Tao lao-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ai Mua Hành Tôi

Ngày xưa ba anh em nhà kia, nghèo quá, nghèo đến nỗi bố chết, không góp đủ tiền mua nỗi chiếc áo quan cỗ tạp.

Ba anh em phải bó di-hài bố vào trong một cái chiếu cũ rồi chờ tối khuya mới dám đốt đuốc vác mai khiêng  bố ra đồng, vì chôn ban ngày ban mặt sợ làng xóm trông thấy người ta chê cười.

Tha-ma thì xa, mà ba anh em thì cùng đói cơm, gầy còm, ốm yếu nên đi được một quãng lại phải đặt bố xuống để thở.

Một lát sau, anh Cả khiêng đằng đầu vui mừng bảo anh Hai và anh Ba:

- Thầy linh thiêng quá, hai chú ạ, thầy thấy chúng ta yếu đuối nên nhẹ bỗng hẳn đi, tôi tưởng như khiêng chiếu không thôi, chú ạ.

Anh Hai khiêng đằng chân cũng cười, nói:

- Ờ nhỉ, như không có gì nữa, bác ạ.

Còn người em út cầm đuốc thì chẳng nói gì, cứ việc nhẩn nha rọi đường cho hai anh đi.

Kỳ thực thì không phải vì người chết linh thiêng mà vì cái thây đã rơi tụt xuống đất từ lúc nào, nhưng hai người khiêng mệt nhọc quá nên chẳng biết gì cả.

Thế rồi ba anh em đi đến tha ma đào huyệt chôn bố nghĩa là chôn cái chiếu không có xác bố nằm trong.

Lúc trở về, một cơn gió mạnh làm tắt mất đuốc. Nhưng không sao, đường trong làng ba anh em đã quen thuộc lắm, lần mò mà đi cũng được. Bỗng người em út vấp phải một vật răn rắn, bèn cúi xuống sờ soạng rồi kêu to bảo hai anh:

- Cái thây ma hai anh ạ. Lạnh quá đi mất thôi.

Hai anh cùng xuống rờ:

- Ưø, cái thây ma thực?

Giá đuốc không tắt thì ba người đã nhận thấy cái thây ma đó chính là bố mình.

Anh Cả ngậm ngùi bảo hai em:

- Chả biết ai mà lại chết đường chết xá thế này nhỉ!

Anh Hai cũng buồn rầu nói:

- Chắc người ta ngộ gió, xa cửa xa nhà nên mới chết bỏ xác ở giữa đường như thế này.

Anh Ba bàn:

- Thương hại quá nhỉ! Hay anh em ta chôn làm phúc?

- Phải đấy! Chôn làm phúc.

Tức thì ba anh em xúm lại khiêng cái tử thi, rồi chôn vùi ở một cái gò nhỏ bên đường.

Chiều hôm sau ba anh em ra đồng viếng mộ thấy mả bố vẫn dẹt đét, còn mả của ai bên đường không biết thì mối xông đùn lên cao ụ. Ba người cũng không ngờ rằng đó là mả mình chôn làm phúc tối hôm trước vì đêm khuya không đèn không đóm chôn vội chôn vàng thì sáng ra còn nhớ chỗ nào vào chỗ nào nữa...

Đêm hôm ấy anh Cả thấy con rồng vàng về báo mộng rằng:

-" Ông Cả ơi! Ông để nhầm mả bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau lắm không chịu được. Tôi van ông, ông chạy đi nơi khác cho. Tôi có bao nhiêu vàng bạc xin biếu ông tuốt, để đền ơn ông.

Sáng dậy anh Cả thấy gian nhà chật hẹp của mình đầy ních những thỏi vàng, thỏi bạc sáng nhoáng. Anh ta vội vàng cất ráo cả đi vào một nơi kín, rồi xăm xăm ra đồng chạy mả bố nhích sang một bên. Anh ta không bàn với anh em, sợ chúng hỏi vặn vì cớ gì mộ cha vừa yên đã chạy ngay như thế. Giấu diếm không xong, mà nói thật lại phải chia bạc cho hai em, rất là không nên.

Nhưng đêm hôm sau, con rồng vàng lại về báo mộng cho anh Hai, vì thật ra anh Cả đã chạy mả bố đâu, anh chỉ mới chôn lại cái chiếu mà anh tưởng có gói thây bố mình. Con rồng vàng về báo mộng rằng:

-" Ông Hai ơi, ông để nhầm mả bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau lắm không chịu được. Tôi van ông, ông chạy đi nơi khác cho. Tôi hết cả vàng bạc rồi chỉ còn kim cương châu báu thôi, tôi xin biếu ông tuốt để đền ơn ông.”

Sáng sớm anh Hai mở bừng mắt nhìn ra thấy chói lòe, vì gian nhà chật hẹp, tồi tàn của anh có đầy ánh hào quang rực rỡ tưng bừng của kim cương, châu báu. Anh ta vội cất ráo cả đi vào một nơi thật kín rồi hấp tấp chạy ra đồng đào phắt mả bố lên chôn xích cái chiếu sang một bên, cũng như anh Cả, anh ta tưởng cái chiếu ấy có gói thi thể bố mình ở trong.

Xong xuôi, anh ta trở về nhà hí hửng mừng thầm định bụng sẽ bán kim cương châu báu đi để tậu ruộng thật nhiều, dựng nhà thực đẹp thực to.

Đến lượt anh Ba thấy con rồng vàng về báo mộng vì mả chưa chạy thì hàm nó còn đau. Nó báo mộng rằng:

- "Ông Ba ơi, ông để nhầm mả bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau đớn lắm không chịu được. Tôi van ông, ông chạy đi nơi khác cho. Tôi hết cả vàng bạc, kim cương, châu báu rồi, chỉ còn mỗi một lọ nước này tôi xin biếu để đền ơn ông. Nước trong lọ quí lắm đấy, sau này ông sẽ dùng được nhiều việc rất lạ.”

Sáng dậy anh Ba không thấy gian nhà chật hẹp tồi tàn của mình đầy ních những thỏi vàng thỏi bạc sáng nhoáng hay rực rỡ tưng bừng ánh kim cương, châu báu. Anh ta chỉ thấy ở giữa nhà có cái lọ sành đóng nút. Bèn đến mở nút ghé mũi ngửi thì, giời ơi! Mùi thơm sực nức xông ra khắp nhà, lại văng vẳng trong mùi thơm có tiếng đàn tiếng địch véo von réo rắt. Anh ta đậy vội nút lại, tức thì tiếng âm nhạc ngừng bặt.

Anh Ba mỉm cười lẩm bẩm:

- Nước quái gì mà lại biết đàn biết hát thế này! Hãy cất đi đã vì con rồng vàng nó bảo sau này dùng được nhiều việc.

Anh ta bèn đặt lọ nước vào cái quang treo lên xà nhà rất là cẩn thận. Rồi nhớ đền lời con rồng vàng nhờ giúp, anh ta vác mai đến bãi tha ma để chạy nhích mả bố ra khỏi hàm nó chẳng nó kêu đau tội nghiệp!

Nhưng cũng như hai anh trước, anh Ba chỉ chôn lại cái chiếu, còn mả bố thì vẫn táng ở hàm con rồng như cũ.

Trong khi anh Ba đi chạy mộ cho cha, thì chị Ba ở ngoài về, trông thấy cái lọ treo lủng lẳng trên xà nhà. Chị ta bật cười nói một mình:

- Lẩm cẩm quá đi mất thôi! Chẳng biết lọ gì mà nó treo lên đây thế này?

Bèn lấy xuống mở nút, rồi chẳng buồn ghé mũi ngửi, chẳng kịp lưu ý đến tiếng địch bay ra, chị ta vội rút tay ra nguyền rủa:

- Rõ nỡm ở đâu á! Tưởng có gì lạ, té ra đựng rặt nước mưa là nước mưa, mà lạnh chết đi được.

Nhưng chị Ba kinh ngạc nhìn bàn tay cổ tay trắng muốt như mới lột da!

- Ôi, nước gì quí thế này!

Chị ta vui sướng quá, bê tấp lọ nước ra sau nhà rồi tắm gội kỳ cọ từ đầu đến chân. Tức thì chị ta trở nên một nàng tiên lộng lẫy, da trắng như ngà, tóc óng như mây, mắt phượng mày ngài, chân tay nhỏ nhắn xinh xẻo.

Liền đấy có một luống hành. Những cây hành được nước tắm ở mình của chị Ba chảy vào gốc, lớn vụt ngay lên, lá dài bằng đòn gánh, củ to bằng cái bình vôi.

Anh Ba ở tha ma về thấy mất lọ nước quý lại nghe có tiếng bì bõm ở sau nhà, liền chạy ra xem. Lúc ấy chị Ba vừa dốc cạn lọ nước. Anh Ba toan mắng vợ nhưng nhìn thấy vợ xinh đẹp quá anh ta lại thôi.

Từ đấy, anh ta chỉ suốt ngày ngồi ngắm nghía vợ chẳng thiết đi làm ruộng, làm nương để kiếm ăn nữa. Vợ trách móc mãi anh ta mới chịu vác cuốc vác cày ra đồng. Nhưng chốc chốc anh ta lại quay về nhà ngắm vợ, chẳng làm nên khoai nên ngô gì cả.

Vợ giận vợ khóc. Anh đâm hoảng, bèn nghĩ ra một cách: anh ta lấy một cái mo cau trát vôi thực trắng, thực mịn rồi vẽ dung nhan vợ lên tranh. Khi ra đồng làm lụng, anh ta cầm cái mo cau ở bên cạnh để mà ngắm nghía ảnh vợ cho đỡ nhớ.

Qua một tháng, vợ mỗi ngày một đẹp thêm, mà cây hành mỗi ngày một lớn hơn. Vợ với hành, anh ta cho là cái khoái nhất trên đời.

Một hôm, anh ta đương trồng ngô, thấy một con quạ cứ sán lăn đến bới, để nhặt những hạt anh ta vừa mới vùi. Anh ta tức mình quá cầm viên gạch lia trúng chân quạ. Nó đau quá kêu ầm lên và bay đi mất. Anh Ba đắc chí cười ha hả. Nhưng chỉ lát sau, con quạ trở lại liền bay xả xuống cướp cái mo của anh Ba: nó đã lập tâm trả thù anh.

Mà nó trả thù được thực. Nó bay tít đến kinh đô, liệng hai, ba vòng trên cung điện nhà vua, rồi chờ khi vua ra sân rồng, nó bỏ rơi cái mo cau xuống. Vua nhặt lên xem thấy có họa dung nhan một người đàn bà cực kỳ xinh đẹp, thì lấy làm kinh ngạc, tấm tắc khen thầm: "Quái! Sao có người đẹp đến thế này!”

Vua bèn hạ lệnh cho đòi thợ truyền thần vào cung để vẽ lại hình người đàn bà đẹp lên trên một trăm cái mo cau khác, rồi giao cho một trăm sứ giả mang theo đi khắp trong nước để tìm cho bằng được người ấy rước về làm cung phi mới nghe.

Chẳng bao lâu sứ giả hỏi thăm lần được nhà anh Ba và bắt nghiến chị Ba đem về dâng vua. Vua sung sướng, cất ngay chị Ba lên chức Tây cung hoàng hậu rồi ban yến tiệc cho bá quan văn võ trong suốt mấy ngày đêm.

Trong khi ấy thì ở gian lều chật hẹp tồi tàn anh Ba nhớ vợ đẹp ngồi khóc y ỷ, chẳng thiết gì đến công việc đồng án nữa. Trông thấy những cây hành lá dài bằng đòn gánh củ to bằng bình vôi, anh ta càng khóc to, và anh ta nghĩ thầm: "Đem bán quách đi thôi, chứ để luống hành lại, mình chỉ tổ nhớ đến vợ!”

Anh ta bèn xếp một gánh nặng trĩu tuy mỗi bên quang chỉ có năm củ hành thôi rồi quẩy đi rao bán:

Dọc bằng đòn gánh

Củ bằng bình vôi.

Ai mua hành tôi

Thời thương tôi với!

Rao mãi chẳng có ai mua, người thường ai dám dùng thứ hành ma quái ấy, anh ta bèn gánh đến kinh đô để bán.

Bấy giờ vợ anh ta đang ở trong cung. Tuy đã lên làm Tây cung hoàng hậu mà chị ta vẫn thường nhớ chồng cũ chẳng sao khuây khỏa được. Hôm mới bị bắt, chị ta gào khóc thảm thiết. Vua phải dỗ mãi chị ta mới nín. Nhưng từ đấy, chị ta như ngây như dại, như câm như điếc và cả ngày chẳng buồn hé môi dù chỉ để mỉm một nụ cười.

Vua thấy thế lấy làm khổ tâm lắm, vì ngài chỉ muốn được ngắm cái cười nghiêng thành của Tây cung hoàng hậu. Ngài đã sai sứ giả đi khắp trong nước bắt hết các vai hề có tiếng về làm trò để Tây cung hoàng hậu xem. Nhưng Tây cung hoàng hậu vẫn chẳng cười. Ngài bèn xuống chiếu truyền rằng:

" Trong bàn dân thiên hạ, bất cứ người nào hễ làm cho Tây cung hoàng hậu cười một tiếng thì tức khắc được cất lên chức thượng thư”.

Ngày hôm sau, ở khắp các nơi, từ thành thị cho chí thôn quê người ta kéo về kinh đô như nước chảy để tranh giành chức thượng thư. Vì không cần học rộng tài cao, sôi kinh nấu sử chỉ cốt làm hề khéo léo là được nhảy lên ngồi ghế thượng thư ngay thì ai mà không háo hức. Nghe đâu, trong bọn có cả mấy ông trưởng giả giàu xụ gánh tiền nghìn bạc vạn về kinh để toan chạy chọt vì họ tưởng chỉ đút lót quan thái giám trình Tây cung hoàng hậu cười cho một cái là mình thành thượng thư liền.

Song không những Tây cung hoàng hậu vẫn không chịu cười mà nghe bọn kia làm trò hề, ngài lại càng bực mình thêm.

Giữa lúc ấy, ở ngoài phố lanh lãnh có tiếng rao:

Dọc bằng đòn gánh,

Củ bằng bình vôi,

Ai mua hành tôi,

Thời thương tôi với

Nhận được tiếng chồng, chị vợ sung sướng phá lên cười. Vua cùng văn võ bá quan kinh ngạc, bọn người dự thi trò hề đều thất vọng, thì thấy khi mình nhăn mặt nhăn mũi, khoa chân múa tay, hoàng hậu vẫn không nhích mép, thế mà đến lúc mình không làm gì cả thì tự nhiên ngài lại bật lên cười.

Vua truyền quân lính ra xem ai rao. Tức thì quân lính lôi anh Ba với gánh hành của anh ta vào. Vua mới bảo anh ta rằng:

- Trẫm tốn biết bao công của mà vẫn không làm cho hoàng hậu cười được, nay ngươi chỉ rao mỗi một câu đủ khiến cho hoàng hậu cười rất to rất vui. Vậy ngươi có phép gì lạ thế, tâu ngay với trẫm rồi trẫm ban thưởng cho.

Anh Ba đặt gánh tâu bày:

- Bẩm đức vua, con cũng không biết tại sao bà hoàng hậu nghe con rao lại cười như thế.

Vua phán:

- Vậy ngươi thử rao lại xem nào.

Anh Ba vâng lời đặt gánh lên vai rao to:

Dọc bằng đòn gánh,

Củ bằng bình vôi,

Dọc bằng đòn gánh,

Củ bằng bình vôi

Tức thì vợ anh ta lại cười, cười chảy cả nước mắt nước mũi ra. Và chị chàng chỉ trông thấy mặt chồng cũng đủ vui sướng cười ngất rồi, có cần gì phải chồng rao mới cười. Nhưng vua cứ tưởng củ hành to tướng kia có phép lạ, bèn bảo anh hàng hành:

- Trẫm thử thay đổi quần áo với ngươi xem.

Rồi vua cởi áo trào, cởi xiêm rồng, tháo mũ vàng đưa cho anh Ba mặc và truyền anh Ba lên ngồi trên ngai cùng với Tây cung hoàng hậu, còn mình thì mặc bộ quần áo nâu của anh ta vào người, quẩy gánh hành của anh ta lên vai rồi rao lớn:

Ai mua hành tôi,

Thời thương tôi với

Ai mua hành tôi,

Thời thương tôi với.

Anh hàng hành nghe rao liền quát:

- Tên nào dám hỗn hào gánh hàng vào bán trong cung điện nhà vua. Quân lính đâu đem chặt cổ nó cho ta.

Tiếng dạ ran. Quân lính kéo ồ vào điện anh hàng hành giả hiệu đem chém ngay trước sân rồng không kịp phân giải.

Thế là anh Ba lên làm vua, và vợ anh ta thì làm hoàng hậu.

Ba Thằng Xích Lô

- Cứ mỗi sáng, khi đi học bước ra cổng nhìn sang bên kia đường tôi lại thấy..Ba chiếc xích lô với ba thằng: thằng cao, thằng mụn, thằng ria mép. Chúng say sưa nhậu nhẹt bên chiếc bàn ghỗ và vài ba cái ghế đẩu. Khi mọi người bắt đầu một ngày mới, với bao điều lo nghĩ, thì chúng xà vào bàn nhậu...Tranh luận và kể lễ những chuyến chở mối buổi sáng và những gì diễn ra trong mắt chúng. Có lẽ chưa có chuyện gì xảy ra trên đời mà chưa qua môi miệng của chúng, đôi khi cao hứng chúng lại văng ra những tiếng chửi thề và những nụ cười thỏa mãn.....Thằng mụn lại nói :

- Sáng nay bà Bảy nghỉ chợ làm tao mất cả mối !

Thằng cao tròn xoe mắt hỏi : Sao thế ? bả bệnh à ?

- Bả đánh đề cụt mẹ vốn rồi! Bả chơi dữ lắm, nghe đâu thiếu tiền đứng cũng mấy triệu.

Thằng ria mép xen vào: Bả ngu bỏ mẹ! toàn đi kiếm đám ma vào xin số. Như tao để tiền nhậu sướng hơn!

Rồi cả bọn lại phá lên cười, một câu truyện lại trôi qua...Cái chum nhỏ lại truyền tay, những giọng cười lại phá lên.Bà Tư bán bún bò đi đánh ghen, thằng Phương con ông Tám hút xì ke bị công an bắt đi cai nghiện.....Có khi chúng còn bàn cả chuyện chính trị: về Nam Tư, về các nước Trung Đông. Những tình hình nóng bỏng mà báo chí nước ngoài đưa tin mà báo ta in lại!!!. Câu truyện lại càng hứng thú hơn, một việc mà cái xóm lao động của nó trở nên nhộn nhịp và sôi nổi. Bé Hai sau những đêm say khướt ở vũ trường, đã vớ được một anh chàng Đài Loan : Đám cưới tổ chức ở nhà hàng sang trọng!. Ngày hôm đó trông ba thằng thật ngộ ngĩnh, cũng quần, cũng áo, cũng giầy: giống như ba thằng lật đật trong chốn phồn hoa. Với ánh mắt nhạc nhiên, chúng nhìn ngắm tất cả....Những vật dụng, cách trang trí với những ánh đèn rực rỡ. Bà Chín bán hột vịt lộn trong bộ đầm lòi những xớ thịt với nước da đen xạm vì nắng, khuôn mặt trộn lẫn mồ hôi và son phấn mà bà mượn ở đâu đó. Và một cô dâu tả tơi được khoác lên bộ áo cưới tuyệt vời, bên cạnh một gã mập phệ mà nhìn thật kỹ chúng mới thấy đôi mắt của chàng rể..... Rồi chúng lại tiếp tục câu truyện..

- Thằng mụn lên tiếng: bữa đó uống đã thật! tao quất 12 chai Tiger luôn...Rồi nó lại ực một chum rượu đế cay xè, bỏ vào mồm một miếng dưa chua được trộn lẫn với vài trái cóc xanh.

- Đời tao không gặp thời!. Thằng cao vuốt tóc, chua xót : Mẹ ! mai mốt cho con út nhà tao lấy Đài Loan ..Cả đời sướng !!!

Đột nhiên, chúng đang cao hứng thì vợ thằng ria mép từ trong hẻm vọt ra chửi:

- Mẹ mày ! mày chỉ tối ngày lo nhậu, còn tiền học của con Thơm thì đ...lo !

Nó nhếch ria mép và trỏ tay về con vợ: chắc nó mới thua tứ sắc !!

Thế là đôi vợ chồng nó gân cổ lên cãi nhau, vung tay múa chân. Có lẽ thằng ria mép xóc óc trước những câu nói của vợ. Nó lại chứng tỏ nó là thằng đàn ông bằng cách đánh con vợ túi bụi, con vợ nó chẳng kém vừa cấu xé vừa kêu gào. Mọi người can ngăn một lúc rồi chúng mới buông nhau ra.Con vợ có vẻ yếu thế và bị đau sau trận thư hùng nên lũi vào hẻm mất ! Còn nó lại cười hề hề bước vào bàn nhậu, lại bàn luận về các đức tính của người say rượu đang gián đoạn.

- ực! Thằng cao nói : đức tính thứ nhất! Can đảm. Vì ta biết rượu độc, hại mà ta vẫn uống

- Đức tính thứ hai: thật thà!. Trong lòng ta có gì ta nói h..ế..t ! Thằng mụn cao hứng.

- Đức tính thứ ba: dũng cảm!. Gì ta cũng dám làm ..kể cả đánh vợ . Thằng ria mép lè nhè.

- Thứ tư : giản dị !! Đâu cũng là gường ngủ...đâu cũng là n...h...à!!!!thằngcao khề khà !

Rồi cả bọn phá lên cười!!!..... Âý thế mà dạo này tôi không gặp bọn nó! có lẽ chúng cũng say mê trái bóng lăn !!!?. Tôi nghĩ và thương cho ba thằng.Vì dòng đời vẫn cứ trôi........

Cuộc đời như những bậc thang của kim tự tháp. Đứng dưới đất ta nhìn được xung quanh...Vài bậc thang, ta nhìn ra xa được một tí.....ở chóp mũi ta thấy rằng: vũ trụ này thật bao la!! ...Ai ơi !! biết vượt qua được số phận ??!!

CHUYỆN ĐƯỜNG RỪNG- CỌP THỜI KHẨN HOANG

Nguyễn Kim

   Thử hình dung vùng đất phương Nam bao la, phì nhiêu màu mỡ bây giờ và nghe lại, xem lại những lời truyền khẩu, những ghi chép giản dị về cuộc đấu tranh mở đất và sinh tồn của ông cha ta đôi ba trăm năm về trước, thật khó mà cảm nhận dù chỉ một phần gian khổ ấy. Câu chuyện này không phải là sự tra cứu chi tiết thực hư, chỉ là thu thập nối tiếp từ những chuyện giống như truyền thuyết cần lưu giữ. Từ quyển “Gò Công cảnh cũ người xưa” của cụ Việt Cúc, một thầy thuốc, một nhân sĩ đáng kính và lời kể thêm của những vị cao tuổi sống miệt Bình Thành, Bình Xuân…mà thêm thắt vào đây.

   Thuở xưa, quãng đường từ Chợ Lớn về tới Cần Đước khoảng năm chục cây số đã là gian nan lắm. Những lúc quan viên cần đi lại, giấy tờ công văn cấp bách… phải dàn lính tráng sắp đặt mở đường và phòng ngừa cướp bóc liều lĩnh hoành hoành. Lặn lội đường xa diệu vợi chỉ nhờ vào đôi chân cứng cáp, dẻo dai, đi và về có nhanh cũng mất hơn nửa tháng trời. Sợ nhất là khi vượt sông Bao Ngược để vào địa phận Gò Công, vùng hoang vu nê địa mới mẻ đầy bất trắc. Hãi hùng sóng to gió lớn, lòng lạch sâu, nước chảy mạnh…cho nên tai nạn ghe thuyền là thường xuyên. Sắp qua sông thì khách thương hồ bày cúng cầu may, thoát lo cũng một mâm tạ lễ. Có câu hò xưa nghe rất đoạn trường “Anh đi chuyến gạo Gò Công/ Anh về Bao Ngược bị giông đứt buồm…/ Anh ơi!/ Thuyền anh cao nhưng sóng cả nhận chìm/ Em trông sông bao nhiêu khúc…nỗi niềm ruột đau…hò ơ…Phía bên kia sông thuộc về Gò Công, miệt Bình Xuân, Bình Thành…toàn rừng và rạch, không cây to chớn chở như miền trên, chỉ lùm bụi cây lúp xúp nhưng chằng chịt, um tùm. Những con rạch nhỏ như rạch Rô, rạch Lá, rạch Băng…nối liền nhau và ăn thông ra sông Tra. Rạch hẩm sâu, tăm tối bởi tàng lá dừa nước sum suê ken dày cùng cây hoang dại che lấp hai bên bờ. Đây cũng là lãnh địa của cá sấu, chúng ngang dọc tung hoành bắt thú, bắt người ăn thịt. Có một anh gốc người Cà Mau vì thời thế sao đó mà chống xuồng cùng đứa con trai chừng sáu tuổi về cất chòi bên đoạn rạch Rô, lần hồi đốn củi đổi gạo. Sơ sẩy, đứa nhỏ bị sấu bắt lặn chìm mất, người ta thấy mà không biết làm sao cứu kịp, kêu trời đề quyết là con sấu mũi đỏ hung dữ nhất bầy. Người cha không khóc, ngày đêm cặm cụi mài mác dài, mác ngắn, đánh bện dây thừng, dây chão, không ai biết làm chi. Ba ngày sau, đầu đứa nhỏ tấp mé, anh bọc áo ôm vào lòng rớt nước mắt một hồi rồi đem chôn. Gần một tháng trời, anh theo dõi thói quen kiếm ăn của bầy sấu, chú ý nhất là con mũi đỏ. Tối nọ, bạn làm nghề nghe tiếng vẫy vùng ngoài rạch liền vác rìu, xách chĩa ra xem. Một vùng nước ngầu bọt xoáy, cuộc đấu tranh sinh tử đang diễn ra. Anh người Cà Mau bám chặt mình con sấu lớn đã bị trói hai chân trước, trồi lên hụp xuống giữa ánh đuốc cùng tiếng hò la trợ lực. Lúc lâu sau thì im lặng, anh ta gắng lết vô bờ thì ngất xỉu. Đám bạn lớp lo hơ ấm, xoa bóp thuốc rượu cho anh, lớp hì hục cột dây kéo con sấu mũi đỏ về nơi lều trại. Sáng ra, mọi người lột da xẻ thịt con sấu, còn anh giết sấu chỉ hứng chén máu ra rưới lên mảõ con trai, đối nén nhang khấn vái. Uống cùng anh em ly rượu, anh bùi ngùi chia số củi đã đốn còn lại cho anh em rồi từ giã, chẳng ai biết người cha thương con và đầy lòng can đảm kia sẽ trôi giạt về đâu?. Lại có chuyện ngôi miễu xưa  bên kia rạch Gò Công còn di tích cái vỏ lúa trông tựa vỏ bầu khô, màu xám mốc, tồn tại gần…hai trăm năm. Tới chuyện con cá bống mú lớn đào hang mé rạch, bề hoành ước chừng nhĩnh hơn cái mái chứa nước, gặp người sơ ý là táp nuốt luôn. May mà một thời gian sau nó đi đâu mất, ông già bà lão cho rằng nó theo hang thông ra sông lớn, biển rộng.  Dưới sông, dưới rạch là vậy, còn trên bờ thì nạn tai rình rập tứ phía; sự né tránh hay chống cự chuyện “sấu tha hùm bắt” quả khó nhọcvô cùng!

   Dân tứ xứ tụ về lập trại, dựng lều nơi gò nổng mà ở, phần nhiều là người lỡ cơ thất chí hoặc nghèo túng, trốn xâu trốn thuế, gọi chung là “dân lậu”.. Họ thường chọn nơi xa xa sông rạch một chút, có việc cần - mà cũng hiếm- vượt qua thì mượn xuồng hoặc nhiều người liều mạng lội nhanh qua. Còn trên bờ thì hùm beo, heo rừng, rắn rít…lúc nào cũng lấp ló chực chờ giáp mặt để nhe nanh, nhả nọc. Anh em hợp sức dầu dãi nắng sương khai khẩn đất, đốn cây rừng bán, dựng lều gần nhau để cùng làm ăn ma ødễõ bề tương trợ, hồi đó gọi chung họ là “bạn rìu”. Lều lợp lá dừa nước, dựng rào bao bọc hai ba lớp bằng cây cóc, cây chà là…vạc nhọn. Aên uống kham khổ, mắm muối qua ngày, có điều sự bao bọc nhau để chống trộm cướp, thú dữ thì họ cùng một lòng. Vùng nhiều cây rừng, đất phì nhiêu cách bến vượt sông Bao Ngược cỡ ba ngàn mét, xưa gọi Truông Cóc vì loại cây này chen chúc dày đặc bao đời. Một nơi hiểm địa mà lôi cuốn anh em lang bạt, gan góc tụ về khai thác làm ăn, dựng nên làng xóm phồn thịnh sau này. Cũng có con đường mòn đất, đường Truông, chạy ngoằn ngoèo, người ta dọn cây cấy lúa, nhà cửa tuy thưa thớt mà ít lo lắng. Rừng truông Cóc trải rộng xa bốn hướng, cây bịt bùng ngút mắt, các loại thú rừng chia nhau mà ở. Đặc biệt, truông rất nhiều cọp, lại ưa lai vãng cùng người. Chiều chiều, nhóm bạn rìu ngó ra mé rừng thấy cọp nối đuôi nhau đi lòng vòng kiếm ăn. Thấy thì bấm nhau nhìn, không ai dám nói đùa, nói xóc bởi tin rằng cọp rất thính tai. Mỗi sáng, chờ mặt trời lên cao mọi người mới hè nhau xách mang dụng cụ đi làm một lượt. Tới nơi thì việc ai nấy làm, lâu lâu ngó chừng sau lưng cho nhau. Bữa nọ, họ đang lui cui đốn củi thì  hai con cọp nhẹ nhàng theo những lùm bụi lại gần. Một anh chợt thấy liền hốt hoảng la to “Cọp…Cọp! anh Móm ơi…chạy cho lẹ!”. Con cọp đi đầu nhảy bổ chụp phủ lên đầu anh Móm định nhận xuống. Anh giỏi võ, vung hai tay lên bấu xiết cổ cọp khiến nó hỏng cả hai chân trước lên. Rồi anh lách mình ra, thúc đầu gối vô hông cọp thật mạnh, nó xiẻng liểng dội ngược. Con cọp kia nhảy chụp, anh né kịp, hai tay liên tiếp tung những cú đấm, đạp vào vai, bụng, nó phải dang ra xa. Anh Móm vừa thủ thế vừa lùi dần lại, chụp rìu, rút lưỡi, cầm đoạn cán chờ đợi. Hai con cọp lườm lườm xoay vòng quanh rồi hè nhau tấn công. Anh xoay trở, tiến thoái lẹ làng, dùng cán rìu nện cho đôi cọp những đòn đau điếng vào vai, lưng, chân…Coi bộ khó thắng, hai con cọp bị no đòn dạt từ từ rồi len lét phóng chạy mất. Anh em bạn rìu nãy giờ chạy núp, giờ ra mừng và hết lời khen tặng anh Móm. Cả khoảng đất là đấu trường quần thảo ác liệt giữa người và mãnh thu, cây cỏ liệt địa, lông cọp rụng rơi tơi tả. Thuở giờ gặp cọp là chạy trốn hoặc bậm môi gõ phèng, hò hét cho nó sợ mà bỏ đi, ai dám đương cự?. Anh Móm dặn thêm là tánh cọp thù dai, mai mốt nó có tới nữa thì anh em chạy tránh đi, để mình anh đối địch. Sau chuyện này đồn đãi lan xa, người tạ nể trọng gọi là ông Móm!

   Nghỉ ngơi hai, ba hôm, ông Móm rủ mọi người vào rừng, ai nấy còn quá sợ cọp nên không đi cùng, chỉ một anh can đảm chịu theo. Ông không nói gì, nai nịt gọn gàng rồi soạn lấy cây côn hồi còn học võ dắt lưng, vô rừng đốn củi như lệ thường. Chừng giữa buổi, nghe mùi khen khét tanh tanh, tiếng ầm ừ trầm trầm, ông Móm kêu người bạn bò lần ra rẫy nấp kỹ, để anh đối phó. Ngó ra bìa rừng thấy bầy cọp bốn, năm con dàn ngang hầm hừ, anh biết chuyện đánh nhau là không tránh khỏi. Nhưng bới bản tánh can trường, biết võ nghệ, muốn đánh đuổi thú dữ cho anh em, bà con an tâm làm ăn, lập ấp,,,;ông Móm quyết ăn thua đủ trận này cho chúng sợ. Con cọp lớn nhất xăm xăm đi đầu, hai mắt ngó ông chằm chằm. Ôâng bình tĩnh chống côn đứng tấn chờ đợi. Cọp đập đuôi, giương móng vuốt nhằm cổ ông mà chụp. Ông sụp xuống, chịu cây côn chống thốc vô hàm cọp khiến nó mất trớn. Rồi ông múa côn đánh liên hồi vào đầu, vai, lưng…con vật kém thế. Nó rụng rời quay ngang, ông nện thêm hai côn vào chân. Con cọp bươi bươi chân trước thối lui, mắt cụp xuống chịu thua. Ba con cọp kia phóng vô tiếp ứng, ông Móm càng đánh càng hăng, lúc sau chúng cũng đành hậm hực quay về bìa rừng, lặng lẽ đi khuất. Gọi người bạn nấp ở rẫy ra, ông Móm nhác thấy một con cọp khác đứng xa xa nhìn rồi chậm chạp quay đầu, chân sau đi khập khiễng, gượng gạo. Ôâng biết ngay là con cọp bị đòn hôm trước, giờ kéo đồng bọn tới trả thù, còn bản thân thì đã sợ ông một nước!

   Anh em đốn củi, phát rẫy nhờ ông Móm mà bớt phần lo sợ, thức khuya dậy sớm ra sức mở đường, trồng trọt, phá rừng lần hồi cho quang đãng. Bọn cọp giờ chỉ rình mò thấp thoáng trong sâu. Dân nghèo tứ xứ tha phương nghe tiếng ông, bàn nhau đến truông Cóc tính thế sinh nhai yên ổn. Những khi ông Móm không đi vào rừng thì bạn rìu, bạn rẫy mượn cái áo, cái quần cũ của ông đem máng treo chỗ làm, cọp nghe hơi chẳng dám léo hánh gây chuyện rồi thời gian sau chúng bỏ đi biệt dạng. Một vùng truông Cóc gian nguy hiểm trở nhờ sự dũng cảm đối đầu của ông Móm cùng bao thế hệ, hiến dâng mồ hôi, xương máu mà dần được khai hoang, trù phú, lập làng lập ấp sống an vui. Những bậc cao niên giờ cảm khái vật đổi sai dời, chuyện xưa còn đó mà bóng cũ tiền nhân lu mờ, ngùi ngùi nhắc mấy câu thơ “Ruộng cò bay dặm dài Truông Cóc/ Cháu con ông Móm lăn lóc cơ hàn/ Ai xui khiến cảnh điêu tàn/ Mồ ông còn đó, họ hàng chẳng thấy viếng thăm…

   Đất đai, rừng, rạch, doi, bàu…thuở xưa gọi bằng các địa danh liền lạc với nhau, gần như chưa phân định địa giới rõ ràng, nhưng ai cũng hiểu và hình dung ra được đường đi lối lại. Như Giồng Găng là một khu rừng nhỏ mọc toàn cây găng, phía dưới Bàu Sấu một chút và lọt thỏm trong vùng rừng Cóc, cách ngoài độ hai ngàn mét về hướng đông bắc Gò Công. Cây găng cao lớn như cây trâm bầu, gai mọc trong thân, lú ra ngoài giống cựa gà. Hơn 150 năm về trước, một số gia đình kéo tới quần tụ lập ấp rồi thì sở rừng nhà ai nấy khẩn để cấy lúa. Đợi mặt trời lên, cả ấp mới cùng đi đốn củi, chặt cây, đỡ đần nhau chuyện hùm beo, cá sấu, rắn độc…quẩn quanh gần đo. Sáng nọ có hai cậu cháu tên tám Nghề và hai Sến cùng phát chung sở ruộng. Bất thình lình, cọp rình sẵn nơi lùm bụi nhảy bổ chụp ngay đầu hai Sến ghì xuống. Anh kịp la lên “Ôái…bớ cậu Tám…cứu cháu với!”. Đang dốn củi gần bên, ông Tám  cầm rựa nhào lại chém thẳng ngay lưng cọp. Nó oằn mình buông nạn nhân ra, chờn vờn chụp đè ông Tám, mắt long lên hung tợn. Người cháu chỏi dậy lấy rựa chém nhiều nhát vào hai đùi cọp. Con mãnh thú sụm xuống lết dần ra mé rừng bị ông Tám chạy theo bồi rựa thêm vào chỗ hiểm, nó mới chịu chết. Bà con xúm lại lo cầm máu, khiêng anh Hai về ấp trị vết thương đầu khá nặng, ông Tám thì rách thịt chỗ ngựcsơ sài. Báo tin về Gò Công, quan có lời khen và thưởng cho hai cậu cháu một số tiền lớn. Vết thương cọp vồ của anh Hai phải đắp thuốc, nghỉ ngơi gần ba tháng trời mới khỏi hẳn. Về già, ông Hai thường chỉ cái thẹo to trên trán mà nói khoe với đám thanh niên “Gặp cọp bây đừng sợ, phải hè nhau mà đánh…Nó sợ tao nên để cái dấu này cho cháu con nhơ…mà tránh mặtù!”.

   Những loài động vật hoang dã từ mạnh mẻ cho đến yếu ớt đều phải tìm cách sinh tồn thích hợp là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, hung bạo như loài cọp cũng có lúc xui rủi gặp nạn, chịu chết dưới tay con người. Thuở xưa, tên rạch, gò, bàu, vàm, giồng…hay lấy tên người tiêu biểu hoặc dựa vào đặc điểm riêng địa phương mà gọi. Như Rạch Lá, Rạch Bần, Gò Gừa, Giồng Tháp…Nguồn gốc tên Rạch Chốt (Bình Thành) thuộc vùng rừng và rẫy sình lầy, cỏ lác um tùm, dừa nước ngút mắt, mương xẻo ngang dọc mà cá tôm nhiều vô số. Cá chốt lúc nhúc dưới rạch, tràn cả lên rẫy dẫy đầy, dân xúc phơi khô, làm mắm ăn quanh năm không xiết. Cá có ngạnh nhọn, đâm nhức, bâu nhau đen cả mặt rạch Chốt trông giống bàn chông thiên nhiên, không ai dám lội xuống. Hai anh em nhà nọ bơi xuồng tìm xẻo đặt lọp bắt tôm tép, chợt thấy trong lùm cây lộ cái lưng cọp, lông vằn vện phát khiếp. Thất kinh hồn vía, hai anh bấm nhau rút êm về ấp cho mọi người hay. Trai tráng mấy chục người xôn xao xách côn, mác, rìu… chia  làm ba cánh truy lùng: hai  cánh hai bên, một cánh dùng xuồng đi dưới rạch. Họ im lặng, hồi hộp dò từng bước tới chỗ hai anh em thấy cọp lúc nãy thì không vét tích gì. Nghe bên kia rạch ra ám hiệu, liền tìm cách vượt qua tiếp sức. Một con cọp to nằm gần mé rạch, bụng thở phập phồng mà hai mắt nhắm nghiền, không để ý chi tới số đông người đang dọ dẫm lại gần. Đứng bao quanh cách quãng xa một hồi không thấy con cọp phản ứng, ai cũng lấy làm lạ. Bữa nay nó no mồi hay…ăn chay?. Một anh làm liều, nhẹ bước tới nện côn thẳng tay vô đầu cọp. Sau cú đánh khơi mào này, ai cũng chen nhau đâm, chém, đập con cọp ráo riết. Chừng thấy nó không cục cựa, biết đã chết mới dám xúm nhau cột bốn chân, lấy đòn khiêng về. Quan sát miệng con cọp ọc nhiều nước, bên kẹt tai còn dính mấy con cá chốt, họ bàn tán nghi hoặc. Có lẽ con cọp gắng lội qua rạch Chốt, uống nước đầy bụng kiệt sức, nằm yên cho con người hạ thủ dễ dàng, chớ lý nào nó cam chịu trận, không mảy may chống cự?

   Thời khai phá, vùng rừng miền Đông, miền Tây Nam bộ nơi nào cũng nhiều mãnh thú, đáng sợ nhất là cọp. Tuy nhiên, với bản lĩnh can trường, sự khôn ngoan, mưu trí, các bậc tiền nhân cũng tìm mọi cách khắc phục, gầy dựng cuộc sống bình yên cho làng xóm. Những chuyện truyền khẩu về cọp thì rất nhiều, chỉ ghi lại vài mẫu nhắc nhớ mà thôi

BỢM NHẬU BÌNH DÂN

NGUYỄN KIM

   Nhậu luôn là đề tài hiện hữu muôn thuở của đa số cánh đàn ông. Tết nhất, tiệc tùng, lễ lộc, giỗ chạp, cưới hỏi, tang ma, đầy tháng, thôi nôi… mừng vui tá lả, rầu buồn rơi lệ hoặc chẳng có lý do gì cũng thoải mái bày cuộc nhậu. Hậu quả để lại tốt có, xấu có, nhưng thường thì lành ít dữ nhiều. Theo thống kê, hàng năm có tới hơn 70% số vụ tai nạn giao thông là do người điều khiển phương tiện có uống bia rượu. Nhưng các bợm nhậu hay có kiểu tự trấn an, vờ lạc quan khi thông tin cho nhau về các “chiến hữu” không gặp may:

  - Thằng Ba Ngù đi đám giỗ về tối, đang phom phom xe trên đường theo quán tính… chữ chi, bất ngờ lạc tay lái cúp trái bị xe tải “bụp thẳng cẳng”. Tao đã nói rồi, tay lái của nó yếu hơn tụi mình nhiều. Thà đi bộ, vừa an toàn vừa tập… dưỡng sinh luôn!

  - Báo cáo quí huynh! Thằng Tư Xị xơ gan cổ trướng bác sĩ chê mới chuyển về nhà chờ làm lính Diêm vương. Tụi mình sắp được gầy độ cháo khuya rồi. Nó dở, nhậu không ăn mồi thì chết chắc. Đồng ý rượu được chưng cất từ gạo nếp, xét về mặt bổ dưỡng thì uống vô cũng như… ăn cơm bốc hơi vậy thôi. Nhưng theo ngu ý của đệ, nhậu cứ nhậu nhưng đôi ngày phải dằn bao tử một hai chén cháo mới… thọ!

   Chỉ cần để ý một chút quanh khu vực mình ở sẽ thấy ngay tình trạng nhậu nhẹt phát triển, lây lan rất hệ thống, tốc độ. Năm Ký, bạn hàng xóm của tôi sau khoảng 10 năm khổ luyện, phấn đấu trong làng ve chai, nay đã được tôn lên hàng trưởng lão. Mặt trời chưa lên, chí cốt đã tới đối ẩm với chút mồi nhắm gọi là tượng trưng: hai trái cóc xanh, con khô cá hố hay một khoanh đu đủ cắt nửa vầng trăng, dư sức túy lúy qua cầu… khỉ. Vừa tạm biệt bạn hiền, còn đang ngồi gù gật lại có khách vãng lai, không thèm chạy độ mà tiếp tục nâng ly cho đời ngây ngất. Tiền rượu là ưu tiên số một, đắng miệng thì hớp ngụm trà đá mới thật xứng đệ tử ruột Lưu Linh. Vợ con ban đầu còn khuyên răn, cằn nhằn riết hao hơi mỏi miệng, đành bưng tai bịt mắt ngó lơ cho yên nhà cửa. Bạn nhậu anh ta có đến hàng tá, đến hẹn lại lên, lịch ngày kín chỗ, sớm tối lè nhè đôi ba tập. Chuyện gia đình làm ăn, bổn phận làm chồng, làm cha chưa qua chai đế. Quân số của cái tổ hợp rượu này cũng hao hụt tới tới bởi thỉnh thoảng có anh lực bất tòng tâm, nằm nhà thoi thóp hoặc ra nghĩa địa an dưỡng vĩnh viễn thì cũng sớm được câu móc, giới thiệu bổ sung đúng tiêu chuẩn “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, “Biết lội hổng cần bập dừa”. Chẳng làm thầy bói sờ mu rùa cũng biết chắc hậu vận thê thảm tất yếu của cái bang hội nghiện rượu thâm niên này!

   Hàng quán ăn nhậu phục vụ nhu cầu cho giới bình dân bây giờ mọc rộ khắp nơi, ai ai đều thấy. Khoảng từ 3 giờ chiều, các quán lưu động bày bàn nơi vĩa hè, góc đường ít xe qua lại, có khi ngay trên nắp cống. Lòng heo, gỏi cuốn, khô đuối mắm me, xoài xanh, cóc ổi… phù hợp túi tiền, mồi đưa cay sá gì ngon dở!

   Rượu có màu, gọi chung là rượu thuốc (đố ai biết là thuốc gì!), chủ quán đặt mối cung cấp với yêu cầu nặng độ, giá rẻ, chẳng cần tìm hiểu rượu nấu với men Bắc, men Tàu hay thêm vào hóa chất… chi cho mệt. Vấn đề an toàn thực phẩm chưa nói đến, riêng việc vệ sinh trước mắt đã thấy không ổn. Quán tại gia còn đỡ, quán thuộc dạng chiều dọn khuya rút, tránh sao khỏi bừa bãi. Nước rửa một vài thau, thùng, sử dụng suốt thời gian phục vụ thượng đế ăn nhậu. Chuyện thiên hạ cho là nhỏ như cái giẻ lau, suốt buổi bán dùng lau thớt, lau dao và có thể cả… lau tay, nhưng được mấy lần thay đổi! Vài anh phụ hồ, xích lô, bốc xếp… sau ngày lao động vất vả, góp nhau người cỡ mượi ngàn là đủ hâm nóng máy bù khú chuyện đông tay kim cổ. Rượu vào thì lòng dễ hào sảng, xúc động, láng lai tình cảm, hễ bắt mắt bất kể lạ quen cũng anh anh, em em, tình thương mến thương mời một “long chỉ” cho kỳ được. Nhưng khi nhểu nhão quắc cần câu thì chuyện cà khịa bắt lỗi, sừng sộ mày tao, xô bồ tóc xanh tóc trắng choảng nhau u đầu mẻ trán là sự thường tình. Chưa kể tới chuyện nóng máy về nhà quậy quạng, phát tiết hũ hèm cho hàng xóm gánh chịu. Ngoài ra, bản thân người uống rượu từ thói quen mỗi ngày thành nghiện sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến thần kinh, não bộ, tim mạch, tăng huyết áp, mất nhận thức, xơ gan, loét bao tử… Và hàng ngày trên báo, đài vẫn nhan nhản những thông tin lạnh gáy về các tai nạn giao thông thảm khốc, phần nhiều từ người đã có uống rượu bia. Sự nhắc nhở, cảnh báo rất cụ thể và thường xuyên, nhưng rất tiếc là các ma men cao thủ thường chẳng hiểu hoặc chẳng cần hiểu những điều này mà cứ cho rằng “giày dép có số, con người cũng có số, hồn ai nấy giữ!”. Những quán nhậu bình dân phân bố đều khắp mọi nơi đã góp phần rất lớn cho tình trạng nguy hại trên…

   Cá biệt có địa phương vùng sâu, vùng xa, phụ nữ cũng ưa lai rai ba xị ngang tầm cánh mày râu. Nhậu nhẹt để vui theo “phong trào”, để tạm quên cái nghèo triền miên hay để lấp đầy trống vằng? Rất nhiều lý do. Nhiều năm trước, tôi qua một ấp cù lao thấy vài chị đang hồ hởi phơi mấy hũ mắm cua nguyên con trông rất ngon lành. Chưa kịp hỏi thì một chị cười ngất: “Tụi tui làm để dành lâu lâu bày nhậu, ca vọng cổ cùng nhau cho vui!”. Bây giờ, vùng đất ấy đời sống khá hơn trước và tôi không còn thấy hình ảnh hơi bị lạ như trên nữa. Rồi có lần dự đám giỗ ở một xã thuộc huyện N,T (Đồng Nai), tôi chứng kiến nhóm đàn bà ngồi bàn riêng cười nói vui vẻ, cụng ly “vô… vô” chẳng thua sút ai. Một chị sồn sồn, phốp pháp hiên ngang đứng ra cứu nguy cho ông chồng gầy nhom, tửu lượng yếu ngồi bàn bên, bằng cách hạ ngất ngư tại bàn hai vị đàn ông với ba tua rượu đế thách thức “cào đôi”. Tan tiệc, chị còn đủ sức lừng lẫy xốc nách ông chồng yếu pin tội nghiệp băng rẫy về nhà, thật đáng bái phục! Cũng chính chị ấy, khi về thăm quê chồng ở huyện G.C.Đ (Tiền Giang) cùng bốn bà bạn, đã bày chiếu rượu mời vài quý ông hàng xóm chung vui. Nhìn con dâu điệu nghệ nâng ly, bà mẹ chồng tìm lời bênh vực: “Vợ chồng nó làm rẫy xa xôi, cực nhọc năm này qua tháng nọ chẳng có chi vui thú. Thành ra nó bắt chước chồng riết quen, đỡ cái là hồi nào tới giờ hổng có lộn xộn gì hết!”. Chuyện thật, mà kể ra chắc ít người tin.

   Nhắc lại chuyện xảy ra nhiều năm về trước tại thị xã G.C (Tiền Giang). Anh N.V.Đ. (35 tuổi) sống như vợ chồng cùng V.T.C. (37 tuổi). Cả hai làm thuê vặt vãnh, cuộc sống khó khăn, nhưng rất hợp ý về khoản uống rượu mỗi chiều. Mồi mỡ tất nhiên dạng bình dân: đôi cái bánh xèo, vài trứng vịt ung hoặc dĩa ốc luộc…, chủ yếu chai đế phải đầy. Mới vào cuộc thì khá đề huề, khi mắt đã lộn thinh như trâu trợn lại gây gổ, xách gậy đánh đuổi nhau loạn cả khu phố. Hàng xóm chỉ biết lắc đầu làm thinh, chẳng ai dám can thiệp. Ngày định mệnh ấy, lúc Đ. Và C. đang ngồi uống rượu như lệ thường thì N.V.T. (40 tuổi) là chỗ quen biết ghé vào. Thấy T. sặc mùi rượu, C. càu nhàu không tiếp và nặng lời đuổi ra khỏi nhà. Nóng nảy, T. tặng cô vợ bạn mình một tát tay xiểng liểng. Bênh vợ, Đ. đứng lên đáp lễ bằng cú đấm thẳng khiến môi T. dập tóe màu. Bất ngờ, T. rút con dao Thái lan trong người ra xỉa một nhát vào bụng dưới Đ. Được đưa cấp cứu ngay, nhưng D. đã chết khi vừa đến bệnh viện. Bản án 18 năm tù giam của TAND tình tuyên phạt N.V.T. là bài học đắt giá cho thói sa đà vào men rượu, không làm chủ bản thân dẫn đến hành vi phạm tội.

   Sự chủ quan, thiếu kiềm chế trong việc uống rượu có lẽ là nguyên nhân chính gây tác hại cho bản thân, gia đình và xã hội. Rượu vào lời ra, khơi gợi hiềm khích, cố chấp bắt bẻ, chẳng phân biệt phải trái… vẫn thường xảy ra trong các bàn nhậu nhẹt không có điểm dừng. Những điều này chắc rằng ai cũng biêt, nhưng thử hỏi trong hằng hà sa số bợm nhậu bình dân, được bao người tỉnh tâm chiêm nghiệm?

Huyền thoại rắn rừng U Minh: Những câu chuyện… dựng tóc gáy

Hơn cả những thước phim của Hollywood, những câu chuyện nửa hư nửa thực về loài rắn hổ mây khổng lồ ở rừng U Minh đủ làm thót tim hoặc dựng tóc gáy những ai “yếu bóng vía”.

Không chỉ trong chuyện kể của bác Ba Phi hay những lời đồn thổi, cách đây không lâu, thông tin rắn khổng lồ xuất hiện tại khu rừng đặc dụng Vồ Dơi (huyện Trần Văn Thời, Cà Mau) với sự chứng kiến trực tiếp của cán bộ kiểm lâm làm không ít người nửa tin nửa ngờ tò mò đi tìm sự thật.

Bí ẩn của rừng

Trong những tác phẩm nổi tiếng về rừng U Minh, nhà văn Sơn Nam thường kể rằng, ngay từ buổi bình minh của lịch sử khẩn hoang miền Nam, dường như tạo hóa đã ban cho mỗi làng xã một bà mụ vườn, một ông thầy lang và một ông thầy rắn hổ để cứu nhơn độ thế. Rắn hổ ở rừng U Minh từng là câu chuyện huyễn hoặc biết bao người, trong đó có rắn hổ mây, một trong những loài rắn khổng lồ có mặt ở nước ta.

Không chỉ là chuyện rắn hổ mây hay “đi mây về gió”, người dân U Minh còn truyền tụng, kể nhau nghe chuyện những con rắn khổng lồ hai đầu quấn vào thân cây còn phần thân thì thả võng xuống vũng, bụng dẹp lép, đong đưa tát nước để bắt cá.

Không biết sự thật của chuyện này như thế nào nhưng ông Hai Thọ, Giám thị Trại giam Cái Tàu (Cà Mau), người trên ba mươi năm gắn bó với rừng tràm U Minh cũng cho biết nhiều lần nghe tiếng rắn khổng lồ tát nước rào rào trong rừng nhưng không ai có đủ can đảm đến gần để mục kích tận mắt chuyện này.

Mọi chuyện về rắn hổ mây khổng lồ ở U Minh Hạ sẽ mãi là huyền thoại nếu như không còn những nhân chứng sống, những người thợ rừng, những người gắn bó cả đời với rừng lục lại ký ức và những kỷ niệm một thời sống chết với rắn hổ mây khổng lồ.

Còn ông Nguyễn Văn Đã (Hai Tây), cán bộ về hưu, người gắn bó cả đời với rừng tràm khi kể chuyện với chúng tôi đã chỉ tay vào cái chậu kiểng gần bên nói: “Tôi đã từng thấy và đuổi một cặp rắn hổ mây khổng lồ vào rừng, nó to bằng cái chậu có đường kính 4 tấc, dài hai ba chục mét, nặng có đến hàng trăm ký lô. Tôi chưa nghe ai nói bắt được con rắn này, có nghĩa là nó vẫn còn sống trong rừng và có thể là một trong những con rắn khổng lồ nhất U Minh Hạ còn tồn tại”.

Chạm mặt... huyền thoại

Trước khi vào rừng U Minh tìm hiểu về loài rắn hổ mây khổng lồ, chúng tôi được một người bạn cho xem một con rắn hổ mang to gần 20kg, dài khoảng 6m, mang bành rộng hơn hai tấc, nhưng vô hại vì nó đã nằm trong bình thủy tinh ngâm rượu.

Với tôi, con rắn hổ mang như thế là đã quá to và lần đầu tiên thấy một con rắn hổ khổng lồ như thế. Nhưng khi nghe anh Chín Của, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Cà Mau kể lại việc anh đã chứng kiến một con rắn hổ mây khổng lồ cách đây vài năm thì con rắn ngâm rượu mà tôi đã gặp chỉ được liệt vào dạng... cháu chắt.

Cuối năm 2002, anh Chín Của đi thăm rừng (năm này rừng U Minh Hạ cháy dữ dội) cùng anh kiểm lâm viên Đỗ Thanh Hóa. Đến đoạn gần giữa ruột rừng đặc dụng Vồ Dơi, trong khi anh Hóa đang mãi mê nhìn khỉ đung đưa trên ngọn tràm hai bên đường thì anh Chín Của như quát vào tai: “Thằng nào chơi kỳ, kéo cây chắn giữa đường vậy ta?”. Vì là tuyến đường chính thường xuyên có kiểm lâm qua lại, tự nhiên có một cái cây to tướng chắn ngang thì rõ ràng có người muốn hại cán bộ kiểm lâm.

Sau khi nhìn kỹ, anh Chín Của la lớn: “Rắn! Rắn, Hóa ơi”. Anh Chín Của rụng rời tay chân, còn anh Hóa run lên bần bật, đạp thắng suýt té. Cái đường đất rộng 8m mà con rắn bò ngang không thấy đầu, thấy đuôi, chỉ thấy đoạn giữa to cỡ cái gối ôm của người lớn. Là người chuyên nuôi trăn, anh Chín Của cho biết với kích cỡ ấy thì con rắn khổng lồ này nặng khoảng vài chục ký và dài cỡ 20m.

Cách đây chưa lâu, khi rừng đặc dụng Vồ Dơi còn chưa được quản lý nghiêm ngặt, thợ săn còn thường xuyên vào rừng thì nhiều người đã từng chứng kiến cảnh rắn hổ mây khổng lồ lướt đi trong lau, sậy rào rào như bão tới, thậm chí có người còn chiến đấu với rắn khổng lồ, để bảo vệ mạng sống của mình.

Ông Tư Nhớt ở xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, kể rằng khi đi săn trong rừng tràm U Minh Hạ đã phát hiện được ổ của con rắn khổng lồ nằm trên một nõng đất cao, bên trên là dây chọi, dớn chằng chịt.

Ổ của nó rất sạch sẽ và bóng láng, đường kính có đến vài mét. “Rắn hổ mây khổng lồ không phải là đối tượng của các thợ săn, nó vừa to, vừa độc và là chúa tể trong rừng tràm nên bất cứ người thợ săn nào cũng phải e dè, khiếp sợ và phải tránh xa. Tôi thấy ổ rắn là người run lên bần bật, phân của nó thải ra to bằng bắp chuối thì có nghĩa rắn phải to cả trăm ký”, ông Tư Nhớt kể.

Chuyện của ông thợ săn, thầy rắn Hai Sanh ở Lâm trường Trần Văn Thời cũng khiến người ta giật mình. Con cháu của ông đi rừng gặp rắn hổ mây khổng lồ bỏ chạy tán loạn và về báo lại với ông. Ông Hai không tin có con rắn to như mô tả nên ông cắp cây mác dài và dắt bầy chó săn sáu con băng rừng vào tìm.

Trong lúc ông Hai còn chưa biết rắn ở đâu thì một con chó của ông la “cẳng, cẳng”, nhìn lại thì thấy con chó nằm tuốt trên ngọn tràm cao khoảng 10m. Con rắn cắn con chó săn và ngóc đầu lên cao vút, lắc qua lắc lại, mang phùng ra thấy rợn người. Ông Hai là một thợ rắn lành nghề nhưng lúc này mặt cắt không còn giọt máu, vù bỏ chạy khỏi rừng. Sau lần gặp rắn khổng lồ ông về bệnh mấy ngày liền, sau đó giải nghệ, không vào rừng nữa. Theo mô tả lại thì con rắn nặng khoảng 100kg, dài chừng 20m.

Hy hữu và buồn cười là trường hợp của hai vợ chồng ông Nguyễn Văn Hoàng. Hai vợ chồng ông vào rừng tràm nguyên sinh đốn sậy về làm hàng rào, vợ đốn một nơi, chồng đốn một nơi. Đang đốn sậy bỗng bà vợ thấy cái đuôi rắn to tướng bằng bắp chân liền nhảy vào ôm chặt rồi kêu chồng: “Con trăn bự quá ông ơi, đến tiếp tôi bắt nó”. Nghe vợ kêu, ông chạy bọc đầu để chặn con trăn lại. Tới nơi ông thấy con rắn hổ mây khổng lồ ngóc đầu qua khỏi đọt sậy phùng mang chuẩn bị tấn công khiến ông cắm đầu bỏ chạy, bà vợ cũng hoảng hồn tốc chạy theo. Nhờ không phân biệt được nên vợ ông Hoàng đã là người hạnh phúc nhất vì từng đụng được đến thân con rắn khổng lồ!.

Thần rắn đi săn mồi

Một con rắn hổ mang gần 20kg được ngâm rượu ở Cà Mau

Theo chân anh Phước, cán bộ kiểm lâm, chúng tôi đi sâu vào giữa ruột rừng nơi đội giữ rừng cơ động đang cắm chốt. Cách đây vài ngày, khi đứng trên chòi canh lửa, anh Nguyễn Đình Dũng đã nhìn thấy một con rắn to hơn bắp vế người lớn vắt mình ngang con kênh xáng giữa và hướng về nhà công vụ của nhân viên kiểm lâm. Lập tức mọi người được thông báo để chuẩn bị đối phó. Rất may sau đó con rắn khổng lồ đã quay đầu tiến thẳng vào rừng sâu.

Anh Dũng cho biết: “Đó chưa phải là con to nhất. Trước đây gần một tháng, anh em ở chốt số 1 kênh Đứng đã nhiều lần thấy con rắn còn to hơn con này nhiều. Nó săn mồi ngay sát nách anh em khiến họ bỏ chạy tán loạn”.

Thế là tôi và người hướng dẫn dò hỏi đường và băng rừng tìm đến chốt số 1 kênh Đứng, cách điểm trung tâm này hàng chục cây số đường rừng. Nói là chốt nhưng chỉ là cái chòi, bốn bề trống huơ trống hoác, bên trong có một bộ giường dã chiến cho bốn người giữ rừng trú ngụ. Để ý thấy dao, phản nhiều hơn củi, một đèn pin nhỏ, một đèn pha, vài cái mùng, máy bộ đàm.

Anh Nguyễn Văn Tẻn kể: cách nay chưa lâu, anh em đang ngồi trò chuyện bỗng nhiên nghe phía bên kia bờ kênh xáng có tiếng kêu thất thanh của con chồn. Cứ ngỡ rằng trăn ăn mồi nên mọi người cầm đèn pin ra soi. Ngay sau khi rọi đèn, tiếng ào ào của lau sậy và tiếng gãy răng rắc của cây khô vang lên khiến mọi người rùng mình. Tiếng kêu của con chồn di chuyển cặp theo bờ kênh. Soi đèn pin lên một cây cao khoảng 8m gần đó, mọi người mới há hốc mồm khi thấy con chồn đang lủng lẳng trên ngọn cây và nằm gọn trong miệng con rắn khổng lồ. Hai mắt con rắn bắt đèn đỏ au, mình to hơn cái ca lớn loại 2 lít. Anh em nháo nhào tắt đèn bỏ chạy.

Cách bốn, năm ngày sau cũng vào khoảng 20h, khi đang nhấp cá lóc dưới bờ kênh thì anh Lưu Minh Văn (Tư Khai) nghe phía mép rừng bên kia kênh xáng có tiếng ào ào của lau sậy giống gió bão sắp tới, anh thầm nghĩ “không lẽ nó tới nữa”. Anh quăng cần câu và nhảy lên bờ.

Anh Tẻn xách đèn pin chạy ra soi qua bên kia kênh xáng và gặp ánh mắt của con rắn khổng lồ nhìn thẳng vào đèn pin, đầu từ từ dựng lên cao, lúc này mọi người mới chạy thục mạng. Thấy con rắn khổng lồ lần thứ hai coi như cả chốt không còn ai đủ tinh thần để bám trụ giữ rừng. Cuối cùng do sự động viên của lãnh đạo hạt Vồ Dơi và chi cục kiểm lâm nên anh em quay trở lại với chốt nhưng với tinh thần cảnh giác cao độ, dao mác luôn để sát đầu giường khi ngủ!

Săn ảnh... “thần rắn”

Để chuẩn bị ghi lại hình ảnh rắn hổ mây khổng lồ từng là huyền thoại này, chúng tôi đã chuẩn bị khá chu đáo từ máy quay phim, máy chụp ảnh kỹ thuật số có hồng ngoại và một số công cụ khác… để có thể tác nghiệp vào ban đêm, vì nó thường xuất hiện và săn mồi từ khoảng tờ mờ tối đến chập sáng.

Đêm trước khi lên đường vào rừng, những hình ảnh rắn khổng lồ của Hollywood nuốt chửng người ngon lành khiến chúng tôi không sao chợp mắt nổi. Để “săn” được hình ảnh con rắn khổng lồ, chúng tôi đã đề nghị với anh em mua vịt về làm mồi nhử dụ cho rắn ăn. Anh Lâm Văn Tuấn bàn ra lia lịa: “Ở đây chúng tôi sợ gần chết, muốn cho nó đi khuất mắt mà ông còn dụ cho nó về nữa. Lỡ nó không thèm thịt vịt mà thèm... tụi tôi thì sao?”. Sau nhiều lần thuyết phục rằng máy chụp hình và quay phim bằng tia hồng ngoại, không có chớp đèn, không có ánh sáng nên con rắn không thấy… thì anh Tuấn và các anh em khác mới chấp nhận.

Không có vịt, thế là anh em phải băng rừng ra khu dân cư mua về hai con, một vịt xiêm, một vịt ta. Khi nghe tôi đề nghị lấy con vịt ta làm mồi còn con vịt xiêm nấu cháo khuya để chờ rắn ra thì có tiếng phản ứng: “Nên cột vịt xiêm, nếu cột vịt ta mà nó... chê hôi lông thì chết cả đám”.

Thế là chúng tôi bơi xuồng mang vịt qua gốc tràm, nơi mà rắn khổng lồ xuất hiện để cột nhử và chờ màn đêm xuống. Tới chiều tối chúng tôi bỗng... rùng người vì ở chòi canh này không có điện, mọi việc đều nhờ vào cây đèn dầu nhỏ xíu. Nếu rắn có rượt thì chắc chắn rằng tôi không biết đường nào để chạy. Chính vì biết điều này nên tôi đã đi một vòng điều nghiên lối thoát thân khiến mọi người cười xòa.

Trời gần chập tối ba người trong chốt nói rằng lâu ngày nhớ vợ quá nên phải về thăm, thế là căn chòi nhỏ chỉ còn lại hai người. Sau đó hỏi người còn lại mới biết anh này mới vừa về đây được mấy ngày, chưa từng chứng kiến rắn khổng lồ xuất hiện nên cũng sợ sốt vó như tôi.

19h, 20h, từng phút chậm chạp trôi qua nhưng chẳng thấy tiếng cây ngã ào ào như trước đây. Âm thanh tĩnh lặng đến rùng người. Bốn bề tối đen như hũ nút. Tiếng vịt vẫn kêu cạp cạp bên kia rừng. Suốt một đêm tôi và anh nhân viên kiểm lâm không thể nào chợp mắt. Một đêm trôi qua trong nặng nề, lẽ nào rắn hổ mây lại chê vịt?

Tôi quyết định thay đổi mồi bằng con mèo. Thế là chúng tôi phải lội ra khu dân cư để năn nỉ người dân bán cho con mèo, một con mèo trên 3kg được mua với giá 80.000 đồng. Con mèo lần này được treo lên thân tràm cho nó giống với con chồn để thu hút rắn đến.

Một đêm nữa lại trôi qua trong tĩnh lặng. Lâu lâu có một làn gió lung lay ngọn tràm khiến chúng tôi giật mình. Trời tối đen như mực. Đến lúc này chúng tôi mới phát hiện rằng máy quay phim và chụp hình tia hồng ngoại không thể ghi lại hình ảnh trong khung cảnh quá tối tăm phía bên kia bờ kênh. Có thể do khoảng cách giữa máy đến chỗ con mèo quá xa chăng? Hay do nơi đây là rừng thiêng, rắn thiêng nên không thể ghi lại được hình ảnh? Suốt mấy ngày đêm ở rừng tôi luôn được mọi người nhắc đi nhắc lại rằng không được dùng từ rắn hổ mây mà nên thay bằng từ gì đó, như từ “thần” chẳng hạn.

Và trong mấy ngày này tôi chỉ dùng hai chữ “thần về” để tránh mọi điều không hay có thể xảy đến. Không biết có phải điều gì đó linh thiêng hay không mà trong mấy ngày chúng tôi ở rừng thì “thần” con cỡ cùm chân (rắn hổ mây con) xuất hiện rất nhiều, một điều chưa từng thấy trước đây khi anh em đi giăng lưới, bắt cá - anh Tẻn cho biết.

Không ghi lại được hình ảnh con rắn khổng lồ trong dịp này là điều đáng tiếc vì không phải ai cũng dễ dàng mục kích được “thần rắn” một lần trong đời. Có lẽ vì thế nên chuyện rắn khổng lồ ở rừng U Minh cứ nửa hư nửa thực như huyền thoại

Chuyện kể đi rừng

Hôm ấy bị kẹt xe trong bùn gần hết ngày, sẩm sẩm tối, đói hiền hết cả người bỗng dưng thấy 1 giai đi xe máy qua, đói đâm liều, hỏi với theo, anh đi đâu đấy. Tay đấy đỗ xe lại hỏi đi không, ra thị trấn. Thế là hớn hết cả lên bảo với Mark:

- Thôi tôi đi đây, anh ở lại nhá rồi lúc về tôi mua bánh rán cho mà ăn(ha ha, thương nhờ).

Thằng kia thì cũng bị bất ngờ nên ú ớ :

- Hà đi Hà nhớ về nhá (chắc sợ không có bánh rán ăn)

Hế hế, thế là nhảy phắt ngay lên xe Simson, ôi, trên đời không có xe nào êm bằng xe Simson, mình hót suốt cả đường ra thị trấn. Đến nơi bảo anh xe không ôm, anh cho em vào quán phở nhá, tiện thể cho em mời anh bát phở. Ăn xong mới biết lúc gặp anh cuống quá quên mang tiền, vô duyên chưa từng có, thế là anh phải trả tiền phở cộng mua thêm chục bánh Rán đường và giúi cho 1 tay xe ôm đưa về tận nơi kẹt xe, trên đường về nghĩ tối thế này nó ẩn mình vào đâu thì làm thế nào nhỉ? Cuối cùng thì nó chả ấn vào đâu cả, chẹp, tiếc là không hỏi tên người đã giúp mình qua cơn đói, mình đúng là chỉ xấu tính

Xe ôm:

Ngày ấy có người yêu ở Hà Nội nên mỗi đợt nghỉ giữa các trại phụ mình cũng tranh thủ về Hà Nội, đi thì không ngại vì có động lực đợi ở đấy nhưng khi quay lại thì rất sợ cái chặng đường dài mười mấy tiếng, có khi phải tá túc qua đêm ở nhà khách UBND hôi rình

Một lần đi Quỳ Châu hay Quỳ Hợp chả nhớ nữa, oánh liều bắt xe ôm vào bìa rừng để đỡ phải ngủ lại (hình như mình cũng về HN quá ngày nên không dám câu giờ thêm ở nhà khách) , anh xe ôm trông mặt cũng hiền hiền, đi được độ 1 tiếng thì trời sẩm tối, mình hỏi lão:

- Sao anh không bật đèn lên?

- Đèn hỏng

- Anh cũng phải có đèn pin hay cái gì chứ?

- Có bật lửa

nghĩ cũng kinh, tự dưng tối om xòm rất nhanh mà xe nó lại không có đèn, có những đoạn không trăng thực sự tối đến mức mình không hiểu sao tay đó lái được xe nữa, thế mà đêm đó mình đến nơi an toàn không sứt mẻ mặc dù tay lái xe có đâm vào bụi cây 1 lần, văng tục 1 tiếng rồi lại dựng xe lên chạy tiếp

Xấu cũng là một lợi thế, ngày đó mình toàn gặp những quả oái oăm đêm tối nhưng may không hại ai phát nào

Bánh ép:

Bánh ép (lương khô) là đồ ăn hàng ngày trong những tháng năm rừng rú. Lúc nào trong balo cũng có 1-2 cái bánh ép, hoặc để ăn lúc đói, hoặc để cho trẻ con, người già nhỡ gặp thấy yêu, Bánh ép ở đây người ta quý lắm vì không phải mang nặng, ăn 1 chiếc uống ống nước là no căng.

Một lần đi xe khách về Hà Nội cùng chú Việt, xe bị chặn lại để công an kiểm tra (do vùng mình làm việc là điểm nóng ma túy), không hiểu nhìn mặt chú gian thế nào mà công an sờ đến đầu tiên. Lúc túm được cái bánh ép ăn dở mình có thể nhìn thấy ánh mắt lấp lánh của chú công an, còn chú Việt thì mặt đỏ như gà chọi, Buồn cười nhất là lúc chú công an mới túm được tang vật, chú vừa lấy tay cậy cậy ngửi ngửi vừa hỏi chú Việt:

- Anh làm gì ở đây

Chú Việt:

- Tôi đi bắt Kiến (ha ha, tưởng giang hồ tung tiếng lóng, chú công an á khẩu luôn)

Mãng xà vương rừng U Minh Hạ

Từ thành phố Cà Mau, chạy xe gắn máy chưa đầy nữa giờ là đến huyện U Minh, cũng là nơi bắt đầu những cánh rừng tràm bạt ngàn của rừng U Minh Hạ. Sau nhiều thăng trầm do nạn cháy rừng, do bàn tay con người tàn phá, hiện nay rừng U Minh Hạ chỉ còn diện tích hơn 55.000 ha đất rừng tràm, trong đó có Vườn Quốc gia U Minh Hạ rộng 8.286 ha.

Trong số này chỉ có 1.600 ha rừng tràm nguyên sinh tự nhiên ở Vồ Dơi, phần còn lại là rừng trồng. Trong khoảng rừng nguyên sinh Vồ Dơi thuộc xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, gần như có đủ mặt các loài động thực vật đặc trưng của hệ rừng tràm ngập nước U Minh: động vật có heo rừng, nai, tê tê, rái cá, rắn hổ mang chúa, rắn hổ mây, trăn; thực vật có tràm, trâm, móp, mật cật, dương xỉ, ráng, choại, dớn…

Theo các kiểm lâm viên Vườn quốc gia U Minh Hạ, cho đến nay chưa ai điều tra cụ thể số lượng chim, thú trong vườn nhưng có thể nói là khá dồi dào do động vật ở các cánh rừng của lâm trường bị con người săn bắt, tác động nên dồn về đây và khu này từ trước đến giờ được bảo vệ rất nghiêm ngặt.

Đến rừng U Minh Hạ, ngồi nhâm nhi rượu đế pha mật ong rừng với cá lóc nướng trui, người ta có thể nghe các kiểm lâm viên và người dân sinh sống dưới tán rừng kể đủ thứ chuyện trên trời dưới đất hết sức kỳ bí, huyền hoặc về rừng tràm U Minh. Nhưng những câu chuyện về loài rắn hổ mây khổng lồ, loài vật được kiểm lâm và dân chúng mệnh danh là “chúa tể rừng tràm”, nghe tới đâu nổi da gà tới đó.

Những câu chuyện về mãng xà vương

Một chiều cuối tháng 4 trời mưa lắc rắc, chúng tôi và những kiểm lâm viên xúm xít quanh một bàn nhậu dã chiến giữa rừng tràm với rượu đế cay xé họng, rau rừng và cá lóc nướng trui. Tiệc nhậu còn có sự tham gia của nhiều người dân cả đời sống dưới tán rừng, trong đó có nhiều bậc bô lão từng sống chết gắn bó với rừng U Minh qua nhiều cuộc thăng trầm.

Ông Tư Nhớt ở xã Trần Hợi, một thợ săn lão luyện, nói những câu chuyện huyền bí về rừng tràm U Minh Hạ nếu vừa lai rai rượu đế vừa ngồi kể cả tháng trời cũng không thể hết. Nhưng những người quanh bàn nhậu cam đoan rằng, U Minh Hạ chính là vương quốc bất khả xâm phạm của loài rắn hổ mây khổng lồ, loài vật được tôn là mãng xà vương của rừng U Minh với danh tiếng lẫy lừng đã truyền tụng qua hàng trăm năm.

Ông Tư Nhớt nói, trước đây bác Ba Phi (một kỳ lão của xứ U Minh, người được tôn xưng là tay đại nói dóc nổi tiếng xứ Nam kỳ lục tỉnh) kể hồi xưa trong rừng U Minh Hạ có những con rắn hổ mây khổng lồ không biết sống từ thời nào, chỉ biết khi nó say mồi nằm ngủ trong rừng, mấy ông thợ săn len lén tới ôm thử thì chu vi vòng bụng hết ba vòng tay người lớn. Con rắn giựt mình thức dậy, đầu cất cao khỏi ngọn cây rừng, hả miệng toang hoác khiến chim chóc tưởng thân cây nên đậu trên đầu và làm tổ trong miệng, bị nuốt chửng.

Mới nghe chuyện con rắn hổ mây của bác Ba Phi, ai cũng nói là chuyện xạo, chuyện tiếu lâm bàn nhậu, nhưng với những bậc kỳ lão chuyên nghề săn bắn, nếu trừ đi những phần thêm mắm dặm muối của dân ăn nhậu thì những con rắn hổ mây khổng lồ của rừng U Minh là chuyện hoàn toàn có thật.

Ông Tư Nhớt và nhiều người sống lâu năm, cố cựu ở xứ U Minh nói rằng, họ từng chạm trán những con rắn hổ mây to như cột đình, lướt đi trong rừng ào ào như những trận cuồng phong, đầu cất cao hơn ngọn cây tràm.

Người dân U Minh còn kể chuyện những con rắn hổ mây khổng lồ vào mùa khô bò đi tìm những đoạn kênh cạn nhung nhúc cá, dùng đầu đuôi quấn vào thân cây tràm mọc hai bên bờ kênh, phần thân thì thả võng xuống đong đưa tát cạn nước để bắt cá ăn. Ông Hai T., người có trên ba mươi năm gắn bó với rừng tràm U Minh, nói đã nhiều lần nghe tiếng rắn khổng lồ tát nước rào rào trong rừng để bắt cá nhưng không đủ can đảm đến gần để xem tận mắt, vì nếu bị nó phát hiện thì chỉ có nước “đoàn tụ ông bà”. Anh Chín một cán bộ kiểm lâm Cà Mau, kể chuyện cách nay mấy năm anh đã trực tiếp chạm trán mãng xà vương giữa rừng U Minh.

Hôm đó là một ngày oi bức, nắng chang chang như đổ lửa, anh Chín và một đồng đội dùng xe gắn máy đi tuần tra trong rừng theo những tuyến đường băng cản lửa chống cháy rừng. Khi hai anh em đến gần giữa ruột rừng đặc dụng Vồ Dơi thì anh Chín nhìn thấy một khúc cây đen sì to tổ bố nằm vắt ngang con đường.

Anh Chín bảo đồng đội chạy xe đến để dẹp khúc cây sang một bên, nhưng khi đến gần nhìn kỹ thì anh Chín rụng rời tay chân, mặt cắt không còn hột máu khi phát hiện khúc cây đó vảy lấp lánh, đích thị là phần thân của một con rắn khổng lồ. Người đồng đội đi cùng anh Chín cũng run như cầy sấy khi nhìn thấy con rắn, hai tay cầm không vững tay lái chiếc xe gắn máy, nên để nó ngã cái rầm.

Hai kiểm lâm viên xanh mặt sợ hãi cũng phải, vì con đường đất rộng tám mét mà con rắn nằm vắt ngang không thấy đầu, đuôi đâu cả, chỉ thấy đoạn thân giữa to cỡ cái gối ôm của người lớn. Là người chuyên nuôi trăn nên anh Chín biết với kích cỡ như vậy thì con rắn khổng lồ này nặng ít nhất là vài trăm ký và dài không dưới chục mét.

“Nếu không thắng xe lại kịp, cán qua con rắn thì hai chúng tôi té xe và bị nó nuốt chững tức thì. Nhưng vì cái xe bị ngã, con rắn nghe động ngóc đầu lên cao hai ba mét, phùng mang to bằng cái nia phun phì phì, hai con mắt vàng khè dòm chúng tôi một hồi khiến hai anh em tôi mặt xanh như tàu lá, không dám nhúc nhích. Nhưng chắc bụng con rắn đã no nên nó lặng lẽ bò vào rừng. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy một con rắn khổng lồ như vậy”, anh Chín nói mà tay run run bưng ly rượu đế làm một hơi cạn tới đáy.

Với cánh thợ săn, thợ ăn ong rừng U Minh, nhiều người đã từng chứng kiến cảnh những con rắn hổ mây khổng lồ quăng mình lướt đi trong lau, sậy nghe ào ào như cuồng phong kéo tới. Những câu chuyện của cánh thợ săn, những bậc kỳ lão rừng U Minh về rắn hổ mây khổng lồ còn kinh hoàng hơn chuyện của anh Chín kiểm lâm.

Ông Tư Nhớt kể, một lần khi ông dẫn bầy chó đi săn trong rừng tràm U Minh Hạ đã phát hiện được ổ rắn khổng lồ nằm trên một nỗng đất cao, bên trên chằng chịt dây choại, dớn. Cái ổ rắn nền đất bóng láng, đường kính rộng hơn 5 mét.

Nhìn cái ổ rắn, ông Tư Nhớt biết ngay là mình đã vô tình bước vào giang sơn của loài rắn hổ mây khổng lồ. Đối với cánh thợ săn, rắn hổ mây khổng lồ rất độc và là chúa tể rừng tràm nên ai cũng e dè, khiếp sợ, tránh càng xa càng tốt.

Khi nhìn thấy ổ con rắn khổng lồ và những hòn phân rắn to bằng bắp chân người lớn rải rác xung quanh ổ, ông Tư Nhớt mặt xanh như tàu lá, chân tay bủn rủn và im lặng tháo lui.

Bầy chó săn chiến đấu của ông cũng ngậm tăm cụp đuôi bám theo chủ rút ra khỏi vùng nguy hiểm. Nhớ lại chuyện xưa, ông Tư nói hôm đó nếu chạm mặt con rắn thì cả ông và bầy chó chục con đều trở thành mồi bén cho mãng xà vương.

Chuyện chạm mặt mãng xà vương của ông thợ săn kiêm thầy rắn Hai Sanh ở xã Trần Hợi còn kinh hoàng hơn. Sau nhiều lần đám con cháu của ông đi rừng gặp rắn hổ mây khổng lồ nên hoảng hồn bỏ chạy tán loạn, về báo lại với ông nhưng ông không tin. Ngày nọ, ông Hai nai nịt cẩn thận, tay cầm cây mác vót cán dài, lưỡi sáng quắc bén ngót, miệng chóc lưỡi kêu bầy chó săn sáu con rất thiện chiến băng rừng tìm mãng xà vương.

Đi từ sáng tới giữa trưa, vào tận ruột rừng già mà chẳng thấy tăm hơi mãng xà vương ở đâu, nên ông Hai quyết định tìm bóng mát nghỉ ngơi, ăn cơm lấy sức. Nắm cơm mở ra chưa kịp ăn, kiểm lại quân số thì thấy thiếu mất một con chó, ông Hai chóc lưỡi gọi mà chẳng thấy con chó sủa gâu gâu đáp lại như mọi khi. Kêu năm hồi mười hiệp, bất ngờ ông Hai nghe con chó la ăng ẳng tuốt trên ngọn cây tràm cao hơn chục mét.

Ngước mắt nhìn lên, ông Hai tá hỏa tam tinh khi nhìn thấy mãng xà vương khổng lồ thân xám mốc dựng đứng thân mình và đầu dọc theo thân tràm, miệng ngậm ngang lưng con chó săn quơ qua lắc lại, mang phùng ra, mắt vàng khè hăm dọa. Dù là một thầy rắn lâu năm và thợ săn có hạng nhưng nhìn cảnh mãng xà vương làm thịt con chó săn tuốt trên ngọn cây tràm, ông Hai mặt cắt không còn giọt máu, tốc giò kéo bầy chó săn bỏ chạy khỏi rừng.

Lần gặp rắn khổng lồ đó ông Hai ngã bệnh nằm một chỗ gần một tháng trời. Khi khỏi bệnh, ông Hai tuyên bố giải nghệ, không làm thợ săn, không làm thấy rắn nữa. Lúc đã hoàn hồn, ông Hai mới kể rằng, con mãng xà vương đó dài gần 20 mét, với kích cỡ đó thì nó nặng không dưới 200 ký, cỡ ông và mấy con chó săn không đủ làm mồi cho nó…nhét kẽ răng.

Một con mãng xà rừng U Minh nặng hơn 20 kg đã bị ngâm rượu

Ông Ba Hoàng và vợ ông thì chạm mặt mãng xà vương trong trường hợp rất buồn cười, nhưng cười ra nước mắt. Hôm đó ông ba và vợ ông vô rừng lấy mật ong, đốn sậy về bán. Đang đốn sậy bỗng bà Ba thấy cái đuôi rắn to bằng bắp chân nằm trong đám sậy, liền nhảy vào ôm chặt rồi kêu chồng: “Con trăn bự quá ông ơi, đến tiếp tôi bắt nó”. Nghe vợ kêu bắt được con trăn bự, ông Ba chắc mẫm phen này kiếm được vài triệu đồng, nên vội vàng len qua rừng sậy tìm cái đầu con trăn để chặn nó lại.

Chẳng ngờ khi chạm mặt “con trăn”, ông Ba điếng hồn, nó không phải là trăn mà là con rắn hổ mây lớn khủng khiếp, từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ ông chưa từng thấy. Con rắn hổ mây bị bà Ba ôm chặt đuôi đã giận dữ, nay thấy ông Ba xuất hiện chặn đầu, liền ngóc đầu lên cao khỏi ngọn sậy, phùng mang phun phì phì rồi hả họng đỏ lòm định táp ông Ba.

Thấy con mãng xà phùng mang chuẩn bị tấn công, ông Ba hồn phi phách tán cắm đầu bỏ chạy, bà Ba nhìn thấy con rắn quá lớn ngóc đầu cao hơn ngọn sậy cũng kinh hoàng vừa la làng vừa hộc tốc chạy theo theo chồng.

Cho đến giờ này, hai vợ chồng ông Ba cũng không hiểu tại sao hôm đó mãng xà vương không ăn thịt họ. Mỗi lần nhắc chuyện vây bắt mãng xà vương mà lầm tưởng con trăn, ông ba Hoàng và vợ đều cười rũ rượi, nhưng cười một hồi thì nước mắt chảy ròng ròng, khóc hu hu vì mừng cho việc không bị xà vương ăn thịt.

Những bậc cao niên ở rừng tràm U Minh Hạ nói rắn hổ mây khổng lồ trong rừng rất nhiều, nên mỗi người thấy mỗi kích cỡ khác nhau. Nhưng cho đến nay chưa ai thống kê và đếm được số lượng của loài mãng xà này, vì căn bản là không ai đủ dũng cảm để đi tìm và đối mặt với nó để xin được…làm công tác thống kê họ hàng của mãng xà vương.

Nhưng nhiều kiểm lâm viên nói, hiện nay loài mãng xà khổng lồ này sinh sống tập trung tại vùng rừng nguyên sinh thuộc Vườn Quốc gia U Minh Hạ với những cánh rừng tràm nguyên sinh tồn tại hàng chục, hàng trăm năm chưa có tác động từ bên ngoài và đang được bảo vệ nghiêm ngặt. Nhiều kiểm lâm viên nói rằng, dấu vết di chuyển của rắn hổ mây khổng lồ lâu lâu lại xuất hiện trên các con đường mòn ẩm ướt trong rừng, con nhỏ nhất bề ngang của vết bụng in trên đất đo được hơn 3 tấc, chứng tỏ nó nặng không dưới 50 ký. Rất nhiều lần mãng xà vương đã đến sát chòi canh của lực lượng kiểm lâm để săn mồi.

Lúc đó, khoảng cách giữa người và rắn chỉ có vài mét hoặc cách nhau một con kênh nhỏ. Nhiều kiểm lâm viên nói, khi phát hiện mãng xà vương mọi người đều nín thở nằm im, bởi trong lúc xà vương săn mồi, chỉ cần một tiếng động nhỏ thì họ khó tránh khỏi cảnh làm mồi cho rắn dữ.

Cuộc truy tìm mãng xà vương bất thành

Những câu chuyện về mãng xà vương rừng U Minh Hạ đã thôi thúc chúng tôi tìm cách chạm trán với những con rắn khổng lồ. Những người dân và nhân viên kiểm lâm ban đầu còn e ngại, nhưng cuối cùng có lẽ do bị hơi men làm hưng phấn, cộng với những lời lẽ khích bác lẫn nhau, nên cuối cùng họ đồng ý giúp chúng tôi đi tìm rắn, với điều kiện: Nếu có gì bất trắc thì mạnh ai nấy chạy, thân ai nấy lo, ai sống chết mặc ai, bởi nếu bị rắn cắn thì chạy trời cũng không thoát chết vì nọc rắn rất độc.

Họ hẹn đến đêm sẽ đi tìm rắn, vì loài này thường săn mồi từ giữa đêm đến rạng sáng, nên đám bạn tôi chuẩn bị lỉnh kỉnh nào là máy quay phim, máy chụp ảnh kỹ thuật số có hồng ngoại... và hồi hộp chờ đêm xuống.

Trời vừa sụp tối thì chúng tôi theo chân một cán bộ kiểm lâm đến một chốt giữ rừng cơ động nằm giữa ruột rừng U Minh Hạ, bất chấp muỗi rừng bu đen đặc xung quanh.

Theo các kiểm lâm viên, ở chốt giữ rừng này rắn hổ mây thường lởn vởn xung quanh để kiếm mồi, hình như bọn mãng xà khổng lồ đang dòm ngó bầy chó cỏ của anh em trong chốt thả nuôi. Một kiểm lâm viên cho biết, chưa đầy nữa tháng trước, vào buổi trưa khi đứng quan sát rừng từ chòi canh lửa, anh nhìn thấy một con rắn hổ mây rất lớn bò tới bò lui trên bờ kênh cách chốt chưa đầy 50m. Lập tức mọi người được thông báo để chuẩn bị đối phó, nếu con rắn khổng lồ liều mạng xông vô chốt bắt chó. Nhưng con rắn chỉ bò tới bò lui thị uy một hồi rồi sau đó quay đầu tiến thẳng vào rừng sâu, lúc này mọi người mới hết căng thẳng, thở phào nhẹ nhõm. Anh kiểm lâm viên cho biết, từ trên cao nhìn xuống thấy cái đầu rắn to bằng cái chén, thân hình vàng vàng, xám mốc dài hơn chục mét, nên có thể nói con rắn nặng không dưới 30 kg.

“Nhưng con rắn đó chắc chỉ thuộc hàng cháu chắt của mãng xà vương. Hôm trước, anh em kiểm lâm ở chốt giữ rừng Kênh Đứng đã phải làm đơn xin lãnh đạo cho rút quân về vì suốt một tháng liền có một con mãng xà khổng lồ ước nặng hơn 50 kg cứ quanh quẩn ở những vạt rừng xung quanh chốt kiểm lâm, làm đủ mọi cách để xua đuổi mà nó không chịu đi. Nó chưa tấn công kiểm lâm, nhưng ban đêm xông vô sát chốt săn mồi khiến cả chốt không ai ăn ngon, ngủ yên vì không biết khi nào mình sẽ trở thành mồi ngon của mãng xà”, anh kiểm lâm viên cho biết.

Nhiều kiểm lâm viên nói, tiếng là chốt giữ rừng nhưng thật ra đó chỉ là một cái chòi nhỏ, chỉ có cái mái lợp tôn, bốn bề trống trơn không phên vách, bên trong chỉ có một chiếc giường dã chiến cho bốn người giữ rừng trú ngụ.

Vũ khí của họ chỉ có mớ dao rừng, đèn pin, đèn pha xài bình ắc-quy, vài cái mùng mền, máy bộ đàm. Với những trang bị đơn giản như vậy, nếu mãng xà vương tấn công, thì các kiểm lâm viên chỉ có một giải pháp duy nhất là “tẩu đào vi thượng”, nếu chạy không kịp thì đành nhắm mắt xuôi tay làm mồi cho rắn dữ.

Nhưng cũng còn may là từ trước tới nay mãng xà vương chỉ tấn công đám chó cỏ của kiểm lâm và người dân trong vùng thả nuôi, chưa xơi tái thịt người lần nào. Chính vì vậy mà suốt mấy ngày ở trong rừng U Minh tôi chẳng thấy nhà nào thả nuôi chó, đơn giản là vì nuôi bao nhiêu đều bị rắn hổ mây rình bắt ăn thịt hết bấy nhiêu.

Ở chốt giữ rừng Kênh Đứng, anh em kiểm lâm viên ai cũng run giọng khi kể chuyện mãng xà vương hoành hành. Một kiểm lâm viên tên T. kể, tối hôm đó mấy anh em đang ngồi trên chiếc giường độc nhất của chốt trò chuyện, uống nước trà, hút thuốc vặt thì bỗng nhiên nghe phía bên kia bờ kinh xáng rộng chừng 10m có tiếng kêu thất thanh của con chồn.

Anh em bàn nhau, chắc con chồn bị mắc bẫy cò ke giăng hồi chiều nên lấy đèn pha đi gỡ, đinh ninh hôm sau có bữa thịt tươi cải thiện. Ra soi bẫy thì không thấy con chồn, trong khi tiếng con chồn vẫn la thất thanh gần đó, nên mấy người đều cho rằng con chồn bị trăn bắt sống.

Nếu như vậy thì xúm nhau lại vừa bắt được con chồn và bắt luôn con trăn. Nhưng soi đèn tới đâu thì nghe tiếng ào ào của lau sậy và tiếng gãy của cây khô vang lên đến đó khiến mọi người rùng mình, vì ai nấy đều biết con trăn không khi nào ngậm con chồn bỏ chạy, trong khi đó tiếng lau sậy gãy vang tới đâu thì tiếng con chồn kêu thất thanh tới đó, dọc theo bờ kinh xáng.

Nhưng mọi người vẫn soi đèn bám theo hướng di chuyển của con chồn, đến một lùm tràm cổ thụ cao khoảng 8m cách chốt gác rừng chừng 20 m thì con chồn hết la, tiếng lau sậy rung ào ào cũng không còn. Khi ánh đèn pha rọi lên ngọn những cây tràm, mọi người há hốc miệng đứng chết trân, không ai dám nhúc nhích khi thấy trên ngọn cây là một con rắn hổ mây khổng lồ, miệng ngậm con chồn và đang nhìn xuống đám nhân viên kiểm lâm bên dưới.

“Lúc đó ai nấy tá hỏa tam tinh, nhưng tui vẫn kịp nhìn thấy hai mắt con rắn rất lớn bắt đèn pha đỏ như máu, thân mình nó to như thân cây dừa. Anh em chúng tôi vội vàng tắt đèn, nháo nhào băng rừng bỏ chạy về chòi. Đêm đó mấy anh em tui ai cũng thức tới sáng, sợ con rắn quay trở lại trả thù”, kiểm lâm viên tên T. kể lại.

Mấy ngày sau không thấy con rắn xuất hiện, nhưng rồi nó quay lại thật. Kiểm lâm viên tên K. kể, một buổi chiều chạng vạng khi anh đang câu cá dưới bờ kinh thì nghe phía bìa rừng bên kia kinh xáng lau sậy rung ào ào như dông gió tới, nhưng lúc đó cây rừng im phăng phắc vì đứng gió. Linh tính có chuyện không hay, anh K. quăng cần câu nhảy lên bờ, hô hoán anh em trong chốt ra tiếp ứng.

Mọi người xách đèn pin chạy ra soi qua bên kia kinh xáng xem vật gì gây náo động đám lau sậy thì rọi ngay vào mắt của con rắn khổng lồ. Nó nhìn thẳng vào ánh đèn pin, đầu từ từ dựng đúng lên cao, mang bành ra, miệng phun phì phì nghe rợn tóc gáy. Nhìn thấy con mãng xà vương, cả đám hò nhau bỏ chạy thục mạng vô chốt, gom hết đồ đạc băng rừng đêm về trạm trung tâm.

Anh K. nói, không biết con rắn lớn cỡ nào vì không đủ can đảm soi đèn xem suốt thân mình nó, nhưng với khoảng cách giữa hai mắt của con rắn gần 2 tấc, khúc thân chỗ cổ rắn cỡ thân cây chuối to, thì con mãng xà lần này lớn gấp mấy lần con rắn bắt con chồn hôm trước.

Lần thứ hai chạm trán con rắn khổng lồ, cả chốt không ai còn đủ tinh thần để bám trụ giữ rừng, không ai chịu quay trở lại chốt mà đề nghị cấp trên cho chuyển sang địa bàn khác.

Không có lực lượng thay thế nên lãnh đạo ngành kiểm lâm đã đưa ra giải pháp là dùng lưới B40 để bao bọc xung quanh cái chòi gác rừng nhằm bảo vệ mọi người tránh sự tấn công của mãng xà vương, nhưng các kiểm lâm viên phản đối. Họ nói, thà để căn chòi trống bốn bề, mãng xà có tấn công thì chỉ táp được một người, những người còn lại có cơ may chạy thoát. Nếu rào lại, lưới B 40 cũng chẳng có tác dụng gì với con rắn khổng lồ, ngược lại khi rắn tấn công, mở được rào B 40 xong là nó đã điềm nhiên xơi tái từng người một. Chuyện leo lên chòi canh lửa cao 8 mét để tránh mãng xà vương cũng hoài công vì anh em kiểm lâm đều biết rõ, rắn hổ mây leo trèo giỏi và rất nhanh.

Anh T. lắc đầu: “Với những con rắn dài chừng 20 mét thì chòi canh lửa cao 8m nhằm nhò gì nó. Nó chỉ cần vươn mình lên chút xíu thì đã đủ sức ngoạm cổ mấy anh em tui rồi. Hơn nữa, leo lên đó rồi chỗ đâu nữa mà chạy, không lẽ nhảy xuống đất cũng chết ?”.

Nhưng khi chúng tôi đề nghị bố trí để có thể một lần chạm mặt và ghi lại hình ảnh những con rắn hổ mây mãng xà vương khổng lồ thì tất cả kiểm lâm viên đều lắc đầu từ chối. Họ nói, mọi người đang sợ nó gần chết, cầu trời khẩn phật, xin thần rừng làm cho nó đi khuất mắt mà bây giờ kiếm cách dụ cho nó về nữa là sao ? Lỡ nó không thèm mồi nhử mà thèm chén thịt kiểm lâm viên thì sao? Nhưng năn nỉ mãi, cuối cùng các kiểm lâm viên và người dân cũng đồng ý mua vịt về nhử mồi cho rắn ra.

Nhưng suốt mấy đêm liền canh rắn, những con mãng xà vương của rừng tràm U Minh Hạ cũng không chịu xuất hiện. Những kiểm lâm viên nói với chúng tôi, hình như mồi nhử bằng vịt không đủ cho rắn nhét kẽ răng, phải có mấy con chó cỏ nhử mồi thì may ra rắn sẽ xuất hiện. Nhưng giữa rừng sâu, kiếm đâu ra chó trong khi những nhà dân ở bìa rừng đều không ai dám nuôi một con chó nào.

Chúng tôi bàn nhau hôm sau thay đổi mồi bằng con mèo, nên trời vừa sáng phải lội bộ mấy cây số đường rừng ra khu dân cư để năn nỉ người dân bán cho con mèo nặng trên 3kg.

Theo hướng dẫn của các thợ săn, chúng tôi để con mèo còn sống nguyên, buộc trên thân tràm cho nó giống con chồn để mèo kêu meo meo thu hút rắn đến, nhưng một lần nữa vẫn thất bại. Có điều đáng ngạc nhiên là trong lúc mãng xà vương dứt khoát không xuất hiện thì ở khu vực rừng xung quanh chốt gác, lâu lâu lại thấy rắn hổ mây to chừng 4 kg- 5 kg bò tới bò lui như trinh sát đi nghe ngóng, thăm dò động tịnh.

Suốt một tuần lễ phục kích giữa ruột rừng nhưng không ghi lại được hình ảnh những con mãng xà vương huyền thoại của rừng U Minh Hạ, chúng tôi đành kéo nhau ra về.

Tuy tiếc nuối, nhưng những câu chuyện vừa mang tính huyền thoại vừa từ lời kể của những người từng chạm trán mãng xà vương cho chúng tôi một niềm tin: những con rắn hổ mây khổng lồ của rừng U Minh là chuyện chắc chắn có thật, nhưng để tìm được nó thật không dễ và chắc cũng không người nào đủ can đảm săn lùng, đối mặt với chúa tể rừng tràm.

1.                               Chuyện lạ ở rừng Cấm

Khu rừng rậm nằm trên một ngọn núi cao thuộc huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai từ nghìn đời nay đã chứa đựng những bí ẩn khó lý giải. Để vào được khu rừng này, người ta phải mời thầy Mo cúng bái với các thủ tục kỳ lạ của người Pu Péo và người Nùng.

Khu "rừng chết"

Rừng Cấm thuộc xã Bản Cầm (Bảo Thắng) và bản Xen, bản Lầu. Khu rừng nằm trên một ngọn núi cao tách biệt với khu dân cư. Các cao niên ở bản Xen đều công nhận, rừng Cấm là khu rừng chết. Từ xa xưa, người Pu Péo, người Nùng đã coi khu rừng như là nơi ở của các vị thần với những quyền năng vô hạn.

Người Mường Khương còn lưu giữ những câu chuyện nửa hư nửa thực về khu rừng này. Chuyện kể rằng, rừng Cấm là nơi các thần trú ngụ, không ai được phép tự tiện ra vào nếu chưa làm lễ và chưa hiến dâng những món ăn truyền thống.

Cụ Mà A Mèn ở bản Xen cho hay: "Từ xưa đến nay, đã có nhiều người chết và bị điên do tự tiện vào khu rừng chặt gỗ, bắt thú. Thậm chí, có cả những nhóm người dưới xuôi lên đào vàng rồi không thấy ra nữa. Gia đình họ hàng lên tìm rồi cũng mất tích hết".

Nói rồi, cụ Mèn dẫn chúng tôi sang nhà anh Nông Văn Bích và bảo: "Thằng Bích năm ngoái cũng vào rừng chặt củi. Ra được đến ngoài bỗng dưng phát điên phát dại, không viện nào chữa được. Gia đình đưa nó về mấy ngày thì nó chết

Tiếp chuyện chúng tôi là bà Vĩnh (mẹ anh Bích) cho hay: "Thằng Bích nó liều lắm, tôi đã bảo mà nó không nghe nên phạm vào luật trời. Ở nhà nó bị điên nhưng đưa lên viện các bác sĩ bảo nó chẳng bị bệnh gì. Thế rồi nó chết đúng như lời nguyền của rừng Cấm".

Thậm chí theo lời cụ Mèn, dù có làm lễ đúng thủ tục nhưng vào rừng mà nói tục hay phóng uế bừa bãi, thì người đó cũng sẽ bị điên rồi chết. Theo nhẩm tính của cụ Mèn, từ trước đến nay số người bị chết vì dám vào rừng cũng khá nhiều, chỉ tính ngay ở bản Xen, con số đã lên tới hàng chục người.

Có lẽ vì những câu chuyện truyền miệng này, mà từ xưa tới nay không ai dám làm nhà gần cửa rừng.

Mâm lễ 17 món

Để vào được khu rừng Cấm một cách an toàn, dân bản phải thực hiện những nghi lễ truyền thống của người Pu Péo và người Nùng. Hội chính được tổ chức vào cuối tháng giêng ở khu cửa rừng phía đầu bản. Đó là lễ hội chính nên phải được chuẩn bị vô cùng tỉ mỉ và chặt chẽ.

Ngoài ra, còn có một số lễ hội cúng rừng Cấm vào ngày Thìn các tháng khi có việc cần phải vào bên trong. Trước ngày cúng hằng tuần, cao niên các bản phải chuẩn bị các món lễ trong một mâm lễ cúng.

Theo thầy mo Lê Quang ở thôn Na Ngam, mâm lễ cúng gồm 17 món chia làm 2 mâm, gọi là mâm đất nước và mâm bản làng. Các món ở mâm đất nước gồm: Một con gà sống lông đỏ, một con lợn đực đen, 7 chén rượu xếp hàng ngang, một bát nước, 7 con ngựa giấy đen, một cái ô che lư hương, 7 nén nhang, 7 bát cơm, 7 xâu thịt các loại, một bát gồm thịt nạc, tim, tiết.

Ở mâm bản làng gồm 7 món còn lại là: Một con gà sống gáy, một miếng thịt lợn, 5 xâu thịt lợn, 5 chén rượu, 5 bát cơm, 5 con ngựa giấy, một bát thức ăn chay.

Thức ăn sẽ được đặt trên lá chuối để trên một cái giá hai tầng, mâm trên và mâm dưới. Hai mâm này sẽ đặt tại bàn thờ cúng ở hai gốc cây cổ thụ nhất của khu cửa rừng gọi là cây bố và cây mẹ (tiếng Nùng là chapôq - chamêq).

Theo thầy mo Lê Quang, hai mâm cỗ này tượng trưng cho lòng thành của dân bản, nó tựa như "vé" vào rừng. 17 món trên mâm cỗ cúng là 17 món quà ẩn chứa nhiều bí ẩn dâng tặng cho thần rừng.

Còn nhiều bí mật

Trong bất kỳ một lễ cúng rừng nào cũng phải đủ 2 thầy mo, họ úp mặt vào cây cổ thụ mà quỳ lạy 4 phương 8 hướng với những bài khấn truyền lại từ thời xa xưa theo một loại ngôn ngữ cổ.

Sau khi khai lễ lần thứ nhất thì mổ lợn giết gà theo thủ tục để trên bàn thờ. Trong khi thầy mo khấn vái, những người đứng xem không được nói tiếng dân tộc khác để pha tạp tiếng mẹ đẻ. Sau tất cả các thủ tục, thầy mo và các cao niên sẽ bói xương gà, họ đưa xương gà ở hai mâm cỗ cúng để dự đoán tương lai, vận hạn cho làng bản.

Và dựa vào màu của xương gà, thầy mo sẽ phán trong năm tới, trong bản sẽ ra sao, có mấy người chết và chết như thế nào. Đó là một điều bí mật, nhưng người quanh khu rừng Cấm đều mặc nhiên công nhận.

Kỳ thú chuyện câu cá trong rừng U Minh Thượng

(Phunutoday.vn) - Vườn quốc gia U Minh Thượng (VQGUMT- huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang) đã hồi phục sau vụ cháy khủng khiếp năm 2002 và dần trở thành điểm đến hấp dẫn vào dịp cuối tuần của du khách muốn tránh cái ồn ào, náo nhiệt ở thành thị, nhất là vào mùa nắng oi bức. Những du khách về với thiên nhiên này đã hóa thân thành những nông dân chính hiệu, thả hồn theo mây nước chơi vơi giữa mênh mông rừng tràm, đắm hồn mình trong thú vui tao nhã, đó là thú đi câu cá.

 Bốn chục ngàn đã trở thành “ngư ông”

Ông Phạm Quốc Dân - Phó giám đốc VQGUMT - cho biết: Vùng lõi VQG có diện tích hơn 8.000ha, trong đó có khoảng 500ha là mặt nước trống để cho du khách vào câu cá giải trí. Khách đến nhiều nhất là từ TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Vũng Tàu, Đồng Nai, Cần Thơ, TP.Rạch Giá…

Đồ nghề của du khách khá chuyên nghiệp, nên đến đây chỉ mua vé 40.000 đồng/người/ngày, thuê xuồng ba lá thêm 30.000 đồng, ai không tự bơi xuồng được thì thuê kéo vào, kéo ra điểm câu cá 20.000 đồng nữa, nếu không thì tự đi bộ vào nơi thả câu.

Như vậy, du khách đến đây chỉ cần mua vé 40.000 đồng là có thể vào câu với số lượng cá câu không giới hạn, điều kiện là phải câu thủ công. Khách có nhu cầu chế biến tại chỗ thì ở đây cũng đáp ứng, bảo đảm có đầy đủ rau đồng để khách cảm nhận trọn vẹn hương vị đậm đà của đặc sản cá rừng U Minh Thượng ở vùng đất Kiên Giang như: rau choại, lá mỏ quạ, rau nụ áo, bồn bồn tươi, cát loài…

Đắm hồn khách nhàn du

VQGUMT là một trong những khu bảo tồn đa dạng sinh học quan trọng bậc nhất đồng bằng Sông Cửu Long và của cả nước đã được các tổ chức quốc tế công nhận. Tại đây, có nhiều loài thú rừng, chim chóc và động vật thủy sinh được liệt vào sách đỏ Việt Nam có nguy cơ tuyệt chủng. Từ hồ Hoa Mai xuôi theo kênh trung tâm vào vùng lõi VQG, ven hai bên bờ cỏ lau cao lút đầu người.

Thỉnh thoảng, lũ khỉ dọc theo bờ đê trồng chuối lại tròn xoe mắt ngắm nhìn du khách, nhảy qua, nhảy lại như chào mời; đâu đó có chú chim cổ rắn giật mình vỗ cánh chao nghiêng trên bầu trời xanh thăm thẳm; rồi đến máng dơi với hàng ngàn con kêu chí chóe, thỉnh thoảng túa ra, giang đôi cánh rộng giữa không trung. Tiếng gió rì rào qua những rừng tràm ngập nước, tiếng cá đớp bóng lục bục gần xa, tiếng chim hót gọi đàn, tất cả hòa quyện thành một bản giao hưởng mênh mang mây nước, làm mê đắm tâm hồn khách nhàn du.

Trong VQG còn có các chòi canh của lực lượng kiểm lâm, bảo vệ rừng được xây dựng bằng bê tông khá chắc chắn. Du khách có thể lên đây thả tầm mắt đến cuối đường chân trời, ngắm nhìn toàn cảnh rừng tràm mênh mông bát ngát. Hôm chúng tôi đến làm việc với Ban quản lý VQGUMT, có 3 - 4 nhóm du khách từ Cà Mau, Hậu Giang, TP.Hồ Chí Minh, Cần Thơ đang lúi húi chuẩn bị “đồ nghề” câu cá.

Anh Nguyễn Thanh Vũ cùng một nhóm 6 người từ TP.Hồ Chí Minh về đây, vui vẻ nói: “Giờ có đường cao tốc Sài Gòn - Trung Lương nên về miền Tây, tới trung tâm Rạch Giá chỉ mất non 5 giờ. Từ Rạch Giá thong thả tới VQGUMT chừng hơn 1 giờ đồng hồ nữa. Gần 400 cây số vậy mà vẫn thấy gần vì nơi mình tới quá hấp dẫn. Cứ vài tuần là tụi tôi hùn hạp với nhau đi thư giãn sinh thái kiểu này một lần”.

Anh Châu - cán bộ Xí nghiệp in Hồ Văn Tẩu, TP.Rạch Giá - là người câu cá khá chuyên nghiệp, xách theo lỉnh kỉnh đồ nghề gồm cần câu máy, mồi, cơm hộp, nón lá, áo mưa…, chia sẻ: “Mỗi tuần, tôi dành thời gian một ngày để vào đây thư giãn, riết rồi đâm nghiện. Số cá câu được trong một ngày không đủ chi phí đi lại, nhưng thú vị nhất là khi được đắm mình trong dòng nước trong veo, nhìn thấy cá đớp mồi. Công đoạn hấp dẫn nhất là khi cá cắn câu và từ từ kéo lên”.

Theo kinh nghiệm của anh Châu, nơi nào có trảng nước với nhiều bèo tai tượng mà lúc trước là khu vực rừng tràm nguyên sinh bị cháy là nơi có nhiều cá. Đối với cá rô, phải câu từ 9 giờ sáng, cá lóc phải nhấp mồi lúc sáng sớm hoặc về chiều, cá thác lác thì câu giờ nào chúng cũng ăn mồi. Nhờ có kinh nghiệm giăng câu nên mỗi lần đi, anh câu dính mấy chục con cá rô mề và cá lóc, trê...

Đang lúi húi đồ nghề trên đường vào Khu di tích Tỉnh ủy trong VQGUMT, nhưng nhóm của anh San, anh Bình (công chức ở TP.Rạch Giá) kịp nhận ra người quen và chào hỏi. Thấy bộ dạng “dị hợm” của những tay câu này, mọi người tò mò, thì được các anh giải thích: Đi câu cá là phải “khác người” một chút. Nghĩa là phải trang bị đủ thứ đồ nghề, nào là cần câu, cơm hộp, cà phê, thuốc hút, áo mưa, thậm chí cả thuốc uống để có một ngày câu trọn vẹn. Nhưng trước khi hòa mình vào với thiên nhiên ở đây, điều đầu tiên là cần chuẩn bị vớ (tất), bao tay, dây thun… để mang, quấn chặt vào, không thì con vắt tìm tới, chui vô cắn dữ lắm, nhất là lúc trời sáng sớm và hôm nào có mưa.

 Theo nhóm của anh San, anh Bình, lúc đầu, do ở TP.Rạch Giá ít sân chơi lại luôn náo nhiệt, nên họ thường tụ tập nhau rủ nhậu riết rồi mệt. Cách nay hơn 2 năm, các anh rủ nhau thử làm “ngư ông”, vào VQGUMT trước là để thư giãn, sau đem câu theo câu cá cho vui, thêm nữa là được thưởng thức những sản vật vùng quê này.

Thế nhưng, lần đầu tiên vào đây, câu được vài con cá lóc, trê, rô mập ú, đen tròn rồi đem lên thưởng thức tại chỗ thì không còn gì tuyệt vời bằng. Lúc đầu, các anh chỉ dùng những cần câu loại thường, sau đó “nâng cấp” lên để vừa gọn nhẹ vừa dễ câu. Thế là cứ hết tuần này đến tuần khác, các anh lại có mặt ở đây để vừa câu cá, vừa thư giãn sau những ngày làm việc.

Vui là chính

Hầu hết những “ngư ông” mà chúng tôi gặp đều có chung quan niệm: vui là chính. Bởi vì theo nhóm của anh Vũ, nếu tính đi một nhóm 6 - 7 người cho một chuyến đi 3 ngày từ TP.Hồ Chí Minh vào đây để câu, phải tốn từ 3 - 4 triệu đồng cho ăn uống, xăng dầu, ngủ nghỉ…, nhưng giỏi lắm, câu cũng được chục cân cá, giá trị khoảng 1 triệu đồng.

Số cá câu được ăn tại chỗ, số còn lại làm khô, đem về biếu bạn bè, người thân thưởng thức đặc sản vùng đất U Minh Thượng. Bù lại, các anh có chuyến đi rất hữu tình. Nào là được ngắm chim trời, mây nước, thả hồn vào những thước dây câu, thú vị nhất là khi bắt được những con cá trong vùng nước đỏ, đen tròn, dù có đổi bằng nhiều tiền cũng không có được cái thú ấy! Chưa hết, khi màn đêm buông xuống cũng là lúc các anh tự đem những thứ cá chính tay mình câu được ra ven đường dẫn vào khu du lịch, ngồi chụm lại nướng trui, kể những câu chuyện thú vị khi những con cá cắn câu và từ từ được kéo lên, vẫy đuôi làm nước văng tung tóe.

 Thường là nhóm đi câu cá ở các tỉnh, thành phố xa, họ nghỉ đêm ở gần khu du lịch để đêm xuống lắng nghe những tiếng ếch nhái, chim rừng rồi sáng sớm tranh thủ đi câu. Theo các anh, sáng sớm là lúc cá “đói mồi” nên dễ câu hơn, nhất là loại cá lóc.

 “Cá lóc ở đây nướng trui thưởng thức cùng với các loại rau rừng là số một, làm khô là số hai, ăn không kịp để nó chết dọc đường là… số “bét” - anh Vũ hóm hỉnh nói. Khác với nhóm của du khách từ TP.Hồ Chí Minh, nhóm của anh Nguyễn Bình Nguyên ở Cần Thơ thì “hoang dã” hơn.

Anh Nguyên cho biết, lần này nữa là lần thứ năm các anh về đây câu cá, thưởng ngoạn cảnh thơ mộng ở vùng rừng nước mênh mông. Cách đây 3 năm, được người bạn học chung trường rủ đi du lịch ở đây, lúc đầu anh còn nghĩ tiêu cực là tại sao phải vào “rừng” du lịch mà không phải là những thắng cảnh nổi tiếng ở thị xã Hà Tiên hay Phú Quốc. Thấy nhóm bạn rủ hoài nên anh cũng bỏ ra 2 ngày xuống vùng đất U Minh Thượng này xem có gì lý thú.

 “Trên đường đi, tôi nghĩ chắc mấy người bạn đi thăm bạn ở đây chứ vô rừng thì có gì hay. Thế nhưng, khi tụi bạn đưa cần câu, móc mồi, thả câu thử chưa đầy 10 phút, con cá trê vàng to bằng cùm tay cắn dính câu. Lúc đó, tôi chỉ biết nhảy cẫng lên mừng như đứa trẻ lên 5. Thú thật, lúc này tôi mới biết giá trị của chuyến đi như thế nào” - anh Nguyên chia sẻ.

Chưa hết, khi hoàng hôn vừa xuống là đến lúc phải dọn đồ nghề để nghỉ ngơi, rồi sau đó cứ đem rượu đế mang theo, cá tự câu, tự nướng thưởng thức, ngon chưa từng thấy. Thế là, lâu lâu, anh Nguyên lại “nhớ rừng” rồi rủ cả nhóm cùng đi câu, vừa thư giãn, vừa ngắm cảnh thiên nhiên trong lành ở đây, vừa có quà U Minh Thượng đem về biếu người thân, bạn bè.

Nhóm của anh Nguyễn Trường Thanh gồm có 6 người ở tỉnh Hậu Giang thì “gọn nhẹ” hơn. Sáng sớm, các anh dùng phương tiện là xe gắn máy, đi khoảng 150km là đến với VQGUMT. Tới nơi, các anh thuê phòng nghỉ trước, phân công một người ở lại phòng để lo “hậu cần”, khi nào khát nước, đói bụng thì “a lô” để người này “tiếp tế”. Theo kinh nghiệm của anh Thanh, trước đây, khi cả nhóm đi câu, không ai lo phần ăn, uống là rất bất tiện. Đồ nghề đem theo lỉnh kỉnh, mang những thứ đó có khi nguội lạnh, có khi không còn gì để mà ăn.

Anh Thanh cho biết: “Có lần lo mê câu, không để ý tới những con khỉ xung quanh. Chúng lấy cơm, cà phê đem đổ ra ngoài hết, khi hay thì không còn cái gì mà ăn”. Cũng vì sợ “Tề Thiên” quậy phá, mỗi lần đi, các anh luân phiên nhau lo hậu cần để vừa nhẹ nhàng di chuyển đến chỗ câu, lại ít bị “rủi ro” khi đàn khỉ xuất hiện. Không chỉ lấy thức ăn, đồ uống, khỉ ở đây còn “chôm” điện thoại của du khách khi để sơ hở.

Câu cá, ngắm nước đỏ U Minh

Rừng tràm U Minh Thượng hiện giờ đang vào mùa nước đỏ. Những dòng kênh, con rạch ở đây nhuộm một màu đỏ bầm tựa như màu trái mồng tơi chín muồi, trông thật kỳ thú, bắt mắt. Đó là nét đặc trưng độc đáo của rừng U Minh Thượng mà cư dân nơi làng rừng này nói rằng “không có nước đỏ, không phải là U Minh”. Những ai chưa từng đến rừng tràm U Minh Thượng khi đặt chân đến đây không khỏi ngỡ ngàng, thắc mắc bởi nước đỏ quạch một màu tự nhiên và nghĩ ngay nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng nề. Nước đỏ là màu nước lá tràm rụng xuống phân hủy, chảy từ trong lâm phần ra, nhưng không bẩn, không ô nhiễm mà ngọt, mát.

Ông Phạm Quốc Dân - Phó giám đốc VQGUMT - giải thích: Lớp than bùn dưới chân rừng tràm U Minh Thượng hình thành trong điều kiện thực vật bị phân hủy, phần lớn là cây tràm do thiếu ô-xi, lâu ngày dài tháng trở thành than bùn, có chức năng giữ nước, lọc nước, tích lũy các-bon.

 Lá tràm rụng nhiều trên mặt đất rừng nên khi gặp mưa xuống phân hủy, ngấm qua than bùn và xuống kênh, rạch nhuộm một màu đỏ thắm, rất tốt cho đời sống của các loài thủy sản nước ngọt. Nước đỏ chảy ra từ than bùn chỉ có ở U Minh Thượng (Kiên Giang) và U Minh Hạ (Cà Mau).

Nơi nào còn than bùn thì nơi đó còn nước đỏ và vùng nào có lớp than bùn dày, trữ lượng nhiều thì nước càng đỏ sậm. Vào mùa mưa, nước nhạt màu hơn; còn mùa khô, nước đỏ đậm do bốc hơi nhanh và sắc xuống dưới kênh, rạch, ao, đìa.

Vườn Quốc gia U Minh Thượng có tổng diện tích 21.107ha, trong đó vùng lõi là 8.038ha, còn lại vùng đệm là hơn 13.000ha được giao khoán cho hộ dân sản xuất nông - lâm - ngư - nghiệp kết hợp, bình quân 4ha/hộ. Vào mùa mưa hàng năm, nước đỏ trong vùng lõi điều tiết ra ngoài vùng đệm, giúp nông dân sản xuất vụ mùa.

 Một lượng cá giống tự nhiên theo dòng nước đỏ bơi vào đồng ruộng và họ bao ví lại cho chúng sinh sôi nảy nở, phát triển bầy đàn. Vậy là mô hình lúa - cá kết hợp trên đồng đất U Minh Thượng đã nuôi sống nhiều thế hệ cư dân trên lâm phần này trong điều kiện sản xuất còn phụ thuộc vào nước mưa.

Nước đỏ U Minh vừa giúp cây lúa làm nên những mùa vàng bội thu trên đồng ruộng, vừa là môi trường sống thuận lợi, tái tạo nguồn lợi cá đồng cho khoảng 3.200 hộ dân ở vùng đệm U Minh Thượng phát triển kinh tế gia đình, cải thiện và nâng cao đời sống. Những ruộng lúa - cá này mỗi năm thu hoạch hàng chục tấn lúa và từ hàng trăm kilogram đến vài tấn cá đồng vào mùa khô. Ngoài ra, nước đỏ U Minh Thượng còn giúp cho động, thực vật ở đây phát triển đa dạng, phong phú, góp phần phát triển du lịch sinh thái.

Không chỉ có câu cá…

Ngoài thú vui tao nhã là câu cá, ngắm thiên nhiên, rừng tràm bạt ngàn, du khách về VQGUMT còn được nghe kể nhiều câu chuyện đời thường có thật xảy ra ở địa bàn xã Thạnh Yên A, An Minh Bắc của huyện U Minh Thượng. Nào là chuyện ông nọ “xơi” của quý bà kia; một vợ sống cùng lúc với 2 chồng hoặc ngược lại, một chồng sống cùng 5 bà vợ với mấy chục đứa con. Nhưng ly kỳ nhất vẫn là chuyện “đánh vợ thằng bạn và đổi vợ”. Chẳng qua là vầy: Số là ở vùng nông thôn, thường lúc rảnh rỗi việc đồng áng, người dân hay tổ chức uống rượu và mời vài người bạn hàng xóm đến nói chuyện mùa màng.

 Một ngày nọ, nhà anh H. (ấp Hỏa Vàm, xã Thạnh Yên A, U Minh Thượng) tổ chức tiệc nhậu, mời bạn bè đến chơi, trong đó có anh K. Trong lúc đang vui vẻ “chén chú, chén anh” thì vợ của anh H. từ nhà bếp lên cằn nhằn và cho rằng chồng không chịu đi ra đồng thăm ruộng mà cứ ở nhà nhậu nhẹt hoài.

 Thấy vợ của bạn nói những lời lẽ khó nghe trước đám bạn nhậu, anh K. tỏ vẻ không hài lòng, quay sang nói với anh H.: “Sao mày không “dạy” vợ vài bạt tai cho bỏ cái thói nói năng hỗn láo với chồng?”. Anh H. từ tốn đáp: “Tôi không dám đánh vợ đâu ông ơi, có ngon thì ông đánh giùm tôi đi”. Như chỉ chờ có vậy, anh K. liền đứng lên, xông thẳng đến vợ anh H. đánh mấy bạt tai như trời giáng khiến vợ của bạn té xuống sông.

Sau khi được mọi người can ngăn, vợ của anh H. phải đi bệnh viện để điều trị. Điều trị về, vợ anh H. và cả anh chồng cùng đứng đơn kiện anh K. về tội cố ý gây thương tích. Lúc đầu, anh K. một mực khẳng định mình không hề có tội vì “được phép” của thằng bạn mới ra tay đánh, chứ đâu có khi không mà đánh. Thế nhưng, sau khi được chính quyền địa phương giải thích, cuối cùng, anh K. mới thừa nhận hành vi của mình là không đúng.

Ông Trần Văn Út - Trưởng ban lãnh đạo ấp Hỏa Vàm - thuật lại câu chuyện mà cười ngất: “Lúc xảy ra chuyện, ai nấy cũng mất hồn vía. Vì anh H. tưởng đâu K. nói chơi nên không để ý, nhưng khi anh K. đứng lên và có hành động mạnh tay với vợ bạn thì không ai trong bàn nhậu kịp trở tay. Bởi vì anh K. có thân hình hộ pháp gần 80kg, còn vợ thằng bạn cân nặng cỡ phân nửa”.

Chú Ba Thành - phụ trách Mặt trận ấp Hỏa Vàm - cho biết là đã gần 70 tuổi và cũng nhậu nhiều vô kể với bạn bè nhưng chưa hề chứng kiến vụ K. đánh vợ thằng bạn nhập viện. Chú Ba cười khà khà: “Câu chuyện xảy ra không chỉ có cái ấp này mà cả xã, cả huyện U Minh Thượng đều biết, tui cũng chỉ mới thấy lần đầu tiên trong đời”.

Ông Đặng Xuân Thắng - Chủ tịch UBND xã Thạnh Yên A - cho biết thêm: “Khi sự việc xảy ra, lúc đầu chúng tôi tưởng mấy ông nhậu vẽ chuyện chứ đời nào có chuyện cười ra nước mắt như vậy. Thế nhưng, khi nghe báo là thật, tôi cử người xuống xác minh làm rõ. Cũng may là anh K. đã biết lỗi, qua tận nhà xin lỗi, bồi thường tiền thuốc thang cho vợ của bạn nên cũng êm xuôi. Có lần nhậu chung, tôi hỏi sao vợ thằng bạn mà đánh dữ quá vậy. Lúc đầu K. cũng ngại, nhưng anh ta nói rằng cũng do có rượu, không kiềm chế được nên mới đánh, bây giờ nhắc lại cũng quê lắm chứ”.

Không chỉ câu chuyện đánh vợ thằng bạn lan ra cả huyện mà chuyện “đổi vợ” cũng hấp dẫn không kém người nghe. Trên chiếc giường được chủ nhân hạ mấy cây tràm phía sau nhà để xả ván đóng, lâu lâu nghe “rắc” một cái qua những tiếng cười nghiêng ngửa mỗi khi trong bàn nhậu có ai đó nhắc lại chuyện hai ông hàng xóm đổi vợ với nhau. Tại căn nhà dựng cột tràm, lợp lá nằm ngoài đồng thuộc Kênh Giữa của ấp Thành Phụng, xã Đông Hưng, huyện An Minh (cách xã An Minh Bắc, huyện U Minh Thượng khoảng 2km), nhiều người biết về câu chuyện đổi vợ đang nói cười rôm rả.

Chúng tôi không tin chuyện đó là có thật nên một trong nhóm người trên bàn nhậu liền điện thoại cho một anh cán bộ hiện phụ trách công tác Mặt trận của xã, trước đây nguyên là Chủ tịch UBND xã An Minh Bắc để xác nhận. Nhắc lại câu chuyện ấy, anh cán bộ này cười muốn sặc khi đang hớp ly rượu. Anh này rành đến từng chi tiết một.

 Bởi vào thời điểm hai người đàn ông ở Kênh 16, ấp Minh Hưng (cách xã An Minh Bắc 10km) đổi vợ với nhau, lúc đó anh là Bí thư xã đoàn nên không thể “bỏ qua” thông tin “đặc biệt” mà không tìm hiểu cặn kẽ câu chuyện.

Kỳ I: Tôi đi tìm bùa mê thuốc lú

Qua nhiều lần hẹn không thành, cuối cùng, may mắn khi tôi tình cờ gặp cô gái Cơ Tu trong đêm hội ở nhà Gươl làng Tà Vàng. Cô hỏi tại sao tôi buồn giống như kẻ thất tình và có cần cô giúp đỡ, bởi như lời cô tiết lộ là quen một người có ngải …yêu. Tôi gật đầu nhờ cậy đến sự mai mối để được tận mắt nhìn thấy thứ bùa mê thuốc lú, một loại cây được gọi là ngải thương, ngải nhớ nơi miền rừng biên ải này...

Hé lộ bí mật về bùa mê thuốc lú

Ngay trong đêm hội ở nhà Gươl làng Tà Vàng tôi đã chuếch choáng men rượu Tà Đing. Bên góc khuất của nhà Gươl khi mọi người vẫn còn say sưa bên ché rượu, Bhling Thị Bới trong bộ váy thổ cẩm bỏ vòng múa đến bên tôi đưa mời ống rượu Tà Đing và ép phải uống hết cho bằng được.

Không biết có phải vì bộ mặt đưa đám của tôi hay sự nhạy cảm của cô gái vùng cao mà cô biết tôi buồn. Trong câu chuyện tình với những tình tiết đầy nước mắt (tôi cố nghĩ ra) để kể lại cho cô nghe trong đêm hội miền rừng, cô cảm nhận ở gã đàn ông lang bạt từ miền xuôi lên là tôi có một mối tình si đang chôn chặt. Cuối cùng Bhling Thị Bới đã gật đầu giúp đưa tôi đi tìm loại bùa mê thuốc lú giữa vùng đại ngàn Trường Sơn đang bắt đầu chuyển vào mùa mưa…

Làng Tà Vàng, xã vùng cao A Tiêng, huyện Tây Giang hiện ra trước mắt trong làn sương sớm dày đặc, chìm khuất giữa đại ngàn. Đây là trong số ít những ngôi làng cổ còn sót lại,  vẫn giữ nét hoang sơ một làng cổ thuần chất Cơ Tu nơi vùng biên ải.

Đứng trên đỉnh Agrồng, những nóc nhà dài truyền thống lọt thõm giữa thung sâu và chạy dọc theo con suối Ma Lơi ngầu đục vì công cuộc khai phá sơn lâm để xây dựng thị trấn miền rừng nơi vùng biên giới này cũng không thể nào xoá đi cái hoang sơ vốn có bao đời nay ở làng cổ này.

Dù chỉ cách thị trấn Tơ Viêng đang xây dựng độ chừng hơn 1 giờ leo núi, sự biệt lập, hoang vu của làng với thế giới bên ngoài vẫn hiển hiện trên mỗi bước chân qua lối đường mòn như sợi chỉ vắt qua sườn núi và thung sâu. Làng Tà Vàng đang mở tiệc trước nhà Gươl với tiếng cồng chiêng rộn rã và vũ điệu tung tung da dá của những đôi nam nữ với những váy dài thổ cẩm sặc sỡ cùng hòa nhịp dập dồn theo âm thanh cồng chiêng phát ra từ đôi tay rắn rỏi của trai làng.

Bới cầm ống rượu mời tôi và thầm thì vào tai bảo nhỏ: Uống cho say đi sẽ quên hết nỗi buồn. Nếu chưa hết buồn em sẽ giúp…

Đúng như lời đã hứa, sau những ống rượu Tà Đing ngập tràn mà như lời bà con vùng cao bảo: Hãy uống cho dân tin. Trong chếch choáng hơi men, cuối cùng tôi được Bới đưa đến nhà bà Ria Thị Điệp (người Cơ Tu, thôn Tà Vàng), là người đang bí mật nuôi trồng cây ngải yêu trong rừng có thể giúp tôi- gã có bộ mặt thất tình tìm lại người yêu…

Vào rừng tìm... ngải

Bước qua chiếc cửa hẹp, căn nhà của bà Điệp hiện ra với những cảnh quen thuộc của nếp sống bà con Cơ Tu vùng cao. Một xó bếp đen xỉn, vài thứ đồ đạt đi rừng nằm chen lẫn trong đống gỗ củi. Bà Điệp ngừng tay gọt sắn, ngơ ngác nhìn khách đến. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời bà nhìn thấy một thằng đàn ông lôi thôi lếch thếch như tôi được một cô gái trong làng mà bà tin cẩn đưa đến.

Phải mất một lúc lâu, bà mới gương cặp mắt dò xét nhìn như thôi miên vào tôi. Cái cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng khi tôi nhìn thẳng vào mặt bà. Ánh mắt lèm nhèm của một bà già vẫn không thôi nhìn thẳng vào tôi như dò xét. Tôi định thần với gương mặt của kẻ thất tình cố nhìn bà với ánh mắt van nài cầu xin giúp đỡ.

Phải mất hơn 15 phút không một lời chào hỏi của người đàn bà già nua, đen đúa, có chiếc răng vấu hiếm muộn chìa ra khỏi bờ môi trông thật kỳ dị. Mái tóc bà ngắn củn, bạc thếch, bồng bềnh như sương giữa đại ngàn. Chỉ có đôi mắt đen nhánh nhưng u ám, với cái nhìn sâu thẳm khó diễn tả.

Tôi liếc mắt quan sát đôi bàn tay thô ráp, sần sùi cong vẹo với nhiều vết cứa của bà chậm chạp đưa đi đưa lại trong điệu nhịp tẻ buồn của phụ nữ vùng cao lo chuyện miếng ăn hàng ngày ở nơi xó bếp.

Tôi đã kịp hình dung những nhọc nhằn về cuộc sống mưu sinh giữa rừng già.

Không chịu được sự im lặng kéo dài giữa căn nhà u tối của bà Điệp, Bhling Thị Bới bắt đầu lên tiếng chào hỏi bà và “phiên dịch” bằng giọng tiếng Kinh chuẩn giới thiệu với tôi về bà Điệp.

Bà năm nay đã 65 mùa rẫy, đang sống với người con gái và là người lặng lẽ, ít tham gia vào những sinh hoạt chung của làng. Bà sống gần như khép kín không hề quan hệ với bên ngoài. Công việc lặng thầm của bà là nơi xó bếp và con đường mỗi ngày từ nhà lên rẫy và ngược lại…

Để xua tan cái nhìn nghi hoặc của bà Điệp, Bhling Thị Bới giải thích về sự có mặt của tôi. Nghe xong, bà Điệp như sực nhớ điều gì, bà đứng phắt dậy, cảnh giác nhìn quanh nhà như sợ có kẻ nào đó theo dõi.

Nhìn cử chỉ của bà, tôi đoán nơi này có lẽ không thích hợp để hỏi han chuyện bùa ngải. Bới cũng hiểu chuyện nên gật đầu ra vẻ đồng tình. Khi tôi chưa kịp xử trí như thế nào, bà Điệp đã vớ ngay chiếc rựa và gậy lồ ô nơi xó bếp phăng phăng đi về suối Ma Lơi. 

Theo “ám hiệu” của Bhling Thị Bới, tôi cùng Bới bước vội theo bà. Ra đến bờ suối sau nhà, Bới “đặt vấn đề” với bà rằng tôi là người con trai từ dưới xuôi lên, đang gặp trục trặc trong chuyện tình duyên muốn nhờ đến phép ngải yêu của bà để hàn gắn.

Bà Điệp nghiêm nghị nói với Bới bằng một tràn tiếng Cơ Tu mà như lời phiên dịch lại của Bới cho tôi nghe bằng tiếng kinh rằng: “Tao có trồng trong rừng, lâu rồi mới có người hỏi đến, để tao đi lấy”. Bà Điệp một hồi lưỡng lự nhưng cuối cùng cũng gật đầu khi chúng tôi xin đi cùng bà vào rừng tìm ngải

Chúng tôi lội bộ hơn 1 giờ xuyên rừng và thêm 3 giờ loanh quanh trong khu rừng già ẩm ướt vắng lạnh, không một bóng người. Cuối cùng tận mắt tận tay được nhìn và sờ vào cây ngải yêu với bao huyền thoại của bà con Cơ Tu được gìn giữ như một “bửu bối” của người phụ nữ giữa đại ngàn…

Vào rừng tìm cây thương, cây nhớ

Đã từ rất lâu, dễ cũng hơn 20 năm, tôi đã được nghe chuyện kể miền rừng với những tình tiết rùng rợn về tục trả đầu, về chuyện bùa phép thư người cũng như bùa ngải của người miền rừng. Trong trí nhớ non nớt của mình, tôi đã hình dung một thế giới của bao điều bí ẩn

Đã rất nhiều lần tôi lên vùng biên ải Tây Giang, sống ở rừng nhiều ngày, nhưng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy khu rừng hoang vắng chỉ cách thị trấn Tơ Viêng của huyện Tây Giang hơn 1 giờ lội bộ, khi theo chân người đàn bà kỳ bí để diện kiến và nghe kể về thứ cây ngải thương ngải nhớ.

Khu rừng mà bà Điệp đưa tôi vào chỉ cách làng khoảng chừng hơn 1 giờ lội bộ qua nhiều con suối. Đây là khu rừng hoang mà theo người đàn bà này bảo là đầy linh thiêng, từ lâu bà bí mật trồng cây ngải yêu. Bà Điệp là người dẫn đường, nhưng đi như gió đẩy về phía trước khiến tôi thỉnh thoảng phải gọi bà ơi ới mới theo kịp bước chân. 

Vừa đi, bà Điệp vừa lẩm bẩm trong miệng như đang niệm thần chú. Trên gương mặt bà, một cảm giác như là sự tiếc nuối của bà đã đưa tôi vào khu rừng thiêng này.

Vừa đi, đôi tay bà chốc chốc lại lấy chiếc rựa gọt nhẵn nhụi đầu gậy lồ ô như để trấn an mình. Dường như, trong suy nghĩ của bà, bà sợ vì đã lỡ cho tôi theo vào khu rừng thiêng, sợ thần linh trách mắng.

Hơn 3 giờ loanh quanh trong rừng vạch lá và dây leo để tìm lối đi, cuối cùng tôi cũng được bà Điệp đưa đến một khoảnh rừng rậm. Theo ám hiệu của bà Điệp, tôi hiểu đây là nơi bà cần tìm đến để giúp tôi lấy lá của cây ngải yêu mà bà đã bí mật trồng từ cách đây nhiều chục năm.

Cả khu rừng vắng lặng đến rợn người, bốn bề mây núi chập chùng, không một vết chân người. Chỉ có tiếng nước róc rách của một con suối nghe rất gần. Bà Điệp tiến đến một mô đất xum xuê toàn cây dại, trịnh trọng vạch từng ngọn lá như cố tìm vật thiêng được cất giữ nơi đây.

Bà đặt lưỡi rựa và đầu gậy lồ ô vào một cây thấp lè tè có lá màu xanh hình lưỡi kiếm nằm lẩn khuất giữa những cây khác. Bà nói rất khẽ với Bhling Thị Bới bằng tiếng Cơ Tu với vẻ mặt nghiêm nghị. Tôi tròn mắt, há miệng để chờ đợi cô gái Cơ Tu phiên dịch giúp.

Như hiểu được ý tôi, Bới kéo tôi ra bên gốc cây thì thầm vào tai tôi dịch lại tiếng kinh rằng: Bà Điệp bảo "đây là cây ngải yêu tao trồng đã lâu lắm rồi. Có mua không thì tao hái”.

Vẫn với bộ mặt nhàu nát của kẻ thất tình, tôi bảo với Bới rằng không có nhiều tiền để mua. Vậy xin một lá làm bùa liệu bà Điệp có cho không? Và nếu mua thì bao nhiêu tiền? Như hiểu được ý tôi, Bới nói với bà Điệp rằng tôi là thằng người Kinh nghèo kiết xác, đã bị người yêu lừa phỉnh lấy hết tiền mong bà giúp.

Suy nghĩ hồi lâu, bà Điệp gật đầu, nhìn thẳng vào tôi và xổ một tràng tiếng Cơ Tu, mà theo phiên dịch của Bới rằng: Để có được thứ lá cây này, mày phải trả cho tao một con heo hết lớn (khoảng 1 tạ thịt), tao mới cho thứ bùa yêu này. Nhưng thấy mày tội nghiệp, tao giúp mày. Nhưng mày phải trả hai con gà trống để tao cúng thần. Nếu không cúng thì bùa không hiệu nghiệm.

Tôi gật đầu đồng ý. Nhưng xin bà giúp chỉ cho cách sử dụng thứ ngải yêu này. Bà Điệp cẩn thận đưa lưỡi rựa ngọt sắc cắt một lá đưa cho tôi. Cầm chiếc lá ngải yêu, tự dưng tôi có cảm giác sờ sợ khi nhìn nét mặt kỳ dị của bà Điệp nhìn thẳng vào mình. 

Và tuy chưa tin lắm, nhưng trong tôi vẫn có cảm giác lo sợ mơ hồ rằng, biết đâu thứ cây lá bí mật kia và những điều linh thiêng của chuyện bùa ngải có thể vận vào chính mình...

Huyền hoặc bùa yêu

Theo lời kể của bà Điệp qua phiên dịch của Bới, loại lá cây mà tôi đang cầm trên tay có tên là Ameer, cùng giống họ với loại cây nghệ, cây gừng. Thời con gái, vì chuyện tình duyên lỡ làng của mình, bà bỏ cả một thời gian dài cất công đi tìm loại cây này tận các bản làng của bà con ở bản Kà Lùm bên đất Lào. Rồi sau đó đem về trồng bí mật ở khu rừng này.

Phải mất một hồi năn nỉ, bà mới kể cho tôi nghe chuyện tình duyên trắc trở của mình cũng như hiệu nghiệm của thứ lá cây mà bà vừa trao cho tôi để tìm lại người yêu. Bà kể rằng, nhờ loại cây này mà bà đã cưới đuợc chồng. 

Bà thì thầm: “Lúc đầu hắn (chồng bà) không thương tao. Nhưng tao quá yêu hắn, chờ cho cây mọc phải qua mấy mùa trăng, lợi dụng hắn say, tao đã bứt lá cây này về để trên đầu nằm của hắn. Thế là từ không thương tao, mấy ngày sau nó tìm đến nhà và bảo thương tao. Nhưng phải bí mật vì nếu hắn biết sẽ mất tác dụng và thù ghét mình. Chính nhờ cây ngải này mà tao đã bắt hắn làm chồng…”.

Có được lá ngải yêu trong tay, tôi cố nài nỉ bà Điệp cho tôi xin giống cây này đem về trồng ở vườn nhà. Bà Điệp lắc đầu bảo không được. Bởi, “Dưới mày làm gì còn rừng nữa mà trồng loại cây này…”. Bà Điệp cũng bảo rằng, để trao giống cây này cho người khác phải làm lễ cúng thần. Lễ cúng phải mất nhiều trâu, heo, gà và phải chọn người tin tưởng là phụ nữ mới trao được. Còn đàn ông thì…không bao giờ.

Tôi hỏi bà đã chọn được người tin tưởng để trao loại cây ngải yêu này chưa? Bà lắc đầu không trả lời. Nhưng bà đưa cặp mắt già nua đục ngầu nhìn Bới một cách tin tưởng. Tôi hiểu rằng, bà đã chọn lựa rồi, sớm muộn gì bà cũng trao loại cây ngải yêu này cho một cô gái như Bới, khi tuổi bà đã gần đất xa trời về với núi rừng.

Trở về đến làng, tôi xin bà cho ở lại một đêm để bà chỉ dạy cho cách làm ngải yêu và nghe bà kể chuyện về thứ bùa phép này. 

Trong câu chuyện đêm miền rừng, bên bếp lửa trong căn nhà sàn tối om nằm lọt thỏm giữa đại ngàn, bà Điệp kể lại rằng: Ngoài việc dùng lá Ameer để bắt chồng cho riêng mình, sau này bà Điệp còn cho thứ bùa yêu này rất nhiều người.

Đó là những người lạ, bà không biết tên, nhưng thỉnh thoảng họ đã trở lại tìm bà, tạ ơn và tặng quà cho bà khi thì bằng tiền, lúc thì tấm thổ cẩm.

Chính đứa con gái của bà không mấy nhan sắc, cục mịch nhưng nhờ thứ lá cây kỳ bí này mà bắt được chồng trẻ, khoẻ mạnh. 

Bà dặn tôi rằng, khi đem lá cây này về, dùng tay chà nát rồi lén bỏ vào túi quần áo, dưới chỗ nằm, hoặc xát lên người mà mình thích, lập tức người đó "phải yêu mình".

Bà thì thầm vào tai tôi bằng thứ tiếng Cơ Tu, tôi không hiểu được, cũng may nhờ Bới hỏi lại và phiên dịch giúp lời bà dặn rằng: "Để bùa có linh nghiệm, mỗi năm phải làm một lần để bùa không bị phai và sử dụng thứ bùa ngải này phải hết sức cẩn thận. Nếu dùng không đúng người, ngay người thân của mình dính vào cũng sẽ phát huy tác dụng (cũng yêu mình) thì thật là xằng bậy".

Trên đường về, tôi cố định hướng để ghi nhớ chỗ mô đất và khu rừng thâm u đang có cây ngải yêu của bà Điệp trồng từ mấy chục năm trước, nhưng vẫn không tài nào nhớ nổi. 

Một phần vì đường rừng âm u, mặt khác, bước chân trần của bà Điệp cứ thôi thúc như muốn xóa dấu vết để mãi mãi thứ báu vật của rừng này chỉ dành cho riêng bà. Mặc dù, tôi là người đầu tiên bà đồng ý đưa vào rừng để tìm thứ bùa yêu mãi mãi là điều bí mật đối với thế giới phụ nữ miền rừng.

Gần một tuần rong ruổi qua những cung rừng miền tây đất Quảng, đến từng bản làng của người Xê Đăng, Tà Riềng, Cơ Tu …sinh sống dọc theo dãy trường sơn sát vùng biên giới Việt-Lào thuộc địa bàn hai huyện Nam Giang và Tây Giang, Quảng Nam, tôi đã nghe kể nhiều câu chuyện miền rừng về những chuyện bùa ngải, phép thuật của bà con dân tộc vùng cao…

Ông Bhling Eng (xã Đội trưởng, xã Atiêng, Tây Giang) mời tôi về nhà và đã “chiêu đãi”  một đêm chuyện ma thuật của bùa ngãi mà chính người trong gia đình ông kể lại.

Bà A Lăng Hút, năm nay đã 90 tuổi, chị họ của ông Eng bảo với tôi rằng: “Làng này có nhiều người biết ngải lắm, nhưng không ai nói ra thôi. Ngải dùng để yêu, không hại người...”.

Lần theo câu chuyện của bà Hút, tôi bắt đầu gợi chuyện. Một chút suy nghĩ như cố lục tìm trong trí nhớ già nua tuổi tác, bà Hút bắt đầu kể chuyện đời mình. Bà bảo rằng nhờ bùa ngải nên bà mới có người thương và có tổng cộng 3 đời chồng với 10 đứa con, 14 đứa cháu nội ngoại.

Bà bắt người chồng đầu tiên năm 14 tuổi, sau 6 năm chung sống, người chồng thứ nhất qua đời khi bà mới 20 tuổi. Sau hai năm sống trong cảnh đơn chăn gối chiếc, bà Hút đã “để ý” một người cũng cùng cảnh ngộ đã chết vợ nhưng “ông ấy” có vẻ “lơ đễnh” lắm.

Sống trong cảnh đơn chiếc giữa núi rừng, bà Hút thèm hơi ấm của đàn ông trong ngôi nhà có bếp lửa, mỗi sáng dắt nhau lên rẫy, tối về cùng chung chăn gối bên bếp lửa. Nghĩ nhiều đến người đàn ông cùng cảnh ngộ, nhưng vẫn không được đáp trả, bà phải cậy nhờ đến cây ngải của già làng bên cạnh.

Chỉ một lần dính ngải của bà Hút, ông ấy đã phải lòng rồi về kết đôi với bà. Nhưng trớ trêu, hai người chỉ chung sống được mươi năm, rồi ông ấy lại bỏ bà mà "về với Yàng", để lại cho bà 3 mụn con. Lúc đó bà Hút gần ở tuổi 35, hương sắc cũng đã héo tàn.

Nhưng kỳ lạ thay, bà Hút cũng chỉ đơn chiếc trong vài năm sau khi mãn tang chồng. Trước mùa

phát rẫy năm bà Hút tròn 35 tuổi, người làng lại thấy một anh thanh niên chưa vợ, tuổi chỉ hai mươi, dáng người cao ráo, mạnh mẽ lại tình nguyện về làng chung sống với bà. Người làng đồn rằng, bà Hút lại dùng ngải để bắt chồng.

Nghe chuyện đến đây, ông Eng khó lòng giấu diếm mà tiết lộ rằng, mẹ ông cũng từng có ngải yêu. Theo tập quán, ngải yêu chỉ truyền cho nữ. Nhà ông không có con gái nên không được mẹ ông truyền lại cho ai.

Một câu chuyện khác cũng được rất nhiều người trong vùng biết. Ông Pơlong Zéc, vừa già lại xấu, còn nuôi mấy mụn con, goá vợ đã cưới được cô gái mới 18 tuổi tên Hốih Nhéet về làm vợ. Nghe nói, mới đầu cô này “lắc đầu không chịu” nhưng sau đó, không biết bằng cách nào Hốih Nhéet vẫn tìm thấy hạnh phúc bên người chồng lớn gấp đôi tuổi của mình.

Chuyện bùa ngải yêu được kể trong đêm miền rừng với bao huyền hoặc, nhưng khi tôi hỏi người kể có biết và thấy ngải yêu chưa thì tất cả đều lắc đầu bảo không biết. Người biết ngải chỉ có đàn bà con gái, còn đàn ông thì… không.

Vén bức màn bí mật bùa ngải

Theo thạc sỹ dân tộc học Nguyễn Tri Hùng, Phó Ban dân tộc - miền núi tỉnh Quảng Nam, người có hơn 20 năm nghiên cứu các dân tộc tại vùng miền núi Quảng Nam khẳng định rằng: Chuyện ngải yêu là có thật. Lâu nay đồng bào Cơ Tu, Xê Đăng, Bhnoong… còn có nhiều ngải với nhiều công dụng khác nhau. Sống giữa rừng núi thâm sâu, chuyện bùa ngải cứ như là phép màu, là sức mạnh của đồng bào.

Ngoài yếu tố tâm linh, nhiều loại bùa ngải còn có thể giải thích theo cách của khoa học. Nhiều phân tích khoa học chứng minh rằng, những cây bùa ngải mà người đồng bào thường dùng là những cây dược liệu sống trong rừng. Các cây này được bà con sử dụng, bào chế theo phương pháp bí truyền.  Vì không giải thích được bằng lý thuyết khoa học, đồng bào hiển nhiên xem đó là những cây thuốc của trời, của thần linh và của riêng họ. Giống như cây thuốc giấu của đồng bào Xê Đăng trên đỉnh Ngok Linh, mãi đến sau này cán bộ ngành y tế của Khu 5 nghiên cứu mới phát hiện là cây sâm Ngok Linh hay còn gọi là cây sâm K5 có công dụng chữa bách bệnh.

Có nhiều loại ngải khác nhau, nhưng chung qui lại có hai tác dụng là ngải dùng để cứu người hoặc hại người. Riêng chuyện bùa yêu, theo giải thích của ông Hùng, có lẽ loài cây Ameer cùng loại với cây gừng, cây nghệ này hẳn đã có chất kích thích tình dục. Có khi người ta say đắm nhau bởi mùi vị, hương liệu đã được kích thích. Hay chỉ là yếu tố tâm lý. “Nhưng đó chỉ là chất xúc tác ban đầu của hai người khác giới, còn về sau, có lẽ cuộc sống chung đụng hôn nhân gia đình, sợi dây “yêu” đã kết nối họ lại với nhau chứ chẳng là chuyện bùa ngải” – ông Hùng giải thích trên cơ sở khoa học về tâm lý.

Chung quanh chuyện bùa ngải, cũng có không ít chuyện rắc rối bởi nhiều người đã lợi dụng yếu tố tâm linh, ma thuật để trục lợi. Chuyện gần đây nhất, có một ông thầy cúng ở tận Trà Bồng (Quảng Ngãi), sau khi được người bà con mời ăn đám giỗ ở Tam Trà (Núi Thành), bỗng dưng đồn đại rằng một cán bộ xã Tam Trà là người có ngải khiến nhiều người địa phương khiếp vía rồi tin như thật. Và cũng từ niềm tin này, ông thầy cúng kia đã dở trò trục lợi bằng cách hù dọa rằng, bà con nào muốn thoát được chuyện bỏ ngải, cứ mời thầy về “yểm bùa” là xong.

Tất nhiên những chuyện như thế này cơ quan chức năng đã sớm phát hiện và kịp thời ngăn chặn. Và, cũng theo lời ông Hùng, không hiếm những vụ án ly kỳ liên quan đến chuyện bùa ngải đã được ngành chức năng giải quyết. Chỉ tiếc một điều, những loài thảo dược mà bà con sử dụng vào việc bùa ngải từ rất lâu, khoa học có thể phân tích được, nhưng đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào để giải mã, và biết đâu, loại thảo dược trên có giá trị cao vẫn mãi mãi là điều bí mật.

Rời làng Tà Vàng, cầm lá ngải thương ngải nhớ, tôi chợt rùng mình khi xuống núi, bởi trong tôi luôn bị ám ảnh bởi cái nhìn u ám và khuôn mặt dị tướng của bà Ria Thị Điệp khi vò nát thứ lá cây mà cả đời bà lặng lẽ giữ gìn như một báu vật, và là thứ vũ khí lợi hại của người phụ nữ vùng cao này. 

Lạc lối trong rừng U Minh Hạ

Bền sức bơi 10 hải lý, lúc trời hửng đông cũng là lúc tôi vào được đất liền. Nhưng vừa đặt chân lên bờ chưa ráo nước, tiếng máy bay địch rà soát đã réo ù bên tai… Tôi nhanh chóng trườn ra khỏi mặt nước, thực hiện phương án tối ưu là tìm nấp trong một gốc cây to gần bờ bởi “tài sản chiến đấu” lúc ấy chỉ có mỗi khẩu súng AK và 30 viên đạn lại đơn thương độc mã. Tiếng loa gọi hàng của địch cứ lải nhải liên tục: “Hỡi chiến binh cộng sản Bắc Việt, các bạn đã bị bao vây. Hãy mau mau trở về với chính nghĩa quốc gia để được vợ đẹp con khôn, cơm no áo ấm…”. Gốc cây nơi tôi trú ẩn thỉnh thoảng lại rung lên, từng mảnh vỏ cây bị tung ra bởi đạn từ máy bay. Trong suốt một ngày trời, tôi quay cuồng với hơi cay, chất độc hóa học mù mịt mà địch rải xuống. Cửa sông bị bao vây bởi hai trung đoàn lính địch. Bờ biển thì bị chặn đứng bởi một trung đội người nhái đang rà soát. Tôi kẹt cứng, không thể di chuyển xa hơn bán kính 100m.

Chập tối 12-4-1971, không còn nghe tiếng máy bay, tôi đứng dậy men theo đường bờ biển lần tìm dấu vết cơ sở thì giật mình phát hiện thấy gần chục tên lính ngụy đang mắc võng. Biết chúng đã nghe tiếng động, tôi liền nổ súng. Sau một loạt đạn, hai tên lính nằm im trên võng, chắc đã trúng đạn. Bảy tên còn lại chĩa súng vào phía tôi bắn điên loạn rồi chửi rủa: “Nếu bắt được tên cộng sản sẽ xé xác từng mảnh”. Súng hết đạn, vừa may trời chuyển tối mịt khiến địch bị mất dấu. Bị thương ở lưng, tôi khó nhọc đi ngược lên xuyên sâu vào rừng, đi thâu đêm suốt sáng với niềm hy vọng mong manh có một cơ hội sống. Rừng nước mặn U Minh Hạ toàn cây đước, mắm, vẹc, dà… lạ lẫm. Muỗi nhiều quá! Tôi vừa đi vừa phải bẻ cành cây đuổi muỗi, có lúc phải nằm xuống tự đắp bùn chôn mình còn hở mỗi hai con mắt, hai bàn tay để tránh muỗi. Rồi đói liệt! “Nếu không gặp người cơ sở thì mình chết đói” - một ý nghĩ vang vọng trong đầu tôi. Đến lúc đói quá không chịu được nữa, tôi nhanh tay bắt một con cua, bóc mu, rửa qua nước mặn rồi nhai ngấu nghiến mà không còn biết tanh hôi là gì. Không ngờ sau khi ăn được một chút vào bụng tự nhiên mắt sáng hẳn ra, người khỏe hẳn lên. Tôi lại thêm niềm tin và tiếp tục đi. Đến một bãi tử địa thấy toàn biển báo vẽ hình đầu lâu, lúc đó tôi còn lạ lẫm với xứ Nam Bộ này nên không biết đó là vị trí du kích gài chông, lựu đạn, lòng cũng e ngại nhưng đôi chân vẫn tiến bước.

Lăn lộn suốt một ngày hai đêm, có lúc mọi niềm tin như tắt ngấm nhưng một lần nữa hy vọng lại được thắp lên khi xuất hiện ánh đèn dầu vặn nhỏ thấp thoáng trước mắt. Niềm vui pha lẫn băn khoăn, cuối cùng tôi quyết định trườn vào gần nhà quan sát thì thấy có 6 người trung tuổi mặc áo bà ba, quấn khăn rằn đang nói chuyện. Tôi đứng phắt dậy, không có đạn nhưng tay vẫn cầm súng như muốn nổ cò. Mọi người trong nhà hốt hoảng. Sau đối thoại, hai bên trao đổi mật khẩu thì biết là quân ta. Vậy là tôi được cứu sống. Sau 9 tháng không có tàu ngoài Bắc vào, tôi được chuyển sang chiến đấu tại Trung đoàn 962 đến năm 1976. 22 đồng chí đi trên Tàu C69 từ đó đến nay không gặp lại.”

Câu rắn đêm giữa rừng U Minh

Đối với mỗi chúng ta, mảnh đất Cà Mau – “ngón chân cái chưa khô bùn” của Tổ quốc luôn có một sức cuốn hút kỳ lạ. Đó là tiếng gọi của những rừng đước, rừng tràm, những vườn cò, vườn chim và của thiên nhiên kỳ bí. Và nếu có một lần đến U Minh, những người yêu phiêu lưu mạo hiểm sẽ không bỏ qua cơ hội đi câu rắn đêm.

Trước buổi câu rắn, người ta cũng chuẩn bị mồi câu như khi câu cá. Tất nhiên, mồi câu rắn không đơn giản là giun dế hay nhộng ong, bởi rắn là loài thông minh, chúng không dễ bị lừa bằng vài con mồi “tẹp nhẹp” ấy. Chiều trước buổi câu, vài chú bé con đã quen với con nước U Minh được cắt cử đi bắt mồi. Chỉ bơi xuồng dọc theo mé nước một lát là chúng đã tóm được cả chục con cá ăn tạp be bé bằng ngón chân cái. Đó thường là những con cá thòi lòi - một giống cá tinh nghịch với cặp mắt ốc nhồi luôn giương to nhìn xung quanh. Sau khi đã có một khoản kha khá, mấy đứa choai choai bắt đầu nhen lửa để nướng mồi. Cá tươi thì không có sức hấp dẫn với lũ rắn tinh quái nên phải nướng cho dậy mùi. Trước khi cho vào xiên nướng, họng cá bị banh ra để nhét vào một quả ớt hiểm - loại ớt rất cay, đúng như cái tên của nó. Khi nào những con thòi lòi há ngoác miệng, lưng vểnh cong trên than hồng là khoản mồi câu đã hoàn thành.

Tiếp đến là lưỡi câu. Rắn sống trong rừng U Minh có sức khoẻ ngang với một con trăn trưởng thành, vì thế lưỡi câu phải làm từ bốn mươi đến năm mươi sợi dây gai rời móc vào nhau bằng những chiếc gai sắc nhọn. Khi con rắn sa bẫy, những sợi gai sẽ quấn chặt lấy và làm con rắn mất sức. Con rắn càng vùng vẫy thì những sợi gai càng săn, càng rối và càng siết chặt quanh mình con rắn.Buổi chiều hôm đi câu, giữa mênh mang sông nước Cà Mau, người thợ câu ăn cơm thật no cho chắc dạ để có sức thức đêm “chiến đấu” với rắn.

Khi mặt trời ủ rũ đi vào những đám mây đặc, người ta chèo xuồng theo con lạch nhỏ đi sâu vào rừng. Rừng thăm thẳm, kỳ bí, chỉ còn lóc bóc tiếng khua chèo, tiếng cá đớp mồi, tiếng gió vi vu và cả tiếng muỗi vo ve. Khi xuồng tới chỗ câu, người ta bắt đầu đặt mồi, cái móc được luồn sâu vào bên trong con mồi chỉ chừa đuôi cho con rắn dễ nhầm. Mồi được đặt cách mặt nước chừng nửa gang tay, đặt mồi như vậy là để cá lóc không nhảy lên ăn mất.

Giữa âm u, điệp trùng của rừng dừa, rừng đước, ánh đèn của thành phố như là một ký ức xa xôi. Những rễ cây rừng nhô lên trong ánh đèn lờ mờ, tiếng đàn cá nào đó bơi sủi tăm trên mặt nước… bản hoà tấu rừng sâu như muốn hù doạ những người yếu bóng vía. Một lát, nghe có tiếng “nhóp” đớp mồi, thế là một con rắn đã cắn câu. Đó là một con rắn rằn ri rất lớn. Nó đang cố vùng vẫy trong đám sợi gai, càng cố thoát thì càng rối. Một người ra túm con rắn cho vào giỏ, nó còn quấn chặt lấy tay người để tìm lối thoát cuối cùng, nhưng bị răng người cắn vào đuôi, con rắn vội buông ra rồi bị ném vào trong giỏ. Những người đi câu rắn lâu năm cho biết đuôi chính là điểm yếu của rắn rằn ri, nên nếu bị nó quấn cứ cắn nhẹ vào đuôi là nó sẽ buông ra ngay. Một đêm đi câu, may mắn thì được nhiều, nhưng cũng có khi mang giỏ về không. Thành quả này được người ta đem bán để ngâm rượu hoặc chế biến thành món đặc sản trong các nhà hàng.

Những ai đã từng theo chân người dân U Minh đi câu rắn đêm chắc hẳn sẽ nhớ câu nói của những người dân chài: “Cho những người đã bỏ mình và sẽ bỏ mình nơi biển cả”. Những cư dân của rừng U Minh cũng thế, họ dũng cảm đối mặt với những hiểm nguy bằng một thái độ bình thản khiến người khác phải khâm phục.

Ven rừng U Minh thuở trước

Ven rừng U Minh thuở trước 0/10 . 0 đánh giá.

Ngày đăng: 27/12/2011 - Lượt xem: 34

Người ta nói ở Cạnh Đề: “Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh”, chớ vùng này, những năm đầu mới khai rừng thì người ta hay hát đưa em như vầy: ” Ở đâu bằng xứ Lung Tràm, chim kêu như hát bội, cá lội vàng như mắm nêm”.

Mỗi buổi sáng, giấc hừng đông, lúc đài Hà Nội báo thức thì lũ giang sen, chàng bè, gà dãy, lông ô, khoan cổ, chàng bè… ra tập “thể dục” rần rần. Con nhỏ đứng trước, con lớn đứng sau chẳng khác nào cuộc duyệt quân, thiên binh vạn mã. Loại trích cồ tuy nhỏ con nhưng làm “thầu hồ” nháy nháy cặp mắt màu ve chai, niểng cái đầu có mồng đỏ chót, là “tò le tét le”. Vợ chồng nhà quạ nghe vậy, từ trong cũng vội vã bay ra “dạ” rân. Đám vạc ăn đêm về ngủ nướng ở những bụi rậm, giật mình thức giấc, “nhảy mũi” hạt hạt. Trong vườn “đội nhạc công” chìa vôi thổi gió véo von. Dòng họ nhà chim bắt muỗi cũng gõ đầu hòa tấu “toang toang”. Đấy chú cưỡng bông đậu chót vót trên cành cao lé mắt “thổi kèn Tây”; chị em tu hú thấy hừng đông, chạnh lòng nhớ quê cất tiếng kêu não nuột. Ngoài mé ruộng nhà, anh chàng nghịch dầm mưa long óc mấy ngày cứ gù lưng “nhảy mũi khìn khịt”. Tội nghiệp cho bác mỏ nhác, ăn chi mà đau bụng rên “tằng yết, tằng yết” sáng đêm. Trời vừa tảng sáng, cậu rắn hổ đất đã thổi bể phù phù cho anh chim trảo chẹt “rèn” những cây phản gỗ nghe choảng choảng…

Ở ven rừng U Minh thưở ấy, vào những buổi sáng thật vui vẽ rộn rã làm sao! Ai đi làm đồng trước đó cũng phải nán lại ít nhất ít phút để nghe bản “nhạc rừng hòa tấu”.

Lũ chim chóc ngày đó dạn khì, chúng sống lẫn lộn với bầy gia súc. Chàng bè rề rề theo đổ trống vịt xiêm, vịt đẻ… khi trứng nở ra con nào con nấy cái mỏ nhọn thon như mũi kéo. Vịt ta đi đạp mái giang sen, làm con cái giang sen chân lùn tịt, con nào cũng có giọng kêu “cạp cạp”. Lạ đời nhất là loại cúm núm, chúng sống chung lộn với gà nhà, lâu ngày cúm núm ngoài đồng, con trống nào cũng có hai cái cựa nhọn lểu. Còn gà trống trong nhà thì đêm đêm cất tiếng gáy vang : “Ò ó o… cúm ! Ò ó o… cúm!”.

U Minh - huyền thoại đã xa

Chủ Nhật, 2.1.2011 | 07:00 (GMT + 7)

Có quá nhiều huyền thoại  nơi “sơn cùng thuỷ tận” U Minh. Điều rất lạ, huyền thoại nào cũng đẹp, cũng hào hùng, minh chứng cho vùng đất oanh liệt, cuộc sống đầy bất trắc, nhưng thiên nhiên bao giờ cũng đùm bọc con người vượt qua muôn vàn gian khó.

Tôi trở lại U Minh ngập tràn huyền thoại và chợt nao lòng nhận ra, dù được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, nhưng đất này còn đầy rẫy khó khăn.

Chập chờn huyền thoại

Năm nay mưa muộn. Gần hết năm mà những hạt mưa yếu ớt vẫn lướt trên ngọn tràm xào xạc. Có lẽ trời đất đã làm nên một bận nắng nóng kéo dài từ năm trước nên năm nay bù đắp lại. Những hạt mưa như sương, như khói rải đều trên cây lá U Minh Hạ. Huyền thoại cũng nương theo gió bay về...

Rằng cách đây lâu lắm, nơi đây là chốn rừng thiêng nước độc, cây cối um tùm, đầy thú dữ. Những người lớn tuổi kể rằng, rừng U Minh rắn nhiều vô kể. Có con đến cả trăm ký. Những bận cháy rừng, rắn rùa cùng với muôn thú chạy ra bìa rừng tìm nơi ẩn náu. Người dân chẳng dám đi bắt vì sợ chúng làm càn. Trong làn sương mỏng manh ấy, anh thợ săn đã giải nghệ Võ Văn Vinh mắt dõi theo cánh rừng nhớ lại: “Tôi vào rừng từ 12 tuổi. Đây là nghề cha truyền con nối. Từ trước đến giờ không nhớ đã hạ bao nhiêu con heo rừng, nai, rắn, rùa, trăn... Ngày trước, heo rừng nơi đây nhiều lắm. Đi sâu vào rừng tràm là gặp ngay. Có ngày tôi hạ đến 2 con”.

Vinh nổi tiếng “liều mạng” ở cánh rừng này. Thường đi săn thú phải có bạn, còn Vinh thì không. Một mình anh cùng với cây mác và chiếc balô xuyên dưới tán rừng tràm đầy dây leo và bất trắc. Trong những chuyến đi rừng, anh đã từng gặp rắn hổ mây dài đến 20m, bò qua con mương đầu bên kia đuôi còn tận bên này. Kinh nghiệm đi rừng cho anh biết chẳng dại gì đụng chạm đến “thần rắn” U Minh. Hễ nghe phảng phất mùi tanh thì băng qua hướng khác mà đi. Anh bảo: “Mình đừng đụng chạm đến miếng ăn của “thần” thì “thần” cũng chẳng động chạm đến mình”.

Đó là những lần anh em kiểm lâm làm việc tại Vườn quốc gia Vồ Dơi đóng chốt sâu trong rừng vào những ngày nắng hạn, nước trên các kênh rạch khô. Chập choạng tối, muỗi kêu rào rào như mưa, anh em phải vội vào mùng. Cũng lạ, muỗi chỉ dậy lên vào chập tối rồi thôi. Anh Nguyễn Chí Linh còn nhớ như in vào năm 1992, anh em đi tuần như mọi khi phải hoảng hồn tháo chạy vì gặp phải con rắn hổ mây bò chắn ngang lối đi. Lúc đầu tưởng cây đổ, nhưng khi nhìn kỹ lại thấy nó nhúc nhích. Anh em hô to “rắn, rắn” rồi cắm đầu bỏ chạy về chòi canh. Chưa có ai đo được rắn hổ mây dài bao nhiêu, cũng như chẳng ai dám bắt nó để cân bao nhiêu ký, nhưng theo tính toán của những người từng gặp phải gần cả 100 ký.

Gần đây thôi, vào đầu năm 2010, những cán bộ của vườn quốc gia U Minh Hạ phát hiện một con rắn lớn di chuyển từ cánh rừng phía tây sang cánh rừng phía đông, băng ngang con lộ nhựa từ trụ sở vườn quốc gia về đài quan sát. Anh Nguyễn Văn Hoà kể: “Tôi chạy xe máy gần đến đài quan sát, thì phát hiện phía trước có một khối to, đen chắn ngang di chuyển từ từ. Tôi tá hỏa tam tinh. Đứng chết trân vài phút mới định thần lại quan sát. Khoảng 15 phút, con rắn mới bò qua hết”. Anh nhận định: “Chắc nó chuẩn bị lột da nên di chuyển rất chậm. Tiếc là không đem máy ảnh theo nên không ghi hình lại được”.

Trong hai cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, chính rừng U Minh chở che cho cán bộ, chiến sĩ hoạt động cách mạng. Những cơ sở sản xuất vũ khí, những lán trại quân y vẫn còn nằm rải rác dưới tán rừng hùng vĩ này. Giặc Mỹ đã nhiều phen “nhổ cỏ” rừng U Minh, nhưng chính những thảm thực - động vật nơi đây dang bàn tay huyền thoại chở che bom đạn. Và vì vậy, sau cuộc chiến, U Minh cũng thương tích đầy mình, dẫu chẳng được ai phong... thương binh.

Trăm năm còn lại chút này

Sau chiến tranh, rừng lại hồi sinh, xanh tươi trở lại. Nhưng mảnh đất rừng thiêng nước độc này dường như chưa hết những nỗi đau. Đó là những lần cháy lớn rừng tràm. U Minh Thượng, rồi U Minh Hạ lần lượt bị ngọn lửa hung tàn cướp đi hàng trăm hécta rừng nguyên sinh. Muông thú trong rừng tan tác theo từng làn khói trắng mịt mùng. Theo thống kê của 2 tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, những đợt cháy đã cướp đi trên 50.000ha rừng tràm. Tuy nhiên, sau những lần “bà hỏa” lấy đi đáng kể những cây tràm, nhiều vùng đất đã kịp hồi sinh trở lại. Dù vậy những cánh rừng nguyên sinh còn lại không nhiều. Hiện tại cả cánh rừng tràm (U Minh Hạ và U Minh Thượng) còn lại đúng 2.593ha  rừng tràm nguyên sinh trên đất than bùn.

Ông Nguyễn Văn Thế - Giám đốc Vườn quốc gia U Minh Hạ - giải thích rõ về cái khoản diện tích chưa đến 3.000ha này: “Thật ra toàn vườn quốc gia có đến 25.000ha vùng đệm. 8.257ha là diện tích của vườn nằm trên địa bàn các xã Khánh Lâm, Khánh An thuộc huyện U Minh và các xã Khánh Bình Tây Bắc, Trần Hợi thuộc huyện Trần Văn Thời. Diện tích này được chia ra làm 3 phân khu chính, gồm phân khu bảo tồn hệ sinh thái rừng trên đất than bùn 2.593ha, phân khu phục hồi và sử dụng bền vững hệ sinh thái rừng ngập nước 5.134ha và phân khu dịch vụ hành chính với diện tích 801ha”.

Ông Thế khẳng định: “Hệ sinh thái rừng tràm trên cả nước, duy nhất chỉ còn lại tại Cà Mau khoảng 3.000ha là chưa bị tác động. Nơi đây có nhiều hệ thực vật, động vật với nhiều cá thể quý hiếm có tên trong sách đỏ. Điều khá lạ là nhiều năm nay, nơi đây không xảy ra vụ cháy rừng nào. Trong khi đó, phía dưới là đất than bùn có giá trị nghiên cứu khoa học rất cao”.

Điều tra của các nhà lâm sinh cho thấy, rừng U Minh Hạ có 32 loài thú, 74 loài chim, 36 loài bò sát, 11 loài lưỡng cư; 79 loài thực vật thuộc 65 chi, 36 họ, trong đó có 11 loại gỗ có giá trị kinh tế cao. Những con số ấy chưa nói lên được hết những kỳ vĩ của U Minh Hạ với nhiều huyền thoại. Là người gắn bó với cánh rừng nhiều năm, anh Nguyễn Tấn Truyền - cán bộ Phòng Kỹ thuật của Vườn quốc gia U Minh Hạ - thuộc làu từng nhóm nhỏ động - thực vật.

Anh bảo tôi: “Con số động - thực vật anh được nghe đã được thống kê từ năm 1983. Hiện nay có thể nhiều hơn. Tại đây, tôi đã từng gặp những căn nhà nai khá lớn, bắt gặp những cây tràm cổ thụ dang tay ôm không hết. Tuy nhiên, điều khá lý thú là chúng tôi gặp cả những cơ sở hoạt động cách mạng trước đây trong cánh rừng nguyên sinh này. Anh em đào lên còn thấy băng gạc nguyên vẹn, chứng tỏ đây là nơi làm quân y”. Ngay như bộ sưu tập bướm của anh cũng làm tôi giật mình. Có đến gần 100 loài bướm được anh cất công bắt về nghiên cứu.

Đứng trên đài quan sát, anh chỉ tay ra phía rừng giải thích nơi đâu có nhiều nai, nhiều tràm cổ thụ, nơi nào rắn nhiều, heo rừng trú ẩn, khỉ khọt nhiều. Anh say sưa kể về những chuyến đi rừng cùng với các anh em đóng chốt phòng cháy. Những chuyến đi lấy mật ong rừng tràm. Anh chặc lưỡi: “Người ta đổ cho cánh thợ ăn ong đốt lửa khi lấy mật làm cháy rừng, nhưng tôi có cách lấy mật không cần lửa khói gì cả. Nếu như được quản lý tốt, những người gác kèo ong làm chuyện gác kèo thôi, còn những người chuyên lấy mật thì cho họ lấy sẽ hạn chế được người vào rừng và khi lấy mật có kiểm soát thì mật ong không phải là nguy cơ dẫn đến cháy rừng”. Tôi nghĩ, giá như anh làm hướng dẫn viên du lịch thì tốt biết mấy. Và giật mình nhận ra du lịch nơi đây vẫn còn xa lắm.

Vắt kiệt rừng U Minh

Thứ Năm, 21/09/2006 22:52

Hàng trăm năm qua, biết bao người đã sống nhờ những sản vật do rừng tràm U Minh ban tặng. Nhưng càng ngày con người càng lạm sát tàn bạo cây rừng và tài nguyên dưới tán rừng. Rừng vàng U Minh đang bị “hút máu” đến cạn kiệt

Xung quanh khu vực rừng đệm của Vườn Quốc gia (VQG) U Minh Thượng và U Minh Hạ có hơn 8.500 hộ dân sinh sống, với danh chánh ngôn thuận là nhận khoán đất rừng để canh tác. Những hộ này đều nghèo rơi nghèo rớt.

Không vào rừng kiếm ăn mới lạ!

Từ trụ sở Ban Quản lý VQG U Minh Thượng, tôi chạy xe gắn máy vô con đường nhựa ngăn cách vùng đệm và vùng rừng cấm. Ở U Minh Thượng, trên vùng đệm rộng 13.021 ha có hơn 3.500 gia đình nghèo. Mỗi hộ nhận khoán 4 ha đất, trong đó 1 ha chuyên trồng tràm và 3 ha trồng lúa, nuôi cá.

Tôi ghé UBND xã Minh Thuận, huyện Vĩnh Thuận - Kiên Giang. Dương Quốc Khởi, phó bí thư đảng ủy, cho biết Minh Thuận có 3 ấp nằm trong vùng đệm với hơn 500 hộ. “Ba ấp này không điện, không đường, không nước sạch, dân đều nghèo khó, không vào rừng kiếm cái ăn mới là sự lạ”- Khởi nói. Tôi thắc mắc: “Báo cáo của ngành nông nghiệp nói dân vùng đệm trồng lúa kết hợp nuôi cá, trồng rừng, làm rẫy, một năm thu nhập mấy chục triệu đồng?”. Khởi cười héo hắt: “Chỉ vài hộ có vốn đầu tư mới làm được như vậy”.

Hiện dân vùng đệm trồng lúa, mía, khóm... nhưng sống rất bấp bênh. Vùng đệm VQG U Minh Hạ có hơn 5.000 hộ dân nghèo từ khắp nơi tụ về kiếm sống, mỗi hộ được giao khoán 5-7 ha đất. Tôi đến một xóm khoảng 20 nóc nhà trong VQG U Minh Hạ. Hơn 20 hộ dân này nhận khoán mỗi hộ 7 ha đất trồng rừng, làm ruộng nhưng hằng ngày chỉ vào rừng kiếm món gì bán kiếm tiền chạy gạo ăn từng bữa, ruộng bỏ hoang mấy năm nay. Tôi đi nhiều nơi, ở đâu cũng thấy dân vùng đệm đều nghèo rớt mồng tơi...

Đụng gì “ăn” nấy

Chỉ cho tôi xem những đoàn người chen chân vào rừng, một lãnh đạo xã Minh Thuận nói: “Dân nghèo càn vô rừng, gặp thứ gì kiếm tiền được họ cũng “ăn” hết”. Trong nhà không có hạt gạo, con cái đói nheo nhóc thì ông có gan ngồi im dòm con cá, con rùa lội ngang trước mắt hay không?”- Danh Được, một “lâm tặc” ở ấp Khuân, xã Minh Thuận, rầu rầu hỏi tôi.

“Lâm tặc” U Minh bây giờ ai “yếu tay nghề” lắm mới vào rừng đốn tràm vì cực nhọc, bán ít tiền, lại dễ bị kiểm lâm bắt. “Lâm tặc” hiện khoái nhất là bắt cá, trăn, trút (tê tê) và lấy mật ong. Với vài tay lưới bén, nếu làm ăn trót lọt, mỗi đêm một người có thể kiếm được khoảng 10 - 20 kg cá, bán được tiền triệu. Đặc biệt, nếu bắt được trút thì coi như trúng mánh lớn, vì giá thu mua của các đầu nậu tại chỗ lên đến 650.000 đồng- 700.000 đồng/kg. Ông Ba Sít, một người chuyên “ăn” ong mật ở rừng U Minh Hạ, cho rằng lấy mật ong là nhàn hạ nhất. Cứ mỗi sáng, ông lại tìm cách luồn rừng. Gặp ổ ong mật hay ong ruồi, ông Ba Sít đều không tha. Trong một buổi sáng, ông Ba Sít có thể thu được khoảng 15 - 20 lít mật ong. Chỉ cần đưa ra được tới bìa rừng thì lập tức có người thu mua toàn bộ với giá 25.000 đồng - 30.000 đồng/lít.

Theo Hạt Kiểm lâm VQG U Minh Thượng, kiểm lâm với “lâm tặc” đều nhẵn mặt nhau. “Tụi tôi phạt tiền, thậm chí đưa đi cưỡng bức lao động hoặc chuyển sang cơ quan điều tra khởi tố, nhưng không ăn thua” - Phan Thanh Nhã, đội phó đội kiểm tra cơ động, nói. Ông Nguyễn Văn Thế, quyền Giám đốc VQG U Minh Hạ, băn khoăn: “Không làm sao tránh khỏi chuyện dân vùng đệm xâm nhập vào rừng kiếm ăn. Chung quy cũng tại dân nghèo quá. Cho nên cần những giải pháp căn cơ thay đổi cuộc sống của họ chứ không nên chăm chăm bắt bớ, xử phạt”.

Đặt Trúm Rừng U Minh

Dưới làn nước đỏ đặc biệt của U Minh là những bầy cá táp mồi, ăn mống nghe như có kẻ quẫy nước nhát ma người lạ. Tay lưới  kéo lên khiến tôi sững sờ, gồm ba con rắn ri tượng to bằng bắp tay và vô số cá rô, lóc, trê, sặt bổi…

Đang là mùa nước lụt, rắn hổ đất bò lên các thềm đìa, gò đất lúc nhúc. Lời khuyến cáo của Ban chỉ huy cho những người mới đến là: ngủ phải chèn chân mùng cho kỹ. Đã thế mà một thanh niên xung phong khi ngủ thức dậy giũ mền còn lọt ra một con rắn hổ.

Nhà Chín Đẹt là một căn nhà lá nằm ven sông Biện Nhị – một con sông đỏ chẻ giữa ruột U Minh. Sau hậu đất nhà là nơi tiếp giáp với rừng tràm.

Đó là một cánh rừng nguyên sinh, cây tràm to và dày đặc, chúng thẳng thóm như đũa vắt trong ống. Hôm tôi đến nhà cũng là lúc Chín Đẹt chống chiếc xuồng ba lá từ cánh đồng năn xanh rì ven rừng tràm về. Trên xuồng chất đầy những ống trúm. Anh cười: “Chiều mình đi nghen!”.

Chiều mưa lâm thâm, rừng chuyển màu đen sạm. Chín Đẹt chống xuồng chở tôi vào cánh đồng năn ven rừng tràm. Thỉnh thoảng, anh dừng xuồng lại rồi nhảy xuống đồng năn dọn dẹp một khoảng trống, sau đó lấy mồi lươn được gói như chiếc bánh lá dừa bỏ vào ống trúm và đặt xuống.

Đặt hơn một tiếng đồng hồ thì xong. Chúng tôi cắm xuồng trên cánh đồng năn, muỗi bay như trấu. Chín Đẹt đốt con cúi xua muỗi, thảy cho tôi một chiếc nóp, rồi bảo: “Chú chui vô nóp đi, không muỗi nó lôi chú vô rừng U Minh bây giờ!”.

Âm thanh của đêm U Minh thật lạ và buồn, tiếng rừng lao xao pha lẫn với tiếng vo ve của muỗi. Chín Đẹt giải thích: “Lươn là thứ sống trong đất bùn, con mắt không nhìn thấy. Thế nhưng người có kinh nghiệm đặt trúm thì giống như nhà ngoại cảm, cảm được chỗ nào có lươn.

Nếu chiều đó mà trời gầm, đêm có mưa to thì phải đưa trúm lên các gò cao mà đặt, bởi lươn có thói quen theo nước lên những vùng đất mới tìm “của lạ”. Nước ở rừng U Minh vốn tĩnh lặng, phải đặt miệng trúm xuôi theo chiều gió để hương thơm của gói mồi trong trúm lan rộng ra mà khuyến dụ lươn chui vào”.

Bí quyết có tính chất thành bại của một đêm đặt trúm còn phụ thuộc vào mồi dụ lươn. “Tay ngang” thì dùng cá sặt, cá lòng tong,… bằm nhỏ, xào cho thơm lên. Tay khá hơn thì bỏ vào một ít dầu cá. Đặc biệt có những tay chuyên nghiệp đặt trúm cả đời chẳng cần xài mồi cá mà dùng thuốc.

Ở kinh Năm Đất Sét có ông Năm Đơn, ổng chết rồi, bị rắn hổ cắn hồi sa mưa năm ngoái. Từ thuở lọt lòng cho đến sáu mươi bốn tuổi, ông Năm Đơn chẳng làm gì cả ngoài nghề đặt trúm mà nuôi cả gia đình.

Công việc đặt trúm của ông sướng hơn người khác nhiều là khỏi đi bắt mồi. Mồi của ông là một gói nhỏ được chế biến bằng một thứ gì là một bí mật không ai được biết. Có lần cánh trẻ ăn cắp ống trúm của ông mở ra xem thử thì thấy gói mồi là một thứ thực vật băm nhỏ, mùi hương giống thảo dược phương Bắc. Cánh trẻ nhiều lần lạy lục xin thọ giáo, nhưng ông Năm tuyệt đối không dạy.

Thế là họ ghét ông, đến khi hấp hối ông Năm mới đau đớn: “Qua không phải là kẻ ích kỷ, giấu nghề. Thứ mồi này rắn hổ rất thích, sơ sẩy là bỏ mạng. Như qua đây sinh nghề tử nghiệp. Qua không dạy là vì qua sợ hại em cháu”.

Sáu tháng mùa khô không đặt trúm được thì dân U Minh chuyển qua cách bắt chúng bằng tay hoặc chĩa.

Hừng sáng Chín Đẹt kêu tôi thức dậy để dỡ trúm. Cái trúm đặt gần mũi xuồng tôi ngồi mà đêm qua anh Chín tiên đoán rằng sẽ có con lươn hơn một ký lô được dỡ lên… Và ngoài con lươn hơn một ký lô mập nung núc thì còn hai con lươn khác nhỏ hơn, vàng nghệ.

Chín Đẹt cười ha hả. Anh chống xuồng lại một gò đất cách đó khoảng ba mét rồi chỉ cho tôi xem: “Ở đây có hang một con lươn, bọt là lươn mới đẻ nằm canh chừng con, đến tối nó mới đi ra. Mà lươn nái thì phải to cả ký lô”.

Tám giờ chúng tôi về đến nhà. Chín Đẹt xổ trúm ra, lươn gần nửa thùng cá. Tôi ước đoán cũng hơn hai mươi ký lô.

Những người xưa khi khai mở đất U Minh – rừng thiêng nước độc, ngoài sự dũng cảm thì còn có sự sáng tạo nữa. Đó là sự sáng tạo nương nhờ, luồng lách vào thiên nhiên mà sống. Tất cả đều không cần phải chăn nuôi, trồng tỉa. Rồi cách làm ăn, sinh sống của xóm ven sông Biện Nhị này đây cũng là một thí dụ về sự sáng tạo ấy.

Dân ở đây không cần làm ruộng, không đi buôn, họ sống chủ yếu vào việc cắm câu, giăng lưới, đặt trúm, đặt lờ, ăn ong… Cuộc đời bình dị đơn sơ nhưng cũng rất yên lành ấy được sản vật của rừng U Minh nuôi dưỡng.

Đời người và đời cây là một sự cộng hưởng hài hòa. Chuyện phá rừng đặt ra trong nỗi giận dữ của người U Minh bởi nó phá đi nồi cơm của họ. Mấy trăm năm trước và cho đến bây giờ những người dân U Minh đã sáng tạo và gìn giữ một nếp sống gắn bó máu thịt với rừng.

Chủ nhà mở cờ trong bụng, rụt rè đến hỏi: “Có ngon không?”, khách vừa nuốt vừa trả lời: “Ngon lắm!”. Chủ nhà lại hỏi: “Thế bên quý quốc có lươn nhiều không?”. Khách trả lời: “Không có, phải nhập khẩu, nhưng đắt lắm. Ngày nghỉ cuối tuần mới dám ăn. Mà cũng chỉ là lươn đông lạnh, mỗi khúc cỡ này là mười đô-la”.

Cứ theo cái ni tay của ông khách “Mặt trời mọc” mà tính thì con lươn 1 kg chặt được ba khúc, nghĩa là 30-40 đô-la. Tính ra tiền Việt Nam… đến những một chỉ vàng thời điểm đó. Hóa ra cái con lươn mà người U Minh nấu canh chua trái giác với bông súng đồng ăn hằng ngày nó quý đến nhường ấy.

Mà ngày nay đâu phải chỉ có bên Tây, bên Nhật, ở Việt Nam ta đây thôi sản vật của rừng U Minh bây giờ cũng quý lắm. Nó được xếp vào cấp phẩm đặc sản đối với đô thị. Trên bàn của các nhà hàng sang trọng, đĩa thức ăn chế biến từ sản vật của rừng U Minh đã có một ngôi thứ chễm chệ, có khi còn lấn lướt cả những món sơn hào hải vị của Tây, Tàu. Đó cũng chỉ là một điều tất nhiên thôi, thời đại công nghiệp hóa, con người cảm thấy hụt hẫng, nên muốn tìm về cái hoang dã vốn là gốc rễ của mình.

Đột nhiên tôi nhớ tới Chín Đẹt, với giá lươn bây giờ chắc “chả” đã giàu nứt đố đổ vách rồi. Thế là tôi quyết định tách đoàn đi thăm anh.

Tàu đã ghé đúng chỗ rồi nhưng tôi không nhìn ra cái xóm ven sông Biện Nhị ngày cũ. Nhà cửa đã chật hai bờ sông, hàng quán dày đặc. Tiếng nhạc từ các quán “karaoke nửa mùa” chát chúa xập xình. Chín Đẹt bây giờ như già đi hơn hai mươi tuổi, răng rụng hết. Anh nhận ra người cũ rồi cười méo mó.

Tôi nói: “Ghé thăm anh và định rủ anh đi đặt trúm một đêm”. Chín Đẹt nói như kẻ có lỗi: “Lươn đâu nữa mà đặt chú, tôi giải nghệ mấy năm nay rồi, sinh sống bằng nghề làm ruộng”. Ngày xưa rừng U Minh kéo dài tới hậu đất nhà anh, giờ như ai làm phép biến mất nhường chỗ cho một cánh đồng lúa xanh rì. Tôi căng mắt nhìn kỹ đến cuối chân trời cũng không thấy rừng tràm ở đâu.

Cánh đồng năn, lác cao tận rốn mà tôi và Chín Đẹt đặt trúm cũng biến khỏi trần gian. Nơi đó biến thành đồng lúa. Đã là vùng sản xuất lúa thì người ta đưa khoa học – kỹ thuật vào, đó là những thứ thuốc diệt cỏ, trừ sâu… nó có tác dụng làm tốt lúa, đồng thời lại có tác dụng hủy diệt lươn, rắn, cá.

Phía bên kia sông Biện Nhị cũng là vùng đồng năn giáp rừng tràm, ngày xưa vốn là nơi làm ăn của xóm này trong việc giăng lưới, đặt lờ… thì nay người ta đã đào kinh xổ nước mặn từ biển vào để nuôi tôm. Các động vật nước ngọt vốn là sản vật của rừng U Minh cũng bị hủy diệt.

Thế nên sản vật của U Minh bây giờ không còn bao nhiêu nữa và do đó các ngành nghề truyền thống xuất phát từ rừng U Minh cũng theo đó mất đi.

Tôi từ giã U Minh trong một tâm trạng buồn, cứ cảm thấy hoài nhớ, tiếc nuối về một vùng đất “cầm thủy” đặc biệt của Nam Bộ và quý hiếm của thế giới không còn nguyên vẹn như xưa

Mùa Hội Cá Đường Cà Mau

Mùa hội cá đường sau cùng còn lại trong ký ức của anh Tư Tua ở vàm Kiến Vàng, thuộc xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, là vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, năm 1983. Chỉ trong nội ngày này, chiếc ghe lưới gộc nhà anh đã bắt được gần hai ngàn con cá đường, con nhỏ nhất từ bốn đến năm ký!

Cá hội dưới nước, người vui trên bờ

Ca dao vùng Năm Căn còn lưu dấu hình ảnh liên quan đến ngày hội cá đường:

Bao giờ hết đước Năm Căn

Ông Trang hết cá Viên An hết rừng

Khai Long hết xác cá đường

Mũi Cà Mau đó tao nhường cho bay.

Từ cửa biển Trần Đề của tỉnh Sóc Trăng kéo dài đến phần biển vịnh Thái Lan ven bờ Tây của mũi Cà Mau có nhiều địa điểm cá đường quần hội, nhưng tập trung thường xuyên và có mật độ cá hội đông đảo nhất là vùng biển ngay chót mũi Cà Mau, bên ngoài bãi biển Khai Long. Ở vùng biển này có hẳn một nơi được gọi là sân hội. Sân hội chỉ rộng chừng sáu cây số vuông, biển ở đây gò cạn, giữa sân có lòng chảo, độ sâu của khu vực sân chỉ từ hai đến ba sải nước.

Nguồn lợi từ bong bóng cá đường rất lớn, nhưng vì việc khai thác chỉ diễn ra chóng vánh vài ba ngày trong năm nên không có loại ghe lưới nào của ngư dân chuyên đánh cá đường. Không chỉ có các ghe lưới gộc mà hầu như tất cả các ghe lưới có mặt trong vùng từ lưới năm, lưới chim, lưới quét, cào mé, lưới tôm, cả xuồng chèo từ các cửa biển Kinh Năm, Rạch Gốc, Kiến Vàng, Ông Trang, Bồ Đề, Hố Gùi… đều đổ xô ra sân hội. Cá đường về hội lượn lờ vàng cả mặt nước. Có khi người khai thác chỉ có cây móc câu cán dài, thọt móc câu xuống nước giật lên là được cá.

Sau năm 1975, ông Bảy Cứng có sáng kiến xây nò ngoài biển để đón bắt mùa hội cá đường. Nhưng cũng chỉ khai thác được vài năm thì cá đường không còn hội nữa.

Của ngon còn một chút này…

Ở cửa biển Sông Đốc, Cà Mau, có một xóm lưới gộc lâu đời. Vào mùa hội cá đường, cả xóm đổ xô hết về mũi Cà Mau. Trước mùa hội cá đường hàng năm, thương lái từ Quảng Đông, từ đảo Hải Nam của Trung Quốc lại dong thuyền đến cửa biển Sông Đốc để đón mua bong bóng cá đường.

Bong bóng cá đường có tác dụng gì, cách chế biến món ăn ra sao, ngư dân vùng biển Cà Mau đều rất mù mờ. Theo họ, bí mật này chỉ có người Trung Quốc mới biết, vì hầu như sau khi khai thác, ngâm muối, làm sạch, phơi khô, cán thẳng thì chỉ có người Hoa là khách hàng thu mua loại sản phẩm này. Nếu không bán cho những thương nhân từ Trung Quốc sang thì họ cũng chỉ bán cho những đầu mối thu mua của Hoa kiều Chợ Lớn.

Mùa hội cá đường cuối cùng năm 1983, gần hai ngàn chiếc bong bóng cá đường của nhà anh Tư Tua đều bán cho ngành thương nghiệp quốc doanh, tuy giá rất “bèo” nhưng nhà anh cũng thu về một khoản tiền đủ trang trải trong một vài năm. Lật cuốn sổ tay vàng ố, anh Tư Tua cho tôi chép lại bảng giá thu mua bong bóng cá đường vào năm 1969 của Hoa kiều Chợ Lớn: loại một: 2 cái/1kg = 2 lượng vàng; loại hai: 3 cái/1kg = 1,5 lượng vàng; loại ba: 4 cái/1kg = 1,2 lượng vàng; loại dạt (nhiều cái) = mỗi ký 0,8 lượng vàng. Ngoài ra còn có giá riêng cho loại bong bóng có tuổi, càng nhiều năm tuổi giá càng cao.

Ngày xưa bãi biển Khai Long thành nghĩa địa cá đường là vì giá trị quá cao của cái bong bóng, cá đường lại quá nhiều nên thịt cá phải bỏ đi chứ thực ra cá đường cũng rất ngon, không thua cá bớp hay cá gún. Bây giờ, dù ngày hội cá đường đã thành chuyện vang bóng một thời, nhưng về với khu du lịch bãi biển Khai Long, bạn vẫn có thể thưởng thức món khô cá đường. Thịt cá đường tươi, nhất là phần đầu, nấu canh chua bần cũng hết ý với dân nhậu.

Đặc biệt hơn là món mắm trứng cá đường. Món mắm này do bà Ba Phượng, một tay làm mắm trứ danh, có thâm niên hơn 50 năm ở vùng Bàu Chấu, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau chế ra vài năm gần đây. Vào tháng 3 hàng năm, các ghe lưới gộc, lưới rút ở vùng biển mũi Cà Mau vẫn còn đánh được những chú cá đường bụng mang đầy trứng, tìm về “cố hương”. Một con cá đường chừng 10kg, buồng trứng có thể nặng đến nửa ký. Một lần xuống thăm anh con trai đang làm y sĩ ở trạm y tế xã Đất Mũi, thấy nhà con được các bệnh nhân là ngư dân tặng cho những bộ đầu và lòng cá đường có mang trứng, nhưng anh con và bạn bè chỉ nhậu phần đầu và cái bao tử, còn trứng vì nhiều quá, ăn ngán, nên bỏ đi. Bà Ba Phượng thử đem kinh nghiệm làm mắm của mình áp dụng vào thứ nguyên liệu mới là trứng cá đường, hoá ra lại thành món ăn rất hấp dẫn.

Nhà văn Trung Đỉnh trong một chuyến về Đất Mũi, sau khi được thưởng thức món mắm trứng cá đường, đã tìm cách “qua mặt” được bộ phận kiểm tra của sân bay, mang về Hà Nội được một hũ nhỏ. Trong cuộc nhậu sau đó của các văn nhân Hà thành, điện thoại nhà anh con của bà Ba Phượng ở Đất Mũi cứ reo suốt buổi chỉ vì hũ mắm trứng mà anh Đỉnh mang ra Hà Nội.

Nguyễn Trọng Tín

Chuyện cổ tích rừng U Minh - Kỳ 1: Hậu duệ bác Ba Phi

Đó là những câu chuyện có thật với những nhân vật huyền thoại ở vùng rừng U Minh như bác Ba Phi "nói dóc bà cố", ông thầy "điều rắn, khiển rít", ông thợ săn hổ lừng danh... Có người đã về với tiên tổ, có người còn lặng lẽ sống, nhưng tiếng vang của họ vẫn lắng sâu trong tâm trí nhiều người dân Nam bộ.

Loạt ký sự sẽ đưa bạn cùng tìm về gặp lại họ - những con nguời đã góp phần làm nên những câu chuyện cổ tích thời hiện đại của đất rừng phương Nam.

"Đi tìm con cháu bác Ba Phi hả? Muốn nghe nói chuyện dóc bà cố luôn chứ gì? Ông đi có mình ên bị người ta đổ rượu chịu sao thấu", tay lái vỏ lãi ở hòn Đá Bạc, huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) nhìn tôi cười ngang tàng, rồi ghìm chân vịt xả hết tốc lực vào cánh rừng tràm.

Hình bóng người xưa

Vỏ lãi tấp vô mé sông ngay trước cửa nhà ông già đệ nhất trào phúng đất Nam bộ: bác Ba Phi, tức nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884-1964). Căn nhà không có cửa, tấm hình lớn của ông treo trên bàn thờ chính. Tính khí phóng khoáng, vui vẻ của bác Ba Phi như hiện rõ trên vầng trán vuông vức, đôi lông mày rậm và ánh mắt nhìn thẳng sáng rực.

Tôi vừa cắm xong nén nhang lên bàn thờ bác Ba Phi thì những người cháu của ông đang sống ở nhà kế bên cũng vừa sang. Cô cháu nội Tư Lệ nhìn tôi lom lom hỏi: "Mưa gió ngập trời, vịt bầu còn rúc đầu trong cánh ngủ. Cậu mần chi mà xuống miệt rừng rú này cho khổ thân dữ? Thôi chị em mình sơ giao làm lết lết vài xị với cá lóc nướng cho ấm bụng rồi muốn hỏi chi thì hỏi". Tôi xin ra thăm mộ bác Ba Phi trước. Nước nổi lênh láng. Mọi người phải xắn quần lội ruộng ra chòm mộ xây sau nhà.

Dưới tán cây xanh um tùm, mộ ông nằm chính giữa. Cùng hướng đầu về phía mặt trời lặn với ông là người vợ đầu tiên, cô Ba Lữ yên nghỉ ở bên trái, và người vợ thứ tên Chăm, dân tộc Khơme, ở bên phải. Cả ba mộ đều xây ximăng thô đơn giản. Cô Tư Lệ nói hầu như năm nào những người phương xa cũng tìm về đây thăm mộ ông, trong đó có cả người ăn dầm nằm dề ở đây để viết luận án cử nhân, tiến sĩ về ông... Lúc chúng tôi quay vào nhà, con cô Tư Lệ đã nướng xong cá lóc thơm lừng. Mấy cháu chắt của bác Ba Phi vừa đi ruộng về cũng xắn quần nhào lên phản gỗ nhậu tơi bời. Họ là hậu duệ đời thứ ba, thứ tư của ông già Nam bộ.

"Người đời biết nhiều về ông nội tui, nhưng đa số đều tam sao thất bổn. Ngay cả những câu chuyện trào phúng của ông cũng bị cải biên nhiều", cô cháu Tư Lệ năm nay vừa tròn 50 tuổi ngồi tiếp cá nướng, tâm sự về ông nội mình. Theo cô, bác Ba Phi không phải dân gốc U Minh mà sinh năm 1884 ở Đồng Tháp, rồi phiêu dạt qua trên con đường đi mần thuê vì nhà quá nghèo. Bận thanh niên, ông làm tá điền cho hương quản Tế. Thấy chàng lực điền cao lớn, râu ria khỏe mạnh, siêng năng, lại thêm tính tình vui nhộn, hương quản Tế hứa gả cô con gái cưng Ba Lữ với điều kiện ông phải ở rể trước khi cưới ba năm. Anh tá điền gật đầu cái rụp.

Ba năm vèo trôi qua theo mấy mùa ong rừng hút hoa tràm cho mật ngọt. Vợ chồng khai phá thêm được mảnh đất U Minh Hạ, bây giờ là ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời. Khi bác Ba Phi mất, năng khiếu nói chuyện tiếu lâm và tính cách dường như vẫn truyền lại cho thế hệ sau, không chỉ là con cháu, mà còn "lây" sang cả những nông dân chân chất vùng Khánh Hải. Từ đó, chuyện bác Ba Phi được cải biên muôn màu muôn vẻ.

Cười để vui sống

Hầu hết gia cảnh con cháu bác Ba Phi đều vẫn đạm bạc như hơn nửa thế kỷ trước. Mà hình như họ cũng không mấy băn khoăn chuyện này. Cô Tư Lệ tuổi đã 50 mà trẻ như người chưa tới 40. Người chồng lớn hơn hai tuổi trông dáng dấp cũng như thanh niên. Chú Tư uống rượu cái ực, chuyển ly qua tôi rồi cười sảng khoái nói: "Vui vẻ thì quên lo. Ông nội tui xưa cũng vậy. Thiên nhiên khắc nghiệt, rồi chiến tranh, đói kém. Nếu không biết cười thì làm sao sống nổi miệt rừng rú này".

Con cháu của bác Ba Phi bây giờ không ai dám nhận mình kế thừa số một khiếu tiếu lâm nổi tiếng của ông già Nam bộ ngày xưa. Nhưng trong bàn nhậu, ai cũng có cả mớ vốn chuyện dông dài để làm "nổ tung" cuộc hàn huyên. Trong đó chú Năm Danh, cháu lớn bác Ba Phi, được ngưỡng mộ hơn cả. Chú ở cách nhà cô Tư Lệ lô đất. Chúng tôi mới xoay vòng mấy ly thì thấy chú lò dò đội mưa sang. Cô Tư Lệ chọc liền: "Ủa, anh Năm đánh hơi nhanh hén?". Chú Năm Danh "nổ" lại: "Tại bay chứ ai. Nhậu mà hổng chịu uống nhanh, để ly ra đó cho rượu bay hơi qua tận nhà tao. Đang ngủ pho pho, tao phải hắt hơi liền ba cái đành lồm cồm bò dậy, đi ngó coi đứa nào lén đổ rượu mà không chịu mời ông già này".

Khiếu của chú Năm Danh là biết cải biên chuyện bác Ba Phi xưa thành chuyện hài thời sự. Đang mùa dịch cúm, chú "nổ" liền chuyện: "Bầy gà nhà tui toi hết, chỉ còn mỗi con gà trống độc thân. Nó buồn quá bèn đi đêm với con cúm núm và đẻ ra một con đực nửa gà nửa chim. Con này có biệt tài hễ thấy bóng mấy ông kiểm dịch mò đến, là bay tót lên ngọn cây hót líu lo như chim. Mấy ổng vừa khuất bóng, nó lại mò xuống lủi đi tìm gà mái".

Lứa chắt bác Ba Phi giờ chỉ rành chuyện cười của ông cố qua lời kể và sách vở. Nhưng một số người cũng còn kế thừa chút khiếu tiếu lâm. Trong đó, Nguyễn Minh Quân, con trai đầu cô Tư Lệ, hồi còn đi học đã nhiều lần quậy cười "nổ tung" cả lớp. Quân đi lao động Malaysia, bạn bè tình cờ biết là chắt bác Ba Phi, đêm đêm cứ bắt anh chế chuyện dóc cho đỡ buồn ở xứ người. Cô Tư Lệ thắp nhang lên bàn thờ bác Ba Phi rồi khấn vái: "Ông nội ơi ông nội! Ông linh thiêng phù hộ cho thằng chắt Quân nói dóc có duyên, để con gái người sớm ưng mà sinh chít nối nòi dóc bà cố của ông nội nữa!". 

Lão dị nhân" đất rừng

TT - ?oLão trông rất cổ quái. Tóc bạc trắng cứ dựng đứng lên. Mắt đỏ khè như mắt rắn. Hai chân cụt tới đầu gối. Bàn tay cũng dị tật, ngón có ngón không. Nhưng tài trị rắn thì số một miệt U Minh?.

Tôi được nghe nhiều người truyền tụng về thầy rắn Chín Lẻo ở U Minh (Cà Mau) như thế. Nhưng khi gặp, khác hẳn bề ngoài dễ làm con nít khóc thét, ông cứ cười khà khà: ?oBộ dạng tui phải quái thì mới trị rắn độc được chứ?.

Tầm sư học thuốc

Suốt cả đêm mất ngủ để hút nọc và bó thuốc cho nạn nhân vừa bị rắn cắn nên mắt ông Chín Lẻo đã đỏ ngó càng đỏ dữ hơn. Ông mệt lử, ngồi đừ trên giường, kêu tôi thắp giúp nén nhang lên bàn thờ tổ trước, rồi trò chuyện sau. Ông rít thuốc, tâm sự: ?oĐời nay, thiên hạ đua nhau săn lùng rắn quá. Không nấu mồi ăn nhậu thì cũng ngâm làm rượu thuốc nên rắn càng lúc càng độc hơn để trả thù con người?.

Ông Chín Lẻo nói ngay từ lúc mới học nghề thuốc đã được thầy dạy: ?oKhông được ỷ có tài thuốc mà tàn sát rắn để chúng thù mình thì thế nào cũng đoản hậu?. ?oLão dị nhân? tên thật là Lê Văn Lẻo, đời người đã trải qua 70 mùa rừng U Minh thay lá, thấy nhiều chuyện thế thái nhân tình buồn quá nên tóc bạc sớm. Riêng tật trên người thì có cái do cha sinh mẹ đẻ, có cái do bị bom napan hồi chiến tranh. Ông nói tổ tiên ông là người gốc Bắc theo nghĩa quân nhà Tây Sơn, khi triều đại ngắn ngủi này bị Nguyễn Ánh trả thù, họ phải đổi tên họ, chạy lánh nạn vào tận miệt rừng thiêng nước độc U Minh.

Ông Chín Lẻo kể được cha mẹ cho theo thầy Út Chuẩn học thuốc trị rắn từ năm 9 tuổi. Thầy Út Chuẩn cũng là người Cà Mau, được các thầy tu núi Thất Sơn truyền thuốc từ hồi ông còn trai trẻ bôn ba kiếm sống bên miệt đó. Khi bái sư, các thầy tu núi Thất Sơn bắt đệ tử phải đốt nhang thề: ?oCứu người không cầu danh lợi, không mong được đền ơn đáp nghĩa, không sợ nguy hiểm tính mạng mình?.

Xuống núi cứu người, thầy Út Chuẩn cũng rất kén đệ tử. Ông Chín Lẻo cũng quyết tâm lắm mới được thầy đồng ý nhận làm đệ tử. Không nói ra, nhưng hình như thầy nhận thấy tính tình thật thà, hiền lành ẩn trong bề ngoài quái dị của ông. Hôm làm lễ bái sư, thầy dặn: ?oRắn là loài vật âm linh. Người trị được rắn đừng cậy tài mà sa đà bắt rắn ăn nhậu hay mua bán kiếm tiền?.

Ông Chín Lẻo nói ông không chỉ bị thầy thử mà chính các loài rắn độc cũng thử tài. Mai gầm, hổ đất, hổ mang mấy lần đang đêm bò vô tận giường mổ. Chụp ngang cổ nó, ông bỏ vô lồng đặt trước bàn thờ tổ, rồi mới tự đắp thuốc chữa trị cho mình. Khi độc tiêu hết, ông thả con rắn ra rồi quát: ?oTha mạng cho mày lần này. Từ giờ về sau mày đừng ỷ có nọc mà hại người nữa?. Con rắn ngóc đầu như lạy ông, rồi lầm lũi bò đi mất.

Nghiệp cứu người

Chiều trước hôm tôi đến, anh Út ở xã Nguyễn Phích, huyện U Minh đi nhổ mạ, bị một con hổ đất mổ ngay bàn tay. Rắn quá độc, người nhà sợ chuyển lên bệnh viện lớn không kịp nên đến nhờ thầy Chín Lẻo. Họ chỉ biết là rắn hổ nhưng không rõ loài hổ gì. Ông nhìn qua vết cắn và triệu chứng sưng phù trên người anh Út, đó là loài hổ đất cực độc. Ông bắt anh Út nằm im, rồi dùng răng con ?oxà dinh? được thầy Út Chuẩn truyền lại (theo cách gọi của thầy Chín Lẻo là một loài linh vật như mèo rừng trước đây sống ở vùng núi Cấm, An Giang, bây giờ không rõ còn không) áp vào vết cắn hút nọc gần sáu giờ liền.

Xong ông bắt con nhái bầu, kiến vàng, vỏ cây chanh, củ khoai báng, cây xương khô, mật ong và một số vị thuốc bí truyền khác giã nát cho nạn nhân uống. Đến tờ mờ sáng nạn nhân đỡ đau nhức, đàm ở họng cũng tiêu bớt. Ông nói với loài rắn bình thường chỉ cần như vậy là đủ. Nhưng với hổ đất thì nạn nhân còn phải vừa hút nọc vừa uống thêm thuốc mấy lần nữa mới dứt hẳn.

"Những bận trời động, gió mưa lạnh lẽo, rắn rết bò vô nhà cuộn tròn dưới gầm giường ngủ chung với người như gà. Dân U Minh phải biết "sống chung" với rắn, nếu không thì khó trụ được ở miệt đất này".

Một đời làm thuốc rắn cứu người, danh sách bệnh nhân của ông Chín Lẻo đến nay có lẽ phải viết ra mấy cuốn vở học sinh mới hết. Ông kể mới hôm rồi ông Hai Thọ, cán bộ Lâm trường 30-4, phát cành chuối khô bị rắn hổ bướm mổ ngay cổ tay phun máu thành tia. Tuy nhiên, Hai Thọ vẫn bình tĩnh chặt đứt đôi con rắn, cầm khúc đầu chạy cầu cứu thầy Chín Lẻo. Ông ngó qua con rắn chỉ bự bằng cẳng cái nhưng đang có chửa nên rất độc, khen Hai Thọ bình tĩnh như vậy là giỏi.

Người bị rắn cắn nếu đem được xác rắn về hay biết chính xác loại rắn cắn mình thì dễ chữa trị hơn. Ông Chín Lẻo dùng răng con ?oxà dinh? hút nọc cho Hai Thọ gần cả ngày và sắc thuốc bí truyền cho uống. Ngày đầu tiên Hai Thọ còn đau đớn, nhưng khoảng một tuần sau thì giảm hẳn, tay cũng không bị hoại tử. Một người đặc biệt cũng đội ơn ông đã cứu mạng nữa là Hai Tòng, nguyên chủ tịch UBND huyện U Minh và giám đốc Sở Lao động - thương binh & xã hội tỉnh Cà Mau. Ban đêm ông ra ngoài nhà bị rắn hổ đất nằm ngay trước sân mổ trúng, người nhà đưa đến cầu cứu thầy Chín Lẻo trong tình trạng đã nguy kịch. Ông phải hút nọc mấy lần vừa chế thuốc cho uống liên tục, Hai Tòng mới thoát chết.

Ông Chín Lẻo kể đời mình đã giải nọc đủ loại rắn độc miệt đất rừng U Minh, kể cả nhiều lần phải trị nọc rắn mái gầm, đẻn biển cực độc: ?oTui chữa trị những người tự tìm đến và không lấy tiền, nhưng đôi khi cũng buồn lắm. Họ sống thì đội ơn mình. Còn lỡ họ chết thì cũng bị tiếng oán chửi ngập đầu?. Đã phát tâm thề trước thầy tổ nên ông không bao giờ từ chối trước sinh mạng con người, chỉ có điều duy nhất ông ngại là phải chữa trị cho những người chuyên làm nghề bắt rắn, bán rắn. Có thể cứu họ được một lần, hai lần nhưng lần sau chưa chắc đã qua khỏi. Ông tin rắn là loài vật biết oán thù.

Ông Chín Lẻo có con cháu đầy nhà nhưng chưa người nào quyết tâm theo nghiệp cha. Ông cũng chẳng buồn vì tin nghề chữa rắn là nghiệp định. Khi nó đến với mình, có muốn từ chối cũng không được.

Thầy đìa miệt rừng

TT - Tay lái cá đứng nhíu mày. Anh ta có kinh nghiệm dò cá để thầu đìa, nhưng chưa thật yên tâm với cái giá thách của chủ đìa. Một thầy đìa ở xóm được mời đến, nhờ đoán giùm. Chỉ nhìn lướt qua mặt đìa, thầy đìa thọc tay rờ rờ bờ đìa chìm dưới nước, rồi áp tai xuống đất, nín thở nghe ngóng.

Ngón nghề thầy đìa

Chưa đầy mươi giây, thầy đìa đã đứng lên bảo đảm đìa này đầy cá, thậm chí có nhiều cá bự. Ông nói nếu đoán trật, lái bị lỗ, cứ qua đìa của ông chụp bù. Còn ông đoán trúng, chiều kiếm cho ông lít rượu đến nhậu lết lết là được rồi.

Tay lái cá vỗ tay cái đét, rồi kêu cánh lưới thuê: ?oTụi bay xuống mần liền đi, chiều trúng cá tao đãi tất cả nhậu quắc cần câu?. Đám trai quê đen nhẻm mặc quần xà lỏn nhào xuống đìa, dọn mấy nhánh chà khô và đám rong rêu. Một lát sau, cái lưới hai lớp được kéo xuống. Tay lái cá ngồi nhìn lom lom, chờ kết quả. Còn thầy đìa phì phà thuốc rê? chờ nhậu. Chưa đầy hai giờ sau, gần 400kg cá được kéo lên. Nhiều con cá lóc bự bằng bắp vế, đen trùi trũi. Tay lái cá cười khoan khoái vì thầu trúng đìa. Mâm rượu đầy ắp cá lóc nướng trui thơm nức mũi. Thầy đìa được mời bộ lòng cá ngon nhất, chép chép miệng khoái chí: ?oSắp nhỏ phục sát đất ngón nghề ông già này chưa! Bận sau, tụi bay bịt mắt tao cũng đoán trúng cho mà coi?.

Miệt rừng U Minh bây giờ không nhiều cá mú như xưa, nhưng vẫn còn những người cao tay nghề cá được người dân gọi là thầy đìa. Những ngày lang thang ở đây, tôi được ông Sáu Sử, giám đốc Lâm trường U Minh 2, giới thiệu thầy đìa Nguyễn Văn Điệt ở xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, Cà Mau: ?oGã này tài thiệt à nghen. Hồi xưa gã bắt cá thần sầu, bây giờ được bầu làm trưởng tập đoàn 19-5 nuôi hơn 500ha cá đồng dưới tán rừng?.

Leo lên vỏ lãi, tôi lần mò đi tìm thầy đìa Năm Điệt. Tưởng còn trẻ, hóa ra ông cũng đã ngoài 60. Ông rót ly rượu đế uống cái chóc, chép miệng kể ngoài nghe tiếng động, ông còn rành vụ sờ bờ đìa để đoán cá. Người mù hay điếc cũng có thể sử dụng được ngón này. Nếu tay sờ vách đìa thấy láng thì biết có nhiều cá, vì bị chật chội, cá bơi cạ mình vô vách đìa. Còn vách đìa có những vết lỗ rỗ đều, chắc chắn có nhiều cá lớn vì chúng quậy dộng đầu vô bờ. Không ít người chưa rành nghề nhìn mặt nước đìa có cá hớp bóng dày cứ tưởng nhiều cá, nhưng thật ra lại nhiều cá trắng, ít cá đen lớn, lái bao đìa rất dễ bị lỗ.

Ký ức về U Minh thuở khó khăn của thầy đìa Sáu Điệt là những ngày bắt cá ăn thay cơm. Bây giờ, ngồi bên bìa rừng, nhớ lại U Minh một thuở cá lội lền sông, thầy đìa Năm Điệt vẫn hào hứng với những ngày sống hoàn toàn phụ thuộc thiên nhiên. Dân miệt này có hàng trăm ngón nghề bắt cá tôm từ thông dụng cắm câu, giăng lưới, đặt lờ, đặt trúm, chất chà, đóng đáy, đến những cách bắt cá đòi hỏi nhiều kinh nghiệm hơn như đâm chĩa, giậm dấu, đào hầm cá nhảy, chặn ụ?

Thuở ấy, người dân U Minh nào vừa rành bí quyết dò cá vừa thạo các ngón bắt cá này, bảo đảm kiếm cá ăn không hết mà phơi khô cũng không kịp. Thầy đìa Năm Điệt thời trai trẻ chỉ cần nhìn qua mặt nước sông cũng biết cá nhiều ít. Bạn phương xa đến rủ lai rai, không kịp đào mồi giăng câu, thả lưới; ông chỉ lựa con nước ròng đoán luồng cá đi để nhảy xuống sông giậm chân vài chục cái, rồi rít xong điếu thuốc nhảy xuống mò lại ngay chỗ dấu chân đó cũng dư cá nhậu quắc cần câu.

Những thầy đìa cuối cùng

Thầy đìa Năm Điệt sinh ở rừng U Minh. Nhà có tám anh em đều rành rẽ nghề cá như thuộc lòng các ngón tay. Đặc biệt, người em Sáu Tặng cũng ?othần sầu? trong các ngón dò cá. Giống như người anh, ông có thể không lại gần đìa mà đứng ngó từ xa cũng biết đìa ít hay nhiều cá. Sáu người con của ông Sáu Tặng tiếp nối nghề cha, lấy tài bắt cá mưu sinh.

Đất rừng U Minh bây giờ không còn giàu cá mú, các thầy đìa giỏi nghề dò cá tự nhiên xưa đang chuyển kinh nghiệm sang nuôi cá độc đáo của riêng mình. Dẫn tôi đi thăm bãi nuôi cá dưới tán rừng, anh em ông Năm Điệt, Sáu Tặng tiết lộ ngón nghề nuôi cá. Ông Sáu Tặng nói bí quyết đầu tiên là chọn thế đìa phải tránh được nắng mặt trời rọi xuôi suốt ngày, nếu không cá sẽ chậm lớn. Ngoài ra, địa thế này cũng phải tránh hướng gió bấc thổi dọc đìa. Nhìn tôi trố mắt, ông Năm Điệt cười khà khà: ?oThì cũng giống người mà. Điều gì người dễ chịu thì cá cũng ưng. Giữa rừng rú mà còn gió lạnh suốt ngày làm sao thấu?.

Ông tiết lộ ngón nghề ít người biết nữa là đào đìa ở miệt này phải chọn gò cao hơn xung quanh. Nhiều người vùng trên xuống đầu tư nuôi cá, không rành cứ nhè chỗ thấp đào đìa để dễ lấy nước, rồi hứng phèn đọng. Cá không nổ mắt chết vì phèn nặng thì cũng còi cọc. Miệt này qui mô một cái đìa khoảng ngang 4m, dài 36m là trung bình, dễ lựa loại cá nuôi và cũng dễ thu hoạch. Ông nói dân đất rừng U Minh mỗi lần động thổ đào đìa hay thu hoạch cá thường sắm lễ cúng rất trang trọng: ?oTụi tui tin đất đai có thổ địa, núi rừng có sơn thần. Mình thành tâm cúng mấy ổng thì mấy ổng cũng phù hộ mình?.

Buổi chiều, ngồi nhìn con nước rong lé đé bờ sông, gương mặt hằn dấu tuổi tác của anh em thầy đìa Năm Điệt, Sáu Tặng chợt trở buồn khi thấy những thanh niên đang vác xuyệc điện đi bắt cá. Họ trầm giọng tâm sự kinh nghiệm dò cá, bắt cá tự nhiên miệt đất rừng U Minh dần mai một vì của trời cho này đang cạn kiệt rất nhanh. Theo ông Năm Điệt, ngoài khách quan còn có con người. Những cách đánh bắt tham lam như xuyệc điện hiện nay và nông nghiệp ngày càng phải sử dụng nhiều phân bón hóa học, thuốc trừ sâu đã làm cho cá tự nhiên mất dần môi trường sống.

Bóng tối chập choạng đổ dần xuống vạt rừng U Minh. Không gian tĩnh lặng, chỉ có tiếng chao chát của chim bay về tổ. Nhìn nét mặt trầm tư của hai ông già U Minh, tôi cảm nhận được nỗi niềm của họ.

Về U Minh, tôi lân la hỏi chuyện ông tổ gác kèo ong xứ này nhưng chẳng mấy người rành rẽ. Những lão nông tri điền 70-80 tuổi tóc bạc phơ cũng chỉ có thể kể khi họ mới biết lẫm chẫm chạy đã thấy tía, ông cầm bùi nhùi vào rừng "ăn" ong rồi. Nghề gác kèo, "ăn" ong xưa cũ bây giờ vẫn đang phát triển mạnh ở rừng U Minh, người ta thường đặt tên cho những người làm nghề này là "đoàn Phong Ngạn".

Một lần "ăn" ong

Những người gác kèo ong rủ tôi lội rừng. Chiếc vỏ lãi chở bốn rẽ nước vượt qua mấy con kênh đào nhỏ dày đặc rong rêu và lục bình, tiến sâu vào rốn rừng ở xã Khánh Hòa, huyện U Minh, Cà Mau. Đây là chuyến đi lấy mật ong định kỳ của tía con ông Nguyễn Thanh Rớt (Hai Rớt) nên họ chuẩn bị khá kỹ. Người nào cũng mặc áo dài tay dày cộp, lại thêm tấm lưới khít mắt chùm hụp trên đầu và bó bùi nhùi cầm tay.

Tàng ong đầu tiên mà chúng tôi gặp nằm trên cây tràm kèo nghiêng nghiêng cách mặt nước dưới chân chưa tới 2m. Tía con Hai Rớt chuẩn bị châm lửa ngọn bùi nhùi. Để bảo vệ rừng, họ có kỹ thuật làm bùi nhùi khá giản đơn nhưng lại độc đáo: lấy mấy nhánh chà khô nhỏ cột thành bó trong lõi, bên ngoài phủ thêm một lớp nhánh lá tràm tươi rói. Khi đốt cháy, lửa chỉ âm ỉ ở trong lõi, tỏa khói ra, chính lá tràm non vừa tạo thêm khói vừa có chức năng bảo vệ bên ngoài không cho tàn lửa bay tứ tán theo gió có thể gây cháy rừng.

Ra dấu tôi lùi lại, Hai Rớt phù miệng thổi phà khói vào tàng ong. Chưa đầy vài giây, ong bay túa ra khỏi tổ, vạt rừng đang tĩnh lặng chợt náo động bởi tiếng ong vỡ tổ bay o o mù mịt trời. Hai Rớt vẫn bình thản giữa "vòng vây thù hận" của bầy ong. Hạ kèo tràm xuống, ông lấy dao mang theo người cắt gọn một phần tàng ong đầy mật. Ông mời tôi nhấm nháp một mẩu tàng ong non ngay giữa rừng mà không phải người thành phố nào cũng được thưởng thức.

Mật tươi rói, ngọt lịm tứa ra môi. Tía con Hai Rớt vui vẻ nói: "Nó là thuốc chống già của dân miệt rừng này đó. Uống không hay pha với nước ấm, rượu, trà đều ngon bổ". Sau đó cây kèo tràm và phần tàng ong còn lại được gác về chỗ cũ để đàn ong vỡ tổ tiếp tục quay về làm tổ. Ba giờ chiều, chiếc vỏ lãi quay ngược mũi về nhà. Tía con Hai Rớt thu hoạch được hơn 30 lít mật ong. Họ nói lượng mật này là ít vì mùa mưa năm nay dầm dề quá, ong phải tích đủ mật để nuôi con. Nhưng họ vẫn vui vẻ đợi nắng lên sẽ khá hơn như bao đời cha ông đã sống chết với rừng.

Đời gác kèo

Ở U Minh hiện nay không ai có thể biết dưới tán rừng đang có bao nhiêu người làm nghề gác kèo ong. Nhưng có một điều dám chắc rằng dân miệt này rành rẽ các bí quyết gác kèo ong lấy mật không thua kém bất cứ vùng nào. Hai Rớt năm nay đã ngoài 50 tuổi, trong một gia đình ít nhất đã có bốn đời sinh sống ngay trên thửa đất ông đang ở giữa rừng U Minh Hạ.

Bận nhỏ Hai Rớt tóc còn để chỏm đã biết chèo xuồng theo ông nội tập tành gác kèo. Chưa đầy 16 tuổi ông đã rành nghề rừng này. Đời con lại nối nghiệp tía. Ba người con Nguyễn Thanh Đề, Nguyễn Thanh Trung, Nguyễn Châu Phi hiện cũng thạo ngón nghề gác kèo ong rừng. Hai Rớt được chòm xóm tin tưởng bầu làm trưởng Tập đoàn Phong Ngạn 2 ở huyện U Minh với 29 tập đoàn viên.

Hai Rớt ngồi ngắm chiều vàng loang bóng trên mặt sông và chân chất trải lòng mình: "Điều quan trọng nhất với người gác kèo ong là phải bảo vệ rừng. Không chỉ biết quấn bùi nhùi ít tàn lửa, biết lựa hướng gió xông khói mà còn kiềm chế say xỉn trong lúc đi rừng để đừng vô tình gây cháy". Anh Lê Văn Kháng, bạn xóm cùng Tập đoàn Phong Ngạn với Hai Rớt, nói gác kèo ong lấy mật là ăn của trời đất, nhưng cũng phải đòi hỏi người nhiều kinh nghiệm mới làm được. Nhiều người tưởng rừng già, rậm rịt bóng râm là nhiều ong. Trái lại, khí hậu vùng đó lạnh lẽo, ong ít về làm tổ. "Mới nhìn qua kèo nào cũng giống kèo nào. Nhưng thiệt lạ, người thì thu mật đậm, người chẳng có gì? - anh Kháng nói.

Anh Kháng trầm giọng tâm sự ngoài kinh nghiệm con người, còn có cái gì đó thuộc rừng thiêng khó lý giải. Mỗi năm, người gác kèo ong đều có một lễ cúng rừng rất trang nghiêm, thường được bày ở ngay gần kèo ong lớn nhất rừng được xem như là "chính điện" của ong chúa. Mỗi người gác kèo đều có những lời thề trong tâm như không bao giờ phá rừng, đốt rừng, không hủy tổ, tàn sát các loài ong nếu không thật sự cần thiết vì cuộc sống.

Những ngày theo chân đoàn Phong Ngạn lang thang dưới tán rừng, tôi chưa thấy một người nào giàu được bằng nghề gác kèo ong. Tía con Hai Rớt đang có hơn 300 kèo lấy mật trong tiểu khu 25, Lâm ngư trường U Minh 2. Đó là nguồn thu nhập chính trang trải chuyện áo cơm, học hành trong gia đình mấy thế hệ. Cha con anh Kháng cũng đang gác khoảng 200 kèo. Giá mật bán tại rừng 30.000 đồng/lít, anh Kháng tâm sự tạm đủ sống nếu hết sức tằn tiện.

Chở tôi ra bìa rừng trên dòng sông rực rỡ hoa tràm để về thành phố, những người gác kèo ong miên man tâm sự sẽ không giã từ nghề dù khó khăn. Họ chỉ lo mai này rừng U Minh cạn kiệt dần, ong có còn đem mật ngọt về cho người nữa hay không?

Đón mùa cá chạch 

Mùa cá chạch đã sắp bắt đầu tại thành phố Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Cào chạch có thể xem là một thú vui và thú vui này càng hấp dẫn hơn với những món chế biến từ chạch!

Khi những hàng so đũa bên bờ sông trổ bông và mực nước sông Ô Môn bắt đầu giựt (cuối tháng 9 đầu tháng 10 âm lịch) là ở quê tôi (Ô Môn, Cần Thơ) lại bắt đầu mùa cào chạch. Từ sáng sớm hoặc xế chiều (theo con nước ròng), từng đoàn người chống xuồng tam bản đi cào chạch trải dài theo mé sông. Dụng cụ đánh bắt của họ rất đơn giản: một bàn cào (đây là cây sào dài bằng tầm vông khoảng 3 – 4m), đầu được gắn một thanh sắt ngang, phía dưới hàn những mũi chĩa nhọn (tương tự như bàn cào cỏ), một cây kềm, một cây giũa (dụng cụ mang theo để sửa chữa bàn cào khi gặp vật cứng làm cong hay làm tà mũi chĩa).

Tuỳ theo địa điểm săn bắt (bãi lài hay hẩm), người đánh bắt ngồi trên xuồng hay ngâm mình dưới nước. Với những động tác nhanh nhẹn, người đánh bắt chỉ cần đưa bàn cào ra xa tầm tay với, đợi cho tới khi bàn cào chạm mặt bùn, rồi từ từ kéo cào vào trong bờ. Đặc điểm của lũ chạch là trú ẩn dưới bùn non, đầu ngoi lên mặt bùn để ăn phiêu sinh vật. Khi chạm phải mũi chĩa nhọn, chúng cố vùng vẫy thoát thân. Vì thế, người cào khi thấy sào bị rung nhẹ thì chỉ việc kéo cào nhanh lên mặt nước, rê bàn cào vào mép xuồng gỡ cá ra, và… cứ như thế cào tiếpNhững chú chạch tươi roi rói màu vàng nhạt. Ở những nơi nhiều chạch, một bàn cào có thể dính từ hai đến ba con. Một người cần mẫn trong một con nước có thể kiếm được từ 1 – 2 kg chạch dễ như chơi!

Thịt chạch ngọt, béo giàu chất dinh dưỡng. Theo Tây y, cứ 100g chạch có 16g chất đạm, có đến 17 axit amin, đặc biệt có đủ cả 8 axit amin tối cần thiết, 3,2g chất đường, 2g chất béo, và các vitamin khác... Theo Đông y, thịt chạch có tác dụng bổ khí huyết, chống lão suy, tráng dương, cường lực, thanh nhiệt, cần thiết cho người già… Vì thế, thịt chạch chế biến thức ăn nào cũng ngon như khô chạch, chạch kho nghệ…, nhưng hấp dẫn hơn cả là cá chạch nướng chấm nước mắm me.

Trước tiên, chạch bắt được (hay mua ở chợ về), lựa những con thật tươi, mập mạp. Rửa nước lạnh vài lần cho sạch nhớt, sau đó dùng gắp tre kẹp chạch nướng trên lửa hồng cho đến khi chín vàng là được. Nhớ đừng để chín quá thịt chạch khô mất ngon. Kế đến ta chuẩn bị "cây nhà lá vườn" như khế chua, chuối chát, dưa leo xắt sẵn cùng với rau thơm xếp ra dĩa. Và, sau cùng pha thêm một chén nước mắm me, thế là xong! Nhưng cũng nên lưu ý rằng khâu pha chế cuối cùng này rất quan trọng, vì nó quyết định chất lượng của món ăn. Nói thế, có nghĩa là ta phải pha nước mắm me sao cho có vị chua chua của me chín, vị ngòn ngọt của đường cát trắng, vị mằn mặn và thơm thơm của nước mắm, vị cay nồng của ớt chín…, và nhất là nước mắm pha không quá loãng để khi chấm phải "bắt" mới ngon.

Bắt cá mùa khô 

Ở miền Tây, đồng ruộng mênh mông, với nhiều loài cá đồng, nên người dân cũng nghĩ ra được nhiều cách đánh bắt cá khác nhau, trong đó có những cách rất độc đáo, sáng tạo. Với đặc thù có hai mùa mưa nắng, người miền Tây am hiểu tập tính của các cư dân ở thuỷ cung này mà tìm cách đánh bắt sao cho thích hợp.

Khi nước vừa rút khỏi chân ruộng cũng là lúc cá dồn xuống kênh mương. Lúc nầy muốn bắt cá lóc chỉ cần đi nhấp, vì đây là thời điểm cá cần tích trữ năng lượng để sống qua mùa khô nên rất tạp ăn. Chỉ cần một con nhái móc vào lưỡi câu và đi cập theo bờ ruộng và nhấp dài theo bờ mương, thì mỗi chiều cũng kiếm được vài ba ký cá lóc lớnSau Tết, khi kinh mương khô cạn dần, cá lóc là loài còn bán trụ lại dai dẵng nhất so với các loài cá khác. Biết được tập tính này của cá lóc mà miệt Cà Mau người dân thường dùng nơm để bắt cá vào thời điểm này. Trong các cách bắt cá trong mùa khô, thì đi nơm cá có lẽ là thích thú nhất. Người ta dùng nơm để bất ngờ chụp vào những nơi nghi là có cá ẩn núp - nếu chỉ có một người đi nơm. Còn khi có hai người trở lên thì người ta dàn hàng ngang mặt kinh mà chụp tới. Thú vị nhất là khi nơm trúng cá, người nơm biết ngay vì cá phóng đụng thành nôm lịch kịch và mặc sức vùng vẫy trong một diện tích hẹp. Chỉ cần thò tay vào chận bắt là xong...

Bước qua tháng Giêng, tháng Hai âm lịch, khi kênh mương khô kiệt, thì cá bắt đầu tìm nơi có nước để trú ngụ. Lúc này cá lóc là loài cuối cùng “vượt cạn” - đúng với nghĩa đen của nó. Cá lóc chẳng những "lóc" trên mặt đất mà còn có thể nhảy qua một chướng ngại vật như là một bờ đất, một bờ mẫu trong khi di chuyển đi tìm nơi có nước sâu để sống. Người dân quê biết biết được tập tính này nên đào hầm trên con đường di chuyển của cá để cho chúng rớt xuống. Cũng có thể đào hầm ở phía bên kia bờ đất, chỗ cá hay nhảy, để khi cá nhảy qua là lọt vào cái hầm.

Thường thì cái hầm ở miệt Cà Mau làm rất đơn giản. Đó là một chiếc khạp da bò được chôn xuống đất nhão và che một vài tàu lá dừa khô hay một ít rơm rạ là xong. Đêm xuống, cá men theo đường nước cạn để tìm đường về với ao sâu. Gặp chướng ngại vật chúng phải lóc qua, không ngờ bị rơi vào bẩy hầm, đành nằm chịu trận ở đó. Mỗi ngày người ta ra thăm hầm buổi sáng sớm, từ đàng xa đã nghe tiếng chúng nhảy lung tung. Nếu hên thì mỗi hầm có thể có hai, ba con cá lóc lớn, thậm chí còn có những chú rùa kém may mắn cũng lọt vào…

Nắng càng gắt, kênh mương khô cạn dần. Lúc này đơn giản nhất là đi mò cá. Người ta giàn hàng ngang của mương cạn để thu gom cá, nhằm tránh bỏ sót. Đi mò cá cạn vui không kém đi nơm. Cả nhà, già trẻ, trai gái gì cũng xuống bắt cá. Mặt mày lem luốt bùn đất, nhưng không thiếu tiếng cười, tiếng í ới gọi nhau vang động một góc quê vốn yên ả, thanh bình…

Nhưng rồi những vũng nước ấy cũng cạn dần, kế đó nước trong các ao, đìa cũng rút xuống. Lúc này muốn bắt hết cá chỉ cần tát là xong. Hồi xưa, khi chưa có có máy bơm nước như bây giờ, mỗi lần tát đìa người ta phải dùng sức người. Tát đìa là một dịp vui ở đồng quê nên trong ký ức của những người lớn tuổi ở đây chắc còn nhớ rõ. Tát đìa thì dùng gàu dai. Gàu dai là một cái gàu nhỏ giống như một cái thúng, nhưng đáy túm dẹp lại, trên miệng có cột bốn sợi dây luộc dài để cho hai người đứng ở hai bên nắm lấy kéo và giựt. Từ sáng sớm phải bắt đầu tát, vì một cái đìa thường thường phải mất khoảng 2-3 giờ đồng hồ hay hơn nữa mới tát cạn.

Săn thú rừng U Minh

U Minh bốn bề là tràm. Những đám tràm nguyên sinh bạt ngàn đã tạo nên chốn rừng thiêng nước độc, “xuống sông sấu bắt, lên rừng cọp tha”.

Ngày nay, rừng U Minh đã teo tóp rất nhiều dưới tác động của con người, thú rừng cũng không còn nhiều nữa. Những thợ săn thú rừng xưa kia đa phần đã ra đi, người còn lại cũng thuộc hàng cao niên và đã rửa tay gác kiếm. Nhưng huyền thoại về những tay thợ săn “vang bóng một thời” thì vẫn còn tươi rói và sống mãi với thời gian.

Từ huyền thoại Út Ẩn…

Trong cái không khí se se lạnh còn sót lại của những ngày cuối đông, tôi khoác lên mình chiếc áo gió cho đỡ lạnh rồi lên xe rong ruổi tìm về vùng đất rừng U Minh. Từ thành phố Rạch Giá, chạy xe chừng hơn 60km là tới Vườn Quốc gia (VQG) U Minh Thượng. Theo những người giữ rừng ở đây thì ngày xưa rừng U Minh là cả một vùng đất rộng lớn. Chính giữa có dòng sông Trẹm chạy cắt ngang chia thành thành hai phần, nửa trên được người dân gọi là U Minh thượng, nửa dưới là U Minh hạ.

Dưới tác động của con người, hai vùng thượng (nay thuộc tỉnh Kiên Giang) và hạ (thuộc tỉnh Cà Mau) ngày càng xa nhau chứ không chỉ còn cách con sông như trước. Tìm hỏi về những tay thợ thăn thú rừng, hầu hết những người trẻ tuổi đầu lắc đầu không biết. Bởi khi họ sinh ra rừng U Minh đã cạn kiệt lắm rồi. Hơn nữa, giờ rừng được bảo vệ nghiêm ngặt, nhiều loại thú rừng thuộc diện nằm trong sách đỏ nên chẳng ai dám đi săn nữa. May thay, tôi được một vị cao niên chỉ cho địa chỉ nhà ông Út Ẩn (Trần Long Ẩn), một thợ săn thú rừng có tiếng ngày xưa.

Nhà ông Út Ẩn nằm cặp theo kênh xáng Xẻo Rô, ở xã Đông Hòa, An Minh, Kiên Giang. Đó là căn nhà được làm bằng gỗ tròn khá vững chắc, lợp mái ngói. Tôi tìm đến nơi thì đã là lúc chiều tà, ông Út Ẩn đang chăm sóc vườn cây kiểng bonsai quanh nhà. Ở cái tuổi thất thập nhưng ông Út Ẩn vẫn còn rất nhanh nhẹn với thân hình rắn chắc, đôi tay cơ bắp thoăn thoắt cắt sửa từng cây kiểng. Ngày ngày, ông vẫn đi ruộng, nuôi tôm cùng con cháu. Nghe tôi hỏi về chuyện săn thú rừng, ông cười khà khà: “Chuyện đó xa xưa lắm rồi, đồ nghề giờ cũng vứt hết cả rồi”. Nói xong, ông Út ngừng tay, mời vô nhà uống nước trà.

Câu hỏi của tôi như xới vào mảnh vườn ký ức, nhấp ly trà nóng, ông Út chỉ tay về phía bên kia sông: “Cả vùng này ngày xưa toàn là rừng, chỗ thì tràm bạt ngàn, chỗ thì sậy ống, ô du, cỏ dại, dây choại… cao vút đầu người. Giờ người ta phá làm lúa, nuôi tôm hết cả”. Chẳng biết gia đình đã gắn bó với vùng đất này từ bao giờ, ông Ẩn chỉ biết từ nhỏ mình đã lớn lên tại đây. Ngày ngày theo tía và các anh vào rừng khai hoang làm lúa, lúc rảnh thì đi săn thú cho vui.

Sống ở chốn rừng thiêng, phải biết chút ngón nghề chiến đấu với thú dữ phòng thân. Cũng như cây tràm học cách thích ứng với thiên nhiên khắc nghiệt. Dần dà, ông cũng thành thạo cách sử dụng mác rừng (tương tự như cây giáo, dài khoảng 1,5-1,7m, cán bằng cây gỗ mọc lâu năm trên núi, đầu bịt nhiều khoen thép) và các đường roi hiểm, cách đặt bẫy để săn thú. Ngồi một lúc, như chợt nhớ ra điều gì, ông đứng phắt dậy đi vào phía sau nhà cầm ra một vật như cây giáo cũ. “Mác rừng đấy, bỏ nghề tôi chỉ giữ nó lại để làm kỷ niệm, lâu lâu lấy ra xem cho đỡ nhớ rừng”.

Thuở Út Ẩn còn trai trẻ, rừng U Minh còn bạt ngàn với rất nhiều loài thú lớn như heo rừng, cọp, mèo rừng (tiếng địa phương gọi là cáo hoặc chồn). Cũng như nhiều thợ săn khác ở vùng này, ông Út coi công việc đi săn như là thú vui giải trí, bắt được thú lớn thì chia cho cả xóm thưởng thức chứ không bán. Mỗi chuyến vào rừng, ông Út thường dẫn theo đàn chó săn 4- 5 con, đây là những con chó lai, mỗi con nặng 30- 40kg, được huấn luyện để săn thú rừng. Thú săn được nhiều nhất là heo, mèo rừng…

 “Khi phát hiện con thú rừng, chó sẽ bao vây tấn công, người thợ săn phải nhanh chóng chọn hướng tấn công, dùng mác dâm thẳng vào cổ hoặc kẹt nách để hạ gục con mồi” – ông Út Ẩn hào hứng kể. Tuy đã hạ rất nhiều heo rừng nhưng ông Út vẫn tiếc nuối con heo đầu đàn ông từng nhiều lần giáp mặt mà không hạ được. Theo ông Út, con heo này màu trắng (heo rừng thường đen hoặc khoang), nặng khoảng trên 300kg, khi đi thường có hai “đệ tử” đi kèm theo hai bên. Ông đã nhiều lần lên kế hoạch săn nó nhưng chỉ hạ được một đệ tử của nó, nặng gần 200kg. Sau đó, ông có vài lần đụng độ nữa nhưng con heo đã khôn ngoan tìm cách thoát thân.

 “Không biết sau này có ai săn được hay con heo này đi đâu mất” – ông Út nói với giọng tiếc nuối. Ông có bao giờ đụng hổ? – tôi hỏi. Có nhưng mình phải tránh, “chúa sơn lâm” mà. Thợ săn ai cũng tin rằng rừng thiêng có chủ nhân của nó và tốt nhất là nên tránh mặt “ông” mỗi khi lỡ gặp. Theo ông Út Ẩn, khi đang đi rừng mà thấy đàn chó săn cụp đuôi, sợ sệt co cụm lại là biết “ông hổ" đang ở gần đây. Tốt nhất là nên lùa bọn chó xuống xuồng, rút êm để khỏi phải đối đầu.

Tuy tránh hổ nhưng mèo rừng (cáo) lại là thứ mà ông Út săn nhiều nhất. Đã có nhiều loài cáo bị Út Ẩn hạ gục như: cáo cọc, cáo ngựa (có mao giống ngựa), cáo sao, cáo mèo… Loại lớn có thể đạt vài chục ký/con, loại nhỏ thì chỉ vài ba ký. Trong đó, ông Út nhớ nhất là lần hạ gục con cáo cọc nặng tới 42 kg. Thuộc họ mèo nên con cáo này rất nhanh nhẹn và hung dữ. Bị chó bao vây nó tìm cách tấn công mở đường thoát thân, thậm chí còn cắn trọng thương cả con chó đầu đàn. Ông kể: “Tôi và đàn chó phải vật lộn một lúc lâu mới đâm được nó. Khi bị trúng đòn hiểm (đâm mác vào cổ), con cáo lồng lộn, gầm rú, đẩy tôi lùi xa cả tầm đất mới chịu nằm giãy chết”.

Sau giải phóng, ông Út Ẩn quyết định từ giã nghiệp đi săn, sống với công việc đồng áng của một nông dân thực thụ. Để đỡ nhớ rừng, những đêm trăng sáng, ông lại trải chiếu giữa sân, kể cho con cháu nghe về những buổi đi săn thủa nào.

Đến thợ săn miệt vườn

Chia tay ông Út Ẩn, tôi quyết định ngủ lại nhà người quen ở ven rừng một đêm. Đêm ở bìa rừng có nhiều cái lạ. Màn đêm vừa buông xuống là rừng trở nên sinh động hẳn. Năn nỉ mãi, tôi mới thuyết phục được ông Trần Văn Sử, một thợ săn miệt vườn dẫn ra sau nhà chỉ cho cách giăng bẫy. Vừa đội cây đèn pha lên đầu, ông Sử vừa nói để tôi khỏi thất vọng: “Giăng bẫy bây giờ cho vui là chính chứ rất ít bắt được mèo rừng (chồn)”.

Bẫy mèo rừng là loại bẫy cò ke, được làm bằng cọng dây cáp thắng (phanh) xe đạp. Muốn bẫy được mèo rừng thì phải biết tìm dấu chân, đoán đường mòn mà chúng thường lui tới. Và phải biết chọn địa thế đặt bẫy mới lừa được chúng. Ban đêm phải ra thăm không chúng sẽ cắn bẫy đi mất. Ông Sử kể, cách đây không lâu ông giăng bẫy ở vườn tràm sau nhà. Đêm đó trời đổ mưa nên làm biếng đi thăm. Sáng ra, cả vùng cỏ rộng mấy mét vuông bị phá nát, cần bẫy bị bẻ dập và cắn đứt ngang gốc. Vậy là đã xổng mất con mèo rừng.

Trong những chuyến đi đêm, có lần ông Sử đã tay không vồ được mèo rừng. Đó là lần ông đội đèn đi thăm vuông tôm sau nhà, từ xa chiếu đèn thấy con mèo rừng đang đi kiếm ăn. Bất chợt bị ánh đèn sáng chiếu vào mặt, thay vì bỏ chạy vào đám tràm gần đó thì con mèo nằm thụp xuống mô đất ẩn nấp. Từ từ tiến lại gần, ông Sử cởi chiếc áo thun đang mặc quấn vào tay rồi chụp đè con mèo xuống đất. Đây là con mèo rừng mới lớn, nặng gần 3 kg. “Cũng may có áo chứ không thì nói cắn hoặc cào vào tay là phải bỏ ra ngay. Nanh vuốt mèo rừng sắc lắm. Bị nó cắn là nhức buốt, phát sốt cả tháng”- ông Sử nói.

Diện tích rừng tràm ngày càng ít, những thợ săn miệt vườn như ông Sử cũng dần bỏ nghề. Ngoại trừ vùng lõi VQG U Minh Thượng, rừng tràm được bảo vệ, còn lại cây tràm đang bị người dân phá bỏ vì giá trị kinh tế thấp. Câu hát “U Minh bốn bề là tràm” giờ đã trở thành quá khứ, cây tràm đang phải nhường chỗ cho cây lúa và con tôm.

Nhưng bác Ba giới thiệu hài hước, dí dỏm: “Mỗi buổi sáng, giấc hừng đông thì lũ giang sen, gà dãy, lông ô, khoan cổ, chàng bè ra tập “thể dục” rần rần. Con nhỏ đứng trước, con lớn đứng sau chẳng khác nào cuộc duyệt binh, thiên binh vạn mã...”. Chim chóc rừng U Minh thuở trước dạn dĩ như con vật trong nhà: “Lũ chim chóc ngày đó dạn khì, chúng sống lẫn lộn với bầy gia súc. Chàng bè rề rề theo đổ trống vịt Xiêm, vịt đẻ, khi trứng nở ra, con nào con nấy cái mỏ nhọn thon như mũi kéo”, hay vì con cúm núm lai với gà nhà nên cúm núm trống ngoài đồng thì có hai “cái cựa nhọn lểu” còn gà trong nhà thì đêm đêm gáy “ò ó o... cúm! ò ó o... núm!” (Truyện “Vài nét về rừng U Minh thuở trước”, sđd, trang 390). Truyện “Chim chuột ở U Minh” kể rằng: Bác ba đội thúng lúa giống ra ruộng để gieo mạ, khi nhấc thúng lúa xuống thì không còn hột lúa nào. Thì ra là “Chim bay nghe rần rần mát trời, làm tui tưởng mây kéo, gió thổi chuyển mưa tới” và ăn sạch thúng lúa giống. Rút kinh nghiệm, lần sau, bác Ba bẻ nhánh chà vừa đi vừa quơ phía trên đầu cho chim đừng xáp lại. Bác Ba sạ xong, quay lại thì không có một hột giống rớt xuống đất. Mà toàn là chuột: chuột tơ, chuột già, chuột nái... “ba chân chạy còn một tay đưa lên hứng những hột lúa giống của mình từ trên vãi xuống mà bỏ vô miệng nhai lép nhép” (sđd, trang 393). Thấy con trâu giãy chết mà lại “muốn cất mình bay”, bác Ba trai với bác Ba gái lấy rơm nhét chỗ “đít con trâu bị lủng một lỗ” và hì hục kéo con trâu về. Lấy dao làm thịt, dè đâu bầy quạ đã khoét đít chui vào ăn hết lục phủ ngũ tạng. Kết quả là “Tui với bả bắt ra được ba trăm hai mươi sáu con quạ vừa lớn vừa nhỏ”! (truyện “Sân quạ”, sđd, trang 398). Giống nếp Cò Hương của bác Ba có lẽ là dẻo đến “hiếm thấy”: bác Ba mời bạn ăn bánh ít thử nếp dẻo cỡ nào. Vừa bỏ vô miệng thì bạn bác Ba chỉ biết gật đầu vì hai hàm răng đã bị bột nếp dính cứng ngắt. Còn bác Ba vừa mở vỏ bánh đã dính chặt vào bàn tay, tức quá, bác Ba rảy một cái thế là cái bánh ít dính trên xiên nhà. Con chó của bác Ba thấy tiếc nhảy lên “hưởng sái” thì bị treo tòn ten trên cây xiên nhà. (“Nếp dẻo”, sđd, trang 466).

Có thể khẳng định rằng qua các câu chuyện kể, chứng tỏ bác Ba Phi là người rất am tường, gắn bó và hơn hết là một tình yêu với vùng đất cuối phương Nam nên mới có thể miêu tả đầy hào hứng và có phần trào lộng như thế. Muốn biết đích xác sự thật thì “Không tin thì hỏi bác Ba gái mày thử coi!”!!!

Mảng nội dung phong phú nhất trong hệ thống truyện cười bác Ba Phi là chuyện săn bắt động vật rừng U Minh và khai thác sức mạnh của thiên nhiên, sản vật. Một số truyện tiêu biểu và quen thuộc: “Chiếc tàu rùa”, “Bắt cá kèo”, “Cọp xay lúa”, “Gác kèo ong mật”, “Ếch đờn vọng cổ”, “Heo đi cày”... Mảng nội dung này thường có một nhân vật song song với bác Ba Phi là “thằng Đậu” - cháu đích tôn của bác Ba, rất thông minh, lém lỉnh. Điều đáng chú ý là các con vật: ếch, rắn, rùa, heo, cọp, khỉ, cá trê... trong truyện Ba Phi đều được nhân cách hóa, lắm khi chúng còn biết “chơi khăm” lại ông cháu bác Ba Phi. Trong truyện “Ếch đờn vọng cổ”, trước khi ăn con vịt mồi mập ú của bác Ba, con ếch “ngó dáo dác, mặt mày hớn hở, gật gật đầu mấy cái. Con ếch khỏa bèo, hớp nước súc miệng sào sạc, phun ra cái phèo...”. Con ếch mà bác Ba kể cũng thuộc loại khổng lồ – bác Ba gọi là “ếch bà”: bác Ba giăng bằng 6 sợi dây chì nhập một, lưỡi câu là sợi dây thép quai thùng dầu hôi thế mà khi bị mắc câu, con ếch giãy giụa làm cho “Sáu sợi dây bật ra những tiếng kêu bổng trầm “tằng tăng, tùng tẳng” khác nhau. Tui ngồi nghe. Sao có chỗ vô sang, ra hò mùi quá!”. “Tức cảnh sinh tình”, bác Ba ca sáu câu vọng cổ mà “ăn đờn” hết chỗ chê! Lần khác, rừng U Minh bị cháy, bác Ba Phi với thằng Đậu vội vã lấy ghe tam bản trọng tải hơn chục tấn chống vô rừng. Động vật trong rừng chạy bán sống bán chết tìm nơi an toàn. Có một bầy rùa nhiều không kể xiết: nào rùa vàng, rùa quạ, rùa nắp, rùa hôi, rùa đém... đang chậm chạp bò xuống mé kinh Đường Ranh. Bác Ba Phi bắt tấm đòn dày từ bờ kinh xuống ghe. Thế là bầy rùa lũ lượt “quá giang” ghe của ông cháu thằng Đậu. Thấy rùa “chất lượng không đồng đều”, thằng Đậu còn nói với ông nội lấy sào gạt mấy con rùa nhỏ xuống kinh. Chỉ trong chốc lát mà chiếc ghe tam bản đã khẳm mẹp, phía ngoài, rùa bám hai bên ghe chật nứt. Vừa tháo dây mũi, chiếc tàu rùa lướt sóng kinh Đường Ranh mà thẳng tiến, đến nỗi xuồng chở lúa của bà con sắp chìm vì sóng quá dữ dội. Bác Ba Phi không biết làm sao giảm tốc độ đành bãi buôi: “Tàu rùa! Tàu không có gắn máy. Tàu rùa, tốp máy không được!” (“Chiếc tàu không động cơ” – Anh Động sưu tầm, biên soạn, NXB Thanh niên, 2006). Ở một số truyện khác, bác Ba Phi khiến cọp phải xay lúa sáng đêm hết cả bồ lúa hơn hai chục giạ của nhà bác Ba hay rắn hổ mây “ngoan ngoãn” tát đìa cho ông cháu bác Ba bắt cá...

Mảng nội dung bác Ba Phi đánh giặc, tuy số lượng không nhiều nhưng đã minh chứng tấm lòng của Bác Ba Phi với quê hương xứ sở. Cũng giống như những người dân vùng rừng Cà Mau, bác Ba Phi cũng căm thù giặc, ý thức chống giặc ngoại xâm. Những tình huống tưởng gay go nhưng trong truyện bác Ba Phi thì “dễ ợt” với cái nhìn lạc quan. Chiếc đầm già từ hướng Cà Mau bay vào cứ đảo vòng vòng Lung Tràm, Kinh Ngang. Bác Ba thấy “chướng mắt” vì “Tụi Mỹ, Diệm không đi coi chỗ đóng bót thì cũng vẽ họa đồ để lấn đất”. Thấy bác Ba xách phảng, mặt hầm hầm, “chiếc đầm già bị lệch tay lái, húc vô ngọn dừa gãy lòi củ hũ”. Bác Ba giơ phảng định chém thì tên lính Mỹ lái đi mất. Bữa sau, giặc lái trực thăng, “cồng cộc”, “cán gáo”, phản lực... vô trả thù bác Ba. Bác Ba Phi lấy phảng ra chém lia lịa làm chúng hoảng hồn cất ngược lên trời. Một chiếc “cán gáo” chạy không kịp đã bị bác Ba chém mất khúc đuôi, cắm đầu xuống kinh Lung Tràm (truyện “Chém trực thăng”). Hay tên quận trưởng Nhung bị Ba Phi “dợt tơi bời” trong truyện “Nói dóc có sách”.

* * *

Không gian trong truyện kể bác Ba Phi hoàn toàn khu biệt trong địa giới rừng U Minh với những “nhân vật” vốn là đặc sản của khu rừng này như: lúa gạo, trăn, rắn, rùa, mật ong... Tuy nhiên, đặc sản, sản vật trong truyện của bác Ba Phi cái gì cũng to, cũng lạ, cũng khác thường và “rất Ba Phi”. Nét độc đáo trong truyện này là cảm hứng nhận thức thế giới và quá trình tư duy, xác lập mối quan hệ giữa hiện thực và hư cấu nhằm hợp lý hóa trong quá trình vận động của dòng truyện kể. Lẽ dĩ nhiên, bác Ba Phi là người có khiếu kể chuyện vừa thu hút, ấn tượng và khiến cho người nghe tưởng là thật với khuôn mặt “tỉnh bơ”. Ngôn ngữ trong truyện thường là ngôn ngữ nói, ngôn ngữ kể chuyện với lớp ngôn từ “rặt ri Nam bộ”, mang những nét văn hóa đặc sắc của người dân nơi đây. Một điều dị biệt trong truyện Bác Ba Phi và có ý nghĩa triết lý nhất là dù phải đối mặt với biết bao nguy hiểm, thử thách của thiên nhiên, thổ nhưỡng rừng U Minh nhưng bác Ba vẫn thắng tất cả bằng tinh thần lạc quan, ý thức chiếm lĩnh hiện thực tự nhiên của con người. Nhưng trước hết, truyện kể bác Ba Phi có chức năng chính là giải trí, chọc cười cho vui. Nghệ thuật căn bản là trào lộng, phóng đại sự việc. Điều thú vị và gây ấn tượng mạnh với người nghe là khi kết thúc các câu chuyện, bác Ba đều “vớt” thêm một câu: “Không tin thì hỏi bác Ba gái mày thử coi!”.

Tiếng cười của bác Ba Phi không cay cú, hằn học, không cạnh khóe, soi mói mà đồng điệu với thiên nhiên. Về Cà Mau, về với những cánh rừng thoang thoảng hương tràm, những vạt đước ăn sâu vào lòng đất, về để nghe truyện Ba Phi. Cười “cùng bác Ba Phi” để rồi mỗi người thêm yêu và nâng niu mảnh đất cuối cùng Tổ quốc này cùng những thành quả mà tiền nhân đã dày công gầy dựng. Gần đây, những cuộc hội thoại khoa học về “Truyện kể Bác Ba Phi” được tổ chức với những tham luận của các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian Việt Nam. Bác Ba Phi được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam truy tặng danh hiệu “Nghệ nhân dân gian” vào năm 2002. Hiện nay, khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi đã được tỉnh Cà Mau xây dựng thành tuyến du lịch – văn hóa.

RẠCH BÙ MẮT

Ngày xưa ở miệt Rạch Giá, nhất là Cà Mau, muỗi và bù mắt không nơi nào là không có. Nhưng rạch Bù Mắt ở Cà Mau thì nổi danh có nhiều bù mắt không đâu bằng.

Bù mắt ở đây đã cón hiều lại hung dữ có người ở xa, nhất là thành thị thấy khó tin.

Tương tuyền rằng: thuở ấy có viên thanh tra tiểu học có việc phải đi ngang qua đây, biết nơi đây có nhiều bù mắt đến nỗi có tên là rạch Bù Mắt, ông không tin mấy, dù vậy ông cũng chuẩn bị trước thiệt kỹ. Ngồi trên chiếc tam bản có mui, trong mui có giềng mùng, cửa mui đóng chặt lúc ban đêm. Ông đến rạch này lúc gần tối, định sáng hôm sau mới ghé nhà người bạn, nên ông nói với người chèo ghe:

- Mình dọn cơm ăn sơ sài, không nên đem làm phiền chủ nhà. Đêm nay mình nghỉ dưới tam bản này cho thảnh thơi. Nhà bạn tội chật chội, lại nhiều con nít, dưới này gió mát.

Người chèo ghe bèn nấu cơm, hấp lại hai cái trứng vịt. Cơm chín dọn xong, hai trứng vịt đã lột vỏ, để trong cái tô, nước mắm thì đựng ở đĩa, chưa đổ vào tô.

Bỗng chủ nhà trông thấy, liền chạy xuống:

- Xin mời ông lên nhà.

Khách tỏ ra nhã nhặn:

- Thôi tối rồi, chúng tôi ngủ dưới này cũng được.

Chủ nhà nói:

- Bù mắt nhiều lắm. Một lát nữa thì biết. Hay lên nhà mắc mùng rồi chui vô mùng mà ăn cơm. Coi kìa!

Người khách đập muỗi, đập bù mắt luôn tay, vẫn cười gượng gạo tin rằng mình đủ sức chịu đựng. Theo phép xã giao, đến đất người mà chê nhiều muỗi, nhiều mòng là mất lịch sự.

Chủ nhà khuyên tiếp:

- Coi chừng không chịu nổi đâu! Coi kìa, tôi nói không sai. Ông ngồi đây chịu đựng được nhưng còn thức ăn, như thế đó thì làm sao ăn được?

Người khác quay lại mới thấy: hai cái trứng vịt luộc lột vỏ màu trắng phếu lúc nãy, thì giờ đây đen thui như cục than bùn. Bù mắt bu đen kín hai cái hột vịt, vì bù mắt thích bu vào những chỗ ẩm ướt.

Chủ nhà nói:

- Cho xuống nước mà rửa.

Hai cái trứng vịt được rửa sạch, hai thầy trò đem vô mùng cùng ăn.

Đây là lần đầu tiên người khách chứng kiến sự thiệt ở rạch Bù mắt. Hôm sau, đi dạo quanh xóm, người khách biết thêm phần lớn dân nghèo ở đây đều ốm o và ghẻ lở đầy mình. Vì không có mùng, ban đêm phải nhúng nước cái nóp để bù mắt không chui vào. Mùa nóng nực gần như suốt đêm không ai ngủ được. Bù mắt khi chích người thì ưa gom lại một chỗ, nói theo địa phương là bù mắt “xây đùn” chích gom thành một chỗ khiến sưng thành mụn đen sạm

SỰ TÍCH CÁI KHĂN TANG

Ngày xưa, có vợ chồng phú hộ nọ sinh được năm người con gái. Giàu có lại không có con trai, nên bao nhiêu tình thương đều dồn vào những cô con gái. Họ được cưng như trứng mỏng, hễ đòi gì là được nấy. Lần lượt năm cô lớn lên, lấy chồng và đi ở riêng.

Vì các con gái đều lấy chồng ở xa, nên sau khi cô con út ở riêng được ít lâu, vợ chồng phú hộ cảm thấy nhớ các con quá. Họ tính chuyện chia nhau đi thăm các con. Một hôm, vợ bảo chồng:

- Sắp tới, ông chịu khó ở nhà trông nhà để tôi đi thăm chúng nó một lượt, sau đó tôi về trông nhà cho ông đi.

- Phải đó - người chồng đáp - nhưng bà phải đi mau lên mới được, đừng bắt tôi phải đợi lâu.

- Không được đâu, tôi tính ở lại với các con ít lắm mỗi đứa là một tháng, năm đứa vị chi là năm tháng, còn đi đường mất vai ba chục ngày, như vậy cũng phải mất ngót nửa năm đó!

- Thôi được, bà nó đi, bà nhớ đừng cho đứa nào quấn quít quá, rồi ăn dầm nằm dề hoài làm tôi trông đợi.

Vậy là người cùng con hầu ra đi. Nhưng chỉ được ít tháng, chồng đã thấy vợ trở về, vẻ mặt buồn xo, chồng hỏi dồn:

- Con có làm sao mà bà về mau vậy, có gặp điều gì dọc đường không mà vẻ mặt không được vui?

Vợ đáp:

- Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó đều khỏe mạnh, tôi về sớm vì không muốn để ông trông đợi, ông cứ đi một lần cho biết.

Thấy vợ nói úp mở, phú hộ chưa hiểu biết thế nào cả, cuối cùng cũng sắm sửa hành lý ra đi.

Ông ghé vào nhà người con gái thứ nhất. Chàng rể tiếp đón niềm nở làm ông rất hài lòng. Nhưng con gái ông thì không được như vậy. Nó chỉ trò chuyện giả lả được ít câu, rồi quay vào công việc của nó. Nhà các chàng rể của ông đều thuộc hàng khá giả, không kém gì ông, cho nên con gái ông còn mải trông coi kẻ ăn người ở, không lúc nào rảnh rỗi Đến chừng chồng nó ra đồng trông cày, coi cấy thì con gái ông còn chuyên cả việc bếp núc, lúi húi suốt buổi trong bếp, cha con chẳng có dịp trò chuyện. Mãi đến trưa, ông cảm thấy đói bụng như cào, nhưng con ông chẳng chịu co ông ăn ngay. Ông toan bảo nó cho mìnhăn trước như khi nó còn ở nhà, nhưng rồi lại nghĩ thầm: “Để còn xem, nó đối xử với cha nó như thế nào”.

Ông thấy con gái chờ chồng nó đi làm về mới dọn cơm ra. Nhưng chàng rể của ông lúc ấy tuy đã về rồi nhưng còn bận một số công việc, cho nên ông phải đợi. Đến chừng thấy quá trưa, con gái ông mới bảo chồng:

- Mình ơi! Hãy để đó, vào ăn cơm cho ông già ăn với!

Nghe con nói thế, ông cảm thấy không được vui. Bữa cơm chiều và liên tiếp ngày nào cũng vậy, con gái ông chăm sóc cho chồng nó chứ chẳng phải cho ông. Ông rất buồn, bụng bảo dạ:

- Thì ra bây giờ nó coi cha nó chẳng ra cái quái gì, chồng nó không ăn thì có lẽ mình phải ngồi nhịn đói.

Ở chơi được ít ngày, thấy con gái không vồn vã như xưa, ông bèn bỏ dự định cũ là chơi một tháng, rồi vội vã từ giã chàng rể và con gái để đến nhà người con gái thứ hai cách đấy non một ngày đường. Trong cuộc hành trình này ông nghĩ bụng: “Chắc đứa sau phải khác, chẳng lẽ đứa nào cũng vậy sao? Vợ chồng ta còn trông cậy chúng nó rồi đây sẽ chia nhau về phụng dưỡng một khi cha mẹ già kia mà”.

Nhưng đến nơi, ông lại đâm ra thất vọng. Nhà chàng rể thứ hai tuy không giàu bằng chàng rể thứ nhất, nhưng cũng có của ăn của để. Vợ chồng nó khi thấy cha đến cũng tiếp đãi gọi cho tròn bổn phận, rồi lại loay hoay vào công việc nhà chồng, chẳng chịu bớt chút thời giờ hàn huyên cho bõ những ngày cha con xa nhau.

Lần lượt ông thăm đủ năm cô con gái quý, nhưng chẳng đứa nào quan tâm chăm sóc đến ông như lúc còn ở nhà. Sau cùng ông chép miệng:

- Vậy là con gái, một khi đi bước về nhà chồng thì chẳng còn là con nhà mình nữa. Nó xem trọng chồng hơn cha mẹ ruột.

Rồi ông quay trở về. Ông tính lại thời gian đi thăm con, kể cả đi lẫn về, không đầy hai tháng, so với chuyến đi của vợ còn ngắn hơn. Nỗi buồn phiền làm ông khó ở trong một vài tuần. Khi đã bớt, ông gọi vợ lại mà bảo rằng:

- Thế là để được mấy đứa con gái, có cũng như không. Hy vọng trông cậy chúng nó đỡ đần lúc tuổi già là không được nữa. Bây giờ bà nó ở nhà để tôi đi kiếm một đứa con nuôi đi mai sau nó chăm sóc chúng mình lúc mắt lòa chân chậm. Bà nó nghĩ sao?

Vợ phú hộ trả lời rằng:

- Thôi ông ạ! Ông đứng có mất công nhọc xác. Con đẻ dứt ruột ra mà chúng nó không đoái hoài tới mình thì con nuôi có hơn gì. Để tôi kiếm cho ông người vợ lẽ. Không biết chừng nó đẻ cho chúng ta một đứa con trai nối dõi tông đường, chẳng phải tốt hơn ư?

- Trên đời này, có kẻ xấu, người tốt, không phải ai cũng như ai, bà đừng ngại. Tôi đi tìm năm bữa, nửa tháng mà không xong thì trở về rồi sẽ tính liệu sau cũng chưa muộn.

- Được rồi, ông cứ đi đi, cố tìm một đứa con ngoan, biết phụng dưỡng cha mẹ, mọi việc ở nhà mặc tôi lo liệu.

Phú hộ bèn đóng bộ một ông già nghèo khó, cất thân ra đi. Ông đi từ làng này sang làng khác, đến đâu ông rao:

- Có ai mua cha tôi ra mà mua. Mua ta về làm cha chỉ mất năm quan tiền thôi.

Mọi người nghe ôn già rao như vậy, ai cũng tưởng ông điên. Có người vui miệng nói:

“Mua lão già ấy về để mà hầu hạ, và để rồi đây lão ta trăm tuổi có được đồng nào phải lo tống táng ư? Thà là nuôi đầy tớ còn hơn”.

Tuy có nghe nhiều lời mỉa mai cười cợt, phú hộ vẫn không nản chí, vẫn đi hết óm này tới ấp kia, miệng rao không ngớt.

Bấy giờ ở một làng nọ, có đôi vợ chồng một nông phu nghèo. Nghe có người đi bán mình làm cha, chồng bảo vợ:

- Hai đứa mình mồ côi từ thuở nhỏ, chưa bao giờ được hưởng tình cha con, lại chưa có một mụn con nào, thật là buồn. Thôi thì ta mua ông già này về thủ thỉ với nhau khuya sớm thì vui cửa vui nhà.

Thấy vợ bằng lòng, anh chồng chạy ra đón ông già vào và nói:

- Ông định bán bao nhiêu tiền?

- Năm quan không bớt.

- Thú thiệt với ông, nhà tôi nghèo, muốn mua nhưng không có sẵn tiền. Vậy ông ngồi chơi để tôi bảo vợ tôi đi vay tiền.

Phú hộ ngồi chờ hồi lâu, thấy chị vợ chạy đi một lát lại trở về, nhưng số tiền vay chỉ được hai quan, người chồng nói:

- Hai ngày nữa mời ông trở lại, chúng tôi sẽ có đủ tiền.

Hai ngày sau phú hộ lại tới. Anh nông phu trao tiền cho ông và mời ông vào nhà. “cha cha con con” rất thân tình. Đoạn anh bảo vợ đi chợ lo cơm nước. Phú hộ thấy mái tóc của người vợ hôm nọ còn dài, bây giờ đã biến đi đâu mất, ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao tóc của vợ con lại cắt đi như vậy?

Anh nông phu tần ngần hồi lâu đáp:

- Chẳng giấu gì cha, nhà con nghèo không đủ tiền mua cha, mà nếu không mua thì cũng ít có dịp nào tốt hơn. Vì vậy, vợ con phải cắt tóc bán đi mới đủ số tiền năm quan đó.

Nghe nói, phú hộ làm thinh. Từ ngày có người ha nuôi, vợ chồng anh nông phu tỏ ra niềm nở và chịu khó chăm sóc hầu hạ không biết mệt. Phú hộ vẫn không cho biết quê quán gốc tích của mình, hằng ngày vẫn ăn no ngủ kỹ, đôi lúc còn kêu nhức đầu, đau lưng bắt họ phải xoa bóp hoặc tìm thầy chạy thuốc. Mặc dù vậy, hai vợ chồng vẫn cơm nước chăm sóc không bao giờ bê trễ. Cứ như vậy được vài tháng, nhà họ đã nghèo lại nghèo thêm. Họ phải cố gắng làm thêm để nuôi cha, có bữa phải nhịn đói để nhường cơm cho ông già. Tình hình như vậy kéo dài được nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều mà trong nhà thì gạo tiền đã hết.

Một hôm hai vợ chồng tỉnh dậy đã thấy người cha nuôi khăn gói chỉnh tề. Ông bảo họ:

- Các con ơi hãy đốt cái nhà này rồi theo ta!

 Vợ chồng đưa mắt nhìn nau tưởng ông già loạn trí. Nhưng sau đó ông già giục:

- Làm con thì phải vâng lời cha mẹ, cha đã biểu các con đi theo cha kiếm ăn, còn cái nhà ọp ẹp này chẳng đáng bao lăm, đừng tiếc nữa.

Hai vợ chồng không dám cãi, đành lượm lặt một vài món đồ buộc thành một gói, rồi châm lửa đốt nhà. Đi theo ông già, họ thấy ông lần hồi xin ăn, tối lại vào nhà người xin ngủ nhờ. Họ vâng lời không chút phàn nàn. Ba người lần hồi đi xin ăn như thế được năm ngày. Sau cùng đến một nơi nhà ngói, tường đá ông mới vui vẻ bảo họ:

- Các con đây đã đến nhà ta rồi!

Vợ phú hộ bước ra cổng đón vào, ông tươi cười bảo vợ:

- Đây mới thiệt là con ta.

Bây giờ hai vợ chồng anh nông phu mới biết được cha mẹ nuôi của mình là một ông nhà giàu có. Phú hộ bảo anh nông phu lấy theo họ mình và từ đó hai vợ chồng bước vào cuộc đời sung sướng.

Ít lâu sau, phú hộ lâm bệnh nặng, biết mình sắp gần đất xa trời, ông bèn đem tờ di chúc để phần lớn tài sản cho đứa con nuôi, đoạn ông gọi vợ đến trối:

- Sau khi tôi chết, bà nhớ đừng cho năm đứa con gái biết. Nếu chúng có nghe ai mách mà về đây, chưa biết chừng tôi sẽ “bứt néo”(1) cho mà coi, việc để tang thì đứa con trai cứ theo cổ tục cắt tóc, đội mũ, quấn rơm lên đầu để chứng tỏ mình chịu cực khổ với cha mẹ, thì thôi cũng được, nhưng đứa con dâu thì bảo khỏi cắt tóc, vì tôi chưa bao giờ quên được cái việc nó đã hy sinh mái tóc dài của mình để mua cha, vậy nó chỉ cần đội khăn tang là đủ.

Nhưng sau khi khâm niệm xong, bà phú hộ vì nặng tình thương con nên cũng cho người báo tin cho năm đứa con gái biết. Khi chúng về, bà đón ở cổng, thuật lại lời trối của cha cho chúng nghe và bảo chúng đừng có vào nhà kẻo có việc chẳng lành. Năm người con gái tỏ lòng hối hận nhưng việc đã rồi. Khi đưa linh cữu ra đồng, các con gái cố đòi đi đưa cho bằng được. Mẹ khuyên can các con mãi không xong cuối cùng đành phải chịu, ngoài khăn tang, còn thêm cho mỗi đứa một vuông vải để chúng che mặt lại, mong linh hồn cha chúng không biết.

Từ đó về sau tục lệ để tang này được người đời bắt chước: con trai cắt tóc đội mũ vành rơm, dây lưng chuối, con dâu miễn cắt tóc, chỉ đôi khăn tang lại miễn cả che mặt, còn con gái thì ngoài khăn tang còn có miếng vải con để che mặt.

CHUYỆN ÔNG Ó(1)

* ÔNG Ó MƯỢN TRÂU

Một hôm, ông Ó đến làng kia, thấy một anh nhà giàu đang làm đất để cấy. Ông Ó mới hỏi:

- Cha Cha! Hôm nay mà cấy chưa rồi à?

Anh nhà giàu trả lời:

- Năm nay làm nhiều ruộng, thuê người làm được có ít, trâu thì bịnh nên thiếu trâu cày. Còn vài chục công nữa mà không có trâu, phải làm tay như vậy thiệt khổ quá. Mà thuê người thì sợ tốn nhiều tiền.

Ông Ó vừa cười vừa nói:

- Nhà tôi ở gần mé rừng, nên có anh em gởi trâu để cho chúng ăn cỏ rừng. Đồng bên tôi thì cấy xong cả rồi, anh có chỗ nhốt thì tôi cho mượn vài con để làm ít bữa.

Anh nhà giàu tham lợi tưởng thiệt, ra mặt đon đả mời bằng được ông Ó vào nhà trầu nước tử tế, xong cho đầy tớ theo ông Ó đi bắt trâu về.

Nguyên năm nào cấy xong, mấy chủ trâu cũng thường làm chuồng gởi trâu tại mé rừng đó. Về tới nhà, ông Ó liền ra nói với mấy đứa trẻ chăn trâu, cho mượn bốn con trâu tơ không xỏ mũi, lấy dây chuối cột cổ, giao cho mấy tên đầy tớ nhà giàu kia, dứt đem về. Cái nghề trâu tơ khi đi xa, hễ nghe tiếng nghé ngọ thì giựt dây chạy trở lại. Mấy tên đầy tớ đành tay không ra về, thưa với chủ là trâu giật đứt dây chạy mất rồi. Anh nhà giầu đành chịu. Vài ngày sau, lại gặp ông Ó giữa đường cái, hắn trách ông Ó sao lại nói gạt hắn. Ông Ó liền cười trả lời:

- Vậy, không biết tiếng ông Ó ở xóm Dưa sao?

THAM THÌ THÂM

Có một bữa kia, ông Ó đi chợ mau đồ ăn. Ông đến thớt thịt định mua một ít, nhưng thằng cha bán thịt thấy ông ăn mặc lôi thôi thì có vẻ khinh, nói giá thiệt mắc (đắt) để ông mua không được, bỏ cho đi khuất mắt… Ông Ó biết vậy, giận lắm, liền nghĩ ra một mẹo làm cho cha này biết tay. Thường đi chợ về phải đi ghe, mà lúc đó ở dưới bến không có chiếc ghe nào. Ông ó thủng thỉnh quày trở lại thớ thịt lúc nãy, nói với ông lái thịt:

- Ông bán thịt coi có mòi đắt lắm, sao không thấy xuống xóm tôi mua heo.

Anh lái thịt lộ vẻ mừng rỡ:

- Dưới ông có nhiều heo lắm hả?

Ông Ó trả lời:

- Nhà tôi có một bầy heo mười mấy con, ai mua một lúc cả bầy tôi mới bán. Một hai lần có ghe lại mua, nhưng họ trả rẻ lắm không bán.

Anh lái thịt mừng quýnh vì thấy có một món lời ngon lành. Anh ta bèn nải nỉ mời bằng được ông Ó về nhà đãi cơm nước tử tế. Xong, cho ghe đưa ông Ó về nhà mua heo luôn thể. Ghe cặp bến thì vừa lúc gặp bà Ó đi xuống bénh gánh nước. Ông Ó vội nói thiệt lớn:

- Có ông này muốn mua bầy heo của nhà mình đây!

Bà vợ biết ý chồng, bèn xuýt xoa ra vẻ tiếc rẻ:

- Thiệt tiếc quá! Khi ông vừa đi khỏi thì có ghe lại mua, bắt đi rồi! Tội đi gánh nước về rửa ráy chuồng trại đây!

Anh lái heo nghe nói chưng hửng, đành cho ghe về không, nghĩ bụng không biết có phải mình bị gạt không

XỎ CON ANH NHÀ GIÀU

Có một anh con nhà giàu, tính hay chơi bời, khi thì theo ghe chài lưới, lúc thì lại theo bạn săn bắn. Hôm đó, đi săn trong rừng gần nhà ông Ó, anh này thấy dấu heo rừng ủi, thì hỏi ông Ó rằng:

- Ai làm gì mà đào hang, đào lỗ vậy?

Anh kia lại hỏi:

- Heo rừng thì cũng như heo mình, sao đất cứng như vậy mà nó ủi được?

Nghe vậy ông Ó liền trả lời:

- Trời sanh nó có một cái mầm ở mỏ cứng như sắt để nó ủi đất kiếm ăn!

Anh con nhà giàu nghe nói heo rừng, nhưng chưa thấy bao giờ nên tưởng thiệt. Một lát, bọn thợ săn giết được một con, hắn ta mừng lắm, bèn lấy con dao trong lưng ra xẻ cái mỏ heo để kiếm cái mầm cứng như sắt đó, kiếm hoài mà không thấy gì hết, mới lại ông Ó:

- Heo rừng có cái mầm trước mỏ, sao tôi kiếm hoài không thấy?

Ông Ó trả lời:

- Người ta thường nói nhà giàu miệng có gang có thép nhưng chết thì hết. Cái mầm của heo rừng cũng vậy, trời cho nó, nay nớ chết thì cũng hết còn đâu nữa mà hỏi!...

CHUYỆN LẠ Ở HUẾ

Sau thời gian ở Huế, ông Ó về tới nhà, anh em chòm xóm mừng, tới thăm hỏi:

- Ông ra Huế, có thấy cái chi lạ không?

Ông Ó nói:

- Thiếu chi cái lạ. Tôi thấy một khẩu súng để trước điện vua lớn hết chỗ nói. Hôm ấy, có người lính quen đưa tôi đi chơi, tôi thấy súng lớn, tôi trầm trồ, người lính bèn bắc thang dắt tôi lên cây súng coi chơi. Thình lình trời đổ mưa. Chạy đâu cũng không kịp, người lính liền dắt tôi chạy theo lỗ ngòi vào trong nòng súng mà tránh mưa, tạnh mới về. Các người nghĩ coi súng lớn đến dường nào?

Một người lại hỏi:

- Cây súng lớn như vậy, dùng để bắn giặc cướp hay để làm cái chi?

Ông Ó đáp:

- Ý chừng bày ra đó, để khi đức vua và các quan đi coi chơi, lúc có mưa thì vào núp, như tôi vừa rồi cũng nên.

Họ lại hỏi ông Ó có gặp mặt đức vua lần nào không.

Ông Ó nói:

- Tôi có đi với đông cung ra chỗ vua ngự nhiều lần.

Họ lại tò mò hỏi vua ăn mặc như thế nào?

- Áo đại trào của vua như đồ hát bội, có điều bằng vàng thiệt, có cái mão của vua nhiều tiền lắm.

Họ lại hỏi:

- Làm bằng gì mà nhiều tiền?

Ông Ó trả lời:

- Làm hết hai mươi cân vàng!

- Cha chả! Hai mươi cân vàng thì vua làm sao đội nổi?

Ông Ó nói:

- Vậy chớ các người không nghe, hễ làm vua thì có quan phụ chánh, quan ấy theo đỡ mão cho vua chớ làm gì.

NỒI NÀO ÚP VUNG NẤY

Có một bà mai (bà mối) nổi tiếng khéo ăn khéo nói, đám nào mà phải tay bà dứng ra mai mối thì nhứt định là phải xong.

Một hôm, có gia đình nọ, có một đứa con tai đến tuổi lấy vợ, nhưng ngặt nỗi cậu ta cụt hết một chân, phải nhờ cậy bà mai này tìm nơi cưới vợ cho con. Bà mai vì đi đó đi đây nhiều, biết ở xóm trên có một gia đình khá giả còn một cô con gái đã lỡ thời do có tật sứt môi, nên bà nhận làm mai mối cho cậu con trai. Bà mai sẽ được kiếng một cái đầu heo thiệt lớn.

Bà mai xách cặp rượu của nhà trai đến nhà gái, sau khi trầu cau, chuyện trò mưa nắng một hồi, bà mai mới nói với chủ nhà:

- Có cái đám này muốn làm sui gia với nhà bà chị, nhưng kẹt một nỗi là nhà bà chị khá giả, còn ở bển(1) tôi cũng nói thiệt là có kém hơn nhà bà chị, thì khỏi phải nói, hết sức siêng năng, làm lụng giỏi giang, nhưng có điều là hơi nghèo, “không có chân đứng” mần ăn thôi!

Thấy con mình đã lỡ thời, lại có tật, nên bà mai nói vậy, nhà gái liền nói:

- Không sao đâu chị, chị cứ về nói với ảnh chỉ(2) ở bên là tôi thuận cho bước tới. Cái gì chớ cái không chân đứng, thiếu vốn liếng mần ăn thì lúc tụi nhỏ nó thành vợ thành chồng rồi tôi bao cho vợ chồng nó hết!

Thế là xong một phía, bà mai trở về nhà trai nói:

- Xong rồi bà ơi! Bên nhà gái người ta khá giả lắm, lại ít con, mấy đứa lớn đã thành thân hết rồi, còn có en ẻn(3) ta là còn son giá. Phải chi bà có qua bên đó mà coi, ẻn làm lụng đâu đó vén khéo gọn gàng, một điều cũng dạ, hai điều cũng thưa; ẻn hết sức hiền lành nhu mì, chớ “không có môi mép” như người ta.

Nhà trai nghĩ con mình cụt một chân, nay may mắn gặp được một chỗ như vậy, còn lựa chọn gì nữa, nên thuận lòng ngay.

Thế là xong cả hai phía. Nhưng còn phải tính sao để làm đám cưới ngay, cho cô cậu không kịp biết nhau.

Trước ngày đám cưới. Nghĩ vậy, bà mai liền đến nhà trai rồi sang nhà gái nói y hệt một câu, để đốc thúc hai bên làm đám cưới gấp, bỏ hết nghi lễ rườm rà, bà mai nói:

- Con của bà có tật nguyền, mà bên kia người ta chịu làm sui với mình, sao bà không chịu tính tới làm đám cưới gấp cho rồi, để lần hồi kẻ nói ra, người nói vào, ở bển người ta đổi ý làm sao. Tôi nói thiệt, chớ hụt đám này thì khó kiếm được đáp nào như vậy.

Thế là hai bên nhà trai, nhà gái qua bà mai đã ưng thuận làm đám cưới ngay không dám chần chờ.

Đến ngày rước dâu, khi thấy chàng rể chống nạng bước vào nhà, cả họ nhà gái mới bật ngửa. Bà sui gái liền sừng sộ bà mai:

- Tại sao thằng cụt hết một giò mà hồi đó bà không chịu nói? Tôi biết cơ sự như vầy, tôi đâu có chịu gả.

Bà mai trả lời:

- Tôi có nói rõ ràng chớ, tại bà không để ý đó thôi. Tôi nói rằng: “Thằng không có chân đứng để mần ăn”. Bà nhớ chưa?

Bà sui gái ra chào ba mẹ chồng. Cô dâu mắc cỡ, tay cầm chéo áo, tay cầm khăn che miệng:

- A, ưa ía, ưa ớ ới a(4)!

Bà sui trai trợn mắt, nắm tay bà mai:

- Trời ơi! Sao kỳ vậy bà mai? Môi mép gì mà bất nhơn vậy? Sao hồi đó bà không nói trước?

Bà mai bình tĩnh cười đáp:

- Bà bây giờ cũng như bà sui gái hồi nãy. Bà hãy nhớ lại coi, tôi đã nói là “ẻn không có môi mép như người ta”, bà nhớ lại chưa?

Hai họ cười ầm lên.

Lúc bấy giờ ông sui trai mới nắm tay ông sui gái nói:

- Thôi anh, con gái anh sứt môi, con trai tôi cụt giò. Như vậy cũng xứng đôi vừa lứa lắm, “nồi nào úp vung nấy” mà!

KHỈ MẮC MƯU CỌP

Ngày xưa, vùng núi Sam còn lắm thú rừng. Nhiều nhứt là loài khỉ, kế đến là heo rừng, thỉnh thoảng một vài con hổ xuất hiện bất ngờ không biết từ đâu mò đến.

Giống khỉ khá tinh khôn mà phá phách cũng không kém heo rừng. Một miếng rẫy trên núi, khoai mì đang lứa củ non, chỉ một đêm không canh gác, khỉ mẹ, khỉ con, khỉ đột moi sạch sành sanh. Lớp cắn ăn tại chỗ, lớp buộc quanh bụng, quanh lưng đem về hang, hôm sau ăn thừa.

Có hôm đi rừng, bất chợt người ta gặp cả bầy khỉ hai ba mươi con trên lưng ngổn ngang những củ khoai mì, trông giống như những người thợ rừng cõng củi về nhà. Chủ rẫy tức tối, xách dao, gậy gộc đuổi theo, bầy khỉ chạy long nhong trên triền đá. Chúng chạy rất mau, người không sao đuổi kịp. Một lúc, thấy khoảng cách giữa chúng với người làm rẫy hơi xa, con khỉ đầu đàn dừng lại, cả bầy cũng dừng lại theo - trố mắt nhìn đối phương của chúng đã mệt nhoài, nhe răng kêu chí chóe, như trêu chọc cợt đùa.

Khi đuổi theo gần kịp, người làm rẫy giơ cây đánh bẫy khỉ lại chạy miết lên vồ đá thật cao, nhìn xuống mắt láo liên, miệng hí hí, như thách đố, đùa dai: “Ông có giỏi trèo lên đây”. Người làm rẫy ấm ức, chỉ còn cách nhặt từng hòn đá ném lên bầy khỉ cho đỡ tức giận. Bầy khỉ nhảy nhót, con khỉ đột lặng thinh, bẻ từng khúc khoai mì ngồi nhai rau ráu, như trêu gan người làm rẫy. Dễ ghét nhất là gặp phụ nữ, trẻ em đi lẻ, chúng kéo cả bầy bám theo bén gót tròng ghẹo, hù dọa, y như một đám lưu mạnh.

Loài khi tinh khôn và nghịch ngợm vậy đó.

Lần này bầy khỉ gặp một đối phương nhiều sức mạnh và lắm mưu mô. Một hôm sau khi phá sạch đám khoai mì của ông Ba Cổ, cả bầy ngật ngưỡng, ngất nga kéo nhau về hang đá. Mới đi xóm có một lạt quay lên đã thấy đám rẫy tan tành, ông Cổ nổi xung thiên, vác dao dâu rượt theo bầy khỉ. Gần tới hỏm núi rừng càng dày, một vài cây cổ thụ vươn cao. Đột nhiên bầy khỉ ré lên chạy tán loạn. Con khỉ đột đầu đàn nhanh nhẹn leo lên thân cây vông rừng to gốc, ngồi ngất nghểu trên cành cây cao nhứt. Cả bầy khỉ leo theo nhanh như gió. Ông Cổ ngạc nhiên dừng lại. Linh tính và kinh nghiệm đi rừng đưa tầm nhìn của ông vào lùm cây con bên hẻm đá. Một con hổ đang ngủ thu lu trong bụi rậm, chỉ thấy được đôi mắt và những vệt rằn trên mặt. Đúng là con hổ đói rình mồi. Hốt hoảng ông leo thoăn thoắt lên cây to gần đó. Chọn một cháng ba có thể đứng và có cành tựa sau lưng, ông thủ chặt con dao. Bầy khỉ nhốn nháo trên cành vông, gốc cây lởm chởm gai to.

Lão “chúa sơn lâm” lừ lừ rời khỏi cành cây, dáng vóc xấp xỉ con bò con, khoan thai đi về phía gốc cây vông, đuôi ngoe nguẩy. Nó thản nhiên ngồi xuống, hai chân trước hơi nhón lên, đuổi thong thả nhịp qua nhịp lại hai bên, vẻ mặt tỉnh khô, ngước nhìn bầy khỉ. Bất thần con hổ nhảy lên nhưng chỉ tới nửa thân cây. Bầy khỉ hú ré lên, chạy nhảy tứ tung trên những cành vông thưa lá. Con hổ ngồi lại chỗ cũ với cái thế sẵn sàng phóng lên như trước, dáng vẻ rất ung dung. Thình lình nó quật đuôi một cái nhảy vọt lên phía con khỉ đột đang ngồi. Cành cây cao quá, con hổ với không tới, nó rơi trở lại và nằm lăn ra, buông thõng bốn chân. Bầy khỉ lao xao một lúc, chừng như đã hoàn hồn, tất cả đứng rải rác trên cây nhìn con hổ nằm im như chết.

Con khỉ đầu đàn bạo dạn chuyền xuống cành cây phía dưới, rút một củ khoai mì đang dắt trong lưng vung tay ném vào đầu con hổ. Liệng hết khoai mì dắt quanh mình nó, con hổ nằm trơ, không nhúc nhích. Nó bẻ một cành cây liệng tiếp, bầy khỉ mon men bò xuống đứng quanh vị chúa tể của mình. Độp một cái, nó chộp con khỉ con, nhẹ nhàng nhảy xuống sau lưng lão “chúa sơn lâm”. Khỉ con vụt chạy biến rào rừng, con hổ vẫn nằm im. Ném thêm con khỉ nữa, ông “chúa rừng” vẫn lặng thinh.

Khỉ đột rời khỏi cành cây, thận trọng bò xuống gốc, bầy khỉ dáo dác bò theo. Vừa xuống tới đất, chưa hết bầy, con hổ vùng dậy, nhanh như chớp, nó tóm ngay con khỉ đột, vớ luôn hai chú đi cạnh khỉ đầu đành. Những con thoát được, con chạy ngược lên cây, con chạy bay lên ồ đá.

Con hổ nghiễm nhiên ngồi nhai nghiến những miếng thịt roi rói, nhễu nhão máu tươi. Chén hết những con mồi bắt được bằng thủ đoạn giả chết của mình, nó rảo bước vào khe nước với dáng điệu thỏa thê. Hú hồn, ông Ba Cổ tuột xuống, chạy bán sống bán chết về làng.

CON KHỈ KHÔ Ở ĐỒNG THÁP MƯỜI

Ngày xưa, sống ở Đồng Tháp Mười không những trẻ con mà cả người lớn, thời gian rảnh rỗi, không gì thú vị bằng đi sâu vào rừng tràm để hốt trứng chim, nhổ chân cong, giậm cù chuột, già bẫy quốc, đào hang rắn, ăn ong mật, bắt cá cạn…

Nó không chỉ là thú vui mà còn là dịp để thỏa mãn óc tò mò, khám phá phiêu lưu, mạo hiểm.

Tâm, con của Sáu Lái - một nông dân sống ở Đồng Tháp Mười nhà ở bờ rừng Tràm. Sau lần hốt trứng cò ngà và bị cha rầy la, buộc phải đem trứng cò trả vào bộng cây giá (vì Sáu Lái cho rằng hốt trứng cò ngà là xúc phạm tới “bà, cậu” gì đó), Tâm đã bị cấm, không được đi sâu vào rừng tràm nữa.

Nhưng tính con nít ham vui, không thể nào ngăn cấm chúng được. Sau vài lần bị đòn, thằng bé Tâm trở nên dạn roi, không biết sợ nữa, thét rồi Sáu Lái bỏ mặc thằng “con ngỗ nghịch” muốn làm gì thì làm.

Một hôm, Tâm tay xách mác vót, tay cầm giàn thun đi sâu vào rừng tràm. Tâm đi mải miết từ lúc mặt trời vừa mới ló khỏi đọt cây cho tới đứng bóng, vì tức con chim lạ cứ kêu tiu líu và bay sà sà trước mặt như khiêu khích tài bắn của nó… Thấy con chim đẹp, Tâm quyết bắn cho được, rồi căng cánh phơi như cha nó thường phơi mấy con chim sả màu lông rực rỡ; con chim này còn đẹp gấp mấy lần con chim sả. Nhưng lạ quá, Tâm rượt đuổi thì nó chỉ bay chớp chớp trước mặt cách chừng vài ba thước, hễ Tâm đứng lại thì nó cũng đậu lại trên cành cây trước mặt, xoay mặt về phía thằng bé mà gục gặc cái đầu kêu tíu líu rắn rỏi. Tâm bắn rất cừ, nhưng khi viên đạn bay vèo tới, thì nó huých cái đuôi chổng lên, viên đạn chỉ xém nó trong đường tơ kẽ tóc. Nó kêu mấy tiếng tiu líu rồi bay sà sà trước mặt Tâm.

Con chim dẫn dắt Tâm tới vạt rừng tràm nổi danh là nhiều khỉ. Nó bay lên cây giá có cái vọng thì nó đậu trên nhánh cây, gục gắc cái đầu kêu tíu lúi. Tâm nhớ đến mấy cái trứng cò ngà ở bộng cây giá vàm nọ, nó tiếc, nó thò tay vào mò. Nhưng con con “mắc dịch” kia cứ tiu líu, tiu líu trên đầu. tâm lựa chỗ để bắn trúng, rồi nghiêng người nhắm bắn. Bỗng nó thấy giữa cháng ba cây giá có xác một con khỉ đã khô. Tâm không để ý đến con chim nữa, nó leo lên cây đem xác con khỉ xuống. Hai tay con khỉ bám chặt vào nhánh cây giá, Tâm phải dùng mác vót chặt đứt nhánh cây mới đem con khỉ chết khô xuống được.

Xác con khỉ khô cứng, mắt lõm sâu vô, ngực bụng tóp lại, nhưng lông vẫn còn nguyên. Chắc con khỉ này già lắm, lông nó trắng như tuyết. Con khỉ đã chết nhưng không có mùi hui thúi, trái lại còn phảng phất mùi thơm lạ lùng, mùi đó lại không giống mùi của thứ hao nào cả. Mùi thơm ấy về sau Tâm mới biết là do mùi trầm cây giá ướp vào. Cây giá này đã sống đến cả ngàn năm rồi, ít có cây giá nào lớn, thế mà cây này to đến vài ba người ôm. Những cây sống lâu năm đều có trầm, mà trầm cây giá là trầm quý nhứt, những cây nhỏ ở gần cũng thơm lây. Tục ngữ ta có câu: “Không thơm cũng đưa hơi trầm” là vậy. Thế mà cây giá này không có mùi thơm, vì bao nhiêu mùi thơm đã ướp hết vào xác con khỉ.

Tâm xách xác con khỉ về đến nhà thì trời đã chạng vạng. Nó bị Sáu Lái đánh một trận đòn nên thân. Tâm bèn thú nhận là tại con khỉ khô nên mới bỏ nhà đi suốt ngày. Sáu Lái không màng để ý, nhưng thây mùi hương từ xác con khỉ xông lên, nên ông cũng lấy làm lạ.

Hằng ngày, Tâm mang xác con khỉ ra phơi, mùi hương xông lên, ruồi nhăng bay đi bớt.

Rồi một hôm, có người Hoa bán cao đơn hoàn tán đến nhà Sáu Lái. Khách cứ nhìn và hỏi hết chuyện nọ đến chuyện kia về con khỉ khô, và dụ Tâm bán cho ông ta… tâm từ chối vì tiếc bộ lông trắng và cái mùi hương phảng phất từ xác con khỉ khô.

Sáu Lái thấy người khách năn nỉ mãi và đòi mua với giá cao quá mức tưởng tượng của ông, nên ông cho rằng chắc con khỉ khô này quý lắm. Bởi thế ông nói cho khác biết là nhứt định không bán, vì một tiệm thuốc bắc ở Chợ Lớn đã dặn mua trước rồi.

Người khách không nản chí, vẫn kèo nài:

- Thôi, để cho ngộ đi, bao nhiêu cũng được.

Sáu Lái ướm thử:

- Bao nhiêu là bao nhiêu, bốn chục ngàn(1) nị dám mua hông?

Khách lè lưới:

- Há, cái gì mà mắc quá sá vậy? Nị bớt xuốt đi, cục vàng to bằng nó cũng không mắc như vậy, hà.

Sáu Lái nhứt định:

- Mắc thì thôi! Vàng còn dễ có, chứ con khỉ khô có xạ hương tìm mấy ngàn năm cho được.

Người khách biết anh Sáu không hiểu được cái quý của con khỉ khô nên cười lớn:

- Hầy, khỉ làm gì có xạ? Trầm ở cây giá ướp vào đó. Nị không tin thì hỏi thằng nhỏ coi có phải không?

Sáu Lái giựt mình: sao mà hắn biết giỏi vậy cà! Người khác đoán được sự ngạc nhiên của Sáu Lái nên nói:

- Có gì mà không biết? Con khỉ rũ bao giò cũng rũ ở cây giá có trầm, tự nhiên trầm rút và xác nó, có vậy mới quý! Thôi bán cho ngộ mười ngàn đi. Mắc quá rồi!

Sáu Lái lắc đầu, người khách dặn:

- Bữa nay tối rồi, ngày mai ngộ trở lại, đứng bán cho ai nghe!

Anh Sáu nói:

- Mai nị không tới, mốt ngộ đem Chợ Lớn bán đa.

Người khác ra vẻ nhưng còn dặn với lại Sáu Lái:

- Nhớ đừng bán cho ai đa! Ngộ hứa mua rồi mà.

Sáng sớm hôm sau, lúc mặt trời chưa mọc, người khách ấy cùng vớứi ông thầy thuốc già bơi xuồng ba lá trở lại nhà Sáu Lái. Vô tới nhà, người khác dáo dác dòm không thấy con khỉ khô, ông ta cau mày sửng sốt hỏi;

- Nó đâu rồi? Bộ nị bán cho ai rồi sao?

Sáu Lái giả bộ nói:

- Ngộ đem về Chợ Lớn hồi khuya rồi.

Người khách khét lên:

- Ngộ hứa mua rồi mà.

Nhưng ông ta thấy Sáu Lái cười, mới yên bụng:

- Nị phá ngộ hoài. Nó đâu rồi?

Sáu Lái đáp:

- Ngộ cất kỹ trong rương, nị chịu giá xong ngộ lấy ra cho.

- Thì cho ông thầy coi một chút mà.

Sáu Lái lấy con khỉ khô ra. Ông thầy thuốc già, tuổi độ sáu mươi, nhưng da thịt hồng hào lắm. Ông ta nói nhà mình đã làm thuóc bốn đời rồi, có hai đời làm thái y cho vua.

Ông xem xác con khỉ khô thiệt kỹ rồi nói với người khách:

- Con khỉ này rũ chết, chớ không bị bắn. Khỉ bị bắn cũng quý, nhưng không bằng khỉ rũ, giá trị nó cũng khác nhau một trời một vực. Con khỉ này sống ít nhứt cũng từ 500 năm trở lên, khỉ có thể sống đến cả ngàn năm. Tôi xem lông nó trắng hết, không có một sợi vàng nào chớ đứng nói là đen. Quý vô cùng, không bao giờ có. Nó là thứ bạch lão hầu, chỉ ở Cảnh Sơn Dương và Ngũ Đài sơn mới có. Đời nhà Chu, ông Thiện Công Thích có bắt được một con khỉ nuôi đến 800 năm mới rũ, nghĩa là đến đời Liệt Quốc. Đến đời Hán Mạt, binh nam Mạch Hoạch có biếu một con bạch lão hầu cho Gia Cát Võ hầu. Vua Chiêu Liệt thua trận, Lục Tốn uất khí thổ huyết ở Bạch Đế Thành, Gia Cát Võ hầu dùng nó làm thuốc, sai Trương Bảo đem dâng, nên cải tử hoàn sanh được. Không ngờ nước Nam cũng có một con bạch hầu. Tôi dám chắc chỉ có một con này thôi, có lẽ nó lạc từ Ngũ Đài Sơn qua, chớ ở đây không làm gì có. Thứ khỉ này chỉ thích ăn một thứ trái cây tên là yến lê thôi.

Xứ này không có trái yến lê làm sao có nhiều bạch lão hầu được. Bên Tàu chỉ ở Cảnh Sơn Dương và Ngũ Đài Sơn mới có cây yến lê nên bạch lão hầu mới ở.

Yến lê là thứ trái cây mà Trọng Do hiến cho mẹ ăn để tăng thêm tuổi thọ. Giống bạch lão hầu nhờ ăn yến lê mà sống lâu và cường tráng. Giống này khỉ rũ thì tìm cho được những cây có trầm để ướp xác cho thơm. Những cây ấy bị xác khỉ khô rút hết trầm nên không còn mùi thơm nữa. Vậy con khỉ khô này có ba thứ quý trong mình. Một là sống trên 500 năm, lông toàn tuyết, hai là nó rũ chớ không bị giết; ba là nó ướp hết trầm của cây giá. Con khỉ này rũ mau lắm cũng một năm, xác nó thấm nhuận được phong sương tuyết nguyệt, hấp thụ được tinh khí của tời đất. Nó lại rũ trên cây cao giữa đồng rộng mênh mông, nên ô trượt, nê trì không vương lấy một tí, nên xác này vô cùng tinh khiết.

Chẳng những làm được nhiều loại thuốc cứu bịnh nan y mà còn làm được thuốc trường sinh nữa. Nhưng làm sao lại không có trứng cò ngà cũng lạ. Vì cò ngà đẻ ở đâu thì bạch lão hầu mới rũ ở đó, kể không ai thấy được xác của nó. Chỉ có một cách biết được ở đâu có bạch lão hầu là nhờ con chim tiu líu. Con chim này thường đậu gần xác con khỉ rũ vì nó thích cái mùi thơm của trầm ướp vào xác con khỉ tiết ra. Nếu có trứng cò ngà, thịt con chim tiu líu, xương con khỉ rũ, nấu với nhân sâm thành cao mà uống thì già cũng hóa trẻ, người chết cũng thành hồi sanh. Vậy nên không có gì quý hơn ba cái vật ấy.

Người khách hỏi anh Sáu Lái:

- Thằng nhỏ có bắt được con chim tiu líu và lấy được trứng cò ngà không?

Sáu Lái kể lại cho họ nghe, ông thầy Tàu hít hà…

- Thằng nhỏ mà phước lớn.

Cả hai nói bằng tiếng Tàu, tưởng Sáu Lái không biết, nên cứ nói không cần giấu giếm. Sáu Lái nhờ nghe vậy mà biết được phần nào cái quý của ba vật kia. Anh nương theo đó mà làm dày làm mỏng, cuối cùng anh bán một con khỉ khô với giá hai chục ngàn đồng. Với số tiền to lớn đó, anh có thể mua mấy sở ruộng tạo mấy dãy nhà, bỗng nhiên trở thành giàu có lớn. Người thầy Tàu mua được con khỉ khô rồi, mới cười nói:

- Nị không nghe người ta nói: Tôi có con khỉ khô gì đâu! Nếu có khỉ khô thì người ấy đã giàu bằng mấy ông bang của ngọ lận! Thôi thì cảm ơn nị há! Nhớ hốt được trứng cò ngà và bắt được chim tiu líu đem về Chợ Lớn cho ngộ, bao nhiêu cũng mua mà…

CON CHỒN RẠCH GIÀ

Rừng già, ở phía dưới rừng Cóc, là một dải rừng rậm mênh mông bao trùm hết miền duyên hải phía Đông Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Trong rừng, cách làng Tân Phước chừng ba cây số, có con rạch nhỏ gọi là Rạch Già.

Thuở nọ, có một gia đình chuyên nghề đốn cây để bán cho người ta làm cột nhà, hay làm cọc hàng rào. Thường mỗi chuyến đi vào rừng đốn cây lâu hai ba ngày mới về. Do vậy, mỗi lúc xuống thuyền ra đi, họ đem theo đủ vật dụng; thức ăn nước uống đầy đủ.

Một hôm, họ bơi thuyền ra khỏi Rạch Già, theo mé rừng sát biển, đến ngọn rạch nhỏ. Thấy cây cối rậm rạp, có nhiều cây cóc, chà là lớn vừa ý, họ rẽ thuyền vào rạch, buộc thuyền vào một gốc cây.

Ba người đàn ông xách búa rìu, rựa lên rừng đốn cây, để một người dàn bà ở lại thuyền lo cơm nước. Biết rừng có thú dữ nên vừa đốn cây, họ vừa lo cảnh giác cho nhau và thỉnh thoảng lại ngó chừng chiếc thuyền buộc gần mé rạch.

Đang khi tìm cây để đốn thêm, người anh lớn đảo mắt trông chừng chiếc thuyền thì bỗng thấy trên mé rạch có con cọp đi qua đi lại trên bờ, ngó chằm chằm vào thuyền muốn tìm lối xuống. Nhưng khi ấy gặp lúc nước cạn, thuyền tụt xuống sâu, cọp ở trên mé rạch, cứ qua lại trên bãi lầy, không dám lội xuống.

Người anh nhìn thuyền thấy có khói lên và người đàn bà lui cui chụm củi bình thường như mọi hôm. Anh mừng quá gọi to:

- Thím Năm ơi! Có thím ở dưới đó không?

- Có tôi đây!

- Thím là gì đó?

- Tôi đang nấu nước.

- Thím có thấy con chồn trên bờ rạch đó không?

- Thấy! Tôi tưởng con chú xù của nhà ai đấy chớ!

- Ấy, con chồn to lắm. Nấu nước sôi chưa?

- Thìm cầm cái siêu nước ấy vụt lên đầu con chồn cho nó chạy đi cho rồi.

- Vậy hả!

Vừa nói, chị ta liệng cái ấm nước lên mé rạch, trúng ngay vào mặt “chồn”. Nó bị nước sôi bỏng cả mặt, nóng quá hồng hộc bỏ chạy mất dạng.

Tức tốc, ba anh em bỏ cây xách đồ lề xuống thuyền mở dây, chống thuyền ra về một nước.

Người em dâu thiệt thà chưa hiểu lý do, nên người anh chồng hỏi thử:

- Thím Năm từ trước đến nay có biết cọp chưa?

Người em dâu mới về nhà chồng, chưa từng vào rừng lần nào, nghe nói đến cọp, đáp:

- Em nghe nói, chứa chưa thấy lần nào.

Người anh bật cười bảo:

- Con “chồn” lúc lúc nãy là con cọp đó.

Người em dâu ngạc nhiên, tái mặt lộ vẻ hốt hoảng. Người anh chồng nửa cười bảo:

- Lúc nãy, nếu tôi cho thím biết là cọp thì thím đâu có gan mà liệng ấm nước sôi lên đầu đó!

Cả thuyền đều cười rộ

Thuở xưa, những người tiền phong khai phá rừng rậm hay làm nghề tiều phu, khi gặp thú dữ rất tỉnh táo và can đảm. Họ dùng mưu trí và sức mạnh để đánh đuổi ác thú và mãnh hổ buộc chúng phải khuất phục con người. Đó là những kỳ công thật là vĩ đại.

MÃNG XÀ VƯƠNG Ở TÂN BẰNG

Cách đây gần ba thế kỷ, ở Tân Bằng, một làng nằm dọc trên bờ sông Cán Gáo, rừng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang, tương truyền có một cặp rắn rất lớn, dân chúng gọi là mãng xà vương. Hàng năm cứ đến đúng ngày, hai con mãng xà vương từ ngoài vĩnh Thái Lan đến quấy rối xóm làng.

Đôi xà vương to như cái khạp da bò. Khi chúng đến, cả một vùng rung chuyển, nổi giông gió, sập cả nhà cửa. Dân làng khấn vái, hứa hàng năm nộp cho mãng xà vương hai đứa bé để ăn thịt. Từ đó mãng xà vương không còn hung hãn như trước.

Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, mãng xà vương có bớt gây thiệt hại cho dân chúng. Nhưng từ đó, mỗi năm, hết hai gia đình này đến hai gia đình khác đem con mình nộp cho rằng dữ. Đó là điều bất hạnh cho người dân Tân Bằng. Ai dám liều mình chống lại sức mạnh kinh hồn của mãng xà vương?

Năm nọ, có một thầy thuốc, trên bước đường lưu lạc, đang xuôi thuyền theo sông Cán Gáo, đến địa phận là Tân Bằng thì nghe trên bờ sông có tiếng chuông trống inh hỏi. Ông cặp xuồng vào bến, hỏi thăm thì được biết dân trong xóm đang làm lễ dâng hai đứa bé cho mãng xà vương.

Nghe chuyện lạ động lòng, ông thầy thuốc lên bờ đi thẳng đến nơi có tiếng trống để xem cho tường tận. Ông thấy dâng làng đang tắm rửa cho hai đứa bé, rồi đem xông hương trầm để “hiến” cho mãng xà vương.

Thấy hai đứa trẻ vô tội sắp bị rắn nuốt sống. Ông thầy thuốc vô cùng xúc động, ông hỏi:

- Chừng nào mãng xà vương đến?

Các kỳ lão đáp:

- Dạ, đúng vào giờ tý, canh ba.

Suy nghĩ một lát, ông thầy thuốc gọi các kỳ lão đến bàn bạc cách giết mãng xà vương. Các bô lão nghe nói giết mãng xà vương thì ai cũng muốn. Nhưng cũng có người tỏ ra ái ngại:

- Này, rủi có bề gì “họa hổ bất thành”, gây thêm tai họa cho xóm làng - họ nới với ông thây thuốc như vậy.

- Đừng ngại, ta cứ như vầy, như vậy. Điều quan trọng là đứng tiết lộ trước là cho dân chúng xôn xao, mưu kế khó thành - thầy thuốc động viên họ.

Ngày hôm sau, ông thầy thuốc cùng vài người dân làng làm thịt hai con chó lớn tại một căn chòi giữa rừng vắng. Đoạn ông tán vài vị thuốc thật nhuyễn bỏ vào trong bụng hai con chó, rồi may thặt kín.

Đêm hôm sau, dân chúng kéo nhau đến sân làm lễ như thường lệ. Chu chuyển cha mẹ đứa trẻ khóc la thảm thiết. Còn hai đứa bé bị bỏ đói nằm ngất xỉu. Bầu không khí đầy múi trầm nương ngột ngạt.

Đến canh hai, các kỳ lão bảo dân chúng về nhà đóng chặt cửa lại, không cho ai lấp ló ra ngoài sợ bị mãng xà vương làm hại. Mọi người đều răm rắp nghe theo. Riêng chỉ có cha mẹ và thân nhân hai đứa trẻ vẫn còn than khóc.

Chờ khi mọi người ai về nhà nấy, ông thầy thuốc mới bảo cha mẹ của hai đứa bé:

- Bây giờ các người hãy đem con về, đứng cho hàng xóm hay biết.

Họ băn khoăn lo ngại:

- Chúng tôi sợ mãng xà vương trả thù.

- Thôi hãy cứ đi cho mau, để ta còn lo cách đối phó.

Theo chỉ dẫn của ông thầy thuốc, mấy người dân làng đem hai con chó đã được dồn thuốc ra đặt ngoài sân, giống hình dạng hai đứa trẻ đang quỳ. Họ dùng mực và sơn để vẽ miệng và tô mất hai con chó cho giống hình hai đứa bé. Xong đâu đó họ khiêng ra hai thùng nước sơn đặt gần đấy.

Công việc vừa chu tất thì khu rừng chuyển động như giông bão. Ông thầy thuốc khoát tay biểu mấy người phụ việc nọ ẩn núp chỗ kín quan sát, chờ đợi.

Ngoài sân, đỉnh trầm tỏa khói nghi ngút. Dưới ánh đèn chai mù mờ, hai con chó cạo lông phơi mầu da trắng giống như hai đứa bé. Thình lình giông gió im bạt. Hai con mãng xà vương xuất hiện. Chúng bò sát đất, chậm chạp tiến lại đỉnh trầm, rồi ngóc đầu lên để lộ chiếc mồng đỏ ửng to như cái quạt, múa qua múa lại. Rồi chúng tiến lại gần quấn lấy mồi nuốt trọn vào cổ. Lát sau, chúng bò tới bò lui, ngày càng chậm chạp uể oải.

Chờ thuốc mê đã ngấm, ông thây thuốc khoát tay làm hiệu. Tức thì những người dân làng từ chõ núp chạy đến lôi thùng nước sơn ra sơn hai con rắt dữ. Con rắn đực sơn xanh, con rắt cái sơn đỏ.

Các vị bô lão không hiểu cớ sao, hỏi:

- Tại sao thầy chẳng ra lệnh giết chúng?

Thầy thuốc đáp:

- Thế của chúng tuy vậy nhưng vẫn còn khỏe. Đám ta lại ít người, tốt nhất là để chúng tự hại nhau.

Hai con mãng xà vương dần tỉnh lại. Thuốc mê đã giải dần. Chúng ngóc đầu đảo mắt nhìn quanh, rồi chúng nhìn nhau. Trông thấy mầu sắc kỳ lạ của nhau, chúng hốt hoảng, xem nhau như kẻ thù khác loại. Chúng xông vào nhau cắn xé, rồi rượt đuổi nhau gây ra giông gió dữ dội. Chúng đuổi nhau chạy mất dạng về vịnh Thái Lan.

Từ đó đôi mãng xà vương không đến Tân Bằng nữa, không ai biết chúng cắn nhau chết hay chưa, chỉ biết sau lần ấy chúng không dám đến xứ này nữa.

RẮN CHÚA

Trước đây ở huyện Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá có một thầy thuốc sống bằng nghề trị bịnh rắn cắn và bắt rắn bán quanh năm. Ông cùng gia đình sống phủ phê bằng số rắn bắt hàng ngày. Tính ra đến tuổi bốn mươi, ông giết không biết bao nhiêu là rắn. Mỗi lần gặp ổ rắn, ông ngang nhiên thò tay vào nắm từng con lôi ra. Tay ông có xoa thuốc, rắn cắn như mổ vào cây, vào đá không ăn thua gì hết.

Một hôm ông đi với người học trò giỏi nhứt. Anh này gánh giỏ đựng rắn. Ông tìm hang rắn rất mau, vì quá rành nghề. Vùng đất ông chọn có một lớp cỏ khô, trốp, choại ở trên, rắn làm tổ ở dưới. Chỗ nào có rắn thì tai nhà nghề rõ tiếng nó bò. Tìm trúng miệng hang, ông ngồi xuống thò tay vào nắm đầu từng con lôi ra đưa anh học trò may miệng rắn bỏ vào giỏ. Hàng chục con rắn hổ đua nhau cắn vào tay ông, nhưng ông vẫn trơ trơ, tiếp tục bắt đến con cuối cùng.

Ông tóm bắt cả thảy bốn mươi con! Chưa bao giờ ông bủa được một mé lưới to tát như vậy. Ông quơ tay tìm xem còn sót con nào trong hang không thì thình lình ông bị một con rắn cắn vào cổ tay. Ông phát rùng mình ớn lạnh, vội rút tay ra thì con rắn còn ngậm cứng chưa nhả. Hình dáng con vật thật là quái dị: đầu lớn bằng bàn chân mà thân hình ốm như cổ tay và ngắn chừng ba tấc chứ không dài như mấy con bị bắt vừa rồi! Hang rắn này là một “triều đình” nhà rắn. Bao nhiêu rắn thường bảo vệ là tìm mồi nuôi con rắn chúa ở ngay giữa hang. Rắn chúa không bao giờ bò ra ngoài vì không xê dịch được. Khi cầu di chuyển nó cắn vào đuôi con khác để con kia kéo đi. Nhà nghề bắt rắn rất sợ loại rắn này vì hễ gặp phải nó thì khó mà thoát chết.

Ông thầy thuốc rắn biết mình gặp thứ dữ rồi, chất thuốc xoa trên tay hết hiệu nghiêm. Ông vội rút gói thuốc phòng thân, giắt trên đầu tóc, đây là phương thuốc thần hiệu đặc biệt của ông dùng để hộ thân khi cần kíp và khi hết phương cứu chữa. Ông mở gói ra thì thuốc khôn cánh mà bay mất từ bao giờ. Ông biết mình hết thời rồi nên mới quên lời thầy dặn về loại rắn này, bèn gọi anh học trò chỉ cho mấy loại thuốc rắn mà ông còn giấu và trối lại những điều cần thiết nhờ nói lại với vợ con, đoạn trào đờm ngã chết trên ổ rắn.

Huyền thoại cọp dữ U Minh

Là vùng đất tận cùng Tổ quốc, nhắc đến Cà Mau, người ta sẽ liên tưởng ngay hình ảnh rừng tràm U Minh Hạ. Sau gần 300 năm được khẩn hoang, nơi đây đã tồn lưu nhiều chuyện kỳ bí thời mở cõi, đặc biệt là những truyền lưu về cọp U Minh.

Dưới sông sấu lội - trên rừng cọp đua

Cà Mau trong buổi đầu khẩn hoang là vùng đất âm u nhiều chướng khí. Thuở ấy đất rừng mênh mông chưa người khai phá nên cọp beo, rắn rết, chim muông, ong mật đi lại nghênh ngang, dưới sông thì rùa, cá sấu nổi đầu lên như bè củi.

Sinh ra và lớn lên tại U Minh, anh Nguyễn Phước Hải, giáo viên Trường Tiểu học Tân Xuân, huyện Thới Bình thả hồn về quá khứ: “Rừng U Minh nằm ở cực Tây Nam Bộ, giữa hai tỉnh Cà Mau và Kiên Giang với diện tích gần 2.000km2. Hồi đó, động vật rừng ở U Minh nhiều vô kể. Nhiều đến độ đám hậu nhân của bác Ba Phi nằm lòng mấy mẩu chuyện nói dóc như rùa kết bè kéo thuyền đi nhanh hơn xuồng máy, hay chuyện cây tràm cao tới nỗi bác Ba rơi từ ngọn xuống gốc mất bảy ngày bảy đêm...”.

Nói về mãnh thú đặc trưng ở U Minh Hạ, cá sấu và cọp là hai loài được anh Hải nhắc đến nhiều nhất: “Dân gian xưa đã có câu “xuống sông hốt trứng cá sấu, lên bờ xỉa răng cọp”, hoặc thành ngữ “hùm tha, sấu bắt” là để ám chỉ sự nguy hiểm của hai loài này”. Là dân U Minh chính gốc, nói về cọp, bà Nguyễn Thị Điều, nguyên Chủ tịch hội Phụ nữ xã Tân Phú, hào hứng: “Dân U Minh gọi hổ là “hùm”, “ông hùm”, hay “ông ba mươi”. Thậm chí có nơi còn lập miếu, tôn “ông hùm” làm hương cả. Ngày trước, cọp nhiều và dữ đến độ ai nghe đến cũng run sợ”.

Lúc bấy giờ, các vùng dân cư còn thưa thớt, địa bàn rừng núi hầu hết đều do cọp chiếm giữ. Rừng nào cọp nấy, mỗi con cọp có một địa bàn hoạt động nhất định mà những con khác không được xâm phạm. Chính vì thế mà cọp là loài thú rất quyết tâm bám giữ địa bàn sinh sống của mình dù có phải chạm trán với con người.

Người Pháp đến cùng với súng, cọp U Minh bị săn bắt nhiều.

Ám ảnh nạn cọp vồ...

Thời Tây đánh chiếm, dân miệt trên xuống khai khẩn U Minh ngày càng đông. Đất đồng bằng không đủ chỗ nên người ta tiến dần về phía rừng rậm. Lúc ấy, người và cọp dường như sống gần sát nhau nên những tai họa đáng tiếc xảy ra là điều khó tránh khỏi. Nhiều người đi vào rừng ăn ong thì bị cọp bất thình lình vồ chết mất xác. Những người làm giao liên, đưa thư thời ấy cũng không thoát khỏi số phận “chết không toàn thây” vì bị “hùm tha, sấu bắt”.

Ông Tư Thắng, người dân cố cựu ở vùng, kể chuyện: “Hồi còn để chỏm, tui nghe ông bà kể lúc mới về xứ này, người dân không dám vào rừng cất nhà mà chỉ dựng ở những vàm rạch nhỏ rồi làm rào chắn cẩn thận xung quanh đề phòng “ông ba mươi”. Thế nhưng, có những hôm trời mới nhá nhem mà “ông” đã mon men tới gần các chòi lá bắt trộm heo, gà, vịt...”.

Dạo ấy ở miệt Lung Tràm có một con cọp già dân làng gọi là “ông Vằn”, một con cọp đực to lớn có trọng lượng gần 200kg, lông màu vàng sậm đan xen những vệt đen. Bao lần người trong làng đã đặt bẫy, vây bắt nhưng lần nào “ông Vằn” cũng thoát được. Trong lần chiến đấu với ông Năm Thịnh, một người đánh cọp nổi tiếng thời đó, “ông Vằn” bị thương ở chân, một mắt bị mù. Còn ông Năm thì bị cọp tát đứt phăng cánh tay trái, đầu đập vào phiến đá và trở nên “tửng tửng”, nhìn đâu cũng thấy toàn cọp beo, ma quỷ.

Sau trận tử chiến, “ông Vằn” ẩn mình trong núi rất lâu. Mọi người chắc mẩm là “ông” đã chuyển sang địa bàn khác để hoạt động hoặc đã chết rồi. Một lần, có toán thợ ăn ong vào rừng để gác kèo, lúc trời xẩm tối, để xua tan cái giá lạnh của đại ngàn, mọi người đốt lửa nướng cá khô đặng làm mồi lai rai. Đang trò chuyện vui vẻ thì chợt nghe có tiếng gầm dữ dội làm rung chuyển cả núi rừng, tiếp theo là tiếng người kêu cứu. Toán thợ ăn ong vội vàng chạy đến thì chứng kiến cảnh tượng hãi hùng: Một vạt rừng toang hoác lênh láng máu và thi thể của năm xác người mất đầu mất chân. Thấy một người đang rên rỉ với cái chân đầy máu, mọi người vội xốc lên định mang anh ta về làng thì nghe anh này thốt lên mấy tiếng “cọp một mắt... cọp một mắt” rồi tắt thở.

Nỗi khiếp sợ “ông Vằn” ngày càng gia tăng. Chịu hết siết sự lộng hành của ông ba mươi, đánh bẫy không xong, dân trong xóm mới nghĩ cách lập miếu thờ cọp. Mỗi khi khấn vái, họ mang đầu heo ra cúng rồi để lại giữa rừng. “Từ lúc được lập miếu và cúng đầu heo, có lẽ do được cung phụng thức ăn nên ông ba mươi bớt quấy phá. Người dân vì thế càng tin cọp rất linh thiêng. Từ đó mới nảy sinh lệ vẽ hình cọp treo làm bùa - gọi là “Hắc hổ trấn phù”- để cầu cho con nít dễ nuôi, khỏi sài đẹn hay ma quỷ bắt. Đôi khi người ta còn treo bùa “Ngũ hổ” - 5 ông thần cọp - với năm sắc của Ngũ hành xanh, đỏ, vàng, trắng, đen đặng cầu cho gia đạo được bình yên”.

Kỹ năng đánh cọp...

Nhiều lần chạm trán với cọp dữ, người dân U Minh đã đúc rút hàng loạt kinh nghiệm đối phó, thậm chí giao đấu với ông ba mươi. Trong “Đất Gia Định xưa”, nhà văn Sơn Nam có đoạn mô tả về cách đánh bắt cọp như sau: “Người từng đánh cọp nắm được quy luật: cọp quỳ chân sau, chống chân trước là đang chờ đợi. Trước khi vồ mồi, cọp chạy theo thế bò sát rồi phóng tới. Đuôi cọp phe phẩy hoặc để ở phía nào cũng là chỉ dẫn để ta đoán trước hướng tấn công”.

“Nhiều con cọp từng đánh nhau với người nên rất khôn ngoan, nằm ngửa bụng lên, nhìn đối thủ qua hai chân trước và hai chân sau. Với tư thế ấy, cọp dưỡng sức chờ thời cơ. Nếu ai nôn nóng, xốc tới đánh sẽ bị ông ba mươi “xử đẹp”. Khi ấy cọp sẽ chụp roi, giữ chặt, người mạnh khỏe cũng không tài nào dằng ra nổi, cọp thừa cơ mà vồ trong nháy mắt. Buông roi để chạy thì càng mau chết. Miếng võ ấy của cọp gọi là thế “trâu giằn”.

Ông Dự Võ, tay săn cọp nức tiếng một thời truyền đạt kinh nghiệm đặt bẫy mai phục hùm dữ: “Cọp tơ thường ăn thịt tươi. Cọp già khoái ăn thịt ươn. Phải dựa vào đặc tính đó mà đặt mồi nhử. Trước tiên cột một đoạn dây luồn trong ống tre để khi cọp dính vòng không cắn được dây. Trên đoạn ống tre treo mồi nhử bằng thịt tươi, bên dưới thắt vòng đặt trên một bàn bẫy. Cạnh bẫy thì đào một cái hố sâu có ngụy trang bằng lá cây rừng và lót dây rừng phía dưới để khi cọp dính bẫy rớt vào hố sẽ không thể vùng vẫy chạy thoát được”. Nói đến đây, ông Dự e hèm: “Nhưng không phải lúc nào cũng có hiệu quả. Gặp những cọp quá mạnh mắc bẫy vòng, chúng có thể vùng vẫy cắn bỏ chân để thoát thân”. Ực cạn ly rượu nếp cay nồng, anh Hải ra chiều tiếc nuối: “Ngày trước cọp nhiều bao nhiêu thì nay hiếm bấy nhiêu. Nhiều năm rồi, dân U Minh chưa có ai phải than trời vì cọp nữa. Vui mà buồn vì điều này chứng tỏ loài mãnh thú đặc trưng của U Minh gần như tiệt giống tiệt nòi”.

Ở gần đấy sang chơi, ông Mười Lựu quả quyết “Cọp U minh vắng bóng bởi mấy ông thầy bùa chuyên nghề dụ cọp. Mấy ổng luyện một loại bùa phép gì đó để khắc chế cọp nên dần dần, cọp ở xứ này bỏ đi biệt xứ”.

Ông Mười còn có cách giải thích khác: “Tại hồi đó, có nhiều ông thầy giỏi võ ở Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên lưu lạc vào đây, gặp cọp thì giết, gặp sấu thì bắt. Võ nghệ các thầy cao cường đến nỗi cọp thấy bóng từ xa đã cụp đuôi bỏ chạy. Mà các thầy nào có tha, xông lên rượt cho bằng được, có thầy nhảy xổm lên lưng nó, tung ra mấy cú đấm khiến cọp dữ đến đâu cũng phải xiểng liểng”.

Có nhiều lý do để giải thích sự vắng bóng của chúa sơn lâm tại đất rừng U Minh. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cách giải thích thuyết phục nhất là do rừng U Minh ngày càng bị thu hẹp, lại thêm nạn bố ráp không thương tiếc của mấy tay phường săn đặng phục vụ khát vọng cao hổ cốt của mấy ông nhà giàu nên cọp U Minh bị tuyệt diệt.

Rau

Người phương xa đến vùng đất Nam bộ, khi thưởng thức món ăn đều ngạc nhiên vì sự phong phú vô tận của các loại rau sống ở đây.

Chính do hoàn cảnh địa lý nhiều sông rạch, rừng rậm (vùng U Minh là một dẫn chứng), điều kiện sống khá dễ dàng (sản vật từ thủy sản, thổ sản đa dạng) nơi đây đã tạo nên một nét văn hóa riêng, thể hiện trên nhiều phương diện, và ẩm thực là một trong những phương diện đó. Có thể nói, rau là một thành phần không thể thiếu trong cơ cấu bữa ăn của người Việt nói chung, đặc biệt, đối với miền Nam nó còn phản ánh dấu ấn văn hóa thời khẩn hoang của ông cha ta.

Rau là tên gọi dùng chung cho các loại thực vật được dùng để ăn kèm trong bữa ăn. Rau không đơn thuần là loại thực phẩm ăn kèm mà còn là các vị thuốc chữa bệnh, điều đó đã được rút tỉa từ kinh nghiệm ngàn đời của dân tộc. Ông cha ta thường nói: “Đói ăn rau, đau uống thuốc” là vậy. Ở miền Nam bữa ăn nào cũng kèm rất nhiều loại rau. Chỉ riêng món bánh Xèo bạn đã thấy có vô số món rau như: cải xà lách, rau thơm, dấp cá, rau quế, tía tô, lá xoài cát, lá cách, đọt cóc… hay món lẩu mắm có rau kèo nèo, rau muống, đau đắng, rau nhút (rút)…

Trở lại thời khẩn hoang, do người đi khai hoang không có đủ thời gian để chăm chút cho bữa ăn của mình, vì vậy, họ bắt cua, cá, rùa, rắn… cùng các loại rau có vị chua, chát có sẵn xung quanh là đã có một bữa ngon lành. Ví dụ như món Cá lóc nướng đất sét, người ta thường chế biến khi đốt rơm ngoài đồng sau vụ gặt, nhân tiện lấy đất sét ốp quanh con cá vừa bắt, ném vào lửa rơm chừng nào lửa tàn thì lấy ra, chấm muối, ăn kèm với các loại rau đồng. Nồi canh ngót là một ví dụ tương tự, người ta chỉ cần bỏ con cá vào nấu cho ngọt nước, ra sau vườn hái mấy cọng bạc hà, quả cà chua, ít cọng hành là đã có một nồi canh nóng hổi, thơm lừng.

Chưa tính đến việc ứng dụng âm - dương hay vị thuốc của các loại rau trong cơ cấu bữa ăn, nhưng người dân Nam bộ sử dụng nhiều rau vì ngày trước thổ sản và hải sản nhiều vô số kể, những loại thực vật lạ có thể ăn được (gọi chung là rau) ngày càng nhiều, vì vậy, rau chiếm một vị trí quan trọng nhất định trong cơ cấu bữa ăn Nam bộ.

Về miền Tây ăn bữa cơm đạm bạc với các loại rau, bạn sẽ nhớ mãi hương thơm, vị chua, cay, đắng của nó, để khi về chốn thị thành những món ăn đó lại trở thành những món ngon không phải nơi nào cũng có được.

MÓN CỌP NĂM DẦN

Cọp là con vật quý hiếm và nếu hôm nay không ra sức bảo vệ thì sẽ đi đến chỗ tuyệt chủng không xa. Đó là do con người từ xưa đến nay đều ra sức săn bắt con vật quý hiếm này vì nó cung cấp cho con người cả thân thể của nó, từ da, móng vuốt, răng đến xương thịt … để con người mưu lợi hay chạy chữa bệnh, tăng cường sinh lực.

            Con người bắt, giết con vật rất hung dữ, rất mạnh mẽ và khôn ngoan này bằng nhiều cách : dùng lưới, dùng bẫy, cung tên giáo mác, sau này dùng súng đạn … Dùng lưới vây bắt cọp phải dùng loại dây rừng thật chắc, dẻo dai để đan lưới và vây lưới phải nhiều vòng mới bắt được cọp.  Dùng bẫy phải dùng thịt tươi hay thịt ươn để nhử cọp. Dây cột cọp khi mắc bẫy phải luồn trong ống tre để khi cọp dính vòng dây không cắn được dây. Cạnh bẫy là một cái hố sâu ngụy trang bằng lá cây rừng và lót dây dây rừng phía dưới để khi cọp dính bẫy, rớt vào hố không thể vùng vẫy chạy thoát được. Sau này, đi săn cọp bằng súng đạn. Toán thợ săn cọp thường đến các trảng tranh về ban đêm tìm cọp, nơi có nhiều nai đến ăn tranh vì cọp rất thích khẩu món nai này. Tuy nhiên, cọp rất thính hơi, hít được hơi người là nó lãng tránh ngay. Do đó thợ săn phải đứng dưới gió so với vị trí của cọp. Săn cọp ban đêm phải có đèn, thú rừng nào cũng ưa nhìn đèn. Thợ săn phải chuyên nghiệp mới phân biệt được mắt mắt cọp khác các mắt các con thú khác như thế nào, nếu không, bắn lầm thú khác, cọp “dông” mất.

            Khi con cọp bắt và giết được, công việc đầu tiên của người thợ săn là đốt râu cọp cho cháy hết. Họ cho rằng râu cọp rất độc, lọt vào tay kẻ xấu sẽ hại người. Truyền rằng râu cọp nhét vào một mụt măng non, khi măng già, râu cọp sẽ biến thành một con sâu lạ. Phân của con sâu này rất độc, chỉ cần một bụi phân trong ly rượu là có thể làm chết ngay một người to xác.

            Có khi thợ săn thuê xe, thuê người chở xác cọp về nhà để làm thịt. Nhưng có người lột da ngay trên rừng với con dao đặc biệt. Thợ săn tay nghề mới lột được da cọp một cách nguyên vẹn, da bị rách thì bán chẳng được bao nhiêu tiền. Bộ da sẽ được mang về, nhẹ hơn mang một con cọp to xác, nặng nề. Sau đó, họ đào một cái huyệt cạn chôn xác con cọp đã bị lột da. Họ phủ lên một lớp đất và những cành cây có gai và đánh dấu cẩn thận để sau còn tìm đến. Ba tháng sau, họ đến, đào đất lên và thu lượm bộ xương cọp còn nguyên vẹn, không có một tý thịt bám vào. Đó là trong rừng có một loại sâu bọ chuyên ăn xác thú, người ta gọi nó là “sở vệ sinh của rừng rú”, giúp cho rừng khỏi hôi thúi bởi những xác động vật.

Bộ da cọp có người mua về thuê người dồn chất độn vào để dựng lại một con cọp giống hệt cọp sống để trang trí nơi phòng khách. Có khi chỉ độn cái đầu cọp, còn toàn bộ da cọp để nguyên, trải ra dưới sàn làm thảm. Có người căng toàn bộ da cọp treo trên vách để ngắm nghía. Da cọp còn được dùng bọc ghế ngồi, may quần áo, may túi xách … Ngày xưa, da cọp còn là trang phục của các tướng lãnh. Da cọp rất giá trị và quý hiếm nên được nhiều người săn lùng. Hùm chết vì da, người ta chết vì tiếng / Hùm chết để da, người chết để tiếng là thế.

Lông đuôi cọp, có người nói đem đốt, tin rằng uống sẽ trị được bá bệnh. Vuốt cọprăng nanh của cọp được gọt dũa, đánh bóng, bọc vàng hay bạc dùng làm đồ trang sức bán bạc triệu vì tin rằng đeo nó sẽ tăng thêm sức lực, tránh được những hiểm nguy, bệnh tật.

Nhưng cái quý nhất của con cọp là xương cọp. Xương cọp dùng để nấu cao thường gọi là cao hổ cốt.

Nấu cao hổ cốt phải dùng toàn bộ xương con cọp, không thiếu miếng xương nào. Đặc điểm dùng để phân biệt xương cọp với các xương khác, đó là răng hàm có hình chữ ‘tam sơn’. Cọp chết trong rừng lâu ngày xương trắng bợt, nếu ngâm nước lâu thì bị gãy nát. Cọp săn bắn được thì xương dính liền nhau, trắng ngà, để hơi vàng, nhưng kỵ nhất là cọp bị bắn bằng tên độc, vì chất độc có thể ngấm vào xương. Có người cho rằng nếu nấu cao toàn xương cọp thì cao sẽ có mùi hôi, ngâm rượu sẽ không có mùi thơm, nên cần phải thêm xương sơn dương (dê núi) hoặc thêm vào xương khỉ. Để tạo chất kết dính, cần thêm vào gạc nai già hay yếm rùa và thêm đại hồi vào làm bớt mùi hôi của cọp. Dùng xương cọp nấu cao thì phải làm sạch thịt bám quanh và đập vỡ xương ra, rửa sạch hết tủy rồi đem sấy thật khô, ngâm hai đêm trong nước nóng với lá trầu, gừng nướng đập dập. Để nấu một bộ xương cọp thành cao phải mất bảy ngày bảy đêm.

Cao hổ cốt ngâm vào rượu để uống hay thái thành miếng nhỏ để ngậm một hồi cho tan trong miệng hay tán mịn uống với rượu. Theo Đông y, hổ cốt có tác dụng bổ dưỡng gân cốt, trục phong hàn, trị phong thấp tê bại, lưng gối nhức mỏi, gân cốt co duỗi khó.

Người ta còn treo xương cọp trên nóc nhà để đuổi ma quỷ, nằm ngủ tránh bị ác mộng …

Ngoài da, xương, móng vuốt, răng lông … cọp còn cung cấp thịt cọp cho con người. Thịt cọp, theo Đông y là một món ăn bổ dưỡng, nhưng không được phổ biến vì nó quý hiếm. Có người đã từng ăn thịt cọp tẩm gia vị đem nướng thì thấy có mùi hôi hôi, ăn không được. Người ta còn đem thịt cọp làm khô, gọi là khô cọp. Vũ Bằng trong Món lạ miền Nam đã từng  ăn khô này rồi. Ông cho rằng ăn khô cọp cho vui vì lạ miệng, chứ thực ra dai cứ như là chão rách, mà lại khai, chẳng ra cái gì. Người ta bảo rằng khô này trị được ban trái, gấp trăm thịt cọp tươi. Ăn cái khô này, theo lời các cụ già, phải cữ thịt gà và măng tre, không thế, sẽ sinh ra “dòi trong bụng”. Có lẽ vì thế ít có người ham khô cọp.

Ngầu pín cọp cũng được những người “yếu sinh lý” săn lùng, mắc bao nhiêu cũng mua. Hiện nay trong giới ăn chơi rất ưa chuộng một món … cọp rất khó tìm là bào thai cọp ngâm với nhung nai và sâm Cao Ly để giúp quý ông ấy "mạnh hơn cọp".

Cọp còn cho sữa nữa. Nhà văn Đoàn Giỏi, tác giả của quyển sách viết về Nam Bộ Đất rừng phương Nam đã kể cho nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nghe về sữa cọp này. Hồi còn bé, nhà văn Đoàn Giỏi hay đến ông già Tàu bán thuốc Bắc ở chợ Năm Căn (Cà Mau) mua từng miếng sữa cọp để ăn vặt cho đỡ buồn miệng, giống như ăn kẹo vậy. Sữa cọp để đông cứng cắt ra từng miếng to bằng ba ngón tay, ăn vào nghe thơm và ngon giống như miếng pho mát. Nguồn gốc có món bánh sữa cọp như sau : Cọp đẻ một lần ba bốn con, không phải chỉ một con như người ta thường thấy. Sau khi một lứa con ra đời, thì bị cọp bố ăn thịt hết chỉ chừa lại một con để nuôi. Nói “Hùm dữ không ăn thịt con" là nói sai. Hùm cũng ăn thịt con. Đó là quy luật đào thải tự nhiên, không muốn để cái ác tồn tại nhiều quá. Vì hùm bố đã ăn mất mấy con nên hùm mẹ thừa ra mấy cái vú không được bú. Vú sữa căng lên làm hùm mẹ đau. Nó liền đi tìm một gốc cây cổ thụ ép vào để sữa chảy ra cho bớt đau. Sữa ấy chảy tràn lan trên mặt đất, qua đêm lạnh sữa đông cứng lại thành một lớp mỏng, màu trắng ngà. Sáng ngày những người thợ sơn tràng đi làm rừng sớm bèn nhặt lấy, cắt ra từng miếng vuông vức như xà bông đem bán lẻ, thành một món thuốc Bắc.

Từ xưa đến nay, cọp đã “hiến dâng” cho con người những vật quý hiếm như thế nên loài cọp có nguy cơ tuyệt chủng.

Năm Dần, tìm món ngon nơi con cọp thì cũng thật là khó, nếu có tìm ra được thì cũng thật là đắt, lại không biết giả - thiệt và còn vi phạm luật bảo vệ thú rừng nữa. Thôi thì tìm món khác ăn Tết Con Cọp vậy.

Bữa tiệc thịt… hổ

19/11/2008 09:17

Phó Lập cầm chiếc rìu, một chân dẫm lên mình hổ, mắt nheo nheo ngắm nghía, rồi bất ngờ vung rìu, bổ “phập” vào cổ chúa sơn lâm. Chỉ đúng hai nhát, đầu chúa sơn lâm đã rời khỏi cổ.

Đúng hẹn, 6 giờ sáng thứ bảy, tôi đã có mặt ở nhà Lực. Tiến sĩ S., luật sư Th. cùng một số đại gia ở Hà Nội đã về từ tối hôm trước. Tôi không ngờ lại có đông người mua cao hổ đến thế. Tổng cộng đến 30 người, đủ các thành phần, từ trí thức, sĩ quan quân đội, cánh buôn lậu đường dài và cả mấy tay đồ tể…

Những người này đều có đặc điểm chung, đó là lắm tiền, háo dục và tôn sùng cao hổ như vị thuốc chúa tể của giường chiếu. Tôi cũng không ngờ, mình lại là nhân vật quan trọng đến thế khi mà cả hội chỉ chờ tôi đến mới xắn tay làm thịt hổ.

Giết hổ như… võ Tòng

Đội thợ nấu cao gồm 4 người, Lực thuê ngay tại quê. Làng Văn La xưa kia chuyên nghề lái gỗ. Trai tráng trong làng cứ ngược sông Đáy lên tận Sơn La, Lai Châu chở gỗ, nứa về xuôi bán. Những ngón nghề nấu cao động vật họ học được từ kinh nghiệm gia truyền của đồng bào miền sơn cước.

Sau này, khi tính năng huyền diệu của những miếng cao hổ trong việc tráng dương, bồi sức lan truyền, đã tạo nên cơn sốt ngầm “săn cao hổ” từ các đại gia, “pháp thuật” nấu cao của đám thợ Văn La mới được thỏa sức tung hoành. Họ đi khắp trong Nam ngoài Bắc nấu cao thuê với giá trọn gói 4-5 triệu đồng/con.

thợ nấu cao với thân hình tráng kiện khiêng chú hổ từ trong tủ đá ra khoảnh sân trước. Tại sân, những dụng cụ cần thiết cho cuộc xả thịt chúa sơn lâm đã được bày sẵn, gồm hai chiếc nồi quân dụng, một chiếc thuyền tôn chứa đầy nước, búa rìu, bàn chải sắt, nạo sắt, dao kéo…

Việc đầu tiên là phải đập vỡ lớp đá cứng bên ngoài và bên trong bụng hổ, rửa sạch rồi đặt lên bàn cân. Chú hổ này cân nặng 80 kg. Tiến sĩ S. nhẩm tính: “Nếu tính cả lục phủ ngũ tạng đã bị bóc bỏ trước khi chở về Việt Nam, chú hổ này, lúc đang sống, nặng không dưới một tạ”.

Phó Lập săm sắm cởi áo phông, vớ ngay chiếc rìu, một chân đè lên mình hổ, mắt nheo nheo ngắm nghía rồi bất ngờ vung rìu, bổ “phập” vào cổ hổ. Chỉ đúng hai nhát, đầu chúa sơn lâm đã rời khỏi thân.

Lập ôm thủ cấp hổ, ghé mặt sát ống kính chiếc camera của tôi, cười hề hề: “Anh quay kỹ mặt em để sau này con em lớn, em khoe với nó là bố ngày xưa từng một tay giết hổ như Võ Tòng”. Cả hội cười hô hố, he hé, rất vui vẻ.

Sự có mặt của “nhà quay phim, nhà nhiếp ảnh” là tôi khiến cánh thợ nấu cao làm việc hăng hái hẳn lên. Chỉ chưa đầy 20 phút, thân hình cường tráng vằn vện của chúa sơn lâm đã trở thành đống thịt, xương ngồn ngộn.

Mùi gây gây, hôi hôi rất đặc trưng của hổ cùng mùi thum thủm của thứ thịt để lâu ngày tạo nên một tổ hợp mùi rất khó tả khiến tôi ậm oẹ mấy lần. Giầy, tất tôi dính be bét máu hổ.

Món thịt hổ nướng

Trong khi cánh thợ nấu cao đang cuồn cuộn bắp tay miết chiếc nạo sắt dứt từng mảng lông hổ ra khỏi da thịt thì vợ Lực xăng xái thục tay vào đống thịt tìm bới nanh, vuốt hổ. Đôi tay trần nần nẫn thịt của chị ta sục sạo một hồi, rồi chị rít lên: “Tiên sư đứa nào lại nẫng mất của bà rồi. Đúng là quân cướp ngày. Mấy triệu bạc của bà chứ ít gì đâu”.

Khi từng miếng thịt hổ được cánh thợ nấu cao làm sạch sẽ, xếp đầy 2 chiếc nồi quân dụng thì Lực khệ nệ ôm từ trên nhà xuống một chiếc bao tải đã được niêm phong.

Lực vung dao nhọn rạch toang miệng bao rồi xoạc chân dốc ngược. Cả đống xương xám, trắng đổ oà ra mặt sân. Lực giải thích: “Đây là xương gấu, xương sơn dương và gạc nai. Con hổ này bọn anh sẽ nấu cao toàn tính nhằm giảm giá thành, song vẫn phải tuân thủ theo công thức: 60% xương hổ, 30% xương gấu, còn lại là xương sơn dương và gạc nai”.

11h trưa, hai chiếc nồi quân dụng đổ nước ngập chừng 10cm được bắc lên hai lò than rực hồng. Cả tốp thợ nấu cao và đám mua cao chúng tôi hỉ hả ngồi vào mâm cụng chén. Bữa tiệc khá thịnh soạn. Thịt vịt, thịt gà, thịt bò và món không thể thiếu được là thịt… hổ nướng tẩm ướp gia vị.

Mọi người uống ừng ực, ăn ào ào. Tôi gắp ngay miếng thịt hổ. Cái cảm giác lần đầu tiên trong đời được ăn miếng thịt chúa sơn lâm khiến tôi vừa sung sướng, vừa hồi hộp. Nhưng vừa đưa lên miệng, cái mùi gây gây, hôi hôi, thum thủm… khiến muốn ói mửa. Ba lần tôi cố đưa lên miệng, ba lần tôi phải thả xuống bát. Ai nấy nhìn tôi cười sằng sặc, rồi lại gắp thịt hổ chén ngon lành. Những cái miệng nhai ngấu nghiến, mỡ dính ngoen ngoét quanh môi.

Bữa tiệc tàn cũng là lúc chúng tôi cắt cử xong các ca trực nồi cao trong suốt bảy ngày bảy đêm. Tôi và tiến sĩ S. chịu trách nhiệm canh chừng nồi cao ngày thứ nhất. Và thật bất ngờ, chính trong đêm đầu tiên ngồi bên vạc lửa, tôi đã được diện kiến bậc thầy nấu cao lão luyện nhất làng Văn La. Chính câu chuyện kể của ông đã giúp tôi biết được những kỹ nghệ nấu cao hổ và hé mở về một đường đây buôn hổ xuyên quốc gia mà Lực là một mắt xích

SĂN CỌP ĐỒNG NAI

Bình-nguyên Lộc

Trung tâm săn cọp ở miền Nam nước Việt là Ban Mê Thuột chớ không phải là ở vùng Đồng Nai. Nhưng người Pháp đã biến trung tâm Ban Mê Thuộc thành một kỹ nghệ lớn, dành thu  hút đô-la Mỹ, người mình không chen vào đó được nên xin không nói đến.

Vả lại cái kỹ nghệ nói trên chỉ có nhà tổ chức Caffort là được hưởng, còn kỹ nghệ ở Đồng Nai thì chính các thợ săn được hưởng nên mang tính cách khác Ban Mê Thuộc và đáng nói đến hơn. Hẳn bạn đọc sẽ hỏi thợ săn mà hưởng cái gì ? Ai thèm ăn thịt cọp ? Người Mỹ, người Anh săn cọp ở Ban Mê Thuột, trước năm 1945, là những tay triệu phú. Họ đến đó để tìm cảm giác mạnh, chỉ có thế thôi. Họ không thèm hưởng gì hết ngoài những cảm giác đứng tim đó. Vả lại, họ cũng chẳng biết cách hưởng thành quả của các cuộc săn bắn. Tuy nhiên tôi cũng sẽ dành cho Ban Mê Thuộc vài trang ở cuối bài.

*

*       *

Dưới thời Pháp thuộc, thợ săn cọp ở vùng đồng Nai có đến 95 phần trăm là người Pháp lai. Pháp thật không săm cọp. Còn lại là người mình và một gia đình Phi luật Tân có Pháp tịch mà gia đình tôi quen biết đã từ lâu đời. Đó là gia đình của ông Ma-rô-cô. Ông này là hậu duệ của một anh lính đỏ đen cùi bắp, người Phi Luật Tân. Thuở Pháp đánh Nam Kỳ, có nhờ sức của một số lính Phi Luật Tân do Tây Ban Nha cho mượn (thuở đó Phi Luật Tân là thuộc địa của Tây Ban Nha).

Chiếm xong miền Nam rồi thì Pháp cho bọn lính đánh thuê này về nước. Nhưng còn một số nhỏ xin ở lại và được Pháp chấp thuận. Họ ở lại, sinh sống bằng ba nghề. Đa số xin làm cảnh sát là lính mã tà, vì trong ngôn ngữ của ba nước Phi Luật Tân, Indonesia, và Malaysia cảnh sát được gọi mà matamata. Danh từ Mã Lai này, nguyên xưa kia có nghĩa là chiến sĩ, đồng với danh từ samourai của Nhật, với danh từ lính tráng của ta, với danh từ tia-hiên của Campuchia, với danh từ bặc-liêu của Phù Nam. Nghề thứ nhì của họ là đánh loại xe du lịch mà Pháp gọi là calèche, do hai ngựa kéo. Đó là xe du lịch sang trọng nhất ở Sài Gòn ngày xưa, thuở chưa có ô-tô. Nghề săn cọp thì có một gia đình độc nhất làm mà thôi, gia đình Ma-rô-cô.

Tại sao Tây lai lại làm nghề đó? Vì săn cọp phải sắm súng trận. Mà súng trận thì người mình không được sắm, trừ vài trường hợp ngoại lệ. Tây lai thuở đó toàn là con vô thừa nhận, chỉ học chương trình tiểu học của Pháp rồi thôi, chẳng xin được chỗ làm nào hết, trừ nghề cảnh sát. Mà nghề cảnh sát đâu có phải là nghề ung dung thong thả. Họ nằm không họ chơi, mỗi tháng hạ được một con cọp là đủ sống cả năm một cách phong lưu.

TÂY LAI KẾT BẠN VÀ VŨ TRANG

Người lai nào cũng khôn vặt cả, không riêng gì là Tây lai. Nhưng Tây lai có vẻ khôn vặt nhất trong trong các thứ người lai. Muốn săn cọp thì phải vào rừng sâu. Muốn vào rừng sâu không thể xuất phát từ Sàigòn mà tới nơi được. Vậy họ phải lập tiền đồn ở các chợ huyện. Phải là ở các chợ, chứ ở làng họ không thành công đâu. Nông dân không thích chơi với Tây lai. Tây lai cũng không thích chơi với nông dân.

Chỉ có bọn con trai ăn không ngồi rồi ở các chợ xa mới là ham bắt quàng làm họ với Tây lai. Họ tới một chợ nào đó, vào hiệu cà-phê cắc-chú từ sáng đến trưa là đã có bạn rồi, nhứt là nếu ở các chợ cũng có phòng cho thuê bi-da hoặc bàn ping-pong thì rất tốt. Ở Sài Gòn họ cũng chỉ ăn no rồi đi thọc bi-da với đánh ping-pong nên họ chơi khá giỏi, vào chợ quê thì họ là nhứt rồi vậy.

Tôi chỉ hạn chế địa bàn quan sát trong tỉnh tôi thôi, là tỉnh Biên Hòa, không nói đến ba tỉnh khác là Tây Ninh, Thủ Dầu Một và Bà Rịa. Vả lại, chỉ ở Biên Hòa mới có nhiều cọp.

Bốn tiền đồn xuất quân trong tỉnh nầy là: tiền đồn lớn nhứt là Tân Uyên, chợ huyện lớn nhứt trong tỉnh Long Thành, là chợ huyện lớn nhì trong tỉnh. Hai tiền đồn khác không phải là chợ huyện mà chỉ là chợ làng giàu, là tiền đồn thứ ba và thứ tư. Đó là chợ Cây Đào và chợ Tân Ba.

Khi một anh Tây lai nào đó đến tiền đồn thì tổ chức ăn uống nhậu nhẹt vài ba ngày cái đã, có khi chính anh ta đài thọ chi phí,  có khi bạn địa phương chung đậu tiền để đài thọ những cuộc vui đó. Nó gần có đủ cả tứ đổ tường. Ăn nhậu đã đời rồi mới tính chuyện ra quân.

Chỉ có một cây súng trận độc nhứt của anh Tây lai thôi. Trai làng mà có súng, loại súng bắn chim, cũng không được phép mang theo vì vô ích, lại có thể gây tai nạn. Anh thợ săn lại được võ trang bằng một món thứ nhì nữa là một cây đèn đặc biệt, vì phải săn ban đêm, và người mình gọi lối săn đó là “săn dọi đèn”.

Cây đèn này khá giống cây đèn xe đạp mà người thợ săn cột vào giữa trán của anh ta, chớ không phải đội trên đầu. Đèn được thắp bằng hơi của đá đèn. Đá đèn này đựng trong một bình nhỏ giống như là bình đựng nước của quân đội Việt Nam Cộng Hòà. Bình chia ra làm hai ngăn, ngăn trên chứa nước, ngăn dưới chứa đá. Nước nhểu từng giọt xuống đá, đá lên hơi, hơi được đưa lên đèn bằng một ống cao su nhỏ. Loại đèn này ánh sáng đi xa thua cả loại đèn pin lớn ba pin, nhưng vẫn vừa đủ để cho họ thấy cọp. Dùng đèn pin bất tiện hơn vì một tay phải cầm đèn, hóa ra thiếu mất một tay để mà bắn.

Đó là chưa kể một vài con dao trong đó có một loại dao đặc biệt, để làm gì ta sẽ thấy, một cái cuốc mà ta chưa vội biết công dụng, với lại xoong, chảo, rượu đế, mỡ, hành tây, muối.

Bạn của thợ săn đã thuê cho anh ta một chiếc xe bò rồi, và họ lên đường vào lối bốn giờ chiều, sau khi ăn cơm rất sớm.

Những người bạn này, thường thì không đi theo xe, vì vào rừng rồi thì cấm nói chuyện, cấm nô đùa, la lối, họ buồn, họ chẳng muốn đi theo làm gì. Tuy nhiên, thợ săn vẫn nài nỉ một người theo anh ta, và có thù lao cho người này.

Họ đi như thế suốt bảy tám tiếng đồng hồ trên đường mòn xuyên rừng và đến nơi là đã mười một giờ đêm rồi.

TRƯỜNG SĂN

Nơi đó là ở đâu ? Là ở một cái trảng, đôi khi do người chủ xe bò chỉ định, chớ không phải là thợ săn, vì các chủ xe bò chuyên đi rừng, thạo rừng hơn cả thợ săn nữa.

Cái trảng, tiếng Anh nói là savanna. Đó là danh từ mà miền Nam vay mượn của dân Phù Nam, chớ miền Bắc tuy cũng có cái trảng, nhứt là ở trung du, nhưng không có danh từ để trỏ nó, hoặc là có mà tôi không biết.

Nguồn gốc của cái trảng là đây: cổ dân ở địa phương đó làm hỏa canh. Họ đốt rừng trồng trọt. Trồng được ba năm, đất hết mầu mỡ, mà họ thì không biết bón phân nên họ bỏ đất, đi đốt rừng nơi khác. Đất bỏ hoang một năm là tranh mọc đầy lên đó; mà hễ tranh mọc rồi thì chẳng có cây gì mọc được nữa hết, vì rễ tranh rậm rì, chằng chịt, choán hết đất, rễ của các cây khác không tìm được thức ăn.

Tranh là món ăn thích khẩu của nai. Tối lại, nai từ rừng sâu đổ ra các trảng để ăn tranh. Trong khi đó thì nai lại là món ăn thích khẩu của cọp. Vậy muốn săn cọp, phải đến trảng. Cọp nai ở trảng, thì thợ săn rình cọp cũng ở trảng.

Nhưng không phải chỉ giản dị có thế đâu. Cọp rất thính hơi, và nó biết hơi nào là hơi voi, hơi gấu, hơi nai, và hơi người. Vậy thợ săn phải tìm cách ở dưới gió (sous le vent) so với vị trí của cọp. Thí dụ nai ăn cỏ ở hướng đông, cọp rình ngay ở hướng đông. Nếu gặp gió tây mà thợ săn cũng lại rình ở hướng tây là hỏng, vì gió tây sẽ đưa hơi của con người sang hướng đông, báo động cho cọp biết.

Người thợ săn không được phép là tay săn tập sự. Đèn của y chiếu vào mắt thú (thú rừng nào cũng ưa nhìn đèn). Mà mắt nai, không khác mắt cọp đáng kể, người thường không phân biệt được đâu. Nếu bắn phải một con nai, thì cọp dông mất hết vì tiếng súng xua đuổi chúng nó. Một con nai bán chẳng được bao nhiêu tiền.

Xin nói vắn tắt để quí vị độc giả đỡ ngáp. Thí dụ đêm đó anh thợ săn X hạ được một con cọp. Công việc đầu tiên của anh ta là đánh diêm lên để đốt râu cọp. Anh ta dốt, tin lời của bạn anh ta, vốn cũng dốt, nên mới làm cái công việc đó. Họ tin rằng khi ta xẻ một măng non, ta nhét một sợi râu cọp vào đó thì đến khi măng già, râu cọp sẽ hóa thành một thứ sâu lạ. Phân của sâu này là một loại thuốc độc mạnh nhứt thế giới, chỉ cần vài hạt bụi phân trong rượu là đủ giết chết ngay tức khắc một người to lớn. Thợ săn không nên cho râu cọp lọt vào tay ai hết, để tránh tội ác.

Xong đâu đó, thợ săn dùng con dao đặc biệt được nói đến khi nãy để lột da cọp. Phải có học mới lột được da trâu, da bò, da cọp. Vụng tay, làm rách da thì bán chẳng ai mua đâu. Bộ da cọp này, hôm sau sẽ được đưa về Sài Gòn bán cho một vài nhà chuyên môn, chuyên dồn chất độn vào da cọp để dựng lại một con cọp giống hệt cọp sống, bán cho nhà giàu họ mua để trang trí nhà cửa. Bán một con cọp như thế, trừ thù lao cho chuyên viên rồi, cũng còn tiền đủ sống phong lưu hai ba tháng theo đời sống Tây lai.

Nhưng thợ săn không ham lắm, vì bán món khác, giúp sống được một năm.

Thế nên công việc thứ nhì của họ là đào huyệt để chôn xác cọp. Họ vùi nong một nắm, nhưng không cỏ hoa như người khách viễn phương đã vùi Đạm Tiên đâu. Xác cọp bị chôn rất cạn, nhưng được phủ bằng những cành cây có gai, được đánh dấu nơi chôn rất cẩn thận. Ba tháng sau, họ trở lại đó đào đất lên là họ có được một bộ xương cọp nguyên vẹn. Xương cọp nguyên vẹn bán được tiền hơn là những bộ xương không đủ cả các loại xương. Người Tàu Chợ Lớn họ mua xương cọp với giá cao, chở về bán bên Tàu để Tàu chế ra hai thứ thuốc: cao hổ cốt và thuốc bột “hổ đầu”. Thuốc hay hay dở thì không biết, anh thợ săn cũng cóc cần biết, hễ người Tàu còn mua thì họ còn săn.

Có ai hỏi tại sao mới có ba tháng xa mà một cái xác sinh vật to lớn như thế đủ thì giờ để biến thành một bộ xương thật sạch, dùng được ngay, thì xin “giải đáp thắc mắc” như sau:

Trong rừng sâu có một loài sâu bọ, không biết tiếng Việt gọi ra sao: vì không nghe ai điểm danh loài sâu bọ này hết, còn tiếng Pháp gọi nó là con charogne. Pháp lại gọi con charogne là “sở vệ sinh của rừng rú”, vì chính chúng nó ăn sạch bách muôn vạn xác thú, xác chim trong rừng, giúp cho rừng khỏi hôi khỏi thúi.

Ấy đấy xác cọp bị cố ý chôn cạn,vùi nong một nắm, là nhằm mục đích giúp cho loài charogne dễ tìm ra xác. Và đó là mẹo của người mình họ cố vấn cho các tay thợ săn Tây lai, chớ các anh Tây lai chỉ học tiểu học thôi, chẳng có đọc sách Pháp bao giờ hết để mà biết con charogne.

Và cái cuốc được ám chỉ đến khi nãy, là để đào lỗ chôn xác cọp còn người bạn có hưởng thù lao là một tay khiêng xác cọp vứt vào lỗ vì anh Tây lai và anh đánh xe bò không chắc mình khiêng nổi những con cọp to. Ba người thì chắc ăn hơn.

Nãy giờ cố nói tất tất cả mọi việc để bạn đọc đỡ ngáp, chứ thật sự thì mọi việc xảy ra không giản dị như thế. Nếu quá dễ ăn, thì ai cũng làm thợ săn cọp hết,và các tay thợ săn đều thành triệu phú hết trơn, nhà băng nào đủ chỗ chứa bạc của họ !

Không dễ ăn vì thợ săn đâu có đủ tài để hễ bắn là trúng đích. Bắn hụt là sự thường xảy ra, và bắn đúng mà cọp không chết cũng rất thường xảy ra.

Nếu bắn hụt thì cọp dông mất, chẳng có gì đáng lo. Nhưng cọp bị thương thì rất dễ sợ. Bị thương quá nặng, chúng sẽ chạy trốn, mà ta thì không dám theo dấu,vậy là lỗ một viên đạn súng săn, lỗ tiền mua đá đèn, lỗ tiền thuê xe bò. Nhưng rủi ro cọp chỉ bị thương nhẹ thôi thì chắc chắn là chúng nó sẽ tấn công địch thủ. Thế nên thợ săn cọp, bọn đi theo thợ săn để chơi, và cả anh đánh xe bò đều phải thạo cách tránh né cọp chớ đừng hòng chống lại nó. Cọp rất mạnh, một mình nó, nó đủ sức kéo xác một con bò đi xa năm bảy cây số. Mà cũng đừng mong leo cây. Không đủ thì giờ để leo cây đâu. Họ chỉ còn một cách độc nhứt là phân tán mỏng, nhảy lui, rồi núp sau một cổ thụ. Cọp chỉ nhảy đến vồ ta, vồ hụt thì nó phải chuẩn bị cái nhảy thứ nhì trong khi đó ta đủ thời giờ để đổi chỗ, núp sang cây khác, vô hiệu hóa sự chuẩn bị của nó. Nhảy lui cũng phải chuẩn bị trước khi bắn, vì nếu là đứng trước một bụi cây lớn, một bụi cây nhỏ mà nhiều gai, ta cũng không thể nhảy lui được. Tất cả mọi người trong đám săn đều phải lo đường rút lui trước khi bắn.

Có ai dám theo dấu cọp bị thương chăng ? Có, mặc dù rất nguy hiểm. Người Thượng can đảm hơn ta về vụ này. Trong mười thợ săn ta, có thể chỉ có một hoặc hai người dám theo, còn Thượng thì anh nào cũng dám cả, mặc dầu các ảnh chỉ có nỏ trong tay.

GỠ VỐN

Nếu không được cọp, thợ săn sẽ về tay không chăng ? Không, họ bắn nai để gỡ vốn. Nai, khi chúng nghe tiếng súng, chúng cũng chạy. Nhưng chúng lại nghe cọp vừa rống cà-um, cà-um, vừa khua lá chạy như giông, nên chúng hiểu ra sự thật, an lòng trở lại nơi đó ngay hầu xơi cỗ.

Thợ săn cọp mà bắn nai thì bá phát bá trúng. Họ thường bắn hụt cọp vì có can đảm bao nhiêu, đến phút chót họ cũng có run tay tí tí, nên bắn trật. Bắn nai hiền lành, tay của họ rất vững. Hóa ra thường thì non hai tháng họ mới hạ được một con cọp còn thì chiến lợi phẩm của thợ săn cọp lại là thịt nai, họ sẽ chở về chợ huyện để bán cho các hàng thịt lợn, kiếm tiền còm đủ ăn nhậu thêm nữa.

Nhưng thật ra thì họ ăn nhậu trước, ngay tại chỗ, vì thế mà trên kia tôi mới ám chỉ đến vài món hơi kỳ khôi mà họ mang theo như soong, chảo, mỡ, hành tây, và các con dao thường không phải dao đặc biệt dùng lột da cọp.

Thịt nai bán ở các chợ dỡ hơn thịt bò, chỉ được cái là rất mềm mà thôi. Nhưng thịt nai ăn ngay sau khi nai chết đạn thì tuyệt diệu. Các tay thợ săn Tây lai này cũng biết làm món “nồi da xáo thịt” do người Thượng tên là dân Mạ dạy cho dân ta ở vùng Đồng Nai, và ta dạy lại Tây lai.

Lột một tấm da nai to chừng bằng bốn chiếc khăn mu-soa. Đóng bốn cây cọc ngắn xuống đất. Căng tấm da nai lên bốn ông táo gỗ đó. Lúc vừa được căng thì da nai thẳng tuột, nhưng hai phút sau da nai oằn xuống như lòng chảo. Bầm thịt nai với củ hành tây, chế mỡ vào chảo da, rồi bỏ thịt bầm vào đó. Nhúm lửa lên, dưới cái chảo da nai ấy. Rồi thì ngồi đó để thưởng thức mùi thơm của nó, e rằng chai rượu đế sẽ cạn trước khi thịt chín.

Một con nai bán được ít tiền hơn một con bò và nhiều tiền hơn một con lợn. Nhưng thợ săn vẫn làm giàu được trong việc săn nai, nếu gặp mùa. Mùa đó là mùa xuân, mà một số nai già rụng sừng và mọc sừng khác. Cái sừng non đó người Tàu gọi là lộc nhung, có nghĩa là sừng non của nai, tôi gọi tắt là nhung, trong những loại thuốc mang tên “sâm nhung bổ thận hoàn”. Sừng nai non bán cao giá lắm đấy nhé bà con ơi, vì dược khoa của Tàu nó quý lắm. Khoa học cũng đã nhìn nhận rằng lộc nhung rất bổ.

Cái món lợi sau đây, ít hơn, và người mình không nỡ tìm nhưng Tây lai thì đủ can đảm tìm: hạ những con nai cái đang có thai, mổ bụng nó ra lấy cái bào thai, đem về bán cũng khá tiền.

Người Việt miền Nam gọi cái bào thai bằng danh từ vay mượn của dân Phù Nam là danh từ hàn-nàm. Nhà giàu Việt Nam rất quý hàn-nàm nai. Họ ngâm nó vào rượu rồi uống rượu đó.  Đại bổ. Đại bổ. Bào thai rất bổ. Rượu hàn-nàm là rượu quý vô song.

Cái món lợi thứ ba, chỉ nhỏ thôi, và người mình cũng không nỡ tìm nhưng Tây lai cứ dám làm như thường: hạ những con nai mẹ đang nuôi con bé dại. Đôi vú nai căng sữa, thơm vô số kể, vừa thơm vừa dòn vừa bùi, chiên mỡ rồi thưởng thức thì có thể làm cạn queo ba bốn lít rượu đế.

SĂN CỌP GIỮA ĐƯỜNG

Đôi khi chưa tới trảng tranh, đã gặp cọp rồi. Ta chẳng cần rình mò gì hết, hễ đến gần cọp thì ta biết ngay. Mùi khét của cọp tỏa ra rất rộng. Bằng như mũi của ta quá kém thì bò nó sẽ báo động cho ta, vì bò thính hơi cọp hơn ta, hễ đánh hơi được cọp là nó sợ, nhất định không kéo xe đi tới nữa, đánh nó bao nhiêu nó cũng sẽ bất kể. Bằng như chính bò cũng mắc chứng nghẹt mũi như con người thì sẽ có một tình báo khác thông tin cho thợ săn biết rằng quanh họ, đang có cọp đi chơi đêm.

Có một loài chim mà lâm dân người mình gọi là chim từ quy. Nó chỉ là con chim đỗ quyên chứ chẳng có gì lạ. Người thợ dân miền Nam gọi đùa con chim từ quy là chim “xỉa răng cọp”. Nó đi theo cọp suốt ngày đêm, đợi khi cọp nằm nghỉ, há miệng ra để nó ăn thịt thúi ớ các kẻ răng cọp. Cọp rất khoái từ quy, vì thuê chuyên viên xỉa răng khỏi tốn tiền mà ! Hễ vào đâu mà nghe đỗ quyên kêu thê thảm là chắc chắn gặp ông ba mươi rồi.

Gặp ông ta, nhưng chưa thấy đâu. Mà cũng đừng thèm tìm mất công, bởi ông ta sẽ tự đến để nộp mình. Thú rừng bất kỳ con nào, cũng rất khoái ngắm đèn. Cọp cũng thế, nên ông ta sẽ tìm lại nơi có ánh sáng, tìm cách đứng ngay tia đèn để cho thợ săn dễ nhắm nhía. Rồi thì là “bùm”. Một là ông ngủ, hai là tôi bị xơi tái, nhưng tôi có trí khôn, còn ông thì không. Ông cứ thử thoát, có thể bỏ xương bỏ da lại cho tôi, còn tôi thì thường thoát được.

Chim từ quy không phải chỉ kiếm ăn theo cọp, mà kiếm ăn theo sấu nửa. Dưới nắng trưa, sấu thường trườn lên những bãi cát bờ sông vắng để phơi nắng, và cũng há miệng ra cho từ quy xỉa răng.

Các tay thợ săn sấu ở nguồn sông Đồng Nai (toàn thể là Tây thật, chớ không có Tây lai) rất sợ loài chim này, vì chúng thính hơi, nghe được hơi người là báo động cho sấu biết để sấu chúi xuống nước trốn.

CHẾT TRƯỚC KHI THẤY NAI, THẤY CỌP

Ở miền Nam nước Việt, số người mình sắm súng đông hơn hết là trong tỉnh Thủ Dầu Một. Súng mà họ sắm chỉ là loại súng Flanbert thôi, dùng để bắn chim và bắn ăn cướp. Đạn của loại súng này được gọi là cái bì. Bì được làm bằng giấy bồi khá cứng, to hơn một viên đạn súng săn một tí. Nhà sản xuất cho vào bì phân nửa là thuốc súng, phân nửa còn lại chứa đầy những viên chì nhỏ bằng hột tiêu. Người mình gọi đó là đạn chì, bắn thì đạn nó túa ra như là vãi chài, viên đạn này sai thì viên đạn khác nào đó cũng trúng được chim, đôi khi bắn một phát có thể làm rơi được vài con chim, rất tiện dụng.

Nhưng một số người có săn loại súng đó ở Thủ Dầu Một lại chơi trò rất lạ. Đây là phát huy sáng kiến theo lối “đầy tinh thần sáng tạo”.

Họ đổ hết đạn ra mà vứt đi, đổ cả hai bì súng, đoạn dồn hết thuốc súng vào chung một bì, đoạn chôn vào thuốc súng đó một cây đinh thép thật to, bán trên thị trường thì đinh này dài đúng một tấc bảy, nên họ phải chặt đôi cây đinh ra.

Hỏa lực của loại bì “cải tiến” ấy mạnh bằng đạn của súng trận, súng săn: Thế rồi họ dùng loại bì kỳ dị đó để đi săn cọp và săn nai, bắn cọp và bắn nai chết như chơi, y như là với súng trận.

Chỉ phiền là trong mười người chơi cái trò nguy hiểm đó, có đến bảy tám người bỏ mình. Nòng súng Flanbert vốn yếu, được chế tạo vừa đủ tương sức với sức mạnh không đáng kể của đạn chì. Khi ta dùng một liều lượng thuốc súng gấp đôi, thì nòng súng không chịu đựng nổi sức nổ mạnh. Vậy là nòng súng bể vỡ, ngay trước mũi của thợ săn, cách mặt họ có năm tấc tây thôi, không vỡ sọ cũng thủng mặt, đàng nào cũng chết.

Tuy nói thế chớ nòng súng không vỡ ngay ở phát súng đầu đâu, vì nếu thế, đâu có ai mà dám chơi cái trò dại dột đó. Nói là nòng súng thép yếu là yếu vậy thôi, chớ dầu sao nó cũng bằng thép. Nó chịu đựng được chỉ vài mươi phát súng nổ, tức là bắt đầu bắn đến lúc thọ nạn, thợ săn cũng có thể hạ được năm bảy con nai. Và không phải hễ súng bể vỡ là thợ săn chết, vì có khi nòng súng chỉ bay đi mất thôi, mà thợ săn không bị gì hết ráo, chỉ phải ôm bá súng gỗ về nhà, khoe với vợ là cọp đã nhai nát nòng súng mà anh đây thì nó nhai không nổi.

Nhờ tai nạn chậm xảy ra, nên bác thợ săn liều mạng rằng mình đủ thì giờ bỏ súng cũ kịp lúc, trước khi nòng súng bể, nên mới còn người chơi trái trù đó mãi cho đến năm 1945 mới thôi.

KỸ NGHỆ BAN MÊ THUỘT

Những tay săn cọp ờ Ban Mê Thuật, trước 1945 (sau 1945 thì chiến tranh trong nước ta đã giết chết kỹ nghệ đó) là triệu phú Huê Kỳ, Anh, Đức, Ý, v.v...

Người tổ chức là hãng Caffort ở Sài Gòn. Hãng này, bề ngoài chỉ là một căn nhà ở đường Catinat (sau này là đường Tự Do, đường Đồng Khởi). Hiệu buôn nhỏ này chỉ trưng bày vài cây súng lấy lệ thôi, nhưng đó là một tổ chức lớn, vốn rất to.

Một anh triệu phú Huê Kỳ nào đó, thường chỉ tới một mình, hoặc với một hay hai người bạn, có thể là nam, mà cũng có thể là nữ. Nhưng hãng phải có ngay cho họ vài chục cái lều vải, loại lều cắm trại thưng tuyệt đẹp, hạng sang nhứt thế giới.

Họ đổ tiền ra, muốn bao nhiêu họ cũng ô-kê hết, nhưng họ đòi hỏi rất nhiều. Phải chở máy phát điện lên Ban Mê Thuột, chớ họ đâu có ưa đèn dầu, và máy đó phải đủ mạnh để chế tạo nước đá. Vậy là phải chở thêm một máy bào rước đá nhỏ. Phải có cả một nhà bếp giữa rừng với đầy đủ các thứ cần thiết cho việc nấu bếp, với một anh đầu bếp người Tàu Hải Nam, nhóm Tàu này chuyên môn nấu ăn theo lối Pháp và nấu rất ngon. Rồi thì đủ thứ rượu Pháp, nào là Champagne Möet Chandon, nào là rượu loại Muscat, nào là rượu Cognac hiệu Martel, nào là các thứ nước suối, nước suối Perrier để pha với rượu mạnh, nước suối Vichy để giải khát, vài thứ nước suối khác cũng của Pháp để trị bệnh gan, bệnh thận, rồi thì bồi, những anh sai vặt, tùm lum ra, Sàigòn cũng chẳng sánh kịp.

Tốn nhứt là phải trả lương tháng cho hai tay thiện xạ người Pháp (có dạo một người Việt Nam được thủ vai trò đó). Các ông triệu phú vốn bắn dở, nếu để cọp vồ các ổng thì hãng Caffort sẽ tiêu tùng sự nghiệp. Vậy các ổng đi săn được hộ tống cẩn thận như tổng thống Huê Kỳ đi Taxas thăm cao bồi chuyên bắn súng đùng đùng.

Hai tay thiện xạ này chẳng những thiện xạ, lại phải là hai nhà tâm lý già rơ. Phải để cho các ông nhà giàu hạ con cọp, các ổng mới khoái, mới xỉa đô-la xanh ra, và các thiện

Cảm phục những người lính nhà giàn DK1.

Đọc bài viết “Tổ chim" giữa đại dương, đăng trên báo Sài Gòn giải phóng số ra ngày 18-6, tôi rất cảm phục những chiến sỹ bảo vệ vùng biển của tổ quốc nói chung và nhà giàn DK1 nói riêng. Cảm phục là vì cuộc sống nơi “tổ chim” ngày nay chắc chắn có những khó khăn hơn so với cuộc sống của các chiến sỹ thời kháng chiến chống Mỹ như chúng tôi.

Hồi đó, cuộc sống của người lính chúng tôi tuy vô cùng gian khổ ác liệt hy sinh nhưng bù lại những lúc ở căn cứ vẫn có thể trồng trọt rau củ và chăn nuôi heo gà để cải thiện bữa ăn, đặc biệt là thú vui vào rừng hái lượm rau củ quả và săn bắn thú rừng.

Hồi đó, tôi cũng thường được giao nhiệm vụ đi cải thiện bữa ăn cho đơn vị nên có kinh nghiệm là đi theo các dòng suối vừa dễ kiếm được thức ăn hơn và vừa không sợ bị lạc đường. Mỗi lần tôi săn bắn được heo, gà, chim, cá, trăn, rắn về làm thức ăn, mọi người trong đơn vị đều vui vẻ, do vậy tôi luôn là người đầu tiên xung phong nhận nhiệm vụ đi cải thiện bữa ăn cho đơn vị.

Hồi đó tuy có nhiều bom pháo, đặc biệt là máy bay Mỹ thường xuyên tuần tra giám sát trên đầu nhưng chúng tôi vẫn có những thời gian sinh hoạt bình thường vì đã có rừng cây che chở. Cuộc sống của người lính của chúng tôi hồi đó là vậy, còn bây giờ những người lính trên nhà giàn DK1 chỉ có “tổ chim” với biển cả mênh mông và lúc nào cũng rất giận dữ.

Ngoài nỗi buồn nơi biển cả, cuộc sống vật chất của những người lính nhà giàn cũng rất khó khăn, nhất là nước ngọt và thực phẩm tươi. Thử hỏi cuộc sống của 14 người trong nửa năm trời chỉ có 10 mét khối nước ngọt thôi, sẽ cực khổ biết nhường nào.  

“22 năm qua, có những cơn sóng cao từ 13m đến 15m, có sức tàn phá khủng khiếp, đã đánh đổ nhấn chìm 5 nhà giàn, 1 tàu trực; 9 cán bộ chiến sĩ chốt giữ nhà giàn đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, nhiều người phải lênh đênh trôi dạt trên biển hàng chục giờ trong cái nắng cháy da, cái đói, cái rét thấu xương nhưng các anh vẫn trụ vững để bảo vệ vùng biển và thềm lục địa phía Đông và Tây Nam của Tổ quốc”. Đó cũng là niềm tin yêu của những người ở hậu phương như chúng tôi.

Ký ức sư đoàn (Sư đoàn 3 Sao Vàng

Lại một cơn sốt rét kinh người đến với bảo sự giày vò cơ thể. Nôn mửa, đau đầu như bộ bổ, người nóng hầm hập, môi khô bỏng rát ... Ba hôm nay chẳng ăn uống được gì, và cũng chẳng có gì để mà ăn. Rau môn thục, rau tàu bay, lá búa, sắn lát phơi khô... hễ nhìn thấy chúng là lợm mửa.

Ngày…

Lại một cơn sốt rét kinh người đến với bảo sự giày vò cơ thể. Nôn mửa, đau đầu như bộ bổ, người nóng hầm hập, môi khô bỏng rát ... Ba hôm nay chẳng ăn uống được gì, và cũng chẳng có gì để mà ăn. Rau môn thục, rau tàu bay, lá búa, sắn lát phơi khô... hễ nhìn thấy chúng là lợm mửa.

Ấy thế mà sáng nay cơn sốt rét chưa dứt, đã lại hành quân. Lại vẫn cái gùi trên lưng, khẩu súng ngắn và túi tài liệu bên mình, cơm nắm, muối hầm, bao nhiêu dốc, đèo trước mặt…

(2 giờ chiều, tại suối Hoa B1).

Ngày ... tháng ...

Mình chép lại một bài thơ mà mình hết sức tâm đắc. Có lẽ đây là một sáng tác tập thể của cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn. Bài thơ có tựa đê: "Bước chân chiến sĩ sư đoàn Ba". Nhiều người trong đơn vị đã chép và thuộc lòng bài thợ này. Ngày… năm 1970

Một đống thư từ miền Bắc gửi vào, nhưng đến hơn một nửa không có người nhận. Nhìn dòng chữ của cha mẹ, vợ con và người thân của đồng đội từ phương bắc xa xôi gửi vào, hơn một năm trời mới đến nơi, rồi thư đến thì người nhận chẳng còn! Cay đắng làm sao? Trong thế kỷ 20 này, trên thế giới này có nơi nào mà gửi thư cho nhau trong một nước, phải mất cả năm trời mới tới?

Mở thư ra xem biết ở hậu phương cũng chẳng yên ổn gì. Có gia đình chín người chết một lúc vì trúng một quả bom. Nhiều người mắc sai lầm là không phân biết được chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Song trước cảnh chết chóc đau thương, gian khổ, ác liệt này, khó có thể phân biệt được cái đau thương nào là cái đau thương chính nghĩa, đau thương phi nghĩa…

Ba giờ chiều tại hang đá vùng đông núi Bà, Phù Cát, Bình Định. Ngoài kia, hai tốp F105 vẫn lồng lộn, tiếng bom dội lên, rung chuyển cả hang đá.

Ngày…

Rời khỏi trung đoàn 12 về sư đoàn làm trưởng ban quân lực. Thật khó mà tả được nỗi lòng mình lúc này. Phấn khởi ư? Thật ra cũng là một bước trưởng thành. Song xa đơn vị cũ đã hành quân từ miền Bắc vào, bao nhiêu đồng đội đã ngã xuống, lòng mình không khỏi bồn chồn.

Tạm biệt vùng Đông, một vùng đất vô cùng ác liệt, nhưng cũng là nơi chưa chan tình nghĩa, An Nhơn, Tuy Phước là hai huyện mà địch đã giết hại không biết bao nhiêu đồng bào và cán bộ ta. Không biết bao nhiêu đồng đội và bạn bè đã ngã xuống. Nay ra đi mà lòng bùi ngùi xúc động. Mình không thể nào quên Long Hậu, Phú Giao, Bình An, Lộc Thuận… Những thôn xóm bị địch dồn ép đã không còn một bóng dân, nhưng những mụp măng tre, những vườn rau hoang đã cưu mang nuôi sống bọn mình. Rồi nữa, các anh cán bộ địa phương như Hải, Lý, Bình, Sơn… Những người kiên cường bám trụ, đứng mũi chịu sào, vào sinh ra tử cùng bọn mình giữ vững phong trào cách mạng ở địa phương. Cuộc chống Mỹ cứu nước còn có thể kéo dài, nhiệm vụ trước mắt còn quá nặng nề, mà mình thì tuổi cang cao, sức càng yếu, sốt rét rừng giày vò cơ thể… Có lúc mình chợt nghĩ không biết rồi sẽ ra sao?

Thôi, mặc áo, cái gì đến sẽ đến. Mình cứ làm việc và hãy sống cho thanh thản.

(17 giờ tại trạm Tuệ - trạm 8, vùng Đông núi Bà, huyện Phù Cát)

Ngày 25 tháng 12

Sau một thời gian hành quân thui thủi một mình, hôm nay đã về đến sư đoàn bộ. Thế là một chuyến đi công tác từ sư đoàn xuống trung đoàn rồi trở về, mất gần ba tháng. Thời gian ấy bằng và có lẽ dài hơn cả thời gian mà Phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đi thăm một vòng các nước xã hội chủ nghĩa để đòi viên trợ như Bác Hồ vẫn nói.

Về đến cơ quan, tiền hết, gạo không. Đã hơn hai mươi ngày nay rồi, mỗi ngày một lon gạo (250 gam) + nước muối.

Mình vào .Nam đã năm năm nay, gian khổ đã từng, song không có cái gian khổ nào giống cái nào cả. Vì thế mỗi lần cơn đói, rét,khát ập đến hành hạ, mình đều phải tìm mọi cách tự . đấu tranh, chịu đựng. Có người bảo đã quen với gian khổ ư? Quen làm sao được, và nếu quen được thì còn phải đổ máu, hy sinh, phấn đấu để giành hạnh phúc ấm no làm gì?

Tại B1 (Một khu rừng thuộc huyện An Lão, Bình Định). Sửa lần cuối bởi baogt vào ngày 14 Tháng 10 2010, 18:50 (lần sửa thứ 1). Đừng nói tất cả những gì mình biết.

Đừng tin tất cả những gì mình nghe.

Hãy làm tất cả những gì mình có thể làm

Ngày… năm 1970

Sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn luôn bị máy bay B57 và B52 dội bom, mình và năm đồng chí nữa đang ngồi trong hầm bò. Nghe hai tiếng “hầm bò” người ta đã hình dung ra cái gian khổ thế nào rồi. Nghĩa là bò ở chuồng đã là khổ huống chi bò còn ở trong hầm thì còn cực biết bao nhiêu. Hầm bò ở đây lại dành cho người ở. Vậy là bọn mình hóa kiếp làm “bò” vẫn chưa đủ, còn phải làm “bò” ở dưới đất. Thật không thể tưởng tượng được, Côn Đảo, Sơn La bây giờ có lẽ là nơi nghỉ mát lý tưởng của quân giải phóng đấy. Còn ma không đầu ư? Một loạt B52 rơi xuống thì không những đầu, mà đến cả thân thể cũng chẳng còn. Tất cả gian khổ, ác liệt ngày xưa như nếm mật, nằm gai đều không thể so sánh với gian khổ cùng cực của quân giải phóng. Còn câu thơ của ai đó đã viết: “Tin thường lại, người chưa thấy lại” ư? Ở đơn vị mình, có đồng chí đã năm bảy năm trời không biết được mẩu tin tức gì về gia đình và người thân.

(3 giờ 30 phút, tại một khu rừng Quảng Ngãi).

Ngày 9 tháng 7

Mấy hôm nay không khí chiến tranh tạm dịu đi. Nghĩa là súng chưa nổ. Mỗi người một ngày được tiêu chuẩn hai lon gạo (năm lạng) cùng với nước suối hòa tan. Như vậy, cũng vui vẻ lắm rồi. Nhưng con người còn có quả tim nên những lúc như thế lại khát khao đến tình cảm.

Đêm nằm nghĩ lan man… Đã năm năm trời ngoài bom đạn ra, theo mình chính cái ác liệt bên trong mới là tàn khốc. Một tiếng gà gáy, một tiếng trẻ con khóc, một bàn tay dịu dàng sờ lên trán lúc sốt rét rung cả võng… Những tình cảm tối thiểu của cuộc sống con người giờ đây cũng không có. Trước đây có người nào đó đã viết: “Đời chiến sĩ khô khan lắm”, ai đã từng phê phán câu này, nếu ở trong hoàn cảnh hiện tại mới thấy thấm thía.

(10 giờ, tại rừng Ba Tơ, Quảng Ngãi).

Ngày … lại Tết đến.

Hôm nay đã là ngày 26 âm lịch. Mình đang hành quân leo dốc, trèo đèo. Ngày hai lon gạo cộng với muối hầm và canh chua lá bứa. Hôm qua, một chiến sĩ thương tình tặng mình hộp sữa. Cậu ta mới đi công tác ở đồng bằng vè. Chao ôi! Quý giá vô chừng.

… Hành quân suốt đêm dài, sáng nay lại tiếp tục lên đường. Bụng cồn cào, đầu gối bủn rủn. Dưới chân, vắt ngoi lên như tằm, máu ở bàn chân, bụng chân bị vắt cắn chảy loang lổ, Trên trời, máy bay trinh sát L19 vẫn vè vè dòm ngó. Đạn đại bác địch rú rít, bay qua đầu.

Người ta bảo “Rộn ràng như chiều 30 Tết”. Phải giờ đây mình cũng thấy thật rộn ràng; nhưng không phải vì lo gói bánh trưng, bánh tét, lo mổ lợn, giết gà… mà là đang ngược xuôi tất bật lo nắm lại quân số, chuẩn bị đạn dược để bộ đội kịp lên đường vào chiến dịch.

… Đêm giao thừa mới lạnh lẽo làm sao. Tết đến mà cơm không đủ no, còn mơ gì thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ? Bảy người chung nhau hộp sữa pha loãng, đó là quà ”Đón xuân” của bọn mình.

(Tại làng Rào, xã Sơn Cao, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi)

Ngày…

“Đồng bào có thương cách mạng không? Trả lời: “Bọn em thương các anh quá, nhưng bom đạn ác liệt thế này, chúng em lại còn có cha mẹ già, con nhỏ… Đi với các anh không được, mà vào tạm lánh trong vùng địch cũng không đành”. Đó là câu trả lời của các cô gái làng Tân Dân, vùng phụ cận Quy Nhơn, bị o ép phải dồn lên thành Bình Định (cũ) nay trở về thăm nhà, bất chợt gặp chúng tôi.

Bà con ngắt cho chúng tôi ba quả bí xanh, hai quả bí đỏ gọi là quà tặng quân giải phóng trước khi chia tay về lại vùng địch. Tôi nói đùa: “Cảm ơn bà con đã cho bộ đội ăn bí, vì chúng tôi đã lâu lắm không có rau xanh. Nhưng khi về lại vùng địch, nếu có ai đó chỉ điểm thì chúng tôi lại được ăn “bí gang, bí sắt” đó nghe”. Câu nói đừa không ngờ làm cho các bà, các chị tủi thân, họ khóc. Một chị nói trong nước mắt: “Không ngờ cách mạng lại nghi ngờ đồng bào đến như vậy? Lũ chúng tôi cũng đã từng theo cách mạng bám trụ xóm làng, đấu tranh với địch mấy năm trời. Nhưng nghiệt vì quân Đại Hàn (Nam Triều Tiên) quá tàn ác, đồng bào chịu không nổi, mọi ngươi phải tạm lánh đi… Lẽ ra phải thương, thì các anh lại nói như vậy. Các anh không thể hiểu được bà con sống trong khắc khoải nhớ quê hương, thương cách mạng thế nào đâu”. Câu trả lời làm mình hổ thẹn, hối hận với lương tâm vì chưa làm tròn nhiệm vụ…

(14 giờ tại làng Tân Dân, An Nhơn, Bình Định) Sửa lần cuối bởi baogt vào ngày 14 Tháng 10 2010, 18:16 (lần sửa thứ 2). Đừng nói tất cả những gì mình biết.

Đừng tin tất cả những gì mình nghe.

Hãy làm tất cả những gì mình có thể làm.

NHÀ THƠ NGUYỄN DUY VÀ CHUYỆN RAU RỪNG TÂY NGUYÊN

VĂN CÔNG HÙNG

Cách đây không lâu, nhà thơ Nguyễn Duy, nhà văn Nguyễn Trọng Tín, KTS Nguyễn Trọng Huấn và một số nhà báo tổ chức đi xuyên Việt, có ghé thành phố Pleiku. Ông Nguyễn Duy trực tiếp lái xe, cái xe bảy chỗ mới kít của báo Sài Gòn tiếp thị cấp cho ông và nhóm nhà báo nhà văn. Nói thêm là Nguyễn Duy là một tay lái lụa dù đời ông đã ít nhất một lần gãy chân vì… xe máy. Tôi nhớ có một lần hình như là sau khi dự hội nghị nhà văn trẻ, tôi ghé tòa soạn Văn Nghệ 17 Trần Quốc Toản thì thấy ông Nguyễn Duy đang đổ xăng vào cái xe zeep để chuẩn bị chạy về Thanh Hóa. Tôi ngạc nhiên vô cùng vì tư duy tôi bấy giờ chỉ là người ta chở nhà thơ chứ nhà thơ mà biết chở ai, mà lại chở bằng ô tô, dẫu là xe zeep. Thế mà sau đấy tôi nghe nói ông không chỉ chạy về Thanh Hóa mà còn một số nơi nữa, và quan trọng là, đi đến nơi về đến chốn, không hề hấn xây xát gì. Lần này vừa gặp tôi đón ở sân khách sạn Pleiku, ông thò đầu nói ngay: “Tao có cái này hay lắm, mày phải kiếm nơi xử lý”. Cái “hay lắm” của ông là hai mớ rau, một mớ rau má và một mớ rau dớn đựng trong hai cái túi nhựa màu đen. Ông vô cùng xúc động và hào hển khoe việc đã mua được hai mớ rau này như thế nào. Đang phóng xe đổ dốc ào ào ở đèo Lò Xo, đoạn mà các cụ cựu chiến binh Hà Nội tử nạn ngày nào thì thấy một tốp trẻ con xuất hiện, trong gùi là rau dớn và rau má. Ông dừng xe, xuống gạ gẫm mua. Bọn trẻ con đòi hai ngàn, ông trả hẳn mười ngàn rồi nâng niu bỏ lên xe. Tôi dẫn các ông đến một nhà hàng quen, kêu trực tiếp chủ nhà hàng ra nêu yêu cầu là rau má thì rửa sạch ăn sống, còn rau dớn thì xào tỏi. Kết quả hôm ấy, hai món hết đầu tiên là hai món rau mà ông Nguyễn Duy mua.

Rau má thì không nói, vì quê Thanh Hoá của ông Duy là… đất tổ rau má. Còn rau dớn thì chỉ ở rừng Tây nguyên mới có. Nó đã từng là món chủ lực của bộ đội B3 Trường Sơn một thời. Ông Nguyễn Duy đã từng là lính Trường Sơn, nên cái việc ông vô cùng xúc động khi được ăn lại món rau dớn là điều dễ hiểu. Ông giờ đang sống ở TP Hồ Chí Minh, kinh tế rất khá giả, đã đi nhiều nước trên thế giới, bây giờ đang đi trong một tour xuyên Việt để khảo sát… ẩm thực, ăn đủ món ngon vật lạ cả Tây cả Tàu, thế mà vẫn đau đáu với món rau dớn của một thời khổ cực. Mà không chỉ ông, nhiều người lính xưa mỗi khi trở lại Tây Nguyên thì đều muốn được ăn lại một bữa… rau dớn, hoặc môn thục, hoặc rau tàu bay… Nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn, phó Tổng BT báo Văn Nghệ mỗi khi vào Tây Nguyên thì ông đều thơ thẩn tìm… rau rừng. Mà nào có dễ tìm như hồi ông đang là lính B3. Nhớ có lần chúng tôi nướng cá ở đỉnh đèo Chư Sê, ông Tuấn vớ được một… đọt măng. Thế là ông hét ầm lên và bắt mọi người nếm thử. Còn người dân tộc thiểu số Tây Nguyên thì đã lấy rau dớn làm biểu tượng trên các nóc nhà rông, nhà mồ, chứng tỏ nó đã vô cùng quan trọng trong đời sống của họ. Từ ý nghĩa vật chất, nó trở thành biểu trưng văn hoá, thành sự thiêng liêng của đời sống tâm linh.

Chả cứ bộ đội ngày xưa, cái thời khó khăn cách đây trên chục năm, cánh nhà báo Tây Nguyên mỗi lần xuống làng đều thuộc lòng các loại rau rừng ăn được. Đi trên đường, vừa đi vừa hái, khi đến làng là đã có một bữa rau ra trò. Lấy mỡ, mì chính, mắm muối trong ba lô ra là đã có một nồi canh hoặc xào tuyệt vời. Cơm thì đồng bào nấu cho. Mua một ghè rượu cần nữa là có thể rủ rỉ nghe hơ amon cả đêm. Ngoài rau dớn thì đầu bảng rau rừng là môn thục. Hình dáng của cây này hơi giống cây lan Ý, mọc thành bãi dày ở các khe suối đất cạn. Món này có thể ăn tuốt luốt cả dọc lẫn củ, có chất bột nên vừa làm rau vừa làm cơm. Cứ ninh nhừ cho mì chính vào, nhiều khi bộ đội ăn món này cả tháng trời thay cơm. Rau Tàu bay nhiều người đã nghe nói nhưng bây giờ khá hiếm. Đây là loại cây thân mềm, lá to mọc ven suối, có mùi hơi hắc như mùi xăng. Bộ đội thường nấu với thịt hộp. Loại rau này có cả ở Việt Bắc, Bác Hồ cũng đã từng ăn, và vì có mùi nên bác bảo: “Rau Tàu bay nên ăn có mùi dầu xăng”. Rau sam đá mọc trên vách đá, bộ đội bảo nấu nó với cua đá giã vào mũ sắt ngon hơn cua đồng giã cối đá nấu rau đay. Trong bữa ăn tôi kể trên, ông Nguyễn Duy cứ xuýt xoa: Lâu lắm không được ăn rau vòi voi. Thời ở Trường Sơn, ông rất kết loại rau này. Đấy là loại cây mọc sát mặt đất, rất mềm, hình như vòi voi, lá to như bàn tay, ăn gần như mùng tơi, xào hay nấu canh đều được. KTS Nguyễn Trọng Huấn ngừng ăn, bắt Nguyễn Duy tả kỹ hình dáng cây vòi voi và ông cũng lấy làm tiếc vì dù đã phát huy hết trí tưởng tượng mà vẫn… không hình dung ra cây vòi voi nó như thế nào. Ngoài ra thì còn rau ngót rừng, lá lốt rừng, rau tóc tiên, rau rệu, rau càng cua (Càng cua bây giờ cũng đang là đặc sản trong nhà hàng, trộn giấm với da cá hoặc tép biển, rất tốn…rượu).

Cũng cách đây hơn tuần, Phạm Đức Long, chi cục trưởng chi cục HTX và phát triển nông thôn Gia Lai, cũng là người làm thơ viết văn, đã có đến 8 đầu sách xuất bản mà Văn Nghệ trẻ vừa giới thiệu, điện cho tôi: Ông đến ngay, có món ngon. Chúng tôi chơi thân nên khá hiểu nhau, đã kêu đến như thế là quý lắm, có món hay lắm, quan trọng lắm, hoành tráng lắm, biết đâu lại có… chân gấu, gan cọp, tiết sư tử… mà dám lắm, gã này mới đi huyện về? Tôi bỏ buổi đánh bóng, phóng đến, thì thấy cái mà Long khẩn khoản gọi tôi đến để thời là… lá sắn. (Tôi phải dùng từ “thời” là tiếng Huế cổ để chỉ sự trịnh trọng khi ăn cái món này). Nó ngon một cách lạ lùng. Lá sắn hái dưới làng (là một loại sắn rẫy, không phải sắn đại trà lấy củ hiện nay, chỉ sắn này mới ăn lá được), về bỏ cuống rửa sạch, luộc lên, vò nát, lại rửa sạch, lại vò, rồi trộn với lạc rang, mắm muối gia vị, ăn quên chết bởi nó bùi, thơm, ngọt… hấp dẫn tận con tì con vị, tận tâm can phổi phèo. Hôm ấy hai thằng chúng tôi thời hết… nửa bao tải lá sắn mà vẫn thòm thèm.

Có một loại quả mà bây giờ trở thành đặc sản. Nhà văn Trung Trung Đỉnh mang từ Gia Lai ra Hà Nội mấy cây trồng trên sân thượng, sống được nhõn một cây và nó ra được đúng hai quả. Ông nâng niu như báu vật, ai đến cũng dắt lên xem, giới thiệu rồi lại lấy giấy bọc lại trước khi đưa khách tụt cầu thang về lại phòng khách. Ông đợi đến đúng hôm có một nhà văn trẻ ở Tây Nguyên ra mới trịnh trọng làm lễ “thu hoạch”. Đấy là cây cà đắng (Protang). Nó như cà thường của ta, nhưng quả dài như ngón tay, có sọc trắng, và đắng như khổ qua (mướp đắng), ăn quen rồi thành nghiện. Bây giờ người ta hay xào với gân bò, hoặc bắp kèn bò. Còn đồng bào Tây Nguyên hoặc bộ đội ngày xưa thì ninh nhừ với cá suối, rất ngon. Ở chợ Pleiku bây giờ, thỉnh thoảng vẫn thấy bán món này và nó được các gã đàn ông đi chợ mua ngay, bởi nó rất hợp cho việc làm mồi nhậu. Một số nhà vườn thành phố lấy giống để trồng bỏ mối cho các nhà hàng, quả to, mướt mát, rất non, nhưng nó không ngon bằng của đồng bào dân tộc trồng trong rẫy. Nhà nghệ sĩ nhân dân Y Brơm ở làng Kép, nhà nhạc sĩ Lê Xuân Hoan ở đường Tôn Thất Tùng đều có trồng cà đắng, mà sao chả thấy nó đắng nữa, ngọt lừ như cà đĩa, cà bát người Kinh. Nó cũng giống như sự chênh lệch chất lượng giữa gà ri và gà công nghiệp vậy… Món phổ thông mà chất lượng cao ở các nhà hàng cao cấp Tây Nguyên bây giờ là món Dé đắng, được nấu bởi lòng dê, cừu với cà đắng hái ỏ làng, món này phải đặt trước chứ đã vào mới kêu thì coi như chỉ… ngó.

Hoành tráng” hơn phải kể tới Búng báng, được bộ đội rất thích. Loài này hơi giống cây dừa, mọc vươn cao trong các cánh rừng, dễ thấy nhưng để lấy được lõi rất kỳ công. Bởi phải trèo lên ngọn, bóc từng bẹ cho lòi lõi ra. Đoạn lõi chỉ bằng bắp tay, dài ba bốn mươi phân. Có thể ăn sống hoặc xào ăn như su hào. Bên cạnh Búng báng là măng rừng. Đây là đặc sản bạt ngàn ở Tây Nguyên vào mùa mưa, không nói thì ai cũng biết. Bây giờ nó vẫn là đặc sản. Rồi hoa chuối. Bây giờ ở ngay chợ thành phố Pleiku, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt… ta vẫn gặp những người phụ nữ dân tộc gùi hoa chuối xuống bán, khá rẻ, chỉ một hai ngàn một cái to vật. Nếu đã vào đến các quầy trong chợ, nó được hét hàng chục ngàn…

Bây giờ đã vô cùng hiếm các loại rau rừng ấy. Trong rẫy đồng bào cũng chỉ trồng bí đỏ, rau lang, hành… những thứ bán được cho người Kinh. Còn loại rau “ký ức một thời” kia, nó lùi dần vào rừng sâu. Nhưng mà nó ngon thật, không phải chỉ trong ký ức đâu. Bằng chứng là cái món rau dớn xào tỏi của nhà thơ Nguyễn Duy hôm ấy, khi bưng lên thì ông phát hiện là sao nó… ít quá. Tôi lò dò xuống bếp hỏi thì gã đầu bếp nói thật: Nó ngon quá nên chúng em mỗi đứa làm… một gắp. Lần đầu tiên em được ăn đấy. Tôi lên kể lại với Nguyễn Duy, ông lẳng lặng lấy một cái đĩa, xẻ ra và mời mỗi người phục vụ một gắp nữa. Có mấy thực khách ở các bàn bên cũng được mời. Chưa hiểu là món gì thì nó đã nằm gọn ghẽ trong bụng…

Nếu bây giờ đi trên đường Hồ Chí Minh, qua đoạn từ Đăkglei đến Khâm Đức, có mấy quán ăn trong thực đơn có món “rau rừng”. Đấy là loại rau trông như rau sam, xào tỏi, ăn giòn và ngọt, hơi thoang thoảng mùi xăng, nhưng hỏi các cựu  chiến binh Trường Sơn thì đây không phải là rau Tàu bay. Món này rất ăn khách, hầu như ai đã ghé vào ăn cơm đều kêu món rau rừng này, và cũng là dịp để các em bé dân tộc tăng thu nhập, nhưng hỏi nó là món rau gì thì tất cả chỉ đều bảo: Rau rừng chứ không ai nói được tên cụ thể của nó.

Những ngày vượt Trường Sơn gian khổ

BT- Năm 1971, mới hơn 16 tuổi nhưng tôi khai 18 tuổi để gia nhập Công an nhân dân vũ trang vào tháng 4/1971. Đến tháng 11/1972, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, chúng tôi, những chiến sĩ  Công an nhân dân đã có mặt trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Từ huyện Bố Trạch (Quảng Bình), chúng tôi hành quân qua một số tỉnh của nước bạn Lào, Campuchia trước khi vượt sông Vàm Cỏ Đông sang Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Lộc Ninh, Đồng Nai, Lâm Đồng rồi về chiến trường Bình Thuận.

Chiến tranh đã lùi xa tròn 35 năm, nhưng những ký ức vượt Trường Sơn năm nào vẫn hiện ra trong tôi như mới hôm qua. Chúng tôi hành quân ngày đi, đêm nghỉ,  6 tháng 21 ngày mới tới nơi công tác là Ban An ninh Khu 6. Lúc bấy giờ, đang đóng ở đèo Yên Ngựa thuộc xã Hàm Cần, huyện Hàm Thuận (Bình Thuận). Nhớ lắm những ngày vượt dốc Ba Thang,  chân người đi trước chạm đầu người đi sau, ba lô nặng trĩu như níu người ngả lưng về sau, quai ba lô siết chặt bờ vai, hai cánh tay tê dại. Có những ngày gặp lũ rừng ngăn lối, thiếu gạo phải ăn cây môn thục, rau tàu bay, cây chuối rừng thay cơm nhưng vẫn không ai chùn bước.

Vượt Trường Sơn ngại nhất là khi ngập mưa. Mưa rừng Trường Sơn bao giờ cũng tầm tã, dai dẳng suốt ngày làm cho mặt đất ướt sũng, đường đi nhầy nhụa, dép lốp cao su chắc bền là vậy nhưng có lúc cũng phải xách tay. Nhiều đồng chí trượt chân ngã, ba lô, súng đạn, bê bết bùn đất. Đến cây củi khô dùng nấu cơm cũng bị ngấm nước không thể đốt cháy, phải chặt cây tươi loại ít ngấm nước để nấu. Nấu được bữa cơm trong những ngày đó là một kỳ tích, cả quá trình đúc rút và kế thừa kinh nghiệm của bao thế hệ vượt Trường Sơn trong mùa mưa.

Nhớ ngày vượt đường 20 (con đường nối liền Đà Lạt với Sài Gòn) và từ Lâm Đồng về Bình Thuận, bị địch phong tỏa, đơn vị hết lương thực thiếu muối trong thời gian hơn nửa tháng. Từng người phải thay nhau lên rẫy- nơi mà nhân dân địa phương đã bỏ hoang từ lâu, mót từng củ sắn, hái thêm lá bép, rau tàu bay nấu cháo ăn cầm hơi, đốt cỏ tranh lấy than thay muối và khi ăn miệng ai cũng đầy tro đen nhẻm nhìn nhau bật cười. Trong những ngày khó khăn ấy, một đồng đội lấy đôi dép cao su của mình đổi lấy một đôi dép khác cũ hơn cho đồng bào địa phương, để được nắm muối hạt chia đều cho mỗi người một hạt, không ai bảo ai mọi người đều bỏ vào miệng ngậm thật lâu để tận hưởng vị mặn ngấm vào cơ thể sau bao ngày nhạt muối. Nhớ những ngày sốt rét rụng tóc, trọc đầu, tuổi mười chín đôi mươi mà hành quân phải kèm theo chiếc gậy, nhờ đồng đội mang giùm ba lô, vũ khí, để mong được hành quân theo đơn vị, không bị gửi lại trạm giao liên làm quân “thu dung”

Nhớ trận địch càn, địch vây không có lương thực, nước uống mấy ngày liền. Khát đến nổi gặp cây sung đầy trái chín ăn vào nhưng không tài nào nuốt nổi. Đến ngày thứ ba không chịu nổi cơn khát, có người bắt đầu uống thứ nước do chính cơ thể mình thải ra, nhưng cũng hiếm, do cơ thể đã nhịn khát nhiều ngày. Qua việc đó, mới nghiệm ra rằng con người ta thiếu ăn có thể chịu đựng được, nhưng thiếu muối, thiếu nước quả là bi kịch. Vì vậy, sau những ngày nhịn khát, nhịn muối mà được ăn mặn, uống nước thỏa thích, ai cũng có cảm giác sung sướng kỳ lạ không tả được thành lời, có lẽ cái cảm giác ấy khó có được lần nữa trong đời.

Ở chiến khu Ba Lòng 40 năm trước

Mạc Hy

C

hiến khu Ba Lòng – 30 tết năm 1951

Tổ văn nghệ - báo chí chúng tôi đóng quân ở nhà mẹ An, khe giữa, bên bờ sông Thạch Hãn, cách chân làng Hạ một cánh đồng ngô.

Giặc vừa càn hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng. Việc tiếp tế lên chiến khu gặp khó khăn. Như mọi ngày, bữa cơm chiều nay cũng chỉ được lung đĩa nhôm sắn cõng cơm chan nước ruốc. Chúng tôi tìm rau tàu bay ăn thêm – mùi rau hăng hăng.

Văn Tôn (tức Hải Bằng bấy giờ) cười nói:

- Ăn rau tàu bay như ăn rau thơm ấy các cậu ạ.

Trần Quốc Tiến cắt ngang.

- Rau tàu bay ăn mất máu đấy! Mình chỉ ăn rau má thôi. Rau má hơi đắng như vị mát, bổ, tính bình, giải nhiệt, giải độc, thông tiểu...(chả là ông cụ của Tiến làm thuôc Bắc mà!).

- Thôi...thôi... ông lang, biết rồi... khổ lắm, nói mãi. Nhưng tìm đâu ra, có một ít, cậu đã vặt hết rồi còn gì?

Nguyễn Khắc Thứ chêm vào:

- Yên chí! Ngày mai sẽ có bữa cỗ tết ra trò. Nghe tiếp phẩm dắt ở đồng bằng về được hai “chú cầy” tiêu chuẩn sẽ là một loong gại không sắn với bốn miếng thịt cầy hầm với dọc môn suối.

- Nhưng một chú cầy đã sổng rồi, bắt mãi có được đâu. Nó tuột vào rừng rồi còn gì?

- Thế thì chỉ còn lại hai miếng thôi! một con cầy chia cho 50 người kia mà.

Tôi vẫn ngồi im lặng, tai nghe cuộc nói chuyện về bữa cơm đầu năm, nhưng đầu óc lại đang nghĩ về mẹ tôi. Từ vùng tự do liên khu 4, chúng tôi đã qua ba cái tết xa nhà của những thanh niên học sinh mới lên.

Tôi nói:

- Này các cậu ạ, tết này chúng mình đón giao thừa phải bằng một sáng tác văn nghệ, thơ, văn hay nhạc... Mang tiếng làm công tác văn nghệ, phải đón Xuân một cách độc đáo, văn nghệ chứ!.

- Phải đấy! Mọi người đồng ý.

Không khí trầm hẳn xuống, mỗi người chúng tôi tìm một chỗ, im lặng suy nghĩ.

Tôi cầm đàn ghi ta leo lên giường, làm bằng những tấm ván bắc ngang trên chuồng trâu nhà mẹ An. Cũng may, con  trâu vừa chết dạo trong năm nên mùi phân cũng đỡ nhiều. Anh Thứ người nhiều tuổi nhất, ra ngồi dựa một góc nhà. Tiến và tôi rủ nhau ngồi ở bậc cửa, trao đổi về hai bài trường ca mới viết. Tiến đọc khẽ:

Ai cười trong lá, ai hát trong cây

Nơi đây rưng nguyên thuỷ

Lá cây xanh, xanh ngắt bốn mùa

Suối vắng rừng thưa

Ai dừng bước một chiều rất lạ

(Trường ca “Cười trong lá, hát trong cây”)

Tôn gật gù:

- Mình lại nghĩ đến trăm năm sau, về thăm lại nơi đây minh sẽ nói:

Cháu, chắt ơi! Cố là Tôn, Thi sĩ

(Trường ca “Trăm năm rừng cũ”)

Nghe hai cậu bàn đến tương lai, riêng tôi chỉ nghĩ về những cái đã qua.

Trời tối dần. Ngoài trời đen như mực, mưa lác đác. Cây rừng xào xạc. có tiếng vượn hú ở phía dóc làng Hạ. Mấy ngọn đèn dầu làm bằng lọ mực “Oa-téc-mau” cháy leo lét. Ngọn lữa đung đưa theo làn gió dọi qua kẽ liếp!.

Hai mẹ con mẹ An vẫn ngồi bên đống lửa giữa nhà. Thấy chúng tôi im lặng, hý hoáy viết, hai người cũng không muốn bắt chuyện mà chăm chú vào một nồi to đặt trên bếp từ chiều, đang sô sùng sục.

Thời gian lặng lẽ trôi

Bỗng có tiếng súng nổ phía phòng tham mưu

... Giao thừa

Mẹ An bắc nồi trên bếp xuống, mẹ cẩn thận múc ra một bát chất nước sền sệt, đen đen có những miếng như thịt nổi lều bều. Anh An bưng ra một rổ sắn:

Mẹ An nói!

- Tết này, nhà ta nghèo, chỉ có ít sắn luộc ăn với canh da trâu, mời các anh ăn tạm!

Tôi nhìn lên miếng da trâu vẫn treo trên gác bếp, nó không còn đấy nữa, mà đã được cắt nhỏ hầm lên ăn với săn luộc.

Chúng tôi húp xì xoạp cái chất nước quanh quánh đen đen! mằn mặn, nồng nồng... Miếng da trâu to bằng miếng chân cái, nhẽo nhẽo trong miệng, dính vào chân răng, như miếng kẹo mè xững nấu hỏng, nhão nhão. Muốn nhổ ra, nhưng bụng đó lại nuốt vào. Vài miếng sau, thấy ngon ngon và tiếp tục ăn...

Anh thứ đọc một câu ngẫu hứng:

Đầu năm ăn miếng da trâu

Nhớ hàm răng mẹ nhai trầu năm nao!

Văn Tôn đọc liền một mạch ba chục câu thơ của chương “Trăm năm rừng cũ” vừa được chữa lại. Trần Quốc Tiến không thua, đọc “Cười trong lá, hát trong cây”.

Đến lượt tôi cầm đàn, tiếng hát, cất lên:

Mắt tôi ngóng nhìn, phương trời khuất xa xăm

Nhớ tới mảnh vườn sau nhà xanh khoai sắn

Quân thù bỗng đến, tiếng khóm tre khô xác xơ

Bao nhà chay thiêu, vươn khói mời!...

Bài hát viết ở giọng Rê trưởng. Đoạn đầu, giai điệu êm dịu, nhẹ nhàng, với tiết nhịp 3/4 gợi nhớ, kết bằng chủ âm ở âm vực trầm

Tôi hát tiếp đoạn hai:

Đêm nay nghê ngoài tiếng mưa rơi!

Lòng tôi xót thương tơi bời

Và đời tôi cho đến xuân nay

Rồi mấy xuân xa cố hương.

Tiết tấu thay đổ ở phần hai, nhưng giai điệu, tuy có chuyển giọng nhưng vẫn xuống âm vục trầm cho đến hết đoạn hai.

Tôi ước mơ, một tình thương xót xa

Của mẹ già tôi ở nơi quê nhà!

Trong không gian tĩnh lặng, tiếng đàn quyện với tiếng hát phát ra từ đáy trái tim, mọi người ngồi nghe không nhúc nhích.

Không khí lại trầm hẳn xuống. Ngọn lửa giữa nhà ánh lên soi rõ mặt mẹ An đang chớp chớp mắt. Quê mẹ ở Hải Lăng, giặc Pháp đốt nhà mẹ. Hai mẹ con chạy lên chiến khu, trồng ngô, trồng săn rau cháo nuôi nhau và đóng góp cho kháng chiến.

Tiếng đàn dâng lên. Xốn xang, giọng hát nghẹn lại.

Và căm hờn, tôi muốn xuân sang lập chiến công

Tôi ước mong một ngày mai giết xong loài giặc thù

Xuân đến vui thanh bình...!

Tháng 7 năm 1945, đoàn Văn công chúng tôi đi phục vụ chiến dịch Điện Biên về họp đại hội toàn Quân ở Việt Bắc.

Bài hát “Tết chiến khu” của tôi được đoàn nhận xét là buồn, nên không được dàn dựng.

Hào bình. Tôi về Hà Nội công tác và trong nhiều dịp Tết, tôi vẫn tranh thủ hát giới thiệu với bạn bè về một kỷ niệm trong đời, tâm sự của một anh lính xuất thân là học sinh và tự nhủ:

- Tâm sự của riêng mình không được phục vụ công, công, binh là phải! Chẳng nên suy nghĩ làm gì!.

21 năm sau, năm 1972 giải phóng Quảng Trị, Trần Quốc Tiến ( ra Bắc học xong Cao đẳng mỹ thuật) công tác Thái Nguyên đã xung phong đi B, về giải phóng quê hương. Tết năm ấy, chúng tôi gặp nhau ở Hà Nội thị nhà anh Khánh Phú, hoạ sĩ vừa đi thực tế Quảng Trị về. Cùng đi với Tiến ở Quảng Trị ra có một hoạ sĩ trẻ vùng mới giải phóng có tranh in ở nhà máy in Tến Bộ. Tôi nhớ đó là bức tranh “Quảng Trị-Mùa xuân-Hạnh phúc” vẽ hai vợ chộng một anh nông dân bế con, tay cầm cờ giải phóng.

Tôi lại cầm đàn giới thiệu bài “Tết chiến khu”. Nghe xong, anh hoạ sĩ trẻ (tôi vẫn chưa biết tên).

- Bài hát này của anh à?

- Phải...có gì đấy?

- Xin báo anh một tin không biết là vui hay buồn! Bài này, chúng em trong cùng tạm chiếm vẫn hát mỗi lần Tết đến. Kể cả bọn lính ngụy.

Tôi nghĩ bụng:

- Đúng, anh bạn ạ! Tôi cũng  chưa biết là vui hay buồn. Nhưng dù sao, cũng cảm ơn anh bạn!

Quán mèo rừng

Khi Nam đến ngã ba Tân Lâm thì đã có quán Mèo rừng. Khách đông, nhộn nhịp vào giấc ba giờ chiều đến khuya. Có khi lại kéo dài tận mờ sáng bởi tốp đào vàng vừa trúng mạch ở một hầm nào đó. Cả bọn vừa ca hát, vừa gõ xoong nồi và chạm ly côm cốp cười nói ầm ĩ bên những tô, dĩa thịt rừng cùng các chai rượu trong vắt như mắt mèo. Lúc này, đố ai dám bước vào quán trừ bọn sơn tràng, bọn đi điệu vừa ly sơn hạ thổ. Giang sơn nào, anh hùng nấy. Ai dại gì đụng vào cái máu liều luôn chảy giần giật trong  huyết quản của những gã “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” này? Vậy mà đến sáng mai trong cái ngổn ngang của buổi tiệc tàn, tuyệt nhiên chẳng thấy đứa nào nằm lại, những gương mặt xanh tái do đói ngủ, do thiếu ăn, do lam sơn chướng khí đều biến sạch như chìm hẳn vào núi rừng hoặc đã âm thầm xuôi về đồng bằng.

Ngã ba này là điểm nút của núi rừng trập trùng giữa miền ngược với miền xuôi, những căn nhà vách ván mái lợp lá cọ, lá đùng đình, lá tranh và lẻ tẻ một số cửa hiệu được ngói hóa để cho dân tứ xứ đổ về mua sắm, ăn uống. Nhóm tìm trầm với ba lô bạc thếch vắt vai từng chiếc cúp to nhỏ. Dân đào đãi vàng lỉnh kỉnh máng gỗ, nóp sắt. Bọn sơn tràng thì thong dong vì các ông chủ đã chuyển vật dụng vào tận điểm khai phá. Người dân tộc nước da đen cháy miệng phì phèo thuốc lá cuốn hình con sâu to sụ phập phà, vai mang gùi vào quán lủng lẳng thịt rừng, thịt heo, bò do các  chuyến xe chở thổ sản ngược xuôi  tuôn xuống cuốn bụi mịt mù. Các quán mở hết volume đủ loại nhạc vàng du nhập vào Việt Nam thuở trước 1975: “Mưa rừng ơi mưa rừng…” đến “Rừng lá xanh xanh mây phủ đồi quanh…” rồi “Tôi thường đi đây đó đây, bùn đen in dấu giày…” hòa vào các bảng hiệu con con nhưng gợi nhớ: “Lan rừng”, “Mưa chiều” rồi cũng không sót: “Đây rồi, cầy…” hoặc “À! thịt rừng đủ loại!” để hút khách bước vào. Sự bát nháo hỗn độn ấy chỉ diễn ra đến trưa rồi tất cả yên lặng khi ngã xế bóng nắng, mây đen kéo về ùn ùn, mưa tuôn xối xả hết đợt này đến đợt khác. Ngã ba lại dịu đi, không nóng, không bụi để đón những đám người từ rừng tuôn ra, có kẻ đã xong việc mua bán thì phóng xe phân khối lớn phía sau thêm thằng tóc tai như bờm sư tử mất hút về cầu Sắt, từng chiếc xe Reo đầy gỗ tắt máy đậu lại chờ tối để vượt chắn, từng tốp lẻ đi bộ bước vào các quán lúc hoàng hôn chập choạng buông xuống. Đêm sẽ nhường cho đám người này. Những xấp bạc mới cứng vừa trao đổi để lấy những tít đá lửa đổ ra lòng bàn tay lấp lánh ánh vàng, những câu nói thầm thì thụt trao tay và sau đó, rượu sẽ đổ vào thau để múc, thịt chất có ngọn trên những mâm nhôm khói thuốc la đà, ăn ngập răng, uống phát sặc, nói rổn rảng như sói tru…Nhưng chớ ẩu đả, chớ nện phát súng mũi dao nào, chớ xòe bài tá lả bởi thứ đó vào rừng sẽ có đầy đủ, còn không, lo xuống suối mà rửa máu.

Nam là thằng chẳng nghề ngỗng dù đã qua cửa Đại học. Chủ quán buôn thú rừng nhà ba tầng lầu kề nhà Nam dưới phố thấy Nam làng chàng ra vào, rồi tựa cửa ngóng trời đất, liền kéo qua, hướng dẫn cách nhập nghề một vốn chục lời. Khi Nam đủ sức phân biệt đực cái liền được đưa thẳng lên ngã ba Tân Lâm để thực tế, núp sau đầu nậu miền ngược là chủ quán Mèo rừng để gom hàng chuyển về. Tấm bảng Mèo rừng có khác so những bảng hiệu dài, vuông đủ cỡ của các quán mở nhạc xập xình. Nó tròn như chiếc thúng trơn sơn xanh biếc giữa chấm đen như mắt mèo cùng chiếc ly đặt cạnh. Vậy mà khách ra vô tấp nập cỡ từ ba giờ chiều, đến năm giờ là chật cứng. Tên người làm vai u thịt bắp thêm vết sẹo chạy dài ngang lồng ngực, lầm lì sắp bàn ghế dọc theo con suối bên hông quán có những tán cây mằng lăng che nắng. Sáu giờ, vài ba bàn đứng lên bước sang quán đèn màu bên kia đường. Ở đó, những cô gái quá lứa dạt lên từ dưới xuôi sẽ diện kiến. Rượu Mèo rừng do chủ quán Tam đảm trách. Mà lạ, lò đắp bằng đất sét, ống đồng chằng chịt qua chiếc thùng đựng nước giảm nhiệt đến lúc ra tới bình chứa, nước đầu nó có màu hổ phách thơm lựng, nước sau thì trong suốt như mắt mèo mà nồng độ vẫn giữ nguyên. Nhấp một tí, thơm như rượu làng Vân miền Bắc, đậm đà như Bầu Đá miền Trung rồi lâng lâng như các loại Gò Đen miền Nam Bộ mà khi còn đi học, Nam được mấy thằng bạn giới thiệu thứ “Nước mắt quê hương” của chúng. Hèn chi khách đông là phải, mà khách toàn là “dân giang hồ”, không chiều khéo nát quán chứ chẳng chơi!. Nhiều lần, Nam tò mò lén vào căn buồng nấu rượu của tên chủ quán và bắt gặp ánh mắt lừ lừ vằn đỏ, môi giật giật, tay ra dấu bảo cút xéo. Nam chờ tên người làm đổ bã rượu xuống suối để nhìn thì chẳng thấy gì lạ, gạo rẫy cùng men dưới phố nhưng lợn cợn những mảnh lá được giã nhỏ bầm đen trôi theo dòng nước. Các món thịt đầy đủ từ chồn, nhím, nai, mễnh, trăn, kỳ đà…Và người đứng pha chế từ luộc, xào, quay, nướng thì lại là Sa. Cô gái có thân hình đầy đặn, mắt trong veo như mắt mèo, lâu lâu lại nở nụ cười, làn môi đỏ tự nhiên với làn da rám nắng như đất đỏ bụi đường. Có lẽ ngoài rượu, đặc sản rừng thì Sa luôn góp phần vào số lượng khách hàng tứ chiến luôn đủ mặt, luôn cười nói nháy nhó khiêu khích cô nhỏ có cặp má hồng bên bếp lửa kia. Gã người làm vai u thì luôn dửng dưng với Nam, chủ quán Tam thì hay liếc xéo đề phòng nhất là khi có khách riêng của gã để to nhỏ bàn bạc, còn Sa thì luôn đùa cợt với vẻ ngây ngô của kẻ từ dưới xuôi mò lên tận mép rừng, đôi khi lại hướng dẫn khách cân thú, cách che đậy và cả cách cho thú ăn cho đủ sống mà chuyển tải về xuôi. Ông chủ nhà dưới phố lên cùng chủ quán Tam nới rộng khu nhốt thú, đào hầm thả cua đinh, rùa vàng, rắn rồi cả gấu, báo gấm và trên cùng chiếc giường dành cho “thú người” là Nam. Nam ngột ngạt lẫn lo sợ vì chỉ cần một con thú sút chuồng với sức mạnh hoang dã là đủ tan xương nát thịt, dù tiền tháng hai gã đưa Nam ngang bằng một người làm kinh tế ở thành phố, cùng giọng gã người làm đe nẹt đầy chết chóc: “Khôn hồn thì im lặng, việc của bọn tao…”.

Những buổi trưa yên ả để chuẩn bị từng cơn mưa rừng vào xế chiều là lúc rảnh rỗi của Nam và Sa vì quán vắng khách. Khuya thì rọi đèn kiểm tra, những ánh mắt xanh lét, đỏ rực màu máu khiến mãi những năm tháng sau này Nam vẫn chập chờn trong những giấc mơ, những tiếng rú, tiếng thở hồng hộc, tiếng bập răng vào củi thép rờn rợn đầy khiếp hãi. Nếu không có Sa, không có những buổi trưa yên tĩnh ngược lên dòng suối vắng cùng Sa cười nói, và cũng từng tay trong tay nhảy qua những phiến đá xanh rì rêu trơn trợt thì tinh thần Nam đã cạn kiệt đến suy sụp. Nam chỉ biết loáng thoáng Sa là em cùng cha khác mẹ của Tam, chủ quán Mèo rừng, cha Sa đã chết vì cây đổ lúc hướng dẫn bọn sơn tràng làm việc, “ăn của rừng rưng rưng nước mắt” mà. Quán càng lúc càng đông khách, những kẻ moi ruột rừng càng ngày càng ồn ào, có cả chính quyền đã vào quán và kêu chủ quán Tam Mèo rừng và gã người làm là thằng sát thủ. Chủ Tam lại mướn thêm người đầu bếp tận Nha Trang lên giúp việc và gã này lại càng tàn bạo trước đám thực khách đang trố mắt ngưỡng mộ. Tất cả vật sống đều giãy giụa thê thảm khi ngã dửng dưng đập đầu, rạch da trong tiếng kêu khắc khoải.

Có lần Nam đã bỏ cơm khi phải phụ gã xách con voọc đang mang thai đem lên bàn tiệc mổ bụng, vứt cả bọc đỏ lòm những máu vào xoong cháo đã nêm gia vị rồi moi óc bỏ vào từng ly rượu màu hổ phách của Tam Mèo rừng pha chế trong tiếng reo hò, trong cơn mưa chiều đổ xuống ào ạt, trong tiếng khóc nấc tê tái của Sa, trong mùi máu của đồng loại khiến cả dãy chuồng phía sau rung lên dữ dội lẫn tiếng gào rú hồng hộc thở. Xe chở thú mỗi tuần một ngày vào nửa đêm ghé vào để nhận và thả vào những rọ sắt phủ kín bao gai, được hai gã người làm xách vội vào nơi chứa thực phẩm và quán Mèo rừng vẫn đầy đủ thịt trong tủ áp kính, treo lủng lẳng từng đùi nai nhỏ những máu để thực khách tràn vào ồ ạt. Một buổi chiều sau cơn mưa, con trút bị sẩy khỏi lồng sắt chui hẳn vào phòng Tam Mèo rừng. Nam dò theo lúc gã đang mải mê tiếp khách, đong rượu, tính tiền. Căn phòng tối bưng, Nam định thần một lúc mới nhận ra từng đồ vật, từng thùng gỗ khóa chặt, những bó lá treo lủng liểng. Nơi góc trong cùng có tiếng loạt xoạt từ chiếc bao gai. Nam tò mò đi đến rồi lần giở và sững người, hàng chục con mèo nhị thể, tam thể, mèo mun, mèo mướp, mèo đốm, mèo vằn, nghe động búng mình nhảy giần giật, gào rú loạn xạ khiến Nam giật lùi ra cửa, kịp lúc Tam Mèo rừng thấy động đi vào.

Buổi trưa, Nam lang thang dọc bìa rừng trong lòng vẫn không khỏi hoang mang, người nóng bừng như lên cơn sốt. Lâu nay, thú rừng con nào bị ốm, bị chết thì quán Mèo rừng sẽ mổ thịt dù thịt đỏ, đen, vàng, tím lẫn lộn, dù cắc kè hay kỳ nhông, kỳ đà hay cá sấu đều vào xoong chảo bốc mùi thơm lựng trước những cặp mắt hau háu như cọp rình mồi của dân đâm cha chém chú, nhưng đó là thịt …Đang suy nghĩ lúc bước sang đoạn suối cạn thì Nam hốt hoảng nhảy vào gộp đá mọc đầy lau lách, từ phía xa tên người làm và gã đầu bếp đang khệ nệ khiêng cả thùng nước nóng đặt cạnh suối dưới tán lộc vừng; cả hai trở vào dùng cây khiêng lặc lè chiếc rọ sắt ra ngoài. Sau khi nhớn nhác nhìn chung quanh lúc Nam chúi đầu sát đất thì hai gã lột hẳn bao gai, nhúng liền chiếc rọ sắt toàn mèo vào nước nóng. Tiếng “miao…ngoao ngoao …ngoào ngoào”, tiếng giãy giụa đập vào vách thùng bồm bộp, hai gã lại giơ cao rọ, những khối đen sì ướt rượt gào thét bung mình cuộn tròn, lại nhúng xuống dòng suối, lại kêu, lại nhúng. Chỉ trong phút chốc họ đã chặt đầu moi ruột, lủng liểng từng con như ếch vừa tuốt da. Lại thêm một con heo nhỏ bị đập đầu ném vào đống lửa thui sống, nó chỏng bốn vó co giật, lông cháy xèo xèo khét lẹt, các thớ thịt co lại vàng rộp. Gã đầu bếp ra thịt tại chỗ, thịt đỏ ửng như heo rừng, còn tên giúp việc thì xếp từng mảng thịt mèo trắng bong như thịt kỳ đà, cá sấu để Tam Mèo rừng mặt sức giới thiệu. Việc này mà bị lộ thì quán Mèo rừng phút chốc bị thiêu rụi, không khéo Nam cũng bị vạ lây, luật rừng sẽ xử lý tất cả những ai lừa dối. Chờ hai gã gánh thịt băng băng vào quán, Nam vòng thật xa chỗ cũ như kẻ rong chơi về. Sa đã chờ lúc vừa thấy bóng Nam liền kéo vội đến nơi bụi trâm bầu khi cơn mưa rừng chuẩn bị tuôn đổ, bầu trời chằng chịt những tia chớp, túi nước nặng nề sẽ ập xuống rùng rùng ở ngã ba Tân Lâm. Tiếng Sa ngắt quãng trong hơi thở dồn: “Gã Kỳ giúp việc đã thấy anh vào phòng của Tam Mèo rừng, coi chừng bọn chúng tìm cách khử anh, Sa nói cho anh biết Sa không phải là em gái của Tam Mèo rừng, cầm lấy cái này anh sẽ hiểu thêm”. Sa dúi vội nắm lá đen sì vào tay Nam rồi vội chạy trở vào quán. Mưa đã nặng hột, rơi từng dòng từng dòng trong chớp nhoang nhoáng tuôn đổ, mưa rít trên người Nam, hàng cây vặn mình răng rắc lúc Nam quay mình trở vào lều thấy lạnh đến tê cóng, bàn tay từ từ xòe ra đưa lên mũi ngửi nắm lá có mùi nồng nồng hăng hắc và lần nữa tái mặt bởi đó là mùi cần sa. Mưa vẫn sầm sập đổ, dòng suối bên dưới đang cuộn réo khi trong quán Mèo rừng dao thớt đã khua khoắng, với lượng thịt ban chiều thì hẳn rằng đêm nay chuẩn bị đón lượng khách lớn.

Nam rùng mình nổi gai góc khi nhớ đến những cái chết không rõ nguyên nhân bởi sập hầm vàng, bẫy thú, bị trôi sông rồi với mình thì chỉ cần bất chợt ngủ quên, gã người làm lẻn vào mở tung các chuồng thú và rọ sắt nhốt bầy rắn hổ vừa nhận về hôm qua thì cái chết của Nam có trời mới hiểu thấu. Nam lần dò ra cửa, phía quán Mèo rừng làn khói mỏng manh bốc lên tụ lại trên cành mằng lăng thành một hình nấm trắng nhợt, có tiếng tắc kè dóng dả từng hồi một như báo hiệu chấm dứt đợt mưa rừng, như nhắc cho Nam: “Ở…không…bỏ trốn…tắc kè kè!”. Đi thôi, mưa đã sắp ngớt hạt, chiều đang buông dần thì bóng tối của núi rừng ập xuống rất nhanh. Nam ôm túi xách lách mình ra ngoài, chạy lom khom ra bờ suối rồi vấp phải rễ cây bổ nhào xuống nước, nước phăng phăng cuồn cuộn đẩy Nam trồi lên, ngụp xuống va vào tảng đá hất ngược rồi trôi trôi xuôi dòng tấp vào chân cầu sắt. Nam lóp ngóp lên bờ người đau ê ẩm nhưng vội gạt các cành lá, nhoài người qua các bụi rậm mặc gai cào, cây quất rát mặt, vấp ngã dúi dụi vẫn bật dậy lao đi. Nam thở dốc trong cơn mệt, đói, sợ đến lả người, rồi hoa cả mắt khi nhận ra quang cảnh xa lạ ngỡ ngàng vì lạc lối. Lạc rừng khi vào đêm lúc mưa lâm thâm lạnh buốt để Nam bật khóc, chân bước ngang dọc qua đám cỏ tranh, bì bõm trên những vũng nước trơn trượt, tai nghe tiếng chim đêm vòng vọng đầy khắc khoải. Cơn mưa kế tiếp lại ập đến, nước thẳng băng như kẻ chỉ loang loáng đập vào mặt đến tê dại trong bầu trời sầm sầm chớp. Nam đã gào lên, tay vuốt nước mắt hòa trộn trong mưa đổ rùng rùng mãi đến lúc đặt chân lên đường lộ thì ánh đèn pha quét sáng trờ tới làm Nam loạng choạng. Tiếng chân người lao đến, rồi tiếng người khẽ khàng: “Thằng Nam thu mua động vật ở quán Mèo rừng, sao nó lại xuất hiện ở đây nhỉ?”. Tiếng người bên cạnh: “Đưa nó về trại, lẹ lên”. Trong mơ hồ cảm giác bồng bềnh lúc gió tạt qua tai ù ù, Nam nghe tiếng động cơ gầm lên lao vun vút rồi rẽ ngoặt vào căn nhà dưới gốc trâm già. Mọi người hối hả dìu ngay vào phòng rồi ly trà nóng pha đường đưa tới để Nam ngước nhìn, bật dậy: “Thùy râu!”. Đối diện trước mắt Nam là con người to cao vạm vỡ, bộ râu quai nón với đôi mắt xếch trông dữ dội cùng tia nhìn lành lạnh mà đôi lần bước vào quán Mèo rừng mọi người đều e dè. Lúc này Thùy râu lại cười hiền lành, câu nói nhẹ nhàng tương phản với gương mặt: “ Nhận ra nhau rồi hả ông bạn, sao lại bỏ trốn? Kể vắn tắt để bọn tôi còn đi…”. Nam nghĩ, đằng nào cũng sa bẫy bọn chúng. Gần tháng nay ngày nào Thùy râu chả tạt qua quán Mèo rừng mà bù khú với nhóm trong rừng và cách chơi của Thùy râu làm lác mắt lãnh địa ngã ba Tân Lâm, ngón trỏ bún tách một phát rượu đã ồ ồ chảy đầy thau, tay gõ miệng chén thì thịt đã sắp đầy bàn, càng uống càng lầm lì để đánh gục từng đối thủ rồi từng cọc tiền mới cáu đập nhẹ vào tay Tam Mèo rừng. Có kẻ nói Thùy râu buôn lậu gỗ, lại có kẻ nói Thùy râu thu mua trầm kỳ vì luôn cùng hội với lũ người này. Nam kể ngắt quãng khiến Thùy râu sốt ruột đưa mắt nhìn đồng hồ rồi  đưa tay ngăn lại: “ Thôi tốp, hiểu rồi ông bạn, giờ thì ông quay trở lại cho!”. Vậy là hết. Nam cúi gục đầu thì bàn tay nhẹ nhàng vỗ vai, chiếc thẻ cảnh sát chìa ngay trước mặt với tấm hình Thùy râu khiến Nam ngỡ ngàng với câu nói: “Nhận mặt một lần nữa coi!”. Lại nghiêm giọng: “Anh hiểu công việc chú mày từ lâu, cứ quay lại sẽ có người bảo vệ an toàn. Yên trí, một ngày nữa thôi, chiếc bẫy sẽ sập xuống nhốt bọn thú người. Lập công chuộc tội đi bạn, lẹ lên, trễ giờ rồi”. Nam bước ra sân, mưa đã tạnh hẳn, hai chiếc mô tô phân khối lớn nổ máy bật đèn trở đầu. Thùy râu ngồi sau Nam, bảo nhỏ: “Cứ xem như không có việc gì. Sáng mai đợt thú bổ sung về rất nhiều để bọn chúng vét chuyến chót rồi đấu giá quán Mèo rừng để ôm tài sản tẩu thoát, nhớ xem chừng con bé Sa, nó có tên trong danh sách bọn buôn người đi biên giới”. Chiếc xe vụt lên trước, tắt đèn rẽ vào con đường khúc khuỷu đầy cỏ tranh rồi dừng lại, Thùy râu chỉ hướng trước mặt: “ vòng lên trước một đoạn, rẽ trái thì gặp suối cạn để trở về nơi ở và nhớ rằng cứ thản nhiên bình thường”. Lúc vừa đến cửa một bóng người bổ nhào ra ôm choàng lấy, Nam cuộn người lăn một vòng hai vòng, va phải gốc cây đau điếng nhưng vội bật dậy để cố hất tung con người đang đè lên ngực đến ngạt thở thì tiếng hổn hển kề sát: “ Sa đây, anh Nam”. Trong bóng tối Nam ôm gọn thân hình đã dãn ra mềm mại, tay vuốt khẽ mái tóc rối tung, tiếng Sa thì thầm: “Tam Mèo rừng phát hiện anh không có trong lều thú, hắn bảo em canh chừng lúc nào anh về thì báo hắn. Tối nay đông khách bởi có băng Thùy râu, sao anh không trốn?”. Sa thổn thức khóc rồi hôn vội Nam khuôn mặt nhòe nước. Nam đỡ Sa ngồi dậy, dặn nhỏ: “Cứ bảo anh vừa đi tìm con trăn gấm vừa sút chuồng mới về, mọi chuyện không việc gì phải lo”.Nam hôn nhẹ lên trán Sa rồi đẩy nhẹ về quán. Đi được một quãng, Sa chạy lại ôm chặt Nam, thân hình cô run rẩy từng đợt: “Em yêu anh… nhưng anh sẽ chết mất!”. Lần đầu tiên trong đời, Nam dụi mặt vào khuôn ngực người con gái, miên man kiếm tìm đôi môi ấm áp ngọt ngào rồi đẩy vội khi nghe tiếng Thùy râu oang oang trong quán. “Ê, Tam! Lấy thêm rượu”. Đêm vào khuya, rừng vẫn âm u bí hiểm, tiếng gió cuộn trên lá mục, tiếng chân thú hoang sột soạt bên ngoài cùng tiếng giãy cựa của thú nhốt bên trong làm Nam không thể chợp mắt. Đã cột chặt cửa, bên cạnh là cây gỗ vạt nhọn nhưng vẫn thấy sợ cho dù biết Thùy râu vẫn còn ngồi bên cạnh Tam Mèo rừng, vẫn biết có người bên ngoài khu trại để bảo đảm an toàn cho mình nhưng vẫn thấy lo, đom đóm lập lòe từng bầy xanh lét như những mắt mèo chiều nay thét gào giãy chết, đôi mắt của gã giúp việc như cặp mắt của rắn hổ bành đang ngọ ngoạy trong rọ sắt dưới chân giường. Rồi trong cơn mệt mỏi, Nam dần chợp mắt…

Sáng. Khi trời còn mờ sương. Tam Mèo rừng bình thản đến chỗ Nam, cả hai sắp xếp để đón đợt thú mới. Tam Mèo rừng cho biết, khuya nay hắn sẽ theo xe cùng Sa và gã đầu bếp về phố lo công việc. Nam cứ ở lại với gã Kỳ nhận tiếp thú chờ hắn lên. Nam ậm ừ lơ đãng trong lúc cột những bao gai chất đầy baba, rắn hổ. Có tiếng xe và tiếng người ồn ào bên ngoài, Nam biết thú đã được tải đến khi Tam Mèo rừng cười nói vồn vã lâu lâu gọi tên người làm. Đúng như anh Thùy báo trước, đợt này ngoài hai con gấu ngựa kềnh càng bị bẫy, còn có heo, gấm, kỳ đà thượng nguồn tuôn về. Xong việc Nam xuống suối rửa ráy thì gặp Sa đang lau chùi nồi niêu xoong chảo, đôi mắt đen láy buồn buồn nhìn Nam, miệng nhếnh cười như mếu. Xế chiều mưa đổ ồ ạt của thời tiết định kỳ ở rừng thì có tiếng xe vào quán, những bóng người mặt áo tơi phủ kín thấp thoáng rồi vội vã lên xe, dứt đợt mưa Tam Mèo rừng xuất hiện nơi cửa: “Nam, sang uống bia với thịt nai, bọn đi trầm vừa tạt qua gửi khúc đùi”. Nam sang khi bia đã bật nắp cùng thịt ướp sẵn chuẩn bị lên vỉ nướng. Tam Mèo rừng giơ cao ly mời mọi người: “ Nào, ta uống chia tay vài ngày mới gặp lại, chiều nay nghỉ để chơi xả láng!”. Ly cụng ly côm cốp, bia sủi bọt tràn trề, mùi thịt thơm lựng trong cái nheo mắt của Tam Mèo rừng xoáy đến từng người. Gã người làm vẫn lầm lì, tên đầu bếp mặt đỏ gấc nhanh nhảu chia thịt, Sa buông mái tóc che khuất khuôn mặt, Nam trệu trạo nhai thịt như nhai miếng giẻ rách. Hoàng hôn buông dần. Tam Mèo rừng gọi Sa thắp đèn bão và bảo mọi người chuẩn bị công việc, Nam lảo đảo đứng lên bước vội ra ngoài. Trời đã tối hẳn mà xung quang vẫn im lặng khiến Nam thấy lo nhoi nhói. 10 giờ rồi 11 giờ đêm tiếng xe ô tô đã vọng tới trong cơn mưa lâm thâm lúc các hàng quán đã dần đóng cửa. Hai chiếc, ba chiếc nối đuôi pha đèn dừng ngay quán Mèo rừng thì cửa đã mở bật mở, từng kiện hàng được đẩy lên thật nhanh. Tam Mèo rừng tay xách valy ra lệnh cho từng người với giọng đanh sắc. Nam cùng vài người nữa kéo rê những rọ sắt, bao tải dồn ép chặt vào thùng xe. Chiếc xe thứ ba gần đầy hàng chỉ còn cặp gấu ngựa đang lặc lè di chuyển và Nam vội liếc tìm Sa. Dưới gốc mằng lăng Sa đang nắm hờ túi xách, mắt thảng thốt nhìn Nam thì tiếng hét đanh thép vọng lên: “Tất cả đứng im!”. Đèn bốn phía bật sáng chỉa vào một điểm là quán Mèo rừng. Một giây trong sự bàng hoàng rồi cuộc xung đột diễn ra, xe trước giậm ga rú máy trong tiếng nổ của súng cùng tiếng bắn trả.Tiếng hét, tiếng hô náo loạn và những bóng người xông đến, chạy dạt. Nam thả vội chiếc lồng nhốt gấu đã bung sợi dây buộc cho nó lồng lên dữ dội để nhào đến chỗ Sa đang úp mặt dưới gốc cây. Nam kéo vội Sa lăn vào gộp đá kịp tránh cái tát của con gấu ngựa vừa sổng. Nó đã quay lại chụp ngay lấy tên giúp việc đang trờ tới để xé, tiếng rú hãi hùng và máu tuôn xối xả, dù Thùy râu đã vọt tới đưa thẳng nòng súng vào miệng con vật bóp cò. Chỉ trong vài phút sự náo nhiệt đã bị dập tắt. Tam Mèo rừng bê bết bùn đất đưa tay vào chiếc còng cùng đồng bọn trở vô quán. Đèn thắp sáng choang, Tam Mèo rừng nhìn thấy Thùy râu sững sờ và những kẻ đến quán hắn ăn nhậu. Thùy râu cười bảo: “ Ngạc nhiên lắm hả, tiền đâu mà tao mua đủ quán của mày, chỉ đến để kiểm kê tài sản và kê thêm tội trạng, Dũng đầu bò ạ!”. Chủ quán Mèo rừng tái mặt vừa lúc những người cảnh sát từ trên hai chiếc ô tô bước vào. Sáng hôm sau, ngoài những tài sản từ trên các xe bốc dở xuống như kỳ nam, trầm hương, bột vàng, thú rừng cùng danh sách những kẻ đồng lõa thì có một thứ đáng để chủ quán Mèo rừng lên dựa cột là là những bao cần sa dùng cho việc nấu rượu và tẩm vào các món thịt thú rừng. Còn nữa, bạn tù vượt ngục của hắn là tên Kỳ giúp việc đã chết ngay đêm đó do vết thương quá nặng.

Nam về phố khi quán Mèo rừng đóng cửa. Chấm dứt những cơn mưa rừng triền miên cùng nỗi lo phập phồng đến thắt ngực. Những đêm đầu tiên chập chờn trong giấc ngủ. Nam vẫn thảng thốt nghe như chung quanh mình có tiếng loạt xoạt, gào rú điên dại của bầy mèo nhốt trong rọ sắt phủ bên ngoài chiếc bao gai sờn rách.Tiếng “miao…miao…”của lũ mèo đang động dục chạy trên mái nhà tìm bạn tình khiến Nam choàng tỉnh, người ướt đẫm mồn hôi, run rẩy khi nhìn thấy cặp mắt quét sáng quắc dưới ánh trăng đêm hướng về anh như những linh hồn hiện về với những hình dạng trắng hếu, thõng thượt, ngoắc ngoải co giật. Nam biết, bầy mèo ở quán đêm ấy đã cắn nát rọ sắt búng mình tuôn ra ngoài như lặn sâu vào đêm tối mịt mù sương phủ của núi rừng. Nhưng nỗi ám ảnh trong Nam vẫn không thể xóa nhòa được. Nó như một cơn stress kéo dài hằng ngày mang nhiều ảo ảnh vì chuyện rừng với một người  bước vào đời.

Và Nam chợt nhớ Sa , trong thư Sa bảo đang làm ở nông trường trên Gia Lai. Mùa này nơi ấy hoa cúc quỳ vàng rực trải dọc các sườn đồi đầy nắng cùng gió, có cả mây trôi bồng bềnh, chỉ duy nhất đang thiếu một người…

Đàn tranh

Trăng sáng, sáng vằng vặc, soi tỏa khắp ngõ ngách của xóm nghèo ven sông và cây cầu đá. Ánh trăng làm nản cả ánh sáng những ngọn đuốc của đám gia nhân đi đòi nợ. Tiếng chó sủa chen lẫn tiếng trẻ con giật mình khóc thé làm náo động cả xóm. Đám gia nhân đạp chiếc cổng tre nhà cụ Lý Thảo, xông thẳng vào đập cửa dồn dập. Chiếc cửa gỗ vừa mở ra thì gần chục con người lao thẳng vào trong, đứng chật trước gian tiền đường. Chiếc đèn dầu trên tay cô con dâu từ từ tỏa những quầng sáng làm lộ vẻ mặt nửa ngái ngủ nửa sợ hãi của hai cụ già. Một trong những tên gia nhân của nhà họ Trần cao giọng quát:

- Lão già, thằng con trai lão nợ ông chủ Trần nhà chúng tôi hai vạn đồng. Hôm nay là hạn cuối. Nếu các người không giao đủ số nợ, chúng tôi sẽ bắt người.

- Sao…Hai vạn đồng? Chẳng phải nó nợ có hai trăm đồng. Hôm nay, trước khi nó đi lính cho quan Tây, các quan đã cho nó đủ số tiền để trả nợ ông chủ Trần rồi chứ? Phiền các người về bảo ông chủ xem lại cho lão!

Cụ bà đang đứng còn ngái ngủ bỗng chốc rụng rời. Cô con dâu vội vã xốc nách bà lên, cô cũng không tin vào tai mình nữa.

- Giấy biên nợ rành rành ra đây này. Không nói nhiều với lão già. Lão mà không giao đủ số nợ ra đây, chúng tôi sẽ bắt cô con dâu lão trừ nợ. Con trai lão đã mang vợ ra thế chấp, điểm chỉ rõ ràng đây.

Tên gia nhân vừa nói vừa đưa tờ biên nợ đến trước mặt cụ Thảo, cụ không biết mặt chữ liền ra hiệu cô con dâu lại. Sen nhìn tờ biên nợ trên tay cha chồng, mặt cô biến sắc:

- Thưa cha, đúng nét chữ nhà con, chỉ đôi chỗ nắn nót quá, không giống phong cách của chàng. Theo như tờ biên nợ thì nhà con đã mang con ra thế chấp lấy hai vạn đồng!

- Không thể như thế được, thằng Dân không bao giờ nói dối. Chắc chắn là các ngươi đã dở trò. Thằng Dân chưa bao giờ nói dối!

Tên gia nhân mặt hằm hằm, trợn đôi mắt cú vọ quát:

- Giấy trắng mực đen rõ ràng ra đấy. Lão có giao đủ số nợ không? Chúng mày, bắt cô gái này về cho ông chủ!

- Xin cậu thư thư cho mấy bữa. Lúc này chúng tôi lấy đâu ra có số tiền lớn như vậy chứ! Cậu về thưa với ông chủ Trần cho chúng tôi khất lại mươi ngày, ngay khi lo đủ hai vạn đồng, cha con tôi sẽ mang đến gửi tận tay!

- Ông chủ đã dặn, không có đủ tiền đồng thì bắt người về. Chúng mày, trói cô gái đưa về. Thằng kia, nhớ mang cả cây đàn…

Hai cụ già kẻ ngất lịm, người bị xô nằm bất động giữa tiền đường. Người con dâu vẫy vùng không lại sức lực điền vật hổ của đám gia nhân. Nhanh chóng, chúng dời khỏi nhà cụ Lý Thảo. Cũng nhanh chóng, làng xóm đổ tới, trẻ gọi già, già bảo trẻ mời thầy lang đến xem bệnh cho hai cụ già. Ánh trăng túa vàng trả lại những lời ước hẹn đêm nào cho người con gái. Nó làm nước mắt cô như những khối vàng được đánh bóng tạo hình tinh xảo. Và tự nhiên, ánh trăng làm một cơn mưa vàng nặng trĩu trên bi kịch của người con gái mang kiếp cầm ca.

B.

Ở góc nhìn này, người ta thấy ánh trăng vàng chạm đỉnh đầu bức tượng Nữ thần tự do. Những dãy phố đèn sáng trắng xen kẽ với những khoảng sáng vàng êm dịu của ánh trăng. Trên đường phố ấy, cô kĩ sư đã không kịp nhận ra điều này. Cô nhướn mắt phóng xe vun vút đến bệnh viện thành phố, nơi mà người ta báo tin cha cô đang cấp cứu. Khi vào đến phòng cấp cứu, cô thấy cha mình đang nằm bất động trên giường, tay ông ghì chặt chiếc đàn vào ngực. Các bác sĩ tìm mọi cách thuyết phục ông già để họ giữ hộ cây đàn và cấp cứu cho ông nhưng bất thành. Cô kĩ sư đến bên bố, nhìn ông yêu thương nghẹn ngào. Cô hôn lên những ngón tay hình củ lạc của ông và từ từ cậy từng ngón tay một khỏi thân đàn. Mắt cô vẫn nhìn ông đầy thân thương và tin tưởng. Cuối cùng, các bác sĩ đã phải đồng ý để cô con gái bệnh nhân già họ Lý ôm cây đàn ngồi gần bàn phẫu thuật, nhằm đổi lấy sự im lặng ngoan ngoãn của ông cụ.

Đã có vụ đột nhập vào ngôi nhà của cha con nghệ sĩ Lý Thu. Hai tên trộm đã không lấy những thứ đồ giá trị trong ngôi nhà. Chúng chỉ cố gắng cướp cây đàn tranh. Ông già họ Lý ôm chặt cây đàn, thoăn thoắt di chuyển, tránh đòn bằng những miếng võ dân tộc. Trông những đường quyền thế cước của ba con người có vẻ như cùng một thầy dạy. Cuộc tỉ thí không cân sức đã diễn ra hơn mươi phút. Lạ thay, dù xuất quyền đả cước kiểu gì thì bọn trộm cũng không thể nào lấy cây đàn khỏi tay ông già. Cảnh sát tuần tra đi ngang qua nghe tiếng vật lộn trong ngôi nhà liền áp sát truy đuổi. Trước khi chạy trốn, một trong hai tên trộm đã dùng gậy vụt mạnh vào đầu ông già khi ông đang cố gắng tung người đỡ chiếc đàn bay giữa không trung.

C.

Trong chính đường của nhà họ Dương, ông chủ Trần Trung đang bày yến tiệc đãi các ông chủ buôn vải trong thành. Phía buồng trong, Sen ngồi lặng lẽ nhìn con bướm trắng đậu trên dây đàn. Đã mấy tuần trăng từ ngày có tin đồn tiểu đoàn của chồng nàng bị xóa sổ trong một trận phục kích của nghĩa quân Đề Thám, ngày nào con bướm trắng cũng đậu trên chiếc nôi của cậu con trai, thi thoảng, nó bay đến cạnh cây đàn tranh. Con bướm dõi theo từng nhát tỉa, từng nét chạm của Sen trên thân đàn cho đến khi bức hình đôi trai gái giao hoan dưới ánh trăng hoàn thành. Ngay sau khi Sen mang ra thợ nạm ngọc bức hình đó trên thân đàn, hình như con bướm trắng đã khóc. Sen thấy một giọt nước nhỏ đậu trên khuôn mặt ngọc người con trai khi con bướm từ đó bay lên cửa sổ. Từ ngày bị bắt về, nàng cấm khẩu, lúc nào cũng lặng lẽ gửi hồn vào tiếng đàn và ngắm nhìn con bướm. Con bướm giật mình bay lên phía cửa sổ, một kẻ hầu vào truyền lời Trần Trung bảo nàng ra chơi đàn đãi khách. Hầu nữ vội vàng thay xiêm áo cho nàng. Nàng hôn nhẹ lên đôi mắt đang chìm trong giấc ngủ của đứa con nhỏ rồi ôm cây đàn đi ra.

Sen thờ ơ với những lời tụng ca kim cổ của mấy ông chủ buôn. Những ông chủ ngày thường đường hoàng giữ lễ, ấy khi men đã ngà ngà đôi mắt cũng dò xét, lần lần trên cơ thể nàng đầy ham muốn. Nàng chăm chú nhìn ngắm con bướm trắng bay ra theo nàng và đậu trên chiếc đèn lồng ngay trước mặt. Sen đeo móng gảy và bắt đầu lướt những ngón tay thon dài trên những sợi tơ đàn.

Khúc Vọng nguyệt do chính nàng phổ vào cho những ngày tháng yêu thương ngọt ngào vang lên. Bàn tay trái uyển chuyển trên phím đàn vẽ ra đôi thiên nga đang múa nhịp nhàng dưới ánh trăng. Tiếng đàn rung lên như ánh trăng tan ra làm muôn hạt sáng rắc xuống vạt cỏ mặt hồ. Có đoạn, tiếng đàn vút lên như cánh thiên nga vút cao trong gió mỏng. Thoảng, những ngón tay trái lại vuốt, lại nhún vẽ ra những nụ hôn mê dại của đôi thiên nga. Con bướm trắng đằm vào tiếng đàn, dang cánh múa như quên mình là bướm, nó múa như một vũ công siêu hạng của tạo hóa.

Tiếng đàn làm cho ánh sáng trong những ngọn đèn lồng chợt tỏ chợt nhòa, lả lơi mờ ảo. Những vị khách nhà họ Trần bị tiếng đàn thôi miên dắt dẫn vào cõi mộng nào dịu dàng êm lắm. Tiếng đàn vừa dứt thì mọi người cũng tỉnh. Ngây ra một lúc, các ông chủ buôn vỗ tay tán thưởng ran cả bàn tiệc và hết lời tụng ca tài sắc của bà Tư. Ông chủ Di rót rượu mời Trần Trung:

- Hay, hay tuyệt. Di tôi xin chúc mừng ông chủ Trần đã cưới được một nàng “Chiêu Quân” thứ hai. Bà Tư sắc đã nhất thành, đàn lại hay nhất thành, thật hiếm có người con gái nào được như thế!

Ông chủ Đinh cũng rót rượu tràn ly, đứng lên ồm ồm cất giọng:

- Từ thời cha sinh mẹ đẻ, đây là lần đầu tôi được chứng kiến một người con gái xinh như thế, đàn hay như thế. Không hổ là truyền nhân của Đệ nhất Cầm tử Bạch Vân Thanh. Đinh Tài tôi xin cạn chén này mừng cho ông chủ Dương. Khà khà!

Tri huyện Đinh Công Tự chậm rãi vuốt râu, lên tiếng:

- Xin mừng ông Trần cưới được bà Tư nhất sắc nhất tài! Lại mừng cho thiếu công tử tròn một tuổi. Đúng là song hỉ lâm môn! Chúc mừng chúc mừng!

Ông chủ Trần đứng lên chắp tay cảm tạ các vị khách. Lòng ông thấy vô cùng sung sướng, một điều gì tự hào cao ngạo dấy lên trong ông. Trần Trung thấy mình đứng ở trên cao biết chừng nào. Đang nguồn hứng cảm, ông sang sảng bảo: “Phu nhân, nàng hãy đàn thêm mấy khúc để các vị thượng khách của ta thưởng lãm”.

Sen còn đang chập chờn theo ảo giác về những ngày tháng bên người chồng cũ, còn đang say đắm theo vũ điệu tuyệt vời của con bướm. Nàng khẽ chỉnh cung đàn, khi ngước nhìn lên thì không thấy con bướm trắng đâu nữa. Con bướm trắng giận nàng, nó trốn biệt sau cánh cửa. Nàng hẫng lòng như vừa đánh mất một điều gì quý giá nhất.

Ngón bịt kéo dài, tiếng đàn thảng thốt như sương mờ phủ kín trước mắt. Hai hàng lệ của nàng từ từ lăn trên khuôn mặt đẹp như trăng mười sáu. Sen trở về với thực tại đau lòng của mình. Trở lại với nỗi đau, nàng và chàng giờ đây âm dương hai ngả, nàng giờ đã làm ma nhà người khác, đã nằm trong vòng tay kẻ khác, đã phạm vào lời thề nguyện trăm năm. Những ngón tay mổ xuống dây đàn như trăm nghìn nhát kiếm đâm vào tim, như ánh mắt con thiên nga bổ nháo bổ nhào tìm tình nhân. Đôi tay vẫn lướt trên phím đàn, lúc vuốt lên day dứt làm những ngọn gió bạt ngang, khi nhấn xuống làm cho lũ chim đang bay về tổ ấm bỗng loạn cánh, rụng xuống vì đau lòng sổ ruột.

Tiếng đàn trầm đục, trục trặc như dắt lòng người đến núi cao vực thẳm, đến ngọn nguồn thác sa lốc cuốn. Mọi người đang thưởng tiệc, khi nãy còn ngẩn ngơ say đắm, nay đều thột mặt ủ rũ như cây cỏ gặp hạn. Ông chủ Tường không cầm nổi xúc động khóc rống lên như đứa trẻ.

Trần Trung tối mặt đi lên phía Sen, ông che tay nói nhỏ nếu nàng còn làm cho các vị thượng khách ủ rũ trau mày, làm hỏng công việc làm ăn, làm sập tiệm vải nhà họ Trần thì nàng sẽ phải chết. Khi nghe đến việc sẽ được gặp chồng ở nơi suối vàng, lòng nàng chợt dào lên một cảm giác vui mừng khôn tả. Nỗi đau chồng chết không ngày chịu tang, đã lại lên giường với người chồng mới, trải dài lên mười sáu cung đàn rơm rớm máu.

Mây sa gió bạt, phút chốc ánh trăng biến mất, tiếng đàn ai oán như tiếng oan khuất từ chín tầng trời vọng xuống. Cả căn phòng u u lạnh ngắt, những ngọn đèn lồng chiếc tắt chiếc le lói. Khuôn mặt sắt của Trần Trung chuyển bợt bạt khi nghe trong tiếng đàn là những tiếng rủa nhiếc và những lời đòi mạng từ ba bà vợ trước của ông ta.

Trần Trung lệnh cho gia nhân đưa bà Tư vào trong, tên gia nhân còn lúng túng chưa biết làm thế nào thì bản nhạc đột ngột đứt quãng. Tiếng đứa nhỏ khóc thất thanh phía phòng Sen kéo nàng về thực tại. Nàng vội vàng cúi chào mọi người rồi ra hiệu xin phép về phòng.

Sen giật mình khi thấy con bướm đổi màu vàng như ánh trăng, đang đậu ngay trên mũi con mình. Nàng vội vàng quỳ thụp xuống van xin, rồi ôm chặt đứa nhỏ vào lòng. Nàng ra hiệu cho hầu nữ ra ngoài hầu rượu, còn mình ngồi độc thoại trong tâm tưởng. Nàng nói với con bướm như nói với chính người chồng cũ. Nàng biết hôm nay làm hỏng buổi tiệc rượu làm ăn của Trần Trung, kiểu gì nàng cũng chịu chung số phận như ba bà vợ trước của hắn. Thân con bướm vẫn ánh lên những luồng sáng vàng lấp lánh. Sen đứng dậy, rút tấm dải lưng xanh và vắt lên trần nhà. Nàng vừa trèo lên chiếc ghế vừa nhìn con bướm, nghẹn ngào. Nàng biết khi xuống dưới suối vàng, ngày ngày nàng lại được quây quần bên chồng và chơi đàn cho chàng nghe.

Lạ thay khi nàng vừa kéo chiếc thòng lọng bằng vải xuống cổ thì con bướm lóe lên một tia sáng nhiều màu, khi những mảng màu tan biến cũng là lúc con bướm trở về màu trắng thân thuộc. Nó vờn vũ cố làm đứa bé khóc nấc lên, rồi nó vẫy cánh đậu lên vạt áo Sen, níu lại, cứ thế cứ thế, con bướm lúng túng bay đi bay lại. Sen lắc đầu ú ớ trong dòng lệ trào như suối. Ánh mắt đứa con trai giữ nàng lại ngay khi nàng định đạp đổ chiếc ghế dưới chân mình.

D.

1h 30 phút sáng, các bác sĩ tại bệnh viện thành phố vừa hoàn thành ca phẫu thuật hộp sọ cho bệnh nhân tên Lý Thu, tuổi 62, Quốc tịch 1: Việt Nam, quốc tịch 2: Hoa Kì, giáo sư âm nhạc… Cô kĩ sư ngồi trầm ngâm nhìn người cha đang hôn mê bất tỉnh, thi thoảng lại ngắm nghía chiếc đàn tranh cổ mà ông đã liều mạng bảo vệ.

Cô kỹ sư ngồi lặng lẽ, trong đầu cô đang nhớ lại hình ảnh người cha đáng kính sau mỗi lần dạy nhạc lại ngồi kể cho con gái nghe về tuổi thơ và nơi ông chôn rau cắt rốn. Năm tuổi ông mồ côi cha, được tiền bối giỏi chơi đàn nhất thành truyền lại cho tất cả ngón nghề và lãnh ngộ đến đỉnh cao của việc chơi đàn dân tộc. Công tử họ Trần, đó là một điều gì vừa sợ hãi vừa nể trọng của các vương tôn công tử trong thành với một một cậu ấm hào hoa, luôn đẩy mọi thứ đến điểm cuối cùng của nó.

Hai mươi tuổi, ông nhận cú sốc thứ hai của cuộc đời. Ấy là khi vú nuôi của ông, cũng chính là người hầu nữ của mẹ ông khi xưa cho ông biết toàn bộ sự thật. Cái sự thật tày đình rằng người cha mà hằng ngày ông vẫn kính trọng, vẫn chơi đàn cho ông ấy nghe chính là kẻ đã phá vỡ hạnh phúc của gia đình ông, kẻ gián tiếp bức tử mẹ ông. Sự bàng hoàng và đổ vỡ khi ông biết cái danh cái họ mà ông vẫn mang trên mình lại không phải là của mình đã giết chết bản tính của một công tử.

Ngay khi hay biết hết sự thật, ông liền tu trọn một bình rượu, đến thắp hương ở bàn thờ mẹ. Lúc chuẩn bị vác kiếm sang phân rõ ân oán với cha dượng thì ông nhận được tin của sư phụ do bồ câu đưa đến. Tin nhắn vẻn vẹn mấy chữ: “Nhận được tin, con hãy đến ngay Bạch Vân Sơn gặp ta, vạn sự để sau, không được chậm trễ”. Cùng lúc đó người hầu cho hay là ông chủ Trần đã đi đến các tiệm vải ở ngoại thành. Ông đành ngậm hận, dắt ngựa ra và phi thẳng đến gặp sư phụ. Đến nơi, ông đã thấy sư phụ mình ngồi trước một bàn đá tự nhiên trên đỉnh Bạch Vân Sơn. Ông mang hết nỗi lòng mình thổ lộ với người sư phụ râu tóc bạc phơ như tiên. Cụ Bạch Vân Thanh nghe xong không nói gì cả. Cụ nhấc tấm nhiễu đỏ khỏi cây đàn và bắt đầu so dây. Thực ra tất cả nội tình cụ đã biết rõ, cụ cũng tiên liệu trước cái ngày mà đệ tử mình khám phá ra sự thật. Cụ bắt đầu đàn, tiếng đàn nhẹ như không có một âm thanh nào cả, tưởng như một chiếc lông chim rớt xuống cũng không êm ái và nhẹ hơn được như thế. Trong tiếng đàn có thập ân của người mẹ hiền, có công dưỡng dục của người cha, có ánh sáng hào hoa của chàng trai trẻ, có nỗi đau của mỗi con người ấy, mỗi người thân của mỗi con người ấy, nỗi đau nào cũng chung cung cùng bậc, cũng châu tuần về nỗi bi thảm của nhân gian.  Tiếng đàn như một quả cầu gió vô hình vô lượng cứ từ từ cuốn sạch hận thù đau khổ trong lòng ông. Ông ngồi đó, mắt nhìn thẳng vào sư phụ của mình. Sư phụ già tay biến hóa trên phím đàn mà rõ như là cụ không đàn chi cả, mắt cụ nhìn thẳng vào mắt đệ tử của mình. Bên ngoài, gió thổi bay chòm râu trắng của sư phụ hệt như một đám mây ghé chơi.

Ngay ngày hôm sau, nghe lời chỉ dạy của sư phụ Bạch Vân Thanh, ông khăn gói lên đường sang trời Tây để nghiên cứu âm nhạc bác học của Châu Âu. Đệ Nhất Cầm Tử một thời rất muốn đệ tử của mình không chỉ thông tuệ âm nhạc dân tộc mà còn phải hiểu rõ âm nhạc của thế giới. Trước khi đi, ông đã viết lại một bức huyết thư gửi cha dượng của mình, cùng với một bức tuyệt bút của mẹ ông nói rõ thân thế dòng máu của ông, một lọn tóc và một thanh đoản kiếm. Trong thư ông nói rằng từ nay ông không còn là con cháu của họ Trần nữa, ông sẽ trở về với chính họ của mình, Lý Thu. Ân oán giữa ông và gia đình họ Trần từ nay chấm dứt, ông chỉ hi vọng Trần Trung nhang khói đừng để lạnh nơi mộ phần người mẹ xấu số của ông. Người ta kể khi Trần Trung đọc xong lá thư giật mình sờ lên mái tóc thấy bị xén ngang một lọn. Hắn ngã người xuống, mắt trợn tròn. Ngay sau đó, hắn liệt nửa người, chỉ nằm một chỗ. Ngày ngày, hắn cho mời các nghệ sĩ đến chơi đàn, họ chỉ mới dạo đàn hắn đã khua tay bảo không giống tiếng đàn của thằng Thu, rồi đuổi họ đi. Ngày nào cũng thế.

Cô kỹ sư nhớ đến đây thì òa khóc nức nở, cô hôn lên đôi mắt đã  nghiền ngẫm các thư viện âm nhạc khắp Châu Âu, đôi tai đã lắng nghe hết thảy những bản nhạc kinh điển của thế giới, đôi tay đã chơi hàng vạn nhạc cụ Á, Âu, Phi, Mỹ. Giờ ông đang nằm đây, đối mặt với thần chết. Cô kỹ sư khóc mãi, khóc mãi.

Cả đời ông Lý dành cho âm nhạc. Kể từ ngày sống li hương nơi đất khách, ông đã lập ra nhà hát mang tên Tiếng quê. Đã nhiều lần ông Lý Thu trở về đất Mẹ. Sống ở quê rồi, ông lại không yên lòng khi những đồng bào nơi đất khách xứ người còn u mê không biết đường về cố hương, nhiều đồng bào vẫn chờ mỗi tối thứ bảy để được nghe những nhạc phẩm dân tộc do chính ông biểu diễn. Rất nhiều bản nhạc vọng cổ, dân ca quan họ hay những bản nhạc do ông phổ vào cây đàn tranh và một loạt nhạc cụ khác. Âm thanh nào, khúc nhạc nào cũng ấm áp tình quê.

Chị bán hàng tạp hóa bảo nghe nhạc ông Lý để nhớ về dáng mẹ già và lời ru thủa nhỏ. Anh kiến trúc sư bảo nghe ông Lý chơi đàn để nuôi nấng một cái gì đó lẩn khuất trong mình đang ngày càng rõ hình hài vóc dáng. Một tay vận động viên bóng chày bảo nghe nhạc ở nhà hát ông Lý Thu để cho những cảm giác dịu dàng của bờ tre bến nước tái sinh. Một em nhỏ bảo nghe ông chơi nhạc để học phần hồn của hai mươi chín chữ cái tiếng mẹ dạy. Một kẻ mắc bệnh AIDS bảo mỗi lần đến nhà hát Tiếng quê là một lần cảm thấy những đôi tay ấm áp vô hình dìu dắt mình sống…Họ nói về nhạc của ông Lý Thu như nói về một tôn giáo bảo vệ và nuôi dưỡng họ nơi xứ người.

Cô kĩ sư ôm cây đàn tranh, cây đàn trở thành người tình thứ hai của cha cô khi mẹ cô qua đời. Chỉ tối mai thôi, ông sẽ có cuộc biểu diễn thứ một nghìn với nó tại nhà hát của mình. Chương trình sẽ được truyền hình trực tiếp trên kênh truyền hình của bang. Đặc biệt hơn, sau buổi biểu diễn, ông sẽ đưa các sinh viên trẻ của trường đại học Thánh Gióng về thăm quê hương tổ tiên của chúng. Đây chính là tâm huyết lớn nhất trong những ngày cuối đời của ông.

Trăng cứ vàng mãi như dấu niêm phong những trang ký ức của người con gái về cha mình.

E.

Trong gian từ đường nhà họ Dương, linh cữu Trần Trung được quàn ngay chính giữa. Con cháu mặc đồ tang trắng đang quằn quại khóc than trong tiếng trống kèn sầu não. Người vú già nhìn nhanh lên bát nhang thờ bà Tư, trong ký ức của người vú già lại hiện lên hình ảnh bà Tư đau đớn với những lời trăng trối. Ngày đó, thiếu công tử Trần Thu đã tròn năm tuổi, công việc làm ăn của nhà họ Trần lâm vào khốn khó. Để cứu cửa hàng khỏi sập tiệm, Trần Trung đã gả bán bà Tư cho tên quan Tây mê âm nhạc bản địa. Đổi lấy việc hắn sẽ bảo kê để nhà họ Trần bán vải lậu.

Vào cái đêm cuối cùng làm bà Tư, và cũng là cái đêm cuối cùng làm người, Sen đã cho người hầu nữ biết tất cả sự thật về thân thế của cậu chủ Trần Thu. Nàng cậy nhờ người hầu nữ đưa con trai mình đến núi Bạch Vân tìm sư phụ Bạch Vân Thanh, nhờ sư phụ dạy đàn cho con mình. Người hầu nữ cố gắng can ngăn nàng nhưng vô ích. Trong cuộc trò chuyện qua giấy, Sen viết đại ý rằng, thực ra nàng đã muốn chết từ lâu, nhưng vì Trần Thu còn quá nhỏ nên chưa thể. Làm vợ người khác coi như đã phụ chồng, nàng không còn mặt mũi nào lại đi làm thiếp của tên Tây lai, thà rằng chết đi để được đoàn tụ với chồng của nàng. Sau khi dặn dò mọi điều, Sen ra hiệu cho người hầu nữ dắt Trần Thu ra ngoài, rồi nàng đóng cửa lại treo cổ tự vẫn. Người hầu nữ từ đó trở thành vú nuôi của Trần Thu, bà đã lần lượt chứng kiến cái chết của bốn bà, và giờ đây là cái cái chết của Trần Trung. Có một điều gì đó vừa như vui mừng, lại vừa như vô cảm lẫn lộn trong cảm xúc của người vú già.

Trong những ngày chứng kiến Trần Trung cận kề với cái chết, bà lại thấy thương ông chủ của mình. Ngày nào Trần Trung cũng đòi được nghe Trần Thu chơi nhạc. Con trưởng của hắn đã cử người đi khắp nơi tìm Trần Thu mà không được. Chúng còn đến tận núi Bạch Vân tìm cụ Bạch Vân Thanh nhưng cụ không còn ở đó nữa. Không ai biết cụ đi đâu. Chỉ có một chiếc lều nhỏ nằm chơ trên mỏm đá cao, gió thổi vào trống hoác. Cứ thế, Trần Trung chết dần trong sự mỏi mòn mong ngóng tiếng đàn và người con trai của mình. Trước khi tắt thở, ông chủ Trần chỉ gọi tên Trần Thu và đòi nghe tiếng đàn tranh do con trai mình gảy.

Sau đám tang, các con của Trần Trung họp nhau lại lập lên lời thề: Con cháu họ Trần bằng bất cứ giá nào cũng phải đưa cây đàn tranh của bà Tư về trước bàn thờ của Trần Trung. Người vú nuôi già lặng lẽ trở về quê cũ, bà không còn muốn chứng kiến xem lời thề đó có còn thực hiện được hay không. Bà giật mình nhận ra mình đã gần lắm với thế giới bên kia. Bà nghĩ đến lúc mình cần được nghỉ ngơi một chút, biết đâu, kiếp sau bà lại làm thân trâu ngựa hầu hạ người khác.

F.

Mười ngón tay cô kĩ sư nhẹ lướt trên phím đàn từng giai điệu của bài dân ca quan họ Bèo dạt mây trôi. Đây là bản nhạc vỡ lòng mà ông già Lý đã dạy con gái mình từ khi cô lên mười tuổi. Trong không gian hẹp của phòng cấp cứu, cô kĩ sư thả hồn mình vào mười sáu cung tơ. Ngoài trời, ánh trăng càng về khuya càng vời vợi một nỗi niềm thân thuộc. Cô kĩ sư say sưa đàn mà không hề hay biết cha cô đã tỉnh dậy từ lúc nào. Ông lặng lẽ nằm nghe tiếng đàn của con gái mình. Trên miệng ông, một nụ cười tựa như mãn nguyện cứ dịu dàng nở ra giữa màu trắng của băng bông ga đệm. Khi mười ngón tay như cò bay hạc đậu trên phím đàn dừng lại cũng là khi trời sáng. Cô kĩ sư đón nhận nụ cười của cha mình với một niềm ngạc nhiên quá đỗi. Cô lao về phía giường và đặt những nụ hôn yêu thương lên hai dòng nước mắt hạnh phúc lăn trên đôi má của cha mình. Sau giây phút đó, còi cấp cứu kêu inh ỏi, tiếng bác sĩ, y tá í ới gọi nhau, tiếng khóc cất mãi sau cái lắc đầu của ông bác sĩ điều trị.

Buổi tối, dòng người từ khắp nơi ùn ùn đổ về hướng nhà hát Tiếng quê. Nhà hát với sức chứa năm nghìn người chật kín, bên ngoài nhà hát, cũng khoảng chừng ấy con người tập chung xem qua màn ảnh rộng mà ban tổ chức đã lắp đặt. Dẫn chương trình của đài truyền hình bang bình luận rằng: “Có lẽ trên thế giới hiếm có buổi biểu diễn âm nhạc dân tộc nào ở ngoài lãnh thổ nước đó mà lại có số khán giả kỷ lục như đêm nay”. Anh ta còn nói thêm, Lý Thu là một trong vài người có tầm ảnh hưởng lớn nhất với cộng đồng người Việt tại thành phố, đó chính là lý do đài truyền hình bang truyền hình trực tiếp chương trình này.

19h 30 phút, buổi biểu diễn bắt đầu. Dàn nhạc cổ truyền như thường lệ luôn xuất hiện giữa những tràng pháo tay giòn giã, nào đàn bầu, sáo trúc, nào trống cơm, nhị, nào đàn nguyệt, đàn T’rưng, đàn đáy... Trong buổi biểu diễn đặc biệt này, nhân vật chính đã ngồi trong một không gian được che bằng tấm mành nhỏ. Dẫn chương trình hôm nay lại là một giọng nữ trong trẻo thay vì ông chủ nhà hát như thường lệ. Mọi người hồi hộp chờ đợi những sự bất ngờ tiếp theo. Hơn mười ngàn khán giả bắt đầu rơi vào mê trận của âm nhạc và những sợi tơ đàn. Họ lại cùng nhau trải qua những cảm giác của hân hoan, tha thiết, có lúc khoan thai dịu dàng; phút giây nào đó, hai phần ba trong số họ đã rơi nước mắt, lại có những khi cả nhà hát dang tay ôm lấy những người cạnh mình thắm thiết như anh em bầu bạn. Khán giả như bị tiếng đàn thôi miên huyền bí. Đã bao lần họ mua vé của nhà hát mặc dù biết rằng đến đây có thể mình sẽ khóc. Cũng đã bao lần, buổi biểu diễn kết thúc mà khán giả chẳng ai muốn rời khỏi ghế ra về.

Mọi người ngạc nhiên sửng sốt khi nghe MC giới thiệu về khúc nhạc cuối cùng của ông già Lý. Họ thảng thốt hỏi nhau, họ dồn cảm giác bất an lên những ánh mắt ngơ ngác, nghi ngờ. Tiếng đàn tranh cất lên thật dịu dàng như mái chèo khua nước đêm trăng, trong tiếng đàn có tiếng của mầm cây đội đất mọc chồi, có tiếng chim non mổ vỏ chui ra, có ánh sáng của nắng mai ngủ trong sương sớm, có cánh mai vàng bung khỏi lớp màng mỏng đón nắng xuân. Càng về cuối bản nhạc, tiếng đàn càng trong như cánh chim bay xa dần, khuất dần trong đám mây…

Khi tiếng đàn kết thúc cũng là lúc tấm mành che giữa sân khấu được kéo lên. Cả khán trường nháo nhác như ong vỡ tổ, trước mặt họ không phải ông già Lý đáng kính mà là cô con gái của ông. Họ nổi giận, họ la hét. Cô kĩ sư ôm chiếc đàn tranh có khảm ngọc hình đôi trai gái giao hoan dưới ánh trăng trên tay tiến về phía khán giả. Cô ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi lên tiếng:

- Kính thưa các bác các cô chú các anh chị các bạn và các em. Ông già Lý của chúng ta đã ra đi… Vâng, ông đã rời bỏ chúng ta vào sáng nay tại bệnh viện thành phố.

Cả khán đài chết lặng trước tin sét đánh. Cô kĩ sư nâng chiếc đàn tranh lên trước mặt, nghẹn ngào:

- Thưa các bạn, những kẻ xấu đã cố gắng lấy cây đàn này nhằm phá hoại buổi biểu diễn đêm nay. Chúng tấn công cha tôi khi ông cố gắng bảo vệ cây đàn, và ông đã ra đi... Nhưng chúng đã không thể ngăn cản buổi biểu diễn này. Ông già Lý đã vì cây đàn, vì chúng ta chiến đấu đến hơi thở cuối cùng!

- Buổi biểu diễn đêm nay chính là tâm nguyện của ông. Trước khi ra đi, ông đã rất muốn nói một điều, rằng ông yêu tất cả mọi người, yêu bà con đồng bào. Ông dặn tôi thay ông đưa các bạn trẻ và mọi người về thăm quê, điều mà ông chưa làm xong. Ông cũng muốn thi hài của mình được chôn cất tại nơi chôn nhau cắt rốn để linh hồn ông ở thế giới bên kia có căn cước, có nơi đi chốn về…

G.

Thùy Trang mở cửa phòng và khởi động máy phát nhạc, cô nhìn vào bộ phận mắt thần khẽ chớp mắt. Lập tức những bản nhạc khô khốc, có gì bực dọc như chính tâm trạng cô lúc này cất lên. Thùy Trang thấy chán ngấy cái máy phát nhạc theo tâm trạng này rồi. Cô không nghĩ khoa học lại làm cho con người ta mệt mỏi hơn như thế. Tắt máy nghe nhạc, Thùy Trang đi vào nhà tắm. Đang xối nước lên bộ ngực chũm cau của mình, cô chợt nhớ đến cây đàn cổ mà bà cô mới tặng lại cho cô, bà cô nói đó chính là cây đàn của cụ ngoại cô. Thùy Trang chạy vô phòng khách, nhấc cây đàn ra khỏi chiếc hộp thủy tinh siêu nhẹ. Một chút là lạ và tò mò. Có điều gì khác giữa một cây đàn có dây cổ kính với một loại âm thanh riêng biệt và một cây đàn với vô số bảng mạch điện tử, con chíp có thể cùng lúc chơi tất cả các thể loại nhạc cổ kim. Thùy Trang đưa những ngón tay mình lướt trên dây đàn. Cô rùng mình khi âm thanh cô nghe được là những tiếng rất lạnh, chứ không phải những âm hưởng đầy tò mò ngạc nhiên như chiếc máy phát nhạc theo tâm trạng kia. Điều này càng thôi thúc sự tò mò của Thùy Trang. Cô ngắm nghía bầu đàn, thân đàn hạc đàn, mê mẩn như trẻ con nhận một món đồ chơi mới lạ.

Bức hình khảm ngọc trên thân đàn làm Thùy Trang bất ngờ nhất. Cô ngạc nhiên nghĩ rằng trào lưu quan hệ tình dục ngoài thiên nhiên dưới ánh trăng của giới trẻ hiện nay không mới, nó được tổ tiên của chúng ta thực hiện từ rất nhiều năm rồi. Cô tưởng như thế hệ mình biết tất cả nhưng lại dốt vô cùng. Không ai biết tự tay chơi nổi một bản nhạc cho người yêu thưởng thức. Không ai biết chế biến một món ăn cho ra hồn cho gia đình, đan một tấm khăn tặng mẹ hay đơn giản làm ngồi làm một tấm thiếp nhỏ tặng thầy cô. Mọi thứ đều có sẵn bày ra trước cuộc sống nhiều khi làm Thùy Trang nghĩ mình là một con ngốc.

Chợt Thùy Trang thấy xấu hổ, cô nhìn bức hình đôi trai gái giao hoan dưới ánh trăng và thấy tấm thân trần của mình đục đi một phần. Cô bước vội vào phòng tắm mặc chiếc váy lụa mỏng rồi trở lại với cây đàn. Đưa những ngón tay lên mười sáu sợi tơ, những thanh âm rời rạc làm Thùy Trang thích thú. Vừa nghịch đàn cô vừa tưởng tượng mình là nghệ sĩ chơi đàn lừng danh.

Bà kỹ sư già từ nhà con út về nhìn thấy cô cháu gái đang nghịch chiếc đàn tranh. Bà thở dài, một nỗi sợ hãi vô cớ xâm chiếm trong ý nghĩ của bà…

Một ngày nát vụn

T

ính y vốn thế, hay cả nể. Một trong những điểm yếu nhất của y là không có khả năng từ chối. Y hay bị rủ rê. Mà cứ nói trắng ra là nhiều khi y cũng thích được rủ rê. Ấy là chưa kể không thiếu những khi y đi rủ rê người khác. Có những hôm ngay từ ban sáng y đã đợi chờ một cuộc điện thoại nào đó. Không thấy ai gọi, lòng y cũng thấy trống trống. Như thế thiếu thiếu một cái gì. Nhưng s áng nay chủ nhật thì rõ ràng là ý có ý định nghiêm túc ngôi nhà đọc cho xong quyển sách mượn sắp đến hẹn trả. Thế mà…

Giờ thì y chuẩn bị lên đường. Từ nhà y đến chỗ hẹn không xa cho lắm. Y chần chừ. Khoảng mười phút nữa đi cũng được. Đến đó mất chừng mười lăm phút không hơn. Y có thể đọc thêm vài trang sách. Không. Không nên đọc tiếp vào lúc này. Y cố nghĩ xem nên làm việc gì đỡ vợ. Đỡ vợ… Xì. Chăng qua y nể vợ, chứ đỡ đàn gì. Nhà y có hai thằng cu đang còn nhỏ. Thằng lớn thì đã biết tự tắm táo, thay đồ. Còn thằng bé vẫn cần bố mẹ làm bảo mẫu. Ngần này tuổi đầu, y vẫn phải chùi đít cho con. May mắn như người ta, nếu có con gái đầu lòng thì dã lên bố vợ rồi. Thì đấy, cái đám bạn học cấp ba cùng, chả khối thằng đã lên ông ngoại. Bây giờ thì việc đầu tiên là y đi đặt nồi cơm. Hà bốn người. Nhớ lời vợ dặn, cả nhà nấu bò rưỡi. Nếu y không ăn cơm nhà thì bớt đi một tẹo. Vợ y là chúa ghét cơm nguội. Cơm thừa dễ bị thiu. Ăn lại thì mất ngon. Đổ đi thì tiếc. Cố gắng đã nấu ra là ăn hết. Cái loại gạo này cho ngần này nước đã vừa chưa nhỉ. Khô hay nát gì thì vợ y cũng kèo nhèo. Con y cũng kèo nhèo. Thằng bé thì thế nào cũng được, chứ thằng lớn đã biết khởi nghĩa rôi. Ăn khôn mồn lắm. Không thấy ngon là chống đũa ngay. Có lừ mắt ra lệnh cũng vô hiệu. Nồi cơm đã đặt xong. CÒn việc gì nên làm nhỉ. A ha, gọt xu hào. Gọt xu hào thì dễ ợt. Để đến khi vợ y về, vợ y chỉ có việc xắt miếng ra, xào nấu tùy. Chắc hôm nay về, vợ y sẽ mát làng mạt dạ.

Xong. Chẳng còn việc gì nữa. Thì y đi. Đi uống bia với thằng Du. Cái thằng gọi vào hôm nào chẳng gọi, lại gọi đúng vào hôm chủ nhật. Chủ nhật là ngày mới đây y đã tự động hứa với vợ rằng y cố gắng ở nhà ăn cơm với vợ với con. Chẳng ai bắt y hứa. Tự lòng y hứa thế thôi. Y nghĩ, cả tuần chẳng mấy hôm ăn cơm nhà, được bữa chủ nhật thì bù lại cho ra dáng người chồng tử tế. Khỉ quá. Không đi thì không đành. Bạn bè từ hội đại học, kẻ Nam người Bắc. Nay nó từ Sài Gòn ra tập huấn chuyên môn chuyên miệc gì đấy. Chủ nhật wor một mình trên nhà khách của Bộ kể cũng buồn. Nó gọi đi nhậu. Cái dân Sài Gòn nhậu thì khiếp lắm. Lai rai xị đế không biết khi nào mới dứt được. Đã mời nó về nhà ăn bữa cơm gia đình cho thân mật, nhưng nó không nghe. Nó bảo, sợ phiền vợ mày, ở Sài GÒn không ai người ta đưa khách về nhà đâu, yêu quý nhau thì ra quán, chứ về nhà không sướng. Xì, Cái lý sự gì mà… kỳ cục dzậy. Y bảo: mày không thích thì thôi, chứ ở ngoài này, bạn thân mới được mời về nhà đấy. Nó ầm ừ y chừng không khoát. Thồi thì tặc lưỡi chiều nó vậy…

Bỗng nhiên điện thoại reo. Vợ y. Vợ y bảo mấy đứa bọn em siêu thị, quần quần áo áo xong là đi liên hoan đấy nhé, anh ở nhàu nấu cho con ăn. Y mừng rú. Thế là y đi mà không phải trình báo vợ. Vợ y dặn: Thịt em để trong tủ lạnh, anh lấy ra thái mỏng, tẩm bột rán. Ôi, phức tạp thế thì anh làm thế nào được. Thôi, tốt nhất là anh cứ luộc lên, còn rau thì luộc nấu tùy. Thế nhé! Vợ y cúp máy. Y phải gấp rút nấu thôi kẻo muộn hẹn rồi. THì luộc. Luộc là nhanh nhất. Luộc thịt xong rồi y lại luộc rau. Thế này thì muộn hẹn là cái chắc. Cái món luộc thịt này cũng tốn thời giờ ra phết chứ tưởng…

Lại điện thoại. Ừ, tao sắp đến rồi. Khoảng vài mươi phút nữa nhé. Hay mày cứ ra chỗ đấy ngồi trước đi. Có ai đi cùng không. KHông. Một mình thôi. Cứ ngồi uống bia vặt một tẹo rồi tao ra. Y mau chóng thu xép công việc. Thái thịt vớt rau dọn mâm lấy bát rồi dặn dò hai thằng cu, vị chi cũng đến g ìa nữa tiếng. Rồi y phóng xe đi như bay…

Gặp đám ma của một nhà mặt phố đang chuyển cửu. Thế là kẹt đường. Thấy bảo gặp đam mà là may. Ừ thì cứ tin là thế. Nay mà lại bị tắc đường thế này ư? Cũng chỉ một lúc sau mấy chiếc xe tng chuyển bánh. Đoàn người ngồi trên xe máy bị ùn lại bây giờ nhất loạt rùng rùng chuyển động. Vượt lên trước một đám xe khác, lại thấy điện thoại rung. Phải nghe thôi. Y nghiêng người lôi điện thoại trong túi quần ra. Hả? Nói to lên. Khó nghe lắm. Ừ. Được rồi. Tao sẽ tới. Ôi trời ơi, thây kệ. Cái chuyện đi thăm bố vợ thằng Hòa bị ốm thì có gì quan trọng. Bố vợ nó chứ có phải bố đẻ đâu mà… Nhưng mà nghĩ thế lại không được. Thăm bố vợ nó suy cho cùng không phải vì bố vợ nó. Cũng chẳng phải vì vợ nó. Mà vì nó. Nó muốn đẹp mặt với vợ, với đằng nhà vợ thì nó mới cần bạn bè đến thăm. Kể ra thì đi cũng phải. Mình không đi, cứ đứng ngoài cuộc như thế này, thì đến lượt mình chúng cũng dứng ngoài cuộc. Ừ thì lại đi. Lát nữa gọi lại xem sao. Đỗ xịch xe trước quán. Thằng đạn đang ngồi sát mé ngoài cửa. Nhìn thấy, nó mừng quýnh. Mặt nhăn lại: Lâu thế! Tao làm xong 3 quai rồi…

Lúc rời quán chừng hai ba giờ chiều. Y tính đến chỗ đám hẹn để thăm bố vợ thằng Hòa. Nhưng hãy còn hơi sớm. Hay là về nhà đã. Thôi chết rồi. Y quên không gọi điện cho vợ y lấy một câu báo cho biết là y cũng không ăn cơm nhà, nhưng đã nấu cơm cho các con chu đáo rồi. Chẳng biết vợ y giờ nay đã về chưa. Nếu y về bây giờ rồi lại xách xe đi thì nể vợ lắm, dễ thường không đi được mất, dễ thường mặt nặng mày nhẹ, dễ thường cãi nhau chứ chưa biết chừng. Thế là y dạt vào quán café. Y ngồi nhâm nhi cốc lipton nóng. Hơi buồn ngủ. Chẳng lẽ ngủ gật ở dây thì chán chết. Y cố chống lại cơn buồn ngủ bằng cách với lấy tờ báo để đọc. Chẳng có gì.

Y nghĩ vẫn vơ. Đã lâu lắm rồi y không đọc một quyển sách nào đến nơi đến chốn. Ngày xưa y có một thói quen, đọc một quyển sách nào hoặc về chuyên môn, hoặc văn chương, y đều ghi vắn tắt những ý nghĩ, những xúc cảm của mình vào một cuốn sổ nhỏ. Đấy là cái thời sinh viên. Giữ được thói quen này ít lâu, đến khi đời sống bã bời miếng cơm manh áo, y bỏ từ khi nào y cũng không nhớ nữa. Nhưng đọc sách thì y vẫn duy trì. Thỉnh thoảng có món tiền nào, y lại khuân về ít sách. Có hôm, y rủ vợ con đi mua sách. Vợ y không ra ủng hộ cũng không ra phản đối. Tủ sách nhà y cũng có đến trên nghìn đầu sách chứ chẳng chơi. Trước đây, quyển nào mua về là y cũng đọc cho bằng hết. Gần đây, có những quyển nhìn nhan đề y thích, y mua. Nhưng y không có thời gian đọc xuể. Có quyển mua về dễ thường nửa năm trời vẫn chưa có lúc nào mó tời. Có phải y không có thời gian. Có phải lòng y kém đi cái tha thiết chữ nghĩa như thuở đầu đời. Hay có phải y nốc nhiều rượu quá, lúc nào đầu óc cũng u u, mơ mơ, chẳng lúc nào có được một trạng thái minh mẫn hoàn toàn. Có hôm vợ y bảo: anh bây giờ rượu vào đã bắt đầu có cái tật nói nhịu đấy nhé. Y pha trò: nhưng vẫn đáng yêu

Có một lần y cáu. Vợ y dám bảo y rằng mỗi khi say rượu trông anh kinh lắm. Làm sao? Anh hay lấy ngón tay quệt nước dãi hai bên mép như các bà nhà quê hay quệt nước cốt trầu ấy. Y tím mặt lại. Chỉ được cái nói xằng. Vợ y bảo: anh cứ hỏi con mà xem, mỗi tối say xỉn về, lần nào chẳng thế, Tức lộn ruột. Đàn bà không chấp. Y bỏ lên tầng ba đọc sách. Những lúc như thế thì làm sao có thể đọc được. Y ngồi nhìn một quyển sách đang đánh dấu trang trên mặt bàn. Y nhận ra, chỗ đánh dấu này đã lâu lắm rồi thì phải. Y lại thần người nghĩ vẩn vơ.

Buổi sớm hôm nay y cũng tự cho mình cái quyền ngủ muộn một chút. Thế nhưng dậy sớm cũng đã thành quen. Y không ngủ tiếp được nữa, lén dậy có nhẹ nhàng cho vợ con y ngủ. Y lên phòng vớ lấy cuốn sách. Đây là một cuốn sách khá xương. Y đang đọc dở. Có nên đọc tiếp cuốn này nữa không. Quyển sách như thế này mỗi lần bập vào là phải thầm hạ quyến tâm mới đọc nổi. Hay đọc quyển khác. Y nhìn mấy quyển sách trên bàn. Y kinh ngạc nhận ra cả ba quyền trên bàn đều kẹp đánh dấu trang, có quyển mới đi được vài chục trang đầu. Y bất giác thở dài. Sực nhớ tới lời một vị giáo sư khả kính nọ. Ông bảo, người nước mình chỉ thích đọc quyển sách nào dễ đọc, thích những cái dễ, chứ không thích không quen, không có truyền thống đọc những cái khó, trong khi đó những cái hay, có hàm lượng trí tuệ cao thường là những cái khó đọc cả, và nhờ những cái khó đọc ấy nhần loại mới tiến bộ…

Những hôm rượu về, y tự dặn mình ít lời. Y biết, rượu vào là dễ bị kích động lắm. Vợ y cũng chả buồn hỏi y ở đầu về, với ai, có vui không. Cũng đã có lần vợ y hỏi, y gắt lại, hỏi làm gì kỹ thế. Từ đó không thấy vợ y hỏi nữa. Khi dắt xe vào nhà, y hỏi to một câu dành cho hai thằng cu với cái ý chờ chúng đạp lại: hai thằng đâu rồi? Làm gì? Cả hai vẫn như thường lệ, đồng thanh nói vọng từ tầng hai xuống: con chào bố. Giọng thằng lớn đang vỡ, nửa trầm nửa vống. Giọng thằng bé đang còn non nớt lắm. Nó mới học lớp hai. Thằng lớn lại tiếp tục học bài, hoặc chúi mũi vào ti vi. Y lại hỏi tiếp thằng bé: hôm nay con học thế nào? Hôm nay cô không chấm bài à. À bố ơi, cô giáo bảo bố ký vào vở làm bài tập cho con. Y đạm dọa cốt để cho vợ y nghe thấy: sao không nhờ mẹ? Đem cho mẹ ký ngay. Mẹ bảo bố ký. Nghe tiếng nói chập chừng mỏng mảnh của thằng bé, lòng y thấy vui vui. Y muốn ôm nó một cái nhưng biết nó sợ mùi rượu thể nào cũng lại vùng ra, nên thôi… Nhớ câu chuyện vui của vợ y kể lại. Học sinh hỏi cô: hôm nay cô mặc đẹp thế, chú nhà cô có thích không? Cô trả lời: chú nhà cô đi ra khỏi nhà từ sáng sớm, lúc cô chưa thay quần áo, tối chú về thì cô đã mặc đồ ở nhà và chuyển bị đi ngủ rồi. Cả cô trò cùng cười ngất. Kể xong câu chuyện, y nháng thấy mắt vợ ươn ướt. Y không dám nhìn vào mắt vợ…

Vào thăm bố vợ thằng Hòa. Thật chẳng ra làm sao. Tai sao y lại phì cười lúc ấy. Tại sao y phải lao ra ngoài cửa để nén cơn cười cơ chứ. Mà trước mặt cả vợ thằng Hòa. Không để đâu hết ngượng. Đến lúc cả đám bạn ngồi lại uống bia với nhau, thằng Thành mới tủm tỉm hỏi: thế có chuyện gì mà mày phọt cả cười ra thế. Cả đám cười hô hố rồi nhao nhao bắt trả lời. Y chặc lưỡi: có gì đâu, lúc tao hỏi thăm rằng hằng ngày bác có ăn uống được gì không, cụ trả lời: ngày cũng được vài ba lần. Tự nhiên tao nghĩ đến cái chuyện kia, thế là tao không nhịn được. Lũ bạn cười sặc sụa. Thằng Bình lại tán vào: đến như mình đang sung sức thế này mà ngày một lần cũng còn oải, thế mà cụ… tài thật. Quán bia là chỗ của cánh đàn ông, cái chỗ vừa ba vạ vừa nhí nhố, người ta không bất cứ chuyện gì. Mà lạ thật, trên trời dưới bể gì thì cuối cùng vẫn cứ loanh quanh về chuyện ấy. Tất cả đám đàn ông thời này hễ cứ tụ ba với nhau chỉ có toàn chuyện ấy…

Tối nay y lại về muộn ngoài ý muốn. Có dễ đến hơn 10 giờ. Trên đường về lòng hơi hoang mang. Vô phúc thằng nào mà lại như c ái thắng Tám thì toi luôn. Đang nhà cửa vợ con đàng hoàng, ấy thế mà vợ không chịu được đâm ly dị. Cuối cùng thì ly dị thật. Thấy bảo cũng chả có chuyện gì ghê gớm, chỉ mỗi cái tội thằng này hay đi đàn đúm bia rượu vô hồi kỳ trận. Bạn bè hắn thì đông như quân Nguyên. Bạn thân bạn sơ, bạn làm bạn học, bạn đồng niên đồng khóa, bạn nước ngoài nước trong, bạn ta bạn Tây, bạn miền biển miền rừng, bạn trong Nam ngoài Bắc,… Sống giữa thủ đô, cứ là ông đi qua, bà đi lại, tiện việc ghé thăm, ới nhau một câu, thế là đi liền. Đã đi thì lại hay quá đà. Có đêm không cả về nhà với vợ. hắn nghĩ đơn giản, ù thì về nhà cũng đến ngủ chứ làm gì. Nghe lời chèo kéo, tặc lưỡi ở lại. Đêm hôm tụ ba, bù khú cũng vui. Hắn được tiếng là lòng thảo. Ai có việc gì nhờ cậy, hắn cũng cứ lăn xả vào làm. Làm xong rồi người ta lại mang ơn. Mang ơn xong lại rủ nhau đi chiêu đãi. Trong đám bạn bieu rượu giang hồ, không hiểu từ đâu, truyền nhau cái câu vần vè đặt riêng cho thằng Tám: Khi vui lấy đó làm vui/ Khi buồn lấy đó làm nơi đỡ buồn. A hà! Hễ thằng này có mặt ở đâu thì ở đó thêm phần gia vị, mà gia vị thì chỉ có thể làm cho bữa chén đậm đà hơn thôi, chứ không có gia vị người ta không chết đói…

Nháng thấy quán kem cạnh nhà vẫn nhạc nhẽo xanh đỏ tím vàng, y dừng phắt lại. Y mua một bọc kem ngon về cho vợ con. Y muốn vợ con y vui. Y có ý chuộc lỗi. Về tới nhà thấy đèn đóm tắt hết. Y lo lắng sờ túi áo. May mà chùm chìa khóa vẫn đây. Y mở cửa. Thôi thì để vợ con ngủ. Y lặng lẽ dắt xe vào nhà, khóa cửa, lên tầng, vào thẳng phòng làm việc. Có thể giờ này vợ y con thức. Tắm táp qua loa xong, y mở máy lướt mạng một cái xem sao. Y lâu nay vẫn giữ thói quen ấy. Không đọc tin tức thì cũng phải xem có thư từ gì không. Chà, hóa ra chỉ có thư của ợ. Nghiêm trọng đây!

Em lại viết thư cho anh, thật buồn cười. anh có biết là gần đây em buồn lắm. Em vừa làm một việc đáng cười là ghi lại lịch của anh tuần vừa rồi:

- Tối chủ nhật đi uống cùng Hưng.

- Tối thứ 2 đi với Thắng

- Tối thứ 3 đi với học trò

- Tối thứ 4 lại đi với Hứng đến 8h45 mới về.

- Tối thứ 5 chị Hà đến chơi, sau đó đi dự khai trưởng cửa hàng VA cùng vợ.

- Tối thứ 6 về muộn, thấy bảo đi ăn thịt chó

- Tối thứ 7 về sơm đột xuất nấu cơm cùng vợ.

- Hôm nay, chủ nhật lại say rượu ở đâu về…

Anh nhìn lại đi, một tuần anh về sơm được hai ngày thì một ngày là vì có khách hẹn đến chơi. Anh có biết, chiều về nhà sau một ngày làm việc em mệt thế nào không? Không kịp thay quần áo, vội vàng làm thuốc cho con, nấu cơm, lo thu quần áo, tắm cho con. Chỉ hai chữ “nấu cơm” thôi mà gồm bao nhiêu việc. Bình thường thì chẳng sao, toàn việc vặt, nhưng thời gian sau một ngày làm việc thì vô cùng mệt mỏi. Mệt thể xác, mệt tinh thần. Có những hôm trên đường về em nghĩ: thức ăn mặn có rồi, em nhờ anh nấu cơm, còn em sẽ lên thẳng trên nhà nằm thẳng cẳng một mạch. Nhưng không có anh, thế là em lại phải gồng lên làm mọi việc

Đây không phải lần đầu vợ y tống đạt thư cho y. Giời ạ, dưới cùng một mái nhà chả lẽ không nói chuyện được với nhau ư? Chả lẽ lại phải thư từ ư? Ôi chao, cái thời internet lợi hại này, dễ làm chia lìa người ta lắm… y vội đọc tiếp.

Em vẫn biết anh có nhiều việc bận ở cơ quan, anh hay phải đi tiếp khách, nhiều lần là vì công việc. Nhưng có bao nhiêu lần là thực sự không thể từ chối và bao nhiêu lần anh vì vui, vì nể bạn mà đi? Anh có biết em cũng luôn phải từ chối những thú vui bên ngoài để về nhà với anh và con. Anh phải sắp xếp lại đi. Nếu không, anh hãy đưa ra một giờ cố định để em yên tâm làm mà không chờ đợi, hy vọng. Em nói rất nghiêm túc chứ không hề có ý giận dỗi dì đâu. Bởi mệt nhất có lẽ là chờ đội và thất vọng.

Em cứ nói thế chứ, làm sao lại có thể răm rắp 7 giờ được. Thế không tính công cho anh khối hôm anh về từ lúc 5 giờ à? Với lại anh bảo rồi, bây giời đời sống hiện đại, không nhất thiết phải chờ cơm. Người làm không bực bằng người chực nồi cơm. Mấy mẹ con cứ ăn trước, anh về ăn sau. Có nhà ấy à, bốn người, bốn lịch biểu làm việc khác nhau, bốn lần ăn khác nhau là chuyện thường ấy chứ…

Anh thường về muộn, bữa cơm cũng không ăn cùng, rồi anh lên nhà làm việc với máy tính hoặc đọc sách. Nếu có nói với vợ con thì cũng chỉ một hai câu hỏi học hành được mấy điểm. Nhiều khi em có chuyện muốn nói với anh nhưng cũng chẳng có thời gian, hoặc thấy anh ngà ngà em lại thôi, thế là mọi chuyện qua đi. Em sợ lắm, nếu một ngày náo đó mình không hiểu nhau nghĩ gì. Em cũng có những suy nghĩ, nỗi buồn, niềm vui cần anh chia sẽ. Không có anh, em sẽ chia sẻ với ai đây? Anh đừng cho rằng em làm to chuyện, em chỉ muốn thành thật thôi. Hơn ai hết, em muốn anh thành đạt, bạn bè yêu quý giúp đỡ. Nhưng em cũng muốn anh là của mẹ con em. Như thế có quá nhiều không?

Đến đây, y cảm thấy khó thở. Y thấy mình có gì không ổn thì phải. Lâu nay y cứ nhởn nhơ. Y không coi những lời trần tình của vợ là nghiêm trọng. Mỗi lần như vậy, y hay đùa lại, tếu táo dàn hòa, thế rồi vợ y lại xí xóa cho y. Nhưng lần này là gay go rồi…

Chắc rồi anh sẽ lại cười em, cho rằng em hay phức tạp hóa vấn đề. Có lẽ anh nên biết vợ anh sống nội tâm phức tạp hơn anh nhiều. Bởi vì em là đàn bà và như thế thì em mới có thể hiểu anh, làm hậu phương cho anh được.

Em đừng có dọa anh thế. Người ta sống đơn giản còn chẳng ăn ai lại còn sống phức tạp. Sống phức tạp thì mới khổ…

Viết thư này, em chỉ mong “sep” lưu tâm, cất nhắc em vào vị trí quan trọng hơn!

Chúc “sép” khỏe, may mắn trong công việc, hạnh phúc trong gia đình.

Đọc xong bức the trên email, y bần thần. Y không biết phải làm gì. Chắc giờ này vợ y vẫn thức. Y không dám đánh tiếng. Tắm táp xong, y ngại. Y lại ngồi trước máy tính định viết thư trả lời, nhưng không biết viết thế nào. Định bụng, mai sẽ tìm cách làm hòa. Cho dù thế thì y cũng phải viết vài dòng repliy lại. Anh đã đọc thư em. Anh xin lỗi nhé! Rồi lúc nào thuận tiện, anh sẽ… kiểm điểm trước em.

Sớm sau dậy. Mọi việc diễn ra bình thường. Vợ y tất bật lo ăn sáng cho cả nhà. Xong, mỗi người đèo một thằng đi học. Y định nói một câu gì đó với vợ nhưng chẳng biết nói gì. Thôi thì để tối vậy. Y đi làm. Vừa dắt xe ra khỏi cổng, y nhìn thấy có một cái bọc nilon gì đang để trên giỏ xe. Y tò mò. Vừa định mở ra, một mùi chua nồng xốc lên mũi. Y thoáng nghĩ, quái, tối hôm qua trên đường về có thằng đểu nào vứt thứ bẩn thỉu gì đó vào giỏ xe? Y mở ra xem. Ôi thôi, bọc kem tối qua mua về để nịnh vợ con giờ còn tro lại mấy chiếc que lũng bũng những nước đá bốc mùi…

Hôm qua và hôm nay

Ô

ng đã gặp hắn ở đâu đó.

Hắn! Người cao ráo. Khuôn mặt hình lưỡi cày. Hắn! Mắt trắng. Môi thâm. Loại người này chỉ có thể chung hưởng lúc thái bình; còn khi hoạn nạn cam go thì bỏ nhau. Ông nghĩ thế và nói thế ở đâu đó rồi nhỉ! Ông lục lọi trong ký ức tìm kiếm những người quen, thân. Một thời đạn bom, một thời hoà bình, bạn bè đồng đội đã đi qua cuộc đời ông nhiều vô kể; từ người lính binh nhì đến tướng lĩnh ông đã gặp... Vậy mà chịu. Không tài nào nhớ nổi hắn! Giời ạ! Cái thân già. Mươi vết thương lớn nhỏ trên người ông và gần sáu mươi tuổi rồi thì làm sao nhớ nổi...

Mới sáng ra mà nắng đã hoe hoắt vọt lên khỏi ngọn tre. Cánh đồng ngoài bãi đê ngô đang thì con gái, từng lớp lá mướt xanh dập dìu theo gió. Cây cầu trắng vắt ngang dòng sông, nước trôi êm như tấm lụa xanh. Cách chân cầu một đoạn vẫn còn đó một bến đò trải cát vàng mịn chạy sát chân đê tới mép nước. Vài cánh buồm căng phồng đang cập bến. Mấy chiếc đò ngang mỏng mảnh khua khua mái chèo đón khách. Cả một vùng quê trải dài một mầu xanh ngút ngát. Lúa ngô xanh, xanh đến mát mắt. Ngoài rìa làng những bụi tre và phi lao vươn cao ngăn cách làng với những hồ nước trong leo lẻo chen lẫn những ao sen toả hương ngan ngát. Ông đã đi nhiều nơi nhưng chưa thấy ở đâu đẹp như quê ông, thật đúng là “sơn thuỷ hữu tình”. Trong hội trường của uỷ ban loa phóng thanh cộng hưởng với tiếng gọi, tiếng cười, tiếng nói ồn ã. 

 Hắn! Hắn đó. Hắn  đang đi giữa hai hàng người đứng cầm cờ đuôi nheo đỏ, oai vệ như một nguyên thủ quốc gia được đón tiếp trọng thị ở sân bay. Chủ tịch xã, mấy ông phó và thư ký uỷ ban chầu chực ngay bên bậc thềm hội trường kính cẩn lom khom cúi lưng, giơ hai tay bắt, lại còn giật giật bàn tay nữa. Hắn đi đứng oai lắm và luôn miệng Ô.Kê nhưng mắt lại không nhìn vào người đang bắt tay mình, không biết những cái bắt tay của hắn chặt hay lỏng. Thực ra là hắn đưa tay cho người khác bắt. Mẹ khỉ! Ông ngứa mắt quá! Khó chịu quá! Sao cái thói nô lệ và vọng ngoại của mấy thằng cha xã nhà khốn nạn thế. Hay sự đói nghèo làm cho mấy thằng cha này mờ mắt mà tôn thờ sự giàu có đến mức không giữ được thể diện của cá nhân mình, của xã mình. Nghĩ mà thẹn, và xấu hổ với thiên hạ. Ông thở dài. Bên xã Đại Nghĩa, người ta cũng cắt đất cho liên doanh nước ngoài thuê, nghe đâu một dự án nữa lại sắp khởi công mà lãnh đạo, chính quyền xã có cái cúc cung, khúm núm hèn kém thế đâu. Thế mà tay Hàn, chủ tịch xã mình đang kính cẩn cúi mình thế kia! Hỏng! Hỏng rồi! Các chú ơi! Hãy đứng thẳng lên. Hãy ngẩng cao đầu lên! Ông đang sục sôi ý nghĩ thì chiếc xe Méc xê đéc màu nòng súng, bóng loáng sau khi chờ cho hắn vào hẳn trong hội trường mới quành ra bãi cỏ phía trước hồ bán nguyệt, lướt qua hông và suýt làm ông ngã dúi.

Suốt dọc đường chạy thẳng từ chân đê về đến hội trường Uỷ ban người ta treo cờ đuôi nheo đỏ rực giữa các cây cột điện. Tấm băng rôn mầu xanh lam được căng kín cả phía trước hội trường với dòng chữ trắng: “Nhiệt liệt chào đón ngài Đê Vít Tôn - đến thăm và góp phần xây dựng xã nhà”. Ngoài sân, trẻ con lăng xăng chạy. Đám con gái túm năm tụm ba thì thầm to nhỏ, thỉnh thoảng lại đấm lưng nhau thùm thụp và cười ré lên. Hình như chúng đang nói chuyện với nhau và hy vọng vào một sự đổi đời trong những ngày sắp tới. Trong hội trường chật ních người, khuôn mặt ai cũng ngời ngời rạng rỡ. Khách khứa đông lắm. Ở cái khoảng đất rộng phía bên phải cạnh hội trường, ô tô, xe máy, đậu  chật kín.

Anh chủ tịch xã đến bên micro khẽ e hèm rồi a lô... a lô thử giọng. Và ông chủ tịch xã thao thao nói:

- Thưa ngài Đê Vít Tôn kính mến!

Ông giật mình. Đê vít Tôn! Thằng Tôn! Đúng rồi! Có phải cái thằng Tôn trong đại đội Ba của ông ngày xưa không? Giọng anh Chủ tịch xã vang nhưng không ấm, tuồn tuột, nghe cứ truội đi không vào tai ông:

- Đất nước ta giặc giã liên miên. Mất mùa, đói kém. Bây giờ đến lúc đã yên hàn làm ăn. Xã mình không thể đói mãi. Xã mình phải tiến lên, phải giàu mạnh (Được, chỗ này thì được. - Ông lẩm bẩm). Phải làm giàu bằng mọi cách. (Bằng mọi cách... sao lại phải bằng mọi cách? - Ông cau mày và lẩm bẩm.)

Đồng bằng Sông Cửu Long mùa mưa năm...

Những ngày mưa dầm dề, cả cánh đồng đưng mênh mông trắng xoá. Đại đội trinh sát của ông dầm mình trong nước, những khi có máy bay địch vè vè bay đến là tất cả lại dìm xuồng rồi lặn trong nước, hết máy bay lại ngoi lên. Cả đại đội hắc lào chớt chát. Lúc rỗi rãi, anh em thường phải giã lá ô môi để xát cho nhau:

                           “Ô môi xức lác hay hơn muồng

                             Lấy chồng bộ đội chở một xuồng ô môi...”

Đi đến chỗ nào cũng nghe lính đại đội của ông hát như vậy. Có những hôm trời hoe hoe nắng, không khí oi nồng, cả đơn vị nhăn mặt vì những vết hắc lào loét ra gặp nước mặn xót đây đẩy.

Khánh, Hoà và Tôn là bộ ba thân nhau nhất trong đại đội của ông. Ông còn nhớ: Tôn da dầy, mặt lưỡi cày, mắt trắng dã, môi thâm vừa xức nước ô môi lên người vừa khóc. Hoà bảo: “Tôn ơi! Nhìn mày khóc tao thấy thương quá, mong sao cho chiến tranh kết thúc sớm để những thằng đang học dở đại học như mày trở về giảng đường”. Hoà sống chân thật, mộc mạc đến mức mọi chuyện đều trở thành đơn giản, Hoà chỉ mong sau ngày chiến thắng về quê, sẽ lấy một cô vợ, đẻ một bầy con và trồng thật nhiều các loại rau mang vào thành phố bán. Quê Hoà là một vùng đất bãi, năm nào phù sa cũng phủ một lớp mầu mỡ. Tôn cười ranh mãnh, pha trò : “Lúc ấy mày gặp tao và thằng Khánh hoặc ông anh Ba Xu dắt vợ đi mua rau thì mày phải hét cho thật đắt...”. Họ mải nói chuyện và xát vỏ ô môi đã giã nhuyễn lên chỗ hắc lào cho nhau mà không hề biết ông đang đứng ở sau. Ông nhìn gương mặt Hoà rất tội nghiệp. Lúc đó, Hoà ngẩn người ra, thật thà bảo: “Mỗi người một số phận. Chắc gì sẽ còn được gặp nhau. Cầu mong cho chiến tranh mau kết thúc. Hễ còn sống, chúng mình đi tìm nhau nhá.”

Hễ còn sống, chúng mình đi tìm nhau nhá. Lời của Hoà không bao giờ ông quên được. Chiến tranh kết thúc, những người lính lũ lượt trở về nơi mình đã ra đi. Còn ông sau khi lăn lộn hết biên giới phía Tây Nam đến biên giới phía Bắc rồi cũng được chuyển về làm công tác quân sự địa phương ngay trong thành phố. Ông chưa kịp đi tìm đồng đội thì bỗng dưng gặp Hoà. Gặp trong một tình huống rất bất ngờ, hy hữu:

Đó một đêm Noen cách đây gần chục năm. Đêm mùa đông rét và có bụi mưa như sương bay nhưng đèn đường phố, đèn trang trí vẫn lung linh huyền ảo. Mọi người đổ ra đường nườm nượp đón chờ giây phút thiêng liêng của đêm Giáng sinh. Hai mươi ba giờ ba mươi phút, chuông trong các nhà thờ ở thành phố đồng loạt vang lên cũng là lúc ông đang chạy xe máy chầm chậm chở vợ đi chơi đêm Giáng sinh. Vợ chồng bộ đội xa nhau quanh năm, vợ từ nhà quê lên chơi, chiều nhau được như vậy, vợ ông mừng lắm.

...Một người đàn ông đang ì ạch đẩy chiếc xe thồ nặng chở hàng nông sản đi bán ở chợ đêm. Chiếc xe thồ ì ạch nhích từng chút một lên dốc đường nhựa. Tin... Tin... Còi xe giục giã xin đường. Một chiếc xe con trườn vọt lên, bất ngờ chạm vào chiếc xe thồ, làm nó đổ khềnh. Chiếc xe con dường như không hề hay biết cứ lăn bánh rồi mất hút vào dòng xe cộ như mắc cửi trên đường. Người đàn ông ngã quỵ xuống, su hào, khoai tây, ốc nhồi và cả mấy nải chuối xanh bị hắt tung toé xuống mặt đường. Cà chua lăn ra lỏng chỏng, rồi bị bẹp nhoe nhoét bởi bánh các loại xe kéo dài một đoạn lầy nhầy, đo đỏ như vệt máu. Ông dừng xe máy đỡ người đàn ông dậy. Một người đi đường làm phúc dựng cái xe thồ và dắt vào bên lề đường. Ông ái ngại hỏi:

- Khổ thật, chú ở đâu mà nên nông nỗi này?

- Rét quá... Tay tôi cóng hết cả rồi.

Vợ ông lấy lọ dầu gió Trường Sơn trong túi áo ra, bảo:

- Chú xoa dầu đi. Mặt mũi chân tay nóng bừng lên mới khỏi cảm lạnh.

Người đàn ông chìa bàn tay ra cầm lọ dầu gió. Chiếc nhẫn gỗ mun đen bóng ánh lên trên bàn tay tàn tật chỉ còn hai ngón thò ra làm ông kinh ngạc. Thôi chết, nó đây rồi!  “Hoà! Tưởng mày chết trong cái lần làm mồi nhử máy bay địch ở rừng Tây Ninh dạo ấy”. Ông suýt kêu lên như vậy trong khi người đàn ông đổ dầu gió ra tay xoa lên mặt, còn vợ ông thì hí húi nhặt những quả cà chua, khoai tây còn sót lại bỏ vào sọt cho anh ta. Thôi cứ lặng im, xem nó có nhận ra mình không và ông ngồi xuống giúp anh ta đánh gió. 

Người đàn ông tỉnh hẳn và ra chiều khoẻ lại, anh ta gượng đứng dậy, định cảm ơn người đã cứu giúp mình. Nhưng rồi anh ta nheo mắt rồi há hốc miệng: “Anh Ba, anh Ba Xu, có phải anh...”.

Hai người lính cựu, một già, một đứng tuổi ôm chầm lấy nhau trong đôi mắt ngạc nhiên của vợ ông. Hai người đã khóc, nước mắt chảy ra ngấm ngầm, lặng lẽ sau mấy mươi năm gặp lại. Trời đêm, sương bay trắng đường nhựa... Im lặng... Đêm nô en mênh mông, cả hai người trong lòng cũng rưng rưng trong im lặng mênh mông...

Chủ tịch xã trịnh trọng khai mạc xong, đến phần phát biểu của vị Việt kiều yêu quê hương đáng kính: “Thưa bà con xã nhà kính mến! Sau bao nhiêu năm xa đất nước, tôi vẫn đáu đáu một nỗi niềm thương nhớ quê hương da diết. Tôi còn nhớ, xưa kia lũ trẻ con chúng tôi đã phải bơi mủng qua sông Hoàng Long sang tận xã Đại Giang đi học. Ở bên trời Tây kia, đường xá rộng thênh thênh, thẳng tắp tự, trẻ con đi học có xe đưa đón chỉ đi vài phút là đến trường. Nghĩ mà thương dân mình quá! Tôi cũng là dân gốc của một tỉnh đồng bằng chuyên cấy lúa nước. Tôi còn nhớ làng tôi xưa kia có ai ốm đau phải khiêng bằng cáng võng đay đi mấy chục cây số mới lên đến được bệnh viện trên thị xã... ở bên kia á, nếu không may bị hắt hơi sổ mũi, chỉ cần nhấc máy điện thoại gọi là có ngay bác sỹ đến tận nhà thăm khám... Nghĩ mà thương dân mình quá! Bây giờ đất nước yên bình rồi. Làng xã ta có bao nhiêu trai tráng, bao nhiêu gái xoan phải lận đận ra thành phố kiếm việc làm mà mọi nhà vẫn nghèo, vẫn khổ, vất vả. Chứ ở bên Tây, những người thất nghiệp còn có cả trợ cấp hẳn hoi... Nghĩ mà thương dân mình quá! Vậy nên tôi định sau khi Khu Công nghệ cao chế biến hoa quả xuất khẩu của tôi ở bên đường quốc lộ kia, đi vào hoạt động. - Ngài Việt kiều chỉ tay ra ngoài cửa. - Thì tôi sẽ xây dựng nhà cao tầng tặng xã nhà để cho các cháu trường cấp một và cấp hai học... (Anh Chủ tịch xã đứng bật dậy: “Yêu cầu bà con hoan hô”. Cả hội trường bỗng dậy tiếng vỗ tay và nhiều tiếng xì xào rồi lắng dần.) Hắn chờ cho mọi người im lặng hẳn mới nói tiếp. - Tôi đi nhiều học được cái khôn, cái giỏi của thằng Tây... Nó rất biết tiết kiệm đất, nhà phải cao tầng. Sân vườn phải trồng hoa, đường đi lối lại phải sạch sẽ... Chỗ kia nữa sau này sẽ mọc lên cái trạm xá. À không! Tôi phải xây dựng thành cái bệnh viện nhỏ, hiện đại...

Lại có mấy tiếng xì xào nho nhỏ của đám con gái ngoài hội trường:

- Vậy mấy cái ao sen và cái hồ bán nguyệt kia phải lấp đi à?

- Tiếc quá mấy cái hồ ấy nước ăm ắp quanh năm...

Đầu ông cứ ong ong...

So với anh em trong đại đội thì Tôn là trẻ nhất, Tôn nghịch ngợm và đầy cá tính. Ngày mới được điều về đại đội, người đầu tiên Tôn gặp là đại đội trưởng. Đang là buổi trưa vắng vẻ, thấy có một người lính da ngăm ngăm, tóc xoăn tít, mặc quần đùi cởi trần đi từ suối lên, Tôn hỏi thăm luôn: “Anh ơi! Anh cho em gặp đại trưởng Ba Xu.” Không thấy trả lời, chỉ thấy anh ta tủm tỉm cười rồi chỉ Tôn vào chiếc lán ngay trước mặt: “Đồng chí vào trong ấy chờ cho năm phút”. Năm phút sau thì chính người da ngăm đen, tóc xoăn ấy bước vào và nói: “ Tôi là đại trưởng Ba, chứ không phải Ba Xu, cậu nghe ai nói mà gọi tôi là Ba Xu, bọn chúng bậy đó”. Sau này, Tôn mới biết đại đội trưởng tên thật là Ba - Vũ Văn Ba, họ tên mộc mạc nhưng dễ gọi và dễ nhớ. Một buổi chiều đại trưởng đi qua lán của nữ giao liên chẳng biết chui qua dây phơi thế nào mà cái xu chiêng của một chiến sỹ gái mắc ngay vào vai. Đại đội trưởng cứ để vậy đi hết chỗ này đến chỗ khác mà không hề biết. Cánh lính thấy thế bấm nhau cười. Về lán đại đội, cậu công vụ mới gỡ cái xu chiêng ra gói lại cất đi. Chiều hôm ấy, có một chiến sỹ gái thập thò ngoài cửa lễ phép: “Thủ trưởng cho em xin lại...” Đến lượt đại trưởng Ba ngớ người ra thì cậu công vụ chạy vào lấy gói giấy đưa cho cô. Từ đấy cánh lính trẻ tếu táo cứ gọi đại đội trưởng của mình là Ba Xu thiếu chữ chiêng. Được cái đại đội trưởng không giận. Và trong trường hợp đó ông không nghĩ là Tôn vô lễ nên cũng chẳng giận và trách mắng Tôn. Ở chiến trường luôn luôn căng thẳng, có được những phút giây thư giãn như thế cũng tốt. Bây giờ thỉnh thoảng nhớ lại, ông cứ cười thầm và lấy làm thích thú với cái biệt danh lính đặt cho vì cái lần vô tình lơ đễnh ấy.

Đê Vít Tôn vẫn sang sảng trên bục diễn đàn:

- Vâng thưa bà con! Việc xây dựng cơ sở hạ tầng là như vậy, nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ. Cái lớn lao hơn là một Khu công nghệ sẽ được xây dựng ngay ở trong xã mình. Đấy chỗ kia kìa (ngài Việt kiều yêu nước chỉ tay ra khu đầm sen) nay mai sẽ là Công ty Liên doanh chuyên sản xuất các mặt hàng xuất khẩu nông sản lớn nhất tỉnh. Con em trong xã sẽ được vào lao động. Ấy là tôi nể tình người quê hương, chứ bên phương Tây là không có chuyện ấy đâu. Nó phải tuyển người giỏi, người khoẻ mạnh cơ, có tay nghề cao cơ; anh em, đồng hương cũng vứt, thế mới văn minh, thế mới phát triển được...

- Chà, phúc đức quá, phúc đức cho xã nhà quá bác nhể. - Một cụ già ngồi bên cạnh quay sang nói với ông.

Một người ngồi ghế đằng trước quay đầu xuống nói:

- Cũng còn phải xem xem đã. Ở bên Quỳnh, lúc đầu liên doanh người ta cũng hứa hẹn thế. Đến khi nhà máy đi vào sản xuất thì chẳng nhận cho xã được lao động nào. Khốn nạn! Bác tính một dây chuyền sản xuất nước khoáng của người ta chỉ có mười sáu công nhân kỹ thuật cao. Lấy lao động đơn giản cấy lúa trồng khoai như con cháu chúng ta thì đào tạo đến bao giờ mới có tay nghề.

- Thì cứ ghi nhận tấm lòng của ông Việt kiều kia đã nào.

Vài ba tiếng xuýt xoa, mừng rỡ:

- Lớp trẻ bây giờ thật sung sướng, nay mai thoát ly đồng ruộng, ăn trắng, mặc trơn hết.

- Không biết cái ông Đê Vít Đê Vút kia làm gì mà lắm tiền thế, bác nhể. Dễ phải đến tiền tấn.

- Hừ... Bà này chả biết gì sất. Nghe người ta nói hết đã nào. Dẻo mồm hứa hẹn để dân mình giao đất giải phóng mặt bằng chứ đã chắc gì nhận con em mình vào. Con em nông dân mình văn hoá thấp, người ta nhận vào có mà phá sản! 

Chủ tịch xã thấy ồn ào, vội đứng lên hua hua tay :

- Xin bà con trật tự, chúng ta muốn thoát khỏi đói nghèo thì phải hy sinh... Hồ bán nguyệt không mang lại tiền bạc, ao sen cũng không mang lại tiền bạc chỉ có cái dự án của ngài Đê Vít Tôn yêu quê hương này là sinh ra tiền...

Hội trường lại im lặng nghe hắn diễn thuyết. Không biết bao nhiêu lần hắn đưa ra các nội dung dự án rồi lại so sánh “ở bên kia, ở bên ấy, ở bên Tây...” với xã mình, với quê hương mình.

Ngột ngạt quá, ông cảm thấy có nhiều tiếng ong ong bên tai. Hắn bệ vệ, da bánh mật, môi thâm và mắt trắng dã, mái tóc hất ngược được chải gôm bóng loáng, thỉnh thoảng lại nói tiếng Tây bồi. Hắn mặc áo sơ mi ngắn tay, ngực và lưng áo in toàn chữ Anh, chiếc quần Tây mầu sẫm ly thẳng tắp lại có hai dải yếm đeo chéo qua vai như kiểu quần sóoc trẻ em. Bởi cái bụng của hắn to quá nếu không đeo dải yếm, thì nó sẽ tụt xuống vì chẳng có cái thắt lưng nào vòng qua được cái bụng ấy. Hắn vẫn đang thao thao vẽ ra những viễn cảnh của tương lai. Cả hội trường đã im lặng chăm chú nghe, ai cũng cảm thấy như mình sắp được hưởng sự sung sướng mà ngài Việt kiều yêu quê hương đem lại. 

Cả mặt trận chìm trong làn đạn dày đặc, chớp lửa nhoang nhoáng. Tiếng nổ inh tai buốt óc và rền rĩ, hết đợt này đến đợt khác, cát bụi quyện vào khói bom thành quầng bụi. Ông chạy lên. Sau ụ đất lớn, Tôn ngồi co ro ôm bụng. Lúc ấy, ông đã kịp nhận ra cặp mắt bạc phếch, kinh hoàng và ngơ ngác của Tôn.

- Rút mau, nằm bẹp ở đây mà chết à?

- Em... Em sợ lắm! Đại đội trưởng ơi! Anh Ba ơi!

- Rút mau, tôi lệnh đó.

Ông túm vai áo Tôn đẩy đi.

Máy bay trinh sát quần đảo ngay trên đầu, bên dưới là xuồng của đại đội ông rẽ đưng luồn lách. Hai bên mép xuồng, lá đưng cọ vào xuồng soàn soạt. Giữa cánh đồng không mông quạnh, bỗng có tiếng phụ nữ eo éo: “Hỡi anh em cán binh Việt cộng, người cha vĩ đại của chúng ta không còn nữa...” Địch đã dùng những chiếc cátsét mở sẵn băng ghi âm thả xuống. Ông nghe được cả tiếng trẻ khóc oe oe, tiếng than thở của người già, tiếng thút thít của những cô gái... Và mùi hương trầm ở đầu gió đưa đến thoang thoảng, thơm ngát, và lại bay đi mất. “Hỡi anh em! Trong lúc anh em đang bị đói khổ, bị thương tích đầy người ở đây; thì ở nhà, vợ yếu, con đau, bố mẹ già đang mong các anh em trở về đất Bắc...” Lại những tiếng to tiếng nhỏ phát ra từ loa tâm lý chiến kêu gọi bộ đội mình đầu thú...

Lòng ông chộn rộn. Có một chút lo sợ, hoang mang thoáng qua. Khốn nạn thật, bọn giặc đang đánh vào lòng người. Ác liệt quá! Lâu dài quá! Ngày thắng lợi đang đến gần hay còn xa, đến ông cũng không biết nữa huống chi là lính? Ông biết, đã đến lúc thử thách cao nhất lòng trung thành của người lính ở mặt trận...

Đại đội phó quân sự người Nam Bộ chính gốc, mặt đỏ hầm hầm bảo ông: “Anh cho tui rẹt cho nó mấy băng. Để nó lải nhải quá trời, tui chịu hổng nổi.” Ông đã ngăn lại vì chưa phải lúc nổ súng; bảo toàn lực lượng và làm tốt công tác tư tưởng cho anh em mới là nhiệm vụ chính trong lúc này.

- Thằng Tôn.  Đại đội trưởng nhìn kìa!

Ông nhìn theo cánh tay Hoà chỉ. Tôn đang cầm cái áo lót trắng vẫy rối rít giữa trảng trống.

- Để em cho nó một băng. - Hoà tức tối và trở tay súng. Ông đã kịp ngăn Hoà và nói như quát:

- Không được! Bắn bây giờ lộ hết. Chịu mất nó.

Hoà bảo:

- Cách đây mấy phút thằng Tôn vờ đau bụng. Ai biết đâu nó bỏ anh em mình. Đớn hèn quá.

Tôn lồm cồm bò lên thang dây lủng lẳng dưới bụng máy bay. Từng nấc, từng nấc một. Chiếc thang dây chùng chình rồi được rút lên. Mặt ông tím lại, cằm bạnh ra, hai bên thái dương dật liên tục. Ai đó đằng sau hậm hực:

- Biết thế hôm trước trả nó về tuyến sau còn hơn.

Hai mắt ông nhìn theo thằng Tôn đầy bất lực cho đến khi chiếc máy bay đã rút thang và bay đi.

Một tuần sau, cả đơn vị vẫn còn hoang mang với những trò tâm lý vớ vẩn nhưng cực kỳ nguy hiểm, lợi hại của địch thì lạ thay mọi kế hoạch bí mật lộ hết. Cứ như có người theo dõi từng bước. May mà đơn vị đã kịp chuyển vị trí dấu quân, nhưng bơi xuồng đến chỗ nào cũng bị bom. Tình hình rất căng thẳng, một không khí nặng nề, sợ hãi, hoang mang trùm lên đơn vị. Mấy người du kích đi phối hợp với đại đội sợ quá, đã ra trảng trống vẫy giấy trắng và khăn trắng gọi  máy bay của địch xuống để chiêu hồi. Hôm sau nữa lại vài chiến sỹ trốn ra trảng trống vẫy máy bay địch đầu thú. Họ cứ vẫy như thế, chỉ năm phút sau máy bay Đầm Già và Cán Gáo của địch đã bay đến thả thang và dắt tay lên máy bay đưa về chi khu. Chúng được trọng thưởng và lại gieo thêm nhiều tai hoạ, làm máu bộ đội ta đổ nhiều hơn...

Đại đội trưởng như phát điên, anh thở dài, bất lực, bóp trán suy tính, anh đi lang thang trên miệng những hố bom và những đống đổ nát của cây cối như một bóng ma. Chưa lúc nào ông lại thấy mình như thế. Cái chết bi hùng của một người lính ôm mũ cối cố ghếch nòng súng lên ụ đất trong tư thế xung phong. Sự ra đi của tiểu đội trưởng Long... và lòng căm giận thằng Tôn phản bội, chiêu hồi đã đem đến cho ông một quyết định thật táo bạo...

- Thưa bác! Mời bác lên hàng ghế đầu. – Anh Trưởng ban Lễ tân vừa nói vừa như van xin. – Mấy hàng ghế đầu trống hoác, các vị thế này thì chết cháu.

- Cho tôi ngồi dưới này.

- Ấy chết! Bác là thiếu tá cựu chiến binh. Bác như cụ tiên chỉ của làng. Chỗ ngồi trang trọng của bác là phải ở trên kia. Bác

- Không lên chú Hàn, chủ tịch xã lại mắng cháu té tát.

- Thôi... thôi! Mọi hôm lễ lạt thì thế. Hôm nay xã tiếp “khách quý”, cậu nói anh Hàn cứ làm theo chương trình. Người ta không lên mấy hàng ghế đầu là cũng có cái lý của người ta đấy. Tôi ngồi dưới này cho thoáng. Già cả rồi. Lên trên ấy gần cái miệng loa, âm thanh to lắm, tôi không chịu nổi.

- Không! Cháu xin bác. Bác thương cháu. Chú Hàn chủ tịch đang gắt cháu nhặng xị lên kia kìa.

Miễn cưỡng, ông đành phải theo anh Trưởng ban lễ tân lên hàng ghế đầu ngồi cho phải phép. Và ở chỗ này ông nhìn ngài Việt kiều yêu nước, nhìn thằng Tôn ngày xưa càng rõ hơn.

Sáng sớm, ông dẫn tiểu đội hai ra cửa rừng. Ông đã giao cho Hoà và Khánh thực hiện phương án táo bạo ấy. Cả tiểu đội nắm tay thật chặt hai người đồng đội sắp ra đối mặt với kẻ thù. Nắm tay nhau mà không nói được gì, chỉ đôi mắt là như ngầm bảo: Chúng mình sẽ bảo vệ, chia sẻ với hai cậu đến cùng. 

Hoà và Khánh khoác súng AK trên vai. Bên hông là hai trái lựu đạn. Hai người lầm lũi, lặng lẽ đi ra giữa trảng trống. Ngay lúc đó, tự nhiên trong lòng ông chợt thắt lại. Có phải ông đang chơi trò điên rồ, phiêu lưu và mạo hiểm trên tính mạng của đồng đội không? Trời ơi! Ông rên lên. Hai người lính thân yêu của ông chơ vơ giữa cánh đồng. Đúng lúc bao nhiêu xáo trộn trong lòng ông thì máy bay địch bay vè vè đến. Đi đầu là hai chiếc trực thăng nòng nọc, tiếp đến hai thằng cá lẹp chiến đấu. Ông mắt không rời chiếc ống nhòm, mồ hôi vã ra ướt đầm áo. Trong những lùm cây các chiến sỹ trinh sát cũng đang căng thẳng, rê đầu ruồi nòng súng theo vòng lượn của máy bay địch.

 “Hoà ơi, Khánh ơi, chuẩn bị nhé.” - Ông thầm kêu một mình như vậy. Hai thằng lính trẻ của ông đang đứng cách xa nhau đến mấy trăm mét. Hai chiếc Cán Gáo lù lù bay đến, tốc độ của nó rất chậm, tiếp đến là hai chiếc Đầm Già. Cả không gian bị xé rách bởi tiếng động cơ gầm rú. Ông chờ đợi, lồng ngực tưởng như bị ai thít chặt lại. Kìa Khánh, kìa Hoà, hai thằng lính của ông đang vẫy khăn trắng rối rít. Ông khoát tay đến lần thứ hai vẫn không thấy hai đứa nổ súng, ông run run khi nhìn hai chiếc máy bay địch lượn vòng rồi thả thang xuống. Bất ngờ cả Hoà và Khánh cùng tung lựu đạn lên. Và tiếng lựu đạn, tiếng AK nổ rung trời. Hoà và Khánh chạy tạt ngang, hai chiếc Đầm Già bốc cháy. Súng ở các lùm cây cùng nổ trợ chiến. Địch dường như rất tức giận, cay cú bởi cú đánh lừa rất ngoạn mục của lính ta nên kêu trực thăng bu lại điên cuồng xả đạn. Ông nhìn thấy một bóng người ngã xuống, chẳng biết Khánh hay Hoà? Trời ơi! Bao nhiêu là máy bay địch kéo đến. Bom napan nổ ùng ục, và lửa cháy rừng rực phía sau. Những cụm khói đen bốc lên cuồn cuộn...Những cành mua bị đạn dồn ngã rạp trên mặt đất. Gió từ hướng biển ùa tới đuổi ngọn lửa chạy dài trên cánh rừng. Lửa liếm trên khoảng không nóng bỏng.

Ông không biết mình đã ngất lịm đi trong bao lâu. Chỉ biết rằng lúc ông tỉnh dậy thì mặt trời đã xuống rất thấp. Mặt đất hắt lên trời những vệt nắng yếu ớt loe loe như những cái phễu khổng lồ. Ông kinh hoàng khi thấy mình bị hất xuống một hố bom. Có tiếng động gì đó. Khẹc...khẹc... hình như tiếng kêu của con khỉ. Thật rồi! Bên cạnh ông là hai mẹ con nhà khỉ. Khỉ con đã bị chết, mảnh đạn găm vào giữa ngực, một vệt máu đỏ bầm vẫn còn rỉ ra... Khẹc...ẹc...ec... Tiếng kêu nghẹn tắc lại, nghe thảm thương quá. Con khỉ mẹ đang khóc...

Buồn quá! Nước mắt ông trào ra, ông muốn co chân lại mà cả thân mình nặng trình trịch không thể nào co lên được.  Tiếng súng đã lặng từ lâu, xa xa lác đác mấy quả pháo sáng loé lên trên bầu trời đang tối dần.

Hoàng hôn tím sậm phủ dần, rồi một mầu đen buông xuống thật nhanh. Cả cánh rừng hoàn toàn im lặng, thi thoảng có những tiếng nổ bì bọp rất xa vọng lại. Và ông lại thiếp đi. Đâu đó có tiếng ầu ơ, ông thấy gương mặt của mẹ, chị gái và cô bé nhà hàng xóm thấp thoáng gần xa ở miền quê xa tít tắp. Những đêm trăng sáng, những đứa trẻ chạy đuổi nhau chơi trốn tìm. Một chiếc thang bắc lên đống rơm ngay cạnh sân gạch... Hình ảnh Hoà và Khánh lại vụt đến trong đầu ông. Hoà chạy tạt ngang sang bên phải và bóng Khánh ngã gục ngay loạt đạn đầu từ trên trực thăng bắn xuống. Chẳng biết trong số hai chiếc máy bay bị bắn cháy có thằng Tôn ở trong không? 

Khánh đã hy sinh. Ông và Hoà bị thương. Nhưng phương án giả vờ chiêu hồi để chống chiêu hồi của ông đã thành công vô cùng. Bởi những ngày sau đó trực thăng địch không dám thả thang dây, mà xả súng bắn vào bất cứ bóng người nào vẫy khăn trắng, áo trắng. Từ đó cả mặt trận, những kẻ hèn nhát không dám đầu thú, chiêu hồi địch theo kiểu đó nữa.

- Trật tự! Bà con trật tự nào! –Anh chủ tịch xã đứng dậy vừa nói vừa xoà bàn tay dặp dặp. – Ngài Đê vít Tôn về xã ta đầu tư làm dự án một phần còn do xã ta là quê hương của đồng chí Chủ tịch tỉnh. Mặc dù đồng chí Chủ tịch tỉnh hôm nay bận trăm công nghìn việc không về được, nhưng tôi đề nghị bà con cũng cứ vỗ tay thật to tỏ lòng cảm ơn đồng chí Chủ tịch tỉnh.

Có nhiều tiếng xì xào và tiếng vỗ tay rời dạc. Một cụ già ngồi bên cạnh quay sang ông, than thở:

- Bên Đại Giang người ta cắt đất cho Liên doanh với nước ngoài xây dựng Nhà máy xuất khẩu đông lạnh, bao nhiêu con em được vào làm trong Nhà máy. Chả biết cái ông Đê Vít Tôn kia có làm như thế không? Chứ tôi lo người ta thả con săn sắt bắt con cá sộp lắm, phải cảnh giác, ông nhẩy?

- Cũng còn tuỳ cụ ạ. Thôi thì cứ xem người ta làm chứ đừng nghe người ta nói...

- Ông có thấy cái anh Hàn chủ tịch xã mình khúm núm quá không? Làm vậy mất tư thế thể diện, người ta giàu có thế người ta khinh cho.

- Cụ cũng nghĩ thế a? Tôi thì tôi mong mọi điều tốt đẹp sẽ đến...

Ông mới nói đến đó là hội trường giải tán. Người người túa ra ngoài. Anh chủ tịch Hàn dẫn ngài Đê vít Tôn đi bắt tay các trưởng ban ngành trong xã và các vị lão thành. Vẫn cái lối đưa tay ra cho người ta bắt còn mình thì hờ hững quay mặt đi nơi khác, ngài Việt kiều yêu nước nói nói, cười cười. Đến trước mặt ông, có nghĩa là giáp mặt nhau, bất ngờ ngài nhìn ông chằm chằm. Chẳng biết ngài Việt kiều yêu nước có nhận ra không, nhưng ông thấy miệng ngài há hốc ra và hai mắt ngài trắng bệch... cũng cái cặp mắt kinh hoàng và ngơ ngác ngày trước.

Chiếc cọc cõi

L

ão Gộc ngồi bó gối. Trời đã sáng hẳn nhưng lão vẫn chưa xuống khỏi giường. Lão đang cố nhớ lại giấc mơ đêm qua. Hình như lão đã thấy một con rắn .Trong cuốn sách bói mộng mà ông nội lão truyền lại cho lão thì: Nếu rắn trắng đó là có sự động về cõi âm. Còn rắn đen... nhưng nó màu gì thì bây gìờ lão không nhớ nổi. Con rắn có đuổi lão không, chịu, quên luôn. Lại hình như thấy cả một lão già nào đó ngồi trên một gò đất cao. Có lẽ đấy là ông nội lão. Lão chỉ đoán vậy thôi chứ cũng không dám quyết rằng đó là ông nội thật. Cái hồi ông nội mới mất, hầu như đêm nào lão cũng thấy ông về với lão. Còn gần đây, đã lâu lắm rồi lão cảm thấy bị ông nội bỏ rơi. Và cũng lâu rồi lão không mơ được một giấc mơ nào cho ra hồn. Lửa, nước, những đám đánh nhau và có khi là cả máu nữa... những điềm báo ấy trước đây được lão háo hức chờ đón sự linh nghiệm của nó một cách chăm chú thì với lão giờ đây chỉ là một trò vô bổ. Tài lộc, những niềm vui nho nhỏ và cả những bất trắc thường trực của một kiếp người... tất cả trở nên nhỏ nhoi khi mà người ta đã bảy mươi tuổi. Bây giờ lão quan tâm đến những giấc mơ khác, những giấc mơ mang tầm cỡ sinh tử. Cũng trong cuốn sách chiêm mộng mà ông nội lão để lại cho lão có đoạn nói về cái chết: Mây đen giăng kín bầu trời kèm theo gió thổi mạnh; Lở đất; Mặt trời đang sáng bỗng tắt ngấm; Đàn bà mặc áo trắng xoã tóc nhảy múa trong một đám rước. Vân vân... có vẻ như hơi nhiều những dự báo. Nhưng vẫn chưa có điềm báo nào như vậy đến với lão trong giấc mơ. Có lẽ ông nội vẫn chưa muốn cho ta đi với ông - Tất cả những việc mà ông giao cho ta, ta đều chưa làm được một việc gì cho ra hồn. Lão nghĩ rồi buồn bã lắc đầu. Lão lắc đầu thật mạnh như muốn nhờ đó rũ đi những sợi rơm bám trên đầu rồi tụt xuống khỏi giường. Con Vện già đang nằm ghếch mõm lên bậu cửa, nghe tiếng động chỉ hơi vẫy vẫy tai. Nó đã già lắm, gần hai mươi năm rồi nó gắn bó với lão Gộc như hình với bóng, trở thành một phần cuộc đời của lão. Lão Gộc định bước qua nhưng rồi lưỡng lự lại ngồi xuống bên con Vện. Lão đặt bàn tay nhăn nheo của mình lên đầu con Vện hỏi như ném cơn ngái ngủ vào khoảng trống : Đêm qua mày không ngủ đấy chứ. Mày có tin là chiếc cọc cõi của nhà mình vẫn không bị đứa nào nhổ vứt đi chứ? Con Vện nhắm mắt lại. Nó không thèm chấp lão Gộc, không thèm chấp những câu hỏi mà sáng nào nó cũng phải nghe. Lão Gộc biết con Vện đã lại dỗi, lão vuốt nhẹ từ đầu xuống lưng con Vện và thở dài : Thì tao cũng chỉ hỏi vậy thôi mà... Lão chống tay vào gối đứng dậy rồi đến xó nhà cầm con dao quắm, chậm rãi ra khỏi ngõ.

Đội này, cánh dân từ thành phố đổ xô về bỏ tiền ra mua đất để lập trang trại. Những mảnh ruộng dần bị thu hẹp. Cả cơ ngơi của lão Gộc cũng chỉ còn có mảnh vườn. Mảnh vườn ấy được để lại từ thời cụ kỵ lão. nhưng nó đang đứng trước nguy cơ  bị xâm lấn, bị rơi vào tay kẻ khác. Xung quanh nhà lão người ta đều đã bán cả. Đất đang được giá. Người dân vùng đồi này bán vườn ruộng và kéo nhau ra thị trấn mới thành lập để mở quán ăn hoặc buôn bán. Nhiều nhà tậu được cả những thứ mà cả mấy đời cụ kị nhà họ không bao giờ dám mơ tới. Số còn lại, chẳng được khá giả nhưng nếu so với cảnh làm nương đốt rẫy xưa cũng còn hơn rất nhiều.

Đã nhiều lần lão chủ trang trại bên hàng xóm sang ngọt nhạt mua lại mảnh đất của lão Gộc. Gần như toàn bộ vườn tược của cư dân xóm Đồi đều đã lọt vào tay hắn. Chỉ duy nhất còn lại miếng đất của lão Gộc nằm lọt thỏm ở giữa. Tay chủ trang trại bằng mọi cách muốn xoá đi cái vết sần chướng mắt đó. Nhưng lão Gộc không nghe.  Cái giá lão chủ trang trại đưa ra quá hời. Ai cũng xui lão bán. Lão cũng biết thế. Nhưng lão muốn giữ mảnh vườn lại cho thằng cháu đang ở quân ngũ. Chỉ hơn năm nữa thôi, hết hạn nghĩa vụ nó sẽ về. Phải chuẩn bị cái cho nó sống. Đời lão cũng đã phiêu bạt, cũng đã giang hồ chán nhưng rồi cuối cùng cũng phải quay về lăn lộn trên mảnh đất này. Lão biết cái phù phiếm của đồng tiền.  Lão biết rõ giá trị của đất. Con người ta sống bám vào đất chẳng thể bao giờ giàu có được nhưng cầm chắc là không bao giờ chết đói. Sáng nào cũng vậy, đã thành lệ, trước khi làm bất cứ việc gì thì đầu tiên bao giờ lão cũng ra thăm cái cọc cõi của lão đã. Chiếc cọc bằng đá, trên chỗ gần đầu có đục hai lỗ bằng hai đồng xu. Lão không biết chiếc cọc do ông nội lão tự làm hay kiếm được từ đâu và ai đã đục hai cái lỗ ấy. Hai cái lỗ khiến chiếc cọc cõi giống như một người với hai hốc mắt luôn mở to nhìn thẳng vào vùng đồi. Xung quanh chỗ chân chiếc cọc có một đám cỏ gianh mọc bó rễ. Đã mấy lần lão Gộc định phát đám cỏ gianh ấy đi nhưng rồi sau tính kỹ lại thôi. Lão muốn để đám cỏ ấy lại phòng khi có kẻ nào đó muốn đào hoặc dịch trộm chiếc cọc đi nơi khác lão sẽ dễ phát hiện.

Tay chủ trang trại cho dựng một ngôi nhà mái bằng ngay sát cõi đất cách túp lều nhà lão Gộc một hàng cây ô rô. Vợ hắn sống ở thành phố, thỉnh thoảng mới về trang trại. Lần đầu tiên gặp người đàn bà hàng xóm mới mắt lão Gộc cứ tròn như hai cái đít cốc. Lão chưa bao giờ thấy một người đàn bà nào như thế. Cả con người mụ như là một đống lửa đỏ rực đốt lên trong những đêm đông giá, để những kẻ cô đơn ao ước được sán đến . Mụ sang nhà lão. Những lần đầu mụ sang, lão đề phòng. Lão đoán mụ sang vì miếng đất nhà lão. Con Vện cũng gầm gừ nhe nanh. Nhưng rồi chả có gì như vậy cả. Lúc đầu thì chỉ thoáng qua, xã giao buông mấy câu chào hỏi vu vơ. Rồi thì những cuộc thăm viếng tăng dần. Mụ tỏ ra là con người hào phóng và dễ chịu. Mỗi lần mụ sang là bao giờ cũng có quà: vứt cho con Vện cái gì đó, có khi là cả một gói toàn những miếng sườn rán vàng ngậy còn thơm phưng phức và biếu lão cả một chai rượu màu vàng sậm bên trong thả củ sâm tàu trông như đứa trẻ còn nằm trong bào thai. Kinh kinh, nhưng cũng hấp dẫn đầy ma lực. Con Vện mấy lần sau thấy mụ sang không nhe răng ra nữa. Và lão, lão cũng bớt e dè mụ. Chưa đầy một tháng những cuộc thăm viếng đã dần trở nên tự nhiên. Mụ sang lão, đi lại trong nhà lão như người thân.  Và mỗi lần như vậy, căn nhà nhỏ tồi tàn của lão lại ăm ắp cái mùi phưng phức, ngầy ngậy. Mụ chẳng hề nói đến chuyện mua lại miếng đất. Có lần lão thử bóng gió rằng đang có mấy người đến dạm mua lại miếng đất của lão với giá đắt, nhưng chưa nghe hết mụ đã lắc đầu quầy quậy: Miếng đất nhà bác đẹp đấy, em khuyên thật bác, cố mà giữ. Đời người dài lắm, người có thể đẻ chứ đất thì không, đừng dại bán cho ai. Lão nghe vậy thì ngạc nhiên. Lạ thật. Đúng là người năm bảy đấng, của chín mười loài, mỗi người mỗi tính chẳng thể trông mặt mà bắt hình dong được. Lão nghĩ và dần thấy yên tâm.

Cách hơn tuần nay người đàn bà hàng xóm về dưới phố. Mụ về hơi lâu. Mấy  lần lão Gộc ra đứng đầu hồi nhà nhìn vóng sang bên kia bờ ô rô. Có một cái gì đấy làm lão chống chếnh. Đã có lần có một người đàn bà ngụ lại nơi cuộc đời buồn tẻ của lão, nhưng rồi người ấy chỉ chịu đựng được cùng lão nỗi nghèo túng có dăm năm rồi bỏ lão mà đi. Lão thành cô đơn từ bấy đến giờ. Đến tháng nay, trong căn lều tồi tàn của lão đã có một ngọn gió lạ thổi vào. Ngọn gió có mùi phưng phức, ngầy ngậy. Lão còn khá tỉnh táo để biết rõ rằng ngọn gió ấy chả bao giờ dành cho lão. Nó chỉ như ngọn nồm nam thổi vô tình qua căn nhà trống.

Nhưng ...

Lão lắc đầu không dám đứng lâu, lủi thủi quay vào nhà.

Mấy đêm liền kể từ khi người đàn bà hàng xóm về phố, đêm nào lão Gộc cũng nằm mơ. Có đêm lão mơ thấy mình đi bắt cá dưới suối. Những con cá vảy trắng trơn nhẫy lượn quanh lão nhiều vô kể. Lão ngụp lặn, lão vồ cuống quýt, nhưng lạ, chẳng bắt được con nào. Lũ cá trườn qua lão, cọ cái lườn trắng mềm mại và trơn nhãy vào chân , vào bụng lão rồi trườn đi. Tỉnh dậy lão thấy người cứ bâng khuâng trằn trọc. Lại có đêm lão mơ thấy mình bị rơi từ trên núi xuống một con sông lớn. Nước lạnh toát và trắng như tuyết. Lão cố vùng vẫy và cuối cùng tỉnh lại được cùng một cơn lạnh run người. Tóm lại nhiều giấc mơ lạ. Nhưng có một giấc mơ mà nó luôn trở về, luôn lặp đi lặp lại, đó là cảnh lão thấy mình bị tung lên một đám mây rồi sau đó ném lão xuống một vườn hoa trắng. Theo cuốn sách bói mộng mà ông nội lão để lại cho thì khi người ta còn trẻ, giấc mơ ấy sẽ báo hiệu sự phát đạt về công danh, sự thắng lợi về tiền bạc. Nhưng khi  người ta về già thì điều đó lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác: Nó báo hiệu sự tang tóc, ốm đau, bệnh tật, những sự liên quan đến tính mạng. Lúc đầu lão hơi sợ, nhưng đến lần thứ hai, thứ ba thì lão bình tâm trở lại. Giấc mơ không còn ám ảnh lão về một nỗi lo. Nó gợi cho lão nhớ về nhhững ngọn gió hoang, những mùi hoa dại mà lão đã từng đôi lần nếm thử thủa trai trẻ lang bạt nơi đất khách quê người. Và gần đây ngọn gió ấy, mùi hoa ấy đã đôi lần phảy qua trong căn nhà của lão. Lão mong được thấy lại lần nữa. Hoa trắng, nhưng hoa gì thì lão không biết. Chỉ nhớ là nó  trắng, trắng lắm, trắng đến rợn người và nhất là mùi hương của nó, một mùi hương lạ, phưng phức, ngầy ngậy làm lão nôn nao. Tỉnh dậy người lão nóng bừng và khó thở....

Sang đến tuần thứ hai thì lão nghe tiếng xe máy vọng sang từ bên ngõ nhà hàng xóm. Lão vội vạch liếp nhìn sang. Con Vện cũng hếch mõm nghe ngóng, cái đuôi khẽ ve vẩy. Người đàn bà hàng xóm của lão đã lại về thật. Mụ về và chỉ chừng non tiếng sau đã lại vạch bụi ô rô sang thăm lão. Căn nhà nhỏ của lão lại ăm ắp cái mùi phưng phức ngầy ngậy. Mụ đến sát bên lão, cúi xuống sát kề dúi vào lòng lão  gói nem chua, chai rượu Lúa mới và cả mấy phên thuốc tây : Bác uống đi, phải giữ sức... đời người dài lắm... Lão ứa nước mắt cảm động. Cái mùi ngầy ngậy, phưng phức vây lấy lão. Cái mềm mềm, ấm nóng chạm vào vai lão. Lão Gộc bỗng thấy luống cuống, thấy mình như mê đi. Con Vện già cũng có phần, cả một cái cổ ngỗng rán căng tròn như chiếc giò. Nó ngậm chiếc cổ ngỗng, ngước lên nhìn người cho quà... mắt nó như có ngấn nước...

Bữa ấy mụ ở lại chơi bên lão khá lâu. Mụ hỏi lão chỗ để cái ang đựng gạo, tự tay lấy gạo và đem ra giếng vo, đổ vào nồi rồi giúp lão nhặt mấy ngọn rau bí. Vừa làm mụ vừa kể cho lão nghe chuyện dưới phố. Lão Gộc nghe nhưng chuyện vào tai nọ lại tuồn lọt qua tai kia. Mắt lão thỉnh thoảng lại vấp phải cái cổ áo khoét quá trễ và bàn tay nần nẫn, trắng mũm mĩm lấp loá ánh vàng. Nhưng trên hết như bọc lấy lão là ánh mắt người đàn bà phố: ánh mắt đầy cảm thông , tin cậy và gần gũi. Rồi mụ nói về chồng và con mụ, những người chỉ biết cắm đầu vào lo chuyện kiếm tiền. Và hình như là có cả sự cô đơn. Mụ đang cô đơn, đang cảm thấy mỗi ngày một rét thêm, lạnh giá thêm ngay giữa căn nhà đầy đủ tiện nghi của mình. Và mụ thở dài. Tiếng thở dài làm lão Gộc đang ghế cơm suýt làm ụp cả nồi cơm xuống tro nóng.

Mấy ngày sau người đàn bà hàng xóm cho dựng ngay sát cõi gữa hai nhà một cái lều tắm. Mụ sang hỏi mua của lão Gộc và nhờ lão nẹp luôn cho mụ mấy phên che bằng cỏ gianh. Mụ đưa cho lão một nắm tiền. Món tiền khá lớn làm lão Gộc hoảng lên vội ấn trả lại. Nhưng khi nhìn vào mắt mụ, nhìn thấy sự nài nỉ thì lão lại đành rụt tay về. Lão ngỏ ý để lão sang giúp nhưng mụ nhất định không nghe. Cái lều tắm do người đàn bà quen ở phố, quen ăn trắng mặc trơn làm quá vụng và quá sơ sài. Mấy phên cỏ gianh chỉ phơ phất che được có tý bên trên...

Và từ buổi chiều ấy, đã bao lần lão Gộc nhìn thấy ... Từ trong cái lều tắm một thứ ánh sáng trắng ngần, phốp pháp cứ lấp loá, lấp loá. Màu trắng ấy giống y hệt như màu của loài hoa lạ mà đêm nào lão thấy trong mơ. Lão Gộc thấy miệng nhạt thếch còn cổ họng thì đắng ngắt. Đã bao lần vạch kẽ liếp nhìn sang cái túp lều tắm ấy là lão lại có cảm giác bị nghẹt thở, tim đập thình thịch và mắt bị hoa lên. Con Vện già cũng như được hồi xuân. Cứ mỗi khi nghe tiếng nước xối rào rạt là nó lại ba chân bốn cẳng chạy đến sát bên túp lều ngóng cổ nhìn vào và lần nào khi về mình nó cũng ướt. Lão Gộc nhìn con chó với vẻ ghen tỵ...

Mụ lại sang nhà lão. Mụ mời lão sang bữa nhậu mừng mụ vừa mua thêm được mảnh đất hời. Lão chủ đất đang bận việc dưới phố. Lão Gộc hơi ngại ngần. Đêm qua lão mơ thấy ông nội lão về đứng bên chiếc cọc cõi. Ông nội lão không nói gì, chỉ im lặng nhìn lão với ánh mắt thật buồn. Rồi bỗng dưng chiếc cọc cõi biến thành người và giơ tay định chụp lấy lão. Lão ù chạy. Đất sụt dưới chân lão làm lão díu lại, chạy không nổi. Và chiếc cọc cõi đuổi đến kịp lão thì dừng lại, vụt biến thành to lớn dị thường, đổ trùm cái bóng đen lên người lão. Lão hét lên một tiếng, bừng tỉnh và thấy người ướt đầm. Bây giờ nhớ đến giấc mơ lão vẫn thấy hơi hãi. Đó là điềm báo sinh tử. Linh tính mách bảo lão rằng đang có một mối nguy hiểm chờ đợi. Lão đã định từ chối nhưng rồi không hiểu sao vẫn vội vã vớ lấy chiếc áo móc treo trên cột xuống khoác lên người. Con Vện định chạy theo nhưng lão quát nó bắt ở nhà...

... Và trăng thanh. Và gió mát. Và mùi da thịt đàn bà . Hơi rượu say bốc lão ném lên một đám mây trắng bồng bềnh, phốp pháp. Đám mây có mùi phưng phức, ngầy ngậy. Lão nghẹt thở và mê đi. Đến khi lão bị một toán người xông vào đè ngửa ra trói lại lão mới bừng tỉnh. Trên người lão chỉ có độc một manh áo cộc. Người đàn bà kéo vạt váy ngắn xộc xệch lên che mặt, co rúm người và thút thít kể chuyện mình bị cưỡng ép và bị làm nhục...

Lão Gộc phải làm văn tự, tự nguyện hiến mảnh đất của lão cho tay chủ trang trại để chuộc lại cái tội tày đình vừa mắc. Lão phải tự tay đào chiếc cọc cõi lên. Nước mắt lão ròng ròng chảy xuống chiếc cọc không hiểu sao ngay từ khi lão còn đang phát đám cỏ gianh, nó đã tự toát mồ hôi lạnh. Lão ôm chiếc cọc cõi ướt đầm như ôm một đứa trẻ. Chiếc cọc cõi vẫn mở to hai lỗ mắt nhìn trừng trừng lên khoảng trời đầy mây đen. Một thoáng lão chợt nhớ đến thằng cháu. Nó đang ở một nơi xa lắm. Nó đang phải đem máu để giữ miếng đất lớn cho mọi người. Còn lão, chỉ với miếng đất nhỏ này lão cũng đã không thể giữ nổi nữa rồi. Nước mắt lão lại ứa ra. Lão Gộc ôm chiếc cọc đá đến bên miệng vực và nghiến răng ném xuống. Lão chệnh choạng, chiếc cọc bay vào khoảng không và kéo theo cả lão. Chính quyền đến cho người lội xuống vực đem cả chiếc cọc và lão Gộc lên để làm chứng. Người ta đem lão Gộc đi còn chiếc cọc cõi thì vẫn để đấy, chềnh ềnh bên vệ cỏ. Con Vện già cúi xuống ngửi chiếc cọc, ngửa cổ rống lên mấy tiếng rồi lặng lẽ cúp đuôi chạy theo chiếc xe đòn chở lão Gộc đang vội vã lăn nhanh về phía bãi tha ma dưới chân đồi.

Tay chủ trang trại mở tiệc mừng . Hắn uống rượu say, ra Uỷ ban xã làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi trở về trên chiếc xe máy . Lúc về hắn nhìn thấy lão Gộc vẫn đang đứng bên chiếc cọc cõi. Hắn vung mảnh giấy, hét lên: Mày xéo đi. Mảnh đất này bây giờ là của tao. Cả vùng đất này bây giờ là của tao !...  Chiếc xe lao vào chiếc cọc đá, mất đà bay ra khỏi đường mang theo hắn lao xuống vực đúng chỗ mấy hôm trước lão Gộc đã lao xuống.

Từ khi tay chủ trang trại chết, cả vùng đất quanh ngôi nhà mái bằng bỗng trở nên hoang vu. Sau lễ tang bốn chín ngày, những cây cỏ gianh bắt đầu bám rễ. Đám cỏ gianh mọc rất nhanh, và rất nhanh chúng lan ra cả vùng đồi, xoá nhoà dần những ranh giới mà trước đó không lâu con người đã dựng lên để đánh dấu cõi đất riêng cho mình. Chiều chiều, khi những tia nắng cuối cùng còn cố nán lại, không phải để soi sáng thêm cảnh vật mà chỉ như muốn tạo cho vùng đất một hình ảnh thêm ma quái thì người ta lại thấy một người đàn bà loã thể cứ lang thang đi vạch từng gốc cỏ gianh để tìm bới một cái gì đó. Người đàn bà cứ lang thang, lang thang mãi cho đến khi màn đêm buông xuống thì mất hẳn. Gió hú từng đợt trên đồi trống rồi khi trượt dài đổ xuống thung sâu, người ta nghe một tiếng dội lại. Tiếng dội âm âm nghe như tiếng thở dài của núi...

Nhen lửa nướng khoai

Những chớm gió đông khe khẽ lướt qua làng. Buổi chiều thường hay rắc vài hạt mưa như cốm trời toả xuống. Ấy là vào độ cuối tháng mười âm lịch. Dường như chính cái sắt se của buổi đất trời vào đông đã cối lại nơi tôi một nốt thắt đáng nhớ.

1.

Trên bãi đất cồn, lũ trẻ chăn trâu bắt đầu bày trò để chơi. Vào độ này, chúng tôi thường nhen lửa nướng khoai. Phía bên cồn có một bãi đất nhỏ, ở đây người ta trỉa rau cải vào mùa xuân, trồng ớt vào mùa hè, sau đó thì đến khoai, cứ xen nhau như vậy. Độ cuối tháng mười thì khoai có củ. Các bác ở làng nói mấy đứa cố gắng đừng để trâu bò ăn kẹ ăn lá thì đến khi khoai có củ cứ thế mà moi, không cần xin phép. Một đứa chạy qua bãi đất thọc tay moi vài củ khoai to nhất. Muốn biết gốc nào có củ to rất dễ. Chỉ cần sờ vào cọng khoai, thấy nó cứng là biết ngay gốc khoai đã già.

Nhiên liệu để nướng khoai không phải củi mà là phân bò khô - một thứ chất đốt quê mùa nhưng rất đượm lửa than. Ở xứ Nga, những loại chất đốt như thế này được gọi bằng một cái tên chung là ki-giắc (кизяк). Có một lần trên đường ra sân bay Minsk, khi xe chạy qua thảo nguyên, tôi đã nhìn thấy rất nhiều ki-giắc vương vãi trên cỏ. Chợt như trước mắt tôi, hình ảnh cô bé Antưnai trong tiểu thuyết của Aitmatov đang hiển hiện; nàng khom lưng cõng một túi ki-giắc nặng trĩu lê bước vào hoàng hôn.

Chúng tôi gom phân bò lại thành một đống nhỏ, châm lửa đốt và lăn những củ khoai vào trong đó. Ngồi đợi. Những đốm lửa bắt đầu bén từ dưới lên. Phân bò khô chín lại màu da bò, rồi rực rỡ và bắn ra vài tia lửa nhỏ cùng với những tiếng lép bép. Có một nguyên lý chung của chất đốt, đó là hễ thứ nào càng khô thì tiếng nổ càng mảnh.

Mùa này, buổi chiều lạ lắm! Như thể có một ai đó vừa quết bột hồ và phết lên trên nền trời, nó vừa trắng đục vừa dẻo và sánh lại. Một thoáng gió mang hương cỏ tràn vào tâm hồn trẻ thơ. Sau này, có nhiều lần tôi về lại nơi bãi đất cồn Mai ấy, và cảm giác những hồn hoa khi xưa chưa hề cũ đi, cũng không hề mới lên, cứ như thế mãi mãi… Tôi biết, kỷ niệm của quãng đời ấu thơ vẫn nguyên vẹn nằm lại nơi làng quê của mình.

Khói phân bò không ngồm ngộm như khói rơm rạ, nhưng nó bay lên đủ để bùi ngùi một buổi chiều. Tôi cảm nhận được sự yên bình mỗi khi nhìn ngọn khói ở quê nhà. Có lẽ, ngay từ buổi đầu hình thành nên ngôn ngữ, người Việt đã mượn một ngọn khói (yên) để viết vào cuốn tự điển của mình hai chữ bình yên. Thôi Hiệu nói "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" là ngọn khói trên sông gợi cảm giác buồn. Còn với tôi, "Yên túc thảo vi cảm hoài" - là ngọn khói đậu trên búp cỏ khiến người ta phải nhớ thương. Mùa khói hôm xưa cứ thắc thỏm trong tâm hồn tôi, bao giờ cần yên tĩnh thì lấy ra mà ngắm. Do đó tôi nghĩ rằng, sự yên bình vốn là một khái niệm thuộc về cõi lòng chứ không phải môi trường bên ngoài.

Những đứa trẻ làng như tôi ngày ấy đã từng thích thú vô cùng với khói. Lửa nhúm, khói vừa len lẻn lên thì đứa mô đứa nấy reo cười. Ôi, phải chăng chính khói là cội nguồn đánh thức niềm vui an lạc? Chẳng thế mà Ngô Phù Sai sau bao lần tìm cách mua vui cho Tây Thi nhưng thất bại, cuối cùng vua ra lệnh đốt khói yên đài và thế là mỹ nhân đã bật cười. Nếu một ngày nào đó có người con gái đến với tôi, nàng cũng đẹp như Tây Thi nhưng ít cười, thì chắc chắn tôi sẽ dắt nàng về bãi đất làng mình và cùng nhau nhen lửa đốt khói, để cho nụ cười được tươi lên trên khuôn mặt ấy.

2.

Chị hơn tôi mười tuổi. Vâng, người chị hồng nhan bạc phận ấy đã ám ảnh tôi từ bấy đến giờ, và có thể sẽ dư âm cho đến cuối đời. Chị trở thành nhân vật của tôi. Có một buổi chiều, tôi ngồi nướng khoai với chị trên bãi đất làng. Gió se buồn. Hai chị em vừa khều khoai vừa nuốt nước bọt vì đói. Tôi nói sau này nếu có tiền, em sẽ đưa chị đi tới một quán ăn thật sang trọng. Chị mỉm cười nhẹ. "Thôi, không cần. Mi mua cho chị một rổ khoai là được rồi. Để tiền mà nuôi vợ."

- Em không lấy vợ. Em sẽ ở với chị suốt đời.

Chị cú vào đầu tôi. "Ngốc lắm em ạ! Đàn ông gì yếu ớt như mày sau này con gái nó ăn hiếp đấy!". Và quả thế thật. Sau ngày chị mất. Tôi đã nhút nhát đi nhiều, tôi tránh gặp con gái. Dường như ngoài chị ra, không còn người con gái nào đủ cho tôi tin cậy nữa!

Sum là một người bạn ở làng khiến tôi rưng rưng mỗi khi nhớ về. Đã không biết bao nhiêu lần hai đứa thả bò trên cồn và cùng nhau nướng khoai. Sum gầy, nhưng mạnh mẽ, con trai làng mình đứa mô cũng dồi dào sức khoẻ. Có lần Sum nói, khoai là phải nướng và nướng bằng phân bò mới ngon! Không biết cái kinh nghiệm ấy ai bày cho hắn, nhưng đến khi hắn thốt ra thì y như đóng đinh một triết lý. Rồi cũng chính nơi bãi đất cồn nhỏ bé nhưng nhiều cỏ ấy, tôi và Sum đã có một buổi chiều dầm mưa bụi lất phất, cùng ngồi với một ngọn lửa ấm tình bằng hữu. Năm ấy hai đứa mười tám tuổi, ở làng tuổi đó được coi là già lắm rồi. Sum buột miệng: "Ở đời được sống thì dễ, nhưng sống được mới khó!". Tôi im lặng một chút rồi nói vui, như để xoa dịu cái trăn trở của bạn.

- Những thằng ăn khoai nướng nặc mùi phân bò đôi khi lại chín chắn sớm hơn, hè?

Không biết nữa. Nhưng có một điều chắc chắn là bất cứ ai sinh ra và lớn lên nơi một làng quê nghèo thì đều già trước tuổi. Đó là một quy luật tất yếu, một thứ đòi hỏi của cuộc sống. Bởi những gian truân nắng mưa buộc trẻ con chúng tôi phải sớm biết lo liệu và chịu đựng. Ấy là trải nghiệm bằng cuộc đời thực chứ không phải kiểu sách vở. Như Sum cũng vậy, chữ nghĩa chỉ đủ dùng thôi, nhưng nói về những kinh nghiệm lao động và ứng xử thì hắn thuộc dạng thầy của những đứa khác. Chính nhẽ đó mà tôi luôn trân trọng những người bạn ở làng.

3.

Khoai chín là lúc lớp vỏ nứt ra mấy kẽ hở và để lộ những thớ ruột màu vàng hươm. Vỏ khoai cháy thành một màng cưng cứng. Mùi khoai thơm trộn với mùi khói phân bò tạo thành một hương vị quê kiểng. Hầu như ở làng, tất cả những chất đốt đều có chung mùi này, chẳng hạn như mùi rơm vào mùa đốt đồng sau vụ gặt, hay là mùi lá sắn khô. Riêng mùi phân bò lại có một chút khai khai nhẹ. Thật ra, phân bò khi còn tươi thì rất bẩn, nhưng qua vài nắng, tất cả những chất đạm ni-tơ đã bay đi gần hết, chỉ còn lại cái chất xơ tạo thành những miếng như bánh xốp. Bò ăn cỏ, nên phân bò khô thì cũng chả khác chi là cỏ phơi khô. Đó là nguyên tắc khiến ta dùng phân bò làm chất đốt mà không dùng phân người.

Khoai vừa khều ra, mỗi đứa nhón một củ đương nóng, vừa cầm vừa lăn chuyền qua về hai tay. Hơi nóng của khoai ủ vào đôi bàn tay, ấm lại ngày chớm gió. Sau đó bóc vỏ một cách từ tốn. Cái khác biệt của khoai nướng và khoai luộc là ở chỗ bóc. Khoai luộc có thể ăn ngang, không cần bóc vỏ. Còn khoai nướng thì phải bóc chừng nào ăn chừng nấy, để cái mùi thơm của khói được toát ra từ từ. Đấy, riêng cái chuyện ăn khoai thôi cũng đòi hỏi sự tỉ mỉ. Cái ngon ở đời đôi khi không phải sơn hào hải vị, mà ở chỗ biết cách ăn như thế nào.

Cưng lớn hơn tôi một tuổi, người nó chắc nịch và nụ cười rất đáng yêu. Cưng lanh lợi, tháo vát nhiều việc. Nó được xem như một "bác sĩ đồng quê" bởi những phương thức chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ rất đơn giản mà hiệu quả. Ví như chuyện ăn khoai nướng, nó bảo là rất tốt cho đường ruột. Thứ nhất, mùi vị khoai nướng có chức năng trừ giun sán. Thứ hai, ăn khoai thì không lo bị bệnh táo bón, hơi nóng của khoai làm thông các ống ruột. Nghe rất phù hợp! Tôi lại ngộ ra một điều rằng, những kinh nghiệm dân gian sẽ rất dễ lưu truyền nếu như có một cơ sở lý luận giải thích. Và không nhất thiết phải người lớn tuổi, chính trẻ con cũng có một phương pháp luận của riêng mình.

Vừa ăn khoai nướng, chúng tôi vừa trò chuyện tếu táo. Những chiếc răng chưa hết mùi sữa cứ thế cười ra với cánh đồng. Trong những câu chuyện hôm xưa, nhất quyết tôi phải kể lại cho bạn nghe chuyện này. Cố nội nhà tôi mỗi lần luộc khoai xong thì đổ ra rá. Đứa nào cầm khoai lên mà thả xuống lại thì Cố đặt riêng củ đó một bên, lát nữa không cho chọn lại. Cố dạy: "Đến củ khoai mà còn chê thì mần răng biết quê hương là chi?" Đấy là bài học đáng nhớ, bài học theo chân tôi xuyên suốt hành trình làm người.

Trên hoang-thảo-miền của tôi, người làng cứ đi qua, in lên đó bao nhiêu dấu chân hình trái bí đao. Nhưng cỏ thì ngàn năm vẫn xanh, như buổi chiều đã xưa lắm rồi mà kỷ niệm còn tươi mới. Tôi sẽ về nhặt lại, một củ khoai còn sót dưới chân cỏ dĩ vãng, một nhúm phân bò khô trong hanh nắng thời gian, một cọng khói ngủ quên trên khung trời cố xứ. Và chắc chắn là khói sẽ làm mắt tôi cay!

Hạt gạo có chân

Mạ tôi nhắn vãn vụ rồi, lên lấy gạo mới về ăn, con! Tôi chột dạ, thôi chết, vậy là một mùa cơm mới nữa mà tôi chưa về làng.

Đang mùa lụt, nước từ ngoài sông tràn vào đồng bãi, vườn tược. Mỗi khi có chiếc thuyền máy cứu trợ chạy ngang qua sân nhà, có thể mơ hồ nghe tiếng sóng ì oạp ngay dưới vạc giường. Mưa như trút nước, như giận dỗi ai ghê lắm chứ không phải đang làm cái chức phận của trời đất, nắng mưa theo nhịp hải hà.

Tôi sắp xếp công chuyện, gởi xe nơi gò cao, lội bộ một mạch giữa đồng không mông quạnh để về quê. Nước bạc bao quanh mình nghe lành lạnh, gai gợn. Trong mùi nước có cả mùi nê địa, mùi cây cỏ, rều rác thương vắng lâu ngày. Con dế mèn chơi vơi giữa dòng lũ, xoay xoay tấp vào chân tôi, chắc mẩm là cây sậy ướt, chú thản nhiên đeo bám, rồi bò chầm chậm lên tóc. Dù nhồn nhột, tôi vẫn cảm nhận được cái run lẩy bẩy của chú dế với hàm răng tí xíu bắt đầu cắn nhè nhẹ vào từng sợi tóc ướt nhẹp của tôi. Tự dưng nước mắt tôi chan hòa trong màn mưa nhệch nhạc vì đã quá nửa đời người, tóc tôi dường như vẫn còn giữ lại chút mùi hăng nồng của cây cỏ, như vẫn còn được bảo bọc trong cái kén của bùn đất quê nhà.

Anh tôi lút cút như cái bóng cò giữa mênh mang nước lũ. Chiếc thuyền nan quá sức nhỏ so với sự cuồng nộ của cơn đại hồng thủy đang sắp nuốt chửng làng xóm. Gom vịt chạy đồng giữa mùa lũ thật cực. Lùa đầu này, mất đầu kia, nước ba rào khỏa một rồi, tìm được một chỗ khô ráo phải đi thật xa, qua hết đường nhựa, vào tận vùng gò đồi. Phải gắng thôi, anh tôi cười đôn hậu, hàm răng va vào nhau lập cập và tất tả bơi thuyền nan đi. Trước mặt, một dòng vịt lóp ngóp uốn mình theo con nước, không đủ sức kêu nữa, chúng lặng lẽ bơi bên nhau, kẻ một vệt im ắng trên mặt nước bạc giữa ráng chiều đang buông.

Tôi vào nhà trên một cái bè chuối ai đó đã kết xong chưa kịp dùng, cột thong thả bên dậu cúc tần. Ba mạ tôi đang ăn cơm với người bạn nối khố của tôi, một "lão nông tri điền" làm ăn chân mực và vén khéo. Nhà bạn ở ngay sau lưng nhà ba mạ tôi, hai vợ chồng, hai đứa con đã lớn, vả lại đã được đưa vào nhà bà ngoại từ trước lũ để mấy đứa trẻ con đi học, vợ đi buôn bán nên cũng chẳng vướng bận gì, vậy là bạn sang nhà ba mạ tôi để đỡ đần giúp tôi mỗi khi có việc.

-Ăn cơm luôn đi- bạn tôi nhanh nhảu.

-Ăn luôn đi con- mạ tôi cuống quýt.

Tôi ngồi vào mâm cơm mùa lũ  được dọn ngay trên gầm tra. Gầm tra chật, bốn bề là lúa. Lúa ủ lại, nóng hâm hấp nhưng ngoài lớp vỏ, sờ vào vẫn thấy giá lạnh vì mưa tạt. Lúa chín nỏ, được nắng, nắm vào thấy ram ráp nhưng hạt lúa lại cứ bám chặt vào lòng bàn tay chứ không lơi lỏng như lúa bị ngâm nước lũ. Mạ tôi chép miệng, mới hôm trước, lúa giống cũng cất ở trên gầm tra này, đến mùa lấy xuống gieo, tỉa, dặm, phân tro, nước nôi, cắt hái, tuốt đập, phơi phong...chán chê mê mải ba bốn tháng trời giữa đất đai, nắng gió, mưa rét, rồi lại lên nằm chỗ cũ. Đúng là hạt lúa có chân...

Bạn tôi bảo, với người nông dân, miệng nói, chân chạy, y như hạt lúa và cũng đáng được bảo trọng như hạt lúa. Ngay cả Từ đường là nơi cao ráo, thiêng liêng nhất, đàn bà con gái nhất nhất không được đi ngang, về dọc trước án thờ, vậy mà mùa lũ, con cháu cứ thắp nén hương xin ông bà rồi gác ván, trèo lên gian giữa, quây lại đổ lúa đặng giữ cho được thành quả bao công lênh khó nhọc cả một mùa hai sương một nắng, có cái mà ăn, mà gieo trồng, gặt hái mùa sau. Ông bà chắc cũng thương con cháu mà bỏ qua cho. Bạn tôi nhắc lại cơn đại hồng thủy năm 1999, một người nông dân hiền như đất ở Hải Lăng đã có một quyết định hết sức kiên quyết và dũng mãnh, đạp ngay cả tấn lúa xuống dòng lũ để dành chỗ cho bà con mình trú lụt. Nhưng đó là giải pháp tình thế, chẳng đặng dừng, chứ còn chừng nào bảo vệ được hạt lúa thì phải bảo vệ đến cùng chứ.

 Bạn tôi bơi xuồng cùng tôi qua một Từ đường kế bên. Một cảnh tượng thật yên hòa và xúc động như làm ấm lại cả trời chiều sũng nước và buốt giá. Năm đứa trẻ con đang ngủ ngon lành cạnh bồ lúa tràn trong tràn ngoài đặt ở trên gian giữa của một ngôi Từ đường trang nghiêm. Những bàn tay bé con khi ngủ cứ nắm lại như nắm cả một mùa vàng trong tay đó...

Khi đã yên vị trên tấm ván, ba mạ tôi dành cho hai đứa tôi ngủ qua đêm, tôi quay lại "đề tài muôn năm cũ" mà lần nào có dịp, tôi cũng cật vấn bạn, đó là hành trình khó nhọc làm ra hạt lúa trên đồng đất quê mình.

-Cũng như mọi lần thôi, cứ ghi chép, tính toán mãi làm gì? Bạn tôi hờ hững.

-Thì rảnh rỗi không làm chi,  thống kê và chốt lại cái "đầu vào" cho mình với.

-Lấy đơn vị tính là một sào nhé?

-Ừ.

-Một sào, công làm đất bằng máy là 110 ngàn đồng; giống 5 cân 40 ngàn đồng; phân bón NPK 12 cân 90 ngàn đồng; Urê 8 cân 56 ngàn đồng; Kaly 6 cân 52 ngàn đồng. Tổng cộng riêng tiền phân là 198 ngàn đồng. Rồi thuốc trừ cỏ 10 ngàn đồng; bảo vệ thực vật 20 ngàn đồng; công gặt máy 100 ngàn đồng; công vận chuyển bằng máy trung bình 20 ngàn đồng. Tổng chi phí vật chất cho các phần trên là 498 ngàn đồng.

Bên cạnh đó còn phải tính đến công người nông dân bỏ ra như làm bờ, gieo sạ, bơm thuốc trừ cỏ, tỉa dặm, bón phân... Chỉ tính riêng tỉa dặm, tính rẻ cho một công tương đương 80 ngàn đồng, các phần việc còn lại cho là một công rưỡi nữa đi, tương đương 120 ngàn đồng. Cộng 498 ngàn đồng với 200 ngàn đồng tiền công nữa có phải là 698 ngàn đồng không?

-Chính xác 698 ngàn đồng.

-Phải nhớ rằng đây là chi phí bất di bất dịch đó nghe. Khi người nông dân bước xuống đồng bắt đầu một vụ sản xuất mới thì bắt buộc phải chi phí các khoản này, dù chưa biết suốt cả vụ mùa sẽ diễn ra như thế nào. Thông thường, chi phí "đầu vào" này chỉ có tăng, chứ không bao giờ giảm. Khi gặp rủi ro, dính sâu bệnh, hạn hán, bão lũ thì chi phí càng đội lên ngút trời. Nếu năm nào gặp thiên tai, mất trắng, thì người nông dân sẽ mất số tiền là 698 ngàn đồng trên một sào, không kể công xá, bất chấp lao lực. Mình có người bà con ở dưới Gio Quang, làm đến 6 mẫu ruộng, vị chi 60 sào. Nếu toàn bộ diện tích này mất trắng là coi như mất 41 triệu 880 ngàn đồng một vụ đó chứ không ít đâu!

Có một khoản tuy nhỏ nhưng cũng phải tính vào cho đầy đủ, đó là sản lượng phải thu của Hợp tác xã, có nơi ấn định là 8,5 cân thóc một sào. Khoản này dùng chi phí cho công tác quản lý 1 cân, cho nạo vét kênh mương, giao thông nội đồng 2 cân, cho mạng lưới bảo vệ thực vật, diệt chuột 1 cân, cho bảo vệ thủy nông, dẫn nước 1,5 cân và cho xây dựng kênh mương bê  tông 3 cân.

- Bây giờ mình tính khi được mùa đi.

- Được mùa nhiều khi "được" cả âu lo đó bạn ơi. Này nhé, được mùa, một sào thu được khoảng 300 cân thóc. Một cân thóc tại thời điểm bây giờ trung bình bán ra được 4 ngàn đồng. Một sào thu được 1,2 triệu đồng. Lấy 1,2 triệu đồng trừ đi 700 ngàn đồng chi phí đầu vào (chính xác là 698 ngàn đồng), thì người trồng lúa sẽ có lãi 500 ngàn đồng. Nếu có nơi, có lúc, năng suất lúa chỉ đạt 220 cân một sào thì nhân với giá 4 ngàn đồng một cân sẽ được 880 ngàn đồng, đem trừ chi phí 700 ngàn đồng, người nông dân chỉ thu được...180 ngàn đồng thôi!

- Nên nhớ rằng, vụ đông xuân thường kéo dài đến gần 5 tháng trời, từ khi chuẩn bị làm đất đến khi thu hoạch, vụ hè thu thì ít hơn, chỉ khoảng 100 ngày, nhưng một trăm ngày nắng lửa, mưa dầm, rét đậm, rét hại, sáng rầy nâu, chiều sâu cuốn lá...

Mưa vẫn không ngớt. Gió giật từng cơn. Tiếng kẽo kẹt của những thanh giằng quanh bồ lúa gợi tiếng mọt mài trưa từ xa khuất vọng về. Bạn tôi trở mình:

- Nhưng cha ông mình vẫn dạy, "đồng tiền có mắt, hạt gạo có chân", đúng không? Mình không hiểu hết ẩn ý thâm hậu của tiền nhân, nhưng mình vẫn cảm nhận được là, nếu khéo léo, biết tính toan, sắp xếp, nông dân như mình cũng vẫn có thể sống đàng hoàng nhờ hạt lúa, với hạt lúa. Người nào siêng năng, biết tổ chức sản xuất, làm ruộng chắc tay, hạt gạo sẽ "chạy" vào nhà người đó thôi. Vả lại, Nhà nước đang hết sức quan tâm đến "tam nông" bằng những chính sách sát sườn như tạo cơ chế để làm sao người nông dân có thể  thu lãi được 30 phần trăm khi làm lúa. Cơ chế đó là vốn, trợ giá, hỗ trợ sản xuất khi có thiên tai, dịch bệnh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi...Có cơ sở để phấn khởi, hy vọng lắm, bạn à.

Nông dân bây giờ muốn khá lên, phải biết làm ra hạt gạo chất lượng cao, mới thu được giá bán cao, bù được chi phí đầu vào để mong có lãi. Một cân lúa chất lượng cao ngoài thị trường thu mua có khi gần gấp đôi giá thóc thịt bình thường đó, lại rất dễ bán, cung không đủ cầu. Rồi nữa, phải biết "bắt" hạt gạo "chạy" chứ không om trong bồ thóc quá nhiều, lâu ngày. "Chạy" là sao? Tìm giống lúa tốt, xuất khẩu được thì kiên quyết chuyển đổi. Đương nhiên là phải có sự liên kết, có quy hoạch, có bài bản, căn cơ, chứ không phải mạnh ai nấy làm. Khi gạo quê mình tham gia xuất khẩu được, hoặc vào được siêu thị, xem như "thắng" rồi.

Ngoài ra, phải biết sơ chế, chế biến. Tại sao dân chuyên nghề bún, bánh từ hạt gạo người khác làm, lại có đời sống khấm khá hơn dân thuần nông? Tại sao chỉ cần trong nhà có một người vợ biết làm "hàng xáo", mua lúa trong dân về, đi xay xát, lấy gạo bán lại, té ra cám, tấm, thúc thêm con heo, con gà, có thể nuôi mấy đứa con ăn học chỉnh chu, lại luôn chợ đò thong thả, nước da trắng hồng,  thắt đáy lưng ong?

Suy cho cùng, hỏi một trăm người nông dân, làm sao để sống được với đất đai hương hỏa quê mình, không ai than vãn đâu, một trăm câu hỏi đều quy về từ cái nết ăn, nết ở, luyện cho được cái chí thật bền, chứ không gì khác. Có chí, thì thiên tai, bão lụt cũng chỉ...vậy thôi.

 Có chí thì nên mà!

-Bạn có nhớ Thìn không?

-Thìn ở Bê la rút?

-Đúng, nó nói đi cùng trời cuối đất rồi, vẫn không quên hạt gạo nước mình. Chỗ nó ở, mua được hạt gạo thuần Việt thật khó. Gạo Việt mình nhập qua Philíppin, Cuba... là nhiều, Đông Âu có lúc khan lắm. Có lần nó mua được một bì gạo Việt, không dám nấu ăn, chỉ mỗi bữa đi làm, nó vốc một nắm, bỏ vào áo bành tô, chíp chíp như người ta ăn hạt hướng dương vậy đó. Vừa ăn, vừa nhẩn nha, ngẫm ngợi. Người Việt mình đi đến đâu, hạt gạo Việt theo tới đó. Tự hào và xúc động vô cùng. Vừa rồi, nó gọi điện, giọng hào sảng lắm :" Già rồi "đa môi" thôi, "đa môi", cơm trắng ăn với cá tươi...!". Rồi nó khóc.

-Đa môi là gì?

-Tiếng Nga là về nhà, về nhà đó!

-Chúng mình cũng đang về nhà đây.

Thôi, ngủ đi, mai dậy sớm, nấu nồi cơm thật thơm, ăn chắc bụng, ngược  nước lũ mà về nhé. Chi thương không bằng cơm thương. Nhớ qua thềm ruộng, chỗ hẳm, vén áo lên thật cao đó.

-Ừ, "Ăn hạt cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi" mà!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro