CHƯƠNG 4 - ĐỘNG KHÔNG ĐÁY

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi thứ nhất

11:00

Tư Mã Khôi thấy đèn tự nhiên vụt tắt, không hiểu do hết pin hay chạm mạch, anh chửi thầm: “Mẹ mày, tà mị đến thế là cùng, sao toàn đợi lúc này mới sinh chuyện?”

Bóng tối vô biên hòa quyện với hơi khí chết chóc đầy mùi tuyệt vọng, lan tỏa đặc quánh khắp không gian. Bốn người sợ hãi, dựa sát vào nhau, nghe rõ cả hơi thở của người khác, không ai dám tự tiện xê dịch nửa bước, tim họ như đang muốn trồi lên tận cổ.

Mọi việc chỉ xảy ra trong nháy mắt, chẳng bao lâu sau đèn đã sáng trở lại, chiếu rõ mọi vật xung quanh.

Thắng Hương Lân căng thẳng hỏi Tư Mã Khôi: “Chuyện gì xảy ra khi nãy ấy nhỉ? Đèn quặng đang bình thường, sao tự nhiên tắt ngóm hết thế?”

Tim trong lồng ngực Tư Mã Khôi vẫn đập thình thịch, anh lắc đầu ý bảo không biết, lúc cúi xuống xem mới phát hiện cái xác của Nhị Học Sinh vốn nằm ngay trước mặt, nay bỗng không cánh mà bay, ngay cả máu thịt bắn tung tóe trên vách động cũng hoàn toàn bị xóa sạch.

Cao Tư Dương toát mồ hôi lạnh, cô vô cùng hối hận đã trách lầm hành động khi nãy của cả hội, may mà Tư Mã Khôi không chấp vặt.

Tư Mã Khôi đâu để bụng mấy chuyện đầu thừa đuôi thẹo, anh cảm thấy sự việc này vô cùng quái dị, nhưng vẫn cố lấy can đảm dò dẫm bước về phía trước tìm kiếm. Đang định di chuyển, thì đột nhiên chân anh đá phải một vật thể bằng kim loại, nhặt lên mới biết chính là hộp thiếc anh vừa quăng đi lúc nãy, trên hộp còn vết dao khoét thành nhiều lỗ thủng, trước đây dùng đựng mấy con đom đóm đuôi dài để đo chất lượng không khí, tuy chỉ là vật không hề bắt mắt, nhưng chắc chắn không thể tìm thấy cái thứ hai giống y chang như vậy.

Thắng Hương Lân ngạc nhiên hỏi: “Khi nãy anh đã vứt nó đi rồi, giờ còn nhặt lại làm gì?”

Tư Mã Khôi cầm hộp thiếc quan sát hồi lâu, lòng hãi hùng cực độ, anh nói: “Tôi nhớ rõ ràng lúc men theo vách đá vào sâu bên trong, thì tiện tay vứt cái hộp xuống đất, kết quả hại Hải ngọng đi sau cùng vấp phải ngã lăn quay, sau đó cả hội lại đi vào sâu hơn, mới gặp Nhị Học Sinh ở phía trong tấm bia đá. Cả quãng đường, chúng ta không ngừng đi về phía trước, chẳng hề lùi lại nửa bước, điều đó nghĩa là cái hộp đáng lẽ ra phải bị bỏ lại sau lưng, sao bây giờ nó lại mọc chân chạy đến ngay dưới chân tôi nhỉ?”

Hải ngọng nói: “Đúng thế, khi ấy tôi giơ chân đá nó về phía sau, tuyệt đối nó không thể lăn ra phía trước được, lí nào chúng ta sa vào hẻm ma ám, quay trở lại đường cũ rồi?”

Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ rồi nói: “Động đạo này vừa sâu vừa rộng, nhưng chúng ta mới đi được hơn chục bước, đâu dễ gì bị lạc hướng…”, nói xong cô liếc mắt xem đồng hồ, rồi khiếp đảm thốt lên: “Không phải chúng ta đi vòng trở lại, mà là thời gian đang quay ngược trở về lúc mười một giờ đúng!” 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi có dự cảm rất xấu, sao thời gian có thể trôi ngược được? Lúc vứt cái hộp, rồi bắt đầu đi sâu vào trong hang là mười một giờ đúng, sau đó thì gặp Nhị Học Sinh, Hải ngọng giơ súng săn gấu hai nòng bắn chết hắn, đèn quặng vô duyên vô cớ chợt vụt tắt, cả quá trình chí ít cũng kéo dài chừng mười phút, nhưng sau khi đèn quặng chiếu sáng trở lại, thì anh lại giẫm phải hộp thiếc vốn đã bị ném ở phía sau, đồng thời thời gian cũng chạy lùi về khoảnh khắc mười một giờ đúng. Tại sao như vậy được nhỉ?

Đúng lúc mọi người đang kinh ngạc tột độ, đột nhiên lại nghe thấy tiếng bước chân trong động đang đi tới gần, Tư Mã Khôi bật đèn quặng, thì nhìn thấy Nhị Học Sinh hốt hốt hoảng hoảng, bước thấp bước cao chạy đến. Do động đạo nuốt hết mọi ánh sáng và âm thanh, nên khi họ nghe thấy tiếng bước chân, thì hắn đã đến rất gần.

Tư Mã Khôi sợ hãi tột cùng, giơ chân ngoắc một cái, khiến kẻ mới đến ngã vật xuống đất, rồi thuận thế lấy báng súng đập mạnh.

Gáy Nhị Học Sinh bị báng súng đập trúng, chẳng ho he được tiếng nào đã lăn quay bất tỉnh nhân sự, hắn nằm rạp xuống đất trông chẳng khác nào con chó chết.

Hải ngọng rảo bước đến gần, lật ngửa Nhị Học Sinh lên, soi đèn quặng vào mặt đối phương, trợn mắt nhìn kỹ, càng nhìn càng ngạc nhiên: “Nó đúng là đồ ma quái, khi nãy rõ ràng bị súng bắn chết rồi, sao giờ sống lại được nhỉ?”

Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc có gì không ổn, sau khi đèn quặng tắt, thời gian trong thông đạo lại trở về lúc mười một giờ đúng, anh giẫm phải hộp thiếc, rồi chạm trán Nhị Học Sinh. Những điểm thời gian này cứ xuất hiện lặp lại một lần, nếu quả đúng như vậy, thì đội khảo cổ khác chi đang bị nhốt trong một không gian chỉ có mười phút, họ sẽ phải trải qua một chuỗi sự kiện trùng lặp hết lần này đến lần khác. Trước mắt, anh chỉ biết hình dung như vậy, nhưng chưa có cách nào giải thích nguyên nhân.

Cao Tư Dương nói: “May mà chúng ta cách tấm bia Bái Xà không xa, hay ta rút khỏi động đạo trước, sau đó hẵng tính kế?”

Hải ngọng tóm lấy Nhị Học Sinh hỏi: “Thế con ma chết giẫm này thì xử lý thế nào?”

Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng kéo hắn theo, nhân lúc vẫn có thể đi thì phải đi mau, có chuyện gì thì đợi sau khi rút ra ngoài tấm bia đá hãy nói tiếp.

Bốn người lập tức xếp hàng theo thứ tự ngược lại lúc vào, kéo theo Nhị Học Sinh đang hôn mê, lần theo vách động đi ngược trở ra, nhưng cả hội đi hơn chục mét mà vẫn chưa nhìn thấy tấm bia đá chắn trước cửa động đâu.

Tư Mã Khôi đoán dẫu có đi tiếp chắc cũng không thể thoát ra được, liền ra hiệu cho mọi người dừng lại, nghĩ cách khác. Động không đáy phía trong tấm bia đá còn đáng sợ hơn cả tưởng tượng ban đầu của anh, vì cả hội vừa bước vào đã bị nhốt chặt.

Hải ngọng vẫn đang cõng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao trên lưng, giờ còn kéo thêm Nhị Học Sinh sống dở chết dở, mới bước một đoạn, anh đã hổn hà hổn hển, vừa thở vừa hỏi Thắng Hương Lân: “Từ điểm xuất phát đến giờ đã mất bao nhiêu thời gian rồi? Chẳng lẽ đèn quặng lại sắp tắt à?”

Thắng Hương Lân nhìn đồng hồ, kim dài đã chỉ quá mười hai phút, nhưng thời gian vẫn chưa quay ngược. Cao Tư Dương nghe vậy mới yên tâm đôi chút, cô gạt mồ hôi lạnh trên trán, rồi nói: “Thế thì tốt, nhưng cửa động lúc trước chúng ta vào nằm ở đâu nhỉ?”

Lúc này, Nhị Học Sinh bị mọi người kéo đi dường như bắt đầu tỉnh khỏi cơn mê, hắn giãy giụa định vùng dậy.

Hải ngọng tưởng Nhị Học Sinh nhân cơ hội chạy trốn anh lập tức giương súng gí thẳng vào đầu đối phương hét lớn: “Cứ thử động đậy xem, ông khắc cho mày biết tay…” 

hoatanhoano.wordpress.com

Nào ngờ, lời còn chưa dứt thì một tiếng nổ lớn vang lên, khẩu súng săn bị cướp cò, họng súng kề ngay trước trán Nhị Học Sinh, đạn ghém cỡ tám trong họng súng siêu hạng thoát ra khỏi rãnh trượt dũng mãnh chẳng khác nào pháo bắn, cả hộp sọ của Nhị Học Sinh bị bắn vỡ tung, não tủy bay tan tác, cỗ thi thể không đầu lắc lư mấy cái, rồi đổ rầm xuống đất như cây chuối.

Hải ngọng nhìn cái xác dưới chân, ngẩn người tại trận, miệng lắp bắp giải thích: “Tôi chưa nổ súng đâu nhé, cái này… cái này… hoàn toàn là sự cố ngoài ý muốn…”

Ba người còn lại tuy đứng cách đó không xa, nhưng cũng không thể lường trước sự việc này. Chưa ai kịp nói câu nào, thì đèn quặng trên đầu đột nhiên tối sầm. Trong phút chốc, tầm nhìn của mọi người hạ thấp đến mức chỉ thấy bóng đêm đang dần nhả màu đen trên năm đầu ngón tay. Giữa lúc mù mịt tăm tối chẳng biết làm gì, thì đèn quặng lại phục hồi khả năng chiếu sáng, cỗ thi thể bị bắn vỡ sọ trước mắt không biết đã biến đi đằng nào.

Trong khi đầu óc còn đang mụ mị, Tư Mã Khôi phát hiện ngón chân lại chạm vào một vật cứng, bấm đèn quặng cúi đầu xuống nhìn, thì ra đó là cái hộp thiếc rỗng không anh từng vứt đi. Một người can đảm như anh đến giờ này cũng phải hít ngược một hơi lạnh thấu tim: “Thời gian trong động đạo lại trở về lúc mười một giờ rồi!”

Lúc này, cả hội nghe thấy tiếng bước chân, khuôn mặt ngơ ngác, hoảng sợ của Nhị Học Sinh xuất hiện trong phạm vi chiếu sáng của đèn quặng.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, thì ra chỉ cần Nhị Học Sinh chết ở phía trong tấm bia đá, thì thời gian trong động đạo sẽ quay ngược nhanh như chớp.

Tư Mã Khôi nhất thời không kịp nghĩ nhiều, đành lấy báng súng đánh ngất Nhị Học Sinh đang quờ quạng bước lại gần, sau đó anh đặt cái hộp về chỗ cũ.

Thắng Hương Lân đến bên, giơ tay để trước mũi Nhị Học Sinh, hơi thở của hắn giống hệt người còn sống, tuy lai lịch quái dị, nhưng cô không phát hiện ra điểm gì bất thường.

Cao Tư Dương nói: “Sao không thử hỏi Nhị Học Sinh xem, biết đâu hắn biết gì đó!”

Tư Mã Khôi nói: “Trước khi xác định được lai lịch của hắn, tuyệt đối không nên nghe lời hắn nói, hắn nói gì cũng không được tin. Chúng ta cứ đi thẳng vào trong hang động trước, xem tên này mọc ra từ chỗ nào!” Thế là, Hải ngọng kéo lê Nhị Học Sinh trên mặt đất, Thắng Hương Lân châm đuốc đi giữa soi sáng cho cả hội. Mọi người dò dẫm từng bước tiến về phía trước.

Cao Tư Dương bất lực, đành nắm chắc súng đi theo đoàn. Thắng Hương Lân lấy bút dạ quang đưa cho Cao Tư Dương, bảo cô đánh ký hiệu trên vách động.

Hải ngọng không hiểu móc đâu ra một đống đạo lý, anh vừa đi vừa kể với ba người bạn đồng hành: “Tôi thấy thằng cha kia vẫn thở như người sống, đương nhiên hắn không giống hồn ma bóng quế, chắc chắn là yêu quái thành tinh chứ chẳng sai. Năm đó, tôi ở Hắc Ốc từng được nghe kể một chuyện rất rùng rợn: Ở ngoại thành Trường Sa có mấy ngôi mộ cổ lai lịch hàng trăm năm, chẳng ai khảo chứng chúng xuất hiện từ triều đại nào, tóm lại mấy khu mộ đó cỏ mọc xanh um, phía trước có bia mộ. Tương truyền, ma quỷ lộng hành ở đây rất kinh, nên giữa ban ngày ban mặt cũng rất ít người dám lai vãng đến gần, ngay bọn trộm mộ cũng chẳng bén mảng. Ở ngoại thành có ông chủ họ Chu chuẩn bị gả khuê nữ, gia chủ liền mời anh thợ mộc đóng mấy đồ mộc làm của hồi môn cho con gái. Anh thợ mộc là người ngoại tỉnh, mang theo một đồ đệ trẻ để giúp việc, do thời gian bị hối thúc gấp gáp nên hàng ngày hai thầy trò họ miệt mài lao động bất kể sớm khuya. Bình thường, sau khi làm xong việc, họ sang ngủ ở căn phòng trước vườn. Một hôm, hai thầy trò vô tình phát hiện vài điểm bất thường, mỗi lần tắt đèn, họ đều nghe thấy tiếng kèn kẹt ở cổng vườn, dường như có con gì đang lấy vuốt cào cửa. Họ bạo gan quan sát mấy ngày, mới phát hiện, gia chủ vốn nuôi một con chó mực rất lớn, hàng đêm khi mọi người tắt đèn đi ngủ, thì con chó mới đứng thẳng như người, lẳng lặng dùng vuốt mở then cửa cổng, sau đó thậm thà thậm thụt chuồn ra ngoài, đợi khi trời sáng mới quay về nhà, dùng vuốt đẩy cửa, nhẹ nhàng cài lại then ngang. Hai thầy trò cảm thấy vô cùng kỳ lạ, có câu “gà gáy sáng, chó canh đêm”, đó là đặc tính thiên định của tạo vật. Khi màn đêm buông xuống, con chó đen không gác nhà, mà lẻn ra ngoài, không hiểu rốt cuộc nó đi đâu? Hai thầy trò nhất thời tò mò, liền bám đuôi xem trộm. Sau một thời gian bám theo dấu vết, họ phát hiện hàng đêm con chó đen lại mò đến nghĩa địa hoang ở ngoại thành, ở đó có một nấm mồ rất lớn, không biết là mộ cổ từ thời nào còn sót lại, nấm mồ mọc đầy cỏ dại khỏa lấp một miệng hang ở phía dưới, thông thẳng xuống đáy mộ. Thấy con chó đen chui vào trong hang, hai thầy trò cứ ngỡ con chó đang ăn thịt người chết trong mộ, ngẫm nghĩ một lát thấy không chừng đây là cơ hội kiếm trác được chút kim ngân ngọc ngà bồi táng cũng nên, thế là hai người bò đến cửa động nghe ngóng động tĩnh. Họ nghe thấy dường như có mấy người đang thì thào bàn tán gì đó, nghe kỹ thì thấy họ đang nói xem nhà tài chủ họ Chu tất cả lớn bé già trẻ gái trai có mấy nhân khẩu, đặc điểm cơ thể và dung mạo của từng người ra sao, thích mặc đồ gì, thích ăn cái gì, đồng thời thảo luận tìm cơ hội lọt vào nhà hại chết tất cả mười mấy mạng ngựời, sau đó, bọn chúng sẽ biến hình, giả dạng thành người nhà họ Chu, tới dương gian hưởng phúc mấy chục năm. Hai thầy trò nhà nọ nghe xong mà hồn vía lên mây, không ngờ con chó đen đã câu kết với bọn yêu quái dưới mộ để hại chủ. Họ không dám giấu giếm, sau khi quay về nhà liền kể lại sự việc cho ông chủ họ Chu. Ông chủ họ Chu kinh hãi, vội cho người đánh chết con chó đen, rồi tập hợp dăm ba chục thanh niên can đảm, nhân lúc trời sáng, tìm ra nghĩa địa, lấy cỏ khô hun đen nấm mồ, sau đó bới đống đất lên, thì thấy trong hang nằm ngổn ngang mấy con chồn thành tinh, con to con nhỏ, tính cả con chó đen, thì số lượng vừa vặn trùng khớp với số người nhà họ Chu.

Hải ngọng nói: “Nếu vô căn vô cứ, sao lại có truyền thuyết này? Điều đó chứng minh chuyện quái dị ấy có từ thời cổ, thì không chừng trong động không đáy tồn tại loài yêu quái nào đấy, nếu người phía ngoài tấm bia đá chết đi, thì nó sẽ giả dạng ngoại hình của người ấy chạy đi tác oai tác quái. Tấm bia đá ở cửa động được đặt ở đó để chặn nó thoát ra ngoài, vì nếu nó thoát được ra, thì tai họa thật không lường hết được”.

Từ trước đến giờ, Cao Tư Dương chưa từng tin mấy chuyện ma mãnh, giờ nghe Hải ngọng kể, cô sợ hết hồn. Cô vô tình phát hiện bút dạ quang trong tay đã hết mực từ bao giờ, mà động đạo thâm u, đen ngòm vẫn kéo dài như không có điểm tận cùng.

Hồi thứ hai

TÁ THI HOÀN HỒN

Thắng Hương Lân thấy Cao Tư Dương đã dùng hết mực bút dạ quang, trong khi thời gian trên đồng hồ vẫn không ngừng trôi chảy từng giây từng phút. Từ lúc đội khảo cổ xuất phát lần thứ ba đến giờ đã hơn hai mươi phút, nhưng thời gian vẫn chưa quay ngược, quả nhiên vì Nhị Học Sinh vẫn còn sống, điều quan trọng bây giờ là làm sao có thể đi ra khỏi động không đáy không điểm đầu, không điểm cuối này?

Tư Mã Khôi ngẫm một lát rồi nói: “Nếu cứ đi thế này, e rằng đến chết vẫn chưa đến được điểm tận cùng, chúng ta phải nghĩ cách khác thôi!”. Thế là, cả hội dừng lại bàn bạc kế sách.

Hải ngọng buông Nhị Học Sinh rơi xuống đất, đột nhiên anh phát hiện khẩu súng săn hết đạn, bèn thốt lên một tiếng “Sơ ý quá!”, rồi vội vàng nạp hai phát đạn vào ổ, lấy bấng súng đè lên người Nhị Học Sinh, đoạn hỏi Tư Mã Khôi: “Khi nãy các cậu có nghe tớ phân tích tình hình không? Có thấy hợp lý không hả?”

Tư Mã Khôi coi như không nghe thấy gì, chỉ chăm chăm nhìn khẩu súng săn hai nòng, hai lần trước gặp Nhị Học Sinh xuất hiện ở phía trong tấm bia đá, cả hai lần hắn đều bị Hải ngọng dùng súng bắn chết, rồi thời gian chạy như bay về điểm mười một giờ đúng, vết đạn trên vách động và máu tươi bắn lên đều biến mất, có điều cái hộp thiếc rỗng thì vẫn ở điểm xuất phát và khẩu súng săn nạp hai viên đạn cũng bị bắn hết. Nếu thời gian trong cả động đạo đều bị lặp lại, cái hộp thiếc coi như không xét đến nữa, nhưng vì sao đạn trong ổ bắn đi không hề thấy xuất hiện trở lại? Tư Mã Khôi nói với Thắng Hương Lân băn khoăn của mình, hỏi cô xem nên giải thích hiện tượng ấy thế nào?

Thắng Hương Lân nghĩ một hồi, gật đầu nói: “Tôi thấy bộ dạng của Nhị Học Sinh dường như không hề biết những sự việc đã xảy ra, cũng không hề biết mình từng bị bắn hai lần. Giống như lỗ đạn và vết máu bắn trên vách động, ký ức của hắn không lưu lại chút dấu vết nào, còn đội khảo cổ đương nhiên biết rõ sự kiện này đang xảy ra lặp đi lặp lại, đạn bắn đi đúng là đã bị sử dụng, nó không xuất hiện trở lại cùng với sự quay ngược của thời gian. Nếu so sánh một cách trực quan, thì toàn bộ sự kiện diễn ra trong động không đáy đều bắt đầu từ thời điểm mười một giờ và kết thúc bằng sự kiện Nhị Học Sinh tử vong, nó giống như cuộn phim không ngừng tua đi tua lại nhiều lần”.

Tư Mã Khôi nghe xong, lòng nghĩ thầm: “Nếu nói phía trong tấm bia đá là ‘hư’ thì đội khảo cổ vẫn đang còn sống xâm nhập vào trong chính là ‘thực’, bản chất của hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau, bởi vậy chỉ những vật cố định trong ‘hư’ mới tuần hoàn, có điều gọi động không đáy là ‘hư’ cũng bởi mãi đến giờ vẫn chẳng ai biết tấm bia đá rốt cuộc đang cản thứ gì, nên chỉ biết tạm thời đặt cho nó là ‘hư’ mà thôi”.

Hải ngọng chỉ Nhị Học Sinh đang nằm trên mặt đất, hỏi: “Phân tích của tôi có đúng không? Thằng cha này… tóm lại là ai?”

Thắng Hương Lân nói, đa số bích họa mà người Bái Xà để lại đều mô tả người chết biến thành ma. Họ tin rằng âm hồn bị hút vào trong động không đáy. Đương nhiên, âm hồn không nhất định phải là loài ác ma tóc tai rũ rượi giống như truyền thuyết mê tín, mà đó là một dạng linh hồn nào đó bị động không đáy hút vào.

Cao Tư Dương cũng không biết liệu có tồn tại khả năng này không, nhưng mọi thứ trước mắt đều chỉ dừng lại ở mức độ giả thuyết. Ngoài ra, cô thấy Nhị Học Sinh trông không hề giống ma quỷ biến thành, hoàn toàn không cần thiết chưa hỏi rõ trắng đen đã lập tức nổ súng giết chết như thế. Làm vậy chẳng khác nào phát xít.

Bốn người đang nhỏ to bàn bạc, thì Nhị Học Sinh đột nhiên “ư ử” rên lên một tiếng, có lẽ hắn đã tỉnh khỏi cơn mê.

Hải ngọng thấy vậy bèn hỏi Tư Mã Khôi xem có nên xử lý gã này để tránh lộ bí mật hay không.

Cao Tư Dương chủ trương phải hỏi rõ ràng trước đã, đội khảo cổ bị nhốt trong động đạo không điểm đầu cũng không điểm cuối, mọi người đều đang bó tay bất lực, ngoài việc hỏi Nhị Học Sinh ra thì làm gì còn cách nào khác. Thế là, cô đẩy Hải ngọng sang một bên, tiến đến để hỏi Nhị Học Sinh xem làm sao hắn đến được đây.

Hải ngọng thấy Tư Mã Khôi không ngăn lại, chỉ đứng một bên lạnh lùng quan sát. Thắng Hương Lân thấy Nhị Học Sinh như sắp nói ra điều gì, nên cũng im lặng nghe. Thấy vậy, Hải Ngọng cũng đành để mặc Cao Tư Dương đi hỏi Nhị Học Sinh.

Cao Tư Dương hỏi rất cặn kẽ, cô yêu cầu Nhị Học Sinh kể tỉ mỉ suốt quá trình từ khi bắt đầu xuất phát ở Thần Nông Giá theo đội khảo cổ cho đến tận giờ.

Khuôn mặt hoảng sợ của Nhị Học Sinh vẫn chưa hết bàng hoàng, hắn không hiểu vì sao Cao Tư Dương lại phải hỏi nhiều như vậy. Hắn đành kể lại nguyên si những gì mình từng trải qua, bắt đầu từ vấn đề xuất thân trong gia đình như thế nào, từ thành phố bị đẩy xuống lâm trường Thần Nông Giá, phía tây Hồ Bắc, thời gian và từng sự kiện cụ thể như bị bắt đi cải tạo lao động, cùng Cao Tư Dương và cậu thợ săn Hổ Tử đi xuyên núi vào tháp canh trên đỉnh Thần Nông Giá đến trạm thông tin sửa máy điện đàm, giữa đường gặp hội Tư Mã Khôi, rồi bị gã thổ tặc hái thuốc Dư Sơn hãm hại, cả hội sa chân vào kho pháo quân sự lõi kép trong lòng núi, nhờ đó mới phát hiện ra di vật của đội thám hiểm Taninth. Vì muốn tìm đường ra, nên cả hội đành phải tiến đến rừng rậm tiền sử ở biển Âm Dụ, kết quả rơi xuống thủy thể 30° vĩ Bắc mênh mang, vô bờ bến, chẳng rõ trôi nổi bao nhiêu ngày đêm, cuối cùng cũng leo lên được hòn đảo cổ Âm Sơn, rồi thâm nhập cửu tuyền dưới lòng đất, cho đến khi cùng đội khảo cổ tìm thấy tấm bia đá đứng sừng sững nơi tận cùng địa mạch. Hắn kể đầu đuôi, lớp lang đầy đủ không thiếu chi tiết nào, mọi sự việc đều hoàn toàn trùng khớp với thực tế.

Cao Tư Dương nói: “Những điều cậu vừa kể đều chính xác, cậu đã biết trên tấm bia đá khắc bí mật có thể giết chết người, sao lúc đó cậu vẫn quay đầu lại?”

Nhị Học Sinh nói, điều này đương nhiên đã nghe mọi người nói, bí mật trên tấm bia đá không được nhìn, thậm chí cũng không được nghĩ đến, cơ thể hắn vốn yếu ớt, tuy tò mò, nhưng mạng sống đâu phải tự nhiên nhặt được trên đường, nên dẫu có thêm hai lá gan nữa, hắn cũng nào dám quay lại xem trên bia đá viết gi, ai ngờ lúc đứng quay lưng lại tấm bia đá, đột nhiên hắn thấy phía sau có gì đó động đậy, hắn cứ ngỡ là tay của Tư Mã Khôi ở sau đập vào người, dụ mình quay lại nhìn tấm bia, nhưng đến khi phát hiện không phải Tư Mã Khôi, hắn sợ đứng không vững, càng không biết phía sau có gì lại càng khiếp đảm, tim hắn đập điên cuồng, tưởng không thở nổi, đầu óc trống rỗng, có lẽ xuất phát từ phản ứng bản năng, nên không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào hắn liền quay đầu lại, ánh sáng đèn quặng trên mũ gỗ chiếu vào khe nứt trên bia đá, hắn nhìn thấy phía đối diện tấm bia có những con mắt âm u chứa đầy ma khí.

Nhị Học Sinh sợ đến ngạt thở, cảm thấy tim muốn ngừng đập, cơ thể giống như rơi vào một hang động lớn, khó khăn lắm mới giãy giụa đứng dậy được, nhưng xung quanh không thấy người nào nữa, hắn đành mò mẫm trong bóng đêm tìm đường ra ngoài, kết quả gặp ngay bốn người hội Tư Mã Khôi, chẳng ngờ, chưa kịp mở lời đã vô duyên vô cớ bị đập một gậy, rồi ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự, sau đó tỉnh dậy thi bị Cao Tư Dương tra hỏi.

Cao Tư Dương nghe Nhị Học Sinh kể đầu cuối, ngoài ngạc nhiên ra, trong lòng cô tràn đầy nỗi đồng cảm, cô cảm thấy đúng như Thắng Hương Lân nói, Nhị Học Sinh trước mắt giống như một cuộn băng không ngừng tua đi tua lại, rất giống với hoàn cảnh hiện tại của đội khảo cổ, cả hai đều bị nhốt trong động không đáy và không thể nào thoát ra nổi.

Tư Mã Khôi sa sầm nét mặt, tóm lấy Nhị Học Sinh hỏi: “Lời mày nói đều thật cả chứ?”

Nhị Học Sinh ra sức gật đầu, thể hiện mình tuyệt đối không nói sai nửa chữ.

Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi vẫn không tin, cô không nhịn được nói: “Anh đa nghi quá đấy…”

Tư Mã Khôi phản ứng lại: “Đời tôi bị lừa nhiều vố rồi, không đa nghi không được. Tôi thấy thằng cha trước mặt chúng ta không phải bị nhốt trong động không đáy, mà hắn bị tấm bia đá chặn không cho thoát ra ngoài”. Nói rồi, anh nắm lấy cổ áo của Nhị Học Sinh, quát: “Mày nói dối, sao mày biết được chữ viết trên tấm bia?”

Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi đằng đằng sát khí, hắn sợ đần mặt, miệng lắp ba lắp bắp nói không nên lời: “Chữ trên tấm bia? Tôi… tôi… làm sao mà… biết… chữ… chữ trên tấm bia!”

Cao Tư Dương nói: “Tư Mã Khôi, anh đừng nói càn, làm sao cậu ấy nhận ra được chữ cổ Bái Xà viết trên tấm bia cơ chứ?”

Ngay từ đầu, Tư Mã Khôi đã khẳng định một việc, bất luận Nhị Học Sinh xuất hiện phía trong tấm bia là thứ gì, thì chắc chắn hắn không thể là người mà cả hội từng quen thuộc, hắn chẳng qua chỉ là con ma bị nhốt sau tấm bia đá, không những vậy nó đã bị động không đáy nuốt chửng, hoặc nói cách khác, bản thân linh hồn của nó đã trở thành một phần của động không đáy rồi.

Tư Mã Khôi nhớ lại hình ảnh anh nhìn thấy trong khe nứt lúc trước khi cả hội đi xuyên qua tấm bia, anh phán đoán, thứ mà tấm bia đá không cho thoát ra ngoài chính là một sinh vật sống. Nghe nói trên đời có thuật “Tá thi hoàn hồn”, có thể vật nấp sau tấm bia đá biết món tà thuật này, hắn đã copy lại hình ảnh người chết trước tấm bia đá, còn cụ thể thế nào thì tạm thời anh chưa đoán rõ ràng được. Rất có khả năng thứ đó biến thành Nhị Học Sinh, định chạy trốn ra ngoài động, nhưng khi tiếp cận tấm bia đá thì sợ quá mà chết, không rõ vì nguyên nhân gì mà chuyện này cứ không ngừng lặp đi lặp lại như cuộn băng tua. Sau khi đội khảo cổ đi xuyên qua bia đá, cả hội đều vô tình rơi vào trong cuốn băng đó.

Cao Tư Dương cảm thấy tất cả những điều đó chỉ là phán đoán một phía của Tư Mã Khôi mà thôi, không hề có căn cứ, rốt cuộc cả hội đều bị nhốt ở đây, bây giờ không thể tìm thấy vị trí của tấm bia đá Bái Xà, sao chứng minh được Nhị Học Sinh biết đọc chữ trên tấm bia?

Hải ngọng cũng cho rằng, dẫu Nhị Học Sinh có biến thành ma thì cũng không thể đọc được chữ trên bia đá, Tư Mã Khôi đừng đánh giá hắn ta cao quá.

Thắng Hương Lân lại cảm thấy Tư Mã Khôi nói có lý, có điều muốn chứng thực giả thiết này, thì chỉ còn cách duy nhất là phải tìm thấy tấm bia đá mới xác nhận được.

Lúc này, Nhị Học Sinh khẩn khoản cầu xin, rồi thề độc rằng mình không hề biết chữ cổ khắc trên tấm bia, bây giờ ngẫm lại mới thấy khi ấy mình thật hồ đồ, sao chẳng nghĩ ra – người không đọc được chữ cổ khi nhìn thấy tấm bia, thì làm sao có thể sợ bí mật trên tấm bia mà chết được?

Hải ngọng nhanh trí nói, trên đời này chỉ có hai kẻ sợ tấm bia đá, thứ nhất là Nấm mồ xanh ở phía ngoài tấm bia đá, thứ hai là thứ ở phía trong tấm bia đá, hắn là ai cũng khó nói, có điều Nấm mồ xanh hình như không biết chớp mắt, nếu Nhị Học Sinh biết chớp mắt, điều đó chứng tỏ hắn không hiểu chữ cổ trên bia đá.

Nhị Học Sinh thấy Hải ngọng nói vậy chẳng khác nào chết đuối vớ được cọc, hắn ra sức chớp mắt như để chứng tỏ sự trong sạch, không có ý hại người của mình.

Tư Mã Khôi chẳng hề động lòng, Nấm mồ xanh không chớp mắt là vì trên mặt bọc lớp da người chết, hơn nữa việc hắn có liên quan gì với thứ bị nhốt trong hang động đến giờ còn chưa rõ, bởi vậy anh vẫn tóm chặt lấy Nhị Học Sinh, rồi bất ngờ giơ tay trái lên, nắm lại thành nắm đấm, nói: “Có thật mày không biết đọc chữ không?”

Nhị Học Sinh ngỡ Tư Mã Khôi định đấm mình, thì run như cầy sấy lắp bắp van xin: “Thủ trưởng, cho dù anh có bày mấy chữ ngoằn ngoèo như nòng nọc ấy trước mặt tôi, thì tôi cũng không nhận ra được nửa chữ”.

Tư Mã Khôi cười lạnh lùng: “Câu này tự mày nói đấy nhé, xem xong thì đừng hối hận…”, nói xong anh xòe bàn tay trái ra, giơ thẳng trước mặt Nhị Học Sinh.

Thì ra, để đề phòng bất trắc, Tư Mã Khôi tiện tay nhìn bầu vẽ dưa, chép lại mấy dòng chữ trên bia đá vào lòng bàn tay.

Hai mắt Nhị Học Sinh nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay Tư Mã Khôi, sắc mặt trông còn khó coi hơn người chết, nhưng suốt hồi lâu vẫn giữ nguyên bộ dạng ấy.

Tư Mã Khôi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Sao hắn không có phản ứng gì nhỉ? Hay mình nghi lầm người?”, vừa nghĩ đến đây thì anh lật lòng bàn tay mình lại xem, vừa nhìn một cái lòng anh đã lạnh như vừa bị ai tạt cả xô nước, anh thầm kêu khổ: “Hỏng rồi, chữ bị mồ hôi xóa trôi sạch rồi còn đâu”.

Hồi thứ ba

BOM HẸN GIỜ

Bí mật trên tấm bia là một dãy số mang theo lời nguyền chết chóc, cũng bởi sự tồn tại của dãy số này nên thứ sống trong động không đáy mới bị nhốt chặt, không cách nào thoát ra được. Một khi bí mật này bị tiết lộ ra ngoài, không biết sẽ hại chết bao nhiêu người vô tội, bởi vậy Tư Mã Khôi không dám chép nó ra giấy, chỉ lấy bút viết vào lòng bàn tay phòng khi cần dùng đến, nhưng rào dậu trăm mẫu vẫn hở một khe, không ngờ dòng chữ lại bị mồ hôi ngấm vào, bây giờ lòng bàn tay lem mực, chẳng còn sót lại chữ nào.

Tuy Tư Mã Khôi vốn mưu trí, nhưng lúc này nhất thời cũng không nghĩ ra nổi cách gì, anh đành bảo Hải ngọng trông chừng Nhị Học Sinh.

Thắng Hương Lân thấy ánh sáng ngọn đuốc trong tay mỗi lúc một yếu hơn, cô nói thầm với Tư Mã Khôi: “Đuốc sắp cháy hết rồi đấy, động đạo tối quá khiến công cụ chiếu sáng tiêu hao nhanh gấp mấy lần, số đuốc còn lại và pin đèn cùng lắm cũng chỉ duy trì được một ngày nữa, đến lúc dùng hết sạch mọi nhiên liệu, hoàn cảnh của chúng ta sẽ khó khăn hơn bây giờ nhiều!”.

Tư Mã Khôi đành bảo mọi người tắt hết đèn quặng, chỉ thắp đuốc soi sáng, vừa đi vừa ngẫm kế sách. Anh nghĩ kỹ những sự việc đã xảy ra kể từ khi bước chân vào động đạo đến giờ, xâu chuỗi theo thứ tự thời gian và cố gắng phân tích từng hiện tượng, nhưng vẫn có nhiều điểm không thể lý giải nổi, ví dụ như tấm bia đá rốt cuộc đang ngăn không cho thứ gì thoát ra ngoài? Vì sao chỉ cần Nhị Học Sinh chết đi thì thời gian trong động đạo lập tức quay như bay về thời điểm mười một giờ đúng? Anh thực sự không thể tìm ra nguyên nhân, trong lòng lo lắng nghĩ cả hội đã rơi vào một hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo, không biết phải làm cách nào mới vượt qua được nguy hiểm?

Tư Mã Khôi không lần ra được manh mối, nhưng nếu muốn trốn thoát thì chí ít họ cũng phải biết được thứ đang bị nhốt trong động đạo là sinh vật gì.

Thắng Hương Lân trầm ngâm suy nghĩ giây lát, rồi nói: “À, mọi người đã nghe kể về truyền thuyết ‘núi Lan Khả’ bao giờ chưa?” 

hoatanhoano.wordpress.com

Hải ngọng và Cao Tư Dương chưa bao giờ nghe, liền hỏi: “Núi Lan Khả là núi gì thế?”

Tư Mã Khôi thì biết sơ qua về truyền thuyết này, tương truyền ngọn núi ấy từ thời cổ xưa đã là động phủ của Đạo giáo, đó là nơi ở của thần tiên. Vào thời lưỡng Tấn, có một tiều phu hàng ngày lên núi đốn củi, một lần anh ta vào trong núi sâu, tiện tay bổ rìu vào thân một cây cổ thụ, rồi ngồi xuống nghỉ ngơi, uống nước suối, gặm mẩu lương khô mang theo, đột nhiên anh ta phát hiện giữa những dãy núi trùng điệp ẩn hiện một ngôi nhà đá.

Anh tiều phu nọ không ngờ giữa chốn rừng sâu nước thẳm vẫn có người sinh sống, lòng nghĩ thầm nếu có thể xin chén trà nóng để uống chẳng phải tốt hơn uống nước suối lạnh buốt hay sao, thế là anh ta liền bước lại gần, vừa nhìn vào ngôi nhà đá đã thấy bên trong có hai ông lão râu tóc bạc phơ đang ngồi đánh cờ vây. Anh tiều phu cũng hiểu chút ít về cờ vây, bèn ngâm một đoạn thơ, xin chén trà và mấy quả táo, rồi ngồi xổm xuống bên cạnh xem thế cờ. Hai ông lão một người giữ quân đen, một người giữ quân trắng, thế cờ biến hóa khôn lường, anh ta quan sát say sưa, quên cả thời gian, đến khi ván cờ kết thúc mới nhớ ra mình phải nhanh chóng xuống núi về nhà nhân lúc trời còn sáng. Thế là, anh ta vội vàng cáo từ, ra khỏi gian nhà bằng đá, vừa nhìn cái rìu của mình trên thân cây thì thấy thân cây gỗ vốn xanh tươi bỗng trở nên mục nát từ bao giờ, ngôi nhà đá trong núi cũng biến mất tự lúc nào, lòng nghĩ chắc mình vừa gặp tiên, ngặt nỗi lại lỡ mất cơ duyên, nên đành tìm đường xuống núi, khi về đến nhà mới phát hiện bãi bể xưa, nay đã hóa thành nương dâu, vật đổi sao dời, bao nhiêu triều đại đã thay cũ đổi mới. Người tiều phu không ngờ thời gian chỉ đủ đánh một ván cờ trong ngôi nhà bằng đá ở lòng núi lại bằng mấy chục năm tuế nguyệt dài đằng đẵng ở bên ngoài, ngọn núi mà người tiều phu năm đó ngồi xem đánh cờ được hậu thế gọi là “núi Lan Khả”

Tư Mã Khôi kể tóm tắt nội dung câu chuyện cho Hải ngọng và Cao Tư Dương nghe, anh biết Thắng Hương Lân nhắc đến chuyện anh tiều phu vào nhầm động tiên là ý muốn ám chỉ quỹ tích thời gian trong và ngoài ngôi nhà đá không giống nhau, thời gian trôi chảy trong động đạo mà đội khảo cổ đang bị nhốt ở đó giống như một hố xoáy khép kín, đến chết cũng không thể thoát ra nổi, hoàn cảnh mọi người đang phải đối mặt lúc này chính là như vậy.

Thắng Hương Lân nói, lý giải của Tư Mã Khôi cơ bản không hề sai, căn cứ vào cảnh ngộ hiện tại của đội khảo cổ, có thể đưa ra giả thiết: Động không đáy phía trong tấm bia là một kẽ hở thời gian, mọi người đi xuyên qua tấm bia đá vào trong động đạo, bắt đầu từ thời điểm Tư Mã Khôi ném hộp thiếc xuống đất, mọi người không ngừng trải qua những chuỗi sự kiện giống nhau lặp lại hết lần này đến lần khác, những sự kiện này bị chìm sâu vào kẽ hở thời gian.

Thời gian trong động không đáy giống như một hố nước xoáy tĩnh lặng chảy xuống và không ngừng tuần hoàn, chỉ cần Nhị Học Sinh chết đi, mọi thứ trong động đạo lập tức quay về xuất phát điểm, điều đó đồng nghĩa với việc đội khảo cổ ở trong kẽ hở thời gian sẽ phải xoay chuyển theo vòng tuần hoàn trong động đạo, kẽ hở có thể chỉ cách quỹ tích thời gian thông thường một giây, nhưng hố xoáy giống như động không đáy này lại kéo dài khoảng cách thời gian một giây ấy đến vô hạn.

Tuy hội Tư Mã Khôi không hoàn toàn hiểu hết những gì Thắng Hương Lân phân tích, nhưng nói một cách đơn giản, muốn tìm được lối ra của động không đáy thì đầu tiên buộc phải bước qua một giây đang bị kéo dài vô hạn, vấn đề là phải thực hiện bước này bằng cách nào?

Hải ngọng lại lanh trí vỗ đùi đét một cái, rồi nói: “Quá đơn giản, xử đẹp Nhị Học Sinh phát nữa là xong chứ gì!”

Thắng Hương Lân lắc đầu, cái chết của Nhị Học Sinh chỉ có thể khiến thời gian trong động đạo nhanh chóng quay về thời điểm mười một giờ đúng, sau đó đội khảo cổ sẽ nhìn thấy hộp thiếc bị vứt lại ở điểm xuất phát và rồi gặp Nhị Học Sinh lần nữa, tuy thời gian sau đó vẫn tiếp tục trôi chảy, nhưng vĩnh viễn không bao giờ có thể đến được thời điểm mười một giờ một phút một cách đích thực, bất luận chúng ta ở đây bao lâu, thì cũng chỉ là thời gian trong hố xoáy.

Hội Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân giải thích, ai nấy đều cảm thấy nỗi tuyệt vọng dâng trào, họ từng nghe Phật pháp dạy rằng: “Một hạt cải có thể đựng được cả núi Tu Di(1)”, nhưng chẳng ngờ một giây lại dài lê thê chừng ấy.

1 Núi Tu Di hay còn gọi là núi Sumeru, là ngọn núi truyn thuyết, cao hơn một triệu kilomet, là nơi ở của các đng thn linh ti cao, là trạc đứng của toàn vũ trụ, là trung tâm của thế giới.

Hải ngọng thở dài, nghĩ bụng phen này chắc hỏng hẳn, nếu đuốc và pin đèn đều dùng hết, thì nửa đời còn lại của họ sẽ mò mẫm trong bóng tối, đợi ngày Diêm Vương gọi về âm tào địa phủ.

Tư Mã Khôi nói: “Cậu nghĩ gì mà xa thế? Lương khô chẳng đủ ăn mấy bữa, cùng lắm duy trì được ba ngày đã mãn nguyện lắm rồi, làm gì còn những nửa đời người?”

Hải ngọng chỉ Nhị Học Sinh nói: “Chẳng phải vẫn còn thằng cha này sao? Chết một thằng lại mọc ra một thằng, sợ gì đói”.

Nhị Học Sinh nghe Hải ngọng nói vậy, mặt vàng như nghệ, nằm bẹp xuống đất, không dám thở mạnh.

Cao Tư Dương nghe xong cũng sợ hết hồn, không biết Tư Mã Khôi và Hải ngọng có làm thế thật không, không ngờ bọn họ còn tính ăn thịt người, cô âm thầm kêu khổ, quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Nhớ lúc chúng ta ngồi thuyền độc mộc, trôi nổi trên thủy thể 30° vĩ Bắc vô bờ vô bến ở dưới lòng đất mà vẫn tìm thấy lối thoát trong đường tơ kẽ tóc, chẳng lẽ lần này không thể ra được thật sao?”

Thắng Hương Lân trầm ngâm nói: “Có cách, nhưng không biết khả thi hay không, nếu muốn thời gian trôi một cách bình thường, thì cần phải tạo ra một vụ nổ trong động đạo. Sự biến hóa của nguồn năng lượng cực mạnh có lẽ sẽ đẩy thời gian ra khỏi quỹ đạo một phút”. 

hoatanhoano.wordpress.com

Hải ngọng nói: “May mà tớ chuẩn bị một cuốn thuốc nổ phòng lúc cần dùng, không những vậy còn là loại bom hẹn giờ nữa chứ”, nói xong, anh móc cuộn thuốc nổ đang định ra tay dẫn nổ. Loại ống kíp này không phải nguyên liệu dẫn nổ đơn thuần, mà là loại bom chùm tự chế, có thể trực tiếp dùng để tác nghiệp phá nổ, vì bề ngoài hình ống mang theo kíp nổ, nên gọi chung là ống kíp.

Tư Mã Khôi vội vàng ngăn lại: “Chớ động thủ, lỡ đánh sập tấm bia đá thì phải tính sao?”

Hải ngọng nói: “Tớ thấy nơi đây chân không tới đất, cật không tới trời, chơi vơi chỗ nào chả biết, có thấy bia đá ở đâu đâu? Tuy sức công phá của cuộn thuốc nổ khá lớn, nhưng tấm bia đá cũng chẳng phải loại giấy hồ, chỉ cần không kích nổ gần chỗ tấm bia đá, thì chắc không vấn đề gì đâu”.

Thắng Hương Lân đã sớm nghĩ đến cách dẫn nổ ổng kíp, nhưng do dự mãi không nói ra, vì cô cũng sợ lỡ đâu chấn động do vụ nổ tạo ra sẽ tác động đến tấm bia. Sở dĩ Nấm mồ xanh dụ đội khảo cổ bước vào đây cũng chỉ vì muốn họ giúp hắn phá hủy tấm bia.

Bốn người không cam tâm ngồi bó gối đợi chết, cả hội đều cảm thấy việc dùng thuốc nổ để thoát thân tuy mạo hiểm nhưng cũng đáng để thử, chỉ khi thời gian khôi phục như bình thường, thì mới có cơ hội thoát khỏi động đạo không điểm đầu, không điểm cuối. Lúc này, mọi người đã hạ quyết tâm và chuẩn bị bắt tay hành động.

Tư Mã Khôi thấy lai lịch Nhị Học Sinh quái dị, gã này dứt khoát là loại bám dai như đỉa đói, nói không chừng hắn chính là thứ bị tấm bia đá nhốt trong động biến thành, ngặt nỗi, giờ không có tấm bia trước mặt để thử nghiệm, anh chỉ còn cách bảo Hải ngọng trói Nhị Học Sinh lại đề phòng bất trắc.

Hải ngọng y lời, móc trong ba lô ra một đoạn dây thừng, đặt Nhị Học Sinh quay ngược lại, rồi trói chặt như buộc lạt bánh trưng,

Nhị Học Sinh không rõ tại sao họ làm vậy, chỉ biết đau khổ cầu xin: “Thủ trưởng, làm ơn làm phúc đừng bỏ rơi tôi ở đây, nếu các anh bỏ tôi lại một mình trong động, tôi biết phải làm sao…”

Hải ngọng nói: “Sao mày lắm lời thế, còn nói nữa tao nhét tất vào mồm đấy, biết chân ông đây mấy ngày chưa rửa rồi không?’’

Nhị Học Sinh há hốc mồm, nhưng không dám phát ra tiếng, mắt đăm đăm nhìn Cao Tư Dương, mong cô niệm tình đồng chí, giúp mình chừa lại con đường sống.

Cao Tư Dương vốn đã không nhìn lọt mắt hành động của hội Tư Mã Khôi, cô nói với anh: “Giết người đâu giỏi giang gì, mà sao lúc nào các anh cũng thích giết thế. Nói gì thì nói Nhị Học Sinh đã cùng đội khảo cổ đi chung quãng đường dài, dẫu không có công lao thì cũng chịu bao nỗi vất vả, bây giờ cậu ấy lâm vào hoàn cảnh người không ra người ma chẳng ra ma, ngay cả mình đã chết mấy lần cũng chẳng biết, làm gì có số phận nào đáng thương và bi thảm hơn thế, bây giờ chúng ta để mặc cậu ấy ở đây là được rồi, sao phải trói ngoéo người ta lại như trói trộm làm gì? Cách các anh hành xử thực khiến người khác ghê tởm đến lanh cả người”.

Tư Mã Khôi đâu dễ bị mấy lời của Cao Tư Dương thuyết phục, tuy Nhị Học Sinh xuất hiện trong động không đáy này có máu có thịt, còn có cả hơi thở như người sống, mọi lời nói hành động cũng không có điểm gì khác thường, nhưng cả hội vẫn không được nhẹ dạ cả tin, để tránh đêm dài lắm mộng. Anh bảo Cao Tư Dương đừng giải thích dài dòng nữa, rồi lập tức khoác súng lên vai, cầm lấy ống kíp Hải ngọng đưa cho, kiểm tra cẩn thận một lượt, giơ đuốc lại gần chuẩn bị châm ngòi dẫn nổ.

Căn cứ theo giả thiết của Thắng Hương Lân, năng lượng cực mạnh mà vụ nổ sản sinh trong phút chốc sẽ khiến thời gian trong động đạo khôi phục lại bình thường, như vậy cả hội mới có khả năng trở lại phía ngoài tấm bia đá hoặc sẽ đi đến điểm tận cùng của động đạo, trong khi đó ống kíp là loại phát nổ trong thời gian khá dài, không lo tạo thành mối nguy hiểm cho tấm bia đá.

Tư Mã Khôi thấy dây dẫn cháy xì xì, thì lập tức bảo mọi người nằm sấp xuống, chuẩn bị vứt cuộn thuốc nổ ra xa, đợi nó phát nổ. Nhưng lúc này cây đuốc bất ngờ trở nên tối mờ, mọi người thấy từ miệng Nhị Học sinh đang bị trói gô trên đất phát ra âm thanh quái đản, chẳng khác nào tiếng củi mục gẫy vụn, ánh lửa yếu ớt khiến khuôn mặt trắng bệch của hắn như biến thành màu xanh, dị hợm nhất là từ hai hốc hai mắt hắn chảy ra hai dòng máu đen.

Mọi người kinh hãi, hét lên rồi lũ lượt lùi ra sau né tránh, Hải ngọng đứng gần Nhị Học Sinh nhất, cuống cuồng giơ súng săn bóp cò, một tiếng “pằng” vang lên, đạn ghém cỡ tám bắn trúng cánh tay Nhị Học Sinh, tiện luôn thành hai mảnh, cơ thể hắn bắn sang một bên lăn lông lốc, xung quanh lại chùn vào khoảng tối đen ngòm và vô biên.

Tay chân Tư Mã Khôi không thể động đậy, trước mắt là màn đêm tối đen như mực, nhưng trong lòng anh lại sáng như đèn pha, gã Nhị Học Sinh kia quả nhiên đáng nghi, chỉ bị súng bắn gẫy tay, làm gì đến nỗi chí mạng, thực ra trước khi bị súng bắn, hắn đã chết rồi, hắn làm vậy để thời gian quay ngược trở lại, có điều giây phút đó vẫn bị niêm phong trong vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, đồng nghĩa với việc vụ nổ chưa hề tác động đến tấm bia đá chặn ngoài cửa động, vậy rốt cuộc hắn làm thế nhằm mục đích gì?

Anh còn chưa kịp nghĩ ra nguyên nhân thì ánh sáng đã trở lại, phạm vi chiếu sáng của ngọn đuốc còn rộng hơn cả đèn quặng. Lúc Tư Mã Khôi mở to mắt thì nhìn thấy làn khói nhả ra từ khẩu súng săn của Hải ngọng vẫn chưa kịp tan hết, dưới chân không còn cái hộp thiếc, trong khi đó tấm bia đá Bái Xà cao lớn vẫn đang đứng sừng sững cách chỗ anh đứng mấy bước chân, nếu vứt thuốc nổ xuống thì đúng là không kịp, lúc này dẫu có kích nổ ở cự ly xa, thì dòng khí đối lưu sản sinh trong động đạo cũng sẽ ảnh hưởng đến tấm bia, tình hình này có lẽ là khoảnh khắc ống kíp sắp phát nổ, khe nứt trước đây đã biến mất, thời gian vùn vụt trở về thời điểm mười một giờ của thực tại.

Hồi thứ tư

RÙNG RỢN

Tư Mã Khôi vụt hiểu mình đã mắc lừa, giống như truyền thuyết núi Lan Khả, thời gian ở đây tồn tại những quỹ tích khác nhau, khe nứt phía trong bia đá thật sự có tồn tại. Nếu ví thời gian với cuốn băng, ta sẽ thấy nó có khả năng chạy đi, khả năng tua lại và cả khả năng đứng yên tương đối, vậy thứ bị tấm bia đá nhốt trong động là con quái vật có năng lực vận hành cuốn băng theo ý mình, còn thời gian trong động đạo không ngừng lặp đi lặp lại là vì nó muốn ép đội khảo cổ phải nghĩ cách dùng thuốc nổ thoát thân, khoảnh khắc phát nổ sẽ khiến thời gian quay như bay về quỹ đạo thông thường, nhờ đó sẽ phá hủy được tấm bia đá Bái Xà chắn ngoài cổng.

Ba người còn lại nhìn thấy tấm bia cũng tỉnh ngộ ngay tức khắc, nhưng mọi chuyện đã quá muộn, dây dẫn cháy đến mức không thể dập tắt nổi nữa, vạn niệm trong lòng nguội lạnh, giờ họ chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết.

Hải ngọng đột nhiên máu bốc lên đầu, thò tay giật lấy cuộn thuốc nổ, nằm đè người lên, định dùng thân thể làm giảm bớt sóng xung kích của vụ nổ, nhưng dây dẫn cháy đến tận cùng mà cuộn thuốc vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, không chịu nổi giày vò, Hải ngọng điên tiết chửi đổng: “Con mẹ nó, xui gì mà xui tận mạng, muốn chết cho thống khoái mà cũng vất vả thế không biết?”

Thắng Hương Lân thầm ngạc nhiên, thời gian trong động đạo khôi phục bình thường, chính là khoảnh khắc vụ nổ diễn ra, theo lý mà nói lúc cả hội còn chưa kịp hiểu ngô khoai gì, thì đã bị nổ banh xác mới đúng, nhưng sao đến tận giờ vụ nổ mãi chưa xảy ra nhỉ?

Lúc này, Tư Mã Khôi lại gần, kéo Hải ngọng dậy, thì thào vào tai: “Nãy tớ vừa nghịch cuộn thuốc nổ tí đấy, không nổ nữa đâu mà sợ, nhân lúc nhìn thấy bia đá, mau chạy ra ngoài động thôi!” 

hoatanhoano.wordpress.com

Thì ra, khi bắt tay chuẩn bị cuộn thuốc, Tư Mã Khôi đã lo sợ vụ nổ sẽ ảnh hưởng đến tấm bia đá. Anh nghĩ, từ lúc chạm trán Nấm mồ xanh trong núi Dã Nhân ở Miến Điện đến giờ, chưa bao giờ anh gặp vận may, mà mấy năm trước đó cũng thế, lớn lên giữa thời thế loạn lạc, chọn lối nào đi cũng gập ghềnh khúc khuỷu, có thể nói vận rủi luôn luôn kề vai sát cánh bên anh, tuy nhiều lần may mắn thoát chết, nhưng chẳng thà chết được còn nhẹ nhàng hơn, bây giờ anh cũng nghĩ thông suốt rồi, nếu đã không thể trốn tránh nó, chi bằng hãy nghĩ cách biến nó thành người bạn đồng hành của mình.

Sự việc toàn phát triển theo chiều hướng xấu, thì có gì khó đoán nữa đâu, bất kể đội khảo cổ tính toán kín kẽ đến độ nào, cuối cùng cũng vẫn dẫn đến kết quả: tấm bia bị phá hủy. Vì muốn đi vòng qua kết quả do vận rủi mang đến, nên lúc nhận cuộn thuốc nổ từ tay Hải ngọng, anh âm thầm gỡ dây dẫn nổ của ống kíp, anh hành động lặng lẽ, thần không biết quỷ không hay, quả nhiên lúc này đã xoay chuyển được cục diện. Anh lại phát hiện thứ bị tấm bia đá nhốt chặt có thể khiến khe nứt giống như động không đáy khép lại và mở ra, một khi rơi vào trong khe nứt, với khả năng người trần mắt thịt của đội khảo cổ, dẫu chết cũng đừng mong thoát nổi ra ngoài. Bất luận sinh vật đáng sợ kia là quái vật phương nào, thì đội khảo cổ vĩnh viễn không thể trờ thành đối thủ của nó, nói cách khác, đội khảo cổ mãi mãi không bao giờ có khả năng giành chiến thắng, điều duy nhất có thể làm bây giờ là nhân cơ hội này chạy thoát ra ngoài tấm bia đá.

Ba người còn lại thấy hành động của Tư Mã Khôi, lập tức hiểu ra nội tình, tất cả đều co cẳng chạy nhanh về phía tấm bia đá.

Trên vách đá loang lổ vệt rêu vẫn còn hình vẽ phù điêu mà người Bái Xà để lại, lúc này chúng đều nằm trong phạm vi chiếu sáng của ánh đuốc, cửa động chỉ cách chỗ cả hội đứng vài bước chân, nhưng hội Tư Mã Khôi còn chưa kịp nhấc chân lên chạy, thì cảm thấy sau lưng có một cánh tay khổng lồ, âm u và lạnh lẽo thò ra, tóm lấy cẳng chân và cánh tay của cả bốn người kéo giật ngược trở lại, mặc cho họ giãy giụa thế nào cũng không thể thoát ra được, họ đành bất lực phó mặc cho cánh tay ấy kéo mình vào trong bóng đêm, tấm bia đá càng lúc càng xa dần trước mắt.

Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng là cả tòa thành địa phủ, nơi đó có vô số con ma đang thò cánh tay quái dị, tóm mấy người còn sống sót kéo xuống cõi âm gian. Cùng với nỗi hãi hùng từ đâu ùa đến, ánh đuốc bỗng vụt tắt, bốn phía bị bóng tối tĩnh mịch nuốt chửng, mọi thứ đều quay trở về trạng thái ban đầu, như thể chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì, không gian chỉ còn tồn tại tiếng thở gấp gáp và tiếng tim đập dữ dội của cả hội.

Mọi người căng thẳng bật đèn quặng lên quan sát, phát hiện cái hộp thiếc vẫn ở dưới chân, cuộn thuốc nổ mất dây dẫn cũng nằm lăn lóc cạnh đó, hai đầu của con đường vẫn đen kin kịt và sâu hun hút, cả hội biết mình lại bị rơi vào kẽ hở thời gian, bất giác cùng đưa mắt nhìn nhau, mặt cắt không còn giọt máu, trong lòng trào lên nỗi sợ chưa bao giờ từng trải qua.

Đúng lúc này có tiếng bước chân vọng đến gần, khuôn mặt trắng nhợt, hốt hoảng ngác ngơ của Nhị Học Sinh một lần nữa lại xuất hiện thấp thoáng trong động đạo thăm thẳm.

Tư Mã Khôi không nói không rằng, giơ tay tung một đấm, nện Nhị Học Sinh không kịp ừ hữ gì đã lăn ra đất mềm như bún. Lúc kích nổ cuộn thuốc súng, Cao Tư Dương đã tận mắt nhìn thấy máu chảy ra từ hai hốc mắt Nhị Học Sinh, trên mặt toát ra quầng tử khí chết chóc, nom không giống người sống chút nào, lúc ấy cô mới biết mình đã trách nhầm Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi nói với Cao Tư Dương: “Tôi thấy gã Nhị Học Sinh này lai lịch quái đản, tuy mắt tôi không bằng con mắt biệt bảo của bọn giặc đất, chưa thể nhìn gió xem khí, nhưng tôi có thể nhìn xuyên thấu mọi tướng vật trên đời, trên xuyên thiên đình, dưới thấu địa phủ, giữa thấy vạn dặm nhân gian… ”

Hải ngọng nói: “Thế cậu thử mở to mắt nghía xem thằng cha kia rốt cuộc do của khỉ gì biến thành?”

Tư Mã Khôi nói: “Tớ bảo bao lần rồi còn gì, Nhị Học Sinh xuất hiện trong động đạo chẳng qua là thứ quái vật tá thi hoàn hồn, còn chuyện cậu hỏi, tớ cũng không giải thích được, trừ phi hiểu được thứ đang bị tấm bia đá chặn lại rốt cuộc là thứ gì”.

Hải ngọng thở dài: “Cậu nói thế cũng bằng không nói, bôn ba mãi cuối cùng lại trở về điểm xuất phát chỗ cái hộp thiếc, chút nữa chỉ sợ còn phải lòng vòng chán với con quái vật tá thi hoàn hồn, chẳng biết đến lúc nào mọi việc mới kết thúc đây?”.

Thắng Hương Lân thấy cơ thể Nhị Học Sinh vốn yếu ớt, lại mắc chứng Khắc Sơn, rất dễ căng thẳng dẫn đến chuột rút, điều đó sẽ khiến các bó cơ trở nên co cứng và đột tử. Hai lần trước, hắn bị Hải ngọng cầm súng bắn chết, còn lần thứ ba là bị trói, rồi sắc mặt đột nhiên xanh lè, hai mắt chảy máu rồi lăn ra chết. Đó chính là một loại triệu chứng đột tử, bởi vậy không thể cho rằng hẳn là quái vật tá thi hoàn hồn, có lẽ hắn chỉ là một u hồn bị cuốn băng ghi lại mà thôi.

Tư Mã Khôi nói: “Trước đây, tôi cũng tán đồng với giả thiết “cuốn băng tua”, thời gian trong kẽ hở không ngừng tuần hoàn lặp đi lặp lại, hễ Nhị Học Sinh lăn ra chết là thời gian lại nhanh chóng quay trở về điểm xuất phát, ngoại trừ hộp thiếc, đạn trong khẩu súng săn và bốn người chúng ta, thì mọi sự vật trong động không đáy bao gồm cả Nhị Học Sinh đều bay vùn vụt ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, chỉ khi hành động của đội khảo cổ có khả năng phá hủy tấm bia đá, thì cuốn băng liên tục tua đi tua lại ấy mới xuất hiện vết khuyết, có điều bây giờ tôi thấy giả thiết này dường như không chính xác, chúng ta đã bị ‘vòng tuần hoàn’ đánh lừa cảm giác”. 

hoatanhoano.wordpress.com

Thắng Hương Lân biết Tư Mã Khôi sẽ không dám mở miệng nói liều trong trường hợp này, nên việc anh khẳng định chắc chắn như vậy, phải chăng đã tìm thấy chứng cứ nào đó?

Tư Mã Khôi soi đèn quặng về phía Hải ngọng, rồi quả quyết: “Chứng cứ nằm ở đây!”

Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương hướng mắt theo ánh đèn, cả hai đều lộ vẻ kinh ngạc đến tột độ, dường như họ đã phát hiện thấy hiện tượng rất đỗi dị thường.

Hải ngọng bị ba người nhìn chằm chằm như vậy, lòng cũng rờn rợn, anh lúng búng phản kháng: “Đúng là chó cắn càn, chứng cứ thì liên quan gì đến tôi cơ chứ?”

Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng: “Cậu cúi đầu nhìn xem trên người cậu có cái gì!”

Hải ngọng đưa mắt nhìn xuôi theo chùm sáng đèn quặng, anh thấy trên người mình lấm tấm vệt máu vẫn còn chưa khô. Lúc trước, anh nổ súng làm đứt cánh tay Nhị Học Sinh, vì đứng quá gần, nên không tránh khỏi bị máu bắn lên quần áo, lúc đó tình hình hỗn loạn, anh cũng chẳng để ý đến, lẽ nào mấy vết máu này có gì bất hợp lý sao?

Thắng Hương Lân lập tức hiểu ra, nếu mọi sự vật trong động đạo đều quay ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, thì máu trên người Nhị Học Sinh bị súng bắn túa ra cũng phải biến mất hết mọi dấu vết mới phải, nhưng bây giờ vết máu vấy lên người Hải ngọng vẫn chưa khô, đồng thời lại có một Nhị Học sinh lành lặn, nguyên vẹn xuất hiện trước mặt đội khảo cổ, điều đó chứng tỏ…

Tư Mã Khôi tiếp lời: “Điều đó chứng tỏ, mỗi lần xuất hiện lại là một Nhị Học Sinh khác nhau, nếu nói ‘tá thi hoàn hồn’, thì có lẽ cùng một âm hồn, nhưng có nhiều cái xác vô hồn làm vỏ cho âm hồn trú ngụ, vết máu và thi thể ba lần trước của ba Nhị Học Sinh đều bị con quái vật mà cả hội không nhìn thấy che giấu, nó cố ý khiến đội khảo cổ ngỡ rằng mình đang trải qua thời gian tuần hoàn, nguyên nhân cụ thể thì đến bây giờ vẫn chưa nghĩ ra, tóm lại, nó muốn ép chúng ta phải sử dụng thuốc nổ để phá hủy tấm bia đá, điều đó chứng tỏ thứ tồn tại phía sau tấm bia đá không chỉ là sinh vật sống, mà nó còn là sinh vật có ý thức”.

Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Mẹ nó, rốt cuộc là vật gì được nhỉ? Bị nhốt mấy ngàn năm trong động đạo, mà nó vẫn còn sống sao?”

Tư Mã Khôi nói: “Điều này tớ cũng không đoán ra nổi, đừng quên câu này – mọi nguyên nhân phức tạp đều xây dựng trên một kết quả – bây giờ chúng ta cố gắng đừng để tâm đến chuyện sống chết, hãy nghĩ cách tìm ra ‘kết quả’ cuối cùng”.

Hải ngọng nói: “Nhưng hai đầu động đạo đều không thấy điểm tận cùng, đi về phía nào cũng chẳng ra nổi, giờ phải làm sao?”

Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh vẫn nằm rạp trên mặt đất, bèn bảo: “Hắn chính là manh mối duy nhất, bây giờ trên người hắn có rất nhiều ẩn số không thể lý giải, đúng như Thắng Hương Lân nói, có lẽ hắn chỉ là một âm hồn bị cuốn băng ghi lại, là một vong hồn bị lạc đường trong động đạo, lúc chúng ta kích nổ bom hẹn giờ, vì hắn bị trói, tuyệt vọng quá độ dẫn đến các bó cơ xơ cứng và đột tử. Chân tướng những việc này chỉ có trời biết, đất biết, chứ người thì chịu chết, chúng ta không thể phân biệt được nên tốt nhất là cứ đánh hắn ngất xỉu cho xong”.

Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Anh đánh ngất hắn thì làm sao hỏi hắn lối ra nằm ở đâu được?”

Tư Mã Khôi khom lưng cúi xuống, ra hiệu cho ba người ấn đèn quặng lên mặt đất quan sát, trong động đạo có rất nhiều rêu ẩm, vết chân Nhị Học Sinh đi từ đàng xa đến vẫn còn lưu lại rất rõ ràng.

Thắng Hương Lân mừng rỡ nói: “Đúng vậy, chỉ cần lần theo vết chân khi đến của Nhị Học Sinh, sẽ biết hắn mọc ra từ kẽ hở nào”.

Tư Mã Khôi không thể xác định liệu có phải một Nhị Học Sinh này chết đi, sẽ mọc ra một Nhị Học Sinh khác hay không, nhưng người xưa nói chí phải ‘cây dịch chuyển thì chết, người dịch chuyển thì sống’, chỉ cần đi theo vết chân, chắc chắn sẽ phát hiện ra điều gì đó, dẫu sao vẫn tốt hơn ngồi một chỗ mà rầu rĩ, đến lúc ấy nếu không có kết quả thì cùng lắm lại tìm cách khác. Thế là, anh bảo Hải ngọng kéo Nhị Học Sinh đang bất tỉnh nhân sự cùng cả hội lần mò về phía trước theo vết chân trong động đạo.

Bây giờ chỉ còn lại hai cây đuốc, vì vậy chưa đến lúc quan trọng, cả hội tuyệt đối không được sử dụng lãng phí, thể nên mọi người đành bật đèn quặng chiếu sáng, lần mò từng bước tiến về phía trước trong động đạo triền miên đêm đen. Vết chân Nhị Học Sinh để lại không bám sát vào vách động, hắn đi ngoằn ngoèo, ước chừng khoảng hơn ba mươi bước thì không thấy dấu chân trên rêu nữa.

Cả hội dừng bước, quan sát tỉ mỉ, hóa ra chỗ phiến đá trên mặt đất có một khe hở, Tư Mã Khôi lấy tay chạm vào cảm giác có thể nậy lên được, anh liền nậy lên, vừa mở được thì thấy bên trong là một gian thạch thất tối om.

Tư Mã Khôi nghĩ thầm, chắc Nhị Học Sinh bò từ gian thạch thất này ra. Chẳng lẽ hắn là củ cải trong lòng đất, nhổ một củ lại mọc lên một củ khác? Bên trong chắc chắn còn có thứ gì đó.

Bốn người đang định soi đèn quặng nhìn cho rõ, thì Nhị Học Sinh choàng tỉnh dậy, hắn nhìn thấy gian mật thất phía dưới động đạo, cả cơ thể bất giác run rẩy như muốn ngất, hai hàm răng va vào nhau lập cập, hai tay nắm chặt lấy dây ba lô của Hải ngọng không chịu buông.

Hồi thứ năm

KÝ HIỆU

Hải ngọng không nuốt trôi trò này, liền tiện tay vung cú đấm, Nhị Học Sinh lập tức bổ ngửa ra đất ngất xỉu.

Tư Mã Khôi thầm thấy lạ, nếu suy đoán theo dấu chân thì Nhị Học Sinh bò ra từ dưới lòng đất, nhưng sao vừa mở mắt nhìn thấy gian thạch thất, hắn lại hoảng sợ đến vậy?

Cao Tư Dương không đồng tình với Hải ngọng, cô trách móc: “Sao anh chưa hỏi đầu cua tai nheo đã đánh hắn ngất xỉu thế?”

Hải ngọng nói: “Thằng này có lá gan chuột nhắt, tự hắn sợ quá ngất đi đấy chứ, mà hắn chết thì kệ hắn, có điều nếu để hắn chết thì chuyến đi này của chúng ta toi công à?”

Tư Mã Khôi gật đầu bào: “Chí phải!”, bây giờ định thần ngẫm kỹ lại mới thấy thứ bị tấm bia đá Bái Xà nhốt trong động có thể khống chế việc khép mở của kẽ hở thời gian, nhưng nó không thể thay đổi được chiều thời gian, những sự việc đã xảy ra nghĩa là đã xảy ra, không thể bắt chúng xuất hiện lại được. Giả sử độ rộng của kẽ hở thời gian là một giây, thì nó chỉ có khả năng kéo dài vô tận khoảng thời gian một giây trong kẽ hở mà thôi, khi ấy đội khảo cổ sẽ phải trở về điểm xuất phát và lại gặp Nhị Học Sinh. Hai lần đầu tuy cùng là thời gian một giây, nhưng khoảng cách lần thứ hai gần thời gian một giây hơn lần một, lần thứ ba lại càng gần hơn chút nữa, những lần sau có khi sẽ càng tiệm cận vô hạn hơn, nhưng trong kẽ hở không hề có lối ra, nên họ sẽ vĩnh viễn không thể đến được thời điểm một giây đích thực. Mỗi vòng tuần hoàn mà đội khảo cổ trải qua, trên thực tế là việc động đạo không ngừng trở về trạng thái ban đầu, mà bản chất của trở về trạng thái ban đầu và tuần hoàn thì hoàn toàn khác nhau. Việc trở về trạng thái ban đầu tương tự với khái niệm “tái sinh”, một Nhị Học Sinh chết đi sẽ xuất hiện một Nhị Học Sinh khác theo sự trở về trạng thái ban đầu của động đạo. Đáp án của bí mật này rất có khả năng đang nằm trong gian thạch thất dưới kia, tuy ở đó ẩn giấu vô số nguy hiểm, nhưng đã đến nước này thì cả hội buộc phải xuống đó một chuyến xem sao.

Thắng Hương Lân tán đồng với phán đoán của Tư Mã Khôi, nhưng phản ứng của Nhị Học Sinh khi nhìn thấy cửa động lại vô cùng quái đản, thứ trong gian thạch thất hẳn không phải tầm thường, có lẽ bốn người nên chia ra thành hai nhóm để hành động sẽ ổn thỏa hơn.

Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng và Cao Tư Dương một nhóm, ở lại cửa động tiếp ứng, đồng thời trông chừng Nhị Học Sinh, còn anh và Thắng Hương Lân xuống thăm dò tình hình dưới thạch thất, tuy chỉ còn hai cây đuốc, nhưng giờ đành phải thắp sáng một cây, để tránh trường hợp khí độc tồn tại ở dưới gây chết người.

Cao Tư Dương thấy vết thương trên người Thắng Hương Lân vẫn chưa khép miệng, nên tự nguyên thay cô cùng Tư Mã Khôi xuống dưới, nói xong cô nhanh chóng bỏ ba lô ra để lại, rồi cầm lấy đuốc đi theo Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi thấy cũng hợp lý. Để dễ bề hành động, anh đổi vũ khí cho Thắng Hương Lân, sau đó ôm khẩu Walther P38, rồi cùng Cao Tư Dương tụt xuống vách đá dựng đứng, vào trong gian thạch thất.

Gian mật thất dưới động đạo khá chật chội và bức bối, chắc rộng chưa đầy hai chục mét vuông, xung quanh là bốn vách đá khắc đầy hình vẽ, hai đầu có cánh cửa đá đã bị đổ sụp, vào trong này có cảm giác tựa như chui vào trong một cỗ quách đá khổng lồ, may mà không khí lưu thông tốt, không hề thấy bí bách, ngột ngạt.

Hai người thò đuốc vào trước, nhờ ánh sáng lúc mờ lúc tỏ, họ nhìn thấy phần lớn các bức phù điêu trên vách vẽ hình đầu thần mặt quỷ, dưới chân có tô tem rắn quấn quanh, đây là những thần thị cổ xưa đến nay đã bị người đời lãng quên, có hình hao hao giống cá, có hình lại hao giống chim, có hình lại nửa người nửa thú, tất cả đều được bảo tồn ở trạng thái nguyên thủy nhất, có điều trong lòng đất âm u, trông chúng hiện lên vẻ vô cùng quái dị.

Cao Tư Dương thấy xung quanh không có vật gì khác, bốn bức tường bám đầy bụi bặm, cánh cửa đá đổ sụp đã chặn đứng lối ra, có lẽ hàng ngàn năm nay chưa hề có người bước vào đây, thì trong lòng không khỏi cảm thấy kỳ lạ, cô định nói với Tư Mã Khôi, khả năng không phải Nhị Học Sinh bò ra từ gian thạch thất này, nhưng chợt thấy Tư Mã Khôi bất thần nhìn xuống mặt đất một cách chăm chú, cô không nhịn được bèn cất tiếng hỏi: “Anh phát hiện ra điều gì sao?”

Tư Mã Khôi nghe Cao Tư Dương hỏi, giật mình quay lại, chỉ xuống chân mình, chậm rãi nói: “Đây là ký hiệu của Nấm mồ xanh”.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải chở bom địa chấn dưới đáy khe núi Dã Nhân ở Miến Điện. Nó là vật sở hữu của tổ chức ngầm do Nấm mồ xanh khống chế, chúng âm mưu định dùng chất độc màu da cam chứa trong bom địa chấn để phá hủy thảm thực vật khổng lồ sinh trưởng dưới đáy cốc, giúp đội thám hiểm dễ dàng xâm nhập thành Nhện Vàng của quốc vương Chăm Pa. Trên thân chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó khắc ký hiệu hình con quái xà đang vươn đầu thè lưỡi, đây chính là ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, lúc này, nhìn thấy hình vẽ trên mặt đất trong gian thạch thất, từng hình ảnh đã trải qua trong đáy cốc rừng rậm như lần lượt hiện ra trước mắt anh.

Trước đây, Tư Mã Khôi từng đoán già đoán non không biết bao nhiêu lần về mối quan hệ giữa Nấm mồ xanh với người Bái Xà cổ đại, nhưng từ đầu chí cuối anh không hề lần ra bất cứ manh mối gì, ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh là con quái xà, người Bái Xà cổ đại cũng tôn rắn làm thần, có điều hai loại rắn này hoàn toàn không giống nhau, ký hiệu cùa Nấm mồ xanh là con rắn toàn thân cuộn lại, vươn đầu thè lưỡi, nom rất tà ác, độc địa, còn tô tem mà người Bái Xà cổ đại sùng bái là thần Vũ Xà, đó là một hình tượng hư vô, nó giống như hình ảnh vòng tròn tượng trưng cho thủy thể ở 30° vĩ Bắc dưới lòng đất đã được người cổ đại thần thánh hóa. Trong các di tích của người Bái Xà, anh cũng chưa từng nhìn thấy tô tem hình rắn giống như ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, còn về chuyện Nấm mồ xanh biết được hệ ngôn ngữ của người Bái Xà cổ đại và nắm được bí mật về tấm bia đá rõ ràng như trong lòng bàn tay, thì có khả năng là hắn đã biết được từ một thông tin đặc biệt nào đó.

Gian thạch thất nằm sâu nơi tận cùng địa mạch là nơi hàng ngàn năm nay không ai vào được, vậy mà nó lại tồn tại một tô tem hình rắn giống như ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, sự thật không thể chối cãi này chỉ có thể chứng minh – Nấm mồ xanh có mối quan hệ vô cùng sâu sắc với tổ tiên của người Bái Xà, có lẽ nó sâu xa đến mức không thể truy được ngọn nguồn, ngay cả quốc vương Chăm Pa đã chết hàng ngàn năm trước, cũng không thể có mối quan hệ với người Bái Xà sâu xa đến thế, Tư Mã Khôi thực sự không thể tưởng tượng trong những người mình từng gặp mặt trong quá khứ lại tồn tại một nhân vật bí hiểm dường vậy.

Cao Tư Dương không hiểu vì sao Tư Mã Khôi lại ngạc nhiên đến thế, cô thấy trong thạch thất không có hiện tượng gì khác thường, liền gọi Thắng Hương Lân và Hải ngọng leo xuống.

Hải ngọng khoác khẩu súng săn trên lưng, một tay kẹp Nhị Học Sinh, theo chân Thắng Hương Lân vào thạch thất, vừa nhìn thấy hình vẽ rắn trên mặt đất, anh cũng ngạc nhiên không kém Tư Mã Khôi.

Hải ngọng quẳng Nhị Học Sinh xuống đất, hốt hoảng nói: “Đây chẳng phải ký hiệu của Nấm mồ xanh sao? Xem ra, tên quái thai không bao giờ dám lộ diện là nghiệt chủng còn lưu lại hậu thế của tộc người Bái Xà, lẽ nào nó hiểu bí mật khắc trên tấm bia đá?”

Thắng Hương Lân nghĩ một lát, rồi nói: “Chỉ sợ mọi việc không đơn giản như thế, người Bái Xà có thể hiểu được bí mật khắc trên bia đá, thứ đang bị tấm bia đá chặn trong động kia cũng hiểu được bí mật đó, nếu không tấm bia đá chẳng thể nhốt nổi nó trong động đạo, bởi vậy Nấm mồ xanh chưa chắc đã thuộc nhánh tộc Bái Xà còn sót lại.”

Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói vậy, liền đột nhiên nhớ tới lúc phát hiện thấy đỉnh đồng đen Vũ Vương ở bồn địa Turpan dưới lòng đất Lopnor, nghe một thành viên của đội khảo sát liên hợp từng nói rằng, theo như ghi chép thời tiền sử, tiên vương cổ thánh tăng cảnh cáo hậu thế không được khai quật kho báu chôn dưới lòng đất, bởi vì ở đó ẩn nấp “kẻ địch cổ đại”, sinh vật nằm trong động mà người Bái Xà dùng tấm bia đá chặn lại phải chăng chính là “kẻ địch cổ đại” đó? Đương nhiên, tên gọi này cũng có thể ám chỉ dãy số khắc trên tấm bia, nhưng bất kể nói thế nào thì dùng danh xưng ấy để hình dung về con quái vật trong động nghe có vẻ rất thỏa đáng, nếu Nấm mồ xanh không phải hậu duệ của người Bái Xà, thì chắc chắn hắn phải liên quan đến “kẻ địch cổ đại”, có điều Triệu Lão Biệt từng nói Tư Mã Khôi đã nhìn thấy mặt kẻ đó, đây chính là nút thắt mà anh không thể nào tháo gỡ nổi.

Hải ngọng nói, dòng biển nóng dưới lòng đất mà dâng lên, thì ngay cả La Hán mình đồng da sắt cũng không chịu nổi nhiệt, nếu Nấm mồ xanh quả thực là người sống, thì với thân xác máu thịt bình thường chắc đã tan tành mây khói từ lâu rồi, làm gì có chuyện còn sống sót tới tận bây giờ.

Tư Mã Khôi thẫm nghĩ, không hiểu thứ nấp đàng sau tấm bia đá là sinh vật gì, hơn nữa đến lúc này anh cũng chưa có cách nào biết được Nấm mồ xanh là ai, trước mắt phải xem xem Nhị Học Sinh mọc từ đâu ra, có điều bụi trong thạch thất bám một lớp rất dày, không giống thường xuyên có người ra vào nơi này, anh không hiểu tại sao lại vậy, nên đành giơ cao đuốc quan sát tỉ mỉ từng hình vẽ trên các bức phù điêu khắc trên vách đá trước xem sao.

Trong phòng không hề khắc chữ triện cổ Bái Xà. Qua các bức phù điêu với nội dung ly kỳ và quái đản, mọi người cũng có thể suy đoán xung quanh động đạo này có rất nhiều gian thạch thất tương tự như vậy, bởi người Bái Xà là tộc sùng bái lưỡng thần, một mặt tôn sùng thần Vũ Xà nắm giữ luân hồi của vạn vật; mặt khác lại vô cùng kính sợ và ra sức tế lễ dị thần, mãi đến khi họ dùng tấm bia đá nhốt được vị thần quái dị đó trong động đạo thì mới ngưng nghi thức tế lễ. Vì trước đây phải thường xuyên vào trong này tế lễ dị thần, nên phần lớn các gian thạch thất ở gần động đạo được đào thông với di chỉ của miếu thần ngày trước, gian thạch thất này chỉ là một trong số đó. Lúc người Bái Xà đặt tấm bia đá, họ đã xóa sạch toàn bộ mọi hình ảnh liên quan đến vị dị thần trên các bức phù điêu, ngay cả danh xưng cũng không lưu lại. Trực quan nhất chính là bốn bức phù điêu tuần hoàn thành hình tròn trên tấm bia, phần đỉnh có con rắn bay mọc cánh chim trên lưng, đó chính là thần Vũ Xà đứng trên tất thảy vạn vật, phía dưới chân là hình người cổ đại đứng xếp hàng trông sống động như thật, hai bên toàn những hình vẽ ma quái, phần chính giữa thì đã bị người xưa cạo mất.

Bốn người thầm kinh ngạc, thần thánh là thứ mà không thể gọi là có hay không, dẫu có thật thì người trần mắt thịt cũng chẳng thể nào nhìn thấy, chỉ có quỷ mới biết thứ bị tấm bia đá chặn lại rốt cuộc là loại quái vật gì. Cả hội xem tiếp thì thấy phía chân bức phù điêu khắc thần đạo và cung điện, trong bức tranh dài này có vẽ cảnh tượng nô lệ bị bắt làm tế phẩm, đi theo hoa văn vân rắn trên mặt đất, xuyên qua động đạo và bị dị thần ăn thịt ở nơi tận cùng của miếu thần.

Hội Tư Mã Khôi thấy trong thạch thất không có phát hiện gì đáng giá nữa, nên quyết định trước tiên cứ đi theo manh mối này để tìm đường ra. Tư Mã Khôi đổi lại súng cho Thắng Hương Lân, sau đó quay trở lại động đạo, nhổ sạch đám rong rêu bám trên mặt đất, tìm kiếm những viên gạch có vẽ hoa văn rắn, rồi tiến về phía trước. Họ đi mãi đến khi cây đuốc cháy hết, thì phía trước hiện ra một con đường cắt ngang, địa hình khúc khuỷu, sâu hun hút, không gian bỗng chốc trở nên khoáng đạt, chẳng khác nào một bình rượu đặt nằm ngang, sau khi đi xuyên qua phần cổ chai chật hẹp, trước mặt họ bây giờ hiện ra một hố động khổng lồ, đen ngòm và rộng vô bờ bến. 

hoatanhoano.wordpress.com

Lúc này, đuốc cháy đến đoạn cuối cùng và tắt rụi, ánh sáng còn lại vô cùng ảm đạm, Tư Mã Khôi đi đằng trước không nhìn rõ địa thế, chân vừa giẫm xuống một cái, suýt nữa thì ngã nhào xuống động sâu, may nhờ Cao Tư Dương đứng đằng sau giơ tay túm lấy ba lô giữ lại, trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng đá vụn bị giẫm phải rơi xuống rào rào.

Tư Mã Khôi thấy đã ra khỏi được động đạo, nhưng vẫn chưa dám yên tâm, thời gian đang không ngừng trôi về phía trước, điều đó chứng tỏ cung điện dưới lòng đất thờ các vị thần cổ xưa cũng đang bị lún vào kẽ hở thời gian, may mà cuộn thuốc nổ đã bị vô hiệu hóa, nên bất kể họ dùng cách nào cũng không thể phá hủy nguyên trạng của tấm bia đá được nữa. Tư Mã Khôi nghĩ đã đến nước này, thì trừ phi chẳng may bị chết, còn nếu không anh phải xem bằng được thứ trong động không đáy rốt cuộc là gì. Anh dập cây đuốc cuối cùng, cùng ba người còn lại bật đèn quặng lên, kéo Nhị Học Sinh tụt xuống vách đá dốc dựng đứng, trượt khoảng mười mấy mét thì địa thế bắt đầu bằng phẳng dần.

Trên mình bốn người đều mang theo súng và dao săn, mấy bình nước đeo bên mình đập vào vách phát ra tiếng “coong coong”, âm thanh sắc lạnh, không giống tiếng phát ra khi đập vào đá, mà giống như cả hội đang đứng trên một khối sắt khổng lồ.

Hải ngọng bị ngã, đau khắp mình mẩy. Anh thò tay sờ mặt đất, cảm giác bề mặt nhẵn thín và bằng phẳng, không những vậy xúc giác từ tay cảm nhận thấy sự cứng chắc, lanh lẽo, dày dặn và mịn màng cho thấy phía dưới chân họ không phải một phiến đá thông thường, anh buột miệng chửi đổng: “ Mụ nội nó, chỗ này giống như đáy của cái nồi khổng lồ, không ngờ toàn sắt là sắt!”

Hồi thứ sáu

LỚP VỎ NGOÀI

Không gian dưới hố động như một thế giới hoàn toàn khác biệt, bốn phía tối đen như mực, yên ắng không một tiếng động, sự cô tịch tưởng như kéo dài. Sa chân vào cảnh ngộ này, lòng ai nấy đều bất giác dội lên cảm giác rùng rợn, hãi hùng tột độ, thấy cõi này sao bao la rộng lớn mà bản thân thì quá bé nhỏ, không thể nghĩ ra nổi vì sao đáy động lại là lớp vỏ sắt khổng lồ.

Tư Mã Khôi lấy ngón tay gõ lên mặt đất, anh phát hiện lớp vỏ sắt này dày không thể tưởng tượng nổi, hơn nữa nó lại là sắt nguyên khối, khối lượng riêng cũng lớn khác thường, chỉ e một cục to bằng nắm tay cũng phải nặng đến cả trăm cân. Trong động khắp nơi đều ẩm thấp, âm u, nhưng chất sắt này vẫn đen sì sì, không hề xuất hiện vết tích han gỉ.

Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Đáy động là hố quặng sắt hả Khôi?”

Tư Mã Khôi lắc đầu, chưa bao giờ anh thấy loại sắt nào rắn chừng ấy, cho dù đạn ghém cỡ tám của khẩu súng săn gấu hai nòng bắn vào, e là cũng chẳng thể để lại một vết lõm nông, tuy người Bái Xà cổ đại rất giỏi đào huyệt động, nhưng chắc chắn họ cũng không thể nào đào lên được lớp vỏ sắt to đến thế.

Hải ngọng soi đèn quặng ra xa, thì thấy mặt đất bằng phẳng, kéo dài tít tắp đến vô tận, đỉnh động cong cong, có chiều hơi chúi xuống, được bao phủ bởi một mành sắt – loại sắt giống với phần đáy, bề mặt phân bố các lỗ dày chi chít, đường kính lỗ rộng nhất chừng hơn một mét, lỗ hẹp nhất chỉ tầm hai đốt ngón tay, các lỗ thưa thớt không đều nhau, lộn xộn chẳng theo quy luật nào, nhưng tất thảy đều nhẵn bóng và bằng phẳng, có lẽ toàn bộ đáy động được bao bọc bởi một khối sắt trọn vẹn như thế, thực không biết nó còn che phủ bao nhiêu cây số nữa? 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi nghe người ta nói, biển nóng ở tâm Trái đất toàn là sắt nóng chảy, anh đoán lớp vỏ sẳt khổng lồ bao phủ cả nơi tận cùng của mạch đất chính là sắt nóng chảy đông kết lại tạo nên, chỉ có khả năng biến hóa vô cùng vô tận của đất trời mới có thể tạo ra kiệt tác xứng danh kỳ tích này.

Thắng Hương Lân đồng ý với suy luận của Tư Mã Khôi, có điều những lỗ hình tròn to nhỏ khác nhau trên vỏ sắt thì không hiểu từ đâu mà có, soi đèn quặng vào trong thấy tối om, sâu hun hút, lỡ không may sa chân xuống, nhẹ thì đứt gân gãy xương, nặng thì không thể thoát thân ra nổi, nhưng có vẻ nó không giống cạm bẫy trên đường, hơn nữa vì khả năng có hạn, người Bái Xà cổ đại không thể đục khoét được những lỗ to như vậy trên khối vỏ sắt khổng lồ được.

Hải ngọng nói: “Trong động chẳng phải có thứ bị tấm bia đá nhốt lại sao? Lẽ nào đó là dấu vết nó để lại khi hoạt động? Mà ngẫm lại, mẹ nó chứ vẫn chả hiểu nó rốt cuộc là món đồ chơi gì?”

Tư Mã Khôi nói: “Thì thứ bị tấm bia đá chặn lại một vị thần thánh cổ xưa nào đó mà người Bái Xà thờ phụng còn gì, nhưng dung mạo và tên của nó đã bị họ xóa mất rồi. Giờ chúng ta không thể đoán nổi mặt mũi thật sự của nó. Thực ra chuyện thần quỷ chỉ là hư vô, nếu nói cái thứ có hình dáng diện mạo kia là thần, chi bằng bảo nó là con quái vật vượt ngoài phạm trù hiểu biết của người Bái Xà cổ đại có khi còn đúng hơn. Chính vì ở tận cùng địa mạch có khối vỏ sắt to chừng này, nên nó mới bị tấm bia đá chặn lại không cho thoát ra ngoài, có thể nếu đi tiếp vào sâu hơn, chúng ta sẽ tậu mắt nhìn thấy hình dạng thật sự của nó; còn về các lỗ thủng trên mặt đất có phải dấu tích nó để lại khi di chuyển hay không thì bây giờ rất khó phán đoán”.

Lúc trước, cả hội quay đi quay lại mấy vòng trong động đạo phía sau tấm bia đá nhưng vẫn không tìm thấy lối ra. Thế mà sau khi Tư Mã Khôi ngắt bỏ dây dẫn nổ, cả hội lại vào được trong hố động khổng lồ bị vỏ sắt bao phủ xung quanh, chuyện này ắt có lý do, bây giờ Tư Mã Khôi cũng không thể phân biệt việc khép mở của kẽ hở thời gian, chính vì vậy, cả hội cũng không dám mạo hiểm xông lên phía trước, họ đành tìm kiếm lần mò ở quanh đó. Họ nhìn thấy một số bộ khung xương thú khổng lồ thời tiền sử vương vãi trên mặt đất, xương cốt đã hóa thạch từ hàng vạn năm trước, trông nhấp nhô như dãy núi dài triền miên, xương sống hình rắn từ trên dốc thả ngoằn ngoèo xuống phía dưới. Dọc đường từ đáy động thông vào nơi sâu toàn là tượng thú đá nằm đổ nghiêng xiêu vẹo, diện mạo trông lờ mờ, quái dị và đáng sợ, Tư Mã Khôi đoán có lẽ đây là thần đạo, cả hội đang định tiếp tục đi sâu vào trong.

Lúc này, Nhị Học Sinh tỉnh khỏi cơn hôn mê, mắt nhắm mắt mở nhìn trái nhìn phải, đột nhiên sắc mặt hắn lập tức biến đổi, hắn quay người định trốn về động đạo, nhưng bị Hải ngọng lấy báng súng vạng mạnh vào sau gáy, hắn chỉ kịp kêu “ối” một tiếng, rồi lại ngã lăn ra đất ngất xỉu.

Tư Mã Khôi thấy trên vẻ tuyệt vọng trên mặt Nhị Học Sinh giống hệt khi hắn nhìn thấy gian thạch thất, anh biết lúc nãy mình đã đoán nhầm, không phải gã này sợ gian thạch thất, mà là hắn sợ đội khảo cổ sẽ thoát ra khỏi động đạo theo manh mối tìm thấy trong gian thạch thất, vì sao hắn không dám bước chân vào nơi này? Phải chăng hắn cố tình làm rối trí bọn ta, hay còn có nguyên nhân nào khác? Có câu “âm dương khó đoán chính là ma, huyền thâm khôn cùng chính là thần”. Bây giờ cảnh ngộ mà cả hội gặp trong động không đáy quả rất ứng với câu nói này, để một kẻ không phải người cũng chẳng phải ma đi cùng mình, sớm muộn gì cũng rước họa vào thân, ngặt nỗi hiện tại Tư Mã Khôi cũng chưa nghĩ ra cách gì thoát khỏi hắn, nên đành đánh ngất hắn rồi tha theo cùng, cái này gọi là “biết rõ không phải bạn, nhưng lúc cấp bách vẫn phải đồng hành”.

Bốn người kéo Nhị Học Sinh mềm oặt như con chó chết trèo vào thần đạo, đứng ở nơi cao trên xương sống sinh vật cổ nhìn về phía trước, họ thấy ở điểm tận cùng của con đường có ánh đèn sáng mờ mờ, hình như đó là một tòa cung điện nguy nga, hai bên ngổn ngang thú đá và thạch thất đã bị sụp đổ, có thể thấy thời xưa đây là một tòa cung điện cổ dưới lòng đất với quy mô vô cùng bề thế và không khí uy nghiêm, hùng tráng. Điều kỳ lạ là tuy tầm nhìn xung quanh được nâng lên khá nhiều, nhưng cự ly chiếu sáng của đèn quặng cũng chỉ tỏa được chưa đầy hai mươi mét, căng mắt lắm cũng chỉ nhìn thấy vách động dựng đứng trên đỉnh đầu, thế mà không hiểu vì sao cả hội lại có thể nhìn ánh lửa đèn âm u từ tận đằng xa của thần đạo. Ngoài ra, người Bái Xà vốn không quen dùng lửa, trong lịch sử, họ chưa bao giờ phát minh cũng như sử dụng bất kỳ dụng cụ chiếu sáng nào, vậy tại sao trong huyệt động dưới cửu tuyền cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài lại có nến trường minh không bao giờ tắt?

Mọi người vừa ngạc nhiên vừa hoài nghi, có điều sự việc đã đến nước này thì đương nhiên chỉ tiến chứ không thể lùi, điều đáng ngại lúc này là lương thực và đạn dược cả nhóm mang theo gần như đã cạn kiệt, trong ba lô chỉ còn ít pin đèn và lương khô, ngoài ra không còn thứ gì khác, đuốc cũng chỉ còn lại một cây cuối cùng, trên người họ giờ nhẹ tênh, nhưng lòng lại hoang mang, trĩu nặng. 

hoatanhoano.wordpress.com

Hải ngọng sờ đạn trong bao, mới phát hiện chỉ còn bốn viên đạn ghém cỡ tám của khẩu súng săn gấu Canada, tính cả hai viên đang nằm trong ổ, mới có sáu viên, đạn sắp hết làm lòng can đảm của anh cũng giảm sút trông thấy, thêm vào đó đường đi toàn hố vũng gập ghềnh, anh không thể kéo Nhị Học Sinh di chuyển như lúc trước được nữa, mà đành phải cõng hắn lên lưng. Tuy gã này gầy nhom chỉ toàn da bọc xương, nhưng anh còn phải cõng cả đèn hỏa diệm nhiệt độ cao trên lưng, nên oằn người khó nhấc chân nổi.

Chiếc đèn hỏa diệm nhiệt độ cao này tuy uy lực rất lớn nhưng lại đang bị hỏng, chẳng hiểu chạm mạch ra sao mà sửa mãi vẫn lúc lành lúc què, có điều cả hội không nỡ vứt thứ vũ khí hiện đại này đi, nên bàn đi tính lại, họ đành để Cao Tư Dương cõng thay Hải ngọng.

Bốn người nhanh chóng chỉnh đốn xong xuôi, men theo xương sống hóa thạch của sinh vật tiền sử bước thấp bước cao vất vả tiến về phía trước. Huyệt động này giống như một đường nứt ngang trong vỏ sắt, trông cục bộ thì có vẻ bằng phẳng, nhưng địa hình của tổng thể thì gập ghềnh khúc khuỷu, chỗ hẹp nhất thậm chí có thể với tay tới vách động trên đỉnh đầu. Mới đi được chưa tới chục bước, Tư Mã Khôi đột nhiên lấy tay ra hiệu cho mọi người dừng lại, anh ngẩng đầu soi đèn quặng lên đỉnh động.

Cao Tư Dương thấy vậy liền hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Thắng Hương Lân ra hiệu im lặng: “Hình như trong vỏ sắt có động tĩnh…”

Hải ngọng vội vàng vứt Nhị Học Sinh xuống đất, giương súng săn lên, cảnh giác nhin phía trên, anh thấy ở nơi sâu trong vách động có tiếng sột soạt rất nhỏ vọng đến.

Mọi người lần theo âm thanh, điều chỉnh chùm sáng đèn quặng, soi vào một lỗ thủng trên đỉnh động, trong mớ âm thanh sột sà sột soạt đó, cả hội thấy hai con mắt gắn trên đỉnh hai cái xúc tu đang thò vào trong lỗ thủng, phía sau là một cơ thể trơn nhẫy dấp dính dài chừng nửa mét. Tư Mã Khôi từng nhìn thấy hình ảnh của sinh vật này trong cuốn cổ tịch biệt bảo ở biển cát, nom nó chẳng khác gì con ốc sên khổng lồ không có vỏ, tương tự như loài sên trần chuyên ăn kim loại mà cổ tịch nhắc đến, thì ra các lỗ thủng trên vách động đều do con sên này nhả dịch nhớt làm hoen gỉ rồi gặm nhấm mục ruỗng dần mà ra. Anh biết sên trần gặm kim loại là loài dị chủng, hễ bị nó bám phải thì không dễ thoát thân, thế là anh lập tức gọi mọi người nhanh chóng rời khỏi thông đạo. Bốn người loạng choạng chạy một hồi, cuối cùng, họ cũng thấy ánh đèn lập lòe như đốm lửa ma trơi ở đằng xa dần dần trở nên rõ ràng hơn, nơi sâu nhất của huyệt động là một tòa nhà màu xanh lục.

Tòa đại điện này nằm trong một ngọn núi đá, ngọn núi đá này lại lún vào nơi sâu của vỏ thép khổng lồ, trong lòng núi người ta đục rất nhiều gian phòng lớn nhỏ, trên vách bám đầy lớp rêu màu xanh sẫm, các hình vẽ thần quỷ khắc xung quanh đều bị thảm rêu che phủ. Phía vách ngoài, cứ cách nửa thước lại đục một khám động nhỏ, bên trong đặt một chiếc đèn bệ đá, số lượng không dưới trăm ngàn cái, chúng tỏa ra thứ ánh sáng mờ tối, khiến người ta cảm thấy âm u, đè nén hơn.

Hội Tư Mã Khôi liều mạng chạy như bay lại gần, anh mệt đến nỗi không thở ra hơi. Mọi người nhìn thấy cửa núi dưới cung điện cổ được mở rộng, hành lang phía trong ngoằn ngoèo, sâu hút, hai bên toàn khắc tượng mặt người vô hồn, thì lòng không khỏi bật ra suy nghĩ: “Người Bái Xà cổ đại không quen dùng lửa, hai mắt họ có thể nhìn thấy mọi vật dưới lòng đất tối om, vậy vì sao trong cung điện mịt mù ma khí này đèn đuốc lại sáng trưng?”, nghĩ đến đây, ai nấy đều bất giác bước chậm lại.

Lúc này, từng cơn chấn động từ đâu bỗng truyền đến, rồi một con sên trần khổng lồ mình vằn vện đỏ au đang bò từ đáy động lên thần đạo, nó há ngoác cái miệng nhầy nhụa, lộ ra vô số chiếc răng nhọn hoắt, ào ào như vũ bão trườn tới phía sau lưng mọi người.

Tư Mã Khôi nhớ trong cuốn cổ tịch biệt bảo có nhắc đến tông tích của loài sên trần gặm kim loại, chúng thường xuất hiện ở Tây Vực. Năm đó, một vị quốc vương Ba Tư đúc thành đồng dưới lòng đất để giấu vàng, ba năm sau ngài cho mở địa khố, phát hiện núi vàng chất cao ngất ngưởng bỗng không cánh mà bay, hóa ra nguyên nhân là do địa khố đó thông với mạch quặng, vàng bị bọn sên trần gặm sạch bách. Loài sinh vật này không chỉ gặm sắt, nhấm vàng, mà chúng còn ăn vật sống có máu có thịt, từng gây ra hiểm họa một thời cho Tây Vực, hậu thế không nhìn thấy loài sinh vật nguy hiểm ấy nữa, chỉ nghe đồn con nào thân mình có vằn đỏ thì là sên chúa, con đang tấn công phía sau lưng mọi người có khả năng chính là sên chúa. Thấy bị tấn công đột ngột, mọi người đành quay người lại rút súng ra bắn trả.

Hải ngọng một tay giương khẩu súng săn kề lên vai, bóp cò, nhưng đạn ghém bắn trúng người con sên chúa cũng chỉ làm nó giảm tốc độ chậm lại một chút, trên mình thêm vài lỗ thủng chảy nước đen, rồi nó lại lảo đảo trườn đến chỗ mọi người.

Cao Tư Dương định lấy đuốc xua kẻ địch, nhưng cô lại lỡ tay làm rơi, không biết bao nhiêu con sên trần lớn nhỏ dưới đáy động ngọ nguậy bò lên bao vây tứ phía, nhìn chúng mà da đầu cả hội ớn lạnh.

Trong chớp mắt, đàn sên trần đã vây kín bốn người đén nỗi không còn đường rút lui, hội Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, nếu cứ tiếp diễn như vậy, nói không chừng họ chưa kịp rút vào địa cung thì đã bị lũ sên trần này nuốt chửng.

Hải ngọng ném Nhị Học Sinh xuống đất, định bắn chết hắn để thời gian quay ngược về điểm mười một giờ đúng trong động đạo, dẫu phải bắt đầu lại từ đầu cũng còn tốt hơn bó tay chịu chết ở đây.

Chẳng ngờ, Nhị Học Sinh bị quăng mạnh xuống đất, chợt tỉnh khỏi cơn hôn mê, thấy lũ sên xung quay đang bao vây bốn phía, hắn sợ quá co giò bỏ chạy. Hải ngọng đứng đăng sau giương súng bắn một phát vào lưng, cả cơ thể hắn giật tung lên như chiếc lá bị gió cuốn, rồi lăn vào cánh cửa đá đang rộng mở của tòa thạch điện. Nhưng lạ thay sau đó, lửa đèn trên khắp các vách tường vẫn sáng trưng, thời gian cũng không hề quay ngược trở lại.

Mọi người thầm kinh sợ, chẳng lẽ thời gian cả hội đang trải qua lúc này là thời gian thực tế sao? Hay chỉ khi Nhị Học Sinh chết ở trong động đạo thì thời gian mới quay ngược?

Hoàn cảnh giờ đây đúng là ngàn cân treo sợi tóc, trong cái khó Thắng Hương Lân chợt ló cái khôn, cô dốc nửa hộp dầu hỏa còn sót lại ra mặt đất và châm lửa. Lũ sên trần quen sống trong môi trường tối tăm, ẩm ướt, nên vừa gặp ánh lửa, chúng vội vàng co cụm lại. Nhân cơ hội này, bốn người xông lên phía trước, chạy trốn vào trong động đá, hợp lực đẩy cánh cửa khép lại. Đèn nến phía trong và phía ngoài tòa địa cung cổ đại thắp sáng trưng, nên bọn sên trần không dám lại gần, chúng tản ra bốn phía, rồi chui vào các lỗ trong vách động, thoáng chốc đã mất tăm mất dạng.

Bốn người chạy như bay vào trong thạch điện, không kịp để hơi thở điều hòa trở lại đã vội vàng nạp đạn đẩy ổ, đồng thời soi đèn quặng thăm dò phía trước. Họ phát hiện ngực Nhị Học Sinh bị đạn xuyên thủng một lỗ to, mất mở trừng trừng, miệng há hốc, nằm rạp trên mặt đất, hắn ngừng thở và chết cứng từ bao giờ.

Hồi thứ bảy

VẾT LÕM

Tư Mã Khôi đoán, khe đất sâu hút không nhìn thấy đáy là đường nứt do biến động địa chất từ nghìn tỷ năm trước để lại, dòng sắt nóng chảy ở biển nóng nơi tâm Trái đất gặp lạnh liên kết tụ thành lớp vỏ. Sau đó có mấy ngọn núi đá và vài loài sinh vật bò sát tiền sử đã tuyệt chủng từ lâu bị rơi vào đây trong một kiếp nạn long trời lở đất nào đó. Mấy ngọn núi đá chính là đại điện thờ phụng dị thần. Đội khảo cổ thâm nhập lối vào bị tấm bia đá Bái Xà chặn trước cửa, men theo từng cỗ di hài các con thú khổng lồ thời tiền sử và tìm thấy ngọn núi đá ở nơi sâu nhất. Thực tế, cả hội vẫn chưa hề rời khỏi hắc động dưới lòng đất, nhưng Nhị Học Sinh đã bị khẩu súng săn hai nòng bắn trúng, mà thời gian không hề quay trở về thời điểm mười một giờ đúng.

Tư Mã Khôi lại gần quan sát thi thể Nhị Học Sinh, anh nghĩ thầm: “Chẳng lẽ bọn ta đã vô tình thoát ra khỏi kẽ hở thời gian mà không hề hay biết gì ư? Mọi vật trong động không đáy sẽ không trở về trạng thái ban đầu theo sự quay ngược của thời gian nữa chứ?”

Bốn người cảm thấy mờ mịt như thể họ đang đứng giữa màn sương mù, không thể xác định nổi điều gì vừa xảy ra, càng không thể tưởng tượng được điều gì sắp xảy ra, có điều gian điện đèn đuốc sáng trưng từ trong ra ngoài này đích xác là nơi mà người Bái Xà cổ đại thờ phụng dị thần, không những vậy, nó còn được bảo tồn vô cùng nguyên vẹn, nói không chừng cả hội lại tìm thấy một vài manh mối ở trong này cũng nên.

Hành lang trong núi đá vừa sâu vừa rộng, gian thanh điện to lớn, hoành tráng, dáng vẻ cổ xưa, những tượng đá ở đây đều cao gấp đôi người bình thường. Ngoại trừ những ngọn đèn âm u mờ tối trên tường, thì trong này còn có rất nhiều bích họa với nội dung vô cùng kỳ quái, phần đa miêu tả cảnh tượng đáng sợ ma quỷ ăn thịt người, vì ánh nến chỉ phát ánh sáng mờ ảo nên phải có ánh sáng đèn quặng trợ giúp cả hội mới nhìn thấy rõ, khung cảnh này càng làm mọi người cảm thấy rùng mình bất an. 

hoatanhoano.wordpress.com

Hội Tư Mã Khôi không tin trên đời tồn tại thần tiên, hay chí ít thần tiên cũng không thể là loại quái vật mà người Bái Xà cổ đại từng thờ phụng, cúng tế. Con quái vật bị tấm bia đá chặn lại chắc chắn là sinh vật sống có hình dáng, da thịt; không chừng nơi sâu trong đại điện vẫn còn lưu giữ một vài hình vẽ hay tượng đá về nó, có lẽ đó chính là sự mô tả trực quan nhất của người Bái Xà cổ đại về con quái vật này.

Thắng Hương Lân thì thầm với Tư Mã Khôi: “Vách đá ở thần điện màu xanh rêu, mùi tử khí ở sâu bên trong tỏa ra rất nặng nề, trông nó chẳng khác nào một nấm mồ màu xanh!”

Tư Mã Khôi gật đầu: “Có lẽ thứ bị tấm bia đá nhốt trong động có gương mặt giống như gương mặt của Nấm mồ xanh, thậm chí nó chính là Nấm mồ xanh, dù gì thì gương mặt của nó chính là điểm then chốt giải đáp mọi ẩn số”.

Cả hội bàn bạc mấy câu, rồi đi xuyên qua hành lang, vào trong đại điện, họ thấy trên vách đá vẽ một vị thần đang tạo ra vạn vật từ hỗn độn, nhưng cụ thể bức họa vẽ gì thì rất khó phân biệt. Trong điện trống hoác không có bất cứ vật gì, trên mặt đất là một hố dài bị lún sâu xuống, cả hội dùng đèn quặng soi vào trong thì thấy nó khá vuông vức, nhưng nơi này mờ tối nên khi đứng từ trên cao, họ chẳng thể nhìn thấy phía dưới có gì.

Tư Mã Khôi bảo ba người bạn đồng hành đứng yên tại chỗ, còn mình vác súng, chiếu ánh đèn quặng rồi tụt xuống dưới dò đường. Anh bò theo vách tường dựng đứng, khi hai chân chạm đất, anh giơ tay xua màn sương khí vấn vít quanh mình, thì thấy tứ phía đều có các vách đá khắc hình thần quỷ yêu ma, ở giữa là một bệ đá bằng phẳng, trông giống như một chiếc giường đá, nó cao chừng nửa mét, bên trong lõm xuống theo hình cơ thể người, vừa vặn đủ cho một người vào trong ngửa mặt nằm thẳng.

Tư Mã Khôi thấy nơi lạ lùng này trông khá quen thuộc, bản thân anh cũng không thể giải thích nổi vì sao mình có cảm giác như vậy. Anh thấy ở đây không còn điểm gì khác thường bèn bò ngược lên miệng động, định gọi hội Thắng Hương Lân xuống theo, nhưng vừa lên anh đã thấy cả ba người họ đều căng thẳng dính mắt về hướng cửa điện, súng trong tay cũng chĩa thẳng về phía đó, anh lập tức khom người, nhỏ giọng hỏi thăm tình hình. Cao Tư Dương chỉ ra hành lang, lắp bắp: “Anh nghe mà xem… phía đó có tiếng bước chân…”

Tư Mã Khôi lặng người, thầm nghĩ: “Ở hướng đó ngoài cỗ thi thể của Nhị Học Sinh vừa bị súng săn gấu của Hải Ngọng bắn thủng ra, thì làm gì còn thứ gì khác nữa, lẽ nào thứ giống tá thi hoàn hồn đó lại sống dậy?”

Mọi người cố nín thở, chờ đợi một hồi, tuy nhiên ngoài điện lại không còn động tĩnh gì nữa, chỉ có ánh nến âm u, bập bùng như ánh lửa ma trơi đang lập lòe bất định.

Hải ngọng bấm đốt ngón tay tính nhẩm một hồi, anh không nhớ mình từng bắn Nhị Học Sinh mấy lần, có điều đạn ghém số tám chỉ còn lại bốn viên, nơi này tà mị quá sức chịu đựng, nhưng giờ không phải lúc tự mình nhát ma mình.

Cao Tư Dương lo lắng: “Mọi người đều nghe thấy tiếng bước chân, không thể là ảo giác được!”

Thắng Hương Lân nhắc nhở: “Mọi chuyện cứ cẩn trọng thì hơn!”, rồi cô quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có phát hiện thấy thứ gì ở dưới đó không?”

Tư Mã Khôi đáp: “Có thứ rất lạ, hay cô xuống nhìn thử xem thế nào!”

Cao Tư Dương lại tưởng Tư Mã Khôi định chia cả hội thành hai nhóm, liền vội vàng phản đối, bảo rằng nhiều người vững dạ hơn, cứ cùng nhau hành động là thượng sách.

Tư Mã Khôi cũng cảm thấy phân tán lực lượng đúng là dễ xảy ra chuyện, nên anh dẫn cả ba người trèo xuống đáy đại điện. Tới nơi, anh soi đèn quặng vào bệ đá, rồi bảo: “Tôi thấy cái này rất quen mắt, nhưng chưa nhớ ra đã gặp nó ở đâu”.

Hải ngọng bước lại gần, nheo mắt nhìn, nhưng chẳng thấy quen mắt chút nào, anh hỏi: “Người sống hai chân thì dễ tìm chứ tìm đâu ra ếch ba chân, tớ cũng thấy nó quen quen, phần máng lõm xuống trên bệ đá chẳng phải dùng đặt người nằm vào trong hay sao?”

Tư Mã Khôi bĩu môi: “Nói thừa! Vấn đề là nó dành cho người như thế nào nằm? Kẻ đó chúng ta từng nhìn thấy trước đây hay chưa?”

Thắng Hương Lân quan sát, ngẫm nghĩ hồi lâu, xung quanh bệ đá khắc rất nhiều hình vẽ mô tả cảnh tế lễ, trông nó hao hao giống một cái khám thờ thần, trên bốn bức tường của đại điện lần lượt vẽ các bức bích họa về thần, quỷ, người, ma, tượng trưng cho sự phân chia đẳng cấp mà người Bái Xà cổ đại tôn thờ. Hoa văn khắc xung quanh khám thần nhuốm cảm giác kính sợ đối với cái chết, nhưng đồng thời cũng mang theo chí hướng sinh tồn vô cùng mạnh mẽ, điều đó ám chỉ con người chết đi sẽ luân hồi sống lại, duy chỉ phần ở giữa là bị khuyết, không biết đó là một cỗ cổ thi hay một pho tượng thần? Giờ nó đã biến đi đâu? Và tại sao Tư Mã Khôi mới nhìn cảnh tượng này thôi đã thấy quen mắt?

Cao Tư Dương nhận xét: “Anh Khôi rất ít khi nhìn lầm, lẽ nào thứ mất tích trong khám thần lại chính là Nhị Học Sinh”.

Hải ngọng lắc đầu phủ định: “Khả năng này hoàn toàn không thể xảy ra, thằng oắt con đó người ngắn một mẩu. Kẻ có thể nằm trong bệ đá chí ít phải…”, nói rồi anh thử nằm luôn lên bệ.

Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng nằm trong bệ đá, hai đầu vẫn còn thừa chỗ, nhưng cơ thể cậu ta đô con nên chiều ngang của cái hố hơi hẹp. Lúc này anh mới để ý đến đặc trưng vô cùng nổi bật của khám thần, nó vừa dài lại vừa hẹp, nên anh trông mới quen mắt, trước đây đúng là mình từng nhìn thấy một thứ có thể đặt vừa trong khám thần, đó chính là cỗ di hài liệm trong quan tài bằng ngọc của Sở U Vương dưới biển Âm Dụ.

Cỗ di hài này không phải di hài thật, mà chỉ là các loại châu ngọc đá quý ghép lại. Nó được Thần Nông thị gá gỗ làm tổ nhặt được trên đảo cổ Âm Sơn, rồi lưu truyền mãi đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, thì rơi vào tay Vu Sở, Sở Vương coi đó là vũ khí bí mật và bảo vật quốc gia. Xem ra, cỗ di hài đó là do người Bái Xà cổ đại tạo nên để thờ phụng trong ngôi miếu thần nơi tận cùng địa mạch. Sau đó, không rõ vì duyên cớ gì, mà nó theo hóa thạch của ốc anh vũ, trôi nổi trên biển cõi âm, rồi bị núi từ dưới lòng đất hút chặt, cuối cùng mới được con người bất ngờ phát hiện. Tất cả những sự kiện này có lẽ đều xảy ra trước khi người Bái Xà dùng tấm bia đá bịt cửa động lại. 

hoatanhoano.wordpress.com

Tuy mọi chuyện xem ra đều hoàn toàn hợp tình hợp lý, nhưng vẫn khiến cả hội bất ngờ. Tư Mã Khôi đang định nhìn lại xem trong khám thần còn manh mối gì khác không, thì đột nhiên chút đất cát trên đỉnh đầu bỗng rơi xuống lạo xạo. Mọi người giật mình ngẩng đầu lên nhìn thì thấy một khuôn mặt trắng bệch, cứng đơ đang thò xuống, đó chính là gã Nhị Học Sinh vừa chết ở gần cửa điện, lỗ thủng bị súng săn bắn trên người hắn vẫn đang nhỏ máu ròng ròng, hai con mắt hắn nhìn chằm chằm vào Hải ngọng.

Dẫu bốn người đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để đón nhận mọi điều bất ngờ và khủng khiếp, nhưng đột nhiên thấy cảnh tượng này, cả hội đều bất giác dựng đứng tóc gáy. Họ thấy Nhị Học Sinh chẳng khác nào con ác ma đòi mạng đang bò vào thạch điện.

Hải ngọng hét to một tiếng: “Đến đúng lúc lắm!”, rồi giương khẩu súng săn hai nòng, ngắm thẳng vào sọ Nhị Học Sinh bóp cò, nào ngờ đối phương há ngoác mồm cắn vào họng súng, chỉ nghe đạn nổ “bụp” một tiếng nhỏ, rồi khói súng bốc ra từ miệng Nhị Học Sinh, nhưng đầu hắn thì vẫn lành lặn như chưa hề có gì xảy ra, không biết viên đạn ghém cỡ tám đã bắn đi phương nào.

Tư Mã Khôi thấy hắn mang tà ý, liền vội vàng kéo Hải ngọng lùi lại sau, rồi cùng hai người còn lại nhanh chóng lùi thêm mấy bước nữa, lưng dựa vào vách đá, họng súng và đèn chiếu nhất tề chĩa thẳng về phía Nhị Học Sinh, chỉ đợi đối phương lại gần là nhất loạt nổ súng.

Nhưng Nhị Học Sinh dường như không hề có ý định tiến lên phía trước, hắn bò rạp trên bờ đá, giương mắt nhìn bốn người, ánh mắt vô hồn, toát ra ma khí âm u, đột nhiên mắt hắn chảy máu, rồi cái miệng cứng đơ há ra, run rẩy rặn từng tiếng: “Sao… sao… các người… lại muốn bắn tôi?”

Hải ngọng rút dao săn ra, quát lên dọa dẫm: “Thằng chó! Mày mà dám lại gần nửa bước, ông sẽ xẻ thịt mày làm nhân bánh!”

Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đều cảm thấy gã Nhị Học Sinh kia quả là bám dai như đỉa đói, khổ nỗi hội anh lại không có cách nào đối phó lại được, nên đành lặng lẽ quan sát xem sẽ xảy ra biến cố gì, rồi đợi thời cơ hành động. Trong đại điện tĩnh mịch, âm u, cục diện giằng co căng thẳng làm không gian như muốn đông cứng lại.

Thắng Hương Lân thấy giờ đây đạn dược của cả hội gần như cạn kiệt, pin đèn còn lại cũng chỉ đủ duy trì trong một ngày, tình hình này càng kéo dài, thì đội khảo cổ càng gặp nhiều bất lợi, nghĩ vậy cô liền cất tiếng hỏi: “Sao anh cứ đi theo chúng tôi?”

Nhị Học Sinh thể hiện vẻ mặt vô cùng tuyệt vọng, hắn nói khi đội khảo cổ phát hiện ra thạch thất, hắn đã muốn cản trở không cho mọi người vào, bởi vì nếu đi theo manh mối vẽ trên bích họa trong thạch thất thì sẽ thoát ra được động đạo, tuy nhiên hậu quả của việc bước chân vào vùng cấm địa này còn đáng sợ hơn hội Tư Mã Khôi có thể tưởng tượng gấp nhiều lần, có điều mọi chuyện giờ đã quá muộn.

Hải ngọng điên tiết quát: “Mẹ mày, đừng tốn nước bọt nhát ma bọn tao, gian thạch thất đã mấy ngàn năm không có người bước vào. Làm sao mày biết bên trong có gì chứ?”

Nhị Học Sinh tự nhận bản thân mình giấu đội khảo cổ một số chuyện, có điều nhiều chuyện trong số đó mãi đến khi bước vào động không đáy hắn cũng mới được biết, tất cả đều do thứ bị tấm bia đá nhốt trong hắc động kể cho hắn nghe.

Mọi người nghe hắn nói vậy, bất giác nhớ đến truyền thuyết có liên quan đến xà nữ, giờ đây gã Nhị Học Sinh tá thi hoàn hồn này sau khi chết đi lại biến thành một cỗ máy điện đàm, thu nhận tín hiệu truyền đến từ hư vô. Không hiểu thứ bị tấm bia đá giam trong động nói với hắn những bí mật gì? Ngoài ra, vì sao thứ đó không trực tiếp lộ diện? Nó có quan hệ gì với cỗ di hài cổ xưa? Phải chăng lúc đầu Nấm mồ xanh đã đào tẩu khỏi lòng đất cùng cỗ di hài ấy?

Cao Tư Dương không kiềm chế được lòng hiếu kỳ cô lấy can đảm hỏi Nhị Học Sinh: “Anh biết thứ bị tấm bia đá nhốt trong động là gì ư? Vậy Nấm mồ xanh là ai?”

Nhị Học Sinh lắp bắp thanh minh, từ khi mình cùng đội thông tin gia nhập đội khảo cổ ở rừng rậm nguyên thủy Đại Thần Nông Giá, đến khi đi xuyên qua thủy thể mênh mông ở 30° vĩ Bắc và cả suốt chặng đường xuống cửu tuyền vào sinh ra tử, hắn chưa bao giờ sinh lòng hãm hại ai, chỉ có điều hắn có vài chuyện không dám tiết lộ với mọi người, bởi một khi nói ra thì hắn không còn đường quay đầu trở lại. Kỳ thực, lời Triệu Lão Biệt nói với đội khảo cổ không hề sai, đúng là Tư Mã Khôi đã tận mắt nhìn thấy khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh, nhưng chỉ kẻ nào đã chết mới nhìn thấy khuôn mặt ấy, bởi vậy thay vì cố nhớ xem anh đã từng gặp ai, thì chi bằng hãy nghĩ xem mình đã từng chết một lần vào khi nào? Chẳng lẽ anh không còn nhớ thật ư?

                                                        <strong style="color: #000000; line-height: 1.5em; text-align: center;">Hồi thứ tám

MÁY ĐIỆN ĐÀM

Tư Mã Khôi cho rằng gã Nhị Học Sinh trước mặt rất có khả năng chính là thứ đang bị tấm bia đá nhốt lại, lời hắn nói sao nổi, nhưng không hiểu sao anh lại phảng phất nỗi lo đó là sự thật, lẽ nào mình lại thực sự quên mất một chuyện quan trọng như vậy ư?

Nhị Học Sinh ấp úng nói một hồi, tinh thần mới dần ổn định trở lại. Hắn nói, hắn có chuyện luôn giấu đội khảo cổ, nhưng ngọn nguồn cụ thể của mọi việc thì hắn cũng chỉ mới hiểu rõ chân tơ kẽ tóc cách đây không lâu. Bắt đầu từ hoàn cảnh hắn phải xa quê và bị đẩy đến lâm trường Đại Thần Nông Giá vào cuối những năm sáu mươi. Rừng rậm nguyên sinh nơi đó cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, công việc chính của hắn là đốn gỗ chặt cây, cả ngày chỉ ăn đường nuốt rau, cơ thể thiếu dinh dưỡng trầm trọng nên chẳng bao lâu bị công việc đơn điệu và nặng nhọc quật ngã.

Vào những ngày nghỉ, công nhân trong lâm trường thường vào rừng hái nấm và săn thú hoang để cải thiện bữa ăn. Nếu hái được chút nấm rơm, linh chi, lại săn được đôi con gà rừng mà nấu canh thì coi như đó là những ngày lên tiên có điều công việc ở lâm trường luôn bận rộn, rất hiếm khi có cơ hội vào núi để chiều cái miệng.

Khi ấy, vì hiểu chút ít kỹ thuật, nên Nhị Học Sinh đã sửa được chiếc radio bán dẫn hiệu Xuân Phong duy nhất của lâm trường, nhờ đó cấp trên cũng thường nhắm một mắt mở một mắt bỏ qua cho hắn, nên cho dù hắn cùng dân bản địa vào núi săn bắn hoặc đến trạm thông tin trên ngọn núi chính của đỉnh Đại Thần Nông Giá để sửa chữa máy điện đàm, thì cũng đều được tính công như tham gia chặt gỗ.

Trong thời gian này, hắn phát hiện có gã chuyên hái thuốc, săn hươu tên là Dư Sơn Tử, mặt mũi nom quái dị chẳng khác nào loài vượn cổ trong rừng sâu, khắp người toát ra mùi tử khí, lúc nào cũng che kín khuôn mặt, hành tung lại vô cùng mờ ám, lén lút, gã ta thường lẻn vào căn nhà gỗ của công nhân lâm trường, thậm thà thậm hụt sờ sờ mó mó cái máy radio, miệng lẩm bẩm tự nói chuyện một mình. Ban đầu, Nhị Học Sinh cho rằng gã này đang nghe trộm đài địch, nhưng cái đài rách lẽ ra phải vứt vào thùng rác từ lâu này làm sao mà tiếp sóng được đài địch cơ chứ? Trong dải núi Đại Thần Nông Giá, ngay đến tín hiệu đài của quân mình nó còn lẹt xẹt nhiễu sóng, lúc có lúc không nữa là, mà dẫu bắt được sóng thì cũng chẳng thể nghe rõ nổi, chứ đừng nói là nghe đài địch phát sóng! Bởi vậy, hắn cũng không nghĩ nhiều đến chuyện này. Sau đó, Nhị Học Sinh lại phát hiện gã hái thuốc toàn lởn vởn xung quanh khu vực trạm thông tin, nhân lúc không có người chú ý là gã bắt đầu sờ mó máy điện đàm chuyên dùng cho việc cấp báo phòng cháy chữa cháy của khu.

Nhị Học Sinh biết chiếc máy điện đàm phòng cháy trong trạm thông tin là thiết bị mà bộ đội thải ra không dùng nữa, hôm nay nó có vấn đề, ngày mai thi hỏng hóc, gã hái thuốc lại cầm cái ống nghe của máy điện đàm lên nghe như thể nghe điện thoại, sự việc này đúng là vô cùng khó hiểu. Nhị Học Sinh nghĩ chắc chắn không phải gã Dư Sơn Tử tư thông với địch, cũng không phải gã bị ma nhập, mà có khi hắn mắc chứng đa nhân cách, chẳng hiểu gã tự mình lẩm bẩm điều gì với chính mình?

Nhưng người dân miền sơn cước ở Đại Thần Nông Giá thì không hiểu điều này, họ nghe thấy trong đài có tiếng nói, lại cho rằng trong chiếc “hộp đó” quả thực có các cô gái đang nói chuyện, một số người phát hiện Dư Sơn Tử lén lút sờ mó chiếc radio và máy điện đàm thì khăng khăng cho rằng gã là gián điệp của địch. Nhưng chẳng bao lâu sau, gã Dư Sơn Tử vào khe núi Yến Tử Ô vách dựng đứng để hái thuốc, thì bị con khỉ lông vàng gặm đứt sợi dây leo núi, gã rơi thẳng xuống khe sâu và mất tích, thế là từ đó không ai truy cứu tiếp chuyện này nữa. 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi nghe tái đây thì rất lấy làm kinh ngạc. Các thành viên trong tổ chức ngầm Nấm mồ xanh đều được gọi là một gian phòng, gã hái thuốc Dư Sơn Tử cũng coi là một gian phòng trong tổ chức. Hắn tự xưng mình kế thừa bức mật điện từ lão sư phụ làm thổ tặc, có điều cả đời gã chưa bao giờ rời khỏi núi sâu nên chẳng nhận được mấy mặt chữ, có lẽ trước đây gã cũng chưa nhìn thấy máy điện đàm bao giờ, thế mà gã có thể đơn độc liên lạc được với Nấm mồ xanh thì thật là chuyện bất bình thường. Dư Sơn Tử tự nói chuyện một mình với cái máy, phải chẳng hắn đang nói chuyện với ma? Vấn đề là con ma đó đang ở đâu?

Bất giác trong lòng Tư Mã Khôi dội lên cảm giác chẳng lành, nếu những căn phòng khác đều như vậy thì trong những kẻ may mắn sống sót đi tìm chiếc tiêm kích vận tải ở sơn cốc Miến Điện có lẽ cũng có “gian phòng” nào đó đang giấu mình giống như Lão Xà hái thuốc.

Nhị Học Sinh nói, lúc đó hắn cũng không biết nhiều về những chuyện liên quan đến Dư Sơn Tử, tuy lờ mờ cảm thấy gã hái thuốc không có khả năng thu sóng nghe đài địch, nhưng vì lời nói của hắn không có trọng lượng, nói ra chẳng đáng mấy lạng, nên hắn đành ngậm miệng làm thinh cho xong. Chẳng bao lâu sau, chính hắn cũng quên bẵng chuyện này. Mãi đến đầu xuân năm nay, hắn phát hiện mình mắc bệnh Khắc Sơn, hắn tuyệt vọng đến tột độ trước tiền đồ và số phận của mình, đến con ong cái kiến còn biết tiếc thương sinh mệnh, huống hồ là con người, nếu nói hắn không quan tâm đến bệnh tình của bản thân thì chắc chắn đó chỉ là lời nói dối, nhưng trong núi thiếu thuốc men, y cụ, ngay cả người bạn để tâm tình chia sẻ cũng không có, cứ nghĩ đến việc mình phải chết ở nơi rừng thiêng nước độc, vắng bước chân người, thi thể cũng chẳng thể trở về với cố hương, lòng hắn lại đau như cắt, nước mắt âm thầm tuôn rơi. Sau đó, hắn biết trong núi sâu ở Đại Thần Nông Giá có rất nhiều loại thảo dược quý hiếm, trong đó có loài hà thủ ô ngàn năm với hình dáng giống một đôi nam nữ dính liền vào nhau. Loại hà thủ ô này có công dụng vô cùng đặc biệt, có thể khiến người đang mắc bệnh nan y vô phương cứu chữa lập tức cải tử hoàn sinh. Không quản loại thảo dược này có công dụng thật hay không, hắn vẫn liều mạng trèo lên vách đá dựng đứng đi tìm, nhưng hà thủ ô ngàn năm đúng là ngàn năm mới gặp, đâu phải loại dễ tìm, ngay cả những tay hái thuốc lão luyện trong núi cũng rất hiếm khi có cơ duyên gặp được, huống hồ một kẻ ngoại đạo như hắn đương nhiên chỉ hoài công vô ích, ngay cả cái lá của hà thủ ô cũng chẳng thấy đâu, mà mấy lần suýt chút nữa thì bị ngã lộn cổ xuống khe sâu, làm mồi cho dã thú.

Một lần, hắn vô tình nghe thấy chuyện gã hái thuốc săn hươu Dư Sơn Tử từng tìm thấy hà thủ ô ngàn năm, nhưng không rõ gã ấy đã bán đi hay tự mình ăn hết, chỉ biết sau khi gã ta chết, chẳng ai tìm thấy nó trong nhà gã nữa. Năm đó, có tay thợ săn nhìn thấy Dư Sơn Tử ra đào mộ của sư phụ, sau khi bới một cái hố lớn, hắn lại lấp đất lại như cũ, chưa biết chừng gã giấu những thứ đáng giá xuống mộ làm vật bồi táng cho lão sư phụ thổ tặc của mình cũng nên. Thời gian trong lâm trường trôi đi chậm chạp, thêm vào đó núi cao, vua xa, nên lúc rảnh rỗi mọi người toàn ngồi tập trung một chỗ rồi đem những chuyện quái dị ra kể, ngày nào họ không đàm luận về những tin đồn này mới là điều bất bình thường. Kẻ nói thì cứ thao thao bất tuyệt, nước bọt bắn tứ tung, cứ như thể mình tận mắt chứng kiến không bằng, còn người nghe thì há hốc mồm lên hóng, có điều cứ nói xong nghe xong rồi thôi, chứ chẳng ai tin là thật.

Nhưng Nhị Học Sinh nghe được chuyện này thì lại ghi nhớ trong lòng, không thể nào quên được. Biết được mộ của lão thổ tặc ở bên bờ sông, nơi đó thường vắng người lai vãng, vì muốn cứu lấy mạng sống, Nhị Học Sinh bèn xin nghỉ một ngày, vác quốc xẻng và súng săn đi đào trộm mộ, ngôi mộ hoang còn không có cả tấm bia dựng lên, tìm mãi mới thấy. May cho Nhị Học Sinh là mộ đào khá nông, ngay cả quan tài cũng chẳng có, người chết được bó trong manh chiếu cói, vùi xuống lòng đất, dẫu mộ vùi đơn giản như vậy nhưng cũng đủ hành hạ Nhị Học Sinh suốt một ngày trời, mãi tới khi trời tối hẳn, hắn mới moi được hài cốt trong mộ ra.

Đêm sâu âm u, mây đen dày đặc, vắng ánh trăng sao, những dãy núi sừng sững vây quanh tứ phía giờ trở nên đen sì sì, chẳng nhìn rõ hình khối của nó nữa, Nhị Hoc Sinh nghe tiếng chim hoang bay lượn trên đầu và kêu xáo xác, hắn vã mồ hôi lạnh, toàn thân run lập cập, nhưng có câu “chẳng gì đáng sợ hơn cái chết”, xuất phát từ bản năng sinh tồn, hắn cố quên đi những lời đồn đại về cô hồn dạ quỷ, hồ ly tinh hay thi biến, hắn quỳ xuống đất dập đầu mấy cái, vái trước thi hài trong mộ, miệng lẩm bẩm dăm câu cho thêm vững dạ: “Xin lão sư phụ chớ trách tội quấy rầy giấc ngủ, âm gian lấy bảo, dương gian lấy nghĩa”, sau đó lẩy bẩy bò ra đất sờ khắp người thi thể một lượt, cuối cùng chỉ tìm thấy một thứ đen thùi lùi hao hao giống miếng thịt, được gói trong mấy tầng giấy dầu, vật đó bốc mùi hôi thối, chẳng rõ đó có phải hà thủ ô hay không, bên cạnh đó còn mấy trang giấy cuộn vào trong ống da. Nhị Học Sinh mở ra xem thì thấy ở đầu thư vẽ ký hiệu hình con quái xà, nét chữ viết trong thư cẩu thả, chi chít, bé tí như đàn kiến. Lúc ấy, hắn không có thời gian xem kỹ, cho rằng đó là bí kíp hái thuốc, nên vội vàng đút vào trong áo, lấp ngôi mộ lại như cũ, rồi mò mẫm trong bóng tối, vội vã trở về lâm trường.

Nhị Học Sinh tìm chốn không người, mở hai vật tìm thấy trong mộ quan sát tỉ mỉ một lượt, lúc đó hắn mới phát hiện ra bí mật của Nấm mồ xanh, thứ trông hao hao như hà thủ ô đó, càng nhìn lại càng giống miếng thịt trên cơ thể người chết.

Trong cổ tịch, người ta gọi miếng thịt trên mình cương thi là “muộn hương”, thứ trong mộ lão thổ tặc tương tự với vật này, nhưng nó không hề bị phân hủy, mà chỉ bốc ra mùi thối thum thủm quái đản của người chết. Mấy trang giấy mỏng là bức thư lão thổ tặc để lại cho gã đệ tử Dư Sơn Tử, đại khái nói:Từ thời kỳ Dân quốc, vị sư đã đi theo Nấm mồ xanh, muốn gia nhập tổ chức này, ngoại trừ được tuyển chọn ra, thì còn phải ăn thịt trên người Nấm mồ xanh, như vậy mới trở thành một thể với t chức, bởi vậy nên mỗi thành viên trong t chức mới được gọi là “gian phòng”. Sau này, Nấm m xanh sẽ tìm thấy thông đạo dẫn đến miếu thần. Ta đợi đến ngày ấy để được giải thoát khỏi sự trói buộc của kiếp sinh tử. Ngoại trừ miếng thịt cắt trực tiếp trên người Nấm mồ xanh ra, thì thịt của mỗi gian phòng sau khi đặt vào trong một gian phòng kể nhiệm, và sẽ bị phân hủy khi gian phòng đó chết đi. Ngặt nỗi kiếp này, vi sư chưa có được cơ duyên đó, đợi bao năm như vậy mà vẫn chưa đợi được đến ngày thái lai, nay số đã tận, nên ta móc miếng thịt báu trong bụng mình ra, để lại cho đệ tử và xem sau này đệ tử được tạo hóa ra sao.

Nhị Học Sinh đọc xong thư, lòng nghĩ ăn thứ này sẽ có cơ hội được trường sinh bất tử thật sao? Mà mình phải đi đâu mới tìm thấy Nấm mồ xanh? Tuy hắn cũng được học hành, nhưng tư tưởng mê tín vẫn chưa được thanh lọc tận gốc, lúc này không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào hắn nhắm mắt nhắm mũi ăn một miếng, chẳng ngờ chỗ bị hắn cắn mất nhanh chóng mọc lại như cũ. Hắn sợ hãi, may mà không ăn nhiều, hắn bèn lập tức tìm chỗ chôn miếng thịt người chết đi, sau đó đốt bức thư thành tro, bởi khi đó, tội đào trộm mộ nhẹ thì ngồi nhà đá, nặng thì ăn đạn. Từ đó trở đi, hắn không dám hé môi tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai. 

hoatanhoano.wordpress.com

Nhị Học Sinh tự phân tích nội tình, hắn đoán, năm đó có người nhìn thấy gã Dư Sơn Tử đào mộ, chính là lúc gã muốn tìm miếng thịt người chết trên mình lão thổ tặc, Dư Sơn Tử cũng không ăn hết miếng thịt người chết nên đem chôn đi, không lâu sau, miếng thịt lại tự động mọc ra như cũ, còn bức thư mà sư phụ để lại gã không hề động đến bởi vì gã không biết chữ. Trước đây, mọi người thường nhìn thấy gã hái thuốc Dư Sơn Tử lén lút sử dụng điện đàm, như thể đang tự nói chuyện một mình, chẳng lẽ là do miếng thịt người chết gã ăn vào người đang phát huy tác dụng? Nhị Học Sinh nghĩ đến đây, trong lòng bỗng thấy hối hận, nhưng dẫu có nôn cũng chẳng thể nôn ra nổi, càng nghĩ hắn lại càng sợ hãi, may mà sau đó không thấy có biểu hiện gì khác thường, chỉ là hàng đêm hắn hay nằm mơ thấy ác mộng mà thôi.

Mãi đến khi hắn theo tổ thông tin đi sửa máy điện đàm ở tháp canh, rồi gặp đội khảo cổ, sau đó chạm trán với gã hái thuốc trong căn nhà gỗ ở trạm thông tin, hắn mới biết quả thực có tồn tại tổ chức Nấm mồ xanh, hắn cho rằng mình còn cơ hội được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bởi vậy hắn mới không dám lên tiếng. Suốt dọc đường, hắn chỉ dựa vào ý chí mưu cầu sinh tồn mãnh liệt để gắng gượng trải qua mọi gian khổ, hắn muốn cùng đội khảo cổ đến miếu thần để tìm hiểu rõ mọi chuyện, mong tìm thấy bí mật trường sinh bất tử, kết quả rõ ràng hắn đã bị lừa, thực ra sự “trường sinh” đó chính là cái chết. Những người bước chân vào miếu thần sẽ sa xuống hắc động và trải qua vô vàn lần chết.

Hải ngọng cảm thấy rất bất ngờ, anh khen: “Thằng tiểu tử này được! Không ngờ ý chí, mẹ nó chứ, lại kiên cường thế vì mạng sống mà dám ăn cả thịt người chết ư?”

Tư Mã Khôi nghe Nhị Học Sinh kể một hồi, trong lòng anh cảm thấy bội phần bất an, anh từng nghe người ta nói, người ở cõi dương gian mà vào cõi âm, trên đường không được phép ăn bất cứ thứ gì của cõi âm, bởi vì nếu ăn những thứ ở cõi âm thì sẽ biến thành một phần của cõi âm, không bao giờ trở lại dương thế được nữa. Những thành viên gia nhập tổ chức buộc phải ăn thịt của Nấm mồ xanh, rồi trở thành một bộ phận của Nấm mồ xanh, và cũng chỉ những thành viên giống như con rối này mới có thể liên lạc được với Nấm mồ xanh thông qua một cỗ máy điện đàm không hề tồn tại ngoài đời thực, nhưng Nấm mồ xanh là ai? Chẳng lẽ hắn là một bộ phận của thứ bị nhốt trong động này sao?

Hồi thứ chín

MẤT TRÍ 99%

Nghe Nhị Học Sinh kể, Tư Mã Khôi cũng thấy bán tín bán nghi – ai ăn thịt Nấm mồ xanh, kẻ đó sẽ trở thành một phần của hắn? “Gian phòng” cũng được chia ra thành hai loại: “phòng có đánh số” và “phòng không đánh số”. Gian phòng được đánh số là những người trực tiếp ăn thịt người chết, sẵn sàng cảm tử vì Nấm mồ xanh, nhưng ngay cả những người này cũng không biết gì về lai lịch của hắn. Còn loại “phòng không được đánh số” là những người gián tiếp bị ăn thịt người chết, họ chẳng khác nào đang mang trong mình một mầm quỷ thai mà không hề hay biết, từ đó họ bị âm hồn nhập xác, rồi biến thành “gian phòng” một cách vô thức, những người này đến chết cũng không hiểu rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra với mình.

Căn cứ vào đó có thể suy đoán, khi cơn bão nhiệt đới đổ bộ vào Miến Điện, trong đội thám hiểm xâm nhập khe cốc núi Dã Nhân đi tìm chiếc tiêm kích vận tải, ít nhất phải có một “gian phòng” gián tiếp chịu sự khống chế của tổ chức Nấm mồ xanh lẩn vào hàng ngũ. Nếu là vậy, Tư Mã Khôi có thể dễ dàng giải thích được điều kỳ lạ xảy ra với máy thu âm và quả bom địa chấn khi ấy. Gian phòng ấy có thể chính là thủ lĩnh đội thám hiểm Ngọc Phi Yến, có điều giờ đây anh không còn cách nào truy cứu chân tướng sự việc được nữa.

Ba người còn lại nghe Nhị Học Sinh nói mà thấy như có cơn gió buốt lanh dội thẳng vào óc, ai nấy đều cố vắt óc nhớ xem mình có vô tình ăn phải thịt người chết bao giờ không.

Tư Mã Khôi ra hiệu bảo mọi người không cần lo lắng về chuyện ấy, Nấm mồ xanh không thể đi xuyên qua tấm bia đá để vào bên trong, thứ trong động lại không thể thoát ra được bên ngoài. Nghĩ đến đây anh chợt giật mình, hỏi Nhị Học Sinh vì sao hắn lại kể cho đội khảo cổ biết bí mật này?

Nhị Học Sinh nói, bây giờ thì chẳng ai có thể thoát ra khỏi gian đại điện này được nữa, câu chuyện vặt vãnh của hắn cũng đâu cần phải giấu giếm làm gì. Bởi từng ăn thịt người chết, nên giờ hắn giống như một cỗ máy điện đàm, có thể bắt được tín hiệu từ trong động không đáy, bởi vậy hắn mới hiểu hết toàn bộ bí mật.

Hắn nói, những chuyện mà đội khảo cổ đã trải qua bị quấn tròn giữa nguyên nhân và kết quả, nhưng có một đường thẳng có thể xâu chuỗi tất cả những ẩn số này, đó chính là cỗ di hài trong quan tài ngọc của Sở U Vương, trong đó Nấm mồ xanh, Triệu Lão Biệt, quốc vương Chăm Pa, tấm bia đá Bái Xà, đội khảo cổ và cả núi từ 30° vĩ Bắc đều là một mắt xích quan trọng trong vòng tuần hoàn không lối thoát này.

Tất cả nguyên nhân đều bắt nguồn từ phong tục thờ lưỡng thần của người Bái Xà cổ đại. Đầu tiên, người Bái Xà cổ đại tin rằng sau khi chết, họ sẽ được thần Vũ Xà dẫn đi, thi thể được đặt trong động không đáy, vì thế họ đã xây mấy tòa thạch điện ở đây, nhưng sau nhiều năm, người Bái Xà mới phát hiện trong động tồn tại một thứ vô cùng đáng sợ. Trên thực tế, những âm hồn của vô số người chết đều bị nó kéo vào cõi vạn kiếp không thể siêu sinh, chỉ trừ những người chết ra, còn lại không ai có thể nhìn thấy chân tướng của nó. Người Bái Xà cổ đại vừa tôn kính vừa khiếp sợ nó, coi nó là thần thánh và không ngừng tế lễ, còn cỗ di hài chính là một pho tượng thần được thờ phụng ở trong tòa đại điện này.

Cỗ di hài được tạo thành từ đá quặng và mã não ở nơi sâu nhất trong địa mạch. Giữa hộp sọ của cỗ di hài, người Bái Xà đặt một miếng thịt lấy ra từ cơ thể thứ đó, cỗ di hài trở thành vật tượng trưng cho chân thân của vị thần cổ xưa này. Nhưng vị thần cổ trong động không ngừng nổi lòng tham vô độ, càng ngày càng đòi ăn thịt người nhiều hơn, mãi đến khi người Bái Xà cổ đại bất ngờ nghe được bí mật vốn dĩ không nên tồn tại trên thế giới này từ miệng xà nữ, nhân cơ hội vị thần cổ cứ mỗi năm lại ngủ say một thời gian, họ bèn khắc lời nguyền chết chóc kia lên tấm bia đá.

Lúc đó, nội bộ tộc người Bái Xà chia ra làm hai phe, một phe do quá khiếp sợ dị thần nên họ ra sức ngăn chặn những người tin thờ thần Vũ Xà đặt tấm bia đá trước cửa động, nhưng sau đó nhóm này thất bại, bị tộc Bái Xà đối lập tàn sát giết hại, có điều cỗ di hài không ở trong động nữa mà lại bị mang ra thế giới bên ngoài. Sau đó, dưới lòng đất xảy ra nạn đại hồng thủy, cỗ dĩ hài cùng loài ốc anh vũ cổ đại trôi nổi trên dòng thủy thể mênh mang ở 30° vĩ Bắc, rồi bị hòn đảo cổ ở núi Âm Sơn hút chặt, ngọn núi từ đó có khả năng xóa sạch trí nhớ của bất kỳ sinh vật sống nào, bởi vậy miếng thịt nằm trong sọ cỗ di hài cũng dần dần quên hết những chuyện liên quan đến người Bái Xà cổ đại, cuối cùng cỗ di hài bất ngờ được con người trên mặt đất nhặt về, thời thế gìn giữ nó đến thời Xuân thu chiến quốc thì bị Sở U Vương niêm phong trong chiếc quan tài bằng ngọc khổng lồ có vẽ hình đầu lâu. 

hoatanhoano.wordpress.com

Hội Tư Mã Khôi phát hiện tình hình hiện tại có điểm bất thường, cả hội đang định đợi cơ hội để ra tay giải quyết Nhị Học Sinh, chẳng ngờ đối phương lại nói ra bao điều quan trọng như thế, dẫu bây giờ trời có sập xuống thì cả hội cũng quyết phải nghe cho được kết quả cuối cùng. Trước đây, hội anh cũng lờ mờ đoán được vài phần nội tình của chuỗi ẩn số, nhưng mãi đến lúc này thì mọi chuyện mới được liên kết thành một mạch thông suốt. Phải chăng Nấm mồ xanh chính là một miếng thịt của vị thần cổ nằm trong động? Vậy chẳng lẽ hắn vốn dĩ đã không có khuôn mặt sao? Tư Mã Khôi tự thấy mình quả thực chưa bao giờ gặp một người kỳ bí như thế, huống hồ chỉ những người đã chết mới có thể nhìn thấy dung nhan của hắn, nhưng lời của Triệu Lão Biệt thì phải giải thích thế nào? Tại sao “không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn”?

Nhị Học Sinh nói, người Bái Xà gây ra vụ đại hồng thủy, từ đó không thể chấn hưng lại nòi giống, những người còn sống sót đều trở thành nô lệ của vương triều nhà Hạ, họ bị Vũ Vương đẩy xuống lòng đất để đào long môn, dẫn nước lũ vào Vũ khư và trông coi đỉnh Vũ Vương trấn thủy ở trong địa mạch, những chuyện liên quan đến tấm bia đá của người Bái Xà dần dần đi vào quên lãng, tất cả chỉ còn là những truyền thuyết ly kỳ đến khó tin. Những hậu duệ còn sót lại của tộc người Bái Xà vẫn không ngừng đi tìm tấm bia đá, mãi đến khi họ chết hết, thì mọi bí mật về tấm bia đá cũng theo đó tiêu tan trong dòng chảy thời gian.

Miếng thịt người chết trong sọ cỗ di hài vốn có ký ức, nhưng nó đã bị núi từ xóa sạch đến chín mươi chín phần trăm. Vào thời Sở U Vương, nó bị một tên kiếm khách ăn trộm, hắn chỉ để lại cỗ di hài rỗng, bởi tên đó nhầm tưởng vật này là nhục chi ngàn năm trong lòng đất, nếu ăn vào sẽ trường sinh bất tử. Kết quả, sau khi ăn nó, hắn liền biến thành một phần của con quái vật, tự dưng nhận mình từ lòng đất chui lên, nhưng thông đạo ở đâu, thì không thể nhớ nổi, ngoại trừ ký hiệu hình con quái xà trong miếu thần ra, thì điều duy nhất hắn còn nhớ là huyệt động bị rêu phủ lên màu xanh thẫm.

Hắn chính là Nấm mồ xanh đời sớm nhất, chỉ có điều khi ấy người ta vẫn chưa gọi hắn bằng cái tên này. Miếng thịt không bao giờ bị tiêu hóa hay phân hủy trong bụng người sống, nhưng nó có thể ghi lại toàn bộ trí nhớ trong não của người ấy, đồng thời kẻ ăn nó cũng sẽ bị nó nuốt chửng, họ không thể trường sinh bất tử, nhưng toàn bộ trí nhớ sẽ được lưu giữ lại, rồi mang đến não của một người khác khi người đó ăn một miếng thịt trên thi thể họ. Bởi vậy, xét theo trường nghĩa nào đó, thì đúng là Nấm mồ xanh đã sống mấy ngàn năm rồi.

Nấm mồ xanh từng bước chiêu mộ các kỳ nhân dị sĩ khắp nơi về làm môn đồ dưới trướng mình, hắn tẩy não họ đi để họ tin rằng dưới lòng đất có cánh cửa khổng lồ thông đến thế giới vĩnh hằng, đồng thời tự cắt thịt trên người mình ra cho các môn đồ ăn, bằng cách này hắn có thể khống chế được các môn đò. Ký ức của miếng thịt được hắn cắt ra khỏi cơ thể sẽ nhập vào một thể với chủ thể người ăn miếng thịt đó, nhưng cùng lắm chỉ chuyển đến người thứ hai thì miếng thịt đó sẽ tự động phân hủy. Còn miếng thịt nằm trong bụng của Nấm mồ xanh, sau khi hắn chết đi sẽ do người kế nhiệm được chọn nuốt hết toàn bộ, và trở thành thủ lĩnh đời tiếp theo. Tổ chức kỳ bí và quái dị này lùng sục khắp nơi để tìm ra huyệt động thông xuống lòng đất, do hành tung của tổ chức này vô cùng bí ẩn nên rất ít người trên thế gian biết đến sự tồn tại của nó.

Do điều kiện thời cổ đại rất hạn chế, nên những huyệt động dưới lòng đất được tìm thấy đa phần đều không đủ sâu. Mãi đến thời kỳ cận đại, trước thềm thế chiến thứ hai, tổ chức này đã phát triển đến một quy mô nhất định, chúng chủ yếu mai phục ở dải Đông Nam Á, bởi hệ thống sông ngòi ở đây giao thoa phức tạp, khắp nơi phân bố toàn động đá vôi với địa mạo Karst đặc trưng, nhất là ở thành cổ Chăm Pa trong khe núi Dã Nhân, Miến Điện. Nghe nói, trong gian mật thất dưới thành cổ ghi chép vị trí của thông đạo và còn ẩn giấu vận may vô hạn trong khuôn mặt như thần Phật của quốc vương Chăm Pa, nhưng khe núi đó quanh năm bị sương mù dày đặc bao phủ, tầng sương mù đó là do thực vật dưới lòng đất trong tòa thành Nhện Vàng tạo ra, con người chỉ cần lại gần sẽ lập tức tử vong, duy loài rắn bay mới vào được trong sương. Thế là tổ chức ngầm liền lợi dụng một chiếc tiêm kích vận tải của không quân hoàng gia Anh, chở trái bom địa chấn chứa đầy chất độc màu da cam, lái vào trong khe núi Dã Nhân phủ kín sương mù, kết quả đội bay đó một đi không trở lại.

Tư Mã Khôi càng nghe càng thấy quá sức kỳ dị, bây giờ tin cũng không được mà không tin cũng chẳng xong. Trước đêm quân đội Anh rút lui khỏi Miến Điện vào năm 1949, Nấm mồ xanh đã mượn chiếc tiêm kích và lần đầu tiên thâm nhập vào khe cốc. Lần thứ hai, hắn đến đây là vào mùa hè năm 1974, khi cơn bão nhiệt đới tràn vào Miến Điện, trong chuyến đi đó, hắn đã thành công và tìm thấy sóng điện u hồn trong mật thất. Nếu truy ngược về ngọn nguồn, thì manh mói này chính là tin tình báo then chốt mà đội khảo cổ đã lỡ tiết lộ ra khi ở trong chiếc hộp thời gian, nhờ vậy Nấm mồ xanh mới nắm được bí mật về thông đạo. Đây là một vòng tuần hoàn khép kín không lối thoát. Nó không phân định rạch ròi giữa nguyên nhân và kết quả, hành động tiếp theo của hội Tư Mã Khôi ngoài mục đích trả thù cho những người đồng chí đồng đội của mình ra, thì nguyên nhân chủ yếu chính là hi vọng có thể bù đắp lại lỗi lầm đã gây ra trong quá khứ, kịp thời ngăn chặn Nấm mồ xanh đạt được mục đích. Không hiểu Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi đã lần lượt nhìn thấy khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh vào lúc nào và ở đâu? Nấm mồ xanh đã ký gửi trên thân thể một người nào đó, thì vì sao từ đầu chí cuối hắn không dám để lộ khuôn mặt?

Thắng Hương Lân thì thào nhắc nhở Tư Mã Khôi, nếu Nhị Học Sinh đã ăn thịt của người chết, thì sau khi chết hắn sẽ biến thành một phần của con quái vật trong động, chuyện hắn biết nhiều bí mật không có gì là lạ, nhưng việc hắn chủ động nói ra mọi chuyện thì chắc chắn phải có ý đồ nào đó. 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, đội khảo cổ bọn anh đã sa chân vào động không đáy thì khác nào cá nằm trên thớt, huống hồ thuốc nổ cũng đã hỏng rồi, giờ không có cách nào phá hủy tấm bia đá được nữa, không hiểu đối phương còn muốn thế nào? Hắn định kéo dài thời gian sao? Đợi khi toàn bộ pin đèn còn lại tiêu hao đến cạn kiệt, thì sẽ đẩy họ vào tuyệt cảnh trong bóng tối vô tận ư?

Nhị Học Sinh giải thích, không có chuyện ấy, bởi vì pin đèn của đội khảo cổ chí ít vẫn còn đủ dùng trong một ngày, còn bí mật dẫu nhiều đến đâu cũng không thể nói mãi tới lúc đó. Thực ra, ngay từ đầu hắn đã biết mình sẽ chết, nhưng khi ở trong động đạo hắn lại chạm trán đội khảo cổ khi họ đi xuyên qua tấm bia đá, lúc ấy hắn không muốn nói rõ chân tướng vì động đạo này là một kẽ hở thời gian, thời gian bên trong đó chỉ là một hai giây bị kéo dài ra vô hạn. Nếu ở bên ngoài thì hoàn toàn không cảm giác thấy, nhưng hễ bước chân vào trong thì chớ nghĩ đến việc có thể thoát được ra ngoài. Hắn cho rằng bất kể thế nào, nếu chỉ ở trong một giây của kẽ hở thời gian, chí ít hắn vẫn còn lưu lại được trí nhớ của bản thân, nhưng nếu đã đi theo ám thị vẽ trên bích họa trong thạch thất mà ra khỏi động đạo, thì chắc chắn hắn sẽ trở thành tế phẩm bị tuẫn táng sống. Thứ bị nhốt trong động không đáy đã ăn thịt quá nhiều người Bái Xà cổ đại, nên đương nhiên nó cũng đọc được bí mật trên tấm bia. Mỗi lần nhìn thấy tấm bia, nó lập tức rơi vào trạng thái khô quắt và chết rũ, nhưng nó không chết hẳn, mà chẳng bao lâu sau sẽ tự mình phục hồi như cũ, để rồi sau đó lại nhìn thấy tấm bia và lại chết. Mãi đến tận ngày nay, nó vẫn không ngừng lặp đi lặp lại quá trình ấy.

Nếu xuyên qua kẽ hở thời gian và đi vào không gian ở phía sau tấm bia đá, thì quá trình thời gian trôi trong hắc động chính là quá trình con quái vật đó trải qua cái chết trong động. Hội Tư Mã Khôi, bao gồm cả Nhị Học Sinh cũng sẽ biến mất theo cái chết của nó và khi nó hồi sinh, tất cả sẽ lại phục hồi về trạng thái ban đầu, nhưng một khi đội khảo cổ bước chân vào thanh điện thì họ sẽ vĩnh viễn bị xóa sổ, bởi phàm những vật thể có ý thức đến đây đều bị nó nuốt chửng, sau khi chết đi ngay cả ma cũng không làm nổi, đó chính là cái chết toàn diện về cả thể xác và linh hồn.

Bởi vậy, Nhị Học Sinh mới ra sức ngăn cản mọi người, nhưng cứ mỗi lần định mở miệng thì lại bị Hải ngọng đánh ngất, bây giờ tất cả đã bước chân vào thạch điện trong núi đá, dẫu có nói gì chăng nữa thì cũng không thể cứu vãn nổi tình thế, bởi vậy hắn mới bày hết sự thật ra trước mặt mọi người, để mọi người có thể biết được toàn bộ chuỗi nhân quả trước khi mình chết.

Hội Tư Mã Khôi nghe xong, ai nấy đều tim đập chân run, Thắng Hương Lân liếc mắt nhìn đồng hồ, từ lúc đồng hồ chỉ mười một giờ đúng đến giờ, đã mấy tiếng trôi qua rồi. Không rõ cả quá trình từ sống đến chết của con quái vật lai lịch bất minh sống trong hắc động này kéo dài trong bao lâu?

Nhị Học Sinh trả lời với vẻ tuyệt vọng tột độ: “E rằng chỉ người chết đã mất tích trong hắc động không đáy này mới biết rõ thời gian cụ thể mà thôi. Cũng có thể là ngay một giây sau!”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro