nhiên lao đến hay nhảy bổ vào điên cuồng cắn anh không nữa? Con chó và Tống Kha trừng trừng nhìn nhau, trong lòng anh vô cùng sợ hãi. Bầu trời dần tối lại, rất nhiều ánh mắt lạnh lùng, thờ ơ nhìn Tống Kha và con chó. Đúng lúc Tống Kha định quay đầu chạy thục mạng thì một người xông đến. Hắn đá một cái rất mạnh vào con chó rồi quát to: “Đồ chó chết tiệt! Biến ngay đi cho ông!” Con chó rên lên một tiếng rồi vội vàng lùi đi. Đi được một đoạn, nó trốn vào một góc rồi lại quay đầu nhìn Tống Kha với ánh mắt đầy đe dọa. Mùi nó vẫn không ngừng chun lại ngửi ngửi hít hít. Tống Kha thở phào nhẹ nhõm, anh đưa mắt nhìn người vừa giải vây giúp mình. Đó là một người đàn ông thấp bé mặc áo đen với chi chít những vết vá. Tống Kha không thể đoán được tuổi của người đó. Anh chỉ cảm thấy người này kỳ lạ vô cùng, các giác quan như dính lại với nhau, trông như quả mướp đắng. Mắt lệch, miệng méo, da mặt thô ráp, đen nhẻm, trên cái đầu bù xù có mấy vết sẹo to như đồng xu. Tống Kha không hiểu tại sao mình vừa tới thị trấn Đường đã gặp phải một con chó xấu xí và một người còn xấu xí hơn cả con chó đó nữa.   Hắn cười vui vẻ nói với Tống Kha: “Đừng sợ! Con chó đó không cắn người đâu, mà có cắn người đi nữa thì nhìn thấy cái thằng Tam Lại Tử tôi đây cũng không dám làm càn đâu.” Mặt Tống Kha thoáng hiện nụ cười: “Cám ơn anh, xin hỏi ủy ban thị trấn ở đâu ạ?” Tam Lại Tử chớp chớp mắt: “Anh là họa sĩ Tống từ huyện tới phải không?” Tống Kha gật đầu đáp: “Đúng vậy! Sao anh biết?” Tam Lại Tử ngoác miệng trả lời: “Anh đi hỏi tất cả mọi người trong thị trấn này, có ai không biết hai ngày nữa sẽ có một họa sĩ họ Tống tới đây chứ? Mới nhìn, tôi đã biết anh là người có học, đoán ngay là họa sĩ Tống đã tới.” Tống Kha nhận thấy những người ban nãy lạnh lùng, thờ ơ nhìn anh bây giờ đều tươi cười. Những khuôn mặt tươi như hoa kia không khiến anh cảm thấy gần gũi mà trái lại còn thấy xa lạ vô cùng. Tam Lại Tử bất ngờ cao hứng: “Họa sĩ Tống à, tôi dẫn anh đi tìm chủ tịch thị trấn nhé!” Tống Kha đáp lại: “Anh biết chủ tịch thị trấn ở đâu à?” Tam Lại Tử cao giọng: “Chẳng có chuyện gì trong thị trấn Đường này là tôi không biết cả. Hiện giờ, chủ tịch đang uống rượu ở quán Hồng Phúc trong ngõ Hoàng Đế.” Bỗng có người nói to: “Chủ tịch thị trấn đang ngồi uống rượu trong quán Hồng Phúc, việc này đến cả chó còn biết nữa là.” Nhiều người cười ồ lên, tràng cười vừa dứt thì trời cũng tối. Nếu những ngôi nhà và các quán hàng hai bên đường không bật đèn thì con đường nhỏ của thị trấn Đường sẽ trở thành con đường u tối. Tống Kha không ngờ thị trấn Đường giống như mảnh vài rách này còn có một ngõ nhỏ phồn hoa như vậy. Điểm khác biệt giữa con đường nhỏ gồ ghề đầy ổ gà ban nãy với con đường trong ngõ Hoàng Đế là, mặt đường ở đây được lát đá xanh, bước đi cảm thấy chắc chắn. Những cánh cửa hai bên đường ngõ Hoàng Đế tuy cổ kính nhưng vẫn mang nét độc đáo riêng. Phía trên mỗi cửa đều treo đèn lồng đỏ. Nhìn những dòng chữ trên đèn lồng, ta có thể nhận thấy trong ngõ này toàn là nhà nghỉ, khách sạn, sòng bạc, kỹ viện… Ủy ban của thị trấn cũng nằm trong con ngõ này, không những thế nó còn nằm đối diện với quán Hồng Phúc. Tam Lại Tử giới thiệu, trước đây ngõ này có tên là ngõ Hưng Long, sau trở thành nơi vui chơi đàng điếm nên mọi người trong thị trấn gọi là ngõ Hoàng Đế. Vì trong mắt của những người dân thị trấn nhỏ bé này, Hoàng đế hưởng thụ một cuộc sống đầy gái đẹp và rượu gạo. Đứng trong ngõ Hoàng Đế, Tống Kha có cảm giác mình lạc vào một thế giới khác. Nếu không phải bụng réo ầm ĩ vì đói thì chắc chắn anh vẫn nghĩ mình đang lạc trong cõi mơ. Tống Kha và Tam Lại Tử bước tới trước cửa quán rượu Hồng Phúc, họ nghe thấy tiếng quát mang thêm rượu phát ra từ bên trong.   Tam Lại Tử nghiêm mặt nói với Tống Kha: “Họa sĩ Tống, anh chờ ở đây, tôi vào trong nói với chủ tịch thị trấn trước một tiếng rằng anh đã tới”. Tống Kha nhìn theo Tam Lại Tử, hắn lẩn vào quán rượu Hồng Phúc nhanh như một con chó. Một lát sau, Tam Lại Tử cầm trên tay một khúc xương, vừa gặm vừa bước ra. Đi sau hắn là một người đàn ông trung niên cao to, râu ria xồm xoàm. Tống Kha đã gặp người này, chính hắn đã lên phố huyện mời Tống Kha tới thị trấn Đường. Hắn là Chung Thất. Tống Kha nhìn hắn cười: “Anh Chung!” Chung Thất cởi mở lên tiếng: “Họa sĩ Tống, tới rồi à. Mời vào! Mời vào!” Tam Lại Tử đứng bên cạnh cười giễu cợt, Chung Thất liếc hắn một cái rồi gằn giọng: “Còn không mau biến đi!” Tam Lại Tử vẫn cầm miếng xương trong tay, hắn nhanh chóng bỏ đi. Lúc vào cửa, Tống Kha còn quay lại nhìn theo cái bóng vội vã bỏ đi của hắn và phát hiện hắn không đi giày mà đi chân đất. 2  Mấy năm trước, có một thợ chụp ảnh tên Trương Kha Sát tới thị trấn Đường. Anh ta rời phố huyện tới đây vì nơi này vẫn chưa có một hiệu ảnh nào. Người trong thị trấn cảm thấy vô cùng xa lạ với việc chụp ảnh. Hôm khai trương hiệu ảnh của Trương Kha Sát, rất đông người hiếu kỳ tới xem, nhưng không ai dám vào chụp ảnh. Trương Kha Sát không có cách nào, đành dùng tiền mua chuộc một người vào hiệu ảnh chụp một tấm. Điều kỳ lạ là, người đầu tiên chụp ảnh ở đó đã chết ngay tối hôm sau, nguyên nhân cái chết vô cùng đơn giản – lên núi lấy gỗ bị rơi xuống vực.   Từ đó, trong thị trấn Đường xuất hiện tin đồn bất lợi cho hiệu ảnh: Chiếc máy ảnh của Trương Kha Sát đã hút hồn người đó… Mọi người xôn xao vì tin đồn này, có người còn nói Trương Kha Sát là thầy mo, chủ định tới thị trấn Đường để thu linh hồn người, chiếc máy ảnh của anh ta chứa vô số linh hồn. Mọi người không dám bén mảng tới hiệu ảnh nửa bước, những người lì lợm, gan dạ cũng chỉ dám liếc nhìn hiệu ảnh bằng ánh mắt sợ sệt. Có người còn hắt chậu tiết chó lên hiệu ảnh vào lúc nửa đêm.   Trương Kha Sát nhanh chóng rời khỏi thị trấn Đường, nơi đây là ác mộng với anh ta. Việc Trương Kha Sát bỏ đi lại là điều may mắn đối với Hồ Văn Tiến – thợ truyền thần già trong cửa hiệu truyền thần ở thị trấn Đường. Trước đây, ông ta luôn lo sợ Trương Kha Sát sẽ cướp miếng ăn của mình. Sau vài năm thỏa sức vẽ truyền thần cho người dân thị trấn Đường, Hồ Văn Tiến cũng bị ngã chết vào sáng sớm sau khi tỉnh giấc. Cái chết của Hồ Văn Tiến lại tạo ra làn sóng hoảng loạn cho người dân thị trấn Đường. Hồ Văn Tiến chết rồi lấy ai vẽ truyền thần cho họ đây? Điều này đối với thị trấn Đường mà nói là một vấn đề vô cùng trọng đại. Không biết từ lúc nào, tại thị trấn này đã xuất hiện một quy luật bất thành văn, đó là ai chết đi cũng phải lưu lại một bức truyền thần, bất luận là người giàu hay kẻ nghèo, việc truyền thần cho người sắp chết hoặc đã chết là không thể thiếu. Việc làm này vừa đề cao vai trò của Hồ Văn Tiến vừa thể hiện tầm quan trọng của nghệ nhân truyền thần.   Cả đời Hồ Văn Tiến sống cô độc, không có vợ con, ông cũng không truyền dạy cho bất kỳ một đệ tử nào. Nhiều người trong thị trấn muốn giao con trai mình cho ông ta nhưng đều bị từ chối. Đó là vì ông ta suy nghĩ ích kỷ, sợ đồ đệ cướp miếng ăn của mình. Ông ta là loại người coi bát cơm còn quan trọng hơn tính mạng. Khi truyền thần cho người chết, trên mặt ông ta luôn xuất hiện nụ cười rạng rỡ, có lẽ, đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất đời ông.   Sau khi Hồ Văn Tiến chết, người dân thị trấn Đường liên tục yêu cầu chủ tịch thị trấn phải nhanh chóng tìm một thợ truyền thần mới, nếu không từ nay về sau những người chết sẽ không được thanh thản, còn những người sống cũng không được an lành. Chủ tịch nhận thấy đây là chuyện trọng đại có liên quan tới cuộc sống của người dân nên con người vốn ít khi lo nghĩ cho người dân như ông ta đã quyết định làm một việc có ý nghĩa. Ông ta phải Chung Thất – người kế cận kiêm đội trưởng đội bảo vệ thị trấn Đường lên phố huyện một chuyến để tìm về anh thợ truyền thần Tống Kha – người đang hồn xiêu phách lạc kia. Chung Thất gánh nhiệm vụ trọng đại trên vai, tới phố huyện, hắn không đi tìm thợ truyền thần luôn mà rẽ vào một kỹ viện. Chung Thất luôn muốn tới nơi phồn hoa đô hội để chơi gái một lần, cuối cùng cơ hội cũng đã tới. Con gái thành phố không giống con gái thị trấn, đương nhiên kỹ nữ trong thành phố cũng khác với kỹ nữ ở thị trấn. Kỹ nữ thành phố trắng trẻo, nõn nà hơn kỹ nữ thị trấn, không những thế họ lại thú vị và lẳng lơ hơn nhiều. Chung Thất chơi một ngày một đêm trong kỹ viện, tiêu hết mấy đồng đại dương chủ tịch thị trấn đưa cho rồi rút ra kết luận đó. Lúc hắn bước ra khỏi cổng kỹ viện, ánh nắng chói lóa, người Chung Thất mềm oặt như bị rút gân. Lúc này, hắn ta mới nhớ tới mục đích lên phố huyện của mình. Chung Thất phát hiện ra Tống Kha đang ngồi ngủ gật sau giá vẽ khi đang đi trên một con đường nhỏ ở thành phố. Khuôn mặt nhợt nhạt kết hợp với thân hình gầy guộc của Tống Kha trở thành mục tiêu của Chung Thất. Hắn ta đánh thức Tống Kha dậy rồi cười nói với anh rằng: “Việc làm ăn của anh có vẻ ế ẩm nhỉ!” Tống Kha không nói gì, chỉ lờ đờ nhìn người khách không mời mà tới. Chung Thất liền nói tiếp: “Tôi muốn chỉ cho anh cách kiếm tiền, nhưng không biết ý anh ra sao?”. Tống Kha nhìn hắn ta đầy nghi ngờ. Chung Thất cười rồi nói luôn: “Những gì tôi nói với anh đều là sự thật, thợ truyền thần ở thị trấn Đường chết rồi, chúng tôi đang tìm một thợ truyền thần khác để thay thế ông ta, nếu anh bằng lòng đến đó, chắc chắn anh sẽ có nhiều khách hàng hơn cái chỗ không ai màng tới này”. Lúc này Tống Kha mới lên tiếng: “Thị trấn Đường ư? Đang cần tìm thợ truyền thần à?”. Chung Thất gật gật đầu. Đôi mắt tuyệt vọng của Tống Kha bỗng chốc long lanh, linh hoạt: “Tôi đi!”. Chung Thất ngửi thấy mùi gì rất lạ nhưng hắn ta không để ý lắm tới chuyện này.

3

  Sau khi Tống Kha ăn cơm xong, Chung Thất liền dẫn anh tới hiệu truyền thần bên đường. Hiệu vẽ là căn nhà gỗ chật chội, tầng dưới là cửa hiệu, tầng trên là phòng ngủ. Hiệu truyền thần này vốn là của ông Hồ Văn Tiến. Sau khi ông ta chết đi, do không có người thừa kế nên nó bị sung công. Chủ tịch thị trấn đã nghĩ kỹ rồi, sẽ để thợ truyền thần mới đến sử dụng cửa hiệu này. Khi Chung Thất mở cửa hiệu truyền thần, mùi ẩm mốc xộc lên nồng nặc khiến Tống Kha ho mấy lần. Chung Thất cầm đèn lồng cười nói: “Họa sĩ Tống, mấy hôm nay không ai lui tới đây, chỉ cần mở cửa sổ cho thông gió là hết mùi ngay”. Tống Kha nói: “Không sao, không sao”. Chung Thất lại cười khách sáo: “Họa sĩ Tống à, anh đã đi cả ngày đường, vất vả lắm rồi. Anh nên ngủ cho sớm đi, có gì mai nói sau nhé!” Chung Thất đưa chìa khóa hiệu truyền thần cho Tống Kha rồi vội vã bỏ đi. Chắc chắn hắn sẽ tới chỗ chủ tịch thị trấn và một số cán bộ khác để uống rượu. chủ tịch thị trấn vốn cũng mời Tống Kha nhưng anh từ chối. Anh nói từ trước tới giờ chưa uống rượu, chỉ cần no bụng là được rồi. Trong khi ngoài ngõ Hoàng Đế vẫn ồn ã tiếng người thì lúc này thị trấn Đường đã chìm trong tĩnh lặng, mọi căn nhà, mọi cửa hiệu đều đã đóng chặt cửa lớn cửa nhỏ. Sự tĩnh lặng đó toát ra vẻ kỳ dị khó hiểu. Tống Kha thắp một chiếc đèn dầu. Anh đóng chặt cửa, cài then rất chặt, bỏ lại màn đêm xa lạ của thị trấn Đường ngoài cửa. Nghe thấy tiếng cho sủa đâu đó, trong lòng anh bỗng thắt lại. Anh muốn mở cửa sổ nhưng lại nghĩ mình nên chịu khó chờ trời sáng rồi tính sau. Trên tường treo đầy những bức truyền thần đen trắng, những đôi mắt được vẽ rất sáng và có thần, dường như chúng đang nói chuyện với Tống Kha. Mỗi khi vẽ được một tác phẩm vừa ý, Hồ Văn Tiến liền vẽ thêm một bức nữa treo trên tường. Cả đời ông ta vẽ người chết, chưa từng vẽ người còn sống bao giờ, những người còn sống trong thị trấn Đường cũng không đời nào tới tìm ông ta để vẽ truyền thần. Tống Kha không hề biết những việc đó. Hiệu truyền thần trở nên âm u, thần bí trong ánh đèn dầu. Mặc dù thời tiết lúc này đã vào đầu hè nhưng Tống Kha lại cảm thấy lạnh. Tống Kha cầm chiếc đèn dầu trong tay, bước trên chiếc cầu thang gỗ phát ra tiếng cót két để lên tầng. Mùi ẩm mốc ở tầng trên cũng rất nặng, nhưng dù gì cũng đỡ hơn tầng dưới. Không gian tầng trên chật chội hơn, người cao như Tống Kha chỉ cần giơ tay cũng có thể chạm tới những viên ngói đen ở nóc nhà. Một chiếc giường cũ được chạm khắc hoa văn với lớp sơn bạc màu được đặt trong không gian chật chội đó, ngoài ra còn có một chiếc bàn làm việc cùng chiếc tủ quần áo cũ rích, góc nhà còn để một chiếc bô có nắp. Tống Kha cảm thấy điều kiện sống ở đây còn tốt hơn căn nhà nhỏ của anh ở phố huyện nhiều. Quan trọng là chỗ này rất yên tĩnh, là không gian riêng của anh. Anh đặt chiếc đèn dầu trên bàn làm việc rồi lục tìm, hy vọng có thể tìm thấy thứ gì đó của người chủ trước để lại. Nhưng thật thất vọng, ngăn kéo bàn cùng những chiếc tủ kia đều trống rỗng. Tống Kha nhìn ra ngoài, bên ngoài bao trùm một màu đen. Trong bóng tối, dường như có đôi mắt đang nhìn trộm anh. Tống Kha run bắn, vội vàng kéo tấm vải đen ngoài cửa sổ lên. Ngoài cửa sổ bỗng vọng tới tiếng chó sủa. Tống Kha rất mệt, anh thổi tắt đèn dầu rồi nằm lên chiếc giường cũ. Tống Kha mở to mắt, ánh mắt anh không thể nào xé tan được bóng tối. Vừa nằm xuống giường, anh thở dài một tiếng. Mấy năm nay, sau mỗi lần lặn lội đường xa, anh lại nằm trên giường thở dài như để xua đi sự bất lực và nỗi u uất trong lòng. Lúc này, trước mắt Tống Kha hiện ra khuôn mặt của một cô gái. Lòng anh bỗng nổi sóng lớn, anh muốn gọi to tên cô gái, nhưng bị chặn lại bởi một đống bùn hỗn tạp. Từng lỗ chân lông trên da anh rịn mồ hôi.   Một mùi tanh kỳ dị trộn lẫn với hơi thở của Tống Kha lan tỏa trong căn phòng chật chội.   Mùi tanh kỳ dị đó khiến Tống Kha mê man.   Tống Kha lờ mờ nghe thấy một chất giọng già nua, khàn đục. Anh kinh hãi mở to mắt thì thấy có một người được bao bọc trong vầng sáng như ánh chiếu tà đang đứng cạnh giường. Đó là một người đàn ông già mặc bộ quần áo đen với hốc mắt hõm sâu. Tống Kha liền hỏi: “Ông là ai?”. Trên khuôn mặt già nua thô ráp như vỏ cây thông, đầy những vết nhăn ngang dọc thoáng hiện nét buồn. Chất giọng già nua, khàn đục của ông ta lại văng vẳng bên tai Tống Kha: “Cả đời tôi vẽ truyền thần cho người ta, thế nhưng khi tôi chết lại chẳng có ai vẽ cho tôi cả…” Tống Kha tỉnh giấc, trước mặt anh vẫn là bóng tối bao trùm. Cả người anh ướt đẫm mồ hôi. Tống Kha tỉnh giấc, lần mò thắp lại đèn dầu. Ngoài cửa sổ nổi gió, nhưng gió cũng không mang đi sự cô đơn của anh. Anh lại nằm trên giường, chăm chú nhìn ngọn đèn lay lắt. Dường như anh nghe thấy tiếng gì đó dưới tầng. Ngoài cửa lại vọng tới tiếng chó sủa.

4

  Chủ tịch thị trấn Du Trường Thủy vẫn chưa tin Tống Kha lắm, ông không biết tay nghề của Tống Kha thế nào, sau khi đã mất mấy đồng đại dương cho Chung Thất lên phố huyện mời về. Theo nhu Chung Thất nói, họa sĩ Tống Kha vẽ rất giỏi, vẽ người chết như người sống. Nếu thật sự có thể vẽ người chết như người sống chưa chắc đã là chuyện hay, bởi mục đích mời Tống Kha tới đây là để vẽ truyền thần cho người chết. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu quả thực Tống Kha tài giỏi như vậy thì cũng không phụ lòng mong mỏi của mọi người. Mời được một họa sĩ truyền thần giỏi như vậy về cho người dân thì người làm chủ tịch như ông ta cũng cảm thấy nở mày nở mặt. Để thử tài vẽ của Tống Kha, Du Trường Thủy đã có cách của mình. Sự có mặt của Tống Kha khiến mọi người trong thị trấn Đường cảm thấy yên tâm hơn nhiều, họ không còn phải lo về chuyện họ chết rồi không có ai truyền thần cho mình nữa. Họ rất tò mò không hiểu họa sĩ kia là người thế nào? Người dân trong thị trấn Đường đều biết Hồ Văn Tiến là người nhỏ nhen, sống nội tâm và không biết ăn nói, thích ăn ngon nhưng không thích gần gũi với phụ nữ. Tống Kha người cao gầy, khuôn mặt xanh xao, mặc chiếc áo sơ mi dài tay màu xám, sau khi mở cửa hiệu truyền thần, có rất nhiều người trong thị trấn kéo tới. Sắc mặt họ khác nhau, nhưng không còn vẻ lạnh lùng như lúc anh mới tới thị trấn. Thấy họ không nói gì, Tống Kha lấy tay đẩy cặp kính lên nhìn vẻ chán nản. Bên vệ đường, con chó thay lông lại đang thè lưỡi nhìn về phía Tống Kha. Đúng lúc này, Chung Thất xuất hiện. Hắn ta nói to với mọi người: “Họa sĩ Tống Kha có phải là khỉ đang diễn trò đâu mà mọi người xúm đông xúm đỏ lại làm gì? Mau giải tán, giải tán mau, đừng làm phiền họa sĩ nữa.” Mọi người thì thầm với nhau rồi lục tục bỏ đi. Tống Kha cười nói với Chung Thất: “Đội trưởng Chung, cám ơn anh”. Chung Thất cũng cười đáp lại: “Họa sĩ Tống à, anh đừng để bụng nhé, người miền núi hay tò mò lắm, có người lạ tới liền xúm đen xúm đỏ lại để thỏa mãn tính hiếu kỳ. À, tối qua họa sĩ Tống ngủ có ngon không?” Tống Kha đáp: “Ngủ rất ngon ạ.” Chung Thất nói: “Điều kiện sống ở đây còn hạn chế, nếu có gì không thỏa đáng mong họa sĩ Tống bỏ qua cho. Có bất kỳ khó khăn gì cứ nói cho chúng tôi biết nhé”. Tống Kha mời Chung Thất vào nhà. Chung Thất ngồi xuống, ánh mắt liếc đi liếc lại những bức ảnh treo trên tường. Tống Kha đứng giữ khoảng cách với hắn, ánh mắt mơ màng. Chung Thất liền hỏi: “Họa sĩ Tống, anh cũng ngồi xuống đi!” Tống Kha vẫn đứng hỏi: “Đội trưởng Chung có việc gì cần dặn dò phải không?” Chung Thất châm một điếu thước rồi nói: “Họa sĩ Tống à, lúc ở phố huyện tôi cũng vội nên chưa tìm hiểu mấy về anh. Nay Chủ tịch Du không yên tâm cho lắm, ông ta muốn xem tranh anh vẻ. Họa sĩ Tống à, anh đừng trách nhé, đây là ý của Chủ tịch Du”. Tống Kha hiểu ra: “Đội trưởng Chung, anh cứ ngồi nguyên như vậy, tôi sẽ vẽ anh. Sau khi tôi vẽ xong, anh mang tới cho Chủ tịch xem”. Chung Thất liền xua tay: “Đừng vẽ tôi, quyết không thể vẽ tôi được. Tôi không phải người chết. Đúng rồi, tôi phải nhắc anh một điều, ở thị trấn Đường anh không nên vẽ người sống, nếu không họ sẽ đòi mạng anh đấy”. Tống Kha cảm thấy khó hiểu: “Tại sao không thể vẽ người sống chứ?” Sắc mặt Chung Thất rất nghiêm túc: “Trong thị trấn Đường chỉ có người chết mới vẽ truyền thần, vẽ người sống sẽ khiến hồn họ bay đi mất, sẽ trở thành người chết. Họa sĩ Tống à, theo tôi anh nên vẽ đại theo một bức tranh cũ lưu lại ở đây để tôi dễ bề nói chuyện với Chủ tịch”. Tống Kha lắc đầu, mắt ánh lên vẻ kiên định: “Từ trước tới giờ tôi chưa từng vẽ lại tranh của người khác.” Chung Thất khó xử hỏi lại: “Thế anh định vẽ ai vậy?” Tống Kha hỏi: “Xin hỏi, có phải sau khi ông họa sĩ già chết đi không có ai vẽ truyền thần cho ông ấy, đúng không?” Chung Thất gật đầu: “Nhưng anh vẫn chưa nhìn thấy ông ta mà, làm sao vẽ được chứ?” Tống Kha đáp lại: “Anh chỉ cần miêu tả một chút về diện mạo của ông ấy là tôi vẽ được rồi”. Chung Thất bán tín bán nghi hỏi lại: “Thật ư?” Tống Kha gật đầu. Chung Thất liền miêu tả cặn kẽ những ấn tượng của mình về ông họa sĩ già Hồ Văn Tiến cho Tống Kha. Qua lời Chung Thất, trong đầu Tống Kha dần xuất hiện hình ảnh một ông già, hình ảnh này hoàn toàn trùng khớp với hình ảnh ông già Tống Kha gặp trong mơ. Tống Kha cảm thấy có ngọn gió lạnh thổi qua mặt. Bỗng dưng, Chung Thất ngửi thấy mùi tanh thoang thoảng, cái mùi này khiến hắn ta khó chịu. Chung Thất vừa bước vào cửa hiệu đã ngửi thấy mùi tanh này, sau khi miêu tả xong hắn liền bỏ đi. Trước khi bỏ đi, hắn còn dặn Tống Kha mở hết cửa sổ tầng trên cũng như tầng dưới cho thoáng khí. Tống Kha nhìn theo bóng dáng vội vã của hắn như thể đang canh cánh chuyện gì vậy. Ăn trưa xong, Tống Kha mang bức truyền thần Hồ Văn Tiến đã vẽ xong tới ủy ban thị trấn. Chủ tịch Du Trường Thủy xem xong bức họa Hồ Văn Tiến, ông ngạc nhiên ngẩng đầu dò xét khuôn mặt xanh xao của Tống Kha. Hồi lâu sau mới thốt lên một câu: “Cậu thực sự có thể vẽ người chết như người sống! Thậm chí đến người chưa một lần gặp mặt cậu đã vẽ giống tới mức này thì quả thực họa sĩ Tống không phải người bình thường”. Chung Thất đứng bên cũng ngây người, hắn ta không ngờ anh chàng họa sĩ Tống Kha mà mình chẳng phí chút công sức nào mời đến lại giỏi như vậy. Tống Kha cười đáp lại: “Chủ tịch Du quá khen rồi, tôi chỉ là người làm nghệ thuật, kiếm ăn bằng chút tài mọn, chỉ cần mọi người cần đến, tôi sẽ tận tâm tận lực”. Chủ tịch Du và Chung Thất đều ngửi thấy một mùi tanh khó hiểu. Tống Kha nhanh chóng cầm bức truyền thần Hồ Văn Tiến rời khỏi ủy ban. Trong lòng Tống Kha luôn cảm thấy bất an, hoảng hốt khi ở đó.

5

  Tam Lại Tử vênh váo đi qua cửa hiệu truyền thần, hắn còn liếc xéo vào trong một cái. Tống Kha cũng nhìn thấy Tam Lại Tử, anh liền cười với hắn, bỗng hắn xị mặt bỏ đi. Tống Kha cảm thấy Tam Lại Tử ngày hôm nay với Tam Lại Tử của chiều hôm qua như hai người khác nhau. Con đường nhỏ của thị trấn chạy từ đông sang tây, Tam Lại Tử men theo con đường nhỏ đi về hướng tây. Tống Kha bước ra cửa nhìn theo bóng Tam Lại Tử. Cơn gió đầu hạ thổi tung tóc khiến vết sẹo trên đầu hắn sáng bóng trong ánh chiều. Bóng của Tam Lại Tử trong mắt Tống Kha bỗng trở nên lạnh lẽo, đơn côi. Tống Kha cũng không thể ngờ rằng, con người xấu nhất thị trấn Đường này lại trở thành người bạn duy nhất của anh. Trong bóng tối có thứ âm thanh kêu gọi Tống Kha. Anh không hiểu nổi âm thanh đó vọng tới từ phương nào. Tống Kha đóng hết các cửa rồi đi về hướng tây trên con đường nhỏ của thị trấn. Rất nhiều người trên đường tò mò nhìn anh. Tin đồn Tống Kha có thể vẽ người chết như người sống lan truyền chỉ trong thời gian ngắn. Họ đồn là họa sĩ mới tới còn cao tay hơn ông họa sĩ già khi xưa. Người dân trong thị trấn rất kính phục Tống Kha, họ đều nghĩ rằng nếu mình hoặc người thân của mình chết đi có thể lưu lại một bức truyền thần sống động thì sẽ mát mày mát mặt biết bao! Con chó thay lông lại chui ra từ một góc nào đó trên con đường nhỏ, nó đi theo nhưng luôn giữ khoảng cách nhất định với Tống Kha. Tới cuối đường, Tống Kha nhìn thấy một khe suối nhỏ, nước suối lấp lánh, trong suốt dưới ánh nắng. Nước suối bắt nguồn từ khe núi cách đó không xa, uốn lượn quanh thị trấn Đường rồi chảy đi rất xa. Tiếng suối chảy róc rách, chảy qua cõi lòng con người từng ăn gió nằm sương khiến tâm trạng anh dịu lại, một cảm giác lâng lâng thoáng hiện trong đầu anh. Ánh mắt Tống Kha dừng lại ở một sườn núi cách đó không xa, sườn núi bị cỏ dại che phủ, không có một ngọn cây. Tống Kha có thể nhìn thấy một vài ngôi mộ nhấp nhô ở đó, anh cũng nhìn thấy cả Tam Lại Tử. Tống Kha thầm nghĩ không hiểu hắn làm gì ở sườn núi này? Bỗng nảy sinh chút hiếu kỳ, anh quyết định đi tới sườn núi đó xem xét sự tình, bởi thực ra anh cũng chẳng có việc gì làm. Nếu thị trấn Đường không có người chết thì anh sẽ mãi được nhàn nhã như thế này. Anh liền đi qua chiếc cầu gỗ nhỏ bắc qua suối rồi hướng tới sườn núi. Con chó đi theo sau Tống Kha, lúc đi qua chiếc cầu gỗ nhỏ, nó bỗng dừng lại, do dự một hồi, rồi lại thè cái lưỡi ướt ra lắc lư bước lên cầu. Tống Kha cứ đi như vậy, trán anh rịn mồ hôi. Anh muốn quay về thị trấn nhưng tính hiếu kỳ vẫn thôi thúc anh bước về phía trước. Chẳng dễ dàng gì anh mới tới được sườn núi này, bỗng một đám mây đen che lấp mặt trời, sườn núi trong giây lát tối sầm lại. Tới gần hơn nữa, Tống Kha phát hiện sườn núi này là một nghĩa trang. Lúc nhìn từ khe suối lên, anh chỉ thấy vài ngôi mộ phủ đầy cây cỏ, lúc này Tống Kha thấy bên dưới lớp cỏ dại là vô số những ngôi mộ to nhỏ không giống nhau. Một cơn gió thổi tới, hất tung vạt áo anh lên. Đám cỏ dại xào xạc theo gió, dường như có rất nhiều linh hồn đang nhảy múa theo gió. Tam Lại Tử đang đào hố. Hắn không cảm nhận được rằng Tống Kha đang tới. Cái hố Tam Lại Tử đang đào trên sườn núi này giống hệt như vết sẹo trên đầu hắn ta. Tống Kha đi tới cạnh Tam Lại Tử. Hắn vẫn đào hố bằng đôi vai trần như thể chỉ có một mình, mồ hôi túa ra như mưa. Con chó kia không dám lại gần bọn họ, nó chỉ dám trốn trong đám cỏ thở phì phò. Tống Kha và Tam Lại Tử đều không phát hiện ra nó. Tống Kha không hiểu Tam Lại Tử đào cái hố này để làm gì, đất bùn Tam Lại Tử đào lên có màu đỏ như nhuộm bằng máu vậy. Lúc này, một con chim ưng cứ lượn vòng trên đầu họ như muốn sà xuống quắp Tam Lại Tử đi bất cứ lúc nào. Tam Lại Tử dừng tay trong giây lát, hắn nhìn lên bầu trời bị mây đen bao phủ, phát hiện ra con chim ưng kia, hắn liền hướng về con chim rồi kêu lên một tiếng rất lạ. Tiếng kêu lạ lùng của Tam Lại Tử vừa lanh lảnh lại vừa thê lương, con chim ưng bay lượn vài vòng nữa rồi vỗ cánh phành phạch bay đi mất. Tam Lại Tử quay ra nhìn Tống Kha rồi nói: “Họa sĩ Tống à, lẽ ra anh không nên tới đây”. Tống Kha cảm thấy trong lời nói của Tam Lại Tử ẩn chứa điều gì rất bí ẩn, anh không hiểu Tam Lại Tử muốn nói anh không nên tới thị trấn Đường hay không nên tới sườn núi âm u này. Tống Kha cười: “Anh đào cái hố này làm gì vậy?” Giọng Tam Lại Tử bỗng u uất lạ thường: “Tôi đang đào huyệt”. Tống Kha ngạc nhiên hỏi: “Trong thị trấn không có người chết, thế anh đào huyệt làm gì vậy?” Mắt Tam Lại Tử đầy tà khí: “Rồi sẽ có người chết thôi mà, cái huyệt này rồi sẽ được dùng”. Tống Kha cảm thấy Tam Lại Tử thật đáng sợ: “Có phải anh cảm nhận được có người sắp chết đúng không?” Tam Lại Tử cười nhạt: “Đối với anh, có người chết chẳng phải là chuyện tốt đẹp hay sao? Anh có thể vẽ truyền thần cho họ và nhận được thù lao hậu hĩnh”. Tống Kha đáp lại: “Nếu đúng như vậy thì tôi thà chết đói thì hơn”. Tam Lại Tử nói tiếp: “Nếu tôi đang đào huyệt cho chính bản thân mình thì sao? Nếu tôi chết rồi, anh có vẽ cho tôi một bức không?” Tống Kha đáp: “Có chứ!” Tam Lại Tử lại nói: “Đừng có chắc chắn như thế, anh vẽ cho tôi thì chẳng nhận được xu nào đâu, tôi chỉ có một mình”. Tống Kha nhanh chóng đáp lại: “Tôi sẽ vẽ cho anh nếu tôi còn sống”. Tam Lại Tử nhìn vào mắt Tống Kha nói: “Vậy thì trước khi chết tôi sẽ đào huyệt cho anh”. Toàn thân Tống Kha run bắn, mọi thứ trước mắt anh nhạt nhòa dần, khuôn mặt Tam Lại Tử phút chốc trở nên mù mịt. Lúc này, họ nghe thấy tiếng chó sủa…

6

  Đồ tể Trịnh Mã Thủy bán thịt lợn đang ngủ khò khò trên ghế, có con ruồi cứ bay qua bay lại trên khuôn mặt nhờn mỡ rồi đậu trên chiếc mũi đỏ của hắn. Trịnh Mã Thủy bỗng cảm thấy mũi mình ngứa vô cùng, hắn liền giơ tay đập vào mũi theo bản năng. Nhưng con ruồi không chết, mà hắn lại tự đánh thức mình dậy. Trịnh Mã Thủy càu nhàu vươn vai rồi đứng dậy rồi vớ lấy chiếc tạp dề cáu bẩn lau mặt. Trời đã xế chiều, Trịnh Mã Thủy nhìn mấy miếng thịt lợn còn lại trên bàn rồi lẩm bẩm một mình: “Nếu vẫn không có ai tới mua, lão này dọn quán mang về nhà ăn một mình vậy”. Trịnh Mã Thủy nhìn thấy họa sĩ Tống Kha. Lúc đi qua hàng thịt lợn, Tống Kha cũng đưa mắt liếc nhìn Trịnh Mã Thủy. Trịnh Mã Thủy vừa cười vừa nói với Tống Kha: “Cậu là họa sĩ mới tới phải không?” Tống Kha nhã nhặn gật đầu. Trịnh Mã Thủy liền chào mời: “Họa sĩ Tống lại đây chút”. Tống Kha dừng bước, anh không hiểu gã béo có khuôn mặt nung núc thịt kia muốn gì nữa? Tống Kha nhận ra trong ánh mắt thân thiện của hắn không có chút ác ý nào nên tiến về phía trước. Tống Kha nhẹ nhàng hỏi: “Anh gọi tôi có chuyện gì?” Trịnh Mã Thủy cũng xuống giọng đáp lại: “Họa sĩ Tống, anh có thích dầu dục lợn không?” Đối với Tống Kha, đây là câu hỏi rất kỳ lạ. Anh lắc đầu. Trịnh Mã Thủy nghi ngờ nói tiếp: “Không lẽ nào, sao anh lại không thích bầu dục lợn chứ? Nhìn người anh, tôi thấy bầu dục rất có lợi đấy. Anh không biết à, lúc ông họa sĩ già vẫn còn sống, ngày nào ông ấy cũng bảo tôi để cho một quả bầu dục. Ở thị trấn Đường này không phải ai cũng được ăn bầu dục đâu, tôi chỉ để dành cho ông họa sĩ già thôi, người khác muốn mua cũng đừng hòng. Tôi đoán anh cũng sẽ thích bầu dục giống ông già kia nên hôm nay mới giữ lại cho anh đấy”. Tống Kha nghe xong mà vã mồ hôi. Trịnh Mã Thủy nói rồi liền cúi người lấy một quả bầu dục từ chiếc sọt dưới bàn, sau đó lắc qua lắc lại trước mặt Tống Kha: “Quả bầu dục này tặng cho anh đó, hôm nay không lấy tiền đâu”. Trịnh Mã Thủy không để ý tới biểu hiện khác thường trên mặt Tống Kha, hắn lấy sợi rơm ướt buộc miếng bầu dục lại rồi đưa cho anh. Tống Kha do dự một lát, không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào anh lại giơ tay đỡ lấy quả bầu dục đó. Trịnh Mã Thủy cảm thấy phấn chấn hẳn lên, hắn ta ngoác miệng cười khà khà, lộ cả hàm răng đen sì. Tống Kha quay người đi về hiệu truyền thần trong tiếng cười của Trịnh Mã Thủy. Bóng dáng anh vừa cô độc vừa yếu ớt. Trịnh Mã Thủy nhìn theo bóng Tống Kha rồi thì thầm một mình: “Cái thằng Chung Thất chết tiệt, quả bầu dục để dành cho lại không tới lấy, lần sau không bao giờ ông giữ lại cho nữa”. Mũi của Trịnh Mã Thủy phập phồng, hắn ngửi thấy mùi tanh nhẹ. Không hiểu có phải số thịt lợn chưa bán được bị ôi không nữa, không thể có chuyện này, lợn mới mổ sáng nay, hơn nữa hôm nay lại không nóng lắm, sao có thể ôi được chứ? Trịnh Mã Thủy liền vớ lấy một miếng thịt giơ lên mũi ngửi, thịt lợn vẫn chưa ôi. Vậy cái mùi tanh đó từ đâu tới? Mặt trời chưa lặn xuống núi, Tống Kha đã đóng cửa hiệu. Vừa tới thị trấn Đường một ngày, Tống Kha đã biết nếu trong thị trấn không có người chết sẽ không có ai tới mời anh vẽ truyền thần nên có mở cửa hiệu hay không cũng như nhau mà thôi. Tống Kha đau khổ ngồi đối mặt với quả bầu dục. Anh chưa ăn nội tạng động vật bao giờ. Anh cho rằng nó rất bẩn, mới nghĩ đến anh đã cảm thấy buồn nôn, nói gì tới chuyện ăn chứ. Tống Kha không hiểu tại sao mình lại đưa tay nhận quả bầu dục từ tay gã đồ tể kia nữa, lẽ nào đây là sự thỏa hiệp với cuộc sống buồn bã hiện tại? Anh không tin cuội đời mình sẽ thay đổi gì ở thị trấn Đường này. Tống Kha cảm thấy như có con giun trong dạ dày mình. Anh thấy buồn nôn. Tống Kha khống chế bản thân để không nôn ra. Cuộc sống lăn lộn nhiều năm đã tôi luyện cho anh khả năng kiềm chế phi phàm. Anh cố gắng khiến con giun đang phẫn nộ trong dạ dày mình bình tĩnh trở lại. Tống Kha phải đối mặt với quả bầu dục nếu không anh không tin mình có thể sống được ở cái thị trấn nhỏ ven núi vốn rất khép kín này. Tống Kha bỗng nhớ tới ông họa sĩ già Hồ Văn Tiến. Lúc này, Tống Kha lại hy vọng ông xuất hiện trước mặt để nói chuyện với anh. Có lẽ Tống Kha sẽ hỏi tại sao ông ta lại thích ăn bầu dục như vậy? Tống Kha đứng giữa hiệu truyền thần, anh có cảm giác hằng hà sa số những bức ảnh truyền thần người chết treo trên tường đè bẹp mình, anh không chịu được sự giày vò của những đôi mắt đó đối với linh hồn mình. Trong đầu Tống Kha bỗng xuất hiện một ý nghĩ, anh sẽ lấy những bức truyền thần đó xuống. Sau đó, anh nhanh chóng biến ý nghĩ đó thành hành động. Anh đứng lên ghế lấy từng bức hình xuống. Sau khi làm xong, anh băn khoăn không biết đặt những tác phẩm để đời của ông họa sĩ già ở đâu? Anh không thể đem vứt tất cả vào đống rác bên ngoài thị trấn được, làm như vậy không những thể hiện sự bất kính đối với người chết cũng như người nhà đang sống của họ mà linh hồn của ông họa sĩ già chắc chắn sẽ không được yên nghỉ dưới suối vàng. Tống Kha nghĩ ngợi một hồi, rồi anh quyết định cất hết những bức truyền thần này đi. Nhưng để đâu đây? Nếu để bên ngoài cửa hiệu sẽ không ổn lắm, căn bếp nhỏ hẹp ở tầng dưới càng không thể để những tấm truyền thần này. Cuối cùng, Tống Kha nghĩ ra một cách, anh đem toàn bộ để dưới gầm giường phòng ngủ tầng trên. Làm xong mọi việc thì trời đã tối, Tống Kha lại thắp đèn dầu rồi đi xuống tầng dưới. Tống Kha để bức truyền thần ông họa sĩ già Hồ Văn Tiến vào một khung ảnh rồi treo lên chính giữa mặt tường bên phải, sau đó kê một chiếc bàn vào dưới bức ảnh. Tống Kha để quả bầu dục khiến anh buồn nôn vào một chiếc đãi rồi đặt trên bàn. Anh đã biến quả bầu dục thành đồ cúng ông Hồ Văn Tiến. Tống Kha đứng dưới bức truyền thần của Hồ Văn Tiến, anh nhìn chằm chằm vào đó, một ánh lửa nhỏ như hạt đậu bay lơ lửng trong mắt anh. Anh trịnh trọng khấn: “Ông họa sĩ già à, ông hãy yên nghỉ đi nhé! Từ bây giờ tôi sẽ cúng cho ông ở đây, tôi còn cúng cho ông món bầu dục ông thích ăn nhất. Tôi rất kính trọng ông, hy vọng ở đây sẽ không làm phiền ông, có thể chung sống hòa bình với ông, mong được bình an vô sự”. Sau khi khấn xong, Tống Kha gập người ba lần trước bức hình ông Hồ Văn Tiến. Anh bỗng nghe thấy một tiếng thở dài nặng nề.

7

  Ngày thứ ba sau khi Tống Kha tới thị trấn Đường thì một người đàn ông rời khỏi thị trấn từ lâu bỗng trở về. Lúc người đàn ông mặc một bộ quân phục đã bạc màu này xuất hiện trên đường, đã có người nhanh chóng chạy về ủy ban báo tin. Anh ta thông báo với chủ tịch Du Trường Thủy: “Chủ tịch Du ơi, cháu của Chủ tịch là Du Vũ Cường về rồi”. Chủ tịch Du đang nói gì đó với Chung Thất, nghe được tin này, cả hai người đều ngẩng đầu lên. Sắc mặt họ căng thẳng nhìn chằm chằm vào người báo tin. Du Trường Thủy hỏi lại: “Anh nói gì kia?” Người kia đáp lại: “Chủ tịch Du, cháu Chủ tịch, Du Vũ Cường về rồi”. Du Trường Thủy trợn mắt: “Thật ư? Nó chẳng phải đã chết ngoài chiến trường rồi kia mà?” Người kia đáp lại: “Về thật rồi, không tin, Chủ tịch ra ngoài phố mà xem, bây giờ cháu ngài đang nói chuyện với chủ hiệu quan tài Trương Thiếu Băng kia kìa”. Sắc mặt Chung Thất trắng bệch: “Sao nó lại về được chứ, rõ ràng tôi đã nhìn thấy nó chết ngoài chiến trường rồi kia mà. Lẽ nào nó là ma?” Người báo tin nhìn dáng vẻ căng thẳng, nghi ngờ của họ, cảm thấy hụt hẫng liền lặng lẽ chuồn đi. Du Trường Thủy gãi đầu, thở dài than: “Về thì đã về rồi, mặc nó thôi, nếu nó còn nhận người chú này thì tôi sẽ để nó làm đội phó đội bảo vệ, nếu không thì mặc cho nó đi đâu thì đi. Dù gì tôi cũng không bạc đãi nó. Do nó tự muốn vào bộ đội, tôi cũng chẳng ép nó rời khỏi thị trấn Đường. Chung Thất, cậu bảo tôi nói có lý không?” Chung Thất cúi gập người nói: “Chủ tịch nói rất có lý, rất có lý, Chủ tịch đối với nó đúng là tận tình tận nghĩa” Sắc mặt Chung Thất vẫn trắng bệch, trong lòng cảm thấy không yên. Cái tên Du Vũ Cường này giống như một lưỡi dao sắc nhọn đang chặt chém một cách vô tình vào tim Chung Thất. Một lát sau Chung Thất mới lên tiếng: “Chủ tịch, em thấy em nên đi sắp xếp cho người anh em Vũ Cường. Dù gì, cậu ấy cũng là cháu của Chủ tịch. Cậu ấy trở về, Chủ tịch cũng phải để ý đến nếu không người ngoài sẽ bàn tán”. Du Trường Thủy nghĩ một lúc rồi nói: “Vậy cậu đi xem xem thế nào, cũng không nên miễn cưỡng, nó muốn thế nào thì chiều theo thế đó”. Rất nhiều người đang vây quanh cửa hiệu quan tài. Du Vũ Cường với khuôn mặt dài như mặt ngựa đang ngồi trên một chiếc quan tài trong cửa hiệu, hắn ta nói to: “Bọn quỷ Nhật Bản kia nhao nhao xông lên phía trước, người của ta từng người, từng người một ngã xuống. Ông đây tức quá liền ôm khẩu súng moze đứng dậy bắn vào bọn chúng. Ông đây cũng chẳng biết đã giết được bao nhiêu đứa nữa, chỉ biết lúc bắn đã rồi thì bị trúng đạn khiến ông đây ngất xỉu. Bản thân ông đây cũng không ngờ được mình còn có thể bò ra từ đống người chết đó. Lúc ông đây tỉnh lại đã nghĩ cho dù có chết với bọn Nhật đi chăng nữa cũng nhất định không giống với kẻ đào ngũ Chung Thất kia. Chung Thất thật mất mặt! Mỗi lần sỉ quan huấn luyện nói tới Chung Thất, mặt ông đây lại ỉu xìu, ai bảo hắn ta và ông đây là đồng hương cùng đầu quân chứ, bình thường còn anh anh, em em với ông đây nữa cơ…” Có người chen ngang: “Chung Thất chạy về nói anh ta là anh hùng kháng Nhật, còn nói anh chết trận rồi. Chú anh còn cho hắn ta làm đội trưởng đội bảo vệ. Không hiểu những điều anh nói có phải là sự thật không vậy?” Rất nhiều người cười phá lên. Lúc này, chủ hiệu quan tài Trương Thiếu Băng bưng một bát nước trà tới đưa cho Vũ Cường: “Vũ Cường à, uống ngụm nước rồi nói tiếp, đã bao lâu cậu chưa uống trà quê mình rồi nhỉ?” Du Vũ Cường uống bát nước ừng ực, đặt bát lên tấm ván làm quan tài, hắn quệt miệng nói tiếp: “Đúng là truyện cười, thằng Chung Thất đó đúng là đồ tồi! Lại còn anh hùng kháng Nhật con mẹ nó nữa, mẹ kiếp, đúng là thằng đào ngũ! Ông đây cả đời này coi khinh thằng đào ngũ! Ông đây chết trận rồi, nó còn dám nói ra miệng nữa chứ, thậm chí nó còn chưa thấy các ông đây đánh trận đã đào ngũ rồi, sao mà biết được ông đây chết trận chứ!” Lại có người nói: “Vậy thật sự anh mới là anh hùng kháng Nhật rồi! Nếu anh là anh hùng kháng Nhật thì phải được thăng chức trong quân ngũ chứ, sao lại chạy về thị trấn Đường làm gì?” Du Vũ Cường đáp lại: “Đánh hết bọn quỷ rồi, ông đây cho rằng thiên hạ đã thái bình, không ngờ lại đánh nhau với Đảng Cộng sản, ông đây không muốn đánh người Trung Quốc mình nên mới về”. Lúc này Chung Thất xuất hiện, luồn lách trong đám người mới vào được cửa hiệu quan tài, hắn ta đỏ mặt nói với Vũ Cường. “Người anh em, cậu về rồi à, sao không báo trước hả?” Du Vũ Cường nhìn thấy Chung Thất, tức tối nói một tràng: “Không hiểu ai buộc dải rút quân cho mày không chặt khiến chim mày thòi ra thế này! Mẹ kiếp, ai là anh em với mày, mắt chó của mày bị mù rồi hả! Ông mày cứ nhìn thấy cái thằng đào ngũ nhà mày lại tức chết, cút mau, cút đi thật xa cho ông!” Ngày thường Chung Thất diễu võ dương oai trước mặt người dân thị trấn Đường vậy mà trước mặt Du Vũ Cường lại cúi đầu: “Người anh em Vũ Cường, lúc đó tôi cũng không còn cách nào khác. Anh không biết chứ, lúc đó tôi bị kiết lỵ gần chết, nên mới rời khỏi quân ngũ đấy chứ”. Những người đứng xem cười nghiêng ngả, Du Vũ Cường đã giúp họ hả giận, không những thế còn nhìn rõ được bộ mặt thật của “anh hùng kháng Nhật” Chung Thất. Nếu họ không cười mới bất thường. Người đến cửa hiệu quan tài xem càng lúc càng đông, bình thường con đường nhỏ vốn vắng vẻ là vậy mà không biết tại sao đã nhiều người kéo đến như vậy. Thị trấn nhỏ xa xôi hẻo lánh chưa từng trải qua khói lửa chiến tranh, phút chốc đầy mùi khói đạn. Du Vũ Cường đứng trên chiếc quan tài, cao hơn Chung Thất cả một cái đầu. Hắn chỉ vào mũi Chung Thất, rồi chửi mắng thậm tệ: “Sao mày không kiết lỵ chết trên đường đi hả? Mày biết có bao nhiêu anh em chết trên chiến trường không? Mày là thằng nói khoác rách trời, mày chỉ là thằng đào ngũ không hơn không kém! Mẹ mày chứ, mày còn mặt mũi nào đứng trước mặt ông! Mày cút ngay cho ông, nhìn thấy mày ông chỉ muốn bắn cho một phát, cút, cút ngay cho ông”. Ông chủ cửa hiệu quan tài Trương Thiếu Băng sợ chết khiếp: “Vũ Cường à, Vũ Cường, thôi đi, thôi đi, những chuyện quá khứ hãy để nó qua đi. Đừng truy cứu, cũng chẳng hay ho gì, dù gì cũng là hàng xóm láng giềng cả, ngẩng đầu không thấy cúi đầu lại thấy, dĩ hòa vi quý, dĩ hòa vi quý”. Du Vũ Cường tức tối gầm lên: “Ông đây nói với cái thằng đào ngũ này là kẻ thu, không bao giờ giảng hòa được. Nó mãi là kẻ thù của Du Vũ Cường này”. Chung Thất thấy mình không có lợi liền đỏ mặt tía tai luồn ra khỏi đám người, nhục nhã bỏ đi. Đám người lại rộ lên một trận cười hỉ hả. Trương Thiếu Băng nghiêm mặt yêu cầu: “Mọi người giải tán thôi, Vũ Cường đã mệt rồi, mọi người để cho cậu ấy nghỉ ngơi đi. Chờ khi nào cậu ấy khỏe hẳn, mọi người lại nghe cậu ấy kể tiếp chuyện đánh Nhật. Giải tán đi, mọi người giải tán đi”. Nghe lời Trương Thiếu Băng, mọi người lũ lượt bỏ đi. Sau khi đám người giải tán xong, Trương Thiếu Băng nói với Du Vũ Cường: “Vũ Cường à, cậu về có dự định làm gì không?” Du Vũ Cường đáp: “Trước tiên tôi ở tạm trong hiệu quan tài của anh vậy, dù gì tối đến hiệu quan tài của anh cũng không có ai ở. Tôi còn dự định gì được nữa, thôi thì ở tạm rồi tính sau. Nếu quen thì ở tiếp, thuê vài mẫu làm ruộng, nếu không ở được thì rời khỏi đây. Tiếp tục xông pha vậy, đất vàng nơi nào chẳng chôn được thân chứ”. Trương Thiếu Băng hỏi: “Sống ở cửa hiệu quan tài không thiệt thòi cho anh đấy chứ? Hay là chịu nhịn một chút đi tìm chú anh đi. Chắc chắn ông ấy không tính toán hiềm khích khi xưa mà sẽ bố trí ổn thỏa cho anh thôi”. Du Vũ Cường nghiến răng nói: “Có chết đói thì tôi cũng không đi tìm lão chó già đó. Tôi sẽ ở trong cửa hiệu quan tài, anh không phải lo cho tôi. Anh biết tôi là người bò ra từ đống người chết kia mà”. Trương Thiếu Băng không nói gì nữa. Ở góc đối diện cửa hiệu quan tài, con chó thay lông vẫn đang rên rỉ.

8

  Tống Kha tới miếu Thổ Địa dưới chân núi, chăm chú nhìn bức tượng ông bà Thổ Địa bị khói hương xông đen. Những việc xảy ra trong thị trấn không liên quan gì tới anh, anh cũng không phải loại người thích góp vui, sự náo nhiệt đã rời xa anh từ lâu. Tống Kha bỗng nghe thấy tiếng ngáy. Anh ngỡ ngàng: “Không hiểu ai lại ngủ trong miếu Thổ Địa giữa ban ngày ban mặt thế này?” Lúc anh đang nghi ngờ thì tiếng ngáy bỗng im bặt. Một người đầu bù tóc rối đứng lên sau bức tượng ông bà Thổ Địa. Tống Kha kinh ngạc hỏi: “Tam Lại Tử, sao anh lại ngủ ở đây?” Tam Lại Tử từ bàn thờ nhảy xuống, vươn vai trả lời: “Tôi không ngủ ở đây thì ngủ ở đâu? Tôi không có nhà cửa, nơi này chính là nhà của tôi”. Tống Kha thắc mắc: “Người trong thị trấn cho phép anh sống ở đây ư? Anh không sợ mạo phạm thánh thần à?” Tam Lại Tử dùng mu bàn tay dụi dụi đôi mắt đầy rỉ. “Họ không quản được tôi đâu. Ban đầu tôi cũng sợ lắm, nhưng dần dần không sợ nữa, ông bà Thổ Địa thương tôi, ông bà ấy sẽ không trách tội tôi đâu”. Tống Kha cười. Tam Lại Tử chỉ vào cây long não già bên ngoài miếu rồi nói: “Người trong thị trấn không ai dám trèo lên cái cây này, chỉ có mình tôi dám thôi”. Trông cây long nào già giống như một người cao tuổi đã từng ăn gió nằm sương, ẩn chứa bí mật nào đó. Tống Kha hỏi tiếp: “Tại sao?” Tam Lại Tử đắc ý ra mặt, trên khuôn mặt nhăn nheo của hắn xuất hiện nụ cười: “Ai cũng nói cây long não già kia là hóa thân của ông Thổ Địa, ai trèo lên cây này sẽ gặp phải tai họa nên chẳng ai dám mạo phạm cả. Tôi kể cho anh nghe một chuyện nhé. Anh có biết bố thằng con đồ trong quân đội Du Vũ Cường mới trở về chết như thế nào không?” Tống Kha lắc đầu. Tam Lại Tử nói tiếp: “Mùa xuân năm Du Vũ Cường ba tuổi, xảy ra nạn đói lớn. Bố Du Vũ Cường vì muốn có một cân củ đậu đã đánh cược với người dân trong thị trấn. Người kia nói, chỉ cần bố Du Vũ Cường trèo lên chặt một cành của cây long não thì sẽ cho ông ấy một cân củ đậu. Rất nhiều người trong thị trấn khuyên ông ấy không nên mạo hiểm làm việc này, nhưng ông ấy không nghe. Ông ấy đã trèo lên chặt một cành cây xuống. Mọi người có mặt lúc đó đều sợ chết khiếp, họ nhìn thấy chỗ cành cây bị chặt chảy máu. Đột nhiên, bố của Du Vũ Cường ngã từ trên cây xuống, giống như bị ai đó vứt từ trên cây xuống vậy. Lúc ông ấy ngã xuống đã bất tỉnh nhân sự, được người ta khiêng về nhà, không lâu sau đó thì chết”. Tống Kha hỏi: “Có chuyện như vậy ư?” Tam Lại Tử bỗng dưng chạy ra khỏi miếu Thổ Địa, trèo lên cây long não già thoăn thoắt như khỉ. Tống Kha cũng đi theo hắn ra ngoài. Tam Lại Tử từ trên cây nói với Tống Kha: “Họa sĩ Tống à, chắc chắn anh rất muốn hỏi tại sao tôi trèo lên cây mà chẳng có chuyện gì cả? Nói cho anh nghe, đôi khi tôi cảm thấy sống thật vô nghĩa, nhất là khi tôi bị đói và khi nghĩ về đàn bà. Lúc đó, tôi liền trêp lên cây long não già, mong ông Thổ Địa trừng phạt, khiến tôi chết đi. Nhưng làm cách nào tôi vẫn không chết được, có lẽ ông Thổ Địa vẫn chưa muốn tôi chết”. Lời nói của Tam Lại Tử khiến Tống Kha kinh hãi. Tam Lại Tử không hiểu nỗi kinh sợ của Tống Kha. Hắn trèo xuống dí vào miếu Thổ Địa, sau đó vác xẻng lên vai ra khỏi miếu. Sắc mặt Tam Lại Tử trở nên u uất. Tống Kha nói với theo sau lưng hắn: “Tam Lại Tử, anh đi đâu thế?” Tam Lại Tử không ngoảnh lại, trả lời: “Tôi tới sườn núi Ngũ Công Lĩnh đào huyệt”. Tống Kha biết sườn núi cỏ dại che phủ đó là núi Ngũ Công Lĩnh. Tam Lại Tử phải xuyên qua con đường trong thị trấn đi về hướng tây, đi qua cái cầu gỗ bắc qua suối thì mới tới nơi cần đến. Tống Kha đột nhiên băn khoăn không hiểu ai sẽ là người thứ hai anh vẽ truyền thần từ sau khi đến thị trấn Đường đây?  

9

    Vợ của Chung Thất – Thẳm Văn Tú đi ngang qua hiệu quan tài, nhìn thấy Du Vũ Cường đang ngồi trên chiếc ghế tre trước cửa hiệu kể tiểu sử anh hùng cho mấy người nghe. Du Vũ Cường vạch chiếc áo quân phục cũ, lộ ra chi chít sẹo. Hắn chỉ vào đó huênh hoang: “Vết này là do trúng đạn, vết này là do mảnh đạn găm vào… trên người tôi chẳng có chỗ nào lành lặn cả, toàn sẹo thôi”. Mấy người nghe há hốc mồm, trông điệu bộ rất kinh ngạc. Thẩm Văn Tú cũng nhìn thấy những vết sẹo đó, trái tim cô đau nhói như bị trúng tên. Lúc Du Vũ Cường ngẩng đầu lên, vô tình ánh mắt hắn chạm vào ánh mắt hoảng loạn của Thẩm Văn Tú. Thẩm Văn Tú cuống quýt bỏ đi. Ánh mắt Du Vũ Cường dõi theo bóng của Thẩm Văn Tú, hắn ta thắc mắc: “Người phụ nữ này là ai vậy?” Có người trả lời: “Người anh hùng à, đó là Thẩm Văn Tú – vợ của kẻ đào ngũ Chung Thất”. Ánh mắt của Du Vũ Cường không dõi theo Thẩm Văn Tú nữa. Khuôn mặt hắn đỏ rần lên, hằn học nói: “Mẹ nó chứ, ông đây phải vào sinh ra tử trên chiến trường kháng Nhật, tới giờ vẫn còn độc thân. Thế mà cái thằng chó Chung Thất đó, một thằng đào ngũ nhục nhã lại cưới được cô vợ xinh như hoa kia, đúng là ông trời chẳng công bằng chút nào” Có người chêm thêm: “Chung Thất may mắn lắm, năm ngoái Thẩm Văn Tú còn sinh cho hắn một cặp con trai sinh đôi nữa”. Du Vũ Cường nghiến răng nghiến lợi: “Thằng khốn Chung Thất này đáng ra phải tuyệt tử tuyệt tôn mới phải”. Mắt Du Vũ Cường hăn lên ngọn lửa đố kỵ hằn học. Thẩm Văn Tú không dám quay đầu lại nhìn Du Vũ Cường, sự trở về của Du Vũ Cường đã mang lại đau khổ cho cô. Trước đây, trong lòng cô chất đầy căm hận đối với Du Vũ Cường, nhưng vào giây phút cô nhìn thấy những vết sẹo trên da hắn, nỗi thù hận kìm nén trong lòng cô bỗng dưng tan biến. Thậm chí cô còn thông cảm cho hắn ta nữa. Hai đêm sau khi Du Vũ Cường trở về thị trấn, Chung Thất về nhà rất muộn. Người gã nồng nặc mùi rượu, về đến nhà lại giày vò Thẩm Văn Tú. Hắn túm lấy Thẩm Văn Tú đang ngủ say rồi gầm lên, miệng nồng nặc mùi rượu: “Ông vẫn chưa về, mày ngủ cái gì mà ngủ. Mau dậy cho ông!” Thẩm Văn Tú hoảng hốt: “Chung Thất à, anh điên rồi. Đã quá nửa đêm, anh còn làm ầm lên, con nó dậy bây giờ”. Chung Thất túm tóc vợ, giật mạnh|: “Mày, cái đồ thối tha này cũng học đòi cãi lại hả, con mẹ mày dạy mày như thế à? Cái thằng Du Vũ Cường kia giáo huấn tao trên đường, bây giờ tới lượt mày lại dám giáo huấn tao, ông đây chẳng coi mày ra cái cóc khô gì đâu”. Chung Thất đẩy Thẩm Văn Tú ngã dúi trên giường, gã rút roi da quật mạnh lên người vợ. Thẩm Văn Tú đau đớn gào thét. Hai đứa sinh đôi nằm giường bên cạnh bị thức giấc bởi trò bạo hành của bố, chúng ngồi trên giường, chứng kiến bố đang điên cuồng ngược đãi mẹ liền khóc òa lên. Tiếng khóc của lũ trẻ đánh thức bà mẹ Chung Thất đang ngủ ở buồng bên cạnh. Bà mẹ tới trước cửa phòng Chung Thất, dùng gậy gõ vào cửa phòng mắng: “Chung Thất, cái thằng súc sinh này, mày đang tạo nghiệp ác gì vậy?” Tiếng khóc của lũ trẻ cùng lời mắng của mẹ không khiến Chung Thất ngừng bạo hành Thẩm Văn Tú, ngược lại càng khiến hắn điên cuồng hơn: “Con khốn, tao cho mày nói tao là đồ đào ngũ đấy, tao quật chết mày, con khốn, tao cho mày nói tao là đồ đào ngũ đấy. Ông mày lè kẻ đào ngũ thì sao hả, còn có ối thằng bỏ mẹ còn làm Hán gian. Tao đánh chết mày, con khốn!” Chung Thất hoàn toàn không thể kiểm soát được bản thân, lúc này trong mắt hắn, hắn đang đánh Du Vũ Cường chứ không phải vợ mình… Đêm đã khuya, trong lòng Thẩm Văn Tú dâng lên nỗi sợ hãi, toàn thân co rúm lại như thể Chung Thất đang dùng roi da quật vậy. Tâm trạng cô căng thẳng cực độ, không hiểu tại sao ông chồng nửa đêm canh ba mới về nhà bỗng dưng ngược đãi mình. Chồng cô thay đổi như vậy là có liên quan tới người đàn ông mang tên Du Vũ Cường kia. Nhưng lúc này cô không thể hận nổi hắn ta. Cô còn lo rằng Du Vũ Cường sẽ bị Chung Thất hãm hại. Cô hiểu rõ chồng mình là người như thế nào, hắn là kẻ hung tợn, dữ dằn, việc gì cũng có thể làm. Thẩm Văn Tú là người đàn bà hiền hậu, dỗ cho hai đứa trẻ ngủ xong cô liền đi chăm mẹ chồng. Lúc Thẩm Văn Tú rửa chân cho mẹ chồng, bà nhìn cô con dâu câm lặng rồi giơ tay khẽ vuốt tóc cô. Bà thở dài than: “Văn Tú à, con phải chịu khổ rồi! Cái thằng bất hiếu này sao lại đánh con như thế chứ, có đánh trộm cũng không đánh như vậy kia mà. Buổi tối nó có về, con nhớ cài chặt then cửa đừng cho nó vào phòng, cho nó chết ở bên ngoài đi”. Thẩm Văn Tú khẽ đáp lại: “Mẹ, con không sao đâu. Anh ấy ở ngoài chịu ấm ức, về nhà trút giận vào con là bình thường thôi mà. Ai bảo con là vợ của anh ấy chứ. Mấy ngày nữa anh ấy trút hết giận sẽ lại tốt đẹp thôi mà”. Bà mẹ chồng gạt nước mắt nói tiếp: “Con là đứa con dâu thấu tình đạt lý biết bao! Nếu nó còn tiếp tục đánh con, ông trời cũng khó dung tha”. Nghe mẹ chồng nói, Thẩm Văn Tú cảm thấy lòng nhẹ nhõm hơn nhiều. Tối hôm nay, Chung Thất và Chủ tịch cùng một số người nữa uống rượu xong, thấy những người kia bắt đầu chơi mạt chược, Chung Thất liền chuồn ra ngoài, tới quán Tiêu Dao. Quán Tiêu Dao là kỹ viện duy nhất của thị trấn Đường nằm trên ngõ Hoàng Đế. Đây là ngôi nhà kiểu quan phủ trước kia, có ba lối vào, ba lối ra. Nhà đó phát tài lớn ở ngoài liền dọn tới thành phố ở, bán ngôi nhà đó cho Lý Mị Nương làm kỹ viện. Lý Mị Nương là một phụ nữ đã có tuổi nhưng rất đẫy đà, với ai mụ ta cũng tươi cười ngọt như mật. Chung Thất vừa mò tới quán Tiêu Dao, mụ ta đã phô ra nụ cười ngọt ngào như thường lệ của mình. Lúc này, mụ ta đang dùng tăm để gạt kẽ móng tay. Một cô gái trẻ mặc chiếc áo xường xám kiểu cũ xẻ dài đang đứng đấm lưng cho mụ ta. Khuôn mặt như mướp đắng của cô hiện rõ vẻ tiều tụy, cặp mắt lờ đờ, quầng mắt thâm đen, mí mắt sưng phồng, cặp môi mỏng nhợt nhạt không chút sắc đỏ. Lý Mị Nương cười nói với Chung Thất: “Đội trưởng Chung, sao hôm nay tới sớm thế? Mau ngồi xuống, ngồi xuống đi!” Chung Thất phát hiện khi Lý Mị Nương nói, nốt ruồi nhỏ bằng hạt đậu bên khóe miệng khẽ rung theo. Hắn nghĩ, nếu Lý Mị Nương không có nốt ruồi này, thì mụ ta cũng hấp dẫn ra trò. Nhưng Lý Mị Nương đôi khi còn khoe khoang về cái nốt ruồi đó, mụ ta kể rằng trước đây có một ông thầy bói nói với mụ ta là, chính nhờ nốt ruồi này nên mụ mới không phải lo tới cái ăn cái mặc. Chung Thất làu bàu: “Không ngồi gì cả, ông đang khó chịu đây, vào phòng thôi!” Lý Mị Nương liền nói với cô gái đứng phía sau: “Phi Nga à, còn không mau vào phòng với đội trưởng Chung, căn phòng bên phải sảnh phía trên hôm nay vừa có thêm chiếc chiếu mới, mau dẫn đội trưởng Chung vào phòng đó đi”. Dương Phi Nga chần chừ một hồi, nhưng vì sự thúc ép của Lý Mị Nương, cô đành dẫn Chung Thất về phòng. Lý Mị Nương gọi một tiếng: “Phượng Phượng, còn không ra đấm lưng cho bà, không có khách mày nằm ườn trên giường duỗi thân duỗi xác ra à”. Dương Phi Nga vừa dẫn Chung Thất vào phòng liền quỳ sụp xuống. Chung Thất sững sờ hỏi: “Phi Nga à, em làm gì vậy, có ai bắt nạt em phải không? Em nói đứa nào, anh sẽ trút giận cho em”. Dương Phi Nga nước mắt tuôn rơi, ôm lấy chân Chung Thất xin xỏ: “Anh Chung ơi, đêm nay anh tha cho em được không? Đã hai đêm anh uống say rồi tới đây, anh dùng tay túm lấy chỗ ấy của em, nắm chặt tới nát cả ra, chảy không biết bao nhiêu máu, khiến em đau điếng người. Anh Chung à, chờ em khỏi rồi sẽ ngủ cùng anh, anh muốn làm gì cũng được, tối nay anh tha cho em được không?” Chung Thất nghe Dương Phi Nga nói vậy, không những không thông cảm gì với cô gái mà hắn còn sừng sổ: “Đồ điếm thối tha, lải nhải cái gì đấy, mày đau ca hệ gì tới ông chứ, bất cứ lúc nào ông đến mày đều phải ngủ cùng ông. Mẹ khỉ, mày được sinh ra để đàn ông nó chơi, ông không làm mày, thằng khác cũng làm thôi. Mau bò lên giường, ông không đợi được nữa rồi”. Dương Phi Nga khổ sở nói tiếp: “Anh Chung à, anh tha cho em lần này được không, em thật sự rất đau”. Chung Thất hằn học nói: “Đồ điếm thối tha, tao đã bảo mày bò lên giường kia mà, đừng có giả chết với ông”. Dương Phi Nga run rẩy nói: “Đội trưởng Chung à, anh giết em đi, em không muốn sống nữa rồi”. Chung Thất đá cô gái một cái, sau đó hắn quắp cô ném lên giường. Chung Thất cởi hết quần áo của mình rồi nhảy xổ tới, xé rách chiếc xường xám Dương Phi Nga đang mặc rồi vứt xuống đất. Dương Phi Nga không mặc đồ nội y, phút chốc đã lộ ra tấm thân trắng nõn. Chung Thất kéo dạng chân cô gái ra rồi nhanh chóng làm tình. Dương Phi Nga cắn chặt răng, nước mắt trào ra. Chung Thất gầm gừ, hừng hục trên người cô gái, nhưng chẳng được bao lâu thì dương vật mềm oặt ra. Hắn cố gắng mấy lần nhưng đều không cương cứng được nữa. Bất ngờ Chung Thất kêu lên một tiếng bi thảm, sau đó dùng tay nắm lấy tóc mình giật mạnh rồi khóc rống lên. Dương Phi Nga biết rõ chứng liệt dương của Chung Thất có liên quan tới Du Vũ Cường. Trước đây, Chung Thất chưa từng như vậy, hắn không những làm việc này rất khỏe mà còn có nhiều trò khác nữa. Sau khi xong việc, hắn còn ở lại trêu đùa, không giống như những ông khách khác của thị trấn Đường, làm xong liền vứt tiền lại rồi vội vã bỏ đi. Hai, ba ngày gần đây, Chung Thất như biến thành một người khác, hắn thay đổi khiến Dương Phi Nga đau không muốn sống nữa. Dương Phi Nga rủa thầm: “Đó là quả báo, không ngờ mày – cái thằng Chung Thất – cũng có ngày hôm nay”. Khuôn mặt Dương Phi Nga đẫm nước mắt, nhưng khóe miệng lại lộ ra nụ cười khó hiểu. Chung Thất đột nhiên đưa tay xuống âm hộ Dương Phi Nga rồi bóp cật lực: “Con điếm thối tha này, mày còn dám chế giễu à, ông không thể bỏ qua cho mày được, ông túm cho mày chết đi”. Dương Phi Nga kêu như xé ruột: “Chung Thất, mày sẽ không được chết tử tế đâu…”  

10

  Đêm nay vô cùng thanh tĩnh đối với Tống Kha, thanh tĩnh tới mức anh có thể nghe thấy tiếng suối chảy róc rách bên ngoài thị trấn. Nhưng anh lại không nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của Dương Phi Nga, cũng không nghe thấy tiếng ngáy của Du Vũ Cường ở cửa hiệu quan tài. Anh đang muốn có một người phụ nữ, người ấy tuy cách xa anh tới mức không thể mong ngóng được, nhưng dường như anh vẫn ngửi thấy mù nước hoa Pháp trên cơ thể cô. Tựa hồ dang tay ra là đã chạm vào khuôn mặt tươi cười như đóa hoa hồng đang nở ấy. Mùi tanh từ trên tầng bao phủ khắp nơi hòa quyện với ý nghĩ về phụ nữ ngày càng mãnh liệt của Tống Kha. Mùi tanh càng lúc càng nồng, từ cầu thang tản xuống tầng dưới, sau đó tản ra ngoài qua những khe hở nhỏ trên cửa sổ. Chiếc đèn dầu leo lắt giống như cuộc sống vậy. Tống Kha khẽ gọi: “To Tình, Tô Tình…” Tống Kha chìm vào giấc ngủ khi đang gọi tên cô gái. Ngọn đèn dầu nhỏ như hạt đậu cứ lay lắt. Lúc chiếc đèn dầu phụt tắt, bấc đèn xuất hiện một khuôn mặt già nua mờ ảo trong làn khói. Cả cửa iệu chìm trong bóng tối. Bên ngoài cửa sổ vọng tới tiếng chó rên rỉ. Tống Kha mơ màng cảm thấy có tiếng động khẽ phía cuối giường, tay chân anh cứng đờ như bị trói. Tống Kha cảm thấy có người đang đứng cạnh giường, đầu óc anh tê dại một hồi. Tống Kha thử cựa quậy chân tay, nhưng anh vẫn không làm gì được. Anh mở to mắt hòng nhìn rõ người đang đứng trong bóng tối kia là ai. Nhưng anh chẳng nhìn thấy gì, cũng không có cách nào nhìn rõ được những bí mật đang được cất giữ trong bóng tối. Tiếng thở của anh nặng dần. Trong bóng tối bỗng vọng ra tiếng thở dài. Đúng rồi, Tống Kha cảm thấy có ai đó đang đứng bên giường. Chỉ cần dang tay là anh đã có thể chạm vào mặt người đó. Bóng tối tạo ra sự lạnh lẽo. Tống Kha không thể kiềm chế được bản thân, môi anh run nhẹ. Cả người Tống Kha không co duỗi được, anh thử xem mình có nói được không. Anh mở miệng hỏi: Ông là họa sĩ già Hồ Văn Tiến đúng không?” Âm thanh lạnh lẽo bay vào tai Tống Kha: “Tôi không phải Hồ Văn Tiến, tôi là Trịnh Thu Lâm. Chắc anh biết Trịnh Mã Thủy đúng không, tôi là bố nó”. Tống Kha thắc mắc: “Tại sao ông lại tới đây, sao ông không về nhà mà ngủ chứ?” Trịnh Thu Lâm đáp: “Từ trước tới giờ tôi vẫn ở cửa hiệu này, Hồ Văn Tiến dẫn tôi tới đây. Tôi không về nhà được nữa. Thằng con trai tôi từ lâu đã quên tôi rồi”. Người Tống Kha càng lúc càng lạnh hơn: “Ông có thể giúp tôi thắp đèn lên được không, như vậy tôi có thể nhìn thấy ông”.   Trịnh Thu Lâm đáp: “Tôi không thắp đèn lên được, mà cho dù đèn có sáng thì anh cũng không nhìn thấy tôi được bởi tôi là một hồn ma, tôi đã chết bảy năm rồi. Trước đây, Hồ Văn Tiến còn sống, tôi còn tìm ông ta nói chuyện, giờ ông ấy cũng chết rồi, tôi không muốn nói chuyện với ông ấy nữa. Người chết nói với người chết chẳng hay ho gì, tôi cũng không nhìn thấy ông ấy nữa”. Một quả núi to đè nặng lên ngực Tống Kha, anh hổn hển thở không ra hơi. Trịnh Thu Lâm buồn bã nói tiếp: “Họa sĩ Tống à, anh muốn biết tại sao tôi lại chết không?” Tống Kha không nói được câu gì. Trong bóng tối vọng tới giọng nói lạnh lẽo: “Cho dù anh muốn hay không, tôi cũng sẽ nói, nói ra tôi cảm thấy dễ chịu hơn, nếu không tôi sẽ không nhắm mắt được. Họa sĩ Tống à, tôi kể cho anh nghe nhé. Tôi chết vì ăn móng giò lợn. Trước khi con trai tôi làm đồ tể, tôi chưa từng được ăn một bữa thịt lợn nào đã đời cả. Tôi liền bắt nó học mổ lợn với hy vọng sau này ngày nào tôi cũng có thể được ăn thịt lợn. Buổi tối đầu tiên khi con trait ôi làm đổ tể, nó liền mang về một tảng thịt ba chỉ lớn. Tảng thịt đó chừng năm cân đấy. Cả nhà tôi vui như đón Tết vậy. Hơn năm cân thịt hầm trong nồi lớn, cả nhà tôi có ăn thỏa thuê cũa không hết, còn thừa một đĩa to. Tôi đúng là kẻ đáng chết. Nửa đêm, tôi vẫn nhớ tới đĩa thịt kho tàu đó, thế là tôi nhẹ nhàng bò dậy, một mình đi xuống bếp ăn vụng đĩa thịt. Lúc không thể ăn được nữa, tôi muốn dừng lại nhưng không dừng được, dường như có ai đó cố nhét thịt vào miệng tôi, tôi nghe thấy một tiếng động mạnh, bụng tôi bị thủng, ruột lòi ra khắp nơi…”

12

  Cũng đúng vào ngày chợ phiên 25 tháng Tư đó đã xảy ra một chuyện không ai tiên liệu trước được. Việc đó xảy ra đã tạo cơ hội cho chàng họa sĩ vắng khách trong thị trấn Đường vẽ truyền thần cho người chết. Trái ngước hẳn với vẻ náo nhiệt của chợ phiên, hang núi Quá Phong Cốc nằm sau Ngũ Công Lĩnh lại vắng lặng khác thường. Nước suối róc rách chảy ra từ khe núi, đất bùn hai bên dòng suối mọc đầy cây trấu dại. Đây là thứ thỏ thích ăn nhất. Bình thường, có rất ít người tới bờ suối nhổ cây trấu dại, hôm nay đúng ngày chợ phiên nên Quá Phong Cốc lại càng vắng vẻ, chỉ có gió thổi qua khe núi dưới ánh mặt trời. Buổi trưa, có một phụ nữ quàng chiếc khăn hoa màu xanh da trời xuất hiện ở Quá Phong Cốc. Chọn chỗ cây trấu dại mọc tươi tốt nhất, đặt chiếc gùi trên vai xuống, cô gái ngồi xuống bắt đầu công việc của mình. Người phụ nữ này chính là vợ Chung Thất – Thẩm Văn Tú. Mọi phụ nữ trong thị trấn đều cho phép mình nghỉ vào ngày chợ phiên; hai, ba người cùng nhau đi ngắm chợ phiên, mua những thứ đồ mà mình thích hoặc đi xem mãi võ. Đôi khi lại có những nghệ nhân múa rối dựng rạp biểu diễn trong phiên chợ, hầu hết các bà các cô đều bị thu hút bởi trò múa rối. Họ cùng khóc và cười theo số phận của những nhân vật trong vở rối, trong giây lát họ quên đi cuộc sống vất vả và khổ cực hằng ngày của bản thân. Thẩm Văn Tú là người cô độc, cô chẳng có lấy một người bạn ở thị trấn Đường. Chung Thất còn không cho phép cô ngồi nói chuyện nhà chuyện xóm với những người phụ nữ khác. Hơn nữa, cô lại là người phụ nữ được Chung Thất đưa về thị trấn trên đường đào tẩu từ tiền tuyến. Ngày đầu tiên cô được đưa về, phụ nữ trong thị trấn đã nhìn cô bằng ánh mắt khó hiểu. Những ánh mắt ấy giống hệt với ánh mắt họ quẳng vào những cô kỹ nữ trong quán Tiêu Dao ở ngõ Hoàng Đế. Ngày chợ phiên đối với Thẩm Văn Tú là một sự giày vò, sự náo nhiệt của phiên chợ chỉ gợi lại hồi ức đau khổ nơi quê nhà của Thẩm Văn Tú. Cho nên người phụ nữ tha hương vô cùng cô độc này thường trốn ở nơi hẻo lánh vào những ngày chợ phiên náo nhiệt trong thị trấn. Thẩm Văn Tú không ngờ cái ngày nắng rực rỡ này lại đen tối với cô như vậy. Thực ra, lúc cô địu gùi ra khỏi thị trấn Đường, đã có một đôi mắt tàn độc, chất chứa thù hận dõi theo nhưng Thẩm Văn Tú không hề phát hiện ra. Thẩm Văn Tú ngồi xuống nhổ cỏ, cặp mông tròn trịa săn chắc. Đôi mắt kia thấy cặp mông tròn trịa ấy đột nhiên nhảy chồm về phía sau cô như con báo nhảy khỏi lùm. Thẩm Văn Tú không chút phòng bị, nhanh chóng bị kẻ lạ mặt kia xô ngã. Người đàn ông khỏe mạnh như vâm kia lột quần cô từ phía sau, rồi lật người cô lại. Lúc này Thẩm Văn Tú đã nhìn rõ mặt hắn. Lúc đầu, Thẩm Văn Tú thầm nghĩ mình đã gặp phải thổ phỉ Trần Lan Đầu rồi, Trần Lan Đầu luôn tấn công những phụ nữ làm việc một mình ở nơi hoang vắng. Hắn cứ thoắt ẩn thoắt hiện như cơn gió vậy. Nhưng người đàn ông này không phải thổ phỉ Trần Lan Đầu mà là Du Vũ Cường – anh hùng kháng Nhật về thị trấn được vài ngày. Thẩm Văn Tú hét toáng lên: “Đồ súc sinh, mau thả ta ra! Thả ta ra!” Thẩm Văn Tú vừa kêu la vừa cấu xe Du Vũ Cường. Du Vũ Cường nghiến răng nói: “Hôm nay, ông đẫy sẽ làm súc sinh một lần, ông đây sẽ khiến thàng đào ngũ Chung Thất kia phải mọc sừng”. Thẩm Văn Tú mệt mỏi mắng: “Súc sinh, mày bắt nạt một phụ nữ yếu ớt như tao thì sao đáng là hảo hán chứ, mày có bản lĩnh thì giết chết Chung Thất đi. Mày làm vậy khác gì lũ quỷ Nhật chứ? Bỏ tao ra, đồ súc sinh”. Du Vũ Cường không nói gì nữa, hắn điên cuồng xé quần áo Thẩm Văn Tú. Trong giây lát, cặp vú căng tròn với chi chít sẹo cùng tấm thân trần cũng đầy những vết sẹo to nhỏ của cô đã lộ ra. Du Vũ Cường ngây người ra, ánh mắt hắn có phần dịu đi. Nhưng chẳng mấy chốc hắn lại bừng cháy ngọn lửa dục vọng, hắn đè lên người Thẩm Văn Tú. Hai bàn tay hắn nắm chặt hai bàn tay đang cố xé da thịt hắn của cô… Gió vẫn bay lượn trong khe núi. Những cây trấu dại ngả rạp trong gió. Du Vũ Cường duỗi cánh tay trần ngồi trên thảm cỏ hút thuốc, Thẩm Văn Tú cũng đang nằm cạnh Du Vũ Cường. Cô dùng quần áo che ngực, hai tay nắm chặt quần áo, nghẹn ngào khóc. Khuôn mặt xinh đẹp dưới ánh nắng của cô thật làm rung động lòng người. Du Vũ Cường hút thuốc xong, thở dài một tiếng rồi đứng dậy nhìn Thẩm Văn Tú đang đau đớn trên thảm cỏ. Du Vũ Cường nói to: “Tôi thừa nhận tôi là thằng súc sinh, nhưng trong lòng cô rõ hơn tôi nhiều, thằng Chung Thất nó còn súc sinh hơn tôi, tôi có thể cưỡng hiếp cô nhưng tôi sẽ không đánh cô. Đàn ông đánh đàn bà còn ra gì chứ”. Nói xong, Du Vũ Cường xách bộ quân trang cũ của mình rảo bước bỏ đi. Thẩm Văn Tú nghẹn ngào, cuối cùng cô khóc rống lên. Tiếng khóc của Thẩm Văn Tú bay theo gió trong Quá Phong Cốc tĩnh mịch. Du Vũ Cường nghe thấy tiếng khóc của Thẩm Văn Tú nhưng không quay đầu lại.

13

  Đêm tối om, giơ tay ra cũng không nhìn thấy năm ngón tay của mình. Tam Lại Tử nằm sau tượng ông bà Thổ Địa, không thể nào ngủ được. Cả ngày hôm nay Tam Lại Tử rất hưng phấn vì được xem tiết mục biểu diễn đặc sắc của một người đã từng trải giang hồ. Sau khi phiên chợ tan, mọi người bỏ đi, Tam Lại Tử vẫn lưu luyến đừng nhìn người đàn ông trung niên mãi võ và cậu thiếu niên thu dọn đồ nghề. Tam Lại Tử đột nhiên cảm thấy mê mẩn cuộc sống phiêu bạt giang hồ của họ. Hắn nghĩ nếu mình có bản lĩnh như thế thì tốt biết bao, có thể ngày ngày làm trò bán thuốc kiếm tiền ở cổng miếu Thổ Địa. Thậm chí hắn còn bước tới trước mặt người đàn ông mãi võ, thành khẩn nói với ông ta: “Sư phụ, mong sư phụ mang tôi theo, tôi muốn được phiêu bạt giang hồ cùng hai người”. Người đàn ông trung niên nhìn hắn một cái, đưa cho hắn một tờ tiền: “Cậu đi đi!” Tam Lại Tử không nhận tờ tiền đó: “Tôi không cần tiền, tôi chỉ muốn phiêu bạt giang hồ cùng mấy người thôi”. Cậu thiếu niên khuyên: “Anh cầm tiền đi mua thứ gì mà ăn”. Tam Lại Tử đáp lại: “Tôi không phải là ăn mày, tôi không cần tiền của các người, tôi chỉ muốn được phiêu bạt giang hồ cùng mấy người thôi”. Người đàn ông trung niên cầm lại tiền, không ngó ngàng gì tới Tam Lại Tử nữa. Thu dọn đồ nghề xong, họ lên đường trong ánh chiều tà, đi tới nơi có phiên chợ khác. Tam Lại Tử đi theo họ một đoạn được dài, người đàn ông trung niên quay đầu lại nói với hắn: “Anh về đi, đi theo chúng tôi cũng chẳng có tác dụng gì đâu. Chúng tôi kiếm được chút tiền cũng khó khăn lắm, còn phải nuôi mấy miệng ăn nữa. Thêm một người là thêm một gánh nặng, chúng tôi không thể đem anh đi cùng. Mau về đi, đừng đi theo nữa, chúng tôi phải đi gấp”. Tam Lại Tử đứng nhìn họ lên con đường núi, rồi biến mất sau rặng núi. Hắn buồn bã đứng trong ánh chiều tà, đau khổ, người đàn ông trung niên không cần hắn, ngày mai hắn lại phải tới Ngũ Công Lĩnh tiếp tục đào huyệt cho chính mình. Trong bóng tối, hắn nghe thấy tiếng gió gào thét bên ngoài miếu Thổ Địa. Một lát sau, trời vọng xuống một tiếng sấm. Những tia chớp rạch xé bầu trời ngoài miếu Thổ Địa, những tia chớp đó như một con rồng lớn đang nhe nanh múa vuốt. Tiếng mưa rơi lộp độp sau màn sấm chớp. Cõi lòng Tam Lại Tử nặng nề trong tiếng mưa, miếu Thổ Địa bỗng trở nên buồn tẻ khác thường. Hắn nhớ lại giấc mơ tối hôm Tống Kha tới. Mấy hôm nay, giấc mơ đó cứ giày vò hắn. Chỉ khi đào huyệt, nỗi sợ hãi trong lòng hắn mới biến mất. Ngày hôm đó, Tam Lại Tử mơ thấy cả Tống Kha và hắn đều chết, một cái chết không rõ ràng. Sau khi Tống Kha và hắn chết, rất nhiều người mặc áo trắng khiến hắn và Tống Kha rới những ngôi mộ lộn xộn trên Ngũ Công Lĩnh. Hắn không nhìn rõ mặt những người mặc áo trắng, dường như họ không phải là người dân thị trấn Đường, tựa hồ họ tới từ một thế giới khác. Trên người họ tỏa ra luồng khí lạnh. Tống Kha và hắn được quấn trong hai chiếc chiếu rách. Những người mặc áo trắng lạnh lẽo ném họ vào lùm cỏ dại trên sườn núi. Có một giọng nói âm u cất lên: “Tam Lại Tử đến cả huyệt mộ cũng chưa đào xong, chúng ta không cần phải chôn bọn chúng, cứ vứt xuống chỗ này. Chúng ta đi thôi!”. Đám người mặc áo trắng đó bỗng biến mất như hơi nước bốc hơi vậy. Tam Lại Tử bị quấn trong manh chiếu rách, bỗng hắn nghe thấy tiếng cho sủa. Con chó thay lông đó sủa rồi nhảy về phía hắn, cắn chiếc chiếu rách, xác hắn lộ ra hoàn toàn trước mắt con chó. Con chó bắt đầu cắn chân hắn, dường như con chó đang ăn thịt hắn, sau đó ăn sạch sẽ người hắn, nó gặm từng miếng một giống như gặm khúc xương vậy. Tam Lại Tử hét lên thảm thiết, toàn thân hắn cứng đờ mặc cho con chó cắn xé… Lúc tỉnh lại, toàn thân hắn ướt đẫm mồ hôi. Hắn liền cầu xin Thổ Địa: “Ông Thổ Địa ơi, con đã chết chưa vậy? Con đã chết chưa vậy?” Chẳng có ai trả lời câu hỏi đó, chỉ có tiếng thở gấp gáp và nặng nề của hắn trong bóng tối. Tam Lại Tử trở mình, tối nay kiểu gì cũng không ngủ được. Không ngủ được thì không có gì đau khổ hơn là việc nghĩ tới phụ nữ. Thị trấn Đường có nhiều phụ nữ như vậy, nhưng chẳng có lấy một người là của hắn. Đến cả bọn điếm già trong thị trấn Đường cũng coi thường hắn, thậm chí đến cả mụ góa Dư Hoa Khố không đáng tiền kia cũng thường nhở nước miếng vào hắn. Nghĩ tới phụ nữ, toàn thân Tam Lại Tử nóng bừng. Hắn cảm tưởng như có hàng nghìn hàng vạn móng vuốt mèo đang cào xé tim hắn. Lúc này, hắn lại tưởng tượng cảnh Thẩm Văn Tú – vợ Chung Thất đang mây mưa với hắn. Thẩm Văn Tú là người phụ nữ xinh đẹp nhất thị trấn Đường, nhưng hắn có chết cũng không có được cô ta. Nghĩ mãi, nghĩ mãi cuối cùng hắn nghĩ tới cái chết. Có điều, chết cũng là chuyện không dễ dàng chút nào. Hắn đã trèo lên cây long não già trước miếu Thổ Địa không biết bao nhiêu lần, hy vọng Thổ Địa sẽ trừng phạt hắn chết. Thế nhưng, Thổ Địa vẫn không cho hắn được toại nguyện, cứ bắt hắn phải sống trong sự giày vò và nỗi sợ hãi. Tam Lại Tử bò dậy, hắn lách người qua tượng ông bà Thổ Địa, sau đó nhảy từ bàn thờ xuống rồi điên cuồng đi ra phía cửa miếu. Hắn lao vào màn mưa, hắn muốn cơn mưa như trút nước này sẽ dập tắt ngọn lửa dục vọng của hắn. Đột nhiên một tia sét sượt qua, cùng với ánh sáng lòe của tia chớp, hắn nhìn thấy một người mặc áo trắng không có mặt đang đứng hắn. Trong đêm mưa bão đó, Chung Thất không về nhà, hắn ôm cô kỹ nữ Dương Phi Nga đang khóc thút thít ngủ khò khò. Nước mưa lênh láng trên con đường nhỏ trong thị trấn Đường, nước dâng lên từ những chỗ trũng. Một người từ ngõ nhỏ đi ra, bước trên con đường nhỏ lát đá ngập nước đến cửa hiệu quan tài. Du Vũ Cường nằm trong quan tài ngẫm nghĩ. Từ sau khi trở về thị trấn Đường, ban ngày hắn đi kể cho mọi người nghe chuyện kháng Nhật của mình, kể cho tới giờ ăn cơm, sau đó ăn tạm bữa cơm đạm bạc ở nhà ai đó. Dù gì cũng không phải những ngày tháng đói kém nên người ta cũng không để ý tới bát cơm đó lắm. Buổi tối, hắn sống trong cửa hiệu quan tài, ông chủ hiệu quan tài thì muốn đóng cho Du Vũ Cường một chiếc giường nhưng hắn từ chối. Hắn muốn ngủ trong quan tài, quan tài là chiếc giường tốt nhất trên thế giới này. Trương Thiếu Băng biết tính hắn nên cũng mặc. Lúc Du Vũ Cường đang suy nghĩ thì bên ngoài vọng tới tiếng gõ cửa. Du Vũ Cường từ trong quan tài cảnh giác bó dậy.  

11

  Thị trấn Đường mỗi tháng có ba phiên chợ, lần lượt là mùng 5, 15 và 25. Đó là ngày chợ phiên trở thành địa điểm giao dịch ở vùng núi mười mấy dặm vuông của thị trấn Đường. Vào những ngày chơ phiên, các hộ dân gánh lương thực và đồ dùng hằng ngày tới thị trấn Đường để trao đổi. Những tiểu thương, những người buôn vặt cũng rất đông, họ vận chuyển hàng hóa ở thành phố cũng như ở những địa phương khác tới thị trấn Đường bán dạo. Ngày chợ phiên là ngày náo nhiệt nhất ở đây. Ngày 25 tháng Tư âm lịch là ngày chợ phiên của thị trấn Đường. Chưa tới trưa mà cả thị trấn đã náo nhiệt, hai bên đường bày rất nhiều sạp hàng, người tới chợ phiên cứ tấp nập lựa chọn những đồ mình cần, sau đó lớn tiếng mặc cả. Cửa hiệu truyền thần của Tống Kha mãi tới trưa vẫn đóng cửa, còn quán ăn Hồ Ký đối diện, khách đã ngồi kín. Dường như những âm thanh ồn ào trên phố không ảnh hưởng gì tới Tống Kha. Anh vẫn nằm trên giường. Trong cửa hiệu vẫn còn lưu lại mùi tanh nhẹ, mùi tanh len lỏi bay ra ngoài qua những khe cửa sổ đã đóng chặt. Một người phụ nữ khỏe mạnh, mặc áo vải thô màu lam gánh rất nhiều làn tre dừng bước khi đi ngang qua cửa hiệu. Cô ta đội chiếc nón sụp thấp xuống trán, không nhìn rõ mắt. Cô ta đứng đó, mũi phập phồng không ngừng như ngửi thấy mùi gì rất dễ chịu. Đứng được một lát, người phụ nữ đó mới gánh những chiếc làn tre đi để tìm nơi bán. Nghe thấy tiếng huyên náo của chợ phiên vọng tới và tiếng gõ cửa ở tầng dưới, khó khăn lắm Tống Kha mới tỉnh dậy được. Đầu óc nặng trịch, phải cố gắng lắm anh mới ngồi dậy được để đi xuống trong khi miệng khô rát. Lúc Tống Kha mở cửa, Chung Thất đang đứng trước cửa. Hắn đeo súng moze, mặc áo lụa đen, đội cả mũ lễ phục đen, đằng sau còn có hai đội viên đội bảo vệ đeo súng moze dài. Điều đó khiến Tống Kha kinh ngạc: “Đội trưởng Chung, anh làm vậy là sao?” Chung Thất cười: “Họa sĩ Tống, cậu đừng sợ, tôi không tới làm khó dễ cậu đâu. Hôm nay là ngày chợ phiên, tôi đem theo hai cậu lính này để giữ trật tự trị an thôi. Đi ngang qua cửa hiệu, thấy cậu vẫn đóng cửa, tôi thấy lạ bởi ngày chợ phiên là thời điểm tốt để làm ăn, cậu nên mở cửa. Những vùng lân cận đều biết có một họa sĩ mới tới thị trấn Đường, họ sẽ tới nhờ cậu vẽ truyền thần cho người chết. Cậu đừng có bỏ lỡ cơ hội này đấy”. Tống Kha đáp lại: “Cám ơn đội trưởng Chung, tôi sẽ mở cửa hiệu ngay đây”. Chung Thất đứng rất gần Tống Kha, hắn lại ngửi thấy mùi tanh. Hắn cũng không phân biệt được đó là mùi tanh của cái gì, chỉ biết nó rất khó ngửi, như mùi rắn chết khô vào ngày nắng gắt vậy. Hắn bịt mũi rồi đưa hai cậu bảo vệ đi. Sau khi Chung Thất đi rồi, có người khẽ nói với người đi cùng rằng: “Hóa ra Chung Thất lại là kẻ đào ngũ, đừng thấy hắn huênh hoang ra vẻ ta đây mà nhầm, hắn chỉ là đồ nhát chết. Hắn chẳng thể nào so sánh được với Du Vũ Cường, hắn còn sợ Du Vũ Cường gây phiền phức nên ngày nào cũng đeo súng moze. Xem kìa, bây giờ hắn lại đem hai thằng chó săn đi cừng nữa, rõ ràng là muốn diễu võ giương oai. Để cái loại đào ngũ dẫn dắt đội bảo vệ bảo vệ chúng ta, tôi thấy không an tâm lắm. Nếu có thổ phỉ tới cướp bóc, không hiểu hắn có bỏ chạy không nữa?” Tống Kha đi vào súc miệng, rửa mặt. Sau đó, anh ngồi trên ghế, không biết phải làm gì. Khi còn ở phố huyện, ngày nào anh cũng bày sạp vẽ, rồi ngồi đó há miệng chờ sung, chờ người tới mua tranh hoặc mời anh vẽ chân dung. Nói thật, số người tìm tới chỗ anh vẽ và mua tranh rất ít. Vì cuộc sống, anh đàn bán tranh của mình cho những cửa hiệu to hơn trong phố huyện với giá rẻ mạt để đổi lấy chút tiền kiếm bữa ăn và thuê nhà. Trước khi tới thị trấn Đường, anh đã bán tất cả tranh của mình rồi. Anh hy vọng cuộc sống sẽ có khởi đầu mới tại thị trấn Đường, anh không muốn lại phải sống chuỗi ngày như thế ở thị trấn Đường nữa. Nhưng bây giờ cuộc sống lại như trước kia, có điều bình yên hơn cuộc sống ở phố huyện. Những chuyện xảy ra lúc nửa đêm, anh quên sạch khi thức dậy, anh chỉ nhớ tới giấc mơ đêm hôm anh vừa tới thị trấn Đường, giấc mơ về ông Hồ Văn Tiến. Anh tin chắc linh hồn ông họa sĩ già vẫn lẩn khuất đâu đây trong cửa hiệu. Nhưng lúc này anh không còn sợ hãi nữa. Tống Kha ngồi ở đó ngắm mọi người tấp nập đi lại, anh cảm thấy mình không thể hòa nhập được với họ. Tam Lại Tử đứng ở cửa hiệu, cười nhăn nhở. Tống Kha không hiểu hắn ta muốn làm gì liền mời: “Tam Lại Tử, vào nhà đi”. Tam Lại Tử đáp lại: “Họa sĩ Tống, tôi không vào đâu”. Tống Kha thắc mắc: “Anh đứng đó làm gì? Đúng rồi, hôm nay anh không đến Ngũ Công Lĩnh đào huyệt hả?” Tam Lại Tử đáp: “Tôi muốn mời anh đi xem kịch với tôi. Hôm nay là ngày chợ phiên, lại có kịch xem, tại sao tôi phải đi Ngũ Công Lĩnh đào huyệt chứ? Mà cho dù có chết thì tôi cũng phải xem hết vở kịch này đã”. Mắt Tam Lại Tử có chút chân thật, ngây thơ. Điều này khiến Tống Kha cảm thấy Tam Lại Tử rất đáng yêu. Tam Lại Tử đáp: “Họa sĩ Tống, tôi không vào đâu, vở kịch đã bắt đầu rồi. Anh có đi xem không vậy?” Tống Kha nghĩ một lát trả lời: “Được, tôi sẽ đi xem kịch cùng anh”. Trên bãi đất bằng phẳng bên ngoài miếu Thổ Địa trấn Đông Đầu, mọi người đứng thành vòng tròn, bên trong trải một tấm vải đỏ loang lổ, người ta đặt rất nhiều lọ trên đó cùng một đống cành cây được cắt thành từng đoạn như ngón tay, trên ấm vải đỏ còn có một chiếc lồng tre. Chiếc lồng tre được phủ một tấm vải đen. Trong vòng tròn là một người đàn ông cởi trần đang múa quyền, toàn thân ông ta đen trũi, chi chít sẹo, trên bụng buộc một chiếc đai võ màu đỏ. Bên cạnh ông ta là một cậu thiếu niên cởi trần, bụng cũng buộc đai võ, tay cầm viên gạch xanh. Tam Lại Tử lôi Tống Kha vào phía trước sàn đấu. Hắn ngồi bệt xuống đất, Tống Kha đứng sau. Tam Lại Tử ngắm nghía người đàn ông từng phiêu bạt giang hồ múa quyền, trông rất hớn hở, hai tay nắm thành nắm đấm cứ múa lung tung, miệng còn phát ra tiếng hự hự. Tống Kha lấy một quyển sổ và một cây bút máy từ trong túi ra, anh định vẽ lại cảnh này. Người đàn ông trung niên múa quyền xong liền chụm tay cảm ơn mọi người, sau đó ông ta ngồi xếp bằng dưới đất, nhắm mắt, vận công, cơ bắp trên người ông ta nổi lên cuồn cuộn, trông rắn chắc như đá vậy. Một lát sau, người thiếu niên đứng bên cạnh tiến về phía trước rồi đập mạnh vào đầu người đàn ông trung niên bằng viên gạch nặng trịch. Hai mảnh gạch vỡ vụn, đầu của người đàn ông trung niên không hề hấn gì. Tam Lại Tử hò hét khên hay, sau đó hắn vỗ tay cật lực. Đám người đứng vây quanh rộ lên tiếng khen hay. Biểu diễn xong, người đàn ông trung niên cầm một chiếc lọ trên tấm vải đỏ lấy ra mấy viên thuốc nang màu đen rồi nuốt khan. Sau đó, ông ta bắt đầu giới thiệu công hiệu thần kỳ của viên nang khi bị ngã. Chỉ có một số ít người mua thuốc. Tống Kha cảm thấy thương cảm hai người mãi võ bán thuốc kia. Tống Kha còn chưa định thần thì người đàn ông trung niên lại bắt đầu biểu diễn tiết mục mới. Tống Kha nhìn thấy một con rắn, một con rắn rất dài, Tam Lại Tử nói đó là loài rắn có tên Quá Sơn Phong, là một trong những loại rắn độc nhất trong núi. Người đàn ông trung niên lội con rắn từ chiếc làn tre ra, ông dùng ngón trỏ và ngón cái tay phải kẹp đầu rắn, thân con rắn quấn vào cánh tay chắc nịch của ông ta. Lúc này sắc mặt cậu thiếu niên ban nãy lộ vẻ sợ hãi. Cậu ta vội vàng lấy một chiếc bát sành thô ráp đựng nước lọc và một cành cây trên tấm vải đỏ, mài cành cây vào chiếc bát sành. Người đàn ông trung niên nói với cậu ta: “Con trai, đừng sợ! Không sao đâu! Thuốc của chúng ta tốt, không chết người đâu”. Tống Kha không đoán được người đàn ông trung niên sẽ làm gì, bất giác anh toát mồ hôi. Lúc này, những người ngồi xung quanh Tống Kha đều lặng lẽ ngồi cách xa anh và Tam Lại Tử, họ ngửi thấy mùi tanh rất khó ngửi kia. Họ cho rằng cái mùi khó ngửi đó là từ người Tam Lại Tử hoặc Tống Kha mà ra. Ở một nơi cách đó không xa, một người phụ nữ đội nón đang cầm một chiếc đòn gánh đi về phía Tống Kha. Người đàn ông trung niên nhìn chàng thiếu niên đi mài xong cành cây, liền thè chiếc lưỡi đó quay một vòng cho tất cả mọi người có mặt tại đó xem. Sau đó, ông ta đưa lưỡi vào miệng con rắn độc đang mở to kia. Cậu thanh niên đứng bên cạnh, tay cầm chiếc bát sành run nhẹ. Tất cả mọi người có mặt tại đó đều lo lắng cho ông ta, một vài người phụ nữ còn lấy tay bịt mắt lại. Tống Kha lặng người, răng anh va vào nhau lập cập. Tam Lại Tử há hốc mồm, nước dãi chảy ra ở khóe miệng mà không biết. Lúc này, người phụ nữ đội nón cầm chiếc đòn gánh đang đứng ngay sau Tống Kha. Cô ta cúi đầu ngửi, như đang ngửi được mùi thơm kỳ lạ mà chẳng để ý gì đến nhất cử nhất động của người đàn ông trung niên. Chiếc lưỡi của người đàn ông trung niên bị con rắn cắn một nhát. Có người kinh hãi hét toáng lên. Người đàn ông trung niên dùng răng cắn chặt lưỡi mình, ông vẫn để lưỡi thè ra phía ngoài. Ông ta vẫn bình thản bỏ con rắn vào lồng, rồi dùng vải đen che lại. Sau đó, ông ta đỡ lấy chiếc bát sành từ tay cậu thiếu niên, đi men theo đám người xem một vòng. Một tay cầm chiếc bát sành, tay kia chỉ vào chiếc lưỡi sau khi bị rắn cắn đang sưng phồng và rĩ máu của mình, họng phát ra âm thanh lầm rầm. Tiếp đó, người đàn ông trung niên dùng tay lấy thuốc trong chiếc bát sành bội vào lưỡi mình. Nước thuốc nhanh chóng có tác dụng với lưỡi của ông ta, người đàn ông tuốt ra một đống chất nhờn nhờn như nước mũi từ lưỡi mình, rồi vứt xuống đất. Lưỡi của ông ta đã ngừng rỉ máu, vết sưng cũng tan biến một cách thần kỳ. Cuối cùng, ông ta uống một hơi hết sạch nước thuốc còn lại trong bát sành, sau đó ông ta vứt chiếc bát đi và lại làm động tác cám ơn mọi người. Mọi người đáp trả bằng tràng pháo tay và tiếng hoan hô lớn. Tống Kha như trút được hòn đá nặng trên người, khuôn mặt anh lộ vẻ hân hoan. Bây giờ Tống Kha mới biết, những cành cây kia là thuốc trị rắn cắn. Trên núi nhiều rắn nên thuốc trị rắn cắn là thứ hữu dụng với người bản địa, mọi người nô nức bỏ tiền mua thuốc trị rắn cắn. Tam Lại Tử đứng dậy, phủi mông rồi nói với Tống Kha: “Họa sĩ Tống, anh cũng nên mua một liều thuốc trị rắn cắn đi”. Tống Kha đáp: “Chỉ để bán một ít thuốc mà đùa với cả mạng sống”. Người phụ nữ đứng đằng sau Tống Kha không biết biến mất từ lúc nào. Con chí đứng dưới cây long não già nhìn Tống Kha rên rỉ, mắt nó rịn ra dịch thể nhờn nhờn.  

12

  Cũng đúng vào ngày chợ phiên 25 tháng Tư đó đã xảy ra một chuyện không ai tiên liệu trước được. Việc đó xảy ra đã tạo cơ hội cho chàng họa sĩ vắng khách trong thị trấn Đường vẽ truyền thần cho người chết. Trái ngước hẳn với vẻ náo nhiệt của chợ phiên, hang núi Quá Phong Cốc nằm sau Ngũ Công Lĩnh lại vắng lặng khác thường. Nước suối róc rách chảy ra từ khe núi, đất bùn hai bên dòng suối mọc đầy cây trấu dại. Đây là thứ thỏ thích ăn nhất. Bình thường, có rất ít người tới bờ suối nhổ cây trấu dại, hôm nay đúng ngày chợ phiên nên Quá Phong Cốc lại càng vắng vẻ, chỉ có gió thổi qua khe núi dưới ánh mặt trời. Buổi trưa, có một phụ nữ quàng chiếc khăn hoa màu xanh da trời xuất hiện ở Quá Phong Cốc. Chọn chỗ cây trấu dại mọc tươi tốt nhất, đặt chiếc gùi trên vai xuống, cô gái ngồi xuống bắt đầu công việc của mình. Người phụ nữ này chính là vợ Chung Thất – Thẩm Văn Tú. Mọi phụ nữ trong thị trấn đều cho phép mình nghỉ vào ngày chợ phiên; hai, ba người cùng nhau đi ngắm chợ phiên, mua những thứ đồ mà mình thích hoặc đi xem mãi võ. Đôi khi lại có những nghệ nhân múa rối dựng rạp biểu diễn trong phiên chợ, hầu hết các bà các cô đều bị thu hút bởi trò múa rối. Họ cùng khóc và cười theo số phận của những nhân vật trong vở rối, trong giây lát họ quên đi cuộc sống vất vả và khổ cực hằng ngày của bản thân. Thẩm Văn Tú là người cô độc, cô chẳng có lấy một người bạn ở thị trấn Đường. Chung Thất còn không cho phép cô ngồi nói chuyện nhà chuyện xóm với những người phụ nữ khác. Hơn nữa, cô lại là người phụ nữ được Chung Thất đưa về thị trấn trên đường đào tẩu từ tiền tuyến. Ngày đầu tiên cô được đưa về, phụ nữ trong thị trấn đã nhìn cô bằng ánh mắt khó hiểu. Những ánh mắt ấy giống hệt với ánh mắt họ quẳng vào những cô kỹ nữ trong quán Tiêu Dao ở ngõ Hoàng Đế. Ngày chợ phiên đối với Thẩm Văn Tú là một sự giày vò, sự náo nhiệt của phiên chợ chỉ gợi lại hồi ức đau khổ nơi quê nhà của Thẩm Văn Tú. Cho nên người phụ nữ tha hương vô cùng cô độc này thường trốn ở nơi hẻo lánh vào những ngày chợ phiên náo nhiệt trong thị trấn. Thẩm Văn Tú không ngờ cái ngày nắng rực rỡ này lại đen tối với cô như vậy. Thực ra, lúc cô địu gùi ra khỏi thị trấn Đường, đã có một đôi mắt tàn độc, chất chứa thù hận dõi theo nhưng Thẩm Văn Tú không hề phát hiện ra. Thẩm Văn Tú ngồi xuống nhổ cỏ, cặp mông tròn trịa săn chắc. Đôi mắt kia thấy cặp mông tròn trịa ấy đột nhiên nhảy chồm về phía sau cô như con báo nhảy khỏi lùm. Thẩm Văn Tú không chút phòng bị, nhanh chóng bị kẻ lạ mặt kia xô ngã. Người đàn ông khỏe mạnh như vâm kia lột quần cô từ phía sau, rồi lật người cô lại. Lúc này Thẩm Văn Tú đã nhìn rõ mặt hắn. Lúc đầu, Thẩm Văn Tú thầm nghĩ mình đã gặp phải thổ phỉ Trần Lan Đầu rồi, Trần Lan Đầu luôn tấn công những phụ nữ làm việc một mình ở nơi hoang vắng. Hắn cứ thoắt ẩn thoắt hiện như cơn gió vậy. Nhưng người đàn ông này không phải thổ phỉ Trần Lan Đầu mà là Du Vũ Cường – anh hùng kháng Nhật về thị trấn được vài ngày. Thẩm Văn Tú hét toáng lên: “Đồ súc sinh, mau thả ta ra! Thả ta ra!” Thẩm Văn Tú vừa kêu la vừa cấu xe Du Vũ Cường. Du Vũ Cường nghiến răng nói: “Hôm nay, ông đẫy sẽ làm súc sinh một lần, ông đây sẽ khiến thàng đào ngũ Chung Thất kia phải mọc sừng”. Thẩm Văn Tú mệt mỏi mắng: “Súc sinh, mày bắt nạt một phụ nữ yếu ớt như tao thì sao đáng là hảo hán chứ, mày có bản lĩnh thì giết chết Chung Thất đi. Mày làm vậy khác gì lũ quỷ Nhật chứ? Bỏ tao ra, đồ súc sinh”. Du Vũ Cường không nói gì nữa, hắn điên cuồng xé quần áo Thẩm Văn Tú. Trong giây lát, cặp vú căng tròn với chi chít sẹo cùng tấm thân trần cũng đầy những vết sẹo to nhỏ của cô đã lộ ra. Du Vũ Cường ngây người ra, ánh mắt hắn có phần dịu đi. Nhưng chẳng mấy chốc hắn lại bừng cháy ngọn lửa dục vọng, hắn đè lên người Thẩm Văn Tú. Hai bàn tay hắn nắm chặt hai bàn tay đang cố xé da thịt hắn của cô… Gió vẫn bay lượn trong khe núi. Những cây trấu dại ngả rạp trong gió. Du Vũ Cường duỗi cánh tay trần ngồi trên thảm cỏ hút thuốc, Thẩm Văn Tú cũng đang nằm cạnh Du Vũ Cường. Cô dùng quần áo che ngực, hai tay nắm chặt quần áo, nghẹn ngào khóc. Khuôn mặt xinh đẹp dưới ánh nắng của cô thật làm rung động lòng người. Du Vũ Cường hút thuốc xong, thở dài một tiếng rồi đứng dậy nhìn Thẩm Văn Tú đang đau đớn trên thảm cỏ. Du Vũ Cường nói to: “Tôi thừa nhận tôi là thằng súc sinh, nhưng trong lòng cô rõ hơn tôi nhiều, thằng Chung Thất nó còn súc sinh hơn tôi, tôi có thể cưỡng hiếp cô nhưng tôi sẽ không đánh cô. Đàn ông đánh đàn bà còn ra gì chứ”. Nói xong, Du Vũ Cường xách bộ quân trang cũ của mình rảo bước bỏ đi. Thẩm Văn Tú nghẹn ngào, cuối cùng cô khóc rống lên. Tiếng khóc của Thẩm Văn Tú bay theo gió trong Quá Phong Cốc tĩnh mịch. Du Vũ Cường nghe thấy tiếng khóc của Thẩm Văn Tú nhưng không quay đầu lại.  

13

  Đêm tối om, giơ tay ra cũng không nhìn thấy năm ngón tay của mình. Tam Lại Tử nằm sau tượng ông bà Thổ Địa, không thể nào ngủ được. Cả ngày hôm nay Tam Lại Tử rất hưng phấn vì được xem tiết mục biểu diễn đặc sắc của một người đã từng trải giang hồ. Sau khi phiên chợ tan, mọi người bỏ đi, Tam Lại Tử vẫn lưu luyến đừng nhìn người đàn ông trung niên mãi võ và cậu thiếu niên thu dọn đồ nghề. Tam Lại Tử đột nhiên cảm thấy mê mẩn cuộc sống phiêu bạt giang hồ của họ. Hắn nghĩ nếu mình có bản lĩnh như thế thì tốt biết bao, có thể ngày ngày làm trò bán thuốc kiếm tiền ở cổng miếu Thổ Địa. Thậm chí hắn còn bước tới trước mặt người đàn ông mãi võ, thành khẩn nói với ông ta: “Sư phụ, mong sư phụ mang tôi theo, tôi muốn được phiêu bạt giang hồ cùng hai người”. Người đàn ông trung niên nhìn hắn một cái, đưa cho hắn một tờ tiền: “Cậu đi đi!” Tam Lại Tử không nhận tờ tiền đó: “Tôi không cần tiền, tôi chỉ muốn phiêu bạt giang hồ cùng mấy người thôi”. Cậu thiếu niên khuyên: “Anh cầm tiền đi mua thứ gì mà ăn”. Tam Lại Tử đáp lại: “Tôi không phải là ăn mày, tôi không cần tiền của các người, tôi chỉ muốn được phiêu bạt giang hồ cùng mấy người thôi”. Người đàn ông trung niên cầm lại tiền, không ngó ngàng gì tới Tam Lại Tử nữa. Thu dọn đồ nghề xong, họ lên đường trong ánh chiều tà, đi tới nơi có phiên chợ khác. Tam Lại Tử đi theo họ một đoạn được dài, người đàn ông trung niên quay đầu lại nói với hắn: “Anh về đi, đi theo chúng tôi cũng chẳng có tác dụng gì đâu. Chúng tôi kiếm được chút tiền cũng khó khăn lắm, còn phải nuôi mấy miệng ăn nữa. Thêm một người là thêm một gánh nặng, chúng tôi không thể đem anh đi cùng. Mau về đi, đừng đi theo nữa, chúng tôi phải đi gấp”. Tam Lại Tử đứng nhìn họ lên con đường núi, rồi biến mất sau rặng núi. Hắn buồn bã đứng trong ánh chiều tà, đau khổ, người đàn ông trung niên không cần hắn, ngày mai hắn lại phải tới Ngũ Công Lĩnh tiếp tục đào huyệt cho chính mình. Trong bóng tối, hắn nghe thấy tiếng gió gào thét bên ngoài miếu Thổ Địa. Một lát sau, trời vọng xuống một tiếng sấm. Những tia chớp rạch xé bầu trời ngoài miếu Thổ Địa, những tia chớp đó như một con rồng lớn đang nhe nanh múa vuốt. Tiếng mưa rơi lộp độp sau màn sấm chớp. Cõi lòng Tam Lại Tử nặng nề trong tiếng mưa, miếu Thổ Địa bỗng trở nên buồn tẻ khác thường. Hắn nhớ lại giấc mơ tối hôm Tống Kha tới. Mấy hôm nay, giấc mơ đó cứ giày vò hắn. Chỉ khi đào huyệt, nỗi sợ hãi trong lòng hắn mới biến mất. Ngày hôm đó, Tam Lại Tử mơ thấy cả Tống Kha và hắn đều chết, một cái chết không rõ ràng. Sau khi Tống Kha và hắn chết, rất nhiều người mặc áo trắng khiến hắn và Tống Kha rới những ngôi mộ lộn xộn trên Ngũ Công Lĩnh. Hắn không nhìn rõ mặt những người mặc áo trắng, dường như họ không phải là người dân thị trấn Đường, tựa hồ họ tới từ một thế giới khác. Trên người họ tỏa ra luồng khí lạnh. Tống Kha và hắn được quấn trong hai chiếc chiếu rách. Những người mặc áo trắng lạnh lẽo ném họ vào lùm cỏ dại trên sườn núi. Có một giọng nói âm u cất lên: “Tam Lại Tử đến cả huyệt mộ cũng chưa đào xong, chúng ta không cần phải chôn bọn chúng, cứ vứt xuống chỗ này. Chúng ta đi thôi!”. Đám người mặc áo trắng đó bỗng biến mất như hơi nước bốc hơi vậy. Tam Lại Tử bị quấn trong manh chiếu rách, bỗng hắn nghe thấy tiếng cho sủa. Con chó thay lông đó sủa rồi nhảy về phía hắn, cắn chiếc chiếu rách, xác hắn lộ ra hoàn toàn trước mắt con chó. Con chó bắt đầu cắn chân hắn, dường như con chó đang ăn thịt hắn, sau đó ăn sạch sẽ người hắn, nó gặm từng miếng một giống như gặm khúc xương vậy. Tam Lại Tử hét lên thảm thiết, toàn thân hắn cứng đờ mặc cho con chó cắn xé… Lúc tỉnh lại, toàn thân hắn ướt đẫm mồ hôi. Hắn liền cầu xin Thổ Địa: “Ông Thổ Địa ơi, con đã chết chưa vậy? Con đã chết chưa vậy?” Chẳng có ai trả lời câu hỏi đó, chỉ có tiếng thở gấp gáp và nặng nề của hắn trong bóng tối. Tam Lại Tử trở mình, tối nay kiểu gì cũng không ngủ được. Không ngủ được thì không có gì đau khổ hơn là việc nghĩ tới phụ nữ. Thị trấn Đường có nhiều phụ nữ như vậy, nhưng chẳng có lấy một người là của hắn. Đến cả bọn điếm già trong thị trấn Đường cũng coi thường hắn, thậm chí đến cả mụ góa Dư Hoa Khố không đáng tiền kia cũng thường nhở nước miếng vào hắn. Nghĩ tới phụ nữ, toàn thân Tam Lại Tử nóng bừng. Hắn cảm tưởng như có hàng nghìn hàng vạn móng vuốt mèo đang cào xé tim hắn. Lúc này, hắn lại tưởng tượng cảnh Thẩm Văn Tú – vợ Chung Thất đang mây mưa với hắn. Thẩm Văn Tú là người phụ nữ xinh đẹp nhất thị trấn Đường, nhưng hắn có chết cũng không có được cô ta. Nghĩ mãi, nghĩ mãi cuối cùng hắn nghĩ tới cái chết. Có điều, chết cũng là chuyện không dễ dàng chút nào. Hắn đã trèo lên cây long não già trước miếu Thổ Địa không biết bao nhiêu lần, hy vọng Thổ Địa sẽ trừng phạt hắn chết. Thế nhưng, Thổ Địa vẫn không cho hắn được toại nguyện, cứ bắt hắn phải sống trong sự giày vò và nỗi sợ hãi. Tam Lại Tử bò dậy, hắn lách người qua tượng ông bà Thổ Địa, sau đó nhảy từ bàn thờ xuống rồi điên cuồng đi ra phía cửa miếu. Hắn lao vào màn mưa, hắn muốn cơn mưa như trút nước này sẽ dập tắt ngọn lửa dục vọng của hắn. Đột nhiên một tia sét sượt qua, cùng với ánh sáng lòe của tia chớp, hắn nhìn thấy một người mặc áo trắng không có mặt đang đứng hắn. Trong đêm mưa bão đó, Chung Thất không về nhà, hắn ôm cô kỹ nữ Dương Phi Nga đang khóc thút thít ngủ khò khò.   Nước mưa lênh láng trên con đường nhỏ trong thị trấn Đường, nước dâng lên từ những chỗ trũng. Một người từ ngõ nhỏ đi ra, bước trên con đường nhỏ lát đá ngập nước đến cửa hiệu quan tài. Du Vũ Cường nằm trong quan tài ngẫm nghĩ. Từ sau khi trở về thị trấn Đường, ban ngày hắn đi kể cho mọi người nghe chuyện kháng Nhật của mình, kể cho tới giờ ăn cơm, sau đó ăn tạm bữa cơm đạm bạc ở nhà ai đó. Dù gì cũng không phải những ngày tháng đói kém nên người ta cũng không để ý tới bát cơm đó lắm. Buổi tối, hắn sống trong cửa hiệu quan tài, ông chủ hiệu quan tài thì muốn đóng cho Du Vũ Cường một chiếc giường nhưng hắn từ chối. Hắn muốn ngủ trong quan tài, quan tài là chiếc giường tốt nhất trên thế giới này. Trương Thiếu Băng biết tính hắn nên cũng mặc. Lúc Du Vũ Cường đang suy nghĩ thì bên ngoài vọng tới tiếng gõ cửa. Du Vũ Cường từ trong quan tài cảnh giác bó dậy.

14

  Thị trấn Đường trở nên u uất, ẩm ướt trong màn mưa. Đây là mùa mưa ở thị trấn Đường, hằng năm cứ vào thời điểm này, mưa rất nhiều. Điều khiến người ta lo lắng là lượng mưa quá nhiều sẽ tạo thành nước lẽ trên rừng rồi đổ xuống. Thị trấn Đường được xây dựng trên một bồn địa nhỏ, bốn bề là núi, nếu xảy ra lũ quét, thị trấn Đường chắc chắn sẽ bị nước lũ đe dọa. Mưa đã hai ngày không ngớt, nước suối đã dâng cao, dòng nước lớn màu vàng đục còn cuốn trôi cả cây cầu gỗ ở Ngũ Công Lĩnh. Hằng năm, cứ vào lúc này, lại có một chiếc thuyền gỗ đưa người qua bờ bên kia. Sau khi mùa mưa kết thúc, người ta xây lại cây cầu gỗ. Người dân trong thị trấn Đường đều phấp phỏng lo sợ, chốc chốc lại chạy ra xem nước bên khe suối đã dâng cao tới đâu. Tống Kha không có khái niệm này, anh không hề biết tới sự ghê gớm của lũ quét. Hôm nay đã sắp tới trưa mà anh vẫn chưa mở cửa, cũng chẳng có ai tới tìm anh. Mưa hôm nay không lớn lắm, nước mưa rơi trên mái hiên nhịp nhàng gõ vào thần kinh Tống Kha. Tống Kha dựng giá vẽ trên gác xép, anh chuẩn bị vẽ một số tranh sơn dầu. Nhưng khi cầm cọ vẽ, tim anh bỗng run lên. Tống Kha chợt nghĩ tới Tam Lại Tử. Kể từ sau lần gặp nhau trong ngày chợ phiên đó, hai ngày nay Tống Kha không thấy bóng dáng hắn đâu. Anh bỗng lo lắng về sự cô độc của mình ở thị trấn Đường. Nghĩ tới Tam Lại Tử, Tống Kha chẳng còn hứng vẽ vời nữa. Không biết có xảy ra chuyện gì với Tam Lại Tử không nữa? Tống Kha cầm ô đi trên con đường nhỏ của thị trấn, một mùi tanh nhẹ tỏa ra. Người đi lại trên đường thưa thớt nên mùi tanh kia không thu hút sự chú ý của họ. Rất nhiều người trong thị trấn đã ra đập sông xem tình hình nước dâng rồi. Tống Kha đi về phía miếu Thổ Địa. Bóng dáng cao gầy của anh trông hơi thê thảm. Tống Kha đi tới trước cửa miếu Thổ Địa, cửa miếu vẫn mở. Chỉ khi đi ngủ vào buổi tối, Tam Lại Tử mới thỉnh thoảng đóng hai cánh cửa to nặng đó lại. Tống Kha đứng ở cửa miếu gọi to: “Tam Lại Tử!”. Trong miếu không có ai trả lời. Tống Kha liền đi vào trong miếu. Tống Kha không tìm thấy Tam Lại Tử, anh chỉ nhìn thấy những dụng cụ đào huyệt của hắn trong góc miếu. Điều đó chứng tỏ hắn không có ở sườn núi Ngũ Công Lĩnh. Vậy thì hắn đi đâu đây? Sau khi tới thị trấn Đường, dường như ngày nào anh cũng gặp Tam Lại Tử, tận đáy lòng anh đã coi con người khốn khổ bị người dân trông thị trấn Đường khinh bỉ này là bạn. Anh bắt đầu phấp phỏng lo âu nhưng cũng chẳng ích gì. Trong thị trấn Đường xa lạ này, tuy nói là không lớn lắm, chẳng qua chỉ là con đường nhỏ với vài cái ngõ dài mấy dặm, nhưng muốn tìm một người cũng chẳng dễ chút nào. Tống Kha bất lực thở dài. Đúng lúc anh định rời khỏi mdi thì gặp một người ướt như chuột lột xông vào. Người không mang bất cứ một dụng cụ đi mưa nào này là Du Vũ Cường. Trong tay hắn ta cầm một con dao sắc nhọn. Mặt Du Vũ Cường hiện rõ vẻ hung tợn, hắn ta lớn tiếng hỏi Tống Kha: “Họa sĩ Tống, anh có thấy Tam Lại Tử không?” Tống Kha lắc đầu đáp lại: “Tôi cũng đang tìm anh ta đây”. Du Vũ Cường liếc nhìn Tống Kha một cái: “Anh tìm Tam Lại Tử làm gì vậy? Có phải cũng muốn hắn đào huyệt cho anh không?” Tống Kha lắc lắc đầu. Du Vũ Cường nói tiếp: “Anh không tìm hắn đào huyệt thì còn chuyện mẹ gì chứ. Tam Lại Tử sinh ra là để đào huyệt cho người khác, ai còn có thể đào huyệt giỏi hơn hắn chứ? Người như vậy vẫn chưa được sinh ra ở thị trấn Đường. Đúng rồi, nếu anh tìm thấy Tam Lại Tử, thì nhắn với hắn rằng Du Vũ Cường tôi tới tìm. Bảo hắn đào một cái huyệt, hôm nay không phải Chung Thất chết thì tôi chết. Thôi không phí lời với anh nữa, tôi phải đi tìm Chung Thất tính sổ”. Tống Kha sợ hãi nhìn Du Vũ Cường cầm con dao sắc nhọn lao vào màn mưa. Tống Kha đột nhiên nói to theo bóng của Du Vũ Cường: “Tam Lại Tử đã đào xong huyệt ở Ngũ Công Lĩnh rồi”.  

15

  Du Vũ Cường đội mưa chạy tới trước quầy bán thịt của Trịnh Mã Thủy, hắn giấu con dao nhọn vào đống thịt lợn để trên bàn. Quệt nước mưa vương trên mặt, hắn nói: “Mã Thủy, cắt cho tôi một miếng thịt”. Do trời mưa nên việc buôn bán rất ế ẩm, con lợn Trịnh Mã Thủy giết sáng hôm qua còn để đến hôm nay. Thấy Du Vũ Cường tới mua thịt, khuôn mặt béo phì nhờn mỡ của Mã Thủy lộ vẻ vui mừng: “Vũ Cường, cậu muốn lấy bao nhiêu?” Du Vũ Cường sừng sộ hỏi lại: “Anh nói xem tôi có thể ăn được bao nhiêu?” Trịnh Mã Thủy cười hì hì: “Tôi làm sao biết cậu có thể ăn được bao nhiêu?” Du Vũ Cường không nhẫn nại được nữa: “Nói vớ vẩn ít thôi, mau cắt cho tôi một cân thịt đi!” Trịnh Mã Thủy cười đáp lại: “Được thôi, cắt cho cậu một cân thịt ngon. Vũ Cường à, tôi cũng phải nói rõ, con lợn này giết ngày hôm qua. Thịt không được tươi lắm, nhưng tôi đảm bảo vẫn chưa hỏng, giá tiền có thể giảm một nửa. Dù gì tôi cũng chỉ còn chừng này, phải bán gấp thôi”. Nhưng trong lòng Mã Thủy lại nghĩ thầm: “Mẹ mày chứ, chẳng qua cũng chỉ là thằng côn đồ, còn bày đặt dữ dằn với ông. Con dao mổ lợn trong tay ông cũng không phải dễ chơi đâu, biết điều thì đừng có làm ông tức đấy”. Du Vũ Cường nhìn Trịnh Mã Thủy cắt xong thịt, chẳng cân kéo gì đã dùng sợi rơm ướt buộc lại. Du Vũ Cường tức tối nói: “Không cần phải buộc đâu! Bây giờ tôi ăn hết chỗ thịt này luôn”. Trịnh Mã Thủy ngạc nhiên trợn tròn mắt: “Cậu nói gì vậy?” Du Vũ Cường không thèm để ý tới Mã Thủy, hắn vung con dao nhọn để trên bàn cắt miếng thịt thành từng miếng nhỏ. Sau đó hắn nhảy phắt lên chiếc bàn để thịt, dùng mũi dao nhọn chọc một miếng thịt đưa vào mồm. Du Vũ Cường cố nhai miếng thịt sống, nhai được vài cái liền nuốt xuống họng. Sau khi nuốt xong miếng thịt đầu tiên, Du Vũ Cường quay sang Trịnh Mã Thủy đang đứng như trời trồng tại đó: “Mẹ kiếp, thịt của mày đúng là chẳng tươi tí nào”. Trịnh Mã Thủy gật đầu lia lịa: “Đúng vậy, đúng là không tươi thật. Tôi chẳng phải đã có lời với anh rồi đó thôi”. Trịnh Mã Thủy hoài nghi, có lẽ Du Vũ Cường điên rồi. Mà nếu như hắn không bị điên thì ăn hết một cân thịt lợn sống kia cũng điên thôi. Theo cách nói của người dân trong thị trấn, ăn thịt lợn sống sẽ mắc bệnh lợn điên. Bệnh lợn điên là bệnh điên không chữa được, mắc chứng bệnh này cũng không sống lâu được. Trịnh Mã Thủy đứng ngây ra nhìn Du Vũ Cường nhét từng miếng thịt lợn sống vào miệng. Mạch máu hai bên huyệt thái dương của Du Vũ Cường nỗi lên như con giun. Lúc này có vài người vây lại xem. Có người nói với hắn: “Du anh hùng à, anh không nên ăn thịt lợn sống như vậy, sẽ bị bệnh lợn điên đấy”. Du Vũ Cường vừa nhai vừa nói: “Tôi ăn cả thịt người chết rồi ấy chứ, tôi sợ gì cái thứ thịt lợn sống này”. Mắt Du Vũ Cường vằn đỏ. Bộ dạng ăn thịt lợn sống của hắn giống như đang ăn thịt người vậy. Đúng là đáng sợ vô cùng. Lúc này, vợ của Chung Thất – Thẩm Văn Tú đang trốn sau bức tường trong ngõ nhỏ nhìn Du Vũ Cường ăn thịt lợn sống. Mắt cô nhòe lệ. Du Vũ Cường nhanh chóng ăn hết một cân thịt lợn sống, quệt mồm rồi nói to với Trịnh Mã Thủy: “Bao nhiêu tiền?” Trịnh Mã Thủy đáp lại: “Người anh em Vũ Cường, cân thịt này coi như tôi tặng cậu, không lấy tiền đâu. Cậu đi đi, nếu như vẫn muốn ăn thịt lợn, cậu cứ tới đây ăn bao nhiêu cũng được. Tôi bao hết, ai bảo cậu là anh hùng chứ?” Du Vũ Cường móc ra một đồng bạc trắng từ trong túi bộ quân phục cũ ném xuống bàn: “Mày cho rằng ông là ăn mày hả? Đồ chó ghẻ! Cất tiền đi, không cần thối lại đâu. Nếu ông mày còn sống trở về ăn thịt lợn của mày thì tính sau nhé. Mày yên tâm đi, đồng tiền này là ông mày đổi bằng mạng sống đấy, không phải làm thổ phỉ ăn cướp đâu”. Du Vũ Cường nói xong liền xách con dao nhọn vừa cắt thịt còn nhờn mỡ tiến về ngõ Hoàng Đế. Nước mưa hắt trên người hắn lộp bộp, mưa lại dày hơn. Một vài người đi theo hắn. Lúc hắn sắp vào ngõ Hoàng Đế, ông chủ hiệu quan tài Trương Thiếu Băng cầm chiếc ô bằng giấy dầu đuổi theo, chặn Du Vũ Cường lại: “Người anh em Vũ Cường, hôm nay cậu sao vậy? Cậu muốn làm gì thế? Mau về đi, cậu có thể về được tới đây đã là phúc to mệnh lớn. Mấy hôm nay tôi đã lo cho cậu một mối, đang chờ ngày tốt sẽ tiến hành. Sao cậu lại nghĩ quẩn thế hả, nó là thằng đào ngũ, cậu là anh hùng, dù gì cũng phải tiếp tục sống chứ?” Du Vũ Cường đẩy Trương Thiếu Băng ra nói: “Thiếu Băng à, anh là anh em của tôi, tôi biết anh nhát, đến cả quan tài trong cửa hiệu cũng khiến anh sợ. Anh phải sống cho tốt vào, trên anh còn có cha mẹ, dưới anh còn có con cái, tôi khác anh. Thằng em này vẫn độc thân, chẳng tiếc gì cái mạng thối này. Anh đừng cản tôi, nếu như anh thực sự nhận thằng em này, thì nếu tôi chết anh bố thí cho tôi một cỗ quan tài tốt là tôi mãn nguyện lắm rồi”. Trương Thiếu Băng biết tính khí của Du Vũ Cường, đã quyết tâm làm gì thì không ai có thể ngăn được. Chỉ còn biết giường mắt nhìn theo. Du Vũ Cường tiến tới trước cửa ủy ban thị trấn. Lúc đó, Chủ tịch Du Trường Thủy đang đánh mạt chược với ba vị chức sắc khác. Những ngày mưa gió thế này rất thích hợp cho việc chơi bời. ĐÚng lúc họ đang chơi say sưa thì một đội viên đội bảo vệ hớt hải chạy vào báo tin: “Hỏng rồi, có chuyện rồi”. Du Trường Thủy cầm quân mạt chược bình tĩnh hỏi: “Xảy ra chuyện gì mà hớt hơ hớt hải vậy? Có phải chuyện nước suối dâng cao hay thở phỉ Trần Lan Đầu lại cướp của nhà ai phải không?” Đội viên đội bảo vệ nói: “Đều không phải, nước lớn vẫn chưa vượt qua mức cảnh báo đê, Trần Lan Đầu cũng không cướp đồ của nhà ai, đã lâu không nghe thấy tin gì của hắn. là chuyện cháu ngài – Du Vũ Cường tới gây chuyện”. Bàn tay đang cầm quan bài mạt chược của Du Trường Thủy run lên: “Cậu nói lại lần nữa đi! Là ai tới gây chuyện hả?” Đội viên đội bảo vệ nói: “Là cháu ngài – Du Vũ Cường đó”. Du Trường Thủy thở dài nói tiếp: “Thằng súc sinh này cuối cùng cũng dẫn xác tới”. Tiếp theo, ông hỏi đội viên đội bảo vệ: “Thế đội trưởng của các cậu đâu hả?” Đội viên đội bảo vệ nói: “Chủ tịch, chẳng phải ông bảo đội trưởng chúng tôi sang quán rượu Hồng Phúc đặt món đó sao?” Du Trường Thủy ừm một tiếng rồi đứng dậy đi ra ngoài. Ba vị chức sắc cũng đứng dậy đi theo sau. Du Trường Thủy đứng ở trước cổng ủy ban, nghiêm nghị nhìn Du Vũ Cường đang ướt như chuột lột trong màn mưa. Mắt Du Vũ Cường vằn đỏ hung tợn, vẻ sát khí đằng đằng. Trên tay hắn vẫn nắm chắc con dao nhọn. Lưỡi dao có vài chỗ gỉ, không hiểu có phải là do giết người không nữa. Vết gỉ trên dao có phải là vết máu người chưa được chùi sạch không? Du Trường Thủy cười nhạt một tiếng rồi nói: “Cháu về bao lâu rồi? Sao bây giờ mới tới gặp chú, tốt xấu gì thì chú cũng là chú ruột cháu, tốt xấu gì thì chú cũng đã nuôi dưỡng cháu từ lúc bé. Sao cháu lại hận chú như vậy?” Du Vũ Cường lạnh lùng hỏi lại: “Chung Thất đâu?” Du Trường Thủy thầm nghĩ, chắc chắn giờ này Chung Thất đang trốn trong quán rượu Hồng Phúc không dám ló mặt ra. Du Trường Thủy nhìn thấy mấy cậu bảo vệ đang cầm súng moze đứng cạnh Vũ Cường, ông ta lạnh lùng hỏi tiếp: “Cháu tìm Chung Thất làm gì?” Du Vũ Cường vẫn lạnh lùng đáp: “Đây là việc giữa tôi và Chung Thất, không liên quan gì tới ông cả. Tôi hỏi ông một lần nữa Chung Thất đâu?” Du Trường Thủy đáp: “Chân là chân của hắn, hắn đi đâu là việc của hắn, chú làm sao biết được chứ? Nếu cháu tới tìm chú thì mau vào trong nói chuyện, dù gì chúng ta cũng là chú cháu ruột. Nếu như cháu không có việc gì, đi đâu thì đi đừng đứng ở đây ảnh hưởng tới công việc của ủy ban”. Du Vũ Cường tức tối đáp lại: Chung Thất là con chó dưới chân ông, ông nói với nó hôm nay có tôi thì không có nó, có nó thì không có tôi. Tôi sẽ chờ nó trên nghĩa trang Ngũ Công Lĩnh, nếu nó là đàn ông thì tới gặp tôi. Hôm nay, nếu nó không tới, ngày mai tôi vẫn sẽ đến lấy mạng của nó”. Tiếp đó, Du Vũ Cường lại gầm lên: “Chung Thất! Mẹ kiếp nghe ông mày nói đây, tao biết mày bây giờ đang trốn trong ủy ban. Nếu mày còn là đàn ông thì hãy tới Ngũ Công Lĩnh, mày cũng có thể mang theo súng moze của mày. Tao chờ mày đấy!” Du Vũ Cường khệnh khãng bỏ đi. Sau khi Du Vũ Cường đi khỏi ngõ Hoàng Đế, Chung Thất mới lò dò chui ra khỏi quán rượu Hồng Phúc. Du Trường Thủy lạnh lùng nói với hắn: “Sao cậu lại gây sự với cái thằng nghiệp chủng đó? Từ nhỏ nó đã không nghe lời tôi, tôi đánh, tôi chửi nó, nó không những không phục sự dạy dỗ của tôi mà còn hận tôi. Mới sáng sớm nó đã rời khỏi nhà đi lang thang. Cậu làm ầm lên với nó, cậu đã có kế hoạch nào chưa?” Sắc mặt Chung Thất tối sầm như bầu trời âm u vậy. Rất nhiều người trong thị trấn Đường đều biết, sắp xảy ra chuyện rồi. Chỉ có anh chàng tha hương Tống Kha chẳng biết gì về những chuyện sắp xảy ra. Anh vẫn đóng chặt cửa hiệu, ngồi trên gác xép lo lắng cho Tam Lại Tử. Tống Kha thổi tiêu, tiếng tiêu xuyên qua chấn song cửa sổ bay ra thị trấn Đường hoang tàn trong màn mưa.  

16

  Tới đêm thì tạnh mưa. Bầu trời và mặt đất tối om. Du Vũ Cường toàn thân run rẩy vừa ngồi bên cạnh miệng huyệt Tam Lại Tử đã đào sẵn vừa thở phì phò. Hắn nghe thấy tiếng gào thét của những cuộn sóng nước lũ. Hắn đã chờ ở đây hơn nửa ngày, nhưng vẫn không thấy Chung Thất tới. Thực ra, hắn đã biết trước là Chung Thất sẽ không tới chỗ hẹn, bởi nếu Chung Thất dám tới chỗ hẹn, thì đã không làm thằng đào ngũ. Du Vũ Cường nghiến chặt răng rồi cắm con dao nhọn xuống đất. Trong lúc người anh hùng không có đất dụng võ Du Vũ Cường chán nản cắm mũi dao nhọn xuống đất thì một đội viên đội bảo vệ đang lách vào ngõ nhỏ nhà Chung Thất tìm hắn. Cửa nhà Chung Thất vẫn đóng chặt, đội viên đội bảo vệ có thể nhìn thấy ánh đèn bên trong qua khe cửa. Cậu bảo vệ gõ cửa, lúc này tuy mưa đã tạnh nhưng trên mái hiên vẫn nghe thấy tiếng mưa tí tách. Cậu bảo vệ thấy bên trong không có động tĩnh gì liền gõ mạnh vào cửa lần nữa. Cậu ta đợi một lát thì nghe thấy tiếng bước chân nhỏ nhẹ chầm chậm đi tới sau cánh cửa. Bên trong vọng ra giọng phụ nữ rất cảnh giác, giọng nói pha chút sợ hãi: “Ai đấy?” Cậu bảo vệ nói: “Em là Trư Cốc đây chị à”. Thẩm Văn Tú kiềm chế tâm trạng phức tạp của mình: “Có chuyện gì vậy?” Trư Cốc nói tiếp: “Đội trưởng Chung bảo em tới báo tin cho chị, tối nay đội trưởng không về đâu”. Tim Thẩm Văn Tú đập loạn xạ: “Đội trưởng của các cậu không… không gặp chuyện gì đấy chứ?” Trư Cốc đáp: “Chị cũng quan tâm đến đội trưởng nhỉ, đội trưởng của bọn em đúng là rất may mắn mới lấy được người vợ tốt như chị. Chị yên tâm đi, đội trưởng Chung không gặp chuyện gì đâu, lúc này anh ấy đang còn uống rượu với Chủ tịch Du”. Trư Cốc đi rồi, Thẩm Văn Tú liền đi vào phòng khách. Bà mẹ chồng đang ăn cơm liền buông đũa hỏi: “Ai vậy?” Hai đứa con nhỏ của Thẩm Văn Tú ngây thơ nhìn mẹ. Cô cố gượng cười đáp lại: “Là Trư Cốc tới báo tối nay Chung Thất không về”. Bà mẹ chồng thở dài than: “Cái thằng súc sinh! Nó đã không coi nơi này là nhà nữa rồi. Nếu mẹ không mắng nó buổi tối không về nhà thì cũng phải báo cho người nhà một tiếng thì chắc nó cũng không bảo bọn tay sai về bảo. Thằng súc sinh này sớm muôn gì rồi cũng xảy ra chuyện thôi. Văn Tú à, vào cái nhà này thiệt thòi cho con nhiều quá, nếu không có con thì mẹ đã sớm bị nó làm cho tức chết rồi, xương cốt cũng mục nát dưới mồ rồi. Văn Tú à, thằng súc sinh này đã không coi con là người, nó lại còn độc ác giày vò con như vậy. Nó không phải là người. Sao mẹ lại có thể đẻ ra một thằng con khốn nạn như vậy chứ. Văn Tú à, mẹ biết trong lòng con có nỗi khổ không nói ra, vì hai đứa con thơ và nắm xương già này con mới cố chịu đựng. Mẹ đền bù cho con thay thằng súc sinh kia cũng được, mẹ có quỳ xuống khấu đầu trước con cũng được, có điều con đừng có nghĩ quẩn, có nhiều chuyện không nên chất chứa trong lòng. Đó là số mệnh cả rồi”. Thẩm Văn Tú không nói gì, cô cầm bát cơm rồi lấy đũa và cơm vào miệng, nước mắt lã chã tuôn rơi. Lúc này, trong lòng cô vang lên câu ca dao buồn. Câu ca dao này khiến linh hồn yếu ớt của cô run lên. Trong đêm tối trời này liệu sẽ xảy ra chuyện gì khó tưởng tượng đây? Đêm đã về khuya.   Gió thổi qua ngọn núi hoang. Tiếng côn trùng vang lên từ bốn phía như chống chọi với tiếng gào thét của khe suối. Những con đom đóm phát ra những đốm sáng li ti trong sườn núi tối tăm, trông như hàng nghìn hàng vạn con mắt của hồn ma. Con suối cũng trở nên rộng lớn và phát sáng trong bóng tối một cách ma quái, khiến người ta lạnh cả người. Du Vũ Cường vẫn ngồi bên cạnh miêng huyệt mà Tam Lại Tử đào sẵn nhìn dòng suối. Cây dao gỉ nhọn cắm trên đám bùn trước mặt Du Vũ Cường lặng câm. Dao nhọn không biết nói, không thể nói cho hắn những nguy hiểm ẩn chứa trong đêm tối như thế này. Quần áo Du Vũ Cường ướt đẫm, dính chặt vào người hắn không còn cảm thấy lạnh nữa. Ngược lại, người hắn như bốc ra luồng nhiệt, trong luồng nhiệt còn phảng phát mùi mồ hôi nồng nồng. Trong đầu hắn chỉ hiện lên hình ảnh Thẩm Văn Tú trần truồng nằm co quắp trên giường, hai tay ôm đầu, trong khi đó, Chung Thất với khuôn mặt biến dạng đang vung roi da quật điên cuồng vào người cô. Thân hình lõa lồ của Thẩm Văn Tú co quắp lại, miệng kêu gào tuyệt vọng… Đầu Du Vũ Cường lại nóng lên. Đúng vào lúc này, Du Vũ Cường nghe thấy tiếng hát. Tiếng hát rất thê lương.   Chàng ơi, tấm lòng em còn cao hơn trời xanh, số mệnh em bạc bẽo hời chàng. Chàng ơi, khói tan rồi nước chảy đi, trái tim em tan vỡ rồi hỡi chàng. Chàng ơi, trời xa quá đường dài quá, không biết phải tìm chàng chốn nào đây hỡi chàng. Chàng ơi, gió lớn mưa rơi gấp, nước mắt và máu em hòa vào nhau hỡi chàng. Khi có một người đàn ông trong thị trấn chết, người vợ đưa tang mới hát những ca từ bi thảm như vậy. Bài ca bi ai vọng lên từ bờ suối càng thảm thiết hơn. Du Vũ Cường không tin nổi vào tai mình, đã nửa đêm canh ba rồi làm gì có ai lại hát bài ca thống thiết này bên bờ suối. Hắn vớ lấy con dao đang cắm trong bùn rồi rạch một đường trên cánh tay, cảm giác đau đớn khiến hắn tỉnh táo lạ thường. Tiếng ca bi thảm đó bay bổng rất thật trong dải đất hoang rộng lớn. Du Vũ Cường nghe xem đó là giọng của ai. Sau khi nhận ra đó là giọng của ai, hắn liền đứng dậy, tay cầm chắc con dao gỉ nhọn, bước thấp bước cao đi về hướng con suối. Sau lưng hắn vọng tới tiếng sấm rên.   Du Vũ Cường đứng bên bờ duối nghe tiếng hát bi thảm, tâm trạng vô cùng phức tạp. Giọng ca của người phụ nữ đó vừa thê lương vừa tuyệt vọng, nó trở nên yếu ớt trong tiếng gào thét của dòng nước lớn. Du Vũ Cường cảm nhận thấy máu và nước mắt trong giọng ca của người phụ nữ… Du Vũ Cường nhìn sang bờ bến kia, nhưng chẳng thấy gì, bờ bên kia đơn giản như chốn tận cùng của địa ngục. Dòng suối bình thường chỉ rộng khoảng mười mấy mét, lúc này như một con sông. Nước lớn dâng tràn toàn bộ hai bên bờ, trên dòng nước có một vòng xoáy to, dường như nó muốn nuốt hết mọi vật trên sông. Tiếng gào thét của nước lũ càng làm tăng vẻ đáng sợ của con suối, Du Vũ Cường cảm thấy có hàng nghìn hàng vạn hồn ma đang vật vờ kêu gào trên sông.   Đột nhiên có một tia sét sáng xé rách bóng tối bờ bên kia, trong giây lát Du Vũ Cường nhìn thấy một người phụ nữ đang đứng trên đập sông. Một luồng máu nóng đổ lên não, hắn hướng về bờ bên kia gọi to: “Chờ tôi với!” Du Vũ Cường buộc chặt thắt lưng, cắm con dao vào, chỉ nghe “ùm” một tiếng, hắn đã nhảy xuống dòng nước lớn. Tiếng hát bên bờ kia tắt ngấm, cùng lúc đó vọng tới tiếng kêu thét…

17

  Đêm đã khuya, thị trấn Đường trong sự tĩnh lặng vẫn ẩn chứa sự náo động. Tống Kha mở mắt sau khi ngọn đèn dầu lay lắt. Cả người anh như bị một sợi dây vô hình trói chặt, không cựa quậy được, đây không phải lần đầu anh gặp chuyện như vậy. Từ lúc anh tống những bức tranh truyền thần người chết vào gầm giường, hằng đêm sau khi đèn tắt anh luôn bị đánh thức bởi những giọng nói âm u, sau đó toàn thân cứng đờ, anh phải nằm nghe họ kể nguyên nhân cái chết của mình. Dường như mỗi ngày lại xuất hiện một hồn ma khác nhau kể những câu chuyện liên quan tới cái chết của họ, Tống Kha nghe rồi rợn tóc gáy nhưng anh chẳng có cách nào để từ chối cả. Anh lại phải chờ đợi trời sáng trong nỗi sợ hãi, anh biết rõ, sau khi trời sáng anh sẽ bình tĩnh trở lại,a nh sẽ quên tiệt mọi chuyện đã xảy ra đêm qua. Ví như tối nay, xuất hiện trong đêm là người thợ cắt tóc đã chết. Ông thợ cắt tóc vừa xuất hiện đã lắp bắp nói: “Tôi, tôi, tôi chết, chết oan lắm…”. Tống Kha không nhìn thấy mặt ông ta, đến cả hình dáng anh cũng không trông rõ. Dường như anh cảm thấy ông thợ cắt tóc dăng run rẩy đứng cạnh giường, tay cầm tông đơ sắc. Tống Kha lo lắng chỉ sợ ông thợ cắt tóc dang tay ra, ấn đầu anh xuống rồi dùng tông đơ sắc đó cạo lên đầu lên mặt anh. Cuối cùng, dùng dao cắt cổ anh. Ông thợ cắt tóc lắp bắp kể cho Tống Kha nghe câu chuyện về cái chết của mình: “Một đêm tối trời, có người trèo tường vào nhà tôi. Người đó là thổ phỉ Trần Lan Đầu. Trần Lan Đầu chĩa súng moze, lôi tôi ra khỏi chăn. Tôi sợ tới mức vãi cả ra quần. Trần Lan Đầu nói: ‘Không phải sợ đâu, ông đây chỉ vì tóc dài quá nên muốn mày cắt trọc cho thôi mà’. Tôi gật đầu lia lịa: ‘Được, được, được, tôi cắt cho ngài, tôi cắt…’. Trần Lan Đầu cất súng moze đi phàn nàn: ‘Mẹ mày, cái thằng đến nói còn không nói được nên lời mà cắt tóc đẹp được sao, lại còn là thợ cắt tóc nổi tiếng nhất thị trấn Đường này nữa chứ, chẳng còn lý lẽ gì nữa’. Nếu là người bình thường hay kể cả là ông chủ tịch có ngồi trước mặt thì tôi cũng không sợ mà có khi còn làm trò cười cho họ được. Nhưng đây lại là tên thổ phỉ khét tiếng vùng này tìm đến cắt tóc thì làm sao tay chân tôi không run cho được? Không chỉ tay chân run mà đến mồm miệng tôi cũng run. Tôi không ngờ rằng chính sự sợ hãi đến run lẩy bẩy ấy đã gây nên cái chết cho mình. Tôi càng để ý tới thằng thổ phỉ có tiếng giết người không chớp mắt trước mặt kia, thì mạng sống của tôi càng bị đe dọa. Giá như tôi cắt cho hắn với tâm trạng bình tĩnh như cắt tóc cho một người bình thường thì có lẽ đã sống thêm được vài năm rồi. Chính lúc cạo xong đầu cho Trần Lan Đầu, tôi định tỉa tót lại cho đẹp, cho sạch sẽ hơn một chút thì chiếc dao cạo trong bàn tay lại rơi xuống làm rách đầu hắn. Tôi sợ hãi tột độ, không biết phải làm gì với chiếc dao cạo trong tay. Trần Lan Đầu quệt tay vào chỗ bị thương, hắn sờ thấy màu, máu khiến bản tính hoang dã của hắn nổi lên. Hắn đưa ngón tay dính máu vào mồm liếm ngon lành, sau đó lạnh lùng nói: ‘Mày muốn giết tao phải không?’. Tôi khua khua cái dao cạo, muốn giải thích gì đó, nhưng lưỡi ríu lại: ‘Tôi, tôi, tôi, muốn, muốn, không, giết, giết…’. Tôi còn chưa nói hết câu thì tiếng súng của Trần Lan Đầu đã vang lên…”. Lúc hồn ma của ông thợ cắt tóc đang trình bày cho Tống Kha nghe nguyên nhân cái chết của ông ta thì bóng một người phụ nữ áo trắng thần bí xuất hiện ở cửa hiệu truyền thần. Người phụ nữ ấy đứng trong bóng tối thở hồng hộc. Bỗng con chó thay lông từ trong bóng tối chạy tới, đứng cách người đàn bà áo trắng một trượng rồi liên tục tru tréo. Người đàn bà áo trắng lùi lại mấy bước, con chó lại tiến thêm mấy bước. Người đàn bà áo trắng dừng lại, con chó cũng đứng lại rồi hướng về người đó gầm gừ. Tiếng sấm nổi lên, gió cứ thổi trên con đường nhỏ. Người đàn bà áo trắng nhìn con chó một lát thì quay người bỏ đi. Những giọt mưa to như hạt đậu rơi xuống, tiếp đó mưa rơi xối xả.   Sau khi hồn ma người đàn bà áo trắng rời khỏi con đường nhỏ, cửa của hiệu quan tài bật mở. Hai người một trước một sau bước vào trong. Đúng lúc đó có người dậy đi vệ sinh vô tình nhìn thấy cảnh này. Người kia đi vệ sinh xong liền lén lút đi tới cửa hiệu quan tài, đó là tiếng phát ra khi nam nữ làm tình với nhau. Kẻ lắm điều này chính là đội viên đội bảo vệ Trư Cốc. Trư Cốc cười nhăn nhở trong bóng đêm rồi chạy như bay về ngõ Hoàng Đế. Sắc mặt Dương Phi Nga đỏ ửng, mí mắt sưng phồng. Trong ánh đèn lờ mờ, cô ném cái nhìn đầy thù hận vào kẻ đang nằm cạnh minh – Chung Thất. Cô đã có ý đồ giết hắn, đã mấy lần cô muốn dùng kéo đâm vào tim Chung Thất, nhưng lại không xuống tay được, dù phần dưới của cô đã toét ra, đã chảy máu khiến cô đau đớn. Dương Phi Nga chỉ có thể dần dần dùng những thủ đoạn khác nhau để giết Chung Thất trong tưởng tượng. Đúng lúc Dương Phi Nga đang bay bổng với tưởng tượng của mình thì nghe thấy tiếng gõ cửa gấp gáp vọng tới từ bên ngoài quán Tiêu Dao. Chung Thất bị Dương Phi Nga lay dậy. Hắn liền mắng cô: “Đồ điếm thối tha, mày muốn chết hả, đến cả ngủ cũng không cho ông ngủ”. Dương Phi Nga đáp: “Vừa nãy má mì Lý ở bên ngoài gọi anh, nói rằng xảy ra chuyện rồi”. Chung Thất nghe thấy cô nói vậy từ trên giường liền bật dậy, vội vàng vớ lấy khẩu súng moze dưới gối: “Đã xảy ra chuyện gì?” Dương Phi Nga trả lời: “Em không biết, má mì Lý bảo anh ra ngoài ngay”. Chung Thất nhanh chóng mặc quần áo, chạy vụt ra khỏi quán Tiêu Dao. Trư Cốc thấy Chung Thất hoảng loạn đi ra liền cun cút đi theo, rồi ghé vào tai Chung Thất nói nhỏ vài câu. Chung Thất nghe xong, nghiến răng ken két: “Mày nói thật chứ?” Trư Cốc đáp: “Những gì em nói không sai chút nào, nếu như có nửa câu là dối trá, em sẽ bị sét đánh chết”. Trư Cốc vừa nói xong, một tiếng sấm vang rền trên bầu trời. Trư Cốc toàn thân run rẩy. Chung Thất nói tiếp: “Tao sẽ nói chuyện này với Chủ tịch Du, xem ông ấy xử trí thế nào, mẹ kiếp thằng Du Vũ Cường, sao thằng ấy lại dám làm những chuyện trái đạo lý như vậy chứ”. Chưa đầy nửa canh giờ sau, cánh cổng lớn của ủy ban mở toang. Một đám bảo vệ từ trong đó xông ra. Chúng được trang bị súng ống đầy đủ, cầm duốc ùn ùn đi trên con đường nhỏ dưới sự chỉ huy của Chung Thất và Trư Cốc. Mưa càng lúc càng to, đây đúng là một đêm khiến người ta cảm thấy bất an. Con chó thay lông kia vẫn sủa trước cửa hiệu truyền thần.  

18

  Một ngày mới sắp bắt đầu, nhưng Tống Kha vẫn không nhìn thấy Tam Lại Tử. Sự mất tích của hắn chẳng mảy may quan trọng đối với người dân trong thị trấn. Mọi người chỉ nghĩ tới hắn khi có người chết mà thôi, họ sẽ gọi hắn tới đào huyệt. Bởi huyệt mộ hắn đào vừa to vừa sâu, tạo cảm giác thanh thản cho người chết. Tống Kha cảm thấy mình và Tam Lại Tử giống nhau, lúc bình thường họ là những người có cũng được mà không có cũng chẳng sao, họ đều là người sống vì người chết. Buổi trưa hôm nay, Tống Kha tỉnh dậy, anh mở cửa sổ trên gác xép, một luồng khí ấm áp phả vào mặt, anh nhìn thấy ánh nắng mặt trời. Một tia nắng từ đám mây chiếu nghiêng nghiêng vào trong, ngẫu nhiên lại chiếu đúng vào mặt Tống Kha. Khuôn mặt xanh xao của Tống Kha ánh lên một màu hồng. Nhưng mặt trời lại nhanh chóng trốn vào đám mây. Mặc dù thế trời vẫn còn rất sáng, mùa mưa ẩm ướt tối tăm sắp kết thúc rồi ư? Tống Kha hít một hơi dài không khí trong lành bên ngoài, mưa cuối cùng đã tạnh hẳn, anh cảm thấy đói bụng. Ánh mặt anh dừng lại ở quán ăn Hồ Ký chênh chếch với hiệu truyền thần. Tống Kha bước vào quán ăn Hồi Ký. Mụ chủ quán Hồ Nhị Tẩu đon đả chào mời: “Họa sĩ Tống à, anh muốn ăn gì?” Tống Kha trả lời: “Cho một bát bánh dẹt và hai chiếc bánh bao chiên”. Mụ chủ quán họ Hồ liền nói: “Cậu ngồi đợi một lát, đồ ăn cậu gọi sẽ được mang ra ngay”. Tống Kha nhìn thấy mụ chủ quán họ Hồ cùng lúc xử lý cả hai chiếc nồi, ột nồi đang chiên bánh bao, còn nồi kia đang luộc sủi cảo. Tống Kha không hiểu tại sao người dân trong thị trấn lại gọi sủi cảo là bánh dẹt. Từ lúc tới thị trấn Đường, anh hầu như không nấu nướng mà thường ăn tạm gì đó ở ngoài. Có một điều khiến anh không hiểu nổi là anh chưa từng nhìn thấy Hồ Nhị Ca – chồng của mụ chủ quán. Có người nói Hồ Nhị Ca là thợ mộc, đã nhiều năm làm đồ mỹ nghệ ở bên ngoài, ông ấy chỉ về nhà dịp Tết mà thôi. Chỉ một lát sau, mụ chủ quán bưng một bát sủi cảo và hai chiếc bánh bao chiên ra. Mụ chủ quán Hồ Nhị Tẩu nói với Tống Kha: “Họa sĩ Tống à, cậu có biết chuyện gì xảy ra ở thị trấn hôm qua không vậy?” Tống Kha cắn một miếng bánh bao rồi lắc đầu: “Tôi không biết!” Hồ Nhị Tẩu ngạc nhiên: “Mọi người trong thị trấn đều biết rồi, chỉ có mình cậu không biết”. Tống Kha nghĩ, việc xảy ra ở thị trấn thì có liên quan gì tới mình chứ? Anh là một người đơn độc, hiện giờ anh chỉ quan tâm tới mỗi Tam Lại Tử mà thôi, anh chẳng quan tâm tới chuyện gì khác nữa, có vẻ như nếu trời có sập xuống ở thị trấn Đường thì cũng chẳng liên quan gì tới anh cả. Mụ chủ quán Hồ Nhị Tẩu chẳng để ý Tống Kha có muốn nghe hay không đã cười rồi kể: “Tối hôm qua, vợ Chung Thất là Thẩm Văn Tú và Du Vũ Cường thông dâm với nhau, bị bắt quả tang tại cửa hiệu quan tài của Trương Thiếu Băng. Nghe nói, khi Chung Thất dẫn người đẩy cửa xông vào, Thẩm Văn Tú vẫn đang trần truồng nằm trên tấm ván làm quan tài. Không bắt được Du Vũ Cường, hắn đã chạy mất. Nghe nói hắn nhảy ra từ cửa sổ sau cửa hiệu quan tài. Thật không thể tưởng tượng nổi hạng đàn bà Thẩm Văn Tú kia lại lẳng lơ như vậy. Du Vũ Cường về chưa được mấy hôm đã dính với hắn rồi. Nghe họ Chung kia rêu rao nếu bắt được Du Vũ Cường sẽ róc thịt hắn ra. Cho dù Chủ tịch Du Trường Thủy có nói giúp cũng không có tác dụng gì, cháu của ông ấy ngủ với vợ người ta, thật nhục nhã biết bao”. Tống Kha ngẩng đầu hỏi lại: “Có chuyện như vậy ư?” Mụ chủ họ Hồ gật đầu, sắc mặt lộ vẻ khinh bỉ nói tiếp: “Không thèm nói về con hồ ly dâm đãng Thẩm Văn Tú kia nữa, cái thằng Du Vũ Cường cũng chẳng ra gì, lại còn nhận là anh hùng kháng Nhật kia đấy. Muốn giải tỏa có thể tới quán Tiêu Dao là được. Nếu không làm thế thì có thể tìm quả phụ, gái già cũng được, như vậy thì có ai nói được hắn chứ. Đằng này lại đi dan díu với vợ người ta”. Tống Kha ngạc nhiên ngín mũ Hồ Nhị Tẩu, không hiểu tại sao mụ ta lại có thể nói ra những lời như vậy. Tống Kha đang bồn chán thì bên ngoài con đường nhỏ của thị trấn Đường bỗng có tiếng ầm ĩ. Mụ Hồ Nhị Tẩu hứng khởi bỏ quán chạy ra xem. Anh đẩy kính lên, không thể nuốt trôi hai chiếc bánh bao chiên còn lại. Mùi tanh từ từ lan tỏa trong quán ăn. Sau một đêm, Thẩm Văn Tú như đã biến thành người khác. Tóc tai rũ rượi, mặt mũi bẩn thỉu, khóe mắt phải sưng lên một cục to. Một dưới bị rách, khóe miệng vẫn đang rỉ máu. Cô bị trói quặt cánh gà, không còn đủ sức để ngẩng đầu lên nữa. Vết máu loang lổ trên bộ quần áo bị xé nát, hai chân trần. Cô bị gia tộc họ Chung lôi đi bêu riếu ngoài đường. Một ông già mở đường phía trước vừa gõ chiêng vừa gào to bằng chất giọng khàn khàn. “Mọi người tới đây xem con đàn bà lăng loàn Thẩm Văn Tú này đi!” Nhìn cảnh tượng này, Tống Kha cảm thấy kinh hãi. Anh trở về cửa hiệu truyền thần rồi đóng chặt cửa lại, leo lên gác xép, nhìn xuống từ cửa sổ. Rất nhiều người đang đứng bên đường chỉ trỏ Thẩm Văn Tú – lúc này trông không còn ra hình người – rồi bàn luận ầm ĩ. Thái độ của họ rất khác nhau. Có người phẫn nộ, có người cười trên sự đau khổ của người khác… còn có người ném ánh mắt khinh bỉ như nhìn con vật về phía Thẩm Văn Tú. Lúc Thẩm Văn Tú đi ngang qua cửa hiệu truyền thần, cô ngước nhìn Tống Kha. Ánh mắt hiện rõ ý đĩnh quyết từ giã cõi trần, khóe miệng rĩ máu nhưng cô vẫn nhếch mép cười nhạt. Con tim Tống Kha rung động, thông cảm với người phụ nữ đẹp nhất thị trấn Đường. Anh có thể hình dung được tinh thần và thể xác cô đã bị giày vò tới mức nào. Lúc này, Tống Kha thật sự mong Du Vũ Cường – người luôn vỗ ngực tự xưng là anh hùng – xuất hiện cướp Thẩm Văn Tú – người đang ở trong cảnh dầu sôi lửa bỏng này đi. Nhưng đó chỉ là sự tưởng tượng đẹp đẽ của anh, lúc Thẩm Văn Tú chết thì người anh hùng Du Vũ Cường kia vẫn chưa lộ diện. Đúng lúc này, Tống Kha nhìn thấy mụ Hồ Nhị Tẩu xách một chiếc xô đi tới trước mặt Thẩm Văn Tú. Mụ ta đanh đá hắt cả xô cứt, nước tiểu lên người Thẩm Văn Tú. Tống Kha ngạc nhiên mở to mắt, sao mụ Hồ Nhị Tẩu lại có thể làm như vậy chứ. Lòng Tống Kha bỗng rối bời, anh đóng cửa rồi ngồi xuống ghế, đờ đẫn nhìn giá vẽ trống rỗng rồi đột nhiên ôm đầu khóc rống lên. Trong lòng anh phút chốc nhớ tới một người con gái đang ở rất xa anh. Mùi tanh nồng nặc lan tỏa trên gác xép. Con tim Tống Kha bỗng chìm sâu vào hố băng lớn. Tiếng ồn ào bên ngoài cửa sổ dường như đã đi rất xa. Tống Kha không ngờ Thẩm Văn Tú lại chết nhanh như vậy, không những thế lại còn chết rất thảm. Đúng vào hoàng hôn ngày hôm đó, Thẩm Văn Tú bị gia tộc họ Chung trói quặt cánh gà rồi áp giải tới bên bờ suối nước cuồn cuộn của thị trấn. Mưa đã tạnh, bầu trời lúc u ám lúc sáng sủa. Lúc này, bầu trời mù mịt, mặc dù khoảng trời phía tay đã xuất hiện những đám mây đỏ thẫm. Chung Thất và những người trong ủy ban đều không xuất hiện, rất nhiều người trong thị trấn kéo tới bờ suối để thỏa chí tò mò. Thẩm Văn Tú cố ngầng đầu lên, dõi con mắt còn lại nhìn ánh sáng nơi rất xa. Trong lòng cô hiểu rõ, mình sẽ nhanh chóng bị đẩy xuống dòng nước kia. Theo quy định của gia tộc họ Chung, người đàn bà thông dâm với người khác sẽ bị nhét vào rọ lợn dìm sông. Miệng Thẩm Văn Tú khẽ rung một hồi, bỗng nhiên cất tiếng hát:   Chàng ơi, tấm lòng em còn cao hơn trời xanh, số mệnh em bạc bẽo hời chàng. Chàng ơi, khói tan rồi nước chảy đi, trái tim em tan vỡ rồi hỡi chàng. Chàng ơi, trời xa quá đường dài quá, không biết phải tìm chàng chốn nào đây hỡi chàng. Chàng ơi, gió lớn mưa rơi gấp, nước mắt và máu em hòa vào nhau hỡi chàng. Trưởng tộc họ Chung là một lão già gầy guôc để nhúm râu như râu chuột, lão thắp ba nén hương vái trời mấy cái, sau đó cất giọng oang oang: “Nhét con dâm phụ Thẩm Văn Tú vào rọ lợn”. Mấy người đàn ông cao to liền nhét Thẩm Văn Tú vào rọ lợn bẩn thỉu, cô không giãy giụa, cũng không hát nữa mà nhắm mắt, co rúm người lại. Những người đứng xem, có người cười, có người thì thầm, có người không biểu lộ cảm xúc gì… Sau khi mấy người đàn ông tráng kiện nhét Thẩm Văn Tú vào rọ lợn, họ còn nhét vào đó một cục đá to. Sau đó, họ dùng dây thừng buộc chặt miệng rõ lại. Sau khi đám người này làm xong hết mọi công đoạn thì đám mây đỏ lừ ở phía tây cũng biến mất, bầu trời trong giây lát chìm vào bóng tối chết chóc. Theo mệnh lệnh của trưởng tộc, chiếc rọ nhốt Thẩm Văn Tú và tảng đá to bị đẩy xuống dòng nước chảy xiết, không ai còn có thể nghe được giọng nói của người đàn bà xinh đẹp nhất thị trấn Đường – Thẩm Văn Tú này nữa. Họ nhìn thấy chiếc rọ rơi xuống nước, xoay vài vòng rồi chìm sâu xuống đáy.  

19

  Buổi tối hôm Thẩm Văn Tú chết, Chung Thất đã uống rất nhiều rượu. Uống xong, hắn không đi đánh mạt chược với Chủ tịch Du Trường Thủy, cũng chẳng vào quán Tiêu dao giày vò cô kỹ nữ Dương Phi Nga. Hắn gõ cửa hiệu truyền thần vào lúc nửa đêm canh ba. Tống Kha đang chăm chú nhìn vào tấm ảnh đen trắng dưới đèn dầu, trên tấm ảnh là khuôn mặt thanh tú của một cô gái. Trên gác xép nồng nặc mùi tanh khó ngửi. Mỗi khi anh nhớ tới người con gái này, mùi tanh lại trở nên nồng nặc hơn. Nghe tiếng gõ cửa, anh liền nhét vội tấm ảnh vào ngăn kéo. Mở cửa ra, Tống Kha thấy Chung Thất đang xách một chiếc đèn lồng hình con ngựa. Toàn thân hắn nồng nặc mùi rượu khiến anh buồn nôn, nó cũng khiến ảo tưởng về người con gái kia biến mất, đưa anh trở về với hiện thực thị trấn Đường. Tống Kha kinh ngạc hỏi: “Đội trưởng Chung, sao anh lại tới đây…” Chung Thất lè nhè đáp lại: “Tôi không tới đây được à?” Tống Kha mời: “Được, đương nhiên là được. Mời vào!” Chung Thất cầm đèn lồng hình con ngựa bước vào cửa hiệu. Hắn ngửi thấy mùi tanh nồng kia. Cái mùi đó khiến hơi cồn trong người hắn trong giây lát tan hết. Đầu óc hắn trở nên tỉnh táo lạ thường. Chung Thất đặt chiếc đèn xuống bàn rồi ngồi xuống. Tống Kha liền hỏi: “Đội trưởng Chung tới nhà lúc đêm khuya thanh vắng thế này không hiểu có việc gì vậy?” Chung Thất chau mày, hắn bị mùi tanh giày vò hệt như Tống Kha bị mùi rượu của hắn giày vò vậy. Hắn nén giận nói nhỏ với Tống Kha: “Họa sĩ Tống, tôi muốn nhờ anh một chuyện”. Tống Kha đáp: “Đội trưởng Chung à, có việc gì anh cứ dặn dò. Nếu không có anh, tôi làm sao tới được thị trấn Đường kia chứ. Anh đừng coi tôi là người ngoài đấy”. Chung Thất thở dài một tiếng: “Ôi trời, không có Văn Tú, tôi phải sống thế nào đây?” Tống Kha không nói gì, anh không biết phải an ủi Chung Thất thế nào. ĐIều khiến Tống Kha không giải thích nổi là, không có Thẩm Văn Tú thì Chung Thất sẽ không sống nổi, vậy mà hắn ta lại cho phép những người trong tộc dìm chết cô. Tống Kha không tới bờ sông xem người ta dìm chết cô, nhưng anh biết cô đã chết rồi, và anh cũng biết huyệt mộ Tam Lại Tử đào trên sườn núi Ngũ Công Lĩnh đã được sử dụng. Những người đàn bà chết như Thẩm Văn Tú không được chôn trong nghĩa trang họ Chung, mà chỉ được chôn trên bãi tha ma lộn xộn kia. Thẩm Văn Tú sẽ biến thành một hồn ma cô độc, tiết Thanh Minh cũng không có ai tới tảo mộ. Chung Thất nói tiếp: “Họa sĩ Tống, anh đã nhìn thấy vợ tôi rồi, tôi muốn anh vẽ cho cô ấy một bức truyền thần. Người chết rồi, không sống lại được nữa, tôi chỉ muốn giữ một tấm ảnh của cô ấy, lúc chết tôi sẽ đặt tấm ảnh đó vào quan tài chôn cùng tôi”.   Tống Kha gật đầu.   Chung Thất lại nói tiếp: “Họa sĩ Tống, chuyện vẽ truyền thần cho Văn Tú anh đừng để cho người dân trong thị trấn Đường biết nhé. Chỗ chúng tôi có quy định, những người chết như Thẩm Văn Tú không được lưu lại ảnh ở nhân gian đâu”. Tống Kha lại gật đầu. Lúc này, trong đầu anh bỗng xuất hiện cảnh tượng Thẩm Văn Tú ngẩng đầu nhìn anh khi bị đi bêu trên phố, ngang qua cửa hiệu truyền thần. Ánh mắt cô giống như một tia chớp, lóe sáng trong đầu anh. Bộ dạng của Chung Thất khi nói chuyện trông rất buồn thảm. Tống Kha không biết vẻ bi thương của Chung Thất là thật hay giả, nhưng anh vẫn muốn tin đó là thật. Chung Thất đứng dậy, mùi tanh khiến hắn không thể chịu thêm được nữa, phải bỏ đi. Vốn định nói rất nhiều với Tống Kha, nhưng lúc này hắn không nói gì được. Hắn thậm chí còn quên cầm chiếc đèn lồng đang để trên bàn nữa. Tống Kha đứng sau nhắc, nhưng dường như hắn không nghe thấy gì. Tống Kha nhìn hắn bỏ đi rồi đóng chặt cửa lại. Sau khi bước trên con đường trong thị trấn, Chung Thất há to miệng hít một hơi, không khí trong lành khiến lục phủ ngũ tạng của hắn thoải mái hẳn. Tay hắn đặt lên báng súng moze theo bản năng. Men say trong người Chung Thất đã hết, đầu óc hắn vô cùng tỉnh táo. Lúc này, người mà hắn nghĩ tới không phải cô vợ Thẩm Văn Tú đã chìm xuống đáy sông mà là Du Vũ Cường – kẻ thù của hắn. Chung Thất rút súng ra khỏi bao.   Hắn cảm thấy Du Vũ Cường vẫn chưa chạy khỏi thị trấn Đường, có lẽ lúc này thằng Du Vũ Cường đang núp trong một xó xỉnh tối tăm nào đó không nhìn rõ được, đang theo dõi nhất cử nhất động của Chung Thất trong màn đêm. Chung Thất rùng mình, dường như hắn nghe thấy tiếng thở nặng nề của Du Vũ Cường. Bỗng Chung Thất nghe thấy tiếng chó rên. Ở thị trấn Đường, đến cả trẻ con lên ba cũng biết điều này, chó rên trong đêm, sủa không ra tiếng là vì nó nhìn thấy hồn ma. Chung Thất nghe thấy, toàn thân nổi da gà. Chung Thất quay đầu lại nhìn, nơi phát ra tiếng chó rên chính là cửa hiệu truyền thần. Hắn nhìn thấy một bóng trắng bay lượn trên đường. Toàn thân toát mồ hôi, hắn để ý tới chuyện gì nữa liền co cẳng chạy thục mạng về phía ngõ Hoàng Đế. Tiếng bước chân chạy trên đường của hắn khiến những người chưa ngủ trong thị trấn cảm thấy lo sợ.

20

  Trong đêm đó, còn một người khác cũng lén vào cửa hiệu truyền thần của Tống Kha. Lúc đó, anh đang ngây người trước trang giấy vẽ đặt trên giá. Anh muốn vẽ một Thẩm Văn Tú thật xinh đẹp, nhưng trong đầu lại chỉ hiện lên bộ mặt bị hành hạ tới mức không ra mặt người của cô. Tống Kha quyết định đêm nay sẽ không ngủ để vẽ bức truyền thần cho Thẩm Văn Tú. Đây là mối làm ăn đầu tiên của anh sau khi tới thị trấn Đường, hoặc cũng không hẳn chỉ là chuyện làm ăn, mà cái nhìn cuối cùng của Thẩm Văn Tú đã khiến anh xúc động. Tống Kha đặt chiếc bình dầu bên cạnh để có thể đổ thêm dầu vào chiếc đèn bất cứ lúc nào. Chỉ cần đèn dầu không tắt thì anh sẽ không bị quấy rối bởi những thứ xuất hiện trong đêm tối. Bàn tay cầm chiếc bút than của Tống Kha đã mấy lần muốn vẽ nét đầu tiên lên giấy nhưng rồi lại run rẩy bỏ ra. Người trèo vào cửa hiệu qua cửa sổ nhẹ nhàng men theo cầu thang gỗ cũ kỹ leo lên gác xép. Hắn im lặng như một hồn ma đứng sau mà Tống Kha không hề hay biết. Người đó nhẹ nhàng cất chất giọng khàn khàn nói với Tống Kha: “Họa sĩ Tống!” Tống Kha giật mình, anh đứng bật dậy rồi quay người lại. Nhìn thấy Du Vũ Cường sắc mặt tái mét, toàn thân ướt nhèm, Tống Kha liền hỏi: “Anh vẫn chưa đi sao?” Du Vũ Cường vẫn trả lời bằng chất giọng khàn khàn: “Họa sĩ Tống, tôi phải làm xong một việc này thì mới rời thị trấn Đường được. Có điều việc này cần sự giúp đỡ của anh”. Tống Kha không dám nhìn thẳng vào mặt Du Vũ Cường, mắt hắn hàm chứa vẻ ngông cuồng đáng sợ. Anh cố giữ vẻ bình thường hỏi tiếp: “Có phải anh muốn giết Chung Thất xong rồi mới đi? Nhưng nếu là việc đó thì tôi không giúp gì được đâu”. Du Vũ Cường cười nhạt đáp lại: “Giết Chung Thất là việc của tôi, không liên quan gì tới anh cả. Nếu tôi bảo anh giúp tôi giết Chung Thất thì đó là sự sỉ nhục đối với tôi. Tôi muốn anh đi cùng tôi một chuyến”. Tống Kha hỏi lại: “Đi đâu vậy?” Du Vũ Cường trả lời: “Lát nữa tôi đi trước, tôi chờ anh bên bờ suối”. Tống Kha không nói gì. Du Vũ Cường nói tiếp: “Họa sĩ Tống, tôi biết anh chắc chắn sẽ đến”. Nói xong, Du Vũ Cường liền bỏ đi. Tống Kha do dự một hồi, mặc dù trong lòng hơi sợ nhưng anh vẫn quyết định tới chỗ hẹn. Đêm đó, trong cửa hiệu không có bất cứ thứ gì như đuốc cả, phải làm sao để thắp sáng trên đường đây? Tống Kha chợt nghĩ tới chiếc đèn lồng hình con ngựa Chung Thất để lại lúc nãy. Anh thắp đèn rồi bước ra khỏi cửa hiệu. Sau khi Tống Kha đi ra ngoài, con chó thay lông trốn ở bên đường chờ Tống Kha đi được một lát rồi mới đi theo. Nó luôn giữ một khoảng cách nhất định với anh. Tống Kha đi rất nhanh, anh sợ người khác phát hiện ra. Ra khỏi thị trấn, chẳng mấy chốc anh đã tới bờ đập bên suối. Tuy nước đã rút đi nhiều nhưng vẫn gào thét ầm ĩ, nước vẫn chảy mạnh. Tống Kha còn nhìn thấy một chiếc thuyền đậu bên bờ đập. Du Vũ Cường ngồi trên thuyền khẽ gọi Tống Kha bằng giọng khàn khàn: “Họa sĩ Tống, mau xuống đây. Tôi ở đây”.   Tống Kha quay lại nhìn, không phát hiện thấy ai đi theo, anh liền xuống đập rồi leo lên thuyền. Du Vũ Cường đỡ Tống Kha lên thuyền rồi nhắc: “Họa sĩ Tống, anh ngồi cho chắc nhé!”   Tống Kha ngồi trên tấm ván ngang đặt trên thuyền, một tay xách đèn lồng, tay kia bám chắc vào mạn thuyền. Du Vũ Cường chèo về phía bờ bên kia. Con thuyền tròng trành lướt trên sông. Đôi lúc sóng đánh ập vào như muốn lật nó xuống. Từ nhỏ Tống Kha đã sợ nước, lúc thuyền tới giữa dòng, anh sợ hết hồn. Trong giây lát, dòng nước lớn trở nên mênh mang và đáng sợ. Chỉ cần không cẩn thận anh sẽ chết dưới đáy sông. Gió gầm rít trên mặt nước, tạo ra những tiếng động đáng sợ như có rất nhiều hồn ma đang đập nước gào thét vậy. Bên bờ sông, con chó dõi mắt nhìn thuyền đang dần rời xa bờ. Nó rên lên một hồi rồi nhảy xuống dòng nước lớn. Tống Kha không ngờ Du Vũ Cường lại dẫn anh tới sườn dốc với những ngôi mộ nhấp nhô không ra hàng ra lối ở Ngũ Công Lĩnh. Tống Kha nhìn thấy xác của Thẩm Văn Tú trong huyệt tối mà Tam Lại Tử đào. Sau khi họ tới bên mộ, Du Vũ Cường liền thắp đuốc chiếu sáng khoảng không gian đó. Tống Kha nhìn thấy xác của Thẩm Văn Tú, ánh mắt anh lóe lên một ngọn lửa. Thẩm Văn Tú nằm ngửa mặt hướng thẳng lên trời, tóc cô được chải mượt không sợi rối, hai mắt nhắm nghiền, sắc mặt xanh xao, những nơi bị thương cũng không còn nhìn thấy vết thâm nữa. Theo truyền thuyết thì những người chết đuối sẽ rất sạch sẽ, nước sẽ rửa sạch mọi bụi bẩn trần gian vướng trên người ấy. Thẩm Văn Tú mặc một bộ quần áo màu đỏ, chân cũng được đi giày thêu hoa. Trên người rắc đầy những loại hoa dại tươi tắn được hái từ trên núi. Dáng vẻ lúc này của Thẩm Văn Tú là hình ảnh Tống Kha không hề nghĩ tới. Lúc trước, anh cho rằng sau khi được vớt lên Thẩm Văn Tú sẽ được chôn cất một cách sơ sài, thậm chí đến một manh áo tang đơn giản cũng sẽ không có. Anh lại tưởng tượng ra cảnh sau khi Du Vũ Cường vớt Thẩm Văn Tú từ dưới nước lên, hắn đã làm thế nào để mang được cái xác Thẩm Văn Tú vào huyệt mộ Tam Lại Tử đã đào sẵn, sau đó thay bộ quần áo mới màu đỏ cho cô, đi cho cô đôi giày thêu hoa mà chỉ cô dâu mói có. Làm xong những việc này, Du Vũ Cường mới chải đầu cho cô. Lúc chải đầu cho cô, có lẽ hắn lúc cười lúc khóc, nước mắt rơi đầy trên khuôn mặt trắng bệch của cô… hắn hái rất nhiều hoa dại trên núi xuống đặt lên người Thẩm Văn Tú. Lúc đó, có ngọn gió thổi qua sườn núi, hắn loáng thoáng nghe thấy tiếng hát thê lương làm xúc động lòng người của cô… Du Vũ Cường cầm đuốc đứng bên cạnh huyệt, cất giọng khàn khàn: “Văn Tú à, anh đã mời họa sĩ Tống tới rồi, anh tin anh ấy sẽ vẽ cho em một bức truyền thần đẹp nhất. Anh là đồ súc sinh, anh thực sự không xứng đáng với tình yêu của em. Văn Tú à, em vì anh mà chết, nhưng anh thậm chí còn không lo cho em được một cỗ quan tài, mặc dù chủ hiệu quan tài trong thị trấn là anh em tốt nhất của anh. Anh không thể làm liên lụy anh ấy thêm nữa, hy vọng em có thể hiểu được lòng anh. Anh chỉ có thể mời họa sĩ Tống tới vẽ cho em một bức truyền thần đẹp nhất, lúc chết, anh sẽ vẫn mang theo bên người…” Du Vũ Cường nói xong liền quỳ sụp xuống, vò mái tóc rối bù của mình rồi khóc rống lên. Một cơn gió mạnh vù vù thổi tới dập tắt ngọn đuốc trên tay Du Vũ Cường. Nó cũng thổi tắt ngọn đèn lồng đang được Tống Kha xách trên tay.   Trong ánh sáng mờ mờ ảo ảo, Tống Kha không nhìn rõ mặt Thẩm Văn Tú. Nhưng anh cảm nhận được, lúc này cô đang rất hạnh phúc. Nước mắt Tống Kha trào ra. Anh nhớ tới người phụ nữ đã ở nơi xa lắm kia của mình, mùi tanh nồng lại tỏa ra. Tống Kha nghe thấy tiếng chó sủa hòa quyện trong tiếng khóc thống thiết của Du Vũ Cường vang đi rất xa, rất xa trong bãi đất hoang mênh mông này.  

21

  Sau khi trở về cửa hiệu, Tống Kha liền bắt tay vào việc vẽ truyền thần cho Thẩm Văn Tú. Đêm nay, anh không buồn ngủ. Trong căn gác xép nhỏ hẹp, lòng anh tràn đầy cảm xúc hội họa. Lúc cầm bút than tập trung vào việc vẽ, mắt anh nhòa lệ. Mùi tanh càng lúc càng nồng. Một bóng người đứng đằng sau Tống Kha. Cô nhìn Tống Kha vẽ truyền thần và ngân nga khúc ca dao. Tống Kha quá tập trung, từ đầu tới giờ anh bị chi phối bởi cảm hứng hội họa đến nỗi không phát hiện ra bóng người đang đứng sau mình, cũng không nghe thấy tiếng chó sủa nữa. Con chó đứng ở cửa hiệu truyền thần, nó và cái bóng trắng thở dài một cái, Thẩm Văn Tú trong tranh sống động như thật. Đặc biệt là đôi mắt lấp lánh khiến người ta rung động, ánh mắt hàm chứa nỗi bi thương, giống như người thiếu nữ đang e ấp dốc bầu tâm sự với người yêu… Trời đã sáng, Tống Kha đứng dậy mở cửa sổ, anh phát hiện bầu trời xanh thẳm. Hiếm hoi lắm mới có một ngày tràn ngập nắng như vậy. Lúc anh mở cửa, mùi tanh trong gác xép bay xộc ra.   Tống Kha nhìn thấy mụ Hồ Nhị Tẩu cũng vừa mở cửa. Mụ chủ quán đang ngáp thì nhìn thấy Tống Kha. Mụ liền cười rồi đon đả: “Chào họa sĩ Tống”. Nhìn thấy mụ Hồ Nhị Tẩu, Tống Kha lại nhớ tới chuyện mụ hắt xô nước bẩn lên người Thẩm Văn Tú. Mặc dù cảm thấy ghê tởm nhưng anh vẫn lịch sự cười và đáp lại: “Chào chị!” Mụ Hồ Nhị Tẩu chun mũi ngửi, thắc mắc: “Mùi gì mà thối thế nhỉ?” Nghe mụ nói xong câu này, Tống Kha liền đóng chặt cửa lại. Anh lại ngồi trước giá vẽ ngắm bức truyền thần của Thẩm Văn Tú. Sắc mặt anh hiện rõ vẻ lo lắng, anh còn phải vẽ một bức truyền thần Thẩm Văn Tú nữa cho Chung Thất. Tống Kha liền cất bức truyền thần đã vẽ xong xuống gầm giường, sau đó anh bắt đầu vẽ bức truyền thần thứ hai của Thẩm Văn Tú. Lúc anh đang vẽ bức truyền thần thứ hai, trước mắt lại hiện lên khuôn mặt bị giày vò của Thẩm Văn Tú khi bị bêu ngoài đường… Tới trưa, Tống Kha mới vẽ xong. Bức truyền thần này khác hẳn bức đầu tiên. Đôi mắt cô vừa vô hồn vừa tối tăm, không những thế mắt phải còn hơi sưng. Anh chỉ sợ Chung Thất xem bức tranh này sẽ không hài lòng, sẽ bắt anh vẽ lại. Vẽ xong bức tranh này, Tống Kha có cảm giác mình đã cạn kiệt sinh lực, anh trở nên mệt mỏi. Anh đổ mình xuống giường, toàn thân nhũn ra như bị rút gân, đầu óc trống rỗng. Buổi trưa hôm đó, Tam Lại Tử trở về thị trấn Đường. Tam Lại Tử vừa về tới nơi thì biết tin Thẩm Văn Tú đã chết. Hắn ngạc nhiên rồi lẩm bẩm một mình: “Hóa ra mộ huyệt đó là đào cho cô ta”. Không những thế, Tam Lại Tử tin chắc rằng xác của Thẩm Văn Tú đã được chôn trong huyệt mộ đó, và hắn cũng biết, đến một cắc tiền thù lao đào huyệt mộ cho hắn cũng chẳng có. Mắt Tam Lại Tử thẫn thờ, khuôn mặt xấu xí đen đúa không thể hiện cảm xúc. Lúc hắn đi chân đất trên con đường của thị trấn, hắn không những nghe được tin về cái chết của Thẩm Văn Tú mà còn nghe được câu chuyện hồn ma Thẩm Văn Tú xuất hiện. Thị trấn Đường trong ngày nắng đẹp rực rỡ này lại lưu truyền một tin đồn. Họ nói rằng có người đã nhìn thấy hồn ma của Thẩm Văn Tú bay lượn trên con đường của thị trấn lúc nửa đêm, lại còn khóc lóc không ngừng. Những con chó trong thị trấn Đường nhìn thấy hồn ma của cô thì nằm rạp xuống đất rên rỉ… Mụ chủ quán họ Hồ nghe thấy chuyện này thì sợ mất mật. Mụ nghĩ nếu hồn ma Thẩm Văn Tú có thực, thì chắc chắn sẽ tới tính sổ với mụ. Mụ cảm thấy vô cùng hối hận vì không hiểu tại sao lại không kiềm chế bản thân mà lại đi hắt cả xô nước bẩn lên người cô như thế? Trong quán ăn mà tâm trí mụ ta cứ ở đâu đâu, lo âu, sợ hãi. Mụ cũng không biết rằng ở thị trấn Đường có bao nhiêu người giống mụ, cũng đang băn khoăn không hiểu Thẩm Văn Tú có tới gõ cửa nhà mình không nữa?  

22

  Việc Tam Lại Tử trở về khiến Tống Kha như trút được gánh nặng trong lòng, mặc dù ngoài mặt hắn tỏ ra như không quen anh, thậm chí đi qua cửa hiệu hắn cũng không thèm ngó vào trong một cái. Tệ hơn nữa là anh gọi mà hắn giả bộ không nghe thấy. Tống Kha không biết mấy ngày vừa qua Tam Lại Tử đã đi đâu, rốt cuộc hắn đã gặp chuyện gì? Thái độ lạnh nhạt của hắn khiến anh đau lòng. Tống Kha chưa từng truy vấn Tam Lại Tử chuyện gì cả, rốt cuộc không hiểu anh và hắn có thể được coi là bạn tốt của nhau không nữa. Tống Kha nghĩ thầm, sau khi Tam Lại Tử trở về, liệu hắn có còn tiếp tục lên Ngũ Công Lĩnh đào huyệt nữa không?   Sau khi trở về thị trấn, Tam Lại Tử giống như con chó ghẻ lượn lờ, ghé vào đây một lát, lại ghé vào kia một lát, tới đâu cũng bị người ta khinh bỉ mắng mỏ. Chắc chắn người ta sẽ không nhìn hắn bằng con mắt khác hay coi hắn như một con người chỉ vì hắn đào huyệt giỏi. Từ đáy lòng, người ta coi hắn là kẻ hạ tiện nhất trong số những kẻ hạ tiện, thậm chí kẻ ăn mày còn không bị coi khinh như hắn. Tam Lại Tử chỉ biết cười nhăn nhở trước những lời mắng chửi của mọi người. Bởi hắn đã sớm quen với chuyện này rồi. Hắn cũng tự cho rằng mình là kẻ hạ tiện nhất.   Không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà Tam Lại Tử lại mò tới trước cửa nhà mụ góa Dư Hoa Khố. Nhà của mụ góa nằm ở góc sâu nhất trong ngõ Thanh Hoa trên con đường nhỏ của thị trấn. Tam Lại Tử biết rõ cái tên Dư Hoa Khố không phải là tên thật của mụ ta. Sau khi chồng chết, một tối có người lẻn vào nhà tòm tem với mụ thì bị gia tộc nhà chồng bắt được. Mụ ta chưa kịp mặc quần dài thì đã bị bắt đi bêu phố. Khi ấy, mụ đang mặc chiếc quần con bằng vải hoa rất bắt mắt, lộ ra phần đùi trắng nõn nà, chính vì lý do đó mà về sau người trong thị trấn gọi mụ ta là Dư Hoa Khố. Ban đầu, mụ bị nhốt vào rọ lợn cho chìm sông, nhưng nếu mụ ta chết đi thì sẽ không có ai nuôi hai đứa con nên gia tộc nhà chồng đành thả cho mụ. Dần dà, chẳng ai còn quan tâm tới việc mụ ta ngủ với ai trong thị trấn nữa, mụ ta sống với thái độ chẳng sợ bất kỳ điều gì thì còn phải lo gì nữa? Lúc đó đã xế chiều, ánh chiều tà đã không còn rọi xuống ngõ Thanh Hoa nữa. Ngõ nhỏ càng trở nên tối tăm. Tam Lại Tử phát hiện cửa nhà mụ góa vẫn đóng chặt. Hắn liền đưa tay ra gõ cửa. Một lát sau, cửa hé ra, Dư Hoa Khố ghé một mắt vào khe cửa nhỏ ngó ra ngoài. Vừa nhìn thấy Tam Lại Tử, mụ bực bội hét toáng lên: “Mày đến đây làm gì hả? Cút!” Sau khi Dư Hoa Khố mở cửa, Tam Lại Tử ngửi thấy mùi thịt nấu rất thơm, nước miếng của hắn chực chảy ra khỏi khóe miệng. Hắn cũng không nhớ nổi đã bao lâu rồi chưa được ăn thịt nữa. Tam Lại Tử cười xòa đáp lại: “Hoa Khố à, anh nhớ em quá nên tới thăm thôi mà”. Dư Hoa Khố chanh chua đáp lại: “Về mà nhớ mẹ mày ấy, bà đây không cần mày nhớ đâu”. Tam Lại Tử lườm một cái: “Hoa Khố, em đừng lật lọng không thèm nhận người quen như thế. Em quên mất nạn đói mùa xuân năm ngoái ư, khi cả nhà em sắp chết đói thì anh đã lấy một đồng tiền thưởng từ việc đào mộ cho mẹ ông chủ Trương cứu sống cả nhà em. Lúc đó em còn đồng ý ngủ với anh, sao bây giờ lại thay đổi vậy hả?” Dư Hoa Khố cười khẩy đáp lại: “Tam Lại Tử, mày phải hiểu điều này, tao lấy của mày một đồng bạc trắng, tao đã ngủ với mày hai đêm. Mỗi đêm mày hành tao tới hơn mười lần, mày có biết sau hai ngày tao đã gần hết hơi rồi không hả? Vậy tao còn nợ mày gì nữa? Mày tự nghĩ đi. Bà đây không thèm làm bất cứ chuyện gì với mày, sau này cũng đừng hòng. Mày quá hủi, mày chỉ đáng ngủ với chó thôi. Thậm chí bà nghĩ tới còn buồn non nữa là. Mau cút ngay cho tao!”   Tam Lại Tử nghiến răng: “Mụ đúng là đồ vô lương tâm”. Dư Hoa Khố lại cười khẩy rồi hỏi lại: “Lương tâm đáng mấy đồng hả? Mau cút ngay, cứ nhìn thấy mày là bà lại không ăn nổi cơm. Mày biến đi đâu thì biến ngay đi, kiểu gì thì thằng chó hoang như mày cũng đừng mong đặt chân vào cửa nhà bà lần nữa”. Dư Hoa Khố đóng sầm cửa lại. Tam Lại Tử nghe thấy tiếng đàn ông ồm ồm trong nhà Dư Hoa Khố: “Em vừa nói chuyện với ai ở ngoài đó đấy?” Dư Hoa Khố cười lẳng lơ đáp lại: “Chỉ là con chó lạc thôi mà, đừng có nghĩ tới hắn làm gì. Anh yêu, vào phòng đi, tối nay em sẽ hầu anh vài chén rượu”. Tam Lại Tử nhận ra tiếng của tay đồ tể Trịnh Mã Thủy. Hắn vừa hằn học nhổ nước bọt vào cửa Dư Hoa Khố vừa chửi: “Đúng là lũ gian phu dâm phụ, đáng ra phải bắt chúng mày dìm sông mới đúng. Chúng mày mà chết đi rồi, đừng mong tao đào huyệt cho nhé. Cho bọn chó hoang xé xác chúng mày đi, chúng mày sẽ vĩnh viễn không được đầu thai làm người”. Tam Lại Tử bất lực trở về ngôi miếu Thổ Địa ở trấn Đông Đầu. Hắn ngước nhìn bức tượng của ông bà Thổ Địa rồi cầu: “Ông Thổ Địa, bà Thổ Địa, ông bà ra tây hộ với, hãy để tôi được chết quách đi cho rảnh nợ. Tôi thực sự sống không bằng chết nữa rồi”. Pho tượng không thể đáp lại lời Tam Lại Tử. Tam Lại Tử chẳng còn cách nào, đành phải trèo lên bàn thờ rồi trốn sau bức tượng ngủ khì. Mấy ngày rời khỏi thị trấn Đường, hắn đã phải sống rất mệt mỏi. Hắn muốn tránh xa mọi thứ ở thị trấn này nhưng không được. Mọi thứ đều do trời định sẵn, hắn không thay đổi được gì. Tam Lại Tử vừa đặt lưng xuống đã ngáy o o. Hắn luôn mong mình sẽ ngủ mẹ man như vậy, vvi không tỉnh lại nữa. Nhưng đó chỉ là giấc mơ của hắn. Đang đêm, khi thị trấn đã tĩnh mịch trở lại thì hắn tỉnh giấc vì cơn đau bụng.   Tam Lại Tử không sợ chết nhưng hắn sợ đau bụng kiểu này. Bụng của hắn bỗng trướng lên như chiếc túi da bò đầy hơi. Ban đầu chỉ như bị nhét đầy đất sét thôi, không có cách nào để bớt trướng. Bụng hắn trướng tới mức tưởng vỡ ra được. Tam Lại Tử cảm thấy mình thở gấp như sắp chết vậy. Lẽ nào chết lại đơn giản như vậy sao? Nếu chết, Tam Lại Tử có thể được toại nguyện rồi, dù gì hắn cũng chẳng luyến tiếc gì cái thế giới này nữa. Nhưng vấn đề lại ở chỗ, bụng trướng chỉ là khúc dạo đầu, vẫn còn rất nhiều nỗi đau đớn giày vò đang chờ đợi hắn. Quả nhiên, một lát sau, Tam Lại Tử có cảm giác bụng mình lúc này có hàng ngà hàng vạn con rắn độc đang quẫy đạp bên trong. Chúng cắn lục phủ ngũ tạng hắn, dường như ruột hắn bị cắn đứt, túi mật cũng bị thủng rồi… Toàn thân Tam Lại Tử đầm đìa mồ hôi, hắn ôm bụng lăn lộn rồi lăn từ trên điện thờ xuống đất. Tam Lại Tử hét lên: “Ông bà Thổ Địa ơi, mau cứu tôi với, cứu tôi với…” Lúc này chẳng ai có thể cứu được Tam Lại Tử. Tiếng hét thảm thiết của hắn cũng vô vọng. Cơn đau bụng này có liên quan tới buổi tối mưa dầm dề, cũng có liên quan tới cái bóng trắng đó. Đêm ấy, Tam Lại Tử đã đi ra khỏi miếu, đứng dưới mưa với mong muốn nó sẽ dập tắt ngọn lửa dục vọng đang bừng cháy trong lòng hắn. Một ánh chớp lóe lên xé rách màn đêm, hắn nhìn thấy một người đàn bà áo trắng không có mặt đứng ngay trước mắt hắn. Mặc dù đã ở trong miếu Thổ Địa lâu như vậy, cũng đã từng nghe rất nhiều những truyền thuyết ma quỷ trong thị trấn, nhưng chưa lần nào tận mắt nhìn thấy cả. Trong cơn sợ hãi, hắn nghe thấy tiếng nói: “Mày trúng rồi”. Tam Lại Tử rùng mình rồi đờ đẫn hắn. Trong lúc mơ mơ màng màng, hắn nhớ mình cứ đi theo cô ta. Cô ta bay một mạch về phía khe suối. Lúc này, trên con suối không còn cầu gỗ nữa, cũng chẳng có thuyền bè gì cả. Người đàn bà áo trắng liền lẩm nhẩm gì đó, sau đó bay là là trên mặt nước, cơ thể Tam Lại Tử cũng bay là là trên mặt nước… Họ bay qua con nước chảy xiết, sau đó bay về hướng núi sâu phía Tây, đi tới sườn núi Ngũ Công Lĩnh… Lúc Tam Lại Tử tỉnh lại, trời đã sáng bảnh, hắn phát hiện mình nằm dưới một cái cây, toàn thân ướt sũng, trời vẫn đang mưa, nước từ lá cây rơi xuống người hắn. Hắn vẫn nhớ mang máng rằng tối qua người đàn bà áo trắng đó đã đưa hắn tới một căn phòng rất sạch sẽ trong núi. Sau đó, cô ta bắt một con rắn từ trong vại sành ra rồi bỏ vào miệng hắn. Con rắn nhỏ đó trườn từ miệng xuống bụng hắn. Lúc đó toàn thân hắn rệu rã, hắn có cảm giác như mình bị thôi miên vậy. Sau khi con rắn nhỏ chui vào miệng, hắn lại nghe thấy tiếng của người phụ nữ kia: “Mày chỉ cần giết được con chó thường xuyên lui tới cửa hiệu truyền thần thì tao tha cho, nếu không tối nào mày cũng sẽ bị đau bụng, con rắn sẽ cắn đứt ruột mày…”   Tam Lại Tử cho rằng mình đã gặp một cơn ác mộng đáng sợ, chẳng kịp suy tính gì cả liền rời khỏi nơi đó. Hắn cũng không về thị trấn Đường mà hắn hy vọng có thể tìm thấy người đàn ông mãi võ ở một nơi nào đó rồi cùng họ đi khắp thiên hạ. Hắn đi hết chỗ này đến chỗ khác nhưng vẫn không gặp được người đàn ông kia, còn bụng hắn thì quả thực cứ đến đêm lại đau dữ dội… Tam Lại Tử đành phải trở về thị trấn Đường.   Tam Lại Tử đau tới mức cứ lăn lộn trên nền đất trong miếu Thổ Địa, hắn cứ vật vã như vậy hơn một canh. Hắn tin rằng trong người mình có rắn thật. Nghĩ tới việc đó, hắn lại thấy buồn nôn. Hắn bò dậy, trèo lên cây long não già bên ngoài miếu Thổ Địa nôn thốc nôn tháo… Hắn nôn cả mật xanh mật vàng, nhưng vẫn không nôn ra con rắn chết tiệt kia. Nước mắt, nước mũi hắn trào ra. Bất giác hắn lại nhớ tới lời người đàn bà áo trắng nói như trong mơ: “Mày chỉ cần giết được con chó thường xuyên lui tới cửa hiệu truyền thần thì tao sẽ tha cho, nếu không tối nào mày cũng sẽ bị đau bụng, con rắn sẽ cắn đứt ruột mày…” Tam Lại Tử ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đầy sao. Một ngày đẹp biết bao. Tam Lại Tử bước vào miếu Thổ Địa, từ trong góc tối, hắn vớ được chiếc xẻng, lòng hắn bỗng dưng hoang mang khó hiểu. Hắn vớ lấy chiếc xẻng chuyên đi đào mộ cho rất nhiều người chết, hôm nay hắn đi Ngũ Công Lĩnh không phải để đào mộ mà là để giết con chó cũng không có nhà để về giống như hắn. Tam Lại Tử biết đó là một con chó trung thành và lương thiện, sau khi chủ nhân của nó là ông họa sĩ già Hồ Văn Tiến chết đi, hằng đêm nó lại tới canh trước cửa hiệu. Nếu như phải giết chết con chó này, Tam Lại Tử thực sự cảm thấy không nỡ. Nhưng hắn chẳng còn lựa chọn nào khác, nếu như không làm thế, hắn sẽ không được hưởng một ngày yên bình nào. Hắn cũng không biết được người đàn bà áo trắng thần bí đó là ai, cũng không rõ tại sao bà ta lại muốn hắn giết chết con chó đáng thương hệt như hắn. Tam Lại Tử nghiến chặt răng, rồi đi ra khỏi cửa miếu. Hắn sẽ phải giết chết con chó trong đêm đầy sao này. Hắn đi về hướng thị trấn. Thị trấn im lìm, nhà nhà trong thị trấn đã tắt đèn. Tất cả cửa ra vào, cửa sổ đã được đóng chặt để ngăn màn đêm và ma quỷ xâm nhập. Lúc đi trên đường, Tam Lại Tử đột nhiên nhớ tới tin đồn hồn ma của Thẩm Văn Tú xuất hiện mới nghe ban sáng, toàn thân con người trời không sợ, đất cũng không sợ này bỗng vã mồ hôi, rồi run bắn lên. Tam Lại Tử khẽ nói: “Thẩm Văn Tú, tôi biết cô chết rất oan uổng, nhưng bình thường tôi cũng không oán, không thù gì với cô cả. Cái huyệt mộ tôi đào cũng để cho cô, chắc cô nằm ở dưới đó cũng cảm thấy rất dễ chịu. Tôi thậm chí đến một cắc tiền cũng không lấy. Thẩm Văn Tú à, cô đừng có xuất hiện trước mặt tôi đấy nhé, tìm tôi cũng chẳng có ích gì đâu”. Cuối cùng Tam Lại Tử đã tới trước hiệu truyền thần. Con chó thay lông đang nằm ẹp trên phiến đá trước cửa. Con chó rên rỉ, nó luôn dõi mắt nhìn bóng trắng lúc ẩn lúc hiện ở một góc khác, không chú ý tới Tam Lại Tử đang cầm xẻng bước về phía mình. Tam Lại Tử không nhìn thấy bóng trắng. Mục tiêu của hắn là con chó tội nghiệp kia. Tam Lại Tử nhón chân bước tới trước mặt con chó, lúc này nó đã phát hiện ra hắn. Con chó định nhấc cơ thể gầy guộc của mình lên trốn chạy. Tam Lại Tử giơ chiếc xẻng qua đầu rồi đập mạnh xuống. Trong lòng hắn thầm thốt lên tiếng: “Xin lỗi nhé!”. Chiếc xẻng giáng mạnh vào đầu con chó, nó kêu lên, cố giãy giũa. Nhưng Tam Lại Tử không cho nó bất kỳ cơ hội nào, chiếc xẻng lại đập mạnh lần nữa… Đầu của con chó bị đập nát, óc phọt ra, máu văng tung tóe, nó không còn có thể kêu trong đêm nữa rồi. Sau khi đập chết con chó, Tam Lại Tử ngồi thừ ra trên mặt đường đá, thở hổn hển. Trong một góc không xa vọng ra tiếng cười khúc khích. Bóng người đàn bà áo trắng bay tới trước mặt Tam Lại Tử nói với hắn cái gì đó, Tam Lại Tử ngây người đứng lên rồi đi theo bóng người đàn bà ấy rời khỏi con đường.

Chương II - 1-

SỐNG CHÍNH LÀ MỘT CUỘC TRẢI NGHIỆM NGUY HIỂM

1

Trời mới tảng sáng đã tràn ngập ánh nắng, người dân trong thị trấn dậy rất sớm. Họ lại bắt đầu một ngày bận rộn. Tay đồ tể Trịnh Mã Thủy đã mổ xong lợn, hắn bày những miếng thịt tươi ngon lên bàn. Một số người đã đứng lô nhô trước bàn để mua thịt. Chung Thất vẫn khoác súng moze từ quán Tiêu Dao đi ra, hắn đi xuyên qua ngõ Hoàng Đế rồi hướng về hàng thịt lợn của Trịnh Mã Thủy. Trịnh Mã Thủy vừa cắt một miếng thịt, đang định cân cho khách thì nhìn thấy Chung Thất tới gần. Trịnh Mã Thủy liền đặt chiếc cân trong tay xuống, cúi người lấy ra một quả bầu dục đã được buộc chặt bằng rơm trong chiếc rổ dưới bàn đưa cho Chung Thất. Chung Thất thờ ở nói với Trịnh Mã Thủy: “Gửi tiền sau nhé”. Nói xong, hắn liền xách quả bầu dục khệnh khạng bỏ đi. Trịnh Mã Thủy làu bàu: “Ngày nào cũng chơi gái trong quán Tiêu Dao, có ăn trăm quả bầu dục cũng chẳng ích gì”. Một người mua thịt chêm vào: “Thẩm Văn Tú chết rồi, nếu Chung Thất không đi chơi gái ở quán Tiêu Dao thì còn ai trong thị trấn này muốn ngủ với hắn chứ?” Trịnh Mã Thủy đáp lại: “Lúc Thẩm Văn Tú còn sống, ngày ngày Chung Thất vẫn đi chơi gái ở quán Tiêu Dao đấy thôi. Nếu không, làm sao cô ta lại đổ đốn thông dâm với Du Vũ Cường chứ? Tôi cho rằng Chung Thất đúng là mình làm mình chịu thôi, ở nhà có cô vợ đẹp như vậy lại không ngủ cùng, cứ muốn đến quán Tiêu Dao tìm bọn rác rưởi trăm thằng cưỡi, ngàn thằng sờ đó”. Người mua thịt cười trêu: “Hoa nhà không thơm bằng hoa dại mà. Nghe nói bọn điếm trong quán Tiêu Dao có nghề lên giường chuyện nghiệp lắm. À mà Trịnh Mã Thủy, chả lẽ anh không muốn thử một lần sao?” Trịnh Mã Thủy khua khua chiếc dao mổ lợn trong tay rồi nói luôn: “Đi đi, đi đi, đừng lấy tôi ra làm trò cười”. Người mua liền xách thịt, vừa cười hỉ hả vừa bỏ đi. Mụ Hồ Nhị Tẩu vừa mở của quán đã phát hiện con chó chết trước cửa hiệu truyền thần. Mụ hét toáng lên: “Ai giết con chó thế này?”   Vài người đi ngang qua nhìn thấy con chó, liền bỏ đi như không có chuyện gì xảy ra. Ở thị trấn Đường, người chết còn chẳng được coi ra gì, huống hồ là một con chó. Mụ Hồ Nhị Tẩu đến ngõ Thi Niệu đổ xô phân và nước tiểu xong, về quán vẫn thấy con chó nằm chềnh ềnh ở đó. Mụ ta nghĩ thầm, nếu không ai đưa con chó đi, trời nóng thế này, nó sẽ bốc mùi mất. Lúc đến ngõ Thi Niệu, mụ Hồ Nhị Tẩu vô tình gặp thằng cha thích ăn thịt chó nhất thị trấn, mụ ta liền bảo hắn nhặt về làm sạch là có thể ăn được. Nào ngờ, thằng cha độc thân đó không muốn ăn thịt chó nữa, cứ nghĩ tới chó là đã thấy buồn nôn rồi. Như có hòn đá đè lên ngực, mụ ta nghĩ nếu con chó cứ nằm chềnh ềnh ở đó, khi phân hủy sẽ bốc mùi khắp nơi mất, vậy thì còn ai muốn tới quán mụ ăn nữa. Lúc này, mụ Hồ Nhị Tẩu thấy Tam Lại Tử đang dưỡn dẹo đi tới, đôi chân trần bẩn thỉu của hắn đi trên mặt đường rải đá cứ phát ra tiếng lạch bạch. Mắt mụ sáng lên: “Tam Lại Tử, lại đây, lại đây mau!” Tam Lại Tử đi tới trước mặt mụ Hồ Nhị Tẩu thắc mắc: “Bà chị gọi tôi làm gì thế?” Mụ ta chỉ vào con chó chết trước cửa hiệu truyền thần: “Mày nhìn thấy chưa? Con chó này không hiểu tại sao lại bị người ta đánh chết chứ?” Tam Lại Tử nhăn mặt, trông hắn xấu xí vô cùng. Hắn liếc nhìn con chó cùng vết máu đã khô trên mặt đường rồi chau mày. Một lát sau, Tam Lại Tử cũng giả vờ hỏi lại: “Đúng vậy, ai đã giết chết con chó này thế?” Mụ Hồ Nhị Tẩu phụ họa theo: “Đúng vậy, không hiểu ai lại thất đức như vậy”. Tam Lại Tử đảo con ngươi một vòng rồi khẽ nói: “Lúc đêm khuya, tôi tới ngõ Thi Niệu đổ nước tiểu nhìn thấy trước cửa hiệu truyền thần có một bóng người. Tôi sợ quá liền đi đường vòng về miếu Thổ Địa. Bà chỉ có đoán được cái bóng tôi nhìn thấy là ai không?” Mụ Hồ Nhị Tẩu sợ hãi hỏi lại: “Là ai cơ?” Tam Lại Tử cố nén giọng xuống đáp lại: “Là Thẩm Văn Tú đấy”. Mụ Hồ Nhị Tẩu há hốc miệng, mãi sau vẫn không khép lại. Lúc Tam Lại Tử định bỏ đi thì mụ liền giữ lại: “Tam Lại Tử, mày đi chôn con chó đó đi”. Tam Lại Tử nghĩ một lúc rồi hỏi lại: “Tôi làm thế để được gì chứ?” Mụ bốp chát: “Chôn con chó chết còn đòi được lợi gì chứ?” Tam Lại Tử cười nhạt đáp: “Hì hì, thế thì bà chị tự mình đi mà chôn nó nhé”. Tam Lại Tử nói xong liền bỏ đi luôn. Mới đi được mấy bước, mụ Hồ Nhị Tẩu liền gọi giật lại: “Tam Lại Tử, quay lại đây, chỉ cần mày đem con chó này đi, muốn gì cứ nói”. Tam Lại Tử quay người tiến về phía mụ Hồ Nhị Tẩu: “Bà chị nói gì, định trả công thế nào đây?” Mụ Hồ Nhị Tẩu hỏi lại: “Nói đi, thế mày muốn gì?” Tam Lại Tử gãi gãi đầu rồi nói nhỏ: “Chị biết tôi thiếu nhất cái gì mà? Chồng bà chị cũng không có nhà, chẳng phải bà chị cũng bức xúc lắm hay sao? Bà chị, lẽ nào bà chị không cần đàn ông ư?” Mặt mụ Hồ Nhị Tẩu đờ đẫn rồi chuyển sang trái, mụ ta tức tới mức toàn thân run lên: “Tam Lại Tử, mày… mày quá đáng quá rồi đấy. Sao mày lại có thể nói ra những lời vô học như vậy nhỉ? Mày đúng là không bằng chó lợn. Mày cút ngay, cút ngay cho tao!” Mụ Hồ Nhị Tẩu tức tối đi vào quán ăn. Tam Lại Tử đứng đó cười gượng: “Đồ đàn bà các người, đến cả đùa cũng không được”. Tam Lại Tử bước tới chỗ con chó chết rồi đặt nó lên vai, đi về phía tay con đường nhỏ trong thị trấn. Lúc đi ngang qua quán ăn, hắn liền nói chõ vào phía mụ chủ quán đang cọ nồi bên trong: “Bà chị ơi, tôi đi chôn con chó đây. Bà chị chuẩn bị cho tôi mấy cái bánh bao chiên là được rồi. Đây là yêu cầu của tôi đấy”. Mụ Hồ Nhị Tẩu vẫn hậm hực: “Cho mày ăn cứt thì có”. Tam Lại Tử đi rồi, mụ ta xách một xô nước để dội vết máu khô dính trên đất. Lúc này, họa sĩ Tống mở cửa hiệu rồi đi ra ngoài. Hồ Nhị Tẩu ngẩng đầu nhìn Tống Kha, mụ ta bỗng ngửi thấy mùi tanh nồng nặc.  

2

  Tống Kha không hiểu đêm qua đã xảy ra chuyện gì. Nhìn thấy mụ Hồ Nhị Tẩu đang dội nước vào vết máu trước cửa, anh bèn hỏi nhỏ: “Có phải lại có người chết không?” Mụ ta gằn giọng đáp: “Không phải là người chết, mà là con chó của ông họa sĩ già chết”. “Con chó của ông Hồ Văn Tiến ư?” Trong giây lát, đầu Tống Kha quay cuồng. Từ trước tới giờ, chưa ai nói cho anh biết ông Hồ Văn Tiến nuôi con chó đó. Tống Kha không hề biết rằng con chó khiến anh cảm thấy vô cùng sợ hãi trong ngày đầu đặt chân tới thị trấn Đường này đã túc trực trước cửa hiệu truyền thần mỗi ngày. Mụ chủ quán nói tiếp: “Thực ra, đó là một con chó tốt để giữ nhà, tiếc là từ sau khi ông họa sĩ già chết đi, chẳng ai quan tâm tới nó nữa”. Tống Kha đờ người ra, một âm thanh kỳ dị văng vẳng trong đầu anh. Anh nhớ tới những chuyện xảy ra đêm qua. Ban đêm, Tống Kha dường như nghe thấy một âm thanh rất kỳ bí, đó là tiếng gọi của một người đàn bà. Lúc này, anh đang nghe câu chuyện về nguyên nhân gây ra cái chết của một hồn ma dưới gầm giường. Sau khi tiếng kêu của người phụ nữ đó xuất hiện, hồn ma liền tiêu tan. Trong giây lát, Tống Kha cảm thấy có một bóng trắng đứng bên cạnh giường, bóng trắng đó nói với anh: “Anh trúng rồi”. Anh còn mơ màng nghe thấy tiếng thở gấp gáp… Tống Kha chìm vào giấc ngủ trong trạng thái phiêu du, lâu lắm rồi anh chưa được ngủ ngon tới vậy. Trong giấc mơ, anh còn nhìn thấy người con gái anh yêu. Tống Kha cũng chẳng thèm để ý tới mụ Hồ Nhị Tẩu, anh một mình đi về hướng tây thị trấn. Mụ Hồ Nhị Tẩu chau mày, hít mấy hơi liền, có vẻ mụ ta đang muốn nôn. Sau khi Tống Kha đi xa rồi, cái mùi tanh đó mới dần dần tản đi. Mụ tự nhủ: “Thì ra rên người họa sĩ Tống có mùi hôi”. Tống Kha đã đi tới đập suối. Nước lớn đã rút đi khá nhiều, chỉ còn lưu lại lớp bùn nhão bên bờ sông. Lớp bùn che phủ những cây cỏ mọc ven bờ. Cây cầu nhỏ phải chờ tới lúc mùa mưa kết thúc hoàn toàn mới có thể được bắc lại. Lúc này, phương tiện duy nhất chở người qua sông là con đò nhỏ đang đậu ở bến. Người lái đò là một ông già có làn da sần sùi như vỏ cây, ông ta mặc chiếc áo đen vá chằng và chịt với đôi chân trần nổi đầy gân. Tống Kha bước lên chiếc đò nhỏ. Ông lái đò vẫn còn rất khỏe, ông dùng sào dài đẩy đò đi, thậm chí chẳng chau mày chút nào. Nhưng khi tới bờ bên kia, sau khi Tống Kha lên bờ, ông lái đò chau mày nhìn Tống Kha đi được một đoạn đường xong mới thốt lên: “Thối thật!” Tống Kha bị giọng nói phụ nữ đó mời gọi, anh đi một mạch đến nơi sâu nhất trong ngọn núi hoang thuộc Ngũ Công Lĩnh. Tống Kha đang mặc chiếc áo sơ mi màu xám, trông anh lúc này giông như tờ giấy màu xám đang bay về nơi sâu thẳm trong ngọn núi hoang. Bỗng Tam Lại Tử - đang chôn con chó trên sườn núi có những ngôi mộ lô nhô – nhìn thấy Tống Kha. Hắn trầm ngâm trong làn gió sớm còn mang đầy hơi sương rồi tự nhủ không hiểu anh chàng tha hương này đang đi đâu. Toàn thân Tam Lại Tử run bắn, dường như hắn nhớ ra chuyện đáng sợ gì đó, mặt hắn toát lên vẻ sợ hãi tột cùng. Tam Lại Tử nói to đằng sau lưng Tống Kha: “Họa sĩ Tống, cậu đừng tới chỗ đó”. Dường như không nghe thấy tiếng gọi của Tam Lại Tử, Tống Kha vẫn tiếp tục đi sâu vào trong núi hoang. Tam Lại Tử gọi mấy tiếng liền nhưng có vẻ Tống Kha vẫn không nghe thấy. Tam Lại Tử liền buông cái xẻng trong tay xuống, chạy thục mạng theo Tống Kha. Hắn muốn ngăn Tống Kha đi tới chỗ bí ẩn đó. Nhưng Tam Lại Tử không làm thế nào để đuổi kịp được Tống Kha dù hắn đã chạy nhanh hơn cả chó. Tống Kha đi như bay, Tam Lại Tử chỉ biết giương mắt đứng nhìn anh mất hút trong tầm mắt. Hắn đứng trên đám cây cỏ dại thở phì phò, hắn nghe thấy tiếng gió thổi vù vù. Hắn lẩm bẩm một mình: “Họa sĩ Tống, lẽ ra anh không nên tới thị trấn Đường, xem ra tôi lại phải đào sẵn cho anh một cái huyệt rồi”. Tam Lại Tử biết trong nơi sâu thẳm đó, người phụ nữ thần bí đang chờ Tống Kha đến. Tống Kha cũng không biết đã đi được bao xa, anh bị tiếng gọi của người đàn bà kia dẫn tới khu rừng rậm. Sau khi anh tới đó, tiếng gọi biến mất. Anh nhìn thấy một ngôi nhà gỗ trên mảnh đất trống nhỏ xíu trong rừng, nơi đây có tiếng chim hót véo von. Tống Kha có cảm giác đã tới một thế giới cách biệt với hiện thực. Không hiểu những người đang sống trong căn nhà gỗ kia là ai? Lẽ nào tiếng gọi phát ra từ chỗ này? Tống Kha cứ ngơ ngẩn đứng trong rừng, không biết phải làm sao. Tống Kha không tưởng tượng nổi người sống trong hai cánh cửa đóng chặt của căn nhà gỗ kia là người thế nào. Lúc anh mới tới thị trấn Đường, Tam Lại Tử đã nhắc nhở, hắn còn dặn anh không nên một mình lên núi. Trên núi không chỉ có thổ phỉ Trần Lan Đầu giết người như ngóe, mà còn có những loài hổ báo rắn rết có thể gây hại đến tính mạng cho bất cứ ai vào bất cứ lúc nào. Tam Lại Tử còn lấy ví dụ về một phụ nữ mang bầu sống trên núi một mình xuống chợ phiên ở thị trấn Đường bị hổ báo rạch một lỗ lớn trên bụng, chết trên đường xuống núi. Đúng lúc Tống Kha đang suy nghĩ vẩn vơ thì cửa ngôi nhà gỗ bật mở. Tống Kha kinh ngạc mở to mắt nhìn. Miệng anh cũng từ từ mở to: “A!” Tống Kha nhìn thấy một phụ nữ từ trong căn nhà gỗ bước ra, nở nụ cười mê hồn với anh. Tuy cô chỉ mặc chiếc áo đặc trưng của người dân vùng núi bằng vải thô nhưng khuôn mặt tươi tắn, đẹp đẽ kia rõ ràng là của Tô Tĩnh – người con gái anh hằng đêm mong nhớ. Tại sao Tô Tĩnh lại ở đây chứ? Lẽ nào cô ấy tới đây để tránh chiến tranh loạn lạc ư? Tống Kha có cảm giác mình đang sống trong mơ, nụ cười tươi tắn của Tô Tĩnh tạo nên một lớp sương mỏng trước mắt Tống Kha. Trong màn sương mờ mờ ảo ảo đó, Tô Tĩnh giẫm lên những cây cỏ đang còn đẫm hơi sương rồi chậm rãi đi về phía Tống Kha. Miệng cô thì thào cái gì đó…  

3

  Hôm nay là ngày 11 tháng Năm âm lịch năm Dân Quốc thứ ba mươi lăm, người dân trong cái thị trấn Đường nhỏ bé này đều biết trên người anh chàng họa sĩ mới tới Tống Kha tỏa ra mùi tanh không những kỳ bí lại rất khó ngửi. Tin đồn về mùi tanh thối trên người Tống Kha được đồn thổi khắp nơi từ miệng người này sang người khác. Đây dường như là một chủ đề nóng sau cái chết của Thẩm Văn Tú. Rất nhiều người đã dựa vào chủ đề này để giết thời gian rảnh rỗi. Người đầu tiên tung tin đồn trên người Tống Kha có mùi tanh chính là mụ Hồ Nhị Tẩu. Trong lúc đang dội vết máu của con chó chết trước cửa hiệu truyền thần vào buổi sáng, tận mắt nhìn thấy Tống Kha đi ra khỏi nhà, cả buổi sáng hôm đó mụ ta vừa làm việc vừa kể chuyện về Tống Kha với bất kỳ người qua đường nào. Mãi tới giờ cơm trưa mà vẫn chưa thấy Tống Kha về nhà, thường giờ này anh đã ở quán của mụ ta ăn cơm rồi mới phải chứ. Mụ Hồ Nhị Tẩu cảm thấy bất an trong lòng, nếu như Tống Kha tới quán của mụ ăn cơm, mụ sẽ phải cư xử với anh chàng thế nào đây? Mùi tanh trên người anh ta thực sự khiến người khác buồn nôn, có điều mối hời tự dẫn xác tới trước cửa sao lại có thể không kinh doanh chứ? Tống Kha tuy không phải là người giàu có gì, nhưng chưa bao giờ anh ta nợ cả, điều này thật hân hữu bởi đến thằng cha Chung Thất còn thường xuyên tới quán ăn chịu nữa là. Cũng chính trong buổi trưa hôm đó, thị trấn Đường lại có thêm một người chết. Người chết là một bà cụ, bà cụ này ngẫu nhiên lại đúng là mẹ ruột của Chủ tịch Du Trường Thủy – bà Dư Thất Liên. Nghe nói bà cụ đã hơn chín mươi tuổi, những người dân trong thị trấn rất ít khi nhìn thấy bà. Bởi khi bảy mươi tuổi, bà đi lại đã không được tốt lắm, hơn hai mươi năm nay cũng không thấy bà đi lại ngoài đường nữa. Có người nói, hơn hai mươi năm trước, thần trí của bà đã không được minh mẫn, bà còn sống được lâu như vậy là nhờ ông con trai lắm tiền nhiều của Du Trường Thủy đã bỏ ra rất nhiều tiền mua đủ loại nhân sâm còn đắt hơn cả vàng trên núi hoang vùng Đông Bắc để kéo dài tuổi thọ cho mẹ. Chủ tịch đã sắp xếp để mẹ ở trong căn nhà cũ ở thôn Du Ốc phía đông thị trấn. Biết tin mẹ chết, Du Trường Thủy liền lên xe, vội vội vàng vàng mang theo mấy người về thôn Du Ốc.   Chiếc xe con của Du Trường Thủy đã đi qua cửa quán ăn của mụ Hồ Nhị Tẩu. Mụ ta đã biết tin bà Dư Thất Liên chết, sự việc này còn được đồn đi nhanh hơn cả việc trên người Tống Kha tỏa ra mùi tanh. Bởi dù gì thì bà ta cũng là mẹ ruột của Chủ tịch mà. Chiếc xe con của Du Trường Thủy mất khoảng nửa canh giờ mới tới được nơi của bà Dư Thất Liên. Trong khi đó Chung Thất mang hai tên bảo vệ tới cửa hiệu truyền thần. Chung Thất nhìn thấy cửa vẫn khóa chặt, liền càu nhàu: “Họa sĩ Tống đi đâu được nhỉ? Cho dù trên người có mùi hôi thì cũng không cần phải trốn biệt như thế này mới phải”.   Chung Thất làm theo lời dặn dò của Chủ tịch Du Trường Thủy, hắn đã đặt xong cỗ quan tài. Hiện tại, hắn tới chỗ Tống Kha để mời anh tới vẽ truyền thần cho bà Dư Thất Liên, đây không phải là chuyện nhỏ. Chung Thất đi tới quán ăn, hỏi mụ Hồ Nhị Tẩu đang chiên bánh bao rằng: “Này, bà có biết Tống Kha đi đâu không vậy?” Bà ta luôn coi thường Chung Thất, lườm hắn một cái rồi nói: “Tôi đâu phải là con giun ở trong người cậu ta, cậu ta đi đâu tôi làm sao biết được chứ?”   Chung Thất chẳng biết làm sao đành phải ra lệnh cho hai thằng tay sai: “Chúng mày chia nhau ra tìm, nếu tìm được thì dẫn cậu ta tới thôn Du Ốc ngay cho tao. Tao đi tìm thằng Tam Lại Tử, để bảo nó đào huyệt”.   Chung Thất mới đi chưa được mấy bước, mụ hoàn toàn đã đi ra cửa quán nói với theo hắn: “Đội trưởng Chung, ngài mau thanh toán tiền ăn còn nợ tôi đi. Tôi là người buôn bán nhỏ, không cho nợ lâu được đâu”. Chung Thất không hề để ý tới mụ ta, hắn vội vã bỏ đi. Mụ liền chửi rủa hắn: “Mày đúng là đồ vô lại, chả trách con vợ mày cặp kè với người khác”.

4

  Mãi tới lúc chạng vạng tối, Tống Kha mới được ràng chiều đỏ rực tiễn về thị trấn Đường. Khuôn mặt anh lúc này có đôi chút hồng hào, nếu so với khuôn mặt xanh xao lúc thường ngày thì giống như hai người hoàn toàn khác biệt vậy. Đôi mắt sau cặp kính của anh dường như còn lưu lại sự nóng ấm của đống tàn tro sau khi ngọn lửa rừng rực cháy. Khi Tống Kha đi trên đường, người ta lại nhìn anh bằng ánh mắt khác thường như thể anh là quái vật vậy. Những chỗ anh đi qua đều tỏe ra mùi tanh khó hiểu. Ai ngửi thấy cũng đều giơ tay bịt mũi. Một mình Tống Kha đi trên con đường trống trải, anh chẳng hề quan tâm tới việc người ta ném về mình những ánh mắt kỳ quặc lẫn những tiếng xì xào bàn tán. Lúc Tống Kha về tới cửa hiệu truyền thần, tay bảo vệ Trư Cốc đang chờ ở quán ăn liền đứng bật dậy chạy về phía anh ta. Mụ Hồ Nhị Tẩu vẫn nhìn Tống Kha bằng ánh mắt vô cùng phức tạp. Tống Kha không hề để ý tới việc Trư Cốc chạy về phía mình; vẫn như thường lệ, anh lấy khóa ra mở cửa. Trư Cốc ngửi thấy mùi tanh, hắn cố kìm nén rồi nói với Tống Kha: “Họa sĩ Tống, anh mau mang hết các dụng cụ vẽ truyền thần rồi đi với tôi”. Tống Kha vừa mở cửa xong liền quay ra hỏi Trư Cốc: “Cậu muốn tôi đi đâu vậy?” Trư Cốc lùi về sau hai bước đáp lại: “Đi với tôi tới thôn Du Ốc”. Tống Kha vẫn bình thản hỏi tiếp; “Tới thôn Du Ốc làm gì cơ?” Trư Cốc nói một mạch không ngừng: “Anh vẫn chưa biết gì à? Mẹ của Chủ tịch Du Trường Thủy chết rồi, ông ấy muốn tôi mời anh tới vẽ truyền thần. Anh có biết không hả, chúng tôi tìm anh mất cả buổi chiều, còn tưởng anh đã chết ở đâu rồi kia”. Tống Kha không nói gì thêm, anh bước vào cửa hiệu, thu xếp đồ đạc xong liền đi cùng Trư Cốc. Trên đường, Trư Cốc đi như bay, hắn đi cách Tống Kha một đoạn dài, bởi hắn sợ ngửi thấy mùi tanh toát ra từ người anh. Tống Kha không theo kịp hắn, chỉ thấy chốc chốc Trư Cốc dừng lại vẫy tay, ý nói anh đi nhanh lên chút nữa để còn kịp. Lúc họ tới căn nhà cũ của Du Trường Thủy ở thôn Du Ốc thì trời đã tối hẳn, bầu trời đã xuất hiện những vì sao. Từ xa, Tống Kha đã nghe thấy tiếng trống đám ma rất nhịp nhàng. Lúc đi tới cửa lớn nhà họ Du, Tống Kha nghe thấy tiếng khóc từ trong phòng lớn. Tống Kha bị Trư Cốc dẫn tới bên ngoài cửa lớn, anh quan sát người nhà họ Du đang ra ra vào vào, nhưng vẫn nghe được tiếng Trư Cốc nói: “Họa sĩ Tống à, anh đợi ở đây một lát, tôi vào trong báo với Chủ tịch một tiếng”. Tống Kha gật gật đầu, Trư Cốc liền đi vào nhà. Trư Cốc tìm thấy Chung Thất, liền nói nhỏ với hắn: “Đội trưởng Chung à, họa sĩ Tống đã tới rồi. Đúng là rất thối, cả đoạn đường em không dám lại gần hắn. Hay là đội trưởng nói với Chủ tịch để hắn đi đi”. Khi Du Trường Thủy phát hiện Trư Cốc, trong tay ông ta vẫn đang cầm chiếc điếu cày, ông ta bước tới hỏi: “Trư Cốc, đã mời họa sĩ Tống tới chưa vậy?” Trư Cốc cúi đầu khom lưng đáp lại: “Chủ tịch à, đã tới rồi, đang chờ ở ngoài cửa”. Du Trường Thủy thắc mắc: “Người ta đã tới trước cửa rồi, sao không cho vào hả?” Mặt Trư Cốc biến sắc. Chung Thất giải thích: “Chủ tịch à, không hiểu ngài đã nghe nói chưa, trên người Tống Kha…” Du Trường Thủy rít một hơi thuốc dài, bình tĩnh nói tiếp: “Cậu nói là trên người cậu ta có mùi tanh thối chứ gì? Cái này thì có liên quan gì, chỉ là mùi trên cơ thể thôi mà, lẽ nào các cậu đều sạch sẽ cả? Trên người các cậu không có tí mùi nào ư?” Chung Thất đáp: “Mùi trên người Tống Kha quả thật rất nặng. Ngài xem, có rất nhiều vị khách quý tới phủ ta, tôi chỉ sợ…” Du Trường Thủy lại rít một hơi thuốc dài, thở ra một làn khói rồi nói: “Ừ, vậy thì thế này, trước tiên các cậu mời họa sĩ Tống tới dãy phòng phía tây, làm cho cậu ấy vài món ngon ngon vào, để cậu ấy nghỉ ngôi đôi chút. Chờ tới nửa đêm, người vãn vãng rồi mời cậu ấy ra linh đường vẽ truyền thần cho mẹ ta”. Tới nửa đêm, Chung Thất vừa ngáp vừa đẩy cửa căn phòng phía tây. Tống Kha bước ra khỏi bậc cửa cao cao của gian phòng phía tây, lòng nghĩ thầm sao bậc cửa nhà người giàu lại cao vậy nhỉ? Dưới sự dẫn đường của Chung Thất, anh đã tới linh đường. Lúc này, trong linh đường chỉ có ba chàng trai trẻ đang trông linh cữu. Họ ngồi với nhau, kẻ nói người cười, ba chàng thanh niên trẻ đó là hậu duệ nhà họ Du. Họ phải ở đây canh linh cữu tới sáng. Chung Thất nói xong bỏ đi luôn. Đối với hắn mà nói, việc nhanh chóng rời xa Tống Kha và linh đường là chuyện vô cùng tốt đẹp. Linh đường hiện rõ vẻ âm u. Xác bà Dư Thất Liên được đặt dưới bàn thờ thần, hai đầu thắp hai ngọn đèn sáng. Phía trên đầu đặt một ngôi nhà giấy. Hai bên người bà bày hai hàng hình nhân, bên trái là hình nhân nam, bên phải là hình nhân nữ. Tường hai bên sảnh lớn trên đầy những hình hoa được xếp bằng vải, mỗi bông hoa là một mảnh vải đây dài màu trắng. Phía trên sảnh lớn treo mấy chiếc đèn lồng trắng, trên đèn lồng có chữ “Hỷ”. Phần thân bà Dư Thất Liên được phủ một lớp vải đay trắng. Đầu bà lộ ra bên ngoài. Mái tóc bạc thưa thớt được chải mượt, dùng chiếc dây gai trắng cột chặt thành một búi, trên búi tóc, người ta dùng chiếc đũa xiên ngang qua. Khuôn mặt bà rất nhỏ, tựa hồ chẳng còn tí thịt nào, chỉ còn lại một nhúm da nhàu nhĩ, da mặt màu nâu sậm, đôi môi mỏng được bôi lên một lớp chu sa đỏ. Đôi mắt bà nhắm nghiền hõm sâu, tạo thành hai hố đen ngòm. Tiếng cười nói của ba người trông linh cữu khiến Tống Kha bớt sợ đi nhiều. Tống Kha cảm thấy rất kỳ quặc bởi có người chết nhưng ba cậu trai trẻ này lại không tỏ ra đau buồn một chút nào, lại còn cười cười nói nói. Tống Kha cũng chẳng quan tâm nhiều nữa, việc truyền thần cho người chết lúc này mới là nhiệm vụ quan trọng nhất của anh. Cả ngày nay, tâm trạng của Tống Kha luôn bị kích động, nhưng tới giờ anh đã bình tĩnh trở lại để đối mặt với di hài của bà Dư, vẽ một bức truyền thần khiến Chủ tịch Du Trường Thủy hài lòng. Lúc Tống Kha dùng bút than vẽ trên nền giấy, anh hoàn toàn quên rằng mình đang đối mặt với người chết, anh coi người chết là người đang ngủ say. Do vậy, anh cảm thấy bà vẫn đang thở, vẫn đang giao tiếp với anh bằng linh hồn, anh tưởng tượng ánh mắt của bà vừa bình thản vừa có thần, xem nhẹ mọi thứ trong cuộc sống, bao gồm cả cái chết. Tống Kha rơi vào trạng thái quên mất bản thân, trạng thái này khiến anh tìm được niềm vui mà không ai có thể hiểu được. Ba chàng trai trẻ kia ban đầu không chú ý lắm tới Tống Kha, thế nhưng sau khi một người trong số họ phát hiện Tống Kha đang vẽ truyền thần cho người chết thí hai người còn lại liền bước tới chỗ anh. Cậu thanh niên nhìn một lúc thì ngửi thấy mùi rất lạ. Thường thì sau khi chết, xác chết sẽ bốc mùi thối, không những thế bây giờ lại là mùa hè, nên xác chết bốc mùi càng nhanh hơn. Mùi tanh trên người Tống Kha quyện với mùi thối của xác chết càng khiến cho người ta không chịu nổi. Cậu thanh niên đó nhanh chóng rời khỏi chỗ Tống Kha, trốn ở rất xa, hai người còn lại cũng bắt đầu ngửi thấy mùi lạ, họ tới chỗ cậu thanh niên đang trốn kia. Họ bàn bạc với nhau một lúc rồi chạy xuống sảnh dưới tiếp tục nói chuyện. Trong đại sảnh lớn chỉ còn lại mỗi Tống Kha và xác của bà Dư Thất Liên. Ba chàng trai trẻ ở sảnh dưới chẳng biết ngủ thiếp đi từ lúc nào, không còn nghe thấy tiếng nói cười của họ, linh đường im ắng tới mức có thể nghe thấy tiếng bấc lay động trong đèn, chưa nói tới tiếng vẽ soạt trên giấy của Tống Kha. Một luồng gió lạnh ập vào. Những chiếc hoa kết bằng vải bay pháp phới, giống như có hàng trăm hàng nghìn cánh tay đang lắc chúng vậy. Tống Kha thấy lạnh cả người, anh cũng không biết giờ là canh mấy nữa. Bức vẽ gần như đã hoàn thành. Tống Kha cảm thấy có gì vẫn không ổn. Anh chăm chú nhìn vào bức truyền thần, sau đó lại nhìn vào khuôn mặt của bà Dư. Tống Kha đã vẽ khuôn mặt quắt queo của bà đầy đặn hơn một chút, vẽ như vậy sẽ cảm thấy khuôn mặt có hậu hơn. Và điều đó hoàn toàn phù hợp với thân phận của bà. Đúng lúc Tống Kha đưa mắt một lần nữa nhìn vào khuôn mặt người chết, anh phát hiện một con mèo mướp kêu một tiếng trên đầu bà Dư, sau đó sợ hãi bỏ đi. Tống Kha vẫn chưa kịp hoàn hồn thì nhìn xác của bà Dư Thất Liên đã ngồi thẳng dậy. Tống Kha sợ đến nỗi hà hốc mồm ra, chiếc bút than trong tay rơi bộp xuống đất. Bà Dư mở mắt, dường như có hai ngọn lửa phóng ra từ hai hố đen đó. Đôi môi được tô chu sa của bà run lên, Tống Kha lại nghe thấy giọng nói lạnh lẽo: “Tôi chết không nhắm mắt, tôi không biết thằng cháu nội tôi – Du Vũ Cường – đang sống hay đã chết?” Toàn thân Tống Kha run bắn, anh định đứng dậy rồi bỏ chạy nhưng dường như mông anh đã mọc rễ, nó cắm chặt vào chiếc ghế. Bà Dư nói xong liền nhìn chằm chằm vào Tống Kha, nét mặt vô cùng đáng sợ. Tống Kha đành phải giả bộ cứng rắn đáp lại: “Cháu nội bà – Du Vũ Cường – không sao đâu, anh ấy đã rời khỏi thị trấn rồi. Anh ấy chưa chết, anh ấy sẽ sống rất sung sướng, bà yên tâm đi”. Miệng của bà Dư rung lên, rồi ngã xuống, nằm như cũ. Tống Kha thở hắt một hơi dài, anh cất tiếng gọi to ba cậu bé ở sảnh dưới: “Quỷ nhập tràng!” Ba chàng trai trẻ nghe thấy tiếng anh, đều đã tỉnh lại. Một cậu có vẻ can đảm nhất đi tới sảnh lớn. Sau khi nhìn xác bà Dư Thất Liên liền hỏi: “Họa sĩ Tống à, anh nói linh tinh cái gì thế? Quỷ nhập tràng ở đâu hả?” Tống Kha không để ý tới cậu ta, anh nhặt chiếc bút than từ dưới đất lên rồi tiếp tục đưa bút vẽ mấy đường ở phần mắt. Khóe miệng anh hơi nhoẻn cười. Cậu thanh niên đó đưa mắt nhìn bức truyền thần, sợ hãi hét lên: “Ôi chao, giống quá, đúng lả vẽ giống hệt bà cụ”. Nói xong, nó lại đưa tay lên bịt mũi, mùi kỳ lạ đó lại tràn ngập trong linh đường.  

5

  Con trai của Du Trường Thủy ôm bức truyền thần của bà Dư Thất Liên được lồng trong khung kính đi sau quan tài, đội đưa tang xếp thành hàng dài, tiếng thanh la, tiếng khóc rộ lên… Những người tới xem đám tang nô nức trầm trồ về sự sắp xếp đâu ra đấy, còn bàn tán về chuyện Tống Kha đã vẽ bà Dư Thất Liên giống y xì. Nhìn bức truyền thần của bà, người ta có cảm giác như bà đang sống. Lúc đó, Tống Kha đang ngủ mê mệt trên gác xép trong cửa hiệu. Sự phô trương thanh thế của nhà họ Dư dường như chẳng liên quan gì tới anh. Vào buổi sáng khi Tống Kha vẽ xong bức truyền thần cho bà Dư Thất Liên, Du Trường Thủy nhìn thấy bức truyền thần liền khóc. Tống Kha cho rằng ông ta quá đau buồn vì cái chết của người mẹ, không ngờ ông ta nói với anh: “Tới ngày tôi chết, nếu có thể mời được cậu vẽ truyền thần, thì đó sẽ là chuyện hạnh phúc nhất trong đời”. Nói xong, Du Trường Thủy đưa cho Tống Kha ba đồng đại dương, sau đó đưa Tống Kha về nhà bằng chiếc xe con đã đi tới đây. Theo quy định của người dân trong thị trấn, khi ông họa sĩ già vẽ truyền thần cho người chết, cho dù là nhà giàu cỡ nào thì nhiều nhất cũng chỉ trả công một đồng đại dương. Du Trường Thủy trả công hậu hĩnh như vậy cho Tống Kha khiến những người có mặt ở đó cảm thấy không tưởng tượng nổi. Về cửa hiệu xong, Tống Kha ngủ vùi, sau khi ngủ lịm đi, anh lại mơ thấy người con gái tên Tô Tĩnh kia. Tới trưa, Tam Lại Tử bước vào quán ăn. Mụ Hồ Nhị Tẩu đang ngồi đó, lười biếng phe phẩy quạt nan. Lúc này không phải ngày chợ phiên, nên cũng chẳng có ai tới quán mụ ăn cơm. Mụ Hồ Nhị Tẩu chẳng hứng thú lắm với sự xuất hiện của Tam Lại Tử. Hắn đi vào trong quán ngồi xuống, gác chân lên, điệu bộ rất hống hách. Hắn nói với mụ: “Cho bát canh gan lợn, nửa cân bánh bao chiên”. Hồ Nhị Tẩu hỏi: “Trả ngay hay nợ đấy hả?” Tam Lại Tử liếc nhìn mụ rồi hỏi lại: “Bà chị nói thế có ý gì?” Mụ liền đáp: “Nếu trả ngay, tao sẽ làm cho mày, còn nếu nợ thì đừng hòng”. Tam Lại Tử bỗng rút từ trong túi ra một đồng đại dương, rồi vỗ lên bàn: “Bà chị đừng có nhìn người bằng mắt chó vậy nhé, xem đi, đây là cái gì hả?” Mụ chủ quán nhìn thấy đồng đại dương sáng loáng, mắt cũng sáng theo: “Được, được, nhà anh có tiền, tôi coi nhà anh là quý ông, tôi đi nấu canh gan lợn, đi chiên bánh bao đây ạ”. Tam Lại Tử dương dương tự đắc nói: “Thế mới được chứ. Đúng rồi, lát nữa cho thêm một bình rượu gạo. Đã lâu lắm rồi tôi chưa được uống rượu gạo, đến quên cả mùi rượu rồi”. Hồ Nhị Tẩu mau mồm đáp lại: “Có ngay”. Tam Lại Tử lại nói tiếp: “Thực ra, tôi có được mời ăn cơm hậu tạ sau tang lễ của nhà Chủ tịch Du, cũng chẳng thấy hay ho gì. Khách họ mời đều là diện có máu mặt trong thị trấn, những người đó coi thường tôi, thậm chí họ hàng nghèo khổ của ông ta cũng coi thường tôi. Ngồi ăn ở dó không bằng ngồi uống rượu gạo ở quán của bà chị”. Mụ cười tí tởn. Bổng Tam Lại Tử ra vẻ nghiêm túc nói: “Bà chị chưa nghe nói gì à? Chiều hôm qua, khi tôi đào mộ cho mẹ Chủ tịch Du đã xảy ra một chuyện rất kỳ quái”. Hồ Nhị Tẩu nghe thấy Tam Lại Tử nói vậy liền nổi trí tì mò: “Chyện gì mà kỳ quái hả? Mau nói cho tôi nghe với”. Tam Lại Tử vỗ vào miệng mình tự trách: “Bà chị thấy cái mồm thối của tôi chưa, tôi sao đã dặn đi dặn lại rồi mà lại trót nói ra thế này chứ. Chủ tịch Du đã dặn dò kỹ rồi mà, bảo tôi không được nói chuyện này ra. Nếu như ông ấy biết, chắc chắn sẽ sai Chung Thất tới bắn tôi mất”. Hồ Nhị Tẩu càng tò mò hơn, mắt mụ phát ra ánh sáng màu xanh lục. Mụ chủ quán cô đơn ấy đã coi việc đồn thổi những tin tức vớ vẩn là cách tốt nhất để thoát khỏi nỗi cô đơn. Mụ ta nói tiếp: “Cậu nói đi, tôi nhất định sẽ không nói cho người khác đâu. Cậu tin tôi đi”. Tam Lại Tử đáp lại: “Nếu tin được bà chị thì lợn cũng biết leo cây mất”. Hồ Nhị Tẩu bị lời nói của Tam Lại Tử làm cho tò mò hơn. Mụ ta nói tiếp: “Tam Lại Tử à, cậu tin tôi lần này đi, nếu tôi đồn lời của cậu ra ngoài, tôi sẽ không được chết tử tế. Thôi thế này đi, cậu kể cho tôi chuyện này, tôi tặng cậu hai lạng rưỡi bánh bao chiên”. Tam Lại Tử không hề dao động bởi câu thề độc của mụ Hồ Nhị Tẩu, thế nhưng lại bị dao động bởi hai lạng rưỡi bánh bao chiên, hắn trầm ngâm một hồi rồi nói: “Vậy tôi sẽ kể cho bà chị, bà chị đừng có nói cho ai đấy nhé”. Mụ ta gật đầu, sắc mặt sinh động hẳn lên: “Mau, mau nói đi Tam Lại Tử! Vừa may lúc này quán không có ai, cậu cũng không phải lo có ai nghe thấy”. Tam Lại Tử đứng dậy, tới chỗ mụ Hồ Nhị Tẩu đang chiên bánh bao trong chiếc nồi đáy bằng rồi ghé vào tai mụ ta nói: “Chiều hôm qua, khi tôi đào huyệt cho mẹ Chủ tịch Du trên khu một họ Du trên núi, thì đào phải một tổ rắn. Có tới mười mấy con liền, khiến tôi sợ hết hồn vội trèo lên cây. Những con rắn đó đều là rắn hổ. Nếu tôi trèo không nhanh chắc đã bị bọn rắn đó cắn chết rồi. Bà chị nói xem có sợ không chứ? Tôi đã đào không biết bao nhiêu huyệt mộ, từ trước tới giờ chưa từng gặp chuyện gì đáng sợ như vậy”. Mụ Hồ Nhị Tẩu nghe xong sợ hãi hỏi lại: “Có chuyện này thật à?” Tam Lại Tử tiếp lời: “Hồ Nhị Tẩu, bà chị nói xem, nếu chỉ đào phải tổ rắn cũng chẳng sao. Tôi chạy như bay về báo với Chủ tịch Du, ngay sau đó Chủ tịch Du và thầy phong thủy cùng tôi đi tới chỗ đào huyệt. Ông thầy phong thủy nhìn thấy lũ rắn liền phán: ‘Hay quá, một mảnh đất tốt’. Tôi sớm đã biết đây là mảnh đất long huyệt nên mới chọn chỗ này. Trưởng trấn mừng ra mặt, ông thầy phong thủy lại nói tiếp: ‘Việc này, những người có mặt tại đây biết thì thôi, cấm không thể để nhiều người biết, nếu không sẽ phá thế phong thủy tốt của mảnh đất này’. Chính lý do này, mà Chủ tịch Du hào phóng cho tôi một đồng đại dương. Nhưng trong huyệt mộ có nhiều rắn như vậy, tôi sao mà dám xuống đó đào chứ, thấy phong thủy dường như hiểu được nỗi lo của tôi liền cười rồi nói: ‘Tam Lại Tử à, cậu không phải lo lắng gì đâu’. Bà nói xem, tôi có thể không lo lắng được ư?” Hồ Nhị Tẩu sợ chết khiếp: “Mau nói đi Tam Lại Tử! Sau đó thì thế nào?” Tam Lại Tử nói tiếp: “Cái ông thầy phong thủy đó cũng cao tay thật, tôi chỉ thấy ông ta rút ra một cái bùa màu vàng vẽ chữ loằng ngoằng, sau đó mồm lẩm nhẩm gì đó rồi đốt tờ bùa ở trước huyệt. Sau đó ông ta thắp một nén hương, cắm vào phía nam ngôi mộ, ông ta quỳ xuống, không hiểu lầm bầm cái gì trong miệng nữa, rồi ông ta đập đầu ba cái… Mẹ nó, đúng là linh thật đấy! Chỉ loáng một cái lũ rắn đang bò lổm ngổm kia bỗng biến mất tăm”.

6

  Tống Kha ngủ mê mệt mất một ngày, cả cửa hiệu từ tầng trên xuống tầng dưới đều tràn ngập mùi tanh nồng. Tam Lại Tử từng tới gõ cửa, với ý định mời anh cùng ăn bánh bao chiên, uống rượu gạo, nhưng anh không nghe thấy gì. Tam Lại Tử lo anh sẽ vĩnh viễn không tỉnh lại nữa, hắn lờ mờ cảm thấy anh đang phải trải qua một sự nguy hiểm đáng sợ. Cả ngày hôm nay, Tống Kha đắm chìm trong giấc mộng đẹp, nếu giấc mộng đó cứ tiếp tục như vậy, anh nguyện không tỉnh lại nữa.   Màn đêm lại buông xuống, lúc này Tống Kha đã tỉnh dậy. Dường như anh tỉnh dậy trong tiếng gọi bí ẩn. Ai đang gọi anh vậy? Lẽ nào lại là cô gái có tên Tô Tĩnh trong mơ sao? Gác xép tối om, anh cảm thấy lòng trĩu xuống, cơn khát cháy cổ như từ nơi sâu thẳm của nội tâm. Anh thắp đèn dầu, bước từng bước qua chiếc cầu thang kẽo kẹt đi xuống dưới. Trên bàn có một ấm trà đặc đã pha xong, Tống Kha đặt chiếc đèn dầu trên bàn, sau đó nâng ấm trà bằng sứ thô đó lên, uống vài ngụm. Trà rất đắng, nhưng uống xong lại tỉnh táo vô cùng. Nước trà từ họng trôi tuột xuống dưới, có cảm giác thấm vào lục phủ ngũ tạng. Tống Kha nhướng mắt lên, mắt anh tràn ngập sắc màu. Đèn dầu tỏa ra thứ ánh sáng yếu ớt, Tống Kha ngẩng đầu nhìn bức truyền thần của ông họa sĩ già Hồ Văn Tiến trên tường. Cặp mắt của ông ta trong bức truyền thần dường như động đậy. Lúc này, Tống Kha lại nghe thấy tiếng hoan hô vọng tới, anh rùng mình một cái rồi ngay lập tức thổi tắt đèn, mở cửa trong trạng thái không tỉnh táo. Một vài người đang ngồi trong quán ăn chênh chếch với cửa hiệu, vừa ăn vừa nói chuyện gì đó. Hồ Nhị Tẩu nhìn thấy Tống Kha, trong lòng cảm thấy hơi căng thẳng, nếu như anh chàng Tống Kha – người tỏa ra mùi tanh thối này tới quán mụ ăn tối, liệu mụ có nên cho anh ta vào hay không đây? Mụ đang băn khoăn không biết phải làm thế nào thì Tống Kha khóa cửa lại, mắt nhìn thẳng về hướng tây thị trấn. Lúc anh đi qua cửa quán ăn, mụ Hồ Nhị Tẩu vẫn tươi cười đon đả: “Họa sĩ Tống à, tối rồi sao Chủ tịch Du không đánh xe con tới rước anh đi ăn cơm hậu tạ nhỉ?”. Tống Kha không quay lại nhìn mụ ta mà đi thẳng về phía tây. Hồ Nhị Tẩu tức giận nói: “Cái thằng thối hoắc này, lẽ nào tai lại điếc nữa à?” Lúc này có một thực khách nói xen vào: “Đúng là có mùi thối bay vào”. Hồ Nhị Tẩu mỉa mai: “Ông nghĩ là người ông thì thơm lắm đấy hả?” Người khách kia liền mắng mụ; “Mẹ bà chứ! Chẳng phải chính bà phao tin Tống Kha thối đấy ư? Bây giờ sao lại nói đỡ cho anh ta vậy?”   Mụ ta đốp lại: “Có thối hơn nữa thì cũng giỏi hơn nhà ông, bất luận thế nào người ta cũng là một họa sĩ, là nhân vật có tiếng trong thị trấn Đường. Còn nhà ông thì sao? Sao không đái lấy một bãi mà soi cái bản mặt đen nhẻm bị mưa gió đánh cho tơi bời kia chứ? Có đến kiếp sau nhà ông vẫn là số cu li thôi”. Người đó không nói gì nữa, muốn đấu lại cái miệng chanh chua của mụ Hồ Nhị Tẩu thì cũng là chuyện khó như lên trời. Đến cả tay đồ tể Trịnh Mã Thủy cũng thường bị mụ ta chọc tức tới mức cứ khua con dao chọc tiết lợn lớn tiếng muốn cắt cái lưỡi của mụ cho chó ăn. Hồ Nhị Tẩu vẫn nghĩ về Tống Kha, đêm hôm khuya khoắt thế này anh ta một mình đi đâu không biết? Bình thường cứ đến tối anh ta lại trốn trong căn gác xép, đến cả cửa sổ cũng đóng rất chặt, cứ như thể sợ thổ phỉ tới cướp cơ mà.   Tống Kha men theo con đường của thị trấn đi về hướng tây, anh đã sắp tới đập suối rồi. Dưới ánh trăng, anh nhìn thấy có bóng trắng bay theo, sau đó nhấc anh lên. Anh có cảm giác mình đang bay, bay qua mặt sông, sau đó bay thẳng tới nơi núi sâu thăm thẳm.   Trong căn nhà gỗ ở mãi sâu trong rừng, chiếc đèn dầu bằng ống trúc được đốt bằng nhựa thông sáng vô cùng. Căn nhà gỗ nhỏ rất yên tĩnh, thậm chí chẳng có lấy một con muỗi hay côn trùng. Đến cả những góc nhà, cũng không thấy mạng nhện – thứ thường thấy trong các ngôi nhà của người vùng núi. Phần lớn đồ dùng hằng ngày trong căn nhà được làm bằng tre, trong một góc khác lại có rất nhiều làn tre đã đan xong chất đống ở đó. Tống Kha ngồi trên ghế tre, đôi chân trắng xanh ngâm trong nước ấm ở chiếc chậu gỗ, đôi tay tròn mềm mại đang nhẹ mát xa chân cho anh. Tống Kha nhắm mắt, trông anh lúc này hoàn toàn thoải mái. Mùi tanh nồng nặc trong căn nhà gỗ nhỏ quyện với mùi nhựa thông. Cô gái đang mát xa chân cho Tống Kha trong làn nước ấm kia hít những hơi dài, vẻ mãn nguyện hài lòng hiện rõ trên khuôn mặt. Đó là một thiếu phụ vô cùng xinh đẹp. Thiếu phụ rửa chân cho Tống Kha xong liền dìu anh lên chiếc giường tre, còn thay quần áo cho anh nữa. Tống Kha nghe theo mọi sự sắp xếp của cô. Thiếu phụ cởi hết quần áo của Tống Kha, sau đó tự cởi quần áo của mình. Cơ thể trần trụi của cô trắng như sứ, cặp vú to như hai quả đu đủ căng mọng, nhưng cặp mắt lại đỏ lừ. Cô thổi tắt chiếc đèn, cả căn phòng tối om. Tiếng cú mèo kêu rất đáng sợ vọng tới từ nơi rất xa trong rừng rậm. Trong bóng tối, thiếu phụ nằm đè trên người Tống Kha sờ soạng, hít mùi tanh trên người anh, còn rên lên những tiếng thích thú. Nghe thấy tiếng rên của thiếu phụ, Tống Kha cũng rên lên, anh cảm thấy nỗi bức xúc kìm nén đã lâu bỗng bùng nổ. Anh lớn tiếng gọi tên: “Tô Tĩnh”, sau đó lạt thiếu phụ xuống rồi đè lên người cô. Hai tay Tống Kha sờ nắn hai bầu vú, sau đó anh lại ghé miệng cắn một núm vú… Toàn thân Tống Kha hừng hực một sự kích động trước đây chưa từng có, anh bị ngọn lửa tình thiêu đốt tới mức đầu óc mụ mẫm. Anh đưa dương vật vào người thiếu phụ rồi rên lên: “Tô Tĩnh, anh yêu em, Tô Tĩnh”. Tống Kha càng kích động thì mùi tanh trên người càng nồng. Người thiếu phụ kia hít những hơi dài mùi tanh tỏa ra từ người Tống Kha, lửa tình rực cháy… Cả hai nằm bẹp trên giường, mãi mới bình tĩnh trở lại. Bỗng dưới gầm giường vọng ra tiếng bò soạt soạt. Tống Kha liền hỏi: “Tô Tĩnh, dưới gầm giường có gì à?” Thiếu phụ đáp lại: “Làm gì có thứ gì chứ, mau ngủ đi anh yêu”. Tống Kha vẫn chưa buồn ngủ, trái tim anh vẫn đắm say: “Tô Tĩnh à, nói cho anh nghe tại sao em lại bỏ Thượng Hải về cái vùng khỉ ho cò gáy này hả? Sau khi anh rời xa em, em đã làm những gì? Anh không biết gì cả, Tô Tĩnh à, mau nói cho anh nghe đi!” Người thiếu phụ trầm ngâm một hồi, sau đó buồn bã đáp lại: “Em không phải là cô Tô Tĩnh nào đó đâu, em cũng không biết cô Tô Tĩnh kia là gì của anh. Họa sĩ Tống à, em chỉ là một người phụ nữ sống trên núi”. Tống Kha không dám tin vào tai mình: “Cô không phải là Tô Tĩnh?” Ngày hôm đó, anh bị ma xuy quỷ khiến thế nào nên mới đi tới khu rừng rậm này, anh còn nhìn thấy một người bước ra từ ngôi nhà gỗ này chính là Tô Tĩnh. Buổi tối, anh trở lại ngôi nhà gỗ này, vẫn nhìn thấy Tô Tĩnh, lẽ nào lại không đúng? Giọng nói của thiếu phụ lạnh lùng như băng: “Em thật sự không phải là cô Tô Tĩnh kia đâu, em là một cô gái cô độc trên núi. Tên em là Lăng Sơ Bát”. Tống Kha ngồi bật dậy: “Em là Lăng Sơ Bát, không phải là Tô Tĩnh sao?” Lăng Sơ Bát vẫn lạnh lùng trả lời: “Em tên là Lăng Sơ Bát, em cũng không biết tại sao anh lại coi em là cái cô Tô Tĩnh nào đó”. Tống Kha thẩn người ra không nói không rằng. Lăng Sơ Bát nói tiếp: “Từ trước tới giờ em chưa từng nghĩ tới việc sẽ có một người đàn ông tới căn nhà gỗ nhỏ bé của em, lần đầu nhìn thấy anh, em đã say đắm. Em vốn cho rằng anh chỉ là một người qua đường, không ngờ anh lại cần em. Em là cô gái không có người đàn ông nào cần cả. Lúc này, anh cần em, em là người đàn bà của anh rồi”. Đầu óc Tống Kha trống rỗng. Tại sao anh lại tới đây? Đối với anh mà nói, điều đó vẫn còn là một bí ẩn. Còn tiếng gọi đó, cũng lại là một câu đố. Lẽ nào trong sự âm u lại có duyên trời định. Có phải một loại ảo giác bản năng đã dẫn anh tới đây? Và người con gái đã cùng anh ân ái này, hóa ra lại không phải là Tô Tĩnh. Cũng có thể nói rằng, số mệnh đã đẩy cô gái tên Lăng Sơ Bát này tới cuội đời anh ư? Nhưng anh lại không hề có tình yêu đối với người thiếu phụ ấy. Người anh yêu là Tô Tĩnh, nhưng giờ này Tô Tĩnh đang ở đâu? Thị trấn Đường lúc này mới khiến Tống Kha cảm thấy thần bí và đáng sợ. Anh không biết tương lai của anh và cô gái tên Lăng Sơ Bát sẽ như thế nào, còn việc cô ấy là người thế nào, tại sao lại không sống ở thị trấn hoặc ở trong thôn xóm mà lại sống lẻ loi một mình ở căn nhà gỗ nhỏ nơi rừng sâu núi thẳm này? Tống Kha còn đang phân vân không tìm được lời giải thì lại nghe thấy giọng nói lạnh băng của Lăng Sơ Bát: “Họa sĩ Tống à, anh đã có được em, cả đời này em là người của anh rồi, kiểu gì anh cũng không chạy được đâu”. Giọng nói của Lăng Sơ Bát như rắn trườn quan thể xác cũng như linh hồn Tống Kha. Buổi tối đó trở nên dài vô tận…  

7

  Mùa mưa cuối cùng cũng qua đi sau khi kỳ Tam phục (ba mươi ngày nóng nhất trong năm) bắt đầu, trên con suối của thị trấn Đường, một chiếc cầu gỗ mới được bắc lên. Dòng nước lại trở nên trong trẻo hiền lành, tiếng nước chảy róc rách đã lấy lại giai điệu vui tai như trước. Không ai có thể đoán được thị trấn Đường với bộ mặt yên bình như thế này sẽ còn xảy ra những chuyện không ngờ nào nữa. Mùa mưa kết thúc, Chung Thất cũng dần buông lỏng cảnh giác đối với Du Vũ Cường, hắn cho rằng Du Vũ Cường đã cao chạy xa bay rồi, chắc chắn trong một khoảng thời gian nữa sẽ không trở về gây phiền gì cho mình. Đôi khi, rất khuya Chung Thất mới mò về nhà, hắn dò dẫm vào phòng ngủ, thắp đèn dầu nhìn hai đứa con đang say giấc nồng trên giường. Hai đứa trẻ vẫn còn quá nhỏ, chưa hiểu nhiều, sau khi mẹ chết, chúng có khóc mấy ngày, sau đó khóc ít dần và rồi nhanh chóng thích ứng với cuộc sống không có mẹ. Chung Thất đối mặt với hai đứa con thơ dại, lòng dâng lên nỗi chua xót khó tả. Lương tâm khiến hắn không thể cầm lòng khi nghĩ tới Thẩm Văn Tú. Hắn liền tìm bức truyền thần của Thẩm Văn Tú rồi chăm chú ngắm nhìn trong ánh đèn dầu phập phù, hắn giơ tay vuốt nhẹ lên tóc và khuôn mặt cô trong ảnh, như thể đang vuốt ve một Thẩm Văn Tú bằng xương bằng thịt vậy. Mắt Chung Thất nhòa lệ. Thẩm Văn Tú là người phụ nữ tốt biết bao! Chung Thất nghĩ, có lẽ cả đời này hắn sẽ không bao giờ gặp lại một người phụ nữ tốt như cô ấy nữa. Cô ấy vừa hiền lành, vừa chịu thương chịu khó… Chung Thất không muốn nghĩ tới những ưu điểm của Thẩm Văn Tú, bởi càng nghĩ hắn lại muốn rút súng ra bắn mình một phát… Con điếm Dương Phi Nga trong quán Tiêu Dao kia là cái thá gì chứ. Con đó sao lại có thể so sánh với Thẩm Văn Tú chứ? Thế mà con điếm đó lại còn muốn hắn chuộc ra ngoài, còn nói muốn làm vợ hắn. Nghĩ tới đây, Chung Thất bỗng nghe thấy một tiếng thở dài từ sảnh phòng bên ngoài. “Ai vậy?”, Chung Thất cất tiếng hỏi. Mặc dù đã buông lỏng sự cảnh giác đối với Du Vũ Cường nhưng sau khi nghe thấy tiếng thở dài, Chung Thất vẫn vô cùng căng thẳng. Hắn rút khẩu súng moze khỏi bao rồi đi ra bên cửa. Hắn mở cửa ra, sảnh phòng bên ngoài tối om. Hắn cũng không biết có phải có ai hay một cái gì đó đang ẩn nấp trong phồng tối hay không nữa. Chung Thất sợ hãi. Không có ai đáp lại. Chung Thất cũng không dám đi vào chỗ tối, hắn cứ đứng như vậy một hồi, cánh tay cầm súng của hắn run lên. Chung Thất đóng sầm cửa lại. Hắn cất bức truyền thần của Thẩm Văn Tú đi, chuẩn bị đi ngủ. Vừa cởi áo khoác, hắn liền phát hiện hai đứa con đã tỉnh dậy. Chúng im lặng ngồi trên giường, lạnh lùng nhìn Chung Thất, ánh mắt vô hồn. Chung Thất hỏi: “Sao chúng mày chưa ngủ?” Dường như không nghe thấy những lời Chung Thất nói, chúng vẫn giương cặp mắt vô hồn nhìn người mà chúng gọi là bố. Chung Thất run sợ trước cái nhìn soi mói của hai đứa con. Dường như có ai đó nhẹ nhàng đi qua cửa bên ngoài. Một đứa trẻ bỗng dưng bi bô nói với Chung Thất: “Bà nội dùng kim châm vào một hình nhân, bà nói, hình nhân đó là bố, bà còn nói, bà muốn châm chết bố”. Đứa trẻ còn lại cười rúc rích, tiếng cười vô cùng lạnh lùng…  

8

  Lúc nóng nhất trong năm nay cũng chính là mùa thu hoạch của người dân trong thị trấn. Tuy nói nước lớn trong mùa mưa thật đáng sợ nhưng dù gì nó vẫn chưa làm vỡ đập, hủy hoại ruộng đồng hai bên bờ suối. Điều kỳ lạ là, năm nay, người dân trong thị trấn Đường bội thu, mỗi đầu đều thu hoạch thêm được một thạch lúa, có trả tiền thuê thì kho lúa vẫn đầy ắp. Cả những thôn xóm trực thuộc thị trấn Đường cũng bội thu. Chủ tịch nói nhỏ với Chung Thất, điều này có khả năng liên quan tới việc mẹ ông ta được chôn ở long mạch. Chung Thất tán đồng, còn thuận chiều vuốt đuôi thêm mấy câu. Hắn vẫn cảm thấy sau sự việc xảy ra giữa Du Vũ Cường và Thẩm Văn Tú, Chủ tịch không còn tín nhiệm hắn như trước. Điều này cũng khó tránh khỏi, bởi dù gì thì Du Trường Thủy và Du Vũ Cường vẫn là chú cháu ruột nên Chung Thất luôn nắm cơ hội nịt hót Chủ tịch Du Trường Thủy, hắn cố hết sức giữ quan hệ thân thiết với ông. Cũng có thể là do được mùa vào năm nóng nhất này mà trong thị trấn Đường lại không có ai chết cả. Nếu thị trấn Đường không có người chết thì sẽ là chuyện chẳng hay ho gì đối với Tống Kha, ông chủ cửa hiệu quan tài và Tam Lại Tử.  

9

  Vào mùa thu hoạch, họa sĩ Tống Kha luôn đóng chặt cửa, không ra ngoài lúc ban ngày, thế nhưng vào buổi đêm anh lại thường xuyên rời khỏi thị trấn Đường tới nơi không ai biết. Tam Lại Tử đã mấy lần lẻn đi theo sau anh với ý định khám phá bí mật, nhưng kết quả vẫn là số không tròn trĩnh, mặc dù chạy nhanh hơn cả chó nhưng hắn cũng không đuổi kịp được Tống Kha. Sau đó, một mình hắn đi vào trong núi và mất phương hướng. Tam Lại Tử không có can đảm bám theo Tống Kha một lần nữa, không phải chỉ vì hắn không đuổi kịp được Tống Kha, mà vì tận đáy lòng hắn vẫn khiếp sợ người đàn bà áo trắng. Một buổi chiều tối, người đàn bà áo trắng lại xuất hiện trước mặt hắn. Người phụ nữ đó đứng trong ánh trăng mờ ảo rồi lạnh lùng hỏi: “Mày vẫn muốn bị đau bụng à?”   Tam Lại Tử không nhìn thấy mặt cô ta. Dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt cô ấy chính là miếng vải trắng bọt. Tam Lại Tử lại nhớ tới cảnh con rắn luồn lách trong ruột rồi cắn vào tràng vị, người hắn toát mồ hôi, lạnh toát. Hắn đứng trên mảnh đất trống ngoài miếu Thổ Địa, toàn thân run run như cầy sấy. Hắn tình nguyện chết, chứ không muốn có rắn bò trong ruột. Tam Lại Tử nói với người đàn bà áo trắng: “Không, không, tôi không muốn…” Tam Lại Tử liền quỳ xuống trước mặt người đàn bà áo trắng: “Tôi không dám nữa đâu, tôi sẽ không dám đi theo họa sĩ Tống nữa”. Người đàn bà áo trắng bay đi. Tam Lại Tử lại lo lắng cho Tống Kha, hắn không biết Tống Kha sẽ ra sao, nhưng có một điều, hắn có thể khẳng định được rằng càng ngày Tống Kha càng gặp nguy hiểm. Trong lòng Tam Lại Tử hiểu rõ, chắc chắn Tống Kha đã đi tới chỗ người đàn bà áo trắng. Tam Lại Tử cũng đã từng đi qua chỗ ấy, một lần là hắn bị người đàn bà áo trắng nhét con rắn vào bụng để ép hắn giết con chó của ông họa sĩ già. Lần khác là sau khi hắn giết chết con chó của ông họa sĩ già, người đàn bà áo trắng đưa hắn tới chỗ đó rồi lấy con rắn trong bụng hắn ra… Hai lần đi, Tam Lại Tử đều trong trạng thái mơ hồ, căn bản không nhớ nổi vị trí cụ thể nơi đó, nhưng hắn biết chỗ đó nằm trong khu rừng rậm ở núi Ngũ Công phía tây dãy Ngũ Công Lĩnh. Vào buổi tối hôm đó, chắc chắn Tống Kha và hắn đã đi cùng một nơi, cùng đối mặt với người đàn bà áo trắng. Tại sao người đàn bà áo trắng lại muốn ép hắn giết chết con chó của ông họa sĩ già chứ? Tại sao Tống Kha lại đi tới nơi bí mật đó? Những việc này đối với Tam Lại Tử mà nói vẫn là một loạt những bí mật lớn đang được che đậy trong màn sương dày. Liên tục mấy ngày gần đây Tống Kha không ra khỏi nhà vào ban đêm. Chỉ cần không nghe thấy tiếng gọi thì anh sẽ không tới ngôi nhà gỗ nhỏ bé đó. Điều kỳ lạ là, chỉ cần nghe thấy tiếng gọi anh sẽ tìm được đường tới ngôi nhà gỗ nhỏ kia. Đôi khi tự đáy lòng anh rất ghét người phụ nữ có tên Lăng Sơ Bát, nhưng dường như anh không thể rời khỏi cô ta được. Giữa Tống Kha và Lăng Sơ Bát tồn tại một nỗi nhớ nhung kỳ lạ. Anh biết nỗi nhớ nhung đó không liên quan tới tình yêu, mà chỉ là nhu cầu bản năng. Hôm nay, Tống Kha dậy rất sớm, anh lại lầm lũi đi về hướng tây thị trấn.   Những người dậy sớm trên phố đều trốn anh, cứ như thể anh là một loại dịch bệnh vậy.   Đồ tể Trịnh Mã Thủy nhìn thấy cái bóng cao gầy của Tống Kha đang đi tới, liền hằn học cắm con dao xuống bàn. Con người bình thường luôn có mùi thịt lợn trên người, không thể rửa được này cũng dùng tay bịt mũi và mồm. Chờ Tống Kha đi qua, hắn mới bỏ bàn tay ở trên miệng xuống, phe phẩy quạt trước mũi rồi thốt lên: “Thối thật!” Tống Kha hầu như không để ý tới bất kỳ một biểu cảm cũng như lời nói nào của người dân trong thị trấn Đường đối với mình. Từ trước tới giờ anh chưa hề hòa nhập vào cuộc sống của người dân ở đây. Anh là kẻ tha hương cô độc, cũng là người ngoài cuộc của thị trấn Đường, anh luôn mong sẽ có một ngày được rời khỏi nơi đây, phiêu bạt tới một nơi khác.   Tống Kha đi trên đập sông, rồi nhìn lên sườn núi Ngũ Công Lĩnh. Lúc này, mặt trời vẫn chưa mọc, nhưng buổi sáng sớm lại không có sương mù, nhìn rất rõ. Tống Kha nhìn thấy một bóng người trên sườn núi, anh biết chắc đó là Tam Lại Tử. Tống Kha nghĩ thầm, chắc hắn lại đang đào huyệt đây. Tống Kha bước xuống đập, anh đi qua chiếc cầu gỗ lắc lư, dẫm lên những cọng cỏ dại còn đẫm sương, đi về hướng Tam Lại Tử. Từ lúc Tam Lại Tử trở về thị trấn Đường sau lần bỏ đi đó, Tống Kha vẫn chưa nói chuyện với hắn được một lần cho ra nhẽ. Sự xuất hiện của Tống Kha khiến Tam Lại Tử cảm thấy vừa sợ hãi lại vừa hưng phấn. Quả thực, hắn đang đào một huyệt mộ mới, có lẽ hắn cũng vừa tới đó không lâu. Lúc này, hắn đang nhổ cỏ dại trên mặt đất. Nhìn thấy Tống Kha bước tới gần, Tam Lại Tử ngưng công việc đang làm lại, các giác quan của hắn nhíu lại, không hiểu là đang cười hay khóc nữa. Tam Lại Tử bắt chuyện: “Họa sĩ Tống, cậu dậy sớm nhỉ” Trên khuôn mặt xanh xao của Tống Kha xuất hiện nụ cười gượng gạo: “Anh còn dậy sớm hơn tôi ấy chứ. Tam Lại Tử, anh đang đào huyệt à?” “Đúng vậy, cái huyệt mộ đã đào sẵn hôm trước lại biết Thẩm Văn Tú chiếm mất rồi. Tôi phải đào một cái mới, phòng bất trắc ấy mà. Tôi cũng nên giữ lại một huyệt mộ cho bản thân chứ? Tôi cũng không chắc mình có bị đột tử không nữa. Mới đầu năm, ai biết trước được chuyện gì chứ?” Tuy ngoài miệng nói thế, nhưng trong lòng Tam Lại Tử lại nghĩ: “Họa sĩ Tống à, huyệt mộ này cũng có khả năng là chuẩn bị cho cậu đấy, mấy ngày nay tôi luôn lo cho cậu”. Tống Kha an ủi: “Tam Lại Tử à, anh sẽ không chết nhanh như vậy đâu, vì nếu anh chết thì lấy ai đào huyệt cho người chết ở thị trấn Đường chứ?” Tam Lại Tử đáp: “Nếu như tôi chết rồi, còn có thể quản được nhiều chuyện thế sao?” Bỗng Tống Kha nghe thấy tiếng chim lảnh lót. Mặt trời bắt đầu rạng những tia nắng hồng hồng từ dãy núi phía đông. Ngọn núi hoang được khoác lên mình màu sắc ấm nóng. Anh lại nghĩ tới căn nhà nhỏ trong rừng rậm đó. Lúc này, anh hy vọng tiếng gọi của người phụ nữ ấy xuất hiện. Anh đưa mắt nhìn về dãy núi xa xa, dãy núi xa xăm kia thật mênh mang. Tam Lại Tử ngửi thấy mùi tanh thối, mọi người dân trong thị trấn Đường đều khó chịu với thứ mùi quái đản trên người Tống Kha nhưng Tam Lại Tử thì không như vậy. Hắn nói với Tống Kha: "Họa sĩ Tống à, người dân trong thị trấn đều nói trên người cậu có mùi tanh thối, có một số người còn tới ton hót với Chủ tịch Du Trường Thủy. Họ còn bảo Chủ tịch đuổi cậu ra khỏi thị trấn, sau đó đi tìm một họa sĩ khác không có mùi thối tới”. Tống Kha thu anh mắt si mê từ dãy núi phía xa về. Anh cười rồi nói với Tam Lại Tử: “Tôi biết, mùi trên người tôi có từ khi tôi ở trong bụng mẹ, nó cũng giống như cuộc đời tôi không thể thay đổi được. Còn việc người dân trong thị trấn thích hay không thích thì là chuyện của họ, tôi thực sự không thể thay đổi được. Nếu thực sự muốn tôi đi, tôi sẽ đi ngay, quyết không ở lại”. Tam Lại Tử nghe xong rất ngạc nhiên. Hắn không ngờ Tống Kha lại ngay thẳng rộng lượng đối diện với mùi thối tản ra từ cơ thể mình như vậy. Hắn nói tiếp: “Họa sĩ Tống à, bức truyền thần anh vẽ cho mẹ Chủ tịch ai xem cũng khen đẹp. Chủ tịch Du chắc chắn vì bức truyền thần của mẹ ông ấy sẽ không để cậu rời khỏi thị trấn Đường đâu. Đi tới đâu để tìm được một họa sĩ như cậu chứ. Có điều, tôi vẫn muốn khuyên cậu một câu, cậu hãy rời khỏi thị trấn Đường đi!” Tống Kha thắc mắc: “Sao vậy?”   Đột nhiên, Tam Lại Tử nghe thấy một tiếng động, tiếng động đó khiến toàn thân hắn nổi da gà, đó là tiếng thứ gì đó trườn qua đám cỏ. Điều này khiến hắn nhớ tới rắn, nhớ tới con rắn người đàn bà áo trắng đó bắt hắn nuốt vào bụng.   Quả nhiên Tam Lại Tử nhìn thấy con rắn hổ mang cực độc trườn qua đám cỏ cách đó không xa. Tam Lại Tử lạnh hết xương sống, tại sao khi hắn vừa bảo Tống Kha rời khỏi thị trấn Đường thì liền sau đó rắn xuất hiện? Việc này chắc chắn không phải sự trùng hợp ngẫu nhiên, dường như trong bóng tối có một đôi mắt luôn giám sát hắn, nhất cử nhất động của hắn đều không lọt khỏi đôi mắt đáng sợ đó. Lẽ nào sự xuất hiện của con rắn hổ mang ban nãy là sự cảnh báo đối với hắn?

10

  Mụ góa Dư Hoa Khố đang gặt lúa ở thung lũng hẻo lánh, cả thung lũng rộng lớn này dường như chỉ có một mình mụ ta. Mấy mẫu ruộng bạc màu trong thung lũng là thứ ông chồng quá cố để lại cho mụ. Do những mảnh ruộng này cách xa thị trấn Đường nên cũng chẳng có ai muốn chiếm cả. Vì kế sinh nhai, mụ góa Dư Hoa Khố một mình canh tác mảnh ruộng này. Mụ góa Dư Hoa Khố mồ hôi đầm đìa, quần áo trên người đã ướt sũng. Nắng vẫn chói chang. May mà chốc chốc trong thung lũng lại có một cơn gió thổi tới, mang tới sự mát mẻ. Gần trưa, dưới cây sồi cách chỗ mụ góa không xa xuất hiện một cặp mắt, cặp mắt đó tham lam nhìn trộm bóng mụ góa làm việc. Ngực của kẻ trốn sau cây sồi phập phồng, hai con ngươi lồi ra, suýt nữa thì rơi xuống đất. Tam Lại Tử. Tam Lại Tử quả thực không chịu được nữa, hắn liền đi ra, lặng lẽ tới phía sau mụ góa Dư Hoa Khố. Nhìn thấy tấm lưng đầy đặn ướt đẫm mồ hôi của mụ, Tam Lại Tử nuốt nước miếng ừng ực. Đôi khi hắn rất ngưỡng mộ tay thổ phỉ tên Trần Lan Đầu kia, hắn là nhân vật truyền kỳ được đồn thổi khắp nơi trong thị trấn Đường này. Nếu hắn đã chấm cô gái nào đó thì chắc chắn sẽ biến người đó thành của mình, bất kể cô gái đó ở núi hoang hay ở huyện lỵ. Bất kỳ cô gái nào nghe tới tên hắn cũng khiếp đảm. Lúc này, Tam Lại Tử nghĩ, nếu mình là thổ phỉ Trần Lan Đầu, hắn sẽ không do dự đè ngửa mụ góa Dư Hoa Khố xuống đồng lúa mới gặt, sau đó, hắn có thể thỏa mãn ngọn lửa tình đang hừng hực này. Nhưng hắn không phải là thở phỉ Trần Lan Đầu mà chỉ là thằng khố rách áo ôm chuyên đào huyệt mộ, thậm chí đôi khi hắn cảm thấy mình con bị khinh rẻ hơn cả chó. Tam Lại Tử lại nuốt nước miếng, sau đó khẽ gọi: “Hoa Khố!” Nghe thấy tiếng Tam Lại Tử, mụ góa Dư Hoa Khố giật mình, hoang mang đứng dậy. Mụ ta xoay người rồi tức giận nhìn hắn: “Tam Lại Tử, cái đồ chó này, tới đây làm gì làm bà sợ chết khiếp”. Nhìn thấy điệu bộ ấp a ấp úng của Tam Lại Tử, Dư Hoa Khố liền trút giận luôn. Mụ ta khua khua chiếc liềm trong tay sau đó hung hăng hét toáng lên với Tam Lại Tử: “Tam Lại Tử, mày cút ngay cho bà, bà biết mày định làm gì rồi. Mày đúng không bằng đồ chó lợn, giữa thanh thiên bạch nhật thế này mày vẫn ham muốn làm cái chuyện đó hả!” Tam Lại Tử đáp lại: “Tôi, tôi nhìn tới mức không chịu nổi nữa rồi”. Tam Lại Tử nói rồi liền thò tay vào túi móc ra đồng đại dương hắn vừa được trả công việc đào huyệt cho mẹ Chủ tịch rồi đưa đi đưa lại trước mặt Dư Hoa Khố. Đồng đại dương phát ra ánh sáng chói chang dưới ánh nắng. Tam Lại Tử vẫn chưa tiêu đồng đại dương này, lúc đi ăn ở quán, hắn trẻ bằng những đồng tiền lẻ còn sót lại của mình. Hắn đã định dùng đồng đại dương này tới quán Tiêu Dao chơi gái, nhưng khi tới cổng hắn liền bị chặn lại. Hắn giơ đồng đại dương đang cầm trên tay lên rồi nói với người ở kỹ viện rằng. “Tôi có tiền, nhìn rõ chưa, đây là đồng đại dương Chủ tịch Du Trường Thủy thưởng cho tôi đấy”. Ai ngờ người của kỹ viện cười nhạt đáp lại hắn: “Chỉ với mỗi một đồng đại dương mà muốn tới quán Tiêu Dao chơi gái ư? Chờ tới khi nào mày có hai đồng rồi hãy đến nhé”. Tam Lại Tử buồn bã vô cùng, cố kìm nén ngọn lửa tình đang bừng cháy, sau đó lặng lẽ lùi về miếu Thổ Địa. Dư Hoa Khố nhìn đồng đại dương sáng lấp lánh dưới ánh nắng, mắt mụ vụt sáng. Mụ thè lưỡi liếm cặp môi khô nứt của mình, giọng đã dịu lại: “Tam Lại Tử, đồng đại dương trên tay đằng ấy là thật hay là giả vậy?” Tam Lại Tử đáp lại: “Sao mà giả được chứ? Đồng bạc này là Chủ tịch Du Trường Thủy tận tay đưa cho tôi. Ông ấy còn khen tôi đào huyệt cho mẹ ông ấy rất đẹp nữa kia”. Dư Hoa Khố vuốt vuốt mồ hôi trên trán: “Đằng ấy đưa đồng tiền cho đây ngắm cái”. Tam Lại Tử đi tới trước mặt Dư Hoa Khố, rồi đưa đồng tiền cho mụ ta. Tam Lại Tử ngửi thấy mùi mồ hôi đàn bà tỏa ra từ người mụ góa, mùi mồ hôi của mụ ta kích thích thần kinh Tam Lại Tử. Hắn cảm thấy dương vật của mình đang cương cứng. Dư Hoa Khố quẳng chiếc liềm trong tay xuống đất, rồi đỡ lấy đồng dại dương sáng lóa kia. Mụ ngắm nghía hồi lâu, rồi thè lưỡi liếm cặp môi nứt nẻ. Mụ ta nắm chặt đồng tiền trong lòng bàn tay, tiền đã vào tay mụ làm sao có thể trở về tay Tam Lại Tử được chứ? Tam Lại Tử nằm trên đống rơm, mụ dùng tay cởi chiếc quần ướt đẫm mồ hôi của mình, sau đó cởi nốt chiếc quần con bằng vải hoa bên trong. Cả phần dưới cùa mụ lộ ra trước mặt Tam Lại Tử, mụ ta lạnh lùng nói: “Tam Lại Tử, đằng ấy muốn làm chuyện này đúng không? Bà già này cho đằng ấy đấy!” Lúc Dư Hoa Khố cởi quần, Tam Lại Tử đã gầm gừ những tiếng như dã thú. Hắn sốt sắng nhảy bổ tới, hùng hục làm tình ngay giữa thanh thiên bạch nhật như muốn phát tiết hết mọi sự dồn nén bao ngày qua. Dư Hoa Khố không biểu lộ bất cứ cảm xức gì, nhắm nghiền mắt lại, cắn chặt răng, một tay nắm chặt cọng rơm, tay kia nắm chặt đồng đại dương. Bỗng dương vật của Tam Lại Tử mềm oặt ra. Hắn nghe rất rõ tiếng rắn trườn qua những cọng rơm, mặc dù tiếng gầm gừ của hắn vọng lại trong thung lũng hoang nhưng hắn vẫn cảm thấy có con rắn đang trườn tới chỗ mình, nó thè chiếc lưỡi đỏ đáng sợ… Hắn thực sự đã mềm oặt ra, không những thằng cu mềm nhũn, cả người hắn cũng nhũn ra. Hắn thầm gào lên: “Tại sao? Tại sao chứ, thế này là sao hả? Tao và mày không có thù oán gì với nhau, tại sao mày lại cứ bám lấy tao vậy hả?” Dư Hoa Khố đẩy Tam Lại Tử đang nhũn người ra: “Tam Lại Tử à, chắc đằng ấy đã thỏa mãn rồi, đây cũng phải làm việc thôi”. Dư Hoa Khố mặc quần vào rồi cất luôn đồng đại dương kia đi. Mụ chẳng thèm quan tâm tới Tam Lại Tử nữa, nhặt liềm lên rồi tiếp tục gặt lúa. Tam Lại Tử nằm trên đống rơm, khuôn mặt đau khổ bội phần. Hắn thầm nghĩ: “Đúng là thiệt thòi quá!” Tiếng rắn trườn qua những cọng rơm không ngừng truyền tới đôi tai thính của Tam Lại Tử, dưới ánh nắng ngập tràn, Tam Lại Tử lại cảm thấy ớn lạnh tận xương tủy…  

11

  Do được mùa nên thị trấn Đường lại tổ chức chợ phiên, cả thị trấn trở nên vô cùng náo nhiệt. Người dân sống trên núi ở khắp nơi đổ xô tới thị trấn Đường, mang những gì họ thu hoạch được tới đây trao đổi, sau đó mua những thứ mình cần về. Những tiểu thương tới đây cũng nhiều vô kể, bình thường, họ rất ít khi tới thị trấn Đường vậy mà tới kỳ chợ phiên, họ cũng mang rất nhiều hàng hóa tới. Họ đều hiểu rõ, vào thời điểm này người dân sống ở vùng nui thường có tiền nhàn rỗi. Những phiên chỡ nóng như vậy cũng không được tổ chức nhiều trong năm, thường thì chỉ tổ chức khi thuc hoạch xong hoặc vào những ngày lễ lớn. Đối với tay đồ tể Trịnh Mã Thủy mà nói, hôm nay chính là ngày lễ của hắn. Hắn đã bắt đầu mổ lợn vào giờ Tý tối qua, hắn hì hục mổ liền năm con. Hắn tin chắc, ngày hôm nay hắn sẽ bán hết, không những thế còn bán được giá nữa. Mới sáng tinh mơ, hắn đã bày thịt lợn trên bàn, hắn còn nâng giá thịt lên gấp đôi, lại còn lên mặt ra vẻ thích mua thì mua không thích thì thôi. Cũng mới sáng sớm, Chung Thất đã ra khỏi quán Tiêu Dao, hắn ngất ngưởng đi tới hàng thịt của Trịnh Mã Thủy. Sắc mặt hắn trắng bợt. Trịnh Mã Thủy lại lấy từ chiếc sọt ở dưới bàn để thịt ra hai chiếc bầu dục lợn được buộc bằng sợi rơm rồi cười đon đả nói với Chung Thất: “Đội trưởng Chung à, bầu dục lợn hôm nay coi như tôi tặng đội trưởng, không ghi nợ. Đội trưởng Chung à, hôm nay sắc mặt ông không tốt lắm, có phải tối qua làm việc dữ quá phải không? Ha ha, ngài mau đem bầu dục lợn về nhà, tranh thủ ăn lúc còn tươi đi nhé”. Chung Thất xị mặt, hắn không thèm để ý tới vẻ mặt nhễ nhại mồ hôi đang tươi cười nịnh bợ của Trịnh Mã Thủy, cầm lấy hai chiếc bầu dục lợn rồi nói: “Cái thằng dã man lại nâng giá lên rồi, đúng không? Vậy thì tiền thuế hôm nay phải nộp nhiều hơn một chút, nếu không tao sẽ bảo Chủ tịch Du ra lệnh phong tỏa hàng thịt của mày đấy”. Chung Thất nói xong liền bỏ đi, dáng đi của hắn cứ dặt dẹo như chẳng còn chút sức lực nào nữa vậy. Trịnh Mã Thủy liền thay đổi nét mặt, lẩm bẩm một mình: “Mẹ mày chứ! Cái thằng Chung Thất, mày là cái thá gì mà hoạch họe ông hả? Rồi cũng có ngày ông bắt mày nôn hết những thứ đã ăn của ông ra”. Quán ăn của mụ chủ quán họ Hồ tấp nập kẻ vào người ra. Mụ ta biết, vào phiên chợ, lượng khách tới quán sẽ nhiều gấp mười mấy lần bình thường, không những thế phiên chợ này sẽ kéo dài từ sáng sớm tới tận hoàng hôn. Nó không giống với những phiên chợ khác tới chiều đã tan. Cho nên, mụ đã gọi hai cô gái trong họ tới giúp. Trong ngày này, mụ chủ quán họ Hồ bận rộn chắc chẳng còn thời gian đi đưa tin vớ vẩn nữa. Mụ ta cũng chẳng còn thời gian quan tâm tới mùi thối trên người Tống Kha. Tống Kha trốn trên gác xép cửa hiệu truyền thần, đóng chặt cửa, dường như muốn tách biệt hắn với tiếng ồn ào bên ngoài. Anh đang vẽ một bức sơn dầu, anh vẽ lại phiên chợ đầu tiên kể từ khi tới thị trấn Đường. Phiên chợ mà Tam Lại Tử đã dẫn anh tới khoảng đất trống đằng sau miếu Thổ Địa xem người đàn ông trung niên mãi võ bán thuốc trị rắn cắn. Đã lâu Tống Kha không động tới bút vẽ, anh vẽ những bức tranh sơn dầu anh tâm đắc trên giấy dầu. Anh cũng biết giấy dầu chỉ còn lại vài tờ, nguyên liệu để vẽ cũng không còn nhiều. Tống Kha nghĩ, có thể vẽ được một trang thì tính một trang. Hôm nay, Chung Thất cũng không mang người tới gõ cửa cửa hiệu, rồi bảo anh mở cửa bàn chuyện làm ăn. Thực ra, người dân trong thị trấn cũng không muốn anh mở cửa, họ muốn anh tự giam mình cùng mùi thối trên người trong cửa hiệu. Tam Lại Tử cũng không tới rủ anh đi xem người ta mãi võ, anh cũng không biết người cần anh vẽ đã tới chưa. Tam Lại Tử lại trèo lên cây long não già bên ngoài miếu Thổ Địa, rồi ngồi ngắm dòng người tới miếu thắp hương. Hôm nay người tới rất đông, mang rất nhiều đồ lễ bày la liệt trên điện thờ. Tam Lại Tử thầm nghĩ, những đồ lễ này đủ cho hắn ăn trong một khoảng thời gian dài đây. Người ta sớm đã quen với những hành động thất kính của Tam Lại Tử, nên cũng chẳng có ai nói gì. Trong mắt Tam Lại Tử có một màn sương mờ ảo. Từ sáng sớm hắn đã trèo lên cây, dõi mắt nhìn theo con đường thông ra bên ngoài. Hắn hy vọng sẽ nhìn thấy bóng dáng người đàn ông trung niên cùng cậu thanh niên phiêu bạt giang hồ đó. Họ là niềm mong ước lớn nhất của hắn. Hắn đã rất nhiều lần nghĩ tới chuyện đó. Nếu họ lại tới thị trấn Đường, cho dù thế nào hắn cũng sẽ cùng họ rời khỏi thị trấn. Thị trấn Đường giống như một đầm nước tử thần, hắn sẽ ngạt thở và chết trong đó. Tam Lại Tử vô cùng thất vọng, người đàn ông turng niên và cậu thanh niên đó đã không xuất hiện, chỉ có một gã mặt dơi tai chuột bán bả chuột mò tới. Hắn cũng giở chiêu lừa bịp trên mảnh đất trống đằng sau miếu Thổ Địa. Khi nhìn thấy người bán bả chuột đâm thanh kiếm dài vào cổ họng ông ta, hắn liền hét toáng lên: “Kiếm giả! Kiếm giả!”   Sau khi người bán bả chuột rút thanh kiếm ra, liền chắp tay nói với những người tới xem: “Các vị hương thân phụ lão, người anh em ngồi trên cây kia nói việc tôi nuốt kiếm là giả, bây giờ tôi muốn mọi người kiểm chứng cho tôi. Tôi mời người anh em đang ngồi trên cây kia xuống, nếu anh ta có thể nuốt được thanh kiếm này thì tôi sẽ ăn hết mớ bả chuột và chết trước mặt mọi người ngay tức khắc”. Người bán thuốc chuột đó tuy không nói nhiều nhưng giọng nói rất dõng dạc. Ông ta lại khiêu khích Tam Lại Tử đang ngồi trên cây: “Người anh em à, xuống dưới này thử xem, đừng ngồi đó mà nói khoác!” Những người tới xem cười nghiêng ngả. Có người bắt đầu khích: “Tam Lại Tử à, mau xuống đây để xem cậu có bản lĩnh gì”. Tam Lại Tử trèo xuống, mọi người đều nghĩ có trò hay để xem, nào ngờ hắn phủi tay, chẳng nói năng gì liền chui ngay vào miếu Thổ Địa đang chật kín người. Sau đó, hắn lấy chiếc xẻng rồi đi ra ngoài miếu, cắm đầu đi về hướng Ngũ Công Lĩnh. Tam Lại Tử lại đi đào huyệt, thời gian đào huyệt mộ này kéo dài rất lâu, không nhanh như lần đào huyệt cho cụ thân sinh Chủ tịch, chỉ mất nửa ngày đã xong. Bất luận thế nào, phiên chợ hôm nay đối với rất nhiều người làm ăn trong thị trấn Đường mà nói là một ngày may mắn. Đến cả quán Tiêu Dao cũng tập nập kẻ vào người ra. Nhưng cũng có người rất cô đơn. Chẳng hạn như ông chủ cửa hiệu quan tài Trương Thiếu Băng. Cửa hiệu của anh ta rộng mở nhưng người đi trên phố như mắc cửi lại chẳng có ai đặt chân tới đó cả. Từ lúc mẹ của Chủ tịch Du Trường Thủy chết, cửa hiệu của anh ta chẳng làm ăn được gì. Ông chủ Trương Thiếu Băng bần thần ngồi một mình trong cửa hiệu pha trà, thần người nhìn dòng người trên đường. Đột nhiên, anh ta nhớ tới người bạn thân Du Vũ Cường của mình. Trương Thiếu Băng từ nhỏ đã yếu ớt, thường xuyên bị bắt nạt, Du Vũ Cường là người duy nhất luôn bảo vệ anh ta. Nghĩ tới Du Vũ Cường, anh bất giác lại nhớ đến Thẩm Văn Tú. Nhớ đến cô, Trương Thiếu Băng rùng mình mấy lần. Sau khi cô chết, có rất nhiều người nói trong đêm khuya thanh vắng nghe thấy tiếng khóc thê lương của phụ nữ ở trong cửa hiệu quan tài, lại còn nhìn thấy bóng trắng lách ra ngoài từ khe cửa, sau đó bay lượn trên đường… Trương Thiếu Băng thầm nói với mình, “Văn Tú à, cô là mỹ nhân yêu anh hùng, đáng lẽ tôi phải cho cô một quan tài tốt. Tất cả chỉ tại tôi nhát gan. Chờ tới Tết Thanh minh, tôi nhất định sẽ tới tảo mộ cho cô”.   Ánh mắt của Trương Thiếu Băng vô tình liếc ra cửa, anh ta phát hiện một người phụ nữ mặc quần áo dân tộc, một tay cầm chiếc đòn gánh, một tay xách chân giò lợn đang đứng trước cửa hiệu. Vì chiếc nón lá được đội sụp xuống đầu, nên anh ta không nhìn rõ mắt của cô ta. Nhưng anh ta rất ấn tượng với người này, vào ngày chợ phiên, cô ta thường gánh một chồng làn tre tới. Người dân trong thị trấn đều biết những chiếc làn tre do cô ta đan rất tốt, không những kiểu dáng đẹp mà còn rất bền nữa. Lẽ nào cô ta muốn mua quan tài? Trương Thiếu Băng đứng dậy, tiến về phía cô ta. Anh ta vẫn chưa đi tới cửa thì cô gái kia đã bỏ đi rồi, bóng cô ta nhanh chóng biến mất trong dòng người. Lúc này, Trương Thiếu Băng nghe thấy có tiếng người hát trong cửa iệu, anh đột ngột quay lại nhưng chẳng thấy ai cả…  

12

  Buổi tối hôm nay không giống những hôm khác, Tống Kha bỗng cảm thấy vô cùng lo lắng. Anh đã này sinh nỗi nhớ nhung đối với người con gái tên Lăng Sơ Bát kia. Bản thân anh cũng cảm thấy kinh ngạc vì ý nghĩ này. Đã bao năm nay, anh chỉ nhớ tới người con gái tên Tô Tĩnh, lẽ nào mình thực sự coi Lăng Sơ Bát là Tô Tĩnh sao? Nhưng họ là hai người hoàn toàn khác nhau, sống trong những thế giới khác nhau. Lăng Sơ Bát rất quan tâm tới anh, mỗi lần anh tới căn nhà gỗ nhỏ ấy, cô luôn phục vụ anh rất chu đáo. Cô là người kiệm lời. Cô luôn dùng hành động để thể hiện tình cảm với Tống Kha, nhưng tại sao cô lại tìm được anh, và đã dùng thủ đoạn nào để dẫn dụ anh tới ngôi nhà gỗ nhỏ trong rừng sâu đó?... Rất nhiều bí ẩn mà Tống Kha không giải thích được. Anh chỉ còn biết tuân theo sự sắp đặt của số phận, bởi căn bản anh không có sức mạnh để xoay chuyển nó. Đã mấy ngày không nghe thấy tiếng gọi của người con gái đó, tâm trạng anh cảm thấy rất lo lắng. Bởi lúc này anh đã có chỗ trú chân hợp lý, cũng có dục vọng của đàn ông,a nh cũng cần sự an ủi của một người phụ nữ, cho dù đó làm một người phụ nữ thần bí xa lạ. Anh thậm chí còn chẳng biết gì về cô, cũng không hiểu cô là người hay là ma nữa? Đêm đã khuya, Tống Kha vẫn đang chờ đợi, lòng anh hiểu rất rõ rằng anh đang đợi tiếng gọi của người phụ nữ đó. Tiếng gọi ấy xuất hiện thì anh mới có thể dễ dàng đi tới căn nhà gỗ nhỏ bé nằm ở nơi núi cao rừng sâu đó. Căn nhà gỗ bé ấm áp dần lên trong tưởng tượng của anh. Tống Kha hoàn toàn không cảm nhận được bất kỳ sự nguy hiểm nào. Anh cũng không biết Tam Lại Tử đang lo cho mình. Tống Kha nhìn vào bức tranh một người cho rắn cắn vào lưỡi mình, rồi lẩm bẩm: “Sống chính là sự trải nghiệm nguy hiểm". Anh dùng mảnh vải trắng đậy lên bức tranh sơn dầu. Cả ngày hôm nay, Tống Kha chưa ăn cơm, nhưng anh không thấy đói. Sự chờ đợi vừa giày vò vừa khiến anh hạnh phúc. Trong quãng đời lưu lạc nay đây mai đó đã nhiều năm của anh, Lăng Sơ Bát là người đầu tiên khiến anh cảm thấy có chỗ dựa, chỗ dựa về tinh thần cũng như thể xác, mặc dù anh không biết đó là phúc hay là họa nữa. Bởi chính mùi thối trên cơ thể nên anh đã phải rời bỏ Thượng Hải, phải bước trên con đường lưu lạc. Anh càng không dám nghĩ rằng trên đời này lại có người phụ nữ nào dám gần gũi với mình. Trên thực tế đúng là như vậy. Anh đã từng đi qua rất nhiều nơi, bất luận là đàn ông hay đàn bà, họ đều coi anh là một loại ôn dịch, đều nhìn anh bằng ánh mắt khinh bỉ và đều trốn chạy khỏi anh, cho dù anh vẽ đẹp đến đâu thì sự tôn trọng của họ đối với anh cũng không tăng thêm. Anh đã giấu cô gái tên Tô Tĩnh kia ở tận đáy lòng, vào lúc đêm khuya vắng vẻ mới lấy ảnh của cô ra rồi hồi tưởng lại quãng thời gian đẹp đẽ ngắn ngủi hai người ở bên nhau. Nghĩ tới đây, Tống Kha lại mở ngăn kéo lấy một quyển sách mỏng rồi giở ra. Bức ảnh của Tô Tĩnh không còn ở đó nữa. Tống Kha giở từng trang của cuốn sách mỏng đó nhưng vẫn không tìm thấy ảnh của Tô Tĩnh. Tống Kha tự nhủ: “Rõ ràng mình đã kẹp bức ảnh ở trong sách, lẽ nào nó lại mọc cánh bay mất rồi ư?” Sau đó anh lại nghĩ, lẽ nào mình nhớ nhầm, mình đã để nó ở chỗ khác chăng. Anh lục tung gác xép để tìm bức ảnh của Tô Tĩnh. Thế nhưng dù đã tìm khắp nơi nhưng anh vẫn không thấy. Lẽ nào đám người chết trong các bức truyền thần để dưới gầm giường đã giấu nó đi rồi. Tống Kha ngồi sụp xuống, cúi đầu nhìn những bức truyền thần người chết dồn đống dưới gầm giường rồi nói: “Các bậc tiền bối, nếu có ai trong số các vị cầm bức ảnh của Tô Tĩnh thì cầu xin các vị hãy nể tình tôi lắng nghe chuyện của các vị mà trả lại cho tôi, được không vậy?” Bỗng anh cảm thấy có một luồng gió lạnh từ gầm giường phả vào mặt. Tiếp theo, anh nghe thấy tiếng xào xạc. Tống Kha lạnh hết người, vội vàng đứng bật dậy. Ngọn đèn dầu lay lắt. Tống Kha nhìn thấy một con rắn màu xanh. Nó dài khoảng một thước rưỡi, toàn thân vằn hoa gầm xanh, nhìn kỹ mới thấy ngh vằn hoa gầm đó phát ra ánh sáng đẹp mê hồn. Con rắn xanh ngóc cao đầu, đứng cách Tống Kha khoảng một bước chân, nó nhìn anh rồi thè chiếc lưỡi đỏ lòm ra. Tống Kha sợ hết hồn, anh lùi lại một bước theo bản năng. Anh không còn sợ những người chết ở dưới gầm giường, cũng không sợ hồn ma của họ xuất hiện nữa. Nhưng con rắn xanh trước mặt lúc này khiến anh cảm thấy thần kinh căng như dây đàn. Nếu như đột nhiên tấn công anh, chắc chắn anh sẽ không có cách nào đối phó, anh thậm chí còn chưa hề có kinh nghiệm đối phó với loài rắn. Lúc này, con đường của thị trấn sớm đã vắng vẻ từ lâu. Không khí náo nhiệt ban ngày đã không còn tồn tại nữa. Không ai biết rằng họa sĩ Tống đang phải đối mặt với một con rắn xanh. Tống Kha và conr ắn nhìn nhau một hồi, anh nhìn thấy con rắn gật đầu với anh rồi xoay người bò về phía cầu thang. Đúng lúc con rắn gật đầu với anh, nỗi sợ hãi trong mắt anh tan biến hết. Mắt anh mê mẩn và đẫm nước. Anh nhu bị ma xui quỷ khiến đi theo sau con rắn. Con rắn bò xuống cầu thang, anh cũng xuống theo. Con rắn bò ra ngoài từ một lỗ nhỏ dưới sàn nhà, Tống Kha liền mở cửa đi theo. Trên con đường vằng vẻ chỉ có tiếng rắn trườn trên mặt đường. Bước chân của Tống Kha rất nhanh, nhưng lại không có tiếng động nào. Anh trôi bồng bềnh theo con rắn về hướng tây thị trấn. Đầu óc anh trống rỗng. Con rắn đưa anh tới căn nhà gỗ nhỏ bé ở vùng núi cao rừng sâu thì biến mất luôn. Tống Kha tỉnh lại từ con mê, kinh ngạc không hiểu sao mình lại tới được đây. Trái tim anh rung động, anh có nên gõ cửa căn nhà gỗ này? Tống Kha nghĩ chắc chắn Lăng Sơ Bát đang ở bên trong, ánh đèn ấm áp rọi qua giấy trắng trên song cửa của căn nhà mách bảo như vậy. Mình không hẹn mà tới, không hiểu có khiến cô ấy bực mình không nữa? Trong căn nhà gỗ nhỏ bé này ngoài cô ấy ra còn có ai không nhỉ? Lòng Tống Kha thấp thỏm không yên. Đúng lúc này, cánh cửa căn nhà gỗ khẽ mở ra, Lăng Sơ Bát mặc bộ quần áo lụa tắng đứng trước bậc cửa, xõa mái tóc dài ẩm ướt, khuôn mặt quen thuộc như vầng trăng tròn. Lăng Sơ Bát nhìn Tống Kha cười đưa tình, dùng tay vê nghịch ngợm lọn tóc ướt trên vai. Trong giây lát, Lăng Sơ Bát biến thành Tô Tĩnh trong mắt Tống Kha. Anh khẽ gọi một tiếng: “Tô Tĩnh!” Sau đó, Tống Kha nhẹ nhàng di chuyển về phía cô. Mùi tanh trên người anh càng lúc càng nồng, mỗi khi anh động tình, mùi tanh thối trên người anh lại càng nặng. Bình thường nó chỉ tỏa ra mùi tanh nhẹ. Lăng Sơ Bát khẽ nói: “Họa sĩ Tống à, em không phải là Tô Tĩnh, em là Lăng Sơ Bát”. Dù là Tô Tĩnh hay Lăng Sơ Bát, người phụ nữ vừa tắm xong kia cũng khiến Tống Kha không kìm lòng được, cô khuấy đảo bản năng tưởng như đã chết của anh. Tống Kha bước tới trước mặt Lăng Sơ Bát, ghì chặt cô vào lòng. Lăng Sơ Bát ghé miệng vào tai Tống Kha nói: “Họa sĩ Tống à, em không phải là Tô Tĩnh, em là Lăng Sơ Bát, anh là người đàn ông duy nhất của em”. Họ ôm nhau bước vào căn nhà gỗ. Lăng Sơ Bát đóng cửa rồi cái chặt then. Cây cối xung quanh căn nhà gỗ xuất hiện rất nhiều rắn, chúng uốn lượn điên cuồng. Tống Kha không hề nghe thấy tiếng gió gào rít bên ngoài, cũng không biết lũ rắn đang điên cuồng uốn éo trong tiếng gió thét gào. Lúc vào sâu trong người cô, anh ngửi thấy một mùi thơm rất lạ. Lăng Sơ Bát khẽ nói với Tống Kha: “Họa sĩ Tống à, chắc anh đói rồi phải không? Em biết, chắc chắn anh vẫn chưa ăn cơm”. Tống Kha gật đầu, anh phát hiện thấy mắt của Lăng Sơ Bát vằn đỏ như máu liền hỏi: “Sơ Bát, mắt erm sao vậy?” Sự hoảng loạn thoáng hiện trên khuôn mặt Lăng Sơ Bát, nhưng cô đã nahnh chóng lấy lại bình tĩnh: “À, mắt của em từ khi sinh ra đã bị như vậy rồi. Anh chê mắt của em phải không? Anh sợ lắm à?” Tống Kha cười: “Không sao, sao anh lại có thể chê mắt của em chứ?” Lăng Sơ Bát xích tới gần, hít một hơi dài mùi tanh trên người Tống Kha rồi nói: “Họa sĩ Tống à, em biết hôm nay anh sẽ tới, nên đã hầm sẵn bát canh móng giò cho anh. Anh gầy quá, phải tẩm bổ mới được”. Lăng Sơ Bát kéo tay Tống Kha tới ngồi cạnh chiếc bàn tre. Cô đi vào bếp, mở nắp nồi rồi lấy ra một chiếc nồi sành. Cô đặt chiếc nồi sành trên bàn rồi mở nắp ra. Một nồi canh móng giò trắng đục hiện ra trước mắt Tống Kha. Anh thấy mùi thơm nức hòa quyện trong mùi thịt, mùi thuốc bắc cùng mùi sữa… khiến bụng anh réo lên những tiếng reo vui. Lăng Sơ Bát múc một bát canh đặt trước mặt Tống Kha: “Ăn đi anh, ăn nóng sẽ bổ hơn. Nhìn anh yếu ớt thế này, em đau lòng lắm”. Tống Kha liền ăn ngay. Từ trước tới giờ anh chưa từng ăn món canh móng giò nào ngon như vậy, uống một ngụm canh mà thơm hết cả miệng. Anh không rõ đó là mùi thơm thế nào, chỉ biết rằng nó rất đặc biệt. Không những thế móng giò hầm rất mềm, cho vào mồm là tan ngay, rất béo mà không ngấy. Tống Kha vừa ăn vừa hỏi: “Sơ Bát à, canh này ngoài móng giò ra em còn bỏ cái gì nữa?” “Trong núi này có một loại cây dây leo, rễ của nó là gia vị tốt để hầm canh. Người dân sống trong núi gọi rễ cây dây leo này là hương đằng tử. Loại cây dây leo này thường sống ở trên vách núi do vậy rất khó đào được rễ. Không những thế rễ của nó còn là sản phẩm bổ dưỡng số một, những người suy nhược ăn loại này sẽ có tác dụng thần kỳ, do vậy rễ hương đằng tử rất quý” Tống Kha uống thêm một ngụm canh nữa rồi nói: “Hóa ra là vậy”. Lăng Sơ Bát ngồi cạnh chăm chú nhìn Tống Kha ăn rồi thầm nghĩ. “Nhìn anh ăn ngon chưa kìa! Nếu anh muốn, ngày nào em cũng sẽ hầm cho anh… Nhưng liệu anh có bỏ đi không? Mình thực sự không muốn hại anh ấy, chỉ hy vọng lúc mình và anh ấy bên nhau sẽ luôn vui vẻ… Mình không thể rời xa anh ấy, giống như dây leo bám vào thân cây to vậy, sống cũng bám riết, chết cũng bám riết… Họa sĩ Tống à, anh thực sự đã khiến em say đắm, đúng là đã bị anh quyến rũ mất rồi, mùi trên người anh khiến em ngây ngất…”

13

  Một buổi tối, Tam Lại Tử mò tới cuối ngõ Thanh Hoa, gõ cửa nhà mụ góa Dư Hoa Khố. Ngõ Thanh Hoa tối om. Tam Lại Tử gõ cửa một hồi, nghe thấy tiếng bước chân nhè nhẹ, tiếng mụ góa Dư Hoa Khố vọng ra: “Ai đang gõ cửa đấy?” Tam Lại Tử nghĩ, nếu mình là thổ phỉ Trần Lan Đầu, sẽ ồm ồm lên tiếng: “Mẹ mày chứ, lằng nhằng vừa thôi, mau mở cửa cho ông”. Nhưng hắn không phải thổ phỉ Trần Lan Đầu nên đành nhẹ nhàng: “Hoa Khố à, tôi là Tam Lại Tử, mở cửa đi!” Mụ góa Dư Hoa Khố đáp: “Tại sao tao phải mở cửa cho mày chứ?” Tam Lại Tử đáp: “Tôi nhớ cô quá, không chịu nổi nữa rồi”. Dư Hoa Khố cười khẩy đáp lại: “Không chịu nổi nữa thì có thể đi tìm bọn chó cái mà ngủ, tìm tao làm gì chứ? Tao có phải vợ mày đâu”. “Nhưng tôi chỉ muốn ngủ với cô thôi, chó cái làm sao mà hay bằng cô chứ?” “Tam Lại Tử, mày nghe bà nói đây, mày mau cút đi thật xa nếu không bà sẽ không khách sáo nữa đâu đấy”. Tam Lại Tử cũng không nhũn nhặn nữa: “Hoa Khố à, cô mau mở cửa đi. Một đồng đại dương mà chỉ làm có một lần thì thiệt thòi cho tôi quá!” Im lặng một hồi, cửa bỗng mở bật ra, Tam Lại Tử bị một cú đá như trời giáng. Hắn bỗng nghe thấy giọng đàn ông khàn khàn: ‘Tam Lại Tử, ông cảnh cáo mày, nếu mày còn không mau cút đi, ông sẽ đâm cho mày một dao đấy. Nếu mày còn dám mò tới đây gõ cửa lần nữa, ông mày sẽ giết mày làm thịt lợn bán”. Tam Lại Tử đã nhận ra, đó là giọng của tay đồ tể Trịnh Mã Thủy. Cửa nhà mụ góa Dư Hoa Khố đóng sầm một tiếng. Từ trong cửa vọng ra tiếng cười vui vẻ của Dư Hoa Khố. Tam Lại Tử cảm thấy đau tim, cú đá của Trịnh Mã Thủy trúng vào tim hắn. Tam Lại Tử ngã vật ra đất, một cơn đau tim, hắn thở cũng khó khăn hẳn. Hắn nghĩ, nếu Trịnh Mã Thủy đá chết hắn thì cũng coi là một sự giải thoát, bởi hắn cảm thấy đã sống quá đủ những ngày tháng cơ cực rồi. Nhưng hắn không chết, hắn nằm trên đất bịt mồm lại, mãi nửa canh giờ sau mới gượng dậy được. Hắn thầm nghĩ: “Cái mạng hạ tiện này sao lại cứng đầu không biết nữa?” Trong bóng tối, Tam Lại Tử dò dẫm ra khỏi ngõ Thanh Hoa. Hắn nhắm mắt cũng có thể đi lại dễ dàng trong mọi con ngõ trong thị trấn Đường. Không biết đã bao nhiêu đêm, hắn đi lại như một hồn ma trên mọi con đường trong thị trấn. Tam Lại Tử ở cửa nhà mụ góa Dư Hoa Khố không những bị bôi nhọ mà còn bị lãnh trọn một cú đá như trời giáng. Bỗng dưng, hắn nghe thấy tiếng hát vừa thê lương vừa bay bổng của một phụ nữ. Chàng ơi, tấm lòng em còn cao hơn trời xanh, số mệnh em bạc bẽo hỡi chàng. Chàng ơi, khói tan rồi nước chảy đi, trái tim em tan vỡ rồi hỡi chàng. Chàng ơi, trời xa quá đường dài quá, không biết phải tìm chàng chốn nào đây hỡi chàng. Chàng ơi, gió lớn mưa rơi gấp, nước mắt và máu em hòa vào nhau hỡi chàng.Ai lại có thể cất tiếng hát thê lương vào lúc đêm khuya tĩnh mịch này chứ. Tam Lại Tử đi về phía vọng ra tiếng hát. Hắn phát hiện giọng hát bay ra từ cửa hiệu quan tài. Ngoài Du Vũ Cường là người đầu tiên, thì từ trước tới giờ chưa ai dám sống ở đó. Tam Lại Tử lấy hết can đảm đi tới trước cửa hiệu quan tài hòng nhìn xem người đang hát qua khe cửa là ai. Trước mắt Tam Lại Tử chỉ là màu đen ngòm. Đột nhiên tiếng hát dừng lại, Tam Lại Tử vẫn chưa định thần lại thì nghe thấy một giọng nói lành lạnh của một phụ nữ văng vẳng bên tai: “Tại sao mày lại muốn nghe trộm ta hát ở đây hả?” Tam Lại Tử hồn bay phách lạc, quay người chạy bán sống bán chết về phía Đông Đầu Trấn, một bóng trắng bay sát theo hắn.  

14

  Tam Lại Tử ốm rồi, hắn nằm run bần bật sau tượng ông, bà Thổ Địa. Toàn thân hắn toát mồ hôi lạnh, miệng nói lảm nhảm. Tống Kha vẽ bức tranh sơn dầu tên là “Phiêu bạt giang hồ” xong, anh liền nhớ tới Tam Lại Tử, muốn hắn chia sẻ niềm vui sáng tác với mình, mặc dù Tam Lại Tử là người chẳng biết chút gì về tranh sơn dầu cả. Tống Kha ra khỏi cửa hiệu, ánh nắng chiếu rọi trên gương mặt anh. Quán ăn chênh chếch với cửa hiệu truyền thần vắng vẻ lạ thường, mụ Hồ Nhị Tẩu chẳng có việc gì đang dùng vỉ đập ruồi. Mụ ta nhìn thấy Tống Kha xanh xao, định chào hỏi một câu, nhưng câu chào vừa tới cửa miệng liền bị thu lại. Mụ ta nghĩ thầm: “Con chó bốn mắt này, đã lâu lắm rồi không mò tới quán của mình ăn uống, lẽ nào thằng cha giận mình? Lẽ nào hắn biết mình là người loan tin trên người hắn có mùi tanh ư? Thôi, mặc kệ thằng cha này, không tới ăn thì thôi, mình cũng ghét cái mùi thối đó mà! Nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu như hắn tới ăn thì mình vẫn sẽ cho hắn ăn, lẽ nào mình lại định dứt tình với tiền chứ? Ngửi một chút mùi thối cũng không chết được, thằng đàn ông nào mà không hôi cơ chứ”. Tống Kha đẩy cặp kính lên rồi liếc nhìn về phía quán ăn, anh chẳng nói chẳng rằng đi về hướng Đông Đầu Trấn. Tống Kha tới trước cửa miếu Thổ Địa. Hôm nay không phải là ngày chợ phiên cũng không phải là ngày đặc biệt gì nên không có ai tới miếu Thổ Địa. Trong miếu lạnh lẽo và kỳ bí lạ thường Tống Kha đi tới bất cứ nơi nào cũng đều rất kính phục những vị thần linh mà dân địa phương thờ. Tống Kha nhìn thấy cửa miếu đóng chặt, liền gọi to: “Tam Lại Tử, anh đang ở bên trong à?” Tống Kha không nghe thấy tiếng đáp lại của Tam Lại Tử, liền đẩy cửa bước vào. Anh phát hiện cửa miếu chỉ đóng hờ, trên cửa miếu cũng không có then cài. Trong miếu tối tăm, Tống Kha cảm thấy có gì không ổn. Anh nghe thấy tiếng rên của Tam Lại Tử. Vừa nghe thấy tiếng rên đó, Tống Kha đã biết hắn bị ốm rồi, liền vội vã chạy lại. Anh đứng dưới điện thờ hỏi vọng lên: “Tam Lại Tử à, anh sao vậy?” Tống Kha không dám trèo lên điện thờ, không giống Tam Lại Tử, anh chấp hành nghiêm ngặt những điều cấm kỵ của làng xóm. Lúc này, Tam Lại Tử ở trong trại thái hôn mê, hắn không nghe thấy tiếng anh. Nhìn thấy toàn thân Tam Lại Tử run bần bật, miệng sủi bọt trắng, anh đoán hắn đang sốt. Nhưng bây giờ phải làm sao đây? Tống Kha không phải loại người nhìn thấy chết mà không cứu. Anh phải tìm ông lang trong thị trấn tới thì mới có thể cứu hắn được. Tống Kha vội vàng trở về thị trấn rồi tới nhà thầy lang Trịnh Triều Trung. Anh gọi to từ bên ngoài cửa: “Xin hỏi ông lang Trịnh có ở nhà không ạ?” Tống Kha gọi to hai lần, ông lang Trịnh Triều Trung mới bước ra. Ông lang Trịnh Triều Trung tóc đã điểm sương nhưng khuôn mặt vẫn rất trẻ. Ông mặc chiếc áo dài, diện mạo khiến người khác phải tôn trọng. Giọng nói của ông rất nhẹ nhàng: “Cậu Tống có chuyện gì vậy?” Tống Kha vội vàng đáp lại: “Tam Lại Tử ốm rồi, tôi muốn mời ông tới khám cho anh ấy”. Trịnh Triều Trung không trả lời ngay, trái lại ông còn dò xét Tống Kha bằng cặp mắt vui vẻ rất có thần của mình. Dường như ông đang nghĩ gì đó. Tống Kha vội vàng giục: “Thầy Trịnh cứ yên tâm đi, tôi sẽ trả tiền khám cho Tam Lại Tử”. Ông lang Trịnh Triều Trung vuốt vuốt chòm râu bạc của mình, cười nói: “Cậu Tống à, không phải vấn đề tiền tiền nong đâu, bởi cứu người là phận sự của tôi mà. Được thôi, tôi thấy anh cũng là nhân hậu, tôi sẽ đi với anh”. Trên đường đi, ông lang Trịnh Triều Trung thắc mắc: “Có một chuyện tôi đang băn khoăn không biết nên hay không nên hỏi đây”. Tống Kha cười đáp lại: “Nếu ông có thắc mắc gì thì cứ hỏi đi, tôi sẽ trả lời đúng với sự thật”. Trịnh Triều Trung ôn hòa hỏi tiếp: “Người trong thị trấn đồn rằng trên người cậu có mùi. Tôi chỉ muốn hỏi có phải cậu đã từng mắc phải chứng bệnh gì kỳ quặc phải không?” Tống Kha bình tĩnh đáp lại: “Ông nói không sai, quả thật trên người tôi có mùi thối. Từ trước tới giờ tôi vẫn luôn khỏe mạnh, cũng chưa từng mắc phải bệnh gì kỳ lạ cả. Hồi nhỏ, tôi cũng đã hỏi mẹ, bà bảo đây là mùi thối bẩm sinh của tôi, từ khi nằm trong bụng mẹ, tôi đã có mùi thối này rồi. Nhưng tôi thấy việc này cũng không có gì to tát cả, đúng không?” Ông lang Trịnh Triều Trung “Ừ” một tiếng. Tống Kha thực sự vẫn không yên tâm khi để Tam Lại Tử bệnh tật một mình ở miếu Thổ Địa, anh liền đón hắn về cửa hiệu truyền thần. Anh để hắn ngủ ở chiếc giường trên gác xép của mình. Tống Kha bốc một vài thang thuốc bắc của ông. Sau đó, anh đem về nhà sắc cho Tam Lại Tử uống. Sau khi sắc xong thuốc, anh lại tới chỗ Trịnh Mã Thủy mua một ít thịt, anh nghĩ Tam Lại Tử đang ốm, cơ thể anh ấy rất yếu, cần phải bổ sung dinh dưỡng. Chờ Tam Lại Tử uống thuốc xong, Tống Kha lấy chăn đắp cho hắn . Sau khi mồ hôi toát ra hết, hắn cảm thấy đã có một chút sức lực. Hắn thều thào nói với Tống Kha: “Họa sĩ Tống à, sao cậu lại cứu tôi chứ? Sao cậu không để tôi chết đi, huyệt mộ của tôi đã đào xong rồi mà”. Tống Kha cười đáp lại: “Ngốc à, sao anh lại có thể chết được chứ? Mệnh của anh lớn lắm”. Tam Lại Tử thở dài một tiếng, khóe mắt chảy ra hai hàng lệ: “Từ trước tới giờ chưa từng có ai đối với tôi tốt như anh, họa sĩ Tống à”. “Được rồi, anh nghỉ ngơi cho khỏe. Anh sẽ nhanh chóng hồi phục thôi”. Tam Lại Tử muốn kể chuyện về người đàn bà áo trắng cho Tống Kha nghe, nhưng hắn chưa kịp mở miệng đã vội im bặt. Hắn nhắm nghiền mắt lại, trong lòng như bị một con dao sắc cắt vậy, hắn đau vật vã. Tam Lại Tử không có đủ can đảm nói ra chuyện về người đàn bà áo trắng. Hắn thầm rằng mình không phải là người,hắn là đồ vong ân bội nghĩa. Lúc Tam Lại Tử mở mắt ra thì nhìn thấy bức tranh sơn dầu ở trên giá vẽ. Hắn chưa từng nhìn thấy bức tranh nào như vậy, một bức tranh có màu sắc. Trong trí nhớ của Tam Lại Tử, hắn chỉ toàn nhìn thấy những bức truyền thần đen trắng. Trong mắt hắn bỗng lóe lên ánh sáng thần bí. Trong tranh là người đàn ông trung niên phiêu bạt giang hồ mà hắn sùng bái, trông ông ta vừa mờ ảo lại vừa rõ ràng, giống như người được nhìn thấy trong giấc mơ vậy. Trong giấc mơ của hắn, người đàn ông trung niên đó đúng là có hình ảnh như trong tranh. Tam Lại Tử cảm thấy Tống Kha kỳ lạ vô cùng. Tam Lại Tử phân vân không hiểu Tống Kha có bước vào giấc mơ của hắn không nữa? Tống Kha cười rồi hỏi Tam Lại Tử: “Anh đang nghĩ gì đó?” “Họa sĩ Tống à, cậu có thể vẽ cho tôi một bức truyền thần màu được không? Ngộ nhỡ tôi có chết thì còn có thể mang theo bức truyền thần của mình”. “Đương nhiên có thể, nhưng anh không được nhắc tới từ chết nữa”. Tống Kha còn nửa câu vẫn chưa nói ra, đó là: “Chết là thần thánh”. Tống Kha nhận lời với Tam Lại Tử, ngay lập tức bắt tay vào việc vẽ truyền thần cho hắn. Anh nghĩ, vẽ xong bức truyền thần cho Tam Lại Tử thì mọi vật liệu để vẽ của anh cũng vừa hết. Tống Kha không hề biết, bức tranh sơn dầu vẽ Tam Lại Tử lại là bức tranh cuối cùng trong đời anh. Trước khi vẽ Tam Lại Tử, trong đầu anh hiện lên một cảnh tượng. Tam Lại Tử quần áo rách rưới ngồi trên bãi đất đỏ cạnh huyệt mộ đã đào sẵn, hắn vẫn đi chân đất, đôi chân bẩn thỉu như thể cả đời chưa từng được đi dép vậy. Khuôn mặt xấu xí của hắn ngập trong ráng chiều đỏ lừ, ánh mắt vô tội nhưng tràn đầy khát vọng đang dõi về dãy núi xa xăm…

15

  Chung Thất phát hiện càng ngày Chủ tịch Du Trường Thủy càng coi trọng thuộc hạ Trư Cốc của hắn. Sau khi Chủ tịch phái Trư Cốc đi phố huyện làm một vài việc xong, liền đề bạt hắn làm đội phó đội bảo vệ. Chung Thất càng hoảng hốt bất an, hắn cảm thấy hối hận khi đã trót nghe lời Trư Cốc đi bắt đôi gian phu dâm phụ Du Vũ Cường và Thẩm Văn Tú. Tới thời điểm này hắn đã khiến cho bản thân mình bị cô lập. Hôm nay, Chủ tịch Du Trường Thủy làm cỗ cảm ơn bà con lối xóm sau khi mẹ ông ta mất được bảy ngày tại căn nhà cũ ở thôn Du Ốc. Ông ta chỉ gọi Trư Cốc mang theo mấy người khác cùng đi. Chung Thất cảm thấy ấm ức trong lòng, liền tìm một vài thằng bạn đầu trâu mặt ngựa như hắn tới quán Hồng Phúc uống rượu, hắn gọi những món ăn cũng như loại rượu ngon nhất trong quán rồi uống một mạch tới tận khuya. Chung Thất uống rượu xong liền mò tới quán Tiêu Dao. Hắn đập mạnh vào cửa quán rồi lớn giọng: “Mở cửa! Mau mở cửa!”   Trong quán Tiêu Dao chẳng thấy chút động tĩnh nào, như thể người trong quán đã chết hết cả vậy. Chung Thất đập cửa rất lâu, nhưng vẫn chẳng có ai trong quán Tiêu Dao ra mở cửa cho hắn. Chung Thất tức không chịu nổi liền ngoác miệng chửi, nhưng cho dù hắn chửi ngoa tới đâu, phía trong vẫn im phăng phắc, vẫn không có ai ra mở cửa cho hắn. Chung Thất tức lộn ruột, rút khẩu súng moze ra rồi bắn liền hai phát vào chiếc đèn lồng trong quán. Sau tiếng súng nổ, vẫn không có ai đi ra. Chung Thất không hiểu nổi đã xảy ra chuyện gì trong quán đành lủi thủi bỏ đi. Lúc đi vào ngõ nhỏ nhà mình, Chung Thất cảm thấy có người đẩy từ phía sau, hắn ngã nhào xuống đất. Cú ngã không nhẹ chút nào, da trên đầu gối trầy xước, xương cốt đau nhức. Hắn lồm cồm bò dậy, thất thểu đi về hướng nhà mình. Mở cửa xong, Chung Thất vừa mới cài then cửa liền nghe thấy những tiếng cười khúc khích âm u từ bên ngoài vọng vào. Chung Thất lạnh hết sống lưng, hắn tỉnh táo hẳn. Đêm nay đối với hắn mà nói, chính là sự khởi đầu của vận đen.   Chung Thất không dám thổi tắt đèn khi ngủ.   Hắn sợ sẽ có thứ gì đó chạm vào mình trong đêm tối. Hắn nhét khẩu súng moze dưới gối, để lỡ xảy ra chuyện gì sẽ đối phó được ngay. Hắn lấy loại thuốc dùng khi ngã để trong nhà bôi sơ qua vết thương trên đầu gối. Hắn nằm thẳng đuột trên giường, hai mắt nhấm nghiền. Hắn bỗng nhớ tới khuôn mặt thanh tú của vợ, trong lòng bỗng chốc cảm thấy chua xót. Hắn thầm nghĩ, nếu như hắn không lai vãng tới quán Tiêu Dao chơi con điếm Dương Phi Nga kia thì vợ hắn sẽ không thể nào thông dâm với Du Vũ Cường được. Mà nếu họ không thông dâm với nhau… Hắn cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi cuối cùng rơi vào bóng tối. Bóng tối khiến Chung Thất cảm thấy nghẹt thở. Chung Thất không nhìn thấy ánh sáng, cũng mất luôn phương hướng, hắn không hiểu mình đang ở chỗ nào nữa. Chung Thất lần mò trong bóng tối, hắn có cảm giác mình đang bị giam hãm trong một căn phòng chật hẹp bằng sắt. Cho dù hắn lần tới hướng nào cũng đều bị chặn lại bằng bức tường sắt lạnh lẽo, không có cách nào phá vỡ vòng vây được. Hắn cảm thấy cả thể xác lẫn tinh thần đang phải chịu một áp lực rất lớn, hắn chỉ biết kêu gào nhưng cũng chẳng có ai tới giải cứu cho hắn. Trong lúc tuyệt vọng, hắn bỗng cảm thấy cơ thể mình đang từ từ thối rữa. Mùi thối đó khiến người ta buồn nôn hơn cả mùi tanh thối trên người Tống Kha. Một bộ phận trên người hắn ngứa không chịu nổi, hắn dang tay túm lấy chỗ đó rồi gãi cật lực, càng gãi lại càng ngứa… Chung Thất mở to mắt, toàn thân hắn ướt đẫm mồ hôi… Căn phòng bằng sắt biến mất trong bóng tối, Chung Thất nhìn thấy ánh sáng của đèn dầu liền ngồi bật dậy, cảm thấy chỗ đó của mình ngứa khủng khiếp. Hắn cởi phắt quần con ra, đưa dương vật của mình ra trước đèn, vừa nhìn đã thất sắc nhận thấy trên đó có rất nhiều nốt sần đỏ, phía trên nốt sần còn đang rỉ dịch nhầy màu đỏ… Hai đứa con trai của hắn ngồi trên giường, mở to mắt nhìn bố chúng đang kinh hoàng không biết phải làm gì. Ánh mắt của chúng rất quái lạ, miệng khẽ cười lạnh lùng. Tam Lại Tử nghe thấy mấy tiếng súng bên ngoài quán Tiêu Dao, hắn kêu lên một tiếng rất bi ai: “Hỏng rồi, những hai đồng đại dương, thế là đã đi tôi rồi, vẫn chưa cảm thấy đã…”   Tiếp đó, hắn cảm thấy chú em đang vào sâu trong người Dương Phi Nga của mình mềm nhũn ra, chẳng thể nào cương cứng lại nữa. Tam Lại Tử lăn từ người Dương Phi Nga xuống, nằm cạnh cô ta rồi chảy nước mắt. Dương Phi Nga đá mạnh Tam Lại Tử một cái: “Mày làm xong rồi thì cút ngay hộ tao”. Tam Lại Tử không nói gì, lại khóc tiếp. Hắn không ngờ rằng mình đã phải rất khó khăn mới vào được quán Tiêu Dao, cũng chẳng dễ dàng chút nào mới có được sự vui vẻ thế, nhưng hắn lại bị tiếng súng của Chung Thất đánh bại. Thực ra, mọi người trong quán Tiêu Dao đều nghe thấy tiếng đập cửa của Chung Thất, đều nghe thấy tiếng chửi mắng của hắn. Lúc Chung Thất đập cửa, Tam Lại Tử đang hứng khởi đưa vào người Dương Phi Nga. Và cũng đúng lúc đó, mụ chủ quán Tiêu Dao – Lý Mị Nương đang ngồi trong sảnh, một cô kỹ nữ đang đấm lưng cho mụ. Lý Mị Nương đang hút thuốc điếu thượng hạng do Chủ tịch Du Trường Thủy tặng nhân ngày khai trương quán. Những sợi thuốc lào vàng tới mức óng ánh cũng là đồ Chủ tịch tặng. Chủ tịch Du đã từng nói, chỉ cần ông ấy hút loại thuốc lào nào thì Lý Mị Nương cũng được hút loại thuốc lào như vậy. Nghe thấy tiếng đập cửa của Chung Thất, nốt ruồi to như hạt đỗ bên khóe miệng mụ ta giật giật, mụ ta đã dặn dò bọn người làm khi đóng cửa rằng tối nay nhất quyết không được mở cửa cho Chung Thất. Chung Thất ở bên ngoài làm ầm lên như vậy nhưng Lý Mị Nương vẫn điềm tĩnh hút thuốc ở bên trong, còn lạnh lùng nói: “Thuốc lào Chủ tịch Du tặng lần này ngon thật!” Sau khi tiếng súng của Chung Thất vọng lên, cái nốt ruồi to bằng hạt đậu ở bên mép mụ ta mới giật giật một chút. Bọn người làm canh cổng sợ hết hồn, cập rập chạy tới trước mặt Lý Mị Nương khẽ nói: “Bà chủ ơi, bà xem có nên mở cửa không, Chung Thất vẫn đang phá cửa, vậy thì…” Lý Mị Nương cười nhạt đáp lại: “Hắn dám phá cửa? Cho hắn mượn một trăm cái mật, cũng không dám đâu. Bọn mày vào sảnh ngồi đi”. Chung Thất bắn súng xong liền bỏ đi. Lý Mị Nương nhả một hơi khói rồi nói: “Cái thằng Chung Thất cũng chẳng ra sao, đã từ lâu lắm rồi không thấy hắn thanh toán, thế mà hằng đêm lại mò tới đây, độc chiếm Dương Phi Nga, cứ như thể quán Tiêu Dao của ta là nhà hắn vậy. Hắn cũng chẳng thèm quan tâm tới ai là người mở quán nữa. Đúng là đồ con rùa, cũng đáng đời cái loại mọc sừng như hắn. Tao để cho Tam Lại Tử ngủ với Dương Phi Nga, xem hắn có còn coi Dương Phi Nga là vợ hắn nữa không? Cái con tiện nhân Dương Phi Nga này nữa, còn nằm mơ thằng Chung Thất chuộc nó ra khỏi đây rồi về nhà nó làm vợ cả nữa chứ. Hôm nay, thằng Tam Lại Tử mò tới cửa, cho dù hắn không có hai đồng đại dương tao cũng vẫn cho hắn ngủ với Dương Phi Nga. Tao muốn con đó biết nó là loại người nào, rốt cuộc nó vẫn chỉ là loại bán sắc mua hương mà thôi, đừng có tưởng bở tự cho rằng mình là bà cả của Chung Thất”. Tam Lại Tử hoàn toàn bất lực rồi.   Hắn chuồn khỏi phòng của Dương Phi Nga như một con chó rồi rời khỏi quán Tiêu Dao bằng cửa sau. Sau đó, hắn trở về chốn nương thân của mình ở miếu Thổ Địa. Hắn không dám trở lại căn gác xép của hiệu truyền thần của Tống Kha. Nằm sau hai bức tượng bằng đất sét, Tam Lại Tử cảm thấy áy náy với Tống Kha vô cùng. Tống Kha tốt bụng đưa hắn tới căn gác xép trong cửa hiệu, hai ngày hai đêm túc trực bên hắn, còn sắc thuốc, hầm thịt, chữa khỏi bệnh cho hắn. Thế nhưng đêm nay, nhân lúc Tống Kha đi vào khu rừng rậm trong núi Ngũ Công kia, hắn lại lấy trộm hai đồng đại dương còn sót lại của anh, rồi đi tới quán Tiêu Dao… Tam Lại Tử nắm chặt cậu em mềm oặt như sợi mỳ của mình, nước mắt lại tuôn rơi… Hắn hằn học chửi mình: “Tam Lại Tử à, mày đúng là không bằng con chó, chó nó còn biết báo ơn, còn mày là đồ vong ân bội nghĩa, mày sẽ không được chết dễ dàng đâu!” Tam Lại Tử cảm thấy mình chẳng còn mặt mũi nào gặp Tống Kha nữa. Lòng hắn còn thấp thỏm lo cho anh chàng Tống Kha hiền lành kia. Không hiểu mụ đàn bà áo trắng kia có tống một con rắn vào miệng anh ta khiến anh ta sống không xong, chết cũng không nổi không nữa? Bên ngoài miếu Thổ Địa nổi gió, gió gầm rú như con thú hoang bị thương vậy.  

16

  Đã mấy tháng liền không có ai chết, đây là điều vô cùng hi hữu trong lịch sử thị trấn Đường. Tiết trời vào thu khiến thị trấn Đường mát mẻ, sảng khoái vô cùng. Không có người chết, cửa hiệu quan tài trở nên vô ích. Ông chủ cửa hiệu quan tài – Trương Thiếu Băng cả ngày không có việc gì làm, thỉnh thoảng lại chắp tay sau mông chậm rãi đi qua đi lại trên đường. Ánh mắt anh ta trở nên u uất vô cùng, ánh mắt đó ném về ai, cũng giống như đang hỵ vọng người đó chết đi vậy, dường như mọi người dân trong thị trấn Đường đều phải phó thác vào anh ta vậy. Nhưng chẳng có ai sợ anh ta cả, Trương Thiếu Băng nổi tiếng trong thị trấn là người thật thà, anh ta chỉ quan tâm tới việc bán quan tài, từ trước tới giờ chưa từng tranh chấp cái gì với ai. Vào tiết trời thu một ngày nào đó, con người thật thà Trương Thiếu Băng đi vào sòng bạc trong ngõ Hoàng Đế. Đó lài điều không ai tưởng tượng nổi. Do không có người chết, cửa hiệu quan tài không làm ăn gì nổi. Trương Thiếu Băng đóng cửa hiệu rồi đi tới sòng bạc điên cuồng đốt tiền. Vợ anh ta dẫn theo con tới trước cửa sòng bạc khóc lóc bù lu bù loa, anh ta cũng không không thèm để ý. Trong thị trấn lại nổi lại tin đồn Trương Thiếu Băng bị con ma trong cửa hiệu quan tài nhập vào người, do vậy mất hết bản tính… Tin đồn này khiến người dân trong thị trấn sợ sởn gai ốc. Ban ngày ban mặt đi qua cửa hiệu quan tài, họ còn sợ hồn ma bay ra từ bên trong, có người còn dán bùa chú màu vàng với đầy những nét vẽ loàng ngoằng lên trước cửa hiệu quan tài. Mùa này, người dân trong thị trấn Đường lại quan tâm đặc biệt tới một người khác. Đó chính là Tống Kha. Tống Kha vẫn đóng cửa im im, anh rất ít khi ra ngoài. Chính vì điều này mà có một vài kẻ lắm điều không buông tha cho anh, đặc biệt là mụ chủ quán họ Hồ. Từ ngày Thẩm Văn Tú chết, Tống Kha không còn tới quán mụ ta ăn cơm nữa. Đã mấy lần, mụ chủ quán họ Hồ chào hỏi, nhưng dường như anh chàng không nghe thấy thì phải, cứ như thể mụ ta đã biến mất trong mắt anh. Bỗng trong lòng mụ ta dâng lên nỗi oán hận anh ma không nói ra được. Mụ chủ quán họ Hồ bắt đầu đặt điều về Tống Kha vào thời điểm mùa thu vừa tới. Mụ ta nói, mặc dù Tống Kha không ra khỏi cửa, cho dù anh ta tự nhốt mình trong cửa hiệu thì mụ ta vẫn ngửi thấy mùi hôi tanh tỏa ra từ người anh. Mụ ta còn đặt điều rằng đồ ăn trong quán của mụ chịu ảnh hưởng mùi hôi trên người anh mà biến mùi, không còn ngon như trước kia nữa. Mụ ta nói như đinh đóng cột, chắc chắn mùi tanh thối trên người Tống Kha có độc. Nếu tiếp tục như vậy sẽ khiến cả thị trấn bị ô nhiễm. Lời đồn thổi về Tống Kha của mụ chủ quán họ Hồ được truyền đi rất nhanh. Rất nhiều người đều tin lời của mụ ta, lúc đi ngang qua cửa hiệu truyền thần của Tống Kha, họ đều bịt mồm, bịt mũi, cứ như thể họ sẽ bị mùi tanh thối trên người anh hun vậy. Thậm chí còn có những người, đổ gì trong nhà lên men hay bốc mùi hoặc có mùi gì khác lạ liền quy tội cho Tống Kha. Thậm chí đến cả tay đồ tể Trịnh Mã Thủy cũng vào hùa với mụ chủ quán họ Hồ, hắn nói bây giờ thịt lợn của hắn cũng không để lâu được, chỉ cần để hơi lâu một chút thì bốc mùi lạ. Do từ lâu trong thị trấn không có người chết nên tác dụng của Tống Kha cũng bị coi nhẹ giống như ông chủ cửa hiệu quan tài vậy. Rất nhiều người dân trong thị trấn đã kéo tới ủy ban đòi đuổi Tống Kha ra khỏi thị trấn. Đối mặt với những người có yêu cầu bức thiết như vậy, Chủ tịch Du chỉ vẻn vẹn nói một câu: “Các vị đúng là ăn no rồi rững mỡ phải không?” Ông ta hạ lệnh, về sau nếu có bất kỳ ai mò tới ủy ban đòi đuổi Tống Kha thì nhất loạt sẽ bị đuổi ngay, người nào gây chuyện sẽ bị bắt lại. Vì sự cứng rắn của Chủ tịch, không còn ai dám đề cập tới chuyện này ở ủy ban nữa. Thế nhưng những lời đồn thổi ác ý về Tống Kha vẫn tiếp tục lưu truyền trong thị trấn. Mụ chủ quán họ Hồ vốn định thông qua những lời nói ác khẩu của mình để dễ dàng đuổi Tống Kha ra khỏi thị trấn, không ngờ không những Tống Kha không bị đuổi mà việc làm ăn tại quán của mụ lại bị ảnh hưởng nặng nề. Bình thường đã rất ít người dám tới quán của mụ, dường như những đồ ăn trong quán đều bị mùi tanh thối trên người Tống Kha làm ô nhiễm vậy. Chỉ mỗi khi tới chợ phiên, quán ăn của mụ mới đông vui nhộn nhịp, bởi những người dân tứ xứ tới chợ phiên đều không biết chuyện này. Nỗi thù hận của mụ ta với Tống Kha càng lúc càng sâu đậm. Mụ ta đúng là gậy ông đập lưng ông, lúc này, mụ đang vắt óc nghĩ ra trăm phương ngàn kế để sửa chữa hậu quả nặng nề do chính mụ tạo ra. Mụ không thể nói với mọi người dân trong thị trấn rằng, tin đồn về Tống Kha la do mụ tạo ra. Thế nhưng vào một buổi sáng, mụ ta đi ra bờ suối hái về một bó lá ngải rồi treo trên tấm gỗ trên khung cửa ra vào cửa quán ăn. Có người hỏi mụ ta: “Bây giờ không phải Tết Đoan ngọ, bà treo lá ngải làm gì chứ?” Mụ ta cười đáp lại: “Cái nhà bác này không hiểu rồi, lá ngải có thể tránh được mùi tanh trên người Tống Kha đấy”. Nét mặt người kia lộ vẻ ngạc nhiên: “Thế à?” Mụ chủ quán họ Hồ vẫn cười đáp lại: “Đương nhiên là thật rồi. Mấy ngày gần đây tôi vẫn dùng mùi lá ngải để át mùi tanh thối đó đấy. Nếu không mọi đồ ăn trong quán tôi đều đã hỏng hết từ lâu rồi, còn ai dám tới quán tôi ăn uống nữa chứ?” Người đó gật đầu rồi đi luôn. Chẳng tới một ngày, phần lớn những tấm gỗ trên cửa ra vào mọi căn nhà trong thị trấn đều treo lá ngải. Việc này khiến những cây ngải cứu xung quanh thị trấn Đường đều bị hái trụi cả lá. Trên đường phố xuất hiện những sạp bán lá ngải, có người đã gánh lá ngải cứu từ nơi rất xa tới đây buôn bán. Chính trong đêm mụ chủ quán họ Hồ treo lá ngải trên tấm gỗ nên cửa ra vào thì Tam Lại Tử ra đường giống như một âm hồn. Hắn bắt đầu kéo lá ngải từ tấm gỗ trên cửa ra vào của những căn nhà ở phía tận đông xuống, sau đó dùng chân giẫm mạnh vài cái. Sáng ngày hôm sau, trên đường phố thị trấn Đường đầy rẫy những cành lá ngải để lung tung.

17

  Sáng sớm ngày 21 tháng Chín âm lịch năm Dân Quốc thứ ba mươi lăm, Tống Kha bừng tỉnh sau cơn ngủ say. Anh phát hiện mình đang nằm trong chiếc giường tre trong căn nhà gỗ nhỏ bé, trên người là chiếc chăn bông mỏng với vỏ chăn bằng vài trắng. Tống Kha ngạc nhiên vô cùng bởi từ trước tới giờ anh thường tới đây vào buổi tối và trở về nhà vào lúc sáng sớm. Cho dù anh không muốn về thì Lăng Sơ Bát cũng bắt anh về. Nhưng sáng sớm nay tỉnh lại, sao anh vẫn nằm trên chiếc giường tre của Lăng Sơ Bát chứ? Tống Kha không lý giải nổi. Anh cũng không thấy Lăng Sơ Bát ở trên giường, trong căn nhà gỗ nhỏ bé không thấy bóng dáng cô, không hiểu cô đi đâu nữa?   Mùi tanh thối nồng nặc trong căn nhà gỗ nhỏ. Tống Kha vẫn lười nhác nằm trong chăn nghe tiếng chim ríu rít bên ngoài. Tiếng chim lảnh lót dẫn anh về một ngày nào đỏ trong quá khứ xa xôi. Đó cũng là buổi sáng sớm, trên chiếc ghế băng đặt dưới tán cây trong khuôn viên trường Thượng Hải, anh và Tô Tĩnh đang ngồi bên nhau lắng nghe tiếng chim hót lảnh lót. Trong lòng họ đầy ý thơ ngọt ngào và hướng về tương lai tốt đẹp… Tống Kha nhắm mắt, anh không dám nghĩ lại những chuyện đã qua, anh không biết Tô Tĩnh còn sống hay đã chết. Nếu như họ được gặp lại nhau lần nữa, liệu Tô Tĩnh có còn nhớ tới buổi sáng sớm với tiếng chim líu lo đó không? Mọi hồi ức đều biến thành ảo giác. Lòng Tống Kha dâng lên nỗi buồn khó tả. Con người ta sống được chính là vì có rất nhiều thứ không xác định như vậy, có ai biết được mình sẽ đi đâu, ai biết được số mệnh của mình cuối cùng sẽ thuộc về nơi nào? Bỗng Tống Kha nghe thấy dưới gầm giường có thứ gì đó đang đánh nhau, phát ra tiếng bùm bụp, hự hự. Tống Kha cúi người, ngó xuống, dưới đó chẳng có gì cả. Tiếng động nhanh chóng biến mất. Tống Kha đứng dậy mở cửa, anh nhìn thấy làn sương mỏng màu xanh nhạt buông trên khu rừng rậm. Anh bỗng nhìn thấy Lăng Sơ Bát trong bộ quần áo dân tộc bước ra từ làn sương.   Tống Kha thần người ra, lúc này trong mắt anh Lăng Sơ Bát giống như một nữ thần. Trong lòng anh trào dâng sự cảm động. Gần đây, nếu như không có sự quan tâm của Lăng Sơ Bát thì không cần người dân trong thị trấn Đường đuổi, anh cũng tự thu dọn hành lý rời khỏi đây. Từ lúc Tam Lại Tử bệnh phải ở trong cửa hiệu truyền thần của anh, nhân lúc trời tối thì anh tới chỗ hẹn với Lăng Sơ Bát, hắn đã ăn trộm của anh hai đồng đại dương khiến anh chẳng còn đồng xu dính túi nào. Mấy tháng nay, thị trấn Đường không có người chết, cũng chẳng có ai tới mời anh vẽ tranh, anh – người không có thu nhập – chỉ còn biết dựa vào Lăng Sơ Bát để sống qua quãng thời gian dài đằng đẵng từ đầu hè tới tận cuối thu. Lăng Sơ Bát đã khiến anh cảm thấy có chỗ dựa, nhưng trong tận đáy lòng anh vẫn cảm thấy có lỗi với cô, sao anh nỡ lòng nào tăng thêm gánh nặng cho cô được chứ? Chính trong buổi tối hôm trước, sau khi tới căn nhà gỗ, anh phát hiện Lăng Sơ Bát vẫn như mọi khi, vừa đợi anh vừa nấu canh móng giò. Tống Kha cảm động vô cùng, anh nói với Lăng Sơ Bát: “Em đối xử với anh tốt như vậy, anh phải làm gì để báo đáp em đây?” Lăng Sơ Bát khẽ cười đáp lại: “Chỉ cần anh không ghét bỏ người con gái mắt đỏ xấu xí là em đây, thì em đã mãn nguyện lắm rồi. Từ ngày đầu tiên anh ở bên em, em đã cam tâm tình nguyện hầu hạ anh, căn bản không nghĩ tới chuyện anh sẽ báo đáp”> Tống Kha không nói gì, anh ôm chặt Lăng Sơ Bát vào lòng giống như ôm Tô Tĩnh vậy. Tống Kha cảm thấy cô giống như nữ thần bước tới từ làn sương xanh, anh khẽ gọi tên cô: Sơ Bát!” Lăng Sơ Bát bước tới trước mặt anh, nhoẻn cười nói; “Họa sĩ Tống, anh dậy rồi à? Sao anh không ngủ thêm chút nữa?” Khuôn mặt xanh xao của Tống Kha hơi đỏ lên vì thẹn: “Tỉnh rồi thì dậy luôn thôi”. Ánh mắt của Tống Kha dừng lại ở chiếc nồi sảnh đen Lăng Sơ Bát đang ôm trên tay. Lăng Sơ Bát nói: “Họa sĩ Tống à, vào nhà đi, em cho anh xem thứ này”. Tống Kha và Lăng Sơ Bát cùng bước vào nhà. Lăng Sơ Bát để chiếc nồi sảnh đen trên đất, lấy nắp nồi ra. Tống Kha nhìn thấy có thứ gì đó trông rất giống ếch xanh, có điều lớp da của nó có màu tía giống gan lợn. Tống Kha thắc mắc: “Sơ Bát à, đây là cái gì?” Lăng Sơ Bát cười: “Em biết ngay mà, những người sống trong thành phố chắc chắn sẽ không biết đây là cái gì mà. Em nói cho anh nghe nhé, đây là báu vật của rừng núi đấy. Con vật này là ếch đá, ếch đá với ếch đồng không giống nhau, ếch đá sống trong động có nguồn nước trên núi. Vì ếch đá rất ít, gầy gò thế này, em thì lại không có nhiều tiền, không thể ngày nào cũng xuống thị trấn mua chân giò hầm cho anh được. Do vậy mới nhớ tới món ếch đá này. Mới sáng sớm em đã dậy rồi, lên núi bắt được những con ếch đá này đấy. Anh xem này, hôm nay em rất may mắn, em bắt được những năm con. Lát nữa, em sẽ làm thịt chúng rồi hầm canh ếch đá cho anh ăn. Món này bổ lắm đấy!”   Tống Kha xúc động nắm bàn tay lạnh ngắt của Lăng Sơ Bát: “Sơ Bát à, sao em lại tốt với anh như vậy? Anh là người vô dụng như vậy, có đáng để em đối tốt như vậy không?” Mỗi khi Tống Kha động tình, mùi tanh thối trên người lại càng nồng nặc. Lăng Sơ Bát được Tống Kha ôm trong lòng, cô nhắm nghiền đôi mắt đỏ lại, say sưa hít những hơi dài mùi tanh thối tỏa ra từ người Tống Kha. Cô ta thì thầm: “Họa sĩ Tống à, anh thân yêu của em”. Tống Kha lại ôm chặt cô vào lòng, hôn lên trán cô và nói: “Sơ Bát à, em đừng vì anh mà làm khổ bản thân, anh không để ý tới việc ăn gì đâu, anh cũng không quan tâm tới cơ thể mình thế nào, chỉ biết được ở cùng em là sự an ủi lớn nhất đời anh. Nhưng bây giờ anh còn rất nghèo, chẳng cho em được thứ gì, em cũng biết mà, dù gì anh cũng là thằng đàn ông, anh không muốn để phụ nữ nuôi mình”. Lăng Sơ Bát nghe xong, toàn thân run rẩy, cô khẽ cắn vào vành tai anh: “Họa sĩ Tống à, em sẽ có tiền thôi. Thực ra, việc anh có tiền hay không không quan trọng với em, chỉ cần anh mãi ôm em thế này, để em được ngửi mùi trên người anh thì em đã mãn nguyện lắm rồi”. Trên đời này có người phụ nữ nào lại thích ngửi mùi tanh thối trên người Tống Kha chứ? Chỉ có cô gái trong núi vừa thần bí vừa cô độc Lăng Sơ Bát mà thôi. Chỉ dựa vào điểm này, vị trí của Lăng Sơ Bát trong lòng Tống Kha đã dần dần thay thế hình bóng Tô Tĩnh, người con gái như thật như mơ trong lòng anh. Mặc dù rất nhiều đêm dài, sau khi Lăng Sơ Bát thổi tắt đèn, lúc cô làm tình với anh, Tống Kha lại không kiềm chế được lòng mình mà gọi tên Tô Tĩnh.  

18

  Chính trong đêm ngày 21 tháng Chín âm lịch, Tống Kha trở về thị trấn thì nghe nói có người chết. Sau khi Tống Kha ăn xong bữa tối trong căn nhà gỗ của Lăng Sơ Bát, cô nhìn anh bằng ánh mắt mê hồn rồi khẽ nói: “Họa sĩ Tống à, anh nên về thôi!” Tống Kha không kịp nói gì, toàn thân anh run nhẹ như bị điện giật, đôi mắt sau cặp kính thẫn thờ. Tống Kha đờ đẫn đứng dậy, đi ra khỏi căn nhà gỗ như bị mộng du. Lăng Sơ Bát cũng theo anh ra ngoài cửa. Cô ta nhìn vào khu rừng tối om trước mặt, miệng phát ra những tiếng rít đanh đanh. Bỗng chốc một con rắn toàn thân phát ra luồng sáng màu xanh xuất hiện trước mặt Tống Kha. Trong màn đêm âm u không có trăng sao này, con rắn kia dẫn anh chàng Tống Kha như người mất hồn về thị trấn Đường. Sau khi Tống Kha trở về thị trấn, con rắn xanh đó cũng biến mất, anh chợt tỉnh táo hẳn. Trong tâm trí của anh, Lăng Sơ Bát lại biến thành một bông hoa đẹp mê hồn. Anh băn khoăn không hiểu lúc nào mới có thể gặp lại cô. Sau khi về tới thị trấn Tống Kha nghe thấy tiếng trống tang thương tâm. Con đường vắng lặng của thị trấn khiến anh lạnh hết cả người. Tống Kha vừa về tới nhà, đang mở cửa thì nghe thấy có tiếng người nói ở phía sau: “Họa sĩ Tống, cuối cùng anh cũng đã về”.   Tống Kha quay lại, một bóng người trong bóng tối, anh không nhìn rõ mặt người đó. Tống Kha chột dạ hỏi lại: “Anh là ai?” Bóng đen đáp: “Tôi là đầu bép quán rượu Hồng Phúc, ông chủ Chu Phúc Bảo chúng tôi muốn mời anh tới vẽ truyền thần cho bố ông ấy. Bố ông ấy mất rồi”. Tống Kha bình tĩnh hơn, anh thắc mắc: “Tại sao đột nhiên lại chết như vậy?” “Tôi đã đợi anh cả một ngày rồi, bố ông chủ chỗ chúng tôi ngay từ sáng đã được phát hiện chết trên giường. Sau khi ông ấy chết, ông chủ liền sai tôi đi tìm anh để vẽ truyền thần cho bố ông ấy. Ông chủ còn nói, may mà Chủ tịch anh minh, không nghe theo lời của một số người trong thị trấn đuổi anh đi. Nếu không ông ấy không biết đi đâu để tìm họa sĩ nữa. Ông chủ còn dặn dò, bất luận phải đợi tới sáng cũng phải chờ anh về để mời anh sang đó vẽ truyền thần cho ông cụ. Cuối cùng anh cũng đã về rồi, tôi phải dẫn anh qua chỗ ông chủ. Tôi còn tưởng anh đã rời khỏi thị trấn rồi, sẽ không bao giờ về nữa chứ”. Tống Kha không nói năng gì. Ông Chu Quý Sinh – bố ông chủ quán rượu Hồng Phúc – Chu Phúc Bảo chết rất tức tưởi. Tối hôm đó, ông chủ Chu Quý Sinh còn mời một vài ông bạn địa chủ ở xung quanh thị trấn tới ăn tiệc tại quán rượu của con trai. Những tay địa chủ đó mãi tận khuya mới lên xe rời khỏi quán rượu. Ông Chu lúc đó vẫn còn tỉnh táo, ông còn đánh mấy ván mạt chược với Chủ tịch Du, sau đó còn bảo con trai Chu Phúc Bảo đánh thay mình rồi mới về nhà ngủ.   Chủ tịch Du còn sai đội phó Trư Cốc đưa ông Chu về. Trư Cốc cầm đèn lồng đi phía trước, ông Chu chống gậy đi phía sau. Trư Cốc vừa đi vừa ngoái đầu lại nói với ông Chu;”Chú Quý Sinh à, chú đi từ từ thôi, chú ý đường đấy nhé”. Ông Chu vẫn còn rất khỏe mạnh đáp lại; “Đi thôi! Đi thôi!” Đừng tưởng ông chú đây già rồi mà không đi được đấy”.   Trư Cốc cười khì khì.   Nói ra thì ông Chu và Trư Cốc thật sự có quan hệ chú cháu, nhưng bố của Trư Cốc không nên trò trống gì, cả đời chỉ biết kiếm sống bằng việc thuê ruộng của ông Chu Quý Sinh nên dù Trư Cốc đã làm đội phó đội bảo vệ, nhận được sự coi trọng của Chủ tịch Du thì ông Chu vẫn khinh thường hắn. Trong mắt ông ta, thằng Trư Cốc lưng đeo súng trường, tay xách đèn lồng chỉ là con chó mà thôi. Ngôi nhà lớn đầu tiên khi đi vào ngõ Thanh Hoa chính là nhà của ông Chu. Lúc đưa ông Chu về ngõ Thanh Hoa, Trư Cốc cảm thấy có cơn gió thổi sau lưng. Hắn quay phắt người lại, phát hiện có một bóng trắng lướt qua. Nhớ lại tin đồn về hồn ma Thẩm Văn Tú tác oai tác quái, Trư Cốc sợ hết hồn. Bóng trắng đó biến mất trong nháy mắt, cái ngõ Thanh Hoa lại chìm trong bóng tối. Tuy Trư Cốc đeo súng trường nhưng vẫn lo sợ, xách đèn lồng chạy như bay về ủy ban. Đến nơi, hắn đứng nhìn mọi người đang đánh mạt chược. Chủ tịch Du nhìn hắn hỏi: “Trư Cốc, mặt cậu sao trắng bệch vậy?” Trư Cốc phân minh: “Chắc là do gió đêm thổi đấy ạ”. Ông Chu Quý Sinh về tới nhà ngâm chân xong liền nằm xuống giường. Ông nhớ tới con chó trông nhà của mình, con chó đó có tiếng rất dữ tợn. Hồi trước, nó còn cắn một người đàn ông nửa đêm canh ba mò tới nhà mụ góa Dư Hoa Khố tòm tem. Ông Chu còn phải đền cho người đó hai đấu gạo. Từ đó trở đi, ông Chu Quý Sinh dặn bọn người ở tới đêm phải nhốt con chó lại, không để nó sổng ra ngoài cắn người. Bởi ông biết, rất nhiều thằng đàn ông cứ chờ tới đêm lại lởn vởn trước nhà mụ góa Dư Hoa Khố. Thế nhưng, hai ngày trước con chó đó mất tích, ông Chu đã sai người đi tìm nó khắp nơi nhưng không tìm thấy. Nhớ tới con chó này, ông Chu cảm thấy chua xót, ông và nó đúng là có tình cảm với nhau. Nó còn cứu sống ông một lần, cái năm thổ phỉ Trần Lan Đầu mò vào thị trấn. Lúc tới nhà ông, nếu như không phải nó cắn tên thổ phỉ với biệt danh giết người không chớp mắt này thì có lẽ hắn đã lấy mạng ông rồi.   Nghĩ ngợi một hồi thì ông ngáy khò khò.   Đến sáng, một người hầu tới phòng để chuẩn bị đổ bo cho ông thì phát hiện ông đã chết trên giường. Cái chết của ông vô cùng đáng sợ, thi thể trương phềnh lên, bụng ông nổi lên một cục to, mặt mũi sưng lên như cái đầu, thất khiếu [Chú thích:
.(Từ cổ) Chỉ bảy cái lỗ trên mặt bao gồm hai lỗ tai, hai lỗ mũi, hai mắt và mồm.] chảy máu đen. Điều khiến người hầu kia kinh hồn bạt vía là anh ta nhìn thấy một con rắn vằn màu xanh trườn ra từ miệng ông Chu Quý Sinh… Lúc bọn người nhà họ Chu đi báo tin cho ông chủ Chu Hồng Phúc, thì ông ta vẫn miệt mài bên bàn mạt chược ở ủy ban, cả tối hôm đó chỉ mình ông ta thua bạc. Tống Kha đi theo người làm thuê ở quán rượu Hồng Phúc tới nhà họ Chu, người nhà họ Chu kéo nhau trốn anh. Thực ra vào lúc này, mùi hôi trên người Tống Kha đã giảm bớt nhiều rồi, bấy giờ còn dễ ngửi hơn mùi xác ông Chu Quý Sinh. Nhưng những người nhà họ Chu kia vẫn tránh xa anh, họ lại còn bịt cả mũi lẫn mồm nữa chứ. Tống Kha cũng chẳng thèm để ý tới họ. Ông chủ Chu Phúc Bảo đang mặc áo xô chịu tang nói với anh. “Họa sĩ Tống à, bức truyền thần của bố tôi phải nhờ cậu thôi, nếu vẽ đẹp, tôi sẽ không bạc đãi cậu”. Tống Kha không nói gì, anh đi tới chỗ ông Chu rồi bắt đầu vẽ truyền thần. Tất cả người nhà họ Chu đều nhìn Tống Kha bằng ánh mắt dò xét. Tống Kha nhanh chóng xuất thần, từ bản năng xuất hiện một động lực. Đó là Tống Kha phải vẽ đẹp bức truyền thần của ông Chu mới có thể cầm được khoản thù lao hậu hĩnh. Như vậy có thể đổi lại được một chút tôn nghiêm của người đàn ông, điều này cũng đồng nghĩa với việc giảm nhẹ gánh nặng mà anh đem tới cho Lăng Sơ Bát. Ánh mắt của Tống Kha vô cùng bình tĩnh nhìn vào xác chết, anh biết phải vẽ được cái hồn của người chết thì bức truyền thần của mình mới thành công. Anh bắt đầu vẽ những nét đầu tiên trên giấy, dường như anh nghe thấy tiếng giãi bày tâm sự của người chết vậy. Tống Kha trầm mặc, chăm chú lắng nghe lời tâm sự của người chết. Nếu như lúc này người chết ngồi bật dậy nói chuyện với anh thì anh cũng sẽ không cảm thấy sợ hãi, bởi lúc này anh đã rơi vào trạng thái quên đi chính mình. Tống Kha phải mất một canh giờ mới vẽ xong bức truyền thần cho ông Chu. Người đầu tiên tới xem bức truyền thần là ông chủ Chu Phúc Bảo. Dường như bố ông ta đang sống lại trước mắt ông ta. Mắt bố ông ta toát ra vẻ thần khí khiến ông kính phục vạn phần tài vẽ của Tống Kha, thậm chí ông ta còn quên mất Tống Kha là người có mùi hôi. Ông ta nắm chặt tay Tống Kha, mắt nhòe lệ: “Cám ơn cậu, họa sĩ Tống! Cám ơn cậu! Tôi nghĩ bố tôi ở dưới suối vàng cũng sẽ cảm kích về bức truyền thần cậu vẽ cho ông ấy”.   Tống Kha lúc này đã mệt bã người, anh có cảm giác cái khẩu khí anh dùng để cổ vũ bản thân khi nãy đã tan biến mất trong giây phút anh vẽ nét cuối cùng. Đối với những lời cảm ơn hoa mỹ của Chu Phúc Bảo, anh không nghe lọt câu nào. Anh chỉ nhìn thấy cặp môi của ông ta đang uốn lượn, mấp máy lên xuống không ngừng. Chu Hồng Phúc không do dự đưa cho Tống Kha ba đồng đại dương: “Họa sĩ Tống à, tôi đã nói rồi mà, nếu anh vẽ truyền thần cho bố tôi đẹp, tôi nhất định không bạc đại. Chủ tịch Du khi đó trả anh bao nhiêu tiền thì hiện giờ tôi cũng trả anh nhiều như vậy!” Tống Kha nhận ba đồng đại dương rồi rời khỏi nhà họ Chu trong tiếng trống tang vừa buồn bã lại vừa có tiết tấu. Lúc Tống Kha đi trên con đường trong thị trấn thì trời bỗng nổi gió sớm. Tống Kha cảm thấy mình nhẹ bẫng, dường như anh đã bị người chết hút khô vậy, chỉ còn cái xác thịt mà thôi. Cơn gió lớn liệu có cuốn anh lên giống như cuốn chiếc lá khô không? Thứ duy nhất thể hiện trọng lượng trên người Tống Kha lúc này chính là ba đồng đại dương. Chính ba đồng đại dương đó đã khiến anh không bị gió cuốn đi mất. Tống Kha đút tay vào túi, khi những ngón tay anh chạm vào đồng bạc lạnh lẽo, nặng trịch đó, dường như anh nghe thấy tiếng tiếc than dài. Tiếng tiếc than đó bay theo gió trong đêm cuối thu. Tống Kha còn ngửi thấy mùi chết chóc u buồn. Có phải cơn gió đã mang mùi chết chóc từ nơi u linh tới? Tống Kha không biết. Mùi chết chóc ẩm ướt lạnh lẽo, còn tỏa ra mùi phân hủy nữa… Càng ngày Tống Kha càng ngửi thấy mùi chết chóc nồng hơn, cứ như thể một kẻ chết đuối đang phải đối mặt với cái chết vậy. Cơn gió lớn thổi từ đông sang tây, rồi lại thổi ngược từ tây sang đông. Trong gió còn xen lẫn tiếng khóc thê lương, tiếng gầm phẫn nộ, tiếng than thở bất lực, những lời giãi bày không có ai nghe, tiếng kêu đau buồn đấm ngực dậm chân, tiếng nói chuyện rì rầm, tiếng cười điên dại… rất nhiều, rất nhiều những hồn ma không nhìn thấy đang nhảy nhót điên cuồng trong gió đêm, những tiếng động đó phá vỡ sự yên tĩnh trong thị trấn Đường. Tống Kha thất thểu đi về cửa hiệu truyền thần, anh muốn trốn trong căn gác xép của cửa hiệu. Anh muốn cuộn chặt chân vào người, để chống lại mùi chết chóc đang bay tới trong cơn gió điên cuồng, để chống lại màn đêm dài đằng đẵng này. Cuối cùng, Tống Kha cũng chạm vào ổ khóa cửa, khóa sắt giống như cục băng. Anh mở cửa rồi bước vào trong, vội vàng cài then, dựa lưng vào cửa hiệu thở phì phò. Cửa hiệu bí bách khác thường, liệu mình có chết ngạt không đây? Gió vẫn điên cuồng gào thét bên ngoài cửa hiệu.  

Chương III- 1 -

CÁI GÌ CẦN ĐẾN SẼ PHẢI ĐẾN

1

Cái chết đáng sợ không có điềm báo trước của ông Chu Quý Sinh khiến Du Trường Thủy cảnh giác. Để người dân trong thị trấn Đường không hoang mang, Du Trường Thủy nói với Chu Phúc Bảo phong tỏa tin về cái chết của bố ông ta, không cho phép vợ và người hầu kẻ hạ tiết lộ ra bên ngoài. Du Trường Thủy là người đầu tiên tới nhà họ Chu sau khi ông Chu Quý Sinh chết. Ông ta còn đem theo cả Trư Cốc tới nữa. Lúc đó cả nhà họ Chu từ lớn tới bé đều đang rất đau lòng. Khi Du Trường Thủy và Chu Phúc Bảo bước vào phòng của ông Chu Quý Sinh thì thấy một người hầu đang ngồi sụp dưới đất, toàn thân run lên vì sợ. Người hầu đó chính là người đã tới báo tin với Chu Phúc Bảo khi ông ta đang ngồi đánh mạt chược trong ủy ban. Sau khi người hầu này vừa sợ chết khiếp vừa nói có một con rắn bò ra từ miệng của ông Chu Quý Sinh ra, Du Trường Thủy liền chặn lại ngay: “Người này chắc đang nằm mơ, làm gì có chuyện đó chứ?” Chu Phúc Bảo lúc đó nước mắt đầm đìa sai người kéo người hầu đó ra. Cái chết của ông Chu Quý Sinh vô cùng kỳ lạ. Du Trường Thủy sai Trư Cốc đi mời ông lang Trịnh Triều Trung tới. Phòng ngủ của ông Chu Quý Sinh bị đóng chặt. Trong đó ngoài cái xác ra chỉ có ba người: Du Trường Thủy, Chu Phúc Bảo và Trịnh Triều Trung. Du Trường Thủy nói với ông lang: “Ông Trịnh à, ông xem Chu Quý Sinh mắc bệnh gì mà chết vậy? Sao lại chết đột ngột như thế? Tối hôm qua vẫn còn bình thường thế mà sáng nay đã âm dương cách trở với chúng ta rồi?” Trịnh Triều Trung xem xét cẩn thận cái xác xong, trên khuôn mặt hồng phấn như da trẻ con của ông xuất hiện nét hoảng sợ, sắc mặt bỗng chốc trở nên tái mét, bộ râu bạc cũng rung lên. Du Trường Thủy cảm thấy có gì không ổn, không hiểu điều gì đã khiến ông lang Trịnh Triều Trung – người nổi tiếng với biệt tài nhìn thấy sinh tử nhân gian lại hoảng sợ bất ổn như vậy? Du Trường Thủy hỏi: “Ông Trịnh, ông thấy đây là…” Trịnh Triều Trung trầm ngâm một lát: “Đã rất lâu không thấy loại độc này. Còn nhớ khi tôi mười ba tuổi, khi đang còn học y với sư phụ, tôi đã nhìn thấy cái chết tương tự. Lúc đó, các anh vẫn còn chưa ra đời, từ đó trở đi, thị trấn Đường không còn xảy ra chuyện như vậy nữa. Không ngờ bây giờ lại xuất hiện”. Du Trường Thủy rít một hơi điếu cày rồi hỏi: “Lẽ nào ông Chu Quý Sinh chết vì trúng độc?” Trịnh Triều Trung gật đầu đáp lại: “Không những thế mà là trùng độc”. Chu Phúc Bảo nói trong nước mắt: “Trùng độc? Sao lại như vậy được chứ? Ai lại nỡ hạ độc giết chết bố tôi chứ?” Trịnh Triều Trung vuốt râu, dường như lúc này ông ta đã tĩnh tâm hơn. Ông ta chậm rãi nói tiếp: “Ngoài trùng độc ra, không còn loại thuốc độc nào đáng sợ hơn loại này. Trước đây trên núi có một người chuyên tu luyện thuật đầu độc, bây giờ không chừng cũng đang ở đó. Có điều người luyện thuật đầu độc không dễ dàng hại người như vậy. Nếu như ông cụ Chu Quý Sinh và Phúc Bảo không gây thù kết oán với người khác thì cái chết do bị đầu độc của ông Chu Quý Sinh thực sự khiến người khác phải hoảng sợ”. Du Trường Thủy lẩm bẩm: “Đầu độc…”  

2

  Tam Lại Tử lặn mất tăm sau lần lấy cắp tiền của Tống Kha tới quán Tiêu Dao chơi gái đó. Người hắn gầy sọp đi. Sau khi đào huyệt cho Chu Quý Sinh xong, giống như Du Trường Thủy, Chu Phúc Bảo cũng thưởng cho hắn một đồng đại dương. Lấy xong tiền, hắn chẳng vui vẻ gì, chẳng tới gặp mụ góa Dư Hoa Khố, cũng không dám mò tới quán mụ chủ Hồ uống rượu. Bởi hắn sợ giáp mặt Tống Kha, hễ nhìn thấy anh, hắn lại tìm cách giấu mặt thật xa. Có lúc Tống Kha tới tìm hắn, hắn liền chạy rẽ đất rẽ cát. Tống Kha đương nhiên không đuổi kịp được, bởi hắn vốn chạy nhanh hơn cả chó. Gió thu xáo xạc. Cây cỏ trên sườn núi Ngũ Công Lĩnh với những ngôi mộ mấp mô bắt đầu khô héo. Tam Lại Tử ngồi bên miệng huyệt đã đào xong, hắn giận một miếng củ đậu ăn cắp ở nhà người ta. Từ xa, hắn đã nhìn thấy Tống Kha đang bước qua chiếc cầu bắc qua suối. Bầu trời xám xịt càng khiến bóng hình gầy guộc của Tống Kha trở nên cô độc. Sau khi Tống Kha bước qua cầu, anh lại đi về phía Ngũ Công Lĩnh. Tam Lại Tử ăn vội ăn vàng miếng củ đậu rồi đứng bật dậy. Nếu như Tống Kha tiếp tục đi đường vào núi, thì hắn có thể tiếp tục ăn miếng củ đậu nữa ở bên miệng huyệt, còn nếu Tống Kha tới tìm hắn, hắn sẽ chạy thục mạng. Tống Kha đã tới sườn núi, anh không đi đường vào núi. Tam Lại Tử nhìn rõ rồi, Tống Kha đang cầm trên tay một ống tiêu dài. Tam Lại Tử đứng đó, đang chuẩn bị trốn chạy bất cứ lúc nào. Hắn hoàn toàn không sợ Tống Kha, mà chỉ là không còn mặt mũi nào gặp anh. Trong thị trấn Đường này, người khiến Tam Lại Tử không còn mặt mũi nào để gặp lại chắc chỉ có một mình Tống Kha. Con người Tống Kha có cái khí chất nào đó khiến Tam Lại Tử mê mẩn, hắn không nói được cụ thể đó là gì, chỉ biết mỗi lần gặp hay nhớ tới Tống Kha, trong lòng hắn xúc động khó tả. Tống Kha chỉ còn cách chỗ Tam Lại Tử đứng không xa, từ vị trí này người này có thể nhìn rõ mặt người kia. Mặt Tống Kha vẫn nhợt nhạt như trước, anh cười rất tươi với Tam Lại Tử. Tống Kha chẳng nói chẳng rằng, rút tiêu ra rồi bắt đầu thổi. Từ trước tới giờ, Tam Lại Tử chưa từng nghe thấy âm thanh nào lại mềm mại du dương bên trong lại ẩn chứa sự thê lương, bất lực như tiếng tiêu bay trong gió. Tam Lại Tử ngẩn ra nghe, mắt hắn rơm rớm lệ. Chỉ một lát sau, mắt hắn nhòe đi. Tam Lại Tử có cảm giác không phải Tống Kha đang thổi tiêu mà là đang buồn bã thuật lại thân thế của anh ta. Đó là sự bi thương, đau buồn không thể diễn tả bằng lời. Tam Lại Tử cảm động trước tiếng sáo của anh, nước mắt bất giác trào ra.   Tam Lại Tử ngồi trên đất, hắn khóc rống lên trong tiếng tiêu của Tống Kha. Hắn cũng không nhớ nổi đã bao lâu mình chưa khóc đau buồn như vậy. Đã từ rất lâu, Tam Lại Tử giấu sự đau buồn vào tận đáy lòng. Hắn cũng không hiểu nổi trong tiếng tiêu của Tống Kha có ma lực như thế nào mà đã làm sống lại sự đau buồn trong con người hắn? Nghe thấy tiếng khóc của Tam Lại Tử, Tống Kha vừa thổi tiêu vừa tiến lại gần hắn. Tam Lại Tử nhìn thấy anh trong đôi mắt nhòe lệ, nhưng hắn không đứng dậy bỏ chạy, hắn thực sự chẳng còn sức nữa. Hắn đã bị tiếng tiêu đầy tâm trạng của anh giữ lại. Tống Kha đi tới trước mặt Tam Lại Tử, tiếng tiêu đột ngột dừng lại. Tiếng khóc của Tam Lại Tử cũng im bặt, hắn ngẩng khuôn mặt đầm đìa nước mắt của mình lên nhìn vào khuôn mặt xanh xao của Tống Kha. Đôi môi run run, dường như muốn nói gì đó nhưng lại không nói ra được. Những cây cỏ dại trên sườn núi run rẩy trong gió, những cây khô héo hoặc đang sắp sửa khô héo đó còn tỏa ra mùi cây tiêu. Tống Kha khẽ nói: “Tam Lại Tử, thực ra anh không cần phải trốn tôi đâu. Tôi không trách anh, từ trước tới giờ chưa từng trách anh. Thật đấy! Tin tôi đi!” Tam Lại Tử cúi đầu, vừa cắn môi vừa nói: “Họa sĩ Tống à, tôi sẽ trả tiền cho anh”. Tống Kha cười đáp lại: “Tam Lại Tử, tiền có là gì đâu chứ? Sống không đem đến, chết không mang theo, có gì quan trọng hơn tình nghĩa chứ?” Tam Lại Tử không nói gì. Hắn muốn nói với Tống Kha hãy rời xa người đàn bà áo trắng kia. Hắn tin chắc, nơi Tống Kha thường đến chính là nơi người đàn bà áo trắng mà hắn chưa từng biết mặt kia sống. Mỗi khi nghĩ tới điều này, hắn lại nghe thấy tiếng rắn trườn. Bụng hắn lại khó chịu, dường như con rắn đó đã sống lại trong bụng hắn. Tam Lại Tử nuốt vào bụng lời định nói ban nãy. Trong gió thu, đầu Tam Lại Tử đột nhiên nảy ra ý nghĩ kỳ lạ, liệu có nên đào huyệt mộ cho họa sĩ Tống không?

3

  Du Trường Thủy ngồi một mình trong thư phòng thắp hương trầm, dùng bút lông viết chữ đầu độc lên giấy. Người dân trong thị trấn Đường không lạ gì với điều đó cả. Trước đây, rất nhiều cô gái sống trên núi nuôi loại độc này. Khi Du Trường Thủy còn là trẻ con, bố ông đã từng nói với ông rằng, nhà của người trên núi mà rất sạch thị phải đề phòng, không được uống nước ở những nhà này, cũng không nên ăn bất cứ đồ ăn nào ở đó. Nhà của người nuôi loại độc này rất sạch sẽ, không hề có mạng nhện, kể cả trong tiết trời ẩm ướt, nhà của những người này đến cả muỗi, ruồi cũng không có, càn không thể xuất hiện chuột… Bố ông còn nói, nếu như trót ăn phải thứ gì ở những nhà này sẽ có khả năng trúng độc. Trúng độc, nếu nhẹ sẽ bị ốm, nặng thì trướng bụng mà chết. Đến cả bây giờ, nếu ông có phải đi công tác tới vùng núi, ông vẫn vô cùng cảnh giác trước những ngôi nhà sạch sẽ. Đã nhiều năm nay, trong thị trấn Đường không hề xảy ra chuyện đầu độc gây chết người, cái chết rùng rợn của Chu Quý Sinh khiến Du Trường Thủy hoảng sợ.   Loại độc này nghe nói được lưu truyền như một kiểu văn hóa thần bí của người miền núi phía nam. Thuật đầu độc vô cùng hiểm ác. Nó không giống với các vũ khí giết người khác, có thể cho người ta phòng bị và trốn tránh, cũng không giống các loại độc bình thường, dễ dàng chữa trị được. Thuật đầu độc này luôn được cất giữ ở trạng thái giữa hữu hình và vô hình, phòng mà không phòng. Trong sách cổ Thông chi cũng có giới thiệu về cách tạo ra độc. Lấy một trăm con côn trùng, để chúng nọ tự tàn sát lẫn nhau, con tồn tại được chính là độc. Cụ thể, nhốt rắn độc, rết độc… một trăm loại có độc vào trong chum, vại, sành… đóng kín lại rồi chôn xuống đất, hoặc để dưới gầm giường. Để bọn rắn, rết có độc đó tự giết lẫn nhau. Sau một thời gian mở nắp ra, nhìn thấy con nào còn tồn tại được chính là loại có thể hại người, những con đó sẵn có sức mạnh thần bí. Du Trường Thủy còn biết thường thì đàn ông không nuôi trùng độc, người nuôi trùng độc phần lớn là phụ nữ. Mắt của những người phụ nữ này đều có màu đỏ như máu, có luồng sáng có thể hút hồn người khác. Khi Du Trường Thủy còn nhỏ, bố ông ta luôn dặn ông ta nếu nhìn thấy những người phụ nữ có mắt đỏ thì nhất định phải tránh mặt, nếu không sẽ gặp nguy hiểm. Du Trường Thủy nghĩ nếu như ông Chu Quý Sinh thật sự chết vì trùng độc, vậy thì ai là người mang trùng độc tới thị trấn, người đó cũng chính là người nuôi trùng độc trong thị trấn? Tâm trạng Du Trường Thủy bất an vô cùng. Đã mấy tháng rồi trong thị trấn không có người chết, ai ngờ có người chết lại đáng sợ đến vậy chứ? Ông ta nghi ngờ thằng cháu Du Vũ Cường của mình, có thể nó ngấm ngầm trở về thị trấn, còn mang trùng độc về hại người nữa. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng không đúng, ông ta biết rõ tính khí của thằng cháu, có chết nó cũng không đi lại với bọn người nuôi trùng độc, thằng đó có thể cầm dao đi giết kẻ thù của nó, không đời nào nó lại dùng cách này để giết người. Còn có một vấn đề khác, đó là cả ông Chu Quý Sinh và ông chủ quán Hồng Phúc – Chu Phúc Bảo chẳng có ân oán gì với nó cả, do vậy nó chẳng có lý do nào nó lại dùng trùng độc hại ông Chu cả. Mà cho dù muốn báo thù, thì nó phải tìm tới Chung Thất hay là tới ông mới phải chứ. Có điều rất nhiều chuyện không thể biết trước được, việc ông Chu bị hại chết bằng trùng độc rất có thể chỉ là khúc dạo đầu. Rất có thể Du Vũ Cường dùng trùng độc hại chết ông Chu chính là để cánh cáo Chung Thất và Du Trường Thủy, rằng sẽ khiến Du Trường Thủy và Chung Thất chết khó coi như vậy. Vậy là người tiếp theo bị giết có thể là Du Trường Thủy và Chung Thất rồi. Lúc này, Chung Thất cũng chẳng khác gì chết là mấy, giả dụ hắn có chết thật, Du Trường Thủy cũng chẳng thương xót. Điều khiến Du Trường Thủy lo lắng chính là bản thân ông ta. Nghĩ tới đây, Du Trường Thủy cảm thấy sởn tóc gáy. Ông ta lấy đóm châm vào đầu hương rồi thổi một cái, đóm liền bắt lửa màu xanh nhạt. Du Trường Thủy đốt một mồi thuốc, nâng ống điếu lên rít sòng sọc mấy hơi. Mấy hơi thuốc đi qua phổ rồi được nhả ra miệng khiến tâm trạng Du Trường Thủy biết hơn. Nếu như thằng cháu Du Vũ Cường thực sự đã trở về thị trấn Đường, chắc chắn nó sẽ trốn trong chỗ tối, liệu nó có thể ở đâu được chứ?   Cửa hiệu quan tài của Trương Thiếu Băng chăng?   Trương Thiếu Băng là anh em kết nghĩa của Du Vũ Cường, nếu Du Vũ Cường thật sự đã trở về thì ngoài cửa hiệu quan tài ra nó còn có thể trốn ở đâu được nữa. Khoảng thời gian này, cửa hiệu của Trương Thiếu Băng đóng cửa im ỉm, do vậy rất phù hợp cho người trốn trong đó. Mắt của Chủ tịch Du Trường Thủy đảo vài cái, không hiểu cái chết của ông Chu có liên quan gì tới Trương Thiếu Băng không? Đã lâu trong thị trấn Đường không có ai chết cả, do vậy cửa hiệu của Trương Thiếu Băng phải đóng cửa. Sau khi đóng cửa tiệm xong, Trương Thiếu Băng cả ngày la cà trong sòng bạc, mà lại thua nhiều thắng ít, nếu như cửa hiệu quan tài không làm ăn gì nữa thì hắn sẽ mang hết gia sản đã vất vả tích lũy lâu nay nướng hết vào sòng bạc mất. Tới lúc đó, e rằng đến cả cửa hiệu quan tài cũng giữ không nổi. Có lẽ nào Trương Thiếu Băng dùng trùng độc hại chết ông Chu?   Như vậy chắc chắn Trương Thiếu Băng đã mời người nuôi trùng độc tới, liệu thằng cha đó có tiếp tục… Du Trường Thủy đinh ninh thủ phạm là Du Vũ Cường và Trương Thiếu Băng, bởi tính cách hai thằng đó giống nhau thế kia mà. Mà cũng có một khả năng khác, chúng liên kết với nhau để giết người, một thằng giết người là vì thù hận, còn thằng kia là vì tiền… Thật khiến người ta khiếp đảm. Nhưng vấn đề là người nuôi trùng độc ở đâu chứ? Du Trường Thủy lại rít một hơi thuốc lào nữa, cặp lông mày ông ta nhíu lại, không có cách nào để dãn ra nữa. Lúc này, một người hầu đứng ở cửa thư phòng báo với Du Trường Thủy rằng Trư Cốc đã tới, hiện đang chờ ở bên ngoài, người đó còn hỏi Du Trường Thủy có cho Trư Cốc vào trong không. Du Trường Thủy khoát tay; “Cho hắn vào đí” Một lát sau, Trư Cốc lùi vào thư phòng như một con chó.

4

  Thời gian giống như một giọt sương giữa những chiếc lá đang khô dần trong gió. Trong khu rừng âm u, Tống Kha đang đi rất nhanh, dẫn đường cho anh vẫn là con rắn hoa màu xanh, toàn thân phát sáng. Tống Kha nhanh chóng tới trước cửa căn nhà gỗ nhỏ, anh ngửi thấy mùi thơm của canh móng giò hầm với rễ cây hương đằng tử. Chính trong buổi tối Tống Kha vẽ xong bức truyền thần cho ông Chu, anh đã đem cho Lăng Sơ Bát ba đồng đại dương thù lao. Lăng Sơ Bát cầm ba đồng đại dương trên tay rồi than thở: “Chừng này có thể mua được bao nhiêu móng giò đây. Họa sĩ Tống à, em sẽ phải tẩm bổ thật tốt cho anh mớ được. Sức khỏe của anh mới là điều quan trọng nhất”. Lăng Sơ Bát mở cửa ra, dường như cô ta đã tính trước được thời gian Tống Kha sẽ tới. Lăng Sơ Bát giơ tay rồi kéo anh chàng Tống Kha đang hít hà mùi thơm canh hầm vào nhà. Cánh cửa ngôi nhà được đóng lại, cùng thời điểm đó nó cũng nhốt bóng tối, gió thu cùng tiếng rừng rậm ở ngoài. Lăng Sơ Bát chăm chú nhìn Tống Kha uống hết bát canh, sau đó cô đun một chậu nước sôi rồi cởi quần áo Tống Kha để lau người cho anh.   Tống Kha đứng tồng ngồng, nhắm chặt mắt. Lăng Sơ Bát nhúng chiếc khăn trắng xuống nước rồi vắt khô, sau đó lau lên người Tống Kha. Lỗ chân lông nở ra, khiến anh cảm thấy dễ chịu vô cùng, khó có thể nói được bằng lời. Lăng Sơ Bát bắt đầu lau từ cổ xuống tận chân, sau đó lại lau từ mặt xuống từng ngón chân, cô thậm chí còn không bỏ qua các kẻ chân. Lăng Sơ Bát vừa lau vừa ngửi tanh thối trên người Tống Kha. Cơ thể Tống Kha được Lăng Sơ Bát lau cẩn thận lại càng tỏa ra mùi tanh nồng, Lăng Sơ Bát rất hưng phấn. Cô bế Tống Kha lên giường. Sau khi thổi tắt đèn, cô cởi hết quần áo của mình, nằm đè trên người Tống Kha liếm da anh. Lăng Sơ Bát vừa liếm người Tống Kha, vừa ngửi mùi tanh, cứ như thể cô muốn nuốt hết mùi đó vào bụng vậy. Lúc người Lăng Sơ Bát ép chặt vào người Tống Kha, anh cảm thấy có thứ gì đó đang chuyển động trong cái bụng lùm xùm của Lăng Sơ Bát. Tống Kha không để ý lâu, cũng chẳng có thời gian nghĩ về vấn đề có cái gì đang chuyển động trong bụng cô. Anh chỉ muốn được Lăng Sơ Bát hít hết mùi, được Tô Tĩnh hít hết mùi. Lúc này, hai người bọn họ đã nhập làm một. Ngọn lửa tình của Tống Kha hừng hực cháy, miệng anh phát ra những tiếng hổn hển nặng nề. Trong cả quá trình làm tình, Lăng Sơ Bát không nói một câu nào, cô khiến Tống Kha bay bổng bằng hành động. Tống Kha biết Lăng Sơ Bát chưa bao giờ cởi quần áo trong ánh đèn, anh cũng chưa từng nhìn thấy cơ thể lõa lồ của cô. Thế nhưng điều đó đã không còn quan trọng nữa, điều quan trọng là cô biết cách làm cho Tống Kha đạt cao trào. Lúc Tống Kha tỉnh lại, trời vẫn chưa sáng, anh phát hiện Lăng Sơ Bát đã không còn trên giường nữa. Cứ mỗi lần làm tình với Lăng Sơ Bát xong, Tống Kha liền nhanh chóng ngủ mê mệt. Vừa thấy anh tỉnh lại, nhân lúc trời chưa sáng, Lăng Sơ Bát lưu luyến bảo anh về. Chỉ có mỗi buổi sáng ông Chu chết là không giống với thường lệ. Lăng Sơ Bát không ở trên giường, cô ấy đi đâu vậy? Căn nhà gỗ tối om, Tống Kha chẳng nhìn thấy gì. Anh tìm được cặp kính của mình ở đầu giường, sau khi đeo kính, anh vẫn không nhìn thấy gì. Trong bóng tối, dường như có ai đó đang thở mạnh. Hoặc cũng có thể Lăng Sơ Bát đang đứng ở chỗ nào đó trong căn nhà, có điều anh không nhìn thấy mà thôi. Bỗng Tống Kha nghe thấy có tiếng gì đó rất lạ vọng ra từ gầm giường. Lẽ nào Lăng Sơ Bát lại ở dưới gầm giường chứ? Lần nào Tống Kha tỉnh dậy, anh cũng thấy Lăng Sơ Bát tỉnh rồi, cô thắp đèn lên, mặc xong quần áo rồi nằm bên cạnh đắm đuối ngắm nhìn anh. Nếu nói buổi sáng hôm ông Chu Quý Sinh chết là ngoại lệ, vậy thì tối nay cũng là ngoại lệ. Tống Kha khẽ gọi tên cô trong bóng tối: Sơ Bát, Sơ Bát… Tiếng động dưới gầm giường biến mất. Không ai đáp lại tiếng gọi của Tống Kha. Lúc này, Lăng Sơ Bát đang ở đâu? Tống Kha không hề biết gì cả. Tống Kha thức dậy trong nỗi hoài nghi, căn nhà gỗ bỗng chốc trở nên bức bối vô cùng. Tống Kha tìm được đá lửa, anh đánh lửa rồi thắp sáng đèn. Căn nhà gỗ sáng dần lên, Tống Kha cảm thấy an toàn hơn trong ánh đèn, bóng tối đôi khi khiến người ta tuyệt vọng, đôi khi khiến người ta rơi vào cảnh ngộ thê thảm. Lăng Sơ Bát không ở trong nhà. Chiếc chậu gỗ nhỏ Lăng Sơ Bát dùng để lau người cho Tống Kha vẫn đặt ở đó. Tống Kha lại nhớ tới tiếng động kỳ lạ phát ra từ gầm giường. Anh cúi người, quét mắt dưới đó tìm kiếm. Dưới gầm giường trống không, chẳng có gì cả. Ánh mắt Tống Kha dừng lại ở chiếc hộp nhỏ để trên bàn tre. Đó là chiếc hộp trang sức cũ kỹ, lớp sơn đỏ trên bề mặt đã loang lổ. Tống Kha bước tới gần, anh mở hộp, bên trong có một chiếc túi nhỏ màu đỏ. Tống Kha cầm chiếc túi lên rồi mở ra, bên trong là một viên ngọc tạc. Trên viên ngọc tạc một con rắn. Tống Kha không thể phân biệt nổi đó là viên ngọc thời nào nữa, bằng cặp mắt chuyên nghiệp của một họa sĩ, anh nhận thấy viên ngọc này cũng đã có tuổi. Anh cảm thấy viên ngọc được tạc rất cọng phu. Con rắn nằm cuộn tròn, đầu ngỏng lên với chiếc lưỡi thè dài ra ngoài trông sống động như thật. Tống Kha cảm thấy viên ngọc tạc hình con rắn này có linh khí khác thường. Anh cẩn thận cho viên ngọc tạc hình rắn này vào chiếc túi màu đỏ, sau đó đặt vào trong chiếc hộp. Đúng lúc này, anh phát hiện trong chiếc hộp gỗ còn có một đồ vật khác. Tống Kha mở to mắt, anh ngạc nhiên không hiểu tại sao nó lại ở chỗ Lăng Sơ Bát? Đó là bức ảnh đen trắng của Tô Tĩnh đã ngả vàng được Tống Kha cất giữ bao năm nay. Lăng Sơ Bát chưa từng tới cửa hiệu truyền thần, sao cô ấy lại có thể lấy được bức ảnh này chứ? Lẽ nào là anh đem trên người, lúc tới đây vô tình làm rơi trên sàn nhà. Lăng Sơ Bát nhặt được rồi bỏ vào trong hộp trang sức của cô ấy? Tống Kha nghĩ, chờ Lăng Sơ Bát về, nhất định sẽ hỏi cho rõ ràng. Lăng Sơ Bát tỉnh lại lúc nào, khi nào rời khỏi căn nhà gỗ, Tống Kha đều không hề hay biết. Tống Kha mở cửa rồi gọi to về phía rừng: “Sơ Bát, Sơ Bát!” Từ trong rừng rậm vọng lại tiếng gọi của anh: “Sơ Bát, Sơ Bát!” Tiếng vọng lại còn kéo dài hơn cả tiếng gọi của anh, cứ như thể có một người vô hình đang gọi theo Tống Kha vậy. Nghe thấy tiếng vọng của chính mình, lòng Tống Kha bỗng dâng lên nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi tràn ngập người anh, dường như có hàng nghìn hạng vạn bóng người vô hình đang vậy quanh ngôi nhà gỗ. Một cơn gió mạnh thổi vào căn nhà, ngọn nến không chống đỡ nổi vụt tắt. Tống Kha run rẩy lùi vào căn nhà gỗ trong tiếng gầm thét của cơn gió điên cuồng, anh chốt mạnh then, lại nép mình vào cửa.  

5

  Tam Lại Tử không sao chợp mắt được trong đêm gió mạnh đó. Buổi sáng, sau khi Tống Kha trở về thị trấn từ sườn núi Ngũ Công Lĩnh với những ngôi mộ nhấp nhô, Tam Lại Tử đã vào cửa hiệu truyền thần với anh. Tống Kha đặt bức tranh sơn dầu đã vẽ xong trước mặt Tam Lại Tử: “Chẳng phải anh muốn tôi vẽ cho anh đúng không? Anh xem xem, có thích không?” Tam Lại Tử nhìn thấy bức tranh của mình, lại là tranh màu nữa, phấn khởi nói: “Thích, thích lắm”. Tống Kha cười nói tiếp: “Nếu thích thì cầm đi, tặng cho anh đấy”. Sau khi Tam Lại Tử cầm bức tranh ra khỏi cửa hiệu truyền thần, Tống Kha liền đóng cửa hiệu lại. Lúc Tam Lại Tử đi qua quán ăn của mụ Hồ Nhị Tẩu, mụ ta đi tới trước cửa, khinh khỉnh nói với Tam Lại Tử: “Mày đến gần thằng họa sĩ thối đó, không sợ bị thối lây à?” Tam Lại Tử lườm mụ ta một cái rồi hỏi một câu: “Thế bà chị thấy tôi có thơm không? Bà chị Hồ, bà chị ngửi mùi của tôi lúc nào vậy?” Mụ ta tru tréo: “Đồ chó này, có chó cái mới ngửi được mùi hôi của mày, tao thấy chúng mày đúng là cùng một giuộc với nhau”. Tam Lại Tử đốp lại: “Mà sao bà chị hay nói kháy họa sĩ Tống thế hả? Rốt cuộc là vì chuyện gì hả? Lẽ nào chồng bà chị không ở nhà, bà không chịu nổi nên mới câu họa sĩ Tống, nhưng họa sĩ Tống chẳng có hứng thú gì với bà chị đúng không nào?” Hồ Nhị Tẩu tức lộn ruột, liền phi một cú đá về phía Tam Lại Tử. Tam Lại Tử nhanh chân tránh được khiến mụ mất đà ngã phịch xuống đất. Tam Lại Tử cười nghiêng ngả, ôm bức tranh sơn dầu đi thẳng không thèm ngoái đầu lại. Khi đi ngủ, Tam Lại Tử vẫn ôm khư khư bức tranh sơn dầu. Hắn không tài nào ngủ được, không ngủ được không phải vì hắn nhớ tới đàn bà. Từ khi nghe thấy tiếng súng đêm hôm đó của Chung Thất, hắn chẳng còn chút dục vọng gì đối với đàn bà nữa. Trong đầu hắn lúc nào cũng hiện ra hình bóng của người đàn bà áo trắng kia, cái bóng hình đó giống như hồn ma không siêu thoát được cứ quấn lấy hắn khiến hắn không được yên thân, rất khó ngủ. Lúc đào huyệt cho ông Chu Quý Sinh, trong đầu hắn vẫn tràn ngập hình bóng của người đàn bà đó, hắn cảm thấy có tội, cho rằng mình có liên quan tới cái chết đáng sợ của ông Chu. Tam Lại Tử mà cứ sợ cái gì thì thứ đó sẽ xuất hiện. Hắn nghe thấy tiếng xẻng đập vào cửa miếu, ban đầu, hắn cho rằng đó là tiếng gió. Một lúc sau, hắn nghe thấy tiếng rơi xoảng một tiếng của chiếc xẻng dựng bên cửa miếu, chỉ nghe bộp một tiếng, cánh cửa mở toang ra. Gió thổi vào trong miếu khiến Tam Lại Tử lạnh run người. Điều khiến Tam Lại Tử lạnh run người không phải là cơn gió điên cuồng kia mà là bóng trắng theo gió vào trong miếu. Tam Lại Tử ngồi bật dậy, giương mắt nhìn bóng trắng đó bay tới trước điện thờ. Toàn thân hắn run bắn, hắn đặt bức truyền thần xuống rồi run rẩy nhảy xuống điện thờ. Tam Lại Tử quỳ trước mặt bóng trắng kia, run bần bật cầu xin: “Mong cô tha cho tôi, tha cho tôi đi! Tôi với cô vốn không thù không oán, cô hãy khai ân mà tha cho tôi…”

6

  Chính cái đêm bóng trắng bay vào miếu Thổ Địa, quán Tiêu Dao đã xảy ra một chuyện chấn động toàn thị trấn. Phòng của kỹ nữ Dương Phi Nga tối tới mức không có cách nào làm cho sáng lên được. Dương Phi Nga đang ngồi khóc thút thít bên giường, Chung Thất ngồi bên cạnh cô ta thở dài thườn thượt. Chung Thất phát hiện dương vật của mình có vấn đề, nên đã lặng lẽ đi tìm ông lang Trịnh Triều Trung. Ông xác nhận hắn đã mắc bệnh hoa liễu. Bắt đầu từ đó, trong nhà Chung Thất lúc nào cũng thấy mùi thuốc bắc. Chung Thất đã phải đưa cho ông lang Trịnh Triều Trung rất nhiều tiền để bịt mồm, tránh trường hợp ông loan tin hắn mắc bệnh hoa liễu ra ngoài. Trong ngõ nhà Chung Thất lúc nào cũng đầy mùi thuốc bắc, có người hỏi hắn rằng có ai bị bệnh trong nhà sao mà ngày nào cũng sắc thuốc vậy? Chung Thất đáp mẹ hắn gần đây sức khỏe không được tốt. Khi Thẩm Văn Tú còn sống, mẹ Chung Thất ốm yếu suốt ngày, nhưng từ khi cô chết đi, bà khỏe lên một cách kỳ lạ. Bà mẹ Chung Thất thấy con trai ngày nào cũng sắc thuốc bắc, không phải con trai rốt cuộc mắc bệnh gì. Bà không những không quan tâm tới Chung Thất, ngược lại còn rất lạnh lùng, chỉ cần Chung Thất ở nhà bà liền chửi bới khiến hắn rối trí. Cũng đã rất lâu rồi, từ mùa hè tới mùa thu, bệnh tình của Chung Thất vẫn không có chuyển biến gì, Dương Phi Nga cũng lây bệnh từ hắn. Dương Phi Nga nghẹn ngào nói: “Chung Thất à, anh đúng là đồ trời đánh, anh chơi bời ở đâu mà mắc phải cái thứ bệnh ghê tởm, bẩn thỉu này vậy, bây giờ còn lây cho tôi nữa, anh bảo tôi sau này phải sống thế nào đây?” Chung Thất cằn nhằn: “Đồ điếm thối tha, có mà cô lây cho tôi thì có”. Dương Phi Nga thanh minh: “Anh đừng có vu oan, từ ngày tôi được má mì Lý dẫn về quán Tiêu Dao, anh là người đầu tiên, từ đó tới giờ, anh độc chiếm tôi. Chẳng ai dám chọn tôi, còn ai có thể truyền bệnh này cho tôi chứ? Chắc chắn là khi anh lên phố huyện tìm họa sĩ Tống đã chơi gái rồi mắc bệnh này. Bởi từ khi từ phố huyện về, anh luôn nói với tôi rằng tôi không bằng điếm phố huyện. Chung Thất! Tôi không thể tiếp tục làm ở quán Tiêu Dao nữa rồi, anh cũng nhận thấy má mì Lý cũng chẳng yêu quý gì tôi, nếu lỡ anh có mệnh hệ gì tôi biết phải làm sao đây?” “Ông đây sao mà chết được, mẹ mày chứ, sao lằng nhằng thế hả. Tao cũng rất muốn chuộc mày ra, nhưng cũng cần phải được má mì Lý đồng ý chứ. Mụ điếm già này, tao biết mụ ta có tư tình với Chủ tịch Du Trường Thủy. Mụ ta coi khinh tao cũng chẳng sao, chỉ cần trong tay còn có súng thì mụ ta cũng chẳng dám làm gì bọn ta đâu. Sớm muộn gì thì tao cũng đón mày về nhà, mày cứ yên tâm đi”. Chung Thất nói xong, thở dài một cái. Dương Phi Nga thấy những lời vừa rồi của Chung Thất không đủ độ thuyết phục, hắn làm gì có gan nói những lời này trước mặt má mì Lý. Dương Phi Nga sụt sịt nói tiếp: “Chung Thất, nếu anh thực sự muốn tôi phục vụ anh cả đời thì anh mau chóng chuộc tôi ra. Hai đứa mình cùng nhau chữa bệnh rồi cùng sống những ngày tháng tốt đẹp. Tôi không thể sống tiếp cuộc sống thế này nữa, nó chẳng giống cuộc sống của một con người nữa rồi”. Chung Thất không nói gì.   Dương Phi Nga ai oán: “Chung Thất à, phần dưới của tôi đã nát hết cả rồi, ngày qua ngày đúng là tôi sống không bằng chết. Lại còn phải giấu giếm má mì Lý để bà ta không biết tôi mắc bệnh này, nếu để bà ta biết được không biết tôi sẽ ra sao nữa. Nghe Tiểu Thủy nói, trước đây trong quán Tiêu Dao cũng có một người chị em mắc bệnh này, má mì Lý không những không mời thầy lang tới chữa trị mà còn đá ngay chị ta ra đường. Sau này, chị ta không có tiền chữa trị, được phát hiện chết trên đường ăn xin. Nếu anh cũng không cần tôi nữa, thêm vào đó mà mì Lý lại biết chuyện tôi mắc bệnh này, thế thì tôi xong đời mất. Mệnh tôi sao lại khổ thế này chứ, vô phúc lại gặp phải oan gia như anh. Không hiểu kiếp trước tôi có nợ gì anh không mà kiếp này tôi phải trả nợ thế”. Chung Thất lại nói: “Nếu theo lời cô vừa nói, thì chi bằng cô cho bà ta biết cô mắc bệnh này đi, nếu như bà ta đuổi cô đi, đồng nghĩa với việc tiết kiệm được một khoản tiền chuộc thân. Tôi có thể dùng tiền dành để chuộc thân mua thuốc men chữa trị cho cô”. Nghe xong những lời Chung Thất nói, Dương Phi Nga tức tới mức nghiến răng ken két: “Chung Thất, anh đúng là đồ lang sói, chỉ vì chút tiền đó mà anh thậm chí còn chẳng thèm lo giữ chút thể diện cho tôi. Anh chết đi, nếu anh có chết tôi cũng không thèm ngó ngàng gì đâu”. Chung Thất dang tay hòng kéo Dương Phi Nga vào lòng an ủi. Dương Phi Nga gạt tay hắn ra: “Bỏ móng vuốt thối tha của anh ra khỏi người tôi. Từ này về sau, tôi sống chết thế nào cũng chẳng liên quan gì tới kẻ bội bạc như anh. Chúng ta kết thúc đi”. Chung Thất đột nhiên lạnh lùng: “Dương Phi Nga à, những lời cô nói là thật đấy à?” Phi Nga đáp: “Thật!” Chung Thất đá Dương Phi Nga một cái rồi nói tiếp: “Mày đúng là đồ điếm thối tha, đúng là đồ không có thể diện, mày cho rằng mày là vàng ròng ư? Nói cho mày hay, mày chỉ là đống cứt! Đồng cứt có biết không?” Dương Phi Nga lại sụt sịt: “Tôi là cứt! Tôi là cứt thế còn anh nằm bên cạnh tôi làm gì hả? Anh cút ngay, cút ngay về nhà với bà mẹ vật vờ như ma của anh đi! Chỉ có mình tôi ngu dốt như vậy, mới theo anh ngần ấy thời gian, rốt cuộc lại bị anh nói là cứt! Chung Thất, anh cút mau cho tôi! Cút!” Chung Thất lồm cồm bò dậy trong bóng tối, hắn rút khẩu súng moze giấu dưới gối ra rồi cất giọng khàn khàn đe dọa: “Đồ điếm thối tha, gần đây tâm trạng ông mày không được tốt, trong thì buồn phiền ngoài thì bệnh tật, lão Du Trường Thủy kia cũng không tín nhiệm ông nữa, lại còn mắc thứ bệnh chết tiệt này. Mẹ mày, khôn ra thì đừng gây sự với ông! Nếu mày còn dám nói một chữ cút nữa, ông mày sẽ bắn chết!” Dương Phi Nga không nói gì nữa, nhưng vẫn thút thít không ngừng. Lúc này, cả Chung Thất và Dương Phi Nga bỗng nghe thấy một tiếng cười lạnh lùng. Trong bóng tối lẽ nào có một người khác nữa? Chung Thất và Dương Phi Nga sợ tới mức ngừng thở. Trong bóng tối tiếng thở của người đó cứ phập phù.  

***

  Trong nỗi kinh hoàng, Tống Kha nghe thấy tiếng bước chân vọng từ bên ngoài căn nhà gỗ. Tim anh thót lại. Một lát sau, anh nghe thấy giọng nữ: “Họa sĩ Tống à, anh cài then đấy à? Em là Sơ Bát đây”. Sau khi nghe thấy giọng của Lăng Sơ Bát, anh có cảm giác tim anh trở lại vị trí cũ. Anh mở cửa, vừa nhìn thấy Sơ Bát anh liền dang tay ôm cô: “Sơ Bát à, em đi đâu vậy? Anh tỉnh lại không thấy em đâu, em làm anh lo quá”. Lăng Sơ Bát giơ tay vuốt ve tóc anh rồi nhẹ nhàng nói: “Đừng sợ anh yêu của em, em không sao đâu. Anh không phải lo lắng cho em, em chỉ đi ra ngoài làm chút việc thôi mà”. Tống Kha ôm chặt cơ thể lạnh cóng của Lăng Sơ Bát không muốn buông. Lúc này, Lăng Sơ Bát giống như ngọn cây cứu mạng mà Tống Kha tóm được trong lúc cô độc này. Lăng Sơ Bát ghé sát tai anh khẽ nói: “Anh yêu của em, đã tới lúc anh về thị trấn Đường rồi đấy”. Toàn thân Tống Kha giật nẩy, phút chốc thần trí mơ hồ, giống như bị thôi miên vậy. Lúc Tống Kha trở về thị trấn Đường, trời đã tờ mờ sáng. Con đường nhỏ của thị trấn vẫn vắng tanh, đến cả anh chàng đồ tể Trịnh Mã Thủy – người lúc nào cũng xuất hiện sớm nhất để bán thịt lợn – cũng chưa có mặt. Mỗi lần Tống Kha tỉnh lại, nguyện vọng đầu tiên xuất hiện trong đầu anh là trở về căn gác xép trong cửa hiệu ngủ một giấc. Tốt nhất là ngủ một ngày, sau đó chờ tiếng gọi của Lăng Sơ Bát hay con rắn xanh kỳ lạ lúc nửa đêm kia. Nhưng tiếng gọi của Lăng Sơ Bát cũng như con rắn xanh kỳ lạ kia không phải ngày nào cũng xuất hiện, thời điểm đó luôn khiến anh cảm thấy lo lắng bất ổn, đêm dài đối với anh là một kiểu giày vò khó có thể dùng lời để diễn tả được… Lúc Tống Kha đi ngang qua nhà Chung Thất, anh vô tình ngẩng đầu lên nhìn, phát hiện một người đang bị trên trên cột cờ đá bên ngoài nhà Chung Thất. Tống Kha sững người. Người bị treo trên cột cờ kia bị trói quặt tay về phía sau, trần truồng, mồm bị bịt lại bằng mảnh vải đen. Nhìn thấy Tống Kha, hai chân hắn đạp mạnh, giãy giũa, như thể đang truyền thông điệp cầu cứu. Tống Kha đã nhìn rõ hơn, kẻ bị trói trên cột cờ kia vốn là kẻ rất ngang ngược ở thị trấn – đội trưởng đội bảo vệ Chung Thất. Tống Kha không hiểu ai có bản lĩnh lớn như vậy, làm thế nào mà treo được hắn lên tận cột cờ cao như vậy chứ? Những cơn gió lạnh cuối thu lạnh lẽo thổi trên con đường vào thị trấn, gió thổi phần phật vào chiếc áo xám trên người Tống Kha. Chung Thất ở trên cột cờ không còn giãy giụa nữa, thân thể trần như nhộng của hắn run bần bật trong gió lạnh, lúc này da hắn đã xám ngoét. Thực ra, Tống Kha chẳng có bản lĩnh trèo lên cột cờ để cứu hắn xuống, anh chỉ biết đi tìm người khác, có điều người dân trong thị trấn hễ nhìn thấy anh cứ như nhìn thấy bệnh dịch, vậy ai sẽ cứu Chung Thất đây? Có điều, Tống Kha cũng không muốn nói chuyện với người dân trong thị trấn, chỉ trừ Tam Lại Tử. Nhưng lòng trắc ẩn lại thôi thúc anh, nếu còn chần chờ không cứu Chung Thất xuống thì hắn sẽ chết vì lạnh mất. Anh nói với Chung Thất đang bị treo trên cột cờ: “Đội trưởng Chung, anh có chịu một lát nữa, tôi đi gọi người tới cứu ngay đây, anh cố chịu một lát nhé!”. Tống Kha cũng không biết nét mặt Chung Thất như thế nào sau khi nghe xong những lời anh nói. Anh đi về hướng miếu Thổ Địa phía đông thị trấn. Chờ tới lúc Tống Kha gọi được Tam Lại Tử tới, bên ngoài nhà Chung Thất đã xuất hiện rất nhiều người dậy sớm. Chính vào lúc Tống Kha chạy đi gọi Tam Lại Tử, đồ tể Trịnh Mã Thủy đã gánh hai sọt thịt lợn pha xong xuôi tối trước hàng thịt của hắn. Vừa đặt gánh xuống, hắn đã nhìn thấy Chung Thất đang bị treo trên cột cờ đá trước cửa nhà. Lúc này trời đã sáng hẳn, Trịnh Mã Thủy đi tới cột cờ, ngẩng đầu nhìn Chung Thất nhếch nhác vô cùng, khóe miệng nở nụ cười lạnh lùng. Hắn nói to với Chung Thất: “Lảo huynh, trời lạnh thế này mà hóng gió gì ở trên cột cờ hả? Mau xuống đây, tôi đã chuẩn bị sẵn bầu dục cho lão huynh rồi đây, lợn mới mổ sáng, bầu dục vẫn còn nóng hôi hổi đây, tươi lắm đấy. Đem về nấu canh mà ăn, bổ ra trò!” Lúc này Chung Thất đã yếu lắm rồi, đầu hắn gục xuống, mắt nhắm nghiền, toàn thân co lại. Nói móc Chung Thất một hồi xong, Trịnh Mã Thủy liền rêu rao trên đường; “Mọi người tới đây mà xem, Chung Thất bị trói, bị treo trên cột cờ đây này”. Một số người đã thức giấc nhưng vẫn chưa mở cửa, sau khi nghe thấy tiếng như mổ lợn của Trịnh Mã Thủy, họ liền tranh nhau mở cửa, rồi kéo tới trước cửa nhà Chung Thất. Những người chuẩn bị dậy hoặc chưa dậy, nghe thấy tiếng động ngoài đường cũng lục tục bò dậy. Từ trước tới giờ, thị trấn Đường chưa từng có một trò vui nào, việc Chung Thất trần như nhộng bị treo trên cột cờ há chẳng phải là trò vui hiếm có hay sao? Lúc Tống Kha dẫn được Tam Lại Tử tới cửa nhà Chung Thất thì đã có không ít người hiếu kỳ tới xem. Họ nhìn Chung Thất đang thoi thóp trên cột cờ với nhiều thái độ khác nhau, phần lớn ngoác miệng ra bình luận, thế nhưng hoàn toàn không ai có ý định trèo lên cột cờ lôi Chung Thất xuống. Ánh mắt Tam Lại Tử dừng lại ở phần dưới của Chung Thất, phần dưới của Chung Thất đã nát toét, phía trên còn dấu tích của thuốc dán. Toàn thân Tam Lại Tử rùng lên một cái, đột nhiên nhớ tới đêm đó, chính hắn cũng làm tình với cô kỹ nữ Dương Phi Nga. Người Tam Lại Tử trong giây lát ngứa ngáy điên cuồng giống như có rất nhiều kiến bò lên vậy. Không chỉ toàn thân mà cả da đầu hắn cũng ngứa không chịu nổi. Điều khiến mọi người cảm thấy hứng thú hôn không phải là việc Chung Thất bị treo trên cột cờ mà là bệnh tật của hắn. Chung Thất còn chưa kịp để Dương Phi Nga bộc bạch với má mì Lý thì việc hắn mắc bệnh hoa liễu đã phơi bày trong thị trấn. Lúc này Chung Thất chẳng còn chút oai phong nào nữa, có lẽ vĩnh viễn hắn sẽ không thể oai phong được nữa. Chỉ trong một đêm ngắn ngủi, hắn trở thành kẻ hèn hạ nhất thị trấn Đường. Tất cả những người đang đứng dưới cột cờ đều đang nói những điều khiếm nhã về hắn mà không sợ bị trả thù. Thậm chí đến cả mảnh vải che thân của hắn cũng bị lột sạch, khẩu súng moze thường đeo bên mình cũng không thấy đâu, còn có thể làm gì được nữa? Chẳng có ai cứu hắn cả, thậm chí cả bọn thuộc hạ trong đội bảo vệ, ngay cả họ hàng thân thích nhà hắn cũng không thèm quan tâm. Ngay cả lão tộc trưởng chịu trách nhiệm chỉ huy người trong gia tộc Chung dìm chết Thẩm Văn Tú xuống sông lúc này cũng trốn trong một góc tối. Ông ta tức run người nói: “Thật xấu hổ! Xấu hổ quá! Người nhà họ Chung không biết phải giấu mặt đi đâu nữa”. Mẹ của Chung Thất đang làm bữa sáng cho hai thằng cháu nội, sau khi nghe thấy người khác nói về Chung Thất chỉ lạnh lùng đáp lại: “Cái thằng nghiệp chủng đó sớm muộn cũng có ngày hôm nay mà, cứ mặc kệ nó, tất cả đều trong dự liệu của tôi. Tôi chỉ còn nắm xương già như thế này làm sao quản được nhiều chuyện như vậy chứ?” Lúc mẹ Chung Thất nói vậy, từ trong phòng vọng ra tiếng cười khúc khích của hai cậu con trai Chung Thất. Thấy vậy, người báo tin lủi thủi đi ra. Người đó lại tới ủy ban thị trấn. Cửa lớn của ủy ban vẫn đang đóng chặt. Người đó gõ cửa. Người mở của là đội phó đội bảo vệ Trư Cốc, Trư Cốc nghe xong, không hề biểu lộ bất kỳ cảm xúc nào, chỉ nói với người đó rằng: “Tôi phải đi báo với Chủ tịch một tiếng”. Trư Cốc vào trong không lâu liền đi ra bảo người đó rằng: “Chủ tịch Du nói rồi, Chung Thất hiện không phải là đội trưởng đội bảo vệ nữa, cũng không phải là người trong thị trấn nữa, chúng tôi không quản nhiều chuyện như vậy đâu”. Nói xong, Trư Cốc đóng cửa lại. Người đó đứng bên ngoài cửa lớn ủy ban phàn nàn: “Liên quan quái gì tới tôi chứ, đúng là ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng, ông mày về nhà ngủ một giấc cho đã đời”. Tống Kha nhìn thấy Tam Lại Tử đang run bần bật liền hỏi: “Tam Lại Tử à, sao lại run vậy?” Tam Lại Tử cố nặn ra nụ cười đau khổ: “Tôi có run đâu, sao tôi lại run chứ?” Tống Kha thở dài than: “Không run thì tốt, không run thì tốt. Sao lại chẳng có một ai lên cứu Chung Thất thế? Tiếc là mình không dám trèo lên cột cờ đó”. Tam Lại Tử nói: “Họa sĩ Tống à, ý của anh là muốn tôi trèo lên cột cờ đó rồi cởi dây trói cho Chung Thất, sau đó mang hắn xuống phải không?” Tống Kha gật đầu: “Chẳng phải anh rất giỏi trèo cây đó sao?” “Nhưng Chung Thất chưa từng giữ thể diện cho tôi bao giờ, lại còn thường xuyên mắng tôi là đồ chó nữa”. “Bất luận thế nào thì cũng nên có người lên cứu Chung Thất chứ, lẽ nào lại giương mắt nhìn anh ta chết trên cột cờ sao?” “Người dân trong thị trấn thích xem người khác chết, giống như xem trò biểu diễn của những người phiêu bạt giang hồ vậy. Lúc Thẩm Văn Tú chết, họ cũng đứng nhìn cô ấy chết hệt như lúc này”, Tam Lại Tử đáp lại. Tống Kha nói một cách nghiêm túc: “Tam Lại Tử à, nếu như còn chút tình người thì anh lên cột cờ cứu Chung Thất xuống, tôi sẽ tiếp ứng cho anh ở dưới này”. Tam Lại Tử chen vào đám người, tới trước cột cờ, trèo lên thoăn thoắt như một con khỉ. Một trận gió thổi tới, lạnh buốt người. Tam Lại Tử thầm nghĩ: “Bây giờ tôi cứu Chung Thất xuống, nếu như tôi bị như vậy thì ai sẽ tới cứu tôi đây?” Tam Lại Tử bỗng cảm thấy thị trấn Đường cô quạnh khó hiểu, tiếng gió rít và tiếng người nói lầm rầm đã biến đâu hết, hắn chỉ nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch…

7

Thị trấn Đường với vẻ bề ngoài tưởng như yên bình lại nổi sóng gió. Cái chết đáng sợ của ông Chu, rồi chuyện Chung Thất bị một người bí mật lột trần treo lên cột cờ… Người dân trong thị trấn còn không biết trong tiết cuối thu đáng sợ này sẽ xảy ra những chuyện gì nữa. Mặc dù người dân thị trấn rất thích xem những trò vui, họ không thèm quan tâm tới sống chết của người khác, nhưng chẳng ai mong sự đen đủi đó giáng vào mình. Chính vì điều này, lúc họ bàn tán về người khác thì bản thân họ cũng đang phấp phỏng. Về cái chết của Chu Quý Sinh, vì tin tức đã được bịt kịp thời, nên số lượng người bàn tán về chuyện này không nhiều, có chăng cũng chỉ là sự hồ nghi về cái chết của ông mà thôi. Chủ đề mọi người bàn luận nhiều nhất chính là Chung Thất. Không ai biết người đã lột trần hắn rồi treo lên cột cờ kia là ai, đến cả người trong quán Tiêu Dao cũng không biết. Lý Mị Nương sau khi biết chuyện đã tra hỏi Dương Phi Nga. Dương Phi Nga khóc lóc, nước mắt nước mũi ròng ròng, một mực khẳng định mình không biết gì, ngoài việc trong phòng lúc đó còn có một người nữa. Lúc đó, cô cũng rất sợ, co rúm lại trên giường, sau đó đầu cô bị đánh mạnh một cái rồi bất tỉnh nhân sự. Tới khi cô tỉnh lại, thì nghe tin Chung Thất bị lột trần treo trên cột cờ. Để chứng minh tính chân thực trong lời nói của mình, cô còn cho mụ Lý Mị Nương xem vết sưng u trên đầu. Lúc này, nói chuyện đã không thể che giấu được nữa. Dương Phi Nga kể cho mụ Lý Mị Nương nghe chuyện mình mắc bệnh hoa liễu, cô cho rằng mụ ta nghe xong chuyện sẽ đuổi cô đi ngay. Nào ngờ, mụ ta vừa hút ống điếu vừa nói với cô; “Làm cái nghề này, mắc bệnh hoa liễu là chuyện thường thôi”. Không những không đuổi cô đi mà mụ ta còn sai người giám sát. Dương Phi Nga có muốn chạy trốn cũng không được nữa rồi. Có người nói, Chung Thất bị treo lên cột cờ là do hồn ma của Thẩm Văn Tú, cô ta làm vậy là để báo thù. Lại có người đồn rằng đêm hôm đó thổ phỉ Trần Lan Đầu mò vào thị trấn với mục đích cướp khẩu súng moze của hắn. Nhưng lý do vì sao tên thổ phỉ lại lột sạch quần áo của Chung Thất rồi treo hắn lên cột cờ bêu xấu vẫn là một câu đó. Lại có cách suy luận khác, nói là Du Vũ Cường đã trở về thị trấn, hắn đã làm những việc trên đồng thời còn cướp súng moze của Chung Thất. Kiểu suy luận này nghe ra có vẻ có lý nhất, Du Vũ Cường không giết Chung Thất vì biết hắn đã mắc bệnh hoa liễu, còn việc treo Chung Thất lên cột cờ là để Chung Thất sau này sẽ phải sống một cuộc sống không bằng chết trước mặt người dân thị trấn Đường. Chiêu này xem ra độc ác biết bao! Lại có người nói, sau khi được trốn khỏi thị trấn đã đầu quân cho thổ phỉ Trần Lan Đầu, vào đêm tối tăm gió lộng đó bọn chúng cùng mai phục tại quán Tiêu Dao…

8

Những chuyện xảy ra ở thị trấn Đường khiến rất nhiều người thay đổi cách nhìn của họ đối với Tống Kha. Chỉ có một người từ đầu tới cuối vẫn căm hận anh tới tận xương tủy chính là mụ Hồ Nhị Tẩu. Không hiểu tại sao mụ ta lại ác cảm với anh như vậy. Đó là một buổi trưa hè oi bức. Quán ăn vắng tanh, không có một người khách nào. Mụ Hồ Nhị Tẩu tự mình làm một bát mỳ trộn hành rồi ăn một cách ngán ngẩm. Người đi lại trên đường thưa thớt, mụ ta hờ hững liếc xéo sang cửa hiệu truyền thần đối diện. Cửa tiệm vẫn đóng im ỉm, cửa sổ gian gác xép phía trên cũng đóng chặt. Mụ ta nghĩ thầm, không hiểu lúc này họa sĩ Tống có ở trong đó không nhỉ? Cậu ta đang làm gì? Nghĩ tới mùi hôi tanh trên người Tống Kha, mụ ta lại chẳng muốn ăn uống gì nữa, đập mạnh đôi đũa xuống bàn rồi hằn học gầm lên. “Có trách cũng chỉ trách cái thẳng họa sĩ Tống thối khắm kia, chính nó đã khiến việc làm ăn của mình càng lúc càng ế ẩm”. Đúng lúc này, Tam Lại Tử xuất hiện ở cửa quá, nhìn mụ ta với ánh mắt rất kỳ lạ. Mụ ta vốn đã bực tức trong người lại thêm ánh mắt soi mói của Tam Lại Tử lại càng bực. Mụ ta cảm thấy thân thể đau nhức. Tam Lại Tử trợn mắt nhìn mụ ta, chẳng nói chẳng rằng. Một lát sau, không kìm nén nổi cơn tức giận, mụ Hồ Nhị Tẩu bắt đầu gào lên: “Tam Lại Tử, mày muốn gì hả?” Tam Lại Tử không đáp lại, hắn lặng lẽ quay lưng bỏ đi. Ngực mụ ta phập phồng mạnh theo nhịp thở, miệng rống lên: “Thế này là thế nào? Thế này là thế nào hả? Đến cả một thằng vô dụng cũng dám nhìn tao xét nét. Mày làm thế là muốn tao chết phải không?” Mụ Hồ Nhị Tẩu không thể nuốt nổi mỳ nữa. Mụ ta đứng phắt dậy, tức tốc đổ bát mỳ vào thùng nước gạo. Mụ ta cảm thấy mình đã thay đổi một cách khó hiểu, nóng nảy vô độ. Càng nghĩ mụ ta càng cảm thấy chán. Mụ ta liền bê chậu nước bẩn để trên bếp tới trước cửa hiệu truyền thần, hắt mạnh lên cửa, sau đó mụ chửi đổng vài tiếng: “Không hiểu bọn ma quỷ ở đâu tới khiến bà đây chẳng làm ăn gì được”. Mụ ta khiêu khích như vậy mà vẫn chẳng thấy họa sĩ Tống có phản ứng gì. Mụ ta bỗng dưng cảm thấy cột sống ớn lạnh, vội vàng ôm chậu gỗ về quán của mình. Bầu trời dày đặc mây đen giống như một chiếc vung khổng lồ, Tam Lại Tử đứng trên sườn núi Ngũ Công Lĩnh với những ngôi mộ nhấp nhô. Những cây cỏ khô héo toát lên sự chết chóc. Hắn nhìn thấy một con chó đen đang chạy về phía mình. Sắc mặt u uất, ánh mắt tàn khốc, lạnh lẽo, hắn ngồi xuống nhìn chằm chằm vào con chó đen kia. Trong đầu Tam Lại Tử bỗng vang lên tiếng rắn trườn qua bụi cây, hắn bất giác rùng mình. Trên sườn núi lúc này chỉ có Tam Lại Tử và con chó đen đang chạy gần về phía hắn. Con chó chạy tới gần Tam Lại Tử, cách hắn khoảng hai trượng thì dừng lại, nó ngửi gì đó trên những cây cỏ dại bằng cái mũi thính của mình. Bỗng đám cỏ khô rung lên, con chó đen không kịp giãy giụa đã biến mất trong đám cỏ khô. Tam Lại Tử nghe thấy tiếng con chó đen kêu lên sợ hãi liền đứng dậy đi về phía nó. Con chó đen đang gặm một khúc xương lợn còn dính ít thịt ở trong hố, nó không hề biết rằng nguy hiểm đang ở rất gần. Tam Lại Tử nuốt nước bọt, lòng thầm nghĩ: “Một khúc xương ngon biết bao!” Hắn rất muốn nhảy xuống hố giành lại khúc xương trong miệng con chó rồi gặm sạch sẽ phần thịt dính trên đó. Nhưng hắn không làm vậy, nghĩ tới tiếng rắn trườn trong lùm cây, Tam Lại Tử gạt ngay ý nghĩ trẻ con kia. Mắt Tam Lại Tử lộ rõ vẻ hung tợn. Hắn vớ lấy chiếc xẻng trên lùm cây rồi hét toáng lên: “Tao không muốn giết chó!” Tam Lại Tử dùng xẻng hất đất xuống hố như một thằng điên. Lúc này, con chó mới ý thức được mạng sống của mình đang gặp nguy hiểm liền nhả cục xương ra, kêu lên sợ hãi, định nhảy ra khỏi hố để thoát thân, nhưng không kịp nữa rồi, nó kêu gào thế nào đều không có tác dụng. Lớp bùn đất Tam Lại Tử hất vào hố dần dần lấp đầy con chó. Lúc chỉ còn hở cái đầu, con chó không còn sức để kêu gào nữa. Nó thè lưỡi ra một cách vô vọng, thở thoi thóp, nước mắt chảy ra. Tam Lại Tử thanh minh: “Không phải tao muốn giết mày, không phải đâu”. Tam Lại Tử liên tục hất đất vào hố, chẳng mấy chốc đã chôn sống con chó. Không ai nhìn thấy Tam Lại Tử chôn sống con chó, và cũng chẳng có ai nhìn thấy Tam Lại Tử đã làm gì để nhử con chó tới sườn núi này. Chôn sống con chó xong, Tam Lại Tử liền ngồi bệt xuống đất thở phì phò. Trong lòng hắn đang gào thét: “Đừng, tôi sẽ không giết chó nữa, không giết…” Tam Lại Tử bỗng cảm thấy hơi ngứa ở đũng quần. Hắn thất sắc lo nghĩ không hiểu cái đó của mình có nát toét như Chung Thất không? Tam Lại Tử hối hận tối hôm đó đã mò tới quán Tiêu Dao, không những thế bây giờ tất cả mọi người trong thị trấn đều biết Dương Phi Nga cũng mắc bệnh hoa liễu. Tam Lại Tử đứng dậy, chạy thục mạng về phía khe suối. Nhìn xung quanh một lần, phát hiện không có ai, hắn liền tụt quần, cúi đầu rồi lật đi lật lại thằng cu không bao giờ còn có thể cương cứng được nữa của mình. Không nhận thấy có gì bất thường, hắn cảm thấy đỡ lo hơn rồi kéo quần lên. Tam Lại Tử vẫn chưa kịp thắt dài rút thì lại thấy ngứa trở lại. Hắn liền tụt quần ra tồi đi tới bờ suối, ngồi xổm rồi lấy tay kỳ cọ, rửa ráy cho cái của quý. Nước suối lạnh cóng, Tam Lại Tử lạnh tới mức run bắn lên.

9

Tống Kha vẫn chưa hỏi Lăng Sơ Bát về chuyện tại sao bức ảnh của Tô Tĩnh lại ở trong hộp đựng nữ trang của cô. Mỗi lần Tống Kha tới ngôi nhà nhỏ bằng gỗ trong rừng, Lăng Sơ Bát lại dùng canh móng giò và sự dịu dàng của mình bịt miệng Tống Kha lại. Tối hôm nay, Lăng Sơ Bát không nấu canh móng giò mà nấu canh xuyên sơn giáp lấy trong rừng. Lúc hầm canh, cô không những bỏ rễ hương đằng tử mà còn cho các loại thuốc bổ như kỳ tử, nhân sâm… vào. Tối nay, sau khi Lăng Sơ Bát thổi tắt đèn, toàn thân Tống Kha lại rạo rực, sau mỗi lần hòa làm một… Lăng Sơ Bát đều nằm khóc trên bộ ngực gầy gò của Tống Kha. Cô khóc vì hạnh phúc. Cuối cùng dưới sự chăm lo, tẩm bổ của Lăng Sơ Bát, Tống Kha từ người đàn ông gầy gò, yếu đuối đã trở thành người đàn ông khỏe mạnh như trong mộng của cô. Lăng Sơ Bát tham lam ngửi mùi tanh trên người Tống Kha, nước mắt cô lã chã tuôn rơi trên ngực anh. Tống Kha vuốt ve tấm lưng mịn màng của cô, khẽ nói: “Tô Tĩnh, à không Sơ Bát, sao em lại đối tốt với anh như vậy?” Lăng Sơ Bát dịu dàng đáp lại: “Anh muốn nghe em nói dối hay là nói thật?” Tống Kha cười: “Thật cũng muốn nghe mà dối cũng muốn nghe”. Lăng Sơ Bát cũng cười trong bóng tối, Tống Kha không nhìn thấy khuôn mặt cô. Nhưng anh vẫn có thể cảm nhận được cô cười rất lẳng. Người con gái miền núi trông rất chất phác này vào buổi tối lại có nụ cười lẳng lơ khiến người khác phải rung động. Lăng Sơ Bát nói: “Nói thật thì em bị hấp dẫn bởi mùi trên người anh, trên đời này những người đàn ông có mùi rất nhiều, thế nhưng người có mùi kỳ lạ như anh thì chỉ có một mà thôi, em mê cái mùi tanh thối trên người anh. Chỉ cần ngửi thấy mùi này, cho dù có phải chết vì anh em cũng cam lòng”. Tống Kha ôm chặt Lăng Sơ Bát vào lòng: “Sao em lại thích mùi tanh thối trên người anh vậy?” Lăng Sơ Bát im lặng một lát rồi nói: “Không thể nói cụ thể là vì sao, tóm lại em thích”. Tống Kha lại cười trong bóng tối: “Sơ Bát à, vậy em nói dối đi”. Lăng Sơ Bát luồn tay vào tóc Tống Kha vò nhẹ, dịu dàng nói tiếp: “Nói dối thì anh không giống với đàn ông miền núi, tuy rằng họ rất to khỏe nhưng lại thô tục. Vừa nhìn thấy anh, em đã muốn ôm anh vào lòng để bảo vệ cho anh. Anh khác hẳn với đàn ông ở đây, em thích bộ dạng đáng thương của anh. Họa sĩ Tống à, anh có thích em không vậy?” Tống Kha không trả lời, luồn tay xuống bụng Lăng Sơ Bát. Bụng của cô hơi nổi lên, dường như phía trong có gì đó đang chuyển động. Tay Tống Kha run nhẹ, anh tự hỏi mình liệu có phải Lăng Sơ Bát có bầu chăng? Anh hỏi tiếp: “Sơ Bát, có phải em…” Tống Kha còn cảm thấy da bụng Lăng Sơ Bát không mịn màng như các vùng da khác, dường như có rất nhiều sẹo to gồ lên. Lăng Sơ Bát đẩy tay Tống Kha đang để trên bụng mình ra. Lăng Sơ Bát dùng tay bịt miệng Tống Kha để anh không thể nói tiếp được. Cô khẽ nhắc: “Họa sĩ Tống à, anh nên về thôi”. Đầu óc Tống Kha lại trống rỗng.

10

Đồ tể Trịnh Mã Thủy không còn giữ bầu dục lại cho Chung Thất nữa, bây giờ người tới hàng thịt của ông ta lấy bầu dục hằng ngày là Trư Cốc. Trư Cốc hiện tại là đội trưởng đội bảo vệ. Hắn cũng đeo trên người khẩu súng moze. Ngông nghênh diễu võ dương oai trên đường. Người dân trong thị trấn đã quen với đều này, bởi kẻ nào làm điện thoại đội bảo vệ cũng như vậy. Sau khi Trư Cốc làm đội trưởng đội bảo vệ, mụ chủ quán Tiêu Dao đã tìm riêng cho hắn một cô gái trẻ, Trư Cốc cũng giống với Chung Thất, thường xuyên ngủ lại trong quán Tiêu Dao. Điều khác biệt giữa Trư Cốc và Chung Thất là Trư Cốc tận tình cung kính Lý Mị Nương. Việc này khiến bà mụ rất vui, thường xuyên nói tốt về Trư Cốc trước mặt Chủ tịch Du Trường Thủy. Ở bên kia, Trư Cốc gặp mọi điều may mắn thì phía bên này, tuy tiết trời chưa vào đông nhưng Chung Thất đã phải sống chuỗi ngày lạnh lẽo. Từ sau khi được Tam Lại Tử cứu từ cột cờ xuống, hắn nằm liệt trên giường ba ngày ba đêm không có ai ngó ngàng tới. Sau khi về nhà, mẹ hắn thậm chí còn chẳng thèm nhìn hắn tới một lần mà dẫn hai đứa cháu sinh đôi tới sống tại nhà một người họ hàng ở rất xa. Chung Thất nằm trên giường ngủ li bì ba ngày ba đêm mới hoàn hồn. Hắn bò dậy rồi đi một vòng quanh căn nhà lạnh lẽo trống rỗng, sự cô độc dâng cao như nước triều bao vây hắn ở khắp nơi. Chung Thất nước mắt lưng tròng đi tìm bức truyền thần của Thẩm Văn Tú. Đối mặt với người phụ nữ đẹp nhất thị trấn Đường đã từng đầu gối vai ấp và cũng đã từng chịu đủ mọi nỗi giày vò của hắn, hắn không khóc nổi nữa. Cái nhà này đã chẳng còn chút sinh khí nào, Chung Thất vốn cao to mà bây giờ trông như một con bọ thối. Đúng lúc Chung Thất đang ôm bức truyền thần của Thẩm Văn Tú, lòng đang tự trách mình thì bên ngoài cửa vọng tới tiếng đập cửa ầm ầm. Lúc này còn có ai nhớ tới hắn chứ? Chung Thất ôm niềm hy vọng và nỗi cảm động ra mở cửa. Chung Thất sững người. Đứng trước cửa lúc này là tay đồ tể Trịnh Mã Thủy, khuôn mặt hắn sa sầm, trong tay là con dao mổ lợn sáng quắc. Hai chân Chung Thất run lên, hắn yếu ớt cất tiếng: “Anh, anh định làm gì thế?” Nhìn thấy bộ dạng lúc này của hắn, Trịnh Mã Thủy liền khua khua con dao trong tay lạnh lùng đáp lại: “Hì hì, đội trưởng Chung Thất, mày mà cũng có ngày hôm nay sao?” Nếu Chung Thất không bám vào khung cửa chắc đã ngã phịch xuống đất rồi. Con dao mổ lợn trên tay Trịnh Mã Thủy phát ra những tia sáng lành lạnh khiến hắn sợ hãi không mở mồm được. Hắn chỉ còn biết trợn tròn mắt giống như con cá sắp chết vậy. Chung Thất bây giờ không phải là Chung Thất khi trước, không có khẩu súng trong tay, hắn đã mất hẳn cái uy của người đàn ông. Trịnh Mã Thủy lại khua con dao mổ lợn, lạnh lùng nói tiếp: “Chung Thất, mày phải biết tao tới đây làm gì mới đúng chứ?” Chung Thất gật đầu lia lịa. Trịnh Mã Thủy nói tiếp: “Mày ăn hết của tao bốn trăm ba mươi hai quả bầu dục, nhưng có tới ba trăm ba mươi hai quả chưa trả tiền. Tao tính rẻ cho mày thì cũng phải trả cho tao ba đồng đại dương. Mày xem làm gì thì làm”. Đôi môi xám ngoét của Chung Thất run lên, chẳng nói được lời gì. Giọng Trịnh Mã Thủy càng gay gắt: “Chung Thất, hôm nay mày đừng hòng giở trò với tao, không có tác dụng gì đâu. Bây giờ tao không còn sợ mày nữa, mà không, chưa khi nào tao sợ mày cả, bởi trước đây tao là tao nể mặt mày thôi. Bây giờ, cho mày hai lựa chọn, một là vui vẻ trả tiền cho tao, tao còn có thể coi mày là con người, sau này có gặp, tao còn chào hỏi. Còn lựa chọn còn lại tức là mày không trả tiền cho tao, như thế cũng được, nhưng tao sẽ chặt một cánh tay của mày rồi vứt vào hố phân trong ngõ Thì Niệu. Mày xem làm gì thì làm”. Phải một lúc lâu sau, Chung Thất mới khó khăn đáp lại: “Tôi, tôi, tôi sẽ trả”. Trịnh Mã Thủy cười: “Tao đã nói rồi mà, dù gì mày cũng từng làm đội trưởng đội bảo vệ, chút tiền này có là gì đâu chứ. Thôi mày mau lấy tiền đi, tao sẽ ngồi đây chờ mày”. Chung Thất chửi thầm trong lòng: “Đúng là đồ tiểu nhân”. Chung Thất vào nhà, lấy ra một cái xẻng rồi đi vào phòng ngủ. Hắn chui vào gầm giường, sau đó lấy xẻng đào một góc đất, lộ ra một chiếc lò sành. Hắn lấy từ trong chiếc lọ sành. Cầm trong tay ba đồng đại dương lạnh, trong lòng hắn thầm nghĩ: “Đã lâm vào bước đường cùng này rồi, có nhiều tiền hơn nữa còn có tác dụng gì chứ?” Vừa tiễn xong thằng quỷ đòi nợ Trịnh Mã Thủy, Chung Thất liền nhớ tới Dương Phi Nga. Con đàn bà bình thường đê tiện như đống cứt trong mắt hắn bỗng trở thành một tia hy vọng trong đời hắn, bởi nó có thể sống cùng hắn tới cuối đời. Lòng Chung Thất phút chốc dâng lên niềm xúc động, hắn muốn tới quán Tiêu Dao chuộc thân cho Dương Phi Nga, sau đó đưa cô ta về nhà sống cùng hắn. Chung Thất lại chui xuống gầm giường lấy ra mười đồng đại dương, sau đó dùng chiếc khăn trắng gói lại cẩn thận. Hắn ra ngoài với bao vải trắng,hắn đi ra khỏi ngõ rồi đi về hướng thị trấn, về phía ngõ Hoàng Đế. Lúc này, Chung Thất đã tê dại, hắn không thèm quan tâm tới những ánh mắt khinh bỉ của người dân trong thị trấn ném về phía mình. Hắn cảm thấy muốn vô liêm sỉ cũng phải dũng cảm, còn phải dũng cảm hơn nhiều so với sống quang minh chính đại. Hắn lại giống với thời đào ngũ khi xưa, lại một lần nữa tìm được niềm tin để sống tiếp. Hắn đã tới trước của quán Tiêu Dao trong ngõ Hoàng Đế. Hắn nghe thấy lệnh oẳn tù tì vọng ra từ quán rượu Hồng Phúc, âm thanh đó chọc vào tai hắn. Hắn đang bước vào cổng lớn quán Tiêu Dao thì bị chặn lại. Chung Thất nói: “Cho tao vào!” Người coi cửa đó rất ngang ngạnh, căn bản không coi hắn ra gì: “Bà chủ bọn tao đã dặn kỹ, ai cũng có thể bước vào cửa quán Tiêu Dao, chỉ có mình mày là không được. Mày đi nhanh đi để mọi người khỏi khó chịu”. Lòng Chung Thất đau đớn tột cùng. Lúc này, không ít người vây lại xem đã ngoác miệng cười nhăn nhở, cứ như thể một trò hay sắp sửa được biểu diễn vậy. Trong đó còn có không ít người đã từng là thuộc hạ của hắn – đội viên đội bảo vệ. Chung Thất im lặng một hồi, lấy hết can đảm, nói lớn về phía quán Tiêu Dao: “Lý Mị Nương, tôi muốn chuộc Dương Phi Nga! Tôi muốn Dương Phi Nga làm vợ tôi”. Tất cả mọi người đứng xung quanh được trận cười nghiêng ngả. Lý Mị Nương đang cùng Chủ tịch Du Trường Thủy ngồi hút điếu cày trên chiếc ghế thái sư đặt trong sảnh phòng khách quán Tiêu Dao. Lý Mị Nương nghe thấy tiếng gọi của Chung Thất, nốt ruồi to bằng hạt đậu bên mép mụ lại giật giật, mụ ta nhả khói đặc đắc chí reo lên: “Em biết ngay thế nào hắn cũng mò tới, Chủ tịch Du à, anh thua rồi nhé. Hi hì…” Chủ tịch Du cũng nhả khói hỏi: “Em định thế nào?” Lý Mị Nương cười đáp lại: “Anh nói phải làm sao?” “Anh thấy hay là cứ để cho hắn dẫn đi thôi, dù gì con điếm này cũng chẳng có ai thèm nữa, giữ ở quán Tiêu Dao lại phải cho ăn, cho ở miễn phí”. Lý Mị Nương đặt bịch ống điếu xuống bàn, cười nhạt nói: “Chung Thất còn nợ em năm đồng đại dương, ngoài ra hắn muốn dẫn con tiện nhân này đi mà không trả năm đồng đại dương tiền chuộc thì em thà để cho con tiện nhân này khắm khú ở quán Tiêu Dao chứ nhất quyết không để thằng chó Chung Thất này nhặt đâu”. Du Trường Thủy thở dài: “Thôi mà, dù gì thì Chung Thất cũng đã theo anh rất lâu rồi, không có công thì cũng phải chịu vất vả nhiều. Chúng mình bạc bẽo với nó thế, chỉ sợ lại bị người ta bàn ra tán vào thôi”. Lý Mị Nương gõ nhẹ đầu ngón tay lên bàn: “Hôm đó, nó bị người ta treo lên cột cờ, anh cũng chẳng thèm bận tâm, còn sợ gì miệng lưỡi thiên hạ chứ? Những gì phải nói sớm muộn gì cũng được nói ra thôi mà, anh cũng không thể bịt hết được miệng của người dân trong thị trấn đúng không? Chung Thất, cái thằng chó này, mỗi lần chợ phiên đều dấm dúi thu phí bảo hộ sau lưng anh, tính ra cũng nuốt không ít tiền đâu. Thế nên anh không cần phải xót xa cho hắn, mọi chuyện đều do hắn tự làm tự chịu thôi”. Chủ tịch Du trầm ngâm một hồi rồi rít một hơi dài thuốc lào. Lúc này, người coi cửa đã chạy vào sảnh, thông báo với Chủ tịch Du và Lý Mị Nương: “Chung Thất đang quỳ trước cửa lớn, hắn nói nếu không cho hắn chuộc Dương Phi Nga ra, hắn sẽ quỳ ở bên ngoài đến chết thì thôi”. Lý Mị Nương mỉa mai: “Hừ… Xem ra hắn cũng thật có tình có nghĩa! Mày đi ra nói với hắn, nếu đưa đủ cho tao mười đồng đại dương, thì tao sẽ để hắn đưa Dương Phi Nga đi, bằng không có quỳ chết ở đó cũng chẳng có tác dụng gì đâu”. Người coi cửa dạ một tiếng rồi chạy ra ngoài. Một lát sau, người coi cửa lại chạy vào sảnh đưa cho Lý Mị Nương một bao buộc bằng vải trắng. “Bà chủ à, cái này là Chung Thất đưa cho bà đấy, hắn nói đây là mười đồng đại dương”. Mặt Lý Mị Nương tươi roi rói, mụ ta đặt bao vải trắng đó lên bàn. Mụ ta háo hức mở ra, mắt Lý Mị Nương sáng rực lên, những đồng bạc trắng đó phát ra tia sáng mê hồn người. Lý Mị Nương đếm không thừa không thiếu đúng vừa đủ mười đồng đại dương. Mụ ta nói với Chủ tịch: “Xem ra thằng chó Chung Thất này cũng có chuẩn bị”. Sắc mặt Chủ tịch Du nặng nề, ông ta lạnh lùng: “Tiền em đã nhận được rồi, hãy để Dương Phi Nga đi theo hắn ta. Đừng ở đó mà làm khó họ nữa”. Lý Mị Nương tươi cười đáp lại: “Đương nhiên, đương nhiên rồi!” Dương Phi Nga mặt mũi xanh xám cố lê bước tới cửa lớn quán Tiêu Dao, vừa nhìn thấy Chung Thất đang quỳ trước cửa, nước mắt cô lã chã tuôn rơi. Cô quỳ xuống trước mặt Chung Thất rồi ôm lấy hắn khóc nức nở như ở chỗ không người. Chung Thất đứng dậy, dìu Dương Phi Nga, hai người đỡ nhau đi về hướng nhà Chung Thất trong tiếng cười chế giễu của mọi người. Trên đường, còn có người đi theo họ chê cười, chửi mắng, còn liên tiếp nhổ nước bọt vào họ nữa…

11

  Trương Thiếu Băng khai trương lại cửa hiệu quan tài sau cái chết của ông Chu Quý Sinh. Sau đó, anh ta không còn tới sòng bạc đánh bạc nữa. Những con bạc bạn hẳn phải vô cùng ngưỡng mộ anh ta, nói không đánh bạc nữa là không đánh bạc nữa, hạ quyết tâm đến cùng luôn. Đội trưởng đội bảo vệ mới nhận chức Trư Cốc tới tìm, hỏi anh ta rất nhiều vấn đề kỳ lạ cứ như thể cái chết của ông Chu Quý Sinh có liên quan tới anh ta vậy. Trương Thiếu Băng hơi hoang mang, nếu Chủ tịch Du quyết tâm xử lý thì anh ta có trốn thế nào cũng không thoát được. Hơn nữa, lúc này, Du Vũ Cường không ở thị trấn Đường, nếu như Du Vũ Cường ở đây thì Chủ tịch Du muốn động tới hắn cũng phải cân nhắc. Nghĩ đi nghĩ lại, Trương Thiếu Băng liền kiếm hai con gà trống cùng vò rượu ngon đang đêm tới nhà của Chủ tịch Du để bày tỏ chút lòng thành. Chủ tịch Du cũng chẳng nói gì nhiều, nhận lễ của Trương Thiếu Băng. Điều này ít nhiều khiến Trương Thiếu Băng cảm thấy yên tâm. Trương Thiếu Băng không hút thuốc, cũng không uống rượu, chỉ thích uống trà. Đúng lúc hắn cầm cốc trà đưa lên miệng thì nhìn thấy Chung Thất và Dương Phi Nga dìu nhau đi trên đường. Anh liền bỏ cốc trà nóng còn tỏa mùi hương nồng xuống bàn. Trương Thiếu Băng không phải loại người thích hóng chuyện, nhưng anh ta vẫn bước ra cửa tiệm, mắt dõi theo bóng Chung Thất và Dương Phi Nga rẽ vào ngõ nhỏ. Trương Thiếu Băng nhìn thấy hai người này đáng thương vô cùng, anh cũng xiêu lòng thương cảm, mặc dù trước đây cũng chẳng ưa gì Chung Thất. Tên đồ tể Trịnh Mã Thủy tiến tới trước mặt hắn, cười nham hiểm rồi nói: “Ông chủ Trương à, theo tôi tính toán thì ông sắp có vụ làm ăn rồi đấy”. “Thế nghĩa là sao?” “Trông điệu bộ Chung Thất và Dương Phi Nga, chắc cũng chẳng sống được bao lâu nữa”. “Trịnh Mã Thủy, ông hãy cứ lo chuyện bán thịt lợn của mình thôi, đừng quan tâm tới quá nhiều chuyện như vậy”. Trịnh Mã Thủy cười nhạt đáp lại: “Hì hì, ông cứ chờ mà bán quan tài đi”. Trương Thiếu Băng nghe Trịnh Mã Thủy nói vậy, cảm thấy buồn nôn, suýt nôn ra ngoài. Trịnh Mã Thủy đúng là đồ giậu đổ bìm leo, lúc Chung Thất vẫn chưa gặp nạn, hắn cúc cung tận tụy với Chung Thất, đến giờ Chung Thất sa cơ lỡ vận như vậy, hắn liền trù ẻo người ta chết sớm. Từ đáy lòng Trương Thiếu Băng cảm thấy khinh thường loại người như Trịnh Mã Thủy. Trương Thiếu Băng không thể đoán được người tiếp theo sẽ chết ở thị trấn Đường là ai, cũng giống như chuyện anh ta không có cách nào đoán được ngày mai của mình ra sao.  

12

  Ngày 28 tháng Chín âm lịch, đúng vào buổi tối thứ bảy sau khi ông Chu Quý Sinh chết, lúc ông lang Trịnh Triều Trung chuẩn bị đi ngủ thì cô con dâu hiếu thảo mang tới một bát canh sâm cho ông uống. Ông nói với con dâu: “Sau này con không phải ninh canh sâm cho bố uống nữa, bố đã ngần này tuổi rồi, uống gì cũng chẳng có tác dụng đâu”. Cô con dâu cười đáp lại: “Bố à, bố đừng nói thế, bố sẽ sống lâu trăm tuổi”. Ông lang Trịnh Triều Trung vừa vuốt râu vừa nói: “Bố có phải yêu quái đâu mà có thể trường sinh bất lão hả, ha ha, bố sống được chừng này tuổi đã tốt lắm rồi. Bây giờ sống thêm được ngày nào là tốt ngày đó”. Sau khi con dâu ra khỏi phòng, Trịnh Triều Trung nới dài rút quần nằm trên giường. Ông vốn định tắt đèn dầu đi ngủ, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thế nào lại để đèn cháy tiếp. Chờ tới lúc cạn dầu thì đèn sẽ tự tắt thôi, thật giống với cuộc đời một con người. Nằm trên giường, bất giác nhớ tới con chó đen đã mất tích hai ngày trước, lòng ông trĩu nặng. Con chó đã theo ông nhiều năm, mỗi lần ông đi khám bệnh bên ngoài, nó đều đi theo. Con người chứ có phải cây cỏ đâu mà không có tình cảm chứ. Trịnh Triều Trung bảo con trai đi tìm hai ngày rồi nhưng vẫn không thấy. Ông nói với con mình: “Không cần phải tìm nữa đâu, nếu còn sống thể nào nó cũng chạy về, còn nếu chết rồi, tìm cũng chẳng làm gì”. Mặc dù nói như vậy, nhưng trong lòng ông vẫn tiếc thương con chó khôn nguôi, có điều ông không phải là người dễ dàng biểu lộ các trạng thái cảm xúc hỉ nộ ái ố mà thôi. Ông nhận thấy sự biến mất của con chó ẩn chứa sự nguy hiểm nào đó. Ông tự nhiên liên tưởng tới cái chết đáng sợ của ông Chu Quý Sinh. Trước khi ông ta chết, con chó vàng nhà ông ta cũng biến mất một cách kỳ lạ giống như con chó đen này. Lẽ nào… Dù gì ông cũng đã già, không còn đủ sức lực để nghiền ngẫm kỹ một vấn đề, nên không lâu sau đã chìm vào giấc ngủ. Khoảng một canh giờ sau, từ cửa phòng ngủ của ông vọng lên tiếng sột soạt. Lúc này ông đã chìm sâu vào giấc ngủ, cả căn phòng im lặng một cách đáng sợ. Âm thanh sột soạt đó cứ vang trong phòng. Một bóng áo trắng đứng phía ngoài cửa, phát ra tiếng kêu nhỏ, như thể đang niệm bùa chú gì đó. Tiếng sột soạt ban nãy chính là tiếng phát ra khi bò của con rắn xanh. Con rắn xanh đi men theo chân giường rồi bò lên giường. Dưới ánh đèn, người nó phát ra màu xanh sáng, nó nhanh chóng bò lên ngực ông lang. Con rắn dừng lại, vươn cái đầu rắn hình tam giác lên, miệng thè lưỡi đỏ. Miệng của ông lang vẫn đang mở, những người lớn tuổi khi ngủ say thường thở bằng miệng. Một âm thanh thần bí xuyên qua cửa vào phòng ngủ của ông lang Trịnh Triều Trung. Con rắn xanh trong suốt phát sáng kia dường như nhận được mệnh lệnh từ âm thanh thần bí đó, nhanh chóng chui vào miệng ông lang rồi trườn xuống. Bóng trắng bên ngoài cửa lắc lư một hồi rồi bay đi, biến mất trong màn đêm dày. Ông Trịnh Triều Trung ngồi bật dậy, cảm thấy bức bối trong người. Dường như dạ dày của ông đã bị nhét đầy thứ gì đó. Một lát sau, ông cảm thấy có thứ gì đó đang chuyển động từ dạ dày tới khoang bụng của mình. Ông giơ tay sờ vào bụng mình, quả thực có thứ gì đó đang chuyển động lên xuống. Ông không thấy đau nữa, chỉ thấy ruột của ình cũng đang trượt đi. Ông nhớ tới con rắn bò từ miệng ông Chu Quý Sinh ra sau khi ông ta chết. Rồi từ chuyện con rắn, ông liên tưởng tới việc con chó biến mất. Ông cố gắng mở to mắt, trong đầu ông lúc đó chỉ tồn tại đúng một từ: Trùng độc. Ông biết, những người nuôi trùng độc rất sợ chó, và tới lúc này ông đã hiểu tại sao con chó nhà ông và con chó của ông Chu Quý Sinh lại biến mất một cách kỳ lạ như vậy. Ông đã chẩn đoán đúng, ông Chu Quý Sinh địch thị chết vì trùng độc. Hiện tại con trùng độc kia đã chui vào trong người ông. Nhưng điều khiến ông không giải thích được là ai lại muốn đầu độc ông? Tại sao? Ông vốn là người có thể nói là độ nhân tế thế, cả đời chỉ lo việc cứu mạng người chứ chưa từng làm việc gì hại người cả, hơn nữa ông cũng chẳng gây thù kết oán với ai, vậy thì ai lại cố tình hạ độc thù tàn nhẫn với ông như vậy chứ? Trịnh Triều Trung biết sinh mạng của mình sẽ nhanh kết thúc liền bò từ trên giường xuống. Vừa xuống giường, ông định ra khỏi phòng để gọi người nhà tới nói lời trăng trối. Nhưng ông chưa đi được hai bước, trong bụng đã phát ra tiếng ùng ục, cơn đau xuất hiện. Mặt ông lang phút chốc tái mét, trán ông rịn từng hạt mồ hôi to như hạt đậu. Ông ôm bụng, gập người lại. Ông muốn kêu, nhưng họng không thể phát ra được bất kỳ âm thanh nào. Ông cảm thấy từng khúc ruột của mình đang bị đứt. Cuối cùng không thể chịu đựng được hơn nữa, ông ngã gục xuống sàn nhà. Toàn thân ông co quắp, giật giật chân mấy cái thì tắt thở. Xác của ông dần dần trương lên, con ngươi lồi ra, da bụng trướng lên như một quả bóng đang được thổi căng vậy. Con rắn xanh bò ra từ miệng ông lang Trịnh Triều Trung…  

13

  Tối hôm qua, Tống Kha không tới ngôi nhà gỗ nhỏ trong rừng. Điều kỳ lạ là anh cũng không bị hồn ma của những bức truyền thần nhét dưới giường quấy nhiễu. Anh tỉnh dậy từ rất sớm. Anh đẩy cửa sổ, phát hiện hôm nay là một ngày nắng. Bầu trời xanh trước mặt xanh tới mức đáng sợ, chẳng có đến một đám mây. Một luống gió lạnh luồn vào khiến Tống Kha rúng mình. Lúc này, anh mới nhận thấy một lớp sương dày che phủ trên khắp các mái nhà của người dân trong thị trấn Đường. Lớp sương dày buổi sáng sớm thu hút đôi mắt Tống Kha, nó đẹp tới mức khiến lòng anh xao động. Bỗng trong lòng nảy sinh mong muốn nắm bắt vẻ đẹp của lớp sương kia, anh lấy quyển sổ phác họa ra rồi vẽ vẽ quệt quệt rất tập trung. Mãi tới khi mụ Hồ Nhị Tẩu – chủ quán ăn chênh chếch nhà anh mở cửa quán, đồng thời ném ánh mắt kỳ dị lên cửa sổ gác xép cửa hiệu truyền thần thì anh mới đóng cửa lại. Anh thực sự không muốn bản mặt to phè như mặt lợn của mụ ta phá hoại cảm giác đẹp vẽ lớp sương sớm của mình. Tống Kha cảm thấy tiếc vô cùng, đúng lúc mọi đồ để vẽ của anh hết sạch thì bỗng nhiên anh lại có cảm hứng sáng tác. Vào khoảng trưa, Tống Kha bước vào cửa nhà ông lang Trịnh Triều Trung. Trước đó, anh đã nghe thấy tiếng trống tang đều đặn, tiếng trống tang buồn vô cùng, tinh thần của mọi người bị nó tác động tới mức u uất. Nghe thấy tiếng trống tang buồn thảm, phản ứng đầu tiên của Tống Kha là thị trấn Đường lại có người chết rồi. Tiếng trống tang vang lên từ nhà ông lang Trịnh Triều Trung lại phủ một lớp mây đen dày lên ngày ngập nắng trong xanh. Lúc anh được người nhà họ Trịnh gọi đi, mụ Hồ Nhị Tẩu lại nhìn anh bằng ánh mắt hằn học, mụ rít qua kẽ răng: “Lại đi kiếm tiền của người chết rồi”. Tống Kha không để ý tới mụ ta, trong mắt anh mụ ta là người hiểm ác. Từ giây phút mụ ta nhẫn tâm đổ bô nước tiểu lên người Thẩm Văn Tú, anh đã nhận ra mụ ta là người như vậy. Do vậy, anh thà ngồi trong cửa hiệu truyền thần ăn mỳ nấu suông với nước sôi chứ không thèm bước vào quán của mụ ta nửa bước nữa. Lúc Tống Kha tới nhà ông lang Trịnh Triều Trung, trong nhà họ không có người ngoài, chỉ có người nhà họ Trịnh đang trong lúc tang gia bối rối. Con trai của ông Trịnh Triều Trung – Trịnh Vũ Sơn nói với Tống Kha bằng giọng khàn khàn. “Họa sĩ Tống à, bức truyền thần của bố tôi trăm sự nhờ anh, cả đời ông ấy cứu rất nhiều người, bà con lối xóm đều nói ông ấy là Bồ Tát sống. Anh nhất định phải vẽ được thần sắc của bố tôi nhé, họa sĩ Tống”. Con dâu của ông Trịnh Triều Trung khóc nhiều tới mức mắt sưng to như quả đào nát. Sau khi chồng nói xong, cô ta nghẹn ngào nói tiếp: “Họa sĩ Tống à, bố chồng tôi là người tốt hiếm có, anh nhất định phải vẽ hết sức mình đấy. Chúng tôi không muốn ông ra đi, không muốn chút nào”. Tống Kha nhận thấy người nhà họ Trịnh khác hẳn với người ở các nhà khác, họ không thể tránh xa anh. Cứ như thể họ căn bản không ghét bỏ mùi tanh thối trên người anh vậy, trông họ rất thành khẩn. Trong lòng dâng lên nỗi xúc động, anh đẩy kính lên rồi nói với họ: “Anh chị yên tâm đi, tôi sẽ cố hết sức”. Tống Kha bắt đầu vẽ truyền thần cho ông Trịnh Triều Trung. Gương mặt quắc thước thường ngày của ông Trịnh Triều Trung giờ đã sưng phồng lên, con ngươi lồi ra, một hố đen sâu không đo được trong cái miệng há hốc. Trong lúc vẽ truyền thần cho ông, trong lòng Tống Kha bỗng dậy lên một nỗi đau không nói ra được, nỗi đau này từ từ lan tỏa khắp người anh. Cơn đau đó kéo dài tới khi anh vẽ xong, thậm chí ngón tay cầm bút vẽ cũng đau. Dường như ông lang Trịnh Triều Trung còn một hơi thở vẫn chưa thoát ra được, chờ tới sau khi Tống Kha vẽ xong bức truyền thần, ông mới thở dài một hơi, miệng dần khép lại. Những người có mặt lúc đó đều ngỡ ngàng. Tống Kha vẽ xong liền đứng dậy, kéo mảnh vải xô đắp trên người ông lên để che phần mặt. Anh lặng lẽ thu dọn đồ nghề chuẩn bị đi. Trịnh Triều Trung trong bức tranh nhìn thế giới này bằng ánh mắt buồn thảm nhưng nhân từ. Mọi người trong nhà họ Trịnh nhìn thấy bức truyền thần đều có cảm giác ông ta vẫn sống ở nhân gian, họ không nén được cảm xúc mà khóc ầm lên. Khi bước qua cửa lớn nhà họ Trịnh, Tống Kha thấy rất nhiều người đang cầm câu đối tế, có lẽ những người này đã từng chịu ơn của ông. Tống Kha chưa về tới cửa hiệu truyền thần thì có người mặc áo tang đuổi theo. Người đó là con trai ông Trịnh Triều Trung – Trịnh Vũ Sơn. Anh ta nhét một bọc bằng vải trắng vào tay Tống Kha cảm động nói: “Họa sĩ Tống à, đây là chút lòng thành của chúng tôi. Anh vui vẻ nhận cho. Bức truyền thần anh vẽ cho bố tôi quả thật rất giống, chúng tôi sẽ cúng luôn cả bức truyền thần của ông như cúng Bồ Tất vậy”. Tống Kha đút bọc vải trắng đó vào túi quần, nói ngắn gọn với anh ta: “Mong anh bớt đau buồn!” Anh quả thực không nói ra lời nào hơn nữa. Tâm trạng hôm nay của anh rất chán nản, trở về cửa hiệu truyền thần anh liền đóng sầm cửa lại. Anh dựa lưng vào cánh cửa, thở hồng hộc. Cái chết của ông lang Trịnh Triều Trung và ông Chu Quý Sinh giống hệt nhau, Tống Kha cảm nhận được sự hiểm ác đã ăn vào máu của thị trấn Đường. Cái chết của hai người bọn họ không bình thường chút nào mà ẩn giấu một bí mật to lớn. Và điều bí mật này, không nghi ngờ gì, có liên quan tới sự an toàn của người dân trong thị trấn. Nhưng vấn đề này dường như không phải việc Tống Kha nên suy ngẫm mà là việc Chủ tịch Du phải lo mới đúng. Sau khi Tống Kha về, Du Trường Thủy dẫn theo Trư Cốc đi vào nhà họ Trịnh. Ông ta sai Trư Cốc mang câu đối tế viết trên vải trắng cho nhà họ Trịnh, sau đó đi theo Trịnh Vũ Sơn tới trước thi thể của ông Trịnh Triều Trung vái ba cái. Du Trường Thủy vừa liếc thấy cái bụng nhô lên cao của ông Trịnh Triều Trung liền sợ hãi, may là đầu ông cũng bị che lại bằng vải liệm, Du Trường Thủy không biết khuôn mặt của ông lang Trịnh Triều Trung có đáng sợ như ông Chu Quý Sinh không. Tuy con trai của ông lang không giống Chu Phúc Bảo, bố vừa mới chết đã dẫn Du Trường Thủy tới khám xét, nhưng Du Trường Thủy cảm nhận được rằng hai người này chết giống nhau. Du Trường Thủy gọi Trịnh Vũ Sơn vào một gian phòng, nghiêm nghị hỏi: “Lúc lệnh đường ra đi có biểu hiện gì không?” Trịnh Vũ Sơn đáp: “Chẳng có biểu hiện gì, bố tôi ra đi giống như ngủ vậy, rất thanh thản”. Du Trường Thủy trầm ngâm: “Ồ, hóa ra là như vậy. Việc ông Trịnh Triều Trung quy tiên là một tổn thất lớn đối với người dân trong thị trấn Đường. Sau khi biết tin về cái chết của ông, lòng tôi nhói đau. Một ông cụ tốt như vậy thế mà nói đi là đi, đời người thật khó lường. Cậu cũng nên bớt đau buồn, tang lễ phải làm to vào đấy. Nếu cần giúp gì, tôi nhất định sẽ ủng hộ hết sức”. Trịnh Vũ Sơn nghẹn ngào: “Tôi mãi sẽ không thể quên được sự ưu ái và quan tâm của Chủ tịch Du, tôi thay mặt cả gia đình bày tỏ lòng biết ơn đối với Chủ tịch”. Trịnh Vũ Sơn mặc dù biết bố mình chết tức tưởi, nhưng có rất nhiều chuyện không thể nói với Chủ tịch Du được. Trước khi qua đời bố anh đã từng dặn dò, từ nhỏ anh đã theo bố học y, lời nói của bố, anh coi như thánh chỉ, chưa từng làm trái. Vừa về nhà sâu khi được Chủ tịch Du gọi tới xem xác của ông Chu Quý Sinh, ông lang Trịnh Triều Trung liền gọi con trai vào phòng, thở dài một tiếng rồi nói: “Đáng ra hôm nay bố không nên đi”. Trịnh Vũ Sơn thắc mắc: “Bố à, bố sao vậy?” Trịnh Triều Trung đáp: “Bố trót nói điều không nên nói, nhưng bố là thấy lang, cả đời chưa từng nói dối một câu nào. Nếu bố nói một câu giả dối, thì có thể một người sẽ bị mất mạng. Nhưng những lời hôm nay bố thực sự không nên nói, có lẽ vận xấu sẽ nhanh chóng giáng vào người bố. Chết đối với bố mà nói không là cái gì cả, bố đã chẳng còn sợ nữa. Nhưng điều khiến bố lo lắng là các con sẽ bị liên lụy”. Trịnh Vũ Sơn căn bản không biết bố mình đã nói những điều không nên nói gì ở nhà họ Chu, anh an ủi bố: “Bố à, chắc sự việc không nghiêm trọng tới mức đó đâu”. Ông lang Trịnh Triều Trung lại thở dài: “Bố sẽ không nói lại cho con nghe bố đã nói gì, con hành nghề y theo đúng lương tâm mình thì bố đã yên lòng lắm rồi. Bố chỉ muốn nói với con một điều, nếu như bố gặp chuyện gì bất trắc, thì con đừng nên truy cứu việc bố chết thế nào nhé. Con phải nhanh chóng khâm liệm, nếu có ai hỏi bố chết thế nào thì con chỉ cần nói với họ bố chết vì tuổi già, lúc chết bố rất thanh thản. Còn nữa, con nhất định phải mời họa sĩ Tống tới vẽ truyền thần cho bố, phải dặn dò tất cả người trong nhà từ già tới trẻ tôn trọng người ta, không nên ghét bỏ vì người ta có mùi. Họa sĩ Tống tuy trên người có mùi khó ngửi, nhưng tấm lòng tốt, chúng ta không có tư cách kỳ thị người như vậy. Con đã nhớ những lời bố nói chưa vậy?” Trịnh Vũ Sơn đáp: “Bố à, con nhớ rồi ạ”.

14

Sau khi tiết trời vào đông, tất cả các thôn xóm trên núi xung quanh thị trấn Đường đều bước vào giai đoạn nông nhàn. Cái chết bất thường của ông Chu Quý Sinh và ông lang Trịnh Triều Trung đã gieo bóng đen vào lòng người dân thị trấn. Trước khi chết, cả hai người bọn họ đều không có dấu hiệu báo trước nào cả, những cái chết khó hiểu như vậy rất hiếm gặp ở đây. Đến cả mụ Hồ Nhị Tẩu cũng phải thốt lên: “Không hiểu ai sẽ là người chết một cách khó hiểu tiếp theo đây?” Du Trường Thủy cũng sợ hãi như vậy nên càng tăng cường bảo vệ ở ủy ban và cũng chính là tăng sự an toàn của bản thân, ông ta còn sai Trư Cốc lặng lẽ điều tra xem nhà ai trong thị trấn Đường là đối tượng khả nghi nuôi trùng độc. Trư Cốc điều tra đã mấy ngày nhưng không phát hiện được manh mối gì. Điều này khiến Chủ tịch Du càng cảm thấy bất an, bởi bản thân ông ta cũng không biết rõ được ngày nào mình sẽ chết giống ông Chu Quý Sinh. Việc này khiến ông ta ăn không ngon, ngủ không yên, hằng đêm nếu ngủ một mình lại gặp ác mộng. Ông ta mơ thấy mình chết, nằm trong quan tài, có một con rắn bò ra từ miệng. Cứ mỗi lần gặp ác mộng xong ông ta lại sợ hãi bừng tỉnh, người ướt đẫm mồ hôi, ông ta có cảm giác vô cùng tuyệt vọng. Chủ tịch Du thậm chí còn nghi ngờ mình trúng trùng độc. Ông ta biết một số cách cổ xưa để thử xem có phải trúng trùng độc không như là trứng vịt, còn cả cách thử bằng cam thảo chích nữa. Hằng đêm trước khi đi ngủ, Du Trường Thủy bóc quả trứng vịt đã luộc chín rồi ngậm vào miệng. Khoảng nửa canh giờ sau, ông ta nhè quả trứng trong miệng ra rồi cắm chiếc kim bạc vào. Nếu như chiếc kim bạc chuyển sang màu đen, chứng tỏ ông ta đã trúng trùng độc. Kim không đổi màu, ông ta mới thở phào nhẹ nhõm. Nhưng một lúc sau Chủ tịch Du lại không yên tâm, ông ta liền bốc một nắm đậu tương sống đã được người hầu ngâm nở bỏ vào mồm nhai mạnh. Ông ta tiếp tục nhai rồi nhổ bã ra ngoài, đậu tương sống có mùi tanh không chịu nổi. Ông ta lại lẩm nhẩm một mình: “Mình chưa trúng trùng độc, mình chưa trúng trùng độc”. Nếu lúc nhai đậu sống mà không cảm thấy mùi tanh của đậu thì chứng tỏ ông ta đã trúng trùng độc. Du Trường Thủy nằm trên giường, mắt nhắm chặt. Trong đầu ông ta lúc này xuất hiện cặp mắt đỏ lòm cùng cái bụng trương phềnh, ông ta lại đưa tay chạm vào bụng mình. Sờ một hồi, ông ta cảm thấy nó hơi trướng liền ngồi bật dậy, mở to mắt nhìn. Ông ta nghĩ, nếu đậu tương và trứng vịt không thử được trùng độc, thì ông ta sẽ ra sao? Thế là, ông ta đi xuống giường, đi tới trước bàn làm việc, kéo ngăn kéo rồi lấy ra một chiếc hộp gỗ nhỏ, trong chiếc hộp đó có cam thảo chích. Du Trường Thủy lo lắng lấy ra một miếng cam thảo dài chừng một đốt ngón tay cho vào mồm, lại nhai mạnh, cam thảo chích không tanh bằng đậu tương, hơn nữa lại cũng không khó chịu bằng việc ngậm trứng vịt. Mặc dầu vị cam thảo rất ngọt, nhưng Chủ tịch Du vẫn không cảm thấy dễ chịu, ông ta vẫn chưa định được mình đã trúng trùng độc chưa. Nhai một hồi lâu, Du Trường Thủy lại nhổ bã cam thảo lên tay rồi đưa tới trước đèn dầu, ông tự nhận thấy bã cam thảo khô, cục đá nặng đè lên ngực bấy giờ mới biến mất. Nếu như bã cam thảo ông ta nhai ướt nhẹp, dính đầy nước bọt thì chứng tỏ ông ta đã trúng độc. Du Trường Thủy lại yên tâm nhắm mắt nằm lên giường… Còn có một người nữa cũng gặp ác mộng trong đêm đầu đông. Đó là Tam Lại Tử - kẻ chuyên đào huyệt cho người chết. Tam Lại Tử nằm sau bức tượng ông bà Thổ Địa. Toàn thân hắn run bắn nhưng đầu óc tỉnh táo khác thường, tứ chi cứng đờ, không những thế hắn muốn hét mà hét không ra. Một vật mềm mềm nào đó đang mắc trong cổ hắn. Hắn nhìn thấy ông Chu Quý Sinh, ông Trịnh Triều Trung và hai con chó: một vàng và một đen. Ông Chu Quý Sinh mắng bằng giọng âm u: “Tam Lại Tử, mày đúng là thằng chẳng ra gì. Tại sao mày lại giúp con mụ áo trắng đó làm hại tao? Bình thường tao có đối xử bạc với mày đâu, lúc mày không có gì ăn tao còn cho mày kia mà… Mày đúng là đồ vong ơn, tại sao mày lại hại tao?” Ông lang Trịnh Triều Trung cũng nói bằng giọng âm u: “Tam Lại Tử à, hay là mày đi theo bọn tao đi! Mày đào huyệt cho tao rất đẹp, tao nằm ở trong đó cảm thấy rất dễ chịu, nhưng mày sống trên thế giới này phỏng có ý nghĩa gì chứ? Hay là mày cứ đi theo bọn tai đi!” Hai con chó rên ư ử, một lát sau lại xuất hiện một con chó khác. Đó là con chó thay lông của ông họa sĩ già, toàn thân nó be bét máu. Chu Quý Sinh, Trịnh Triều Trung và ba con vật kia vây lấy Tam Lại Tử. Chu Quý Sinh vươn móng vuốt ra túm lấy mặt Tam Lại Tử. Họng ông ta phát ra tiếng gì đó. Bàn tay gầy guộc khô cứng và lạnh lẽo của ông Trịnh Triều Trung cứ chạm vào người Tam Lại Tử. Miệng ông ta phát ra những tiếng cười nhạt khiến người ta phải sởn gai ốc. Còn ba con vật kia cứ gầm gừ, chúng cắn xé tứ chi của Tam Lại Tử bằng hàm răng sắc nhọn. Tỉnh lại sau cơn ác mộng giữa đêm đầu đông lạnh lẽo, cũng giống như Du Trường Thủy, người Tam Lại Tử ướt đẫm mồ hôi. Cả hai đều thở hổn hển, cố gắng mở to cặp mắt sợ hãi trong đêm. Tiếng gió xào xạc bên ngoài miếu Thổ Địa, dường như trong gió có cả tiếng cười nhạt của một người đàn bà… Tam Lại Tử lẩm nhẩm một mình: “Tôi không muốn làm nữa, thực sự không muốn làm nữa rồi, cô tha cho tôi đi, tha cho tôi đi!”

15

Ngày 15 tháng Mười âm lịch năm Dân Quốc thứ ba mươi lăm là ngày chợ phiên của thị trấn Đường. Phiên chợ lần này ảm đạm hơn phiên chợ sau khi thu hoạch rất nhiều, mặc dù vẫn có nhiều người dân miền núi ở khắp nơi đổ về mua hàng hóa. Tam Lại Tử ngồi chờ trên cây long não già trước miếu Thổ Địa tới tận trưa, nhưng vẫn không nhìn thấy người đàn ông trung niên và cậu thiếu niên mãi võ kia. Đã mấy tháng rồi họ vẫn chưa quay lại, sự chờ đợi của Tam Lại Tử đã bị kéo dài vô thời hạn, cũng giống đêm đông dài dằng dặc giày vò cả thể chất lẫn tâm hồn hắn vậy. Tam Lại Tử không những không chờ được người đàn ông trung niên và cậu thiếu niên, thậm chí hắn còn chẳng chờ được ông già bán thuốc chuột kia. Mảnh đất trống bên ngoài miếu Thổ Địa trở nên mênh mông. Nguyên nhân phiên chợ lần này có ít người tham gia có lẽ cũng liên quan tới việc gần đây liên tục có người chết ở thị trấn Đường. Từ cái chết đáng sợ của ông Chu Quý Sinh tới giờ đã có thêm mấy người nữa chết. Kỳ lạ là tất cả những người đó đều đang khỏe mạnh bình thường bỗng lăn ra chết một cách bất thường. Không những thế, nguyên nhân cái chết của họ lại giống hệt ông Chu Quý Sinh, điều đặc biệt, họ đều là những người có máu mặt trong thị trấn Đường. Giấy không gói được lửa, việc có rắn bò ra từ miệng người chết đã được đồn thổi nhanh chóng, lòng ai cũng thấp thỏm. Chủ tịch Du đã mấy lần sai Trư Cốc đi dán cáo thị bác bỏ tin đồn nhưng đều bị xé bỏ.Trong thị trấn Đường thậm chí còn lan truyền một tin đồn thần bí. Tin đồn thần bí đó có liên quan tới Chủ tịch Du. Họ nói rằng mẹ của trưởng trấn Chủ tịch Du – bà Dư Thất Liên chôn không đúng chỗ. Chỗ đó vốn là chỗ của thần rắn, bà Dư Thất Liên được chôn ở đó khiến thần rắn nổi giận, do vậy thần rắn đã báo thù thị trấn Đường. Đầu tiên giết người giàu, sau đó giết người nghèo, đầu tiên giết người già, sau đó giết người trẻ, tiếp đó sẽ giết trẻ con… Tin đồn thất thiệt này được đồn thổi có thanh có sắc, họ còn chỉ ra hang rắn Tam Lại Tử đào được khi đào huyệt chính là nơi ở của thần rắn. Việc chọc giận thần rắn khiến người ta lo sợ, rất nhiều người lặng lẽ đi lên núi cúng bái thần rắn, cầu xin thần rắn không giáng tai họa lên đầu mình. Những tin đồn này cuối cùng cũng tới tai Chủ tịch Du. Ông ta sai Trư Cốc đi điều tra xem tin đồn này được truyền ra từ miệng ai. Có người nói từ miệng mụ hoàn toàn, có người nói là Tam Lại Tử lại có người nói là Chung Thất… Tam Lại Tử chờ tới trưa vẫn chưa thấy những người hắn cần đến, hắn lại vác xẻng lên sườn núi Ngũ Công Lĩnh kia đào huyệt. Hắn cần đào một cái huyệt, đào huyệt mộ thay cho Tống Kha. Hắn có linh cảm, Tống Kha sớm muộn gì cũng sẽ chết ở thị trấn Đường, hắn cần phải đào một cái huyệt cho anh. Bởi Tống Kha là người từ nơi khác tới, do vậy không có dãy núi chuyên để mai táng, nếu có chết thì cũng chỉ có thể được chôn ở sườn núi này mà thôi. Sau khi Tam Lại Tử đi về hướng sườn núi Ngũ Công Lĩnh, trong thị trấn Đường lại xảy ra chuyện. Lúc đồ tể Trịnh Mã Thủy đang cắt thịt cho khách, mụ góa Dư Hoa Khố xõa tóc đi ra từ ngõ Thanh Hoa tiến về phía hàng bán thịt lợn của Trịnh Mã Thủy. Mặt mụ ta tái xanh, hai mắt sưng đỏ, chắc là vừa khóc rất dữ. Tới trước bàn bán thịt, mụ giật miếng thịt Trịnh Mã Thủy vừa cắt cho khách rồi ném bịch vào mặt Trịnh Mã Thủy, lớn tiếng: “Trịnh Mã Thủy, mày đúng là đồ lòng lang dạ sói, chơi bà xong rồi thì bỏ mặc đó không thèm đếm xỉa đến nữa phải không?” Rất nhiều người đang đi trên đường vây lại xem, bởi vì phiên chợ lần này không có trò mãi võ, do vậy mọi người đều coi chuyện giữa Dư Hoa Khố và Trịnh Mã Thủy là trò vui. Những người tới xem đều kỳ vọng vào thằng đồ tể bị sỉ nhục Trịnh Mã Thủy sẽ tức giận cắm cao dao mổ lợn sắc nhọn kia vào bộ ngực đồ sộ của mụ Dư Hoa Khố. Trịnh Mã Thủy thực sự đã tức lắm rồi. Hắn giơ bàn tay nhờn mỡ vuốt mặt một cái, tức giận nói to: “Đồ chó cái! Điên rồi à?” Mụ Dư Hoa Khố đập mạnh bàn tay vừa thô vừa to của mình xuống bàn, hai bầu vú rung lên lớn tiếng đáp trả: “Tao điên rồi, bị mày bức cho phát điên rồi”. Trịnh Mã Thủy trợn tròn mắt gầm lên: “Mày đúng là đồ không biết xấu hổ, ai ngủ với mày thì mày tìm người đó mà đòi tiền chứ, mày dựa vào đâu mà đòi tiền của ông hả? Tiền của ông vất vả kiếm được từ việc mổ lợn, lẽ nào lại lấy ra để nhét vào cái lỗ thối của mày. Mày cho rằng cái lỗ thối của mày được đúc bằng vàng hả? Mau cút đi cho ông, nếu không ông mày không khách khí nữa đâu". Dư Hoa Khố tức tới mức mắt vằn đỏ gào lên: “Trịnh Mã Thủy, mày đúng là đồ khốn kiếp đáng bị bắn, mày vừa kéo quần lên đã bày đặt không nhận người hả. Mày đã hứa hôm qua đưa tiền cho tao, thế mà lúc này lại trở mặt. Tao đã phải nói hết nước hết cái với mày nhưng mày vẫn không chịu trả tiền, lại còn nói cùng lắm sẽ không đi lại với tao nữa. Tao đúng là loại mù mắt mới coi trọng đồ chó nhà mày. Mày còn không đàng hoàng bằng Tam Lại Tử. Mày còn có phải là đàn ông nữa không vậy? Mới tối hôm trước mày còn mò vào nhà bà lúc nửa đêm canh ba, chui vào giường vừa ngủ vừa cắn vú bà, còn gọi bà là mẹ. Mày mới là đồ mặt thớt không biết xấu hổ, đầu vú bà bị mày cắn nát rồi. Mọi người vào đây mà xem trên vú tôi còn có dấu răng của thằng khốn kiếp này đây này”. Dư Hoa Khố vừa nói vừa cởi áo ra, trưng một bên vú to như quả đu đủ già cho mọi người xem. Người xem cười ầm lên. Có người nói: “Dư Hoa Khố à, vú của bà bị bao nhiêu thằng đàn ông cắn nát rồi?” Lại có người mỉa mai: “Dư Hoa Khố à, bà thậm chí còn làm với thằng hạ tiện Tam Lại Tử, nước dãi của thằng Tam Lại Tử còn trên vú bà không vậy, có phải bà chẳng rửa ráy gì đã đưa cho Trịnh Mã Thủy cắn phải không?” “…” Mặt Trịnh Mã Thủy lúc đỏ lúc tái, mắt hắn tóe lửa, răng nghiến kèn kẹt, giơ tay về phía chuôi dao mổ lợn. Trịnh Mã Thủy vung con dao sáng quắc lên, tay run run. Dư Hoa Khố nhìn bộ dạng tức giận của Trịnh Mã Thủy thì cũng khiếp sợ, nhét bầu vú vào trong áo rồi cài hết cúc lại. Mụ ta cướp miếng thịt to trên bàn rồi chạy. Trịnh Mã Thủy không kìm được cơn giận nữa, ai cướp thịt lợn cũng đồng nghĩa với việc cướp thịt của chính hắn. Hắn xách dao đuổi theo. Có người lớn tiếng hô: “Trịnh Mã Thủy sắp giết người rồi”. Chuyện giữa Dư Hoa Khố và Trịnh Mã Thủy nhanh chóng đồn đến tai mụ hoàn toàn. Mặc dù người tham gia chợ phiên không nhiều như trước, nhưng vẫn có không ít người tới quán ăn của mụ ta. Mụ ta muốn đi xem nhưng không đi được. Sau khi nghe một thực khách kể chuyện về Dư Hoa Khố và Trịnh Mã Thủy xong, mụ liền giở giọng: “Hay quá, tốt nhất là Trịnh Mã Thủy giết chết con mụ Dư Hoa Khố kia, như vậy đứa hôi thối chênh chếch quá của tôi lại có việc làm ăn. Cái thằng hôi thối đó mấy ngày gần đây kiếm được vô số tiền từ người chết rồi”. Đúng lúc này có một người phụ nữ mặc bộ quần áo dân tộc đi ngang qua quán ăn của mụ hoàn toàn. Người đó nghe thấy mụ ta nói vậy liền dừng bước, trên tay cầm đôi quang gánh bằng tre. Cái nón lá được kéo sụp xuống rất sâu, không thể nhìn thấy mắt cô ta. Liếc xéo cô ta một cái, mụ biết đó là người chuyên bán giỏ tre. Rổ rá trong quán mụ phần lớn là mua của cô ta. Cô gái này dường như phiên chợ nào cũng tới thị trấn Đường bán giỏ tre, thế nhưng từ trước tới giờ chưa từng tới quán của mụ ta ăn. Hồ Nhị Tẩu cười mời mọc: “Vào đây ăn chút đồ rồi đi”. Cô ta đi về phía Hồ Nhị Tẩu. Khi tới trước mặt mụ, cô ta dùng tay gạt nón lên cao một chút, mụ ta nhìn thấy cặp mắt đỏ lòm, trong giây lát một luồng sáng đỏ chiếu vào mặt mụ hoàn toàn, phút chốc đôi mắt của mụ ta cũng đỏ lòm như máu. Cô gái đó khẽ nói: “Mụ trúng rồi”. Hồ Nhị Tẩu run rẩy, miệng tự nhiên há hốc ra, có thứ gì đó mềm mềm nhớt nhớt trượt từ cổ họng mụ xuống dưới. Cô gái đó lại kéo sụp nón xuống rồi đi ra khỏi quán ăn, đi về hướng tây thị trấn. Trừ mụ Hồ Nhị Tẩu ra, không ai nhìn thấy cặp mắt đỏ của cô gái. Mụ ta đứng như trời trồng ở đó như bị ma nhập.

16

Sự lạnh lẽo trong rừng sâu có thể khiến giọt nước đóng băng. Nhưng căn nhà gỗ nhỏ vẫn ấm áp như mùa xuân. Một chậu than đỏ được đặt giữa phòng khiến cả gian phòng như đang ở một thế giới khác. Sau khi mùa đông đến, Tống Kha đã nếm được hương vị ngon ngọt nhất trên đời. Mỗi lần tới căn nhà gỗ nhỏ, anh lại được Lăng Sơ Bát tiếp đón bằng một món sơn hào hải vị hầm với những vị thuốc quý hiếm khác nhau, ví như xuyên sơn giáp, cáo quả tử, lợn rừng… Các vị thuốc cũng không chỉ có rễ hương đằng tử mà còn có nhân sâm, đương quy, nhung hươu. Mỗi lần uống hết bát canh, trong lòng Tống Kha lại nhen nhóm một ngọn lửa dục vọng khiến mùi tanh thối trên người anh càng trở nên đậm đặc. Lăng Sơ Bát ngửi thấy mùi đó, trên khuôn mặt cô xuất hiện vẻ hồng hào… Màu đông này đối với họ mà nói hạnh phúc vô cùng, mặc dù khi mùa đông này kết thúc, sẽ có rất nhiều bất trắc xảy đến. Tối đó, sau khi làm tình với nhau, Tống Kha ôm chặt Lăng Sơ Bát vào lòng rồi đề nghị: “Sơ Bát à, lấy anh nhé! Chúng mình kết hôn, rồi mua một căn nhà ở thị trấn, sau đó cả hai chúng ta dọn lên thị trấn ở”. Lăng Sơ Bát khẽ đáp lại: Bây giờ chúng ta cũng có khác gì kết hôn đâu? Anh yêu à, anh là của em, mãi là của em”. Tống Kha thở dài một tiếng: “Không giống, hiện tại quan hệ giữa chúng ta chưa được công nhận, hơn nữa mỗi lần anh tới đây cứ phải lén lén lút lút như trộm vậy. Cũng chẳng biết lúc nào có thể tới, muốn ở lại thêm chút nữa với em cũng không được, lại phải tất tả đi về. Anh không muốn như vậy, anh muốn được sống với em một cách quang minh chính đại, muốn sống cuộc sống vợ chống ân ái với em”. Lăng Sơ Bát ôm chặt Tống Kha, giọng cô đầy vẻ bất lực: “Bây giờ chưa được, em không thể kết hôn cùng anh, cũng không thể cùng anh lên sống ở thị trấn. Chỗ này mới thực sự là nhà của em. Cũng phải thú thật với anh một điều, em có rất nhiều nỗi khổ tâm, em thực sự không thể rời xa nơi này được”. Tống Kha thắc mắc: “Tại sao vậy?” Lăng Sơ Bát lại thở dài đáp: “Bây giờ em chưa thể nói cho anh được, tới thời điểm nhất định, anh sẽ biết thôi. Em sợ rằng sau khi anh biết chuyện của em thì anh sẽ rời xa em. Để chúng mình được sống những chuỗi ngày có nhau, hiện giờ em tạm thời không thể nói cho anh biết được. Anh yêu, hãy tha thứ cho em, đừng hỏi em bất cứ điều gì nữa được không? Lúc hai ta ở bên nhau chỉ cần vui vẻ là được rồi, những việc khác anh đừng bận tâm nhiều như vậy được không?” Tống Kha không nói gì. Anh thắc mắc không hiểu trong lòng cô có bao nhiêu bí mật không ai biết?

17

Hồ Nhị Tẩu tỉnh lại vào buổi sáng sớm, nhưng không nhớ nổi những chuyện xảy ra trong ngày chợ phiên ngày 25 tháng Mười âm lịch đó nữa. Cả thể xác lẫn tâm hồn của mụ ta có gì đó xáo trộn. Trán của mụ ta giống như bị thiêu đốt, xuất hiện một mảng cháy đen, dùng tay chạm vào cảm thấy ráp ráp. Môi của mụ ta cũng sưng phồng tím tái giống như hai miếng lạp xưởng. Lúc thì xông lên tận họng, như thể muốn xé họng chui ra, lúc lại xộc xuống hậu môn… Thần trí mụ ta không tỉnh táo nữa, dường như mụ ta nhìn thấy Thẩm Văn Tú đang cười gằn, chực nhảy bổ vào người mụ, bên tai mụ lúc nào cũng xuất hiện những tiếng la hét thê lương. Hồ Nhị Tẩu mở cặp mắt đỏ lòm, kinh hãi nhìn thấy Thẩm Văn Tú nhảy xổ về phía mụ rồi vật mụ xuống giường. Bất giác, mụ cảm thấy mình đã phạm một trọng tội không thể tha được, mụ hét toáng lên: “Tôi đáng chết! Đáng chết!” Mụ chạy ra khỏi phòng ngủ, chạy ra quán ăn thì thấy rất nhiều bóng đen đang bay qua bay lại, những bóng đen đó còn kêu lên những tiếng thê lương. Thẩm Văn Tú cũng đuổi theo mụ, cô ta lệnh cho những bóng đen kia: “Mau bắt lấy mụ ta, hãy bắt mụ già độc ác họ Hồ kia rồi xé mụ ra cho ta”. Mụ ta sợ tới mức hồn bay phách lạc, cứ luôn mồm kêu; “Tôi đáng chết! Tôi đáng chết! Thẩm Văn Tú à, đáng lẽ tôi không nên hắt nước tiểu lên người cô, cô tha cho tôi đi, tha cho tôi đi!” Thẩm Văn Tú vẫn cười gằn rồi giơ móng tay nhọn về phía Hồ Nhị Tẩu. Mụ đẩy cửa trốn ra ngoài. Mụ chạy điên cuồng trên đường phố với mái tóc bù xù, vừa chạy vừa nói: “Tôi đáng chết, tôi đáng chết!” Những người dậy sớm nhìn thấy bộ dạng của mụ đều ngỡ ngàng thốt lên: “Mụ Hồ Nhị Tẩu sao lại bị điên như vậy?” Chạy tới trước mặt gã đồ tể Trịnh Mã Thủy, mụ túm lấy con dao róc xương trên bàn. Nắm chặt con dao trong tay, quay người lại rồi giơ dao ra, mụ kinh hãi đứng ở giữa đường rồi khàn giọng hét lên: “Thẩm Văn Tú, cô đừng có lại đây, đừng có lại đây đấy… Cô mà tới đây tôi sẽ đâm chết cô đấy, còn chúng mày nữa, những hồn ma, chúng mày được Thẩm Văn Tú mời tới phải không? Chúng mày cũng đừng lớ rớ tới đây, đừng mò tới đây… Nếu chúng mày tới đây, tao cũng sẽ đâm chết chúng mày… Tôi đáng chết! Thẩm Văn Tú à, tôi đáng chết, tôi không nên đổ nước tiểu lên người cô…” Trịnh Mã Thủy nói với mụ: “Mụ Hồ Nhị Tẩu, mụ bỏ dao xuống đi. Đừng làm người khác bị thương, bây giờ đang là ban ngày ban mặt làm gì có Thẩm Văn Tú nào chứ. Thẩm Văn Tú chết từ đời nào rồi, cho dù cô ta có là ma thì chỉ có thể xuất hiện vào buổi tối thôi. Mụ Hồ Nhị Tẩu, bỏ dao xuống đi”. Mụ ta liền quay người lại nhìn chòng chọc vào Trịnh Mã Thủy, chĩa con dao róc xương về phía hắn: “Mày, mày cũng là ác quỷ, mày đừng có lại đây, nếu mày tới đây, tao cũng sẽ đâm chết mày, đâm chết mày”. Trịnh Mã Thủy nhìn thấy đôi mắt đỏ lòm của mụ ta rất lạ liền lớn tiếng nói với lũ người tới xem: “Mụ Hồ Nhị Tẩu điên rồi!” Cái tin Hồ Nhị Tẩu bị điên lan nhanh khắp thị trấn Đường. Tất cả những người vừa nghe tin này liền ngỡ ngàng: “Mụ Hồ Nhị Tẩu điên rồi? Tại sao mụ ta lại điên vậy?” Những người tới xem náo nhiệt nhưng họ cũng không quây lại như xem diễn trò như mọi khi. Họ túm năm tụm ba lại giữ khoảng cách nhất định đối với mụ Hồ Nhị Tẩu đang cầm con dao róc xương kia. Họ vừa muốn xem xem tiếp theo sẽ có trò gì, lại vừa sợ mụ chủ quán điên kia làm mình bị thương. Có người nhận định: “Chắc chắn mụ Hồ Nhị Tẩu bị hồn ma của Thẩm Văn Tú bức cho bị điên”. Người đứng bên cạnh liền thúc cùi chỏ khẽ nhắc: “Đừng đoán mò, thế nhà anh không sợ hồn ma của Thẩm Văn Tú bám lấy à?” Người đó chỉ biết thè lưỡi, không dám nói gì nữa. Bỗng mụ Hồ Nhị Tẩu ném lao xuống đất, rồi ngồi phịch trên phiến đá lát đường, mụ khóc toáng lên, nước mắt nước mũi đầm đìa. Trịnh Mã Thủy định đi tới nhặt con dao róc xương lên nhưng không dám, hắn sợ mụ ta đột nhiên vớ lấy con dao đâm thẳng vào cái bụng đầy mỡ của mình. Trịnh Mã Thủy lại nghĩ tới mụ góa Dư Hoa Khố, nếu Dư Hoa Khố mà cũng điên nốt thì hắn phải làm sao đây. Mụ ấy khỏe như vâm, người đàn ông bình thường ở thị trấn Đường cũng không giữ nổi mụ. Hồ Nhị Tẩu khóc một hồi, đột nhiên đứng bật dậy rồi lẩm nhẩm một mình: “Thẩm Văn Tú à, tôi sai rồi. Lẽ ra tôi không nên hắt nước tiểu vào người cô… Đúng, đúng, chỉ cần cô bỏ qua cho tôi, tôi sẽ làm bất cứ chuyện gì, tôi đi, tôi sẽ tới ngõ Thi Niệu ngay…” Mụ hoàn toàn tất tưởi đi về phía ngõ Thi Niệu. Ngõ Thi Niệu bốc mùi khai thối. Mụ ta ngồi xuống một hố phân, giơ tay bốc một nắm cứt từ dưới hố phân lên rồi nét vào mồm, vừa nhét vừa nói: “Tôi ăn, tôi ăn cho cô xem, cô tha cho tôi đi, tôi sẽ không bao giờ dám hắt nước tiểu lên người cô nữa, sẽ không bao giờ dám đặt điều lung tung nữa…”

18

Vào một ngày cuối đông, Tống Kha bỗng dưng nhớ tới Tam Lại Tử, đã mấy ngày rồi anh không nhìn thấy hắn. Anh bước ra cửa hiệu, nhìn thấy Hồ Nhị Tẩu đầu bù tóc rối đang quỳ trước cửa quán ăn rồi vái lia lịa những người đi trên đường. Vừa vái mụ ta vừa nói: “Tôi đáng chết, tôi đáng chết…” Anh khó chịu vô cùng nhưng thực lòng rất đồng cảm với người đàn bà cô độc giống như anh vậy. Anh có sự lý giải mới đối với những việc mụ ta làm trước kia, có thể mụ làm tất cả những chuyện đó là để giải tỏa nỗi bực dọc tích lũy từ lâu. Tống Kha cũng chỉ có thể thể hiện sự đồng cảm của mình, anh thực sự chẳng có cách nào giúp mụ ta được. Người đàn ông của mụ sau khi nghe tin mụ bị điên cũng về thăm một lần, không lâu sau đó thì kiên quyết ra đi, mụ giống như miếng giẻ rách không dùng vào việc gì được vậy. Đây là điều khiến Tống Kha cảm thấy thương mụ. Anh cũng khó xác định được nếu Lăng Sơ Bát bị điên thì liệu anh có bỏ cô như bỏ một cái giẻ lau vô dụng không? Một luồng gió lạnh thổi ngang qua đường. Tống Kha cảm thấy lạnh thấu xương. Không hiểu mụ chủ quán với áo quần rách nát kia có bị lạnh không nữa? Tống Kha nhận thấy mụ chẳng có cảm giác gì với gió lạnh cả. Có phải người điên thì không cảm nhận được sự nóng lạnh trên nhân gian? Nếu thế thì, anh mong rằng mụ sẽ không tỉnh táo lại, như vậy mụ sẽ không phải chịu đau khổ và tổn thương một lần nữa. Tống Kha đi tới cửa hiệu giày dép, mua một đôi giày vải rồi đi về hướng miếu Thổ Địa. Trong tâm trí anh thì từ trước tới giờ Tam Lại Tử chưa từng đi giày. Gót chân của hắn cứng như sắt vậy, mặc dù vậy anh vẫn lo bàn chân của hắn sẽ bị đông cứng trong ngày đông lạnh giá như thế này. Thế nhưng, khi tới miếu Thổ Địa, Tống Kha không tìm thấy Tam Lại Tử. Chăn gối của hắn vẫn để ở một góc đằng sau bức tượng ông bà Thổ Địa. Anh đặt đôi giày mới vào cuối chiếc chăn. Anh đi khỏi miếu Thổ Địa, gió lạnh vẫn gào thét. Anh không biết giờ này Tam Lại Tử đang ở đâu, có lẽ nào lại đang run rẩy trong gió lạnh? Thực ra, Tam Lại Tử đã rời khỏi miếu mấy ngày trước. Hắn đi về phía núi lớn phía tây thị trấn. Lúc đó, hắn vừa mớ đào xong huyệt cho một người trong thị trấn vừa chết. Và người bị chết đó cũng là một người giàu, tình trạng chết giống hệt với ông Chu Quý Sinh… Không hiểu Tam Lại Tử ngày càng gầy guộc kia muốn đi đâu? Chẳng ai biết cả. Cũng có thể lòng hắn có nỗi giày vò nào đó nên đã rời khỏi thị trấn Đường. Chính trong ngày cuối đông đó, Chung Thất chết.

19

Hôm đó là ngày mùng 2 tháng Mười hai âm lịch năm Dân Quốc thứ ba mươi lăm. Hôm đó là một ngày âm u. Mới sáng sớm, Dương Phi Nga mặc dù bệnh tật yếu ớt đã dậy nấu cháo cho Chung Thất. Tỉnh dậy, Chung Thất nói chẳng muốn ăn gì cả. Dương Phi Nga cũng chẳng nói gì thêm. Sau khi được Chung Thất đưa về, Dương Phi Nga rất ít khi đi ra khỏi nhà. Cô ta trở nên lặng lẽ như trước, đôi khi cũng chẳng muốn nói thêm một câu. Chung Thất cũng trở nên yên ắng hơn, giống như một cục đá. Càng ngày họ càng ít nói chuyện với nhau, nhưng càng ngày lại càng hiểu nhau hơn. Bởi căn bản họ cũng không cần dùng quá nhiều lời để biểu đạt điều gì đó, chỉ cần trao nhau một ánh mắt, họ đã biết đối phương đang nghĩ gì, đang cần gì. Bình thường họ cũng hiếm khi đi ra khỏi cửa, chỉ những lúc tới nhà họ Trịnh khám và bốc thuốc thì họ mới đi. Trong nhà Chung Thất nồng nặc mùi thuốc bắc. Đôi khi Chung Thất ngửi thấy mùi thuốc bắc nồng nặc lại nôn thốc nôn tháo. Nhưng cũng chẳng có cách nào để sống tiếp được nên họ vẫn phải kiên trì uống thuốc. Trong đầu Chung Thất bỗng xuất hiện ý nghĩ, chờ cho tới khi họ chữa trị khỏi bệnh hoa liễu xong thì sẽ tới đón mẹ và bọn trẻ con về. Người khiến Chung Thất và Dương Phi Nga cảm động chính là con trai ông lang Trịnh Triều Trung – Trịnh Vũ Sơn. Anh ta không những không kỳ thị mà còn rất chuyên tâm chữa trị cho họ. Chung Thất đã tiêu hết những đồng tiền vơ vét được trước kia, nhưng Trịnh Vũ Sơn vẫn cho hắn nợ tiền thuốc uống và thuốc bôi. Dần dà cũng thấy bệnh tình của họ càng ngày càng khả quan. Cứ ngỡ ngày hạnh phúc cả nhà đoàn viên của họ sắp tới gần thì Chung Thất lại lăn ra chết vào ngày đông lạnh âm u. Tới trưa, Chung Thất trở nên lo lắng vô cùng. Dương Phi Nga nghĩ có lẽ Chung Thất lại bắt đầu đau ngứa. Thế nhưng lần này, cô ta đã không hiểu ý của Chung Thất. Cô ta không nói gì, lặng lẽ đứng dậy đi lấy thuốc để chuẩn bị bôi cho Chung Thất. Tới khi cô ta lấy thuốc ra thì Chung Thất đã rời khỏi nhà. Cánh cổng lớn thường ngày đóng chặt hiện mở toang, Dương Phi Nga lo lắng không hiểu hắn đi đâu? Dương Phi Nga chạy ra cửa, cô ta không thấy bóng Chung Thất trong ngõ nữa. Cô ta liền đóng cửa lại, ngồi trên chiếc ghế mây nghe gió gào thét bên ngoài cửa, kiên nhẫn chờ Chung Thất về. Chung Thất sốt sắng đi ra bờ đập. Hắn đứng trên bờ đập, rồi nghe thấy có tiếng khóc vọng tới. Là ai đang khóc vậy? Chung Thất sợ hết hồn. Hắn muốn về nhưng không còn kịp nữa. Trên bờ đập không có ai cả, một ngày lạnh như thế này ai cũng muốn co cụm trong nhà sưởi bếp than, làm gì lại có ai tới bờ đập này khóc lóc chứ? Cuối cùng, Chung Thất nhìn thấy một người từ nơi xa lắm, người hắn nhìn thấy mặc chiếc áo dài tay màu xám và đang đứng trên những ngôi mộ lô nhô trên sườn núi Ngũ Công Lĩnh. Đó có phải là họa sĩ Tống Kha, người mà hắn đã phải lên phố huyện mời về? Lẽ nào tiếng khóc phát ra từ chỗ Tống Kha? Bỗng dưng, Chung Thất nghĩ nếu như khi đó hắn không lên phố huyện tìm họa sĩ, thì hắn sẽ không tới chơi bời ở động quỷ trong phố huyện, cũng có thể không mắc bệnh hoa liễu này. Nếu không mắc căn bệnh này, cũng có thể… Khuôn mặt hắn hé một nụ cười, nhưng trên thế giới này làm gì có nhiều cái giá như vậy chứ? Nhưng hắn không hiểu nổi tại sao Tống Kha lại khóc bên sườn núi với những ngôi mộ lô nhô này. Chung Thất vẫn vô cùng lo lắng, lòng hắn nóng như lửa đốt. Lúc này, hắn phảng phất nghe thấy tiếng tiêu. Tiếng tiêu rất thê lương. Tiếng khóc rất thê lương. Tiếng khóc vẫn tiếp tục. Tiếng tiêu và tiếng khóc quyện vào nhau khiến Chung Thất càng thấy lo hơn. Chung Thất đi xuống đập sông trong sự lo lắng khôn nguôi, nếu như ban đầu hắn không biết mục đích đi ra khỏi nhà của mình, thì lúc này hắn biết mình muốn đi qua cái cầu gỗ nhỏ để đi lên sườn núi Ngũ Công Lĩnh, để được nghe tiếng tiêu của Tống Kha. Lòng hắn bỗng dâng lên niềm thôi thúc nói chuyện với Tống Kha, nhưng việc nói gì thì hắn vẫn chưa nghĩ ra. Chung Thất đi lên cầu gỗ, nhưng chưa được mấy bước đã cảm thấy chóng mặt. Hắn hụt chân rơi tõm xuống nước. Chung Thất đã chết như vậy, người phát hiện ra xác của hắn là Tống Kha. Hắn chết, chẳng có ai trong thị trấn Đường thương xót, xác của hắn chỉ được gia tộc họ Chung chôn cất qua loa, duy có một mình Dương Phi Nga tới đưa tang. Hai đứa con trai của hắn sau khi biết tin bố mình bị chết chỉ cười nhạt. Cái chết của Chung Thất khiến người dân trong thị trấn Đường cảm thấy khó hiểu, hiện tại là mua nước cạn, dòng nước suối chảy rất yếu, chỗ sâu nhất cũng chỉ ngập bắp chân, chỗ Chung Thất chết nước chỉ ngập mắt cá mà thôi. Nước nông như vậy làm sao có thể khiến cho một Chung Thất to cao là vậy chết chìm được chứ? Đó là một bí ẩn. Và cũng có người nói là hồn mà Thẩm Văn Tú đã ấn đầu Chung Thất xuống nước cho chết sặc.

20

Đêm sau khi Chung Thất chết trở nên dài đằng đẵng và lạnh lẽo vô cùng. Dương Phi Nga cô độc một mình ngồi trong phòng Chung Thất, lắng nghe tiếng gió bên ngoài cửa. Trong tiếng gió có tiếng khóc thầm, nhưng cô ta lại không khóc. Chưa khi nào Dương Phi Nga bình tĩnh như vậy, dường như cô ta đã không còn nước mắt nữa. Khóe miệng co ta thoáng hiện nụ cười, ánh mắt cô ta đang nhìn xuyên qua , màn sương đêm. Ánh đèn dầu trong phòng tự dưng phập phù. Hình như Dương Phi Nga nghe thấy một tiếng thở dài. Cô ta biết, đó không phải là tiếng thở dài của mình, cũng không phải là tiếng thở dài của Chung Thất, mà là của một người phụ nữ khác. Dương Phi Nga cười khẩy một tiếng rồi nói: “Cô hài lòng rồi chứ? Chung Thất đã chết rồi, cô không nên hận thù nữa. Nếu cô hận tôi thì lấy luôn mạng sống của tôi đi. Tôi không còn sợ nữa đâu, dù gì tôi cũng đã được sống chuỗi ngày tháng của con người, tôi mãn nguyện rồi”. Nói rồi, Dương Phi Nga liền đứng dậy đi tới trước tủ. Cô mở ngăn kéo giữa, rồi lôi bức truyền thần của Thẩm Văn Tú mà Chung Thất cất giữ bấy lâu ra, ngồi lặng trên ghế mây nhìn bức truyền thần. Căn phòng bỗng nhiên trở nên yên tĩnh khác thường. Dương Phi Nga còn nghe thấy tiếng tim mình đập. Cả tiếng thở của cô nữa. Dương Phi Nga nói với bức truyền thần: “Họa sĩ Tống không hổ là cao thủ, anh ta đã vẽ chị giống thật như vậy, tuy rằng vẫn còn một số điểm chưa đạt. Xem ra, tôi không có cái phúc phận được họa sĩ Tống vẽ truyền thần cho. Đúng là rốt cuộc thì giữa người với người vẫn có sự khác biệt. Có điều, tôi không hề đố kị với chị, cái tôi đáng có thì đã nhận được rồi. Chị đi tìm hồn ma của Chung Thất đi, hiện giờ anh ấy đã không còn ở bên tôi nữa”. Dương Phi Nga nói xong liền để bức truyền thần lên trên đèn dầu. Mãi tới khi bức truyền thần cháy hết chỉ còn một làn khói xanh bay lên. Dương Phi Nga nghe thấy tiếng bước chân nhẹ xa dần, biến mất trong gió…

21

Buổi tối hôm nay đối với Tống Kha mà nói là một đêm khó ngủ, đã hai ngày rồi anh không nhận được lời gọi của Lăng Sơ Bát và con rắn xanh dẫn đường kia. Tống Kha cảm thấy lo lắng không yên. Gần đây, chỉ cần không được tới ngôi nhà gỗ nhỏ trong rừng kia là anh cảm thấy thấp thỏm không yên. Cũng có khả năng là Lăng Sơ Bát đã tẩm bổ quá nhiều cho anh. Trong đầu anh tràn ngập hình bóng của Lăng Sơ Bát, trong tim anh lúc này đã không còn hình bóng của Tô Tĩnh nữa. Người con gái Tô Tĩnh – mối tình đầu của anh đã bị anh quên lãng hoàn toàn. Mặc dù khi xưa, anh đã vì cô mà rời bỏ Thưởng Hãi, hoàn toàn không phải để trốn tránh chiến loạn.

Những lúc cô đơn như vậy anh thường mong những hồn ma trong bức truyền thần được xếp dưới giường sẽ bay ra nói chuyện với anh, nhưng đã rất lâu rồi không thấy các hồn ma đó xuất hiện. Điều này khiến anh cảm thấy hụt hẫng trong cảm giác bất an. Tống Kha nhìn chằm chằm vào ngọn đèn dầu lay lắt, anh mong niềm hi vọng của anh sẽ xuất hiện trong đốm lửa đó. Bỗng dưới nhà vọng lên tiếng gõ cửa đều đều. Ai lại gõ cửa nhà anh lúc nửa đêm canh ba thế này? Là Tam Lại Tử? Hay nhà ai có người chết? Bất luận là ai, tiếng gõ cửa cũng mang tới cho anh sự kích thích. Tống Kha đi xuống tầng dưới mở cửa. Tống Kha vô cùng ngỡ ngàng bởi người đang đứng trước cửa lúc này là Dương Phi Nga. Sau khi vào nhà, cô ta liền quỳ sụp xuống trước mặt anh. Đứng trước cảnh tượng này, Tống Kha bối rối không biết phải làm sao, “Cô, tại sao cô làm vậy?” “Họa sĩ Tống à, tối nay tôi tới đây là muốn cầu xin anh một việc”. Tống Kha căng thẳng: “Có chuyện gì thì cô đứng lên rồi nói, quỳ lâu như vậy không tốt đâu”. Dương Phi Nga nói một cách kiên định: “Để tôi nói xong, anh nhận lời thì tôi mới đứng dậy”. Tống Kha chẳng biết làm sao đành phải nhận lời: “Vậy thì cô nói nhanh lên”. “Tôi chỉ muốn cầu xin anh vẽ cho Chung Thất một bức truyền thần. Tôi biết, anh vẽ truyền thần sau đó nhận thù lao, những người giàu có trả cho anh nhiều tiền. Nhưng hiện giờ tôi chẳng còn chút tiền nào cả, Chung Thất đã tiêu hết tất cả tiền vào việc chuộc tôi và điều trị bệnh hoa liễu cho cả hai. Đến cả đồ trang sức của tôi cũng bán hết rồi. Hiện giờ đang còn nợ rất nhiều tiền thuốc cho nhà họ Trịnh. Chung Thất đi rồi, tôi biết đây là số mệnh của tôi, tôi chỉ cầu xin anh vẽ cho anh ấy một bức truyền thần để tôi có thể mang đi. Tôi chẳng còn gì nữa rồi, ngay cả thân thể tôi cũng bẩn thỉu, nếu không tôi nguyện hiến thân cho anh để anh vẽ truyền thần cho Chung Thất. Cầu xin anh đấy họa sĩ Tống, hãy để tôi khấu đầu trước anh”. Nói xong, Dương Phi Nga liền đập đầu liên tục xuống sàn, trán cô ta rớm máu. Tống Kha cảm động trước hành động của Dương Phi Nga, lúc này máu trên trán cô ta đã chảy thành dòng, anh dìu cô ta đứng dậy rồi nói: “Phi Nga à, thật hiếm người có tấm lòng như cô, tôi vẽ, cô cứ ngồi ở đây đợi tôi. Tôi đi vẽ ngay đây!” Dương Phi Nga cảm kích nói tiếp: “Cám ơn họa sĩ Tống nếu còn kiếp sau, tôi nhất định sẽ báo đáp anh”. Tống Kha lên lầu, chỉ nửa canh giờ sau đã vẽ xong bức truyền thần cho Chung Thất. Lúc vẽ, Tống Kha dường như cảm nhận được Chung Thất đang đứng bên cạnh. Lúc Tống Kha vẽ, anh có cảm giác Chung Thất đứng ở bên nói với mình: “Chỗ này anh vẽ rất tốt, đúng rồi, anh vẽ cái mũi to hơn một chút…” Sau khi tiễn Dương Phi Nga ra khỏi cửa, dõi theo bóng cô ta mất hút trong màn đêm lạnh giá, anh cảm động vô cùng, lòng thầm nghĩ: “Nếu sau này tôi chết đi, liệu có ai đối với tôi giống như vậy không?” Tống Kha đang nghĩ vẩn vơ thì một bóng đen đột nhiên lao ra, đẩy Tống Kha vào nhà rồi cẩn thận chốt cửa lại. Lúc này, Tống Kha đã có thể nhìn rõ mặt người này, đó là mụ góa Dư Hoa Khố. Tống Kha ngạc nhiên bội phần, đêm nay không hiểu sao vừa mới tiễn Dương Phi Nga đi, thì lại xuất hiện mụ góa Dư Hóa Khố. Tống Kha cảm thấy bất ổn, Dương Phi Nga tới cầu xin anh vẽ truyền thần cho Chung Thất, vậy mụ góa Dư Hoa Khố tới làm gì? Mụ chắc chắn không thể tới tìm anh về việc vẽ truyền thần cho một người nào đó. Mụ cố nặn nụ cười: “Họa sĩ Tống à, tới cả con điếm lở loét Dương Phi Nga mà cậu cũng chơi, vậy cậu chiến luôn tôi đi. Cậu cho con điếm đó bao nhiêu tiền thì cho tôi chừng ấy, tôi sẽ không chê ít đâu, tôi cũng không quan tâm tới mùi hôi thối trên người cậu”. Tống Kha sững người, có vẻ như mụ ta đã phục ở góc nào đó trong bóng tối theo dõi cửa hiệu truyền thần của anh, mụ ta hiểu làm Dương Phi Nga tới làm chuyện đồi bại kia với Tống Kha. Và cũng có khả năng mụ ta đã ôm ý đồ này với anh từ lâu lắm rồi. Tống Kha giải thích: “Dư Hoa Khố, tôi không đê tiện như tưởng tượng của bà đâu, bà nên tự trọng một chút, bà mau đi đi!” Mụ ta cười nhạt nói tiếp: “Cậu không cần phải giả bộ chính nhân quân tử làm gì, chẳng phải Dương Phi Nga vừa mới đi hay sao? Tôi biết cậu có rất nhiều tiền. Từ mùa thu tới mùa đông, trong thị trấn Đường đã có nhiều người chết thế kia mà. Cậu cũng kiếm được khá rồi phải không? Nhưng kiếm nhiều tiền thế để làm gì chứ? Đàn bà con gái trong thị trấn Đường đều chê cậu thối, do vậy cậu đành phải tìm loại phụ nữ như Dương Phi Nga đúng không? Tôi cũng giống với con điếm đó, không chê cậu, thật ra thì tôi còn sạch sẽ hơn con đó nhiều. Tôi chỉ cần tiền thôi, cậu biết mà, tôi là một bà góa, còn phải nuôi một lũ con. Chúng nó giống như sói vậy, lúc nào cũng đòi ăn. Tôi ngủ với cậu, cậu cho tôi tiền, tôi chẳng quan tâm tới bất cứ chuyện nào khác…” Nghe xong những lời đó, Tống Kha giận run người: “Dư Hoa Khố, bà mau đi đi, không tôi gọi người tới bây giờ”. Mụ ta cười nhạt châm chọc: “Họa sĩ Tống, cậu cứ hét lên, nếu cậu không hét thì cậu là con tôi. Tôi sợ cái gì chứ? Danh tiếng của tôi từ lâu đã be bét lắm rồi, tôi còn sợ gì nữa đây. Có lẽ tôi sẽ nói với mọi người rằng cậu dụ tôi tới đây, nếu không tôi làm sao vào cửa nhà cậu được chứ. Cậu thử nghĩ xem người ta sẽ tin ai?” Mụ ta vừa nói vừa cởi quần áo: “Cậu xem bầu vú của tôi này…” Tống Kha bó tay không biết phải làm gì, khuôn mặt trắng bệch mọi khi đỏ rần lên: “Bà, bà…” Dư Hoa Khố cởi hết quần áo, ưỡn ẹo lắc cái hông thô to bè đi về phía Tống Kha. Tống Kha lùi từng bước từng bước về phía sau, anh lùi tới góc tường thì không còn đường lui nữa. Anh sợ hãi nhìn người phụ nữ trước mặt – người đã bị cuộc sống bức cho bị điên – mà không biết phải đối phó thế nào. Đúng lúc này, Dư Hoa Khố hét lên một tiếng rồi đứng im tại chỗ. Dư Hoa Khố nhìn thấy một con rắn xanh trườn xuống từ cầu thang, tiếp tục lại một con rắn xanh khác xuất hiện… Không lâu sau đó, trên cầu thang nhung nhúc những rắn. Lũ rắn đó bò về phía mụ ta, phát ra những tiếng khè khè đáng sợ. Âm thanh đáng sợ đó gặm nhắm thần kinh của mụ một cách tàn nhẫn. Từng thớ thịt rung lên, mụ chỉ biết hét lên một tiếng như điên, vơ vội quần áo chạy bán sống bán chết ra cửa. Tống Kha cũng không hiểu tại sao mụ ta lại kinh hoàng như vậy bởi anh không nhìn thấy con rắn nào cả, chẳng nhìn thấy gì…  

22

  Tam Lại Tử quờ quạng trong bóng tối như một con chó đánh hơi mọi mùi vị phát ra từ trong rừng rậm. Hắn nhớ mùi tanh đó, nó giống với mùi tanh trên người Tống Kha nhưng lại vẫn có gì đó khác biệt. Tối hôm đó, hắn bị người đàn bà áo trắng dẫn tới khu rừng rậm, cô ta niệm chú rồi nhét một con rắn vào miệng hắn. Tam Lại Tử biết người đàn bà đó là một người nuôi trùng độc, không những thế còn là người nuôi trùng độc có khả năng siêu phàm. Cô ta có thể hạ trùng độc làm hại người khác bất cứ lúc nào, bất kể nơi đâu. Tam Lại Tử còn biết nếu như cô ta không hạ trùng độc với con người và súc vật thì chính bản thân cô ta sẽ bị ốm, sắc mặt sẽ dần dần khô vàng, sau đó thì toàn bộ cơ thịt trên người sẽ nhão ra cho tới lúc chết mới thôi. Nếu cô ta bỏ độc thành công, thì có thể đảm bảo bản thân cô ta trong ba năm không mắc bệnh, cũng không gặp tai họa gì. Nếu phóng trùng độc vào trâu, bò có thể đảm bảo một năm an lành, nếu phóng trùng độc vào cây có thể đảm bảo ba tháng. Lợn cũng là động vật có thể phóng trùng độc được, chó có thể phá trùng độc, do vậy những người nuôi trùng độc rất sợ và hận chó… Tam Lại Tử nghĩ thầm: “Mình đã sống chẳng có ý nghĩa gì, vậy tại sao người đàn bà áo trắng kia lại chọn mình làm tòng phạm giúp cô ta hạ trùng độc hại người chứ?”. Còn nữa, thực lòng Tam Lại Tử không muốn nhìn thấy Tống Kha bị cô ta làm hại. Hắn nhất định phải tìm được hang ổ của cô ta, cho dù hắn có bị trúng độc mà chết. Đúng rồi, hắn cảm thấy mình đã ngửi thấy mùi tanh, đó là mùi tanh tỏa ra từ bọn rắn. Vào mùa rắn ngủ đông này, sao lại xuất hiện rắn chứ? Tam Lại Tử giống như một con chó đánh hơi tìm mùi tanh của rắn, trời sáng dần lên…  

23

  Sáng sớm, sau khi tỉnh lại, Lăng Sơ Bát liền chui xuống gầm giường, mở một ván gỗ dưới giường ra. Cô ôm một lọ sành được bịt bằng vải đỏ để lên trên sàn. Căn nhà gỗ ấm áp vô cùng, Lăng Sơ Bát cởi hết quần áo rồi trần truồng đứng nhìn về phía lọ sành bịt vải đỏ niệm chú. Trên cái bụng trướng to của cô có những vết vằn xanh đỏ quấn vào nhau rất đáng sợ. Sau khi niệm chú, cô mở miếng vải bịt trên lọ sành, kéo ra một con rắn xanh dài khoảng một thước đặt vào chậu nước âm bên cạnh rồi bắt đầu rửa. Vừa rửa vừa nói gì đó, đôi mắt đỏ lòm của cô tóe ra ngọn lửa. Thời gian cô tắm táp cho con rắn kéo dài rất lâu, cô cẩn thận như tắm gội cho Tống Kha vậy. Người con rắn bốc mùi tanh khiến Lăng Sơ Bát cảm thấy đê mê. Sau khi tắm rửa xong xuôi cho con rắn, cô nhấc nó lên rồi nuốt vào miệng. Con rắn xanh nhanh chóng trôi tuột vào bụng, cái bụng trướng lên của cô chuyển động… Qua khe cửa nhỏ, một người đã nhìn thấy hết tất cả… Trước khi Lăng Sơ Bát đi ra khỏi nhà, người đó liền nấp đi. Lăng Sơ Bát hát một bài dân ca rất du dương rồi đi về phía rừng rậm… Mãi tới khi cô hoàn toàn biến mất thì người đó mới xuất hiện lại trước cửa ngôi nhà gỗ nhỏ. Người đó chính là Tam Lại Tử - kẻ đã mất tích mấy ngày nay tại thị trấn Đường. Hắn nhìn lại căn nhà gỗ nhỏ mấy lần rồi bỏ đi. Hắn lùi nhanh như một con chó về hướng thị trấn Đường…

24

Người Lăng Sơ Bát bị hắt đầy máu chó. Lúc cô bị cảnh sát phố huyện trí giật cánh gà áp giải từ thị trấn Đường lên phố huyện thì Tống Kha vẫn chưa dậy. Ánh mắt của cô dừng lại ở gác xép cửa hiệu truyền thần chưa được bao lâu đã bị những người áp giải đẩy đi. Người dân trong thị trấn Đường chẳng hiểu gì cả, cô gái miền núi thật thà vốn sống bằng nghề đan giỏ tre rốt cuộc lại là người nuôi trùng độc khiến mọi người khiếp sợ. Mụ điên Hồ Nhị Tẩu ngây ngô nhìn theo Lăng Sơ Bát bị giải qua, miệng vẫn không ngừng lẩm bẩm: “Tôi đáng chết, tôi thật sự đáng chết!” Sau khi Lăng Sơ Bát bị áp giải về phố huyện, cơ thể Tống Kha bắt đầu thay đổi. Bụng của anh lúc nào cũng sôi sùng sục. Anh cũng chẳng muốn ăn uống gì nên cơ thể tiều tụy trông thấy. Anh vốn cũng đã gầy nay biến thành bộ da bọc xương. Anh trốn trong cửa hiệu truyền thần, không ra ngoài, kể cả Tam Lại Tử tới gõ cửa, gọi to bên ngoài, anh vẫn kiên quyết không mở cửa. Anh thoi thóp nằm trên giường hồi tưởng lại quãng thời gian chung sống với Lăng Sơ Bát. Anh cũng nhớ tới Tô Tĩnh nữa… Chẳng ai biết chuyện giữa anh và Lăng Sơ Bát, Tam Lại Tử không nói, Lăng Sơ Bát cũng sẽ không nói. Lăng Sơ Bát đã thừa nhận việc hạ trùng độc dẫn tới cái chết của ông Chu Quý Sinh và mười mấy người nữa trong thị trấn Đường, nhưng cô không khai tại sao lại hạ độc họ. Lăng Sơ Bát bị giam tại nhà tù lớn của phố huyện, trên người cô bốc mùi thối khắm khó ngửi. Đó chính là mùi máu chó tưới trên người cô, nó đã bốc mùi hôi thối. Mỗi sáng, bọn lính gác đem một chậu máu chó tưới từ trên đầu cô xuống. Lúc đó, toàn thân Lăng Sơ Bát run lên cứ như thể bị rút hết toàn bộ gân mạch vậy. Màu đỏ trong mắt cô dần dần mờ đi. Sau khi Lăng Sơ Bát bị bắt đi, Chủ tịch Du thưởng Tam Lại Tử hai đồng đại dương. Lúc nhận tiền, Tam Lại Tử không hớn hở như mọi khi. Hắn lặng lẽ bỏ đi. Tam Lại Tử bung một chậu máu chó tới trước ngôi nhà gỗ nhỏ trong rừng rậm rồi hắt mạnh vào trong. Sau khi hắt hết, hắn nhặt rất nhiều cành cây khô dựng thành đống rồi châm lửa đốt. Căn nhà gỗ nhỏ bốc cháy. Tam Lại Tử bỗng ngửi thấy mùi thịt cháy, dường như hắn nhìn thấy hàng ngàn hàng vạn con rắn đang giãy giụa, rồi nứt ra trong lửa. Trên mặt hắn xuất hiện một nụ cười nhăn nhó. Ngày 25 tháng Mười hai âm lịch năm Dân Quốc thứ ba mươi lăm là phiên chợ cuối cùng trước Tết. Hằng năm, đây là phiên chợ đông nhất ở thị trấn Đường. Tên đồ tể Trịnh Mã Thủy mổ lợn cả một buổi tối, hắn tin rằng mười mấy con lợn sẽ bán sạch sẽ trong phiên chợ này… Ngày hôm nay Tống Kha dậy rất sớm, lúc trời còn lạnh và đầy sao, anh đã đi về hướng rừng thông ra phố huyện. Có một tiếng động kỳ lạ cứ liên tục gọi anh, anh cảm thấy thân thể mình bay bổng. Con đường vốn phải đi mất năm canh giờ, thì anh chỉ mất hai canh giờ đã đi hết. Tống Kha đã tới pháp trường sườn núi La Hắn góc tây bắc phố huyện. Từ xưa, đây đã là nơi giết người, mặc dù hôm nay là ngày đẹp trời, trời quang nắng nhưng ở đây vẫn bao trùm bầu không khí chết chóc. Tống Kha chờ đợi. Người đàn bà nuôi trùng độc Lăng Sơ Bát sau khi bị diễu phố đã được giải tới pháp trường La Hán Lĩnh lúc chính Ngọ. Người tới xem rất đông, khuôn mặt họ buồn bã, ánh mắt u uất. Tống Kha nhìn thấy Lăng Sơ Bát toàn thân bị tưới máu chó, bị giày vò tới mức không ra hình người nữa, tim anh run lên. Bỗng chốc trên người anh tỏa mùi tanh thối nồng nặc. Rất nhiều người tới xem phải bịt mồm bịt mũi lại, đến cả tên đao phủ che mặt bằng vải trắng cũng nhíu mày. Mọi người đều cho rằng mùi hôi thối đó bốc ra từ người Lăng Sơ Bát. Lăng Sơ Bát cúi đầu, dường như cô chưa nhìn thấy Tống Kha. Tống Kha bước tới trước mặt viên quan hành hình nói: “Tôi có một thỉnh cầu, xin ông cho tôi vẽ một bức truyền thần trước khi giết Lăng Sơ Bát được không?” “Anh là gì của cô ta?” Tống Kha bình tĩnh trả lời: “Tôi là chồng cô ấy”. Ánh mắt của viên quan hành hình dừng lại một lúc lâu trên khuôn mặt xanh xao của Tống Kha, nước mắt ông ta tuôn rơi một cách khó hiểu. Ông ta lau nước mắt rồi nói với Tống Kha: “Đi đi, nhưng phải nhanh vào đấy, anh chỉ có hai mươi phút thôi”. Mùi tanh thối càng lúc càng nồng nặc khiến tất cả mọi người có mặt ở đó đều cảm thấy ngột ngạt đến chảy nước mắt. Chỉ một mìn h Tống Kha không chảy nước mắt, anh bước tới trước mặt Lăng Sơ Bát đang quỳ rồi ngồi xuống. Anh bắt đầu vẽ truyền thần cho Lăng Sơ Bát. Từ đầu tới cuối, cô vẫn cúi đầu, không ngẩng lên nhìn Tống Kha một lần nào. Tống Kha bình tĩnh vạch từng nét từng nét trên giấy. Anh khẽ nói: “Sơ Bát, tại sao em lại hạ trùng độc giết người?” Tiếng thở dài của Lăng Sơ Bát nặng dần. Tống Kha biết, cô ấy đang ngửi mùi tanh thối trên người mình, anh cũng biết, sau này sẽ không còn người con gái nào ngửi mùi trên người anh như vậy nữa. Lăng Sơ Bát khẽ đáp lại: “Vì anh. Trước đó em chưa từng hại ai cả, để sinh tồn em chỉ hạ trùng độc lên cây mà thôi. Nhưng anh là họa sĩ, nếu như không có ai tới tìm anh vẽ cho người chết thì anh sẽ buồn biết bao. Anh nói anh là đàn ông, anh không muốn em nuôi anh, nhưng không có ai tìm anh vẽ truyền thần, thì sao anh có thể kiếm tiền được, sao anh có thể thể hiện sự tôn nghiêm của một người đàn ông chứ?” Tống Kha vẫn bình tĩnh nói tiếp: “Sơ Bát, em đừng nói nữa”. Lăng Sơ Bát vẫn cúi gằm mặt xuống đất: “Em vẫn muốn nói với anh một câu rằng, anh là người đàn ông duy nhất cả đời này em yêu. Buổi tối, em ra lệnh cho Tam Lại Tử đánh chết con chó, em đi vào căn gác xép trong cửa hiệu truyền thần, em đã hạ trùng độc anh. Em sống, chẳng có chuyện gì xảy ra với anh, nhưng em chết thì anh cũng sẽ chết. Em sẽ không để anh rời xa em một lần nữa. Xin lỗi anh”. Tống Kha chẳng nói năng gì. Chưa đầy hai mươi phút, anh đã vẽ xong bức truyền thần cho Lăng Sơ Bát. Anh đứng dậy, rời xa Lăng Sơ Bát trong ánh nắng cuối đông, rời xa tầm mắt của mọi người. Đầu của Lăng Sơ Bát vẫn cúi gằm, cô nói với đao phủ: Chém đí” Tay đao phủ nước mắt chứa chan vội vã đi tới bên cạnh Lăng Sơ Bát. Hắn giơ cao cái đao Quỷ đầu sáng quắc. Tay đao phủ hét to lên một tiếng, tay vung đao chém xuống, toàn là máu đỏ của màu máu, đầu của Lăng Sơ Bát rơi xuống đất… Hắn đứng dậy, gió từ bốn phương tám hướng thổi tới. Tiếng pháo vọng tới từ thị trấn Đường. Hắn bẩm bẩm một mình: “Sống thật chẳng có ý nghĩa gì”. Hắn nhảy vào chiếc huyệt đã đào sẵn cho mình, nằm trên nền đất đỏ ẩm ướt rồi ôm chặt bức truyền thần màu Tống Kha về cho hắn. Đi đôi giày Tống Kha mua cho rồi chờ chết. Hắn nghĩ, mình chết rồi, chắc cũng sẽ có ai đó tới lấp đất đắp mộ thôi, xác của mình sẽ không bị chó dại cắn xé. Lúc này, hắn bỗng ngửi thấy mùi tanh thối, mùi tanh thối nồng nặc khắp núi rừng tập trung về phía mộ hắn.

25

Tống Kha trở lại thị trấn Đường rồi giam mình trong cửa hiệu truyền thần. Người dân trong thị trấn đang chuẩn bị đón Tết, khắp nơi ngập tràn không khí vui vẻ. Thời tiết năm nay nắng đẹp, nhưng tiết trời đẹp và ấm như vậy chẳng làm Tống Kha bận tâm. Tống Kha cứ đóng chặt cửa, anh nằm trên giường chờ cái chết đến. Sau khi từ phố huyện trở về, anh nhận thấy mình chẳng còn sức lực gì, thậm chí chẳng còn sức cầm bút nữa. Nằm trên giường nhưng đầu óc anh lại tỉnh táo lạ thường, chỉ có tứ chi không cử động được mà thôi. Bụng anh chuyển động liên hồi, dường như có vô số con rắn đang di chuyển trong đó. Thời khắc anh biết tin Lăng Sơ Bát là người bỏ trùng độc hại chết người, trong lòng anh dâng lên nỗi sợ hãi khó tả. Bây giờ, anh đã hoàn toàn bình tĩnh lại. Mọi thứ sẽ tới vào lúc phải tới, đó là số mệnh của anh. Trước đêm Ba mươi, Tống Kha nằm một mình cô đơn trên chiếc giường ôm chặt bức truyền thần Lăng Sơ Bát trong lòng. Trên gác xép không có ánh đèn, từ lúc trở về từ phố huyện anh không thắp đèn nữa. Anh hy vọng những hồn ma trong những bức truyền thần cất dưới giường sẽ xuất hiện nói chuyện với anh. Nhưng những hồn ma đó dường như đã đi rất xa, dưới gầm giường không còn vọng ra những âm thanh quái dị nữa. Tống Kha vô cùng thất vọng. Nhưng anh lại tự trấn an mình rằng, mình sẽ nhanh chóng gia nhập đội ngũ của họ thôi. Lúc đó, anh sẽ chẳng nói năng gì, anh chỉ muốn đi tìm người con gái tên Tô Tĩnh để hỏi cô tại sao cô lại ngửi thấy mùi tanh xuất hiện trên người anh vào một đêm xuân nào đó, cái mùi tanh đã khiến anh phải rời bỏ Thượng Hải, rời bỏ cô, mà trước đêm xuân đó, trên người anh chưa từng có mùi tanh này… Tống Kha nghe thấy tiếng gọi. Đó là tiếng gọi được tạo thành từ rất nhiều tiếng cười truyền tới từ rừng rậm xa xôi, từ hẻm núi nở đầy hoa, từ dòng suối trong vắt… Trong bóng tối, Tống Kha nhoẻn cười, anh nhắm mắt, mọi thứ đều bình thản như vậy, không đau đớn như trong tưởng tượng… Cũng vào đêm hôm đó, lần đầu tiên trong đời Tam Lại Tử đi giày mới. Đó chính là đôi giày vải Tống Kha mua cho. Trong lòng Tam Lại Tử biết rõ rằng, đôi giày mới đó là Tống Kha mua cho hắn. Bởi không ai trong thị trấn Đường lại làm như thế cả. Hắn đi cả giày đi ngủ. Lúc Tam Lại Tử tỉnh lại toàn thân hắn đã ướt đẫm mồ hôi, hắn mơ thấy Tống Kha chết. Tam Lại Tử lồm cồm bò dậy, nhảy từ ban thờ xuống rồi chạy ra khỏi cửa miếu vế hướng nhà Tống Kha. Tam Lại Tử đứng trước cửa hiệu gọi to tên Tống Kha. Nhưng không có ai đáp lại cả. Hắn xô đổ cửa, mò lên gác xép, dùng đá lửa thắp sáng đèn dầu. Tống Kha nằm trên giường, cơ thể đã cứng đờ, bụng trướng lên, nhưng khuôn mặt xanh xao hé một nụ cười. Bức truyền thần Lăng Sơ Bát trên ngực anh vẫn không có mặt, chỉ có mái tóc rối bù, mỗi sợi tóc giống như một con rắn nhỏ cong cong. Trên mái tóc rối bù đó có một bông hoa cúc dại. Tam Lại Tử đi tới trước mặt, anh nghẹn ngào lên tiếng: “Họa sĩ Tống, chính tôi đã hãi chết cậu, chính tôi đã giết con chó bảo vệ cậu”. Lúc Tam Lại Tử nói như vậy, có một bóng người màu trắng đứng ở bên ngoài cửa hiệu. Tống Kha chết rồi. Chẳng có ai gõ trống tang cho anh. Cũng không có ai vẽ truyền thần cho anh. Thậm chí cũng chẳng có ai mua quan tài cho anh. Sáng sớm ngày 30, Tam Lại Tử vác xác Tống Kha lên sườn núi Ngũ Công Lĩnh đặt vào huyệt mộ mà hắn đã đào sẵn cho anh. Hắn ném hai đồng dại dương Chủ tịch Du thưởng cho hắn vào huyệt; “Họa sĩ Tống, tôi trả cho cậu số tiền tôi ăn cắp của cậu, cậu nhận lấy nhé, cũng có thể sẽ có ích đấy. Tôi đã không cần nó nữa rồi. Chẳng cần gì nữa rồi”. Hắn lấp đất lên mộ Tống Kha, chẳng mấy chốc hắn đã đắp xong ngôi mộ mới. Hắn thắp ba nén hương dài rồi cắm vào đầu mộ của Tống Kha. Sau đó hắn quỳ xuống, khấu đầu ba lần. Hắn đứng dậy, gió từ bốn phương tám hướng thổi tới. Tiếng pháo vọng tới từ thị trấn Đường. Hắn lẩm bẩm một mình: “Sống thật chẳng có ý nghĩa gì”. … Hắn đứng dậy, gió từ bốn phương tám hướng thổi tới. Tiếng pháo vọng tới từ thị trấn Đường. Hắn bẩm bẩm một mình: “Sống thật chẳng có ý nghĩa gì”. Hắn nhảy vào chiếc huyệt đã đào sẵn cho mình, nằm trên nền đất đỏ ẩm ướt rồi ôm chặt bức truyền thần màu Tống Kha về cho hắn. Đi đôi giày Tống Kha mua cho rồi chờ chết. Hắn nghĩ, mình chết rồi, chắc cũng sẽ có ai đó tới lấp đất đắp mộ thôi, xác của mình sẽ không bị chó dại cắn xé. Lúc này, hắn bỗng ngửi thấy mùi tanh thối, mùi tanh thối nồng nặc khắp núi rừng tập trung về phía mộ hắn.   Chương 4: Nhưng thứ không còn dấu vết là những thứ nguy hiểm và khó năm bắt nhất Tuyết bay đầy trời, sườn núi Ngũ Công Lĩnh tĩnh mịch vô cùng. Tam Lại Tử nằm ngửa, nhắm nghiền mắt im lìm trong huyệt. Những bông tuyết rơi trên mặt, hắn cảm thấy ngứa, cảm thấy vẫn còn chút hơi ấm. Nếu được hoa tuyết lặng lẽ che phủ hoặc mai táng như vậy thì quả là điều hắn không ngờ tới. Đây có lẽ là kết thúc tốt nhất cho hắn. Tam Lại Tử chờ chết trong mưa tuyết.   Từ thị trấn Đường xa xôi vọng tới tiếng pháo đón mừng năm mới.   Niềm vui chờ đón Tết trong Tam Lại Tử đã tắt ngấm.   Hắn chỉ mong mình sẽ chết dần chết mòn trong mưa tuyết.   Mùi tanh thổi nồng nặc khắp núi rừng tập trung về phía mộ hắn .

2

Vào ngày 30 Tết, nhà nào cũng đốt rất nhiều pháo. Người dân trong thị trấn đều mong muốn tiếng pháo giòn giã sẽ xua đuổi được các hồn ma. Toàn thị trấn nhỏ nồng nặc mùi diêm sinh. Hôm nay, Trương Thiếu Băng không mở cửa hiệu quan tài mà đốt một băng pháo trước của tiệm rồi về nhà. Lúc anh đốt pháo, không có ai để ý tới, không ai muốn có bất kỳ quan hệ nào với anh ta vào ngày vui vẻ này. Và bản thân người ít mồm ít miệng như Trương Thiếu Băng cũng không muốn bắt chuyện với người khác. Trên đường về Trương Thiếu Băng nhìn thấy mụ điên Hồ Nhị Tẩu đang đứng ở một góc đường, đầu bù tóc rối cười ngây ngô. Đây là mụ đàn bà bị vứt bỏ, chồng và con trai mụ Tết cũng không về. Trương Thiếu Băng, ghê tởm quét ánh mắt lên khuôn mặt bẩn thỉu của mụ.   Màn đêm buông xuống, Trương Thiếu Băng và gia đình đang cùng nhau ăn cơm tất niên.   Bọn trẻ con được diện quần áo mới, vui vẻ nếm những món ăn ngon chỉ Tết mới có. Trương Thiếu Băng vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng như mọi khi. Anh đang nhớ tới người anh em tốt Du Vũ Cường. Thế giới bên ngoài loạn lạc, không biết giờ này Du Vũ Cường đang ở đâu, không hiểu có gặp bất trắc gì không ? Bình thường, Trương Thiếu Băng không hay uống rượu nhưng hôm nay anh bỗng nhấp một ngụm rượu gạo, rượu hơi chua khiến anh ta nhíu mày.   Trương Thiếu Băng nhìn vợ mình - Du Thủy Muội - nói: “Rượu năm nay nấu kiểu gì mà chua thế ?”. “Cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ được vậy thôi.”   Trương Thiếu Băng cũng không trách vợ nữa, tiếp tục trầm ngâm uống một mình.   Ăn cơm tất niên xong, bọn trẻ con liền chạy ra bên ngoài chơi. Ngoài trời tuyết vẫn rơi. Dưới mặt đất đã có một lớp tuyết dầy. Tuyết khiến lũ trẻ hứng chí. Chúng chơi đùa với bọn trẻ hàng xóm ở bên ngoài, tiếng cười đùa vô tư của bọn trẻ khiến lòng Trương Thiếu Băng càng nặng nề hơn.   Trương Thiếu Băng trầm ngâm ngồi ở đó, vợ nói gì cũng chẳng để tâm, cứ như thể Du Thủy Muội là người không tồn tại vậy. Du Thủy Muội lắc đầu, sau đó vào bếp rửa bát. Bỗng một tiếng gọi quen thuộc vẳng đến tai Trương Thiếu Băng. Tiếng gọi đó vòng từ nơi rất xa nhưng rất gần gũi. Trương Thiếu Băng đi ra khỏi nhà như bị ma xui quỷ khiến. Màu tuyết trắng xóa trong màn đêm ngày 30. Trong màu tuyết trắng, anh ta không hề quan tâm tới lũ trẻ đang vui đùa, đi thẳng một mạch về phía đập nước ở phía tây thị trấn. Bóng anh ta cô đơn, lạc lõng. Anh ta đi trên con đường tuyết đã phủ trắng, bước chân trên tuyết phát ra tiếng soạt soạt. Bản thân anh ta cũng không lý giải nổi tại sao mình lại đi một mình tới đê trong đêm thế này. Tuyết trắng phù đầy trên đê thành một lớp dày. Hoa tuyết vẫn rơi. Trương Thiếu Băng đứng trên đê, thở một hơi dài. Anh ta nhìn về phía dãy núi xa xa, mắt nhòe lệ. Gió mang theo tuyết phả vào mặt, như thể có rất nhiều hồn ma đang kêu gọi. Toàn thân Trương Thiếu Băng nổi da gà. Trong màu tuyết trắng, dường như có vô số bóng đen giơ những cánh tay khô quắt ra ôm lấy anh ta. Trương Thiếu Băng run bần bật, muốn quay người đi về phía thị trấn Đường, nhưng đôi chân không có cách nào chuyển động được, cứ như thể mọc rễ vậy, Chốc chốc tiếng pháo lại vọng tới xua đuổi nỗi sợ hãi trong lòng Trương Thiếu Băng. Đột nhiên, anh ta nghe thấy tiếng hát thê lương. Đây chẳng phải là bài hát mà Thẩm Văn Tú từng hát khi còn sống đó sao ? Trương Thiếu Băng không dám đi tới chỗ khe suối, cũng có thể Thẩm Văn Tú đang đứng ở đó và hát. Anh ta bị tiếng hát thê lương khiến cho khiếp sợ. Anh ta lẩm bẩm: “Văn Tú à, cô tha cho tôi đi, tôi vốn muốn tặng một chiếc quan tài tốt cho cô.” Anh ta không nói tiếp được, gió thổi mạnh hất rất nhiều tuyết vào miệng, khiến anh ta gần như chết nghẹn. Tiếng hát nhỏ dần, Trương Thiếu Băng nhìn thấy một bóng trắng bay lượn.   Bóng trắng đó bay là là trên bờ đê, đi lên chiếc cầu nhỏ, nhanh chóng biến mất ở bên kia bờ suối.   Bóng trắng đó là ai ?   Ai có thể một mình vào núi vào ngày lễ tết thế này ?   Trương Thiếu Băng lấy mu bàn tay dụi dụi mắt, thử động đậy chân. Cuối cùng cũng có thể đi được rồi. Lòng anh ta vui như mở hội, chạy một mạch về hướng treo đèn kết hoa trong thị trấn. Tiếng gió thổi vù vù đằng sau anh ta, cứ như thể có vô số hồn ma đang đuổi theo vậy.   Trương Thiếu Băng đã về nhà. Anh ta bảo vợ gọi các con về, sau đó đóng chặt cửa lại. Bọn trẻ con vẫn chưa được chơi đã, chúng nhìn ông bố đang hoảng hốt bằng cặp mắt bất lực. Hằng năm, cứ vào ngày 30, chúng thường được chơi tới nữa đêm. Tới khi mở cửa đốt pháo đón xuân xong chúng mới phải lên giường đi ngủ. Chúng không hiểu tại sao đêm nay bố chúng lại đóng cửa nhà sớm như vậy, lại không cho bọn chúng chơi tiếp. Ở vùng núi phía nam này, rất ít khi tuyết rơi dầy vào dịp Tết như thế này. Lũ trẻ con hễ nhìn thấy tuyết thì đã phấn khích lắm rồi. Trong nhà này, lời nói của Trương Thiếu Băng rất có uy, lũ trẻ không dám cãi lại. Du Thủy Muội kéo Trương Thiếu Băng vào phòng ngủ rồi hỏi: “Anh sao vậy ? Sao mặt lại trắng bệch thế này ?”. Trương Thiếu Băng thở dồn dập, không nói được gì.   Du Thủy Muội sờ trán Trương Thiếu Băng rồi nói: “Nóng quá! Anh đã đi đâu vậy ? Chắc bị cảm lạnh rồi. Em đi làm bát canh gừng cho anh nhé!”.   Uống xong bát canh gừng, Trương Thiếu Băng nằm trên giường. Du Thủy Muội đắp chăn cho chồng.   Lũ trẻ vẫn chơi đùa trong phòng khách, nhưng đều cảm thấy không hứng thú lắm nên đứa nào cũng buồn ngủ rũ ra. Du Thủy Muội đưa bọn trẻ vào phòng rồi một mình ngồi trong phòng khách, thở dài não nuột. Cô không thể ngủ, mặc dù đã rất mệt mỏi. “Ý” muốn chờ tới nữa đêm để mở cửa đốt pháo, cô sợ Trương Thiếu Băng không dậy nổi. Nếu không mở cửa đốt pháo vào lúc nữa đêm 30 thì năm mới sẽ xảy ra rất nhiều bất trắc, thậm chí là tai nạn. Tuy chẳng dễ dàng chút nào để thức tới nữa đêm, nhưng cô vẫn làm được, đúng lúc cô định mở cửa lớn thì nhìn thấy Trương Thiếu Băng từ phòng ngủ bước ra.   Lúc này, trong thị trấn Đường đã có người đốt pháo.   Tiếng pháo nhanh chóng dội lên, cả thị trấn náo nhiệt vô cùng. Trương Thiếu Băng mở cửa lớn, mùi diêm sinh nồng nồng phả mạnh vào mặt, anh ta húng hắng vài tiếng rồi châm lửa bánh pháo treo ở sào tre. Tiếng pháo bắt đầu nổ, Du thủy Muội dùng tay bịt tai lại, trên mặt cô lộ nụ cười vui vẻ, lòng cô đang thầm cầu chúc một năm mới vạn sự như ý, cửa hiệu quan tài làm ăn phát đạt.   Đốt pháo xong, hai vợ chồng Trương Thiếu Băng vào nhà, đóng cửa lại. Du Thủy Muội quan tâm hỏi han: “Thiếu Băng à, anh đã đỡ chút nào chưa ?”. Trương Thiếu Băng gật gật đầu: “Đỡ nhiều rồi”. “Em đi nấu chút gì cho anh ăn nhé!” Trương Thiếu Băng càu nhàu: “Ăn cái gì mà ăn, đi ngủ thôi!”. Hai vợ chồng vừa nằm xuống giường liền nghe thấy tiếng gõ cửa. “Ai vậy ?”, Du Thủy Muội ngồi dậy hỏi.   Trương Thiếu Băng cũng ngồi dậy, tiếng gõ cửa vẫn tiếp tục. Một bóng đen vụt qua mắt khiến anh ta rùng mình. Du Thủy Muội nói: “Để em xuống xem sao”.   Cô vừa định xuống giường thì Trương Thiếu Băng kéo lại “Để anh đi cho!”.   Trương Thiếu Băng vừa đi ra phía cửa vừa thấp thỏm hỏi: “Ai vậy ?”. Một giọng nói trầm vọng từ ngoài cửa vào: “Là tôi, mau mở cửa đi!”.

3

Đội trưởng đội bảo vệ Trư Cốc lủi vào quán Tiêu Dao trong ngõ hoàng đế. Chủ tịch Du Trường Thủy đang đánh mạt chược với mụ Lý Mị Nương và hai người nữa trong trấn. Vì tối nay không có khách, nên Chủ tịch Du mời người tới quán Tiêu Dao đánh mạt chược với mụ Lý Mị Nương. Bình thường Tết nhất như thế này, họ thường không đánh mạt chược bởi nếu thế thì còn có ai dám vào quán Tiêu Dao chơi gái. Người ta treo đèn kết hoa trong quán Tiêu Dao, khuôn mặt ai cũng hiện vẻ vui tươi. Trư Cốc vừa mới mò tới cửa chính thì đã bị mụ Lý Mị Nương bắt gặp: “Ồ, đội trưởng Trư Cốc tới rồi à, Xuân Hương đang chờ cậu trong phòng đấy.” Trư Cốc gật đầu cúi người về phía mụ Lý Mị Nương: “Cảm ơn bà chủ Lý, cảm ơn!”. Tiếp đó, Trư Cốc đi về phía chủ tịch Du, ghé sát miệng vào tai ông nói gì đó. Nụ cười trên khuôn mặt Chủ tịch Du nhanh chóng biến mất, ông ta đứng bật dậy: “Đi, vừa đi vừa nói chuyện”. Đi tới một góc khuất, Du Trường Thủy thận trọng hỏi lại Trư Cốc: “Cậu thực sự nhìn thấy thằng Du Vũ Cường à ?”. Trư Cốc đáp: “Sau khi nhìn thấy hắn, em liền bám theo sau, thằng ấy thực sự đã vào nhà Trương Thiếu Băng rồi”. Du Trường Thủy giơ tay vuốt râu: “Nó về làm gì không biết nữa ? Chung Thất cũng chết rồi. Không hiểu nó còn định làm gì ?”. Trư Cốc xun xoe: “Em đã sai người coi chừng Trương Thiếu Băng rồi, chỉ cần Chủ tịch hạ lệnh, em sẽ đi bắt hắn về ngay”. Du Trường Thủy suy nghĩ một lát rồi nói: “Trước tiên đừng rút dây động rừng, nếu thực sự ép nó thì cậu không phải là đối thủ của nó đâu. Thế này đi, cậu bố trí người theo dõi nó từng bước để xem rốt cuộc nó muốn làm gì. Nhớ đừng để nó phát hiện ra. Có tình hình gì phải lập tức báo cáo cho tôi”. Trư Cốc gật đầu lia lịa: “Được. Thôi em đi đây ạ”. Sau khi Trư Cốc đi rồi, mụ Lý Mị Nương vừa cười vừa nói với Du Trường Thủy: “Thằng Trư Cốc và anh nói chuyện gì mà bí mật vậy ?”. Du Trường Thủy cười đáp lại: “Không có gì, không có gì”. Một hương thân ngồi đối diện Chủ tịch Du Trường Thủy - ông Vương Bình Thuận cười nói: “Tiếp bạc đi, chúng ta nên đánh mạt chược tiếp đi, chắc Chủ tịch Du có chỗ khó nói, thôi đừng làm khó ông ấy nữa”. Một hương thân khác phụ họa: “Đúng vậy, đánh tiếp đi, đánh tiếp đi!”. Nốt ruồi ở khóe miệng mụ Lý Mị Nương lại giật giật: “được thôi, được thôi, tôi không hỏi nữa, tiếp tục đánh đi. Thằng Trư Cốc này xem ra tử tế hơn thằng khốn Chung Thất nhiều. Có thể nói là trung thành tuyệt đối với Chủ tịch, hơn nữa làm người củng được lắm, mỗi lần tôi quán Tiêu Dao đều rất có phép tắc, còn trả tiền đàng hoàng. Tôi còn nói với hắn rằng, Xuân Hương là của hắn, ai muốn cũng không cho, bất kể hắn tới hay không thì cũng để dành Xuân Hương cho”. Chủ tịch Du đánh con nhị bình rồi nói: “Ha ha, Lý Mị Nương đang giúp tôi đấy”. Dưới bàn mạt chược để một bếp than. Than đang cháy rụi trong lò. Trong lòng Du Trường Thủy vẫn phấp phỏng, đêm nay chắc sẽ xảy ra chuyện bất ngờ, nhưng ông ta không nói ra được. Vương Bình Thuận vừa nhìn thấy Chủ tịch Du đánh con nhị bình, khuôn mặt nhờn dầu của ông ta lóe lên nụ cười đắc ý. Ông ta dùng bàn tay thô kệch ngắn củn lật ngửa bài của mình ra: “ù rồi”. Lý Mị Nương rít một hơi thuốc lào: “Anh Vương béo, hôm nay anh hên quá đấy, sao anh luôn thắng vậy nhỉ ?”. Vương Bình Thuận đáp lại rất sâu xa: “May mắn vẫn còn ở phía sau”. Không ai nhận ra hàm ý sâu xa trong câu nói của Vương Bình Thuận. Tuyết vẫn rơi.   Tam Lại Tử bị đánh thức bởi tiếng pháo không ngừng nghĩ trong thị trấn. Tuyết đã phủ kín người và khuôn mặt hắn. Hai bên mũi là những hạt nước ẩm ướt. Toàn thân hắn đã tê dại, trước thời điểm này Tam Lại Tử vẫn cảm thấy mình đang bay trên những đám mây, rất nhiều bông tuyết nhảy múa xung quanh hắn, lại còn phát ra những tiếng vui tai nữa. Hắn có cảm giác mình đã bay vào thiên đường. Hắn cảm thấy vô cùng khó hiểu, bản thân hắn xấu xa như vậy làm thì sao hắn lại có thể lên thiên đường được. Có lẽ ông trời chiếu cố hắn, và cũng có thể thương hại hắn, bởi vì hắn đã phải sống rất vất vả, cho nên để hắn sau khi chết được lên thiên đàng chăng ? Khi bị đánh thức bởi tiếng pháo nổ, hắn mới nhận ra đó chỉ là một giấc mơ đẹp.   Hắn chưa chết, hắn vẫn đang nằm trong huyệt.   Hắn không cử động được, cũng không còn cảm nhận được sự ấm áp cũng như lạnh giá nữa. Nhưng hắn vẫn nghe thấy rõ mồn một tùng tiếng thở nhẹ như hoa tuyết rơi của mình. Điều này khiến hắn nhận ra mình vẫn đang sống. Niềm vui đón Tết của thị trấn Đường ở rất xa hắn. Đêm nay ai sẽ là người nhớ tới hắn - người chờ đợi cái chết trong huyệt đây ?   Tam Lại Tử lại ngửi thấy mùi tanh thối.   Hắn cảm thấy vô cùng kinh ngạc, không hiểu mùi này từ đâu tới ?   Tam Lại Tử vẫn nhắm nghiền mắt, hắn không muốn nhìn cái thế giới này. Hắn cũng không lý giải nổi tại sao mạng sống của hắn lại dai dẳng như vậy. Hắn nằm ở huyệt đã hơn mười mấy canh giờ nhưng vẫn không chết cóng trong cái lạnh thấu xương. Mặc dù không còn muốn sống nữa, hắn nghĩ mình sẽ chết, nhưng lúc tỉnh lại, hắn vẫn khỏe mạnh như thường. Hắn cũng chẳng còn sợ nữa. Giống như từ khi có mặt trên đời, cái chết chính là một cái gì đó hạnh phúc, đáng được mong chờ nhất đối với hắn.   Đang lúc này, Tam Lại Tử nghe thầy tiếng bước chân.   Ai tới sườn núi Ngũ Công Lĩnh đầy những ngôi mộ nhấp nhô này vào buổi tối chứ ?   Tiếng bước chân sột soạt tiến gần tới chỗ hắn.   Tuy đã kiên định với quyết tâm tìm đến cái chết, nhưng hắn vẫn dõi theo từng tiếng bước chân. Tiếng bước chân đó dừng lại trước huyệt mộ. Tam Lại Tử nhận thấy người đó đang cúi xuống nhìn hắn. Tim Tam Lại Tử đập nhanh một cách kỳ lạ, mặc dù chỉ vài phút trước hắn không còn cảm nhận được tiếng tim mình đập. Có một sức mạnh kỳ lạ dồn vào người Tam Lại Tử. Người đó không nói không rằng, đứng im ở đó, cứ như thể cũng đang chờ cái chết của Tam Lại Tử vậy. Mùi tanh thối càng lúc càng nồng nặc.   Cuối cùng Tam Lại Tử cũng đã mở mắt ra.   Cái hắn nhìn thấy chỉ là một màu tuyết trắng.   Hắn không nhìn thấy ai đứng ở cạnh huyệt mộ cả.   Nỗi sợ hãi trong lòng Tam Lại Tử dâng lên. Hắn cảm thấy rất rõ rệt rằng chỉ có chết đi mới không còn cảm giác sợ hãi nữa. Chỉ cần hắn còn sống, nỗi sợ hãi sẽ giống như lông và tóc đeo bám suốt đời hắn. Bỗng tuyết ngừng rơi, gió đêm cũng giấu mình ở nơi nào đó. Cả sườn núi Ngũ Công Lĩnh lặng như tờ. Tiếng thở của Tam Lại Tử càng lúc càng nặng, hai tay hắn vẫn ôm chặt bức truyền thần màu Tống Kha vẽ cho. Lòng bàn tay hắn túa mồ hôi. Một lát sau, Tam Lại Tử nghe thấy tiếng thở của một người khác. Tiếng thở đó vừa khẽ khàng vừa rõ ràng. Tam Lại Tử há miệng định nói thì cảm nhận được có một vật gì mềm mềm trượt từ miệng xuống, vật đó trườn xuyên qua họng xuống bụng. Tam Lại Tử tự đáy lòng thầm rên rỉ: “Hỏng rồi!”. Lúc này, hắn nghe thấy hai tiếng cười khẩy của phụ nữ vì nhìn thấy một bóng trắng lướt trên miệng huyệt. Lẽ nào cả đời mình sẽ không thoát khỏi bóng trắng đó ? Lẽ nào cô ta là người bị giết trên pháp trường ngoài phố huyện ? Vật trườn xuống họng hắn cứ quẫy ngược quẫy xuôi. Hắn muốn nôn, nhưng nôn không ra. Bụng hắn bắt đầu đau, ruột hắn như bị cắn đứt thành nhiều khúc. Sự đau đớn này có thể nói là khiến hắn sống không bằng chết. Tại sao mỗi lần hắn quyết tâm tìm tới cái chết lại không chết được ? Sự đau đớn khiến toàn thân hắn như bị thiêu đốt. Tứ chi cứng đờ của hắn đã cử động được. Cái chết lại đang rời xa hắn, thay vào đó là nỗi sợ hãi và sự đau đớn. Hắn chẳng biết nếu còn sống sẽ còn xảy ra chuyện gì nữa.   Sợi dây số mạng lại một lần nữa tàn nhẫn kéo hắn trở Lại Tử Quỷ môn quan.   Tam Lại Tử ôm bụng rồi lăn lộn trong huyệt mộ.   Chẳng biết bao lâu sau đó Tam Lại Tử mới bò lên khỏi huyệt. Hắn nằm úp trên tuyết, qua ánh sáng trắng của tuyết, hắn nhìn thấy một bóng trắng đang đứng ở chỗ không xa hắn lắm. Bóng trắng đó bịt mặt bóng hình đó giống hệt với Lăng Sơ Bát - người nuôi trùng độc mới bị chặt đầu.   Tam Lại Tử tuyệt vọng hét lên: “Sao cô không buông tha cho tôi hả ?”.   Bóng trắng cười khẩy rồi bay về phía thị trấn. Đột nhiên bụng Tam Lại Tử không đau nữa. Nhưng thứ đó vẫn còn ở trong hắn, bụng của hắn vẫn trướng trướng. Hắn như bị ma ám lầm lũi đi theo bóng trắng kia, người hắn cũng nhẹ bỗng rồi bay lên, bay rất nhanh cùng bóng trắng kia qua cánh đồng tuyết trắng, bay qua thị trấn Đường, tiếp tục bay qua đám khói pháo đầy mùi diêm sinh trên đường phố, về hướng phố huyện. Lúc đó, người dân trong thị trấn đốt pháo xong đều đã đóng cửa đi ngủ rồi.   5   Ngày mùng 1 tháng Giêng âm lịch năm Dân Quốc thứ ba mươi sáu, đất trời lạnh khác thường. Khắp nơi là những đống tuyết lớn. Người dân trong thị trấn có một tục lệ, ngày mùng 1 tháng Giêng không ăn đồ tanh, chỉ ăn chay, không những thế còn phải tới miếu dâng lễ nữa. Trong ngày này, không có ai tới nhà bà con họ hàng. Người dân trong thị trấn quen ngủ nướng trong ngày này, tới tận trưa mới mở cửa, lúc đó mới có lác đác người đi lại trên đường. Tuyết phủ trắng con đường lát đá của thị trấn Đường, trên nền tuyết là xác pháo đốt tối qua. Trong gió lớn, nhà nào nhà nấy treo đèn lồng. Mọi cửa hàng, cửa hiệu trong thị trấn đều đóng của, cửa hiệu truyền thần được khóa chặt bằng chiếc khóa đen xì. Tam Lại Tử quay người lại thì nhìn thấy mụ điên Hồ Nhị Tẩu tóc tai rối bù ngồi trước cửa nhà, mụ ta đang nhét gì đó vào mồm. Tam Lại Tử đã nhìn rõ hơn, đó là củ đậu sống. Tam Lại Tử nuốt nước bọt, hắn cũng đang đói bụng. Nếu mụ Hồ Nhị Tẩu không bị điên, không hiểu mụ có cho hắn một bát cơm không nhì ?   Tam Lại Tử nghĩ đi nghĩ lại rồi quyết định đi tới chỗ mụ.   Tam Lại Tử đi qua mụ rồi bước vào quán đang mở toang hoang.   Hắn tìm được một củ đậu khác trong nhà mụ ta, chẳng thèm rửa đã cho ngay vào mồm. Hắn và mụ điên Hồ Nhị Tẩu ngồi cùng nhau trên bậc cửa, chỉ lo ăn củ đậu không quan tâm tới ai. Điều kỳ lạ là, Tam Lại Tử lại không về miếu Thổ Địa phía đông thị trấn, vốn là hang ổ của hắn. Hôm nay, chỗ đó rất náo nhiệt, lại còn có nhiều đồ lễ nữa. Hắn và mụ điên Hồ Nhị Tẩu lúc này trông giống như hai chị em ăn gió nằm sương. Những người qua đường nhìn họ bằng ánh mắt lạnh lùng kỳ lạ.   Tam Lại Tử ăn hết củ đậu, thì thấy bụng lại trướng lên. Hắn đứng dậy, lại mò vào quán mụ điên Hồ Nhị Tẩu, tìm thấy một con dao chặt củi đã gỉ trong bếp. Hắn khua con dao rồi đi ra ngoài quán, bước tới trước cửa hiệu truyền thần, ánh mắt dừng lại ở cái khóa đen sì trên cửa.   Đúng lúc này mụ Hồ Nhị Tẩu hét toáng lên: “Văn Tú, cô tha cho tôi đi, tha cho tôi đi. Tôi sẽ không nói lung tung nữa, tôi nên đi ăn cứt, tôi nên đi ăn cứt”.   Cơn điên của mụ Hồ Nhị Tẩu tái phát, mụ bật dậy rồi loạng choạng đi ra đường, vừa chạy vừa hét. Tam Lại Tử không quan tâm tới mụ ta, hai tay giơ cao chiếc dao chặt củi, rồi chặt mạnh xuống cái khóa đen sì kia. Cái khóa đó rất chắc, Tam Lại Tử chặt một hồi vẫn không đứt. Hắn lầu bầu gì đó trong miệng, sau đó lại tiếp tục giơ cao con dao chặt củi.   Đúng lúc này thì đội trưởng đội bảo vệ Trư Cốc xuất hiện trước mặt Tam Lại Tử. Hắn mặc áo kép bông, đội mũ quả dưa, khoác súng moze. Trư Cốc vừa cười vừa nói với Tam Lại Tử: “Tam Lại Tử, mày đang làm gì thế ?”. Tam Lại Tử nhìn thấy Trư Cốc, liền buông tay cầm con dao chặt củi xuống. Hắn nhìn chằm chằm tên Trư Cốc đểu cáng, con người tóe lửa, lạnh lùng đáp lại: “Tao làm gì thì liên quan gì tới mày ?”.   Trư Cốc không ngờ Tam Lại Tử lại trả lời như vậy. Mặt hắn cau lại vẻ không vui, nhưng nhanh chóng trở lại như thường. Trư Cốc vẫn bình tĩnh nói với Tam Lại Tử: “Tam Lại Tử à, họa sĩ Tống chết rồi, cửa hiệu truyền thần này ủy ban thị trấn thu hồi lại. Cái cửa này do chính tao khóa đấy, tao là đội trưởng đội bảo vệ của thị trấn, lẽ nào việc mày phá cửa lại không liên quan tới tao ư?”   Lời nói của Trư Cốc khiến rất nhiều người quây tới xem gật đầu tán đồng. Sự khác biệt lớn nhất giữa Trư Cốc và Chung Thất chính là Trư Cốc không vênh váo, hơn nữa lại biết ăn nói có lý, không giống như Chung Thất cứ cậy thế làm càn ức hiếp người khác. Vẻ mặt tươi cười của Trư Cốc trở nên giả tạo vô cùng trong mắt Tam Lại Tử. Tam Lại Tử quay đầu lại, chẳng nói chẳng rằng vẫn giơ cao dao lên, tiếp tục chặt khóa. Tam Lại Tử chặt mạnh ba cái liền thì chiếc khóa tách ra.   Trư Cốc cùng mọi người đứng xem xung quanh ngỡ ngàng, giương mắt nhìn Tam Lại Tử đẩy cửa rồi bước vào trong. Sau đó, hắn liền chốt cửa lại.   Tam Lại Tử muốn làm gì vậy ?   Không ai có thể giải đáp được câu hỏi này.   Trư Cốc bình tĩnh trở lại, tươi cười nói với mọi người: “Giải tán thôi, có chuyện gì đâu mà xem. Mọi người ai làm việc nấy đi. Tôi sẽ báo cáo việc này lên Chủ tịch Du rồi sẽ xử lý sau”.   Trư Cốc nói xong liền đi về phía ngõ hoàng đế.   Trư Cốc không tới ủy ban, mới sáng sớm hắn đã đưa chủ tịch Du tới thắp hương tại miếu Cửu Hoa cách thị trấn Đường tới mười dặm. Cứ vào sáng mùng Một Tết hằng năm, Chủ tịch Du đều tới miếu Cửu Hoa thắp hương, việc này đã trở thành thói quen của ông ta. Sau khi về, ông ta mới ngủ. Trên đường đi, Trư Cốc kể tường tận việc theo dõi Du Vũ Cường cho Du Trường Thủy nghe. Hắn kể rằng Du Vũ Cường ở nhà Trương Thiếu Băng, cả tối đó uống rượu, trời vừa tờ mờ sáng đã đeo một túi đồ rời khỏi nhà họ Trương rồi đi về hướng tây. Chủ tịch Du nghe xong, thở dài não nuột: “Sao thằng này lại chẳng làm nên trò trống gì thế, tôi đối với nó cũng không bạc, sao nó lại hận tôi tôi vậy chứ ?” Trư Cốc không có cách nào để tìm hiểu vấn đề của Du Trường Thủy, đó là việc nhà họ.   Hắn rẽ vào quán Tiêu Dao.   Hắn biết Lý Mị Nương đang ngủ. Hắn nhẹ nhàng đi tới phòng Xuân Hương.   Xuân Hương đang ngồi lau nước mắt trước bàn trang điểm.   Trư Cốc liếc nhìn cô một cái rồi nằm dài trên giường phàn nàn: “Mệt quá!”.   Xuân Hương trèo lên giường cởi áo khoác và quần cho hắn, sau đó đắp chăn cẩn thận cho hắn nữa. Trư Cốc co quắp trong chăn, răng đánh vào nhau lập cập. Hắn muốn bảo Xuân Hương cởi hết quần áo rồi làm nóng người hắn bằng cơ thể cô. Nhưng hắn không làm vậy, bởi chỉ một lát thôi chăn sẽ ấm lên. Xuân Hương ngồi ở giường, vẻ mặt buồn bã, trông bộ dạng như không biết phải làm gì. Cô rất xinh đẹp, thậm chí có thể nói là mỏng mày hay hạt. Đó là người mà mụ Lý Mị Nương đã phải cất công mua về từ vùng núi rất xa để dành riêng cho Trư Cốc. Năm nay mới mười sáu tuổi, vậy mà cô đã cảm nhận được nổi buồn tê tái chưa từng có.   Tuy Trư Cốc nói ngày nào cũng tới quán Tiêu Dao ngủ, nhưng hắn chưa từng động vào người cô. Việc này chỉ có Trư Cốc và cô biết mà thôi. Vậy mà Trư Cốc còn dặn dò cô nhất quyết không được tiết lộ chuyện này với ai, nếu ai hỏi thì cũng không được nói là Trư Cốc chưa từng động vào người.   Trư Cốc nằm trong chăn nói: “Xuân Hương à, em đừng khóc nữa. Anh biết trong lòng em rất buồn, nhưng đó là số mệnh của em”.   Trư Cốc thực sự đã rất mệt rồi, nằm chưa được một lúc hắn đã ngáy o o.   Xuân Hương nghe tiếng ngáy của Trư Cốc, nước mắt lại tuôn rơi lã chã.   Cô chẳng làm sao đoán định được tương lai của mình sẽ thế nào.   Người đàn ông trước mặt cô lúc này sẽ mang gì tới cho cô ? Cô hoàn toàn không biết. 6 Bước vào cửa hiệu truyền thần, Tam Lại Tử ngửi thấy mùi mốc. Thực ra hắn đã không còn cảm giác đối với những mùi vị bất thường nữa. Nhưng trong cửa hiệu có một thứ khiến hắn không thể không quan tâm. Hắn men theo cầu thang, đi lên gác xếp, cửa sổ vẫn đóng kín mít. Gian gác xếp tối om. Vẫn là cái giường đó, không có ai động tới chăn chiếu trên giường, nó chỉ được dùng khi Tống Kha còn sống. Tam Lại Tử bước lại gần, đứng cạnh giường, rồi giơ tay chạm vào chăn. Chăn hơi ẩm, lạnh lẽo. Tam Lại Tử dường như nghe thấy tiếng thở nhẹ thân thiết. Hắn nghi ngờ rồi cảm thấy có một bàn tay thò ra từ trong chăn tóm chặt lấy hắn. Toàn thân Tam Lại Tử nóng rực lên, mắt hắn phát ra ánh sáng chói lòa màu xanh lam.   7   Tối ngày mùng 1 Tết, Trư Cốc bị một người đàn ông đánh thức. Hắn và người đàn ông kia vội vàng rời khỏi quán Tiêu Dao để tới ủy ban thị trấn Đường. Người đàn ông kia nói với Trư Cốc: “Chủ tịch Du đang đợi anh ở phòng đọc sách”.   Đầu óc Trư Cốc vẫn không tỉnh táo lắm, hắn đã định bụng ngủ một mạch tới sáng mùng Hai. Lúc hắn đi ra khỏi quán Tiêu Dao, gió lạnh vẫn không khiến hắn tỉnh táo hơn. Trư Cốc đẩy cửa văn phòng, một luồng khí nóng ập vào người hắn, luồng khí này nồng nặc mùi thuốc lào.   Chủ tịch Du đang trầm ngâm ngồi trên chiếc ghế thái sư hút thuốc lào.   Dưới chân ông ấy để một chậu than đồng, than trong chậu đang cháy đỏ.   Chủ tịch Du nhìn thấy Trư Cốc bước vào, liền đặt ống điếu xuống bàn.   Trư Cốc đi về phía Du Trường Thủy, khẽ nói: “Chủ tịch Du à, ông tìm tôi có việc gì vậy ?”.   Du Trường Thủy thở dài: “Lúc chạng vạng, phố huyện có người đưa tin nói xảy ra chuyện rồi”.   Trư Cốc thót tim, đầu óc mụ mị của hắn bỗng chốc tỉnh táo lạ thường, mắt sáng lên: “Chủ tịch Du, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì ?”.   Du Trường Thủy vuốt râu nói: “Trư Cốc, ngồi xuống đi, tôi sẽ kể cho”.   Hắn vẫn đứng đó, thành khẩn, không dám ngồi.   Giọng của Du Trường Thủy đã dịu đi: “Trư Cốc à, ngồi xuống đi!”.   Lúc này, hắn mới ngồi xuống, cặp mắt vẫn dán vào khuôn mặt gầy gầy của Du Trường Thủy.   Du Trường Thủy nói tiếp: “Trư Cốc à, người trên phố huyện đưa tin nói hai tay đao phủ hành hình Lăng Sơ Bát ở pháp trường đều đã chết rồi, đều bị trúng trùng độc”.   Trư Cốc há hốc miệng: “Hả ? Lẽ nào mụ Lăng Sơ Bát vẫn chưa chết, mụ lại hạ độc họ ? Nhưng rõ ràng mụ ta đã bị chặt đầu rồi mà.”   Du Trường Thủy nhìn vẻ ngỡ ngàng của Trư Cốc nói tiếp: “Việc này quả thực rất khó hiểu. Nghe nói họ chết giống hệt với một số người ở thị trấn này. Bây giờ người dân trên phố huyện cũng hoang mang sợ hãi, họ lo sợ trùng độc sẽ xuất hiện trên người mình”.   Họng Trư Cốc khô khốc, lại còn ngứa lạ, muốn ho nhưng lại không ho được.   Một cơn gió lạnh thổi từ cửa sổ vào khiến giấy dán cửa kêu sột soạt. Ánh mắt của Du Trường Thủy và Trư Cốc lộ vẻ sợ hãi tột độ, cứ như thể có người nào đó sắp phá cửa xông vào vậy. Tay Trư Cốc nắm chặt báng súng moze. Một lát sau, hắn mới nói với Du Trường Thủy: “Là gió thôi, đừng quá căng thẳng”.   Tiếp đó, Du Trường Thủy kể cho Trư Cốc nghe chuyện xảy ra buổi tối hôm qua ở nha môn phố huyện. Hai tay đao phủ đều là người ngoại tỉnh, Tết không về quê. Không hiểu không còn người thân để đoàn tụ hay sao mà chúng không về. Một tay tên là Đỗ Ngũ, tay còn lại tên là Đinh Tam. Chúng sống ở một căn nhà nhỏ trong ngõ cạnh nha môn. Đêm 30 Tết, hai đứa nó có làm một số món ăn, coi như cơm tất niên. Ăn xong cơm tất niên, hai đứa nó rủ nhau đi xem đèn lồng. Nhà nào nhà nấy đều treo đèn lồng, các loại đèn muôn hình vạn trạng trông rất vui mắt. Chúng cứ đi trên phố, rồi vô tình tới cửa Văn Miếu, phát hiện bên trong có gánh hát đang biểu diễn, liền vào trong xem kịch. Xem xong kịch, tuyết rơi lất phất, thực ra ở trên núi tuyết đã rơi cả một ngày rồi. Chúng trở về nhà, con chó to màu vàng vẫy đuôi mừng chủ. Trong nhà đốt than nên không khí ấm áp vô cùng. Đến nữa đêm, trên phố huyện rộ lên tiếng pháo đón Tết. Từ trước tới giờ chúng chưa từng đốt pháo, năm sau sẽ thế nào, chúng chưa từng nghĩ về chuyện này. Nhưng khi nghe thấy tiếng pháo vui tai kia, chúng liền hâm lại rượu uống, vừa uống vừa nói chuyện, vô tình nói về chuyện giết người.   Đinh Tam nhấp một ngụm rượu nói: “Năm đó, tao giết một thổ phỉ, chặt đầu của hắn, hắn còn đứng dậy đi mười mấy bước mới ngã vật xuống đất. Máu từ cổ hắn phụt ra, bắn tung tóe khắp nơi, thằng thổ phỉ đó không hiểu sao lại nhiều máu thế chứ. Rất lâu sau đó, cứ mỗi lần nhớ tới thằng thổ phỉ đó tao lại không ngủ được cứ nghĩ tới chuyện ngập mình trong máu của nó, toàn thân tao đã lạnh cóng”.   Đỗ Ngũ cũng nhấp một ngụm rượu rồi nói: “Tao với mày giết nhiều người như vậy, loại người nào còn chưa gặp chứ ? Tao bây giờ đã trơ rồi. Cũng không còn nghĩ được nhiều như thế nữa. Thà chết quách đi còn hơn sống dặt dẹo, thôi thì sống được ngày nào hay ngày đấy thôi, tao cũng chẳng muốn nghĩ nhiều nữa. Chính tao và mày biết đâu một ngày nào đó lại chết dưới đao của ai đó. Loại người như tao với mày là loại tội ác ngập đầu, có chết cũng sẽ bị đày xuống mười tám tầng địa ngục thôi”.   Đỗ Ngũ uống một hơi hết bát rượu to.   Chúng cứ uống như vậy, không biết uống tới lúc nào nữa. Đột nhiên, chúng phát hiện con chó vàng chúng nuôi đã biến mất.   Con chó vàng đó ngồi canh cửa, hình như nó cảm nhận được có động tĩnh gì liền chui ra khỏi ổ. Đó là con chó rất trung thành. Tuyết vẫn đang rơi đầy trời, phố huyện đã im lắng trở lại. Đột nhiên, con chó phát hiện có bóng người đứng trong ngõ không xa chỗ nó nằm lắm. Nó liền sủa về phía bóng đen đó. Bóng đen đó không bỏ đi mà bay vút lên như hồn ma vậy. Con chó vàng nhảy xô về phía bóng đen. Bóng đen vứt cái gì xuống, con chó liền tợp lấy thứ đó. Đó là một miếng thịt rất ngon, sự cảnh giác của con chó đã không còn nữa. Nó ngấu nghiến ăn hết miếng thịt. Chẳng mất chút sức lực gì, bóng đen đã khiến con chó ngã lăn ra đất, co quắp, kêu ăng ẳng vài tiếng rồi chết hẳn.   Sau khi con chó vàng chết, một bóng trắng bay vào ngõ nhỏ, bay tới trước căn nhà nhỏ của Đỗ Ngũ và Đinh Tam. Bóng đen vẫn đứng im ở chỗ cũ như một xác chết khô. Nếu có ai ra khỏi nhà vào lúc này, chắc chắn sẽ bị bóng đen kia làm cho hồn bay phách lạc mất.   Đỗ Ngũ và Đinh Tam vẫn đang uống rượu, bỗng nhiên tiếng gõ cửa vọng tới.   Chúng đưa mắt nhìn nhau, cứ như thể đứa này muốn hỏi đứa kia: “Ai lại gõ cửa vào lúc này nhỉ ?”.   Tiếng gõ cửa lại vang lên.   Chúng không nói chuyện nữa. Đỗ Ngũ đi tới cửa.   Tay phải của hắn đã để lên chốt cửa nhưng vẫn chần chừ không mở.   Đinh Tam cũng đứng dậy, rút đao Quỷ Đầu thường dùng để giết người ở trên tường xuống. Hắn rút đao ra khỏi bao, dưới ánh đèn dầu đao Quỷ Đầu lóe lên ánh sáng lạnh khiến ma sợ quỷ khóc. Đinh Tam đứng ở đó, mặt lạnh tanh, nếu như có người tới trả thù, thì hắn sẽ bảo vệ mình bằng cái đao đã giết vô số người kia. Đỗ Ngũ quay lại nhìn Đinh Tam rồi khe khẽ mở cửa. Cửa vừa mở, gió lạnh cùng tuyết bay vào nhà, Đỗ Ngũ rùng mình. Bên ngoài chẳng có ma nào cả. Bỗng đèn dầu trong nhà phụt tắt, cả căn nhà tối om. Đỗ Ngũ cảm thấy có thứ gì đó đi vào nhà ngay cạnh hắn. Sau khi Đinh Tam thắp lại đèn dầu xong, Đỗ Ngũ lại kiểm trả cả trong nhà lẫn ngoài sân nhưng vẫn không phát hiện được gì.   Sợ bóng sợ gió một lúc, chúng lại tiếp tục ngồi vào bàn, bưng bát rượu uống tiếp. Vừa uống xong một bát, thì từ ngoài cửa vọng tới tiếng cười nhạt của phụ nữ, hai thằng đó ngã úp mặt xuống bàn.... Vào trưa ngày mùng 1, có người tới tìm, phát hiện chúng đã chết một cách rất đáng sợ. Toàn thân chúng trương lên, bụng trương lên như một chiếc trống, mặt sưng như cái đấu, da mặt vàng ệch. Thất khiếu chảy máu đen, và từ miệng chúng xuất hiện con rắn hoa màu xanh. Bất giác người đó nhớ tới Lăng Sơ Bát - người đàn bà nuôi trùng độc mới bị chặt đầu cách đó không lâu. Tất cả người dân trong thị trấn kinh hãi, lẽ nào Lăng Sơ Bát sống lại ?   Trư Cốc bủn rủn cả người trong lời kể chậm rãi của Du Trường Thủy.   Sau khi Du Trường Thủy kể xong, Trư Cốc run rẩy lên tiếng: “Chủ tịch Du à, liệu cô ta có tới thị trấn Đường không? Vì chính chúng ta đã đi tới phố huyện báo quan bắt cô ta”.   Du Trường Thủy lấy chiếc ống điếu lên, hút một hơi dài rồi nói: “Gọi cậu tới, là để bàn bạc phải phòng họa như thế nào. Bây giờ không để ý tới việc Lăng Sơ Bát sống lại hay không mà cái chính là phải làm tốt công tác phòng bị. Đội bảo vệ của cậu phải gánh trách nhiệm lớn, nuôi quân nghìn ngày, dùng quân nhất thời, cậu phải hướng dẫn đội bảo vệ tăng cường công tác bảo vệ đối với ủy ban và trên thị trấn. Nếu phát hiện thấy có người khả nghi, cậu có thể tiền trảm hậu tấu, nhất thiết không để bọn nuôi trùng độc có bất kỳ cơ hội nào”.   Trư Cốc gật đầu lia lịa: “Em nhất định sẽ làm theo lời Chủ lịch. Chủ tịch đã cất nhắc em như vậy, em quyết không phụ lòng chủ tịch”.   Du Trường Thủy nhả ra một hơi khói đặc: “Cậu cũng phải bảo vệ tốt quán Tiêu Dao đấy!”. “Chắc chắn, chắc chắn rồi, em biết rồi ạ.”   Du Trường Thủy khẽ cười: “Biết thì tốt, cậu quả thật biết làm việc hơn Chung Thất, xem ra Du mỗ tôi không nhìn lầm người. Được rồi, cậu đi sắp xếp công việc đi!”.   Trư Cốc đứng dậy từ biệt, đi tới cửa rồi quay người lại nói: “Chủ tịch Du, em còn có một chuyện muốn báo cáo”. “có chuyện gì vậy ? Mau nói đi!”   Trư Cốc chun mũi nói: “Thằng Tam Lại Tử phá hỏng khóa cửa hiệu truyền thần, nó đã chiếm chỗ đó rồi, Chủ tịch xem xem...”,   Du Trường Thủy cười: “Việc này tôi biết rồi, thằng này cũng đáng thương lắm. Trời lạnh như vậy mà chẳng có chỗ nào ở. Chỗ miếu Thổ Địa gió lùa tứ phía, thôi cứ để nó sống ở đó. Cuối năm, lại tới phố huyện tìm họa sĩ rồi tính sau”.   Trư Cốc xun xoe: “Chủ tịch Du đúng là người có tâm Bồ Tát, từ bi quá! Vậy em đi đây!”.   Du Trường Thủy khẽ nói: “Đi đi!”.   Trư Cốc đi tới cửa, liền nghe thấy Du Trường Thủy lẩm bẩm một mình: “Tống Kha là một họa sĩ tốt biết bao, thật đáng tiếc cho một nhân tài như thế. Phải đi đâu để tìm được họa sĩ giống như anh ta chứ ?”.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro